LÀNG SIÊU QUẦN
Quần Cư - Kẻ Gùn
Quần Cư - Kẻ Gùn
Siêu Quần (超群) là một làng Việt cổ, xưa kia là một trang có tên là Quần Cư (群居), tên nôm gọi là kẻ Gùn (惃[1]).
群居[2]: Quần Cư: Chỉ nhiều người cùng ở chung với nhau
超群[3]: Siêu Quần: Chỉ việc vượt lên trên mọi người; xuất chúng, kiệt xuất (出類拔萃[4], 超拔群倫[5])
Siêu Quần là một thôn nằm ở phần phía Nam của xã Đại Thanh, thành phố Hà Nội.
Đông giáp địa phận các thôn Vĩnh Thịnh, Vĩnh Trung lấy sông Hoà Bình làm giáp giới. Lại giáp địa phận thôn Nguyệt Áng lấy sông Hoà Bình cùng đường khuyến nông làm giáp giới.
Tây giáp địa phận thôn Thượng Phúc lấy sông máng hút cùng kênh tiêu sông Nhuệ xứ đồng Hạ làm giáp giới.
Nam giáp địa phận các thôn Đan Thầm, Thạch Nham lấy sông Nhuệ làm giáp giới. Lại giáp địa phận thôn Nguyệt Áng lấy sông Hoà Bình cùng đường khuyến nông làm giáp giới
Bắc giáp địa phận thôn Nhân Hoà lấy sông máng hút, đường liên thôn và đường khuyến nông làm giáp giới. Lại giáp địa phận các thôn Tả Thanh Oai Vĩnh Ninh lấy sông Hoà Bình làm giáp giới.
Diện tích khoảng 1,7km2. Phần lớn diện tích là đồng ruộng, đất thổ cư còn lại là các khu gò đống, di tích, ao hồ,...
Dân số khoảng hơn 2000 người. Gồm phần lớn là dân cư gốc và một phần nhỏ dân ngụ cư.
Lịch sử hành chính qua các giai đoạn:
Giai đoạn triều Lê trung hưng:
Từ đầu thế kỷ 16, Siêu Quần là 1 trang có tên là Quần Cư thuộc huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam
Từ thế kỷ 17, Siêu Quần là một xã thuộc huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam
Từ năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741), Siêu Quần là một xã thuộc huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng
Giai đoạn triều Nguyễn:
Từ năm Gia Long 13 (1814), Siêu Quần là một xã thuộc huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, trấn Sơn Nam Thượng
Từ năm Minh Mạng 2 (1821), Siêu Quần là một xã thuộc huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, trấm Sơn Nam
Từ năm Minh Mạng 9 (1828), Siêu Quần là một xã thuộc thuộc tổng Đại Định, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, trấm Sơn Nam
Từ năm Minh Mạng 12 (1831), Siêu Quần là một xã thuộc tổng Đại Định, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Nội
Từ năm Thành Thái 14 (1902), Siêu Quần là một xã thuộc tổng Đại Định, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, tỉnh Cầu Đơ
Từ năm Thành Thái 16 (1904), Siêu Quần là một xã thuộc tổng Đại Định, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông
Giai đoạn 1946 - 1954: chính quyền Quốc gia Việt Nam:
Từ năm 1946 - 1948: Siêu Quần một xã thuộc tổng Đại Định, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hoà, tỉnh Hà Đông
Từ năm 1949 - 1954: Siêu Quần là một xã thuộc tổng Đại Định, huyện Thanh Oai, quận Văn Điển, thành phố Hà Nội
Giai đoạn 1945 - 1976: chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
Từ ngày 20 tháng 10 năm 1947, Siêu Quần là một xã thuộc huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hoà, thành phố Hà Nội
Từ ngày 25 tháng 1 năm 1948, Siêu Quần là một xã thuộc huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội
Từ ngày 7 tháng 5 năm 1948, Siêu Quần là một xã thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông
Từ tháng 2 năm 1949, Siêu Quần là một thôn thuộc xã Đại Thanh, huyện Thanh Oai, tình Hà Đông
Từ ngày 4 tháng 1 năm 1955, Siêu Quần là một thôn thuộc xã Đại Thanh, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông
Từ ngày 17 tháng 5 năm 1961, Siêu Quần là một thôn thuộc xã Đại Thanh, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông
Từ ngày 21 tháng 4 năm 1965, Siêu Quần là một thôn thuộc xã Đại Thanh, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây
Từ năm 1968, Siêu Quần là một thôn thuộc xã Tả Thanh Oai, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây
Từ ngày 27 tháng 12 năm 1975, Siêu Quần là một thôn thuộc xã Tả Thanh Oai, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Sơn Bình
Giai đoạn 1976 - đến nay: chính quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Từ ngày 17 tháng 2 năm 1979, Siêu Quần là một thôn thuộc xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, tp Hà Nội
Từ ngày 1 tháng 7 năm 2025, Siêu Quần là một thôn thuộc xã Đại Thanh, thành phố Hà Nội.
