Bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan có lẽ là bài thơ xưa được nhiều người Việt biết nhất. Trên YouTube, các giáo viên hiện đại phân tích bình giải, đều kết luận đây là một bài thơ rất hay. Tuy nhiên, cần tham khảo thêm mới có thể xác định giá trị bài thơ này. Sau đây là ý kiến của thi sĩ Nguyễn Vỹ đăng trên Tạp Chí Phổ Thông do ông xuất bản trước năm 1975.
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá đá chen hoa.
Theo Nguyễn Vỹ, hai chữ “xế” và “tà” cùng có nghĩa là “nghiêng”, như vậy là dùng thừa một chữ.
Xét theo nghĩa Hán Việt, điều này hoàn toàn đúng. Chữ Hán có hai chữ “tà”:
1. 邪 gian ác, bất chính (tà thuyết, tà tâm,…)
2. 斜 nghiêng, xéo (tà dương…). Người xưa chỉ nói “bóng xế” hoặc “bóng tà”, không nói bóng xế tà. Tuy nhiên thời nay, đa số không biết nguyên ngữ Hán Việt, cho nên thấy chữ “xế tà” là bình thường.
Cần nói thêm là người Việt có thói quen nói và viết thừa chữ, thí dụ như “Nó vẫn im lặng không nói tiếng nào.” Nếu viết tiếng Anh “He remains silent without saying a word” sẽ bị coi là dài dòng vớ vẩn, nhưng người Việt dùng thừa 4 chữ mà vẫn thấy tự nhiên. Bởi vậy, chữ “xế tà” chỉ thừa một chữ, có thể chấp nhận được.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
Theo Nguyễn Vỹ, người ta chỉ nói “vài chú tiều” nhưng không ai nói “mấy nhà chợ”. Ngoài ra, chữ “tiều” là người và chữ “chợ” là nơi chốn, đối không chỉnh. Theo luật thơ Đường, điều này rất đúng. Tuy nhiên, các giáo viên thời nay không biết rõ luật thơ, cho nên đều khen hai câu thơ này đối rất chỉnh và dùng phép đảo ngữ rất hay.
Nguyễn Vỹ không đề cập đến một bản khác chép là “rợ mấy nhà”. Bản này có vẻ hợp tình hợp lý hơn. Thời mấy thế kỷ trước, đèo Ngang rất vắng vẻ, chỉ có một ít nhà của đồng bào thiểu số (thời xưa gọi là “rợ”), làm gì có họp chợ ven sông? Chữ “rợ” cũng là người, đối được với chữ “tiều”. Tuy nhiên, bây giờ chữ “rợ” không còn thông dụng, và đối với người không biết luật thơ và không quan tâm đến thực tế hồi xưa thì họ thấy “chợ mấy nhà” nghe thuận tai hơn.
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
Theo Nguyễn Vỹ, chỉ có con chim cuốc chứ không có “con quốc quốc”, chỉ có chim đa đa chứ không có “cái gia gia”. Quả thực dùng chữ như vậy là khá gượng ép. Tuy nhiên, Nguyễn Vỹ chỉ nhận xét như vậy chứ không giải thích thêm.
Thực ra, hai câu này có thể hiểu là: Nhớ nước, đau lòng con (chim kêu) quốc quốc, thương nhà, mỏi miệng cái (con chim kêu) gia gia. Như vậy cũng tạm chấp nhận được. Xét về nguồn gốc, hai câu này lấy ý từ hai câu thơ Trung Hoa, 杜宇灘頭鳴 國 國, 鷓鴣江上叫家家 (Đỗ Vũ than đầu minh quốc quốc, giá cô giang thượng khiếu gia gia): Đỗ Vũ (chim cuốc) đầu bến nước kêu “quốc quốc”, giá cô (chim đa đa) trên sông kêu “gia gia”. Người Quảng đọc chữ quốc là “coóc” và chữ gia là “cá”, như vậy mới hợp với tiếng kêu của hai loài chim: con chim cuốc kêu “coóc, coóc” và chim đa đa kêu “cá, cá”. Nếu đọc theo âm Hán Việt là “quốc quốc, gia gia” thì không đúng với tiếng chim kêu và cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Chữ “mỏi miệng” viết để đối với “đau lòng”, nhưng dùng chữ không chính xác: chim đa đa chỉ có mỏ chứ làm gì có miệng? Tuy nhiên, nhìn hình thức thì vẫn là đối rất chỉnh, cho nên đa số người đọc không quan tâm đến ý nghĩa và vẫn khen đây là hai câu thơ tuyệt tác.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước.
