TUẦN 1 MÙA VỌNG 2013
1 december 2013 - Bài đầu tiên của trang BETANIA
1 december 2013 - Bài đầu tiên của trang BETANIA
-----------------------------------
Thứ Hai
Mt 8,5-11
Bài 1 : Xem tại đây
Bài 2 : Xem tại đây
Bài 3 : Viên đại đội trưởng
Chúa Giêsu có nhiều lý do để nhậm lời viên sĩ quan la mã.
Thứ nhất đó là viên sĩ quan đến kêu xin Người, không phải cho ông ta, nhưng cho một người khác, một kẻ nhỏ bé, không cấp bậc, một người đơn sơ mà Chúa Giêsu yêu mến. Một viên sĩ quan của đạo quân chiếm đóng chứng tỏ lòng nhân đạo, thật hiếm có ! Chắc hẳn ông ta đã suy nghĩ về Chúa Giêsu và đã hình dung về vị ngôn sứ người galilê này. Ông ta đến nói mấy lời : « Tôi có một đầy tớ; nó bệnh; nó sắp chết! »…chỉ một vài lời giống như Đức Maria ở Cana : « Họ hết rượu rồi! ».
Ta luôn được Chúa Giêsu đón nhận khi ta gặp bất hạnh và chạy đến cùng Người.
Thứ đến ông sĩ quan là một người khiêm tốn; và điều này thật có ý nghĩa đối với Chúa Giêsu : « Viên sĩ quan nói : Tôi không xứng đáng đón Ngài vào nhà tôi ». Ông ta cảm thấy không xứng đáng, mặc dù quyền lực và khả năng của ông, mặc dù sự ngưỡng mộ người ta dành cho ông ở Capharnaum, mặc dù tất cả những liên hệ mà ông có.
Nhưng điều đánh động Chúa Giêsu, hơn cả sự khiêm tốn của ông, đó là đức tin của ông, đức tin tĩnh lặng nhưng táo bạo : « Xin chỉ phán một lời, từ xa, và đầy tớ tôi sẽ lành bệnh, vì mọi sự phải vâng lời Ngài. Xin chỉ nói một lời, và tôi sẽ trở về, tin tưởng vào lời Ngài, vào quyền năng của Ngài. Chỉ một lời thôi, và sự bại liệt sẽ chấm dứt, đau khổ sẽ lùi xa. »
Viên sĩ quan rôma, người ngoại quốc này, đã cảm thấy một cái gì đó thuộc bí mật của Chúa Giêsu. Qua những lời ngõ với Chúa Giêsu, ông ta diễn tả huyền nhiệm của lời tạo thành và tái tạo : « Thiên Chúa phán, và mọi sự liền có; Ngài truyền lệnh, và mọi sự hiện hữu » (Tv 33,9). Một cách vô thức, viên sĩ quan đã chuyển tải ý tứ thần học trong ngôn ngữ người lính của ông : « Vì tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này đi là nó đi, bảo người kia đến là nó đến. Vậy thì, Ngài, vị ngôn sứ xứ Galilê, Ngài hành động với sức mạnh của chính Thiên Chúa, không ai có thể áp đặt gì đối với Ngài, tôi biết Ngài có thể truyền lệnh cho đau khổ và cả sự chết ».
Lòng tin này, Chúa Giêsu đã không tìm thấy nơi những người của Ngài, cũng không tìm thấy nơi những người năng lui tới đền thờ. Ngài tìm thấy nó nơi một người ngoại quốc. Con người này đã biết vận dụng triệt để đức tin bẩm sinh của mình. Thật tuyệt vời, điều mà ông ta biết về Chúa Giêsu ! Ông ta nhanh chóng biết được quyền năng của Thiên Chúa. Ông ta đối diện với quyền năng với trái tim của một người nghèo nghĩ rằng mình không xứng đáng.
Trong giây phút trước khi rước Mình Thánh Chúa Kitô, Giáo Hội cho chúng ta lặp lại lời cầu xin của viên sĩ quan : « Xin Chúa phán một lời, thì con sẽ lành mạnh ».
