Công Vụ Các Sứ Đồ
Tác giả: George O. Wood
(Tiếp Theo)
PHẦN 4
Hành Trình Truyền Giáo Thứ Nhất
Trong Phần trước, chúng ta đã xem xét sự bành trướng của hội thánh từ trụ sở Giêrusalem đến thành Sêsarê gần đó, rồi đến Antiốt. Chúng ta thấy thành kiến lúc đầu của các lãnh đạo hội thánh Cơ đốc đã dần dần bị loại bỏ đến khi họ thấu hiểu được bản chất phổ thông của sứ điệp Tin Lành, và đảm nhận trách nhiệm vốn có trong Đại Mạng Lịnh. Giờ đây, chúng ta đi tiếp qua những sự kiện sôi động trong chuyến truyền giáo đầu tiên cho dân ngoại bang.
Từ đầu chuyến truyền giáo nầy, động lực của công tác truyền giảng được thể hiện rõ là của Đức Chúa Trời: Đức Chúa Trời đang biệt riêng những kẻ hầu việc Ngài, Ngài đang ban cho họ cũng như hội thánh mẫu hội một mạng lịnh và một khải tượng, và Ngài đang truyền lệnh cho hội thánh phải sai các giáo sĩ ra đi với toàn bộ trách nhiệm được hàm ý trong công tác nầy. Sứ mạng nầy thể hiện những nguyên tắc truyền giáo rất cơ bản góp phần vào sự thành công chung của sứ mạng. Và sứ mạng nầy thể hiện tinh thần can đảm và kiên trì vốn đặc trưng cho những nhà truyền giáo. Với những yếu tố trên - sự kêu gọi và khải tượng thiên thượng, sự ban quyền năng của Đức Thánh Linh và lòng tận tụy của những con người ra đi - thì sự thành công là một điều được bảo đảm chắc chắn. Bởi vì Thầy của họ đã hứa: Ta sẽ lập Hội Thánh ta..., các cửa âm phủ chẳng thắng được hội đó (Mat Mt 16:18).
Tuy thời điểm đã thay đổi nhưng bí quyết thành công trong công việc của Đức Chúa Trời về cơ bản vẫn như nhau. Đa số những chiến lược mà bạn thấy Phaolô và Banaba sử dụng trong bài học nầy sẽ vẫn giữ nguyên hiệu quả của chúng khi bạn áp dụng vào chức vụ của bạn. Bạn sẽ thấy "sự kêu gọi" đã đến đang khi họ thờ phượng và kiêng ăn. Bạn cũng sẽ thấy chỉ sau bài thể dục thuộc linh nầy, thì sứ mạng truyền giáo mới được bắt đầu. Khi bạn áp dụng những nguyên tắc thuộc linh bất diệt cho công tác chuẩn bị, thì hiển nhiên bạn sẽ thấy những kết quả đáng ngạc nhiên trong đời sống và chức vụ của bạn. Nên nhớ rằng: Đức Chúa Trời không kêu gọi những con người đủ tiêu chuẩn và tư cách, nhưng Ngài làm cho những kẻ được kêu gọi trở nên đủ tư cách.
Dàn bài
Banaba Và Phaolô Khởi Hành
Chức Vụ Tại Chíprơ
Giăng Mác Lìa Đoàn
Bài Giảng Được Ghi Lại Đầu Tiên Của Phaolô
Những Ứng Dụng Rút Ra Từ Chức Vụ Tại Galati
Quay Về Antiốt Xứ Syri
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Thảo luận sự hình thành hàng ngũ lãnh đạo của hội thánh Antiốt dựa vào 13:1-3, giải thích mối liên hệ của những lãnh tụ với sự khởi xướng và trách nhiệm khai mạc hành trình truyền giáo đầu tiên.
Nêu ra ít nhất năm thành phần trong chiến lược truyền giáo của Phaolô và Banaba theo như 13:1-12, và giải thích ý nghĩa của mỗi thành phần.
So sánh và đối chiếu bài giảng của Phaolô trong 13:1-51 với những bài giảng của Phierơ tại Lễ Ngũ Tuần và của Êtiên trước Tòa Công Luận, nêu ra hai đặc trưng quan trọng của toàn bộ công tác giảng đạo để khiến nó đem lại một đáp ứng.
Kể ra ít nhất bốn nguyên tắc được minh họa bởi Phaolô và Banaba trong chức vụ của họ tại Nam Galati, theo 13:51-14:23, thể hiện những đáp ứng của Cơ đốc nhân đối với nghịch cảnh và điều ích lợi mà Đức Chúa Trời đem lại qua nghịch cảnh.
Sinh hoạt học tập
1. Nghiên cứu 13:1-14:28. Bạn sẽ thấy phần bài đọc nầy rất hữu ích nếu bạn chịu khó đọc hai hoặc ba lần.
2. Khi đọc sách giáo khoa của Bruce, đừng quên đọc phần chú thích cuối trang. Những phần chú thích nầy hết sức quan trọng cho kiến thức của bạn về những quan điểm thay thế, mà tác giả xem là quan trọng.
3. Tra ý nghĩa của những từ vựng nào bạn chưa biết.
4. Làm những bài tập trong phần khai triển bài học, xem sách giáo khoa, Kinh Thánh, tài liệu hướng dẫn khi cần thiết. Kiểm tra câu trả lời của bạn với phần giải đáp đã cho.
5. Làm bài tự trắc nghiệm ở cuối bài học, kiểm bài làm của bạn cẩn thận. Xem lại bất cứ mục nào mà bạn làm sai.
Từ vựng
tôn làm thần deify
toàn thể en masse
rõ ràng chính xác incisive
tính bản xứ indigenous
không thể thiếu indispensable
thâm nhập infiltration
tranh cạnh trong chức vụ ministerial competition
tái diễn recurred
dễ mắc phải susceptible
chuyển biến transition
Khai triển bài học
BANABA VÀ PHAOLÔ KHỞI HÀNH
13:1-3 Bruce 259-261
Mục tiêu 1. Mô tả việc biệt riêng Banaba và Saulơ cho công tác mà họ đã được kêu gọi.
Mục tiêu 2. Xác định những vị lãnh đạo của hội thánh Antiốt và cho biết ý nghĩa của mỗi người trong chương trình toàn diện của hội thánh.
13:1-52 bắt đầu với niên lịch vào khoảng năm 46 S.C. Giữa 1:1-26; 12:1-26, một khoảng thời gian khoảng 15 năm đã trôi qua. Trong 13 năm tiếp theo, 13:1-20:38 ghi lại sự thành lập các hội thánh tại những thành phố và những vùng Lamã sau đây: Antiốt xứ Bisiđi, Ycôni, Líttrơ, Đẹtbơ trong xứ Galati; Philíp, Têsalônica, và Bêrê trong xứ Maxêđoan; Athên và Côrinhtô trong xứ Achai; và Êphêsô trong vùng Tiểu Á.
Đương nhiên, còn nhiều hội thánh khác nữa đã được thành lập chứ không phải chỉ có chừng nầy hội thánh mà thôi (ví dụ như hội thánh tại Rôma, mà chúng ta không biết được nguồn gốc), nhưng những hội thánh được kể tên trên đây đã là kết quả trực tiếp do công khó truyền giáo của Phaolô.
Sự tăng trưởng của hội thánh giữa khoảng 46 S.C. và 55 S.C. còn đáng kinh ngạc hơn sự tăng trưởng giữa khoảng 30 S.C. đến 45 S.C.
1. Trong Côngvụ 1-12, những hạt giống được gieo ra đã khiến cho có thể thực hiện sự truyền giảng sâu rộng về mặt địa lý của 13:1-20:38. Những yếu tố nào sau đây sẽ tỏ ra là những phát triển quan trọng khiến cho những chuyến truyền giáo của Phaolô được kết quả ?
a) Sự bắt bớ của Saulơ đã bắt đầu làm các tín đồ tản lạc đến những lãnh thổ mới.
b) Sự cứu rỗi của Saulơ.
c) Sự cứu rỗi của Cọtnây, gia đình cùng bè bạn của ông.
d) Sự thành lập hội thánh tại Antiốt.
e) Chức vụ của Banaba.
Hội thánh phải nhận ra rằng Tin Lành được dành cho những con người thuộc về những nền văn hóa khác. Do đó những phát triển sơ bộ, như là sự bắt bớ của Saulơ, đã đưa tín đồ đến những lãnh thổ mới và khởi sự công tác làm chứng rộng lớn hơn theo như Chúa Jesus đã dự định (1:8). Và bước đột phá với người ngoại bang tại Sêsarê, đã được tiếp nhận với dấu hiệu chấp thuận của Đức Chúa Trời, đã mở mang tâm trí của những tín đồ táo bạo trước những khả năng hữu hạn vốn có cho công tác truyền giảng Tin Lành. Sự hoán cải của Saulơ, chức vụ của Banaba, và sự thành lập hội thánh Antiốt thảy đều là những sự phát triển sơ bộ và thiết yếu, tạo cơ hội cho những chuyến truyền giáo của Phaolô.
Năm người gánh trách nhiệm lãnh đạo tại hội thánh Antiốt đang phát triển mạnh mẽ nầy. Khi Chúa sắp thực hiện một công việc mới, Ngài thường dấy lên những người lãnh đạo mới để thực hiện công tác đó. Vì thế, danh sách trong 13:1 khác với danh sách 1:13. Năm lãnh đạo nầy đã thực hiện chức vụ giảng dạy lời Chúa, nói tiên tri, và dạy dỗ. Chức vụ thứ nhì nầy rõ ràng liên hệ đến sự chỉ dạy có hệ thống trong đức tin Cơ đốc, trong khi chức vụ thứ nhất thiên về bản chất khuyên bảo, khích lệ, hay sự ứng dụng chính xác lẽ thật thiên thượng vào một tình huống nhất định.
2. Nêu tên năm tiên tri và giáo sư tại Antiốt được đề cập đến trong 13:1 và nêu ra những lời mô tả về bản thân họ trong Kinh Thánh.
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
e ..........
Năm vị lãnh đạo của hội thánh Antiốt thật sự là những con người đáng chú ý. Banaba đã được hội thánh Giêrusalem sai đến với tư cách một quan sát viên chính thức. Ông đã giữ một chức vụ đa dạng trong hội thánh để củng cố những thành tựu ban đầu. Simêôn, còn gọi là Nigiê, có lẽ đã vác thập tự giá của Đấng Christ (Mac Mc 15:21). Như Bruce đã nhận định (trang 260), tên Nigiê có lẽ biểu thị màu da đen của ông. Có lẽ ông là người lãnh đạo da đen đầu tiên trong hội thánh. Lusiút người Syren, có lẽ là một trong những nhà tiên phong đã giảng đạo trước tiên cho dân ngoại bang tại Antiốt (Cong Cv 11:20). Manahem, người được nêu tên thứ tư, đã được đồng dưỡng dục với vua chư hầu Hêrốt. Tuy nhiên, lời mô tả thực sự về Manahem ấy là anh em kết nghĩa của vua Hêrốt, từ ngữ nầy đã được sử dụng một cách rộng rãi để chỉ về những người trai trẻ nào đã từng đến học chung trường với những người trong hoàng tộc như là Hêrốt vậy. Hêrốt được nói đến ở đây chính là Hêrốt Antiba, kẻ đã giết Giăng và xử án Đức Chúa Jesus. Bối cảnh của Manahem dẫn đến một kết luận hợp lý là ông xuất thân từ tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Và cuối cùng, Saulơ đã nổi bật như là một nhân vật đầy đủ tư cách bởi tính khí,thiên hướng và ân điển của Đấng Christ, để có thể đi đến với từng tầng lớp tín đồ trong hội thánh cũng như từng tầng lớp dân chúng trong thế giới bên ngoài của người Lamã, Hylạp, và Do thái.
Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG nhất trong mỗi câu hỏi sau đây.
3.
a. Năm lãnh đạo của hội thánh Antiốt đã dành toàn bộ thời gian của họ để thi hành chức vụ cho người khác. Vì vậy, những nguồn cung ứng thuộc linh của họ đã cạn dần, và họ không còn thời gian để dành cho nhau nữa.
b. Hội thánh ở Antiốt đã tăng trưởng một cách năng động, nhưng những người lãnh đạo đã không bị chức vụ chăm sóc cho người khác thu hút hoàn toàn đến nỗi họ phải xao lãng chức vụ đối với Chúa và sự tương giao tâm linh với nhau.
Người lãnh đạo nào lãnh trách nhiệm ngày càng nhiều thì đối diện với sự cám dỗ là bỏ bê thời gian ở với Chúa càng tăng. Trong nỗ lực chăm sóc cho người khác, người nầy cũng có thể vô tình bỏ bê thời gian tương giao và được tươi mới tâm linh với những đồng nghiệp thân thiết nhất của mình. Đây là một nan đề rất thực tế, nên người thi hành chức vụ không những phải quan tâm đến chức vụ của mình, mà còn phải quan tâm đến sinh hoạt dưỡng linh của mình; điều đó chính là nguồn gốc cho năng quyền thuộc linh của người phục vụ Chúa. Sự thông công với các bạn đồng lao giúp tâm linh được tươi mới và có một tầm nhìn mới, cũng như cơ hội để "đi tẻ ra... nghỉ ngơi một chút," như Chúa đã bảo các môn đồ vậy (Mac Mc 6:31).
4.
a. Những lãnh đạo của hội thánh Antiốt đã chia rẽ với nhau. Mỗi người đều cố gắng để xem thử mình có xây dựng một hội thánh lớn hơn hội thánh của những người kia hay không. Họ không có thời gian cũng như không muốn ở chung với những bạn đồng lao của mình.
b. Sự hiệp một là đặc trưng của cấp lãnh đạo tại hội thánh Antiốt. Hết thảy đều ra đi để xây dựng nước Đức Chúa Trời, không ai xây dựng vương quốc cho riêng mình cả.
Sự tranh đua trong chức vụ chỉ xảy ra trong những người nào mà lòng tận tâm của họ đối với Chúa xuất phát từ những động cơ ích kỷ (Phi Pl 1:15, 17). Tôi cảm thấy về phần con người, có một nguyên nhân chủ yếu khiến hội thánh trong sách Côngvụ được tăng trưởng ấy là các lãnh đạo xem mình như những thành viên trong một đội ngũ liên kết chặt chẽ với nhau. Sự hiệp một mà họ kinh nghiệm đã được duy trì mãi mãi trong toàn bộ hội thánh. Cấp lãnh đạo chia rẽ chỉ đem lại một hội thánh chia rẽ.
5.
a. Đang khi những lãnh đạo của hội thánh Antiốt nhóm lại không nhằm mục đích nào khác hơn là thờ phượng Chúa và kiêng ăn, thì Đức Thánh Linh (có lẽ thông qua việc nói tiên tri, như trong Cong Cv 11:28) đã phán dặn họ sai Banaba và Saulơ vào một chức vụ ở nơi khác.
b. Các lãnh đạo của hội thánh Antiốt đã mong truyền giảng Tin Lành cho thế giới, do đó họ đã kêu gọi một hội đồng ở giữa họ lập kế hoạch cho chuyến truyền giáo đầu tiên.
Hết lần nầy đến lần khác người ta đã sử dụng chiến lược của câu b . Thường thường, hội thánh hay bị cám dỗ là thiếu cầu nguyện cho các hội đồng. Bất cứ khi nào chúng ta thật sự tập trung chú ý đến Chúa, thì Chúa sẽ chỉ dạy chúng ta chú ý đến trọng điểm của Ngài, là sự cứu rỗi cho những kẻ hư mất. Hội thánh Antiốt đã cầu nguyện và Chúa đã ban cho họ những kế hoạch. Chúng ta đừng đảo ngược thứ tự nầy!
6.
a. Khi những lãnh đạo được chọn ra cho chuyến truyền giáo đầu tiên, cấp lãnh đạo hội thánh Antiốt đã quyết định phái hai người mà hội thánh Antiốt không thực sự cần đến, và họ đã sung sướng vì đã tìm ra một chỗ khác cho hai người nầy thi hành chức vụ.
b. Những lãnh đạo hội thánh Antiốt đã tuyển chọn hai nhân vật nồng cốt và không thể thiếu từ giữa họ, vì Đức Thánh Linh đã dặn họ làm như vậy.
Việc đem Tin Lành đến cho vùng đất mới đòi hỏi hội thánh phải sai phái những nhân vật tốt nhất của mình ra đi. Hội thánh Antiốt đã không ích kỷ và đem những người hữu dụng nhất cho sự phát triển của hội thánh dâng vào công cuộc truyền giáo (11:24-26).
Những lời phán của Đức Thánh Linh đã truyền hội thánh phải: để riêng Banaba và Saulơ đặng làm công việc ta đã gọi làm." Chúng ta không biết về sự kêu gọi Banaba, nhưng chúng ta có biết sự kêu gọi Phaolô.
7. Tóm tắt ý của những câu Kinh Thánh sau về sự kêu gọi Phaolô: 9:15-16; 22:10-15, 21; 26:16-18.
..........
Nếu sự hoán cải của Saulơ diễn ra vào khoảng năm 34 S.C. và chuyến truyền giáo đầu tiên khởi sự vào năm 46-47 S.C., thì khoảng 12 năm đã trôi qua giữa lúc sự kêu gọi Phaolô và lúc hội thánh Antiốt biệt riêng ông ra.
8. Bạn cảm thấy câu nào sau đây phản ánh đúng hơn mối tương quan giữa sự kêu gọi Phaolô lúc đầu của Đức Chúa Trời với sự biệt riêng ông cho công tác mà ông đã được kêu gọi?
a) Saulơ đã phí phạm 12 năm bước đi ngoài ý chỉ của Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời đã gọi ông để biệt riêng ông cho chức vụ truyền giáo, thì đáng ra ông phải ra đi ngay tức khắc.
b) Ba yếu tố cơ bản phải được liên kết chặt chẽ với nhau để cho ý chỉ của Đức Chúa Trời được thực hiện ấy là: 1) Chính ý chỉ của Ngài , 2) thời điểm Ngài chọn để thực hiện ý chỉ của Ngài, và 3) phương cách Ngài chọn để thực hiện ý chỉ.
Có thể một người biết được ý chỉ của Đức Chúa Trời dành cho đời sống mình, tuy nhiên, có lẽ phải mất một khoảng thời gian trôi qua giữa sự nhận biết với sự ứng nghiệm ý chỉ của Đức Chúa Trời. Sự chờ đợi 12 năm đã tỏ ra quan trọng cho sự huấn luyện và chuẩn bị tâm linh của Phaolô cho những năm tháng trước mặt. Đường lối của Đức Chúa Trời là ông phải đi ra với sự hậu thuẫn, khải tượng, và sự nâng đỡ trong tinh thần cầu nguyện của hội thánh Antiốt, một hội thánh mà lúc Saulơ hoán cải, nó vẫn chưa có mặt!
9. Có bao giờ Đức Chúa Trời bày tỏ cho bạn biết ý muốn của Ngài, nhưng bạn vẫn chưa thể thực hiện ý chỉ Ngài mãi cho đến khi Ngài cung cấp đường lối và thời điểm về sau nầy hay không?
..........
Năm lên mười tuổi, tôi biết ý muốn Đức Chúa Trời cho tôi là trở thành một người truyền đạo. Tuy nhiên, những năm tháng đào tạo vẫn còn ở phía trước mãi cho đến thời điểm mà ý chỉ của Đức Chúa Trời muốn tôi truyền đạo được trọn. Trong những năm chờ đợi, Đức Chúa Trời đã phát triển những phẩm chất Ngài biết tôi sẽ cần để thi hành chức vụ cho những người mà Ngài gọi tôi đến. Vì thế, Không những Ngài ban cho tôi ý chỉ Ngài, mà còn xác định thế nào (phương pháp) và khi nào (thời điểm) ý chỉ của Ngài sẽ được trọn.
10. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG nhất trong câu hỏi sau đây.
a. Cấp lãnh đạo đã chỉ định Banaba và Saulơ cho công tác truyền giáo. Quyết định của họ không căn cứ vào việc liệu Banaba và Saulơ đã có sự kêu gọi cá nhân để bước vào công tác đó hay không.
b. Cấp lãnh đạo chỉ khẳng định sự kêu gọi mà Đức Chúa Trời đã trao cho Banaba và Saulơ. (Bản đồ)
MAXÊĐOAN
TRAXƠ
Philíp
Nêapôli
Amphibôlit
Abôlôni
Têsalônica
Bêrê
Trôách
Asốt
Athên
ACHAI
Côrinhtô
BIỂN ĐEN
BÔNG
BITHINI
Dorylaeum
CÁPBAĐỐC
Asốt
ASI
Êphêsô
Milê
BIỂN AEGEAN
GALATI
Antiốt
Ycôni
Đẹtbơ
Bẹtgiê
BAMPHILY
Áttali
LYCAONI
Batara
SILISI
Tạtsơ
Sêlơsi
Antiốt
CHÍPRƠ
Baphô
Siđôn
Tyrơ
Bêtôlêma
Giêrusalem
ÊDÍPTÔ
LYBI
BIỂN ĐỊA TRUNG HẢI
HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO THỨ NHẤT CỦA PHAOLÔ
Như Bruce cho thấy (trang 261), việc đặt tay của bậc lãnh đạo không truyền cho Banaba và Saulơ bất cứ một ân tứ hay sự kêu gọi thuộc linh nào mà trước đó họ đã chưa có. Trái lại, việc đặt tay đại diện cho sự nhất trí của họ đối với sự kêu gọi của Banaba và Saulơ.
Bức tranh đẹp đẽ về sự kiêng ăn trong Cựu Ước chính là bức tranh về Anne (ISa1Sm 1:5-8). Sự son sẻ của bà đã dẫn bà đến sự kiêng ăn. Kết quả sự kiêng ăn cầu nguyện của bà là Samuên, là tiên tri đầu tiên và có lẽ là một trong những tiên tri vĩ đại nhất của Ysơraên. Nếu một thánh đồ Cựu Ước kiêng ăn hầu cho mình có thể sanh con; thì để cho nhiều con cái thuộc linh được sanh ra cho gia đình của Đức Chúa Trời, các thánh đồ Tân Ước lại càng phải kiêng ăn nhiều hơn biết dường nào!
Sự kiêng ăn của các lãnh đạo tại Antiốt (Cong Cv 13:2) đã khiến họ nhạy bén cao độ trước sự dẫn dắt của Chúa. Sự kiêng ăn sau đó của họ cho chức vụ sắp đến của Banaba và Saulơ (13:3) đánh dấu sự sốt sắng cầu thay của họ với Đức Chúa Trời
Mục tiêu 3. Thảo luận tầm quan trọng của sự cầu nguyện trong sinh hoạt của hội thánh đầu tiên nói chung và trong sinh hoạt của hội thánh Antiốt nói riêng.
11. Tóm tắt điều mà mỗi câu Kinh Thánh sau đây cho chúng ta biết về tầm quan trọng của sự cầu nguyện trong hội thánh đầu tiên.
a. 1:14
..........
b. 1:24-26)
..........
c. 2:42
..........
d. 3:1
..........
e. 4:23-31
..........
f. 6:4-6
..........
g. 7:60
..........
h. 8:15
..........
i. 9:40
..........
..........
k. 12:5
..........
Những câu Kinh Thánh nầy cho thấy sự cầu nguyện, cùng với sự tương giao với Đức Chúa Trời và sự đổi mới trong tâm linh, đã đem lại hai điều. Thứ nhất, sự cầu nguyện mở ra cánh cửa cho Đức Chúa Trời phán dạy một mạng lịnh mới mà những người đang cầu nguyện đó không cân nhắc đến hoặc không hoạch định. Thứ nhì, những câu trả lời cụ thể cho những lời cầu xin của các tín đồ đã được ban cho. Bạn có thể hình dung hội thánh đầu tiên tồn tại và tăng trưởng nếu không hề cầu nguyện hay không?
12. Bạn nghĩ hội thánh ngày nay có tồn tại và phát triển nếu không cầu nguyện không? Bản thân bạn có thể tăng trưởng nếu bạn không cầu nguyện không?
..........
CHỨC VỤ TẠI CHÍPRƠ
13:4-12 Bruce 261-265
Mục tiêu 6. Liệt kê những nguyên tắc của hoạt động truyền giáo được tìm thấy trong chức vụ tại Chíprơ của Banaba và Saulơ.
Có ít nhất bảy nguyên tắc trong hoạt động truyền giáo của Phaolô được minh họa trong 13:4-12.
13. Chọn câu nào dưới đây minh họa nguyên tắc đầu tiên trong sinh hoạt truyền giáo của Phaolô.
a) Hoạt động truyền giáo là một công tác dành cho những nhân vật mạnh mẽ, hành động độc lập và tách riêng khỏi những bạn đồng công và khỏi những hội thánh phụ.
b) Ba người đã lập thành đoàn truyền giáo đầu tiên. Ngoại trừ tại Athên (17:15), Trôách (IICo 2Cr 2:12-13), và trong một thời gian ngắn tại Maxêđoan và tại Gờréc (Cong Cv 20:1-3), Phaolô luôn luôn ở cùng một hay nhiều bạn đồng lao. (Chúa đã sai các môn đồ ra đi thành từng đội hai người - Mac Mc 6:7, LuLc 10:1.)
Hội thánh đã noi theo gương Chúa khi xem công tác truyền giáo là một nỗ lực đồng đội. Nhà truyền giáo đơn độc thì rất dễ nản lòng nếu như sự việc không suôn sẻ, hoặc dễ kiêu ngạo nếu những công tác tiến triển tốt. Sự đồng hành của những người khác đem lại sự khích lệ và và sự quân bình cần thiết, và là tấm gương cho các tân tín hữu về sự thông công mật thiết ( koinonia ) cần phải tồn tại giữa vòng các tín đồ. Nếu những nhà lãnh đạo không hiệp một, thì làm sao hội thánh có thể hiệp một được?
14. Nguyên tắc thứ nhì của hoạt động truyền giáo được thể hiện qua câu nào sau đây?
a) Banaba và Saulơ bắt đầu bằng cách đi đến một nơi gần quê hương.
b) Banaba và Saulơ bắt đầu bằng cách đi đến một nơi xa nhất, hẻo lánh nhất trên thế giới.
15. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong câu hỏi sau đây về Banaba và Saulơ.
a. Họ cho thấy rằng người nào đã được kêu gọi truyền giáo thì đừng bận tâm làm chứng tại nước của mình trước hết, cũng như đừng phát triển một chức vụ hiệu quả tại đất nước của mình.
b. Họ cho thấy rằng một người phải rao truyền Tin Lành hữu hiệu cho những người trong nền văn hóa của mình trước khi sẵn sàng truyền Tin Lành cho một nền văn hóa khác.
c. Họ cho thấy rằng giáo sĩ đừng nên tốn thì giờ để điều chỉnh cho mình được thích nghi với những nền văn hóa mới. Trái lại, người nầy phải chuyển tức khắc từ một nền văn hóa quen thuộc sang nền văn hóa hoàn toàn mới lạ.
d. Họ cho thấy rằng giáo sĩ phải ý thức về “cú sốc văn hóa,” nên họ đã không thể tiến hành tức khắc chức vụ cho một nền văn hóa hoàn toàn xa lạ với nền văn hóa của họ. Chíprơ trở thành một "quê hương giữa đường" (một nơi để điều chỉnh) cho họ.
Người nào không hầu việc Chúa một cách kết quả tại nơi mình đang ở thì tất nhiên phải bị loại khỏi công tác truyền giáo. Chức vụ trong chính nền văn hóa của người ấy là một thời kỳ thử thách tất yếu. Nên nhớ Banaba và Saulơ đã không có sách giáo khoa để đọc về chiến lược truyền giáo, họ cũng không có những phương tiện để tự chuẩn bị mình qua việc nghiên cứu về một nền văn hóa và một ngôn ngữ mới. Đức Thánh Linh với tư cách người hướng đạo của họ, đã dẫn dắt họ cách tốt nhất nhằm giúp họ chuyển đổi từ Antiốt xứ Syri đến Antiốt xứ Bisiđi và những thành ở xa hơn nữa. Chíprơ quen thuộc hơn với họ đã cho họ thời gian để trở nên thích nghi với sự kêu gọi và với nền văn hóa thay đổi.
Chíprơ nằm khoảng 150 dặm từ đông sang tây và khoảng 40 dặm từ bắc xuống tới nam, là đảo lớn nhất ở phía đông Địa Trung Hải. Thành phố miền đông đứng đầu của Chíprơ, Salamít, nằm khoảng 100 dặm phía tây nam Antiốt. Đi thuyền buồm từ thành phố cảng Sêlơsi của Antiốt, đoàn truyền giáo đã đổ bộ tại Salamít.
16. Tại Salamít, Phaolô và Banaba đã thể hiện nguyên tắc thứ ba của hoạt động truyền giáo, mà nó đã trở thành một mẫu mực cho mọi công khó của Phaolô. Câu nào sau đây minh họa nguyên tắc đó?
a) Trước hết họ giảng đạo cho người ngoại bang.
b) Họ giảng đạo cho người Do thái trước tiên.
c) Họ giảng đạo tại bất cứ nơi đâu và cho bất cứ ai có thể giảng được mà không cần đến bất cứ kế hoạch có ý thức nào để thiết lập thứ tự ưu tiên cho bất cứ nhóm người nào.
Phaolô đã sử dụng những nhà hội tại vùng Địa Trung Hải để làm khởi điểm cho Tin Lành. Sự kêu gọi đầu tiên của ông trong các nhà hội rõ ràng xuất phát từ niềm tin cho rằng sự hiểu biết của những người cải đạo và những người ngoại bang kính sợ Đức Chúa Trời đã khiến họ trở thành những người được chuẩn bị tốt nhất để tiếp nhận sự rao giảng về Đấng Christ, và để phục vụ với tư cách những lãnh đạo trụ cột cho cộng đồng tân tín hữu sẽ được thành lập sau nầy.
Khi sử dụng nguyên tắc thứ ba trong chiến lược truyền giáo, chúng ta có thể tự thắc mắc một câu hỏi đầy khích lệ như sau: Ngày nay, Phaolô sẽ làm gì nếu ông bước vào một thành phố mà trong đó có một hội thánh còn thiếu sót trong sự hiểu biết Đức Chúa Trời? Liệu ông có giảng đạo trước tiên trong hội thánh nầy nếu như ông có cơ hội, hay ông sẽ bắt đầu trong một khung cảnh bên ngoài thế gian? Tôi tin ông sẽ dùng hội thánh nầy như một vị trí đổ bộ. Nếu hội thánh tiếp nhận Tin Lành, thì việc làm chứng đầy quyền năng cho cộng đồng đó đã có thể bắt đầu. Dầu hội thánh nầy nói chung chối bỏ Tin Lành, nhưng có vài người trong hội thánh sẽ được cứu. Lòng trung thành suốt đời của họ đối với một hội thánh chết hẳn đã chỉ ra cường độ mãnh liệt của tấm lòng khao khát Đức Chúa Trời của họ. Thông qua việc rao giảng Đấng Christ, cơn đói khát của họ sẽ được thỏa mãn lần đầu tiên, và họ sẽ trở thành những lãnh đạo của cộng đồng Cơ đốc được thành lập tách riêng khỏi hội thánh chết kia.
Chức vụ của Banaba và Saulơ trong các nhà hội đã cho thấy đây là một chiến lược thâm nhập. Nhà hội đã được thành lập để thờ phượng Đức Chúa Trời, và những giáo sĩ Cơ đốc nầy muốn giúp nhà hội kinh nghiệm được mục đích đã khiến nhà hội tồn tại.
17. Nguyên tắc thứ tư trong hoạt động truyền giáo có thể được thấy trong Cong Cv 13:6. Câu nào sau đây thể hiện nguyên tắc đó?
a) Các nhà truyền giáo tập trung vào những thành phố chính trong đế quốc, và không bỏ phí thì giờ tại những thành phố nhỏ hơn và những làng, là những nơi không có nhiều tiềm năng bằng.
b) Các nhà truyền giáo định cư khá lâu tại mỗi nơi mà họ đến.
c) Các nhà truyền giáo di chuyển thường xuyên, chỉ ở lại trong một thời gian dài tại những trung tâm dân cư chính (mà đối với Chíprơ là Salamít và Baphô.)
Mục đích của nhà truyền giáo là thiết lập hội thánh chứ không phải là để ở lại với họ. Những trung tâm dân cư chính đã trở thành mục tiêu cho chức vụ, vì chúng có thể được sử dụng về mặt chiến lược để truyền bá Tin Lành cho toàn bộ khu vực.
Chúng ta không có câu chuyện nào về việc Banaba và Saulơ thực sự thành lập các hội thánh tại đảo Chíprơ. Hiển nhiên, các hội thánh nầy đã được thành lập rồi, và chức vụ của họ tại đây là chức vụ truyền giảng Tin Lành chứ không phải thành lập hội thánh.
18 Nguyên tắc thứ năm của hoạt động truyền giáo được tìm thấy trong 13:8. Câu nào sau đây thể hiện nguyên tắc nầy?
a) Sự chống đối sứ điệp Tin Lành có thể là một chuyện hoàn toàn bình thường.
b) Vì nhà truyền giáo Cơ đốc tham gia vào một công tác cao quý như thế, nên người ấy cần phải né tránh những chướng ngại hay thử thách nào ngăn trở mình.
19. Nguyên tắc thứ sáu của hoạt động truyền giáo có thể được thấy trong 13:9-11. Câu nào sau đây thể hiện nguyên tắc nầy?
a) Sự công kích nhà truyền giáo và / hoặc sứ điệp của người nầy phải được ứng phó bởi những con người được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
b) Khi có sự công kích xảy đến, nhà truyền giáo nên thuần túy dựa vào phán đoán của riêng mình để ứng phó.
c) Khi có sự công kích xảy đến, chúng ta phải làm theo lời khuyên của Gamaliên, và chỉ việc chờ xem tình huống đó có qua đi hay không.
20. Bạn so sánh thế nào về 2:4 4:8 9:17 13:9?
..........
Đối với Phaolô, tên gọi BaGiêsu (con trai của Jesus) là một sự dùng từ sai hoàn toàn. Đúng hơn, tay thuật sĩ nầy phải được gọi là "con trai của ma quỉ."
21. Dựa vào việc Đấng Christ không hề làm một phép lạ nào khiến cho một người bị mắc bệnh hay bị thiệt hại, bạn giải thích thế nào về phép lạ của Phaolô cho thuật sĩ Êlyma?
a) Đây là phép lạ thứ nhất mà Phaolô thực hiện theo như Luca ghi lại.
b) Phaolô là một người thù dai.
c) Có lẽ Phaolô nhớ đến sự mù lòa đã khiến cho ông nhìn thấy được (9:8; 26:18), nên ông đã tìm cách khiến cho Êlyma bị mù như là một hành động của sự đoán xét và ân điển của Đức Chúa Trời.
Sự mù lòa nầy chỉ được giáng xuồng trong một thời gian mà thôi, giống như sự mù lòa của Phaolô ngày trước vậy. Bruce trích lời của Venerable Bede thật thích hợp tại đây: "Vị sứ đồ nhớ lại trường hợp của mình, biết rằng nhờ bị mù mắt mà sự tối tăm của lý trí mới được đem soi sáng trở lại" (trang 265).
22. Nguyên tắc thứ bảy của hoạt động truyền giáo được phản ánh trong từng trải của Banaba và Saulơ tại Chíprơ qua câu nào sau đây?
a) Khi Tin Lành được trung tín rao truyền bằng lẽ thật và quyền năng, thì người ta đến tin Chúa.
b) Chúng ta đừng nên cho rằng người ta được cứu chỉ vì cớ đã có những nỗ lực truyền giáo hay truyền giảng Tin Lành.
c) Đừng lo lắng nếu như chức vụ mình không có kết quả. Sự đáp ứng với tiếng gọi của Đức Chúa Trời mới là điều quan trọng; những kết quả là tương đối không quan trọng.
Những giáo sĩ tiên phong nầy đã trông đợi nhiều kết quả. Đức Chúa Jesus đã thách thức (Mat Mt 28:19-20) và ban quyền năng (Cong Cv 1:8), do đó đoàn truyền giáo nầy khi đã được kêu gọi đặc biệt và được Đức Thánh Linh chỉ định, thì họ đã nhìn thấy trước một mùa gặt thuộc linh. Tin Lành luôn luôn tìm được đáp ứng tích cực trong lòng của một người nào đó. Sêgiút Phaulút đã trở thành một tín đồ.
Phải để ý đến tính chính xác về lịch sử của Luca trong việc ông gọi Sêgiút Phaulút là quan trấn thủ. Quan trấn thủ là quan chức cai trị các khu vực thuộc pháp quyền của Viện Nguyên Lão La mã. Quan tổng đốc là quan chức cai trị thuộc pháp quyền của hoàng đế La mã. Những bản ký thuật lịch sử của ông khẳng định (Bruce, trang 262-263) rằng Chíprơ thuộc quyền của Viện Nguyên Lão.
Trong 13:9, Luca thay đổi tên gọi để dùng chỉ về nhân vật Saulơ. Từ giờ trở đi, ông dùng tên Lamã là Phaolô chứ không dùng tên Do thái là Saulơ nữa. Thật khá trùng hợp khi sự thay đổi tên gọi nầy lại diễn ra trong trường hợp Phaolô xuất hiện trước mặt một quan trấn thủ La mã có cùng tên: Phaolô .
GIĂNG MÁC LÌA ĐOÀN
Cong Cv 13:13 Bruce 266
Mục tiêu 6. Nêu những nguyên nhân khả dĩ khiến Giăng Mác lìa Phaolô và Banaba tại Bẹtgiê.
Chúng ta không biết nguyên nhân cụ thể khiến Giăng Mác lìa Phaolô và Banaba tại Bẹtgiê. Chúng ta có biết Phaolô giải thích sự ra đi của Mác như là sự đào ngũ. Đây là cơ sở khiến sau nầy ông quyết định không đem Giăng Mác theo trong hành trình truyền giáo thứ nhì. Và việc đó đã làm tan vỡ sự hợp tác truyền giáo của Phaolô và Banaba, vì Banaba muốn tạo cho người cháu trẻ tuổi của mình một cơ hội nữa.
23. Từ phần nghiên cứu những câu Kinh Thánh sau đây, bạn có thể nêu ra một số nguyên nhân nào khiến Mác đã lìa đoàn?
a. So sánh 13:2 với 13:13 CoCl 4:10.
..........
b. Cong Cv 12:12 có cung cấp đầu mối nào không?
..........
Những nguyên nhân khác khiến Mác ra đi gồm có khả năng sự bất đồng của Phaolô về hướng đi của đoàn, sự sợ hãi trước những ngọn núi đầy dẫy những tên cướp và những dòng suối lũ nằm giữa Bẹtgiê và Antiốt xứ Bisiđi, sự nản lòng trước sự thiếu thành công trong việc thành lập các hội thánh ở vài tháng đầu tiên của nỗ lực truyền giáo, hay thậm chí là sự mất lòng tin nơi sự kêu gọi của Đức Chúa Trời, xuất phát từ tình hình có vẻ như thiếu kết quả do sự đau ốm của Phaolô (GaGl 4:13-14).
BÀI GIẢNG ĐƯỢC GHI LẠI ĐẦU TIÊN CỦA PHAOLÔ
Cong Cv 13:14-49 Bruce 266-284
Mục tiêu 6. Thảo luận bài giảng đầu tiên trong sách Côngvụ, được giảng tại nhà hội Antiốt xứ Bisiđi, so sánh bài giảng đó với bài giảng của Phierơ và Êtiên, cho thấy vì sao bài giảng có tác động đến dường ấy trên thính giả, và nó bày tỏ điều gì về phương pháp luận truyền giáo của Phaolô.
Chuyến đi từ Baphô, Chíprơ, đến Bẹtgiê, xứ Bamphili, dài khoảng 170 dặm. Như Bruce nêu ra (trang 266). Bamphili là một trong những quận ven biển của Tiểu Á, ở phía Bắc là dãy núi Taurus, phía tây là Lycaoni, và phía nam là Địa Trung Hải. Địa điểm của Bẹtgiê cho thấy một khí hậu rất màu mỡ cho bệnh sốt rét trong những tháng hè. Vì vậy những du khách mỏi mệt hay những người không quen với khí hậu nầy dễ dàng trở thành con mồi cho bệnh tật hay bệnh sốt rét.
Rõ ràng, Phaolô đã không giảng Tin Lành tại Bẹtgiê, cho đến khi trên đường quay về quê hương (14:25). Cũng cần để ý rằng những thành phố trong vùng Galati - là Antiốt xứ Bisiđi, Ycôni, Líttrơ và Đẹtbơ - không sánh được với những trung tâm đô thị lớn mà Phaolô đã giảng Tin Lành trong chuyến truyền giáo thứ hai và thứ ba. Dựa vào những sự kiện nầy và câu nói của Phaolô: Anh em biết rằng ấy là đương lúc xác thịt yếu đuối mà tôi truyền Tin Lành cho anh em lần thứ nhất (GaGl 4:13), một số người đã kết luận Phaolô bị bệnh tại Bẹtgiê nên những hoàn cảnh nầy đã buộc ông phải quay lên hướng bắc, để đến một vùng cao nguyên có lợi cho sức khỏe hơn và mát hơn ở độ cao 3600 feet, nằm vắt ngang qua dãy núi Taurus. Có thể đúng như vậy; dầu vậy, chúng ta có thể thắc mắc: Làm thể nào một người ốm lại có thể đi được một hành trình gay go như vậy. Nhưng lòng quyết tâm của Phaolô đã được thể hiện không phải chỉ trong một trường hợp mà thôi (IICo 2Cr 11:23-29). Nếu những kết luận trên chính xác, thì hẳn Phaolô đã nghĩ thà liều chết đến một nơi để được phục hồi sức khỏe còn hơn là chết trên giường bệnh tại một nơi không có lợi cho sức khỏe như Bẹtgiê.
GaGl 4:13 khiến chúng ta quan tâm đến một nguyên nhân khác. Chúa đã dùng sự đau ốm của sứ đồ Ngài làm phương tiện dẫn dắt ông. Người đã làm mù mắt một thuật sĩ lại không được giải thoát tức khắc khỏi sự đau ốm của chính mình!
Khi đến Antiốt xứ Bisiđi (được gọi như vậy vì nó nằm sát biên giới xứ Bisiđi, theo như Bruce nêu ra ở trang 267), Phaolô đã được phục hồi sức khỏe đủ để giảng Tin Lành trong nhà hội Antiốt. Sự đau ốm của ông có lẽ đã tái diễn nhiều lần, như 4:13-14 ám chỉ (nguyên văn là "... chính vì sự đau ốm mà tôi đã giảng Tin Lành cho anh em. Vì dầu sự đau ốm của tôi là sự thử thách của anh em...")
Bài giảng thứ nhất của Phaolô được ghi lại trong sách Côngvụ có thể chia làm hai phần. Phần thứ nhất (Cong Cv 13:16-25) lần theo những việc làm tối thượng của Đức Chúa Trời trong lịch sử của Ysơraên kể từ lúc Ysơraên được chọn cho đến khi Đức Chúa Jesus vào trần gian. Phần thứ nhì (13:26-41) dùng lời Kinh Thánh Cựu Ước để giải thích về Chúa Jesus.
Thính giả tại nhà hội bao gồm cả người Do thái lẫn người ngoại bang kính sợ Đức Chúa Trời, theo như phần giới thiệu của Phaolô đã cho thấy (13:16).
24. Liệt kê 11 hành động dứt khoát của Đức Chúa Trời mà Phaolô thuật lại để chứng minh sự can thiệp hay quyền tể trị tối thượng (hay sự nhịn nhục lâu dài) của Đức Chúa Trời trong lịch sử Ysơraên.
a. 13:17
..........
b. 13:17
..........
c. 13:17
..........
d. 13:18
..........
e. 13:19
..........
f. 13:19
..........
g. 13:20
..........
h. 13:21
..........
i. 13:22
..........
j. 13:22
..........
k. 13:23
..........
Việc Phaolô ôn lại cách Đức Chúa Trời đối đãi với Ysơraên đã được gọi là kerygma (sự giảng đạo) Cựu Ước, tức là sự rao giảng hay công bố hoạt động cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong việc kêu gọi và gìn giữ tuyển dân của Ngài.
25. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong mỗi câu hỏi sau đây về việc Phaolô ôn lại lịch sử dân Ysơraên.
a. Sự ôn lại như thế hẳn gây nhàm chán cho thính giả vốn quan tâm đến những nan đề cũng như những phong trào triết lý đương thời.
b. Để thu hút chú ý của thính giả trong nhà hội, không còn điều nào trọng tâm đối với Phaolô hơn là liên kết những hoạt động thời quá khứ của Đức Chúa Trời trong lịch sử của dân Ysơraên với hành động gần đây nhất của Ngài là đem đến cho dân Ysơraên một Đấng Cứu Thế.
c. Mục đích ôn lại lịch sử của dân Ysơraên là để cho thấy những hành động tối thượng của Đức Chúa Trời chỉ xảy ra khi con người tạo điều kiện cho Đức Chúa Trời hành động.
d. Phaolô cho thấy Đức Chúa Trời đã hành động liên tục trong lịch sử Ysơraên bằng những hành động tối thượng của Ngài. Dân Ysơraên biết được đặc tánh của Đức Chúa Trời vì Ngài đã hành động dứt khoát vì cớ họ.
Bởi đó, Đức Chúa Trời đã bày tỏ về Ngài trong suốt lịch sử của dân sự Ngài. Tại nhiều thời điểm quyết định, Ngài đã hiện ra để thay đổi số phận của họ. Phaolô tỏ cho thính giả của ông thấy rằng Đức Chúa Trời đã hành động trong lịch sử Ysơraên cũng chính là Đức Chúa Trời sai Đức Chúa Jesus Christ đến trần gian. Toàn bộ lịch sử của Ysơraên chỉ hướng đến một nhân vật nầy - tức là Đức Chúa Jesus Christ. Vị tiên tri cuối cùng của Ysơraên - là Giăng Báp Tít - đã công nhận rằng ngay cả đời sống và chức vụ nổi bật của ông cũng không xứng đáng đem sánh với đời sống và chức vụ của Đức Chúa Jesus, đến nỗi ông không xứng đáng để mở dây giầy Ngài.
Sau khi đã kết thúc phần giảng ( kerygma ) Cựu Ước, Phaolô đã tiến vào một phần mới: rao giảng về đời sống, sự chết, sự phục sinh của Đức Chúa Jesus, sự ứng nghiệm lời Kinh Thánh, sự dự bị để ban cho sự tha tội, và lời kêu gọi đáp ứng.
26. Theo Phaolô, câu nào sau đây phản ảnh chính xác nguyên nhân khiến Đức Chúa Jesus bị dân Ysơraên và các quan ở đó chối bỏ?
a) Đức Chúa Jesus đã bị chối bỏ vì Ngài trình bày không đủ bằng chứng cho lời tuyên bố là Đấng Mêsia của Ngài.
b) Chúa Jesus bị chối bỏ vì dân Ysơraên không hiểu lời Kinh Thánh; do đó Ngài đã phải chịu cảnh không được họ công nhận.
Phaolô đã lập nền tảng cho phần bài giảng còn lại của mình. Nếu Đức Chúa Jesus đã bị đóng đinh theo lời Kinh Thánh, và những người đóng đinh Ngài không nhận ra rằng mình đang làm ứng nghiệm lời tiên tri, thì thính giả của Phaolô đừng nên tái diễn sự ngu dốt của họ bằng cách không hiểu những lời tiên tri khác nữa nói đến sự phục sinh của Đấng Christ. (Để ý Luca không ghi lại những câu Kinh Thánh Phaolô đã dùng để minh họa ý của mình trong câu 27 và 29. EsIs 52:13 53:12 và Thi Tv 22:1-31 hẳn đã được Phaolô sử dụng một cách dễ dàng.)
27. Phaolô đã trích dẫn những câu Kinh Thánh trong đoạn Cong Cv 13:33-35 để chỉ về điều gì?
a) Sự chết của Đấng Christ.
b) Sự phục sinh của Đấng Christ.
c) Sự tái lâm của Đấng Christ.
28. So sánh câu trích trong 13:33 Mac Mc 11:11, Thi Tv 2:7, EsIs 42:1, GiGa 1:1, RoRm 1:4. Câu nào sau đây mô tả đúng nhất bản tánh của Chúa phù hợp với những câu Kinh Thánh trên?
a) Chúa Jesus đã không trở thành Con của Đức Chúa Trời mãi cho đến khi Ngài chịu phép báp têm.
b) Chúa Jesus đã có từ đầu với Đức Chúa Trời, và là Đức Chúa Trời.
c) Chúa Jesus đã không trở thành Đức Chúa Trời mãi cho đến khi Ngài phục sinh.
d) Sự sống lại từ kẻ chết của Đức Chúa Jesus đã chứng tỏ cho thế gian thấy rõ ràng Ngài là Con Đức Chúa Trời.
Thithiên 2 đi kèm với việc xức dầu cho một con trai của Đavít lên làm vua. Những người kế nghiệp Đavít đã là con trai của ông trước khi chịu xức dầu, nhưng họ không thực thi trách nhiệm của chức vị vua mãi cho đến khi họ chịu xức dầu. Khi áp dụng cho Đức Chúa Jesus, Thi Tv 2:7 không dạy rằng Đức Chúa Jesus đã xuất hiện với tư cách Con Đức Chúa Trời. Từ trước vô cùng, Ngài là con Đức Chúa Trời, nhưng việc thi hành chức vụ vua của Ngài đã bắt đầu tại phép báp têm của Ngài và tiếp tục nhờ sự phục sinh của Ngài. Vì vậy, 2:7 có thể dùng để chỉ về phép báp têm của Đấng Christ (Mac Mc 1:11) hoặc sự phục sinh của Ngài (Cong Cv 13:33).
Phaolô đã lập lại cùng một lập luận của Phierơ trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Chỉ một mình Đức Chúa Jesus mới có thể làm ứng nghiệm những lời nói của Đavít: Chúa chẳng để cho người thánh của Chúa thấy sự hư nát (Thi Tv 16:10; Cong Cv 13:35). Sự kiện được chứng thực rõ ràng - là sự phục sinh của Đấng Christ làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh - đòi hỏi phải có một đáp ứng. Sự tha thứ tội lỗi và thoát khỏi sự phạm tội (là điều mà luật pháp Môise không thể đem lại) đã được hứa ban trong Đấng Christ.
Phaolô kết luận bằng cách trích dẫn một câu Kinh Thánh, mà thính giả vốn quen thuộc với Lời Đức Chúa Trời của ông vốn biết rất rõ và hiểu những hàm ý của câu đó. Tiên tri Habacúc bảy thế kỷ trước đó đã cảnh cáo Giuđa về hiểm họa xâm lăng gần đến của người Babylôn. Lời tiên tri đó đã trở thành sự thật bất chấp những người chế giễu nó. Nếu những người hư mất chính là những kẻ đã bỏ ngoài tai sứ điệp của tiên tri Habacúc, thì những kẻ chối bỏ sứ điệp của Đấng Christ sẽ còn hư mất biết đến dường nào?
So sánh bài giảng của Phierơ (2:17-36; 3:12-26) và của Êtiên (7:1-53) với bài giảng của Phierơ. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong mỗi câu hỏi sau đây.
29.
a. Chỉ có Phierơ và Êtiên dùng Cựu Ước để chứng minh Đấng Christ đã làm ứng nghiệm lời tiên tri như thế nào.
b. Phaolô minh họa Đức Chúa Trời đã hành động như thế nào trong sự kêu gọi và giữ gìn Ysơraên một cách tối thượng, một chủ đề do Êtiên nêu ra. Tuy nhiên, Phaolô cũng tập trung vào chủ đề chối bỏ Đấng Christ như cách của Êtiên. Để mô tả Đức Chúa Jesus đã làm ứng nghiệm Cựu Ước như thế nào, Phaolô đã dùng phương pháp tương tự như của Phierơ.
Phaolô và Êtiên đã đưa ra những mục đích hơi khác nhau trong cách họ ôn lại lịch sử Ysơraên. Tuy cả hai đều nhấn mạnh vào quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời trong sự kêu gọi và giữ gìn, nhưng Êtiên nhấn mạnh vào chủ đề chối bỏ Đức Chúa Trời cách liên tục của dân Ysơraên. Đương nhiên, thính giả của Êtiên đã ba lần chối bỏ Đấng Christ và thính giả của Phaolô vẫn còn ở chỗ phải đáp ứng lần đầu tiên. Do vậy, điểm nhấn mạnh của Êtiên là hoàn toàn thích hợp.
30.
a. Thính giả của Phaolô đã được loại khỏi những sự kiện liên quan đến cái chết của Đấng Christ. Thay vì kêu gọi thính giả tiếp nhận sự tha thứ về tội giết Đấng Christ, ông kêu gọi họ tiếp nhận sự tha thứ những tội lỗi mà luật pháp Môise không có quyền tha thứ.
b. Giống như Phierơ và Êtiên, Phaolô đã kết tội thính giả của mình về tội đóng đinh Đức Chúa Jesus Christ trên thập tự giá.
Từ ngữ "luật pháp Môise" không giới hạn vào Mười Điều Răn không thôi, nhưng vào toàn bộ Ngũ Kinh (bao gồm cả những điều khoản dâng sinh tế). Có người nghĩ câu nói của Phaolô trong Cong Cv 3:39 chỉ nói đến những tội lỗi nào phạm một cách "có chủ mưu" (XuXh 21:14; Dan Ds 15:30; PhuDnl 17:12; Thi Tv 19:13) mà sinh tế không thể chuộc tội cho những tội lỗi đó. Tuy nhiên, câu nói rõ ràng của Phaolô trong RoRm 3:9-20 cho thấy ông không hề tin luật pháp có quyền tha tội.
Có hai đặc điểm hết sức quan trọng mà chúng luôn luôn có mặt trong một bài giảng đem lại đáp ứng. Thứ nhất, người giảng thể hiện sự hiểu biết về Lời Đức Chúa Trời và / hoặc đường lối của Ngài. Thứ nhì, người giảng đạo áp dụng một cách hữu hiệu lẽ thật vừa được rao giảng đó cho thính giả của mình.
31. Bài giảng của Phaolô tại Antiốt xứ Bisiđi có thể hiện hai đặc điểm nầy không? Phản ứng đối với bài giảng có cho thấy thính giả đã đáp ứng hay không?
..........
Sứ điệp của Phaolô trong nhà hội Do thái đã loan truyền khắp thành phố chỉ trong vòng một tuần. Ngày Sabát kế tiếp, nhà hội đầy ắp người. Thực sự, toàn thành phố đã có mặt!
Lại sự ghen ghét! Đức Chúa Jesus đã bị nộp cho Tòa Công Luận vì cớ lòng ghen tức (Mat Mt 27:18). Các sứ đồ đã bị bắt giữ vì cớ người Sađusê đầy dẫy lòng ghen ghét (Cong Cv 5:17). Khi người Do thái ở Antiốt xứ Bisiđi thấy dân chúng trong thành lần đầu tiên tập trung đến nhà hội của họ, thì đáp ứng một lần nữa lại là lòng ghen ghét (13:45).
32. Câu nào trong những lập luận thần học sau đây đã được cấp lãnh đạo Do thái dùng để che đậy động cơ thực tế của mình là lòng ghen ghét khi chống đối lại những lời của Phaolô giảng cho cộng đồng Do thái?
a) Việc đưa dân ngoại bang - là những người chưa chịu phép cắt bì hay chưa được huấn luyện để vâng giữ phong tục và luật pháp Do thái - vào trong cộng đồng của Đức Chúa Trời sẽ phá hủy lối sống Do thái.
b) Việc đưa hàng loạt dân ngoại bang vào nhà hội chỉ vì cớ họ tin Jesus là Đấng Mêsia là một điều không thể tưởng tượng được. Một sự chấp nhận như thế chỉ đem lại sự bại hoại và gây ô uế cho những nghi lễ mà luật pháp đã qui định.
c) Hẳn còn những lời giải thích khác nữa đã được đưa ra để đối phó với cách Phaolô giải thích những lời tiên tri Cựu Ước liên quan thế nào với Đức Chúa Jesus.
Chúng ta phải công nhận những lời biện hộ do những kẻ phê bình để chống Tin Lành thường không phải là nguyên nhân thực tế khiến Tin Lành bị chống đối. Luca cho thấy động cơ thực tế khiến dân Do thái tại Antiốt xứ Bisiđi chống đối đã xuất phát từ tội lỗi trong tâm linh chứ không phải từ sự chống đối hợp lý về thần học.
33. Một chiến lược truyền giáo nào khác nữa đã được sử dụng khi dân Do thái tại Antiốt xứ Bisiđi chối bỏ sứ điệp Tin Lành?
a) Phaolô lìa thành nầy để đi đến một thành khác.
b) Lúc bấy giờ, Phaolô bắt đầu giảng trực tiếp cho dân ngoại bang bên ngoài môi trường nhà hội.
Rất nhiều người ngoại bang đã tin nơi Tin Lành Chúa Jesus. Một lần nữa Luca cho thấy thêm lẽ mầu nhiệm về quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời và quyền tự do của con người. Sự chết của Đấng Christ đã vừa là kế hoạch của Đức Chúa Trời cũng như vừa là kế hoạch của con người thể nào (2:23), thì sự cứu rỗi của cá nhân con người cũng vừa là kế hoạch của Đức Chúa Trời vừa là sự chọn lựa của con người thể ấy.
34. So sánh những câu Kinh Thánh sau với 13:48; Mat Mt 10:32; Eph Ep 1:5-6; IIPhi 2Pr 3:9; KhKh 3:20; 22:17. Dựa vào phần so sánh nầy, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Nếu Đức Chúa Trời đã quyết định trước (tiền định) rồi rằng chúng ta sẽ được cứu, thì chúng ta không cần phải làm gì trong chuyện đó nữa. Chúng ta sẽ được cứu.
b. Đức Chúa Trời sẽ không cứu tôi trừ phi tôi yêu cầu được cứu rỗi.
c. Vì Đức Chúa Trời đã chọn tôi, nên tôi đã chọn Ngài.
e. Giống như bản chất của Ba Ngôi Đức Chúa Trời và bản chất của Đức Chúa Jesus Christ - là Đấng mang cả nhân tánh lẫn thần tánh - thì mối tương quan giữa quyền tể trị tối thượng (hay sự chọn lựa) của Đức Chúa Trời với quyền tự do (hay quyền chọn lựa) của con người là một điều mầu nhiệm phù hợp với ý của Đức Chúa Trời, chớ không phải với ý của chúng ta trong cõi đời nầy.
Tại Antiốt xứ Bisiđi, chúng ta thấy tính hợp lý trong chiến lược truyền giáo của Phaolô, khi trước tiên ông đem Tin Lành đến với trung tâm đô thị, và rồi để cho sứ điệp Tin Lành lan ra đến vùng ngoại ô và các vùng phụ cận. Thành phố có thể so sánh với trục của một bánh xe. Từ trục nầy nó tiến theo các nan đi tới vành của bánh xe. Phaolô đã bắt đầu tại trục bánh xe, chứ không phải tại ngoài vành.
NHỮNG ỨNG DỤNG RÚT RA TỪ CHỨC VỤ TẠI GALATI
Cong Cv 13:50-14:21 Bruce 284-296
Mục tiêu 7. Áp dụng những nguyên tắc được minh họa qua chức vụ của Phaolô và Banaba tại Antiốt xứ Bisiđi, Ycôni, Líttrơ, và Đẹtbơ vào đời sống của bạn - là những nguyên tắc minh họa những phản xạ của Cơ đốc nhân đối với nghịch cảnh và ích lợi mà Đức Chúa Trời thực hiện qua nghịch cảnh.
Bốn thành phố nằm ở miền nam vùng Lamã Galati là trọng điểm của hành trình truyền giáo lần thứ nhất. Hai trong số những thành phố nầy nằm tại vùng được gọi là Phirigi: Antiốt (gần Bisiđi được gọi là Antiốt xứ Bisiđi để phân biệt với Antiốt xứ Syri) và Ycôni. Hai thành phố còn lại trong vùng Galati được Phaolô và Banaba thăm viếng là nằm trong vùng Lycaoni: Líttrơ và Đẹtbơ.
Nghiên cứu kỹ 13:50 đến 14:21. Từ lúc nầy, thay vì giải nghĩa theo từng câu kế tiếp nhau, chúng ta sẽ rút ra sáu ứng dụng từ phần nầy, để bạn có thể áp dụng chúng vào đời sống của mình.
Sáu cặp câu tuyên bố sau đây được soạn ra nhằm giúp bạn khám phá những nguyên tắc có thể áp dụng vào đời sống riêng của bạn rút ra từ kinh nghiệm của Phaolô và Banaba tại vùng Galati. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong mỗi câu hỏi sau đây..
35.
a. Hành trình truyền giáo lần thứ nhất cho thấy rằng tín đồ đừng bao giờ đối mặt với áp lực, khó khăn hay bắt bớ. Nếu người ấy đi theo đúng ý muốn Đức Chúa Trời, thì chỉ có sự thạnh vượng mà thôi.
b. Sự bắt bớ không ngừng, sự nản lòng ngấm ngầm và sự ngược đãi thử thách dũng khí của Phaolô và Banaba đang khi họ đi lại trong xứ Galati. Kinh nghiệm của họ dạy chúng ta rằng sự chống đối là lẽ thường tình.
36.
a. Khi Phaolô và Banaba tránh khỏi thành Antiốt để đến thành Ycôni, nằm khoảng 90 dặm phía tây nam, họ và các tín đồ Antiốt đã đầy dẫy sự vui mừng và đầy dẫy Đức Thánh Linh.
b. Khi Phaolô và Banaba lìa thành Antiốt, thì họ cũng như tín đồ Antiốt đều đầy dẫy sự phàn nàn và tinh thần tự thương hại. Họ cảm thấy bị xúc phạm vì cớ phần thưởng mà họ nhận được cho lòng trung tín hầu việc Đấng Christ chẳng qua chỉ là sự nhạo báng và bắt bớ. Họ cũng qui trách nhiệm cho Đức Chúa Trời và cảm thấy đúng ra Ngài phải can thiệp để ngăn chận bắt bớ và hoàn cảnh khó khăn.
Sự đổ thừa, phàn nàn và tự thương hại chỉ phá hủy từng trải Cơ đốc mà thôi. Sự gian khó của những hoàn cảnh tạo nên "sức căng" mới mẻ trong từng trải của chúng ta. Sức chứa mới của chúng ta sẽ được đổ đầy Đức Thánh Linh, Đấng đem lại sự vui mừng. Những Cơ đốc nhân hay lằm bằm và nản lòng sẽ không bao giờ chứng tỏ cho thế gian thấy được Đức Chúa Jesus đã từ kẻ chết sống lại! Một chiếc tàu ngầm càng lặn sâu bao nhiêu, thì khả năng chịu đựng áp suất của nó lại càng lớn bấy nhiêu. Thánh Linh của Đức Chúa Trời điều chỉnh áp suất cho những khoang chứa của con người bề trong chúng ta!
37.
a. Banaba và Saulơ chưa được chuẩn bị để điều chỉnh thời khóa biểu của họ cho những nhu cầu của một tình huống cho trước. Lịch ấn định của họ đã được tuân giữ nghiêm nhặt và không có một cuộc hẹn nào của họ bị sai trật. Mọi dự định của họ về chương trình, kết quả, và đáp ứng của hội thánh đã tỏ ra là hữu ích cho việc phát triển sự việc của Đấng Christ.
b. Có thể dự đoán trước trên một số phương diện nào đó về Phaolô và Banaba. Người ta có thể tin họ đến tại những trung tâm đô thị lớn, giảng Tin Lành trước hết trong nhà hội nếu tại đó có nhà hội, và sau đó giảng Tin Lành cho dân ngoại bang. Nhưng nhiều khi, họ tỏ ra khả năng thích ứng đáng kể để thay đổi kế hoạch trước những đòi hỏi của một tình huống nào đó, hay trước một ý thức bề trong về sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời.
Khi đối mặt với sự chống đối ban đầu tại Ycôni, họ quyết định ở lại (14:2-3). Về sau khi sự chống đối gia tăng, họ bỏ đi đến Líttrơ, hơn 23 dặm ở đông nam. Có một lần đương khi Phaolô giảng đã có một phép lạ lớn xảy ra (14:8-10). Kế đó, đám đông đã sai lầm tôn Banaba lên làm vị thần đứng đầu của họ, là thần Giubitê, và tôn Phaolô làm phát ngôn viên của thần Giubitê, là thần Mẹccurơ. Lúc đầu, Phaolô và Banaba không biết chuyện gì đang xảy ra, vì họ không hiểu tiếng địa phương. Nhưng rồi đột nhiên họ hiểu ra người ta đang chuẩn bị dâng tế lễ để tôn vinh họ. Họ hoảng kinh trước tội phạm thượng nầy qua việc xé áo mình. Bài giảng của họ cho đoàn dân trái ngược với bài giảng cho thính giả trong nhà hội. Đoàn dân không biết gì về Kinh Thánh, nên Banaba và Saulơ không trưng dẫn Kinh Thánh. Ngay sau đó, chính đoàn dân vừa mới tôn Phaolô lên làm thần đã ném đá ông. Phaolô, người đã làm phép lạ chữa lành người què từ lúc mới sinh ra, đã không thể biến những viên đá kia thành lông chim. Ông đã bị đám đông nổi loạn làm trọng thương và lôi vứt ra khỏi thành phố vì cho rằng ông đã chết. Quả là phép lạ, ông đã tỉnh lại và chuẩn bị để tiếp tục công tác của mình. Dầu đã lánh khỏi cơn bắt bớ tại Ycôni, nhưng Phaolô đã quay lại Líttrơ ngay tức khắc sau khi bị ném đá.
38.
a. Sở dĩ Phaolô phải đối diện với một trở ngại hay một thử thách dữ dội chính là vì ông không có đức tin để vượt qua. Hoặc, những trở ngại hay những thử thách xảy đến vì cớ ông đã quên Đức Chúa Trời nên Ngài hình phạt ông. b Nhiều khi những thử thách lớn nhất trong đời chúng ta xảy đến ngay sau những chiến thắng vĩ đại nhất của chúng ta. Điều nầy đem lại cho chúng ta đức tin và sự can đảm để đối mặt với điều kia.
Sau sự chữa lành tại Líttrơ là đến bị ném đá. Sau khi được Cha chúc phước tại lễ báp têm của Đức Chúa Jesus là đến sự cám dỗ của ma quỉ tại trong đồng vắng (Mac Mc 1:10-13). Phierơ bảo chúng ta rằng: "Hỡi kẻ rất yêu dấu, khi anh em bị trong lò lửa thử thách, chớ lấy làm lạ như mình gặp một việc khác thường. Nhưng anh em có phần trong sự thương khó của Đấng Christ bao nhiêu, thì hãy vui mừng bấy nhiêu" (IPhi 1Pr 4:12-13).
39.
a. Khi đối mặt với nghịch cảnh, hãy tìm nơi an toàn mà bạn có thể trú tại đó, cho đến khi Đức Chúa Trời truyền lệnh bằng lời cho bạn biết phải làm gì bước kế tiếp.
b. Đừng trở nên thụ động khi bị thử thách. Đừng sa vào tinh thần rút lui đầy tội lỗi, là một tinh thần nói rằng: "Xong đời rồi."
Nhiều khi Đức Chúa Trời có thể dẫn dắt con cái Ngài đến nơi an nghỉ giữa cơn bão tố giống như nội dung của câu a , nhưng kiểu mẫu thông thường hơn chính là kiểu mẫu của Phaolô. Khi bị rượt đuổi khỏi Antiốt, Phaolô không giữ tinh thần chủ bại nhưng đã đến Ycôni để đeo đuổi mục tiêu của mình (Cong Cv 14:1). Khi đối mặt với sự bắt bớ tại Ycôni, ông đã kiên trì dạn dĩ rao truyền sứ điệp (14:3). Ông can đảm quay về tại thành phố mà ông đã bị ném đá cách tàn bạo (14:20), và tương tự, ông quay trở lại mọi thành phố mà ông đã bị rượt đuổi khỏi đó (14:21). Không thể mô tả Phaolô đã sống một cách thụ động. Một số thánh đồ "yếu đuối hơn" nào đó đã buông trôi chức vụ của mình vì cớ có người xúc phạm, tấn công họ, hoặc vì cớ họ không được thành công như ý muốn, thì những người đó cần phải xem lại tấm gương của Phaolô.
40.
a. Đức Chúa Trời luôn luôn hành động để khiến sự thử thách đem lại cho bạn điều ích lợi nhất (và trong người khác khi họ nhìn thấy đáp ứng độ lượng của bạn). Từ chức vụ đầy biến động trong vùng Galati, Phaolô thể hiện sự bình tĩnh của bông trái Thánh Linh: yêu thương, vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ (GaGl 5:22). Và qua chức vụ tại Líttrơ, Phaolô đã tìm được một đồng nghiệp quí báu trong tương lai, đó là nhân vật Timôthê (Cong Cv 16:1).
b. Cơ đốc nhân phải nhận ra rằng Đức Chúa Trời không thể thực hiện điều gì qua những yếu đuối của mình. Do đó Cơ đốc nhân phải cầu nguyện và chờ đợi Đức Chúa Trời giữ mình thoát khỏi mọi hoàn cảnh thử thách. Đức Chúa Trời chỉ có thể chinh phục thế gian qua những con người thịnh vượng về bề trong cũng như bề ngoài.
RoRm 5:3-5 cung cấp một trình tự: sự hoạn nạn sanh sự nhịn nhục, sự nhịn nhục sanh sự rèn tập (đặc tính), sự rèn tập sanh sự trông cậy. Trái của Thánh Linh chỉ có thể phát triển trong những người nào đã được thử thách làm sao người ta có thể học tập nhịn nhục hoặc tiết độ được khi chưa đối diện với những hoàn cảnh cám dỗ người nầy đánh mất tính kiên nhẫn hay tính tiết độ?
Tôi nghĩ Timôthê có thể đã chịu ảnh hưởng bởi phương cách Phaolô đối diện với hoạn nạn khi bị ném đá tại Líttrơ cũng chẳng kém gì mức độ ảnh hưởng của biến cố đầy ấn tượng ở Antiốt khi Phaolô chữa lành người què (IITi 2Tm 3:11). Ai biết được chúng ta có thể tác động sâu sắc tới mức nào đến người khác - là những người chứng kiến cách chúng ta chịu cảm động bởi Đức Thánh Linh để đáp ứng với những trở ngại bằng sự vui mừng?
41. Giờ đây, bạn muốn ôn lại sáu cặp câu tuyên bố vừa rồi và tóm tắt những nguyên tắc chính thể hiện những phản xạ của Cơ đốc nhân trước nghịch cảnh cũng như những ích lợi mà Đức Chúa Trời đem đến qua nghịch cảnh hay không?
a.
..........
b.
..........
c.
..........
d.
..........
e.
..........
f.
..........
Xem lại Cong Cv 13:1-14:21, chúng ta có thể thấy sự phát triển không ngừng trong chức vụ của Phaolô và Banaba. Dầu Phaolô đã được Chúa gọi làm sứ đồ (GaGl 1:1), nhưng ông chỉ vừa được biết đến như là một trong những "tiên tri và giáo sư" của hội thánh Antiốt khi hành trình truyền giáo lần thứ nhất bắt đầu (Cong Cv 13:1). Chính trong tiến trình của chuyến đi nầy mà Phaolô đã chứng tỏ ra những dấu hiệu của một sứ đồ (IICo 2Cr 12:12). Cũng như đối với 12 sứ đồ, các dấu lạ phép kỳ đã đi kèm theo sự giảng đạo (Cong Cv 14:2; 2:43; 5:12). Các dấu kỳ và phép lạ không chỉ giới hạn cho các sứ đồ như 6:8 và 8:6 cho thấy, nhưng chúng là những bằng chứng xác nhận rất quan trọng. Phaolô đã biết sự kêu gọi mình làm sứ đồ từ trước hành trình truyền giáo lần thứ nhất; Tuy nhiên, có thể nói một cách chắc chắn rằng hội thánh đã không nhận ra ông là sứ đồ mãi cho đến khi hành trình nầy hoàn tất.
QUAY VỀ ANTIỐT XỨ SYRI
14:22-28 Bruce 296-297
Mục tiêu 8. Mô tả phần tóm tắt của Luca cho chuyến trở về của các nhà truyền giáo từ Đẹtbơ đến Antiốt xứ Syri.
Hành trình truyền giáo lần thứ nhất kết thúc với việc Phaolô và Banaba đi ngược lại những nơi mà họ đã đi qua. Có người đoán sự thay đổi trong chính quyền của xứ Phirigi và Lycaoly thuộc vùng Nam Galati có thể đã khiến họ quay trở lại những thành phố mà họ đã bị bắt bớ trước kia. Chúng ta không có bằng cớ xác nhận rõ ràng cho ý kiến nầy, nhưng chúng ta biết Banaba và Phaolô phải rất can đảm mới quay trở lại những địa điểm nầy.
Điều quan trọng đối với những tín đồ được để lại tại thành Đẹtbơ, Líttrơ, Ycôni, và Antiốt là họ biết những người đã đem Tin Lành đến cho họ cũng chính là những người sẵn sàng chịu khổ vì Tin Lành đó. Tấm gương của Banaba và Phaolô đã đem lại sự can đảm cho tín đồ tại các thành phố nầy là những người cũng đang chịu khổ tương tự vì cớ đức tin mình. 42 Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG nhất trong mỗi câu hỏi sau đây?
a. Việc phép báp têm bằng nước không được nhắc đến như là đã xảy ra trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, nên chúng ta hiểu phép báp têm nầy là một điều tùy chọn của tín đồ.
b. Việc phép báp têm bằng Đức Thánh Linh không hề được nhắc đến trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, nên chúng ta có thể hiểu đây là một điều tùy chọn cho tín đồ.
c. Phép báp têm bằng nước và phép báp têm bằng Đức Thánh Linh không được nhắc đến không có nghĩa là chúng không xảy ra.
43. 14:22-23 liệt kê bốn phương cách mà Phaolô và Banaba đã áp dụng để làm vững vàng đức tin của những tân tín hữu. Bốn phương cách nầy là gì?
a.
..........
b.
..........
c.
..........
d.
..........
Khi từ Antiốt xứ Bisiđi quay về vùng Bamphili, Phaolô và Banaba lại đến Bẹtgiê. Lần nầy, họ cứ ở lại đây giảng đạo. Tuy nhiên, không có câu chuyện nào ghi lại kết quả tại đây.
Hãy hình dung Banaba vào Phaolô hẳn đã cảm thấy khác lạ biết bao khi họ đến Bẹtgiê lần thứ nhì. Lần thứ nhất, họ đã bị Giăng Mác bỏ rơi, phải chịu sự đau ốm có thể có của Phaolô, chuyến đi vô định băng qua rặng núi Taurus, và những viễn tượng không thể biết được của Tin Lành tại những thành phố nằm trong nội địa của vùng Nam Galati. Giờ đây, tương lai đó đã trở thành quá khứ. Đi thuyền từ thành phố cảng Áttali, họ trực chỉ quê hương. Hội thánh Antiốt đã làm gương về phương cách hội thánh nên đón tiếp những nhà truyền giáo hồi hương mà hội thánh đã sai đi. Nghe các giáo sĩ tường trình phải là điều mà hội thánh tha thiết tham dự. Hội thánh cần phải cùng nhóm họp chung với nhau để nghe việc mà Đức Chúa Trời đã thực hiện qua những sứ giả hội thánh đã sai đi.
44. Câu nào mô tả đúng nhất bản tường trình của Banaba và Phaolô?
a) Họ kể về mọi điều mình đã làm cho Đấng Christ.
b) Họ nói về mọi điều Đấng Christ đã làm qua họ.
Rất nhiều hành động anh hùng của Banaba và Phaolô đã được kể lại trong tinh thần khiêm nhường. Đây không phải là những kỳ công của họ làm cho Đức Chúa Trời, nhưng ân điển Ngài tuôn đổ dư dật trên họ mới chính là chủ đề của họ. Chính Đức Chúa Trời - chứ không phải họ - mới là Đấng thực hiện công tác và đã mở cánh cửa đức tin cho dân ngoại bang.
TÓM TẮT
Mục tiêu 9. Nhận ra những tên gọi, nhân vật, và những địa điểm quan trọng được nhắc đến trong 13:1-14:28.
Mục tiêu 10. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung của Côngvụ 13:1-14:28.
45. Ghép cặp những tên gọi, nhân vật và những địa điểm ở cột bên phải với lời mô tả tương ứng được cho ở cột bên trái.
.... a. Vùng miền Nam Galati, nơi có Đẹtbơ và Líttrơ.
.... b. Anh em kết nghĩa hay người được đồng dưỡng với Hêrốt.
.... c. Thành phố cuối cùng được truyền giảng Tin Lành tại vùng Nam Galati.
.... d. Thuật sĩ tại Baphô.
.... e. Vị thần đứng đầu các thần; Banaba đã được xác định là vị thần nầy.
.... f. Thành phố cảng của Antiốt xứ Syri.
.... g. Thành phố cảng tại Bamphili, từ đó Banaba và Saulơ đã quay trở về Antiốt.
.... h. Nơi mà bài giảng của Saulơ trong nhà hội đã được Luca tóm tắt lại.
.... i. Phát ngôn nhân của thần Giubitê; Phaolô đã được đồng nhất hóa với vị thần nầy.
.... j. Vùng nằm gần Antiốt của miền Nam Galati.
.... k. Hòn đảo được Banaba và Saulơ đến thăm đầu tiên.
.... l. Nơi Phaolô suýt mất mạng vì bị ném đá.
.... m. Có lẽ là người da màu; thành viên của "các tiên tri và giáo sư" tại Antiốt.
.... n. Vùng Lamã có thành Bẹtgiê.
.... o. Thành phố mà Banaba và Phaolô đã đến ở phía đông đảo Chíprơ.
.... p. Thành phố mà Banaba và Phaolô đã đến ở phía tây đảo Chíprơ.
.... q. Thành phố thứ nhì được nghe Phaolô và Banaba giảng Tin Lành trong vùng Nam Galati.
.... r. Thành phố mà từ đó, Giăng Mác đã bỏ rơi đoàn truyền giáo.
.... s. Quan trấn thủ của Chíprơ.
.... t. Thành viên của "các tiên tri và giáo sư" tại Antiốt, đến từ vùng Bắc Phi.
1) Baphô.
2) Antiốt xứ Bisiđi.
3) Simêôn Nigiê.
4) Salamít.
5) Áttali.
6) Manahem.
7) Lycaoni.
8) Giubitê.
9) Chíprơ.
10) Đẹtbơ.
11) Lusiút xứ Syren.
12) Ycôni.
13) Sêgiút Phaulút.
14) Sêlơxi.
15) Mẹtcurơ.
16) BaGiêsu - Êlyma.
17) Bẹtgiê.
18) Bisiđi.
19) Líttrơ.
20) Bamphili.
46. Hội thánh đã bắt đầu sự truyền giáo trong sự sốt sắng. Bạn có thể dùng lời của mình tóm tắt những sự kiện chính được mô tả trong 13:1-14:28 không?
..........
Bài tự trắc nghiệm
CÂU ĐÚNG - SAI. Viết chữ Đ vào khoảng trống nếu là câu đúng, viết chữ S nếu là câu sai, rồi sửa câu sai lại cho đúng.
.... 1. Năm lãnh đạo của hội thánh Antiốt được kể tên trong 13:1. Người được kể tên đầu tiên có thể được xem như lãnh tụ quan trọng nhất, và người đó có tên là Saulơ.
Năm lãnh đạo của hội thánh Antiốt được kể tên trong 13:1. Người được kể tên đầu tiên có thể được xem như lãnh tụ quan trọng nhất, và người đó có tên là
..........
.... 2. Simêôn, còn gọi là Nigiê, là một trong những "tiên tri và giáo sư" của hội thánh Antiốt. Biệt danh theo tiếng Latin Niger có lẽ mang nghĩa là "công dân của xứ Nigiê" ở Phi Châu.
Simêôn còn gọi là Nigiê là một trong những "tiên tri và giáo sư" của hội thánh Antiốt. Biệt danh theo tiếng Latin Niger có lẽ mang nghĩa là
..........
.... 3. Lusiút người Syren có lẽ là một trong những người đã giảng đạo đầu tiên cho dân ngoại bang ở Antiốt. Ông đã đến từ xứ Syren ở Bắc Phi.
Lusiút người Syren có lẽ là một trong những người đã giảng đạo đầu tiên cho dân ngoại bang ở Antiốt. Ông đã đến từ xứ Syren
..........
.... 4. Manahem, một trong năm lãnh đạo, được mô tả là anh em kết nghĩa của Hêrốt, nhưng rất có thể ông chỉ cùng học chung với Hêrốt và những người khác trong hoàng tộc.
Manahem, một trong năm lãnh đạo, được mô tả là anh em kết nghĩa của Hêrốt, nhưng rất có thể ông
..........
.... 5. Bổ sung cho nhóm "các lãnh đạo và các tiên tri" của hội thánh Antiốt là Giăng Mác, anh em bà con của Banaba.
Bổ sung cho nhóm "các lãnh đạo và các tiên tri" của hội thánh Antiốt là
..........
.... 6. Từ phần phân tích ngắn gọn về nhóm lãnh đạo nầy, chúng ta rút ra kết luận họ là những con người rất giống nhau về bối cảnh, học vấn, văn hóa, và ngôn ngữ.
Từ phần phân tích ngắn gọn về nhóm lãnh đạo nầy, chúng ta rút ra kết luận họ là những con người
..........
.... 7. Xuất phát từ những quê hương nằm tại nhiều vùng địa lý khác nhau để đến Antiốt, những lãnh đạo nầy đã giúp xây dựng một hội thánh vững mạnh, là hội thánh tạo cơ hội cho sự dẫn dắt của Chúa và sẵn sàng đáp ứng lời thách thức rao truyền Tin Lành cho mọi người không phân biệt ai hết.
Xuất phát từ những quê hương nằm tại nhiều vùng địa lý khác nhau để đến Antiốt, những lãnh đạo nầy đã giúp xây dựng một hội thánh vững mạnh, là hội thánh
..........
.... 8. Một hội thánh như hội thánh tại Antiốt - là hội thánh vừa có người Do thái vừa có người ngoại bang, những người từ tầng lớp giàu có cũng như nghèo khó, những người thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau - thì hội thánh đó chắc hẳn sẽ ủng hộ chiến dịch rao truyền Tin Lành toàn cầu vượt qua những ranh giới chính trị, dân tộc, tôn giáo, xã hội, chủng tộc, và văn hóa
Một hội thánh như hội thánh tại Antiốt - là hội thánh vừa có người Do thái vừa có người ngoại bang, những người từ tầng lớp giàu có cũng như nghèo khó, những người thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau - thì hội thánh đó chắc hẳn sẽ ủng hộ
..........
.... 9. Khi đoàn truyền giáo đầu tiên cho dân ngoại bang đến Chíprơ, chúng ta thấy nguyên tắc đầu tiên trong chiến lược truyền giáo của Phaolô: công tác truyền giáo đòi hỏi những cá tánh mạnh mẽ, là những con người biết hành động một mình trong công việc rao truyền Tin Lành.
Khi đoàn truyền giáo đầu tiên cho dân ngoại bang đến Chíprơ, chúng ta thấy nguyên tắc đầu tiên trong chiến lược truyền giáo của Phaolô: công tác truyền giáo đòi hỏi
..........
.... 10. Yếu tố thứ nhì trong chiến lược truyền giáo của Phaolô được nhìn thấy trong việc chọn lựa cánh đồng truyền giáo. Một nhà truyền giáo mới nên bắt đầu công tác của mình tại một cánh đồng rất xa lạ trong một nền văn hóa mà người ấy chưa hiểu biết gì cả - việc nầy sẽ khiến nhà truyền giáo vận dụng đức tin để hoạt động.
Yếu tố thứ nhì trong chiến lược truyền giáo của Phaolô được nhìn thấy trong việc chọn lựa cánh đồng truyền giáo. Một nhà truyền giáo mới nên bắt đầu công tác của mình
..........
.... 11. Một trong những nguyên tắc đầu tiên hay những yếu tố đầu tiên của chiến lược truyền giáo mà Phaolô và Banaba áp dụng ấy là luôn luôn rao truyền Tin Lành cho dân ngoại bang trước kia - đây là vấn đề ưu tiên.
Một trong những nguyên tắc đầu tiên hay những yếu tố đầu tiên của chiến lược truyền giáo mà Phaolô và Banaba áp dụng ấy là
..........
.... 12. Một đặc trưng nổi bật trong chiến lược truyền giáo của Phaolô và Banaba ấy là: di chuyển thường xuyên, chỉ ở lại trong một khoảng thời gian lâu tại những trung tâm dân cư lớn.
Một đặc trưng nổi bật trong chiến lược truyền giáo của Phaolô và Banaba ấy là:
..........
.... 13. Phaolô và Banaba đã chờ đợi sự chống đối sứ điệp của mình một cách thực tế. Họ tin rằng khi gặp sự tấn công, thì họ phải ứng phó bởi những con người đầy dẫy Đức Thánh Linh
Phaolô và Banaba đã chờ đợi sự chống đối sứ điệp của mình một cách thực tế. Họ tin rằng khi gặp sự tấn công, thì họ phải
..........
.... 14. Những nhà truyền giáo nầy minh họa một nguyên tắc khác nữa trong hoạt động truyền giáo, tức là khi Tin Lành được rao truyền một cách trung tín bằng lẽ thật và quyền năng thì người ta đã làm hết sức rồi, và đừng nên trông chờ có nhiều đáp ứng.
