4C do Hiệp hội cà phê Đức và Cơ quan Phát triển Quốc tế của chính phủ Đức (GTZ) hình thành nhằm tăng cường tính bền vững trong chuỗi cà phê nhân “thông thường” và gia tăng lượng cà phê đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản của tính bền vững.
Tham gia sáng kiến là những nhà sản xuất do các hiệp hội đại diện, đại diện các Công đoàn và các tổ chức NGO, các tập đoàn lớn trong công nghiệp như Nestlé, Sara Lee/Douwe Egberts, Tchibo và Kraft...
4C xây dựng dựa trên các thực hành nông nghiệp và quản lý tốt mang tính cơ bản. Bộ quy tắc ứng xử nhắm đến loại trừ những thực hành không thể chấp nhận và khuyến khích cải tiến không ngừng. Khác với các hệ thống chứng nhận kể trên, 4C chỉ kiểm tra sự phù hợp chứ không chứng phận sự phù hợp, do đó không cấp chứng chỉ
Trong hệ thống 4C, kiểm tra 4C là xem xét sự phù hợp với tiêu chuẩn cơ bản của 4C, bao gồm 28 chỉ tiêu tiêu biểu cho phức hợp những quan tâm môi trường, xã hội và kinh tế. Có tất cả 10 thực hành không thể chấp nhận phải bị loại trừ và trong mỗi khía cạnh bền vững ít nhất phải đạt sự phù hợp tối thiểu (ở cấp độ gọi là ‘màu vàng trung bình’) thì mới qua được kiểm tra. Tất cả kiểm tra 4C được một tổ chức kiểm tra hoặc chứng nhận thứ ba độc lập tiến hành, các tổ chức này đã qua đào tạo kiểm tra 4C và được chính thức đạt ISO/Guide 65. Kiểm tra 4C được thực hiện ở cấp độ Đơn vị 4C. Có thể thành lập Đơn vị 4C ở bất kể cấp độ nào trong chuỗi cà phê, từ cấp độ người sản xuất/nhóm người sản xuất cho tới cấp độ nhà rang xay. Kiểm tra được miễn phí cho người sản xuất: chi phí kiểm tra do Hiệp hội 4C trang trải thông qua phí thành viên chủ yếu của các thành viên Công nghiệp đóng góp.
4C không cho sử dụng nhãn hoặc lô gô của 4C nhưng cho sử dụng tuyên bố là thành viên 4C trên bao bì. Tuyên bố thành viên không liên quan gì tới số lượng và chất lượng cà phê chứa bên trong nhưng đó là một phương tiện để cho các thành viên Công nghiệp của 4C nhấn mạnh rằng họ hỗ trợ cho Tiếp cận Bền vững 4C. Có thể sử dụng rộng rãi lô gô Hiệp hội 4C trên các ấn phẩm, trang web, tài liệu giới thiệu, nhưng không được dùng trên bao bì.
Trong niên vụ hoạt động đầu tiên 2007/2008 , tại 21 quốc gia, 4,5 triệu bao (60kg) cà phê nhân qua kiểm tra phù hợp các tiêu chuẩn 4C. Tổng cộng tới tháng 6/2009 có 8,77 triệu bao phù hợp 4C tại 22 quốc gia với 73 đơn vị 4C 6. Tuy các thành viên thương mại và công nghiệp trong Hiệp hội 4C cam kết ủng hộ nhưng qua gần 2 niên vụ lượng cà phê 4C thực sự được mua như 4C tuy có gia tăng nhưng tỷ lệ cũng vẫn chỉ chiếm khoảng 10%, do lượng cà phê được kiểm tra phù hợp cũng tăng lên khá nhanh.
Sau khi ra đời vào 2003, từ giữa năm 2006 Bộ Quy tắc ứng xử chung cho Cộng đồng Cà phê (bộ quy tắc 4C) dành cho sản xuất và kinh doanh cà phê “thông thường” đã bắt đầu được phổ biến và áp dụng tại vùng Dak Lak với sự tham gia hỗ trợ kỹ thuật của GTZ, đơn vị tư vấn như EDE Asia Consultant, đơn vị kiểm tra Cafecontrol, một số Công ty XNK cà phê trong và ngoài nước. Theo Trung tâm thương mại quốc tế trong năm 2007 cà phê 4C sản xuất tại Việt nam đã có mặt trên thị trường thế giới. Các hoạt động của 4C trong thời gian qua tại Việt nam bao gồm thành lập Nhóm công tác, tạo lập các kết nối, đào tạo Tiểu giảng viên, hướng dẫn xúc tiến thành lập các đơn vị 4C.
Chương trình 4C hiện hoạt động chủ yếu tại Tây nguyên. Theo thống kê cuối năm 2008 tại 3 tỉnh Dak Lak, Lâm đồng, Gia lai đã có 13 đơn vị 4C (chủ yếu là liên kết giữa những nhà kinh doanh xuất khẩu với nông hộ để thành lập đơn vị 4C) với diện tích khoảng 12.000 ha và sản lượng khoảng 40.000 tấn cà phê nhân. Riêng Dak Lak có 7 đơn vị 4C với diện tích khoảng 7.000 ha và sản lượng 23 ngàn tấn. Dự kiến năm 2009 sẽ có thêm 12 đơn vị 4C đưa tổng diện tích lên khoảng 25.000 ha và sản lượng khoảng 80.000 tấn.
Theo thống kê toàn thế giới, lượng cà phê 4C tiêu thụ được dưới dạng 4C chỉ chiếm khoảng 10%. Tại Việt nam chưa có số liệu nào công bố chính thức nhưng có lẽ cũng chưa thể đạt được con số khả quan hơn. Tuy nhiên cần phải lưu ý tiêu chuẩn 4C là tiêu chuẩn cơ bản, trên nền tảng đó phát triển những hệ thống chứng nhận có yêu cầu cao hơn. Một số trường hợp thực hiện song song chương trình 4C và một chương trình chứng nhận khác trên cùng diện tích như Thương mại công bằng hoặc Liên minh rừng mưa. Chính vì vậy việc thống kê tách riêng diện tích, sản lượng được chứng nhận, sản lượng
bán được theo chứng nhận khó có con số chính xác. Một lưu ý nữa tuy lượng bán được theo 4C còn rất khiêm tốn, nhưng các doanh nghiệp vẫn tích cực tham gia chương trình vì muốn gắn kết nhiều hơn với nông dân để chủ động nguồn cung và nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, cải thiện hình ảnh doanh nghiệp trong cộng đồng.