- Những Lời Chưa Nói
- "Minh Tân" Tên Một Ngôi Trường
- Gia Đình Ngô Quyền Và Buổi Ra Mắt Tác Phẩm "Miền Nam Hai Mươi Năm"
- Thầy Bùi Quang Huệ
- Khóc Bạn Đỗ Văn Huấn
- Tháng Ngày Nắng Vội...
- Lịch Sử Trường Ngô Quyền Biên Hòa
- Tài Danh Biên Hòa Với “Tuyệt Tình Ca”
- Cô Lái Đò “ Hoàng Minh Nguyệt”
- Bứt chi sợi tóc cuộn đời thủy chung
NHỮNG LỜI CHƯA NÓI
Tôi rời xa mái trường Ngô Quyền năm 1970, thoáng chốc đã 40 năm với bao bước thăng trầm trong cuộc sống, tuổi đã vào Thu biết bao kỹ niệm còn luyến nhớ, cỗng trường xưa, con dốc lài từ kỹ niệm xuống Biên Hùng chi còn trong trí tưởng. Bao người xưa phiêu bạt nơi đâu, chợt nhớ ra mình cũng còn “ Những lời chưa nói” với Thầy với Cô của những ngày đi học
Cô Đào thị Nga tôi vẫn luôn nhớ đến cô, năm đầu thất 4 những bài anh văn vỡ lỏng Let’s learn English. Nhớ đến cô như nhớ đến những ngày hiên ngang lên Trung học. Suốt 7 năm dưới mái trường Ngô Quyền, tôi rất sợ các giờ cùa quý Thầy Nguyễn văn Phố, Nguyễn Thất Hiệp, Tôn Thất Để, Tôn Thất Phong, Lê văn Tuý và Lê Quý Thể, không biết vì quý Thầy quá nghiêm hay bản thân tôi dở Toán. Trái lại tôi rất ham học những giờ Việt văn với Cô Bùi thị Ngọc Lan với những bài văn nhẹ nhàng, cô Hà Bích Loan với những câu chuyện thần tiên “ Bích Câu Kỳ Ngộ”, thầy Đoàn viết Biên với những bài thơ của Nguyễn Khuyến, bà Huyện Thanh Quan và thầy Phạm Ngọc Quýnh với tuyệt tác “Kim Vân Kiều”. Với sở thích của mình lẽ ra tôi phải chọn ban C khi lên đệ nhị cấp, nhưng “ Đường về quê xa lắc lê thê, trót nghe theo lời u mê” của mấy đứa bạn hiên ngang chọn ban B để cho mấy cô em biết mình giỏi Toán. Ngoài cô Đào thị Nga, môn anh văn còn có cô Võ thị Thu Thủy, Thầy Nguyễn Xuân Kính, Thầy Nguyễn văn Lan, cô Phan thị Tốt và thầy Phạm văn Dật. Môn Pháp văn vẫn nhớ đến cô Nguyễn thị Mỹ và thầy Đinh Hữu Quyến và còn nữa thầy Nguyễn Ngọc Ẩn với môn Sữ Địa. May mắn tôi vẫn còn thường gặp lại cô Bùi thị Ngọc lan với nụ cười hiền hòa thuở nào, gặp lại cô Hà Bích Loan một lần cùng với cô Nhả Ý vẫn nhớ lời nhắn nhủ ân cần của cô “ Người viết văn thơ muốn viết cho đạt, phài đặt cái tâm hòa trong lời viết”. Gặp lại thầy Nguyễn văn Lan vào năm 1996, thầy đến Mỹ từ Paris và Thầy trò đã có một đêm tâm sự. Riêng thầy Nguyễn văn Phố cũng gần đây thôi, tôi đã thường tự nhắc với bản thân mình, cố gắng mỗi tháng đến thăm để nghe lại giọng nói, và nhìn lại dáng cao gầy của thẩy.
Kính thưa Thầy, kính thưa cô. Là một đứa học trò đi lạc nhưng vẫn còn một lối để quay về, với trái tim còn thổn thức để được nói lên “ NHỮNG LỜI CHƯA NÓI” trong mùa lễ tạ ơn.
NGUYỄN HỮU HẠNH
Thầy Nguyễn Tường Triệu- Thầy Nguyễn Tường Lưu- Thầy Huỳnh Bá Hạnh
"MINH TÂN" TÊN MỘT NGÔI TRƯỜNG
“Trường Minh Tân mến …bên bờ Đồng Nai…
Xa mờ Châu Thới …..ngang lưng trời …….”.
Bài hát được chuyển từ giòng nhạc “ Chiều mưa biên giới” của nhạc sĩ Nguyễn văn Đông vào thập niên 60, qua theo giòng thời gian chỉ những người thành lập hoặc từng theo học trường trung học tư thục Minh Tân Biên Hòa mới còn nhớ một vài lời ca ấy, với những kỹ niệm của trường lớp gắn liền với quê hương Biên Hòa, sông nước Đồng Nai , núi non Châu Thới và còn nhiều nữa…Cùng với vận nước nổi trôi, Minh Tân được người chủ mới đón nhận hững hờ và tên trường đã bị xoá tên qua bao tháng ngày nắng vội. Từ tình cảm của người Biên Hòa tha hương cùng ngậm ngùi nhớ về Minh Tân chỉ còn trong trí tưởng.
Trường Minh Tân được thành lập vào đầu thập niên 60, lúc bấy giờ trường chỉ có 4 đến 5 phòng học, trường nằm trong khu phố nhỏ của gia đình họ Trương, sát bờ sông Đồng Nai và quán Tuyết Hồng,chuyên dạy chương trình Đệ nhất cấp và luyện thi. Trường Minh Tân được điều hành bởi 3 vị giáo sư Nguyễn Tường Lưu, Nguyễn Tường Triệu và Huỳnh Bá Hạnh.Thầy Triệu, thầy Lưu là con và cháu của nhà văn Nhất Linh. Nói vế Nhất Linh Nguyễn Tường Tam ông là nhà văn, nhà báo, một nhà chính trị. Là một trong những người tiên phong thành lập nhóm Tự lực văn đoàn đã tạo luồng gió mới cho nền văn học Việt Nam. Với những tác phẩm nổi tiếng như Bướm trắng, Đoạn Tuyệt và nhiều sáng tác chung với Hoàng Đạo, Thạch Lam và Khái Hưng. Là một nhà chính trị, Nhât Linh một người có lòng với đất nước,tuy rằng cơn lốc chính trị đã bức tử những tác phẩm và con người của ông, nhưng định mệnh đã phải đầu hàng trước những thành quả công trình văn học của cố văn sĩ Nhất Linh.
Từ tấm lòng nhiệt huyết của nhà văn Nhất Linh, những người con, người cháu của ông đã xây dựng cho quê hương Biên Hoà một ngôi trường, trang bị kiến thức cho những người con của xứ Bười trở thành những người có giáo dục và nên người. Đa số học sinh Minh Tân từ chợ Biên Hòa, Cù lao, Chợ đồn,Tân vạn và Hoá An.Bây giờ tản lạc khấp nơi, một số “đã bõ trường xưa bỏ áo thư sinh theo tiếng gọi lên đường” đã nằm xuống cho cuộc chiến.số còn lại ở quê hương hay tha phưong, chắc chắn người muôn năm cũ luôn nhớ nụ cười tươi của thầy hiệu trưởng Nguyễn Tường Lưu, nếu không đậu vào Ngô Quyền đã đến Minh Tân gặp thầy Lưu là không thể bỏ đi chọn trường khác.Thầy Huỳnh Bá Hạnh với cặp kính trắng, dáng người đạo mạo và nghiêm khắc, là người giữ kỹ cương cho trường lớp, ngay cả lúc thầy đứng lớp dạy Pháp văn.Thầy Nguyễn Tường Triệu phụ trách môn Việt văn nhiều lôi cuốn được minh hoạ thêm với những tác phẩm của nhóm Tự lực văn đoàn như “Anh phải sống”, “ Bóng người trong sương mù”,”Hồn bướm mơ tiên” v.v.Thầy Xuân vẫn ồn ào trong giờ dạy Anh Văn, Thầy Quang dạy Vạn Vật, Thầy Hưng tiếng nói không ngừng nghỉ trong lớp Toán luôn phần luyện thi ban đêm cho Tú Tài 1 và 2. Nhất là luôn nhớ đến chú Ký người luôn kiểm soát học sinh vào giữa tháng. Giờ đây người xa và trường cũng xa, biết làm sao giữ được trường cũ tình xưa.
“Phố Hàm Nghi đường chiều hanh hanh nắng
Ai có thương thầm áo trắng Minh Tân”.
Không hạnh phúc nào hơn cho một đời người, đi học ra trường đi lính, đối diện cái chết từng ngày nơi chiến trường Chương Thiện, chiến đấu với bệnh tật và đói khát qua năm tháng tù đày Phước Long Kà Tum, ra xứ người còn diễm phúc gặp lại thầy cô và những người bạn học dưới mái trường ngày nào. Trường Ngô Quyền đã cho tôi hạnh phúc ngập tràn đó, bằng những buổi họp mặt những sinh hoạt cuối tuần,hình ảnh của Thầy Cô và từng người bạn đang mang tôi về với những kỷ niệm áo trắng sân trường ngày nào. Cũng hình ảnh áo trắng sân trường với hạnh phúc lại tràn đầy hơn là còn nhắc đến “Minh Tân” tên một ngôi trường “Tha phương ngộ cố tri” gặp lại Thầy Nguyễn Tường Lưu,Thầy Nguyễn Tường Triệu và Thầy Huỳnh Bá Hạnh vào mùa hè 2009 tại Nam Cali. Mùa hè với niềm hạnh phúc bất tận.
