Tác giả: George O. Wood
Giới Thiệu Giáo Trình
PHẦN MỘT: SỰ KHAI SINH HỘI THÁNH
1 Từ Sự Phục Sinh Đến Lễ Ngũ Tuần
2 Lễ Ngũ Tuần
3 Sự Chữa Bệnh Và Những Kết Quả
4 Sinh Hoạt Của Các Sứ Đồ
PHẦN HAI: CƠN BẮT BỚ DẪN ĐẾN SỰ BÀNH TRƯỚNG
5 Êtiên
6 Philíp và Saulơ Người Tạtsơ
PHẦN BA: CÔNG VỤ CỦA PHIERƠ VÀ KHỞI ĐIỂM CỦA CƠ ĐỐC GIÁO DÂN NGOẠI
7 Phierơ
8 Antiốt Và Giêrusalem
PHẦN BỐN: HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO THỨ NHẤT CỦA PHAOLÔ VÀ NGHỊ QUYẾT CỦA CÁC SỨ ĐỒ
9 Hành Trình Truyền Giáo Thứ Nhất
10 Nghị Quyết Của Các Sứ Đồ
PHẦN NĂM: CÔNG TÁC TRUYỀN GIẢNG TRÊN BỜ BIỂN AEGEAN
11 Hành Trình Truyền Giáo Thứ Nhì
12 Hành Trình Truyền Giáo Thứ Ba
PHẦN SÁU: PHAOLÔ DỰ ĐỊNH ĐẾM THĂM RÔMA VÀ ĐI ĐẾN ĐÓ BỞI LỘ TRÌNH KHÔNG LƯỜNG TRƯỚC
13 Từ Milê Đến Giêrusalem
14 Từ Giêrusalem Đến Sêsarê
15 Từ Sêsarê Đến Rôma
Từ Vựng
Giới Thiệu Giáo Trình
Tiếp Cận Sách Công vụ Các Sứ Đồ
Người ta đã nói rằng kết quả của một sự kiện trọng đại thường quan trọng không kém chính bản thân sự kiện đó. Và người mới đọc sách Côngvụ lần đầu tiên sẽ có ấn tượng ngay bởi phần mở đầu của sách: "Hỡi Thêôphilơ, trong sách thứ nhất ta, ta từng nói về mọi đều Đức Chúa Jesus đã làm và dạy từ lúc ban đầu" (Cong Cv 1:1). Do vậy ngay từ đầu, chúng ta đã được biết sách Côngvụ là cuốn tiếp theo của các sách Tin Lành. Câu chuyện về Hội Thánh trong sách nầy là phần tiếp theo tuyệt diệu của câu chuyện độc nhất và vẻ vang về cuộc dời trên đất của Đức Chúa Jesus. Hơn nữa, sách Côngvụ còn cung cấp chìa khóa để hiểu đầy đủ hơn về các sách Thơ tín tiếp sau sách Công vụ, và giải nghĩa Tin Lành mà chính Đức Chúa Jesus đã sống và rao giảng.
Sách Côngvụ là một trong những sách quan trọng nhất của Kinh Thánh. Thiếu sách nầy, lịch sử đương thời sẽ xuất hiện một khoảng trống vĩ đại giữa chức vụ của Chúa Jesus và chức vụ của Hội Thánh. Chuyện gì xảy ra khiến cho các môn đồ của Chúa Jesus, là những người Galilê và người Giuđê vô danh tiểu tốt kia đã trở nên nổi tiếng như thế? Điều gì đã biến đổi sự nhút nhát khiến họ chối thầy và chạy trốn khi Chúa bị đóng đinh trở thành sự dạn dĩ, khiến họ trở nên những người bênh vực trung kiên của một đạo mới? Thể nào mà những người giảng đạo vốn là những người tầm thường kia, những người chưa hề được đào tạo chính thức để làm các rabbi, lại có thể tác động mạnh mẽ đến thế giới, đến nỗi họ đã tạo nên một nền văn hóa hoàn toàn mới, làm thay đổi hình trạng của nền văn minh tây phương? Đâu là nguồn gốc những lẽ thật thần học có trong Tân Ước và được những nhà truyền giáo đầu tiên rao giảng? Chuyện xảy ra thế nào khi một phong trào bắt đầu từ giữa người Do thái, tập trung quanh Đấng Mêsia của người Do thái, và được đặt nền tảng trên Kinh Thánh Do thái giáo, lại trở thành một một tôn giáo được đa số dân ngoại bang tin theo? Những câu hỏi nầy và biết bao câu hỏi khác đã được giải đáp bởi sách Côngvụ, là một mắc nối duy nhất hiện còn tồn tại giữa chức vụ của Đức Chúa Jesus với Cơ đốc giáo đã phát triển vững vàng xuất hiện trong các sách thơ tín của Phaolô và các trước giả Tân Ước khác.
Luca còn đưa vào trong sách Côngvụ câu chuyện gây rúng động thế giới trong 30 năm đầu tiên của Hội Thánh Cơ đốc. Đây là một câu chuyện đầy màu sắc và gay cấn. Thực ra, người ta đã nói sách Côngvụ là một trong những áng văn sinh động nhất của cả văn học. Đương nhiên đây là một trong những văn phẩm quan trọng nhất, vì nó là văn phẩm còn lại duy nhất, có giá trị đích thực, đề cập đến khởi nguồn của lịch sử Hội Thánh.
Sách Côngvụ đã được viết ra cho một nhân vật cụ thể. Câu chuyện của Luca vừa thực tế vừa thích hợp với đời sống của nhân vật nầy (Thêôphilơ), và với thế giới đương thời của nhân vật nầy. Nhưng sách Côngvụ cũng thích hợp và thực tế y như vậy cho riêng từng cá nhân của mỗi chúng ta, vì đây chính là một phần trong Lời được soi dẫn của Đức Chúa Trời. Bạn sẽ không tìm thấy tại đây một hệ thống giáo lý cho hội thánh, cũng không giải nghĩa nhiều về những lẽ thật trọng đại của Tin Lành. Nhiệm vụ đó đã được Đức Thánh Linh giao cho những người được soi dẫn sau này để viết ra các sách thơ tín. Tuy nhiên, bạn sẽ thấy sách Côngvụ tường trình lại Tin Lành bằng hành động; và bạn sẽ có cơ hội tìm thấy những nguyên tắc phổ thông bất diệt được xác nhận qua những sự kiện lịch sử nầy, để hội thánh và Cơ đốc nhân có thể nhờ đó mà sống và hầu việc Đức Chúa Trời.
Khi bạn chuẩn bị bắt tay vào nghiên cứu sách Côngvụ, tôi cầu xin Chúa giúp bạn, cũng giống những thính giả của Phaolô tại thành Bêrê, sẽ "... có ý hẳn hoi... sẵn lòng chịu lấy đạo, ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh..." (Cong Cv 17:11). Sự tiến bộ của bạn trong việc nghiên cứu Côngvụ sẽ tùy thuộc phần lớn vào lòng khao khát, nhiệt tâm và sáng kiến của bản thân bạn để muốn biết Đức Chúa Trời nói gì qua tác phẩm kỳ diệu nầy.
Mô Tả Giáo Trình
Côngvụ Các Sứ Đồ (CA1053 - Tín chỉ: 3 giờ)
Giáo trình nầy đề cập đến chức vụ tiếp theo của Đấng Christ phục sinh trong thế gian nầy qua Đức Thánh Linh. Giáo trình khảo sát những mục đích khiến sách nầy được viết ra. Giáo trình lần theo sự bành trướng về địa lý và trình tự thời gian của Tin Lành từ vùng căn cứ Giêrusalem- Giuđê đến Rome. Tài liệu phân tích nguyên nhân chính khiến hội thánh trong sách Côngvụ tăng trưởng và nỗ lực áp dụng chúng cho các hội thánh địa phương hiện nay. Khi áp dụng các nguyên tắc về sự hướng dẫn thiên thượng như được minh họa trong sách Côngvụ, tài liệu cho thấy thể nào mà những điều được mô tả có vẻ như là những thất bại và cản trở lại trở thành những đắc thắng và những tiến bộ thuận lợi cho Tin Lành, cung cấp những ứng dụng thực tiễn cho những sinh viên nào đang phải trải qua những hoàn cảnh khó khăn tương tự. Giáo trình khảo sát kỹ lưỡng những kết quả của sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Giáo trình đánh giá những hàm ý của sự ban quyền năng thuộc linh nầy ở thế kỷ thứ nhất, và đưa ra những gợi ý thực tiễn cho công tác và chức vụ của hội thánh hiện đại trên phương diện chiến lược thiên thượng và sự ban quyền năng thiên thượng. Và cuối cùng, giáo trình thách thức sinh viên đầy dẫy Đức Thánh Linh để tâm linh được thỏa mãn.
Các Mục Tiêu Của Giáo Trình
Cuối khóa học nầy, bạn sẽ có thể:
1. Chứng minh được rằng một trong những mục đích chính của sách Côngvụ là cho thấy Đấng Christ phục sinh đã thực hiện tiếp chức vụ của Ngài như thế nào trong thế gian nầy thông qua Đức Thánh Linh.
2. Từ bản văn của sách Côngvụ, chứng tỏ vì sao sách được viết ra, và từ sự hiểu biết của bản thân thuật lại sách Côngvụ ngày nay làm ứng nghiệm những mục đích nào trong đời sống bạn và trong hội thánh bạn.
3. Xác định những nhân vật chính và những từ ngữ về địa lý được dùng trong Côngvụ.
4. Lần theo những sự bành trướng về địa lý và trình tự thời gian của Tin Lành từ căn cứ Giêrusalem- Giuđê cho đến Rome.
5. Nêu ra năm trường hợp trong Côngvụ khi mà người ta khởi sự nhận lãnh Đức Thánh Linh, phân tích những kết quả của việc đầy dẫy Thánh Linh, và đích thân kinh nghiệm sự đầy dẫy Đức Thánh Linh.
6. Phân tích những nguyên nhân chính khiến hội thánh tăng trưởng trong sách Côngvụ và áp dụng chúng vào cho hội thánh địa phương của bạn.
7. Bằng cách sử dụng nguyên tắc sự dẫn dắt thiên thượng được minh họa trong sách Côngvụ, chứng tỏ cách bạn có thể biết ý muốn của Đức Chúa Trời để đưa ra những quyết định cụ thể trong đời sống.
8. Minh họa cách Đức Chúa Trời hành động thế nào để đem lại ích lợi
trong mọi sự, bằng cách chứng minh cho thấy thể nào những điều có vẻ như thất bại và cản trở được mô tả trong Côngvụ đã thực sự trở thành những đắc thắng và những tiến bộ thuận lợi cho Tin Lành, và áp dụng những gì bạn học được vào những hoàn cảnh khó khăn mà có thể bạn đang trải qua.
9. Đối diện với hiện tại và tương lai bằng tấm lòng tin quyết hết sức sâu nhiệm rằng Chúa Chí Cao của chúng ta sẽ hoàn thành những mục đích của Ngài trong bạn khi bạn đầu phục ý chỉ Ngài, rằng không có sự gì có thể ngăn được bước tiến của Tin Lành được rao giảng bởi những kẻ tin mạnh mẽ nơi Ngài và khao khát được liên tục đầy dẫy Thánh Linh của Ngài!
Các Sách Giáo Khoa Và Tài Liệu Hướng Dẫn
Bạn sẽ dùng Công Vụ Các Sứ Đồ: Tài Liệu Hướng Dẫn của George O. Wood với các sách giáo khoa được soạn kèm theo:
1. The Book of Acts của F. F. Bruce, Grand Rapids, Michigan: NXB Wm. B. Eerdmans Publishing Company, 1954.
2. Kinh Thánh (Bản New International Version).
Thời Gian Học
Bạn thực sự cần bao nhiêu thời gian cho mỗi bài học thì tùy thuộc một phần vào kiến thức của bạn về đề tài và kỹ năng học tập của bạn trước khi bạn bắt đầu học giáo trình nầy. Nó cũng tùy thuộc mức độ bạn theo đúng những chỉ dẫn khi triển khai các kỹ năng cần thiết cho việc tự học. Vì vậy, hãy lập kế hoạch cho thì giờ học, sao cho bạn làm đúng các câu hỏi nghiên cứu, các bài tự trắc nghiệm, và những bài đánh giá tiến bộ từng phần. Hãy dành đủ thời gian để đạt được các mục tiêu do tác giả tài liệu hướng dẫn nêu ra cũng như những mục tiêu của riêng bản thân bạn nữa.
Cấu Trúc Bài Học Và Mẫu Nghiên Cứu
Mỗi phần được chia thành nhiều bài học. Lớp học tập trung có thể sẽ dành hai hoặc ba tiết trên lớp cho mỗi bài. Bạn có thể sẽ cần từ bốn đến sáu tiếng để chuẩn bị cho mỗi bài. Bài học gồm: 1) tựa bài, 2) mở bài, 3) dàn bài, 4) các mục tiêu bài học, 5) sinh hoạt học tập, 6) phần từ vựng, 7) khai triển bài học, bao gồm cả các câu hỏi nghiên cứu, 8) những câu giải đáp cho các câu hỏi nghiên cứu ở cuối trang thứ nhất hoặc trang thứ nhì sau các câu hỏi đó, và 9) những bài tự trắc nghiệm.
Phần dàn bài và những mô tả giúp bạn nắm sơ lược toàn bài, giúp bạn tập trung chú ý vào những điểm quan trọng nhất đang khi học, và giúp bạn biết nên học những phần nào.
Phần khai triển bài học trong tài liệu hướng dẫn đi theo từng phần một của phần bài đọc trong sách giáo khoa. Điều nầy khiến bạn dễ nghiên cứu kỹ lưỡng tài liệu. Nhờ nghiên cứu bài từng phần một, trước hết là trong sách giáo khoa của bạn rồi đến tài liệu hướng dẫn, bạn có thể tận dụng những thì giờ ngắn thay vì phải chờ cho đến khi có đủ thời gian học trọn bài một lần. Những phần bình luận, những bài tập, và những bài tự trắc nghiệm trong tài liệu hướng dẫn đều được soạn để giúp bạn đạt được mục tiêu của mỗi bài học.
Đừng xem trước những câu giải đáp cho đến khi bạn viết ra xong những câu trả lời của chính mình. Nếu tự trả lời, bạn sẽ nhớ những điều đã học tốt hơn nhiều, và sẽ thành công nhiều hơn trong kỳ thi cuối khóa. Sau khi bạn đã trả lời những câu hỏi vào một trang giấy hay câu hỏi về một đề tài, hãy kiểm lại câu trả lời của bạn với phần giải đáp ở trang thứ nhất hay trang thứ nhì sau những câu hỏi đó.
Điều quan trọng là suy gẫm những từng trải cá nhân của bạn trong tinh thần của những điều bạn vừa học, và áp dụng kiến thức đã học vào những hoàn cảnh mà bạn biết. Vì không phải lúc nào cũng có thể đưa ra câu trả lời cụ thể thích hợp với những từng trải và những hoàn cảnh rất đa dạng của sinh viên, nên khi tài liệu không đưa ra câu giải đáp gợi ý, chúng tôi đề nghị bạn thảo luận câu trả lời của mình với một người nào đó. Việc thảo luận những câu hỏi và những đề tài sẽ kích thích sự nghiên cứu của bạn.
Mẫu cơ bản của phần cấu trúc và nghiên cứu bài học trong một số bài được làm phong phú thêm bởi những công tác được liệt kê ngay đầu bài học hay được giải thích trong phần khai triển bài học.
Hãy dùng vở ghi của bạn khi cần để viết ra những phần sau: câu trả lời cho những câu hỏi nghiên cứu (khi không có những dòng dành sẵn trong tài liệu hướng dẫn), những dàn bài, những bài viết được giao khác, những ghi chú mà bạn chép lại để đạt được những mục tiêu của bài học, và những từ ngữ mà ý nghĩa của chúng là quan trọng trong mạch văn của bài học nhưng không được giải nghĩa rõ trong tài liệu hướng dẫn hay trong sách giáo khoa. Bạn cũng có thể ghi chép ngay trên phần lề rộng của tài liệu hướng dẫn.
Những Phương Pháp Nghiên Cứu
Đừng quên đọc cẩn thận những phần gợi ý phương pháp nghiên cứu có trong tập học viên của bạn. Chúng sẽ giúp bạn biết cách ICI đòi hỏi bạn nghiên cứu một bài học, ôn bài để làm bài đánh giá tiến bộ tiến bộ từng phần (bài thi) cho một nhóm bài học, và chuẩn bị thi cuối khóa cho tất cả các bài học như thế nào. Nếu bạn không quen học theo như cách ICI gợi ý, thì điều quan trọng là bạn phải điều chỉnh những phương pháp học nầy để đạt được thành công cao nhất trong khóa học.
Những Phương Thức Để Nghiên Cứu Giáo Trình Nầy
Bạn có thể tự học giáo trình nầy, hoặc học theo nhóm hay theo lớp tại nơi có lớp học nầy. Vì ICI cung cấp giáo trình nầy để tự học, nên tài liệu hướng dẫn được soạn chủ yếu cho phương pháp tự học. Tài liệu hướng dẫn và sách giáo khoa hình thành nên toàn bộ giáo trình nầy. Tất cả mọi công việc của bạn, ngoại trừ bài thi cuối khóa, đều có thể hoàn tất qua đường bưu điện.
Có lẽ bạn đã theo học giáo trình nầy tại một Trường Kinh Thánh, trong một chương trình mở rộng của một trường nào đó, hay trong chương trình mở rộng của chính ICI. Những chương trình như thế có thể đã kết hợp một số hoạt động tại lớp với phần tự học. Trong bất cứ trường học nào hay bất cứ nhóm học nào, việc làm các bài tập trong tài liệu hướng dẫn sẽ giúp bạn đáp ứng được các yêu cầu của giáo trình nầy.
Nếu bạn học tài liệu nầy theo nhóm hoặc theo lớp, tất cả những chỉ dẫn dành cho các bạn sẽ được cung cấp bởi giáo viên - là người đích thân gặp gỡ với các bạn. Giáo viên của bạn có thể không cần theo đúng toàn bộ các gợi ý và các chỉ dẫn trong tài liệu hướng dẫn. Những chỉ dẫn của giáo viên sẽ ưu tiên hơn những chỉ dẫn trong tài liệu hướng dẫn. Hãy cẩn thận làm đúng theo các chỉ dẫn của giáo viên.
Có thể là bạn thích sử dụng giáo trình nầy cho một nhóm học Kinh Thánh tại tư gia, cho một lớp học Kinh Thánh tại hội thánh, hay học chung với các sinh viên trong một trường đại học. Bạn sẽ thấy cả đề tài lẫn những phương pháp học là phù hợp tuyệt vời cho những mục đích như thế. Tài liệu hướng dẫn sẽ là một công cụ hỗ trợ vô giá cho cả giáo viên cũng như cho học viên.
Tín Chỉ Cho Khóa Học
Đây là một giáo trình đại học. Bạn có thể theo học để lấy tín chỉ với ICI hay với bất kỳ cơ quan nào khác có chương trình nầy. Mọi sinh viên nào hoàn tất thành công giáo trình nầy đều sẽ nhận được chứng chỉ trong chương trình giáo dục của chúng tôi. Tuy nhiên nếu muốn, bạn có thể theo học mà không cần lấy tín chỉ. Trong trường hợp nầy, bạn không cần phải viết ra bất cứ trang giấy, không cần làm bài thi hay làm bất cứ công tác nào khác. Đời sống bạn sẽ càng thêm phong phú khi đọc sách giáo khoa và tài liệu hướng dẫn nầy theo bất cứ cách nào bạn thích trong khi học.
Tín Chỉ Cho Kỳ Thi
Để nhận được tín chỉ của ICI cho giáo trình nầy, bạn phải thi đậu kỳ thi cuối khóa. Bài thi nầy phải được viết ra trước mặt một giám thị do ICI chỉ định. Vì chúng tôi có giám thị tại rất nhiều quốc gia, nên có lẽ bạn sẽ không khó gặp một giám thị trong vùng của bạn của bạn đâu. Giáo viên ICI của bạn sẽ làm việc chi tiết với bạn.
Nếu bạn theo học giáo trình nầy để lấy tín chỉ với một cơ quan khác, bạn cũng có thể nhận được tín chỉ của ICI bằng cách thi đậu kỳ thi cuối khóa của chúng tôi. Vì các bài tập trong tài liệu hướng dẫn được soạn để chuẩn bị bạn cho kỳ thi, nên có thể bạn cần làm hết mọi bài tập ngoài công tác thường lệ do giáo viên của bạn tại lớp giao cho.
Dầu bạn học tài liệu nầy theo cách nào đi nữa, bạn cũng sẽ nhận được tín chỉ của chúng tôi nếu bạn đậu kỳ thi cuối khóa.
Xếp Hạng Cho Khóa Học
Việc xếp hạng của bạn sẽ được căn cứ vào điểm của bài thi cuối khóa. Điểm từ 90-100 sẽ được kể là A (Ưu); 80-89, B (trên trung bình); 70-79, C (trung bình; 60-69, D (dưới trung bình); 0-59, U (Rớt).
Bài Đánh Giá Tiến Bộ Từng Phần
Nếu bạn tự học với ICI, bạn đã nhận được tập học viên, trong đó có Bài Đánh Giá Tiến Bộ Phần 1 (từ Bài 1-4), Bài Đánh Giá Tiến Bộ Phần 2 (từ Bài 5-6), Bài Đánh Giá Tiến Bộ Phần 3 (từ Bài 7-8), Bài Đánh Giá Tiến Bộ Phần 4 (từ Bài 9-10), Bài Đánh Giá Tiến Bộ Phần 5 (từ Bài 11-12), Bài Đánh Giá Tiến Bộ Phần 6 (từ Bài 13-14). Những chỉ dẫn để làm bài sẽ có trong tài liệu hướng dẫn và trong tập học viên.
Bài Thi Cuối Khóa
Bài thi cuối khóa bao trùm toàn bộ tài liệu trong tất cả sáu Bài Đánh Giá Tiến Bộ Từng Phần.
Tác Giả Của Tài Liệu Hướng Dẫn
Tác giả tài liệu hướng dẫn của bạn là Tiến sĩ George O. Wood, hiện là mục sư của trung tâm Newport-Mesa Christian Center, là nơi ông đã hầu việc Chúa từ năm 1971.
Tiến sĩ Wood đã có một chức vụ phong phú và đa dạng kể từ khi ông hợp tác với Hội thánh Assemblies of God vào năm 1967. Ngoài những trách nhiệm mục vụ, ông còn lo hai chương trình truyền thanh và truyền hình hàng ngày, là Đấng Christ, Lời Hằng Sống , và Bánh Hằng Sống kể từ năm 1972. Sự đóng góp của ông cho những tạp chí Cơ đốc định kỳ thật không sao kể hết, và ông còn là tác giả của hai cuốn sách khác nữa. Ông đã phục vụ với tư cách giáo sư bán thời gian tại viện Đại học Southern California College ở khoa Tôn Giáo, và với tư cách Giáo Sư Thỉnh Giảng tại Viện Fuller Theological Seminary. Kinh nghiệm hầu việc Chúa của ông còn bao gồm cả công tác giảng dạy về công tác truyền giáo cho những nhóm thanh niên ở trường trung học và cao đẳng cũng như cho những hội đồng bồi linh.
Sau khi nhận được học vị cử nhân từ viện Evangel College tại Springfield, Missouri, ông đã nhận được học vị cử nhân thần học tại viện Fuller Theological Seminar ở Pasadena, California. Ông cũng nhận được học vị Doctor of Th.P.của Chủng viện Fuller Theological Seminary.
Giáo viên ICI Của Bạn
Giáo viên ICI của bạn sẽ sung sướng giúp bạn hết sức mình. Hãy nêu mọi thắc mắc của bạn với giáo viên về việc thu xếp cho kỳ thi cuối khóa. Hãy viết thư kịp lúc cho giáo viên để tránh bị chậm trễ giữa việc bạn ôn thi và làm bài thi. Nếu có nhiều người muốn học chung, hãy yêu cầu giáo viên thu xếp đặc biệt cho việc học theo nhóm.
Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho bạn khi bạn bắt đầu học sách Công Vụ Các Sứ Đồ. Nguyện giáo trình nầy làm phong phú đời sống và chức vụ của bạn và giúp bạn làm trọn phần việc của mình cách hữu hiệu hơn trong thân thể của Đấng Christ.
Từ Sự Phục Sinh Đến Lễ Ngũ Tuần
Phần giới thiệu cho sách Công vụ trong đoạn 1 đã xác lập bầu không khí cho hoạt động của Thánh Linh trong Hội Thánh. Phần nầy đề cập đến hai đề tài: 1) Những đối thoại của Chúa chúng ta với các môn đồ trước lúc Chúa thăng thiên, và 2) Việc chọn Ma-thia điền vào chỗ trống của chức sứ đồ do sự phản bội và cái chết của Giuđa Íchcariốt.
Một trong những mạng lệnh chót quan trọng nhất mà Chúa Jesus truyền cho các môn đồ ấy là họ phải ở lại trong thành Giêrusalem cho đến khi "được mặc lấy quyền phép từ trên cao." Điều tối ưu tiên của Ngài dành cho những hạt nhân nòng cốt của Thân Thể Ngài trên đất là việc nhận lãnh quyền năng và sự xức dầu của Đức Thánh Linh. Chỉ khi đó họ mới có thể thực hiện được sự thách thức để trở thành những chứng nhân cho toàn thế gian!
Thủ tục nầy đem lại cho chúng ta một bài học. Chúng ta có thể làm gì kém hơn việc được đầy dẫy Đức Thánh Linh khi chúng ta thực thi cùng một thách thức như thế chăng? Bài học nhấn mạnh những đòi hỏi quy định cho một chức vụ giảng Tin Lành kết quả và sinh hoạt của hội thánh, bằng cách nhấn mạnh việc chuẩn bị tâm linh một cách thích đáng. Khi tìm cách áp dụng những bài học thực tiễn nầy vào chức vụ và đời sống tận hiến của bạn, bạn sẽ càng đánh giá cao hơn chức vụ của Đức Thánh Linh trong công tác truyền giảng Tin Lành. Và bạn sẽ cảm nhận được sự hiện diện của Đức Thánh Linh nhiều hơn trong những sinh hoạt khi bạn liên tục mở rộng chiều hướng thuộc linh nầy trong đời sống bạn.
Dàn bài
Khái Quát Về Sách Công Vụ
Mục Đích Của Sách
Trước Giả Của Sách
Niên Hiệu Của Sách
Những Đặc Trưng Hàng Đầu Của Sách
Chức Vụ Của Chúa Jesus Sau Khi Phục Sinh
Sự chọn lựa Mathia
Tóm Tắt Và Nhận Diện
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Thảo luận ít nhất hai phương diện của sự dạy dỗ sau phục sinh của Chúa Jesus về Nước Đức Chúa Trời.
Mô tả bốn mục đích chính của trước giả khi viết sách Côngvụ.
Kể ra bốn phẩm chất của cộng đồng Cơ đốc sơ khai trong việc tuyển chọn Mathia để thay thế cho Giuđa Íchcariốt.
Sinh hoạt học tập
1. Đọc phần giới thiệu tài liệu hướng dẫn. Đặc biệt lưu ý đến những mục tiêu của giáo trình.
2. Nghiên cứu phần dàn bài và các mục tiêu bài học. Những phần nầy sẽ giúp bạn xác định được những vấn đề nên cố gắng học trong phần nghiên cứu bài.
3. Đọc nhanh qua hết sách Côngvụ để nắm khái quát trước khi bắt đầu vào tài liệu hướng dẫn.
4. Đọc sách giáo khoa theo chỉ dẫn trong phần khai triển bài học.
5. Nghiên cứu từng phần một trong phần khai triển bài học, trả lời hết mọi câu hỏi nghiên cứu, rồi kiểm câu trả lời của bạn với phần giải đáp của chúng tôi.
6. Những câu hỏi nghiên cứu trong bài nầy bao gồm một số những câu hỏi chọn lựa. Bạn phải chọn (những) câu trả lời đúng nhất. Để báo hiệu câu trả lời bạn chọn, khoanh tròn (những) mẫu tự đứng trước (những) câu trả lời bạn đã chọn.
7. Làm bài tự trắc nghiệm ở cuối bài học nầy, rồi kiểm tra cẩn thận những câu trả lời của bạn với phần giải chúng tôi đã cho trong tập học viên. Xem lại bất cứ những phần nào bạn trả lời chưa đúng.
Từ vựng
Việc hiểu được các từ khóa chúng tôi liệt kê ra ở đầu mỗi phần khai triển bài học sẽ giúp rất nhiều cho việc học của bạn. Bạn sẽ thấy chúng được định nghĩa theo thứ tự acb ở cuối tài liệu hướng dẫn. Nếu bạn không chắc chắn về ý nghĩa của bất cứ từ nào trong phần nầy, bạn có thể tra ngay, hoặc tra khi bạn gặp từ ấy trong bài.
kẻ bội đạo apostate
kinh điển canon
phép cắt bì circumcision
dân ngoại Gentile
Cơn Đại Hỏa Hoạn 64 S.C.. Great Fire A.D 64
thuộc tà giáo. heretical
vô ngộ infallible
học thuật phái tự do liberal scholarship
mệnh lệnh mandate
Marcion Marcion
tuận đạo martyr
câu chuyện narrative
không xúi giục nổi loạn nonseditious
bị ngăn cản precluded
quan tổng đốc proconsul
quan trấn thủ procurator
bác bẻ refute
có uy tín reputable
Tòa Công Luận Sanhedrin
xúi giục nổi loạn seditious
những khán giả spectators
vết nhơ stigma
thần học theology
phản bội treachery
luận thuyết treatise
quan quản cơ tribune
cơ sở hiệu lực vadility
Khai triển bài học
KHÁI QUÁT VỀ SÁCH CÔNG VỤ
1:1-26 Bruce 15-23
Mục tiêu 1. Giải thích tầm quan trọng của sách Côngvụ như là chiếc cầu nối giữa các sách Tin Lành với phần còn lại của Tân Ước.
Nếu bạn chưa đọc qua toàn sách Côngvụ, hãy bắt đầu bằng cách đọc nhanh theo chỉ dẫn trong phần sinh hoạt học tập. Hãy cố nắm sơ lược trình tự các sự kiện, nhưng đừng để quá nhiều thì giờ vào bất cứ phần nào. Hãy đọc ngay, trước khi bắt đầu nghiên cứu từng phần một.
Sau khi đọc xong cả sách, đọc kỹ lại 1:1-26. Cố phát biểu nội dung của khúc Kinh Thánh nầy bằng một câu tóm tắt. Lưu ý rằng lúc nầy bạn phải quan tâm đến những yếu tố chính. Sau đó đọc nội dung trong Bruce. Từ bây giờ trở đi, đọc phần bài đọc theo chỉ dẫn của phần khai triển bài học. Những phần bài đọc tập trung vào tài liệu của những phần tiếp theo.
Tiếp tục phần thảo luận dưới đây. Đây sẽ là mẫu nghiên cứu trong suốt tài liệu hướng dẫn nầy.
Sách Côngvụ liên kết các sách Tin Lành với các sách Thơ tín và Khảihuyền. Nếu không có sách Côngvụ, thì Tân Ước sẽ mất tính liên tục. Chúng ta sẽ nhảy từ sách Giăng sang thẳng sách Rôma mà không biết gì về sự khai sinh hội thánh. Chúng ta sẽ không biết Tin Lành được truyền từ Giêrusalem đến Rome như thế nào, các sứ đồ đã làm gì sau khi Chúa phục sinh, các hội thánh được nhắc đến trong các sách thư tín đã được thành lập như thế nào, hoặc sứ đồ Phaolô là ai. Tóm lại, sách Công vụ là cơ sở để chúng ta hiểu về lịch sử Tân Ước cùng sự khai sinh, tăng trưởng và phát triển của hội thánh.
1. Dựa vào phần bài đọc trong Bruce, bạn nói những câu nào sau đây là ĐÚNG? Khoanh tròn mẫu tự của câu ĐÚNG trong bài tập nầy và trong những bài tập chọn câu ĐÚNG-SAI về sau.
a Sách Côngvụ được sưu tập trước tiên vào trong tuyển tập các thư tín của Phaolô.
b Sách Côngvụ là quyển thứ hai trong bộ lịch sử nguồn gốc Cơ đốc giáo, quyển thứ nhất là sách Tin Lành Luca.
c Sách Côngvụ được tách khỏi sách Luca khi các sách Tin Lành được sưu tập thành một bộ.
d Sách Côngvụ giữ một vai trò quan trọng trong việc xác nhận tính hiệu lực của các sách Tin Lành và các thư tín của Phaolô trong thời kỳ gặp thách thức của tà giáo Marcion vào giữa thế kỷ thứ hai. Sách Côngvụ đưa ra các bằng chứng về tư cách sứ đồ của Phaolô và bằng chứng về tư cách sứ đồ của các sứ đồ khác.
Mục Đích Của Sách
Mục tiêu 2. Kể ra những phần lớn của sách Côngvụ, và liệt kê ít nhất bốn mục đích lớn của trước giả sách Côngvụ.
Sách Côngvụ có thể chia theo nhiều cách khác nhau. Cách phổ biến nhất xem 1:8 là chìa khóa địa lý cho sách nầy.
1. Giêrusalem (1:1-8:1)
2. Giuđê - Samari (8:1-11:18)
3. Thế giới (11:18-28:21)
Một số học giả chia bố cục sách Côngvụ làm hai phần. Điểm nhấn mạnh trọng tâm chính là công vụ của các sứ đồ nầy:
- Phierơ (1:1-12:35)
- Phaolô (13:1-28:31)
2. Bây giờ xem phần Mục Lục của tài liệu hướng dẫn nầy, và xem sáu phần của giáo trình. Viết bố cục sách Côngvụ vào những dòng dưới đây. Chúng ta sẽ dùng bố cục nầy trong suốt tài liệu.
a Phần 1 ..........
b Phần 2 ..........
c Phần 3 ..........
d Phần 4 ..........
e Phần 5 ..........
f Phần 6 ..........
3. Dành năm phút tập trung vào cách chia nầy. Bây giờ, bạn có thể lập lại thuộc lòng bố cục trên đây không? Hãy học cho đến khi bạn có thể viết lại thuộc lòng vào một tờ giấy rời.
4. Khi bạn đọc nhanh qua sách Côngvụ, viết lại cảm nghĩ của bạn về hai mục đích lớn của trước giả khi viết ra sách nầy.
a ..........
b ..........
Chúng ta hãy khảo sát bốn mục đích lớn của sách Côngvụ, ngoài mục đích chính mà trước giả đã nêu ra.
Trong 1:8, chúng ta thấy mục đích đầu tiên trong số bốn mục đích viết sách Côngvụ. Câu Kinh Thánh nầy chỉ ra sự phát triển về địa lý của Tin Lành mà Chúa Jesus đã phát họa. Mục đích ở đây là nêu ra nguồn gốc và sự phát triển hội thánh bằng cách cho thấy cách Tin Lành được truyền từ trụ sở Giêrusalem đến Rome. Trong chừng mực các sự kiện của sách Côngvụ kết thúc tại Rome, ta thấy trước giả không có ý triển khai trọn vẹn câu "cho đến cùng trái đất."
Theo Bruce (trang 20-22), một mục đích khác nữa của sách Côngvụ là để biện giải (thân oan). Sách được viết nhằm bênh vực Cơ đốc giáo, bằng cách nhận định rằng đó là một đạo không xúi giục nổi loạn chống chính quyền Lamã. Cơ đốc giáo vào nửa cuối thế kỷ thứ nhất bị mọi người kết tội nổi loạn (Bruce, trang 20-22), tức là xúi giục nổi loạn chống lại thẩm quyền của nhà nước hoặc bằng lời nói, hoặc bằng lối sống. Trước giả sách Côngvụ muốn bênh vực Cơ đốc giáo trước những lời buộc tội nầy, mục đích của ông trong sách biện giải nầy là nhằm xác nhận đặc điểm tuân giữ luật pháp của Cơ đốc giáo.
5. Những biến cố lớn sau đây trong sách Côngvụ minh họa mục đích thứ ba của sách là tuyên bố rằng Tin Lành dành sẵn cho mọi người một cách phổ thông. Bạn có thể ghép những biến cố sau với đoạn hay những đoạn Kinh Thánh chép về biến cố đó?
.... a Ngày Lễ Ngũ Tuần.
.... b Thông qua Giáo Hội Nghị Giêrusalem, các Cơ đốc nhân dân ngoại được công nhận bình đẳng với các tín đồ Do Thái.
.... c Philíp giảng đạo tại Samari.
.... d Thành lập hội thánh dân ngoại tại Antiốt xứ Syri.
.... e Những chuyến truyền giáo của Phaolô.
.... f Phierơ chấp nhận Cọtnây.
2) 10:1-11:30
3) 13:1-20:38
4) 11:1-30
5) 2:1-47
6) 8:1-40
6 Mục đích thứ tư của sách Côngvụ là chỉ ra tư cách sứ đồ của Phaolô cũng được khẳng định bằng những dấu hiệu giống y như tư cách của Phierơ. Khi bạn đối chiếu những câu Kinh Thánh sau, bạn thấy những điểm tương tự nào trong những biến cố siêu nhiên xuất phát từ chức vụ của Phierơ và Phaolô?
Phierơ
a 3:2-8
b 5:15
c 5:16
d 8:18-24
e 9:36-41
Phaolô
7. Từ sách giáo khoa và từ Kinh Thánh, chúng ta thấy bốn mục đích lớn mà trước giả dành cho sách Côngvụ. Chọn ra bốn mục đích nầy từ danh sách dưới đây. Khoanh tròn mẫu tự trước mỗi câu bạn chọn.
a) Lần theo sự phát triển của Cơ đốc giáo trong thế kỷ thứ hai S.C.
b) Ký thuật về sự khai sinh, sự phát triển, và sự bành trướng của hội thánh từ lúc đầu tại thành Giêrusalem cho đến kinh đô Rome.
c) Để làm sách biện giải cho Cơ đốc giáo bằng cách nêu ra đặc điểm tuân giữ luật pháp của Cơ đốc nhân.
b) Để chứng minh Tin Lành dành sẵn cho mọi người.
e) Cung cấp bản ký thuật về trận hỏa hoạn tại Rome năm 64 S.C. và sự thất thủ của Giêrusalem vào năm 70 S.C.
f) Để chứng minh Phaolô cũng có những bằng chứng nhận cho tư cách sứ đồ y như Phierơ.
Trước Giả Của Sách
Bruce 19
Mục tiêu 3. Thảo luận nội chứng trong Tân Ước đã hàm ý rằng Luca là trước giả sách Côngvụ.
Trước giả của sách Luca - Côngvụ (đọc LuLc 1:1-4; Cong Cv 1:1) không hề nêu đích danh tên mình. Sự có mặt của ông trong câu chuyện lịch sử nầy được nêu ra trong bốn dịp khác nhau bởi đại từ số nhiều "chúng ta."
8. Ghi địa danh của trước giả trong mỗi phần “chúng ta” nầy:
a 16:10-17
b 20:5-15
c 21:1-18
Tóm tắt những câu Kinh Thánh ở trên, ta thấy trước giả sách Côngvụ đã đi cùng Phaolô trong phần đầu của hành trình truyền giáo thứ nhì tại Trôách. Tác giả cùng Phaolô vượt biển Aegean đến Philíp, ở lại tại Philíp cho đến cuối hành trình truyền giáo thứ ba của Phaolô. Sau đó, ông cùng những bạn đồng lao khác đến với Phaolô để đi Giêrusalem, nhằm mục đích đem của quyên góp đến cho các thánh đồ thiếu thốn, do các hội thánh dân ngoại theo lời Phaolô gởi dâng cho họ. Và cuối cùng, ông đã cùng Phaolô lên thuyền từ Sêsarê đến Rome, cứ ở với Phaolô khi bị giam tại Rome.
9. Những câu nào sau đây về trước giả sách Côngvụ được chính Kinh Thánh chỉ ra? Khoanh tròn mẫu tự của những câu đúng.
a) Kinh Thánh cho thấy ông đến từ Giêrusalem và là một người Do thái.
b) Dầu tên ông không có trong sách Côngvụ, nhưng sự có mặt của ông được chỉ ra trong suốt 15 đoạn đầu.
c) Ông là bạn đồng hành của Phaolô.
d) Hẳn ông đã có thời gian và dịp tiện nghiên cứu chức vụ của Chúa Jesus và nguồn gốc của hội thánh tại Giêrusalem trong hai năm Phaolô bị tù tại Sêsarê, Syri.
Những câu sau đưa chúng ta đến suy luận cuối cùng:
1. Trước giả của sách Luca - Côngvụ là bạn đồng hành của Phaolô khi bị giam tại Rome (28:1-31).
2. Rất có thể trước giả sẽ được nêu tên trong các thư tín trong tù của Phaolô (Êphêsô, Philíp, Côlôse, Philêmôn) được viết trong thời gian cầm tù ghi lại trong 28:1-31, nhưng không được nêu tên trong những phần "chúng ta" của sách Côngvụ.
3. Những tên gọi duy nhất thỏa đáp những điều kiện trên đây là: Mác, Giêsu Giúttu, Đêma, Luca, Épbaphôđích.
4. Luca được nhắc đến trong CoCl 4:10, 14 và Phil Plm 1:24.
5. Truyền thống lịch sử khẳng định mạnh mẽ quyền tác giả của Luca.
6. Chính Kinh Thánh không nêu ra bằng chứng nào trái với truyền thống.
7. Ngoài mối liên hệ mật thiết với Phaolô, trước giả đã căn cứ vững vàng vào việc phỏng vấn những chứng nhân trực tiếp và việc đọc các tư liệu khác, để viết ra bộ sách lịch sử gồm hai quyển nầy.
Do đó, có thể kết luận cách hợp lý nhất rằng: Luca là trước giả (trước giả dân ngoại duy nhất trong Kinh Thánh.) Và ông đã nghiên cứu nguồn gốc của những Cơ đốc nhân tại Palestine trong thời gian Phaolô bị tù hai năm tại Sêsarê xứ Syri. (Xem CoCl 4:10-14 về bằng chứng Luca không phải là người chịu cắt bì .)
Niên Hiệu Của Sách
Bruce 17-22.
Mục tiêu 4. Giải thích vì sao niên hiệu khả dĩ nhất cho việc viết sách Côngvụ là trước năm 64 S.C.
Niên hiệu của sách Côngvụ mang nhiều hàm ý quan trọng trong việc nghiên cứu Tân Ước. Nền học thuật phái tự do thường đưa ra những niên hiệu trễ cho các sách Tân Ước. Họ làm vậy để hỗ trợ quan điểm xem tính đáng tin cậy về mặt lịch sử của những phần chính trong Tân Ước là có thể không đáng tin, do chúng được viết ra rất lâu sau khi các sự kiện đó xảy ra. Sách Côngvụ là trung tâm bàn cãi, vì người ta có thể xác nhận rằng sách Tin Lành Luca viết trước sách Côngvụ. Hơn thế nữa, có thể mạnh dạn tranh luận rằng Mác được viết trước Luca. Ví dụ, nếu Côngvụ được viết trước năm 64 S.C., thì Mác và Luca bắt buộc phải có trước những năm 50 hay đầu những năm 60 của thế kỷ thứ nhất. Nền học thuật phái tự do thích đưa ra một niên hiệu trễ thêm từ 20 đến 30 năm, để củng cố quan điểm của họ cho rằng Tin Lành là thần học về Chúa Jesus của hội thánh chứ không phải lịch sử thực tế về Chúa Jesus. Tuy nhiên, niên hiệu trước năm 64 S.C. cho sách Mác và sách Luca- Côngvụ có nghĩa là câu chuyện về Chúa Jesus và sự khai sinh hội thánh đã được viết ra ngay trong đời của thế hệ tận mắt chứng kiến chức vụ của Chúa Jesus! Nếu Mác và Luca là những tác phẩm tưởng tượng ra chứ không phải lịch sử, thì bạn có thể biết chắc rằng chúng sẽ bị vô số chứng nhân trực tiếp chỉnh lý lại (ICo1Cr 15:6).
10. Hai biến cố xảy ra trong thập niên 70 S.C. không được ghi lại trong lịch sử hay trong môi trường của sách Luca - Côngvụ. Theo Bruce (trang 22), đó là những biến cố nào?
a. Năm 64 S.C. .........
b. Năm 70 S.C. .........
Sách Côngvụ kết thúc mà không nói gì đến việc hoàng đế bắt bớ Cơ đốc nhân, như là cơn bắt bớ đời Neron vào năm 64 S.C. Niên hiệu chắc chắn cho thời gian Phaolô bị tù ở Rome, như được ghi lại trong Cong Cv 28:1-31, là năm 61- 63 S.C. Hơn nữa, sách Côngvụ không nói gì đến sự tàn phá Giêrusalem và đền thờ.
11. Những câu nào sau đây rất có thể ĐÚNG?
a. Sách Côngvụ được viết trước năm 64 S.C.., vì những nội chứng và môi trường trong Tân Ước và sách Côngvụ hỗ trợ cho quan điểm nầy.
b. Sách Côngvụ được viết trước năm 64 S.C., vì đó là niên hiệu mà Luca đã ghi ra.
c. Sách Côngvụ được viết trước năm 64 S.C., vì không thể có một niên hiệu nào khác.
Những Đặc Trưng Hàng Đầu Của Sách
Bruce 23-27.
Mục tiêu 5. Nhận ra những đặc trưng hàng đầu của sách Côngvụ nói chung.
12. Bạn có thể kể ra một số đặc trưng hàng đầu của sách Côngvụ không? Dựa vào phần đọc sách Côngvụ, không thêm vào ý tưởng nào khác nữa, hãy viết ra ít nhất ba ấn tượng mạnh của bạn về sách Côngvụ.
a. Tôi cảm thấy sách Côngvụ bày tỏ ..........
b. Theo tôi, sách Côngvụ ..........
c. Sách Côngvụ áp dụng cho tôi ở chỗ ..........
13. Bạn sẽ thấy những đặc trưng khác khi nghiên cứu sách Côngvụ. Từ những cặp câu sau đây, khoanh tròn chữ số của câu ĐÚNG trong mỗi cặp.
a.
1) Luca viết sách lịch sử giống như cách người ta nêu ra những lời mô tả hằng ngày, chi tiết, theo đúng trình tự.
2) Luca viết sách lịch sử giống như một thợ chụp ảnh chụp hàng loạt bức ảnh rồi từ đó phát họa cho chúng ta những khoảnh khắc và những nhân vật tuyệt vời của thời kỳ đó.
b.
1) Luca kể câu chuyện về cách Tin Lành lan truyền qua chức vụ của mỗi một người trong mười hai sứ đồ.
2) Luca kể câu chuyện về cách Tin Lành lan truyền chủ yếu qua chức vụ Phierơ và Phaolô.
c.
1) Luca kể về cách Tin Lành đến với mỗi quốc gia trong vùng Địa Trung Hải vào thế kỷ thứ nhất.
2) Luca kể về cách Tin Lành vượt ra khỏi khung cảnh Giêrusalem và Palestine để đến với những vùng Lamã là Galati, Achai, Maxêđoan, Châu Á, và cuối cùng đến chính Lamã.
d.
1) Hai trung tâm hàng đầu trong sự bành trướng Tin Lành của sách Côngvụ là Giêrusalem và Antiốt xứ Syri.
2) Hai trung tâm hàng đầu trong việc bành trướng Tin Lành là Giêrusalem và Athên.
e.
1) Luca ghi lại nhiều bài diễn thuyết và nhiều bài giảng trong sách Côngvụ, một vài bài trong số đó là của những người chưa tin Chúa.
2) Luca viết thể loại lịch sử mà không hề thấy ông trích những lời người khác đã nói.
f.
1) Luca trình bày Đức Thánh Linh là bí quyết thành công của Tin Lành.
2) Luca chứng tỏ rằng nếu những con người nhân đức dùng những chiến lược tốt thì dứt khoát Tin Lành sẽ thành công.
CHỨC VỤ CỦA CHÚA JESUS SAU KHI PHỤC SINH
Cong Cv 1:1-11 Bruce 28-42
Mục tiêu 6. Đánh giá những thành phần chính trong chức vụ sau Phục sinh của Chúa cho các môn đồ.
14. Trong phần giới thiệu sách Côngvụ, Luca nói đến sách thứ nhất của ông (Sách Tin Lành Luca) có chép mọi điều Đức Chúa Jesus "đã làm và dạy từ ban đầu." Câu nầy gợi ý gì? Những câu nào sau đây là ĐÚNG?
a. Sách Tin Lành Luca chỉ chứa đựng sự khởi đầu của chức vụ gồm hai phần của Chúa Jesus là việc làm ( đã làm ) và lời nói ( dạy ).
b. Sách Côngvụ kể câu chuyện tiếp theo về chức vụ nói và làm của Chúa Jesus, được thực hiện qua việc Ngài ngự trong tâm linh của các môn đồ.
c. Miễn là có hội thánh biết tin cậy, thì chức vụ của Chúa Jesus cho thế gian vẫn cứ tiếp diễn.
Bản chất chức vụ sau phục sinh của Chúa cho các môn đồ là gì? Luca lưu ý ít nhất ba yếu tố.
1. Ngài tiếp tục chứng tỏ Ngài đang sống cho các sứ đồ được chọn qua nhiều bằng chứng không thể sai lầm trong suốt 40 ngày.
2. Ngài tiếp tục dạy về nước Đức Chúa Trời và truyền các môn đồ đợi trong thành Giêrusalem để được báp têm bằng Đức Thánh Linh.
3. Ngài nói về sự thăng thiên của Ngài.
15. Dựa vào phần đọc LuLc 24:36-43, GiGa 20:27, IGi1Ga 1:1, Chúa Jesus đã đưa ra cho các môn đồ những bằng chứng vô ngộ nào chứng tỏ rằng Ngài thực sự sống lại rồi?
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
16. Lưu ý rằng một phương diện lớn trong chức vụ dạy dỗ sau phục sinh của Chúa liên quan đến “việc rao giảng về nước Đức Chúa Trời." Những phân đoạn chìa khóa của tin lành về nước Đức Chúa Trời (Mat Mt 12:28, 13:1-52) nói về nước Đức Chúa Trời như là sự cai trị của Đấng Christ trong những lãnh vực nào sau đây? Khoanh tròn câu trả lời Đúng.
a) Chỉ trong đời hầu đến.
b) Chỉ trong đời nầy.
c) Đang hiện diện về mặt thuộc linh trong đời sống của những người tiếp nhận Ngài và hiện diện thuộc thể trong toàn thế gian trong đời hầu đến.
17. Luca nói rằng Chúa Jesus tiếp tục giảng về nước Đức Chúa Trời. Những câu nào mô tả đúng nhất từ ngữ nầy? Khoanh tròn câu trả lời đúng. "Giảng về nước Đức Chúa Trời" có nghĩa là
a) Chúa Jesus đang trình bày cho các sứ đồ một lãnh vực hoàn toàn mới của lẽ thật chưa được bày tỏ trước đó.
b) Chức vụ dạy dỗ sau phục sinh của Chúa Jesus đã tiếp nối và mở rộng sự dạy dỗ trước phục sinh của Ngài.
c) Chúa Jesus lập lại và củng cố sự dạy dỗ về nước Đức Chúa Trời mà Ngài đã rao giảng trong thời gian thi hành chức vụ. Hiển nhiên, Ngài không dạy dỗ điều gì mới cả.
Việc Chúa Jesus không dạy điều gì khác hơn những gì Ngài đã dạy trước đó sẽ là một mẫu mực cho phản ứng của chúng ta đối với những người đề xuất một giáo lý mới mà chưa hề nghe đến trước đây . Hẳn Chúa đã có thể chia xẻ nhiều lẽ mầu nhiệm thiên thượng cho các môn đồ, nhưng trái lại, Ngài đã quyết xác lập những điều Ngài đã dạy trước kia.
18. Các sứ đồ đã nói gì với Chúa trong đoạn đầu nầy để chỉ ra rằng họ đang hy vọng Ngài sẽ thiết lập nước ngay lập tức trên trần gian nầy?
..........
19. Câu trả lời của Chúa có loại bỏ việc thiết lập nước Đấng Mêsia trên trần gian về sau nầy hay không?
..........
Ngoài sự dạy dỗ về nước Đức Chúa Trời, Chúa Jesus còn truyền các sứ đồ phải cứ ở trong thành Giêrusalem cho đến khi họ nhận được lời hứa của Đức Chúa Cha, tức là phép báp têm bằng Đức Thánh Linh.
Đối chiếu GiGa 3:5 và 20:22 với Cong Cv 1:5, và xét câu nầy: "Chúa Jesus đã dạy rằng phép báp têm bằng Đức Thánh Linh sẽ đến sau công tác tái sanh của Đức Thánh Linh trong sự cứu rỗi."
GiGa 3:5 dạy rằng không ai được sanh lại nếu không nhờ công tác tái sanh của Đức Thánh Linh, và trong 20:22, Chúa Jesus đã hà hơi Đức Thánh Linh trên các môn đồ; vì vậy, thông qua Đức Thánh Linh, Ngài đã trao cho họ công tác cứu chuộc đã hoàn tất của Ngài. Tuy nhiên, Cong Cv 1:5 cho thấy Chúa vẫn còn dạy dỗ môn đồ thêm về công tác của Đức Thánh Linh mà họ vẫn chưa được kinh nghiệm.
20. Cũng đối chiếu 1:5 Mac Mc 1:8 ICo1Cr 12:13. Những phân đoạn nầy đề cập đến ba phép báp têm. Điền vào khoảng trống dưới đây để thấy được sự khác nhau giữa các phép báp têm đó.
a. Tác nhân (Ai làm phép báp têm?)
b. Người chịu phép báp têm được đặt vào trong điều gì?
Phép Báp Têm Của Giăng
..........
..........
Phép Báp Têm Vào Thân Đấng Christ
..........
..........
Phép Báp Têm Bằng Đức Thánh Linh
..........
..........
Trong phép báp têm bằng nước, tác nhân là người làm phép báp têm, và yếu tố là nước, mà người chịu phép báp têm được đặt vào đó tượng trưng cho sự chết của Đấng Christ. Khi hoán cải, hoặc được sanh vào trong thân của Đấng Christ, tác nhân là Đức Thánh Linh, và yếu tố là Đấng Christ và thân thể Ngài. Trong phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, (theo Mac Mc 1:8) tác nhân là Chúa Jesus, và yếu tố mà Ngài đặt chúng ta vào chính là Đức Thánh Linh.
21. Đọc Cong Cv 1:8 để tìm kết quả mà Chúa Jesus dạy rằng nó sẽ xảy đến cho phép báp têm bằng Đức Thánh Linh. Khoanh tròn mẫu tự của câu phản ảnh chính xác lý do khiến Chúa Jesus bảo các sứ đồ phải chờ đợi phép báp têm nầy. Họ cần phép báp têm bằng Đức Thánh Linh
a) để thực sự được cứu, vì nếu không có phép báp têm nầy thì thực sự không thể nói một người đã được tái sanh.
b) để tin Chúa Jesus đã sống lại.
c) để nói tiếng lạ, chứng tỏ cho người khác thấy họ đã nhận lãnh từng trải nầy và đã được trở nên một phần trong thân thể Đấng Christ.
d) vì nếu không có quyền phép của Đức Thánh Linh, lời chứng của họ về sự phục sinh của Đức Chúa Jesus sẽ không đủ để hoàn thành nhiệm vụ giảng Tin Lành khắp thế gian.
Các sứ đồ đã được cứu rỗi, và họ đã tin vào Sự Phục Sinh. Đương nhiên, họ sẽ nói các thứ tiếng khác do kết quả của phép báp têm bằng Đức Thánh Linh. Nhưng mục đích chính yếu của từng trải Lễ Ngũ Tuần là ban cho họ quyền năng để làm chứng.
Yếu tố chính thứ ba trong chức vụ sau phục sinh của Chúa cho các sứ đồ là Sự Thăng Thiên của Ngài.
22. Câu nào mô tả chính xác ý nghĩa của Sự Thăng Thiên? Khoanh tròn mẫu tự câu trả lời bạn chọn.
a) Chức vụ của Chúa chúng ta trong hình dạng thuộc thể của Ngài trên đất nầy đã được hoàn tất khi đến Ngài tái lâm.
b) Ngoài sự hiện diện đích thân và trò chuyện mặt đối mặt với Chúa chúng ta, các môn đồ cần dựa vào một điều nào đó khác nữa để tìm kiếm những sự dạy dỗ.
c) Sự tái lâm từ trời của Chúa Jesus sẽ giống như sự thăng thiên của Ngài.
Những lời cuối cùng của Ngài trước khi thăng thiên được chép trong 1:8. Chữ làm chứng cũng chính là chữ tuận đạo . Một chứng nhân chân chính liều sinh mạng mình ấn chứng tính chân thật của sứ điệp mình. Cho đến khi Ngài tái lâm, Chúa không còn phương pháp nào khác để mở mang Tin Lành ngoại trừ qua những người đã trở thành chứng nhân cho Ngài.
Mục tiêu 7. Giải thích xem trên phương diện nào, cơ sở của đức tin Cơ đốc là một lẽ thật khách quan chứ không phải những cảm giác chủ quan.
Trong 1:1-11, bạn đã đọc thấy những biến cố siêu nhiên: sự phục sinh của Chúa Jesus, sự thăng thiên của Ngài, và sự xuất hiện của các thiên sứ (câu 11). Làm sao chúng ta có thể biết chắc mình đang đọc được câu chuyện lịch sử chứ không phải một câu chuyện hoang đường?
23. Bạn cảm thấy những chứng nhân trực tiếp của Chúa Jesus sau khi Ngài sống lại sẽ tuyên bố câu nào để rao giảng Tin Lành cho kẻ khác? Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời đúng nhất.
a) Tôi tin Chúa Jesus đã sống lại từ kẻ chết bởi vì Ngài hiện sống trong tôi!
b) Tôi tin Chúa Jesus đã sống lại từ kẻ chết bởi vì tôi đã nhìn thấy Ngài, đã rờ đến Ngài, đã cùng ăn và trò chuyện với Ngài sau khi Ngài sống lại từ kẻ chết.
Câu a) vừa được nêu ra trên đây là câu thuộc lãnh vực chủ quan. Chỉ vì cớ một người tin một điều nào đó là sự thật thì niềm tin đó không khiến cho điều đó trở nên sự thật đâu! Đức tin Cơ đốc của chúng ta phải cảm nhận được (mang tính chủ quan), nhưng hiệu lực của nó không chỉ căn cứ vào những tuyên bố chủ quan mà còn vào thực tại khách quan nữa. Điều gì đúng một cách khách quan thì luôn luôn đúng, dầu một người có kinh nghiệm được nó cách chủ quan hay không đi nữa.
Có hai phương pháp kiểm nghiệm một điều nào đó có là sự thật khách quan hay không. Phương pháp thứ nhất là phương pháp khoa học. Chân lý được xác lập thông qua việc sử dụng phương pháp lập luận qui nạp hay thực nghiệm lập đi lập lại mà luôn luôn cho cùng một kết quả chắc chắn.
24. Ví dụ, câu nào mô tả đúng nhất những kết quả có được nhờ dùng phương pháp khoa học. Khoanh tròn mẫu tự của câu đúng nhất.
a) Một trái banh được ném lên không sẽ luôn luôn rơi lại xuống đất nếu không có một vật cản để ngăn sự rơi của nó.
b) Một đứa bé ném trái banh qua cửa sổ.
Trái banh đang rơi luôn luôn thể hiện định luật trọng lực. Nếu có người nói cách chủ quan rằng: "Tôi không cảm thấy trái banh sẽ rơi," chúng ta chỉ việc xem ý kiến của người đó là vô giá trị bởi vì tính chủ quan phải phục tùng thực tại khách quan.
25. Phương pháp thứ nhì để kiểm nghiệm khách quan xem một điều nào đó có đúng thật hay không đó chính là phương pháp lịch sử. Khoanh tròn mẫu tự đứng trước lời tuyên bố nào chỉ có thể minh chứng bằng phương pháp lịch sử.
a) Một trái banh được ném lên không sẽ luôn luôn rơi lại xuống đất nếu không có một vật cản để ngăn sự rơi của nó.
b) Một đứa bé ném trái banh qua cửa sổ.
Vì sao câu b) trên đây là câu đúng? Vì phương pháp lịch sử giải quyết hiện tượng độc nhất vô nhị mà người ta không tái lập nó được. Cần phải có một nhân chứng có uy tín cho cậu bé nầy để chứng nhận thực sự cậu bé (chớ không phải cô bé, người đàn ông, người người đàn bà kia) đã ném trái banh qua cửa sổ.
26. Về việc cậu bé ném trái banh qua cửa sổ, bạn sẽ có thể tin vào người nào hơn? Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời bạn chọn.
a) Một nhân chứng đã nhìn thấy cậu bé ném trái banh.
b) Một người không có mặt tại hiện trường, nhưng cảm thấy cậu bé đã ném trái banh.
c) Một nhà khoa học tuyên bố rằng cậu bé nầy không thể ném trái banh qua cửa sổ được.
Đây là toàn bộ lý lẽ của các sứ đồ để bênh vực cho Cơ đốc giáo! Không thể kiểm nghiệm thực tại khách quan của nó bằng phương pháp khoa học, bởi vì Đức Chúa Jesus Christ là một sự kiện độc nhất vô nhị, không thể lập lại được. Không thể đem Ngài đặt vào trong ống nghiệm, cũng như không thể đặt bất cứ người nào khác trong lịch sử loài người vào trong ống nghiệm vậy.
Nhưng, thực tại về Ngài được kiểm nghiệm bởi phương pháp lịch sử. Những chứng nhân có uy tín đã vừa nói vừa viết về cuộc đời, về sự chết, về sự phục sinh và sự thăng thiên của Ngài. Dầu đời sống của họ đã được biến đổi cách kỳ diệu bởi chính Đức Chúa Jesus (kinh nghiệm chủ quan), nhưng họ không hề căn cứ lời chứng của họ đơn thuần trên những cảm xúc của riêng mình. Họ là những chứng nhân của Ngài ("về ta" - 1:8). Họ đã chứng kiến Ngài sống lại, đã nói chuyện với Ngài, đồng ăn bữa với ngài, và đã rờ đến Ngài!
Những người không tin Chúa có thể ngồi lại và nói một cách chủ quan rằng:"Tôi không tin Đấng Christ đã sống lại." Nhưng sự chủ quan của người ấy không thay đổi lời tuyên bố thực sự khách quan của đức tin Cơ đốc: "Ngài đã sống lại rồi!"
27. Khi bạn đọc sách Côngvụ, sự kiện nào sẽ nổi bật hơn hết trong tâm trí bạn? Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời bạn chọn.
a) Sách Côngvụ nói về hoạt động tiếp theo của Đức Chúa Jesus Christ thông qua các môn đồ Ngài, tức những người cảm thấy Ngài đã sống lại từ kẻ chết.
b) Sách Côngvụ nói về hoạt động tiếp theo của Đức Chúa Jesus Christ thông qua các môn đồ Ngài, tức những người biết chắc chắn không chút nghi ngờ rằng Ngài đã sống lại từ kẻ chết.
SỰ CHỌN LỰA MATHIA
1:12-26 Bruce 42-52
Mục tiêu 8. Giải thích tiến trình tuyển chọn Mathia và trật tự của bản danh sách các sứ đồ bày tỏ điều gì về bản chất của cộng đồng Cơ đốc trước Lễ Ngũ Tuần.
28. Phẩm chất đầu tiên của cộng đồng Cơ đốc tiếp sau Sự Thăng Thiên là sự vâng lời mạng lệnh của Chúa truyền cứ chờ trong thành Giêrusalem. Sự vâng lời là một điều kiện tiên quyết để kinh nghiệm công việc của Đức Chúa Trời trong đời sống và chức vụ của chúng ta. Sự không vâng lời ngăn trở mối tương giao của chúng ta với Chúa và sự kết quả cho Chúa. Có những lĩnh vực nào trong đời sống của bạn hiện nay đang còn chưa vâng lời Ngài?
..........
29. Thành viên của cộng đồng Cơ đốc tập trung trên phòng cao gồm có những ai sau đây? Khoanh tròn câu trả lời bạn chọn.
a) Giuđa.
b) 11 sứ đồ.
c) Thầy tế lễ thượng phẩm.
d) Phaolô.
e) Những người nữ (chắc là những người đã chăm sóc cho Chúa Jesus trong chức vụ trên đất của Ngài, đã chứng kiến sự đóng đinh Ngài, và đã nhìn thấy Ngài sau khi phục sinh).
f) Mẹ và anh em của Chúa Jesus.
Trong câu hỏi 29 trên đây, câu a), b), và c) là không đúng. Giuđa đã chết, thầy tế lễ thượng phẩm trước đó đã chọn phải nói dối (Mat Mt 28:11-15) về Sự Phục Sinh, và Phaolô vẫn chưa hoán cải.
Sự có mặt của Mari và các anh em của Chúa Jesus cho thấy sự hiểu lầm trước kia về chức vụ của Ngài giờ đây chỉ còn là quá khứ (Mac Mc 3:31-35), và giờ đây họ đã biết Ngài không những với tư cách là con trai hoặc anh em trai, mà còn với tư cách là Cứu Chúa của họ nữa.
30. Bạn có thấy thú vị trước cách Chúa Jesus sắp xếp mười hai sứ đồ trong Tân Ước không? Hãy so sánh bốn danh sách của Mười Hai Sứ Đồ có trong Tân Ước bằng cách điền theo đúng thứ tự các tên gọi có trong mỗi danh sách các sứ đồ của bốn danh sách trong Tân Ước? Dùng vở ghi chép hay một tờ giấy rời, và chia làm bốn cột, mỗi cột 12 hàng. Trong các cột Mat Mt 10:2-4; Mac Mc 3:16-19; LuLc 6:14-16 và Cong Cv 1:13, hãy liệt kê theo đúng thứ tự đã cho tên mười hai sứ đồ.
31. Tên của những ai luôn luôn đứng thứ nhất, thứ năm, thứ chín và thứ mười hai trong những danh sách bạn vừa mới liệt kê?
a Thứ nhất ..........
b Thứ năm ..........
c Thứ chín ..........
d Thứ mười hai ..........
32. Bạn nghĩ có thể rút ra những hàm ý gì từ các danh sách mười hai sứ đồ? Ví dụ, bạn nghĩ có thể Đức Chúa Jesus đã chia các sứ đồ thành ra ba nhóm không?
..........
33. Cụm từ nào trong 1:14 cho thấy phẩm chất thứ nhì của cộng đồng Cơ đốc sau Sự Thăng Thiên chính là sự hiệp một ?
..........
120 người đã có mười ngày ở với nhau giữa khoảng Lễ Thăng Thiên và Lễ Ngũ Tuần. Nếu họ để trung bình 16 giờ tỉnh thức mỗi ngày, thì tổng số giờ trong mười ngày lên đến 160, hay tương đương với gần ba năm của những giờ nhóm buổi sáng Chúa Nhật!
34. Sự kiện nầy có hỗ trợ quan điểm cho rằng Đức Chúa Trời có thể hành động nhiều hơn trong một cộng đồng Cơ đốc, nếu như cộng đồng đó họp lại định kỳ với nhau để có những giờ tập trung thờ phượng, học Lời Chúa, và / hoặc làm chứng không? Nêu ra những nguyên nhân cho câu trả lời của bạn.
..........
Phẩm chất thứ ba của cộng đồng Cơ đốc sau ngày Thăng Thiên là cầu nguyện . Trong số những người cầu nguyện là Mari, mẹ Chúa Jesus. Đây là lần cuối cùng tên bà được nhắc đến trong Kinh Thánh Tân Ước. Ở đây, Mari đang cầu nguyện, chứ không phải đang được người khác hướng đến bà mà cầu nguyện. Bà là thành viên của cộng đồng Cơ đốc, chứ không phải là lãnh đạo của cộng đồng đó.
Phẩm chất thứ tư của cộng đồng Cơ đốc sau ngày Thăng Thiên là học hỏi và áp dụng Kinh Thánh (Cựu Ước) để chọn ra người thay thế cho Giuđa.
Kẻ phản bội Giuđa được mô tả trong tất cả sách Tin Lành. Mat Mt 27:5 ghi lại rằng hắn tự treo cổ, trong khi Cong Cv 1:18 nói rằng: "nhào xuống, nứt bụng và ruột đổ ra hết." Kết hợp cả hai câu Kinh Thánh nầy lại, ta kết luận rằng cái chết của Giu-đa là do treo cổ và đến một lúc nào đó, thi thể ông tuột ra lao xuống những hòn đá lởm chởm sắc cạnh và làm nứt ruột ra. Trường hợp của ông là trường hợp tự tử duy nhất được ghi lại trong Tân Ước.
Rõ ràng Chúa không chỉ dạy về người thay thế Giuđa trước khi Ngài thăng thiên. Giờ đây, các môn đồ không thể đến với Chúa Jesus bằng xương bằng thịt để xin sự hướng dẫn. Thay vào đó, họ đã thiết lập một mẫu mực mà toàn bộ các Cơ đốc nhân kể từ đó đến nay đều đã áp dụng trước hết để tìm kiến sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời: "Kinh Thánh có câu trả lời chăng?" Qua việc đọc Thi Tv 69:25 và 109:8, họ đã được bảo đảm rằng Kinh Thánh thực sự đã dự bị cho sự thay thế Giuđa rồi.
35. Cộng đồng Cơ đốc tìm kiếm những phẩm chất nào để chọn ra vị sứ đồ thứ mười hai nầy? Khoanh tròn câu trả lời đúng.
a) Họ đề cử ra hai người có ảnh hưởng nhiều nhất và có năng lực giảng đạo.
b) Họ đề cử ra hai người đã từng là chứng nhân trực tiếp cho chức vụ của Đức Chúa Jesus suốt từ khi Giăng làm phép báp têm cho đến khi Đức Chúa Jesus thăng thiên.
Phẩm chất mà cộng đồng Cơ đốc sử dụng đã cho chúng ta thấy chức vụ sứ đồ đã được xác định như thế nào. Sứ đồ là người được chính Chúa chọn làm nhân chứng trực tiếp cho chức vụ của Ngài kể từ lúc Ngài chịu báp têm cho đến khi ngài thăng thiên. Sau nầy trong Kinh Thánh Tân Ước, từ ngữ sứ đồ có thể được dùng với một ý nghĩa tổng quát hơn để chỉ về một người "được sai đi."
Sau khi đã đề cử ra hai người mà họ xét là xứng đáng nhất để điền vào chỗ trống, họ chuyển sang bắt thăm để xác định sẽ phải chọn ai. Như Bruce nhận định (trang 51), đây là việc rất phổ thông trong thánh sử của dân Hêbơrơ và là một phương cách hợp lý để ra quyết định, đặc biệt là bởi vì họ đã cầu xin Đức Chúa Trời tể trị sự bắt thăm đó. Họ đã tìm thấy những lời nầy trong Kinh Thánh: "Người ta bẻ thăm trong vạt áo, nhưng sự nhứt định do nơi Đức Giêhôva mà đến" (ChCn 16:33). Trong Tân Ước, không còn dùng một ví dụ nào khác nữa về thủ tục nầy được để làm phương tiện tìm biết ý muốn Chúa.
TÓM TẮT VÀ NHẬN DIỆN
Mục tiêu 9. Dùng những lời của riêng bạn tóm tắt thuộc lòng nội dung của Cong Cv 1:11-26, và nhận diện những nhân vật và những địa điểm chính yếu trong phân đoạn Kinh Thánh nầy.
Mục tiêu 10. Nhận ra những tên người và những địa danh quan trọng được đề cập đến trong 1:1-26.
36. Bây giờ hãy viết ra một câu để tóm tắt nội dung của đoạn đầu sách Côngvụ.
..........
37. Bạn đã nhận ra mười hai môn đồ nầy rồi. Ghép những tên gọi sau ở cột bên phải với phần mô tả ở cột bên trái .
.... a Trước giả sách Thi-thiên được trích dẫn về việc điền vào chức vụ sứ đồ của Giuđa.
.... b Vùng nằm giữa Giuđê và Galilê.
.... c Mẹ của Chúa Jesus.
.... d Được tuyển chọn làm vị sứ đồ thứ mười hai.
.... e Địa điểm mà Đức Chúa Jesus đã thăng thiên từ nơi đó.
.... f "Bạn của Đức Chúa Trời," Luca viết cho người nầy.
.... g Giăng Báp Tít.
.... h "Ruộng huyết," mảnh đất đã được mua bằng tiền phản bội của Giuđa.
.... i Một trong hai người được đề cử ra để điền vào chức vụ của Giuđa, chứ không phải được chọn ra.
.... j Khu vực địa lý mà Giêrusalem thuộc về đó.
1) Thêôphilơ.
2) Mari.
3) Đavít.
4) Mathia.
5) Giăng Báp Tít.
6) Giôsép Basaba Giúctu.
7) Giuđê.
8) Samari.
9) Ôlive.
10) Hácenđama.
1:15 nói có khoảng 120 người nhóm lại trên phòng cao để chờ đợi điều Cha đã hứa. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, 120 người nầy sẽ trở thành những người đầu tiên bắt đầu làm ứng nghiệm Cong Cv 1:8. Hãy nghĩ đến công việc làm chứng đáng kinh ngạc trước mặt họ! Có 120 chứng nhân so với khoảng 4 triệu người ở xứ Palestine (tỉ lệ 1/33.000) và xấp xỉ 250 triệu người trong vùng Địa Trung Hải (tỉ lệ 1 phần 2,8 triệu)! Vì đã được gọi làm chứng nhân, nên họ không thể đứng làm khán giả. Để đến với từng cá nhân trong đoàn dân đông nầy, họ phải có quyền năng. Và không bao giờ có được quyền năng nếu chỉ biết tích trữ. Quyền năng lưu phát theo nhiệm vụ. Quyền năng đến khi 120 người bước ra vâng lời Chúa của họ!
Chúng ta đã học hết Bài 1. Bạn có đích thân đáp ứng với câu nói nầy không: "Sự sống, sự chết, sự phục sinh, và sự thăng thiên của Đức Chúa Jesus Christ là vô ích, trừ khi những điều đó được chúng ta làm chứng lại cho thế gian nầy"?
38 1:8 tác động thế nào đến bạn? Bạn nghĩ câu nói vừa rồi có đúng không? Có phải những người bạn biết, hoặc những người mà Đức Chúa Trời kêu gọi bạn đến với họ, sẽ không thể biết được Đức Chúa Jesus Christ trừ khi bạn nói cho họ hay không?
..........
Bài tự trắc nghiệm
Sau khi xem lại bài, hãy làm bài tự trắc nghiệm. Sau đó kiểm bài làm của bạn với phần giải đáp đã cho trong tập học viên. Xem lại bất cứ câu hỏi nào mà bạn trả lời sai.
CÂU CHỌN LỰA. Chỉ có một câu trả lời đúng cho mỗi câu hỏi, trừ khi có chỉ dẫn khác. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời đúng.
1. Có thể đánh giá đúng nhất tầm quan trọng của sách Côngvụ trong Tân Ước khi công nhận
a) địa vị chiến lược của nó trong bộ kinh điển Tân Ước và vai trò của nó trong việc bác bỏ tà giáo.
b) sự chấp nhận ban đầu của nó vào bộ sưu tập các thơ tín của Phaolô.
c) rằng nó cùng với sách Luca luôn luôn được công nhận trong cộng đồng Cơ đốc, vì niên hiệu biên soạn rất sớm của nó (trước năm 60 S.C.).
2. Chức vụ sau Phục Sinh của Đức Chúa Jesus liên quan chủ yếu đến
a) việc thiết lập nước Đức Chúa Trời trên đất trong tương lai.
b) sự giải thích thêm về những sự dạy dỗ trước kia của Chúa.
c) thời và kỳ mà Chúa đã báo trước một cách chính xác.
3. Cộng đồng Cơ đốc đầu tiên được đặc trưng bởi những phẩm chất nào sau đây?
a) Rất kiên nhẫn chịu đựng sự bắt bớ khắp nơi.
b) Tự túc, kiêu hãnh về vai trò môn đồ mà Chúa đã ban cho.
c) Vâng phục, hiệp một, cầu nguyện và áp dụng Kinh Thánh vào những nhu cầu của mình.
4. Ý nghĩa của sách Côngvụ ấy là nó giữ vai trò:
a) cơ sở cho hầu hết giáo lý Cơ đốc của chúng ta.
b) là chiếc cầu nối giữa các sách Tin Lành với phần còn lại của Tân Ước.
c) củng cố các văn phẩm của lịch sử thế tục thời bấy giờ.
5. Những câu nào sau đây KHÔNG trình bày một trong bốn mục đích lớn để viết ra sách Côngvụ? Có nhiều câu trả lời đúng.
a) Lần ra sự phát triển của Cơ đốc giáo vào thế kỷ thứ hai S.C.
b) Cung cấp câu chuyện về nguồn gốc và sự bành trướng của Hội Thánh bằng cách cho thấy Tin Lành đã đi từ trụ sở Giêrusalem đến Rome như thế nào.
c) Để đưa ra câu chuyện lịch sử đầy đủ về trận hỏa hoạn tại Rome vào năm 64 S.C. và sự thất thủ của Giêrusalem vào năm 70 S.C.
d) Để cho thấy chức vụ sứ đồ của Phaolô được khẳng định bằng những dấu hiệu giống y như dấu hiệu cho chức vụ của Phierơ.
e) Để bênh vực cho Cơ đốc giáo, bằng cách nhận định rằng đây là một đạo không xúi giục nổi loạn chống chính quyền Lamã.
f) Để cho thấy Tin Lành dành sẵn cách phổ thông cho mọi người.
6. Những nội chứng nào trong Tân Ước ám chỉ Luca là trước giả sách Côngvụ? Có nhiều câu trả lời đúng.
a) Trước giả nêu rõ tên mình ít nhất bốn lần trong sách Côngvụ khi ông hòa mình
vào trường hợp được ghi lại.
b) Trước giả đưa mình vào trong bốn bối cảnh của khúc Kinh Thánh mà được gọi là những câu Kinh Thánh "chúng ta".
c) Kinh Thánh chứng tỏ rằng ông là bạn đồng hành với Phaolô.
d) Cong Cv 28:1-31 cho thấy cụ thể rằng Luca ở với Phaolô tại Rome, nên chúng ta kết luận rằng Luca là trước giả.
e) Khả năng tác giả sẽ được nêu tên trong các thư tín trong tù được viết từ Rome là rất cao. Luca được nhắc đến cụ thể ít nhất hai trong số các thư tín trên.
7. Niên hiệu chắc chắn nhất cho việc viết sách Côngvụ là trước năm 64 S.C., bởi vì
a) Luca không đề cập đến cơn bắt bớ dữ dội, chính thức của Nero, bắt đầu từ năm 64 S.C., cũng không nhắc đến sự phá hủy thành Giêrusalem vào năm 70 S.C. Nếu những biến cố nầy xảy ra trước đó, chắc chắn chúng phải được nhắc đến.
b) Luca nêu ra bối cảnh thời gian nầy trong sách lịch sử của ông.
c) Không thể có được một niên hiệu hay diễn tiến thời gian nào khác.
8. Những nhà phê bình đòi hỏi một niên hiệu trễ hơn nhiều cho sách Côngvụ đã căn cứ vào
a) nội chứng của sách nầy theo cách họ thông giải bằng chứng ấy.
b) bản chất biện giải của sách theo cách họ giải thích bằng chứng ấy.
c) giả định của họ rằng Tin Lành là thần học của Hội Thánh chứ không phải lịch sử thực tế về Chúa Jesus. Như vậy tính đáng tin về mặt lịch sử của hầu hết Tân Ước đã bị xem nhẹ.
9. Khoanh tròn mẫu tự của những câu nào liệt kê những đặc trưng hàng đầu của sách Côngvụ nói chung. Có nhiều câu trả lời đúng.
a) Luca viết sách lịch sử theo cách giữ thật đúng từng bước của trình tự thời gian.
b) Luca cho thấy rằng: Nếu những con người tốt dùng những phương pháp và chiến lược tốt thì dứt khoát Tin Lành sẽ đắc thắng.
c) Luca ghi lại lịch sử giống như một thợ chụp hình ghi lại một loạt các bức ảnh.
d) Luca trình bày Đức Thánh Linh là chìa khóa thành công của Tin Lành.
e) Luca ghi lại rất nhiều bài giảng và thuyết trình trong câu chuyện của ông.
f) Luca chứng tỏ tầm quan trọng chiến lược của Giêrusalem và Antiốt xứ Syri trong sự bành trướng Tin Lành.
10. Đâu là những phương diện chủ yếu trong chức vụ sau Phục Sinh của Chúa? Có nhiều câu trả lời đúng.
a) Chúa Jesus dạy dỗ nhiều điều mới trong thời gian nầy.
b) Chúa khai triển rộng sự dạy dỗ trước kia của Ngài về nước Đức Chúa Trời và truyền các môn đồ chờ trong thành Giêrusalem để được báp têm bằng Đức Thánh Linh.
c) Chúa chúng ta cho các sứ đồ được chọn của Ngài thấy Ngài đang sống qua nhiều bằng chứng không thể sai lầm được.
d) Sự Thăng Thiên hàm ý rằng các môn đồ phải nương cậy nơi Thánh Linh khi vắng Chúa Jesus, và rằng sự thăng thiên báo trước sự tái lâm của Ngài.
11. Chúa Jesus hướng sự quan tâm của các môn đồ khỏi nước trần gian để hướng vào
a) nhu cầu của họ về sự tổ chức, cơ cấu, và tính ổn định trong nhóm của họ.
b) chủ nghĩa khổ tu và nếp sống khắc khổ là điều bắt buộc đối với những người nam và nữ thánh thiện thời bấy giờ.
c) sự quan tâm của Ngài ấy là họ phải nhận lãnh quyền năng để làm chứng về Ngài.
12. Sách Côngvụ nói về hoạt động tiếp theo của Đức Chúa Jesus Christ thông qua các môn đồ (là những nhân chứng trực tiếp về sự sống, sự chết, sự phục sinh và sự thăng thiên của Ngài) tức những kẻ đã biết không chút nghi ngờ rằng Ngài đã sống lại từ kẻ chết. Lời tuyên bố nầy là
a) lẽ thật khách quan.
b) cảm giác chủ quan.
13. Tiến trình tuyển chọn Mathia bày tỏ điều gì về cộng đồng Cơ đốc?
a) Đây hoàn toàn là một cộng đồng không có tổ chức và không thể hoạt động kết quả được.
b) Nó bày tỏ sự vâng lời đơn sơ, tinh thần cầu nguyện, áp dụng Kinh Thánh vào nhu cầu của họ, và sự hiệp một thật sự trong tinh thần và mục đích.
c) Nó bày tỏ sự sợ hãi, bất ổn, và bất an.
14. Câu nào tóm tắt đúng nhất nội dung của Cong Cv 1:1-26?
a) Lý do căn bản của việc trước tác, biện minh cho một tác phẩm khác nữa, biện minh cho sự ra đi của Đấng Christ, và nhấn mạnh tầm quan trọng của tổ chức trong công tác của các môn đồ.
b) Tạo bối cảnh để nghiên cứu niên đại phát triển của hội thánh, bằng cách thuật lại những bước hợp lý trong việc tiết lộ kế hoạch thiên thượng suốt bốn mươi ngày cuối cùng của chức vụ Chúa trên đất.
c) Hai yếu tố chính là: Phần mô tả về chức vụ sau phục sinh của Đấng Christ cho các sứ đồ, và việc chọn Mathia thay cho chức sứ đồ bị khuyết của Giuđa.
15. Câu nói: “Sự sống, sự chết, sự phục sinh, và sự thăng thiên của Đức Chúa Jesus Christ là vô ích trừ khi những điều đó được chúng ta làm chứng lại cho thế gian nầy," là lời kêu gọi
a) để cam kết rao truyền Tin Lành bằng mọi cách cho những người chưa nghe về Chúa.
b) đồng ý về mặt tinh thần đối với sự kiện là những nhu cầu của thế gian, thậm chí những nhu cầu của chính cộng đồng chúng ta, đòi hỏi phải có một ai đó ra đi rao truyền Tin Lành cho họ.
c) Những người đã được soi sáng tâm linh nhiều hơn trên thế gian nầy phải tìm cách giúp những người hư mất trong bóng tối của mê tín và sợ hãi thông qua sự giáo dục và bày tỏ thiện ý.
GIẢI ĐÁP.
1.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Đúng
2.
a. Sự Khai Sinh Hội Thánh.
b. Sự Bắt Bớ Dẫn Đến Sự Bành Trướng.
c. Công Vụ Của Phierơ Và Những Khởi Điểm Của Cơ Đốc Giáo Dân Ngoại.
d. Hành Trình Truyền Giáo Đầu Tiên Của Phaolô Và Quyết Định Của Các Sứ Đồ.
e. Giảng Tin Lành Ở Bờ Biển Aegean.
f. Phaolô Dự Định Thăm Rome Và Đến Đó Theo Một Lộ Trình Không Lường Trước.
3. Câu trả lời của câu hỏi 2.
4. Câu trả lời của bạn. Tôi viết ra đây hai trong số những câu trả lời khả dĩ.
a. Sách được viết ra để cung cấp câu chuyện chính xác và đúng thứ tự về nguồn gốc và sự bành trướng của Cơ đốc giáo.
b. Sách được viết ra để công bố rằng Tin Lành dành sẵn cho mọi người.
5.
a. 5) 2:1-47
b. 1) 15:1-41
c. 6) 8:1-40
d. 4) 11:1-18
e. 3) 13:1-20:38
f. 2) 10:1-11:18
6.
a. Người què từ lúc sinh ra được chữa lành.
b. Quyền năng siêu nhiên, phi thường.
c. Đuổi quỉ.
d. Đối phó đắc thắng với các thầy phù thủy.
e. Gọi kẻ chết sống lại.
7.
b) Ký thuật về sự khai sinh, sự phát triển, và sự bành trướng của hội thánh từ lúc đầu tại thành Giêrusalem cho đến kinh đô Rome.
c) Để làm sách biện giải cho Cơ đốc giáo, bằng cách nêu ra đặc điểm tuân giữ luật pháp của Cơ đốc nhân.
d) Để chứng minh Tin Lành dành sẵn cho mọi người.
f) Để chứng minh Phaolô cũng có những bằng chứng xác nhận cho tư cách sứ đồ y như Phierơ.
8.
a. Theo Phaolô tại Trôách, đi đến Philíp, ở lại tại Trôách.
b. Cùng Phaolô xuống thuyền từ Philíp đi đến Giêrusalem qua đường Trôách, Asốt, Mitilen, Chiô, Samốt, và Milê.
c. Cùng Phaolô đi từ Milê đến Giêrusalem.
d. Ở với Phaolô khi ông bị tù tại Sêsarê, lên đường đi Rôma, và ở tại Rôma.
9.
c) Ông là bạn đồng hành của Phaolô.
d) Hẳn ông đã có thời gian và dịp tiện nghiên cứu chức vụ của Chúa Jesus và nguồn gốc của hội thánh tại Giêrusalem trong hai năm Phaolô bị tù tại Sêsarê, Syri.
10.
a. Không nhắc gì đến trận hỏa hoạn tại Rome mà Nero đổ tội cho Cơ đốc nhân và đã dùng để làm cớ bắt bớ họ.
b. Không nhắc gì đến việc người Lamã phá hủy thành Giêrusalem và đền thờ.
11.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Sai. (Vẫn có khả năng cho một niên hiệu trễ hơn; Tuy nhiên, ý kiến của tôi là không thể có niên hiệu trễ hơn, và nó không phù hợp với bằng chứng của Tân Ước.)
12. Câu trả lời của riêng bạn chính là những gì đã gây cho bạn ấn tượng mạnh nhất từ lúc bạn học cho đến giờ. Giống như phần còn lại của Kinh Thánh, sách Côngvụ là một sách sống! Thánh Linh phán với bản thân bạn qua lời mà Ngài đã soi dẫn. Những vấn đề nổi bật nhất đối với bạn giờ đây rất có thể tương ứng với chính những lẽ thật mà bạn đang kinh nghiệm hoặc cần phải kinh nghiệm.
13.
a. 2) Đúng.
b.2) Đúng.
c.2) Đúng.
d.1) Đúng.
e.1) Đúng.
f.1) Đúng.