Những nhà truyền giáo nầy minh họa một nguyên tắc khác nữa trong hoạt động truyền giáo, tức là khi Tin Lành được rao truyền một cách trung tín bằng lẽ thật và quyền năng
..........
.... 15. Bài giảng được ghi lại đầu tiên của Phaolô có thể được chia làm hai phần. Phần đầu đề cập đến việc Phaolô khẳng định lời buộc tội Ysơraên, và phần thứ hai đề cập đến một giải pháp ướm thử cho những nan đề của Ysơraên.
Bài giảng được ghi lại đầu tiên của Phaolô có thể được chia làm hai phần.
..........
.... 16. Phaolô và Êtiên đều nhấn mạnh đến quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời trong việc kêu gọi và bảo tồn Ysơraên. Tuy nhiên, khác với Êtiên, Phaolô không tập trung vào chủ đề Ysơraên chối bỏ Đức Chúa Trời.
Phaolô và Êtiên đều nhấn mạnh đến quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời trong việc kêu gọi và bảo tồn Ysơraên. Tuy nhiên, khác với Êtiên, Phaolô
..........
.... 17. Theo Bruce, cả Phaolô lẫn Êtiên đều đi theo phả hệ của dân Do thái trong cấu trúc những lời khuyên dạy của họ - chủ yếu là hình thức hồi tưởng lịch sử.
Theo Bruce, cả Phaolô lẫn Êtiên đều đi theo phả hệ của dân Do thái trong cấu trúc những lời khuyên dạy của họ - chủ yếu là
..........
.... 18. Theo Bruce, ý kiến chung của các sử gia ấy là: bài giảng của Phierơ vào ngày Lễ Ngũ Tuần và bài giảng được ghi lại đầu tiên của Phaolô trong sách Côngvụ có rất ít điểm tương tự.
Theo Bruce, ý kiến chung của các sử gia ấy là: bài giảng của Phierơ vào ngày Lễ Ngũ Tuần và bài giảng được ghi lại đầu tiên của Phaolô trong sách Côngvụ
..........
.... 19. Sự ngược đãi liên tục, sự nản lòng ngấm ngầm, và sự bắt bớ không ngừng mà Banaba và Phaolô phải chịu dạy cho chúng ta nguyên tắc nầy: chúng ta nên xem sự chống đối là lẽ tất nhiên.
Sự ngược đãi liên tục, sự nản lòng ngấm ngầm, và sự bắt bớ không ngừng mà Banaba và Phaolô phải chịu dạy cho chúng ta nguyên tắc nầy:
..........
.... 20. Đáp ứng của hai nhà truyền giáo trước nghịch cảnh dạy cho chúng ta một nguyên tắc nữa để có được công tác truyền giáo thành công: chúng ta thảy đều là con người và hết thảy chúng ta đều đã nhiều lần phàn nàn và chất vấn lãnh đạo của chúng ta.
Đáp ứng của hai nhà truyền giáo trước nghịch cảnh dạy cho chúng ta một nguyên tắc nữa để có được công tác truyền giáo thành công:
..........
.... 21. Xét đến phương pháp chung của họ để khởi sự chức vụ tại một thành phố nào đó, thì có thể đoán trước được phương pháp của Phaolô và Banaba. Tuy vậy, nhiều lần khác họ đã tỏ ra hoàn toàn thiếu mục đích và phương hướng trong công tác của mình.
Xét đến phương pháp chung của họ để khởi sự chức vụ tại một thành phố nào đó, thì có thể đoán trước được phương pháp của Phaolô và Banaba. Tuy vậy, nhiều lần khác
..........
.... 22. Chúng ta học được một nguyên tắc khác nữa qua từng trải của Phaolô và Banaba ấy là: đôi khi bị thử thách lớn nhất của chúng ta xảy đến sau những chiến thắng vĩ đại nhất của chúng ta.
Chúng ta học được một nguyên tắc khác nữa qua từng trải của Phaolô và Banaba ấy là: đôi khi bị thử thách lớn nhất của chúng ta xảy đến sau
..........
.... 23. Chúng ta thấy còn một nguyên tắc khác nữa được dạy dỗ thông qua nghịch cảnh: khi bị thử thách, chỉ việc tìm một nơi an toàn chờ những khẩu lệnh trực tiếp để biết phải làm gì tiếp theo.
Chúng ta thấy còn một nguyên tắc khác nữa được dạy dỗ thông qua nghịch cảnh: khi bị thử thách,
..........
.... 24. Nhờ những thử thách và chức vụ đầy biến động của Phaolô tại vùng Nam Galati, ông đã thể hiện trái của Thánh Linh đã được thử thách và phát triển tại chính vùng đất đầy cam go nầy.
Nhờ những thử thách và chức vụ đầy biến động của Phaolô tại vùng Nam Galati, ông đã thể hiện
..........
.... 25. Hành trình truyền giáo lần thứ nhất kết thúc khi Phaolô và Banaba đến Antiốt và đảm nhận lại những trách nhiệm phục vụ ngày trước của họ.
Hành trình truyền giáo lần thứ nhất kết thúc khi Phaolô và Banaba đến Antiốt và
..........
GIẢI ĐÁP
1. Tất cả đều hết sức quan trọng cho sự ra đi truyền giáo của Côngvụ 13-20
2.
a. Banaba. Vì tên ông luôn luôn xuất hiện trước mãi cho đến Cong Cv 13:13, nên chúng ta có thể cho rằng ông là một lãnh đạo Cơ đốc quan trọng nhất tại Antiốt.
b. Simêôn còn gọi là Nigiê.
c. Lusiút người Syren. Đến từ Bắc Phi, Lusiút có lẽ là một trong những người giảng Tin Lành đầu tiên cho dân ngoại bang tại Antiốt (11:20).
d. Manahem là người đồng dưỡng với vua Chư hầu Hêrốt.
e. Saulơ. Con người nầy có rất nhiều phẩm chất kết hợp cần yếu cho việc đem Tin Lành đến với người Lamã, Hylạp, và người Do thái.
3.
a. Sai.
b Đúng.
4.
a. Sai.
b. Đúng.
5.
a. Đúng.
b. Sai.
6.
a. Sai.
b. Đúng.
7. Saulơ đã được kêu gọi ngay từ lúc hoán cải. Anania đã nói tiên tri với ông về sự kêu gọi của Đức Chúa Trời đến nỗi sau nầy Phaolô đã công nhận lời của Anania là lời của Chúa (so sánh 9:6, 15-16 với 26:16-18). Sự kêu gọi ông đã được tái khẳng định ngắn gọn sau đó tại đền thờ (22:21).
8. b) Ba thành phần nầy phải kết hợp với nhau.
9. Câu trả lời của bạn. Tôi nghĩ rằng hầu hết chúng ta đều giống như Saulơ, đã phải chờ đợi để nhìn thấy ý chỉ đã bày tỏ của Đức Chúa Trời được hoàn thành trong đời sống của chúng ta. (Xem HeDt 10:36.)
10.
a. Sai.
b. Đúng
11.
a. 120 môn đồ đã biệt riêng mình cầu nguyện trong mười ngày giữa Sự Thăng Thiên với ngày Lễ Ngũ Tuần.
b. Việc tuyển chọn Mathia thay cho Giuđa đã được tiến hành sau khi cầu nguyện.
c. Những tín đồ đầu tiên đã dâng mình cầu nguyện.
d. Phierơ và Giăng đang trên đường đi cầu nguyện thì người què được chữa lành.
e. Sau sự giải thoát Phierơ và Giăng khỏi ngục, các tín đồ đã cầu nguyện. Lời cầu xin của họ (4:29-30) đã được nhậm (5:12-16).
f. Các sứ đồ cần phải dâng mình cho chức vụ giảng đạo và cầu nguyện. Bảy chấp sự được chọn đã được biệt riêng ra bằng sự cầu nguyện. (Lời cầu nguyện nầy đã đem lại những kết quả hữu hiệu thấy rõ trong 6:7.)
g. Êtiên đã cầu nguyện cho kẻ thù mình. Lời cầu nguyện của ông đã được trả lời bằng sự hoán cải của Saulơ.
h. Phép báp têm bằng Đức Thánh Linh của các tín hữu Samari đã được kinh nghiệm sau khi Phierơ và Giăng cầu nguyện.
i. Lời cầu nguyện của Phierơ đến trước sự sống lại của Đôca.
j. Cả Cọtnây lẫn Phierơ đều đã nhận được sự hướng dẫn đến gặp nhau đang khi họ cầu nguyện.
k. Sự cầu nguyện sốt sắng của hội thánh cho Phierơ đã đến trước sự giải thoát ông cách kỳ diệu.
12. Hội thánh cũng như bản thân chúng ta đều không thể phát triển nếu không cầu nguyện. Giống như Luca, chúng ta cần phải ý thức đến việc mà Chúa đã làm trong sự cầu nguyện, cũng như là do kết quả của những lời chúng ta cầu nguyện.
13. b) Ba người đã lập thành đoàn truyền giáo đầu tiên.
14.
a) Banaba và Saulơ bắt đầu bằng cách đi đến một nơi gần quê hương. (Chíprơ là quê hương của Banaba (4:36). Một cộng đồng tín hữu đã có trước tại Antiốt (11:19-20). Tin Lành đã phát triển, theo hoạt động của Phaolô, theo những bước tiếp nhau liên tục khi đoàn truyền giáo đi khắp cả đảo nầy, 13:6.)
15.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
16. b) Trước hết, họ đã giảng đạo cho người Do thái.
17. c) Các nhà truyền giáo đã di chuyển thường xuyên.
18.
a) Sự chống đối sứ điệp Tin Lành có thể là một chuyện hoàn toàn bình thường. (Ma quỉ tấn công như Chúa Jesus đã cho thấy một cách rõ ràng (13:19). Một người Do thái tên là BaGiêsu đã dự phần vào pháp thuật (vì vậy, ông có tên là Êlyma, tức thuật sĩ) và đã vận dụng quyền lực của mình trên Sêgiút Phaulút.)
19.
a) Sự công kích nhà truyền giáo và / hoặc sứ điệp của người nầy phải được ứng phó bởi những con người được đầy dẫy Đức Thánh Linh. (Dầu câu a) là câu trả lời chính xác, nhưng đừng xem câu b) phủ nhận nhu cầu cần phải vận dụng sự khôn ngoan khi tình huống đòi hỏi.)
20. 2:4 9:7 cho thấy từng trải ban đầu của Phierơ và Phaolô trong phép báp têm bằng Đức Thánh Linh. 4:8 và 13:9 cho thấy cách Thánh Linh liên tục đầy dẫy họ như thế nào khi tinh thần của họ được mở rộng để Thánh Linh chiếm hữu càng thêm khi nhu cầu càng tăng thêm trước những hoàn cảnh thử thách.
21. c) Có lẽ Phaolô nhớ đến sự mù lòa đã khiến cho ông nhìn thấy được (9:8; 26:18).
22. a) Khi Tin Lành được rao giảng một cách trung tín.
23.
a. Khi đoàn truyền giáo gồm ba người lên đường, thì Banaba lãnh đạo. Khi họ vượt qua hết đảo Chíprơ, thì không còn "Banaba và Saulơ" nữa, nhưng là "Phaolô với đồng bạn mình." Có thể Mác đã tức giận trước "sự giáng cấp" của Banaba, người anh em chú bác với mình.
b. Có thể Mác trở về chỉ vì nhớ nhà. Nên nhớ rằng Côngvụ 13:13 nói Mác quay về Giêrusalem, chứ không phải về nơi khởi hành là Antiốt.
24.
a. Đức Chúa Trời đã chọn tổ phụ chúng ta.
b. Đức Chúa Trời làm cho dân ấy thạnh vượng lúc họ ở trong xứ Êdíptô.
c. Đức Chúa Trời đã dùng cánh tay quyền năng dẫn họ ra khỏi xứ Êdíptô.
d. Ngài đã chịu đựng tính nết của họ suốt bốn mươi năm trong đồng vắng.
e. Ngài đã phá bảy dân trong xứ Canaan.
f. Ngài đã khiến họ nhận lấy đất của bảy dân đó để làm cơ nghiệp.
g. Đức Chúa Trời lập cho họ các quan đoán xét cho đến tận đời tiên tri Samuên.
h. Ngài đã ban Saulơ làm vua của họ.
i. Ngài đã bỏ vua Saulơ.
j. Ngài đã lập Đavít làm vua của họ.
k. Ngài đã dấy lên cho dân Ysơraên một Cứu Chúa, là Đức Chúa Jesus.
25.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
26. b) Chúa Jesus bị chối bỏ vì dân Ysơraên không hiểu lời Kinh Thánh; do đó Ngài đã phải chịu cảnh không được họ công nhận. (Đây là kết luận chính xác trong bài giảng của Phaolô.)
27. b) Sự phục sinh của Đấng Christ.
28. b) Chúa Jesus đã có từ đầu với Đức Chúa Trời, và là Đức Chúa Trời.
29.
a. Sai.
b. Đúng.
30.
a. Đúng.
b. Sai.
31. Bài giảng của Phaolô chắc chắn đã thể hiện những đặc điểm nầy. Bài giảng truyền đạt điều mà Lời Đức Chúa Trời đã phán (hành động trong quá khứ), và đang phán (ứng dụng hiện tại). Thính giả của ông đã khao khát nghe thêm. Nhiều người Do thái và người ngoại bang cải đạo (quay về với Do thái giáo) đã trở thành tín đồ của Đấng Christ.
32. Rõ ràng, tất cả những lập luận nầy đều đã được sử dụng.
33. b) Lúc bấy giờ, Phaolô bắt đầu giảng trực tiếp cho dân ngoại bang bên ngoài môi trường nhà hội. (Phaolô đã rút ra mẫu mực của mình từ khải tượng của Êsai về mục đích của Ysơraên, một mục đích mà dân tộc nầy đã chối bỏ nhưng được ứng nghiệm bởi Đấng Mêsia của Ysơraên - EsIs 49:6, LuLc 2:32 - và bởi môn đồ của Ngài - Cong Cv 13:47).
34.
a. sai.
b. Đúng.
c. Đúng (Những người giảng đạo trong Tân Ước không nhắc đến điều nầy. Sự làm theo Tin Lành đòi hỏi sự chọn lựa của con người.)
d. Đúng. (Khi tín đồ kinh nghiệm ân điển của Đức Chúa Trời, người ấy nhận được sự yên ủi của cả câu b và câu c , một sự yên ủi để nâng đỡ người ấy trong thử thách và bắt bớ.)
e. Đúng. (Câu trả lời nầy đúng vì cớ nó nêu ra một sự thật: sự hiểu biết đầy đủ về quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời trong mối tương quan với quyền tự do của chúng ta quả là một điều mầu nhiệm mà Đức Chúa Trời vẫn chưa bày tỏ cho chúng ta. Trái lại, Ngài đã giữ lại sự mầu nhiệm nầy trong bản tánh của Ngài (PhuDnl 29:29).
35.
a. Sai.
b. Đúng. (Phaolô đã đến và bị bệnh tại Galati - GaGl 4:13-14. Vị sứ đồ đã bị rượt đuổi khỏi Antiốt và Ycôni. Phaolô đã bị tấn công cách tàn bạo khi bị ném đá và bị bỏ mặc cho chết. Phaolô và Banaba đã dạy dỗ tín hữu Galati phải biết xem những hoạn nạn là điều tất nhiên.)
36.
a. Đúng.
b. Sai.
37.
a. Sai.
b. Đúng.
38.
a. Sai.
b. Đúng.
39.
a. Sai.
b. Đúng.
40.
a. Đúng.
b. Sai.
41.
a. Chờ đợi sự chống đối và thử thách.
b. Tránh đổ thừa, phàm nàn, cay đắng, hoặc tự thương hại mình. Được đầy dẫy Đức Thánh Linh và sự vui mừng.
c. Biết thích nghi. Học hỏi để nhạy bén với những điều mà Đức Thánh Linh có thể đòi hỏi trong mỗi tình hình cụ thể.
d. Những trận chiến tồi tệ nhất xảy ra sau những chiến thắng vĩ đại nhất. Thận trọng về từng trải "ở thung lũng" sau khi được ở trên đỉnh núi.
e. Đừng trở nên thụ động. Chiến đấu chống lại những trở ngại. Đánh trận tốt lành vì cớ đức tin (nghĩa đen là, "chịu thống khổ một cách tốt lành," ITi1Tm 6:12).
f. Chăm xem điều mà Đức Chúa Trời đang gieo trồng qua nghịch cảnh của mình. Trái của Đức Thánh Linh sinh ra từ mảnh đất chiến đấu vật vã của người đó. Một người đến với Đức Chúa Jesus vì cớ người ấy nhìn thấy được một thực tại mà trở ngại không thể ngăn cản hay xóa bỏ nó được.
42.
a. Sai.
b. Sai.
c. Đúng. (Những mạng lịnh và những lời hứa của Mathiơ Mat Mt 28:19 Cong Cv 2:38-39 là dành cho hết thảy mọi người . Luca không nhắc đến những từng trải nầy vì cớ ông xem thính giả của ông đương nhiên biết chúng là những từng trải tiêu chuẩn.)
43.
a. Làm vững mạnh đức tin các tín đồ.
b. Khuyên họ vững lòng giữ vẹn đức tin, cảnh cáo họ rằng: “Phải trải qua nhiều nỗi khó khăn mới vào được nước Đức Chúa Trời."
c. Các trưởng lão được chỉ định tại mỗi nơi. (Lưu ý rằng trong những hội thánh “trưởng thành” hơn, cấp lãnh đạo đã được tuyển chọn bởi hội chúng (Cong Cv 6:3-6), và trong những hội thánh non trẻ, kém trưởng thành hơn, thì cấp lãnh đạo được chỉ định ra (14:23). Việc thiết lập những người trong cấp lãnh đạo cho thấy Phaolô và Banaba đã có ý định cho các hội thánh trở thành những hội thánh bản xứ.)
d. Các tín đồ dâng mình cho Chúa bằng sự cầu nguyện và kiêng ăn.
44. b) Họ nói về mọi điều Đấng Christ đã làm qua họ.
45.
a. 7) Lycaoni.
b. 6) Manahem.
c. 10) Đẹtbơ.
d. 16) BaGiêsu - Êlyma.
e. 8) Giubitê.
f. 14) Sêlơxi.
g. 5) Áttali.
h. 2) Antiốt xứ Bisiđi.
i. 15) Mẹtcurơ.
j. 18) Bisiđi.
k. 9) Chíprơ.
l. 19) Líttrơ.
m. 3) Simêôn Nigiê.
n. 20) Bamphili.
o. 4) Salamít.
p. 1) Baphô.
q. 12) Ycôni.
r. 17) Bẹtgiê.
s. 13) Sêgiút Phaulút.
t. 11) Lusiút xứ Syren.
46. Banaba và Saulơ đã được các lãnh đạo hội thánh Antiốt biệt riêng ra cho chức vụ truyền giáo. Hành trình truyền giáo của họ đi qua Chíprơ, Bẹtgiê (nơi Mác đã lìa đoàn), và những thành phố vùng Nam Galati gồm Antiốt xứ Bisiđi, Ycôni, Líttrơ, và Đẹtbơ. Tại những thành phố nầy, những hội thánh mạnh mẽ đã được thành lập. Do đó, giai đoạn đầu của công tác truyền giảng Tin Lành tại vùng nầy đã đạt được thành công đáng kể. Với ngoại lệ là chuyến đi đến Chíprơ, Banaba và Saulơ sau đó đã quay trở lại những nơi họ đã đi qua trên đường trở về Antiốt xứ Syri. Khi tường trình lại cho hội thánh mẫu hội tại Antiốt, họ đã mô tả Đức Chúa Trời đã "mở cửa đức tin cho người ngoại" là thể nào.
Nghị Quyết Của Các Sứ Đồ
Khi bắt đầu bài học thứ nhất của Phần Bốn, chúng ta thấy công tác của Đức Thánh Linh trong việc biệt riêng những chiếc bình được chọn của Ngài cho công tác truyền giáo đầu tiên cho dân ngoại bang. Chúng ta nhìn thấy biểu hiện phi thường của chiến lược truyền giáo đem lại một kết quả đầy ý nghĩa. Và chúng ta thấy một số nguyên tắc tốt được các nhà truyền giáo đầu tiên sử dụng, thể hiện được những phản xạ của Cơ đốc nhân trước gian khó và ích lợi mà Đức Chúa Trời đem lại qua nghịch cảnh. Trong bài nầy chúng ta học đến Giáo Hội Nghị Giêrusalem và Nghị Quyết Của Các Sứ Đồ.
Những vấn đề trọng tâm liên quan đến sự tăng trưởng nhanh chóng và năng động của hội thánh đầu tiên là những vấn đề xuất phát từ sự hoán cải của vô số người ngoại bang. Những nan đề đòi hỏi phải có giải pháp là: người ngoại bang có bắt buộc phải phục theo Luật Pháp (cùng với toàn bộ những qui định về lễ nghi và sự ăn kiêng), và liệu dân ngoại bang có bắt buộc phải chịu cắt bì để được cứu hay không? Vấn đề nầy đã được đưa vào trong Giáo Hội Nghị và được giới hạn vào thắc mắc cơ bản: người ta được xưng công bình bởi luật pháp kèm theo với đức tin nơi Đấng Christ, hay được xưng công bình chỉ bởi duy đức tin mà thôi? Trong giờ phút căng thẳng và hết sức nghiêm trọng của cơn khủng hoảng, Phierơ làm chứng về mạng lịnh của Đức Chúa Trời cho công tác truyền giảng cho dân ngoại bang, và về việc Ngài khẳng định mạng lịnh nầy như thế nào khi ban cùng một kinh nghiệm cho người ngoại bang cũng như đã ban cho người Do thái. Trong khi đó Đức Thánh Linh đã vận hành khắp nơi, làm tan chảy những tấm lòng chai cứng, soi sáng những tinh thần nhạy bén, thuyết phục dân Do thái cũng như dân ngoại bang rằng Đức Chúa Trời sẽ dùng quyền tể trị tối thượng của Ngài đón nhận mọi kẻ tin. Lời chứng của Phierơ cùng với lời chứng của Banaba và Phaolô khiến Giacơ gợi ý cho Giáo Hội Nghị một thỏa hiệp mà nó xác lập nguyên tắc về quyền tự do của dân ngoại bang nhưng không phương hại đến sự quí trọng mà Cơ đốc nhân người Do thái dành cho Luật Pháp. Và khi vấn đề nầy được giải quyết, con đường đã được rộng mở cho những hành trình truyền giáo tiếp theo.
Ở đây, chúng ta thấy vẻ đẹp của công tác Thánh Linh ở giữa các anh em đến từ nhiều bối cảnh văn hóa và tôn giáo khác nhau. Duy chỉ ân điển Đức Chúa Trời mới có thể giúp con người vốn đã quen nếp trong cách sống của mình lại trở nên uyển chuyển vì cớ sự nghiệp của Đấng Christ. Những anh em nầy đã dẹp những thành kiến vụn vặt của mình qua một bên, để vấn đề trọng đại hơn là sự hiệp một của Cơ đốc nhân có thể được thắng hơn. Bí quyết thành công của Giáo Hội Nghị là ở chỗ họ đã giao quyền ưu tiên trong sinh hoạt của hội thánh cho Đức Thánh Linh. Khi bạn tìm cách đem đời sống và sự làm chứng của mình qui phục quyền kiểm soát và sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, thì cũng giống như họ, bạn sẽ nhìn thấy những tấm lòng tan chảy và sự hòa hợp tinh thần trong nhóm, hội thánh, và trong sự tương giao của bạn.
Dàn bài
Những Nguyên Nhân Của Giáo Hội Nghị Giêrusalem
Cách Giải Quyết Nan Đề Của Hội Thánh
So Sánh Cong Cv 15:1-41 Với GaGl 2:1-21
Sự Phân Rẽ Giữa Phaolô và Banaba
Chuyến Viếng Thăm Lại Các Hội Thánh Vùng Nam Galati
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Nêu ít nhất hai nguyên nhân khiến triệu tập Giáo Hội Nghị Giêrusalem, dựa vào 7:1-15:41, và giải thích ý nghĩa của những vấn đề đối với nhiệm vụ của Cơ Đốc Nhân trong 1:8.
Kể ra tối thiểu năm bước được áp dụng trong tiến trình rút ra quyết định tại Giáo Hội Nghị Giêrusalem dựa vào 15:1-29, và giải thích những bước nầy có thể giúp chúng ta như thế nào khi giải quyết những nan đề xuất hiện giữa những tín đồ với một tinh thần yêu thương và hòa thuận.
So sánh và đối chiếu 15:1-41 với GaGl 2:1-10 để xem chúng có nói đến cùng một sự kiện hay không, và nêu ra ba nguyên nhân để ủng hộ trường hợp chúng đề cập đến cùng một tư liệu và mô tả cùng một sự kiện.
Mô tả sự phân rẽ giữa Phaolô và Banaba như được ghi lại trong Cong Cv 15:36-40 và kể ra năm thành tựu tích cực xuất phát từ trường hợp nầy và ý nghĩa của mỗi thành tựu.
Sinh hoạt học tập
1. Ngoài phần đọc 15:1-16:5, xin đọc đoạn 2 của Galati. Xin đọc ít nhất ba lần để nhớ kỹ những sự kiện nầy, nhằm mục đích so sánh và phân tích với phần trong sách Côngvụ.
2. Đọc kỹ Bruce, đặc biệt lưu ý phần giải thích của ông về thời điểm viết ra thơ Galati cũng như bằng chứng ông nêu ra.
3. Tra ý nghĩa của những từ nào bạn chưa biết trong phần từ vựng.
4. Xem lại Bài 9 và 10 theo hướng dẫn trong tập học viên. Lấy tờ Bài Đánh Giá Tiến Bộ Phần Bốn với những tờ bài làm ra khỏi tập học viên. Theo các chỉ dẫn để điền vào tờ bài làm, rồi gởi ngay đến cho giáo viên ICI của bạn. Giáo viên sẽ chấm bài và báo kết quả cho bạn.
Từ vựng
bị thỏa hiệp compromised
bảo thủ conservative
xử trí khôn khéo diplomatic
phân biệt đối xử discriminated
gây chia rẽ divisive
hợp pháp legitimate
những phương kế trong nghị trường political maneuvering
thủ đoạn chính trị parliamentary devices
thiên vị preferential
được đẩy tới propelled
chứng cứ bác bỏ rebuttal
cứu vớt salvaging
bị thay thế superseded
dao động vacillate
Khai triển bài học
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA GIÁO HỘI NGHỊ GIÊRUSALEM
Cong Cv 15:1-5 Bruce 298 - 305
Mục tiêu 1. Thảo luận những nguyên nhân cơ bản và sự kiện cụ thể đã dẫn đến việc triệu tập Giáo Hội Nghị Giêrusalem để giải quyết vấn đề chấp nhận người ngoại bang vào hội thánh.
Giáo Hội Nghị Giêrusalem là tên thường được dùng nhất để chỉ về hội đồng của giáo hội được mô tả trong 15:1-41. Nó còn được gọi là hội nghị công đồng đầu tiên của hội thánh. Luca mô tả biến cố gây nên việc triệu tập Giáo Hội Nghị (15:1-5), Giáo Hội Nghị (15:6-21), và những kết quả sau đó của Giáo Hội Nghị (15:22-16:5).
Trước hết, chúng ta xem xét những nguyên nhân cơ bản khiến triệu tập Giáo Hội Nghị Giêrusalem. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong mỗi câu hỏi sau đây.
1.
a. Từ đầu, hội thánh Giêrusalem đã khởi sự làm tròn Đại Mạng Lịnh trong Mathiơ Mat Mt 28:19-20, cùng với mạng lịnh của Chúa trong Cong Cv 1:8 một cách có ý thức.
b. 1:1-14:28 không ghi lại một ví dụ đơn lẻ nào, mà qua đó hội thánh Giêrusalem dự định tiến hành hoạt động truyền giáo bên ngoài khu vực trước mắt của hội thánh.
2.
a. Các tín đồ tại hội thánh Giêrusalem đã xem sự khải thị về Chúa Jesus trong tư cách Đấng Mê-sia là sự bổ sung cho đức tin của tổ phụ họ, chứ không phải là sự thay đổi đức tin ấy trên bất cứ phương diện nào.
b. Hội thánh đầu tiên ở Giêrusalem đã đoạn tuyệt dứt khoát với phong tục Do thái và lối sống Do thái. Hội thánh đã hiểu được ý nghĩa ấy là công tác của Đấng Christ biểu thị rằng những thánh lễ tại đền thờ cũng như luật pháp không còn tầm quan trọng nào đối với nếp sống Cơ đốc.
Chúng ta thấy sự thờ phượng tại đền thờ đã được giữ cách đều đặn (2:46), và sứ điệp của Êtiên là độc nhất vô nhị, khác với sứ điệp của các tín đồ khác. Vì vậy, Êtiên bị xét xử không phải vì ông giảng sự phục sinh của Đấng Christ, nhưng vì cớ những hàm ý đối với luật pháp và sự thờ phượng tại đền thờ có trong bài giảng Đấng Christ là Đấng Mêsia .
3.
a. Người Samari đã được nghe Tin Lành vì cớ hội thánh Giêrusalem không xem nền thần học “xa lạ” và bối cảnh chủng tộc của họ là những trở ngại cho sứ điệp Tin Lành. Các nhà truyền giáo đã được hội thánh Giêrusalem sai đến với người Samari vì cớ tình yêu thương của hội thánh dành cho những linh hồn hư mất.
b. Tin Lành đã đến với người Samari qua Philíp, vì cớ hội thánh bị tản lạc do cơn bắt bớ của Saulơ.
Tại thời điểm của 8:1-40, một hoặc cả hai điều kiện sau đây đã đặc trưng cho hội thánh Giêrusalem: 1) Các lãnh đạo hội thánh đã bận rộn với sự tăng trưởng năng động của hội thánh mình, nên do đó tại thời điểm nầy, họ không có những kế hoạch để bành trướng; và 2) thành viên của hội thánh có những quan niệm hẹp hòi về văn hóa và chủng tộc, tin rằng Đức Chúa Trời chỉ cứu những người nào sống đúng theo nếp sống của họ mà thôi.
4.
a. Hội thánh Giêrusalem đã thấy ngay từ đầu rằng đích thân Đấng Christ đã làm trọn những qui định của luật pháp. Vì thế, những người giảng đạo như Êtiên và thần học như thần học của Phaolô và của thơ Hêbơrơ đã thống trị khắp nơi ngay từ thời đầu.
b. Hội thánh đầu tiên đã xem Đấng Christ là sự ứng nghiệm lời tiên tri, nhưng vẫn còn thực hành và dạy rằng tín đồ cũng phải làm trọn những qui định của Luật Pháp nữa.
Phierơ là một trong những lãnh đạo của hội thánh, đã phản ảnh sự gắn bó vững chắc của tín đồ đối với luật pháp qua lời của ông trong 10:14. Sự hoán cải của nhiều thầy tế lễ (6:7) và người Pharisi (15:5) đã là một sự hoán cải để đến với đức tin nơi Chúa Jesus là Đấng Mêsia, chứ không phải là một sự hoán cải khỏi những niềm tin thần học của họ xưa nay.
5. a. Sự cứu rỗi cho Cọtnây, gia đình và bạn hữu ông đã được khởi xướng bởi sự khải thị từ Đức Chúa Trời cho một vị sứ đồ vốn đã bắt đầu không xem trọng một số những phân biệt giữa vật tinh sạch và vật không tinh sạch.
b. Chính bởi công tác truyền giảng của các giáo sĩ Giêrusalem tại Sêsarê mà Cọtnây, gia đình và bạn hữu của ông đã được cứu rỗi.
Phierơ đã nhận được sự khải thị đang khi ở trong tình trạng "không tinh sạch" vì cớ ông ở tại nhà của một thợ thuộc da (9:43). Một thành phần trong hội thánh Giêrusalem đã chống đối dữ tợn chức vụ của Phierơ tại nhà Cọtnây.
6.
a. Hội thánh Antiốt xứ Syri đã được thành lập như là kết quả chức vụ của các tín đồ lưu hành đến từ Chíprơ và Syren, là những người đã rao giảng sứ điệp cho người Do thái và người Gờréc.
b Khi hội thánh Giêrusalem nhận ra rằng thành phố lớn thứ ba trên thế giới nầy chỉ cách họ 300 dặm, và đó hẳn sẽ là một trụ sở lý tưởng để truyền Tin Lành cho thế giới Lamã, hội thánh đã cử Banaba và Saulơ đến thành lập hội thánh tại đó.
Sự mở mang Tin Lành đến với người Samari, hoạn quan Êthiôbi, Cọtnây, và Antiốt đã không đến do kết quả nỗ lực truyền giáo của hội thánh Giêrusalem. Chúng ta không hề đọc thấy lần nào về việc hội thánh tìm cách làm trọn Đại Mạng Lịnh. Trái lại, Tin Lành lan truyền nhờ sự khải thị đặc biệt (Cong Cv 8:26; 10:1-6, 9-20) và sự bắt bớ (8:1, 4; 11:19-20).
7. Câu nào sau đây phản ánh chính xác nhất thái độ của tín đồ Giêrusalem đối với công tác truyền giáo của hội thánh?
a) Vào thời điểm Giáo Hội Nghị Giêrusalem (khoảng năm 49 S.C.), hay gần 20 năm sau khi hội thánh được khai sinh, tinh thần "không truyền giáo" đã tồn tại cách mạnh mẽ giữa vòng tín đồ hội thánh Giêrusalem.
b) Trong gần 20 năm tồn tại, hội thánh Giêrusalem đã trở nên nổi tiếng trên khắp thế giới vì những nỗ lực truyền giáo của hội thánh cho dân ngoại bang.
c) Thật không công bằng khi gọi hội thánh Giêrusalem là "không có tinh thần truyền giáo." Hội thánh tin vào sự truyền bá Tin Lành. Điều gọi là cảm xúc "không truyền giáo" thực ra là thái độ cho rằng đừng nên tiếp nhận dân ngoại bang vào hội thánh cho đến khi họ đã làm theo nếp sống của người Do thái.
Do thành phần "bảo thủ" kiên quyết trong hội thánh, người ta đã không đề ra một kế hoạch nào cho công tác truyền giảng Tin Lành cho dân ngoại bang. Vấn đề đem Tin Lành đến cho dân ngoại bang đúng ra nên được thay thế bởi cuộc tranh luận về cách để đem Tin Lành đến cho họ. Thay vì đợi hội thánh Giêrusalem quyết định về chiến lược, Chúa chỉ việc đem Tin Lành đến cho người ngoại rồi để cho hội thánh Giêrusalem đối diện với fait accompli (việc đã rồi và hiển nhiên là không thể đảo ngược tình thế nữa)!
8. Câu nào sau đây mô tả đúng nhất nguyên nhân khiến hội thánh Giêrusalem không được Chúa dùng để đem Tin Lành cho dân ngoại bang?
a) Họ không được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
b) Họ đã không chứng kiến công việc kỳ diệu của Đức Chúa Trời.
c) Họ có cấp lãnh đạo tồi.
d) Họ chưa được thử nghiệm trong thử thách và không thể sống sót qua những khắc nghiệt của cơn bắt bớ.
e) Họ thiếu tình yêu thương lẫn nhau.
f) Họ không cầu nguyện.
g) Thần học của họ cản trở bước tiến của họ.
Tín đồ tại hội thánh Giêrusalem đã được huấn luyện trong giáo lý của các sứ đồ (2:42), và họ tin rằng Chúa Jesus vừa là Chúa vừa là Đấng Mêsia (2:36). Tuy nhiên, thần học của họ còn khiếm khuyết. Họ chưa hiểu đầy đủ về mối liên quan của Đức Chúa Jesus với toàn thế gian, hay về phương diện gia nhập cộng đồng tín đồ.
Bạn có thấy bực bội khi hội thánh Giêrusalem không trọn lành hay không? Nhiều khi người ta vô tình nói rằng: "Chúng ta hãy quay về với hội thánh đầu tiên," cho rằng hội thánh nầy trọn vẹn và không hề có khiếm khuyết nào. Tuy nhiên, Chúa để cho chúng ta thấy những khuyết điểm cũng như những ưu điểm của nó, để chúng ta có thể nhận được ích lợi từ những điều đó, bằng cách tránh những thất bại trong khi hưởng lấy những thành công của hội thánh đầu tiên.
Chúng ta đã lần ra những nguyên nhân cơ bản trong suốt hai thập kỷ đã dẫn đến Giáo Hội Nghị Giêrusalem.
9. Câu nào sau đây được xem là sự kiện cụ thể dẫn đến việc triệu tập Giáo Hội Nghị Giêrusalem?
a) Thành viên của phe chủ trương cắt bì đã từ Giuđê đến Antiốt dạy cho các tín hữu dân ngoại bang rằng họ không thể được cứu nếu không chịu phép cắt bì.
b) Banaba và Saulơ không biết chắc bản chất chức vụ của họ cho người ngoại bang. Trước khi tiếp tục chức vụ trên một cơ sở không chắc chắn như thế, họ đã đến với các sứ đồ và các trưởng lão để xin lời khuyên và sự chấp thuận.
Giải đáp cho thắc mắc về cơ sở để đón nhận dân ngoại bang vào trong hội thánh là rất cần yếu. Đây là một vấn đề nhạy bén và hẳn sẽ chưa được giải quyết một cách dứt khoát. Tuy nhiên, khi anh em từ xứ Giuđê (những người đại diện cho bên phản ứng với quyền tự do hay với tinh thần không tuân thủ Luật Pháp của dân ngoại bang) đến thành phố quốc tế Antiốt, và dạy rằng người ngoại bang không thể được cứu nếu không tuân theo những qui định tôn giáo của Do thái giáo, thì một cuộc đối chất đã bùng nổ giữa những nhà quán quân của phe chủ trương cắt bì với những lãnh đạo hội thánh Antiốt. Khủng hoảng nầy đã đóng vai trò cụ thể dẫn đến việc triệu tập Giáo Hội Nghị Giêrusalem.
10. Câu nào sau đây mô tả đúng nhất sự dạy dỗ của phe chủ trương cắt bì?
a) Người ta phải sống một đời sống thánh khiết thì mới được cứu rỗi.
b) Nhờ ân điển bởi đức tin mà anh em được cứu.
c) Mọi người nam phải chịu phép cắt bì nếu muốn được cứu rỗi.
Đặc trưng giáo lý trọng tâm của phe chủ trương cắt bì ấy là: mọi người nam phải chịu phép cắt bì thì mới được cứu rỗi. Chúng ta chỉ có thể giả định điều mà những người nầy tin về sự cứu rỗi cho phụ nữ và các em gái. Có lẽ họ dạy rằng nữ giới được cứu nhờ ảnh hưởng của những người cha hay những người chồng tin kính. Hoặc lẽ họ lý luận rằng các em gái và phụ nữ được cứu nhờ giữ theo phong tục của Môise vốn được áp dụng cho phụ nữ kèm theo niềm tin Đức Chúa Jesus là Đấng Mêsia. Chúng ta không cần phải phỏng đoán thái độ của Phaolô đối với phe này, vì trong GaGl 5:12 ông nói một cách rõ ràng rằng: "Nguyền cho những kẻ gieo sự rối loạn trong anh em thà họ tự chặt mình là hơn!"
11. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG về lối tiếp cận của phe chủ trương cắt bì với các tín đồ ngoại bang? Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG nhất trong mỗi câu hỏi sau đây, cũng như những bài tập Đúng - Sai trong suốt bài học nầy.
a. Phe chủ trương cắt bì có thể đã trích dẫn rất nhiều Kinh Thánh Cựu Ước để dẫn chứng cho quan điểm của mình.
b. Phe chủ trương cắt bì đã thành thật trong niềm tin của mình.
c. Phe chủ trương cắt bì có thể nói rằng đại đa số tín đồ của hội thánh Giêrusalem, có thể kể cả một số vị lãnh đạo, đã ủng hộ quan điểm của họ.
Nếu chỉ vì cớ một người trích dẫn Kinh Thánh, thì không có nghĩa là người ấy sử dụng Kinh Thánh một cách đúng đắn. Satan đã trích dẫn Cựu Ước, nhưng áp dụng câu đó một cách sai lầm (LuLc 4:9-12). Phaolô cho thấy cách mà phe chủ trương cắt bì đã không hiểu Kinh Thánh (RoRm 2:25-29). Sự thành thật không phải là tiêu chuẩn để phân rẽ lẽ thật ra khỏi sai lầm. Lẽ thật cũng không thể xác định bằng cách biểu quyết của đa số.
Phaolô và Banaba đã bất đồng mạnh mẽ với phe chủ trương cắt bì. Chúng ta có thể tái lập lối tiếp cận của Phaolô với họ bằng cách đọc sách Galati, là sách hoặc được viết trong thời kỳ nầy, hoặc ít lâu sau Giáo Hội Nghị Giêrusalem.
12. Hội Thánh đầu tiên không phải là không biết đến những phái đoàn đại biểu “chính thức.” Trong những câu Kinh Thánh sau đây, ghi ra trường hợp mà các thiên sứ hay con người đã được chỉ định cho những nhiệm vụ cụ thể, hoặc bởi Chúa, hội thánh, hoặc bởi cấp lãnh đạo của hội thánh.
..........
b. 8:14
..........
c. 9:38
..........
d. 10:5
..........
..........
f. 11:22
..........
g. 11:30
..........
h. 13:2-3
..........
i. 15:2
..........
j. 15:22
..........
13. Dựa vào những câu Kinh Thánh trên, câu nào sau đây mô tả đúng nhất bản chất của chuyến đi đến Antiốt của một số thành viên của phe chủ trương cắt bì?
a) dường như họ đã được hội thánh Giêrusalem sai đi một cách chính thức.
b) dường như họ đã tự ý đến.
Phaolô, Banaba, và những đồng bạn của ông thi hành chức vụ cho các tín đồ tại Phênixi trên đường đến Giêrusalem.
14. Chúng ta không được biết các chi tiết của hội thánh được thành lập tại xứ Phênixi (Tyrơ và Siđôn, những thành phố lớn). Bằng chứng nào trước đây trong sách Côngvụ được Luca nêu ra để cho biết sứ điệp Tin Lành đã đến với xứ Phênixi?
..........
15. Đáp ứng tại Giêrusalem với bản tường trình của Phaolô và Banaba về sự hoán cải của dân ngoại bang khác thế nào với đáp ứng tại Phênixi và Samari?
..........
16. Bạn có ngạc nhiên khi đọc thấy người người Pha ri si trở thành những người tin Đức Chúa Jesus là Đấng Mêsia không?
..........
Phe Pha ri si trước sau đều chống đối Đức Chúa Jesus một cách mạnh mẽ. Tuy nhiên, giáo lý cơ bản của họ có nhiều điểm chung: niềm tin nơi sự soi dẫn của luật pháp, các Thithiên, và các sách tiên tri; và tin nơi sự sống lại, các thiên sứ, và nhu cầu đối với Đấng Mêsia. Người Pha ri si nào tin nơi Chúa thì họ chỉ việc thêm vào giáo lý vốn có của họ lời tuyên xưng rằng Đức Chúa Jesus - bởi sự phục sinh của Ngài - đã chứng tỏ Ngài là Đấng Mêsia. Bởi ân điển và sự tha thứ của Đức Chúa Trời, họ đã ở trong hội thánh!
CÁCH GIẢI QUYẾT NAN ĐỀ CỦA HỘI THÁNH
15:5-35 Bruce 305 - 317
Mục tiêu 2. Nêu ra những bước được sử dụng trong tiến trình đạt đến quan điểm của Giáo Hội Nghị Giêrusalem về một vấn đề đang có khả năng bùng nổ và gây chia rẽ, và giải thích ý nghĩa của mỗi bước.
Nan đề của hội thánh đầu tiên đã xuất hiện do sự đối xử thiên vị với những quả phụ Hêbơrơ (Cong Cv 6:1-6). Bởi phương cách sống theo lối Gờréc của họ, những quả phụ Hêlênít gốc Do thái cảm thấy họ bị đối xử phân biệt trong việc phân phát lương thực hằng ngày. Trong 15:1-41, một lần nữa vấn đề lại xuất phát từ sự bất đồng về văn hóa. Lần nầy không phải là vấn đề giữa các quả phụ người Hêbơrơ với các quả phụ Hêlênít gốc Do thái nữa; đúng hơn đây là vấn đề chia rẽ các tín đồ Do thái và tín đồ dân ngoại bang.
15:5-35 cho chúng ta thấy sáu bước đã được hội thánh áp dụng để giải quyết nan đề có nguy cơ gây chia rẽ hội thánh. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong mỗi câu hỏi sau đây, và bạn sẽ khám phá những nguyên tắc giúp giải quyết những tranh luận giữa vòng các tín đồ.
17.
a. Vấn đề để Giáo Hội Nghị xem xét đã được người Pha ri si xác định rõ ràng: hội thánh không được tiếp nhận người ngoại bang trừ khi họ chịu phép cắt bì và giữ luật pháp Môise.
b. Những cảm giác không tốt tồn tại giữa nhiều thành phần khác nhau trong hội thánh, nhưng không một ai muốn lên tiếng cách rõ ràng. Do đó, hội đồng đã kéo dài với vấn đề thực tiễn nầy, nhưng được che đậy bởi việc thảo luận một cách bóng bẩy, mất thì giờ về những vấn đề thứ yếu, và sử dụng những thủ đoạn chính trị cho những vấn đề đang được tranh luận trên nghị trường, để biết chắc chắn phe nào sẽ chiếm đa số phiếu.
Bước thứ nhất để giải quyết nan đề trong hội thánh đó là xác định rõ ràng nan đề đó.
18.
a. Giacơ, lãnh đạo của hội thánh Giêrusalem, đã cẩn thận sắp xếp trước những người nào sẽ phát biểu. Ông đã bỏ qua những người nào muốn chia sẽ lập trường của mình, và bởi đó, đã dùng những phương kế trong nghị trường để dẫn dắt hội nghị đạt đến quyết định mà ông đã muốn.
b. Các sứ đồ và các trưởng lão đã thảo luận đầy đủ về vấn đề nầy. “Sau một cuộc bàn luận dài rồi” (c.7) cho thấy có lẽ rất nhiều người đã nêu ra lập trường của họ.
Bước thứ nhì của Giáo Hội Nghị để giải quyết vấn đề là thảo luận đầy đủ và công khai về vấn đề đó.
19.
a. Sau cuộc thảo luận dài, Phierơ đã đứng dậy thuật lại từng trải Đức Chúa Trời đã ban cho ông và toàn thể hội thánh qua sự hoán cải của Cọtnây. Đức Chúa Trời chứng thực sự cứu rỗi của ông không phải bởi phép cắt bì nhưng bởi sự ban cho Đức Thánh Linh. Do đó từ từng trải nầy, có thể kết luận rằng những người tìm cách được cứu nhờ vào luật pháp thì đã không thể giữ nổi luật pháp, và Đức Chúa Trời đã qua Cọtnây chứng tỏ rằng sự cứu rỗi đến bởi ân điển Ngài.
b. Trong việc giải quyết bất cứ thắc mắc hay vấn đề nào, nên xem nhẹ những từng trải của những người kính sợ Đức Chúa Trời và những lãnh đạo trong hội thánh. Lời làm chứng không hợp nội qui cho một hội đồng được triệu tập để giải quyết các vấn đề giáo lý.
Sau lời phát biểu của Phierơ, Banaba và Saulơ (lưu ý, một lần nữa tên của Banaba lại đứng trước - và sẽ luôn luôn là như thế tại Giêrusalem) cũng kể lại việc Đức Chúa Trời đã làm qua họ giữa vòng dân ngoại bang. Yếu tố siêu nhiên trong chức vụ của họ giữa dân ngoại bang rõ ràng đã nhằm mục đích xác minh sứ mạng của họ và để tỏ ra sự chấp thuận của Đức Chúa Trời.
Bước thứ ba để giải quyết một nan đề trong hội thánh ấy là lắng nghe từng trải của những người đang được Đức Chúa Trời dẫn dắt một cách rõ ràng. Trong những trường hợp như thế, đây là lúc để cho những người khác giữ yên lặng (15:12), vì những lý thuyết của con người phải phục dưới sự khải thị của Đức Chúa Trời.
20.
a. Giacơ đã kết thúc cuộc tranh luận bằng cách cho thấy tiêu chuẩn duy nhất cần phải có để giải quyết vấn đề ấy là những từng trải của những người kính sợ Đức Chúa Trời.
b. Giacơ đã kết thúc cuộc tranh luận bằng cách cho thấy rằng Kinh Thánh đã xác nhận thế nào cho lời làm chứng của Phierơ.
Bước thứ tư để giải quyết một nan đề trong hội thánh là áp dụng Lời Đức Chúa Trời vào tình huống.
21.
a. Khi kinh nghiệm và Kinh Thánh đưa hội nghị đến kết luận đúng, nên bỏ qua cảm nghĩ của phe thua cuộc tranh luận.
b. Một khi từng trải và Kinh Thánh đã chỉ ra hướng dẫn đến kết luận đúng, thì phải cẩn thận kẻo đặt ra đá vấp chân trước mặt những người có lẽ thuộc về "phe thua cuộc."
Quyết định đã đạt được: "Người đã được Đức Chúa Trời đón nhận, thì hội thánh đừng khước từ." Tuy nhiên, dân ngoại bang được yêu cầu - với tư cách là vì vấn đề yêu thương, chứ không phải vì sự cứu rỗi - phải hạn chế bày tỏ quyền tự do của mình trong những lãnh vực mà tín đồ người Do thái phải gặp thắc mắc trong lương tâm. Phaolô cho thấy những người nào khăng khăng đòi giữ những qui định nào đó của luật pháp, thì thực ra họ là những người yếu đuối hơn trong đức tin (chứ không phải là mạnh mẽ hơn, như họ thường nghĩ!), và tín đồ mạnh mẽ hơn hoặc được tự do hơn thì phải lấy lòng yêu thương để kiêng giữ những tập tục nào sẽ gây ra vấp phạm (RoRm 14:1-15:13).
Bốn điều cấm đã được nêu lên cho các tín hữu ngoại bang. Ba điều thuộc về vấn đề ăn uống (của cúng thần tượng, những thịt thú chết ngột, huyết). Vì các tín hữu dân Do thái và các tín hữu ngoại bang đều ăn chung với nhau, nên những nhận định nầy là quan trọng để cho bữa ăn khỏi bị chi phối bởi những cảm giác khó chịu. Sự kêu gọi kiêng tà dâm là một qui định về đạo đức. Như Bruce nhận định (trang 311), qui định đạo đức nầy được đưa vào để tôn trọng những đắn đo đạo đức của anh em Do thái bằng cách nhắc người ngoại bang tuân theo bộ luật cao quí của người Do thái về những mối quan hệ phái tính, chứ đừng cứ thỏa lòng với những tiêu chuẩn thấp kém của dân ngoại đạo mà họ vốn quen thuộc xưa nay.
Bước thứ năm để giải quyết cuộc tranh luận ấy là: phân rẽ vấn đề chính yếu (mà không thể nào thỏa hiệp cho những vấn đề đó) khỏi những vấn đề thứ yếu (là những vấn đề có thể thỏa hiệp).
22.
a. Trong những buổi họp bàn công việc của hội thánh, khi đã đạt đến quyết định rồi, thì mọi cân nhắc và kết luận nên được giữ "bí mật" bên trong nhóm đã đưa đến kết luận đó. Một hội thánh vận hành tốt nhất khi cấp lãnh đạo hoạt động với nguyên tắc bảo mật.
b. Khi đã đạt đến quyết định rồi, thì cả tiến trình thảo luận lẫn kết luận đều phải được công khai. Kết quả của hội nghị phải không còn để lại thắc mắc, cũng đừng để cho người ta ra về mà vẫn nghĩ rằng chưa có được một hành động rõ ràng nào.
Quyết định của Giáo Hội Nghị Giêrusalem đã được truyền đạt bằng thơ và được khẳng định bởi đích thân những đại biểu đến với tín đồ dân ngoại bang tại Antiốt, Syri và Silisi. Những nhận định bổ sung liên quan đến Phaolô và Banaba (người được biết rất rõ giữa vòng dân ngoại) được nêu ra trong thơ (Cong Cv 15:25).
Bước thứ sáu để giải quyết nan đề trong hội thánh ấy là: truyền đạt rõ ràng quyết định đã đạt được.
Dân ngoại bang có thể vui mừng về quyết định của Giáo Hội Nghị Giêrusalem. Cấp lãnh đạo của hội thánh Giêrusalem, và có thể là hầu hết thuộc viên trong hội thánh, đã hoàn toàn vui mừng với những kết quả nầy (xem câu 25 "Chúng ta đồng lòng quyết ý"). Khi đã nhận ra rằng họ đang tiến lên với Đức Chúa Trời, thì họ đã có thể viết: "Ấy là Đức Thánh Linh và chúng ta" (15:28). Tuy nhiên, như chúng ta sẽ nêu lên sau nầy, một số thành viên của phe chủ trương cắt bì vẫn tiếp tục nhấn mạnh ý của mình bất chấp quyết định của Giáo Hội Nghị. Khi phe thua cuộc được chứng tỏ là sai rõ ràng và vẫn cứ kiên quyết miệt mài với quan điểm của mình để chống lại những lời khuyên và mạng lịnh của hội thánh cũng như của lãnh đạo hội thánh, thì những người như thế phải bị quở trách cách kiên quyết, và hội thánh phải khước từ quan hệ với họ (GaGl 5:1-11; Phi Pl 3:2; RoRm 16:17; IITe 2Tx 3:14; Tit Tt 3:10).
23. Giờ đây, bạn có thể tóm tắt sáu bước mà hội thánh Giêrusalem đã áp dụng để cho chúng ta thấy cách giải quyết những nan đề phát sinh giữa các tín hữu hay không?
a.
..........
b.
..........
c.
..........
d.
..........
e.
..........
f.
..........
SO SÁNH CÔNG VỤ 15 VỚI GALATI 2
Mục tiêu 3. So sánh chuyến viếng thăm được mô tả trong GaGl 2:1-10 với những sự kiện của Cong Cv 15:1-35, và xác định xem hai phân đoạn nầy có nói đến cùng một sự kiện hay không.
Các học giả Kinh Thánh đã bất đồng ý kiến với nhau lâu nay về việc những sự kiện của GaGl 2:1-10 có phù hợp với chuyến viếng thăm của Phaolô trong Cong Cv 11:30 hay Giáo Hội Nghị Giêrusalem trong 15:1-41 hay không.
Sách Côngvụ (đoạn 9-15) ghi lại ba chuyến đi của Phaolô đến Giêrusalem: 1) Sau khi ông hoán cải (9:26-30), 2) Với tư cách người đem ngân quỹ cứu trợ nạn đói (11:30), và 3) Với tư cách đại biểu từ Antiốt đến Giáo Hội Nghị Giêrusalem (15:2-3).
24. Trong GaGl 1:1-2:21 mô tả bao nhiêu chuyến viếng thăm của Phaolô đến Giêrusalem? Trích dẫn những câu Kinh Thánh trong thơ Galati.
..........
25. Chuyến viếng thăm được mô tả trong 1:18-19 có phù hợp với chuyến viếng thăm trong Cong Cv 9:26-30 không?
Nhiều học giả Kinh Thánh, kể cả F. F. Bruce, đã đồng nhất chuyến viếng thăm trong GaGl 2:1-10 với chuyến viếng thăm trong Cong Cv 11:30. Họ đã đưa ra những nguyên nhân chính như sau.
1. Chữ "lại" trong GaGl 2:1 đã loại chuyến đi không được nhắc đến trong Cong Cv 11:1-30. Phaolô viết thơ Galati trước 15:1-41, vì vậy câu chuyện về hai chuyến viếng thăm trong Galati là hoàn toàn đầy đủ.
2. Khung cảnh của 15:1-41 GaGl 2:1-21 là khác nhau. Khung cảnh Cong Cv 15:1-41 liên quan đến một quyết định mà toàn thể cấp lãnh đạo hội thánh đã dự phần thông qua một cuộc tranh luận chánh thức; Tuy nhiên, khung cảnh của GaGl 2:1-21 gợi ra một cuộc hội nghị thân mật hơn giữa Phaolô với một vài lãnh đạo của hội thánh Giêrusalem.
3. Nếu thơ Galati được viết sau Giáo Hội Nghị Giêrusalem, thì chúng ta nghĩ Phaolô phải dùng quyết nghị chính thức của Giáo Hội Nghị trong thơ Galati để đối phó với những người thiên về Do thái giáo, là những người đã đem giáo lý cắt bì của họ đến cho các hội thánh ở vùng Nam Galati.
4. Lời quở trách Phierơ và Banaba hẳn không thể xảy ra sau Giáo Hội Nghị Giêrusalem, là khi họ ủng hộ việc đưa dân ngoại vào hội thánh mà không cần phải làm phép cắt bì hay tuân thủ theo luật pháp Do thái.
Chứng cứ bác bỏ từng điểm một cho từng luận điểm trên đây trở nên rõ ràng qua các bài tập sau.
26. Đọc câu chuyện của Phaolô trong Côngvụ Cong Cv 22:4-11 và 26:12-18. Phaolô thấy cần phải lập lại từng yếu tố trong từng trải hoán cải của ông, hay ông đã bỏ bớt một số yếu tố mà có thể chúng không có ý nghĩa đặc biệt cho thính giả của ông?
..........
Nếu trong những bài thuyết giảng trong sách Côngvụ, Phaolô đã có thể bỏ bớt chi tiết không đặc biệt quan trọng cho thính giả, thì ông lại không thể làm y như vậy trong thơ Galati sao? Chuyến viếng thăm của Cong Cv 11:1-30 không quan trọng cho tư cách sứ đồ của ông, vì đó là một chuyến đi cứu trợ nạn đói. Phần mô tả về chuyến viếng thăm lần thứ nhất của ông là quan trọng cho thơ Galati, vì nó cho thấy ông đã không nhận sứ mệnh hay giáo lý của mình từ các sứ đồ khác.
Cách dùng chữ "lại" của Phaolô là mơ hồ. Nếu ông nói trong 2:1: "một trường hợp duy nhất khác nữa mà tôi đến Giêrusalem là...," thì GaGl 2:1-10 hẳn sẽ chỉ về Cong Cv 11:30.
27. Bối cảnh có thể khác nhau giữa Cong Cv 15:1-41 với GaGl 2:1-21, nhưng cuộc tranh luận thì vẫn như nhau. Câu nào sau đây có thể giải thích cho những bối cảnh khác nhau của cùng một sự kiện?
a) Trong 2:2, Phaolô cho thấy ông phô bày Tin Lành ông đã giảng giữa dân ngoại bang ra trước mặt họ (có lẽ nghĩa là cuộc nhóm họp công khai được mô tả trong Cong Cv 15:4, 12), và trước mặt những người có danh tiếng (nghĩa là cuộc họp riêng với cấp lãnh đạo).
b) Phaolô kém trí nhớ và không thể nhớ chính xác chuyện gì đã xảy ra tại Giêrusalem.
28. Vì sao Phaolô không sử dụng những nghị quyết nầy vào trong thơ Galati nếu như Giáo Hội Nghị của 15:1-41 đã diễn ra rồi?
a) Phaolô đã không đồng ý với nghị quyết và sẽ chống đối bất kỳ nỗ lực nào nhằm ban hành các nghị quyết đó.
b) Phaolô có khuynh hướng khẳng định uy quyền sứ đồ của mình, một uy quyền không phải do hành động của hội thánh ban cho. Phaolô cũng không muốn viết ra điều mà Giáo Hội Nghị đã quyết định là chân lý. Hơn nữa, những nghị quyết nầy chỉ được nhắm đến cho Antiốt, Syri, và Silisi, chứ không phải cho Galati.
Sự có mặt của những người thiên về Do thái giáo có lẽ rất đột ngột và mạnh mẽ sau Giáo Hội Nghị Giêrusalem, đến nỗi Phaolô không loại trừ khả năng sẽ có một Giáo Hội Nghị khác nữa được triệu tập để đảo ngược lại quyết định trước đây. Nếu ông sử dụng quyết định của một Giáo Hội Nghị để làm cơ sở chống lại những người thiên về Do thái giáo, thì làm thể nào ông có thể phủ nhận tính hiệu lực trong một quyết định của Giáo Hội Nghị mà về sau nầy nó có thể là một quyết định sai lầm?
29. Có thể nào Phierơ và Banaba đã dao động kể từ sau Giáo Hội Nghị Giêrusalem không? Câu nào sau đây hỗ trợ cho một câu trả lời khẳng định?
a) Tại Antiốt, vấn đề mà Phierơ và Banaba đã rút lui khỏi đó không phải là vấn đề phép cắt bì, nhưng là sự thông công trong bữa ăn. Họ hẳn đã đứng vững vàng trong vấn đề phép cắt bì, nhưng vì ba trong số bốn quyết định của Giáo Hội Nghị Giêrusalem đề cập đến vấn đề ăn uống, nên họ đã nhấn mạnh quá nhiều đến những anh em "yếu đuối hơn."
b) Nếu GaGl 2:1-21 và Cong Cv 11:30 kể về cùng một sự kiện giống nhau, thì Phierơ đã chứng thực cho sự hoán cải của Cọtnây rồi.
c) Galati đoạn 2 cho chúng ta thấy con người của Phierơ mà chúng ta đã quen thuộc trong các sách Tin Lành. Có thể đôi khi ông đã mắc sai lầm trong sự phán đoán.
Chúng ta hãy xem lại một vài lập luận vững vàng cho quan điểm nói rằng 15:1-41 và GaGl 2:1-21 chỉ về cùng một sự kiện.
1. Niên hiệu băng hà của vua Hêrốt (Cong Cv 12:21-23) là năm 44 S.C. Chuyến viếng thăm với quà cứu trợ nạn đói của Banaba và Saulơ (11:30) diễn ra trước cái chết của vua Hêrốt. Nếu những năm được thuật lại trong GaGl 1:18 và 2:1 được cộng thêm vào, và nếu Cong Cv 11:30 và GaGl 2:1-10 là cùng một sự kiện, thì sự hoán cải của Phaolô hẳn đã xảy ra vào năm 27 S.C. Nhưng nếu 14 năm được nhắc đến trong GaGl 2:1 được hiểu như là 14 năm sau sự hoán cải của ông, thì việc kết hợp Cong Cv 11:30 - GaGl 2:1-10 sẽ đặt sự hoán cải của Phaolô vào năm 30 S.C. Cả năm 27 S.C. lẫn năm 30 S.C. đều là những niêu hiệu không thể có cho sự hoán cải của Saulơ.
2. Mục đích chuyến viếng thăm trong Cong Cv 11:30 của Phaolô không phải là vì vấn đề phép cắt bì, nhưng là để đem quà cứu trợ. Trong 11:30, quà cứu trợ được gởi đến cho "các trưởng lão," (một nhóm người khác biệt với các sứ đồ như 15:6 cho thấy), nhưng trong GaGl 2:9, Phaolô gặp gỡ ít nhất hai người trong số các vị sứ đồ.
3. Vào thời điểm chuyến viếng thăm trong Cong Cv 11:30 của Saulơ, ông vẫn chưa được công nhận là một sứ đồ. Ở hội thánh Antiốt, ông được biết đến như là một "tiên tri và giáo sư." Dường như không chắc hội thánh Giêrusalem sẽ đồng ý cho Banaba và Phaolô có được một địa vị ngang hàng với Phierơ (GaGl 2:7-10) trước hành trình truyền giáo lần thứ nhất, nhất là khi hội thánh Antiốt đã đồng ý xem ba người khác nữa giữa họ có cùng một địa vị như Banaba và Saulơ, một địa vị thấp hơn địa vị của "sứ đồ."
30. Xem hai danh sách các sự kiện sau đây, được nêu ra theo đúng trình tự. Trình tự nào được xác định bởi việc xem Cong Cv 11:30 là đồng nhất với GaGl 2:1-10, và trình tự nào được xác định bởi việc xem 15:1-41 là đồng nhất với GaGl 2:1-10?
a.
1. Saulơ viếng thăm thành Giêrusalem sau khi hoán cải.
2. Banaba và Saulơ đến Giêrusalem với đồ cứu trợ nạn đói.
3. Các hội thánh được thành lập trong vùng Nam Galati.
4. Phe chủ trương cắt bì đến tại Antiốt xứ Syri.
5. Giáo Hội Nghị Giêrusalem diễn ra.
6. Phierơ, Banaba và những tín đồ Do thái rời khỏi bàn ăn thông công với tín hữu dân ngoại vì cớ áp lực của phe chủ trương cắt bì "đã thua cuộc."
7. Thành viên của phe chủ trương cắt bì, là những người không chịu phục theo quyết định của Giáo Hội Nghị, đem giáo lý của họ đến các hội thánh vùng Nam Galati.
8. Phaolô viết thơ Galati.
9. Phaolô trở lại viếng thăm người Galati vào đầu hành trình truyền giáo lần thứ nhì và thuật lại cho họ nghe về Giáo Hội Nghị Giêrusalem.
Trình tự nầy được xác định bởi sự đồng nhất ..........
b.
1. Saulơ viếng thăm thành Giêrusalem sau khi hoán cải.
2. Banaba và Saulơ đến Giêrusalem với đồ cứu trợ nạn đói.
3. Các hội thánh được thành lập trong vùng Nam Galati.
4. Phe chủ trương cắt bì đến tại Antiốt xứ Syri.
5. Phierơ, Banaba và những tín đồ Do thái rời khỏi bàn ăn thông công với tín hữu dân ngoại bang vì cớ áp lực của phe chủ trương cắt bì "đã thua cuộc".
6. Thành viên của phe chủ trương cắt bì, là những người không chịu phục theo quyết định của Giáo Hội Nghị, đem giáo lý của họ đến các hội thánh vùng Nam Galati.
7. Phaolô viết thơ Galati.
8. Giáo Hội Nghị Giêrusalem diễn ra.
9. Phaolô trở lại viếng thăm người Galati vào đầu hành trình truyền giáo lần thứ nhì và thuật lại cho họ nghe về Giáo Hội Nghị Giêrusalem.
Trình tự nầy được xác định bởi sự đồng nhất ..........
SỰ PHÂN RẼ GIỮA PHAOLÔ VÀ BANABA
Cong Cv 15:36-41 Bruce 318-320
Mục tiêu 4. Cho thấy Đức Chúa Trời đã hành động để đem lại ích lợi như thế nào qua việc Phaolô và Banaba phân rẽ nhau vào đầu hành trình truyền giáo lần thứ nhì.
31. So sánh khởi điểm của hành trình truyền giáo lần thứ nhì (15:36) với khởi điểm của hành trình truyền giáo lần thứ nhất (13:2). Bạn nhìn thấy có những khác biệt nào?
..........
Không hề lưỡng lự khi cho chúng ta nhìn thấy những giờ phút đen tối trong một hội thánh đang phát triển, Luca đã ân cần ghi lại rõ ràng, chính xác sự phân rẽ giữa Banaba và Phaolô.
32. Xem các câu Kinh Thánh sau và tóm tắt mối quan hệ giữa Banaba và Phaolô trong từng câu.
a. 9:27
..........
b. 11:25-26
..........
..........
d. 13:1-3
..........
e. 13:13
..........
..........
g. 15:35
..........
h. GaGl 2:1-13
..........
Banaba và Phaolô đã hiểu biết nhau suốt hơn 15 năm. Họ đã cộng tác mật thiết với nhau và đã là những lãnh đạo đem Tin Lành cho dân ngoại bang, một bước đi lịch sử, có lẽ trong suốt 7 năm. Giờ đây sự cộng tác đầy kết quả của họ đã tan vỡ vì vấn đề của Giăng Mác.
Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong mỗi câu hỏi sau đây.
33.
a. Luca qui trách nhiệm cho Phaolô đã làm tan vỡ sự cộng tác truyền giáo của họ.
b. Luca qui trách nhiệm cho Banaba đã làm tan vỡ sự cộng tác truyền giáo của họ.
c. Luca ghi lại sự phân rẽ mà không kèm theo lời qui trách nhiệm cho ai cả.
34.
a. Hội thánh Antiốt đã chia phe trong sự tranh cãi giữa Banaba và Phaolô, và kết quả là hội thánh đã bị chia rẽ.
b. Hiển nhiên các tín đồ tại hội thánh Antiốt rất đau buồn vì sự bất đồng sâu sắc nầy, nhưng chúng ta không đọc thấy rằng nan đề nầy gây ra sự chia rẽ trong hội thánh. Hội thánh nầy có thể đã trưởng thành thuộc linh để nâng đỡ những lãnh đạo của mình bằng sự cầu nguyện.
Nếu sự tranh luận nầy tác động đến ích lợi của hội thánh, Banaba và Phaolô hẳn đã tìm cho được giải pháp mới thôi. Họ không phải là hạng lãnh đạo qui tụ tín đồ theo phe mình vì cớ những bất đồng ý kiến cá nhân. Một hội thánh khôn ngoan và thiêng liêng chính là hội thánh có thể cầu thay cho những lãnh đạo không đồng ý với nhau và trình dâng mỗi người ấy lên cho Chúa.
35. Câu nào sau đây có thể cung cấp cơ sở hợp lý để tín đồ thôi cộng tác với nhau?
a) Tình yêu thương sẽ luôn luôn thắng hơn mọi sự khác biệt. Banaba và Phaolô đã sai khi họ không giải quyết cho xong những bất đồng của họ.
b) Tín đồ có thể phân rẽ, không cộng tác với nhau nữa, khi có người ganh ghét người khác.
c) Tín đồ có thể thôi cộng tác với nhau khi họ có một sự khác biệt hợp pháp, mà nó không phải do tội lỗi cũng không phải do bất hòa.
Không thể nói rằng Banaba hoặc Phaolô đã ganh tỵ lẫn nhau. Cũng không thể nói đã có người phạm tội trong đời sống của họ. Họ chỉ bất đồng ý kiến về sự xứng đáng của Giăng Mác để được tham gia vào chuyến truyền giáo sắp tới. Phaolô không muốn đem Giăng Mác đi theo, còn Banaba thì không muốn đi mà thiếu Giăng Mác. Vấn đề không thể thỏa hiệp được, nên họ đã đồng ý đi theo hướng khác nhau.
36. Câu nào hay những câu nào sau đây là ĐÚNG và cho thấy cách Đức Chúa Trời đem lại sự ích lợi cho sự phân rẽ của Banaba và Phaolô?
a. Phaolô chọn một đồng nghiệp mới là Sila. Quyền công dân Lamã của Sila sẽ tỏ ra có giá trị quan trọng trong chuyến hành trình nầy (16:37).
b. Có lẽ sẽ không có chỗ cho Timôthê (16:3) và Luca (16:10) nếu như Banaba và Mác trước đó đã ở chung một đoàn với Phaolô.
c. Đi theo Con Trai Của Sự Yên Ủi (vì đây chính là ý nghĩa của tên ông), Mác sẽ được phục hồi từ thất bại trước kia của ông (13:13) và nhận ra rằng Đức Chúa Trời đã có thể sử dụng một con người vốn đã thất bại ngay từ đầu.
d. Nếu Mác đã không sẵn sàng chịu những nguy hiểm trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, thì chắc chắn ông sẽ ngất đi trước sự căng thẳng trong hành trình truyền giáo lần thứ nhì. Sự chọn lựa Chíprơ, nơi cộng đồng Cơ đốc đã tồn tại rồi, và là nơi xuất thân của Banaba người anh em chú bác của ông, (CoCl 4:10; Cong Cv 4:36) tạo ra một bối cảnh dễ dàng hơn cho Mác tìm thấy nơi thi hành chức vụ và tìm lại được lòng can đảm và tự tin của mình.
e. Nhờ niềm tin của Banaba nơi Mác, mà chúng ta có được sách Tin Lành Mác.
f. Sau nầy Phaolô đã công nhận Mác đã vược qua được đặc điểm của một người bỏ cuộc và thấy ông hữu ích. Thực ra, Phaolô đã yêu cầu Mác đến Rôma vào thời điểm mà các lãnh đạo hội thánh đang lo sợ cho mạng sống họ (IITi 2Tm 4:11).
Banaba đã lìa khỏi diễn trường của lịch sử các sứ đồ. Khi cứu vớt Giăng Mác, Banaba đã trở thành người cha thuộc linh của mọi người nào đã bắt đầu và đã thất bại. Hội thánh cần những con người như Banaba, là người sẽ biết nâng đỡ những con người vấp ngã và bày tỏ lòng tin nơi những người đã không còn tin ở bản thân mình nữa.
Những sự kiện trong lịch sử các sứ đồ sẽ chứng tỏ cả hai đều đúng. Hành trình truyền giáo lần thứ nhì hẳn đã là một thử thách quá nghiệt ngã cho Mác. Phaolô đúng! Nhưng Giăng Mác có tiềm năng và sẽ không bị bỏ đi chỉ vì cớ một thất bại. Banaba đúng!
CHUYẾN VIẾNG THĂM LẠI CÁC HỘI THÁNH VÙNG NAM GALATI
Cong Cv 15:40 16:5 Bruce 319-324
Mục tiêu 5. Thảo luận những phương diện quan trọng trong chuyến trở lại viếng thăm của Phaolô cho các hội thánh đã được thành lập trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất.
Phaolô không lần nào ra đi truyền giáo một mình cả. Phaolô đã chọn một trong hai người đến từ Giêrusalem (15:22, 32), là Sila (được gọi theo tên Lamã là Sinvanh trong các Thơ Tín), làm người bạn đồng hành. Sila đã từ Giêrusalem đến hoặc do tự ý, hoặc do Phaolô mời. (15:34 không có trong những bản văn Hylạp tốt hơn. Xem nhận định của Bruce về điều nầy ở cuối trang 317.)
Dường như hội thánh Antiốt đã sai Phaolô và Sila lên đường theo cùng một cách của hành trình truyền giáo lần thứ nhất (13:3 và 15:40 nói khác nhau, nhưng 15:40 có lẽ tóm tắt những sự kiện được mô tả trong 13:3).
Trong chuyến đi đầu tiên, Banaba và Saulơ đã khởi hành bằng đường thủy, nhưng chuyến đi của Phaolô và Sila lại đi trên đất liền. Luca kể lại những hội thánh tại Syri và Silisi, nhưng không mô tả nguồn gốc của các hội thánh nầy. Rõ ràng, có thể nhiều phép lạ của ân điển Đức Chúa Trời đã được thi hành để thành lập các hội thánh nầy. Khi 15:1-41 kết thúc, chúng ta thấy hội thánh đã tăng trưởng khắp những vùng phía bắc Giêrusalem trên suốt đường đến Antiốt xứ Syri. Từ Antiốt, Tin Lành đã đến tận gốc đông bắc của Địa Trung Hải và vượt xa hơn nữa, tiến về phía tây băng qua Silisi và Nam Galati.
Ở hành trình truyền giáo lần thứ nhất, Đẹtbơ được xem là thành phố cuối cùng có hội thánh được thành lập tại đó. Phaolô và Banaba đã vào thành phố nầy từ phía tây. Tuy nhiên, vì Phaolô hiện đang đảo hướng đi (do lộ trình trên đất liền), nên Đẹtbơ là hội thánh đầu tiên được ông ghé thăm trở lại khi đi về hướng tây.
Tại Líttrơ, Phaolô chọn một cộng sự thứ hai để đi cùng với ông trong hành trình truyền giáo nầy. Đọc Cong Cv 16:1-3 và trả lời câu hỏi sau đây.
37. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG về Timôthê?
a. Có thể ông đã hoán cải trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất.
b. Ông là bạn đồng hành đầu tiên của Phaolô không có liên hệ gì với hội thánh Giêrusalem.
c. Ông là người bạn đồng hành người ngoại bang đầu tiên của Phaolô.
Việc Timôthê là một môn đồ (16:1) khi được Phaolô chọn cho thấy ông đã được cứu từ trước kia. Ông đã là nhân chứng cho những bắt bớ Phaolô phải chịu trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất (IITi 2Tm 3:11), và chắc đã được cứu từ thời điểm đó. Việc chọn một người ở ngoài xứ Palestine làm một người truyền giáo đánh dấu một bước ngoặc khác nữa trong lịch sử hội thánh.
38. Câu nào sau đây giải thích đúng nhất lý do khiến Phaolô yêu cầu Timôthê chịu phép cắt bì?
a) Phaolô đã suy nghĩ lại về sự phản đối của ông trước kia với phe chủ trương cắt bì, và giờ đây ông đang ở trong tiến trình tái đánh giá thần học của mình.
b) Phaolô tin trọn vẹn vào những nguyên tắc nầy: 1) Phép cắt bì không cần thiết cho sự cứu rỗi, và 2) Việc ủng hộ không cắt bì cho người Do thái chỉ là việc ngăn trở họ đến với Tin Lành mà thôi (ITi1Tm 9:19-23).
c) Timôthê là một người con lai; do đó, thân phận Do thái của ông cần phải được thể thức hóa để ông có cơ hội thi hành chức vụ với người Do thái.
d) Phaolô muốn chứng tỏ rằng làm một người Do thái thì tốt hơn làm một người Gờréc.
Một số người đặc biệt dựa vào bức thơ mạnh mẽ của Phaolô gởi cho người Galati để chống lại phe chủ trương cắt bì, đã buộc tội ông là không nhất quán khi buộc Timôthê phải chịu cắt bì. Họ nói hành động nầy gây ra sự lúng túng, lẫn lộn giữa các Cơ đốc nhân tại Galati, nhưng thực ra không phải vậy! Không phải Timôthê chịu phép cắt bì để làm cho trọn những qui định của sự cứu rỗi, nhưng trái lại là để ông có thể đem Tin Lành đến cho người Do thái.
39. Như tôi đã gợi ý, nếu thơ Galati được viết sau Giáo Hội Nghị Giêrusalem, thì phải giải thích Cong Cv 16:4 như thế nào?
a) Phaolô sẽ có thể đích thân nói được nhiều hơn là khi ông viết ra (IITêsalônica 2:5;). Ông hẳn đã có thể không nhắc đến những quyết nghị của hội thánh Giêrusalem trong thơ Galati vì cớ ông không muốn người Galati tin rằng các giáo hội nghị có quyền xác định sự khác biệt giữa chân lý và sai lầm. Có lẽ ông đã khéo léo để tránh tuyên bố điều nầy dưới dạng văn bản khi Giáo Hội Nghị Giêrusalem kết thúc chưa bao lâu, để những đối thủ thuộc phe chủ trương cắt bì không dùng nó để chống lại ông.
b) Cong Cv 16:4 không để lại một khả năng nào khác ngoài quan điểm cho rằng thơ Galati được viết trước Giáo Hội Nghị Giêrusalem.
Có nhiều điều có thể được truyền đạt dễ dàng và ở mức độ lớn hơn nhiều bằng cách qua con người thay vì trên văn bản (điều nầy đặc biệt đúng khi các vấn đề đó mang tính tế nhị và liên quan đến những thành kiến sâu đậm và mang những giá trị tôn giáo cũng như văn hóa). Hội thánh đầu tiên, đã không viện đến chính trị, dầu vậy vẫn đã có thể xử trí khôn khéo. Giacơ đã có thể tránh đề cập đến Banaba và Phaolô khi phát biểu trước hội thánh Giêrusalem (15:14), nhưng đã khen ngợi họ khi viết thơ cho hội thánh Antiốt. Như sách Truyền đạo có nói (3:7), có kỳ yên lặng và có kỳ nói ra.
Giống như mọi hội thánh khác đã được thành lập cho đến nay trong sách Côngvụ, những hội thánh ở vùng Nam Galati đã tăng trưởng bề trong (được vững vàng trong đức tin), cũng như bề ngoài (được tăng số lượng hằng ngày).
TÓM TẮT
Mục tiêu 6. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung của Côngvụ 15:1-16:5.
40. Xem lại phần nầy của sách Côngvụ. Bạn có thể kể thuộc lòng những sự kiện chính diễn ra trong phần Kinh Thánh nầy không?
..........
bài tự trắc nghiệm
TRẢ LỜI NGẮN. Điền vào khoảng trống hoặc hoàn tất các câu sau bằng những chữ thích hợp.
1. Nguyên nhân trước mắt hay trường hợp cụ thể dẫn đến việc triệu tập Giáo Hội Nghị Giêrusalem là cuộc tranh luận xảy ra trong hội thánh tại
..........
2. Một trong những nguyên nhân cơ bản khiến triệu tập Giáo Hội Nghị Giêrusalem là việc các tín đồ Do thái đã xem sự hiện đến của Đức Chúa Jesus với tư cách Đấng Mêsia là
..........
3. Thành viên của phe duy luật pháp trong hội thánh Giêrusalem nói rằng người ngoại bang không thể được cứu nếu không
..........
4. Tại Giáo Hội Nghị Giêrusalem, thành viên của phe .......... đã đứng dậy và phát biểu rõ ràng vấn đề.
5. .......... và .......... đã gặp nhau để xem xét nan đề nghiêm trọng nầy.
6. Theo lời một vị sứ đồ, người ngoại bang đã được cứu bởi ân điển của Đức Chúa Trời, vì lòng của họ đã được tẩy sạch bởi
..........
7. Theo lời của cả Giacơ và Phierơ, nỗ lực để buộc người ngoại bang phải trở nên người Do thái sẽ tương đương với việc .......... mà họ cũng như tổ phụ họ không thể mang nổi.
8. Dựa vào phần bạn nghiên cứu những thủ tục mà cấp lãnh đạo Giáo Hội Nghị Giêrusalem đã sử dụng để đi đến quyết định, hãy nêu ra năm trong số các bước nầy.
.........
9. Nêu ra ba nguyên nhân khiến người ta có thể kết luận Côngvụ 15 và Galati 2 chỉ về cùng một sự kiện.
.........
10. Nêu ra năm trong số các thành tựu mà Đức Chúa Trời đã cho phép đạt được nhờ vào sự phân rẽ của Phaolô và Banaba.
..........
GIẢI ĐÁP
1.
a. Sai.
b. Đúng.
2.
a. Đúng.
b. Sai.
3.
a. Sai.
b. Đúng.
4.
a. Sai.
b. Đúng
5.
a. Đúng.
b. Sai.
6.
a. Đúng.
b. Sai.
7. c) Thật không công bằng khi gọi hội thánh Giêrusalem là "không có tinh thần truyền giáo."
8. g) Thần học của họ cản trở bước tiến của họ.
9. a) Thành viên của phe chủ trương cắt bì đã từ Giuđê đến Antiốt dạy cho các tín hữu dân ngoại bang.
10. c) Mọi người nam đều phải chịu phép cắt bì.
11. Tất cả các câu trên đều đúng.
12.
a. Hai người nam (các thiên sứ) từ nơi Chúa đã hiện ra sau Sự Thăng Thiên.
b. Phierơ và Giăng đã được các sứ đồ sai đến Samari.
c. Các môn đồ tại Giốpbê đã sai hai người đến với Phierơ, mời ông đến ngay vì cớ Đôca đã chết.
d. Chúa đã ban cho Cọtnây những mạng lịnh để sai người đến mời Phierơ.
e. Sáu anh em đi theo Phierơ khi ông đến thăm Cọtnây.
f. Banaba được hội thánh Giêrusalem sai đến Antiốt.
g. Banaba và Saulơ đã được Antiốt sai đến Giêrusalem với quỹ cứu trợ.
h. Banaba và Saulơ đã được các lãnh đạo và hội thánh tại Antiốt sai đi trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất.
i. Phaolô, Banaba, và nhiều người khác nữa đã được hội thánh Antiốt cử đến Giêrusalem về chuyến viếng thăm của phe chủ trương cắt bì.
j. Giuđe Basaba và Sila đã được hội thánh Giêrusalem sai trở về Antiốt với nghị quyết của các sứ đồ.
13. b) Dường như họ đã tự ý đến.
14. Các tín đồ bị tản lạc do cơn bắt bớ của Saulơ đã đi đến tận xứ Phênixi (11:19).
15. Các tín đồ xứ Phênixi và Samari đã vui mừng. Không gặp phải “những nan đề” thần học. Sự đón tiếp họ tại Giêrusalem của toàn thể hội thánh và các sứ đồ cùng các trưởng lão rõ ràng là chân tình, mật thiết. Tuy nhiên, những người Pha ri si đã tin nơi sự phục sinh của Đấng Christ giờ đây lại thách thức việc đón nhận người người ngoại bang vào trong hội thánh, là những người không tuân giữ luật pháp Môise cũng như không vâng theo quy định phép cắt bì.
16. Câu trả lời của bạn. Quả là ngạc nhiên kinh khủng khi chúng ta biết được những sự chống đối Tin Lành của họ.
17.
a. Đúng.
b. Sai.
18.
a. Sai.
b. Đúng. (Hội thánh nói chung là quá đông đến nỗi không thể tham gia hết vào cuộc thảo luận. Vì vậy, chỉ có các sứ đồ và các trưởng lão xem xét vấn đề này thôi - c.6.)
19.
a. Đúng.
b. Sai.
20.
a. Sai. (Giacơ đã xử trí khôn khéo, không nhắc đến lời chứng của Banaba và Phaolô vì họ đã được xem như thuộc về cùng một phe, trong khi đó, Phierơ sẽ được cả người Do thái lẫn người ngoại bang tôn trọng.)
b. Đúng. (Giacơ đã trích Amốt AmAm 9:11-12, cũng dùng lời lẽ từ Giêrêmi Gie Gr 12:15 và Êsai EsIs 45:21.)
21.
a. Sai.
b. Đúng.
22.
a. Sai.
b. Đúng.