Tôi đã có dịp ăn cơm tối với Thầy Huỳnh Bá Hạnh cùng Thầy cô Nguyễn Tường Lưu, và những ngưòi anh người bạn chị Trương Lê Minh Phương, anh Ma Thành Tâm và anh Lữ Công Tâm.Chúng tôi đã dành cho Thầy Lưu một bửa cơm Bắc cũng tôm cỗ ngư, canh cá thì là, gà đi bộ luộc tại một nhà hàng ấm cúng trên đường Bolsa. Thầy cô Nguyễn Tưòng Lưu đến từ Úc còn Thầy Huỳnh Bá Hạnh ở Nam Cali, nhưng đây là lần đầu tiên tôi được gặp sau hơn 40 năm, cũng cặp mắt kiếng ấy nhưng ai đã lấy đi dáng nghiêm khắc của Thầy ngày xưa rồi, nhà hàng không bán rượu nhưng thầy rất vui vẻ lấy từ xách tay những chai rượu và rót cho từng đứa học trò của thầy. Những giây phút thân tình cảm động, giữa Thầy và trò cũng như người mến mộ lại là người đồng hương Biên Hòa, hỏi thăm Thầy Lưu về Úc châu về Loan cô bạn học cùng lớp với tôi ở phố chợ ngày nào và cũng đươc biết Thầy Lưu cũng là rễ của Biên Hòa. Riêng Thầy Hạnh vẫn thường xuyên dự họp mặt hằng năm với đồng hương Biên Hoà tại Nam Cali. Được hỏi ý kiến về buổi họp 6/14/09 của đồng hương Biên Hòa tại Nam Cali, Thầy Hạnh cho biết là rất vui, mong muốn luôn có những cuộc hội ngộ như thế nhưng rất tiếc không biết ông MC là ai sao nói tiếng Anh dở thế, nhưng khi biết ra chính là học trò học Pháp văn đang ngồi cạnh Thầy, Thầy Hạnh đành trách khéo rằng thầy nói tiếng Anh cũng không hơn gì em..
Buổi họp mặt truyền thống kỳ 8 của cựu học sinh Ngô Quyền hải ngoại vào dịp lễ Độc lập của Hoa Kỳ tại nhà hàng Seafood Kingdom tại Nam Cali ngày 7/5/09. được hân hạnh tiếp đón Thầy Nguyễn Tường Lưu, Huỳnh Bá Hạnh, Nguyễn Tường Triệu và phu nhân. Điều lý thú hơn nữa, người nâng khăn sửa túi trong đời của Thầy Nguyễn Tường Triệu cũng là một cựu học sinh Ngô Quyền. Quý Thầy rất vui mừng gặp lại đồng nghiệp củ, những học trò xưa và cùng chia xẻ tinh thần “Tôn sư trọng đạo” sẵn có của trường Ngô Quyền. Quý Thầy tuổi tác giờ đã cao, con cái đều thành đạt nơi xứ người, điều mong ước còn lại là được gặp lại những học trò không giàu tiền bạc nhưng giàu tình nghĩa, để được đến với nhau bằng một tấm lòng. Có được nhìn ngấn lệ rưng rưng của Thầy Triệu, Cô Bùi thị Ngọc Lan mới cảm nhận được.
“Minh Tân” tên một ngôi trường không còn nữa theo giòng thời gian, nhưng với cựu học sinh, phụ huynh nhất là đồng hương Biên Hoà ,luôn nhớ những sự đóng góp trong thời hưng thịnh của tỉnh nhà. Cây lúa được tốt,được tươi là do công lao người chăm bón, muốn ăn trái ngọt phải có cây lành, chắc hẵn chúng ta sẽ không thể quên cây lành cũng như công lao ngườì chăm bón.Nếu còn được nói, xin được nói thay cho đồng hương Biên Hòa thầm lặng, lời cám ơn đến quý Thầy của trường Minh Tân và nhắc nhở cho chính mình :
“ Ba Má cho ta thân xác, Thầy Cô cho ta kiến thức”.
Nguyễn Hữu Hạnh
( ĐS Biên Hòa Texas 09)
GIA ĐÌNH NGÔ QUYỀN VÀ BUỔI RA MẮT TÁC PHẨM “ MIỀN NAM HAI MƯƠI NĂM”
Tác phẩm “ Miền Nam Hai Mươi Năm 1955-1975 “ của Thầy Nguyễn văn Lục, được ra mắt vào trưa ngày 1 tháng 8 năm 2010 tại phòng sinh hoạt Nhựt Báo Người Việt, đây là dịp để tác giả giới thiệu đứa con tinh thần của mình, nhưng cũng đã để lại thầy trò những hình ảnh không quên với nhiểu cảm xúc, cảm xúc ở đây không hẵn là những lời phát biều của các nhân vật tiếng tăm lừng lẫy, về tác phẩm cũng như những kỹ niệm về người viết, nhưng còn ghi lại một tình cảm đã gắn liền như tiềm ẩn trong máu, trong tim của thầy trò dưới mái trường xưa ” NGÔ QUYỀN VANG TIẾNG GỌI”.
Buổi ra mắt sách được đánh giá thành công về mọi mặt, ngoài sự dự đoán của tác giả cũng như ban tổ chức, Chỉ vì ngày giờ trùng hợp với Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Phế Binh VNCH, nên vào buổi sáng Thầy Nguyễn văn Lục vẫn còn nhắc nhở kêu gọi cựu học sinh Ngô Quyền, cũng là đồng hương Biên Hòa đến tham dự và ủng hộ. Thầy chỉ mong mỏi đạt đến con số khiêm tốn về số người tham dự, nhưng Thầy Nguyễn văn Lục vô cùng sung sướng khi thấy đông đảo đồng nghiệp và cựu học sinh Ngô Quyền đã đến yểm trợ. Thầy Phan Thanh Hoài, Thầy Nguyễn văn Phố, Thầy Hoàng Phùng Võ, Thầy Trương Hữu Chí, Thầy Nguyễn Xuân Kính, Thầy Cô Kiều Vĩnh Phúc, Thầy cô Hà Tường Cát, về phía cựu học sinh Ngô Quyền có Võ Ngọc Dung, Thân Ngọc Mai, Mai Trọng Ngãi , Tô Anh Tuấn, Ma Ngọc Huệ, Nguyễn Thị Tất Ứng, Cao Thị Chung , Chu Diệu Thi và Nguyễn Hữu Hạnh; bên đồng hương Biên Hòa có Huỳnh Kiệt,anh Tiến BĐQ và 2 thân hữu, chị Huệ ( Xây Dựng), Lữ Công Tâm, và các bạn từ VN Châu Đào Nga ( NQ 65-68), Nguyễn thị Thêm ( NQ 65-68), Trần Ngọc ( Long Thành 65-68), Nguyễn văn Phát ( Long Thành 60-64).v.v.
Chương trình dự trù bắt đầu đúng 1 giờ 30 nhưng mãi đến 2 giờ, nhà văn Trần Phong Vũ người điều khiển chương trình mới khai mạc được và mời quý bậc trưởng thượng tiến lên những hàng ghế đầu, để có những thước phim, cũng như những hình chụp đông đảo và đẹp mắt. Chắc có lẽ Trời không phụ long người, chỉ ít phút sau, từng lớp người kéo đến tham dự lên đến 100 người, ban tồ chức phải thêm ghế ngay cả hai lối đi. Đặc biệt những nhân sĩ những khuôn mặt danh tiếng trong cộng đồng đều có mặt, như Dân Biểu Trần Thái Văn , Nghị viên Tạ Đức Trí, ông Phan kỳ Nhơn, ông Nguyễn Tấn Lạc, Cựu Nghị Sĩ Lê Châu Lộc,cựu Dân Biểu Dương Minh Kính( Hiệu trưởng Chu văn An), Giáo sư Nguyễn Thanh Trang (phó khoa trưởng kinh Thương Minh Đức), Phạm Phú Minh,Uyên Thao Huỳnh Văn Lang, Phạm Cao Dương, Giáo sư Lưu Trung Khảo, Nguyễn Chí Thiện, Trần Đức Thanh Phong, Nguyễn Phúc Bửu Tập, Mai Thanh Truyết, Đoàn Thanh Liêm, Phan Nhật Nam, Đỗ Như Điện, Nguyễn Lý Tưởng, Đặng Phú Phong, Nguyễn Bá Tùng, , Đỗ Thị Thuấn, Nguyễn Ninh Thuận.
Sau lời chào mừng của đại diên báo Người Việt ông Phạm Phú Thiện Giao, đến phần phát biểu của nhà văn Uyên Thao, Giáo Sư Lưu Trung Khảo, Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, ông Huỳnh văn Lang (công chức cao cấp nền Đê Nhất Công Hòa), Dân Biểu Trần Thái Văn, Phần chính của chương trình Thầy Nguyễn văn Lục với những lời ngắn chào mừng và tri ân quý quan khách đã đến tham dự đã đóng góp những ý kiến phê bình sửa sai khuyết điểm, đặc biệt Thầy cũng tỏ lòng sung sướng nói lên sự hiện diện những môn sinh cũa Thầy, những cựu học sinh Ngô Quyền Biên Hòa..
