MIẾU
( Chùa Tích Ngọc )
( Chùa Tích Ngọc )
Miếu nằm ở giữa làng xưa là thôn Trung, nay là xóm Trung. Trước kia, miếu là nơi thờ Thần.
Theo sách Bản xã truyện, vào những năm cuối thời vua Tự Đức, đình, miếu đều được tu sửa do xuống cấp. Hiện nay, miếu còn lưu giữ được tấm bia "Ký niệm" khắc vào năm Bảo Đại thứ 13 (1938), ghi lại việc tu tạo lại miếu. Trước kia, tại miếu vẫn còn một cây sấu cổ thụ trăm năm tuổi với chu vi gốc khoảng ba người ôm.
Thời kỳ cải cách ruộng đất và chiến tranh chống Mỹ, việc thờ tự tế Thần tại miếu bị bài trừ, thay vào đó miếu được người dân rước tượng Phật về thờ tự. Từ đó, miếu được chuyển thành chùa và có tên là "樍玉 Tích Ngọc". Trong cùng khoảng thời gian này, cũng như chùa Linh Ứng, miếu thôn Thượng và nơi đây cũng được tận dụng làm trường học dạy lớp vỡ lòng.
Hiện nay, nơi đây là chùa Tích Ngọc, với hệ thống kiến trúc và tượng Phật mới được xây dựng lại và còn lưu giữ hai tấm bia hậu Phật được lập vào năm 1952.
嗣德叁拾肆年拾壹月初壹日超群社耆目里役社饒仝社等緣有庙所各座於捌月拾叁日颶風各被風撞雨滴毀漏同妥拎修造內社各人应順出家錢赞陸拾貫本社共認具記結[]錢用役許各人從耆目凡有事神應祭其如所名為納錢如伊列于左計 本月初壹日黎文勝納錢陸貫阮長曾納錢陸貫黎文御納錢五貫劉文金納錢陸貫黎文問納錢陸貫阮長太納五貫 向各人納錢始共[]叁十肆貫交與各分辨支俏茲編依錢叁十肆辨由長吉記[...].
Các vị kỳ mục, lý dịch, xã nhiêu cùng toàn thể xã viên xã Siêu Quần, do các ngôi miếu trong làng vào ngày 13 tháng 8 đã bị bão lớn làm cho gió va đập, mưa dột nát, hư hỏng, nên đã cùng nhau thỏa thuận đứng ra sửa chữa.
Các hộ trong xã đã đồng thuận đóng góp số tiền là 60 quan. Cả xã cùng nhau công nhận và ký vào bản giao kèo này [ ], số tiền này sẽ được dùng vào việc sửa chữa. Nay theo lệnh của các vị kỳ mục, phàm những ai có việc thờ cúng Thần đều phải đóng góp tiền theo danh sách được liệt kê ở bên trái. Bảng kê như sau:
Ghi nhận trong ngày mồng 1 tháng này:
Ông Lê Văn Thắng nộp 6 quan tiền.
Ông Nguyễn Tràng Tằng nộp 6 quan tiền.
Ông Lê Văn Ngự nộp 5 quan tiền.
Ông Lưu Văn Kim nộp 6 quan tiền.
Ông Lê Văn Vấn nộp 6 quan tiền.
Ông Nguyễn Tràng Thái nộp 5 quan tiền.
Số tiền của các vị đã nộp, bước đầu cộng lại được 34 quan. Sẽ phân chia chi tiêu cho các hạng mục. Nay biên chép lại số tiền 34 quan này và giao cho ông Trưởng Cát ghi sổ. [...].