14.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Đúng. (Cả ba câu nầy đều đúng. Sự thăng thiên của Chúa Jesus không chấm dứt chức vụ của Ngài. Ba năm chức vụ trên đất chỉ là khởi đầu của chức vụ tiếp diễn mãi cho đến hiện nay.)
15.
a. Họ đã nhìn thấy Ngài.
b. Họ đã trò chuyện với Ngài.
c. Họ đã sờ đến Ngài.
d. Họ đã ăn cùng Ngài.
16.
c) Đang hiện diện về mặt thuộc linh ngay hiện nay. (Chúa đã dạy rằng phải tiếp nhận nước Ngài vào lòng. Bạn còn nhớ ẩn dụ người gieo giống và hạt giống không? Sự tái lâm của Ngài để làm vua cai trị trên cả đất vẫn chưa xảy đến.)
17.
b) Chức vụ dạy dỗ sau phục sinh của Chúa Jesus đã mang tính tiếp nối.
c) Chúa Jesus lập lại và củng cố sự dạy dỗ về nước Đức Chúa Trời.
18. Họ đã hỏi Ngài: “Lạy Chúa, có phải trong lúc nầy Chúa sẽ lập lại nước Ysơraên chăng?” Câu hỏi nầy cho thấy rằng họ vẫn còn ôm ấp hy vọng Chúa Jesus sẽ nhanh chóng trở lại đảm nhận chính quyền cai trị trên toàn Ysơraên, với tư cách người nối ngôi vua Đavít.
19. Không. Ngài chỉ đơn giản nêu ra rằng thời và kỳ không phải là điều họ nên biết. Ngài buộc họ thoát ra khỏi sự quan tâm nơi một vương quốc trần gian nầy, để họ quan tâm đến ý định của Ngài là muốn cho họ nhận lãnh quyền phép để làm chứng về Ngài.
20.
Giăng
a. Giăng
b. Nước
Thân Thể
Thánh Linh
Chúa Jesus
Đức Thánh Linh
Chúa Jesus
Thánh Linh
21.
d) Vì nếu không có quyền phép của Đức Thánh Linh, lời chứng của họ về sự phục sinh của Đức Chúa Jesus sẽ không đủ để hoàn thành nhiệm vụ giảng Tin Lành khắp thế gian.
22. Tôi muốn nói rằng tất cả những câu nầy đều đúng. Câu a) có thể gây hiểu lầm. Chức vụ của Chúa chúng ta vẫn đang tiếp tục trên đất, nhưng chức vụ Ngài đang được thực hiện cách thuộc linh thông qua Thân Thể Ngài, chứ không phải thông qua sự hiện diện thuộc thể của Ngài trên đất nầy.
23.b) Tôi tin Chúa Jesus đã sống lại từ kẻ chết bởi vì tôi đã nhìn thấy Ngài, đã rờ đến Ngài, và đã ăn và trò chuyện với Ngài sau khi Ngài sống lại từ kẻ chết! (Dầu câu a) là một câu đúng, nhưng câu thứ hai sẽ phản ảnh chính xác hơn nội dung lời làm chứng của người đã nhìn thấy Chúa Jesus sau khi Ngài phục sinh.)
24.a) Một trái banh được ném lên không sẽ luôn luôn rơi lại xuống đất.
25. b) Một đứa bé ném trái banh qua cửa sổ.
26.a) Một nhân chứng đã nhìn thấy cậu bé ném trái banh.
27.b) Sách Côngvụ nói về hoạt động tiếp theo của Đức Chúa Jesus Christ thông qua các môn đồ Ngài, tức những kẻ biết chắc chắn không chút nghi ngờ rằng Ngài đã sống lại từ kẻ chết.
28. Câu trả lời của bạn. Nếu có, liệu bạn có quì gối cầu nguyện và xưng tội đã không vâng lời Chúa không? Hãy cầu xin Ngài tha thứ và phục hồi bạn trở lại. Hãy cầu xin Ngài đầy dẫy Thánh Linh trên bạn cách dư dật.
29.
b) 11 sứ đồ.
e) Những người nữ (chắc là những người đã chăm sóc Chúa Jesus).
f) Mẹ và anh em của Chúa Jesus.
30. Danh sách của bạn được rút ra theo như những câu Kinh Thánh đó.
31.
a. Phierơ.
b. Philíp.
c. Giacơ, con trai Aphê.
d Giuđa Íchcariốt.
32. Rất có thể Chúa Jesus đã chia 12 sứ đồ thành ba nhóm, đứng đầu mỗi nhóm là Phierơ, Philíp và Giacơ con trai Aphê. Tuy không nhất thiết theo đúng thứ tự, nhưng bốn tên gọi đầu tiên luôn đi chung với nhau, nhóm bốn tên thứ hai và thứ ba cũng y như vậy. Bạn sẽ thấy rất dễ học thuộc danh sách khi biết ba nhóm nầy
33. Bền lòng đồng một ý.
34. Câu trả lời của bạn. Tôi nói dứt khoát là đúng! Sự hiệp một thuộc linh của hội những Cơ đốc nhân là một điều kiện tiên quyết và sống còn đối với công tác truyền giảng kết quả tại bất cứ nơi nào. Làm sao có được sự hiệp một nếu các tín đồ không dành thời gian ở với nhau và cùng nhau chờ đợi trước mặt Chúa?
35.b) Họ đề cử hai người trước kia đã là nhân chứng trực tiếp.
36. Câu trả lời của bạn. Tôi sẽ tóm tắt 1:1-26 bằng cách nói rằng nó gồm hai yếu tố chính: phần mô tả về chức vụ sau phục sinh của Đấng Christ cho các sứ đồ, và việc chọn Mathia thay vào chức sứ đồ bị khuyết của Giuđa.
37.
a. 3) Đavít.
b. 8) Samari.
c. 2) Mari.
d. 4) Mathia.
e. 9) Ôlive.
f. 1) Thêôphilơ.
g. 5) Giăng Báp Tít.
h. 10) Hácenđama.
I, 6) Giôsép Basaba Giúctu.
j. 7) Giuđê.
38. Câu trả lời của bạn. Thật ngạc nhiên kinh khủng khi nhận ra Chúa đã phó thác cho chúng ta nhiều biết đến dường nào! Nếu các môn đồ Ngài không đi ra rao truyền những việc làm và lời nói của Ngài cho thế giới trong mỗi thế hệ, thì sự sống, sự chết, và sự phục sinh của Ngài cho con người của thế hệ đó vẫn là vô ích. Chính chúng ta mới là người rao truyền sứ điệp Tin Lành, chứ không phải thiên sứ.
Lễ Ngũ Tuần
Trong bài trước, chúng ta đã học ý nghĩa cuộc đối thoại của Chúa với các môn đồ trước lúc Ngài thăng thiên. Chúng ta cũng xét những hàm ý của tiến trình tuyển chọn Mathia để điền vào chỗ khuyết do sự phản bội của Giuđa. Đến bài nầy, chúng ta học về ngày Lễ Ngũ Tuần.
Sự giáng lâm của Đức Thánh Linh vào cuối tuần lễ thứ bảy sau sự thương khó của Đấng Christ đã mở ra một kỷ nguyên mới. Thánh Linh bắt đầu hoạt động tích cực trong hội thánh, thiết lập một trật tự mới của sự sống: sự sống của Thánh Linh Đức Chúa Trời trong con người. Một động lực mới được hình thành để tạo nên một sự phát triển mạnh mẽ. Hội Thánh sẽ không bao giờ ở đủ trong phòng cao một lần nữa. Nhưng không những chỉ có một động lực mới của tổ chức, mà còn có cả một sức sống mới và động lực mới cho cá nhân, thể hiện rõ trong đời sống của các sứ đồ và môn đồ Đấng Christ. Phép báp têm bằng Đức Thánh Linh của họ đã biến đổi đời sống họ một cách kỳ diệu.
Khi bạn khảo sát đỉnh điểm tuyệt diệu cho sự thăng thiên của Chúa, bạn sẽ càng nhận ra rõ ràng hơn bí quyết công tác truyền giảng Tin Lành của các sứ đồ và chức vụ phát triển hội thánh là được dành sẵn cho bạn. Khi nghiên cứu bài nầy, bạn sẽ bắt đầu thấy những ích lợi của phép báp têm bằng Đức Thánh Linh vượt quá việc ban quyền phép để làm chứng và cho phép mở mang Tin Lành. Đức Thánh Linh cũng ban phát ân tứ dồi dào và sự ban cho kỳ diệu cho thân thể Đấng Christ, tức là Hội Thánh. Và Ngài đã dự bị cho bạn nhận lãnh sự thỏa mãn, sự tăng trưởng và đời sống sung mãn của tâm linh cá nhân trong Đức Thánh Linh thông qua cùng một từng trải năng động đó: phép báp têm bằng Đức Thánh Linh.
Dàn bài
Từng Trãi Lễ Ngũ Tuần
Thể Loại Và Sự Ứng Nghiệm
Tác Động Trên 120 Môn Đồ
Những Biến Cố Độc Nhất Vô Nhị Và Có Thể Tái Diễn Của Lễ Ngũ Tuần
Những Mục Đích Của Tiếng Lạ
Tác Động Trên Đoàn Dân
Bài Giảng Đầu Tiên Của Phierơ
Lời Giải Thích Về Hành Vi
Đời Nầy Và Đời Hầu Đến
Jesus Là Chúa Và Đấng Christ
Sự Chết Và Sự Phục Sinh Của Đấng Christ
Ba Ngàn Người Thêm Vào Hội Thánh
Những Từng Trải Cơ Đốc Ban Đầu
Bản Chất Của Cộng Đồng Cơ Đốc Đầu Tiên
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Nêu ra ít nhất một điều kiện tiên quyết cho Lễ Ngũ Tuần căn cứ vào lời cầu nguyện của Chúa Jesus trong GiGa 17:20-21 và câu chuyện trong Cong Cv 2:1.
So sánh quan điểm của tín đồ không thuộc phái Ngũ Tuần với quan điểm của tín đồ Ngũ Tuần về phép báp têm bằng Đức Thánh Linh trong tư cách một từng trải dự định cho mọi tín hữu, bằng cách thuật lại ba câu Kinh Thánh chứng tỏ quyết định của Kinh Thánh.
So sánh và đối chiếu hành vi của sứ đồ Phierơ trước và sau Lễ Ngũ Tuần, phân tích ít nhất năm lãnh vực của sự thay đổi mà chúng ta quan sát được trong hành vi sau Lễ Ngũ Tuần của ông.
Sinh hoạt học tập
1. Nghiên cứu 2:1-47. Nếu được, đọc đoạn Kinh Thánh nầy nhiều lần trước khi vào phần khai triển bài học.
2. Đọc sách giáo khoa theo chỉ dẫn trong phần khai triển bài học.
3. Đọc bài học trong tài liệu hướng dẫn, hoàn tất các câu hỏi nghiên cứu, và kiểm lại những câu trả lời của bạn.
4. Kiểm tra phần từ vựng ở cuối tài liệu hướng dẫn để biết định nghĩa của những từ bạn chưa biết trong phần từ ngữ.
5. Làm bài tự trắc nghiệm ở cuối bài học, kiểm bài làm với phần giải đáp đã cho trong tập học viên. Xem lại bất cứ phần nào bạn trả lời sai.
Từ vựng
Đang khi đọc Kinh Thánh hay những cuốn sách khác, bạn có bao giờ gặp những từ bạn không hiểu không? Bạn sẽ hiểu giáo trình tốt hơn nếu liên tục sử dụng tự điển và phần từ vựng ở cuối tài liệu hướng dẫn nầy. Có thể bạn cần viết ra những từ mới và phần định nghĩa của chúng vào trong vở ghi chép của bạn để giúp ghi nhớ chúng.
sự hiện ra advent
nghịch cảnh adversity
làm cho ghét bỏ alienation
mang tính tỉ dụ allegorically
phép loại suy analogy
theo thuyết tiền định deterministic
tùy ứng extemporaneous
hiểm độc malice
biểu hiện manifestation
mang tính trung bảo medeatorial
ra vẻ bộ trưởng ministerial
thiêng liêng quá mấu over-spiritualizing
làm cho bất diệt perpetuate
hiện tượng phenomenon
tính thuyết giáo preachy
mang tính dự ngôn predictive
lời tiên tri prophecy
kéo dài protracted
tái tạo regeneration
siêu nhiên supernatural
mang tính biểu tượng symbolically
làm hình bóng typifies
tính độc nhất uniqueness
Khai triển bài học
TỪNG TRÃI LỄ NGŨ TUẦN
2:1-4 Bruce 53-58
Mục tiêu 1. So sánh ý nghĩa Lễ Ngũ Tuần với tư cách một từng tải Cơ đốc với ngày kỷ niệm Lễ Ngũ Tuần với tư cách một lễ hội được người Ysơraên tuân giữ từ thời Môise cho đến Đức Chúa Jesus.
Nguyên văn của Cong Cv 2:1-47 bắt đầu thế nầy: "Khi ngày Lễ Ngũ Tuần đang được ứng nghiệm." Có thể rút ra ba suy luận từ câu mở đầu nầy.
1. Mục đích tiên tri trong Cựu Ước cho ngày Lễ Ngũ Tuần giờ đây đang được ứng nghiệm.
2. Các môn đồ đã từng trải phép báp têm bằng Đức Thánh Linh vào chính ngày Lễ Ngũ Tuần. Bản thân Ngũ Tuần có nghĩa là 50 (số ngày từ Lễ Vượt Qua cho đến Lễ Ngũ Tuần).
3. Ngày Lễ Ngũ Tuần chỉ bắt đầu được ứng nghiệm vào đích xác ngày được mô tả trong 2:1-47. Ngày Lễ Ngũ Tuần là kỷ nguyên của Đức Thánh Linh, Đấng hiện hành động trong tín đồ cho đến khi Đấng Christ tái lâm. Sự ứng nghiệm ngày Lễ Ngũ Tuần được bắt đầu trong 2:1-47 đang tiếp tục ứng nghiệm cho đến thời điểm hiện tại.
Thể Loại Và Sự Ứng Nghiệm
Bruce 53-54
Cựu Ước có hai dạng lời tiên tri về Đấng Christ và công việc của Ngài: lời tiên tri trong lời nói và lời tiên tri trong sự kiện (đôi khi được gọi là hình bóng, hay nghi lễ). Một lời tiên tri bằng lời nói là một lời tuyên bố dự ngôn cụ thể, trong khi lời tiên tri trong sự kiện cho phép chúng ta áp dụng phép loại suy để so sánh nó với thân vị và công tác của Đấng Christ.
1. Câu nào sau đây là những lời tiên tri trong lời nói và câu nào là lời tiên tri trong sự kiện? Khoanh tròn mẫu tự đứng trước những câu của lời tiên tri trong lời nói.
a) Sự giáng sinh bởi trinh nữ của Đấng Christ được báo trước trong EsIs 7:14.
b) Lễ Vượt Qua như là việc tượng trưng cho sự chết của Đấng Christ.
c) Sự đóng đinh trên thập tự giá của Đấng Christ được mô tả trong Thithiên 22.
d) Thầy tế lễ thượng phẩm là một ví dụ về công tác trung bảo của Đấng Christ.
e) Lời dự ngôn trong MiMk 5:2 rằng Đấng cai trị Ysơraên sẽ được sanh ra tại Bếtlêhem.
f) Dâng của lễ thiêu chiên con để minh họa công tác chuộc tội của Đấng Christ.
Cần phải thận trọng kẻo thiêng liêng quá mấu hay giải nghĩa Cựu Ước theo lối tỉ dụ. Tuy nhiên, sự tương tác trung thực với Kinh Thánh đòi hỏi chúng ta phải xem Lễ Ngũ Tuần của Cựu Ước là một biến cố mang tính tiên tri, cần phải có ngày Lễ Ngũ Tuần Tân Ước mới hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của nó.
2. Đọc nhanh LeLv 23:1-44. Điền tên bảy ngày lễ hàng năm được mô tả trong các phân đoạn nầy.
a Cong Cv 23:5 Lễ.....
b 23:6-8 Lễ.....
c 23:9-14 Lễ.....
d 23:15-22 Lễ ..........
e 23:23-25 Lễ ..........
f 23:26-32 Lễ ..........
g 23:33-36 Lễ ..........
3. Tiếp tục xem LeLv 23:1-44. Những ngày lễ nào diễn ra thành một nhóm trong hai tháng đầu tiên của lịch Kinh Thánh (Tháng Tư-tháng Năm dương lịch)?
..........
4. Những ngày lễ nào diễn ra thành một nhóm trong tháng thứ bảy theo lịch Kinh Thánh (tháng Mười - Mười Một dương lịch)?
.........
Về mặt nông nghiệp, bốn kỳ lễ đầu tiên đã đến khi đang gieo trồng và thâu hoạch vụ xuân. Ba kỳ lễ cuối đến trong lúc xong vụ thu. Một khoảng thời gian hơn bốn tháng phân cách hai nhóm lễ hội nầy (có thể được nhắc đến trong GiGa 4:35).
Trong Tân Ước, mỗi một kỳ lễ trong bốn kỳ lễ đầu tiên đều được xem như đã ứng nghiệm trong đời sống và công tác của Đấng Christ.
5. Phaolô nói thế nào về sự ứng nghiệm của Lễ Vượt Qua trong ICo1Cr 5:7?
..........
6. Trong 5:6-8, Phaolô nói thế nào về sự ứng nghiệm Lễ Bánh Không Men khi mô tả ý nghĩa của nó đối với việc tẩy uế đời sống tín đồ?
..........
7. Trong 15:20, Lễ Đầu Mùa được ứng nghiệm qua biến cố nào?
..........
Hãy cùng tôi hình dung biến cố sau đây. Ngày cuối cùng Chúa nằm trong mộ, một nhóm người từ Tòa Công Luận lên đường tiến đến một cánh đồng đến mùa gặt đã được chỉ định trước. Đợi cho chắc chắn là mặt trời ngày thứ bảy báo hiệu bình minh, họ gặt hoa quả đầu mùa của một vụ mùa lúa mạch, cắt những bó lúa mạch vẫn đang đứng thẳng trên đất, đã được bó trước lại với nhau. Những bó lúa đã được đem đến đền thờ để được đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giêhôva vào ngày hôm sau. Không một người Do thái nào được phép ăn sản vật của mùa màng cho đến khi đã dâng lên của lễ đầu mùa.
Hãy suy gẫm điều đó. Đấng Christ đã sống lại vào chính ngày Lễ Đầu Mùa. Không phải trong đền thờ, mà chính là tại ngôi mộ trong vườn mà trái đầu mùa của sự sống phục sinh đã được đưa qua đưa lại trước mặt Giêhôva Đức Chúa Trời! Không ai trong chúng ta có thể dự phần vào sự sống phục sinh cho đến khi chính Ngài đã dự phần vào sự sống ấy.
Bảy tuần lễ sau Lễ Đầu Mùa là Lễ Ngũ Tuần. Bốn mươi chín ngày (bảy tuần nhân cho bày ngày) gợi lên một sự hoàn tất. Giờ đây đang vụ gặt mùa lúa mạch. Thay vì dâng lên những hạt thô làm của lễ đầu mùa cho Đức Giêhôva, họ phải dâng lên sản phẩm đã nấu chín của mùa màng, tức một ổ bánh.
8. Như vậy, bạn sẽ chọn câu nào là câu trình bày đúng nhất thần học Cơ đốc về Lễ Ngũ Tuần? Khoanh tròn những câu trả lời đúng nhất.
a) Lễ Đầu Mùa tượng trưng cho sự sống lại của Đấng Christ, trong khi Lễ Ngũ Tuần tượng trưng cho kết quả của công tác Đấng Christ, tức là Hội Thánh.
b) Lễ Ngũ Tuần không thể giới hạn vào một ngày 24 giờ chẳng khác gì Lễ Bánh Không Men không thể giới hạn trong một ngày 24 giờ vậy.
c) Lễ Ngũ Tuần bắt đầu vào ngày Lễ Ngũ Tuần và vẫn tiếp tục, bởi vì mùa gặt linh hồn của Đấng Christ vẫn chưa hoàn tất. Ngày Lễ Ngũ Tuần được hoàn tất khi Đấng Christ tái lâm.
Tuy không thể chứng minh cụ thể, nhưng liệu LeLv 23:1-44 có thể thực sự tượng trưng cho lịch tiên tri của Đức Chúa Trời không? Nhóm bốn kỳ lễ thứ nhất tượng trưng cho đời sống và công vụ của Đấng Christ trong đời nầy, và nhóm ba kỳ lễ cuối cùng có thể tượng trưng cho nhiều phương diện của đời hầu đến.
1. Lễ Thổi Kèn: Việc cất Hội Thánh lên (ITe1Tx 4:16).
2. Lễ Chuộc Tội: Sự cứu rỗi Ysơraên (XaDr 13:1; RoRm 11:26-27).
3. Lễ Lều Tạm: Ở đời đời với Đấng Christ trong trời mới đất mới (KhKh 21:3-4).
Nếu điều trên đây là đúng, thì Lễ Ngũ Tuần là kỳ lễ cuối cùng được ứng nghiệm từ trong lịch của Lêvi Ký cho đến khi Đấng Christ tái lâm!
9. Ngoài việc biểu thị sự hoàn tất mùa gặt lúa mạch trong Do thái giáo sau nầy (theo Bruce, trang 54), Lễ Ngũ Tuần còn được xem là ngày lễ kỷ niệm hàng năm của
a) Cuộc Xuất Êdíptô.
b) việc Ban Bố Luật Pháp Môise tại Núi Sinai.
c) sự chinh phục Canaan.
Nhiều biểu hiện thiên thượng đặc biệt đã đi kèm theo sự Ban Bố Luật Pháp XuXh 19:26-34). Sự ban cho Đức Thánh Linh vào ngày Lễ Ngũ Tuần cũng vậy!
Tác Động Trên 120 Môn Đồ
Cong Cv 2:1-4 Bruce 55-56
Mục tiêu 2. Mô tả từng trải của cộng đồng Cơ đốc vào ngày Lễ Ngũ Tuần, như được ghi lại trong 2:1-4.
10. Đọc lại 2:1-4. Tóm tắt những gì mà mỗi câu cho biết 120 người đã kinh nghiệm.
a 2:1 ..........
b 2:2 ..........
c 2:3 ..........
d 2:4 ..........
11. Theo GiGa 17:20-21, Vì sao sự hiệp một của những tín đồ là điều kiện tất yếu để cho hội thánh kinh nghiệm được ngày Lễ Ngũ Tuần?
..........
Tiếng động của gió làm hình bóng về công tác của Đức Thánh Linh. Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người bằng cách hà sinh khí (gió) vào người (SaSt 2:7). Ngài đã tái dựng nên con người về mặt thuộc linh bằng cách hà sinh khí vào người (Exe Ed 37:5,14). Tiếng động như tiếng gió thổi ào ào đầy dẫy nhà môn đồ ngồi đại diện cách biểu tượng cho sự hiện diện trào dâng của Đức Thánh Linh mà 120 môn đồ đã cảm nhận được. Ngoài ra, có lẽ nó còn đại diện cho sự nghiệp truyền giáo sắp đến để truyền bá Tin Lành cho đến cùng thế giới.
Lửa là một cách biểu hiện khác nữa về sự hiện diện của Đức Chúa Trời (XuXh 3:2). Các môn đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần đã được đầy lửa của Đức Thánh Linh để truyền bá ngọn lửa không thể dập tắt được của Tin Lành. Buồn thay, một số người luôn luôn cố giảm bớt ý nghĩa của sự kiện siêu nhiên nầy. Họ cố giải thích những lưỡi lửa như là một hiện tượng tự nhiên: những Cơ đốc nhân đã nhìn thấy "một ý nghĩa sâu xa hơn trong dòng tia sáng mặt trời chiếu xuyên qua những hàng cột và mái vòm cung của đền thờ để rồi đáp trên đầu các sứ đồ..." (Bruce, trang 55). Lối giải thích nầy chỉ có thể đúng nếu như một trăm hai mươi môn đồ ngồi theo một vị trí sao cho mặt trời lọc ra mỗi tia chiếu ngời trên đầu mỗi người ("đậu trên mỗi người"). Điều nầy sẽ rất khó khăn, nếu không nói là không thể có được, để sắp xếp chỗ ngồi trong bất cứ căn phòng nào, dầu có nhiều hay có ít cửa sổ đi nữa.
Từ ngữ các thứ tiếng khác có thể xác định ở đây là các thứ tiếng ngoại quốc mà người nghe có thể hiểu được, nhưng người nói chưa hề học biết trước kia.
Điều quan trọng hơn những dấu hiệu về sự hiện diện của Thánh Linh ấy là chính Đức Thánh Linh. Lời tiên tri ba năm trước của Giăng (Mac Mc 1:8) đang được ứng nghiệm. Chúa chúng ta, Đấng đã kinh nghiệm sự giáng lâm của Thánh Linh khi Ngài chịu báp têm (Mac Mc 1:10) và sự xức dầu liên tục của Thánh Linh trên chức vụ Ngài (LuLc 4:18-19), chính Ngài hứa với các môn đồ rằng sẽ cầu xin Cha ban Thánh Linh cho họ (GiGa 14:16). Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, lời cầu nguyện đó của Chúa chúng ta đã được nhậm.
12. Động từ nào mô tả chính xác việc Chúa Jesus ban Thánh Linh cho 120 môn đồ?
a. Từ quan điểm của thiên đàng, Đức Thánh Linh.......... trên 120 môn đồ ( Cong Cv 2:17, 33).
b. Từ quan điểm của 120 môn đồ, họ.......... 2:4)
Câu sau đây tóm tắt rất hay tác động của Lễ Ngũ Tuần trên tín đồ: Rõ ràng họ đã có khả năng lớn hơn để nhận lãnh và họ đã nhận lãnh, thì bởi sự vâng phục trung tín với Đức Thánh Linh ngự trong họ, bản tánh họ đã trở nên rộng mở để càng nhận lãnh nhiều hơn. Nhưng họ được đầy dẫy tùy khả năng chứa của họ; và vì những chiếc bình tâm linh của họ có thể rộng mở và ân tứ được ban cho dồi dào, nên họ đã được chuẩn bị để tăng trưởng vững vàng với những gì mình đã có cho đến khi họ được đầy dẫy mọi sự trọn vẹn của Đức Chúa Trời.
Những Biến Cố Độc Nhất Vô Nhị Và Có Thể Tái Diễn Của Lễ Ngũ Tuần
Bruce 56-58
Mục tiêu 3. Thảo luận sự dạy dỗ về tiếng động giống như gió và lưỡi bằng lửa là điều độc nhất vô nhị trong từng trải ban đầu của 120 môn đồ, trong khi việc nói tiếng lạ vẫn tiếp tục xảy ra.
13. Đọc kỹ 2:1-4 và những câu Kinh Thánh khác được trích dẫn dưới đây. Trả lời có hay không cho các câu hỏi sau. .... a Tiếng động giống như gió thổi ào ào còn xảy ra lần nào nữa trong bốn từng trải khác về phép báp têm bằng Đức Thánh Linh được mô tả hay được ám chỉ trong 8:14-17; 9:17; 10:44-47; 19:1-7?
.... b Những lưỡi bằng lửa có tái diễn trong bốn trường hợp nêu trên không?
.... c Việc nói tiếng lạ có xảy ra trong bốn trường hợp nêu trên không?
.... d Tiếng gió thổi ào ào có xảy ra trước câu "Họ thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh" không?
.... e Những lưỡi bằng lửa có xảy ra trước câu: "Họ thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh" không?
.... f Việc nói các thứ tiếng lạ có xảy ra trước câu: "Họ thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh" không?
Việc nói tiếng lạ, hiện tượng siêu nhiên duy nhất được mô tả trong 2:1-4 và tái diễn trong Tân Ước, được mô tả là xảy ra sau khi "họ thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh," và đòi hỏi có sự dự phần của tín đồ thì nó mới xảy ra. Tiếng gió thổi ào ào và lửa đã xảy đến cho họ; trong khi đó việc nói tiếng lạ diễn ra trong và lưu phát ra từ họ.
Ngày Lễ Ngũ Tuần có nhiều điểm tương tự với Cuộc Xuất Êdíptô. Cả hai đều bắt đầu với đặc điểm độc nhất của các dấu kỳ phép lạ. Tuy vậy, trong suốt lịch sử Ysơraên và Hội thánh, Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục hành động qua nhiều phương cách siêu nhiên. Thời đại các phép lạ chỉ là quá khứ đối với hội thánh nào không có đức tin!
Qua phần thảo luận trên trong bài nầy, hãy nghĩ đến cách bạn sẽ trả lời cho ý kiến của F. F. Bruce trong trang 76 sách giáo khoa.
Phép báp têm bằng Đức Thánh Linh là đặc ân của Chúa ban cho chúng ta, và nói một cách nghiêm túc, thì đó là điều xảy ra một lần đủ cả vào ngày Lễ Ngũ Tuần khi Ngài tuôn đổ đều Cha đã hứa trên các môn đồ, để bởi đó lập họ thành một dân mới của Đức Chúa Trời...
Tôi hết sức kính trọng Bruce với tư cách một Cơ đốc Nhân và một học giả lỗi lạc. Tôi cảm thấy sách giáo khoa của ông là quyển sách sẵn có tốt nhất. Những tôi hẳn không đồng ý với ông về phép báp têm bằng Đức Thánh Linh. Tôi sẵn sàng công nhận có một sự độc đáo nhất định trong ngày Lễ Ngũ Tuần đầu tiên, nhưng phép báp têm bằng Đức Thánh Linh không phải chỉ ban một lần đủ cả. Chính bản văn của Côngvụ cho thấy phép báp têm bằng Đức Thánh Linh dành sẵn cho mọi tín đồ nào không có cơ hội may mắn hiện diện chung với 120 môn đồ kia. Hãy xem những câu sau: "Khi ngày Lễ Ngũ Tuần đang được ứng nghiệm " (2:1). "Trong những ngày sau rốt... Ta sẽ đổ Thần Ta khắp trên mọi xác thịt" (2:17). "Ai nấy... sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh. Vì lời hứa thuộc về các ngươi, con cái các ngươi, và thuộc về hết thảy mọi người ở xa, tức là bao nhiêu người mà Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta sẽ gọi” (2:38-39). Đức Thánh Linh cũng còn được xem là khởi ban cho trên các tín đồ trong 8:14-17; 9:17; 10:44-47; 19:1-7.
Những Mục Đích Của Tiếng Lạ
Mục tiêu 4. Phân biệt công dụng của tiếng lạ như là một bằng chứng thực thể ban đầu của phép báp têm bằng Đức Thánh Linh với những công dụng khác của tiếng lạ được đề cập trong Tân Ước.
14. Những câu nào sau đây có thể coi là ĐÚNG xét theo 2:1-4, 42-47; 8:14-17; 10:44-47 và 19:1-7? Khoanh tròn mẫu tự của những câu ĐÚNG.
a. Việc nói tiếng lạ mà người nghe hiểu rõ ràng chỉ được đề cập đến trong lần đầu tiên ban cho Đức Thánh Linh (Cong Cv 2:1-4)
b. Việc nói các thứ tiếng khác như là kết quả của sự đầy dẫy Đức Thánh Linh diễn ra ở chỗ khác trong sách Côngvụ, dầu các thứ tiếng nầy không được những người nghe nhận ra như là một ngôn ngữ rõ ràng.
c. Trong sách Côngvụ, việc nói tiếng lạ không hề được mô tả là xảy ra trước khi một người được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
d. Việc nói tiếng lạ không phải là một bằng chứng duy nhất của một đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh.
Chúng ta hãy xem những câu Kinh Thánh sau, lưu ý đến bốn công dụng khác nhau của việc nói tiếng lạ trong từng trải của các tín đồ Tân Ước. Trong (2:4, 10:44-47, và 19:1-7, nói tiếng lạ là một bằng chứng thuộc thể đầu tiên của phép báp têm bằng Đức Thánh Linh. Và trong ICo1Cr 12:10, 30, chúng được liệt kê như là một trong chín ơn tứ Thánh Linh, được dùng một cách rõ ràng trong sự thờ phượng Cơ đốc và đòi hỏi phải có thông giải. "Cả thảy đều nói tiếng lạ sao?" (12:30) nói đến ân tứ tiếng lạ trong sự thờ phượng chung, chứ không nói đến việc nói tiếng lạ đi kèm theo phép báp têm bằng Đức Thánh Linh được hứa là cho mọi người ( Cong Cv 2:17, 38-39). Hơn nữa, trong ICo1Cr 14:13-19, chúng ta thấy công dụng thứ ba của tiếng lạ: một phương tiện thường xuyên của sự cầu nguyện riêng. Phaolô gọi đó là sự cầu nguyện bằng tâm thần (của con người) và nói ông dùng tiếng lạ để cầu nguyện riêng còn nhiều hơn các tín hữu Côrinhtô. Công dụng thứ tư của tiếng lạ được đề cập đến trong 14:21-25 tức là, một dấu lạ cho kẻ chẳng tin. Trong trường hợp nầy, kẻ chẳng tin chắc chắn hiểu được tiếng lạ mà không cần thông giải, như trong Cong Cv 2:5-13.
Nói tiếng lạ là phương tiện cầu nguyện và ca ngợi Đức Chúa Trời, được Thánh Linh thôi thúc, đem lại sự gây dựng đức tin cho tín đồ. Hãy quan sát những câu Kinh Thánh sau minh họa thế nào cho mục đích của tiếng lạ trong sự cầu nguyện và ca ngợi. Tiếng lạ trong 2:11 là việc rao truyền các dấu lạ (những công việc quyền năng) của Đức Chúa Trời, như vậy đó là sự ca ngợi. Sứ đồ Phaolô tuyên bố trong ICo1Cr 14:2 rằng người nói tiếng lạ tức là nói với Đức Chúa Trời , chứ không phải với con người. Ông giải thích, người nào cầu nguyện bằng tiếng lạ thì gây dựng chính mình (ICo1Cr 14:4). Ông cũng giải thích (14:4) rằng cầu nguyện bằng tiếng lạ tức là cầu nguyện bằng tâm thần của con người. Để phân biệt tâm thần với tâm trí, rõ ràng Phaolô đã có ý nói tâm thần là tập hợp bên trong của những tư tưởng, nhu cầu và cảm giác, mà không thể diễn tả đầy đủ qua ngôn ngữ chính thức. Như vậy, nói tiếng lạ là cách diễn tả của tâm linh con người để tự bày tỏ một cách hoàn toàn trước mặt Đức Chúa Trời.
Cũng nên lưu ý rằng một mục đích trong việc nói tiếng lạ vào ngày Lễ Ngũ Tuần là khác với trường hợp chung của việc nói tiếng lạ kèm theo phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, trong sự cầu nguyện riêng, trong sự thờ phượng chung (chúng ta muốn nói thờ phượng chung có nghĩa là "bất cứ khi nào có hội của các tín đồ nhóm lại để thờ phượng Chúa"). Tính độc nhất vô nhị của tiếng lạ ngày Lễ Ngũ Tuần ấy là chúng là dấu lạ cho kẻ chẳng tin (so sánh Cong Cv 2:8 với ICo1Cr 14:22). Tiếng lạ là dấu cho kẻ chẳng tin khi: 1) Người ấy nghe được ngôn ngữ mình hiểu được, 2) Người ấy nghe người khác nói ngôn ngữ mà người nói không hiểu. Phaolô công nhận tính hiếm hoi của trường hợp nầy trong 14:23-25, rồi gợi ý rằng kẻ chẳng tin nên được nghe bằng những thứ tiếng mà người nói hiểu được.
Tác Động Trên Đoàn Dân
Cong Cv 2:5-13, Bruce 58-69
Mục tiêu 5. Tìm ra những khu vực địa lý đại diện cho những người đến thờ phượng vào ngày Lễ Ngũ Tuần, và cho biết biểu tượng dùng để dạy dỗ được trình bày qua nhiều ngôn ngữ nói ra trong ngày Lễ Ngũ Tuần.
Ba ngày lễ lớn khiến những người Dothái phải từ những nơi ở tản mác của họ trên khắp thế giới trở về thành Giêrusalem đó là: Lễ Vượt Qua, Lễ Ngũ Tuần và Lễ Lều Tạm. Trong suốt sách Côngvụ, chúng ta thấy Thánh Linh hướng dẫn các tôi tớ của Chúa Jesus đi đến đúng chỗ, đúng lúc để đạt được ưu thế tối đa cho công cuộc rao giảng Tin Lành. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, những đoàn dân đông của khách hành hương Do thái và dân thành Giêrusalem tập trung lại khi nghe tiếng của 120 môn đồ nói các thứ tiếng lạ gợi ý một cách mạnh mẽ rằng: những môn đồ đầy dẫy Thánh Linh nầy đã từ phòng cao cầu nguyện đi vào tận trong khu vực đền thờ. Với sự sắp xếp của Chúa tại cao điểm của kỳ lễ nầy, đám đông tập trung quanh họ chính là những người đến dự Lễ Ngũ Tuần. (Lưu ý tầm quan trọng mà một người Do thái sùng đạo sẽ gán cho việc đi đến Giêrusalem vào ngày lễ lớn khi đọc 20:16.) 120 môn đồ hiển nhiên đã ca ngợi Đức Chúa Trời bằng tiếng lạ trong một khoảng thời gian nào đó, vì chúng ta đọc thấy tin tức nầy lan truyền lần (2:6) và đám đông đang tập trung lại bắt đầu bàn tán hiện tượng nầy (c.7-11), trong khi đó các tín đồ vẫn đang nói tiếng lạ.
Xem xét vắn tắt các phản ứng của đám đông trước sự kiện siêu nhiên mà họ đang chứng kiến (2:5-13). Chúng ta thấy đám đông sửng sốt và dân thành Giêrusalem cũng sợ hãi và rối loạn (2:6, 12). Tuy nhiên, một số người nào đó đã phản ứng bằng cách nhạo báng. Bản tánh con người chẳng thay đổi chút nào! Phản ứng của một số người trước những điều mình không hiểu ấy là chế nhạo (2:13).
15. Xem bản đồ trong bài học nầy và xác định những khu vực đại diện cho những ngôn ngữ được nói ra trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Bạn có thấy Luca dùng một mẫu mực có thứ tự để liệt kê các khu vực địa lý nầy không?
a Những ngôn ngữ từ phần thế giới phía Đông và Đông Bắc Giêrusalem.
1) ..........
2) ..........
3)..........
4) ..........
b Những ngôn ngữ từ chính vùng Giuđê. Bruce gợi ý rất hay rằng có thể hiểu Giuđê theo khuôn viên rộng nhất của nó trong Kinh Thánh, vì vậy lãnh thổ nầy phía Bắc giáp tận Syri và phía Nam giáp biên giới Aicập.
c. Ngôn ngữ đến từ phần thế giới phía Bắc và Tây Bắc Giêrusalem.
1) ..........
2) ..........
3) ..........
4) ..........
5) ..........
d Ngôn ngữ đến từ phần thế giới phía Tây Nam Giêrusalem.
1) ..........
2) ..........
e. Ngôn ngữ đến từ phần thế giới ở hướng Tây Giêrusalem.
1) ..........
2) ..........
f. Ngôn ngữ từ phần thế giới Đông Nam Giêrusalem.
..........
Tổng cộng, có đến 15 ngôn ngữ! Những người hành hương Lễ Ngũ Tuần sẽ trở về quê hương mình trong vài tuần. Rõ ràng, trong số đó có người thuộc vào số ba ngàn người được cứu (2:41). Nếu vậy, họ hẳn là những người đầu tiên rao truyền câu chuyện Chúa Jesus cho thế giới của thế kỷ thứ nhất. Tin Lành đã bắt đầu bước tiến của mình! Không lấy gì làm lạ khi Chúa bảo môn đồ phải đợi (1:4). Chúa muốn sứ điệp của Ngài có được thính giả từ nhiều quốc gia khác nhau ngay từ lần rao giảng đầu tiên. Đức Thánh Linh đã chọn một địa điểm chiến lược và một phương tiện chiến lược để khiến đoàn người hành hương từ những nơi xa xôi trên thế giới chú ý vào Đấng Christ!
Có ít nhất hai phép biểu tượng từ những ngôn ngữ được nói ra trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Thứ nhất, sự phán xét của Đức Chúa Trời qua việc phân chia ngôn ngữ tại Babên (SaSt 11:1-9) đem lại một sự tương phản mạnh mẽ với từng trải Lễ Ngũ Tuần. Tại Babên, ngôn ngữ là phương tiện đoán phạt. Tại Lễ Ngũ Tuần, Đức Chúa Trời dùng những ngôn ngữ của Babên làm phương tiện cho 120 người ca ngợi Ngài! Thứ nhì, rất nhiều ngôn ngữ được nói ra đã báo trước tính đa dân tộc của hội thánh Cơ đốc. Từ Lễ Ngũ Tuần cho đến khi Đấng Christ tái lâm, Đức Thánh Linh đang tìm kiếm người từ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ để tôn vinh Đức Chúa Jesus, là Đấng mà Đức Chúa Trời đã tôn là Chúa và Đấng Christ (Phi Pl 2:9-11)
NHỮNG KHU VỰC CỦA NHỮNG KHÁCH HÀNH HƯƠNG ĐẾN DỰ LỄ NGŨ TUẦN
(Theo Cong Cv 2:1-47)
Êdíptô
Libi
Arập
Giêrusalem
Giuđê
Mêsôbôtami
Êlam
Bạtthê
Mêđi
Syren
Cơrết
Bamphily
Cápbađốc
Phirigi
Bông
Asi
Rôma
BÀI GIẢNG ĐẦU TIÊN CỦA PHIERƠ
2:14-36 Bruce 65-74
Mục tiêu 6. Nêu những phẩm chất trong bài giảng của Phierơ mà chúng đáng phải có trong mọi bài giảng.
Tôi nghĩ một trong những bằng chứng không thể sai lầm về sự phục sinh của Đấng Christ đó là sự thay đổi đặc biệt trong đời sống của những người theo Ngài. Hãy xem Phierơ! Trong các sách Tin Lành, chúng ta thấy ông mệt mỏi chối Chúa ba lần trong đêm Ngài bị xử án, khi một con đòi và những người khác hỏi rằng ông có cùng phe với Chúa Jesus không (LuLc 22:54-60). Ánh mắt nhìn của Chúa trong lần ông chối Chúa sau cùng và ký ức của Phierơ về việc Chúa báo trước sự nhu nhược của ông đã đẩy ông chìm sâu trong sự hối hận và khóc lóc (LuLc 22:61-62). Liệu Đấng Christ có thể biến cát thành đá chăng? Ngài đã làm điều đó với Phierơ!
Hãy xem ông tại ngày Lễ Ngũ Tuần, được phục hồi và đầy dẫy quyền năng Thánh Linh như Đấng Christ đã hứa (GiGa 21:14-19; Cong Cv 1:8). Ông đối mặt một cách tự tin với đám đông mà sẽ có đến ba ngàn người được cứu từ con số đó (hẳn đám đông nầy phải có đến hàng vạn người?). Hãy quan sát con người đã chối Chúa trước kia trước mặt chỉ một vài người! Giờ đây, sau Sự Phục Sinh và Lễ Ngũ Tuần, ông đã dạn dĩ đứng trước mặt cả biển người để rao ra bài giảng đầu tiên về Đấng Christ: Đức Chúa Jesus vừa là Chúa vừa là Đấng Mêsia!
16. Bạn có bao giờ thất bại trước mặt Chúa giống như Phierơ không? Hãy mô tả thất bại của bạn. Chúa đã phục hồi bạn bằng cách nào, hay giờ đây bạn có cần kinh nghiệm được Ngài phục hồi sau khi thất bại không?
..........
Há không phải là điều kỳ diệu khi thấy tầm khác biệt lớn lao về cá tánh trong nước Chúa sao? Bạn có thể là một Phierơ, một con người có thể đã chìm sâu vào sự chối Chúa và tuyệt vọng chỉ để rồi được nâng lên một bình diện vững bền hơn nhiều trong từng trải Cơ đốc, trong sự hầu việc được xức dầu, và trong niềm vui nơi Chúa. Hoặc bạn có thể là Giăng, một con người vững vàng và hay suy tư. Hoặc bạn có thể là Mathê, một người luôn bận rộn hầu việc Chúa. Hoặc là Mari, luôn sẵn sàng hưởng lấy những giây phút im lặng suy tư, học hỏi, và dành thời gian ở riêng với Chúa. Tuy chúng ta rút ra sự thôi thúc, học hỏi và dẫn dắt từ những nhân vật Kinh Thánh và từ các Cơ đốc nhân khác nhưng Chúa Jesus không có ý đặt bạn vào cho đúng theo khuôn mẫu của kẻ khác đâu. Bạn càng phó thác đời sống mình cho Ngài bao nhiêu, thì Ngài càng khiến bạn trở nên chính bạn và càng khiến bạn trở nên giống như Ngài bấy nhiêu!
Lời Giải Thích Về Hành Vi
2:14-21 Bruce 80
Có rất nhiều cơ hội để làm chứng, nhưng sự rao giảng Cơ đốc phải bắt đầu với Đấng Christ chứ không phải với bản thân chúng ta. Những lời mở đầu của Phierơ tập trung vào mối quan tâm trước mắt của thính giả (hành vi của 120 môn đồ) chứ không phải vào vấn đề trọng tâm mà ông muốn chia xẻ (Chúa Jesus là Chúa và là Đấng Christ). Phierơ đã dùng chiến lược quan trọng trong công tác rao giảng. Chiến lược nầy đòi hỏi bạn bắt đầu với những điều thính giả đang quan tâm và dùng điều đó làm chiếc cầu nối dẫn đến sứ điệp mà Đức Chúa Trời muốn bạn rao giảng cho họ.
Cũng hãy để ý đến phương cách không hăm dọa nhưng mời gọi mà Phierơ dùng khi ông bắt đầu giải thích, có lẽ bằng một giọng nói hài hước, rằng trong nền văn hóa ấy không ai say rượu lúc chín giờ sáng. Hãy quan sát sự khôn ngoan trong điểm nhấn mạnh của Phierơ. Ông không bảo đám đông đã đánh mất cơ hội vì trước kia họ không chịu tin. Và ông không nhắc đến cơ hội họ đã bỏ lỡ: được ở trên phòng cao. Trái lại, ông nhấn mạnh đến cách để họ có thể nhận được. Lý do khiến Phierơ bắt đầu như thế chính là vì ông đã đi ra để chinh phục họ chứ không phải để làm cho họ ghét bỏ hay làm cho họ xa lánh ông.
Sau khi quan sát mối quan tâm của Phierơ dành cho đám đông và phần mở đầu duyên dáng của ông, chúng ta hãy xét đến sứ điệp và cách truyền đạt của ông. Đặc trưng thứ nhất là bản chất tập thể của chức vụ. Mười một sứ đồ kia đứng chung với Phierơ đang khi ông rao giảng. Khi làm như vậy, không những họ bày tỏ sự đoàn kết thành một nhóm, mà còn chứng tỏ rằng họ nâng đỡ nhau trọn vẹn bằng sự hiện diện, sự cầu nguyện, và niềm tin nơi sứ điệp Phierơ đang rao giảng. Trong suốt sách Côngvụ, chức vụ kết quả của từng nhân vật mạnh mẽ được thực hiện trong tinh thần liên kết với các tín hữu và nhân sự khác. Trong Côngvụ, không có chức vụ độc lập (riêng rẽ). Chúng ta cần giúp đỡ, sửa trị và thông công lẫn nhau.
Đặc trưng thứ nhì là giọng điệu đầy thẩm quyền trong sứ điệp của Phierơ. Bài giảng được rao ra cho một đoàn dân rất đông mà không cần đến những phương tiện khuếch âm hiện đại. 2:14 cho thấy Phierơ đã đứng ra và cất tiếng nói . Ông nói đủ lớn để người ta nghe. Tôi nghĩ ông cũng nói một cách tự nhiên và nhấn mạnh những phương diện nào đó chứ không dùng giọng nói dạy đời hay ra vẻ bộ trưởng .
Một đặc trưng khác nữa trong sứ điệp của Phierơ đề cập đến một từ ngữ bao quát, sự chuẩn bị . Sứ điệp của Phierơ tượng trưng cho lửa Thánh Linh đổ xuống trên bàn thờ chuẩn bị của ông. Bài giảng của ông phản ảnh rằng ông đã nắm vững và thuộc lòng rất tốt những câu Kinh Thánh và đã hiểu những hàm ý của những câu Kinh Thánh theo như Chúa đã dạy (LuLc 24:44-47) và áp dụng chúng vào tình huống tùy ứng trước mắt ông, làm đám đông đang vây quanh vừa sửng sốt vừa chế nhạo. Có thể xem như Đức Chúa Trời đã, có thể, và sẽ phán qua những chiếc bình chưa được chuẩn bị. Nhưng đó không phải là kiểu mẫu của Ngài! Sự xức dầu của Đức Chúa Trời và nỗ lực hết sức mình của chúng ta trong công tác chuẩn bị luôn luôn đi song hành với nhau.
Đặc trưng thứ tư trong bài giảng đầu tiên tại Lễ Ngũ Tuần liên quan đến sự hiểu biết Kinh Thánh. Phierơ biết Kinh Thánh giỏi đến độ không cần trước thì giờ để tra Kinh Thánh, ông đã chuẩn bị để giải thích cơ sở hiệu lực của từng trải Lễ Ngũ Tuần bằng Kinh Thánh. Chúng ta thấy trong bài giảng của Phierơ cách mà Đức Thánh Linh kích thích trí nhớ của ông, như Chúa đã hứa (GiGa 14:26). Tôi thành thật nghĩ rằng Đức Thánh Linh hẳn sẽ không khiến trí nhớ của Phierơ sống động đến thế, nếu như trước kia Phierơ không lo lưu trữ thông tin vào "bộ nhớ" của mình.
Đời Nầy Và Đời Hầu Đến
Cong Cv 2:16-21 Bruce 67-69
Mục tiêu 7. Giải thích những cụm từ “ngày sau rốt” và “ngày của Chúa.”
Để giải thích từng trải của 120 môn đồ là sự ứng nghiệm lời tiên tri, Phierơ đã trích Gio Ge 2:28-32, trong đó, có mô tả hai điều kiện chính cho ngày sau rốt, là ngày đến trước Ngày của Chúa.
17 Xác định hai việc làm chính của Chúa đã được tiên tri cho ngày sau rốt trong phần Phierơ trích dẫn Giôên ở Cong Cv 2:17, 19
a. 2:17 ..........
b. 2:19 ..........
18. Bạn có thể xác định rõ hơn Giôên cho chúng ta biết Đức Chúa Trời đang đổ Thánh Linh trên dân sự Ngài bằng cách nào hay không?
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
19. Mô tả năm phương diện của các dấu lạ trên trời và các dấu lạ dưới đất diễn ra trước ngày của Chúa, theo lời tiên tri của Giôên .
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
e ..........
20. Xin lưu ý việc tuôn đổ Thánh Linh Đức Chúa Trời trên mọi người và những dấu kỳ phép lạ trên trời và dưới đất là toàn bộ mọi phương diện của ngày sau rốt. Dựa vào việc Phierơ áp dụng Giôên cho từng trải Lễ Ngũ Tuần, những câu nào sau đây mô tả đúng nhất ngày sau rốt?
a) Ngày sau rốt là một số ngày cuối cùng trước lúc Chúa tái lâm.
b) Những ngày nầy là những ngày sau rốt.
c) Ngày sau rốt bao gồm thời kỳ từ Ngày Lễ Ngũ Tuần cho đến khi Chúa hiện ra.
Ngày của Chúa đi tiếp theo sau ngày sau rốt. Ngày của Chúa trong Cựu Ước được xem là thời kỳ cai trị nhân đức của Đấng Mêsia trên dân Ysơraên và toàn thế gian (EsIs 65:17-25). Tuy nhiên, những tiên tri như Giôên đã báo trước Ngày của Chúa còn bao gồm một chiều hướng khác nữa. Đó sẽ là một ngày phán xét kinh khiếp đầy tăm tối cho những kẻ không công bình (Gio Ge 2:1-11).
Trong bài giảng Lễ Ngũ Tuần của Phierơ, chữ Chúa (Giêhôva) được dùng chỉ về chính Chúa Jesus (Cong Cv 2:34, 37)! Như vậy, Ngày của Chúa có thể được xem là một thời kỳ kéo dài, bắt đầu bằng sự tái lâm trần gian hiển nhiên của Đấng Christ và kết thúc bằng sự thiêu đốt hoàn toàn trời đất nầy trước khi Ngài dựng trời mới đất mới (EsIs 66:22; IIPhi 2Pr 3:13; KhKh 21:1). Ngày của Chúa bao gồm phước hạnh cho kẻ được chuộc và sự đoán phạt cho kẻ ác.
21. Những câu nào sau đây mô tả đúng nhất ngày sau rốt và Ngày của Chúa?
a) Ngày sau rốt được đánh dấu bởi chỉ một phong trào hy vọng, tức sự tuôn đổ Thánh Linh Đức Chúa Trời trên mọi loài xác thịt. Sau đó, Ngày của Chúa sẽ đến.
b) Ngày sau rốt được đánh dấu bởi chỉ một kiểu biến cố đầy bi quan, tức bạo lực gia tăng, đạo đức suy đồi trên đất, đi kèm theo những nỗi kinh khiếp trước những hiện tượng xáo trộn trong cõi thiên nhiên. Sau đó Ngày của Chúa sẽ đến.
c) Ngày sau rốt được đánh dấu bởi hai phong trào đi theo hai hướng ngược nhau. Thứ nhất, Thánh Linh Đức Chúa Trời được đổ ra. Thứ hai, những xáo trộn trong xã hội và cõi tự nhiên xảy ra kinh khiếp chưa từng thấy. Sau đó, Ngày của Chúa sẽ đến.
d) Ngày của Chúa được mở ra, không phải bởi sự tái lâm của Chúa, mà bởi sự thành công của Đấng Christ trở nên thống trị hoàn toàn trên đất, do đó khiến cho thế giới trở nên hòa bình và thạnh vượng.
Máu, lửa, và luồng khói hiển nhiên là những dấu lạ trên đất. Chắc chắn chúng là sản phẩm của lòng tham và thù ghét của con người, và điều gây nên chiến tranh. Các dấu lạ trên trời vẫn có thể là kết quả của sự lạm dụng môi trường cách trắng trợn, hoặc có thể do chính Đức Chúa Trời gây ra. Sự dạy dỗ của Kinh Thánh rất dứt khoát: đời nầy sẽ chấm dứt, Chúa sẽ tái lâm! Tôi thiết nghĩ rằng không những ngày sau rốt được đặc trưng bởi những xáo trộn trong xã hội và thiên nhiên, mà chúng còn được đặc trưng bởi một hội thánh sống năng động nhất xưa nay trên thế gian nầy. Tội ác sẽ gia tăng nhưng Tin Lành cũng sẽ đến cho mọi dân tộc.
Jesus Là Chúa Và Đấng Christ
Cong Cv 2:22-36 Bruce 69-74
Mục tiêu 8. Mô tả cách dùng sự sống, sự chết, và sự phục sinh của Chúa Jesus và Cựu Ước trong bài giảng đầu tiên về Đấng Christ để chứng minh Ngài vừa là Chúa vừa là Đấng Christ.
Bài giảng của Phierơ đã cẩn thận lập nền tảng rằng: thực tại về phép báp têm bằng Đức Thánh Linh trong ngày Lễ Ngũ Tuần (2:14-21) và lời tuyên bố Đức Chúa Jesus vừa là Chúa vừa là Đấng Mêsia (2:22-36) được khẳng định không những bởi kinh nghiệm và lời chứng riêng của các sứ đồ, mà còn bởi lời Kinh Thánh nữa.
Để trình bày lời tuyên bố quyền được công nhận là Đấng Mêsia và Chúa của Đấng Christ, Phierơ đã bắt đầu bằng phần tóm tắt ngắn về cuộc đời của Ngài (2:22), sự chết của Ngài (2:23), và sự phục sinh của Ngài (2:24). Ông cũng nêu ba phương diện siêu nhiên đánh dấu đời sống Đấng Christ là một đời sống được chính Đức Chúa Trời công nhận: các phép lạ, sự lạ, và dấu lạ (2:22). Chữ thứ nhất, "các phép lạ" hoặc "các việc quyền phép" ( dynameis ), nhấn mạnh bản chất quyền năng trong hành động siêu nhiên của Đấng Christ. Chữ thứ nhì, "sự lạ" ( terata ), nhấn mạnh đến hiệu quả của các phép lạ. Chữ thứ ba, "dấu lạ" ( semeia ), chỉ ra mục đích các phép lạ là dấu chỉ về thần tính của Chúa Jesus. Trong Côngvụ, dynameis hay terata không bao giờ xuất hiện mà không đi kèm với chữ semeia , vì mục đích của các phép lạ do các sứ đồ thực hiện không phải để cho người ta ngạc nhiên chú ý vào sự lạ, nhưng để khiến họ tôn Đức Chúa Jesus Christ làm Chúa của mình.
Sự Chết Và Sự Phục Sinh Của Đấng Christ
22. Có thể truy sự chết của Đức Chúa Jesus (2:23) về hai nguyên nhân nào?
a ..........
b ..........
Trong câu Phierơ nói về sự chết của Đức Chúa Jesus, chúng ta thấy mối tương quan giữa quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời với quyền tự do của con người. Suốt nhiều thế kỷ, mối tương quan nầy đã đè nặng trên những nhà thần học lớn. Phierơ trình bày mối tương quan thật đơn giản. Thứ nhất, Đức Chúa Trời tể trị tối thượng. Sự chết của Đức Chúa Jesus không phải là một chuyện tình cờ. Đức Chúa Trời đã muốn điều đó nơi Đấng Christ. Thứ nhì, con người có quyền tự do. Chính bởi quyền chọn lựa của con người mà Chúa đã bị đóng đinh trên thập tự giá.
Phierơ giữ cả hai lẽ thật nầy, không nhấn mạnh riêng một lẽ thật nào cả. Có người đã sai lầm khi xem nhẹ ý chí tự do của con người. Thay vào đó, họ nhấn mạnh vào quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời. Khi làm như vậy, họ đã theo quan điểm tiền định về những sự kiện của con người, xem con người chỉ như là một con rối trên sân khấu của Đức Chúa Trời.
Một số khác lại mắc sai lầm ở chỗ nhấn mạnh quá đáng vào quyền tự do của ý chí con người thay vì quyền tể trị của Đức Chúa Trời, đến nỗi thần học của họ bày tỏ Đức Chúa Trời như là một Đấng hầu như không thể biết ngay mai sắp xảy ra chuyện gì.
Dầu con người không bao giờ có thể hòa hợp hay hiểu được hoàn toàn hai lẽ thật nầy - nhưng hãy tin và rao giảng cả hai! Thập tự giá là sự chọn lựa của Đức Chúa Trời, nhưng cũng là sự chọn lựa của con người! Sự cứu rỗi là ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho tôi, nhưng đó cũng phải là ý muốn của chính tôi nữa! Đức Chúa Trời kêu gọi tôi, nhưng tôi cũng đã đến!
Hãy đặt mình vào địa vị của đám đông đang nghe những lời của Phierơ trong 2:22-24. Bạn sẽ có cảm nhận gì khi qua lời giảng của Phierơ, Đức Thánh Linh khiến bạn nhận ra rằng bạn chịu trách nhiệm về sự chết của chính con người mà Đức Chúa Trời đã chọn làm Đấng Mêsia và làm Chúa, và là Đấng Đức Chúa Trời đã khiến từ kẻ chết sống lại? Rồi bạn có thể đoán trước được phản ứng trong 2:37 không?
Sử dụng lối tiếp cận Cựu Ước mà chính Đức Chúa Jesus đã dạy (LuLc 24:44-47), Phierơ đưa ra hai lời tiên tri từ tác phẩm của Vua Đavít, là những lời tuyên bố rõ ràng rằng sự chết không thể cầm giữ Đấng Mêsia.
23. Có hai phân đoạn Kinh Thánh chìa khóa được trích từ Thithiên, Thi Tv 16:8-11 và 110:1. Trong những Thithiên nầy, Phierơ đang nói điều gì? Khoanh tròn (những) mẫu tự của câu trả lời đúng.
a) Đavít viết những Thi Thiên để nói về mình.
b) Đavít viết những Thi Thiên, nhưng không thể áp dụng chúng cho ông, vì ông không kinh nghiệm những gì chính các Thithiên nầy đã nói.
c) Đavít đã viết chúng, nhưng thực ra chúng là những Thithiên dự ngôn sự phục sinh của hậu tự Đavít, tức Đấng Mêsia (hay Đấng Christ).
Phierơ cũng nêu ra ý trọng tâm là Đức Chúa Jesus trong nhân tánh Ngài chính là dòng dõi của Đavít (2:30). Nhưng với thần tánh Ngài, Đức Chúa Jesus là Chúa của Đavít (2:34). Chính vấn đề nầy đã được Đức Chúa Jesus nhấn mạnh vào cuối một loạt thắc mắc do các lãnh tụ tôn giáo hỏi Ngài vào tuần lễ cuối trước khi Ngài chịu đóng đinh trên thập tự giá (Mac Mc 12:35-37). Khi họ không còn câu hỏi nào nữa, Đức Chúa Jesus chận họ lại bằng câu hỏi nầy:
"Sao các thầy thông giáo nói Đấng Christ là con Đavít? Chính Đavít đã cảm Đức Thánh Linh mà nói rằng: Chúa phán cùng Chúa tôi: Hãy đến ngồi bên hữu ta, cho đến chừng nào ta để kẻ thù nghịch ngươi làm bệ dưới chân ngươi. Vì chính Đavít xưng Ngài bằng Chúa, thì lẽ nào Ngài là con vua ấy?"
Dầu các lãnh tụ tôn giáo không có câu trả lời, nhưng họ được đã trả lời thẳng thắn. Và vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, Phierơ cũng có câu trả lời giống y như vậy! Đức Chúa Jesus vừa là con của Đavít (nhân tánh), vừa là Chúa của Đavít (thần tánh)!
BA NGÀN NGƯỜI THÊM VÀO HỘI THÁNH
Cong Cv 2:37-47 Bruce 74-81
Đức Chúa Jesus không những hứa với các môn đồ rằng họ được đầy dẫy quyền năng Thánh Linh để làm chứng, mà Ngài còn dạy Thánh Linh sẽ "khiến thế gian tự cáo về tội lỗi, về sự công bình, và về sự phán xét" (GiGa 16:8-11). Và giờ đây, khi Phierơ giảng, Đức Thánh Linh đang thành tín làm ứng nghiệm lời Đấng Christ đã phán.
Rất nhiều người trong đám đông đang đứng nghe đã bị cáo trách về tội vì họ không tin Chúa Jesus là Đấng Christ; về sự công bình vì Đức Chúa Jesus dã về cùng Cha, là Đấng mà chỉ có sự công bình mới có thể ở trước mặt Ngài được (họ đã gọi Chúa Jesus là một tội nhân).; và về sự đoán xét , vì vua chúa thế gian nầy, là Satan, đã bị kết án, nên họ đã kết án Đấng Mêsia.
Họ tự hỏi: "Phải chăng đã quá trễ?" Họ hỏi: "Chúng ta phải làm chi?"
Những Từng Trải Cơ Đốc Ban Đầu
Mục tiêu 9. Mô tả những yếu tố trong từng trải Cơ đốc của ba ngàn người được thêm vào hội thánh trong Ngày Lễ Ngũ Tuần.
24. Phierơ đã đưa ra hai mạng lệnh và một lời hứa nào (Cong Cv 2:8) cho những người muốn biết mình phải làm gì sau khi ông giảng xong?
a ..........
b ..........
c ..........
Chúng ta hãy xác định rõ ý nghĩa của phép báp têm bằng cách hiểu mối quan hệ giữa các câu Kinh Thánh sau. Trong LuLc 3:3 và Cong Cv 2:38, chúng ta thấy cả Giăng Báp Tít và Phierơ đều rao giảng phép báp têm về sự ăn năn để được tha tội. Có thể sẽ có người thắc mắc: "Vì cả hai đều rao giảng phép báp têm về sự ăn năn, nên có gì khác nhau giữa hai phép báp têm đó đâu?" Câu trả lời là "Có." Thứ nhất, phép báp têm của Phierơ là trong Đức Chúa Jesus Christ. Nếu Đức Chúa Trời đã định dùng nước làm phương tiện của sự cứu rỗi hay sự tha thứ, thì thực sự sẽ không hề có gì phân biệt đó là phép báp têm của Giăng hay của Phierơ. Chính công vụ của Đấng Christ trong sự tái tạo mới cứu chúng ta, chứ không không phải yếu tố nước trong hành động làm phép báp têm.
Cũng đối chiếu Mat Mt 28:19 với Cong Cv 2:38. Ở đây, chúng ta thấy cách dùng của hai công thức làm phép báp têm khác nhau. Có thể giải thích được về sự bỏ qua Ba Ngôi Đức Chúa Trời không? Chúng ta tin là có. Hãy nhớ rằng trong bài giảng, Phierơ đã đã nói đến thân vị của Đức Chúa Cha (2:22), Đức Thánh Linh (2:17, 18, 33), và Đức Chúa Jesus là Chúa (Đức Giêhôva) và Đấng Christ (Đấng Mêsia). Như vậy, trong 2:38, không phải ông đang hạ thấp Ba Ngôi Đức Chúa Trời, cũng không phải đang hủy lệnh của Chúa (Mat Mt 28:19). Trái lại, ông đưa ra một hình thức rút gọn của lời công bố về phép báp têm có xuất hiện ở chỗ khác trong sách Côngvụ. Chúng ta phải hiểu rằng những thính giả của Phierơ đã quen thuộc với phép báp têm cho người ngoại bang theo đạo Do thái, và phép báp têm của Giăng Báp Tít. Cụm từ "nhơn danh Đức Chúa Jesus" được Phierơ dùng để phân biệt phép báp têm Cơ đốc với những phép báp têm kia.
25. Cần phải tránh hai mối nguy hiểm liên quan đến phép báp têm bằng nước. Thứ nhất, xem đó là điều tùy chọn đối với người tin Chúa. Thứ nhì, không có phép báp têm thì không được cứu rỗi. Căn cứ vào phần so sánh RoRm 6:1-4 và 10:8-9 với Cong Cv 2:38, khoanh tròn câu nào sau đây diễn tả đúng nhất sự dạy dỗ về của Kinh Thánh về bản chất phép báp têm bằng nước của Cơ đốc nhân.
a) Khi chúng ta ăn năn tội mình và tin nơi Đức Chúa Jesus và sự phục sinh của Ngài, chúng ta được tha thứ và được cứu rỗi. Phép báp têm bằng nước bày tỏ cho người khác biết rằng chúng ta đã ăn năn, đã được tha tội, và được hiệp làm một với Đấng Christ trong sự chết, sự phục sinh của Ngài, và đã bắt đầu nếp sống Cơ đốc bằng một hành động vâng phục Đấng Christ một cách thuộc thể, dứt khoát, hiển nhiên.
b) Bạn không cần phải chịu báp têm mới được cứu rỗi.
c) Bạn phải chịu báp têm mới được cứu rỗi.
Phép báp têm bằng nước nên đi tiếp theo sau sự ăn năn và tin cậy nơi Đấng Christ. Lưu ý cẩn thận 2:38 không nói rằng: "Hãy ăn năn để được tha tội," cũng không nói rằng: "Hãy chịu phép báp têm để được tha tội," nhưng nói rằng: "Hãy ăn năn và chịu phép báp têm để được tha tội."
Lời Phierơ hứa với đoàn dân đông (2:38-39) ấy là, nếu họ làm theo những điều kiện của Đức Chúa Trời là phải ăn năn và chịu phép báp têm, họ sẽ nhận lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh.
Đọc kỹ 1:4-5; 2:4, 17-18, 33, 39. Từ những câu Kinh Thánh khác nhau nầy, chúng ta thấy nổi bật lên một kiểu mẫu: Phierơ muốn thính giả của mình nhận ra phép báp têm bằng Đức Thánh Linh không phải là một sự kiện ngẫu nhiên, mà đó là sự ứng nghiệm của một lời hứa. Lưu ý chữ hứa xuất hiện trong 1:4; 2:33, 39. Trong cách dùng đầu tiên, chỉ về từng trải được ứng nghiệm trong 2:4. Trong 2:33, Phierơ dùng chữ hứa để nói trở lại từng trải trong 2:4. Sự nhất quán trong cách giải nghĩa buộc 2:33 phải chỉ về cùng một lời hứa của Đấng Christ trong 1:4, là điều được kinh nghiệm trong 2:4, và được thuật lại trong 2:33. Lời hứa được ứng nghiệm trong 2:4: "Hết thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, khởi sự nói các thứ tiếng khác, theo như Đức Thánh Linh cho mình nói," là lời hứa được dành cho mọi tín đồ.
Bản Chất Của Cộng Đồng Cơ Đốc Đầu Tiên
2:42-47; Bruce 79-81.
Mục tiêu 10. Thảo luận nếp sống được mô tả trong 2:44-45, xem nó có phải là một mẫu mực cho mọi cộng đồng Cơ đốc hay không?
Theo sau nhóm sự kiện chính yếu lúc ban đầu (ăn năn, phép báp têm bằng nước, sự ban cho Đức Thánh Linh), còn nhiều yếu tố khác trong từng trải Cơ đốc, và được mô tả trong hai phần tóm tắt. Phần tóm tắt thứ nhất là 2:42 và phần tóm tắt dài hơn trong 2:43-47.
Bruce (trang 80-81) cho thấy thành viên của cộng đồng mới nầy đã bắt đầu "sống chung với nhau." Điều nầy liên quan đến một nếp sống mới hoàn toàn cho các thành viên trong mối tương giao của các sứ đồ. Ngoài những biểu hiện của sự tương giao được nói đến trong câu 42, các tín đồ Cơ đốc còn tràn đầy ý thức sâu xa về sự hiệp một của họ trong Đấng Mêsia. Do đó, họ bỏ ý kiến về tài sản riêng, và "lấy mọi vật làm của chung." Cá tính của họ được thể hiện ra trong cộng đồng. Những thành viên của hội thánh mới nầy nhiệt tình và tận tụy với sự nghiệp của họ, đến nỗi đã bán hết gia tài điền sản mình rồi phân phát cho kẻ cần dùng. Vì tính chân thực và rộng rãi của mối thông công họ, hội thánh đã tiếp tục tăng trưởng, và đã được Đức Chúa Trời chúc phước. Trật tự mới nầy và mối thông công mới mẻ nầy là đặc trưng của hội thánh đầu tiên tại Giêrusalem, vì hội thánh được đầy dẫy Đức Thánh Linh và đang làm chứng cho Tin Lành năng động của Đức Chúa Jesus Christ.
Chúng ta có tưởng tượng nổi việc làm thành viên của một hội thánh mà chỉ trong một ngày đã tăng trưởng từ 120 người lên đến 3120 người không? Chúng ta sẽ chứa họ vào đâu? Điều đó có phá vỡ tập thể nhỏ bé thoải mái của chúng ta không? Hết thảy những người nầy sẽ được nuôi dưỡng phần tâm linh thế nào đây?
Nhiều khi một hội thánh không tăng trưởng bởi vì thuộc viên hội thánh không thực sự muốn đảm nhận trách nhiệm chăm sóc cho những tân tín hữu. Hoặc có lẽ hội thánh cảm thấy trách nhiệm của các mục sư được trả lương là chỉ để lo chăm sóc cho hội thánh.
Sự kiện 120 người đã có thể rất sẵn lòng đón nhận 3000 người vào trong nhóm của họ (lưu ý rằng không phải 3000 người đón nhận 120 người), cộng thêm với sự bành trướng năng động, liên tục của họ, là một sự kiện cho thấy một nhóm người sẵn sàng làm việc. Họ cũng vui lòng sẵn sàng bày tỏ quyền năng Thánh Linh trong việc huấn luyện những người mới tin Chúa để có được một mối tương giao mật thiết, sống động trong Đấng Christ chứ không phải chỉ là một đám đông mà ai nấy đều lạc lõng giữa đoàn người đó.
Trong phần tóm tắt đầu tiên về những đặc trưng đánh dấu cho từng trải của hội thánh Cơ đốc đầu tiên (2:42), Luca kể ra bốn điều: Tín đồ hết lòng với 1) Sự dạy dỗ của các sứ đồ, 2) Sự thông công, 3) Lễ bẻ bánh, 4) Sự cầu nguyện.
Chữ dùng cho "lời dạy" là chữ didache . Nó truyền đạt ý tưởng về giáo lý. Cơ đốc giáo vừa là một từng trải với Đấng Christ phục sinh, vừa là một lối sống. Người ta cần phải được dạy cho cách sống theo đường lối của Đấng Christ. Các sứ đồ đã có thể dạy dỗ lối sống nầy một cách quyền năng vì họ đã được chính Chúa giao phó công tác đó. Các sứ đồ không thể nhận thức về sự cứu rỗi nếu chưa được hoán cải. Khi bạn đến với Đấng Christ, bạn được thay đổi (hoán cải) theo nếp sống của Ngài. Sự thông công là koinonia . Nói lên những mối quan hệ hỗ tương mật thiết giữa tín đồ và Chúa. Lễ bẻ bánh có lẽ chỉ về việc ăn chung với nhau, dầu từ ngữ nầy thường được hiểu một cách rộng hơn là dự tiệc thánh. Sự cầu nguyện bao gồm sự cầu nguyện chung, cầu nguyện riêng và cầu nguyện công khai (trong đền thờ).
26. Còn những đặc trưng nào khác trong từng trải của hội thánh Cơ đốc đầu tiên được Luca nêu ra trong bản tóm tắt thứ nhì của ông, đoạn 2:43-47.
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
e ..........
f ..........
g ..........
h ..........
Khi tránh quan điểm sai lầm cho rằng chức vụ thi hành phép lạ chỉ được giao cho các sứ đồ mà thôi thì chúng ta cũng phải lưu ý rằng chức vụ siêu nhiên ban đầu đã được thực hiện qua họ. Các phép lạ là những dấu hiệu để mở rộng cánh cửa đón nhận trong tấm lòng của kẻ chẳng tin. Các sứ đồ đã có tư cách tốt nhất để biến những cánh cửa rộng mở nầy thành những cơ hội rao giảng Tin Lành.
Tín đồ của hội thánh đầu tiên rất thích ở chung với nhau. Họ vẫn đến đền thờ, có lẽ vì những nguyên nhân sau: được gặp nhau, được các sứ đồ dạy dỗ ở sân ngoài, và để cùng nhau kinh nghiệm những điều Đức Chúa Trời đang làm (rõ ràng, họ không có nơi tập trung nào rộng hơn là đền thờ), và để dự những thánh lễ tại đền thờ. Họ cũng gặp nhau tại nhà. Giờ ăn của họ được nổi bật bởi không khí lễ hội nhất định, một phẩm chất tự phát của sự vui vẻ. Không chắc là họ được ăn thức ăn ngon hơn sau khi trở nên tín đồ; đơn giản là vì họ hiện có một cách nhìn mới về mọi sự, kể cả thức ăn!
Cuối cùng, họ liên tục tăng trưởng. Tăng trưởng là một thuộc tánh tự nhiên của một hội thánh mạnh khỏe phần thuộc linh. Con cái đối với người mẹ thể nào, thì tân tín hữu đối với hội thánh cũng vậy. Những người mẹ chết thì không sanh con, những hội thánh chết cũng không thể có tân tín hữu. Thay vì xem việc truyền giảng Tin Lành như là một hoạt động vào những dịp đặc biệt của hội thánh, 2:47 xem đây là một hoạt động để Đức Chúa Trời ban sự tăng trưởng đều đặn cho một cộng đồng Cơ đốc hết sức sống động, mà đức tin của họ căn cứ nơi sự kiện chắc chắn là sự phục sinh của Đấng Christ!
Có người xem từng trải trong 2:44-45 là một sai lầm. Người ta đã nêu ra những sự phản đối thực tiễn: "Họ đang đồng thời bán ra những gia tài của mình, do vậy đã hạ thấp giá trị của cải mình vì đã tạo ra ối động trên thị trường." "Đáng ra họ nên đầu tư thay vì bán đi điền sản mình." "Họ đã dại dột tiêu hết tiền ngay từ đầu, để rồi sau nầy phải nhờ các hội thánh dân ngoại giúp đỡ (ICo1Cr 16:1-3 và IICo 2Cr 8:1-9:15)." "Kiểu bày tỏ lòng rộng rãi như thế có lẽ đã cám dỗ một số tín đồ trở nên lười biếng và sống nhờ vào công việc và thu nhập của người khác."
27. Biến cố nào được mô tả trong Cong Cv 8:1-3, sẽ loại bỏ gia sản của rất nhiều tín hữu nếu họ giữ lại cho mình thay vì phân phát ra?
..........
28. Nếp sống cộng đồng của các Cơ đốc nhân đầu tiên là do tự nguyện tham gia, hay do bắt buộc như là một phần trong tư cách thành viên hội thánh (cũng xem 5:4)?
..........
29. Theo ICo1Cr 16:1-3 và IICo 2Cr 8:1-9:15, sự nghèo khó của các tín đồ tại vùng Giêrusalem - Giuđê đã tạo cơ hội nào cho các hội thánh dân ngoại do Phaolô thành lập? Nguyên tắc được nêu trong Cong Cv 20:35 có liên quan đến câu trả lời của bạn không?
..........
Trong sách Côngvụ, hội thánh Giêrusalem là hội thánh duy nhất mà chúng ta biết đã thực thi nếp sống cộng đồng, bằng cách bán và chia xẻ tài sản cá nhân vì ích lợi chung. Tín đồ trong mọi hội thánh đều đã chăm sóc cho kẻ thiếu thốn (ITi1Tm 5:8-10; Gia Gc 2:14-17), nhưng từng trải hỗ tương của Tin Lành không nhất thiết phải xóa đi những khác biệt về xã hội và kinh tế (ITi1Tm 6:1-2).
Tinh thần vị tha của hội thánh Cơ đốc đầu tiên rõ ràng là nguồn vui cho Đấng Christ, là Đấng vốn giàu có nhưng đã trở nên nghèo vì cớ chúng ta (IICo 2Cr 8:9).
Hơn nữa bởi sự khôn ngoan của Thánh Linh, các tín đồ đã không ngần ngại bán và chia xẻ tài sản mình vì lợi ích chung. Há không phải Đức Thánh Linh, Đấng dẫn dắt chúng ta tiến bước vào tương lai, đã biết những ngày tới đây, Saulơ sẽ bắt bớ hội thánh, và bao nhiêu tiền tài của cải gom góp bấy lâu đều sẽ bị mất hết hay sao?
TÓM TẮT
Mục tiêu 11. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung trong một câu. Cong Cv 2:1-47
30. Tóm tắt nội dung bài học của 2:1-47 trong một câu.
..........
Khi tôi xem lại 1:1-2:47, tôi thấy có hai phương diện của Tin Lành tạo thành một sự kết hợp tuyệt vời:
1. Nội dung của đức tin Cơ đốc là vô song. Đức Chúa Jesus đã sống lại từ kẻ chết!
2. Từng trải do đức tin Cơ đốc đem lại là vô song. Đức Thánh Linh đã được ban cho!
Thật trống trải biết bao khi có một đức tin mà chỉ có nội dung (giáo lý) chứ không thể kinh nghiệm chính Đức Chúa Trời! Thật giả dối biết bao khi nghĩ bạn đã kinh nghiệm Đức Chúa Trời rồi về sau mới phát hiện ra đức tin đó thiếu nội dung (thực tại khách quan)! Trong Chúa Jesus và trong Thân Thể Ngài, chúng ta tìm thấy tình yêu lẫn lẽ thật.
Trong 1:1-26, phòng cao giữ vai trò thành viên của hội thánh Cơ đốc đầu tiên. Trong 2:1-47, sự bùng nổ của Lễ Ngũ Tuần đã đến. Hội thánh sẽ không bao giờ ở đủ trong một căn phòng chật hẹp như vậy nữa!
Bài tự trắc nghiệm:
Sau khi ôn bài, hãy làm bài tự trắc nghiệm. Sau đó kiểm bài làm với phần giải đáp trong tập học viên. Xem lại bất cứ câu hỏi nào bạn trả lời sai.
CÂU ĐÚNG-SAI. Viết chữ Đ vào khoảng trống trước mỗi câu đúng. Viết chữ S nếu là câu sai.
.... 1 Theo như lời Chúa Jesus trong GiGa 17:1-26 và Luca trong Cong Cv 21-47;, một trong những điều kiện chính cho Lễ Ngũ Tuần là sự hiểu biết.
.... 2 Bằng chứng thuộc linh thuyết phục nhất chứng tỏ rằng phép báp têm bằng Đức Thánh Linh dành cho mọi tín đồ thuộc mọi thời đại chính là 2:38-39.
.... 3 Sự kiện phép báp têm trong ngày Lễ Ngũ Tuần đã thay đổi lớn lao đời sống và đặc tính của sứ đồ Phierơ chính là dấu hiệu cho thấy việc Đức Chúa Trời muốn làm cho mỗi tín đồ.
.... 4 Từng trải báp têm trong ngày Lễ Ngũ Tuần là một từng trải một lần đủ cả , vì thế hệ đó cần quyền năng và sự cho phép để làm chứng và biến đổi đặc tính con người.
.... 5 Bảy tuần sau Lễ Đầu Mùa là đến Lễ Ngũ Tuần. Lễ Đầu Mùa tượng trưng cho sự phục sinh của Đấng Christ, còn Lễ Ngũ Tuần tượng trưng cho kết quả của công việc Đấng Christ, tức là hội thánh.
.... 6 Vì Lễ Ngũ Tuần diễn ra tại cao điểm của mùa gặt, nên hầu hết những người Dothái trung tín (chánh thống) đều ở ngoài cánh đồng, khiến Giêrusalem ở trong tình trạng tương đối tĩnh lặng.
.... 7 Tinh thần cùng hợp với nhau là đặc trưng của 120 môn đồ khi có hiện tượng lạ là gió và lửa xuất hiện, và những lưỡi bằng lửa đã trở thành biểu hiện bề ngoài của phép báp têm bằng Đức Thánh Linh.
.... 8 Trong ít nhất năm trường hợp liên tiếp, những biểu hiện của Đức Thánh Linh được kèm theo bởi gió và lửa, như trong 2:1-47.
.... 9 Có ba trường hợp trong sách Côngvụ khi tín đồ kinh nghiệm phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, thì Luca nói cụ thể rằng người nhận lãnh đều nói tiếng lạ, và trong một trường hợp khác hiện tượng kèm theo nầy được ám chỉ một cách mạnh mẽ.
.... 10 Sự kiện Thánh Linh ngự trong tín đồ một cách đặc biệt khi họ được đầy dẫy Đức Thánh Linh là sự kiện được chứng minh hiển nhiên bởi một dấu hiệu thuộc thể ban đầu là nói tiếng lạ .
.... 11 Nói tiếng lạ là bằng chứng về sự trưởng thành và địa vị của tín đồ trước mặt Đức Chúa Trời.
.... 12 Tiếng lạ là dấu hiệu cho kẻ chẳng tin, là sự suy gẫm cho tín hữu, và để gây dựng đức tin cho hội thánh.
.... 13 Những khách hành hương về Giêrusalem để dự Lễ Ngũ Tuần chủ yếu đến vùng toàn thể Ysơraên , là vùng đã có thời do Ysơraên kiểm soát trong thời hoàng kim của chế độ quân chủ.
.... 14 Đức Thánh Linh chọn thời điểm đặc biệt nầy để khởi điểm của việc rao giảng Tin Lành sẽ đạt hiệu quả tối đa. Những khách hành hương từ những nơi xa trong đế quốc Lamã sẽ đem Tin Lành trở về quê hương họ với sự nhấn mạnh vào thân vị của Đấng Christ.
.... 15 Bài giảng của Phierơ và vào ngày Lễ Ngũ Tuần đã mở đầu vào ngay nhu cầu của họ.
.... 16 Bài giảng của Phierơ chứng tỏ rõ ràng rằng không cần phải có nhiều kiến thức mới trở thành một thầy giảng hay.
.... 17 Lễ Ngũ Tuần cho thấy nhờ sự coi sóc của Chúa Jesus (đặc biệt qua sự dạy dỗ sau phục sinh của Ngài) mà các môn đồ đã tăng trưởng và trưởng thành trong sự hiểu biết Kinh Thánh cũng như trong cách áp dụng lời Chúa vào nhu cầu của những người được họ chăm sóc.
.... 18 Ngày sau rốt bắt đầu từ Đức Thánh Linh giáng lâm, tiếp tục cho đến lúc có những sự xáo trộn trong cõi vũ trụ báo trước kỳ chấm dứt những ngày sau rốt.
.... 19 Ngày của Chúa chỉ về một thời kỳ kéo dài, bắt đầu bởi sự tái lâm trần gian hiển nhiên của Đấng Christ, và kết thúc với sự thiêu đốt trời đất hiện tại trước khi Chúa dựng nên trời mới đất mới.
.... 20 Ngày sau rốt được đặc trưng bởi hai phong trào đi theo hai hướng trái ngược nhau: Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ hành động hữu hiệu để ban cho một mùa gặt tâm linh lớn lao, trong khi sự gian ác càng gia tăng chưa từng thấy.
.... 21 Phierơ tuyên bố rằng chỉ một mình người Do thái có trách nhiệm trước sự chết của Chúa Jesus.
.... 22 Đức Chúa Jesus là Chiên Con của Đức Chúa Trời, là sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, không phải chỉ từ thời Cựu Ước nhưng là từ cõi đời đời; do đó, Phierơ mô tả sự chết của Chúa Jesus như là một của lễ chuộc tội và phương tiện cứu rỗi cho mọi người. Phierơ tuyên bố Đức Thánh Linh là bằng chứng sự hoàn thành chương trình ban sự cứu rỗi cho toàn nhân loại của Đức Chúa Trời.
.... 23 Với quyền kiểm soát tập trung mạnh mẽ, hội thánh đầu tiên đã qui định thuộc viên hội thánh phải dẹp bỏ hết mọi tài sản riêng để bởi đó lập ra một mẫu mực cho mọi thế hệ mai sau.
.... 24 Mẫu mực sinh hoạt của hội thánh Giêrusalem tập trung chung quanh lời dạy dỗ của các sứ đồ, sự thông công, sự bẻ bánh, và cầu nguyện.
....25 Cong Cv 2:1-47 mô tả từng trải đầu tiên của Lễ Ngũ Tuần, sự phát triển của giáo lý Ngũ Tuần và sự xuất hiện của một tổ chức có cơ cấu nghiêm nhặt.
GIẢI ĐÁP
1. Những lời tiên tri bằng lời nói là câu a), c) và e). Những lời tiên tri trong sự kiện là b), d), và f). Cách để minh họa sự khác nhau ấy là gợi ý cho bạn sự tương tự của lời tiên tri trong lời nói với những lời dự ngôn, trong khi so sánh lời tiên tri trong sự kiện với một đặc điểm đầy màu sắc mà nó đòi hỏi phải được giải thích thì mới hiểu trọn được.
2.
a. Vượt Qua.
b. Bánh Không Men.
c. Bảy Tuần Lễ hay Lễ Ngũ Tuần.
e. Thổi Kèn.
f. Chuộc Tội.
g. Lều Tạm.
3. Bốn kỳ lễ đầu tiên: Lễ Vượt Qua, Lễ Bẻ Bánh Không Men, Lễ Đầu Mùa, và Lễ Bảy Tuần hay Lễ Ngũ Tuần.
4. Ba kỳ lễ cuối: Lễ Thổi Kèn, Lễ Chuộc Tội, và Lễ Lều Tạm.
5. “Vì Đấng Christ là con sinh lễ Vượt Qua của chúng ta, đã bị giết rồi.”
6. Dẹp bỏ men cũ của sự gian ác và hiểm độc. Cử hành lễ với bánh không men của lòng thành thật và lẽ thật .
7. Sự phục sinh của Đấng Christ
8.
a) Lễ Đầu Mùa tượng trưng cho sự Phục sinh.
c) Lễ Ngũ Tuần bắt đầu vào ngày Lễ Ngũ Tuần. (Cả hai câu a) và c) đều đúng. Tôi muốn xem câu c) là đúng, dầu tôi phải công nhận nó có lỗi trong phép lập luận. Nếu tôi so sánh Lễ Ngũ Tuần với Lễ Vượt Qua hay Lễ Đầu Mùa, tôi cần phải xem đây là một ngày 24 giờ. Tôi so sánh nó với Lễ Bẻ Bánh Không Men bởi vì bản văn Cong Cv 2:1-47 dường như đòi hỏi phải hiểu rộng hơn ý nghĩa của ngày 24 giờ theo nghĩa đen.)