Đến phần ý kiến của cử toạ và quan khách .Anh Nguyễn Hữu Hạnh được coi là người trẻ nhất đã lên đóng góp ý kiến đầu tiên, bằng giọng nói hùng hồn, chửng chạc và phần phát biểu ngắn gọn đã tạo được sự thu hút và chú ý lắng nghe của mọi người . Anh lấy làm vinh dự được góp tiếng nói của mình, trong buổi sinh hoạt văn học nghệ thuật gìới thiệu một tác phẩm chọn lọc, đã gây được tiếng vang qua các cơ quan truyền thông và báo chí tại Nam Cali.Từ một chứng nhân trên quê hương Biên Hòa với những vùng đất Tam Hiệp, Hố Nai và một thời gian đi công tác Chiến Tranh Chính Trị tại Cái Sắn Rạch Giá,anh đã nhìn được sinh hoạt an cư lạc nghiệp của người miền Bắc đi cư vượt trội dân miền Nam, phần lớn do công lao của nền Đệ Nhất Cộng Hòa như tác giả đã trình bày. Anh cũng nói lên cảm nghỉ của người học trò về tác phẩm của một người Thầy bằng cái tâm của mình. “Một tác phẩm luôn luôn có người khen kẻ chê nhưng quan trọng người viết diễn tả sự trung thực. Thầy Nguyễn văn Lục là một giáo sư dạy Triết đã từng truyền đạt cho chúng tôi qua các môn Tâm Lý và Đạo Đức học tại Trường Trung Học Ngô Quyền Biên Hòa trước năm 1975 và ngày hôm nay là một môn sinh của thầy, tôi tin rằng tác phẩm “ Hai Mươi Năm Miền Nam” của ông được viết bằng ngòi bút trung thực với cả tấm lòng và lương tâm của một nhà giáo. Ông đã hoàn thành tác phẩm nầy với ước nguyện cày xới và gìn giữ lại miền Nam, không phải chỉ cho riêng ông, mà là cho cả chúng ta ở đây và cho thế hệ mai sau…”
Anh Hạnh đã đón nhân được tràng pháo tay khen thưởng nồng nhiệt của quan khách và càng nồng nhiệt hơn với phần ca vọng vổ “ Tâm sự Văn Nhân”.
Kế đến là phần pháp biểu của ông Phạm Phú Minh, Giáo sư Phạm cao Dương và Thầy Kiều Vĩnh Phúc.
Buổi ra mắt sách chấm dứt lúc 5 giờ, thầy trò Ngô Quyền lưu luyến chụp hình kỹ niệm, cơ hồ không muốn chia tay,
Chị Ma thị Ngọc Huệ”Nay mai Thầy Lục về Canada chắc lâu lắm mới có dịp gặp lại Thầy”
Thầy Lục “ Sao cô nói vậy, tôi còn nhiểu dịp qua Cali, cũng như tôi không bỏ Ngô Quyền”
Võ thị Ngọc Dung đã thể hiện lời khen tặng đàn anh của mình “ anh Hạnh số một hôm nay”
Mai Trọng Ngãi “ anh Hạnh có được thiên phú sự xuất thần linh động thu hút đám đông “
Ma thị Ngọc Huệ “Anh Hạnh vô cùng xuất sắc đã làm rạng danh học sinh Ngô Quyền”
Chị Chu Diệu Thi “ chị rất mến phục Hạnh từ chuyến đi San Jose 20007. Và hôm nay trong ngày ra mắt sách phải nói là thán phục”.
Riêng Thầy Nguyễn văn Lục, chiếc phi cơ đã mang Thầy trở về Canada gặp lại những người thân quen xa cách một thời nhưng tâm tư Thầy vẫn còn hướng về Nam Cali nắng ấm…
“Xin cám ơn anh Hạnh và tất cả các anh chị Ngô Quyền đã hết lòng giúp tôi trong thời gian một tháng vừa qua với những sự ủng hộ tinh thần lẫn vật chất. Điều đó làm tôi cảm động và không thể không có đôi lời gửi đến các anh chị ..Rất tiếc bửa chót, tôi bận không tới dự tiệc được.Nay tôi phải ngồi soạn ngày đêm để ra cuốn sách kế tiếp theo sự thỏa thuận với nhà xuất bản. Còn biết bao nhiêu điều phải nói, phải viết... mà đầu óc như muốn nổ bung ra về các vấn đề cứ xếp hàng trong đầu để cho được xuất hiện.
Hôm về, trời mưa to tại Montreal, máy bay biểu diễn một cuộc khiêu vũ trên không cũng ngoạn mục trước khi hạ cánh .. . Danse dans l'air . Hạ cánh rồi thì có nhiều tiếng vỗ tay cho màn biẻu diễn " vũ điệu của loài công" của phi hành đoàn ..
Xin anh cho tôi gữi lời thăm đến tất cả các anh chị và hẹn ngày tái ngộ không xa. Cám ơn lời phát biểu chân thành của anh Hạnh, xuất sắc vẫn là bài ca Vọng Cổ.”
Nguyễn Hữu Hạnh
Thầy Bùi Quang Huệ
Nhìn lại những năm tháng đầu tiên của trường Trung Học Ngô Quyền Biên Hòa, chắc hẵn các cựu học sinh lớp đàn anh khóa 1 không bao giờ quên một người Thầy của những ngày đầu Trung Học, không những các khóa đàn anh, luôn cả những khoá về sau nầy không ai bão ai luôn giữ lòng kính trọng đối với một người Thầy, một Tỗng Giám Thị hiển lành và mẫu mực, Thầy Bùi Quang Huệ.
Niên khóa đầu tiên 1956-1957 được khai giảng tại trường Tiểu Học Nguyễn Du, 3 vị Thầy của trường Nguyễn Du thuộc ngạch thượng hạng, ngoại hạng được chính thức chuyển sang làm Giáo Sư chính cho trường. Đó là các Thầy Phạm văn Tiếng, Thầy Bùi Quang Huệ và Thầy Đinh văn Sái. Tôi vào trưởng Ngô Quyền vào năm 1963, qua các môn học được Thấy Phạm Đức Bão và Thầy Dương Hòa Huân giảng dạy, tuy rẳng không có học Thầy Bùi Quang Huệ nhưng có những dịp tiếp xúc với Thầy thường hơn ở văn phòng qua những buổi đi trực, được nghe giọng nói ồn ào, nghiêm khắc nhưng ẩn hiện sự nhân từ trên khuôn mặt. Hôm nay tình cờ nhìn lại hình Thầy Bùi Quang Huệ được gửi từ Paris, tôi nhớ lại lần cuối cùng gặp Thầy khoảng giữa năm 1993 trong cư xá Kiến Thiết Thủ Đức, lúc bấy giờ Thầy Bùi Quang Huệ yếu lắm rồi, nhìn Thầy lòng tôi bỗng chùng xuống và bồi hồi xúc động, dù biết rằng thời gian không từ một ai, giọng nói ồn ào ngày xưa không còn nữa, được thay bằng giọng nói yếu ớt và đứt khoảng, bàn tay run rẩy, gầy guộc Thầy cố đặt lên vai tôi. Tôi tự hỏi, sau tôi còn ai thăm viếng và xưng hô tiếng “ Thầy” tôn kính ngày nào với thời gian còn lại, vì Thầy Bùi Quang Huệ đã ra đi lặng lẽ bên những người thân…
Uống nước nhớ nguồn, cùng nhớ lại người Thầy một thời tự hào với thiên chức thiêng liêng và được xã hội bấy gìờ mến mộ : Thầy Bùi Quang Huệ.
Nguyễn Hữu Hạnh
Khóc Bạn Đỗ Văn Huấn
Từ vùng đất xa xôi cách Long Thành Biên Hòa nửa vòng trái đất, qua website Biên Hòa nhận được tin bạn Đỗ văn Huấn đã qua đời hưởng thọ 62 tuổi, nghe tiếng thọ không những riêng tôi mà những người bạn thân tình với Huấn chắc hẵn không ai cầm được nước mắt và xúc động. Huấn ra đi rồi sao, bạn bè còn đây nhưng Huấn đã vội đi rồi. Long Thành nơi Huấn đã sinh ra và lớn lên, cuối đời thân xác Huấn cũng đã trở về với miền đất Long Thành bỏ lại cuộc đời biết bao ấm lạnh.