記念碑錄
青威府大定總超群社中村耆老聀役等為立記念碑錄本村奉事
神靈廟自古以來英靈正直保佑民村人康物盛有求必應有感必通前宮俾挾四時民禮拜逼近難容故村內黃白一心順精重修產
造 以尊廟以猊以廣禮儀仰望神靈監匡扶赤子榮昌窃念
聖德無私無不求而求必應神威莫測何願而願有從茲[?]修工役譜多 一木豈必成林一勺豈能成江故工碑石以勤本社本村上老
官員 善信何有恒心恒產以[?]修里以觀覘同社其享河沙之福今何觀 人供銀數干 具將姓姓于碑內茲立記文迻賈[?]茄[?]福
[?]心[?]殳捽[?]緣 南無普供養菩薩 諸員人銀承開于後 計
鄉老黎庭完供貳[?]五元。 鄉老刘文許供拾[?]元。[?]阮長朋供拾貳元。官巡阮長槐供拾元。黎文𧦈供貳元。
𫇰付里次紙黎庭廣供柒元。饒社黎庭鯨供柒元。鄉[?]黎文[?]供陸元 饒社黎文[?]供柒元。付戶吏阮德霑供柒元。
本社上老供五元。[?]庭[?],文節,文[?],文秀供五元。婆具后黎氏閑供叁元。黎氏滔供叁元。黎文秃
付鄉會黎文桃,黎文[?]仝供[?]員。 授百戶從九品當聀李長黎文逸,老饒阮德旦仝供叄元。 黎庭旦,阮長傍[?],
黎庭琼,黎文[?],黎文薦,黎文祜,阮長壬, 阮文算,黎庭尾,黎庭蓋,黎庭𠄼,黎氏論,阮長其,黎庭益。
仝供[?]元。[?][?][?], 阮長[?],黎文武,黎庭[?],黎庭發,黎庭迥,[?] [?][?],黎庭童,刘文乐, 𫇰正戶吏刘文皆供壹元。黎庭普供壹元。阮文節供叁元。流文[?]供壹元。阮長[?]供壹元。 黎氏滔供叁元。黎氏[?]供五毛
[?][?][?][?][?]乙亥拾月拾壹日修造上殿 前次興工黎庭廣 至茂寅年玖月初玖日中修大拜
後次興工應黎庭廣,黎文桃,黎庭琼,黎庭鯨,阮長朋,阮德霑。
當次里長黎文逸奉寫。
Bia Ghi Kỷ Niệm
Văn bia ghi nhớ việc phụng sự miếu Thần linh của bản thôn, do các bậc kỳ lão, chức dịch thôn Trung, xã Siêu Quần, tổng Đại Định, phủ Thanh Oai lập nên. Từ xưa đến nay, vị Thần của làng ta vốn anh linh chính trực, luôn bảo hộ cho dân làng được người khỏe của nhiều, hễ có cầu xin là nhất định được đáp ứng, hễ có lòng thành là nhất định được thấu tỏ. Tuy nhiên, tiền đường của miếu đã trở nên chật hẹp, khiến cho việc dân làng đến lễ bái bốn mùa gặp cảnh chen chúc, khó khăn. Vì lẽ đó, già trẻ trong thôn một lòng một dạ, thành tâm đứng ra trùng tu, xây dựng lại, cốt để cho miếu được tôn nghiêm, cửa miếu được to đẹp, nơi hành lễ được rộng rãi. Ngửa mong Thần linh chứng giám, phù trì cho đám con đỏ chúng con được vinh hoa, thịnh vượng.
Thiết nghĩ, đức Thánh vốn vô tư, không lời cầu nào mà không được đáp ứng; uy Thần thật khôn lường, không nguyện ước nào mà không được nghe theo. Nay việc tu sửa này có nhiều hạng mục, mà một cây há có thể làm nên rừng, một gáo nước há có thể làm nên sông? Cho nên, nay khắc bia đá này để kêu gọi lòng thành của các bậc bô lão, quan viên và các tín chủ trong xã, trong thôn. Phàm những ai có lòng thành bền vững, có của cải lâu dài, đem công đức ra sửa sang việc chung của làng, sẽ được hưởng phúc đức nhiều như cát sông Hằng. Nay xin ghi lại, những người đã cúng tiến tiền bạc sẽ được ghi đầy đủ họ tên lên bia này.