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Theo Nguyễn Vỹ, hai câu này có quá nhiều chữ thừa. “Dừng chân” thì dĩ nhiên là “đứng lại”, còn “một mảnh tình riêng” thì dĩ nhiên chỉ có “ta với ta” chứ còn ta với ai nữa? Tuy nhiên, như đã nói ở trên, người Việt có thói quen dùng thừa chữ, cho nên thấy hai câu này hoàn toàn bình thường. Không ai biết “mảnh tình riêng” của tác giả là gì, chỉ viết “ta với ta” để ai muốn hiểu sao thì hiểu cũng được. Ai thích bài thơ này thì dễ dàng tán tụng theo ý mình, thí dụ như một bài trên YouTube:
Hai câu kết đã khép lại bài thơ với những buồn thương sâu lắng, đồng thời cũng mở một chân trời cảm xúc mới bằng một giọng thơ trầm lắng, như tâm sự. Cái “dừng chân” của lữ khách không chỉ đơn thuần là sự nghỉ ngơi sau những ngày đường mệt mỏi, mà còn là sự lắng đọng cảm xúc trong tâm hồn của thi sĩ. Trước khung cảnh rộng lớn, bao la “trời non nước”, tác giả dần mở lòng bộc lộ cái tôi cá nhân của mình… giữ nguyên tâm hồn thanh cao, lòng yêu nước sâu sắc, từ chối những nhiễu nhương của thời cuộc, bà đã dần buông bỏ những vướng bận cuộc đời, quyết để tâm hồn thanh tịnh với chỉ “một mảnh tình riêng ta với ta.”
Tóm lại, bài “Qua Đèo Ngang” được nhiều người tán tụng, nhưng giá trị nghệ thuật không cao vì có nhiều chữ thừa và vài chữ gượng ép, không hàm chứa những ý tứ sâu sắc đặc biệt. Chỉ có một câu thực sự hay là “Cỏ cây chen đá lá chen hoa”, chỉ dùng bảy chữ mà tả được tất cả cảnh vật thiên nhiên chung quanh.
Ưu điểm của bài “Qua Đèo Ngang” là đọc trôi chảy và nghe êm tai, dễ nhập tâm người đọc và người nghe, dễ cho người đọc cảm thông, dễ gợi ý độc giả tạo những ý kiến riêng phù hợp với bài thơ. Nếu không biết rõ những quy luật và giá trị của thơ Đường, độc giả sẽ có khuynh hướng coi đây là một bài thơ rất hay trong Văn Học Việt Nam.
Có thể nói “Qua Đèo Ngang” là bài thơ nổi tiếng nhất, nhưng không phải là bài thơ hay nhất của Bà Huyện Thanh Quan. Theo thiển ý, bài thơ hay nhất của bà là “Buổi Chiều Lữ Thứ”, có bản chép là “Chiều Hôm Nhớ Nhà”. Bài này không có chữ thừa, đối rất chỉnh và không gượng ép, dùng chữ điêu luyện và tình cảm thiết tha. Dù không có ý tứ đặc biệt nhưng dễ nhập tâm người đọc, tôi chỉ đọc vài lần khoảng 60 năm trước nhưng vẫn còn nhớ đến bây giờ.
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa lẫn trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn trang đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?