9.b) Việc ban Luật pháp Môise tại núi Sinai.
10.
a. Ý thức về sự hiệp một.
b. Tiếng động giống như gió thổi ào ào.
c. Những lưỡi bằng lửa.
d. Sự đầy dẫy Thánh Linh và nói các thứ tiếng khác.
11. Câu trả lời của bạn. Nếu không có lòng yêu thương chân thật đối với anh chị em mình, thì toàn bộ sự nghiệp Cơ đốc sẽ thất bại. Người nào quen biết với Đức Chúa Trời sẽ phải kinh nghiệm và thể hiện tình yêu của Ngài ít nhất là ngang bằng với mức độ quyền năng của Ngài. Đức Chúa Trời sẽ không giao phó quyền năng Ngài cho một nhóm tín đồ không hiệp một, vì họ chỉ duy trì những khác biệt của họ mãi mãi trong những tân tín hữu mà họ có thể đem về cho Đấng Christ.
12.
a. Được đổ ra.
b. Được đầy dẫy.
13.
a. Không. Cũng không có ở nơi nào khác trong Tân Ước.
b. Không. Cũng không có ở nơi nào khác trong Tân Ước.
c. Có. Trong 10:44-47 và 19:1-7. Sau nầy, chúng ta sẽ thảo luận sự vắng mặt của chúng trong 8:14-17 và 9:17.
d. Có.
e. Có.
f. Không.
14.
a. Đúng. (Trong Côngvụ, thậm chí trong cả Tân Ước, cũng không hề nói rằng người nghe hiểu tiếng lạ ngay lập tức không cần thông giải.)
b. Đúng. (10:148; 19:1-41 là hai ví dụ.)
c. Đúng. (Khi tiếng lạ được đề cập đến trong những phân đoạn nầy, chúng luôn được nói đến như là tác động trực tiếp đầu tiên của phép báp têm bằng Đức Thánh Linh.)
d. Đúng. (Còn các bằng chứng khác nữa, như đã thấy trong 2:42-47.)
15.
a.
1) Bạtthê
2) Mêđi
3) Êlamít
4) Mêsôbôtami.
c.
1) Cápbađốc.
2) Bông.
3) Asi
4) Phirigi.
5) Bamphily
d.
1) Êdíptô
2) Syren, Liby
e.
1) Rôma
2) Cơrết.
f Arập.
16. Câu trả lời của bạn. Hầu hết chúng ta đều có lúc thất bại trước mặt Chúa, nhưng bởi sự thành tín và ân điển, Ngài phục hồi chúng ta khi chúng ta đến cầu xin sự tẩy sạch và tha thứ.
17.
a. “Ta sẽ đổ Thần Ta khắp trên mọi xác thịt.”
b. “Ta lại sẽ tỏ ra sự lạ lùng ở trên trời, và dấu lạ ở dưới đất.”
18.
a. “Con trai và con gái các ngươi đều sẽ nói lời tiên tri.”
b. “Bọn trai trẻ sẽ thấy điềm lạ.”
c. “Các người già cả sẽ có chiêm bao.”
d. “Đức Chúa Trời sẽ đổ thần Ngài trên cả những đầy tớ trai và gái, và họ đều sẽ nói tiên tri.”
19.
a. Máu.
b. Lửa.
c. Luồng khói.
d. Mặt trời sẽ biến nên tối tăm.
e. Mặt trăng hóa ra máu. ( a , b , và c rõ ràng chỉ về các sự kiện dưới đất, còn d và e chỉ về các dấu lạ trên trời.)
20. c) Ngày sau rốt bao gồm thời kỳ từ Ngày Lễ Ngũ Tuần cho đến khi Chúa hiện ra. (Trên một phương diện nào đó, tất cả các câu trên đều đúng nhưng câu c) trình bày chính xác nhất sự xác nhận của Tân Ước. Ngày sau rốt đã bắt đầu với sự giáng lâm của Thánh Linh, tiếp tục cho đến khi các dấu lạ trong cõi vũ trụ báo hiệu kỳ tận thế và kết thúc khi Đấng Christ tái lâm.)
21.c) Ngày sau rốt được đánh dấu bởi hai phong trào đi theo hai hướng ngược nhau.
22.
a. Đức Chúa Trời đã giao nộp Ngài theo đúng một kế hoạch rõ ràng.
b. Những người gian ác đã đóng đinh và giết Ngài.
23.
b) Đavít viết chúng, nhưng không thể áp dụng chúng cho ông, vì ông không kinh nghiệm những gì chính các Thithiên nầy đã nói.
c) Đavít đã viết chúng, nhưng thực ra chúng là những Thithiên dự ngôn sự phục sinh của hậu tự Đavít, tức Đấng Mêsia (hay Đấng Christ).
24.
a. Ăn năn. Nghĩa đen của chữ nầy là “thay đổi ý định.” Không có sự ăn năn thì không có sự tha thứ.
b. Chịu phép báp têm.
c. Nhận lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh.
25.
a) Khi chúng ta ăn năn tội mình và tin nơi Đức Chúa Jesus và sự phục sinh của Ngài, chúng ta được tha thứ và được cứu rỗi.
26.
a. Sự lạ ( terata ) và phép lạ ( semeia ) do các sứ đồ thực hiện.
b. Ở chung với nhau và lấy mọi vật làm của chung.
c. Bán gia tài mình để ban phát cho kẻ nghèo khó.
d. Nhóm lại trong đền thờ.
e. Ăn chung với nhau cách vui vẻ và thành thật.
f. Ca ngợi Đức Chúa Trời.
g. Được đẹp lòng cả dân chúng.
h. Tăng trưởng mỗi ngày khi Chúa tăng thêm những người mới tin vào hội thánh.
27. Sự bắt bớ do Saulơ thực hiện.
28. Đây là điều hoàn toàn tự nguyện.
29. Cơ hội để góp phần san sẻ những thiếu thốn ngặt nghèo về tài chánh. Sau nầy trong Côngvụ, chúng ta sẽ thấy sự quyên góp trong các hội thánh là một sự kiện quan trọng để liên kết các hội thánh được Phaolô thành lập với hội thánh Giêrusalem. Về sau, hoàn cảnh khó khăn của các thánh đồ Giêrusalem đã đem lại cho hội thánh dân ngoại rất nhiều ơn phước, vì "ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh." Ý kiến nầy của Phaolô đã xác lập rõ ràng gương mẫu của các việc lành .
30. Câu trả lời của bạn. Côngvụ 2 mô tả từng trải Lễ Ngũ Tuần của 120 môn đồ, bài giảng đầu tiên của Phierơ, và bản chất của từng trải bên trong cộng đồng Cơ đốc đầu tiên.
Sự Chữa Bệnh Và Những Kết Quả
Trong bài học trước, chúng ta xem xét từng trải Ngũ Tuần của 120 môn đồ, bài giảng đầu tiên của Phierơ, và sự khai sinh, khuôn mẫu sinh hoạt, và sự tăng trưởng của cộng đồng Cơ đốc đầu tiên. Trong bài nầy, chúng ta xem xét một phép lạ chữa bệnh và những kết quả của nó.
Chúa Jesus đã hứa các môn đồ sẽ làm giống y như những việc Ngài đã làm (GiGa 14:12). Chúng ta thấy lần đầu tiên sau khi Chúa thăng thiên, họ đã chứng minh hiện thực của lời hứa ấy. Khi họ áp dụng những lời hứa của Chúa Jesus và sử dụng quyền năng của Thánh Linh, một phép lạ đáng kể đã được thực hiện. Nó còn tạo thêm cơ hội để rao truyền Tin Lành và xác chứng sứ điệp của các sứ đồ. Kết quả dẫn đến là sự tăng trưởng càng hơn.
Cơ đốc nhân chúng ta đang tiếp bước hội thánh đầu tiên. Và chúng ta cùng chia xẻ với hội thánh đầu tiên mệnh lệnh tiếp theo của Chúa chúng ta là rao truyền Tin Lành cho khắp mọi người. Chúng ta cũng chia xẻ lời hứa là khi chúng ta ra đi trong sự đầy dẫy Thánh Linh, các phép lạ sẽ đến tiếp theo sau và chức vụ của chúng ta sẽ đem lại sự tăng trưởng. Khi nghiên cứu bài nầy, bạn sẽ được thôi thúc để nhận thức rằng những cản trở trong chức vụ có thể trở thành những nấc thang dẫn đến mối tương quan sâu nhiệm hơn với Chúa. Bạn cũng sẽ biết cách nhận ra nhu cầu được đầy dẫy Thánh Linh liên tục, và để đánh giá cao chức vụ của Ngài trong đời sống bạn.
Dàn bài
Người Què Được Chữa Lành
Ví Dụ Độc Nhất
Những Đặc Trưng Của Người Què
Những Tác Động Của Sự Chữa Lành
Bài Giảng Thứ Nhì Của Phierơ
Vụ Xử Án Phierơ Và Giăng
Khung Cảnh
Thẩm Vấn Và Đối Đáp
Sự Nhận Định
Sự Căn Nhắc Và Quyết Định
Câu Trả Lời Của Phierơ Và Giăng
Được Thả Ra
Ứng Dụng
Sự Cầu Nguyện
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Giải thích vì sao Luca đưa phép lạ nầy vào sách Côngvụ bằng cách nêu ít nhất hai nguyên nhân khiến ông chọn lựa như vậy.
Thảo luận những nguyên nhân khiến Chúa Jesus không hiện ra cho những người đã đóng đinh Ngài sau khi Ngài đã sống lại, nêu ít nhất một nguyên tắc chung mà chúng ta học được từ việc nầy cho việc nhận lãnh và sử dụng những điều chúng ta biết về lẽ thật của Đức Chúa Trời.
Nhận ra chiến lược của Satan nhằm chống hội thánh và những lãnh đạo hội thánh, bằng cách nêu ra bốn chiến thuật của Satan nhằm chận đứng bước tiến của hội thánh.
Nêu theo đúng thứ tự bốn phần chính của bài học nầy.
Sinh hoạt học tập
1. Nghiên cứu Cong Cv 3:1-4:31 trước khi bước vào phần khai triển bài học.
2. Đọc Bruce theo chỉ dẫn trong phần khai triển bài học, nhớ đọc các phần chú thích cuối trang. Chúng chứa đầy đủ thông tin hữu ích cho bạn suốt giáo trình nầy.
3. Tra định nghĩa của những từ bạn không hiểu trong phần Từ Vựng.
4. Đọc bài học, làm hết câu hỏi nghiên cứu, và kiểm tra câu trả lời.
5. Làm bài tự trắc nghiệm ở cuối bài học, kiểm kỹ câu trả lời của bạn. Ôn lại những mục nào bạn trả lời sai .
Từ vựng
vụ xử án arraignment
lòng tôn quý deference
tính ngữ epithet
bịa đặt fabricating
điềm báo portent
sự truyền bá propagation
tính dễ tiếp nhận receptivity
ngoạn mục spectacular
bài diễn văn dài để chỉ trích tirade
Khai triển bài học
NGƯỜI QUÈ ĐƯỢC CHỮA LÀNH
3:1-11 Bruce 82-85
Mục tiêu 1. Giải thích vì sao Luca chọn sự chữa lành người què làm ví dụ duy nhất về phép lạ chữa bệnh được các sứ đồ thực hiện trong những ngày tiếp ngay sau Lễ Ngũ Tuần.
Ví Dụ Độc Nhất
Sự chữa lành người què từ thuở sinh ra là phép lạ chữa bệnh duy nhất trong 1:1-8:1 giữa vô số những lời chứng được chữa lành có sẵn cho Luca ghi lại.
1. Xem những câu Kinh Thánh sau và bạn sẽ thấy sự phong phú của các hoạt động siêu nhiên được thực hiện qua chức vụ của các sứ đồ. Tóm tắt nội dung của mỗi câu Kinh Thánh.
a 2:43 ..........
b 5:1-11 ..........
c 5:12 ..........
d 5:15 ..........
e 5:16 ..........
Như đã thấy qua phần trên, Luca có sẵn trong tay hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn lời chứng về các phép lạ để chia xẻ cách chi tiết. Tuy nhiên, là sử gia của hội thánh đầu tiên, Luca muốn mô tả chỉ phép lạ ấy thôi, vì nó tác động trực tiếp nhất đến hội thánh.
Vì sao Luca chọn mô tả phép lạ chữa bệnh nầy? Có phải chỉ vì có quá ít phép lạ xảy ra và đây là phép lạ cảm động nhất? Hiển nhiên đây là lập luận sai, vì có rất nhiều phép lạ xảy ra như chúng ta đã thấy trong câu hỏi 1. Hay vì các phép lạ kia không quan trọng? Không! Mọi phép lạ đều quan trọng - nhất là đối với người được nhận lấy phép lạ. Hãy quan sát việc chữa lành người què đã tạo ra một loạt sự kiện rất quan trọng trong sự phát triển của hội thánh đầu tiên: Sự chữa lành nầy dẫn đến bài giảng của Phierơ, khiến Phierơ và Giăng bị cầm tù, cuộc đối nại của họ trước tòa công luận, và buổi nhóm cầu nguyện sau đó khiến nơi nhóm rúng động.
Với tư cách sử gia, Luca ý thức sâu xa về những khoảnh khắc bản lề - những sự kiện mở ra bước ngoặc cho tiến trình của lịch sử hội thánh. Một văn sĩ có thể soạn một cuốn sách đầy những lời chứng cảm động để thôi thúc đức tin. Nhưng công việc của sử gia là đánh giá mọi thông tin sẵn có và tuyển chọn những sự kiện nào giải thích cho nguyên nhân và kết quả, để liên kết với nhau thành một dây chuyền của tiến trình lịch sử. Do được Thánh Linh soi dẫn, Luca là một sử gia xuất sắc vào hàng bậc thầy.
Những Đặc Trưng Của Người Què
Mục tiêu 2. Mô tả những đặc trưng của người què được chữa lành, và lối tiếp cận của Phierơ và Giăng.
Từ phần đọc đoạn 3:2 và 4:32, lưu ý bốn đặc trưng sau của người què: ông què từ lúc sinh ra, hằng ngày ngồi nơi Cửa Đẹp của đền thờ, ông là người ăn mày, và ông đã bốn mươi tuổi.
Sự kiện hàng ngày ông nằm tại Cửa Đẹp thật thích thú đối với tôi. Phần thảo luận xuất sắc của Bruce (trang 83) về Cửa Đẹp cho thấy rằng đây là một trong chín cửa để đi từ hành lang dân ngoại vào những hàng lang bên trong: Hành Lang của dân Ysơraên, và Hành Lang thầy tế lễ. Chắc đây là cửa nổi bật nhất, đẹp nhất, và được sử dụng nhiều nhất.
Liệu người què bốn mươi tuổi nằm hàng ngày tại nơi cửa đẹp nhất của đền thờ có nghe được điều nào trong số những điều sau đây chăng? Trong GiGa 2:13-16, hãy quan sát việc Đức Chúa Jesus tẩy sạch đền thờ lần thứ nhất, và đã gây nên sự chống đối và phản ứng. Và để ý cách Giăng miêu tả Đức Chúa Jesus dạy dỗ trong đền thờ vào ngày Lễ Lều Tạm, nơi mà hàng đoàn người đã nghe Đức Chúa Jesus giảng về sự thỏa mãn cơn khát tâm linh (Cong Cv 7:14-44). Một lần nữa, Giăng lại cho thấy Đức Chúa Jesus trong sân đền thờ và ghi lại buổi gặp mặt quan trọng với người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, cuộc đối thoại của Ngài với những người Do thái, và trận tấn công nhằm giết Ngài (8:1-59). Sau đó, người ta thấy Đức Chúa Jesus dự Lễ Khánh Thành Đền Thờ, tại đó, sau khi Ngài giảng dạy, đã có một trận ném đá nhằm giết chết Ngài và cố bắt giam Ngài (10:22-29). Và Mác ghi lại việc tẩy sạch đền thờ lần thứ nhì ba năm sau lần thứ nhất (Mac Mc 11:15-19). Và Mathiơ ghi lại rằng sau khi tẩy sạch đền thờ, Đức Chúa Jesus đã chữa lành bệnh cho một người mù và người què trong đền thờ (Mat Mt 21:14). Một lần nữa, Mác ghi Đức Chúa Jesus ở trong đền thờ đối đáp với rất nhiều người chất vấn (Mac Mc 11:27-12:44). Dựa vào kiến thức cơ bản mà chúng ta có về người què nầy, những câu Kinh Thánh từ các sách Tin Lành và Cong Cv 2:1-47 trên đây, chúng ta không thể không cảm thấy người nầy đã biết Đức Chúa Jesus. Vừa mới đó thôi, sự kiện 3000 người được đem về cho Đức Chúa Jesus qua bài giảng của Phierơ (mà chắc có lẽ đã diễn ra ngay tại bên ngoài đền thờ) không thể thoát khỏi sự chú ý của người què nầy được. Tuy nhiên, người ta đoán rằng người què nầy hẳn đã đi đâu đó trong ngày mà Đức Chúa Jesus chữa lành người què trong đền thờ (Mat Mt 21:14).
Lúc nầy, Phierơ và Giăng hẳn là những con người nổi bật, dễ nhận ra bởi cớ hoạt động của họ trong đền thờ. Tuân giữ đúng theo các nghi lễ trong đền thờ, họ đang đến đền thờ đúng lúc (3:00 chiều) để dự buổi dâng của lễ thiêu ban chiều cho mọi người. Người què nầy hoặc không nhận ra họ, hoặc ông không vận dụng đức tin, vì cớ ông xin của bố thí thay vì xin được chữa lành.
2. Khoanh tròn mẫu tự của nào câu mô tả đặc trưng về đáp ứng của Phierơ và Giăng đối với người què.
a) Họ quá bận đến nỗi không muốn bị quấy rầy, nên họ đã làm ngơ người què.
b) Họ hỏi người què vì sao trước kia không được chữa lành khi Đức Chúa Jesus (cũng như chính họ nữa) đã từng làm các dấu kỳ phép lạ tại trong đền thờ.
c) Họ chỉ ra rằng họ đang đi thờ phượng, và người què nên hẹn gặp nếu như muốn gặp hai sứ đồ.
d) Họ bảo người què trở thành tín đồ để có thể nhận tiền từ quỹ hội thánh và không phải đi ăn xin nữa (Cong Cv 2:44-45).
e) Họ nói rằng họ không thể làm gì cho người què được nếu người nầy không có đức tin. "Họ bảo người què rằng: " Khi nào ngươi có đức tin để được chữa lành, ngươi sẽ được chữa lành. "
f) Họ thảo luận với nhau về nan đề thần học được thể hiện qua người nầy: "Ai đã phạm tội, người nầy hay cha mẹ người, đến nỗi phải què từ lúc mới sinh ra như vậy?"
g) Họ có đức tin để cho người nầy được chữa lành, do đó, Phierơ truyền cho người què nhơn danh Đức Chúa Jesus Christ ở Naxarét mà bước đi.
h) Sau khi chữa cho người què, họ bảo với người què rằng đức tin của họ đã khiến cho người què được lành.
i) Họ bảo người què rằng người què đáng ra phải làm một việc làm nào đó kiếm được nhiều tiền hơn là đi ăn xin, rằng Đức Chúa Trời chỉ giúp đỡ những người tự biết giúp bản thân mình.
Trong câu hỏi 2, dứt khoát là bạn đã trả lời đúng. Nhưng bạn có thấy những thái độ mà đôi khi chúng ta biểu lộ với người đang có nhu cầu, hay những quan điểm sai lầm mà các tín đồ nhiều khi có đối với kẻ bịnh tật không? Tôi xin nhận định ngắn gọn về các câu e), f) và h). Tân Ước khuyên giục và khích lệ rất rõ ràng rằng chúng ta phải có đức tin để được chữa lành bệnh. Đức tin kẻ bệnh thể hiện rất rõ trong 5:14-16. Nhưng có nhiều trường hợp chữa lành bệnh mà người được chữa lành không hề vận dụng chút đức tin nào cả. Trong GiGa 9:2, các môn đồ đã sẵn sàng thảo luận về thần học trước trường hợp người mù từ thuở sanh ra. Giờ đây, sau khi đã ở với Đức Chúa Jesus và sau Lễ Ngũ Tuần, họ đã có quyền năng chứ không phải có nan đề . Không phải đức tin của Phierơ và Giăng đã chữa lành cho người què, dầu rằng quyền năng Đức Chúa Trời hẳn đã không hành động ở đây nếu không có đức tin của họ. Chính họ giải thích rằng Đức Chúa Trời đã làm phép lạ đó; bởi quyền năng của danh Đức Chúa Jesus, bởi quyền phép Ngài mà người què đã được chữa lành. Việc chúng ta thấy ở đây chính là biểu hiện của "ân tứ chữa bệnh" (ICo1Cr 12:9).
Chúng ta có thể thấy được thông tin về cách các sứ đồ quản lý các vấn đề tài chánh trong hội thánh qua việc đối chiếu Cong Cv 2:44-45; 3:6; 4:34-37 và 6:1-2. Các sứ đồ giữ vai trò một tập thể tiếp nhận, để nhận lấy tiền dâng cho hội thánh, và cũng giữ vai trò của những người phân phát quỹ nầy. Theo 2:44-45, không chắc câu nói của Phierơ và Giăng muốn nói lên rằng hội thánh không có tiền. Đúng hơn, ngân quỹ hội thánh không có sẵn để chu cấp tài chánh cho người chưa tin Chúa. Tiền không phải của Phierơ và Giăng, nên hai ông không thể dùng vào một việc không hợp với mục đích khiến ngân quỹ đó đã được khởi lập. Hơn nữa, ngân quỹ thuộc về tập thể chứ không phải là những khoản dành riêng cho cá nhân của những thành viên trong tập thể. Nếu Chúa không trích quỹ dùng cho những nhu cầu riêng của Ngài từ nơi ngân quỹ dùng để chu cấp cho đoàn của Ngài (Mat Mt 17:24-27), thì Phierơ và Giăng cũng không dùng tiền từ quỹ của các sứ đồ để làm thỏa mãn cho những khao khát riêng của họ. Ngoài ra, họ còn có điều tốt hơn tiền để ban cho người què nầy!
3. Đọc Mac Mc 1:16-20 LuLc 5:3, so sánh điều có vẻ như là thành công về tài chánh của Phierơ và Giăng trước khi theo Chúa Jesus với sự nghèo khó của họ sau Lễ Ngũ Tuần.
a. Trước khi theo Đức Chúa Jesus, Phierơ và Giăng có việc làm kiếm ra tiền không?
b. Mác và Luca cho thấy điều gì để tỏ ra Phierơ và Giăng đã thành công về mặt tài chánh?
c. Nếu Phierơ và Giăng vẫn còn tài sản có sẵn, họ có góp phần vào cho hội thánh sau Lễ Ngũ Tuần không?
d. Câu nói của Phierơ “Ta chẳng có bạc vàng chi hết” có đúng không?
Những Tác Động Của Sự Chữa Lành
Mục tiêu 3. Thuật lại tác động của việc chữa lành người què đối với chính bản thân ông và với mọi người.
Lời Phierơ nói với người què được tiếp theo bằng một việc làm của đức tin; ông chìa tay ra để nắm lấy tay của người què! Nhiều lần, Đức Chúa Jesus (Mac Mc 2:1-12) và Phaolô (Cong Cv 14:8-10) chỉ nói không thôi mà đã chữa lành rồi chứ không cần phải chìa tay ra, nhưng trong trường hợp nầy, Phierơ đã đỡ người què dậy và rồi người què được chữa lành. (Bệnh liệt thể hiện rõ ràng ở mắt cá và bàn chân người nầy.) Hãy để ý diễn tiến tuyệt vời trong phản ứng của người què đối với sự chữa lành. Thứ nhất, ông nhảy trên chân mình rồi bắt đầu bước đi. Sau đó, khi bước vào trong đền thờ, ông còn vừa đi vừa nhảy vừa ca ngợi Đức Chúa Trời.
Bạn có thể hình dung được ông đã xuất hiện thế nào trước mắt mọi người không? Dân chúng bước đi chứ không nhảy nhót trong khu vực đền thờ! Tôi hình dung ông ta la lớn tiếng vui mừng ca ngợi Đức Chúa Trời theo từng bước nhảy! Những sự ớn lạnh của lòng vô tín và khiếp sợ lan qua đám đông khán giả, là những người đã nhận ra ông chính là kẻ ăn mày trước kia hay ngồi tại cửa này! Và khi tin tức kẻ què được chữa lành lan ra, đám đông đổ xô đến để xem người què được chữa lành nầy.
4. Ngoài việc lấy làm lạ và sửng sốt, đoàn dân còn có phản ứng nào đối với việc chữa lành người què
..........
Hiên Cửa Salômôn là khu vực rộng nhất ở phía đông hành lang bên ngoài đền thờ, nổi bật bởi hai hàng cột cẩm thạch cao và đẹp chống đỡ cho mái hiên rời bằng cây bá hương. Đức Chúa Jesus đã giảng dạy tại đó (GiGa 10:23). Khu vực nầy chứa được một lượng thính giả rất đông, và là trung tâm để cho dân chúng tụ tập, nơi mà Tin Lành đã được rao giảng và Đức Chúa Trời đã thực hiện nhiều phép lạ qua các sứ đồ (Cong Cv 3:11; 5:12).
BÀI GIẢNG THỨ NHÌ CỦA PHIERƠ
Mục tiêu 4. Tóm tắt bài giảng thứ nhì của Phierơ và nêu ra những phản ứng tích cực và tiêu cực đối với bài giảng ấy.
Một phép lạ đầy ý nghĩa đã xảy ra. Mục đích của phép lạ nầy là chữa lành cho người què, nhưng kết quả giờ đây đã trở thành một đám đông tụ tập, sửng sốt nhìn xem người được chữa lành.
Cũng như tại Lễ Ngũ Tuần, một đám đông đã tụ tập lại, và Phierơ đã ứng khẩu giải thích cho họ về sự kiện vừa mới xảy ra. Phép lạ là một dấu hiệu , một khung cửa để bày tỏ bản tánh và quyền phép của Đức Chúa Jesus Christ. Nếu không giảng đạo, đám đông nầy chỉ biết kinh ngạc sửng sốt mà thôi. Chỉ có việc giảng đạo mới khiến cho 5000 người tin Chúa (4:4)!
Lần thứ nhì, Phierơ đã giảng đạo mà không có cơ hội để nghiên cứu và chuẩn bị trước. Đức Thánh Linh, chứ không phải các sứ đồ, đang sắp xếp chương trình cho thời điểm rao giảng tin lành. Dầu sự bắt bớ mà Đức Chúa Jesus đã hứa trước vẫn chưa bắt đầu, Phierơ vẫn tìm sự ứng nghiệm trong lời Chúa: "Vì những lời đáng nói sẽ chỉ cho các ngươi chính trong giờ đó. Ấy chẳng phải tự các ngươi nói đâu, song là Thánh Linh của Cha các ngươi sẽ từ trong lòng các ngươi nói ra" (Mat Mt 10:19-20).
5. Đối chiếu Cong Cv 2:14-36; 3:12-26. Bài giảng của Phierơ tương tự với bài giảng thứ nhất như thế nào? Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời đúng.
a) Sự chuẩn bị của Phierơ trong khi còn học hỏi với Chúa đã thể hiện rõ trong trí nhớ, sự hiểu biết và cách giải thích cùng áp dụng Kinh Thánh Cựu Ước cho thân vị và công vụ của Đức Chúa Jesus.
b) Phierơ bỏ qua mối quan tâm trước mắt của đám đông, việc chữa lành người què, và thay vào đó, ông đi thẳng vào vấn đề muốn chứng minh.
c) Một lần nữa, bài giảng của Phierơ cho thấy Đức Thánh Linh có thể sử dụng cách tốt nhất một người giảng đạo đã bỏ qua việc nghiên cứu nghiêm túc để chỉ việc đứng lên là nói ra ngay.
Một lần nữa, lửa Thánh Linh đã tuôn đổ trên bàn thờ chuẩn bị của Phierơ! Và một lần nữa, Phierơ đã thu hút sự chú ý của đám đông bằng cách trước hết thiết lập quan hệ giữa mối quan tâm của họ với mục tiêu của ông. Ở đây, cũng như trong 2:14-36, chúng ta thấy một mẫu mực nổi bật cho công tác rao giảng Tin Lành. Và từ khởi điểm nầy, và trong suốt sách Côngvụ, chúng ta không hề thấy một bài giảng thiếu hiểu biết, tẻ nhạt, lan man ( có nghĩa là lang thang vô mục đích và vu vơ), hay một bài giảng huênh hoang (chúng tôi muốn dùng chữ huênh hoang để nói đến việc diễn giả khoe khoang tầm quan trọng của bản thân mình)!
6 Bạn sẽ tóm tắt thế nào hai tư tưởng trọng tâm trong bài giảng của Phierơ? Hãy để thì giờ để viết ra những câu rõ ràng và súc tích.
a 3:12-16 ..........
b 3:17-26 ..........
Phierơ mở đầu bài giảng bằng cách nêu một câu hỏi, đánh động như sét giáng vào đám đông. "Sao các ngươi ngó sững chúng ta, dường như chúng ta đã nhờ quyền phép hay là nhân đức riêng của mình mà khiến người nầy đi được vậy?" Nói chuyện với thính giả của ông với tư cách là một đồng bào Dothái, nhưng là một người Do thái đã nhìn thấy sự ứng nghiệm mà Đức Chúa Trời đã nói trước qua nhiều lời tiên tri về Đấng Mêsia, ông giải thích phép lạ nầy là công việc của Đức Chúa Trời. "Đức Chúa Trời của Ápraham, Ysác và Giacốp, Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta đã làm vinh hiển đầy tớ Ngài là Đức Chúa Jesus" (3:13), và ông tiếp: "... đức tin bởi Ngài mà ra, đã ban cho người nầy sự mạnh khỏe trọn vẹn, tại trước mặt hết thảy các ngươi" (3:16).
Điểm nhấn mạnh của Phierơ và của toàn sách Côngvụ ấy là niềm tin Cơ đốc tiếp bước và làm cho trọn vẹn lời Đức Chúa Trời dành cho Ysơraên. Do đó, Phierơ và Luca không xem Cơ đốc giáo như một đạo mới, nhưng xem như là sự ứng nghiệm của Do thái giáo.
Hãy quan sát cách Phierơ đối chiếu cách đặc biệt số phận của Chúa Jesus trong tay loài người với việc Ngài được Đức Chúa Trời tôn cao, cũng giống như trong bài giảng vào ngày Lễ Ngũ Tuần vậy. Đây là phần không thể thiếu trong bài giảng của Phierơ. Trong đoàn dân đang nghe Phierơ giảng kia, có rất nhiều người đã khăng khăng đòi giết Đức Chúa Jesus, ngay cả khi quan tổng đốc Philát đề nghị tha Đức Chúa Jesus. Sự tương phản mạnh mẽ, thấm thía nầy được đưa ra: Các ngươi đã xin tha cho một tên giết người và đã giết tác giả của sự sống. Nhưng Đức Chúa Trời đã làm vinh hiển chính Đức Chúa Jesus nầy và đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại. Phierơ bày tỏ ra ân điển lớn lao của Đức Chúa Trời khi quy sự chết của Đấng Christ cho sự ngu dốt của cả dân chúng lẫn của những người cai trị họ. Sức mạnh kiến thức Phierơ về Cựu Ước đã được thính giả am hiểu của ông cảm nhận một cách sâu sắc. Cựu Ước phân biệt rõ ràng giữa những tội có thể tha thứ được do vô tình phạm, xem nhẹ hay bỏ sót (LeLv 4:2,13, 22; 5:15; Dan Ds 15:24, 27-29), với những tội cố tình hay chủ ý phạm một cách cao tay ấn , mà trong hệ thống của Lêviký không có một của lễ nào để chuộc những tội như thế, chỉ còn đợi sự đoán phạt kinh khiếp mà thôi (XuXh 21:14; Dan Ds 15:30; PhuDnl 17:12; Thi Tv 19:13). Với cách dùng chữ ngu dốt , Phierơ trấn an thính giả, và thậm chí ngay cả những quan cai trị, rằng Đức Chúa Trời đã xem tội của họ là vô tình chứ không phải cố ý. Thật là nhẹ nhõm và vui sướng biết bao cho những ai muốn ăn năn! Và quả là một ứng dụng tuyệt vời cho ân điển của Đức Chúa Trời đối với ngay cả những tội lỗi của chúng ta nữa!
7 Nêu ra bốn sự tương phản giữa lời buộc tội với những lời hứa mà Phierơ nêu ra cho thính giả trong hai bài giảng của ông.
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
Việc mỗi bài giảng không nói đến những mệnh lệnh hay những lời hứa giống nhau đến từng lời không có nghĩa là những quy định và những phước hạnh của sự cứu rỗi mỗi ngày mỗi thay đổi. Trong mỗi bài giảng, Đức Thánh Linh chỉ thôi thúc một điểm nhấn mạnh vào một yếu tố. Bạn kết hợp toàn bộ các bài giảng lại với nhau, bạn sẽ thấy được tính toàn diện của tất cả những điều có trong việc đến với Đấng Christ và bước đi với Ngài.
Ví dụ như có một số người vội kết luận rằng: vì không nhắc đến Đức Thánh Linh trong lời kêu gọi hoán cải thứ nhì của Phierơ (Cong Cv 3:19-20) mà hội thánh đầu tiên đã không rao giảng hay đòi hỏi mỗi tín đồ phải chịu phép báp têm bằng Đức Thánh Linh như Đức Chúa Jesus, Giôên và Phierơ đã hứa (1:4; 2:17, 39 ). Và như các môn đồ đầu tiên đã kinh nghiệm . Điểm vô lý của một quan điểm như thế được thể hiện rõ ràng nhất khi cùng một nguyên tắc ấy được đem áp dụng cho phép báp têm bằng nước. Người ta tuyệt đối không thể nói rằng chỉ vì không được đề cập đến do đó hội thánh không buộc phải trông đợi, phải dạy, hoặc phải kinh nghiệm điều ấy!
8. Đọc lại 3:13, 22, 25-26 cùng với 2:16-21, 25-28, 34-35. Xem lại chức vụ giảng dạy sau phục sinh của Đức Chúa Jesus trong LuLc 24:44-46. Nêu ba ví dụ về sự thật của câu nói: "Trong bài giảng thứ nhất của Phierơ, ông đã căn cứ vào Cựu Ước để chứng tỏ phương pháp Chúa đã dùng để giải thích về chân diện và sứ mạng của Đức Chúa Jesus.
a .........
b .........
c .........
Phierơ kết thúc bài giảng bằng cách chỉ ra lời Đức Chúa Trời mời gọi hãy kinh nghiệm phước hạnh và sự tha thứ của Ngài là lời mời hiện đang được ban trực tiếp cho những người đang chịu trách nhiệm về sự gian ác nầy, tức là đã chối bỏ, giao nộp và đã đóng đinh Đức Chúa Jesus Christ. Trong những bài giảng sau nầy cho người Do thái và dân ngoại trong sách Côngvụ hoàn toàn không liên quan đến sự chết thuộc thể của Đấng Christ, thì lời kêu gọi đến nhận sự cứu rỗi không phải là: "Hãy ăn năn vì các ngươi đã phạm tội đóng đinh Đức Chúa Jesus Christ, và Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại," nhưng là "Hãy ăn năn vì cớ các ngươi đã phạm tội và Đức Chúa Trời đã khiến Đức Chúa Jesus Christ sống lại từ kẻ chết."
Tôi đề cập đến điều nầy bởi vì có những người gọi là Cơ đốc nhân đã phạm phải một lỗi lầm khủng khiếp khi xác định người Do thái là những người giết Đấng Christ. Chỉ có một đoàn dân nhất định trong thành Giêrusalem, một số những lãnh tụ tôn giáo, và những người Lamã đã cho phép việc ấy, mới bị kết tội trong Tân Ước là có hành động đóng đinh Đấng Christ. Giống như những người dân ngoại bang, người Do thái nào không chịu trách nhiệm về thập tự giá thì họ bị buộc tội là vô tín, chứ không phải tội đóng đinh Chúa. Tân Ước có cho thấy tội lỗi đó là một một phần không thể phai mờ của mỗi con người, đến nỗi nếu chúng ta có mặt tại hiện trường, chúng ta thảy đều sẽ giao nộp hoặc giết Đấng Christ. Ngoài sự trọn vẹn của Chúa chúng ta ra, "chẳng có một người công bình nào hết, dẫu một người cũng không " (RoRm 3:10).
Hãy để ý cách Luca ghi lại đáp ứng tích cực với bài giảng của Phierơ: (Cong Cv 4:4): "Dầu vậy, có nhiều người đã nghe đạo thì tin, số tín đồ lên đến độ năm ngàn." Hãy xem 1:15; 2:41; và 4:4. Những câu Kinh Thánh nầy ghi lại sự tăng trưởng của cộng đồng Cơ đốc đầu tiên. Từ 120 người ban đầu, con số đã lên đến 3000 vào ngày Lễ Ngũ Tuần và tăng lên theo mỗi ngày. Rồi sau bài giảng thứ nhì của Phierơ, con số đã lên đến năm ngàn (không kể phụ nữ và trẻ em). Đến lúc nầy, hội thánh đã có số lượng là 5000 người, nhưng con số chính xác có lẽ cao hơn khoảng gấp ba lần hoặc hơn thế nữa, nếu xét đến gia đình của toàn bộ những người nầy.
Sự thật, việc tính đến số lượng của Luca cho chúng ta thấy hội thánh đầu tiên có lẽ đã lưu giữ một loại sổ sách nào đó. Ít nhất, hội thánh cũng có quan tâm đến số lượng, vì con số đại diện cho con người - những người mà hội thánh đã được thách thức để đem Tin Lành đến với họ. Thêm nữa, những phương diện của sinh hoạt Cơ đốc được mô tả trong 2:42-43 giờ đây hẳn sẽ được kinh nghiệm bởi rất đông tân tín hữu. Hội thánh đầu tiên đã có số lượng trong sinh hoạt, trong giáo lý, và trong sự thông công.
9. Khi nghĩ đến những kết quả đạt được từ đầu cho đến nay trong sách Côngvụ, bạn thấy lời tuyên bố của Chúa Jesus trong GiGa 14:12 đã được ứng nghiệm như thế nào? Khoanh tròn mẫu tự đứng trước câu trả lời đúng.
a) Những công việc lớn lao hơn do các sứ đồ thực hiện thuộc về lĩnh vực chất lượng . Chúa Jesus chưa hề làm được một việc nào có ý nghĩa như là việc chữa lành cho người què từ lúc mới sinh ra.
b) Những công việc lớn lao hơn do các sứ đồ thực hiện thuộc về lĩnh vực số lượng .
Chức vụ của Đức Chúa Jesus kéo dài ba năm, và tối đa là Ngài đã có gần 500 người tin theo Ngài (ICo1Cr 15:6). Chức vụ của các sứ đồ chỉ mới kéo dài có vài ngày, vài tuần nhưng họ đã nhìn thấy có đến 10000 người tin Ngài qua chức vụ của họ!
Chúng ta không mong làm được những việc có chất lượng hơn những việc Đức Chúa Jesus đã làm, vì còn điều gì lớn hơn việc gọi Laxarơ từ kẻ chết sống lại? Nhưng trong lĩnh vực số lượng, chúng ta lại thấy những việc lớn hơn khi Đức Thánh Linh hành động qua hội thánh Ngài.
Phản ứng tiêu cực đối với bài giảng thứ nhì của Phierơ đã ra từ giới lãnh đạo đền thờ, do người Sađusê diều khiển. Những lính canh đền thờ khi thấy đoàn dân đông và nghe tiếng la hét của những giọng nói rao lên sự đồng hóa mới mẻ của họ với Đức Chúa Jesus Christ, có lẽ họ đã giải tán đám đông bằng cách bắt giữ những người lãnh đạo.
Những sứ giả rao truyền Tin Lành thật rất quyền năng và thật bất năng! Quyền năng trong việc chữa lành và giảng đạo. Bất năng trong việc ngăn chận vụ bắt giữ họ. Và các tín đồ trong Tân Ước tuyệt đối không bao giờ viện đến sự cay đắng, sức mạnh hay bạo lực để chống lại những người bắt giữ hay xét xử họ.
Người Sađusê là một nhóm ít người và ít được mọi người mến mộ hơn là người Pharisi. Nhưng họ nắm nhiều quyền lực chính trị hơn, vì họ kiểm soát đền thờ và thâu nhận thu nhập của đền thờ. Gia đình thầy tế lễ thượng phẩm là những người Sađusê. Người Pharisi tuân giữ nghiêm nhặt truyền thống Do thái, còn người Sađusê đã hấp thụ ảnh hưởng Hylạp. Người Pharisi công nhận phần Cựu ước lúc bấy giờ là Lời Đức Chúa Trời, còn người Sađusê chỉ giữ năm sách đầu của Môise. (Đặc biệt lưu ý những nhận định của Bruce về Tòa Công Luận và Người Sađusê trong chương 4, trang 95- 107, và đặc biệt là phần chú thích cuối trang.)
10. Theo Cong Cv 23:8, người Pharisi và người Sađusê còn có thêm ba điểm khác nhau nào nữa?
a ..........
b ..........
c ............
VỤ XỬ ÁN PHIERƠ VÀ GIĂNG
4:1-22 Bruce 95-104
Mục tiêu 5. Giải thích vì sao sau khi phục sinh, Đấng Christ không hề hiện ra cho những người đã đóng đinh Ngài.
Hẳn phải nêu thắc mắc vì sao chính Đấng Christ đã không hiện ra cho Tòa Công Luận (một hội đồng gồm 71 vị chủ trì trên cả thầy tế lễ thượng phẩm và giữ vai trò tòa án thượng thẩm đối với toàn bộ mọi vấn đề của người Do thái, và được chính quyền Rôma cho phép) sau khi Ngài phục sinh, thay vì để cho lời công bố Ngài sống lại được loan truyền qua môi miệng của các sứ đồ.
Câu trả lời cho thắc mắc nầy là cơ bản cho bản chất của đức tin Cơ đốc.
Để xác lập được phương pháp mà Đức Chúa Jesus đã dùng để kêu gọi người ta đến tin nhận Ngài, hãy khoanh tròn mẫu tự của câu ĐÚNG trong từng bộ câu hỏi sau đây.
11. Đọc LuLc 4:9-13.
a. Đức Chúa Jesus khước từ cám dỗ nầy và do đó không chịu bắt đầu chức vụ Ngài bằng một dấu lạ ngoạn mục sao cho không ai có thể nghi ngờ thần tánh của Ngài được.
b. Đức Chúa Jesus đã nhảy từ nóc đền thờ xuống trước sự chứng kiến của toàn thể đám đông và những lãnh tụ của đất nước, để bởi đó chứng minh Ngài là Đấng Mêsia trước mắt họ, khi thiên sứ nâng đỡ Ngài.
12. Đọc Mac Mc 4:24-25.
a. Đức Chúa Jesus đang chấp thuận một hệ thống kinh tế mà nhờ đó, người giàu càng giàu thêm và người nghèo càng nghèo thêm.
b. Đức Chúa Jesus đang trình bày nguyên tắc học hỏi để mô tả cách tiếp nhận Ngài và Lời Ngài. Một người càng làm theo những điều mình biết, thì càng được dạy dỗ nhiều hơn.
13. Đọc Mat Mt 16:1-4.
a. Đức Chúa Jesus không thể ban một dấu lạ (một sự kiện siêu nhiên ngoạn mục để xua đuổi hết mọi nghi ngờ) cho người Pharisi và Sađusê bởi vì Ngài không có quyền năng để làm dấu lạ.
b. Đức Chúa Jesus không thể ban một dấu lạ cho người Pharisi và người Sađusê, vì họ không làm theo Lời Ngài và việc làm Ngài, hay không chấp nhận đó là những bằng chứng khẳng định tư cách Đấng Mêsia của Ngài.
Trong Mat Mt 16:13-20, Đức Chúa Jesus bày tỏ cho các môn đồ rằng Ngài là Đấng Christ. Rồi Ngài cho họ ba dấu lạ khẳng định (17:1-9), và qua đó minh họa nguyên tắc của Ngài: "Sẽ ban thêm cho kẻ nào có."
14. Đọc GiGa 11:45-53.
a. Nguyên nhân khiến các thầy tế lễ cả và người Pharisi không tin nơi sự sống lại của Laxarơ chính là vì sự việc đó không diễn ra.
b. Nguyên nhân khiến họ không tin chính là vì họ đã quyết tâm chối bỏ và không tin mọi bằng chứng khác do Đấng Christ đưa ra, nên họ không thể chấp nhận sự thật của phép lạ kỳ diệu nhất trong toàn bộ chức vụ của Đấng Christ.
Đức Chúa Jesus đã phán: "Kẻ nào không có, sẽ bị cất lấy đếu mình đã có" (Mac Mc 4:25). Nếu Chúa thi hành phép lạ nầy ngay từ đầu chức vụ Ngài, có lẽ họ đã tin. Nhưng do cứ tiếp tục không chịu tin, nên giờ đây họ đã bị cất mất những gì mà họ có thể có.
15. Đọc Mat Mt 28:11-15.
a. Những thầy tế lễ cả biết về mặt tri thức (tức trong đầu họ) từ lời chứng của những lính canh rằng Đức Chúa Jesus đã sống lại từ kẻ chết, nhưng trong lòng họ, họ không tin rằng họ là những con người tội lỗi (Gie Gr 17:9; RoRm 10:10).
b. Các thầy tế lễ cả biết các môn đồ đã đánh cắp xác Đức Chúa Jesus ra khỏi mộ.
Liên tục chối bỏ Đức Chúa Jesus chỉ dẫn đến sự chối bỏ càng sâu xa hơn mà thôi. Chúng ta dễ bị cám dỗ để nói rằng những thầy tế lễ cả khi bịa đặt câu chuyện của những tên lính canh, họ đã phạm một tội không thể tha thứ (Mac Mc 3:28-30) nên trường hợp đó không ứng với những lời của Phierơ trong Cong Cv 3:17.
16. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG sau đây.
a. Phương pháp tự bày tỏ của Đức Chúa Jesus nhất quán từ đầu cho đến cuối. Chính Ngài quyết định - chứ không phải ai khác - phương cách bày tỏ chính Ngài. Sau khi phục sinh, Ngài đã hiện ra cho chỉ những người nào đã tin Ngài trước khi Ngài chịu đóng đinh, để vẫn phù hợp với lời Ngài: "Sẽ ban cho thêm kẻ nào có."
b. Các môn đồ tin Đức Chúa Jesus là Đấng Mêsia dựa vào cơ sở đức tin nơi những bằng chứng mà chính Ngài đã đưa ra. Đoàn người được cứu trong những ngày đầu của hội thánh đã lấy đức tin tiếp nhận những bằng chứng được trình bày cho họ qua lời nói và việc làm của các sứ đồ cùng với hoạt động của Đức Thánh Linh. Chúa đã không thiên vị khi cho một nhóm người không có đức tin như là các thầy tế lễ cả được đến với Ngài.
c. Những người nói rằng: “Hãy cho tôi thấy phép lạ thì tôi sẽ tin” là những người đã ngu dốt trước bằng chứng dồi dào hiện sẵn có trong thực tại về Đấng Christ, và hiện đang ở trong địa vị nguy hiểm của việc "thử Đức Chúa Trời" (LuLc 4:12).
d. Việc Đức Chúa Jesus không chịu xuống khỏi thập tự giá để thuyết phục đám đông rằng Ngài là vua và là Đấng Mêsia (Mat Mt 27:39-43) là đỉnh điểm của quyết định mà Ngài đã có từ ba năm trước, khi Ngài khước từ lời Satan đề nghị Ngài làm một phép lạ ngoạn mục hầu chứng tỏ Ngài là Đấng Christ (LuLc 4:9-12).
e. Đức Chúa Jesus muốn sự thay đổi trong tấm lòng, chứ không chỉ niềm tin trong trí họ thôi. Việc các thầy tế lễ cả đã biết Đức Chúa Jesus sống lại từ kẻ chết nhưng vẫn không tin Ngài giải nghĩa cho việc Ngài không chịu hiện ra cho họ. Nó cũng cho thấy rằng một người cố tình chối bỏ Đấng Christ thì không phải bởi cớ Ngài thiếu bằng chứng, nhưng bởi tấm lòng người ấy đầy tội lỗi.
f. Nếu sau khi phục sinh, Đức Chúa Jesus hiện ra trước Tòa Công Luận, là chính hội đồng đã kết án giết Chúa, thì Ngài hẳn đã bị chi phối bởi đòi hỏi từ lâu của họ rằng Ngài phải chứng minh Ngài là Đấng Mêsia sao cho khớp với những chờ đợi của họ . Sự hiện ra như thế của Đấng Christ hẳn sẽ mâu thuẫn hoàn toàn với những nguyên tắc cơ bản của chức vụ Ngài.
Khi bị xét xử trước Tòa Công Luận, Đức Chúa Jesus đã hứa rằng: "Ta nói cùng các ngươi, về sau các ngươi sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời, và ngự trên mây từ trời mà xuống" (Mat Mt 26:64). Ngày ấy đã quá trễ cho sự cứu rỗi của họ rồi (KhKh 6:12-17). Sự hy vọng của sự cứu rỗi họ, cũng giống như của chúng ta, cốt ở sự tiếp nhận lời của các sứ đồ (Cong Cv 4:10): "Đức Chúa Jesus Christ ở Naxarét... mà... Đức Chúa Trời đã khiến từ kẻ chết sống lại!" Có lời của một bài thánh ca chép rằng: "Ngài còn phán được gì với anh ngoài những điều đã phán?"
Khung Cảnh
4:1-4 Bruce 95-98
Mục tiêu 6. Thảo luận những phương diện sau trong việc Phierơ và khi xuất hiện trước Tòa Công Luận:
1) hội đồng và thái độ của hội đồng nầy đối với Tin Lành,
2) cuộc thẩm vấn và lời đáp của Phierơ,
3) nhận xét của Tòa Công Luận,
4) sự cân nhắc và quyết định,
5) đáp ứng của các sứ đồ đối với quyết định và sự phóng thích họ.
17. F. F. Bruce nêu ra thông tin phong phú về Tòa Công Luận, Anne và Caiphe (trang 97-98). Xác định những câu đúng.
a. Tòa Công Luận còn có thể gọi là Hội Đồng, hay là Thượng Nghị Viện. Hội đồng nầy gồm có 71 thành viên. Thầy tế lễ thượng phẩm là vị chủ tịch. Tòa Công Luận điều hành chuyện quốc nội của dân tộc Do thái.
b. Tòa Công Luận là một nhóm người cai trị trong Hội Thánh Đầu Tiên.
c. Cả người Pharisi và người Sađusê đều có trong Tòa Công Luận, người Pharisi chiếm đa số.
d. Cả người Pharisi và người Sađusê đều có trong Tòa Công Luận, người Sađusê chiếm đa số.
e. Anne, thầy tế lễ thượng phẩm, tiếp tục được gọi là thầy tế lễ thượng phẩm dầu rằng con rể ông, là Caiphe, đã chính thức giữ tư cách thầy tế lễ thượng phẩm trong thời Đức Chúa Jesus và trong những năm đầu của Hội Thánh.
f. Anne, Caiphe, Giăng, và Alexander thảy đều là anh em, và họ kế tiếp nhau trở thành thầy tế lễ thượng phẩm.
Còn những từ ngữ khác được dùng để mô tả thành viên của Tòa Công Luận, như là: những nghị viên, các trưởng lão, các thầy thông giáo. Các quan chắc là một chữ khác nữa dùng cho các thầy tế lễ cả (Mac Mc 14:53). Các trưởng lão là một từ tổng quát, mô tả toàn bộ nghị viên Tòa Công Luận. Các thầy thông giáo là những giáo sư dạy Luật Pháp, đa số là người Pharisi.
Thẩm Vấn Và Đối Đáp
Cong Cv 4:5-12 Bruce 96-104
Sau một đêm ở trong ngục, Phierơ và Giăng giờ đây lại đứng trước chính nhóm người đã lãnh đạo cuộc thẩm vấn (tra xét) lúc nửa đêm, được an bài trước và vô luật pháp đối với Đức Chúa Jesus ngày trước. Nhóm người nầy đã kết tội Ngài dựa vào những lời vu cáo của những nhân chứng mà lời khai của họ không ăn khớp với nhau gì cả. Họ ép Ngài một cách bất hợp pháp, buộc Ngài phải nhận những lời chứng nghịch cùng Ngài. Rồi khi thầy tế lễ thượng phẩm kết tội Ngài lộng ngôn, họ vả vào má Ngài, đấm Ngài và tát Ngài, bịt mặt Ngài và mắng chiếc Ngài (Mat Mt 26:57-58; Mac Mc 14:53-65). Đến rạng sáng hôm sau, toàn bộ Tòa Công Luận đã vội vã họp lại để chính thức phê chuẩn những lời buộc tội Ngài.
Phierơ đã bị quyền lực của nhóm người nầy làm ông khiếp sợ đến nỗi ông phải khúm núm bên ngoài khu nơi họp của họ, tìm cách gần gũi với Chúa Jesus, tuy vậy vẫn rất xa đến nỗi đã chối Ngài. Tuy nhiên, giờ đây Phierơ không sợ hãi gì, và đã bình tĩnh gặp mặt họ để dạn dĩ rao giảng về Đức Chúa Jesus!
18. Cụm từ nào trong Cong Cv 4:8 gợi lên nguồn bảo đảm và khôn ngoan của Phierơ trong trường hợp nầy?
..........
19. Luca có ý gì khi nói ngay từ đầu lời biện hộ của Phierơ rằng ông “đầy dẫy Đức Thánh Linh”? Khoanh tròn những câu trả lời ĐÚNG.
a. Rõ ràng ông đã mất đi một phần Thánh Linh nào đó mà ông đã nhận được vào ngày Lễ Ngũ Tuần, và cần phải được làm cho đầy trở lại.
b. Ông đã không nói tiếng lạ, do đó, ông không thể được đầy đẫy Đức Thánh Linh.
c. Được đầy dẫy Đức Thánh Linh là một từ ngữ vừa chỉ về một từng trải ban đầu về lời hứa của Cha, tức phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, vừa chỉ về sự liên tục đầy dẫy Đức Thánh Linh về sau đó.
d. Theo lẽ tự nhiên, Phierơ đã sợ còn hơn cả trước kia. Ông cần Đức Thánh Linh đầy dẫy bầu rượu thuộc linh rộng mở của ông, đã được căng ra trước tình hình căng thẳng của sự kiện nầy. Đức Thánh Linh đầy dẫy chúng ta tùy theo mức độ của sức chứa và nhu cầu của chúng ta, và Phierơ đã có sức chứa cùng nhu cầu nhiều hơn trước kia.
Sự đầy dẫy Đức Thánh Linh là một từng trải mới. Trước Lễ Ngũ Tuần, Đức Chúa Jesus đã phán rằng Đức Thánh Linh ở với môn đồ Ngài, nhưng về mặt tiên tri, Ngài đã tuyên bố rằng Ngài sẽ ở trong họ (GiGa 14:17). Hơn nữa, Đức Chúa Jesus hứa rằng khi Đức Thánh Linh giáng lâm, tín đồ sẽ từng trải sự tuôn đổ sự sống thuộc linh (7:37-39). Tuy nhiên, mạng lệnh cho họ là phải ở trong Nguồn (15:1-8). Qua sự hiệp một thuộc linh hết sức sống động trong sự cầu nguyện, chức vụ ban quyền năng của Đức Thánh Linh, sự tăng trưởng, cùng sự dẫn dắt sẽ được dành sẵn cho họ (GiGa 16:13-15). Phierơ và Giăng hiện được đầy dẫy , và sự đầy dẫy Thánh Linh đã thể hiện ra trong thái độ, lời nói, và hành động của họ. Nguồn cung ứng của họ từ ngày Lễ Ngũ Tuần đã được sử dụng hết và được đổ đầy đều đặn. Những hồ chứa của họ cần có sự bảo trì hàng ngày và nguồn cung ứng Thánh Linh tươi mới. Và những bầu chứa của họ đòi hỏi phải mở rộng ra để sức chứa thuộc linh của họ phát triển. Đây là một thời điểm hồi hộp, và nó thiết lập một mẫu mực cho việc làm thỏa mãn từng trải thuộc linh và ban quyền năng để phục vụ hiệu quả trong hội thánh suốt mọi thời đại.
Trước khi nghe câu hỏi (Cong Cv 4:7), hẳn Phierơ đã không thể nào biết được bản chất chính xác của lời buộc tội và sự truy tố ông. Sau lời phát biểu trịnh trọng: "Hỡi các quan và trưởng lão," Phierơ đánh giá bản chất của cuộc thẩm vấn: "Nếu ngày nay chúng ta bị tra hỏi vì đã làm phước cho một người tàn tật, lại hỏi chúng tôi thể nào người đó được lành... " (4:9).
20. Khoanh tròn mẫu tự của câu suy luận ĐÚNG có thể rút ra từ lời biện hộ của Phierơ.
a. Ông lo sợ và bênh vực cho chính mình hơn là lo giảng đạo cho Tòa Công Luận.
b. Ông tức giận Tòa Công Luận vì đã đóng đinh Đức Chúa Jesus Christ đến nỗi ông đã nói một bài diễn văn chỉ trích dài dầy giận dữ, gọi họ bằng một tính ngữ: "những kẻ giết Đấng Christ."
c. Sự có mặt của chữ nếu trong 4:9 cho thấy Phierơ không bảo đảm chính xác rằng Tòa Công Luận quan tâm nghiêm túc đến việc người què được chữa lành thế nào, nhưng cho rằng mối quan tâm thực sự của họ là muốn ông kể đã chữa lành bằng cách nào!
Những tín đồ bị xử trước tòa án trong sách Côngvụ luôn luôn rao giảng Tin Lành và tìm cách chinh phục các quan tòa của mình cho Đấng Christ. Tòa Công Luận đã gánh trách nhiệm về tội đóng đinh Đấng Christ, nhưng không hề có chuyện gọi tên một cách thù ghét. Phierơ hẳn đã phải tự hỏi không biết câu hỏi trong 4:7 có phải là một cái bẫy khéo gài hay không. Dầu vậy đi nữa, ông sẵn sàng dấn thân vào, vì đó là một cơ hội để rao giảng Đấng Christ cho chính nhóm người gánh trách nhiệm nhiều nhất về cái chết của Chúa.
Phierơ tóm tắt cho Tòa Công Luận biết tính nghiêm trọng của việc họ đã làm. Ông so sánh họ với những người lãnh đạo nhóm thợ xây loại bỏ chính hòn đá đã trở nên đá góc nhà (bởi bàn tay của Đấng Kiến Trúc Sư và Thợ Xây Thiên Thượng). Lời của Phierơ được trích từ Thi Tv 118:22. Rõ ràng, ông nhớ Chúa dùng chính câu nầy chống lại những thầy tế lễ cả, thầy thông giáo và các trưởng lão khi họ chất vấn Ngài về nguồn quyền phép của Ngài (Mac Mc 11:27-12:12).
Cuối cùng, những lời cuối của Phierơ đã bật ra khi ông nhìn thấy trước hàm ý về sự chết và sự phục sinh của Đấng Christ. Ngoài khả năng những khách hành hương đã tin Chúa vào ngày Lễ Ngũ Tuần quay về làm chứng tại quê hương họ, chúng ta không biết Tin Lành đã được rao giảng bên ngoài Giêrusalem hay chưa. Nhưng chúng ta đã nhìn thoáng qua được sứ điệp phổ thông của hội thánh qua những lời nầy: "Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác, vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu" (Cong Cv 4:12).
21. Những kết luận của Phierơ có thể được giải thích như những câu sau đây không? Khoanh tròn mẫu tự của những kết luận đúng.
a) Những người nào thành thật tin vào đạo của họ thì đều sẽ được cứu.
b) Sống một đời sống nhân đức thì sẽ được cứu rỗi.
c) Chúa Jesus là con đường cứu rỗi duy nhất.
d) Bản chất thôi thúc của sự phục sinh Đấng Christ chứng tỏ Ngài là Đấng Cứu Thế duy nhất, và bản chất đó sẽ tạo ý thức khẩn cấp cho việc làm chứng của chúng ta, vì linh hồn nào không tin Đấng Christ thì sẽ chết mất.
Nếu Đấng Christ đã sống lại từ kẻ chết thì làm sao còn có con đường nào khác nữa? Phierơ đã dùng câu hỏi đầy ấn tượng nầy cho Tòa Công Luận để kết thúc câu trả lời của mình.
Sự Nhận Định
Cong Cv 4:13-14 Bruce 102
Tòa Công Luận không còn nhầm Phierơ và Giăng là những con người dốt nát nữa. Trái lại họ sửng sốt trước sự khôn ngoan, can đảm, và cách diễn thuyết hùng hồn của những con người tầm thường chưa hề được đào tạo chính thức như là các rabbis nầy.
22. Cách nói sắc sảo của họ chỉ có thể được xem là xuất phát từ trường học của Chúa Jesus. Câu nói trong 4:13 có liên quan thế nào với câu nói về Chúa Jesus trong GiGa 7:15?
.........
Sự Cân Nhắc Và Quyết Định
Cong Cv 4:15-18 Bruce 103
Bằng một cách nào đó, Luca đã có được câu chuyện đáng tin cậy về quyết định của Tòa Công Luận lúc vắng mặt Phierơ và Giăng. Có thể do Nicôđem hoặc Giôsép người Arimathê (xem LuLc 23:50-52; GiGa 3:1) cung cấp, vì họ là nghị viên Tòa Công Luận, hoặc từ những nghị viên khác là người đã tin Chúa lúc bấy giờ hoặc tin Chúa sau đó.
Các nghị viên tòa công luận không có cơ sở để phủ nhận việc vừa xảy ra. Họ không thể bịa đặt một câu chuyện như họ đã bịa lúc Chúa phục sinh (Mat Mt 28:11-15), vì việc chữa lành người què rất dễ xác minh, ngay cả đối với người không tin đi nữa. Hơn nữa, người què nầy khác với Đấng Christ, đang đích thân hiện diện tại đây. Vì vậy, họ đã sa vào chỗ phải xử lý phải lẽ trước sự thật của câu chuyện nầy.
Đe dọa các sứ đồ chỉ là một phương án trước mắt có thể xem là thực tế, dầu sự gian ác của họ đòi hỏi phải hành động quyết liệt hơn nhiều.
23. Khi đọc Cong Cv 4:8-12, bạn nghĩ quyết định nào của Tòa Công Luận sẽ khiến Đức Chúa Trời vui lòng nhất và khiến các tín đồ tại Giêrusalem vui mừng đón nhận?
.........
Sự kiện hội thánh không những có thể tiếp nhận kẻ thù trước kia mà còn công nhận địa vị lãnh đạo của họ nữa được chứng tỏ qua việc chấp nhận Saulơ. Ông được đón nhận sau khi họ hết sợ hãi rằng sự cải đạo của ông chỉ là trò lừa gạt và cái bẫy (Cong Cv 9:26-30).
Câu Trả Lời Của Phierơ Và Giăng
4:19-20 Bruce 103-104
Phierơ đáp lại những đe dọa của Tòa Công Luận một cách tôn trọng (4:19) và thách thức (4:20). Phẩm chất đầu tiên chứng tỏ lòng tôn trọng đối với người cầm quyền mà tín đồ luôn luôn thể hiện, dẫu ngay cả lúc người cầm quyền lạm quyền một cách trắng trợn. Phẩm chất thứ hai bày tỏ lãnh vực mà luật pháp của con người phải phục dưới luật pháp của Đức Chúa Trời: khi con người bị cấm tin và truyền bá Tin Lành.
Được Thả Ra
4:21-22 Bruce 104
Sự mến mộ của quần chúng đối với việc làm của người què chính là điều khiến Tòa Công Luận không thể trừng phạt Phierơ và Giăng. Làm như vậy chỉ khiến cho dân chúng chống lại Tòa Công Luận. Nếu lòng mến mộ nầy trước kia được dành cho Đấng Christ, thì Tòa Công Luận hẳn đã không thể thi hành án đóng đinh Đấng Christ (Mac Mc 15:8-15).
Ứng Dụng
Mục tiêu 7. Lần theo chiến lược chống Phierơ, Giăng và hội thánh nhằm dập tắt sự làm chứng của họ, và áp dụng những đáp ứng của họ vào đời sống của bạn.
Phaolô nói về những mưu kế của ma quỉ (Eph Ep 6:11) và nói chúng ta đừng ngu dốt trước mưu kế của nó (IICo 2Cr 2:11). Chúng ta có thể thấy rõ ràng mưu chước hay kế hoạch của Satan, được thực hiện qua Tòa Công Luận, để ngăn cản và phá hoại sự bành trướng của hội thánh và để vắt kiệt sức sống thuộc linh của Phierơ và Giăng. Để hiểu hết được cảm giác của hai sứ đồ nầy, bạn hãy đặt mình vào tình huống của họ. Hãy hình dung bạn sẽ có đáp ứng nào với một mạng lệnh cấm tiệt - một mạng lệnh buộc bạn phải làm ngơ với Đại Mạng Lịnh của Chúa trong Mat Mt 28:19-20 và Cong Cv 1:8.
24. Từ 4:1-37, cho biết Satan đã dùng những chiến lược sau đây như thế nào để chống lại Phierơ Giăng và hội thánh.
a. Loại bỏ những lãnh đạo nòng cốt và chặn đứng hướng tiến lên của hội thánh.
..........
b. Cám dỗ bằng cách đổ tội cho Đức Chúa Trời.
..........
c. Cám dỗ bằng sự lo âu và ngã lòng
..........
d. Cám dỗ bằng cảm giác thù ghét
..........
e. Cám dỗ bằng cảm giác tự ti
..........
f. Ngăm đe và dọa nạt
..........
SỰ CẦU NGUYỆN
4:24-31 Bruce 105-107.
Mục tiêu 8. Cho thấy những lời cầu nguyện đầu tiên được ghi lại của hội thánh Cơ đốc sau Lễ Ngũ Tuần phản ánh thế nào về lòng tin quyết lớn lao nơi Chúa.
Ngay sau khi được thả ra, Phierơ và Giăng đến gặp các bạn hữu và nói cho họ biết mạng lệnh của Tòa Công Luận. Ngay lập tức, nhóm người nầy cầu nguyện dâng nan đề lên cho Đức Chúa Trời. Bạn sẽ thấy không phải toàn hội thánh đang nhóm lại, vì toàn hội thánh đông đến nỗi không thể nhóm trong một căn nhà được. Họ bắt đầu lời cầu nguyện bằng câu "Chúa chí cao" (thực ra, chỉ là một chữ trong tiếng Hylạp, despotes ). Từ ngữ nầy được chuyển sang Anh ngữ như là chữ chỉ về một bạo chúa chuyên quyền và thường có hàm ý xấu. Tuy nhiên, lúc ban đầu chữ nầy có nghĩa là bất cứ ai có uy quyền hay quyền lực tuyệt đối. Và lời cầu nguyện của những Cơ đốc nhân đầu tiên nầy cho thấy họ tin nơi quyền tể trị của Chúa sâu nhiệm biết bao!
1. Ngài tạo dựng muôn vật (4:24).
2. Việc mọi người tập hợp lại để chống Đấng Christ thực ra đã khẳng định uy quyền của Đức Chúa Trời, vì họ đã "làm mọi việc tay Ngài và ý Ngài đã định trước" (4:25-28).
Hai yếu tố nầy phản ảnh quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời trong cả sự sáng thế lẫn sự cứu chuộc.
25. Khoanh tròn những mẫu tự của câu ĐÚNG nào phản ảnh chính xác lời cầu nguyện của hội thánh đầu tiên.
a. Họ than phiền Chúa về những thử thách hoạn nạn và thời kỳ khó khăn của họ đang gánh chịu.
b. Họ cầu nguyện càng dạn dĩ hơn và càng có nhiều phép lạ chữa bệnh hơn trong danh Đức Chúa Jesus.
c. Họ chỉ muốn duy trì những tiến bộ của họ và vui mừng về những việc Đức Chúa Trời đã làm trong quá khứ.
d. Hành động tối thượng của Đức Chúa Trời trong quá khứ khiến họ càng tin cậy để dấn bước vào tương lai.
e. Họ muốn quay trở lại với thời vàng son ngày xưa, là lúc không hề bị bắt bớ.
f. Thực ra, họ bảo Chúa nhìn xem những lời đe dọa của kẻ chống đối như là một động cơ khiến Ngài càng dang rộng tay để họ rao truyền Lời Chúa càng dạn dĩ hơn.
Sự ca ngợi là phương thuốc giải quyết sự đổ thừa. Sự tự thương hại lại càng khiến tâm linh yếu đuối hơn bất cứ nguyên nhân nào khác! Đương nhiên, họ muốn duy trì những tiến bộ của mình, nhưng trọng điểm của họ là tiến lên chứ không phải thối lui. Chúng ta trân trọng giữ gìn quá khứ, nhưng chúng ta phải sống bằng hiện tại và có đức tin vào tương lai! Hội thánh dường như luôn vận hành theo qui luật nầy: "Áp lực càng cao, năng quyền càng lớn!"
Một lần nữa, hãy để ý đến cách các Cơ đốc nhân tỏ ra quen thuộc với Kinh Thánh Cựu Ước khi dùng lời Kinh Thánh để cầu nguyện (XuXh 20:11; Thi Tv 146:6; 2:1-2).
Khi lời cầu nguyện kết thúc, nơi nhóm lại (chứ không phải nhóm người cầu nguyện) bị rúng động! Đây là một điềm báo cho sự tiến bộ liên tục của họ! Cũng như trong Cong Cv 4:8, chúng ta thấy trong 4:31 kết quả tiếp theo của sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Lời Đức Chúa Trời được rao truyền một cách dạn dĩ. Hơn bao giờ hết, giờ đây các tín đồ càng có nhu cầu lớn hơn đối với Đức Thánh Linh, và Ngài đã thỏa đáp nhu cầu mở rộng của họ. Họ có Ngài thêm và Ngài có họ thêm! Đây là kết quả của sự liên tục đầy dẫy Đức Thánh Linh.
TÓM TẮT
26. Qua 3:1-4:31 bạn có thể kể ra thuộc lòng bốn phần chính theo đúng trình tự thời gian của chúng không?
a ...........
b ...........
c ...........
d ...........
Bài tự trắc nghiệm
Sau khi bạn ôn bài, hãy làm bài tự trắc nghiệm. Sau đó, kiểm bài với phần giải đáp trong tập học viên. Xem lại bất cứ câu nào bạn đã làm sai.
CÂU CHỌN LỰA. Mỗi câu hỏi chỉ có một câu trả lời đúng. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời đúng.
1. Luca chọn phép lạ chữa lành người què vì
a) có thể đây là phép lạ đáng chú ý nhất mà các sứ đồ đã làm.
b) nó phát động toàn bộ các sự kiện quan trọng đối với sự phát triển của hội thánh đầu tiên.
c) đây là phép lạ lớn đầu tiên mà các sứ đồ đã từng thực hiện.
d) đây là phép lạ điển hình của những phép lạ mà các lãnh đạo của hội thánh đầu tiên đã thực hiện.
2. Là một sử gia xuất sắc vào bậc thầy, Luca đã ý thức sâu xa về
a) tầm quan trọng tương đối của các phép lạ khác nhau.
b) việc tuyển chọn sự kiện hay phép lạ nào có nhiều khả năng thôi thúc đức tin của thính giả nhất.
c) tầm quan trọng của giá trị lớn lao từ những lời chứng về phép lạ. Do đó, ông sẽ ghi lại chỉ những phép lạ nào gây xúc động mạnh mẽ mà thôi.
d) những khoảnh khắc quyết định - những biến cố nào thay đổi tiến trình của lịch sử hội thánh.
3. Bốn phần chính trong 3:12-4:31 là
a) bài giảng thứ nhì của Phierơ, sự xét xử Phierơ và Giăng, lời cầu nguyện của các tín đồ sau khi Phierơ và Giăng được thả ra, và sự chữa lành người què.
b) sự chữa lành người què, bài giảng thứ nhì của Phierơ, vụ xét xử Phierơ và Giăng, sự cầu nguyện của các tín đồ sau khi Phierơ và Giăng được thả ra.
c) vụ xét xử Phierơ và Giăng, bài giảng thứ nhì của Phierơ, sự cầu nguyện của các tín đồ sau khi Phierơ và Giăng được thả ra, và sự chữa lành người què.
4. Những đặc trưng của người què đã được chữa lành gồm có
a) ông bị què từ lúc mới sinh ra, hơn bốn mươi tuổi, là một người ăn mày, và hàng ngày nằm tại một trong chín cửa của đền thờ.
b) ông cay đắng, bị những người đến thờ phượng tại đền thờ bỏ mặc, không thèm lưu tâm đến, một người gốc tại Bếtlêhem, một người Pharisi nghiêm khắc, và hàng ngày ngồi gần Hiên Cửa Salômôn.
c) ông đồng cảm với phe Xêlốt, một thành viên của nhà hội, là một môn đồ giấu mặt của Giăng Báp Tít, và đã bị què từ lúc còn thanh niên khi người vú thả rớt anh.
5. Tác giả của tài liệu hướng dẫn tin rằng người què nầy
a) chắc chưa hề được biết về đạo Cơ đốc. Thời bấy giờ, không ai xem trọng người ăn mày.
b) có lẽ đã được nghe Tin Lành, nhưng không làm theo vì những lý do tôn giáo. (Có thể ông sẽ bị những người lãnh đạo nhà hội hắt hủi và có thể bị đuổi ra khỏi nhà hội.)
c) rõ ràng đã được nghe Tin Lành và có lẽ còn có mặt tại một số những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Đức Chúa Jesus, mà chúng đã diễn ra tại khu vực đền thờ.
6. Sau khi ở tù một đêm rồi bị điệu vào trước mặt Tòa Công Luận, là hội đồng đã kết án Đức Chúa Jesus; Phierơ và Giăng đã
a) nắm ngay thế chủ động, quy việc chữa lành cho Đức Chúa Jesus Christ, và nhanh chóng kết tội Tòa Công Luận đã giết chết Đức Chúa Jesus Christ.
b) giải thích rằng sự chữa lành xuất phát từ đức tin nơi Đấng Christ, sự cứu rỗi chỉ có thể tìm thấy trong Ngài, và tư cách Đấng Mêsia của Đấng Christ đã được xác chứng bởi Sự Phục Sinh.
c) đã đồng ý làm yên lòng Tòa Công Luận bằng cách không nêu ra rằng chỉ một mình tòa án này phải chịu trách nhiệm đối với Sự Đóng Đinh Đức Chúa Jesus. Triết lý sống của họ là: nhấn mạnh bất cứ những điểm nào đồng ý với nhau, và không nhấn mạnh những lĩnh vực bất đồng ý kiến.
7. Sau khi bị cảnh cáo không cho giảng Tin Lành nữa và bị hăm dọa bằng những hậu quả khủng khiếp, Phierơ và Giăng đã đáp ứng bằng cách
a) thách thức những quyền can thiệp của Tòa Công Luận và quả quyết rằng Cơ đốc giáo cũng có quyền được tồn tại giống như Do thái giáo.
b) đồng ý ngưng mọi sinh hoạt truyền giảng Tin Lành và những buổi nhóm thờ phượng trong khi chờ đợi kết quả buổi nhóm cầu nguyện của họ.
c) kính cẩn trình bày lại duyên cớ cho phục hội đồng đầy uy tín nầy. Họ nói: "Chính các ông hãy suy xét xem chúng ta nên vâng theo mệnh lệnh của các ông hay mệnh lệnh chúng tôi đã nhận từ nơi Đức Chúa Trời. Chúng tôi chỉ nói lại những điều mình đã thấy và nghe mà thôi."
8. Câu nói của Đức Chúa Jesus: “Vì sẽ ban thêm cho kẻ nào có..." (Mac Mc 4:25) đại diện cho nguyên tắc nào?
a) Người nào năng nổ hơn trong hệ thống kinh tế của thế gian nầy thì sẽ có được nhiều hơn. Đây là một nguyên tắc kinh tế cơ bản.
b) Đây là nguyên tắc của sự học hỏi, mô tả cách mà người ta tiếp nhận Chúa và Lời của Ngài. Người nào càng làm theo những gì mình biết, người đó càng được dạy dỗ nhiều hơn.
c) Đây là nguyên tắc cơ bản của làm việc và tiết kiệm. Chúng ta rút ra từ nguyên tắc đó: "Đức Chúa Trời giúp đỡ những ai biết tự giúp bản thân mình." (Trên ý nghĩa đó, đây là nguyên tắc tự giúp bản thân.)
9. Câu nào sau đây KHÔNG PHẢI là nguyên nhân khiến Đức Chúa Jesus từ chối không cho người Pharisi và người Sađusê thấy một dấu lạ cụ thể từ trời?
a) Họ không làm theo hay không tiếp nhận bằng chứng từ những lời nói và việc làm mà Ngài đã trình bày để khẳng định tư cách Đấng Mêsia của Ngài.
b) Phương pháp tự bày tỏ của Đức Chúa Jesus nhất quán từ đầu cho đến cuối cùng. Chính Ngài - chứ không phải những người khác - mới là người chọn cách để tự bày tỏ Ngài ra.
c) Đức Chúa Jesus không thể làm một dấu lạ để xua tan hết nghi ngờ của dân chúng được. Dầu Ngài có làm gì đi nữa, vẫn có một số người không tin. Và điều nầy cũng nằm ngoài quyền năng và phạm vi sứ mạng của Ngài.
10. Sau khi phục sinh, Đức Chúa Jesus không hiện ra cho Tòa Công Luận bởi vì nếu Ngài hiện ra như vậy, Ngài
a) sẽ đồng ý với những đòi hỏi của họ rằng Ngài phải tôn Ngài làm Đấng Mêsia đúng theo những kỳ vọng của họ.
b) chắc sẽ bị bắt bằng vũ lực để ép tôn Ngài làm vua. Và việc ấy hẳn sẽ quá sớm so với kế hoạch của Đức Chúa Trời.
c) sợ tái diễn cuộc xử án trước kia, bị xử oan, và phải chịu lấy sỉ nhục của việc đóng đinh trên thập tự giá một lần nữa.
CÂU ĐÚNG-SAI. Viết chữ Đ vào khoảng trống trước mỗi câu ĐÚNG . Viết chữ S nếu là câu sai.
.... 11. Đáp ứng của người què với sự chữa lành kỳ diệu cho ông có thể mô tả như là đáp ứng cảm xúc cao độ.
.... 12. Khi người vốn què trước kia chạy vào đền thờ, dân chúng nghe ông ca ngợi và tôn vinh các sứ đồ về hành động nhân đức của họ.
.... 13. Dân chúng đã chia rẽ do phản ứng của họ trước phép lạ: một số người thì thích, trong khi một số khác giận dữ trước hành vi kỳ quặc của người được chữa lành.
.... 14. Mục đích của phép lạ là sự chữa lành người què, nhưng kết quả là một đám đông tụ tập lại.
.... 15. Về cơ bản, bài giảng của Phierơ là những gì ông ghi nhớ từ sứ điệp cuối cùng của Chúa cho các môn đồ trong Cong Cv 1:1-26.
.... 16. Bài giảng thứ nhì của Phierơ cũng giống như bài giảng thứ nhất, cho thấy ông đã mở đầu từ những gì đoàn dân quan tâm ngay trước mắt.
.... 17. Phierơ đặc biệt đối chiếu số phận của Đức Chúa Jesus trong tay loài người với việc Đức Chúa Trời tôn cao của Ngài.
.... 18. Phierơ bày tỏ ân điển lớn lao của Đức Chúa Trời khi nói rằng chính vì ngu dốt mà dân chúng và các quan đã đóng đinh Đức Chúa Jesus trên thập tự giá.
.... 19. Phierơ nghĩ việc thiết lập mối liên kết của quan hệ giữa "Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta" với chính Đức Chúa Jesus Christ là một điều không quan trọng.
.... 20. Các thầy tế lễ và quan cai đền thờ cùng người Sađusê đã ập đến bắt Phierơ và Giăng khi họ đang giảng. Họ rất xao xuyến trước nội dung của bài giảng đó.
.... 21. Phierơ và Giăng đã bị nhốt vào ngục đêm đó, và không có nhiều người trong số người nghe đã chịu tin vì cớ điều nầy đã gây ra tranh chấp.
.... 22. Luca ghi lại rằng sau khi người què được chữa lành, số tín đồ là khoảng năm ngàn người.
.... 23. Những việc lớn hơn mà Đức Chúa Jesus đã hứa cho các môn đồ sẽ là những việc thuộc lãnh vực chất lượng, chứ không thuộc lãnh vực số lượng.
.... 24. Sau khi phục sinh, Chúa Jesus không hiện ra cho những người đã đóng đinh Ngài, vì cớ họ không làm theo hoặc không tiếp nhận bằng chứng trong lời nói và việc làm của Ngài như là sự khẳng định tư cách Đấng Mêsia của Ngài.
.... 25. Chiến lược chống Phierơ và Giăng đơn giản là loại bỏ những lãnh đạo nòng cốt .
.... 26. Há không phải Satan cũng cố làm bạn ngã lòng bằng cách khiến bạn mất lòng tin quyết nơi hội thánh qua thất bại của một trong các lãnh đạo hội thánh sao?
.... 27. Lời cầu nguyện đầu tiên được ghi lại của hội thánh Cơ đốc sau Lễ Ngũ Tuần phản ảnh lòng tin quyết mạnh mẽ nơi Chúa.
.... 28. Lời cầu nguyện của hội thánh là một lời cầu xin có được quyền năng bền bỉ giữa thứ thách, và quyền năng để giữ gìn và củng cố những thành tựu của hội thánh.
.... 29. Khi các sứ đồ bị truyền lệnh phải ngưng giảng dạy, họ đã nhu mì chấp nhận và vâng theo mạng lệnh đó.
.... 30. Buổi nhóm cầu nguyện sau khi các sứ đồ bị giam vào ngục đã đạt đến đỉnh điểm bởi việc nơi nhóm lại rúng động và mọi người hiện điện đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh một cách tươi mới.
31. CÂU GHÉP CẶP. Chọn từ ngữ đúng ở cột bên phải để ghép với phần mô tả hay câu tương ứng ở cột bên trái.
.... a Nơi mà người què được chữa lành.
.... b Hai người trong gia đình của Anne.
.... c Trong số những người chịu trách nhiệm về việc bắt giữ Phierơ và Giăng.
.... d Chín giờ sáng.
.... e Đã cảnh cáo Phierơ và Giăng không được giảng tiếp nữa.
.... f Nơi Phierơ đã giảng bài giảng thứ nhì.
.... g Được Luca gọi là thầy tế lễ thượng phẩm .
.... h Ba giờ chiều.
.... i Tin nơi sự sống lại.
.... j Con rể của Anne.
1) Giờ thứ chín.
2) Cửa Đẹp.
3) Hiên Cửa Salômôn.
4) Người Sađusê.
5) Anne.
6) Caiphe.
7) Giăng và Alexander.
8) Người Pharisi.
9) Giờ thứ ba.
10) Tòa Công Luận.
TRẢ LỜI NGẮN. Kể ra bốn chiến thuật Satan đã dùng để chặn đứng tiến bộ của hội thánh.
32 ..........
33 ..........
34 ..........
36 ..........
GIẢI ĐÁP
1.
a. Nhiều sự lạ dấu lạ đã được thực hiện qua các sứ đồ.
b. Anania và Saphira đã được gặp lời nói tri thức của Phierơ (ICo1Cr 12:8) và đã ngã ra chết.
c. Nhiều dấu lạ và sự lạ đã được thực hiện bởi tay các sứ đồ.
d. Phierơ đã được công nhận cách đặc biệt là một tác nhân của quyền năng chữa bệnh.
e. Hết thảy mọi kẻ bịnh từ bên ngoài Giêrusalem đều được đen đến để được vị sứ đồ chữa lành.
2. g) Họ có đức tin để cho người nầy được chữa lành.
3.
a. Có. Họ là những người đánh cá.
b. Cả hai đều có thuyền đánh cá. Giăng, và cha, anh người đã mướn những đầy tớ.
c. CoCl 2:44 nói rất rõ ràng khi đề cập đến chữ mọi .
d. Đúng. Trước khi gặp Chúa, chắc ông đã có bạc và vàng. Giờ đây ông đã có thể nói: “Nhưng vì cớ Đấng Christ, tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ vậy" (Phi Pl 3:7).
5. a) Sự chuẩn bị của Phierơ khi còn là môn đồ.
4. Họ đã chạy đến Hiên Cửa (mái cổng) Salômôn, là nơi họ nghe Phierơ giải thích về sự kiện nầy.
6.
a. Nguyên nhân của sự chữa lành nầy chính là Đức Chúa Jesus, là Đấng các ngươi đã giao nộp, đã chối bỏ, và đã giết đi, nhưng lại là Đấng mà Đức Chúa Trời đã làm cho Chúa và đã khiến từ kẻ chết sống lại.
b Bằng chứng là Đức Chúa Jesus là Đấng Christ, Ngài sẽ khiến các ngươi tìm kiếm sự tha thứ mà Ngài đã ban cho.
7
a Cả hai lần, Phierơ đều nói rằng đáp ứng đầu tiên của họ con người đối với tội lỗi họ phải là ăn năn .
b. Phép báp têm bằng nước không được nhắc đến trong trong bài giảng thứ nhì, dầu vậy sự vắng mặt ấy không hàm ý rằng quy định nầy đã bị bỏ qua.
c. Lời hứavề Đức Thánh Linh là tương ứng với kỳ thơ thái đến từ Chúa .
d. Sự tái lâm của Đấng Christ để đón rước kẻ tin Ngài được hứa ban trong bài giảng thứ hai.
8.
a. Đức Chúa Jesus giải thích cuộc đời và công việc của Ngài từ Luật pháp Môise. Phierơ cũng vậy.
b. Đức Chúa Jesus đã giải thích đời sống và Công-vụ Ngài từ các sách tiên tri. Phierơ cũng vậy. Trong Cong Cv 3:13, 26, Phierơ gọi Đức Chúa Jesus là "đầy tớ," một câu trưng dẫn hiển nhiên đến EsIs 52:13-53:12. Trong Cong Cv 2:16-21, Phierơ trích dẫn Giôên để giải nghĩa công tác của Đức Thánh Linh.
c. Đức Chúa Jesus giải thích đời sống và công việc của Ngài từ các Thithiên. Phierơ cũng vậy (2:25-28, 34-35).
9. b) Những công việc lớn lao hơn do các sứ đồ thực hiện thuộc về lĩnh vực số lượng .
10.
a. Người Sađusê phủ nhận sự phục sinh. Người Pharisi tin có sự sống lại.
b. Người Sađusê phủ nhận sự thực hữu của thiên sứ. Người Pharisi tin có thiên sứ.
c. Người Sađusê phủ nhận sự tồn tại của linh hồn, nhưng người Pharisi tin có linh hồn.
11.
a. Đúng.
b. Sai.
12.
a. Sai.
b. Đúng.
13.
a. Sai.
b. Đúng.
14.
a. Sai.
b. Đúng.
15.
a. Đúng.
b. Sai.
16.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Đúng.
e Đúng.
f. Đúng. (Thấu triệt được những lẽ thật nầy chính là cơ sở để bạn hiểu biết về Tân Ước và bản chất của sự cứu rỗi.)
17.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Sai.
e. Đúng.
f. Sai.
18. Được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
19.
a. Sai.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Đúng.
20.
a. Sai.
b. Sai.
c Đúng.
21.
c) Chúa Jesus là con đường cứu rỗi duy nhất.
d) Bản chất thôi thúc của sự phục sinh Đấng Christ chứng tỏ Ngài là Đấng Cứu Thế duy nhất.
22. Họ cũng đã để ý Chúa Jesus cũng có sự khôn ngoan thông thái như thế, dầu Ngài không hề được đào tạo chính thức như là những rabbi
23. Câu trả lời của bạn. Tôi đề cập: Đáp ứng bằng sự ăn năn tội lỗi của Tòa Công Luận đi kèm với niềm tin Đức Chúa Jesus là Đấng Christ và là Chúa.
