Suy niệm tuần 18-34 thường niên

SUY NIỆM TIN MỪNG NGÀY TRONG TUẦN:18–34, mùa thường niên

Lm.Antôn Nguyễn Cao Siêu,S.J.

Mục lục

Thứ Hai Tuần 18 TN: BẺ RA VÀ TRAO ĐI

Thứ Ba Tuần 18 TN: XIN CỨU CON

Thứ Tư Tuần 18 Thường niên: LÒNG TIN CỦA BÀ LỚN THẬT

Thứ Năm Tuần 18 Thường niên: Tìm ngày 5/8/2010

Thứ Sáu Tuần 18 Thường niên: Từ bỏ chính mình

Thứ Bảy Tuần 18 TN: TẠI ANH EM KÉM TIN

Thứ Hai Tuần 19 Thường niên: ĐỂ KHỎI LÀM CỚ SA NGÃ

Thứ Ba Tuần 19 Thường niên: Em nhỏ và kẻ bé mọn

Thứ Tư Tuần 19 Thường niên : SỬA LỖI NGƯỜI ANH EM

Thứ Năm Tuần 19 Thường niên: BẢY MƯƠI LẦN BẢY

Thứ Sáu Tuần 19 Thường niên: MỘT XƯƠNG MỘT THỊT

Thứ Bảy Tuần 19 Thường niên: (thiếu) (Tìm 14 tháng 8 năm 2010)

Thứ Hai Tuần 20 Thường niên: TÔI CÒN THIẾU ĐIỀU GÌ?

Thứ Ba Tuần 20 Thường niên: LẠC ĐÀ QUA LỖ KIM

Thứ Tư Tuần 20 Thường niên: VÌ TÔI TỐT BỤNG

Thứ Năm Tuần 20 Thường niên: TIỆC CƯỚI ĐÃ SẴN SÀNG

Thứ Sáu Tuần 20 Thường niên: ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT

Thứ Bảy Tuần 20 Thường niên: LÀ ANH EM CỦA NHAU

Thứ Hai Tuần 21 TN: (thiếu – Tìm ngày 23 tháng 8 năm 2010)

Thứ Ba Tuần 21 Thường niên: Bên trong, bên ngoài

Thứ Tư Tuần 21 Thường niên: CÓ VẺ CÔNG CHÍNH

Thứ Năm Tuần 21 Thường niên: HÃY SẴN SÀNG

Thứ Sáu Tuần 21 Thường niên: CHÚ RỂ ĐẾN CHẬM

Thứ Bảy Tuần 21 TN: (thiếu ngày 28 tháng 8 năm 2010)

Thứ Hai Tuần 22 Thường niên: TRẢ LẠI TỰ DO

Thứ Ba Tuần 22 Thường niên: LỜI CÓ UY QUYỀN

Thứ Tư Tuần 22 Thường niên: PHẢI LOAN BÁO TIN MỪNG

Thứ Năm Tuần 22 Thường niên: TỪ NAY ANH SE BẮT NGƯỜI

Thứ Sáu Tuần 22 Thường niên: CHÀNG RỂ Ở VỚI HỌ

Thứ Bảy Tuần 22 Thường niên: ĐIỀU KHÔNG ĐƯỢC PHÉP LÀM

Thứ Hai Tuần 23 Thường niên: GIƠ BÀN TAY ANH RA

Thứ Ba Tuần 23 Thường niên: THỨC SUỐT ĐÊM CẦU NGUYỆN

Thứ Tư Tuần 23 Thường niên : Phúc cho anh em là những người nghèo

Thứ Năm Tuần 23 Thường niên: HÃY YÊU KẺ THÙ

Thứ Sáu Tuần 23 Thường niên: ĐẠO ĐỨC GIẢ

Thứ Bảy Tuần 23 Thường niên: NGHE MÀ KHÔNG THỰC HÀNH

Thứ Hai Tuần 24 Thường niên: CỨ NÓI MỘT LỜI

Thứ Ba Tuần 24 Thường niên: (Thiếu)

Thứ Tư Tuần 24 Thường niên: Lũ trẻ ngồi ngoài chợ

Thứ Năm Tuần 24 Thường niên: CHỊ HÃY ĐI BÌNH AN

Thứ Sáu Tuần 24 Thường niên: MẤY NGƯỜI PHỤ NỮ CÙNG ĐI

Thứ Bảy Tuần 24 Thường niên: VỚI TẤM LÒNG CAO THƯỢNG

Thứ Hai Tuần 25 Thường niên: CÁCH THỨC ANH EM NGHE

Thứ Ba Tuần 25 Thường niên: Mẹ tôi và anh em tôi

Thứ Tư Tuần 25 Thường niên : ĐỪNG MANG GÌ

Thứ Năm Tuần 25 Thường niên: ÔNG NÀY LÀ AI?

Thứ Sáu Tuần 25 Thường niên: Anh em bảo Thầy là ai?

Thứ Bảy Tuần 25 Thường niên: Không hiểu lời đó

Thứ Hai Tuần 26 Thường niên: Người nhỏ nhất

Thứ Ba Tuần 26 Thường niên: NHẤT QUYẾT LÊN GIÊRUSALEM

Thứ Tư Tuần 26 Thường niên: Trước đã

Thứ Năm Tuần 26 Thường niên: Như chiên con

Thứ Sáu Tuần 26 Thường niên: (Thiếu)

Thứ Bảy Tuần 26 Thường niên : Thiếu Lc 10, 17-24

Thứ Hai Tuần 27 Thường niên: Hãy đi và làm như vậy

Thứ Ba Tuần 27 Thường niên: Chọn phần tốt hơn

Thứ Tư Tuần 27 Thường niên: Thiếu tìm ngày 6 tháng 10. 2010

Thứ Năm Tuần 27 Thường niên: Hãy xin thì sẽ được

Thứ Sáu Tuần 27 Thường niên: Ngón tay Thiên Chúa

Thứ Bảy Tuần 27 Thường niên: Phúc thay lòng dạ

Thứ Hai Tuần 28 Thường niên: Tìm kiếm dấu lạ

Thứ Ba Tuần 28 Thường niên: Bên ngoài, bên trong

Thứ Tư Tuần 28 Thường niên: Xao lãng lẽ công bình

Thứ Năm Tuần 28 Thường niên: Ngôn sứ và tông đồ

Thứ Sáu Tuần 28 Thường niên: Môn đệ và bạn hữu

Thứ Bảy Tuần 28 Thường niên: Đừng lo

Thứ Hai Tuần 29 Thường niên: Những kho lớn hơn

Thứ Ba Tuần 29 Thường niên: Chủ sẽ phục vụ

Thứ Tư Tuần 29 Thường niên: Trung tín, khôn ngoan

Thứ Năm Tuần 29 Thường niên: Phải chi lửa ấy đã bùng lên

Thứ Sáu Tuần 29 Thường niên : Nhận xét thời đại này

Thứ Bảy Tuần 29 Thường niên: THIẾU NGÀY 23 THÁNG 10 - 2010

Thứ Hai Tuần 30 Thường niên: Đứng thẳng được

Thứ Ba Tuần 30 Thường niên: Lớn lên và trở thành

Thứ Tư Tuần 30 Thường niên: Tìm ngày 27 tháng 10 năm 2010

Thứ Năm Tuần 30 Thường niên: Hôm nay, ngày mai

Thứ Sáu Tuần 30 Thường niên: Chữa khỏi và cho về

Thứ Bảy Tuần 30 Thường niên: Ngồi chỗ cuối

Thứ Hai Tuần 31 Thường niên: Thiếu

Thứ Ba Tuần 31 Thường niên: Xin kiếu

Thứ Tư Tuần 31 Thường niên: Từ bỏ hết

Thứ Năm Tuần 31 Thường niên: XIN CHUNG VUI VỚI TÔI

Thứ Sáu Tuần 31 Thường niên: HÀNH ĐỘNG KHÔN KHÉO

Thứ Bảy Tuần 31 Thường niên: LÀM TÔI TIỀN CỦA

Thứ Hai Tuần 32 Thường niên: Làm cớ vấp ngã

Thứ Ba Tuần 32 Thường niên: Đầy tớ vô dụng

Thứ Tư Tuần 32 Thường niên: Sấp mình tạ ơn

Thứ Năm Tuần 32 Thường niên: Nước Thiên Chúa

Thứ Sáu Tuần 32 Thường niên: Được đem đi, bị bỏ lại

Thứ Bảy Tuần 32 Thường niên: Không được nản chí

Thứ Hai Tuần 33 Thường niên: Xin cho tôi nhìn thấy

Thứ Ba Tuần 33 Thường niên: Xuống mau đi

Thứ Tư Tuần 33 Thường niên: Làm ăn sinh lợi

Thứ Năm Tuần 33 Thường niên: Đức Giêsu khóc

Thứ Sáu Tuần 33 Thường niên: Nhà cầu nguyện

Thứ Bảy Tuần 33 Thường niên: Đời này, đời sau

Thứ Hai Tuần 34 Thường niên: BỎ VÀO TẤT CẢ

Thứ Ba Tuần 34 Thường niên: Anh em làm chứng cho Thầy

Thứ Tư Tuần 34 Thường niên: Một sợi tóc

Thứ Năm Tuần 34 Thường niên: Sắp được cứu chuộc

Thứ Sáu Tuần 34 Thường niên: Xem cây vả

Thứ Bảy Tuần 31 Thường niên: Phải đề phòng

Thứ Hai Tuần 18 TN:

BẺ RA VÀ TRAO ĐI

Lời Chúa: Mt 14, 13-21

14 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.15 Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: "Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn."16 Đức Giê-su bảo: "Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn."17 Các ông đáp: "Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá! "18Người bảo: "Đem lại đây cho Thầy! "19 Rồi sau đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng.20 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy.21 Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.

Suy niệm:

Tin về cái chết của Gioan Tẩy giả là một nhắc nhở cho Đức Giêsu

về số phận tương tự của một ngôn sứ đang chờ đợi Ngài.

Đức Giêsu cùng với môn đệ rút lui khỏi đó, đi thuyền đến một chỗ vắng.

Ngài không muốn đối đầu với kẻ thù khi giờ của Ngài chưa đến.

Nhưng lạ thay chỗ vắng này lại bất ngờ biến thành chỗ đông người,

khi người ta kéo nhau đi bộ mà đến trước nơi Ngài sắp đến.

Ra khỏi thuyền, Ngài đã thấy họ ở đó rồi.

Chắc họ vui vì họ đi bộ mà nhanh hơn người chèo thuyền !

Còn Đức Giêsu thấy họ thì chạnh lòng thương,

dù kế hoạch đi lánh mặt ở chỗ vắng của Ngài bị vỡ (c. 14).

Khi môn đệ xin Thầy giải tán đám đông, để họ đi mua thức ăn cho đỡ đói,

Ngài bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả.

Chính anh em hãy cho họ ăn.”(c. 16).

Hẳn là họ đã hết sức bối rối trước mệnh lệnh khó hiểu này.

Làm sao chuyện đó xảy ra được ?

Làm sao nuôi được đám đông ngần này người ở nơi hoang vắng ?

Tất cả những gì họ có trong tay chỉ là năm cái bánh và hai con cá (c. 17).

Nhưng những điều đó thì thấm vào đâu !

Họ thất vọng, chán nản, khi thấy sứ mạng thì lớn, mà khả năng lại bé nhỏ.

“Đem lại đây cho Thầy !” (c. 18).

Thầy Giê su bảo môn đệ đem đến cho mình tất cả bánh và cá họ có.

Vấn đề không phải là ít hay nhiều, nhưng là tất cả.

Ngài cần đóng góp nhỏ bé của chúng ta để làm những điều lớn lao.

Hãy đem lại cho Ngài tất cả bánh và cá của đời ta :

một chút thời giờ, một chút khả năng, một chút thiện chí.

Rồi để mặc Ngài định liệu.

Cảnh tượng thật đẹp trong mùa xuân có bãi cỏ xanh mướt.

Dân chúng ngồi trên cỏ thành từng nhóm nhỏ.

Bánh và cá được trao từ tay các môn đệ đến tay Đức Giêsu.

Từ tay Đức Giêsu dâng lên Cha Ngài trên trời với lời tạ ơn chúc tụng.

Rồi từ tay Đức Giêsu trở lại tay các môn đệ,

từ tay các môn đệ đến tay đám đông dân chúng (c. 19),

và dân chúng hẳn đã bẻ ra chia sẻ cho nhau.

Phép lạ bánh hóa nhiều diễn ra thật mầu nhiệm.

Đức Giêsu đã không làm nên một núi bánh để các môn đệ đến lấy mà phát.

Dường như bánh đã hóa nhiều khi được bẻ ra và trao đi từ tay nọ đến tay kia.

Đức Giêsu đã phải bẻ năm cái bánh cho mười hai môn đệ.

Các môn đệ cũng phải bẻ ra để trao cho đám đông.

Nếu họ cứ giữ cho mình thì năm cái bánh sẽ mãi chỉ là năm cái bánh.

Bẻ ra và trao đi không làm người ta trở nên nghèo, nhưng trở nên dư dật.

Nếu bạn dám trao hết cho Ngài mọi sự bạn có, thì thế giới sẽ được no đủ.

Phép lạ bánh hóa nhiều mãi mãi xảy ra khi ta chia sẻ qua tay Giêsu.

Hôm nay Thầy Giêsu vẫn mời chúng ta: Các con hãy cho họ ăn.

Lời nguyện:

Giữa một thế giới

chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,

xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.

Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,

xin cho con đừng thu tích của cải.

Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,

xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.

Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,

xin cho con biết xây lại niềm tin.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con cảm được

cơn đói đang giày vò bao người,

xin cho con nghe được lời mời của Chúa :

"Các con hãy cho họ ăn đi."

Ước gì chúng con dám trao

tất cả những gì chúng con có cho Chúa,

để Chúa trao tất cả những gì Chúa có

cho chúng con và cho cả nhân loại.

Thứ Ba Tuần 18 TN:

XIN CỨU CON

Lời Chúa: Mt 14, 22-36

22 Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng.23 Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình.24 Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió.25 Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ.26 Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: "Ma đấy! ", và sợ hãi la lên.27 Đức Giê-su liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ! "28 Ông Phê-rô liền thưa với Người: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài."29 Đức Giê-su bảo ông: "Cứ đến! " Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su.30 Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với! "31 Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi? "32 Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay.33 Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa! "34 Khi qua biển rồi, thầy trò lên đất liền, vào Ghen-nê-xa-rét.35Dân địa phương nhận ra Đức Giê-su, liền tung tin ra khắp vùng, và người ta đem tất cả những kẻ đau ốm đến với Người.36 Họ nài xin Người cho họ chỉ sờ vào tua áo của Người thôi, và ai đã sờ vào thì đều được khỏi.

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay là một loạt những kinh nghiệm thiêng liêng.

Có thể chúng ta ít nhiều đều đã có những kinh nghiệm này.

Thầy Giêsu là một nhà giáo nhân từ và cương quyết.

Ngài giáo dục các môn đệ bằng cách đưa họ vào những kinh nghiệm.

Kinh nghiệm bị Thầy bắt buộc phải qua bờ bên kia (c. 22),

dù họ rất muốn ở lại bờ bên này để nếm dư vị của thành công vừa rồi.

Sau phép lạ nhân bánh, người ta định tôn Thầy lên làm vua (Ga 6, 15).

Chỉ cần Thầy gật đầu là trò được chia sẻ tiếng tăm và quyền lực.

Các môn đệ đã bị ép lên thuyền, ngay lập tức, lúc chạng vạng tối.

Kinh nghiệm bị sóng đánh vì ngược gió.

Thuyền đã xa bờ mấy cây số, tiến tới không được, lùi lại cũng không xong.

Vào lúc khó khăn ấy lại không có Thầy ở trong thuyền.

Hầu như suốt đêm các môn đệ phải vất vả chèo chống với sóng gió.

Họ phải tập chiến đấu trong đêm tối khi không có Thầy ở bên.

Họ có nghĩ quyết định của Thầy là sai lầm, vội vã không ?

Kinh nghiệm hốt hoảng, sợ hãi và được trấn an.

Mãi đến lúc gần sáng, Thầy Giêsu mới đi trên biển mà đến với các môn đệ.

Ngài đến khi họ chưa thấy rõ mặt Ngài.

Ngài đến vào lúc bất ngờ và đến theo cách bất ngờ, khiến họ khiếp kinh.

Ngài đến đem bình an mà họ tưởng là ma quái đe dọa (c. 26).

Quả thật có những lúc không dễ nhận ra là Chúa đang đến với mình.

Chúa đến làm các môn đệ sợ hãi hơn cả sóng gió.

Nhưng “Cứ yên tâm, chính Thầy đây. Đừng sợ !” (c. 27).

Kinh nghiệm tự đưa mình vào một thách đố của lòng tin.

Một mặt Phêrô vẫn chưa tin trọn vẹn khi nói câu: Nếu quả là Thầy…(c. 28).

Nhưng mặt khác ông lại rất táo bạo khi dám xin ơn đi trên mặt nước.

Ông coi đó là cách thức chắc chắn nhất để biết có phải là Thầy không.

Nếu đúng là Thầy thì Thầy cũng có thể cho mình làm được như Thầy.

Chỉ cần Thầy truyền lệnh là đủ, Phêrô tin như thế.

Kinh nghiệm đi trên mặt nước và kinh nghiệm bị chìm.

Khi được Thầy cho phép, Phêrô đã dám từ thuyền bước xuống biển động.

Và ông đã đi được một quãng không rõ bao xa (c. 29).

Mặt nước cứng như đá hay người ông trở nên nhẹ bổng ?

Bây giờ thì đúng là Thầy rồi, chỉ Thầy mới cho mình làm được như Thầy.

Phêrô sung sướng tiến về phía Thầy với lòng tin đang lớn lên.

Nhưng khi gặp gió thổi mạnh thì ông lại sợ, lại hoài nghi, yếu tin.

Ông mất tập trung vào sự hiện diện quyền năng của Thầy và bị chìm.

Người ta có thể bị chìm ngay khi biết Chúa ở trước mặt.

Kinh nghiệm được Thầy nắm tay mà dắt vào thuyền.

Khi Phêrô kêu cứu, Thầy Giêsu đã giữ ông khỏi bị nước nuốt chửng.

Sau đó hẳn hai Thầy trò đã cùng nhau đi trên sóng mà về thuyền.

Khi cả hai lên thuyền thì gió lặng, chẳng cần Thầy phải dẹp yên sóng gió.

Các kinh nghiệm môn đệ vừa trải qua thật kinh khủng và gần gũi với ta.

Buồn bực, sợ hãi, căng thẳng, bình an, nghi ngờ, chới với, hạnh phúc.

Đời kitô hữu là một chuỗi những kinh nghiệm như thế.

Chúng ta tưởng Chúa bỏ rơi, Chúa vắng mặt, Chúa là ma làm ta sợ hãi.

Đơn giản Chúa là Thầy biết cách làm ta trưởng thành qua kinh nghiệm.

Cuối cùng chúng ta sẽ nhìn nhận: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa” (c. 33).

Lời nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,

nhưng nhiều khi con cảm thấy

sống đức tin giữa lòng cuộc đời

chẳng khác nào đi trên mặt nước.

Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.

Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.

Cả sự nặng nề của thân xác con

cũng kéo ghì con xuống.

Ði trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.

Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.

Xin cứu con khi con hầu chìm.

Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.

Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,

để con trở nên nhẹ tênh

mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.

Thứ Tư Tuần 18 Thường niên:

LÒNG TIN CỦA BÀ LỚN THẬT

Lời Chúa: Mt 15, 21-28

21 Ra khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn,22 thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: "Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm! "23 Nhưng Người không đáp lại một lời.24 Người đáp: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi."25 Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi! "26 Người đáp: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con."27 Bà ấy nói: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống."28 Bấy giờ Đức Giê-su đáp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy." Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,

tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.

Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.

Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.

Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.

Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.

Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.

Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:

“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”

Người mẹ đau vì con của mình đau.

Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.

Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.

Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.

Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.

Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.

“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”

Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.

Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.

Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.

Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.

Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:

“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”

Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.

Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.

Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.

Chị không phải là chiên của nhà Israel.

Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,

vì Cha tôi chưa sai tôi đến.

Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.

Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,

và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.

Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.

Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.

Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:

“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);

khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).

Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.

Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.

Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,

vì tình yêu nối kết cả hai nên một.

Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ

dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.

Người đưa ra lời từ chối thứ hai

quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:

“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”

Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.

Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.

Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.

Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.

Họ tự hào về tính ưu việt của mình

trong tư cách là Dân riêng của Chúa.

Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.

Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu

Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.

Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:

“Thưa Ngài đúng thế.

Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”

Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,

không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.

Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách

để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,

bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.

Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.

Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.

Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.

Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”

Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).

Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.

Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,

khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.

Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.

Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,

và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.

Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…

Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”

Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.

Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà

chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:

“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.

Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.

Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.

Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.

Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.

Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.

Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.

Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:

“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”

để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”

Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.

Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.

Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.

Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,

tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng

và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.

Lời nguyện:

Lạy Chúa,

xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,

để con làm bật rễ khỏi lòng con

những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm

để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,

chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt

để con thấy được thế giới

mà mắt phàm không thấy,

thấy được Ðấng Vô hình,

nhưng rất gần gũi thân thương,

thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh,

dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,

dám tiến bước trong bóng đêm

chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,

dám lội ngược dòng với thế gian

và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi,

hạnh phúc vì biết những gì

đang chờ mình ở cuối đường,

sung sướng vì biết mình được yêu

ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp

qua những cọ xát đau thương của phận người,

để dù bao thăng trầm dâu bể,

con cũng không để tàn lụi niềm tin

vào Thiên Chúa và vào con người.

Thứ Năm Tuần 18 Thường niên: Tìm ngày 5/8/2010

Thứ Sáu Tuần 18 Thường niên:

Từ bỏ chính mình

Lời Chúa: Mt 16, 24-28

Khi ấy, Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình? Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị.”

Suy niệm:

Con đường của người môn đệ Thầy Giêsu là con đường không êm ả.

Ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần đầu về số phận sắp đến của mình,

Ngài đã nói đến số phận của các môn đệ (cc. 24-28).

Họ được mời chia sẻ cùng một thân phận với Thầy và như Thầy.

Thầy trò sẽ phải đi qua con đường hẹp, con đường của khổ đau và cái chết.

Nhưng cuối cùng con đường ấy dẫn đến phục sinh (Mt 16, 21).

Phục sinh, sự sống, niềm vui, sẽ chiến thắng.

Chiến thắng ấy chỉ mua được bằng khổ đau và cái chết tự nguyện.

Như thế điều kiện để giữ được sự sống đời sau là dám mất sự sống đời này.

Đây thật là một liều lĩnh của đức tin,

vì nếu không thực sự tin vào đời sau, thì chẳng ai muốn thả mồi bắt bóng.

Cuộc đời này có nhiều điều chân thiện mỹ, có nhiều giá trị đáng trân trọng.

Nhưng lắm khi cũng phải hy sinh chúng cho những giá trị lớn hơn,

cho Đấng là Chân Thiện Mỹ viết hoa, là Giá Trị của mọi giá trị.

Cái tôi của tôi là một giá trị lớn, là quà tặng độc đáo Chúa ban cho tôi.

Chẳng có hai cái tôi giống nhau dưới mắt Chúa.

Cùng với cái tôi, Chúa ban cho tôi tự do, lý trí, trái tim, thân xác…

Chúa còn ban cho tôi vũ trụ vật chất với bao tài nguyên để tôi sống nhờ,

và cả một thế giới với bao cái tôi khác, để tôi sống với như anh em.

Cái tôi là món quà quý nhất Chúa ban cho tôi.

Cái tôi cũng là món quà quý nhất tôi có thể dâng lại cho Chúa.

Nhiều tôn giáo nói đến từ bỏ cái tôi, phá chấp ngã.

Đức Giêsu cũng mời bất cứ ai muốn bước theo Ngài phải từ bỏ chính mình,

không phải vì cái tôi của mình là xấu xa, đáng ghét,

nhưng chỉ vì nó chỉ là thụ tạo trước mặt Đấng Tạo Hóa đã dựng nên nó.

Từ bỏ chính mình là đặt mình ở dưới Thiên Chúa, không coi mình là trung tâm,

và để cái tôi của mình trọn vẹn tùy thuộc vào ý muốn của Ngài.

Thầy Giêsu đã sống từ bỏ mình như vậy trong suốt cuộc đời trần thế.

Ngài luôn sống như một người con thảo, một người được Cha sai.

Lạ thay, chính lúc từ bỏ mình, múc cạn chính mình, hủy mình ra không,

thì Ngài lại được phục hồi chính mình và được siêu tôn trên mọi sự (Pl 2, 9).

Trong Kitô giáo, cái tôi được thanh luyện, nhưng không bị loại bỏ.

Cái tôi ấy cũng không bị Thiên Chúa nuốt chửng hay hòa tan.

“Ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (c. 25).

Như thế từ bỏ mình là cách duy nhất để giữ mình cho toàn vẹn.

Chẳng thể nào yêu mến và phục vụ lại không gắn liền với việc từ bỏ mình.

Có khi từ bỏ một định kiến hay tự ái, một quyền lợi hay ảnh hưởng riêng,

cũng khó như một hy sinh mạng sống.

Vác thập giá của mình là vác gánh nặng của bổn phận mỗi ngày,

vác yếu đuối của người anh em mỗi ngày, vác cuộc đời mình mỗi ngày.

Thầy Giêsu đòi chúng ta vác thập giá của mình mà theo Thầy cho đến chết.

Vì Thầy là Con Thiên Chúa, vì Thầy đã lấy lại được sự sống,

nên chúng ta tin tưởng vác thập giá bước đi sau Thầy.

Lời nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con.

Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con.

Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con.

Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã mến yêu con.

Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con.

Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con.

Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa, Chúa đã nộp mình vì con.

Trước khi con sống và chết cho Chúa, Chúa đã sống và chết cho con.

Trước khi con đặt Chúa lên trên hết,

Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con,

Chúa luôn đi trước con.

Chúa làm trước khi Chúa dạy.

Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con

đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi.

Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa

với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.

Thứ Bảy Tuần 18 TN:

TẠI ANH EM KÉM TIN

Lời Chúa: Mt 17, 14-20

14 Khi thầy trò đến với đám đông, thì có một người tới quỳ xuống trước mặt Đức Giê-su15 và nói: "Thưa Ngài, xin thương xót con trai tôi, vì cháu bị kinh phong và bệnh tình nặng lắm: nhiều lần ngã vào lửa, và cũng nhiều lần ngã xuống nước.16 Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài chữa, nhưng các ông không chữa được."17 Đức Giê-su đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem cháu lại đây cho tôi."18 Đức Giê-su quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó. 19 Bấy giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giê-su rằng: "Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy? "20 Người nói với các ông: "Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia! " nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.

Suy niệm:

Thầy Giêsu và ba môn đệ xuống từ trên núi, nơi Thầy mới hiển dung.

Bốn Thầy trò gặp ngay một đám đông.

Một người cha chạy đến, quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu.

Ông xin Ngài thương xót đứa con trai của ông bị kinh phong nặng lắm.

Những mô tả của ông về bệnh tình của con đúng là triệu chứng kinh phong.

Cậu bé không làm chủ được mình, dễ ngã vào nước, vào lửa.

Tính mạng cậu lúc nào cũng bị đe dọa (c. 15).

Điều đáng lưu ý ở đây là chín môn đệ khác đã bó tay.

“Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài,

nhưng các ông không chữa được” (c. 16).

Chính những người đã được Thầy trao quyền để chữa bệnh và trừ quỷ

lại không thể giải quyết được trường hợp này.

Phải chăng vì không có sự hiện diện của Thầy, hay vì đám đông cứng lòng,

hay vì cơn bệnh quá nặng khiến các môn đệ không đủ tự tin và mạnh mẽ ?

Dù sao Thầy Giêsu cũng phải ra tay, để làm điều cần làm.

Với thái độ hơi mất kiên nhẫn, Ngài đã trách móc đám đông (c. 17).

Ngài gọi họ là một thế hệ không tin và gian tà.

Đức Giêsu thấy mình vẫn còn phải ở lại với họ và chịu đựng họ (c. 17)

“Đem cháu lại đây cho tôi”

Đức Giêsu quát mắng quỷ, quỷ liền xuất, và cậu bé được khỏi lập tức.

Các môn đệ hẳn bối rối và xấu hổ vì không đuổi được quỷ.

Chắc họ cũng ngạc nhiên vì thấy mình thất bại trong trường hợp này,

tuy họ đã thành công trong nhiều trường hợp khác (x. Lc 10, 17).

Họ chờ lúc riêng tư giữa Thầy trò để hỏi lý do tại sao (c. 19).

Câu trả lời của Thầy Giêsu ở đây là khá rõ ràng.

“Tại anh em kém tin !” (c. 20).

Kém tin là một từ đặc biệt chỉ có trong Tin Mừng Mátthêu.

Từ này được dùng nhiều lần (6, 30; 8, 26; 14, 31; 16, 8).

Người kém tin là người có lòng tin nhỏ bé (oligopistia),

chứ không phải là hoàn toàn không tin chút nào (apistia).

Nhưng lòng tin nhỏ bé này thật sự cũng chẳng đem lại hiệu quả gì.

Nó chưa đáng được gọi là tin theo đúng nghĩa.

Một lòng tin đúng nghĩa thì dù nhỏ bé như một hạt cải

cũng có thể chuyển núi dời non (c. 20b; 1 Cr 13, 2).

Chỉ với lòng tin nhỏ như vậy, sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.

Dĩ nhiên, câu này không có nghĩa là họ làm được mọi sự.

Các môn đệ chỉ làm được những gì liên quan đến việc loan báo Nước Trời,

như chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền và trừ quỷ (Mt 10).

Họ chỉ làm được phép lạ khi người bệnh có lòng tin,

và khi việc họ làm nằm trong ý định của Thiên Chúa.

Những thừa tác viên của Giáo Hội nhiều khi thấy mình bất lực trước sự dữ.

Chúng ta cần xin Chúa thêm cho ta đức tin để có thể chuyển được

những đồi núi nơi lòng con người hôm nay.

Lời nguyện:

Lạy Chúa,

xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,

để con làm bật rễ khỏi lòng con

những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm

để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,

chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt

để con thấy được thế giới

mà mắt phàm không thấy,

thấy được Ðấng Vô hình,

nhưng rất gần gũi thân thương,

thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh,

dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,

dám tiến bước trong bóng đêm

chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,

dám lội ngược dòng với thế gian

và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi,

hạnh phúc vì biết những gì

đang chờ mình ở cuối đường,

sung sướng vì biết mình được yêu

ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp

qua những cọ xát đau thương của phận người,

để dù bao thăng trầm dâu bể,

con cũng không để tàn lụi niềm tin

vào Thiên Chúa và vào con người.

Thứ Hai Tuần 19 Thường niên:

ĐỂ KHỎI LÀM CỚ SA NGÃ

Lời Chúa: Mt 17, 22-27

Khi thầy trò tụ họp ở miền Galilê, Đức Giêsu nói với các ông: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm. Khi thầy trò tới Caphácnaum, thì những người thu thuế cho đền thờ đến hỏi ông Phêrô: “Thầy các ông không nộp thuế sao?” Ông đáp: “Có chứ!” Ông về tới nhà, Ðức Giêsu hỏi đón ông: “Anh Simon, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu thuế? Con cái mình hay người ngoài?” Ông Phêrô đáp: “Thưa, người ngoài.” Ðức Giêsu liền bảo: “Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả câu; con cá nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy một đồng tiền bốn quan; anh lấy tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh.”

Suy niệm:

Đọc bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta không khỏi mỉm cười,

khi nghĩ đến việc anh Phêrô đi ra hồ Galilê để thả câu bắt cá,

một chuyện bắt cá rất bất thường, vì một mục đích cũng bất thường.

Thầy Giêsu dặn anh hãy túm lấy con cá đầu tiên câu được,

bắt lấy, mở miệng nó ra, thấy ngay một đồng tiền trị giá bốn quan,

vừa vặn để nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.

Đây là thứ thuế mà hàng năm, theo sách Xuất hành (30, 14)

những người đàn ông Do Thái trên hai mươi tuổi phải nộp

để lo việc tu bổ Đền Thờ và việc tế tự trong đó.

Ta không thấy kể chuyện anh Phêrô đã vâng lời Thầy ra sao,

và phép lạ đã xẩy ra như thế nào.

Chỉ biết chẳng khi nào trong Tân Ước

Thầy Giêsu lại có ý làm một phép lạ vì lợi ích cho mình như vậy.

Nhưng chuyện bắt cá để lấy tiền nộp thuế

lại không phải là chuyện quan trọng của đoạn Tin Mừng này.

Điểm chính yếu nằm ở những câu nói của Thầy Giêsu.

Ai cũng biết con cái của vua chúa trần gian thì được miễn thuế,

vì các vua chỉ đánh thuế người ngoài thôi (c. 26).

Đức Giêsu chính là Người Con tuyệt hảo của Vị Vua thiên quốc.

Và những Kitô hữu cũng là con cái của Đức Vua tối cao.

Họ là những người đã mở lòng đón nhận Nước Trời (Mt 13, 38),

và đã gọi Thiên Chúa là Cha trên trời của chúng con (Mt 6, 9).

Như thế Thầy Giêsu và các môn đệ của mình đều được miễn thuế.

Thầy trò không phải nộp thuế Đền Thờ như những người Do Thái khác.

Tuy Thầy trò có quyền không nộp thuế,

nhưng Thầy Giêsu lại không muốn làm cớ cho người khác vấp phạm.

Khi về đến nhà của anh Phêrô ở Caphácnaum,

Thầy Giêsu bày tỏ ý muốn nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.

Mối bận tâm của Thầy là tránh làm cớ cho người khác vấp phạm.

Thầy biết mình có tự do,

nhưng Thầy cũng dám hy sinh tự do ấy vì lợi ích cho người khác.

Thánh Phaolô cũng sẽ nói về nguyên tắc này khi bàn về việc ăn đồ cúng.

“Đành rằng mọi thức ăn đều thanh sạch,

nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu” (Rm 14, 20).

Chúng ta cần lưu tâm đến những người “yếu” trong cộng đoàn.

Chính tình yêu đối với họ khiến tôi cân nhắc điều mình được phép làm.

Tự giới hạn tự do của mình là một cách để biểu lộ tình yêu.

Thế giới hôm nay ca ngợi tự do, nên cũng đầy cớ gây vấp phạm.

Bao sa ngã của giới trẻ là do sự phóng túng của người lớn.

Con người hôm nay quá gần nhau bởi các phương tiện truyền thông,

nên ảnh hưởng xấu lan đi vừa nhanh lại vừa rộng.

Nếu chúng ta tự ý làm hay tránh làm một điều gì đó

chỉ vì tôn trọng lương tâm mong manh của người khác,

thì Thiên Chúa cũng sẽ giúp ta bằng những phép lạ thật ngỡ ngàng.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng

trước mọi biến cố của cuộc sống,

khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,

hay gặp sự bất trung, bất tín

nơi những người con tin tưởng cậy dựa.

Xin giúp con gạt mình sang một bên

để nghĩ đến hạnh phúc người khác,

giấu đi những nỗi phiền muộn của mình

để tránh cho người khác phải đau khổ.

Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,

để đau khổ làm con thêm mềm mại,

chứ không cứng cỏi hay cay đắng,

làm con nhẫn nại chứ không bực bội,

làm con rộng lòng tha thứ,

chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.

