THẦN TÍCH
Hổ Lang đại vương - Đông Hải đại vương
Diêu La công chúa - Quý Minh công chúa
Hổ Lang đại vương - Đông Hải đại vương
Diêu La công chúa - Quý Minh công chúa
( Trích: Đại Việt thông sử - Lê Quý Đôn )
Đại Vương họ Trịnh huỷ Khả người xã Sóc Sơn huyện Vĩnh Ninh được ban họ Vua. Tổ tiên ông làm quan triều Trần, theo đánh giặc Nguyên có công, cha là Quyện làm chánh tổng: sinh 4 người con trai, Khả là con út sinh năm Quý Mùi (1403). Lúc này người Minh biến nước ta thành quận, huyện, chia đặt các ty. Ông 16 tuổi, đi cày ruộng chăn trâu ngồi nghỉ ở cổng chùa trên núi. Có viên tướng nhà Minh từ thành Tây Đô đến, thấy vẻ mặt ông thì ưa, bèn dẫn về nuôi làm nó. ít lâu sau y xem tướng bảo rằng: “Đứa bé này hình rồng mắt hỏ, khoẻ nhất ba quân, ngày sau tất cầm cờ mao tiết”. Chợt lại bảo Ông: "Ngày sau đuổi chúng ta tất là mày! Phải giết ngày đi, nếu không sẽ để lo ngại về sau". Ông sợ trốn đi qua sông Mã, ẩn ở nhà bà cô thuộc xã Diên Phúc. Người Minh đuổi bắt không được, mới bắt giam bố ông là Quyện để buộc ông phải đến, nhưng cũng không được. Chúng liền đem bố ông quẳng xuống sông. Đến đêm ông lén về vớt xác đem chôn. Ông thương xót căm giận, lòng thiết tha nghĩ việc báo thù. Nghe tin Thái Tổ náu mình ở Lam Sơn ngầm nuôi binh mã, ông mới mang gươm đi theo, ngày càng được vua biết đến, và cất nhắc lên cho làm thứ thủ quân Thiết đột.
Năm Bính Thân (1416) vua cùng 18 người bề tôi thân, lên dàn thể nguyện, ước hẹn cùng vui cùng lo có nhau, ông cũng được dự.
Năm Mậu Tuất (1418), có giặc đào mả tổ nhà Vua, ông cùng Bùi Bị đội cỏ bơi đến thuyền giặc lấy trộm được hài cốt mang về. Khi Vua khởi nghĩa binh, ông cùng bọn Lê Văn Linh cùng làm tướng văn tướng võ, trước sau chống giữ. Vua thấy ông đã từng cùng Trương Lôi đi đón voi của Trịnh Đô, nên thông hiểu tiếng Ai Lao bèn sai ông mang thư sang nhờ vua Ai Lao giúp quân và giúp 5 tháng lương, cấp khí giới, voi chiến. Vua Ai Lao nhận lời. Vua nhờ có sự giúp đỡ ấy, dùng để chống quân Minh. Từ đó đánh nhau với địch lớn nhỏ hàng mây mươi trận, nổi tiếng lập công to, mấy lần phong đến Thái giám.