Con không xứng đáng được Ngài đến viếng thăm; con càng không xứng đáng đến với Ngài. Nếu căn cứ vào phẩm giá, lạy Chúa, sẽ chẳng bao giờ có cuộc gặp gỡ. Xin lời của Ngài xóa bỏ mọi khoảng cách. Một lời, chỉ một lời, một lời của Ngài, từ nơi Ngài ngự ! Một lời cho con, cho cộng đoàn của con, cho Giáo Hội nơi đây, và sự sống sẽ lại hoạt động.
*Nguồn : Jean Lévêque
*Chuyển ngữ : Toma Sơn, DCCT.
Thứ Ba, lễ thánh Phanxicô Xaviê
Bài 1 : Hạnh thánh Phanxicô Xaviê : Xem tại đây
Bài 2 : Mc 16, 15-20
HÃY ĐI KHẮP THẾ GIAN
"Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng..."
Lời Ðức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối.
Thế giới chẳng phải ở đâu xa.
Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân.
Thế giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống.
Thế giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết,
miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không ? Tôi có dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin được khả năng trừ quỷ,
nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ,
khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của trần gian,
khả năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất.
Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm việc với mình.
Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo.
Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản thân.
Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi,
sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương...
Một Kitô hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc,
thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn,
đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả.
Kitô giáo phải góp phần xây dựng một thế giới
hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no,
nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng,
nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo Tin Mừng
bằng những cử chỉ nhân ái với bao người cùng khổ.
Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrexa nhỏ đã truyền giáo tại chỗ
bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé.
Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường,
nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân,
nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta thắc mắc, đặt câu hỏi.
Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả lời.
Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo lý
nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho người khác Ðấng tôi đã quen.
Có thể người ấy đã biết Ðấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa.
Cần tập đến với người khác
như Ðức Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari.
Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước Hằng Sống.
Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng.
Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc
thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo,
thì nguyện ước của Ðấng Phục Sinh được thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Ðó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện.
(Dựa theo lời của thánh Têrêxa)
Lm Nguyễn Cao Siêu, sj
Thứ Tư
Mt l5; 29-37
Bài 1 : Xem tại đây
Bài 2
Câu chuyện hóa bánh ra nhiều xảy ra trong khung cảnh chữa lành ở bờ hồ và trên núi. Như vậy thánh Matthêô chỉ ra rằng Chúa Giêsu thực hiện những lời loan báo của Isaia về thời của Đấng Thiên Sai : « Đức Chúa sẽ lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt; Người sẽ chuẩn bị một bữa tiệc trên núi. » (Is 25,6-9)
Vào cuối thời lưu đày, vị tiên tri đã nhắc lại chủ đề ‘lòng thương xót’ của Đức Chúa đối với dân Người : « Trên những núi trọc sẽ là những đồng cỏ. Họ không còn phải đói, phải khát vì Đấng thương xót họ sẽ hướng dẫn họ » (Is 49,9); và Chúa Giêsu gợi lại lời tiên tri khi Ngài nói với các môn đệ, sau ba ngày lao nhọc : « Ta xót thương đám dân này ».
Những liên hệ giữa phép lạ hóa bánh và những lời tiên tri trong Cựu Ước khiến chúng ta chú ý. Trong các tin mừng nhất lãm, các phép lạ của Chúa Giêsu biểu lộ quyền năng nhằm thiết lập Triều Đại Thiên Chúa chống lại sự thống trị của Satan; ở đây, nơi Matthêô, phép lạ là như dấu chỉ, điều này rõ nét hơn nơi thánh Gioan; phép lạ hóa bánh muốn mạc khải một điều gì đó về Chúa Giêsu, nó muốn nhấn mạnh rằng nơi Chúa Giêsu đã hiện thực các lời hứa của Cựu Ước.
Chúng ta đứng trước một phép lạ rất đặc biệt, là phép lạ duy nhất được cả bốn Thánh Sử thuật lại. Luca và Gioan kể lại một phép lạ hóa bánh ra nhiều duy nhất, trong khi Maccô và Matthêô tường thuật hai phép lạ, một cho năm ngàn người, một cho bốn ngàn.
Trong thái độ của Chúa Giêsu, có điều gây chú ý, đó là sự giống nhau giữa những cử chỉ của Người lúc hóa bánh ra nhiều và bữa tiệc ly : Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ.