Ước gì không ai sút kém đi

vì chịu ảnh hưởng của con,

không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,

lòng cao thượng, tử tế,

chỉ vì đã là bạn đồng hành của con

trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.

Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,

xin cho con có lúc

thì thầm với Chúa một lời yêu thương.

Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,

tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,

và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh.

Amen.

(dịch theo Learning Christ)

Thứ Ba Tuần 19 Thường niên:

Em nhỏ và kẻ bé mọn

Lời Chúa: Mt 18, 1-5.10.12-14

Khi ấy, các môn đệ lại gần hỏi Ðức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” Ðức Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời. Còn ai tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là đón tiếp chính Thầy. Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời.”

“Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”

Suy niệm:

Làm lớn ở trong nhóm hay trong Giáo Hội,

đó vẫn là mối bận tâm gây tranh cãi giữa các môn đệ Thầy Giêsu.

Sau khi Thầy loan báo lần thứ hai về cuộc Khổ nạn (Mt 17, 22-23),

các môn đệ vẫn bị hút vào câu hỏi ai là người lớn nhất (c. 1).

Như một nhà sư phạm khéo léo, Thầy Giêsu đã gọi một em nhỏ lại,

đặt em đứng giữa các ông, và đưa ra câu trả lời.

Câu trả lời của Thầy chắc đã làm các môn đệ bị sốc.

Trong xã hội Do thái thời Đức Giêsu, trẻ em không có vai vế gì,

cũng chẳng có chút quyền hành hay sự độc lập.

Chúng không phải là biểu tượng cho sự trong trắng, ngây thơ,

cho bằng là biểu tượng cho sự tùy thuộc, lệ thuộc vào người lớn.

Khi đặt một em nhỏ bằng xương bằng thịt giữa các ông,

Thầy Giêsu đã đưa ra câu trả lời rồi.

Đối với Thầy, điều kiện để vào Nước Trời mai sau,

là phải trở nên như trẻ em (c. 3).

Muốn trở nên như trẻ em, cần phải trở lại, nghĩa là quay lại, hoán cải.

Chỉ người lớn nào dám đổi hướng sống, mới có thể trở nên trẻ thơ.

Chỉ ai dám rũ bỏ đam mê về quyền lực và tiếng tăm, về địa vị và chỗ đứng,

người ấy mới có thể vào Nước Trời.

Nước Trời là Nước của trẻ thơ,

và những ai trở nên giống trẻ thơ nhờ hoán cải.

Vậy ai là người lớn nhất trong Nước Trời?

Thầy Giêsu trả lời, đó là người tự hạ, thấp kém như một em nhỏ (c. 4).

Để vào được Nước Trời, để làm người lớn nhất trong Nước đó,

cần trở nên như trẻ thơ, tay trắng, không tự hào, tự mãn về mình,

không cậy dựa vào đạo đức của bản thân, nhưng vào tình thương của Chúa.

như thế người lớn nhất trong Nước Trời lại là người nhỏ bé, khiêm nhu.

Thầy Giêsu không chỉ giúp môn đệ hiểu xem ai là người lớn nhất thực sự,

Ngài còn dạy họ biết quý giá trị của từng con người trong cộng đoàn.

Cộng đoàn tín hữu nào cũng có những môn đệ yếu kém mặt này, mặt khác.

Ở đây họ được gọi là những kẻ bé mọn.

Thầy Giêsu nhấn mạnh đến phẩm giá của những kẻ bé mọn này.

Không ai được phép khinh rẻ một người nào trong nhóm họ.

Họ được bảo trợ bởi các thiên thần riêng,

và các thiên thần của họ vẫn chiêm ngưỡng nhan Cha ở trên trời (c. 10).

Có những môn đệ bé mọn bị sa ngã, lạc lối.

Thái độ của người lãnh đạo là để lại chín mươi chín con chiên

để đi tìm một con chiên lạc.

Cả con chiên lạc cũng vẫn có giá trị khiến ta phải tốn công sức để tìm về. “Thiên Chúa không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”

Chính vì thế từng con chiên lạc đều đáng chúng ta trân trọng.

Khi nhìn trẻ nhỏ và kẻ bé mọn trong cộng đoàn bằng cặp mắt của Chúa,

chúng ta sẽ biết cư xử tử tế và kính trọng họ hơn.

Lời nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,

nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,

dễ thấy Chúa hiện diện

và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,

xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,

khép kín và nghi ngờ.

Xin dạy con sự hiền hậu

để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu

để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,

vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,

hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

Thứ Tư Tuần 19 Thường niên :

SỬA LỖI NGƯỜI ANH EM

Lời Chúa: Mt 18, 15-20

15 "Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em.16 Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân.17 Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.18 "Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.19 "Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho.20 Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ."

Suy niệm:

Trong Giáo hội ngay từ thuở ban đầu, đã có những người sai lỗi.

Nếu đó chỉ là những sai lỗi nhỏ giữa các cá nhân trong cộng đoàn

thì cần tha thứ cho nhau (Lc 17, 3-4).

Nhưng nếu đó là những sai lỗi nghiêm trọng đụng chạm đến cộng đoàn,

vô tình hay cố ý sống ngược với giáo huấn căn bản của Đức Giêsu,

thì cộng đoàn không thể nhắm mắt làm ngơ

mà không sửa sai cho người anh em phạm lỗi.

Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh cách sửa lỗi trong cộng đoàn thánh Mátthêu.

Người phạm lỗi nặng ở đây vẫn được gọi là người anh em (c. 15).

Tiến trình sửa sai huynh đệ này diễn ra từ từ, từng bước một.

Bước này thất bại mới chuyển qua bước kế tiếp.

Bước một là cuộc gặp gỡ kín đáo giữa người sửa lỗi và người phạm lỗi.

Mục đích là để giúp người phạm lỗi biết lắng nghe lời góp ý chân tình,

nhận ra lỗi của mình và thay đổi cuộc sống cho phù hợp.

Bước hai diễn ra khi bước một thất bại, khi người phạm lỗi không chịu nghe.

Người sửa lỗi sẽ đem theo hai, ba người nữa để tăng sức thuyết phục.

Nếu người phạm lỗi vẫn khăng khăng không nghe,

thì bước kế tiếp là phải đưa chuyện này ra trước Giáo hội địa phương (c. 17).

Bước cuối cùng chỉ xảy ra khi người anh em ấy vẫn ngoan cố,

không muốn nghe tiếng nói của cộng đoàn Giáo hội,

nghĩa là tự đặt mình ra ngoài sự hiệp thông với cộng đoàn tín hữu,

thì Giáo hội đành lòng không nhận anh ấy như phần tử của Giáo hội nữa.

Có thể ngày nay Giáo hội có những cách sửa lỗi khác,

nhưng những nét dưới đây vẫn giữ nguyên giá trị:

coi người phạm lỗi như anh em và không muốn mất người ấy,

kiên trì đối thoại, cố gắng để người anh em ấy nghe ra và nhận lỗi,

kín đáo giữ thanh danh cho người ấy, đi từng bước trước khi quyết định.

Ngay cả khi Giáo hội đã đưa ra quyết định cuối cùng,

thì việc trở lại với cộng đoàn vẫn luôn mở ngỏ, nếu người ấy muốn làm hòa.

Đức Giêsu phục sinh đã cho Giáo hội dưới quyền thánh Phêrô

được quyền tháo cởi và ràng buộc (Mt 16, 19b; Ga 20, 23)

khi phải đưa ra các quyết định về những phần tử của mình (c. 18).

Sự hiện diện của những nhóm nhỏ trong cộng đoàn là điều có từ xưa.

Tuy nhóm chỉ có hai người, nhưng nếu họ đồng lòng xin một ơn nào đó,

thì Cha trên trời sẽ ban cho (c. 19).

Có nhóm hai hay ba người hội họp với nhau nhân danh Đức Giêsu,

thì Ngài có mặt ở trong cuộc gặp gỡ đó, và Ngài ở giữa họ (c. 20).

Đức Giêsu là Đấng Emmanuen, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1, 23).

Đức Giêsu phục sinh cũng hứa ở với các môn đệ cho đến tận thế (Mt 28, 20).

Chính vì thế Ngài hiện diện một cách kín đáo, thầm lặng

Thiên Chúa đã đi với dân Ngài trong hoang địa.

Hôm nay Chúa Giêsu vẫn đồng hành với chúng ta khi ta để cho Ngài quy tụ.

Ngài vẫn hiện diện ở nơi nhóm bạn có chung một niềm tin và tình yêu.

Lời nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

Cuộc đời chúng con

Diễn ra quanh những chiếc bàn,

Làm bằng những chất liệu khác nhau,

Kiểu dáng khác nhau, đặt ở những chỗ khác nhau.

Nơi bàn học,

Ngài mở trí tuệ chúng con

Trước những chân trời mới,

Và dạy chúng con học đạo làm người.

Nơi bàn ăn,

Ngài nuôi dưỡng thân xác chúng con

Để chúng con có sức phục vụ tha nhân

Nơi bàn làm việc,

Ngài cho chúng con được cộng tác với Ngài

Trong việc xây dựng thế giới đại đồng huynh đệ.

Nơi bàn thờ,

Ngài cho chúng con được hiệp thông với Ngài,

Và hiệp nhất với nhau qua một tấm bánh thánh.

Lạy Chúa

Giờ đây chúng con ngồi quanh chiếc bàn này,

Để gặp gỡ, chia sẽ, để bàn bạc, thảo luận,

Để cùng nhau tìm ý Chúa và đem ra thực hành.

Xin thánh hóa những chiếc bàn chúng con sử dụng

Để tất cả trở nên con đường

Đưa chúng con đến hưởng bàn tiệc thiên quốc. Amen

Thứ Năm Tuần 19 Thường niên:

BẢY MƯƠI LẦN BẢY

Lời Chúa: Mt 18, 21- 19, 1

21 Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? "22 Đức Giê-su đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy."23 Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách.24 Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng.25 Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ.26 Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: "Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết."27 Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ.28 Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: "Trả nợ cho tao! "29 Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: "Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh."30 Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ.31 Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện.32 Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta,33 thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? "34 Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông.35 Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình." 1 Khi Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền Ga-li-lê và đi đến miền Giu-đê, bên kia sông Gio-đan.

Suy niệm

Có khoảng cách rất lớn giữa mười ngàn yến vàng với một trăm quan tiền.

Mười ngàn yến vàng bằng một trăm triệu quan tiền.

Vậy mà người vừa được tha món tiền cực lớn ấy,

lại không tha được cho bạn của mình một món tiền tương đối nhỏ.

Thái độ độc ác này khiến tôi nhìn lại mình và tự hỏi tại sao.

Tại sao tôi không tha cho anh em tôi những điều nhỏ mọn hàng ngày,

trong khi Chúa vẫn tha cho tôi những món nợ rất lớn ?

Dù một trăm quan tiền là hơn ba tháng lương của người lao động,

nhưng nó chẳng là gì so với món tiền lớn tôi mắc nợ Chủ tôi.

Tôi mắc nợ Ngài sự hiện hữu của tôi trên đời và tất cả những gì tôi có.

Tôi mắc nợ Ngài vì tình yêu bao la Ngài dành cho tôi.

Món nợ lớn vô cùng, vì tôi là thụ tạo, còn Ngài là Tạo Hóa.

“Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết” (cc. 26. 29).

Cả hai người đầy tớ đều sấp mình van xin như thế

khi cả hai đều không thể nào trả ngay được món nợ.

Nhưng hai câu trả lời nhận được lại khác nhau.

Chỉ vị vua mới biết chạnh lòng thương xót và tha toàn bộ số nợ (c. 27).

Còn người đầy tớ vừa được tha món nợ lớn, lại không có lòng thương xót này.

Anh ta thích dùng sức mạnh và quyền lực để giải quyết.

Túm lấy, bóp cổ, tống bạn mình vào ngục cho đến khi trả xong.

Lẽ ra anh ta phải cư xử với bạn mình như ông chủ đã cư xử với anh.

Đó chính là nội dung lời buộc tội của ông chủ giận dữ:

“Ngươi không phải thương xót đồng bạn,

như chính ta đã thương xót ngươi sao ?” (c. 33).

Lòng thương xót anh nhận được đã không trở thành dòng suối mát

chảy đến với người bạn đang cần chút xót thương.

Chính vì thế sự tha thứ mà anh nhận được từ chủ

phút chốc bị rút lại, bị xóa sạch.

Anh lại bị trở về tình trạng trước đây,

bị quân lính hành hạ, bị tù đầy cho đến khi trả hết (c. 34).

Sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta

chỉ ở lại với điều kiện là nó được chuyển đi, chứ không giữ lại.

Giữ lại đồng nghĩa với bị rút lại.

Món quà tôi nhận được từ Cha phải trở thành món quà tôi trao cho anh em.

Trong cuộc sống, chúng ta là con nợ của nhau, người này nợ người kia.

Trước những xúc phạm của người anh em trong cộng đoàn,

Phêrô nghĩ phải chăng nên tha đến bảy lần.

Đức Giêsu mời ta tha đến bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha đến vô cùng.

Ngài mời ta đi vào chỗ sâu nhất trong trái tim Thiên Chúa.

Sự tha thứ bắt nguồn từ tấm lòng, từ trái tim (c. 35).

Một trái tim tàn nhẫn chỉ biết đến một sự công bằng cứng cỏi.

Thế giới hôm nay cần một trái tim tha thứ hơn bao giờ.

Những nước nghèo mong chờ được tha những món nợ lớn.

Có những mối thù cần được tha giữa các sắc tộc, quốc gia, tôn giáo…

Người kitô hữu chúng ta giúp gì cho sự tha thứ trong thế giới hôm nay?

Lời nguyện

Giữa một thế giớiĐề cao quyền lực và lợi nhuận,

Xin dạy con biết phục vụ âm thầm.

Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,

Xin dạy con biết yêu thương tự hiến.

Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,

Xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.

Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,

Xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi,

Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,

Xin cho các kitô hữu chúng con

Trở thành tình yêu

Cho trái tim khô cằn của thế giới.

Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,

Biết sống nhờ và sống cho tha nhân,

Biết quảng đại cho đi

Và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy ba ngôi chí thánh,

Xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa

ở sâu thẳm lòng chúng con,

và trong lòng từng con người bé nhỏ.

Thứ Sáu Tuần 19 Thường niên:

MỘT XƯƠNG MỘT THỊT

Lời Chúa: Mt 19, 3-12

3 Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su để thử Người. Họ nói: "Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không? "4 Người đáp: "Các ông không đọc thấy điều này sao: "Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ",5 và Người đã phán: "Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt."6 Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly."7 Họ thưa với Người: "Thế sao ông Mô-sê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ? "8 Người bảo họ: "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu.9 Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình."10 Các môn đệ thưa Người: "Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn."11 Nhưng Người nói với các ông: "Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu.12 Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu."

Suy niệm

“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly.”

Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ,

và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.

Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng

ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng.

Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu đã gia tăng đáng kể.

Sống với nhau đến đầu bạc răng long trở thành một giấc mơ.

Trong xã hội Do-thái giáo thời Đức Giêsu,

người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới.

Người vợ là một thứ tài sản của người chồng,

nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ, có khi chỉ vì một lý do cỏn con.

Trước câu hỏi: “chồng có được phép ly dị vợ vì bất cứ lý do nào không?”

Đức Giêsu đã kiên quyết nói không (c. 6).

Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế.

Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần hay không ưng.

Lập trường của Ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo thời đó.

Điều này khiến chính các môn đệ bị sốc (c. 10).

Hóa ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ khi họ muốn.

Người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật (24, 1)

để biện minh cho việc được phép ly dị đúng theo Luật Môsê (c. 7).

Còn Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế (2, 24)

để nhấn mạnh cho sự hiệp nhất vĩnh viễn giữa đôi vợ chồng.

“Cả hai thành một xương một thịt” không chỉ về mặt thân xác,

mà còn trở nên một lòng, một ý, một ước mơ, một hành động.

Ngài khẳng định điều này đã có từ thuở ban đầu (cc. 4. 8)

và nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.

Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời (c. 8).

Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh Luật Môsê

và khai mở ý muốn trọn vẹn của Thiên Chúa về hôn nhân.

Hôn nhân không phải chỉ là chuyện của hai người yêu nhau và lấy nhau.

Trong Lễ Cưới có sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng phối hợp.

Ngài tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người cùng muốn chia tay.

Hôn nhân không phải là một bản hợp đồng

mà hai bên được phép xé bỏ khi muốn.

Chung thủy mãi mãi là chuyện khó đối với con người thời nay.

Khi thịnh vượng, lúc gian nan, khi mạnh khỏe, lúc đau yếu,

khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối và vấp ngã,

khi đổ vỡ quá lớn tưởng như không sao hàn gắn được,

khi đời sống vợ chồng thành như hỏa ngục trần gian…

khi ấy người ta cần Thiên Chúa để tiếp tục yêu thương và kính trọng nhau.

Xin bớt một chút ích kỷ tự ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương,

bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…

để gìn giữ tình nghĩa vợ chồng như quà tặng mong manh của trời cao.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho con gặp được ánh mắt của Chúa

Ít là một lần trong đời.

Khi tương lai con đang vững vàng ổn định,

Xin hãy nhìn con như Chúa đã nhìn Lêvi

Và mời gọi con đứng lên theo Chúa,

Bỏ lại tất cả những gì con cậy dựa.

Khi con chẳng còn là mình, vấp ngã như Simon,

Xin hãy quay lại nhìn con

Bằng ánh mắt xót thương, tha thứ,

Để con òa khóc như trẻ thơ.

Khi con khao khát cuộc sống cuộc đời hoàn thiện,

Xin hãy nhìn con bằng ánh mắt yêu thương

Như Chúa đã trìu mến

Nhìn người thanh niên giàu có.

Khi con ước mong được thấy khuôn mặt Chúa,

Xin Chúa hãy dừng lại và ngước lên nhìn con,

Như Chúa đã ngước lên nhìn Dakêu

Và cho ông thấy cả tấm lòng bao la bát ngát.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin dạy chúng con biết nhìn con người hôm nay

Bằng ánh mắt của Chúa.

Chúa động lòng thương

Khi thấy bao người yếu đau,

Thấy đám đông bơ vơ như chiên không mục tử.

Ánh mắt Chúa thấu suốt lòng người.

Chúa buồn phiền khi thấy có kẻ lòng chai dạ đá,

Nhưng Chúa cũng vui

Khi thấy bà góa nghèo bỏ vào tất cả.

Đôi mắt Chúa đã từng nhòa lệ

Trước cái chết của người bạn thân là Ladarô,

Và trước viễn ảnh sụp đổ của thành đô yêu dấu.

Lạy Chúa, đôi mắt là cửa số của tâm hồn.

Xin cho con qua cửa sổ ấy mà vào tâm hồn Chúa. Amen

Thứ Bảy Tuần 19 Thường niên: (thiếu) (Tìm 14 tháng 8 năm 2010)

Thứ Hai Tuần 20 Thường niên:

TÔI CÒN THIẾU ĐIỀU GÌ?

Lời Chúa: Mt 19, 16-22

16 Bấy giờ có một người đến thưa Đức Giê-su rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời? "17 Đức Giê-su đáp: "Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn."18 Người ấy hỏi: "Điều răn nào? " Đức Giê-su đáp: "Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian.19 Ngươi phải thờ cha kính mẹ", và "Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình."20 Người thanh niên ấy nói: "Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa không? "21 Đức Giê-su đáp: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi."22 Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

Suy niệm

Bài Tin Mừng hôm nay gồm sáu câu đối thoại qua lại

giữa Đức Giêsu với một anh thanh niên giàu có.

Hẳn anh ấy là một người có thiện chí, khi anh đến gặp Đức Giêsu

để hỏi về chuyện phải làm điều tốt nào để có sự sống đời đời (c. 16).

Như thế sự sống đời đời là điều anh quan tâm,

và anh thực sự muốn biết cách hành động để đạt đến sự sống ấy.

Thầy Giêsu đã cho anh một câu trả lời đơn giản: hãy giữ các điều răn.

Thầy đã kể cho anh sáu điều răn (cc. 18-19),

bốn điều cấm làm và hai điều phải làm, tất cả đều liên quan đến tha nhân.

Anh cho biết mình đã sống mọi điều răn đó.

Dù vậy, anh vẫn mang trong mình một thao thức.

Chính thao thức ấy đã đưa anh đến với Thầy Giêsu để hỏi:

“Tôi còn thiếu điều gì ?” (c. 20).

Anh chờ mong một câu trả lời từ vị Thầy mà anh quý mến.

Anh muốn làm một cái gì đó, muốn biết điều mình còn thiếu.

Câu trả lời của Thầy làm anh chưng hửng.

“Nếu anh muốn nên hoàn thiện, hãy đi, bán tài sản của anh,

cho người nghèo, anh sẽ có một kho tàng trên trời, và đến, theo tôi.”

Như thế khi anh xin có sự sống đời đời, xin được kho tàng trên trời,

thì Thầy Giêsu đòi anh bán kho tàng dưới đất anh đang có.

Bán xong, hãy tặng cho người nghèo để chẳng mong lấy lại.

Thầy mời anh trở nên tay trắng, rồi đến và theo Thầy.

Nhưng Thầy Giêsu không đòi mọi người phải làm y như anh thanh niên,

bán hết tài sản và cho người nghèo.

Ngài cũng không đòi mọi người phải bỏ vợ con để theo Ngài y như Phêrô.

Tuy nhiên, Ngài muốn mọi người nên hoàn thiện và có sự sống đời đời.

Ngài kêu gọi mọi người làm môn đệ, theo Ngài trong hoàn cảnh của mình.

Như thế ai cũng có cái phải bỏ, phải bán, phải cho không…

Ai cũng có thể hỏi Ngài như anh thanh niên: Tôi còn thiếu điều gì nữa?

Anh thanh niên giàu có đã phấn khởi đến với Thầy Giêsu (c. 22).

bây giờ anh lại buồn rầu bỏ đi.

Anh buồn vì không muốn mất một chỗ dựa vững chắc là của cải.

Thực ra anh buồn vì không đủ tự do để đáp lại một tiếng gọi đẹp quá.

Anh muốn sự sống đời đời, nhưng không dám chọn con đường tốt nhất.

Anh muốn làm môn đệ Thầy Giêsu, nhưng tình yêu của cải lại mạnh hơn.

Nếu anh chịu tự giải phóng mình khỏi trói buộc của vật chất,

khi trở lại gặp Thầy, anh sẽ thấy mình nhẹ hơn và giàu có hơn nhiều.

Nếu hôm nay, Thầy Giêsu gặp tôi, Thầy sẽ bảo tôi còn thiếu điều gì.

Điều gì đang ràng buộc tôi khiến tôi muốn quay lưng bỏ đi ?

Xin cho tôi dám chọn Giêsu, dám mất những điều quý giá vì Giêsu,

vì có Giêsu là có tất cả.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại

Chọn những cầu thủ bóng đá,

Những tài tử điện ảnh

Làm thần tượng cho đời mình.

Hôm nay

Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,

Và chúng con thật sự đắn đo

Trước khi chọn Chúa.

Bởi chúng con biết rằng

Chọn Chúa là lội ngược dòng,

Theo Chúa là bước vào con đường hẹp:

Con đường nghèo khó và khiêm nhu,

Con đường từ bỏ và phục vụ.

Hôm nay, chúng con chọn Chúa

Không phải vì Chúa giàu có,

Tài năng hay nổi tiếng,

Nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.

Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.

Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.

Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa

Nhiều lần trong ngày,

Qua những chọn lựa nhỏ bé,

Để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,

Và để chúng con

Thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen

Thứ Ba Tuần 20 Thường niên:

LẠC ĐÀ QUA LỖ KIM

Lời Chúa: Mt 19, 23-30

23 Bấy giờ Đức Giê-su nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời.24Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa."25 Nghe nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: "Thế thì ai có thể được cứu? "26 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: "Đối với loài người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được."27 Bấy giờ ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: "Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì? "28 Đức Giê-su đáp: "Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en.29 Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.30 "Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu."

Suy niệm

Người thanh niên giàu có đã bỏ đi

khi Thầy Giêsu mời anh bán tài sản và cho người nghèo.

Của cải đã trói buộc anh, dù anh là người có thiện chí.

Anh tìm sự sống đời sau, nhưng lại bị vướng bởi vật chất đời này.

“Người giàu có thật khó vào Nước Trời” (c. 23).

Câu nói này của Thầy Giêsu khiến các môn đệ rất đỗi ngạc nhiên (c. 25),

vì vào thời đó, giàu sang thường được coi là dấu hiệu Chúa chúc lành.

Thầy Giêsu dùng một hình ảnh ngoa dụ, cường điệu,

để diễn tả việc người giàu khó vào Nước Trời,

khó hơn con lạc đà rất to chui qua lỗ kim rất nhỏ.

Dĩ nhiên lạc đà thì chẳng thể nào chui qua lỗ kim được,

nhưng người giàu thì vẫn có thể được vào Nước Trời, dù rất khó khăn,

“vì đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được” (c. 26).

Đã có những người giàu tốt bụng đi theo Thầy Giêsu.

Họ là Giuse Arimathia, Nicôđêmô, Dakêu, là các phụ nữ.

Giuse và Nicôđêmô đã lo mộ phần và việc tẩm liệm Thầy Giêsu.

Dakêu đã tự nguyện chia nửa phần tài sản mình cho người nghèo khó.

Các phụ nữ theo Thầy từ Galilê đã giúp đỡ vật chất cho Thầy (Lc 8, 3).

Có vẻ họ được tự do với của cải trần thế.

Của cải không ngăn cản họ trở thành người môn đệ Thầy Giêsu.

Nhưng cũng phải nhìn nhận của cải vật chất có sức mạnh của nó.

Như người ta hay nói: có tiền mua tiên cũng được.

Tiền bạc của cải có vẻ đem lại chỗ dựa vững chắc cho chủ nhân,

chính vì thế người ta thích thu tích của cải một cách vô độ (Lc 12, 21).

Của cải làm chúng ta phải bận tâm:

“Kho tàng anh em ở đâu, trái tim anh em ở đó” (Mt 6, 21),

kho tàng dưới đất sẽ giữ tim ta dưới đất.

Ham mê của cải có thể bóp nghẹt hạt giống lời Chúa trong tim ta (Mt 13, 22).

Nó làm chúng ta dễ trở nên nô lệ:

“Anh em không thể làm tôi hai chủ, vì sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia…

Anh em không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền tài” (Mt 6, 24).

Như thế nó có khả năng đẩy Thiên Chúa xuống hàng thứ yếu.

Quả thực của cải dễ làm ta khép lòng lại trước Thiên Chúa và tha nhân,

và làm cái tôi của ta trở nên cứng cỏi, tự mãn.

Khác với anh thanh niên giàu có, nhóm Mười Hai đã bỏ mọi sự mà theo Thầy.

“Vậy chúng con sẽ được gì ?”, họ đã hỏi Thầy Giêsu như vậy.

Thầy hứa sẽ cho họ được cùng Thầy xét xử Ítraen trong ngày tận thế.

Hơn nữa, Thầy còn hứa bất cứ ai chịu mất mát về gia đình, cơ nghiệp,

đều được đền bù gấp trăm, và nhất là được sự sống đời đời (c. 29).

Hôm nay chúng ta cũng hỏi Ngài như vậy, về cái được, cái mất.

Chúng ta có thể bỏ mất nhiều điều mà thiên hạ coi là giá trị,

như một đời sống tiện nghi, một chỗ làm ổn định, hay một chút tiếng tăm.

Chỉ mong được tấm lòng luôn an vui, hạnh phúc,

vì biết mình được Đức Kitô và ở lại trong Ngài (Pl 3, 8-9).

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Sống cho Chúa thật là điều khó.

Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả

Để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa

Để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà

Để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con

Cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình,

Ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan

Để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,

Dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng

Trước khi con tập sống cho Chúa

Và thuộc về Chúa

Thì Chúa đã sống cho con

Và thuộc về con từ lâu. Amen

Thứ Tư Tuần 20 Thường niên:

VÌ TÔI TỐT BỤNG

Lời Chúa: Mt 20, 1-16a

1 "Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.2Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc.3 Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ.4 Ông cũng bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng."5 Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy.6 Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết? "7 Họ đáp: "Vì không ai mướn chúng tôi." Ông bảo họ: "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho! "8 Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: "Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất."9 Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền.10 Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền.11 Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ:12 "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt."13 Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao?14 Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó.15 Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức? "16 Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.

Suy niệm

Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giê-su

ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:

“Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì ?”

Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.

Họ sẽ được xét xử các chi tộc Ít raen, được gấp trăm về mọi sự,

và nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).

Như thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng,

một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh.

Các môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.

Bài Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên.

Dưới một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau,

nhưng bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.

Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng,

thưởng công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng.

Người còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.

Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó.

Thật ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ong chủ độ lượng”.

Trong thế giới thời Đức Gíê-su, người ta mướn thợ buổi sáng

và trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).

Lương công nhật là một quan tiền (denarius),

tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.

Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.

Ong chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý.

Những người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6)

lại không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần.

Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng,

còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4).

Cuối cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.

Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường

với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước.

Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều)

cả ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền.

Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm,

“đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).

Nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.

Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ

để xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.

Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy.

Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả

khi biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.

Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công.

Bất công nằm ở chỗ làm nhiều. làm ít, nhận lương như nhau.

Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công,

vì ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.

Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất,

những câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa.

“Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14).

Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh :

đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa.

Tình thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối,

người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.

“Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn

với tài sản của tôi sao?” (c. 15).

Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn.

Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người.

Chẳng ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).

“Hay mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15).

Con mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng,

ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.

Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt lành,

đặc biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân.

Anh trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một.

Anh được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.

Nói cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng.

Chẳng ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh.

Hạnh phúc Nước Trời là một ơn ban

hơn là một sự trả công hay phần thưởng.

Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người.

Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành.

Cha thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời.

Thậm chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.

Ong chủ vườn nho thương cả những người

đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn.

Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?

Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?

Chắc chẳng được bao nhiêu.

Nhưng anh ấy đã đứng chờ suốt ngày.

Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một,

“những người không được ai mướn” (c.7),

những người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời,

những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra sao.

chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.

Những người này khác với những người làm từ sáng,

biết chắc mình sẽ được trả công một quan tiền.

Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hỹ.

Nhưng chắc là đã có những tiếng reo.

Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế,

kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân…

Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên

vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ,

quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.

Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người

mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.

Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho.

Người còn thấy cả thời gian chờ.

Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm việc.

Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vu

của Thiên Chúa,

Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ,

vì lòng tốt của Ngi không sao hiểu được.

Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.

Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui.

Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa.

Như thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu, con Thiên Chúa,

Chúa đã làm người như chúng con,

Nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.

Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc

Mà con người lại yếu đuối mong manh.

Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,

Và giữa ánh sáng,

Cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,

Xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu

Chúa đã buồn muốn chết được.

Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,

Xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá

Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.

Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.

Xin cho con yêu đời luôn

Dù đời chẳng luôn đáng yêu.

Xin cho con can đảm

Đối diện với những thách đố

Vì biết rằng cuối cùng

Chiến thắng thuộc về người

Có niềm hy vọng lớn hơn. Amen

Thứ Năm Tuần 20 Thường niên:

TIỆC CƯỚI ĐÃ SẴN SÀNG

Lời Chúa: Mt 22, 1-14

1 Đức Giê-su lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng:2 "Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình.3 Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến.4 Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới! "5 Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn,6 còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết.7 Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng.8 Rồi nhà vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng.9 Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới."10 Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.11 "Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới,12 mới hỏi người ấy: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới? " Người ấy câm miệng không nói được gì.13 Nhà vua liền bảo những người phục dịch: "Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!14 Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít."

Suy niệm

Dụ ngôn hôm nay nói về một tình yêu bị từ chối.

Chẳng có gì long trọng và tưng bừng cho bằng tiệc cưới của hoàng tử.

Tiệc cưới này do chính nhà vua khoản đãi với sự chuẩn bị chu đáo.

Vua đã mời các quan khách từ trước, và còn mời nhiều lần sau đó.

Trước những lời mời trân trọng của nhà vua, họ đã chối từ.

Thái độ của quan khách thật không sao hiểu nổi.

Họ chẳng sợ xúc phạm đến nhà vua khi coi chuyện đi buôn và chăn nuôi

quan trọng hơn chuyện dự tiệc cưới hoàng tử (c. 5).

Thậm chí có kẻ còn bắt các đầy tớ, hành hạ và giết đi (c. 6).

Những khách quý bây giờ trở thành kẻ sát nhân.

Họ sẽ phải chịu cơn thịnh nộ ghê gớm của nhà vua về sự xúc phạm đó.

Như thế tiệc cưới cho hoàng tử sẽ đi về đâu ?

Ai là người sẽ được mời tiếp theo, khi những người trước tỏ ra bất xứng ?

Nhà vua đã đưa ra một quyết định rất bất ngờ.

“Hãy đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (c. 9).

Như thế phòng tiệc bây giờ vẫn đầy người được mời, có cả tốt lẫn xấu.

Dụ ngôn trên đây lại được kết nối với một dụ ngôn khác.

Chúng ta ngạc nhiên khi thấy nhà vua đi vào phòng tiệc

để quan sát cách ăn mặc của những vị khách đến từ đường phố (c. 11).

Có người không mặc y phục lễ cưới và đã bị trừng phạt nặng nề (c. 13).

Tại sao lại phạt anh, khi anh bất ngờ được đưa vào ăn cưới ?

Nhưng đừng quên các người khác đều mang y phục lễ cưới đầy đủ,

nên anh chẳng nói được gì để tự biện minh (c. 12).

Lịch sự với Thiên Chúa là điều ta dễ quên.

Ngài vẫn trân trọng mời ta dự tiệc chung vui với Ngài, với Con của Ngài.

“Mọi sự đã sẵn, mời quý vị đến dự tiệc cưới” (c. 4).

Đối với Ngài, sự hiện diện của chúng ta đem lại niềm vui lớn.

Khi đa số dân Do-thái, những khách quý được mời trước, từ chối Ngài,

Ngài đã không muốn phòng tiệc bị trống, tiệc cưới bị đình hoãn.

Thiên Chúa chấp nhận mở cửa phòng tiệc cho mọi người.

Họ đến từ muôn phương, có người tốt người xấu, để làm nên Giáo hội.

Giáo hội gồm những người được mời và được gọi một cách nhưng không.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần lịch sự với Thiên Chúa, người chủ tiệc,

cần mặc y phục lễ cưới một cách đàng hoàng.

Y phục ấy chính là một đời sống nghiêm túc theo giáo huấn của Đức Giêsu.

Các kitô hữu chúng ta đã được ngồi trong phòng tiệc của Thiên Chúa.

Chúng ta đã được mời và được gọi để sống trong Giáo hội,

nhưng chưa chắc chúng ta nằm trong số những người được tuyển chọn.

Số người được chọn bao giờ cũng ít hơn số người được gọi.

Để vào số những người được chọn, chúng ta phải biết trân trọng ơn ban.

Có khi chúng ta cũng coi chuyện buôn bán làm ăn của mình

quan trọng hơn những lời mời khẩn thiết đến từ Thiên Chúa.

Làm thế nào để chúng ta giữ được ơn cứu độ Chúa đang ban hôm nay?

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

xin thương nhìn đến Hội Thánh

là đàn chiên của Chúa.

Xin ban cho Hội Thánh

sự hiệp nhất và yêu thương,

để làm chứng cho Chúa

giữa một thế giới đầy chia rẽ.

Xin cho Hội Thánh

không ngừng lớn lên như hạt lúa.

Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,

đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.

Ước gì Hội Thánh trở nên men

được vùi sâu trong khối bột loài người

để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.

Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp

để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.

Xin cho Hội Thánh

trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,

nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.

Cuối cùng xin cho chúng con

biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,

nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.

Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,

nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.

Thứ Sáu Tuần 20 Thường niên:

ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT

Lời Chúa: Mt 22, 34-40

34 Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. -35Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng:36 "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất? "37 Đức Giê-su đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.38 Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất.39 Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy."

Suy niệm

Theo truyền thống hội đường Do-thái, Luật gồm 613 điều răn.

365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.

Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:

“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê ?” (c. 36).

Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,

kinh mà người Do-thái phải đọc mỗi ngày.

“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,

với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).

Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).

“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).

Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.

Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.

Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.

Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.

Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,

nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ.

Đối với người Do-thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.

Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình

là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.

Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.

Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.

Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.

Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.

Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.

Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,

đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân.

Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,

trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.

Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.

Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.

Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,

mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,

trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.

Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,

“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),

đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô : “Thầy biết con mến Thầy.”

Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.

Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).

Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,

một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.

Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.

Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.

Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.

Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.

Lời nguyện

Con đã yêu Chúa quá muộn màng!

Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,

vừa luôn mới mẻ,

con đã yêu Chúa quá muộn màng!

Bấy giờ Chúa ở trong con

mà con thì ở ngoài,

con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.

Con thật hư hỏng,

khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.

Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con

mà con lại không ở với Chúa.

Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,

trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.

Chúa đã gọi con, đã gọi to

và phá tan sự điếc lác của con.

Chúa đã soi sáng

và xua đi sự mù lòa của con.

Chúa đã tỏa hương thơm ngát

để con được thưởng thức,

và giờ đây hối hả quay về với Chúa.

Con đã nếm thử Chúa

và giờ đây con đói khát Người.

Chúa đã chạm đến con,

nên giờ đây con nóng lòng

chạy đi tìm anh bình nơi Chúa.

Thánh Âu Tinh

Thứ Bảy Tuần 20 Thường niên:

LÀ ANH EM CỦA NHAU

Lời Chúa: Mt 23, 1-12

Một hôm, Ðức Giêsu nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người pharisêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “rápbi”. Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “rápbi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Ðức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.

Suy niệm:

Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay

có thể làm chúng ta bị sốc.

Ðức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy,

vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài;

cũng đừng gọi ai là cha,

vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời.

Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh

là cha, là Ðức Thánh Cha,

là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ...

Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không?

Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Ðức Giêsu không?

Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo nghĩa đen.

Thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu,

đã gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19).

Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28),

và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8)

Vậy đâu là điều Ðức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?

Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ

những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh,

Ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành.

Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên:

mọi quyền bính trong Hội Thánh

đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa.

Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo,

thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Ðức Giêsu.

Nếu họ được gọi là cha,

thì vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa.

Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh,

tôi cũng không được quên chân lý này:

còn tất cả anh em đều là anh em với nhau,

con một Cha trên trời.

Chỉ có một vị Thầy là Ðức Giêsu.

Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ,

như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50),

và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28).

Ðức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà lãnh đạo.

Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người.

Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy sự giả hình

của một số người pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật.

Giả hình là không làm điều mình dạy người khác,

là dễ dãi với chính mình,

nhưng khắt khe với tha nhân.

Giả hình là biến việc thờ phượng Chúa thành thờ mình,

làm việc tốt để người ta thấy và thán phục.

Khi nhìn khuôn mặt của người pharisêu giả hình,

tôi thấy tôi: háo danh, khoa trương, ích kỷ,

dám “đốc” chứ không dám làm...

Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối,

vì mở cho chúng ta những chân trời xa,

cho chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm,

nhưng chưa làm.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

khi đến với nhau,

chúng con thường mang những mặt nạ.

Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.

Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt

dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.

Khi đến với Chúa,

chúng con cũng thường mang mặt nạ.

Có những hành vi đạo đức bên ngoài

để che giấu cái trống rỗng bên trong.

Có những lời kinh đọc trên môi,

nhưng không có chỗ trong tâm hồn,

và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu,

chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,

tự ru ngủ và đánh lừa mình,

mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.

Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,

đã ăn sâu vào da thịt chúng con,

để chúng con thôi đánh lừa nhau,

đánh lừa Chúa và chính mình.

Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,

để chúng con được lớn lên trong bình an.

Thứ Hai Tuần 21 TN: (thiếu – Tìm ngày 23 tháng 8 năm 2010)

Thứ Ba Tuần 21 Thường niên:

Bên trong, bên ngoài

Lời Chúa: Mt 23, 23-26

Khi ấy, Đức Giêsu khiển trách các kinh sư và người Pharisêu rằng:“Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công bình, lòng nhân và thành tín. Phải làm các điều này mà không được bỏ các điều kia. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà. Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện trộm cắp và vô độ. Hỡi người Pharisêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.”

Suy niệm:

Đức Giêsu đã từng nói về tám Mối Phúc trong Bài Giảng trên núi.

Trong chương này, Ngài sẽ nói với các kinh sư và nhóm Pharisêu bảy lần:

“Khốn cho các ngươi!”

Đây không phải là lời chúc dữ cho bằng là lời trách than, buồn tiếc,

vì những sự giả hình, che đậy nơi một số nhà lãnh đạo Do thái giáo.

Nhưng giả hình không phải chỉ là bệnh của một số kinh sư ngày xưa.

Nó là bệnh của những Kitô hữu trong Hội Thánh của Mátthêu sau năm 70.

Và nó cũng là bệnh của những Kitô hữu thuộc thế kỷ hai mươi mốt.

“Khốn cho các ngươi!” là một lời cảnh báo đối với chính bản thân tôi.

Bệnh được nhắc đến trong lời Khốn cho thứ tư (c. 23)

là bệnh quá tập trung vào điều phụ thuộc mà bỏ quên điều cốt yếu.

Có một số người Pharisêu bày tỏ sự đạo đức của mình

qua việc nộp thuế thập phân về những thứ rau lặt vặt họ trồng trong vườn.

Ba thứ rau thơm: bạc hà, thì là, rau húng, đúng ra không phải tính thuế,

vì chỉ phải nộp thuế về hoa lợi của vụ mùa, của vườn cây ăn trái thôi.

Nhưng có người đã nộp thuế về mọi thứ rau cỏ trong vườn (Lc 11, 42).

Thuế thập phân chỉ đòi nộp một phần mười sản phẩm nông nghiệp làm được,

để giúp việc thờ phượng Chúa trong Đền thờ và các người làm việc tại đó.

Đức Giêsu không cản chuyện nộp thuế về những điều lặt vặt (c. 23).

Ngài chỉ tiếc là những chuyện nặng ký hơn trong Lề Luật

như công lý, lòng nhân và thành tín, lại bị bỏ quên (c. 23).

Ba điều này đều được các ngôn sứ nhắc nhở (Is 1, 17; Hs 6, 6; Hb 2, 4).

Ngôn sứ Mikha đã viết một câu nổi tiếng (Mk 6, 8):

“Đức Chúa đòi anh em điều gì nếu không phải là sống theo công lý,

mến chuộng lòng nhân và khiêm hạ đi với Thiên Chúa của anh em.”

Có thể thái độ đạo đức giả bắt nguồn từ thói háo danh và sợ khó.

Nộp thuế dễ được người ta thấy hơn

và cũng khỏi phải hoán cải nơi bề sâu của lòng mình.

Tập trung vào những cái lặt vặt để khỏi phải áy náy về chuyện hệ trọng.

Làm tốt một chuyện nhỏ, nhưng lại làm hỏng một chuyện rất lớn.

Bệnh được nhắc đến trong lời Khốn cho thứ năm (c. 25)

là bệnh quá coi trọng cái bên ngoài mà coi thường cái bên trong.

Một số người Pharisêu loay hoay với chuyện lau sạch bên ngoài chén đĩa.

Họ sợ mình trở nên ô uế nếu sử dụng đồ chưa được rửa kỹ.

Tiếc thay, họ không để ý đủ đến sự nhơ uế bên trong tâm hồn.

Mà đó mới là thứ nhơ uế thật sự đáng quan tâm.

Có nguy cơ là sự sạch sẽ bên ngoài nhằm che đậy sự nhơ uế bên trong,

và đánh lừa cái nhìn của người khác, khiến họ lầm tưởng.

Thật ra trở về với lòng mình để nhận ra những ô nhơ, thật là điều khó.

Rửa tay trước khi ăn, rửa bát đĩa trước khi dùng, là điều dễ hơn nhiều.

Trở vào lòng mình, ta dễ bắt gặp bao tham lam, gian dối, thèm muốn vô độ.

Những điều ấy ta không muốn nhìn nhận có nơi mình.

Đức Giêsu mời chúng ta tìm kiếm sự tinh tuyền bên trong trước đã,

rồi mới để ý đến cái sạch sẽ bên ngoài sau (c. 26).

Xin Chúa cho chúng ta đừng bị đui mù, nhưng được sáng mắt (cc. 24. 26),

để biết phân biệt cái chính, cái phụ, cái trong, cái ngoài.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

khi đến với nhau,

chúng con thường mang những mặt nạ.

Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.

Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt

dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.

Khi đến với Chúa,

chúng con cũng thường mang mặt nạ.

Có những hành vi đạo đức bên ngoài

để che giấu cái trống rỗng bên trong.

Có những lời kinh đọc trên môi,

nhưng không có chỗ trong tâm hồn,

và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu,

chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,

tự ru ngủ và đánh lừa mình,

mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.

Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,

đã ăn sâu vào da thịt chúng con,

để chúng con thôi đánh lừa nhau,

đánh lừa Chúa và chính mình.

Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,

để chúng con được lớn lên trong bình an.

Thứ Tư Tuần 21 Thường niên:

CÓ VẺ CÔNG CHÍNH

Lời Chúa: Mt 23, 27-32

23 "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ.24 Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.25 "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ.26 Hỡi người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.27 "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.28 Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!29 "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người xây mồ cho các ngôn sứ và tô mả cho những người công chính.30 Các người nói: "Nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ."31 Như vậy, các người tự làm chứng rằng các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ.32 Thì các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!

Suy niệm

Ở xứ Paléttin, các ngôi mộ thường được quét vôi màu trắng,

để người Do-thái dễ nhận ra và tránh xa.

Đặc biệt trước lễ Vượt qua, mộ được quét vôi lại,

vì có đông đảo khách hành hương tuốn về quê dự lễ.

Ai bất cẩn đụng vào mộ là bị trở nên ô uế trong bảy ngày (Ds 19, 16).

Đối với người Do-thái, ngôi mộ là điều nên tránh,

vì bên trong đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô nhơ (c. 27),

tuy bên ngoài có vẻ sạch sẽ tốt đẹp.

Đức Giêsu đã dám ví các kinh sư và người Pharisêu với ngôi mộ,

vì bên ngoài họ có vẻ công chính trước mặt người ta,

nhưng bên trong thì đầy đạo đức giả và gian ác (c. 28).

Có sự tương phản giữa cái có vẻ bên ngoài và cái thực tế bên trong.

Bên ngoài không diễn tả bên trong, nhưng làm hiểu sai cái bên trong.

Tất cả nỗ lực của chúng ta là làm cho bên ngoài và bên trong nên một,

để ai thấy bên ngoài của ta đều biết được điều sâu kín bên trong.

Đức Giêsu còn đề cập đến một sự giả hình khác (cc. 29-32),

đó là việc các người Pharisêu xây mồ, tô mả cho các ngôn sứ thời xưa.

Họ khẳng định mình không can dự và tội giết các ngôn sứ của cha ông họ.

Tiếc thay, họ lại can dự vào tội giết các ngôn sứ do Đức Giêsu sai đến,

qua đó họ cho thấy mình đúng là người thuộc dòng dõi của cha ông,

Khi đọc toàn bộ chương 23 của Tin Mừng Mátthêu

về những lời phê phán của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo tôn giáo,

chúng ta có thể bị sốc, vì chúng quá nặng nề.

Liệu Đức Giêsu hiền lành có nói nguyên văn những lời như thế không?

Điều cần biết là không phải người Pharisêu nào cũng giả hình.

Có nhiều người thực sự thánh thiện đạo đức,

và Đức Giêsu đã có tương quan tốt với một số người trong nhóm.

nhưng trong nhiều dịp khác nhau, và Mátthêu gom lại thành một chương.

Cuối cùng không nên quên là hầu chắc giọng điệu gay gắt của chương này,

Vào thời Mátthêu viết Tin Mừng này, có những kitô hữu bị bách hại,

bị đánh đòn, bị giết và đóng đinh bởi người Do-thái (Mt 23, 34).

Bởi đó những lời của Đức Giêsu nhắm vào người Pharisêu ngày xưa,

lại trở thành lời nhắc nhở chúng ta hôm nay,

những người sống trong Hội Thánh và những người lãnh đạo.

Thói giả hình về đạo đức thời nào và ở đâu cũng có.

Nó tạo ra một bầu khí dối trá trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.

Hội Thánh vẫn muốn cho đọc bài Tin Mừng gây sốc này

vì các kitô hữu vẫn bị cám dỗ giữ đạo bên ngoài mà không sống đạo.

Thật ra chúng ta chỉ có thể rao giảng Tin Mừng cho con người hôm nay

khi những khoảng cách giữa lời nói và hành động được xóa bỏ,

khi người ta thấy sự thống nhất trong lối sống của chúng ta,

khi mọi mặt nạ được cởi ra, và sự thật được tỏ hiện.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,

còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.

Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối

nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,

con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.

Con an tâm ở lại trong bóng mờ,

vì thấy đó chưa phải là một tội.

Nhưng con cũng áy náy

vì biết rằng bóng mờ là nơi

ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.

Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,

vì con vẫn muốn giữ lại

một điều gì đó rất quý đối với con.

Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc

để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.

Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con

để con được thuộc trọn về Chúa.

Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng, nước đôi,

để dứt khoát đặt Chúa trên mọi sự.

Ước gì con có đủ can đảm

để dám nhìn thẳng vào những bóng mờ trong đời con.

Và ước gì con được trở nên trong suốt

nhờ để ánh sáng Chúa

tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen.

Thứ Năm Tuần 21 Thường niên:

HÃY SẴN SÀNG

Lời Chúa: Mt 24, 42-51

42 "Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.43 Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu.44 Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.45 "Vậy thì ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc?46 Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy.47 Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình.48 Nhưng nếu tên đầy tớ xấu xa ấy nghĩ bụng: "Còn lâu chủ ta mới về",49 thế rồi hắn bắt đầu đánh đập các đồng bạn, và chè chén với những bọn say sưa,50 chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không chờ, vào giờ hắn không biết,51 và ông sẽ loại hắn ra, bắt chung số phận với những tên giả hình: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng."

Suy niệm

Châm ngôn của hướng đạo sinh là Sắp Sẵn, nghĩa là hãy sẵn sàng.

Không rõ ông tổ của phong trào hướng đạo

có được gợi hứng từ bài Tin Mừng hôm nay không.

Nhưng hãy sẵn sàng đúng là châm ngôn của mọi kitô hữu,

từ những kitô hữu sống ở thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ 21 và cho đến tận thế.

Hãy sẵn sàng vì từng kitô hữu cũng như cả Kitô giáo

vẫn luôn ở trạng thái chờ Chúa Kitô trở lại.

Ngài đã đến làm người cách đây hai ngàn năm,

Ngài đã cứu độ nhân loại bằng cuộc sống và cái chết trên thập giá,

Ngài vẫn đang ở với Giáo Hội nhờ Thánh Thần,

nhưng Ngài sẽ trở lại trong vinh quang như Đấng phán xét cả thế giới.

Đó là điều chúng ta chờ mong, điều duy nhất Ngài chưa thực hiện.

Nếu chủ nhà biết canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông sẽ canh thức,

không để nó khoét vách nhà mình (c. 43).

Còn người kitô hữu, vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa trở lại,

nên họ phải canh thức luôn luôn, phải sẵn sàng liên lỉ.

Canh thức không phải là không ngủ.

Canh thức là sống đời sống kitô hữu của mình cách trung tín, quảng đại.

Canh thức không làm chúng ta bị căng thẳng thường xuyên,

vì thấy mình như bị đe dọa bởi một tai họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Chúa cũng không cố ý đến bất ngờ, để ta không kịp trở tay.

Đơn giản là chúng ta biết chắc chắn Ngài sẽ đến,

nên chúng ta luôn sẵn sàng.

Chuyện khi nào Ngài đến, không làm chúng ta lo âu và sợ hãi nữa,

vì cả cuộc sống của chúng ta đã là một chuẩn bị, một đợi chờ.

Canh thức cũng có nghĩa là làm tròn phận sự được Chúa trao.

Ông chủ đi vắng nên trao cho người đầy tớ quyền cấp phát lương thực.

Đó là quyền hành mà cũng là phận sự trên các gia nhân.

Nếu khi trở về, ông chủ thấy người đầy tớ ấy đang phục vụ nghiêm chỉnh,

thì phúc cho anh ấy, vì anh sẽ được coi sóc toàn bộ tài sản của ông (c. 47).

Nhưng nếu anh ấy nghĩ rằng ông chủ sẽ về muộn,

anh còn nhiều thời giờ để vui chơi hơn là chu toàn bổn phận.

Nếu anh ấy lạm dụng quyền lực trong tay để đánh đập các đầy tớ khác,

nếu anh ấy nhậu nhẹt với bọn say sưa, nên không còn tỉnh thức đủ,

thì ông chủ sẽ về bất ngờ, vào ngày và giờ sớm hơn anh nghĩ.

Lúc ấy khuôn mặt thật của anh sẽ lộ ra, khuôn mặt giả hình.

Và anh sẽ chịu chung số phận với những người đạo đức giả (c. 51).

Anh đầy tớ xấu xa nghĩ chủ sẽ về trễ, nào ngờ chủ về sớm.

Kitô giáo đã chờ Chúa quang lâm từ gần hai mươi thế kỷ.

Có người nản lòng, nên cho rằng chắc còn lâu lắm mới đến ngày đó.

Có người đồn thổi lung tung về ngày tận thế sắp đến tới nơi rồi.

Cả hai thái độ đều không đúng.

Điều quan trọng đối với người môn đệ là trung tín chu toàn công việc.

Tỉnh thức và sẵn sàng giúp ta luôn bình an, dù ngày mai tận thế.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

nếu ngày mai Chúa quang lâm,

chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.

Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,

còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.

Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,

Chúa đâu muốn mất một người nào...

Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa

xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,

vui tươi và hạnh phúc,

để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn

cho mọi người và cho cả vũ trụ.

Xin nuôi dưỡng nơi chúng con

niềm tin vững vàng

và niềm hy vọng nồng cháy,

để tất cả những gì chúng con làm

đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

Thứ Sáu Tuần 21 Thường niên:

CHÚ RỂ ĐẾN CHẬM

Lời Chúa: Mt 25, 1-13

1 "Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể.2 Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn.3 Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo.4 Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.5 Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả.6 Nửa đêm, có tiếng la lên: "Chú rể kia rồi, ra đón đi! "7 Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn.8 Các cô dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi! "9 Các cô khôn đáp: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn."10 Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại.11 Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: "Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng tôi với! "12 Nhưng Người đáp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả! "13 Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.

Suy niệm

Nếu nhìn bề ngoài mười cô trinh nữ,

chúng ta khó lòng phân biệt được ai khôn ai dại.

Mười cô có thể là những cô phù dâu đang ở bên nhà gái,

Các cô đều mang theo đèn, hay đúng ra là những ngọn đuốc nhỏ,

vì chỉ đuốc mới không tắt khi gặp cơn gió ngoài đường.

Xúng xính trong những bộ áo đẹp,

các cô ngóng chờ chàng rể đến, để ra đón với đuốc sáng trên tay,

và để sau đó tất cả tiến vào nhà gái dự tiệc.

Nhưng vì chàng rể và nhà trai đến chậm, nên mười cô đều ngủ cả.

Đến bây giờ vẫn không thể phân biệt được năm cô khôn và năm cô dại.

Chẳng rõ các cô đã chợp mắt được bao lâu,

nhưng đến nửa đêm có tiếng la lên, báo tin chàng rể đến.

Cả mười cô đều hối hả thức dậy và lo sửa soạn đèn,

vì đèn là điều quan trọng và cần thiết để ra nghênh đón chàng rể.

Bây giờ người ta mới nhận ra trong mười cô, ai dại, ai khôn.

Vì chàng rể đến muộn quá, nên mọi ngọn đuốc của các cô đã hầu tàn.

Phải châm thêm dầu thì mới có đuốc sáng ra đón chàng rể.

Năm cô khôn dễ dàng làm cho đuốc sáng lên, vì họ đem theo dầu dự trữ.

Còn năm cô dại thì lúng túng không biết phải làm sao.

“Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đuốc chúng em sắp tắt rồi” (c. 8).

Các cô khôn cũng cần có đủ dầu cho cuộc đón rước sắp tới, nên đã từ chối.

Không phải vì độc ác, nhưng vì số dầu đem theo chỉ đủ cho riêng họ.

Cách giải quyết tốt nhất là đề nghị các cô dại đi mua nơi cửa hàng.

Chuyện này không khó vì các cửa hàng vẫn thường mở đến khuya.

Tiếc thay, đang lúc các cô đi mua, thì chàng rể tới.

Chỉ có năm cô mang đuốc sáng ra đón chàng rể.

Chỉ có năm cô được coi là sẵn sàng, theo chàng vào dự tiệc cưới.

Cửa được đóng lại, ngăn cách giữa người được dự tiệc và người không.

Năm cô dại cuối cùng đã có dầu, đuốc đã sáng, trở về, gõ cửa.

“Thưa Ngài, thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi với !” (c. 11).

Nhưng các cô bị từ chối thẳng : “Tôi không biết các cô là ai” (c. 12).

Dụ ngôn này có một kết thúc không vui trọn vẹn.

Tiệc cưới rất vui ở bên trong, năm cô đứng ngoài không được vào.

Chúng ta thấy tiếc cho năm cô dại.

Dại ở đây không phải vì không có thiện chí hay làm điều gian ác.

Khôn hay dại chỉ khác nhau ở chỗ sẵn sàng hay không sẵn sàng,

đuốc có sáng khi chàng rể đến hay không.

Các cô khôn đã phải tính đến chuyện lỡ chàng rể đến muộn,

làm sao có đủ dầu để thắp cho cây đuốc sáng mà ra đón.

Ai mà có đủ dầu dự trữ rồi thì ngủ cũng yên tâm.

Chúng ta cần nếm nỗi đau của năm cô đứng ngoài, khi cửa đã đóng lại.

Muộn mất rồi, mọi chuẩn bị háo hức trở nên vô ích.

Đức Giêsu chính là Chàng Rể đến bất chợt giữa đêm khuya.

Chỉ mong ta không phải năn nỉ xin dầu và vội vã đi mua dầu trong đêm.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã yêu trái đất này,

Và đã sống trọn phận người ở đó.

Chúa đã nếm biết

Nỗi khổ đau và hạnh phúc,

Sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,

Nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,

Chúng con thấy mình được thêm sức mạnh

Để xây dựng trái đất này,

Và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,

Xin cho những vất vảcủa cuộc sống ở đời

Không làm chúng con quên trời cao;

Và những vẻ đẹp của trần gian

Không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,

Mọi người thấy nước trời đang tỏ hiện.

Thứ Bảy Tuần 21 TN: (thiếu ngày 28 tháng 8 năm 2010)

Thứ Hai Tuần 22 Thường niên:

TRẢ LẠI TỰ DO

Lời Chúa: Lc 4, 16-30

16 Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh.17 Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng:18 Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức,19 công bố một năm hồng ân của Chúa. 20 Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người.21 Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. 23 Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào! "24 Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình. 25 "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en;26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn.27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi." 28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ.29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực.30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.

Suy niệm

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể chuyện Đức Giêsu

đến giảng tại hội đường Nadarét, vào một ngày sa-bát (c. 16),

Dù trước đó Ngài đã giảng tại Caphácnaum và nhiều nơi khác (cc. 15. 23),

nhưng thánh Luca đã cố ý đặt ngay ở đầu sứ vụ công khai

cuộc gặp gỡ đặc biệt này giữa Ngài với người đồng hương ở Nadarét.

Đây là nơi Đức Giêsu tuyên bố chương trình sắp tới của Ngài.

Chương trình ấy được gói trong những câu trích dẫn từ ngôn sứ Isaia.

Được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần (Lc 1, 35),

và được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa (Lc 3, 22),

Đức Giêsu đã được xức dầu để nhận lãnh sứ mạng làm ngôn sứ.

Sứ mạng này chủ yếu là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.

Loan báo Tin Mừng là động từ hay được Luca sử dụng (4, 43; 7, 22; 8,1…).

Tin Mừng này trước hết dành cho người nghèo theo nghĩa đen,

nghĩa là những người không có thu nhập cao, không đủ ăn, đủ mặc.

Ai là người nghèo nữa dưới mắt của Đức Giêsu ?

Đó là những người nghèo tự do, phải chịu cảnh giam cầm.

Họ có thể là những người bị tù đày chỉ vì không có tiền trả nợ.

Đó là những người nghèo sức khỏe,

họ bị coi là chịu sự trói buộc của Xa-tan (Lc 13, 16),

Đó là những người nghèo đời sống tâm linh,

họ phạm tội nên thấy mình xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn.

Đức Giêsu đến để giải thoát những người nghèo này khỏi áp bức.

Ngài kéo họ ra khỏi cảnh nô lệ và trả lại tự do cho họ.

Chính vì thế Tin Mừng của Nước Thiên Chúa luôn đem lại niềm vui.

Đức Giêsu đã loan báo: Phúc cho anh em là người nghèo (Lc 6, 20).

Ngài đã chữa bệnh cho những kẻ ốm đau thân xác,

đã mở mắt người mù để họ thấy ánh sáng của ơn cứu độ.

Ngài cũng đã giao du và ăn uống với những tội nhân để đưa chiên lạc về.

Bởi đó thời của Đức Giêsu là Năm hồng ân, Năm Thánh.

Lời giảng của Đức Giêsu bước đầu đã được dân làng thán phục.

Họ có vẻ hãnh diện vì một người trong làng được lừng lẫy tiếng tăm.

Nhưng Đức Giêsu không muốn mình bị chi phối bởi dân làng.

Ngài không muốn bị buộc phải dành chút ưu tiên nào cho Nadarét (c. 23).

Đức Giêsu còn nhìn xa hơn đến sứ vụ nơi dân ngoại (cc. 25-27).

Ngài nhắc đến hai vị ngôn sứ trong Cựu Ước là Êlia và Êlisa.

Hai vị này đã giúp bà góa ở Xiđôn và tướng Naaman ở Xyri.

Dân Nadarét phẫn nộ và định giết Đức Giêsu khi Ngài nói rằng

Thiên Chúa chỉ sai hai ngôn sứ trên đến với dân ngoại mà thôi.

Thế giới hôm nay giàu hơn, nhưng vẫn còn lắm người nghèo như xưa.

Nghèo vì thiếu những điều kiện sống cơ bản, thiếu những quyền lợi căn bản.

Nghèo vì chưa được nghe biết về Đức Giêsu,

hay nghèo vì đã gạt Thiên Chúa ra khỏi đời mình.

Loan báo Tin Mừng là làm con người thực sự thêm giàu có.

Khi đọc Tin Mừng Luca và cả sách Công vụ Tông đồ

dưới ánh sáng từ bài Tin Mừng hôm nay,

chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu từ từ thực hiện những gì Ngài đã tuyên bố.

Trong bài này ta cũng thấy bóng dáng cả cuộc đời tương lai của Ngài:

được đón nhận lúc đầu, nhưng rồi bị khước từ, và cuối cùng bị giết chết.

Lời nguyện

Lạy Cha,

thế giới hôm nay cũng như hôm qua

vẫn có những người bơ vơ lạc hướng

vì không tìm được một người để tin ;

vẫn có những người đã chết từ lâu

mà vẫn tưởng mình đang sống ;

vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,

ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;

vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,

bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống ;

vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,

dù không phải là người phong...

Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ

và biết chạnh lòng thương như Con Cha.

Nhưng trước hết,

xin cho chúng con

nhìn thấy chính bản thân chúng con.

Thứ Ba Tuần 22 Thường niên:

LỜI CÓ UY QUYỀN

Lời Chúa: Lc 4, 31-37

Khi ấy, Đức Giêsu xuống Caphácnaum, một thành miền Galilê, và ngày sabát, Người giảng dạy dân chúng. Họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì Người nói năng có thẩm quyền.

Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Ðấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Ðức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Quỷ vật người ấy ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. Nỗi kinh ngạc trùm lên mọi người, và họ nói với nhau: “Lời ấy là thế nào? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất!” Và tiếng đồn về Người lan ra khắp nơi trong vùng.

Suy niệm:

Phép lạ đầu tiên được kể trong Tin Mừng Luca là một phép lạ trừ quỷ,

diễn ra tại hội đường Caphácnaum vào một ngày sabát (c. 31).

Đức Giêsu dạy dỗ dân chúng, và họ sửng sốt trước lời dạy của Ngài,

bởi lẽ lời của Ngài là lời đầy quyền uy (c. 32).

Quyền uy làm sửng sốt ấy đến từ con người Ngài,

vì Ngài chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa.

Trong hội đường ngày hôm đó, có một người bị quỷ thần ô uế nhập.

Anh ta tự nhiên la to, vì thấy mình bị đe dọa: “Ông Giêsu Nadarét,

chuyện chúng tôi can gì đến ông ? Ông đến tiêu diệt chúng tôi sao?”

Sự hiện diện và lời dạy quyền uy của Đức Giêsu, làm quỷ xuất đầu lộ diện.

Nhưng nó sợ, muốn tránh Ngài trong cuộc chiến không cân sức.

Quỷ biết rõ đối thủ có sức tiêu diệt mình là ai.

Nó biết được điều mà dân chúng không biết về căn tính của Đức Giêsu.

Ngài không phải chỉ là ông Giêsu ở Nadarét,

mà còn là Đấng Thánh của Thiên Chúa (c. 34).

Có một sự đối lập gay gắt giữa thần ô uế và Đấng Thánh tinh tuyền.

Đức Giêsu trừ thần ô uế chỉ bằng một lời quát mắng (c. 35).

“Câm đi, hãy xuất ra khỏi người này !”

Ngài không cho quỷ nói lên danh tánh của Ngài,

vì Ngài không muốn sự thật được nói lên bởi miệng những kẻ dối trá.

Lời truyền lệnh của Ngài khiến thần ô uế phải xuất ra.

Nó không còn được ở lại hay có quyền gì trên người này nữa.

Quỷ vật anh ngã xuống, xuất ra, nhưng lại không làm hại được anh.

Người trong hội đường kinh ngạc, không vì chuyện Đức Giêsu trừ quỷ,

nhưng vì họ thấy uy quyền và uy lực nơi lời nói của Ngài (c. 36).

Lời nói ra như một mệnh lệnh, và quỷ phải vâng nghe.

Thế giới hôm nay dễ bị tấn công và thống trị bởi các thần ô uế.

Thần ô uế có mặt ở khắp nơi, và có sức hấp dẫn mê hoặc con người.

Ô uế nơi thân xác, nơi trí tưởng tượng, nơi những ám ảnh không ngơi.

Ô uế trở thành một thứ văn hóa, xâm nhập vào mọi ngõ ngách,

chi phối mọi lối nghĩ và lối hành xử của con người.

Chúng ta phải nhìn nhận sức mạnh của thần ô uế trong thế giới hôm nay.

Rất nhiều bạn trẻ đã phải thú nhận mình không đủ sức kháng cự lại.

Đức Giêsu cho chúng ta niềm tin vào sự chiến thắng.

Sự hiện diện của Ngài làm thần ô uế không thể giấu mặt.

Sự thánh thiện của Ngài làm nó phải run sợ cúi đầu.

Uy quyền và uy lực nơi Lời quát mắng của Ngài khiến nó phải tháo lui.

Hãy để cho Đức Giêsu thánh thiện có chỗ trong đời chúng ta.

Hãy tin vào sức mạnh giải phóng của Lời Ngài.

Hãy để Lời Ngài nâng chúng ta dậy và cho chúng ta được tự do.

Một người ở trong hội đường hay nhà thờ cũng có thể bị thần ô uế ám.

Chúng ta mong Chúa cho ta khả năng trục được sự ô uế ra khỏi đời ta.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

ai trong chúng con cũng thích tự do,

nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.

Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.

Xin giúp chúng con được tự do thực sự :

tự do trước những đòi hỏi của thân xác,

tự do trước đam mê của trái tim,

tự do trước những thành kiến của trí tuệ.

Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,

để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,

để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho chúng con được tự do như Chúa.

Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,

khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi

và chữa bệnh ngày Sabát.

Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,

khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.

Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,

vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.

Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,

để chúng con được tự do bay cao.

Thứ Tư Tuần 22 Thường niên:

PHẢI LOAN BÁO TIN MỪNG

Lời Chúa: Lc 4, 38-44

38 Đức Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-môn. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Si-môn đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà.39 Đức Giê-su cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài.40 Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ.41 Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa! " Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô.42 Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi.43Nhưng Người nói với họ: "Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó."44 Và Người rao giảng trong các hội đường miền Giu-đê.

Suy niệm

Sáng ngày sa-bát Đức Giêsu đã giảng dạy ở hội đường Caphácnaum.

Lời của Ngài đầy uy quyền và uy lực.

Lời ấy đã trục được quỷ khỏi một người đàn ông (Lc 4, 31-37).

Có lẽ đến trưa, Đức Giêsu rời khỏi hội đường để về nhà ông Simôn.

Tiếc thay bà mẹ vợ của ông lại bị sốt nặng, nằm một chỗ.

Người ta yêu cầu Ngài chữa cho người phụ nữ này.

Ngài quát mắng cơn sốt như đã quát mắng thần ô uế (c. 39).

Lập tức cơn sốt phải rút lui.

Bà có thể đứng dậy được để phục vụ cơm nước cho Đức Giêsu và môn đệ.

Một lần nữa, chúng ta lại thấy sức mạnh của Lời Ngài.

Ngài chữa bệnh cho người phụ nữ chỉ bằng một lời ra lệnh.

Bệnh tật, dù nhẹ đi nữa, cũng làm phiền con người,

làm cản trở mọi sinh hoạt bình thường, và làm con người mất tự do.

Đức Giêsu đã nâng dậy một người đang nằm, mất sức làm việc.

Khi mặt trời lặn, lúc đã hết ngày sa-bát là ngày lễ nghỉ,

người ta mới đem cho Ngài những người bị đau đủ thứ bệnh.

Ngài chữa cho họ bằng cách đặt tay trên từng người (c. 40).

Đức Giêsu cúi xuống và chạm vào nỗi đau của từng thân xác.

Không rõ khi nào Ngài dừng tay để đi ngủ.

Chỉ biết khi trời hừng sáng, Ngài đã thức dậy ra đi, đến một nơi vắng vẻ.

Hẳn là Ngài cần chút thinh lặng, xa đám đông, để gặp gỡ Cha,

Ngài cần dâng cho Cha một tuần mới đang đến.

ức Giêsu không chỉ mê phục vụ cho đám đông,

Ngài còn mê ở một mình, mê cầu nguyện, mê chỗ vắng.

Nhưng các đám đông hối hả đi tìm Ngài, vì nhiều người cần chữa bệnh.

Khi bắt được Ngài, họ không cho Ngài lìa bỏ họ (c. 42).

Thành công và tiếng tăm, thiện cảm và sự thân quen gần gũi,

là những điều có thể giữ chân người tông đồ.