Năm Bính Ngọ (1426), nhà vua vây Nghệ An, chia các tướng đi tuần ở các nơi. ông cùng các tướng Phạm Văn Xảo, Lê Triện, Đỗ Bíđem 2000 quân ra Thiên Quan đi tuần ở 5 lộ là Quảng Oai, Gia Hưng, Tam Đãi, Lâm Thao, Tuyên Quang, chiếm đất, chiêu binh, để cắt đường quan tiếp viện từ hướng Vân Nam xuống. Đi đến đâu là thu được đấy. Sau đó ông đem một cánh quân lẻ tiến thẳng đến sát Đông Đô. Tướng Minh chợt thấy ông từ xa đến, rất sợ, đem quân ra chống ở Ninh Kiều. Bọn ông đánh thắng quân Minh, đóng lại ở phía tây Ninh Kiều. Đô ty Vân Nam là Vương An Lao đem hơn 1 vạn quân đến cứu viện. Ông để Lê Triện ở lại chống giữ, tự mình cùng với Văn Xảo đem quân bản bộ đón đánh giặc ở cầu Xa Lộc, đánh tan được quân giặc. Chợt lại nghe tin tổng binh nhà Minh là Vương Thông đem 5 vạn quân theo đường Quảng Tây khéo sang đã tới Đông Đô, còn một cánh ở Vân Nam có 1 vạn quân, đã tới trước Tam Giang, xuôi dòng mà xuống. Ông sợ quân giặc 2 đường hợp lại được, bèn vội từ Ninh Kiều đi gấp đường lên đón giặc ở cầu Xa Lộc, phá được giặc, bắt và chém hàng nghìn tên. Còn Lê Triện, Đinh Lễ cùng hợp mưu mai phục, đánh tan quân địch ở Ninh Kiều, Tốt Động. Thanh thế quân ta rất lừng lẫy. Lúc bấy giờ ông cùng các ông Văn Xảo, Lê Triện và Lê Lễ, đều là danh tướng một thời, đồng tâm hiệp lực khi thì bí mật bất ngờ, khi thì đường đường chính chính, ứng biến vô cùng mà đánh giặc, thừa cơ tuỳ tiện: nhanh như chim cắt nhào, mạnh như mũi tên bắn, vì thế hễ đánh là được. Vua từ Thanh Hoá ra Đông Đô điều khiển quân, chia ra đi tuần các châu huyện, sai ông đánh thành Tam Giang, rồi phong cho ông làm Thiếu uý.
Mùa xuân năm Đinh Mùi (1427), vua đóng ngự đinh ở phía bắc sông Lô, ông vây giữ phía đông thành Đông Đô. Vừa gắp khi đại tướng nhà Minh là Liễu Thăng, Mộc Thạnh chia quân theo hai ngả tiến sang. Mộc Thạnh từ Vân Nam đem 5 vạn quân thẳng xuống Tuyên Quang. Ông cùng với Phạm Văn Xảo đem quân chống giữ ở cửa ải Lê Hoa, vâng theo mật chỉ của vua rằng: "Mộc Thạch là viên tướng già, từng trải đã nhiều lại vốn biết uy danh của ta, tất nhiên hắn ngồi dợi xem Liễu Thăng thắng bại thế nào, chứ không khinh xuất tiến quan, ta phải giữ vững đồn trại chống cự với giặc. Không lâu Liễu Thăng chết trận, Mộc Thạnh thất thế thu quân tháo chạy. Ông cùng Phạm Văn Xảo thừa thế phá tan quân giặc ở Lãnh Câu, Đan Xá, chém hơn 1 vạn tên, bắt được hàng nghìn người ngựa, quân tư nhiều vô kể. Sau đó Vương Thông xin hoà rút quân về, thiên hạ đại định.
Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), bàn định công lao, phong cho Ông hàm Kim tử Vinh Lộc đại phu tả Lân hồ Vệ tướng quân, ban cho túi kim ngư, ngân phù, thượng khinh xa đô uý.
Năm thứ hai (1429), khắc biển công thần, phong cho Ông là liệt hầu, được coi việc trong điện và giữ chức đô thái giám 4 đạo, cai quản mọi việc quân trong ngoài, kiêm trấn phủ sử ở Tuyên Quang. Lại giao chức hành quân Tống quản xa kỵ chưu quân sử đồng tổng quản, lĩnh các đội Thiết đột. Lúc này Bàn Như (cũng như gọi quốc vương) nước Lào là Côn Cô mới lên ngôi, có bầy tôi là Kha Lợi làm phản. Côn Cô dâng voi để cầu viện. Nhà vua sai Ông đem quân sang giúp, bàn được Kha Lại, bình định nước ấy. Khi khải hoàn, vua khen ngợi công lao của Ông.
Năm thứ 6 (1433) thăng Bảo chính công thần gia Kim tử Vinh Lộc đại phu lương Giang trấn quán 2 quân tướng quân, nhập nội thiên bảo tham dự trì quân sự các vệ thuộc đạo Hải Tây, và chức Thái giám coi các việc trong ngoài, trụ quốc, ban kim ngư ngân phù. Bài chế có câu: “Trận đánh ở Nhân Mục, Tam Giang, Vương Thông mất mật; Trận đánh ở Lê Hoa, Lãnh Thuỷ, Mộc Thạnh hết hồn" Đó là lời khen gộp cả công trước của ông vậy.