23. a. Xác định nan đề.
b. Thảo luận đầy đủ và công khai về nan đề.
c. Lắng nghe từng trải của những con người tin kính, mà kinh nghiệm bước đi với Đức Chúa Trời trong quá khứ đã giúp cho họ sáng suốt nhìn vào tình huống hiện tại.
d. Kiểm nghiệm từng trải bằng Kinh Thánh. Đưa ra những quyết định nào thể hiện sự hiểu biết đúng đắn và áp dụng đúng đắn Lời Đức Chúa Trời.
e. Tách riêng những vấn đề chủ yếu (mà không thể nào thỏa hiệp cho các vấn đề đó) khỏi những vấn đề thứ yếu (là những vấn đề có thể thỏa hiệp được).
f. Truyền đạt rõ ràng quyết định. Mọi quyết định tác động đến toàn thể hội thánh thì không được phép giữ bí mật trong một nhóm nhỏ đã lập ra quyết định đó.
24. Phaolô nêu ra hai chuyến viếng thăm: Chuyến thứ nhất là ba năm sau sự hoán cải của ông (GaGl 1:18, 19), và trong chuyến viếng thăm thứ nhì ông đi cùng với Banaba và Tít (GaGl 2:1) khi ông tìm kiếm sự công nhận chức vụ cho dân ngoại bang của ông.
26. Ông có thể bỏ qua một số phương diện mà ông không cảm thấy thích ứng cho thính giả lúc ấy. Ví dụ như Cong Cv 26:14 cho thấy Phaolô đề cập đến lời Chúa phán về việc đá vào ghim nhọn, một cụm từ mà trước đó không được đề cập đến.
27.
a) Trong GaGl 2:2, Phaolô cho thấy ông phô bày Tin Lành ông đã giảng. (Câu trả lời nầy là lời giải thích khả dĩ. Người ta phải công nhận 2:1-21 có thể mô tả một buổi gặp mặt (hay nhiều buổi) riêng tư giữa Phaolô với các lãnh đạo hội thánh Giêrusalem trước khi Giáo Hội Nghị nầy được triệu tập chính thức.)
28. b) Phaolô có khuynh hướng khẳng định uy quyền sứ đồ của mình.
29. Tôi sẽ chọn cả ba câu nầy làm bằng chứng bác bỏ quan điểm cho rằng Phierơ và Banaba hẳn đã không thể dao động sau Giáo Hội Nghị nầy, chỉ có thể trước mà thôi.
30. Trình tự a áp dụng cho việc đồng nhất Cong Cv 15:1-41; GaGl 2:1-21. Trình tự b áp dụng cho việc đồng nhất Cong Cv 11:30 với GaGl 2:1-21.
31. Câu trả lời của bạn. Tôi ghi ra hai sự khác biệt chính: phương cách mà mỗi hành trình nầy bắt đầu, và sự hiểu biết về đích đến cho khởi điểm của mỗi hành trình. Hành trình truyền giáo lần thứ nhất được khởi xướng bởi Đức Thánh Linh, trong khi cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhì do chính Phaolô khởi xướng. Trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, các giáo sĩ không biết đích đến của mình; tuy nhiên, lần nầy thì Phaolô biết, ít nhất là trong chừng mực nào đó (vì chuyến đi cuối cùng đã đưa ông ra khỏi vùng Nam Galati).
32.
a. Banaba đã can đảm để tin Saulơ và giới thiệu ông cho các sứ đồ tại Giêrusalem.
b. Banaba đã đi tìm và gặp được Saulơ tại Tạtsơ, và đưa ông về giúp mình trong chức vụ tại Antiốt.
c. Banaba và Saulơ đem ngân quỹ cứu trợ nạn đói từ Antiốt đến Giêrusalem.
d. Banaba và Saulơ được hội thánh Antiốt biệt riêng ra cho chuyến hành trình truyền giáo lần thứ nhất.
e. Vào lúc họ đi qua đảo Chíprơ, trật tự lãnh đạo đã thay đổi, Phaolô được nêu tên trước.
f .Họ được hội thánh Antiốt sai đến Giêrusalem để dự Giáo Hội Nghị Giêrusalem.
g. Sau Giáo Hội Nghị, họ tiếp tục cùng thi hành chức vụ tại Antiốt.
h. Banaba cảm thấy Phaolô không hài lòng vì đã tạm thời rút lui khỏi bàn tiệc thông công với người ngoại bang.
33.
a. Sai.
b. Sai.
c. Đúng. (Không người nào muốn bỏ quan điểm của mình.)
34.
a. Sai.
b. Đúng.
35.
c) Tín đồ có thể thôi cộng tác với nhau khi họ có một sự khác biệt hợp pháp.
36. Tất cả những câu nầy đều đúng.
37.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Sai.
38.
b) Phaolô tin trọn vẹn vào những nguyên tắc nầy.
c) Timôthê là một người con lai; do đó, thân phận Do thái của ông cần phải được thể thức hóa để ông có cơ hội thi hành chức vụ với người Do thái.
39. a) Phaolô sẽ có thể đích thân nói được nhiều hơn là khi ông viết ra.
40. Câu trả lời của bạn. Tôi nêu ra: phần nầy của sách Côngvụ thuật lại những nguyên nhân, nội dung, và những kết quả của Giáo Hội Nghị Giêrusalem. Sau Giáo Hội Nghị, hành trình truyền giáo lần thứ nhì đã được khởi sự bởi Phaolô nhưng không có Banaba. Thay vào đó, Sila cùng đi với Phaolô, trở lại thăm viếng các thành phố vùng Nam Galati, và đưa Timôthê gia nhập đoàn truyền giáo.
Người ở đó ít lâu rồi lại đi, trải lần lần khắp trong xứ Galati và xứ Phirigi, làm cho hết thảy môn đồ đều vững lòng. (Cong Cv 18:23)
Hành Trình Truyền Giáo Thứ Nhì
Trong Phần trước chúng ta đã xem xét hành trình truyền giáo lần thứ nhất với những hàm ý sâu rộng của nó cho chiến lược truyền giảng Tin Lành. Và chúng ta đã thấy phương cách tự tổ chức của những người trong đoàn truyền giáo thứ nhất, thể hiện những nguyên tắc lành mạnh để nếp sống của Tin Lành vận hành tốt trong những khung cảnh văn hóa mới. Ngoài ra, chúng ta đã thấy nhu cầu đối với sự hiệp một chung trong hội thánh đã phát triển cho đến khi vượt qua những biên giới văn hóa, dân tộc, tôn giáo và chủng tộc. Và nhu cầu nầy đã được giải quyết một cách tốt đẹp tại Giáo Hội Nghị Giêrusalem. Trong bài nầy, chúng ta sẽ xem xét hành trình truyền giáo lần thứ nhì.
Ai có thể đoán được một hành trình truyền giáo lại được bắt đầu dưới không khí bất đồng ý kiến căng thẳng đến nỗi phải phân rẽ ra lại có thể là một hành trình truyền giáo rất thành công? Hoặc có ai tin là đoàn truyền giáo gồm ba giáo sĩ, những người đã đi bộ hằng trăm dặm từ Antiốt xứ Syri vượt qua vùng Tiểu Á đến Trôách trên biển Aegean, đã hai lần bị Đức Thánh Linh ngăn không cho vào nơi mà họ định đến để đi tới chỗ mà họ không hề biết đích đến của mình, lại sẽ kinh nghiệm được không phải chỉ một lần những khải thị siêu nhiên của sự dẫn dắt? Qua hành trình truyền giáo lần thứ nhì, Đức Chúa Trời một lần nữa thể hiện quyền tể trị tối thượng của Ngài. Có những giây phút mà dường như Ngài ẩn mình đi, những lúc mà các nhà truyền giáo dường như bị phó mặc và dũng khí của họ bị thử thách đến tận cùng. Lúc bấy giờ, ngay giờ phút ít chờ đợi nhất, thì sự khải thị rõ ràng về sự hiện diện của Ngài đã đến qua những sự hiện thấy và trong cơn động đất.
Vì thế, có thể đây chính là trường hợp của bạn! Khi Ngài có vẻ như ẩn mặt và ở quá xa, thì chính lúc đó Ngài có thể, và sẽ, đến với bạn, ban sự khôn ngoan, khích lệ, sức mạnh và một khải tượng mới mẻ về vinh hiển của Ngài và công tác mà Ngài đã kêu gọi bạn. Bấy giờ bạn có thể thốt lên cùng với Phaolô: "Ôi! Sâu nhiệm thay... Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được! Vì, ai biết tưởng Chúa, ai là kẻ bàn luận của Ngài?" (RoRm 11:33-34).
Dàn bài
Hành Trình Đến Trôách
Philíp
Têsalônica Và Bêrê
Athên
Côrinhtô
Hành Trình Đến Antiốt
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Giải thích Phaolô đã làm thể nào để xác định ý chỉ và sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời cho chức vụ của ông, theo Cong Cv 16:6-10, kiểm tra kiến thức của bạn bằng cách kể ra năm phương tiện mà Đức Chúa Trời dùng để nói cho con người biết ý chỉ của Ngài.
Sắp xếp theo thứ tự năm câu chuyện quan trọng trong quá trình chức vụ của Phaolô cho người Philíp, và giải thích ý nghĩa của mỗi câu chuyện dựa vào câu châm ngôn thuộc linh trong RoRm 8:28: "Mọi sự hiệp lại làm ích..."
Phân tích chiến lược được sử dụng để khởi sự công tác truyền giảng Tin Lành trong các nhà hội trước hết tại thành Têsalônica, Bêrê, Côrinhtô, Êphêsô, theo Cong Cv 17:1-18:18, kể ra đáp ứng với sứ điệp Tin Lành tại mỗi một thành phố nầy cũng như với bất cứ công tác truyền giảng nào khác do các nhà truyền giáo khởi xướng do kết quả của việc đuổi họ ra khỏi các nhà hội.
Từ câu chuyện về hành trình truyền giáo lần thứ nhì, suy ra điều gì đã xảy ra cho các nhóm tín hữu tại các thành phố nêu trên, sau khi đoàn truyền giáo ra đi, nêu ra ít nhất hai suy luận có thể rút được.
Sinh hoạt học tập
1. Nghiên cứu Cong Cv 16:6-18:2. Khi bạn đọc bản ký thuật thuộc linh nầy, hãy lần theo hành trình trên bản đồ có trong bài nầy.
2. Đọc kỹ Bruce và đặc biệt chú ý đến phần chú thích cuối trang trong phần bài đọc chỉ định.
3. Bạn sẽ thấy một số khá lớn các từ vựng dành cho bài học nầy. Xem kỹ những từ vựng nầy, và nhớ bảo đảm rằng bạn phải biết ý nghĩa của bất cứ từ nào mà bạn chưa biết.
Từ vựng
khiển trách admonition
lăng mạ derogatory
đối thoại dialogue
bói khoa divination
gây dựng đời sống đức tin edification
xúi bẩy instigation
không nhân nhượng intolerance
độc thần giáo monotheism
tà thuật occult
sự bộc phát paroxysm
then chốt pivotal
tiền bảo lãnh post bond
được dẫn dắt predisposed
bởi ơn thần hựu providential
một cách khắc kỷ stoically
mê tín superstitious
Khai triển bài học
HÀNH TRÌNH ĐẾN TRÔÁCH
Cong Cv 16:6-10 Bruce 325-328
Mục tiêu 1. Mô tả Phaolô đã làm thể nào xác định ý muốn của Đức Chúa Trời để đưa ra những quyết định, theo như được minh họa trong hành trình từ Antiốt xứ Syri cho đến khi ông xuống thuyền rời Trôách.
Phaolô đã đi trong khắp lãnh thổ quen thuộc vào giai đoạn đầu của hành trình truyền giáo lần thứ nhì. Việc nầy tạo cơ hội để ông định hướng cho người bạn đồng hành, tức Sila, tức tiên tri đến từ Giêrusalem. Từ Antiốt xứ Syri đi lên hướng bắc, hai người đã đi bộ hoặc đã cưỡi ngựa qua các thành trong xứ Syri và xứ Silisi, nơi đã có các hội thánh. (Khi đang ở trong xứ Silisi, Phaolô rất có thể đã dẫn Sila đi qua quê hương của mình là Tạtsơ.) Rồi từ Tạtsơ, họ đi về hướng tây vượt qua cổng xứ Silisi vào dãy núi Taurus, và đến với các hội thánh ở vùng Nam Galati, được thành lập trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất.
Khi Phaolô và Sila làm vững mạnh đức tin cho các hội thánh nầy, Timôthê đã gia nhập đoàn. Ba người đi về hướng tây để đến Antiốt xứ Bisiđi. Trong thời kỳ nầy, Đức Thánh Linh đã dẫn dắt đoàn (có lẽ qua lời tiên tri ở giữa các tín đồ, so sánh 11:28; 13:2; 20:23; 21:4, 11) đi tách khỏi những kế hoạch dự định cho chức vụ tại Asi (tên của một Vùng Lamã trong vùng Tiểu Á). Phaolô đã để mắt đến thành phố nổi tiếng nhất của Asi, một nhịp cầu nối về văn hóa và thương mại giữa Âu châu và Á châu, là Êphêsô. Đức Thánh Linh cấm không cho giảng đạo trong vùng Asi, nên đoàn truyền giáo đi lên phía bắc, hướng đến vùng Bithini, một vùng có nền văn minh rất cao, với kết luận rằng rõ ràng cánh cửa bị đóng tại vùng Asi có nghĩa là có cánh cửa mở rộng tại vùng Bithini. Ngay tại - hoặc gần - con đường đối diện với biên giới phía đông của xứ Mysi (vùng tây bắc của cõi Asi), một lần nữa những ước ao của Phaolô lại bị Đức Thánh Linh làm cho thất vọng. Chúng ta không biết chính xác phương cách ra lệnh của Đức Thánh Linh, dầu từ ngữ khác thường "Thánh linh của Đức Chúa Jesus" đã được sử dụng ở đây. (Phải chăng Đức Thánh Linh đã có thể làm chứng cho Phaolô qua một sự khải thị liên quan đến Đức Chúa Jesus?) Phaolô và các bạn đồng hành vì thế đã quay sang hướng tây thay vì đi tiếp lên phía bắc, và đã đến Trôách, khoảng 125 dặm phía trên Êphêsô. Tại đó, người thứ tư nhập đoàn truyền giáo khi Phaolô nhận khải thị về một người Maxêđoan cầu xin được cứu giúp. (Xem 16:10 hầu hết những học giả Kinh Thánh bảo thủ đều tin nhân vật thứ tư nầy là Luca.)
Dựa vào phần tóm tắt trên, và vào 15:36-16:10, lưu ý những cách mà Phaolô đã dùng để xác định ý muốn của Đức Chúa Trời bằng cách chọn câu trả lời ĐÚNG trong những câu sau đây. Những câu trả lời đúng không chỉ giới hạn cho chuyến đi của Phaolô đến Trôách. Đúng hơn chúng áp dụng cho toàn bộ đời sống ông. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG nhất trong mỗi câu hỏi sau đây cũng như trong tất cả những câu hỏi Đúng - Sai trong bài học nầy.
1.
a Phaolô không hề ra quyết định nếu ông không nhận được khải thị siêu nhiên đến trực tiếp từ chính Chúa.
b. Trong một vài trường hợp, Phaolô đã kinh nghiệm được sự dẫn dắt siêu nhiên, trực tiếp; Tuy nhiên, những lần được dẫn dắt siêu nhiên nầy đã đến như là những biểu hiện cho sự dẫn dắt tối thượng của Đức Chúa Trời, chứ không phải do kết quả sự đòi hỏi của Phaolô.
Nếu Phaolô chờ đợi để nghe được sự dẫn dắt thành lời của Đức Chúa Trời, thì ông hẳn đã không rời khỏi Antiốt xứ Syri (15:36)! Ông đã biết công tác thuộc linh thực sự đã được tiến hành tại vùng Nam Galati. Ông cũng biết những khó khăn mà các tân tín hữu đang đối diện; do đó xuất phát từ lòng quan tâm và gánh nặng về công việc Chúa trên cánh đồng truyền giáo mới mẻ nầy, ông đã ra đi trong chức vụ, tin cậy Chúa dẫn dắt như những sự dẫn dắt mới mẻ trong chức vụ đã cho thấy.
2.
a. Phaolô tin rằng Đức Chúa Trời có thể bày tỏ ý muốn Ngài qua những sự chỉ dẫn của các tín đồ khác.
b. Phaolô tin rằng xưa nay không ai xác định ý muốn của Đức Chúa Trời qua lời khuyên hay sự hướng dẫn của các tín đồ khác.
Giăng Mác và Sila đã kinh nghiệm được ý muốn của Đức Chúa Trời qua những sự chọn lựa tương ứng của Banaba và Saulơ. Sila đã có cơ hội quen biết Phaolô, vì ông đã được chọn bởi hội thánh Giêrusalem để trở thành một trong những người cùng đi với Phaolô trở về Antiốt (15:22). Timôthê đã được kêu gọi bởi Phaolô. Đương nhiên chúng ta phải thừa nhận rằng Giăng Mác, Sila, và Timôthê đã chứng thực sự kêu gọi qua tinh thần của chính họ, vì cá nhân họ đã nhận được sự kêu gọi từ bên trong. Nhưng giống như Phaolô (13:1-3), họ không biết thời điểm hay phương cách để thực hiện sự kêu gọi đó.
MAXÊĐOAN
TRAXƠ
Philíp
Nêabôli
Amphibôlít
Abôlôni
Têsalônica
Bêrê
Trôách
Asốt
Athên
ACHAI
Côrinhtô
Sencơrê
BIỂN ĐEN
BÔNG
BITHINI
Dorylaeum
CÁPBAĐỐC
ASI
Êphêsô
Milê
BIỂN AEGEAN
GALATI
Antiốt
Ycôni
Đẹtbơ
Bẹtgiê
Áttali
LYCAONI
Batara
SILISI
Tạtsơ
Sêlơsi
Antiốt
BAMPHILI
CHÍPRƠ
Baphô
Siđôn
Tyrơ
Bêtôlêmai
Sêsarê
Giêrusalem
ÊDÍPTÔ
LYBI
BIỂN ĐỊA TRUNG HẢI
HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO THỨ NHÌ CỦA PHAOLÔ
3.
a. Một người có thể “tạo cơ hội” cho sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh qua sự thờ phượng.
b. Những lúc thờ phượng riêng và thờ phượng chung là những thì giờ để gây dựng đời sống đức tin cho tín đồ, và người ta đừng trông đợi Đức Chúa Trời bày tỏ ý muốn Ngài trong những thì giờ như thế.
Người ta có thể cho rằng tiếng phán của Đức Thánh Linh trong Cong Cv 16:6 không giống với tiếng phán trong 13:2- tức là, Đức Thánh Linh phán khi tín hữu đang thờ phượng Chúa. Bao nhiêu người đã từng trải sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời qua việc đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, ca hát, kiêng ăn, lắng nghe Lời Đức Chúa Trời khi được rao giảng hay được dạy dỗ, và thờ phượng trong Đức Thánh Linh?
4.
a. Đừng bao giờ lệ thuộc hoàn cảnh để xem đó như là phương tiện dẫn dắt. Chính sách tốt nhất ấy là thực hiện chính xác điều trái ngược với tiếng gọi của hoàn cảnh.
b. Những hoàn cảnh về thời gian, địa điểm, cá tánh, bối cảnh và sự kiện, có thể tỏ ra là những phương tiện thần hựu của sự dẫn dắt.
Hoàn cảnh của sự phân rẽ giữa Banaba và Phaolô đã trở thành cánh cửa phục vụ cho Sila. Hoàn cảnh cha mẹ khác chủng tộc của Timôthê đã khiến ông trở thành nhà truyền giáo lý tưởng cho thế giới dân Do thái - dân ngoại bang. Hoàn cảnh của các nhà truyền giáo tại Trôách tạo cơ hội cho họ sẵn sàng đáp ứng với tiếng gọi của người Maxêđoan. Hãy xem thêm về bản thân Phaolô. Hoàn cảnh về gia tộc của ông (người Do thái), về quyền công dân (Rôma), về quê hương (một thành chính yếu của dân ngoại bang là Tạtsơ), về sự huấn luyện (rabbi), và ngôn ngữ (tiếng Aram và tiếng Gờréc) đã chuẩn bị ông một cách độc đáo cho nhiệm vụ mà Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông. Từ ngữ dịp may của người chưa tin Chúa chính là chữ mà Cơ đốc nhân gọi là ơn thần hựu .
5.
a Một trong những điều quan trọng nhất cần phải nhớ khi làm theo ý muốn Đức Chúa Trời ấy là bạn đừng bao giờ lập ra một quyết định nào xuất phát từ những sự khao khát và phán đoán tốt nhất của riêng bạn.
b. Khi chúng ta bước đi trong sự thông công với Đức Chúa Trời và nỗ lực bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài, thì Ngài bày tỏ lòng tin cậy chúng ta bằng cách cho phép chúng ta đưa ra những quyết định phù hợp với ý muốn Ngài dành cho đời sống chúng ta.
Để bắt đầu hành trình truyền giáo lần thứ nhì (15:36), Phaolô không có ý đem Giăng Mác theo (15:38), để đem theo Sila (15:40) và Timôthê (16:3). Ông sắm sửa vào xứ Bithini, nhưng đã đầu phục ý chỉ Chúa (16:7). Khi chúng ta đang sống trong sự vâng phục ý chỉ đã bày tỏ ra của Đức Chúa Trời (là con người mà chúng ta phải sống) và khi các động cơ của chúng ta đều đúng, thì Đức Chúa Trời tin cậy sự phán đoán của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta phải luôn luôn để cho Ngài tùy ý hủy bỏ quyết định của chúng ta.
6. Giả sử đời sống đạo đức và thuộc linh của bạn đi đúng theo ý chỉ của Đức Chúa Trời, thì Ngài dẫn dắt chúng ta bằng cách nào? Kể ra năm nguyên tắc được cho biết qua những câu trên, là những câu cho thấy cách Phaolô đã kinh nghiệm sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời.
a.
..........
b.
..........
c.
..........
d.
..........
e.
..........
PHILÍP
16:11-15 Bruce 328-341
Mục tiêu 2. Thảo luận năm bước ngoặt trong chức vụ của Phaolô tại Philíp, và áp dụng những nguyên tắc đã học vào đời sống của bạn.
Người Maxêđoan nầy là ai? Có người cho rằng đây là Luca, vì ông gia nhập vào câu chuyện từ lúc có sự hiện thấy nầy (16:10). Tuy nhiên, vì sao Phaolô lại cần sự hiện thấy về Luca đương ban đêm , trong khi ông đã có thực tại của Luca lúc đương ban ngày ?
7. Lời giải thích chắc chắn hơn về người Maxêđoan nầy là lời giải thích nào trong những câu sau đây?
a) Người nầy là Đức Chúa Jesus.
b) Đây là một thiên sứ (những thiên sứ được mô tả như là con người trong Cong Cv 1:10; 10:30).
c) Đây có thể là một thiên sứ, hoặc là một "đại diện" vô danh của người Maxêđoan.
Có thể người trong sự hiện thấy nầy là người Maxêđoan chứ không phải thiên sứ. Nếu là thiên sứ, thì đây là chỗ duy nhất trong Tân Ước mà một thiên sứ được xác định là thuộc về lãnh thổ địa lý. Dầu sự nhận diện chính xác của người nầy là gì đi nữa, thì chúng ta vẫn có thể biết chắc chắn điều nầy: sứ điệp nầy được truyền đạt một cách mạnh mẽ là "sứ giả 'đứng,' 'nài xin,' và 'nói': Hãy qua xứ Maxêđoan mà cứu giúp chúng tôi" (16:9). Từ đáp ứng của đoàn truyền giáo nầy, chúng ta có thể kết luận đây là một sứ điệp được hiểu như một mạng lịnh cụ thể của Chúa cho tiến trình mà đoàn truyền giáo phải đi.
Phaolô, Sila, và Timôthê đã đi bộ hoặc cưỡi ngựa trên những con đường đầy bụi từ Antiốt xứ Bisiđi đến Trôách - đường chim bay khoảng 300 dặm. Họ ra đi đúng theo nghĩa là đi mà không biết mình đi đâu! Những đồng bạn mới của Phaolô, là Sila và Timôthê, đã từng trải khúc dạo đầu công tác truyền giáo trong nản lòng. Đức Chúa Trời đang bảo cho họ biết không được phép đi đâu, nhưng không bảo cho họ biết có thể đến đâu! Không còn nghi ngờ gì nữa, họ đã sẵn sàng kết luận rằng Đức Chúa Trời đã kêu gọi họ đến giảng Tin Lành tại xứ Maxêđoan (16:10).
Bốn nhà truyền giáo, mà mạng lịnh niêm phong của họ giờ đây đã được mở ra, đã xuống thuyền đi ngay đến Maxêđoan. Theo như thói quen Luca đã cung cấp cuốn nhật ký hải trình (16:11; 20:6, 13-15; 21:1-7; 27:1-28:14) ghi lại các cảng đã đến. Chuyến đi từ Trôách đến Samôtraxơ, một hòn đảo đầy núi cao đến 5000 dặm, mất hết một ngày, ngày thứ hai các nhà truyền giáo đến thành Nêabôli trên bờ biển Maxêđoan. Cảng Philíp cách đó khoảng 10 dặm. Họ đã giong buồm xuôi gió, và đây là một điềm báo sự tốt lành - nhất là khi so với chuyến đi năm ngày từ Nêabôli đến Trôách ngược gió trên đường trở về Giêrusalem (20:5).
Sau khi rời Nêabôli Phaolô cùng các bạn đồng hành đi đến Philíp trong vài ngày đầu ở tại thuộc địa Lamã nầy, các nhà truyền giáo xác định không có nhà hội tại đây (vì số người Do thái chưa đến 10 người nam). Tuy nhiên, bằng cách nào đó, Phaolô biết có một nhóm người Do thái và những người kính sợ Đức Chúa Trời đang nhóm lại ở bên ngoài cổng thành bên bờ sông Gangites (Bruce, trang 331), là một tục lệ khi không có nhà hội. Và Phaolô cùng các bạn mình đã đi đến nơi nhóm lại nầy vào ngày Sabát. Nơi nhóm đầu tiên nầy đã thiết lập bối cảnh cho sứ điệp đầu tiên của Phaolô và sự hoán cải của Lyđi.
Như vậy, bước ngoặt đầu tiên tại Philíp chính là sự hoán cải của Lyđi. Chọn câu ĐÚNG trong những bài tập sau đây.
8.
a. Khi Phaolô thấy nhóm người nữ nhóm lại để cầu nguyện, ông kết luận thính giả nầy quá ít, không đáng phí thì giờ và sức lực.
b. Khi Phaolô thấy những người nữ nầy nhóm lại để cầu nguyện ông đã không làm chứng cho họ vì ông không nhìn thấy người Maxêđoan kia.
c. Khi Phaolô thấy những người nữ nầy nhóm lại để cầu nguyện, ông đã nhân cơ hội làm chứng cho họ, và kết quả là ông đã có một người tin Chúa đầu tiên tại Châu Âu.
Chúng ta đừng nên khinh thường ngày của những sự nhỏ mọn. Đối với một số người, nhóm người nữ ít oi tại Philíp nầy có lẽ không đem lại một thách thức ý nghĩa nào, nhưng Phaolô đã thi hành chức vụ với lòng quan tâm đến từng cá nhân. Cánh cửa cơ hội rộng mở tại Philíp chính là tấm lòng rộng mở của một người đàn bà cùng với người nhà của bà.
9.
a. Lyđi là một người Do thái, đã tin vì nhìn thấy những dấu kỳ phép lạ do Phaolô làm tại Philíp. Sự hoán cải của bà thật ấn tượng.
b. Lyđi là một người kính sợ Đức Chúa Trời (giống như Cọtnây là một người được hấp dẫn bởi độc thần giáo và những lý tưởng đạo đức của Do thái giáo, nhưng vẫn chưa trở thành người cải đạo Do thái). Bà tin Đức Chúa Jesus là Chúa của mình nhờ vào lời làm chứng của Phaolô, và lời mô tả sự hoán cải thầm lặng của bà (Chúa mở lòng cho người) cho thấy kiểu mẫu của rất nhiều người khi đến với Chúa.
Một vài người nữ sang trọng đã chống đối Tin Lành (13:50), nhưng những người khác như Lyđi đã tiếp nhận Tin Lành. Có thể cho rằng Lyđi giàu có không những vì bà là người buôn hàng sắc tía rất đắt giá đến từ Thiatirơ, mà bà còn có một căn nhà đủ rộng để tiếp bốn nhà truyền giáo. Trước tiên là tấm lòng rộng mở, kế đến là cánh cửa nhà rộng mở!
Phaolô quả đã có một đức tin phi thường! Hội thánh lớn tại Antiốt xứ Syri đã có năm "tiên tri và giáo sư" (13:1). Nhưng Phaolô đã đem một đoàn mục sư gồm bốn người - tính cả ông - vào một thành phố chưa hề có một tín hữu nào! Lòng mến khách của Lyđi có lẽ đã làm vơi bớt gánh nặng tài chánh trong việc tìm nơi ăn chốn ở cho Phaolô, Sila, Timôthê, Luca.
10. Dựa vào 16:16-18, bạn sẽ xác định đâu là bước ngoặt thứ nhì trong chức vụ của Phaolô tại Philíp.
..........
11. Ở trang 332, F. F. Bruce mô tả thế nào về đứa tớ gái đã được đuổi quỉ ra?
a) Ông gọi cô là một đứa tớ gái bị quỉ ám và bất hạnh.
b) Ông gọi cô là người bị rối loạn tâm thần.
c) Ông mô tả cô như là một "người dễ xúc cảm."
Luca mô tả cô như là người bị "Nữ thần Phitôn" ám. Cô gái được xác định như vậy vì tài tiên đoán (bói khoa) của cô được xem như do thần Apollo ban cho, tức vị thần được thờ tại đền Delphi, hoặc Pytho, ở miền trung Hylạp.
12. Câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Luca lan man khỏi câu chuyện đuổi quỷ, kể cho chúng ta về một số những lời bói khoa thú vị của người tớ gái nầy về những sự kiện sắp xảy đến trong thế kỷ thứ nhất.
b. Luca không hề kể cho chúng ta biết những lời tiên tri của cô nầy, nhưng chắc chắn cô phải có một khả năng đặc biệt vì cớ cô đã kiếm nhiều tiền cho những người chủ của cô.
c. Luca ghi lại lời tiên tri duy nhất do cô nầy nói ra ấy là lời chứng đúng sự thật về Phaolô và những bạn đồng hành của ông.
Phaolô không dự phần vào cuộc trò chuyện với ma quỷ, cũng không đoán xem có ma quỷ ở đó không. Trái lại, ma quỷ, giống như những tà linh mà Đức Chúa Jesus đã duổi ra, chúng đã tự biểu lộ chúng ra. Trong những năm đầu chức vụ của Đức Chúa Jesus, chỉ có tà linh xác định Ngài là Con Đức Chúa Trời. Trước sự hiện diện của Đức Chúa Jesus và các dầy tớ Ngài, ma quỷ buộc phải nói ra sự thật. Phaolô và những bạn đồng hành thực sự là "đầy tớ của Đức Chúa Trời Rất Cao, rao truyền cho các ngươi đạo cứu rỗi."
Một thắc mắc thú vị về trường hợp Phaolô và người đầy tớ gái nầy ấy là: Vì sao tà linh không bị đuổi ra ngay tức thì? Vì sao người tớ gái lại được phép đi theo sau Phaolô suốt nhiều ngày như vậy? Trước hết, chúng ta hãy xác định rằng Phaolô không hề thất bại khi nỗ lực đuổi quỷ này trước lúc sự đuổi quỷ được ghi lại tại đây. Phải bác bỏ bất cứ ý kiến nào cho rằng Phaolô đã để cho thời gian trôi qua vì cớ ông muốn công chúng biết đến nhiều hơn bằng cách chờ đợi. Một thủ đoạn như thế chỉ phản ánh lên sự vô tâm trước sự khốn khổ của cô gái nầy.
Người ta chỉ dám đánh bạo đoán nguyên nhân của sự chậm trễ nầy. Chúng ta thấy trong các sách Tin Lành, những người bị quỷ ám được Đức Chúa Jesus giải cứu đã có lòng khao khát được thoát khỏi sự điều khiển của tà linh để thờ phượng Đức Chúa Jesus; dầu vậy, tà linh hay nhiều tà linh đã chống lại lòng khao khát của họ (xem Mac Mc 5:6-7). Đức Chúa Jesus đã đuổi quỷ tại Cabênaum (1:34), nhưng không đuổi quỷ tại Naxarét (6:5), không phải tại vì Naxarét không có tà linh nào, mà vì những người bị tà linh ám không tỏ ra khao khát Đức Chúa Jesus. Liệu có thể Phaolô đã không làm gì hết suốt nhiều ngày vì cớ cô gái nầy không tỏ ra dấu hiệu muốn được giải cứu? Tuy chúng ta không biết chắc chắn, nhưng đây có thể là nguyên nhân phù hợp nhất với dữ liệu trong Tân Ước về phép đuổi quỷ.
13. Theo Cong Cv 16:19-24, bước ngoặt thứ ba trong từng trải của Phaolô tại Philíp là gì?
..........
Hầu như không có ngoại lệ, chức vụ của Phaolô tại một thành phố đã thu hút sự chú ý của toàn thành phố vì cớ một sự kiện gây xúc tác nào đó. Tại Philíp, sự hoán cải thầm lặng của Lyđi không làm rúng động thành phố. Bà đã là một con người tốt và sống đạo đức, và sự hoán cải của bà hẳn bề ngoài không có gì đáng chú ý ngoại trừ đối với những người đã biết rõ bà. Nhưng việc đuổi quỷ cho người tớ gái nầy lại là một chuyện khác!
14. Chúng ta có thể đem điều nào sau đây từ việc đuổi quỷ cho người đầy tớ gái để áp dụng cho những người được cứu khỏi tà thuật?
a) Dầu người nầy đã được Đấng Christ buông tha, người ấy có thể vẫn sử dụng những quyền phép tà thuật của mình.
b) Khi Đấng Christ ngự trị vào lòng, Ngài phá tan quyền lực của tà thuật, và người tín đồ đó không bao giờ quay lại với quyền phép đó, và đừng bao giờ nên quay lại.
Khi tà linh đã bị đuổi ra, cô gái nầy không còn bói khoa được nữa! Có thể phải mất nhiều tiếng đồng hồ hoặc nhiều ngày thì sự kiện nầy mới tỏ rõ cho những người chủ của cô, nhưng khi họ nhận ra tài bói khoa của cô không còn nữa, thì họ biết rõ ràng nguyên nhân. Họ bắt Phaolô và Sila, kéo đến trước mặt quan và kiện hai người.
15. Thái độ nào sau đây được phản ánh qua dân thành Philíp và tương tự với thái độ của dân chúng Gađara sau khi Đức Chúa Jesus đuổi quỷ tại đó (Mat Mt 8:34)?
a) Họ vui sướng vì cô gái quá khổ đó nay được cứu giúp.
b) Họ quý lợi nhuận vật chất hơn là quý trọng lợi ích của một cá nhân.
c) Chủ yếu là họ muốn có được một quyền lực còn lớn hơn quyền lực đã có trước kia.
Nếu dân Gađara biết việc đuổi quỷ khỏi hai người bị ám kia sẽ làm thiệt hại bầy heo của họ, hẳn họ sẽ chọn giữ lại bầy heo. Những người chủ của cô gái nầy chỉ xem trọng giá trị kinh tế của cô, chứ không quý sự sống của cô. Khi đám đông nghe lời báo cáo xuyên tạc của những người chủ nầy, rằng hai người Do thái - tức Phaolô và Sila - đã dạy dỗ những thói tục nghịch lại luật pháp La mã, thì họ đã nổ bùng lên thành cuộc tấn công bài Do thái.
Phaolô và Sila có thể vui mừng khi họ bị đánh đập, vì lần đầu tiên Tin Lành đã trở thành đề tài trò chuyện chính trong thành Philíp. Phaolô và Sila đã được những quan và dân thành nhận ra tên họ ngay.
16. Theo Cong Cv 16:25-34, bước ngoặt thứ tư trong chức vụ Phaolô tại Philíp là gì?
..........
Những nhận định của Bruce về từng trải của Phaolô và Sila trong ngục là rất rõ ràng và chính xác (trang 336-337). Những nhận định này cho phép chúng ta hình dung phần nào sự bất tiện và đau đớn mà các nhà truyền giáo đang phải chịu. Ngoài ra, chúng ta còn phải nhớ rằng ngục và tù thời bấy giờ rõ ràng là rất u tối, không được thoáng, dơ dáy, đầy mầm bệnh, không thoát nước và hoàn toàn không có những phương tiện vệ sinh. Chúng là nơi ở của những con người tuyệt vọng nhất và bại hoại nhất. Giữa tiếng ngáy, tiếng chửi rủa, tiếng la ai oán, tiếng loảng xoảng của xiềng xích, những vết thương bầm giập, chưa được lau rửa, không được giúp đỡ, và có lẽ là vẫn đang còn chảy máu, Phaolô và Sila ngồi đau đớn trong cùm, không thể nghỉ ngơi hay ngủ được.
17. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và giải thích đúng nhất đáp ứng của Phaolô và Sila đối với việc bị đánh đập và nhốt vào tù?
a. Họ ôn lại hành trình truyền giáo của mình cho đến tận thời điểm nầy. Họ đã viếng thăm những hội thánh được thành lập trong hành trình truyền giáo thứ nhất, nhưng rồi từ đó trở đi, họ đã đi bộ hàng trăm dặm mà không gặt hái được một kết quả nào đáng kể. Người Maxêđoan kia đã không gặp họ tại thành Philíp. Chỉ có một người nữ và người nhà của bà được cứu rỗi. Họ kết luận rằng họ đã bỏ lỡ ý muốn của Đức Chúa Trời tại đâu đó. Họ đã dành cả đêm cố phát hiện ra ai phải chịu trách nhiệm và điều gì đã sai trật.
b. Họ bắt đầu phàn nàn. Họ tự hỏi vì sao Đức Chúa Trời lại cho phép họ bị đánh đập khủng khiếp dường ấy. Dầu thế nào đi nữa vẫn có một tớ gái được giải thoát khỏi tà linh kia mà! Có lẽ họ đừng bao giờ dính líu đến tà linh! Họ cũng thấy mình bị ngược đãi tồi tệ biết bao, và họ phàn nàn lớn tiếng về những thượng quan bất công về những tên lính Lamã, và trên hết, là về cái xó bẩn thỉu mà họ đang bị nhốt đây!
c. Họ đang cầu nguyện và hát ngợi khen Đức Chúa Trời. Là những chiến binh kỳ cựu của Đấng Christ, họ biết Đức Chúa Trời sẽ dùng từng trải của họ để đem lại điều ích lợi. Họ sung sướng được dự phần trong kế hoạch toàn hảo của Ngài. Đấng Christ đã lên thập tự giá vì cớ họ; họ có thể chịu đánh đòn vì cớ Ngài!
Luca đặc biệt ghi lại các phạm nhân đang lắng nghe Phaolô và Sila. Thế gian đang lắng nghe cách Cơ đốc nhân phản ứng với trở ngại, hoạn nạn và bắt bớ. Nếu Đức Chúa Trời cho phép họ bị nhốt vào ngục, thì Ngài đã sai họ đến đó để chia xẻ Tin Lành cho các phạm nhân!
Tôi tin từng trải trong tù của Phaolô và Sila chính là thời khắc then chốt trong hành trình truyền giáo lần thứ nhì của họ. Trước kia họ chưa hề bị bắt hay bị nhốt vào ngục, theo như chúng ta biết cho tới nay. Cho đến giờ phút nầy, hành trình truyền giáo lần thứ nhì vẫn chưa có gì để gọi là "thành công." Họ đã đi hàng tuần, có lẽ đến cả hàng tháng, gặp nhiều thay đổi trong kế hoạch và nhiều nản lòng. Ngục nầy chính là chốn sâu thẳm tận cùng của họ, là đồng vắng của họ, là vườn Ghếtsêmanê của họ, là Ysác tại núi Môria của họ. Đức Chúa Trời sẽ làm cho đường lối của họ được thạnh vượng kể từ giây phút đó trở đi, vì họ đã đối diện với thử nghiệm lớn nhất của mình, và đã vượt qua một cách khải hoàn.
18 Đây là lần thứ năm trong Côngvụ mà Luca thuật lại một từng trải cụ thể, trong đó tín đồ bị nhốt trong ngục. Bạn có thể kể ra bốn lần trước cũng như địa chỉ của chúng trong sách Côngvụ không?
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
19. Dựa vào năm câu chuyện nói đến sự giam cầm trong sách Côngvụ cho đến nay, câu nào sau đây là những suy luận đúng?
a) Đức Chúa Trời luôn luôn ban sự giải thoát siêu nhiên khỏi ngục tù.
b) Khi Đức Chúa Trời giải thoát khỏi ngục, thì bạn có thể đoán trước cách mà sự giải thoát có thể xảy ra và Chúa sẽ ban những mạng lịnh nào cho những người được giải thoát.
c) Bất cứ khi nào tín đồ không được giải thoát khỏi ngục, thì đó là vì họ không có đủ đức tin để phép lạ xảy ra.
d) Khi Chúa giải thoát khỏi ngục, thì phương pháp của Ngài cũng như những mạng lịnh của Ngài cho những người được giải thoát đều khác nhau.
Trong ba sự can thiệp siêu nhiên trong từng trải bị giam cầm của tín đồ, thì thiên sứ của Chúa là tác nhân trong hai lần giải thoát, một lần thì tác nhân là cơn động đất. Một lần thiên sứ đã truyền cho những người được giải thoát phải giảng đạo trong đền thờ. Nhưng vì thiên sứ không truyền lệnh gì, nên Phierơ đã đi ra khỏi chốn hoạn nạn. Phaolô và Sila không nhận được mạng lịnh của thiên sứ. Phaolô được giao tự nghiên cứu tình huống và quyết định đường lối hành động. Như vậy, ông ngăn cản người cai ngục tự sát.
20. Đọc hai ẩn dụ của Chúa trong Mat Mt 13:44-46, có mô tả hai phương cách khác nhau để người ta được cứu. Ẩn dụ nào mô tả sự cứu rỗi của Cọtnây người Lamã, và ẩn dụ nào mô tả sự cứu rỗi của người cai ngục Lamã?
..........
Chúng ta có thể hiểu được sự sợ hãi của người đề lao theo những phong tục phổ biến là bắt người cai ngục hoặc người áp giải phạm nhân phải chịu hình phạt của phạm nhânÁ nếu để phạm nhân thoát (xem Cong Cv 12:19). Câu nói "Tôi phải làm chi cho được cứu rỗi" của người đề lao có thể là một thắc mắc được thôi thúc bởi ước muốn bảo tồn mạng sống mình, nhưng Phaolô theo bản năng đã đáp lại bằng câu trả lời nhắm vào nhu cầu sâu xa hơn của người đàn ông này, tức là sự cứu rỗi linh hồn.
Luca ghi lại ba trường hợp mà Phaolô nói ra Lời cứu rỗi và giải thoát tại Philíp: với những người nữ (16:13), với tà linh (16:18), và với người đề lao (16:30-32). Mỗi lần, Lời đều đã có hiệu quả!
Người đề lao và cả nhà đã tin và chịu phép báp têm. Phaolô và Sila đã được tắm rửa và ăn uống!
21. So sánh sự cứu rỗi của Lyđi, sự giải cứu người đầy tớ gái, và sự cứu rỗi của người đề lao. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Tin Lành đã có kết quả rất tích cực tại Philíp trên những người rất khác nhau về mặt văn hóa, dân tộc, tôn giáo, và địa vị xã hội.
b. Đáp ứng với sự rao giảng Tin Lành tại Philíp cho thấy Tin Lành đã thâm nhập một cách khó khăn vào những rào cản về nền văn hóa, dân tộc, tôn giáo, và địa vị xã hội.
Lyđi không phải là một người Lamã, nhưng là người Thiatirơ. Đầy tớ gái có thể là một người Gờréc. Đề lao là người Lamã. Ngoài từng trải của họ trong Đấng Christ, họ thực sự không có gì chung cả. Hội thánh tại Philíp đã bắt đầu với những con người mà cá tánh, địa vị, và bối cảnh của họ đều rất khác nhau, nhưng là những người thấy được rằng trong Đấng Christ, những điều khiến cho chúng ta hiệp một là quí trọng hơn những điều chia rẽ chúng ta.
22. Theo 16:25-40, bước ngoặt thứ năm trong từng trải của Phaolô tại Philíp là gì.
.......... Những ai dám cư xử như thế với những công dân Lamã như Phaolô và Sila, thì căn cứ vào luật pháp họ đã vi phạm rất lớn. Nếu Phaolô đã có thể nói lên quyền công dân Lamã của mình khi ông và Sila vừa mới bị điệu đến trước mặt các thượng quan, thì sẽ chẳng bao giờ có chuyện đánh đập hoặc nhốt ngục. Hoặc ông đã tuyên bố quyền đó mà người ta chẳng nghe, hoặc ông đã không tuyên bố vì cớ ông cảm thấy Đức Chúa Trời sẽ nhân sự yên lặng của ông mà đem lại điều ích lợi.
Phaolô đòi hỏi các thượng quan phải xin lỗi, có thể là nhằm đem lại sự bảo vệ cho những thuộc viên của hội thánh non trẻ mới xuất hiện tại Philíp.
Chúng ta không biết Phaolô ở bao lâu tại Philíp. Có thể chỉ khoảng vài tuần. Chúng ta biết ông vào thành phố như một nhân vật vô danh và lìa thành phố như một nhân vật mà toàn công chúng đều biết. Khi ông đến, không có tín đồ nào cả. Khi ông đi, hội thánh Cơ đốc đầu tiên tại Châu Âu đã được thành lập. Luca vẫn ở lại, có lẽ để làm mục sư tại đó (lưu ý rằng chữ "chúng ta" của 16:10-40 một lần nữa lại trở thành chữ "họ" trong 17:1), và ông sẽ không nhập đoàn với Phaolô mãi đến khoảng tám năm sau (20:5).
TÊSALÔNICA VÀ BÊRÊ
17:1-15 Bruce 342-347
Mục tiêu 3. So sánh cách đối xử với Phaolô và Sila tại Têsalônica với cách đối xử tại Bêrê.
Chuyến đi về hướng tây dọc theo đường Engatian Way đến Têsalônica đưa Phaolô, Sila và Timôthê băng qua thành Amphibôlít là thành Abôlôni.
23. Dựa vào kiến thức của bạn về chiến lược truyền giáo của Phaolô, giải thích vì sao dường như ông xem nhẹ chức vụ tại Amphibôlít và Abôlôni để tiến trực tiếp đến Têsalônica. Chọn (những) câu đúng nhất từ phần trả lời dưới đây.
a) Những thành nầy không phải là những trung tâm đô thị lớn như Philíp và Têsalônica.
b) Trong những thành nầy không thể có những nhà hội Do thái.
c) Phaolô biết rằng nếu ông thành lập hội thánh tại Philíp và Têsalônica, thì ông có thể dựa vào những hội thánh nầy để rao truyền Tin Lành cho những thành phố nằm giữa chúng.
d) Ông đang vội vã đến Rôma.
Có người nói Phaolô có bản năng truyền giáo cho điểm trọng yếu nhất; tức là, phương pháp thi hành chức vụ ở nơi ông là liện tục tìm kiếm những nơi vốn là trung tâm quan trọng về dân số và thương mại, để những bãi đổ bộ đó được thiết lập cho sự tiến bộ sau nầy của Tin Lành tại khu vực đó. Phaolô đã thi hành chức vụ trong nhà hội nếu thành phố có nhà hội, nhưng như kinh nghiệm của ông tại Philíp cho thấy, chức vụ của ông vẫn tiến triển mà không cần đến nhà hội.
24. Câu nào sau đây đặc trưng đúng nhất việc Phaolô giảng đạo tại nhà hội ở Têsalônica?
a) Ông nhấn mạnh vào lời chứng về sự cứu rỗi, và ông kể lại cách Đấng Christ đã gặp ông trên con đường Đamách.
b) Ông thuật lại nhiều câu chuyện gây cấn từ những từng trải truyền giảng trước kia.
c) Ông giảng về Đức Chúa Jesus Christ, chứng tỏ Ngài là sự ứng nghiệm các lời tiên tri trong Kinh Thánh.
Phaolô đã không lơ là việc đề cập từng trải của mình, nhưng điểm nhấn mạnh của ông chính là Đức Chúa Jesus Christ và cách Ngài làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh. Để kêu gọi thính giả tiếp nhận lẽ thật, Phaolô không chỉ đưa ra từng trải riêng của mình; đúng hơn, ông hướng họ đến Lời Đức Chúa Trời.
25. Phaolô thi hành chức vụ ba tuần trong nhà hội tại Têsalônica. Luca nói rằng ông " biện luận với họ, lấy lời Kinh Thánh cắt nghĩa và giải tỏ tường về Đấng Christ phải chịu thương khó, rồi từ kẻ chết sống lại." Những câu nào sau đây là câu suy luận ĐÚNG từ câu Kinh Thánh trên?
a. Khi Phaolô giảng xong, ông về nhà. Nếu có ai thắc mắc, ông sẽ kết tội họ là phạm tội nghi ngờ. Tấm gương của Phaolô đã cho các đồng bạn thấy rằng người ta đừng nên dùng sự thảo luận về thần học hay về luận lý để đưa người khác đến với Đấng Christ. Khẩu hiệu của ông: "Một là tin, hai là không."
b. Bài giảng của Phaolô mời gọi sự đối thoại. Người nào không hiểu hay bất đồng ý kiến thì đều có thể chất vấn ông. Phaolô đã sẵn sàng bênh vực mọi câu nói của mình bằng lời Kinh Thánh và bằng thực tại về Đấng Christ. Tấm gương của Phaolô chứng tỏ cho đồng bạn của ông thấy rằng người ta không những tin khi họ thấy có cảm tình, nhưng họ cũng tin khi những thắc mắc thầm kín trong lòng và trong trí của họ được giải đáp.
Bài giảng của Phaolô không phải chỉ có lời làm chứng không mà thôi. Ông đã biện luận, không phải theo kiểu tranh cãi, nhưng theo cách đem lại ích lợi. Các thắc mắc được nêu theo thứ tự. Ông đã dành nhiều năm chuẩn bị để được trở nên sẵn sàng giải đáp những thắc mắc. Phaolô đã là tấm gương tiêu biểu của lời Phierơ khuyên bảo: "Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em" (IPhi 1Pr 3:15).
Một số người Do thái đã tin sứ điệp của Phaolô, rất nhiều người Gờréc kính sợ Đức Chúa Trời và nhiều người đàn bà sang trọng trong thành cũng đã tin Chúa.
Địa vị xã hội của một người không nhất thiết phải là cớ khiến người ấy dễ tiếp nhận hay dễ khước từ Tin Lành. Những người đàn bà sang trọng tại Antiốt xứ Bisiđi (Cong Cv 13:50) khước từ Tin Lành, trong khi rất nhiều đàn bà sang trọng tại Têsalônica (17:4) đã tiếp nhận Tin Lành.
Cũng như tại Giêrusalem (5:17) và Antiốt xứ Bisiđi (13:45), Luca ghi rằng tại Têsalônica (17:5) những nguyên nhân thật khiến người ta khước từ Tin Lành đã không xuất phát từ lương tâm. Trái lại, chúng xuất phát từ động cơ tội lỗi (sự ganh ghét).
Được khích động bởi sự xui khiến của những kẻ chủ mưu người Do thái và những nhân vật xấu nơi phố chợ, đoàn dân đã nhóm lại bắt Phaolô và Sila tại nhà Giasôn, một tín đồ, là nơi họ đang ở. Các quan trong thành cố giải quyết nan đề một cách khéo léo, bằng cách cho Giasôn và một số Cơ đốc nhân khác nộp tiền bảo lãnh, để an tâm rằng họ sẽ làm trọn lời hứa là buộc Phaolô và Sila rời thành phố. Vì Timôthê không được nhắc đến trong 17:10, nên chúng ta có thể kết luận rằng ông vẫn còn ở lại tại Têsalônica.
Người ta đã đưa ra một lời kết tội thú vị cho Phaolô và các bạn ông trước mặt các quan án thành Têsalônica. Những kẻ cầm đầu đám đông tuyên bố: "Kìa những tên nầy đã gây thiên hạ nên loạn lạc (đảo lộn thế giới), nay có đây" (17:6). Hiển nhiên, nếu chỉ áp dụng cho Phaolô và Sila mà thôi, thì những lời nầy quả là quá phóng đại, vì họ chỉ đi qua một phần thế giới từ Giêrusalem đến Têsalônica mà thôi. Tuy nhiên, cụm từ nầy có thể chỉ về Cơ đốc nhân nói chung. Nếu đúng vậy, chúng ta nhìn thấy được hiệu quả rộng lớn và rất có ý nghĩa của Tin Lành vào năm 50 S.C. Và lời than phiền nầy đã trở thành lời tuyên dương hội thánh đầu tiên, là hội thánh đang nỗ lực để khiến khắp nơi trên thế giới biết đầy đủ về Đức Chúa Jesus Christ.
26. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và phản ảnh những sự khác nhau giữa chức vụ của Phaolô tại Têsalônica và tại Bêrê (một thành phố 60 dặm phía tây Têsalônica)?
a. Phaolô đến nhà hội tại Têsalônica. Một lần nữa, cũng giống như tại nhiều nơi khác, nhà hội đã làm phiền ông. Do đó, ông kết luận rằng đã đến lúc dẹp bỏ phương pháp tiếp cận một thành phố trước hết qua chức vụ trong nhà hội. Tại Bêrê, ông thi hành chức vụ tại nơi phố chợ, với kế hoạch là đến với người ngoại bang trước rồi người Do thái sau.
b. Phaolô đến nhà hội tại mỗi thành phố, nhưng ông đã nhận được nhiều đáp ứng rất khác nhau tại mỗi nhà hội đó. Người Do thái tại Bêrê được khen vì họ đã sốt sắng và hết lòng tra xem Kinh Thánh để biết Phaolô có giải thích và áp dụng Kinh Thánh đúng hay không.
c. Tại Têsalônica, không một thành viên nào của nhà hội trở thành tín đồ Đấng Christ. Tại Bêrê thì khác. Tại đây, cả người Do thái lẫn nhiều người kính sợ Đức Chúa Trời đã tin.
d. Tại Bêrê có tỉ lệ phần trăm người Do thái trở thành tín đồ cao hơn tại Têsalônica, và tại Bêrê, họ sẵn lòng tra xem Kinh Thánh hơn là đáp ứng với với những khẩu hiệu, lòng ganh ghét, và những cuộc bạo loạn (như tại Têsalônica). Tại Bêrê, cũng như ở tại Têsalônica, nhiều người nữ ngoại bang sang trọng trong thành cũng đã tin Chúa.
Khi một người phản ứng với một tôn giáo khác bằng những sự công kích về tình cảm, sự bắt bớ, ngôn ngữ xúc phạm, hay bạo lực, thì người đó tỏ ra thiếu niềm tin quyết nơi tôn giáo của mình. Vì người đó tin nếu chỉ được bênh vực bằng lời nói không mà thôi, tôn giáo của mình không thể đứng vững và thành công, nên người ấy phải viện đến những phương sách khác. Tuy nhiên, Cơ đốc nhân nhận ra rằng Đức Chúa Trời sẽ xác nhận Lời Ngài bằng những việc làm chữa lành và cứu rỗi. Do đó, Phaolô có thể nhắc nhở tín đồ Têsalônica rằng: "Đạo Tin Lành chúng ta đã rao truyền cho anh em, không những bằng lời nói mà thôi, lại cũng bằng quyền phép, Đức Thánh Linh, và sức mạnh của sự tin quyết nữa" (ITe1Tx 1:5).
Khi nghe Phaolô ở tại Bêrê, những người Do thái tại Têsalônica đã đi theo đến đó để khích động tình cảm của đoàn dân. Những anh em tín đồ tại Bêrê quan tâm đến sự an toàn của Phaolô không kém những tín đồ tại Têsalônica (Cong Cv 17:10), họ đã đưa Phaolô đến Athên. Khi Phaolô ở tại Bêrê, Timôthê đã từ Têsalônica đến và cứ ở tại đó với Sila.
ATHÊN
17:16-34 Bruce 348-365
Mục tiêu 4. Cho thấy bài giảng của Phaolô tại Athên thuật lại Tin Lành một cách hữu hiệu thế nào cho thính giả trí thức người ngoại đạo.
Khi Phaolô đến thăm Athên, thành này không còn là một trung tâm chính trị quan trọng nữa. Trước đó, đây là thành phố của Pericles và Demosthenes, của Socrates, Plato, và Aristotle. Nhưng khi Phaolô đến, thời hoàng kim của nó đã qua đi 400 năm rồi; dầu vậy, đây vẫn là trung tâm của vẻ đẹp, của nghệ thuật, văn hóa và tri thức.
27. Dựa vào 17:16 ICo1Cr 10:14, 20-21, bạn sẽ đáp ứng thế nào với câu nói: “Phaolô đã lạm dụng nghệ thuật Hylạp bằng cách mô tả những bức tượng điêu khắc như là những hình tượng"?
..........
Phaolô đã trải nhiều năm trước kia tại thành phố Tạtsơ náo nhiệt, bận rộn. Khi còn bé, và sau nầy khi là một nhà truyền giáo, ông đã nhìn thấy nhiều hình tượng trong khắp thế giới dân ngoại bang. Tuy nhiên, chỉ tại Athên, chúng ta mới đọc thấy tinh thần rất tức giận của ông, khi nhìn thấy thành đầy dẫy hình tượng. Động lòng tức giận được dịch ra từ chỉ một từ Hylạp, mà từ đó ra chữ paroxysm (cơn bột phát) trong Anh ngữ. Tinh thần của Phaolô bùng lên mãnh liệt trước quy mô thờ lạy hình tượng đầy mê tín (Cong Cv 17:14-15) của một dân mà đã tuyên bố sản sinh ra những nhà lãnh đạo tri thức của thế giới. Đây là một từ ngữ tự mâu thuẫn, một nghịch lý phát xuất từ thần của đời nầy - kẻ đã làm mù tâm trí của những người không tin Chúa (IICo 2Cr 4:4).
Có thể Phaolô đã được gởi đến Athên để nghỉ ngơi. Anh em (Cong Cv 17:14-15) có thể đã cảm thấy Athên là nơi an toàn cho Phaolô, một nơi tương phản hẳn với sự không nhân nhượng của Têsalônica và Bêrê. Athên ưa chuộng sự mới lạ (17:21) dường như những thành phố khác thì không.
Phaolô không quan tâm đến việc ở tại thư viện của Athên, đi tham quan thành phố, hoặc chỉ nghỉ ngơi thuần túy khi mà mỗi bước đi, ông đều gặp tình trạng thờ lạy hình tượng như thế.
28. Phaolô đã thi hành chức vụ trước hết tại hai nơi nào trong thành phố Athên?
..........
29. Phaolô đã gặp hai nhóm triết gia nào, và họ đã có ý kiến gì về ông?
..........
Khi Phaolô tranh luận với họ, thì những triết lý Epicuriens và Stociens đã tồn tại bắt đầu sang thế kỷ thứ tư rồi. Những triết lý của họ, dưới nhiều hình thức khác nhau và tên gọi khác nhau, hiện vẫn đang tồn tại rất sống động trên thế giới tri thức hiện đại.
Phái Epicuriens là những người theo phái bất khả tri. Hoặc là Đức Chúa Trời không tồn tại, hoặc là quá xa cách với thế giới đến nỗi không thể biết đến hay không thể chăm sóc cho thế giới được. Mọi việc xảy ra một cách ngẫu nhiên. Con người sống với hai nỗi sợ lớn: các thần linh và sự chết. Thuyết Epicuriens tìm cách loại bỏ những nỗi sợ hãi sóng đôi nầy bằng cách phủ nhận sự thực hữu của thần linh hoặc, bằng cách nói rằng thần linh sống chỉ để tìm kiếm thú vui mà thôi- nếu như thật sự có thần linh. Họ dạy rằng nỗi lo sợ sự chết bị xóa bỏ khi người ta nhận ra rằng chết là hết. Do đó con người phải tận dụng tối đa những gì mình đang có trong tay. Tín điều của họ là "Ăn, uống, và vui vẻ."
Mặt khác, phái Stociens (phái khắc kỷ) là những người theo phiếm thần giáo. Thượng đế ở trong mọi sự. Mọi sự đều được điều khiển bởi số mạng. Do đó, sự lạnh lùng (nghĩa đen là không có tình cảm hoặc không có cảm xúc gì cả) là đặc điểm đáng ưa chuộng nhất mà người ta có được. Ngay cả những con rận tồn tại cũng là nhằm quấy rối con người, kẻo con người ngủ quá nhiều. Người ta phải sống với một quyết tâm dứt khoát, chấp nhận điều tốt nhất hay xấu nhất với sự bình thản, sống hết cuộc đời một cách khắc kỷ .
Rõ ràng Phaolô quen thuộc với những quan điểm của họ. Ông được mời phát biểu tại đồi Arêôba, một khu tòa đặc biệt của giới tri thức tại Athên, được đặt tên như vậy vì tập trung tại Aerios pagos , Đồi Aeres (hay đồi Mars). Tại mỗi thành phố mà Phaolô thành lập hội thánh trong hành trình truyền giáo lần thứ nhì và thứ ba, cơ hội cho ông đem Tin Lành ấy là làm chứng cho những quan chức lãnh đạo của thành phố. Tại mỗi thành phố, Luca xác định chính xác tên gọi độc nhất cho những cá thể hay tập thể như thế: tại thành Philíp, là thượng quan ( strategoi , 16:35); tại Têsalônica, các quan án trong thành ( politarchai , 17:6) tại thành Côrinhtô, quan trấn thủ ( anthupatos , 18:12) tại Êphêsô, mấy quan lớn xứ Asi ( asiarchoi , 19:31) tại Athên, đồi Arêôba (Areios pagos , 17:22).
Sách Côngvụ chỉ ghi lại hai trong số những bài truyền giảng Tin Lành của Phaolô: những bài tại Antiốt xứ Bisiđi và tại Athên. (Những bài thuyết giảng khác của Phaolô đã diễn ra với tư cách lời biện hộ của ông.)
30. Câu nào sau đây là những so sánh ĐÚNG về bài giảng của Phaolô tại Antiốt xứ Bisiđi và tại đồi Arêôba?
a. Tại Antiốt xứ Bisiđi, bài giảng của Phaolô được dành cho người Do thái. Tại Athên, bài giảng của Phaolô dành cho người Gờréc.
b. Bất luận Phaolô giảng tại đâu, như những bài giảng tại Antiốt và tại Athên cho thấy, thì ông đều dùng cùng một dạng bài giảng như nhau.
c. Để giảng cho người Do thái, Phaolô trích dẫn Kinh Thánh Cựu Ước. Để giảng cho giới trí thức người Gờréc, Phaolô tránh trích dẫn Cựu Ước.
d. Theo câu chuyện của Luca về bài giảng của Phaolô tại Antiốt xứ Bisiđi, thì rõ ràng đó là một bài giảng cô đọng, và phần ký thuật của ông về bài giảng của Phaolô tại Athên cũng là phần cô đọng các chủ đề chính của Phaolô.
e. Bài giảng của Phaolô tại Antiốt xứ Bisiđi có lời kêu gọi thính giả nhận ra sự khải thị Đức Chúa Trời đã bày tỏ về Ngài trong lịch sử của Ysơraên; trong khi đó, tại Athên, ông kêu gọi thính giả sử dụng lý luận mà Đức Chúa Trời đã trang bị cho con người để họ hiểu được bản tánh cơ bản của Đức Chúa Trời.
Có lẽ Luca ghi lại hai bài giảng nầy để làm ví dụ cho những phương cách rao giảng Tin Lành khác nhau của Phaolô cho người Do thái và người ngoại bang. Đối với người Do thái, khởi điểm của ông là sự khải thị, nhưng đối với người ngoại bang, khởi điểm của ông là lập luận. Trong cả hai trường hợp, phần tóm tắt của ông chính là sự phục sinh của Đức Chúa Jesus!
31. Dưới đây là 17 từ ngữ phản ánh những quan điểm và triết lý cổ đại cũng như hiện đại, mà bài giảng của Phaolô tại đồi Arêôba nói lên sự khải thị trái ngược với những quan điểm đó. Đánh số của quan điểm thích hợp vào sau câu Kinh Thánh bác bỏ nó. Một số từ ngữ có ý nghĩa cho nhiều câu Kinh Thánh, và một số câu Kinh Thánh có thể nói đến nhiều từ ngữ khác nhau. Danh sách nầy mang tính tượng trưng, chứ không bao hàm toàn bộ. Câu đầu tiên đã được làm mẫu cho bạn.
a. 17:22 ..........
b. 17:23 ..........
c. 17:24-25 ..........
d. 17:26 ..........
e. 17:27-28 ..........
f. 17:29 ..........
g. 17:30 ..........
h. 17:31 ..........
1. Sự thờ lạy hình tượng: Niềm tin nơi các hình tượng và sự thờ lạy chúng.
2. Tự Nhiên Thần Luận: Tôn giáo dựa vào lý luận, loại trừ sự khải thị của Đức Chúa Trời.
3. Phổ Thông Thuyết: Quan điểm cho rằng rốt cuộc mọi người đều sẽ được Đức Chúa Trời cứu rỗi.
4. Bất Khả Tri Luận: Quan điểm cho rằng nếu quả thật có Đức Chúa Trời, thì Ngài là một Đấng mà không ai có thể hiểu biết được.
5. Phiếm Thần Thuyết: Quan điểm bác bỏ sự thực hữu độc lập của Đức Chúa Trời bên ngoài các sức mạnh thiên nhiên và qui luật trong cõi vũ trụ.
6. Tinh thần sùng đạo: Mô tả những người nào sùng đạo một cách gượng ép và theo cảm tính thậm chí đến mức quá khích.
7. Đa thần thuyết: Niềm tin nơi sự thực hữu của rất nhiều thần linh.
8. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc: Thái độ cho rằng chủng tộc nầy là siêu đẳng hơn chủng tộc kia.
9. Trí huệ giáo: Một khía cạnh của niềm tin nầy ấy là Đức Chúa Trời là thuộc về tinh thần đến nỗi Ngài chưa bao giờ dựng nên vật chất.
10. Hư vô thuyết: quan điểm cho rằng sự tồn tại là vô nghĩa và vô ích.
11. Nhị nguyên luận: Quan điểm cho rằng vũ trụ thuộc quyền thống trị của hai nguyên tắc chống đối nhau: Một là Ác và nguyên tắc kia là Thiện.
12. Chủ nghĩa hiện sinh: Quan điểm giới hạn những mối quan tâm của con người vào những vấn đề hiện tại trong tầm tay thay vì quan tâm đến nguồn gốc và định mệnh của mình.
13. Triết học Kant: Quan điểm cho rằng Đức Chúa Trời vượt trổi hơn mọi từng trải và tri thức nào con người có thể có được.
14. Chủ nghĩa nhân bản: Quan điểm cho rằng con người có khả năng tự thỏa mãn và cư xử cách đạo đức mà không cần phải nhờ đến chủ nghĩa siêu nhiên.
15. Chủ nghĩa khoái lạc (Hedonism): Quan điểm cho rằng sự khoái lạc là ích lợi chính yếu và mục tiêu đúng đắn của hành vi con người (tương tự với quan điểm của thuyết Epicuriens).
16. Định mệnh thuyết: Quan điểm cho rằng mọi việc đều được quyết định bởi một trình tự diễn tiến của các nguyên nhân, không lệ thuộc vào ý muốn của con người (tương tự với thuyết Stociens).
17. Thuyết vô thần: Quan điểm cho rằng không có Đức Chúa Trời.
Đòn bẩy được dùng trong bài giảng của Phaolô để lật đổ mọi ý thức hệ chống đối với Đức Chúa Trời ấy là sự phục sinh của Đức Chúa Jesus Christ. Nếu Ngài sống lại rồi, thì thật sự thời điểm của thuyết Bất Khả Tri Luận đã cáo chung (17:30).
32. Những câu nào sau đây là câu mô tả ĐÚNG nhất phản ứng của cả thời quá khứ lẫn hiện tại đối với bài giảng của Phaolô.
a) Một số người chế giễu ý kiến cho rằng một điều đơn sơ hay đúng sự thật như sự sống lại của Đức Chúa Jesus lại là cơ sở để quyết định tính đúng sai của mọi triết lý và tôn giáo.
b) Đúng ra Phaolô đừng nên thách thức triết học hay chủ nghĩa bất khả tri của người Athên. Đúng ra ông chỉ nên rao giảng về Đấng Christ và việc Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá.
c) Khi bản chất và công tác của một Đức Chúa Trời chân thật duy nhất được rao giảng để thách thức những triết lý và tôn giáo của loài người, thì một số người sẽ thích nghe thêm, nhưng sẽ có những người khác tin Chúa.
d) Làm chứng cho giới trí thức chỉ vô ích mà thôi. Giới trí thức thảy đều được dẫn dắt để chối bỏ Đấng Christ.
Cơ đốc giáo không phải là một triết lý. Nó xoay quanh vấn đề sự phục sinh của một con người (ICo1Cr 15:12). Bài giảng của Phaolô cho cộng đồng trí thức dùng những từ ngữ tri thức để làm bằng chứng bác bỏ triết lý của họ, và điều này phù hợp với lời tuyên bố về các nguyên tắc của ông trong 9:20. Phaolô rao giảng Đấng Christ tại Athên bằng cách liên hệ Ngài với bình diện tri thức và nhu cầu của họ. Có vài người được cứu nhờ phương pháp nầy. Những ai nói bài giảng của Phaolô cho người Athên là một sai lầm, thì họ không lưu ý được hai vấn đề sau. Thứ nhất, bài giảng trước đó của Phaolô cho người Do thái trong sách Côngvụ, trong đó ông dùng Kinh Thánh, đã không có được đáp ứng lớn lao giữa vòng người Do thái và không ai xếp loại bài giảng đó là một thất bại (Cong Cv 13:16-49). Thứ nhì, bài giảng của Phaolô cho người Athên phù hợp với phương pháp mà ông đã sử dụng cho những thính giả ngoại bang chưa quen thuộc với Kinh Thánh. Điểm nhấn mạnh chính trong bài giảng của Phaolô tại Líttrơ (14:15-17) là giống y hệt với bài giảng cho người Athên.
Không một ai trong số những con người chế nhạo Phaolô khi nghe bài giảng của ông trên đồi Arêôba còn lưu danh lại. Những người nào đã phán đoán sai lầm trầm trọng về bản chất Đức Chúa Trời thì đã chẳng phán đoán đúng hơn được về ý nghĩa của Phaolô. Điều quan trọng hơn nữa, cơ hội tiếp nhận Chúa Phục sinh và sự sống đời đời đã vụt qua mất.
Con người trong một số nền văn hóa nào đó đã hết sức bênh vực truyền thống của tổ tiên mình bằng cách đóng đinh bất cứ điều gì mới. Trong khi có những người thuộc những nền văn hóa khác lại không cần đến điều mới mẻ bằng cách chỉ việc cười nhạo.
CÔRINHTÔ
18:1-17; Bruce 366-376
Mục tiêu 5. Thuật lại những biến cố chính trong chức vụ của Phaolô tại Côrinhtô.
Nếu Athên là kinh đô của trí thức và văn hóa trong thế giới cổ đại, thì Côrinhtô là trung tâm của nhục dục. Nằm khoảng 50 dặm phía tây Athên trên một dải đất hẹp (khoảng 4 dặm bề ngang) giữa biển Aegean và biển Ađờriatích, Côrinhtô nằm tại một địa điểm chiến lược. Với nhiều hải cảng tốt, từ lâu Côrinhtô đã vốn là một thành phố thương mại lớn. Những con tàu nhỏ đã được kéo qua những eo đất của Côrinhtô để tránh những chuyến đi dài hơn và nguy hiểm hơn quanh Mũi Melea hơn hai trăm dặm về phía Nam. Như vậy, Côrinhtô đã có hệ thống giao thông đường thủy rất tốt của cả biển đông lẫn biển tây. Vào năm 27 T.C., Côrinhtô đã trở thành kinh đô của vùng Lamã Achai. Côrinhtô là kiểu thành phố mà đôi lúc chiến lược của Phaolô xem là trung tâm đáng ưa chuộng cho công tác truyền giảng Tin Lành sâu rộng.
Đền thờ của nữ thần Aphrodite (nữ thần tình dục) là trung tâm thờ phượng của thành phố nầy. Đền nằm tại Acrocorinth (ngọn đồi cao nhất) và đã tuyển dụng 1000 kỵ nữ làm nữ tư tế cho sự thờ phượng tại đền thờ nầy.
Tại vùng Địa Trung Hải, dân Côrinhtô đã được mô tả qua những màn kịch hoặc như là những kẻ vô luân, dâm dục, hoặc như là những kẻ say sưa. Côrinhtô hóa là một từ ngữ thường được dùng cho một người nào bại hoại về đạo đức (xem Bruce, chú thích 4 cuối trang 367).
Ngay sau khi đến Côrinhtô, Phaolô gặp Bêrítsin và Aquila do họ có chung nghề nghiệp (may trại) và chung chủng tộc. Từ thời điểm nầy trở đi, họ đã sống và làm việc chung với nhau. Luca giải thích nguyên nhân khiến Bêrítsin và Aquila có mặt tại Côrinhtô chính là vì hoàng đế Cơlốt vừa mới trục xuất người Do thái khỏi Rôma.
33. Theo Bruce ở trang 368, đâu là những nguyên nhân khả dĩ khiến vua Cơlốt ra chỉ dụ chống lại người Do thái ở Rôma?
a) Có khả năng Cơlốt đã cấm người Do thái ở Rôma thực hành những phong tục của tổ tiên họ, và điều đó đối với họ đồng nghĩa với việc trục xuất.
b) Suetonius, một sử gia Lamã, cho thấy rằng có những cuộc bạo loạn trong cộng đồng Do thái bùng nổ ra theo sự xúi bẩy của Chrestus (viết theo tiếng Latinh.)
c) Có khả năng là sự náo loạn trong cộng đồng Do thái tại Lamã gây ra bởi Christos , tức Đấng Christ, Đấng Mêsia (viết theo tiếng Hylạp). Những tín đồ nào rao giảng Christos cho cộng đồng Do thái tại Rôma thì đều gặp những hoàn cảnh giống như tín đồ tại Têsalônica (17:5-9).
Seutonius, người đã viết ở 70 năm sau sự kiện nầy, và có thể đã không có đủ toàn bộ các chi tiết, nên hẳn đã có thể lẫn lộn giữa Chrestus với Christos (Bruce, chú thích 10 cuối trang 368). Nếu quả thật các tín đồ Đấng Christ người Do thái đã đem Tin Lành đến Rôma rồi, thì chắc chắn Aquila và Bêrítsin đã là tín đồ khi Phaolô gặp họ. Không có điều gì được nói ra về việc họ có là Cơ đốc nhân không trước khi Phaolô bắt đầu cùng may trại với họ.
Phaolô thi hành chức vụ trước tiên tại nhà hội trong ngày Sabát. Trong suốt tuần làm việc, ông đã siêng năng lao động; Tuy nhiên, khi Sila và Timôthê đến cùng với bản tường trình đáng chuộng từ các hội thánh vừa mới được thành lập tại xứ Maxêđoan, cùng với những món quà bằng tiền, thì Phaolô đã dâng mình trọn vào công việc giảng đạo, làm chứng cho người Do thái rằng Đức Chúa Jesus là Đấng Christ (18:5). Nhưng khi họ chống đối sứ điệp Tin Lành và trở nên hung hăng, ông đã có một cử chỉ đầy ấn tượng về sự không chấp thuận mình và hướng sang người ngoại bang trong thành phố. Để tỏ sự không chấp thuận đối với những người khước từ sứ điệp, Phaolô đang tỏ ra sự cắt đứt liên lạc hoàn toàn, thậm chí với ngay cả những hạt bụi trong môi trường nhà hội của thành Côrinhtô (Mat Mt 10:14). Trước đó tại Antiốt xứ Bisiđi, ông cũng đã phủi bụi khỏi chân ông để làm biểu tượng nghịch cùng những kẻ đã đuổi ông đi (Cong Cv 15:51). Và tại Líttrơ, ông đã xé áo mình để tỏ ra ghê tởm trước sự phạm thượng do của tế lễ mà dân thành Líttrơ muốn dâng lên để tôn ông lên làm thần của họ (14:14). Giờ đây Phao Lô cho thấy ông đã làm tròn trách nhiệm của mình, và dân Do thái phải chịu trách nhiệm về huyết của họ (18:6). Với cử chỉ có phần kịch tính nầy, Phaolô đã hướng sự nhấn mạnh chức vụ của mình khỏi nhà hội để nhắm vào dân chúng người ngoại bang nói chung tại thành Côrinhtô.
Nhà của Titiu Giúttu, một người kính sợ Đức Chúa Trời trước kia vẫn thờ phượng Chúa trong nhà hội, nằm sát bên nhà hội. Dường như ông đã để cho Phaolô sử dụng nhà mình, do đó nhà của ông đã trở thành một nơi nhóm lại mang tính chiến lược cho Cơ đốc nhân tại Côrinhtô.
34. Lần đầu tiên, Luca ghi lại rằng người chủ nhà hội đã đến với Đấng Christ. Cơrítbu và cả nhà ông đều tin Chúa. Nhiều người Côrinhtô cũng đã tin và chịu phép báp têm. Từ ICo1Cr 6:9-11, mô tả những hạng người có mặt trong số những kẻ tin Đấng Christ tại thành Côrinhtô.
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
e ..........
f ..........
g ..........
h ..........
i ..........
j ..........
35. Sự cứu rỗi cho những con người mà đời sống của họ nổi bật bởi những biểu hiện tội lỗi trên đây bày tỏ cho chúng ta thấy điều nào sau đây? Chọn câu trả lời ĐÚNG.
a. Đời sống của nhiều người đã thực sự được biến đổi nhờ Đức Chúa Jesus Christ. Nếu họ chưa được biến đổi, sự liên kết mật thiết của những hạng tánh tình nầy với nhau hẳn sẽ là thảm họa cho xã hội và nền đạo đức.
b. Một số người, như những kẻ phạm tội gian dâm chẳng hạn, thì nằm ngoài tầm ân điển của Đức Chúa Trời. Họ không bao giờ có thể thay đổi được từ chỗ sự rối loạn cá tánh đầy tội lỗi của họ.
Những Cơ đốc nhân giống như Titiu Giúttu và Cơrítbu rõ ràng sẽ được sử dụng rộng rãi vào công tác dạy dỗ cho các tân tín hữu, và bày tỏ cho họ - những người xuất thân từ cặn bã của xã hội - thấy cách để trở thành những người được dựng nên mới trong Đấng Christ (IICo 2Cr 5:17). Chức vụ của Phaolô cho người được cứu tại thành Côrinhtô đã được mô tả hùng hồn trong ICo1Cr 2:1-5, và IICo 2Cr 5:16-19.
36. Đọc 11:23-27. Dầu thơ IICôrinhtô được viết vào khoảng gần cuối hành trình truyền giáo lần thứ ba của Phaolô, từ thành Êphêsô (khoảng 7 năm sau những sự kiện được mô tả trong Cong Cv 18:9-10), nhưng chúng ta có thể hiểu rằng đa số những điều Phaolô chịu đã diễn ra vào thời điểm Phaolô vừa mới đến Côrinhtô. Như vậy, vì sao sự hiện thấy mà Chúa ban cho ông lại là nguồn sức mạnh và an ủi đặc biệt tại giai đoạn đầu trong chức vụ của ông tại thành Côrinhtô? (Xem ICo1Cr 2:3.)
..........
Trong hành trình truyền giáo lần thứ nhì, Phaolô chỉ có hai lần nhận được sự dẫn dắt qua sự hiện thấy (Cong Cv 16:9 và 18:9-10). Sau cả hai lần nầy, Phaolô đã có kết quả càng hơn trong sự rao truyền Tin Lành. Sau sự hiện thấy tại Côrinhtô, Phaolô cứ ở lại thành nầy 18 tháng nữa.
Ít lâu sau sự hiện thấy của Phaolô, những thành viên của cộng đồng Do thái đã tấn công ông. Những người đó đã buộc tội trước tòa án ( bema , một chữ mà Phaolô dùng một cách hữu hiệu sau này để làm tương phản bema của sự đoán xét thuộc quyền người Lamã với bema của Đấng Christ, IICo 2Cr 5:10) của quan trấn thủ Galiôn, và họ đã sai lầm khi cố vu cáo Phaolô trước mặt quan rằng ông đã vi phạm luật pháp Do thái. Tòa Công Luận đã cẩn thận tránh kiểu sai lầm nầy. Và khi cáo buộc Đấng Christ, họ đã đổi lời buộc tội từ chỗ kết tội tôn giáo sang kết tội chính trị (so sánh Mac Mc 14:61-64 với 15:2).
Vẫn sẵn sàng như mọi khi để rao truyền Tin Lành trước mặt các quan, là những người có địa vị cao, nhưng Phaolô đã được trả tự do trước khi ông có thể lên tiếng, thậm chí để bênh vực mình. Galiôn, anh em của Seneca lừng danh, đã ra một quyết định có ảnh hưởng sâu rộng cho tín đồ Đấng Christ trong thế giới Lamã suốt hơn 13 năm sau đó (khoảng từ năm 51 S.C. cho đến cơn bắt bớ đời Nero vào năm 64 S.C.). Việc ông từ chối xem xét vụ kiện Phaolô đã lập ra một tiền lệ khiến Cơ đốc nhân không bị xem như một lực lượng nổi loạn mới, nhưng có cùng những đặc ân về tôn giáo như những người theo Do thái giáo. Thực ra Galiôn hiểu Cơ đốc giáo không phải là một đạo mới, nhưng chỉ là một phe nhóm bên trong Do thái giáo.
Vì Cơlốt vứa mới trục xuất người Do thái khỏi Rôma và vì Galiôn vừa mới cộc lốc giải tán những lãnh tụ Do thái tại thành Côrinhtô, nên cơ hội đã chín mùi cho những người muốn bày tỏ những sở thích bài Do thái của mình (Cong Cv 18:17). Sốtthen, chủ nhà hội vừa mới thay thế Cơrítbu, và có lẽ là người đã truy tố Phaolô, đã bị đám đông đánh đập ngay trước bema (tòa án) của Galiôn, một trường hợp mà ông đã phớt lờ.
37. So sánh Côngvụ 18:17 ICo1Cr 1:1. Sốtthen trong sách Côngvụ liệu có thể là Sốtthen trong sách Côrinhtô?
..........
HÀNH TRÌNH ĐẾN ANTIỐT
Cong Cv 18:18-22 Bruce 377-379
Mục tiêu 6. Mô tả kết thúc của hành trình truyền giáo lần thứ nhì.
Phaolô không thể đi ngược trở lại bước chân trước kia của ông để thăm những hội thánh vừa mới được thành lập, như cách ông đã làm trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất. Trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, ông chỉ có Banaba là đồng nghiệp và là đồng bạn truyền giáo. Tuy nhiên, giờ đây ông thực hiện một chiến lược mới. Luca, Sila, và Timôthê đã được để lại tại các hội thánh, để tại nơi đó, họ có thể nâng đỡ tâm linh và dạy dỗ các tân tín hữu, và cũng giữ vai trò những người đưa tin giữa Phaolô và các hội thánh nầy. Do vậy, Phaolô kết thúc thời kỳ gần hai năm ở tại Côrinhtô bằng cách lìa Sila và Timôthê, rồi xuống thuyền qua xứ Syri với Bêrítsin và Aquila. Tại thành phố cảng Côrinhtô là Sencơrê ở phía Nam eo đất nầy, Phaolô đã cạo đầu vì cớ đã có lời thề nguyện.
38. Theo những chỉ thị cho lời thề nguyền trong Dânsố Ký Dan Ds 6:1-21, câu nào trong những qui định sau đây sẽ mô tả đúng bản chất từng trải của Phaolô đang khi ông có lời thề nguyền?
a) Ông sẽ không cắt tóc từ lúc thề cho đến khi lời thề được trọn.
b) Ông phải kiêng ăn thịt.
c) Ông sẽ kiêng ăn bất cứ sản phẩm nào ra từ vườn nho.
d) Ông hẳn phải tránh tiếp xúc với bất cứ xác chết nào.
Vì sao Phaolô đã có lời thề mang bản chất nầy, và ông đã thề từ khi nào? Chúng ta chỉ có thể đoán mà thôi. Có lẽ lời thề nầy được bắt đầu trước lúc hoặc ngay sau khi có sự hiện thấy của Chúa. Có lẽ Phaolô đã nói với Chúa rằng ông sẽ biểu hiện qua thân thể mình lòng tin quyết nơi sự bảo đảm của Chúa rằng ông sẽ bình yên tại Côrinhtô; do đó ông đã hứa nguyện giữ theo những giới luật của người Naxirê, như được trích dẫn trên đây, để biểu hiện lời chứng và lòng biết ơn của ông đối với sự bảo vệ của Đức Chúa Trời.
Một gợi ý khác nữa ấy là Phaolô đã thề nguyện khi rời Sencơrê. Ông dự định làm tròn lời hứa tại Giêrusalem. Ông cạo đầu để cho tóc mới mọc ra trong suốt chuyến đi, để có thể cạo trở lại và dâng lên tại đền thờ Giêrusalem. Có thể Phaolô dự định lời hứa nguyện của mình là để bày tỏ tại thành Giêrusalem lòng biết ơn, cảm tạ của mình đối với Chúa, là Đấng đã nhậm lời cầu nguyện ban cho ông chuyến đi an toàn từ Sencơrê đến Giêrusalem.