Tôi đã gặp Đỗ văn Huấn trong trại tù T3 Thành Ông Năm Hốc Môn, chúng tôi nhìn ra và thân nhau khi biết cùng chung học với mái trường Ngô Quyền Biên Hoà. Năm đệ Nhất Huấn chuyển trường từ Long Thành về Ngô Quyền cùng lớp đệ nhất ban A với Lê Hữu Phước ( Biên Hùng). Tuy rằng khác đội nhưng chúng tôi luôn gần gủi với những kỷ niệm của Biên Hòa đã mất. Phải nói LongThành không phải là nơi sinh trưởng, nhưng tôi có duyên với Long Thành từ những vùng Tam An, Phú Hội , Bình Sơn, Chợ Chiều luôn gắn liền với những con người Long Thành tôi đã đến và quen biết, phải chăng cái mộc mạc hiền lành và chân thật của người miệt vườn nhất là từ Đỗ văn Huấn. Được biết sau khi rời trường Ngô Quyền, Huấn gia nhập vào Hải Quân một thời giang hồ phiêu bạt trên sóng nuớc, nhưng con kình ngư phải đầu hàng trước cơn sóng dữ 1975. Thời gian chúng tôi gặp gở vào thời điểm đã trải hơn 3 năm trong ngục tù Cộng Sản, ngày về với gia đình chắc hẵn còn xa, chúng tôi đã trở nên chai lì trước những người Cộng Sản, nhất là những buổi học tập chính trị, cả hội trường tràn ngập liên hồi những tràng pháo tay không phải hoan hô tán thưởng, nhưng cố ý làm át đi những lập luận, những bài học ngu dốt của người chiến thắng. Trong giai đoạn nầy những người Cộng Sản ban ngày bắt chúng tôi đào những hào xung quang vòng đai trại hầu ngăn chận chúng tôi trốn trại ban đêm. Những đêm kinh hoàng với những tiếng kẻng tập họp điểm danh,và súng nổ liên hồi một Hà Minh Tánh chết vắt ngang trên bờ rào, một Kiếm thuộc binh Chủng Nhảy Dù nắm chết gục trên bờ hào với những võ đạn K 54 còn vương vải. Không hiễu lương tâm ở đâu? Tình người ở đâu? người Cộng Sản đánh mất rồi chăng? để mạnh tay kết liễu những mạng người khi họ không có sự chống cự và trên tay không sắt thép. Và sau đó chính Đỗ văn Huấn tìm đường về Long Thành bằng sự can đảm và liều lĩnh; quyết định trốn trại bên cạnh là sự cầu nguyện của những bạn tù còn ở lại. Những năm ra tù một lần xuống Long Thành tình cờ gặp lại Đỗ văn Huấn. Tôi nhìn Huấn và ái ngại lo cho thân anh. Cũng với nụ cười đó nhưng rắn chắc hơn, Huấn nói với tôi: “ Đừng thần thánh hóa bọn VC, lũ ngu dốt không biết gì đâu”. Huấn vẫn là Đỗ văn Huấn hiên ngang có 1 tiệm mộc nổi tiếng tại thị trấn Long Thành, vẫn mặn mà tình chiến hữu và nhất là các bạn tù. Huấn đã chiêu đãi tôi một chầu dồi trường non được tuyển chọn với rượu đế Long Thành tôi còn nhớ mãi. Một lần dự một đám cưới tại Tam an, cũng lại gặp Đỗ văn Huấn ở đây, rượu vẫn mềm môi vì giữa chúng tôi đã có những tình cảm thâm trầm trong tù đày gian khó, với chúng tôi là cả niềm hạnh phúc có thể người khác không có được. Đỗ văn Huấn đã sớm ra đi, trong niềm tiếc thương của gia đình và bè bạn. Kính mong hương hồn Đỗ văn Huấn thanh thản và hiên ngang. Như một thời hiên ngang trốn trại, hiên ngang để được trở lại quê hương Long Thành.
Viết riêng tặng: Lữ công Tâm .Lý quản Thành .Huỳnh văn Ru .Lê công Lý .nguyễn tân Tiến , Đặng đăng Thành ,Phan văn Tới ,Phạm thị Thuận ,Trần thị Ngọc . Đặng văn Toản .Lê cát Bá,Nguyễn thị Thêm ,Huỳnh Long .Phạm đức Thạnh.Huỳnh Cường.Phạm văn Đấu.và các bạn đồng khoá Tr/h Long Thành ,Ngô Quyền .
Nguyễn Hữu Hạnh
THÁNG NGÀY NẮNG VỘI...
(nhớ cô Phạm Thị Kim Sơn với phần thưởng “Tâm Hồn Cao Thượng”)
“Muốn sang phải bắt cầu Kiều,
Muốn con hay chữ phải yêu kính Thầy”
“Tâm Hồn Cao Thượng” do Hà Mai Anh dịch thuật, tôi đã từng đọc khi những ngày học lớp nhất của bậc tiểu học, và luôn nhớ câu chuyện một vị quan trên đường công tác dừng chân lại trường cũ để thăm lại thầy xưa. Cao đẹp biết bao hình ảnh của thầy cô, như những người làm vườn luôn vun bồi cho mầm xanh đươm lá, riêng người làm vườn riêng mình cằn cỗi với thời gian, hay như những người đưa đò tận tụy đã đưa nhiều lượt khách sang sông, nhưng khách sang đò vốn dĩ vô tình chưa một lần trở lại. Đừng vội nói vô tình không đáng trách, hãy để tâm hồn lắng đọng dành một khắc một giây nhớ ơn thầy, nhớ ơn cô với tháng ngày nắng vội.
Cho tôi tìm lại những ngày tuổi thơ, trở về thời trung học của một thời để yêu. Mong được nghe lại những hồi chuông vang, giữa sân trường Ngô Quyền ngăn cách hai dãy lầu, nhớ đến những hình ảnh đầu tiên, nhớ thầy hiệu trưởng Phạm Đức Bảo với chiếc áo sơ mi xám cộc tay, đứng trước văn phòng, chờ đón học sinh đi trễ hoặc không đeo phù hiệu, nhớ đến dáng cao cao hiền hậu của thầy giám học Phan Thanh Hoài, nét ồn ào đôn hậu miền Nam cùa thầy tổng giám thị Bùi Quang Huệ. Chuẩn bị vào lớp, quên sao được thầy giám thị Cầm, cô Tư Giàu, thầy Lương Văn Tý, thầy Thân Toàn Tất và thầy Phan Khắc Tân. Và cũng không quên quý thầy cô đã đóng góp âm thầm như thầy Nguyễn Văn Hảo, thầy Lê Hồng Sanh, cùng thành phần ban giám hiệu được thay đổi tiếp nối với thầy Dương Hòa Huân, thầy Hoàng Đôn Trịnh và thầy Phạm Khắc Thành. Lớp Anh văn vỡ lòng Let’s learn English do cô Đào Thị Nga được dạy phát âm bằng máy hát đĩa, English for Today với cô Võ Thị Thu Thủy, thầy Nguyễn Xuân Kính, thầy Nguyễn Văn Lang, cô Phan Thị Tốt và thầy Phạm Văn Dật. Riêng Pháp văn là sinh ngữ phụ, luôn nhớ đến thầy Đinh Hữu Quyến và nhất là cô Nguyễn Thị Mỹ. Những bài toán đại số đầy căn số và hằng đẳng thức đáng nhớ, hình học không gian nan giải, quĩ tích tiến tới vô cực và làm sao để cân bằng được phản ứng hóa học nếu không có thầy Nguyễn Văn Phố, thầy Phạm Thăng Long, Nguyễn Phi Long, thầy Nguyễn Thất Hiệp, thầy Tôn Thất Phong, thầy Tôn Thất Để, thầy Lê Quý Thể, thầy Mai Kiến Phúc và thầy Lê văn Túy. Làm sao dẫn nhập từng bài viết, bằng lối diễn dịch qui nạp hay lung khởi, câu nối chuyển tiếp để lôi kéo và thuyết phục người đọc, trải dài tình cảm trong tác phẩm Kim Vân Kiều, Bích Câu Kỳ Ngộ, làm quen và đón nhận các thi phẩm giá trị của bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương nếu không có cô Hà Bích Loan, thầy Đoàn Viết Biên và thầy Phạm Ngọc Quýnh (còn thầy Nho với dáng dấp học trò). Đặc biệt có những thầy không người cạnh tranh là thầy Nguyễn Ngọc Ẩn dạy Sử Địa, và thầy Lâm Tấn Văn phụ trách môn Vạn vật, thầy Thân Trọng Hưng dạy Hán văn.Nhớ đến thầy Lê Hoàng Long với đàn violon cùng sáng tác độc nhất “Gợi giấc mơ xưa”. Bên Triết thì có thầy Bích và thầy Giáp, những tháng các thầy bị trưng tập quân sự, các lớp toán được tăng cường cô Tâm và thầy Lương từ Đại Học Khoa Học. Luôn nhớ đến tên quý thầy cô luôn gắn liền với mái trường như cô Bàng, cô Bê, cô Luông, cô Nhã Ý, cô Tiêu Quý Huê, thầy Đinh Văn Sái, thầy Nguyễn Minh Mẫn, thầy Thạc, thầy Thại, thầy Hoàng Phùng Võ, thầy Phạm Khắc Khiêm, thầy Nguyễn Hữu Tiến, cô Dung, sau nốt là thầy Hà Tường Cát v.v…
Rời bỏ trường xưa, tập tễnh vài năm đại học, lại rảo bước tha phương. Không gì sung sướng trên vùng đất lạ gặp lại người thân quen lại là thầy cũ của mình. “Thưa thầy, em học thầy dạy môn vạn vật năm đệ lục trường Ngô Quyền,”… người trung niên thấp nhỏ, nước da ngâm đen mừng rỡ ôm chầm lấy tôi, như ôm lại kỷ niệm ngày nào, chúng tôi đã quên đi quân phong quân kỷ, cùng chia sẻ giữa thầy và trò. Thầy Quan dạy Vạn vật trong những năm đệ nhất cấp, (cùng thời với thầy Nguyễn Hữu Ân), thầy trò gặp lại trong một dịp tình cờ trong lần đi công tác yểm trợ cho hiệp định Paris 1973 tại Vĩnh Long, đứng trước cổng trường Tống Phước Hiệp mà cứ ngỡ là Ngô Quyền. Ngót tám năm qua với ký ức trẻ thơ tôi vẫn còn nhớ, trước đây khi còn dạy ở Ngô Quyền thầy đã giảng dạy tôi biết những nọc độc của loài ong đen, giờ đây gặp lại thầy lại hướng dẫn những nguy hiểm của vùng tranh tối cho đứa học trò cũ, chắc hẳn thầy cũng không nhớ tên… Thầy trò xuyên suốt biết bao niên khóa, lẽ thường thầy cô không bao giờ nhớ hết tên họ của học trò, nhưng khác hẳn với thầy Quan, thầy Trần Phiên có một thời gian dạy toán ở Ngô Quyền sau nầy thầy Phiên thuyên chuyển lên trường Võ Bị hiện đang định cư tại Texas. Nhắc đến thầy Phiên bằng những kỹ niệm đẹp nhất trong đời, dù đang sống trong thời gian đày ải cùng cực, căn bệnh rét rừng của vùng Bà Rá Phước Long, không biết bao nhiêu lớp người lớn tuổi đã gữi lại thân xác vùng rừng núi hoang vu nầy. Trước những tháng ngày nắng vội đầy nghiệt ngã, vẫn còn có thầy có trò bên nhau bằng sự tôn kính tràn đầy nhân bản, dù rằng chúng tôi đã được trang bị kỹ bài học bình đẳng, không thầy trò, cha con trong cuộc đời mới . Cám ơn thầy Phiên, cám ơn những người anh, người bạn đã cho tôi những hình ảnh đáng trân quý. Thầy Phiên đã có được những hạnh phúc miên viễn tình thầy trò, ngay những học sinh Ngô Quyền thầy chưa một lần dạy. Hãy cùng nhau chia sẻ email đầy tâm huyết của thầy Trần Phiên mới đây “tôi muốn tìm Đặng Vũ Vĩnh hs Ngô Quyền cùng thời với Đặng Thị Hảo, Đỗ Thị Kim Thoa . Vì Đặng Vũ Vĩnh, Ngô Đình Dũng, Lê Hữu Phước, là một số hs Ngô Quyền cũ đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong những ngày bi đát trong trại tù. Những người bạn không bao giờ có thể quên được”.
