[ Đức Phật bảo: Phải biết tánh thấy sáng suốt nhiệm mầu nầy chẳng phải nhân chẳng phải duyên, chẳng phải tự nhiên, chẳng phải không tự nhiên.
Chẳng phải không tự nhiên, không có cái chẳng phải (phi) và chẳng chẳng phải (bất phi), không có cái phải (thị) và chẳng phải (phi thị). Lìa tất cả tướng, tức tất cả pháp. “Đệ nhất nghĩa” ]
[ Thế Tôn thường chỉ dạy các tỷ-khưu: tánh thấy gồm đủ bốn thứ nhân duyên, nghĩa là nhân nơi hư không, nhân nơi sáng, nhân nơi tâm, và nhân nơi mắt. Nghĩa ấy như thế nào?”
Đức Phật bảo A-Nan: “Như Lai nói các tướng nhân duyên trong thế gian, chẳng phải là đệ nhất nghĩa.”] KINH LĂNG NGHIÊM QUYỂN 2 TẬP 1
«
Bấy giờ đại đức A Nan, từ trong đại chúng đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, bạch rằng:
– Đức Thế Tôn vừa dạy về ba nghiệp sát, đạo,dâm. Nếu ba duyên đã đoạn trừ thì ba nhân không phát sinh; cái tâm cuồng điên ở trong anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa tự hết thì trí biết hiển lộ, không phải do ai đƣa đến. Nhƣ thế tức là nhân duyên rồi,thật là rõ ràng, tại sao đức Thế Tôn lại loại bỏ yếu tố nhân duyên?
_ Chính con do nghĩa lí nhân duyên mà tâm được khai ngộ. Bạch Thế Tôn! Nghĩa lí ấy không riêng gì kẻ ít tuổi như con, hay như hàng Thanh-văn hữu học,mà ngay cả trong chúng hội hôm nay, các tôn giả Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, Tu Bồ Đề vân vân,trước học theo vị lão phạm chí, sau nghe được lí nhân duyên của đức Thế Tôn mà tâm phát khai ngộ,đạt quả vô lậu. Bây giờ đức Thế Tôn dạy rằng, quả Chánh Giác không do nhân duyên, thì hóa ra cái thuyết tự nhiên của nhóm ngoại đạo Câu Xá Lê trong thành Vương-xá, lại trở thành nghĩa lí chân thật tối thượng hay sao? Cúi xin đức Thế Tôn từ bi thương xót, phá trừ tâm mê muội cho chúng con!
_ Đức Phật dạy đại đức A Nan:
– Thì như anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa ở trong thành, nếu nhân duyên điên cuồng tiêu trừ hết, thì tánh không điên cuồng tự nhiên hiển lộ. Cái lí lẽ về nhân duyên và tự nhiên, xét cho cùng, chỉ là như thế.
_Thầy A Nan! Anh chàng Diễn Nhã Đạt Đa kia,cái đầu vốn là tự nhiên. Vốn đã là tự nhiên thì không lúc nào mà không tự nhiên; vậy thì do nhân duyên gì mà sợ cái đầu rồi hoảng hốt điên cuồng bỏ chạy?
_ Nếu cái đầu vốn có tự nhiên, vì nhân duyên soi gƣơng mà hoảng hốt cuồng loạn, thì tại sao không cứ giữ tự nhiên, mà lại vì nhân duyên mà mất đi cái đầu?
_Nhưng cái đầu vốn không mất, chỉ vì sợ hãi điên cuồng mà có cảm giác như thế, chứ nào có thay đổi gì mà phải nói tới nhân duyên! Nếu tánh cuồng vốn là tự nhiên, thì sự sợ hãi điên cuồng xưa nay vốn phải hiện hữu thường trực; vậy thì khi chưa phát cuồng, cái tánh cuồng ấy ẩn núp chỗ nào?Nếu tánh không cuồng là tự nhiên, thì trong đầu vốn không có vấn đề gì, cớ sao lại điên cuồng bỏ chạy?