39. Từ Sencơrê, Phaolô xuống thuyền đi Êphêsô. Trong sách Côngvụ đã có bằng chứng nào rồi về ước nguyện được đến Êphêsô của ông?
..........
Tại Êphêsô Phaolô giảng đạo trong một thời gian ngắn tại nhà hội. Không giống đặc điểm trước đây, ông đã rời thành phố dầu ông được người Do thái tại nhà hội mời ông cứ ở lại để thi hành chức vụ. Có thể ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho ông là ở tại Êphêsô, nhưng Phaolô cảm thấy chưa đúng thời điểm Đức Chúa Trời dành cho ông để thành lập cơ sở cho những chiến dịch tại thành phố tiền đồn nầy. Bêrítsin và Aquila, thay vì đi tiếp với Phaolô, đã được để lại tại Êphêsô (Cong Cv 18:26).
Từ Êphêsô Phaolô xuống thuyền đến Sêsarê, đi lên thành Giêrusalem và chào mừng hội thánh tại đó, rồi đi tiếp lên hướng bắc đến hội thánh nhà của ông, là Antiốt.
40. Chuyến viếng thăm Antiốt và Giêrusalem của Phaolô vào cuối hành trình truyền giáo lần thứ nhất khác thế nào so với chuyến đi đến hai thành phố nầy vào cuối hành trình truyền giáo lần thứ nhì?
..........
TÓM TẮT
Mục tiêu 7. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung của Côngvụ 16:6-18:22.
41. Suy gẫm và ôn lại hành trình truyền giáo lần thứ nhì. Dùng lời của bạn để tóm tắt hành trình nầy.
..........
Mục tiêu 8. Nhận ra những tên gọi, nhân vật, và những địa điểm quan trọng được nhắc đến trong 16:6-18:22.
42. Xác định câu sau bằng cách ghép nhân vật ở cột bên phải cho phù hợp với lời mô tả ở cột bên trái.
.... a. Hoàng đế trục xuất người Do thái khỏi Rôma.
.... b. Quan tòa tại đồi Arêôba đã tin Đấng Christ.
.... c. Tin nơi phiếm thần thuyết, sống với sự lạnh lùng, lãnh đạm.
.... d. Quan trấn thủ Achai, người đã trả tự do cho Phaolô.
.... e. Chủ nhà hội đã bắt bớ Phaolô.
.... f. Tin nơi: Ăn, uống, và vui vẻ.
.... g. Tín đồ tại Têsalônica trước khi có đám đông biểu tình trước nhà người.
.... h. Người nữ đã tin Chúa tại thành Athên.
.... i. Chồng của Bêrítsin.
.... j. Vợ của thợ may trại, chính bà cũng là một thợ may trại.
.... k. Người chủ nhà hội đầu tiên tại thành Côrinhtô tin Đấng Christ.
.... l. Tân tín hữu đầu tiên của Phaolô tại Châu Âu.
.... m. Người kính sợ Đức Chúa Trời tại Côrinhtô đã tin Chúa, và hội thánh đã nhóm lại trong nhà người, là nhà kế sát bên nhà hội.
1) Cơrítbu.
2) Giasôn.
3) Đamari.
4) Phái Epicuriens.
5) Sốtthen.
6) Cơlốt.
7) Đêni.
8) Galiôn.
9) Lyđi.
10) Phái Stociens.
11) Aquila.
12) Bêrítsin.
13) Titiu Giúttu.
43. Giờ đây bạn đã quen thuộc với toàn bộ những địa điểm được nêu ở cột bên phải. Xin vui lòng ghép chúng với cụm từ mô tả thích hợp ở cột bên trái.
.... a. Thành phố cảng của Philíp.
.... b. Vùng có thành Athên và Côrinhtô.
.... c. Thành phố nổi tiếng nhất của Asi.
.... d. Vùng phía bắc mà Phaolô hướng đến sau khi bị cấm giảng đạo trong cõi Asi.
.... e. Liên kết với vùng Galati như là vùng mà Phaolô đã đi qua sau khi ghé lại thăm viếng các hội thánh trong vùng Nam Galati.
.... f. Phaolô đối diện với khu vực nầy thì ông đổi hướng và đi đến Trôách.
.... g. Thành phố nơi Phaolô đã nhận được sự hiện thấy về người Maxêđoan.
.... h. Thành phố cảng phía đông của Côrinhtô.
.... i. Vùng có các hội thánh được thành lập trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất.
.... j. Hòn đảo có nhiều núi có cao độ khoảng gần một dặm, mà Phaolô đã đi qua trên đường ghé thành Philíp.
.... k. Thành phố đầu tiên tại Châu Âu mà Phaolô đã thi hành chức vụ.
.... l. Vùng phía bắc Gờréc, trong đó có thành Philíp, Têsalônica và Bêrê.
.... m. Đồi Mars, cung đình trí thức của Athên.
.... n. Thành phố nằm ngay sát phía tây của Philíp, mà Phaolô đã đi qua trên đường đến Têsalônica.
.... o. Thành phố ngay sát phía đông của Têsalônica, mà Phaolô đã đi qua khi ông rời Philíp.
.... p. Thành phố tại Asi, nơi mà Lyđi đã đến từ đó.
.... q. Phaolô đã ở tại đây trong ba ngày Sabát để chứng minh trong nhà hội rằng Đức Chúa Jesus là Đấng Christ.
.... r. Thành phố tri thức hàng đầu trên thế giới, mà Phaolô đã thi hành chức vụ tại đây.
.... s. Là nơi những người trong nhà hội sốt sắng nghiên cứu Kinh Thánh để xem sứ điệp của Phaolô có đúng không.
.... t. Vùng bản xứ của Aquila.
1) Samôtraxơ.
2) Philíp.
3) Sencơrê.
4) Trôách.
5) Galati.
6) Bông.
7) Bithini.
8) Abôlôni.
9) Phirigi.
10) Amphibôlít.
11) Thiatirơ.
12) Mysi.
13) Achai.
14) Êphêsô.
15) Athên.
16) Maxêđoan.
17) Nêabôli.
18) Têsalônica.
19) Bêrê.
20) Arêôba.
bài tự trắc nghiệm
CÂU CHỌN LỰA. Mỗi câu hỏi chỉ có một câu trả lời đúng. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG nhất trong mỗi câu hỏi sau đây.
1 Hành trình truyền giáo lần thứ nhì phát xuất tại Antiốt, và từ đó, Phaolô và Sila
a) đến Sêlơsi để tìm một con tàu sắp đi đến vùng Nam Galati.
b) đến Sêsarê để tìm tàu sắp đi đến Chíprơ.
c) tiến lên hướng bắc từ Antiốt (hoặc đi bộ, hoặc cưỡi ngựa) tiến đến xứ Silisi, thành phố quê hương của Phaolô.
d) tiến dọc theo bờ biển vùng Tiểu Á khi họ cố gắng lần theo hành trình kỳ trước.
2. Sau khi làm vững mạnh đức tin những hội thánh ở vùng Nam Galati, các nhà truyền giáo tiến về thành phố nổi tiếng nhất của cõi Asi, là thành Êphêsô, rồi đem theo với họ một nhà truyền giáo mới mà
a) tên ông là Sốtthen, dân bản xứ vùng Silisi.
b) chỉ biết được tên là Sinvanh, người đến từ Giêrusalem.
c) ông đã gia nhập vào đoàn truyền giáo để chăm sóc sức khỏe cho Phaolô. Tên của ông là Luca.
d) Tên ông là Timôthê, dân bản xứ của thành Líttrơ.
3. Khi Phaolô hướng về thành Êphêsô và cõi Asi, ông đã bị ngăn trở để không tiếp tục hành trình
a) vì những lý do không biết, do Đức Thánh Linh cấm.
b) vì cớ hành vi bạo loạn của những người Do thái ở vùng Nam Galati, là những người đã khích động sự phẫn nộ đối với Tin Lành ở khắp mọi nơi.
c) bởi một chứng bệnh bất ngờ có nguy cơ phá hoại sức khỏe của ông.
d) theo hướng đó vì cớ có tin đồn rằng Abôlô đang thi hành chức vụ trong khu vực đó. Vì vậy, ông quyết định theo đuổi công tác của mình ở nơi khác.
4. Lìa khỏi Asi để đến Bithini, một lần nữa các nhà truyền giáo lại
a) kinh nghiệm việc Đức Thánh Linh ngăn chặn những kế hoạch của mình.
b) thay đổi hướng đi do sự không biết chắc và lo sợ của họ.
c) gặp nhân tố chống đối mạnh mẽ từ dân Do thái trong vùng đó.
d) không tập trung vào chức vụ có hệ thống vì cớ họ không tìm được "những cánh cửa mở."
5. Đến Trôách, đoàn truyền giáo kinh nghiệm được bằng chứng nào về sự hướng dẫn siêu nhiên?
a) Sau khi thảo luận về những cánh cửa "mở" và "đóng," đoàn truyền giáo quyết định đáp lại lời mời của người Maxêđoan, mà họ đã nhận tại Trôách.
b) Sau chức vụ tại Trôách, trong đó Phaolô giảng nghịch cùng sự gian ác của thành, một trận động đất đã xảy ra.
c) Một thiên sứ hiện ra kêu gọi các nhà truyền giáo lìa ngay nơi đó để đến với những cánh đồng chín vàng trong xứ Maxêđoan.
d) Phaolô đã nhận được sự hiện thấy về một người đến từ Maxêđoan để cầu xin sự cứu giúp. Toàn bộ những nhà truyền giáo (là bốn người - vì giờ đây Luca đã gia nhập đoàn) kết luận rằng đây là mạng lệnh của Đức Chúa Trời.
6. Toàn bộ những câu sau đây đều là những bước ngoặt quan trọng trong chức vụ của Phaolô tại Philíp, ngoại trừ một câu . Câu nào sau đây KHÔNG PHẢI là bước ngoặt quan trọng?
a) Sự hoán cải của Lyđi người Thiatirơ.
b) Cuộc xét xử trước tòa án của Galiôn.
c) Việc đuổi tà linh bói khoa khỏi người tớ gái.
d) Việc đánh đòn và nhốt tù Phaolô và Sila.
e) Từng trải trong ngục, sự giải thoát siêu nhiên và sự cứu rỗi cho gia đình của người đề lao.
f) Phaolô đòi hỏi các thượng quan phải xin lỗi vì đã ngược đãi Sila và ông.
7. Phaolô đã giảng sứ điệp đầu tiên và nhìn thấy người tin Chúa đầu tiên của mình tại Châu Âu
a) tại phố chợ ở thành Athên.
b) trên đường phố của thành Bêrê.
c) bên bờ sông Gangites (bên ngoài cổng thành Philíp).
d) trong nhà hội thành Côrinhtô.
e) Tại rạp hát của thành Têsalônica.
8. Những kết quả của chức vụ giảng Tin Lành trong những nhà hội ở Châu Âu
a) đều tồi tệ như nhau ở chỗ các nhà truyền giáo đã bị đuổi ra và có rất ít - nếu như có - linh hồn được cứu do kết quả của phương pháp nầy.
b) không thực sự liên quan đến Phaolô. Ông chỉ đơn giản là đang hoàn thành nhiệm vụ theo cách nhìn của ông. Tuy nhiên, khi phán xét theo sự rối loạn mà việc giảng đạo của ông đã gây ra cùng với những hậu quả của nó, chúng ta kết luận rằng đây là một nỗ lực phí công.
c) đều kết quả như nhau ở chỗ vững lập được những tuyên bố của Tin Lành, đem hy vọng lại cho những người đang kính sợ và tìm kiếm Đức Chúa Trời cũng như cho những người Do thái sốt sắng, và trong việc thiết lập những "bãi đổ bộ" cho tín đồ trong mỗi thành phố có nhà hội nầy do kết quả của phương pháp nầy.
9. Trong toàn bộ những thành phố có nhà hội sau đây ở Châu Âu, các nhà truyền giáo đã bị đuổi ra khỏi nhà hội và khỏi thành phố, ngoại trừ một nơi. Trong thành phố nào, các nhà truyền giáo đã chuyển đến trụ sở mới để tiếp tục công tác rao giảng lời Chúa?
a) Côrinhtô.
b) Bêrê.
c) Têsalônica.
10. Dựa vào bản ký thuật trong Cong Cv 16:6-18:2, là phần mô tả hành trình truyền giáo lần thứ nhì mà chúng ta có thể suy ra nhóm tín đồ được thành lập trong mỗi thành phố nầy (Philíp, Bêrê, Têsalônica và Côrinhtô) là
a) ít người, cách biệt, không có lãnh đạo, và nói chung là những trung tâm truyền giảng vô hiệu quả.
b) năng động, tăng trưởng trong kinh nghiệm, tiến bộ thấy rõ trong sự trưởng thành, trong giáo lý, trong nếp sống đạo Cơ đốc, trung tín giữa cơn bắt bớ khốc liệt, và đã thực sự ý thức được tình anh em và sự chia xẻ trong Đấng Christ.
c) không được đặc trưng bởi một điều cụ thể nào. Chúng ta chỉ có thể đoán về tình trạng của những tân tín hữu nầy mà thôi. Có rất ít bằng chứng về sự tăng trưởng hay về sức sống trong bản ký thuật của Luca.
GIẢI ĐÁP
1.
a. Sai.
b. Đúng. (16:6 có thể đã là sự khải thị dẫn dắt đến từ Đức Chúa Trời hay là sự khải thị được truyền đạt qua lời tiên tri của một tín đồ. Tôi nghĩ 16:7 có lẽ có nhiều điểm tương tự với 16:9.)
2.
a. Đúng.
b. Sai.
3.
a. Đúng. (13:1-3 chứng tỏ rõ ràng rằng sự thờ phượng có thể là cơ hội để Đức Thánh Linh phán dạy.)
b. Sai.
4.
a. Sai.
b. Đúng.
5.
a. Sai.
b. Đúng.
6.
a. Bởi sự khải thị trực tiếp, như là tiếng nói hay sự hiện thấy.
b. Bởi lời khuyên bảo, hướng dẫn, và / hoặc sự khẳng định của các tín hữu khác.
c. Thông qua những từng trải thờ phượng.
d. Thông qua hoàn cảnh.
e. Thông qua sự chọn lựa của bản thân.
7. c) Đây có thể là một thiên sứ, hoặc là một "đại diện" vô danh của người Maxêđoan.
8.
a. Sai.
b. Sai.
c. Đúng.
9.
a. Sai.
b. Đúng.
10. Việc Phaolô đuổi tà linh bói khoa ra khỏi đứa tớ gái.
11. a) Ông gọi cô là một đứa tớ gái bị quỉ ám và bất hạnh.
12.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
13. Việc đánh đập và nhốt tù Phaolô và Sila.
14. b) Khi Đấng Christ ngự trị vào lòng, Ngài phá tan quyền lực của tà thuật.
15. b) Họ quý trọng lợi nhuận vật chất hơn là quý trọng lợi ích của một cá nhân.
16. Bước ngoặt thứ tư trong chức vụ của Phaolô tại Philíp là từng trải trong ngục, sự giải cứu siêu nhiên, và sự cứu rỗi của người đề lao cùng gia đình.
17.
a. Sai.
b. Sai.
c. Đúng.
18.
a. Sự cầm tù Phierơ và Giăng (4:3).
b. Sự cầm tù tất cả các sứ đồ (5:17-21).
c. Sự cầm tù các tín đồ do Saulơ thực hiện (8:3).
d. Sự cầm tù Phierơ (12:3-11).
19. d) Khi Chúa giải thoát khỏi ngục, thì phương pháp của Ngài cũng như những mạng lịnh của Ngài cho những người được giải thoát đều khác nhau.
20. Cọtnây có thể ví giống như một thương gia đi tìm kiếm và đã gặp được. Người đề lao có thể ví như một nông dân, mà đời sống của ông không được đánh dấu nổi bật bởi sự tìm kiếm mãnh liệt như của Cọtnây, nhưng Tin Lành đã đến với người như một sự khám phá đầy kinh ngạc.
21.
a. Đúng.
b. Sai.
22. Bước ngoặt thứ năm trong từng trải của Phaolô tại Philíp là việc ông từ chối rời thành phố cho đến khi các thượng quan phải xin lỗi vì cớ họ đã ngược đãi và sỉ nhục Phaolô với Sila.
23.
a) Những thành nầy không phải là những trung tâm đô thị lớn như Philíp và Têsalônica.
c) Phaolô biết nếu ông thành lập hội thánh tại Philíp và Têsalônica.
24. c) Ông đã rao giảng về Đức Chúa Jesus Christ.
25.
a. Sai.
b. Đúng.
26.
a. Sai. (Phaolô không hề bỏ chức vụ tại nhà hội, nếu như có nhà hội, như là phương pháp tiếp cận đầu tiên tại một thành phố.)
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
27. Người thời hiện đại có thể xem những bức tượng nầy như là những tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, Phaolô đã nhìn thấy con người dựng nên, thờ lạy, và dâng tế lễ cho chúng với tư cách những hình tượng. Phaolô xem sự thờ lạy hình tượng là dự phần thờ lạy ma quỉ. Athên đầy dẫy hình tượng. Thực ra Athên có nhiều hình tượng hơn số dân chúng.
28. Phaolô bắt đầu chức vụ tại Athên trong nhà hội và tại phố chợ.
29. Một số triết gia thuộc phái Epicuriens và phái Stociens đã tranh luận với Phaolô. Ý kiến của họ là cho rằng ông là một kẻ nói nhảm (già mép) (theo nghĩa đen, đây là một từ ngữ lăng mạ, có nghĩa là kẻ lượm lặt hạt giống, ám chỉ rằng Phaolô đưa triết lý của mình ra bằng cách lượm lặt những mẫu vụn từ các triết lý khác) hay là người giảng về các thần ngoại quốc. Bài giảng của Phaolô về Đức Chúa Jesus và Sự Phục Sinh đã bị một số người tại Athên xuyên tạc, là những người nghĩ rằng đây là hai vị thần của Phaolô.
30.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Đúng.
e. Đúng.
31. Bạn đã sẵn sàng ôn lại những gì bạn đã làm chưa?
a. 6
b. 1,4,7,17. Phaolô đã thấy sự thờ lạy hình tượng tại Athên được pha lẫn với Bất Khả Tri Luận. Chữ được dùng trong tiếng Hylạp để nói về chữ "không biết," được dùng ba lần tại đồi Arêôba (13:23, 30), cũng chính là chữ được dùng trong Anh ngữ để chỉ về tính bất khả tri (theo nghĩa đen là không có sự hiểu biết hoặc ngu dốt). Đấng (Đức Chúa Trời có một) mà Phaolô đang rao truyền đã phản bác lại đa thần giáo và thuyết vô thần.
c) 5, 9, 11. Những câu nầy cho thấy sự thực hữu của Đức Chúa Trời ở bên ngoài cõi tạo vật, bác bỏ phiếm thần thuyết. Chúng bác bỏ trí huệ giáo bằng cách cho thấy Đức Chúa Trời dựng nên cõi vật chất; bác bỏ nhị nguyên luận bằng cách phủ nhận nguồn gốc của thế giới đối với hai thế lực đồng bình đẳng hay gần như bình đẳng.
d. 8. Đức Chúa Trời từ một người (người nam và người nữ) đã dựng nên muôn dân, do đó có sự thống nhất, hiệp một cho nhân loại. Câu nầy bác bỏ thuyết phân biệt chủng tộc.
e. 10, 12, 13, 14. Đức Chúa Trời đã định nơi ở của loài người trên đất để khiến con người tìm kiếm Ngài; do đó, hư vô thuyết, thuyết của Kant, chủ nghĩa hiện sinh, và chủ nghĩa nhân bản đều căn cứ trên những tiền đề sai lầm.
f. 1.
g. 15,16. Con người không được phép sống để tìm khoái lạc cũng không phải sống với sự lạnh lùng (một cách thụ động). Đức Chúa Trời kêu gọi đến sự ăn năn, một sự thay đổi ý trong con người để hướng đến một Đức Chúa Trời có một và thật, và sự thay đổi lối sống trong nếp sống đạo đức. Con người có khả năng và có trách nhiệm để đáp ứng một cách thích đáng với Đức Chúa Trời. Như vậy chủ nghĩa khoái lạc và định mệnh thuyết đã bị bác bỏ.
h. 2,3,10,12. Tự nhiên thần luận không thể đúng, vì Đức Chúa Trời đã bày tỏ về Ngài trong Đức Chúa Jesus Christ. Đấng Christ sẽ đoán xét tội nhân, do đó sự ăn năn là điều thiết yếu hiện nay. Lịch sử đang tiến đến một đỉnh điểm có chủ đích - hư vô thuyết đã sai lầm. Con người phải quan tâm đến kết cục - chủ nghĩa hiện sinh đã sai lầm.
32.
a) Một số người chế giễu ý kiến cho rằng một điều đơn sơ hay đúng sự thật như sự sống lại của Đức Chúa Jesus lại là cơ sở để quyết định tính đúng sai của mọi triết lý và tôn giáo.
c) Khi bản chất và công tác của một Đức Chúa Trời chân thật duy nhất được rao giảng để thách thức những triết lý và tôn giáo của loài người.
33..
b) Suetonius, một sử gia Lamã, cho thấy rằng có những cuộc bạo loạn trong cộng đồng Do thái bùng nổ ra theo sự xúi bẩy của Chrestus .
c) Có khả năng là sự náo loạn trong cộng đồng Do thái tại Lamã gây ra bởi Christos .
34.
a. Tà dâm ( pornoi ). Từ ngữ nầy chỉ về mọi điều thuộc về sự gian dâm.
b. Kẻ thờ hình tượng.
c. Kẻ ngoại tình.
d. Kẻ đắm nam sắc.
e. Kẻ làm dáng yểu điệu (đồng tính luyến ái).
f. Kẻ trộm cướp.
g. Kẻ tham lam (kẻ hà tiện).
h. Kẻ say sưa.
i. Kẻ chửi rủa (kẻ vu cáo).
j. Kẻ chắt bóp (kẻ bịp bợm, lừa đảo).
35.
a. Đúng.
b. Sai.
36. Những lời khích lệ mở đầu của Chúa: “Đừng sợ chi ..." cho thấy Phaolô đang đối diện với sự sợ hãi. Viễn cảnh về một trận đòn hay một vụ ném đá khác nữa, sự lo sợ về các ngày ngay trước mắt tại Côrinhtô - những điều nầy có lẽ đã làm căng thẳng sức chịu đựng của Phaolô đến mức sắp hết chịu nổi. Nhu cầu của ông lớn đến nỗi Phaolô đã được ban sự khích lệ đặc biệt đến từ Chúa, là Đấng mà ân điển Ngài đủ cho ông rồi (IICo 2Cr 12:9). Vì sao Chúa hiện ra trong sự hiện thấy tại thành Côrinhtô, nhưng không hiện ra sau khi bị ném đá tại thành Líttrơ? "Chúa biết cứu chữa những người tin kính khỏi cơn cám dỗ" (IIPhi 2Pr 2:9).
37. Người ta không thể biết chắc chắn. Tuy nhiên, vì Sốtthen được liên hệ với Phaolô chỉ trong một lời chào thăm trong suốt cả 13 thơ tín, và vì một trường hợp đó lại là thơ gởi cho người Côrinhtô, nên không phải là không chắc chắn khi cho rằng Sốtthen đã là người chủ thứ nhì của nhà hội tại Côrinhtô trở thành tín đồ.
38. Tất cả những qui định nầy hẳn đã được tuân giữ. Phong tục của người Do thái trong thời Phaolô là chấm dứt lời hứa nguyện như thế bằng cách cạo đầu tại Giêrusalem và thả tóc vào ngọn lửa của lễ thù ân trong đền thờ. Tuy nhiên, Phaolô cạo đầu mình ngay sau khi ông rời thành Côrinhtô.
39. Khi hành trình truyền giáo lần thứ nhì được tiến hành qua vùng Nam Galati, Phaolô có ý tiếp tục tiến sâu sang hướng tây vào cõi Asi (Cong Cv 16:6). Nếu vào cõi Asi, ông hẳn đã tiến đến thành phố lớn của nó, là Êphêsô. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã có mục đích khi Ngài hoãn lại, theo như chúng ta sẽ thấy trong bài tiếp theo.
40. Vào cuối hành trình truyền giáo lần thứ nhất, ông và Banaba đi thẳng đến Antiốt, và họ chỉ tiến đến Giêrusalem vì cớ sự giảng đạo của phe chủ trương cắt bì. Vào cuối hành trình truyền giáo lần thứ nhì, Phaolô chỉ có một mình. Ông thăm Giêrusalem trước tiên rồi sau đó mới đến Antiốt.
41. Khởi hành từ Antiốt, Phaolô và Sila trở lại thăm các hội thánh ở vùng Nam Galati, đi tiếp với Timôthê tới Trôách (tại đó, Luca gia nhập đoàn truyền giáo), rồi xuống thuyền đến Maxêđoan, bắt đầu chức vụ tại Châu Âu. Tin Lành đến với Philíp, Têsalônica, Bêrê, Athên và Côrinhtô. Phaolô dừng lại ít lâu tại Êphêsô trên đường về Giêrusalem và Antiốt.
42.
a. 6) Cơlốt.
b. 7)Đêni.
c. 10) Phái Stociens.
d. 8) Galiôn.
e. 5) Sốtthen.
f. 4) Phái Epicuriens.
g. 2) Giasôn.
h. 3) Đamari.
i. 11) Aquila.
j. 12) Bêrítsin.
k. 1) Cơrítbu.
l. 9) Lyđi.
m. 13) Titiu Giúttu
43.
a. 17) Nêabôli.
b. 13) Achai.
c. 14) Êphêsô.
d. 7) Bithini.
e. 9) Phirigi.
f. 12) Mysi.
g. 4) Trôách.
h. 3) Sencơrê.
i. 5) Galati.
j. 1) Samôtraxơ.
k. 2) Philíp.
i. 16) Maxêđoan.
m. 20) Arêôba.
n. 10) Amphibôlít.
o. 8) Abôlôni.
p. 11) Thiatirơ.
q. 18) Têsalônica.
r. 15) Athên.
s, 19) Bêrê.
t. 6) Bông.
Hành Trình Truyền Giáo Thứ Ba
Trong bài trước, chúng ta đã lần theo hành trình truyền giáo lần thứ nhì. Chúng ta đã thấy sự thành lập các hội thánh tại vùng bờ tây biển Aegean và những gian khổ cùng chiến thắng khải hoàn của công tác truyền giảng Tin Lành tại Âu châu. Giờ đây, chúng ta sang hành trình truyền giáo thứ ba và cũng là hành trình truyền giáo cuối cùng của Phaolô.
Điểm chú trọng của hầu hết hành trình truyền giáo thứ ba là tại Êphêsô. Dường như Phaolô đã khao khát rao truyền Tin Lành tại thành phố nầy từ sớm trên tuyến đi của hành trình truyền giáo lần thứ nhì; dầu vậy Đức Thánh Linh đã cho thấy đáp ứng trước thách thức đó vẫn chưa chín mùi tại thời điểm ấy. Tuy nhiên, giờ đây hòn ngọc của vùng đông Tiểu Á đã có "cánh cửa ngỏ." Êphêsô là một trong những thành phố lớn nhất trên thế giới. Đây là một trung tâm thương mại hàng đầu. Với dân số khoảng 300.000 người, đây chính là thủ phủ của vùng Lamã Asi. Đền thần Artemis (hay nữ thần Diana), một trong bảy kỳ quan thế giới cổ, chính là niềm tự hào của thành phố. Đền được xây để đặt tượng của thần Artemis, một bức tượng đá đen, ngồi xổm, có rất nhiều vú (có lẽ là thiên thạch). Tượng nầy được xem là tượng rơi từ trời xuống từ thời rất xưa, đến nỗi không ai biết được nguồn gốc thật của nó. Nếp sống gian dâm luông tuồng và nghề tà thuật được liên kết với sự thờ lạy thần Artemis. Chính từ Êphêsô nầy mà Phaolô đã viết: "Đồ ngoại đạo cúng tế là cúng tế các quỉ, chứ không phải cúng tế Đức Chúa Trời" (ICo1Cr 10:20).
Tại Êphêsô cũng như tại Côrinhtô, chúng ta thấy Tin Lành đã đối đầu với những tình trạng bại hoại nhất và dơ nhớp nhất mà con người có thể hình dung nổi. Tuy vậy trong mỗi trường hợp đều có công tác mạnh mẽ và phát triển được vững lập tại các thành phố nầy. Khi bạn đối mặt với những hoàn cảnh tương tự trong đời sống và trong sinh hoạt Cơ đốc, bạn sẽ được can đảm khi nhớ lại những chiến thắng được ban cho khi Phaolô và những đồng bạn của ông vẫn cứ trung thành với sự kêu gọi của Chúa và thách thức mà họ đã đón nhận.
Dàn bài
Bước Khởi Đầu
Những Lần Hoãn Của Đức Chúa Trời
Mười Hai Người Nhận Lãnh Đức Thánh Linh
Công Tác Của Phaolô
Tác Động Siêu Nhiên
Tác Động Của Tin Lành
Từ Êphêsô Đến Trôách
Lời Từ Biệt Tại Milê
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Biện giải cho hành động Đức Chúa Trời cấm Phaolô thi hành công tác tại Êphêsô mãi cho đến hành trình truyền giáo thứ ba, nêu hai nguyên nhân chứng minh sự khôn ngoan của cấm lệnh thiên thượng nầy.
Nêu ra ít nhất bốn thành phần trong công tác của Phaolô tại Êphêsô (theo Cong Cv 19:1-20:38) và cho biết ý nghĩa của mỗi thành phần.
Thảo luận tác động của chức vụ giảng Tin Lành tại Êphêsô, và kể tên ít nhất ba bằng chứng của tác động nầy theo Cong Cv 19:1-41.
Mô tả chức vụ tiếp theo của Phaolô cho các hội thánh mà ông đã thành lập (theo 13:1-20:38), và nêu ít nhất hai nguyên nhân cho chức vụ nầy.
Sinh hoạt học tập
1. Đọc tài liệu trong Kinh Thánh, trong Bruce, theo chỉ dẫn trong phần khai triển bài học.
2. Một lần nữa đọc nhanh qua phần từ vựng. Tra định nghĩa của những từ bạn chưa biết.
3. Sau khi học xong bài và làm bài tự trắc nghiệm, xem lại Bài 11 và 12 theo chỉ dẫn trong tập học viên. Sau đó làm bài Đánh Giá Tiến Bộ Phần 5, rồi gởi đến giáo viên theo phần chỉ dẫn trong tập học viên.
Từ vựng
triển khai deploy
sự bần cùng deprivation
sắp xảy đến imminence
niệm thần chú incantations
những người theo tà thuật practitioners
linh cảm premonition
quá tự tiện presumptous
sự tô điểm của những viên ký lục scribal embellishment
không mơ hồ unambiguous
sự diễn đạt biến thể variant reading
tay nghề pháp thuật wizardry
khai triển bài học
BƯỚC KHỞI ĐẦU
18:23-28 Bruce 379-383
Mục tiêu 1. So sánh và đối chiếu bước khởi đầu hành trình truyền giáo thứ ba của Phaolô với những hành trình trước đó.
Mục tiêu 2. Thảo luận ý nghĩa trong chức vụ của Abôlô tại Êphêsô và Côrinhtô.
1. Khi so sánh những câu Kinh Thánh sau: 18:23; 16:6 và 14:21, chúng ta thấy một thói quen hay một phương diện trong chức vụ của Phaolô thể hiện rõ trong mỗi khung cảnh nầy. Bạn thấy có đặc điểm quan trọng nào đã thể hiện trong công tác của ông với tư cách một sứ đồ?
..........
2. Điều gì giải thích cho việc Luca kể lại thiếu chi tiết cho những giai đoạn khởi đầu hành trình truyền giáo thứ ba?
a) Hành trình nầy không quan trọng.
b) Luca không đi theo đoàn, do đó ông không quan tâm.
c) Luca đang viết lịch sử tuyển chọn cho sự tăng trưởng của hội thánh. Thói quen xưa nay của ông là không phải nhằm ôn lại trọn vẹn chức vụ chăm sóc tiếp theo (14:21-23; 16:4-5; 18:23; 21:1-3), mà là để cung cấp phần mô tả cụ thể và sinh động về việc thành lập các hội thánh.
Chức vụ chăm sóc tiếp theo của Phaolô quan trọng cho việc củng cố đức tin các hội thánh. Thể hiện tình yêu thương và sự quan tâm không ngừng đến ích lợi thuộc linh của họ (ICo1Cr 4:15). Luca không tạo vẻ hào nhoáng cho chức vụ chăm sóc nầy, trái lại ông tóm tắt nó một cách ngắn gọn. Bruce nhận định (trang 379-380) tính ngắn gọn của Luca có lẽ là do ông không đồng đi trong hành trình nầy. Tuy nhiên, không thể đem việc ông vắng mặt để suy luận rằng ông sẽ không dành thời gian để mô tả nhiều về điều mà ông không đích thân tham dự, vì hầu hết các sự kiện trong Côngvụ đều diễn ra mà không có mặt của ông.
3. Câu nào sau đây minh họa cách khởi đầu của hành trình truyền giáo thứ ba khác với khởi đầu của hành trình truyền giáo lần thứ nhất và thứ nhì?
a) Dường như khi khởi đầu hành trình, Phaolô không có bạn đồng hành.
b) Phaolô rời Giêrusalem chứ không phải rời Antiốt.
c) Phaolô đem theo đoàn truyền giáo đông người nhất từ trước đến nay.
Với ngoại lệ là từng trải tại Athên, Phaolô chưa hề đi giảng Tin Lành mà không có bạn đồng hành. Tuy nhiên, phần đầu của chuyến đi nầy là hướng đến những hội thánh đã được thành lập rồi. Tại Êphêsô sẽ có những người khác gia nhập đoàn của ông, là những người ông đã để lại tại Gờréc vào cuối hành trình truyền giáo lần thứ nhì.
Đang khi Phaolô trở lại thăm các hội thánh Antiốt, xứ Syri, và vùng Nam Galati, một người ủng hộ sự nghiệp Cơ đốc giáo mới đã xuất hiện và đang thi hành chức vụ trong nhà hội ở thành Êphêsô.
4. Nêu ra chín đặc điểm của Abôlô mà Luca đã nêu trong Cong Cv 18:24-26.
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
e ..........
f ..........
g ..........
h ..........
i ..........
MAXÊĐOAN
TRAXƠ
Philíp
Nêabôli
Amphibôlít
Abôlôni
Têsalônica
Bêrê
Trôách
Asốt
Athên
ACHAI
Côrinhtô
BIỂN ĐEN
BÔNG
BITHINI
Dorylaeum
CÁPBAĐỐC
ASI
Êphêsô
Milê
BIỂN AEGEAN
GALATI
Antiốt
Ycôni
Đẹtbơ
Bẹtgiê
Áttali
LYCAONI
Batara
SILISI
Tạtsơ
Sêlơsi
Antiốt
BAMPHILI
CHÍPRƠ
Baphô
Siđôn
Tyrơ
Bêtôlêmai
Sêsarê
Giêrusalem
ÊDÍPTÔ
LYBI
BIỂN ĐỊA TRUNG HẢI
HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO THỨ BA CỦA PHAOLÔ
Tại thời điểm nầy, thành Alécxantri, ở xứ Êdíptô, thành phố quê hương của Abôlô, là thành phố đứng nhì trong đế quốc Lamã. Thành nầy có dân số ít nhất khoảng 600.000 người, có một cộng đồng dân Do-thái rất đông và còn được biết đến như là nơi mà Kinh Thánh Cựu Ước đã được dịch sang tiếng Hylạp - bản dịch được gọi là bản Septuagint, hay gọi tắt là Bản Bảy Mươi (LXX).
5. So sánh việc Abôlô “chỉ biết phép báp têm của Giăng mà thôi” với 12 môn đồ mà Phaolô đã gặp trong 19:1-6. Những câu nào sau đây là câu mô tả ĐÚNG về bản chất kinh nghiệm của những người "chỉ biết phép báp têm của Giăng" nầy. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong mỗi câu hỏi sau đây (cũng như trong suốt bài học nầy).
a. Họ không phải là những tín đồ Đấng Christ.
b. Vì họ được gọi là môn đồ, nên họ đã là những tín đồ Đấng Christ.
c. Phép báp têm của Giăng đã là phép báp têm của sự chuẩn bị, phép báp têm của Đức Chúa Jesus là phép báp têm của sự ứng nghiệm. Do đó, Abôlô lẫn 12 môn đồ kia đều không hiểu biết về giáo lý hay không hiểu qua kinh nghiệm về phép báp têm của Đức Chúa Jesus, tức là phép báp têm bằng Đức Thánh Linh (11:16).
Ngoài việc họ không hiểu về Đức Thánh Linh và về từng trải phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, mà bấy giờ đã là một sự thật được hoàn thành rồi, Abôlô và 12 môn đồ dường như còn không biết về mạng lịnh của Đấng Christ là phải nhơn danh Cha, Con và Thánh Linh mà làm phép báp têm nữa (Mat Mt 28:19). Kiến thức của Abôlô và 12 môn đồ kia dường như đã chưa vượt ra khỏi thời điểm sự phục sinh của Đấng Christ.
6. Dầu Bêrítsin và Aquila đã cùng Phaolô từ Côrinhtô đến Êphêsô, nhưng họ không trở thành những người tiên phong của hội thánh tại đó. Đúng hơn, họ vẫn còn ở trong nhà hội. Những câu nào sau đây là câu mô tả đúng nhất nguyên nhân khiến họ không thành lập một hội thánh tại Êphêsô?
a) Họ bước đi ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời.
b) Sự kêu gọi họ hiển nhiên đã không bao gồm việc thành lập hội thánh; do đó, họ kiêng thực hiện những nhiệm vụ mà Đức Thánh Linh không giao cho họ.
Dầu họ cùng với Phaolô thành lập hội thánh tại Côrinhtô, nhưng Bêrítsin và Aquila không dám mạo muội nỗ lực đi tiên phong thành lập một hội thánh tại Êphêsô. Đúng hơn, họ đã thờ phượng Chúa trong nhà hội, nhưng không giảng đạo trong nhà hội (Cong Cv 18:26). Những môn đồ khác, chắc vẫn đang ở trong nhà hội, cũng đang ở tại Êphêsô (18:27).
7. Khi Bêrítsin và Aquila nghe tin về chức vụ của Abôlô, họ đã có hành động nào mà hiện nay vẫn là một tấm gương tốt cho những người trưởng thành thuộc linh trong hội thánh, là người lắng nghe một mục sư mà họ cảm thấy không đang rao giảng nguyên vẹn Lời Đức Chúa Trời?
..........
8. Chức vụ của Abôlô tại Êphêsô cho chúng ta thấy nguyên tắc nào sau đây?
a) Những người rao giảng Tin Lành Đấng Christ thì trước hết phải được phép của hội thánh tại Giêrusalem.
b) Abôlô cho chúng ta thấy rằng có một số người rao giảng sứ điệp Cơ đốc mà không hề được sai phái chính thức bởi một hội thánh nào cả. Tuy nhiên, sứ điệp đó phải theo đúng giáo lý mà các sứ đồ đã rao giảng và đã làm cho thấm nhuần trong những người khác.
Chúng ta không biết làm thể nào mà Abôlô có được những chân lý cơ bản của sứ điệp Cơ đốc. Có lẽ vì ông là người tại Alécxantri, nên ông đã xuất thân từ một cộng đồng Cơ đốc vốn đã được thành lập tại đó (Bruce, trang 381). Nếu vậy, từng trải trong Đấng Christ của cộng đồng nầy đã chưa được đầy đủ, cũng giống như từng trải của 12 môn đồ mà chính Phaolô đã gặp tại Êphêsô (19:1-6).
Khi biết chính xác hơn về đạo từ Bêrítsin và Aquila, Abôlô không ở lại Êphêsô để thành lập một hội thánh. Dường như ông đã làm trọn vai trò của một tiên tri và một nhà truyền giảng Tin Lành chứ không phải là vai trò của sứ đồ (người được Chúa sai đi làm người thành lập hội thánh tại một vùng nào đó, xem Eph Ep 4:11). Sau nầy, Phaolô đã xác định chức vụ Abôlô tại Côrinhtô như là "kẻ tưới" chứ không phải là "người trồng" (ICo1Cr 3:6). Abôlô đã thi hành chức vụ "tưới" rất kết quả, theo như Cong Cv 18:27 cho thấy.
9. Bạn chọn câu nào sau đây để làm những lời bạn khuyên Abôlô nếu như bạn là một trong những anh em tại Êphêsô?
a) "Abôlô ơi, chúng tôi cần anh ở tại đây. Có một nhóm người trong số chúng tôi muốn cùng anh bắt đầu một công tác mới cho Chúa tại Êphêsô."
b) "Abôlô ơi, nếu anh không cảm thấy Chúa ban cho anh ân tứ hay khả năng để giúp chúng tôi thành lập một hội thánh tại đây, thì chúng tôi không muốn anh làm việc đó. Nếu anh cứ cố gắng, những ân tứ mà anh đã nhận được kia sẽ bị mất đi. Anh đi đến Côrinhtô, nơi đã có hội thánh rồi kìa. Đức Chúa Trời đã ban cho anh khả năng để xây tiếp trên những gì mà người khác đã thành lập."
Chức vụ của một cá nhân và phúc lợi của hội thánh được ích lợi hay phải chịu thiệt hại khi cá nhân và hội thánh đó xác định đúng hay không đúng về những ân tứ mà Đức Chúa Trời đã kêu gọi mục sư đó phải làm trọn.
Chức vụ của Abôlô hiển nhiên đã rất cần cho hội thánh Côrinhtô non trẻ. Khi Phaolô ở với họ, ông đã lấy Kinh Thánh rao giảng rất kết quả về Đấng Christ. Cộng đồng Do thái chưa tin Đấng Christ đã bị bại trong cuộc tranh luận với ông, đến nỗi họ đã phải nhờ đến tòa án để cố loại ông. Khi Phaolô đi rồi, có lẽ tín hữu không còn ai hiểu biết Kinh Thánh có tầm cỡ như Phaolô để đối phó với những chống đối Tin Lành đến từ cộng đồng Do thái. Sự hầu việc Đấng Christ của Abôlô trong chức vụ rao giảng Kinh Thánh, khi đã được bổ túc thêm sự dạy dỗ từ Bêrítsin và Aquila, đã làm vững mạnh rất nhiều cho đức tin của các tín đồ (phải chăng họ đang yếu đuối dần vì cớ không có giáo sư nào có thể giảng giải một cách thấu đáo và sống động về Lời Đức Chúa Trời?). Abôlô đã tỏ ra là một tháp canh vững chắc cho hội thánh đó, vì ông "hết sức bẻ bác người Giuđa giữa thiên hạ, lấy Kinh Thánh mà bày tỏ rằng Đức Chúa Jesus là Đấng Christ" (18:28).
NHỮNG LẦN HOÃN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Mục tiêu 3. Giải thích vì sao trước kia Đức Chúa Trời không cho phép Phaolô thành lập hội thánh tại Êphêsô, cho thấy những sự chậm trễ đôi khi là cần thiết để Đức Chúa Trời đem lại ích lợi lớn lao hơn.
10. Trước Côngvụ 19, có phải Phaolô hoặc đã ước ao hoặc đã có cơ hội để thành lập hội thánh tại Êphêsô (bất kể là tại thời điểm đó có phải là ý muốn Đức Chúa Trời hay không đi nữa) hay không?
..........
11. Người ta có thể đánh giá đầy đủ hơn nguyên nhân vì sao Phaolô bị chậm trễ trong việc đến Êphêsô nếu như ông đã hiểu biết về mặt địa lý. Xem Bản đồ trong bài học nầy về hành trình truyền giáo thứ ba của Phaolô, rồi chọn câu trả lời ĐÚNG.
a. Êphêsô nằm ở phía tây của những hội thánh mà Phaolô đã thành lập trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất và thứ nhì.
b. Êphêsô nằm ở phía đông những hội thánh mà Phaolô đã thành lập trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất và thứ nhì.
c. Êphêsô là trung tâm giữa những hội thánh mà Phaolô đã thành lập trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất và thứ nhì.
12. Dựa vào câu bạn trả lời cho bài tập trên, cho biết vì sao sự chậm trễ trong việc Phaolô đến Êphêsô lại tỏ ra là một chiến lược lý tưởng của Đức Thánh Linh? Cho biết những câu nào sau đây là câu đúng?
a. Phaolô sẽ ở ngay trung tâm cánh đồng của mình đối với với các hội thánh mà ông đã thành lập trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất và thứ nhì. Do đó, ông sẽ dễ dàng tiếp cận với tất cả các hội thánh đó để khuyên bảo, chăm sóc và quản lý.
b. Tại Êphêsô, Phaolô có thể triển khai hiệu quả những bạn đồng công đến những hội thánh đó và đem theo những sứ điệp và huấn thị, và họ có thể tường trình lại cho ông một cách dễ dàng.
c. Từ ngay Êphêsô là trung tâm, Phaolô có thể sắp xếp hiệu quả hơn cho việc tập trung những của quyên góp cho các thánh đồ cùng túng ở Giêrusalem (ICo1Cr 16:1-4; IICo 2Cr 8:1-9:15; Cong Cv 20:4-5) từ những hội thánh mà ông thành lập trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất và thứ nhì.
d. Vì Êphêsô nằm ngay trung tâm giữa các hội thánh trong vùng Nam Galati và Gờréc, nên các tín đồ đến Êphêsô từ phía đông và phía tây sẽ gia tăng thêm tác động cho chức vụ của Phaolô tại đó. Nói theo ngôn ngữ quân sự, Đức Thánh Linh đã khiến Phaolô tiến chiếm những cánh sườn phía đông và phía tây trước khi tấn công vào đồn lũy chiến lược của dân cư và tà thuật, tức là Êphêsô.
Việc ấn định thời điểm của Đức Thánh Linh là trổi hơn việc ấn định của Phaolô (16:6). Phaolô hẳn đã tiến bước tốt đẹp về hướng tây. Nhưng từ Antiốt xứ Bisiđi, Đức Thánh Linh đã đưa ông rời khỏi hướng tây bờ tây của biển Aegean để thành lập một loạt hội thánh vững mạnh tại châu Âu. Mục đích của Đức Thánh Linh là để Phaolô ở tại vùng trung tâm, hướng dẫn những công chuyện thuộc linh của các hội thánh được thành lập trước kia ở hai bên mạn sườn Êphêsô. Đồng thời, Phaolô đã dự phần vào việc thành lập một hội thánh lớn nhất mà ông đã từng đi tiên phong, cùng với quyền năng siêu nhiên phi thường, một hội thánh mà thực ra đã được định hướng là đứng thứ nhì chỉ sau hội thánh Antiốt xứ Syri trên lãnh vực truyền giáo cho dân ngoại bang (Bruce, trang 387).
Bạn còn nhớ khái niệm về ý muốn của Đức Chúa Trời mà chúng ta đã thảo luận trong Bài 6 không? Còn nhớ rằng chính ý muốn của Đức Chúa Trời, chính đường lối của Ngài và thời điểm của Ngài phải sánh bước với nhau trước khi chúng ta có thể thực hiện ý chỉ của Ngài không?
So sánh Cong Cv 16:6 với 18:19-21 và 19:1, rồi trả lời câu hỏi 13 và 14, chọn những câu đúng trong mỗi câu hỏi.
13. Vì sao Phaolô hẳn sẽ không làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời nếu như ông đã nhắm vào Êphêsô để bắt đầu hành trình truyền giáo lần thứ nhì? Bởi vì
a) điều đó không bao giờ là ý muốn của Đức Chúa Trời.
b) chưa đến đúng thời điểm.
c) đó không phải là cách mà Đức Chúa Trời dự dịnh sử dụng ông.
14. Vì sao Phaolô sẽ đi ngoài ý muốn Đức Chúa Trời nếu ông cứ ở lại Êphêsô vào cuối hành trình truyền giáo lần thứ nhì? Bởi vì
a) Ý muốn của Đức Chúa Trời là không hề muốn cho ông ở lại đó.
b) Không phải thời điểm Đức Chúa Trời muốn ông ở lại đó.
c) Đó không phải là cách mà Đức Chúa Trời dự dịnh sử dụng ông.
Chúng ta đã thấy rằng Chúa đưa Phaolô đến Êphêsô khi ông đã hoàn tất công cuộc thành lập hội thánh ở phía đông và phía tây. Chúa muốn sử dụng Phao Lô tại Êphêsô trong một thời gian lâu hơn. Trước lúc ở Côrinhtô, Phaolô chưa hề ở lâu tại một địa điểm nào với tư cách nhà truyền giáo. Kinh nghiệm ngày càng nhiều của ông trong công tác thành lập hội thánh rõ ràng đã chuẩn bị ông cho một thời kỳ thi hành chức vụ lâu hơn tại Êphêsô. Vào cuối hành trình truyền giáo lần thứ nhì, khi Phaolô dừng chân tại Êphêsô, có thể ông quá kiệt sức đến nỗi không thể ở lại ba năm tại đó. Ông cần được nghỉ ngơi và bổ lại sức. Giờ đây, sau khi thực hiện toàn bộ những giai đoạn sơ bộ trong kế hoạch của Đức Thánh Linh, Phaolô được phép bắt đầu tấn công vào thành trì nầy.
MƯỜI HAI NGƯỜI NHẬN LÃNH ĐỨC THÁNH LINH
19:1-7 Bruce 384-387
Mục tiêu 4. So sánh sự nhận lãnh Đức Thánh Linh của 12 môn đồ tại Êphêsô với những câu chuyện khác trong sách Côngvụ về những tín đồ được nhận lãnh Đức Thánh Linh lần đầu tiên.
Mục tiêu 5. Thảo luận bằng chứng trong sách Côngvụ rằng phép báp têm bằng Đức Thánh Linh được chứng minh lần đầu qua bằng chứng là tiếng lạ, đã trở thành một một kinh nghiệm tiêu chuẩn.
15. Khi đến Êphêsô, Phaolô đã tìm thấy các tín đồ nào?
a) Abôlô và hội chúng của ông.
b) Aquila và Bêrítsin.
c) Một số môn đồ mà họ chưa nghe về Đức Thánh Linh.
Tình huống tại Êphêsô khi Phaolô đến ấy là: Aquila và Bêrítsin đang vắng mặt (có lẽ họ đã quay về Rôma, vì trong thơ Phaolô gởi cho người Rôma ba năm sau đó, Phaolô chào thăm họ, RoRm 16:3-5), Abôlô đã đi đến thành Côrinhtô (Cong Cv 18:27-19:1), và ít lâu sau khi ông đến, Phaolô đã tìm thấy một số môn đồ. Những môn đồ nầy hiểu biết có phần chưa đầy đủ về Cơ đốc giáo, cũng giống như sự hiểu biết của Abôlô trước khi ông gặp Bêrítsin và Aquila.
16. Có gì khác nhau giữa kinh nghiệm và chiến lược của Phaolô tại Êphêsô so với những gì ông tìm thấy và thực hiện trước kia trong những thành phố khác?
a) Trước hết ông tìm người Do thái và thi hành chức vụ trong nhà hội.
b) Sau khi tìm người Do thái và không gặp ai cả, ông bắt đầu giảng cho dân ngoại bang.
c) Ông gặp các môn đồ và bắt đầu chăm lo cho nhu cầu của họ.
Chữ môn đồ nầy khiến người ta có phần nghi ngờ không biết những người nầy có phải là những tín đồ Đấng Christ hay không, vì trong sách Côngvụ không dùng đến chữ môn đồ, ngoại trừ khi dùng chỉ về những người tin theo Đấng Christ. Hơn nữa, Phaolô không hỏi họ đã tin chưa, nhưng hỏi họ đã nhận lãnh Đức Thánh Linh khi họ tin chưa. Tuy nhiên, cũng giống như Abôlô, họ chưa kinh nghiệm phép báp têm nào ngoài ra phép báp têm của Giăng. Như thế chúng ta kết luận rằng họ đã mất liên lạc với Abôlô sau khi ông được Bêrítsin và Aquila dạy dỗ; bằng không, họ hẳn đã biết nhiều hơn về phép báp têm của Giăng.
17. Câu nào sau đây phản ánh thần học có trong câu hỏi của Phaolô: “Từ khi anh em tin, có lãnh được Đức Thánh Linh chăng?"
a) Tại sự hoán cải, người ta tự động được nhận lãnh Đức Thánh Linh, dầu người đó có nhận ra hay không nhận ra.
b) Sự nhận lãnh Đức Thánh Linh là một sự kiện hoặc đi kèm theo sự cứu rỗi, hoặc đến sau sự cứu rỗi; tuy nhiên, giống như trong từng trải sự cứu rỗi, thì người nào nhận lãnh từng trải nầy cũng biết rõ ràng và dứt khoát rằng mình đã nhận lãnh Đức Thánh Linh.
c) Câu hỏi của Phaolô đại diện cho niềm tin của ông rằng sự đầy dẫy Đức Thánh Linh là một sự tùy chọn đối với tín hữu, nhưng sẽ rất hữu ích nếu như họ ước muốn được nhận lãnh Đức Thánh Linh.
19:2 theo nghĩa đen có nghĩa là: "Khi đã tin, anh em đã nhận được Đức Thánh Linh chưa?" Có người tìm cách biện minh cho định kiến của mình rằng phép báp têm bằng Đức Thánh Linh và sự cứu rỗi là một, thì họ cố gắng chứng minh khi một phân từ quá khứ bất định (aorist participle - "having believed", "Khi đã tin") và một động từ chính ở thể quá khứ bất định (aorist main verb - "did you receive" - "anh em đã nhận được chưa?") được dùng chung với nhau, thì chúng mô tả những sự kiện xảy ra đồng thời với nhau chứ không phải những sự kiện riêng rẽ. Trường hợp như thế có thể là Mat Mt 27:4: "Tôi đã phạm tội vì nộp huyết vô tội." Sự phạm tội và sự phản nộp là xảy ra đồng thời với nhau. Tuy nhiên, trong 22:25, phân từ quá khứ bất định mô tả một sự kiện diễn ra trước hành động được mô tả bởi động từ chính ở thể quá khứ bất định: "lấy vợ và chết đi" (having married he died). Người ta chỉ còn kết luận rằng phép báp têm bằng Đức Thánh Linh có thể diễn ra ngay tức khắc sau khi nhận được sự cứu rỗi (Cong Cv 10:44-45; 11:17), hoặc có thể có một khoảng thời gian vài ngày (9:17) hoặc thậm chí lâu hơn (2:4; 8:14-17; 19:1-6) giữa sự cứu rỗi với phép báp têm bằng Đức Thánh Linh.
18. Khi Phaolô hay rằng những môn đồ tại Êphêsô chưa nghe về Đức Thánh Linh, ông hỏi họ: “Vậy thì anh em đã chịu phép báp têm vào trong điều nào?" (NIV đã làm giảm nhẹ câu hỏi nầy cách không chính xác khi viết: " Vậy thì anh em đã nhận lãnh phép báp têm nào?" - giống Bản Việt Ngữ.) Ba phép báp têm nào đã được xác định rồi trong sách Côngvụ?
a ..........
b ..........
c ..........
19. Phaolô đã xem phép báp têm nào trên đây là cần yếu cho các môn đồ tại Êphêsô?
a ..........
b ..........
Từng trải phép báp têm bằng Đức Thánh Linh được nhắc đến năm lần trong sách Côngvụ (dầu từ ngữ được đầy dẫy Đức Thánh Linh có thể được dùng đồng nghĩa với từ ngữ phép báp têm bằng Đức Thánh Linh ). Đọc lại những câu Kinh Thánh nói đến phép báp têm bằng Đức Thánh Linh sau đây. Sau đó tiếp tục với những câu hỏi 20-22.
1. Ngày Lễ Ngũ Tuần (Cong Cv 2:1-4).
2. Samari (8:14-17).
3. Saulơ (9:17).
4. Cọtnây và người nhà của ông (10:44-48; 11:15-18).
5. Êphêsô (19:1-7).
20. Có trường hợp nào trên đây nhận được báp têm bằng Đức Thánh Linh trước khi chịu phép báp têm bằng nước không? ..........
21. Trong năm trường hợp trên, lần nào tín hữu đã nhận lãnh Đức Thánh Linh qua sự đặt tay?
..........
22. Có phải chỉ có sứ đồ đặt tay để người các nhận lãnh Đức Thánh Linh không?
..........
Có phải việc nói tiếng lạ luôn luôn đi kèm theo phép báp têm bằng Đức Thánh Linh không? Luca ghi lại việc nói tiếng lạ tại ngày Lễ Ngũ Tuần, tại nhà Cọtnây, và tại Êphêsô. Ông bỏ qua việc nói tiếng lạ tại Samari và với Saulơ là một sự bỏ qua vì cớ việc nói tiếng lạ không xảy ra, hay là một sự bỏ qua mang bản chất tương tự với việc thường xuyên bỏ qua phép báp têm bằng nước theo sau từng trải cứu rỗi của rất nhiều tín hữu? Vì không một độc giả nào có thể hiểu phép báp têm bằng nước là một tùy chọn, nên Luca không cần ghi lại sự diễn ra phép báp têm bằng nước sau mỗi lần có một người hay một nhóm người tin Chúa. Phải chăng giả định cơ bản của Luca cũng chính là không một độc giả nào có thể hiểu rằng phép báp têm bằng Đức Thánh Linh đi kèm theo việc nói tiếng lạ lại là một từng trải tùy chọn mà có người thì nhận được, có người không?
23. Chọn trong những câu sau những kết luận nào ĐÚNG và phù hợp nhất cho bằng chứng được nêu trong sách Côngvụ.
a. Đến tận năm 55 S.C., tức 25 năm sau Ngày Lễ Ngũ Tuần, người ta vẫn đang còn nhận lãnh phép báp têm bằng Đức Thánh Linh.
b. Vào năm 55 S.C., các sứ đồ, như là Phaolô chẳng hạn, đã không dạy tín đồ trông chờ hay kinh nghiệm phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, nhưng thực ra kinh nghiệm đó đang được mô tả là một từng trải độc nhất vô nhị đối với "thời kỳ đầu tiên," một phép báp têm không phải của từng cá nhân, nhưng là của hội thánh dân Do thái (2:1-4), của hội thánh người Sa-ma-ri (8:14-17), và hội thánh dân ngoại bang (10:44-48, 11:15-18).
c. Vì Luca không ghi rằng người Samari nói tiếng lạ khi họ nhận lãnh Đức Thánh Linh, nên chúng ta có thể kết luận rằng nói tiếng lạ là một tùy chọn.
d Lời hứa của Chúa (1:4-5), mà các môn đồ đã từng trải (2:4), cũng chính là lời hứa được ban cho mọi người tin Chúa (2:38-39). Vì người Samari không nói tiếng lạ, nên có nghĩa là họ không nhận cùng một lời hứa đã ban cho các sứ đồ và được kinh nghiệm bởi Cọtnây và người Êphêsô.
e. Khi Phaolô nhận lãnh Đức Thánh Linh qua sự đặt tay của Anania, Luca không đề cập đến việc Phaolô nói tiếng lạ vì cớ thực ra Phaolô không có nói tiếng lạ.
f Vì Phaolô đã đặt tay trên người Êphêsô để họ sẽ nhận lãnh phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, và vì những người nầy đã nói tiếng lạ và lời tiên tri, nên chúng ta không thể cho rằng họ hẳn đã nhận phép báp têm bằng Đức Thánh Linh theo một chiều hướng đầy đủ hơn hoặc theo một chiều hướng khác với cách của các sứ đồ. Chúng ta cũng không được phép cho rằng từng trải tại Êphêsô là một sự kiện độc nhất vô nhị chứ không phải một sự kiện phổ thông trong chức vụ sứ đồ của Phaolô.
Phải chăng vì Phaolô không thuộc trong số 120 môn đồ, nên Chúa đã ban cho ông, với tư cách một sứ đồ, một từng trải khác với từng trải trong Cong Cv 2:4? Và phải chăng ông được Đức Thánh Linh dùng làm công cụ đặt tay để cho người khác nhận được một từng trải mà chính ông chưa kinh nghiệm? Sự thật vẫn là những ai ngày nay đang dạy rằng tiếng lạ là một tùy chọn, và những ai chưa đích thân nhận lấy phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, được chứng thực qua việc nói tiếng lạ, thì họ không thể thi hành những chức vụ mà do sự đặt tay của họ, người nhận lãnh phép báp têm bằng Đức Thánh Linh sẽ được nói tiếng lạ. Họ không thể truyền đạt cho người khác điều mà bản thân họ chưa kinh nghiệm!
Một điều dứt khoát ấy là, phép báp têm bằng Đức Thánh Linh mở ra những chiều hướng mới mẻ để trò chuyện với Đức Chúa Trời (họ đã nói bằng tiếng lạ) và làm chứng cho người khác (họ nói tiên tri), không có ngoại lệ nào cả. Phép báp têm bằng Đức Thánh Linh sẽ đi kèm với hai điều được nhìn thấy trong Cong Cv 1:8 và 2:4. Tại Êphêsô cũng như tại ngày Lễ Ngũ Tuần, việc nói chuyện với Đức Chúa Trời đều diễn ra trước khi nói với con người.
24. Tại Êphêsô, Phaolô đã chiến đấu với các thế lực mạnh mẽ của Satan (Eph Ep 6:10-12). Chiến trận thuộc linh chống lại những thế lực nầy bắt đầu với sự hình thành những tín đồ hạt nhân đầy dẫy Đức Thánh Linh. Khi có những tín đồ khác được thêm vào hội thánh, những câu nào sau đây có thể là câu mô tả ĐÚNG từng trải của họ?
a. Họ đã được dạy dỗ để được cứu rỗi và chịu phép báp têm bằng nước, rằng sự đầy dẫy Đức Thánh Linh đồng nghĩa với sự cứu rỗi, rằng từng trải trong Đức Thánh Linh của nhóm hạt nhân 12 môn đồ kia là một ngoại lệ đối với quy luật thông thường.
b. Phaolô trước sau như một, vẫn thi hành chức vụ cho những tân tín hữu cũng giống như cho nhóm hạt nhân 12 môn đồ kia. Sự cứu rỗi, phép báp têm bằng nước, và phép báp têm bằng Đức Thánh Linh là những từng trải khác nhau và tất yếu cho hết thảy mọi tín hữu tại Êphêsô.
c. Nhóm hạt nhân 12 môn đồ kia hình thành đoàn mục sư tại Êphêsô, và đó là nguyên nhân khiến họ đã nhận lãnh sự ban cho đặc biệt từ nơi Đức Thánh Linh. Những tín hữu bình thường trong hội thánh không bắt buộc phải có cùng một từng trải với họ.
d. Thật không thể nào tưởng tượng nổi khi hình dung rằng cũng chính vị sứ đồ đã quan tâm để cho 12. môn đồ kia nhận lãnh Đức Thánh Linh lại là người sẽ không quan tâm để cho quần chúng tín hữu nhận lãnh Đức Thánh Linh.
e. Những người nhận lãnh phép báp têm bằng Đức Thánh Linh, là từng trải khiến cho họ nói tiếng lạ và tiên tri, hẳn sẽ dạy cho các tín đồ khác tại Êphêsô rằng từng trải ấy đã được dành riêng độc nhất cho họ như là biểu hiện đặc biệt về ân điển của Đức Chúa Trời, chứ không nhằm dành cho những người khác còn lại trong hội thánh.
f. Chắc chắn những người nhận lãnh từng trải nầy sẽ truyền đạt cho người khác, và họ - cũng giống như Phierơ vậy - sẽ bảo đảm với người khác rằng chính lời hứa ấy dành sẵn cho tất cả mọi người muốn nhận lãnh!
CÔNG TÁC CỦA PHAOLÔ
Cong Cv 19:8-10 Bruce 387-389
Mục tiêu 6. Kể ra nhiều hoạt động thường lệ khác nhau trong đời sống và chức vụ của Phaolô đang khi ở tại Êphêsô.
Sau khi chăm sóc cho mười hai môn đồ kia, Phaolô vào nhà hội tại Êphêsô. Trước kia, ông đã gặp được tinh thần hiếu khách (Cong Cv 18:19-20), và các tín hữu đã thờ phượng đều đặn tại đó (18:26). Chức vụ của Phaolô tại nhà hội Êphêsô - trong ba tháng - đã trở thành kỷ lục của ông. Tuy nhiên, trong thời kỳ nầy, sự chối bỏ sứ điệp đã xuất hiện như trước đây trong mỗi nhà hội, ngoại trừ tại Bêrê và Athên (tại Athên, ông không ở lại đủ lâu để nhận lấy phản ứng rõ ràng).
25. Xem những câu Kinh Thánh sau và kể ra những sinh hoạt của Phaolô tại Êphêsô.
a 19:9
..........
..........
..........
..........
Sự diễn đạt biến thể trong bản văn Tây Phương bằng tiếng Hylạp (bản văn thường hay có những chi tiết được tô điểm của những viên ký lục), nói thời gian để dạy dỗ là từ 11:00 sáng đến 4:00 chiều, (bữa ăn trưa và giờ nghỉ trưa của Êphêsô). Nếu Phaolô dạy năm giờ một ngày, sáu ngày một tuần, trong suốt hai năm, thì ông đã dành ra hơn 3000 giờ dạy dỗ để huấn luyện các tín hữu. Từ Trường Kinh Thánh của ông, toàn bộ cư dân của vùng Asi đều đã nghe được đạo Chúa; đều nầy có nghĩa là các sinh viên của ông đã đem Lời Chúa đến cho họ.
26. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG khi liên hệ đến “công tác” của chức vụ mục sư hay chức vụ của tín hữu trong Hội thánh?
a. Những kết quả trong chức vụ được đem lại bởi những người không làm việc chăm chỉ trong chức vụ.
b. Những điều trọng đại trong Nước Đức Chúa Trời được thực hiện bởi những người đã dâng mình trọn vẹn và không ngần ngại để thực hiện nhiệm vụ của mình.
27. Xem những câu Kinh Thánh mô tả sự làm chứng và những chiến trận thuộc linh của bản thân Phaolô tại Êphêsô. (Nên nhớ Phaolô viết ICôrinhtô trong chức vụ tại Êphêsô.)
..........
..........
c. 15:30-32
..........
d. 16:8-9
..........
..........
Trong vòng hai năm sau khi đến Êphêsô, Tin Lành đã lan truyền khắp vùng Asi. Chiến lược của Phaolô lại tỏ ra hữu hiệu: gieo hạt giống Tin Lành tại trung tâm của một vùng, tại một thành phố đông dân cư và quan trọng nhất, rồi từ đó sứ điệp sẽ lan truyền đến các vùng phụ cận. Không phải là vô lý khi cho rằng những hội thánh được nhắc đến trong Khảihuyền 2 và 3 đã được thành lập trong thời kỳ nầy. Ngoài Êphêsô, Simiệcnơ, Bẹtgăm, Thiatirơ, Sạtđe, Philađenphi, và Laođixê, thì hội thánh tại Côlôse hẳn cũng đã được thành lập trong thời kỳ nầy.
28. Những câu nào sau đây là câu mô tả đúng triết lý của Phaolô đối với sự tăng trưởng hội thánh?
a) Hội thánh nên tăng trưởng đến khoảng 1000 người.
b) Hội thánh nên tăng trưởng cho vừa với tầm cỡ của nhà thờ mình.
c) Hội thánh nên tìm cách tăng trưởng cho đến qui mô của toàn khu vực địa lý của mình.
Đôi khi hội thánh không tăng trưởng nữa vì hội thánh tin trong tiềm thức rằng mình đã đủ lớn. Hội thánh đầu tiên không nghĩ mình chỉ giới hạn trong một ngôi nhà thờ. Hội thánh đầu tiên xem mình là một cơ quan sinh sôi theo kiểu tế bào, mà chức năng không phải chỉ là xây dựng một hội thánh rộng lớn, đông người, nhưng là để đem Tin Lành đến cho toàn bộ dân cư trong một cộng đồng.
Những đòi hỏi về thuộc thể, tình cảm, và thuộc linh đối với Phaolô tại Êphêsô và rất lớn. Buổi sáng bận may trại, buổi trưa bận dạy dỗ (bao gồm cả tranh luận trong hội trường Tiranu, và buổi tối là thi hành chức vụ trong từng nhà. Suốt ngày lẫn đêm, đời sống Phaolô nổi bật bởi sự cầu nguyện không ngừng cho những hội thánh mà ông đã thành lập (ví dụ như xem 11:28). Trong toàn bộ chức vụ, không ai thấy Phaolô có một lời than phiền nào. Cũng không ai thấy Phaolô hay các tín đồ Tân Ước khác mô tả mình là mệt mỏi hay kiệt sức (bị dốc đổ ra). Chính Đức Thánh Linh mới là Đấng tuôn đổ ra. Các tín hữu được đầy dẫy! Đây là bí quyết cho chức vụ kết quả ở giữa sự căng thẳng.
TÁC ĐỘNG SIÊU NHIÊN
Cong Cv 19:11-20 Bruce 389 - 392
Mục tiêu 7. Mô tả cách Tin Lành đến với Êphêsô không những bằng lời nói mà thôi, mà còn bằng quyền phép mạnh mẽ đắc thắng bệnh tật và tà thuật.
Êphêsô là trung tâm của thuật phù thủy, mê tín, đạo ma quỉ và tà thuật. Thành đầy dẫy các thầy tư tế, pháp sư, phù thủy cùng những hạng người tương tự như vậy. Từ thành phố nầy, Phaolô đã viết rằng sự thờ lạy hình tượng thực sự là thờ lạy ma quỉ (ICo1Cr 10:20-21). Tin Lành đã đến thành phố đầy bóng tối thuộc linh, bị cai trị bởi các thế lực thuộc linh, các thần dữ ở các miền trên trời đầy dẫy quyền lực (Eph Ep 6:10-12)! Các tín đồ với thần học "các phép lạ chỉ là chuyện quá khứ" sẽ không có cơ hội nào để có được chiến thắng hùng hồn, hoặc thậm chí là chỗ đặt chơn, giữa một nơi như thành phố Êphêsô.
29. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và mô tả chính xác bản chất chức vụ siêu nhiên của Phaolô tại Êphêsô?
a. Ông không nhận tiền để thi hành chức vụ. Hiển nhiên ông đã không chịu nhận tiền của bất cứ ai vì ông đã tiếp tục may trại.
b. Khăn và áo đã trở thành những phương tiện hữu hiệu để hỗ trợ tài chánh cho Phaolô. Những người dâng những món quà nhỏ và ít có ý nghĩa thì nhận được khăn tay; nhưng những người dâng những món quà lớn thì nhận được áo.
c. Chính những vật đã động đến mồ hôi và công việc của Phaolô thì đều nhận được công dụng siêu nhiên từ nơi Chúa. Khăn là những mảnh vải thấm mồ hôi quấn quanh đầu ông để giữ cho mồ hôi khỏi chảy vào mắt. Áo là thứ vải da ông mặc bên ngoài khi may trại.
d. Phaolô dự trữ hàng kiện vải và áo cầu nguyện. Ông quảng cáo rằng những vật nầy có đặc tính chữa bệnh vì ông đã cầu nguyện trên chúng.
e. Phaolô bận rộn với công tác tại Êphêsô đến nỗi Chúa đã thực hiện công tác chữa bệnh và đuổi quỉ ngay cả khi ông tiếp tục làm việc. Đức Chúa Trời đã dùng những mảnh vải thấm mồ hôi và áo của Phaolô để khiến cho nhiều người được chữa lành và được giải thoát khỏi quỉ dữ biết điều vừa xảy ra là có liên hệ đến Phaolô. Do đó, những người được chữa lành sẽ không thắc mắc về nguồn gốc sự giải thoát của mình, nhưng sẽ đến với Phaolô để tìm biết Đức Chúa Jesus là Đấng Christ.
f. Chức vụ của khăn và áo là một hiện tượng phổ thông trong chức vụ của rất nhiều người. Việc có chức vụ nầy quả thật hữu ích cho những người muốn người ta biết mình là người được Đức Chúa Trời đại dụng.
Giống như chức vụ che bóng của Phierơ (Cong Cv 5:15), chức vụ thi hành phép lạ kỳ diệu của Phaolô thông qua khăn và áo đã trở thành biểu hiện độc nhất vô nhị của quyền năng siêu nhiên chứ không phải là một gương mẫu chức vụ cho các tín đồ khác. Tuy tín đồ nên thận trọng đối với những người cố gắng lợi dụng chức vụ của y phục cầu nguyện, thì cũng nên công nhận một sự thật rằng đôi khi Chúa vẫn dùng những phương tiện như thế để giúp gây dựng đức tin của kẻ bệnh, hầu họ nhận được sự chữa lành. Tuy nhiên, cũng giống như trong trường hợp tại Êphêsô, không phải Phaolô, khăn hoặc áo có thể chữa lành hoặc giải cứu được - nhưng chính là Đức Chúa Trời (19:11).
Niệm thần chú là một phương diện trong nghề tà thuật tại thành Êphêsô. Những người theo tà thuật rất chú trọng đến việc có một công thức đúng về các âm thanh hay những lời lẽ lộn xộn để làm một phương tiện tạo ra sự việc siêu nhiên. Trong số những người làm nghề tà thuật tại thành Êphêsô có một người Do thái tên là Sêva (còn gọi là thầy tế lễ cả, không phải vì cớ ông có liên hệ đến đền thờ của người Do thái, mà vì tay nghề pháp thuật do ông tự xưng trong nghề tà thuật) và bảy con trai của ông. Bảy người nầy tin rằng chính công thức pháp thuật của Phaolô mới có công dụng đuổi quỉ; vì thế họ bắt đầu sử dụng nó.
Những vũ khí thuộc linh mạnh mẽ được sử dụng sai lầm thì chỉ có thể đem lại những kết quả ngược với mong đợi. Danh Đức Chúa Jesus rất quyền năng, theo như các con trai của Sêva đã thấy, nhưng người sử dụng danh Ngài mà không biết Ngài thì không tìm được sự bảo vệ mình trước ma quỉ. Khi nghe các con trai Sêva lập lại mạng lịnh mà nó buộc phải vâng lời: "Ta nhơn danh Đức Chúa Jesus nầy... để truyền ngươi ra khỏi," thì quỉ đáp ứng. Câu trả lời của ma quỉ giúp chúng ta hiểu sâu hơn về sự kính trọng của nó đối với uy quyền lần lượt của Đức Chúa Jesus, Phaolô, và các con trai Sêva.
Ma quỉ trả lời: "Ta biết (rõ) Đức Chúa Jesus, và rõ (khác với chữ Hylạp được dùng cho chữ biết thứ nhất - có nghĩa là "làm quen với"), nhưng các ngươi là kẻ nào ?" Ma quỉ tại Êphêsô nầy chưa bao giờ gặp Jesus người Naxarét tại xứ Palestine, theo như chúng ta biết cho đến nay; tuy nhiên, nó biết rõ Ngài. Quả thật là một sự soi sáng kỳ diệu về quyền năng của danh Jesus trên toàn bộ đạo binh tà linh! Phaolô ít được quỉ biết đến hơn, chỉ được chúng biết đến phần nào thông qua chức vụ đuổi quỉ của ông tại nhiều địa điểm khác nhau. Nhưng ma quỉ công nhận rằng các con trai của Sêva không có bất cứ điều gì hiệp nhất trong Đấng Christ hay Tin Lành của Đấng Christ; do đó, bảy con trai quá tự tiện (láo xược) nầy của Sêva không có sự bảo vệ trước quyền phép mạnh mẽ của ma quỉ. Bị trần truồng và bị thương, bảy người nầy phải chạy trốn khỏi căn nhà mà họ đã cố gắng đuổi quỉ, sau khi đã bị đánh bại bởi chỉ một con quỉ mà thôi.
Sự kiện nầy đã đồn khắp Êphêsô và, cũng giống như tại Giêrusalem nhiều năm trước (2:43), sự sợ hãi đã ập đến trên dân chúng. Danh Đấng Christ được tôn cao!
30. Luca ghi lại ảnh hưởng của sự bất hạnh của bảy con trai Sêba không những trên dân chúng nói chung, mà còn trên các tín đồ nữa (19:18-19). Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Việc các tín đồ vẫn đang còn giữ những vật dụng của tà thuật ngay cả sau khi hoán cải cho thấy sự hoán cải của họ không thành thật từ lúc ban đầu.
b. Việc Luca xác định những kẻ đem vật dụng tà thuật đến là tín đồ đã là một bằng chứng cho thấy họ đã được Chúa cứu rỗi; dầu vậy, đời sống họ cần có công tác thánh hóa của Đức Chúa Trời.
c. Khi các tín đồ đem sách vở phù pháp ra đốt, thì trước tiên Phaolô đuổi quỉ ra khỏi tín đồ.
d. Những tín hữu đem sách tà thuật đến không bị xác định như là bị quỉ ám, và họ không cần phải được đuổi quỉ.
e. Tấm gương của các tín hữu Êphêsô là mẫu mực cho những tân tín hữu nào đến với Đấng Christ từ những tôn giáo và những triết lý khác mà vẫn còn cố bám lấy một số thần linh hay những tập tục tôn giáo ngày trước của mình. Họ phải tẩy sạch hoàn toàn những thứ nầy ra khỏi đời sống mình?
Người ta có thể tuyên bố định kỳ rằng những tín đồ Đấng Christ có thể bị quỉ ám. Nếu đúng như vậy, thì quả là lạ vì các tín đồ Êphêsô - những người trước kia đã trở nên dễ bị quỉ ám nhất do liên tục tiếp xúc với tà thuật - thực ra lại không bị quỉ ám chút nào. Mặc khác, người ta không thể xem nhẹ hậu quả hẳn sẽ đến với tín đồ nếu như họ cứ tiếp tục với tà thuật. Giống như Giuđa, họ hẳn sẽ tạo cơ hội cho Satan bước vào (LuLc 22:3) và trở nên dễ tạo cơ hội cho từng trải được mô tả trong Mat Mt 12:43-45. Tín đồ phải đoạn tuyệt dứt khoát với tà thuật, cũng như con cái Ysơraên đã được khuyến cáo phải thực hiện khi họ chuẩn bị bước vào xứ Canaan (PhuDnl 18:9-12).
Số lượng của những vật thuộc tà thuật của tín đồ Êphêsô có giá trị lên đến năm muôn đồng bạc, hay tương đương với lương của một người làm công trung bình trong 50.000 ngày (khoảng 137 năm mà không nghỉ một ngày nào!)
31. Dùng mức lương hiện hành của một nhân công trung bình trong nền văn hóa bạn, thì việc thiêu các sách vở tà thuật tương ứng với bao nhiêu tiền? Nếu có chuyện như thế xảy ra trong cộng đồng của bạn, bạn nghĩ người ta có chú ý đến nó không?
..........
TÁC ĐỘNG CỦA TIN LÀNH
Cong Cv 19:21-41 Bruce 393-402
Mục tiêu 8. Mô tả sự thành công trong chức vụ của Phaolô tại Êphêsô, dựa vào những kế hoạch lưu hành trong tương lai của ông và sự náo loạn do những thợ bạc làm khám nữ thần Artemis.
Sau việc các tín đồ đốt sách tà thần, đạo Chúa không những đã được đồn khắp cõi Asi (19:10), mà còn truyền bá rộng rãi và phát triển trong quyền năng (19:20). Trong sách Côngvụ trước đây, chỉ có một lần là sự phát triển của hội thánh được mô tả như sự phát triển của Đạo (12:24). Ý nghĩa của cụm từ nầy ấy là Đạo không những lan truyền đến cho nhiều người hơn nữa, mà đạo còn thấm sâu vào trong những người mà Đạo đã đến với họ.
32. Dựa vào phần nghiên cứu sách Côngvụ và đọc RoRm 15:17-29; ICo1Cr 16:1-4; IICo 2Cr 8:1-9:15, những câu nào sau đây là những nhân tố ĐÚNG và đã khiến Phaolô triển khai những kế hoạch lưu hành được mô tả trong Cong Cv 19:21?
a. Ông cảm thấy hội thánh Êphêsô đã tăng trưởng đến mức có thể để cho hội thánh tự tiếp tục công tác thông công và làm chứng mà không cần đến ông song vẫn an toàn.
b. Ông muốn đi đến Maxêđoan và Achai, không những để làm vững mạnh đức tin của các tín đồ ở các hội thánh tại đó, mà còn để đón nhận các của dâng họ gởi cho các thánh đồ Giêrusalem.
c. Ông quyết tâm đến Giêrusalem để đem những món quà cứu trợ từ các hội thánh dân ngoại bang đã được ông thành lập đến cho những người nghèo trong số các thánh đồ tại hội thánh Giêrusalem.
d. Sau chuyến đi lên thành Giêrusalem, ông dự định đến Rôma. Mục đích viếng thăm Rôma là để ông nhìn xem công việc Chúa tại đó, hưởng sự thông công của các Cơ đốc nhân tại Rôma, và được các tín đồ Rôma giúp đỡ trong công tác thành lập hội thánh. Ông cảm thấy chức vụ tiên phong của ông sang phía tây của Rôma đã hoàn tất, và chức vụ truyền giáo hiện tại của ông sẽ là đem Tin Lành sang miền xa hơn ở phía tây, thậm chí đến tận Tây Ban Nha.
Mục tiêu của Phaolô là thiết lập các hội thánh bản xứ (tự sinh sôi, tự trị, tự túc). Tại Êphêsô, ông đã thành lập một hội thánh như thế. Giờ đây Phaolô đã có thể giao phó công tác truyền giảng Tin Lành thêm nữa trong khu vực Địa Trung Hải (mà ông đã truyền giảng một cách đầy đủ xét theo ý nghĩa là ông đã đem lại phương tiện cho công tác truyền giảng toàn diện trong khu vực đó) cho các hội thánh mà ông đã thành lập giữa vùng Syri và Ilyri. Mối lo trước mắt của ông là những thánh đồ cùng túng tại Giêrusalem. Sau đó ông hướng mắt đến Tây Ban Nha. Khao khát đến Rôma của ông chắc đã xuất phát từ nhu cầu đối với trụ sở truyền giáo mới nầy. Antiốt xứ Syri quá xa, không thể giữ vai trò mẫu hội nếu như ông muốn đi đến Tây Ban Nha.
Hiệu quả tích lũy của sự có mặt ngày càng nhiều Cơ đốc nhân tại Êphêsô có thể nhìn thấy rõ ràng và sinh động qua tác động gây suy yếu trầm trọng cho sự thờ lạy hình tượng. Kết quả của việc rao giảng Tin Lành đã gián tiếp trở thành sự suy thoái kinh tế ( gây ra bởi nhu cầu giảm rất nhiều đối với các tượng và thánh tích có liên hệ đến đền (khám) thần Artemis). Chỉ trong một thời gian tương đối ngắn (khoảng hơn hai năm một chút), Đạo Cơ đốc đã đe dọa vượt trổi hơn sự mến mộ đối với đức tin đã tồn tại hàng bao thế kỷ nay đối với Đền Artemis (nữ thần Đianh). Những người thợ trong phường thợ bạc, là những người tạo nên những ngôi đền bằng bạc có thể xuất khẩu của thần Artemis (và đã phát triển nghề của mình thành một tập đoàn thương mại phát đạt) đã đối diện với tiếng chê bai và thất nghiệp.
Xét trên mức độ rộng lớn hơn, những thương gia thành Êphêsô nầy đang lập lại lời than phiền của những chủ nhân của cô tớ gái ở thành Philíp kia (16:19). Khi Tin Lành đe dọa thay đổi lợi nhuận và đánh hạ trụ cột nền công nghiệp chính yếu của thành phố, người ta phải có biện pháp gì đó chứ! Trong những trường hợp như thế nầy, luôn luôn có một người nào đó sẽ phản ứng và thống nhất phe chống đối. Trong trường hợp nầy thì đó là Đêmêtriu.
Để tạo ấn tượng mạnh cho lời nói của mình, và để thống nhất nghiệp đoàn, Đêmêtriu triệu tập một đại hội nghị và kêu gọi đến lòng sùng đạo mù quáng của những thợ bạc Êphêsô cũng như kêu gọi đến lợi ích kinh tế hiển nhiên trước mắt của họ. Bằng những lời lẽ hung hăng, ông khích động nghiệp đoàn nầy phải hành động để ngăn chặn những sự lăng mạ khác nữa đối với nữ thần hộ mệnh của họ cũng như để khỏi bị lỗ lã thêm nữa.
Do đó, những thợ bạc nầy đã đáp ứng bằng một cuộc biểu tình đầy hung dữ, hò la để bày tỏ lòng trung thành với thần mình. Tuôn ra từ nơi họp, họ hướng đến rạp hát, tập hợp những người dân trong thành lúc đang trên đường đi. Đang khi đi, đám đông đã hung bạo bắt lấy hai đồng bạn của Phaolô, Gaiút người Đẹtbơ và Aritạc người Maxêđoan, rồi lôi họ đến rạp hát.
33. Hãy nghĩ đến chức vụ công khai của Phaolô cho đến thời điểm nầy của sách Côngvụ. Vì sao ông lại muốn đi vào trong một rạp hát có 25.000 chỗ ngồi, để phát biểu trước đám đông đang tập họp tại đó?
..........
34. Dựa vào những câu Kinh Thánh sau trong sách Côngvụ, mô tả những cách mà tín đồ đã thực hiện để bảo vệ Phaolô.
a. 9:23-25
..........
b. 9:29-30
..........
c. 17:10
..........
d. 17:14-15
..........
e. 19:30-31
..........
