- CHÚ DẾ
- BIÊN HÒA! QUÊ TÔI TRONG NỖI NHỚ
CHÚ DẾ
Chú Dế, tên một người đàn ông mù lòa bán vé số. Ai đã từng sinh trưởng và lớn lên từ Chợ Đồn, Hóa An và Tân Hạnh của những thập niên 60, 70 chắc hẵn vẫn còn nhớ đến người đàn ông tật nguyền, ngày lại ngày qua với chân trần vượt qua những nẻo đường sỏi đá, kiếm cách sinh nhai từ những tờ vé số trước giòng đời đổi thay. CHÚ DẾ.
Không biết chú Dế từ đâu tới, chỉ biết 2 vợ chồng chú, chú Dế cũng có vợ và thím Dế cũng là người không còn ánh sáng, mù và mù đã tìm đến nhau cùng sống trong một căn chòi rách nát trơ trọi trên mãnh đất hoang bên cạnh “Mã Thằng Tây”, một ngôi mộ hoang nầy được biết ngày xưa lính Tây chết và được chôn tại đây. Ngôi mộ “Mã thằng Tây” nằm trên đường đắp đá chạy dài từ Cầu Hang của núi Châu Thới, ra đến chùa Long Thiền đến bến đò Ngựa tận bờ sông Đồng Nai, được làm phân chia ranh giới giữa 2 xã Chợ Đồn và Hóa an; cũng là lằn phân chia giữa 2 quận Đức Tu và quận Dĩ An của Tỉnh Biên Hòa ngày xưa. Con đường nầy ngày xưa ban ngày vắng lặng, ban đêm không ai dám đi qua, chỉ có những ánh sáng đom đóm lập lòe và tiếng Cú rít lên giữa màn đêm tăm tối. Thời buổi bấy giờ còn tranh tối tranh sáng, ban ngày có làng có ấp, ban đêm mấy ông du kích từ đâu mò về “Mã Thằng Tây” treo cờ, sáng ra dân vệ Chợ Đồn vô gở cờ, bị lựu đạn gài phát nổ, 1 anh dân vệ tên Hùm và ông an ninh ấp chết, đã mang biết bao kinh hoàng cho những người dân Hóa An và Chợ Đồn muốn có một cuộc sống an bình. “Mã thằng Tây” đã là chứng nhân của sự nhẹ dạ cuồng tín, hận thù mù quáng, nơi đây biết bao người đã bị chết oan, trong đó có chú 7 Huỳnh, chú 6 Út của xóm Đồng Nai, những người dân hiền lành cũng có vợ có con với gia đình yên ấm, chú 7 Huỳnh không là lính, chú 6 Út không là làng nhưng cũng bị cướp đi mạng sống oan ức với những bản án tử hình để lại của mấy ông du kích. Chú Dế tuy không còn thấy đường để thấy những cảnh tượng hãi hùng, nhưng chú nghe được tiếng súng, tiếng dẫy dụa của người sắp chết, cũng như nghe được những tiếng khóc nghẹn ngào tức tưởi của vợ của con những người bất hạnh. Nỗi kinh hoàng đè nặng hàng ngày… hàng đêm, với sự lo sợ tột cùng đào sâu hốc mắt thâm sâu, đôi khi chú muốn rời khỏi căn chòi nầy để không còn nghe tiếng chân chạy ạch đụi sau nhà, để mãi nghe bao tiếng thê lương, nhưng chú không biết tìm nơi đâu để dung thân trừ vùng đất hoang vu mọi người đều sợ hãi và xa lánh nầy. Nhưng trời không phụ người nghèo khó, sau thời gian ổn định của nền Đệ nhất Cộng Hòa, ấp chiến lược và toán dân vệ của xã Hóa An đã được thành lập với những thanh niên trong xã, với sự chỉ huy của bác Đại Diện Bảnh, chú Xã Tốt đã đào luyện những thanh niên nhà quê ít học nhưng can đảm biết yêu làng thương xóm như chú bảy Tý, anh Tý Mỹ, anh Lê Thương, anh Tâm v.v… đã rượt đuổi du kích rời khỏi hóc ông Che, giúp chú Dế không còn nghe tiếng súng trong đêm và ở lại căn chòi nghèo nhưng tạm ấm. Hằng ngày vai mang túi xách, tay cằm gậy tre với giấy số, chú Dế lần mò theo con đường liên tỉnh 16 nối liền Chợ Đồn và Tân Hạnh. “Số Đây” tiếng rao của chú như lời mời gọi trong niềm vui đem may mắn đến mọi người. Với cây gậy quờ quạng từ trái sang phải, từ phải sang trái đã giúp chú Dế đi đúng đường về đúng hướng, cái hay ở đây chỉ nghe tiếng động chú Dế biết mình đang ở đâu, đang đứng trước đường vào rạp hát Phước Chung, bãi tha ma Rể Tranh , chùa Hút Gió, ngả tư chùa Long Thiển, ngả tư lò lu v.v… Từ đó chú Dế có thể mời đích đanh khách hàng, “Chú Bảy hôm nay mua số không?” hay “còn mấy số cuối cùng đây anh Hai”. Khi cầm tiền trên tay với hai ngón tay lần mò trên tờ giấy bạc, chú Dế có thể phân biệt được giá trị đồng tiền, và thối tiền lại cũng đúng. Người dân quê lúc bấy giờ rất hiền lành, không bắt nạt người tàn tật cũng như không có tính tham lam. Đặc biệt chú Dế mù lòa nghèo khổ không bao giờ nhận phần tiền thặng dư cho thêm (được hiểu là tiền bố thí) của người tốt bụng. Đường trở về của chú Dế sớm hay muộn tùy vào sự đắt hoặc ế của những tờ vé số; nhưng cũng lĩnh kỉnh mang về với bó rau, bịch mắm nêm, đôi khi vài quả trứng, khá hơn là những miếng nạc vụn từ sạp bán thịt của ông chín Kiệt bày bán còn lại tại chợ chòm hỏm của xóm lò lu. Chiều về chú Dế cũng có buổi ăn gia đình với sự chăm sóc của thím Dế. Trời về đêm trong một không gian tỉnh mịch an bình chú không còn nghe những âm thanh oan khiên vọng từ “Mã Thằng Tây”, trong bóng đêm thím Dế lần mò xoa nhẹ bàn tay chai cứng của chú, bằng sự âu yếm nhẹ nhàng thím đặt nhẹ bàn tay lên ngực, thím cảm thấy lâng lâng niềm hạnh phúc…
Từ sự phát triển của lò lu Trần Lâm ở Hóa An, lò gạch Phước Mai ở Chợ Đồn của ông Tư Trai, đất được lấy từ cánh đồng những mảnh ruộng dọc hai bên đường đắp qua “Mã Thằng Tây”, mái chòi của chú Dế lại được phủ thêm bụi đường, từ những chiếc máy cày chở đất về lò gạch, lò lu. Đất và bụi đã tạo nên công ăn việc làm cho những con người Hóa An và Chợ Đồn, chú Dế không còn cảm thấy đơn độc một mình trên đường đi, với những người thợ đất hì hục làm việc trên cánh đồng dưới ánh bình minh, trên đường về với ánh nắng chiều soi rọi vọng theo tiếng chuông chùa văng vẳng từ ngôi chùa Làng, rải rác xung quanh với những người quanh vùng ra ngồi câu cá, đến khi màn đêm phủ xuống. Đời sống người dân ở đây lúc bấy giờ sao mà giãn dị quá. Phải nói là an bình.
