ĐÌNH SIÊU QUẦN
( Kẻ Gùn )
( Kẻ Gùn )
Đình làng Siêu Quần là nơi thờ Thành hoàng theo nghi thức truyền thống. Đây là công trình kiến trúc cộng đồng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa và tín ngưỡng chung của dân làng. Ban đầu, đình được dựng tại xứ Đình Đặng, giữa làng (亭鄧處, nơi hiện nay là nghĩa trang). Đến khoảng cuối thế kỷ 18, do hỏa hoạn, đình đã được xây dựng lại ở vị trí hiện tại. Đình được dựng lại trên gò đất cao cuối làng. Sau nhiều lần Đình được đổi hướng từ chính nam (ngọ) sang nam tây nam (đinh) rồi sang chính đông (mão), bố cục từ chiều dọc sang chiều ngang dẫn đến mọi sự không còn được như xưa, làng xóm không được yên ổn. Cuối cùng Đình được chuyển sang hướng nam đông nam (bính) như ngày nay, tạo nên bố cục hài hoà, hợp với hình thế tự nhiên. Phía sau có tam thai làm chỗ dựa, phía trước có án sơn chầu về, bên trái có dòng nước xanh, minh đường là vùng nước rộng lớn mênh mông.
Vì phía trước đình là vùng đồng trũng trải dài từ phía tây sang đông bao quanh làng, nên năm 1942 người Pháp đã cho đào thêm kênh Hòa Bình ở sát phía đông đình để tiêu nước như ngày nay.
Trước năm 1945, tổng thể khuôn viên kiến trúc đình gồm: Đại đình, phía trước là sân gạch đến đồng trụ tam quan, giếng hóa mã. Khuôn viên ngoại đình, phía trước là ao sen, cây đa cổ thụ sát bờ kênh đào; phía sau, bên ngoài là ao, cây đa cổ thụ, bên trong là sân gạch. Ngoài ra, còn có đàn Thần Nông ở trước gốc đa cổ thụ phía tây của đình. Thời kỳ cải cách, đình được trưng dụng làm nhà kho, các vị Thành hoàng phải rước lên chùa Linh Ứng để thờ tạm. Cũng vào khoảng thời gian này, hai dãy tảo mạc 7 gian đã bị cắt bỏ, chỉ còn lại 5 gian; đàn thờ Thần Nông, đồng trụ tam quan, giếng hóa mã và sân gạch bát phía sau đình cũng bị phá bỏ; trong thời kỳ này một phần kiến trúc gian hữu của đại bái đã bị cháy, dấu tích vẫn còn lưu lại đến nay. Sau đợt trùng tu năm 2001, tổng thể kiến trúc đình đã có những thay đổi theo thiết kế định trước, khu nhà phụ trợ cũng được xây dựng thêm. Vài năm sau đó, ao sen phía trước đình đã bị lấp, gây ra sự thay đổi lớn về diện mạo khuôn viên ngoại đình.
Hiện nay kiến trúc đình mang phong cách thời Nguyễn với đợt trùng tu lớn vào năm 1917 cùng đợt trùng tu năm 2001. Kiến trúc chính gồm: đại bái, nhà cầu, hậu cung, hai dãy dải vũ - nội tảo mạc gồm 7 gian chạy dọc theo hai hồi nhà đại bái.
Nhà đại bái có quy mô kiến trúc lớn gồm ba gian hai dĩ xây kiểu bốn mái. Nhà có mái lợp ngói ta, bờ nóc đắp kiểu bờ đinh, hai hồi nối cao hai đầu kìm. Bộ khung của tòa đại bái khá vững chắc gồm bốn vì chính và phần kết cấu đõ mái hồi. Liên kết các vì có hệ thống xà đai thượng hạ, ngang dọc theo lòng nhà. Các vì có kết cấu giống nhau kiểu thượng chồng giường hạ bẩy. Mỗi vì gồm bốn hàng chân, mái phân "thượng tứ hạ ngũ". Đỡ mái hiên có hệ thống giường nách và bẩy hiên. Các con giường được chồng thưa qua một đấu kê đẩy. Bốn góc nhà có xó chạy từ nóc mái, qua cột góc để tăng thêm sự bền vững cho công trình kiến trúc. Nền nhà cao 30cm so với mặt sân, mặt trước làm hệ thống cửa bức bàn, bên trên của có hệ thống trấn song con tiện làm tăng ánh sáng cho bên trong. Lòng nhà đại bái để trống làm nơi hội họp cho dân làng. Gian giữa treo bức hoành phi lớn và cửa vọng chạm thủng đề tài bát tiên.