_Nếu hiểu rõ rằng cái đầu của mình vốn sẵn có, và biết chắc rằng chỉ vì phát cuồng mà bỏ chạy, thì cả “nhân duyên” và “tự nhiên” đều chỉ là hí luận mà thôi. Vì vậy cho nên Như Lai nói: Ba duyên vừa đoạn dứt thì tâm bồ đề hiển lộ. Tâm bồ đề phát sinh thì tâm sinh diệt chấm dứt; nhưng đó cũng chỉ là sự sinh diệt trong cái thấy đối đãi phàm tình mà thôi. Phải dứt tuyệt cả hai ý niệm đối đãi “sinh - diệt” này thì mới gọi là “vô công dụng đạo ”. Nếu có tự nhiên, như vậy thì rõ ràng là nói tâm tự-nhiên sinh, đối lại với tâm sinh-diệt diệt; và đây cũng lại là tâm “sinh-diệt”mà thôi.Phải tận diệt cái tâm “sinh diệt” thì mới gọi là tự nhiên. Cũng như trong thế gian, các tướng hòa lẫn với nhau thành ra một thể, gọi là tánh hòa-hợp; còn cái không phải hòa hợp thì gọi là tánh bản-nhiên. Bản nhiên mà chẳng phải bản nhiên, hòa hợp mà chẳng phải hòa hợp; rời bỏ cả hòa hợp và chẳng phải hòa hợp, bản nhiên và chẳng phải bản nhiên; rồi cả hai ý niệm: “hòa hợp và chẳng phải hòa hợp, bản nhiên và chẳng phải bản nhiên” cùng “rời bỏ cả hòa hợp và chẳng phải hòa hợp, bản nhiên và chẳng phải bản nhiên”, cũng đều rời bỏ hết, như thế mới là pháp “vô hí luận”.
_Bồ đề niết bàn vẫn còn xa xôi, nếu thầy không trải qua nhiều kiếp chuyên cần tu chứng, thì tuy thầy có ghi nhớ diệu lí thanh tịnh nhiều như cát sông Hằng, do các đức Như Lai khắp mười phương nói trong mười hai bộ kinh, cũng chỉ thêm nhiều hí luận mà thôi.
_Thầy tuy đàm luận các lí lẽ nhân duyên, tự nhiên một cách rõ ràng rành mạch, và được người đời xưng tụng là “đa văn đệ nhất”;nhưng với cái thành tích “đa văn” đã được huân tập từ nhiều kiếp đó, thầy vẫn không thể tự hóa giải được nạn Ma Đăng Già, mà phải chờ thần chú “Phật Đảnh” của Như Lai, làm cho ngọn lửa dâm trong tâm nàng Ma Đăng Già tắt hết, sông ái cạn khô,nàng chứng quả A-na-hàm, trở thành rừng tinh tấn trong giáo pháp của Như Lai, thầy mới được cứu thoát!
_Vì vậy, này A Nan! Thầy tuy nhiều kiếp ghi nhớ diệu pháp bí mật của Như Lai, vẫn không bằng một ngày tu nghiệp vô lậu, xa lìa hai thứ khổ thương,ghét ở thế gian; như nàng Ma Đăng Già, trước kia từng là dâm nữ, nhưng nhờ sức thần chú mà tâm ái dục tiêu tan, hiện giờ ở trong giáo pháp của Như Lai,được gọi tên là Tánh tì kheo ni. Mẹ của thầy La Hầu La là Da Du Đà La cũng giống như Tánh tì kheo ni. vậy, hai người cùng tỏ ngộ được cái nhân ở nhiều đời trước, biết rõ tham ái là nguồn gốc khổ đau, rồi nhờ chuyên tâm tu tập thiện nghiệp vô lậu, mà một người thì vượt thoát được sợi dây ràng buộc, còn người kia thì được Nhƣ Lai thọ kí. Còn thầy, sao cứ tự coi thường mình để phải mắc kẹt mãi trong vòng nghe thấy!KINH LĂNG NHIÊM QUYỂN 4
«
“Đức như lai xuất hiện ở thế giói Ta Bà, sự giáo hóa chân chính của cỏi này là âm thanh và sự nghe thanh tịnh,Muốn thể nhập chánh định đều do sự nghe mà nhập”./ NHƯ LAI XUẤT TA BÀ,THỬ PHƯƠNG CHÂN GIÁO THỂ,THANH TỊNH TẠI ÂM VĂN.DỤC THỦ TAM MA ĐỀ,THẬT DĨ VĂN TRUNG NHẬP /KINH LĂNG NHIÊM QUYỂN 6
TRUNG LUẬN Chương 24 Quán Bốn Thánh Đế Bài kệ 10
Nhược bất y tục đế
Bất đắc đệ nhất nghĩa
Bất đắc đệ nhất nghĩa
Tắc bất đắc Niết-bàn.
10
Nếu không nương tục đế,
Không đạt đệ nhất nghĩa.
Không đạt đệ nhất nghĩa,
Ắt không đạt Niết-bàn.