Đầu năm Thiệu Bình (1234) đời Vua Thái Tông, Ông cho mình I danh vị đã quá đầy đủ, xin về. Vua ban cho ra làm tuyên uý đại sứ ở trấn Lạng Sơn, coi việc quân dân, lại làm đồng tổng quân vệ Nam Sách hạ.
Năm thứ tư (1437), vua bãi chức đại Từ đồ của Lê Sát, thấy ông là người triều trước tín nhiệm, gọi về cho làm chức tổng quản hành quân, coi việc quân vệ xa ky thuộc Tây đạo, quản lĩnh quân Thiết đột Thánh dực hậu đội, chức thái giáo sáu quân ngự tiền: coi việc các thiết đột Trung quân. Về sau lại gia thêm chức thiếu bảo tham trị chính sự, rồi lại gia chức Thiếu uý. Khi vua Thái Tông đi tuần phía Đông, mắc bệnh nguy kịch ông hầu hạ thuốc men không rời lúc nào. Vua mất, ông nhận cố sự mệnh, rước quan tài về kinh sư, phò lập Nhân Tông, ông được trao thêm chức nhập nội tư mã.
Năm Thái Hoà thứ nhất (1443), thái hậu coi triều, phong ông làm nhập nội Suy trung Tá Lý Dương Vũ công thân, kiêm Lỗi Giang trấn phủ quân Thượng tướng quân, cai quản việc quân các vệ ở Tây đại, Quận thương hầu. Lúc này chúa Chiêu Thành là Bí Cai hai lần vây châu Hoá. Trong triều đình bèn đem quân hỏi tội. Sai ông đem một cánh quân đi trước, còn bình chương Thụ, và Thiếu uý Lê Khắc Phục, thống lĩnh quân các đạo tiến sau. Đại quân kéo tới luỹ Chiêm Thành. Ông tiến trước phá được thành Thi Nại, dụ được cháu nội của vua ấy là Quý Lai đến ăn thể, bảo y đem bắt Bí Cai đêm ra hàng rồi sau đó lại lập Quý Lai làm vua. Khi quân về vì có công, ông được trao chức Suy trung Tán trì Dương Vũ Tĩnh nạn công thần, Thái nguyên trấn Phiêu kỵ thượng tướng quân, đặc tiến khai phủ nghi đồng tam ty, nhạp nội thái uý, kiểm hiệu bình chương quân quốc trọng sự, thượng trụ quốc, ban túi kim ngư, kim phù, Quốc thượng hầu. Ông cùng với Lê Thụ là bậc tổ phụ đứng đầu. Tính người thủ tín thẳng thắn, giữ phép công hết chức phận, lấy việc sửa lỗi cho vua, nhận lời chỉ bảo làm trách nhiệm của mình. Hễ biết được điều gì đều bày tỏ. Thánh 6 năm thứ 6 (1443) trời đại hạn, ông dâng sớ tự hạch tội mình và xin từ chức, nhà vua và Thái hậu an ủi vỗ về không cho. Thánh 9 năm ấy sai ông tới Lam Sơn đôn đốc các cục thợ làm miếu.
Năm thứ 7 (1449) vì tai hoạ đại hạn luôn luôn xuất hiện, ông lại cùng ông Thụ dâng sớ nhận lỗi xin vua gọi vào hỏi. Có chỉ cho ông trình bày các việc quân việc nước nên làm Thái Hậu ra ý an ủi khích lệ ông. Một hôm ông thoái chầu, thấy có đám dông tụ tập ở trước cống đường, trong đó có người mang cái lưới săn, ong vội bảo phải cất đi ngay, không được để nhà Vua trông thấy, sẽ khơi mào ra cái tính ham chơi săn bắn của nhà Vua sau này. Ông ta phòng xa ngăn trước cẩn thận đến như thế đấy, ông lại dùng pháp luật quá nghiêm, không ai dám thỉnh thác điều gì. Viên chủ bạ là Đàm Thác Lư ẩn lậu 4 quan tiền thuế, theo luật không đến nỗi xử tử, nhưng y đã từng vu hãm Nguyễn Thiên Tích, nên ông ghét lắm bèn quyết định ghép vào tội chết. Viên chuyển vận phó sứ huyện Văn Bình là Tương Tông Ký ăn hối lộ. Việc phát giác (án xong đem chém), tả hữu xin tha, ông nói: “ăn trộm của một nhà không tha được, huống hồ ăn trộm của một huyện sao?” Lại giao xuống tra xét, xử tội chết, các quan liêu thời bấy giờ không ai không run sợ. ông cứ theo lý làm hết chức trách, trong khoảng vài năm nước nhà yên ổn.