Sau đại bái có một kiến trúc nhỏ nối với hậu cung. Nếp nhà này gồm 5 gian theo chiều dài của kiến trúc bên ngoài. Nhà cầu có kết cấu khá độc đáo, mái hình vỏ cua. Các con hoành đặt trực tiếp trên những tấm ván mê hình bán nguyệt. Các ván này gối trên một thanh xà to, dày. Các ván này có hai mặt được trang trí đậm đặc các tề tài truyền thống, tứ linh (long, ly, quy, phượng), rồng chầu, mai lão, trúc lão,... Các đồ án trang trí này được thể hiện bằng kỹ thuật chạm thủng, chạm nổi rất tỷ mỷ, sinh động.
Nhà hậu cung gồm 5 gian xây trên nền cao 30 cm so với đại bái. Nguyên bản nhà được xây theo lối mái đao, sau thời cải cách được sửa thành kiểu thu hồi bít đốc. Mái được lợp ngói ta - loại ngói mỏng mũi hơi hất lên. Bốn bệ vì đỡ mái làm theo hai dạng khác nhau: hai vì hồi dạng vì kèo quá giang, hai vì bên kết cấu "thượng chồng giường giá chiêng hạ bẩy", bộ vì gian giữa khá đơn giản kiểu giá chiêng kẻ truyền. Ngoài bộ khung gỗ, nội thất bên trong của tòa hậu cung khá độc đáo và cổ kính. Cả ba gian giữa tôn cao lên 30cm và bưng ván mỏng, mặt trước làm hệ thống cửa bức bàn. Trên cửa trang trí rất đậm đặc những hoa văn tùng lộc, cuốn thư, tứ quý, tứ linh, bát bửu, tôn thêm vẻ đẹp cho nơi tọa lạc của các vị Thành hoàng làng.
Trang trí kiến trúc đình Siêu Quần rất phong phú, đa dạng. Ngoài các mảng chạm truyền thống tại nhà cầu, hậu cung, người xưa rất quan tâm làm đẹp cho nhà đại bái. Đó là nơi hội họp dễ dàng quan sát, chiêm ngưỡng nên hầu như toàn bộ các chi tiết trên bộ khung gỗ nhà đại báiđều được chạm khắc rất tỷ mỷ. Thân của các con giường, câu đầu chạm hồi văn thực vật, văn mây. Các đồ án này được phủ kín bề mặt bằng đề tài rồng cuốn thủy, rồng, long mã,... hai mặt của bẩy hiên trang trí chi tiết các hình "long mã chở hà đồ", rồng lá, hoa sen, tứ linh,... Tuy mang đặc trưng của nghệ thuật điêu khắc thời Nguyễn, song các hình mẫu trang trí này lại rất sinh động.
Hệ thống thờ tự tại đình Siêu Quần mang phong cách thời Nguyễn hòa hợp cùng không gian kiến trúc nơi đây. Hai dĩ toà đại bái có án thờ bộ hạ các quan, tiên hiền - hậu thần.
Gian hữu có treo bức trâm thư: Nội dung ca ngợi ân đức của Thần Thánh
【皇南保大庚辰夏】Mùa Hạ năm Canh Thìn (1940), triều vua Bảo Đại
【潮曲翰林待詔秀才江元詩拜撰】Triều Khúc Hàn Lâm Đãi Chiếu tú tài Giang Nguyên Thi[1] kính soạn
【邑子樂文會仝拜進】Hội nhạc văn người trong làng cùng kính dâng.