Sau ngày cách mạng 1 tháng 11 năm 1963, con đường đắp đá qua “Mã Thằng Tây” lại là một chứng nhân nữa, chứng nhân cho một cuộc chiến đến hồi khốc liệt, thời lúc bấy giờ xa lộ Đại Hàn qua Dĩ An lên Bình Dương, cũng như con đường nối dài từ cầu hang qua cầu mới chưa được xây dựng, những đoàn công voa chở từng đoàn lính viễn chinh Hoa Kỳ (người Mỹ đổ quân vào miền Nam sau khi nền Đệ nhất Cộng Hòa sụp đổ) đã theo con đường nầy qua Hóa An, Tân Hạnh để đến được Củ Chi. Trẻ con thì vui mừng khi đón nhận những gói thuốc, những mẫu kẹo, những lon đồ hộp, được người lính Mỹ cho được liệng xuống dọc con đường nầy. Chú Dế lại thêm những lần kinh hoảng với số lượng xe nhà binh chạy quá nhanh, người tránh xe nhưng thân chú Dế lại mù lòa chậm chạp đã bao lần suýt bị văng xuống hầm đất… Nhưng đền bù lại chú Dế lại có những cảm giác tuyệt vời, lần đầu tiên chú Dế được nếm vị ngọt của viên kẹo, cái ngon của những lon thịt hộp, phải nói ngon một cách lạ lùng. Những thứ nầy chú Dế được nhận từ đám trẻ, bên tai chú Dế còn được nghe “đồ Mỹ đó”.
Ngày ngày đoàn công voa vẫn qua, chú vẫn tiếp tục những bước đi, cầu mong đem sự may mắn cho mọi người qua tờ giấy số. Những hầm đất giờ đây vắng lặng, những người thợ đất năm xưa đã bỏ lò lu, bỏ lò gạch để đi làm sở Mỹ. Những chiếc xe buýt đưa rước công nhân dồn dập từ Hóa An, từ Chợ Đồn ra Long Bình, những âm thanh ngày xưa dần dần thay đổi, những bài ca vọng cổ lớp Tống tửu Đơn Hùng Tín qua những bàn tiệc, chú Dế không còn được nghe, thay vào đó chú Dế nghe được những bài tân nhạc nhẹ nhàng từ máy radio, từ cassette rồi đến các máy truyền hình. Chú còn được nghe những tiếng xe gắn máy, loanh quanh những con đường làng nhỏ để chở các con cháu đến trường. Khu nghĩa địa Rể Tranh không còn lạnh lẻo, từng đoàn dân tản cư từ vùng sâuTân Uyên Phước Thành đã xuống đây chạy loạn và lập nghiệp. Những hàng quán được mọc lên san sát lề đường, những hậu cứ của các tiểu đoàn lính 57 rồi 58 an ninh phi trường được thành lập tại xã Hóa An, những người con gái nhỏ ngây thơ của Hóa An ngày nào cũng dẩn dần bỏ quê lên Sàigòn, cũng đã để lại biết bao tình cảm nín câm. Giây phút êm đềm về đêm của chú Dế không còn nữa, giấc ngủ của chú thím Dế luôn bị đánh thức bởi những tiếng chấn động bom đạn vọng về từ chiến khu D…
“Vé số đây…” tiếng rao của chú Dế , cũng âm thanh quen thuộc đó, cũng con người đó qua bao năm mò mẩm với tấm thân mù lòa, cũng ra Chợ Đồn qua Hóa An, đến Tân Hạnh. “Vé số đây…”. Cũng chú Dế nhưng giờ đây chú không đi một mình, người dẫn đường theo sau chiếc gậy phong sương của chú Dế, lại là một cô bé hãy còn thơ khoảng chừng 7, 8 tuổi, ẩn trong bộ đồ bà ba bé nhỏ là một gương mặt kháu khỉnh có đôi mắt rực sáng bù lại tạo hóa đã lấy đi ánh sáng của ba mẹ cô. Sau lời rao của chú Dế “Vé số đây…” là lời mời của cháu bé “Mua dùm số Ba con…” Hai cha con vẫn dắt dìu nhau qua những con đường cũ, dưới ánh nắng mặt trời chói chan, hình ảnh của người cha cầm theo cây gậy, lần bước theo những bước chân tập tểnh của em bé thơ, in trên mặt đất như ghi dấu lại một mảnh đời khốn khổ. Bé gái chậm chạp nhận tiền và e dè thối lại cho người mua. Bé gái ơi! Đồng trang lứa với em, chúng bạn đã bắt đầu đến trường có bạn bè cùng học ê a, bé không có vận may mãi dẫn dắt người cha mù lòa đem bán cái may cho kẻ khác. Với tuổi bé thơ biết gì? Biết chăng có thể là nỗi vui được phụ người cha mù lòa trên đường kiếm cơm hai bửa, với má em có thể giúp nhặt từng rau úa, xỏ từng sợi chỉ, giúp má em khâu lại từng manh áo rách, bé vẫn còn hữu dụng hơn bao người khác, may mắn sinh ra trong gia đình giàu tiền giàu bạc, có học có hành, nhưng tự chọn cho mình hư hỏng, đã mang bao niềm đau cho những bậc sinh thành…
Con đường mới từ Cầu Hang được mở qua cầu mới Biên Hòa, xa lộ Đại hàn vòng đai cũng được xử dụng, Quận Dĩ An cửa ngỏ để vào Sài Gòn, lại là 1 quận an ninh nhất. Ngay trận công kích Mậu Thân 68 và Kỷ Dậu 69 xã Hóa An cũng như Dĩ An không phải là nơi chạm súng của hai bên, người dân Hóa An hiếu kỳ còn chạy qua đường đắp mới gần rạp Biên Hùng nhìn cảnh binh lính địa phương đang chiến đấu giải tỏa áp lực địch bên kia đường rầy xe lửa. Hóa An vẫn vậy cũng với con đường với lời rao của chú Dế “Vé số đây”
Xa Hóa An khá lâu, trước sự đổi thay của đất nước sau ngày 30 tháng 4, người nặng lòng với cố hương, cố tìm nhưng không sao tìm lại hình bóng cũ. Ngay cả hình ảnh của chú Dế bán vé số ngày nào, dù rằng trên quê hương Việt Nam giàu đẹp, trong xóm nhỏ thân yêu nầy đã có thêm nhiều người bán vé số. Nghe đâu chú Dế đã sáng mắt và đã ra đi phương trời vô định nào đó. Người ta chỉ nhìn thấy con đường đắp đá được đỗ nhựa rộng đẹp hơn, có những chiếc xe hơi bóng loáng đời mới đi lại và đậu trong những căn nhà sang trọng của những người chủ mới trên những hầm đất ngày xưa. Sau 1975, những hầm đất sớm trở thành ao nuôi cá dần dần được lấp lại, những tấm bảng “Ao Cá Bác Hồ” đã được âm thầm tháo gở và vứt đi ở một xó xỉnh nào đó. Khu “Mã Thằng Tây” được san bằng thành khu dân cư với những căn nhà cao rộng, lại có thêm tên đường Nguyễn thị Tồn lạ quắc lạ quơ, những giọng nói quen thuộc địa phương ngày xưa của Tân Bản, Chợ Đồn, Hóa An không còn nữa, được thay thế bằng những âm thanh xa lạ. “Mã Thằng Tây” và “Ao Cá Bác Hồ” cùng rủ nhau đi vào quên lãng với thời gian. Nếu “Mã Thằng Tây” đã là chứng nhân của cuồng tín mù quáng, ngày nay “Ao cá Bác Hồ” trở thành nơi tranh chấp của sự tham lam hận thù, có những anh em giòng họ hiền lành bây giờ có thể chém giết và chia rẻ lẫn nhau vì những miếng đất không giá của ông bà không màng chăm sóc bao đời. Từ quy hoạch đến sang tay, hóa giá; những người dân địa phương có tiền của phải mua lại từ ai đó ngoài Hà Nội. Xung quanh đâu đó còn sót lại những hầm đất được xử dụng làm những quán cà phê có những tên thơ mộng đầy văn chương, với những chiếc xuồng lênh đênh, những nhà hàng nổi với hương đồng cỏ nội đã đến từ miền Tây, dành mua vui cho những kẻ lắm bạc nhiều tiền của thời đại.
Riêng căn chòi lá trên mảnh đất hoang của chú Dế không còn tìm thấy, con cháu của chú đã không giữ được, là con nhà nghèo mù đui làm sao có chủ quyền thẻ đỏ. Hỏi ra mới biết cô bé ngày xưa đã bị đẩy trôi dạt vào nghĩa địa Hóa An và những đứa con của em đã buôn thân sang tận Đài Loan, Hàn Quốc.