Siêu Quần - 1910
Siêu Quần - 1949
Siêu Quần và các xã thuộc tổng Đại Định
Theo truyền tích: Quần Cư trang thuở sơ khai vốn là vùng đầm lầy lau sậy, nước ngập mênh mông. Các hào kiệt sau những cuộc khởi nghĩa thất bại đã phiêu dạt về đây lập nghiệp, sinh nhai bằng nghề bắt cua cá, cấy trồng, đến việc chặn đường cướp bóc. Do vậy, có một thời người ta gọi nơi đây là "đất nghịch". Ban đầu, dân cư tập trung ở dọc bờ Bắc sông Nhuệ (nay là xứ đồng Hạ, dọc bờ sông Nhuệ, xưa kia tại đây có một ngôi miếu và 2 gốc gạo lớn). Sau một trận lũ lớn, nước ngập đến mái nhà, có một con chó mẹ tha đàn con đến gò đất chếch về phía đông. Dân làng thấy đó là điềm tốt nên sau trận lũ đã chuyển đến gò đất đó sinh sống, tức trung tâm làng bây giờ.
Làng Siêu Quần là nơi dân cư từ nhiều vùng tới sinh sống, đúng như câu ngạn ngữ "Lang bạt Siêu Quần, cao quan Kẻ Lủ". Trong đó, một bộ phận lớn là người từ Thanh Hóa và Thừa Thiên Huế chuyển ra từ đầu thời Lê Trung Hưng. Mặc cho 500 năm đã trôi qua, người dân nơi đây vẫn giữ được những âm gốc từ quê hương. Điều này đã tạo nên nét văn hóa đặc sắc và riêng biệt so với các vùng dân cư xung quanh.
Vào thời Nguyễn, xã Siêu Quần được chia thành 4 thôn: Thượng, Trung, Mỹ và Hạ. Hiện nay, các thôn này tương ứng với 4 xóm: Thượng, Trung, Mỹ (Me), Hạ (Dõn).
Vào thời vua Tự Đức, làng Siêu Quần vinh dự được ban biển ngạch "Mỹ tục khả phong - 美俗可風" vì có công quyên góp cứu tế bần nông.
Dân làng Siêu Quần xưa kia chủ yếu sống bằng nghề đánh bắt cá, vặn móc và làm ruộng, song đa phần ruộng ở đây là chiêm trũng, hàng năm thường bị úng ngập bởi nước lũ sông Nhuệ nên năng suất lúa thấp và bấp bênh. Năm 1939, chính quyền thuộc địa Pháp cho nắn đoạn sông Nhuệ, từ địa phận của làng xuống làng Đan Nhiễm, điều này giúp đồng ruộng của làng và 16 làng khác trong vùng tiêu nước dễ dàng hơn, giảm đáng kể tình trạng úng lụt hàng năm. Đến năm 1942, để hạn chế thêm tình trạng úng lụt, người Pháp tiếp tục cho đào con mương từ gò Quán thuộc làng Vĩnh Thịnh xuống cống Hai Cửa giáp làng Siêu Quần.