Gian giữa đại bái theo trục Thần đạo - chính đường từ ngoài vào trong là nơi trang trọng được bài trí các bộ bát bửu, cờ, lọng, tàn, tán, đối xứng nhau làm nổi bật và tăng thêm phần uy nghi cho toàn bộ không gian nơi đây.
Từ cửa bức bàn gian giữa là khoảng trống trải vừa ba lớp chiếu tế đến án hương (khoảng trống giữa cột hiên - cột quân - cột cái).
Trên cửa gian giữa là bức cuốn thư:
【岳瀆協靈】Nhạc độc hiệp linh - Núi sông hun đúc
【保大庚午年】Năm Canh Ngọ (1930), triều vua Bảo Đại
【辛丑科副榜督學寕平致仕黎庭燦恭撰】Trí sĩ Lê Đình Xán[2] Phó bảng khoa Tân Sửu, Đốc học tỉnh Ninh Bình kính soạn.
【本社劉平東場門生恭進】Lưu Bình xã này là học sinh trường Đông kính dâng.
Chính diện là bức hoành phi (đại tự):
【乾坤四德】Càn khôn tứ đức[3] - Bốn đức tính của Trời Đất.
【惟新三年春同進士鎮省學黎摸拜撰】Đồng tiến sĩ trấn tỉnh học Lê Điện[4] kính soạn vào mùa Xuân, năm Duy Tân thứ 3 (1909).
【本社春蘭場門生仝拜進】Học sinh trường Xuân Lan xã này cùng kính dâng.
Bên dưới bức đại tự là bộ cửa võng gỗ sơn thếp, chạm các đề tài cửu long, bát tiên, hoa lá,.. và bốn chữ lớn:
【聖躬萬歲】Thánh Cung Vạn Tuế.
【保大辛巳年】Năm Tân Tỵ (1941), triều vua Bảo Đai.
【彈南會拜進】Hội đàn Nam[5] kính dâng.
Bên trên cột cái treo câu đối:
【神化使宜民人人满願患捍災除昭仰積】
Thần hoá sử nghi dân nhân nhân mãn nguyện, hoạn hãn tai trừ chiêu ngưỡng tích:
Sự thần hóa khiến dân được an hòa, mọi người mãn nguyện, hoạn nạn ngăn ngừa, tai ương dẹp bỏ, công đức sáng tỏ tích lũy.
【聖功扶世用赫赫有聲村安物盛楽芳春】
Thánh công phù thế dụng hách hách hữu thanh, thôn an vật thịnh lạc phương xuân:
Công đức hiển thánh phù giúp việc đời, hiển hách vang danh, làng xóm yên bình, vật sản dồi dào, vui hưởng xuân thơm.
【龍飛丁丑年仲春】Tháng 2 năm Đinh Sửu (1937), niên hiệu Long Phi[6]
【本村阮氏庒黎氏閑仝恭進】Nguyễn Thị Trang, Lê Thị Nhàn thôn này cùng kính dâng.
Án hương đặt tại vị trí chính giữa hai cột cái được bài trí trang trọng. Bên trên án có bát hương đồng đặt chính giữa, trên bát hương đồng có khắc lạc khoản chữ hán:
【皇朝啓定嵗次丁己年孟秋重修】Trùng tu vào tháng 7 năm Đinh Tỵ (1917) triều vua Khải Định.
【超群社 - 仝會恭進】Toàn xã Siêu Quần cùng kính dâng.
Phía sau bát hương đồng là đỉnh đồng, trên thân đỉnh có khắc:
【超群社儿普公益會】Người xã Siêu quần cùng công ích.