Toàn bộ những trường hợp nầy đã mô tả Phaolô là một con người sẽ thực hiện những bước đi dạn dĩ, thường là ngay tại những thời điểm nguy hiểm cho bản thân ông, trừ khi nào bị những người khác ngăn cản. Tinh thần không biết sợ và can đảm của ông được nhìn thấy rõ ràng trong 14:20-21. Trong trường hợp nầy, ông vừa mới hồi tỉnh sau khi bị đánh đập cách dữ tợn để rồi quay trở lại chính thành phố mà ông đã bị đánh đập. Rồi ông trở lại thăm viếng nhiều thành phố khác, là những thành phố mà ông đã bị đuổi đi, luôn luôn là liều lĩnh, gặp nguy hiểm từ phía kẻ thù của Tin Lành.
Phần Luca mô tả về "cuộc bạo loạn" trong rạp hát diễn tả vừa mang tính hài hước, vừa mang tính nghiêm trọng của tình huống lúc bấy giờ.
35. Những câu sau cho thấy thế nào về tính nghiêm trọng của “cuộc bạo loạn”?
a. 19:29
..........
b. 19:30-31
..........
c. 19:33-34
..........
d. 19:35-41
..........
36. Những câu sau cho thấy khiếu hài hước của Luca như thế nào khi thuật lại sự kiện?
a. 19:32
..........
b. 19:34
..........
Đám đông không biết suy nghĩ, liều lĩnh và bị điều khiển bởi một số kẻ chủ ý. Các bạn hữu của Phaolô và những quan lớn xứ Asi đã nói đúng (như đã nhìn thấy qua cách đối xử với Alécxanđơ). Dẫu có may lắm đi nữa, Phaolô hẳn cũng phải bị chửi rủa; tệ hơn nữa, sự hung bạo của đám đông có thể sẽ giết chết ông.
Công tác của Phaolô tại Êphêsô đã xong. Hội thánh đã được thành lập. Chẳng bao lâu sau biến động tại rạp hát nầy, Phaolô rời thành phố. Quả thật, người ta có thể nói tại Êphêsô rằng: "Những kẻ đảo lộn thế gian cũng đã đến nơi đây nữa" (17:6 - Bản RSV).
TỪ ÊPHÊSÔ ĐẾN TRÔÁCH
20:1-16 Bruce 403-410
Mục tiêu 9. Mô tả những sự kiện quan trọng trong những chuyến đi của Phaolô từ Êphêsô đến Gờréc rồi quay lại để đến Trôách.
37. Sau khi rời Êphêsô, Phaolô hẳn đã thăm những địa điểm nào trong xứ Maxêđoan?
..........
38. Dựa vào 20:2 và phần chúng ta thảo luận về chức vụ chăm sóc tiếp của Phaolô, chúng ta có thể suy ra kết quả chính yếu nào trong chức vụ của ông tại Maxêđoan?
..........
Khi rời Maxêđoan, có lẽ Phaolô đi tiếp sang hướng tây đến Ilyri, trên bờ đông của biển Ađơriatích khi vượt qua từ phía Italy. Chúng ta không được sách Côngvụ cho biết, nhưng từ RoRm 15:19, chúng ta biết rằng Phaolô đã truyền giảng Tin Lành đến tận Ilyri. Có lẽ chức vụ được thực hiện tại Êphêsô vào cuối hành trình truyền giáo lần thứ nhì (Cong Cv 18:19-21) đã đánh dấu chuyến thăm Ilyri của Phaolô. Nhưng vì không có một hội thánh nào được thành lập (ít ra cũng là không có ai đại diện trong phái đoàn Phaolô đưa đến Giêrusalem, 20:4, nên Luca không ghi lại chuyến đi thăm đó. Có thể Phaolô đã thăm Ilyri ngay trước khi đến Gờréc (xứ Achai) và ít lâu trước khi viết thơ gởi cho hội thánh Rôma, là bức thơ được viết từ thành Côrinhtô vào gần cuối hành trình truyền giáo thứ ba (Bruce, trang 405).
Khi Phaolô quay về Gờréc, ông ở lại đó ba tháng trước khi lên đường đến Giêrusalem. Từ ICôrinhtô 16 và IICôrinhtô 8 và 9, chúng ta biết mục đích ông lên thành Giêrusalem là để đem tặng phẩm (được quyên góp từ các hội thánh dân ngoại bang được thành lập trong ba hành trình truyền giáo của ông) đến cho các thánh đồ túng thiếu tại Giê-ru-sa-lem.
39. Những câu nào sau đây là nguyên nhân ĐÚNG và mô tả đúng nhất nguyên nhân khiến Luca không ghi lại sự quyên góp khoản tiền nầy?
a. Khác với Phaolô, người viết cho một hội thánh Cơ đốc tại một địa điểm cụ thể về việc dâng hiến, Luca nhận thấy rằng tác phẩm của ông có thể được đọc ngay tức khắc bởi một thính giả đông đảo hơn. Thực ra, Luca có thể đã viết sách Côngvụ để giúp cho người La mã hiểu nguồn gốc của Cơ đốc giáo và bản chất phi bạo loạn của nó. Đề cập đến sự quyên góp rộng lớn như thế từ nhiều hội thánh hẳn gây hại cho những ích lợi tốt nhất của Phaolô và của hội thánh.
b. Phaolô và Luca đang mâu thuẫn với nhau cách vô phương cứu chữa. Luca không hề biết gì về điều được gọi là của dâng mà Phaolô phải đem đến Giêrusalem.
Luca đã sáng suốt khi không đề cập đến những vấn đề nội bộ trong thân thể Đấng Christ cho thính giả chung, mà một số người trong nhóm thính giả đó hẳn sẽ quá vội vàng để đoán xét những trách nhiệm tài chính của hội thánh và những sự đảo ngược tình thế tài chánh sẵn có. Một số người có thể giải thích của dâng nầy là dấu hiệu về những nguồn cung ứng tài chánh hùng hậu của hội thánh. Một số người có thể xem sự quyên góp rộng rãi như thế là bằng chứng về món tiền mà có thể đã được quyên góp cho sự phóng thích Phaolô. Hoặc, sự tiết lộ công khai về việc hội thánh quyên góp một lượng tiền lớn như thế có lẽ đã khiến cho việc chuyển các món tiền khác trở nên càng khó khăn hơn trong tương lai, nếu như hội thánh cần giúp đỡ lẫn nhau.
40. Kể tên những bạn đồng hành của Phaolô trong chuyến đi lên thành Giêrusalem.
a. Từ Bêrê. .........
b. Từ Têsalônica. .........
c. Từ Têsalônica. .........
d. Từ Đẹtbơ. .........
e. Từ Líttrơ. .........
f. Từ Asi. .........
g. Từ Asi. .........
h. Từ Philíp (20:5-6) ..........
Noi theo tấm gương của hội thánh Antiốt gần một thập kỷ rưỡi trước đó, món quà cho những người cùng túng được gởi đến thông qua một phái đoàn chính thức từ các hội thánh.
Khi Phaolô sắp xuống một con thuyền hành hương đi từ Côrinhtô (một giả định hợp lý, căn cứ vào tập quán thời bấy giờ), thì Phaolô biết được một âm mưu hại mạng sống ông. Do đó, Phaolô hướng lên phía bắc đến thành Philíp, tại đó ông lại bắt liên lạc với Luca, người đã được để lại Philíp khoảng bảy năm trước (bạn còn nhớ phần "chúng ta" cuối cùng kết thúc tại Philíp, 16:16?).
Vì Luca cùng đi với Phaolô trong chuyến đi nầy, nên ông có thể gần gũi bên Phaolô trong lúc bị cầm tù tại Sêsarê và trong chuyến đi đến Rôma (27:1). Vì chúng ta không gặp Luca cho đến khi ông cùng đi với Philíp tại Trôách (16:10), và vì những phần kể chuyện "chúng ta" không diễn ra trước đó trong sách Côngvụ, nên có thể giả định hợp lý rằng Luca không có mặt tại Giêrusalem hay Palestine trong chức vụ tại thế của Đức Chúa Jesus hoặc sự tăng trưởng của hội thánh tại Giêrusalem. Nếu quả đúng như vậy, khi nào ông có cơ hội để trò chuyện với những nhân chứng trực tiếp và đọc những câu chuyện trực tiếp khác về đời sống của Đức Chúa Jesus và sự khai sinh hội thánh (LuLc 1:1-4)?
Tôi nghĩ Luca đã có cơ hội đó trong thời gian hai năm bị tù của Phaolô tai Sêsarê. Nếu đúng vậy, chúng ta công nhận việc trước tác Luca - Côngvụ là nhờ vào "sự trùng hợp" không thể tin nổi, vào một âm mưu hại mạng sống Phaolô khiến ông quay lên hướng bắc đến Philíp. Nếu Phaolô không đến Philíp, Luca hẳn đã không có mặt trong hành trình nầy!
Chuyến đi từ Philíp đến Trôách mất gấp đôi thời gian (Cong Cv 20:6) chuyến đi trước của Phaolô và Luca từ Trôách đến Philíp (16:11). Gió dường như là điềm báo thì đúng hơn là yếu tố góp phần chống lại Phaolô từ đây cho đến cuối sách Côngvụ!
Tại Trôách, Luca và Phaolô liên lạc với thành phần còn lại của phía đoàn cứu trợ (20:5). Như Bruce nêu ra (trang 405-406), rõ ràng họ là những đại biểu của các hội thánh đã góp tiền để giúp cho những Cơ đốc nhân cùng túng ở tại Giêrusalem.
41. Ngày cuối cùng của họ tại Trôách là ngày Chúa nhật. Lời đề cập của Luca rằng họ đã nhóm lại để dự lễ bẻ bánh vào ngày thứ nhất trong tuần lễ có ý nghĩa gì?
..........
Sứ điệp của Phaolô cho các tín hữu vào đêm trước khi rời Trôách thật dài, kéo dài suốt cả đêm! Bài giảng bị gián đoạn bởi trường hợp của một gã trai trẻ tên Ơtích. Có thể nói chắc chắn rằng không có đủ ôxy trong một căn phòng có rất nhiều tín hữu đến nhóm trong ánh sáng của những ngọn đèn thắp sáng bằng ánh lửa trong suốt thời gian dài như thế. Ngồi vắt vẻo trên cao ở một khoảng trống nhỏ, có lẽ vì căn phòng quá đông người và đó lại là chỗ lý tưởng để đón nhận không khí trong lành ( và để ngăn người khác nhận lấy không khí trong lành nữa chứ!), Ơtích đã ngủ gục và từ tầng lầu thứ ba rơi xuống đất. Luca ghi lại rằng người ta thấy Ơtích "đã thấy chết rồi." Không còn cách nào khác để cho Phaolô và các bạn ông lên đường đế Trôách được nữa! Phaolô, cũng giống như Phierơ, tin Đức Chúa Jesus khiến kẻ chết sống lại, và Đức Chúa Trời đã trả lời đồng ý cho lời cầu xin liên quan đến điều mà hầu như Ngài đều trả lời không.
Sau lễ bẻ bánh và bữa ăn chung, Phaolô tiếp tục giảng cho đến sáng! Có lẽ lúc đó ông ước ao được ngủ một chút, vì chúng ta đọc thấy ông không xuống thuyền cùng với những người khác đi từ Trôách đến Asốt. Thay vào đó, ông theo một lộ trình ngắn hơn bằng đường bộ, xa khoảng 20 dặm. Với Phaolô giờ đây đã lên tàu, họ đi thuyền thêm 30 dặm sang hướng nam đến Mitilen, thành phố quan trọng nhất trên đảo Lesbos. Từ bản ký thuật của Luca, chúng ta suy ra rằng dường như đêm hôm ấy con thuyền nầy đã bỏ neo tại đó, và hôm sau đến Chiô, một đảo nằm trong quần đảo Gờréc nằm giữa Samốt và Lesbos. Ngày thứ ba trong chuyến đi từ Asốt, thuyền đến Samốt, một thành phố thương mại quan trọng của Hylạp ở phía tây nam Êphêsô. Lòng quyết tâm đến Giêrusalem đúng vào ngày Lễ Ngũ Tuần ngăn ông dừng chân tại thành Êphêsô; do đó vào ngày thứ tư trong chuyến đi từ Asốt, thuyền đi từ Samốt đến Milê, nằm khoảng bốn mươi dặm ở phía nam Êphêsô. Rõ ràng, tấm lòng của Phaolô khao khát gặp tín đồ Êphêsô khi ông đi thuyền ngang qua thành phố nầy.
42. Lưu ý việc Luca kể cẩn thận chi tiết khi ông tóm tắt lộ trình của chuyến đi từ Philíp đến Milê. Có bao nhiêu ngày trong phần lộ trình nầy (20:6, 15)?
..........
LỜI TỪ BIỆT TẠI MILÊ
20:17-38 Bruce 410-419
Mục tiêu 10. Thảo luận bài giảng chia tay thân mật và cảm động của Phaolô tại Milê cho các trưởng lão thành Êphêsô, mà trong đó, ông tóm tắt chức vụ mình tại Êphêsô.
Dường như vấn đề sẽ hợp lý hơn khi Phaolô sai mời người Êphêsô đang khi ông đang ở tại Samốt để người Êphêsô đến gặp ông tại Milê. Vì Phaolô đang vội, nên tiến trình nầy hẳn sẽ phù hợp hơn với ước ao tận dụng thì giờ của ông. Phaolô không làm việc nầy dường như là vì một trong hai nguyên nhân sau: khi đang đi thuyền ngang qua Êphêsô ông hẳn đã có ước ao giảng đạo cho họ một lần nữa, hoặc có lẽ khi đến Milê, ông buộc phải chuyển sang một con thuyền khác, một dịp tiện sẽ tạo ra chậm trễ vài ngày.
Dầu nguyên nhân nào đi nữa, ước ao nói chuyện với các trưởng lão Êphêsô của Phaolô giúp chúng ta càng hiểu nhiều hơn về đời sống chăn bầy của ông.
43. 20:18-35 là bài giảng thứ ba trong sách Côngvụ mà Luca đưa ra phần tóm tắt đầy đủ. Bạn có thể nói phương cách chủ yếu khiến bài giảng nầy khác với các bài giảng trong 13:1-52; 17:1-34 không?
..........
44. Trong bài nói chuyện với các trưởng lão thành Êphêsô, Phaolô ôn lại công tác của ông giữa họ, nhìn đến viễn cảnh tương lai của ông, và khuyến cáo về tương lai của các trưởng lão và hội thánh Êphêsô. Thay vì ba điểm nhấn mạnh nầy đi tiếp nối sát nhau thì chúng lại trùng lập với nhau. Tóm tắt các phương diện sau của bài giảng bằng cách chỉ ra lúc nào Phaolô đang nói về quá khứ hay tương lai của ông, và tương lai của hội thánh Êphêsô.
a. 20:17-21
..........
b. 20:22-25
..........
c. 20:26-27
..........
d. 20:28-32
..........
e. 20:33-35
..........
45. Trong bài giảng, Phaolô ba lần quay lại ôn chức vụ của ông ở giữa người Êphêsô. Câu Kinh Thánh nào ghép phù hợp với những tóm tắt cho các phần ôn lại đó?
a. Tấm gương của bản thân ông trong sự hy sinh cho người khác. ..........
b. Tấm gương của bản thân ông trong sự bước đi với Chúa giữa lúc nguy hiểm, và tấm gương của ông trong chức vụ cho tín đồ và người chẳng tin. ..........
c. Tấm gương của bản thân ông về sự sống của Đấng Christ mà ông đã dạy dỗ bằng lời nói và việc làm và không hề bỏ sót hay phạm lỗi lầm nào. ..........
46. Đời sống của bạn có được nổi bật bởi những đặc trưng trên không? Bạn muốn có những đặc trưng trên không?
..........
47. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG về Phaolô?
a. “Hãy làm theo những điều tôi nói, chứ đừng làm theo những việc tôi làm.”
b. “Hãy bắt chước tôi cũng giống như tôi đã bắt chước Đấng Christ vậy.”
48. Khi chia xẻ những viễn ảnh về tương lai của mình, Phaolô đã tuyên bố hai câu nào cho thấy linh cảm của ông về những ngày gian khó trước mắt?
a. ..........
b. ..........
49. Lời khuyên bảo cho các trưởng lão ấy là, trước hết “hãy giữ (ghi nhớ và làm theo) lấy mình và luôn cả bầy..." Suy luận nào sau đây được rút ra từ câu nói của Phaolô?
a) Người đi chăm sóc cho người khác không cần phải quan tâm đến sự phát triển của tâm linh mình.
b) Nếu người nào chăm sóc cho người khác mà không lo giữ lấy mình, thì người ấy sẽ thấy không thể giữ lấy bầy.
Phaolô cho các trưởng lão thấy rằng Đức Thánh Linh đã lập họ làm kẻ coi sóc bầy của Đức Chúa Trời và họ phải chăn nuôi bầy. Chữ giám mục ( episcopos ) được rút ra từ chữ kẻ coi sóc . Và vì Phaolô dùng chữ nầy để chỉ về chức năng của các trưởng lão, nên có thể xem tại thời điểm nầy trong hội thánh, chưa có sự phân biệt giữa chức năng của một trưởng lão với chức năng của một giám mục. Trái lại, trưởng lão ( presbuteros ) là một từ ngữ Hêbơrơ để mô tả cùng một chức năng do episcopos - một từ ngữ Hylạp - đảm nhiệm.
50. Phaolô xem thấy có hai nguồn tấn công nào sẽ đến cho hội thánh Êphêsô trong tương lai?
a ..........
b ..........
Khi Phaolô viết cho Timôthê tại Êphêsô vài năm sau sự kiện nầy, chúng ta thấy bằng chứng rõ ràng là những lời Phaolô nói đã thành sự thật (ITi1Tm 1:3-7; 6:3-10; IITi 2Tm 1:15; 2:14-18; 3:6-9). Nhiều thập kỷ sau đó, chúng ta biết hội thánh Êphêsô đã chống cự tà giáo một cách thành công, nhưng khi làm như vậy họ đã đánh mất tình yêu thương ban đầu (KhKh 2:1-7), tình yêu đã được thể hiện một cách tuyệt vời trong Cong Cv 20:36-38.
Hội thánh sẽ luôn luôn là vùng đất mà kẻ thù cố gắng gieo cỏ lùng vào (Mat Mt 13:6-43). Nỗ lực của kẻ thù phải bị chống cự bởi những lãnh đạo hội thánh mang lấy những đáp ứng song hành của tình yêu thương và lẽ thật.
Cuối cùng, Phaolô kết thúc bài nói chuyện. Sự thông công của ông với người Êphêsô trên đất nầy đã kết thúc. Luca mô tả sự cầu nguyện của họ (câu 36), tình cảm của họ (câu 37), sự đau buồn của họ (câu 38), và sự chia tay sau cùng của họ thật cảm động và đầy đau buồn.
TÓM TẮT
Mục tiêu 11. Nhận biết những tên gọi, nhân vật, và địa điểm quan trọng được đề cập đến trong Côngvụ 18:23-20:38.
51. Xác định những nhân vật sau đây bằng cách ghép tên của họ vào những phần mô tả về họ.
.... a Từ Bêrê, đi cùng Phaolô lên thành Giêrusalem.
.... b Rớt khỏi cửa sổ ở thành Trôách.
.... c Giống như Aritạc, đến từ Têsalônica, đi cùng Phaolô lên thành Giêrusalem.
.... d "Thầy tế lễ cả" cùng với bảy con trai ở Êphêsô.
.... e Đến từ Đẹtbơ, bị lôi đến nhà hát thành Êphêsô, ông đã cùng đi với Phaolô lên thành Giêrusalem.
.... f Đã giảng đạo tại Êphêsô, được Bêrítsin và Aquila dạy dỗ.
.... g Cùng với Trôphim, đến từ Asi, ông cùng đi với Phaolô lên thành Giêrusalem.
.... h Phaolô sai ông cùng với Timôthê từ Êphêsô đến Maxêđoan sau khi các tín đồ đốt sách tà thuật tại Êphêsô.
.... i Thợ bạc, người đã kích động "cuộc bạo loạn" tại Êphêsô.
.... j Đến từ Asi, ông cùng Phaolô lên thành Giêrusalem cùng với Tichicơ.
.... k Phát ngôn nhân người Do thái, người đã la lên với đám đông tại nhà hát Êphêsô.
.... l Đến từ Têsalônica, ông bị lôi đến nhà hát Êphêsô, đã cùng Phaolô lên thành Giêrusalem.
1) Abôlô.
2) Sêva.
3) Êrát.
4) Đêmêtriu.
5) Gaiút.
6) Aritạc.
7) Alécxanđơ.
8) Sôbatê.
9) Sêcunđu.
10) Tichicơ.
11) Trôphin.
12) Ơtích.
52. Xác định những câu sau bằng cách ghép những từ ngữ ở cột bên phải với phần mô tả ở cột bên trái. Có phần mô tả ở cột bên trái sẽ có thể sử dụng được nhiều lần.
.... a Địa điểm nằm giữa Asốt và Milê, nơi con tàu của Phaolô đi ngang qua.
.... b Những quan chức ở thành Êphêsô, là những người xin Phaolô đừng đến nhà hát.
.... c Nơi con tàu của Phaolô đi đến sau khi rời Trôách.
.... d Phaolô mất năm ngày để đến nơi nầy sau khi xuống thuyền rời Philíp.
.... e Nơi Phaolô dạy dỗ các môn đồ suốt hai năm đang khi ở Êphêsô.
.... f Nơi Phaolô giảng bài chia tay với các trưởng lão thành Êphêsô.
.... g Quan chức của thành phố, người đã dẹp yên đoàn dân tại nhà hát thành Êphêsô.
.... h Thành phố quê hương của Abôlô.
1) Hội trường Tiranu.
2) Milê.
3) Alécxantri.
4) Samốt.
5) Viên thư ký thành phố.
6) Chiô.
7) Các quan lớn xứ Asi.
8) Mitilen.
9) Asốt.
10) Trôách.
Mục tiêu 12. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung của 18:23-20:38.
53. Suy gẫm phần sách Côngvụ bạn đã học trong bài nầy. Bạn có thể dùng lời của bạn tóm tắt thuộc lòng nội dung của 18:23-20:38?
..........
Bài tự trắc nghiệm
CÂU ĐÚNG SAI. Viết chữ Đ vào khoảng trống nếu là câu đúng, viết chữ S nếu là câu sai, rồi sửa lại cho đúng.
.... 1 Hành động của Đức Chúa Trời cấm Phaolô thi hành công tác tại Êphêsô trước hành trình truyền giáo lần thứ ba được căn cứ vào việc: đó chưa phải là thời điểm của Đức Chúa Trời và hoàn cảnh vẫn chưa phù hợp để Êphêsô trở thành một trung tâm chiến lược theo dự định của Đức Chúa Trời.
Hành động của Đức Chúa Trời cấm Phaolô thi hành công tác tại Êphêsô trước hành trình truyền giáo lần thứ ba được căn cứ vào việc:
..........
.... 2 Trong mối tương quan với những hội thánh khác mà Phaolô thiết lập trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất và thứ nhì, Êphêsô chiếm vị trí chiến lược ở phía tây của toàn bộ những hội thánh ông đã thành lập trước kia khi ông đi ngày càng xa dần Giêrusalem trong mỗi hành trình kế tiếp nhau.
Trong mối tương quan với những hội thánh khác mà Phaolô thiết lập trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất và thứ nhì, Êphêsô chiếm vị trí
..........
.... 3 Vị trí của Êphêsô xét theo toàn bộ kế hoạch truyền giáo chung là rất quan trọng, bởi vì nó nằm trên một lộ trình giao thông nội địa mang tính chiến lược chạy từ đông sang tây, nó nằm trên biển Aegean và do đó có hệ thống giao thông đường thủy thuận lợi, và nó là vùng chính trong đơn vị hành chính Lamã bên ngoài thủ phủ Rôma.
Vị trí của Êphêsô xét theo toàn bộ kế hoạch truyền giáo chung là rất quan trọng, bởi vì
..........
.... 4 Vì Êphêsô nằm tại trung tâm giữa các hội thánh ở vùng Nam Galati và vùng Gờréc, nên cũng có thể đón nhận khách đến từ cả phía đông lẫn phía tây, là việc sẽ tăng thêm tác động cho chức vụ của Phaolô tại đó.
Vì Êphêsô nằm tại trung tâm giữa các hội thánh ở vùng Nam Galati và vùng Gờréc, nên cũng có thể
..........
.... 5 Trước khi thi hành chức vụ tại Êphêsô, Phaolô chưa hề ở lâu thêm tại bất cứ vùng nào mà ông đã thiết lập một hội thánh ngoại trừ chức vụ tại Maxêđoan.
Trước khi thi hành chức vụ tại Êphêsô, Phaolô chưa hề ở lâu thêm tại bất cứ vùng nào mà ông đã thiết lập một hội thánh ngoại trừ
..........
.... 6 Sự thành lập hội thánh tại Êphêsô và sự tổ chức các chức vụ coi sóc hiệu quả cho toàn bộ những hội thánh đã được thành lập đòi hỏi một chiến dịch rất giới hạn của các phép lạ năng động và những cuộc đụng độ đầy quyền phép với Satan trong vùng Asi.
Sự thành lập hội thánh tại Êphêsô và sự tổ chức các chức vụ coi sóc hiệu quả cho toàn bộ những hội thánh đã được thành lập đòi hỏi
..........
.... 7 Công tác của Phaolô tại Êphêsô thường xuyên bao gồm việc dạy dỗ hàng ngày trong hội trường Tiranu, làm việc siêng năng với nghề may trại, dạy dỗ từ nhà nầy sang nhà khác, luôn luôn khuyên bảo tín đồ bằng nước mắt, và coi sóc đời sống thuộc linh, sự tăng trưởng và sự phát triển của toàn bộ những hội thánh truyền giáo.
Công tác của Phaolô tại Êphêsô thường xuyên bao gồm
..........
.... 8 Kỷ lục của Phaolô trong chức vụ và sự hầu việc Chúa tại Êphêsô là rất có ý nghĩa, bởi vì nó đã thiết lập tấm gương cho nếp sống chức vụ Cơ đốc và cung cấp một tấm gương thích đáng cho nếp sống của mọi Cơ đốc nhân.
Kỷ lục của Phaolô trong chức vụ và sự hầu việc Chúa tại Êphêsô là rất có ý nghĩa, bởi vì
..........
.... 9 Kết quả mạng lưới của chức vụ Phaolô (tác động của ông) tại Êphêsô có thể mô tả đúng nhất như là "khiêm tốn" vì ông đã chạy khỏi thành phố sau một cơn bạo loạn.
Kết quả mạng lưới của chức vụ Phaolô (tác động của ông) tại Êphêsô có thể mô tả đúng nhất như là
..........
.... 10 Có lẽ một trong những chứng cớ ấn tượng nhất về tác động của Tin Lành trên thành phố Êphêsô ngoại đạo ấy là hiệu quả của nó trên ít nhất là một phần của nền kinh tế.
Có lẽ một trong những chứng cớ ấn tượng nhất về tác động của Tin Lành trên thành phố Êphêsô ngoại đạo ấy là
..........
.... 11 Sự đụng độ giữa Tin Lành với tà thần đã tạo ra nhiều kết quả đáng kinh ngạc trong cộng đồng ngoại đạo, và nó còn có những kết quả ấn tượng hơn nhiều (ít ra cũng là có vẻ như những kết quả) trong cộng đồng tín đồ.
Sự đụng độ giữa Tin Lành với tà thần đã tạo ra
..........
.... 12 Qua cuộc bạo loạn tại Êphêsô chúng ta biết sứ điệp đã được biết đến và tiếp nhận chỉ bởi những nô lệ, những người nghèo, và những thương gia trong thành phố nầy.
Qua cuộc bạo loạn tại Êphêsô chúng ta biết sứ điệp đã
..........
.... 13 Phaolô đã đi ngược trở lại để củng cố đức tin các tín đồ và khích lệ họ giữa những thử thách đang xảy ra giữa các hội thánh mà ông đã thành lập sau hành trình truyền giáo thứ ba và hành trình truyền giáo cuối cùng.
Phaolô đã đi ngược trở lại để củng cố đức tin các tín đồ và khích lệ họ giữa những thử thách đang xảy ra giữa các hội thánh mà ông đã thành lập
..........
.... 14 Chức vụ chăm sóc tiếp theo của Phaolô tạo cơ hội cho ông chiến đấu với tà giáo và dạy dỗ giáo lý lành để vững lập các tín đồ, hầu giúp họ trưởng thành trong đức tin.
Chức vụ chăm sóc tiếp theo của Phaolô tạo cơ hội cho ông
..........
.... 15 Chức vụ cuối cùng của Phaolô cho Êphêsô (từ Milê) đã tạo cơ hội cho ông thách thức các lãnh đạo hội thánh phải xem xét kỷ lục của ông về chức vụ và hầu việc, và nhắc nhở họ về những nguy hiểm tương lai mà ông bảo rằng sắp xảy đến Chức vụ cuối cùng của Phaolô cho Êphêsô (từ Milê) đã tạo cơ hội cho ông thách thức các lãnh đạo hội thánh
..........
GIẢI ĐÁP
1. Phaolô đã có thói quen chăm sóc tiếp cho các hội thánh được thành lập trong chức vụ của ông để củng cố đức tin và khích lệ họ. Chuyến đi trong 18:23 của ông qua vùng các hội thánh được thành lập trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất đã trở thành chức vụ quay lại lần thứ ba của ông đối với họ.
2. c) Luca đang viết lịch sử tuyển chọn cho sự tăng trưởng của hội thánh.
3. a) Dường như thoạt đầu Phaolô không có bạn đồng hành.
4.
a. Ông là một người Do thái.
b. Ông đến từ Alécxantri, Aicập.
c. Ông là một con người có học vấn uyên bác.
d. Ông có kiến thức sâu rộng về Kinh Thánh.
e. Ông đã được dạy dỗ về đạo Chúa.
f. Ông giảng dạy rất sốt sắng.
g. Ông dạy chính xác về Đức Chúa Jesus.
h. Ông chỉ biết phép báp têm của Giăng mà thôi.
i. Ông giảng cách dạn dĩ.
5.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
6. b) Sự kêu gọi họ hiển nhiên đã không bao gồm việc thành lập hội thánh.
7. Họ gặp riêng Abôlô chứ không thách thức ông trước công chúng. Sự gặp gỡ riêng cho phép Abôlô tiếp nhận sự dạy dỗ của họ mà không làm giảm uy tín của ông với tư cách một giáo sư và một người dạy dỗ tin kính có uy tín trong con mắt của người khác. Sự tiếp xúc cá nhân của họ cũng tạo cơ hội dễ dàng để Abôlô không bác bỏ hay khước từ lời của họ, vì cớ không cần phải biện bác để tự bênh vực, là điều mà ông rất dễ bị cám dỗ để bày tỏ ra khi bị sửa sai trước công chúng.
8. b) Abôlô cho chúng ta thấy rằng có một số người rao giảng sứ điệp Cơ đốc mà không hề được sai phái chính thức bởi một hội thánh nào cả.
9. Câu trả lời của tôi có thể sẽ là: “Abôlô ơi, chúng tôi cần anh ở tại đây. Có một nhóm người trong số chúng tôi muốn cùng anh bắt đầu một công tác mới cho Chúa tại Êphêsô." Nhưng câu trả đúng lại là câu b).
10. Vào đầu hành trình truyền giáo lần thứ nhì, ông đã muốn đến cõi Asi (mà Êphêsô là thành phố hàng đầu của vùng nầy", nhưng ông đã bị Đức Thánh Linh ngăn cấm. (16:6). Đến cuối hành trình truyền giáo lần thứ nhì, ông đã đến Êphêsô nhưng từ chối không ở lâu, và nói rằng ông sẽ quay lại nếu Đức Chúa Trời muốn (18:19-21).
11.
a. Sai.
b. Sai.
c. Đúng.
12.
a Đúng.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Đúng.
13.
b) chưa đến đúng thời điểm.
c) đó không phải là cách mà Đức Chúa Trời dự dịnh sử dụng ông.
14.
b) Không phải thời điểm Đức Chúa Trời muốn ông ở lại đó.
c) đó không phải là cách mà Đức Chúa Trời dự dịnh sử dụng ông.
15. c) một số môn đồ mà họ chưa nghe về Đức Thánh Linh.
16. c) Ông gặp các môn đồ và bắt đầu chăm lo cho nhu cầu của họ.
17. b) Sự nhận lãnh Đức Thánh Linh là một sự kiện.
18.
a. Phép báp têm của Giăng.
b. Phép báp têm bằng nước nhơn danh Đức Chúa Jesus.
c. Phép báp têm bằng Đức Thánh Linh do Đức Chúa Jesus ban cho.
19.
a. Phép báp têm bằng nước nhơn danh Đức Chúa Jesus.
b. Phép báp têm bằng Đức Thánh Linh.
20. Có. Saulơ, Cọtnây cùng người nhà của ông thảy đều được báp têm bằng Đức Thánh Linh trước khi họ chịu phép báp têm bằng nước.
21. Người Samari, Saulơ, và các môn đồ tại Êphêsô đã nhận lãnh Đức Thánh Linh qua sự đặt tay.
22. Không. Anania không phải là một sứ đồ, nhưng ông đặt tay trên Saulơ để Saulơ nhận lãnh Đức Thánh Linh.
23.
a. Đúng. (Vì đây là khoảng thời gian xấp xỉ cho lúc Phaolô đến Êphêsô.)
b. Sai. (Vì sách Côngvụ không bao giờ nói đến các hội thánh chịu phép báp têm, nhưng nói các cá nhân. Vì phép báp têm bằng Đức Thánh Linh đang được kinh nghiệm vào năm 55 S.C., nên hẳn sẽ rất bất hợp lý khi cho rằng điều đó đã vắng bóng trong từng trải Cơ đốc từ thời điểm của Cọtnây (năm 36-42 S.C.?) cho đến tận bây giờ.)
c. Sai. (Nếu sử dụng lối lập luận nầy, thì phải kết luận từ sách Côngvụ rằng Luca xem phép báp têm bằng nước là một điều tùy chọn.)
d. Đúng. (Nên nhớ thuật sĩ Simôn đã muốn mua khả năng ban ân tứ nầy, cùng với những biểu hiện hữu hình của nó, và trước đó ông đã không quan tâm đến việc mua những khả năng giảng đạo, chữa bệnh hay đuổi quỉ của Philíp. Vì Simôn muốn mua khả năng nầy, nên hẳn sẽ có một điều gì đó khác nữa xảy ra cho các tín đồ tại Samari chứ không phải chỉ đơn thuần là từng trải bề trong và không hề có những đặc điểm siêu nhiên bề ngoài để người ta có thể xác định được.)
e. Sai.
f. Đúng. (Cho rằng câu nầy sai thì hẳn phải nói rằng các tín hữu bình thường đã kinh nghiệm phép báp têm bằng Đức Thánh Linh khác với cách kinh nghiệm của một sứ đồ.)
24.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
e. Sai.
f. Đúng. (Sau khi xem xét cẩn thận sách Côngvụ, liệu ai có thể kết luận một cách ngay thẳng rằng câu a , c , và e là những giả định đúng?)
25.
a. Ông dạy dỗ hằng ngày tại hội trường Tiranu.
b. Ông làm nghề may trại (Bruce trang 389, đặc biệt là chú thích 22 ở cuối trang). Chắc ông đã làm việc trong những giờ buổi sớm mai.
c. Ông dạy dỗ từ nhà nầy sang nhà kia hằng ngày và đêm lấy nước mắt mà khuyên bảo tín đồ.
d. Ngoài công việc tại Êphêsô, ông còn thi hành chức vụ chăn bầy và chăm sóc cho toàn bộ những hội thánh đã được thành lập trước kia. Rõ ràng, ông đã gởi đi và đón nhận những sứ giả đến từ các hội thánh nầy.
26.
a. Sai.
b. Đúng. (Đức Chúa Trời không thể chúc phước cho công việc của những kẻ lười biếng.)
27.
a. Phaolô cho thấy ông đã bị thử thách kinh khiếp bởi những âm mưu của người Do thái. Phải chăng đây có thể là lúc mà ông đã nhận một vài hoặc toàn bộ năm lần bị đánh thiếu một roi đầy bốn chục từ tay người Do thái (IICo 2Cr 11:24)?
b. Viết từ chính Êphêsô, Phaolô nói đến sự bần cùng mà ông đang phải chịu.
c Ông cảm thấy sự sắp xảy đến liên tục của hiểm nguy và sự chết. Câu nói của ông rằng ông phải đánh cùng các loại thú ở thành Êphêsô rất có thể là một đặc trưng (một phẩm chất hay thuộc tính) của kẻ chống đối ông chứ không phải một tình trạng nằm trong "hàm sư tử" theo nghĩa đen.
d Ông cho thấy nhiều người đang chống đối ông.
e Sự hồi tưởng của Phaolô về chức vụ tại cõi Asi thuật lại một nghịch cảnh khủng khiếp mà không mô tả trong sách Côngvụ. Dường như Phaolô thoát khỏi bản án tử hình trong đường tơ kẽ tóc, một từng trải khác với cơn khủng khiếp của Cong Cv 19:30-31.
28. c) Hội thánh nên tìm cách tăng trưởng cho đến qui mô của toàn khu vực địa lý của mình.
29.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Sai.
e. Đúng.
f. Sai.
30.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
e. Đúng.
31. Câu trả lời của bạn. Nếu một nhóm đông người đốt lên một ngọn lửa với tầm cỡ nầy trong thành phố của tôi, thì đó hẳn là một đề tài chính trên môi miệng mọi người. Rõ ràng nó sẽ là tít lớn trên báo, và có lẽ còn được loan truyền trong khắp cả nước cũng như trên thế giới nữa.
32.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Đúng.
33. Trước thời điểm nầy, Phaolô đã giảng dạy trong các nhà hội, tại các nhà riêng, tại hội trường đi thuê, tại nơi phố chợ, và trước mặt các quan chức dân sự cũng như chính quyền. Ông chưa hề giảng trong một rạp hát. Rạp hát tại Êphêsô đem lại cho ông cơ hội có đoàn dân đông nhất xưa nay, và ông đã hăm hở tận dụng cơ hội bất kể nguy hiểm.
34.
a. Các môn đồ tại thành Đamách đã giúp ông thoát qua tường thành.
b. Các anh em ở thành Giêrusalem đã giúp đưa ông ra khỏi thành khi họ biết âm mưu lấy mạng sống của Phaolô.
c. Các anh em ở Têsalônica đã đưa ông đến Bêrê.
d. Các anh em ở Bêrê đã đưa ông đến Athên.
e. Các môn đồ tại Êphêsô và một số quan chức trong thành, các quan lớn xứ Asi, đã ngăn cản thành công để Phaolô không đến rạp hát, là nơi mà chắc chắn ông sẽ bị hại bởi đám đông đang giận dữ nầy.
35.
a. Gaiút và Aritạc sắp sửa phải chịu nguy hiểm về phần thuộc thể.
b. Phaolô hẳn đã mất mạng nếu đến rạp hát.
c. Cảm giác bài Do thái mạnh mẽ đến nỗi khi một phát ngôn nhân người Do thái là Alécxanđơ, muốn dứt Do thái giáo ra khỏi liên hệ với những hành động của các tín đồ, thì ông đã bị người ta la hét om sòm ngay lúc họ nhận ra quốc tịch của ông.
d. Viên thư ký của thành phố đã nhận ra tính nghiêm trọng của tình huống và đã có một bài diễn thuyết chính trị khéo léo, trong đó ông trấn an đám đông về "sự thật" mà dân Êphêsô đang ủng hộ (19:35). Sau đó ông dẹp yên họ bằng cách thuật lại những hậu quả có thể có cho sự hội họp trái luật pháp của họ.
36.
a. Đám đông hỗn loạn và không biết họ tụ tập vì mục đích gì.
b. Đám đông hò reo điên loạn suốt hai giờ: “Lớn thay là nữ thần Đianh của người Êphêsô.” Trong tiếng Hylạp, cụm từ đó dễ reo hò hơn trong Anh ngữ.
37. Các hội thánh được thành lập trong xứ Maxêđoan trong hành trình truyền giáo lần thứ nhì: Philíp, Têsalônica, Bêrê.
38. Những hội thánh tại xứ Maxêđoan nầy đã được thành lập có thể là vào khoảng năm 51 S.C. và chức vụ của Phaolô kết thúc vào khoảng năm 57-58 S.C. Hơn nửa thập kỷ trôi qua kể từ khi Phaolô gặp các tín đồ nầy lần cuối. Chức vụ của ông, cả trong việc giảng đạo lẫn làm chứng lại những việc Đức Chúa Trời đã thực hiện qua ông kể từ lần cuối cùng họ gặp nhau, đương nhiên đã khích lệ các tín đồ.
39.
a. Đúng.
b. Sai. Câu trả lời nầy sai vì chính Luca đã cùng đi với Phaolô đến Giêrusalem (để ý chữ “chúng ta” đã gia nhập câu chuyện tại 20:5).
40.
a. Sôbatê, con trai của Biru.
b. Aritạc.
c. Sêcunđu (phải chăng là người con thứ nhì trong gia đình?)
d. Gaiút.
e. Timôthê.
f. Tichicơ.
g. Trôphim.
h. Luca, có mặt trong bản văn sách Côngvụ với tư cách “chúng ta.”
41. Đây là câu Kinh Thánh rõ ràng đầu tiên trong sách Côngvụ nói đến sự nhóm lại của Cơ đốc nhân vào ngày thứ nhất trong tuần. Sự bẻ bánh hẳn là nói đến lễ tiệc thánh. Việc ngày thứ nhất trong tuần lễ, chứ không phải ngày Sabát, đã trở thành ngày nhóm lại của tín đồ có thể được nhìn thấy thêm trong lời của Phaolô ở ICo1Cr 16:2, là thơ đã được viết ra trước thời điểm của Cong Cv 20:7.
42. Mười bảy ngày. Từ Philíp đến Trôách, năm ngày (20:6) tại Trôách, bảy ngày (20:6) từ Trôách đến Asốt, một ngày (20:13) từ Asốt đến Milê, bốn ngày (20:14-15).
43. Trong 13:1-52, Phaolô rao giảng Tin Lành cho thính giả người Do thái trong nhà hội. Trong 17:1-34, ông rao giảng Tin Lành cho cho thính giả trí thức người ngoại bang. Cả hai bài giảng đều có thể xem là đại diện những bài giảng của Phaolô cho dân Do thái và dân ngoại bang, là những người có rất ít, nếu như có, tiếp xúc với Do thái giáo. Tuy nhiên, bài giảng trong 20:1-38 là dành cho tín hữu. Nó đại diện cho thái độ mà Phaolô đã làm gương trong công việc Chúa và trong lòng tận tâm của ông đối với Đấng Christ. Nó cũng bày tỏ rõ ràng tình yêu thương của ông dành cho những người được ông chăm sóc.
44.
a. Ôn lại chức vụ quá khứ của ông tại Êphêsô.
b. Xem qua những viễn cảnh của ông cho tương lai.
c. Ôn lại chức vụ quá khứ của ông tại Êphêsô.
d. Những lời khuyến cáo và răn bảo cho các lãnh đạo hội thánh và cho hội thánh.
e. Ôn lại chức vụ quá khứ của ông tại Êphêsô.
45. 20:33-35. Lời của Chúa mà ông trích dẫn ở đây không thấy trong các sách Tin Lành, nhưng có trong những lời nói của Ngài được truyền miệng giữa vòng các tín hữu.
b. 20:17-21.
20:26-27. Ông đã không tạo một cơ hội gây vấp phạm nào. Không ai có thể chỉ vào ông trong ngày phán xét mà nói rằng: "Chính sự thất bại trong đời sống và / hoặc sự giảng đạo của ông khiến cho tôi đã mất Đức Chúa Trời."
46. Câu trả lời của bạn. Hãy bắt đầu bước đi với Đấng Christ như cách Phaolô đã làm. Bạn có thấy tần số những giọt nước mắt của Phaolô trong phần nầy không (20:19, 31, 37)? Nước mắt là dấu hiệu cho sự tan vỡ trước mặt Chúa và sự dịu dàng trong tình yêu thương đối với người khác. Cũng giống như Chúa mình, Phaolô đầy dẫy lòng thương xót con người.
47.
a. Sai.
b. Đúng. (Phaolô đã đã làm gương tốt bằng lời nói và việc làm.)
48.
a. Người ta hiểu sự không biết chắc của ông về số phận mình tại Giêrusalem. Tín đồ tại mỗi thành phố đã nói tiên tri về sự bắt giam và hoạn nạn đang chờ ông tại đó.
b. Ông tin quyết rằng đây là lần cuối cùng ông nhìn thấy những bạn hữu yêu dấu của mình tại Êphêsô.
49.
b) Nếu người nào chăm sóc cho người khác mà không lo giữ lấy mình, thì người ấy sẽ thấy không thể giữ lấy bầy. (Khi đời sống người lãnh đạo không đúng trước mặt Chúa, làm sao người ấy có thể sống và rao giảng cách kết quả toàn bộ sự khuyên bảo của Đức Chúa Trời cho những người đang được người chăm sóc?)
50.
a. Muông sói dữ tợn (các giáo sư giả) sẽ xen vào để cắn xé bầy.
b. Chính các thành viên trong bầy sẽ dấy lên, dùng sự dạy dỗ giả dối để dụ dỗ môn đồ đi theo họ.
51.
a. 8) Sôbatê.
b. 12) Ơtích.
c. 9) Sêcunđu.
d. 2)Sêva.
e. 5) Gaiút.
f. 1) Abôlô.
g. 10) Tichicơ.
h. 3) Êrát.
i. 4) Đêmêtriu.
j. 11) Trôphim.
k. 7) Alécxanđơ.
l. 6) Aritạc.
52.
a. 4) Samốt; 6) Chiô; 8) Mitilen.
b. 7) Các quan lớn xứ Asi.
c. 9) Asốt.
d. 10) Trôách.
e. 1) Hội trường Tiranu.
f. 2) Milê.
g. 5) Viên thư ký thành phố.
h. 3) Alécxantri.
53. Phaolô rời Antiốt và thăm lại các hội thánh ở vùng Nam Galati. Abôlô thi hành chức vụ trong nhà hội tại Êphêsô rồi rời đó đến Côrinhtô. Phaolô đến Êphêsô và hội thánh tăng trưởng từ khởi điểm là mười hai môn đồ cho đến khi có ảnh hưởng lớn đến nỗi cả giới tà thuật và nghiệp đoàn làm hình tượng đều bị tác hại. Sau một cuộc bạo loạn suýt thành tại rạp hát, Phaolô rời Êphêsô, thăm lại vùng Maxêđoan và vùng Gờréc, rồi hướng đến thành Giêrusalem. Trên đường đến Giêrusalem ông đã giảng chia tay với các trưởng lão Êphêsô tại Milê.
Trong mấy ngày, mặt trời chẳng có, ngôi sao cũng không mà bão thì vẫn thổi ào ào luôn, đến nỗi chúng ta chẳng còn trông cậy được cứu nữa. (Cong Cv 27:20).
Từ Milê Đến Giêrusalem
Trong Phần trước, chúng ta đã lần theo sự phát triển chức vụ truyền giáo của Phaolô dọc bờ biển Aegean. Và trong bài học trước, chúng ta thấy sự thành lập một trụ sở hoạt động lớn tại Êphêsô cho chức vụ củng cố các thành tựu đạt được, cũng như để phát động những chuyến truyền giảng mới. Giờ đây, chúng ta sẽ xem đến việc Phaolô bị cầm tù và sự bày tỏ kế hoạch của Đức Chúa Trời để ông làm chứng tại Rôma.
Khi Phaolô hướng thẳng đến Giêrusalem, cũng giống như Thầy mình đã làm gần 30 năm trước, ông thấy những bằng chứng tái diễn liên tục cho thấy xiềng xích và hoạn nạn đang chờ đợi ông. Dầu vậy, với tư cách một đầy tớ vâng phục trong bàn tay Cha Thiên Thượng tối cao và yêu thương của mình, ông đã nhận thấy mình sẵn sàng hi sinh vì cớ Tin Lành. Khi đến gần sự khủng hoảng không do tình cờ nhưng do được định trước nầy, ông đã đáp ứng một cách vui vẻ. Và thậm chí sau khi ông bị bắt tại khu vực nhà thờ bởi một đám đông bạo động, rồi bị giam vào ngục, ông vẫn được bảo đảm bởi sự khải thị đặc biệt đến từ Chúa: "Hãy giục lòng mạnh mẽ, ngươi đã làm chứng cho ta tại thành Giêrusalem thể nào, thì cũng phải làm chứng cho ta tại thành Rôma thể ấy" (23:11).
Phaolô không được miễn trừ sự đau khổ do bị tấn công bởi đoàn dân bạo loạn hay khỏi sự sỉ nhục do bị nhốt tù, nhưng Chúa đã ở với ông. Và toàn bộ tác động đến từ những từng trải của ông đã là một lời chứng có qui mô lớn lao cho Tin Lành và cho những lãnh vực đang phát triển của sự hầu việc Chúa. Thông thường, điều nầy cũng đúng cho đời sống chúng ta. Chúa không hứa miễn trừ cho chúng ta khỏi thử thách hay những sự chống đối bằng bạo lực, nhưng chúng ta được hứa ban sự hiện diện của chính Chúa Chí Cao, Đấng đã dùng mọi sự hiệp lại để làm ích cho kẻ yêu mến Ngài (RoRm 8:28). Hãy giục lòng mạnh mẽ nhờ những lời bảo đảm và những tấm gương nầy, và nguyện "sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết,... giữ gìn lòng và ý tưởng của anh em trong Đức Chúa Jesus Christ" (Phi Pl 4:7).
Dàn bài
Ôn Lại Sự Bành Trướng Của Hội Thánh
Các Tín Hữu Đón Tiếp Phaolô
Phaolô Bị Bắt Tại Thành Giêrusalem
Một Sai Lầm Chăng?
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Thảo luận mối liên hệ giữa lời tiên tri cá nhân được truyền cho tín đồ và nhu cầu cần được Thánh Linh khẳng định lời tiên tri đó cho chính tín hữu ấy.
Nêu ra ít nhất ba cách mà sự bắt giam Phaolô thực sự đã dẫn đến "sự phát triển của Tin Lành."
Kể ra ba cách mà món quà đầy tinh thần hy sinh của các hội thánh ngoại bang đã đem phước hạnh đến cho hội thánh Giêrusalem nói riêng và toàn thể hội thánh nói chung.
Quí trọng sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh đầy đủ hơn nữa trong đời sống của bạn, khi bạn nhìn thấy kiểu mẫu dẫn dắt nhất quán của Ngài trong đời sống của những tín đồ nam và nữ của hội thánh đầu tiên, và nhận ra rằng Ngài không hề phân biệt một thời điểm nào hay một con người nào.
Sinh hoạt học tập
1. Đọc Cong Cv 21:1-23:30 trước khi bắt đầu phần khai triển bài học. Việc nầy sẽ giúp cho bạn nắm được khái quát bài học.
2. Đọc Bruce theo chỉ dẫn trong phần khai triển bài học.
3.Tra ý nghĩa của những chữ trong phần từ vựng trước khi bạn bắt đầu phần khai triển bài học.
4. Bạn sẽ thấy bài học mở đầu với một bài tập ôn tổng quát. Bài tập nầy vô cùng ích lợi cho bạn, không những để bạn ôn lại phần tài liệu đã học mà còn đặt toàn bộ phần nghiên cứu vào trong một góc nhìn thích hợp.
5. Nếu bạn chưa thu xếp với giáo viên ICI để làm bài thi cuối khóa, thì hãy làm ngay.
Từ vựng
lòng nhân đức benevolence
được dạy giáo lý vấn đáp catechized
sự cưỡng bách compulsion
âm mưu conspiracy
báng bổ desecrate
xuyên tạc distortion
sự cai quản governance
sự trớ trêu irony
tinh thần dân tộc chủ nghĩa nationalistic
thánh lễ ordinance
tính tình hay nổi nóng volatility
Khai triển bài học
ÔN LẠI SỰ BÀNH TRƯỚNG CỦA HỘI THÁNH
Mục tiêu 1. Lần theo sự bành trướng của hội thánh từ 1:1-20:38
Côngvụ 20 kết thúc với sự chấm dứt của hành trình truyền giáo thứ ba. Phần còn lại của sách Côngvụ, khoảng 25% của sách, thuật lại những sự kiện trong tù của Phaolô, bao gồm một khoảng thời gian ba năm (không kể hai năm được nhắc đến trong 28:30). Khác với những đoạn đầu, những đoạn sau nầy của Côngvụ không lần theo sự tăng trưởng và bành trướng của hội thánh. Do đó, trước khi khảo sát 21:1-28:31, sẽ ích lợi cho bạn nếu ôn lại suốt chiều dài sự tăng trưởng hội thánh mà Luca đã thuật lại từ khoảng năm 30 S.C. (sự phục sinh của Đấng Christ) đến khoảng năm 58 S.C. (cuối hành trình truyền giáo thứ ba).
1. Phần hướng dẫn sau đây nhằm giúp bạn tìm ra những câu chuyện về sự hoán cải và sự tăng trưởng của hội thánh trong sách Côngvụ. Bạn cần ghi ra địa điểm nơi sự hoán cải hay sự tăng trưởng của hội thánh diễn ra, cung cấp phần tóm tắt cho phần mô tả của Luca, ghi lại xem những người tin Chúa đó phù hợp với khuôn mẫu của hội thánh Giêrusalem (toàn người Do thái) hay với hội thánh Antiốt (xuyên văn hóa), và cho biết Luca có nhắc đến phép báp têm bằng nước hay không. Câu đầu tiên dưới đây ( a 8:26-39) đã được làm mẫu cho bạn.
Kinh Thánh
- SỰ HOÁN CẢI CỦA CÁC CÁ NHÂN
a. 8:26-39
b. 9:1-19
c. 13:12
d. 17:34
e. 17:34
- SỰ HOÁN CẢI CỦA CÁC CÁ NHÂN CÙNG NGƯỜI NHÀ CỦA HỌ
a. 10:1-11:18
b. 16:14-15
c. 16:30-34
d. 18:8
- SỰ HOÁN CẢI CỦA CÁC TẬP THỂ
a. 2:41
b. 2:47
c. 4:4
d. 5:14
e. 6:1
f. 6:7
h. 9:35
i. 9:42
j. 11:21
k. 11:24
l. 12:24
n. 14:4
o. 14:21
p. 16:5
q. 17:4
r. 17:12
s. 17:34
Địa Điểm
Đường đến Gaxa
Tóm Tắt
Người Êthiôbi được cứu qua sự làm chứng của Philíp
Khuôn Mẫu: Giêrusalem Hay Antiốt
không nêu
Phép Báp Têm Bằng Nước
Có
2. Trả lời các câu hỏi sau (kể cả phép báp têm bằng nước, mà đã bị bỏ sót trên đây, của mười hai môn đồ mà Phaolô đã tìm thấy tại Êphêsô).
a. Luca ghi lại bao nhiêu lần làm phép báp têm bằng nước? ..........
b. Ông ghi lại bao nhiêu lần về sự cứu rỗi của các cá nhân cùng người nhà của họ, của tập thể hay sự hoán cải hàng loạt? ..........
3. Từ bằng chứng trên, bạn có thể suy ra rằng Luca không ghi lại phép báp têm bằng nước là bằng chứng cho thấy hội thánh đầu tiên không thực hành việc đó với tư cách một từng trải định chuẩn cho mỗi tín đồ hay không? Vì sao?
..........
4. Từ phần phân tích trên, chúng ta mong tìm thấy những khuôn mẫu tăng trưởng nào trong hội thánh ngày nay nếu chúng ta sẵn lòng để làm việc (Mat Mt 9:37-38), có sự cởi mở để được dẫn dắt, và có đức tin để tin?
a) Chúng ta sẽ nhận thấy rằng chỉ có một số ít người sẽ được cứu mà thôi.
b) Chúng ta nên trông đợi Tin Lành tác động mạnh mẽ trên dân cư của khu vực chúng ta đang sống. Và chúng ta sẽ trông đợi rất nhiều người được cứu.
CÁC TÍN HỮU ĐÓN TIẾP PHAOLÔ
Cong Cv 21:1-26 Bruce 420-432
Mục tiêu 2. Mô tả sự đón tiếp Phaolô của các tín đồ tại Tyrơ, Bêtôlêmai, Sêsarê, và Giêrusalem.
Từ Milê, Phaolô và các bạn đồng hành đi thuyền về hướng Nam, dừng lại tại Cốt, một hòn đảo nhỏ nằm ở tây nam vùng Tiểu Á, và Rôđơ, một thành phố nằm ở bờ đông bắc của hòn đảo mang cùng tên nầy. Sau đó, họ xuôi thuyền về hướng tây đến Batara, thành phố cảng trong vùng Lycaoni. Tại Batara hoặc có lẽ tại Myra xa hơn về phía đông), Phaolô cùng bạn đồng hành chuyển thuyền đi về phía Phênixi theo lộ trình thẳng ra khơi, thay vì dọc theo bờ từ cảng nầy đến cảng kia gần trong đất liền.
Đi xuyên thẳng biển Địa Trung Hải sẽ rút ngắn được thời gian, và thời gian đó cho phép Phaolô ở lại một tuần tại Tyrơ, một sự chậm trễ mà dường như không cản trở ông có mặt tại Giêrusalem vào Lễ Ngũ Tuần (20:16). Vì phải mất một vài ngày để dỡ hàng xuống khỏi tàu, nên Phaolô cùng những người đưa quà cứu trợ đến Giêrusalem đã đi tìm cộng đồng Cơ đốc.
5. Tin Lành đã đến Tyrơ như thế nào? Luca không thuật lại cho chúng ta biết sự thành lập hội thánh trước kia tại Tyrơ, nhưng những câu Kinh Thánh nào sau đây cho chúng ta biết sự truyền bá Tin Lành đến Tyrơ?
..........
..........
6. Từ bảy ngày ở tại Tyrơ, Luca nêu ra một sự kiện quan trọng trong chức vụ của tín hữu đối với Phaolô. So sánh những lời tiên tri của họ dành cho ông với những lời nói trong Cong Cv 19:21, 20:22-23, và 21:4, 11-14. Chọn những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và mô tả chính xác bản chất chuyến đi lên Giêrusalem của Phaolô.
a. Ông đã tự mình quyết định lên thành Giêrusalem, nên do đó Thánh Linh cảnh cáo ông đừng thực hiện kế hoạch của riêng mình.
b. Phaolô mô tả chuyến đi lên Giêrusalem của mình là bởi lòng quyết tâm, mà sau nầy ông nói mình đang lên thành Giêrusalem do bị Đức Thánh Linh ràng buộc.
c. Tại Tyrơ cũng như tại mọi thành phố khác nơi mà các tín đồ nói tiên tri cho Phaolô, lời cảnh cáo của Đức Thánh Linh ấy là ông đừng đi lên thành Giêrusalem.
d Chỉ tại Tyrơ, các tín đồ mới chịu Thánh Linh cảm động mà nói tiên tri rằng Phaolô đừng lên thành Giêrusalem. Tại các thành phố khác, các tín đồ đã nói tiên tri về những hậu quả đang chờ ông tại đó, nhưng không nói với ông rằng Đức Thánh Linh cấm ông đi. Quyết định của Phaolô đi lên thành Giêrusalem không phải chỉ đơn thuần là vấn đề sự lựa chọn riêng của ông, mà là sự dẫn dắt, mà thậm chí còn là sự cưỡng bách từ bên trong của Đức Thánh Linh.
Ngoại trừ tại Tyrơ, các tín đồ đã xin ông đừng đi, không phải họ căn cứ vào lời từ Đức Thánh Linh, nhưng vào sự hiểu biết của họ về những hậu quả dành cho Phaolô thông qua những lời tiên tri đã được nói ra. Giới từ "thông qua" (chịu Thánh Linh cảm động - BVN) (Cong Cv 21:4) Đức Thánh Linh (tiếng Hylạp - dia ) có thể hiểu như là "sự giải thích dựa vào" nguyên nhân, tức là, các tiên tri tại thành Tyrơ đã từ lời Thánh Linh báo trước về sự giam cầm Phaolô mà suy luận rằng ông đừng nên đi. Vì lời tiên tri đến bởi Đức Thánh Linh tại Tyrơ không phù hợp với những lời tiên tri khác trong 20:23 và 21:11, nên chúng ta có thể kết luận rằng Phaolô đã thử nghiệm nó (ICo1Cr 14:29 và thấy lời tiên tri nầy kết luận dựa vào sự hiểu biết rằng ông sẽ bị cầm tù. Phaolô hẳn đã phải cảm thấy phương diện kết luận trong lời tiên tri của họ đã đem cảm xúc loài người của họ thêm vào trong sự khải thị thiên thượng về sự giam cầm ông. Họ đã tiếp tục "nói ra bởi Đức Thánh Linh cảm động" (nói ra sự giải thích của họ về Đức Thánh Linh) để truyền lại sự khải thị mà Đức Thánh Linh đã ban cho họ. Đây không phải là lần cuối cùng mà các tín đồ phạm sai lầm khi vận dụng ân tứ nói tiên tri!
7. Trong tuần lễ ở tại Tyrơ, Phaolô và tám người bạn đồng hành đã trở nên khắng khít trong tình yêu thương với các môn đồ ở thành Tyrơ. Cùng với gia đình, giờ đây họ đang tiễn đoàn du khách lên tàu. Trước khi chia tay, họ đã cầu nguyện. Hiếm khi Tân Ước đề cập đến tư thế để cầu nguyện hay sự cầu nguyện nên được thực hiện ra sao. Tuy nhiên, việc quì gối được nhắc đến bốn lần trong sách Côngvụ: Cong Cv 7:60, 9:60, 20:36, và 21:5.Ghi lại mỗi trường hợp nầy và trả lời câu sau: "Từ những câu Kinh Thánh trong sách Côngvụ nói đến việc quì gối cầu nguyện, người ta có thể kết luận rằng việc quì gối phản ảnh sự mãnh liệt, tha thiết trong sự cầu nguyện."
..........
Từ Tyrơ, tàu đưa Phaolô và đồng bạn xuôi về Nam 25 dặm đến Bêtôlêmai, nằm khoảng tám dặm ở phía bắc núi Cạtmên. Một lần nữa, chúng ta lại thấy có một cộng đồng tín hữu chưa hề được nhắc đến trước đây, và chúng ta cũng không biết sự hiện diện của họ. Bối cảnh chuyến đi nầy khác với hành trình truyền giáo lần thứ nhất biết bao! Lúc đó, Phaolô vào các thành và không tìm thấy một hội thánh nào, nhưng giờ đây ông vào các thành (Trôách, Tyrơ, Bêtôlêmai) và thấy tín hữu trong mỗi thành.
Sau một ngày thăm Bêtôlêmai, đoàn người bị ràng buộc đến Giêrusalem nầy đã ra đi (có lẽ lại đi bằng thuyền) để đến Sêsarê.
8. Trong thời kỳ ban đầu của hội thánh, sự kiện quan trọng nào đã diễn ra tại Sêsarê chứng tỏ dứt khoát cho hội thánh thấy cộng đồng của Đức Chúa Jesus Christ không chỉ giới hạn cho những người sống theo nếp sống Do thái?
..........
Rõ ràng Philíp vẫn ở tại Sêsarê trong những năm giữa khoảng 8:40 và 21:8. Phải chăng đây là lần đầu Phaolô và Philíp gặp nhau? Nếu đúng vậy bạn có thể hình dung cảnh ấy không? Saulơ - người gánh trách nhiệm gây ra cái chết của Êtiên và khiến Philíp phải rời thành Giêrusalem - đã trở thành Phaolô, một bạn với Philíp trong Đấng Christ. Đã có thời mà hẳn Saulơ đã lôi Philíp cùng các con gái ông (nếu lúc bấy giờ chúng đã ra đời) ra khỏi nhà họ nếu như bị ông bắt gặp (8:3). Giờ đây Phaolô là một vị khách danh dự tại nhà Philíp. Phải chăng Tin Lành đã thay đổi một con người sao?
9. Agabút, được biết là một tiên tri ở giữa vòng các tín đồ, đến từ Giuđê đang khi Phaolô đang ở tại Sêsarê. Agabút được nhắc đến trong sách Côngvụ vào trường hợp nào trước đây?
..........
Khác với những tiên tri tại Tyrơ, Agabút tách sứ điệp của Đức Thánh Linh ra khỏi những cảm xúc cá nhân mà ông có thể có. Giống như một tiên tri Cựu Ước, ông đã dùng lời nói và việc làm để tiên tri việc sẽ xảy đến cho Phaolô; dầu vậy, ông không hề dựa vào lời tiên tri để khuyên Phaolô.
10. Trên một số phương diện, hành trình của Phaolô lên thành Giêrusalem có thể ví với hành trình của Chúa trước khi Ngài chịu thương khó. So sánh những câu sau trong các sách Tin Lành với những phân đoạn trong sách Côngvụ và nêu ra sự tương đồng trong mỗi phân đoạn.
..........
b. Mac Mc 8:31, 9:31, 10:33-34 Cong Cv 20:23, 21:4;, 21:11
..........
c. Mac Mc 8:32, 9:32, 10:32 Cong Cv 20:38, 21:4, 21:12-14
..........
Đương nhiên, cũng có một số khác biệt quan trọng giữa chuyến đi của Chúa lên Giêrusalem với chuyến đi của Phaolô. Chúa biết Ngài sẽ chịu chết. Phaolô không biết điều gì sẽ xảy ra, nhưng ông sẵn sàng chịu chết. Sự chết của Chúa sẽ là bị đóng đinh trên thập tự giá, và sự chết Ngài sẽ là giá chuộc tội cho toàn thế gian. Phaolô không biết nếu chết thì ông sẽ phải chết cách nào; và đương nhiên, sự chết của ông không phải là một sinh tế chuộc tội. Chúa biết ba ngày sau khi chết, Ngài sẽ sống lại. Phaolô không hề dự đoán trước một sự sống lại đặc biệt nào cho cái chết của ông. Đúng hơn, tâm linh ông sẽ được ở với Chúa (IICo 2Cr 5:8) và sẽ sống lại với toàn thể những tín hữu khác khi Đấng Christ trở lại (ITe1Tx 4:13-17).
Từ Sêsarê, Phaolô và những bạn đồng hành đi 60 dặm lên thành Giêrusalem, tại đó, họ được các anh em đón tiếp cách vui vẻ. Món quà lớn từ các hội thánh ngoại bang để cứu trợ cho các thánh đồ tại Giêrusalem rõ ràng đã là một nguồn vui trong sự chào đón nồng nhiệt dành cho Phaolô. Qua các môn đồ tại thành Sêsarê, người ta đã sắp xếp cho Phaolô và những người bạn của ông đến ở tại nhà của Manasôn.
11. Hai phần mô tả nào được dành cho Manasôn?
a ..........
b ..........
12. Ngày hôm sau, Phaolô gặp các lãnh đạo hội thánh Giêrusalem. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG về buổi gặp mặt đó?
a. Các sứ đồ không đến dự buổi họp mặt vì họ không thấy sự hiện diện của Phaolô là quan trọng.
b. Không có một sứ đồ nào đang ở tại Giêrusalem. Chỉ có Giacơ, em trai của Chúa, đang ở đó, và ông không phải là một trong mười hai sứ đồ. Các sứ đồ hiển nhiên đã tản đến những địa điểm khác nhau để thi hành chức vụ, ngoại trừ Giacơ con trai Xêbêđê, người đã tuận đạo.
c. Phaolô gặp gỡ tập thể lãnh đạo tại Giêrusalem, là những người được gọi là các sứ đồ. Họ được mang danh hiệu sứ đồ là vì: do có những chỗ khuyết trong đoàn mười hai sứ đồ đầu tiên, nên đã chọn ra những người mới để thay vào.
d. Phaolô gặp gỡ Giacơ và các trưởng lão. Vì từ ngữ các trưởng lão cũng được dùng cho Tòa Công Luận của người Do thái (LuLc 22:66), nên có thể giả định hợp lý rằng sự cai quản cộng đồng Cơ đốc mang hình thức tương đương với sự cai quản của cộng đồng Do thái.
Giờ đây đã là 27 hoặc 28 năm kể từ sự phục sinh của Đấng Christ. Lúc nầy, các sứ đồ đã tản ra để làm trọn sứ mệnh Chúa đã giao (Cong Cv 1:8). Giacơ, người tám hoặc chín năm trước đã chủ trì Giáo Hội Nghị Giêrusalem (15:13-21;) và đã là lãnh đạo hội thánh trong khoảng 22 năm qua (hoặc hơn nữa) (GaGl 1:19), giờ đây đang là vị trưởng lão chủ tọa. Ngoại trừ trường hợp của Giuđa, người đánh mất tư cách sứ đồ, chúng ta không hề đọc thấy việc chọn lựa hay bổ nhiệm để thay thế cho những vị sứ đồ đã qua đời kia. Ví dụ như, sau sự qua đời của Giacơ (Cong Cv 12:2), không có sự lựa chọn một người kế vị nào khác. Những người cho rằng ngày nay phải có mười hai vị sứ đồ để làm người kế vị cho Mười Hai Sứ Đồ mà Đức Chúa Jesus đã chọn, thì họ đều là những người đã không đọc kỹ Tân Ước.
13. Giacơ và các trưởng lão đã có hai hành động nào đáp ứng với lời tường thuật của Phaolô về công việc của ông giữa vòng dân ngoại bang?
a ..........
b ..........
Việc Giacơ có thể thuật lại sự hoán cải của hàng ngàn người Do thái cho thấy rằng Phaolô và hội thánh đã khôn ngoan khi quả quyết rằng không những không buộc người ngoại bang phải trở thành người Do thái, mà còn quả quyết rằng không buộc những người Do thái tin Chúa phải trở thành dân ngoại bang nữa.
Để chứng tỏ lời đồn Phaolô không giữ luật pháp Môise chỉ là một lời đồn nhảm, Phaolô đã đồng ý tiến hành một kế hoạch khá đắt giá khi trả tiền những của tế lễ cho bốn người đã có lời thề Naxirê (Dan Ds 6:13-21).
14. Quyết định như thế có nhất quán với triết lý của Phaolô diễn tả trong ICo1Cr 9:19-25 hay không?
..........
PHAOLÔ BỊ BẮT TẠI THÀNH GIÊRUSALEM
Cong Cv 21:27-23:30 Bruce 432-460
Mục tiêu 3. Lần theo từng trải của Phaolô tại Giêrusalem từ lúc ông bị bắt tại đền thờ cho tới khi ông đến Sêsarê.
Mục tiêu 4. Xác định ba hoàn cảnh “không có phép lạ” mà chúng đã cứu mạng Phaolô trong thời gian nầy, và giải thích ý nghĩa của mỗi hoàn cảnh.
15. Ai buộc tội Phaolô đưa người Gờréc vào đền thờ và làm ô uế Nơi Thánh?
a) Những bạn bè tín đồ người Do thái trong Đấng Christ đã vu cáo ông.
b) Tòa Công Luận đã buộc tội ông.
c) Những người Do thái quê ở Asi đã nhận ra ông và buộc tội ông. Trước kia họ đã thấy ông trong thành phố cùng với Trôphim, một người Êphêsô.
Phaolô đã không đi lại công khai tại Giêrusalem kể từ chuyến đi đầu tiên đến Giêrusalem ba năm sau khi ông tin Chúa (9:28-29), hơn 20 năm về trước. Những chuyến đi khác đến Giêrusalem của ông (11:1-30; 15:1-41) cho thấy ông đang thi hành chức vụ cho các tín đồ. Sự mất liên lạc lâu ngày với dân cư Giêrusalem nầy giúp giải thích vì sao chính những người Do thái ở Êphêsô (hay ở Asi) lại là người nhận ra Phaolô, chứ không phải những người Do thái ở Giêrusalem.
Theo luật pháp Lamã, tội báng bổ đền thờ là tội tử hình. Người Lamã đã giao cho người Do thái quyền xét xử đặc biệt khi để cho họ tuyên án tử hình bất cứ người ngoại bang nào, kể cả người Lamã, dám dẫm chơn vào và đi vào khu vực đền thờ vượt quá những hành lang bên ngoài (Hành Lang Dân Ngoại). Những bản thông cáo lớn bằng tiếng Hylạp được dán khắp mọi lối vào hành lang bên trong, thông báo cho người ngoại bang biết án tử hình cho những người nào dám bước vào trong. Vì vậy, lời buộc tội Phaolô ở đây là một lời buộc tội nghiêm trọng nhất. Cơn giận kinh khiếp trước một sự quá phạm như thế được nhìn thấy rõ qua việc xảy đến cho Phaolô.
16 So sánh 21:28 với 6:13. Những câu nào sau đây là câu đúng dựa vào phần so sánh những câu Kinh Thánh nầy?
a) Những lời buộc tội Êtiên cũng chính là những lời buộc tội Phaolô 25 năm sau đó.
b) Phaolô bị buộc tội giống y như những vấn đề đã buộc cho Êtiên, nên việc nầy cho thấy sự hiểu biết của Phaolô về những hàm ý của Tin Lành phù hợp với sự hiểu biết của Êtiên hơn là với sự hiểu biết của đại đa số tín đồ và lãnh đạo ở tại hội thánh Giêrusalem.
c) Cũng như đối với Êtiên, những lời buộc tội Phaolô phản ánh sự xuyên tạc những lời Phaolô đã thực sự dạy dỗ, nhưng dễ hiểu vì sao dân Do thái đã xuyên tạc như thế.
Giống như Êtiên trước thời của ông, Phaolô đã bị buộc tội là nói nghịch cùng luật pháp và đền thờ. Tuy nhiên, cả Phaolô lẫn Êtiên đều không nói đến sự phá hủy luật pháp cũng như đền thờ. Mỗi người trong thời của mình, đều chỉ tuyên bố rằng vì cớ Đấng Christ, luật pháp và đền thờ không còn mang ý nghĩa cứu rỗi nữa. Sự hiểu biết của họ về Tin Lành sẽ hoàn toàn thắng thế trong nhiều hội thánh sau sự hủy diệt đền thờ và Giêrusalem vào năm 70 S.C. Nhưng hiện tại, suy nghĩ như thế chẳng thể làm gì được hơn là đánh thức những thành kiến và thổi bùng lòng cuồng nhiệt nơi những đồng bào nhạy cảm của họ.
Khi Phaolô bị lôi ra khỏi đền thờ bởi tay những người đang nổi giận (chữ đền thờ có thể mang nhiều nghĩa, và ở đây văn mạch đòi hỏi chúng ta phải hiểu chữ nầy có nghĩa là những hành lang bên trong), thì những cánh cửa ngăn cách hành lang bên ngoài với hành lang bên trong đều bị đóng lại. (Sự thận trọng nầy nhằm bảo vệ hành lang bên trong khỏi bị ô uế bởi hành động của đám đông.)
Đương đời Hêrốt Đại Đế, Tháp Antonia, một pháo đài quân sự cao, đã được xây ở tây bắc khu vực đền thờ. Nó được ngăn cách một phần với đền thờ bởi một con hào sâu, rộng khoảng 165 feet. Hai dãy bậc thang, ở phía bắc và phía tây, tạo lối đi từ pháo đài Antonia vào thẳng đền thờ. Dầu bị người Do thái căm phẫn, nhưng pháo đài đã cho phép người Lamã canh giữ đền thờ nhằm chận đứng bất cứ cuộc náo động dân sự nào có thể xảy ra. Nếu Phaolô có mặt tại đền thờ vào ngày Lễ Ngũ Tuần, theo như ông dự định (19:16), thì đoàn dân sẽ còn đông hơn bao giờ hết, và như vậy binh lính canh giữ tại pháo đài Antonia sẽ càng nhiều hơn.
Khi đám đông cố lấy mạng Phaolô, tin đồn đã lan đến quan quản cơ (quan coi một ngàn người) về cuộc náo loạn của dân chúng bên dưới. Với nhiều viên đội trưởng (mỗi đội trưởng coi 100 người) và nhiều binh lính (như vậy cho thấy một lực lượng ít nhất là 200 người), quan quản cơ đã xông vào đám đông kịp lúc để giải cứu Phaolô. Quản cơ lập tức bắt giữ Phaolô, và cố xác định bản chất chính xác của lời buộc tội ông. Nhưng đám đông hung bạo đến nỗi quản cơ không thể tìm ra sự thật. Nỗ lực nhằm tiến đến sát Phaolô của đoàn dân kiên trì đến nỗi rốt cuộc binh lính buộc phải khiêng Phaolô để bảo vệ ông. Tiếng kêu la nghịch cùng Phaolô "Hãy giết đi!" trước kia đã được một đám đông khác của Giêrusalem reo hò nghịch cùng chính Chúa, (GiGa 19:15).
Sau khi bị đánh đập và được giải cứu, Phaolô lập tức đáp lời để tìm cách biến trường hợp nầy thành cơ hội rao truyền Tin Lành. Phaolô dùng tiếng Gờréc để xin quản cơ cho phép nói với dân chúng.
17. Câu trả lời của quản cơ cho Phaolô là câu trả lời đầy ngạc nhiên, vì ông cho rằng người bị tấn công nầy là một kẻ phạm pháp người Êdíptô. Theo F. F. Bruce, trang 436, người Êdíptô nầy là ai?
..........
Có thể quản cơ đã tin đám đông phát hiện kẻ phạm pháp Êdíptô kia, là kẻ đã biệt tăm tích từ khi đào thoát. Và cuộc bạo loạn nầy là phản ứng của những người đã bị hắn bịp. Giờ đây, họ đang trả thù hắn.
18. Thật thú vị khi so sánh những sự kiện mà Phaolô bày tỏ về mình tùy theo nhu cầu của tình hình. So sánh Cong Cv 21:39 với 22:25. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Trong 21:39, Phaolô nêu ra quyền công dân Lamã của mình để cố gắng xin phép quản cơ cho nói chuyện với đoàn dân đông.
b. Trong 22:25, Phaolô nêu ra sự kiện mình là một người Do thái để thoát khỏi cực hình.
c. Phaolô tuyên bố quyền công dân Lamã trong 21:39 là một tuyên bố không quan trọng đối với lời thỉnh cầu của ông, nhưng lời tuyên bố trong 22:25 rất quan trọng để thoát khỏi sự tra tấn bằng cực hình mà không đáng phải chịu.
d. Trong 21:39, Phaolô chỉ muốn nói chuyện với đoàn dân đông trong tư cách một đồng bào Do thái.
Khi thấy Phaolô dùng tay ra dấu để tỏ ý muốn nói chuyện, đoàn dân đông đã có phần yên lặng. Và khi ông nói với họ bằng ngôn ngữ của họ, tức tiếng Aram, sự yên lặng miễn cưỡng của họ đã trở thành càng yên tĩnh hơn.
19. Bạn tóm tắt thế nào cho nội dung từng phần sau đây trong bài phát biểu của Phaolô cho đoàn dân đông tại đền thờ?
a. 22:3-5
..........
b. 22:6-16
..........
c 22:17-21
..........
20. Tại thời điểm nào trong bài phát biểu của Phaolô, đoàn dân đông đã bị xúc phạm nặng và ngắt lời ông, đến nỗi ông không còn tiếp tục được nữa?
a) Khi ông mô tả cách ông đã bắt bớ những người theo Đạo cho đến chết.
b) Khi ông nói về sự gặp gỡ với Chúa Phục Sinh trên con đường đến Đamách.
c) Khi ông thuật lại thể nào Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông đến với người ngoại bang.
Đám đông đã quen với sự hiện diện của Đạo ở giữa họ. Sự rao giảng về Đấng Christ sống lại đã không khuấy rối họ. Điều chọc giận họ chính là Phaolô qui sự kêu gọi mình đến với dân ngoại bang là sự kêu gọi đến từ Đức Chúa Trời, một ý tưởng hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với những định kiến thiển cận.
21. So sánh phần tóm tắt trước đó khi Phaolô lần đầu tiên rời Giêrusalem với tư cách một Cơ đốc nhân (9:28-30), với câu chuyện trong 22:17-21. Nên nhớ rằng Phaolô đã không ngần ngại khước từ lời khuyên của các Cơ đốc nhân khác khi ông cảm thấy nó không phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời (21:12-14). Dựa vào thông tin trên, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và phản ánh đúng nhất những hoàn cảnh thực tế lúc Phaolô rời Giêrusalem sau khi hoán cải
a. Phaolô rời Giêrusalem theo ý muốn của các anh em tại Giêrusalem, bởi vì ông rất muốn làm hài lòng họ, và vì ông sợ nếu không nghe theo lời khuyên của họ, ông hẳn sẽ chịu đồng số phận với Êtiên.
b. Phaolô đồng ý với ước muốn của các anh em tại Giêrusalem, vì ông đã nhận được sự bày tỏ riêng từ nơi Chúa đang khi thờ phượng tại đền thờ, rằng ông phải lìa Giêrusalem để thi hành chức vụ cho người ngoại bang.
Đang khi ngất trí (nghĩa đen là sự xuất thần hay "ở bên ngoài bản thân mình"), cả Phierơ lẫn Phaolô đều đã nhận được sự kêu gọi đến với người ngoại bang. Đối với Phaolô, sự hiện thấy về Chúa tái khẳng định sự kêu gọi đã ban cho ông qua Anania (9:15, 26:16-18). Khi Phaolô nói đến sứ mạng cho người ngoại bang, đám đông đã điên cuồng đáp lại bằng những từ ngữ thô tục, vung vẫy áo, và hất bụi lên không trung. Quản cơ ra lệnh đưa Phaolô vào pháo đài Antonia, tại đó bản chất lời buộc tội ông sẽ được quyết định. Quá trình để lấy được lời thú tội chính là nhờ biện pháp sử dụng nhục hình (xem Bruce, trang 445). Biết rằng một trận đòn như thế (khác với đặc điểm của những trận đòn được nói đến IICo 2Cr 11:24-25) có thể gây thương tật suốt đời hoặc có thể mất mạng, nên Phaolô đã nói ra quyền công dân Lamã của mình. Việc sử dụng cực hình cho một công dân Lamã không những là vi phạm luật pháp, mà xiềng ông lúc chưa kết tội cũng là phạm pháp nữa. Vì thế, viên quản cơ đã được báo động về những hậu quả do hành động của mình.
Để xác định lời buộc tội Phaolô, viên quản cơ ra lệnh triệu tập Tòa Công Luận. Đây là lần cuối cùng trong sách Côngvụ mà Tòa Công Luận họp lại để xét xử vấn đề Đức Chúa Jesus và Cơ đốc giáo. Chính hội đồng nầy đã ngồi xét xử Đức Chúa Jesus khoảng 27 hay 28 năm trước. Trong thời gian nầy, hẳn đã có nhiều chỗ khuyết và sau đó được điền vào cho đủ 71 chỗ trong Tòa Công Luận, nhưng không phải là không có khả năng một vài thành viên ban đầu - là những người đã xét xử Đấng Christ - giờ đây lại là người xét xử Phaolô.
22. Đọc lại những phần dưới đây trong sách Côngvụ, trong đó, môn đồ Đấng Christ đã được đưa ra trước Tòa Công Luận. Nêu ra những lời buộc tội họ và đáp ứng của Tòa Công Luận.
..........
b. 5:17-40
..........
c. 6:12-7:60
..........
23. Những câu nào sau đây là câu có thể xem là kết quả lời tuyên bố của Phaolô trước mặt Tòa Công Luận: "Trước mặt Đức Chúa Trời tôi đã ăn ở trọn lương tâm tử tế cho đến ngày nay" (Cong Cv 23:1)?
a) Phaolô đã dùng một lời sáo rỗng. Không một Cơ đốc nhân nào có thể sống sao cho lương tâm mình không có mặc cảm phạm tội.
b) Câu nói của Phaolô tương phản rõ ràng với lương tâm của thầy tế lễ thượng phẩm bại hoại kia, là người đã chuyển thuế đền thờ vào túi riêng và đã ám sát những kẻ thù của mình.
c) Câu nói của Phaolô cho thấy đời sống ông không còn một tội lỗi nào chưa xưng ra. Nó cũng cho thấy rằng ông đã cư xử với tư cách một môn đồ mà trong cách sống đó, ông tin mình không bỏ qua hay không làm sai một điều gì cả (cũng xem 20:26-27).
Từ những câu chuyện lịch sử thế tục, chúng ta biết Anania là một thầy tế lễ thượng phẩm bại hoại, tham nhũng. Rõ ràng, câu nói dạn dĩ và không đúng tư cách của Phaolô đã gây bối rối trong lương tâm đầy rối loạn và chai lì của ông. Anania là một bức tường đổ về mặt đạo đức và thuộc linh, được tô trắng để che đậy sự thối nát của ông. Không lấy gì lấy làm ngạc nhiên khi ông phản ứng như vậy trước lời tuyên bố thẳng thừng đúng sự thật của Phaolô.
Thật thú vị khi thấy trong ba trường hợp, - trong những ngày thử thách, ông đã giao lại trách nhiệm thuộc linh của mình tại vùng Tiểu Á, bị nhốt tù và bị thẩm vấn tại Giêrusalem và tại Sêsarê - Phaolô đều tuyên bố lương tâm mình trong sạch không hề mang gánh nặng tội lỗi hay sự phạm tội (20:26-27; 23:1; 24:16).