Những ngày đầu của thập niên 80, có một lần gặp lại thầy Lê Văn Tuý trước công ty xổ số Đồng Nai. Nhớ lại ngày rời xa mái trường 1970 tôi cùng nhóm bạn có dịp cùng thù tạc với hai thầy Lê Văn Túy và Lê Quý Thể tại quán Thâm Giao, thầy trò tiếp tục vui chơi suốt đêm, mới biết mình đã trưởng thành. Qua tháng ngày nắng vội với bao thế sự thăng trầm, thầy Túy còn đây, không biết thầy Thể ở phương nào, nghe đâu cũng định cư ở Cali, nhưng không có dịp gặp không biết thầy vẫn còn luôn mang dép da và quần không túi không?
Tháng ngày hòa mình với quê hương, những ngày thồ xe dọc theo công viên bờ sông tôi vẫn thường gặp thầy Dương Hòa Huân ngồi đổi gió trên băng đá để tìm chút trong lành và nhìn theo bóng người qua lại. Và những người qua lại không ít là học sinh Ngô Quyền đã nên danh phận, một số còn long đong lưng gầy cố vác từng bao tải nặng ở các cửa hàng lương thực, hay gò mình trên chiếc xích lô với mồ hôi nhễ nhại lên dốc Ngã Ba Thành.
Vào giữa năm 1993, tôi có dịp ghé thăm thầy Phạm Khắc Thành trong khu chợ nhỏ trước cổng trường, nhân dịp thầy trở về thăm lại người thân và được nghe thầy nhắc nhớ những kỷ niệm đầy nuối tiếc, những hoài bão dở dang. Riêng đối với thầy Phạm Khắc Thành còn nhắc nhớ, nhưng đối với thầy Bùi Quang Huệ thì không, lần cuối cùng ghé thăm thầy Huệ nhà trong cư xá Kiến Thiết Thủ Đức, lòng tôi bỗng chùng xuống và đầy bồi hồi xúc động, dù biết rằng thời gian sẽ không từ một ai, giọng nói ồn ào ngày xưa không còn nữa, được thay bằng giọng nói yếu ớt và đứt khoảng, đặt bàn tay run rẩy gầy guộc thầy cố gắng đặt lên vai tôi. Không biết sau tôi còn ai thăm viếng và xưng hô tiếng “Thầy” tôn kính ngày nào trong những ngày còn lại, vì thầy Bùi Quang Huệ đã ra đi trong lặng lẽ bên những người thân...
Tách bước rời khỏi quê hương, tưởng chừng đánh mất thầy cũ, trường xưa. Trời Cali thấm lạnh, nhưng được sưởi ấm bằng tình cảm ngày nào bạn bè chung học dưới mái trưòng, tôi đã gặp lại thầy Mai Kiến Phúc, từ ngày cô Còn mất thầy Phúc có dịp gần gũi gia đình Ngô Quyền nhiều hơn. Gặp lại thầy Hà Tường Cát trong buổi tham dự sinh hoạt cộng đồng, tuy không học thầy nhưng tôi vẫn nhớ và đến chào thầy, thầy đang bận bịu săn ảnh cho bài phóng sự, cũng dành cho tôi một tiếp xúc đầy thân ái.
“Tha phương ngộ cố tri” niềm vui mừng lớn lao được gặp lại Thầy Phạm Đức Bảo trong buổi tiệc tiếp đón thầy do một nhóm cựu học sinh NQ tổ chức tai nhà hàng Seafood World, nhân dịp thầy Bảo từ Đức sang Cali vào năm 1995. Đồng nghiệp và học trò cũ đều nôn nóng gặp lại thầy để nhìn lại “dung nhan ngày đó bây giờ ra sao” thầy Bảo đến từng bàn để tìm lại nét hồn nhiên đầy năng động ngày nào của từng đứa học trò, qua nhiều vết nhăn trên trán và tóc đã pha sương. Bồi hồi thầy Bảo nhắc lại những ngày nghỉ dưỡng sức ở B 5, nhắc đến đứa học trò thầy đã “ghét” nhất nhưng lại kề cận cùng thầy trong những năm tháng đen tối nhất, anh Lê Văn Thành, ngoài ra thầy Bảo nhắc đến sự chào kính và nhắc nhớ của một người đã từng học Ngô Quyền, dưới sự chăm sóc của thầy, nay đổi lại là người quản lý thầy trong những tháng ngày nắng vội. Hạnh phúc nhỏ nhoi lại tìm được trong những ngày đắng cay, thầy Bảo đã từng thưởng thức cà phê Paris, Berlin hay Cali, nhưng hương vị chắc không đậm đà bằng ly cà phê sữa đá của Lê Văn Thành đã tìm mọi cách đem về cho thầy trong những ngày ở B 5. Kính thầy Bão giữ gìn sức khoẻ, để đến được ngày Đại Hội 50 Năm.
Tháng ngày tất bật nơi xứ người, theo ngả Bolsa về Busha, nhìn lại hình ảnh của thầy giám học khả kính năm xưa, cũng dáng người cao cao, từng bước chậm âm thầm qua trung tâm Asia thầy vẫn miệt mài đóng góp vào mọi sinh hoạt cho trường xưa. Nhớ ngày rời đại hội NQ ở Bắc Cali để trở về lại mìền Nam, mọi người đều mệt mỏi được người thân đến rước, riêng thầy vẫn một mình thong dong bước nhẹ đến trạm xe bus về Westminster và vẫn giữ được nụ cười. Sau những lần họp măt tại nam Cali có gặp lại thầy Nguyễn Văn Phố, thầy Nguyễn Xuân Kính, thầy Nguyễn Phong Cảnh và cô Đặng Thị Trí. Riêng tôi không có học cô Trí, nhưng với trí nhớ tuổi thơ tôi vẫn còn nhớ vào những tháng ngày đi học, hình như cô Trí đã một lần bị thương sau vụ nổ plastic tại một rạp hát ở Sài gòn?
Thầy Nguyễn Xuân Kính dạy Anh văn năm Ngũ 4, nhưng bạn bè cùng thời quá quắc của tôi luôn nhớ nhân vật Lý Bùi trong bài Việt văn của thầy Đoàn Viết Biên. Tôi đã học Toán thầy Nguyễn Văn Phố trong những năm đệ nhất cấp, hơn 30 năm gặp lại thầy luôn nhắc nhớ những học sinh giỏi thời nào, nhưng vì là đứa con nhà nghèo, xấu trai lại học dở, nên tôi không có tên trong đám học trò thầy vẫn nhớ. Nếu được như Tô Anh Tuấn gặp lại thầy Phố và cùng học chung lớp ESL biết bao là hạnh phúc. Luôn kính sức khỏe thầy Phố, hy vọng với chiếc xe cà tàng thầy luôn chở thầy Hoài đến với sinh hoạt chúng em. Thầy Nguyễn Phong Cảnh dạy Toán sau những năm 70, là một người thầy cũng như là một người anh trong gia đình Ngô Quyền, lúc sinh thời thầy Cảnh đã đào tạo một thế hệ đàn em không kém và là gạch nối giữa thầy cô và đông đảo học sinh Ngô Quyền, tôi không có hân hạnh học toán với thầy Cảnh, nhưng từ nơi thầy Cảnh tôi đã học được những bài học quý báu như tình thầy trò, tình bạn, nhất là tình nghĩa phu thê trong cơn hoạn nạn yếu đau, cao đẹp và thiết thực hơn những lời tuyên hứa của đôi uyên ương trong ngày lễ hôn phối. Tôi và thầy đã từng song hành trong nghĩa trang vắng lặng, cùng suy niệm về thân phận con người trong ngày đưa tiễn thầy Phạm Khắc Thành. Trong đặc san NQ 2003, có một bài viết tôi nhắc đến thầy Cảnh, được thầy đọc mang niềm vui sức khỏe hồi phục, nay những giòng nầy viết về thầy, nhưng thầy không còn nữa…
“Tâm Hồn Cao Thượng” được đọc lại sau hơn 40 năm, nhưng hình ảnh “Tôn sư trọng đạo” không phải được tìm lại trên trang sách cũ năm nào, lại tìm thấy được trong ngày đại hội NQ 2005 tại Nam Cali, chị Nguyễn Thanh Vân đến từ tiểu bang Oklahoma, người học trò đã tiếp nối bước thầy cô và thành công tại Hoa Kỳ, đã lên phát biểu lời chân tình biết ơn thầy cô đầy xúc động, những gì chị Nguyễn Thanh Vân đạt được ngày hôm nay là do sự tích lũy qua học tập và công lao dạy dỗ của thầy cô dưới mái trường Ngô Quyền. Cám ơn tâm tình tri ân của chị Nguyễn Thanh Vân, cám ơn thầy Hà Tường Cát đã đại diện thầy cô đón nhận sự biết ơn đầy bồi hồi xúc động. Hy vọng với những hình ảnh cao đẹp ngần ấy, như thầm nhắn nhủ rằng chúng ta dù thân xác hèn kém nhưng cố giữ cái tâm để biết sống tử tế cho nhau dù qua tháng ngày nắng vội.