Bé ơi! Ngày xưa chú Dế mù lòa nhưng không ai lấy đi tiền bạc, căn chòi và những tờ vé số; sao ngày nay em là người sáng mắt, giữa ban ngày ban mặt người ta đã lấy hết nhà đất của em? Ngày xưa chỉ lời nhỏ nhẹ mời gọi của Bé “Mua dùm số Ba con…” đã có biết bao người với lòng từ tâm sẵn sàng mua hết giấy số còn lại của Ba em, nhưng ngày nay em đã gào to, tiếng khóc của em vọng tới trời xanh, nhưng Chúa và Phật cũng không cho họ có chút lòng từ tâm, để biết trả lại miếng đất, trả lại căn chòi cho Bé…
“Mã Thằng Tây” được san bằng và đô thị hóa. Vẫn thuộc địa phận Bửu Hòa. Bên kia đường thuộc Hóa an, gọi là cổng sau công ty Pou-chen (Đài loan). Toàn bộ khu tứ giác, cả sân banh và Quốc lộ 1K là của công ty nầy, có hơn mười ngàn công nhân. Bên kia đường, đường vào chùa hóc Ông Che, với những khu nhà trọ. Bây giờ có chợ Pou-chen, người dân địa phương mĩa mai gọi là chợ “BON CHEN”. Bao người Việt tha phương vẫn còn giữ những tên Việt cho các thương hiệu như Tân Mai, Hố Nai, Long Thành v.v… Nhưng trên quê hương mình, tên ngôi chợ sao lại là Pou-chen, mà không là Cầu Hang, Tân Bản, Gò Chùa hay Lò Lu. Ôi! những địa danh quen thuộc thân thương của làng quê, của quê hương tôi đâu rồi…
Chú Dế ơi! Phải chi đừng sáng mắt…
ANH HÁT BÌNH PHƯƠNG
BIÊN HÒA! QUÊ TÔI TRONG NỖI NHỚ
Quê hương tôi! Giờ xa thật xa hay nói đúng hơn là xa lạ, đã thay đổi trước thời gian, Biên Hòa trong tôi chỉ còn nỗi nhớ, với từng địa danh đã sống đã đi qua,với biết bao kỷ niệm cái nhớ cái quên. Hình ảnh của những con người bình thường, mộc mạc gắn liền với xóm làng, sông nước. Được ghi lại như“Biên Hòa! quê tôi trong nỗi nhớ”
Chỉ biết qua khai sinh tôi sinh tại Tân Thành Biên Hòa, quê ông Nội Tân Vạn, quê bà Nội Tân Bản Chợ Đồn, quê ông Ngoại Bình Đa, quê bà Ngoại Cù lao Phố. Sau nầy bên Ngoại lên sống tại Phước Lư Hảng Dầu và bên nội lập nghiệp Lò Lu Hóa An. Tôi có thời gian sống cả với 2 bên Nội Ngoại cũng như nhà cô Tám của tôi ở xóm lò heo. Và sau 75 được thả từ trại tù cải tạo, tôi trở về sống với ba má tôi ở Bình Đa, rồi lăn lóc tha phương ngay chợ Biên Hòa, đến xóm Hoa Lư thành kèn cuối cùng, cũng là gia đình bên vợ của tôi. Dù được sống nhiều nơi vì cuộc đời nổi trôi, nhưng tôi yêu xóm Lò Lu của xả Hóa An nhiều hơn, xóm nhỏ đối diện chợ Biên Hòa bên kia sông Đồng Nai. Ngày xưa những chiếc đò chèo tay từ bến đò Hóa An đã vượt bao cơn sóng đưa bao người qua lại chợ Biên Hòa. Cuối ngày không còn tiếng gọi đò bên sông, màn đêm buông xuống, từ bên chợ Biên Hòa nhìn qua trong bóng đêm chỉ thấy vài đóm sáng của ánh đèn dầu. Sau nầy có máy đuôi tôm, con đò nhỏ ngày xưa từ từ hiện đại hơn, ngày nay con đò cũng biến mất và bến đò Hóa An cũng không còn. Xóm Lò Lu thay vì ấp Đồng Nai, nhưng tiếng thân thương vẫn là Lò Lu vì có lò lu Trần Lâm nằm sát bến đò Hóa An ra tới đường lộ. Tôi chỉ nhớ thời đi học từ trường lớp ba trường làng Hóa An Hìệu Trưởng là ông Đoàn văn Rèn, tôi học cô giáo Kiều, khi lên lớp nhì tôi phải chuyển trường xuống Chợ Đồn lúc bấy giờ ông Lê văn Soài làm hiệu trưởng. Thời tiểu học tôi học cũng hơi khá, học lớp Nhì với cô Nguyễn Kim Hoàng, lớp Nhất cô Phạm thị Kim Sơn, nhất là năm học lớp nhất, tuần nào cũng lãnh bằng khen màu vàng, tháng nào cũng bằng danh dự màu đỏ, toán lúc nào cũng TG ( thật giỏi) và bài luận văn của tôi được cô chọn làm bài mẫu cho cả lớp. Nhưng có lẽ “Chữ tài chớ cậy chi tài” nên khi thi tuyển vào Ngô Quyển lần đầu tôi bị té đau (có lẽ chữ viết của tôi khó đọc hơn chữ bác sĩ nên thầy cô chấm thi chẳng màng chăng?). Tôi thi rớt đệ thất Ngô Quyền, cô giáo tôi khóc, tôi cũng buồn vì mấy thằng bạn thi đậu học đâu giỏi bằng tôi, sau đó đành ghi tên học đệ Thất trường Minh Tân chờ phục hận.
Tôi nhớ nhiều về xóm nhỏ Lò Lu, tôi đã sống vớí bà Nội tôi từ nhỏ, má tôi phải theo ba tôi làm tròn nhiệm vụ người trai thời bấy giờ. Một bà, một cháu sống trong tình ấp ủ của các cô và chú. Bà Nội tôi làm thêm nghể nấu bánh tét, bánh ích để bán cho bà con cô bác trong xóm. Bánh của bà Nội tôi vẫn có tiếng là ngon, nhưng đôi khi bà cháu cũng phải ăn bánh thay cơm. Tôi vẫn phụ với bà Nội tôi nhiều việc ngay cả đội thúng bánh vào lò lu Trần Lâm hay ngồi tại bến đò để bán.Tôi giúp bà Nội tôi mọi chuyện trừ lúc bỏ bánh vào nồi, là bà nội tôi đuổi tôi đi nơi khác. Nội nói “Mầy lì lắm, bánh không chín”. Bánh chín hay sống tùy củi lửa không biết sao lúc thời ấy bà nội tôi tin dị đoan như vậy…
Ngày nay, khi nhìn những đứa con chuẩn bị đi học buổi sáng, đôi khi tôi chợt nhớ lại những hình ảnh ngày xưa.Nhớ gói xôi lá cẩm tại chợ chòm hỏm lò lu của bác Sáu Vẹo, ổ bánh mì bì chan nước mắm ngọt lịm của thím Tư Trí, tô cháo cá vẫn còn bốc khói thơm lừng, của bà tám bán tại quán bác Ba Bèo. Nhớ con đường làng từ ngã tư lò lu vô trường học trong gò chùa, cũng chính trên đường nầy trên đường đi học, Huê cô em hàng xóm đã một lần nằm rạp xuống bờ ruộng để tránh đạn giữa du kích và dân vệ vào sáng sớm. Mấy anh dân vê rượt, mấy ông du kích chạy, học trò tiếp tục đến trường,như chuyện trong ngày, chuyện của quê tôi.
