Rắn trong Văn Học Việt Nam
TLQ
Năm Rồng vừa qua, nay bước sang năm Rắn.
Trong Mười Hai Con Giáp, có lẽ chỉ có các con thú biểu trưng cho các chi Dần-Mẹo và Thìn-Tỵ là có thể đi đôi với nhau. Về mặt Động Vật Học, Cọp và Mèo cùng thuộc họ Mèo (Felidae), có những đặc tính tương tự như nhau. Rồng và rắn cùng có những đặc tính của Lớp Bò Sát (Reptilia), tuy Rồng do trí tưởng tượng, còn rắn là loài vật có thật.
Đặc biệt trong tiếng Việt, Rồng và Rắn đi đôi với nhau trong nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao, ...
Ca dao, tục ngữ, thành ngữ có rồng và rắn
Đầu rồng đuôi rắn (Long đầu xà vĩ)
Múa rồng múa rắn
Nói rắn nói rồng
Vẽ rồng vẽ rắn
Xếp hàng rồng rắn
…
Trứng rồng lại nở ra rồng,
Liu điu lại nở ra dòng liu điu.
Con công ăn lẫn với gà
Rồng kia rắn nọ, xem đà sao nên ?
Bản khác:
Con công ăn lẫn với gà,
Rồng kia rắn nọ một nhà sao nên ?
Vóc rồng thì để phần vua,
Bao nhiêu vảy rắn thì lừa cho dân.
Lấy chồng thì phải theo chồng,
Chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo.
Rắn
Tuổi Tỵ
Tuổi Tỵ rắn ở bộng cây
Nằm khoanh trong bộng có hay chuyện gì ...
Tục ngữ, thành ngữ
1. Ấp rắn vào ngực
2. Ấp rắn trong lòng
3. Cóc cắn rắn mổ
4. Con ong lấy cái gì cũng sinh ra mật, con rắn lấy cái gì cũng sinh ra nọc độc
5. Cõng rắn cắn gà nhà
6. Đả thảo kinh xà : Đập bụi đuổi rắn
7. Đánh rắn giữa khúc
8. Đánh rắn phải đánh giập đầu / Đánh rắn phải đánh đàng đầu
9. Được lòng rắn, mất lòng ngóe
10. Hang hùm đầm rắn / miệng rắn /nọc rắn
11. Học chẳng biết chữ cua chữ còng, nói thì như rồng như rắn.
12. Hùm tha rắn cắn
13. Khẩu mật tâm xà (cũng như “Khẩu Phật tâm xà” )
14. Khẩu Phật tâm xà – Phật khẩu xà tâm
15. Khẩu xà tâm Phật (khác với “Khẩu Phật xà)
16. Lẩn như rắn mồng Năm
17. Len lén/lét như rắn mồng Năm
"Phó hội, thủ quỹ đối chọi nhau với thư ký, chưởng bạ, mỗi người khoanh tay đứng dựa một cột, dáng điệu len lét như rắn mùng Năm" (Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
18. Lịt tịt như rắn mồng Năm
19. Miệng hùm nọc rắn / Nọc rắn miệng hùm / Miệng hùm rắn độc
20. Nói rắn trong lỗ bò ra / Nói rắn trong lỗ cũng phải bò ra
21. Nanh hùm nọc rắn
22. Nọc người bằng/hơn mười nọc rắn
23. Ngoằn ngoèo như rắn bò
24. Nhân tâm bất túc xà thốn tượng : Lòng tham của người không bờ bến, không khác rắn mà muốn nuốt voi
25. Nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng
26. Nhốn nháo như rắn ráo mồng Năm
27. Như rắn mất đầu
28. Oái oái như rắn bắt nhái
29. Rắn có chân rắn biết, ngọc ẩn đá ngọc hay
30. Rắn đến nhà hóa quái
31. Rắn đến nhà không đánh thành quái
32. Rắn đi còn dằm lại
33. Rắn đói lại chê nhái què
34. Rắn đổ nọc cho/chỗ lươn / Rắn đổ lỗi cho lươn
35. Rắn già rắn lột, người già người tột đầu săng
Bản khác:
Rắn già rắn lột
Người già người cột/tụt vào săng.
36. Rắn giả lươn
37. Rắn khôn giấu đầu
38. Rắn nuốt voi
39. Rắn rết bò vào, cóc nhái nhảy ra
40. Thẳng như rắn bò
41. Thin thít như rắn mồng Năm
42. Thứ nhất ruồi sa, thứ nhì xà chắn
43. Trảm xà khởi nghĩa
44. Vẽ rắn thêm chân (Họa xà thiêm túc)
45. Xà cung thạch hổ
Tên các loài rắn
46. Bạch hổ như hổ mang
47. Bạnh cổ như cổ hổ mang – Bạnh như cổ hổ mang
48. Mái gầm/ Rắn mai tại lỗ/chỗ, rắn hổ về nhà (Mái gầm cắn nằm tại chỗ, rắn hổ còn đem về nhà)
49. Cha hổ mang đẻ con liu điu
50. Lừ đừ như hổ đất
51. Sư hổ mang, vãi rắn rết
52. Thao láo như mắt rắn ráo
53. Thằn lằn rắn ráo
54. Vào nhà rắn rồng ra đồng hổ ngựa
Trăn
Chằn ăn trăn quấn
Ca dao
Muỗi kêu như sáo thổi
Đỉa lội tợ bánh canh
Cỏ mọc cọng thành tinh
Rắn đồng đà biết gáy.