Trước sự chèo kéo của những người đau yếu đang thực sự cần Ngài,

Đức Giêsu vẫn muốn giữ cho mình sự tự do của người được Cha sai.

Ngài nhìn thấy cánh đồng mênh mông của thế giới.

Ngài hiểu là mình không được phép dừng chân ở một chỗ, để đặt trụ sở.

Ngài biết là mình được mời gọi lên đường mỗi ngày.

Đâu phải chỉ có thành Caphácnaum hay Nadarét hay vùng Galilê.

“Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa

cho các thành khác nữa, vì tôi được sai cốt để làm chuyện đó” (c. 43).

Chữ phải đến như một mệnh lệnh từ Cha, kéo Đức Giêsu đi không nghỉ.

Ngài vượt qua bao biên giới của gia đình, làng quê, tỉnh thành…

Rồi có ngày việc loan báo Tin Mừng sẽ trải dài đến tận cùng thế giới.

Khi chữa lành cho con người, Đức Giêsu cho thấy Nước Thiên Chúa đến.

Con người hôm nay cũng bị đau yếu về nhiều mặt.

Mong mỗi tông đồ hôm nay cũng có khả năng chữa lành như Thầy Giêsu.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu thương mến,

xin ban cho chúng con

tỏa lan hương thơm của Chúa

đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con

bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con

để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,

để những người chúng con tiếp xúc

cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,

không phải bằng lời nói suông,

nhưng bằng cuộc sống chứng tá,

và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

Thứ Năm Tuần 22 Thường niên:

TỪ NAY ANH SE BẮT NGƯỜI

Lời Chúa: Lc 5, 1-11

1 Một hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa.2 Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới.3 Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông. 4 Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá."5 Ông Si-môn đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới."6 Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới.7 Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. 8 Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! "9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.10 Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta."11 Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.

Suy niệm:

Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng.

Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia đình.

Thế giới của ông là hồ Ghênêxarét,

là những con cá quẫy đuôi trong lưới,

là gia đình cần phải chăm nom.

Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả.

Chúa đã đặt ông vui sống trong thế giới ấy,

nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra,

và bất ngờ đưa ông vào một thế giới mới,

một đại dương bao la hơn nhiều,

một gia đình rộng lớn hơn vạn bội.

Chỉ Chúa mới có thể

làm trái tim ông say mê một Ai khác,

yêu một Ai đó hơn những người ông đã từng yêu.

Ðức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên.

Ngài chọn thuyền của ông làm nơi giảng dạy.

Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá,

Simon có nhiều lý do để khước từ.

Ông có thể nhân danh kinh nghiệm của mình

để thấy tốt hơn nên chờ dịp khác,

hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơn.

Nhưng Simon đã vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu,

Lời đầy quyền uy, Lời trừ được quỷ (Lc 4,30).

Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi bệnh (4,39).

Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ.

Mẻ cá làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi,

và nhận ra Ðấng ở gần bên.

Mẻ cá bất ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới:

“Ðừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người.”

Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối.

Chuyện gia đình bề bộn, tương lai bấp bênh.

Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt người.

Kẻ tội lỗi đâu xứng với sứ mạng.

Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa,

để cho Chúa tự do lôi kéo mình.

Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến.

Khi bỏ lại hai thuyền đầy cá,

ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông.

Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc,

khỏi những điều tưởng như không thể đổi.

Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài không?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,

một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,

để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội

trên một tảng đá mong manh,

để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con

theo Chúa, sống cho Chúa,

đặt Chúa lên trên mọi sự:

gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối

viện cớ mình kém đức kém tài.

Chúa đưa chúng con đi xa hơn,

đến những nơi bất ngờ,

vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,

bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,

hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

Thứ Sáu Tuần 22 Thường niên:

CHÀNG RỂ Ở VỚI HỌ

Lời Chúa: Lc 5, 33-39

33 Họ nói với Người: "Môn đệ ông Gio-an năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-sêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống! "34 Đức Giê-su trả lời: "Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ?35 Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi; ngày đó, họ mới ăn chay."36 Đức Giê-su còn kể cho họ nghe dụ ngôn này: "Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ.37 "Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư.38 Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới.39 Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói: "Rượu cũ ngon hơn."

Suy niệm

Sau khi Lêvi, người thu thuế, được Thầy Giêsu mời gọi đi theo,

ông đã tổ chức bữa đại tiệc khoản đãi Thầy và các môn đệ.

Ông còn mời các bạn đồng nghiệp đến dùng bữa để từ giã.

Ăn uống vui vẻ, hòa đồng cả với những người bị xã hội tránh xa,

đó là một nét đặc biệt của nhóm Thầy Giêsu.

Như thế nhóm của Thầy không có nét khắc khổ,

Các nhóm này thường hay ăn chay và cầu nguyện.

Các nhà lãnh đạo Do-thái giáo hỏi Thầy về lý do có sự khác biệt đó.

Thầy trả lời: vì bầu khí của nhóm Giêsu là bầu khí vui của tiệc cưới.

Chú rể chính là Thầy, còn các môn đệ là những khách dự tiệc.

Chẳng ai dự tiệc cưới mà lại ăn chay.

Chẳng ai buồn khi chàng rể còn đang ở bên cạnh (c. 34).

Bởi đó thật là dễ hiểu nếu các môn đệ không ăn chay một tuần hai lần,

nếu họ có nét mặt tươi tắn và sẵn sàng chung vui với người khác.

huyện Thầy Giêsu ăn uống hồn nhiên với những tội nhân

cho thấy Thiên Chúa không khinh, nhưng quý họ và mời họ trở về.

Thầy cho thấy mình đang rao giảng Tin Mừng, loan báo Tin Vui.

Đến với Thầy là gặp được niềm vui cứu độ.

Thầy Giêsu và các môn đệ đều mời gọi người ta hoán cải (Mc 1,15; 6,12)

Nhưng hoán cải ở đây không phải là chuyện buồn, mà là chuyện vui,

bởi lẽ hoán cải là thay đổi tận căn cái nhìn về Thiên Chúa và người khác.

Chẳng ai vui bằng người thoát ra khỏi được cảnh nô lệ tội lỗi.

Cả thiên đàng cũng mừng vui khi một người hoán cải (Lc 15, 7. 10).

Thầy Giêsu đã trao cho các môn đệ niềm vui của chính mình.

Ba lần Ngài nói đến niềm vui trọn vẹn (Ga 15,11; 16,24; 17,13).

Kitô giáo bắt nguồn từ niềm vui phục sinh và sống mãi nhờ niềm vui ấy.

Các tông đồ bị đánh đòn mà lại vui, bởi họ chịu vì Đức Giêsu (Cv 5,41).

Niềm vui là đặc nét của người kitô hữu qua mọi thách đố.

Niềm vui là quà tặng lớn của chúng ta cho một thế giới muộn phiền.

Chàng rể Giêsu đang ở với chúng ta cho đến tận thế và mãi mãi,

nên “anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4, 4).

Chúng ta chỉ có thể là sứ giả của Tin Mừng nếu ta có niềm vui nội tâm.

Niềm vui này phải tỏa ra như hương thơm làm mọi người ngây ngất.

Ông Nietzsche một triết gia vô thần người Đức viết cho các kitô hữu:

“Nếu niềm tin của các anh làm các anh hạnh phúc,

thì hãy cho tôi thấy hạnh phúc ấy trên khuôn mặt của các anh…

Nếu Tin Mừng của Sách Thánh mà được viết trên khuôn mặt của các anh rồi,

thì các anh chẳng cần phải cố nhấn mạnh đến giá trị của Sách ấy nữa.”

Nietzsche không hiểu làm sao một kitô hữu tin vào sự phục sinh, mà lại buồn.

Chúng ta có bao giờ để ý soi khuôn mặt kitô hữu của mình không?

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

có những ngày con cảm thấy

đời sống thật nặng nề;

có những lúc con muốn buông trôi,

để mặc cho dòng đời đưa đẩy;

có những khoảng thời gian dài,

con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.

Xin cho con ánh sáng của Chúa

để con biết lối mà đi.

Xin cho con tấm bánh của Chúa

để con có sức mà dấn bước.

Xin cho con Lời của Chúa

để con vững một niềm tin.

Xin cho con sự sống của Chúa

để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,

niềm vui và sáng tạo. Lạy Chúa Giêsu,

con thấy mình cần Chúa

trong mỗi giây phút của cuộc đời.

Ước gì ai gặp con

cũng gặp được sự hiện diện của Chúa.

Thứ Bảy Tuần 22 Thường niên:

ĐIỀU KHÔNG ĐƯỢC PHÉP LÀM

Lời Chúa: Lc 6, 1-5

1 Vào một ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn.2 Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói: "Tại sao các ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát? "3 Đức Giê-su trả lời: "Các ông chưa đọc chuyện này trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì khi ông và thuộc hạ đói bụng?4 Ông vào nhà Thiên Chúa lấy bánh tiến mà ăn và cho thuộc hạ ăn. Thứ bánh này, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi."5 Rồi Người nói: "Con Người làm chủ ngày sa-bát."

Suy niệm

“Tại sao các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?”

“Tại sao môn đệ ông lại không ăn chay?”

“Tại sao môn đệ ông không chịu rửa tay khi dùng bữa?”

Mấy người Pharisêu có vẻ thích đặt những câu hỏi tại sao.

Và trong bài Tin Mừng hôm nay, họ lại đặt một câu hỏi nữa :

Câu chuyện đơn giản như sau.

Thầy Giêsu và các trò đi ngang qua một cánh đồng lúa chín.

Các môn đệ đói nên bứt những bông lúa, vò trong tay cho vỏ tróc ra mà ăn.

Hành vi này được phép làm, dựa theo sách Đệ nhị luật (23, 26).

Nhưng vì đó là ngày sa-bát, nên lại không được phép làm.

Thật ra sách Xuất hành chỉ cấm gặt lúa vào ngày sa-bát thôi (34, 21).

Bởi thế các môn đệ bị coi là đã vi phạm luật giữ ngày sa-bát.

Thầy Giêsu lại một lần nữa bênh vực học trò của mình.

Ngài bắt đầu câu trả lời bằng việc đưa các ông Pharisêu về với Kinh Thánh.

Chẳng lẽ những người trí thức như họ mà đã không đọc chuyện này rồi sao.

Đó là chuyện vua Đa-vít và thuộc hạ đói bụng, đã được ăn “bánh thánh”,

mà chỉ tư tế mới được phép ăn (c. 4; Lv 24, 9),

khi 12 bánh cũ của tuần trước được thay bằng bánh mới vào ngày sa-bát.

Akhimêléc đã làm điều không được phép, vì bánh thường không còn.

Đứng trước cơn đói của Đavít, ông đã không quay đi vì nệ luật.

Đức Giêsu dùng câu chuyện này để bênh các môn đệ đang đói của Ngài,

Như tư tế Akhimêléc, Ngài cũng không quay đi vì nệ luật.

Hơn nữa, Ngài khẳng định mình là chủ ngày sa-bát (c. 5).

Đức Giêsu không dẹp bỏ ngày sa-bát, nhưng đặt nó ở dưới quyền của Ngài.

Chính Ngài cho ta biết cách giữ ngày sa-bát theo đúng ý Thiên Chúa.

Tội nghiệp các môn đệ bị đói, vì họ đã bỏ mọi sự mà theo Thầy Giêsu.

Họ chấp nhận bữa đói bữa no với một vị Thầy lang thang đây đó,

sống hoàn toàn nhờ lòng tốt của người nghe.

Mấy bông lúa có là gì để tránh cái cồn cào trong ruột.

Thầy Giêsu đã từng nếm cái đói, và thèm một trái vả (Mc 11, 13).

Thầy đã từng khát và xin nước của người phụ nữ (Ga 4, 7).

Bởi đó Thầy hiểu được cái đói khát hành hạ con người mọi thời.

Mọi luật lệ được đặt ra để phục vụ con người và thăng tiến nó.

Đôi khi chúng ta phải nhìn lại những luật đã quen giữ từ lâu

để điều chỉnh lại cho phù hợp với những nhu cầu mới của con người.

Làm sao để luật không đè bẹp, nhưng nâng đỡ con người sống tốt hơn?

Làm sao để khi áp dụng luật, tôi vẫn giữ được sự mềm mại của tình yêu?

Lời nguyện

Lạy Chúa,

con được no nê mà vẫn thiếu ăn,

vì bên con còn có người đói lã

Con uống nước mát mà lòng vẫn khô ran

vì bên con còn có người đang khát

Con vui cười mà nước mắt tuôn rơi

vì bên con còn có người phiền muộn.

Con sáng mắt mà vẫn ở trong bóng đêm

vì bên con còn có người mù tối

Con mặc áo đẹp mà vẫn rách tả tơi.

vì bên con còn có người trần trụi

Con nằm trong nệm êm mà vẫn thao thức,

vì bên con còn có bao nhiêu người thiếu thốn.

Myrtle Householder

Thứ Hai Tuần 23 Thường niên:

GIƠ BÀN TAY ANH RA

Lời Chúa: Lc 6, 6-11

6 Một ngày sa-bát khác, Đức Giê-su cũng vào hội đường và giảng dạy. Ở đó có một người bị khô bại tay phải.7 Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu rình xem Đức Giê-su có chữa người ấy trong ngày sa-bát không, để tìm được cớ tố cáo Người.8 Nhưng Người biết họ đang suy nghĩ như thế, nên bảo người bại tay: "Anh trỗi dậy, ra đứng giữa đây! " Người ấy liền trỗi dậy và đứng đó.9 Đức Giê-su nói với họ: "Tôi xin hỏi các ông: ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt? "10 Người rảo mắt nhìn họ tất cả, rồi bảo người bại tay: "Anh giơ tay ra! " Anh ấy làm như vậy và tay anh liền trở lại bình thường.11 Nhưng họ thì giận điên lên, và bàn nhau xem có làm gì được Đức Giê-su không.

Suy niệm

Chúng ta không biết nhiều chi tiết về người đàn ông này.

Ông bao nhiêu tuổi, có gia đình chưa, sống bằng nghề gì ?

Chắc là nó bị co quắp vì các cơ không hoạt động bình thường.

Như thế sẽ rất khó chịu và bất lợi để sinh hoạt hàng ngày.

Hơn nữa đây lại là bàn tay phải, bàn tay chính để làm việc.

Người đàn ông có bàn tay thương tật đã đến hội đường vào ngày sa-bát.

Có vẻ ông chẳng mong gì, chẳng xin được Đức Giêsu chữa lành,

dù tiếng tăm của Ngài lúc đó đã lan rộng nhiều nơi (Lc 5, 15).

Thật bất ngờ khi Ngài bảo ông: “Hãy trỗi dậy và ra đứng giữa đây.”

Ông chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra cho mình, nhưng đã vâng lời.

Sau đó Ngài bảo ông : “Hãy duỗi bàn tay của anh ra !” (c. 10).

Một lần nữa ông lại vâng lời.

Ông làm điều mà có lẽ từ lâu ông không làm được.

Duỗi bàn tay khô héo, co quắp này, để có thể cầm cái ly, cái chén.

Ước mơ đơn giản ấy nào ngờ hôm nay được thực hiện.

Ông đã duỗi bàn tay theo lời Đức Giêsu, và nó đã trở lại bình thường.

Bàn tay như được sống lại, được phục hồi, mềm mại, dễ bảo.

Cuộc đời ông từ nay sẽ tươi hơn, có ích hơn, ít phải nhờ vả hơn.

Đức Giêsu đã làm phép lạ này không phải vì được yêu cầu,

nhưng như một câu trả lời cho các kinh sư và những người Pharisêu.

Họ rình xem Ngài có chữa bệnh trong ngày sa-bát không, để tố cáo Ngài.

bởi lẽ theo họ, ngày sa-bát chỉ được chữa những bệnh nguy tử.

Đức Giêsu đã vạch trần âm mưu này và công khai tỏ thái độ.

Câu hỏi quen thuộc: có được phép làm điều này vào ngày sa-bát không?

được thay bằng câu hỏi mới: ngày sa-bát được phép làm điều lành hay dữ;

cứu mạng sống hay hủy hoại mạng sống ? (c. 9).

Phép lạ sau đó của Đức Giêsu chính là câu trả lời (c. 10).

Nhiều khi không làm một điều tốt, cũng bằng với việc làm một điều xấu,

Không cứu một người vào giây phút ấy, cũng bằng gián tiếp giết chết họ.

Đức Giêsu đã không coi ngày sa-bát như ngày chỉ biết ngồi khoanh tay,

Dù sao Đức Giêsu đã không hề đụng đến ông có bàn tay bị tật.

Ngài chữa cho ông ấy chỉ bằng một lời mà thôi.

Các kitô hữu không còn phải giữ ngày sa-bát nữa, nhưng giữ Chúa Nhật.

Đây là ngày để chúng ta làm điều tốt, để chăm lo cho sự sống.

Chữa cho một bàn tay bị teo tóp được lành, việc này không nhỏ.

Làm cho một con người có thể sống bằng đôi tay của mình, là chuyện lớn.

Đức Giêsu đã phải trả giá cho việc chữa bệnh của mình.

Chúng ta cũng phải trả giá khi dám bảo vệ một sự sống nhỏ nhoi.

Chỉ mong bàn tay tôi không co lại, nhưng mở ra cho mọi người.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

xin sai chúng con lên đường

nhẹ nhàng và thanh thoát,

không chút cậy dựa vào khả năng bản thân

hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm :

rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,

chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng

với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,

biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng

đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ

của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,

thế giới thật bao la

mà vòng tay chúng con quá nhỏ.

Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau

mà tin tưởng lên đường,

nhẹ nhàng và thanh thoát.

Thứ Ba Tuần 23 Thường niên:

THỨC SUỐT ĐÊM CẦU NGUYỆN

Lời Chúa: Lc 6, 12-19

12 Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa.13 Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ.14 Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô,15 Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích,16 Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, người đã trở thành kẻ phản bội.

17 Đức Giê-su đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn18 đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu cũng được chữa lành.19 Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người.

Suy niệm:

Đức Giêsu là con người cầu nguyện:

đây là nét nổi bật của Tin Mừng Luca.

Ngài cầu nguyện suốt cuộc đời trần thế,

từ khi nhận phép rửa của Gioan ở sông Giođan (Lc 3, 21)

đến khi hấp hối trên thập giá (23, 34. 46).

Đối với Ngài, cầu nguyện là chuyện Con đi gặp Cha,

là cuộc chuyện trò thân mật giữa Cha và Con.

Chính vì thế các lời cầu nguyện của Ngài (10, 21; 22, 42; 23, 34. 46).

đều bắt đầu bằng hai tiếng Abba, Cha ơi, thân thương.

Cần một không gian tĩnh lặng và riêng tư để gặp Cha (9, 18),

nên Đức Giêsu thường lên núi (6, 12; 9, 28)

hay vào chỗ hoang vắng (5, 16).

Nhưng có khi Ngài cầu nguyện tự phát trước mặt môn đệ (10, 21),

hay dẫn các môn đệ đến nơi mình sắp cầu nguyện (9, 28; 22, 39).

Gặp Cha là hơi thở đem lại sự sống và hạnh phúc cho Đức Giêsu.

Ngài múc lấy toàn bộ ý nghĩa đời mình qua các cuộc gặp gỡ đó.

Bài Tin Mừng hôm nay

cho thấy một lần cầu nguyện đặc biệt của Đức Giêsu.

Ngài đã thức suốt đêm nơi một ngọn núi (c. 12).

Ngài cố ý đến ngọn núi này để gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của Ngài.

Đức Giêsu có điều cần hỏi ý Cha trước khi đi tới một quyết định.

Và đây là một quyết định quan trọng.

Đã có một đám đông môn đệ theo Ngài (Lc 6, 17),

bây giờ Đức Giêsu muốn tuyển chọn một nhóm nhỏ

để họ ở gần Ngài hơn và cộng tác với Ngài sát hơn.

Đức Giêsu không muốn tự chọn cho mình những cộng sự viên.

Ngài muốn đặt việc chọn lựa này trong bầu khí cầu nguyện.

Ngài coi nhóm đặc biệt này là “những kẻ Cha đã ban cho Con,”

“những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian” (Ga 17, 6. 9).

Đức Giêsu chỉ muốn chọn những người Cha đã chọn cho mình.

Đến sáng Ngài mới rõ ý Cha, mới làm xong việc chọn lựa.

Như thế cả Đức Giêsu cũng phải vất vả tìm kiếm ý Cha.

Cuối cùng Ngài đã chọn được Mười Hai ông mà Ngài gọi là tông đồ.

Đời người được đan kết bằng những chọn lựa lớn nhỏ.

Có những trường hợp dễ phân biệt trắng đen.

Nhưng có khi tôi phân vân không rõ điều nào tốt hơn,

và đâu thực sự là điều Chúa muốn cho đời tôi.

Gặp gỡ Chúa trong lặng lẽ cô tịch, với tâm hồn tự do thanh thoát,

chúng ta có cơ may nhận được ánh sáng từ trên cao.

Nếu tôi làm theo ý Chúa, đời tôi sẽ được hạnh phúc, dù phải hy sinh.

Nếu tôi cương quyết làm theo ý mình, dù biết ngược với ý Chúa,

thì lòng tôi sẽ chẳng được bình an.

Thiên Chúa muốn vén mở cho tôi biết ý định của Ngài về tôi,

nhưng Ngài đòi tôi cất công tìm kiếm.

Hạnh phúc cho ai tìm thấy ý Chúa sau những đêm dài trăn trở!

Cầu nguyện:

Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa,

Tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,

Hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài,

Tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.

Dưới bầu trời bao la,

Trong cô đơn và thầm lặng,

Với tấm lòng thanh tịnh,

Tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,

Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn,

Huyên náo vì đấu tranh,

Giữa đám đông hối hả lăng xăng,

Tôi sẽ đứng trước người chiêm ngưỡng dung nhan.

Và khi đã hoàn tất việc đời,

Lạy Thiên Chúa muôn loài,

Một mình, lặng lẽ,

Tôi sẽ đứng trước người chiêm ngưỡng dung nhan.

R. Tagore

Thứ Tư Tuần 23 Thường niên :

Phúc cho anh em là những người nghèo

Lời Chúa: Lc 6, 20-26

Ðức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị nguời ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên hư đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế.”

“Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi. Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói. Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế.”

Suy niệm:

Một học sinh nghèo trả lại chiếc bóp lượm được.

Một giáo viên kiên trì theo đuổi nghề giáo.

Một cán bộ về hưu trong cảnh thanh bạch.

Một bạn nữ bỏ chỗ làm có thu nhập cao...

Một nhân viên từ chối những đồng tiền hối lộ.

Giữa cuộc sống khó khăn,

vẫn có bao người không bị mê hoặc bởi bạc tiền.

Họ chọn sống trong cảnh nghèo,

lam lũ hơn, nhưng vui hơn và thanh thản hơn.

Vẫn có bao người nếm được mối phúc của Tin Mừng:

“Phúc cho anh em là những người nghèo khó,

Vì Nước Trời là của anh em”.

Người đời thường coi hạnh phúc bắt nguồn

từ giàu sang, no đủ, từ danh thơm tiếng tốt.

Đức Giêsu đưa chúng ta đi vào một thế giới khác,

với lối đánh giá khác, làm chúng ta ngỡ ngàng.

Ngài cho các môn đệ của Ngài biết rằng:

họ là những người có phúc,

khi phải chịu nghèo đói, đau khổ, bách hại vì Ngài.

Nước Trời đã thuộc về họ từ đây,

và hạnh phúc sẽ trọn vẹn trong ngày sau hết.

Đức Giêsu đã sống những mối phúc trước chúng ta.

Ngài là một người thợ thủ công nghèo,

Ngài biết đến sự dày vò của cơn đói,

Ngài đã từng nhỏ lệ trước thành Giêrusalem,

và đã chịu mọi khổ hình cho đến chết.

Nhưng Đức Giêsu là con người hạnh phúc,

vì biết mình luôn sống cho Cha và con người.

Chúng ta cần có kinh nghiệm của Đức Giêsu:

Nghèo của cải mà thật giàu Nước Thiên Chúa.

Đức Giêsu chúc phúc cho những môn đệ nghèo của Ngài,

nhưng Ngài không ca ngợi sự bần cùng, lạc hậu.

Cả cuộc đời Ngài là một hành vi cúi xuống

để nâng dậy những ai nghèo sức khoẻ, nghèo niềm vui.

Hôm nay Ngài muốn chúng ta

đến với khu lao động, với lớp học tình thương,

xóa đi cái nghèo tri thức, nghèo những ước mơ cao cả.

Sự no đủ và niềm vui phải bắt đầu từ đời này.

Ước gì chúng ta sống như Đức Kitô,

tự nguyện trở nên nghèo hơn

để làm giàu cho người khác (2 Cr 8,9).

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin cho con nhìn thấy những người nghèo

ở quanh con, ở trong gia đình con,

đang cần đến con.

Bất cứ ai cần đến con đều là người nghèo,

xin cho con thấy Chúa trong họ.

Dần dần con hiểu rằng

cả người giàu cũng nghèo,

nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.

Dần dần con chấp nhận rằng

cả bản thân mình cũng nghèo

và cần đến người khác.

Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt,

một lời thăm hỏi đỡ nâng.

Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con

ai cũng nghèo về một mặt nào đó,

ai cũng cần đến người khác.

Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau,

làm cho nhau thêm giàu có.

Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo,

vì Chúa rất cần đến chúng con

để hoàn thành công trình cứu độ.

Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo

để nhận lãnh,

can đảm nhận mình giàu

để hiến trao. Amen.

Thứ Năm Tuần 23 Thường niên:

HÃY YÊU KẺ THÙ

Lời Chúa: Lc 6, 27-38

27 "Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em,28 hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.29 Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong.30 Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại.31 Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.32 Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ.33 Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế.34 Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng.35 Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác. 36 "Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.37 Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.38 Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy."

Suy niệm:

Khi đọc lời nhắn nhủ trên đây của Ðức Giêsu,

chúng ta thường thấy đó là chuyện không thể làm nổi,

hay nếu làm được, ắt sẽ sinh ra những hậu quả tồi tệ.

Chắc chắn Ðức Giêsu không dạy ta bao che cho kẻ ác,

hay đòi hủy bỏ luật hình sự để phạt các phạm nhân.

Ngài không cổ vũ việc ăn xin khi nói: “Ai xin, con hãy cho.”

Ngài cũng không biến chúng ta thành người bạc nhược.

Bài Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc,

vì nó cho thấy nét đặc trưng của người Kitô hữu.

Nó vén mở một lý tưởng mà ta phải vươn tới.

Chúng ta cần vượt lên trên nghĩa đen của mặt chữ

để cảm được tinh thần mà Chúa muốn ta sống.

Không sống lời Ngài, ta vẫn là kẻ đứng ngoài Kitô giáo.

“Hãy yêu kẻ thù”: câu này được nhắc lại hai lần.

Theo bài Tin Mừng này thì kẻ thù của tôi là ai?

Ðó là kẻ ghét tôi, kẻ nguyền rủa tôi và vu khống.

Ðó là kẻ tát vào mặt tôi và đoạt áo ngoài của tôi.

Như thế kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp.

Họ là những người hay làm phiền và lợi dụng tôi,

là những kẻ xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của tôi.

Họ là những người tự nhiên tôi không ưa, hay không ưa tôi.

Ðức Giêsu không đòi tôi yêu kẻ thù như yêu người thân:

về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện.

Nhưng Ngài mời tôi yêu bằng hành động.

Yêu là làm ơn, là chúc lành, là cho vay.

Yêu là cầu nguyện điều lành cho kẻ thù (cc. 27-28).

Khi làm điều tốt cho kẻ thù,

tôi được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng,

và nhờ đó chính kẻ thù tôi cũng có thể được giải phóng

khỏi cái tôi ích kỷ của họ.

Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế,

tôi không còn coi họ là kẻ thù của tôi nữa.

Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi.

Cần can đảm biết bao khi chào hỏi, bắt tay

một người làm tôi vô cùng đau khổ.

Ðó chẳng phải là một hành động giả hình,

nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên.

Ðó chẳng phải là một hành vi của kẻ yếu,

nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm anh hùng.

Kitô hữu được mời gọi vượt lên trên cái tự nhiên.

Suy nghĩ tự nhiên, tình cảm tự nhiên, phản ứng tự nhiên...

Phải ra khỏi cái tự nhiên, thường tình,

mới vào được thế giới siêu nhiên,

thế giới của những người con, sống nhân hậu như Cha.

Sống nhân hậu như Cha là trở nên hoàn thiện.

Thế giới văn minh không chỉ nhờ tiến bộ của khoa học,

nhưng chủ yếu nhờ những chiến thắng trên lòng ích kỷ

của từng người cũng như của mọi tập thể lớn nhỏ.

Trái đất chỉ tồn tại nhờ tha thứ yêu thương.

Kitô giáo chỉ sống còn nhờ yêu thương tha thứ.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

xin cho con quả tim của Chúa.

Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,

nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa

vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường

để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.

Xin cho con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen,

mọi trả thù ti tiện.

Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,

không một biến cố nào làm xáo trộn,

không một đam mê nào khuấy động hồn con.

Xin cho con đừng quá vui khi thành công,

cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.

Xin cho quả tim con đủ lớn

để yêu người con không ưa.

Xin cho vòng tay con luôn rộng mở

để có thể ôm cả những người thù ghét con.

Thứ Sáu Tuần 23 Thường niên:

ĐẠO ĐỨC GIẢ

Lời Chúa: Lc 6, 39-42

39 Đức Giê-su còn kể cho môn đệ dụ ngôn này: "Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?40 Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi.41 Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?42 Sao anh lại có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!

Suy niệm

Sống ở đời chúng ta liên tục phải đưa ra những phán đoán.

Có những phán đoán về người khác: đúng, sai, tốt, xấu.

Giáo dục một người là giúp người đó có được phán đoán khách quan.

Khi Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng xét đoán (Lc 6, 37),

Ngài không bảo họ đừng đưa ra những phán đoán hay nhận định.

Ngài cũng không coi thường những phán quyết của quan tòa.

Đơn giản Ngài chỉ muốn chúng ta tránh một khuynh hướng dễ gặp,

đó là chỉ trích phê phán, bới lông tìm vết, đối với tha nhân.

Các môn đệ sẽ phải là những nhà lãnh đạo dân Chúa.

Họ không thể là những người dẫn đường mù lòa.

Chỉ với cặp mắt sáng, họ mới có thể chu toàn nhiệm vụ,

dẫn dắt những người còn trong bóng tối ra ánh sáng bình minh.

Nếu không, mù dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố (c. 39).

Người lãnh đạo sáng suốt là người biết mình,

biết cái mạnh, cái yếu, cái hay, cái dở của mình.

Họ phải thấy rõ cái xà, hay thậm chí cái rác nơi mắt mình.

Thiếu thái độ tự phê phán nghiêm túc, họ không thể dẫn dắt người khác.

“Hãy biết mình” là câu được khắc ở một đền thờ nổi tiếng bên Hy-lạp.

Như thế biết mình không phải là chuyện dễ.

Chẳng ai gần mình, hiểu rõ mình bằng mình.

Nhưng nhiều khi chẳng ai mù mờ về tôi bằng chính tôi.

Lắm khi tôi chạy trốn chính mình, không đủ can đảm để thấy sự thật.

Nói chung tôi không thích nhìn nhận những bóng tối và bóng mờ nơi tôi.

Thậm chí, cái xà nơi mắt tôi, mà tôi cũng không để ý (c. 41).

Tôi chỉ muốn thấy nơi mình toàn những điều trong sáng, tốt đẹp, giỏi giang.

Càng có địa vị cao, càng thành công nhiều, càng có uy tín,

tôi càng khó chấp nhận, khó thấy những nhược điểm của mình,

Những người dưới quyền cũng không dám góp ý,

nên tôi lại càng dễ nghĩ là mình đã thực sự hoàn hảo.

Chắc chúng ta phải giúp người khác lấy rác ra khỏi mắt,

vì họ khó tự mình lấy được, và thật khó chịu khi có rác trong mắt.

Nhưng phải làm điều đó với rất nhiều yêu thương và khiêm hạ,

bởi lẽ chúng ta biết mình cũng cần anh em giúp lấy rác khỏi mắt mình.

Đơn giản là phải thấy cái rác và cả cái xà trong mắt mình trước,

nhờ người lấy ra dùm, sau đó mới thấy rõ để đi giúp người anh em.

Giúp nhau lấy rác trong mắt nhau, giúp nhau thấy rõ hơn sự thật về mình,

đó là công việc bác ái thường ngày mà chúng ta làm cho nhau.

Như thế Hội Thánh của chúng ta sẽ gồm những người sáng mắt,

nhờ biết xin người khác lấy rác ra khỏi mắt mình, và giúp họ lấy rác của họ.

Lời nguyện

Như thánh Phaolô trên đường về Ðamát,

xin cho con trở nên mù lòa

vì ánh sáng chói chang của Chúa,

để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.

Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,

ánh sáng phá tan bóng tối trong con

và đòi buộc con phải hoán cải.

Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối

chỉ vì chút tự ái cỏn con.

Xin cho con khiêm tốn

để đón nhận những tia sáng nhỏ

mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.

Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý

để Chân lý cho con được tự do.

Thứ Bảy Tuần 23 Thường niên:

NGHE MÀ KHÔNG THỰC HÀNH

Lời Chúa: Lc 6, 43-49

43 "Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt.44 Thật vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho!45 Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.46 "Tại sao anh em gọi Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa! , mà anh em không làm điều Thầy dạy?47 "Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như ai.48 Người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc.49 Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá huỷ tan tành."

Suy niệm

Có nhiều cách để nhận biết sự thật về một người.

Chúng ta có thể bị hấp dẫn bởi những lời giảng hùng hồn.

Chúng ta cũng có thể bị đánh lừa bởi thái độ khôn khéo giả tạo.

Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn để nhận ra con người thật :

“Xem quả thì biết cây” (c. 44).

Quả ở đây là đời sống thực sự của người đó, là những việc họ làm.

Nếu nhìn kỹ công việc của một người, chúng ta có cơ may biết họ là ai.

Đức Giêsu nói lên một luật tự nhiên của cây cỏ.

Cây tốt sẽ sinh trái tốt, cây bị sâu sẽ sinh ra trái không ngon.

Người công chính được nhận biết qua đời sống tốt lành của họ,

qua những thử thách họ đã vượt qua, qua những hy sinh họ dâng hiến.

Người bất chính sẽ lộ ra qua đời sống xấu xa.

Đời sống và hành động của một người phản ánh con người thật của họ.

Bụi gai không sinh được trái vả, bụi rậm không cho được trái nho.

Bụi gai và bụi rậm chẳng thể nào sinh hoa trái tốt đẹp.

Đời sống là tiêu chuẩn để nhận ra người môn đệ thật của Đức Giêsu.

Không phải chỉ là tuyên xưng đức tin vào Thầy

bằng cách kêu lên : “Lạy Chúa! lạy Chúa !”

Vấn đề là làm điều Thầy dạy (c. 46).

Đức Giêsu đặt câu hỏi tại sao đầy ngạc nhiên với các môn đệ:

Tại sao tin vào Thầy mà lại không sống điều Thầy truyền dạy?

Kitô hữu chân chính là người đến với Chúa Giêsu,

lắng nghe những lời của Ngài và thi hành những lời ấy (c. 47).

Nghe thôi thì chưa đủ.

Lời của Chúa Giêsu phải thấm nhuần vào đời sống của ta,

chi phối mọi hành động, quyết định và lựa chọn.