Không cần phải nói rằng trên núi Chúa Giêsu phân phát bánh ăn chứ không phải Thánh Thể, tuy nhiên tất cả truyền thống tin mừng về việc hóa bánh ra nhiều đều mang màu sắc thánh thể trong những từ ngữ được sử dụng, điều này cho thấy mối liên hệ giữa phép lạ hóa bánh và bữa Tiệc Ly đã được thiết lập rất sớm trong giáo huấn kitô giáo; và rất có thể là chính Chúa Giêsu, bởi sự tương đồng của những cử chỉ, đã muốn liên kết lương thực nuôi đám đông trên núi và việc lập phép Thánh Thể, bí tích của Mình Người bị trao nộp vì nhiều người.
Chính vì vậy, trong chốc lát khi chúng ta tiến đến gần bàn của Chúa, chúng ta có thể trải nghiệm cùng lúc sự kinh ngạc của các Tông Đồ ở bữa Tiệc Ly và niềm vui đơn sơ của đám đông được ăn no trên núi.
Trong thái độ của các môn đệ, câu hỏi của họ làm chúng ta suy nghĩ : « Chúng ta tìm đâu ra trong nơi hoang vắng này đủ bánh cho đám đông như thế ? ». Chắc chắn Chúa Giêsu đã có ý định khi nói : « Ta xót thương đám dân này ! », nhưng các môn đệ cảm thấy có trách nhiệm và muốn cảm thông lòng thương xót với Chúa Giêsu.
Và kìa họ khựng lại bởi những phương tiện ít oi của họ so với nhu cầu của đám đông : bảy chiếc bánh và vài con cá, có là gì đối với hàng nghìn người ? Cũng giống như chúng ta thôi, chúng ta cảm thấy nhức nhối vì sự không tương xứng giữa điều mà chúng ta có thể làm và những nhu cầu bao la của thế giới cần ơn cứu độ.
Thế nhưng sự tương phản, sự chênh lệch giữa sức con người và quyền năng của Thiên Chúa Đấng cứu độ lại là cái chính yếu trong những bí mật của Vương Quốc mà Chúa Giêsu mạc khải cho những kẻ nghèo khó. Người ta cho nhiều, khi cho với tất cả tấm lòng, khi cho thời gian, cho sự nghiêm túc, cho khả năng, cho sự thật thà; vì khi đó quyền năng của Thiên Chúa thể hiện trong sự yếu đuối của con người : chính với bảy cái bánh của các môn đệ mà Chúa Giêsu sắp nuôi đám đông.
*Nguồn : Jean Lévêque
*Chuyển ngữ : Toma Sơn, DCCT.
Thứ Năm
Mt 7,21-27
Bài 1 : Xem tại đây
Bài 2 : CÁC MÔN ĐỒ CHÂN CHÍNH
Trong bài giảng trên núi, chương 5, Chúa Giê-su đã tuyên bố Hiến Chương Nước Trời như cốt lõi của nền công chính mới. Tiếp đến, Chúa đưa ra những nguyên lý và tính cách nội tâm của nền công chính ấy (chương 6). Đến chương 7, Ngài huấn dụ các tín hữu sống nền công chính mới một trách trọn vẹn. Bài Tin Mừng này nói về huấn dụ cuối cùng trong ba huấn dụ ở chương 7 của Mt. Ngài khuyên nhủ những người nghe lời Ngài hãy thực hành Lời ấy trong cuộc sống thường ngày.
Chúa khẳng định “Không phải tất cả những ai nói với Ta: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa!’, là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Ta ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời ” Nền công chính mới phải được sống dựa trên tình yêu, và tình yêu xuất phát từ nơi sâu thẳm tâm hồn của từng con người, nơi đó có Thiên Chúa hiện diện và hằng ngỏ lời với con người trước từng lựa chọn trong cuộc sống. Những hành động của con người sống cho nhau và vì nhau chỉ đơn thuần xuất phát từ động lực đức ái, chứ không phải xuất phát từ một động lực ích kỷ nào đó như: vì muốn được người ta biết đến, muốn được ca ngợi hoặc muốn tìm một vị trí nào đó trong lòng cấp trên.
