Gần chục ngày nữa, dự án Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) sẽ được UBTVQH cho ý kiến, trước khi được trình QH thảo luận lần đầu tại Kỳ họp thứ 2 tới. Đây có lẽ là dự luật phản ánh trực diện nhất mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước với cá nhân và tổ chức: Một bên là pháp nhân có người gây thiệt hại (Nhà nước) và một bên là người bị thiệt hại.
Ảnh minh họa: internet
Tiếc rằng, sự công minh, bình đẳng rõ ràng là tư tưởng cốt lõi của dự luật này thì việc cụ thể hóa thành các điều, khoản lại chưa “khớp”.
Tại phiên họp mới đây của Ủy ban Pháp luật, Phó Chủ nhiệm Trần Thị Dung tỏ rõ sự không hài lòng. Lý do là bởi, đọc dự thảo Luật thấy “cơ quan có trách nhiệm bồi thường rất an toàn, nắm đằng chuôi, còn phần lưỡi dao, phần khó khăn thì đẩy cho người bị thiệt hại”. Xác định việc cá nhân, pháp nhân đại diện cơ quan nhà nước làm sai đã khó, việc thực hiện bồi thường thiệt hại lại kéo dài do quy trình, thủ tục bồi thường cho người bị thiệt hại còn “tù mù”, còn vòng vo, đùn đẩy... Cơ quan soạn thảo cũng đã ý thức được điều này nên mới đặt ra yêu cầu phải cải cách thủ tục. Thế nhưng khi đối chiếu vào các quy định cụ thể thì đến người am hiểu pháp luật cũng còn lúng túng chứ đừng nói gì đến người dân bình thường.
Phó Chủ nhiệm Trần Thị Dung nêu ví dụ, hồ sơ yêu cầu bồi thường phải có một loạt các loại giấy tờ, phải chứng minh được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại của người thi hành công vụ và thiệt hại thực tế xảy ra, thiệt hại, cách tính thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường… Sau khi hồ sơ này được cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận thì từ đây, một loạt các “yêu cầu” khác lại tiếp tục được đưa ra như: Người bị thiệt hại phải tiếp tục cung cấp các văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường; cung cấp tài liệu để xác minh thiệt hại… Cứ loanh quanh, luẩn quẩn như vậy thì người dân bị thiệt hại sẽ phải “chạy” theo cơ quan nhà nước đến bao giờ?
Không chỉ quy trình, thủ tục mà ngay đến nguyên tắc giải quyết bồi thường và phạm vi bồi thường của Nhà nước cũng được soạn thảo theo hướng có lợi cho cơ quan nhà nước. Ví dụ, về nguyên tắc bồi thường, dự thảo Luật có sự thay đổi căn bản so với Luật hiện hành. Theo đó, mọi yêu cầu về bồi thường đều phải được thực hiện trước hết tại cơ quan giải quyết bồi thường; trong quá trình khiếu nại theo thủ tục hành chính hoặc trong quá trình tố tụng không được phép giải quyết trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, kể cả trường hợp xác định có hành vi vi phạm của người thi hành công vụ gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trong khi cơ quan soạn thảo chưa lý giải được tại sao lại có sự thay đổi như vậy thì câu hỏi đặt ra là tại sao, thủ tục bồi thường lại phải “hành chính hóa”. Mặt khác, với quy định như dự thảo Luật thì người bị thiệt hại cũng không được ưu tiên lựa chọn việc giải quyết yêu cầu bồi thường theo trình tự, thủ tục quy định tại luật này hay trực tiếp khởi kiện ra tòa. Một cơ chế như vậy có thực sự hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân bị xâm phạm do sai sót, vi phạm của cán bộ, cơ quan Nhà nước trong quá trình thực thi công vụ hay không?
258 vụ việc Nhà nước phải bồi thường cho cá nhân, tổ chức trong 6 năm Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có hiệu lực thi hành không phải là quá nhiều. Nhưng trong số đó, đã có những vụ án oan gây chấn động dư luận mà dù Nhà nước có bồi thường bao nhiêu tiền cũng là chưa thỏa đáng. Vì thế, dù sửa đổi Luật theo hướng nào thì cũng phải bảo đảm nguyên lý căn bản nhất là Nhà nước làm oan, sai cho dân cái gì thì phải bồi thường cho dân cái đó với một quy trình mạch lạc, đơn giản, minh bạch và không để kéo dài. Dẫu các chuyên gia còn bàn bạc, cân nhắc các quy định, song phải sòng phẳng với dân.
Bạch Long
Theo: daibieunhandan.vn