Nay lập văn bia này để ghi lại duyên phúc cúng dường. Nam mô Phổ Cúng Dường Bồ Tát. Danh sách các vị và số bạc cúng tiến được ghi ở sau. Kê ra như sau:
Hương lão Lê Đình Hoàn cúng 15 nguyên. Hương lão Lưu Văn Hứa cúng 10[+?] nguyên. [?] Nguyễn Tràng Bằng cúng 12 nguyên. Quan tuần Nguyễn Tràng Hoè cúng 10 nguyên. Lê Văn Hộ cúng 2 nguyên. Cựu phó lí thứ chỉ Lê Đình Quảng cúng 7 nguyên. Nhiêu xã Lê Đình Kình cúng 7 nguyên. Hương [?] Lê Văn [?] cúng 6 nguyên. Nhiêu xã Lê Văn [?] cúng 7 nguyên. Phó hộ lại Nguyễn Đức Triêm cúng 7 nguyên. Bản xã thượng lão cúng 5 nguyên. [?] Đình [?], Văn Tiết, Văn [?], Văn Tú cúng 5 nguyên. Bà cụ hậu Lê Thị Nhuận cúng 5 nguyên. Lê Thị Thao cúng 5 nguyên. Lê Văn Ngốc, Phó hương hội Lê Văn Đào, Lê Văn [?] đồng cúng [?] quan. Thụ bách hộ tòng cửu phẩm đương chức lí trưởng Lê Văn Dật, Lão nhiêu Nguyễn Đức Đán đồng cúng 5 nguyên. Lê Đình Đán, Nguyễn Tràng Bàng?, Lê Đình Quỳnh, Lê Văn [?], Lê Văn Tiến, Lê Văn Hỗ, Nguyễn Tràng Nhâm, Nguyễn Văn Toán, Lê Đình Vĩ, Lê Đình Cái, Lê Đình Ngũ, Lê Thị Chọn, Nguyễn Tràng Kì?, Lê Đình Ích đồng cúng [?] nguyên. [?][?][?] Nguyễn Tràng [?], Lê Văn Vũ, Lê Đình [?], Lê Đình Phát, Lê Đình Quýnh, [?][?][?], Lê Đình Đồng, Lưu Văn Lạc, [?][?][?], [?][?][?], Cựu chánh hộ lại Lưu Văn Giai cúng 1 nguyên. Lê Đình Phổ cúng 1 nguyên. Nguyễn Văn Tiết cúng 3 nguyên. Lưu Văn [?] cúng 1 nguyên. Nguyễn Tràng [?] cúng 1 nguyên. Lê Thị Thao cúng 3 nguyên. Lê Thị [?] cúng 5 hào.
Năm Ất Hợi (1935), tháng 10, ngày 11, xây dựng xong thượng điện. Lần trước khởi công là Lê Đình Quảng. Đến năm Mậu Dần (1938), tháng 9, ngày 9, trung tu bái đường. Lần sau khởi công là do Lê Đình Quảng, Lê Văn Đào, Lê Đình Quỳnh, Lê Đình Kình, Nguyễn Tràng Bằng, Nguyễn Đức Chiêm đảm trách. Văn bản này do Lý trưởng đương nhiệm Lê Văn Dật kính cẩn ghi chép.
Bia Kỷ niệm - 1935
河東省超群社樍玉寺佛教會立后碑 蓋聞佛道無辺能積善共享良緣能修福同歸極樂今本社阮德霑叶內外子孫婚婿仝心自願寄田在本寺以供后忌一田在罢(土罟)三所共四高五尺一在頭求處壹高五尺共成五高十尺臨忌日會內須卞香燈椀菓及齊盘二具先献三寶次惠碑前得從佛力享祀於無窮
忌日列于左
顯伯考阮伯公字福赦。六月初七
顯伯妣阮門正室阮氏號慈甘。六月初八
顯考阮伯公字福言。五月初六
顯妣阮門正室黎伯氏號妙𨋌。四月二十六
堂兄阮伯公字純馬。八月二十日正忌
顯考阮伯公字福数。十月十四日
顯妣阮門正室黎氏新
南無十方三寶作大證明
任辰年六月初一日立后碑
Bia hậu do Hội Phật giáo chùa Tích Ngọc, xã Siêu Quần, tỉnh Hà Đông dựng. Nghe nói rằng đạo Phật vô biên, có thể tích lũy việc thiện, cùng hưởng nhân duyên tốt đẹp, có thể tu phúc cùng về cõi Cực Lạc. Nay, người trong làng là Nguyễn Đức Chiêm cùng con cháu dâu rể đồng lòng tự nguyện hiến ruộng cho ngôi chùa này để dùng vào việc cúng giỗ sau này. Một ruộng ở Bãi Cộ: 3 nơi cộng là 4 sào 5 thước. Một ở xứ Đầu Cầu: 1 sào 5 thước. Tổng cộng là 5 sào 10 thước. Đến ngày giỗ, trong hội cần phải thắp hương đèn oản quả và hai mâm cỗ chay. Trước tiên dâng lên Tam Bảo, sau đó cúng trước Bia để nhờ Phật lực mà được hưởng sự cúng tế vô cùng.