Bây giờ trước những tiện nghi sinh hoạt xứ người, trước máy truyền hình xem phim, xem DVD chương trình văn nghệ của trung tâm Asia, Vân Sơn … đôi khi cũng nhớ những kỷ niệm đẹp thời tuổi nhỏ, hạnh phúc lũ trẻ chúng tôi là những đêm thứ bảy, tôi cùng những người trong xóm lớn có nhỏ có, quây quần nhưng phải tuyệt đối im lặng tại nhà bác hai Mạnh để được nghe cải lương từ máy thu thanh, hoặc sau nẩy cùng đến xem truyền hình tại nhà chú sáu Què, nhà quê mà xóm tôi thời bấy gìờ chỉ có một nhà bác hai Mạnh có radio, cũng như một nhà chú sáu Què có truyền hình. Bến đò Hóa An cũng đã ghi lại biết bao kỷ niệm thời đi học, với những bạn bè ở xóm lò lu như Bỉnh, Lê,Tròn, Nghĩa xỉu, Mỹ, Huê, Kim, Yến, Thu, Sơn. Những người bạn cùng trường từ Tân Uyên, Tân Ba xuống có Bảnh, Hội, Lợi, Nguyễn Ngọc Xuân, Diệp Cẩm Thu,Trầm Vĩnh Châu, dăm ba người bạn tôi vẫn còn liên lạc đến bây giờ. Những âm thanh quen thuộc như còn sống mãi trong tôi, tiếng trống lân của đội lân “ Tái Khánh Đường “ vang lên trong những ngày cận tết, tiếng xe lam của chú ba La Thành, tiếng khua thùng quang gánh của Cô Tư Mạnh, Cô Năm Muối chuẩn bị xuống chợ Đồn lấy cá chuẩn bị cho buổi chợ sớm mai.Những âm thanh của tiếng bầm thịt trên thớt của tiệm hủ tíu Bác Hai Lúa và tiệm ông Tàu ba thằng Giỏi, cũng như những tiếng ồn ào vào buổi tối tại quán cà phê Bà Tám má thằng Xuân. Xóm lò lu tuy nhỏ nhưng nổi tiếng cũng có ông Thầy Lổ Ban Phan Bỉnh, Thầy Nghề Võ Tư Keo, Nghị viên hội đồng tỉnh Nguyễn văn Thinh, Thầy tướng số Thạch Mai Kim. Thầy Kim từ đâu tới lập nghiệp cũng tạo nên nhà cửa trong thời gian quân đội Mỹ có mặt tại Biên Hòa, cũng vui vẻ hòa đồng với những sinh hoạt trong xóm, đã quen rổi tiếng ca vọng cổ của chú bảy Thinh, tiếng hát bộ với bác tư Công Tạo, bác tám Ô Môi hớt tóc, tiếng đờn cò của chú tư Minh Chí, tiếng đờn kìm của ông Xã Rèn. Thầy Mai Kim luôn cất tiếng ca “Ai ra xứ Huế” trong những buổi tiệc rượu đã mang đến sắc thái mới cho xòm lò lu. Xóm nghèo của tôi luôn hiền hòa, sống vui vẻ trong tình xóm riềng hàng xóm, không ấu đã không trộm cướp. Tôi vẫn nhớ từng tên của các ông, chú bác trưởng thượng, người còn thì ít nhưng kẻ mất thì nhiều. Những tên gọi của quý ông chú Bác trong xóm rất thân thương Ông Bảy Vẹn, ông Bảy Kình, ông Bảy Tài, Ba Hòa, chú Tư Quới, chú Cò Đức, chú tư Minh Chí, Bác tư Công Tạo, Bác sáu Vĩnh, chú năm Chầy, chú Nghĩa Lài, chú bảy Trung lynh, anh sáu Đặng, anh Ba Kiền. Biết bao người bạn cũ ngày xưa của tôi Lê, Bỉnh, Bổn, Sữu, Hữu,Mỹ, Huê, Nghĩa,Nhựt Chỏn, giữa trai và gái gặp nhau chỉ biết nói về trường lớp Thầy Cô. Nhớ những ngày đi học đạp xe đạp nhỏ từ Hóa An xuống chợ Đồn, vẫn nhớ thằng Ba Trịnh chuyên môn đi bộ nhanh như chớp, nhớ đến Lê văn Mẻ ở Bình Trị trong, thằng Tưng, thằng Học, thằng Đây ở xóm Gò Chùa. Trước khi vào lớp học buổi sáng ghé lò bánh mì Bùi Phong ở Chợ Đồn mua ổ bánh mì mới ra lò, ghé sạp cháo lòng trước mặt của bà Hồng Hoa (lúc bấy giờ Quán Hồng Hoa chưa có) mua thêm dồi chiên( phần dư 2 đầu của khúc dồi) với xả ớt và nước mắm sao mà ngon tuyệt, cảm giác đó tôi vẫn còn giữ cho đên bây giờ…
Ngày nay đang ở Mỹ, mỗi lần tham dự tiệc cưới trong những nhà hàng sang trọng, thỉnh thoảng tôi đứng một mình ở một góc nào đó, để nhận ra tôi đã mất đi những hình ảnh đám cưới nhà quê ngày xưa, xóm tôi mỗi lần có đám cưới dù đàng trai hay gái, được gả cưới xa hay gần, cả xóm đểu đến giúp một tay, người dựng lều, người xếp bàn ghế, ban đêm các bà các cô làm vịt làm gà, cùng nghe cải lương từ máy hát đỉa, cũng là nơi trai gái gặp nhau với những cái nhìn e thẹn của thời mới lớn.
Một đôi lần đi Las Vegas, đi với bạn bè, bà con tôi chỉ biết đứng nhìn, vì cờ bạc tôi không còn mặn mòi gì mấy, tôi đưa mắt nhìn những nhân viên sòng bạc, để nhớ về mình cũng như nhớ xóm nhỏ quê tôi, cũng có đề Hóa an, cũng có sòng bài, sòng vụ, sòng me, sòng sập xám v.v. Những tên tuổi của làng đổ bác tứ phương bấy giờ tôi vẫn còn nhớ từ Mười Cao, Tư Nết, Bảy Đô, Tám Thạch, Hai Dể, Sáu Đấu, Bầu Liêu. Cũng may là những công ích của xã Hóa An phần đông được đóng góp bằng tiền cờ bạc của dân đổ bác trong xóm như bác Bảy Thạnh và chú Chín Suổi. Bản thân tôi cũng xuất thân từ cờ bạc (ghê chưa !!!), nhưng không cờ bạc ăn thua, tôi đến sòng bài để kiếm tiền qua việc làm ,tôi làm phá hỏa tức là ngồi chung tiền cho các sòng vụ, sòng me hoặc giúp tổng kết sổ sách tiền bạc lời lổ sau buổi xổ đề, vì tôi có học và tính toán giỏi, công việc tôi không khác gì việc làm của các nhân viên ở Las Vegas, tôi phải làm việc ngay cả ban đêm để có tiền tiếp tục đi học ban ngày, bạn bè cùng lớp không ai biết. Nhà tôi nghèo lắm, ba tôi giải ngũ cùng má tôi về quê ngoại Bình Đa sinh sống, tôi đã về đó sinh sống một thời gian, lúc bấy giờ nơi đó cũng là vùng đất hoang vu, mấy đứa em tôi hằng ngày phải cắt lá chuối đem bán. Ba tôi trong một lần trên đường từ lò lu về Bình Đa, đã bị xe nhà binh Mỹ đụng, xe bỏ chạy mất ba tôi chấn thương sọ não đưa xuống nhà thương Chợ Rẩy, được cứu sống nhưng đời sống còn lại đôi khi bất thường. Tôi phải trở về lò lu vì không thể để bà Nội tôi sống một mình, năm đệ ngũ, đệ tứ tôi đã từng đi vác đất cho lò gạch Phước Mai, lò lu Trần Lâm vào dịp nghỉ hè. Với số tiển kiếm được từ làng đỏ đen nầy đã giúp tôi tiếp tục đi học và lấy được Tú Tài I và Tú Tài II; cả một sự vinh dự cho gia đình cho xã của tôi, vì là người học trò đầu tiên có bằng Tú Tài II của xóm Lò Lu Xã Hóa An nhỏ bé nầy. Tôi được các bậc trưởng thượng trong làng gọi là cậu Tú, được phép ngồi chung bàn và nhấp chén rượu cay nồng từ tay bậc tiền bối. Trong thời gian nầy khi còn ở lớp 12 tôi đã huy động những người bạn thân Ngô Quyền trên tôi một lớp,( đặc biệt tôi lại kết thân với những người bạn Ngô Quyền trên tôi một lớp Anh văn lẫn Pháp văn) qua Hóa An cùng vận động tranh cử cho chú bảy Thinh của tôi, tranh chức nghị viên Hội Đồng Tỉnh Biên Hòa đơn vị Dĩ An, kết quả là chú bảy Thinh đắc cử vẻ vang mặc dù chú chỉ là anh lính của phòng 5 tiểu khu Biên Hòa.(chú bảy Thinh là người có công đầu trongbản tin Texas). Từ đó tôi đã là cánh tay phải của chú bảy Thinh, nghị viên Tổng Thư ký của hội đồng tỉnh Biên Hòa, tôi đã cùng chú bảy Thinh đi khắp quận Dĩ An, từ xã An Bình của thị trấn đến các thôn ấp hẻo lánh, Xã Đông Hòa với người Bắc Di Cư 54 từ ngã ba Cây Lơn đến Gò Dưa Thủ Đức, cũng có nhà thờ, trường học và những ruộng rau muống nằm sát bên đường, hằng ngày với những chiếc xe đò Liên Hiệp qua lại. Xã Bình An từ ngả tư Ngải Thắng Bình Thung giáp ranh Tân Vạn với những vườn trái cây xanh mát, những vườn đều chín oằn trái đỏ vàng, những mội nước ngọt trong xanh quanh năm. Nhớ xã Tân Hạnh từ ngả ba Cây Keo, con đường đất đỏ đường vào xã Bình Trị, xã Tân Hiệp thường lạnh ót vào buổi chiều. Qua Chiêu Liêu với những luống mì xanh của xã Tân Đông Hiệp để về chợ Quận. Hình ảnh chiều tan trường của trường bán công Dĩ An, những chiếc áo dài nhà quê kín đáo,với những nụ cười hồn nhiên.Căn cứ Bồ câu của quân đội Đại Hàn sau được làm dinh quận,trạm hỏa xa Dĩ An âm vang những tiếng còi tàu xuôi ngược, xóm nhang êm đềm với những hình ảnh người dân mộc mạc hiền lành. Làm sao quên được dáng ông Quận Châu uy nghi dù chân khập khểnh trong ngày khánh thành tượng đài tử sĩ ” Tổ Quốc Ghi Ơn” bên cạnh đình Gò Chùa Hóa An.