24. Khi Anania ra lệnh tát Phaolô vì câu nói của ông, Phaolô đã đáp ứng một cách nóng nảy. Tuy nhiên, khi nghe được mình đã nói nghịch cùng thầy tế lễ thượng phẩm, Phaolô đã nói dịu lại: "Tôi chẳng biết là thầy cả thượng phẩm; vì có lời chép rằng: Chớ sỉ nhục người cai trị dân mình." Câu nào sau đây là những giải thích có thể hợp lý cho lời giải thích của Phaolô rằng ông đã không nhận ra Anania là thầy tế lễ thượng phẩm?
a) Lệnh đánh ông có thể đã được truyền ra từ một khu vực trong phòng nơi mà các nghị viên Tòa Công Luận ngồi sát với nhau và Phaolô không xác định được ai là người đã ra lệnh.
b) Những chuyến đến thăm Giêrusalem của Phaolô là thất thường trong suốt 25 năm qua, nên ông không thể biết mặt thầy tế lễ thượng phẩm.
c) Phaolô đã nhận ra Anania giữ chức thầy tế lễ thượng phẩm, nhưng câu nói của Phaolô phản ánh ý kiến mỉa mai rằng Anania không đủ tư cách giữ thánh chức đó. Thực ra đối với những người có tai để nghe thì họ sẽ có thể hiểu lời Phaolô như thế này: "Khi một kẻ lừa đảo như Anania mà giữ chức thầy tế lễ thượng phẩm, thì chẳng còn một thầy tế lễ thượng phẩm nào nữa. Thực ra, nếu người như ông ta mà là thầy tế lễ thượng phẩm, thì tôi hẳn chẳng sỉ nhục ông ấy đâu."
Trước lúc Tòa Công Luận có thể bắt đầu xem xét những lời buộc tội, thì Phaolô đã có thể biến buổi hội nghị nầy thành một cuộc náo loạn thông qua lời tuyên bố tự phát và gây sửng sốt của ông: "Hỡi anh em, tôi là người Pharisi, con của dòng Pharisi. Ấy là vì sự trông cậy của chúng ta và sự sống lại của những kẻ chết mà tôi phải chịu xử đoán." Dựa vào kiến thức của ông về sự chia rẽ lịch sử trong Tòa Công Luận giữa người Sađusê và người Pharisi, và cũng biết rằng có nhiều người Pharisi đã trở thành tín đồ Đấng Christ (15:5), nên phải chăng Phaolô đã cố ý sử dụng chiến thuật gây chia rẽ hơn là xem đây là cơ hội để rao truyền Tin Lành?
Có người xem một chiến thuật như thế là không xứng đáng với Phaolô. Nhưng chúng tôi không nghĩ như vậy. Những nghị viên của Tòa Công Luận đã biết rõ ràng những sự thực của Tin Lành. Thêm một bài giảng nữa cũng sẽ chẳng thay đổi được ý của họ. Những người trước sau đều sẵn sàng làm cứng lòng mình đối với sứ điệp Tin Lành thì sẽ có lúc họ không còn xứng đáng nghe Tin Lành nữa (Mat Mt 7:6). Nếu Phaolô không ngần ngại phủi bụi khỏi chơn mình để nghịch lại cùng người Do thái ở Antiốt xứ Bisiđi (Cong Cv 13:51), giũ áo nghịch cùng người Do thái tại Côrinhtô (18:6), thì vì sao lại không thể nghĩ ông nói ra một sự thật mà ông biết là nó sẽ chia rẽ Tòa Công Luận? Phaolô hoàn toàn có khả năng sử dụng tài ngoại giao (22:1) nếu như hoàn cảnh đòi hỏi đến tài ấy.
Phaolô đã không bỏ lỡ cơ hội để giảng đạo cho Tòa Công Luận vì cớ một lỗi lầm trong lời nói. Ông cố ý tận dụng cơ hội dầu chính Đấng Christ đã không chịu nói với Tòa Công Luận (Mac Mc 14:61) và với Hêrốt (LuLc 23:9).
Vì Phaolô còn biết người Pharisi chiếm thiểu số trong Tòa Công Luận, nên ông hẳn đã có đủ khôn ngoan nhận thấy rằng việc viện đến phe của họ sẽ không phát động được đủ số phiếu ông cần để được trả tự do. Người ta chỉ có thể ôn lại ích lợi về sau nầy xuất phát từ việc ông bị nhốt tù thì mới nhận thấy được, ngay từ giai đoạn đầu nầy, Phaolô có thể đã cố ý quyết định không tự biện hộ cho mình, là lời biện hộ sẽ miễn trách nhiệm cho ông và sẽ trả tự do cho ông, chính là vì cớ ông đã "bị Đức Thánh Linh ràng buộc" (20:22).
Lời giải thích của Phaolô có kết quả chủ định của nó. Tòa Công Luận đã bị chia rẽ một cách tuyệt vọng vì cớ vấn đề đó. Sự hung bạo của sự bất đồng nầy lẫn với việc viên quản cơ sợ hãi rằng Phaolô sẽ bị xé xác, khiến chúng ta tin rằng tại thời điểm đó, Tòa Công Luận đã không ngồi trong khu vực xử án bán nguyệt rộng rãi của nó nữa. Trái lại, các nghị viên đang đứng, cùng với Phaolô đứng giữa họ, tiếp tục cuộc thảo luận cháy bỏng và náo nhiệt của họ, tức là một cuộc tranh luận đầy sự vận động, mãnh liệt và đầy hành động (xem Bruce, trang 454).
25. Đêm trước khi trình diện trước mặt Tòa Công Luận, Phaolô đã nhận được một sự khải thị siêu nhiên khác nữa. Theo chúng ta biết cho đến nay trong sách Côngvụ, đây là sự thăm viếng siêu nhiên lần thứ tư trong đời sống Cơ đốc của ông sau khi Chúa hiện ra với ông trên con đường Đamách. Những câu Kinh Thánh sau trong Côngvụ trình bày những sự hiện thấy hay những sự thăm viếng siêu nhiên nầy theo thứ tự xuất hiện của chúng. Mô tả vắn tắt mỗi trường hợp nầy.
a. 22:17-21
..........
b. 16:9-10
..........
c. 18:9-10
..........
d. 23:11
..........
26. Câu nào (hay những câu nào) sau đây là (những) suy luận ĐÚNG từ sự hiện ra của Chúa cho Phaolô trong đêm trước khi trình diện trước Tòa Công Luận?
a. Chúa bảo cho Phaolô biết ông sẽ làm chứng về Chúa tại Rôma.
b. Chúa bảo cho Phaolô biết tiến trình Ngài sử dụng để đưa Phaolô đến Rôma.
c. Chúa giải thích nguyên nhân vì sao Ngài sẽ không giải thoát Phaolô khỏi ngục như Ngài đã giải thoát các sứ đồ khác (5:19-20; 12:7-11) và thậm chí là như đã giải thoát cho chính Phaolô nữa (16:26-34).
d. Phaolô chỉ nhận được sự hiện ra của Chúa (trong sự hiện thấy) chứ không phải sự giải thoát khỏi ngục, vì cớ ông không có đủ đức tin để được Đức Chúa Trời giải thoát khỏi ngục.
Một lần nữa, để ý xem Phaolô biết ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng ông không biết Chúa sẽ thực hiện ý muốn của Ngài vào khi nào (thời điểm) hay cách nào (phương pháp) . Đức Chúa Trời không bảo cho chúng ta biết toàn bộ ngay từ đầu, hoặc bảo cho chúng ta mọi sự ngay một lần. Vẫn còn chỗ để phải vận dụng đức tin của chúng ta.
Những kế hoạch của Chúa (23:11) và những kế hoạch của con người (23:12) trái ngược với nhau. Có phần thú vị khi thấy các Cơ đốc nhân đầu tiên yêu thích Thithiên 2: "Đấng ngự trên trời sẽ cười; Chúa sẽ nhạo báng chúng nó" (câu 4). Hơn bốn mươi kẻ âm mưu cùng thề nguyện với nhau: "chẳng ăn chẳng uống cho đến giết được Phaolô." Họ yêu cầu Tòa Công Luận hợp tác bằng cách chính thức yêu cầu quản cơ cho phép Phaolô được tra xét kỹ càng hơn trước mặt Tòa Công Luận vào sáng mai. Việc nầy giúp họ có thể tiến hành âm mưu và trả xong lời thề của mình. Luca không hề cho biết Tòa Công Luận có tán thành âm mưu nầy hay không.
Những nhận định của Bruce về phương cách mà âm mưu nầy bị phát hiện và bị thất bại là rất thú vị và giúp ta hiểu rõ thêm (trang 456-458). Ý ở đây là: Phaolô bị điệu đến Sêsarê dưới sự canh giữ nghiêm nhặt ngay khi màn đêm vừa buông xuống. Quản cơ tin rằng hành động nầy là cấp thiết nếu như muốn bảo toàn mạng sống cho Phaolô. Vì một khi ở Sêsarê, dưới sự giam giữ của quan tổng đốc, Phaolô sẽ an toàn hơn khi ở tại Giêrusalem, và quản cơ sẽ thoát được trách nhiệm về mạng sống của Phaolô. Có lẽ quản cơ cũng không muốn bị Tòa Công Luận Do thái cứ khăng khăng yêu cầu ông đưa Phaolô đến một nơi mà Phaolô có thể bị giết bởi những kẻ ám sát điên dại. Những tư tưởng nầy rõ ràng đã nổi bật trong trí ông khi ông giũ sạch trách nhiệm với Phaolô để đưa Phaolô đến cho quan tổng đốc Phêlít, kèm theo một bức thư.
27. Lá thư giải thích kèm theo của viên quản cơ (23:26-30) không những cho thấy tên của ông - Cơlốt Lysia - mà còn bày tỏ sự tái hiện hấp dẫn nhất về những sự kiện chung quanh vụ bắt giữ Phaolô. Nêu ra cách Cơlốt Lysia đã viết thơ xuyên tạc câu chuyện thật trong cách đối xử của ông lúc bắt giữ Phaolô (21:33-22:29) như thế nào.
..........
28. Ba hoàn cảnh hay sự kiện không có phép lạ đã cứu mạng Phaolô từ lúc ông bị bắt trong đền thờ cho đến lúc ông ra khỏi Giêrusalem được liệt kê dưới đây. Mô tả mỗi sự kiện hay hoàn cảnh đã cứu mạng Phaolô như thế nào.
a. 21:31-31
..........
b. 22:25-29
..........
c. 23:12-16
..........
Khi bạn ôn lại những sự kiện trên đây, bạn nghĩ đối với Đức Chúa Trời có việc gì là tình cờ không? Có công bằng khi tách riêng những chuyện không có phép lạ với những chuyện có phép lạ hay không? Há không phải toàn bộ đời sống là sự thể hiện hành động của Đức Chúa Trời thông qua những phương cách hoặc phổ thông hoặc bất thường hay sao?
MỘT SAI LẦM CHĂNG?
Mục tiêu 5. Thảo luận Phaolô có sai lầm hay không khi đến thành Giêrusalem.
Có người đã kết luận chuyến đi lên thành Giêrusalem của ông là một sai lầm, và những sự kiện xảy đến cho ông ở đó đã chứng tỏ việc lên Giêrusalem là sai lầm biết dường nào. Những người tin chuyến đi lên Giêrusalem là sai lầm của Phaolô đã đưa ra những lập luận sau:
1. Ông là một con người ở sai chỗ và sai thời điểm. Ông đã luôn luôn là một người ngoài cuộc đối với hội thánh Giêrusalem. Dẫu ngay cả sau khi ông thay thế tầm quan trọng của Banaba, hội thánh Giêrusalem vẫn kể tên Banaba đứng đầu (15:12, 25). Ít nhất hai trong số bốn chuyến viếng thăm Giêrusalem của ông với tư cách Cơ đốc nhân, đều gặp nguy hiểm hay gặp tranh luận (9:28-30; 15:1-39). Những thuộc viên trong thân thể Đấng Christ đã nghi ngờ hoặc thậm chí đã thù nghịch với ông (21:21-22). Giống như Êtiên, ông đã giảng nghịch cùng luật pháp và đền thờ trong khi hội thánh Giêrusalem đã bác bỏ thần học đó và đã sống thích nghi với Do thái. Hơn nữa, đúng ra ông nên đi Tây Ban Nha (RoRm 15:24) hoặc ít ra cũng nên đổi hướng sau khi phát hiện có âm mưu giết ông (Cong Cv 20:3).
2. Ông đã sai lầm khi đem món quà của các hội thánh lên Giêrusalem. Đúng ra ông nên nhấn mạnh đến việc quyên góp tiền để rao truyền Tin Lành, thay vì quyên góp để làm việc nhân đức. Hội thánh Giêrusalem có thật sự trân trọng việc đó không? Một số người nào đó há không xem món quà từ các hội thánh dân ngoại bang kia như là một nỗ lực của Phaolô nhằm mua chuộc địa vị hay ảnh hưởng trên thần học của hội thánh Giêrusalem sao? Và, ai có thể lường được sự đánh mất tinh thần lý tưởng hóa có thể có nơi những bạn đồng công người ngoại bang của ông - Sôbatê, Aritạc, Sêcunđu, Gaiút, Timôthê, Tichicơ, Trôphim, Luca - khi họ đối diện trực tiếp với tinh thần duy luật pháp của các thánh đồ tại Giêrusalem và nhìn thấy sự thiếu tôn trọng của nhiều tín hữu tại đó đối với Phaolô?
3. Để bảo trợ cho bốn người mắc lời thề, ông đang thỏa hiệp sự bác bỏ rõ ràng của mình đối với những việc làm theo luật pháp để nhận được cứu rỗi. Phaolô cần phải làm sáng tỏ hơn nữa về giáo lý được xưng công bình bởi đức tin để không gây lầm lẫn bởi một sự thỏa hiệp như thế. Bốn người nầy và hội thánh Giêrusalem đang sống dưới ách nô lệ cho luật pháp. Việc ông bảo trợ cho bốn người kia quả là phí thì giờ và tiền bạc (mà có lẽ do các hội thánh dân ngoại bang đã dâng hiến trong tinh thần hy sinh).
4. Ông đã có một sự chọn lựa riêng khá tồi. Ông đã được bảo trước tại mỗi thành phố nầy tù đày và hoạn nạn đang chờ đợi ông (20:23). Tín đồ tại Tyrơ đã chịu Thánh Linh cảm động khuyên ông đừng đi lên thành Giêrusalem (21:4). Tại nhà Philíp ở Sêsarê, Agabút đã tiên tri sự bắt giam ông tại Giêrusalem và các tín hữu - kể cả các bạn đồng hành - của ông đều đã xin ông đừng đi lên Giêrusalem (21:11-12).
29. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và cung cấp chứng cớ hợp lý để bác bỏ ý thứ nhất trên đây?
a. Chuyến viếng thăm Giêrusalem của Phaolô là đúng thời điểm. Các sứ đồ không còn ở tại Giêrusalem, do đó, Chúa sai Phaolô đến đó để trở thành vị sứ đồ chịu trách nhiệm.
b. Sau hơn 20 năm phát triển truyền giáo, hội thánh Giêrusalem vẫn nghĩ Tin Lành đã được thể hiện tốt nhất bên trong những bức tường văn hóa của họ, với việc đi lên Giêrusalem, Phaolô đã có thể đem tinh thần quốc tế của Tin Lành để đối chất với những sở thích của chủ nghĩa dân tộc trong hội thánh.
c. Khi Phaolô đến Giêrusalem vào khoảng năm 58 S.C., thành phố và đền thờ chỉ còn được 12 năm nữa trước lúc bị người Lamã phá hủy. Sự ngược đãi Phaolô của người Do thái tại Giêrusalem, mà cơn bắt bớ đầu tiên như thế đã nhắm vào các tín đồ trong khoảng 25 năm (kể từ sự hoán cải của Saulơ), có lẽ đã là chất xúc tác mà Chúa sử dụng giúp hội thánh Giêrusalem cảm động để thôi không còn tận tụy đối với những thể chế của Do thái giáo nữa.
d. Chúa và Phaolô đều yêu các tín đồ tại Giêrusalem, bất luận họ có giữ những hạn chế hẹp hòi về thần học đi nữa. Việc Phaolô sẵn lòng đến với họ bất chấp cả mạng sống mình chính là biểu hiện hiển nhiên cho tình yêu thương của ông. Phaolô cũng có thể đã luôn luôn cảm nhận có trách nhiệm đặc biệt đối với hội thánh Giêrusalem, vì cớ ông đã bắt bớ hội thánh tại đó. Chính đức tin và tình yêu thương ông nhìn thấy nơi các tín đồ bị ông lôi vào ngục hoặc lôi đi hành hình, là điều đã tạo một ấn tượng sâu sắc trong đời sống của ông.
Từ lịch sử thế tục, chúng ta biết thập kỷ kế tiếp chính là thập kỷ thử thách kinh khiếp cho các tín đồ tại Giêrusalem. Chuyến viếng thăm của Phaolô chính là lần cuối cùng để hội thánh dân ngoại bang có cơ hội bày tỏ tình yêu thương và quan tâm đến các tín hữu tại Giêrusalem. Đến năm 70 S.C., hầu như toàn bộ tín đồ đều đã chạy trốn khỏi Giêrusalem. Họ đang hành động đúng theo điều mà họ tin là sự ứng nghiệm lời tiên tri của Chúa (LuLc 21:20-24). Sẽ không bao giờ có lại một hội thánh tại Giêrusalem mà có được quyền năng thuộc linh và sức mạnh về số lượng như của cộng đồng tín hữu đầu tiên nầy.
30. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và cung cấp chứng cớ hợp lý bác bỏ lập luận cho rằng Phaolô đã sai khi đem món quà của các hội thánh đến Giêrusalem?
a. Phaolô đã được thúc đẩy bởi lòng tin quyết rằng: hội thánh nào không thể tự túc được (ITi1Tm 5:8, 16) thì hội thánh đó làm chứng xấu cho thế gian.
b Phaolô muốn chứng tỏ cho hội thánh Giêrusalem thấy những hội thánh mà ông đã thành lập là giàu có hơn hội thánh nguyên thủy .
c. Bằng cách kêu gọi các hội thánh dân ngoại bang quyên góp hằng tuần (ICo1Cr 16:2) và sai đại biểu của mình đem của dâng đến Giêrusalem (20:4;), Phaolô đã tập trung tình yêu thương và sự cầu nguyện của các hội thánh ngoại bang vào hội thánh Giêrusalem, mà hẳn sẽ chẳng bao giờ xảy ra công việc đó nếu không có việc đem của dâng nầy lên Giêrusalem.
d. Của dâng nầy là một biểu hiện hữu hình cho sự hiệp một giữa các hội thánh dân ngoại bang với hội thánh Giêrusalem. Phaolô đã nghĩ đến phương diện một đức tin, một Chúa, một phép báp têm, một thân thể (ICo1Cr 12:12-26; Eph Ep 4:4-6)!
Sự cầu nguyện đi tiếp theo sau sự ban cho cách hy sinh của con người (Mat Mt 6:21). Và công cuộc truyền giáo có ích gì chăng nếu hội thánh do bỏ lơ đến chính người của mình mà khiến mình trở thành một cớ chê bai cho thế gian? Phe chủ trương cắt bì tại Giêrusalem hẳn đã có thể tranh luận rằng các hội thánh ngoại bang thiếu lẽ thật , nhưng họ không bao giờ có thể nói các hội thánh ngoại bang thiếu tình yêu thương. Chính dấu hiệu tình yêu thương là điều khiến cho Tin Lành được khen ngợi trước mặt thế gian (GiGa 13:34-35).
31. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG để cung cấp chứng cớ hợp lý bác bỏ lập luận cho rằng Phaolô đã thỏa hiệp khi bảo trợ cho bốn người mắc lời thề kia?
a. Giacơ và các trưởng lão đã không yêu cầu Phaolô thỏa hiệp quyết nghị của Giáo Hội Nghị Giêrusalem về việc chấp nhận dân ngoại bang (Cong Cv 21:25) dưới bất cứ hình thức nào.
b. Có thể biện hộ cho Phaolô vì đã ông tình cờ đổi ý về những vấn đề căn bản do áp lực từ nhiều ý kiến của người khác, dầu rằng đây là điều ông hẳn sẽ không bao giờ làm trong những tình huống ít rắc rối hơn.
c. Chính Phaolô đã không bỏ tập quán lời thề Naxirê, như đã thấy trong việc ông cạo đầu khi rời thành Côrinhtô (18:18). Tuy những tập tục như thế không cần thiết cho sự cứu rỗi, nhưng Phaolô thấy có thể dùng chúng để bày tỏ sự thờ phượng của ông thông qua những hình thức thờ phượng của người Do thái.
d. Về những vấn đề không thiết yếu, (tức là những vấn đề không trực tiếp cần thiết cho sự cứu rỗi), Phaolô sẵn lòng tỏ thái độ tôn trọng những anh em nào yếu đuối hơn. Phaolô đủ mạnh mẽ để thuận phục. Ông hiểu sự khác biệt giữa sự thỏa hiệp và sự hòa giải; do đó ông tránh thỏa hiệp để hòa giải.
Có lẽ Phaolô hiểu những tập tục như thế rốt cuộc sẽ chết do giá trị chết của nó. Ông quyết định không gây bất hòa vì những vấn đề duy luật pháp, trừ khi nào những việc làm theo luật pháp được đem ra dạy rằng đó chính là phương tiện để được cứu. Phaolô cho thấy rằng những vấn đề đem lại sự hiệp một cho hội thánh là cao trọng hơn những vấn đề có thể gây chia rẽ hội thánh (RoRm 14:3, 13). Ông tỏ ra hết sức tin cậy Đức Thánh Linh khiến hội thánh hiệp một mà không cần đến ông phải đứng ra làm người vạch ranh giới đúng sai cho mỗi vấn đề mà lương tâm của tín đồ bị chia rẽ.
32. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG để cung cấp chứng cớ hợp lý bác bỏ lập luận cho rằng Phaolô đã tự mắc sai lầm khi đi lên Giêrusalem?
a. Ông không hề quay lưng lại với kế hoạch hành động một khi ông đã quyết định rồi.
b. Chuyến đi lên Giêrusalem của Phaolô là do Đức Thánh Linh quyết định. Ngoại trừ tại Tyrơ, còn lại những lời tiên tri khác đều không bảo ông tránh đi lên Giêrusalem nhưng chỉ bảo rằng tù đày đang chờ đợi ông. Tại Tyrơ, các tiên tri đã lý giải sai lời tiên tri của Đức Thánh Linh về sự giam cầm; do đó họ tự mình kết luận Phaolô đừng nên đi. Phaolô đã đủ khôn ngoan để phân biệt được lời của Chúa với lời con người.
c. Chuyến đi lên Giêrusalem của Phaolô không do một động cơ ích kỷ nào cả. Ông không lên đó để đề xuất bất cứ tham vọng cá nhân nào hay để mưu lợi cho uy tín của cá nhân. Quyết định của ông cho thấy việc thiết lập trật tự ưu tiên của ông: Đức Chúa Trời, người khác, bản thân.
d. Sự khôn ngoan của Phaolô khi đi lên thành Giêrusalem được nhìn thấy qua những sự kiện diễn ra trong việc tù đày của ông. Ông đã làm trọn sự kêu gọi ông đem Tin Lành đến trước mặt "các vua" (Cong Cv 9:15). Sự nhẫn nại chịu khổ của ông sẽ là một tấm gương hùng hồn cho một hội thánh sắp sửa bị bắt bớ. Hơn nữa, nếu ông không bị cầm tù, ngày nay chúng ta hẳn sẽ không đọc được những bức thư gởi cho người Êphêsô, người Philíp, người Côlôse, và Philêmôn.
Phaolô không hề chấp nhận lời tiên tri cá nhân dành cho ông trừ khi lời tiên tri đó làm chứng cho tâm linh của ông và khẳng định những điều Thánh Linh đã bày tỏ cho ông trước đó. Mãi cho đến năm 64 S.C., hội thánh vẫn hiện hữu trong vùng Địa Trung Hải mà không bị người Lamã bắt bớ. Vào năm 64 S.C., hoàn cảnh đó sẽ thay đổi. Tấm gương của Phaolô, và đặc biệt là bức thư gởi cho người Philíp, cho thấy Cơ đốc nhân phải đối diện với những hoàn cảnh khó khăn như thế nào. Môi trường không tạo nên tín đồ; mà tín đồ tạo nên môi trường. Nếu hoàn toàn có Đấng Christ, thì có thể vui mừng đối diện với bất cứ hoàn cảnh nào. Nghịch cảnh không phải là dấu hiệu bị Đức Chúa Trời từ bỏ.
Do đó, tôi sẽ kết luận rằng chuyến đi của Phaolô lên thành Giêrusalem không hề là một sai lầm! Nếu ông không đi, hết thảy chúng ta đều sẽ là kẻ đáng thương hơn hết. Luca công nhận điều nầy khi dành hơn 25 phần trăm của sách Côngvụ cho chuyến đi lên thành Giêrusalem của Phaolô và sự giam cầm, tù đày đã đưa ông đến Rôma. Trong tám đoạn cuối của Côngvụ, xét theo bề ngoài thì Phaolô làm được rất ít việc. Không có một hội thánh nào được thành lập (ngoại trừ có lẽ tại Mantơ). Không có một sự phục hưng lớn lao nào. Không bắt đầu một chuyến hành trình truyền giáo nào. Tuy nhiên, Luca dành không gian cho thời kỳ nầy trong đời sống của Phaolô nhiều hơn không gian dành cho cả ba hành trình truyền giáo kia cộng lại! Người ta chỉ có thể kết luận rằng Đức Chúa Trời không từ bỏ con người mà dường như đang đến "buổi về vườn" nầy!
TÓM TẮT
Mục tiêu 6. Nhận ra những tên gọi, nhân vật, và những địa danh quan trọng được đề cập trong 21:1-23:30.
Mục tiêu 7. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung của 21:1-23:30.
33. Ghép những từ ngữ ở cột bên phải với phần mô tả ở cột bên trái.
.... a. Khi rời Tyrơ, Phaolô đã nhóm với anh em trong thời gian ở một ngày tại thành phố nầy.
.... b. Quan tổng đốc mà Cơlốt Lysia đã giải Phaolô đến.
.... c. Nơi Phaolô ở trong nhà Philíp, và thành phố nơi ông bị nhốt tại trong cung điện của Hêrốt.
.... d. Cảng dừng chân sau khi rời Milê.
.... e. Cảng dừng chân tại thành phố có cùng tên với hòn đảo mà thành phố nầy thuộc về.
.... f. Nơi Phaolô tìm thấy tàu đi Phênixi.
.... g. Viên quản cơ đã giải cứu Phaolô khỏi tay đám đông tại đền thờ.
.... h. Thành phố nơi 400 lính bộ binh quay về sau khi hộ tống Phaolô đương ban đêm ra khỏi Giêrusalem.
.... i. Thầy tế lễ thượng phẩm đã ra lệnh đánh Phaolô.
.... j. Tín đồ từ Chíprơ, mà Phaolô đã ở trong nhà người tại Giêrusalem.
.... k. Thành phố nơi mà các tín đồ nhờ Đức Thánh Linh bảo Phaolô đừng lên Giêrusalem.
.... l. Khu vực có thành Tyrơ và Siđôn.
1) Phêlít.
2) Batara.
3) Sêsarê.
4) Antibatri.
5) Cốt.
6) Manasôn.
7) Phênixi.
8) Anania.
9) Bêtôlêmai.
10) Cơlốt Lysia
11) Rôđơ.
12) Tyrơ.
34 Suy gẫm phần Kinh Thánh mà chúng ta vừa học trong bài học nầy. Bạn có thể kể ra thuộc lòng những điểm nổi bật không?
..........
Bài tự trắc nghiệm
CÂU CHỌN LỰA. Mỗi câu hỏi chỉ có một câu trả lời đúng. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG.
1. Trước đây trong phần nghiên cứu sách Côngvụ (đoạn 16), chúng ta thấy Đức Thánh Linh cấm các nhà truyền giáo đeo đuổi một lộ trình thi hành chức vụ. Tuy nhiên, trong bài học nầy, Đức Thánh Linh liên tiếp báo trước rằng hoạn nạn và xiềng xích đang chờ đợi Phaolô tại Giêrusalem để
a) ngăn cản một vụ bắt giữ, giam cầm, và có thể là cái chết, không cần thiết.
b) xem Phaolô có sẵn sàng liều mạng sống vì Tin Lành hay không.
c) bày tỏ sự giam cầm sắp tới của Phaolô (chứ không còn điều gì khác nữa), vì thoạt tiên Phaolô không biết được mục đích khiến ông bị giam cầm.
d) thử nghiệm lòng tận tụy của những môn đồ chung quanh Phaolô, vì nhiều người sẽ bị tác động bởi sự giam cầm hay sự chết của Phaolô.
2. Khi Phaolô quay về quê hương đến Giêrusalem để đối diện với những vấn đề không biết trước, chúng ta kết luận rằng ông không phạm sai lầm bởi vì
a) đã biết rõ tiếng nói thôi thúc của Đức Thánh Linh đang đưa ông tiến về quê hương.
b) ông đã chịu khổ nhiều do những mặc cảm phạm tội, và ông muốn quay về nơi duy nhất mà ông có thể chuộc lại những tội lỗi do hành động bắt bớ Cơ đốc nhân ngày trước.
c) ông đã biết rằng chỉ một mình ông mới có đủ tư cách làm người trung bảo giữa những người Do thái duy luật pháp với những hội thánh ngoại bang còn con đỏ.
d) ông đã tin rằng tầm cỡ giáo sĩ của ông trong hội thánh sẽ bảo vệ ông thoát khỏi mọi nan đề nghiêm trọng với người Do thái ở thành Giêrusalem.
3. Từ bằng chứng được nêu trong bài học nầy về lời tiên tri cá nhân dành cho Phaolô, chúng ta có thể kết luận rằng
a) các tín hữu hiểu biết những sự thuộc về Đức Thánh Linh sáng suốt hơn là Phaolô.
b) ít ra thì một số ít tín đồ đã nhạy bén với Đức Thánh Linh hơn là Phaolô.
c) một số tín đồ là xác thịt đến nỗi họ thật sự trở nên sợ hãi .
d) một số người vận dụng ân tứ tiên tri đã suy luận quá xa về những hậu quả, nên do đó đã cố thuyết phục Phaolô đừng lên thành Giêrusalem.
4. Khi một người trưởng thành trong đời sống thuộc linh, người ấy phải học cách đánh giá cẩn thận sứ điệp của lời tiên tri cá nhân dành cho mình, và trước khi hành động
a) phải tham khảo càng nhiều ý kiến càng tốt từ những vị lãnh đạo thuộc linh về quá trình mà mình nên hành động.
b) phải bảo đảm rằng Đức Thánh Linh khẳng định với tâm linh mình sứ điệp tiên tri nầy chỉ ra điều gì.
c) cố lý giải tiến trình hành động do Đức Thánh Linh chỉ ra, xem thử nó có khả thi và hợp lý hay không.
d) đọc càng nhiều sách càng tốt về những con người thuộc linh, tức những con người tuyên bố có những sự hiểu biết sáng suốt về ý muốn của Đức Chúa Trời.
5. Khi Phaolô tường trình cho hội thánh Giêrusalem ông mang theo vừa tiền làm quà của các hội thánh ngoại bang, vừa đại biểu của các hội thánh ấy. Biểu hiện nầy là nhằm
a) khiến cho Phaolô được hội thánh nói chung hết sức mến mộ, và hẳn đã có thể cất nhắc ông lên vai trò lãnh đạo trong hội thánh.
b) cho thấy dân ngoại bang cảm thấy họ mắc nợ hội thánh Giêrusalem phần nào đó, và đây là cách dễ dàng nhất để báo trả một món nợ hay nhiệm vụ như thế.
c) bày tỏ giá trị thực tế của tình yêu Cơ đốc, bày tỏ sự hiệp một của hội thánh, và giải quyết những nhu cầu vật chất nghiêm trọng nhất.
d) cho thấy thái độ đỡ đầu hay thái độ kẻ cả của các hội thánh dân ngoại bang, và những công việc mới mẻ của dân ngoại bang phải giúp đỡ hội thánh Do thái già cỗi hơn và yếu đuối nầy.
6. Sự đón tiếp Phaolô của các hội thánh (bên ngoài Giêrusalem) nói chung có thể mô tả như là
a) ấm áp, tha thiết tình cảm và đầy trân trọng.
b) lạnh lùng, dè dặt và không hết lòng.
c) lạnh lùng, thù địch, và bất hợp tác.
d) thờ ơ, gượng gạo, và có phần nghi ngờ.
7. Khi Phaolô và các bạn đến Giêrusalem, các anh em đón tiếp họ
a) với thái độ lạc quan có cảnh giác.
b) nồng nhiệt.
c) với sự lạnh lùng cách lịch sự.
d) với sự nghi ngờ ra mặt.
8. Sau khi sự chào thăm ban đầu qua đi, Phaolô đã gặp Giacơ và các trưởng lão. Trước tiên ông thuật lại chi tiết những việc Đức Chúa Trời đã làm. Các trưởng lão đã đáp ứng thể nào?
a) Họ tỏ ra sợ hội thánh ngoại bang phát triển quá nhanh và dứt khoát sẽ lấn lướt trong quyền lãnh đạo hành chánh.
b) Họ quan tâm một cách dịu dàng đến sự nghiệp truyền giảng ở những vùng xa , nhưng dường như họ ganh tỵ trước những thành công của người ngoại bang.
c) Họ hoàn toàn thành thật với Phaolô và tuyên bố rằng ông đã không quan tâm đến bức thơ của Giáo Hội Nghị Giêrusalem gởi cho các tín hữu ngoại bang - đó chính là điều gây nên những nan đề thực tiễn.
d) họ tạ ơn Đức Chúa Trời về những thắng lợi Ngài đã ban; tuy nhiên, họ cũng quan tâm đến những thông tin sai lầm lan khắp nơi về Phaolô và chức vụ của ông giữa dân ngoại bang.
9. Quyết định của Phaolô để trả tiền cho những của dâng của những người mắc lời thề Naxirê là phù hợp với triết lý nào của Phaolô?
a) "Trở nên mọi sự cho mọi người," bất chấp hậu quả.
b) "Khi ở Giêrusalem, làm theo như cách của người Do thái," và không hề làm như vậy vào những lúc khác.
c) "Với người Giuđa, tôi ở như một người Giuđa, hầu cho được những người Giuđa."
d) "Làm cho người khác điều mà anh em muốn người khác làm cho mình."
10. Kết quả từ quyết định của ông để tôn trọng lời yêu cầu của các trưởng lão chính là sự giam cầm. Mặc dầu có sự bạo loạn, bị đánh đập, bị nhốt ngục, nhưng Chúa đã hiện ra và phán với ông rằng
a) "Hãy giục lòng mạnh mẽ!" Chúa cũng báo cho ông biết rằng ông sẽ làm chứng tại Rôma nữa.
b) "Hãy vui mừng!" rồi Ngài cho ông biết những từng trải của ông sẽ kết thúc bằng sự chết.
c) "Hãy thu xếp việc nhà của ngươi, vì chức vụ của ngươi giờ đã xong!"
d) "Hãy vui lên! Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta?"
11. CÂU GHÉP CẶP. Ghép những nhân vật địa điểm, hoặc sự kiện ở cột bên phải cho phù hợp với những ứng dụng, những sự nhận diện hay sự mô tả ở cột bên trái.
.... a Chủ nhà tại Giêrusalem mà Phaolô đã ở lại (ông là một người Do thái ở Chíprơ.)
.... b Đã trả tiền những của tế lễ và nghi thức tẩy uế cho bốn người mắc lời thề Naxirê.
.... c Trụ cột của hội thánh Giêrusalem, người đã chủ tọa cuộc họp của các trưởng lão hội thánh.
.... d Đã khởi đầu cuộc bạo loạn trong đền thờ, tuyên bố Phaolô đã làm ô uế nơi thánh.
.... e Lời nâng đỡ và khích lệ, báo trước cho Phaolô rằng ông phải làm chứng tại thành Rôma.
.... f Lãnh đạo 400 người của phong trào Những Kẻ Ám Sát, mà phong trào của người nầy đã bị dập tắt và ông buộc phải lẩn trốn.
.... g Tiên tri đến từ Giuđê, người đã tiên tri về sự giam cầm sắp đến của Phaolô.
.... h Viên quản cơ đã cai quản đội binh Lamã trong pháo đài Antonia.
.... i Bị Phaolô gọi là bức tường tô trắng sau khi ông ta ra lệnh đánh Phaolô (trái với luật pháp).
.... j Đã nghe lóm những kế hoạch về âm mưu của người Do thái nhằm hại người cậu nổi tiếng của mình.
.... k Quan tổng đốc xứ Giuđê khi Phaolô bị giam vào tù lần đầu tiên.
.... l Đã lập mưu và thông đồng với Tòa Công Luận để ám sát Phaolô.
.... m Nhà của Philíp, nhà truyền giảng Tin Lành.
.... n Tin nơi thiên sứ, linh hồn và sự sống lại,
.... o Phủ nhận sự thực hữu của thiên sứ, linh hồn cũng như sự sống lại.
1) Sêsarê.
2) Agabút.
3) Những người Do thái đến từ Asi.
4) Cơlốt Lysia.
5) Người Êdíptô.
6) Manasôn.
7) Giacơ.
8) Anania.
9) Cháu của Phaolô.
10) Phaolô.
11) Phêlít.
12) 40 người (phỏng chừng).
13) Sự thăm viếng siêu nhiên lần thứ tư.
14) Người Pharisi.
15) Người Sađusê.
GIẢI ĐÁP
1. Địa Điểm
a. Đường đến Gaxa
b. Đamách
c. Baphô, Chíprơ
d. Athên
e. Athên
a. Sêsarê
b. Philíp
c. Philíp
d. Côrinhtô
a. Giêrusalem
b. Giêrusalem
c. Giêrusalem
d. Giêrusalem
e. Giêrusalem
f. Giêrusalem
g. Samari
h. Lyđa và Sarôn
i. Giốpbê
j. Antiốt
k. Antiốt
l. Giêrusalem
m. Antiốt xứ Bisiđi
n. Ycôni
o. Đẹtbơ
p. Nam Galati.
q. Têsalônica
r. Bêrê
s. Athên
t. Côrinhtô u Êphêsô và cõi Asi
- Tóm Tắt
người Êthiôbi được cứu qua sự làm chứng của Philíp
sự hoán cải của Saulơ
sự hoán cải của Sêgiút Phaulút, quan trấn thủ
Đêni, quan tòa nơi Arêôba, đã hoán cải
Đamari, một người đàn bà, đã hoán cải
Cọtnây, gia đình và bạn hữu ông đã tin Chúa
Lyđi và người nhà bà đã hoán cải
người đề lao và người nhà ông đã hoán cải
Cơrítbu và người nhà đều tin
Ba ngàn người tin
mỗi ngày đều có người được cứu
tổng số tín đồ lên đến 5.000 người
vô số người nam và nữ đã hoán cải
số tín đồ ngày càng gia tăng, nhiều thầy tế lễ đã tin Chúa
rất nhiều người đã tin
dân chúng quay về với Chúa
rất nhiều người đã tin
nhiều người ngoại bang tin Chúa
nhiều người thêm vào hội thánh
Đạo Chúa càng đồn ra và tăng lên
rất nhiều người đã tin
dân chúng trong thành chia phe ra
nhiều người trở nên môn đồ
số người ngày càng thêm lên
một vài người Do thái được thuyết phục, nhiều đàn ông và đàn bà sang trọng người Gờréc đã tin Chúa
nhiều người Do thái đã tin, nhiều người nam và nữ Gờréc đã tin
một vài người tin
nhiều người đã tin
một số đáng kể trong dân chúng đã tin
- Khuôn Mẫu
không nêu
không nêu
không nêu
không nêu
không nêu
Antiốt
Antiốt
Antiốt
Antiốt
Giêrusalem
Giêrusalem
Giêrusalem
Giêrusalem
Giêrusalem
Giêrusalem
không cả hai
Giêrusalem
Giêrusalem
Antiốt
Antiốt
Giêrusalem
Antiốt
Antiốt
Antiốt
Antiốt
Antiốt
Antiốt
Antiốt
Antiốt
Antiốt
Phép Báp Têm Bằng Nước
có
có
không
không
không
có
có
có
không
có
không
không
không
không
không
có
không
không
không
không
không
không
không
không
không
không
không
không
có
không
2.
a. Ông ghi lại phép báp têm bằng nước chín lần: một lần làm phép báp têm lại cho mười hai môn đồ ở thành Êphêsô, hai lần làm phép báp têm cho cá nhân, ba lần làm phép báp têm cho cá nhân và cho người nhà của họ, và ba lần làm phép báp têm tập thể.
b. Có 30 câu chuyện về sự hoán cải cả thảy: năm của cá nhân, bốn của cá nhân cùng người nhà của họ, hai mươi mốt lần về sự hoán cải tập thể. (Chúng ta có thể cộng thêm một tập thể nữa nếu như mười hai môn đồ trong Cong Cv 19:1-7 được xét tách riêng khỏi những sự hoán cải kia.)
3. Không. Giữ quan điểm như thế tức nhiên là nói rằng các tín hữu ở thế kỷ thứ nhất đã cố ý bất tuân những mạng lệnh của Đấng Christ (Mat Mt 28:19-20). Không thể nào giải thích việc Luca bỏ qua phép báp têm bằng nước trong 70% sự hoán cải đã liệt kê là bằng chứng cho sự vắng mặt của thánh lễ căn bản nầy.
4.
b) Chúng ta nên trông đợi Tin Lành có tác động mạnh mẽ trên dân cư của khu vực chúng ta đang sống. (Tạ ơn Chúa nếu như có một số ít người được cứu, như tại Athên vậy. Có một số lớp đất nào đó không chịu tiếp nhận (Mat Mt 13:1-23). Nhưng khải tượng của chúng ta phải là nhướng mắt lên xem những cánh đồng , vì chúng đã sẵn sàng cho mùa gặt.)
5.
a. Tyrơ và Siđôn là những thành phố cực bắc đã được Chúa đến thi hành chức vụ. Trong vùng đó, Ngài đã đuổi tà linh ra khỏi con gái của người đàn bà Syrôphênixi. Có lẽ bà là thuộc viên của hội thánh lúc các bạn đồng lao của Phaolô đến Tyrơ.
b. Trong cơn bắt bớ do tay Saulơ, các tín hữu đã bị tản lạc đến Phênixi. Rõ ràng, hội thánh đã được thành lập tại thời điểm nầy. Thật trớ trêu biết bao khi Phaolô sau nầy sẽ đến thăm một trong hội thánh đã được thành lập do kết quả những hành động bắt bớ của chính mình!
6.
a. Sai.
b. Đúng.
c Sai.
d Đúng.
7. Câu trả lời của bạn. Tôi cảm thấy đây là một câu nói hữu lý. Êtiên đã quỳ gối khi ông cầu xin Chúa đừng đổ tội giết ông lại trên những kẻ sát hại ông, Phierơ đã quỳ gối cầu nguyện bên cạnh thi thể không còn sự sống của Đôca, và các trưởng lão Êphêsô và các tín đồ tại Tyrơ cùng quỳ gối cầu nguyện với Phaolô và các bạn đồng hành tại nơi mà những lời chia tay buồn và đầy xúc động là dành cho tất cả mọi người liên quan.
8. Sự cứu rỗi của Cọtnây, gia đình cùng bạn hữu ông. Có ai trong số nầy vẫn còn đồn trú tại Sêsarê khi sứ đồ Phaolô đến thăm vào khoảng 20 năm sau không?
9. Cong Cv 11:27-30 cho thấy ông đã từ Giêrusalem đến hội thánh Antiốt. Trong khi ở tại đó, ông đã nói tiên tri cơn đói kém lớn trên khắp đất. Lời tiên tri nầy đã khiến hội thánh Antiốt gởi giúp tài chánh cho hội thánh tại Giêrusalem.
10.
a. Từ rất lâu trước chuyến đi lên thành Giêrusalem, cả Đức Chúa Jesus lẫn Phaolô đều đã quyết tâm đến đó.
b. Đức Chúa Jesus đã ba lần tuyên bố sự chết sắp đến của Ngài tại thành Giêrusalem, và lần tuyên bố cuối cùng của Ngài là lần tuyên bố chi tiết rõ ràng nhất. Luca ghi lại ba lần lời tuyên bố về nguy hiểm chờ Phaolô tại Giêrusalem, và lần tuyên bố cuối cùng là lần tuyên bố chi tiết nhất.
c. Cả những người đi theo Đấng Christ lẫn những đồng bạn của Phaolô hoặc đã không đồng ý hoặc đã xem thường việc sẽ xảy đến nếu như cứ tiến hành chuyến đi đến thành Giêrusalem.
11.
a. Ông đã đến từ Chíprơ, đảo quê hương của Banaba (4:36). Phaolô cũng đã thi hành chức vụ tại Chíprơ (13:4-12).
b. Ông đã là một tín đồ từ thuở đầu tiên, có lẽ là một trong những người được cứu rỗi vào ngày Lễ Ngũ Tuần (2:41), hoặc ít lâu sau đó (2:47).
12.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
13.
a. Họ đã tôn vinh Đức Chúa Trời, nhiều năm trước, họ không biết rõ phải đáp ứng ra sao với sự hoán cải của dân ngoại bang (11:1-3 và 15:1-6), nhưng ngày ấy đã là quá khứ.
b. Lời làm chứng của họ tại Giêrusalem đã được đáp ứng một cách lớn lao (chữ hàng ngàn nghĩa đen là vô số) giữa vòng đồng bào Do thái. Những tín đồ nầy đã đồng ý sự kiện các Cơ đốc nhân ngoại bang không cần phải giữ truyền thống của tổ phụ người Do thái, Tuy nhiên, những tín đồ Do thái nầy đã được nghe nói thường xuyên (nguyên văn là được dạy vấn đáp) rằng Phaolô đang khẳng định với tín đồ Do thái rằng phải từ bỏ (nghĩa đen là bội đạo) phép cắt bì và những truyền thống của tổ phụ. Họ muốn Phaolô chứng tỏ những luận điệu nầy là không đúng.
14. Đối với người Do thái, Phaolô đã trở nên như người Do thái. Những người bắt lỗi Phaolô vì cớ điều có vẻ như không nhất quán thì họ đã không biết rằng Phaolô không tán thành khi những tín hữu người Do thái phải từ bỏ nếp sống của người Do thái. Điều khăng khăng duy nhất của ông ấy là họ phải hiểu biết rằng Đấng Christ đã cứu rỗi họ, chứ không phải nếp sống của họ cứu họ. Ông cũng khăng khăng quả quyết họ đừng cố gắng áp đặt nếp sống của họ cho những người ngoại bang nào đã tin Chúa.
15. c) Người Do thái từ cõi Asi đã nhận ra ông và đã buộc tội ông.
16. Tôi sẽ chọn cả ba câu đều đúng.
17. Bruce tuyên bố rằng ông là tiên tri phiêu lưu người Êdíptô đã xuất hiện tại Giêrusalem khoảng ba năm trước. Ông đã có được nhiều người đi theo, là những người tin những lời tiên tri bài Lamã của ông. Khi nhóm người của ông bắt đầu đe dọa Giêrusalem, Quan Tổng Đốc Phêlít đã phái quân đến đánh và dập tắt hiệu quả cuộc nổi dậy nầy. Bản thân người Êdíptô kia đã thoát được, và không xuất hiện lại nữa.
18.
a. Sai.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Đúng.
19.
a. Ông ôn lại quá khứ của mình là người Do thái, và nhấn mạnh cụ thể đến lòng sốt sắng, là điều đã đặc trưng cho nếp sống của một người Do thái gương mẫu.
b. Ông mô tả sự hoán cải của mình trên con đường Đamách và sự gặp gỡ với một người Do thái nhơn đức kia, tên là Anania.
c. Ông thuật lại từng trải của mình trong đền thờ (đang khi ông ngất trí), mà qua từng trải đó, Chúa truyền cho ông đi đến với dân ngoại bang.
20. c) Khi ông thuật lại thể nào Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông đi đến với dân ngoại bang.
21.
a. Sai.
b. Đúng.
22.
a. Phierơ và Giăng đối mặt với Tòa Công Luận do kết quả sự chữa lành người què. Tòa Công Luận đã ra lệnh họ không được nhơn danh Đức Chúa Jesus mà giảng đạo nữa.
b. Tất cả các sứ đồ đều bị xét xử trước Tòa Công Luận vì cớ chức vụ giảng đạo hiệu quả của họ. Sau khi bị đánh đòn, họ bị cấm không được phép nhơn danh Đức Chúa Jesus mà giảng đạo nữa.
c. Êtiên đã giảng đạo cho Tòa Công Luận, là những người đã đáp ứng với bài giảng của ông bằng cách giết ông vì đạo.
23.
b) Câu nói của Phaolô tương phản rõ ràng với lương tâm của thầy tế lễ thượng phẩm bại hoại kia.
c) Câu nói của Phaolô cho thấy đời sống ông không còn một tội lỗi nào chưa xưng ra.
24. Tôi nghĩ toàn bộ những câu nầy đều là những câu giải thích hợp lý. Có thể Phaolô đã bị cận thị, theo như GaGl 4:15 và 6:11 dường như cho thấy vậy. Tôi thích câu c) hơn, vì Phaolô hoàn toàn có khả năng đang chơi chữ.
25. Câu trả lời của bạn. Tôi đã nêu ra những câu trả lời của mình.
a. Ba năm sau sự hoán cải, khi đang trong tình trạng ngất trí trong đền thờ, Phaolô đã nhận được mạng lịnh từ Chúa để rời Giêrusalem và đi đến với dân ngoại bang.
b. Trong hành trình truyền giáo thứ nhì, tiếng gọi Phaolô sang Âu Châu đã đến qua sự hiện thấy về một người Maxêđoan.
c. Chúa đã hiện ra với Phaolô trong một sự hiện thấy tại Côrinhtô và bảo ông sẽ không bị hại gì đang khi ở tại Côrinhtô.
d. Hiện Phaolô được Chúa bảo đảm (ngay từ đầu sự giam cầm) rằng ông sẽ đến thăm Rôma. Sự hiện ra của Chúa trong trường hợp nầy có thể là qua sự hiện thấy cho Phaolô, cũng như tất cả những lần hiện ra trước kia của Chúa.
26.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Sai.
d. Sai.
27. Khi so sánh bức thơ (Cong Cv 23:26-30) với câu chuyện của Luca (21:30-22:29), chúng ta thấy viên quản cơ đã tự tô điểm cho mình trước mắt Phêlít. Ông đã làm vậy bằng cách nói sai, rằng ông đã giải cứu Phaolô khỏi đám đông vì biết Phaolô là một công dân Lamã. Ông không nhắc đến việc ông không biết quyền công dân Lamã của Phaolô mãi cho đến sau khi ông xiềng Phaolô trái luật và tra lệnh thẩm vấn Phaolô bằng cực hình. Cơlốt Lysia hẳn không phải là cá nhân hay chính trị gia đầu tiên, mà cũng không phải là người cuối cùng đã tái hiện dữ liệu để làm cho mình trông có vẻ tốt đẹp hơn đâu!
28.
a. Điều đầu tiên đã cứu mạng ông ấy là sự có mặt của các binh lính Lamã trong pháo đài Antonia gần đó, là pháo đài canh giữ sân đền thờ (21:31-32).
b. Điều thứ nhì đã cứu mạng Phaolô khỏi cái chết trước mắt do bị tra khảo ấy là quyền công dân Lamã của ông (22:25-29).
c. Điều thứ ba đã cứu ông ấy là người cháu biết được âm mưu hại mang sống ông (23:12-16).
29.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Đúng.
30.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Đúng.
31.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Đúng.
32.
a. Sai. Phaolô luôn luôn sẵn sàng thay đổi tiến trình hành động nếu được Đức Thánh Linh hướng dẫn như thế (16:6-7). Tất cả những câu kia đều là những chứng cứ bác bỏ hữu hiệu cả.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Đúng.
33.
a. 9) Bêtôlêmai.
b. 1) Phêlít.
c. 3) Sêsarê.
d. 5) Cốt.
e. 11) Rôđơ.
f. 2) Batara.
g. 10) Cơlốt Lysia.
h. 4) Antibatri.
i. 8) Anania.
j. 6)Manasôn.
k. 12) Tyrơ.
l. 7) Phênixi.
34. Những chuyến đi của Phaolô từ Tiểu Á đến Giêrusalem. Khi ông đến đó, ông đã được các anh em chào thăm, tức cũng chính là những anh em yêu cầu ông bảo trợ cho bốn người đang mắc lời thề. Gần đến cuối thời hạn của lời thề nguyện, Phaolô bị đám đông trong đền thờ bắt giữ. Binh lính Lamã giải cứu ông khỏi chết, và ông đã có thể nói chuyện với đám đông. Kế đó, Phaolô ra trước Tòa Công Luận, chia rẽ Tòa Công Luận, và cuối cùng ông được hộ tống ra khỏi Giêrusalem đến Sêsarê bởi lực lượng lính Lamã khi phát hiện được âm mưu hại mạng sống ông.
Từ Giêrusalem Đến Sêsarê
Trong Bài 13, chúng ta đã chứng kiến khởi đầu của buổi xế chiều trong sự nghiệp truyền giáo của Phaolô. Giống như đường đi của mặt trời từ buổi rạng đông cho đến lúc lên thiên đỉnh vào giữa trưa rồi đi tiếp cho đến khi lặn, thì tiến trình cuộc đời và chức vụ của vị sứ đồ cũng có phần tương tự với kiểu mẫu nầy.
Chúng ta đã xem từ đầu về cách Người Thợ Gốm đã phát triển và nắn nên chiếc bình nầy. Sự náo loạn và mâu thuẫn, tranh chấp đi kèm với buổi bình minh sự nghiệp của ông thật kỳ lạ biết bao! Nhưng dưới áp lực của hoàn cảnh và sự nắm giữ dịu dàng nhưng vững chắc của người Chủ, chiếc bình đã được định hình, mang lấy vẻ đẹp và nét tinh tế đã được định cho nó. Khi người khách hành hương nầy tiến đến điểm tuyệt đỉnh và vượt qua, sức nóng của trận chiến chỉ tôi luyện thêm cho đất sét mà thôi. Giờ đây, khi đã mất quyền tự do đi lại vì cảnh giam cầm, ông đã trở nên chín chắn trong tia sáng mờ dần của ánh dương. Và chiếc bình nhận lấy màu sắc và kiểu mẫu tinh túy của nó. Chiến tích (đã thực hiện trong suốt bao nhiều năm qua) đang được tinh luyện càng hơn nữa để cho Chủ dùng.
Và khi bạn xem những câu chuyện, những thử thách, những lời vu cáo, bất công, và sự chờ đợi có vẻ như bất tận trong bài học nầy, hãy biết rằng tiến trình nầy không phải tình cờ, nhưng trái lại là hết sức quan trọng đối với kế hoạch của Chúa để đưa Phaolô đến Rôma và để rao truyền Tin Lành trong phạm vi rộng lớn hơn. Hãy nghe câu nói khách quan của vị sứ đồ về những điều dường như bất hạnh nầy: "... đều xảy đến cho tôi đã giúp thêm sự tấn tới cho đạo Tin Lành... phần nhiều trong anh em nhơn tôi bị xiềng xích mà có lòng tin rất lớn trong Đấng Christ, dám truyền đạo Đức Chúa Trời chẳng sợ hãi gì (Phi Pl 1:12-14).
Khi bạn xem kiệt tác đang thành hình nầy, hãy cầu nguyện để bạn sẽ có thể khách quan khi trải qua tiến trình tăng trưởng và phát triển của tâm linh. Nên nhớ rằng mọi chiếc bình (tức mỗi một người trong chúng ta) đều đi qua lửa, nhưng lửa chính là thứ đem lại cho mỗi chiếc bình sự tôi luyện, sự chói sáng, và sự trau chuốt đẹp bóng bền vững của nó. Khi bạn xem xét những từng trải của Phaolô, hãy cầu nguyện để chính bạn cũng sẽ trở thành một chiếc bình trau chuốt hơn khi trải qua cơn thử thách của mình.
Dàn bài
Phaolô Trước Mặt Phêlít
Sự Truy Tố
Lời Biện Hộ
Đáp Ứng
Phaolô Trước Mặt Phêtu
Những Thủ Đoạn Xét Xử
Tra Xét Lời Truy Tố.
Sự Biện Hộ Của Phaolô
Tóm Tắt
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể: Chứng minh rằng lời biện hộ của Phaolô trước mặt Phêlít thực sự là lời biện giải đức tin bằng cách nêu ra một phương diện trong lời truy tố mà Phaolô đã xác nhận.
Thảo luận câu nói: "Một trong những mục đích khiến Luca viết sách Côngvụ chính là để biện giải đức tin," kể ra ít nhất ba nguyên nhân để xác nhận sự thật nầy.
Đánh giá cao sự kiện: trong sự phát triển công việc Đức Chúa Trời, Ngài thường cho phép con cái Ngài gặp nghịch cảnh, thử thách và những hoàn cảnh dường như quá khủng khiếp để phát triển đức tin, lòng tin cậy, phó thác, và đặc tính của Đấng Christ nơi họ, và để chứng tỏ quyền năng và sự chăm sóc của Ngài dành cho họ.
Sinh hoạt học tập
1. Nghiên cứu Cong Cv 23:31-26:32. Đọc lại nhiều lần câu chuyện sự hoán cải và sứ mạng của Phaolô trong 22:1-21 và 9:1-19. Khi đọc như vậy, quan sát kỹ mọi khác biệt trong những câu chuyện khi so sánh chúng với Cong Cv 26:1-23. Trong bài nầy, bạn sẽ có cơ hội xem xét vấn đề cách chi tiết.
2. Tra ý nghĩa của những từ vựng nào bạn chưa biết trước khi bắt đầu phần khai triển bài học.
3. Nếu bạn chưa thu xếp việc làm bài thi cuối khóa với giáo viên ICI, hãy làm ngay bây giờ.
Từ vựng
phân xử adjudicating
hoàn hảo consummate
tính thủ đoạn expediency
loạn luân incestuous
sự nổi dậy insurrection
quyền hạn jurisdiction
bậc tiền nhiệm predecessor
dẫn chứng substaniating
mang tính lật đổ subversive
nơi xét xử venue
Khai triển bài học
PHAOLÔ TRƯỚC MẶT PHÊLÍT
Cong Cv 23:31-24:9 Bruce 461-467
Ra đi trong màn đêm, một đoàn quân hộ tống hùng hậu gồm 470 binh lính đưa Phao-lô đến Antibatri. Cuộc hành quân dài 35 dặm nầy đưa đoàn đến một vùng an toàn hơn, nơi dân chúng đa số là người ngoại bang. Buổi sáng hôm sau đoàn bộ binh nầy từ Antibatri quay về, và 70 lính kỵ binh hộ tống Phaolô đi thêm 25 dặm nữa đến Sêsarê, nơi ông sẽ được giải giao cho quan tổng đốc Phêlít.
Sau khi gặp mặt tù nhân và đọc thơ của quản cơ Cơlốt Lysia, Phêlít hỏi Phaolô đã đến từ vùng nào. Câu hỏi nầy là quan trọng để xác định quyền hạn xét xử thích hợp trong vụ án của Phaolô, như Bruce nêu ra trong trang 461-462. Bạn còn nhớ vụ Philát xét xử Đức Chúa Jesus không? Biết rằng Đức Chúa Jesus thuộc quyền hạn của Hêrốt, Philát đã chuyển giao Đức Chúa Jesus sang cho Hêrốt (LuLc 23:6-7). Khi thấy Phaolô là công dân xứ Silisi, một vùng trực thuộc quyền cai trị của người Lamã, Phêlít xác định là không có nan đề về quyền hạn. Và vì ông rất thạo việc xử án, nên ông tỏ ý đã sẵn sàng nghe vấn đề khi bên nguyên cáo đến trình bày lời buộc tội. Trong thời gian đó, Phaolô bị giam trong cung điện Hêrốt, là nơi được dùng làm tổng hành dinh của quan tổng đốc.
Khi Phaolô gặp Phêlít, quan tổng đốc đã nhiệm chức khoảng sáu năm (từ năm 52 S.C.). Như Bruce cho thấy (trang 462), Phêlít là một người xuất thân thấp hèn, đã kiếm được địa vị của mình nhờ ảnh hưởng của anh mình là Pallas (người đã xuất thân từ nô lệ lên nắm đến chức quan cai kho của đế quốc Lamã dưới thời hoàng đế Cơlốt). Sự cai trị của Phêlít với tư cách quan tổng đốc xứ Giuđê đã được nổi bật bởi sự gia tăng những vụ rối loạn nội bộ và những vụ náo loạn. Phêlít không ngần ngại dùng sự tàn bạo và nhẫn tâm để dập tắt những cuộc xung đột dân sự. Sử gia Lamã, Tacitus, đã nhận định rằng "Phêlít đã cai trị với quyền hành của một vị vua và với lý trí của một tên nô lệ." Ông đã đáp ứng với sự bất ổn ngày càng tăng tại xứ Giuđê bằng sự tàn bạo và báo thù, đến nỗi đã khiến cho ngay cả những người Do thái ôn hòa cũng xa lánh ông. Và sự tàn bạo dã man nầy rốt cuộc đã khiến cho chính quyền Lamã đã triệu hồi ông về.
Sự Truy Tố
Cong Cv 24:1-9 Bruce 463-467
Mục tiêu 1. Phân tích vụ kiện Phaolô trước mặt Phêlít và phương cách tiến hành của bên truy tố.
1. Kể tên những người đã từ Sêsarê đến để buộc tội Phaolô.
a
..........
b
..........
c
..........
2. Để bắt đầu bài phát biểu, cách thông thường và tốt nhất là nói đôi điều tích cực cho thính giả của mình. Tẹttulu đã mở đầu với những lời khen nào cho Phêlít, mà chúng nhằm khen và tác động Phêlít để tạo ấn tượng thiện cảm cho bên truy tố?
a
..........
b
..........
c
..........
d
..........
3. Sau khi đã xác định Phaolô là kẻ gây rối (nghĩa đen là kẻ đem đến bệnh dịch hạch hay một tai vạ, một loại súc vật gây hại), Tẹttulu đã đưa ra ba lời buộc tội cụ thể nào chống lại Phaolô?
a
..........
b
..........
c
..........
Hãy xem xét những lời buộc tội của Tẹttulu để biết giá trị của chúng đối với bên truy tố. Lời buộc tội thứ nhất hẳn khó mà khởi tố, còn lời buộc tội thứ hai tỏ ra không mấy thích thú cho nhà cầm quyền Lamã.
4. Vì sao lời buộc tội rằng Phaolô là kẻ gây loạn trong hết thảy người Giuđa trên thế giới là một lời buộc tội khó chứng minh trước tòa Phêlít? Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và trình bày những nguyên nhân khiến lời buộc tội nầy khó chứng minh?
a. Tẹttulu sẽ không có những nhân chứng từ những trung tâm bạo loạn sẵn có tại Sêsarê để làm chứng nghịch cùng Phaolô.
b. Phaolô có thể tranh biện thành công rằng trước đây ông đã bị đưa đến trước quan tòa Lamã tại thành Côrinhtô vì cớ gây rối giữa dân Do thái, song Galiôn đã không thèm xét xử vụ án nầy.
c. Phaolô cũng có thể tranh cãi thành công rằng ông chưa hề bị quan tòa Lamã xét là có tội xúi bạo loạn trên bất cứ thành phố nào trên thế giới nầy.
d. Phaolô có thể nêu ra rằng tại bất cứ nơi nào ông đến để rao giảng Tin Lành, thì đem lại kết quả là sự phục hưng chứ không phải là bạo loạn.
Việc Tẹttulu không có những nhân chứng đi theo, thậm chí ngay trong lời buộc tội mạnh mẽ nhất của mình (24:6), chính là một sự kiện mà Phaolô đã để ý kỹ (24:13). Phaolô chắc chắn cũng có thể nêu ra một thành tích trong sạch với các nhà cầm quyền Lamã. Trong những trường hợp có bạo loạn xảy ra, thì đã do sự xui giục của những người khác (13:50; 14:2, 5, 19 16:19-40; 17:5, 13; 18:12; 19:23-41). Những câu Kinh Thánh trưng dẫn trên đây chứng tỏ sự kỹ lưỡng và quan tâm mà Luca dùng để tạo cơ sở bác bẻ bất cứ lời buộc tội nào hoặc trước tòa án Lamã, hoặc trước mặt công chúng, cho rằng Phaolô đã từng dính líu đến tội xúi giục bất cứ cuộc bạo loạn nào.
5. Lời buộc tội thứ nhì cho Phaolô: ông là kẻ cầm đầu phe người Naxarét. Tương tự, lời buộc tội nầy sẽ ít có giá trị trước tòa Phêlít vì nguyên nhân nào sau đây?
a) Phe Naxarét đã bị nhà cầm quyền Lamã tuyên bố là nhóm người bất hợp pháp và xúi giục bạo loạn, vì cớ những cuộc nổi dậy liên tiếp của những Cơ đốc nhân trong xứ Giuđê.
b) Theo F. F. Bruce, không rõ Tẹttulu muốn nói gì với những từ ngữ "phe Naxarét" nầy. Dầu ông có muốn nói đến ý nào đi nữa, những người Naxarét không phải là một phe phái hay một tà giáo bị luật pháp Lamã đặt ra ngoài vòng pháp luật tại thời điểm đó.
Không có hồ sơ nào ghi lại những người Naxarét đã bị xác nhận là nhóm người bất hợp pháp theo luật pháp Lamã. Rất có thể từ ngữ nầy, theo cách dùng của Tẹttulu, được dùng như một biệt danh cho những Cơ đốc nhân, là những người thuộc về người Naxarét. Tuy nhiên, để truy tố thành công Phaolô là người Naxarét, trước tiên Tẹttulu buộc phải có được một quyết định từ Rôma rằng một nhóm người như thế đã bị nhà cầm quyền Lamã xem là mang tính chất lật đổ, và bởi đó bị xem là bất hợp pháp.
6. Lời buộc tội nghiêm trọng nhất của Tẹttulu chống lại Phaolô ấy là buộc tội ông cố làm ô uế đền thờ. Một lời truy tố thành công cho lời buộc tội nầy sẽ đem lại án tử hình. Sự lý giải biến thể cho câu Kinh Thánh Cong Cv 24:6-8 đã thêm những lời sau vào trong lời buộc tội của Tẹttulu: "nên chúng tôi đã bắt giữ hắn và muốn xử theo luật pháp của chúng tôi. Nhưng quan quản cơ Cơlốt Lysia đã đến và dùng bạo lực chộp hắn khỏi tay chúng tôi, rồi ra lệnh những người truy tố hắn phải ra mắt quan lớn đây." Tuy biến thể nầy không được sự hỗ trợ của thủ bản tốt hơn, nhưng nó có thể phản ánh rất tốt những lời mà Tẹttulu đã thực sự nói ra. Dầu trường hợp nào đi nữa, Tẹttulu đã bỏ qua những chi tiết nào về vụ bắt giữ thực tiễn của Phaolô tại đền thờ khi ông mô tả trước mặt Phêlít? Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong câu hỏi sau đây.
a. Sự kiện đám đông tại đền thờ đã cố giết chết Phaolô ngay tại chỗ vì cớ cho rằng ông làm ô uế đền thờ.
b. Sự kiện những binh lính của Cơlốt Lysia can thiệp để ngăn cho Phaolô khỏi bị giết.
c. Sự kiện những binh lính Lamã đã hung bạo xông càn vào trong đền thờ để làm gián đoạn cuộc tranh luận hòa bình giữa Phaolô với những nhà cầm quyền Do thái.
d. Sự kiện đang lúc những quan cai đền thờ đã đưa Phaolô đi giam giữ đúng theo luật pháp để chờ xét Tòa Công Luận xử đúng lẽ phải thì binh lính Lamã đã hung bạo xông vào làm gián đoạn biện pháp hòa bình của đền thờ và của Tòa Công Luận.
Tẹttulu cố ý bỏ sót những sự kiện thật tế trong vụ bắt giữ Phaolô. Nếu Phaolô bị bắt giữ một cách đúng luật pháp, và rồi được giải đến xét xử theo đúng luật pháp Do thái, thì nhà cầm quyền Lamã sẽ không can thiệp vào. Tẹttulu khôn khéo tránh không đề cập việc vi phạm hoàn toàn luật lệ và trật tự của đền thờ khi họ bắt giữ Phaolô, do đó phải cần có sự can thiệp của người Lamã. Ngay cả Lysia cũng đã tìm cách sắp xếp lại sự kiện bắt giữ Phaolô để tạo ấn tượng tốt cho mình (so sánh 23:27 với 21:31-40 và 22:24-29), nên Tẹttulu cũng đã sắp xếp và che đậy những sự kiện thật có liên quan đến vụ bắt giữ Phaolô.
Thật kinh ngạc thay, kết luận cho những lời buộc tội của Tẹttulu lại thiếu những cơ sở luận lý và pháp lý. Thay vì đưa ra cho Phêlít những chứng cứ cụ thể cho những lời buộc tội hay những nhân chứng để xác nhận, ông lại yêu cầu quan tòa làm người truy tố, là người buộc nhân chứng phải tự truy tố mình bằng cách đưa ra những lời làm chứng chống lại mình! Nếu Phêlít sẵn lòng thi hành công lý thay vì làm đẹp lòng người Do thái, thì ông hẳn sẽ loại bỏ ngay tức khắc mọi lời buộc tội Phaolô sau bài thuyết trình khập khiễng của Tẹttulu. Trái lại, ông đã lắng nghe tất cả những thành viên bên phe của Tẹttulu khi họ hùa nhau công kích và khẳng định lời nói của bên truy tố.
Khi cho phép xảy ra thủ tục như thế, Phêlít đã vi phạm tiến trình của những thủ tục tố tụng thông thường. Vì nếu không có một lời buộc tội cơ bản nào mang bản chất chính trị , thì với tư cách một nhà cầm quyền tài năng, ông nên khước từ tham gia (như Galiôn đã làm, Cong Cv 18:12-16). Và ông nên nêu ra đâu là thực chất vấn đề: định kiến mù quáng và hẹp hòi xuất phát từ những khác biệt trong tôn giáo. Nếu ông giải quyết vấn đề ngay tại thời điểm nầy, ông sẽ không để lại cho người kế nhiệm một tình trạng nan giải đến như vậy (Cong Cv 25:13-27).
Lời Biện Hộ
24:10-21 Bruce 467-471
Mục tiêu 2. Mô tả lời biện hộ của Phaolô trước mặt Phêlít, cho thấy cách ông đáp ứng và chiến lược ông đã sử dụng để bác bẻ những lời buộc tội mình.
Do có thủ đoạn chính trị, Phêlít cho phép phiên tòa tiếp tục. Dường như ông đã xác định vụ án của Phaolô là vấn đề dân sự (mặc dầu hiển nhiên đây là một vụ tranh cãi về thần học). Bấy giờ, Phêlít đã cho phép Phaolô lên tiếng để tự bênh vực mình trước bối cảnh có thành kiến truy tố nầy .
7. Phaolô đã được xử cách công bằng trong những lần ra tòa của người Lamã trước kia. Những câu Kinh Thánh của ba lần trước kia trong sách Côngvụ nói đến việc Phaolô được xử công bằng và vô tư trước mặt nhà cầm quyền Lamã được liệt kê dưới dây. Ghi ra ông đã ra tòa nơi đâu và trước mặt ai.
a. 13:7-12
..........
b. 16:35-40
..........
c. 18:12-17
..........
Khi Phaolô đứng trước mặt Phêlít, ông có đủ mọi nguyên nhân, dựa vào những từng trải trước đây của mình, để chờ đợi nhà cầm quyền Lamã xét xử công minh. Ông đã dạn dĩ mà bênh vực duyên cớ mình . Trước kia ông đã đứng trước mặt những quan án Lamã giàu kinh nghiệm, quen thuộc với những cãi vã thần học của người Do thái, vậy ông không thể trông đợi Phêlít đưa ra lời đoán xét giống y như của Galiôn sao?
8. Đọc nhanh qua lời tự bênh vực của Phaolô trước mặt Phêlít và nêu bố cục triển khai tiệm tiến trong bài diễn thuyết của ông.
a. 24:10 ..........
b. 24:11-13 ..........
c. 24:14-16 ..........
d. 24:17-21 ..........
9. Có một số nan đề xuất hiện khi liên hệ câu nói của Phaolô về "12 ngày” (24:11) với thông tin theo trình tự thời gian đã được Luca nêu trong những đoạn trước đây. Xem những câu Kinh Thánh sau và ghi lại những gì đã được nói đến về thời gian.
a. 21:17 ..........
b. 21:18 ..........
c. 21:26 ..........
d 21:27 ..........
e. 22:30 ..........
f. 23:11 ..........
g. 23:12 ..........
h. 23:23 ..........
i. 23:32 ..........
j. 24:1 ..........
Sau khi lần theo những câu Kinh Thánh trên đây, hãy so sánh chúng với lời nói của Phaolô trong 24:11: "Quan tra xét thì sẽ biết tôi vừa lên thành Giêrusalem mà thờ lạy, chưa được mười hai ngày nay ." Như Bruce nhận định trong chú thích 13 cuối trang 468, không nhất thiết phải cho rằng Phaolô nhận bảo trợ cho bốn người mắc lời thề ngay từ đầu thời kỳ bảy ngày của họ. Đúng hơn, dường như ông đã nhận bảo trợ khi bảy ngày nầy sắp kết thúc. Như thế, lần ngược theo tiến trình thời gian, "mười hai ngày" của Phaolô gồm như sau:
Ngày thứ mười hai: Trước mặt Phêlít.
Ngày thứ mười một, mười, chín, tám: Chờ trong cung điện Hêrốt tại Sêsarê (sau khi đến đó vào ngày thứ tám).
Ngày thứ bảy: Phaolô rời thành Giêrusalem dưới sự canh gác của 470 binh lính sau khi phát hiện được âm mưu hại mạng ông.
Ngày thứ sáu: Nhận được lời hứa từ nơi Chúa rằng ông sẽ đến Rôma.
Ngày thứ năm: Ra trước Tòa Công Luận.
Ngày thứ tư: 21:30, bị bắt trong đền thờ.
Ngày thứ ba: 21:26, nhận bảo trợ cho bốn người mắc lời thề.
Ngày thứ nhì: Gặp Giacơ và các trưởng lão.
Ngày thứ nhất: Đến tại Giêrusalem.
Danh sách nầy có thể giúp bạn hình dung "mười hai ngày" của Phaolô khá hơn một chút. Tuy nhiên, ý ở đây chính là Phaolô muốn quan tổng đốc thấy rõ ràng và không thể lầm lẫn được rằng ông có thể tường trình một số rất ít những sinh hoạt của mình trong thời gian ngắn ngủi nầy, và do đó, dứt khoát phủ nhận những điều chung chung mơ hồ trong những lời buộc tội của Tẹttulu.
Sau khi phủ nhận những lời buộc tội làm ô uế đền thờ hay là người kích động những cuộc bạo loạn (24:12), Phaolô đáp ứng một cách khác hẳn với lời buộc tội ông là người cầm đầu phe Naxarét. Thay vì gọi những Cơ đốc nhân là một phe phái, Phaolô đã phản công một cách ngoạn mục bằng lời tuyên bố ông chính là người theo Đạo . Với cách nầy, ông đã gạt sang bên quan điểm cho rằng đức tin Cơ đốc chỉ là một trong vô số những kẻ tuyên bố mình có chân lý tôn giáo. Chỉ một mình Đạo (của Đức Chúa Jesus) mới là chân lý! Phaolô khẳng định bốn điểm sau về Đạo:
1. Ông thờ phượng Đức Chúa Trời của tổ phụ mình (Như vậy, xác lập bản sắc của Cơ đốc giáo chính là sự ứng nghiệm / sự kế thừa Do thái giáo).
2. Ông tin sách luật pháp và các sách tiên tri (như vậy, phân biệt mình khỏi những người Sađusê, là những người không tin các sách tiên tri và mọi nhà thần học tự do của thời quá khứ, hiện tại và tương lai, là những người bác bỏ sự soi dẫn của Kinh Thánh Cựu Ước).
3. Ông có cùng một sự trông cậy với Do thái giáo: Sự sống lại của cả kẻ công bình lẫn kẻ ác (là sự trông cậy mà người Sađusê với tư cách một thiểu số trong Do thái không có).
4. Lương tâm ông không trách móc trước mặt Đức Chúa Trời và loài người.
Trong khi những lời buộc tội của Tẹttulu thiếu tính cụ thể, thì Phaolô trả lời chi tiết cho động cơ khiến ông có mặt tại Giêrusalem (24:18) và việc ông xử sự và bị bắt giữ tại trong đền thờ (24:19-20). Ông còn sử dụng thêm một chiến thuật để gây bối rối cho bên truy tố bằng cách nêu ra động cơ khiến họ truy tố ông chính là vì lời ông tuyên bố trước Tòa Công Luận - mà nó đã gây chia rẽ Tòa Công Luận - rằng ông tin nơi sự sống lại (24:21).
10. Những câu nào sau đây mô tả đúng nhất cách Phaolô muốn Phêlít đối xử với những lời buộc tội ông? Phaolô muốn Phêlít
a) xử những lời buộc tội ông là mang bản chất chính trị.
b) hiểu rằng những lời buộc tội ông thực sự mang bản chất tôn giáo và thần học.
c) biết rằng những lời cáo buộc ông kia chỉ mang tính cá nhân, vì những bạn hữu và đồng nghiệp trước kia của ông phẫn nộ trước việc ông bỏ Do thái giáo để đi theo Cơ đốc giáo.
Từ kinh nghiệm trước đây (Cong Cv 18:14-15), Phaolô biết những quan cai trị người Lamã không quan tâm xét xử những vấn đề tranh luận thần học. Ông cũng hiểu những lời buộc tội mình thực sự mang bản chất thần học, nhưng bên truy tố ông - cũng giống như cách họ đã đối xử với Đức Chúa Jesus - đang cố gắng thuyết phục nhà cầm quyền Lamã rằng những lời buộc tội có thật hơn kia (như là xúi giục bạo loạn và khiến dân chúng không còn trung thành với Sêsa mà quay sang trung thành với Jesus) mới đúng là những lời buộc tội thật sự.
Đáp Ứng
24:22-27 Bruce 471-474
Mục tiêu 3. Cho thấy bài giảng của Phaolô trước mặt Phêlít và Đơrusi liên quan thế nào đến những nhu cầu của họ, và áp dụng đáp ứng của họ cho những người khước từ Tin Lành hiện nay.
11. Những câu nào sau đây là nguyên nhân ĐÚNG và giúp giải thích nguyên nhân khiến Phêlít dời vụ kiện sang ngày khác?
a. Dầu lời truy tố Phaolô của Tẹttulu thiếu thuyết phục và thiếu dẫn chứng theo những sự kiện đã nêu ra, nhưng Phêlít không muốn
hủy bỏ vụ kiện tức khắc để làm phật lòng cấp lãnh đạo Do thái.
b. Vì lời bênh vực ban đầu của Phaolô đã vô hiệu hóa những lời buộc tội ông, nên vấn đề chỉ đơn thuần là lời Phaolô nói lại với lời của những kẻ cáo buộc ông mà thôi. Cần phải có lời chứng của viên sĩ quan đã bắt giữ, là Lysia.
c. Phêlít không quan tâm đến một vụ kiện dân sự khi cuộc tranh luận tập trung vào những vấn đề thần học.
d. Phêlít là một người thiếu kiên quyết. Ông không thể quyết định thả Phaolô hay không vì cớ ông không hề hiểu ra thực chất vấn đề. Ông đã hoãn đưa ra quyết định chung cuộc, vì ông chưa được cứu rỗi.
Phêlít, cũng giống như Philát, không muốn gây thù oán với cấp lãnh đạo Do thái một cách không cần thiết. Là một quan tổng đốc người Lamã, ông không muốn đứng ra phân xử những vấn đề thần học. Vẫn còn những vấn đề khó hiểu trong câu chuyện nầy. Dầu Phêlít cho thấy ông sẽ xét vụ kiện khi nào Lysia đến, nhưng Luca không hề đề cập Phêlít có muốn hoàn tất lời hứa của mình hay không.
Những hoàn cảnh của Phaolô bị giam tại Sêsarê dường như được cải thiện phần nào sau vụ xử đầu tiên trước mặt Phêlít. Trong khi trước lúc vụ kiện, Phaolô bị canh giữ trong cung điện Hêrốt (24:35), thì giờ đây ông được cho tự do phần nào dầu vẫn còn bị canh giữ (24:23) và còn ở trong ngục (24:27).
12. Sách Côngvụ trước kia cho thấy điều gì về sự có mặt của các tín đồ tại Sêsarê, và sự có mặt trước kia của Phaolô tại thành phố nầy?
a. 8:40 ..........
b. 9:30 ..........
c. 10:1-11:18 ..........
d. 18:22 ..........
e. 21:8-16 ..........
Qua những câu Kinh Thánh trên, chúng ta có thể thấy từng trải ở tù tại Sêsarê của Phaolô không phải là quá hạn chế. Đúng hơn, nó đã được giảm nhẹ bởi những chuyến thăm viếng của các Cơ đốc nhân tại đó, trong đó là Philíp và những con gái của ông, và có lẽ là những thành viên hợp hiến của hội thánh dân ngoại bang đầu tiên nữa.
Đang khi giam giữ Phaolô, có lẽ do sự thôi thúc của người vợ Do thái của ông là Đơrusi nên Phêlít đã gặp riêng Phaolô. Nội dung bài giảng cho Phêlít và Đơrusi sẽ được hiểu rõ hơn nhờ vào bối cảnh về tiểu sử của họ do sử gia Do thái ở thế kỷ thứ nhất, là Josephus, ghi lại.
Việc Phêlít lên làm quan tổng đốc xứ Giuđê đã được trình bày ở đầu bài học nầy. Vợ ông, Đơrusi, là cháu của vua Hêrốt Đại Đế (người đã tàn sát các trẻ em tại Bếtlêhem), và là con gái của Hêrốt Ạcrípba I (được mô tả trong 12:1-25). Chị của cha bà là Hêrôđia, kẻ chủ mưu cái chết của Giăng Báptít. Cha của Đơrusi qua đời năm 44 S.C. khi Đơrusi lên sáu tuổi. Bà có một người anh và một người chị, là Hêrốt Ạcrípba II và Bêrênít, hai người nầy 16 và 17 tuổi lúc cha họ qua đời (Ạcrípba và Bêrênít xuất hiện trong Cong Cv 25:13).
Lúc còn là một bé gái nhỏ, Đơrusi đã đính hôn với hoàng thái tử của một vương quốc nhỏ ở vùng đông Tiểu Á. Cuộc hứa hôn nầy đã thất bại khi hoàng tử kia không chịu cải đạo Do thái. Sau đó, anh của Đơrusi, Ạcrípba, đã gả nàng cho vua xứ Emesa, một vương quốc nhỏ ở xứ Syri, khi nàng lên 16 tuổi.
Nhiều năm sau đó, Phêlít gặp nàng, và theo lời Josephus, Phêlít đã mê nàng đắm đuối. Phêlít đã nhờ các bạn hữu của mình thuyết phục Đơrusi bỏ chồng theo ông, hứa hẹn đem lại cho nàng hạnh phúc tột đỉnh. Đơrusi sung sướng nhận lời, vì nàng đã bị người chị, là Bêrênít hành hạ quá nhiều do ghen với sắc đẹp của Đơrusi. Nhờ cưới Phêlít, nàng sẽ không còn bị Bêrênít kiềm chế hay phải thua kém chị về vai vế xã hội nữa. Khi trở thành người vợ thứ ba của Phêlít (cuộc hôn nhân thứ nhì của bà), bà vẫn chưa tới 29 tuổi, dầu Phêlít đã ngoại ngũ tuần. Josephus gợi ý Phêlít cưới Đơrusi vì tình dục, còn bà cưới Phêlít để có được địa vị và được an toàn.
Từ những kinh nghiệm của họ, người ta có thể suy ra rằng họ có: tiền nhưng không giàu có, có địa vị nhưng không có lòng tự trọng; có tình dục nhưng không có tình yêu; có quyền lực nhưng không có bình an.
13. Luca tóm tắt ba chủ đề chính chi phối lời làm chứng truyền giảng của Phaolô cho Phêlít và Đơrusi. Ba chủ đề nầy là gì, và dựa vào bối cảnh tiểu sử trên đây, vì sao chúng đặc biệt thích hợp cho Phêlít và Đơrusi?
..........
14. Khi bạn suy gẫm bài giảng và lời làm chứng cá nhân của Phaolô về Đức Chúa Jesus cho nhiều người trong sách Côngvụ, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
a. Phaolô luôn luôn nhạy bén với nhu cầu và tính độc đáo của mỗi tình huống hay của mỗi người.
b. Phaolô luôn luôn dùng cùng một công thức như nhau khi làm chứng và giảng đạo, dầu tình hình có ra sao đi nữa.
c. Phaolô trước tiên và quan trọng hơn hết chính là một người giảng đạo; do đó, ông nhấn mạnh vào công tác giảng đạo để làm phương tiện đem Tin Lành đến cho người khác, hoặc cho cá nhân, hoặc cho đám đông.
Hãy quan sát sự khôn ngoan của Phaolô khi ông tiếp xúc với họ. Ông không tiếp cận họ như cách trước kia đã từng làm, ví dụ như, với người Athên khi ông tranh luận với họ về sự thực hữu của Đức Chúa Trời chẳng hạn. Trái lại, Ông tiếp cận với Phêlít và Đơrusi trên bình diện nhu cầu của họ. Với tài khéo và tình yêu thương hoàn hảo, ông đã có can đảm để nói ra lẽ thật, dầu như thế thật là một việc rất liều lĩnh.