Hai bên bao loan phía ngoài là đôi chân nến đồng. Bên cạnh hương án là hai biển Tĩnh túc (靜肅)-Hồi Tỵ (廻避 ) và đôi hạc gỗ sơn thếp đứng trước chân cột cái trầu ngang nhìn vào trong án. Lớp án thứ hai sát sau hương án và cao hơn bằng đúng chiều cao bát hương đồng. Bên trên lớp án thứ 2, chính giữa được đặt mâm bồng đại sơn son, phía trong là giá kiếm gồm 4 cây trường kiếm (giản) gỗ sơn thếp. Hai bên bao loan là đôi lọ lộc bình men trắng hoa lam. Phía trên án thứ hai là y môn vải cùng bức cuốn thư sơn thếp:
【山川之英】Sơn xuyên chi anh - Tinh hoa của núi sông
【龍飛庚戌仲秋】Tháng 8 năm Canh Tuất (1910), niêu hiệu Long Phi.
【黎平正塲門仝拜進】Lê Bình môn sinh trường Chính cùng kính dâng.
Kế tiếp, phía bên trong lớp án thứ 2 là lớp thực án dùng để đồ lễ. Đây là một chiếc sập vuông chân quỳ sơn son thếp chỉ bạc phủ hoàng kim, sập dài 2m vừa tới chân cột hậu toà đại bái. Hai bên đầu hồi nhà cầu (hay còn gọi là ống muống) đặt đôi ngựa thờ để chầu vào trong cung cấm.
Qua nhà cầu là đình thượng (hay còn gọi là hậu cung), ba gian chính đều có cửa bức bàn. Trên cửa gian giữa mới được đóng thêm khung thiều châu. Phía trước đặt một chiếc sập chân quỳ kích thước bằng phần hiên gian giữa hậu cung. Sập này làm hương án và được bài trí chuẩn mực bao gồm: 1 bát hương đồng để chính giữa bên ngoài, 1 mâm bồng gỗ sơn son để sau bát hương, 2 đài nước - trầu cau sơn son để hai bên bát hương, 2 chân đèn gỗ sơn son để hai bên bao loan ngoài, 2 bình hoa gỗ sơn son để hai bên bao loan trong. Hai bên án kê hai giá quạt vả hướng che vào án, Phía sau là màn điều cùng y môn vải che trước cửa bức bàn. Mỗi khi vào đám thường có lệ khai môn (mở cửa bức bàn gian giữa hậu cung), nhưng màn điều vẫn luôn được buông kín phía trong. Đến khi hành lễ tế, người ta chỉ dâng lễ qua màn điều, để hai người chấp sự bên trong hậu cung nhận lấy và đặt lên án thờ phía trong hậu cung.
Bên trong hậu cung, nền gian giữa được xây cao hơn hai gian bên khoảng 10cm. Sau cột cái là 1 chiếc sập chân quỳ làm ngự án. Trên án phía trong cùng là 4 chiếc long ngai - bài vị được sơn thếp tinh xảo, 2 ngai giữa được cao hơn 2 ngai bên. Phía trước 2 ngai giữa là 2 hòm sắc, tiếp đến là 4 bát hương, 2 bát ở giữa dáng trụ, 2 bát bên dáng quả lựu đều được đặt trên đế chân mây trước 4 long ngai - bài vị. Ngoài cùng là 4 mâm mịch, trên mỗi mâm là 3 quả đài rượu đề bằng gỗ sơn thếp. Hai bên bao loan góc ngoài là đôi chân đèn. Trên vách bao hậu cung, khu vực gian giữa được chạm khắc đồ án rồng, lưỡng long trầu nguyệt,... Khi làng vào đại đám thì làm lễ mộc dục rồi làm lễ phong mũ, áo, đai, hốt, kiếm, cờ đủ cả.
Điều đặc biệt ở đây có hai nhà dải vũ - tả hữu mạc 7 gian là nơi để thuyền (chải) đua nên khá dài, chiếm suốt cả chiều dài của tòa đại bái đến hết sân gạch. Mỗi nhà để hai chải, một chiếc đặt sát đất, một chiếc gác ở lưng chừng. Làng có 4 xóm: Thượng, Trung, Mỹ, Hạ nên mỗi xóm có một chải bơi. Hồi kháng chiến chống Pháp (1946-1954) nhân dân đã dìm thuyền xuống sông cất giấu và bắc cầu qua sông Nhuệ bảo vệ an toàn căn cứ cách mạng. Tiếc thay thuyền đã ngâm quá lâu đã bị mục nát. Dựa vào chiều dài của nhà tảo mạc có thể đoán được chiều dài của chải (dài khoảng 14m, rộng hơn 1m).
