CHỦ ĐỀ 7: BẢO VỆ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ PHÒNG TRÁNH Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
I. VẤN ĐỀ SỬ DỤNG VÀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Thành phố Hồ Chí Minh không đa dạng và chịu áp lực lớn từ gia tăng dân số và đô thị hóa nhanh chóng. Vấn đề sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên tại Thành phố Hồ Chí Minh gặp phải một số vấn đề cơ bản.
1. Tài nguyên nước
Nhu cầu sử dụng nước sạch trên địa bàn Thành phố khá lớn.
Nguồn nước đầu vào của các nhà máy nước chủ yếu từ nước sông Sài Gòn (khởi nguồn từ tỉnh Bình Phước) và sông Đồng Nai (khởi nguồn từ tỉnh Lâm Đồng).
Một số ít sử dụng nguồn nước dưới đất (nước ngầm).
Đối với nguồn nước trên mặt: Nước sông Sài Gòn – Đồng Nai thường xuyên bị nhiễm mặn vào mùa khô, đôi khi chưa đảm bảo chất lượng cho mục đích cấp nước sinh hoạt. Để khắc phục, Tổng Công ty Cấp nước Sài Gòn phối hợp xả nước từ hồ Dầu Tiếng để kiểm soát độ mặn.
Nguồn nước cung cấp chính còn bị ô nhiễm bởi nước thải từ hoạt động công nghiệp, sinh hoạt, dịch vụ, y tế và một phần từ nông nghiệp. Các nguồn ô nhiễm này cùng với công nghiệp hóa đe dọa hệ sinh thái.
Đối với nguồn nước dưới đất (nước ngầm): Chính quyền Thành phố đang hạn chế dần khai thác do gây ra tình trạng sụt lún đất.
Thành phố đã ban hành Kế hoạch giảm khai thác nước dưới đất và trám lấp giếng đến năm 2025.
Sở Tài nguyên và Môi trường không cấp phép khai thác mới, không cấp lại giấy phép hết hạn và yêu cầu doanh nghiệp giảm, tiến tới ngừng khai thác nước ngầm.
2. Tài nguyên đất
Diện tích đất hạn chế so với sự phát triển nhanh chóng của dân số và đô thị hóa.
Quản lý và khai thác quỹ đất chưa hiệu quả, chưa phát huy tối đa nguồn lực.
Quá trình đô thị hóa gây nhiều ảnh hưởng đến môi trường đất như: nguồn nước ô nhiễm thấm vào đất, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, phân hóa học, rác thải (độc hại, rắn, khó phân hủy), khai thác quá mức, phân bón hóa học làm chai đất, xói lở.
Sự ô nhiễm đất có thể làm thay đổi hệ sinh thái ổn định hiện tại, ảnh hưởng đến các loài sinh vật, tiêu biểu là thực vật.
II. VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1. Sức ép dân số đối với vấn đề môi trường
Với số dân khoảng 9 triệu người (năm 2021), Thành phố Hồ Chí Minh thải ra lượng nước thải sinh hoạt tương ứng khoảng 1 451 000 m³/ngày.
Hiện nay, Thành phố có 3 nhà máy hoặc trạm xử lý nước thải đã đưa vào vận hành.
Lượng chất thải rắn phát sinh cũng không ngừng gia tăng, ước tính tổng khối lượng khoảng 9 000 – 9 500 tấn/ngày.
Trong đó, chất thải rắn sinh hoạt khoảng 8 900 tấn/ngày đêm, với tỉ lệ gia tăng ước khoảng 5 – 6%/năm.
Chất thải rắn xây dựng khoảng 1 500 tấn/ngày đêm.
Công tác xử lý chất thải rắn còn tồn tại, chất thải rắn chưa được phân loại đồng bộ tại nguồn, gây áp lực lớn cho các cơ sở xử lý.
Hình thức xử lý chất thải rắn sinh hoạt hiện nay là đốt và chôn lấp, tạo ra nguy cơ tiềm tàng gây ô nhiễm thứ phát.
Toàn Thành phố có 2 khu liên hợp xử lý chất thải rắn.
2. Sức ép của hoạt động công nghiệp
Hiện nay, trên địa bàn Thành phố có khoảng 4 335 cơ sở công nghiệp.
Đến năm 2020, Thành phố đã có 97% nguồn thải khí được xử lý qua hệ thống xử lý khí thải trước khi ra môi trường.
3. Sức ép từ hoạt động giao thông vận tải
Phát thải từ hoạt động giao thông đường bộ (đặc biệt là xe máy) là nguồn phát thải giao thông chủ yếu, chiếm khoảng 90% cho tất cả các chất gây ô nhiễm.
Ngành Giao thông vận tải đang triển khai thay thế xe buýt cũ bằng xe sử dụng khí nhiên liệu tự nhiên thân thiện với môi trường.
4. Sức ép từ hoạt động nông – lâm nghiệp và thuỷ sản
Nước thải từ hoạt động chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường không khí.
Đặc biệt là rác thải nguy hại như vỏ chai, bao bì phân bón, thuốc bảo vệ thực vật thải ra môi trường chưa được thu gom, xử lý theo đúng quy trình, gây ô nhiễm và ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Hiện nay, trên địa bàn Thành phố có 89 cơ sở chăn nuôi được công nhận an toàn dịch bệnh và thực hiện tốt các biện pháp xử lý chất thải.
5. Sức ép từ hoạt động y tế
Tổng lượng chất thải rắn y tế của Thành phố phát sinh khoảng 16 796,7 tấn/năm (bình quân khoảng 150,02 tấn/ngày).
100% bệnh viện trên địa bàn Thành phố đều có hệ thống xử lý nước thải theo quy định.
Đảm bảo 100% chất thải y tế phát sinh được phân loại, thu gom, vận chuyển, lưu giữ và giao cho đơn vị có chức năng để xử lý.
6. Sức ép từ hoạt động du lịch, dịch vụ, kinh doanh, thương mại và xuất nhập khẩu
Tăng lượng chất thải và tăng phát thải khí CO2 ra môi trường thông qua phát thải khí xả động cơ làm ô nhiễm môi trường không khí, góp phần tăng hiệu ứng nhà kính và ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường tự nhiên của Thành phố.
III. TUYÊN TRUYỀN BẢO VỆ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ MÔI TRƯỜNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Trong những năm gần đây, Thành phố đặc biệt quan tâm và có kế hoạch triển khai công tác truyền thông về bảo vệ môi trường với các chỉ tiêu cụ thể.
Nhiều giải pháp truyền thông đã được triển khai đồng loạt trên toàn Thành phố với sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các sở ngành, chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội.
Học sinh cũng cần có trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường sống bằng những hành động thiết thực, phù hợp với lứa tuổi:
Chấp hành chính sách và pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Tích cực tham gia vào các hoạt động bảo vệ tài nguyên, môi trường do nhà trường phát động hoặc của địa phương nơi em sinh sống tổ chức.
Tuyên truyền, vận động người thân, bạn bè cùng thực hiện; chống các hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Thực hành lối “sống xanh” như: không xả rác, giữ vệ sinh nơi học tập và sinh hoạt; hạn chế sử dụng đồ nhựa dùng một lần; phân loại rác thải tại nguồn; ưu tiên sử dụng phương tiện giao thông công cộng khi di chuyển.