Tam chuyển pháp luân là Thị chuyển, Khuyến chuyển, Chứng chuyển. Thị chuyển là Phật chỉ rõ bốn lẽ thật có tánh cách khách quan: đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là đạo diệt khổ. Khuyến chuyển là Phật khuyên năm vị Tỳ-kheo xưa chưa từng nghe, nay cần phải biết hãy chánh tư duy để phát sanh trí tuệ: đây là khổ các ông phải biết, đây là tập các ông phải đoạn, đây là diệt các ông phải chứng, đây là đạo các ông phải tu. Chứng chuyển, Phật nói đối với pháp Tứ đế Ngài đã biết, đã tu, đã đoạn và đã chứng. Đây là khổ ta đã biết, đây là khổ tập ta đã đoạn, đây là khổ diệt ta đã chứng, đây là khổ đạo ta đã tu. Phật nói về Tứ đế ba lần là thị chuyển, khuyến chuyển, chứng chuyển mỗi lần đều lặp lại bốn đế, ba lần lặp lại, thành muời hai. Nên nói Thập nhị hành. Lần thứ nhứt chưa hiểu nói cho hiểu, lần thứ hai hiểu rồi phải tu, lần thứ ba tu rồi để chứng TRG 163
CHUYỂN TỨ ĐẾ
1. Thị chuyển: thuyết minh tường tận đây là khổ, đây là tập, đây là diệt, đây là đạo.
2. Cần chuyển: thuyết minh khổ nên biết, tập nên đoạn, diệt nên chứng, đạo nên tu.
3. Chứng chuyển: thuyết minh khổ ta đã biết, tập ta đã đoạn, diệt ta đã chứng, và đạo ta đã tu. Trên đây là cương yếu về lần đầu tiên Phật chuyển pháp luân. Giải thích rõ Khổ đế và Tập đế đó là do duyên sinh pháp, từ đó giải rõ pháp Thập nhị nhân duyên.
MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN
- Đức Thích Tôn với bản hoài đại bi, đại trí, nên suốt bốn mươi chín ngày, Ngài đoan tọa dưới gốc cây bằng một tinh thần dõng mãnh, với ý chí khắc phục nội ma ngoại chướng, bỗng nhiên vào ngày mùng tám tháng chạp, vừa lúc sao mai ló dạng Ngài thấu ngộ rằng, tất cả các pháp không một pháp nào không có duyên khởi. Sự rốt ráo của tất cả các pháp duyên khởi ấy là đạo lý vô ngã. Ấy là “Sinh tri sinh kiến, định đạo phẩm pháp, sinh dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ biện, tất cánh thọ hữu, tri như chơn" (đã sinh tri, đã sinh kiến, định đạo phẩm pháp, sự sinh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc càn đã làm xong, không còn tái sinh nữa, biết đúng như vậy).
- Thập nhị nhân duyên đích thực là một “sáng tạo luận” được lưu lộ một cách đặc biệt độc đáo từ đại bi trí hải của Đấng giác ngộ. Các tín ngưỡng Thần quyền; không một tôn giáo Thần quyền nào mà không cho rằng vũ trụ này là do Thượng đế sáng tạo. Đức Phật dùng mười hai nhân duyên để thuyết minh về căn nguyên của vũ trụ.
Mười hai nhân duyên là chuỗi mắc xích được dùng để thuyết minh sinh mệnh con người mà vốn từ nghìn đời nay luôn lưu chuyển từ tiền sinh đến kim sinh và rồi hậu sinh, tạo thành mối quan hệ giữa nhân và quả. Mối quan hệ này được gọi là “tam thế lưỡng trùng nhân quả”. Nhưng về phương diện hồi hoàn, thì mười hai nhân duyên có thể dùng vòng xoay hoặc - nghiệp - khổ để thuyết mnh.
HOẶC - NGHIỆP - KHỔ.
Từ vô thỉ đến nay do sự xuẩn động của “vô minh hoặc” mà tạo tác các nghiệp thiện ác ở đời quá khứ, nhân đấy dẫn đến việc cảm thọ quả khổ ở đời hiện tại, và cũng ở đời hiện tại, lại tiếp tục chạy theo cái nhân mê mờ (Hoặc) tạo ra các ác nghiệp, các ác nghiệp này đưa đẩy đến quả khổ sinh tử ở kiếp sau. Đấy chính là phương cách xoay vòng của mười hai nhân duyên.
1. Hoặc: là Vô minh ở đời quá khứ dẫn đến Ái, và Thủ ở đời hiện tại.
2. Nghiệp: ấy là Hành ở đời quá khứ đưa đến Hữu của đời hiện tại.
3. Khổ: ấy là Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ ở đời hiện tại dẫn đến sinh và lão tử ở đời vị lai.
Thuyết minh mười hai Nhân duyên, mục đích là giúp con người hiểu rõ nội dung của Khổ và Tập trong Tứ Thánh Đế. Nhân sinh là bể khổ! Vậy, khổ này là do đâu? Do nhân quả trong ba đời. Khởi đi từ vô minh mà mức đến là quả khổ sinh tử.