Đình làng Siêu Quần thờ 2 vị thành hoàng cùng phối thờ 2 vị nữ thần:
Đương Cảnh Tối Linh Thành Hoàng Hổ Lang Đại vương 【虎狼大王】Trịnh Thượng Đẳng Thần
Diêu La công chúa 【姚𡤢公主】.
Trịnh Khả (1403 - 1451), người làng Giang Đông, xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ông là một trong mười tám người có mặt tại Hội thề Lũng Nhai của Lê Lợi và sau đó đã lập được nhiều chiến công trong cuộc chiến đánh đuổi giặc Minh. Sau khi Lê Lợi lên ngôi, ông được phong tước Hổ Vệ tướng quân, Thượng trụ quốc, Bình chương quân quốc trọng sự và được khắc tên vào bia công thần. Sau khi bị gian thần gièm pha, vào mùa thu, tháng 7, ngày 26 năm Tân Mùi (1451), ông và con trai cả là Trịnh Bá Quát đã bị sát hại. Đến đời vua Lê Thánh Tông, ông được minh oan, phục hồi quan tước và được phong làm Phúc thần.
Đương Cảnh Tối Linh Thành Hoàng Đông Hải Đại Vương 【東海大王】Nguyễn Thượng Đẳng Thần
Quý Minh công chúa 【貴明公主】.
Nguyễn Phục (1434? - 1470), người thôn Đông, xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, đỗ Hoàng giáp khoa Quý Dậu, niên hiệu Thái Hòa thứ 11 (1453) dưới triều vua Lê Nhân Tông. Ông làm quan đến chức Hàn lâm viện kiêm Vương phó (thầy dạy các vương tử). Vào năm Canh Dần (1470), khi vua Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, Nguyễn Phục được cử giữ chức Đốc lương. Trên đường vận chuyển, đoàn thuyền không may gặp bão lớn, lương thảo đến chậm trễ, vì vậy ông bị xử trảm theo quân luật. Về sau, khi biết ông bị oan, vua vô cùng hối hận và đã phong ông làm Phúc thần.
Mặc dù tại đình còn phối thờ hai vị nữ thần là Diêu La công chúa và Quý Minh công chúa, nhưng Thần tích của các ngài hiện chưa được xác định rõ ràng. Trải qua các triều đại Lê Trung Hưng và Tây Sơn, đều ban sắc phong cho 4 vị. Đạo sắc sớm nhất được biết đến được gia phong vào năm Dương Đức thứ 3 (1674). Đến triều Nguyễn, chỉ có 2 vị thần được ban sắc và gia phong là Đông Hải Nguyễn thượng đẳng thần và Quý Minh phu nhân trung đẳng thần[7].
- Hiện nay, toàn bộ các sắc phong Thần đã bị mất trộm.
- Ngoài ra, Đình làng xưa còn thờ các vị tiên công, hậu thần các ban tả hữu:
Thời Lê - Trịnh: Làng Siêu Quần cùng tôn Quận Phu nhân họ Đoàn làm Hậu Thần[8].
【黎朝入侍鄭西王府特賜美良容段氏號妙寧諱桃字日謚清潔郡夫人】Lê triều nhập thị Trịnh Tây Vương phủ đặc tứ Mỹ Lương Dung Đoàn thị hiệu Diệu Ninh huý Đào tự Nhật thuỵ Thanh Khiết Quận Phu nhân. Sinh giờ thân ngày 14 tháng 9 năm Mậu Tý 1648. Mất ngày 1 tháng 10 năm Đinh Sửu 1697. Hưởng thọ 50 tuổi. Mộ táng tại ruộng hậu - xứ Mả Mai làng Hữu Thanh Oai (Tó Hữu).
