Chủ đề 3: KHÁM PHÁ VẺ ĐẸP CỦA NGÔN NGỮ ĐỊA PHƯƠNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1. Ngôn ngữ địa phương ở Thành phố Hồ Chí Minh trong hệ thống phương ngữ tiếng Việt:
TP. Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế – văn hoá lớn, thu hút người dân từ nhiều nơi → ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ngôn ngữ địa phương ở TP.Hồ Chí Minh nổi bật với những nét độc đáo riêng.
Phương ngữ: sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở mỗi địa phương, có nét khác biệt so với ngôn ngữ toàn dân hoặc phương ngữ khác.
Hệ thống phương ngữ tiếng Việt chia thành 3 vùng lớn: Phương ngữ Bắc, Phương ngữ Trung, Phương ngữ Nam.
Phương ngữ Nam chia thành 3 vùng nhỏ: Quảng Nam – Quảng Ngãi, Quy Nhơn – Bình Thuận, Nam Bộ.
Ngôn ngữ địa phương ở TP.Hồ Chí Minh thuộc phương ngữ Nam Bộ.
Bên cạnh những điểm chung với ngôn ngữ địa phương khác trong vùng, TP. Hồ Chí Minh còn có những nét đặc sắc riêng.
2. Một số đặc trưng của ngôn ngữ địa phương ở Thành phố Hồ Chí Minh:
2.1. Về cách phát âm
Giọng nói TP. Hồ Chí Minh nằm trong vùng chuyển tiếp Đông Nam Bộ – Tây Nam Bộ → vừa ngọt ngào, hào sảng, vừa rắn rỏi, chất phác.
Cách phát âm đặc trưng:
Đồng nhất các vần: “-in, -it” ↔ “-inh, -ich”; “-un, -ut” ↔ “-ung, -uc”.
Lẫn lộn phụ âm đầu: “s” ↔ “x”, “tr” ↔ “ch”,…
Ít biến động hơn so với các vùng khác → dễ nghe, dễ hiểu.
Trong giao tiếp đại chúng, phát âm được duy trì có ý thức, không gây khó hiểu.
Thanh điệu: tiếng Việt có 6 thanh, nhưng ngôn ngữ TP. Hồ Chí Minh (Nam Bộ) chỉ dùng 5 thanh (ngang, sắc, huyền, nặng), thanh hỏi và ngã trùng nhau.
Việc đồng nhất hỏi – ngã tạo giọng nói phóng khoáng, hào sảng, ít nhấn nhá, uyển chuyển hơn các vùng khác.
2.2 Về từ ngữ
Các từ chức năng trong ngôn ngữ địa phương ở Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều điểm khác biệt độc đáo so với ngôn ngữ ở các địa phương khác. Trong đó phải kể đến các đại từ được sáng tạo theo một cách thức đặc biệt: đại từ hoá danh từ bằng cách thêm thanh hỏi vào danh từ.
Đại từ hoá danh từ bằng cách thêm dấu hỏi:
Anh → ảnh (anh ấy)
Trong → trỏng (trong ấy)
Hôm → hổm (hôm ấy)
Hệ thống trợ từ, phó từ, tình thái từ gần gũi với phương ngữ miền Tây Nam Bộ → giàu sắc thái biểu cảm.
Ví dụ: nhỉ (Bắc) → hén (Nam); kia đấy → lận; đấy nào → vầy nè.
Từ vựng đặc trưng khác biệt với các vùng khác:
bát (Bắc) – đọi (Trung) – chén (Nam, TP.HCM).
quả bóng – trái ban – trái banh.
cá quả – cá tràu – cá lóc.
ngồi xổm – ngồi chò hỏ – ngồi chồm hổm.
Nhiều từ vay mượn tiếng Pháp dùng phổ biến trong giao tiếp và địa danh:
Ga (gare), Xáng (chaland), đường Pasteur, đường Yersin,…
Ngôn ngữ địa phương TP.HCM vừa độc đáo, vừa dung hợp, tạo nên bức tranh ngôn ngữ đa sắc, góp phần vào sự phát triển và hội nhập của thành phố.