Đoạn Tin Mừng này còn nhắm tới những người lãnh đạo trong Giáo Hội, nhắc nhở họ luôn tỉnh thức và trung tín với những lời dạy bảo của Đức Ki-tô. Những việc như : lãnh đạo một cộng đoàn, dạy giáo lý, nghiêng cứu thần học, rao giảng Tin Mừng có khi làm cho họ quên đi các yêu sách căn bản là thực thi Lời Chúa. Mát-thêu lên án những kẻ nhân danh Chúa để nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ, nhưng lại lơ là bổn phận sơ đẳng đối với anh em hay tha nhân. Điều này cũng được thánh Phao-lô nói đến trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô : giả như tôi nói được các thứ tiếng, giả như tôi được ơn nói tiên tri, giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. (x. 1Cr 13)
Những kẻ nghe lời Ngài mà không thực thi lời ấy trong cuộc sống được xem là những người xa lạ với Chúa Giê-su. Thành ngữ “Ta không hề biết các ngươi” được người Do thái dùng không có ý nói Chúa Giêsu chẳng biết những kẻ đã từng liên hệ với Người, song là đối với Người, vì họ chẳng bao giờ chịu hối cải vì chọn con đường xa lạ với Chúa Giê-su. Con đường của Thiên Chúa là con đường của tình yêu, của đức ái. Tất cả mọi việc đi ngược với đức ái chính là đi ngược với đường lối Thiên Chúa. Vì thế, khi ta nghe mà không thi hành Lời Chúa, hoặc thi hành cách giả mạo chính là là lúc ta chọn làm anh em giả hình với Chúa, chỉ liên hệ với Chúa như là những môn đồ bên ngoài, chứ trong sâu thẳm tâm hồn, không có chỗ cho Chúa ngự vào. Hoặc nói cách khác, khi đó ta là những kẻ đánh mất dần tính cách môn đồ đích thật.
Đoạn thứ hai Chúa Giê-su dùng hình ảnh người khôn và người ngu để ví von với hai mẫu người môn đệ của Chúa. Đối với người nghe mà không thi hành Lời Chúa, Ngài ví họ như người ngu xây nhà trên cát ; và ngược lại, người thực thi Lời Chúa được ví như người khôn xây nhà trên đá tảng vững chắc. Ắt hẵn việc xây dựng ngôi nhà đời mình rất hệ trọng cho đời người, và nền tảng của ngôi nhà ấy là điều quan trọng không kém. Hình ảnh xây nhà và đá tảng không phải được Chúa Giê-su dùng lần đầu tiên, nhưng là hình ảnh quen thuộc trong Cựu Ước. Thánh Vịnh 12,7 viết rằng “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”. Thánh vịnh gia cũng đã thốt lên “Lạy Chúa, Ngài là đá tảng của tôi!” Có lẽ Chúa đã dùng lại những hình ảnh gần gũi này để huấn luyện các môn đệ. Với người ngu, anh ta tốn công xây dựng đời mình, nhưng lại chọn nền móng cho ngôi nhà ấy một cách sai lầm là cát. Trong khi đó, người khôn thì cẩn thận, chọn nền móng vững chắc để khởi công xây nhà. Hai ngôi nhà của người khôn và người ngu có thể sẽ giống nhau, đẹp không thua kém gì nhau trước cơn mưa. Thế nhưng, khi mưa đến, thì chúng mới tỏ lộ sự khác biệt. Mưa tượng trưng cho những thử thách. Chính khi gặp thử thách thì mới biết là ngôi nhà nào chắc hơn. Các ki-tô hữu cũng thế, họ sẽ gặp thử thách gian truân, khi đó, ai bám rễ sâu vào Lời Chúa thì sẽ đứng vững và vượt qua những trở Ngại.
Chúa Giêsu chẳng có vẻ gì là một nhà ngụy biện, cống hiến cho môn đồ mình các đề tài tranh luận hay một phương pháp biện chứng nhằm khám phá ra những lời hay ý đẹp. Không! Người là vị Thầy gần gũi, những huấn lệnh của Ngài thiết thực. Tuy là gần gũi, nhưng Ngài cũng đòi hỏi người môn đệ một sự dấn thân trọn vẹn và dứt khoát : thực thi Lời Chúa, trở nên ánh sáng cho thế gian.