24.
a. Việc bắt giữ Phierơ và Giăng. Chúng ta cần cầu nguyện cho những người đang giữ những địa vị có thẩm quyền thuộc linh, vì họ là những đối tượng bị Satan đặc biệt nhắm vào để chống đối và cám dỗ.
b. và c. Đêm Phierơ và Giăng ở trong ngục, Satan sẽ dùng những tư tưởng gì để cám dỗ họ? 1) Đây có phải là phần thưởng của Đức Chúa Trời ban cho đầy tớ của Ngài chăng? 2) Điều gì sắp xảy ra cho năm ngàn tân tín hữu? 3) Điều gì sắp xảy ra cho chúng ta?
d. Giăng và Phierơ đang đối mặt với nhóm người đã ra lệnh đóng đinh Chúa Jesus. Liệu họ có thể yêu kẻ thù được chăng? Liệu Giăng đã thắng được tính khí nóng nảy để gọi sự đoán xét của Đức Chúa Trời giáng trên kẻ thù chăng (LuLc 9:54)?
e. Phierơ và Giăng đã biết mình không được đào tạo chính thức như là các rabbi. Họ là ai mà dám ngang nhiên nói chuyện với Tòa Công Luận? Nhưng Chúa không ban cho chúng ta tinh thần tự ti (IITi 2Tm 1:7) hay sợ hãi (HeDt 13:6).
f Tòa Công Luận cảnh cáo Phierơ và Giăng. Chiến lược của ma quỉ là tập trung tâm trí của chúng ta vào những điều tệ hại nhất có thể xảy ra. Nó muốn đánh bại chúng ta bằng những mối đe dọa. Đối với tân tín hữu, nó nói: "Ngươi không thể sống đời sống đó đâu." Đối với tín đồ đang vươn đến thành tựu, nó nói rằng: "Ngươi sẽ không bao giờ đạt được thành tựu đâu." Nhưng, Đấng ở trong bạn là lớn hơn kẻ ở trong thế gian (IGi1Ga 4:4)!
25.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d.. Đúng.
e. Sai.
f. Đúng.
26.
a. Việc chữa lành người què (Cong Cv 3:1-11).
b. Bài giảng thứ nhì của Phierơ (3:12-26).
c. Vụ xét xử Phierơ và Giăng (4:1-22).
d Lời cầu nguyện của các tín đồ sau khi Phierơ và Giăng được thả ra (4:23-31).
Sinh Hoạt Của Các Sứ Đồ
Chúng ta vừa phân tích sự chữa lành kỳ diệu và những kết quả của phép lạ nầy. Và chúng ta biết đánh giá cao lý do khiến Luca đưa phép lạ nầy vào trong bản ký thuật của ông, hiểu rằng nó mở ra toàn bộ một loạt các sự kiện đã phát triển nhanh công cuộc rao giảng tin lành. Giờ đây, chúng ta xem xét chi tiết một số sinh hoạt của các sứ đồ.
Chúng ta thấy Đức Thánh Linh hành động trong hội thánh đã đem lại một ý thức về sự hiệp một và mục đích tự thể hiện qua việc dâng hiến cho nhu cầu chung của toàn cộng đồng Cơ đốc. Nhưng ngay giữa tình trạng đang ao ước của lòng vị tha, vẫn có những bóng tương phản của sự tối tăm thuộc linh và lòng tham của con người. Các sứ đồ buộc phải xử lý những vấn đề nầy - vì cớ lợi ích chung. Khi vâng lời Chúa, các sứ đồ được ca tụng và được kinh nghiệm nhiều dịp tiện phục vụ Chúa rộng mở hơn nữa. Tuy nhiên, khi được kinh nghiệm nhiều phước hạnh, sự chống đối cũng xuất hiện và tăng lên; dầu vậy, sự chống đối không thể phá hủy được cảm xúc rộn ràng và tính năng động của công tác truyền giảng Tin Lành. Trái lại, sự chống đối chỉ càng làm phát triển thêm ích lợi của Tin Lành mà thôi.
Là một người rao truyền Tin Lành, giống như những lãnh tụ của hội thánh đầu tiên, bạn đang đối diện mỗi ngày với rất nhiều nan đề và các khả năng giống y như họ. Khi bạn phân tích những nguyên nhân chính khiến hội thánh tăng trưởng trong sách Côngvụ, bạn có thể áp dụng (một cách có lợi) cùng những nguyên tắc tăng trưởng ấy cho hoàn cảnh Hội Thánh địa phương của bạn. Khi bạn hiểu được chiến lược của kẻ thù, thì giống như các sứ đồ, bạn sẽ thấy rằng bí quyết để chiến đấu với sự chống đối của Satan là liên tục được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
Dàn bài
Mọi Vật Làm Của Chung
Các Phẩm Chất Của Sinh Hoạt Hội Thánh
Banaba So Với Anania Và Saphira
Sự Đoán Phạt Anania Và Saphira
Kỷ Luật Của Hội Thánh Đầu Tiên
Các Sứ Đồ Trước Tòa Công Luận
Những Hoàn Cảnh Dẫn Đến Sự Bắt Giam
Sự Can Thiệp Của Đức Chúa Trời Để Thả Họ Ra
Sự Cân Nhắc Và Quyết Định Của Tòa Công Luận
Lời Khuyên Của Gamaliên
Sự Tấn Công Của Satan Và Sự Phản Công Của Hội Thánh
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Thảo luận ý nghĩa bốn phẩm chất của hội thánh Cơ đốc sau khi đã phát triển lên đến 5000 người.
So sánh và đối chiếu bốn phẩm chất của từng trải Cơ đốc sau khi tăng trưởng đến 5000 người với bốn phẩm chất thể hiện rõ trong hội thánh mới khai sinh sau ngày Lễ Ngũ Tuần.
Biện giải quan điểm cho rằng không phải tất cả mọi vấn đề được mô tả trong sách Côngvụ đều do Đức Thánh Linh lập ra để tiếp tục sử dụng trong hội thánh, bằng cách thuật lại hai ví dụ của các sự kiện độc nhất vô nhị và không thể tái diễn để làm bằng chứng cho quan điểm nầy.
Nêu ra ba chiến lược chính mà Satan dùng để tấn công hội thánh và giải thích những chiến lược nầy có thể tác động thế nào đến chính chức vụ của bạn.
Sinh hoạt học tập
1. Nhớ đọc hết các mục tiêu bài học. Những mục tiêu nầy giúp bạn tập trung vào phần tư liệu quan trọng nhất trong các bài học và cũng giúp bạn chuẩn bị cho bài tự trắc nghiệm và các bài đánh giá tiến bộ từng phần nữa.
2. Tra định nghĩa của những từ bạn không hiểu trong phần Từ Vựng.
3. Đọc bài học, làm hết câu hỏi nghiên cứu, và kiểm tra câu trả lời.
4. Làm bài tự trắc nghiệm ở cuối bài học, kiểm kỹ câu trả lời của bạn. Ôn lại những mục nào bạn trả lời sai.
5. Xem lại bài học 1-4 theo gợi ý trong tập học viên. Lấy ra Bài Đánh Giá Tiến Bộ Phần 1 cùng với tờ bài làm trong tập học viên. Làm theo các chỉ dẫn để điền vào tờ bài làm, rồi gởi chúng đến ngay cho giáo viên ICI của bạn. Giáo viên sẽ chữa bài và báo kết quả cho bạn biết.
Từ vựng
phản công counterattack
phẩm chất đáng tin cậy credibility
sự an ninh đời đời eternal security
dứt phép thông công excommunicate
tà giáo heresy
biệt ngữ jargon
koinonia koinonia
khuôn mẫu matrix
được tiêu chuẩn hóa normative
tính thụ động passivity
lan truyền permeate
khẩn khoản solicitation
tính khả quan visibility
Khai triển bài học
MỌI VẬT LÀM CỦA CHUNG
4:32-35 Bruce 108-109
Một đặc trưng quan trọng trong tác phẩm của Luca ấy là ông nối kết những sự kiện riêng lẻ lại bằng những phần tóm tắt. Ví dụ, giữa những sự kiện của Lễ Ngũ Tuần với sự chữa lành người què là phần tóm tắt, mô tả sinh hoạt của hội thánh đầu tiên (2:42-47).
Có thêm hai bản tóm tắt nữa trong 4:32-5:42, liên kết những sự kiện cụ thể nầy lại với nhau và tạo khung cảnh cho sự kiện đi tiếp theo sau bản tóm tắt đó.
1. Những câu nào sau đây là hai bản tóm tắt trong 4:32-5:42?
a) 4:32-35.
b) 5:1-11.
c) 5:12-16.
d) 5:17-42.
2. Bản tóm tắt đầu tiên trong 4:32-5:42 là chiếc cầu nối hay mối liên kết giữa những sự kiện nào?
a) Lễ Ngũ Tuần với Anania và Saphira.
b) Buổi nhóm cầu nguyện (4:23-31) với Anania và Saphira.
c) Anania và Saphira với việc bắt giam các sứ đồ.
Các Phẩm Chất Của Sinh Hoạt Hội Thánh
Mục tiêu 1. Mô tả những phẩm chất của từng trải Cơ đốc có trong hội thánh sau sự hoán cải của 5000 tân tín hữu, và so sánh những phẩm chất nầy với những phẩm chất được nêu ra sau sự hoán cải của 3000 tân tín hữu.
3. Dựa vào phần nghiên cứu 4:32-35, bạn hãy khoanh tròn những mẫu tự trước câu ĐÚNG trong câu hỏi nầy và của các câu hỏi Đúng - Sai trong bài học nầy.
a Hội Thánh đầu tiên đã nỗ lực tăng trưởng quá nhanh, và giáo lý của hội thánh đã bị phai nhạt bởi số rất đông người được cứu.
b. Sự tăng trưởng từ 120 người lên đến 3000 và mỗi ngày đều có người thêm vào hội thánh cho đến khi có 5000 người tin đã không làm giảm phẩm chất sinh hoạt Cơ đốc của tất cả mọi người.
c. Hội thánh càng tăng trưởng thì càng trở nên kém tính cá nhân.
d. Đức Chúa Trời muốn hội thánh vẫn cứ ít người vì cớ các tín đồ sẽ không cảm thấy thoải mái với một số lượng lớn người lạ ùa vào.
e. Toàn hội thánh đang tăng trưởng mà không mất đi phẩm chất ngày trước của sự gần gũi, tình đồng đội (sự thông công tốt đẹp của tình bạn), ý thức thành viên, và giáo lý đúng.
Nhiều khi tín hữu rất sợ những người mới vào hội thánh, bởi vì điều đó sẽ phân tán nhóm người dễ chịu của họ. Hoặc họ cảm thấy hội thánh địa phương nên luôn luôn giữ ở số lượng ít người. Sách Côngvụ cho chúng ta biết hội thánh có thể tăng trưởng đông người mà đồng thời vẫn giữ được những thuận lợi của một hội thánh ít người. Muốn được như vậy, hội thánh phải có rất nhiều nhóm nhỏ bên trong tập thể đông người.
Những sự phân chia tế bào trong cơ thể của chúng ta có thể cung cấp sự hiểu biết sâu sắc về cách mà Đấng Christ dự định cho hội thánh tăng trưởng. Sự phân chia sinh học của tế bào là lẽ cần yếu để cho cơ thể được phát triển. Khi các tế bào ngừng phân chia, liền có sự chết. Những tế bào mới không kém chất lượng hơn những tế bào đã phân chia thành ra những tế bào mới.
Các sứ đồ đã được dạy phải cầu nguyện chung với nhau trong những tế bào nhỏ gồm hai hoặc ba người (Mat Mt 18:20). Đức Chúa Jesus đã dạy về những mối quan hệ gần gũi bằng cách giới hạn sự liên hệ chính yếu của Ngài với 12 người thôi, và trong số đó, Ngài giới hạn vào một nhóm thân cận hơn gồm ba người. Như trong Bài 1, chính mười hai sứ đồ có lẽ đã được chia thành ba nhóm.
Do đó, chia thành những nhóm nhỏ để có những mối quan hệ gần gũi với nhau sẽ điển hình cho sự thông công (hay koinonia) của các sứ đồ (Cong Cv 2:42).
4. Để cho tín đồ thảy đều hiệp một lòng một ý cùng nhau, những câu nào sau đây là ĐÚNG dựa vào cơ sở của những bản tóm tắt trong 2:42-47 và 4:32-35?
a. Họ đều họp lại với nhau chỉ một giờ mỗi tuần để nghe Phierơ giảng đạo.
b. Họ họp lại đều dặn với nhau tại nhà riêng (những nhóm nhỏ) và tại đền thờ (những buổi nhóm chung).
c. Sự hiệp một của họ chỉ trên mặt giáo lý, và họ cảm thấy bổn phận Cơ đốc của một người bắt đầu và kết thúc với sự tán thành tín điều.
d. Họ được hiệp một trong giáo lý của các sứ đồ, là điều được dạy hoặc bởi sứ đồ hoặc bởi các giáo sư được chỉ định, nhưng họ cũng hiệp một trong những mối quan hệ nữa.
Sự tham dự của Cơ đốc nhân không chỉ là việc đồng ý với một giáo lý hay có mặt tại một số buổi họp mặt Cơ đốc nào đó mà thôi. Đó chính là một phương cách sống!
Liệu việc các Cơ đốc nhân đầu tiên đã hình thành những nhóm nhỏ để được thông công và tăng trưởng Cơ đốc có một ý nghĩa nào đó chăng? Tôi nói "Có!" Điều nầy có góp phần vào sự phát triển của nhiều bè phái trong hội thánh khiến cho những người mới khó được chấp nhận không? Hoặc sự sắp xếp nầy có khiến cho những giáo lý sai lầm phát triển không, vì cớ tín đồ nhóm lại tại nhà riêng và không có mặt các sứ đồ? Tôi tin rằng không? Trái lại, chúng ta thấy sự tồn tại của nhiều trung tâm nhóm tại nhà riêng để thông công và được tăng trưởng Cơ đốc thực ra đã thúc đẩy nhanh việc có thêm tân tín hữu, vì họ có thể được đặt ngay lập tức vào một khuôn mẫu của một một nhóm thân cận và chăm sóc lẫn nhau.
Tôi không muốn tạo ấn tượng rằng hội thánh thời các sứ đồ đã được tổ chức chặt chẽ thành những nhóm nhỏ. Nhưng tôi muốn ước đoán rằng có khoảng hàng trăm nhóm thông công đang hiện hữu vào lúc cuối 4:1-37. Tất cả đều đang thuận phục các sứ đồ và sự dạy dỗ của họ. Những nhóm nhỏ nầy đã tạo vùng đất tốt để cho các tân tín hữu có thể được gieo trồng và phát triển.
Giữa bản tóm tắt thứ nhất (2:42-47) và thứ nhì (4:32-35), hội thánh đã tăng lên gấp đôi (2:47; 4:4). Luca không mô tả cho chúng ta biết đoàn người đông như thế nầy đã được tổ chức như thế nào, nhưng có cho chúng ta biết dòng người rất đông của tân tín hữu đã không làm phai nhạt niềm tin hay sự hiệp một của hội thánh. Muốn được như vậy, có thể chúng ta ước đoán một khung cơ cấu như sau để cho hội thánh được như một cơ thể sống. Chúng ta thấy ba nhóm người sau đây trong sách Côngvụ:
1. Mười hai sứ đồ.
2. 120 người nhóm lại chờ đợi và kinh nghiệm Lễ Ngũ Tuần (kể cả mười hai sứ đồ).
3. Những người được cứu: 3000 người (2:41); mỗi ngày (2:47); tổng số 5000 người (kể cả phụ nữ 4:4).
Về mặt thuộc thể, hẳn các sứ đồ không thể nào đích thân biết và chăm sóc cho tất cả những người gia nhập vào hội thánh. Rõ ràng, các sứ đồ đã khuyến khích và chỉ dẫn những người khác trong số 120 môn đồ đi chăm sóc cho nhiều người. Tỉ lệ các tân tín hữu so với 120 môn đồ tại Lễ Ngũ Tuần là một người chăm sóc 25 người, một nhóm tư gia với số người lý tưởng! Đến cuối Côngvụ, tỉ số nầy đã nhảy lên đến một người chăm sóc trên 40 người. Rõ ràng, lúc nầy một số người trong số 3000 người được cứu tại Lễ Ngũ Tuần đã bắt đầu đảm nhận chức vụ thuộc linh và trách nhiệm đối với người khác.
5. Giả sử hội thánh địa phương bạn có 120 người và trong thời gian vài tuần lễ, Chúa đã gia thêm gần 10000người nữa. Hội thánh bạn sẽ chuẩn bị cho một sự tăng trưởng như thế chứ? Vì sao có hay vì sao không? Nếu không, cần phải có những thay đổi nào?
..........
Ngày nay Hội thánh bạn có cần một số những phẩm chất của 120 môn đồ ban đầu không? Chúng ta hãy khảo sát nhóm người nầy kỹ hơn nữa. Mỗi một người trong 120 môn đồ đã tin quyết tuyệt đối vào sự phục sinh của Đức Chúa Jesus, và mỗi người đều đã nhận lãnh phép báp têm bằng Đức Thánh Linh. 120 môn đồ đã không xem sự nhóm hiệp các tân tín hữu và sự thông công với họ như là một sự xâm lấn thì giờ của họ. Trái lại, những thành viên của nhóm người nồng cốt nầy đã sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm đã giao cho họ. Sự hiệp một của họ (2:1) đã tự sinh sôi bên trong một hội thánh đang tăng trưởng (2:44-45; 4:32;).
6. Bốn phẩm chất của từng trải Cơ đốc trong hội thánh sau sự hoán cải của 5000 đã được liệt kê ra đây. Bạn có thể tóm tắt từng phẩm chất có trong những câu sau không?
a 4:32 ..........
b 4:33 ..........
c 4:34 ..........
d 4:35 ..........
Có lẽ bạn thắc mắc vì sao ngân quỹ do cộng đồng Hội Thánh đầu tiên quyên góp lại được đặt dưới chân các sứ đồ. Bruce nói rằng với tư cách những lãnh đạo của cộng đồng, các sứ đồ đã tiếp nhận những của dâng lạc ý nầy (trang 109). Hãy hình dung nan đề của việc hàng ngàn người dâng của cải vật chất cho hội thánh. Họ không thể đơn giản đem dâng cho các sứ đồ vào bất cứ lúc nào , vì hẳn các sứ đồ sẽ quá nặng gánh. Do đó, từ ngữ dưới chân các sứ đồ chắc hàm ý một thời điểm và một địa điểm cho cuộc quyên góp.
7. Chúng ta có thể rút ra kết luận gì từ câu chuyện tiền dâng được đem đặt dưới chân các sứ đồ?
a) Hội thánh đầu tiên đã thực hành việc dâng phần mười.
b) Tín hữu tự quyết định địa điểm, thời điểm và người mà họ sẽ đem tiền đến dâng.
c) Thực ra, họ dâng vào một ngân quỹ trung ương được giao phó cho các sứ đồ quản lý và chi ra.
Trong số tất cả những phẩm chất của cộng đồng Cơ đốc sơ khai, thì tính rộng rãi rõ ràng là một đức tính đáng lưu ý nhất. Bruce nói rằng rộng rãi là bông trái của một đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh (trang 108). Chúng ta sẽ sai lầm khi cho rằng hội thánh đầu tiên chỉ dâng một phần mười (mười phần trăm). Họ đã dâng 100%! Sự rộng rãi đối với Chúa trong vấn đề tài chánh là một dấu hiệu của đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh. Người nào keo kiệt với Đức Chúa Trời và với anh em Cơ đốc của mình, và những người nào tự biện hộ cho mình bằng cách tranh luận rằng việc dâng phần mười chỉ là một tập tục Cựu Ước, thì những người đó chỉ làm chứng cho sự ích kỷ của mình mà thôi.
Một đặc trưng khác nữa của việc dâng hiến tự nguyện của tín hữu ấy là: việc tuân giữ theo những nguyên tắc Cựu Ước vẫn còn hoạt động trong hội thánh, tức nguyên tắc " hãy đem hết thảy phần mười vào kho (Đức Giê-hô-va)" (MaMl 3:10). Sự trù hoạch và quản lý các nguồn tài chánh được dâng cho hội thánh không nằm trong tay của những người dâng vào. Việc nầy là trách nhiệm của những người giữ chức vụ lãnh đạo thuộc linh (Cong Cv 4:35; 6:1-6).
Banaba So Với Anania Và Saphira
4:36-5:11 Bruce 109-116
Mục tiêu 2. So sánh Banaba với Anania và Saphira, là những ví dụ được Luca nêu ra về những người đã đem tiền đến đặt nơi chân các sứ đồ để phân phát cho những người thiếu thốn.
Bản tóm tắt trong 4:32-35 cung cấp văn mạch để hiểu sự lừa gạt về mặt đạo đức của Anania và Saphira. Tinh thần vị tha đã lan truyền khắp cả hội thánh. Banaba chỉ là một tấm gương được nêu ra đây, rõ ràng là vì tầm quan trọng của ông về sau nầy trong sách Côngvụ. Ông cũng đã được dùng với tư cách một đại diện của cộng đồng những người được đầy dẫy Đức Thánh Linh, bởi vì những ân tứ nổi bật của ông, tương phản hoàn toàn với tinh thần của Anania và Saphira.
Hãy lưu ý những đặc trưng của Banaba được nêu trong hai câu Kinh Thánh ngắn ngủi nầy (4:36-37). Tên ông là Giôsép, nhưng ông đã được các sứ đồ đổi tên thành Banaba . Và tên gọi mới của ông phù hợp với tánh tình của ông, vì ông thực sự là con trai của sự yên ủi . Dầu ông là một người Do thái, nhưng quê hương của ông ở tận đảo Chíprơ. Ông là một người Lêvi, nên hẳn đã phụ giúp một vài phương diện nào đó trong sự thờ phượng tại đền thờ. Có thể bảo đảm rằng Banaba là một nguồn cảm thúc liên tục cho người khác và cho các sứ đồ.
8. Giả sử bạn là một tín đồ như Giôsép người Chíprơ, tức là người mà các sứ đồ biết rõ. Căn cứ vào những đặc tính bạn thể hiện ra, các sứ đồ sẽ đặt tên gì cho bạn?
..........
Sau nầy, trong sách Côngvụ, chúng ta sẽ thấy thêm những đặc trưng khác nữa của Banaba, và những đặc tánh ấy biểu lộ bản tánh được hàm ý qua tên gọi của ông.
9. Những câu nào sau đây ĐÚNG với những ân tứ của Banaba, Anania và Saphira?
a. Hội thánh đầu tiên đã có một chiến dịch vận động tài chánh, qua đó, mỗi thuộc viên hội thánh sẽ được kêu gọi đóng góp.
b. Sự dâng hiến của họ có vẻ như đã được tiến hành mà không cần có sự khẩn khoản nào.
c. Quy định cho mọi tín hữu là phải bán mọi sự và dâng tiền thu được đó cho hội thánh.
d. Sự dâng hiến mang tính tự nguyện.
10. Những câu nào sau đây minh họa những nguyên tắc từ sự dâng hiến của Banaba, Anania và Saphira mà chúng ta có thể áp dụng vào sự dâng hiến của chính mình?
a) Nên dâng chỉ tiền mặt cho công việc Chúa, đừng bao giờ dâng tài sản.
b) Nên dâng vì cớ muốn dâng.
c) Khi có người vui lòng dâng hiến, điều đó trở thành một nguồn cảm hứng và tấm gương cho người khác.
d) Cách dâng không quan trọng, chỉ có số lượng dâng bao nhiêu mới quan trọng.
e) Thà không dâng còn hơn là dâng với động cơ sai lầm.
f) Chúng ta dâng hay không dâng thực ra chẳng có gì quan trọng. Sẽ luôn luôn có người giúp giải quyết nhu cầu cả thôi.
Trong tấm gương về sự dâng hiến của Luca, gia sản hay của cải đã được bán đi và số tiền thu được đã được đem giao cho các sứ đồ. Trong những trường hợp khác, tài sản có thể được di chúc trực tiếp cho hội thánh, trường hợp nầy là một phước hạnh lớn. Dầu của dâng là tiền hay là tài sản, cách dâng là điều hết sức quan trọng. Của dâng của Anania và Saphira đã bị bác bỏ bởi vì họ đã bắt đầu với một động cơ sai lầm.
Việc dâng hiến là quan trọng, vì nếu không có ngân quỹ thì không thể giải quyết các nhu cầu. Nếu mọi người trong 4:32 không dâng hiến vì việc dâng hiến không quan trọng , thì hẳn không thể giải quyết những nhu cầu trong 4:34-35 được. Chỉ khi hội thánh được đầy dẫy Đức Thánh Linh, các thành viên trong hội thánh mới đem gia sản riêng của mình để cho cộng đồng hội thánh sử dụng. Và chỉ trong tình trạng được đầy dẫy Đức Thánh Linh nầy, hội thánh mới có thể hưởng được ân điển của Đức Chúa Trời và được đẹp lòng dân chúng .
Tên của Banaba xuất hiện lần đầu cho chúng ta khi ông đem đến một của dâng. Ông sẽ tiến đến một địa vị hết sức quan trọng của chức vụ. Khả năng nào đang chờ đợi Anania và Saphira nếu như tấm lòng họ ngay thẳng? Liệu họ có thể trở thành một Bêrítsin và Aquila khác nữa không? (Cong Cv 18:2, 18, 26;; RoRm 16:3; ICo1Cr 16:19; IITi 2Tm 4:19).
Sự Đoán Phạt Anania Và Saphira
Mục tiêu 3. Giải thích vì sao một sự đoán phạt nghiêm khắc đến thế đã giáng trên Anania và Saphira.
Chúng ta không biết làm sao Phierơ biết được Anania và Saphira đang nói dối. Có lẽ Phierơ đã biết chính xác về cuộc buôn bán gia sản của họ rồi. Tôi nghĩ có lẽ đúng hơn đó là một trong những ân tứ của Đức Thánh Linh, là ân tứ nói lời tri thức, được vận hành qua Phierơ. Bruce nói rằng Phierơ "đã biết được sự thật của tình hình, nhờ sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong ông và trong hội thánh" (trang 112-113).
Anania và Saphira là những tín hữu đầu tiên muốn được công nhận sự dâng hiến của họ. Và họ đã dùng chính sự dâng hiến nầy để che giấu động cơ thực sự của họ khi dâng hiến.
Tôi thấy có ít nhất hai nguyên nhân chính khiến sự đoán phạt nghiêm khắc đã giáng trên Anania và Saphira.
11. Nguyên nhân thứ nhất liên quan đến tính đáng tin cậy. Qua sự đoán phạt Anania và Saphira, các tín hữu khác và thế gian sẽ biết Đức Thánh Linh có thái độ nào đối với sự dối trá. Sự nhận biết nầy sẽ có tác động gì đến những thái độ của một con người đối với những lời tuyên bố trong Cong Cv 2:32; 3:15; 4:10; ICo1Cr 15:15?
.........
Nếu Đức Thánh Linh giải quyết ngay cả một lời nói dối rất nhỏ như thế bằng hình phạt sự chết tức khắc, thì Ngài sẽ còn làm gì cho những kẻ dám rao giảng về Sự Phục Sinh nếu như sự kiện đó không xảy ra? Hành động của Đức Thánh Linh làm tăng thêm tính đáng tin cậy đã tác động đến cách suy nghĩ của Gamaliên (Cong Cv 5:38-39).
Một nguyên nhân khác nữa khiến họ bị Đức Thánh Linh đoán phạt nghiêm khắc như vậy ấy là sự hiểu biết của Ngài về tình trạng của linh hồn . Nếu Anania và Saphira còn sống với tội nói dối đó, hẳn họ sẽ bị đoán phạt trong đời sau (ITi1Tm 5:24). Vì biết họ sẽ không tự nguyện xưng tội (hãy xem sự cứng lòng của Saphira trong Cong Cv 5:8), nên Đức Thánh Linh đã loại bỏ thời kỳ chờ đợi giữa lúc đó và sự đoán xét, Ngài đoán phạt ngay tức khắc để cho chúng ta thảy đều biết "tiền công của tội lỗi là sự chết..." (RoRm 6:23).
12. Những câu nào sau đây là ĐÚNG cho Anania và Saphira?
a. Chúng ta không biết được họ có phải là những tín đồ chân chính hay không, và chúng ta không biết được họ có đi địa ngục vì cớ tội lỗi của họ hay không.
b. Chúng ta được biết họ là tín đồ, nhưng họ đánh mất sự cứu rỗi vì cớ tội lỗi của họ.
c. Chúng ta không được biết họ có là tín đồ hay không, nhưng họ hẳn không thể là tín đồ ngay từ đầu, nếu không, họ đã không phạm tội kinh khiếp đến dường ấy.
d. Luca có cho biết rằng Anania và Saphira là thành viên trong cộng đồng Cơ đốc.
Những người nào cố gắng khẳng định hay phủ nhận niềm tin nơi sự an ninh đời đời thì buộc phải giải thích thêm quan điểm của mình vào trong khúc Kinh Thánh nầy, chứ không phải là giải thích từ khúc Kinh Thánh nầy. Luca có xem họ là thành viên của cộng đồng Cơ đốc, nhưng ông không nhận định gì về tình trạng của linh hồn họ.
Kỷ Luật Của Hội Thánh Đầu Tiên
Mục tiêu 4. Thảo luận xem kỷ luật cho Anania và Saphira có phải là nhằm để làm một mẫu mực kỷ luật được tiêu chuẩn hóa trong Tân Ước hay không.
Không phải tất cả mọi vấn đề được mô tả trong sách Côngvụ đều do Đức Thánh Linh lập ra để tiếp tục sử dụng trong hội thánh. Ngày Lễ Ngũ Tuần đã là một gương mẫu cho điều nầy, là nơi mà tiếng gió thổi và lưỡi bằng lửa không tái diễn, nhưng việc nói tiếng lạ thì vẫn tái diễn.
Để quyết định xem sự đoán phạt Anania và Saphira có nhằm làm một định chuẩn hay không, chúng ta phải xem lại các sách Tin Lành và xem tiếp các sách thơ tín để khám phá thần học về kỷ luật hội thánh.
13. Tóm tắt ý nghĩa của Mathiơ Mat Mt 13:24-30, 36-43.
..........
14. Tóm tắt ý nghĩa của Mathiơ 18:15-17.
..........
15. Dùng lời của riêng bạn tóm tắt thủ tục kỷ luật được dùng trong ICôrinhtô ICo1Cr 5:1-5 và tác dụng của sự kỷ luật 2:5-11.
..........
16. Dựa vào lời dạy của Kinh Thánh trên đây, và vào sự hiểu biết của bạn về phần còn lại của Tân Ước không mô tả một thành viên nào của cộng đồng Cơ đốc bị hình phạt chết ngay tức khắc vì cớ tội lỗi của mình, thì bạn sẽ cho câu nào sau đây chính xác hơn?
a) Nếu hội thánh ngày nay bước đi theo Thánh Linh nhiều hơn, chúng ta sẽ thường xuyên nhìn thấy những sự đoán phạt thiên thượng như trường hợp của Anania và Saphira.
b) Sự đoán phạt Anania và Saphira không phải là một kiểu mẫu chuẩn mực của kỷ luật hội thánh.
Làm sao chúng ta có thể ứng dụng đúng câu chuyện Anania và Saphira vào đời sống của chúng ta? Chúng ta không thể nói câu chuyện nầy thúc đẩy chúng ta tránh phạm tội hay sao (IITi 2Tm 2:19- 20)? Và trong trường hợp chúng ta phạm tội, câu chuyện đó thách thức chúng ta xưng tội và ăn năn, kẻo chúng ta lại đối mặt với viễn cảnh gặp Chúa mà đời sống mình vẫn còn tội lỗi chưa xưng ra. Và câu chuyện đó há không khích lệ chúng ta sống và nói ra sự thật khi chúng ta nhận thấy lời nói và hành động của mình tác động đến tính đáng tin cậy của Tin Lành trước mắt thế gian sao?
Kết quả của sự đoán xét Anania và Saphira là hiển nhiên trước mắt: Sự kính sợ của toàn thể hội thánh, và sự sợ lẫn tôn trọng hiện rõ trong mọi người nào nghe đến câu chuyện nầy. Chữ hội thánh xuất hiện đầu tiên trong Cong Cv 5:11. Đây là một từ ngữ Hylạp, dùng để chỉ về "những người được kêu gọi ra khỏi," "hiệp hội," hoặc "hội chúng."
CÁC SỨ ĐỒ TRƯỚC TÒA CÔNG LUẬN
5:12-40 Bruce 117-126
5:12-16 đối với 5:17-42 cũng giống như 4:32-35 đối với 5:1-11. Trong mỗi trường hợp, Luca đưa ra một đoạn tóm tắt để giúp chúng ta hiểu thêm về biến cố then chốt.
Luca đã dùng cùng một phương pháp dạy như chúng ta đang dùng, nhưng ông đã xử dụng từ lâu trước khi chúng ta khám phá được phương pháp ấy! Theo biệt ngữ giáo dục, ông đã dùng những từ nối để giúp độc giả nắm được những điểm chính và quan trọng. Ví dụ, hãy thử đọc 5:11 rồi chuyển thẳng qua 5:17 và đừng đọc những câu 12-16. Hãy để ý xem bạn sẽ khó theo dõi đến chừng nào! Hãy hình dung xem bạn sẽ đặt ra những giả thiết sai lầm nào! Nếu không có câu 12-16, bạn sẽ cho rằng các sứ đồ bị cầm tù vì cớ cái chết của Anania và Saphira. Có lẽ Phierơ đang bị truy nã về tội sát nhân!
Trong toàn bộ công tác dạy dỗ của bạn, bạn phải luôn nghĩ đến học viên. Là một giáo viên, chính bạn có thể nhảy từ điểm nầy sang điểm kế tiếp, nhưng bạn cần phải cho học viên biết vì sao và thế nào mà bạn đã nhảy như thế.
Những Hoàn Cảnh Dẫn Đến Sự Bắt Giam
Mục tiêu 5. Thuật lại những hoàn cảnh đã dẫn đến việc các sứ đồ bị bắt giam.
5:12-16 Bruce 117-118
17. Một lần nữa chúng ta lại đề cập đến các dấu lạ và sự lạ. Bạn có thể xác định nhanh địa chỉ của bốn lần mà những chữ nầy đã được sử dụng chung với nhau trong sách Côngvụ hay không?
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
18. Khi đọc 5:12-16, hãy xác định sáu yếu tố cho thấy bước tiến ngày càng mạnh mẽ của Tin Lành?
a 5:12 ..........
b 5:12 ..........
c 5:13 ..........
d 5:14 ..........
e 5:15 ..........
f 5:16 ..........
Những dịp nầy đầy dẫy những thầy tế lễ cả và những người Sađusê đầy lòng ghen tương. Họ không tin vào phép lạ, và lòng vô tín của họ đang bị thực tiễn đe dọa. Việc họ không có quyền năng thuộc linh cũng thể hiện quá hiển nhiên trước quyền năng của các sứ đồ được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Bạn có thể hình dung cảm nghĩ của họ khi họ thấy dân chúng đem hết thảy những kẻ bệnh từ các thành Giêrusalem đến cho Phierơ chữa lành? Phierơ - chính con người mà họ đã ra lệnh không được giảng về Jesus nữa! Kẻ bệnh đang nằm bên đường chờ Phierơ đi ngang, và khi ông đi ngang họ liền được chữa lành! Và còn náo loạn hơn những chuyện nầy nữa chính là chuyện đám đông đang hướng đến để tôn các sứ đồ làm những người lãnh đạo thuộc linh thay vì hướng đến các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo! Chưa bao giờ có những đoàn dân đông đến thế quay về tin nơi Jesus - hơn ba ngàn người, hơn năm ngàn người! Con số đó sẽ dừng lại ở đâu đây!
19. Luca ghi lại phản ứng từ sự chống đối bên ngoài hội thánh (5:17-18), nhưng bạn nghĩ mười một sứ đồ khác sẽ có phản ứng nào trong lòng trước quyền năng siêu nhiên được thể hiện rõ trong chức vụ của Phierơ?
a) Họ vui mừng và ca ngợi Đức Chúa Trời hơn bao giờ hết.
b) Mười một sứ đồ bị nản lòng, vì chức vụ của họ không bằng chức vụ của Phierơ.
c) Mỗi người trong mười một sứ đồ đều cố gắng bắt chước Phierơ, để tỏ cho dân chúng thấy họ có quyền năng siêu nhiên đến mức nào.
d) Chức vụ của Phierơ phi thường so với chức vụ của họ, đến nỗi họ đã bỏ luôn chức vụ của mình và cho rằng Đức Chúa Trời đã không ban cho họ một khởi đầu với nhiều ân tứ.
Vấn đề sẽ tương đối đơn giản hơn nếu chúng ta bỏ qua những hàm ý của câu hỏi trên. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, chiến lược của Satan bao gồm cả việc sử dụng sự ghen ghét và chia rẽ bên trong chức vụ. Những yếu tố của chúng có thể nhanh chóng làm phai nhạt tính hiệu quả của chúng ta. Những câu b), c), và d) trên đây là những cạm bẫy phổ thông mà chúng ta có thể mắc vào. Tuy nhiên, có sự yên nghỉ thiên thượng cho những người nào chấp nhận những gì Đức Chúa Trời đã ban cho mình, tuy vẫn khao khát được nhiều hơn nữa. Khao khát được nhiều hơn nữa mà không biết tạ ơn về những gì chúng ta đang có thì sẽ sinh ra sự bất mãn. Chỉ biết thỏa lòng với những gì đang có mà không biết khao khát để được nhiều hơn thì sinh ra tính thụ động. Nguyện chúng ta đồng thanh với Phaolô "...nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jesus Christ " (Phi Pl 3:14).
Bè phái cai trị không thể nhân nhượng tình cảm trước sự tăng trưởng liên tục của phong trào Cơ đốc. Trước kia, họ đã ghen ghét trước quyền năng và sự mến mộ của Đức Chúa Jesus (Mac Mc 15:10). Giờ đây, sự ghen tương của họ lại dấy lên cũng vì chính những nguyên nhân trước kia. Họ định bắt các lãnh tụ phong trào để dập tắt mối đe dọa cho quyền lãnh đạo dân chúng của họ.
Sự Can Thiệp Của Đức Chúa Trời Để Thả Họ Ra
Cong Cv 5:17-26 Bruce 118-120
Mục tiêu 6. Thảo luận việc thiên sứ thả các sứ đồ ra khỏi ngục, vì sao sự can thiệp của Chúa không phải là một mẫu mực định chuẩn cho những từng trải bị giam trong ngục trong sách Côngvụ, và tác dụng của sự giải thoát họ đối với Tòa Công Luận.
20. Một từng trải bị tù trước đây được mô tả trong Côngvụ là từng trải nào? Có sự can thiệp và sự giải thoát siêu nhiên trong từng trải đó hay không?
..........
Từ ngữ "khám công" (5:18) đã đánh dấu rõ ràng sự thay đổi từ "ngục" (4:3), là chỗ Phierơ và Giăng đã bị nhốt. Ngục có lẽ ở sát với khu vực đền thờ hơn.
21. Khi các sứ đồ vâng lời thiên sứ và quay lại đền thờ giảng dạy vào rạng sáng ngày hôm sau, hành động của họ đã thể hiện thế nào tinh thần của họ trước kia trong 4:29-30?
..........
22. Có phải sẽ luôn luôn có sự can thiệp siêu nhiên để giải cứu dân sự Chúa khỏi hình phạt hay khỏi tù ngục không? Trả lời những câu sau bằng chữ có , hoặc không . Có phải đã có sự giải thoát siêu nhiên cho
a. Phierơ và Giăng (4:1-23)? ..........
b. Tất cả các sứ đồ (5:17-21)? ..........
c. Tất cả các sứ đồ (5:40)? ..........
d. Êtiên (7:54-8:1)? ..........
e. Đàn ông đàn bà (8:3)? ..........
f. Giacơ (12:1-2)? ..........
g. Phierơ (12:3-17)? .........
h. Phaolô tại Líttrơ (14:19)? ...........
i. Phaolô tại Philíp (16:19-34)? ..........
j. Phaolô tại Giêrusalem (21:30-23:30)? ..........
k. Phaolô tại Sêsarê (23:31-26:32)? ..........
l. Mạng sống của Phaolô khỏi vụ đắm tàu và rắn cắn (27:1-28:6)? ..........
m. Phaolô tại Rôma(28:14-31)? ..........
23. Dựa vào câu trên, câu nào sau đây là một nguyên tắc vững chắc? Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời đúng.
a) Chính ý muốn của Chúa là giải thoát siêu nhiên cho mỗi trường hợp, nhưng sự giải thoát không thành vì cớ những người bị giam hay bị hình phạt đã thiếu đức tin.
b) Có sự can thiệp siêu nhiên hay không có sự can thiệp siêu nhiên đều là việc nằm trong tay Đức Chúa Trời. Ngài biết rõ nhất đâu sẽ là điều khiến Tin Lành tiến bộ nhiều nhất.
Ngay cả trong những ví dụ về sự can thiệp của Đức Chúa Trời, thì đức tin của con người được xem như đã vận dụng chỉ trong một trường hợp, là trường hợp của Phaolô trước khi bị đắm tàu. Một Cơ đốc nhân trưởng thành đã biết cách tránh những thống khổ và dày vò của tư tưởng ám ảnh nầy: "Tôi đã không có đủ đức tin." (Đối với tấm gương về từng trải trưởng thành của Phaolô, xin xem Phi Pl 4:11-13.)
Những kẻ sai (Cac Tl 5:22) rõ ràng đã bối rối và sửng sốt khi họ ra trước mặt Tòa Công Luận và báo lại rằng các phạm nhân đã trốn thoát. Và Tòa Công Luận cũng đã sửng sốt! Đức tin của các sứ đồ đã tiêm nhiễm vào trong tập thể chính trị và tôn giáo của họ đến độ có người trong nội bộ của họ giải thoát cho các sứ đồ hay sao?
Đôi khi nơi an toàn nhất lại chính là trung tâm của cơn bão. Các sứ đồ đã ở trong nơi dễ nhìn thấy nhất, tức chính khu vực thuộc quyền kiểm soát của người Sađusê và các thầy tế lễ cả. Khi họ đến bắt các sứ đồ lần thứ nhì thì các quan biết các sứ đồ đang ở an toàn giữa những người ngưỡng mộ họ. Tuy nhiên, các sứ đồ yên lặng đi theo những kẻ bắt họ. Rõ ràng các quan đã nhẹ nhõm vì thoát được một trận mưa đá của dân chúng!
Sự Cân Nhắc Và Quyết Định Của Tòa Công Luận
Cong Cv 5:27-32 Bruce 119-122
Mục tiêu 7. Đối chiếu từng trải của các sứ đồ trước Tòa Công Luận với vụ xét xử Phierơ và Giăng trước kia.
24. Lời mở đầu của thầy tế lễ thượng phẩm trong 5:28 mang trạng thái và nội dung khác như thế nào với câu hỏi mở đầu cho Phierơ và Giăng trong 4:7?
..........
Giọng điệu của cuộc xét xử sau nầy lại càng gay gắt hơn. Sự mến mộ đối với Phierơ và Giăng và việc chữa lành người què đã ngăn trở Tòa Công Luận hình phạt họ. Nhưng giờ đây, dường như Tòa Công Luận sẵn sàng thách thức dân chúng và sẵn sàng làm một việc gì đó thật kinh khiếp chống lại các sứ đồ. Họ nổi giận bởi lời buộc tội lập đi lập lại của các sứ đồ đối với Tòa Công Luận: giết Con Đức Chúa Trời. Tòa Công Luận miễn cưỡng nhắc đến tên Jesus. Những người cầm đầu Tòa Công Luận chỉ muốn nói đến Ngài qua chữ "người nầy."
25. Câu trả lời của Tòa Công Luận được đặc trưng bởi những điều nào sau đây? (Có thể có nhiều câu đúng.)
a) Cũng giống như cuộc xét xử Phierơ và Giăng, câu trả lời của các sứ đồ là để rao giảng Đấng Christ cho Tòa Công Luận và để so sánh cách đối xử của Tòa Công Luận đối với Đức Chúa Jesus với cách đối xử của Đức Chúa Trời.
b) Các sứ đồ cảm thấy họ tranh luận rất nhiều và hứa rằng sẽ rao giảng tế nhị hơn bằng cách tránh nói bóng gió đến Tòa Công Luận về sự chết của Đức Chúa Jesus.
c) Các sứ đồ lập lại lời buộc tội trực tiếp Tòa Công Luận, rằng họ đã rao giảng công khai nhiều lần: Tòa Công Luận đã giết Chúa Jesus, Đấng Đức Chúa Trời đã khiến sống lại và tôn vinh Ngài.
Trong cách đáp ứng với Tòa Công Luận, các sứ đồ đã rao giảng Chúa Jesus là sự trông cậy của Ysơraên, là lãnh tụ và Cứu Chúa của Ysơraên. Điểm nhấn mạnh trong lời các sứ đồ chính là lời kêu gọi kín đáo cho Tòa Công Luận, là tập thể cai trị và đại diện của Ysơraên, rằng họ phải ăn năn về những việc làm chống nghịch với Đấng Christ để được Ngài tha thứ. Không những qui trách nhiệm về sự chết của Đấng Christ cho Tòa Công Luận, mà còn buộc tội Tòa Công Luận thêm rằng họ không có Đức Thánh Linh, vì Ngài chỉ được ban cho những người nào vâng lời Đức Chúa Trời.
26. So sánh đáp ứng của Tòa Công Luận với các sứ đồ trong 5:33 và 40 với đáp ứng của Tòa Công Luận với Phierơ và Giăng trong 4:13, 18, 21.
..........
Lời Khuyên Của Gamaliên
Cong Cv 5:33-42 Bruce 123-126
Mục tiêu 8. Thảo luận lời khuyên của Gamaliên cho Tòa Công Luận và xem lời khuyên đó có luôn luôn hiệu lực hay không.
Bạn còn nhớ những kẻ thù chính của Đấng Christ trong các sách Tin Lành chính là người Pharisi hay không?
27. Đọc những câu Kinh Thánh sau và ghi ra nguồn gốc sự chống đối các sứ đồ.
a 4:1 ..........
b 5:17 ..........
Gamaliên, một trong những rabbi được tôn kính và yêu quí nhất trong thế kỷ thứ nhất, là lãnh đạo trường phái Hillel của người Pharisi, một người Pharisi có thế lực nhất trong Tòa Công Luận, đã đứng dậy lên tiếng ngay khoảnh khắc mà Tòa Công Luận dường như sẵn sàng ra lệnh xử tử các sứ đồ. Địa vị cao quí của Gamaliên được thể hiện qua thẩm quyền của ông khi ra lệnh đem các sứ đồ ra khỏi cuộc nghị luận và khả năng làm thay đổi ý kiến Tòa Công Luận để có được một quan điểm ôn hòa hơn.
28. Gamaliên nêu ra hai ví dụ nào để minh họa niềm tin của người Pharisi đối với quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời mình .
a ..........
b ..........
Những ví dụ của Gamaliên nêu ra là để chứng minh quan điểm của ông: nếu những phong trào nầy ra từ Đức Chúa Trời , chúng hẳn sẽ còn lại. Như Bruce gợi ý trong trường hợp Thêuđa, có lẽ quan điểm của người Pharisi đã được xác nhận, nhưng trong trường hợp Giuđa người Galilê, thái độ chờ xem hẳn không kết quả gì. Tuy nhiên, sự can thiệp của Gamaliên đã khiến cho Tòa Công Luận phải suy gẫm lại và ra quyết định. Tòa Công Luận không thể đeo đuổi một tiến trình hành động quan trọng với sự chia rẽ nội bộ (xem trước Cong Cv 23:6-10). Người Sađusê, là người muốn giết chết các sứ đồ, phải phục theo sự ôn hòa của thiểu số người Pharisi, là người chiếm đa số thế lực trên dân chúng.
29. Lời Gamaliên nói về đức tin Cơ đốc là một sự thật: “Nếu bởi Đức Chúa Trời ra, thì các ngươi phá diệt những người đó chẳng nổi." Vậy còn giả thiết của ông cho rằng "nếu ra bởi người ta thì sẽ tự hư đi" thì thể nào? Liệu Cơ đốc nhân luôn luôn giữ theo quan điểm nầy được không? Trong những câu sau viết chữ G bên cạnh ứng dụng quan điểm của Gamaliên, và chữ C bên cạnh quan điểm Cơ đốc.
.... a Chúng ta không nên giữ quan điểm chống lại bất cứ tà giáo nào có trong hội thánh; Nếu tà giáo đó không ra từ Đức Chúa Trời, nó sẽ tự chết đi.
.... b Phương pháp kiểm nghiệm tính chân thật của một phong trào chính là ở chỗ sự phù hợp của nó với những lời dạy dỗ và những tuyên bố của nó về Đức Chúa Jesus Christ, chứ không phải ở chỗ liệu nó có tồn tại lâu dài hay không (rất nhiều phong trào tà giáo thực sự tồn tại rất lâu dài).
.... c Chúng ta đừng bao giờ bất đồng ý kiến với những tín lý của các tôn giáo khác; Thời gian sẽ cho biết họ có phải là những Cơ đốc nhân thật hay không.
Dầu có khuyết điểm trong cách lập luận của Gamaliên, nhưng Đức Chúa Trời đã dùng lời nói của ông để bắt phục Tòa Công Luận. Sau nầy, lời nói của ông đã được những Cơ đốc nhân sử dụng, như là Luca chẳng hạn, để chứng tỏ rằng dẫu sao Gamaliên cũng đã nói tiên tri chính xác sự đắc thắng của Tin Lành. Nên nhớ Luca viết sách Côngvụ gần ba mươi năm sau khi những lời nầy được nói ra. Lúc nầy sự thành công của Tin Lành trên thế giới đã được Tòa Công Luận nhận thức được một cách đầy đủ. Những vị lãnh đạo nầy chỉ còn có nước ước gì có thể thu hồi lại và xóa bỏ những lời của Gamaliên !
SỰ TẤN CÔNG CỦA SATAN VÀ SỰ PHẢN CÔNG CỦA HỘI THÁNH
Mục tiêu 9. Nêu ra chiến lược đã được dùng để chống hội thánh và áp dụng những nguyên tắc đã học vào đời sống và hội thánh của bạn.
Trong Bài 3, chúng ta đã bắt đầu xem xét một số phương cách mà Satan tấn công chúng ta. Có thể đoán trước Satan; nhưng Đức Chúa Trời thì không! Chiến lược chống hội thánh của Satan trong sách Côngvụ vẫn chính xác là những phương kế của nó ngày hôm nay. Ba chiến lược của Satan là:
1. Đánh bại hội thánh (hay cá nhân) bằng cách khiến cho nghi ngờ, sợ hãi, tuyệt vọng, đổ thừa cho người khác, đổ thừa cho Đức Chúa Trời, đổ thừa cho tội lỗi. Đây là sự tấn công vào tinh thần của hội thánh hay của cá nhân.
2. Đánh bại hội thánh bằng cách gây chia rẽ . Thông thường điều nầy được thực hiện qua công dụng của tính ích kỷ. Nhiều khi sự chia rẽ là do giáo lý.
3. Đánh bại hội thánh hay cá nhân qua sự bắt bớ hay dụ dỗ . Thực ra, sự bắt bớ và sự dụ dỗ là hai mặt của cùng một vấn đề. Kẻ tra tấn thường thành công với nạn nhân khi nhử nạn nhân bằng những thuận lợi hơn là khi bắt bớ. Trong sách Côngvụ, chúng ta không thấy Satan dùng phương cách dụ dỗ ở mức độ lớn. Điều nầy đã xảy ra về sau trong lịch sử hội thánh.
30. Ghi ra những diễn tiến chính xác được xử dụng trong các câu sau. Bạn có thể xác định phương pháp tấn công của Satan hay không?
a 4:1-22 ..........
b 5:1-11 ..........
c 5:17-40 ..........
Kinh nghiệm Mục sư của tôi đã dạy cho tôi biết tính hiệu lực của các nguyên tắc nầy. Satan luôn luôn hành động theo một hoặc nhiều phương cách nầy (IICo 2Cr 2:11).
31. Mỗi khi Satan tấn công hội thánh, Đức Thánh Linh sẽ phát động một cuộc phản công thật đáng kinh ngạc! Minh họa nguyên tắc nầy bằng cách trả lời những câu hỏi sau:
a Cuộc tấn công trong Cong Cv 4:1-22 được đáp lại thế nào bằng cuộc phản công hay sự tiến bộ trong 4:23-37?
..........
b Cuộc tấn công trong 5:1-11 được đáp lại thế nào qua cuộc phản công hay bước tiến trong 5:12-16?
..........
c Cuộc tấn công trong 5:17-40 được đáp lại thế nào qua cuộc phản công hay bước tiến trong 5:41-6:1?
..........
TÓM TẮT
Mục tiêu 10. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung Côngvụ 4:32-5:42.
Khi chúng ta bắt đầu đọc 4:32, số lượng của hội thánh vượt quá năm ngàn người. Câu nói của Luca về sự tăng trưởng "càng ngày càng thêm lên" trong 5:14 cho phép chúng ta tự do ước đoán rằng hội thánh có lẽ đã tăng gấp đôi trong thời kỳ khó khăn được mô tả trong 4:32 đến 5:42.
Các sứ đồ đã hiệp một để giải quyết trở ngại lớn đầu tiên của họ và đã không hề nao núng. Thực ra, thắng lợi đầu tiên của họ chính là nguồn vui mừng chứ không phải sự than khóc. Toàn bộ họ đã chạy trốn để tránh những quả đấm giáng vào Đấng Christ trong đêm Ngài bị phản nộp. Cái nọc của sự thất bại đó giờ đây không còn nữa. Họ vẫn đứng yên chịu những lằn roi đánh xé nát lưng họ. Họ đã trở thành những người đầu tiên chịu khổ vì danh Ngài. Thực ra, giờ đây họ đã hiệp một cùng Ngài trong sự thương khó Ngài (Phi Pl 3:10).
32. Sắp xếp theo đúng thứ tự năm đề tài hay sự kiện trong Côngvụ Cong Cv 4:32-5:42. Việc nầy sẽ giúp bạn có một bố cục tóm tắt cho riêng bạn.
..........
Bài tự trắc nghiệm
CÂU CHỌN LỰA. Chỉ có một câu trả lời đúng trong mỗi câu hỏi sau. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời đúng.
1. Hội thánh phát triển rộng trong 4:1-5:47 được đặc trưng bởi
a) lễ bẻ bánh, sự thông công, sự cầu nguyện, và sự nghiên cứu lời dạy của các sứ đồ.
b) sự hiệp một, cùng chia xẻ chung với nhau của cải, quyền năng lớn lao trong việc làm chứng về sự phục sinh của Đức Chúa Jesus, và ân điển dư dật.
c) Sự học hỏi, sự cầu nguyện, sự quan tâm chăm sóc cho những nhu cầu phúc lợi xã hội trong và chung quanh thành Giêrusalem, tinh thần duy hoạt động, và tranh chiến với ảnh hưởng tiêu cực của Tòa Công Luận.
2. Luca dùng phương pháp dạy nào để liên kết chuyện kể của ông?
a) Ông dùng nhiều biến cố đầy màu sắc để dệt thành câu chuyện mình, và ông liên kết chúng lại với nhau bằng những bài diễn thuyết thường xuyên về các nhân vật chính.
b) Ông chỉ việc đi xuôi theo thời khóa biểu đúng theo trình tự thời gian và sử dụng những diễn biến đúng theo cách chúng đã diễn ra.
c) Ông nối kết những câu chuyện của những sự kiện đơn lẻ bằng những bản tóm tắt như là mắt liên kết giữa các sự kiện.
3. Cộng đồng Cơ đốc được hiệp một theo cách đặc biệt bởi sử dụng những đơn vị nhỏ hay những tế bào
a) nhóm lại đều đặn với nhau tại nhà riêng và tại đền thờ.
b) nhóm lại khi có cần để nghe bài giảng của Phierơ.
c) có nghĩa là miễn họ đồng ý với bài Tín Điều Các Sứ Đồ, thì họ là một thành viên của cộng đồng Cơ đốc. Sự hiệp một đối với họ chỉ là vấn đề giáo lý. 4 Từ Kinh Thánh, chúng ta kết luận rằng việc đặt tiền nơi chân các sứ đồ có nghĩa là
a) hội thánh đầu tiên tin vào việc dâng phần mười.
b) tín hữu quyết định phương cách, thời điểm và địa điểm để dâng hiến.
c) Cơ đốc nhân dâng vào một ngân quỹ trung tâm do những người lãnh đạo hội thánh quản lý và phân phát.
5. Luca ghi lại những của dâng của Banaba với của Anania và Saphira để trình bày những nguyên tắc dâng hiến tốt mà chúng ta có thể áp dụng. Ngoài ra, chúng ta còn biết rằng
a) cách dâng không quan trọng, chỉ có số lượng mới quan trọng.
b) chúng ta dâng hay không dâng thực ra chẳng có gì quan trọng. Sẽ luôn luôn có người giúp giải quyết nhu cầu cả thôi.
c) Thà không dâng còn hơn là dâng với động cơ sai lầm.
6. Vì nguyên nhân nào mà sự đoán phạt Anania và Saphira rất nghiêm khắc?
a) Sự đoán phạt nầy nhằm thiết lập một nguyên tắc quan trọng của Tân Ước đó là: sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống thật đáng kinh khiếp thay.
b) Sự đoán phạt ngay tức khắc đã được thi hành để thiết lập tính đáng tin cậy của việc Đức Thánh Linh hiện diện trong hội thánh.
c) Sự đoán phạt nhằm tạo cho cộng đồng biết sợ hội thánh và những định chế mới của hội thánh.
7. Bruce nêu ra sự tương đồng rất đáng ngạc nhiên giữa trường hợp của Anania và Saphira trong Tân Ước với (những) nhân vật nào trong Cựu Ước?
a) Côrê và đồng đảng của ông.
b) Đathan và Abiram.
c) Acan.
8. Kỷ luật của hội thánh đã được Đức Chúa Jesus tiên liệu. Ngài đã thiết lập những nguyên tắc chung nào cho vấn đề kỷ luật?
a) Kỷ luật phải luôn luôn mang tính tức khắc, trừng phạt (có hình phạt), và tính tiêu diệt.
b) Kỷ luật phải được thực thi cách cẩn thận nhằm đem lại sự phục hồi chứ không phải để tiêu diệt, nhưng nếu việc nầy không kết quả thì phải áp dụng biện pháp cuối cùng là dứt phép thông công.
c) Kỷ luật là điều mà chúng ta nên cầu nguyện và giao phó cho Chúa. Hiển nhiên, loại hoạt động nầy là điều không ai ưa chuộng, và phải tránh bằng mọi giá.
9. Luca đưa ra một câu tóm tắt tuyệt vời trong 5:12-16. Trong đó, ông trình bày những chi tiết về bối cảnh của việc bắt giữ các sứ đồ. Dầu các sứ đồ đang làm nhiều dấu kỳ phép lạ, nhưng nguyên nhân thật khiến Tòa Công Luận bắt giam các sứ đồ ấy là
a) các sứ đồ đang gây rối loạn những buổi lễ thường lệ tại đền thờ.
b) Người Sađusê ghen tương với ảnh hưởng của các sứ đồ đối với dân chúng.
c) Người Sađusê cảm thấy buộc phải làm một việc gì đó vì cớ hành động của Phierơ trong trường hợp Anania và Saphira.
10. Sự ở tù của các sứ đồ đã được kết thúc sớm bởi một thiên sứ, là thiên sứ đã phán
a) "Hãy vâng theo uy quyền hợp pháp, hãy cầu thay cho những kẻ đối xử khinh thường với các ngươi, và hãy giảng đạo tại nhà riêng thay vì tại đền thờ."
b) "Hãy làm ngơ trước những lời đe dọa của họ (người Sađusê) và giữ dân chúng hậu thuẫn đàng sau các ngươi để phô bày sức mạnh và sự hiệp một."
c) "Hãy đi và đứng trong sân đền thờ, rao giảng trọn vẹn sứ điệp của sự sống mới nầy."
11. Câu nào sau đây trình bày đúng nhất chương trình của Chúa cho việc bỏ tù Cơ đốc nhân và các lãnh đạo hội thánh?
a) Ý muốn của Chúa chính là can thiệp một cách siêu nhiên cho mọi trường hợp Cơ đốc nhân bị bỏ tù, nếu như họ bị tù vì cớ đức tin.
b) Có sự can thiệp thiên thượng hay không có sự can thiệp thiên thượng cũng chính là công việc của Chúa. Ngài biết rõ nhất điều nào sẽ khiến Tin Lành tiến triển nhiều nhất và Ngài hành động một cách thích ứng.
c) Những hành động can thiệp siêu nhiên nầy chỉ đơn giản là những biểu hiện của quyền năng trên cơ sở một lần đủ cả .
12. Phản ứng của các thầy tế lễ cả và quan cai đền thờ đối với việc giải thoát các sứ đồ là phản ứng của
a) hoang mang và sửng sốt.
b) sợ hậu quả.
c) cực kỳ tức giận.
13. Khi Phierơ và Giăng đối mặt Tòa Công Luận lần trước, họ đã được dân chúng cực kỳ mến mộ. Tuy nhiên, giờ đây Tòa Công Luận đã thay đổi tâm trạng, mà chúng ta có thể mô tả như là
a) tức giận, dứt khoát chặn đứng những lời buộc tội của các sứ đồ, bất luận dân chúng có suy nghĩ gì đi nữa.
b) kiên quyết - kiên quyết tiêu diệt các sứ đồ bằng cách bỏ tù họ để loại bỏ cấp lãnh đạo của hội thánh.
c) Lời khuyên Tòa Công Luận của Gamaliên có thể được mô tả như là chính sách
a) chờ đợi đề phòng trước khi áp dụng một thủ tục triệt để hơn.
b) chờ đợi thụ động như là một giải pháp cuối cùng (Mặc kệ chuyện ấy đi! Làm lơ đi!).
c) chung sống hòa bình với một quan điểm thù địch.
15. Trong chừng mực có liên quan đến hội thánh của bạn trong lúc đối diện với một giáo lý mới lạ và phi Kinh Thánh, lời khuyên của Gamaliên sẽ là
a) một lời khuyên nói chung là tốt.
b) một lời khuyên an toàn và nó sẽ không làm mích lòng những người nhạy cảm.
c) một lời khuyên nguy hiểm, nhất là đối với một lãnh đạo Cơ đốc đang chịu trách nhiệm chăn bầy mình.
16. Khi Gamaliên nói ra quyết định của mình đối với các sứ đồ, ông đang thể hiện
a) một nguyên tắc thuần túy Kinh Thánh.
b) niềm tin của người Pharisi nơi quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời.
c) nguyên tắc hiện đang được ưa chuộng trong giới triết gia thời đó.
17. Theo tài liệu hướng dẫn, ba chiến lược chống hội thánh của Satan là:
a) Sự mê tham của xác thịt, sự mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời.
b) Dùng sự nghi ngờ, sợ hãi, và đổ thừa cho người khác và cho Đức Chúa Trời để đánh bại tinh thần của hội thánh; đánh bại hội thánh bằng cách gây ra sự chia rẽ ; và cuối cùng, đánh bại hội thánh qua sự bắt bớ và dụ dỗ.
c) chống đối về chính trị, về tổ chức và về tâm lý.
18. Khi hội thánh thực sự được đầy dẫy Đức Thánh Linh , những cuộc tấn công của Satan luôn luôn được giải quyết bằng một cuộc phản công do Đức Thánh Linh hướng dẫn. Điều nầy đưa chúng ta đến những suy luận nào sau đây?
a) Đừng bao giờ bỏ cuộc hay sờn lòng trong việc làm hết sức mình. Một ngày kia chiến thắng sẽ đến!
b) Chúng ta thắng hoặc bại đều không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta chiến đấu với kẻ thù như thế nào.
c) Chúng ta phải luôn luôn nhấn mạnh vào việc rao giảng Đấng Christ. Những chậm trễ trong bước tiến của chúng ta không phải là sự phủ nhận. Đó chính là công việc của Đức Chúa Trời, và công việc của Đức Chúa Trời sẽ luôn được thành.
19. Ở cuối Côngvụ đoạn 5, hội thánh bị bao vây giữa sự chống đối và bắt bớ; dầu vậy, đây chính là một hội thánh được đặc trưng bởi
a) sức sống và sự tăng trưởng.
b) sự chia rẽ và tuyệt vọng.
c) sự lạc quan đầy thận trọng.
20. Trận đòn đã tác động gì đến các sứ đồ?
a) Nó làm họ tỉnh lại và nhận ra rằng để hoàn thành công việc của họ thì buộc phải chịu nhiều thử thách kèm theo.
b) Nó đem lại cho họ một cảm giác vui mừng rằng họ được kể là xứng đáng chịu khổ vì danh Ngài.
c) Nó khiến họ thay đổi chiến thuật trong chức vụ của mình.
21. CÂU GHÉP CẶP. Ghép phần mô tả thích hợp ở cột bên phải với nhân vật, địa danh, hay sự kiện ở cột bên phải, bằng cách viết con số vào khoảng trống chừa sẵn.
.... a Người có mưu đồ nói dối Đức Thánh Linh.
.... b Một nhóm chính trị gia muốn lật đổ quyền cai trị của Lamã.
.... c Bối rối trước sự biến mất của các sứ đồ.
.... d Người đồng mưu nói dối Phierơ.
.... e Các tín đồ đã nhóm lại tại đây để thờ phượng và nhìn xem công việc Đức Chúa Trời thực hiện qua các sứ đồ.
.... f Dân chúng đưa người bệnh đến nằm gần chỗ mà ông ta sẽ đi qua.
.... g Người Lêvi đến từ đảo Chíprơ, là người rất rộng rãi.
.... h Một giáo sư được tôn kính và một người Pharisi làm nghị viên Tòa Công Luận.
.... i Lãnh tụ (của bốn trăm người), là người đã bị tiêu diệt.
.... j Đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy mang tính dân tộc và tôn giáo chống lại Lamã, và đã bị dập tắt.
1) Hiên Cửa Salômôn.
2) Giuđa người Galilê.
3) Bóng của Phierơ.
4) Người Xêlốt.
5) Thêuđa.
6) Giôsép Banaba.
7) Anania.
8) Quan cai đền thờ.
9) Gamaliên.
10) Saphira.
GIẢI ĐÁP
1.
a) Cong Cv 4:32-35.
c) 5:12-16.
2.b) Buổi nhóm cầu nguyện (4:23-31) và Anania và Saphira.
3.
a Sai.
b Đúng.
c Sai.
d Sai.
e Đúng.
4.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d Đúng.
5. Câu trả lời của bạn.
6.
a. Sự hiệp một lòng một ý ở bên trong đã được thể hiện qua lòng tin cậy lẫn nhau và lòng rộng rãi đối với nhau.
b. Lời làm chứng của các sứ đồ về Sự Phục Sinh được rao ra một cách đầy quyền năng (bằng lời nói và bằng việc làm).
c. Sự chăm lo cho kẻ thiếu thốn giữa họ, một tinh thần vị tha.
d. Tiền được dâng cho các sứ đồ để họ phân phát ra.
7. c) Thực ra, họ dâng vào một ngân quỹ trung tâm.
8. Việc suy gẫm qua câu trả lời của bạn có thể là một kinh nghiệm thuộc linh rất bổ ích. Tên gọi mới của bạn có thể hiện bản tánh của bạn, hay có thể hiện những ước muốn của bạn để có được bản tánh đó không?
9.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
10.
b) Nên dâng vì cớ muốn dâng.
c) Khi có người đang dâng hiến, điều đó trở thành một nguồn cảm hứng và tấm gương cho người khác.
e) Thà không dâng còn hơn là dâng với động cơ sai lầm.
11. Câu trả lời của bạn. Tôi sẽ nói rằng sự đoán phạt Anania và Saphira chứng thực cho tính chân thực trong những lời các sứ đồ làm chứng cho Sự Phục Sinh.
12.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Sai.
d. Đúng.
13. Lúa mì tượng trung cho những Cơ đốc nhân thật, và cỏ lùng tượng trưng cho những người có vẻ là Cơ đốc nhân nhưng thực ra không phải. Cả hai đều tương tự nhau ở bề ngoài, đến nỗi theo cách nhìn của loài người, tốt hơn là không đoán xét giữa hai thứ bằng cách nhổ cỏ lùng lên. Vì khi làm như vậy, người ta có thể nhổ luôn cả lúa mì lên nữa.
14. Sẽ có những người mà những đặc trưng bề ngoài của họ sẽ tách biệt rõ ràng họ khỏi các tín đồ. Nếu có sự không chịu ăn năn như vậy, họ sẽ bị dứt phép thông công (khai trừ) khỏi hội thánh.
15. Những nguyên tắc trong Mathiơ được thể hiện. Mục đích của sự dứt phép thông công (phó người đó vào tay Satan) là để qua tính nghiêm khắc của kỷ luật đó, người nầy sẽ tiến đến chỗ ăn năn và được phục hồi, như đã thấy trong IICo 2Cr 2:5-11.
16. b) Sự đoán phạt Anania và Saphira không phải là một kiểu mẫu chuẩn mực của kỷ luật hội thánh.
17.
a Cong Cv 2:19.
b 2:22.
c 2:43.
d 4:30.
18.
a. Nhiều phép lạ dấu kỳ đã được thực hiện bởi các sứ đồ.
b. Các tín đồ nhóm lại tại nơi Hiên Cửa Salômôn. Toàn thể hội thánh đều nhóm lại công khai bất chấp những lời cảnh cáo trong 4:18, 21.
c. Sự đoán phạt giáng trên Anania và Saphira đã ngăn trở người ta nhập bọn với những tín đồ nào có thể làm giống như vậy với một tấm lòng không thành thật hay với sự tận tâm nửa vời. Họ không muốn nhận lấy số phận như của Anania và Saphira. Họ không trở thành tín đồ, nhưng họ quả rất kính trọng các tín đồ.
d. Càng nhiều người hơn nữa đã dám gia nhập vào hội thánh.
e. Phierơ là một công cụ của quyền năng siêu nhiên và đặc biệt.
f. Từ những vùng ngoại ô Giêrusalem, những kẻ bệnh và bị quỷ ám đã đến. Họ cũng đã được chữa lành.
19. a) Họ vui mừng và ca ngợi Đức Chúa Trời hơn bao giờ hết.
20. Việc bỏ tù Phierơ và Giăng (4:1-23). Không có sự giải thoát siêu nhiên.
21. Họ đã cầu xin được dạn dĩ và xin Đức Chúa Trời tiếp tục chữa lành cùng làm các phép lạ dấu kỳ qua danh Đức Chúa Jesus. 5:12-16 mô tả cách Đức Chúa Trời đã làm ứng nghiệm lời cầu xin của họ thể nào. 5:21 chứng tỏ sự vâng lời và hợp tác của họ là một phần để nhận được sự nhậm lời cầu nguyện của họ.
22.
a. Không.
b. Có.
c. Không.
d. Không.
e. Không.
f. Không.
g. Có.
h. Không.
i. Không, (dầu Đức Chúa Trời đã mở cửa ngục bằng một trận động đất).
j. Không.
k. Không.
23. b) Có sự can thiệp siêu nhiên hay không có sự can thiệp siêu nhiên đều là vấn đề nằm trong tay Đức Chúa Trời.
24. Vụ xét xử Phierơ và Giăng đã bắt đầu bằng một câu hỏi, nhưng vụ xét xử tất cả các sứ đồ đã bắt đầu bằng một lời buộc tội họ.
25.
a) Cuộc xét xử Phierơ và Giăng.
c) Các sứ đồ lập lại lời buộc tội trực tiếp Tòa Công Luận.
l. Có.
m. Không.
26. Tòa Công Luận dường như miễn cưỡng ngưỡng mộ Phierơ và Giăng, và đã cảnh cáo rồi thả họ ra. Nhưng trong 5:33, 40, Tòa Công Luận đầy dẫy lòng tức giận và muốn giết các sứ đồ; do đó, họ đã thêm một trận đòn vào chung với việc cảnh cáo trước khi thả các sứ đồ ra.
27.
a. Người Sađusê.
b. Người Sađusê.
28.
a. Thêuđa.
b. Giuđa người Galilê.
29.
a. G.
b. C.
c. G (Cả a và c đều là những ứng dụng khả dĩ cho quan điểm của Gamaliên.)
30..
a. Đã có một nỗ lực dùng sự sợ hãi, nghi ngờ và đổ thừa để đánh bại tinh thần của Phierơ và Giăng.
b. Chiến lược tiếp theo là gây chia rẽ trong hội thánh bằng cách tấn công vào tinh thần ích kỷ.
c. Chiến lược cuối cùng là sự bắt bớ thuộc thể. Các sứ đồ đã bị đánh đập.
31.
a. Nỗ lực ngược đãi Phierơ và Giăng đã khiến cho các tín đồ lại càng hiệp một hơn nữa. Họ ý thức được nhu cầu cần được dạn dĩ hơn nữa, và họ đã thể hiện tình yêu lớn đối với nhau.
b. Satan hẳn đã bỏ mặc Anania và Saphira lẻ loi một mình (5:3). Lúc sự kiện nầy kết thúc rồi, hội thánh và dân chúng lại càng sợ hãi và càng tôn kính Đức Chúa Trời hơn nữa, các phép lạ dấu kỳ lại càng dư dật, và số những người tin Chúa càng ngày càng thêm lên .
c. Sự rao giảng Tin Lành cách công khai vẫn không giảm sút, các sứ đồ càng được lòng dân chúng hơn bao giờ hết, và hội thánh tiếp tục tăng trưởng.
32. Bạn có nhận ra những diễn tiến chủ yếu sau đây không?
- Việc cùng nhau lấy mọi sự làm của chung.
- Của dâng của Banaba.
- Anania và Saphira.
- Chức vụ của các sứ đồ tại Hiên Cửa Salômôn.
- Các sứ đồ trước mặt Tòa Công Luận.
Êtiên
Trong lúc đó, Hội Thánh ở thành Giêrusalem gặp cơn bắt bớ dữ tợn; trừ ra các sứ đồ, còn hết thảy tín đồ đều phải chạy tan lạc trong các miền Giuđê và xứ Samari. (Cong Cv 8:1)
Chúng ta đã ôn lại lợi ích từ sinh hoạt của các sứ đồ. Chúng ta cũng đã chứng kiến sự tăng trường liên tục và ảnh hưởng của Tin Lành. Giờ đây, chúng ta sẽ đánh giá sự xuất hiện nan đề và các giải pháp của hội thánh đầu tiên khi tập trung vào sự tuận đạo của Êtiên và tác động của việc nầy trên cộng đồng Cơ đốc.
Mục tiêu của chúng ta trong tư cách những người lãnh đạo và mục sư Cơ đốc là truyền đạt giá trị thực tiễn của Tin Lành. Cơ đốc nhân tin theo những lý tưởng thật cao cả! Họ cũng ôm ấp những hy vọng thật cao cả, nhưng họ nhận ra rằng nếp sống hàng ngày đòi hỏi những giải pháp thực tiễn cho những nan đề thực tế và những nan đề có thể hình dung được. Nó cũng chứng tỏ cách mà Hội Thánh tự xử trí những nan đề và tìm ra những giải pháp thực tiễn.
Bạn sẽ hiểu rõ được giá trị của nếp sống và lòng nhân đức Cơ đốc khi bạn nghiên cứu bài học nầy. Bạn sẽ đạt được tầm thước vóc giạc trưởng thành của tâm linh khi bạn nhận ra chức vụ đòi hỏi bạn phải linh hoạt và sẵn lòng thay đổi. Nên nhớ, bản thân các sứ đồ đã không xem "sự chỉ trích" đó là nhắm vào bản thân họ; họ nhận ra đó là kết quả sự phát triển của hội thánh. Bạn sẽ được khích lệ khi thấy Luca phác họa chân dung sự khiêm nhường của các sứ đồ dưới sự tể trị của Đức Thánh Linh.
Dàn bài
Nan Đề Của Hội Thánh Đầu Tiên
Nguyên Nhân
Phương Pháp Giải Quyết
Bổ Nhiệm Bảy Chấp Sự
Ảnh Hưởng Về Sau
Sự Tuận Đạo Của Êtiên
Bản Chất Chức Vụ Của Ông Và Lời Buộc Tội Ông
Bài Giảng Của Êtiên Trước Tòa Công Luận
Thời Kỳ Tổ Phụ
Môise Và Luật Pháp
Đền Tạm Và Đền Thờ
Hàm Ý Dứt Khoát
Sự Qua Đời Của Êtiên
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Xác định ba tư cách được sử dụng để tuyển chọn bảy chấp sự, và thuật lại vì sao mỗi tư cách đều cần yếu cho một lãnh đạo hội thánh.
Thảo luận mối tương quan nhân quả liên hệ với nan đề của hội thánh trong 6:1-15, nêu ra ít nhất năm kết quả tích cực xuất phát từ "sự rắc rối" nầy.
Chứng minh bài giảng đã nêu của Êtiên là cần thiết, bằng cách nhớ lại ít nhất hai bài học để hỗ trợ cho quan điểm nầy.
Sinh hoạt học tập
1. Đọc kỹ 6:1-8:1 trước khi bạn bắt đầu vào phần khai triển bài học.
2. Tra định nghĩa của những từ bạn không hiểu trong phần Từ Vựng.
3. Đọc bài học, làm hết câu hỏi nghiên cứu, và kiểm tra câu trả lời. Tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng bạn hãy tham khảo đến những phần Kinh Thánh trong Côngvụ và trong Bruce theo chỉ dẫn trong tài liệu hướng dẫn để khiến cho việc học càng đạt nhiều kết quả.
4. Làm bài tự trắc nghiệm ở cuối bài học, kiểm kỹ câu trả lời của bạn. Ôn lại những mục nào bạn trả lời sai.
Từ vựng
vị trí đổ bộ beachhead
kỷ nguyên epochs
bản cáo trạng indictment
không chung thủy infidelity
những tiền lệ precedents
sự biết trước precognition
tiền thân precursor
chuỗi sequence
thuộc thế tục temporal
sự xác chứng vindication
Khai triển bài học
NAN ĐỀ CỦA HỘI THÁNH ĐẦU TIÊN
6:1-7 Bruce 127-132
Hội thánh đầu tiên có trọn vẹn không? Luca cho thấy rằng không. Với tư cách sử gia hội thánh đầu tiên, ông đã ngay thẳng ghi lại những khiếm khuyết và thất bại của hội thánh để chứng tỏ mình đã thực sự viết ra lịch sử hội thánh chứ không phải viết ra một quyển sách quảng cáo những mối quan hệ cho công chúng. Dấu hiệu cho người của Đức Chúa Trời hay của một hội thánh thuộc linh ấy là công khai thuật lại những thất bại, chứ không phải cố làm ngơ hay che đậy chúng. Khi những thất bại của chúng ta được công khai thừa nhận, xưng nhận, và được dùng làm những kinh nghiệm học tập, thì những người khác sẽ được tự do để thành thật về chính bản thân và tin cậy Chúa giúp cho họ.
1. Câu nào sau đây là câu đúng?
a) Chúng ta thà không có phần Luca mô tả về nan đề của hội thánh đầu tiên thì hơn, vì thà nghĩ về hội thánh đầu tiên một cách lý tưởng hóa hơn là nghĩ đúng theo thực trạng của Hội thánh.
b) Nên loại bỏ mọi nhận định của những sử gia hội thánh nào nêu ra những thất bại thật tế của hội thánh, vì cớ họ có thể khiến cho người khác cảm thấy không hay hoặc có thể làm hại đến hình ảnh những mối liên hệ của hội thánh với công chúng.
c) Chúng ta có thể và nên rút ra bài học từ những thất bại của chính chúng ta. Có thể cần phải bàn đến những thất bại để cho thấy ân điển của Đức Chúa Trời đã đem lại sự khôi phục và tiến bộ như thế nào, và làm thể nào áp dụng vào những tình huống khó khăn trong tương lai.
Có người đã nói rất hay rằng người nào không chịu rút bài học từ những sai lầm quá khứ thì chắc chắn sẽ tái diễn những sai lầm đó! Luca đã không để cho tác phẩm lịch sử của ông trở nên hoang đường, nhưng đã kể lại toàn bộ sự thật của câu chuyện, những ưu điểm cùng những khuyết điểm.
Nguyên Nhân
6:1 Bruce 127-128
Mục tiêu 1. Mô tả nan đề của hội thánh đầu tiên và cho biết vì sao nan đề đó xảy ra.
6:1 đưa ra một lời cảnh cáo ớn lạnh cho những độc giả nào hiểu được ý nghĩa trong Kinh Thánh của chữ phàn nàn hay lằm bằm . Hãy xem Dânsố Ký 11:1;. Con cái Ysơraên đang trên đường băng qua sa mạc để đến đất hứa Canaan. Những dấu kỳ và phép lạ đã đi kèm theo cuộc xuất Êdíptô của họ, và sự can thiệp kỳ diệu đã giữ gìn, bảo tồn họ. Vậy mà, thay vì ca ngợi Đức Giêhôva về những phước hạnh Ngài luôn ban, họ lại bắt đầu phàn nàn. Đó chính là bước đầu tiên của họ trên lộ trình của lòng vô tín, của thất bại khiến không tiến vào được xứ Canaan, và của sự dấy nghịch cùng Chúa (Dânsố Ký 11-16).
Có phải hội thánh bấy giờ lập lại từng trải của Ysơraên trong đồng vắng hay không? Sau khi đã nhìn thấy và được nếm phước hạnh của Đức Chúa Trời, phải chăng tinh thần tạ ơn của 2:46 đã bị thay thế bởi tinh thần phàn nàn của 6:1?
2. Xem những câu Kinh Thánh sau đây và nêu ra hai sự kiện có thể giúp làm rõ nan đề dẫn đến sự phàn nàn nầy: 2:44-47; 4:4, 34-35 6:1.
a ..........
b ..........
Xem xét cẩn thận 4:33, 35 5:12, 14, 17, 40-42 và 6:2. Từ những câu nầy, rõ ràng các sứ đồ vô cùng bận rộn. Họ không thể lo liệu tất cả mọi việc, nên họ đã ưu tiên cho việc giảng đạo và dạy dỗ. Rõ ràng, việc nầy đã góp phần khiến cho các góa phụ cảm thấy bị bỏ bê.
3. Tuy những tình huống trên đây là những nguyên nhân cơ bản của nan đề trong hội thánh, nhưng đâu là nguyên nhân trước mắt của việc phàn nàn trong 6:1?
..........
4. Theo sách giáo khoa của Bruce, người Hêlênít và người Hêbơrơ được đánh dấu bởi những phẩm chất nào sau đây? Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong câu hỏi nầy cũng như trong toàn bộ những câu hỏi đúng - sai của bài học nầy.
a. Người Hêlênít được gọi như vậy vì họ tin có địa ngục.
b. Người Hêlênít là một từ ngữ được dùng để mô tả những người chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ và văn hóa Hylạp.
c. “Người Hêlênít” là những người Do thái cư ngụ tại những miền đất khác ở vùng thế giới Địa Trung Hải. Họ dùng tiếng Hylạp làm ngôn ngữ chính, và đã tiếp nhận một số yếu tố trong nền văn hóa Hylạp.
d. Người Hêbơrơ là người Do thái sống tại Palestine, dùng tiếng Aram làm ngôn ngữ chính, và chịu rất ít ảnh hướng của văn hóa, tư tưởng và ngôn ngữ Hylạp.
e. Rất nhiều người Hêlênít đã di cư trở về quê hương họ. Có những mối căng thẳng giữa người Hêbơrơ và người Hêlênít, và những mối căng thẳng nầy thể hiện rõ trong hội thánh.
Việc trở thành môn đồ Đức Chúa Jesus không tự động loại bỏ tận gốc mọi định kiến. Sự chấp nhận hoàn toàn các tín hữu khác không phân biệt giới tính, ngôn ngữ, nền văn hóa, hay màu da, sẽ đi kèm với sự học biết những hàm ý của Tin Lành (GaGl 3:23-24). Và điều nầy cần có thời gian và sự chín mùi trong chức vụ của Đức Thánh Linh.
Các tín hữu người Hêlênít đang từng trải chính kiểu phân biệt đã từng thịnh hành cho họ trước khi họ trở nên môn đồ của Đấng Christ. Họ đã tỏ ra thiếu khôn ngoan và thiếu vâng phục lời dạy dỗ của Đấng Christ (Mat Mt 5:23-24) do không cố gắng ngay lập tức để tự giải quyết vấn đề với người Hêbơrơ.
5. Nếu bạn cảm thấy bị đối xử bất công, điều tốt nhất phải làm là gì?
a) Than phiền với hết hảy bạn bè rằng bạn đã bị ngược đãi.
b) Im lặng chịu đựng và xa lánh mọi người cho đến khi những người gây xúc phạm đến xin lỗi bạn.
c) Cố kéo người khác đứng về phía bạn để khi bạn đã nắm được đa số, bạn có thể cho những người đã làm bạn mích lòng kia nếm mùi thế nào là bị phân biệt đối xử.
d) Lưu hành một đơn thỉnh nguyện trình bày sự bất bình của bạn, và tìm hiểu xem mọi người đứng về phía của ai.
e) Dứt bỏ mọi sự thông công và đi đến một nơi nào khác mà người ta đánh giá bạn cao hơn.
f) Đem sự tổn thương của bạn đến trực tiếp với người đã gây ra nó. Tìm kiếm sự hòa giải. Nếu cần, tìm kiếm lời khuyên và sự trợ giúp của cấp lãnh đạo thuộc linh trong hội thánh để giúp đạt được sự giải hòa.
Hầu hết mọi nan đề của hội thánh đều khởi đầu khi áp dụng những bước không phải là bước được gợi ý trong một mình câu f). Nan đề hội thánh đầu tiên đã được đặc trưng bởi sự lằm bằm và than phiền. Thông thường, tiến trình lằm bằm nầy được sử dụng không phải là để tìm ra một giải pháp, mà là để khơi dậy sự cảm thông cho nan đề của mình. Tuy nhiên, phương pháp Cơ đốc để giải quyết nan đề bao gồm sự ngay thẳng, thành thật, trực tiếp và tình yêu thương thật.
Phương Pháp Giải Quyết
Mục tiêu 2. Mô tả những phương pháp được các sứ đồ áp dụng để giải quyết nan đề của hội thánh đầu tiên và áp dụng chính những phương pháp nầy để giải quyết những nan đề có thể xuất hiện trong hội thánh của bạn.
Nếu các thuộc viên hội thánh đã hành động cách thiếu khôn ngoan khiến phát sinh và kéo dài nan đề, thì cấp lãnh đạo phải hành động cách khôn ngoan và dứt khoát để giải quyết nan đề. Hầu hết những nan đề nghiêm trọng của hội thánh tồn tại một phần là do cách giải quyết của cấp lãnh đạo.
6. Các sứ đồ đã làm gì khi biết về nan đề trong hội thánh đầu tiên? Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Họ tức giận khi nghe về nan đề và quyết định dứt phép thông công người Hêbơrơ khỏi hội thánh.
b. Họ đã nhận ra nan đề có tồn tại và áp dụng những bước khôn ngoan để giải giải quyết nan đề đó.
c. Họ làm ngơ nan đề đó, hy vọng đến kỳ nó sẽ qua đi.
d. Họ nhận ra rằng việc làm ngơ trước nan đề chỉ càng gây thêm tác hại, vì thế họ đã giải quyết nan đề ngay tức khắc.
e. Các sứ đồ đã nghiêm khắc quở trách người Hêlênít vì đã quá quan trọng hóa những chuyện nhỏ mọn như thế. Các sứ đồ bảo người Hêlênít phải để thì giờ ca ngợi Đức Chúa Trời về mọi sự đắc thắng thay vì tập trung vào sự phân biệt đối xử có thật hay do tưởng tượng ra kia.
f. Có thể nhận thấy câu trả lời của các sứ đồ không hề lên án người Hêlênít hoặc người Hêbơrơ.
g. Các sứ đồ đã dùng sự tự thương hại để kêu gọi những bên đang gây hấn nhau. Họ đã bảo rằng họ bận rộn biết biết bao, họ đã bị bắt giam vào ngục và bị đánh đập thế nào, họ đã mệt mỏi biết bao để cố giữ đúng một thời khóa biểu bận rộn! Họ hàm ý hội thánh không biết ơn các lãnh đạo, và nếu cứ tiếp tục giữ tinh thần đó, các sứ đồ sẽ tìm đến những người ở trong thành phố khác hay ở hội thánh khác, là những người sẽ biết trân trọng công khó của các sứ đồ.
h. Họ ngay thẳng đối mặt với sự thực là họ không có thì giờ để làm mọi công việc họ đang làm. Giải pháp không phải là họ sẽ cố gắng làm việc tốt hơn. Trái lại, họ phải sắp xếp những điều ưu tiên và đưa người khác tham gia chức vụ mà họ không có thì giờ để làm.
i. Các sứ đồ nản lòng và hăm dọa sẽ nghỉ việc và trở về xứ Galilê, là nơi họ có thể làm nghề cũ của mình.
j. Hành động dứt khoát và sự giải quyết khôn ngoan của họ trước một nan đề có thể bùng nổ đã khiến cho chức vụ của họ càng có tác động lớn lao hơn trong những ngày tiếp sau đó.