Quận Phu nhân vốn xuất thân trâm anh thế phiệt, nội ngoại nhiều đời làm quan, lại được tiến cung phủ chúa Trịnh Tây Vương (Trịnh Tạc), đặc ban làm Quận phu nhân. Sau vì thời thế có biến nên bà cáo về quê Hữu Thanh Oai (Tó Hữu). Vì tưởng nhớ Quận Phu nhân thường có công đức cho làng nên đã tôn làm Hậu Thần. Hàng năm đến ngày giỗ chạp thì tế ở Miếu, phàm là tế tự Đại Vương thì phối ở ban tả, có đủ văn bia ghi chép, việc thờ tự cũng rất linh ứng[9].
Thời Nguyễn: năm Tự Đức 7 (1854), Làng lại bầu ông họ Nguyễn tự Thuần Khoan (giỗ 11/7) cùng bà họ Nguyễn hiệu Từ Hậu (giỗ 7/5) làm Hậu do có công đức tu sửa Đình Chùa, cúng dường phúc điền.
Thời Nguyễn: năm Bảo Đại 4 (1929), năm Bảo Đại 7 (1932), Làng lại bầu ông họ Trịnh huý Khuyến tự Thuần Phổ (giỗ 14/8) cùng bà họ Lê huý Nhuận hiệu Diệu Nhuận (giỗ 7/?) làm Hậu do có công đức tu sửa Đình Chùa, cúng dường phúc điền. Hàng năm đều cúng tế như lệ.
Hội làng Siêu Quần trước đây được tổ chức vào các dịp 10-2, 12-5 và 10-8.
Ngày 10-2 làm Lễ "Cầu đinh". Sáng ngày mùng 9, các cụ tế yết cáo tại đình. Buổi chiều dắt trâu đã tắm sạch sẽ qua sân trình Thánh. Hôm sau, đem mổ trâu rồi thui cả con để dâng tế Thần Nông. Riêng cái đuôi sẽ thì cắt rời và chôn xuống đất, chỉ để lộ một đoạn chìa lên, để cầu cho làng có thêm nhiều "Đinh". Đây cũng là dịp để thực hiện lễ hạ điền. Vì vậy, vào chiều ngày 10-2, sau khi tế tạ, cụ chủ tế sẽ chạy ra cánh đồng, dân làng cùng nhau chạy theo ném những cành tre còn nguyên lá. Nếu ném trúng, người đó sẽ gặp may mắn cả năm.
Dịp 12 tháng 5 là "Đại kỳ phúc" dân đều giết trâu, bò sửa lễ. Nếu năm nào mất mùa, lễ vật sẽ được giảm bớt bằng gà hoặc lợn. Theo lệ tế, ngày hôm trước sau khi các cụ tế cáo yết xong, dân làng sẽ rước kiệu long đình đến nhà lý trưởng để xin chúc văn và rước kiệu ra đình. Buổi tối, mời phường chèo về diễn các tích cổ cho dân làng thưởng thức.