15. Phân tích kỹ 24:24-27. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và mô tả những phương cách đáp ứng khác nhau của Phêlít trước lời làm chứng của Phaolô?
a. Phêlít là một người tự cao và tự mãn, và ông chỉ nghe Phaolô nói cho vui thôi.
b. Ông hoảng sợ (có lẽ trước viễn cảnh là chính ông, một quan án, sẽ bị đoán xét bởi Đức Chúa Trời).
c. Phêlít chần chừ và trì hoãn không chịu quyết định chung cuộc, và trở thành một tấm gương về thảm kịch của những người làm ngơ không chịu tiếp nhận Đấng Christ.
d. Thật ra, Phêlít tỏ ra hiểu biết nghiêm túc về Đạo và đã tỏ ra bằng chứng đời sống được thay đổi nhờ lời làm chứng của Phaolô.
e. Thật ra, Phêlít là một người bại hoại, tham nhũng, bí mật gợi ý gần xa rằng tiền (của đút lót) sẽ có thể khiến cho Phaolô được thả.
f. Phêlít tỏ ra khuynh hướng tri thức hóa sứ điệp Tin Lành. Ông lắng nghe liên tiếp nhưng tất cả những cuộc nói chuyện chẳng đem lại sự biến đổi nào cho đạo đức hay tâm linh.
g. Phêlít tỏ ra nhiều dấu hiệu làm lộ thủ đoạn của ông. Ông bỏ mặc Phaolô trong ngục hai năm mà không buộc ông một tội nào đáng truy tố, và cũng không hề có cuộc xét xử vô tư và công bằng nào. Ông làm như thế cốt để làm thỏa mãn hay xoa dịu thành phần Do thái cứng rắn mà ông đã làm cho họ xa lánh trong những trường hợp trước đây.
Phêlít đã bị Nero triệu hồi vào năm 59 S.C. và đã biến mất khỏi niên sử. Giây phút tuyệt vời để được cứu đã qua mất. Josephus thuật lại rằng con trai của Phêlít và Đơrusi đã chết trong trận phun dung nham núi lửa của núi Vesuvius ở Pompeii, Italy vào năm 79 S.C.
16. Bạn đã có lần làm chứng hay có đang làm chứng cho người nào mà họ đáp ứng với Tin Lành cách tương tự với cách của Phêlít và Đơrusi không? Bạn đánh giá thế nào về câu nói nầy: "Khi một người đến địa ngục, người ấy sẽ thấy cửa để thoát khỏi địa ngục bị khóa trái"?
..........
PHAOLÔ TRƯỚC MẶT PHÊTU
Những Thủ Đoạn Xét Xử
25:1-12 Bruce 475-479
Mục tiêu 4. Thảo luận những sự phát triển trong vụ án Phaolô mà buộc ông phải kêu nài đến Sêsa.
Chúng ta không biết gì về cuộc đời của Phêtu trước khi ông trở thành quan tổng đốc xứ Giuđê. Tuy nhiên, chúng ta biết ông đã được Nero bổ nhiệm, và Josephus xem ông là một quan khôn ngoan và công minh. Tuy nhiên, cách ông đối đãi với Phaolô thì không khôn ngoan, mà cũng chẳng công minh. Ông chỉ sống được hai năm sau khi đến xứ Giuđê.
17. Khi Phêtu đến Giêrusalem, các thầy tế lễ cả và các lãnh đạo trong dân Giuđa cố gắng muốn Phêtu đưa Phaolô về xét xử tại Giêrusalem. Luca cho thấy rõ động cơ của họ khi yêu cầu như thế: muốn có thêm cơ hội nữa để ám sát Phaolô. Trong suốt sách Côngvụ, những vũ khí duy nhất được dùng để chống lại tín đồ ấy là những lời dối trá và bạo lực. Hành động như thế không bao giờ được căn cứ vào lẽ thật hay công lý. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và giúp giải thích nguyên nhân khiến cấp lãnh đạo Do thái xin Phêtu giải giao Phaolô về Giêrusalem ngay từ buổi đầu nhiệm chức của ông?
a. Có thể ông sẽ sẵn lòng chấp thuận lời thỉnh cầu của họ để cho sự quản trị của mình được khởi đầu tốt đẹp khi tiếp xúc với cấp lãnh đạo Do thái.
b. Phêtu là một người bài Cơ đốc giáo cách hung bạo, và họ có thể tin chắc là ám sát thành công.
c. Là một quan tổng đốc mới, ông thiếu kinh nghiệm trong những vấn đề hành chánh của xứ Giuđê. Sự thiếu kinh nghiệm đó có thể khiến cho ông chấp nhận những bước mà người tiền nhiệm của ông, là Phêlít, đã từ chối.
d. Phêlít bị người Lamã triệu hồi do đã can thiệp vào một vụ rối loạn dân sự, lúc ấy ông đã giết chết nhiều lãnh đạo Do thái cách tàn bạo. Người ta có thể tin Phêtu sẽ chiều theo một vài thỉnh cầu của những lãnh đạo Do thái để khỏi kéo dài sự căng thẳng vốn đặc trưng cho sự cai trị của Phêlít.
Chúng ta không biết gì về sự hiểu biết trước đó của Phêtu về Cơ đốc giáo. Thực ra, dường như ông chưa biết đến đề tài nầy - nên đã yêu cầu Ạcrípba giúp đỡ để tìm hiểu vụ án của Phaolô. Rõ ràng các lãnh đạo Do thái đã nghĩ có thể tin tưởng vào ước muốn cho mọi sự khởi đầu êm đẹp, vào sự thiếu kinh nghiệm của Phêtu, và ước muốn có thể dứt khỏi mối giao tiếp thù địch của Phêlít với những đối thủ người Do thái. Phêlít đã nhượng bộ để giam Phaolô, có lẽ Phêtu sẽ đi xa hơn trong chính sách xoa dịu. Ít ra thì đây cũng là sự chờ đợi của họ.
Phêtu đã khôn ngoan khước từ việc giải giao Phaolô về Giêrusalem. Sau khi đến tổng hành dinh tại Sêsarê mới ba ngày, trước khi lên Giêrusalem, chắc Phêtu không biết gì về vụ án Phaolô. Tuy nhiên, ông đủ khôn ngoan để biết rằng một vị quan thận trọng không thể ra quyết định về những trường hợp quan trọng mà không hiểu biết cơ bản về các vấn đề đó. Như các sự kiện cho thấy, Phêtu đã không phản đối việc chuyển Phaolô về Giêrusalem (25:9), nhưng ông dành thì giờ thu thập thông tin về bản chất những lời buộc tội trước khi ra quyết định. Khi quan tổng đốc đã thấy Phaolô là trung tâm cuộc tranh luận của người Do thái (25:7-8), chứ không phải người đã vi phạm luật pháp Lamã hay bị buộc tội bạo loạn, thì ông sẵn sàng giao Phaolô cho các quan tòa Do thái.
18. Một lần nữa Luca ghi lại sự phá sản của vụ kiện Phaolô (25:7) và sự phủ nhận từng điểm một của Phaolô trước ba lời buộc tội ông. Đáp ứng của Phaolô trong 25:8 (mà có thể đây là phần tóm lược) bác bỏ phù hợp thế nào trước mỗi lời buộc tội ông (24:5-6)?
a ..........
b ..........
c ..........
19. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và giúp giải thích nguyên nhân khiến Phaolô kêu nài đến Sêsa, khi sử dụng quyền lợi công dân Lamã của ông để kêu nài như thế tại bất cứ thời điểm nào trong vụ kiện?
a. Làm theo tiến trình mà Phêtu dự định khi cho ông chịu xử tại Giêrusalem có nghĩa là cái chết hầu như chắc chắn cho ông.
b. Khác với Phêlít, Phaolô luôn luôn thấy các quan tòa Lamã cực kỳ công minh khi họ xét xử ông. Có thể ông đã cảm thấy tại ngay Rôma thì sẽ có viễn ảnh công bằng và vô tư như ông đã được xét xử trước mặt Galiôn vậy.
c. Ông nghĩ rằng thà chịu xét xử trước mặt một vị vua bại hoại như Nero kia mà còn được công minh hơn là bị xét xử tại Giêrusalem.
Lòng tin nơi Rôma của Phaolô dường như đã được xác nhận bởi sự đối đãi ông nhận được tại đó (28:28-30). Như Bruce nêu ra (trang 479, Nero đã không tấn công Cơ đốc nhân mãi cho đến năm 64 S.C., và trong thời gian nầy, sự cai trị của ông được đặc trưng bởi sự ngay thẳng và chính sách cai trị tốt. Thực ra, năm năm cai trị đầu tiên của ông đã được xem như là "thời hoàng kim" thu nhỏ.
Khi Phêtu nghe Phaolô sử dụng quyền kêu nài đến Sêsa, thì Phêtu đã hội ý với những mưu sĩ của mình. Tuy nhiên, một mình ông có quyền ra lệnh chuyển vụ án đến Rôma, và ông đã chuyển. Thực ra, lời kêu nài kháng án của Phaolô đã trở thành lời quở trách Phêtu vì đã không chịu xét xử vụ án tại tòa của mình. Tuy nhiên, có thể Phêtu đã nhẹ nhõm khi để một vụ kiện đầy tính tranh cãi như thế được ra khỏi quyền hạn của mình. Với tính khí của người Do thái lúc bấy giờ, vụ án nầy rất có thể gây sóng gió cho bước khởi đầu chức vụ của Phêtu.
20. Một lần nữa, quyền công dân của Phaolô lại cứu mạng ông. Đọc lại những phân đoạn trong sách Côngvụ mà quyền công dân đã tỏ ra quý báu cho ông. Mô tả mỗi trường hợp.
a. 16:35-40 ..........
b. 22:22-29 ..........
Tra Xét Lời Truy Tố
25:13-27 Bruce 480-485
Mục tiêu 5. Giải thích Phêtu đã cố gắng giải quyết thế nào cho tình trạng nan giải thiếu lời buộc tội cụ thể chống lại Phaolô nầy.
Sau hai năm bị giam trong ngục tại Sêsarê, người ta vẫn chưa thành lập được lời buộc rõ ràng và có thể truy tố nào chống lại Phaolô. Những lời buộc tội đã được đưa ra (24:5-6; 25:7), nhưng không có chứng cớ nào hay nhân chứng nào để xác nhận chúng. Có thể Phêtu đã nhẹ nhõm vì lời kêu nài kháng án của Phaolô có nghĩa là vụ án nầy sẽ không còn lẩn quẩn tại Sêsarê để làm hại bước khởi đầu chức vụ của ông tại Sêsarê nữa, nhưng ông lại đối diện với sự lúng túng vì gởi một phạm nhân đến Sêsa mà không có một lời buộc tội nào có thể truy tố được. Sự thay đổi nơi xét xử có thể giải quyết được nan đề nầy, nhưng lại làm nảy sinh một nan đề khác.
Khi Ạcrípba đến Sêsarê để chính thức chào mừng Phêtu đến nhiệm sở mới, Phêtu đã nhơn cơ hội gặp nhau để cùng Ạcrípba xét về vụ Phaolô.
21. Hêrốt Ạcrípba II là Hêrốt thứ tư được nêu tên trong Tân Ước. Ba người kia có trong Mat Mt 2:1-22; 14:1-12 và LuLc 12:1-23. Cho biết điều gì phân biệt mỗi người nầy trong các câu chuyện của Kinh Thánh.
a. Mat Mt 2:1-22..........
b. 14:1-12; LuLc 23:8-10..........
c. Cong Cv 12:1-23..........
Khi cha ông chết vào năm 44 S.C., Hêrốt Ạcrípba II được 17 tuổi. Bêrênít và Đơrusi, hai em gái của ông, lúc đó là 16 và 6 tuổi. Trong 25:1-27, lúc đó vào khoảng năm 59 hay 60 S.C., thì Ạcrípba và Bêrênít vào khoảng vừa ngoài ba mươi. Khi cha họ chết, Ạcrípba II không được truyền lại lãnh thổ của cha mình vì những nan đề chính trị phức tạp trong lãnh thổ và vì tuổi chưa trưởng thành của ông. Sau nầy, ông đã được giao cai trị phía bắc xứ Giuđê, gồm cả Galilê, và ông cũng được quyền bổ nhiệm những thầy tế lễ thượng phẩm. Trong tất cả những Hêrốt, ông được xem như là người thành thạo nhất trong những vấn đề của luật pháp Do thái.
theo Josephus, Bêrênít đã hứa hôn hoặc đã thành hôn vào tuổi 11 hoặc 12. Nhưng lên 13 tuổi, cha nàng đã cho nàng kết hôn với anh trai của nàng, là Hêrốt xứ Chalcis (không được nêu tên trong Tân Ước). Nàng góa chồng vào năm 20 tuổi, năm 48 S.C. Có tin đồn là nàng đã bắt đầu mối quan hệ loạn luân với anh trai mình (không ngạc nhiên gì trong tinh thần sự loạn luân liên tiếp của gia đình Hêrốt). Sau đó bà cưới Polemon, vua xứ Silici (lãnh thổ của quê hương Phaolô), nhưng đã bỏ ông ta. Khi bà gặp Phaolô, bà đã quay về lại với anh trai mình.
22. Với phần tóm tắt đầy đủ, Phêtu đã ôn lại cho Hêrốt Ạcrípba những hoàn cảnh dẫn tới việc ông liên quan đến vụ Phaolô (25:14-21). Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và mô tả đúng nhất phản ứng của Phêtu đối với những lời buộc tội Phaolô?
a. Ông đã kết luận rằng chúng là những vấn đề nghiêm trọng thuộc về luật pháp Lamã, ví dụ như, kích động bạo loạn và tổ chức những hoạt động chống Lamã và trái luật pháp.
b. Tuy thoạt đầu ông cho rằng những lời buộc tội Phaolô là vì cớ những tội hình sự Phaolô đã thực phạm, nhưng ông đã khám phá ra những lời buộc tội Phaolô thực sự mang tính thần học.
25:18 cho thấy rõ rằng Phêtu không biết chính xác trường hợp của Phaolô cho đến khi nghe ông đối nại trước tòa. Phêtu cũng biết đôi chút về Jesus, và xác định Jesus như là "tên đã chết kia, mà Phaolô quyết rằng còn sống."
Ngày kế sau khi gặp riêng với Ạcrípba, Phêtu đã mở phiên tòa xử Phaolô. Luca phơi bày chính xác sự kiêu ngạo của Hêrốt Ạcrípba và của Bêrênít bằng cách cho thấy rằng họ vào cách "rất long trọng," một sự tương phản rõ ràng giữa sự ô uế và đồi bại trong lối sống của họ với sự thẳng thắn của vị sứ đồ, là người sắp đứng trước mặt họ. Vì Phêtu không những mời Ạcrípba và Bêrênít đến phiên tòa mà còn mời cả những quan chức cao cấp (liệu Cọtnây có thể hiện diện trong số nầy chăng?) và những bậc tôn trưởng trong thành, nên Phaolô đã có cơ hội rất quan trọng để rao giảng Tin Lành - một cơ hội mà ông đã tận dụng tối đa.
23. Đọc những chi tiết trong sứ mạng Chúa trao cho Phaolô qua Anania, 9:15. Thành phần nào trong sự kêu gọi Phaolô giờ đây được ứng nghiệm lần đầu tiên?
..........
Lời giới thiệu Phaolô của Phêtu cho thính giả đặc biệt nầy (25:24-27) đã tóm tắt mục đích của phiên tòa.
24. Lời tuyên bố công khai của Phêtu về trường hợp Phaolô (25:25) khác thế nào với lời đánh giá riêng của ông với Ạcrípba (25:18-19)?
..........
Ạcrípba, người đã có kiến thức khá chính xác về nội vụ và những tranh luận của người Do thái, đang được Phêtu yêu cầu công khai để giúp điều tra phạm nhân, hầu tìm ra lời buộc tội có thể truy tố được. Phần kết thúc màn giới thiệu của Phêtu là một ví dụ kinh điển cho sự nói bớt đi: "Tôi nghĩ rằng giải một tên phạm mà chẳng nói rõ đều người ta kiện nó, thì là trái lẽ lắm" (25:27).
Sự Biện Hộ Của Phaolô
26:1-32 Bruce 486-497
Mục tiêu 6. Thảo luận bài nói chuyện của Phaolô với Ạcrípba, và mô tả những đáp ứng của Phêtu và Ạcrípba trước lời biện hộ của Phaolô.
25. Bài nói chuyện của Phaolô với Ạcrípba là bài biện hộ thứ sáu của Phaolô được ghi lại trong sách Côngvụ kể từ khi ông bị bắt trong đền thờ hai năm trước. Xem những câu Kinh Thánh sau đây và tóm tắt những trường hợp mà Phaolô đã tự bênh vực cho mình. Ông đã tự bênh vực cho mình trước
a. 22:1-21
..........
b. 22:25-29
..........
c. 22:30-23:10
..........
d. 24:10-21
..........
e. 25:6-10
..........
26. Đọc hết bài nói chuyện của Phaolô với Ạcrípba và tóm tắt nội dung của ông trong từng phần sau.
a. 26:2-3
..........
b. 26:4-8
..........
c. 26:9-11
..........
d. 26:12-18
..........
e. 26:19-20
..........
f. 26:21
..........
g. 26:22-23
..........
27. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và phản ánh cách Phaolô tiếp cận Ạcrípba ngay từ đầu bài nói chuyện của ông?
a. Ông đả kích Ạcrípba và Bêrênít vì tội lỗi trong đời sống của họ.
b. Ông giữ theo thói quen thường lệ để khen ngợi những hành động nào mà có thể thực sự khen được.
c. Ông tỏ ra nghi ngờ tài năng Ạcrípba khi xét xử vụ án của ông, đặc biệt là dựa vào toàn bộ lịch sử gia đình Hêrốt đối với vấn đề của Đức Chúa Jesus.
d. Ông tin nơi việc Ạcrípba xét xử ông, bằng cách cho thấy ông biết Ạcrípba hiểu biết về các vấn đề của người Do thái.
Dầu người nghe có xấu đến mức nào đi nữa, Phaolô không bao giờ bắt đầu làm chứng bằng cách làm cho thính giả xa lánh ông qua những câu nói đoán xét. Chính Phaolô đã là người đứng đầu trong số những tội nhân; do đó, ông có thể luôn luôn tiếp cận việc làm chứng không với một cảm giác kẻ cả, nhưng với lời thú nhận hoàn toàn rằng: "Không ai có thể xấu xa hơn tôi được!" Và tuy Ạcrípba xuất thân từ một gia đình sát nhân, nhưng Tin Lành không bắt cá nhân nầy phải gánh trách nhiệm tội lỗi của những người khác. Và Phaolô sẵn sàng chấp nhận vị vua trẻ nầy là không có tội. Do đó, ông vui vẻ bắt đầu bài nói chuyện tự bênh vực mình, hoàn toàn tin tưởng tài năng của quan án đang xét xử mình. Và ông công khai khen ngợi tài năng của Ạcrípba một cách lịch sự. Khác với nỗ lực của Tẹttulu để cố gắng thu hút sự chú ý bằng cách hứa hẹn nói ngắn (24:4), Phaolô đã yêu cầu Ạcrípba nghe ông nói dài (26:3).
28. Phaolô đã nhất quán duy trì tính Do thái trong niềm tin của mình qua suốt bài biện hộ. Ông đã có truyền thống thần học chân truyền: tin nơi sự phục sinh. Căn nguyên những nan đề pháp lý của ông là chính vấn đề nầy. Phaolô đã bao nhiêu lần nêu vấn đề trọng tâm rằng tội phạm thực tế của ông chính là niềm tin nơi sự sống lại, và đã nêu ra cho những ai?
..........
Là người Pharisi, Phaolô đã tin nơi khái niệm phục sinh, nhưng phủ nhận sự phục sinh của Đức Chúa Jesus. Phaolô chỉ xem lời tuyên bố Đức Chúa Jesus phục sinh như là một lời phạm thượng với giáo lý sự phục sinh; do đó, ông đã bắt đầu với lòng sốt sắng bắt bớ vì tôn giáo để dập tắt tà giáo nầy.
Rất nhiều người trong nhóm thính giả đặc biệt của Phaolô đây không hề chấp nhận giáo lý sự phục sinh, và Phaolô đã nghĩ điều nầy chẳng có thể tin được (26:8). Trước đây, ông đã luôn luôn tin nơi sự phục sinh. Trở thành một môn đồ Đấng Christ đã không thay đổi niềm tin ấy. Sự thay đổi nầy đã đến trong nội dung và phương cách mà ông truyền đạt niềm tin nơi sự phục sinh. Trước khi gặp Đấng Christ, ông đã vì cớ bênh vực cho giáo lý ấy mà giết người. Không lấy gì làm lạ khi Phaolô không hề xỉ vả, nghĩa là lấy lời nói công kích, cách xử bất công đối với ông - chính ông đã không cho người khác quyền được phát biểu và được xử công bằng. Lòng sốt sắng cuồng tín và lòng tận tụy mù quáng mà ông đã dùng để bênh vực đạo cựu truyền của tổ phụ đã khiến ông đi đến những thành nằm ngoài biên giới Palestine. Ông cố gắng săn đuổi những người Do thái đã phản bội giáo lý phục sinh bằng cách dám tin rằng Jesus đã sống lại!
Đang khi đi công vụ đến Đamách để tìm kiếm những kẻ tà giáo, chính Phaolô đã gặp được Đấng Christ Phục Sinh trong một khải thị từ thiên đàng.
29. Những câu nào sau đây là câu ĐÚNG về sự Phục sinh?
a. Những người Pharisi trung tín đã tin vào sự phục sinh của kẻ chết, và đã thấy sự ứng nghiệm lòng trông cậy của tổ phụ Ysơraên không hề tách biệt khỏi niềm tin đó.
b. Người Sađusê, là nhóm chiếm đa số trong Tòa Công Luận, ủng hộ mạnh mẽ niềm tin nơi sự sống lại.
c. Sự sống lại đã đem lại lòng trông cậy cho dân tộc Y-sơ-ra-ên, vì sự trông cậy nầy chính là niềm hy vọng Đức Chúa Trời sẽ giữ lời hứa Ngài đã lập với tổ phụ từ xa xưa rồi.
d. Ý của Phaolô ấy là: niềm tin nơi lời hứa của Đức Chúa Trời đã lập với tổ phụ họ là niềm tin giờ đây đã có hiệu lực, vì Đức Chúa Trời đã khiến một người từ kẻ chết sống lại rồi. Và bởi chính sự kiện nầy, Ngài đã chứng tỏ rằng Con Người chính là Đấng Mêsia mà dân Ysơraên đã mong đợi từ lâu nay.
30. Câu chuyện sự hoán cải của Phaolô được kể ba lần trong sách Côngvụ: một lần do Luca kể (9:1-19), và hai lần do Phaolô kể lại (22:1-21 và 26:12-18). Khi bạn đối chiếu ba câu chuyện nầy, những chi tiết mới nào đã xuất hiện trong câu chuyện ông kể cho vua Ạcrípba? Đâu là những nguyên nhân khiến Phaolô kể thêm những chi tiết mới và kể những câu chuyện khác nhau? Chọn những câu nào trả lời ĐÚNG cho các câu hỏi trên đây.
a. Câu nói: “Ngươi đá đến ghim nhọn thì là khó chịu cho ngươi vậy,” là câu mới và có thể phản ánh sự tranh chiến nội tâm của Phaolô về việc ông phủ nhận Đấng Christ và sự bắt bớ tàn khốc các thánh đồ.
b. Những chi tiết mới trong bài nói chuyện nầy về những lời nói của Chúa cho Phaolô trên con đường Đamách là có liên quan đến câu nói: "Hỡi Saulơ, Saulơ, sao ngươi bắt bớ ta?"
c. Những chi tiết về việc “đá đến ghim nhọn” có thể được tường thuật lại ở đây để bày tỏ cho thính giả (và cho chúng ta) biết sự tranh chiến nội tâm của ông trước cách ông đối xử với Êtiên và những tín đồ khác, tức là đối với những người mà ông đã bắt bớ họ cách sai lầm. Và như ghim nhọn được dùng để thúc vào một con bò đực cứng đầu đang chống lại cái cày trên vai nó thể nào, thì lương tâm Phaolô có thể đã liên tục bị thúc bởi những ký ức về sự hà hiếp tàn bạo của mình đối với Cơ đốc nhân thể ấy.
d. Khi thuật lại những chi tiết về sứ mạng Chúa đã giao cho ông trong 26:16-18, Phaolô không tiết lộ theo đúng trình tự thời gian cho những chi tiết liên quan đến sứ mạng, sự hoán cải, cuộc nói chuyện với Anania, và sự hiện thấy trong đền thờ; trái lại, ông đã nêu ra một cách vắn tắt.
e. Những câu chuyện về sứ mạng của Phaolô trong Côngvụ đoạn 9 và 22 thì khác với câu chuyện trong đoạn 26, vì chúng cho thấy sứ mạng của Phaolô đã đến qua Anania và qua sự hiện thấy trong đền thờ.
f. Nguyên nhân hợp lý cho sự khác nhau trong câu chuyện của Côngvụ 26 chính là: khi ông đứng trước Ạcrípba, Phaolô đã nhận thức rất rõ rằng ông cần phải nói vắn tắt. Thuật lại toàn bộ các chi tiết trong từng trải của ông với Đấng Christ hẳn sẽ tẻ nhạt và không thích hợp cho thính giả chưa tin Chúa.
31. Hai nhiệm vụ đặc biệt trong chức vụ của Phaolô cho dân ngoại bang hình thành nên một mạng lịnh trong sự phong chức cho mọi mục sư. Theo như trong Cong Cv 26:18, đó là hai nhiệm vụ nào?
a.
..........
b.
..........
Mục đích của việc mở mắt và được đến quyền phép của Đức Chúa Trời là để cho họ có thể nhận được sự tha thứ tội lỗi và có được địa vị giữa vòng những kẻ được nên thánh bởi đức tin trong Đấng Christ. Quả là một sứ mạng trọng đại biết bao! Đem cho người khác sự sáng để thay cho bóng tối, đem quyền năng đến để thay cho ách nô lệ, đem sự tha thứ đến để thay cho tội lỗi, và đem lại một địa vị trong gia đình của Đức Chúa Trời, chứ không phải để loại ra khỏi gia đình đó.
Phaolô đã sống trong tinh thần vâng giữ sứ mạng nầy. Chính vì làm trọn sứ mạng đó mà ông đã bị bắt tại trong đền thờ.
Phaolô thuật lại cho Ạcrípba rằng bản thể của đức tin ông đã được tìm thấy trong sách Luật Pháp và sách Tiên Tri. Rõ ràng, ông đã trích dẫn từ hai loại sách nầy để dẫn chứng những lời tiên tri về sự chịu thương khó, sự phục sinh của Đấng Christ, và về sự rao giảng sự sáng cho cả dân Do thái lẫn dân ngoại bang.
Đến giữa bài nói chuyện của Phaolô, có thể là khi ông vừa thuật lại thuộc lòng thật khéo léo và thật hùng hồn vô số phân đoạn Kinh Thánh Cựu Ước, thì Phêtu đã ngắt lời. Phêtu không thể không có ấn tượng sâu sắc trước năng lực trí tuệ của vị sứ đồ, mà nó đã được thể hiện qua những kỹ năng diễn thuyết và trí nhớ của vị sứ đồ. Nhưng thiên tài trí thức như thế mà đem tập trung vào những vấn đề thần học thì đối với Phêtu chẳng khác gì mất trí! Giống như nhiều người ngày nay, khi đã bác bỏ khả năng tiên nghiệm (không có khảo sát trước), thì Phêtu chỉ có nước ngắt ngang, tuyên bố những tài năng trí tuệ của Phaolô bị phí phạm mà thôi. Khác với Phierơ và Giăng (Cong Cv 4:13), Phaolô không phải là người thất học. Nhưng giống với họ, Phaolô đã ở với Đức Chúa Jesus. Kết hợp trí tuệ uyên thâm và lòng tận tụy với Đấng Christ của Phaolô, không bao giờ có thể kết tội Phaolô là ngu dốt được.
32. Đọc lại 26:24 và so sánh câu nói của Phêtu về học thức của Phaolô với 9:15; 22:3; Phi Pl 3:4-6. Bây giờ đọc lại Bruce trang 124-126 và 440 về bối cảnh giáo dục của Phaolô nơi chân Gamaliên. Từ những câu Kinh Thánh trên và từ phần nhận định của Bruce, chúng ta có thể rút ra kết luận nào sau đây? Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong mỗi câu hỏi sau đây.
a. Phaolô đã được đào tạo tại Giêrusalem tại nơi chân giáo sư Gamaliên, vị giáo sư nổi tiếng nhất thời bấy giờ.
b. Đức Chúa Trời đã đặc biệt sai phái Phaolô vào chức vụ bao gồm việc làm chứng trước mặt dân ngoại bang, các vua , và con cái Ysơraên.
c. Saulơ, học trò của vị giáo sư Gamaliên lừng lẫy, đã rất giống thầy mình trong sự ôn hòa, chừng mực và khoan nhân, là những đặc điểm mà được xem như buộc phải có do học vấn và từng trải của ông.
d. Về lòng sốt sắng vì tôn giáo, Saulơ không thua kém một ai trong số những người đồng trang lứa, và lòng sốt sắng nầy được thể hiện trong việc tàn phá cộng đồng Cơ đốc non trẻ (vì lòng sốt sắng của ông tại thời điểm nầy "không phải là theo trí khôn," RoRm 10:2).
e. Như vậy, chúng ta có thể kết luận Phaolô thực sự là một chiếc bình được chọn, được chuẩn bị đặc biệt cho vai trò mà ông sẽ đảm đương trong công tác làm chứng trước mặt người thuộc mọi tầng lớp xã hội. Và chúng ta cũng có thể kết luận rằng tri thức uyên thâm của ông đã được dâng hiến trọn vẹn cho Thầy mình.
Thế giới rộng lớn hơn của nền học thuật phi Cơ đốc nhìn xem những con người lỗi lạc ngày nay mà tin nơi Đức Chúa Jesus - giống như Phaolô - bằng đôi mắt khinh rẻ cũng giống như cách nhìn của Phêtu vậy. Làm thể nào một trí thức tài năng lại tận tâm với những tình trạng mất trí như là niềm tin nơi khải thị thành văn của Đức Chúa Trời (sách Luật Pháp và Tiên Tri), nơi sự sống lại của một con người - là Jesus - như thế? Một Cơ đốc nhân tài giỏi - như vị sứ đồ nầy - phải gạt bỏ sự khinh rẻ như thế và tiếp tục đem Tin Lành đến với con người thiếu chút nữa được thuyết phục rồi và sắp sửa tiếp nhận chân lý nầy.
Phaolô cảm thấy Ạcrípba đang ở tại vị trí như thế. Ông gạt lời nhận định của Phêtu sang một bên và nói trực tiếp với Ạcrípba, khen vua đã hiểu biết chính xác về nguồn gốc và sự phát triển của đức tin Cơ đốc, và về niềm tin của vua nơi các sách tiên tri.
Ạcrípba thấy mình đang lâm vào tình thế khó khăn. Dầu ông tin các sách tiên tri, liệu ông có tuyên bố ra trước mặt cử tọa đặc biệt thế nầy không? Ông không mất mặt lắm sao? Nhưng để giữ đức tin với nhóm người Do thái của mình, ông cũng không thể phủ nhận rằng mình đã tin. Ông đã thoát khỏi màn lưới lời mời tin Đấng Christ bằng một câu nói mỉa mai để tránh né cả câu hỏi của Phaolô lẫn sự cứu rỗi: "thiếu chút nữa ngươi khuyên ta trở nên tín đồ Đấng Christ!" (NIV - "Ngươi tưởng trong thời gian ngắn như thế mà thuyết phục ta thành Cơ đốc nhân được sao?").
Câu trả lời lịch sự của Phaolô trước lời mỉa mai nầy đã thể hiện tình yêu thương hoàn toàn không một chút cay đắng nào đối với con người của Ạcrípba và với vụ kiện nói chung. Ước ao tha thiết nhất của ông ấy là sự cứu rỗi của Ạcrípba và toàn thể thính giả, chứ không phải sự minh oan hay tha bổng cho bản thân mình. Thay vào đó, ông ước ao toàn thể những người nghe ông nói đây đều ở vào địa vị của ông, ngoại trừ xiềng xích của ông mà thôi. Địa vị của ông ấy là địa vị được bình an với Đức Chúa Trời, địa vị yên nghỉ trong sự an ninh của lẽ thật.
Nếu những quan án của Phaolô ra về mà chưa được cứu rỗi, thì cũng không đến nỗi họ ra về mà không hề xúc động chút nào. Ạcrípba và Phêtu đồng ý không có lý lẽ nào bắt tội được Phaolô, và nếu ông chưa kêu nài đến Sêsa thì có thể trả tự do cho ông được.
33. Trong Bài 1, chúng tôi gợi ý có thể một trong những nguyên nhân khiến Luca viết sách Côngvụ là để biện giải niềm tin. Điều nầy có nghĩa mục đích của ông có thể là chuẩn bị lịch sử cơ bản của Cơ đốc giáo, bày tỏ cụ thể rằng đây không phải là một đạo xúi giục nổi loạn. Trên phương diện nầy, sách Côngvụ thích hợp để dùng cho giới Lamã như là một tác phẩm biện giải Cơ đốc giáo (và có thể còn là tư liệu để Phaolô tự bênh vực trước mặt Sêsa). Với giả thiết nầy, câu nào sau đây phản ánh đúng cách mà tư liệu của Cong Cv 23:31-26:32 sẽ thực hiện mục đích của Luca? Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong mỗi câu hỏi sau đây.
a. Cả Phêlít và Phêtu đều thua kém khi đem so với tấm gương trước kia của Sêgiút Phaulút và của Galiôn trong cách đối xử với Phaolô.
b. Dầu đã được xử trong hơn hai năm trước mặt Phêlít, Phêtu, và Ạcrípba, nhưng hiện Phaolô được giải lên Rôma mà không có một lời buộc tội nào cụ thể để có thể truy tố.
c. Những vấn đề dẫn đến vụ bắt và giam Phaolô là những vấn đề thần học, chứ không phải những vấn đề liên quan đến mối lo của người Lamã.
d. Đến cuối thời kỳ ở tại Sêsarê, cả quan tổng đốc lẫn vua người Do thái đều đồng ý rằng Phaolô đáng được trả tự do. Họ hẳn sẽ thả ông nếu như ông chưa kêu nài đến Sêsa, là việc mà họ buộc phải tôn trọng.
Trong toàn bộ phần khác của sách Côngvụ, không có một lời tuyên bố nào rõ ràng hơn về bản chất chính xác của lời buộc tội Phaolô. Có thể việc Sêsa sau nầy bãi bỏ lời buộc tội ông (mà sách Côngvụ không nói, nhưng có thể suy ra từ Kinh Thánh Tân Ước), chính là do nhược điểm vốn có ngay từ đầu của vụ án nầy.
Vẫn còn lại một điểm khó hiểu thú vị về lịch sử. Luca đã lấy đâu ra cuộc nói chuyện riêng giữa Ạcrípba và Phêtu (Cong Cv 25:13-22; 26:30-32)? Sự khải thị siêu nhiên chăng? Khả nghi lắm - vì cớ thông tin nội bộ trước kia đã đến qua những nguồn tự nhiên (23:12-22). Từ Bêrênít chăng? Không thể được! Sau nầy bà đã trở thành tình nhân của đại tướng Lamã, tướng Titus (người đã xâm lăng Giêrusalem), và của cha ông, là hoàng đế Vespasian. Ạcrípba chăng? Không chắc. Dầu ông còn sống đến năm 100 S.C., nhưng sự tiếp xúc ngắn ngủi với Phaolô trong dịp nầy dường như đã là lần đến gần Tin Lành nhất trong đời ông. Phêtu chăng? Ông sẽ chết trong hai năm nữa, và không chắc ông có tiết lộ những vấn đề trong buổi hội đàm riêng tư và chính thức của chính quyền cho các Cơ đốc nhân hay không.
Tôi cho rằng vì Cơ đốc giáo tại Sêsarê đã bắt đầu giữa vòng một số nhân vật có địa vị cao (10:24, 44), nên một số người là tín đồ (hoặc nhiều người) có địa vị cao trong tổ chức hành chánh của Phêtu, và họ đã biết những cuộc nói chuyện nầy và kể lại cho Luca.
TÓM TẮT
Mục tiêu 7. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung của Côngvụ 23:31-26:32.
34. Khi bạn suy gẫm nội dung của phần sách Côngvụ được đề cập trong bài học nầy, bạn có thể tái hiện tư liệu theo đúng trình tự của Luca mà không cần dùng đến Kinh Thánh được không?
..........
Bài tự trắc nghiệm
CÂU CHỌN LỰA. Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG nhất trong mỗi câu hỏi sau đây.
1. Trong chuyến quay lại vùng Nam Galati, Phaolô và Banaba đã bảo cho các tín hữu rằng: “phải trải qua nhiều nỗi khó khăn mới vào được nước Đức Chúa Trời" (Cong Cv 14:22). Dựa vào kiến thức của bạn về vị sứ đồ từ lúc đó cho đến lúc đứng trước mặt Ạcrípba, bạn có thể kết luận rằng
a) ông hoàn toàn công nhận nhu cầu cần phải được thử thách và gặp nghịch cảnh trong đời sống của Cơ đốc nhân, và vui vẻ chấp nhận tiến trình nầy.
b) đôi khi chúng ta thấy bằng chứng cho thấy sự kiên nhẫn của ông cạn dần, và trở nên nghi ngờ lòng tận tụy với sự hầu việc Chúa.
c) nghịch cảnh và sự gian khổ là chuyện tình cờ đối với sự tăng trưởng và phát triển của Cơ đốc nhân. Chúng là phần cho những kẻ không thiêng liêng hoặc những người có tâm linh không trưởng thành, và chỉ có thể dung chịu chúng, chứ đừng bao giờ xem chúng như là những nguồn của sự vui mừng.
2. Tình trạng bị giam cầm của Phaolô đã hạn chế sự tự do đi lại và chức vụ truyền giáo chung của ông. Đáp ứng của ông đối với sự giam cầm nầy có thể mô tả đúng nhất qua câu nào sau đây?
a) Ông dần dần tỏ ra quá đuối sức, và ông nhanh chóng chỉ ra sự bất công của luật pháp Lamã và định kiến của những người vu cáo ông.
b) Phaolô đã thể hiện tinh thần của Đức Chúa Jesus. Ông đã lịch thiệp với những kẻ bắt giữ mình, rộng lượng đối với những quan án của mình, và biết ơn Đức Chúa Trời ngay cả trong những cơ hội bị cầm tù.
c) Giống như Gióp, ông thắc mắc không biết sự giam cầm nầy đem lại lợi ích gì, vì dường như không có một nguyên nhân hợp lý nào để phải ở tù hơn hai năm.
3. Câu chuyện của Luca về bài tự bênh vực của Phaolô đã nói rõ ràng rằng trước mặt Phêlít, Phaolô
a) đã bị truy tố rõ ràng về ba lời buộc tội dân sự.
b) được xóa sạch mọi lời buộc tội.
c) không bị kết án, nhưng ông bị giam mà không có lời buộc tội cơ bản nào trong khi chờ đợi những nhân chứng khác tới.
4. Luca nêu hết sự kiện nầy tới sự kiện khác và sử dụng những chứng cớ vững chắc khi phát triển vụ án của Phaolô để chứng tỏ Phaolô
a) không hề bị truy tố về bất cứ tội dân sự nào, nên do đó Phaolô cũng như Cơ đốc giáo không hề phạm vào tội xúi giục nổi loạn hay không trung thành.
b) là nạn nhân của sự thù địch giữa Do thái giáo và Cơ đốc giáo. Do đó, mục đích của Luca là phơi bày lòng thù ghét của Do thái giáo.
c) bị giam vào ngục vì cớ ông là nhà quán quân của Cơ đốc giáo người ngoại bang, và ông bị giam cầm là do lòng ganh ghét của những Cơ đốc nhân thiên về Do thái giáo.
5. Phêlít để cho Phaolô bị xiềng; Phêtu không có lời buộc tội nào để giải ông đến Rôma; Phaolô phủ nhận mọi lời buộc tội mình; và những kẻ kiện cáo ông không có bằng chứng để xác nhận những lời họ buộc tội Phaolô. Những câu trên cho chúng ta thấy một phần mục đích khiến Luca viết sách Côngvụ ấy là
a) để viết sử.
b) để giáo huấn.
c) để biện giải niềm tin.
6. Tòa Công Luận đã chia rẽ trong quyết định về tội của Phaolô. Người Pharisi tuyên bố rằng họ không thấy Phaolô phạm tội gì (23:9). Thực ra, theo lời Phaolô, ông phạm vào một lời buộc tội duy nhất (24:21) ấy là
a) ông cố gắng tiếp tục chức vụ của một người Do thái sùng đạo.
b) ông rao giảng từ sách Luật Pháp và các sách Tiên Tri.
c) sứ điệp của ông tập trung vào tính trung tâm của Sự Sống Lại.
7. Để đáp lại lời buộc tội ông là người cầm đầu phe Naxarét, Phaolô phản công bằng một câu trả lời rất hay, tuyên bố rằng ông là
a) lãnh tụ của Cơ đốc giáo, mà nó ngang hàng với Do thái giáo trong Cựu Ước, được chỉ định cai trị thế giới này mà thôi.
b) một người theo Đạo.
c) một trong những người đã được giải thoát khỏi những giới răn của Luật Pháp; Tuy nhiên, chỉ một mình ông bị giam cầm cách bất công mà thôi.
8. Nhiều người theo tân phái tuyên bố rằng Cơ đốc giáo chẳng qua chỉ là một trong vô số đạo tuyên bố là mình có chân lý tôn giáo. Phaolô phủ nhận điều nầy, bằng cách tuyên bố rằng Cơ đốc giáo là
a) là một khả năng để làm con đường đến với Đức Chúa Trời.
b) là Con Đường (Đạo) độc nhất vô nhị.
c) một sự cải thiện của Do thái giáo.
9. Đáp ứng của Phaolô đối với lời buộc chung chung của bên truy tố là đáp ứng cụ thể. Câu nào sau đây mô tả đúng nhất đáp ứng nầy? Ông tuyên bố rằng
a) là một người Do thái trung tín, ông có quyền ở tại Giêrusalem và dự lễ trong đền thờ.
b) những động cơ khiến ông đến thành Giêrusalem đều là động cơ đúng, lối cư xử của ông là không chỗ trách được, và sự bắt giữ ông là không có lý do xác đáng.
c) Cơ đốc nhân không hề được xét xử công bằng, và luôn luôn bị khước từ quá trình pháp lý đúng lẽ.
10. Đạo mà Phaolô nói đến là con đường chân lý. Phaolô nêu ra bốn khẳng định về đức tin. Chúng là
a) niềm tin nơi Đức Chúa Trời, nơi những bản ký thuật của các sách thánh, tin nơi một sự sống trong tương lai, và nơi hoạt động nào đó của lương tâm.
b) niềm tin nơi một vị thần tối cao, nơi một bộ luật pháp, nơi một tiêu chuẩn đạo đức, và nơi trách nhiệm trong tương lai.
c) niềm tin nơi Đức Chúa Trời của tổ phụ mình (người Do thái), nơi sách Luật Pháp và các sách Tiên Tri, nơi cùng một sự trông cậy của Do thái giáo, và có một lương tâm trong sạch.
11. CÂU GHÉP CẶP. Ghép phần mô tả, câu trích hay phần bổ sung ở cột bên trái với tên thích hợp ở cột bên phải. Một số tên gọi ở cột bên trái sẽ có nhiều phần mô tả hoặc phần bổ sung.
.... a Vùng Lamã thuộc quyền hạn của Phêlít và là quê hương của Phaolô.
.... b đáng ra phải đem chứng cứ cho những lời buộc tội Phaolô, vì họ là bên nguyên cáo.
.... c Kế nhiệm chức quan tổng đốc xứ Giuđê sau Phêlít.
.... d Một trạng sư được người Do thái đưa ra để truy tố Phaolô.
.... e Một chuyên gia hay một nhà chuyên môn về tôn giáo Do thái.
.... f Đã nói: "Quan có thể dễ dàng xác minh... tôi lên thành Giêrusalem để thờ phượng."
.... g Từ ngữ mô tả được Phaolô dùng cho một trong người thờ phượng Đức Chúa Trời của tổ phụ họ nhưng lại bị kẻ thù gọi là một phe phái. .... h Sự sống lại của kẻ chết.
.... i Bị buộc tội là kẻ cầm đầu của phe Naxarét.
.... j Đã ra lệnh hoãn cuộc xử cho đến khi Lysia đến Sêsarê.
.... k Vợ của Phêlít và là em gái của Bêrênít.
.... l Khẩn cấp yêu cầu Phêtu chuyển Phaolô đến thành Giêrusalem để xét xử.
.... m "Tôi đáp lại rằng người Rôma chẳng có lệ giải nộp một người nào mà bên bị cáo chưa đối nại với bên tiên cáo..."
.... n Em gái của vua Hêrốt Ạcrípba II.
.... o "Hỡi Phaolô, ngươi lãng trí rồi! Ngươi học biết nhiều quá đến nỗi ra điên cuồng."
.... p "Thiếu chút nữa người khuyên ta trở nên tín đồ Đấng Christ!"
.... q "Nếu người nầy chưa kêu nài đến Sêsa, có thể tha được."
.... r Mười hai chi phái chúng tôi lấy lòng sốt sắng thờ phượng Đức Chúa Trời, cả đêm và ngày, mà trông đợi lời hứa ấy được trọn.
.... s Đã sợ khi nghe Phaolô nói về đức tin nơi Đức Chúa Jesus, về sự công bình, về sự tiết độ, và về sự phán xét.
.... t Đã đến Sêsarê cùng với một số trưởng lão và một luật sư để ra tòa với tư cách bên tiên cáo.
1) Bêrênít.
2) Tẹttulu.
3) Phaolô.
4) Đạo.
5) Người Do thái từ cõi Asi.
6) Sứ điệp đã được Phaolô đã kêu lên cho Tòa Công Luận.
7) Phêlít.
8) Đơrusi.
9) Bốttiu Phêtu.
10) Các thầy tế lễ cả và những lãnh đạo người Do thái.
11) Hêrốt Ạcrípba II.
12) Silisi.
13) Sự sống lại của kẻ chết.
14) Anania.
GIẢI ĐÁP
1.
a. Anania, thầy tế lễ thượng phẩm. Chính ông là người mà Phaolô gọi là “bức tường tô trắng” (Cong Cv 23:3).
b. Một vài trưởng lão. Đây là những nghị viên của Tòa Công Luận, rõ ràng là những người Sađusê, trong chừng mực mà người Pharisi đã về phe với Phaolô (23:9-10).
c. Một nhà diễn thuyết tên là Tẹttulu.
2.
a. Phêlít được ca tụng về sự bình an lâu nay dưới quyền cai trị của ông - một điều sai sự thật, trong chừng mực sự biến động chính trị liên tục đã đặc trưng cho thời kỳ cai trị của ông.
b. Lời ca tụng Phêlít của Tẹttulu về những cải cách vì cớ người Do thái là lời dối trá thứ nhì.
c. Ý thức biết ơn giả dối được bày tỏ với Phêlít - một thái độ mà toàn dân tộc không thực sự dành cho Phêlít.
d. Lời hứa sẽ nói ngắn gọn của Tẹttulu trước mặt Phêlít là một thủ đoạn nhằm làm cho Phêlít sẵn sàng chú ý đến những lời truy tố.
3.
a. Ông là người khuấy rối (kích động) những cuộc bạo loạn giữa vòng người Do thái trên khắp thế giới.
b. Ông là người cầm đầu phe Naxarét.
c. Ông đã cố gắng làm ô uế đền thờ.
4.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Sai.
5. b) Theo F. F. Bruce, không rõ Tẹttulu muốn nói gì với những từ ngữ "phe Naxarét" nầy.
6.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Sai.
7.
a. Trước mặt Tòa Công Luận.
b. Trước mặt các quan án tại thành Philíp.
c. Trước mặt Galiôn tại thành Côrinhtô.
8. Câu trả lời của bạn có thể hơi khác với câu trả lời của tôi,
a. Mở đầu đầy tự tin và lời khen ngợi.
b. Phủ nhận những lời buộc tội thứ nhất và thứ ba của Tẹttulu.
c. Đáp lại lời buộc tội thứ nhì của Tẹttulu.
d. Bản chất thật của lời phàn nàn ông.
9.
a. Ngày Phaolô đến tại Giêrusalem.
b. Ngày sau khi đến Giêrusalem, Phaolô gặp Giacơ và các trưởng lão.
c. Ngày thứ ba Phaolô ở tại Giêrusalem, nhận trách nhiệm bảo trợ cho bốn người mắc lời thề.
d. Ngày thứ tư của Phaolô, và là ngày sau lễ tẩy sạch của ông. Theo gợi ý của Bruce ở trang 468, bốn người nầy hầu như gần hoàn tất bảy ngày tẩy uế của họ.
e. Ngày sau khi Phaolô bị bắt tại đền thờ, ra trước mặt Tòa Công Luận.
f. Ngày sau khi ra ứng hầu trước Tòa Công Luận, lời Chúa hứa rằng Phaolô sẽ đến Rôma.
g. Ngay sau sự hiện thấy, âm mưu hại mạng sống Phaolô.
h. Phaolô được hộ tống ra khỏi Giêrusalem.
i. Ngày hôm sau, Phaolô ở tại Sêsarê.
j. Năm ngày sau khi Phaolô đến Sêsarê.
10. b) hiểu rằng những lời buộc tội ông thực sự mang bản chất tôn giáo và thần học.
11.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Sai.
12.
a. Philíp, nhà truyền giảng, đã định cư tại Sêsarê.
b. Sau chuyến viếng thăm Giêrusalem lần thứ nhất của Phaolô với tư cách một tín đồ, ông đã được các anh em đưa ra khỏi Giêrusalem để đến Sêsarê, và từ đó đã được đưa đến Tạtsơ.
c. Cọtnây, người nhà và bạn hữu của ông đã hình thành những hạt nhân của hội thánh dân ngoại bang đầu tiên tại Sêsarê.
d. Phaolô đã thăm Sêsarê vào cuối hành trình truyền giáo lần thứ nhì.
e. Trên đường đến Giêrusalem, Phaolô đã dừng chân tại Sêsarê, ở lại trong nhà Philíp. Chính tại Sêsarê, Agabút đã nói tiên tri về sự giam cầm Phaolô tại Giêrusalem.
13. Những chủ đề nầy là sự công nghĩa, sự tiết độ và sự phán xét hầu đến. Sự công nghĩa: vì cả hai đều thiếu. Sự tiết độ: Vì nếp sống hôn nhân của họ và sự tàn bạo của Phêlít đối với những đối thù của mình đã thể hiện thiếu tiết độ. Sự phán xét hầu đến: vì cả hai đang sống theo những giá trị và những bản năng cơ bản của đời nầy mà thôi, và Phêlít trước sau vẫn thể hiện sự xem thường công lý (24:26-27).
14.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Sai.
15.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Sai.
e. Đúng.
f. Đúng.
g. Đúng.
16. Tôi không thể biết câu trả lời của bạn cho câu hỏi nầy. Tôi chỉ biết Phaolô cảm thấy Phêlít và Đơrusi không nằm ngoài tầm ân điển của Đức Chúa Trời. Ông đã làm chứng cho họ vì ông tin họ có thể được cứu. Đối với Phêlít và Đơrusi, sự thống khổ của địa ngục sẽ là những ký ức về ngày mà họ dập tắt niềm tin, ngày mà họ kiên quyết đóng kín cửa khi Đấng Christ gõ, ngày mà họ khóa trái cánh cửa số phận đời đời của mình!
17.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Sai.
18.
a. Đối với lời buộc tội ông là kẻ kích động bạo loạn, Phaolô đáp ông không làm gì nghịch cùng Sêsa cả.
b. Đối với lời buộc tội ông là kẻ cầm đầu phe Naxarét, Phaolô nói ông không làm gì trái với luật pháp Do thái.
c Đối với lời buộc tội ông làm ô uế đền thờ, Phaolô đáp ông không làm việc đó.
19.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Sai.
20.
a. Quyền công dân của Phaolô buộc các quan án tại Philíp phải xin lỗi ông.
b. Quyền công dân của ông đã cứu ông cực hình, khỏi trận đòn mà có thể làm ông mất mạng.
21. Tất cả những Hêrốt nầy đều là kẻ sát nhân.
a. Thứ nhất, Hêrốt Đại Đế là người giết các trẻ em sơ sinh ở Bếtlêhem và cai trị toàn bộ dân Do thái.
b. Thứ nhì, Hêrốt Chư Hầu (vua xứ Galilê), con trai của Hêrốt Đại Đế, là kẻ giết Giăng Báptít. Chúa đã không chịu nói chuyện với ông.
c. Thứ ba, Hêrốt Ạcrípba I, cháu trai của Hêrốt vua Galilê, là kẻ giết sứ đồ Giacơ.
22.
a. Sai.
b. Đúng.
23. Công tác làm chứng của ông là phải đem danh Ngài đến trước mặt các vua. Như chúng ta biết cho đến nay từ bản văn của sách Côngvụ, Ạcrípba là vị vua đầu tiên mà ông đã đứng trước mặt vua. Sau nầy, nhưng không được mô tả trong sách Côngvụ, ông đã đứng trước mặt một vị vua khác: Sêsa!
24. Trước công chúng, Phêtu không thừa nhận rằng không có lý lẽ nào chống lại Phaolô cả; đúng hơn, ông không tìm thấy một tội nào đáng chết. Trong nơi riêng tư, ông thừa nhận rằng ông không hề tìm thấy tội nào cả, chỉ là sự tranh luận thần học của người Do thái mà thôi.
25.
a. chính đám đông.
b. Lysia, quan quản cơ.
c. Tòa Công Luận.
d. Phêlít.
e. Phêtu.
26.
a. Phần mở đầu, những nhận định của bản thân về Ạcrípba.
b. Ôn lại bối cảnh của mình là người Pharisi.
c. Vai trò người bắt bớ của ông.
d. Từng trải hoán cải.
e. Đời sống ông đáp ứng theo khải tượng từ trời.
f. Sự bắt giữ ông trong đền thờ.
g. Nội dung cơ bản của đức tin ông.
27.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
28. Trước hết ông nêu điều đó ra trước Tòa Công Luận (23:6), tái khẳng định trước mặt Phêlít (24:21) và Phêtu (25:19), và tuyên bố lại trước mặt Ạcrípba (26:6-8).
29.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Đúng.
30.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
d. Đúng.
e. Đúng.
f. Đúng.
31.
a. Phaolô đã được mở mắt bởi sự sáng thể nào, thì ông cũng phải mở mắt của người khác để họ có thể được đưa từ tối tăm sang sự sáng thể ấy.
b. Ông cũng còn nhiệm vụ đưa người khác từ quyền lực của Satan trở về với Đức Chúa Trời.
32.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Sai.
d. Đúng.
e. Đúng.
33.
a. Đúng.
b. Đúng.
c. Đúng.
d. Đúng.
34. 23:31-26:32 thuật lại những từng trải bị giam trong ngục của Phaolô trong thời gian hơn hai năm tại Sêsarê, bao gồm cả phần ông tự bênh vực mình tại trước mặt Phêlít, Phêtu, và Hêrốt Ạcrípba.
Từ Sêsarê đến Rôma
Qua bài học trước, chúng ta thấy dấu hiệu bước đầu buổi xế chiều trong sự nghiệp truyền giáo của Phaolô. Tuy sự giam cầm hạn chế phần nào hoạt động của ông, nhưng lời của Chúa đã không bị hạn chế, và công tác làm chứng cho Đấng Christ của ông vẫn tiếp tục. Chúng ta cũng đã xem xét một số nguyên nhân cho sự giam cầm và sự tiếp diễn dường như bất tận của những thử thách và xét xử của ông. Rồi chúng ta thấy dễ thở hơn khi những điều nầy kết thúc với lời kháng án trực tiếp đến Sêsa của Phaolô. Giờ đây, chúng ta theo chân Phaolô từ Sêsarê đến Rôma.
Câu chuyện của Luca về chuyến đi nầy và vụ đắm tàu của Phaolô đã được thuật lại như là một trong những tác phẩm mô tả sinh động nhất trong cả Kinh Thánh. Luca thuật lại cả những vấn đề đầy kịch tính và hồi hộp, lẫn những yếu tố của sự can thiệp thiên thượng để khích lệ chúng ta trong hành trình về thiên quốc. Trong bài học nầy, chúng ta nhìn thấy bằng chứng về Cơ đốc giáo thực tiễn trong nếp sống của Phaolô, tư cách lãnh đạo và đặc tính của ông - tất cả những đặc điểm nầy đều vận hành dưới sức ép của thảm họa đang xảy đến trước mắt. Và chúng ta nhìn thấy bàn tay của Đức Chúa Trời mở rộng cho những người đang ở trong cảnh hiểm nguy, đem đến cho họ lời yên ủi và sự giải cứu tối hậu.
Khi chúng ta suy gẫm kỹ về những việc nầy, phải nhớ rằng Phaolô đã định đi Rôma (19:21) đang khi còn ở tại Êphêsô trước khi lên thành Giêrusalem. Giờ đây, chúng ta thấy ông được phép để đi... nhưng đi theo một hành trình không lường trước được. Điều nầy minh họa cách Đức Chúa Trời khiến mọi sự trở nên ích lợi, và thể nào những điều có vẻ như khó khăn, trì hoãn, và thậm chí là trở ngại nữa, đã thực sự trở thành những chiến thắng và những nấc thang bằng đá để phát triển Tin Lành. Tôi cầu nguyện để bạn sẽ áp dụng những điều đã học từ những từng trải nầy vào những hoàn cảnh khó khăn mà bạn có thể sẽ gặp phải. Giữa những hoàn cảnh có vẻ như không thể vượt qua, nguyện bạn giống như Phaolô, có thể học biết cách để nói rằng: "... Ta có lòng tin cậy Đức Chúa Trời..." Phaolô đã tin và ông đã sống để làm chứng trong một thời gian dài đáng kể sau đó. Do đó, thật rất thích hợp khi từ trong tù, Phaolô đã viết những lời đầy thách thức và an ủi nầy cho những người đang bị hà hiếp tại thành Philíp: "Tôi tin chắc rằng Đấng đã khởi làm việc trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Jesus Christ" (Phi Pl 1:6). Dầu phải chịu xiềng xích, bị hạn chế quyền tự do, và hình bóng của cái chết sắp ập đến, nhưng từng trải của Phaolô trong tù là một tấm gương về sự đầu phục và phó thác. Trong thơ gởi cho người Philíp, ông đề cập 14. lần đến sự vui mừng, và chủ đề của thơ nầy là sự vui mừng. Tinh thần của ông không phải là tinh thần chủ bại, nhưng là tinh thần chiến thắng. Nguyện từ tấm gương của Phaolô, bạn tìm được can đảm và mục đích để "vì đức tin mà đánh trận tốt lành, bắt lấy sự sống đời đời" (ITi1Tm 6:12).
Dàn bài
Mô Tả Hành Trình
Tại Rôma
Sự Chậm Trễ Của Lời Cầu Nguyện Được Nhậm
Kết Thúc Của Luca
Tóm Tắt
Ôn Lại Và Áp Dụng
Mục tiêu bài học
Khi học xong bài nầy, bạn sẽ có thể:
Thảo luận khách quan về những nguyên nhân khiến Đức Chúa Trời đã nhậm những lời cầu xin liên tục của Phaolô để ông được đến Rôma (RoRm 1:10) như thế, nêu ra ít nhất năm thành tựu tích cực của Tin Lành xuất phát từ sự tù đày và chung quanh lộ trình của Phaolô đến Rôma của Phaolô.
Kể tên ít nhất bốn phương diện rất thực tiễn trong tấm gương của cá nhân Phaolô, mà ông đã thể hiện trong hành trình nầy, và giải thích làm thế nào mà nhờ noi theo tấm gương nầy, chúng ta có thể truyền đạt Tin Lành một cách hữu hiệu cho những người chúng ta có dịp tiếp xúc.
Quý trọng phương cách mà Đức Chúa Trời hành động vì cớ dân sự và hội thánh Ngài, biết rằng nhiều lần Ngài đã khiến những hiện tượng tự nhiên, các tai nạn, và thậm chí cơn thạnh nộ của loài người phải ca ngợi Ngài.
Sinh hoạt học tập
1. Đọc phần giới thiệu cho những giải thích của Bruce về đoạn 27 ở trang 498-499. Nó sẽ giúp bạn đánh giá tốt hơn về thành tựu của Luca khi bạn đọc câu chuyện được viết tỉ mỉ của ông về chuyến đi trong Cong Cv 27:1-44.
2. Tra ý nghĩa của những từ vựng bạn chưa biết trong phần Từ Vựng ở cuối tài liệu hướng dẫn.
3. Làm bài tự trắc nghiệm ở cuối bài học, kiểm kỹ phần trả lời của bạn. Xem lại bất cứ câu nào bạn làm chưa đúng.
4. Theo những chỉ dẫn trong tập học viên để ôn lại toàn Phần nầy, rồi làm Bài Đánh Giá Tiến Bộ Phần 6.
5. Ôn lại toàn giáo trình để chuẩn bị cho bài thi cuối khóa. Xem những chỉ dẫn đặc biệt trong tập học viên.
Từ vựng
những thiên kiến biases
rộng rãi commodious
dựa vào phỏng đoán conjectural
sản phẩm của trí tưởng tượng fantasy
người cung cấp purveyor
bị rập khuôn stereotyped
siêu phàm transcending
Khai triển bài học
Mô Tả Hành Trình
Cong Cv 27:1-28:15 Bruce 498-528
Mục tiêu 1. Lần theo những câu Kinh Thánh nói đến địa lý, hàng hải, và thứ tự thời gian do Luca ghi lại để mô tả hành trình đến Rôma, trong khi đó phân tích cá tánh và chức vụ của Phaolô dưới sức ép của chuyến đi nầy, đặc biệt là bày tỏ cách mà Đức Chúa Trời đã tiếp tục dùng mọi hoàn cảnh để làm nên điều ích lợi.
Sách Côngvụ lần theo sự bành trướng về phía tây của Cơ đốc giáo, từ trụ sở Giêrusalem - Giuđê đến Rôma. Chìa khóa để giải thích tám đoạn cuối của sách Côngvụ chính là phải hiểu mục đích của Luca trong những đoạn cuối nầy không phải để thuật lại câu chuyện trong ngục của Phaolô từ Giêrusalem đến Rôma. Mục đích chính của ông trong những đoạn cuối nầy cũng không phải tiểu sử của Phaolô. Trái lại, ông kể sự bắt giữ, giam cầm, và xét xử vì cớ sự giam cầm của Phaolô để nêu lên những vấn đề quan trọng liên quan đến địa vị của Cơ đốc giáo trong thế giới Lamã. Như Bruce nêu ra (trang 528, 531), Tin Lành có lẽ đã đến Rôma trước năm 49 S.C. Và có lẽ điều nầy đã dẫn đến những cuộc nổi loạn của người Do thái trong năm đó, dẫn đến việc hoàng đế Cơlốt trục xuất người Do thái ra khỏi Rôma. Không biết nhận định nhằm xác định chính xác việc thành lập hội thánh tại đó trên đây có mang tính phỏng đoán hay không, nhưng chúng ta có biết Phaolô đã viết thư cho hội thánh Rôma vào ba năm trước đó. Và tại thời điểm đó, hội thánh tại Rôma đã được vững lập, vì đức tin và sức sống của hội thánh nầy đã được biết rõ giữa mọi hội thánh (RoRm 1:8). Tuy Phaolô không đem Tin Lành đến cho người Rôma, nhưng Luca viết theo góc độ nầy: sự quyết định cho vụ xét xử của Phaolô tại Rôma có thể mang ý nghĩa lịch sử trong mối tương quan mai sau giữa hội thánh và nhà nước.
Vì câu chuyện lịch sử của Luca kết thúc trước khi có quyết định của hoàng đế về vụ án Phaolô, nên chúng ta không thể đánh giá nó đã có tác động gì trên địa vị của Cơ đốc giáo trong thế giới Lamã. Tuy nhiên, theo Bruce (chú thích 33 cuối trang 497), thì dường như có sự thay đổi hoàn toàn trong chính sách chính thức đối với Cơ đốc nhân từ khoảng năm 62 S.C., tức không lâu sau khi Phaolô được thoát cảnh giam cầm tại Rôma lần đầu. Năm này đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp của Nero. Chúng ta không thể khẳng định Phaolô có thực sự được thả ra và lại tiếp tục thi hành chức vụ một lần nữa, như Eusebius gợi ý hay không (Bruce, chú thích 48 cuối trang 535). Nhưng chúng ta biết trong hai năm sau khi sách Côngvụ kết thúc, cơn bắt bớ lớn đã nổ ra cho hội thánh tại Rôma. Nó nổ ra do chính Nero đã đổ oan cho các Cơ đốc nhân phóng hỏa thành Rôma (Bruce, chú thích 33 cuối trang 497). Vụ án Phaolô có liên quan gì đến lòng thù ghét Cơ đốc nhân của Nero không? Hay vợ của Nero, Poppaea Sabina, người mà Nero đã kết hôn vào năm 62 S.C., và là người có cảm tình với người Do thái, đã khiến ông chống lại Cơ đốc nhân? Chúng ta chỉ có thể phỏng đoán vì chúng ta không có câu trả lời.
Hơn tất cả những đoạn nào khác trong sách Côngvụ, 27:1-44 đã xác định địa vị của Luca vừa là một sử gia (chứ không phải là tác giả của tiểu thuyết), vừa là một thiên tài văn học trong lối viết văn miêu tả. Sự mô tả chính của ông về tàu, địa danh, tình huống trên biển, và về những khoảng cách vẫn là một điều mà ngày nay người ta không thể nghi ngờ được.
Từ lập trường của bản văn sách Côngvụ, 27:1 lại giới thiệu câu chuyện kể của "chúng ta." Chuyện kể "chúng ta" cuối cùng đã chấm dứt lúc Phaolô đến Giêrusalem và cuộc gặp gỡ với Giacơ và các trưởng lão.
1. (Khoanh tròn mẫu tự của câu trả lời ĐÚNG trong mỗi câu hỏi sau đây cũng như trong những bài tập Đúng - Sai trong bài học nầy.) Việc chấm dứt chuyện kể về "chúng ta"
a. không có nghĩa bắt buộc phải hiểu Luca không phải là nhân chứng trực tiếp cho bất cứ một sự kiện nào trong 21:19-26:32, vì rõ ràng Luca đã ở lại xứ Palestine để thâu thập tư liệu cho bộ sử ký gồm hai tập của mình (LuLc 1:1-4).
b. chỉ có thể nói lên rằng Luca đã là bạn đồng tù cùng đi với Phaolô trong thời gian Phaolô bị cầm tù nầy.
c. chỉ có nghĩa là chúng ta không có thông tin trực tiếp về sự đi lại của Luca trong khoảng thời gian hai năm, nhưng có thể ông không ở xa Sêsarê, nơi Phaolô bị giam trong ngục.
-
BIỂN AĐỜRIATÍCH
Rôma
ITALY
Phôrum Ápbiu
Buxôlơ
SISILƠ
MANTƠ
Rêghium
Syracuxơ
MAXÊĐOAN
TRAXƠ
ACHAI
BIỂN AEGEAN
BIỂN ĐEN
BITHINI
CÁPBAĐỐC
ASI
LYCAONI
Cơnít
Myra
Cơrết
Lasê
Mỹ cảng
BIỂN ĐỊA TRUNG HẢI
SYRI
Sêsarê
Giêrusalem
ÊDÍPTÔ
LYBI
BIỂN ĐỊA TRUNG HẢI
CHUYẾN ĐI ĐẾN RÔMA CỦA PHAOLÔ
2. Sau hai năm bị giam tại Sêsarê, Phaolô lại đối mặt với chuyến đi lên thành Rôma. Ngay từ đầu chuyến đi, chúng ta đã có ấn tượng đặc biệt nào về chuyến đi đến Rôma của Phaolô?
a) Vì chuyến đi dọc theo bờ biển Tiểu Á giữa vùng Chíprơ và đất liền, nên chuyến đi có vẻ tẻ nhạt và nhiều trắc trở.
b) Vì đã qua khỏi mùa hè và mùa thu cùng thời tiết khắc nghiệt của chúng, nên chúng ta mong chuyến đi có phần hơi cam go do thời tiết, nhưng được cải thiện nhiều do lộ trình ven biển.
c) Mùa đi biển đang thuận tiện và mùa đông sắp đến. Gió ngược ngay từ lúc khởi hành báo hiệu có gay go.
Từ những câu Kinh Thánh nói đến ngày tháng trong 27:1-44 (mà sẽ được khảo sát đến sau nầy trong bài học), chúng ta có thể kết luận Phaolô rời Sêsarê vào mùa thu năm 59 S.C. Rõ ràng sự sắp xếp phương tiện vận chuyển đã được tiến hành ngay sau khi Phêtu và Ạcrípba xét xử Phaolô. Giulơ, viên đội trưởng của đội quân Âuguta (Binh Đoàn Hoàng Gia), đã áp giải Phaolô cùng một số phạm nhân khác bị xiềng để đưa về Rôma.
3. Những bạn đồng hành của Phaolô là Luca (“chúng ta”) và Aritạc. Theo cách giải thích của F. F. Bruce về quan điểm của Sir William Ramsey, Luca và Aritạc giữ vai trò nào trong liên hệ với Phaolô trên hành trình nầy? Ông nói rằng họ
a) là những phạm nhân đồng bị áp giải vì cớ họ là tòng phạm trong cuộc bạo loạn ban đầu tại Giêrusalem.
b) tình nguyện kể mình như là những đầy tớ của Phaolô, và do đó đã nâng cao tầm quan trọng của Phaolô với tư cách tù nhân, và cũng đã cải thiện được cách đối xử với ông nữa.
c) đã được đưa kèm theo làm nhân chứng cho sự biện hộ trước tòa án tại Rôma.
d) chỉ quyết định đi thăm Rôma trùng thời gian Phaolô ở tại đó, rõ ràng là để nghiên cứu thành công của Tin Lành tại kinh đô.
Dầu không nhắc đến cảng khởi hành, nhưng chắc chắn đó là cảng Sêsarê. Nếu không, Luca đã đề cập rồi, theo như thói quen thường lệ của ông. Chuyến tàu họ đi thuộc về thành Atramít, một hải cảng của Mysi nằm tại tây bắc Tiểu Á. Chiếc tàu nầy có thể gọi là những cái chậu vượt biển . Phaolô đã đi trên những con tàu tương tự trong những lần khác. Những chiếc tàu nầy giong buồm đi sát đất liền và dừng tại nhiều hải cảng khác nhau chứ không đi những chuyến vượt suốt biển khơi. Những con tàu như thế vừa chở hành khách vừa chở hàng hóa.
Trong vòng một ngày, Phaolô đã bắt đầu kết bạn với Giulơ (để ý vị sứ đồ đã kết bạn với khách lạ nhanh chóng biết bao). Vì thế, ngày hôm sau khi rời Sêsarê, Phaolô được phép rời tàu khi tàu dừng tại Siđôn.
4. Trước đây, Côngvụ không nói gì về sự có mặt của các tín hữu tại Siđôn. Phaolô đã ở lại giữa những tín hữu trong chuyến đi lên thành Giêrusalem tại thành phố nào thuộc xứ Phênixi gần đó, ngay phía nam thành Siđôn?
a) Giốpbê.
b) Sêsarê.
c) Tyrơ.
Việc Luca đề cập đến sự có mặt tín hữu tại Siđôn, và trước đó là tại Tyrơ, mà không nói đền nguồn gốc của hội thánh tại những thành phố đó là một việc rất có ý nghĩa. Đây là một dấu hiệu khác nữa cho công tác truyền bá Tin Lành sâu rộng trong những thập kỷ đầu tiên của đạo Cơ đốc. Những trung tâm ngoại giáo lớn như thế, trong lịch sử đã từng cướp phá Ysơraên (Gio Ge 3:4-8), giờ đây là những cánh cửa rộng mở cho Tin Lành đã thực sự trở thành một lời chứng hùng hồn cho ân điển của Đức Chúa Trời.
Từ Siđôn, con tàu ở Atramít đi về hướng bắc quanh Chíprơ, vượt khơi Địa Trung Hải giữa Chíprơ và bờ biển Tiểu Á. Họ đang vượt qua từ đàng xa những địa điểm trong quá khứ của Phaolô - Chíprơ, Antiốt xứ Syri, Tạtsơ, Bẹtgiê. Hẳn Pha000000olô đã ước ao dừng lại những nơi nầy để chào thăm anh em! Không chắc trong đời ông còn dịp ghé lại những nơi nầy nữa.
Vì con tàu ở Atramít không đi đến Rôma, nên toán người của Giulơ buộc phải chuyển tàu. Do đó, tại cảng Myra, đoàn của ông đã lên một con tàu ở Alécxantri đi đến Italy. Như Bruce đã cho thấy (trang 502-503), những con tàu như thế chở lúa mì từ Êdíptô đến.
Con tàu từ Alécxantri chạy chậm dọc bờ biển Tiểu Á, và bị gió ngược. Mất nhiều ngày, tàu mới đến Cơnít, một cảng ở tây nam của Tiểu Á. Tại Cơnít, gió lớn, rõ ràng là thổi từ tây bắc, đã buộc thủy thủ đoàn phải quyết định. Họ phải ở lại Cơnít chờ gió thuận để vượt sang hướng tây (cho họ đến Côrinhtô, nơi mà họ có thể kéo con thuyền của mình vượt qua eo đất từ biển Aegean đến biển Ađờriatích, hoặc tránh Côrinhtô - để giong buồm đi theo một lộ trình nguy hiểm hơn giữa Cơrết và Achai), hoặc phải giong buồm tiến về tây nam quanh đảo Cơrết. Họ đã chọn lộ trình thứ nhì. Khi đến Cơrết, tàu đã cập bến tại Mỹ cảng, ngay tại trung tâm phía nam đảo đó.
5. Giờ đây gió mùa đông đang đến nhanh chóng. Đi thuyền trên biển Địa Trung Hải rất nguy hiểm trong khoảng thời gian giữa tháng Chín đến đầu tháng Mười Một dương lịch. Từ giữa tháng Mười Một cho đến tháng Hai dương lịch, trên biển không hề có chuyến vượt biển nào. Luca ghi lại nguy hiểm của thời tiết rằng: "Vì kỳ kiêng ăn đã qua rồi." Theo Bruce (trang 506), đây là Kỳ Kiêng Ăn nào và việc Luca đề cập đến kỳ nầy làm thể nào giúp chúng ta xác định một ngày tháng chính xác?
a) Đây là Kỳ Kiêng Ăn của Ngày Lễ Ngũ Tuần, được tổ chức vào cuối tháng Tám dương lịch.
b) Kỳ Kiêng Ăn nầy liên hệ với Ngày Đại Lễ Chuộc Tội, và trong năm 59 S.C., đó là ngày 5 tháng Mười dương lịch.
c) Kỳ Kiêng Ăn nầy đánh dấu Lễ thắp Đèn, được tổ chức trong tháng Mười Hai dương lịch, để đánh dấu chiến thắng người Syri của nhà Maccabee.
Bruce nêu ra rằng trong những năm 57-62 S.C., Ngày Đại Lễ Chuộc Tội, ngoại trừ năm 59 S.C., đều nhằm vào mùa thu trước ngày 5 tháng Mười. Ngày 5 tháng Mười dương lịch phù hợp nhất cho những tình trạng thời tiết trên Địa Trung Hải đã được Luca mô tả và được biết là đã xảy ra trong kinh nghiệm đi biển của thế kỷ thứ nhất.
6. Đọc IICo 2Cr 11:25. Những từng trải nào được mô tả tại đó khiến cho lời khuyên của Phaolô trong Cong Cv 27:10 là đáng tin?
..........
Lời Phaolô khuyên viên đội trưởng trú đông tại Mỹ Cảng đã bị bác vì cớ ông tin lời khuyên của thuyền trưởng và chủ tàu là trú đông tại một cảng thuận lợi hơn ở Phênít, góc tây nam của đảo Cơrết. Ngay sau khi nhổ neo ở Mỹ Cảng, tàu nầy đã mắc phải trận gió dữ tợn thổi đến từ cả hướng bắc lẫn hướng đông, và bị giạt về hướng tây trên biển khơi.
Cơn bão ập đến nhanh đến nỗi không có cơ hội để bắt đầu lo những biện pháp an toàn, mãi đến khi tàu cập vào được hòn đảo nhỏ ở phía nam tên là Cơlôđa, khoảng 23 dặm tây nam đảo Cơrết.
7. Khi tàu tạm thời ghé qua đảo Cơlôđa, tạm thời tránh được gió, họ đã áp dụng ba biện pháp an toàn để tàu đi tiếp?
a ..........
b ..........
c ..........
8. Biện pháp phòng ngừa thứ ba đã được áp dụng vì sợ mắc cạn trên bãi Sirơtơ. Sirơtơ là gì?
..........
Đến ngày thứ hai trong cơn bão, họ đã quăng hàng hóa xuống biển để nhẹ tàu, cho thân tàu có thể lướt cao hơn trên những ngọn sóng. Ngày thứ ba, tàu càng được nhẹ hơn khi thủy thủ ném dụng cụ trên tàu xuống biển. Sau nhiều ngày không thấy ánh mặt mặt trời và ánh sao (những thủy thủ thời xưa cần thấy sao để đi biển, khi chưa có la bàn), Luca nói: "đến nỗi chúng ta chẳng còn trông cậy được cứu nữa" (27:20).
Cuối cùng, chỉ một mình Phaolô đem lại tiếng nói của hy vọng. Trong bài nói chuyện với người trên tàu, Phaolô đã mở đầu bằng cách nhắc họ nhớ tình cảnh nguy khốn hiện tại chính là do họ không nghe lời khuyên của ông. Lời nhắc nhở như thế không có nghĩa là Phaolô muốn nói: "Tôi đã bảo mà," nhưng là một lời cảnh cáo ngầm hiểu rằng họ đừng nên xem thường lời khuyên của ông nữa. Lời cảnh cáo trước kia của ông là nếu họ cứ rời Mỹ Cảng thì con tàu, hàng hóa, và ngay cả mạng sống của họ nữa, sẽ đều bị mất, giờ đây đã được thay thế bởi sự hiện đến của một thiên sứ. Con tàu và hàng hóa sẽ bị mất, nhưng mạng sống của họ thì sẽ còn. Sự có mặt của Phaolô trên tàu đồng nghĩa với sự giải cứu thuộc thể cho mọi người trên tàu. Đức Chúa Trời sẽ giải cứu Phaolô vì cớ nhiệm vụ đang đợi ông tại Rôma; những người khác được cứu thoát chỉ bởi ân điển của Đức Chúa Trời.
9. So sánh từng trải vượt biển của Phaolô với câu chuyện trong Mac Mc 4:35-41. Bạn nghĩ câu nào sau đây là là kết luận ĐÚNG?
a. Luôn luôn ý chỉ của Đức Chúa Trời là dừng cơn bão. Nếu cơn bão không dứt, thì đó chính là vì con người thiếu đức tin.
b) Đức Chúa Trời có dừng cơn bão hay không thì điều đó tùy thuộc vào những mục đích của Ngài.
c) Đức Chúa Trời không hứa ban sự giải cứu khỏi cơn bão. Đúng hơn, Ngài muốn những kẻ thuộc về Ngài nhận ra rằng khi cơn bão xảy đến, thì Ngài ở với họ trong cơn bão, và Ngài sẽ thay họ hành động vì cớ ích lợi cho họ và sự vinh hiển của Ngài.
Thay vì đến Sirơtơ, con tàu ở Alécxantri đã tấp vào đảo Mantơ. Hãy xem bản đồ trong bài nầy để biết về chuyến đi đến Rôma của Phaolô, để thấy những hậu quả nào có thể đến nếu như họ không tấp vào được cái chấm đất liền Mantơ bé xíu nầy trong Địa Trung Hải (được nói đến như là biển Ađờriatích!)
Khi gần đến Mantơ vào ban tối, các thủy thủ cảm nhận được đất liền, có thể là vì âm thanh của tiếng sóng vỗ. Trong khi Phao Lô và những người khác đang cầu nguyện để cầu xin ánh sáng ban ngày, thì các thủy thủ tính đoạt phương tiện thoát hiểm cho riêng mình. Tuy nhiên, Phaolô phát hiện âm mưu bỏ mặc tàu của họ và báo cho Giulơ. Giờ đây, viên đội trưởng đã sẵn sàng tin lời Phaolô, và ông đã ngăn không cho các thủy thủ trốn thoát.
Trong suốt chuyến đi, người ta liên tiếp nhìn thấy sự điềm tĩnh, tính thực tiễn, cũng như sự phán đoán tốt của Phaolô. Chắc chắn ông không phù hợp với sự mô tả của người ta về một vị thánh đồ: "là người có tinh thần hướng về thiên đàng, nhưng chẳng có ích lợi gì trên trần thế nầy cả." Sự phán đoán của ông hẳn đã ngăn chặn toàn bộ từng trải tai họa trên biển (Cong Cv 27:11-11); dầu vậy, ông không hề nổi thịnh nộ khi người ta không thèm nghe ông. Khi từng trải hai tuần đầy hồi hộp và nhịn đói đã qua (ai còn lòng dạ ăn uống giữa cảnh ba đào trên biển như thế nầy?) Phaolô đã khuyên thêm một lời rất thực tế nữa: khuyên họ ăn và nhắc họ rằng: "hôm nay là ngày thứ mười bốn mà các ngươi đang trông đợi, nhịn đói chẳng ăn chút nào" (27:33). Ông nói rằng việc ăn uống sẽ có ích và giúp họ lấy lại sức dành cho lúc rời tàu. Như Bruce cho thấy (trang 517), bấy giờ ông đã khích lệ họ bằng cách làm gương: ông lấy bánh, tạ ơn Đức Chúa Trời trước mặt toàn thể mọi người, dùng cơ hội nầy để làm chứng tích cực về Đấng Christ. Đến lúc nầy, Luca đã đếm chính xác số người trên tàu, là 276 người. Tôi tin ông đã đếm họ trước lúc tàu vỡ ra và sau khi mọi người đều đã lên bờ - để khẳng định lời của thiên sứ và lời đó đã được ứng nghiệm trọn vẹn.
Chuyến vượt biển Địa Trung Hải của Phaolô liên tục nhắc tôi về từng trải của tôi với các con mình tại Disneyland tại California. Lần đầu tiên tôi đưa chúng lên chuyến đi "Những tên Cướp Biển Vùng Caribean", chúng thật khiếp hãi. Chuyến đi bắt đầu khi chúng tôi lên thuyền để vượt qua những con sóng. Những tên hải tặc tưởng tượng đang bắn vào tàu của tôi. Con thuyền đi qua một ngôi làng đang bốc cháy, và rồi đi vào trong một hầm mỏ sâu, để cuối cùng đi xuống một thác nước sâu. Tôi chưa bao giờ hoảng sợ, vì trí khôn người lớn của tôi bảo cho tôi biết rằng thực ra con thuyền đang chạy trên một đường ray xuyên qua trong nước, và tuyệt đối không có chuyện nước hay hải tặc làm chìm thuyền được. Tôi biết ngôi làng thực sự không đang bốc cháy, và rằng thác nước kia thực sự phải có đáy của nó. Con chúng tôi hoảng sợ vì chúng không biết thực trạng ẩn đàng sau sản phẩm của trí tưởng tượng nầy.
Sự trưởng thành thuộc linh phải có phần giống như cuộc đi chơi trong Disneyland kia. Những thánh đồ non trẻ hơn, chưa trưởng thành, có thể hoảng sợ trước những sự kiện không thể quấy động được sự yên tĩnh của một môn đồ trưởng thành hơn. Tôi sẽ không thể tin được nếu ngay từ đầu chuyến đi liều lĩnh vượt Địa Trung Hải, Phaolô đã không chấp nhận sự thật là con tàu của ông đang đi trên đường ray của Đức Chúa Trời - dầu có điều gì xảy đến đi nữa thì ông vẫn an toàn (Phi Pl 1:12). Bạn nghĩ sao?
10. Khi Phaolô đã lên tới đất liền, một lần nữa ông đã chứng tỏ ý sự nhạy bén rất thực tế của mình như thế nào?
..........
Nếu sự giải thoát Phaolô khỏi biển cả đã đánh dấu sự ứng nghiệm đầu tiên trong lời thiên sứ hứa rằng mạng sống ông sẽ không mất, thì sự thoát khỏi nọc rắn trở thành lời chứng thứ nhì rằng Ngài sẽ thi hành những gì Ngài đã phán qua thiên sứ.
11. Những điều có vẻ như thất bại hay thảm kịch trong đời nhằm mục đích gì? Vì sao có sự bắt giữ? Vì sao có hai năm giam cầm? Vì sao người ta không chịu nghe lời khuyên của Phaolô tại Mỹ Cảng? Vì sao bị đắm tàu? Vì sao bị rắn cắn? Câu nào sau đây là câu ĐÚNG và giúp giải thích những câu hỏi vì sao trong từng trải của Phaolô?
a. Đời là một câu đố. Người ta không bao giờ tìm ra nguyên nhân vì sao sự việc lại diễn ra.
b. Ác mạnh hơn thiện. Ngay cả đời sống của Phaolô cũng có nhiều từng trải không đem lại một lợi ích gì cả.
c. Từng trải của Phaolô là những phương tiện mà Chúa dùng để đem Tin Lành đến Mantơ. Nếu Phaolô và Luca không đến Mantơ, mọi người mắc bệnh (kể cả cha của Búpliu) hẳn đã không được chữa lành.