Khi một người lãnh đạo đáp ứng bằng sự tức giận, phẫn nộ, tự thương hại, đe dọa, và lên án hay bằng những lời đoán xét và những việc làm thiếu yêu thương, thì sẽ không đạt được một kết quả nào cả. Hãy để ý các sứ đồ đã nhận lấy trách nhiệm như chính họ là nguyên nhân của nan đề. Nan đề xuất hiện vì chính sự bất cẩn của họ. Dầu họ đã bị đánh đập (Cong Cv 5:40) và rất bận rộn (5:42), nhưng họ không vin vào cớ đó. Nếu cấp lãnh đạo trong hội thánh sẵn lòng nhận lấy một tinh thần ngay thẳng và hạ mình như thế, tín hữu sẽ luôn luôn đáp ứng một cách tích cực. Sự thật vẫn là cấp lãnh đạo tồi hẳn đã làm tan vỡ hội thánh Giêrusalem rồi. Cấp lãnh đạo khôn ngoan đã tập hợp được hội thánh lại với nhau, để rồi có thể tăng trưởng càng nhiều hơn nữa.
Hãy xem xét nan đề của hội thánh mà bạn có thể đối diện hay hiện đang đối diện. Khi áp dụng những nguyên tắc lãnh đạo hiệu quả đã được bày tỏ ra ở đây, hãy hình dung các sứ đồ hẳn đã có thể giải quyết tình huống nầy như thế nào. Bạn đã xem xét nan đề cách trung thực và vô tư chưa? Bạn có sẵn lòng dứt khoát như các sứ đồ không? Tôi hy vọng bạn có thể trả lời "có" cho cả hai câu hỏi trên đây.
Có nhiều lúc cần phải giải quyết một cách nghiêm khắc, với một Anania và Saphia ra nào đó, nhưng hầu hết các nan đề của hội thánh đều có thể giải quyết một cách vững vàng song dịu dàng. Mục sư với tư cách một người chăn bầy phải nhớ rằng khi chiên mình đi lạc đường, thì thường đó là một hành động đi lạc hơn là một sự cố ý chống nghịch.
Bổ Nhiệm Bảy Chấp Sự
Mục tiêu 3. Mô tả sự tuyển chọn và các phẩm cách của bảy chấp sự được chọn hầu việc bàn tiệc.
Sau khi đã nhận lấy trách nhiệm về nan đề, giải pháp của các sứ đồ phản ảnh sự công nhận nhu cầu phải thiết lập những điều ưu tiên trong chức vụ của họ.
7. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và giải thích tốt nhất cho quyết định của các sứ đồ trong 6:2?
a Trách nhiệm hàng đầu của họ với tư cách những chứng nhân (1:8, 22 2:32; 3:15; 4:20, 33 5:32) buộc phải đánh giá lại chức vụ của họ và tập trung vào những phương diện nào hết sức quan trọng cho bước tiến của Tin Lành và sự chăm sóc mục vụ cho toàn hội thánh, tức là cầu nguyện và rao giảng Đạo Chúa.
b. Họ cảm thấy việc phục vụ nơi bàn tiệc hạ thấp phẩm hạnh của họ, nên rất sung sướng trao trách nhiệm đó cho những người kém quan trọng hơn họ.
8. Có người đã nhận định rằng hội thánh không bao giờ tăng trưởng hơn ban lãnh đạo của hội thánh đó. 6:1-6 bày tỏ thế nào về kỹ năng quản lý ngày càng tăng trưởng của các sứ đồ?
..........
9. Ai thực sự là người tuyển chọn bảy chấp sự đã được chọn ra để lo việc bàn tiệc?
a) Các sứ đồ.
b) Toàn thể các tín hữu.
10. Ai đã chọn ra một số người có phẩm chất để từ đó có thể chọn ra những người phục vụ bàn tiệc?
a) Các sứ đồ
b) Toàn thể các tín hữu
Lưu ý đến những biện pháp an toàn trong phương pháp của các sứ đồ. Cấp lãnh đạo đã chọn ra các tiêu chuẩn, và toàn thể hội thánh lựa ra những người nào đáp ứng được những tiêu chuẩn đó.
11. Ai khẳng định sự chọn lựa bảy chấp sự nầy bằng sự cầu nguyện và việc đặt tay?
a) Các sứ đồ.
b) Toàn thể các tín hữu.
12. Có thể an tâm nói rằng tín hữu người Hêbơrơ chiếm đa số, chứ không phải là người Hêlênít. Tuy vậy, bảy người được chọn đều mang tên Hylạp. Và một người trong số đó, Nicôla, một người đến từ Antiốt xứ Syri, là người đã theo Do thái giáo trước khi trở thành một tín đồ Đấng Christ. Những sự kiện nầy cho thấy điều gì về tinh thần hòa giải trong hội thánh Giêrusalem?
a) Người Hêlênít quyết định trả đũa và giờ đây đã chiếm thế thượng phong.
b) Với tinh thần yêu thương, toàn thể hội thánh, mà đa số là người Hêbơrơ, đã chọn ra cả bảy người từ những người Hêlênít trong hội thánh, và bởi đó chứng tỏ lòng tin cậy của họ nơi tinh thần không thiên vị của thiểu số nầy.
13. Kể ra ba phẩm chất được áp dụng trong sự tuyển chọn bảy chấp sự nầy, và thuật lại vì sao bạn cảm thấy toàn bộ những phẩm chất đó đều cần yếu cho một lãnh đạo hội thánh.
..........
Chúng ta hãy xem ba phẩm chất quy định cho bảy chấp sự nầy. Họ phải là những người có danh tiếng tốt, đầy dẫy sự khôn ngoan, và đầy dẫy Đức Thánh Linh. Danh tiếng tốt để bảo vệ họ khỏi những lời cáo buộc của định kiến. Cần phải có sự khôn ngoan để thi hành đúng những trách nhiệm của họ đối với những cá nhân cũng như với hội thánh nói chung. Nhưng hai phẩm chất nầy vẫn chưa đủ! Phải có sự đầy dẫy Đức Thánh Linh! Dầu họ gánh những trách nhiệm trần tục , nhưng những bổn phận của họ bao giờ cũng chồng chéo lên lãnh vực thuộc linh và đòi hỏi phải được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Việc họ được chọn vì cớ họ có những phẩm chất nhất định cũng cho thấy họ đã thể hiện những phẩm chất nầy rồi. Trách nhiệm không được giao cho những người chờ đợi cách thụ động và chẳng làm việc gì cả.
Trong Mat Mt 21:12, chữ dùng cho bàn tiệc cũng chính là chữ được dùng trong Cong Cv 6:2. Một danh từ có cùng gốc với bàn tiệc được dùng trong Mat Mt 25:27 và được dịch là "người buôn bạc." Tuy "hầu việc bàn tiệc" (Cong Cv 6:2) có thể nói đến việc thực sự phục vụ các món ăn, nhưng rất có thể nó bao gồm việc quản lý ngân quỹ hội thánh qua việc ban phát những khoản đã định cho những người cùng túng đến để xin trợ giúp về tài chánh. Bảy chấp sự xuất hiện trong chức năng của những người quản lý hơn là trong chức năng của những người đầu bếp!
Chữ giúp việc (bàn tiệc) là một động từ liên hệ đến một danh từ mà chúng ta rút ra chữ chấp sự . Đó là lý do khiến bảy người nầy thường được gọi là những chấp sự. Tuy nhiên, Luca tránh dùng từ ngữ nầy để mô tả họ, vì chức vụ chấp sự như chúng ta thấy trong ITi1Tm 3:8-13 vẫn chưa được phát triển đến mức độ nầy. Tuy nhiên, giúp việc có thể biểu thị cho mọi hình thức của chức vụ. Trên một phương diện, dân sự của Đức Chúa Trời là những chấp sự, tức những người hầu việc!
Hành động mau chóng của các sứ đồ để đánh giá nan đề của hội thánh đầu tiên, để tìm kiếm một giải pháp thích hợp, và để ủy thác trách nhiệm cho hội thánh, là hành động đã làm đẹp lòng toàn thể hội thánh. Hội thánh đã đáp ứng bằng cách chọn bảy người đủ tư cách. Có năm người chỉ được nêu tên thôi, còn hai người khác được xác định kỹ hơn. Êtiên mang những bằng chứng chính yếu của Cơ đốc nhân: ông "đầy dẫy" đức tin và Đức Thánh Linh. Trong khi đó, Nicôlai được xác định cụ thể là một người cải đạo đến từ Antiốt.
Ảnh Hưởng Về Sau
Mục tiêu 4. Dùng nan đề của hội thánh đầu tiên làm ví dụ minh họa về cách Đức Chúa Trời dùng mọi sự để đem lại lợi ích chung.
Vụ bùng nổ những lời lằm bằm đã diễn ra đang lúc có sự tăng trưởng ngày càng hơn (Cong Cv 6:1). Bạn có thể chắc chắn rằng sự tăng trưởng luôn luôn đi kèm với thử thách, khó khăn và nguy hiểm.
Satan đã không thành công khi khai thác sự chia rẽ trong hội thánh do đã có sự chăm sóc bầy cách khôn ngoan của các sứ đồ. Sau khi đã vượt qua được sự chia rẽ tiềm ẩn đầu tiên, hội thánh lập tức tăng trưởng (6:7).
14. Bạn nghĩ nếu nan đề chưa được giải quyết, hội thánh có tiếp tục tăng trưởng không?
..........
Những nan đề buộc hội thánh phải tập trung và đầu tư quá nhiều sức lực cho chính mình. Hội thánh nào nổi bật bởi sự thanh sạch trong tình yêu thương và lẽ thật thì luôn luôn có cơ hội để tăng trưởng.
15. Câu chuyện của Luca về sự tăng trưởng tiếp tục đã mô tả thêm một số người rất ý nghĩa từ một nhóm người đặc biệt khác. Đó là nhóm người nào? Dựa vào 2:46; 3:1-4:4; 5:12-16, 21, 42, điều gì có thể giúp giải thích sự cải đạo của họ?
..........
Sự hoán cải của rất nhiều thầy tế lễ như vậy đem lại khả năng có một dòng "thần học đền thờ" tràn vào trong hội thánh Cơ đốc đầu tiên. Sự dạy dỗ của Êtiên rằng những thánh lễ của đền thờ và chính bản thân đền thờ không có giá trị cứu rỗi cho tín đồ đã trở thành một sự nhìn nhận kiên quyết và trái ngược hẳn với bất kỳ những quy định nào buộc việc tuân giữ nghi lễ của đền thờ phải là một phần trong đức tin Cơ đốc.
Chúng ta có thể thấy hiệu quả lâu dài của của sự rắc rối trong hội thánh bằng cách để ý đến mối tương quan giữa những sự kiện sau. Điền vào khoảng trống trong mỗi câu sau đây.
16. Vì cớ sự rắc rối trong hội thánh, ........... đã được tuyển chọn (6:1-6).
17. Vì cớ tồn tại nhu cầu cần các chấp sự, ..........., một người đầy dẫy đức tin và Đức Thánh Linh, đã được chọn (6:5).
18. Vì cớ Êtiên được chọn, nên chức vụ của ông đã nhanh chóng mở rộng thành một chức vụ tương tự với chức vụ của các sứ đồ (6:8). Sự giảng đạo và tuận đạo của ông đem lại kết quả là ........... nghe được những hàm ý của Tin Lành (8:1) và hội thánh bị tản lạc.
19. Nếu hội thánh không bị tản lạc, .............. hẳn sẽ không đến với ........... (8:5) và dân chúng tại đó sẽ không nghe được Tin Lành, và ........... hẳn cũng không tiếp nhận lời làm chứng về .......... (8:26-40).
20. Trong cơn bắt bớ xảy ra vì cớ Êtiên, các tín đồ đã bị tản lạc và thành phố lớn tại.......... Syri đã nghe đến Tin Lành (11:20;).
21. Vì một hội thánh đã tăng trưởng tại .........., nơi tín đồ lần đầu được gọi là .........., nên đồ cứu trợ đã được gởi về lại hội thánh tại .......... (22:26-30).
22. Vì một hội thánh đã tăng trưởng tại .......... (22:26-30), nên đoàn truyền giáo đầu tiên gồm .........., .........., và họ đã lên đường ra đi (13:1-3, 5).
23. Vì Phaolô đã ra đi, nên nhiều hội thánh được thiết lập tại .........., .........., và .......... (14:20-22) .......... (16:12) .......... (17:1);.......... (17:10) .......... (17:16, 34;) .......... (18:1) và .......... (19:1).
24. Vì nhiều hội thánh đã được thiết lập, nên ngày nay chúng ta có được phần nào trong Tân Ước?
..........
Bạn có thấy nối tương quan nhân quả đã bắt đầu với sự rắc rối trong hội thánh của 6:1-15 không? Nó sinh ra Êtiên, là nguyên nhân dẫn đến cơn bắt bớ do Saulơ tiến hành, là cơn bắt bớ khiến Philíp đến Samari và đến với hoạn quan, và đã khiến cho các tín đồ đến Antiốt. Đến lượt Antiốt gởi đồ dùng cứu trợ về cho Giêrusalem và sai phái giáo sĩ Saulơ ra đi, là người mà công khó của ông đã kết quả thành nhiều hội thánh và nhiều thơ tín. Vì thế, ngày nay chúng ta vẫn nhận được ích lợi từ nơi Đức Chúa Trời nhân lành, Đấng đã hành động trong nan đề của hội thánh ở 6:1-15. Ai có thể nói không có gì tốt lành ra từ sự khó khăn của hội thánh? Bạn có tin nơi Rôma 8:28; không? Nguyên bản không nói rằng "Mọi sự đều tốt lành (có ích)" nhưng nói rằng "Trong mọi sự, Đức Chúa Trời đều hành động để đem lại lợi ích!"
Sự Tuận Đạo Của Êtiên
6:8-8:1 Bruce 132-173
Mục tiêu 5. Cho thấy thể nào mà sự giảng đạo của Êtiên (với những hàm ý về đời sống và công vụ của Đấng Christ mà chưa được nhìn thấy trước đó trong sự giảng đạo của các sứ đồ) đã đưa ông ra trước Tòa Công Luận.
Trong Tân Ước có hai chữ mô tả về mão miện. Chữ thứ nhất là diadem , mô tả một mão miện vĩnh viễn thuộc về một người vì cớ uy quyền làm vua của người đó (KhKh 19:12). Chữ thứ nhì là stephanos , là chiếc vòng nguyệt quế được đội cho một lực sĩ để biểu thị lòng tôn kính xứng đáng dành cho người chiến thắng cuộc đua (IITi 2Tm 4:8). Chính tên của Êtiên (Anh ngữ - Stephen) là mão miện, biểu thị cuộc chạy đua đức tin mà ông đã chạy xong và bởi đó nhận lãnh mão triều thiên của sự sống (Gia Gc 1:12 - Bản KJV).
Êtiên là nhân vật đầu tiên của hội thánh phải chịu chết vì cớ lời làm chứng mình. Sự kiện nầy đã đánh dấu một bước quan trọng đối với khái niệm tuận đạo học của chữ làm chứng trong tiếng Hylạp, martus . Chữ nầy đã xuất hiện để nói lên rằng một lời chứng là thật đến nỗi người làm chứng sẽ chịu chết để giữ vững lời chứng chứ không chịu phủ nhận nó.
Bản Chất Chức Vụ Của Ông Và Lời Buộc Tội Ông
Cong Cv 6:8-15 Bruce 132-136
25. Đối chiếu 6:8 với 2:43; 4:33; và 5:12, và nhận định về ý nghĩa của câu tuyên bố trong Côngvụ 6:8.
........
26. Việc Êtiên đã làm nhiều dấu kỳ phép lạ rất lớn cho thấy điều nào sau đây?
a) Chức vụ làm phép lạ không chỉ giới hạn cho các sứ đồ.
b) Êtiên đã nhanh chóng vượt quá thẩm quyền đã ủy thác cho ông từ lúc đầu (6:2-4).
c) Luca cho thấy rằng mỗi một người trong số bảy chấp sự đều đã có những chức vụ tương tự như chức vụ của Êtiên.
Bruce nhận định (trang 133) về Êtiên rằng tại thời điểm bổ chức, ông đã là "một người đầy đức tin và Đức Thánh Linh." Ông tiếp tục với điều mà ông cho là một giả thiết an toàn: sự đầy dẫy Đức Thánh Linh của Êtiên đã được chứng tỏ bởi những dấu kỳ phép lạ nầy thậm chí trước cả lúc được các sứ đồ đặt tay. Chính Đức Thánh Linh đã ban chức vụ quyền phép cho Êtiên để thi hành phép lạ chứ không phải do Hội thánh ban cho.
27. Khung cảnh cho chức vụ giảng đạo của của Êtiên khác với khung cảnh giảng đạo của các sứ đồ như thế nào? Đối chiếu 6:9 với 3:11-4:4; 5:12-21, 42.
........
Chữ nhà hội nghĩa đen là "một sự nhóm hiệp lại với nhau." Dạng động từ được dùng trong HeDt 10:25 là một lời khuyến cáo cho các tín đồ. Là một tổ chức tôn giáo, nhà hội là sản phẩm của sự tản lạc dân Do thái, có lẽ bắt đầu từ tận thời của Exơra. Nó thực hiện ít nhất ba chức năng: thờ phượng, giáo dục, và giao tiếp xã hội. Nhiều nhà hội tồn tại trong toàn vùng Địa Trung Hải, và có thể được thành lập với số thành viên hợp hiến tối thiểu là mười người nam Do thái (Bruce, trang 331).
28. Dựa vào kiến thức bạn đã có từ sách Côngvụ, hãy đối chiếu đền thờ với nhà hội. Những câu nào sau đây là câu đúng?
a) Có rất nhiều đền thờ Do thái, nhưng chỉ có một nhà hội.
b) Có rất nhiều nhà hội, nhưng chỉ có một đền thờ.
c) Nhà hội do những trưởng lão địa phương chịu trách nhiệm, và không có việc dâng tế lễ bằng con sinh.
d) Đền thờ, do những thầy tế lễ và người Lêvi chịu trách nhiệm, đã là một trụ sở duy nhất của người Do thái mà người ta dâng của tế lễ tại đó.
Bruce nói đến chức năng và mục đích của nhà hội. Ông cũng nhận định về con số nhà hội được đang có tại Giêrusalem (trang 133). Từ những sự kiện nầy, chúng ta thấy tầm quan trọng của "trụ sở" nầy trong sinh hoạt của người Do thái. Sau nầy trong sách Côngvụ, Phaolô đã sử dụng nhà hội như là một vị trí đổ bộ quan trọng để đem Tin Lành đến cho một thành phố.
Có một số thắc mắc về con số chính xác của các nhà hội được Luca trình bày trong Cong Cv 6:9. Sự chống đối từ thành viên của những nhà hội nầy: Nhà hội của bọn được tự do (có lẽ là những trẻ em Do thái bị Pompeii đem sang Rôma vào năm 63 S.C., và về sau đã được những kẻ cầm tù họ giải phóng cho), Những người Do thái từ Syren (Bắc Phi), từ Alécxanđơ , Aicập (thành phố đứng thứ nhì sau Rôma và đang có một khu dân cư Do thái rất đông), từ Silisi (nằm ở khu vực địa lý là Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay, vùng quê hương của Phaolô), từ Asi (vùng Lamã, là miền tây Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay). Hay sự chống đối chỉ đơn giản là từ phía nhà hội của bọn người tự do, trong đó có con cháu của những cựu phu tù Do thái, là những người đã trở về Giêrusalem từ Syren, Alecxanđơ, Silisi, và Asi? Chúng ta không biết chắc chắn câu trả lời. Tuy nhiên, sự giảng đạo của Êtiên trong nhà hội đã mang cùng một đặc trưng như của các sứ đồ. Sự tự vệ duy nhất chống lại sự giảng đạo đó chỉ còn là sự bắt bớ mà thôi.
29. Câu nào sau đây là một chiến lược đã được các sứ đồ và Êtiên thể hiện trong việc xúc tiến Tin Lành?
Để khiến cho một người tin Chúa và chịu phép báp têm.
b) Khi dân chúng không chịu tin sứ điệp Tin Lành, các sứ đồ đã nhốt họ vào tù.
Trong Tân Ước, Cơ đốc nhân không hề dùng đến bạo lực đối với thành viên của các tôn giáo khác hay đối với người theo tà giáo. Tiến bộ của Tin Lành do các sứ đồ và Êtiên đem lại là do lời làm chứng của họ cho lẽ thật, và các dấu kỳ phép lạ đi cặp theo để xác chứng cho lời của họ.
Phải viện đến sức mạnh thuộc thể để bênh vực cho tôn giáo có nghĩa là đã thú nhận sự yếu đuối của tôn giáo trong những vấn đề thuộc linh và đạo đức. Một tôn giáo như thế chứng tỏ rằng nó không thể tự bênh vực cho mình trên thương trường tư tưởng, là nơi mà lẽ thật được phát triển hay bị bác bỏ không phải do bạo lực mà do lời chứng của thực tại.
30 Hai lời vu cáo đã được những kẻ vu cáo và những kẻ bị xúi giục bí mật gán cho Êtiên là gì? (6:11-14)?
..........
31. Đây là lần thứ tư mà vấn đề Đức Chúa Jesus được đưa ra trước Tòa Công Luận. So sánh những lời buộc tội gán cho những người tự bênh vực trong mỗi trường hợp và chọn những câu ĐÚNG từ những câu sau đây (Đối chiếu Mac Mc 14:53-60; Cong Cv 4:7; 5:28 và 6:11-7:1).
a. Bản cáo trạng trong mỗi lần đều là buộc tội Đức Chúa Jesus, các sứ đồ, và Êtiên đã báo trước sự hủy diệt đền thờ.
b. Đức Chúa Jesus đã bị buộc tội là báo trước rằng Ngài sẽ hủy phá đền thờ, nhưng không ai chứng minh được lời buộc tội nầy.
c. Chỉ có Đức Chúa Jesus và Êtiên bị kết tội là báo trước sự phá hủy đền thờ.
d. Êtiên đã bị buộc những tội mà chưa hề được dùng trước đó để buộc tội các sứ đồ.
e. Êtiên đối mặt với lời buộc tội độc nhất là ông đã nói nghịch cùng Môise hoặc Luật Pháp.
Trong những câu Kinh Thánh vừa nói trên, chúng ta thấy vấn đề Đức Chúa Jesus được đưa ra trước Tòa Công Luận lần thứ tư. Và trong bài tập vừa rồi, chúng ta thấy chỉ có Đức Chúa Jesus và Êtiên bị Tòa Công Luận cáo về tội báo trước sự hủy phá đền thờ. Tuy nhiên, chỉ một mình Êtiên bị Tòa nầy cáo về tội nói phạm đến Môise hoặc Luật Pháp. Ngược lại, Phierơ và Giăng bị xét xử về tội đã chữa lành người què. Và các sứ đồ đã bị buộc tội bất tuân mạng lệnh trực tiếp của Tòa Công Luận cấm họ giảng đạo.
Lời buộc tội Êtiên là sự xuyên tạc những lời ông đã thực sự nói ra (các chứng nhân là những kẻ chứng dối ). Sự xuyên tạc nầy có thể cũng giống như sự xuyên tạc đã áp đặt cho Đức Chúa Jesus (so sánh Cong Cv 2:19-22 với Mac Mc 14:58-59). Sự tự bênh vực của Êtiên trong Cong Cv 7:1-60 cho thấy trước đó ông không báo trước sự phá hủy đền thờ về phần thuộc thể, nhưng trái lại, ông hàm ý sự không tương ứng của nó đối với niềm tin và nếp sống của Cơ đốc nhân.
Êtiên không nói trực tiếp đến luận điệu cho rằng ông đã giảng "phạm đến luật pháp," cho rằng ông nói Đức Chúa Jesus sẽ thay đổi những tập tục mà Môise đã truyền lại. (Rất có thể sự so sánh trật tự Cựu Ước với trật tự Đức Chúa Jesus mới thiết lập là rất giống với tinh thần của sách Hêbơrơ, là sách mô tả Đấng Christ trổi hơn Luật Pháp và đền thờ.) Nhưng từ phản ứng của đám đông, thì có vẻ như những kẻ làm chứng dối đã diễn giải sai lời ông đủ để chọc giận đám đông nầy. Và cũng không phải là quá khó khi lời buộc tội "nói những lời... phạm đến luật pháp" là nhằm vào một người Hêlênít. Định kiến đã ăn sâu chống lại người Hêlênít khiến họ càng dễ tin vào lời buộc tội nầy hơn. Thật thú vị khi thấy Phaolô, người mà chúng ta gặp lần lần đầu tiên trước cái chết của Êtiên, về sau nầy cũng sẽ đối diện với một lời buộc tội giống y như vậy (so sánh Cong Cv 6:13 với 21:28).
32. Từ những điều bạn đã thấy cho đến nay trong sách Côngvụ, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Trong sách Côngvụ, dường như Êtiên là người đầu tiên trong số các tín hữu nhìn thấy và nêu ra tầm quan trọng tương đối của chủng tộc, địa điểm (ngay cả đền thờ), hay lễ nghi tôn giáo so với việc tiếp nhận Lời Đức Chúa Trời và vâng phục Ngài.
b. Côngvụ 3:1 cho thấy rằng sứ đồ Phierơ và Giăng đến đền thờ trong thời gian dâng của lễ thiêu ban chiều ngay cả sau ngày Lễ Ngũ Tuần.
c. Sự trở lại đạo của rất nhiều thầy tế lễ (6:7) sẽ củng cố sự tham dự của tín đồ vào đền thờ và những mạng lệnh của đền thờ.
d. Các sứ đồ rao giảng đều đặn rằng vì Đấng Christ là sinh tế toàn hảo để chuộc tội, nên những sinh tế trong đền thờ là vô giá trị và đừng nên tham dự vào.
Về những câu a và d , chúng ta có thể nhận dịnh rằng các sứ đồ vẫn chưa thấy ý nghĩa thần học của công tác Đấng Christ khi áp dụng cho Luật Pháp và đền thờ. Họ vẫn còn đang thực hành tục lệ của luật pháp Do thái như là một nếp sống vậy (10:14; 11:2-3).
Bạn có thấy khó chịu khi các sứ đồ không hiểu ngay lập tức ý nghĩa chuộc tội trọn vẹn trong sự chết của Đấng Christ, theo như đã thấy trong sách Hêbơrơ và trong lời giảng của Êtiên, hay không? Đừng cảm thấy khó chịu như thế! Chính Đức Chúa Jesus đã công nhận rằng Ngài không có đủ thời gian để dạy toàn bộ những hàm ý của Tin Lành, và lúc đó các môn đồ chưa đủ khả năng để hiểu mọi sự. Đức Thánh Linh sẽ thay Ngài hoàn tất sự dạy dỗ của Ngài (GiGa 16:12-15). Qua Êtiên, Đức Thánh Linh đang làm ứng nghiệm lời hứa của Đấng Christ.
Bài Giảng Của Êtiên Trước Tòa Công Luận
7:1-53 Bruce 137-163
Mục tiêu 6. Thảo luận nội dung bài giảng của Êtiên và cách ông giải nghĩa lịch sử dân Ysơraên đã lập nền tảng luận lý thế nào cho lời buộc tội dứt khoát của ông, là lời đã dẫn đến sự tuận đạo của ông.
Nguyện Đức Chúa Trời tha thứ cho chúng ta vì đã nhiều lần chúng ta đọc Kinh Thánh mà mắt nhắm lại với lẽ thật! Khi còn là một Cơ đốc nhân trẻ tuổi, tôi đã nhiều lần đọc bài giảng của Êtiên và thắc mắc không biết vì sao nó lại gây ra một hiệu quả mạnh mẽ đến thế. Có vẻ như nó chẳng khác gì một bài ôn lịch sử dài dòng (đây là bài giảng dài nhất trong sách Côngvụ!), và tôi thấy nhảy từ 7:1 sang đến 7:51 còn thích thú hơn nhiều. Bài giảng nầy có vẻ như chỉ ôn lại những vấn đề nhạt nhẽo mà tôi nghĩ mình đã biết cả rồi!
Tôi mong rằng khi bạn học qua bài nầy, bạn sẽ cảm thấy tác động sâu sắc của bài giảng trên Tòa Công Luận cũng như ứng dụng của bài giảng này cho đời sống bạn nữa.
33. Khi bạn xem qua bài giảng của Êtiên ( còn được gọi là bài “thân oan” của ông, ra từ chữ Hylạp apologia , là chữ có thể ám chỉ đến một sự biện hộ hợp lý cho đức tin, IPhi 1Pr 3:15), những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Êtiên quan tâm chủ yếu đến việc bênh vực mình trước pháp luật và sắp xếp các lập luận của mình cách tốt nhất, sao cho ông có thể được tha bổng.
b. Êtiên quan tâm đến tiến bộ của việc rao giảng Tin Lành hơn là nhằm tìm an toàn cho bản thân mình.
c. Chắc Êtiên đã có nhiều giờ yên tĩnh để chuẩn bị trước những lời phải nói trước Tòa Công Luận.
d. Lời lẽ của Êtiên đại diện cho sự ứng nghiệm lời Chúa phán trong Mathiơ Mat Mt 10:19-20.
e. Dầu lời thân oan của Êtiên mang tính tùy ứng, nhưng bài giảng của ông cho thấy ông đã rất thạo Kinh Thánh Cựu Ước và đã ghi nhớ sứ điệp của Cựu Ước trong tâm trí mình. Trong trường hợp nầy, Đức Thánh Linh chỉ việc chọn sự dạy dỗ nào cần phải nhớ lại để đem ra ứng dụng thôi.
Êtiên đã tỏ ra không lo lắng đến sự an toàn của riêng bản thân mình. Từ ngày Lễ Ngũ Tuần, Tòa Công Luận đã hai lần tỏ ra do dự không biết có nên dùng sức mạnh đàn áp sứ điệp Cơ Đốc hay không. Êtiên, thầy giảng Tin Lành, đã đẩy họ tới chỗ không thể không quyết định được nữa. Bài giảng của Êtiên trong Cong Cv 7:1-53 chắc mang tính điển hình cho nội dung và tinh thần của sự giảng đạo của ông trong nhà hội (6:9-10). Chính sự giảng đạo đã đòi hỏi phải có một phán quyết. Đây mới chính là thể loại giảng đạo đại diện tốt nhất cho chức vụ giảng đạo.
34. Nêu lên bốn phần khác biệt trong bài giảng của Êtiên. Bạn có thể tóm tắt những chủ đề chính của từng phần không?
a 7:2-17 ..........
b 7:18-43 ..........
c 7:44-50 .........
d 7:51-52 ........
Thời Kỳ Tổ Phụ
Chúng ta hãy khảo sát từng thành phần trong bài giảng của Êtiên. Câu nào trong các bộ câu trả lời sau là câu ĐÚNG và phản ánh những điểm nhấn mạnh chính của Êtiên khi ông thuật lại mối tương quan của Đức Chúa Trời với các tổ phụ?
35.
a. Ngay từ đầu, Êtiên đã không nhận mình là một người Do thái.
b. Phần giới thiệu của Êtiên hàm ý tức khắc về sự liên tục giữa Đức Chúa Trời là Đấng đã tự bày tỏ cho Ápraham với sự khải thị của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ.
Dầu Êtiên không dùng những chữ cụ thể của câu b , nhưng những lời của ông "Hỡi các anh, các cha," và "Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra cùng tổ phụ chúng ta là Ápraham," đã tỏ ra cho thấy ý định của ông nhằm liên kết đức tin Cơ đốc với sự khải thị của Đức Chúa Trời cho Ápraham.
36.
a. Sự kêu gọi Ápraham là một ví dụ về sự chọn lựa tối thượng của Đức Chúa Trời, nhưng đáp ứng của Ápraham với lời kêu gọi đó chứng tỏ đức tin của ông nơi Đức Chúa Trời.
b. Ápraham đã nhận ra rằng chỉ có một Đức Chúa Trời duy nhất và đã ra đi tìm kiếm Ngài. Do đó, có thể nói rằng: "Người Do thái đã đem độc thần giáo đến cho thế giới."
Qua suốt lịch sử Ysơraên, bắt đầu từ Ápraham, Êtiên đã minh họa rằng những kỷ nguyên chính đã được chính Đức Chúa Trời mở đầu, và rằng đức tin của Ápraham không phải do tự ông mà có.
37.
a. Đức Chúa Trời hứa ban xứ cho Ápraham và cho dòng dõi ông ngay cả trước khi Ápraham có con trai. Ápraham còn biết dòng dõi ông sẽ bị đoạt mất xứ trong 400 năm, nhưng ông đã bày tỏ niềm tin nơi giao ước Đức Chúa Trời, bằng cách làm phép cắt bì cho người con trai cuối cùng đã được sinh ra cho ông. Đây là dấu hiệu của giao ước giữa Đức Chúa Trời và những người sẽ làm dân sự của Ngài.
b. Ápraham và con trai ông chịu cắt bì trước khi Đức Chúa Trời lập giao ước với họ. Đức Chúa Trời đã lập giao ước bằng phép cắt bì với họ vì trước đó họ đã thực hiện nghi lễ tôn giáo nầy.
Êtiên đang bắt đầu lập nền tảng, bằng cách cho thấy Ápraham đã tin và đã thờ phượng Đức Chúa Trời trước khi có Luật Pháp và không có đền thờ. Người Do thái đã tự kiêu hãnh vì là dòng dõi của Ápraham, nhưng Êtiên tiếp tục nêu ra rằng kẻ vô tín trong dân Ysơraên, thậm chí từ thời các tổ phụ, đều làm trái ngược với đức tin của Ápraham. Do đó, trước mặt những người đang lắng nghe chăm chú, Êtiên bắt đầu ám chỉ rằng Luật Pháp và đền thờ đã không làm gì được để kiểm tra khuynh hướng vô tín quen lệ của Ysơraên, một khuynh hướng mà Ápraham không hề có.
38.
a. Các anh Giôsép đã không chịu tin khải thị của Đức Chúa Trời về chính Giôsép. Họ đã bán ông vì cớ ganh ghét (bạn có nhớ Mat Mt 27:18; Cong Cv 5:17?). Tuy nhiên Đức Chúa Trời đã bảo vệ Giôsép để cứu cha và các anh em, họ hàng của ông.
b. Các con trai của Giacốp đã thể hiện đức tin nơi Đức Chúa Trời từ khá sớm, bằng cách chấp nhận sự khải thị của Đức Chúa Trời cho Giôsép qua những giấc chiêm bao.
Lưu ý lối tiếp cận của Êtiên đã trở nên có chủ ý hơn và có suy tính hơn. Ông đã truy ra ở các con trai Giacốp căn nguyên của tội phản bội và truy ra nguồn gốc sự cứu rỗi bắt nguồn từ chỗ người bị phản bội đã bị nộp cho những kẻ phản bội Ngài.
Êtiên đã cho chúng ta nhìn thoáng qua đức tin của Giacốp khi ông yêu cầu được chôn trong xứ được hứa ban cho dòng dõi ông chứ không chôn trong Êdíptô, nơi mà họ đang sinh sống lúc bấy giờ. Bruce nhận định rằng sự có mặt ngôi mộ của họ trong đất hứa là một dấu hiệu cho thấy, dẫu dòng dõi của Giacốp đã chết trong đất Êdíptô, thì họ vẫn đã chết trong đức tin (trang 149).
Môise Và Luật Pháp
Tòa Công Luận có quý trọng mối quan hệ của họ với Môise và Luật Pháp không? Êtiên cho thấy chính Môise đã bị khước từ như thế nào và Luật Pháp đã bị khinh bỉ bởi những kẻ tự cho mình là dân sự của Đức Chúa Trời như thế nào.
Cho biết câu nào ĐÚNG trong những câu sau đây.
39.
a. Êtiên cho thấy Môise là phương tiện để Đức Chúa Trời dùng giải cứu Ysơraên ra khỏi Êdíptô và dân Ysơraên đã khước từ quyền lãnh đạo của ông ngay từ lần xuất hiện đầu tiên.
b. Êtiên cho thấy rằng toàn thể Ysơraên tại Êdíptô đã ngay lập tức tập trung quanh Môise như là người giải phóng họ.
Một lần nữa, tại đây, người bị khước từ đã trở thành người giải phóng và người cai trị, do chính Đức Chúa Trời chỉ định! Cũng chính Môise nầy đã nói về một tiên tri khác (là Đấng mà Êtiên biết chính là Đức Chúa Jesus) giống như chính Môise, là Đấng mà chính Đức Chúa Trời sẽ lập lên. Giống như Môise, Đức Chúa Jesus cũng đã bị chối bỏ trong tư cách đấng giải cứu và đấng cai trị, tuy nhiên Đức Chúa Trời đã thiết lập Ngài.
40.
a. Sau khi chối bỏ Môise lần đầu tiên, con cái Ysơraên không hề tái phạm lỗi lầm đó nữa.
b. Không những Môise bị chối bỏ ngay từ lần xuất hiện đầu tiên, mà ông còn bị chối bỏ sau khi đã dẫn dắt dân Ysơraên bằng những dấu kỳ và phép lạ để ra khỏi Êdíptô, vượt Biển Đỏ, và khi đi trong đồng vắng.
c. Môise đã được một thiên sứ thăm viếng tại núi Sinai kèm theo sự ban cho những lời sấm truyền hằng sống (Luật Pháp), tuy nhiên dân Ysơraên vẫn không chịu vâng lời ông, đòi quay về xứ Êdíptô, và đã thờ lạy hình tượng.
Sự chối bỏ Môise liên tục đã cho Êtiên một phép so sánh tương tự trong việc Tòa Công Luận liên tục chối bỏ Đấng Christ. Sự chối bỏ Môise lần thứ nhì chính là đặc điểm của sự bội đạo (7:39-41).
41.
a. Vì trong đồng vắng và trong suốt thời kỳ là một vương quốc, dân Ysơraên đã từ bỏ Đức Chúa Trời để thờ lạy hình tượng (cả 40 năm lưu lạc trong đồng vắng lẫn từng trải làm một vương quốc đều được kết hợp trong 7:42-43, là câu trích từ AmAm 5:25-27), nên Đức Chúa Trời đã từ bỏ họ và phú họ thờ lạy hình tượng, bằng cách cho họ làm phu tù tại chính các nước mà các hình tượng được đối đãi như là các vị thần.
b. Sau khi ban Luật Pháp, dân Ysơraên chẳng bao giờ thờ lạy hình tượng nữa cả.
Êtiên thiết lập động lực cho bài thân oan của mình. Lời lẽ của ông phù hợp với lời các tiên tri Cựu Ước lên án sự bất trung của Ysơraên. Hàm ý của ông cho những người cho mình đang tôn kính Luật Pháp ấy là: trái lại họ đã hình thành trong dân Ysơraên một phần tử chối bỏ Luật Pháp và chọn thờ lạy hình tượng.
Đền Tạm Và Đền Thờ
42. Việc dân Ysơraên có được địa điểm để thờ phượng (đền tạm chứng cớ và đền thờ) có bảo đảm được sự thuần khiết và sức sống của đức tin họ không? Căn cứ vào lời của Êtiên trong Cong Cv 7:44-50, bạn sẽ nói gì?
..........
Hàm Ý Dứt Khoát
Với lối nói ngôn ngữ súc tích và dạn dĩ, Êtiên đã rút ra kết luận của mình. Sự chối bỏ Đấng Christ liên tục của Tòa Công Luận Đấng Christ bắt nguồn từ những tiền lệ thuộc linh xấu xa trong lịch sử của Ysơraên.
Ápraham đã tin mà không cần nhìn thấy bằng chứng của xứ, của con trai, luật pháp hay đền thờ. Những người đã chối bỏ một lời chứng quá rõ ràng như Đức Chúa Jesus thế kia thì họ không phải là kẻ kế tự đức tin qua phép cắt bì của Ápraham! Không! Họ là những kẻ có lòng và tai chưa được cắt bì (Gie Gr 9:26).
Trước đó dân Ysơraên có tin Môise và có lấy đức tin tiếp nhận luật pháp đã được ban cho với sự hiện diện của thiên sứ không? Không! Họ đã được Đức Chúa Trời và Môise gọi là một dân cứng cổ (XuXh 33:3, 5). Họ hiện vẫn là một dân cứng cổ!
Họ là con cháu của những kẻ bắt bớ, chứ không phải con cháu của những đấng tiên tri (một ý mà chính Đức Chúa Jesus đã nêu ra một cách đanh thép, Mat Mt 23:31). Sự bất trung trong lịch sử của họ được thực hiện dầu có hay không có luật pháp và đền thờ đi nữa đã đạt đến kết quả cuối cùng là sự phản bội và giết chết Đức Chúa Jesus Christ! Có người đã kết tội rằng những lời nói của Êtiên là quá khắt khe, nhưng những lời đó không khác gì những lời Đức Chúa Trời đã phán qua Môise (LeLv 26:14-39), Êsai (EsIs 2:5-4:1), Giêrêmi (Gie Gr 2:1-3:5), Amốt (AmAm 8:1-9:10), cùng mọi đấng tiên tri khác nữa! Êtiên chỉ đang đầy dẫy Đức Thánh Linh. Do đó, ông đã trở thành một ống dẫn cho Đức Thánh Linh hoàn thành nhiệm vụ của Ngài: cáo trách Tòa Công Luận về tội lỗi của họ. Ở đây chúng ta thấy ứng dụng của một nguyên tắc cơ bản: Lòng nhân từ của Đức Chúa Trời lúc đầu có thể bị khước từ do sự ngu muội (Cong Cv 3:17), nhưng nếu con người cứ miệt mài trong sự chối bỏ ý chỉ đã bày tỏ của Đức Chúa Trời, thì họ chỉ càng trở nên cứng lòng để dấy nghịch mà thôi. Rốt cuộc, họ trở nên đối tượng cho công lý trừng phạt của Đức Chúa Trời (Cong Cv 7:51-53; Eph Ep 2:2-3; CoCl 3:6; cũng xem ChCn 29:1). Có người đã nói: "Có một ranh giới vô hình ngang qua mọi lối đi, và đó chính là ranh giới giữa lòng nhân từ và thạnh nộ của Đức Chúa Trời!"
Đối với dân tộc Ysơraên, giờ được thăm viếng đã đến, và Ysơraên đã khước từ lòng thương xót của Đức Chúa Trời. Do đó, Êtiên đã ám chỉ ra cho thấy một cách mạnh mẽ rằng thính giả của ông đã liên quan đến một điều khác: sự đoán phạt.
Tôi còn thấy có một ứng dụng nữa trong bài giảng của Êtiên. Dầu phần sau đây không phải là bố cục của Êtiên, nhưng những ví dụ mà ông dùng đã minh họa bốn giai đoạn trong đời sống của mỗi con người được Đức Chúa Trời kêu gọi để thực hiện mục đích của Ngài.
I. Sự kêu gọi chúng ta là đến từ Đức Chúa Trời.
A. Đức Chúa Trời đã hiện ra cho Ápraham (Cong Cv 7:2).
B. Đức Chúa Trời đã ở cùng Giôsép (7:9).
C. Môise được Đức Chúa Trời kêu gọi (7:31-34).
II. Sự kêu gọi chúng ta buộc phải có sự lựa chọn.
A. Ápraham đã phải quyết định lìa bỏ xứ Mêsôbôtami rất phát triển (7:4).
B. Giôsép đã sống trung tín theo Đức Chúa Trời trong những nghịch cảnh của ông (SaSt 39:7-23).
C. Môise chịu đồng cảnh ngộ với anh em mình, dầu rằng ông được dạy dỗ theo sự khôn ngoan của xứ Êdíptô (Cong Cv 7:22).
III. Sự lựa chọn của chúng ta được tiếp theo bởi một thời kỳ của "sự chết."
A. Ápraham đã không có xứ cũng như không có con trai, và lời hứa dường như đã chết (7:5).
B. Giấc chiêm bao của Giôsép dường như đã mất đi giữa những nghịch cảnh của ông (7:9).
C. Môise đã trải nhiều năm chịu lưu đày (7:29) và bị chối bỏ (7:39).
IV. Thời kỳ chịu chết của chúng ta được tiếp theo bởi sự xác chứng.
A. Dòng dõi Ápraham nhận được xứ.
B. Giấc mơ của Giôsép đã trở thành sự thật.
C. Môise đã được công nhận là một nhân vật nổi bật nhất trong lịch sử Ysơraên.
Chính Đấng Christ đã đi qua hết tiến trình của sự chọn lựa trong sự cám dỗ Ngài, của giờ phút chịu chết, và của sự xác chứng.
Êtiên được kêu gọi không phải bởi ý riêng của ông, nhưng bởi hành động của Đức Thánh Linh thông qua sự chọn lựa của hội thánh. Ông đã chọn đáp ứng. Ông hiện đối mặt với thời điểm của sự chết, nhưng sự xác chứng sẽ đến (7:55-56).
43. Bạn hiện đang ở đâu trong trình tự diễn tiến của sự kêu gọi, sự chọn lựa, sự chết, và sự xác minh?
..........
Tôi hy vọng trình tự nầy đã giúp cho tâm linh của bạn. Hãy nhớ rằng thời điểm sự chết là thời điểm khó khăn nhất. Những ước mơ và công việc của chúng ta chết đi và chúng ta trở nên buồn nản, nhưng chúng ta được bảo đảm rằng đạo của chúng ta là một đạo của sự phục sinh. Sự chết là để làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Ngài sẽ hoàn tất đời sống và công việc của chúng ta bằng sự xác minh, nếu những việc làm của bạn đã và đang được thực hiện trong Ngài.
Sự Qua Đời Của Êtiên
7:54-8:1 Bruce 163-173
Mục tiêu 7. So sánh vụ Tòa Công Luận xử Êtiên với những vụ xét xử trước đó đối với Phierơ và Giăng và với hết thảy các sứ đồ.
Vấn đề Đức Chúa Jesus hiện đã được đưa ra trước Tòa Công Luận đến lần thứ tư (Mac Mc 14:53-65) Cong Cv 4:5-22; 5:17-40 và 6:12-8:1). Luca đã không cho chúng ta thấy lại bất cứ một vụ nào tương tự trước Tòa Công Luận mãi cho đến 25 năm sau (22:30-23:20), khi Phaolô bị đưa ra trước hội đồng nầy.
Khi Êtiên nói xong, cơn giận dữ của Tòa Công Luận bùng lên, vượt quá sức kiềm chế của môn đồ Gamaliên. Một môn đồ và là người được bảo trợ của Gamaliên, Saulơ (Cong Cv 22:3), đã tỏ rõ sự bất đồng đồng ý kiến với triết lý của Gamaliên (7:58; 8:1).
Lời Êtiên chỉ trích đền thờ đã khiến ông mất đi sự mến mộ mà các sứ đồ đã có được giữa vòng dân chúng (đối chiếu 4:21-5:26 với 6:11-12).
Không còn bị ngăn trở bởi ý kiến được ưa chuộng hay sự phản đối của người Pharisi, Tòa Công Luận đã tuyên án tử hình Êtiên. Hoặc sự thay đổi những quan tổng đốc Lamã đã khiến Tòa Công Luận được phép thực thi quyền hành trong lúc khuyết chân lãnh đạo, hoặc rất có thể là Philát đang ở tại phía bắc ở Sêsarê và chỉ muốn làm ngơ trước toàn bộ sự việc.
44. Theo F. F. Bruce (trang 170-171), phương pháp ném đá liên quan đến những điều nào sau đây?
a) Mọi người đồng thời đều ném mỗi người một túi đá.
b) Nạn nhân bị lột hết y phục rồi bị xô xuống một vách đá cao gấp đôi chiều cao của người đó. Nếu cú ngã nầy không giết chết người ấy, một viên đá sẽ được thả từ trên cao rơi xuống trên người đó, và đá cứ tiếp tục rơi xuống cho đến khi người đó được tuyên bố là chết hẳn.
Mục tiêu 8. Giải thích ý nghĩa sự chết của Êtiên và những ứng dụng của nó đối với đời sống bạn.
Hành động chịu chết của Êtiên mang ít nhất hai ý nghĩa quan trọng: sự hiện ra của Đức Chúa Jesus Christ, và sự bày tỏ thái độ của Êtiên đối với những kẻ bắt bớ ông.
45. Xem 6:3, 8 7:55 và viết ra những từ ngữ đã được dùng để mô tả sự đầy dẫy trong đời sống của Êtiên.
a 6:3 Ông đã ..........
b 6:8 Ông đã ..........
c 7:55 Ông đã ..........
Bạn còn nhớ chúng ta đã luận thế nào đến từ ngữ đầy dẫy Đức Thánh Linh trong 4:8-31 không? Lúc bấy giờ nó biểu thị rằng những áp lực mới đã mở rộng nhu cầu cần Thánh Linh Đức Chúa Trời, và để thỏa đáp cho những nhu cầu mới, thì đã có sự ban cho mới! Giờ đây (7:55), những áp lực của sự tuận đạo trên Êtiên đã đem lại những nhu cầu mới để vận dụng sự dạn dĩ, đức tin, và tình yêu thương. Đức Thánh Linh đã đổ đầy đẫy những chỗ đang rộng mở do sự kéo căng ra trong chính tâm linh của Êtiên.
46. Những câu nào sau đây là ĐÚNG đối với sự hiện ra của Đức Chúa Jesus được ban cho Êtiên khi ông nhìn chăm lên trời?
a. Trong bản ký thuật của Luca, Êtiên là người đầu tiên nhìn thấy Chúa được tôn cao bên hữu Đức Chúa Cha.
b. Lời làm chứng của ông trước Tòa Công Luận phù hợp với lời làm chứng của Đức Chúa Jesus về chính Ngài khi Ngài bị Tòa Công Luận xử án (Mac Mc 14:62).
c. Từ ngữ “Con Người” - được Đức Chúa Jesus dùng trong các sách Tin Lành (nhưng các sứ đồ không hề dùng đến) để mô tả về chính Ngài - được chính Êtiên sử dụng, và văn mạch của từ ngữ nầy khẳng định bản tánh của Con Người như đã được nhìn thấy trong DaDn 7:13-14.
d. Về cơ bản, sự hiện ra nầy phù hợp với lời Phaolô mô tả địa vị quyền uy của Đức Chúa Jesus bên hữu Đức Chúa Trời trên thiên đàng (Eph Ep 1:20).
Trong khi Đức Chúa Jesus giao phó linh hồn Ngài trong tay Đức Chúa Cha khi Ngài chết (LuLc 23:46), thì Êtiên giao phó linh hồn ông cho Đức Chúa Jesus (Cong Cv 7:59). Trong việc nầy, ông đã làm theo gương của Chúa khi Ngài trút hơi và làm chứng cho đức tin mình nơi bản tánh thiên thượng của Chúa.
47. Câu nói nào nữa của Êtiên cho thấy ông ý thức để chết theo đúng bước chân của Chúa (IPhi 1Pr 2:21), và câu nói đó cho thấy điều gì về thái độ của Êtiên đối với Tòa Công Luận?
..........
Dầu bài giảng của Êtiên có vẻ chói tai, nhưng đã phát xuất từ một tấm lòng thổn thức, thậm chí giống như Đấng Christ đã than khóc sau khi nghiêm khắc lên án những kẻ giả hình (Mat Mt 23:37). Sứ điệp của Êtiên đã được rao giảng với sự công chính, chứ không phải với sự giận dữ. Thậm chí sau bốn lần Tòa Công Luận khước từ Đức Chúa Jesus và những môn đồ Ngài, thì họ vẫn còn có thể ăn năn! Ôi! Ân điển và sự nhẫn nhục của Ngài thật lớn lao biết bao!
48. Sự hoán cải của ai rõ ràng đã phát xuất từ lời cầu nguyện của Êtiên?
..........
49. Phương cách Êtiên đối diện với sự chết đã giúp bạn đối diện thế nào với sự chết của chính bản thân bạn?
..........
Chúa gặp mặt các môn đồ Ngài. Thật vui sướng biết bao khi nhận ra rằng lời Êtiên cầu nguyện xin Đức Chúa Jesus tiếp lấy linh hồn ông đã được nhậm. Ra khỏi thân thể nầy tức là để ở với Chúa (IICo 2Cr 5:8).
TÓM TẮT
Mục tiêu 9. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung của Côngvụ Cong Cv 6:1-8:1.
Sau khi Êtiên tuận đạo, Hội thánh sẽ không bao giờ như xưa nữa. Sau khi ông tuận đạo , Cơ đốc nhân tản lạc đến những nơi khác, và họ trở nên chứng nhân tại những nơi đó. Dầu chúng ta không có câu chuyện về Êtiên trước khi ông giảng trước Tòa Công Luận, nhưng chúng ta có thể chắc chắn rằng sứ điệp đó nói về đời sống, sự chết, và sự phục sinh của Đấng Christ. Sứ điệp của ông đã tác động và đã thay đổi sự hiểu biết về Luật pháp Môise, và đã lập một nền tảng rộng lớn hơn cho việc rao truyền Đấng Christ cho dân ngoại. Sự giảng đạo về sau nầy của Phaolô đã vang dội mạnh mẽ sứ điệp và chiến lược của Êtiên (9:28-29; 21:28).
Hãy lưu ý đến danh mục những thành tựu độc nhất vô nhị mà Luca ghi lại về Êtiên: Ông là người đầu tiên được ghi lại là đã giảng trong nhà hội; ông là người đầu tiên áp dụng những hàm ý trong đời sống và công vụ của Đấng Christ cho Luật Pháp và sự thờ phượng tại đền thờ (bài giảng của ông là tiền thân cho Thơ Hêbơrơ); và ông là Cơ đốc nhân tuận đạo đầu tiên.
50. Dùng lời của bạn tóm tắt vào vở nội dung của Côngvụ 6:1-8:1.
Bài tự trắc nghiệm
CÂU ĐÚNG - SAI. Viết chữ Đ vào khoảng trống nếu là câu đúng; Viết chữ S nếu là câu sai, rồi sửa câu sai lại cho đúng.
.... 1 Những quy định hay những tư cách, phẩm chất của bảy "chấp sự" gồm có ba phẩm chất, tức là, họ đã phải theo Chúa trong chức vụ tại thế của Ngài, họ đã phải thấy Ngài sau khi Ngài thăng thiên, và họ hẳn phải kinh nghiệm Lễ Ngũ Tuần với tư cách thành viên trong số 120 môn đồ.
Những quy định hay những tư cách, phẩm chất của bảy "chấp sự" gồm có ba phẩm chất, tức là,
..........
.... 2 Nan đề của hội thánh trong 6:1-15 đã có một tác động rất quan trọng trên hội thánh, vì rốt cuộc nó đã khiến các tín hữu tản lạc ra nước ngoài, và do đó giúp họ làm trọn Đại Mạng Lịnh Truyền Giáo.
Nan đề của hội thánh trong 6:1-15 đã có một tác động rất quan trọng trên hội thánh,
..........
.... 3 Theo tác giả tài liệu hướng dẫn của bạn, Bài 5 nêu ra lẽ thật của RoRm 8:28 ấy là: Đức Chúa Trời vĩnh viễn hành động trong mọi sự.
Theo tác giả tài liệu hướng dẫn của bạn, Bài 5 nêu ra lẽ thật của 8:28 ấy là:
..........
.... 4 Nan đề của hội thánh trong Cong Cv 6:1-15 dạy chúng ta rằng người nam và người nữ nào thuộc về Đức Chúa Trời mà giảng dạy với tư cách "những người lãnh đạo thuộc linh," thì họ không phải làm những nhiệm vụ vặt vãnh, và rằng chúng ta đừng nên đòi hỏi họ hạ mình làm những công việc lao khó tầm thường.
Nan đề của hội thánh trong 6:1-15 dạy chúng ta rằng
..........
.... 5 Dựa vào phần bạn nghiên cứu 6:1-15, có thể nói trung thực rằng nguyên nhân của nan đề trong hội thánh chính là định kiến đã tồn tại giữa thành phần người Hêlênít và người Hêbơrơ trong hội thánh.
Dựa vào phần bạn nghiên cứu 6:1-15, có thể nói trung thực rằng nguyên nhân của nan đề trong hội thánh chính là
..........
TRẢ LỜI NGẮN. Điền vào khoảng trống bằng (những) chữ thích hợp cho câu được đúng nghĩa.
6. Trong số bảy người được chọn làm “chấp sự,” có hai người được xác định hơi đầy đủ hơn. Họ là .......... và ..........
7. Để quản lý đúng đắn những ngân quỹ cho người cùng túng, cần phải tuyển chọn ra những người có trách nhiệm. Trong quá trình tuyển chọn, .......... đã thiết lập những quy định để chọn "những chấp sự," và .......... đã tuyển chọn họ từ trong cộng đồng Cơ đốc.
8. Thoạt đầu, nan đề dường như xuất phát từ việc xem như bỏ bê những góa phụ người Hêlênít. Khi sự tuyển chọn kết thúc, có vẻ như hội chúng đã chọn bảy người là ..........
9. Chức vụ của Êtiên là một phước hạnh cho hội thánh. Ngoài bổn phận làm người đầy tớ cho hội chúng, Êtiên còn làm .......... và .......... lớn lao giữa vòng dân chúng.
10 Chức vụ của Êtiên đối với những Người Được Tự Do đã chứng tỏ rằng ông đã thấu hiểu ý nghĩa của đời sống và công vụ của Đấng Christ, mà điều đó chỉ dẫn tới một kết luận: rằng .......... và .......... đã bị thay thế bởi một trật tự mới, tức là trật tự của Đức Chúa Jesus.
CÂU CHỌN LỰA. Chọn câu trả lời đúng nhất trong những câu trả lời đã cho.
11. Trong bài giảng của Êtiên, ông cho thấy Ápraham đã được kêu gọi, đã được vào trong mối tương quan giao ước với Đức Chúa Trời, và đã bước đi trong sự vâng lời Đức Chúa Trời trước sau như một
a) bởi vì thái độ của ông đối với Luật Pháp.
b) vì cớ đức tin của ông mà không cần đến Luật Pháp.
c) để làm ứng nghiệm quy luật tự nhiên.
12. Ông tiếp tục bài giảng bằng cách nhắc đến Giôsép, người được Đức Chúa Trời chọn lựa để bảo tồn con cái Ysơraên, và nói rằng
a) bất chấp khải thị của Đức Chúa Trời, các con trai Giacốp đã phản bội em mình vì cớ họ tức giận phương pháp của Đức Chúa Trời, và do đó đã chối bỏ Đức Chúa Trời.
b) con người có đáp ứng gì cũng không quan trọng, vì Đức Chúa Trời luôn luôn làm thành mọi việc bất chấp đến con người.
c) vì con người không hiểu được công việc của Đức Chúa Trời, nên họ không phải chịu trách nhiệm về hành vi ứng xử của mình.
13. Theo Êtiên, Môise có đầy đủ bằng chứng để chứng tỏ mình là lãnh tụ được chọn của Đức Chúa Trời, nhưng
a) trước sau dân Ysơraên vẫn chống đối quyền lãnh đạo của ông và tỏ ra không sẵn lòng bước theo ý chỉ và đường lối của Đức Chúa Trời.
b) nhờ có Luật Pháp, đền tạm, và hệ thống thờ phượng trong Lêviký (thêm vào đó là sự hiện diện của Đức Chúa Trời) giúp hướng dẫn họ, dân Ysơraên chỉ còn học cách bước đi theo đường lối của Đức Chúa Trời suốt nhiều thế kỷ.
c) ông đã bị khước từ chỉ vì cớ dân sự muốn Đức Chúa Trời làm lãnh tụ của họ chứ không cần một con người làm đại diện.
14. Khi nói đến sự thờ phượng tại đền thờ của Ysơraên, Êtiên suy luận ra
a) đền thờ cùng với mọi hình bóng biểu tượng phong phú của nó sẽ tiếp tục nổi bật lên trong chương trình thờ phượng của Ysơraên.
b) rằng toàn bộ kinh nghiệm của Ysơraên dưới Luật Pháp chẳng qua chỉ là một sự thất bại.
c) không một nơi ở nào trong trần gian nầy có thể chứa được Đức Chúa Trời; do đó, dân Ysơraên nên nhìn xa hơn một tòa nhà để nhìn thấy sự thờ phượng thật.
15. Bài giảng của Êtiên đã kết thúc ở một mức độ mạnh mẽ khi ông so sánh những thế hệ trước của đồng bào ông với thế hệ của ông bằng cách nói rằng
a) kiểu mẫu chối bỏ Đức Chúa Trời trong lịch sử của dân Y-sơ-ra-ên được tiếp tục qua lối cư xử và lối sống của thính giả đang nghe ông nói.
b) cũng cùng một tấm lòng tận tâm và quý mến đối với Luật Pháp đang được tiếp tục trong hành vi của thính giả đang nghe ông nói.
c) phương án thay thế duy nhất cho những nan đề thuộc linh trong thời của ông và của mọi thế hệ đi trước ông ấy là tiêu diệt hệ thống cũ và thiết lập một hệ thống mới và tốt hơn.
16. Sự giải luận của Êtiên về một trật tự do Đức Chúa Jesus thiết lập bao gồm cùng một thể loại tiếp cận như đã được thấy trong sách
a) IGiăng.
b) Rôma.
c) Hêbơrơ.
17. Đáp ứng của đoàn dân đối với lời tóm tắt của Êtiên có thể mô tả đúng nhất là
a) khắc nghiệt nhưng đúng luật pháp, mọi sự đã được thực hiện để bảo đảm có một cuộc xét xử công bằng.
b) hung tợn, tàn bạo, và mù quáng. Họ đã đáp ứng rất giống với cách của thú vật.
c) phù hợp với cách đối xử thông thường cho một phạm nhân đã bị kết án.
18. Phản ứng của Êtiên đối với “công lý” của đám đông có thể mô tả như là
a) đầy sợ hãi.
b) giống như Đấng Christ.
c) ích kỷ.
19. Gamaliên đã tán thành chính sách “không can thiệp” đối với Đạo mới nầy. Nhưng Saulơ, một trong những môn đệ của ông, đã áp dụng một chính sách
a) đàn áp tàn bạo.
b) chống đối chính thức; tức là, chỉ bất đồng tư tưởng, nhưng không dùng bạo lực.
c) hoàn toàn làm ngơ nan đề nầy.
20. Kết quả sự chết của Êtiên là sự bắt bớ
a) làm giảm rất nhiều kết quả của hội thánh và tác động triệt để đến sự tăng trưởng của hội thánh.
b) đã khiến hội thánh thay đổi chiến thuật, để sự giảng đạo của hội thánh không còn xúc phạm đến bất cứ ai nữa. Hội thánh sẽ tìm cách chinh phục các tân tín hữu chỉ bằng cách nêu gương mà thôi.
c) khiến các tín hữu chạy đi khắp mọi nơi, giúp họ làm ứng nghiệm Cong Cv 1:8. Và sự tăng trưởng phi thường đã đi kèm theo sự tản lạc ra ngoại quốc.
GIẢI ĐÁP
1. c) Chúng ta có thể và nên rút ra bài học từ những thất bại của chính chúng ta.
2.
a Hội thánh đã tăng trưởng rất nhiều và rất nhanh.
b Phúc lợi tự phát được bày tỏ trong 2:44 và 4:34-35 hiện cần sự quản lý cẩn thận hơn để có thể đáp ứng được cho những nhu cầu của mỗi cá nhân bên trong cộng đồng ngày càng đông của các tín đồ.
3. Người Hêlênít (người Do thái nói tiếng Hy lạp) đã lằm bằm với người Hêbơrơ (người Do thái nói tiếng Aram) vì cớ những góa phụ của họ đã bị bỏ bê trong sự cấp phát lương thực hằng ngày.
4.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Đúng.
e. Đúng.
5. f) Đem sự tổn thương của bạn đến trực tiếp với người đã gây ra nó.
6.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
e. Sai.
f. Đúng.
g. Sai.
h. Đúng.
i. Sai.
j. Đúng.
7.
a. Đúng.
b. Sai.
8. Khi hội thánh tăng trưởng, những lãnh đạo của hội thánh đã biết ủy thác trách nhiệm và thẩm quyền cho những người được tin cậy, có tài năng và đầy dẫy Đức Thánh Linh. Họ cũng đã xác định rõ ràng những bổn phận đã giao phó. Hiển nhiên, họ đã vui mừng chứ không trở nên bối rối khi Đức Chúa Trời bắt đầu sử dụng Êtiên thi hành những phép lạ như Ngài đã từng sử dụng họ (6:8).
9. b) Toàn thể các tín hữu. (Những chức vị đầu tiên được đưa vào trong hội thánh bao gồm tiến trình tuyển chọn của cả hội chúng.)
10. a) Các sứ đồ.
11. a) Các sứ đồ.
12. b) Với tinh thần yêu thương, toàn thể hội thánh.
13. Câu trả lời của bạn nên phản ánh 6:3 và đáp ứng của riêng bạn cho ba phẩm chất cụ thể nầy.
14. Câu trả lời của bạn. (Tôi nghi ngờ điều nầy.)
15. Các thầy tế lễ. Sự nhẫn nại không ngừng của các sứ đồ và các tín hữu tại đền thờ không thể không để lại trong họ một lời chứng hùng hồn.
16. bảy
17. Êtiên.
18. Saulơ.
19. Philíp, Samari, Hoạn quan Êthiôbi, Philíp.
20. Antiốt.
21. Antiốt, những Cơ đốc nhân, Giêrusalem.
22. Antiốt, Saulơ, Banaba, và Giăng Mác.
23. Đẹtbơ, Líttrơ, Antiốt xứ Bisiđi; Philíp; Têsalônica; Bêrê; Athên; Côrinhtô; Êphêsô.
24. Ít nhất là tuyển tập 13 thơ tín của Phaolô.
25. Câu trả lời của bạn. (Tôi thấy cho đến lúc nầy trong sách Côngvụ, chỉ thấy có các sứ đồ làm các phép lạ dấu kỳ. Giờ đây Êtiên cũng có một chức vụ tương tự.)
26. a) Chức vụ làm phép lạ không chỉ giới hạn cho các sứ đồ.
27. Câu trả lời của bạn nên nói lên rằng chức vụ của Êtiên được xem như diễn ra trong nhà hội, trong khi đó, chức vụ của các sứ đồ được xem như diễn ra trong đền thờ.
28. 5. a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
29.
a) Cơ đốc nhân không hề dùng bạo lực.
b) Có rất nhiều nhà hội, nhưng chỉ có một đền thờ.
c) Nhà hội do những trưởng lão địa phương chịu trách nhiệm, và không có việc dâng tế lễ bằng con sinh.
d) Đền thờ, do những thầy tế lễ và người Lêvi chịu trách nhiệm, đã là một trụ sở duy nhất của người Do thái mà người ta dâng của tế lễ tại đó.
30. Lời buộc tội đầu tiên ấy là Êtiên nói phạm đến Môise và Đức Chúa Trời (6:11, 13, 14). Lời buộc tội thứ nhì liên quan đến lời tuyên bố của Êtiên cho rằng Đức Chúa Jesus sẽ phá hủy đền thờ (6:13, 14).
31.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Đúng.
e. Đúng.
32.
a Đúng.
b Đúng.
c Đúng.
d Sai.
33.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
e. Đúng.
34.
a. Phần thứ nhất nói về mối tương quan của Đức Chúa Trời với các tổ phụ, đặc biệt là là Ápraham và Giôsép, trong việc tạo dựng và bảo tồn một dòng dõi cho Ápraham.
b. Phần thứ nhì nói về sự kêu gọi Môise và việc ban cho Luật Pháp. Môise đã bị khước từ và Luật pháp đã bị bỏ để đi thờ hình tượng.
c. Phần thứ ba thuật lại sự kiện dân Ysơraên đã thờ phượng Đức Chúa Trời trước khi có đền thờ, và trong lúc khánh thành đền thờ thì Salômôn, cũng như tiên tri Êsai sau nầy, đã công nhận rằng đó không phải là nơi ngự của Đức Chúa Trời.
d. Phần thứ tư cho thấy Êtiên tiến đến kết luận rằng sự chối bỏ Đức Chúa Jesus của Tòa Công Luận là phù hợp với việc Ysơraên mãi mãi chối bỏ tiếng gọi của Đức Chúa Trời.
35.
a. Sai.
b. Đúng.
36.
a Đúng.
b Sai.
37.
a. Đúng.
b. Sai.
38.
a. Đúng.
b. Sai.
39.
a. Đúng.
b. Sai.
40.
41.
a. Đúng.
b. Sai.
42. Tôi sẽ nói rằng “không.” Êtiên vừa mới kết luận rằng từng trải của Ysơraên đã nổi bật liên tục bởi sự thờ lạy hình tượng (7:42-43). Hơn thế nữa, không thể chứa Đức Chúa Trời trong một tòa nhà như lời của Salômôn (IVua 1V 8:27) và của Êsai (EsIs 66:1-2).
43. Câu trả lời của bạn.
44. b) Nạn nhân bị lột hết y phục rồi bị xô xuống một vách đá cao gấp đôi chiều cao của người đó.
45.
a. đầy dẫy Đức Thánh Linh và sự khôn ngoan.
b. đầy dẫy ơn và quyền phép.
c. đầy dẫy Đức Thánh Linh.
46.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Đúng.
47. Câu trả lời của bạn. Tôi chắc chắn rằng bạn đã nhận thấy tinh thần tha thứ đầy nhân ái của Êtiên là giống y như Thầy của ông.
48. Saulơ. (Có người đã nói rằng hội thánh thừa nhận sự hoán cải của Saulơ là do kết quả lời cầu nguyện của Êtiên! )
49. Câu trả lời của bạn.
50. Câu trả lời của bạn. Tôi đã liệt kê như sau: Thứ nhất, câu chuyện rắc rối của hội thánh được giải quyết bởi việc chọn ra bảy chấp sự, đứng đầu là Êtiên. Kế tiếp là phần mô tả chức vụ của Êtiên và lời vu cáo ông trước Tòa Công Luận. Êtiên đã binh vực đức tin mình trước Tòa Công Luận, ông đã nói lên một bài phê bình sâu sắc về lịch sử Ysơraên. Cuối cùng, Êtiên tuận đạo.
Philíp và Saulơ Người Tạtsơ
Từng trải của chúng ta trong Cong Cv 6:1-7:60 đã sáng tỏ khi chúng ta nhìn thấy Chúa đã dùng chức vụ và sự tuận đạo của Êtiên để phát triển việc rao giảng Tin Lành. Cơn bắt bớ hiện đang bùng nổ dữ dội khi Satan sử dụng những chiến lược tổng hợp của nó để ngăn trở bước tiến của hội thánh.
Trong bài học nầy, chúng ta thấy chủ đề của đơn vị nầy: sự bắt bớ dẫn đến sự bành trướng. Kết quả trước mắt của cơn bắt bớ là sự tản lạc ra ngoại quốc của những chứng nhân được đầy dẫy Đức Thánh Linh, là những người rao giảng Đạo Chúa tại bất cứ nơi nào họ đặt chân đến. Một trong những "người tan lạc" nầy là Philíp. Qua những từng trải trong đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh của ông, chúng ta thấy phương pháp của Đức Thánh Linh trong công tác truyền giảng Tin Lành. Rồi khi kết thúc bài học, một nhân vật khác nữa, một người đã chịu tác động sâu xa bởi sự tuận đạo của Êtiên - Saulơ người Tạtsơ - đã được hoán cải, được kêu gọi, và được sai đi.
Trong toàn bộ những câu chuyện nầy, chúng ta thấy sự tuôn tràn của Đức Thánh Linh, sự gây dựng, mở mang và làm cho trưởng thành thân thể Đấng Christ.
Khi nhìn thấy sự vận hành của Đức Thánh Linh trong những sự kiện nầy, bạn sẽ quý trọng tính bất diệt trong phương pháp của Đức Thánh Linh. Và bạn sẽ bổ sung vào cũng như phát triển những kỹ năng cần thiết cho binh giáp thuộc linh của bạn, để đánh trận tốt lành cho đức tin và cầm giữ sự sống đời đời.
Dàn bài
Hội Thánh Bị Tan Lạc
Chức Vụ Của Philíp Tại Samari
Người Samari Tin Chúa
Người Samari Nhận Lãnh Đức Thánh Linh
Những Hàm Ý Của Tinh Thần Simôn
Chức Vụ Của Phierơ Và Giăng Giữa Người Samari
Chức Vụ Của Philíp Cho Hoạn Quan Êthiôbi
Saulơ Người Tạtsơ
Bối Cảnh Của Saulơ
Sự Hoán Cải Của Saulơ
Những Từng Trải Sau Khi Hoán Cải Tại Thành Đamách
Chuyến Viếng Thăm Giêrusalem
Tác Động Trên Hội Thánh
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
So sánh và đối chiếu sự nhận lãnh Đức Thánh Linh của người Samari với những từng trải của các môn đồ (GiGa 20:22) và 120 môn đồ tại ngày Lễ Ngũ Tuần, lưu ý hai ý nghĩa khác nhau của lời khuyên bảo "Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh."
Thảo luận ý nghĩa chức vụ phục hưng của Philíp tại Samari và cho hoạn quan Êthiôbi, kể ra ít nhất hai trong số những nguyên tắc truyền giảng Tin Lành quan trọng nhất có liên quan.
Phân tích mối liên kết mật thiết giữa nguyên nhân và kết quả đã liên kết ba thành phần chủ yếu mô tả lên sự bành trướng về địa lý của hội thánh, giải thích chúng liên quan với nhau và bổ sung cho nhau như thế nào.
Sinh hoạt học tập
1. Khi nghiên cứu, nhớ sử dụng những bản đồ trong tài liệu hướng dẫn của bạn. Những bản đồ nầy sẽ giúp ích cho bạn hiểu về phạm vi những tiến bộ của Tin Lành.
2. Tra định nghĩa của những từ bạn không hiểu trong phần Từ Vựng.
3. Đọc bài học, làm hết câu hỏi nghiên cứu, và kiểm tra câu trả lời.
4. Làm bài tự trắc nghiệm ở cuối bài học, kiểm kỹ câu trả lời của bạn. Ôn lại những mục nào bạn trả lời sai.
5. Ôn lại Bài 5 và Bài 6 theo những gợi ý trong tập học viên. Lấy Bài Đánh Giá Tiến Bộ Phần 2 và tờ bài làm ra khỏi tập học viên. Làm theo những chỉ dẫn để điền vào những tờ bài làm, rồi gởi ngay đến cho giáo viên ICI của bạn. Giáo viên của bạn sẽ chữa bài và báo cho bạn biết kết quả.
Từ vựng
chất xúc tác catalyst
thuộc sự thờ cúng cultic
thuộc chủng tộc ethnic
đuổi quỉ exorcise
tính thông dâm masochistic
thành kiến chủng tộc racially biased
bị bác bỏ repudiated
nhẫn tâm ruthless
phép phù thủy sorcery
quỵ lụy subservience
Khai triển bài học
HỘI THÁNH BỊ TAN LẠC
Cong Cv 8:1-4 Bruce 174-175
Mục tiêu 1. Mô tả điều đã khiến hội thánh bắt đầu những nỗ lực truyền giảng bên ngoài thành Giêrusalem.
Ở cuối 7:1-60, hội thánh bị tản lạc, nhưng chúng ta vẫn chưa thấy hội thánh phát triển bên ngoài ranh giới Giêrusalem. Đến lúc nầy, giai đoạn đầu của 1:8 chỉ mới được ứng nghiệm một phần ba. Nhưng khi chúng ta đọc đến 9:31, thì giai đoạn thứ nhì của 1:8 đang được ứng nghiệm. Hội thánh không còn chỉ ở trong Giêrusalem. Đây là hội thánh ở cả khắp xứ Giuđê, Galilê, và xứ Samari (Bruce, trang 208).
1. Theo Côngvụ 8:1, 4 , Tin Lành đã được rao truyền ra khỏi Giêrusalem vì cớ những lý do nào sau đây?
a) Hội thánh Giêrusalem chính thức quyết định làm trọn 1:8, nên đã sai phái những nhà truyền giáo đầu tiên ra đi.
b) Lý do khiến Tin Lành được rao truyền ra khỏi Giêrusalem không phải do hội thánh quyết tâm làm trọn 1:8. Trái lại, đó là kết quả của sự bắt bớ khiến hội thánh phải chạy ra khỏi Giêrusalem.
Sự đồng nhất hội thánh Giêrusalem với đền thờ và nền văn hóa Dothái có lẽ đã ngăn trở hội thánh hiểu cách truyền Tin Lành vượt biên giới văn hóa. Có thể Phierơ đã rao giảng Đức Chúa Jesus là phương cách cứu rỗi duy nhất cho toàn thế gian (4:12), nhưng quan điểm của Êtiên, rằng Tin Lành phải tách khỏi những tập tục tôn giáo Do thái, đã mở ra một đường lối mới để rao truyền Tin Lành vượt biên giới của ngôn ngữ, chủng tộc, văn hóa, tôn giáo, và giới tính.
2. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG? Khoanh tròn mẫu tự của những câu ĐÚNG trong bài tập nầy cũng như trong mỗi bài tập Đúng - Sai trong bài học nầy.
a. Sự bắt bớ hội thánh đã khởi đầu vì cớ các sứ đồ tiếp tục rao giảng Đấng Christ đã sống lại từ kẻ chết.
b. Sự bắt bớ hội thánh đã khởi đầu vì cớ cách giải thích của Êtiên về tác động của đời sống và công vụ của Đấng Christ đối với Luật Pháp và đền thờ. Ngoài ra, lời buộc tội của ông rằng sự chối bỏ Đức Chúa Jesus của dân Ysơraên là phù hợp với mẫu mực phản nghịch thuộc linh trong suốt lịch sử Ysơraên đã bị Tòa Công Luận bác bỏ một cách thô bạo.
c. Thậm chí trước sự tuận đạo của Êtiên, thành phần chiếm đa số trong Tòa Công Luận đã tỏ ra khao khát bắt bớ hội thánh (5:33). Lời giảng đạo của Êtiên chính là chất xúc tác để khơi dậy toàn bộ biểu hiện lòng thù ghét của Tòa Công Luận.
Sứ điệp của Êtiên đã phá tan ý kiến cho rằng Tin Lành và những tập tục thịnh hành của Dothái giáo chính là một và giống y nhau. Việc thừa nhận sự đúng đắn trong thần học và lời buộc tội của Êtiên hẳn đã thay đổi toàn bộ sinh hoạt của người Dothái. Bằng cách bắt bớ toàn hội thánh, Tòa Công Luận đã bày tỏ niềm tin cho rằng giáo lý của Êtiên đã, hoặc đã có thể, tác động đến toàn hội thánh. Sự chối bỏ và thù ghét ngày càng tăng của Tòa Công Luận (5:33) chỉ cần chức vụ Êtiên để làm ngòi nổ trút hết hận thù trên hội thánh.
Sự bắt bớ hội thánh là rất lớn , nhưng nỗi sầu khổ của những kẻ bày tỏ lòng không tán thành vụ sát hại Êtiên cũng rất lớn .
3. Những câu nào sau đây của Luca nói về Saulơ là những câu ĐÚNG?
a. Ông là một gã trai trẻ.
b. Dường như Saulơ đã không ném đá Êtiên; dầu vậy, ông ưng thuận việc làm đó, và bằng chứng rõ ràng nhất ấy là ông đứng giữ áo xống đã cởi ra của những người ném đá Êtiên.
c. Ông là người chủ mưu trong vụ sát hại Êtiên.
d. Vì Saulơ đến từ thành Tạtsơ xứ Silisi (22:3), và vì Êtiên giảng đạo trong nhà hội của những người Do thái đến từ Silisi (6:9), nên có thể cho rằng Saulơ đã nghe Êtiên giảng đạo.
e. Saulơ giữ vai trò chính yếu trong cơn bắt bớ xuất phát từ cái chết của Êtiên.
f. Saulơ được mô tả như là một kẻ bắt bớ hội thánh nhẫn tâm và kiên quyết. Ông cũng được mô tả là một nhân vật trong toàn bộ hệ thống bắt bớ.
Rõ ràng, chúng ta có thể giả thiết chắc chắn rằng Saulơ không phải là kẻ chủ mưu trong vụ sát hại Êtiên. Nếu là kẻ chủ mưu, ông lại không có mặt trong số những người ném đá Êtiên được sao? Có người cho rằng Phao Lô là nghị viên Tòa Công Luận, dựa vào chữ "ưng thuận" trong 8:1. Tuy nhiên, không nhất thiết phải hiểu điều nầy là chỉ về một hành động biểu quyết chính thức trong Tòa Công Luận (dầu có thể hiểu như vậy). Có thể nó chỉ nói lên sự ưng thuận của ông đối với quyết định của Tòa Công Luận. Ngoài ra, một lý lẽ mạnh hơn ủng hộ tư cách nghị viên Tòa Công Luận của Phaolô có thể rút ra từ 26:10. Chữ làm tàn hại hội thánh khiến liên tưởng đến một con heo rừng dẫm nát vườn nho. Saulơ không hề thương hại đàn ông hay đàn bà, ông sấn vào nhà các tín đồ để lôi họ bỏ vào tù.
Không phải các tín hữu đầu tiên đang khao khát chịu khổ để bị bỏ ngục hay để tuận đạo. Lời của Chúa hiện trở nên sống động: "khi nào người ta bắt bớ các ngươi trong thành nầy, thì hãy trốn qua thành kia" (Mat Mt 10:23).
4. Các sứ đồ vẫn ở tại Giêrusalem. Hãy xác định hai hoặc ba nguyên nhân mà bạn nghĩ họ ngần ngại ra khỏi thành.
..........
CHỨC VỤ CỦA PHILÍP TẠI SAMARI
Cong Cv 8:5-25 Bruce 175-184.
Mục tiêu 2. Thảo luận chức vụ của Philíp tại Samari.
Chúng ta lại thấy tài năng của Luca với tư cách một sử gia trong việc tuyển chọn và mô tả một sự kiện từ giữa rất nhiều những sự kiện có sẵn tác động nhiều nhất đến tiến trình lịch sử của hội thánh. Từ rất nhiều dấu kỳ phép lạ (2:43), dấu kỳ phép lạ được viết ra chính là quan trọng nhất đối với sự phát triển của hội thánh (3:1-10). Từ rất nhiều người dâng gia tài điền sản của mình (4:34-35), Luca nêu ra hai hành động dâng hiến cụ thể có tác động lớn nhất đến sinh hoạt của hội thánh (4:36-5:11). Từ giữa rất nhiều người bị tản lạc và rao truyền đạo Chúa, câu chuyện về Philíp nầy đã được kể lại (8:4-5).
5. Tính tuyển chọn sự kiện của Luca được thể hiện vì cớ ông
a) không biết điều gì khác nữa sẽ xảy đến.
b) có kiến thức rất rộng để từ đó rút ra sự kiện (LuLc 1:1-4), nhưng ông tuyển chọn những sự kiện nào nổi bật nhất trong sinh hoạt và sự tăng trưởng của hội thánh.
Nguyên tắc của Luca có ứng dụng rất hữu hiệu trong công tác giảng dạy và làm chứng. Người ta có thể nhớ một sự kiện được mô tả rõ ràng hơn là nhớ toàn bộ một bài giảng chỉ tập trung vào những điểm khái quát chứ không tập trung vào những minh họa cụ thể.
6. Những câu nào sau đây mô tả ĐÚNG đặc điểm nổi bật trong chức vụ của Philíp?
a. Ông đã bắt đầu chức vụ bằng cách hầu việc bàn tiệc và tiếp tục tiến tới chức vụ giảng đạo và làm phép lạ.
b. Ông quyết định rằng việc phục vụ bàn tiệc hạ thấp phẩm giá của ông, nên ông đã bắt đầu đi giảng đạo.
c. Khi Philíp rao giảng về Đấng Christ, những phép lạ đã cặp theo làm khẳng định sứ điệp của ông.
d. Philíp cần những phép lạ đến từ Chúa trong chức vụ của mình trước khi ông dám mạo hiểm ra đi giảng đạo.
Một số các Mục sư trẻ tuổi (cũng như những mục sư cao tuổi nữa) rất miễn cưỡng làm những việc mà họ xem như là những nhiệm vụ vặt vãnh hay phải phục vụ người khác, nhưng Chúa không dùng hay không muốn có những người tìm địa vị hàng đầu trong chức vụ. Chức vụ giảng đạo của Philíp đến sau khi ông sẵn lòng hầu việc bàn tiệc. Ông cũng đã biến đức tin mình thành hành động. Đức Chúa Trời không thể khẳng định Lời Ngài cho đến khi Philíp vận dụng đức tin để rao giảng Lời Chúa trước hết.
Có người đã châm biếm: "Bạn không thể lái xe đạp khi đứng yên!" Ngoại trừ những chỗ mà Đấng Christ truyền lệnh một cách rõ ràng ( ví dụ như 1:4), thì những thầy giảng của hội thánh đầu tiên đã từng trải sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời, không phải bởi cách chờ đợi sự khải thị cách thụ động, nhưng bằng cách đi ra thực hiện những việc ngay trong tầm tay. Philíp cũng không ngoại lệ.
Sách giáo khoa đề cập tầm quan trọng chiến lược của Samari trong việc bành trướng Tin Lành (trang 176-177). Samari nằm giữa Galilê và Giuđê, nên nằm gần Giêrusalem (nằm ngay ở phía bắc). Tuy nhiên, vì những khác biệt về chủng tộc giữa người Do thái và người Samari nên những mối liên quan giữa họ giống như là thù địch chứ không phải là bạn bè. Do đó, về mặt địa hình, Samari nằm kẹt giữa vùng Giuđê và Galilê của người Do thái.
7. Dựa vào phần bài đọc trong Bruce (trang 176-177), những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Người Samari là một phái trong Do thái giáo.
b. Người Samari là một dân tộc hợp chủng, do việc cưới gả của dân Asiri xâm lăng sau năm 722 S.C. với mười chi phái Ysơraên ở phía bắc.
c. Người Samari có đền thờ riêng của họ, nhưng bị người Do thái xem như là “con lai” về mặt chủng tộc và thần học.
Như Chúa Jesus đã cho thấy, giữa người Samari và người Do thái có thành kiến rất lớn (LuLc 10:29-37; GiGa 4:1-30). Tuy nhiên, cả hai nhóm người nầy đều tỏ lòng trông cậy nơi Đấng Mêsia hầu đến (Bruce trang 107), và rõ ràng, điều nầy đã tạo một vùng đất màu mỡ để gieo hạt giống Tin Lành.
Người Samari Tin Chúa
Cong Cv 8:5-13 Bruce 175-180
8. Những câu nào sau đây là câu mô tả nguyên nhân khả dĩ nhất khiến Chúa cấm các môn đồ thi hành chức vụ tại Samari trước kia (Mat Mt 10:5) rồi sau nầy Ngài truyền phải làm chứng tại Samari (Cong Cv 1:8), mà hiện đang được ứng nghiệm qua Philíp?
a) Chúa đã đổi ý.
b) Người Samari không đáng được cứu.
c) Mat Mt 10:1-42 ghi lại sứ mạng giảng đạo đầu tiên của mười hai sứ đồ. Chúa Jesus biết họ có nhiều thành kiến về chủng tộc đến nỗi Ngài không thể cho họ khởi sự từ Samari (LuLc 9:51-56).
Chúa Jesus đã cho các môn đồ bắt đầu giảng đạo cho dân trong chính nền văn hóa của họ. Khi họ đã biết Ngài, thành kiến của họ rốt cuộc sẽ tan biến, dầu có thể phải mất nhiều thời gian (Cong Cv 10:28)!
9. So sánh hoặc đối chiếu những sự kiện trong GiGa 4:1-54; LuLc 9:1-62, là phần cho chúng ta thấy chức vụ đầu tiên của Chúa tại Samari.
..........