Đức Giêsu kết thúc Bài Giảng của mình bằng dụ ngôn về hai người xây nhà.

Nhiều người đã nghe Bài Giảng này, đã cảm thấy hay,

nhưng có bao nhiêu người sẽ thực hành những giáo huấn trong đó ?

Người thực hành Lời Chúa được ví như người xây nhà có nền vững chắc.

Còn người không thực hành thì giống như người làm nhà không nền.

Bề ngoài có vẻ hai căn nhà không khác nhau.

Chỉ khi nước lụt dâng lên, và dòng nước ùa vào nhà, mới thấy sự khác biệt.

Một căn đứng vững vì có nền tử tế, căn kia bị sụp đổ tan tành.

Chúng ta thích xây nhà cao, nhưng lại ít để ý tới nền móng.

Chúng ta đã được nghe quá nhiều đoạn Lời Chúa,

nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc suy niệm, cầu nguyện.

Lời Chúa chưa thực sự bám rễ trong hành động và cuộc sống,

vì điều đó đòi một sự trả giá mà chúng ta muốn quay lưng.

Chính vì thế căn nhà tâm linh của chúng ta vẫn không vững.

Xin Chúa cho chúng ta can đảm để làm lại nền cho căn nhà đời ta.

Lời nguyện

Lạy Chúa Giêsu

Con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát,

Vì chỉ biết thích thú nghe lời Chúa dạy,

Nhưng lại không dám đem ra thực hành.

Chính vì thế

Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con

Đừng hời hợt khi nghe lời Chúa,

Đừng để nỗi đam mê làm lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mãnh đất đời mình,

Để hạt giống lời Chúa được tự do tăng trưởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con

Được xây trên nền tảng vững chắc,

Đó là lời Chúa

Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

Thứ Hai Tuần 24 Thường niên:

CỨ NÓI MỘT LỜI

Lời Chúa: Lc 7, 1-10

1 Sau khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe, Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um.2 Một viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm.3 Khi nghe đồn về Đức Giê-su, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông.

4 Họ đến gặp Đức Giê-su và khẩn khoản nài xin Người rằng: "Thưa Ngài, ông ấy đáng được Ngài làm ơn cho.5 Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta."6 Đức Giê-su liền đi với họ. Khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này cho bạn hữu ra nói với Người: "Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi.7 Cũng vì thế, tôi không nghĩ mình xứng đáng đến gặp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh.8 Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này: "Đi! là nó đi; bảo người kia: "Đến! là nó đến; và bảo người nô lệ của tôi: "Làm cái này! là nó làm."9 Nghe vậy, Đức Giê-su thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo Người rằng: "Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Ít-ra-en, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế."10 Về đến nhà, những người đã được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn.

Suy niệm:

Viên đại đội trưởng ở đây là người coi một trăm quân.

Ông đã nghe đồn về khả năng chữa bệnh của Đức Giêsu.

Nhưng ông chẳng hề dám gặp mặt Ngài,

vì ông biết mình là dân ngoại, bị người Do-thái coi là nhơ uế.

Bởi tình thương đối với anh nô lệ mà ông yêu quý,

ông đã mạnh dạn nhờ các kỳ mục Do-thái xin Đức Giêsu đến nhà ông

để cứu sống anh nô lệ đang bệnh nặng gần chết (cc. 2-3).

Sau khi nghe kể lại những điều tốt đẹp viên sĩ quan Rôma này đã làm,

Đức Giêsu liền lên đường đến nhà ông ấy để chữa bệnh (cc. 4-6).

Khi Đức Giêsu còn trên đường, vị sĩ quan này đã suy nghĩ và đổi ý.

Ông chẳng những thấy mình không đáng đến gặp mặt Ngài

mà còn không đáng đón Ngài vào nhà mình nữa,

căn nhà vẫn bị coi là ô uế của một người dân ngoại (c. 6).

Ông muốn ngăn Ngài lại trước khi Ngài đến nhà ông,

nên đã sai một số bạn hữu ra gặp Ngài trên đường (c. 6).

Nơi ông bùng cháy một niềm tin mạnh mẽ.

Ông tin rằng chẳng cần Ngài vào nhà ông và gặp anh nô lệ sắp chết.

Chỉ cần Ngài nói một lời cũng đủ làm cho anh ta lành mạnh (c. 7).

Viên đại đội trưởng tin vào sức mạnh của lời Đức Giêsu.

Đối với ông, lời ấy có uy lực như một mệnh lệnh.

Là một sĩ quan trong quân đội Rôma

ông hiểu thế nào là sự phục tùng của lính tráng dưới quyền.

“Tôi bảo người này : “Đi !” là nó đi; bảo người kia : “Đến !” là nó đến;

và bảo người nô lệ của tôi : “Làm cái này !” là nó làm.” (c. 8).

Lệnh được ban ra là phải thi hành.

Viên đại đội trưởng tin rằng lời của Đức Giêsu cũng thế.

Chỉ cần một lời cũng đủ làm cơn bệnh nguy tử phải thoái lui.

Đức Giêsu ngỡ ngàng trước một lòng tin mạnh mẽ như vậy.

Khó lòng tìm thấy lòng tin đó nơi cộng đoàn dân Ítraen (c. 9).

Ngài đã không đến nhà viên sĩ quan,

chẳng gặp mặt ông, cũng chẳng nói lời nào.

Chỉ biết là sau đó anh nô lệ đã được khỏi (c. 10).

Ở đâu ta cũng gặp những người như viên sĩ quan Rôma.

Họ có thể là mẫu mực cho các kitô hữu về sự khiêm hạ và tín thác.

Nhiều con người hôm nay, có tấm lòng thật tốt như viên sĩ quan,

nhưng vẫn ngại chưa dám mời Chúa vào nhà,

chưa dám trực tiếp gặp mặt Chúa,

chỉ dám nói chuyện với Ngài qua trung gian.

Nhưng họ có thể đã mang trong mình một niềm tin kiên vững

và đã có kinh nghiệm về sự chữa lành kỳ diệu của Ngài.

“Tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, chỉ xin Ngài nói một lời…”

Có khi chúng ta đã đánh mất ý thức về sự linh thánh khi rước Chúa.

Có khi chúng ta chẳng tin mấy vào quyền năng của Lời Ngài.

Xin có được lòng tin đơn sơ như một người dân ngoại.

Cầu nguyện

Lạy Chúa,

xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,

để con làm bật rễ khỏi lòng con

những ích kỷ và khép kín.

Xin cho con đức tin can đảm

để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,

chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.

Xin cho con đức tin sáng suốt

để con thấy được thế giới

mà mắt phàm không thấy,

thấy được Ðấng Vô hình,

nhưng rất gần gũi thân thương,

thấy được Ðức Kitô nơi những người nghèo khổ.

Xin cho con đức tin liều lĩnh,

dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,

dám tiến bước trong bóng đêm

chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,

dám lội ngược dòng với thế gian

và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.

Xin cho con đức tin vui tươi,

hạnh phúc vì biết những gì

đang chờ mình ở cuối đường,

sung sướng vì biết mình được yêu

ngay giữa những sa mù của cuộc sống.

Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp

qua những cọ xát đau thương của phận người,

để dù bao thăng trầm dâu bể,

con cũng không để tàn lụi niềm tin

vào Thiên Chúa và vào con người.

Thứ Ba Tuần 24 Thường niên: (Thiếu)

Thứ Tư Tuần 24 Thường niên:

Lũ trẻ ngồi ngoài chợ

Lời Chúa: Lc 7, 31-35

Khi ấy, Đức Giêsu nói với dâ chúng rằng: “Vậy tôi phải ví người thế hệ này với ai? Họ giống ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói: “Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than”. Thật vậy, ông Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: “Ông ta bị quỷ ám”. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: “Ðây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”. Nhưng Ðức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái mình biện minh cho.”

Suy niệm:

Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài

với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 31-32).

Các nhóm chơi với nhau, í ới gọi nhau.

Một nhóm bày ra trò chơi đám cưới,

thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa.

Nhưng nhóm kia đã không tham gia.

Sau đó nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột.

Nhưng nhóm kia vẫn chẳng khóc than thương tiếc.

Hẳn là chẳng vui gì khi có sự thụ động, lạnh nhạt như vậy.

Dụ ngôn trên đây nói đến một số người khó chiều, bướng bỉnh.

Dù thế nào thì họ cũng đứng ngoài, không chịu nhập vào cuộc chơi.

Họ chẳng thích cả trò đám ma lẫn đám cưới.

Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói đến những người ở thời của Ngài.

Họ có nét tương tự như lũ trẻ ngồi ngoài chợ.

Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn,

đời sống khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30).

Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải.

Gioan ăn chay nên không ăn bánh, không uống rượu (c. 33).

Lối sống của ông phù hợp với lời ông giảng về việc Nước Trời gần đến.

Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần.

Người ta đã coi ông là bị quỷ ám,

nên ít người tin vào lời giảng của một người như thế.

Khi Đức Giêsu đến với thế hệ này,

Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa.

Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường.

Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng,

một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải phóng.

Những bữa ăn trong đời Ngài đóng một vai trò quan trọng.

Ngài ngồi ăn với những người bị xã hội loại trừ như người thu thuế.

Ngài đón nhận vào bàn ăn cả những tội nhân cần tránh xa.

Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn

mà họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa.

Tiếc thay, Ngài cũng bị từ khước như Gioan,

bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 34).

Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này.

Cả hai người, với hai lối sống nghịch nhau, cũng không chiều được họ.

Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng có thể tìm ra được lý do để biện minh.

Khi cố chấp và ngụy biện để khỏi phải đối diện với chân lý,

con người chẳng được tự do.

Nguy cơ của con người mọi thời vẫn là ở lại trong tình trạng trẻ con ấu trĩ.

Làm sao để con người hôm nay có thể nghe được tiếng kêu của Gioan,

mời gọi người ta thay đổi cuộc sống bằng cách chia sẻ (Lc 3, 10-14)?

Làm sao thái độ bao dung của Đức Giêsu

ảnh hưởng trên một thế giới còn nhiều hận thù, chia rẽ, loại trừ nhau?

Lời nguyện:

Lạy Cha,

xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau

trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.

Xin cho chúng con đến với nhau

không chút thành kiến,

và tin tưởng vào thiện chí của nhau.

Khi cộng tác với nhau,

xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,

nhờ đó chúng con vượt qua

những tự ái nhỏ nhen,

những tham vọng ích kỷ

và những định kiến cằn cỗi.

Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,

để tìm kiếm chân lý

ở mọi nơi và mọi người,

nhất là nơi những ai khác quan điểm.

Lạy Cha,

xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,

để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,

và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.

Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,

xin cho chúng con được triển nở không ngừng

và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.

Thứ Năm Tuần 24 Thường niên:

CHỊ HÃY ĐI BÌNH AN

Lời Chúa: Lc 7, 36-50

36 Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn.37 Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm.38 Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.39 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi! "40 Đức Giê-su lên tiếng bảo ông: "Này ông Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông! " Ông ấy thưa: "Dạ, xin Thầy cứ nói."41 Đức Giê-su nói: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục.42 Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn? "43 Ông Si-môn đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giê-su bảo: "Ông xét đúng lắm."44 Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn: "Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau.45 Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi.46 Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi.47 Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít."48 Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi."49Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội? "50 Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."

Suy niệm:

Chỉ Luca mới nói đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa.

Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).

Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).

Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.

Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon.

Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu,

cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).

Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó,

các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,

chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.

Khi nhà có đại tiệc, người ngoài được tự do ra vào.

Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc.

Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố,

nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không.

Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.

Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ.

Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.

Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37).

Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở.

Nước mắt chị làm ướt chân Ngài.

Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ,

hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha ?

Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.

Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa.

Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt

đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy !).

Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,

vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.

Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành.

Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.

Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm:

“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết

người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”

Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.

Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy,

thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa!

Đức Giêsu biết chị là ai, biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).

Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.

Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi,

nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ.

Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc.

Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:

rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.

Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn.

Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.

Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy.

Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình.

Để soi sáng cho ông Simon hiểu về hành động của người phụ nữ,

Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)

Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50.

cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả.

“Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn ?”

Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng.

Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn.

Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.

Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế.

Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon.

Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).

Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.

Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,

nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.

Câu 47 là một câu quan trọng để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này.

Câu này trước đây thường được dịch như sau:

“Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều.

Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,”

Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.

Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng.

Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều.

Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.

Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn.

Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42),

và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.

Chẳng rõ ông Simon có nhận ra mình là ai chưa.

Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia,

vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn !!!

Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không?

Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?

Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.

Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).

Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.

Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,

can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn.

Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ.

Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:

“Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.

Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.

Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị.

Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị.

Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin.

Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:

“Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).

Chúng ta có thể học được nhiều điều nơi người phụ nữ:

lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,

Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,

và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu.

Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không?

Cầu nguyện:

Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện :

Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi

mọi biển lận tầm thường.

Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên

để gánh chịu mọi buồn vui.

Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang

để đem tình yêu gánh vác việc đời.

Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường

để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,

hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.

Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai

để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.

Và cho tôi sức mạnh tràn trề

để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn.

R. Tagore

(Đỗ Khánh Hoan dịch)

Thứ Sáu Tuần 24 Thường niên:

MẤY NGƯỜI PHỤ NỮ CÙNG ĐI

Lời Chúa: Lc 8, 1-3

1 Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai2 và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ,3 bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.

Suy niệm:

Nhóm Mười hai cùng đi với Thầy Giêsu qua các thành phố, làng mạc,

để rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa (c. 1).

Chuyện các môn đệ nam giới đi theo Thầy

là chuyện bình thường trong xã hội Do Thái.

Chuyện lạ ở đây là chuyện cùng đi với Thầy còn có các phụ nữ.

Các bà đi theo Thầy, rong ruổi trên những nẻo đường của vùng Galilê.

Họ như thuộc cùng một nhóm với các môn đệ.

Vào thời Đức Giêsu, chuyện phụ nữ đi chung như thế quả là gây sốc.

Nếu một phụ nữ cứ tiếp xúc với nam giới ở ngoài họ hàng,

thì bản thân chị ấy và gia đình sẽ phải mang tiếng xấu.

Vả lại chẳng ông chồng nào chịu để cho vợ mình làm như vậy.

Những phụ nữ đã đi theo Thầy Giêsu từ Galilê.

Câu này nói lên căn cước của nhóm phụ nữ.

Họ đã theo Thầy đến chỗ Thầy chịu đóng đinh (Lc 23, 49).

Họ đã theo Thầy đến chỗ Thầy được mai táng (Lc 23, 55).

Họ là những người đầu tiên ra thăm mộ vào sáng sớm (Lc 24, 1-3).

Theo Tin Mừng Mátthêu (28, 9-10), Máccô (16, 9) và Gioan (Ga 20, 18),

chính họ là những người đầu tiên được thấy Đấng phục sinh

Hai môn đệ Emmau tuy không tin lời chứng của các phụ nữ về Phục sinh,

nhưng hai ông đã gọi họ là những phụ nữ trong nhóm chúng tôi (Lc 24, 22).

Những phụ nữ này còn có mặt cùng với nhóm Mười Hai,

để cầu nguyện chung, sau khi Thầy Giêsu được cất về trời (Cv 1, 13-14).

Như thế nhóm phụ nữ này đã kiên trì và can đảm đi theo Thầy Giêsu,

từ Galilê đến Núi Sọ, và từ Núi Sọ đến cộng đoàn Giáo Hội sơ khai.

Một cách nào đó, họ xứng đáng được gọi là người môn đệ.

Đức Giêsu đã không chỉ thu hút được các môn đệ nam theo Ngài.

Qua việc trừ quỷ và chữa bệnh, Ngài đã làm cho nhiều cuộc đời tươi trở lại.

Một nhóm phụ nữ khi được chữa lành, đã muốn tỏ lòng biết ơn,

trong đó có bà Gioanna, là người đã lập gia đình, giàu có và quyền quý.

Họ quyết định đi theo Đức Giêsu và các môn đệ như những trợ tá.

Họ dùng của cải mình có để phục vụ các ngài (c. 3).

Không nên coi việc phục vụ của nhóm phụ nữ là thấp kém,

vì các môn đệ cũng được mời gọi làm người phục vụ anh em (Mc 10, 43).

Và chính Thầy Giêsu cũng đã sống như một người phục vụ (Lc 22, 27).

Không thấy nói đến việc các phụ nữ này được Thầy Giêsu sai đi rao giảng.

Có lẽ vì vào thời đó ở nước Do Thái, người ta còn coi thường phụ nữ,

và không coi các phụ nữ như những chứng nhân đáng tin.

Khi nhìn Nhóm Thầy Giêsu cách đây hai mươi thế kỷ,

chúng ta thấy Thầy đã táo bạo, dám đi ngược với nền văn hóa thời đó.

Ngài mở rộng thế giới của phụ nữ, vốn chỉ giới hạn trong gia đình.

Phụ nữ hôm nay được mời gọi tham gia vào những công việc chung.

Chúng ta cần thấy sự hiện diện tích cực của các phụ nữ lo việc bác ái,

dạy giáo lý, làm việc cho giáo xứ, hay ở trong các tổ chức của giáo phận.

Làm sao có được nhiều phụ nữ thánh thiện và năng động như Mẹ Têrêsa?

Cầu nguyện:

Giöõa moät theá giôùi

ñeà cao quyeàn löïc vaø lôïi nhuaän,

xin daïy con bieát phuïc vuï aâm thaàm.

Giöõa moät theá giôùi say meâ thoáng trò vaø chieám ñoaït,

xin daïy con bieát yeâu thöông töï hieán.

Giöõa moät theá giôùi ñaày phe phaùi chia reõ,

xin daïy con bieát coäng taùc vaø ñoàng traùch nhieäm.

Giöõa moät theá giôùi ñaày haøng raøo kyø thò,

xin daïy con bieát coi moïi ngöôøi nhö anh em.

Laïy Chuùa Ba Ngoâi,

Ngaøi laø maãu möïc cuûa tình yeâu tinh roøng,

xin cho caùc kitoâ höõu chuùng con

trôû thaønh tình yeâu

cho traùi tim khoâ caèn cuûa theá giôùi.

Xin daïy chuùng con bieát yeâu nhö Ngaøi,

bieát soáng nhôø vaø soáng cho tha nhaân,

bieát quaûng ñaïi cho ñi

vaø khieâm nhöôøng nhaän laõnh.

Laïy Ba Ngoâi chí thaùnh,

xin cho chuùng con tin vaøo söï hieän dieän cuûa Chuùa

ôû saâu thaúm loøng chuùng con,

vaø trong loøng töøng con ngöôøi beù nhoû.

Thứ Bảy Tuần 24 Thường niên:

VỚI TẤM LÒNG CAO THƯỢNG

Lời Chúa: Lc 8, 4-15

4 Người ta tụ họp đông đảo. Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến cùng Đức Giê-su. Bấy giờ Người dùng dụ ngôn mà nói rằng:5 "Người gieo giống đi ra gieo hạt giống của mình. Trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất.6 Hạt khác rơi trên đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt.7 Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cùng mọc lên, làm nó chết nghẹt.8 Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm". Nói xong, Người hô lên rằng: "Ai có tai nghe thì nghe." 9 Các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì.10 Người đáp: "Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; còn với kẻ khác thì phải dùng dụ ngôn để chúng nhìn mà không nhìn, nghe mà không hiểu.11 "Đây là ý nghĩa dụ ngôn: Hạt giống là lời Thiên Chúa.12 Những kẻ ở bên vệ đường là những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ.13 Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ bỏ cuộc.14 Hạt rơi vào bụi gai: đó là những kẻ nghe, nhưng dọc đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành.15 Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.

Suy niệm:

Đức Kitô hào phóng gieo vãi lời của Thiên Chúa khắp nơi.

Ngài như người gieo hạt giống, tung gieo trong gió,

có vẻ như chẳng để ý đến chuyện có hạt rơi vào đất cằn khô,

và một số hạt không bao giờ sinh huê lợi.

Các Kitô hữu sơ khai đã đọc dụ ngôn này và thấy nơi đó một lời nhắn nhủ.

Họ thấy mình chính là người đã nhận được hạt giống lời Chúa.

Nhưng không phải hạt giống nào cũng thành cây lúa trĩu hạt.

Có những hạt giống bị thui chột bởi những lý do bên ngoài và bên trong.

Làm sao để mọi hạt giống được gieo trong tim ta, đều sinh hoa trái?

Câu hỏi của Giáo hội sơ khai cũng là câu hỏi của Giáo hội bây giờ.

Thửa đất là trái tim con người xưa nay vẫn thế.

Hạt giống Lời Chúa hôm xưa và hôm nay cũng vẫn là một.

Cả bốn hạng người trong dụ ngôn đều đã nghe (cc. 12. 13. 14. 15),

nghĩa là đều đã đón nhận Lời Chúa vào trái tim, vào trung tâm đời mình.

Nhưng có Lời bị đánh cắp.

Quỷ đến và lấy Lời đã gieo ra khỏi trái tim người nghe

vì sợ họ tin mà được cứu độ (c. 12).

Quỷ giống như chim trời đến ăn mất hạt giống rơi xuống vệ đường (c. 5).

Tại quỷ hay tại trái tim con người như đất vệ đường quá cứng?

Hạt giống nằm chơ vơ, trở thành mồi ngon cho bao tấn công đe dọa.

Nhưng có Lời không mọc rễ.

Nghe Lời và vui vẻ đón nhận vẫn chưa đủ.

Hạt giống cần có nhiều đất để mọc rễ nuôi sống cây.

Đất nhiều sỏi đá chỉ cho một lòng tin nhất thời, khi mọi sự dễ dàng,

nhưng không đủ sức đứng vững khi thử thách ập tới.

Đã và đang có những Kitô hữu quỵ ngã trước những thách đố cam go,

vì Lời Chúa chưa bao giờ mọc rễ trong tim họ.

Thử thách của đời Kitô hữu làm lộ ra tình trạng “không rễ” của ta,

và đòi ta tránh gặp gỡ Lời Chúa một cách hời hợt, nông cạn.

Nhưng có Lời bị chết ngộp.

Ngộp vì những thứ trói buộc của cuộc ðời phù vân này,

những lo âu trăn trở, những thèm muốn khoái lạc, giàu sang.

Cây lúa có mọc lên cũng bị chết ngộp bởi bụi gai ở ngay nơi tim tôi.

Cuối cùng có Lời được nắm giữ.

Dù thửa đất tốt là trái tim cao thượng và quảng đại,

Nhưng nắm giữ Lời Chúa cũng đòi một nỗ lực không ngừng.

Bất chấp những tấn công từ bên ngoài, hay thèm muốn bên trong,

cần có thái độ kiên trì để vượt qua những khủng hoảng không tránh khỏi.

Xin được trân trọng nghe Lời Chúa trong thánh đường và trong cuộc sống.

Xin được khiêm tốn nghe Lời Chúa qua các bậc thầy và qua trẻ thơ.

Ước gì Lời Chúa giúp ta làm cho đất của tim mình xốp hơn và mềm lại,

bớt đá sỏi, thêm đất màu, bớt bụi gai, thêm ẩm ướt.

Lời nguyện:

Lạy Chúa,

xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa

và dạy con bước đi

ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày.

Xin truyền cho con sức mạnh của Người.

Ước gì những cánh tay rã rời vì thất bại của con

tìm lại được sức trẻ

để gieo trồng hàng ngàn cây xanh

cho một thế giới mới

Ước gì mồ hôi con

pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu.

Ước gì máu con

hòa lẫn với Máu Chúa trên Núi Sọ

để tưới gội cho mảnh đất đã bị khô cằn

vì bất công và ích kỷ.

Chúc tụng Chúa là Cha,

đã dẫn con đi đến cùng,

đến tận Emmaus, nơi Chúa hiển dung

với tràn trề bình an và niềm vui.

ĐHY Roger Etchegaray

Thứ Hai Tuần 25 Thường niên:

CÁCH THỨC ANH EM NGHE

Lời Chúa: Lc 8, 16-18

16 "Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng.17 Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng.18 Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe. Vì ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy mất."

Suy niệm

Bài Tin Mừng hôm nay chỉ có ba câu có vẻ rời rạc.

Ba câu này thánh Luca đặt nằm ngay sau dụ ngôn về người gieo giống.

Vậy ta phải hiểu các câu này trong bối cảnh của dụ ngôn trên,

một dụ ngôn nói về việc đón nhận hạt giống Lời Chúa.

Sống Lời Chúa cách nghiêm túc là thắp lên một ngọn đèn (c. 16).

Vào thời xưa, người ta dùng đèn dầu, làm bằng đất nung.

Hẳn nhiên ý hướng của người thắp đèn là soi sáng.

Ngọn đèn sáng để soi đường cho “những kẻ khác” vào nhà,

những người chưa được biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (c. 10).

Vì thế thật vô lý nếu có ai sau khi thắp đèn, rồi lấy cái hũ mà đậy lại,

hay đặt ngọn đèn dưới gầm giường.

Dù có lúc ánh sáng đó như bị che khuất hay trở nên leo lét,

nhưng đời kitô hữu vẫn mãi mãi là ngọn đèn sáng đặt trên giá đèn

cho một thế giới mà bóng tối không ngừng vây bủa tấn công.

“Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ,

để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha trên trời.”

Dù có lúc họ phải sống ẩn núp trong hang toại đạo,

hay phải chịu sống như giáo hội thầm lặng,

nhưng giữ bí mật hay che giấu lén lút

lại không phải là thái độ thường xuyên của người kitô hữu (c. 17).

Rồi đến ngày cái bí mật phải được vén mở,

cái che giấu phải được đem ra ánh sáng công khai.

Chúng ta có những hiểu biết về Thiên Chúa, về thân phận con người,

về ý nghĩa của khổ đau và cái chết.

Chúng ta có đức tin và niềm hy vọng, có niềm vui và bình an.

Chúng ta biết mình từ đâu đến và đang đi về đâu.

Kitô hữu không thể cất giấu kho tàng đức tin của mình được.

Họ có nghĩa vụ phải chia sẻ cho một thế giới đang khát khao.

Lời Chúa như nén bạc không được phép chôn dấu.

“Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe.” (c. 18).

Có cách nghe kiểu vệ đường, nước đổ lá khoai,

có cách nghe không bám rễ vì sỏi đá,

có cách nghe bị chết ngộp vì cái tâm đầy vọng động.

Nhưng cũng có cách nghe của người giữ chặt lấy Lời

trong trái tim tốt lành và nhẫn nại (c. 15).

Ai nghe Lời Chúa cách hữu ích, người đó sẽ được lợi ích thêm.

Khi ta mở rộng cửa cho Lời Chúa tác động,

Lời sẽ xâm nhập vào đời ta càng lúc càng mạnh mẽ.

Còn ai cứng cỏi từ khước, thì ngay từ đầu, họ đã mất cả chì lẫn chài.

Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta vào thái độ tích cực, dấn thân.

Thái độ của kitô hữu là đứng hẳn về phía ánh sáng.

Nhiệm vụ của chúng ta là thắp sáng, chiếu sáng và đem ra ánh sáng,

để những ngọn đèn nhỏ của ta dẫn nhân loại đến với Ánh Sáng Giêsu.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu

tạ ơn Chúa đã cho chúng con

ánh sáng mặt trời, mặt trăng,

và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.

Tạ ơn Chúa

vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.

Ðó là vinh dự

và cũng là một trách nhiệm nặng nề.

Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối

của hận thù và bất công,

của buồn phiền và thất vọng.

Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa

mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,

và biết vâng theo những soi sáng của Chúa

qua từng phút giây của cuộc sống.

Lạy Chúa Giêsu,

cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối

vẫn còn tiếp diễn

trên thế giới và trong lòng chúng con.

Ước gì chúng con

đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,

nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,

để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.

Thứ Ba Tuần 25 Thường niên:

Mẹ tôi và anh em tôi

Lời Chúa: Lc 8, 19-21

Khi ấy, mẹ và anh em Ðức Giêsu đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng quá đông. Họ báo cho Người biết: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy.” Người đáp lại: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.”

Suy niệm:

Chẳng rõ Đức Giêsu đã xa gia đình ở Nadarét bao lâu,

mà hôm nay Mẹ và anh em Ngài mới đến gặp Ngài.

Có phải vì nhớ, hay vì lo lắng do nghe các lời đồn đại?

Để biết được Ngài đang ở đâu, thì phải hỏi thăm,

bởi hồi đó chưa có những phương tiện truyền thông như bây giờ.

Vì vậy chuyện Mẹ đến được chỗ của Con là một nỗ lực không nhỏ.

Tiếc là khi đã đến nơi Con đang giảng dạy,

thì Mẹ lại không làm sao vào được, vì người đông quá (c. 19).

Chắc Mẹ đã nhờ ai đó vào báo cho Đức Giêsu:

“Có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy” (c. 20).

Các sách Tin Mừng Nhất Lãm đều không cho biết

Đức Giêsu có ra ngoài để đón tiếp Mẹ và các anh em Ngài không.

Điều này khiến ta có cảm tưởng bầu khí đón tiếp hơi lạnh lùng.

Nhưng cả ba Tin Mừng đều kể lại câu nói gây sốc của Ngài:

“Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa

và đem ra thực hành” (c. 21).

“Mẹ tôi và anh em tôi” là ai? Một câu hỏi quá dễ !

Hiển nhiên đó là những người đang đứng ở ngoài kia.

Mẹ của Ngài là bà Maria, người phụ nữ làng Nadarét,

người đã cưu mang, cho bú mớm, và chăm lo dưỡng dục Ngài.

Anh em là những người họ hàng gần gũi, tuy không phải là anh em ruột.

Mẹ và anh em của Đức Giêsu là những người đang đứng ngoài nhà.

Ngài không hề khinh họ, nhưng Ngài tập trung vào người trong nhà.

Những người ở trong nhà là những người đang ngồi nghe lời Đức Giêsu.

Họ được mời gọi không nghe suông, nhưng đem ra thực hành,

để trở thành mẹ và anh em của Ngài.

Như thế Đức Giêsu đã nới rộng gia đình của Ngài.

Ngài không bó hẹp trong gia đình ruột thịt, mà khai mở một gia đình mới.

Gia đình thiêng liêng thì rộng lớn hơn nhiều,

và mỗi Kitô hữu đều có chỗ trong gia đình đó.

Đức Giêsu có nhiều mẹ và nhiều anh chị em.

Ai nghe và thi hành lời Thiên Chúa thì trở nên mẹ của Ngài,

bởi vì, theo thánh Bêđa, qua gương sáng và lời nói của họ,

họ sinh ra Ngài trong trái tim tha nhân.

Đức Giêsu là Con, luôn nghe và thi hành lời Thiên Chúa Cha.

Bất cứ ai sống như Ngài cũng trở nên con Thiên Chúa,

nên lập tức trở nên anh chị em với Ngài.

Chúng ta ít khi nghĩ tới chuyện mình có họ hàng với Đức Giêsu.

Có một thứ liên hệ còn sâu nặng hơn cả liên hệ máu mủ nữa.

Chúng ta mang dòng máu của Đức Giêsu, dòng máu vâng nghe lời Chúa.

Chính Thiên Chúa nối kết Đức Giêsu và cả nhân loại thành một gia đình.

Trong gia đình đó có chỗ quan trọng cho Đức Maria,

vì hơn ai hết Mẹ là người đã lắng nghe và thi hành lời Thiên Chúa.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.

Chúng con thường xây nhà trên cát,

vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,

nhưng lại không dám đem ra thực hành.

Chính vì thế

Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con

đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,

đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,

để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con

được xây trên nền tảng vững chắc,

đó là Lời Chúa,

Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

Thứ Tư Tuần 25 Thường niên :

ĐỪNG MANG GÌ

Lời Chúa: Lc 9, 1-6

1 Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật.2 Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân.3 Người nói: "Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo.4 Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà ra đi.5 Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ."6 Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi.

Suy niệm:

Sau một thời gian sống bên Thầy Giêsu,

thấy việc Thầy làm và nghe lời Thầy giảng,

giờ đây nhóm Mười Hai đã tương đối cứng cáp

để được chia sẻ chính công việc Thầy đã làm.

Đó là rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân (c. 2).

Nhưng trước khi được chia sẻ công việc,

họ được chia sẻ quyền trừ quỷ và chữa bệnh của Thầy (c. 1).

Sứ vụ họ sắp làm là một thực tập cho sứ vụ lớn sau này (Lc 24, 46-47).

Thầy Giêsu sai nhóm Mười Hai lên đường với những chỉ thị rõ rệt.

Không thấy Thầy bảo phải chuẩn bị hành trang.

Ngược lại, Thầy cấm không được mang theo gì cả.

“Đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, hai áo” (c. 3).

Ngay cả những người giảng rong theo phái Khắc Kỷ,

tuy rất khắc khổ, nhưng cũng được mang theo gậy và bị để ăn xin.

Thầy Giêsu muốn môn đệ của mình hoàn toàn cậy trông vào Thiên Chúa,

và hoàn toàn cậy trông vào lòng tốt của con người.

Họ phải tập chấp nhận sống bấp bênh và thiếu thốn trong bình an.

Không mang đồ dự trữ, không gậy để bảo vệ khi đi đường,

các môn đệ buộc phải mang theo lòng tín thác vô bờ nơi Thiên Chúa.

Thầy còn chỉ thị cho cả nhóm biết về chuyện ăn ở của họ.

Họ sẽ đến ở chung nhà với dân chúng, ăn uống những gì họ cho.

“Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó…” (c. 4).

Đừng đi từ nhà nọ sang nhà kia để tìm chỗ tiện nghi hơn.

Khi ăn ở nơi nhà dân, người tông đồ có cơ hội gần gũi với họ,

và chia sẻ cuộc sống thật của họ, để dễ loan báo Tin Mừng hơn.

Nhưng cũng phải bình an chấp nhận những từ khước (c. 5).

Có khi trong cả một thành, không tìm được một gia đình để trú chân.

Thái độ phủi bụi chân lại cho thấy một sự dứt khoát đoạn tuyệt,

không muốn dính dáng gì với những người ở đó nữa (x. Cv 13, 50).

Khuôn mặt của người được sai cách đây hai ngàn năm thật là đẹp.

Vừa quyền năng để trừ mọi thứ quỷ và bệnh tật,

vừa khiêm tốn cậy dựa vào lòng quảng đại của người khác.

Vừa có gì để cho, vừa có gì để nhận:

cho Tin Mừng cứu độ và sự chữa lành, nhận sự giúp đỡ vật chất.

Vừa gần gũi thân thiết với nỗi đau thân xác của con người,

với những lo âu rất đời thường trong một gia đình,

vừa thanh thoát với tiền bạc, không bị chi phối bởi nhu cầu vật chất.

Nhóm Mười Hai sẽ phải đối diện với sức mạnh của ác thần

đang tác oai tác quái trong đời nhiều người.

Họ sẽ phải dùng quyền Thầy trao để giải phóng con người khỏi nô lệ.

Nếu hôm nay Đức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ bảo ta đừng đem gì?

Đâu là những nét đặc trưng của khuôn mặt người tông đồ thế kỷ 21?

Đâu là những bệnh tật và nô lệ của con người hôm nay?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin sai chúng con lên đường

nhẹ nhàng và thanh thoát,

không chút cậy dựa vào khả năng bản thân

hay vào những phương tiện trần thế.

Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm :

rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,

chữa lành những người ốm đau.

Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng

với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,

biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.

Xin ban cho chúng con khả năng

đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.

Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ

của bao người đau khổ thể xác tinh thần.

Lạy Chúa Giêsu,

thế giới thật bao la

mà vòng tay chúng con quá nhỏ.

Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau

mà tin tưởng lên đường,

nhẹ nhàng và thanh thoát.

Thứ Năm Tuần 25 Thường niên:

ÔNG NÀY LÀ AI?

Lời Chúa: Lc 9, 7-9

7 Tiểu vương Hê-rô-đê nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân vân lắm. Thật vậy, có kẻ nói: "Đó là ông Gio-an từ cõi chết trỗi dậy."8 Kẻ khác nói: "Ông Ê-li-a xuất hiện đấy! " Kẻ khác nữa lại nói: "Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại."9 Còn vua Hê-rô-đê thì nói: "Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế? " Rồi vua tìm cách gặp Đức Giê-su.

Suy niệm:

Đức Giêsu với các môn đệ của Ngài đã nổi tiếng ở vùng Galilê,

qua các hoạt động rao giảng và chữa bệnh.

Tiếng đồn về Ngài ngày càng lan rộng (Lc 5, 15).

Điều đó hẳn đã đến tai của Hêrôđê (c. 7),

vị tiểu vương cai quản vùng Galilê trong hơn bốn mươi năm (Lc 3, 1).

Hêrôđê bối rối và lúng túng trước những tin mình nhận được.

Ông đã cho chém đầu Gioan Tẩy giả, kẻ được coi là ngôn sứ (c. 9).

Bây giờ lại nổi lên một người khác tên là Giêsu.

Người ta đồn đãi nhiều về nhân vật Giêsu này.

Có một số người nói ông này là Gioan bị chém đầu nay sống lại.

Có những người khác nói đó là ông Êlia tái giáng

sau khi đã được đưa về trời trong cơn gió lốc (2V 2, 11).

Cũng có những kẻ nói Giêsu là một ngôn sứ nào đó thời xưa sống lại.

Quả thật nhìn việc làm, lời giảng và lối sống của Giêsu,

người ta dễ thấy Ngài là một ngôn sứ (x. Lc 7, 16-17).

Mà chính Đức Giêsu cũng nhận mình là ngôn sứ (Lc 4, 24; 13, 33).

“Ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?”

Hêrôđê tò mò muốn biết Ngài là ai.

Ông không tin Đức Giêsu là Gioan bị chém đầu, nay sống lại.

Và ông tìm cách gặp mặt Ngài (c. 9).

Hêrôđê đã được gặp Đức Giêsu trong cuộc Khổ Nạn (Lc 23, 6-12).

Lúc ấy Ngài xuất hiện trong tư cách một phạm nhân.

Dù vậy Hêrôđê cũng vui sướng vì ước ao của mình được thỏa nguyện.

Ông đã nghe Ngài làm được những phép lạ lớn lao,

nên ông ước mong được chứng kiến tận mắt một vài phép lạ.

Tiếc thay Đức Giêsu đã không muốn chiều Hêrôđê.

Ngài đã không trả lời ông, cũng chẳng làm một phép lạ nào.

Ngài thanh thản bình an trước những lời tố cáo của các thượng tế.

Ngài không muốn tránh cái chết mà Ngài biết nằm trong ý định của Cha.

“Ông này là ai ?”, Hêrôđê đã tìm thấy câu trả lời khiến ông bị hụt hẫng.

Giêsu chỉ là một anh khờ dại, chỉ đáng bị khinh bỉ và chế giễu.

Cuộc tìm kiếm với nhiều tò mò của Hêrôđê kết thúc.

Ông chẳng bao giờ biết được Đức Giêsu thật sự là ai.

Nhiều người đã đặt câu hỏi: “Ông Giêsu này là ai?” (Lc 5,21; 7,49; 8,25).

Hôm nay nhân loại vẫn đặt câu hỏi quan trọng đó.

Để trả lời, phải bước vào một cuộc hành trình, bỏ lại những thành kiến.

Tò mò, thích những điều giật gân, muốn thấy những điều lạ thường:

tất cả những điều ấy không giúp ta khám phá mầu nhiệm một con người.

Sự thật về Giêsu có khi lại được nhận ra qua cái im lặng cam chịu,

qua sự bất lực đớn đau trên thập giá hơn là qua sự thi thố quyền năng.

Phải đổi toàn bộ cái nhìn của mình để nhận ra được Giêsu là ai,

để không vội vã đánh giá Ngài dựa trên tiêu chuẩn người đời.

Như Hêrôđê, chúng ta có thể có cơ hội gặp mặt Giêsu,

nhưng vẫn không biết Ngài là ai.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

khi đến với Chúa

con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con

con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,

con đóng lại bút viết: các quan điểm của con,

con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,

để con được ở một mình với Ngài,

lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.

Sau khi được ở với Ngài,

con sẽ xỏ giày vào

để đi theo đường của Chúa,

con sẽ đeo đồng hồ

để sống trong thời gian của Chúa,

con sẽ đeo kính vào

để nhìn thế giới của Chúa,

con sẽ mở bút ra

để viết những tư tưởng của Chúa,

con sẽ cầm chìa khóa lên

để mở những cánh cửa của Chúa.

(Graham Kings)

Thứ Sáu Tuần 25 Thường niên:

Anh em bảo Thầy là ai?

Lời Chúa: Lc 9, 18-22

18 Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: "Dân chúng nói Thầy là ai? "19 Các ông thưa: "Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại."20 Người lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? " Ông Phê-rô thưa: "Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa."21 Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai.22 Người còn nói: "Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy."

Suy niệm:

Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã đi cầu nguyện một mình,

trước khi đặt những câu hỏi quan trọng cho các môn đệ.

“Dân chúng nói Thầy là ai ?” (c. 18).

Ngài muốn biết dư luận nghĩ gì về mình.

Nói chung họ nghĩ Ngài là một ngôn sứ đầy quyền năng (x. Lc 24, 19).

Điều đó đúng nhưng không đủ.

Đức Giêsu mong nghe ý kiến của những người đã ở gần Ngài hơn.

“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (c. 20).

Phêrô đại diện anh em trả lời: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.”

Câu trả lời này đúng hơn và đủ hơn,

nhưng cũng dễ gây hiểu lầm và chưa đến lúc cần công bố.

Chính vì thế Đức Giêsu đã cấm các môn đệ không được tiết lộ (c. 21).

Phêrô đã trả lời đúng, vì Thầy Giêsu quả là Đấng Kitô

hay còn gọi là Đấng Mêsia mà dân Do Thái mong đợi từ bao đời.

Nhưng Phêrô có thể hiểu sai khuôn mặt của Đấng Mêsia đó.

Mêsia Giêsu không phải là người sẽ giải phóng Ítraen khỏi ách Rôma,

cũng không phải là người muốn nắm quyền lực trần thế.

Nhưng Ngài sẽ phải chịu khổ hình và bị giết chết bởi giới lãnh đạo (c. 22).

Mêsia Giêsu mang khuôn mặt đau khổ của Người Tôi Trung.

Phêrô đã đi theo Mêsia nào?

Nếu ông biết số phận bi đát đang chờ đợi Thầy của ông,

ông có còn muốn theo Ngài nữa không?

“Còn con, con bảo Thầy là ai?”

Đức Giêsu cũng hỏi từng người chúng ta như vậy, nhiều lần trong đời.

Tôi phải trả lời, vì tôi không nên đi theo Đấng mà tôi không biết là ai.

Tôi nghe câu hỏi trên ở mọi chặng đường của cuộc sống,

và có thể đưa ra những câu trả lời khác nhau, dựa trên kinh nghiệm,

bởi lẽ Đức Giêsu là một Mầu nhiệm không ngừng mở ra cho tôi.

Qua từng biến cố trong đời, tôi lại khám phá ra những nét mới nơi Ngài.

Ngài vẫn là một, nhưng mang nhiều dáng dấp khác nhau khi đến với tôi,

để đáp lại những khát vọng sâu thẳm nơi trái tim.

Nhưng trả lời câu hỏi của Thầy Giêsu không hẳn đã là điều quan trọng.

Điều quan trọng là sống câu trả lời của mình.

Đời tôi là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi đó.

Nếu tôi coi Ngài là Thầy, xin được ngồi nghe và để Thầy uốn nắn.

Nếu tôi coi Ngài như Bạn, xin được dành giờ để tâm sự, sẻ chia.

Nếu tôi tin Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người,

xin được cúi đầu thờ lạy trước tình yêu khiêm hạ.

Nếu tôi gọi Ngài là Chúa, xin được hiến trọn đời mình

để cùng Ngài phục vụ cho kế hoạch cứu độ của Cha.

Nếu tôi gọi Ngài là Đấng Giải Phóng, xin Ngài cho tôi được tự do,

và cho tôi được cộng tác với Ngài giúp thế gian ra khỏi vòng nô lệ.

Cuối cùng, nếu tôi biết rõ Ngài yêu tôi cách độc nhất,

xin để cho đời mình đáp lại tình yêu.

Cầu nguyện:

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ cõi chết đến sự sống,

từ lầm lạc đến chân lý.

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ thất vọng đến hy vọng,

từ sợ hãi đến tín thác.

Xin hãy dẫn dắt con

đi từ ghen ghét đến yêu thương,

từ chiến tranh đến hòa bình.

Xin hãy đổ đầy bình an

trong trái tim chúng con,

trong thế giới chúng con,

trong vũ trụ chúng con.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

Thứ Bảy Tuần 25 Thường niên:

Không hiểu lời đó

Lời Chúa: Lc 9, 43b-45

44 "Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời."45 Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn bí ẩn, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa. Nhưng các ông sợ không dám hỏi lại Người về lời ấy.

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai.

Bài này nằm ngay sau chuyện Đức Giêsu trừ quỷ cho một bé trai.

Quyền năng trừ quỷ của Ngài làm mọi người kinh ngạc, bỡ ngỡ (c. 43).

Chính vào giây phút thành công vẻ vang này,

Đức Giêsu lại bất ngờ tiên báo về cuộc Thương Khó sắp đến.

“Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” (c. 44).

Một Giêsu đầy uy lực sẽ phải lùi bước trước một thế lực khác.

Một Giêsu có quyền năng cao cả của Thiên Chúa lại phải chịu thua.

Hẳn lời tiên báo này đã làm các môn đệ hết sức bối rối.

Thánh Luca nhấn mạnh đến chuyện họ không hiểu:

“Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó bị che khuất khỏi các ông,

đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa” (c. 45).

Điều gì đã che khuất ý nghĩa của lời Đức Giêsu tiên báo

về việc mình sắp bị nộp, phải chịu đau khổ và chịu chết?

Lý do đầu tiên có thể là lòng ham muốn quyền lực.

Ngay sau đoạn Tin Mừng này, các môn đệ vẫn loay hoay với vấn đề

ai là người lớn nhất trong nhóm (c. 46).

Sau bữa Tiệc ly, Đức Giêsu đã nhận mình là người phục vụ (Lc 22, 27).

Việc phục vụ suốt đời này lên đến cao điểm nơi cái chết hy sinh.

Các môn đệ thì chỉ thích làm lớn, làm đầu, hơn là phục vụ,

nên chẳng lạ gì nếu họ không hiểu được con đường Thầy sắp đi,

con đường hẹp, nơi cái tôi như bị xóa bỏ, để hiến dâng.

Có lý do khác khiến các môn đệ không hiểu được lời tiên báo của Thầy.

Đó là khi quá nôn nóng mong đợi ngày Thầy đến trong vinh quang,

họ đã quên việc Thầy phải trải qua khổ đau và cái chết trước đã.

Họ tưởng Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi (Lc 19, 11),

và tưởng Thầy Giêsu sẽ cứu chuộc Ítraen ngay lập tức (Lc 24, 21).

Ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh, họ đã hỏi Ngài (Cv 1, 6):

“Có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không?”

Các môn đệ nóng lòng mong đợi vinh quang cho Thầy,

thật ra là mong đợi vinh quang cho chính họ.

Họ bị ám ảnh về quyền lực, cũng là ám ảnh về vinh quang,

nên thất bại và cái chết nhục nhã là điều họ khó hiểu và khó chấp nhận.

Như các môn đệ, chúng ta cũng không hiểu được

làm sao một ngôn sứ như Đức Giêsu lại có thể bị loại trừ và thủ tiêu.

Chúng ta không chấp nhận vai trò của đau khổ, nhục nhã và cái chết,

trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa (Lc 24, 25-27).

Đức Giêsu đã phải soi sáng cho hai môn đệ Emmau về mầu nhiệm này.

Chúng ta cũng phải đối diện với mầu nhiệm đau khổ nơi chính mình.

Và chúng ta thường thấy nó vô nghĩa, vô lý, vô duyên.

Đau khổ mãi mãi là một mầu nhiệm mà chúng ta muốn chối bỏ vì sợ hãi.

Kitô giáo đã không dạy ta con đường tránh đau khổ bằng mọi giá.

Đức Giêsu đã giang tay đón lấy đau khổ với một tình yêu bao dung,

lập tức đau khổ ấy có ý nghĩa và nở hoa.

Nơi thập giá chúng ta thấy rõ nhất tình yêu vô lượng của Cha,

và tình yêu mênh mông của Đức Giêsu đối với nhân loại.

Nơi thập giá chúng ta thấy sự kinh khủng của tội ác con người,

và sự tha thứ vô bờ của Thiên Chúa.

Như thế là ta đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa của thập giá và đau khổ.

Thật ra các môn đệ chỉ hiểu được cuộc Thương Khó nhờ Phục Sinh.

Khi sống lại, Chúa Giêsu cho tất cả những cái vô lý một ý nghĩa.

Khi được nếm trước mầu nhiệm phục sinh ngay từ đời này,

chúng ta thấy dễ đón nhận đau khổ hơn.

Hãy mạnh dạn hỏi Đức Giêsu về ý nghĩa cuộc Thương Khó của Ngài,

cuộc Thương Khó của cả nhân loại và của chính bản thân tôi.

Đừng sợ hỏi, nhưng “hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời Ngài nói” (c. 44).

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu phục sinh

Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,

xin cho con biết sống

cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,

Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.

Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.

Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.

Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.

Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.

Vượt qua những thành kiến con có về người khác...

Chính vì Chúa đã phục sinh

nên con vui sướng và can đảm vượt qua,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh

gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,

tin tưởng và niềm vui.

Ước gì ai gặp con

cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.

Thứ Hai Tuần 26 Thường niên:

Người nhỏ nhất

Lời Chúa: Lc 9, 46-50

46 Một câu hỏi chợt đến với các ông: trong các ông, ai là người lớn nhất?47 Đức Giê-su biết điều các ông đang tự hỏi trong lòng, liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình48 và nói với các ông: "Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất."49 Ông Gio-an lên tiếng nói: "Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng với chúng con đi theo Thầy."50 Đức Giê-su bảo ông: "Đừng ngăn cản người ta. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta! "

Suy niệm:

Phá kỷ lục là ước mơ của các vận động viên.

Làm sao phá kỷ lục của quốc gia, của vùng, của châu lục và thế giới?

Để phá kỷ lục cần có thành tích vượt hơn người đang giữ nó.

Chỉ cần chạy nhanh hơn một phần ngàn giây,

nhảy cao hơn hay xa hơn một centimét,

cũng đủ để làm một kỷ lục đứng vững nhiều năm bị phá đổ.

Nhưng không phải chỉ các vận động viên mới thích phá kỷ lục.

Các nước cũng tranh nhau xem ai là cường quốc về một lãnh vực nào đó.

Có vẻ cả nhân loại đều ở trong một cuộc đua tranh xem ai đứng đầu.

Có những cuộc đua tranh lành mạnh, thúc đẩy tiến bộ.

Nhưng cũng có những cuộc đua tranh dẫn đến chiến tranh và hủy diệt.

Các môn đệ vẫn loay hoay với một câu hỏi trong đầu:

“Trong các ông, ai là người lớn nhất ?” (c. 46).

Thầy Giêsu muốn dạy cho họ một bài học rất gợi hình,

nên đem một em nhỏ đến và trân trọng đặt em đứng bên cạnh (c. 47)

Thầy đồng hóa mình với em nhỏ yếu đuối và không có địa vị ấy:

ai tiếp đón em này là tiếp đón chính Thầy.

Thầy cũng cho biết, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón chính Thiên Chúa (c. 48).

Như thế một em nhỏ bình thường là con đường dẫn ta gặp gỡ Đức Giêsu,

và gặp gỡ chính Thiên Chúa siêu việt.

Để tiếp đón Thiên Chúa và Đức Kitô trong đời,

ta phải sẵn sàng tiếp đón những người yếu kém và nhỏ bé nhất trong xã hội.

Khi các môn đệ bị ám ảnh bởi chuyện làm lớn

thì Thầy Giêsu đem lại cho họ một em nhỏ,

và cho thấy sự cao trọng lớn lao của em trong cái nhìn của Thiên Chúa.

Câu trả lời của Thầy đã rõ: kẻ nhỏ nhất chính là người lớn nhất trong anh em.

Vượt ra khỏi sự tranh chấp trong nhóm,

bây giờ các môn đệ lại phải đối diện với một người trừ quỷ ở ngoài nhóm.

“Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng chúng con đi theo Thầy.”

Tại sao một người ở ngoài nhóm lại dám lấy danh Thầy mà trừ quỷ?

Lẽ ra việc dùng danh Thầy phải là độc quyền của chúng con.

Người ấy không được chiếm lấy sự thành công và tăm tiếng

mà chỉ những ai theo Thầy như chúng con mới được hưởng.

Các môn đệ đã có thái độ cục bộ và bè phái.

Họ cần cởi mở và khoan dung hơn với những người ngoài.

Danh Thầy Giêsu là quà tặng cho cả thế giới, chứ không cho riêng môn đệ.

Ai cũng có thể đến múc lấy sức mạnh từ Danh ấy và sẻ chia.

Thầy Giêsu mời các môn đệ bước ra khỏi sự hẹp hòi khép kín,

để vui vẻ kính trọng một người tuy không thuộc nhóm mình,

nhưng làm được những việc mà có khi mình không làm nổi (Lc 9, 40).

Danh Giêsu được tôn vinh: đó là điều chúng ta nhắm tới.

Chúng ta chỉ mong sức mạnh của Danh này làm thế giới được trừ quỷ.

Chỉ mong ai đó đang ở ngoài nhóm và đang trừ quỷ nhờ Danh Giêsu,

sẽ có ngày trở thành người môn đệ trong nhóm.

Cầu nguyện:

Lạy Cha,

xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau

trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.

Xin cho chúng con đến với nhau

không chút thành kiến,

và tin tưởng vào thiện chí của nhau.

Khi cộng tác với nhau,

xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,

nhờ đó chúng con vượt qua

những tự ái nhỏ nhen,

những tham vọng ích kỷ

và những định kiến cằn cỗi.

Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,

để tìm kiếm chân lý

ở mọi nơi và mọi người,

nhất là nơi những ai khác quan điểm.

Lạy Cha,

xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,

để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,

và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.

Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,

xin cho chúng con được triển nở không ngừng

và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.

Thứ Ba Tuần 26 Thường niên:

NHẤT QUYẾT LÊN GIÊRUSALEM

Lời Chúa: Lc 9, 51-56

51 Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem.52 Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến.53 Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem.54 Thấy thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không? "55 Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông.56 Rồi Thầy trò đi sang làng khác.

Suy niệm:

Sống là lên đường.|

Hai lần tiên báo về cái chết sắp đến

cho thấy Đức Giêsu biết rõ con đường mình sắp đi,

và những gì sẽ xảy ra ở cuối đường (Lc 9, 22. 44).

Bị bắt, bị nộp, bị loại bỏ, bị giết chết,

là những điều tự nhiên ai cũng gớm ghét, sợ hãi và muốn né tránh.

Đức Giêsu cũng vậy, vì Ngài mang trọn phận người như ta.

“Đức Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem” (c. 51).

Lên Giêrusalem là một quyết định đắn đo và nghiêm túc,

cũng là một chọn lựa tự do và can đảm của Đức Giêsu,

bởi lẽ lên đó là chấp nhận đối diện với cái chết bi đát.

Giêrusalem là trung tâm hoạt động của các nhà lãnh đạo Do-thái giáo,

những người đang âm mưu bắt được Đức Giêsu để thủ tiêu.

Muốn được sống yên thân, Đức Giêsu chỉ cần đừng lên thành đô ấy,

chỉ cần giới hạn hoạt động của mình ở Galilê.

Lên Giêrusalem trong tình thế dầu sôi lửa bỏng như bây giờ

là làm một cuộc Xuất Hành mới (Lc 9, 31), đầy bất trắc hiểm nguy.

Nhưng Đức Giêsu không sợ đến với nơi Cha muốn mình đến :

“Hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi,

vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được” (Lc 13, 33).

Giêrusalem là nơi Đức Giêsu hiến mình qua cái chết vì vâng phục,

nhưng Giêrusalem cũng là nơi Ngài được phục sinh và rước lên trời (c. 51).

Tin Mừng Luca coi việc lên Giêrusalem như một hành trình dài (9, 51-19, 27).

Ngài cố ý đi ngang qua vùng đất của người Samari.

Giữa người Do-thái và người Samari có sự xung khắc.

Người Do-thái khinh người Samari, người Samari thù người Do-thái.

Chính vì thế khi biết nhóm Thầy trò lên đường đi Giêrusalem dự lễ,

người dân một ngôi làng Samaria đã từ chối tiếp đón.

Giacôbê và Gioan, từng được Thầy gọi là con của thiên lôi (Mc 3, 17),

đã muốn xin cho mình được chia sẻ quyền năng trừng phạt của Thầy.

Họ muốn làm như ngôn sứ Êlia ngày xưa (2 V 1, 10. 12),

“khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy bọn chúng” (c. 54).

Nhưng Thầy Giêsu, người dẫn đầu, đã quay lại quở mắng hai ông.

Ngài chẳng bao giờ dùng quyền lực để trừng phạt kẻ từ chối mình.

Ngài sống điều Ngài đã giảng cho các môn đệ (Lc 6, 29).

Làm sao có thể giết người khác chỉ vì họ không đón nhận mình?

Quyền lực của Thiên Chúa không đe dọa, không áp đặt,

cũng không bóp chết tự do mà Ngài đã ban cho con người.

Sự bao dung của Đức Giêsu cho ta thấy sự bao dung của Thiên Chúa.

Chúng ta có thể học được nhiều điều từ thái độ này.

Như các môn đệ, chúng ta cũng thích thi thố quyền lực.

Chúng ta cũng thích dùng lửa khi có lửa trong tay.

Chúng ta không chấp nhận một kitô giáo có vẻ yếu đuối, chịu lép vế.

Thầy Giêsu và các học trò đã đi sang làng khác (c. 56).

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

Xin dạy con luôn tươi tắn, dịu dàng

Trước mọi biến cố của cuộc sống,

Khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,

Hay gặp sự bất trung, bất tín

Nơi những người con tin tưởng cậy dựa,

Xin giúp con gạt mình sang một bên

Để nghĩ đến hạnh phúc người khác,

Giấu đi những nỗi phiền muộn của mình

Để tránh cho người khác phải đau khổ.

Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,

Để đau khổ làm con thêm mềm mại,

Chứ không cứng cỏi hay cay đắng,

Làm con nhẫn nại chứ không bực bội,

Làm con rộng lòng tha thứ,

Chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.

Ước gì không ai sút kém đi

Vì chịu ảnh hưởng của con,

Không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,

Lòng cao thượng, tử tế,

Chỉ vì đã là bạn đồng hành của con

Trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.

Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,

Xin cho con có lúc

thì thầm với Chúa một lời yêu thương.

Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,

Tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,

Và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen

(dịch theo learning Christ)

Thứ Tư Tuần 26 Thường niên:

Trước đã

Lời Chúa: Lc 9, 57-62

Đang khi Thầy trò Đức Giêsu đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” Đức Giêsu nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” Đức Giêsu bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.” Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”

Suy niệm:

Theo một tôn giáo thường được gọi là theo đạo.

Theo đạo là theo một con đường.

Ðiều này đặc biệt đúng đối với Kitô giáo (x. Cv 9,2).

Làm môn đệ Ðức Kitô là theo Ngài trên con đường Ngài đi,

con đường đất quanh co trong xứ Palestine

hay con đường đầy chông gai nhọc nhằn của sứ vụ.

Ðức Kitô chẳng những dạy Ðạo, Ngài còn là Ðạo (x. Ga 14,6).

Theo đạo là theo một ngôi vị hơn là theo một giáo lý.

Sống đạo là sống như Ngài, với Ngài, cho Ngài và trong Ngài.

Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại chuyện ba người muốn theo Chúa.

Chúng ta chẳng biết họ là ai,

cũng chẳng rõ cuối cùng họ có theo Chúa hay không,

nên mỗi người chúng ta dễ thấy mình nơi hình ảnh họ,

để rồi chúng ta phải đưa ra lời đáp trả riêng của mình.

Người thứ nhất hăng hái xin theo Ngài đi bất cứ nơi đâu.

Ðức Giêsu không giấu anh hoàn cảnh bấp bênh của mình.

Ngài sống cuộc đời phiêu bạt, không mái nhà để trú,

lúc nào cũng ở trong tư thế lên đường.

Chấp nhận theo Ngài là chịu bỏ mọi an toàn, ổn định,

là sống thân phận lữ khách trên mặt đất (x. 1Pr 2,11).

Theo Ngài là theo Ðấng có chỗ tựa đầu,

chỗ tựa đầu tiên là máng cỏ, chỗ tựa cuối là thập giá.

Cuộc sống nghèo làm Ngài tự do hơn, sẵn sàng hơn

trước những đòi hỏi bất ngờ của Cha và nhân loại.

Người thứ hai chấp nhận theo Chúa với điều kiện

cho anh về chôn cất người cha mới qua đời trước đã.

Anh muốn chu toàn bổn phận thiêng liêng của người con.

Ðức Giêsu coi trọng việc hiếu kính mẹ cha (x. Mt 15,3-9),

nhưng Ngài đòi anh dành ưu tiên cho việc loan báo Tin Mừng.

Câu trả lời của Ngài làm chúng ta bị sốc.

Loan báo Tin Mừng ư? Cần gì phải vội vàng đến thế!

Dầu sao cái sốc giúp ta nhận ra mình vẫn quen thờ ơ

trước một bổn phận thiêng liêng và hết sức cấp bách.

Người chết nằm xuống thật đáng kính trọng.

nhưng có bao người sống đang cần phục vụ khẩn trương.

Người thứ ba xin về từ giã gia đình trước đã.

Ðức Giêsu đòi anh dứt khoát thẳng tiến như người cầm cày,

không quay lại với những kỷ niệm quá khứ,

cũng không bị cản trở bởi những ràng buộc gia đình,

để tận tâm tận lực lo cho Nước Thiên Chúa.

Trong đời sống, nhiều lúc ta phải chọn lựa.

Chọn lựa là chấp nhận hy sinh, bỏ một trong hai.

Ðức Giêsu không dạy ta sống vô cảm hay bất hiếu...

Ngài dạy ta can đảm tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã.

Có bao nhiêu cái trước đã chi phối đời ta?

Ðâu là lựa chọn ưu tiên một?

Chúng ta cần sắp xếp lại thứ tự các ưu tiên cho đúng.

Nếu Ðức Giêsu gặp tôi hôm nay và mời tôi theo Ngài,

tôi có xin phép Ngài để làm cái gì đó trước đã không?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

giàu sang, danh vọng, khoái lạc

là những điều hấp dẫn chúng con.

Chúng trói buộc chúng con

và không cho chúng con tự do ngước lên cao

để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con

khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,

nhờ cảm nghiệm được phần nào

sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi

bán tất cả những gì chúng con có,

để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng

trước những lời mời gọi của Chúa,

không bao giờ ngoảnh mặt

để tránh cái nhìn yêu thương

Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.

Thứ Năm Tuần 26 Thường niên:

Như chiên con

Lời Chúa: Lc 10, 1-12

Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.2 Người bảo các ông: 3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường.5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này! "6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia.8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em.9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."10 Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói:11 "Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần."12Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn thành đó."

Suy niệm:

Đức Giêsu sai các môn đệ của mình đi trước,

từng hai người một, vào mọi thành phố và mọi nơi Ngài sẽ đến.

Sứ mạng dọn đường này không dễ chút nào.

Đức Giêsu biết rõ những hiểm nguy và chống đối đang chờ đợi họ.

“Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói.” (c. 3).

Chiên con trở nên hình ảnh của người môn đệ,

yếu đuối, không có khả năng chống cự khi gặp sự tấn công hung hãn.

Chính Đức Giêsu cũng là Chiên Con được Thiên Chúa sai đi.

Chính Ngài cũng “như chiên bị đem đi làm thịt,

như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53, 7).

Người môn đệ được sai vào thế giới mãi mãi thấy mình mong manh,

trước thế lực tưởng như không thể thắng nổi của sự dữ.

Nhưng người môn đệ lại không được trang bị nhiều:

không túi tiền, không bao bị, không giầy dép,

dù đó là những điều bình thường thiết yếu cho một cuộc hành trình.

Chính vì thế họ buộc lòng phải cậy dựa vào người khác.

Mà không phải ai cũng có lòng, ai cũng vui vẻ đón nhận.

Như thế là chấp nhận liên tục bấp bênh,

liên tục cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa.

Nhà của các tín hữu là nơi hoạt động của người môn đệ.

Căn nhà là nơi các môn đệ được trú ngụ, được chia sẻ bữa ăn.

Họ sống gần gũi như người trong nhà, như người thợ làm việc.

Nếp sống giản dị và siêu thoát của họ phải được bày tỏ

qua việc chấp nhận mọi đồ ăn thức uống người ta dọn cho (cc. 7-8),

cũng như việc không đi tìm một căn nhà khác tiện nghi hơn (c. 7).

Ngoài ra các thành phố cũng là điểm đến của họ (cc. 8-12).

Nhưng dù là vào một căn nhà hay vào một thành phố (cc. 5. 8),

thái độ của người môn đệ đều rất tích cực và thân thiện.

Họ chúc bình an, chữa bệnh, loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần.

Họ cũng khiêm tốn chấp nhận bị từ chối,

khi ơn bình an không được đón nhận, lời loan báo không được lắng nghe.

Những lời dặn dò của Đức Giêsu ngày xưa, bây giờ vẫn còn giá trị.

Chúng ta vẫn tiếp tục được sai vào các thành phố hôm nay.

Có biết bao người cần được chữa lành về thân xác, tinh thần,

với những thứ bệnh mới của thời đại được coi là văn minh.

Có bao người cần được nghe một lời đem lại cho đời họ chút hy vọng.

Được sai vào thành phố thế kỷ 21 để rao giảng, thật là một thách đố.

Làm sao ta có can đảm nói về Nước Trời cho những người vô tín,

và những người bị cuốn vào cơn lốc của vật chất và khoái lạc ?

Làm sao nói về Đấng Vô Hình khi nhiều người chỉ tin vào cái hữu hình ?

Người môn đệ hôm nay vẫn phải lại gần con người để chia sẻ cuộc sống,

như xưa các môn đệ xưa đã sống chung, ăn chung,

và làm việc như một người thợ để phục vụ.

Giáo Hội vẫn cần xin nhiều thợ hiền lành và can đảm để đến với thế giới.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu thương mến,

xin ban cho chúng con

tỏa lan hương thơm của Chúa

đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con

bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con

để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,

để những người chúng con tiếp xúc

cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,

không phải bằng lời nói suông,

nhưng bằng cuộc sống chứng tá,

và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

Thứ Sáu Tuần 26 Thường niên: (Thiếu)

Thứ Bảy Tuần 26 Thường niên : Thiếu Lc 10, 17-24

Thứ Hai Tuần 27 Thường niên:

Hãy đi và làm như vậy

Lời Chúa: Lc 10, 25-37

25 Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp26 Người đáp: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào? "27 Ông ấy thưa: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình."28 Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."29 Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi? "30 Đức Giê-su đáp: "Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết.31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi.32 Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi.33 Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương.34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc.35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác."36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? "37 Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."

Suy niệm:

Trong Tin Mừng Mátthêu và Máccô (Mt 22, 36; Mc 12, 28)

vị luật sĩ đặt câu hỏi về điều răn nào là điều răn lớn nhất.

Còn theo Tin Mừng Luca, vị này lại hỏi Đức Giêsu

về việc phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (c. 25).

Đức Giêsu nghĩ rằng câu trả lời đã có trong sách Luật, nên Ngài hỏi lại ông.

Ông này đã trích sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 để trả lời.

Động từ yêu mến diễn tả thái độ đối với Thiên Chúa và người thân cận :

“Hãy yêu mến Thiên Chúa với tất cả trái tim con, với tất cả linh hồn con,

với tất cả sức lực con và với tất cả trí khôn con,

và người thân cận như chính mình” (c. 27).

Đức Giêsu khen ông trả lời đúng và khích lệ ông (c. 28).

Như thế giữa Ngài và vị thầy Do thái giáo đã có sự nhất trí nào đó.

Tình yêu không phải là một đòi hỏi mới của Kitô giáo,

nhưng tình yêu đã là điều cốt yếu của Do thái giáo từ xưa.

Vấn đề là phải yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim, linh hồn, sức lực và trí khôn.

Từ tất cả được lặp lại bốn lần để nói lên một đòi hỏi tận căn, trọn vẹn.

Nhưng Đức Giêsu còn phải trả lời cho vị luật sĩ câu hỏi:

Ai là người thân cận của tôi ?

Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi này bằng một dụ ngôn nổi tiếng,

qua đó ngài đã mở rộng quan niệm truyền thống về người thân cận.

Một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô.

Anh phải vượt qua đoạn đường dài gần 25 cây số.

Đoạn đường này thời bấy giờ có nhiều trộm cướp.

Anh đã bị bọn cướp trấn lột, đánh nhừ tử và đặt nằm đó nửa sống nửa chết.

Anh bị cướp này là ai, chúng ta không rõ.

Chỉ biết anh đang rất cần sự trợ giúp của người khác.

Nhìn vào tình cảnh bi đát của anh, có ai muốn thương giúp anh không?

Có ba người đi qua chỗ anh nằm, một là thầy tư tế, hai là thầy Lêvi,

Cả hai đều có phản ứng giống nhau: thấy và tránh qua bên kia mà đi.

Chúng ta không rõ tại sao họ làm thế.

Có thể vị tư tế sợ mình bị ô nhơ qua việc đụng chạm đến xác chết,

vì sách Lêvi 21, 1-3 cấm không được làm thế, trừ phi là xác bà con gần.

Nhân vật thứ ba đi ngang qua nạn nhân là một người Samari.

Hầu chắc nạn nhân là một người Do Thái,

vì không có chi tiết nào cho thấy anh ấy là dân ngoại cả.

Giữa người Do Thái và người Samari vốn có mối hiềm thù lâu đời.

Người Samari cũng thấy như hai người trước,

nhưng đó không phải là cái nhìn lạnh lùng, vô cảm.

Anh thấy bằng trái tim của mình, chính vì thế anh chạnh lòng thương,

điều mà hai người trước không có.

Mọi sự phải bắt đầu từ trái tim, không có sức thúc đẩy của tim thì tay bất động.

Người Samari đã làm một loạt hành động cụ thể :

lấy dầu và rượu đổ lên vết thương, băng bó, đặt nạn nhân trên lưng lừa,

đưa về quán trọ săn sóc, ở lại quán trọ nguyên ngày hôm ấy,

trả tiền cho chủ quán và hứa sẽ trở lại trả thêm nếu cần.

Tất cả những hành động này khởi đi từ lòng thương xót (Lc 10,33).