Tháng 7 năm thứ 9 (1451), có kẻ gièm rằng cha con ông kết đảng, Thái hậu cả giận, ông cùng con là Quát bị hại. Thiên hạ cho là oan. Đến năm thứ 11 (1433), nhà vua bắt đầu coi việc triều chính, mới khôi phục lại quan tước và ban cho 100 mẫu ruộng tế.
Thời Vua Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 15 (1484), truy tặng là Thiếu phó Liệt quốc công. Về sau truy phong là Hiển Khánh Vương cho thờ ông ngay ở miếu trong làng. Khi Quang thục Hoàng Thái hậu còn là Tiệp dư đã từng bị trái ý, vua Thái Tông Bỏ tù ở Vườn hoa. ông cứu bà thoát nạn. Cho nên Vua Thánh Tông nhớ lại ơn trước, nhắc dùng con cháu ông có ưu đãi hơn các bề tôi khác.
Ông có 22 người con: 13 trai, 9 gái. Con trưởng là Trịnh Bá Quát, làm chức Đô chỉ huy sứ, bị hại; con thứ là Trịnh Công Lộ tước Đoan Vũ hầu; thứ nữa đến Công Đán, tứơc Đinh Công Hầu; thứ nữa đến Công Tả, làm chức đô chỉ huy sứ, tước Thuần Mỹ hầu; nữa đến Công Khản, làm Tả đô đốc, tước Đoan quận công; thứ nữa đến Công Phú, tước Tùng Lĩnh Hầu, thứ nữa đến Công Ngô làm Thượng thư bộ Hộ, tước Dương Đường hầu; thứ nữa đến Quí Địch, tước Diên Phúc bá, thứ nữa đến Công Diễn, làm thái bảo, tước Bảo quốc Công; thứ nữa là Hữu, làm thái phó, tước Thọ quận công. Vua Thánh Tôn: làm thơ nhớ lại công nghiệp của hai vua có câu: “ Anh em họ Trịnh mười người tất thẩy đều qui hiển”. Là khen ngợi nhà ấy có phúc lộc. Các ông Lộ, Công, Đán, Công Tá, Công Hữu, đều có truyện chép riêng.
( Trích: Ô Châu cận lục - Dương Văn An )
Thần họ Nguyễn, tên là Phục người xã Đoàn Tùng, huyện Gia Phúc (xưa là xã Đoàn Lâm, huyện Trường Tân, nay là xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương), đỗ tiến sĩ khoa Quý Dậu (tức năm Thái Hòa 11, đỗ Hoàng Giáp). trải được phong làm Chuyển Vận Sứ và Hành Khiển ở đạo Thanh Hoa (Thanh Hóa).
Khi Lê Thánh Tông còn là tiềm long (chưa lên ngôi), ông là Vương Phó (thầy dạy của Hoàng đế), đến lúc (Lê Thánh Tông) tức vị, ông được làm Hàn Lâm Viện Tham Chưởng. Ông ba lần phụng mệnh đi sứ phương bắc, về được phong làm Đại Lý Tự Khanh trông coi việc xét xử án kiện trong nước, rồi lại làm Hữu Tham Nghị tại viện Tri Bình Chính và giữ chức Đô Chỉ Huy Sứ Thiêm Sự của Cẩm Y Vệ thuộc Thân Quân (quân trực bảo vệ vua).