10. Hai yếu tố nào khiến người Samari tiếp nhận sứ điệp của Philíp?
a. ..........
b. ..........
Trong sách Côngvụ, sự xuất hiện của Tin Lành tại một khu vực mới hầu như luôn luôn kèm theo những dấu hiệu của quyền năng thiên thượng dưới dạng phép lạ chữa bệnh và (hoặc) phép đuổi quỷ.
Lưu ý những ví dụ về quyền năng thiên thượng mà Luca ghi lại, đi kèm theo việc giảng Tin Lành tại Samari. Ông đề cập đặc biệt đến hai trường hợp: người què và người bại được chữa lành cùng các tà linh bị đuổi ra. Người ta thắc mắc không biết có phải các phép lạ chữa bệnh chỉ giới hạn hay chủ yếu nhắm vào cho người què và bại hay không. Nếu vậy, chức vụ làm dấu kỳ phép lạ của Philíp bị qui định hạn hẹp hơn chức vụ của các sứ đồ.
11. Có phải việc đuổi quỉ của Philíp là phép đuổi quỉ được nhắc đến đầu tiên trong sách Côngvụ không? Nếu không phải, hãy xác định một ví dụ trước đó.
..........
12. Sáu kết quả nào trong chức vụ của Philíp tại một thành của xứ Samari được mô tả lại trong Côngvụ Cong Cv 8:6-8, 12-13?
a. 8:6 ..........
b. 8:7 ..........
c. 8:8 ..........
d. 8:12 ..........
e. 8:12 ..........
f. 8:13 ..........
Liệu có phải người Samari bị thu hút vào thế giới pháp thuật của Simôn là do những hoàn cảnh, là nơi có "nhiều" người bị quỷ ám chăng (8:7)? Dường như Simôn không hề bị quỷ ám, vì cớ không có quỷ nào bị Philíp, Phierơ hay Giăng đuổi ra khỏi Simôn cả. Có người giả định một cách sai lầm rằng mọi thầy phù thủy đều bị quỷ ám. Không phải như vậy, như trường hợp của Simôn đã cho thấy. Theo lời sứ đồ Phaolô trong GaGl 5:20, phép phù thủy được xem như là "việc làm của xác thịt."
Dầu vậy, người Samari đã ở dưới quyền của phù phép suốt thời gian dài, khi họ nhìn thấy những hiện tượng thần bí do Simôn thực hiện, và đã tin đó là bằng chứng của "Đại Quyền Phép".
Lưu ý chức vụ của Philíp đã hoàn tất điều mà Simôn thiếu: các dấu kỳ phép lạ (chớ không phải phù phép hay ma thuật). Dầu công việc của Simôn có là gì đi nữa, chúng vẫn không phải là các phép lạ, không phải những cửa sổ để khải thị bản tánh của Đức Chúa Trời và lẽ thật cứu rỗi.
13. Những dấu hiệu nào chứng tỏ Simôn đã tin thật lòng (Cong Cv 8:13)?
a ..........
b ..........
c ..........
Hãy quan sát cách Luca giải quyết những điểm tương phản được trình bày tại đây: dân chúng kinh ngạc trước pháp thuật của Simôn (8:9, 11), nhưng chính Simôn lại lấy làm lạ trước những dấu kỳ phép lạ do Philíp thực hiện (8:13). Giống như Môise (XuXh 8:18), Philíp đã đánh bại các thầy phù thủy.
14. Hãy chứng minh cho những nỗi nghi ngờ trước lòng tin thành thật của Simôn (Cong Cv 8:13, 18).
a ..........
b ..........
Luca cẩn thận tránh làm người đoán xét tình trạng linh hồn của Simôn, dầu rằng ông đã cố kiềm chế không công bố sự đoán phạt đời đời cho Anania và Saphira.
Từ GiGa 2:23, người ta có thể kết luận rằng niềm tin xuất phát từ chỗ công nhận các phép lạ nhưng nếu niềm tin không khiến cho họ ăn năn và thay đổi tấm lòng bề trong, thì đó là niềm tin không được Chúa quý trọng.
Việc người Samari tiếp nhận Đạo Chúa đã đến tai hội thánh Giêrusalem. Họ sai Phierơ và Giăng (lưu ý Phierơ được hội thánh hướng dẫn). Bởi đó, hội thánh tỏ sự quan tâm để sự hiệp một thuộc linh được thịnh hành giữa các Cơ đốc nhân tại mọi nơi, dầu tín hữu ở đâu đi chăng nữa.
Người Samari Nhận Lãnh Đức Thánh Linh
Cong Cv 8:14-17 Bruce 180-183
Mục tiêu 3. So sánh việc ban Đức Thánh Linh cho người Samari với sự ban cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Jesus ( GiGa 20:22) và cho 120 môn đồ tại ngày Lễ Ngũ Tuần (Cong Cv 2:4).
Tân Ước dùng từ rất phong phú để nói về công tác của Đức Thánh Linh. Không một phân đoạn nào có thể diễn tả được toàn bộ sự hiện diện của Ngài. Hơn nữa, có sự trùng lặp các từ ngữ để mô tả công tác của Đức Thánh Linh trong sự cứu rỗi, trong phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, và trong nếp sống Cơ đốc của chúng ta.
15. Liệt kê những từ ngữ được dùng để mô tả mối tương quan của Đức Thánh Linh với tín đồ được dùng trong sách Côngvụ cho đến nay.
a. 1:4 ..........
b. 1:5 ..........
c. 2:4 ..........
e. 2:33 ..........
f. 2:38 ..........
g. 2:39 ..........
h. 4:8 ..........
i. 4:31 ..........
j. 6:3 ..........
k. 6:4 ..........
l. 7:55 ..........
XỨ PALESTINE Ở THẾ KỶ THỨ NHẤT
BIỂN ĐỊA TRUNG HẢI
Đi Đamách
Cabênaum
Cana
Sêsarê
BIỂN GALILÊ
SÔNG GIÔĐANH
SAMARI
Giốpbê
Lyđa
Emmaút
Giêricô
Giêrusalem
Axốt
Gaxa
Bếtlêhem
Bêesêba
GIUĐÊ
BIỂN CHẾT
ARABIA
16. Hãy xem qua hết những câu Kinh Thánh trên rồi trả lời những câu hỏi sau.
a. Những câu nào chỉ về từng trải ban đầu của Đức Thánh Linh? (từng trải nầy còn được gọi là: lời hứa của Cha, lời hứa, sự ban cho Đức Thánh Linh, và được mô tả như là Đức Thánh Linh được đổ ra hay được nhận lãnh.)
..........
b. Những câu nào chỉ về những sự đầy dẫy Đức Thánh Linh về sau, sau từng trải ban đầu là phép báp têm bằng Đức Thánh Linh ?
..........
Chúng ta đã thấy từ ngữ được đầy dẫy Đức Thánh Linh có thể chỉ về cả phép báp têm bằng Đức Thánh Linh lẫn sự đầy dẫy Thánh Linh cách liên tục. Nhờ văn mạch mà chúng ta có thể khẳng định từ ngữ ấy mang ý nghĩa nào.
Giờ đây, chúng ta xem xét cụ thể từ ngữ được nhận lãnh Đức Thánh Linh . Liệu từ ngữ nầy có thể mang hai ý nghĩa trong Kinh Thánh cũng giống như được đầy dẫy Đức Thánh Linh có hai ý nghĩa không?
17. Đức Chúa Jesus nói gì với các môn đồ trong Giăng GiGa 20:22? Đâu là hàm ý của câu Kinh Thánh nầy khi đem so với 3:5; ICo1Cr 12:13 và IGi1Ga 4:13?
..........
18. So sánh cẩn thận văn mạch của Côngvụ Cong Cv 8:12-16 với văn mạch của Giăng GiGa 3:5; 20:22; RoRm 8:9-11. Dựa vào phần so sánh những câu Kinh Thánh nầy, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG khi mô tả cách các lãnh đạo hội thánh Tân Ước hiểu về từng trải của người Samari?
a. Philíp thực sự đã làm phép báp têm cho những người chưa tin Chúa vì họ chưa được sanh ra bởi Thánh Linh (GiGa 3:5), chưa được nhận lãnh Đức Thánh Linh khi áp dụng chính sự sống phục sinh của Đấng Christ (GiGa 20:22), hay chưa có Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự trong họ như là điều kiện tất yếu để được thuộc về Đấng Christ (RoRm 8:9).
b. Cũng giống như các sứ đồ (GiGa 3:5, 22), người Samari đã thực sự nhận lãnh Đức Thánh Linh khi họ được cứu. Vì nếu không có hành động tái sanh của Đức Thánh Linh để đem sự sống phục sinh của Đấng Christ đến cho một người, thì người đó không thể được cứu.
c. Phierơ và Giăng đã biết những người mới tin Chúa của Philíp chưa được cứu rỗi, nên hai người đã bảo họ phải nhận lãnh Đức Thánh Linh, và qua đó nói lên cùng một điều như việc Đấng Christ hà hơi trên họ (GiGa 20:22).
d. Phierơ và Giăng không lẫn lộn sự nhận lãnh Đức Thánh Linh tại lúc được cứu (Giăng 20:22) với sự nhận lãnh lời hứa ban Đức Thánh Linh tại ngày Lễ Ngũ Tuần (Cong Cv 2:4). Họ công nhận và đã chấp nhận sự cứu rỗi của người Samari; vì vậy họ không nói: "Hãy nhận lãnh Đấng Christ," nhưng nói: "Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh."
Cả những người Ngũ Tuần lẫn những người không theo Ngũ Tuần đều phải cẩn thận phân biệt những từ ngữ theo cách dùng trong văn mạch. Lời phán của Chúa: "Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh" có một ứng dụng khác với lời nói của Phierơ: "Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh." Từ văn mạch của sách Giăng và Côngvụ, rõ ràng lời của Đấng Christ áp dụng cho sự cứu rỗi, chứ không phải cho từng trải Lễ Ngũ Tuần; trong khi lời của Phierơ không áp dụng cho sự cứu rỗi nhưng áp dụng cho từng trải Lễ Ngũ Tuần. Tín đồ nào trong sách Côngvụ đã biết sự khác biệt nầy thông qua từng trải cá nhân thì hẳn sẽ hiểu cách rõ ràng. Hiển nhiên Luca đã hiểu sự khác biệt nầy, vì cụm từ của ông "vì Đức Thánh Linh chưa giáng xuống (bản NIV sử dụng từ một cách lờ mờ, bằng cách dùng chữ "đến trên" yếu hơn và kém chính xác hơn) trên một ai trong bọn đó." Chữ giáng xuống là chữ tự nhiên nhất để mô tả việc "tuôn đổ" Đức Thánh Linh tại ngày Lễ Ngũ Tuần!
Phierơ và Giăng đã hiểu rõ rằng các tín đồ người Samari đã kinh nghiệm được Đấng Christ; dầu vậy, họ đã nhận ra người Samari chưa nhận lãnh được từng trải đã đến trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Các tín đồ Samari do vậy đang ở cùng một địa vị như địa vị của các sứ đồ trong 1:1-26.
Có thể sẽ có người hỏi: "Vậy tại sao lúc đó Philíp không dẫn dắt các tín đồ Samari bước vào từng trải phép báp têm bằng Đức Thánh Linh?" Có rất nhiều lời giải thích khả dĩ. Liệu Philíp có thể là người đầu tiên tin rằng phép báp têm bằng Đức Thánh Linh (như là một từng trải đến sau sự cứu rỗi) chỉ giới hạn cho những người đã nhận được nó rồi: tức các sứ đồ và hội thánh Giêrusalem hay không? (tôi nêu câu hỏi nầy để đùa thôi..., vì câu hỏi nầy minh họa sự sụp đổ trong thần học của quan điểm cho rằng Lễ Ngũ Tuần chỉ giới hạn cho hội thánh đầu tiên mà thôi.)
Khi so sánh 8:14-18 với 1:4-5, 8 và 10:45-46 và 11:16, 18, thì chúng ta thấy một lời giải thích tốt hơn. Trong 1:1-26, Chúa đã truyền một mệnh lệnh tối hậu, chỉ định phải có một thời kỳ chờ đợi trước khi Đức Thánh Linh được đổ ra. Trong 10:1-11:30, sự nhận lãnh Đức Thánh Linh của dân ngoại theo cùng một cách đã nhận lãnh trong ngày Lễ Ngũ Tuần ("nói tiếng ngoại quốc") đã thể hiện rõ cho những người đang miễn cưỡng đón nhận người ngoại bang vào trong hội thánh. Sự tuôn đổ Đức Thánh Linh nầy đã thuyết phục họ rằng Đức Chúa Trời cũng đã cứu dân ngoại bang.
19. Vì vậy, những câu nào sau đây là câu giải thích ĐÚNG nguyên nhân khiến người Samari không nhận lãnh phép báp têm bằng Đức Thánh Linh trong chức vụ của Philíp?
a. Philíp không có đức tin.
b. Với quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Jesus, Ngài đã chờ đợi cho đến khi Phierơ và Giăng đến mới tuôn đổ Đức Thánh Linh, để cả người Samari lẫn hội thánh Giêrusalem đều không còn nghi ngờ về từng trải và sự bình đẳng của họ trong Đấng Christ.
c. Lời khẳng định của Phierơ và Giăng về công tác của Đức Thánh Linh giữa người Samari hẳn càng đáng tin đối với hội thánh Giêrusalem hơn là lời chứng của một người Hêlênít như Philíp.
Hãy nhìn xem sự tương phản giữa từng trải của người Samari với từng trải của Cọtnây. Cọtnây không phải mất thời gian chờ đợi, vì Phierơ có mặt tại đó cùng với sáu nhân chứng khác (10:44-47). Hội thánh Giêrusalem sẽ tin lời làm chứng của những chứng nhân nầy; tuy nhiên họ hẳn sẽ không muốn tiếp nhận lời chứng của một mình Cọtnây.
20. Phierơ và Giăng đã thực hiện hai hành động nào khi thi hành chức vụ cho những tín đồ nầy, để họ có thể nhận lãnh Đức Thánh Linh?
a. 8:15 ..........
b. 8:17 ..........
Vì hành động thứ nhì là một đặc trưng mới lạ của chức vụ, nên có lẽ nó đến như kết quả của sự cầu nguyện. Sự nhắc đến việc cầu nguyện tạo cơ hội cho khả năng nầy, thực ra là cho tính chắc chắn của khả năng nầy, rằng Phierơ và Giăng đã dành ra nhiều giờ - thậm chí nhiều ngày - để cầu nguyện giữa người Samari trước khi họ đặt tay trên người Samari. Dầu trường hợp nào đi nữa, sự ban cho Đức Thánh Linh thông qua việc đặt tay cũng vận hành một cách tự động chẳng khác gì việc thi hành các phép lạ. Quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời đã hành động qua tinh thần hạ mình và đầu phục của họ khi họ liên tục công nhận nhu cầu đầy dẫy Đức Thánh Linh khi tìm kiếm sự dẫn dắt hằng ngày cho chức vụ của họ.
Khi Đức Thánh Linh "giáng xuống" trên người Samari, thì điều gì đã xảy ra? Có tiếng gió thổi ào ào, lưỡi bằng lửa, hay việc nói các thứ tiếng ngoại quốc xảy ra như trong ngày Lễ Ngũ Tuần hay không?
21. Chúng ta biết có xảy ra một điều gì đó có thể quan sát được, vì cớ đáp ứng của Simôn là thầy phù thủy. Những câu nào sau đây là câu suy luận có thể ĐÚNG?
a. Simôn đã thấy các Cơ đốc nhân có những khuôn mặt rạng rỡ hạnh phúc hơn bao giờ hết; do đó ông muốn mua quyền phép để ban cho Thánh Linh.
b. Các tín đồ thảy đều nói rằng sự “giáng xuống” của Đức Thánh Linh cũng chính là điều họ đã kinh nghiệm khi được cứu rỗi. Do đó Simôn muốn mua điều mà ông đã thiếu trước đây.
c. Một biến cố siêu nhiên đã xảy ra khiến Simôn bị lôi cuốn, do đó ông muốn có quyền phép để ban cho điều đó.
d. Vì trước đó Simôn chưa trả tiền để mua ân tứ giảng đạo (8:5, 12), chữa bệnh (8:7), hoặc quyền năng để đuổi quỉ (8:7), nên có thể giả thiết cách hợp lý rằng điều mà giờ đây ông muốn có là khác với điều ông đã nhìn thấy trước kia.
Bạn có thực sự tin Simôn muốn mua một điều gì đó mà tác động của nó chỉ là phép lạ bên trong chứ không phải điều kỳ diệu bên ngoài hay không? Simôn đã muốn quyền năng hay quyền phép (chữ "năng lực" của bản NIV là rất kém khi dùng chữ Hylạp nầy so với công dụng ở những nơi khác, trong Mat Mt 9:6; 28:18; Mac Mc 3:15; 6:7; LuLc 4:6; GiGa 10:18, v.v...) để ban cho Đức Thánh Linh theo ý muốn riêng của họ. Ông đã nhìn thấy rất rõ sự nhận lãnh Đức Thánh Linh đã đi kèm theo một biểu hiện hữu hình và đáng ưa chuộng nào đó.
Để tìm xem điều gì đi kèm theo phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, chúng ta chỉ cần quay lại với Cong Cv 2:4, 10:44-46, 11:15-18, và 19:6. Tiếng gió thổi ào ào và lưỡi bằng lửa diễn ra vào ngày Lễ Ngũ Tuần là ở bên ngoài chứ không phải ở bên trong của tín đồ, đến trước chứ không phải đến sau sự tuôn đổ Đức Thánh Linh, và không bao giờ tái diễn trong sách Côngvụ, nên cho thấy khả năng chúng chỉ tái diễn tại Samari là một khả năng kém chắc chắn nhất.
Phải cẩn thận khi suy diễn từ sự im lặng của bản văn Kinh Thánh nầy. Tuy nhiên, chúng ta còn có thể rút ra kết luận nào khác hơn: "Họ đã nói tiếng lạ" chính là kết luận giải thích cho hiện tượng siêu nhiên khiến Simôn ước ao mua để dùng riêng cho mình và để ban cho người khác. Còn có bằng chứng siêu nhiên nào khác nữa xảy ra kèm theo phép báp têm bằng Đức Thánh Linh để khiến cho Simôn muốn mua?
Hiện tượng nầy liệu có thể là việc rao giảng Lời Chúa một cách đầy quyền năng chăng? Không! Ông hẳn đã có thể đem của đút lót đó đến cho Philíp rồi.
Liệu đó có thể là chức vụ chữa bệnh hay chức vụ làm dấu kỳ phép lạ chăng? Không! Cũng vì cùng một nguyên nhân trên.
Phép đuổi quỷ chăng? Không! Một lần nữa, cũng vì chính nguyên nhân trên.
22. Một việc đã xảy ra trong sự tuôn đổ Đức Thánh Linh tại Samari mà không xảy ra tại Lễ Ngũ Tuần. Đó là việc gì?
..........
Điều nầy không có nghĩa việc đặt tay bắt buộc phải trở thành định chuẩn cho việc ban cho Đức Thánh Linh trong hội thánh đầu tiên. Chúng ta thấy có cả sự không đặt tay (Cong Cv 10:44) và sự đặt tay để nhận lãnh Đức Thánh Linh (9:17; 19:6). Tuy nhiên, 11:18 là một lời tái bút lý thú cho 2:33 lời Cha đã hứa, được nhận lãnh bởi Đức Chúa Con, tuôn đổ tại Samari trên các tín đồ thông qua việc đặt tay của các sứ đồ. Có thể đây là một sự ứng nghiệm khác nữa cho lời cầu nguyện của Đức Chúa Jesus chăng (GiGa 17:20-23)?
Những Hàm Ý Của Tinh Thần Simôn
Cong Cv 8:18-24 Bruce 183-184
Mục tiêu 4. Nêu những hàm ý trong lời Phierơ quở trách thầy phù thủy Simôn vì đã cố gắng mua quyền phép để ban phát Đức Thánh Linh.
Từ chữ Simon đã ra chữ simony (tạm dịch là "tinh thần Simôn" hay là "lối buôn thần bán thánh"), có nghĩa là mua hay bán một chức vị trong hội thánh vì tiền.
23. Dựa trên kiến thức của bạn về Simôn như đã có trong 8:1-40, những nguyên nhân nào dưới đây giải thích có vẻ hợp lý nhất vì sao Simôn thích mua quyền phép để ban cho Đức Thánh Linh hơn là để chữa lành bệnh tật, hay để đuổi quỷ? Khoanh tròn những câu giải thích hợp lý (ĐÚNG).
a. Qua quyền phép nầy, ông nhìn thấy cơ hội đoạt lại địa vị lãnh đạo của mình giữa vòng dân chúng.
b. Ông có thể dùng quyền phép nầy để duy trì tầm cỡ và địa vị của mình, bằng cách sử dụng Đức Thánh Linh làm phương tiện để ban thưởng hay thâu Đức Thánh Linh lại để làm phương tiện phân biệt dối xử.
c. Vì Philíp đã không ban Đức Thánh Linh qua sự đặt tay còn Phierơ và Giăng thì có, nên Simôn đã xem đây là cơ hội để ông có cùng một đẳng cấp với các sứ đồ trong mắt của dân chúng; tức là, một bước tiến lên địa vị cao hơn Philíp.
Những mục tiêu của Simôn rõ ràng mang tính chính trị. Mục tiêu của ông để có quyền phép là để tư lợi. Giống như mọi chính trị gia trong giáo hội đã tiến theo bước của ông, ông khao khát sử dụng những sự ban cho và dân sự Đức Chúa Trời cho sự tiến thân và uy tín của riêng mình.
24. Đáp ứng của Phierơ trước của hối lộ của Simôn được đặc trưng bởi những điều nào sau đây?
a) Phierơ bảo ông rằng: "Một khi đã được cứu, thì luôn luôn được cứu." Ông bảo đảm cho Simôn rằng tội lỗi nầy không ảnh hưởng gì đến địa vị của ông trước mặt Đức Chúa Trời, và sự cứu rỗi của Simôn là bảo đảm chắc chắn.
b) Phierơ bảo Simôn rằng từ đầu Simôn chưa hề được cứu, bằng không ông đã không phạm một tội trọng như thế.
c) Bằng một lối nói rõ ràng và mạnh mẽ, Phierơ bảo Simôn rằng nếu không ăn năn về tội ác mình, thì Simôn sẽ bị hư mất với tiền bạc của ông.
d) Phierơ thấy rằng Simôn bị làm nô lệ và đầy dẫy nếp sống cũ: sự đắng cay và tội lỗi.
Dầu Simôn đã là một Cơ đốc nhân chịu phép báp têm rồi, (8:13, nhưng tình trạng của tấm lòng ông cho thấy ông đang xa cách Đức Chúa Trời và đang ở trong tội lỗi. Simôn đã may mắn thoát khỏi số phận của Anania và Saphira, là những người cũng giống như ông, đã tìm cách dùng tiền để mua được địa vị trong hội thánh.
Phierơ nghi ngờ ước muốn ăn năn của Simôn. Chữ "họa may" trong 8:22 có thể hiểu đúng hơn rằng đây không phải là biểu hiện nghi ngờ sự tha thứ của Đức Chúa Trời, nhưng là biểu hiện nghi ngờ của Phierơ trước sự ăn năn của Simôn.
25. Giải thích câu trả lời của Simôn để cho thấy “sự ăn năn” của ông là không thành thật?
..........
Chức Vụ Của Phierơ Và Giăng Giữa Người Samari
Mục tiêu 5. Cho thấy vì sao Phierơ và Giăng bắt đầu chức vụ cho một dân tộc có nền văn hóa khác với nền văn hóa của họ.
26. Xem Luca LuLc 9:21-55 GiGa 4:27 để đối chiếu thái độ của Phierơ và Giăng đối với người Samari với thái độ của họ thể hiện trong Cong Cv 8:14-25.
..........
27. So sánh 1:8; 8:5, 14, 25. Những suy luận nào sau đây là ĐÚNG?
a. Phierơ đã nhớ mạng lệnh của Chúa trong 1:8, và quyết định đem Giăng đi theo trong chuyến truyền giáo đến Samari.
b. Samari được nghe Tin Lành không phải vì cớ các sứ đồ chủ tâm đi truyền giáo, nhưng vì cơn bắt bớ khiến Philíp đi đến đó.
c. Phierơ và Giăng được hội thánh Giêrusalem sai đến Samari; tuy nhiên trên đường đến để thăm Philíp, Phierơ và Giăng đã giảng đạo cho các làng của người Samari.
d. Phierơ và Giăng được Luca mô tả là đến với các tân tín hữu người Samari theo mạng lệnh của các sứ đồ, là những tân tín hữu do Philíp đem về cho Chúa. Dường như nhiệm vụ của họ là để điều tra chứ không phải để truyền giảng Tin Lành. Tuy nhiên, nếu họ miễn cưỡng truyền giảng trong chuyến đi đến Samari, thì sự miễn cưỡng đó cũng đã tiêu tan ngay lúc họ bắt đầu trở về Giêrusalem.
Hoạt động truyền giáo vẫn chưa xảy ra như là kết quả sự quyết định của hội thánh. Nếu Phierơ và Giăng thực sự ra đi chỉ để điều tra, thì họ đã đổi ý khi đến với người Samari. Sự sốt sắng và thực tế về đức tin người Samari nơi Đấng Christ khiến Phierơ và Giăng đã cầu nguyện cho họ. (Họ có thể cầu xin sự tha thứ cho sự không khoan nhượng của mình ngày trước chăng?) Rồi không cần chờ sự chấp thuận của các sứ đồ tại Giêrusalem, họ đã đặt tay cho người Samari nhận lãnh Đức Thánh Linh. Được thôi thúc bởi từng trải mới của mình khi đem Tin Lành đến cho một dân tộc thuộc nền văn hóa khác, họ đã ra đi như những người có quyền tiên phong trong chức vụ rao truyền Tin Lành đã do Philíp mở đầu (8:25).
CHỨC VỤ CỦA PHILÍP CHO HOẠN QUAN ÊTHIÔBI
8:26-40 Bruce 184-191
Mục tiêu 6. Thuật lại ý nghĩa của việc Philíp làm chứng cho hoạn quan Êthiôbi, và sự tin đạo của hoạn quan.
28. Hai thể loại truyền giảng Tin Lành nào được trình bày trong chức vụ của Philíp qua 8:6, 26-38?
a ..........
b ..........
29. Có chức vụ nào trong những chức vụ trên quan trọng hơn chức vụ kia hay không?
..........
30. Đọc Côngvụ 8:26-29, và cho biết những câu nào sau đây là câu ĐÚNG.
a. Khi thiên sứ của Chúa gọi Philíp ra khỏi chức vụ trọng đại cho đoàn dân đông tại Samari, Philíp đã hỏi cho biết nguyên nhân vì sao lại như vậy.
b. Philíp vâng lời và không hề thắc mắc về mạng lệnh của thiên sứ, dầu điều đó có nghĩa là ông phải lìa bỏ chức vụ đầy kết quả tại Samari.
c. Philíp đã đi bộ một trăm dặm từ Samari trên con đường phía nam Giêrusalem tiến về Gaxa, vừa phàn nàn về sự thay đổi đột ngột trong chức vụ và về cái nóng trong sa mạc.
d. Philíp đi bộ cho đến khi Đức Thánh Linh bảo ông chạy nhanh đến với hoạn quan Êthiôbi đang trên đường từ Giêrusalem trở về nhà.
e. Khi Philíp thấy Chúa muốn ông giảng đạo cho chỉ một người mà thôi, ông đã khước từ. Philíp tin rằng đúng ra ông chỉ phải giảng cho những đám đông mà thôi.
Truyền đạo Philíp đã sẵn sàng thi hành chức vụ cho đoàn dân đông hoặc cho một người . Nếu Chúa cảm thấy điều quan trọng đối với Philíp là thay đổi địa điểm, thì Philíp cảm thấy rằng điều quan trọng là phải ra đi. Nhiệm vụ của ông không phải là phàn nàn hay lý luận tại sao, nhiệm vụ của ông là vui mừng vâng lời.
31. Luca nêu ra năm đặc trưng nào về nhân vật mà Chúa sai Philíp đến (8:27-28)?
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
e .........
Vị quan nầy đã đi một quãng đường rất xa để đến Giêrusalem mà chẳng hề có những tiện nghi như nhà nghỉ, khách sạn, hay nhà hàng (ít ra như chúng ta biết ngày nay)!
Nếu những qui định có trong LeLv 21:20 và PhuDnl 23:1 vẫn còn ràng buộc tại thời điểm nầy (chúng ta không biết có còn áp dụng hay không), thì không ai hoan nghênh một khách hành hương như viên hoạn quan nầy khi ông đến Giêrusalem. Thực ra, ông bị ngăn không cho vào tất cả mọi nơi ngoại trừ sân ngoài đền thờ, dầu ông là một người theo Do thái giáo đầy đủ kinh nghiệm.
32. Nếu hoạn quan không phải là một người theo Do thái giáo thì ông có thể bước vào trong sân ngoài đền thờ hay không (Cong Cv 21:28)?
..........
Án tử hình sẽ dành cho bất cứ ai dám bước vào trong những cánh cổng của bức tường cao hai thước ngăn cách các hành lang dành cho người Do thái chứ không dành cho dân ngoại. Những bảng hiệu lớn được gắn tại mỗi cánh cửa để cảnh cáo người ngoại bang rằng hình phạt dành cho người dám bước vào là tử hình (Bruce, trang 433-434).
33. Có thể nào những tín đồ Cơ đốc, là những người nhìn thấy hoạn quan ở trong sân ngoài đền thờ, đã làm ngơ không làm chứng cho hoạn quan vì cớ định kiến hay không? Ghi ra đây nơi mà các tín đồ thường xuyên nhóm nhau lại (2:46; 3:1, 11 5:12, 42).
..........
Các tín đồ đã thường xuyên nhóm lại tại sân ngoài đền thờ. Tuy nhiên, cơn bắt bớ có lẽ đã tạm thời làm giảm số người đến nhóm. Nhưng sự nghi ngờ của một số tín hữu Giêrusalem đối với dân ngoại bang đã được ghi lại trong 8:14; 11:2-3; 15:1. Dầu là nguyên nhân nào đi nữa, hoạn quan vẫn đang trên đường về quê hương mà không hề biết gì về Đức Chúa Jesus.
Chúa đã sai Philíp - cũng như Ngài cũng có lần sai Phierơ (Mat Mt 17:27) - đi theo một người! Chúa Jesus đã hứa làm thỏa mãn những người khao khát (Mat Mt 5:6). Lìa khỏi Giêrusalem với tình trạng không được Do thái giáo chấp nhận và có lẽ đã bị hội thánh bỏ bê, hẳn ông phải suy nghĩ "chẳng người nào hỏi thăm linh hồn tôi" (Thi Tv 142:4). Tuy vậy ông vẫn tiếp tục tìm kiếm Đức Chúa Trời bằng cách đọc Kinh Thánh. Đức tin như thế đã được Đức Chúa Trời chấp nhận (HeDt 11:6)!
34. Đức Chúa Trời có đem sứ điệp về Chúa Jesus đến cho những người muốn được cứu nhưng hiện lại không biết về Ngài hay không?
..........
Thánh Linh thôi thúc Philíp tiến đến tại chính xác thời điểm thuận tiện. Hoạn quan đang đọc lớn nửa chừng Bài Ca Về Người Đầy Tớ trong Êsai (EsIs 52:13-53:12). Câu hỏi của Philíp: "Ông có hiểu điều mình đang đọc chăng?" đã đánh thức niềm hy vọng trong người nầy rằng sự tra cứu của mình đã được đáp lời.
Bắt đầu với lời tiên tri của Êsai, Philíp giải thích Tin Lành về Đức Chúa Jesus cho hoạn quan.
35. Hãy xét tác dụng lời làm chứng của Philíp cho hoạn quan. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và mô tả đúng nhất những kết quả trong chức vụ của Philíp cho hoạn quan?
a. Hoạn quan tin và muốn chịu phép báp têm, nhưng Philíp đáp rằng ông không thể làm phép báp têm cho hoạn quan cho đến khi được các sứ đồ tại thành Giêrusalem chấp thuận.
b. Người nầy đã tin, nhưng để trả lời cho câu hỏi: “Có sự gì ngăn cấm tôi chịu phép báp têm chăng? Philíp trả lời rằng hoạn quan vẫn chưa trải qua thời gian chờ đợi để kiểm nghiệm sự chân thật của đức tin ông.
c. Philíp mời hoạn quan nên chờ chịu phép báp têm bằng nước cho đến khi có đủ những ứng viên lễ báp têm để tổ chức một kỳ lễ cho tốt đẹp.
d. Sự việc đức tin của hoạn quan nơi Đấng Christ được chứng thực bởi lòng khao khát chịu phép báp têm, và việc Philíp làm phép báp têm cho ông, cho thấy Philíp đã sẵn sàng xác chứng tính chân thật của đức tin người nầy.
Việc Philíp làm phép báp têm ngay cho người Samari và cho hoạn quan mà không cần đợi sự chấp thuận trước của bất cứ ai cho thấy hội thánh đầu tiên không có cơ cấu giới hạn chặt chẽ trong giáo hội. Cũng không có sự chậm trễ rõ ràng giữa lúc qui đạo và phép báp têm trong tập quán của hội thánh đầu tiên.
Không có cơ hội nào để chăm sóc tiếp cho tân tín hữu nầy cũng như để cho người ấy vững nền trong đức tin. Philíp cũng không lo lắng "bảo tồn" kết quả nầy của công tác truyền giảng Tin Lành. Chắc chắn Đức Thánh Linh đã có thể dẫn dắt người nầy vào mọi lẽ thật (GiGa 16:13). Sau khi đã vâng lời chăm sóc cho nhu cầu của hoạn quan, Philíp được Thánh Linh của Chúa cất đi và tiếp tục chức vụ lưu hành ở nơi khác. Trong khi đó, Đức Thánh Linh đưa dắt hoạn quan trở về quê hương trong sự vui mừng hớn hở.
36. Hoạn quan cứ hớn hở đi đường. Chúng ta không biết liệu ông có tiếp tục đọc cho đến Êsai EsIs 56:3-8 hay không. Nếu ông đọc phân đoạn nầy, sự vui mừng của ông sẽ càng lớn lao hơn như thế nào?
..........
Thật tuyệt vời khi biết những kết quả tại Êthiôbi do sự hoán cải của hoạn quan. Nhưng mục đích của Luca không phải là để ghi lại toàn bộ lịch sử Cơ đốc. Giống như chức vụ của Chúa, đấy là một câu chuyện quá bao quát đến nổi không thể ghi lại hết (GiGa 21:25).
Tuy nhiên, Philíp đi đến thành Axốt, khoảng hai mươi dặm ở phía bắc Gaxa, đi khắp vùng nầy giảng trong mọi thành cho đến khi tới Sêsarê (chắc hẳn bao gồm cả Lyđa và Giốpbê Cong Cv 9:32-36). Dường như ông đã ở lại tại đây. Khoảng hai mươi năm sau, chúng ta mới thấy lại ông, lúc đó ông là cư dân thành Sêsarê, và là cha của bốn người nữ tiên tri (21:8-9).
SAULƠ NGƯỜI TẠTSƠ
9:1-31 Bruce 192- 209
Một độc giả có óc quan sát khi đọc sách Côngvụ chắc chắn sẽ nhìn thấy mối liên kết chặt chẽ giữa nguyên nhân và hậu quả đã nối kết ba phần chính thuật lại sự bành trướng về mặt địa lý của hội thánh. Trong phần thứ nhất, giai đoạn tại Giêrusalem (1:1-8:15), Luca cẩn thận ghi lại hạt giống đã ra đi (chức vụ và sự chết của Êtiên), là nền tảng cho chức vụ của hội thánh trong phần thứ nhì của sự bành trướng, Giuđê - Samari đến Antiốt (8:6-12:25). Trong giai đoạn bành trướng thứ nhì, chúng ta thấy bối cảnh của công tác để khiến cho có thể thực hiện giai đoạn thứ ba và là giai đoạn chót của sự phát triển Tin Lành đến cùng trái đất (Cong Cv 13:28), tức là sự hoán cải của Saulơ, sự chấp nhận người ngoại bang, và sự thành lập hội thánh Antiốt.
Bối Cảnh Của Saulơ
Mục tiêu 7. Mô tả bối cảnh và sự hoán cải của Saulơ, so sánh sự thuật lại biến cố nầy của Luca với lời chứng của chính Phaolô nhiều năm sau đó.
Một bức tranh tổng hợp về nếp sống trước khi hoán cải của Saulơ nổi bật lên khi kết hợp nhiều câu Kinh Thánh lại với nhau.
37. Xem 21:39, và ghi ra quốc tịch của Saulơ cùng nơi xuất thân của ông.
..........
Phaolô (tên Lamã của ông, so với Saulơ là tên Do thái của ông) thấy rằng thành phố quê hương mình "vốn chẳng phải là một thành tầm thường" ( tức là thành có danh tiếng ). Nhận định của Bruce về quê hương của Saulơ giúp chúng ta hiểu rõ hơn (trang 207-209). Những câu Kinh Thánh ông trích dẫn kết luận rằng sự lựa chọn của Đức Chúa Trời đã quyết định gia đình và môi trường của Saulơ - căn cứ vào GaGl 1:15 ("Nhưng Đức Chúa Trời, là Đấng đã để riêng tôi ra từ lúc còn trong lòng mẹ"). Bruce có trích lời một chuyên gia, cho rằng không còn một thành phố nào khác trong thế giới cổ đại có thể làm được những điều mà Tạtsơ đã làm cho Phaolô (trang 208- 209). Bối cảnh của ông khiến ông có thể giao tiếp với thế giới dân ngoại bang. Đường hàng hải từ vùng Địa Trung Hải đến Tạtsơ rất dễ dàng, khiến thành phố nầy trở thành một thủ phủ quốc tế. Cleopatra đã có lần đi thuyền đến thành phố nầy. Tài khéo và sức lực của công dân trong thành không những giúp khai thông đường thủy, mà họ còn đào một đường hầm (Cilician Gates) xuyên qua những ngọn núi vào năm 400 S.C. Vào thời Phaolô, thành phố nầy đã được 1000 năm tuổi. Không có gì lấy làm lạ khi sau nầy, Phaolô gọi mình là công dân thành Tạtsơ, mà chúng ta nghe thấy trong lời nói đó âm hưởng của lòng tự hào công dân (Cong Cv 21:39).
Tạtsơ có một trường đại học đứng vào hàng thứ ba trên thế giới (sau Athên và Alexandria) ở thế kỷ thứ nhất, dầu không chắc là ông đã vào học tại những trường đó. Trái lại, Phaolô giữ theo đúng truyền thống của một rabbi, nên ông đã học thương mại (may trại) và đã đến học tại Giêrusalem (22:3), có lẽ là sống tại nhà của chị ông (23:16).
Với kết quả của hai nền văn hóa, nền văn hóa dân ngoại và nền văn hóa Do thái, Saulơ là người phù hợp độc nhất vô nhị cho nhiệm vụ truyền giáo của ông.
38. Những niềm tin quyết nơi tôn giáo của Saulơ trước khi qui đạo đã được trình bày một cách mạnh mẽ. Kinh Thánh nói những điều nào về bản thân ông?
a. GaGl 1:13-14 ..........
b. Phi Pl 3:4-6 ..........
c. IICo 2Cr 11:22 ..........
d. Cong Cv 22:3 ..........
e. 22:25-28 ..........
f. 26:4-5 ..........
Có bao giờ Saulơ đã tiếp xúc với Đức Chúa Jesus khi Ngài thi hành chức vụ tại thế chưa? Có người đã hiểu IICo 2Cr 5:16 là đầu mối để cho rằng ông đã tiếp xúc với Chúa; nhưng Phaolô không hề nói rõ điều đó, và trong suy luận của người Côrinhtô, Phaolô được xem như là chưa hề nhìn thấy Chúa Jesus, nhưng có biết về Ngài.
Saulơ được xem như là một nghị viên của Tòa Công Luận. Ông được xem như ưng thuận cái chết của Êtiên (Cong Cv 8:1). Ông được các thầy tế lễ cả giao quyền để bắt bớ (9:1-2; 26:10), và ông đã biểu quyết tán thành việc sát hại những môn đồ của Đấng Christ (26:10). Phải chăng qua Saulơ mà chúng ta có được một số biên bản họp của Tòa Công Luận (4:16-17; 5:33-39; 7:1-53)? Saulơ được xem như đang bắt bớ "đạo" (9:2). Việc tin nơi Jesus còn trổi hơn việc chấp nhận một giáo lý, đó là một phương cách sống. Khi bắt bớ "đạo," Saulơ đã thấy trực tiếp tinh thần gương mẫu của lòng yêu thương đầy tha thứ mà không hề chống cự của các tín hữu.
Sự Hoán Cải Của Saulơ
9:1-8 Bruce 192-197
Khi đã được phép của thầy tế lễ thượng phẩm (9:1) và của các thầy tế lễ cả (26:10), là những người cùng Tòa Công Luận được phép điều khiển nội vụ của người Do thái (Bruce, trang 193-194), Phaolô đã khởi hành đến Đamách trên một đoạn đường dài hai trăm dặm và đi mất cả tuần để lùng bắt các tín hữu, có lẽ là những tín hữu từ Giêrusalem chạy trốn cơn bắt bớ của ông, (8:1, 4; 11:19), rồi xiềng họ đưa về Giêrusalem.
39. Khi Phaolô gần đến đích của chuyến hành trình dài và sắp vào thành Đamách, hai sự kiện siêu nhiên nào đã chận ông lại (Cong Cv 9:3-4; 22:6-7; 26:13-14)?
a ..........
b ..........
40. Câu nào đặc trưng đúng nhất cho đáp ứng của Saulơ đối với sự hiển hiện của Chúa?
a) Ông nhận ra ngay tức khắc đây là giọng nói của Đức Chúa Trời (Chúa, Đức Giêhôva).
b) Sự tranh chấp trong lương tâm của ông về việc bắt bớ đồng loại tạo ra sự xáo trộn tâm lý, đến nỗi ánh sáng của mặt trời ban trưa đã khiến ông có được sự soi sáng trong lòng, gồm cuộc đối thoại giữa những giới hạn trong tâm hồn của ông với Đức Chúa Trời. Giọng nói mà ông nghe được chính là tiếng nói của lương tâm.
c) Khi ông đến gần thành Đamách, ông đã mắc chứng động kinh và bất tỉnh. Trong cơn động kinh nầy ông đã có được sự soi sáng nội tâm của Đức Chúa Trời.
Dầu lương tâm của Saulơ là "ghim nhọn" (ký ức của ông về Êtiên và về những người khác), nhưng từng trải của ông trên con đường Đamách rõ ràng không phải chỉ là một chấn động tâm lý. Tình trạng mù suốt ba ngày có thể chứng nhận điều đó. Ý kiến về sự động kinh chỉ là một nỗ lực để loại bỏ lời giải thích siêu nhiên. Ngoài ra, Saulơ không hề được mô tả là bất tỉnh. Có những yếu tố siêu nhiên trong sự hoán cải của Saulơ:
1. Ánh sáng soi sáng từ trời.
2. Đức Chúa Trời đã phán.
3. Những hiện tượng thiên thượng không chỉ tác động đến Saulơ mà còn tác động đến cả những người cùng đi với ông (22:9; 26:14).
4. Saulơ đã bị mù.
41. Câu nào dưới đây giải nghĩa đúng nhất cho sự so sánh những lời mô tả của Luca: “Những kẻ cùng đi với người... nghe tiếng nói" (cũng giống như trong đoạn 22:9) "mà chẳng thấy ai hết" (9:7); và lời kể của Phaolô: "Những kẻ đi với tôi thấy ánh sáng rõ ràng, nhưng chẳng nghe tiếng" (chữ Hylạp được dùng ở đây cũng chính là chữ được dùng trong 9:7) "tiếng của Đấng phán cùng tôi" (22:9).
a) Hai câu chuyện nầy mâu thuẫn nhau rõ ràng. Hoặc Luca, hoặc Phaolô, chỉ một người nói đúng mà thôi.
b) Khi kết hợp hai câu chuyện, căn cứ vào trường hợp tương tự trong GiGa 12:28-29, ta kết luận được là: Cong Cv 9:7 thuật lại rằng những kẻ cùng đi có nghe tiếng động, nhưng 22:9 cho thấy họ không hiểu những lời lẽ trong tiếng động đó.
Chính Luca đã quên mâu thuẫn trong hai câu nói nầy, hoặc ông đã xác định rõ những từ ngữ nầy. Trong GiGa 12:28-29, chỉ có Đức Chúa Jesus mới nghe rõ ràng phát âm của những lời Cha đã phán. Đám đông chỉ có thể nói đó là tiếng sấm, hoặc tiếng của một thiên sứ. Bản NIV dùng chữ hơi thoáng hơn bản văn Hylạp bằng cách dịch những chữ "nghe" (Cong Cv 9:7) và "hiểu" (22:9); và "âm thanh" (9:7) và "tiếng nói" (22:9) giống như nhau. Nhưng bản NIV giải thích chính xác ý định nầy để độc giả hiểu được.
Trong Bài 3, chúng ta thấy Chúa không hề hiện ra sau khi phục sinh cho những người không tin Ngài. Phaolô là một trường hợp ngoại lệ, và chính ông đã công nhận sự thể hiện đặc biệt của ơn điển và quyền tể trị của Đức Chúa Trời cho ông (GaGl 1:11-17).
Một số người không tin Chúa có thể nói: "Tôi sẽ tin nếu như Chúa hiện ra cho tôi giống như Ngài đã hiện ra cho Saulơ vậy." Sau đây là cách để đáp lại nhận định đó.
42. Trước hết xem những câu Kinh Thánh sau nói về sự hoán cải. Trong mỗi trường hợp, mô tả tiến trình và kết quả của sự hoán cải được ghi lại trong câu Kinh Thánh đó.
a. Cong Cv 2:41 ..........
b. 2:47 ..........
c. 4:44 ..........
d. 5:14 ..........
e. 6:1 ..........
f. 6:7 ..........
g. 8:12 ..........
h. 8:35-38 ..........
43. Dựa vào những phần so sánh với sự hoán cải của Saulơ trên đây, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Một người phải chờ đợi đích thân Đấng Christ hiện ra cách siêu nhiên (để đẩy nhanh sự chuẩn bị của mình) để được cứu rỗi.
b. Sự hoán cải của Phaolô là một ngoại lệ chứ không phải một mẫu mực để cho người ta đến tin nhận Đấng Christ.
Trong số hàng ngàn sự hoán cải được mô tả trong Côngvụ, trường hợp của Phaolô là trường hợp duy nhất có sự hiện ra của đích thân Đấng Christ trước khi hoán cải. Những lời mô tả độc đáo khác của Luca trong 12 đoạn đầu về những cá nhân nhận được sự cứu rỗi đó là: hoạn quan và Cọtnây. Dầu Đức Thánh Linh hành động một cách độc nhất vô nhị trong sự hoán cải của họ, nhưng họ đã đáp ứng vì cớ lời làm chứng của tín đồ, chứ không phải vì cớ đích thân Đấng Christ hiện ra.
Hãy xem lời giải thích của Phaolô trong GaGl 1:1, 11-12 về việc Chúa hiện ra cho cá nhân ông. Cần phải thiết lập những bằng chứng xác nhận ông là sứ đồ. Vì ông không có những bằng chứng xác nhận là một trong số mười hai sứ đồ (Cong Cv 1:21-22), nên Đức Chúa Trời đã biệt riêng ông ra để làm một sứ đồ độc nhất vô nhị, "một thai sanh non vậy" (ICo1Cr 15:8).
Như vậy, với trường hợp duy nhất trong Tân Ước về việc Đức Chúa Jesus Christ đích thân hiện ra cho một tội nhân, thì mục đích của sự hiện ra nầy là để xác lập người ấy làm một sứ đồ .
Chúng ta phải khảo sát một vấn đề khác nữa. Sự hoán cải của Saulơ có mang tính tự động không; tức là, sự hiện ra của Chúa có tước đoạt ý chí tự do của ông hay không, và nó có xâm phạm đến nhu cầu tội nhân phải vận dụng đức tin hay không? Hoặc, vì sao sau khi phục sinh, Chúa không chịu hiện ra cho Tòa Công Luận nhưng lại hiện ra cho Saulơ?
44. Để trả lời cho những câu hỏi trên, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Sách Côngvụ không hề cho thấy Phaolô đã thấy, đã rờ, hoặc đã ăn bữa với Đấng Christ Phục Sinh (GiGa 20:27; LuLc 24:43). Việc Chúa hiện ra cho Saulơ được giới hạn vào biểu hiện hữu hình của ánh sáng đi kèm theo những lời trò chuyện.
b. Nội dung cuộc đối thoại của Saulơ với Chúa Jesus không thể xác nhận nhờ vào những người cùng đi với ông (Cong Cv 22:9), nên đó là lời chứng của một mình Phaolô, và không thể viện dẫn đến ai khác nữa. (Khi đem so với 1:3), rằng Đấng Christ hằng sống đã hiện ra cho ông.
c. Chúa đã cho Saulơ bị mù trong ba ngày, trong thời gian đó, ông có thì giờ để nghi ngờ sự hiện ra đó và chối bỏ nó trước khi Chúa sai đến cho Saulơ một nhân chứng, là người có thể xác minh câu chuyện của ông (9:12, 17).
Những ai nói rằng họ cần phải có sự hiện ra đích thân của Đức Chúa Jesus giống như Ngài đã hiện ra cho Saulơ, thì chỉ đơn giản là vì họ không hiểu được mục đích độc nhất của sự hiện ra nầy, cũng không hiểu được sự cẩn trọng của Chúa khi ban một sự hiện ra mà người ta sẽ vẫn phải hành động theo đức tin để khẳng định điều đó.
Những Từng Trải Sau Khi Hoán Cải Tại Thành Đamách
9:8-19 Bruce 197 201
Mục tiêu 8. Thảo luận những từng trải sau khi hoán cải tại thành Đamách của Saulơ
45. Chúa đã truyền cho Saulơ mạng lệnh nào (9:6), và Saulơ đã đáp ứng thế nào (9:8-9, 11)?
..........
Những sự hiện thấy là một phương tiện để dẫn dắt trong sách Côngvụ. Giống như những giấc chiêm bao của Giôsép (Mat Mt 1:20; 2:13, 19, 22), sự hiện diện của chúng cho thấy một đời sống tận tụy được đầy dẫy sự hiện diện của Đức Chúa Trời đến nỗi Ngài có sẵn con đường tiếp cận với bản chất tiềm thức hay bản chất thuộc linh bên trong của con người.
Cả Anania (tên ông có nghĩa là "Chúa là Đấng khoan dung") lẫn Saulơ đều được hướng dẫn bởi những sự hiện thấy: Saulơ, về việc Anania đến với ông (Cong Cv 9:12) và Anania, về việc đi đến với Saulơ (9:11).
Sự sẵn sàng của Anania ("Có tôi đây!" 9:10) đã mở đường cho ông thắc mắc tạm thời với Chúa (9:13), khi ông vừa biết Chúa dành cho ông những mạng lệnh nào (9:12). Qua đáp ứng của Anania (9:13), chúng ta thấy ông đã biết sứ mạng của Saulơ khi đi đến thành Đamách.
46. Xem 9:15-16 và viết ra ba mục đích dành cho đời sống Saulơ theo như đã bày tỏ cho Anania, và tiến trình mà Saulơ phải trải qua để đạt được những mục đích đó.
a. Mục đích 1 ..........
b. Mục đích 2 ..........
c. Mục đích 3 ..........
d. Tiến trình ..........
Khi thuật lại từng trải hoán cải của mình trong 26:12-18, Phaolô tóm tắt cuộc đối thoại với Chúa trên con đường Đamách (9:4-6) và sự khải thị cho Anania về ông (9:15-16) vào trong một câu chuyện. Để ý kỹ cách Phaolô phân định rõ ràng hai phần nầy khi kể lại sự hoán cải của mình cho đám đông tại đền thờ trong 22:6-11, 11, 16. Tuy nhiên, khi nói với Ạcrípba (Cong Cv 26:12-18), Phaolô đã nối kết những sự kiện nầy để cho lời của Anania được xem như là phương tiện truyền đạt lời của chính Đấng Christ (26:16-18). Việc nhắc đến Anania không phải là tư liệu cho câu chuyện của ông trong 26:12-18, vì động cơ của ông là để xác nhận với Ạcrípba rằng đời sống của ông chính là để thực hiện mạng lệnh của chính Chúa! Đối với Phaolô, những lời của Anania (22:14, 15) chẳng khác gì lời của Chúa đã phán với ông trên đường Đamách (26:15-18).
47. Dựa vào 5:12; 6:6, và 8:17, việc đặt tay của Anania nói lên điều gì?
a) Đây là sự chứng tỏ rằng Saulơ đã được Đức Chúa Trời tiếp nhận hoàn toàn và đã được hiệp vào trong thân thể Đấng Christ cũng giống như những người Samari vậy.
b) Đó là một hành động xấc xược của Anania. Một quyết định quan trọng như việc tiếp nhận và làm phép báp têm cho Saulơ hẳn phải dành cho các sứ đồ ở thành Giêrusalem.
c) Việc đặt tay đã truyền quyền năng chữa lành của Chúa.
d) Với việc đặt tay, Saulơ đã được đầy dẫy Đức Thánh Linh như tại ngày Lễ Ngũ Tuần tại Samari.
Hành động đặt tay của Anania không phải là một cố gắng của ông để cố ganh đua cho bằng mẫu mực đã thiết lập, cũng không phải là một nỗ lực nhằm chiếm đoạt đặc quyền sứ đồ. Tại thời điểm nầy, những quyết định quan trọng ảnh hưởng đến bước tiến của Tin Lành vẫn chưa được dành riêng cho các sứ đồ (8:4, 4, 26), nhưng dành cho bất cứ ai mà Chúa muốn. Để ý cẩn thận rằng việc đặt tay chính là hành động của sự yên lặng vâng lời về phần Anania (9:12).
Luca ghi lại rằng, Anania nêu ra hai mục đích khiến ông đặt tay trên Saulơ: 1) để ông có thể nhìn thấy lại; 2) để ông có thể đầy dẫy Đức Thánh Linh. Luca ghi lại mục đích thứ nhất được ứng nghiệm tức khắc (9:18), nhưng không nói Saulơ đã thật sự từng trải sự đầy dẫy Đức Thánh Linh như thế nào. Việc bỏ qua chi tiết như thế không phải là điều bất thường với Luca, là người thường bỏ qua phép báp têm bằng nước tiếp sau sự hoán cải, vì cho rằng độc giả của ông hiểu phép báp têm bằng nước không phải là điều chỉ dành cho người nầy mà không dành cho người khác. Xin lưu ý, những sự bỏ qua không nhắc đến phép báp têm bằng nước đã xảy ra trong sách Côngvụ (2:47; 4:4; 6:1, 7): Một nửa số trường hợp hoán cải được Luca ghi lại đã không đi kèm với câu chuyện về phép báp têm bằng nước, và tỉ lệ nầy ngày càng giảm theo tiến trình của sách Côngvụ.
48. Dựa vào phần thảo luận trên đây và những câu Kinh Thánh trong sách Côngvụ nói về sự đầy dẫy Đức Thánh Linh, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và diễn tả điều mà chúng ta có thể chờ đợi diễn ra nơi Saulơ khi Anania đặt tay trên ông và bảo ông nhận lãnh Đức Thánh Linh?
a. Saulơ đã được cứu rỗi ngay giờ phút đó.
b. Anania đặt tay trên Saulơ để Saulơ có thể nhận lãnh Đức Thánh Linh (còn gọi là phép báp têm bằng Đức Thánh Linh hay lời Chúa đã hứa), một từng trải khác biệt với bản thân sự cứu rỗi.
c. Có lý khi cho rằng có tiếng như tiếng gió thổi ào ào đầy khắp phòng, lưỡi bằng lửa giáng trên Saulơ, và ông đã nói tiếng lạ.
d. Có lý khi cho rằng Phaolô đã nhận lãnh cùng một từng trải trong ngày Lễ Ngũ Tuần, mà nó đã được tái diễn tại nhà Cọtnây (10:44-46), Êphêsô (19:6), và chắc chắn là tại Samari nữa (8:17-18).
e. Kinh nghiệm Đức Thánh Linh của Phaolô khi Anania đặt tay trên ông sẽ giống như kinh nghiệm của tín hữu Êphêsô, là những người được Phaolô đặt tay để được nhận lãnh Đức Thánh Linh (19:6).
f. Khác với những sứ đồ khác, Phaolô không hề kinh nghiệm việc nói tiếng lạ.
Thật không khó khi thuật lại diễn tiến mà Saulơ đã hoán cải, được chữa lành, và được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Ông đã hoán cải trên con đường đến Đamách (9:3-6) khi ông công nhận quyền tể trị của Đức Chúa Jesus và vâng phục làm theo những mạng lệnh của Ngài. Kế đó, tiếp theo sự vâng lời và quy phục Chúa, ông đã nhận được khải tượng và được bảo đảm sẽ lành bệnh (9:12). Ông đã được Anania cầu thay cho và ông được chữa lành tức khắc (9:18), và nhận lãnh Đức Thánh Linh (9:17). Việc ông được "đầy dẫy Đức Thánh Linh" khi Anania đặt tay trên ông rõ ràng cũng giống y như từng trải của tín hữu tại Êphêsô, là những người đã được Phaolô đặt tay lên để họ được nhận lãnh Đức Thánh Linh (19:6). Trong suốt sách Côngvụ, các sứ đồ đã đem lại cho những người khác điều mà họ đã được ban cho (3:6) hay đã kinh nghiệm (8:15-18). Liệu Phaolô, cũng như Phierơ, có thể dẫn đưa người khác vào một từng trải mà chính bản thân ông chưa kinh nghiệm hay không? Câu trả lời là "Không!" Và tuy Luca không tập trung vào biểu hiện sự đầy dẫy Đức Thánh Linh của Saulơ, nhưng vị sứ đồ sau nầy đã mô tả sự đầy dẫy Đức Thánh Linh của mình là "nói tiếng lạ nhiều hơn hết thảy..." (ICo1Cr 14:18).
Khi đã được cứu rỗi, được chữa lành, được đầy dẫy Đức Thánh Linh, và chịu phép báp têm bằng nước, giờ đây Phaolô sẵn sàng để ăn uống, rồi sau đó rao giảng Đức Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời. (Cong Cv 9:20 là câu Kinh Thánh duy nhất trong sách Côngvụ áp dụng danh hiệu "Con Đức Chúa Trời" cho Đức Chúa Jesus. Và việc Phaolô sử dụng ngay tức khắc danh hiệu ấy cho thấy ông hiểu biết và chấp nhận thần tánh của Đấng Mêsia.)
Có lẽ nên chèn GaGl 1:17-18 vào giữa Cong Cv 9:21, 22. Sự giảng đạo đầu tiên của Phaolô đã là một sự rao giảng rất hùng hồn - rõ ràng là xuất phát từ chính kinh nghiệm bản thân ông - rằng "Đức Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời." Ba năm trời nghiên cứu, cầu nguyện, và có thể là thi hành chức vụ nữa, đã chuẩn bị ông càng hơn nữa cho phương pháp thi hành chức vụ trọn đời nầy: " nói rõ rằng Đức Chúa Jesus là Đấng Christ." Điểm nhấn mạnh nầy trong chức vụ không chỉ liên quan đến lời chứng của ông, mà còn tập trung vào cách Đấng Christ đã làm ứng nghiệm những lời tiên tri trong Kinh Thánh như thế nào (như những mẫu mực giảng đạo của Phaolô về sau nầy trong sách Côngvụ đã cho thấy).
Về phần vị sứ đồ phi thường nầy, chúng ta mang ơn lời cầu nguyện của Êtiên và quyền tể trị tối thượng của Chúa. Chúng ta cũng mang ơn người thợ đan thúng vô danh ở thành Đamách, mà tài khéo của người đã giúp Phaolô thoát khỏi Đamách. Há không phải là một nghịch lý khi ông là người đến Đamách để tìm diệt mạng sống của những người khác lại phải bỏ trốn khỏi thành để cứu lấy mạng sống của mình sao?
Chuyến Viếng Thăm Giêrusalem
9:26-31 Bruce 205-209
Mục tiêu 9. Thuật lại những chi tiết trong chuyến viếng thăm Giêrusalem đầu tiên của Saulơ với tư cách tín đồ Đấng Christ và giải thích những hiệu quả của việc bắt bớ, hoán cải và chức vụ ban đầu của Saulơ đối với hội thánh.
Đã qua ba năm kể từ khi Saulơ bắt bớ hội thánh (GaGl 1:18), tuy nhiên ký ức về sự thô bạo của ông đối với tín đồ vẫn còn rất sống động.
49. Những câu nào sau đây đặc trưng cho thái độ của Saulơ đối với hội thánh Giêrusalem?
a) Ông đã tự đến với Đấng Christ và không cần đến hội thánh.
b) Ông đã cảm thấy sự độc nhất vô nhị trong từng trải của ông khiến ông đủ tư cách để thành lập một giáo phái mới.
c) Ông muốn có sự tương giao với thân thể của Đấng Christ vì ông đã có cùng một đức tin và có sự tương quan với Đức Chúa Jesus Christ.
Khi một người thực sự được cứu, người ấy muốn được tương quan với những thành viên khác trong thành viên của Đức Chúa Trời. Vì thân thể của Đấng Christ là một thể (ICo1Cr 12:12-27). Việc Saulơ gặp các sứ đồ thực ra là chỉ gặp Phierơ và Giacơ (GaGl 1:18-19). Các sứ đồ còn lại có lẽ đã phân tán trong nhiều chức vụ khác như được kể lại trong Cong Cv 8:14, 25.
Rõ ràng, Saulơ đã hiểu nguyên nhân khiến các tín đồ sợ ông và cho rằng đức tin mà ông tuyên bố chỉ là một cái kế để thâm nhập vào giữa họ hầu dễ bắt bớ mà thôi.
Banaba đã sống đúng với tên của ông: "con trai của sự yên ủi." Ông đã trở thành "chiếc cầu nối" trong thân thể Đấng Christ, liên kết các chi thể lại với nhau.
50. Dựa vào Côngvụ 9:28-31, và những điều bạn biết về chức vụ của Êtiên, bạn nghĩ những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và giải thích đúng nhất nguyên nhân khiến Saulơ không được an toàn tại Giêrusalem, trong khi các tín hữu khác lại được an toàn?
a. Hội thánh không được mô tả như là an toàn đang khi mà Saulơ vẫn còn lai vãng, hoặc với tư cách người bắt bớ hoặc với tư cách Cơ đốc nhân.
b. Cuộc tranh luận của Saulơ với người Hêlênít khơi dậy ký ức của những kẻ thù Êtiên (6:9). Họ thấy giáo lý mà Êtiên rao giảng đã được hồi sinh, là giáo lý khiến cho họ nổi thạnh nộ.
c. Việc Saulơ về sau đã bị cáo buộc bằng những lời buộc tội giống y như lời buộc tội Êtiên có thể đem áp dụng cho vụ gây xao xuyến lần thứ nhất của Saulơ tại Giêrusalem. Hội thánh có thể an toàn, nhưng Saulơ thì không; không phải vì cớ người nầy thì rao giảng sự phục sinh còn người kia thì không;. nhưng vì cớ Saulơ - giống như Êtiên đã nhìn thấy những hàm ý trong đời sống và công vụ của Đấng Christ: luật pháp và đền thờ là không tương xứng với đức tin vì cớ Đấng Christ đã đến.
Hội thánh Giêrusalem vẫn duy trì đặc trưng "Do thái giáo" trong suốt cả sách Côngvụ. Hai mươi lăm năm sau sự qua đời của Êtiên và sự hoán cải của Saulơ, các tín đồ vẫn tham gia vào các của lễ tại đền thờ như là một biểu hiện đức tin tôn giáo của họ (21:20-26). Tuy nhiên, Saulơ đã thấy việc dự phần dâng các của lễ tại đền thờ là không thích hợp, nhưng để khỏi gây xúc phạm cho những tín đồ đồng quốc với ông và để phát triển Tin Lành giữa vòng người Do thái, ông đã tham dự vào hành động bên ngoài của việc dâng của tế lễ (ICo1Cr 9:20).
Tác Động Trên Hội Thánh
Phaolô đã quay về quê hương mình là Tạtsơ, và ông ở lại đó ít nhất mười một năm, cho đến khi Banaba đến tìm và đưa ông về Antiốt.
Kết quả của Saulơ rất lớn lao. Nỗ lực bắt bớ của ông đã làm hội thánh tản lạc, nhưng Đức Chúa Trời đã làm ích cho hội thánh ngay cả trong việc đó, vì ngọn lửa của Tin Lành đã lan đến các thành phố và các vùng khác, thậm chí vượt qua đại dương (Cong Cv 8:1; 11:19). Tác động của Cơ đốc nhân Saulơ vẫn còn nhìn thấy qua sách Côngvụ, nhưng sự giảng đạo ban đầu của ông tại thành Đamách đã báo hiệu cho những ngày sắp tới. Ông rao giảng Tin Lành một cách mạnh mẽ, quyền năng, và những kẻ chống đối muốn bịt miệng ông bằng cách giết ông.
Khi Saulơ ở tại Tạtsơ, kỷ nguyên của sự náo loạn bắt đầu từ Êtiên đã qua đi trong ít lâu. Hội thánh có thể và thật sự đã tăng trưởng trong thời kỳ bình an.
TÓM TẮT
Mục tiêu 10. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung của 8:1-9:31.
51. Tại nơi chôn John Wesley ở Tu viện Westminster Abbey, có khắc những dòng chữ sau: “Đức Chúa Trời chôn cất người làm công việc của Ngài, nhưng không hề chôn công việc của Ngài." Bạn nói sự chết của Êtiên minh họa thế nào cho lẽ thật nầy?
..........
52. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung của Côngvụ 8:16- 9:31. Viết phần tóm tắt nầy vào vở của bạn.
..........
Bài tự trắc nghiệm
1. GHÉP CẶP. Ghép phần mô tả thích hợp ở cột bên trái với nhân vật, địa điểm, sự kiện, hay những tập quán ở cột bên phải, bằng cách viết số thích hợp vào khoảng trống chừa sẵn.
.... a Đã giảng đạo với tư cách một truyền đạo lưu hành từ Axốt đến Sêsarê.
.... b Tập tục cố mua hay bán thánh chức của hội thánh bằng tiền.
.... c Phân đoạn trong Êsai mà Philíp đã dùng để bắt đầu làm chứng cho hoạn quan Êthiôbi.
.... d Bị tản lạc khắp trong cả xứ Giuđê và xứ Samari.
.... e Dân bản xứ của thành Tạtsơ xứ Silisi.
.... f Đã bỏ bùa mê người Samari bằng pháp thuật trong suốt một thời gian dài.
.... g Dân bản xứ Chíprơ, người đã kết bạn với Saulơ.
.... h Đã sai Phierơ và Giăng đến Samari.
.... i Quan coi kho tàng của nữ vương Canđác nước Êthiôbi.
.... j Được ban thẩm quyền để bắt và nhốt những kẻ nào bị tình nghi là theo "đạo."
.... k Một tín hữu tại Đamách được Chúa giao cho một chức vụ đặc biệt.
.... l Đề tài giảng đạo của Saulơ.
.... m Âm mưu giết Saulơ.
.... n Đã được dùng để giúp Saulơ thoát khỏi thành Đamách.
.... o Sợ Saulơ - thậm chí sau khi đã biết sự hoán cải của ông.
1) Tất cả ngoại trừ các sứ đồ.
2) Banaba.
3) Một cái thúng.
4) Các sứ đồ tại thành Giêrusalem.
5) Các tín đồ tại Giêrusalem.
6) Hoạn quan Êthiôbi.
7) Bài Ca Về Đầy Tớ.
8) Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm.
9) Saulơ.
10) Philíp.
11) Anania.
12) Đức Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời.
13) Người Do thái.
14) Simôn.
15) Simony.
TRẢ LỜI NGẮN. Hoàn tất các câu sau hoặc trả lời thật ngắn gọn.
2. Kết quả trước mắt cho sự tuận đạo của Êtiên liên quan đến hội thánh ấy là sự bùng nổ ..........
3. Từ nhãn quan của Đức Chúa Trời, sự tản lạc hội thánh ra nước ngoài là một cú đẩy cần phải có để các tín đồ làm trọn ..........
4. Quyền năng đặc biệt đã thể hiện rõ trong chức vụ của “chấp sự” Philíp tại Samari. Dân chúng Samari đã nhìn thấy hai loại dấu lạ cụ thể nào?
..........
5. Phierơ và Giăng được sai đến Samari vì nguyên nhân nào?
..........
6. Sự dẫn dắt của Chúa vào hai chức vụ cụ thể của Philíp dạy chúng ta bài học nào?
..........
7. Sự lìa bỏ hoạn quan mới tin Chúa của Philíp một cách đột ngột dạy chúng ta điều gì về phương pháp của Đức Thánh Linh?
..........
8. Từ phương pháp phục vụ hệ thống tôn giáo của Saulơ trước khi ông hoán cải, chúng ta thấy ông là loại người thế nào?
..........
9. Những lời nói của Chúa: “Sao ngươi bắt bớ ta?” khi Saulơ thực ra đang đuổi bắt những người đang theo "đạo" có một ý nghĩa như thế nào?
..........
10. Những lời nói của Chúa: “Ta đã chọn người nầy làm một đồ dùng ta,” có tác động nào trên chức vụ sau nầy của Saulơ?
..........
11. Khi Saulơ đến thành Giêrusalem, ông đã tranh luận với nhóm nào của người Do thái (là nhóm đã cố giết ông)?
..........
GIẢI ĐÁP
1. b) Lý do khiến Tin Lành được rao truyền ra khỏi Giêrusalem không phải là kết quả của hành động hội thánh quyết tâm làm trọn Cong Cv 1:8.
2.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
3.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
e. Đúng.
f. Đúng.
4. Câu trả lời của bạn. Tôi nghĩ rằng có thể họ không muốn chạy trốn vì cớ đấy là dấu hiệu hèn nhát trước kia của họ (Mac Mc 14:50). Đương nhiên họ cũng cảm thấy trách nhiệm người chăn bầy đối với những người còn ở lại tại Giêrusalem. Và cuối cùng, họ không muốn những anh em bị bỏ vào ngục (đa số là những người chỉ vừa mới tin Chúa) cảm thấy họ bị bỏ rơi.
5. b) Có kiến thức rất rộng để từ đó rút ra sự kiện (LuLc 1:1-4).
6.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Sai.
7.
a. Sai
b. Đúng.
c. Đúng.
8. c) Mathiơ 10 ghi lại sứ mạng giảng đạo đầu tiên của mười hai sứ đồ.
9. Câu trả lời của bạn. Chắc bạn thấy sự làm chứng của Đức Chúa Jesus cho người đàn bà Samari bên giếng khiến cho nhiều người Samari đến từ trong thành đã tin Ngài. Nhưng Ngài bị chối bỏ tại một thành khác của người Samari.
10.
a. Lời mà ông rao giảng ra.
b. Nhiều dấu lạ được thực hiện, tức là, sự đuổi quỷ và chữa lành kẻ què.
c. Có sự vui mừng khôn xiết trong thành.
d. Nhiều người đã tin Tin Lành.
e. Nhiều người nam và người nữ đã chịu phép báp têm.
f. Chính Simôn, thầy phù thủy, đã tin Chúa.
11. Không. Xem Côngvụ Cong Cv 5:16. (Tuy nhiên, ở đây trong 8:7, chúng ta có thấy một hình ảnh sinh động hơn về sự đi ra hung bạo của ma quỷ.)
13.
a. Luca nói ông đã tin.
b. Ông đã chịu báp têm.
c. Ông đã tiếp tục lấy làm lạ trước những dấu kỳ phép lạ.
14. Câu trả lời của bạn.
a. Tôi tin chúng ta có thể đoan chắc: vì Simôn đã mất đi nhiều sự mến mộ và người theo ông (c.12), nên có thể ông đã gia nhập cốt chỉ để khỏi bị cô lập, chứ không phải vì cớ bị cáo trách sâu sa từ bên trong.
b. Rõ ràng trong câu 18, Simôn tìm cách mua thứ mà nó sẽ giúp phục hồi lại ảnh hưởng của ông giữa vòng dân sự. Đây hiển nhiên là một động cơ sai lầm, và có vẻ mang tính cơ hội chủ nghĩa chứ không nhắm vào mục đích phục vụ.
15.
a. Lời hứa của Đức Chúa Cha.
b. Phép báp têm bằng Đức Thánh Linh.
c. Họ thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
d. Đức Thánh Linh được đổ ra.
e. Đức Chúa Jesus đã nhận từ nơi Cha lời hứa ban Đức Thánh Linh, và lời hứa đó đã được tuôn đổ ra.
f. Các ngươi sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh.
g. Lời hứa ban Đức Thánh Linh là thuộc về hết thảy mọi người.
h. Phierơ được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
i. Mọi người đang cầu nguyện đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
j. Bảy người được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
k Êtiên được đầy dẫy Đức Thánh Linh khi ông nhận lấy vai trò phục vụ.
l Êtiên được đầy dẫy Đức Thánh Linh khi ông chết.
m Người Samari đã nhận lãnh Đức Thánh Linh.
16.
a. Tất cả những câu Kinh Thánh nầy tính cho đến Cong Cv 4:8 đều được mô tả trong văn mạch của phép báp têm bằng Đức Thánh Linh tại ngày Lễ Ngũ Tuần. 8:15, 17 là tương đương với 2:4 cho đến 2:39, vì thể loại kinh nghiệm với Đức Thánh Linh được mô tả ở đây vẫn chưa được kinh nghiệm trước kia.
b. Từ 4:8 cho đến 7:55 mô tả về những sự đầy dẫy thêm về sau.
17. Câu trả lời của bạn. Tôi thấy khi Đức Chúa Jesus hà hơi trên họ (sự sống phục sinh của chính Ngài), Ngài phán: "Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh." Hàm ý ở đây chính là sự cứu rỗi chỉ có thể có được khi Đức Thánh Linh cư trú trong chúng ta. Mọi Cơ đốc nhân nào thực sự tin thì đều có Thánh Linh của Đức Chúa Trời.
18.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
19.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
20.
a. Họ đã cầu nguyện cho người Samari.
b. Họ đã đặt tay trên tín đồ người Samari.
21.
a. Sai.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Đúng.
22. Tôi tin chắc câu trả lời của bạn đó là “việc đặt tay của các sứ đồ.”
23.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Đúng.
24.
c) Bằng một lối nói rõ ràng và mạnh mẽ, Phierơ bảo Simôn rằng nếu không ăn năn về tội ác mình, thì Simôn sẽ bị hư mất với tiền bạc của ông.
d) Phierơ thấy rằng Simôn bị làm nô lệ và đầy dẫy nếp sống cũ: sự đắng cay và tội lỗi.
25. Câu trả lời của bạn. Tôi giải thích đáp ứng của Simôn như thế nầy: Ông có vẻ chỉ lo lắng về những hậu quả chứ không phải về hành động của tội lỗi. Dường như ông không hề đau buồn về chính tội lỗi, nhưng ông lo lắng về rắc rối mà tội lỗi của ông sẽ đem lại.
26. Câu trả lời của bạn. Tôi chắc chắn bạn sẽ dồng ý rằng, định kiến của anh em với người Samari đã chấm dứt, như được thấy trong nhiều câu Kinh Thánh khác nhau nầy.
27.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
28.
a. Truyền giảng Tin Lành đại chúng hay chức vụ cho nhiều người.
b. Cá nhân chứng đạo hay chức vụ cho một người.
29. Câu trả lời của bạn. Tôi chắc chắn bạn sẽ đồng ý rằng cả hai đều cần thiết. Cả hai đều được Đức Chúa Jesus sử dụng. Chức vụ cho số đông người đôi khi chỉ đến được với một người, và chức vụ của một người đôi khi lại đến được với rất nhiều người.
30.
a Sai.
b Đúng.
c Sai.
d Đúng.
e Sai.
31.
a. Ông là một người Êthiôbi.
b. Ông là một hoạn quan; tức là hoặc là người mắc những khuyết tật bẩm sinh về giới tính hoặc bị hoạn.
c. Ông là quan coi sóc kho tàng của Canđác, nữ vương xứ Êthiôbi.
d. Ông đã đến Giêrusalem với tư cách khách hành hương.
e. Ông đang đọc sách tiên tri Êsai.
32. Không.
33. Câu trả lời của bạn. Có thể hình dung được điều đó.
34. Câu trả lời của bạn. Tôi nói: “Có! Ngài sẽ đem đến!" Hãy nhìn xem sự chăm sóc của Ngài dành cho hoạn quan. Có phải Ngài phân biệt đối xử, gia ơn cho tấm lòng sốt sắng nầy, nhưng không gia ơn cho những tấm lòng khác chăng (RoRm 2:11)?
35.
a. Sai.
b. Sai.
c. Sai.
d. Đúng.
36. Câu trả lời của bạn. Tôi chắc chắn bạn nhìn thấy hàm ý trong lời tiên tri của Êsai: rằng Đức Chúa Trời sẽ kéo người dân ngoại và kẻ hoạn đến với Ngài. Với những lời hứa tuyệt diệu nầy cho ông, hoạn quan có thể vui mừng nhìn hướng tới thời điểm mà lời hứa nầy được ứng nghiệm, tức thời điểm mà ông sẽ không còn là kẻ khách lạ nữa nhưng là một người đồng quốc.
37. Câu trả lời của bạn nên ghi ra sự kiện Saulơ là một người Do thái đến từ thành Tạtsơ xứ Silisi.
38. Câu trả lời của bạn. Để ý những câu trả lời của tôi.
a. Sự bắt bớ hội thánh cách dữ tợn, tiến xa trong Do thái giáo hơn nhiều người đồng trang lứa với ông, cực kỳ nhiệt thành vì truyền thống Do thái giáo.
b. Chịu cắt bì, thuộc về chi phái Bêngiamin (chi phái của vua Saulơ và Mạcđôchê), một người Hêbơrơ con của người Hêbơrơ (một người Hêbơrơ "chính gốc Do thái" chứ không phải người phản bội những khuynh hướng Hêlênít), một người Pharisi, một kẻ sốt sắng bắt bớ hội thánh, và không chỗ trách được trong việc thi hành sự công bình theo luật pháp.
c. Một người Hêbơrơ, không thiếu bất cứ một chứng cớ xác nhận nào mà những kẻ chỉ trích ông đang có.
d. Một người Do thái, sanh tại Tạtsơ, được đào tạo kỹ lưỡng bởi tay Gamaliên, sốt sắng vì cớ Đức Chúa Trời.
e. Công dân Rôma từ lúc sinh ra.
f. Một người Pharisi.
39.
a. Lúc giữa trưa, ánh sáng từ trời chói lòa hơn mặt trời soi sáng trên ông và những người đi với ông.
b. Một tiếng nói phán gọi đích danh ông: “Hỡi Saulơ, Saulơ, sao ngươi bắt bớ ta?” (Đấng Christ, là đầu của hội thánh trên thiên đàng, đã hiệp nhất với hội thánh Ngài trên trần gian nầy.) Và: "Ngươi đá đến ghim nhọn thì là khó chịu cho ngươi thay."
40. a) Ông nhận ra ngay tức khắc đây là giọng nói của Đức Chúa Trời (Chúa, Đức Giêhôva).
41.b) Khi kết hợp hai câu chuyện, căn cứ vào trường hợp tương tự trong GiGa 12:28-29.
42.
a. 3000 người được cứu qua sự rao giảng Lời Chúa.
b. Mỗi ngày đều có thêm người được cứu qua lời làm chứng của các tín hữu.
c. Nhiều người tin nhờ vào sứ điệp nầy (5000).
d. Càng nhiều người tin hơn nữa qua chức vụ của các sứ đồ.
e. Số môn đồ ngày càng tăng qua chức vụ giảng Đạo (6:2).
f. Sự gia tăng nhanh chóng của các tín đồ thông qua việc truyền bá Lời Đức Chúa Trời.
g. Người Samari tin và chịu phép báp têm nhờ vào công tác rao giảng tin lành của Philíp.
h. Hoạn quan tin Chúa và chịu phép báp têm sau khi Lời Chúa đã được giải nghĩa cho ông. (Tiến trình để đem tất cả những người nầy đến cho Đấng Christ chính là sự làm chứng hay giảng đạo của các tín hữu, thường có kèm theo nhiều dấu kỳ phép lạ.)
43.
a. Sai.
b. Đúng.
44.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Đúng.
45. Chúa truyền lệnh phải vâng lời bằng cách bảo Saulơ chờ trong thành Đamách để chờ thêm chỉ thị. Saulơ đã bổ sung thêm vào sự vâng lời của mình bằng sự thống hối và ăn năn, kiêng ăn uống (và bằng sự cầu nguyện) cho đến khi những mệnh lệnh của Ngài được thành (Cong Cv 9:9, 19).
46. Phaolô sẽ đem Danh Chúa đến cho:
a. Dân ngoại.
b. Các vua.
c. Con cái Ysơraên.
d. Ông sẽ chịu khổ rất nhiều vì cớ Đấng Christ. (13:1-28:31 cho chúng ta thấy sự ứng nghiệm của lời tiên tri nầy.)
47.
a) Đây là bằng chứng tỏ ra Saulơ đã được Đức Chúa Trời tiếp nhận hoàn toàn.
c) Việc đặt tay đã truyền quyền năng chữa lành của Chúa.
48.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
e. Đúng.
f. Sai.
49.c) Ông muốn có sự tương giao với thân thể của Đấng Christ.
50.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Đúng.
51. Câu trả lời của bạn. Chúng ta thấy có thể Êtiên đã bị cất đi, nhưng một Philíp lại dấy lên. Huyết của những người tuận đạo là hạt giống của hội thánh, giống như sự hoán cải của Saulơ để đáp lời cầu nguyện của Êtiên đã minh họa điều đó một cách mạnh mẽ.
52. Câu trả lời của bạn. Tôi đã ghi ra nội dung sau: Sự bắt bớ do tay Saulơ thực hiện đã làm tín đồ tản lạc. Philíp đi đến Samari và cũng đã chinh phục được hoạn quan Êthiôbi cho Đấng Christ. Saulơ hoán cải và thi hành chức vụ tại Đamách cũng như tại Giêrusalem. Khi Saulơ quay lại Tạtsơ, hội thánh đã được bình an và tăng trưởng.
Phierơ
Trong Phần trước, chúng ta đã xem xét sự khai sinh hội thánh, sự tăng trưởng, bành trướng của hội thánh, tiếp theo là sự chống đối, rồi đến sự bắt bớ thẳng tay. Giờ đây, chúng ta chuyển sang công vụ của Phierơ và nguồn gốc của hội thánh Cơ đốc giáo dân ngoại bang.
Chúng ta thấy Phierơ bận rộn với chức vụ lưu hành để thăm viếng các cộng đồng Cơ đốc bị tản lạc trong xứ Giuđê. "Giáo phận" của ông bao gồm lãnh thổ mà hầu hết là bán-ngoại bang. Do đó, chúng ta thấy có phạm vi rộng hơn cho sứ điệp Tin Lành. Đột nhiên, chúng ta nhìn thấy sự thay đổi phi thường: thời điểm đã đến để Tin Lành vượt biên giới ngăn cách giữa người Do thái và người ngoại bang, để Tin Lành được rao giảng công khai cho dân ngoại bang.
Khi chúng ta quan sát sự bày tỏ chương trình của Đức Chúa Trời cho công tác truyền giảng Tin Lành thế giới, chúng ta khâm phục trước phương pháp và thời điểm mà Đức Thánh Linh dùng để chuẩn bị con người - người Do thái cũng như người ngoại bang cho giai đoạn tiếp theo của trận tấn công thuộc linh. Tinh thần kiêu ngạo và thành kiến đã được dẹp đi không phải bởi sự công kích ồ ạt nhưng bởi sự cảm động dịu dàng của Đức Thánh Linh. Những tấm lòng tan chảy là kết quả sự tấn công của Đức Thánh Linh. Nhờ bài học nầy, bạn sẽ càng ý thức rõ hơn công việc của Đức Chúa Trời trong và qua dân sự Ngài để xây dựng nước Đức Chúa Trời. Và bạn sẽ biết trân trọng thời điểm trong chương trình của Ngài, cũng như nhu cầu phải sánh kịp bước với chương trình của Ngài.
Dàn bài
Phierơ Tại Lyđa Và Giốpbê
Phierơ Và Cọtnây
Những Đặc Điểm Của Cọtnây
Những Khải Tượng Và Kết Quả
Cọtnây Và Phierơ Gặp Nhau
Bài Giảng Của Phierơ
Đức Thánh Linh Được Ban Cho
Phierơ Giải Thích Cho Giêrusalem
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Thảo luận phương pháp Đức Thánh Linh đã dùng để nối lại sự ngăn cách giữa người Do thái và người ngoại bang, sắp xếp theo thứ tự ít nhất ba từng trải trong chức vụ của Phierơ, chuẩn bị cho chuyến đi đến nhà Cọtnây của ông.
Giải thích sự hiện ra của thiên sứ và các sự hiện thấy (yếu tố siêu nhiên) trong sách Côngvụ, và giải nghĩa công dụng ban đầu bằng cách nêu ra ít nhất ba ví dụ cũng như nguyên nhân khiến chúng được sử dụng đến.
Giải thích ý nghĩa sự tuôn đổ Đức Thánh Linh trên dân ngoại bang, ghi ra hai nguyên nhân chính khiến biến cố nầy rất quan trọng đối với người Do thái cũng như đối với người ngoại bang.
Sinh hoạt học tập
1. Đọc kỹ 9:32-11:18 trước khi bạn bắt đầu vào phần khai triển bài học. Nếu có thể được, đọc phần Kinh Thánh nầy ít nhất hai lần.
2. Tra định nghĩa của những từ bạn không hiểu trong phần Từ Vựng.
3. Đọc bài học, làm hết câu hỏi nghiên cứu, tham khảo sách giáo khoa và Kinh thánh khi cần. Kiểm tra định kỳ câu trả lời của bạn với phần giải đáp trong tập học viên.
4. Làm bài tự trắc nghiệm ở cuối bài học, kiểm kỹ câu trả lời của bạn. Ôn lại những mục nào bạn trả lời sai.
Từ vựng
vô danh anonymous
xuất thần ecstasy
thuộc kinh nghiệm experiential
tin đồn grapevine
khả năng cảm thụ perceptiveness
có uy tín prestigious
người cải đạo proselyte
cơ sở hợp lý rationale
hồi tưởng reminiscent
tất phải có requisite
khẩu hiệu shibboleth
thuật ngữ terminology
được phê chuẩn validated
Khai triển bài học
PHIERƠ TẠI LYĐA VÀ GIỐPBÊ
9:32-11:18 Bruce 210-236
Mục tiêu 1. Thảo luận chức vụ của Phierơ tại Lyđa và Giốpbê để cho thấy những trách nhiệm trong tư cách sứ đồ đang bành trướng, chuẩn bị ông như thế nào cho chức vụ đối với dân ngoại bang.
Trong 9:32-11:18, Luca cho thấy Đức Thánh Linh tiếp tục hướng dẫn sự mở mang biên giới địa lý cũng như văn hóa của hội thánh.
Chiếc bầu da tôn giáo / văn hóa chật hẹp của hội thánh Giêrusalem (11:2-3) phải được căng ra nếu như muốn đem Tin Lành đến cho thế giới. Như trong các sách Tin Lành và trong phần đầu của Côngvụ, một lần nữa Phierơ lại đứng ở tuyến đầu. Nếp sống của ông thật gương mẫu, vì ông có hai đặc điểm nổi bật trong tư cách môn đồ: sự sẵn sàng học hỏi và vâng lời .
Phierơ có thể có mà cũng có thể không phải là người đầu tiên rao giảng Tin Lành cho dân ngoại (11:20). Chúng ta có thể biết chắc điều nầy: ông là người đầu tiên được Đức Chúa Trời dùng để khẳng định với hội thánh Giêrusalem về sự việc Chúa đã cứu dân ngoại bang mà không cần đến những qui định tôn giáo trong Do thái giáo. Một sự kiện như thế hẳn sẽ mở mắt thuộc linh hội thánh để họ hiểu biết một cách mới mẻ về Cựu Ước, đúng như chính Chúa đã tuyên bố. Ngài đã thách thức thính giả nhận ra Ngài đến để làm trọn luật pháp (Mat Mt 5:17). Và vì Ngài đã làm trọn luật pháp, nên dân sự trong giao ước mới của Ngài được thoát khỏi qui định của giao ước cũ. Giờ đây, mối tương quan của họ với Đức Chúa Trời không căn cứ trên việc làm theo luật pháp, nhưng căn cứ trên ân điển của Đức Chúa Jesus Christ (Eph Ep 2:8-9).