Cần chi cá lóc cá trê
Thịt chuột thịt rắn nhậu mê hơn nhiều
Bao giờ cho đến tháng Ba,
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Rắn không chân rắn bò khắp rú,
Gà không vú, răng nuôi đặng chín mười con ?
Rồng rắn lên cây, có cây núc nác, có nhà hiển vinh
Khó khăn ở quán ở lều
Bà cô, ông cậu chẳng điều hỏi sao
Giàu sang ở tận bên Lào
Hùm tha rắn cắn, tìm vào cho nhanh.
Rắn có chân rắn biết
Ngọc ẩn đá ngọc hay
Anh cùng em mới gặp nhau đây
Biết thời biết mặt, nào hay trong lòng.
Con rắn không chân, con rắn biết
Đá có ngọc ẩn thì đá hay
Tội thì thiếp chịu, vạ lây chi tới chàng ?
Đôi ta như rắn liu điu
Nước chảy mặc nước, ta dìu với nhau.
Con chi rọt rẹt sau hè
Hay là rắn mối tới ve chuột chù ?
Rắn hổ đất nằm trên cây thục địa
Ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên
Em đây là thục nữ thuyền quyên
Nghe tiếng anh văn học ;
Anh mà đối đặng em nguyền theo không ?
Bản khác:
a-
Con rắn hổ đất nằm trên cây thục địa
Con ngựa trời ăn cỏ chỉ thiên
Trách anh bạn tình gian dối đảo điên
Gạt em xuống chốn huỳnh tuyền bỏ em.
b-
Con rắn hổ mây nằm cây thục địa
Con ngựa nhà trời ăn cỏ chỉ thiên
Phận em là gái thuyền quyên
Ai mà đối đặng kết nguyền phu thê
Ghi chú:
Hai câu đầu có các chữ: “đất” và “địa”, “trời” và “thiên”
Bản b- câu 1, có lẽ do “tam sao thất bổn” nên nói rắn hổ mây, thay vì rắn hổ đất, “đất” mới đi chung với “địa” được.
Đối đáp
Con gì có cánh không bay?
Con gì không cẳng chạy bay năm rừng?
Đáp:
Con gà có cánh không bay
Con rắn không cẳng chạy bay năm rừng
Con gì không chân đi năm rừng, bảy rú?
Con gì không vú nuôi chín, mười con?
Đáp:
Con rắn không chân đi năm rừng bảy rú
Con gà không vú nuôi chín, mười con
Con quạ đen, con cò trắng,
Con ếch ngắn, con rắn dài
Em trông anh, trông mãi trông hoài
Trông cho thấy mặt thấy mày mới yên.
Anh vẽ rồng rắn làm chi?
Cho em mệt trí nghĩ suy đêm ngày!
Nói đi, nói đại, sợ gì?
Em đây hiểu được, tình này em trao!
Thơ – vè
Ông Nhăng mà lấy bà Nhăng
Đẻ được con rắn, thằn lằn cụt đuôi
Ông Nhăng bảo để mà nuôi
Bà Nhăng đập chết đem vùi đống tro
Ông Nhăng bảo để mà kho
Bà Nhăng đập chết đem cho láng giềng
Có kho thì kho với riềng
Đừng kho với ớt tốn tiền uổng công.
Vè
Mái gầm, chàm oạp, hổ lác, hổ hèo
Ri cốc, liu điu, ri voi, hổ lửa
Hổ hành, hổ ngựa, rắn ráo, rắn râu
Quỷ khóc thần sầu: hổ mang, hổ sậy
Thấy đà run rẩy: cạp nia, cạp nong
Lặn lội dưới sông: là con rắn nước
Rắn rồng, rắn lục, ri cá, rắn trun
Nghe đến hãi hùng: hổ mây, hổ bướm
Ớn đà quá ớn... chẳng dám kể thêm...
Vè xổ số lô-tô (Cà Mau, Bạc Liêu)
U Minh nước đỏ
Choại, dớn, cóc kèn
Ăn ở cho hiền
Dạo chơi với rắn
Bất kỳ sâu cạn
Rắn nước, rắn râu
Bay trên trời cao
Rắn rồng uốn khúc
Chạy ngang chạy dọc
Rắn ngựa phóng theo
Hút gió thiệt kêu
Là con rắn lục
Mái rầm lục đục (rắn mai gầm?)
