CHÙA LINH ỨNG
( Siêu Quần )
( Siêu Quần )
Toàn bộ hệ thống tượng và đồ thờ đã sơn mới
Chùa làng Siêu Quần có tên chữ là “Linh Ứng - 靈應”, thường gọi là chùa Siêu Quần. Xưa kia chùa nằm ở đầu làng (nay là xứ Chùa cũ - 㕑𬞺處 đã hình thành nghĩa trang, thường được gọi là Gốc Gạo do trước đây có một cây gạo cổ thụ). Khoảng cuối thế kỷ 18, sau một trận hỏa hoạn, chùa đã được chuyển về vị trí hiện tại. Tương truyền đây là nơi xưa từng dùng để giam lỏng những quan lại trái ý vua nhưng không thể xử tội.
Chùa được xây dựng theo hướng đông nam. Phía đông là đồng ruộng (tức xứ Đầu Cầu 頭捄), Phía tây giáp sông Nhuệ, phía nam là đê sông Nhuệ xứ Đầu Cầu (nay thường gọi là Mõm Lợn), phía bắc là đê sông Nhuệ xứ Đầu Cầu và Kênh Trong.
Chùa Siêu Quần ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Niên đại ra đời cụ thể của di tích không còn được lưu lại qua hệ thống tư liệu thành văn, song bằng điêu khắc và trang trí kiến trúc trong di tích đã khẳng định sự tồn tại của chùa Linh Ứng từ đầu thời Nguyễn. Trong thời kỳ này, nhân dân địa phương đã nhiều lần đóng góp tiền của để trùng tu, sửa chữa chùa và để lại dấu ấn đậm nét trên các bức cổn nác chạm rồng ổ, cửu long, tứ linh,... ở trên bộ khung tòa thượng điện và hệ thống kiến trúc trong khuôn viên chùa.
Đến giữa thế kỷ 19, năm Thiệu trị thứ 3 (1843), chùa đúc chuông và chiếc khánh đồng lớn. Do quả chuông bị thất lạc trong binh hỏa, sau này dân làng Siêu Quần lại đóng góp tiền của và công đức thập phương để mua đồng, thuê thợ đúc quả chuông lớn "Linh Ứng tự chung". Chuông có dáng đẹp, quai hình đôi rồng đấu lưng vào nhau, thân chia làm nhiều ô, bốn ô dưới đúc nổi đề tài tứ linh "long, ly, quy, phượng".
Chùa Linh Ứng tọa lạc trên khu đất cao bên dòng sông Nhuệ. Toàn bộ các kiến trúc của chùa ẩn khuất dưới những tán cây lưu niên tạo không gian tĩnh lặng cho cửa thiền.
Tính từ ngoài vào, chùa có các bộ phận: Tam quan, chùa chính và khu nhà thờ Mẫu, nhà Tổ.
Tam quan chùa Linh Ứng được xây dựng khá vững chắc. Các cửa vào cuốn vòm, cổng chính có mặt bằng hình vuông có khắc đại tự, bên trên là hai tầng tám mái. Cổng phụ hai bên có một tầng bồn mái mặt trước sau các trụ đều có câu đối. Sau tam quan là một sân nhỏ có 3 lối đi lát gạch bát ở giữa trống trồng hai hàng cau dẫn vào khu chùa chính. Chùa chính là phần quan trọng nhất trong kiến trúc của mỗi ngôi chùa. Do là nơi toạ lạc của điện thờ Phật giáo nên phần kiến trúc này bao giờ cũng tọa lạc ở vị trí trung tâm và có quy mô vượt trội so với các bộ phận khác. Tại di tích chùa Linh Ứng khu chùa chính có két cấu hình chữ đinh bao gồm: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Giống với nhiều ngôi chùa khác được quy hoạch vào thời Nguyễn, thiêu hương và thượng điện của chùa Linh Ứng được nối liền thành một nếp nhà dọc gắn với tiền đường. Khối kiến trúc này được xây tường bao quanh tạo thành không gian khép kín.
Tiền đường là một nếp nhà ngang, 5 gian xây gạch kiểu tường hồi bit đốc, mái lợp ngói ta, hai trụ biểu đắp linh vật. Nhà có kết cấu khá đơn giản gồm 6 bộ vì giống nhau dạng "thượng chồng giường giá chiêng hạ kẻ". Các con giường được chông thưa qua một đấu kê dày. Các kẻ được làm cong một đầu ăn mộng qua cột cái. Câu đầu được đặt trên hai trụ trốn, đỡ toàn bộ kết cấu này là một quá giang to dầy. Kiểu vì kèo trụ trốn này làm cho lòng nhà hẹp, mái thấp. Các bộ phận kiến trúc gỗ được bào trơn, bào soi tạo cảm giác nhẹ nhàng. Nền nhà tiền đường cao 20cm so với mặt sân. Phía dưới mở hệ thống cửa bức bàn bên trong sát tường hậu xây những bệ gạch cao để làm nơi tọa lạc của các pho tượng thờ.