Nguyễn Hữu Hạnh
Lịch Sử Trường Ngô Quyền Biên Hòa
Là học sinh Ngô Quyền, bạn có biết trường của chúng ta đã phôi thai xây dựng ra sao ? những ai mang nặng tâm huyết và đã có công lao vun bồi cho nhiều thế hệ. " Uống nưóc nhớ nguồn ". Mời các bạn cùng chúng tôi theo những bước chân sưu tập nhân dịp Hội ái hữu cựu Học sinh Ngô Quyền quyết định ấn hành Đặc san đầu tiên của Hội, hãy cùng nhau hồi tưởng từng trang lịch sử của trường.
A. Thực Trạng:
Trong thời kỳ Pháp thuộc, do chính sách ngu dân của thực dân, số trường trung học mở ra rất ít. Cả bộ chỉ có mấy trường ở Sài gòn và ở các tỉnh như Cần Thơ, Mỹ Tho. Biên Hoà là một tỉnh lớn của miền Đông Nam bộ, nhưng chính quyền thực dân đã không mở trường trung học tại đây. Học sinh sau khi tốt nghiệp bậc tiểu học nếu muốn tiếp tục sang bậc trung học đều phải chuyển lên Sài gòn. Do đó phần lớn con em nhà nghèo đều phải bỏ học vì không có điều kiện theo đuổi.
B. Hoài Bảo
Nhận thấy thiếu trường trung học tại tỉnh nhà là một sự thiệt thòi lớn cho con em học sinh, ông Phan văn Nga, Trưởng ty Tiểu học và ông Hồ văn Tam, thanh tra tiểu học Biên Hòa lúc bấy giờ đã đấu tranh hầu mở cho tỉnh nhà một trường trung học. Ngay từ đầu thập niên 50, lúc bắt đầu nắm chức vụ điều hành giáo dục ở tỉnh, hai ông đã nuôi một ước vọng là có được một trường trung học cho tỉnh Biên Hòa, dù biết rằng sự đãu tranh của hai ông sẽ gặp nhiều khó khăn và thất bại, vì chính quyền không mấy quan tâm đến sự nghiệp giáo dục ,ngoài ra còn mãi đeo đuổI những vấn đề khác có lợi riêng cho họ. Nha Trung học và Bộ Quốc gia Giáo dục thì vẫn giữ 1 luận điệu duy nhất: Biên hoà là một tỉnh ở gần Sài gòn nên mở trường trung học chưa phải là một việc cần thiết. Vẫn không chán nản trong việc theo đuổi ước vọng của mình,mổi năm Ty Tiểu học Biên Hòa vẫn gởi báo cáo về Bộ Quốc gia Giáo dục, ông Nga và ông Tam luôn luôn kiến nghị và nhắc nhở rằng mở một trường trung học cho tỉnh Biên Hoà hiện rất cần thiết, nếu không muốn nói là quá muộn, và đề nghị Bộ cho thành lập trong niên học mới.
C. Thành Công
Cho đến năm 1955, ông Nguyển Thúc Lân về nhận chức Tỉnh Trưởng Biên Hòa, đã chú ý đến đề nghị của ông Nga và ông Tam nên tích cực ủng hộ. Sau một thời gian vận động Nha trung học và Bộ giáo dục vào năm 1956 mới có quyết định thành lập. Nha trung học đề nghị ông Tam đặt tên cho trường và ông đã chọn tên một vị vua từng đánh thắng quân Nam hán để đặt tên trường. Kỳ vọng của ông là sau nầy trường sẽ đào tạo những nhân vật lẫy lừng như Ngô Quyền thuở xa xưa. Ðầu niên học 1957-1958 trường Ngô Quyền chính thức khai giảng tại trường tiểu học Nguyễn Du. Vị Hiệu trưởng đầu tiên là ông Phan văn Nga, Trưởng ty Giáo dục lúc bấy giờ. Ông Phan văn Nga đã được bổ nhiệm làm hiệu trưởng vì chức vụ của ông cao hơn ông Tam, ông Tam lúc đó là phó ty, ông Nga kiêm Hiệu trưởng chỉ đứng trên giấy tờ , do đó mọi việc điều hành đều do ông Tam đãm trách.
D. Xây Dựng
Việc đầu tiên của ông Nga là chỉ thị cho ông hiệu trưởng trường Nguyễn Du cắt ra hai phòng học cho trường Ngô Quyền để mở ra bốn lớp Đệ Thất đầu tiên và chuyển ba vị giáo viên kỳ cựu của trường Nguyễn Du sang phụ trách giảng dạy. Đó là ba thầy: - Phạm văn Tiếng - Đinh văn Sái. - Bùi Quang Huệ. Ông còn tăng cường một số giáo viên của trường Nguyễn Du sang để đảm nhận một số môn học khác như: - ông Hồ văn Vinh phụ trách môn Sử Địa. - ông Phạm văn Mẩn phụ trách môn Hội họa. - ông Trần văn Lộc phụ trách môn Nhạc. Một thời gian sau, hai nhân viên của Ty Giáo dục sang đãm nhận hành chánh cho trường. Đó là hai ông : Lê Hồng Sanh và Phạm văn Chẩn. Các bộ môn khác được Nha Trung Học bổ nhiệm. Niên học 1957-1958 kết thúc tốt đẹp. Sang niên học thứ nhì 1958-1959, số lớp học tăng lên gấp đôi. Cơ sở phòng học ở trường Nguyễn Du không đủ, các lớp phải dời sang trường Nữ Công Gia Chánh, năm thứ hai (niên khoá 1958-1959), mỗi năm phát triển thêm 4 lớp . Sự phát triển mổi năm 4 lớp được diễn ra đều đặn từ năm 1957 đến khoảng 1964 hoặc 1965 mới tăng thêm lên được 6 lớp. Giữa niên học thứ ba 1959-1960, với đà phát triển một số lớp tiếp tục chuyển đến trường Nữ Công gia chánh. Đến niên học thứ tư 1960-1961 trường mới hoàn toàn chọn trường Nữ Công gia chánh làm cơ sở ( lần đầu tiên thi Trung Học Đệ Nhất cấp trường đậu tỉ lệ 60%, toàn tỉnh 30% ). Cũng từ niên học nầy, Bộ Giáo Dục mới quyết định bổ nhiệm một Hiệu Trưởng chính thức : ông Huỳnh Quốc Tuấn, giáo sư trường trung học Petrus Ký Sài Gòn về phụ trách. Một số Giáo sư tốt nghiệp sư phạm cũng được bổ nhiệm về trường. Trước khi chấm dứt nhiệm vụ, ban Giám hiệu cũ cử thêm hai giáo viên tiểu học sang làm giám thị: ông Lương văn Tý và cô Nguyễn thị Giàu.
E. Phát Triển
Thành quả cuối cùng của ông Hồ văn Tam là vận động với chính quyền Tỉnh tìm cho trường một nơi để xây cất cơ sở, vì cơ sở hiện có tạm mượn của trường Nữ công gia chánh. Kết quả trong năm học nầy, tân Tỉnh trưởng Biên Hoà ông Hồ văn Sĩ đã quyết định dời Viện Dưỡng lão xuống Tam Hiệp và bắt đầu xây dựng cơ sở đầu tiên của trường tại đây gồm hai dãy lớp: một trệt, một lầu. Hè 1960, tiếp tục xây dựng nối dài một dãy thành 10 lớp. Đầu niên học 1960-1961, xây dựng thêm dãy trước và hoàn chỉnh. Vào niên khóa 1964-1965, Thư viện và phòng thí nghiệm được xây thêm. Niên khóa 1969-1970 thêm một dãy mới khang trang gồm 4 lớp ngay sân cờ ,dành cho các lớp Đệ Nhất và Đệ Nhị, đã đổi tên thành lớp 12 và 11 từ đây. Niên học 1961-1962(?), trường Bán công Trần Thượng Xuyên được xây cất phía bên phải của trường và đến 1975 thì giải thể xáp nhập vào Ngô Quyền
Ghi chú: Theo yêu cầu của ban biên tập Đặc san NQ 2003 với khả năng và phương tiện có hạn CHS-NQ Lê Thành Tươi ghi lại theo lời kể của CHS-NQ Hồ văn Quân,con trai ông Hồ văn Tam. (CHS-NQ Nguyển Hữu Hạnh biên tập) Do đó bài viết rất còn thiếu sót hoặc chưa đúng. Kính mong Thầy cô, Ban Giám hiệu trường và Bạn hữu bổ sung và sửa lại. (xin vào web site ngo-quyen.org phần diễn đàn để hiệu đính hoặc thư về địa chỉ Hội).
Nguyễn Hữu Hạnh
Tài Danh Biên Hòa Với “Tuyệt Tình Ca”
Là người miền Nam nhất là dân Biên Hòa, dù có ưa chuộng cải lương hay không? chắc hẵn chúng ta cũng có lần nghe đến “ Tuyệt Tình Ca” hay “Người đối diện lương tâm”, tên một tựa tuồng cải lương nổi tiếng trên sân khấu Dạ Lý Hương trước năm 1975. Ngày nay qua gần 40 năm, khách mộ điệu cải lương vẫn còn thích nghe và hát lại, đồng thương cảm với các vai diễn trong tuồng đầy nước mắt trong hoàn cảnh của đất nước, nhớ đến nhân vật Lê thị Trường An, một ông cò quận 9, nhưng người Biên Hòa không ít trong chúng ta, biết được một trong 2 soạn giả tài danh đã nặn tim nạo óc, để lại cho sân khấu cãi lương một tác phẩm giá trị nghệ thuật, lại là một người con của đất Biên Hòa thân yêu cùa chúng ta: Soạn giả Ngọc Điệp.