Bò chậm như rùa
Mổ xuống bất ngờ
Hổ mây ẩn nấp
Coi chừng nó quất
Là con rắn roi
Ra đồng dạo chơi
Là rắn bông súng
Đựng đầy một thúng
Là rắn cạp nia
Ăn rồi ngậm nghe
Hổ hành nấu cháo
Dữ mà nhỏ xíu
Đúng thiệt rắn trun
Chớ có coi thường
Con rằn ri cóc
(Rắn mà muốn học
Làm cậu ông trời)
Có khách hay mời
Là con hổ chuối
Con rằn ri cá
Thấy nước thì ham
Hình vóc hiên ngang
Rắn voi mỏ rọ
Thật là đáng sợ
Chàm oạp, hổ mang
Xét cho đàng hoàng
Rắn thì có nọc
Đừng châm, đừng chọc
Bỏ mạng lìa đời
Trí khôn con người
Biến loài độc ác
Lấy nọc làm thuốc
Trị bệnh cứu dân
Đau khớp trật gân
Ê mình nhức mỏi
...
Thơ
Lê Quý Đôn (1726-1784) lúc 8 tuổi làm bài "Rắn đầu biếng học", mỗi câu đều có tên một loài rắn:
Rắn đầu biếng học(1)
Chẳng phải liu-điu, vẫn giống nhà, (2)
Rắn đầu biếng học lẽ không tha. (3)
Thẹn đèn, hổ lửa, đau lòng mẹ,
Nay thét, mai gầm rát cổ cha,
Ráo mép chỉ quen lời lếu láo, (4)
Lằn lưng chẳng khỏi vệt năm ba. (5)
Từ nay Châu, Lỗ, xin siêng học, (6)
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia. (7)
Bản khác:
(1) Rắn đầu nhác học
Rắn đầu (không có chữ “biếng học”)
(2) Chẳng phải liu điu cũng giống nhà
(3) Rắn đầu chẳng học chẳng ai tha
Rắn đầu biếng học chả ai tha
Rắn đầu biếng học quyết không tha
(4) Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo
(5) Lằn lưng cam chịu tiếng roi tra
Lằn lưng cam chịu vệt năm ba
Lằn lưng chẳng khỏi vết roi da
(Ý nói phải đòn trên lưng, còn lằn)
(6) Từ rày Trâu Lỗ chăm nghề học
Từ nay Trâu, Lỗ, xin siêng học
(Châu/Trâu, Lỗ tức Đạo Khổng Mạnh)
(7) Kẻo hổ mang điều tiếng thế gia.
Rắn trong các truyện tích
Rắn được nói đến rất nhiều trong các truyện cổ tích, truyền thuyết, tiểu thuyết, ...
Trong truyện “Công Dã Tràng”, rắn cho Dã Tràng viên ngọc rắn để có thể nghe được tiếng loài vật.
Truyện “Thạch Sanh Lý Thông” đoạn nói về Thạch Sanh chém chằn tinh, mô tả cảnh Thạch Sanh giao đấu với chằn tinh, mô tả “chằn tinh” cũng có hình tướng là một con rắn khổng lồ.
Sau đây xin trích đoạn này:
Những từ ngữ “xà”, “yêu xà”, “xà tinh”, … nghĩa là một con rắn (“xà” tiếng Hán Việt nghĩa là con rắn).
Ba câu cuối trong đoạn này đã ghi rõ là “con rắn”:
“Nguyên hình rắn phải đùng đùng hóa ngay.
Chàng dùng dao báu chém rày
Rõ ràng con rắn vừa tày một gian.”
Thiết nghĩ đây có thể là một loài trăn có kích thước khá lớn, về Động Vật Học thuộc Họ Boidae (Méo mó nghề nghiệp!).
Giở ra cơm nắm toan ăn,
Hay đâu gió thổi ầm ầm rung cây.
Lại thêm gầm rú ghê thay,
Trông ra thấy một vật nay dị kỳ.
Thạch Sanh chẳng biết vật chi,
Trắng đen, xanh đỏ, hoe hoe cả mình,
Hung hăng giơ vuốt, nhăn nanh,
Phòng toan làm giữ như hình mọi khi.
Thạch Sanh hóa phép tức thì,
Búa rìu liền phóng một khi yêu xà.
Mắng rằng “mày giống tà ma,
Hại người ta chẳng dung tha mày nào!”
Xà tinh liền nhảy xốc vào,
Thạch Sanh liền lấy thần đao chém liền.
Ai rằng rắn có phép tiên,
Hóa ra lửa cháy bốn bên đỏ ngòm.
Thạch Sanh hóa nước mưa tuôn,
Tự nhiên lửa tắt kinh hồn xà tinh.
Lại e yêu nghiệt tàng hình
Trốn đi nơi khác, ắt mình uổng công.
Bủa vây lưới sắt bịt bùng,
Nguyên hình rắn phải đùng đùng hóa ngay.
Chàng dùng dao báu chém rày
Rõ ràng con rắn vừa tày một gian. *
* vừa lớn bằng một gian nhà, ý mô tả con rắn rất to lớn: (một gian: một gian nhà)