Hoàng đế đi đánh Chiêm Thành (trận đánh năm 1470-1471), ông phụng mệnh làm Phi Vận Tướng Quân, Tán Lí của đội Chuyển Luân. Lúc tới cửa biển Tư Khách, gió biển lớn khiến cho đường tiến quân rất gian nan. Mọi người sợ bị tội nên cứ thúc giục đi. Ông nói :
"Thà tấm thân bé nhỏ này phải chịu tội chết chứ không thể nào để của cải nhà nông có hạn bị nhấn chìm dưới sóng lớn, không thể đem người vô tội làm mồi cho cá".
Vì quân lương thiếu nên Hoàng Đế giận, sai tống giam ông. Cung Nhân hầu cận nhân đó gièm pha xin Hoàng Đế giết ông đi. Khi Hoàng Đế chợt nghĩ lại, bèn tuyên chỉ tha tội cho ông thì ông đã mất rồi. Nhân dân trong xứ thấy hồn thiêng ông rất linh ứng, liền lập đền thờ tự. KHoảng năm Cảnh Thống (Lê Hiến Tông 1497-1504), tặng hàm Văn Trung Chính Nghị. Hoàng Đế gia phong thêm bốn chữ Minh Đạo Hiển Ứng.
Con trai ông là Nguyễn Đạm, đỗ Tiến sĩ vào năm Giáp Tuất niên hiệu Hồng Thuận, từng làm quan tới các chức như Hiến Sát Sứ đạo Thuận Hóa và Thừa Tuyên Sứ.
Tiên Sinh một lòng trung trinh và chính khí, tuy là mất mà vẫn như đang còn vậy. Khi mới mất, con của Tiên Sinh lên am (nhà tạm dựng cạnh mộ) tìm hài cốt đem về. Bỗng có 1 đàn voi rừng đông cả trăm con, trước sau cùng đi như hộ tống nên ai cũng thất sắc nhưng thấy chúng chẳng có ý hung dữ (nên mới an tâm) mà đi.
Lại có một người cùng quê, lúc nhỏ cùng du học (học xa nhà với tiến sinh) và đến khi trưởng thành thì làm huyện lại (làm quan ở huyện) tại bản xứ, đi qua đền, chỉ có một bình rượu nhỏ, khấn rằng:
"Kẻ hèn này là người quen biết cũ, xin ông nhận cho chút lễ bạc".
(Khấn xong) nhìn ra bờ sông thấy một con cá lư nổi lên, nhân đó bắt lấy để làm vật tế. Quan bản huyện người họ Phạm có viết bài văn bia ghi lại sự tích này.
Trong khoảng niên hiệu Cảnh Thống, có hai vị Đại Tướng phụng mệnh đi đánh Chiêm Thành, khi qua đền này thì nghỉ lại, đêm nằm mộng thấy Tiên Sinh tới ân cần kí thác việc (thi cử) của con. Vị Đại Tướng rút quân về kinh đô, thấm thoát mấy năm đã đến khoa thi, Đại Tướng đưuọc cử làm quan Đề Điệu. Quả nhiên (khoa ấy) con của Tiên Sinh thi đậu. Đại Tướng suy nghiệm các lẽ trước đó, bất giác thán phục, bèn triệu kiến người con của Tiên Sinh để nói rõ việc ấy và hậu đãi.
Có những điều biết trước như vậy đấy.
Người con này (của Tiên Sinh) làm quan ở Hóa Châu, chính tích không có gì đáng kể, Tiên Sinh thác mộng cho người thầy học của con mình, nói rằng:
"Nên bảo con ta về nhà chứ ta không nỡ để con ta chết ở đây".
Đầu mùa xuân năm sau (con của Tiên Sinh) về đến nhà thì mất. Những chuyện linh dị khác rất nhiều, không thể nào ghi ra hết được.
Làng Siêu Quần - Tháng 4 năm 1938
Chúng tôi là Lý dịch xin kê khai phong tục và việc thờ Thần như sau này:
1 - Làng tôi tên là chữ là làng Siêu Quần 超群 trước gọi là Quần Cư trang tên nôm gọi là Kẻ Gùn thuộc về tổng Đại Định, phủ Thanh Oai, tỉnh Hà Đông.