Ngày nay,vào những mùa lễ, khi nhìn các gia đình bạn bè thân quen đoàn tụ, thăm viếng có cô chú bác, tôi nhớ đến cô ba và chú chín của tôi trong nỗi ngậm ngùi, khi liên lạc Mỹ, Huê hai người bạn cùng xóm thời niên thiếu, Mỹ đang ở Ý, Huê còn đang ở Việt Nam, được nghe những tiếng gọi cậu mợ sáu, cậu chín, dì ba với những kỷ niệm, tôi cảm thấy có vị mặn đã làm cay mắt, kỷ niệm ngày xưa tưởng được chôn kín chợt hiện về. Cô Ba tôi người trong xóm vẫn thường gọi là cô Ba Bỉ, dượng ba Si Tỷ là người Tàu nhưng cũng rất tốt với gia đình bên vợ. Cô Dượng có tiêm chạp khô nhỏ gần ngã tư lò lu, không con cái. Nhớ ngày rằm mùng một, cô hay cúng gà vịt xong đem mời hết hàng xóm. Trong cuộc sống cô dượng ba tôi dù nghèo nhưng sẵn sàng làm phước, giúp đở mọi người hoạn nạn. Nhưng điều đáng buồn sau 1975, dượng ba tôi chết trong nghèo khó, cô ba tôi sau nầy nhà cửa cũng bán, thiếu điều làm kẻ ăn xin và cô cũng đi theo dượng. Chú Chín tôi, nổi danh một thời của xã Hóa An, chú chín Suổi là người thương tôi nhiều hơn, có thể nói là hơn cả ba tôi. Khi tôi lên Sài Gòn theo học Đại Học, chú chín tiếp tay lo phần tiển ăn học cho tôi, tuần nào tôi cũng về, nếu may gặp vận đỏ, chú chín sẵn sàng cho tôi rộng rãi, bằng không chú nhìn cháu vẻ mặt đăm chiêu.Ngày tôi bị động viên vào lính chú cũng buồn. Ngày ra trường Thủ Đức chú cũng đến tham dự, nhớ câu nói của chú “Nếu tao còn tiền mầy không ra tác chiến”. Khi hay tin tôi bị thương trận, từ Biên Hòa chú chín đã xuống Chương Thiện trước má tôi. Sau 30 tháng 4 tôi bị đưa lên trại Phú Lợi, chú chín tôi cũng tay xách đường gạo lên thăm. Chú chín tôi cũng mất gần 30 năm lúc tôi từ trại Z30 D mới về, chú chín tôi cố gắng chạy xe lam để kiếm sống, nhưng sức già rồi cũng bán xe lam, bán từng mái nhà, bán từng tấm vách, chú chín tôi đứng trước những bế tắc của cuộc sống không lối thoát, nhà nghèo con nhỏ lại đông, đã tự giải quyết đời mình bằng những liều thuốc độc. Tôi qua Lò lu để tang cho chú. Chú tôi vẫn được mọi người thương mến, từ mấy anh nghĩa quân ngày xưa, đến chú Năm Bạch cựu xã trưởng Hóa an. Chú Năm Bạch giờ cũng mất, hình ảnh tôi không quên là chú Năm Bạch cùng vợ thắp nhang, khóc và lại liên hồi trước quan tài chú chín tôi, sau 75 từ anh nghĩa quân đến chú xã trưởng có gì giúp được chú chín tôi, có chăng chỉ là những giọt nước mắt. Hình ảnh cô ba và chú chín đã là nỗi đau trong đời của tôi, tôi đã bó tay trước khốn khó của cô của chú cũng là người ân của mình. Lò Lu, Hóa An,tiếng gọi quê hương ai cũng nhớ và muốn về thăm, nhưng tôi phải chạy trốn muốn chối bỏ vì nỗi đau vẫn còn hằn trong tâm khảm trong suốt cuộc đời tôi.
Tôi vẫn còn nhớ Lâm Phước Dân, người bạn cùng xóm từ thuở nhỏ, ở nhà tên Bỉnh, học Ngô Quyển trên tôi một lớp. Năm 69 rớt Tú Tài II đi vào Thủ Đức, ra trường về Tiểu khu Hậu Nghĩa. Buồn tình chán chiến tranh bỏ về nhà luôn. Làng xã, cảnh sát xã Hóa an cũng dể dãi, sĩ quan đào ngũ cũng sống an thân nhiều năm có vợ và con, vợ là con gái chú Ba Nam Giám Đốc xưởng gốm Dona. Những ngày cuối cùng của cuộc chiến, không hiễu sao Bỉnh ra trình diện được đưa xuống Quang Trung, và đã chết ở giờ thứ 25 khi ẩn núp tại một ngôi chùa gần Hốc Môn vì nơi nầy bị Pháo Kích. Ngày tôi ngậm ngùi từ giả đông đội từ Vĩnh Long trở về cũng là ngày Bỉnh đã nằm trong áo quan. Rõ là “Sao không chết thằng bạn tác chiến..”