Lạy Chúa Giêsu
Con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
Vì chỉ biết thích thú nghe lời Chúa dạy,
Nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
Đừng hời hợt khi nghe lời Chúa,
Đừng để nỗi đam mê làm lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mãnh đất đời mình,
Để hạt giống lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
Được xây trên nền tảng vững chắc,
Đó là lời Chúa
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. (Rabbouni)
RADIO VATICAN
MỤC: Suy Niệm Lời Chúa
NGƯỜI VIẾT: Nguyễn Hiền Nhu
Thứ Sáu
Mt 9, 27 – 31
Bài 1 : Xem tại đây
Bài 2
“Các anh tin thế nào thì được như vậy ?” (Mt 9, 29)
1. Sứ điệp Tin Mừng trong trình thuật Chúa chữa hai người mù hôm nay là sự tiếp nối những chỉ dẫn cụ thể trên khi mời gọi tín hữu noi gương hai người mù: hoàn toàn trông cậy, hoàn toàn tín thác vào Tình yêu toàn năng của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu – Con Thiên Chúa làm người, Con vua Đavít.
2. Hai người mù không thấy đường đi nhưng vẫn theo bước Đấng họ tin rằng Ngài giàu lòng xót thương và có khả năng chữa họ sáng mắt. Đức Giêsu nhìn thấy lòng tin ấy qua những bước chân xiêu vẹo và tiếng kêu đầy tín thác, nhưng Ngài vẫn cần ở họ lời tuyên tín nơi cửa miệng trước khi được ban ơn (x. Rm 10, 10). Hai người mù đã tuyên xưng niềm tin, và họ không phải chờ đợi lâu: họ đã thấy điều họ tin.
Không khó để ta nhận ra rằng nhiều khi ta cũng mù mờ về chính mình và mùa lòa trên đường đời. Mù mờ về chính mình, nên ta khó nhận ra những khát vọng chính đáng từ sâu thẳm hồn ta, khó nghe được tiếng của Đấng đang ẩn náu nơi kín đáo nhất của tâm linh ta, vì thế mà ta khó lòng trung thành với Đấng ta đã từng tuyên xưng niềm tin vào Ngài, khó mà trả lời cho những ai cật vấn niềm tin của ta, nhất là khó đứng vững trước những trào lưu tư tưởng và xu hướng sống tuy trái ngược với niềm tin nhưng lại rất hấp dẫn và mời mọc ta. Mù lòa trên đường đời, nên ta dễ dàng chạy ngược chạy xuôi vì những điều người ta nói Đấng Kitô ở đây hay ở kia (Lc 17,23), ta dễ dàng rơi vào tình trạng hoảng loạn vì những tin tức về ngày tận thế, điều mà chính Chúa Giêsu cũng không biết (Mt 24,36).
3. Ước gì ta xin Chúa ban cho chút can đảm như hai người mù hôm nay, để dám lên đường, dám bước theo Chúa mà xin Người chữa con mắt thiêng liêng, con mắt đức tin của ta. Đừng đợi khi tin vững vàng rồi mới đến với Chúa, hãy đem đến cho Người niềm tin non yếu của ta, để được đỡ nâng và bổ sức.
Ước gì ta ý thức hơn, mạnh mẽ hơn, tin vững vàng hơn mỗi khi tuyên ra nơi miệng những lời này: Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng….; hoặc Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa !
Ước gì ta biết khao khát và mở lòng lãnh nhận thần lực từ bàn tiệc Lời và Mình Chúa mỗi ngày, để ta sống niềm tin bằng những việc cụ thể, để ta gieo rắc niềm tin cho mọi nơi ta đến và mọi người ta gặp. Thế giới hôm nay cần những chiến sĩ đức tin không phải để tranh luận hay loại trừ những ai có niềm tin đối lập với ta, mà để nói to với thế giới, với con người rằng: Chúng tôi biết chúng tôi tin vào ai. Niềm tin này dẫn chúng tôi tới nẻo đường của hạnh phúc, bình an, hoan lạc và yêu thương.
Một phút riêng tư cho bạn và cho tôi, chúng ta chọn sống điều ước nào ?