Cũng như dịp tháng 5, lễ "Đại kỳ phúc" tháng 8 sẽ mở đại hội vào những năm được mùa có khi kéo dài đến gần 2 tuần hoặc khi mất mùa thì chỉ tổ chức theo lệ tế hàng năm. Trước đó, vào sáng ngày 9, các cụ tiến hành lễ cáo yết. Dân của 12 giáp họ sửa lễ ra đình dâng Thánh. Lễ vật bao gồm các loại bánh dày, bánh tẻ, bánh bột lọc,... đều là những sản vật từ lúa gạo quê hương. Lễ vật được bày trên hai dãy bàn dọc theo gian giữa tòa đại bái để chuẩn bị cho buổi lễ tối. Gần đến giờ hành lễ, có nghi thức "củ soát lễ vật". Hai cụ trong ban tế được cử ra cắt bánh ở từng mâm để chấm thi. Bánh của giáp nào thơm ngon đều được trao giải. Ngày chính hội. Buổi sáng, cả làng rước kiệu thánh rong chơi khắp làng để dân chúng chiêm ngưỡng. Đám rước xuất phát từ đình và đi đến đầu làng rồi quay trở về, ở khắp các ngõ đều bày lễ vật để cúng thánh khi đi qua. Sau khi lễ tế Thánh hoàn tất, các giáp rước lễ vật của mình về để thụ lộc và chuẩn bị cho hội thi bơi chải vào buổi chiều. Mỗi chải có 30 trai đinh, được phân công nhiệm vụ như sau: 1 lái nhất, 2 lái ba, 1 người tát nước và 26 trai bơi. Tất cả đều cởi trần, đóng khố, đầu quấn khăn nhiễu rồi lần lượt xuống thuyền. Riêng bốn ông lái nhất ngồi ở bốn góc chiếu hoa được trải giữa sân đình. Giữa chiếu đặt cơi trầu và bốn chiếc bơi chèo đặt ở bốn góc. Sau khi một cụ cao niên đổ nước ngũ vị vào các thuyền, một tràng pháo nổ giòn giã vang lên. Cụ nhất trong làng đánh trống cầm trịch, đến tiếng trống cuối cùng "các, tùng" thì bốn ông lái nhất nhanh chóng cướp trầu, cầm bơi chèo và chạy nhanh xuống chải của mình, ra hiệu cho đội xuất phát. Mốc thi từ cửa đình được gọi là "nêu nhất" đến một cái gò giữa đồng được gọi là "nêu nhì" chiều dài khoảng 3 km. Ngày 11, có thêm hai đợt thi nữa diễn ra. Khi trai của xóm nào thi, con gái của xóm đó sẽ lo việc trầu nước và đứng trên bờ cổ vũ nhiệt tình. Ngày 12, buổi sáng diễn ra lễ tế yên vị. Đến chiều, các trai bơi sẽ đưa thuyền lên và cất vào hai bên dãy tảo mạc. Giải nhất của hội bơi chải là một nọng lợn và một buồng cau; giải nhì là một cẳng giò và nửa buồng cau; giải ba là ba quả cau và một miếng thịt lợn. Có câu tục ngữ rằng: "Lệ làng tháng tám thì bơi, trai thời thi sức gái thời thi hoan". Hay câu ngạn ngữ: "Thúng làng Sái, gái làng Hạ, mạ làng Nai, trai làng Gùn" nói về sự khỏe mạnh và giỏi giang của trai tráng làng. Ngoài ra, lễ hội còn có các hoạt động thi làm bánh, đấu vật và nhiều trò chơi dân gian khác...
Cũng như vùng Thanh Oai xưa nay, người Siêu Quần vẫn giữ được tập quán. Mỗi khi làng có đại đám người dân các giáp lại dựng cây bông, lập hương án nghênh Thần. Ngày nay, hội làng Siêu Quần được tổ chức vào các năm chẵn, cứ hai năm một lần, vào ngày 10 tháng 2 âm lịch. Dịp xuân về cũng là ngày kỷ niệm đón nhận bằng công nhận "di tích lịch sử về kiến trúc - nghệ thuật" của Bộ Văn hóa - Thông tin (9/2/1994). Tuy nhiên, hội thi bơi chải không còn được tổ chức như trước, và lễ rước kiệu chỉ diễn ra từ đình đến đầu làng rồi quay trở về. Ngoài các dịp tế Trừ Tịch, tế Đinh vào tháng 2 âm lịch, Kỳ Phúc vào tháng 5 và tháng 8 âm lịch, còn các ngày tế lễ khác đã bỏ.