Ngày giỗ được liệt kê ở bên trái.
Hiển bá khảo Nguyễn bá công, tự Phúc Xá. Giỗ 7/6.
Hiển bá tỷ Nguyễn môn chính thất Nguyễn thị, hiệu Từ Cam. Giỗ 8/6.
Hiển khảo Nguyễn bá công, tự Phúc Ngôn. Giỗ 6/5.
Hiển tỷ Nguyễn môn chính thất Lê bá thị, hiệu Diệu Oanh. Giỗ 26/4.
Đường huynh Nguyễn bá công, tự Thuần Mã. Giỗ 20/8.
Hiển khảo Nguyễn bá công, tự Phúc Số. Giỗ: 14/10.
Hiển tỷ Nguyễn môn chính thất Lê Thị Tân.
Nam mô Thập phương Tam Bảo tác đại chứng minh.
Bia hậu được lập vào ngày 1 tháng 6 năm Nhâm Thìn (1952).
(Thác bản VNCHN, ký hiệu 52955. Bia 1 mặt, cỡ 40x61cm)
Bia Hậu- 1952
南無十方三寶作大證明
蓋聞佛道無辺能積善共享良緣能修福同歸極樂茲堂心佛教寺超群社黎庭黥叶與內外子孫一心自願出銀一千元壹田四高十二尺在支江延願寄各忌皈三寶每臨忌日本寺整卞𥺹菓齊盘二具先献三寶次惠碑前得從佛力享祀於無窮其諱號忌日並列于後
姑黎伯氏號慈頒。十月二十二日忌
刘伯公。
顯妣黎門正室阮伯氏號淑雲。六月二十六日忌
黎門正室阮伯氏號慈人。十一月十七日忌
胞妹黎伯氏號淑嘲。六月二十九日忌
胞妹黎伯氏號慈垂。四月十八日忌
逆子黎伯公字純爭。二月十六日忌
黎門亞室阮伯氏號。
刘伯公諱燦字純竜。九月二十四忌
任辰年三月十二日立碑記
Nam mô Thập phương Tam Bảo tác đại chứng minh.
Nghe nói rằng đạo Phật vô biên, có thể tích lũy việc thiện, cùng hưởng nhân duyên tốt đẹp, có thể tu phúc cùng về cõi Cực Lạc. Nay, người trong làng là Lê Đình Kình cùng con cháu nội ngoại đồng lòng tự nguyện xuất tiền 1000 nguyên Một ruộng ở Chi Giang: 4 sào 12 thước. Đến ngày giỗ, Chùa ta sắm sửa oản quả và hai mâm cỗ chay. Trước tiên dâng lên Tam Bảo, sau đó cúng trước Bia để nhờ Phật lực mà được hưởng sự cúng tế vô cùng.
Ngày giỗ huý hiệu cùng liệt kê ở sau.
Cô Lê bá thị hiệu Từ Ban. Giỗ 22/10.
Lưu bá công ...
Hiển tỷ Lê môn chính thất Nguyễn bá thị, hiệu Thục Vân. Giỗ 26/6.
Lê môn chính thất Nguyễn bá thị, hiệu Từ Nhân. Giỗ 17/11.
Bào muội Lê bá thị, hiệu Thục Trào. Giỗ 29/6.
Bào muội Lê bá thị, hiệu Từ Thuỳ. Giỗ 18/4.
Nghịch tử Lê bá công, tự Thuần Tranh. Giỗ 16/2.
Lê môn á thất Nguyễn bá thị, hiệu ...
Lưu bá công huý Xán, tự Thuần Long. Giỗ 24/9.
Bia ký được lập vào ngày 12 tháng 3 năm Nhâm Thìn (1952).
Bia Hậu- 1952