Lòng thương xót thật sự khiến ta chấp nhận mất công, mất của, mất giờ,

và có thể mất mạng nữa, vì có thể tên cướp vẫn còn núp đâu đây.

Khi giúp cho kẻ lâm nạn, dù đó là một người Do Thái kẻ thù của mình,

người Samari đã làm một phép lạ lớn,

đó là biến mình trở thành người thân cận với anh ấy,

và biến anh ấy trở thành người thân cận của mình.

Đây là phép lạ của tình thương phá vỡ và vượt qua mọi biên giới

của chủng tộc, tôn giáo và nhất là vượt qua những thù oán lâu đời.

Để trả lời câu hỏi của vị luật sĩ: ai là người thân cận của tôi ?

Đức Giêsu đặt câu hỏi ngược lại cho vị luật sĩ:

“Theo ông, trong ba người, ai đã trở thành người thân cận với kẻ bị nạn ?”

Câu hỏi quá dễ, nhưng hàm chứa một điều mới mẻ sâu xa.

Trước khi giúp một người, không nên tự hỏi người này có thân cận với tôi không.

Chúng ta không chỉ giúp những người thân cận và loại trừ người khác.

Chúng ta giúp một người chỉ vì người đó cần chúng ta.

Khi giúp, chúng ta trở thành người thân cận với người ấy, và ngược lại.

Ai được ta giúp đỡ thì người ấy trở nên thân cận với ta.

Càng giúp nhiều ta càng có nhiều người thân cận.

Đức Giêsu kết luận: Hãy đi và hãy làm như vậy.

Đất nước chúng ta đã giàu lên đáng kể, nhưng vẫn không thiếu người nghèo,

nghèo sức khỏe, nghèo tri thức, nghèo vật chất tối thiểu, nghèo nhân phẩm…

Chúng ta cũng bị cám dỗ “tránh sang bên kia đường”,

thấy mà làm như không thấy những Ladarô nằm trước cửa.

Yêu những người nghèo như chính mình, thương người như thể thương thân:

Đó là cách chúng ta rao giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau

để làm thành một vòng tròn khép kín.

Sau đó chúng con hiểu rằng

cần phải buông tay nhau

để nhận những người bạn mới,

để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng

và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng

cần phải nối vòng tay lớn

uyên qua các đại dương và lục địa.

vòng tay người nối với người,

vòng tay con người nối với Tạo Hóa.

Chúng con thích Chúa

đứng chung một vòng tròn

với tất cả loài người chúng con,

nắm lấy tay chúng con

và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá

giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau

và nhận nhau là anh em.

Thứ Ba Tuần 27 Thường niên:

Chọn phần tốt hơn

Lời Chúa: Lc 10, 38-42

38 Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà.39Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy.40 Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay! "41 Chúa đáp: "Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!42 Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi."

Suy niệm:

Nếu ở Việt Nam mỗi năm có khoảng mười hai ngàn người chết vì tai nạn giao thông,

thì ở Nhật có ba mươi ngàn người tự sát trong năm qua.

Tai nạn giao thông lắm khi do vội vã, không làm chủ được tốc độ.

Tự sát do áp lực của công việc quá lớn, do căng thẳng, do sợ bị khiển trách.

Xem ra cuộc sống hối hả đã dẫn đến nhiều cái chết thương tâm.

Nhiều người chết bất ngờ vì bệnh tim mạch.

Con người hôm nay có nhiều tiện nghi hơn, nhiều thú vui hơn ngày xưa,

nhưng lại thiếu sự thanh thản, bình an, trầm lắng.

Trong bài diễn văn ngày 20-08-2006 tại Castel Gandolfo,

Đức Thánh Cha đã cảnh báo về nguy hiểm khi làm quá nhiều công việc.

Ngài trích lời thánh Bênêđictô: bị quá tải thường dẫn đến sự chai đá của con tim,

tinh thần bị thương tổn, trí khôn bị mất và ơn Chúa bị phân tán.

Ngài khẳng định lời nhắc nhở này cũng áp dụng cả cho ngài và cho mọi người.

Không được đánh mất mình trong công việc :

đó là tâm niệm của người lãnh đạo trên một tỉ người Công Giáo khắp thế giới.

Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một giây phút thư giãn của Đức Giêsu.

Trên con đường nay đây mai đó của một người rao giảng,

Đức Giêsu cũng có lúc dừng chân.

Một ngôi làng quen thuộc, một mái nhà ấm cúng, một bữa ăn ngon,

tất cả như một ốc đảo xanh tươi đem lại cho Thầy trò hạnh phúc

sau những vất vả, nhọc mệt, hiểm nguy và thiếu thốn.

Hầu chắc ngôi làng này ở Bêtania, gần Giêrusalem.

Hai chị em Mácta và Maria đã được nhắc đến trong Tin Mừng Gioan.

Mácta là người đón khách và nấu nướng (Ga 11, 20; 12, 2),

còn Maria thì hay phủ phục dưới chân Đức Giêsu (Ga 11, 32; 12, 3).

Những nét này ta lại thấy trong bài Tin Mừng hôm nay theo Luca.

Mácta vẫn là người ra đón Chúa, Maria vẫn là người ngồi duới chân Chúa.

Một người thiên về hoạt động, một người có vẻ trầm hơn.

Nhưng cả hai đều được Đức Giêsu quý mến (Ga 11, 5).

Chúng ta cần chiêm ngắm cuộc chia sẻ của Đức Giêsu với chị Maria.

Chị ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Người (c.39).

Đức Giêsu là người nói và chị Maria là người nghe.

Ngài có thể đã chia sẻ với chị về đời sống nội tâm và việc tông đồ của ngài.

Được chia sẻ và có người nghe mình chia sẻ là một hạnh phúc.

Còn chị Maria thì sung sướng được ngồi nghe trong tư thế của một môn đệ.

Người ta có cảm tưởng chị có thái độ thụ động khi nghe.

Thật ra để lắng nghe cần tích cực mở tai và mở lòng.

Lắng nghe Lời Chúa là cần trước khi đem ra thực hành.

Mácta đón Chúa vào nhà,

còn Maria đón Lời Chúa vào tâm hồn mình.

Có thể định nghĩa cầu nguyện là ngồi và lắng nghe Chúa nói.

Một số người tưởng cầu nguyện là phải nói thật nhiều cho Chúa nghe.

Thật ra Chúa muốn bày tỏ cho ta những ước mơ của ngài về ta,

nên ta cũng cần dành khoảng lặng cho ngài.

Nghệ thuật đối thoại cũng là nghệ thuật thinh lặng lắng nghe.

Trong khi Maria ngồi nghe Chúa nói,thì Mácta tất bật dưới bếp.

Mácta bối rối về nhiều chuyện phục vụ (peri pollên diakonian, c. 40).

Chị sợ bữa ăn không được chuẩn bị chu đáo và kịp thời.

“Em con để con phục vụ một mình”: chị thấy cô đơn trong công việc.

“mà Thầy không quan tâm sao?”: chị nghĩ lẽ ra Thầy nên để ý chuyện ấy.

“Xin Thầy bảo em giúp con một tay”: chị muốn Maria xuống bếp giúp chị.

Mácta thật là người tốt, chị muốn tiếp đãi Đức Giêsu đàng hoàng.

Nhưng có lẽ chị quên rằng Maria cũng đang tiếp đãi Đức Giêsu,

và ngài rất vui với cách tiếp đãi đó.

Nếu đưa Maria xuống bếp phụ cho chị, thì Thầy Giêsu nói chuyện với ai?

Chúng ta cũng dễ say mê làm việc của Chúa, đến nỗi quên cả việc gặp Chúa.

Có khi chúng ta coi trọng hiệu quả của công việc ta làm cho Chúa

mà quên dành giờ cho Chúa.

Cầu nguyện là ở với Chúa, nghỉ ngơi bên Chúa,

sống tình bạn với Chúa như hai người ngồi bên nhau.

Đức Hồng y Nguyễn văn Thuận nhắc ta đặt Chúa lên trên việc-của-Chúa.

Đức Giêsu thông cảm với nỗi căng thẳng, âu lo của Mácta

thể hiện trên khuôn mặt và giọng nói của chị.

Ngài nhẹ nhàng gọi tên chị hai lần : “Mácta, Mácta ơi !”

“Chị băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện quá!” (peri polla, c.41).

Câu này ngài cũng muốn nói với từng người chúng ta.

Chúng ta cũng lo nhiều chuyện, gánh nhiều trách nhiệm.

“Chỉ có một chuyện cần mà thôi”: ngài mời ta tập trung vào một chuyện cần.

Lo nhiều chuyện làm ta bị phân tán.

“Maria đã chọn phần tốt nhất” :

ngồi dưới chân Chúa là một chọn lựa nghiêm chỉnh giữa những công việc bề bộn.

Đặt Chúa lên trên và lên trước mọi việc khác là một chọn lựa không dễ dàng.

Dù sao Mácta là một thánh nữ, được Giáo Hội kính nhớ trong Phụng vụ.

Chúng ta phải làm Mácta, tận tụy với việc của Chúa, không phải việc của mình,

như thế ta sẽ bình an hơn khi thất bại, khiêm tốn hơn khi thành công.

Chúng ta phải làm Mácta, nhưng không được lo lắng, bôn chôn.

Chúng ta làm mọi việc trong an tĩnh, thư thái, vui tuơi, hài hước,

bởi lẽ Chúa chẳng đòi ta làm quá sức mình.

Chúng ta phải làm Mácta, đảm đang lo nhiều việc, nhưng không được tự hào,

coi thường những người thiếu khả năng, bệnh tật,

hay đánh giá người khác dựa trên hiệu quả công việc.

Chúng ta phải làm Mácta, nhưng không cần ai để ý (c.40).

không coi việc mình làm là quan trọng hơn việc người khác,

vì biết rằng Chúa ban cho mỗi người mỗi việc để phục vụ cho toàn thân.

Cuộc sống hôm nay khiến ta khó làm Maria.

Nhưng phải cố dành giờ để làm Maria mỗi ngày.

Phải thu xếp để được làm Maria, để có người thay mình làm Mácta.

Nghe lời Chúa sẽ dẫn tới hành động: đó là xây nhà trên đá.

Cuối cùng đời sống chúng ta là kết hợp của Mácta và Maria :

vừa đón Chúa như Mácta, vừa tiếp Chúa như Maria,

vừa làm việc của Chúa, vừa gặp gỡ chính Chúa,

vừa hoạt động, vừa chiêm niệm,

nhưng lúc nào cũng hướng về Chúa.

Cầu nguyện:

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,

xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,

xin cho con quý chuộng những lúc

được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,

xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa

để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,

xin cho con thoát được lên cao

nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa,

ước gì tinh thần cầu nguyện

thấm nhuần vào cả đời con.

Nhờ cầu nguyện,

xin cho con gặp được con người thật của con

và khuôn mặt thật của Chúa.

Thứ Tư Tuần 27 Thường niên: Thiếu tìm ngày 6 tháng 10. 2010

Thứ Năm Tuần 27 Thường niên:

Hãy xin thì sẽ được

Lời Chúa: Lc 11, 5-13

Khi ấy, Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: “Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả”; mà người kia từ trong nhà lại đáp: “Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được”. Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh cần, vì thể diện.”

“Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, lại lấy rắn thay vì cá mà cho nó? Hoặc nó xin trứng, mà lại cho nó con bọ cạp? Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người.”

Suy niệm:

Một thách đố lớn đối với đức tin của người Kitô hữu

đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa.

Gặp cơn cùng khốn, con người cầu cứu Ngài

nhưng không nghe thấy tiếng đáp lại.

Người lành bị trù dập, kẻ vô tội bị hàm oan,

nỗi đau khổ thể xác tinh thần vây bọc lấy đời người.

Con người quằn quại, rên xiết, gào thét, nổi loạn.

“Chúng tôi tố cáo Thiên Chúa vì Ngài vắng mặt.”

Ngài không được quyền vắng mặt và thinh lặng.

Nếu Ngài là Thiên Chúa quyền năng,

Ngài phải tiêu diệt sự dữ và kẻ dữ.

Nếu Ngài là Cha yêu thương,

Ngài không thể quay lưng trước nỗi khổ của con người.

Có nhiều người đã lý luận như thế và kết luận:

“Vì có đau khổ, nên không có Thiên Chúa.”

Có lúc người ta tưởng đau khổ là một vấn đề

có thể đem ra mổ xẻ, giải quyết.

Nhưng rồi người ta thấy đó là một mầu nhiệm.

Chỉ ai tin mới đến gần được mầu nhiệm ấy,

và đón nhận nó trong bình an.

Ðức Giêsu đã không trình bày con đường diệt đau khổ,

nhưng Ngài mang lấy đau khổ vào thân.

Trên thập giá, Ngài nghe được sự thinh lặng của Thiên Chúa,

và thấy được sự vắng mặt của Người.

“Lạy Thiên Chúa của tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?”

Như ta, Ngài cũng bước đi trong bóng tối của lòng tin,

dù bị thử thách, vẫn một niềm tín thác:

“Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha.”

Thiên Chúa vẫn là Ðấng toàn năng và yêu thương,

nhưng Ngài hành động không giống điều ta nghĩ.

Ngài không đưa Ðức Giêsu xuống khỏi thập giá

nhưng đưa Con của Ngài ra khỏi nấm mồ,

điều đó khó hơn nhiều.

Hôm nay Ðức Giêsu mời chúng ta cứ xin, cứ tìm, cứ gõ

và tin chắc sẽ được, sẽ thấy, sẽ mở cho.

Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu,

Ngài chỉ ban cho ta những điều tốt lành,

những điều có lợi thực sự cho ta,

những điều làm ta trưởng thành và triển nở,

những điều đưa ta gặp hạnh phúc đích thực,

thứ hạnh phúc không chỉ hạn hẹp ở đời này.

Chúng ta tin Thiên Chúa là Cha nhân hậu,

nhưng Ngài không nuông chiều con cái,

Ngài dám cắt tỉa để chúng ta sai trái hơn.

Bạn hãy cứ cầu xin

nhưng hãy để cho Ngài định liệu,

vì Ngài biết rõ điều gì là tốt hơn cho bạn

trong hoàn cảnh này, ở đây, bây giờ.

Cần cầu nguyện nhiều, bạn mới biết điều bạn phải xin,

vì những điều chúng ta xin còn mang nhiều cặn bẩn.

Lắm khi chúng ta xin rắn mà không hay.

Cũng có khi ta tưởng Chúa cho chúng ta bọ cạp.

Cần có đức tin mới nhận ra rằng

Chúa đã nhận lời mình rồi,

nhưng theo một kiểu khác với kiểu ta muốn.

Cần đợi đến một lúc nào đó bạn mới thấy

mọi biến cố trong đời đều là quà tặng yêu thương.

Cầu nguyện:

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,

những ơn con thấy được,

và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng

con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,

biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ

vì những gì Cha không ban cho con,

và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban

bởi lẽ điều đó có hại cho con,

hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha

dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.

Thứ Sáu Tuần 27 Thường niên:

Ngón tay Thiên Chúa

Lời Chúa: Lc 11, 15-26

15 Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: "Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ."16 Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời.17 Nhưng Người biết tư tưởng của họ, nên nói: "Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia.18 Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được? ... bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ.19 Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông.20 Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.21 Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn.22 Nhưng nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.23"Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.24 "Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói: "Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi."25 Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi.26 Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước."

Suy niệm:

Nếu đời người là một cuộc chiến đấu không ngừng

thì Đức Giêsu khi sống ở đời, cũng không tránh khỏi cuộc chiến ấy.

Cha sai Ngài đến để khai mở Nước Thiên Chúa trên trần gian.

Để làm việc đó, Nước của Xatan cần bị triệt tiêu.

Cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và Xatan là điều không tránh khỏi.

Ngay trước khi bắt đầu sứ vụ,

Đức Giêsu đã phải đối diện với những mồi chài khôn khéo của Xatan.

Và Ngài đã thắng, đã bắt Xatan phải xéo đi cho khuất mắt (Mt 4, 10).

Khi làm việc Cha giao, khi gần gũi với con người,

Đức Giêsu thấy rất rõ sự hiện diện đầy quyền lực của tên tướng quỷ.

Xatan và Nước của nó chi phối và tác động trên con người.

Đức Giêsu là Đấng giải phóng con người khỏi nô lệ bởi Xatan.

Một công việc không ai chối cãi được của Ngài là trừ quỷ.

Nhưng có nhiều cách giải thích chuyện trừ quỷ của Ngài.

Có người coi Đức Giêsu đã trừ quỷ dựa vào thế lực của Bêendêbun.

Bêendêbun là một vị thần xứ Canaan, ở đây được coi là Xatan.

Không thể nào tướng quỷ lại giúp Ngài diệt các quỷ nhỏ của hắn.

Nếu thế Nước của Xatan chẳng thể nào tồn tại đến nay (c. 18).

Đức Giêsu khẳng định mình dùng ngón tay Thiên Chúa để trừ quỷ (c. 20).

Chỉ cần chút quyền năng Thiên Chúa cũng đủ để xua đuổi ác thần,

và khai mở Nước Thiên Chúa giữa lòng thế giới.

Chúng ta thường quên Xatan là nhân vật có thật và hùng mạnh,

có vũ trang đầy đủ để canh giữ lâu đài của hắn cho an toàn (c. 21).

Nhưng Đức Giêsu chính là người hùng mạnh hơn và thắng được hắn.

Ngài có khả năng tước vũ khí và phân chia chiến lợi phẩm (cc. 21-22).

Cuộc chiến của Đức Giêsu chống lại Ác thần vẫn còn kéo dài đến tận thế.

Có những lúc chúng ta tưởng Xatan là kẻ hùng mạnh hơn,

và dường như thế giới nằm dưới móng vuốt của hắn.

Nhưng chiến thắng cuối cùng thuộc về Đức Giêsu, khi Ngài quang lâm.

Chúng ta không đứng ngoài cuộc chiến giữa Đức Giêsu với Xatan.

Chúng ta cùng chiến đấu với Giêsu cho một thế giới không còn tội ác,

một thế giới không còn bạo lực, bất công, thất vọng, muộn phiền,

một thế giới không còn khổ đau, bệnh tật, đói nghèo, mất hướng.

Đứng hẳn về phía Giêsu, đi với Giêsu, thu góp với Giêsu:

đó là chọn lựa của người Kitô hữu (c. 23).

Ngay cả khi đã trục xuất được quỷ dữ khỏi đời mình,

và khi ngôi nhà đời mình đã được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi,

ta cũng phải hết sức cảnh giác, vì có nguy cơ quỷ trở lại.

Sự trở lại này có thể còn kinh khủng hơn trước (c. 26).

Có vẻ quỷ thích ở lại với con người hơn là lang thang nơi hoang mạc,

nên căn nhà tâm hồn của chúng ta cần được bảo vệ bằng lũy hào Lời Chúa.

Xin Đức Giêsu dạy chúng ta biết cách nhận diện kẻ thù,

biết cách đuổi Xatan ra khỏi đời mình và ngăn không cho nó trở lại.

Cầu nguyện:

Lạy Cha từ ái,

đây là niềm tin của con.

Con tin Cha là Tình yêu,

và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.

Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,

cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,

cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,

con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.

Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,

chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất

cũng có một đốm lửa của sự thiện,

được vùi sâu dưới những lớp tro.

Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành

cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.

Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,

thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.

Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.

Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.

Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ

đang chuyển mình tiến về với Cha,

qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu

và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.

Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,

vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,

mọi dị biệt, thành kiến,

để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời

mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.

Lạy Cha, đó là niềm tin của con.

Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.

Thứ Bảy Tuần 27 Thường niên:

Phúc thay lòng dạ

Lời Chúa: Lc 11, 27-28

27 Khi Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm! "28 Nhưng Người đáp lại: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa."

Suy niệm:

Thánh Luca hẳn đã dựa vào một nguồn tài liệu riêng

để viết nên đoạn Tin Mừng rất ngắn này.

Khung cảnh có vẻ diễn ra ở ngoài trời, có đám đông dân chúng.

Đức Giêsu đang giảng dạy, còn dân chúng thì nghe.

Bất ngờ có một phụ nữ cất cao giọng mà nói với Ngài rằng:

“Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú mớm.”

Đây là một lời ca ngợi thân mẫu của Thầy Giêsu.

Người phụ nữ chắc đã rất tâm đắc với những lời Thầy giảng,

nên từ lòng ngưỡng mộ đối với Thầy,

bà đã bật lên lời ngợi khen đối với người mẹ của Thầy.

Bà không ngại nói đến những nét đặc trưng và kín đáo của một người mẹ,

những gì nơi thân xác mẹ cần cho sự sống của con.

Lòng dạ của thân mẫu Thầy đã cưu mang Thầy chín tháng.

Chín tháng đủ để một thai nhi cứng cáp mà nhìn thấy ánh mặt trời.

Chín tháng ấp ủ, mẹ và con gần gũi nhau như là một.

“Và vú đã cho Thầy bú mớm.”

Không phải chỉ chín tháng cưu mang, mà còn ba năm bú mớm.

Mẹ nuôi con bằng chính dòng sữa của mình, sự sống của mình.

để con được lớn lên, có thể đứng đây mà giảng thuyết.

Rõ ràng thân xác mẹ là cái nôi ru cho con lớn lên.

Mẹ vừa lo sinh, vừa lo dưỡng.

Lời khen ngợi của người phụ nữ vang ra cả đám đông.

Khen mẹ chính là khen con một cách gián tiếp.

Phải là một người mẹ tuyệt vời

mới sinh được một người con tuyệt vời đến thế!

Maria có phúc vì Mẹ được chọn để sinh dưỡng Đấng cứu độ.

Bà Êlisabét đã từng lớn tiếng kêu lên mối phúc này (Lc 1, 42) :

“Em có phúc hơn mọi phụ nữ, và phúc cho hoa trái của bụng dạ em.”

Như thế Mẹ có phúc vì Con có phúc.

Đức Giêsu không phản đối hay phủ nhận câu nói của người phụ nữ

đang đứng nghe giảng cùng với đám đông.

Ngài chỉ muốn điều chỉnh cho hợp với bầu khí hiện tại,

khi những người trong đám đông đang ở tư thế lắng nghe.

“Phúc cho những ai lắng nghe và giữ lời của Thiên Chúa.”

Một mối phúc mới tưởng như không liên hệ gì với mối phúc trước,

kỳ thực đó là điều Mẹ Maria đã sống từ lâu.

Ai lắng nghe tiếng Chúa bằng Mẹ? Ai giữ lời Chúa bằng Mẹ?

Trước khi cưu mang Ngôi Lời nơi thân xác,

Mẹ Maria đã đón lấy Lời Chúa vào cuộc đời mình.

Đám đông đang lắng nghe lời Thầy Giêsu.

Họ còn cần tuân giữ lời đó nữa mới được hưởng mối phúc thật sự.

Chúng ta không được ban mối phúc sinh dưỡng Đức Giêsu như Mẹ,

nhưng vẫn được chia sẻ mối phúc nghe và giữ lời Chúa của đám đông.

Cầu nguyện:

Lạy Mẹ Maria,

khi đọc Phúc Âm,

lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.

Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.

Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.

Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.

Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.

Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi

âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,

từ con người hay từ Thiên Chúa.

Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu

trong mọi bước đường của cuộc sống.

Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.

Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con

đừng sợ lên đường mỗi ngày,

đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa

dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu

để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ

đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.

Thứ Hai Tuần 28 Thường niên:

Tìm kiếm dấu lạ

Lời Chúa: Lc 11, 29-32

29 Khi dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói: "Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.30 Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy.31 Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa.32 Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.

Suy niệm:

Theo nhận xét của thánh Phaolô trong thư gửi giáo hữu Côrintô,

“Người Do Thái đòi hỏi dấu lạ,

còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1 Cr 1, 22).

Có vẻ người Do Thái sính dấu lạ và đòi hỏi dấu lạ để tin.

Đối với họ, dấu lạ là một bảo đảm cho tính chân thực của lời rao giảng.

Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ trong mấy năm rao giảng Tin Mừng.

Trừ quỷ và chữa những bệnh nan y là những dấu lạ Ngài hay làm.

Ngài chữa người mù bẩm sinh, người phong, người nhiều năm bất toại.

Ngài hoàn sinh con gái ông Giairô, con trai bà góa thành Nain,

và nhất là cho anh Ladarô chết chôn trong mồ bốn ngày được sống lại.

Có những dấu lạ Ngài làm trên thiên nhiên mà chỉ các môn đệ biết,

như bắt bão táp phải lặng yên hay đi trên mặt nước lúc sóng gió.

Cũng có dấu lạ trước mặt cả ngàn người như làm cho bánh hóa nhiều.

Không ai có thể phủ nhận chuyện Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ (Ga 11, 47).

Nhưng Ngài không làm dấu lạ để biểu diễn phô trương.

Ngài cũng không dùng dấu lạ để mua lòng tin của dân chúng.

Dấu lạ của Đức Giêsu không qui về vinh quang hay lợi lộc cho Ngài,

nhưng nhắm đến việc khai mở Nước Thiên Chúa và hạnh phúc nhân loại.

Nhiều lần Ngài thắng được cám dỗ làm dấu lạ.

Ngài đã không biến đá thành bánh để ăn cho no bụng

hay nhảy xuống từ nóc Đền thờ để dân chúng kinh ngạc tung hô.

Ngài cũng không biểu diễn vài dấu lạ trước mặt Hêrôđê để được tha.

Trên thập giá, Ngài đã không đáp lại thách đố của các nhà lãnh đạo.

“Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi!” (Lc 23, 35).

Đức Giêsu đã làm dấu lạ cho người khác, nhưng không làm cho mình.

Ngài không tự cứu lấy mình, nghĩa là không xuống khỏi thập giá.

Hôm nay, chúng ta có thể không mãn nguyện như người Do Thái xưa.

Tuy Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ trong đời ta,

nhưng, như họ, ta vẫn đòi một dấu lạ đầy ấn tượng từ trời.

Chúng ta muốn một dấu chỉ không thể chối cãi được

để tin thật sự có Thiên Chúa, tin Ngài mạnh hơn sự dữ ở quanh ta.

Nhưng chúng ta quên rằng Thiên Chúa cũng là Đấng ẩn mình,

và quyền năng của Ngài được biểu lộ qua sự bao dung khiêm hạ.

Chúng ta chờ dấu lạ về việc Đức Giêsu hùng mạnh đến giải thoát ta,

nhưng lại quên rằng Ngài cũng thích cùng ta âm thầm chịu đau khổ.

Làm sao tôi nhận ra được những dấu rất lạ mà lại rất đỗi bình thường,

những dấu lạ lớn lao mà nhỏ bé Chúa vẫn làm cho đời tôi?

Làm sao tôi nhận ra được cái bình thường của đời tôi cũng là dấu lạ?

Ngỡ ngàng như trẻ thơ trước những điều mà nhiều người coi là tự nhiên,

tôi dần dần hiểu rằng đời tôi được bao bọc bởi tình yêu là dấu lạ.

Thay vì bôn chôn tìm kiếm và đòi hỏi những điều ngoạn mục, ly kỳ,

tôi khám phá ra Chúa vẫn ở bên tôi trong những điều đơn sơ nhỏ bé.

Xin được ơn sám hối chỉ vì những dấu lạ bình thường Chúa ban cho đời tôi.

Cầu nguyện:

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,

những ơn con thấy được,

và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng

con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,

biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì

Cha không ban cho con,

và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì

Cha cương quyết không ban

bởi lẽ điều đó có hại cho con,

hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha

dù con không hiểu hết những gì

Cha làm cho đời con.

Thứ Ba Tuần 28 Thường niên:

Bên ngoài, bên trong

Lời Chúa: Lc 11, 37-41

37 Đức Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn.38Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước bữa ăn.39 Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng: "Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà.40 Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao?41Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.

Suy niệm:

Một ông Pharisêu mời Đức Giêsu đến dùng bữa.

Cử chỉ đó cho thấy thiện cảm của ông đối với Ngài.

Đức Giêsu đã đáp lại lời mời, đã đến nhà ông và liền ngồi vào bàn tiệc.

Ông chủ nhà bị sốc vì thấy khách không rửa tay trước khi ăn.

Đối với ông đây là một thói quen quan trọng, không thể thiếu.

Thế là Đức Giêsu đã giảng cho ông một bài hẳn hoi.

Tuy nhiên, vì tế nhị, vì là khách mời cho một bữa ăn,

nên chắc Ngài đã chẳng nặng lời đến mức đó.

Bài Tin Mừng này thật ra phản ánh sự căng thẳng từ sau năm 70,

giữa những người Pharisêu thuộc giới lãnh đạo hội đường với các Kitô hữu.

Đức Giêsu đã dùng hình ảnh một cái chén uống nước và cái đĩa.

Đối với Ngài, các người Pharisêu chỉ lo lau rửa ở bên ngoài chén đĩa.

Chú trọng tỉ mỉ đến cái bên ngoài là nét riêng của họ.

Lắm khi cái bên ngoài chỉ là những cái phụ thuộc, không cần thiết.

Điều họ muốn mọi người tuân giữ lại không phải là chính Luật Môsê,

nhưng chỉ là những lời giải thích chi li Luật đó

được truyền miệng nơi các rabbi, rồi sau này được viết lại thành sách.

Đức Giêsu cho thấy cái bên trong của người Pharisêu,

cái bên trong của chén và đĩa mà họ không để tâm lau rửa.

“Cái bên trong của các người thì đầy chuyện cướp bóc, gian tà” (c. 39).

Như thế cái bên trong của chén đĩa

tượng trưng cho cái bên trong của tâm hồn con người.

Rửa sạch cái bên ngoài của chén đĩa, không đủ.

Cần phải rửa sạch cả cái lòng tham lam chiếm đoạt và lòng độc ác gian tà.

Rửa sạch cái bên trong mới là điều quan trọng hơn, cấp thiết hơn, khó hơn.

Có khi vì khó nên người ta né tránh bằng cách làm cái dễ.

Đức Giêsu bực bội về sự tương phản này nơi một số người Pharisêu,

tương phản giữa cái bên ngoài rất sạch và cái bên trong rất dơ,

khiến nhiều người có thể bị ngộ nhận.

Nhưng Thiên Chúa thì không.

Ngài thấy cả hai, vì ngài đã làm ra cả cái bên ngoài lẫn cái bên trong (c. 40).

Đức Giêsu cho ta cách để tẩy rửa cái bên trong nhơ uế, đó là bố thí (c. 41).

Trong tiếng Hy Lạp, bố thí có nghĩa gốc là bày tỏ lòng thương xót.

“Bấy giờ mọi sự trở nên sạch cho các người.”

Khi bố thí chia sẻ, người ta biến đổi từ bên trong.

Tấm lòng tham lam ác độc trở nên đầy tình bác ái xót thương.

Đức Giêsu đưa chúng ta về với cái bên trong, cái cốt lõi của đời Kitô hữu.

Như người Pharisêu cách đây hai ngàn năm,

chúng ta vẫn bị cám dỗ để dừng lại và mãn nguyện với cái bên ngoài.

Làm sao để chúng ta thực sự trong sạch dưới ánh mắt của Thiên Chúa?

Làm sao để cái bên ngoài của chúng ta thực sự phản ánh cái bên trong?

Đời Kitô hữu chính là một nỗ lực đi từ việc giữ đạo hời hợt, hình thức,

đến việc sống đạo từ trong máu thịt mình.

Xin Chúa giúp ta rút ngắn khoảng cách giữa cái bên ngoài và cái bên trong.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

khi đến với nhau,

chúng con thường mang những mặt nạ.

Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.

Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt

dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.

Khi đến với Chúa,

chúng con cũng thường mang mặt nạ.

Có những hành vi đạo đức bên ngoài

để che giấu cái trống rỗng bên trong.

Có những lời kinh đọc trên môi,

nhưng không có chỗ trong tâm hồn,

và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu,

chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,

tự ru ngủ và đánh lừa mình,

mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.

Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,

đã ăn sâu vào da thịt chúng con,

để chúng con thôi đánh lừa nhau,

đánh lừa Chúa và chính mình.

Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,

để chúng con được lớn lên trong bình an.

Thứ Tư Tuần 28 Thường niên:

Xao lãng lẽ công bình

Lời Chúa: Lc 11, 42-46

42 Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Các điều này phải làm, mà các điều kia cũng không được bỏ.43 Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các người thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở nơi công cộng.44 Khốn cho các người! Các người như mồ mả không có gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay."45 Một người trong số các nhà thông luật lên tiếng nói: "Thưa Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa! "46 Đức Giê-su nói: "Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào.

Suy niệm:

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu trách các nhà lãnh đạo.

Họ là những người Pharisêu, những nhà thông luật.

Họ được dân chúng kính nể vì học thức, vì chức vụ, vì đời sống đạo đức.

Nhưng họ cũng có những khiếm khuyết cần sửa đổi.

Đức Giêsu ba lần nói “Khốn cho” đối với người Pharisêu (cc. 42-44).

Khốn cho thứ nhất vì họ quá chú tâm giữ những điều lặt vặt, phụ thuộc,

mà xao lãng cái chính yếu và quan trọng.

Họ nộp thuế 10% về những thứ rau cỏ ngoài vườn để tỏ lòng đạo đức.

Tiền thuế này được dùng để giúp đỡ các tư tế và các thầy Lêvi.

Nhưng tiếc là họ không để ý đến sự công bình đối với tha nhân,

và lòng yêu mến đối với Thiên Chúa (c. 42).

Tương quan hai chiều của họ bị tổn thương.

Việc nộp thuế, dâng cúng cho nhiều cũng không sao kéo lại được.

Đức Giêsu đòi giữ cả hai, nhất là những bổn phận chính yếu:

“Các điều này phải làm mà các điều kia cũng không được bỏ.”

Khốn cho thứ hai vì họ thích tiếng khen từ người đời.

Không yêu mến Thiên Chúa, nhưng họ lại yêu mến ghế đầu nơi hội đường,

và yêu thích được chào hỏi nơi công cộng (c. 43).

Địa vị, tiếng tăm là điều họ tha thiết tìm kiếm.

Mọi việc họ làm đều nhằm tôn vinh cho cái tôi.

Chính vì thế một đời sống bề ngoài có vẻ sống cho Chúa,

kỳ thực lại là một tìm kiếm hư danh cho chính mình.

Khốn cho thứ ba gắn liền với sự giả hình trên đây.

Đức Giêsu ví họ với mồ mả người chết chôn dưới đất.

Vì không có gì làm dấu, nên chẳng ai biết đó là mồ mả để tránh.

Nhiều người giẫm lên nên bị ô nhơ mà không hay.

Nghe Đức Giêsu nói, một nhà thông luật cảm thấy bị xúc phạm.

Đức Giêsu cũng sẽ nói ba lần Khốn cho đối với các vị này.

Họ là những nhà chuyên môn giải thích luật và là thầy dạy dân chúng.

Khốn cho đầu tiên vì họ đã làm cho luật trở nên một gánh quá nặng.

Những giải thích của họ làm sinh ra bao cấm đoán và đòi buộc

vượt xa những gì chính bản văn lề luật đòi hỏi.

Thí dụ trong ngày sabát, có 39 loại công việc không được phép làm.

Luật thay vì là nguồn vui, nguồn hạnh phúc, thì lại trở nên ách nặng nề.

Nhiệm vụ của người thông luật không phải chỉ là dạy luật,

mà còn là giúp người khác giữ luật.

Với thái độ đứng ngoài, không muốn động vào,

không muốn trợ giúp, dù bằng một ngón tay (c. 46),

người thông luật sẽ không làm cho người ta cảm thấy tình yêu Thiên Chúa.