Bản xã truyện - 1881
嗣德叁拾肆年拾弍月初捌日本社會合為逐并修造亭宇支俏各款列于左 -交歌工仝例錢弍拾陸貫又賞喝錢弍拾壹貫諸人來禮賀前弍拾貫內丹忱錢壹貫𥺹弍拾品清蕉拾五果薪榔壹房叁拾柒果該總禮捌貫𱙘府禮錢壹貫總巡禮錢叁貫魚坊禮錢壹貫𱙘浘禮錢弍貫。
Ngày mồng 8 tháng 12 năm Tự Đức thứ 34 (1881), xã ta họp nhau vì gộp lần lượt các khoản chi tiêu việc sửa chữa lại đình, liệt kê ra như sau: Giao 26 quan tiền cho thợ hát theo lệ chung, lại thưởng 21 quan tiền hát. Những người khác đến lễ mừng 20 quan tiền, trong đó tiền lòng thành 1 quan: 20 phẩm oản, 15 quả chuối xanh, 1 buồng 37 quả cau. Cai tổng lễ 8 quan tiền. Bà Phủ lễ 1 quan tiền. Tổng tuần 3 quan tiền. Ngư phường lễ 1 quan tiền. Bà vãi lễ 2 quan tiền.
新巳年十月二十二日本社會定修理亭宇事 [...] Ngày 22 tháng 10 năm Tân Tỵ (1881), Bản xã quyết định việc sửa chữa đình [...]
Bản xã tế Hậu văn
江元詩 Giang Nguyên Thi người làng Triều Khúc đỗ tú tài năm Canh Tý 1900, năm 1926 được phong Hàn Lâm Viện Đãi Chiếu.
黎庭燦 Lê Đình Xán người làng Nhân Mục (Hạ Đình). Năm 36 tuổi đỗ phó bảng khoa Tân Sửu (1901/Thành Thái thứ 13) dữ chức Trung nghị đại phu đốc học tỉnh Ninh Bình
乾坤四德 Càn Khôn Tứ Đức.【Giải thích】 "Càn Khôn Tứ Đức" là thuật ngữ trong Kinh Dịch, chỉ bốn đức tính căn bản của Càn (Trời) và Khôn (Đất), hai quẻ gốc đại diện cho sự vận hành của vũ trụ. Bốn đức tính này, ban đầu được mô tả cho quẻ Càn (Trời - nguyên lý sáng tạo), bao gồm: Nguyên (元): Khởi đầu, nguyên thủy, lớn lao. Biểu thị sự sáng tạo, khởi phát vạn vật. Hanh (亨): Thông suốt, hanh thông, thành công. Biểu thị sự lưu chuyển, phát triển thông suốt. Lợi (利): Lợi ích, tốt đẹp, thuận lợi. Biểu thị sự ban phát lợi ích, làm cho vạn vật được tốt lành. Trinh (貞): Kiên trinh, bền vững, chính đáng. Biểu thị sự kiên định, giữ vững nguyên tắc, sự chính trực. Những đức tính này được coi là nguyên lý nền tảng cho sự sinh trưởng, phát triển và vận hành hài hòa của vạn vật trong Trời Đất (Càn Khôn). Chúng không chỉ là thuộc tính của Trời mà còn là những phẩm chất mà con người cần noi theo để sống thuận theo đạo lý tự nhiên.
黎永橂: Lê Vĩnh Điện người làng Hưng Giáo, cử nhân khoa Tân Mão niên hiệu Thành Thái thứ 3 (1891). Ông từng làm Đốc học tỉnh Thanh Hóa.
彈南會 Đàn nam hội - phường bát âm.
龍飛 Long phi: một dạng niên hiệu được sử dụng song song từ thời các chúa Nguyễn.
Một số nơi thờ Quý Minh phu nhân có cùng thần hiệu duệ hiệu nhưng khác thần tích: Xã Xuân ổ, tổng Khắc Niệm, Võ Giàng, Bắc Ninh. Thôn Đông Quan, xã Yên Đổ, tổng Yên Đổ, Bình Lục, Hà Nam. Thôn Thượng Thọ, xã Mỹ Thọ, tổng Bồ Xá, Bình Lục, Hà Nam. Thôn Lương ý, tổng Bồ Xá, Bình Lục, Hà Nam. Thôn Tam Lãng, xã Nam Kim, Nam Đàn, Nghệ An.
Sách Bản xã tế văn.
Đông Trù Đoàn tộc phả - Minh Mệnh 13 (1832).