Đêm đó tôi cùng 2 người anh tinh thần cũng lớn lên từ xóm lò lu, anh Sáu Đặng và anh Ba Kiền. Ba anh em kéo về nhà anh sáu Đặng và cưa đứt 1 chai ruợu. Tôi còn nhớ anh Sáu Đặng đã khóc với tôi khóc cho miền Nam đã mất. Bao năm rồi, anh Ba Kiền cũng đã chết, anh ba Kiền đối với tôi rất tình thân hơn anh em ruột, thời bấy giờ anh chỉ là Trung sĩ I của Tiểu khu Biên Hòa, nhớ đến cũng không quên đàn anh Phùng văn Yến hiện đang sống ở San jose, anh Yến lúc bấy giờ là Đại uý đại đội trưởng đại đội 254 trấn đóng vùng Long Thành, cũng là nơi anh Ba Kiền phục vụ, Ngày xưa thời thuở nhỏ, tôi cũng đã đến Long Thành, vô Phú Hội, vào dịp nghỉ hè tôi theo bà Ngoại từ Hảng Dầu xuống Long Thành để bán thuốc Đông Y. Hồi đó chưa có căn cứ Long Bình đi đưòng quốc lộ 15 từ ngả tư Tam Hiệp, Phú Hội là nơi nhà anh Bích, anh Bích học Ngô Quyền và ở trọ nhà bà ngoại tôi. Khi đến nơi trời đã về chiều, ban đêm với ánh đèn leo lét, thỉnh thoảng nghe tiếng sầu riêng rụng ngoài vườn. Lần nầy đến Long Thành chơi tôi đã biết thêm nhiểu địa danh của Long Thành, từ Tam An Bình Sơn, An Viễn, chợ chiều v.v..Tôi đã lái xe qua những con đường mất an ninh, sớm ăn cơm với lính và uống rượu với lính tại tiền đồn hay trong những vườn sầu riêng, chôm chôm ngon ngọt nhưng không yên tỉnh. Tình đồng đội tình chiến hữu và tình quê hương của người trai Biên Hòa cùng hy sinh gian khổ để bảo vệ vùng đất Long Thành trù phú. Bao nhiêu năm giờ nhớ lại vẫn nhớ Thượng sĩ Môn, binh nhất Cháy giọng hát của anh Đại úy Đại Đội Trưởng Phùng văn Yến với nhạc phẩm “ Mùa Đông của anh” mùa đông của lính.Sau 75 tôi cũng có nhiều lần trở lại Long Thành, cùng đi với anh Lê Ngọc Sâm hiện đang sống ở Virginia, là đàn anh lớn tuổi nhiều hơn tôi, chúng tôi thân với nhau từ một cơ duyên, ba tôi và ba anh Sâm cũng là đôi bạn một già một trẻ từ thời Bến Gổ, một thầy giáo Hai một Đội Xường của thời huy hoàng, riêng anh Sâm và tôi cũng một ông Cò, một ông Quan nhưng Cò, Quan mất nước. Anh Sâm bán vé số còn tôi bán nước đá trước nhà Thầy Tư Giàu dạy Pháp văn, căn nhà gần bến xe ngựa rạp chiếu bóng Vạn khánh Hưng ngày xưa chiếu phim Ấn Độ.Gia đình thầy Tư Giàu rất tốt, xem tôi hơn cả đứa con trong gia đình. Ngày ngày tôi và anh Lê Ngọc Sâm vẫn chia nhau từng xị rượu đế qua phần cơm tiêu chuẩn của anh, từng chai bia lên men để cũng đủ lãng quên đời. Tôi đã cùng anh về Tam An vì nơi đó anh còn bà mẹ già, cùng uống rượu với bạn bè xưa được ăn cơm nguội với gà nướng. Tôi cũng còn dịp thăm lại người bạn tù cải tạo vượt ngục tại chợ Long Thành, Đỗ văn Huấn cũng rượu đế dồi trường nhắc bao kỷ niệm trong tù. Đỗ văn Huấn cũng không còn nữa. Tôi và anh Lê Ngọc Sâm cũng đã từng về Bến Gổ, Nhà Phấn, An Hòa Hưng, nơi nầy 2 người ba của chúng tôi đã một thời phong lưu và lịch lãm. Chợ Biên Hòa là nơi dừng chân của tôi trước khi sang Mỹ định cư nên trở thành quen thuộc, trở thành dân của chợ Biên Hòa và có thêm cái tên “Hạnh nước đá”. Đi qua những con đường chợ lên xóm lò heo, nhìn lại căn nhà cũ của cô Tám của tôi, biết bao bồi hồi cảm xúc, căn nhà nầy tôi đã từng ở để đi học thêm ban đêm, bây giờ đã thay đổi chủ, nhớ mãi hình ảnh cầu tiêu công cộng mỗi buổi sáng, lớp học của thầy Năm, nhớ ly đá đậu bánh lọt có vị thơm của xe ông tàu, nhớ đến Hưng, Sửu( con của cô Tám) những đứa em của tôi với trò chơi lịch sử “ Hai Bà Trưng “, Hưng Sữu đóng vai 2 anh thư nước Việt Trưng Trắc, Trưng Nhị còn tôi thủ vai tướng tàu Tô Định, bị 2 bà Trưng đè xuống mặt đất đến nổi sùi bọt miếng, nhớ đến thằng em Huỳnh Kế Hiếu đã từng gần gủi với tôi qua các trại tù, trốn trại về nhà từ Thành Ông Năm, khi tôi về 1981 Hiếu đã mất tin tức đến giờ, không biết thân xác Hiếu giờ nầy đã rục rả trong rừng sâu hay đã chôn vùi trong biển cả. Tôi nhớ những người bạn Ngô Quyền dân chợ, Giang Hưng cháo tiều, Nguyễn Tấn Lực, Đỗ Đình Tâm, Nguyễn Hữu Đức, Phạm Ngọc Nhanh, Nguyễn Nhựt Hoành, Lê Bá Kim,của những ngày chung học, những ngày rong chơi, cùng rũ nhau đi ăn buồi sáng, hủ tiếu Minh Phuớc, phở Tấn Phát trước trường Ngô Quyển, cơm tấm bì, bánh mì xí mại gần trường MinhTân, cùng đèo nhau xuống hồ tắm Ngọc Thủy Thủ Đức, hay đi xuống Sàigòn ăn trưa ở nhà hàng Thanh Thế, Thanh Bạch, xem xi nê ở Rex , Eden và nhiều nơi khác nữa… Và cũng không quên những người bạn gần gủi thân tình của thời đại học, Đỗ Thái Hùng, Phan Kỳ Hiệp, Trương văn Út, Phan văn Hết, Đỗ Thành Công, Nguyễn Minh Hoàng, Lê Quang Luật, Phạm văn Xuân, với những ly cà phê, khói thuốc trong cư xá đại học Cường Để, Khoa Học, Phú Thọ,Vạn Hạnh... Phải nói là tôi may mắn được hầu hết gia đình bạn bè thương mến trước cũng như sau 75, tự do ăn ngủ trong nhà bạn dù tôi là con nhà nghèo cũng như thân tù từ trại cải tạo trở về. Điểm danh lại bạn bè kẻ còn người mất. Xin được một lời cám ơn người, cám ơn đời đã ban cho tôi niềm hạnh phúc.