Nếu Phaolô không phải là tù nhân tại lúc đó, đi trên con tàu đó, bị áp giải bởi chính viên đội trưởng đó, thì liệu Tin Lành có đến tại Mantơ nhanh chóng như thế không? Ví dụ như, có kịp lúc cho cha của Búpliu không? Một lần nữa, lời bảo đảm của Phaolô trong RoRm 8:28 đã được chứng minh: "chúng ta biết mọi sự hiệp lại làm ích cho những kẻ yêu mến Đức Chúa Trời..." Dầu Phaolô đã viết những lời nầy mới ba năm trước, nhưng ông đã xác chứng chúng biết bao lần trong suốt từng trải Cơ đốc của mình. Hơn nữa, tấm gương của Phaolô và những sự giải thoát kỳ diệu đã là phương tiện để mọi người trên chiếc tàu đó được tiếp xúc với Đức Chúa Jesus Christ. Chỉ có trong cõi đời đời mới chúng ta mới biết được có bao nhiêu người đã mở lòng mình tiếp nhận nhờ vào chuyến đi đó mà thôi. Và chỉ có Chúa mới biết tác động lâu dài của chuyến đi nầy trên những người cùng đi trong chuyến đi đó. Hãy nghĩ đến tác động của câu chuyện sự giải cứu họ trên con cái và những thế hệ mai sau của họ. Họ đã biết được Đức Chúa Jesus đang khi đi cùng Phaolô trên một con tàu chở ngũ cốc của Alécxantri bị đắm khi nó đi về hướng Rôma.
Dân Mantơ tỏ ra là những vị chủ nhà rất hào phóng đối với những người sống sót qua vụ đắm tàu, và đặc biệt là đối với Phaolô cùng các bạn đồng hành của ông. Đáp lại, nhiều người đã được chữa lành, hoặc bởi phương tiện siêu nhiên qua sự đặt tay của Phaolô, hoặc theo lời của Bruce (trang 524), bởi phương tiện tự nhiên qua sự giúp đỡ chuyên nghiệp của thầy thuốc Luca.
TẠI RÔMA
Cong Cv 28:16-31 Bruce 528-536
Mục tiêu 2. Thảo luận sự đón tiếp Phaolô của những tín hữu Rôma và hai năm chức vụ của ông khi đang đợi xét xử tại Rôma.
Khi mùa đi biển nguy hiểm đã qua và đường biển mở lại trên Địa Trung Hải, họ tìm thấy một con tàu ở Alécxantri khác đã trú đông tại Mantơ. Câu chuyện chính xác của Luca cho biết rằng họ đã lên thuyền ba tháng sau là phù hợp với những tháng Mười Một, Mười Hai, và tháng Giêng của mùa đông, là thời gian rất nguy hiểm cho tàu thuyền đi trên biển. Tuy nhiên, đến đầu tháng Hai, chiếc thuyền nầy đã rời Mantơ đi Italy.
Đi về hướng dông bắc, thuyền dừng lại ba ngày tại Syracusơ ở bờ đông đảo Sisilơ. Khác với những chỗ dừng chân khác (27:3; 28:14), Luca không ghi lại Phaolô có đi tìm các tín hữu tại thành Syracusơ nầy hay không, nên chúng ta có thể đoán rằng hội thánh vẫn chưa được thành lập tại thành phố nầy. Rời Syracusơ, thuyền đi tiếp về hướng bắc đến Rêghium, nằm ở vùng cực nam của Italy. Sau khi ở lại tại Rêghium một ngày duy nhất, một trận gió nam thuận đã đưa họ đến Buxôlơ, 150 dặm phía nam Rôma. Tại đây, Phaolô đã tìm thấy các anh em và ở lại bảy ngày. Cơ hội đầu tiên để Phaolô thông công với Cơ đốc nhân trên đất Italy hiển nhiên lại càng nhiều ý nghĩa hơn sau những biến cố đầy ấn tượng trong chuyến đi vừa qua.
Hiển nhiên, từ Buxôlơ, các Cơ đốc nhân tại Rôma hay tin Phaolô đã đến nơi. Bất chấp những hoàn cảnh ông đến với tư cách tù nhân, các tín hữu đã vui lòng liều mình với ông bằng cách đi từ Phôrum Ápbiu (43 dặm) và Ba Quán (33 dặm) đến đón ông.
Những nỗ lực chào đón đặc biệt của họ rõ ràng đã giúp cho Phaolô vui mừng!
Gần cuối chức vụ tại Êphêsô trong hành trình truyền giáo lần thứ ba, Phaolô đã bày tỏ lòng tin quyết rằng ông sẽ đến thăm Rôma (19:21). Tuy nhiên, ông đã đặt Rôma sau Maxêđoan, Achai, và Giêrusalem trong chức vụ lưu hành của mình. Bốn năm sau khi quyết định kế hoạch lưu hành của mình, chúng mới được hoàn tất theo đúng thứ tự mà ông đã đặt ra!
12. Đã bao nhiêu lần và trong những hoàn cảnh nào, Phaolô đã nhận được sự bảo đảm thiên thượng rằng ông sẽ đến Rôma?
a) Ông đã được biết trên con đường Đamách (Cong Cv 9:1-19) rằng ông sẽ giảng đạo tại thành Rôma. Ông đã được khẳng định điều nầy về sau tại Sêsarê. (Như đã được nêu ra tại đây, ông được bảo đảm hai lần).
b) Phaolô đã được Chúa bảo đảm hai lần rằng ông sẽ đến Rôma: một lần sau khi ông bị dánh đập tại Líttrơ (14:1-28), và một lầm nữa khi ông quay về Giêrusalem để thờ phượng Chúa (Cong Cv 21:17).
c) Hai lần Phaolô được ban sự bảo đảm thiên thượng rằng ông sẽ đến Rôma: một lần tại Giêrusalem lúc bắt đầu bị giam cầm (23:11), và một lần nữa là trong những ngày chót của trận bão kinh khiếp trên biển (27:23-24).
13. Dựa vào câu trả lời trên, bạn kết luận những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và là những suy luận chính xác về sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời?
a. Nếu bạn không kinh nghiệm sự bày tỏ thiên thượng để thường xuyên và chính thức dẫn dắt bạn, thì bạn đã thiếu sót trong bước đường đồng đi với Đức Chúa Trời.
b. Có thể Đức Chúa Trời bày tỏ phương hướng mà Ngài muốn chúng ta sẽ đi mà không cho biết phương cách hoặc khi nào nó sẽ được ứng nghiệm.
c. Đừng nên lập bất cứ quyết định nào, dầu cho có là những quyết định nhỏ nhoi đến đâu đi nữa, trừ khi mình có sự dẫn dắt hay sự bày tỏ trực tiếp của Đức Chúa Trời.
d. Người nào đồng đi với Đức Chúa Trời thì vâng lời Ngài ngay mà không cần phải liên tiếp cầu hỏi xem ý Ngài muốn nói điều gì ngay từ lần đầu tiên Ngài tuyên phán.
e. Việc thiếu sự bày tỏ thiên thượng trong một thời gian không có nghĩa là Đức Chúa Trời đã bỏ mặc chúng ta. Trái lại, điều đó có nghĩa đơn giản là chúng ta đang được thử thách để xem có trung tín tin và làm theo những gì Đức Chúa Trời đã phán hứa không.
Lưu ý trình tự sau đây trong chuyến đi đến Rôma của Phaolô:
1. Nó bắt đầu với lòng ước ao của Phaolô (19:21).
2. Chúa khẳng định ao ước đó về sau nầy (23:11).
3. Ước ao và sự khẳng định đã được chứng thực bởi nhiều hoàn cảnh (25:12).
4. Khi những ước ao, những sự khẳng định và những hoàn cảnh dường như không giúp ích được gì, Đức Chúa Trời can thiệp bằng sự khẳng định và khích lệ thêm (27:24).
14. Không những Phaolô đã được khích lệ khi đến Rôma bởi sự có mặt của các Cơ đốc nhân khác, mà còn bởi những hoàn cảnh trong tù của mình đã được cải thiện đáng kể so với lúc còn ở tại Sêsarê. Chúng đã được cải thiện như thế nào?
..........
Dựa vào thông tin chúng ta có về Phaolô (Cong Cv 28:16, 30), dường như ông không được tự do hoàn toàn để đi lại theo ý muốn; dầu vậy, những người khác được phép tự do đến thăm ông.
15. Ba ngày sau khi đến Rôma, Phaolô đã gặp nhóm người nào? Trong những hành trình truyền giáo của ông, trước tiên ông đã tìm gặp nhóm người tương tự tại những thành phố nào khác?
..........
Đừng nên giải thích những chữ trước là cho người Giuđa như là phản ánh tính ưu việt của chủng tộc; đúng hơn, nó mang tính chỉ định cho tiến trình của Phaolô trong chiến lược truyền giáo. Những người Do thái được cứu tạo thành những hạt nhân vững vàng cho công tác truyền giảng và môn đồ hóa người ngoại bang. Người Do thái đã có những giáo lý cơ bản cũng như đã biết Kinh Thánh rồi.
Buổi gặp đầu tiên của Phaolô với những lãnh đạo Do thái tại Rôma, trong đó ông tóm tắt những sự kiện buộc ông ra xét xử trước mặt Sêsa, nhằm bảo đảm với người Giuđa rằng ông không phạm tội nào với dân Do thái cả. Nó cũng nhằm cho thấy ông không dùng vụ án của mình làm diễn đàn tấn công dân tộc Do thái hay các vị lãnh đạo của dân tộc. Cũng như đối với Tòa Công Luận (23:6), Phêlít (24:21), và Phêtu (26:23), Phaolô tuyên bố với những lãnh đạo nầy rằng ông đã bị tù vì cớ tin nơi những lời hứa của đức tin Do thái giáo - một chủ đề mà ông sẽ triển khai bằng cách cho thấy sự ứng nghiệm của những lời hứa ấy trong 28:23.
16. Đáp ứng của những người lãnh đạo Do thái thật ngạc nhiên ở chỗ dường như họ không biết gì về Phaolô, hoặc về bản chất của đức tin Cơ đốc. Theo sách giáo khoa, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG và trình bày những lời giải thích khả dĩ về sự không biết của họ?
a. Họ đang nói thật. Cấp lãnh đạo Do thái tại Giêrusalem đã không thể thông tin cho họ về vụ án của Phaolô, do những sự liên lạc không đều giữa Rôma và Giêrusalem. Thêm vào đó, vì hội thánh Rôma gồm toàn người ngoại bang, nên không mong gì cấp lãnh đạo Do thái hiểu biết về những quan điểm của Cơ đốc giáo.
b. Tuy có thể những lãnh đạo Do thái không nhận được tin tức về sự sắp xếp trước mắt trong vụ án Phaolô (có lẽ do mùa đông của vùng Địa Trung Hải), nhưng chắc chắn họ đều biết và cũng đã có nhiều kinh nghiệm về Cơ đốc giáo ngay tại Rôma. Chúng ta kết luận những lãnh đạo nầy đã cố tình lảng tránh những nhận định về Phaolô. Khó mà cho rằng Phaolô đã gởi "Thư Gởi Cho Người Rôma" cho những Cơ đốc nhân người ngoại bang nghe mà thôi.
c. Những lãnh đạo Do thái đã vận dụng tài ngoại giao kiểu mẫu khi trả lời Phaolô về vụ án của ông và bản chất của Cơ đốc giáo.
Nơi được dùng để giam tại nhà của Phaolô dường như là một nơi khá rộng rãi, rộng đủ để chứa những phái đoàn khá đông (28:23) cũng như tất cả những người đến thăm ông (28:30). Trong lần gặp gỡ thứ nhì với những lãnh đạo Do thái và nhóm người khá đông trong cộng đồng Do thái, Phaolô đã lý luận với họ, làm chứng về nước Đức Chúa Trời, và tìm cách dùng luật pháp Môise và các sách tiên tri để thuyết phục họ. Ông nói rằng Kinh Thánh Cựu Ước hiện phải được đọc và giải nghĩa theo ánh sáng của công tác Đấng Christ đã thực hiện. Bài giảng của ông, kéo dài tiếp tục từ sáng đến tối, có lẽ đã bị gián đoạn bởi những câu hỏi, thậm chí bởi những cuộc tranh luận, nhưng đến cuối cùng thì kết quả vẫn như ông đã kinh nghiệm tại mọi nơi: có người tin, có người không muốn tin.
Như Bruce nhận định trong trang 533, hẳn sẽ sai lầm khi cho rằng bài giảng vừa nêu ra nầy của Phaolô chỉ là bài độc thoại. Chúng ta chẳng cần phải tưởng tượng nhiều mới có thể biết được ông phải đưa ra thách thức nầy một lần nữa như thế nào, vận dụng đến những phẩm chất mạnh mẽ của trí tuệ và tâm hồn của ông thế nào khi cố gắng thuyết phục những người Do thái tại Rôma nầy về lẽ thật của Cơ đốc giáo. Giờ đây, khi xem xét đến đáp ứng của đa số đồng bào mình, Phaolô để lại một lời tiên tri cảnh cáo cho thính giả đang ra về của ông: lời cảnh cáo của EsIs 6:9-10, về sự không chịu vâng theo Tin Lành nói chung của người Do thái. Như vậy, với lời kết thúc nghiêm túc, ông công bố một chiều hướng hành động mới: Người ngoại bang sẽ được ưu tiên tiếp nhận Tin Lành, và, không giống như đa số người Do thái, họ sẽ nghe và tiếp nhận Tin Lành đó.
17. Phaolô dựa vào lời tiên tri của Êsai (Cong Cv 6:9-10) để nhấn mạnh sự chối bỏ Tin Lành của người Do thái. Lời tiên tri nầy truyền đạt sứ điệp nào và nó có ứng dụng nào cho chức vụ rao truyền Tin Lành?
a. Dầu sứ điệp Tin Lành có thể đã được rao giảng cách trung tín, tác động của Tin Lành sẽ là khiến cho kẻ điếc càng điếc thêm, và khiến kẻ mù càng mù thêm. Mặt khác, đối với những người tiếp nhận, Tin Lành sẽ đem lại sự giải cứu. Và sự rao giảng Tin Lành sẽ gặt hái được thành công không gì ngăn cản nổi.
b. Êsai đã rao ra lời cảnh cáo nầy vì ông giận sự chối bỏ Đức Chúa Trời của Ysơraên. Lời cảnh cáo đó đại diện cho cảm xúc của ông chứ không phải của Đức Chúa Trời.
c. Êsai đã nhận được lời cảnh cáo nầy khi ông được kêu gọi vào chức vụ tiên tri. Ông được báo trước để không trông đợi sự đáp ứng thuận lợi từ nơi dân sự. Dầu chức vụ của ông đã được Đức Chúa Trời soi dẫn, nhưng tác động chung của nó sẽ là để khẳng định thói quen cứng lòng, bịt tai và chối bỏ sứ điệp Đức Chúa Trời của dân sự.
18. Những câu nào sau đây là câu giải thích ĐÚNG và giúp chúng ta giải thích phần trích Êsai của Phaolô?
a. Đức Chúa Trời đã chọn lựa vô điều kiện một số người để khước từ Tin Lành, để bị làm cho cứng lòng, mù mắt, và điếc tai.
b. Người nào đang làm cứng lòng mình đối với Đức Chúa Trời về sự khải thị mà mình đang có, thì sẽ thấy sự khải thị trọn vẹn của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ dùng sự đồng ý của người đó để khẳng định càng hơn nữa về sự cứng lòng, sự đui mù của người ấy đối với Đức Chúa Trời.
Sau khi đã giảng đạo cho người Do thái trước tiên, thì giờ đây Phaolô bắt đầu chức vụ giữa vòng người ngoại bang.
19. Sự giảng dạy trong nhà của Phaolô gồm hai chủ đề nào?
..........
20. Trong sách Côngvụ, chữ nước Đức Chúa Trời xuất hiện tám lần. Có người nghĩ chữ nước Đức Chúa Trời có nghĩa là Đức Chúa Trời ban một nước thuộc thể, theo nghĩa đen cho dân Ysơraên. Một số người khác dạy rằng nước Đức Chúa Trời nghĩa là sự cai trị vô hình, thuộc linh của Đức Chúa Trời trong đời sống của những người đã tiếp nhận Đức Chúa Jesus Christ làm Vua. Do đó, điều quan trọng là phải hiểu cách Luca dùng chữ nầy thế nào trong sách Côngvụ. Hãy mô tả văn mạch hay điều có vẻ như là ý nghĩa của chữ nước Đức Chúa Trời theo cách dùng trong mỗi nơi sau đây.
a. Cong Cv 1:3 ..........
b. 1:6 ..........
c. 8:12 ..........
d. 14:22 ..........
e. 19:8 ..........
f. 20:25 ..........
g. 28:23 ..........
h. 28:31 ..........
Tân Ước công nhận ba cách hiểu về chữ nước Đức Chúa Trời . Khi liên quan đến tin lành, nước Đức Chúa Trời là sự cai trị thuộc linh của Đức Chúa Jesus Christ trong đời sống của những người tin nhận Ngài. Khi nói đến Thiên Hy Niên, nước Đức Chúa Trời bao gồm sự cai trị công nghĩa và hữu hình của Đức Chúa Jesus Christ trên đất. Khi nói đến cõi đời đời, nước Đức Chúa Trời là sự cai trị đời đời của Đức Chúa Trời - toàn bộ những người được cứu chuộc sẽ ở trong nước nầy (Mat Mt 26:29).
2.1 So sánh những hoàn cảnh của sự giam cầm Phaolô trong Cong Cv 28:30-31 với những hoàn cảnh của sự giam cầm ông được ghi lại trong IITi 2Tm 1:16-17 và 4:9-18. Cho biết câu nào sau đây là câu ĐÚNG và đâu là câu sai.
a. Những hoàn cảnh của hai lần nầy là giống hệt nhau.
b. Sự giam cầm trong Cong Cv 28:1-31 cho thấy Phaolô được tự do đáng kể và có đồng bạn. Sự giam cầm trong IITimôthê cho thấy ông ở một mình, bị tước mất áo ấm và tốt (vì thế ông cần áo choàng) cùng sách đọc.
c. Côngvụ 28 cho thấy Phaolô đang đối diện với cuộc xét xử, trong khi IITimôthê cho thấy ông đã bị xét xử rồi và hiện đang đối diện với một vụ xét xử khác (mà có thể đã báo trước kỳ qua đời của ông).
Nhiều học giả Kinh Thánh phân biệt sự giam cầm trong 28:1-31 với IITimôthê bằng một khoảng thời gian từ ba đến năm năm. Giả thiết ấy là Phaolô đã được thả vào khoảng năm 62-63 S.C. khỏi sự giam cầm trong 28:1-31. Vào một thời điểm nào đó trong những năm tự do nầy, có thể ông đã đi Tây Ban Nha.
Trong một sự kiện nào đó, ông lại bị bắt sau khi Nero thay đổi thái độ với Cơ đốc giáo vào năm 64 S.C. Do đó, IITimôthê phản ánh cuộc giam cầm cuối cùng của ông.
SỰ CHẬM TRỄ CỦA LỜI CẦU NGUYỆN ĐƯỢC NHẬM
Mục tiêu 3. Trả lời câu hỏi: “Vì sao Đức Chúa Trời đã đợi đến ba năm mới thực hiện lời Phaolô cầu xin được đến Rôma?” (RoRm 1:8-15), và áp dụng những hiểu biết vừa có vào từng trải cá nhân trong sự cầu nguyện của bạn.
22. Hơn ba năm chờ đợi sau khi viết thư cho người Rôma, Phaolô mới đến Rôma lần đầu tiên. Theo Rôma RoRm 1:8-15, Phaolô đang cầu xin những điều gì và hy vọng thực hiện những việc gì tại Rôma? Ông đang cầu nguyện để
a ..........
b ..........
c ..........
d ..........
Trong đời sống cầu nguyện riêng, chúng ta thường kinh nghiệm những đáp ứng tương tự cho những lời cầu xin của mình. Nhưng chúng ta nên nhận ra rằng những sự chậm trễ không phải là những sự phủ nhận . Đôi khi Đức Chúa Trời trả lời được cho những lời cầu xin của chúng ta, đôi khi Ngài trả lời không thật mạnh ( như Ngài đã trả lời cho Phaolô trong Cong Cv 16:6-8), và đôi khi Ngài bảo đợi ( như trong trường hợp nầy, RoRm 1:8-15). Và khi chúng ta chờ đợi đến đúng thời điểm của Đức Chúa Trời, chúng ta có thể an tâm rằng đó mới chính là thời điểm thích hợp.
Đức Chúa Trời cho phép có một thời kỳ ba năm trôi qua giữa khi cầu xin với thời điểm mà lời cầu xin ấy được ứng nghiệm. Nhưng Phaolô đã nhận được sự tái bảo đảm của Đức Chúa Trời rằng đây chính là thời điểm của Đức Chúa Trời, và điều đó phù hợp với mục đích Đức Chúa Trời dành cho đời sống ông (Cong Cv 23:11).
Chúng ta không biết chắc chắn Phaolô đã truyền lại ân tứ thuộc linh cụ thể nào cho những tín hữu tại Rôma để khiến họ trở nên mạnh mẽ. Có thể đấy chính là phương cách ông vững vàng chịu giam cầm trước những lời vu cáo trong suốt thời gian năm năm. Khi đến năm 64 S.C., Nero quay lại chống Cơ đốc nhân và bắt đầu bắt giam họ rồi giết chết họ, tấm gương anh hùng của ông có thể đã là một mẫu mực cho các Cơ đốc nhân tại Rôma. Nó thể hiện cách rõ ràng và mạnh mẽ phương cách mà Cơ đốc nhân có thể và phải đương đầu với nghịch cảnh. Và nó khích lệ nhiều người rao ra Lời Đức Chúa Trời càng can đảm hơn nữa (Phi Pl 1:12-14). Ông đã truyền lại cho Cơ đốc nhân tại Rôma một ân tứ tuyệt vời biết bao! Và ông để lại cho hội thánh một di sản tuyệt vời biết bao! Phaolô đã làm gương cho nghịch lý của đức tin: niềm tin nơi Chúa là Đấng toàn năng, nhưng lại là Đấng có thể không dùng quyền năng ấy để can thiệp để đem lại sự an toàn thuộc thể hay sự an ninh cho các môn đồ của Ngài!
Rõ ràng các Cơ đốc nhân tại Rôma đã khích lệ Phaolô rất nhiều, và rõ ràng ông cũng đã khích lệ họ. Phaolô không hề thấy vai trò thi hành chức vụ rao giảng Tin Lành của mình đã giới hạn vào chỗ chỉ đơn thuần ban cho hoàn toàn, trong khi người khác là người chỉ nhận lãnh những từng trải của ông mà thôi. Là chi thể trong thân Đấng Christ, ông cảm thấy nhu cầu đối với các chi thể khác. Họ có đôi điều để bổ sung cho từng trải của ông bằng cách khích lệ, và bởi lời chứng và cách sống của họ, là điều giúp ông có thể nhìn thấy sự tăng trưởng Đức Chúa Trời đang ban cho thân thể . Ông đã cảm thấy nhu cầu đối với sự khích lệ hỗ tương .
23. Những câu Kinh Thánh sau đây bày tỏ thế nào về sự ứng nghiệm lòng ước ao của Phaolô được gặt lấy bông trái giữa vòng người Rôma?
a. 28:30-31 ..........
b. Phi Pl 1:12-14 ..........
Phaolô tiếp tục gặt cho đến ngày nay, vì nhờ từng trải chịu tù tại Rôma mà chúng ta có được những bức thơ ông gởi cho người Êphêsô, người Philíp, người Côlôse, và cho Philêmôn. Toàn bộ âm điệu của thơ Philíp đặc biệt phản ánh tâm trạng bên trong của Phaolô trong lúc bị tù: ông đã sống vượt trên những hoàn cảnh chứ không phải sống dưới hoàn cảnh. Sự tin quyết, vui mừng, chiến thắng, thỏa lòng, và sự tạ ơn đã đánh dấu từng trải của ông.
24. Bạn nên có những thái độ nào nếu lời cầu nguyện của bạn chưa được nhậm?
a) Đức Chúa Trời có thể trả lời: "Không!"
b) Đức Chúa Trời có thể đang trả lời: "Chờ Đợi!" Sự chậm trễ trả lời là do Ngài đang kết hợp hoàn cảnh lại với nhau, để làm cho lời cầu nguyện của bạn được ứng nghiệm càng dư dật hơn mức bạn có thể suy tưởng.
c) Đức Chúa Trời luôn luôn trả lời ngay lập tức: "Được!" nếu bạn có đủ đức tin.
Kết Thúc Của Luca
Mục tiêu 4. Giải thích nguyên nhân khiến Luca kết thúc như thế.
25. Trong Bài 1, chúng ta đã thấy kết thúc đột ngột của sách Côngvụ. Những câu nào sau đây giải thích hợp lý cho kết thúc của Luca như thế?
a) Ông không hề hoàn tất bản ký thuật của mình, vì ông hoảng sợ trước sự bắt bớ của Nero nên đã rời bỏ Phaolô.
b) Ông đã viết cho đến lúc hiện tại - Phaolô vẫn chưa yết kiến Sêsa.
c) Trong tác phẩm gồm hai cuốn của ông cho Thêôphilơ, ông đã truy ra đầy đủ nguồn gốc Cơ đốc giáo từ lúc Đấng Christ giáng sinh cho đến hiện tại, tức cho đến thời gian Phaolô chờ yết kiến Sêsa. Vì sự hoàn tất tác phẩm rất có thể diễn ra đồng thời với những sự kiện được mô tả trong Cong Cv 28:30-31, nên ông không thể viết thêm nữa, vì phần lịch sử mới hơn thời điểm đó vẫn còn là tương lai đối với ông.
Do vậy, Luca đã đạt được mục đích của mình. Ông đã viết cho Thêôphilơ câu chuyện sự tiến bộ của Tin Lành thật chính xác và theo đúng thứ tự. Bắt đầu từ máng chiên thấp hèn tại Bếtlêhem, Tin Lành của Đức Chúa Jesus đã truyền bá khắp cả vùng Địa Trung Hải. Trong vòng sáu thập kỷ, Tin Lành đã trở thành một vấn đề tranh luận lớn trong triều của Sêsa.
Một nguyên nhân nữa khiến Luca kết thúc tại Cong Cv 28:31 có thể là câu chuyện lịch sử nầy nhằm đến với giới độc giả rộng lớn hơn (thậm chí là triều đình Rôma) để giúp họ hiểu biết cơ bản về vụ án của Phaolô. Điều quan trọng đối với quyết định cho vụ án chính là sự hiểu biết chính xác về bản chất Đạo của Phaolô, về cách Đạo ấy đã bành trướng ra sao, và Đạo đó có liên quan thế nào với nhà cầm quyền Lamã. Hai câu cuối sẽ nâng cao vụ án của Phaolô hơn nữa trong mắt của người Rôma. Nếu ông là một nhà cách mạng nguy hiểm, vậy tại sao ông được tự do đến như vậy giữa Rôma để rao truyền những quan điểm của mình?
TÓM TẮT
Mục tiêu 5. Nhận biết những tên gọi, nhân vật, và địa điểm quan trọng được đề cập đến trong Côngvụ 27:1-28:31.
Mục tiêu 6. Dùng lời của bạn tóm tắt nội dung của Côngvụ 27:1-28-31.
26. Ghép những phần mô tả ở cột bên trái với ý nghĩa của nó ở cột bên phải.
.... a Hòn đảo nhỏ đã đem lại nơi tránh gió để ràng lại con tàu của Phaolô.
.... b Cảng phía đông tại Sisilơ, con tàu Điốtcua cập bến sau khi rời Mantơ.
.... c Thành phố nằm 33 dặm bên ngoài Rôma, nơi Phaolô được gặp các Cơ đốc nhân tại Rôma.
.... d Đến từ Têsalônica, là một bạn đồng hành của Phaolô và Luca trên chuyến đi đến Rôma.
.... e 150 dặm phía nam Rôma; Phaolô đã ở lại đây bảy ngày với các môn đồ.
.... f Bị bão đánh đắm trên biển.
.... g Con tàu mà Phaolô và các bạn ông đã đi từ Sêsarê.
.... h Nằm ở mũi phía nam của Tiểu Á, nơi mà con tàu ở Alécxantri đã từ đó hướng về phía tây nam thay vì trực chỉ hướng tây.
.... i Hòn đảo mà tàu Phaolô đi đã bị đắm trên đó.
.... j Thành phố 43 dặm bên ngoài Rôma, nơi Phaolô đã được gặp các Cơ đốc nhân tại Rôma.
.... k Những bãi cát nông ngoài biển Bắc Phi.
.... l Kể tên con tàu mà Phaolô và các bạn ông đã lên để đi khỏi Mantơ
.... m Tù trưởng của đảo Mantơ, mà cha ông đã được chữa lành qua sự đặt tay của Phaolô.
.... n Viên đội trưởng giải Phaolô đi.
.... o Cảng nơi mà thuyền trưởng và chủ tàu cho rằng họ trú đông sau khi rời Mỹ Cảng.
.... p Nơi mà tàu của Phaolô cập bến trên đảo Cơrết.
.... q Thành phố ở mũi phía nam Italy mà Phaolô đi qua trên đường đến Buxôlơ.
.... r Chỗ mà Phaolô và các bạn đã đổi từ tàu ở Atramít sang tàu đến từ Alécxantri.
.... s Đảo mà Phaolô đã gợi ý tàu nên ở lại trong mùa đông.
.... t Kể tên của những đội quân đặc biệt trong đạo quân tại Sêsarê mà Giulơ trực thuộc.
1) Phôrum Ápbiu.
2) Giulơ.
3) Mantơ.
4) Rêghium.
5) Aritạc
6) Binh đoàn Âuguta.
7) Buxôlơ.
8) Myra ở Lycaoni.
9) Điốtcua.
10) Tàu ở Atramít.
11) Ba Quán.
12) Cơnít.
13) Tàu ở Alécxantri.
14) Syracusơ.
15) Búpliu.
16) Cơrết.
17) Mỹ Cảng.
18) Cơlôđa.
19) Sirơtơ.
20) Phênít.
27. Không sử dụng vở ghi chép, sách giáo khoa, hoặc Kinh Thánh, bạn có thể tóm tắt thế nào về những sự kiện trong Cong Cv 27:1-28:31?
..........
ÔN LẠI VÀ ÁP DỤNG
Mục tiêu 7. Kể ra mười lẽ thật bạn đã học khi nghiên cứu sách Côngvụ, mà những lẽ thật ấy đã tác động mạnh mẽ nhất trên đời sống thuộc linh của bạn, và sẽ tiếp tục có ứng dụng mạnh mẽ nhất trong đời sống của bạn.
Phần nghiên cứu sách Côngvụ của chúng ta đến dây là kết thúc. Đức Thánh Linh đã phán với bạn thế nào trong lúc bạn đang học? Hãy dành thì giờ ngay lúc nầy, mà không cần ôn nhiều, để viết ra mười lẽ thật đã trở nên hiện thực cho bạn qua phần nghiên cứu nầy. Đáp lại, tôi sẽ kể ra mười lẽ thật đã trở nên thực tế cho tôi. Tôi không muốn bạn nghĩ danh sách tôi là danh sách chính xác , vì không ai đang nỗ lực để đánh giá phê bình những chủ đề chính của sách Côngvụ. Chúng ta đang kết thúc bằng cách khám phá tác động thành kính mà tác phẩm vĩ đại nầy để lại trên đời sống chúng ta. Để hoàn tất Mục Tiêu 7, bạn cần dùng một cuốn tập khác nữa hoặc nhiều tờ giấy trắng. Xét trên một phương diện, đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của bạn, vì bạn đang được yêu cầu đánh giá những gì đã nhận được từ phần nghiên cứu sách Côngvụ, những lẽ thật nào đã được Đức Thánh Linh thức tỉnh trong tấm lòng bạn, và những bài học thực tế nào bạn vừa học, để chúng sẽ hướng dẫn cho đời sống và sự hầu việc Cơ đốc của bạn. Sau khi hoàn tất bài tập lượng giá nầy, hãy đọc tiếp phần tôi chia xẻ cho bạn mười lẽ thật đã trở nên thực tế cho đời sống tôi.
Tôi có ấn tượng sâu sắc với quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời (Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh). Những sự kiện làm nổi bật chủ đề nầy (và tôi sẽ không kể ra nhiều đâu) là Sự Thăng Thiên, Lễ Ngũ Tuần, sự chữa bệnh, sự cứu rỗi của hoạn quan, của Cọtnây, của Saulơ, sự cho phép xảy ra những điều xấu như là sự tuận đạo, sự bắt bớ, và sự cầm tù. Có sự không lường trước; ví dụ như, Giacơ bị giết nhưng Phierơ được giải thoát khỏi ngục. Sách Côngvụ dạy cho tôi sự tin quyết nơi cả quyền tể trị của Đức Chúa Trời trên những công việc của loài người lẫn nơi quyền tể trị của Ngài trên hội thánh.
Tôi hết sức cảm động bởi phương pháp Đức Chúa Trời hiệp mọi sự lại làm ích. Từ sự rắc rối của hội thánh đã xuất hiện Êtiên, và từ sự chết của Êtiên đã xuất hiện sự bành trướng của Tin Lành và rốt cuộc là sự hoán cải của Saulơ. Từ sự đe dọa mạng sống của Phaolô đã xuất hiện sự chuyển hướng của ông đến Philíp, khiến cho Luca có thể nhập đoàn với ông trong năm năm cuối cùng của sách Côngvụ (và thu thập tài liệu cho bộ sử ký gồm hai quyển của ông). Từ vụ đắm tàu, đã xuất hiện sự làm chứng cho đảo Mantơ, và từ những năm trong tù đã xuất hiện những thơ tín trong tù và lời làm chứng cho biết bao nhiêu người.
Sách Côngvụ đã cung cấp bài học dạy rằng không thể chỉ đơn giản đem quy nguyên nhân khiến hội thánh không đang thâm nhập vào những nền văn hóa khác cho việc thiếu quyền năng thuộc linh hay thiếu cấp lãnh đạo giỏi. Hội thánh Giêrusalem đã có cả hai, nhưng vì hội thánh không thể phân biệt nền văn hóa Do thái với Tin Lành, nên Chúa đã dùng hội thánh Antiốt đem Tin Lành vượt qua những rảo cản văn hóa. Để sự nghiệp truyền giáo được thành công trong việc vượt rào cản văn hóa, nhà truyền giáo phải có thể tách riêng những kiểu mẫu và thiên kiến văn hóa của mình ra khỏi sứ điệp Tin Lành, để mình không trở thành một người cung cấp tinh thần dân tộc chủ nghĩa, nhưng trở thành người cung cấp tinh thần quốc tế chủ nghĩa của sứ điệp Tin Lành.
Sách Côngvụ cho thấy cách mà Đức Chúa Trời dẫn dắt dân sự Ngài. Không phải luôn luôn là qua sự khải thị siêu nhiên, dầu có thể đôi lúc có xảy ra như thế. Sự dẫn dắt có thể xảy ra qua hoàn cảnh, qua lời khuyên của người khác, hay qua lòng ước ao của chính cá nhân.
Là một mục sư, tôi đã học được từ sách Côngvụ cách để theo dõi sự tấn công của Satan. Nó có ba loạt chiến lược. Thứ nhất, đánh hạ cấp lãnh đạo qua sự ngã lòng hay sự ngược đãi. Thứ nhì, gây chia rẽ trong thân thể Đấng Christ. Thứ ba, bắt bớ hay dụ dỗ thân thể Đấng Christ. Thất bại ở cấp độ nầy sẽ thôi thúc nó tiến tới cấp độ kế tiếp với cường độ mạnh mẽ hơn.
Tôi được tác động sâu xa bởi bản chất năng động của hội thánh đầu tiên, và tôi cảm động trước khải tượng và sức sống của nó. Dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh, sứ đồ Phaolô đã triển khai một chiến lược truyền giáo cơ bản nhằm đem toàn vùng đến cho Đấng Christ: Nhắm vào những trung tâm dân cư lớn, không làm việc đơn độc, thành lập mối tiếp xúc đầu tiên với những người đã bước đi trong một phần sự sáng mà họ đã nhận được, những sự kiện mang tính xúc tác hoặc những bước ngoặt sẽ diễn ra bởi quyền tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời để khiến cho toàn vùng chú ý, những từng trải hoán cải phải được nuôi dưỡng tiếp tục bằng sự dạy dỗ sâu rộng, và những lãnh đạo Cơ đốc sẽ được huấn luyện qua việc đích thân tham gia với nhà truyền giáo và các lãnh đạo khác. Mục tiêu là toàn cộng đồng chứ không phải sự hiện diện chiếu lệ của hội thánh. Thành phố phải biết được rằng có một hội thánh tại đó. Mục tiêu chính yếu của nhiệm vụ truyền giáo là để lại những hội thánh bản xứ: tự túc, tự trị, và tự sinh sôi.
Tôi kinh ngạc trước tư cách con người của các Cơ đốc nhân đầu tiên. Những con người thuộc linh vẫn con người. Làm một thánh đồ không liên quan gì đến đến cảm giác vênh vang hay cường điệu tầm quan trọng của bản thân mình. Đức Chúa Trời không tạo nên những Cơ đốc nhân đơn điệu hay những bản sao cạcbon của những nhân cách rập khuôn. Mỗi tín hữu trong sách Côngvụ đều là chính bản thân người đó một cách độc nhất vô nhị. Không còn ai khác sẽ là Đôca, là Lyđi, là Banaba, là Phaolô, là Luca nữa cả. Dường như chúng ta càng trở nên giống Đấng Christ bao nhiêu, thì chúng ta càng trở nên chính bản thân mình bấy nhiêu. Tôi cũng có ấn tượng sâu sắc với vô số tín đồ trong sách Côngvụ, là những người chẳng hề được nêu tên. Tôi có thỏa mãn để trung tín hầu việc Đấng Christ dầu tên tôi không hề được ghi vào trong một hồ sơ quan trọng nào của trần gian nầy chăng?
Tôi có ấn tượng với sự xuất sắc và phẩm chất trong đời sống của những người được trình bày trong sách Côngvụ. Trở nên Cơ đốc nhân không có nghĩa là kém phẩm chất trong công việc của mình. Không ai chú trọng đến sự ngu dốt. Trí tuệ của Phaolô thuộc vào hàng đầu. Tác phẩm lịch sử của Luca có thể sánh với tác phẩm của bất cứ một sử gia thế tục nào về tính chính xác và phẩm chất văn học. Tuy Đấng Christ không khiến cho người ta kiêu ngạo, nhưng Ngài có khiến cho họ trở nên tốt hơn. Nói chung, những Cơ đốc nhân đầu tiên không làm chiếu kệ hay bất cẩn trong sự hầu việc Đấng Christ của họ.
Tôi muốn thi đua với những phẩm chất của lòng quyết tâm và sự nhẫn nại, bền đỗ của cá nhân được thể hiện trong sách Côngvụ. Dầu tình huống có khủng khiếp đến đâu đi nữa cũng vẫn không có sự rút lui, không có cảm giác tự thương hại cho bản thân mình. Sau khi bị ném đá tại Líttrơ, Phaolô đã tự đứng dậy và lại vào thành phố ngay. Trong suốt lúc bị giam cầm, ông kiên trì theo đuổi mọi cơ hội để phát triển sự nghiệp của Đấng Christ. Những tín hữu đầu tiên nầy đã kiên trì bám lấy lẽ thật. Như tấm gương của Êtiên cho thấy, sự kiên trì bám lấy lẽ thật ấy không thể bị phá vỡ bởi sự đe dọa của sự chết, hoặc thậm chí bởi chính sự chết đi nữa. Họ đã học được lòng trung thành cơ bản với Đức Chúa Trời bất chấp đến hoàn cảnh, vì Đức Chúa Trời luôn luôn hành động để đem lại điều ích lợi.
Chúng ta hầu việc cùng một Đức Chúa Trời, tin nơi cùng một Chúa Phục Sinh, và được đầy dẫy và được dẫn dắt bởi cùng một Đức Thánh Linh! Những hành động của Ngài trong thế gian và trong dân sự Ngài vẫn đang tiếp không chút giảm sút. Sách Côngvụ không phải là kết thúc của lịch sử hội thánh, mà chỉ mới là bắt đầu.
Thật sung sướng vì đã giúp bạn nghiên cứu sách Côngvụ. Nguyện Đức Thánh Linh làm vững mạnh đời sống và chức vụ bạn qua những giờ cùng nhau học sách Côngvụ, cả hiện nay cũng như trong những ngày sắp đến. Ngoài việc nắm vững lịch sử thời các sứ đồ, tôi còn cầu nguyện để bạn sẽ hiểu thấu đáo phương cách Đức Chúa Trời hành động trong đời sống bạn và trong hội thánh Ngài. Tôi đồng thanh với Phaolô để đem đến cho bạn lời khuyên nầy: "Vậy, hỡi anh em (chị em) yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu" (ICo1Cr 15:58).
Bài tự trắc nghiệm
CÂU ĐÚNG - SAI. Viết chữ Đ vào khoảng trống trước mỗi câu đúng, và viết chữ S nếu là câu sai.
1. Phaolô đã cầu nguyện nhiều lần để xin Chúa cho phép ông đi Rôma (RoRm 1:10). Và ông nói ông sẵn sàng đi đến đó đang khi ở tại Êphêsô (Cong Cv 19:21). Nếu ông đi thẳng từ Êphêsô đến Rôma, những câu nào sau đây là câu ĐÚNG về những thành tựu của Tin Lành mà hẳn sẽ không được thành đạt?
.... a Ông hẳn sẽ không có đặc ân (như đã được hứa tại lúc ông hoán cải) để làm chứng trước mặt các dân ngoại, các vua và con cái Ysơraên.
.... b Phaolô sẽ mất cơ hội rao giảng Tin Lành trên tàu và cho dân trên đảo Mantơ.
.... c Các quan tổng đốc xứ Giuđê là Phêlít và Phêtu, vua Ạcrípba II, và rất nhiều binh lính của chính quyền và quan chức nhà nước sẽ không có cơ hội được nghe một bài biện giải Cơ đốc (thân oan) đầu tiên hợp lý, có hệ thống, và trực tiếp
.... d Nhiều đoàn dân đông đang cử hành Lễ Ngũ Tuần, dân chúng Do thái tại địa phương, Tòa Công Luận hẳn sẽ không biết gì về Phaolô hay về Đạo nếu như ông không bị bắt giữ, bị nhốt tù, và bị giải đến cho Sêsa.
.... e Vô số Cơ đốc nhân nam cũng như nữ, là những người đang bị bắt bớ tàn khốc vì cớ đức tin, sẽ không được khích lệ nếu như Phaolô không vui vẻ chịu đựng sự sỉ nhục, sự giới hạn đi lại, sự cắt giảm chức vụ ông, và sự không biết chắc về tương lai do đang bị giam trong tù của Phaolô.
2. Những câu nào sau đây là câu so sánh hay đối chiếu ĐÚNG giữa sự giam cầm Phaolô tại Sêsarê với tại Rôma?
.... a Xét trên một phương diện, chức vụ của Phaolô tại Sêsarê giới hạn vào việc đáp ứng với những lời buộc tội ông; trong khi đó, tại Rôma, ông đã có thể rao giảng Tin Lành cách tự do.
.... b Tại Sêsarê, Phaolô thi hành chức vụ cho các quan, một vua và cho dân ngoại bang, cũng như cho các lãnh đạo tôn giáo của dân Do thái; trong khi đó, tại Rôma, Luca ghi rằng Phaolô rao giảng Tin Lành và dạy dỗ cho mọi người đến với ông. Chúng ta không đọc thấy một vị quan trong chính trường nào hay vua nào đến với Phaolô đang khi ông bị giam tại Rôma.
.... c Tại Sêsarê, Phaolô bị giam giữ trong tình trạng nghiêm ngặt, không được tự do đi lại và không được quyền có bạn hữu đến thăm, nhưng tại Rôma, ông được tự do phần nào, sống trong một căn nhà thuê.
.... d Từ bằng chứng đã có, dường như tại Rôma có ít âm mưu chính trị để gài bẫy Phaolô hơn là tại Sêsarê (cũng như tại Giêrusalem).
3. Dầu Luca không ghi lại chi tiết về vụ xử án và phóng thích Phaolô, nhưng bằng chứng cho thấy có thể Phaolô đã được thả và sau đó đã bị Nero bắt lại. Khi so sánh hoàn cảnh của sự giam cầm Phaolô được mô tả trong Cong Cv 28:30-31 với trong IITi 2Tm 1:16-17; 4:9-18), chúng ta có thể nói những câu nào sau đây là câu ĐÚNG?
.... a Những hoàn cảnh của hai sự giam cầm nầy chính là một.
.... b Trong Cong Cv 28:1-31, chúng ta có câu chuyện của sự giam cầm lần thứ nhất, và Phaolô có có phần nào tự do và số đồng bạn có giới hạn. Trong IITimôthê, chúng ta thấy những hoàn cảnh khác: chỉ một mình Luca ở với Phaolô, dường như Phao Lô bị giam chặt chẽ, và ông đang cần thêm áo ấm và một số sách để đọc.
.... c Trong IITimôthê, Phaolô nói về việc ông "bênh vực mình lần thứ nhứt," mà trong lần đó không ai giúp đỡ (vì mọi bạn đồng hành của ông đều bỏ rơi ông). Vì ông viết thư từ trong tù, nên chúng ta kết luận hoặc Phaolô đã được thả sau lần "bênh vực mình lần thứ nhứt" và đã bị bắt lại sau đó, hoặc ông đã bị giam trong ngục sau khi không được thả vì cớ "bênh vực mình lần thứ nhứt" không thành công.
4. Trong chuyến đi lên Giêrusalem, Phaolô đã thể hiện một vài phương diện rất thực tiễn của việc truyền Tin Lành cho những người mà ông tiếp xúc. Những câu nào sau đây là câu mô tả ĐÚNG những tấm gương thực tiễn của Phaolô?
.... a Phaolô đã lịch sự đưa ra lời khuyên về việc cố đi thuyền trong thời tiết nguy hiểm, nhưng ông không khăng khăng (dầu ông biết những hậu quả).
.... b Phaolô và Luca, cũng như thủy thủ đoàn và các tù nhân khác, đã giúp ràng con tàu lại cho chắc chắn, tức là, họ sẵn lòng giúp đỡ khi cần đến sự giúp đỡ.
.... c Giữa cơn bão, khi mọi hy vọng không còn nữa, Phaolô đã nhanh chóng quy trách nhiệm cho thủy thủ về những khó khăn và nguy hiểm đang gặp, vì ông đã chứng tỏ rằng nói hết ra là một phẩm chất của người lãnh đạo giỏi.
.... d Phaolô đã thách thức những người trong tàu bằng lời đến từ Chúa. Và dầu ông đã bảo trước cho họ vụ đắm tàu lúc cuối cùng nầy, nhưng ông cũng báo trước sự giải cứu (khỏi biển cả) của mọi người trên tàu dựa vào lời của một thiên sứ đến từ Chúa.
.... e Phaolô đã khích lệ nhiều người bằng tấm gương của chính mình. Họ đã không ăn suốt mười bốn ngày và đã đuối sức. Khi nhìn đến tình hình khủng hoảng sắp tới, ông đã khích lệ họ ăn để có sức mà tới được đất liền.
.... f Với địa vị một người thi hành chức vụ rao giảng Tin Lành, Phaolô đã đứng yên nhìn đang khi mọi người dân bản xứ Mantơ và các thủy thủ nhóm lửa sưởi ấm những nạn nhân bị đắm tàu.
.... g Cùng với Luca, Phaolô đã chăm sóc cho những nhu cầu thuộc thể của dân chúng tại Mantơ.
5 “Mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời.” Câu nào sau đây xác nhận lẽ thật của lời tuyên bố nầy?
.... a Vì con tàu đã đi trật khỏi lộ trình của nó, nên dân đảo Mantơ đã được phước bởi sứ điệp và chức vụ của Tin Lành.
.... b Sự ganh ghét của người Do thái cùng thành kiến hẹp hòi của họ khiến họ tấn công Phaolô, nhưng việc nầy chỉ khiến cho ông có cơ hội tiến đến một phạm vi mới trong chức vụ (cho các quan cai trị và các vua) cũng như có cơ hội đi tới Rôma.
.... c Đức Chúa Trời đã hành động qua hoàn cảnh dường như tuyệt vọng của các thủy thủ, để tạo cơ hội cho Phaolô trình bày sứ điệp Tin Lành tích cực cho 274 người (trừ ông và Luca ra) đang cần đến sứ điệp nầy.
.... d Sự kiện Phaolô không bị hại bởi rắn cắn đã khiến cho ông càng được dân đảo Mantơ tin cậy.
.... e Lộ trình đã đi do cơn bão và vụ đắm tàu đã thực sự đem Phaolô đến tiếp xúc với những người mà rõ ràng ông sẽ không bao giờ gặp nếu như không gặp phải cảnh ngộ nầy.
.... f Sự tự do tương đối để giảng dạy tại Rôma dưới sự giam giữ (và bảo vệ) của chính quyền Rôma có thể lại hóa ra phước hạnh, vì cớ giá trị thực tiễn lẫn giá trị biện giải niềm tin của nó.
GIẢI ĐÁP
1.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
2. c) Mùa đi biển đang thuận tiện và mùa đông sắp đến.
3. b) tình nguyện kể mình như là những đầy tớ của Phaolô. (Thực ra, nếu đúng như vậy, thì chắc chắn Phaolô đã có nhiều người bạn trung thành, là những người thể hiện sự sâu đậm của tình yêu thương Cơ đốc.)
4. c) Tyrơ. (Thành phố nầy nằm 25 dặm phía nam Siđôn. Cơ đốc nhân ở Tyrơ đã bày tỏ tình yêu thương đối với Phaolô khi ông bị ràng buộc đi đến thành Giêrusalem - Cong Cv 21:3-6.)
5. b) Kỳ Kiêng Ăn nầy liên hệ với Ngày Đại Lễ Chuộc Tội.
6. Tính đến trước từng trải trong Côngvụ 27, Phaolô đã ba lần bị đắm tàu, kể cả một lần mà ông đã bị trôi dạt một ngày một đêm. Ông đã biết sự khủng khiếp của vụ đắm tàu.
7.
a. Thuyền cứu sinh được đem lên tàu (BVN chỉ ghi là đây là “chiếc thuyền”), một nhiệm vụ và rõ ràng là Luca đã tham gia - ông ghi lại sự khó khăn của việc nầy.
b. Dây thừng được được ràng quanh chiếc tàu để giúp nó chống lại sức mạnh ghê gớm của sóng gió.
c. Hạ buồm xuống (xem Bruce, trang 510).
8. Sirơtơ chỉ về những bãi cát nông bất ngờ phía tây của Syren ngoài bờ biển Bắc Phi, và các thủy thủ Địa Trung Hải rất sợ nơi nầy. Gió và thủy triều khiến cho đường hàng hải trở thành hiểm họa trong khu vực nầy, và tàu thường mắc cạn trên những bãi cát bất ngờ nầy.
9.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
10. Ông đã gom củi lại như mọi người khác. Các sứ đồ, cũng như mọi mục sư của Đức Chúa Jesus, không có nghĩa là những lãnh đạo được tôn cao, là những người mong chờ người khác làm cho mình những việc thuộc thể, vụn vặt, và thường là những công việc bẩn tay trong khi mình chỉ đứng mà nhìn!
11.
a. Sai.
b. Sai.
c. Đúng.
12. c) Hai lần Phaolô được ban sự bảo đảm thiên thượng rằng ông sẽ đến Rôma.
13.
a. Sai. (Phaolô đã nhận được sự bày tỏ thiên thượng chỉ hai lần trong hai năm để dẫn dắt ông, và cả hai lần, sự bày tỏ nầy đều được ban cho đang khi ông đối diện với những cám dỗ lớn nhất khiến cho ngã lòng.)
b. Đúng. (Đức Chúa Trời không bảo cho Phaolô biết cách nào hay khi nào ông sẽ tới Rôma.)
c. Sai. (Như chúng ta thấy trong sách Côngvụ, Đức Chúa Trời đã giao phó một vài quyết định cho chúng ta, là những người được Ngài hiện diện trong lòng.)
d. Đúng.
e. Đúng.
14. Ông không bị nhốt tù, nhưng được phép ở tại nhà thuê riêng của mình kèm theo một người lính canh gác. Từ những thơ tín trong tù, rất có thể được viết ra trong thời ông ở tại Rôma, chúng ta biết thêm về đặc điểm sự giam cầm ông. Điểm đặc biệt đáng chú ý ấy là "những xiềng xích" của ông, những mắt xích mà chúng không hề phân cách ông khỏi sự hiện diện của lính canh người Lamã (Eph Ep 6:20).
15. Trước hết ông gặp những lãnh đạo người Do thái, hành động nhất quán với nguyên tắc truyền giáo mà ông đã phát biểu trong RoRm 1:16, "trước là người Giuđa." Những thành phố khác, nơi mà ông giữ theo thủ tục nầy, bao gồm mọi thành phố nào ông đặt chân tới mà có cộng đồng người Do thái: ví dụ như, Antiốt xứ Bisiđi, Ycôni, Philíp, Têsalônica, Côrinhtô, và nhiều thành phố khác.
16.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
17.
a. Đúng.
b. Sai.
c. Đúng.
18.
a. Sai.
b. Đúng. (Đức Chúa Jesus đã nói kẻ nào đi trong nơi tối tăm sẽ chẳng đến cùng sự sáng (GiGa 3:19). Nếu có đến như thế, thì sự sáng sẽ đẩy họ càng lùi sâu hơn vào trong bóng tối đạo đức và bóng tối tâm linh của họ mà thôi.)
19. Nước của Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jesus Christ.
20.
a. Đề tài sự dạy dỗ của Đức Chúa Jesus trong bốn mươi ngày sau khi phục sinh chính là nước Đức Chúa Trời.
b. Các môn đồ đã hỏi Đức Chúa Jesus khi nào Ngài sẽ phục hồi lại nước Ysơraên thuộc thể và theo nghĩa đen.
c. Philíp đã đem Tin Lành về nước Đức Chúa Trời đến cho người Samari. Khó mà hình dung được nước Đức Chúa Trời là tin tức tốt lành cho người Samari nếu như từ ngữ nầy được dùng với ý nghĩa là sự thiết lập tính tối cao của nhà nước Do thái.
d. Nước Đức Chúa Trời được mô tả như là một vương quốc đời đời cho các tân tín hữu tại vùng Nam Galati.
e. Tại nhà hội Êphêsô, Phaolô đã nói đến nước Đức Chúa Trời, giải nghĩa nước ấy, rõ ràng là không giải nghĩa theo tinh thần trông đợi của người Do thái, nhưng theo ánh sáng của từng trải Cơ đốc.
f. Khi ôn lại chức vụ với các trưởng lão Êphêsô, Phaolô nói rằng ông đã rao giảng nước Đức Chúa Trời giữa họ.
g. Đối với các lãnh đạo Do thái tại Rôma, Phaolô đã giảng cho họ về nước Đức Chúa Trời. Nếu bài giảng đó đơn thuần khơi dậy sự giải nghĩa thần học theo tinh thần dân tộc, thì chắc không có nguyên nhân nào khiến họ cảm thấy khó chịu với Phaolô.
h. Đối với mọi người đến thăm ông, Phaolô đã giảng về nước Đức Chúa Trời. Giống như Chúa đã chấm dứt chức vụ Ngài trên đất bằng sự dạy dỗ về nước Đức Chúa Trời, thì Luca cũng kết thúc sách Côngvụ của mình với cùng một chủ đề đó.
21.
a. Sai.
b. Đúng.
c. Đúng.
22.
a. trong ý muốn của Đức Chúa Trời, có thể ông sẽ thành công trong việc đến Rôma.
b. ông có thể đem đến sự ban cho thiêng liêng ( charisma ) nào đó cho họ, để khiến họ mạnh mẽ.
c. họ có thể được khích lệ bởi đức tin của nhau.
d. ông có thể gặt mùa gặt (linh hồn) giữa họ, cũng như ông đã có giữa những người ngoại bang khác vậy.
23.
a. Ông được tự do rao giảng cho những người đến thăm ông tại Rôma.
b. Toàn bộ đội lính canh gác cung điện (của hoàng đế) đã nghe Tin Lành. Việc nầy chắc chắn đã xảy ra trong những ca gác bốn giờ (thời gian thi hành nhiệm vụ bình thường khi gác tù nhân), khi một người lính bị xiềng chung với Phaolô. Nếu người lính hỏi vì sao Phaolô bị giam, thì Phaolô đã sẵn sàng để làm chứng!
24.
a) Đức Chúa Trời có thể trả lời: "Không!"
b) Đức Chúa Trời có thể đang trả lời: "Chờ Đợi!"
25.
b) Ông đã viết cho đến lúc hiện tại.
c) Trong tác phẩm gồm hai cuốn của ông cho Thêôphilơ, ông đã truy ra đầy đủ nguồn gốc Cơ đốc giáo.
26.
a. .18) Cơlôđa.
b. 14) Syracusơ.
c. 11) Ba Quán.
d. 5) Aritạc.
e. 7) Buxôlơ.
f. 13) Tàu ở Alécxantri.
g. 10) Tàu ở Atramít.
h. 12) Cơnít.
i. 3) Mantơ.
j. 1)Phôrum Ápbiu.
k. 19) Sirơtơ.
l. 9) Điốtcua.
m. 15) Búpliu.
n. 2) Giulơ.
o. 20) Phênít.
p. 17) Mỹ cảng.
q. 4) Rêghium.
r. 8) Myra ở Lycaoni.
s. 16) Cơrết.
t. 6) Binh đoàn Âuguta.
27. Phaolô và các bạn đồng hành xuống tàu đi Rôma, bị đắm tàu do gặp bão, trú đông trên đảo Mantơ, và cuối cùng đến Rôma, tại đó, Phaolô gặp các tín hữu khác, các lãnh đạo Do thái tại Rôma, và tiếp tục rao giảng Tin Lành trong hai năm mà không bị ngăn trở gì.
Từ Vựng
- phân xử: giải quyết vấn đề pháp lý; hành động với tư cách quan tòa.
- hạ thấp chất lượng: tiến trình làm cho mất thuần khiết bằng cách thêm vào đó một chất lạ hay một chất kém hơn.
- sự hiện ra: đang đến; hành động đang đến.
- nghịch cảnh: tình trạng chịu hoạn nạn, thiếu thốn cơ cực, hay đau khổ.
- làm cho ghét bỏ: việc làm cho mất thân thiện, thù địch, hay thờ ơ lãnh đạm ở chỗ mà trước kia vốn gắn bó.
- mang tính tỉ dụ: có ẩn chứa ý nghĩa thuộc linh mà nó vượt ra khỏi nghĩa đen của bản văn thiêng liêng.
- phép loại suy: phép suy luận rằng nếu hai hay nhiều sự vật phù hợp với một sự vật khác nữa trên một số phương diện, thì chắc chắn chúng sẽ phù hợp với nhau.
- vô danh: không có hoặc không nêu tên.
- kẻ bội đạo: người từ bỏ đức tin tôn giáo.
- vụ xử án: hành động kêu một tù nhân ra trước tòa án để trả lời cho những lời buộc tội.
- vị trí đổ bộ: một vùng đất trên bờ biển quân thù, được chiếm giữ để bảo đảm an toàn cho việc đổ bộ thêm quân và nguồn tiếp tế; một tiền đồn.
- lòng nhân đức: một hành động của lòng nhân từ; sự ban cho cách rời rộng.
- những thiên kiến: những sở thích, thiên hướng về quan điểm hay tính khí; những thái độ làm cho một người thiên về việc chọn lựa, phán đoán, hay giữ lập trường mà không xem xét hay hiểu biết đầy đủ.
- bộ kinh điển: danh sách chính thức của những sách được công nhận là Kinh Thánh.
- chất xúc tác: một tác nhân gây ra sự thay đổi trong một chất khác hay trong một lực khác trong khi vẫn giữ nguyên bản chất của chính nó; một tác nhân kích thích.
- được dạy giáo lý vấn đáp: được dạy dỗ một cách có hệ thống và đặc biệt là bởi những câu hỏi, giải đáp, giải thích và sửa lỗi sai; sự dạy dỗ trong tôn giáo theo phương cách như thế nào.
- diễn tiến thời gian: được sắp xếp theo đúng thứ tự thời gian.
- phép cắt bì: một nghi lễ của người Do thái, thực hiện cho những bé trai sơ sinh để làm dấu hiệu về sự gia nhập cộng đồng tôn giáo Do thái.
- rộng rãi: có lợi cho; thích hợp cho.
- bị thỏa hiệp: bị điều chỉnh hay được ấn định bởi sự nhượng bộ lẫn nhau; thường là sự đầu hàng nhục nhã.
- sự cưỡng bách: sức mạnh hay một tác nhân thôi thúc một cách ép buộc và không thể cưỡng lại được.
- dựa vào phỏng đoán: dựa vào một kết luận được suy diễn từ sự phỏng đoán hay đoán mò.
- bảo thủ: có khuynh hướng duy trì những quan điểm, những tình trạng hay những định chế hiện đang có; mang tính truyền thống.
- âm mưu: hành động gia nhập vào một thỏa hiệp bí mật để làm việc phạm pháp hay việc quấy.
- hoàn hảo: cực kỳ khéo léo và thành thục; ở mức độ cao nhất.
- phản công: sự tấn công để chống lại cuộc tấn công của kẻ thù.
- phẩm chất đáng tin cậy: những cơ sở hợp lý để được người ta tin; tính đáng tin cậy.
- thuộc sự thờ cúng: thuộc về hệ thống những niềm tin và nghi lễ của tôn giáo.
- lòng tôn quý: lòng tôn trọng và quí mến đối với cấp trên hay với một trưởng lão
- tôn làm thần: tôn làm vị thần ; tôn vinh là xứng đáng tột bực.
- triển khai: làm cho lan truyền ra, sử dụng hay sắp xếp có chiến thuật một cách đặc biệt.
- sự bần cùng: tình trạng bị lấy hết những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống; thiếu những thứ cần yếu để được tồn tại.
- lăng mạ: mang tính diễn tả một ý thấp hèn; khinh thường.
- báng bổ: xúc phạm đến sự thiêng liêng của; đối đãi một cách bất kính hay coi thường, thường là theo cách khiến cho đối phương tức giận; phạm thượng.
- theo thuyết tiền định: có liên quan đến niềm tin nơi sự ấn định trước.
- đối thoại: cuộc nói chuyện giữa hai hoặc nhiều người để trao đổi ý kiến và quan điểm.
- xử trí khôn khéo: việc sử dụng tài xử trí và hòa giải, đặc biệt là trong những tình huống có sự căng thẳng.
- phân biệt đối xử: tạo ra sự khác biệt trong cách đối xử hay thiên vị mà không dựa vào cơ sở là công lao cá nhân; sử dụng một quan điểm, một hành động, hay một sự đối xử có thành kiến.
- xuyên tạc: hành động bóp méo ý nghĩa thật hay qui mô thật; làm cho hư hoại.
- bói khoa: nghệ thuật hay lối sống tìm cách để thấy trước hay tiên đoán trước những sự kiện tương lai, hay để khám phá những kiến thức ẩn bí, thường là bằng cách giải nghĩa những điềm báo hay nhờ vào sự trợ giúp của các thế lực siêu nhiên.
- gây chia rẽ: tạo ra sự không hiệp một hay sự bất đồng ý kiến với nhau.
- xuất thần: tình trạng vượt ra ngoài lý luận hay sự tự kiểm soát, sự mê mẩn.
- gây dựng đời sống đức tin: một hành động hay một tiến trình để dạy bảo và hoàn thiện, đặc biệt là trong sự hiểu biết về luân lý hay về tôn giáo.
- toàn thể: trong một hội; tất cả cùng nhau.
- tính ngữ: một từ hay một cụm từ mang tính đặc trưng để thay cho một tên gọi, thường mang tính xúc phạm.
- kỷ nguyên: một thời kỳ được đánh dấu bởi một sự kiện mở đầu cho một thời kỳ phát triển mới.
- sự an ninh đời đời: niềm tin cho rằng không thể sa ngã khỏi ân điển
- thuộc chủng tộc: thuộc về hay liên quan đến những chủng tộc hay những nhóm đông người được phân loại theo những đặc điểm, những phong tục tập quán, ngôn ngữ và quan điểm xã hội có chung với nhau.
- dứt phép thông công: loại ra khỏi sự thông công của một nhóm người hay của một cộng đồng.
- đuổi quỉ: trục xuất một tà linh bằng cách khẩn thiết kêu nài Đức Chúa Trời.
- tính thủ đoạn: phẩm chất hay tình trạng của việc được làm cho phù hợp cho mục đích đang được tính đến; bị chi phối bởi sự tư lợi; liên quan đến những gì vốn thích hợp cho mưu đồ.
- thuộc kinh nghiệm: được rút ra từ, được dựa vào, hoặc có liên quan đến một điều gì đó mà đã đích thân gặp gỡ, chạm trán, trải qua, hay đã sống qua, chứ không phải là lý thuyết.
- tùy ứng: xảy ra đột ngột và bất ngờ; ứng khẩu.
- bịa đặt: được bịa ra nhằm mục đích lừa gạt.
- sản phẩm của trí tưởng tượng: sự hoạt động tự do của trí tưởng tượng; một tác phẩm của tài năng tưởng tượng.
- dân ngoại bang: người không thuộc về dân tộc hay đức tin Do thái
- sự cai quản: cách thức hoặc hệ thống lãnh đạo.
- tin đồn: một phương tiện truyền tin hay chuyện tầm phào hay lời nói hành từ người nầy sang người kia.
- Cơn Đại Hỏa Hoạn năm 64 S.C.: Cơn hỏa hoạn cháy suốt chín ngày tại Rome. Để làm dịu sự nghi ngờ trong dân chúng rằng chính Nero đã phóng hỏa để xây lại thành Rome dọc theo những hàng lối nguy nga hơn, Nero đã đổ thừa cho Cơ đốc nhân tại Rome và đã khởi xướng cơn bắt bớ chính thức đầu tiên trên Cơ đốc nhân. Cơn bắt bớ nầy đã bắt đầu vào cuối năm 64 S.C. và kéo dài đến năm 66 S.C., và giới hạn tại thành Rome. Phierơ và Phaolô dường như đã tuận đạo tại Rome trong cơn bắt bớ nầy.
- tà giáo: một quan niệm, ý kiến hay giáo lý trái với lẽ thật hay trái với niềm tin đã được chấp nhận chung.
- thuộc tà giáo: liên quan đến hoặc được đặc trưng bởi sự tẻ tách khỏi những niềm tin hay những tiêu chuẩn đã được chấp nhận; không có tính chính thống.
- những thành ngữ: những lối diễn tả bằng ngôn ngữ, cách nói đặc thù đối với một dân tộc, một cộng đồng, hay một tầng lớp xã hội.
- sắp xảy đến: phẩm chất hay tình trạng sẵn sàng xảy ra, đặc biệt là điều xấu hay nguy hiểm gần ập đến.
- niệm thần chú: việc dùng những lá bùa hay những câu thần chú để nói ra hay hát lên như là một phần trong nghi thức làm pháp thuật.
- loạn luân: liên quan đến sự giao hợp giữa những người có quan hệ bà con gần gũi đến nỗi họ bị luật pháp cấm cưới gả.
- rõ ràng chính xác: trực tiếp và dứt khoát một cách đầy ấn tượng.
- bản cáo trạng: hành động hay tiến trình pháp lý để buộc tội một tội phạm.
- tính bản xứ: chỉ về những hội thánh nào tự sinh sôi, tự quản và tự túc.
- không thể thiếu: tuyệt đối cần thiết; thuộc về bản chất.
- vô ngộ: không có khả năng mắc sai lầm, đặc biệt là trong việc định nghĩa những giáo lý liên quan đến đức tin hay đạo đức.
- không thủy chung: sự không trung thành với một bổn phận đạo đức.
- thâm nhập: tiến trình bước vào hoặc trở thành vững lập dần dần hoặc không bằng cách tấn công.
- xúi bẩy: hành động thúc đẩy tiến lên phía trước; việc khiêu khích; việc xúi giục.
- sự nổi dậy: hành động hay trường hợp nổi loạn chống lại nhà cầm quyền dân sự hay chống lại chính quyền đã vững lập.
- không nhân nhượng: phẩm chất hay tình trạng không sẵn lòng để cho tự do diễn tả cách bình đẳng, đặc biệt là trong các vấn đề tôn giáo; thái độ cố chấp.
- sự trớ trêu: sự kiện hay kết quả mà nó là điều trái ngược với điều mà người ta sẽ mong đợi một cách tự nhiên.
- biệt ngữ: một thuật ngữ hay thành ngữ đặc trưng của một nhóm người đặc biệt.
- quyền hạn: Những ranh giới hay địa phận, nơi mà uy quyền được được phép thi hành.
- koinonia: sự liên hệ; sự thông công; sự tương giao; mối quan hệ gần gũi, mật thiết.
- hợp pháp: đúng theo như mục đích đã nêu ra; không mang tính lừa gạt cũng không mang tính giả tạo.
- học thuật phái tự do: không bị ràng buộc bởi tinh thần độc đoán, chánh thống hay những hình thức truyền thống.
- hiểm độc: lòng khao khát nhìn thấy người khác phải chịu khổ.
- mệnh lệnh: một lệnh chính thức, đặc biệt là lệnh chính thức từ tòa thượng thẩm hoặc từ một người cấp trên truyền cho cấp dưới
- biểu hiện: sự chứng tỏ cách công khai về sức mạnh và mục đích; hành động nhằm làm cho rõ ràng bằng cách cho nhìn thấy.
- Marcion: một người theo thuyết trí huệ Cơ đốc vào thế kỷ thứ hai S.C., phủ nhận nhân tánh và sự thực hữu trong thân xác của Đức Chúa Jesus.
- tuận đạo: người tình nguyện chịu chết như là một sự hình phạt về việc làm chứng cho đạo của mình chứ không chịu từ bỏ đạo.
- tính thống dâm: tìm thấy khoái lạc từ việc bị đối xử tồi tệ, bị lạm dụng hay bị thống trị; có sở thích ham chịu khổ.
- khuôn mẫu: một điều gì đó để cho một điều khác hình thành hay phát triển bên trong nó; một cái khuôn.
- mang tính trung bảo: liên quan đến việc can thiệp giữa hai bên để giải hòa cho hai bên.
- ra vẻ bộ trưởng: chỉ về khuynh hướng của một số người có thái độ, giọng nói, và lối cư xử không tự nhiên khác thường khi họ thay đổi từ vai trò thường nhật của mình sang vai trò trình diễn trước công chúng.
- ganh đua trong chức vụ: nỗ lực của một vài người hầu việc Chúa để cố làm trổi hơn đồng nghiệp của mình trong việc xây dựng những nhà thờ rộng lớn hơn và những hội chúng đông hơn với những phần thưởng tài chính nhiều hơn.
- độc thần giáo: giáo lý hay niềm tin cho rằng chỉ có một thượng đế duy nhất.
- thần thoại: tuyển tập những câu chuyện truyền thống đề cập đến những vị thần, những nhân vật nửa thần nửa phàm, và những anh hùng theo truyền thuyết của một dân tộc nào đó, thường bao gồm những yếu tố siêu nhiên.
- câu chuyện: một điều gì đó được thuật lại hay được kể lại.
- tinh thần dân tộc chủ nghĩa: thuộc về, ủng hộ, hay được đặc trưng bởi lòng trung thành và tận hiến với một dân tộc, quốc gia, đặc biệt là có cảm nhận về ý thức dân tộc mà nó tôn dân tộc nầy lên trên mọi dân tộc khác, và nhấn mạnh trên hết đến sự thăng tiến, tôn cao nền văn hóa và ích lợi của mình chứ không phải các dân tộc khác.
- không xúi giục nổi loạn: không sắp xếp để khơi dậy hay tham gia vào chuyện chống cự với thẩm quyền của luật pháp.
- lối diễn tả phi ngôn ngữ: sự truyền đạt thông tin mà không dùng đến ngôn ngữ, như là dùng điệu bộ chẳng hạn.
- được tiêu chuẩn hóa: liên quan đến hay tuân theo đúng một tiên chuẩn chính thức hay một nguyên tắc của hành động đúng.
- tà thuật: thuộc về hay liên hệ đến thế giới của tà linh.
- thánh lễ: một công dụng, một tập tục hay một nghi lễ đã được qui định trước.
- thiêng liêng quá mấu: nỗ lực, cố gắng của một số người nhằm rút ra một ứng dụng thuộc linh nào đó từ mọi nhân vật, địa danh, hay sự việc trong Kinh Thánh.
- sự bột phát: tình cảm hay hành động bùng ra một cách đột ngột và mãnh liệt.
- những phương kế trong nghị trường: những quy tắc và những phong tục được sử dụng một cách khôn khéo để đạt đến được những quyết định đã dàn xếp trước.
- tính thụ động: thiếu mất tính hoạt động, tính sáng kiến hay tính dứt khoát; tính ì ra hay tính chập chạp, trì trệ.
- khả năng cảm thụ: biểu lộ sự nhận thức nghiêm túc; sự biện biệt; sự thấu hiểu.
- lan truyền: truyền qua hay khuếch tán, truyền bá qua; thâm nhập vào.
- làm cho bất diệt: khiến cho trở nên vĩnh viễn hay lâu dài vô tận.
- hiện tượng: một sự thực hay một biến cố có thể quan sát được; một sự thực hay một biến cố có ý nghĩa.
- then chốt: hết sức quan trọng.
- thủ đoạn chính trị: chỉ về những kế sách hay việc lập mưu để phục vụ cho mục đích của bản thân mình hay của đảng phái mình.
- điềm báo: một điều gì đó báo trước một sự kiện sắp đến; một dấu hiệu hay một ý nghĩa tiên tri.
- tiền bảo lãnh: tạo ra bổn phận được ràng buộc với nhau bởi cách đặt cọc trước bằng tiền, mà nó sẽ bị mất đi nếu như không làm tròn bổn phận.
- những người hành nghề pháp thuật: những người có thói quen đi theo một tiến trình nào như là tiến trình của thế giới thông linh chẳng hạn.
- tính thuyết giáo: nổi bật bởi sự khuyên bảo hiển nhiên về mặt đạo đức.
- những tiền lệ: những trường hợp xảy ra trước kia của một điều gì đó tương tự; những gương có từ trước.
- bị ngăn cản: bị làm cho không thể có được kết quả cần thiết; bị ngăn chặn
- sự biết trước: sự nhận thức về một sự kiện hay tình trạng mà chưa kinh nghiệm được.
- tiền thân: cái đi trước và chỉ ra sự đến gần của cái khác; việc làm trước.
- bậc tiền nhiệm: người đã nắm giữ trước một địa vị hay một chức vụ mà một người khác đã kế tục.
- mang tính dự ngôn: một điều nào đó được báo trước hay dự báo trước.
- được dẫn dắt: có khuynh hướng hay có thái độ từ trước đối với một việc gì đó.
- thiên vị: tỏ ra sự đối đãi đặc biệt; tạo nhiều lợi thế cho người nầy hơn cho người kia.
- linh cảm: sự đoán trước được một sự kiện, biến cố mà không ần đến sự lý luận của ý thức; cảm thấy trước.
- có uy tín: có được một địa vị ấn tượng trong tâm trí của người ta;có thế lực, có ảnh hưởng; được tôn kính.
- quá tự tiện: vượt quá trớn những giới hạn phải lẽ; quá tự do, sỗ sàng, xấc xược.
- quan trấn thủ: quan cai trị hay một quan tướng một vùng của Lamã thời xưa.
- quan tổng đốc: một vị quan của Đế Quốc Lamã, được giao cai quản những vấn đề tài chánh của một vùng.
- sự truyền bá: sự lan truyền một điều gì đó (như là niềm tin chẳng hạn) ra nước ngoài hay đến những vùng mới.
- được đẩy tới: được đẩy tiến tới hoặc đẩy liên tục nhờ vào một lực đẩy làm cho chuyển động; được thúc giục; được thúc đẩy bởi một động cơ.
- lời tiên tri: một lời nói được soi dẫn của một đấng tiên tri; một lời dự ngôn về điều sẽ xảy đến.
- người cải đạo: người chuyển từ một tôn giáo hay một niềm tin nầy sang một tôn giáo hay niềm tin khác; đặc biệt là người quay về với Do thái giáo.
- nguyên mẫu: một kiểu mẫu ban đầu mà điều gì đó được lập theo khuôn mẫu đó.
- kéo dài: kéo dài hơn về thời gian hoặc không gian; mở rộng ra.
- bởi ơn thần hựu: xảy ra bởi, hay dường như là bởi, sự can thiệp của Đức Chúa Trời.
- người cung cấp: người cung ứng hàng, thường là những vật trong buôn bán.
- thành kiến chủng tộc: thành kiến, định kiến hiện tồn tại hay đang diễn ra giữa những chủng tộc.
- cơ sở hợp lý: một lập luận căn bản; một nguyên nhân cơ bản; điểm cơ bản.
- chứng cứ bác bỏ: hành động làm cho mâu thuẫn hay chống đối bằng một lập luận chính thức; một lập luận để chứng minh một điều gì đó là giả hay sai lầm.
- tính dễ tiếp nhận: sự cởi mở và chịu đáp ứng với những ý kiến, ấn tượng hay những gợi ý.
- tái diễn: xảy ra trở lại sau một khoảng thời gian.
- bác bẻ: dùng lập luận, lý lẽ hay bằng chứng để chứng minh một điều gì đó là sai lầm.
- tái tạo: một hình ảnh phổ thông nhất được dùng cho sự tái tạo là được sanh lại, được sanh ra từ trên. Nó chỉ về một sự dựng nên mới. Người được tái tạo là người được sanh ra bởi Đức Chúa Trời.
- hồi tưởng
- có khuynh hướng nhắc cho nhớ lại (về một điều gì đã được nhìn thấy hay được biết trước kia); có tính gợi ý.
- có danh tiếng: hưởng được đặc điểm tốt; được quý trọng.
- bị bác bỏ: bị từ chối không chịu chấp nhận; nhất là bị khước từ như là trái phép hoặc như là không có chút sức mạnh hay ảnh hưởng gắn bó nào cả.
- tất phải có: cần yếu hay bắt buộc phải có.
- nhẫn tâm: không có lòng nhân từ hay thương xót và có tính tàn bạo.
- cứu vớt: giải thoát hay giải cứu, như là khỏi tình trạng đắm tàu hay khỏi sự bại hoại.
- Tòa Công Luận: hội đồng tối cao và tòa án tối cao của người Do thái trong thời kỳ hậu lưu đày, do thầy tế lễ thượng phẩm chủ tọa và có quyền hạn xét xử về tôn giáo, dân sự và hình sự.
- sự tô điểm của những viên ký lục: chỉ về những sự thay thế nhỏ trong bản văn, do các viên ký lục thực hiện, mà chúng nhằm để làm cho sáng tỏ hay cho để cho trôi chảy. Ví dụ như, trong Cong Cv 12:1, bản văn Tây phương thêm phần làm sáng tỏ "trong xứ Giuđê" vào cho chữ "hội thánh."
- tinh thần bè phái: đặc trưng của một nhóm người trung thành với một giáo lý đặc biệt hay một lãnh tụ đặc biệt; giới hạn trong đặc điểm hay phạm vi.
- xúi giục nổi loạn: sẵn sàng khơi dậy, hay tham gia vào, hay thực sự phạm vào tội chống cự hay nổi dậy chống lại chính quyền hợp pháp.
- chuỗi: một loạt liên tục hay tiếp nối nhau; thứ tự tiếp diễn kế tiếp nhau.
- khẩn khoản: thói quen hay hành động của sự van xin, yêu cầu tha thiết; thỉnh cầu hết sức tha thiết (như để xin tiền chẳng hạn).
- phép phù thủy: Việc dùng quyền phép nhận được từ sự trợ giúp hay sự điều khiển của các tà linh, đặc biệt là để tiên đoán trước các sự kiện trong tương lai hoặc để khám phá kiến thức bị giấu kín.
- ngoạn mục: một điều gì đó nổi bật hay gây xúc động.
- những khán giả: những người xem hay đứng chứng kiến; những người đứng xem để đối lại với những người tham dự.
- bị rập khuôn: thiếu tính sáng tạo, tính độc đáo hay tính cá nhân.
- vết nhơ: dấu hiệu của sự hổ thẹn hay sỉ nhục.
- một cách khắc kỷ: không bị tác động bởi, hay tỏ ra, một sự đau đớn hay cảm xúc; không dễ đáp ứng với điều gì có vẻ như là sự thích thú hay là tình cảm phấn khích thông thường.
- quỵ lụy:một địa vị giữ chức năng cấp dưới (sẵn lòng giữ vai trò một đầy tớ).
- dẫn chứng: được xác nhận bởi bằng chứng hay bởi những chứng cớ rất tốt; việc chứng minh là đúng.
- mang tính lật đổ: cố gắng lật đổ hay phá hoại chính quyền hay hệ thống chính trị bởi những con người hoạt động bí mật trong trong quốc gia có liên quan.
- siêu nhiên: thuộc về hay liên quan đến một trật tự hiện hữu vượt ra ngoài vũ trụ có thể quan sát được bằng mắt; Đức Chúa Trời vượt ra ngoài những quy luật của tự nhiên.
- bị thay thế: bị khiến cho bị loại ra; thay thế chỗ hay địa vị của.
- mê tín: bày tỏ một niềm tin hay một nếp sống xuất phát từ sự ngu dốt, do sợ hãi những điều chưa biết, tin nơi pháp thuật hay may rủi, hay có những khái niệm sai lầm về nguyên nhân.
- dễ mắc phải: khả năng dễ phục theo một hành động; không thể chống cự đối với một ảnh hưởng nào đó.
- mang tính biểu tượng: việc sử dụng, áp dụng, hay trình bày một biểu tượng (một điều gì đó đại diện cho, hay gợi ý về, một điều khác bằng lý luận đến sự liên hệ.
- thuộc thế tục: thuộc về hay liên quan đến những vấn đề, mối quan tâm của trần tục trái ngược với những vấn đề thuộc linh.
- thuật ngữ: những từ ngữ chuyên môn hay đặc biệt, được sử dụng trong một đề tài đặc biệt
- thần học: bộ môn nghiên cứu về Đức Chúa Trời và mối liên hệ của Ngài đối với thế gian; đặc biệt là những sự dạy dỗ của một cộng đồng tôn giáo có tổ chức.
- bài diễn văn dài để chỉ trích: một bài diễn văn dài, thường nổi bật bởi lối nói chỉ trích gay gắt và không kiềm chế.
- siêu phàm: vượt lên trên hay vượt ra ngoài những giới hạn thông thường.
- chuyển biến: chuyển từ một giai đoạn, một tình trạng, hay một địa điểm nầy sang một giai đoạn, một tình trạng hay một địa điểm khác.
- phản bội: sự xúc phạm đến lòng trung thành hay đến đức tin và lòng tin quyết.
- luận thuyết: một sự giải thích hay lập luận có hệ thống bằng văn bản (bao gồm cả sự thảo luận có phương pháp về những sự kiện và các nguyên tắc có liên quan và những kết luận đã rút ra được).
- quan quản cơ: một quan chức Lamã dưới thời quan chủ và dân chủ, có chức năng bảo vệ công dân khỏi hành động chuyên chế của các quan tòa.
- làm hình bóng: trình bày dưới dạng biểu tượng.
- không mơ hồ: rõ ràng, chính xác,
- tính độc nhất: điều mà không còn có điều khác nữa giống với mình hoặc ngang hàng với mình; vô song.
- đô thị: liên quan đến thành phố.
- dao động: bị chao đảo, nao núng trong lý trí, ý chí, hay cảm xúc; lưỡng lự trước sự lựa chọn những ý kiến, quan niệm hay tiến trình.
- được phê chuẩn: được xác nhận hay được chứng thực dựa vào một cơ sở có thẩm quyền hay vững chắc.
- cơ sở hiệu lực: điều mà nó có tính thích ứng và có ý nghĩa; có cơ sở vững vàng hoặc có thể biện minh được vì nó được hỗ trợ bởi sự thật khách quan hay thẩm quyền được công nhận chung.
- sự diễn đạt biến thể: sự khác nhau, thường thường chỉ là hơi khác, với bản văn được công nhận chung.
- ma thuật: nghệ thuật hay nghề của một thuật sĩ; phép phù thủy.
- nơi xét xử: là địa điểm mà một vụ án được được xét xử vì cớ đã xảy ra những sự kiện được cho là có xuất hiện hành động pháp lý.
- sự xác minh: hành động hay tiến trình khẳng định hay xác lập tính chính xác hay tính thực tế của sự thật.
- sự xác chứng: sự chứng minh là đúng để chống lại sự phủ nhận hay chỉ trích; một sự khẳng định là đúng sự thật và đúng theo lẽ phải.
- tính khả quan: khả năng của việc nằm trong trọn tầm nhìn.
- tính tình hay nổi nóng: phẩm chất hay tình trạng của khuynh hướng đột ngột bùng lên thành thô bạo; dễ bùng nổ.
- tay nghề pháp thuật: nghệ thuật hay tay nghề pháp thuật; nghề phù thủy.
---Hết---