Những năm cuối thập niên 60, vỡ tuống Tuyệt Tình Ca trên sân khấu Dạ Lý Hương đã làm chấn động giới hăm mộ cãi lương, giới bình dân cũng như trí thức, luôn cã sự bàn tán trong sinh hoạt chính trị thời bấy giờ. Với ông cò Hương từng là thầy giáo dạy ở Vĩnh Long có phải chăng là ông phó Tỗng Thống Trần Văn Hương hay một nhân vật chính trị miền nam nào khác. Với những địa danh gần gũi như Long Hồ và Trường An, pha lẫn những tình tiết hầu như có thật, đã khiến những người mộ điệu của tỉnh Vĩnh Long vẫn nghĩ một trong 2 người viết ra vỡ tuồng phải là người Vĩnh Long. Nhưng “ Tuyệt Tình Ca” được dàn dựng bỡi 2 soạn giã tài danh Hoa Phượng và Ngọc Điệp, soạn giã Hoa Phượng người quê Núi Sập Châu Đốc, còn Ngọc Điệp sinh trưởng từ Bình Đa Biên Hoà, sau gia đình chuyển lên Vĩnh Thị, Phước Lư(hãng dầu), nơi đây cũng có ông cò Hương vang tiếng một thời, gia đình của soạn giả Ngọc Điệp có một thời thân thiết, do đó nhân vật ông cò quận 9, không biết là ông Phó Tỗng Thống Trần văn Hương hay là ông cò Hương của Vĩnh Thị Biên Hoà? Và câu trả lời vẫn không có vì cả hai Hoa Phượng và Ngọc Điệp không còn nữa.
Soạn giả Ngọc Điệp trước khi bước qua địa hạt sân khấu, với bút hiệu Phương Linh cộng tác cho các tờ báo hằng ngày tại Sài gòn, từ nhà báo bước qua sân khấu cãi lương được sự dìu dắt và chỉ dẫn bởi cố nghệ sĩ Ba Vân và soạn giả Kiên Giang Hà Huy Hà với bút hiệu Hoài Điệp và Ngọc Điệp sau nầy. Những vỡ tuồng của ông viết được biết đến như” Hoa nở cuối mùa” trên sân khấu Út Bạch Lan Thành Được, “Giấc mơ không đến hai lần” trên sân khấu Kim Chưởng, “Gió Giao Mùa” “Nhạn về xóm Liễu” trên sân khấu Kim Chung . Thời vàng son của ông là thời gian làm soạn giả thường trưc cả hai đại ban Dạ Lý Hương và Kim Chung cùng viết với Hoa Phượng vỡ “Tuyệt Tình Ca”, ông còn đi xa hơn với những tác phẩm đến nay vẫn còn nhắc nhớ như “Lấy chồng xứ lạ”, “ Gái điếm vợ hiền “ , “Lan Huệ sầu ai”, “ Nợ tình” , “ Tuyệt Tình Ca 3” tức “ Ngọn cỏ gió đùa” trên sân khấu Tân Hoa Lan. Đầu thập niên 70 ông đã đoat giải Văn học nghệ thuật của Tỗng Thống Thiệu với tác phẩm “Thân Gái Dậm Trường “được chuyển thành phim “Phận má hồng”. Soạn giả Ngọc Điệp với biệt danh là”tư cao” vẫn còn để lại nhiều dấu ấn tình cảm của người con xứ bưởi trong long đa số những nghệ sĩ cãi lương nỗi tiếng đương thời, cũng như những tác phẫm của ông ngày nay vẫn còn nhắc nhớ trong giới hăm mộ cãi lương.Trong video “Giã từ thế kỹ” của Thúy Nga, trích đoạn Tuyệt Tình Ca được trình diễn bởi 2 nghệ sĩ gạo cội Thành Được và Phượng Liên vẫn còn lấy nhiều nước mắt của khán giả mộ điệu khắp nơi và làm sống lại bộ môn cãi lương ở hãi ngoại, chỉ rất tiếc là ông MC Nguyễn Ngọc Ngạn không giới thiệu đúng tên soạn giã, luôn cả hai nghệ sĩ trình diễn, từng một thời gắn liền với tên tuổi soạn giã Ngọc Điệp cũng không một lời đính chánh. Cũng may là còn nhà văn Ngành Mai và các nghệ sĩ trẻ của đoàn Thái Dương ở hãi ngoại vẫn còn nhắc nhớ bằng sự trang trọng đến soạn giã Ngọc Điệp với từng sang tác cũa ông. Mới đây trong cuộc phỏng vấn của đài RFA với nử nghệ sĩ Bích Phượng(còn ở trong nước) ái nử của đệ nhất danh ca Út Trà Ôn, cô có nhắc đến vai của cha cô ông cò quận 9 và tuống “Tuyệt Tình Ca”, cô có thắc mắc rằng vở tuống rất hay, khán giả vẫn còn nhắc nhớ nhưng không biết tại sao chính quyền hiện tại nhất là Sỡ Thông Tin Văn hóa không cho phép diễn lại. Cô có biết đâu rằng chỉ vì cái tên Ngọc Điệp, gắn liền với tội danh văn nghệ sĩ đồi trụy và phản động của chế độ mới.
“ Gió cay nghiệt mãi đùa lên ngọn cỏ
Cung oán gieo sầu khúc Tuyệt tình ca”
Nếu thời vàng son của soạn giã Ngọc Điệp từng ấp ủ, che chở cho bạn bè và đàn em trước cơn bão táp mưa sa, thì trước cuộc đổi đời ông bị vùi dập trong mưa sa bão táp bởi đàn em và bè bạn. Sau 30/4/75 tuồng hát của ông bị cấm, ông rời bỏ Sài Gòn trở về Bình Đa Biên hòa tá túc với người chị ruột một thời gian, rồi bị bắt biệt giam nhiều năm tại trung tâm cãi huấn Biên hòa cũ, sau chuyển ra B 5 được thả sau 5 năm nằm ấp. Dù với thân xác bệnh hoạn và ốm đói, ông vẩn tiếp tục sáng tác để làm kế sinh nhai, khai tử tên Ngọc Điệp bằng cách bán rẻ sang tác cùa mình. Những vỡ tuồng của ông như “Lan Huệ sầu ai”, “Nhạn về xóm Liễu” đươc diễn với tên soạn giã là Mộc Linh thay vì Ngọc Điệp.Những tấm lòng còn đến với ông trong những tháng ngày lao đao là nghệ sĩ Bạch Tuyết, nghệ sĩ Minh Phụng và soạn giã Hòai Nhân Nhưng cơn mưa rào không cứu đươc nắng hạn, ông kéo dài sự sống trong cô đơn và bệnh hoạn. Nếu những tác phẩm của ông đã lấy nhiều nước mắt của khán thính giã hăm mộ cãi lương, thì cuộc đời đổi thay đã khiến ông cạn giòng nước mắt. Soạn giã Ngọc Điệp sinh ra từ Bình Đa Vĩnh Cữu 1932, ngày cuối đời ông cũng trở về với Vĩnh Cữu Bình Đa. Ông mất đi vào năm 1990.
Một chủ thuyết, một chế độ sẽ không sống mãi với thời gian, nhưng một tác phẫm nghệ thuật nỗi tiếng sẽ đươc trân quý qua nhiều thế hệ. Nay mai đây những nhà nghiên cứu về văn học nghệ thuật nước nhà, nhất là thời hoàng kim của sân khấu cãi lương trước 1975, Nếu còn được nhắc nhớ những ngưòi đã có công đóng góp vào nghệ thuật sân khấu, thì tên của soạn giã Ngọc Điệp sẽ được nhắc đến. Người viết bài nầy không có cao vọng đưa tên ông vào văn học sữ, chỉ biết đốt nén hương lòng nhân ngày giỗ thứ 18 của ông, và đồng hương Biên Hòa đã biết Bình Nguyên Lộc với tác phẩm “Đò dọc” Nguyễn Tất Nhiên với những bài thơ trong tập thơ “Thiên Tai”, Lê Hựu Hà với giòng nhạc trẻ “yêu người yêu đời”. Hôm nay chúng ta còn có dịp biết thêm một tài danh của Biên Hòa, trên sân khấu cãi lương soạn giã Ngọc Điệp với “Tuyệt Tình Ca “.
Nguyễn Hữu Hạnh
Cô Lái Đò “ Hoàng Minh Nguyệt”
Trong buổi họp mặt truyền thống kỳ 8 của Cưụ Học Sinh Ngô Quyền tại hải ngoại, được sự tham dự đông đảo của Thầy Cô và cựu học sinh. Buổi họp mặt cũng tay bắt mặt mừng, nhắc về những kỷ niệm thân quen của một thời áo trắng. Những màn trình diễn văn nghệ cây nhà lá vườn, cũng đủ ấm lòng bao kẻ hoài mong về Trường cũ, Thầy xưa. Nhưng chắc hẵn không ai không bồi hồi xúc động, khi nghe người ca sĩ không chuyên gửi gấm cuộc đời mình qua những lời ca, đó là cô giáo của chúng ta: Cô Hoàng Minh Nguyệt với bản nhạc “Cô lái Đò”.