Bây giờ định cư ở Mỹ cũng giống như mọi người, trong gia đình mỗi người một chiếc xe, dù đời cũ cũng là xe hơi, nhớ lại thời còn ở lại Việt Nam ngay những ngày ra tù, chiếc xe đạp không có mà đi, trong khi cũng có vài người bạn học của tôi ngồi chểm chệ trên những xe hơi, của cơ quan của công ty và cũng có người nhìn tôi như người xa lạ. Sau nầy có chiếc xe đạp thằng em đưa làm chân đi cũng bị mất cắp, khi cần chiếc xe đạp để chở nước đá để sống, phải cầu cứu gia đình thằng bạn tù Ngô Đình Dũng, tôi mới có được chiếc xe đạp mini. Khi được người thương mình là vợ tôi bây giờ, vài năm mới chắt chiu mua được chiếc xe ba gác, dùng để chở nước đá cũng như là phương tiện chở 3 đứa con tôi từ chợ Biên Hòa về Bình Đa thăm bà Nội.Ngày nào cũng vậy 4, 5 giờ sáng là tôi phải đến hầm nước đá, dù mưa hay nắng, quần áo cũng ướt, trên những con đường từ ga Biên Hòa, xuống Tân Mai hay theo ngõ HoaLư gần nhà ra chợ Biên Hòa.Tôi cũng thành dân Hoa Lư cũng quen Ông Căn, ông Tề, chú Phách, chú Từ, cũng biết Y tá Dần của quân đội VNCH ngày xưa đã nghiểm nhiên trở thành Bác Sĩ, cũng khám bệnh và cấp toa thuốc như ai.10 năm trời tôi đã tá túc ở xóm Hoa Lư, trongtình thương và sự giúp đở của nhà bên vợ. Tôi thương và quý mến ông bố vợ tôi, bố vợ tôi thích ngồi nghe bạn bè tôi uống rượu kể chuyện đời lính tráng, ông cũng mất vài năm sau khi tôi sang Mỹ. Từ xóm chợ Biên Hòa, tôi cũng có những đàn anh, đàn em thân tình cùng sống nghề nước đá Trung úy Sơn Cảnh sát, Thiếu Tá Đãm truyền tin, Trung úy Hào, Thượng sĩ Hà Duy Đức. Thương anh Đãm đi tù về lảnh trách nhiệm làm cha lẫn làm mẹ, mỗi lần uống rượu tới chỉ là con gái anh khóc, nước mũi anh chảy ròng ròng. Nhớ anh Bảy Đoàn cảnh sát đặc biệt hịện đang ở Atlanta, cũng đi đi tù về ngồi sửa xe đạp, miệng lúc nào cũng tía lia, nhất là khi uống rượu với tôi, từ chuyện nằm vùng đến chuyện cảnh sát bị đì ra miền Trung. Thương những người bạn tù, Đệ ở Tân Mai, bác Bộ ở Hàm Nghi trong cảnh nghèo đành bán giấy ra trại để suốt đời cháu con khốn khó.Cuộc sống của tôi tuy nghèo khổ vất vả, nhưng đời sống tôi lúc bấy giờ cũng giang hồ nghĩa khí, những quán nhậu bình dân nào cũng biết tôi, từ so đa Hoàng Kỳ của xừ Quang, xừ Tỷ ở chợ, đều có ghi sổ thiếu chịu, quán cá cơm của trọng tài Nhan (con ông Lương văn Lựu), quán mì xào dòn của tàu phì lủ trên cây chàm, quán bia lên men của anh Phụng chị Kim sau trường Nữ tiểu học, vì tôi bán nước đá trong túi lúc nào cũng rủng rỉnh tiền, cũng như luôn tươi cười sẵn sàng tiếp đón thù tạc những thằng bạn tù bất cứ từ đâu đến (mấy bạn Đức, Phước, Bân, Minh,Tửng đang ở Mỹ đây). Nhớ Hà Duy Đức ngâm “ Hồ Trường”, cũng không quên Huỳnh Ngọc Nên lang thang, Nên đã mất nhưng không mất lòng quý trọng tôi. Những ngày tôi bán nước đá ở chợ Biên Hòa. Thỉnh thoảng anh sáu Đặng từ Hóa an, bây giờ đã khá giả rồi, có xe hơi có tài xế riêng,( thời điểm 87-88) sang rủ tôi uống cà phê và ăn sáng như nhớ lại những giọt nước mắt anh đã khóc với tôi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Anh Sáu ngày nay cũng liệt vào đại gia của Lò Lu xã Hóa An, tên trên giấy tờ là Nguyễn văn Đặng, ở lò lu ngày xưa có tên là Mài, dân trong làng Mỹ nghệ có máu mặt quen gọi là anh Sáu cụt vì anh đã mất đi cánh tay phải. Hiện thời cơ sỡ gốm Mỹ Nghệ Đồng Thành trụ tại Cầu Hang núi Châu Thới, anh đã giao lại cho con cái cai quản, anh đã có nhiều xe hơi, nhiều nhà đất ở Biên Hòa, hiện nay nghe nói có thêm 1 biệt thự ở Đà Lạt và đang sống với người vợ bé nhỏ được sự đồng thuận của chị Sáu vợ anh. Không ai trách gì anh ngay cả gia đình, vì anh chỉ còn một cánh tay trái, nhưng đã bỏ công sức và đầu óc tạo lập sự nghiệp cho gia đình sau 1975 là điều hiếm thấy, anh sáu Đặng không phải là bộ đội, khộng có bà con chế độ hiện thời, anh sáu là Thương phế binh, lại là thiếu uý của quân đội VNCH và đã lãnh trọn tiền trợ cấp phế binh. Anh Sáu Đặng sinh ra và lớn lên cùng quê tôi lò lu, lớn hơn tôi khoảng 5 hoặc 6 tuổi, thuở nhỏ gia đình cũng nghèo, sau thời gian qua chợ Biên Hòa làm cho tiệm vàng Kim Châu, gặp chị Sáu có sạp bán quần áo ngoài chợ và anh chị đã làm đám cưới vể lò lu chung sống, Chị sáu lại là chị của Tăng Hớn Quang xóm lò heo, học cùng lớp với tôi ở Ngô Quyền. Sau nầy anh Sáu về làm phó xã trưởng hành chánh xã Hoá An dưới thời chú Năm Bạch làm xã Trưởng, là người có chí dù có 2 con nhưng anh cũng cố gắng học đêm thêm ở trường Minh Tân để lấy bằng Tú Tài 1.Sau khi có bằng tú tài I, anh được gọi trình diện nhập ngũ vì là tài nguyên của Thủ Đức, nhưng khi ra trường anh bị đánh rớt ra trung sĩ vì tội bất phục tòng và ra trình diện Tiểu khu Hậu Nghĩa. Bước chận anh đã qua những vùng Hố Bò, mật khu Dương Minh Châu. Tôi là đàn em nhưng rất thân từ thời anh làm làng cũng như làm lính. Sau thời gian chiến đấu ở chiến trường miền Đông anh được gọi về Thủ Đức học lại khóa sĩ quan. Ra trường anh không được trở về đơn vị cũ, anh chọn sư đoàn 9 ở Vĩnh Bình, Chuẩn uý rồi Thiếu uý, làm trung đội trưởng, đại đội phó, cũng đi qua Rạch Giá, Kiến Tường, Chương Thiện, chiến đấu anh dũng, nhưng đành giả từ vũ khí và để lại cánh tay phải tại chiến trường miền Tây. Thời gian đó khoảng năm 1973, tôi đi cùng anh xuống Cần Thơ, anh đến trung tâm 4 hồi lực để lãnh lương, còn tôi xuống Bạc liệu trình diện đơn vị sư đoàn 21 bộ binh. Lúc bấy giờ tập xử dụng bàn tay trái, mọi thao tác cũa anh cũng hơi khó khăn, tôi đã giúp anh cầm muổng nỉa, tôi lại phải ở lại với anh 1 đêm tại khách sạn Hoàng Cung Cần Thơ. Sáng ra tôi theo anh đến Trung Tâm 4 hồi lực để anh lảnh lương nhưng chưa có vì bên đơn vị cũ chưa chuyển qua kịp, tôi còn nhớ tôi đã dốc đưa anh hết tiền túi và nói “ Anh Sáu cầm về Biên Hòa đi, em ra chiến trường tiền bạc không cần nữa”.
Tôi ra đơn vị trung đoàn 31 cũng về Chương Thiện, một lần bị thương nhẹ lấy phép bị thương vê thăm nhà, nghe tin tôi về anh Sáu mừng lắm, với xe đạp mini anh rủ tôi ra quán Bình Minh của chú Sáu Mồng say sưa một trận cho trọn tình huynh đệ. Lúc bấy giờ anh đang làm chân thư ký cho là gạch ngói Đồng Nai trên đường Chợ Đồn xuống Tân Vạn, gia đình cũng tạm sống, một điều cảm động nhớ hoài là một đêm tôi xuống nhà anh, nhìn lên vách tờ lịch ghi những chi thu có ghi khoản tiền đãi tôi, tôi mới biết anh đã chắt chiu tiền sinh hoạt gia đình để đãi mình. Ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, anh đã khóc với tôi một người lính bại trận trở về. Mãi đến năm 1981 anh mừng gặp lại tôi được thả từ trong tù. Được biết đời sống anh cũng chật vật cũng vào tù ra khám, không phải thành phần chế độ cũ, nhưng tù vì tội vận chuyển lu hủ xuống miền tây bán kiếm lời. Hiện anh đang mở một tổ hợp là đồ mỹ nghệ ngay lò gạch ông Tám Bình ở Tân Bản, thấy tôi làm việc chân tay vất vả anh kêu về làm thư ký cho anh. Nhưng cơ sở nầy không khá đành dẹp tiêm. Qua thời gian anh cố gắng mở lại cơ sở gốm Đống Thành ngay tại Cầu Hang Châu Thới, giai đoạn nầy tôi không làm việc với anh nữa. Từ nhu cầu xuất khẩu đồ gốm mỹ nghệ ra nước ngoài, anh đã khôn khéo lèo lái lấy được nhiều hợp đồng. Lương trả công nhân theo tiêu chuẩn nhà nước, bán đồ cho nước ngoài tính bằng ngoại tệ nên phất lên như diều gặp gió. Trong thời gian ngắn anh đã thêm nhà rộng, có xe hơi và tài xế riêng. Đôi lúc mấy ông Hà Nội vào thăm cơ sở của anh, cứ tưởng anh là thương binh bộ đội được ưu đải của chế độ.