Thượng điện là ngôi nhà dọc 5 gian nối với tiền đường. Nhà có kết cấu đơn giản phần trên của các vì làm theo kiểu chồng giường hạ giá chiêng bên dưới làm dạng cổn mê để trang trí. Các bức cổn này được chạm khắc tỷ mỉ các đề tài truyền thống như rồng hổ, rồng cuốn thủy, tứ linh, tứ quý, hổ phù,... Rồng có đầu nổi cao, râu và tóc kết thành đao nhọn tỏa ra phí sau. Thân rồng uốn khúc nhịp nhàng trên nền sóng nước điểm xuyết trên thân rồng là những cụm mây theo quan niệm "vân tòng long, phong tòng hổ". Trong lòng nhà được lát gạch bát, khoảng rộng giữa hai hàng cột cái xây hệ thống bệ cao dần từ ngoài vào thành tam bảo, hai bên hẹp hơn làm đường chạy dàn theo nghi thức Phật giáo. Mỗi bên xây một dãy bệ tượng kéo dài theo chiều dọc tam bảo đến đầu hồi.
Khu thờ mẫu được xây dựng sát bên phải tòa thượng điện. Phàn kiến trúc có quy hoạch mặt bằng hình chữ đinh gồm tiền tế và hậu cung. Nhà tiền tế xây gạch kiểu tường hồi bít đốc, kết cấu đơn giản dạng vì kèo quá giang. Hậu cung 3 gian bên trong thờ tam tòa Thánh Mẫu, và các quan, cô, cậu, ông hoàng,...Ngoài những bộ phận kiến trúc trên di tích còn có khu nhà khác và tháp mộ tăng thêm vẻ cổ kính cho ngôi chùa cổ. Hệ thống tượng tròn trong di tích chùa Linh Ứng có số lượng lớn kích thước trung bình và được bài trí quy củ theo nguyên tắc truyền thống.
Tại thượng điện, từ vị trí cao nhất
Lớp thứ nhất gồm Tam thế phật: quá khứ, hiện tại, vị lai.
Lớp thứ hai gồm Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí. Phía trên có treo bức đại tự
【蓮開寶座】Liên Khai Bảo Toạ - Ngai báu sen nở.
【龍飛丙寅年】Năm Bính Dần niên (1926), niên hiệu Long Phi.
【恭進】Kính dâng.
Lớp thứ ba gồm Phật Thích Ca và hai vị Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền.
Lớp thứ tư gồm Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn và hai vị Phật Di Lạc, Phật Tuyết Sơn.
Lớp thứ năm gồm Ngọc Hoàng và hai vị Nam Tào, Bắc Đẩu.
Lớp thứ sáu gồm Cửu long và hai vị Ngọc Nữ.
Dọc hành lang tả hữu của Tam Bảo gồm Thập Điện, Thổ Thần, Giám Trai, Tứ Vương đối xứng hai bên, phía trong cùng sát tường hậu là Quan Âm Tọa Sơn và Quan Âm Tống Tử. Phía trên có treo bức đại tự
【靈應寺】Linh Ứng Tự - Chùa Linh Ứng.
【龍飛成泰甲午】Năm Giáp Ngọ (1894), niên hiệu Long Phi - Thành Thái.
【恭進】Kính dâng.
Tại tiền đường: Gian giữa nối liền với thiêu hương, phía trên có treo y môn lưỡng long chầu nguyệt cùng hoành phi câu đối:
【超拔群倫】Siêu Bạt Quần Luân - Siêu việt hơn người.
【龍飛庚申春】Mùa xuân năm Canh Thân (1920), niên hiệu Long Phi.
【沐恩鄉長阮長爵拜進】Hương trưởng Nguyễn Tràng Tước đội ơn kính dâng.
【超然色相空虚外】Siêu nhiên sắc tướng không hư ngoại - Sắc tướng siêu nhiên ngoài hư không.
【群在河沙濟度中】Quần tại hà sa tế độ trung - Hà sa chúng sinh trong cứu độ.
【龍飛壬子秋】Mùa thu năm Nhâm Tý (1912), niên hiệu Long Phi.
【拜薦】Kính dâng
Gian tả là ban Hộ pháp Khuyến thiện. Gian kế bên là ban Đức Chúa Ông cùng hai vị Già Lam và Chấn Tể; phía trên có treo y môn lưỡng long chầu nguyệt cùng hoành phi câu đối:
【正直】Chính Trực - Ngay thẳng
【主宰持權参寶座】Chủ tể trì quyền tam bảo toạ - Chúa tể nắm quyền, ngự trên ngai báu.