Không hạnh phúc gì hơn, khi được thưởng thức lời ca từ người Thầy, người Cô của mình, phải chăng thiên chức của một nhà giáo gắn liền với người đưa đò? Để chúng ta cùng cảm xúc một lần qua tiếng hát của Thầy Nguyễn văn Phú, rồi đến tiếng hát của cô Hoàng Minh Nguyệt mang chút sầu lắng hay tiếc nuối vì cô dạy âm nhạc nhưng không có người học trò nào trở thành ca sĩ, để cô vẫn tiếp tục mang tiếng hát của mình trong sinh hoạt của trường Ngô Quyền tại hải ngoại.
Tôi đến với cô Hoàng Minh Nguyệt như một đứa học trò, như một đứa em, vì có một thời tôi chơi rất thân với anh Hoàng Sỹ Luân, em trai của cô và ngày nay anh không còn nữa. Khi còn ở Việt Nam, tôi gặp cô chỉ một lần trong đám cưới của anh Luân, ngày anh mất tôi đã vào lính ở tận miền Hậu Giang, thời gian qua mau và con người cũng đi vào quên lãng.
Rất may mắn còn gặp lại cô, và cùng sinh hoạt trong đại gia đình Ngô Quyền, cũng rất vui khi được cô cho biết mỗi lần cùng sinh hoạt với Trường Ngô Quyền là cô trẻ đi 10 tuổi. Những năm trước đây, từ Orange county những đứa học trò vẫn xuống Sandiego trong ngày sinh nhật của cô, cô trò cùng nhau ca hát, tiếng ca của cô vẫn quyện theo tiếng cười vui của những đứa học trò ngày nào. Riêng tôi vẫn hằng mong ước luôn mang đến cho cô những nụ cười, giống như nụ cười của người em trai không còn nữa.
Viết cho cô Hoàng Minh Nguyệt
( một giọng ca của NQ đang lên và sắp xuống)
Nguyễn Hữu Hạnh
Bứt chi sợi tóc cuộn đời thủy chung
Tiếng hò ca dao đầm ấm của Hồng Vân, giọng hát chơn chất miền nam nhẹ nhàng của Mai Thiên Vân. Chúng ta đã được thưởng thức trên website Biên Hòa California, nhạc được phổ từ bài thơ “ Bên vàm sông nhớ Bậu” của anh Trần Kiêu Bạc, người Biên Hòa. Nói về những khuôn mặt thành công và thành danh Biên Hòa ở hải ngoại, nếu chỉ nhắc đến những đồng hương thành công về lãnh vực nghề nghiệp trên thương trường mà quên đi những tên tuổi quen thuộc đã mang đến những giá trị tinh thần đến từ nguồn cảm hứng thơ văn là một điều thiếu sót. Sự nghiệp, tiền tài sẽ qua đi, nhưng thơ văn của anh đã làm rung động bao người thưởng ngoạn và sẽ được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Phải chăng “Đoản Khúc Lam Giang” với một chút tình trong thơ văn Trần Kiêu Bạc.
Là một người không biết làm thơ, cũng như chưa đủ trình độ để thưởng thức thơ nhưng khi đón nhận bài thơ “Thật Lòng với Trường Xưa” của anh để chọn đăng vào Tuyển Tập 2006 trường Ngô Quyền, bài thơ với vần điệu khá đặc biệt khiến người đọc phải cố ngăn chận cái nhói tim trãi dài theo từng chữ cùa anh
“Không biết bây giờ, trường còn, hình như, dính những cơn mưa
Mà nhắc đến, tự nhiên, còn nhiều dòng nước mắt
Phải chi vặn đồng hồ cho quay ngược được
Chắc giờ nầy mình thư sinh áo trắng quần xanh”
Anh không dừng lại ở đây…
Nếu như sông Đồng Nai Chảy ngược, tôi sẽ tìm lại mình trong sân trường ngày trước. Nhưng tiếc thay! Dòng sông Đồng Nai không bao giờ chảy ngược.
Về phương diện nghệ thuật qua nhiều thế hệ, có sự tương giao giữa hình và bóng, một giọng ca đương thời, một tác giả hiện tại ta có thề tìm lại cái bóng hình của người thời trước nổi danh. Nhưng với Trần Kiêu Bạc, văn phong của anh là của Trần Kiêu Bạc, từ cách dùng từ đến lối hành văn không trau chuốt nhưng chứa chan. Như chữ bứt và cuộn trong “Ở vàm sông nhớ Bậu”
“Tiếng than hỡi Bậu mình ơi
Bứt chi sợi tóc cuộn đời thủy chung ?
Sông quê trăng nước chung dòng
Mình Qua thui thủi vàm sông một mình”
Thi sĩ Nguyển Tất Nhiên đã viết lên nhũng khúc nhạc lòng cho muôn ngưòi bắng trái tim rướm máu. Trần Kiêu Bạc cũng có thể viết thay cho chúng ta bằng trái tim chân thật hòa cùng với nhịp đập cùa mỗi người. Một ngày đầu năm nơi xứ lại nhớ về mẹ xa cách một đại dương, ai không buốt tim cho được khi nghe bài “Mùi Mẹ Hương Tết” qua giọng ngâm của Hồng Vân
Mẹ ơi! Gió phả đầy hồn bánh chưng xanh
Nhớ mùi Mẹ quyện bền trong lá chuối
Mùi thương yêu hồi con chưa biết nói
Thuở bồng con tay nầy, Mẹ chụm lửa tay kia
Mẹ ơi! Con còn giữ mùi Mẹ y nguyên
Mùi sữa tinh khôi, bồ kết thơm trên tóc
Chiếc áo mới đầu năm con mặc
Lãng đãng một mùi tay Mẹ đơm khuy
Chút tình trong thơ văn Trần Kiêu Bạc không những chỉ được gói ghém qua tình mẹ, làng quê trong thơ anh vẫn canh cánh bên lòng về nơi có một thời gian anh đã sống. Học trường Ngô Quyền, ở nhà người anh trong cư xá Đoàn văn Cự, ngày ngày đạp xe đi học vẫn hiên ngang đua xe với Thầy Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo lái Lambretta. Có thể anh không là người sinh trưởng ở Biên Hòa, vì ở những trang nhà khác được nhiều người biết đến anh vẫn có nhiều bài thơ hay nói về Huế. Nhưng trong anh vẫn tìm thấy một tấm lòng son sắc với Biên Hòa
"Bây giờ thì xa lắm rồi với vô vàn kỷ niệm cũ, chúng mình gặp nhau bây giờ chỉ là để có dịp nhắc lại thôi, chứ Biên Hòa vẫn xa và nằm ngoài tầm tay của chúng mình. Cho nên tôi vẫn hằng ao ước có một thành phố Biên Hòa thật gần gũi và luôn nằm trong tầm tay với. Làm một Biên Hòa trên không gian ảo chăng? Nên lắm chứ! Tôi lại ao ước có một Website về Thành phố Biên Hòa thống nhất, không cần ở hai nơi như Texas hay Cali hay nhiều nơi khác bởi Biên Hòa dù trời có lở, đất có long thì vẫn muôn đời là một, là nơi dấu yêu cần được luôn nhắc nhớ, tôn trọng và giữ gìn. Có Website, dù là ảo nhưng mỗi lần mở ra là thấy Biên Hòa một bên với trường xưa bạn cũ, với tiếng cười nói thật vui của bạn bè, tiếng ồn ào của bến xe Lam, tiếng vọng chuông chùa ưu tư trầm vắng buổi chiều, hồi chuông ngân giáo đường buổi sớm, hay nỗi vắng im của quán cóc cà phê lẻ loi mà không cô độc, hay tiếng ì ầm của sóng nước Đồng Nai chảy hoài như không bao giờ cạn. Gần nhất, tôi ao ước có lần được trở về thăm lại Biên Hòa, một mình cũng được, hay với ai đó mà tôi có cảm tình đặc biệt càng hay!”
Và tâm tình nhớ về Biên Hòa qua câu vọng cổ “Về lại sông xưa” trên đài VHN qua hệ thống direct TV đã làm rung động con tim bao người Biên Hòa xa xứ.
Biên Hòa ơi! Tôi trở về đây sau nhiều năm xa xứ… Sông vẫn còn đây với ngày đêm trăn trở có nhận ra tôi đang đứng lặng yên bên con nước êm…đềm. Một khúc sông xưa với trăm khúc ru buồn… Ngày thêm ngắn cho nắng vàng khoe sắc. Đêm thêm dài cho những sợi trăng buông. Tôi một mình trong khoảng vắng hoàng hôn. Trông xa xa đàn chim nhỏ chập chờn. Tôi đứng bên nầy sông bổi ngắm về bên kia bờ bến lỡ…
Từ đâu anh Trần Kiêu Bạc đã có những nguồn thơ văn để tô điểm cho đời thêm hương sắc. Chỉ có Trần kiêu Bạc mới có thể trả lời cho một câu hỏi. Bằng sự võ đoán qua thơ văn anh là người đau khổ chăng? Chỉ sợ nói trật bị đàn anh gõ đầu trong ngày họp mặt Ngô Quyền sắp đến
Ai một bóng chờ Thu qua bóng lá!
Những góc phố vàng Thu, sao mà thương quá!
Nơi có một người đang lặng lẽ chờ Thu…
Thu có thể tên một người con gái đài các trong một thành phố hoa lệ hay cổ kính, làm sao anh tôi có thề gửi tình về hương lúa miền Nam… với Qua và Bậu.
Tiếng than hỡi Bậu mình ơi
Bứt chi sợi tóc cuộn đời thủy chung.
NGUYỄN HỮU HẠNH
(Mùa Xuân Ất Mão)