Định cư ở nước ngoài nhiều năm, cũng có lần về thăm lại Biên Hòa, nhưng tôi chưa lần nào thăm lại anh Sáu Đặng của tôi, dù biết rằng anh ngày nay khá giả và cũng còn quý mến tôi. Anh Sáu! Hãy tha lỗi cho thằng em vì tôi còn những thằng bạn nghèo nối khố, những người kém may mắn em cần tìm đến. Cuộc đời như gió thoảng qua, nhớ về Biên Hòa xưa cũ làm sao quên được xóm lò lu đã gắn bó với mình ngập tràn kỷ niệm, với những con người biết bao ân nghĩa tình đời. Hy vọng anh Sáu cũa tôi không quên những giọt nước mắt đã khóc cho người bại trận, không quên những người lính, bao đồng đội nằm xuống để chúng ta được lên lon. Tôi sẽ về thăm lại anh vì thời gian không còn nữa, về để được gặp anh nhưng không muốn cùng anh đến khách sạn 5 sao, vào những nhà hàng sang trọng, hay lên Đà lạt để chiêm ngưởng ngôi biệt thự đẹp đẻ, nơi anh đang sống cùng người vợ bé rất nhỏ tuồi của anh, thực ra để tránh tôi kêu “chị Sáu” với người con gái đáng tuổi con mình. Nếu còn gặp nhau, tôi và anh không phải nhắc mãi về quá khứ,nuối tiếc một thời áo trận, hay nói về đất nước đổi thay. Tôi chỉ muốn nắm lại cánh tay đã mất của anh, cùng anh cưa đôi xị rượu đế, cùng hát lại bài hát Một mai giả từ vũ khí …Giặc từ Bắc vô đây bàn tay nhúng máu anh em…
Sông Đồng Nai với con nước lúc ròng lúc lớn, ôm ấp bao kỷ niệm vui buồn với những con người tình cảm bao la. Con đò bến nước đã là một chứng nhân. Xin được nói với nhau một lời chân thật, để cám ơn nguồn cội, đất nước Biên Hòa đã cưu mang ấp ủ; dù có đắng cay và nước mắt. Xin được một lòng kính nhớ đến những người thân thương đã đi qua đời tôi, cũng như được nói một lời tạ lỗi với những ân tình ân nghĩa không bao giờ trả được, đành giữ trong tim “Biên Hòa! Quê Tôi Trong Nỗi Nhớ”
Bạn bè thân thuộc lòng son
Nghĩa tình chảy mãi chưa mòn tháng năm
(Trầm Vân)
NGUYỄN HỮU HẠNH
Hạnh thân,
Cám ơn Hạnh, Mỹ đã nhận được đặc san.
Mở Báo ra lo kiếm bài viết của Hạnh “ BIÊN HÒA QUÊ TÔI TRONG NỖI NHỚ” đọc trước, đọc rồi nghẹn ngào khóc! ( Mỹ tin chắc rằng không ai thấu hiểu tâm tình của Hạnh cho bằng Mỹ là người Hóa-An và cùng thời cùng lứa tuổi!) Khóc bởi vì đọc bài thấy lại cả một Xã nhà Hóa-An thân thương yêu dấu, Hạnh đã gọi tên không sót một ai!( Chỉ thiếu có Bà Tám( có gánh hàng bán tại quán của bà 3 Bèo, má của chị Tư và Tình).Bà Tám bán Cháo Cá, Bánh canh vá Bánh Qui ( loại bánh mà bên trongcó nhưn đậu xanh,võ bánh bên ngoải có màu tím tím và bánh Ích-Trần cũng nhưng đậu-xanh. vào các ngày Rằm bà Tám có bán Kiểm và Đồ Chay rất ngon, nếu đến trể là xách tô không đi về, nhịn đói!!!. Gánh hàng của bà Tám bán thức gì ăn cũng ngon khỏi biết luôn!!! Lúc Má Mỹ còn sống bên Ý nầy, tụi mình lâu lâu cũng ngồi nhắc lại cho má nghe.! Con bà Nội của Hạnh ( má Mỹ gọi bằng Thím-Sáu) thời nhỏ Mỹ thích ăn hàng lắm!!!( đa số con gái đều thích ăn hàng!!!) Mỹ là khách hàng quanh năm suốt tháng của Bà Nội của Hạnh ,ngon nhất là BánhTéT đòn dài và lớn,Ă N NGON KHỎI BIẾT LUÔN! bánh tét đòn nhỏ nhưn Chuối, và Bánh Ú có nhưn mặn cũng bằng đậu xanh thêm ở giữa có 1 cục mở nhỏ rất bùi và béo, xung quanh nẹp lại có mấy hột đậu đen bùi bùi.
Tiếc rằng thời đó trong chiến tranh, mình lại ở nhà-quê, con dân trong làng xã quá nghèo khó, đơn sơ, ai cũng đầu tắt mặt tối lo chạy Gạo cho gia đình con cái, chứ thật ra người dân xã Hóa An rất là thân thiện,hiển lành, dễ mến, xóm riềng , những cách xưng-hô lúc nói chuyện như Bà con ruột thịt trong gia đình: Mỹ gọi ba má Hạnh bằng Cậu 6, mợ 6. Rồi Hạnh gọi lại Má Mỹ bằng Cô-Tư.( Rồi Các Dì Hai ,dì Ba Bỉ, Dì Tám, Cậu Chín Suổi, mợ chín.Chị Hường rất thân với chị hai Kim của Mỹ. Sữu,Hưng trang lứa với Mỹ( hồi nhỏ Mỹ với Sữu cùng tuổi ,nên Mỹ thân với Sũu hơn ( Sữu lúc nhỏ da trắng, với đôi mắt to, tóc lại màu vàng hơi lai Tây nên rất đẹp, nên đưọc Dì Ba cưng chìu lắm, nên Sữu rất nhỏng- nhẻo.! Lớn lên thì gần như không gặp lại Sữu bao giờ! Đọc bài nghe Hạnh nói mới biết Em Hiếu mất tích, tại sao vậy? đi lính, hay vượt biên?!
Đọc Bài của Hạnh xong Mỹ cũng muốn viết một cái gì đó, nhưng chưa thành hình trong đầu, Mỹ chỉ có sỡ- trường viết Bài theo lối ký-sự, tường thuật vui vui, hy vọng sang năm có bài đóng góp.!
Không biết Hạnh có gởi Đ/San cho Đ.C.Luận không? Nếu biết có, thì Mỹ sẽ nhờ Luận photocopy ra Bài viết của Hạnh cho em Huê, nếu Huê biết Hạnh vẫn còn nhớ, chắc Em vui lắm!
Thân quí,
Châu Kim Mỹ
Anh Hạnh ơi,
Em cũng đã đọc qua bài nầy của anh Hạnh trong Đặc San Nhâm Thìn. Chỉ cái tựa bài "Biên Hòa! Quê Tôi Trong Nỗi Nhớ" cũng đã lôi cuốn người xem rồi, còn nội dung thì khỏi phải nói, đúng là nhà văn của Ngô Quyền. Em rất thán phục trí nhớ tuyệt vời của anh và tự hỏi làm sao mà anh Hạnh có thể nhớ hết ngần ấy tên người cũng như tên địa danh như vậy? Chắc hẳn là tình cảm của anh thật là sâu đậm và gắn bó keo sơn với những danh từ riêng thân yêu ấy! Quả thật bài viết đã đưa người đọc từng khoảnh khắc trở về với khung trời kỷ niệm của một quãng đời tuổi trẻ nơi xứ bưởi Biên Hoà. Bằng lời văn bình dị, anh Hạnh đã dẫn dắt những người con của đất Đồng Nai cùng thời nhớ lại những gì mình đã trải qua. Thật là một đoản văn hay...
Đồng thời em cũng không ngăn được cảm xúc ngậm ngùi khi nhớ về:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
(Vũ Đình Liên)
Hát Bình Phương