【神通有筆揭心關】Thần thông hữu bút yết tâm quan - Thần thông có bút, vén mở cửa lòng.
【龍飛丙寅年】Năm Bính Dần (1926), niên hiệu Long Phi.
【本社邑子耆目劉文許信老黎氏潤鄭氏瑄仝拜進】Người cùng làng của xã này là Kỳ mục Lưu Văn Hứa, tín lão Lê Thị Nhuận, Trịnh Thị Tuyên cùng kính dâng.
Gian hữu là ban Hộ pháp Trừng ác. Gian kế bên là ban Đức Thánh Hiền cùng hai vị Diệu Nhiên, Đại Sĩ; phía trên có treo y môn lưỡng long chầu nguyệt cùng hoành phi câu đối:
【濟度群生】Tế Độ Quần Sinh - Cứu độ chúng sinh.
【保大己卯年冬】Thời Bảo Đại, mùa đông năm Kỷ Mão (1939).
【寓富壽省黎門恭進】Nhà họ Lê ở tỉnh Phú Thọ kính dâng.
【慈光超出冥途外】Từ quang siêu xuất minh đồ ngoại - Ngoài lối mê vượt ra nhờ từ quang.
【普度群生世界中】Phổ độ quần sinh thế giới trung - Trong thế giới cứu lấy được chúng sinh.
【龍飛丙子造】Năm Bính Tý (1936), niên hiệu Long Phi.
【仝信朋】Cùng kính ngưỡng.
Phía trước ban Đức Ông được treo một chiếc khánh đồng (vỡ mất một góc)
【靈應-磬寺-超群】 Linh Ứng - Khánh Tự - Siêu Quần
【皇朝紹治叁年拾壹月拾陸日】 Ngày 6 tháng 11 năm Thiệu Trị thứ 3 (1843)
Phía trước ban Thánh Hiền treo một quả chuông mới đúc sau thời cải cách thay thế cho quả chuông cổ thời vua Thiệu Trị đã bị thất lạc. Sát ngay đầu hồi là ban Hậu Phật gồm 3 tấm bia hậu khắc vào các năm Tự Đức thứ 7 (1854), Bảo Đại thứ 4 (1929) và Bảo Đại thứ 7 (1932).
靈應 Linh Ứng
磬寺 Khánh Tự (Khánh Chùa)
超群 Siêu Quần
皇朝紹治叁年拾壹月拾陸日 ngày 16 tháng 11 năm Quý Mão, Thiệu Trị 3 (1843).
(Thác bản VNCHN, ký hiệu 52952,52953, khánh 2 mặt 68x35cm)
忌日碑記
應和府青威縣超羣社員聀定修寺宇間有阮族眾子應出钱文貳百貫肥田貳畝肆高香燈貳高兹者鳩工既畢竖及
微情鄉中倪旄欲報恒心共請寄忌在本寺期以報劬劳之德而芳名不朽云爾詩曰欲報深恩吴天罔極然眾子慮
善以動香火萬年留于本寺其如忌例具詳子单兹記壹款曰肆高在𡉦外拾貳尺在頭捄近渠処壹高五尺在蒙処
壹高又 在頭捄處壹高壹田在同隊處貳畝
皇朝嗣德柒年五月初陸日
阮伯公字純寬柒月拾壹日忌
阮公正室號慈厚五月初柒日忌
Bia Ghi Ngày Giỗ
Các chức sắc xã Siêu Quần, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa quyết định sửa sang chùa của làng.
Trong dịp này, các con cháu dòng họ Nguyễn đã hưởng ứng công đức 200 quan tiền, hai mẫu bốn sào ruộng tốt
và hai sào ruộng hương đăng. Nay việc xây dựng đã hoàn tất, để ghi lại tấm lòng này, các bô lão trong làng
muốn báo đáp tấm lòng thành ấy, nên đã cùng nhau chấp thuận cho họ Nguyễn được gửi giỗ tại chùa, mong để
báo đáp công đức khó nhọc và để cho danh thơm của những người công đức được lưu truyền mãi mãi.
Kinh Thi có câu: "Muốn báo ơn sâu như trời cao vô cùng". Vậy nên, các con cháu họ Nguyễn vì
lòng thiện mà hành động, cúng tiến để việc hương hỏa cho tổ tiên mình được lưu lại vạn năm tại chùa này.