Khi hội thánh nhận ra sự hoán cải chân thật của Cọtnây (11:18;), hội thánh bắt đầu nhiệm vụ hiểu biết cách mới về Cựu Ước và bắt đầu bản sắc của mình với tư cách một cộng đồng Cơ đốc. Chính Chúa đã thiết lập nền tảng (Mat Mt 5:17-47; Mac Mc 7:1-23; GiGa 7:19-24). Êtiên đã nhìn thấy những hàm ý và đã giảng tiên tri rằng giao ước mới của Đức Chúa Trời được viết trên bảng lòng (so sánh Cong Cv 6:11, 14 với Eph Ep 3:6; IICo 2Cr 3:3). Từng trải của Phierơ với Cọtnây chỉ là một hạt giống phôi thai cho quyết định của giáo hội nghị trong Cong Cv 15:1-41. Ngoài ra còn có thần học về ân điển được phát triển đầy đủ trong thư tín của Phaolô, sự trình bày của thơ Hêbơrơ rằng Đấng Christ trổi hơn Môise và Salômôn, một sinh tế và là một thầy tế lễ thượng phẩm tốt hơn và trọn vẹn mà không một đền thờ nào có thể cung cấp được!
1. Mãi cho đến Côngvụ 8:14, Phierơ vẫn chưa rời thành Giêrusalem kể từ sau ngày Lễ Ngũ Tuần. Có sự khác biệt nào giữa 8:14, 25, với 9:32? Chọn (những) câu trả lời đúng nhất.
a) Phierơ không tự mình khởi xướng chức vụ nào cả. Ông đi lại bên ngoài thành Giêrusalem chỉ khi nào được hội thánh hoặc các sứ đồ khác sai ông đi.
b) Trước tiên Phierơ đi lại bên ngoài thành Giêrusalem theo sự hướng dẫn của các sứ đồ. Chức vụ nầy rất bổ ích đến nỗi ông đã tự mình tiếp tục rao giảng Tin Lành trong rất nhiều làng của người Samari khi trên đường quay về Giêrusalem.
c) Chức vụ lưu hành của Phierơ được tiếp tục khi ông đi lại bên ngoài Giêrusalem, mà nó có vẻ như là sự thăm viếng chăm sóc bầy của sứ đồ dành cho các tín hữu tại nhiều nơi khác nhau. 9:32 không nói gì về việc ông được sai đi.
Khi đến Lyđa, một thành nằm khoảng ba mươi dặm phía tây bắc Giêrusalem, Phierơ gặp Ênê. Hãy so sánh sự chữa lành người bại của Chúa Jesus (Mac Mc 2:1-12) và sự chữa lành người què trước đó qua chức vụ của Phierơ và Giăng (Cong Cv 3:1; 4:4).
2. Dựa vào phần so sánh trên, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG? Khoanh tròn mẫu tự của những câu ĐÚNG trong bài tập nầy cũng như trong tất cả những câu hỏi Đúng- Sai của bài học nầy.
a. Ênê là người bại duy nhất được nhắc đến đích danh.
b. Chỉ có trong chức vụ của Chúa Jesus, sự chữa lành mới đi kèm theo việc người bại được tha tội.
c. Tất cả mọi sự chữa lành đều có một tác động vượt trổi hơn chính bản thân sự lành bệnh.
d. Sự chữa lành người què tại Cửa Đẹp là một phép lạ vĩ đại hơn phép lạ chữa lành Ênê.
Sự chữa lành Ênê mang một đặc trưng độc nhất vô nhị: người được chữa lành được nhắc đến đích danh. Hiếm khi người nhận phép lạ được nêu danh tánh trong Tân Ước. Khi họ được nêu danh, thì có lẽ là vì họ đã trở thành tín đồ và sau nầy nổi danh trong hội thánh. Phép lạ chữa lành của Phierơ - khác với phép lạ của Chúa Jesus - không liên hệ với sự tha thứ tội lỗi cho người được chữa lành. Mỗi trường hợp chữa lành đều có một hiệu quả vượt trổi hơn chính bản thân sự lành bệnh. Sự chữa lành trong Cong Cv 3:1-26 đã tạo cơ hội để rao giảng Tin Lành và rất nhiều người đã đáp ứng (Cong Cv 4:4). Sự chữa lành Ênê đã đưa dẫn nhiều người đến với Chúa. Tất cả những sự chữa lành đều có chung một điểm: chúng là kết quả của những điều không thể thực hiện được trong tự nhiên.
Tin tức sự chữa lành Ênê đã lan đến Giốpbê, tại đó có Tabitha (theo tiếng Aram) hoặc Đôca (theo tiếng Hylạp) vừa mới chết. Tên của bà có nghĩa là "linh dương nhỏ," một loài thú lẹ chân, dễ thương, xinh đẹp. Rõ ràng, Đôca đã sống đúng với ý nghĩa của tên mình bằng cách sẵn sàng làm việc lành và hay bố thí.
3. Đọc RoRm 12:3-21. Chọn ít nhất năm đặc điểm của Đôca từ phân đoạn nầy. Những đặc điểm cụ thể của Đôca là
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
e ..........
4. Câu nào đặc trưng đúng nhất cho chức vụ của Đôca?
a) Bà cảm thấy Đức Chúa Trời không sử dụng bà, vì bà không có ân tứ siêu nhiên nào cũng không có chức vụ giảng đạo.
b) Bà có rất ít thời gian dành cho người khác, vì bà đã dành ngày và đêm để ở riêng với Đức Chúa Trời.
c) Đời sống của bà đầy dẫy công tác phục vụ người khác.
Có bao nhiêu thánh đồ đã không dùng đến ân tứ mình có vì cớ họ nghĩ chúng là "thấp kém" nên do đó đã bỏ thời gian để tìm kiếm chức vụ "cao trọng hơn"? Đức Chúa Trời có kêu gọi một số người bước vào đời sống cầu nguyện (LuLc 2:36-38), nhưng Ngài cũng kêu gọi bước vào đời sống phục vụ người khác.
Những chi tiết về sự chết và chuẩn bị chôn Đôca được nêu cụ thể và là đặc điểm của việc Luca chú ý đến từng chi tiết, và cũng là bằng chứng cho nhãn quan thầy thuốc của ông (CoCl 4:14).
5. Hãy suy nghĩ đến những phép lạ trong sách Côngvụ cho đến thời điểm nầy, và cho biết những câu nào sau đây là câu ĐÚNG.
a. Sự kêu Đôca từ kẻ chết sống lại là phép lạ đầu tiên trong Côngvụ mà người nhận phép lạ được xác định rõ ràng là tín đồ trước khi phép lạ xảy ra.
b. Hầu hết các phép lạ trong sách Côngvụ cho đến thời điểm nầy đều được xem như xảy ra cho những người đã là tín đồ rồi.
Ngay cả trong các sách Tin Lành, điều kiện được cứu rỗi rồi vẫn không được đặt ra như là một qui định để được chữa lành. Sự chữa lành là dấu hiệu tình yêu của Đức Chúa Trời - ngay cả đối với kẻ chẳng tin.
6. Ngoài sự chết của Anania và Saphira, có bao nhiêu sự chết khác nữa được nhắc đến trong sách Côngvụ trước khi gọi Đôca từ kẻ chết sống lại?
..........
7. Vì sao Đôca được sống lại từ kẻ chết còn Êtiên thì không ?
a) Dễ kêu Đôca sống lại hơn, vì bà chết tại nhà.
b) Phierơ không đủ đức tin để gọi Êtiên hoặc những người bị giết trong cơn bắt bớ của Saulơ từ kẻ chết sống lại.
c) Trong quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời, Phierơ được ban ân tứ đức tin để gọi Đôca từ kẻ chết sống lại, nhưng không thể gọi Êtiên và những người khác từ kẻ chết sống lại.
d) Chúng ta phải giao vấn đề vì sao người nầy được sống lại còn người khác thì không lại cho sự khôn ngoan vô lượng vô biên của Đức Chúa Trời (RoRm 8:33-36).
Sự có mặt và hành động của Phierơ trong nhà của Đôca khiến chúng ta nhớ lại việc Chúa khiến con gái Giairu sống lại từ kẻ chết (Mac Mc 5:39-41). Ngay cả lời nói cũng giống nhau, ngoại trừ những chữ "Talitha" (Hỡi con gái nhỏ) của Chúa Jesus và chữ "Tabitha" (Hỡi linh dương) của Phierơ. Tôi tự hỏi không biết có phải sự trình bày lại một bối cảnh rất gần gũi của phép lạ ngày trước đã thôi thúc Phierơ cố vươn lên và rồi đã nhận được ân tứ đặc biệt của đức tin hay không.
Sự chữa lành Đôca hiển nhiên là một nguồn vui và an ủi đặc biệt cho Phierơ và hội thánh, là những người đã đi qua trũng bóng chết bắt đầu từ sự tuận đạo của Êtiên. Nhưng niềm vui trên hết ấy là họ lại có Đôca yêu dấu một lần nữa ở giữa họ.
Nhân tiện, chưa hề có một người được sống lại nào (ngoại trừ Chúa Jesus). Trong Tân Ước mô tả sự sống sau cái chết - tức thời kỳ giữa sự chết và sự sống lại - sẽ ra sao. Những sự vinh hiển trong thế giới mắt chưa được nhìn thấy là việc mà chỉ có Chúa mới là Đấng nói cho chúng ta biết.
Phierơ quyết định không ở lại trong ngôi nhà uy tín nhất tại Giốpbê. Trái lại, ông đã ở với Simôn, một người thợ thuộc da. (Dầu nghề thuộc da là một nghề rất cần thiết, nhưng đó là một công việc không dễ chịu chút nào, và là nghề mà những người xem một số loài súc vật là không tinh sạch sẽ xem đó là một nghề không tinh sạch.) Theo luật pháp Do thái, thợ thuộc da phải sống bên ngoài tường thành, vì người nầy đụng đến những con thú chết nên luôn luôn ở trong tình trạng không tinh sạch (LeLv 11:24). Phong tục ở đây nghiêm khắc đến nỗi một người đàn bà có thể ly dị một người thợ thuộc da nếu như ông ta cưới vợ mà không chịu tiết lộ trước về nghề nghiệp của mình.
8. Việc Phierơ ở trong nhà Simôn thợ thuộc da đã cho thấy
a) Ông không tuân thủ nghiêm nhặt mọi qui tắc của Do thái giáo.
b) Hành vi của ông khi liên hệ với những người bị bỏ ngoài lề xã hội là giống như cách sống của Chúa (LuLc 15:1; 19:1-10).
c) Ông đã hoàn toàn không tuân thủ mọi qui định của Do thái giáo.
Từ nhà Simôn thợ thuộc da đến nhà của Cọtnây, một viên đội trưởng người ngoại bang! Chúa đang dẫn dắt Phierơ tiến lên dần dần!
PHIERƠ VÀ CỌTNÂY
Cong Cv 10:1-48 Bruce 214-231
Mục tiêu 2. Liệt kê những đặc điểm của Cọtnây và trả lời câu hỏi: “Có phải ngay cả những người tốt cũng vẫn phải cần Tin Lành thì mới được cứu?”
Chức vụ của Phierơ cho người Samari và Simôn thợ thuộc da là một nhịp cầu nối về văn hóa và thời gian giữa việc làm chứng cho người Do thái và người ngoại bang. Thành phố cửa biển xinh đẹp Sêsarê nầy là nơi cư ngụ của quan tổng đốc Lamã cũng như một trung tâm cho mọi công vụ của ông, nằm ba mươi dặm trên bờ biển phía bắc Giốpbê. Hành trình địa lý đến nhà Cọtnây người ngoại bang nầy là rất ngắn, nhưng Phierơ đang bước vào một thế giới mới.
Những Đặc Điểm Của Cọtnây
10:1-2 Bruce 214-216
9. Nêu năm đặc trưng của Cọtnây trong 10:1-2.
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
e ..........
Những viên đội trưởng được xem như trụ cột của quân đội Lamã. Họ là lãnh đạo của khoảng 100 binh lính. Sách giáo khoa cho thấy những đặc điểm tất phải có của họ (trang 215) và nhận định rằng, ngoài những vấn đề khác, họ còn phải là những lãnh đạo giỏi, có tinh thần kiên nghị và khôn ngoan, thận trọng, và có khả năng làm chủ tình thế ngay cả trong những tình huống khủng khiếp.
Lưu ý những viên đội trưởng khác đã được nhắc đến trong Tân Ước. Trong Mat Mt 8:5 và LuLc 7:2, chúng ta thấy viên đội trưởng có đức tin lớn mà Đấng Christ chưa hề thấy trong dân Ysơraên. Và trong Mat Mt 27:54 cũng như LuLc 23:47, chúng ta gặp một viên đội trưởng chỉ huy việc đóng đinh Chúa Jesus trên thập tự giá, và ông đã tuyên bố Ngài chính là Con Đức Chúa Trời.
10. Dựa vào những câu Kinh Thánh trên cũng như những câu Kinh Thánh về Cọtnây, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Những quan chức quân sự không đồng tình với Chúa Jesus và không cởi mở với Tin Lành của Ngài.
b. Đấng Christ cũng như các sứ đồ đều không muốn liên hệ với những quan chức quân sự, vì họ là thành viên của một đội quân xâm lăng.
c. Chúa Jesus bỏ qua nghề nghiệp quân sự cũng như bộ quân phục để nhìn đến con người bên trong bộ quân phục đó.
11. Kể tên một số nghề nghiệp mà bản thân bạn nghĩ rằng: “Chúa không thể cứu những con người làm nghề đó đâu!"
..........
Chúng ta dễ loại bỏ người ta ra khỏi danh sách những việc Đức Chúa Trời có thể làm được. Trong ba sự hoán cải cá nhân của Cong Cv 8:1-9:43; 10:1-48, người nào trong hội thánh đã có thể tin Đức Chúa Trời sẽ cứu một quan chức có địa vị cao trong chính quyền giống như hoạn quan, một người cuồng nhiệt như Saulơ, hoặc một quan chức quân sự như Cọtnây? Ngày nay, Đức Thánh Linh vẫn đang diễn lại phép lạ cho Cọtnây trên toàn thế giới.
12. Cong Cv 8:40 và 21:8.
a. Philíp sống ở đâu? ..........
b. Cọtnây sống ở đâu? ..........
c. Có bằng chứng nào cho thấy Philíp đã làm chứng cho Cọtnây không?
..........
Mãi đến khi Phierơ tới, Cọtnây vẫn không biết phải làm thể nào để được cứu. Có thể nào cũng chính Philíp, người đã được Chúa dùng để đột phá rào cản văn hóa cho người Samari, lại không nghĩ rằng Đức Chúa Trời có thể cứu một sĩ quan Lamã sao?
13. F. F. Bruce khai triển rộng từ ngữ “kính sợ Đức Chúa Trời” (trang 215-216). Dựa vào định nghĩa của ông, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Người kính sợ Đức Chúa Trời là bất cứ người nào biết tôn kính Đức Chúa Trời.
b. “Người kính sợ Đức Chúa Trời” là một thuật ngữ, dùng để mô tả một người ngoại bang được thu hút đến với độc thần giáo và những lý tưởng đạo đức của Do thái giáo.
Người ta thường cho rằng "những người kính sợ Đức Chúa Trời" ngồi ở cuối nhà hội. Phaolô đã nhận được sự đáp ứng rất lớn từ nhóm người nầy trong chức vụ của ông, như chúng ta sẽ thấy sau nầy trong sách Côngvụ.
14. Nếu Cọtnây, ngoài việc là một quan chức quân sự, là một người sùng đạo, kính sợ Đức Chúa Trời, một người hay bố thí rộng rãi, và cầu nguyện không thôi (có lẽ chữ nầy nói đến tính đều đặn về những thời điểm đã ấn định), thì ông có cần phải được cứu không? Dựa vào những câu Kinh Thánh sau đây để trả lời: Mat Mt 5:5; GiGa 3:21; Cong Cv 4:12; 11:18.
..........
Những Khải Tượng Và Kết Quả Của Chúng
10:3-23 Bruce 216-220
Mục tiêu 3. So sánh, đối chiếu những sự hiện thấy của Phierơ và của Cọtnây theo phương pháp mà chúng xuất hiện, theo sứ điệp của mỗi sự hiện thấy, và những đáp ứng được xem như là kết quả của sự hiện thấy đó.
15. Cọtnây (10:3) và Phierơ (10:17) đều từng trải sự hiện thấy như là một phương tiện của sự dẫn dắt. Cũng xem trường hợp mà Philíp được một thiên sứ hướng dẫn đến với hoạn quan (8:26), và sự hiện thấy của Anania đưa ông đến với Saulơ (9:10). Từ phần so sánh của bạn, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Đức Chúa Trời ban sự hiện thấy cho bất cứ ai khao khát nhận được chúng như là một phương tiện của sự dẫn dắt và không có một ngoại lệ nào.
b. Cọtnây, Phierơ, Philíp, và Anania hẳn đã không thể thực hiện những việc họ đã làm, nếu không có sự can thiệp siêu nhiên hoặc của sự hiện thấy, hoặc của thiên sứ.
c. Cọtnây, Phierơ, Philíp, và Anania đều được xem như đang đòi hỏi một khải tượng hay một thiên sứ đến từ Đức Chúa Trời để họ có thể biết mình sắp phải làm việc gì.
d. Philíp hẳn sẽ không đi đến với hoạn quan, cũng như Anania không đến với Saulơ, Phierơ đến với Cọtnây nếu để họ tự hành động. Thiên sứ và các sự hiện thấy đã trở thành nguồn hướng dẫn cho hành động, được Đức Chúa Trời quyết định chứ không phải do con người quyết định.
Các sự hiện thấy và thiên sứ không xuất hiện theo ý thích của tín đồ. Hoàn toàn ngược lại, chúng xuất hiện một cách bất ngờ và đột xuất.
16. Xem sự xuất hiện của các thiên sứ cho đến thời điểm nầy trong sách Côngvụ. 1:10 giúp chúng ta hiểu thế nào về nguyên nhân khiến Cọtnây có thể mô tả thiên sứ (10:3;) như một con người (10:30)?
..........
17. Dựa vào sự xuất hiện của thiên sứ cho đến thời điểm nầy trong sách Côngvụ, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Thiên sứ có thể ra chỉ thị, nhưng họ không rao giảng sứ điệp Tin Lành.
b. Khi không có tín đồ ở gần đâu đó, thì Đức Chúa Trời dùng thiên sứ giảng Tin Lành hầu con người có thể được cứu.
Sự hiện thấy của Cọtnây về việc thiên sứ đến với ông xảy ra vào lúc 3:00 chiều, rõ ràng là một thì giờ ấn định để cầu nguyện (3:1), phù hợp với giờ chuẩn bị xong những bước cuối cùng cho của lễ ban chiều (của lễ toàn thiêu được dâng lên trong đền thờ Giêrusalem). Nhiều nhà giải nghĩa cho thấy sự tương tự giữa lời Đức Chúa Trời phán với Cọtnây (10:4) với những thuật ngữ về của lễ thiêu trong LeLv 2:4. Cọtnây, một người ngoại bang, là người không thể dâng một con sinh hay một của lễ chay, đã dâng lên những lời cầu nguyện và những của bố thí, và Đức Chúa Trời đã tiếp nhận chúng như một vật được ghi nhớ.
18. Đọc Cong Cv 10:3 và trả lời câu hỏi: “Đức Chúa Trời có biết chúng ta một cách cá nhân không?”
..........
19. Bây giờ bạn phải thêm đặc điểm biết vâng lời vào những đặc điểm trước đây của Cọtnây. Khi sự hiện thấy chấm dứt ông đã kể lại cho hai đầy tớ và một tên lính tin kính. Đặc điểm vừa rồi cho bạn biết thêm điều gì về Cọtnây?
..........
Giống như những sứ đồ khác, Phierơ đã được biệt riêng cho chức vụ giảng đạo và cầu nguyện (6:4). Vì chức vụ trước tùy thuộc vào chức vụ sau, nên rõ ràng ông đã dành thì giờ của mình để trò chuyện với Đấng mà ông biết rất rõ. Khoảng giữa trưa, Phierơ tìm một nơi để cầu nguyện trên nóc nhà mái bằng theo kiểu Palestine trong nhà Simôn.
Nếu Phierơ không đi cầu nguyện, sự hiện thấy sẽ không đến cho ông. Nếu sự hiện thấy không đến, ông sẽ tiếp đón ba sứ giả của Cọtnây ra sao? Có sự xếp đặt thời điểm của Đức Chúa Trời! Các sứ giả đã đến gần thành phố, và Phierơ đi cầu nguyện.
20. Có bao giờ bạn được Chúa dẫn dắt đến nỗi bạn đã ở vào đúng chỗ và đúng thời điểm hay chưa.
..........
Trong khi ông đang đợi dọn bữa trưa, Phierơ đã ngất trí . Theo nghĩa đen, chữ ngất trí ra từ một chữ Hylạp ekstasis , có nghĩa là "ở bên ngoài con người của mình." Phaolô đã có kinh nghiệm tương tự ít nhất hai lần (Cong Cv 22:17; IICo 2Cr 12:1-4).
Chữ ngất trí được dùng ở đây không chỉ truyền đạt ý nghĩa sự mơ mộng đáng ao ước, sự mơ tưởng, vì tâm trí phong phú của Phierơ có thể nghĩ đến việc chọn lựa những món ăn ngon để thỏa cơn đói hơn là nghĩ đến những món có trong sự hiện thấy. Sự hoang mang của Phierơ trước khải tượng được lập lại ba lần cho thấy ông đã hiểu đây là một điều có ý nghĩa chứ không phải chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng.
21. Theo 10:12 và 11:6, vật gì có trong mảnh vải hạ xuống đó?
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
22. So sánh lời phản kháng của Phierơ (10:14) với LeLv 11:1-47 Mac Mc 7:14-23. Từ những câu sau đây, chọn ra những câu ĐÚNG.
a. Phierơ thường xuyên ăn bất cứ thứ gì ông muốn bất luận đó là tinh sạch hay không tinh sạch, vì Chúa dạy rằng mọi sự đều là tinh sạch.
b. Phierơ tỏ ra vâng lời luật pháp Cựu Ước và tập quán Do thái của ông trong suốt đời mình tính cho đến thời điểm sự hiện thấy nầy.
c. Phierơ hiểu hàm ý "tinh sạch” trong sự dạy dỗ của Đấng Christ ở 7:1-37 thậm chí còn trước cả lúc ông thấy khải tượng nầy.
d. Phierơ cần từng trải sự hiện thấy trước khi ông thực sự hiểu hàm ý lời phán của Đức Chúa Jesus trong 7:1-37.
e. Dựa vào 7:1-37; Cong Cv 10:1-48, Cơ đốc nhân nên trung tín giữ các luật lệ ăn kiêng của Cựu Ước và kiêng ăn thịt, nhất là thịt heo.
Tôi thích Phierơ. Ông rất tự nhiên với Chúa, đến nỗi ông không ngần ngại bày tỏ sự bất đồng ý kiến của mình (Mat Mt 16:22; Mac Mc 14:29; GiGa 13:8; Cong Cv 10:14). Nhưng Chúa luôn luôn bác bỏ những lời phản đối của ông, và Phierơ đã hiểu được rằng đường lối của Chúa là tốt nhất. Trong tình huống hiện tại, Phierơ phản đối, và điều nầy khiến chúng ta kết luận rằng Phierơ không hiểu lời dạy dỗ trước kia của Đức Chúa Jesus. Chúng ta thường không hiểu một sự dạy dỗ nào đó mãi cho đến khi có một sự ứng dụng cụ thể tự trình bày lên sự dạy dỗ đó.
Sự hiện thấy của Cọtnây đem đến một sứ điệp chỉ dẫn trực tiếp. Sự hiện thấy của Phierơ - giống như giấc chiêm bao của vua Nêbucátnếtsa (DaDn 4:19)-cần phải có sự thông giải. Sự hiện thấy được lập lại hai lần để nhấn mạnh. Khả năng cảm thụ thuộc linh của Phierơ đã đi từ chỗ khó hiểu (Cong Cv 10:17) đến chỗ hiểu đầy đủ ứng dụng của sự hiện thấy nầy. Sự suy luận của ông ấy là: "Đức Chúa Trời đã tỏ cho ta biết chẳng nên coi một người nào là ô uế hay chẳng sạch” (10:28).
23. So sánh 8:26, 29 với 10:19, rồi chọn ra những câu ĐÚNG dưới đây.
a. Thiên sứ đối với Philíp cũng giống như sự hiện thấy nầy đối với Phierơ vậy: thiên sứ chuẩn bị Philíp và Phierơ cho những sự kiện mà họ không hiểu hết được ý nghĩa của chúng.
b. Thánh Linh đã hoàn tất những gì mà thiên sứ và sự hiện thấy vẫn còn để dở dang. Chính Đức Thánh Linh mới là Đấng hướng dẫn Philíp và Phierơ tại chính xác thời điểm thích hợp.
c. Đừng xem chức năng của Đức Thánh Linh như là khác với chức năng của thiên sứ hay khải tượng.
Đức Thánh Linh vẫn chưa bày tỏ cho Phierơ biết nguyên nhân vì sao Phierơ phải chào đón ba người khách đang đứng tại ngoài cửa. Người ta không thể không suy luận rằng ngay cả trong những trường hợp được dẫn dắt một cách siêu nhiên và đặc biệt, thì chúng ta vẫn được dẫn dắt từng bước một, để phải vận dụng đến đức tin và lòng tin cậy của chúng ta. Đức Chúa Trời không bảo cho chúng ta tất cả mọi sự ngay từ đầu. Người nào chờ đợi để biết toàn bộ ý chỉ của Đức Chúa Trời dành cho đời sống của mình trước khi bước ra hầu việc Ngài, thì người đó không bao giờ biết được tí nào về ý chỉ của Ngài.
Cọtnây Và Phierơ Gặp Nhau
10:24-23 Bruce 220-223
Mục tiêu 4. Mô tả sự đón tiếp Phierơ của Cọtnây, đáp ứng của Phierơ đối với Cọtnây, và sự chuẩn bị của Cọtnây để đón tiếp sứ điệp của Phierơ.
24. Điền những sự kiện chính trong diễn tiến thời gian giữa sự hiện thấy của Cọtnây và sự đến của Phierơ. Nên nhớ rằng Sêsarê ở ba mươi dặm phía bắc Giốpbê, và đó là một hành trình dài một ngày rưỡi.
a. Ngày một (10:1-8) ..........
b. Ngày hai (10:9-23a) ..........
c. Ngày ba (10:23b) ..........
d. Ngày bốn (10:24-48) ..........
25. Cọtnây đã tập hợp hai nhóm người nào đến nghe Phierơ giảng?
..........
26. So sánh Mathiơ Mat Mt 2:11; 4:9-10; 8:2; 9:18; 14:33; 15:25; 20:20; 28:9, 17 Cong Cv 10:25-26. Những câu Kinh Thánh nầy bày tỏ điều gì về bản tánh của Chúa và của Phierơ?
..........
Những lời mở đầu của Phierơ cho Cọtnây và những vị khách của ông giải thích một sự kiện phổ thông mà mọi người thời bấy giờ điều biết: những phong tục Do thái cấm ông không được phép có mặt tại nhà Cọtnây. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã cho ông biết ông phải dẹp những thành kiến quá khứ sang một bên, nên ông có thể đến đó mà không hề phản đối điều gì. Câu hỏi duy nhất của ông ấy là: "Vậy ta hỏi vì việc chi mà các ngươi mời ta đến?"
27. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG về câu hỏi của Phierơ: “Vậy ta hỏi vì việc chi mà các ngươi mời ta đến?"
a) Ông không hề biết vì sao mình được mời đến.
b) Chính ông đã biết mục đích khiến ông hiện diện tại đó, nhưng ông tế nhị và lễ phép chờ đợi Cọtnây tạo thêm cơ hội để làm chứng.
Cọtnây nhận thấy không phải Phierơ đến mà không có sứ điệp (10:33). Lối tiếp cận tế nhị của Phierơ cung cấp cho chúng ta một tấm gương tốt để làm chứng đạo.
Cọtnây ôn lại cho Phierơ và những người theo ông biết về trường hợp khiến ông đến tìm Phierơ. Dường như Cọtnây không chắc chắn về mục đích chính xác của buổi gặp mặt, nhưng cảm thấy Phierơ biết (10:33). Phần giới thiệu cho Phierơ có lẽ được lặp lại tại bất cứ nơi đâu và bất cứ khi nào có người nhóm lại để nghe Tin Lành: "Vậy, bây giờ, thay thảy chúng tôi đang ở trước mặt Đức Chúa Trời, để nghe mọi điều Chúa đã dặn ông nói cho chúng tôi."
Bài Giảng Của Phierơ
10:34-43 Bruce 223-229
Mục tiêu 5. Thảo luận phần mở đầu, nội dung và phần kết luận trong bài giảng của Phierơ cho Cọtnây, cùng gia đình và bạn bè của ông.
28. Những bài giảng trước đó của Phierơ đã được rao giảng cho ai?
a. 2:14-36 ..........
b. 3:12-26 ..........
c. 4:8-12 ..........
d. 5:29-32 ..........
Phần giới thiệu của Phierơ cho thấy ông đã mất biết bao lâu mới hiểu được tính phổ thông mà Đức Chúa Trời dự định cho Tin Lành của Ngài. Trước kia, trong 4:12, ông đã tin "trong trí" rằng sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời qua Đấng Christ là phương tiện cứu rỗi duy nhất cho mọi người ở dưới trời. Nhưng ông không hiểu Đức Chúa Trời đem sự cứu rỗi đến cho dân ngoại bang bằng cách nào. Và cho đến khi ông có kinh nghiệm với người Samari và Cọtnây, ông vẫn tin rằng muốn được cứu và được Đức Chúa Trời chấp nhận, người đó phải trở thành một người Do thái trước đã. (Lưu ý trong 10:45, cách dùng chữ lấy làm lạ chỉ ra cách mà sáu người bạn của Phierơ đáp ứng với việc Đức Chúa Trời chấp nhận dân ngoại bang, là những người không đáp ứng những qui định Do thái về phép cắt bì để bởi đó trở thành những ứng viên xứng đáng với sự cứu rỗi mà Đấng Christ đã ban cho.)
29. Những so sánh nào sau đây giữa những bài giảng trước kia của Phierơ với bài giảng cho Cọtnây là những so sánh ĐÚNG?
a. Tất cả các bài giảng nầy đều được giảng cho thính giả ngoại bang.
b. Cọtnây, gia đình và bè bạn của ông là những người ngoại bang đầu tiên mà Phierơ giảng đạo cho họ.
c. Giống như những bài giảng cho thính giả người Do thái, Phierơ đã sử dụng Cựu Ước một cách rộng rãi để chứng minh cho Cọtnây rằng Đức Chúa Jesus là Đấng Christ.
d. Trong tất cả các bài giảng, Phierơ đều đối chiếu cách đối xử với Đấng Christ của con người với cách của Đức Chúa Trời.
Chúng ta thấy bài giảng của Phierơ cho gia đình Cọtnây mang rất ít nội dung Cựu Ước. Nếu ông đã khai triển rộng 10:43 bằng cách nói lên mức độ những lời tiên tri Cựu Ước về Đấng Mêsia, thì chúng ta có thể thấy mối quan hệ rộng lớn hơn giữa bài giảng nầy với những bài giảng trước kia của ông. Tuy nhiên, giống như Phaolô sau nầy (Cong Cv 17:22-31), có thể Phierơ nhận thấy kiến thức Cựu Ước của những người đang nghe ông nói rất giới hạn đến nỗi lập lại nội dung của Cựu Ước thì bài truyền giảng sẽ không có ý nghĩa như công dụng đối với thính giả Do thái.
Bài giảng của Phierơ cho Cọtnây thường được gọi là "Tiểu-Tin Lành " (Tin Lành cô đọng). Sự chuyển động của ý tưởng rất giống với cách triển khai trong sách Tin Lành Mác, một sách Tin Lành mà truyền thống có từ rất sớm và đáng tin cậy đã nói đó là sách Tin Lành do Mác viết từ những bài giảng của Phierơ.
30. So sánh những chữ “Phierơ bèn mở miệng nói rằng,” (bản NIV dùng thành ngữ “bắt đầu nói”) với câu nói của Mathiơ về phần mở đầu Bài Giảng Trên Núi của Đức Chúa Jesus: "Ngài bèn mở miệng mà truyền dạy rằng," (Mat Mt 5:2). Đâu là ý nghĩa của từ ngữ nầy (đặc biệt đối chiếu và so sánh với EsIs 55:11)?
Khoanh tròn mẫu tự đứng trước câu trả lời ĐÚNG.
a. Nó chỉ biểu thị rằng diễn giả bắt đầu nói.
b. Cụm từ nầy được dùng để tỏ ra rằng những lời sắp nói ra không phải là một lối nói ngẫu hứng. Trái lại nó được nói ra một cách có chủ ý và rất quan trọng. Nó hứa hẹn hoàn thành một điều gì đó.
Những lời "Các ngươi biết rồi" của Phierơ (Cong Cv 10:37) cho thấy ông công nhận thính giả đã có kiến thức cơ bản về Chúa Jesus rồi. Nên nhớ Philát sống tại Sêsarê, và chắc chắn thính giả của Phierơ phần lớn là người Lamã và đã từng làm theo lệnh của Philát.
Phierơ duyệt lại những sự kiện cơ bản của câu chuyện Tin Lành, bắt đầu từ phép báp têm của Giăng. Kế đó, ông nói đến sự xức dầu của Chúa Jesus, chức vụ, sự chết, sự phục sinh của Ngài, mạng lệnh cho các chứng nhân của Ngài, sự phán xét hầu đến, và sự dự bị của Ngài để tha thứ tội lỗi.
31. Đọc lớn bài giảng của Phierơ. Bạn mất bao lâu để đọc xong bài giảng nầy? Bạn có thể kết luận gì về cách Luca ghi lại bài giảng của Phierơ?
..........
Phương pháp cô đọng những thành phần chính của một bài giảng là điều rất phổ thông đối với trước giả các sách Tin Lành. Một ví dụ tuyệt vời ấy là Mac Mc 1:15. Ở đây, Mác tóm tắt bốn yếu tố chính trong bài giảng đầu tiên của Đấng Christ tại Galilê.
Trong phần kết luận, Phierơ bàn đến sự tha tội. Liệu Cọtnây, gia đình ông cùng các bạn hữu ông có bị buộc những tội giống y như những tội quy cho thính giả trước kia của Phierơ không (Cong Cv 2:23; 3:13-15; 4:10; và 5:30)? Không! Lời buộc tội về trách nhiệm đóng đinh Đức Chúa Jesus Christ trên thập tự giá không hề nhắm vào những ai không tham gia vào sự chối bỏ và sự chết của Đấng Christ. Có thể mọi người đều không chịu trách nhiệm về Sự Đóng Đinh, nhưng tất cả đều đã phạm tội và thiếu hụt sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (RoRm 3:23).
Khi bài giảng của Phierơ tiến đến cao điểm sự tha tội (ý hết sức quan trọng trong bài giảng của ông), thính giả của ông đã sẵn sàng tiếp nhận công tác độc nhất vô nhị của Đấng Christ đến nỗi Đức Thánh Linh đã giáng xuống trên họ.
Đức Thánh Linh Được Ban Cho
Cong Cv 10:44-48 Bruce 229-231
Mục tiêu 6. Thuật lại ý nghĩa của sự tuôn đổ Đức Thánh Linh trên thính giả dân ngoại bang của Phierơ và đối chiếu từng trải của họ về Đức Thánh Linh với từng trải của những người khác đã được nêu ra trước đó trong sách Côngvụ.
Luca không hề nghi ngờ sự kiện Đức Thánh Linh đã giáng xuống (một lần nữa cũng giống như 8:16, bản NIV đã sai lầm giảm bớt sức mạnh của động từ nầy thành ra động từ "đến trên") khi Phierơ đang nói, chứ không phải khi ông đã nói xong. Có lẽ Phierơ hẳn đã không biết làm thể nào để kết luận bài giảng của mình trước một thính giả dân ngoại bang.
Hãy xem những cặp câu nói sau đây. Chọn câu ĐÚNG trong từng cặp. Những câu nầy thảy đều dựa trên phần giả thiết mà bạn đã nghiên cứu và được đối chiếu với 2:1-4; 8:14-17; 10:44-48; và 11:16-18.
32.
a. Đức Thánh Linh đã giáng xuống hoặc đã được đổ ra trên tín đồ, luôn luôn là tại ngay thời điểm được cứu rỗi.
b. Đôi khi, có một khoảng thời gian dài vài ngày giữa sự cứu rỗi và sự tuôn đổ Đức Thánh Linh; những lúc khác, sự tuôn đổ Đức Thánh Linh diễn ra thực sự đồng thời với giây phút hoán cải.
33.
a. Sau sự tuôn đổ Đức Thánh Linh lúc ban đầu tại Lễ Ngũ Tuần, sách Côngvụ không hề ghi lại sự tái diễn của một bằng chứng có thể thấy rõ về sự giáng xuống của Đức Thánh Linh.
b. Sau Lễ Ngũ Tuần, tiếng gió thổi ào ào và lưỡi bằng lửa không hề tái diễn, nhưng việc nói tiếng lạ thì có tái diễn.
Một số người khó chịu vì cớ Luca không đề cập cụ thể rằng người Samari và Phaolô đã nói tiếng lạ. Họ xem sự bỏ qua của Luca như là bằng chứng rằng việc đó đã không diễn ra. Lập luận đó không nhất thiết phải phù hợp, theo như câu hỏi tiếp theo sẽ cho thấy.
34.
a. Luca không hề đề cập cụ thể đến sự hoán cải của Cọtnây cùng gia đình và bạn hữu của ông, do đó, chúng ta có thể cho rằng câu chuyện không đề cập tức nhiên là bằng chứng cho thấy sự hoán cải đó không diễn ra.
b. Luca có thể cho rằng độc giả trung bình của sách Côngvụ sẽ biết sự hoán cải đã xảy ra nếu như Đức Thánh Linh đã được tuôn đổ; như thế, ông không ghi lại cụ thể sự hoán cải.
Có người cho rằng vì việc nói tiếng lạ không được ghi lại trong 8:14-17 và 9:17, nên chúng đã không xảy ra. Với cùng một phép lập luận như trên, người ta có thể cho rằng Cọtnây đã không được cứu rỗi! 2:4 là một khuôn mẫu tiêu chuẩn, vì lời hứa được ban chính là lời hứa cho 120 môn đồ (1:4) và cho hết thảy mọi người (2:38-33).
35.
a. Trật tự của những sự kiện “khởi đầu” (tức là, những sự kiện đánh dấu bước đầu của nếp sống thuộc linh) có thể khác nhau. Sự cứu rỗi đến trước tiên, nhưng phép báp têm bằng nước và sự tuôn đổ Đức Thánh Linh có thể thay đổi trình tự với nhau.
b. Trật tự của những sự kiện “khởi đầu” trong nếp sống Cơ đốc diễn ra chính xác theo trình tự sau: sự cứu rỗi, phép báp têm bằng nước, rồi đến sự tuôn đổ Đức Thánh Linh.
36.
a. Vì người ngoại bang tại nhà Cọtnây đã không có tiếng gió thổi hay lưỡi bằng lửa, nên Phierơ không thể nói họ đã nhận cùng một từng trải như tại ngày Lễ Ngũ Tuần.
b. Dầu tiếng gió thổi và lưỡi bằng lửa không diễn ra tại nhà Cọtnây, Phierơ vẫn tuyên bố với hội thánh Giêrusalem rằng dân ngoại bang đã nhận được cùng một sự ban cho như tại ngày Lễ Ngũ Tuần.
Từ lời giải thích của Phierơ (11:15-17) cho hội thánh Giêrusalem, dường như ông hẳn phải trải qua một thời kỳ khó khăn trước mặt những anh em người Do thái của ông nếu như những người ngoại bang này kinh nghiệm một từng trải thấp kém hơn hoặc thậm chí rất khác biệt . Nhưng vì những từng trải nầy là giống như nhau, nên Phierơ có thể nói: "Đức Chúa Trời đã ban cho họ cũng một ơn như cho chúng ta." Thực ra, chỉ việc không có những dấu lạ độc nhất vô nhị kèm theo, là tiếng gió thổi và lưỡi bằng lửa cũng đã khiến cho trường hợp nầy khác hoàn toàn với sự tuôn đổ Đức Thánh Linh ban đầu trong ngày Lễ Ngũ Tuần (xem giải thích của Bruce về câu 45 và 46 ở trang 229 và 230).
37.
a. Sáu người đi theo Phierơ đã đến từ Giốpbê. Luca không hề cho thấy họ có mặt trong số một trăm hai mươi môn đồ của ngày Lễ Ngũ Tuần, dầu không thể loại trừ khả năng nầy. Tuy nhiên, sự sửng sốt của họ khi nghe dân ngoại nói tiếng lạ không phải xuất phát từ chỗ Đức Thánh Linh đã được đổ ra cùng một cách như đã đổ ra trên 120 môn đồ, nhưng cùng một cách như đã được đổ ra trên người Do thái .
b. Sáu người đi theo Phierơ rõ ràng đã nhận lãnh phép báp têm bằng Đức Thánh Linh tại ngày Lễ Ngũ Tuần, vì tiếng lạ họ nghe là những lời làm chứng cho việc Đức Thánh Linh đã giáng xuống trên dân ngoại bang y như Ngài đã giáng xuống trên 120 môn đồ.
Trong câu hỏi 37 trên đây, chúng ta thấy rằng phần đầu câu trả lời b là sai. Sáu người nầy đã nhận lãnh Đức Thánh Linh cùng một cách với Cọtnây và Phierơ (10:47). Họ sửng sốt không phải là vì Đức Chúa Trời đã đổ Thánh Linh Ngài theo cùng một cách Ngài đã đổ trên những người khác kể cả 120 môn đồ, nhưng vì Ngài cũng đã đổ Thánh Linh trên dân ngoại bang nữa.
38.
a. Những người nói tiếng lạ trong 2:1-47; 10:1-48 được mô tả là đang ở trong tình trạng ngất trí, hoặc theo nghĩa đen là tình trạng xuất thần (mê mẩn).
b. Chữ ngất trí không liên hệ đến việc nói tiếng lạ.
39.
a. Trong cả 2:1-37; 10:1-48, chúng ta được biết những tín đồ nầy nói những ngôn ngữ mà người nghe hiểu được, nhưng trước đó người nói chưa hề học.
b. Những ngôn ngữ được nói ra tại nhà Cọtnây rõ ràng không khác gì tại ngày Lễ Ngũ Tuần. Dầu tiếng lạ nầy là ngôn ngữ loài người chứ không phải tiếng của thiên sứ, Luca vẫn không ghi lại là người ta có hiểu chúng hay không.
c. Chúng ta không biết phương cách mà tiếng lạ nầy được nói ra. Câu 46 tạo một khả năng rằng có người trong số, hoặc toàn thể, những người đi theo Phierơ đã có thể hiểu thứ tiếng được nói ra đó.
Người nói tiếng lạ có thể đang nói một thứ tiếng của loài người, nhưng nếu không ai hiểu thứ tiếng đang được nói ra, thì cũng chẳng ai hiểu được sự kiện ấy. Việc Phierơ và những người đi theo "nghe họ nói tiếng ngoại quốc và khen ngợi Đức Chúa Trời" có thể cho thấy họ đã nghe những thứ tiếng khác nhau bằng những ngôn ngữ mà họ có thể hiểu được để tôn cao Đức Chúa Trời, hoặc họ đã nghe dân ngoại bang vừa nói tiếng lạ vừa ngợi khen Đức Chúa Trời bằng chính thứ tiếng của mình. Nếu ngôn ngữ Lamã (Latin) đã có thể nói ra bởi người Do thái trong ngày Lễ Ngũ Tuần (2:10), thì điều gì ngăn trở người La mã tại thành Sêsarê nói tiếng Aram khi họ được đầy dẫy Đức Thánh Linh? Có vô số những chữ "nếu" - nhưng nếu Phierơ đã giảng bằng tiếng Aram, theo như cách giải thích của Bruce (trang 226), và nếu dân ngoại bang đã nói tiếng Aram, thì điều đó hoàn toàn tương phản nhau!
40.
a. Tiếng lạ là để rao giảng Tin Lành.
b. Trong sách Côngvụ, con người được xem như đang ca ngợi Đức Chúa Trời và nói ra công việc cao trọng của Ngài trong lúc họ đang nói tiếng lạ.
Cũng như điều ông đã làm tại Samari, Phierơ đã ở lại ít lâu với những tín đồ được đầy dẫy Đức Thánh Linh nầy. Rõ ràng mục đích khiến ông ở lại chính là để dạy dỗ thêm và giảng đạo. Hội thánh ngoại bang đầu tiên đã được thành lập dưới quyền tể trị tối thượng của Chúa qua chức vụ của Phierơ, đầy tớ Ngài.
PHIERƠ GIẢI THÍCH CHO GIÊRUSALEM
11:1-18 Bruce 232-236
Mục tiêu 7. Phân tích câu nói: “Từng trải của Phierơ tại nhà Cọtnây đã hình thành thần học của hội thánh Giêrusalem, và Lời Đức Chúa Trời đã được sử dụng để chứng thực cho kinh nghiệm của ông.”
Không gian là yếu tố hết sức quan trọng đối với Luca. Người ta đoán rằng cuốn sách Côngvụ nguyên bản của nó dài khoảng 35 mét. Với nhu cầu cần tránh lãng phí khi viết, chúng ta có thể xem bất cứ sự kiện nào mà Luca đặc biệt chú ý đến thì chúng đều có ý nghĩa phi thường. Bài giảng của Êtiên là một ví dụ. Sự cứu rỗi cho Cọtnây là một ví dụ khác, chiếm tỉ lệ gấp hai lần khoảng không gian mà ông dành cho câu chuyện Lễ Ngũ Tuần.
41. 11:1-18 thuật tóm tắt câu chuyện đã kể trong 10:1-38. Sự thuật lại nầy là cần thiết vì những nguyên nhân nào? (Cho biết câu nào ĐÚNG và câu nào sai.)
a. Luca tin rằng việc nầy quan trọng hơn ngày Lễ Ngũ Tuần; vì vậy ông dành nhiều không gian hơn cho nó.
b. Một nan đề thần học lớn nhất mà hội thánh đầu tiên vấp phải đó là: dân ngoại bang có được cứu hay không nếu "không trở thành người Do thái trước đã." Hành động tối thượng của Đức Chúa Trời trong sự cứu rỗi Cọtnây đã minh họa rõ ràng phương hướng mà Đức Thánh Linh muốn hội thánh đi theo.
Chúng ta phải hiểu rằng Lễ Ngũ Tuần quan trọng không kém sự tuôn đổ Thánh Linh đầu tiên trên dân ngoại bang. Ngày Lễ Ngũ Tuần không đưa ra một "nan đề." Nhưng sự cứu rỗi Cọtnây thì có. Chính sự hiểu biết của hội thánh về những tư cách thành viên đã thay đổi vì cớ ông. Đó là nguyên nhân khiến Luca dành rất nhiều không gian cho sự kiện đặc biệt nầy. Toàn bộ đề tài về sự cứu rỗi phổ thông và sự bình đẳng của mọi tín đồ, người Do thái cũng như người ngoại bang, trước mặt Đức Chúa Trời chính là đề tài nóng bỏng.
Tin tức về những sự kiện tại nhà Cọtnây đã lan truyền nhanh chóng. Vài ngày sau, khi Phierơ đang trên đường dài 60 dặm từ Sêsarê hướng về đông nam đến thành Giêrusalem, thì tin tức về Cọtnây đã đến trước ông rồi. Ngay cả hội thánh đầu tiên cũng đã có những tin đồn của riêng hội thánh!
42. Lời chỉ trích Phierơ đã xuất phát từ phe chủ trương phải làm phép cắt bì. Những khẩu hiệu nào sau đây phản ảnh đúng nhất giáo lý của họ?
a) "Được cứu và chịu phép cắt bì."
b) "Ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, đều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời."
43. Xem những câu Kinh Thánh sau và tóm tắt ngắn gọn những thông tin nào có trong những câu Kinh Thánh đó về giáo lý nầy và mức độ ảnh hưởng của "phe chủ trương cắt bì" trong hội thánh đầu tiên.
a. 15:1-2 ..........
b. GaGl 2:1-21 ..........
c. Phi Pl 3:1-3 ..........
44. So sánh đáp ứng của phe chủ trương cắt bì đối với sự cứu rỗi của Cọtnây (Cong Cv 11:3) với đáp ứng của Phierơ và những người đi theo ông (10:45-48). Bạn có thể thấy những điểm tương đồng nào giữa hai đáp ứng khác nhau nầy đối với sự tuôn đổ Thánh Linh trên mọi loài xác thịt ngày hôm nay?
..........
Chúng ta thường thấy những con người, hoặc những hội thánh, hoặc những giáo phái muốn tìm cách giới hạn Đức Chúa Trời cho riêng họ. Nếu Đức Chúa Trời không hành động theo đúng công thức hay ý kiến của họ, thì công việc Ngài làm cho những người khác sẽ bị họ chỉ trích ngay (11:3) thay vì vui mừng. Điều khôn ngoan là nên khoan đoán xét và đừng giữ thành kiến để chờ đợi bằng chứng tiếp tục thể hiện rõ. Như vậy, khi đã đánh giá bằng chứng một cách khách quan, giống như Phierơ vậy, thì những người tra xét trung thực thấy rằng Ngũ Tuần không phải là một giáo phái cũng không phải là một từng trải dành riêng cho một số ít người được tuyển chọn, nhưng trái lại là một nếp sống năng động dành cho mọi tín đồ.
Một tác giả vô danh đã nói rất hay về Đức Thánh Linh như thế nầy: "Ngài đang hành động giống như một con sông lớn muốn chảy đến bất cứ nơi đâu mà Ngài muốn. Đôi khi những chuyên gia phòng chống bão lụt Cơ đốc nhân chúng ta bực mình bởi công việc của Ngài. Chúng ta không thích phương cách vận hành của Đức Thánh Linh. Chúng ta thích đào một con kênh, lót nó bằng bê-tông, rồi nói: 'Hỡi Dòng Sông Của Đức Chúa Trời, Xin Hãy Đến! Chúng tôi đã đào một con kênh, hãy chảy qua đó theo đúng lòng khao khát của chúng tôi.'"
Khi Phierơ bị chỉ trích, ông không cố dập tắt sự chỉ trích bằng cách biện hộ cho thẩm quyền sứ đồ của mình. Trái lại, ông thuật lại những hoàn cảnh trước khi và trong khi ông nhóm tại nhà Cọtnây. Phaolô sẽ để cho hội thánh Giêrusalem chịu thuyết phục bởi những bằng chứng đã thuyết phục chính ông: 1) Sự hiện thấy của chính ông và những mệnh lệnh của Đức Thánh Linh, 2) Sự hiện thấy của Cọtnây, và 3) sự tuôn đổ Đức Thánh Linh với bằng chứng của việc nói tiếng lạ.
Ngay cả trước lúc Phierơ đến với Cọtnây, ông đã lường trước sự chống đối mà phe chủ trương cắt bì sẽ đưa ra. Sự tiên liệu của ông khi đem sáu nhân chứng đi theo quả là sự khôn ngoan thận trọng bậc nhất. Họ có thể xác minh mọi điều mà ông tuyên bố.
45. Đọc kỹ phần Phierơ thuật lại việc đi đến nhà Cọtnây một lần nữa (11:1-18). Câu nào trong những diễn tiến sau đây là ĐÚNG và mô tả chính xác trật tự mà Phierơ đã có được sự hiểu biết bằng chính kinh nghiệm về lẽ thật: "Vậy Đức Chúa Trời cũng đã ban sự ăn năn cho người ngoại để họ được sự sống!"?
a. Đức Chúa Trời đã ban cho Phierơ kinh nghiệm nầy, và rồi Phierơ đã có thể nhìn thấy mục đích cho việc đó trong Lời Đức Chúa Trời.
b. Trước hết, Phierơ đã thấy việc tính đến cả dân ngoại bang là một sự dạy dỗ cơ bản của Lời Đức Chúa Trời. Một khi đã tin như vậy, ông đã có cơ hội để được kinh nghiệm điều đó.
Những người kinh nghiệm phép báp têm bằng Đức Thánh Linh đôi khi bị những Cơ đốc nhân khác buộc tội - là những Cơ đốc nhân không tin nơi từng trải nhận được mọi điều theo thứ tự đảo ngược - là "đã có được từng trải trước khi có giáo lý," hoặc "đang tìm cách để chứng minh kinh nghiệm của họ ra từ Kinh Thánh sau khi đã được kinh nghiệm trước rồi." Tuy nhiên, theo như 10:1-11:30 cho thấy, không có gì sai trong lối tiếp cận nầy nếu thật sự từng trải có thể được chứng thực là xuất phát từ Lời Đức Chúa Trời. Mãi đến khi Phierơ được từng trải sự hiện thấy về những thứ tinh sạch và không tinh sạch (10:14) thì ông vẫn chưa thể đích thân áp dụng Lời của Chúa (Mac Mc 7:14-23). Mãi đến khi ông có được kinh nghiệm tại nhà Cọtnây, thì ông vẫn chưa nhớ đến Lời Đức Chúa Trời (Cong Cv 11:16).
46. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Đức Chúa Trời không định cho các tín đồ nhận lãnh phép báp têm bằng Đức Thánh Linh cho đến khi nào họ tìm ra được thần học hệ thống thuần túy Kinh Thánh về đề tài nầy.
b. Một kinh nghiệm đến từ Chúa như phép báp têm bằng Đức Thánh Linh chẳng hạn, là một điều chân thật nếu như có thể chứng thực kinh nghiệm đó một cách ngay thẳng bằng Lời Đức Chúa Trời.
Toàn bộ thần học của Phierơ để giải thích phép báp têm bằng Đức Thánh Linh đã xuất phát từ một câu Kinh Thánh được tuyển chọn kỹ lưỡng. Những ai chỉ trích những người đã nhận lãnh phép báp têm bằng Đức Thánh Linh rồi mới chứng minh nó dựa vào chỉ "một vài" câu Kinh Thánh trong sách Côngvụ, thì họ phải dùng cùng một lý luận đó để loại bỏ cơ sở hợp lý thuần túy Kinh Thánh của Phierơ, là cơ sở chỉ dùng duy nhất một câu Kinh Thánh mà thôi.
47. Một lần nữa, xin đọc kỹ 10:44-48 và 11:15-18. Dựa vào phần đọc những câu Kinh Thánh trên, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Cả những tín đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần lẫn người nhà Cọtnây đều đã nhận lãnh cùng một sự ban cho Đức Thánh Linh như nhau.
b. Phierơ nói rõ ràng rằng sự ban cho tại nhà Cọtnây cũng chính là sự ban cho mà 120 môn đồ đã nhận lãnh, nhưng những tín đồ khác thì không.
c. Những tín đồ người Do thái có mặt với Phierơ tại nhà Cọtnây biết rằng Đức Thánh Linh đã được tuôn đổ xuống vì cớ người ngoại bang đã nói tiếng lạ và ngợi khen Đức Chúa Trời.
d. Hội thánh Giêrusalem cảm thấy rằng dầu dân ngoại bang có nói tiếng lạ để làm bằng chứng của phép báp têm bằng Đức Thánh Linh hay không thì cũng chẳng quan trọng gì.
11:17 nói rằng Đức Chúa Trời đã ban cho họ cùng một sự ban cho như đã ban cho chúng ta, là những kẻ đã tin Đấng Christ. Chữ chúng ta không nhất thiết phải giới hạn cho 120 môn đồ. Trái lại, dường như nó chỉ về toàn thể những người đang tập trung để nghe lời giải thích của Phierơ.
Đối với Phierơ và những người cùng đi với ông, việc nói tiếng lạ không chỉ là một sự phiêu lưu của phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, nhưng đó chính là dấu hiệu và sự khẳng định rằng dân ngoại bang đã thực sự được cứu. Đương nhiên, Kinh Thánh không có chỗ nào nói rằng một người phải chịu phép báp têm bằng Đức Thánh Linh và nói tiếng lạ thì mới được cứu. Tuy nhiên, tại nhà Cọtnây Phierơ cần một bằng chứng nào đó để cho phép ông tiến hành phép báp têm bằng nước. Sự tuôn đổ Đức Thánh Linh đi kèm theo việc nói tiếng lạ chính là bằng chứng đó.
Tiếp theo câu chuyện của Phierơ về sự dẫn dắt siêu nhiên của Đức Chúa Trời và chuyến viếng thăm gia đình Cọtnây, ngay cả những kẻ chỉ trích cũng đã phải nín lặng. Làm bất cứ điều gì ngoài ra việc tôn vinh hiển Đức Chúa Trời thì đều là phạm tội lộng ngôn. Từ việc đó, hội thánh đã rút ra được một kết luận, mà hội thánh không bao giờ xây bỏ khỏi điều đó, dầu sau nầy người ta đã nhiều lần cố gắng đảo ngược tác động sâu động của lời tuyên bố: "Vậy Đức Chúa Trời cũng đã ban sự ăn năn cho người ngoại để họ được sự sống!"
TÓM TẮT
Mục tiêu 8. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung của 9:32-11:18.
48. Hãy suy gẫm phân đoạn Kinh Thánh nầy của sách Côngvụ. Bạn có thể kể thuộc lòng những sự kiện lớn hay không?
..........
Bài tự trắc nghiệm
Sau khi ôn kỹ bài nầy, hãy làm bài tự trắc nghiệm. Sau đó kiểm bài làm của bạn với phần giải đáp đã cho trong tập học viên. Xem lại bất cứ câu hỏi nào bạn trả lời sai.
CÂU CHỌN LỰA. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG nhất trong mỗi câu hỏi sau đây.
1. Sau Lễ Ngũ Tuần, rõ ràng Phierơ vẫn ở lại Giêrusalem cho đến khi ông
a) được chỉ định đi đến Axốt để giảng đạo cho hoạn quan.
b) được sai đi cùng với Giăng đến Samari và họ đã tự thi hành chức vụ trong nhiều làng của người Samari trên đường họ trở về.
c) cùng với các sứ đồ khác bị buộc phải rời thành Giêrusalem ngay tức khắc sau khi khởi đầu cuộc tổng bắt bớ sau sự chết của Êtiên.
d) cùng với các sứ đồ khác được hướng dẫn trở về Galilê để dự phần vào chức vụ mở rộng ở tại đó.
2. Sau khi xuất hiện với người Samari, Phierơ đã dự phần vào thể loại chức vụ nào (9:32-35 và Bruce)?
a) Ông hoàn toàn quay trở lại chức vụ cho người Do thái.
b) Ông dự phần truyền giảng Tin Lành khắp vùng bên kia sông Giôđanh và những vùng đồng vắng phía đông và nam xứ Palestine, và đã thâu gặt những thành quả to lớn.
c) Ông đã nhận chức vụ lưu hành để thăm viếng các cộng đồng Cơ đốc bị tản lạc trong xứ Giuđê, tức là trong lãnh thổ bán-ngoại bang.
d) Ông vẫn ở tại Giêrusalem với tư cách người lãnh đạo chánh thức của hội thánh và điều khiển mọi sinh hoạt của hội thánh.
3. Tại Lyđa, một phép lạ phi thường đã được thực hiện qua chức vụ của Phierơ. Phép lạ nầy có tác động gì đến vùng đó?
a) Toàn bộ đồng bằng Sarôn ở mé biển và vùng nội địa đều nghe tin, và rất nhiều người quay trở về cùng Chúa.
b) Vì vùng gần thành Lyđa là vùng bán-ngoại bang, nên sự hiểu biết sứ điệp cứu rỗi đã được mở mang rất nhiều.
c) Sự chữa lành có một hiệu quả vượt trổi hơn bản thân sự lành bệnh.
d) Tất cả những câu trên.
4. Ý nghĩa của việc Phierơ ở lại thành Giốpbê với Simôn thợ thuộc da ấy là:
a) Việc nầy cho thấy nếp sống của ông được chi phối chặt chẽ bởi những qui định về giới luật và những luật lệ lễ nghi của người Do thái.
b) Điều nầy nêu bật lên một sự kiện ấy là nhiều người Do thái chỉ trung tín với những niềm tin tôn giáo của họ trên danh nghĩa mà thôi.
c) Việc nầy cho thấy nếp sống giao tiếp với những người bị ruồng bỏ trong xã hội của Phierơ là giống với nếp sống của Đức Chúa Jesus.
d) Phierơ công khai chống đối hệ thống tôn giáo hiện hành, và trong vấn đề nầy, ông đã thiết lập một mẫu mực cho hội thánh đầu tiên.
5. Tài liệu hướng dẫn của bạn cho thấy có bằng chứng về sự dẫn dắt của Chúa trong toàn bộ những từng trải chức vụ của Phierơ. Những từng trải nầy
a) đạt được từng bước một để nối khoảng trống từ nhà Simôn thợ thuộc da đến nhà Cọtnây, viên đội trưởng người ngoại bang.
b) nhằm để đột phá bản chất thiển cận của những vị lãnh đạo hội thánh đầu tiên - để khiến họ trở nên những con người mang tầm cỡ thế giới.
c) Chỉ đơn thuần là những cơ hội để giáo huấn, nhằm để mở rộng phạm vi kiến thức và văn hóa của các sứ đồ.
d) sẽ vĩnh viễn chứng minh cho các sứ đồ thấy địa vị đặc quyền và được tôn cao của dân tộc Do thái sau khi nhìn thấy tình trạng khốn khổ của thế giới dân ngoại bang.
6. Việc chúng ta gặp gỡ với những quan chức quân sự dẫn chúng ta đến (những) kết luận nào?
a) Chúa Jesus bỏ qua nghề nghiệp quân sự và bộ quân phục để nhìn đến con người bên trong đó.
b) Trong cả Mathiơ lẫn Luca, chúng ta thấy một trường hợp viên đội trưởng đã vận dụng đức tin mà Đức Chúa Jesus đã xem là lớn hơn hết trong cả dân Ysơraên.
c) Chính viên đội trưởng La mã tại nơi đóng đinh Chúa Jesus là người đã tuyên bố Đức Chúa Jesus là Con Đức Chúa Trời.
d) Tất cả các câu trên.
e) Chỉ có b) và c)
7. Câu nào sau đây mô tả đúng nhất “Những người kính sợ Đức Chúa Trời”, như là Cọtnây chẳng hạn, là những người đã bắt cầu nối, hay là một mắt nối, để đem người Do thái và người ngoại bang đến với nhau?
a) Một vài người ngoại bang trong thời kỳ nầy đã được thu hút đến với sự thờ phượng tuy đơn sơ nhưng rất tốt đẹp trong nhà hội của dân Do thái.
b) Rất nhiều người ngoại bang đã được thu hút bởi những tiêu chuẩn đạo đức đã chi phối nếp sống của người Do thái.
c) Rất nhiều người ngoại bang đã được thu hút bởi độc thần giáo đơn sơ trong sự thờ phượng tại nhà hội của người Do thái.
e) Tất cả những câu trên.
f) Chỉ câu b), c), và d).
8. Khi chúng ta xem xét những sự xuất hiện thường xuyên của yếu tố siêu nhiên (các thiên sứ và các sự hiện thấy) trong sách Côngvụ, chúng ta đi đến kết luận là
a) Đức Chúa Trời đã ban hoặc những sự hiện thấy, hoặc những sự hiện ra của thiên sứ, cho bất cứ tín đồ nào muốn có những sự hiện ra siêu nhiên đó.
b) Cọtnây, Phierơ, Anania, và Philíp đã khăng khăng muốn có sự trợ giúp siêu nhiên để biết phải làm điều gì tiếp theo.
c) Cọtnây, Phierơ, Anania, và Philíp hẳn đã không thể hành động cụ thể như vậy nếu không có sự can thiệp siêu nhiên.
d) Công dụng của sự siêu nhiên trong từng trải của hội thánh đầu tiên là nhằm xác lập một mẫu mực tiêu chuẩn cho sự can thiệp của Đức Chúa Trời vào sinh hoạt của hội thánh.
9. Những câu nào sau đây KHÔNG PHẢI là nguyên nhân hợp lý hay sự lập luận chứng minh cho công dụng ban đầu của sự siêu nhiên trong sinh hoạt, sự tăng trưởng và sự phát triển của hội thánh đầu tiên?
a) Những sự hiện thấy và sự hiện ra của thiên sứ là do hành động tối thượng của Đức Chúa Trời, và xảy ra bất ngờ, đột ngột.
b) Những sự hiện thấy và sự hiện ra của thiên sứ là nhằm giúp cho con người hay chết nhìn thấy được về "mặt trái", và chủ yếu là nhằm cung cấp thêm những nguồn khải thị.
c) Những sự hiện thấy và sự can thiệp của thiên sứ trở thành nguồn hướng dẫn cho hành động được Đức Chúa Trời quyết định, chứ không phải do loài người.
d) Thiên sứ có thể ra chỉ thị, nhưng họ không rao giảng sứ điệp Tin Lành.
10. Chúng ta đã thảo luận tầm quan trọng của không những việc định kế hoạch của Đức Chúa Trời mà còn việc ấn định thời điểm của Đức Chúa Trời nữa. Trong bài học nầy, việc ấn định thời điểm của Đức Chúa Trời
a) đã cho phép Phierơ được chuẩn bị để tiếp đón những khách lạ đến mời ông đi đến một môi trường mà cho tới nay vẫn còn bị cấm.
b) đã khiến cho Phierơ phù hợp với một chức vụ mới, bằng cách khiến cho những thành kiến của ông bộc lộ rõ ra thực chất của chúng - sự thiển cận của con người và không phải là sự kêu gọi độc quyền của Đức Chúa Trời.
c) đã cho phép Phierơ nhận ra được sự sai lầm của mọi qui tắc và luật lệ.
d) Tất cả những câu trên.
e) Chỉ câu a) và b).
11. Từng trải trên mái nhà của Phierơ, là lúc ông bị ngất trí, cho thấy rằng:
a) thể xác ông yếu đuối và chỉ lâm vào tình trạng nửa tỉnh nửa mê.
b) ông đã "ở bên ngoài bản thân mình," một tình trạng mà trong đó, ông kinh nghiệm được sự phấn khích cao độ hay mãnh liệt của tâm trí và cảm xúc.
c) ông chẳng khác gì đã bị chứng mơ mộng hay hoang tưởng.
d) ông đã cực kỳ khó chịu vì cớ những nan đề của việc dẹp bỏ rào cản giữa người Do thái và người ngoại bang; do đó ông đã có một giấc chiêm bao rất ý nghĩa và sáng suốt, xuất phát từ tình trạng tiềm thức đầy kết quả của ông.
12. Sự hiện thấy trên mái nhà của Phierơ là cần thiết để giúp ông hiểu đầy đủ
a) những hàm ý trong sự dạy dỗ của Đức Chúa Jesus về thịt "tinh sạch" và "không tinh sạch" như được ghi lại trong Mac Mc 7:14-23.
b) ý nghĩa của những luật lệ ăn kiêng dành cho sức khỏe và sự thạnh vượng của mọi người.
c) vì kể từ đồi Gôgôtha, con người không còn bị bắt buộc phải làm những người ăn chay nữa; Giờ đây họ đã có thể thưởng thức mọi thứ thịt.
d) rằng theo nhãn quan của Đức Chúa Trời, dân Ysơraên vẫn còn giữ địa vị được ưu đãi hơn - dầu rằng mọi người hiện đều đang được Đức Chúa Trời tiếp nhận.
13. Ứng dụng thực tiễn cho sự hiện thấy của Phierơ, tức là, kết luận mà ông rút ra được, ấy là
a) mọi thứ thịt, bất kể là được nấu nướng theo cách nào đi nữa, sau khi được chúc phước thì đều có thể nhận lãnh được cả.
b) Đức Chúa Trời đã chứng tỏ cho ông thấy ông không được phép xem bất cứ người nào là ô uế hay là không tinh sạch.
c) các luật lệ ăn kiêng là quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn lại là hiệu quả của những luật lệ nầy trên xã hội. Chúng không được phép đặt ra một ranh giới giữa con người với nhau.
d) Tất cả những câu trên.
14. Có thể tóm tắt chức vụ của Đức Thánh Linh trong câu chuyện quan trọng nầy như sau:
a) Đừng xem chức năng của Đức Thánh Linh là khác với chức năng của thiên sứ hoặc của sự hiện thấy.
b) Đức Thánh Linh hoàn tất việc mà thiên sứ và sự hiện thấy vẫn chưa làm xong.
c) Đức Thánh Linh đã không bày tỏ đầy đủ mọi sự sẽ phải xảy đến; Ngài chỉ dẫn dắt Phierơ từng bước một để có thể vận dụng đức tin và sự tin cậy của con người.
d) Tất cả những câu trên.
e) Chỉ câu b) và c).
15. Trong sự gặp gỡ có phần hơi khác, và có lẽ là gây cấn của người Do thái và người ngoại bang, câu nào sau đây trình bày những cảm xúc có lẽ đúng nhất của Cọtnây và Phierơ?
a) Phierơ không hiểu toàn bộ những chi tiết trong sứ mạng của mình, nhưng ông sẵn lòng vâng phục bước theo sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh.
b) Phierơ biết mục đích của ông là đến để rao giảng sứ điệp, nhưng ông tế nhị chờ Cọtnây đưa ra lời mời.
c) Cọtnây nhận ra rằng không phải Phierơ đến mà không có sứ điệp.
d) Dầu Cọtnây không biết chắc chắn mục đích chính xác của buổi gặp gỡ, nhưng ông đã cảm thấy Phierơ biết.
e) Tất cả những câu trên đây.
f) Chỉ câu b) và c).
16. Chúng ta có thể nói về bài giảng của Phierơ cho gia đình Cọtnây rằng
a) đây là một bài giảng rất ngắn gọn và súc tích.
b) chắc chắn Luca đã dựa vào những bài giảng trước kia của Phierơ để ghi lại sứ điệp nầy.
c) với nhu cầu tránh lãng phí trong khi viết, Luca đã cho chúng ta phần cô đọng chính xác những yếu tố chính trong bài giảng của Phierơ.
d) sứ điệp nầy giống chính xác đến từng chi tiết với những sứ điệp trước kia của ông.
17. Đâu là ý nghĩa của sự tuôn đổ Thánh Linh trên người ngoại bang?
a) Điều quan trọng lớn lao chính là sự kiện người ngoại bang đã được Đức Chúa Trời chấp nhận và nhận lãnh được những phước hạnh bởi sự lựa chọn của Ngài, mà không cần phải trở thành người Do thái và chịu phép cắt bì.
b) Sự tuôn đổ Đức Thánh Linh nầy rất có ý nghĩa, bởi vì nó mở ra cho hội thánh, mà người Do thái chiếm đa số, một phạm vi hoàn toàn mới cho những khả năng truyền giảng Tin Lành.
c) Sự kiện nầy rất có ý nghĩa vì nó thể hiện sự thay đổi thân phận của người Do thái, từ chỗ "được ưu đãi nhất" sang chỗ "kém ưu đãi nhất."
d) Tất cả những câu trên đây.
e) Chỉ câu a) và b).
18. “Lễ Ngũ Tuần Của Dân Ngoại Bang” đã thể hiện một cách mới mẻ phép lạ nói các thứ tiếng ngoại quốc, mà
a) được khởi sự để rao giảng Tin Lành.
b) được dùng ở đây để gây dựng đời sống đức tin của các tín đồ - tín đồ mới cũng như cũ.
c) được sử dụng một cách diệu kỳ để ca ngợi Đức Chúa Trời và tôn vinh công việc của tay Ngài.
d) được dùng ở đây như một dấu hiệu cho kẻ chẳng tin.
19. Luca dành rất nhiều không gian cho những câu chuyện liên quan đến Cọtnây, vì cớ
a) ông tin chúng quan trọng hơn những sự kiện khác.
b) những hàm ý của các sự kiện nầy đã đưa ra một nan đề thần học lớn nhất của hội thánh đầu tiên - một người ngoại bang liệu có được cứu hay không nếu không trở thành một người Do thái trước đã.
c) ông muốn làm yên lòng cả người Do thái lẫn người ngoại bang, bằng cách đánh giá như nhau cho những nan đề xung quanh mối quan hệ của họ.
d) ông có khuynh hướng dành nhiều thời gian hơn để viết bất cứ tư liệu nào mang tính tiểu sử.
20. Không phải tất cả mọi người ở hội thánh Giêrusalem đều chấp nhận sự bình đẳng của người ngoại bang trong thân thể Đấng Christ ; do đó, phe chủ trương cắt bì đáp ứng bằng cách
a) không chịu công nhận hoặc ít ra là thông qua việc Đức Chúa Trời đã thực hiện tại Sêsarê.
b) nỗ lực nắm quyền điều khiển hội thánh Giêrusalem để hạn chế thẩm quyền của các sứ đồ.
c) thành lập những nhà truyền giáo nhằm mục tiêu rao giảng tinh thần duy luật pháp, có nghĩa là, nếu không có luật pháp và những qui định về lễ nghi và tôn giáo của luật pháp thì không có sự cứu rỗi.
d) sai các sứ đồ ra đi khỏi Giêrusalem, để họ có thể thao túng chính sách của hội thánh.
GIẢI ĐÁP
1.
b) Trước tiên Phierơ đi lại bên ngoài thành Giêrusalem theo sự hướng dẫn của các sứ đồ.
c) Chức vụ lưu hành của Phierơ được tiếp tục khi ông đi lại bên ngoài Giêrusalem.
2.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Sai.
3.
a. phục vụ.
b. góp phần một cách rộng rãi vào những nhu cầu của thánh đồ.
c. bố thí, giúp đỡ một cách sốt sắng.
d. vui làm những công việc của lòng thương xót.
e. bày tỏ lòng yêu thương thành thật.
4. c) Đời sống của bà đầy dẫy công tác phục vụ người khác.
5.
a. Đúng.
b. Sai.
6. Chỉ có một trường hợp được ghi lại: sự chết của Êtiên, dầu Saulơ cho chúng ta biết về nhiều sự chết khác nữa (Cong Cv 26:10).
7.
c) Trong quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời, Phierơ được ban ân tứ đức tin để gọi Đôca từ kẻ chết sống lại, nhưng không thể gọi Êtiên và những người khác từ kẻ chết sống lại.
d) Chúng ta phải giao vấn đề vì sao người nầy được sống lại còn người khác thì không lại cho sự khôn ngoan vô lượng vô biên của Đức Chúa Trời (RoRm 8:33-36).
8.
a) Ông không tuân thủ nghiêm nhặt mọi qui tắc của Do thái giáo.
b) Hành vi của ông khi liên hệ với những người bị bỏ ngoài lề xã hội là giống như cách sống của Chúa (LuLc 15:1; 19:1-10).
9.
a. Đội trưởng của đội binh Italy (so sánh với 27:1).
b. Đạo đức (mộ đạo).
c. Kính sợ Đức Chúa Trời.
d. Hay bố thí rộng rãi.
e. Cầu nguyện với Đức Chúa Trời không thôi.
10.
a. Sai.
b. Sai.
c. Đúng. (Đức Chúa Jesus đã tìm đến và yêu thương con người trong mọi phương diện của cuộc sống. Những viên đội trưởng trong Tân Ước không bao giờ được nhìn dưới góc độ tiêu cực.)
11. Câu trả lời của bạn. Tôi ước gì có thể đọc được câu trả lời của bạn.
12.
a. Sêsarê.
b. Sêsarê.
c. Không trực tiếp. Có lẽ Philíp hoặc ai đó đã làm chứng cho Cọtnây (Cong Cv 10:36), nhưng không chắc chắn. Rõ ràng Cọtnây đã thâu thập được những chi tiết về Đức Chúa Jesus, mà đó là kiến thức phổ thông.
13.
a. Sai.
b. Đúng.
14. Câu trả lời của bạn. Đức Chúa Jesus đã hứa làm thỏa mãn cho kẻ khao khát. Người “lành” nào đang bước đi hướng về sự sáng thì sẽ tiếp nhận sự sáng cao trọng hơn của Đấng Christ. Nếu có thể nhận được sự cứu rỗi nhờ "sự nhân lành" của chúng ta, thì Đấng Christ đã không cần phải đến trần gian nầy! Chỉ bởi Ngài, chúng ta mới có thể được cứu rỗi.
15.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
16. Các thiên sứ hiện ra với các môn đồ sau khi Đấng Christ thăng thiên (1:10-11). Một thiên sứ của Chúa đã mở cửa ngục cho các sứ đồ (5:19), hướng dẫn Philíp đến nơi mà ông phải gặp hoạn quan (8:26), và hiện ra trong sự hiện thấy của Cọtnây (10:3). Hình trạng của các thiên sứ giống với hình trạng của con người, được thấy trong 1:10 và 10:30.
17.
a. Đúng.
b. Sai.
18. Có, Ngài biết đích danh Cọtnây. Và Đức Chúa Trời còn lắng nghe tiếng cầu nguyện của ông, một con người không phải là người Do thái mà cũng chẳng phải là một tín đồ của Đấng Christ nữa.
19. Ông đã có mối quan hệ thân thiết với những người làm của mình. Không phải ông chỉ việc ra lệnh họ đi mời Phierơ tại nhà Simôn ở thành Giốpbê không mà thôi, nhưng còn bảo cho họ biết nguyên nhân vì sao nữa!
20. Câu trả lời của bạn. Dầu tôi không có được một sự hiện thấy nào, không nhìn thấy được một thiên sứ nào, cũng không có một sự ngất trí (hay xuất thần) nào, nhưng tôi ý thức sâu sắc về những bước ngoặt chủ yếu đến cho đời sống tôi, vì Đức Chúa Trời đã đặt tôi vào tại đúng chỗ, đúng lúc.
21.
a. Mọi loài thú bốn cẳng.
b. Thú rừng.
c. Loài bò sát.
d. Các loài chim. (Cả loại thức ăn tinh sạch và không tinh sạch đều có trong tấm vải nầy.)
22.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d Đúng.
e. Sai.
23.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Sai. (Đức Thánh Linh đã khiến cho Philíp và Phierơ nhận thức từ bên trong được rằng họ cần phải làm việc gì do kết quả sự dẫn dắt của của thiên sứ và của sự hiện thấy.)
24.
a Cọtnây đã nhận được sự hiện thấy và đã sai ba sứ giả ra đi.
b Phierơ đã có một sự hiện thấy khi các sứ giả của Cọtnây sắp đến Giốpbê. Sự kiện họ đến gần lúc ban trưa cho thấy họ đã khởi hành từ ngày hôm trước. Tối hôm ấy, Phierơ tiếp đãi họ như khách.
c Phierơ, sáu tín đồ đồng đi với ông (10:23; 11:12), và ba sứ giả của Cọtnây tiến về hướng bắc đến Sêsarê.
d Họ đến tại nhà Cọtnây vào ngày thứ tư (10:24). Cọtnây đã ước tính chính xác giờ đến của họ, vì ông đã nhóm họp nhiều người lại để nghe Phierơ (10:27).
25. Bà con họ hàng và bạn hữu của ông (10:24). Những niềm tin của Cọtnây sẽ không cho phép ông tiếp nhận sứ điệp của Đức Chúa Trời qua Phierơ để rồi chỉ biết giữ cho riêng mình mà thôi.
26. Chúa đã dạy rằng chỉ có thể thờ phượng một mình Đức Chúa Trời mà thôi. Việc Đức Chúa Jesus đã liên tục để cho nhiều người thờ phượng Ngài, trong khi Phierơ không cho phép ai thờ phượng ông cho chúng ta thấy thần tánh của Chúa và nhân tánh của Phierơ. Dầu là một sứ đồ của hội thánh, Phierơ vẫn không để cho người khác sấp mình tôn kính ông; vì ông cũng giống như Cọtnây - chỉ là một con người!.
27. b. Chính ông đã biết mục đích khiến ông hiện diện tại đó.
28.
a. Đoàn dân đông tại ngày Lễ Ngũ Tuần.
b. Đoàn dân đông tại Hiên Cửa Salômôn theo sau khi người què được chữa lành.
c. Tòa Công Luận.
d. Tòa Công Luận.
29.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
30.
a. Sai.
b. Đúng.
31. Câu trả lời của bạn. Tôi mất khoảng hơn một phút. Tôi kết luận rằng bản ký thuật của Luca là một bản cô đọng những yếu tố chính trong sứ điệp của Phierơ.
32.
a. Sai.
b. Đúng. (Tại ngày Lễ Ngũ Tuần, tại Samari, và với Phaolô, có một khoảng thời gian giữa sự hoán cải và sự tuôn đổ Đức Thánh Linh hay sự nhận lãnh Đức Thánh Linh.)
33.
a. Sai.
b. Đúng.
34.
a. Sai.
b. Đúng.
35.
a Đúng.
b Sai. (Với năm trường hợp trong sách Côngvụ mà Đức Thánh Linh được đổ ra lần đầu trên con người, thì hai lần sự tuôn đổ đến trước phép báp têm bằng nước: 9:17-18; 10:47-38.)
36.
a. Sai.
b. Đúng.
37.
a. Đúng.
b. Sai.
38.
a. Sai.
b. Đúng. (Trong Tân Ước, tiếng lạ không hề được mô tả như là một từng trải xuất thần, một từng trải mà theo nghĩa đen, tín đồ ở "bên ngoài bản thân mình.")
39.
a. Sai.
b. Sai.
c. Đúng. (Đáp ứng nầy tỏ ra một phương diện quan trọng của tiếng lạ.)
40.
a. Sai.
b. Đúng. (Từ 2:11, rõ ràng việc nói tiếng lạ là để ca ngợi Đức Chúa Trời và chúc tôn những công việc của Ngài, và dường như 10:46 cũng là kết quả của việc nói tiếng lạ.)
41.
a. Sai.
b. Đúng.
42.
a) "Được cứu rỗi và chịu phép cắt bì." (Sự kiện nhóm nầy đã được nổi danh là phe chủ trương cắt bì cho thấy rằng sự cắt bì đã trở thành nét đặc trưng chính của họ hay là khẩu hiệu shibboleth của họ.)
43. Câu trả lời của bạn. Tôi ghi câu trả lời của tôi như sau:
a. Mọi tín đồ tại hội thánh Giêrusalem đã không rút ra được kết luận của 11:18. Trái lại, phe chủ trương cắt bì đã lập thành "đoàn truyền giáo" mà tinh thần duy luật pháp của họ đã bắt đầu phá hoại đức tin của những tín đồ người ngoại bang.
b. Thơ Galati, được viết ra cho những hội thánh được thành lập 13:1-52 và 14, cho thấy Phaolô đã bác bỏ tà giáo chủ trương phải cắt bì.
c. Được viết ra đang khi bị cầm tù tại Rôma (61-63 S.C.), những lời nầy đã phản ảnh sức mãnh liệt và thế mạnh của tà giáo chủ trương cắt bì ở gần ba mươi năm sau.
44. Câu trả lời của bạn.
45.
a. Đúng.
b. Sai. (Chính Phierơ cho thấy Lời Đức Chúa Trời đã đến với ông sau khi Đức Thánh Linh đã giáng trên người nhà Cọtnây (11:17).
46.
a. Sai.
b. Đúng.
47.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Sai.
48. Câu trả lời của bạn. Tôi đã ghi ra như sau: 1)Chức vụ Phierơ tại Lyđa và Giốpbê, 2) Cuộc gặp gỡ của ông với Cọtnây và những người đi theo ông, 3) Lời bênh vực của ông cho cuộc gặp gỡ đó trước mặt hội thánh Giêrusalem.
Antiốt Và Giêrusalem
Trong bài trước, chúng ta đã thảo luận vai trò phát triển của sứ đồ Phierơ trong chức vụ bên ngoài thành Giêrusalem. Chúng ta thấy sự quan tâm của ông đối với cộng đồng Cơ đốc tản lạc trong khắp xứ Giuđê. Chúng ta thấy sự thay đổi dần trong thái độ và giá trị của ông, đặc biệt là sau chức vụ cho người Samari. Và cuối cùng, chúng ta quan sát sự vận hành tối thượng của Đức Thánh Linh để đem người Do thái và người ngoại bang lại với nhau, phá bỏ bao thế kỷ thành kiến khi Ngài làm sáng tỏ nguyên tắc nầy: "...Đức Chúa Trời chẳng hề vị nể ai..." Trong bài học thứ nhì của Phần Ba nầy, chúng ta khảo sát sự tăng trưởng và bành trướng của Cơ đốc giáo Dân Ngoại Bang, cùng một vài nhân vật chủ chốt, là những người đã tác động đến tấm lòng cũng như tinh thần của hội thánh đầu tiên.
Công tác truyền giáo được giao phó trong Cong Cv 1:8 đã được các tín đồ bị tản lạc hiểu ra và thực hiện. Đi đến đâu, họ cũng rao giảng sứ điệp về Đức Chúa Jesus, nhưng thính giả đang nghe họ chính là người Do thái. Tuy nhiên, những môn đồ gan dạ và táo bạo, những người dân của Chíprơ và Syren, đã liều mình đến với một nhóm người ngoại bang tại Antiốt, là nơi mà những đoàn người mê muội và đói khát tâm linh đã sốt sắng đón nhận sứ điệp của họ. Biến cố mới lạ nầy đã chứng tỏ Đức Chúa Trời không hề định cho từng trải tại nhà Cọtnây trở thành một từng trải độc nhất vô nhị và không thể tái diễn. Chiều hướng mới của công cuộc truyền giảng cho dân ngoại bang chỉ đơn thuần là việc làm trọn Đại Mạng Lịnh theo đúng mức độ mà Chúa đã dự định từ đầu. Và có lẽ vì động cơ mới mẻ nầy, sự bắt bớ đã nhắm vào những nhà lãnh đạo đang giữ trọng trách. Vì vậy, Giacơ bị giết rồi Phierơ bị nhốt vào ngục cho đến khi sự can thiệp đúng lúc của Chúa đã giải thoát cho ông.
Trong những sự kiện nầy, chúng ta thấy bàn tay tể trị tối thượng của Chúa đã huy động mọi lực lượng trong hội thánh, ban quyền năng cho các tín đồ, rồi ban khải tượng cho họ phù hợp với những thách thức họ đang đối diện. Khi bạn xem xét những đáp ứng của các môn đồ bị tản lạc, của những vị lãnh đạo hội thánh và các sứ đồ đang trong thế phòng thủ, bạn sẽ nhận thấy trong chương trình của Đức Chúa Trời, Ngài mở ra những cánh cửa để phục vụ, Ngài dự bị người thích hợp cho mỗi nhiệm vụ, và Ngài ban quyền năng và nâng đỡ, dầu trong lúc sống hay là chết. Ngài chính là Chúa của hội thánh và là Chủ của mùa gặt. Khi nhận ra được những sự kiện nầy, bạn sẽ biết trân trọng sự an ninh của mình trong Ngài khi giao phó những lo lắng cho Ngài và an nghỉ trong sự dự bị của Ngài.
Dàn bài
Thành Phố Antiốt
Sự Thành Lập Hội Thánh Antiốt
So Sánh Với Hội Thánh Giêrusalem
Chức Vụ Của Banaba
Những Nguyên Tắc Tăng Trưởng
Cứu Trợ Nạn Đói
Hội Thánh Giêrusalem
Giacơ Và Phierơ
Sự Qua Đời Của Hêrốt
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Thảo luận ý nghĩa sự thành lập hội thánh Antiốt dựa vào 11:19-30, chứng tỏ kiến thức của bạn bằng cách nêu tên những người sáng lập, những vị Mục sư và những chức vụ then chốt của họ, cùng những kết quả lâu dài thâu gặt được cho công tác truyền giảng trong bước phiêu lưu truyền giảng mới mẻ nầy.
Nêu ra ít nhất năm thành tựu của các hội thánh tại Giêrusalem và Antiốt như là kết quả lời tiên tri của Agabút về cơn đói kém lớn trên khắp đất.
So sánh sự chết của Giacơ với sự giải thoát Phierơ, và viết ra ít nhất một nguyên tắc mà chúng ta có thể rút ra từ sự qua đời hay mối đe dọa đến sinh mạng của các sứ đồ, để có thể khích lệ chúng ta trong đời sống Cơ Đốc của mình.