4. Lạy Chúa Giêsu yêu mến, con cảm ơn Chúa đã dùng hai người mù hôm nay mà giúp con nhìn lại đức tin của mình. Con cảm ơn Chúa đã cho con nhìn thấy độ mù nơi con mắt đức tin của con. Xin giúp con: khi ra khỏi giờ suy niệm với đức tin mới, thần trí mới và sức sống mới, con đủ tỉnh thức để sống trọn lộ trình Mùa Vọng, đủ xác tín để động viên anh chị em con: Khi tin đủ mạnh, đủ vững, là ta được thấy điều ta tin, như hai anh mù hôm nay.
Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng, ĐMTT
Thứ Bảy
Mt 9, 35 – 10, 1.6-8
ĐỨC GIÊSU THƯƠNG DÂN CHÚNG LẦM THAN
Thiên Chúa là tình yêu, nhưng yêu là gì? Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế nào? Làm sao biết được Thiên Chúa yêu thương chúng ta? Tin mừng hôm nay kể ra cho chúng ta biết tâm hồn của Chúa Giêsu: ‘Người động lòng xót thương họ’.
Chúa Giêsu là mạc khải đích thực của Thiên Chúa. Mạc khải duy nhất, trung thực nhất, gần gũi nhất về Bản chất của Thiên Chúa. Philiphê Tông đồ đã bộc lộ khao khát của con người: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện." Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha"? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. (Ga 14, 8-11).
Vì thế, Tình Yêu của Thiên Chúa đối với con người là gì? Một cách cụ thể và sống động nơi Chúa Giêsu là đi đến với từng con người, từ thành phố đến thôn quê, trong hội đường cũng như nơi các nhà riêng, Người dạy bảo con người cách sống để được hạnh phúc, Người chỉ cho mọi người con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu. Không phải chỉ là lời hướng dẫn mà còn là hành động cứu giúp: ‘Người chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền’. Không phải chỉ là bên ngoài nhưng còn tận đáy lòng của Người: ‘Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ: vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn’. Người cũng không bằng lòng với tình yêu của riêng mình yêu thương con người, mà Người còn mời gọi các môn đệ, mời gọi chúng ta chung lòng cùng với Người yêu thương con người qua việc cầu xin với chủ ruộng: ‘Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt đi gặt lúa’. Người cũng chẳng dừng lại ở việc cầu xin suông, nhưng lời cầu xin được biến thành hành động: ‘Người liền triệu tập mười hai môn đệ’. Người giao công việc thì đồng thời cũng cho phương tiện; Người trao sứ mệnh thì Người cũng cho khả năng: ‘ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền’. Người sai đi thì cũng chỉ rõ đi đâu trước đi đâu sau, nói gì và làm gì: ‘các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: Nước trời đã đến gần. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung và xua trừ mà quỷ’. Thế còn công cán, lương lậu thì sao? Người là ông chủ hà khắc: ‘gặt chỗ không gieo thu nơi không phát’ hay là người cha nhân hậu: ‘các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không’. Người đã cho chúng ta tất cả: ‘mọi sự của Cha đều là của con’, Người đã cho chúng ta ‘từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và nhờ Người mà muôn vật được tạo thành’. Tình yêu là thế, Thiên Chúa là tình yêu, nên trong Thiên Chúa chỉ có cho đi, chỉ có ban tặng. Nhưng tình yêu phát sinh tình yêu. Con người hưởng được tình yêu của Thiên Chúa thì đồng thời cũng biết thương đến mọi người. ‘Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không’ là vậy. Người nào đã lãnh nhận mà không cho đi thì ơn nhận lãnh sẽ mất.
Lạy Chúa Giêsu là Tình Yêu của Chúa Cha dành cho chúng con. Xin cho Lời Chúa dạy luôn là kim chỉ nam cho mọi suy nghĩ, quan niệm sống, ngôn từ ứng xử và hành vi trong cuộc sống của chúng con. Xin cho Mình Thánh Chúa là thần lương nuôi sống linh hồn chúng con, biến đổi trái tim ích kỷ của chúng con thành trái tim bao dung của Chúa, biến đổi cõi lòng khép kín của chúng con thành tâm hồn mở rộng của Chúa, biến đổi bàn tay luôn giữ chặt khư khư thành bàn tay xòe ra ban phát của Chúa. Có như thế, bất cứ lúc nào chúng con cũng có thể ‘động lòng xót thương’ giống như Chúa.
Linh mục Giuse Phạm Đình Hiền.