2 - Làng tôi thờ 4 vị Thành hoàng Đại vương
A. Hiệu ngài là Hổ Lang đại vương. Diêu La công chúa. Đông Hải đại vương. Quý Minh phu nhân còn tên gọi thường và tên húy ngài dân tôi không biết.
B. Ngài là 2 vị Thiên thần và 2 vị Thủy thần
C. Sự tích ngài dân tôi không có vì lâu ngày thất lạc mất dần đã hỏi thử đi sao lĩnh nhưng không được vì thế không biết ngày sinh hóa ngày hiển thánh và giúp về đời nào. Xem trong làng Sắc tặng phong thì tứ vị đại vương Ngài có công đức đánh giặc giúp nước an dân nhưng không biết ngài giúp về thời nào.
D. Dân mất sự tích không có sách mà cũng không có bia trong dân các ông già không ai nhớ được sự tích Ngài mà chuyền khẩu lại. Tứ vị Đại vương Ngài có sắc gia phong từ Vua Da Tôn nhà hậu Lê dần sao ra như sau này.
Đương cảnh Thành hoàng Hổ Lang linh uy dự thánh hộ quốc an dân bác trạch hồng ân phả hóa hùng uy hiển ứng tuy lộc Đại vương cập bà Diêu la phương dung gia hạnh đoan trang cẩn tiết Công chúa Đông Hải phả hóa tế thế bảo dân hùng tài vỹ lược tá thánh minh thần vũ Đại vương cập bà Quý Minh trinh tĩnh Công cháu tư kiêm chính trực đức bẩm thông minh đắc nhị khí chi tinh anh thăng thắng phả trắc phù ức niên chi cơ tự du cửu vô cương đa thực đa tương trợ chi công hạp cử bao phong chi điển vi tương phù Hoàng đồ bảo an Vương nghiệp quốc gia ninh tĩnh xã tắc miên trường nẫm hữu linh ứng ứng gia phong khả gia phong Đương cảnh Thành hoàng Hổ Lang anh uy dực thánh hộ quốc an dân bác trạch hồng ân phả hóa hùng uy Đại vương cập bà Diêu La phương dung gia hạnh đoan trang cẩn tiết Công chúa Đông Hải phả hóa tế thế bảo dân hùng tài vỹ lược tá thánh an quốc khang dân Đại vương cập bà Quý Minh trinh tĩnh công chúa cố Sắc.
Dương Đức tam niên thất nguyệt nhị thập cửu nhật.
Còn trải triều vua Lê triều Nguyễn Tây Sơn đến bản triều từ vua Thế Tổ đến vua Khải ĐỊnh đều có sắc tặng phong Dực bảo trung hưng Thượng đẳng Tối linh thần.
E. Đồng thời với Ngài có những vị nào không biết các vị hoặc giúp Ngài hoặc chống với ngài cũng không biết.
Ê. Khi Ngài còn sinh thời dân đã thờ hay Ngài hóa rồi dân mới thờ cũng rõ.
G. Từ xưa đến nay dân chỉ thờ Ngài không thờ vị nào cả.
H. Xung quanh liên tiếp trong hạt thì không có làng nào thờ Ngài mà dân tôi cũng không giao hiếu với làng nào không có lệ không có rước sách tế lễ gì với làng khác.
Y. Thờ Ngài bằng ngai bài vị có mũ có hài đai hốt kiếm cờ.
3 - Thờ Ngài ở đình
A. Nơi ấy vốn xưa vẫn là đình làm lên chốc một cái gò không có thay đổi nào cả.
B. Nơi thờ dân đã sửa sang trong thì đình thượng ngoài thì đình hạ trong sập ngoài thì án làm bằng gỗ xung quanh xây tường gạch trên lợp mái ngói
C. Xung quanh đình trồng cây cổ thụ bốn bề xanh tốt cấm không cho ai dắt và trăn trâu bò ở đình.
D. Việc quanh năm thờ cúng thì dân cắt Cụ từ trong dân cụ nào già cả và thông thái thì giữ từ thắp hương thờ thánh ở đình quanh năm không phải ra ngoài làm gì nữa.