Sinh hoạt học tập
1. Tiếp tục xem phần Từ Vựng ở cuối tài liệu hướng dẫn để biết những định nghĩa của những từ mới.
2. Đọc bài học trong tài liệu hướng dẫn, hoàn tất các câu hỏi nghiên cứu, và kiểm lại định kỳ những câu trả lời của bạn với phần giải đáp trong tập học viên.
3. Làm bài tự trắc nghiệm ở cuối bài học, kiểm bài làm với phần giải đáp đã cho trong tập học viên, Xem lại bất cứ phần nào bạn trả lời sai.
4. Ôn lại Bài 7 và 8 theo hướng dẫn trong tập học viên. Lấy Bài Đánh Giá Tiến Bộ Phần 3 Với Tờ Bài Làm ra khỏi Tập Học Viên. Theo các hướng dẫn để điền vào tờ bài làm, rồi gởi ngay đến cho giáo viên ICI của bạn. Giáo viên sẽ chấm bài và thông báo kết quả cho bạn.
Từ vựng
hạ thấp chất lượng adulteration
diễn tiến thời gian chronological sequence
những thành ngữ idioms
thần thoại mythology
lối diễn tả phi ngôn ngữ nonverbal expression
nguyên mẫu prototype
tinh thần bè phái sectarian
đô thị urban
sự xác minh verification
Khai triển bài học
THÀNH PHỐ ANTIỐT
Trong bảy đoạn đầu của sách Côngvụ, ngoại trừ hội thánh Giêrusalem, còn hội thánh ở các nơi khác vẫn chưa được thành lập. Cơn bắt bớ do Saulơ khởi xướng sau cái chết của Êtiên đã làm hội thánh tản lạc đến nhiều nơi khác. Ví dụ như, Philíp đã đến tại Samari (8:25).
Từ 11:19 trở đi, một lần nữa Luca lại nêu ra chủ đề sự tan lạc do cơn bắt bớ sau sự chết của Êtiên. Giai đoạn chạy trốn thứ nhất là đến vùng Giuđê và xứ Samari (8:1). Để đi tìm nơi an toàn, có người đã vượt ra khỏi những biên giới nầy để đến những vùng xa hơn và an toàn hơn, là xứ Phênixi (khu vực Tyrơ và Siđôn), Chíprơ (hòn đảo lớn nhất ở vùng đông Địa Trung Hải), và Antiốt.
Trong khi đang có sự tản lạc bao quát hơn nầy, thì Luca lần theo những sự phát triển song song của việc người Samari và hoạn quan Êthiôbi tiếp nhận Tin Lành, và chức vụ hết sức quan trọng của Phierơ cho Cọtnây. Và trong khi hội thánh đang bành trướng về mặt địa lý, thì hội thánh cũng đang tăng trưởng trong kiến thức: "Đức Chúa Trời cũng đã ban sự ăn năn cho người ngoại để họ được sự sống."
Nằm 300 dặm (500 km) ở phía bắc Giêrusalem, thành phố Antiốt đã trở thành trụ sở của hội thánh cho hoạt động truyền giáo đến thế giới ngoại bang. Với dân số khoảng 500.000 người, Antiốt là thành phố lớn thứ ba trong thế giới cổ đại. Bruce nhận định rằng chỉ có Rôma và Alexandria là lớn hơn, và cả ba thành phố nầy đều có những cộng đồng Do thái rất đông (trang 238).
Vẻ đẹp của Antiốt lại tương phản hẳn với môi trường đạo đức thấp kém của nó. Nằm sâu trong đất liền mười lăm dặm trên bờ sông Orontes, Antiốt rất hãnh diện về khung cảnh đẹp đẽ của mình. Đường phố chính của thành, dài 4,5 dặm và rộng khoảng 11 thước (32 feet), có mái che bên trên ở cả hai vệ đường, và người ta đã nói nó là vô địch trên toàn thế giới. Antiốt cũng nổi tiếng về những trò chơi của nó, đặc biệt là đua xe ngựa. Tuy nhiên, bên cạnh vẻ đẹp đầy ấn tượng của thiên nhiên và nhân tạo thì những khu rừng ở Daphne vốn là biểu tượng đạo đức tình dục không nghiêm túc. Những khu rừng ôlive ở Daphne, chu vi khoảng mười dặm, nằm chỉ năm dặm bên ngoài thành phố. Theo thần thoại, thần Apollo đã yêu Daphne, đuổi theo nàng, và nàng đã cầu xin được biến thành một cây nguyệt quế. Lời cầu nguyện đã được nhậm, và nàng đã biến thành cây nguyệt quế trong khu rừng ôlive ở Daphne. Một đền thờ lớn cho thần Apollo đã được xây dựng ở địa điểm nầy. Các nữ tư tế của đền Daphne (1000 kỵ nữ) đã trình diễn lại cho những người đến tế lễ xem cảnh rượt đuổi của thần Apollo trong những khu vườn và những biệt thự ở đền Daphne.
Antiốt thực sự là một thủ phủ của thế giới. Người Do thái và người ngoại bang, người Gờréc và người dã man đều tiếp xúc với nhau tại đây. Và như Bruce cho thấy (trang 241), nó nằm tại vị trí chiến lược, một nơi mà nền văn minh Địa Trung Hải giao với đồng vắng Syri. Đặc trưng toàn cầu (phổ thông và tiến bộ) của Antiốt khiến cho những khác biệt về tôn giáo và chủng tộc trở nên không quan trọng như là những khác biệt tại Giêrusalem.
Với một dân cư đa dạng, nằm tại một thung lũng ven sông với núi vây quanh, thành phố đã có nguồn cung cấp nước tốt nhất trên thế giới cổ đại. Antiốt cũng còn nổi tiếng trên thế giới về nền đạo đức suy đồi. Tại một thành phố có bối cảnh như thế, Tin Lành đã có được một bước nhảy vọt vĩ đại nhất.
SỰ THÀNH LẬP HỘI THÁNH ANTIỐT
11:19-30 Bruce 237-244
Mục tiêu 1. Mô tả việc thành lập hội thánh tại Antiốt.
1. Theo 11:19, những tín đồ bị tản lạc trước hết đã giảng Tin Lành cho ai trong những khu vực ở Phênixi, Chíprơ và Antiốt?
a) Cho tất cả mọi người bất luận chủng tộc, màu da hay tôn giáo.
b) Chỉ cho người Do thái thôi.
2. Từ kiến thức của bạn về Côngvụ 1:1-11:18, điều gì giải thích cho câu nói trong 11:19: “Chỉ giảng đạo cho người Giuđa thôi"?
..........
Hội thánh đầu tiên đã bắt đầu thấy mình chính là sự ứng nghiệm và sự tiếp nối của Do thái giáo. Sự ăn năn, đức tin nơi Đấng Christ, và phép báp têm bằng nước chỉ được thêm vào trong những qui định cho mối tương quan với Đức Chúa Trời. Cần phải có kinh nghiệm của Phierơ tại nhà Cọtnây để triệt hạ thần học bè phái thiển cận của hội thánh Giêrusalem.
3. Ai gánh trách nhiệm đem Tin Lành đầu tiên đến cho dân ngoại bang (người Gờréc) tại Antiốt ?
a) Những nhà truyền giáo do hội thánh Giêrusalem sai đi để thi hành mạng lịnh của Đấng Christ trong 1:8.
b) Những người đi từ đảo Chíprơ và Syren (Bắc Phi).
c) Các Cơ đốc nhân từ miền Galilê gần đó.
Hội thánh dân ngoại đầu tiên được thành lập không phải bởi hành động truyền giáo có kế hoạch của hội thánh Giêrusalem. Trái lại, một nhóm người vô danh gồm những người phiêu lưu đã dám làm theo lời thách thức của Chúa mình để "...đi khiến muôn dân trở nên môn đồ..." (Mat Mt 28:19), tin cậy Chúa họ sẽ giữ Lời của Ngài và thành lập hội thánh Ngài. Và họ đã không phải thất vọng.
4. Để đến với người Gờréc, các tín đồ tại Antiốt đã sử dụng những chiến lược nào sau đây?
a) Họ nói tiếng Aram để cho chỉ những người Gờréc nào quan tâm đến sứ điệp Tin Lành mới dám tìm hiểu ý nghĩa sứ điệp.
b) Họ chỉ nói cho người Gờréc nào đến với họ và hỏi làm sao để có thể được cứu.
c) Sứ điệp Tin Lành giảng cho người Gờréc đã được truyền đạt bằng những hình thức tư tưởng mà họ hiểu được, và từ bằng chứng nầy, dường như những qui định buộc phải qui đạo Do thái đã không áp dụng cho họ.
Có thể các tín đồ nầy đã nói tiếng Aram, rồi được thông dịch sang tiếng Hylạp qua một thông dịch viên, nhưng không chắc chắn như vậy. Việc nói với người Gờréc rõ ràng liên quan đến việc nói tiếng Hylạp , và sử dụng những hình thức tư tưởng của Hylạp. Ví dụ như họ đã rao giảng Đức Chúa Jesus là Chúa , một từ ngữ dễ hiểu và có ý nghĩa hơn nhiều đối với dân ngoại bang so với chữ Đấng Christ , tức Đấng Mêsia , một từ ngữ mang ý nghĩa đặc biệt đối với người Do thái.
5. Nếu bạn muốn đem người thuộc một ngôn ngữ hay một nền văn hóa khác về cho Chúa, bạn sẽ phải sử dụng những nguyên tắc nào sau đây?
a) Bỏ qua ngôn ngữ và lối suy nghĩ của họ. Chỉ việc giảng như cách bạn sẽ giảng cho những người mà bạn đã biết họ rồi.
b) Sứ điệp vẫn không thay đổi, những phương pháp thì thay đổi. Học ngôn ngữ của những người mà bạn muốn đến với họ.
c) Vì sứ điệp Tin Lành là một sứ điệp phổ thông, nên những phương tiện truyền đạt tư tưởng và những phương thức diễn đạt không liên quan đến sứ điệp.
6. Nhiều khi “ngôn ngữ” không phải là tiếng Anh, Hylạp, Hêbơrơ, Pháp, Tây Ban Nha, Ý,v. v..., người ta sẽ dùng phương tiện nào sau đây để giao tiếp?
a) Âm nhạc.
b) Điệu bộ và những lối diễn tả phi ngôn ngữ.
c) Những truyền thống và phong tục tập quán.
d) Nghệ thuật.
e) Những biệt ngữ chuyên môn.
Nói chung, có thể nói rằng một người truyền đạt không thể nào trình bày hữu hiệu về Tin Lành nếu như người ấy không biết Tin Lành cũng như không biết nền văn hóa của dân tộc mà mình đang cố gắng rao giảng Tin Lành cho họ. Tuy nhiên, có những trường hợp mà Đức Thánh Linh hành động ngoài qui luật nầy, như ví dụ trong 10:1-48 chứng minh một cách thật sinh động.
7. Giả sử bạn muốn làm chứng cho học sinh trung học trung bình qua phương tiện là một buổi hòa nhạc. Bạn có thể dùng thể loại âm nhạc nào để truyền đạt Tin Lành hữu hiệu nhất sao cho họ sẽ sẵn sàng hiểu và tiếp nhận?
a) Chỉ dùng âm nhạc mà những người kỳ cựu hơn trong hội thánh đã quen thuộc.
b) Dùng những hình thức âm nhạc nào hấp dẫn với giới trẻ và đồng thời không vi phạm đến sự dạy dỗ rõ ràng của Kinh Thánh.
c) Sử dụng loại âm nhạc "nhà thờ." Nhấn mạnh vào những bài thánh ca nổi tiếng của hội thánh.
d) Trước hết dạy cho các học sinh trung học khái niệm của bạn về âm nhạc có chất lượng, sau đó truyền đạt Tin Lành theo phương cách nào mà bạn thấy là dễ chấp nhận nhất.
Khi xét đến những mục tiêu chung của Tin Lành, chúng ta phải uyển chuyển sao cho vừa đến được với những người mới, vừa bảo toàn được kết quả của những nỗ lực trước kia. Trong lãnh vực có những sự khác biệt giữa các thế hệ, thì buộc phải có sự uyển chuyển như vậy. Những người cao tuổi phải cẩn thận để quan điểm của họ về "âm nhạc có chất lượng" đừng trở thành đá vấp chơn cho giới trẻ. Giới trẻ cũng không được phép dùng thể loại âm nhạc của họ để cố tình chọc giận những Cơ đốc nhân có sở thích âm nhạc khác với mình.
8. Giả sử bạn là Mục sư của một hội thánh nằm trong một cộng đồng đại học. Phương pháp nào sẽ truyền đạt tốt nhất cho thính giả đó?
a) Nói nghịch lại với giáo dục bằng cách nói rằng ai vào đại học thì không thể nào giữ được đức tin.
b) Nêu ra những tuyên bố chuyên môn đụng đến rất nhiều những lãnh vực kiến thức khác nhau, nhưng không cố gắng dùng sự xác minh để xác nhận những lời tuyên bố của mình.
c) Sử dụng ngôn ngữ nhà thờ. Dùng rất nhiều thành ngữ quen thuộc với bất cứ một Cơ đốc nhân tốt nào, nhưng những ngôn ngữ ấy lại chưa quen thuộc với một sinh viên hay một giáo sư đại học nào.
d) Rao giảng Tin Lành một cách rõ ràng và mạnh mẽ. Giải thích với niềm hy vọng có trong bạn. Ý thức được những nan đề tri thức mà cộng đồng đại học đang đối diện và bày tỏ Đấng Christ là câu trả lời như thế nào, bằng cách liên hệ hữu hiệu Ngài với vấn đề đó.
9. Giả sử bạn đang dạy trong một lớp học Kinh Thánh cho người lớn, phần lớn là những người lao động chưa nhận được ích lợi của đại học hoặc chưa quen được với những vấn đề tri thức hiện hành. Bạn sẽ phải làm gì?
a) Gây ấn tượng cho họ bằng kiến thức của bạn. Dùng nhiều từ ngữ khác nhau trong bài dạy của bạn để họ có thể "đạt được" trình độ kiến thức của bạn.
b) Truyền đạt Tin Lành cho họ bằng những lời lẽ sao cho họ có thể hiểu được rõ ràng, và dùng những minh hoạ và ứng dụng lấy từ cuộc sống hàng ngày.
c) Bảo cho biết học vấn của họ kém cỏi biết bao, và bạn giỏi hơn họ biết dường nào!
Tình yêu thương là phương pháp trổi hơn cái gọi là kiến thức kia. Tình yêu thương đòi hỏi sự lưu tâm đến người khác, xét đến tính chất độc đáo của họ, xét đến sự kêu gọi của Đức Chúa Trời đã ban cho họ. Sự hiểu biết thật mặc lấy sự khiêm nhường (IPhi 1Pr 5:5). Sự hiểu biết thật làm cho gây dựng chứ không thổi phồng mình lên.
Bằng cách sử dụng những so sánh trên đây, bạn có thể thấy lời tuyên bố của Luca là quan trọng đến dường nào: "cũng giảng dạy cho người Gờréc nữa."
Nhóm tín đồ thứ nhì đến từ đảo Chíp rơ và Syren không những đã biết Chúa, mà họ còn biết cách để nói về Ngài cho những người ngoại bang tại Antiốt. Những sứ giả đầu tiên của Tin Lành đến Antiốt (Cong Cv 11:19) đã không thành công trong việc tìm đến với người Gờréc, không phải vì cớ những tín đồ nầy chưa hiểu biết đủ về Chúa, nhưng vì họ không có một phương pháp luận thích đáng để tìm đến với người Gờréc.
Khi Tin Lành được rao giảng bằng một ngôn ngữ mà thính giả có thể hiểu được, thì sự đáp ứng tuyệt vời đã diễn ra (11:21). Thật nghiêm túc biết bao khi phải nhận ra rằng sứ điệp Tin Lành có thể bị khước từ chỉ vì cớ phương pháp của chúng ta không phù hợp! Nguyện Đức Chúa Trời giúp chúng ta vừa có sứ điệp vừa có cả phương pháp nữa!
10. Chúng ta đã thấy Antiốt là một thành phố lớn, quan trọng và đa dạng về văn hóa. Những ý kiến nào sau đây mô tả chính xác nhất việc đem những nguyên tắc rút ra từ việc thành lập hội thánh tại Antiốt áp dụng thành công cho việc thành lập - hay cho việc đi tiên phong thành lập - hội thánh thời hiện đại?
a) Rất khó đem Tin Lành đến cho thành phố hay những khu vực đô thị.
b) Hội thánh nên tập trung những nỗ lực để chỉ tìm đến với những thành phố nhỏ và những khu vực nông thôn, vì dân chúng tại những nơi đó dễ tiếp nhận sứ điệp hơn.
c) Tín đồ nên tập trung đem Tin Lành đến cho những trung tâm dân cư lớn, nhưng đừng xao lãng việc đem Tin Lành đến cho những thành phố nhỏ và vùng nông thôn.
d) Có quá nhiều sự khác biệt về tôn giáo, chủng tộc và văn hóa tại những khu vực đô thị, đến nỗi Tin Lành không có một tác động đáng kể nào cả.
e) Có quá nhiều sự gian ác tại khu vực đô thị, đến nỗi Tin Lành khó mà thâm nhập vào được.
Antiốt đã trở thành nguyên mẫu cho chiến lược truyền giáo của Phaolô. Tin Lành trước hết được rao truyền tại những trung tâm đô thị lớn, rồi từ đó lan truyền đến những vùng phụ cận. Hội thánh ngày nay không thể, cũng như không được phép, bỏ qua những thành phố chỉ vì cớ dường như khó đem Tin Lành đến cho các thành phố ấy, hoặc vì cớ sự đa dạng về văn hóa. Hội thánh nào đem Tin Lành đến đô thị thì sẽ thấy nơi nào tội lỗi càng thêm nhiều, thì ân điển lại càng trở nên dư dật hơn nữa (RoRm 5:20).
So Sánh Với Hội Thánh Giêrusalem
Bruce 237-239
Mục tiêu 2. So sánh và đối chiếu hội thánh tại Antiốt với Giêrusalem.
11. Dựa vào kiến thức của bạn về hội thánh trong Côngvụ 1:1-11:18, và 11:19-30, hãy mô tả ba đặc điểm chung của hội thánh Antiốt và Giêrusalem.
a ..........
b ..........
c ..........
12. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và trình bày những điểm tương phản rõ nét giữa hội thánh Giêrusalem và hội thánh Antiốt dựa vào câu chuyện của Luca về sự khai sinh và sự tăng trưởng của các hội thánh đó? Khoanh tròn mẫu tự của những câu trả lời ĐÚNG trong mỗi câu hỏi sau đây. Làm tương tự với những câu hỏi Đúng - Sai trong bài học nầy.
a. Hội thánh nầy thiêng liêng hơn hội thánh kia.
b. Sự thành lập và tăng trưởng của hội thánh Giêrusalem được kèm theo lời mô tả về nhiều dấu kỳ phép lạ. Về phần hội thánh Antiốt, Luca không đề cập đến các dấu kỳ phép lạ.
c. Hội thánh Antiốt có nhiều thuộc viên là người ngoại bang; dường như hội thánh Giêrusalem chỉ toàn là người Do thái.
d. Thuộc viên của hội thánh Giêrusalem chịu phép báp têm bằng nước và phép báp têm bằng Đức Thánh Linh. Thuộc viên của hội thánh Antiốt không kinh nghiệm được một phép báp têm nào cả.
e. Hội thánh Giêrusalem đã thực hành nếp sống cộng đồng. Hội thánh Antiốt dường như không.
f. Thuộc viên của cộng đồng tín hữu tại Antiốt đã được gọi là Cơ đốc nhân, nhưng tại Giêrusalem họ được gọi là những người theo đạo, tín đồ, môn đồ hay là phe người Naxarét.
Từ những câu hỏi trên về những điểm tương phản giữa hội thánh Giêrusalem với hội thánh Antiốt, chúng ta thâu thập được một vài thông tin rất ý nghĩa về những khác biệt có thể có giữa các hội thánh tại bất kỳ nơi nào cũng như tại bất kỳ thời điểm nào. Luca cũng không hàm ý rằng hội thánh nầy thiêng liêng hơn hội thánh kia. Và cũng không có bằng chứng nào cho thấy cả hai hội thánh đều xem mình thiêng liêng hơn hội thánh kia (dấu hiệu của sự kiêu ngạo và tính xác thịt đáng hổ thẹn, ICo1Cr 5:1-4). Dầu câu chuyện của Luca không nhắc đến dấu kỳ phép lạ tại Antiốt, nhưng việc bỏ qua nầy không nhất thiết phải hiểu là bằng chứng không có dấu kỳ phép lạ. Và dầu chúng ta không đọc thấy một người ngoại bang trở thành thành viên của hội thánh Giêrusalem nhưng chúng ta không thể bỏ qua khả năng ấy là hội thánh Giêrusalem, cũng giống như hội thánh Antiốt, đã trở thành một hội thánh có các tín hữu vừa là người Do thái vừa là người ngoại bang.
Hơn nữa, việc bỏ qua những từng trải phép báp têm bằng nước và phép báp têm bằng Đức Thánh Linh tại Antiốt của sử gia Luca (không giống như câu chuyện của ông về từng trải tích cực của hội thánh Giêrusalem trong cả hai phép báp têm nầy) không thể xem như là bằng chứng cho rằng những sự kiện nầy đã không diễn ra. Thật thú vị khi thấy, nếu những người không theo Ngũ Tuần thoải mái cho rằng phép báp têm bằng nước hẳn phải xảy ra tại Antiốt, vậy thì cớ sao đừng ai nghĩ rằng phép báp têm bằng Đức Thánh Linh cũng đã không xảy ra?
Nhiều điểm tương phản khác cũng nổi bật lên: chỉ một mình hội thánh Giêrusalem thực hành nếp sống cộng đồng, còn dường như hội thánh Antiốt thì không; và thành viên của cộng đồng tín hữu tại Antiốt được gọi là Cơ đốc nhân trong khi tại Giêrusalem họ được gọi là những người theo đạo, tín hữu, và người Naxarét; và cuối cùng, dường như hội thánh Antiốt đã không có ngân quỹ cộng đồng để cung cấp sự cứu trợ như hội thánh Giêrusalem, trái lại mỗi tín đồ dâng tùy theo khả năng khi có nhu cầu.
13. Ba câu Kinh Thánh sau chỉ có một câu nhắc đến chữ “Cơ đốc nhân” trong Tân Ước. Bạn hãy mô tả bối cảnh sử dụng của mỗi từ đó.
a. Cong Cv 11:26 ..........
b. 26:28 ..........
c. IPhi 1Pr 4:16 ..........
Từ ngữ Cơrêtiên (Cơ đốc nhân) thoạt tiên không phải là một danh hiệu do các tín đồ tự chọn để mô tả mình, nhưng trái lại là tên gọi được những người đương thời chọn để gọi họ. Với những thông tin ấy là Đấng Christ thăng thiên vào khoảng năm 30 S.C., Banaba và Saulơ đến Giêrusalem vào năm 46 S.C. (Cong Cv 11:30), thì có thể kết luận rằng tên gọi Cơ đốc nhân bắt đầu được sử dụng vào khoảng năm 45 S.C. (11:26), hoặc khoảng 15 năm sau sự khai sinh hội thánh.
Chức Vụ Của Banaba
11:22-26 Bruce 239-241.
Mục tiêu 3. Giải thích vì sao sự chọn lựa Banaba đã trở thành điều không thể thiếu cho sự tăng trưởng của hội thánh Antiốt.
Tuy hội thánh Giêrusalem không khởi sự truyền giảng Tin Lành đến những vùng mới hay cho dân ngoại bang, nhưng hội thánh muốn quan sát bản chất của những sự phát triển trong những cộng đồng Cơ đốc ở nơi khác. Vì thế, Phierơ và Giăng đã được sai đến Giêrusalem (8:14), Phierơ đã đi lại khắp nước để thăm viếng các thánh đồ (9:32), Phierơ được chất vấn về chuyến viếng thăm Cọtnây (11:1), và Banaba được sai đến thành Antiốt (11:22). Những sứ giả "chính thức" nầy đã thực hiện một công tác quan trọng là liên kết những hội thánh mới với những hội thánh cũ, tạo ra mối tương quan lẫn nhau giữa các tín đồ tại nhiều miền khác nhau, để có sự hiệp một trong đức tin và tình yêu thương giữa các hội thánh. Giêrusalem đã thấy mình có khả năng của người coi sóc. May mắn thay, vai trò nầy đã không làm nhụt chí những sáng kiến cá nhân như là công tác rao truyền Tin Lành và làm phép báp têm của Philíp cho người Samari và hoạn quan, việc đặt tay của Phierơ và Giăng trên người Samari, việc Phierơ đến thăm Cọtnây, việc các tín đồ người Chíprơ và Syren khởi sự rao giảng Tin Lành cho dân ngoại bang và Antiốt.
Chúng ta có thể vui mừng vì hội thánh Giêrusalem đã khôn ngoan chỉ định một người không thuộc về phe chủ trương cắt bì để làm tổ chức chuyến viếng thăm "chính thức" đến Antiốt. Một con người hay một hội đồng không phù hợp, người có quan điểm thiển cận hơn và duy luật pháp hơn, sẽ dẫm nát những chồi non mềm yếu của đức tin người ngoại bang.
14. Dựa vào việc so sánh 11:19-20 với 4:36-37 và 9:27, nêu ra ba nguyên nhân khiến cho việc chọn lựa Banaba trở thành một sự chọn lựa hay.
a ..........
b ..........
c ..........
15. Những phẩm chất tốt đẹp của Banaba đã tỏa sáng tại Antiốt. Luca mô tả ông là “người lành, đầy dẫy Đức Thánh Linh và đức tin." Kể ra bốn phương cách mà Banaba đã dùng để khiến những thái độ và hành động của mình đem lại phước hạnh cho hội thánh Antiốt.
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
16. Chức vụ của Banaba trước khi Saulơ đến Antiốt được mô tả là chức vụ khuyên mọi người cứ vững lòng hay là chức vụ khích lệ. Sau khi Saulơ đến, chức vụ cho hội thánh được mô tả là dạy dỗ . Bạn sẽ dùng những câu nào dưới đây để mô tả Banaba?
a) Ông là một con người yếu đuối vì ông không thể tự mình làm Mục sư cho một hội thánh đang phát triển.
b) Ông là một con người vững vàng, mạnh mẽ vì ông đã nhận ra những nhược điểm của mình và đã tìm những người nào có thể bù đắp được sự thiếu sót khả năng giảng đạo của mình.
c) Banaba cảm thấy thật quan trọng khi thi hành chức vụ một mình. Ông cảm thấy địa vị của mình bị đe dọa nếu có thêm một đồng nghiệp.
d) Banaba đã tin tưởng vào chức vụ đồng đội. Ông không quan tâm đến địa vị của mình. Trái lại, ông quan tâm đến sự tăng trưởng và phát triển của công việc Chúa.
Ngày nay chúng ta cần những mục sư có tấm lòng quảng đại như tấm lòng của Banaba, những mục sư không tìm cách xây dựng vương quốc của riêng mình nhưng xây dựng vương quốc của Đức Chúa Trời. Và chúng ta cần những mục sư không có tinh thần ghen tỵ vụn vặt, cứ lo bảo vệ uy tín và địa vị của mình, nhưng trái lại là cần những người được thôi thúc mạnh mẽ bởi tình yêu thương đối với những kẻ hư mất và bởi những điều nào sẽ giúp đem Tin Lành đến cho họ cách tốt nhất. Những mục sư nào không thể cộng tác với các mục sư hoặc tín hữu khác thì không có mặt trong sách Côngvụ.
Những Nguyên Tắc Tăng Trưởng
Mục tiêu 4. Tìm ra những nguyên tắc chính cho sự tăng trưởng của hội thánh xuất phát từ sự thành lập hội thánh Antiốt.
Trong hội thánh Giêrusalem đã có hàng ngàn người chứng kiến ít nhất là một phần nào đó trong chức vụ tại thế của Đức Chúa Jesus. Là một hội thánh, nó có những vị lãnh đạo tuyệt vời, tức các sứ đồ; các dấu kỳ phép lạ lớn lao; có sự giảng đạo tuyệt vời, là của Phierơ và Êtiên; tình yêu thương tuyệt vời: lấy mọi vật làm của chung; có sự thử thách tuyệt vời, cơn bắt bớ; và sự tăng trưởng tuyệt vời, hội thánh đã được tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, hội thánh Giêrusalem không chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thành lập hội thánh tại Antiốt, hoặc trong việc thành lập bất cứ một hội thánh ngoại bang nào trong vùng Địa Trung Hải. Vì sao vậy? Khi biết được những câu trả lời, chúng ta sẽ hiểu được chiến lược cho sự tăng trưởng của hội thánh ngày nay.
17. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Dân ngoại bang trên thế giới đông hơn dân Do thái nhiều.
b. Hội thánh nào dạy rằng nếp sống của dân ngoại bang là tốt nhất thì có thể đem Tin Lành đến cho dân Do thái thành công hơn.
c. Người Do thái có thể tiếp nhận Tin Lành cách kết quả hơn nếu Tin Lành được đem đến bởi những người Do thái đã tin Đức Chúa Jesus là Đấng Mêsia và đã cho phép tín đồ người Do thái tiếp tục giữ những phong tục Do thái nào không mâu thuẫn với đức tin Cơ đốc.
d. Người ngoại bang có thể tiếp nhận Tin Lành cách kết quả hơn nếu Tin Lành được đem đến bởi một hội thánh nào dạy rằng nếp sống của người Do thái là tốt nhất.
e. Người ngoại bang có thể dễ tiếp nhận Đức Chúa Jesus làm Chúa của mình hơn khi Tin Lành được tách riêng ra khỏi nếp sống của người Do thái, tức là, khỏi những phong tục nào mà không bắt buộc phải áp dụng cho tín đồ của Đấng Christ.
Hội thánh Giêrusalem đã từng là công cụ cho sự hoán cải của hàng ngàn người Do thái. Nhưng còn khoảng 250 triệu người ngoại bang trên thế giới so với 4 triệu người Do thái! Hội thánh Giêrusalem có thể tăng trưởng lên tới con số 4 triệu, nhưng sẽ vẫn còn 250 triệu người mà hội thánh không thể đem Tin Lành đến cho họ, vì hội thánh không vượt rào cản văn hóa. Phierơ đã nhận thấy cần phải có một lối tiếp cận sao cho đáp ứng được nhu cầu của cả người Do thái lẫn người ngoại bang; do đó, vẫn không thỏa hiệp hay sửa đổi lẽ thật của Tin Lành, ông liên hệ với từng nhóm người tùy theo những nhu cầu văn hóa của nhóm đó, hầu cho đều có thể đem mỗi nhóm người nầy về cho Đấng Christ (ICo1Cr 9:20).
18. Bạn sẽ xem câu nào sau đây là những yếu tố quan trọng trong sự tăng trưởng hội thánh tại Antiốt?
a) Những chứng nhân đã khai sinh hội thánh và những người chăm lo hội thánh (như Banaba và Saulơ) đã biết Đức Chúa Jesus Christ và nền văn hóa của nhóm người mà họ đang thi hành chức vụ.
b) Nếu không có người để đem Tin Lành đến cho họ thì hội thánh không thể tăng trưởng. Là một trong những hội thánh lớn nhất, Antiốt đã cung cấp cơ hội tăng trưởng cho hội thánh.
c) Tại hội thánh Antiốt, các tân tín hữu đã có được những vị lãnh đạo làm gương tốt về nếp sống Cơ đốc. Những người như Banaba và Saulơ không những thường xuyên dạy cho tân tín hữu biết cách phải sống thế nào cho Đấng Christ, mà họ còn chứng minh cho tân tín hữu thấy qua tấm gương của họ.
Rõ ràng, đã có nhiều yếu tố khác nữa trong sinh hoạt của hội thánh Antiốt mà Luca không ghi lại. Ví dụ như, những yếu tố được thuật lại trong Cong Cv 2:42 há không phải là những yếu tố trọng tâm cho sự phát triển bên trong cũng như bên ngoài của bất kỳ hội thánh nào sao? Con số tín đồ đông đôi khi có thể gây ngộ nhận. Một hội thánh có nhiều tín đồ không bao giờ được phép nghĩ rằng mình đã đạt đến thành công. Luôn luôn người bên ngoài vẫn còn nhiều hơn người bên trong. Đức Chúa Trời kêu gọi hội thánh đem Tin Lành đến cho họ.
Cứu Trợ Nạn Đói
11:27-30 Bruce 242-244
Mục tiêu 5. Thuật lại những thành tựu của hội thánh Antiốt và hội thánh Giêrusalem nhờ vào lời tiên tri của Agabút về nạn đói toàn cầu.
Luca không ghi lại Banaba có tường trình cho hội thánh Giêrusalem về tiến bộ của dân ngoại bang ở Antiốt hay không. Chúng ta chỉ có thể phỏng đoán kiểu tường trình mà có lẽ Banaba sẽ báo cáo, nếu như ông có cơ hội. Với tinh thần rộng lượng và sự chú trọng hàng đầu của ông đến công tác của Thánh Linh trong đời sống mình cũng như đời sống của các tín hữu khác, chúng ta có thể chắc chắn rằng bản tường trình đó là chính xác, khiêm tốn, và tôn vinh Đấng Christ. Tuy nhiên, tin tức đến Giêrusalem đã được hoan nghênh đủ để các tiên tri đã từ hội thánh Giêrusalem đi lên phía bắc về thành Antiốt.
19. Trong ICo1Cr 14:1, 24-33, Phaolô mô tả bản chất của chức vụ nói tiên tri trong hội thánh đầu tiên. Dựa vào những câu Kinh Thánh trong sách Côrinhtô và trong Cong Cv 11:27-30, bạn sẽ nói những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Thính giả chủ yếu của người nói tiên tri là đoàn người chưa tin Chúa mà ông bắt gặp tại bất cứ nơi nào ông đang nói tiên tri.
b. Thính giả chủ yếu của người nói tiên tri là hội thánh; Tuy nhiên, đôi khi người chưa tin Chúa có thể có mặt trong buổi nhóm của tín đồ.
c. Nói tiên tri là một chức năng giới hạn cho một số ít người.
d. Mọi tín đồ đều được khuyên giục phải khao khát các ân tứ thuộc linh, đặc biệt là ân tứ nói tiên tri.
Các tiên tri không phải là những người truyền giảng Tin Lành. Họ là những người mà chức vụ chủ yếu của họ là dành cho thân thể Đấng Christ. Dường như có sự phân biệt giữa những người giữ "chức vụ" (như Agabút) với những người nói tiên tri nhơn dịp tiện nào đó (mọi tín đồ) . Những người như Agabút dường như đã dành hoàn toàn thời gian của mình để thi hành chức vụ.
Chúng ta thường hay nghĩ về một đấng tiên tri như là một người nói ra những lời dự ngôn. Đương nhiên, Agabút củng cố cho khái niệm nầy. Tuy nhiên, dường như những lời dự ngôn không phải là thành phần chủ yếu của lời tiên tri trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước. Các tiên tri là những người nói trước và những người rao ra . Các tiên tri là người đem lại sự khích lệ cho các tín đồ và sự thông hiểu về Lời và đường lối của Đức Chúa Trời. Khi một tiên tri dự ngôn về một sự kiện tương lai, lời dự ngôn đó phải xảy ra đúng, bằng không người ấy sẽ không còn được xem là tiên tri kể từ đó nữa (PhuDnl 18:22).
Trong Cong Cv 11:27-30, chúng ta thấy một ngoại lệ thú vị đối với mẫu mực chung. Thường thường, mẫu mực chung trong hoạt động truyền giáo là hội thánh đã được vững lập và kỳ cựu hơn thì sẽ trợ giúp cho hội thánh mới thành lập, non trẻ hơn. Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp của ví dụ chúng ta đang xét. Các tín hữu non trẻ hơn đã dâng hiến trong tinh thần đầy hy sinh để đáp ứng cho nhu cầu của những tín hữu đã được vững lập lâu hơn họ trong đức tin (cũng xem IICo 2Cr 8:2-3). Từ ví dụ của tất cả những tín đồ nầy trong hội thánh đầu tiên, chúng ta có thể rút ra được nguyên tắc sau: Đức Thánh Linh đã biến đổi họ, đến nỗi họ sẵn sàng đáp ứng để giải quyết những nhu cầu cho mối thông công trước mắt của chính họ cũng như cho nhu cầu của những chi thể ở nơi xa trong thân thể Đấng Christ. Nơi đâu thân thể bị thương hay gặp thiếu thốn, thì các chi thể khác đều đã đáp ứng một cách thích hợp.
20-23 Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và phản ảnh đáp ứng của hội thánh Antiốt trước nhu cầu của các anh em trong xứ Giuđê?
20.
a. Hội thánh Antiốt đã quyết định chờ xem lời tiên tri của Agabút có thành sự thật không rồi mới hành động.
b. Hội thánh đã tin lời tiên tri của Agabút và, giống như Pharaôn ở Aicập (SaSt 41:37-49), họ đã bắt đầu dự bị trước cho thời kỳ đói kém.
Những lời của Agabút hẳn đã được khẳng định bởi sự nhất trí của lãnh đạo hội thánh. Việc Banaba và Saulơ nhất trí với Agabút có thể được thấy qua câu nói trong Cong Cv 11:30, khi họ đem tiền đến Giêrusalem.
21.
a. Sự sẵn sàng của hội thánh Antiốt để giúp các thánh đồ tại Giêrusalem thể hiện dấu hiệu chân thật của tín đồ, tức tình yêu thương (GiGa 13:34-35) - một dấu hiệu còn quan trọng hơn cả dấu hiệu của phép cắt bì.
b. Khi Agabút nói ra lời tiên tri nầy, các Cơ đốc nhân tại Antiốt đã quyết định không giúp đỡ. Họ cảm thấy rằng hội thánh Giêrusalem nên trục xuất khỏi hội thánh những tín đồ nào đang cản trở hoạt động đã ấn định để truyền giáo cho người ngoại bang.
Hội thánh dân ngoại nói chung tại Antiốt đã thể hiện sự trưởng thành thuộc linh thực sự qua những món quà cho hội thánh Giêrusalem. Một số người tại hội thánh Giêrusalem có lẽ đã nghi ngờ tính chân thật của đức tin người ngoại bang. Những họ không thể nghi ngờ tính chân thật trong tình yêu thương của người ngoại bang.
22.
a. Tặng phẩm của hội thánh Antiốt đã được ban cho một cách vô cảm tính.
b. Các Cơ đốc nhân ở Antiốt đã gởi tặng phẩm nhờ Banaba và Saulơ đem đến Giêrusalem và bởi đó, sự quan tâm săn sóc của họ dành cho các thánh đồ tại Giêrusalem đã có thể được truyền đạt một cách thỏa đáng hơn và sâu sắc hơn.
23.
a. Trong mười một đoạn đầu của sách Côngvụ, chúng ta đã thấy cách sử dụng duy nhất của việc phân phát ngân quỹ mà các tín đồ trong hội thánh đã dâng hiến, đó là để giải quyết nhu cầu của các tín đồ.
b. Cong Cv 1:1-11:30 thiết lập một nguyên tắc: việc sử dụng hợp pháp duy nhất cho ngân quỹ mà các tín đồ đã dâng ấy là sử dụng để giải quyết nhu cầu của các thánh đồ nghèo hơn.
Việc giải quyết nhu cầu của các thánh đồ vẫn tiếp tục là điều ưu tiên thích đáng cho việc phân phát ngân quỹ mà các tín đồ đã dâng vào (Gia Gc 2:14-17). Tuy nhiên, chúng ta thấy một nhu cầu quan trọng khác nữa xuất hiện trong một hội thánh non trẻ là trong lãnh vực chu cấp cho những người thực hiện chức vụ rao giảng Tin Lành (ICo1Cr 9:1-12). Khi khái niệm dâng hiến (ban cho) được hiểu đúng và đáng giá đúng (GiGa 3:16; IICo 2Cr 8:9), các tín đồ sẽ dâng hiến với tinh thần hy sinh để Tin Lành có thể đến với những người chưa có Đấng Christ. Noi gương Chúa của mình (là Đấng đã ban mọi sự Ngài có để họ có sự sống dư dật), Cơ đốc nhân - ngày nay cũng như thời xưa, đã đáp ứng bằng của cải vật chất mình có để giải quyết bất cứ nhu cầu nào: để truyền giảng tại gia, để truyền giáo hải ngoại, để hoạt động từ thiện tại bất cứ nơi nào có nhu cần, để chu cấp cho các Mục sư và các chức vụ hầu việc Chúa hầu nuôi dưỡng sự sống và thúc đẩy sự phát triển của thân thể Đấng Christ. Đáp ứng nầy chính là chìa khóa để mở kho giàu có dư dật cho mọi tín đồ (IICo 2Cr 9:8).
24. Nêu ra ít nhất ba ích lợi đã đến với hội thánh Giêrusalem và hội thánh Antiốt nhờ vào lời tiên tri của Agabút?
a ..........
b ..........
c ..........
HỘI THÁNH GIÊRUSALEM
Cong Cv 12:1-25 Bruce 245-258
Luca đã lần theo giòng phước hạnh thuộc linh từ Giêrusalem đến Antiốt trong LuLc 11:19-26 và sự quay lại của các phước hạnh vật chất từ Antiốt đến Giêrusalem trong Cong Cv 11:27-30.
Khi câu chuyện của sách Côngvụ quay về với Giêrusalem (12:1), người ta hẳn phải thắc mắc về trình tự thời gian.
Một số người cũng giống như F. F. Bruce, đã xác định niên hiệu cho chuyến viếng thăm của Banaba và Saulơ (11:30) đến Giêrusalem là vào năm 46 S.C. vì cớ hai nguyên nhân sau: 1) Những câu chuyện ngoài đời mô tả cơn đói kém tại Giêrusalem vào năm 46 S.C.; và 2) Nếu chuyến viếng thăm Giêrusalem của Phaolô được mô tả trong GaGl 2:1-10 cũng chính là chuyến viếng thăm trong Cong Cv 11:30, thì chuyến viếng thăm đó không thể nào sớm hơn năm 46 S.C.
Tuy nhiên, chúng ta biết rõ rằng Hêrốt Ạcrípba chết vào năm 44 S.C. Dầu Bruce không cố gắng hòa giải sự khác biệt nầy, nhưng chúng ta có thể giả định quan điểm của ông là những sự kiện được mô tả trong 12:1-24 đã diễn ra song song với những sự kiện trong 11:27-29. Như vậy, chữ "đương thuở đó" của 12:1; sẽ không chỉ về việc đến thăm của Saulơ và Banaba, nhưng chỉ về sự quyên góp cho hội thánh Giêrusalem đương trong thời kỳ mà Giacơ và Hêrốt qua đời.
Tuy nhiên, nan đề về trình tự thời gian được loại bỏ nếu chúng ta chấp nhận chuyến viếng thăm Giêrusalem được mô tả trong cả GaGl 2:1-10 và Cong Cv 15:1-35 là những câu chuyện song song. Điều nầy đòi hỏi chúng ta phải công nhận sứ mạng của Banaba và Saulơ đến Giêrusalem đã diễn ra trước cơn đói kém chứ không phải trong cơn đói kém, như vậy xác định niên hiệu cho 11:30 là vào năm 44 S.C. Câu tuyên bố thứ nhì nầy phù hợp hơn với tinh thần của hội thánh khi dâng tiền trước khi cơn đói kém xảy ra. Vẫn còn nhiều phương diện nữa liên quan đến vấn đề xác định niên hiệu của GaGl 2:1-10, nhưng những vấn đề nầy sẽ được thảo luận trong Bài 10.
Hêrốt Ạcrípba I (vua) là Hêrốt thứ ba được nhắc đến trong Tân Ước: Ông nội của Hêrốt trong Cong Cv 12:1-25 là Hêrốt Đại Đế (Mat Mt 2:3). Bác của Hêrốt trong Cong Cv 12:1-25 là Hêrốt Antiba, người đã giết Giăng Báp tít và cũng chính là Hêrốt mà Đấng Christ đã bị điệu đến trước mặt ông (Mac Mc 6:14-29; LuLc 23:7-12). Hêrốt Ạcrípba I là Hêrốt đầu tiên và duy nhất, sau ông nội ông, đã cai trị toàn xứ Palestine (41-44 S.C.). Ông đã thay thế cho quan tổng đốc La mã (giống như Philát) và cũng đã được quần chúng Do thái yêu mến vì cớ lòng kỉnh kiền của ông.
Trước kia, cơn bắt bớ đã được khởi xướng chống lại hội thánh Giêrusalem trong một trường hợp duy nhất: khi Êtiên thẳng thắn tuyên bố những hàm ý của Tin Lành đối với luật pháp và sự thờ phượng tại đền thờ. Tòa Công Luận trước đó đã có lần bị buộc phải ngưng bắt bớ các sứ đồ vì cớ các sứ đồ được dân chúng quí mến (Cong Cv 4:21).
Cũng giống như trường hợp của Êtiên, Cơ đốc nhân đã không còn được cộng đồng Do thái mến mộ, không phải vì họ rao giảng sự phục sinh của Chúa mà vì những người Do thái chánh thống nhận thấy để cho dân ngoại bang vào hội thánh tức là sự hạ thấp phẩm chất đức tin Do thái. Sứ điệp thẳng thắn và được soi dẫn của Êtiên đã tập trung rõ ràng vào vấn đề nầy. Ông nói rằng, trong lịch sử, dân Do thái đã chống cự Thánh Linh, tiêu diệt các tiên tri của Đức Chúa Trời, chống đối các ý chỉ của Ngài. Sự chối bỏ Đấng Mêsia của họ (là Đấng đã tuyên bố tình yêu của Đức Chúa Trời là tình yêu phổ thông) chẳng qua chỉ là kết cuộc của toàn bộ lịch sử chống nghịch Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, giờ đây sự tăng trưởng và sức sống của phong trào Cơ đốc đã đưa ra một thách thức nghiêm trọng hơn cho Do thái giáo chánh thống, vì nó không còn là một đức tin mang đặc thù dân tộc, mà trái lại, là một đức tin có sức hấp dẫn phổ thông (toàn cầu). Những môn đồ của người Naxarét kia không còn được xem như là một bè phái khác bên trong Do thái giáo (như là phe Pharisi, phe Sađusê, phe Essenes, hay phe Xêlốt); trái lại đó là một đạo khác hẳn với Do thái giáo. Việc đưa dân ngoại bang vào hội thánh có thể chỉ là điềm báo sự rắc rối giữa hội thánh Giêrusalem và quần chúng địa phương mà thôi.
Hêrốt đã có sự hậu thuẫn của quần chúng trong vụ sát hại Giacơ và được khuyến khích để bắt nhốt vị lãnh đạo quan trọng nhất của các tín đồ (người đặc biệt liên hệ đến việc phá vỡ những rào cản truyền thống giữa người Do thái và người ngoại bang), và dự định xử tử ông trước mặt công chúng.
Giacơ Và Phierơ
12:1-19, Bruce 245-254
Mục tiêu 6. So sánh sự chết của Giacơ với sự giải thoát Phierơ, và cho biết từ đây có thể rút ra được sự hiểu biết nào để áp dụng cho đời sống của riêng bạn.
25. Từ 1:1-11:30, chúng ta biết gì về chức vụ của Giacơ trong hội thánh đầu tiên?
..........
Tuy nhiên, dường như Giacơ là một nhân vật quan trọng trước mắt công chúng, nếu không Hêrốt đã chẳng bắt ông. Có người đã nói về Giacơ như vầy: Chúng ta không biết gì về những việc lành, những công việc can đảm và những bài giảng quyền năng mà ông đã cống hiến cho sự nghiệp của Thầy mình. Chúng ta chỉ đơn giản biết đến sự chết của ông, mà bởi đó ông đã làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời. Mọi điều khác đã được giấu kín với Đức Chúa Trời cho đến ngày mà những ý tưởng và việc làm thầm kín của mọi người đều sẽ bày tỏ ra... Nếu một vị sứ đồ được vinh dự và trung tín đến như thế đã thỏa lòng làm công việc của mình và rồi qua đời mà không hề có lấy một lời nào để lưu danh hay lưu lại công khó của mình cho hậu thế, thì chúng ta còn phải thỏa lòng biết đến dường nào!
26. Mac Mc 3:14-15 ghi lại ba trách nhiệm Chúa Jesus trao cho mười hai sứ đồ lúc họ được sai đi. Nêu ra ba trách nhiệm đó và cho biết trách nhiệm nào không thể bị gián đoạn hay bị tác động bởi sự chết.
..........
27. So sánh Cong Cv 12:1-5 Mat Mt 20:20-23 GiGa 21:20-24. Mỗi người trong những anh em nầy - Giacơ và Giăng - đã "uống chén" như thế nào?
..........
28. Xuất phát từ phần mô tả cái chết của Giacơ, có thể tuyên bố điều nào sau đây?
a) Ông đã chết lúc còn trẻ vì cớ ông đi ngoài ý chỉ của Đức Chúa Trời.
b) Chúa đã sai lầm khi không giải thoát cho Giacơ. Giacơ đã là một trong "bộ ba thân tín" và đã có nhiều năm hầu việc Chúa hữu ích với tư cách một sứ đồ.
c) Luca cho biết nguyên nhân cái chết của Giacơ. Trường hợp của Êtiên cũng khá giống với trường hợp của Gia Cơ. Nhờ Êtiên, Saulơ đã được cảm động. Nhờ Giacơ, một nhà truyền giáo vĩ đại của hội thánh đã hoán cải.
d) Chúng ta không biết được nguyên nhân vì sao Chúa cho phép Giacơ bị giết.
PhuDnl 29:29 là một câu Kinh Thánh quan trọng cho Cơ đốc nhân trong những lúc chúng ta bị cám dỗ để thắc mắc "tại sao?" Có một số phương diện trong đường lối của Đức Chúa Trời vẫn chưa bày tỏ cho chúng ta trong cuộc đời nầy. Sự chết của Giacơ thực sự đã trở thành sự cất nhắc để ông "ở với Chúa," như Chúa đã hứa khi Ngài kêu gọi ông lúc đầu (Mac Mc 3:14-15).
29. Dùng lời của bạn để hình dung sự đón tiếp Giacơ trên thiên đàng vào lúc ông qua đời.
..........
Sau sự chết của Giacơ, Hêrốt đã bắt nhốt Phierơ và định đem ông ra xét xử và tử hình công khai sau thời kỳ bảy ngày của lễ "ăn bánh không men" (Bruce trang 248.) Phierơ bị canh giữ bởi 16 tên lính, cứ bốn người là một đội. Tục lệ thông thường của người Rôma là thay đổi những phiên gác sau ba giờ đồng hồ. Như vậy, hai người lính được xiềng tay vào tay Phierơ, còn hai người kia đứng gác ngoài cửa ngục.
30. Phierơ đang ngủ trong đêm trước khi ông “chết” và hội thánh thì đang cầu nguyện. Câu nào sau đây phản ảnh đúng thái độ của Phierơ?
a) Phierơ đang lo sợ và đầy hoang mang giống y như trong đêm trước khi Đấng Christ chịu chết (Mac Mc 14:66-72). Giacơ đã bị giết rồi và ông lo sợ rằng ông là người kế tiếp.
b) Phierơ đã bị giam vào ngục hai lần rồi (Cong Cv 4:1-4 và 5:17-21). Ông đã trở thành một chiến binh kỳ cựu trong đạo binh của Đấng Christ. Ông giao phó những nan đề cho Chúa rồi đi ngủ. Nếu Chúa muốn giải thoát ông qua quyết định của loài người, thì điều đó cũng tốt (4:21). Nếu Ngài muốn giải thoát ông qua sự can thiệp của một thiên sứ, điều đó cũng tốt (5:19). Nếu Ngài muốn giải thoát ông bởi sự chết, điều đó vẫn tốt (12:2).
Giống như Chúa mình, Phierơ đã học được cách đi ngủ trong cơn bão (Mac Mc 4:38). Ông đã thực hành nguyên văn lời dạy của Chúa về sự lo lắng (Mat Mt 6:25-34 và Mac Mc 10:19). Không ai được phép kết luận rằng đây là "tính thụ động," trái lại, nó phản ảnh sự tin cậy của một đức tin có việc làm. Có lẽ bài học lớn nhất cho chúng ta trong cả trường hợp được giải thoát hay trong sự chết ấy là học được nguyên tắc "tin cậy." Chính Cha yêu thương mới là Đấng quyết định chúng ta sẽ "ở với Ngài" bằng sự chết hoặc chúng ta sẽ tôn vinh danh Ngài và công việc của Ngài, qua sự giải thoát. Một tấm lòng tin cậy tích cực chỉ có thể xuất phát từ sự vâng phục ý chỉ Ngài một cách tuyệt đối.
31. Bạn có mất thì giờ để lo lắng không? Bạn có những đêm mất ngủ không? Đức Thánh Linh đang phán gì với bạn về việc cần phải tin cậy Ngài dẫu phải trong hoàn cảnh như Phierơ (IPhi 1Pr 5:7)?
..........
32. Một nhóm tín đồ đang tập trung cầu nguyện tại nhà của Mari, mẹ của Giăng Mác (Cong Cv 12:12). (Phải chăng đây cũng chính là căn nhà mà lễ Tiệc Thánh đã được diễn ra, và từ ngôi nhà đó mà Mác đã đi theo Chúa trong khi trên người chỉ mặc một tấm vải choàng - Mac Mc 14:51-52) Những thái độ nào sau đây là ĐÚNG và được phản ảnh trong sự cầu nguyện của nhóm nầy cũng như trong đáp ứng của họ đối với sự giải thoát Phierơ?:
a. Họ đã qui trách nhiệm cho Đức Chúa Trời về sự chết của Giacơ và do đó đã thôi cầu nguyện.
b. Họ đã nhóm lại với nhau trong cơn hoạn nạn.
c. Họ đã tự trách mình vì không cầu nguyện tha thiết hơn nữa cho Giacơ được giải thoát và vì không có đức tin để cầu xin điều đó.
d. Họ đã cầu thay cho Phierơ nhưng họ đã sẵn sàng đón nhận bất cứ công việc nào của tay Chúa.
e. Họ mong chờ một sự can thiệp siêu nhiên mới lạ nào đó để ông được giải thoát, chẳng hạn như thiên sứ đã giải thoát tất cả các sứ đồ trong Cong Cv 5:19. Thực ra, họ đã khẩn thiết cầu xin điều nầy.
f. Sự cầu nguyện của họ dường như là cầu nguyện cho Phierơ hơn là cho sự giải thoát ông. Cũng như trong 4:23-31, chắc họ đang cầu xin được dạn dĩ hơn nữa giữa hoàn cảnh nầy, chứ không phải là cầu xin được giải thoát khỏi hoàn cảnh.
33. Khi nghĩ lại chức vụ, bạn có những sự thối lui, trở lực, mất mát lớn, hay những sầu khổ đến nỗi khiến bạn đổ thừa cho Đức Chúa Trời hay cảm thấy phạm tội vì cớ bạn đã không tin cậy Đức Chúa Trời đủ hay không?
..........
Phierơ đã không lường trước được sự kinh ngạc thú vị mà Chúa ban cho ông. Khi ra khỏi ngục rồi, ông mới thực sự tỉnh dậy, rõ ràng, ông đã chờ đợi sự chết (12:11). Khác với trước đây (5:19-21), giờ đây không còn cơ hội để giảng đạo trong đền thờ nữa. Phierơ phải ẩn mình. Ông lý luận: phải có ai đó biết được sự giải thoát ông, nên ông quyết định đi ngay đến nhà của Mari, mẹ của Giăng Mác, là một trong những địa điểm nhóm chính của hội thánh Giêrusalem.
Việc ông đi đến nhà Mari có thể giúp soi sáng cho bản chất của đoạn 2:45 và 4:34. Những gia tài điền sản mà tín đồ bán đi có thể chỉ gồm những khoản đầu tư của họ mà thôi (4:36-37; 5:1) chớ không phải là những nơi cư ngụ cá nhân.
Câu chuyện vui thú vị của Luca về sự không tin của những người đang cầu nguyện cho Phierơ đã làm nguồn an ủi cho rất nhiều nhóm người trong suốt lịch sử hội thánh. Vì thường là khi Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện, các Cơ đốc nhân đã ngạc nhiên, thậm chí còn sửng sốt trước những câu trả lời chóng vánh của Ngài!
Để sự có mặt của mình khỏi bị lộ, Phierơ đã yêu cầu mọi người yên lặng khi họ thật sự khám phá ra đó chính là ông! Sau khi kể lại những chi tiết trong sự giải thoát kỳ diệu của mình, Phierơ muốn cấp lãnh đạo hội thánh cũng biết tin nữa. Vì vậy ông đã bảo thông báo cho Giacơ và các anh em khác.
34. Xem những câu Kinh Thánh sau và tóm tắt vai trò của Giacơ trong mỗi trường hợp.
a. Mat Mt 13:55.
..........
b. ICo1Cr 15:7
..........
c. GaGl 1:19
..........
..........
e. 15:13 GaGl 2:9-12
..........
..........
g. Gia Gc 1:1
..........
Phierơ đã đột ngột rời Giêrusalem để đi đến nơi phục vụ Chúa hay nơi ẩn náu. Sau nầy, ông quay lại Giêrusalem và tham dự Giáo Hội Nghị Giêrusalem (Cong Cv 15:7-11), rồi sau đó không còn xuất hiện trong sách Côngvụ nữa.
Sự Qua Đời Của Hêrốt
12:20-23 Bruce 254-256
Mục tiêu 7. Mô tả cái chết của Hêrốt.
Hêrốt đã xây dựng nhiều tòa nhà đẹp tại thành phố mới phía bắc Tyrơ và Siđôn, mà hiện nay được gọi là Beirut. Công dân của thành Tyrơ và Siđôn, những người đã nhờ vào thiện ý của Hêrốt mà được chuyên chở bằng tàu bè những nguồn cung cấp ngũ cốc và thương mại từ "giỏ bánh mì" xứ Galilê, đã làm mích lòng Hêrốt. Như 12:1-2, 20 cho thấy, đó không phải là chuyện nhỏ nên đã khiến cho Hêrốt căm giận. Nhờ ý tốt của quan hầu vua - là Balatút - , một phái đoàn hòa bình từ Tyrơ và Siđôn đã được đến chầu Hêrốt tại căn cứ của Hêrốt ở Sêsarê.
35. Câu nào sau đây mô tả đúng nhất nguyên nhân cái chết của Hêrốt ?
a) Với lòng nhân từ, Chúa đã không báo thù Hêrốt vì đã giết Giacơ. Là một người biết tập tục tôn giáo, Hêrốt đã biết rất rõ điều răn thứ nhất (XuXh 20:3). Việc ông phạm điều răn đó đã khiến Đức Chúa Trời đoán phạt ông ngay tức khắc.
b) Chúa đã nổi giận lấy mạng Hêrốt, vì cớ cái chết thê thảm của Giacơ và những âm mưu khác nữa của Hêrốt để chống lại các tín đồ.
Ngay cả Saulơ, người đã giết các Cơ đốc nhân, cũng không bao giờ tôn mình là Đức Chúa Trời. Luca bày tỏ cho thế gian biết rằng Hêrốt, một con người nổi tiếng và rất được kính trọng giữa vòng dân Do thái, thực ra là một người có tấm lòng phi tôn giáo và phạm thượng.
Đối với đầy tớ của Đức Chúa Trời, thiên sứ của Chúa chính là người đem lại sự giải cứu (Cong Cv 12:7). Đối với người phạm thượng cùng Đức Chúa Trời, thiên sứ của Chúa chính là người đem lại sự đoán phạt (12:23).
TÓM TẮT
Mục tiêu 8. Lần theo sự tăng trưởng của hội thánh trong 15 năm đầu tiên, theo như được mô tả trong 12 đoạn đầu của sách Côngvụ.
Mục tiêu 9. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung của Côngvụ 11:19-12:25.
Nếu bạn xác định niên hiệu phục sinh của Đấng Christ là khoảng năm 30 S.C. và chuyến đi của Banaba và Saulơ từ Antiốt đến Giêrusalem đem theo tặng phẩm cứu trợ nạn đói cho các thánh đồ thành Giêrusalem là khoảng năm 44 S.C., thì gần 15 năm đã trôi qua trong lịch sử Cơ đốc.
Giờ đây chúng ta dò lại cẩn thận 12 đoạn đầu của sách Côngvụ để tìm toàn bộ bằng chứng về sự tăng trưởng của hội thánh, mô tả tiến trình tăng trưởng của hội thánh bằng cách đưa toàn bộ các sự kiện vào đúng diễn tiến thời gian khi sự tăng trưởng của hội thánh được nhắc đến.
Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, hội thánh đã tăng từ 120 môn đồ (1:15) lên đến khoảng 3120 người (2:41). Từ đó trở đi hội thánh tăng trưởng từng ngày (2:47). Sau sự chữa lành người què, con số đã tăng lên đến 5 ngàn người tính riêng đàn ông mà thôi (4:4). Có nhiều tín đồ hơn bao giờ hết - những đoàn người nam và nữ - đã được thêm vào hội thánh từ sau cái chết của Anania và Saphira và do kết quả chức vụ của các sứ đồ (5:14). Sự tăng trưởng đang tiếp tục thì nan đề của hội thánh đầu tiên đã xuất hiện (6:1), và con số tín đồ được tăng thêm rất nhiều khi nan đề đó được giải quyết (6:7). (Thực ra, sau 6:7, động từ "được nhân lên gấp bội" đã thay thế cho động từ "thêm vào"!) Sự tăng trưởng đầu tiên bên ngoài Giêrusalem đã xảy ra tại Samari khi có rất nhiều người tin Chúa (8:6, 12). Một hoạn quan người Êthiôbi (8:26-40) và Saulơ (9:1-18) là những cá nhân riêng lẻ đã được thêm vào hội thánh. Sau sự bắt bớ của Saulơ, hội thánh đã nhân lên gấp bội trong khắp cả xứ Giuđê, xứ Galilê, và Samari (9:31).
Toàn bộ dân cư vùng Sarôn và Lyđa đã quay về với Chúa khi Ênê được chữa lành (9:35). Nhiều người tin Chúa trong khắp cả thành Giốpbê khi Đôca được sống lại từ kẻ chết (9:42). Cọtnây, gia đình cùng bạn hữu của ông thảy đều tin Chúa và đã trở thành những người ngoại bang đầu tiên, mà hội thánh Giêrusalem đã công nhận sự cứu rỗi của họ (10:1-11:18). Rất nhiều người tại Antiốt đã đến với Chúa trước khi Banaba đến (11:21), và rất nhiều người đã được đem về với Chúa sau khi ông đến (11:24). Giờ đây, sau cái chết của Hêrốt, vô số các tín hữu vẫn tiếp tục tăng lên và Luca còn ghi lại rằng: "Bấy giờ đạo Đức Chúa Trời tấn tới rất nhiều, càng ngày càng tràn thêm ra" (12:24).
36. Dựa vào những câu Kinh Thánh trên, câu nào phản ánh chính xác nhất sự tăng trưởng của hội thánh trong 15 năm đầu của lịch sử hội thánh?
a) Sự tăng trưởng của hội thánh trung bình vào khoảng năm đến mười phần trăm một năm.
b) Một vài cá nhân đã được cứu, nhưng còn nhiều đoàn người vẫn chưa được nghe Tin Lành.
c) Sự phát triển của hội thánh rất năng động. Hết đoàn người nầy đến đoàn người kia đã được cứu. Nhiều lúc, hội thánh đã tăng trưởng một cách mạnh mẽ tươi mới và bất ngờ, khi hội thánh vượt thành công qua một cơn khủng hoảng.
Khi hội thánh sẵn lòng chấp nhận mức độ tăng trưởng trung bình hằng năm là năm đến mười phần trăm, thì thực ra đó chính là lúc chúng ta đang thỏa nguyện với việc không làm hết sức mình để rao báo trọn vẹn về Đấng Christ cho khu vực mà chúng ta chịu trách nhiệm, chúng ta thiếu khải tượng đã đặc trưng cho Chúa của chúng ta. Sự đông người của hội thánh giúp duy trì sức sống của hội thánh. Những cá nhân nào tin Đấng Christ thì có thể thấy mình trở nên một thành viên của phong trào đã làm đảo lộn cả thế giới.
37. Khi 12:1-25 kết thúc, Banaba và Saulơ quay về Antiốt. Dùng lời của bạn cho biết điều gì đã được thực hiện giữa 11:19 với 12:25.
..........
Bài tự trắc nghiệm
1. CÂU GHÉP CẶP. Ghép mỗi đề tài (cột bên phải) với lời mô tả (cột bên trái).
.... a Một đầy tớ tín cẩn của Hêrốt Ạcrípba I.
.... b Đã quay về Antiốt với Banaba và Saulơ khi sứ mạng của họ đến Giêrusalem được hoàn tất.
.... c Đã đánh Hêrốt vì cớ tội phạm thượng.
.... d Đã đáp ứng nhu cầu hết sức quan trọng của các anh em sống tại xứ Giuđê.
.... e Một trong những nhóm tiên tri từ Giêrusalem đến Antiốt.
.... f Một trong những địa điểm nhóm chính của các tín hữu từ hội thánh Giêrusalem.
.... g Đã trở thành vị sứ đồ đầu tiên tuận đạo.
.... h Lãnh đạo phái đoàn cứu trợ của hội thánh Antiốt đến Giêrusalem.
.... i Chịu trách nhiệm về sự an toàn của một tù nhân quan trọng.
.... j Đã chọc giận Hêrốt và lo lắng dàn hòa với vua.
.... k Đã rao giảng sứ điệp về Đức Chúa Jesus cho người Do thái mà thôi tại xứ Phênixi, Chíprơ và Antiốt.
.... l Đã từng trải sự giải thoát siêu nhiên ngay trong đêm trước khi bị xử tử.
.... m Là người đầu tiên nhìn thấy Phierơ sau khi ông được giải thoát khỏi ngục, và người nầy đã "sảng."
.... n Bắt đầu chia xẻ Đấng Christ cho người ngoại bang tại thành Antiốt, và như vậy, đã bắt đầu công tác tại đó.
.... o Được đón từ Tạtsơ đến Antiốt để cùng chăn dắt hội thánh tại Antiốt.
.... p Được hội thánh Giêrusalem chỉ định tổ chức một chuyến viếng thăm "chính thức" đến hội thánh Antiốt.
.... q Đã khẩn thiết cầu nguyện với Đức Chúa Trời cho Phierơ đang khi ông bị giam trong ngục.
.... r Đã xử tử Giacơ, bắt giam Phierơ, truyền phán tại Sêsarê, và đã bị giết một cách thình lình.
.... s Hoàng đế cai trị trong cơn đói kém lớn.
.... t Vị trưởng lão chủ tọa hội thánh Giêrusalem, và đã được Phaolô xem có địa vị ngang hàng với các sứ đồ.
1) Banaba.
2) Hêrốt Ạcrípba I.
3) Giacơ con trai Xêbêđê.
4) Dân thành Tyrơ và Siđôn.
5) Những người bị tản lạc bởi cơn bắt bớ có liên quan đến Êtiên.
6) Cơlốt.
7) Hội thánh Antiốt.
8) Phierơ.
9) Những người dân Chíprơ và Syren.
10) Banaba và Saulơ.
11) Giăng Mác.
12) Agabút.
13) Saulơ.
14) Giacơ, em của Chúa.
15) Nhà của Mari, mẹ của Mác.
16) Rôđơ.
17) Mười sáu người lính canh.
18) Hội thánh Giêrusalem.
19) Balatút.
20) Một thiên sứ của Chúa.
CÂU CHỌN LỰA. Mỗi câu hỏi chỉ có một câu trả lời đúng. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG nhất trong mỗi câu hỏi sau đây.
2. Antiốt trở thành nguyên mẫu cho chiến lược truyền giáo của Phaolô. Theo chiến lược nầy, Tin Lành
a) trước hết được đem đến cho những khu vực phụ cận để rồi từ đó nỗ lực chinh phục đến những trung tâm đô thị khó hơn.
b) trước hết được đem đến những trung tâm đô thị lớn, rồi từ đó lan truyền đến những vùng kế cận.
c) được trình bày tại những thành phố được tuyển chọn, hoặc tại những thành phố "mục tiêu" trong mỗi quốc gia, và rồi từ những trung tâm quốc gia nầy, những chiến lược truyền giảng sẽ được vạch ra bởi người địa phương.
3. Vì sao hội thánh Giêrusalem không chịu trách nhiệm trực tiếp về việc thành lập hội thánh tại Antiốt hoặc thành lập các hội thánh ngoại bang khác trong vùng Địa Trung Hải? Việc biết được nguyên nhân của điều nầy giúp chúng ta hiểu chiến lược cho sự tăng trưởng hội thánh ngày nay. Câu nào sau đây KHÔNG PHẢI là một trong những nguyên nhân?
a) Trên thế giới, dân ngoại bang đông hơn dân Do thái nhiều.
b) Người ngoại bang có thể dễ tiếp nhận Đức Chúa Jesus làm Chúa của mình hơn khi Tin Lành được tách riêng ra khỏi nếp sống của người Do thái, tức là, khỏi những phong tục nào mà không bắt buộc áp dụng cho tín đồ của Đấng Christ
c). Người Do thái có thể tiếp nhận Tin Lành cách kết quả hơn nếu Tin Lành được đem đến bởi những người Do thái đã tin Đức Chúa Jesus là Đấng Mêsia và đã cho phép tín đồ người Do thái tiếp tục giữ những phong tục Do thái nào không mâu thuẫn với đức tin Cơ đốc.
d) Người ngoại bang có thể tiếp nhận Tin Lành cách kết quả hơn nếu Tin Lành được đem đến bởi một hội thánh nào dạy rằng nếp sống của người Do thái là tốt nhất.
4. Câu nào sau đây trình bày những nhân tố hợp lý đối với sự tăng trưởng của hội thánh Antiốt?
a) Cả những nhà thần học tiên phong lẫn cấp lãnh đạo đầu tiên đều đã có tâm chí đúng đắn trong tình huống mới lạ nầy. Họ đã biết và đã quí trọng Chúa mình cũng như nền văn hóa mới của những vị chủ nhà.
b) Thành phố Antiốt "đã chín mùi" cho sự hoán cải. Thành phố có một cơ sở triết lý tốt đẹp để cho giáo lý và nếp sống đạo của hội thánh có thể xây dựng trên nền đó.
c) Đại đa số dân chúng đều là người kính sợ Đức Chúa Trời hoặc là những người Do thái mang gốc Hêlênít; do đó, công cuộc truyền giảng đã diễn tiến một cách tự nhiên tại Antiốt.
5. Câu nào sau đây KHÔNG PHẢI là một thành tựu tích cực của hội thánh Antiốt xuất phát từ lời tiên tri của Agabút?
a) Các tín đồ Antiốt đã được Đức Chúa Trời chúc phước vì họ đã sẵn lòng ban cho.
b) Đáp ứng của họ tại xứ Galilê đã khẳng định cho các Cơ đốc nhân tại Antiốt về tình yêu thương của họ đối với các thánh đồ tại thành Giêrusalem.
c) Lòng rộng rãi của người Antiốt đã khiến cho họ được xem xét công bằng tại bất cứ những buổi giáo hội nghị nào mà trong đó có sự khác biệt giữa các hội thánh dân Do thái và hội thánh dân ngoại bang.
6. Các tín hữu tại hội thánh Giêrusalem đã nhận được nhiều ích lợi nhờ vào lời tiên tri của Agabút. Họ đã
a) được khẳng định là trung thành nghiêm nhặt với luật pháp và những qui định tôn giáo của Do thái giáo. b) tràn ngập vui mừng trước biểu hiện thực tiễn của lòng yêu thương và quan tâm của các Cơ đốc nhân người ngoại bang dành cho họ, và họ cũng đã được chuẩn bị cho sự bắt đầu của cơn đói kém.
c) được đền đáp lại những nỗ lực ban đầu của mình khi giúp xây dựng một trụ sở trung tâm vững mạnh của Cơ đốc giáo tại Giêrusalem cũng như những hy sinh lớn lao của họ để thiết lập những nguyên tắc tăng trưởng hội thánh phổ thông.
7. Sứ mạng cứu trợ nạn đói của các tín đồ Antiốt đã chứng tỏ cho những người chưa tin Chúa biết điều gì?
a) Nó chứng tỏ tính đúng đắn của hệ thống quản trị hội thánh được sử dụng lúc bấy giờ: hội thánh mới được thành lập đã chịu ơn một cách thực tiễn đối với những hội thánh đã được vững lập, kỳ cựu hơn.
b) Đây là một bằng chứng thực tế cho thấy công việc của thực tại tình yêu thương Cơ đốc.
c) Nó chứng tỏ cho thế giới thấy rằng mục tiêu thực tế duy nhất của hội thánh là hành động xã hội dân sự, nhắm mục tiêu nhân đạo chứ không phải là mục tiêu chính trị.
8. Theo tài liệu hướng dẫn, câu nào sau đây KHÔNG PHẢI là trách nhiệm mà Đức Chúa Jesus giao cho mười hai sứ đồ khi Ngài sai họ đi?
a) Họ được truyền lệnh phải thiết lập hội thánh và thực hiện những cơ cấu thích hợp cho sự vận hành của hội thánh.
b) Họ được ban cho quyền phép đuổi quỉ, nghĩa đen là đuổi quỉ ra khỏi kẻ bị ám.
c) Họ đã được chỉ định để Đức Chúa Jesus có thể sai họ đi giảng đạo.
d) Họ được chọn chỉ để được ở với Ngài.
9. Câu nào dưới đây mô tả đúng nhất “nguyên nhân” cho sự chết của Giacơ và sự giải thoát Phierơ?
a) Giacơ đã chết vì ông đã bằng cách nào đó đi ra ngoài ý chỉ của Đức Chúa Trời, nhưng Phierơ được giải thoát vì cớ ông đi trong ý chỉ của Đức Chúa Trời.
b) Nhờ Giacơ chết, nên đã có một giáo sĩ vĩ đại trong lịch sử hội thánh sau nầy đã được hoán cải. Sự giải thoát Phierơ chỉ là một phương tiện để giúp hội thánh lên tinh thần.
c) Sự chết của Giacơ thực sự không phải là do nguyên nhân của con người để chúng ta có thể biết được trong đời nầy. Thực ra đó chính là sự cất nhắc Giacơ. Sự giải cứu Phierơ chính là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Jesus đã không bỏ những kẻ thuộc về Ngài.
10. Phierơ đã có thể ngủ ngon ngay trong đêm trước khi bị xử tử vì cớ toàn bộ những nguyên nhân sau đây - ngoại trừ một câu. Khoanh tròn câu nào KHÔNG PHẢI là nguyên nhân.
a) Là một nhân vật kỳ cựu trong sự hầu việc Chúa, ông đã giao phó những nan đề của mình cho Chúa rồi đi ngủ.
b) Ông biết có thể là ông được giải thoát bởi quyết định ngược lại của con người, nhưng đó không phải là một quyết định mà ông có thể tạo ra, vì thế ông chỉ việc ngủ thôi.
c) Ông ý thức rằng thiên sứ có thể giải thoát ông, như trước đây, nếu Chúa muốn. Nhưng đó cũng là điều ông không thể tác động đến,vì thế ông đi ngủ.
d) Ông đang bày tỏ tinh thần thụ động, thuyết định mệnh khiến ông không còn gì để lý luận nữa; vì thế, giấc ngủ của ông là lối thoát khỏi sự lo lắng.
e) Ông biết mình đã được chọn để ở với Chúa. Ông kết luận: Nếu đây chính là nơi và lúc của bước đi vĩnh viễn nầy, thì đây chính là điều tốt hơn nhiều. Ông đã yên nghỉ tuyệt vời với những ý tưởng như vậy.
11. Sự tấn công vào các sứ đồ lãnh đạo của hội thánh Giêrusalem dường như đã góp phần để
a) dấy lên những người lãnh đạo tài năng trong số tín hữu không thuộc hàng ngũ sứ đồ tại hội thánh Giêrusalem.
b) sự thiếu sót chức vụ truyền giảng Tin Lành trong xứ Giuđê và làm giảm sự tăng trưởng tại khu vực nầy.
c) sự nhận thức rằng điểm nhấn mạnh trong chức vụ giờ đây phải hướng khỏi Giêrusalem, vì cớ Giêrusalem đã trở thành một cánh đồng không chịu đáp ứng.
GIẢI ĐÁP
1. b) Chỉ cho người Do thái mà thôi.
2. Câu trả lời của bạn. Tôi nghĩ bạn sẽ đồng ý rằng hội thánh đầu tiên không hiểu được bản chất phổ thông của Đại Mạng Lịnh. Cơ đốc nhân thời bấy giờ đã mắc phải chứng "cận thị" thuộc linh, tức là, họ thiển cận và không nhìn thấy trước hoặc không phân biệt được phạm vi mục đích cứu chuộc của Đấng Christ.
3. b) Những người đi từ đảo Chíprơ và Syren (Bắc Phi).
4. c) Sứ điệp Tin Lành được rao giảng cho người Gờréc.
5. b) Sứ điệp vẫn không thay đổi, nhưng phương pháp thì thay đổi. Học ngôn ngữ của những người mà bạn muốn đến với họ.
6 Tất cả đều là những phương tiện để người ta truyền đạt thông tin. Ví dụ, những biệt ngữ chuyên môn có thể được sử dụng bởi một cộng đồng có học vấn. "Ngôn ngữ" được dùng để đến với họ sẽ khác đi nhiều so với lối tiếp cận thành phần dân chúng kém học thức hơn.
7. b) Dùng những hình thức âm nhạc nào hấp dẫn với giới trẻ và đồng thời không vi phạm đến sự dạy dỗ rõ ràng của Kinh Thánh.
8.
d) Rao giảng Tin Lành một cách rõ ràng và mạnh mẽ. (Quả là một thảm kịch khi hội thánh giống câu a), hoặc b), hoặc c) khi nằm trong một địa điểm mang bối cảnh đại học. Những hội thánh như thế dứt khoát sẽ không thể đến được với cộng đồng đại học: không phải vì cớ người ta khép lòng mình lại với sứ điệp Tin Lành, mà vì cớ hội thánh sử dụng một "ngôn ngữ" không truyền đạt được thông tin.)
9. b) Truyền đạt Tin Lành cho họ bằng những lời lẽ mà họ có thể hiểu rõ ràng.
10. c) Tín đồ nên tập trung đem Tin Lành đến cho những trung tâm dân cư lớn, nhưng đừng xao lãng việc đem Tin Lành đến cho những thành phố nhỏ và vùng nông thôn.
11.
a. Tín đồ trong cả hai hội thánh đều tin Chúa.
b. Cả hai đều là những hội thánh đang tăng trưởng.
c. Hội thánh Antiốt đã tỏ lòng quan tâm đến những người thiếu thốn, cũng như chính hội thánh Giêrusalem đã làm vậy.
12.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Sai.
e. Đúng.
f. Đúng.
13.
a. Tín đồ được người Antiốt gọi là Cơ đốc nhân (Cơrêtiên). Tiếp vĩ ngữ của tên gọi nầy biểu thị ý nghĩa "thuộc về." Cộng đồng tín hữu tại Antiốt đông đến nỗi đã có một tên gọi được đặt ra cho cộng đồng tín hữu tại đó. Thay vì diễn tả thái độ tiêu cực đối với các tín hữu, từ ngữ nầy đã được người ngoại đạo tại Antiốt dùng chỉ đơn giản là để mô tả thôi.
b. Hêrốt Ạcrípba đã nhận định rằng Phaolô hy vọng khiến ông trở nên một Cơ đốc nhân.
c. Phierơ cho thấy rằng nhiều người chịu bắt bớ chỉ vì cớ họ là Cơ đốc nhân.
14.
a. Ông cũng đã đến từ Chíprơ và là một người Do thái. Việc làm chứng cho người Do thái và người Gờréc tại Antiốt đã được khởi xướng bởi những người đến từ đảo Chíprơ.Vì thế, Banaba có những phẩm chất tự nhiên độc đáo nhờ vào địa danh lẫn dòng dõi của ông.
b. Banaba là một người hào phóng, và được các tín đồ gọi là “con trai của sự yên ủi."
c. Trước đó, Banaba đã tỏ ra sẵn lòng tin nơi điều tốt đẹp nhất về một con người. Chính vì thái độ rộng lượng nầy mà ông đã giới thiệu Saulơ cho cấp lãnh đạo của hội thánh Giêrusalem.
15.
a. Ông đã thấy ân điển của Đức Chúa Trời. Người khác có lẽ chỉ nhìn thấy những nan đề thần học mà thôi (11:23).
b. Ông đã vui mừng. Người khác hẳn đã chỉ trích (11:23).
c. Ông đã khuyên mọi người cứ vững lòng tin theo Chúa. Người khác hẳn đã gán ách nặng nề của tinh thần duy luật pháp lên các tân tín hữu.
d. Ông đã đón Saulơ về. Banaba đã đi lên phía tây bắc 125 dặm đến Tạtsơ để tìm Saulơ tại đó. Banaba đã có sự khôn ngoan và tinh thần hạ mình khi biết ông không có khả năng để một mình chăn dắt hội thánh Antiốt. Cần phải có một giáo sư giỏi hơn, và không ai có bối cảnh, tài năng và tính khí đủ tư cách hơn là Saulơ được.
16.
b) Ông là một người mạnh mẽ.
d) Banaba tin vào chức vụ đồng đội.
17.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Sai.
e. Đúng.
18. Câu trả lời của bạn. Tôi nghĩ tất cả những yếu tố nầy đều có thể xem là quan trọng.
19.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
20.
a. Sai.
b. Đúng.
21.
a. Đúng.
b. Sai.
22.
a. Sai.
b. Đúng.
23.
a. Đúng.
b. Sai.
24. Những câu trả lời của bạn hẳn đã có những phần sau đây: 1) Các tín hữu tại Antiốt đã được phước vì cớ họ đã ban cho (Cong Cv 20:35). 2) Món quà của họ khẳng định với những Cơ đốc nhân ở Antiốt rằng họ yêu thương các thánh đồ ở thành Giêrusalem biết dường nào! 3) Rõ ràng các thánh đồ ở thành Giêrusalem đã tràn ngập vui mừng bởi món quà bất ngờ của các Cơ đốc nhân dân ngoại bang tại Antiốt. Món quà của họ đã trở thành một phương tiện để Đức Thánh Linh củng cố mối quan hệ hiệp một và yêu thương giữa các hội thánh. 4) Các thánh đồ tại Giêrusalem được chúc phước một cách thực tiễn ở chỗ họ hiện được giúp đỡ trong giờ phút đói kém. 5) Sự rộng rãi của các Cơ đốc nhân tại Antiốt là một bằng chứng thực tế cho thế gian nhìn thấy thực tại về tình yêu thương Cơ đốc.
25. Với ngoại lệ là danh sách mười một sứ đồ trong Côngvụ 1:13, chúng ta không thấy Giacơ được nhắc đến chỗ nào khác nữa.
26. Ba trọng trách nầy là họ có thể ở với Ngài, Ngài có thể sai họ ra đi giảng đạo, và có quyền phép đuổi quỷ). Trên thiên đàng, không cần phải giảng đạo cũng không cần quyền phép đuổi quỷ. Nhưng "ở với Ngài” là một sự kêu gọi đời đời, có ích cho đời nầy và đời sau nữa.
27. Giacơ đã uống chén nầy bằng cách trở thành người đầu tiên chết đi trong số các sứ đồ - ngoại trừ Giuđa. Giăng đã uống chén nầy bằng cách sống lâu hơn mọi sứ đồ khác. Một người đã làm vinh hiển danh Đấng Christ qua sự chết của mình ngay trong thời kỳ đầu của hội thánh, người kia làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời qua một đời sống trường thọ để hầu việc Đấng Christ và hội thánh Ngài.
28. d) Chúng ta không biết được nguyên nhân vì sao Chúa cho phép Giacơ bị giết.
29. Câu trả lời của bạn. Tôi thấy Chúa đứng dậy để nghinh đón ông như Ngài đã nghênh đón Êtiên vậy (7:56). Tôi cũng thấy Chúa ban cho ông một chỗ ngồi nổi bật, mà Giacơ đã cầu xin trong sự thiếu chín chắn ngày trước. Tôi tin sự chết của Giacơ đối với ông là một từng trải kỳ diệu, cũng như sẽ là từng trải kỳ diệu của bạn và tôi, vì Đức Chúa Jesus sẽ có mặt tại đó để gặp chúng ta (GiGa 14:1-3).
30. b) Phierơ đã vào tù hai lần rồi.
31. Há không phải là điều lạ lùng khi những lời sau đây là ra từ Phierơ sao? "Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em (IPhi 1Pr 5:7)."
32.
a. Sai. (Một trong những cám dỗ lớn nhất mà tín đồ đối diện khi có sự trở mặt hay sự chết của người thân ấy là đổ thừa cho Đức Chúa Trời. Một hành động như thế là chìa khóa chắc chắn cho thất bại thuộc linh.)
b. Đúng. (Chúng ta cần sự hiện diện của các tín đồ khác khi chúng ta đang ở trong nghịch cảnh.)
c. Sai. (Sự chết của Giacơ không hề khiến cho hội thánh bị thất bại. Ma quỉ sẽ cố đánh bại bằng cách lợi dụng sự tự đổ thừa cho bản thân hay bằng mặc cảm phạm tội mà tự mình gán cho mình.)
d. Đúng.
e. Sai. (Luca không hề cho thấy họ đang cầu nguyện cụ thể là xin cho Phierơ được giải thoát. Trái lại, họ đang cầu nguyện xin Chúa nâng đỡ cho người.)
f. Đúng.
33. Câu trả lời của bạn. Nên nhớ Đức Chúa Jesus phán với bạn như là những người em trai, em gái yêu dấu của Ngài: “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng” (Mat Mt 11:28-30).
34. a. Giacơ là em của Đức Chúa Jesus, và từ thứ tự mà tên ông được nêu ra, thì dường như ông là người em kế tiếp ngay sau Chúa Jesus.
b. Một trong những sự hiện ra sau phục sinh của Đấng Christ là hiện ra cho Giacơ.
c. Giacơ, em của Chúa, đã có một địa vị nổi bật trong hội thánh Giêrusalem trong vòng ba năm, hoặc ít hơn, sau sự hoán cải của Phaolô, và Phaolô đã xem ông có địa vị ngang hàng với các sứ đồ.
d. Giacơ hiện là vị trưởng lão lãnh đạo tại hội thánh Giêrusalem. Sự bỏ qua không nhắc đến các sứ đồ cho thấy tất cả các sứ đồ đã lìa khỏi thành Giêrusalem.
e. Côngvụ 15 cho thấy Giacơ là người chủ tọa tại Giáo Hội Nghị Giêrusalem. Chính Phaolô đã nhắc lại buổi gặp mặt với Giacơ và sự kiện những người do Giacơ phái đi đã là nguồn gốc cho tinh thần duy luật pháp Do thái tại Antiốt.
f. Giacơ vẫn là lãnh tụ của hội thánh Giêrusalem, khoảng 15 năm sau những sự kiện được mô tả trong Cong Cv 12:1-25.
g. Bức thơ do Giacơ viết, để nhấn mạnh đến ứng dụng “thực tiễn” của Tin Lành, có những lời chào thăm: "Giacơ, tôi tớ Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jesus Christ." Trong thơ nầy, Giacơ không hề nhắc đến quan hệ ruột thịt với Đức Chúa Jesus. Đức Chúa Jesus còn trổi hơn là một người anh em. Ngài là Chúa.
35. a) Với lòng nhân từ, Chúa đã không báo thù Hêrốt vì đã giết Giacơ.
36.
c) Sự tăng trưởng của hội thánh rất năng động.
37. Câu trả lời của bạn. Tôi đã ghi ra những thành tựu sau đây: hội thánh Antiốt được thành lập. Banaba và Saulơ trở thành lãnh đạo của hội thánh nầy. Cơn đói kém được nói tiên tri về hội thánh Giêrusalem đã thôi thúc hội thánh Antiốt giúp đỡ về tài chánh cho hội thánh Giêrusalem. Giacơ, anh của Giăng, bị Hêrốt giết. Phierơ kinh nghiệm sự giải thoát khỏi ngục một cách kỳ diệu. Hêrốt chết vì đã phạm thượng với Đức Chúa Trời. Hội Thánh vẫn tiếp tục tăng trưởng.