Nghề "vặn móc"
Không rõ từ bao giờ, nhưng ở Siêu Quần xưa đã có nghề vặn móc. Nghề này không được xem là nghề chính mà thường được làm thêm vào lúc nông nhàn. Sợi móc được lấy từ cây Móc hoặc cây Báng, cụ thể là phần sợi nằm ở bẹ lá, bao bọc thân chính của cây. Người ta thường chặt các tàu lá và lột lấy các mảng sợi thô. Với những cây lâu năm, họ có thể thu hoạch được những mảng sợi rộng cả mét vuông. Các bó móc thô được mua lại từ những nhà buôn hoặc đôi khi người dân trong làng tự lên rừng lấy. Sau đó, chúng được ngâm ở ao cho đến khi phần thịt cây còn lại thối rữa và tách khỏi sợi Khi đã ngâm đủ thời gian, các bó móc được rũ sạch và phơi nắng cho khô. Sau khi được bó lại, những bó móc lớn thường được người ta treo hoặc gác lên xà nhà để bảo quản. Vặn móc là việc se các sợi đơn lại với nhau để tạo thành những sợi đôi sợi ba dài tương tự như bện dây thừng. Đây là công việc đòi hỏi người làm phải ngồi một chỗ. Bởi quá trình này kết hợp cả hai tay và chân, nên mọi người thường ngồi trên chõng tre, trước hiên nhà,... vài người tụ lại một chỗ vừa làm vừa chuyện. Trước khi vặn, người ta thường lấy một nhúm tro rơm xoa lên ống chân, một tay cầm hai ba sợi móc nhỏ đặt lên ống chân và dùng bàn tay còn lại đặt lên sợi móc và tiến hành se chúng theo một chiều và để thừa lại hai ba phân rồi lấy hai ba sợi móc khác đặt lên phần chưa se đó rồi tiếp tục se như trước. Một sợi móc sau khi vặn có đường kính khoảng 2mm, độ dài tùy thuộc vào người làm, thường là từ vài mét trở lên. Sợi móc thành phẩm được cuộn lại thành từng bó có kích thước bằng khoảng một ống tay, trông khá giống bó miến. Thương lái sẽ đến thu mua từng bó theo cân và bán lại cho những làng nghề đan mành,... và giá thành khá rẻ so với công sức bỏ ra, cho nên đây là nghề không mấy ai mặn mà. Theo thời gian và xu thế phát triển, nghề vặn móc dần trở nên mai một. Đến những năm đầu thế kỷ 21, nơi đây đã không còn ai làm nghề và giữ nghề.
惃 Gùn: hình thanh - như 惃/䁠 gùn ghè, vải nhiều gùn
群居 Quần cư - Chỉ việc nhiều người cùng ở chung với nhau.【出處】《論語·衛靈公》:“羣居終日,言不及義,好行小慧,難矣哉!
超群 Siêu Quần - Chỉ việc vượt lên trên mọi người; xuất loại bạt tụy. Vượt qua đa số mọi người. Thường chỉ tài năng và kỹ nghệ của con người.【出處】《淮南子·繆稱訓》:“同師而超群者,必其樂之者也。”
出類拔萃 Xuất loại bạt tuỵ - Chỉ việc ra khỏi loại đó, vượt trên đám đó. Là phép ví von vượt qua người hoặc vật cùng loại ở chung một chỗ. Thường dùng để hình dung người có tài năng và đạo đức vượt hẳn mọi người.【出處】戰國·孟子《孟子·公孫丑上》:“聖人之於民,亦類也。出於其類,拔乎其萃,自生民以來,未有盛于孔子也。後世據此典故引申出成語“出類拔萃”
超拔群倫 Siêu Bạt Quần Luân. Tương tự【近義詞】超群絕倫: Siêu quần tuyệt luân - Vượt hẳn lên trên đám đông, không ai sánh bằng; 出類拔萃: Xuất loại bạt tụy - Vượt trội hơn hẳn người cùng loại, nổi bật hơn hẳn.【Siêu Bạt 超拔】ý chỉ: cất nhắc, đề bạt; siêu quần - xuất sắc, xuất chúng; siêu độ - cứu vớt giải thoát.【Quần Luân 群伦】mọi người, cùng loại, cùng tầng lớp.【Bạt luân 拔倫】vượt hơn những người cùng thế hệ.