4 - Trong một năm tế lễ ngày 7 tháng Giêng, tháng 2 thì chọn ngày Đinh, tháng 3 ngày 3, tháng 4 thì chọn ngày lễ Thường Tân, tháng 5 ngày 12, tháng 7 ngày 7, tháng 8 ngày 10, tháng 12 ngày 7 ngày 30.
A. Ngày 12 tháng 5 theo về tích đức Thiên thần, ngày 10 tháng 8 thì theo về sự tích đức Thủy thần là 2 ngày Kỳ Phúc.
B. Ngày đinh tháng 2, ngày 7 tháng 7 là theo về lễ Xuân Thu. Ngày tháng 4 và ngày tháng 10 là theo về lễ tiết mùa màng. Ngày 3 tháng 3, ngày 4 tháng 1 là ngày Thượng - Hạ Điền.
C. Ngày 15 tháng Giêng là ngày lễ Kỳ An, ngày 20 tháng 10 là ngày lễ Kỳ Vọng lão.
5 - Ngày Đại Kỳ Phúc thì sửa lễ hoặc trâu bò hoặc lợn và sôi chuối oản trầu rượu. Từ ngày có cải lương đến nay đồ lễ cúng không thay đổi gì cả.
A. Đồ lễ sôi oản thì phải sửa lượt hoặc mua trâu bò hay lợn thì tiền tất cả dân phải đóng góp. Khi tế lễ xong rồi đồ lễ ấy chia tất cả dân đều có.
B. Những người có chức sắc những người Lý dịch tân cựu và những người mua thứ vị ở trong làng thì được dự vào tế.
6 - Trước ngày tế lễ những người là quan viên... không có tang trờ gì mà được dự tế thì từ ngày hôm trước phải trai giới tắm gọi quần áo trong sạch. Những việc sửa sang đồ lễ thì phải trai tân gái tân. Lúc tế thì nam trung phải đóng hoàng chầu cầm các đồ thờ, những người song toàn mà trẻ trung thì không được
7 - Lúc tế những người dự tế mặc áo tế đội mũ đai hia, nam trung thì trít khắn mặc áo nậu cầm đồ thờ đứng trầu.
8 - Dân tôi thờ tứ vị đại vương thì phải kiêng 8 chữ lệ là: Hổ Lang Diêu La Đông Hải Quý Minh. Ngày thường không ai được nói nhưng lúc đọc chúc thì không phải kiêng đọc đến dị hiệu thì người dự tế phải chắp tay vái cả và bên ngoài không ai được nói gì phải im lặng.
9 - Không có tế lễ riêng gì về việc xuân Thành hoàng: Nếu trong làng ai nói phải dị hiệu Thần mà người khác nghe tiếng thì quở trách người ấy phải xin lỗi rằng trót nhầm nhỡ thì thôi chứ dân không có lẹ bắt vạ nếu trong khi việc làng ai nói phạm lỗi câu gì thì dân quở trách người nói phải xin lỗi thì thôi không có lẹ bắt vạ là bao nhiêu hoặc khi ai lầm lỡ mà làm mất đồ thờ thánh của dân hay là mất tài sản của dân thì phải đền giả đúng giá mà lại phải sửa cơi trầu tạ dân ngay không được từ chối thì không mất gì nữa.
10 - Từ trước đến giờ dân tôi không có thay đổi về việc cúng tế gì cả
A. Dân tôi vẫn theo như ngày trước như ngày 12 tháng 5, 10 tháng 8 hai ngày Đại Kỳ Phúc thì dân sửa lễ trâu bò nếu năm nào mất mùa thì dân sửa lễ lợn còn các thời tiết thì lễ vẫn theo như trước
B. Đồ tế lễ ở dân tôi thì chia suốt cả dân từ trên xuống dưới đều cả theo như trước không thay đổi gì cả
C. Chỗ thờ cúng cũng không thay đổi
D. Số người dự lễ dân cũng không thay đổi
E. Sự trai giới vẫn theo như trước không thay đổi
Y. Sự kiêng kỵ và hèm thần vẫn theo như trước cả không thay đổi gì cả.
Nay xin kê khai:
Lý Trưởng: Dật (Lê Văn Dật)
Chưởng Bạ: Phổ (Lê Đình Phổ)