Các quy định về lệ cúng giỗ sẽ được ghi chi tiết trong một bản đơn riêng. Văn bia này xin ghi lại một khoản:
4 sào tại Ngõ Ngoài, 12 thước tại Đầu Cầu gần kênh, 1 sào 5 thước tại Mỏng, lại 1 sào ở Đầu Cầu, 1 ruộng 2
mẫu tại Đồng Đỗi.
Ngày 6 tháng 5 năm Tự Đức thứ 7 (1854).
Nguyễn bá công, tự Thuần Khoan. Giỗ ngày 11 tháng 7.
Nguyễn môn chính thất, hiệu Từ Hậu. Giỗ ngày 7 tháng 5.
(Thác bản VNCHN, ký hiệu 52951. Bia 1 mặt, cỡ 52x90cm)
寄忌碑記
皇朝保大肆年歲在已巳正月吉日 應和府青威縣大定總超群社員聀耆役會同仝社等修 理亭宇膝昼各伊奉事需費頗廣兹有本
社人黎 氏潤素心好善自出家貨艮壹百元肥田弍畝弍高捌 尺由置本寺香燈壹高弍尺存弍畝壹高陸尺置在本社 仝社認此銀公消此田许作忌保伊夫妻為后至忌日遞 宜祈伊夫妻依于 佛境芳各不朽云尔俾子孫導瓜瓞之期其田各處 所各忌日具開于左計
所頭球處壹高弍尺置在本寺香燈 - 支江参所壹畝弍高 - 中京叁所陸高弍尺 - 頭球處弍高捌尺 - 向上共各所弍畝弍高捌尺
忌日捌月拾肆日正忌 鄭伯公諱勸字純譜府君
....七日正忌 黎氏潤号妙潤孺人
Bia Ghi Gửi Giỗ
Vào ngày lành tháng Giêng năm Bảo Đại thứ tư năm Kỷ Tỵ (1929). Các viên chức, kỳ dịch cùng toàn thể thành viên
của xã Siêu Quần, tổng Đại Định, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, đồng lòng tu sửa đình, tận tâm phục vụ, chi phí tốn kém khá nhiều. Nay có người trong xã là bà Lê Thị Nhuận, vốn có lòng tốt, tự nguyện xuất tiền riêng được 100 đồng bạc và ruộng tốt 2 mẫu 3 sào 8 thước. Trong đó, 1 sào 2 thước được dùng để lo việc hương đèn cho chùa này, còn lại 2 mẫu 1 sào 6 thước được giao cho xã. Toàn thể xã công nhận số bạc này đã được chi dùng vào việc chung, và thửa ruộng này được dùng để làm ruộng kỵ, bảo đảm cho vợ chồng bà sau này đến ngày giỗ sẽ có người cúng tế. Mong cho vợ chồng bà được nương nhờ nơi cõi Phật, thơm danh mãi mãi. Nguyện cho con cháu đời sau nối dõi không ngừng. Các thửa ruộng ở các xứ sở và các ngày giỗ được ghi rõ ở bên trái. Tính cộng:
Tại xứ Đầu Cầu: 1 sào 2 thước dùng cho việc hương đèn của chùa. Tại xứ Chi Giang: 1 mẫu 2 sào. Tại xứ Kênh Trong: 6 sào 2 thước. Tại xứ Đầu Cầu: 2 sào 8 thước. Cộng chung các xứ là 2 mẫu 2 sào 8 thước.
Trịnh bá công, tên húy là Khuyến, tự Thuần Phổ. Giỗ: 14/8.
Lê Thị Nhuận, hiệu Diệu Nhuận. Giỗ 7/?
忌日碑 - Bia Ghi Giỗ
Niên đại Bảo Đại 7 (1932)
Nội dung: ghi ngày mất của người họ Lê
Thác bản VNCHN 52950, bia 1 mặt, khổ 21x35cm.
超拔群倫 Siêu Bạt Quần Luân. Tương tự【近義詞】超群絕倫: Siêu quần tuyệt luân - Vượt hẳn lên trên đám đông, không ai sánh bằng; 出類拔萃: Xuất loại bạt tụy - Vượt trội hơn hẳn người cùng loại, nổi bật hơn hẳn.【Siêu Bạt 超拔】ý chỉ: cất nhắc, đề bạt; siêu quần - xuất sắc, xuất chúng; siêu độ - cứu vớt giải thoát.【Siêu Quần 超群】Chỉ việc vượt lên trên mọi người; xuất loại bạt tụy. Vượt qua đa số mọi người. Thường chỉ tài năng và kỹ nghệ của con người.【Quần Luân 群伦】mọi người, cùng loại, cùng tầng lớp.【Bạt luân 拔倫】vượt hơn những người cùng thế hệ.
龍飛 Long phi: một dạng niên hiệu được sử dụng song song từ thời các Chúa Nguyễn.