Những lời Khốn cho của Đức Giêsu cách đây hai mươi thế kỷ

vẫn còn nguyên giá trị cho Hội Thánh của các Kitô hữu hôm nay.

Để có thể xây dựng một Hội Thánh Việt Nam cho kỷ nguyên mới,

chúng ta cần tránh những lỗi của người xưa.

Cầu nguyện:

Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,

xin dạy con biết phục vụ âm thầm.

Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,

xin dạy con biết yêu thương tự hiến.

Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,

xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.

Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,

xin dạy con biết coi mọi người như anh em.

Lạy Chúa Ba Ngôi,

Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,

xin cho các Kitô hữu chúng con

trở thành tình yêu

cho trái tim khô cằn của thế giới.

Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,

biết sống nhờ và sống cho tha nhân,

biết quảng đại cho đi

và khiêm nhường nhận lãnh.

Lạy Ba Ngôi chí thánh,

xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa

ở sâu thẳm lòng chúng con,

và trong lòng từng con người bé nhỏ.

Thứ Năm Tuần 28 Thường niên:

Ngôn sứ và tông đồ

Lời Chúa: Lc 11, 47-54

47 "Khốn cho các người! Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy!48Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng.49 "Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán: "Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia.50 Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa,51 từ máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu.52 "Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản."53 Khi Đức Giê-su ra khỏi đó, các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện,54 gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.

Suy niệm:

Ơn gọi ngôn sứ chưa bao giờ là một ơn gọi dễ dàng.

Ngôn sứ là người bất ngờ được Thiên Chúa kêu gọi,

để trở nên phát ngôn viên chính thức cho Ngài trước toàn dân.

Thiên Chúa nói qua trung gian con người,

nói bằng thứ ngôn ngữ con người để họ hiểu được.

Ngôn sứ đã là người nghe trước khi là người nói,

là cầu nối chuyển đạt cho dân sứ điệp mình đã lãnh nhận.

Sứ điệp của Thiên Chúa lắm khi là những lời cảnh báo, răn đe,

nên công việc của ngôn sứ không dễ được mọi người đón nhận.

Ngôn sứ có thể tố cáo tính vụ hình thức nơi phụng vụ trong Đền thờ,

những người dâng lễ vật cho Chúa, nhưng lại bóc lột anh em (Is 1, 11).

Ngôn sứ cũng dám nói lên những điều chưa tốt nơi hàng tư tế,

những hư hỏng, bất công của vua quan (2 Sm 12, 7),

và những bất trung của dân chạy theo ngẫu tượng dân ngoại.

Phải có đảm lược mới dám nói điều Chúa bắt mình nói.

Số phận của một ngôn sứ thường gắn liền với đau khổ và bách hại.

Môsê và Êlia đều đã có lúc xin được chết cho xong (Ds 11, 15; 1 V 19, 4).

Giêrêmia cũng chỉ muốn từ nhiệm, nhưng không được (Gr 20, 7-18).

Giacaria bị ném đá và giết trong sân Đền thờ (2 Sb 24, 20-22).

Vào thời Tân Ước các ngôn sứ cũng chịu chung số phận.

Gioan Tẩy giả, Đức Giêsu và các tông đồ đều nếm khổ đau và cái chết.

Bài Tin Mừng hôm nay nói đến máu mà bao ngôn sứ đã đổ ra.

Từ thời Hêrôđê đại đế, người ta bắt đầu xây lăng mộ cho các ngôn sứ,

nhưng chuyện bắt bớ và sát hại các ngôn sứ thì vẫn kéo dài.

“Thế hệ này sẽ phải trả lời về máu của mọi ngôn sứ đã đổ ra…” (c.50).

Như vậy thế hệ hiện tại cũng phải chịu trách nhiệm về tội ác quá khứ,

v́ chính họ đang nhúng tay

vào việc bách hại các người được Thiên Chúa sai (c. 49).

Các nhà thông luật hay các kinh sư mà Đức Giêsu đang gặp gỡ

sẽ có mặt trong Thượng Hội Đồng để luận tội Đức Giêsu (Lc 22, 66).

Máu vô tội của Đức Giêsu sẽ đổ ra trên đồi Sọ (Lc 22, 20; Ga 19, 34).

Máu châu báu ấy thực ra không đòi nợ máu, không đòi trả thù.

Máu ấy đổ ra để xóa tội cho muôn người (Mt 26, 28),

để giao hòa con người với Thiên Chúa.

Một số người sẽ phải chịu trách nhiệm về việc đổ máu Đức Giêsu,

nhưng ngay cả những người ấy cũng có thể thoát khỏi án phạt

nhờ chính dòng máu từ trái tim yêu thương của Đấng bị đóng đinh.

Đức Giêsu trên thập giá đã tha thứ cho những kẻ giết mình.

“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).

Đức Giêsu phục sinh đã sống sự tha thứ ấy

khi Ngài chẳng hề báo thù những kẻ can dự vào cái chết của Ngài.

Các tông đồ cũng lần lượt chia sẻ chén đắng của Thầy mình.

Kitô hữu tự bản chất là ngôn sứ cho thế giới mình đang sống.

Chỉ mong chúng ta cũng can đảm sống như Giêsu và chết như Giêsu.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,

Chúa đã làm người như chúng con,

nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.

Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc

mà con người lại yếu đuối mong manh.

Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,

và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,

nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,

xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu

Chúa đã buồn muốn chết được.

Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,

xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá

Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.

Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.

Xin cho con yêu đời luôn

dù đời chẳng luôn đáng yêu.

Xin cho con can đảm

đối diện với những thách đố

vì biết rằng cuối cùng

chiến thắng thuộc về người

có niềm hy vọng lớn hơn. Amen.

Thứ Sáu Tuần 28 Thường niên:

Môn đệ và bạn hữu

Lời Chúa: Lc 12, 1-7

1 Trong lúc ấy, đám đông tụ họp hàng vạn người, đến nỗi giẫm lên nhau. Bấy giờ Đức Giê-su bắt đầu nói, trước hết là với các môn đệ: "Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả.2 Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết.3 Vì thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.4 "Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa.5Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy.6 Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa.7 Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.

Suy niệm:

Trước một đám đông kinh khủng chen lấn để đến gần Ngài,

Thầy Giêsu vẫn muốn ngỏ lời trước hết với các môn đệ dấu yêu.

Lần duy nhất trong Tin Mừng Nhất lãm, Thầy gọi họ là bạn hữu (c. 4).

Thầy dặn dò họ cảnh giác kẻo lây nhiễm men của người Pharisêu,

đó là thái độ đạo đức giả (c. 1).

Thái độ này luôn bao hàm một che giấu nào đó về sự thật,

khiến người nhìn bên ngoài dễ bị đánh lừa bởi những mặt nạ đạo đức.

Việc che giấu khéo léo này có thể xuôi chèo mát mái một thời gian.

Nhưng đối với Thầy Giêsu, nó không thể kéo dài mãi.

Sớm muộn gì sự thật cũng sẽ lộ diện, như chiếc kim trong bọc thò ra.

“Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra,

không có gì bí mật mà sẽ không bị người ta biết” (c. 2).

Nếu con người mãi mãi không biết, thì Thiên Chúa vẫn biết.

Chúng ta có thể tránh được máy kiểm tra nói dối của người đời,

nhưng không tránh được cái nhìn xuyên thấu tâm can của Thiên Chúa.

“Tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày;

điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà” (c. 3).

Như thế điều tưởng như không thể lọt ra ngoài, điều kín như bưng,

vẫn có thể bị đưa ra ánh sáng,

mặt nạ bị rơi xuống, và bản chất thật của con người được vén mở.

Đây là một lời đe dọa, hay đúng hơn, một lời khuyên hãy sống thực lòng.

Thầy Giêsu còn khuyên các môn đệ đừng sợ.

Chuyện bị bách hại và sát hại là chuyện có thể xảy ra.

Chuyện ấy sẽ xảy ra với Thầy và với các môn đệ nữa.

Điều quan trọng là đừng sợ kẻ sát nhân lấy đi mạng sống thân xác (c. 4).

Dù mạng sống thân xác thật đáng quý, đáng trọng,

nhưng con người không phải chỉ có thân xác hay chỉ là thân xác.

Thầy dạy cho các môn đệ biết phải sợ ai (c. 5).

Phải sợ chính Thiên Chúa, Đấng có quyền ném anh em vào hỏa ngục.

Các vị tử đạo đều tin, hiểu và sống các câu Tin Mừng này.

Họ đã chịu bao đớn đau nhục hình và cái chết thân xác,

nhưng họ đã tránh được hỏa ngục, và được đón vào lòng Thiên Chúa.

Kitô hữu phải đối diện với những thách đố cam go.

Lúc chịu bách hại lại tưởng mình bị Thiên Chúa bỏ rơi, ruồng rẫy.

Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền cho người nghèo,

tiền lương một ngày mua được những 40 con chim sẻ.

Nếu Thiên Chúa không quên một con sẻ nào,

thì Ngài lại càng không thể quên được những người bạn của Con Ngài.

Nếu từng sợi tóc của chúng ta đã được Thiên Chúa biết,

thì chuyện mạng sống của ta hẳn được Ngài quan tâm hơn nhiều.

Hãy để lòng mình bình an vì sống không gian dối, nên không sợ bị lộ.

Hãy để lòng mình bình an vì cái chết chẳng phải là dấu chấm hết.

Hãy hạnh phúc vì biết mình là môn đệ và là bạn hữu của Thầy Giêsu.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được ơn khôn ngoan

để con biết sợ điều phải sợ.

Cho con đừng sợ những đe dọa đến thân xác, tiếng tăm,

nhưng biết sợ mất đi vĩnh viễn toàn bộ con người mình.

Cho con đừng sợ những kẻ làm hại con ở đời này,

nhưng biết sợ phải xa Đấng yêu con và muốn con hạnh phúc mãi.

Xin giải phóng con khỏi những nỗi sợ đã ăn sâu vào cuộc sống,

những nỗi sợ ngấm ngầm mà chính con không dám thú nhận,

những nỗi sợ làm con chẳng bao giờ được tự do và an vui.

Nhờ đó con dám sống thật sự là mình,

tươi tắn và hồn nhiên, nhẹ nhàng và không lo lắng.

Xin dạy con ngắm những bông hoa dại vệ đường

để thấy chúng được điểm trang lộng lẫy,

và ngắm chính mình mỗi ngày,

để thấy vẻ đẹp nơi mình như một quà tặng của tình yêu.

Xin dạy con ngắm đàn chim sẻ ríu rít buổi sáng,

để biết mình chẳng nên quá lo về chuyện cơm áo gạo tiền,

nhưng nên phó thác như em thơ ngồi trong lòng mẹ.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đặt đời mình trong tay Cha.

Xin cho con cũng đặt đời con trong tay Chúa.

Thứ Bảy Tuần 28 Thường niên:

Đừng lo

Lời Chúa: Lc 12, 8-12

8 "Thầy nói cho anh em biết: phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa.9 Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa.10 "Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha.11 "Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì,12 vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói."

Suy niệm:

Người ta thường nói giữ đạo tại tâm.

Đức Giêsu hôm nay đòi ta phải tuyên xưng Ngài trước mặt người đời,

nghĩa là tuyên xưng một cách công khai, không giấu diếm.

Các thánh tử đạo Việt Nam ngày xưa đã có kinh nghiệm đó.

Chỉ cần bước qua thập giá là coi như chối bỏ niềm tin vào Đức Giêsu.

Không bước qua thập giá là cử chỉ tuyên xưng đức tin rõ ràng nhất.

Một đoàn người đông đúc đã sẵn lòng chịu muôn vàn khổ hình,

nhưng quyết không bước qua thập giá.

Phêrô đã có kinh nghiệm về sự công khai chối bỏ Thầy (Lc 22, 57).

Ông bảo mình không biết Thầy, không phải là người đã ở với Thầy,

đã theo Thầy như một môn đệ và như một người bạn.

Đơn giản là ông sợ bị liên lụy, sợ chịu chung số phận của Thầy.

Xưa nay chẳng ai tuyên xưng Đức Giêsu mà không phải trả giá.

Tuyên xưng bằng cách không bước qua thập giá như hồi xưa,

hay tuyên xưng bằng cách bước qua những mời mọc thời nay,

Coi nhẹ những gì thế gian mê đắm và ưa chuộng,

như khoái lạc, địa vị, quyền lực, giàu sang.

Phêrô đã bất ngờ và dễ dàng sa ngã.

Nhưng Đức Giêsu đã cầu xin để ông được đứng lên (Lc 22, 32).

Sau này, Phêrô sẽ có kinh nghiệm khác về việc công khai tuyên xưng.

Đó là lúc ông và Gioan bị đem ra trước Hội Đồng Do Thái (Cv 4, 8)

sau khi đã chữa một người bất toại ở cửa Đền thờ.

Phêrô được đầy tràn Thánh Thần, đã mạnh dạn làm chứng về Đức Kitô.

Hội Đồng kinh ngạc trước sự bạo dạn của ông,

vì biết ông là người ít học, quê mùa (Cv 4, 13).

Bạo dạn là nét của cộng đoàn sơ khai, khi đứng trước đe dọa (Cv 4, 29).

“Chớ lo lắng phải biện hộ làm sao hay phải nói gì,

vì Thánh Thần sẽ dạy các ông ngay giờ đó về điều phải nói” (cc. 11-12).

Không sợ và không lo,

đó là thái độ của người Kitô hữu trưởng thành trước nghịch cảnh.

Đừng phạm thượng đến Thánh Thần, vì sẽ không được tha (c. 10).

Xúc phạm đến Thánh Thần là cứ ngoan cố,

khăng khăng chống lại tác động của Ngài trong đời ta.

Những mời gọi của Thánh Thần bị bóp chết ngay từ đầu.

Một người dứt khoát từ chối Thánh Thần là từ chối chính Thiên Chúa.

Người ấy không có sự mở ra sẵn sàng để đón nhận.

Người ấy không được tha thứ, đơn giản vì không muốn nhận ơn ấy.

Xin cho chúng ta nhận được sự nâng đỡ của Thánh Thần

để làm chứng cho Giêsu giữa lòng thế giới.

Và xin cho ta chấp nhận cái giá phải trả cho một tình yêu tín trung.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,

Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.

Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,

lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.

Thế gian này vàng thau lẫn lộn.

Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.

Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,

giữ được vị mặn của muối,

và sức tác động của men,

để đem đến cho thế gian

một linh hồn, một sức sống.

Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,

chỉ sợ mình bỏ sống đạo

vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.

Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng

chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,

những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,

thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui

của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.

Thứ Hai Tuần 29 Thường niên:

Những kho lớn hơn

Lời Chúa: Lc 12, 13-21

Một hôm, có người trong đám đông nói với Ðức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia phần gia tài cho tôi.” Người đáp: “Này anh, ai đã đặt tôi làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?” Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu.” Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: “Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!” Rồi ông ta tự bảo: “Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giời ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: “Ðồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”

Suy niệm:

Cái kho là quan trọng.

Kho bạc quan trọng đối với một đất nước.

Kho lẫm cần cho người làm nghề nông.

Mỗi gia đình, mỗi công ty thường có kho riêng.

Có thể là một tủ sắt để trong nhà hay ở ngân hàng.

Mọi lợi nhuận đều thu vào kho.

Ai cũng muốn cho kho của mình bành trướng.

Sau một vụ mùa bội thu,

mối bận tâm lớn nhất của ông phú hộ trong dụ ngôn

là tìm cho ra chỗ để tích trữ hoa màu của mình,

vì những kho cũ không đủ sức chứa nữa.

Cuối cùng ông đã tìm ra giải pháp này:

phá những kho cũ, làm những kho mới lớn hơn,

rồi bỏ tất cả hoa màu, của cải vào đó,

khóa lại cho thật kỹ, đề phòng kẻ trộm.

Khi nhà kho đã an toàn

thì tương lai của ông vững vàng ổn định.

Nhiều của cải cho phép ông sống thoải mái trong nhiều năm.

Những cái kho lớn cho ông tha hồ vui chơi, ăn uống.

Ông thấy mình chẳng cần đến Chúa, chẳng cần đến ai.

Của cải trong kho bảo đảm cho ông sống hạnh phúc.

Những cái kho là nơi ông đặt lòng mình (x. Lc 12,34).

Xin đừng ai xâm phạm vào chỗ thiêng liêng ấy.

Kho là nơi của cải đổ vào, sinh sôi nẩy nở.

Kho không phải là chỗ chia sẻ cho người khác.

Ông phú hộ sống cô độc, khép kín như cánh cửa kho.

Ông sống với cái kho, sống nhờ cái kho.

Ông tưởng mình đã tính toán khôn ngoan,

nhưng ông không ngờ cái chết đến lúc đêm khuya,

hay có thể có biết bao rủi ro khác xảy đến.

Ông chợt nhận ra mình phải bỏ lại tất cả.

Cái kho không níu được ông, cũng không vững như ông nghĩ.

Những gì ông thu tích như giọt nước lọt qua kẽ tay.

Ai trong chúng ta cũng có một hay nhiều kho.

Có thể chúng ta ôm mộng làm giàu hay đang giàu lên,

chúng ta định nới kho cũ hay xây kho mới.

Chúng ta chăm chút cái kho cho con cháu mai này.

Thật ra của cải không xấu, xây kho cũng không xấu.

“Nhưng phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (12,15).

Phải mở rộng những cánh cửa kho của mình,

để kho không phải chỉ là nơi tích trữ cho tôi,

nhưng là phương tiện để tôi giúp đỡ tha nhân.

Ðừng để nhà kho, két sắt, ví tiền thành mục đích.

Người giàu đáng yêu trước mặt Thiên Chúa

là người biết mở kho để trao đi

và thấy Thiên Chúa liên tục làm cho kho mình đầy lại.

Làm thế nào để khi ra trước toà Chúa,

chúng ta thấy kho của mình trống trơn

vì vừa mới cho đi tất cả.

Cầu nguyện:

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,

có bao điều con lãng phí

bên cạnh những Ladarô túng quẫn,

có bao điều con hưởng lợi

dựa trên nỗi đau của người khác,

có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.

Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm về cảnh người nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân,

vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó

là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo

là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,

nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

Thứ Ba Tuần 29 Thường niên:

Chủ sẽ phục vụ

Lời Chúa: Lc 12, 35-38

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho họ.”

Suy niệm:

Chúng ta dành bao nhiêu thời gian để ăn, ngủ, và làm việc trong một đời?

Nhiều người nghĩ mình có thể đưa ra những con số khá chính xác.

Nhưng chúng ta dành bao nhiêu thời gian để chờ?

Có thứ chờ tính được bằng thời gian.

Có thứ chờ kéo dài liên tục nằm nơi trái tim mong ngóng.

Mẹ chờ con, vợ chờ chồng, những người yêu chờ nhau.

Trong một vở kịch của Samuel Beckett, văn sĩ được giải Nobel 1969,

có hai người chờ một nhân vật mơ hồ tên là Godot.

Cả hai chỉ quen sơ sơ ông này, nếu có gặp cũng chẳng nhận ra.

Vậy mà họ vẫn chờ, nhưng ông Godot nào đó đã không đến.

Có lẽ Samuel Beckett muốn nói đến cái phi lý của đời người.

Cứ chờ cứ đợi một điều mơ hồ và chẳng xảy ra.

Đức Giêsu dạy các môn đệ biết chờ đợi trong cuộc sống.

Chờ như những đầy tớ chờ chủ mình đi ăn cưới về.

Đám cưới ngày xưa hay vào ban đêm để tránh cái nóng.

Chủ có thể về trễ, nên phải chịu khó chờ,

nghĩa là phải tỉnh thức, không được ngủ quên.

Nhưng chờ lại không phải là thái độ ngồi yên, thụ động.

Chờ là đặt mình trong tư thế sẵn sàng phục vụ.

“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sáng” (c. 35).

Người đầy tớ sẵn sàng bắt tay vào việc,

vì chiếc áo đã được vén lên gọn gàng,

và trong đêm, ngọn đèn được châm dầu vẫn luôn cháy sáng.

Có một giây phút quan trọng, giây phút ông chủ về.

Sự chờ đợi, sự tỉnh thức, sự sẵn sàng, tất cả hướng đến giây phút này.

Lỡ giây phút này là lỡ tất cả.

“Để khi chủ về tới, gõ cửa thì mở ngay” (c. 36).

Mở ngay vì mình đang chờ, đang thức, đang sẵn sàng,

áo đã được vén lên để chuẩn bị phục vụ,

đèn đã được thắp sáng để soi trong bóng đêm.

Chủ sẽ ngỡ ngàng vì sự mau mắn như vậy của các đầy tớ.

Nhưng các đầy tớ còn ngỡ ngàng hơn nhiều.

Chính khi các anh chuẩn bị phục vụ chủ, thì chủ lại phục vụ các anh.

“Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn,

và đến bên từng người mà phục vụ” (c. 37).

Rõ ràng đã có một sự đổi vai bất ngờ: chủ đã thắt lưng, phục vụ như đầy tớ.

Đầy tớ đã trở nên trọng hơn chủ, vì Thầy ở giữa anh em như người hầu bàn.

Đó là mối phúc dành cho người tỉnh thức vào giờ lẽ ra đang yên ngủ.

Canh hai, canh ba, là đã quá nửa đêm về gần sáng (c. 38).

Kitô hữu biết mình chờ ai, chờ một người sớm muộn chắc chắn sẽ đến.

Chờ một cách tích cực với thái độ sẵn sàng làm việc dưới ánh đèn.

Hạnh phúc đến với tiếng gõ cửa đầu tiên trong đêm.

Chúng ta mong nghe được tiếng gõ nhẹ ấy như một tiếng gọi.

Xin mở cửa ngay để được thấy tận mắt Thiên Chúa phục vụ con người.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện,

không có giờ đi vào sa mạc

để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài.

Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con.

Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu

là con có thể tạo ra sa mạc.

Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa

mà con đã bỏ mất :

Khi chờ một người bạn,

chờ đèn xanh ở ngã tư,

chờ món hàng đang được gói.

Khi lên cầu thang,

khi đến nơi làm việc,

khi kẹt xe,

khi cúp điện bất ngờ.

Thay vì bực bội hay nóng ruột

con lại thấy mình sống an bình

trong sự hiện diện của Chúa.

Lạy Chúa,

những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày

giúp con tỉnh thức

để nhạy cảm với ý Chúa.

Xin cho con yêu mến Chúa hơn

để tìm ra những sa mạc mới

và vui vẻ bước vào.

(gợi hứng từ Madeleine Delbrêl)

Thứ Tư Tuần 29 Thường niên:

Trung tín, khôn ngoan

Lời Chúa: Lc 12, 39-48

39 Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu.40 Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến."41 Bấy giờ ông Phê-rô hỏi: "Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất cả mọi người? "42 Chúa đáp: "Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?43 Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta.44 Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình.45 Nhưng nếu người đầy tớ ấy nghĩ bụng: "Chủ ta còn lâu mới về", và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa,46 chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với những tên thất tín.47 "Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều.48 Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.

Suy niệm:

Kẻ trộm xưa cũng như nay đều đến mà không báo trước,

bất ngờ khoét vách nhà khi gia chủ còn ngủ say.

Đức Giêsu, qua một dụ ngôn, đã dám so sánh mình với kẻ trộm,

chỉ vì Ngài giống anh ta ở nét bất ngờ (cc. 39-40).

“Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ anh em không ngờ, Con Người sẽ đến.”

ng chủ có thể trở về khi trời gần sáng, lúc canh ba.

Sẵn sàng là mở cửa ngay cho chủ, vì vẫn còn thức, còn chờ, còn đèn sáng.

Thiếu sẵn sàng là ngủ mê, không nghe được tiếng gõ cửa.

Ngủ mê làm chủ nhà không biết kẻ trộm đang khoét vách.

Thiếu tỉnh thức để đón Chúa Giêsu, cũng đem lại hậu quả khôn lường.

Tỉnh thức sẵn sàng là thái độ cần có của chủ nhà, của người lãnh đạo.

Khi Phêrô hỏi Đức Giêsu xem dụ ngôn trên áp dụng cho ai (c. 41),

cho dân chúng hay cho nhóm Mười Hai là những người lãnh đạo,

Ngài đã kể cho họ một dụ ngôn khác về người quản gia.

Vì ông chủ đi vắng nên anh được ông đặt lên coi sóc gia nhân trong nhà,

tuy anh vẫn là một đầy tớ giữa những đầy tớ khác (c. 43).

Chính sự vắng nhà của ông chủ đã làm lộ ra thực chất của người quản gia.

Người quản gia trung tín sẽ chăm chỉ làm tròn bổn phận được giao.

Việc quan trọng là cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc (c. 42).

Anh này chẳng để ý gì đến chuyện khi nào chủ mình về.

Khôn ngoan đối với anh là làm theo đúng ý của chủ.

Anh chỉ tập trung vào việc phục vụ những người được chủ giao phó,

và phục vụ đúng giờ.

Hẳn anh sẽ được ông chủ khen ngợi và đặt ở một vị trí cao hơn,

nếu bất ngờ ông về mà thấy anh đang phục vụ chăm chỉ.

Nhưng quản gia lại có thể là một người thiếu trách nhiệm.

Thời gian ông chủ vắng nhà cũng là thời gian anh ta có quyền.

Anh đã tận dụng quyền hành có trong tay để áp chế các đầy tớ khác,

à sống một cuộc sống buông thả, vô độ.

“Anh bắt đầu đánh đập các tôi trai tớ gái, và chè chén say sưa” (c. 45).

Lý do hư hỏng của anh này rất đơn giản.

Anh nghĩ “chủ ta còn lâu mới về”, nên ta cứ thoải mái ăn chơi.

Anh chỉ cố làm sao khi chủ về, chủ thấy anh đang làm việc tử tế.

Tiếc thay chủ về sớm hơn anh nghĩ,

“vào ngày anh không ngờ, vào giờ anh không biết” (c. 46).

Sự thật ê chề được phơi bày không thể chối cãi.

Những đầy tớ bị anh hành hạ và bỏ đói, những phung phí tài sản,

là bằng chứng cho sự thất tín của anh.

Kitô hữu là những người đã biết ý Chúa, mà không làm theo,

sẽ bị phạt nặng hơn những người không biết.

Những nhà lãnh đạo được trao quyền hành và trách nhiệm

cũng phải trả lời trước mặt Chúa về cách phục vụ của mình.

Chúng ta đều sợ khi nghe những lời này của Đức Giêsu:

“Ai được cho nhiều, sẽ bị đòi nhiều.

Ai được giao phó nhiều sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.”

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,

nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.

Chúng con phải đối diện

với bao thách đố của cuộc sống,

của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,

của nghề nghiệp chuyên môn.

Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy

của vật chất và quyền lực,

nhưng cho chúng con

giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,

lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.

Lạy Chúa Giêsu,

xin dạy chúng con sống thực tế,

nhưng không thực dụng ;

biết xoay xở nhưng không mưu mô ;

lo cho tương lai cá nhân,

nhưng không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ.

Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,

giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,

xin cho chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng,

để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,

để mình được thật là mình trước mặt Chúa.

Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,

xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,

làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh,

và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.

Thứ Năm Tuần 29 Thường niên:

Phải chi lửa ấy đã bùng lên

Lời Chúa: Lc 12,49-53

49 "Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!50 Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!51 "Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ.52 Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba.53 Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại mẹ chồng."

Suy niệm:

Nhiệt độ của trái đất có chiều hướng nóng dần lên.

Ðó là một điều đáng sợ.

Nhưng điều đáng sợ hơn

lại là sự lạnh lùng giữa người với người.

Con người cần cơm bánh và giải trí,

nhưng con người còn cần sự nâng đỡ cảm thông.

Nhân loại sống được là nhờ tình thương ấm áp.

Vậy mà băng giá của lạnh đạm dửng dưng

vẫn tồn tại khắp nơi trên mặt đất.

Băng giá nằm ngay nơi lòng con người.

Ðức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài:

Ngài đến để ném lửa trên mặt đất,

và Ngài ước mong, phải chi lửa ấy đã bùng lên.

Ngọn lửa Ðức Giêsu muốn nhóm lên

không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt,

không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê

định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari.

Ðây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài,

lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương,

lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng.

Chúng ta cần được ngọn lửa của Ðức Giêsu chạm đến,

cần được Ngài làm bừng sáng lên

những sức mạnh tiềm ẩn nơi ta,

để chúng ta trở thành ánh lửa cho thế giới.

“Phải chi lửa ấy đã bùng lên!”

Chúng ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong

mà Ðức Giêsu đã suốt đời ôm ấp,

đó là làm cho thế giới nên ấm áp hơn

vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho nhau.

Gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng

là chấp nhận bị từ khước và đe dọa.

Ðức Giêsu linh cảm những gì sẽ xảy ra cho đời mình.

Ngài sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng,

sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau.

Hôm nay, Ngài mời chúng ta ném lửa trên mặt đất

và chấp nhận đối đầu với sức mạnh của bóng tối.

Khi Ðức Giêsu bị treo trên thập tự,

khi Ngài bị giam trong mồ tối,

bóng tối tưởng như đã nuốt chửng được Ngài.

Nhưng ngọn lửa phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen.

Ðó là niềm hy vọng của chúng ta,

những người vẫn còn phải hăng say chiến đấu

để đẩy lui bóng tối ra khỏi mọi nơi, mọi chỗ,

bóng tối của bất công, sa đọa và tuyệt vọng,

bóng tối của hận thù, của nạn mù chữ,

bóng tối của nghèo nàn lạc hậu...

Bóng tối do khép lại cánh cửa của lòng mình,

Bóng tối ở ngay trong lòng tôi.

Có lúc chúng ta sợ hãi bóng tối dầy đặc,

mà ngọn lửa của mình lại yếu ớt.

Nếu một tỷ Kitô hữu đều là những ngọn lửa

thì bóng tối sẽ bị đẩy lùi khỏi mặt đất.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu thương mến,

xin ban cho chúng con

tỏa lan hương thơm của Chúa

đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con

bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con

để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa,

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,

để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được

Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,

không phải bằng lời nói suông,

nhưng bằng cuộc sống chứng tá,

và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

Thứ Sáu Tuần 29 Thường niên :

Nhận xét thời đại này

Lời Chúa: Lc 12, 54-59

54 Đức Giê-su cũng nói với đám đông rằng: "Khi các người thấy mây kéo lên ở phía tây, các người nói ngay: "Mưa đến nơi rồi", và xảy ra đúng như vậy.55 Khi thấy gió nồm thổi, các người nói: "Trời sẽ oi bức", và xảy ra đúng như vậy.56 Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các người biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét?57 "Sao các người không tự mình xét xem cái gì là phải?58 Thật vậy, khi anh đi cùng đối phương ra toà, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục.59 Tôi bảo cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng kẽm cuối cùng."

Suy niệm:

Tục ngữ ca dao nước ta không thiếu những câu nói về thời tiết.

Kinh nghiệm dân gian cho phép dự đoán những gì sắp xảy ra.

Có những dấu hiệu báo trước cơn mưa hay dông bão.

“Sấm đàng đông vừa trông vừa chạy, sấm đàng nam vừa làm vừa chơi.”

Người dân nước Paléttin cũng có những kinh nghiệm tương tự.

“Mây kéo lên ở phía tây” là mây đến từ biển Địa Trung Hải.

Khi thấy mây từ biển tiến vào, người ta đoán mưa đến nơi rồi (c. 54).

Khi thấy gió từ phương nam thổi đến,

luồng gió nóng từ vùng núi Ả-rập,

người ta biết ngay thời tiết sẽ hết sức oi bức (c. 55).

“Và xảy ra đúng như vậy”, Đức Giêsu nhắc lại câu này hai lần.

Ngài cho thấy dự đoán của dân chúng về thời tiết ít khi sai.

Họ khá bén nhạy trước những dấu hiệu thay đổi nhỏ của trời đất.

Tiếc là dân chúng thời Đức Giêsu lại không đủ bén nhạy

để có thể nhận biết được ý nghĩa của những dấu chỉ

đang diễn ra trước mắt họ.

Đức Giêsu ngạc nhiên vì những người cùng thời với Ngài

không thấy được cái độc nhất vô nhị của thời đại họ đang sống.

Họ không cảm thấy hạnh phúc khi được Thiên Chúa đến viếng thăm.

Chính vì thế ơn cứu độ của Thiên Chúa có thể bị quên lãng.

“Hỡi những kẻ đạo đức giả!” Đức Giêsu đã gọi họ như thế (c. 56).

Tại sao các anh nhạy bén trước điều này, mà lại thờ ơ trước điều kia?

Thiếu bén nhạy về mặt tôn giáo cũng là cơn bệnh của con người thời nay.

Thiên Chúa vẫn nói với con người hôm nay qua các dấu chỉ.

Vấn đề là làm sao đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ đó.

Thiên Chúa không hiện ra để dạy con người biết tôn trọng trái đất.

Nhưng những hậu quả mà con người phải chịu là lời nhắc nhở của Ngài.

Khi trái đất ấm dần lên, khi băng tan ra và mực nước biển dâng cao,

một số phần đất của quê hương ta sẽ bị chìm dưới nước.

Khi người dân chặt phá rừng, thì lụt lội và hạn hán là chuyện dĩ nhiên.

Cơn bệnh của thế kỷ cũng có thể là một lời nhắc nhở.

Thiên Chúa mời gọi vợ chồng sống chung thủy trong hôn nhân,

và mời các bạn trẻ sống trong sạch trước khi lập hôn ước.

Ngay cả cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng là một dấu chỉ.

Con người được mời gọi tìm ra những cơ cấu kinh tế vững vàng hơn,

để không bị một số ít nhà tư bản hay nước tư bản thao túng.

Mở mắt to để thấy, mở tai to để nghe, đó phải là thái độ của Kitô hữu,

vì hôm nay Thiên Chúa vẫn nói, vẫn làm nơi Đức Kitô, Con của Ngài.

Ngài vẫn nói với chúng ta qua hơn 90% người Việt Nam chưa biết Chúa.

Ngài vẫn nói với ta khi có những bạn trẻ Kitô hữu nghiện ngập, hư hỏng.

Ngài vẫn mời chúng ta làm một điều gì đó cho bao người nghèo khó,

cho trẻ em thất học, cho những phụ nữ lỡ làng, cho những người neo đơn.

Chỉ xin cho ta cảm được chút gió nhẹ của Chúa trong đời ta.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:

Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này

là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.

Con mơ ước

không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,

bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.

Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,

không còn những cô gái đứng đường

hay những người ăn xin.

Con mơ ước

những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,

các ông chủ coi công nhân như anh em.

Con mơ ước

tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,

các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con,

con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,

xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,

và xanh của bao niềm hy vọng

nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.

Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,

thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.

Thứ Bảy Tuần 29 Thường niên: THIẾU NGÀY 23 THÁNG 10 - 2010

Thứ Hai Tuần 30 Thường niên:

Đứng thẳng được

Lời Chúa: Lc 13, 10-17

10 Ngày sa-bát kia, Đức Giê-su giảng dạy trong một hội đường.11 Ở đó, có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được.12 Trông thấy bà, Đức Giê-su gọi lại và bảo: "Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền! "13 Rồi Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa.14 Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giê-su đã chữa bệnh vào ngày sa-bát. Ông lên tiếng nói với đám đông rằng: "Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh những ngày đó, đừng có đến vào ngày sa-bát! "15 Chúa đáp: "Những kẻ đạo đức giả kia! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò lừa rời máng cỏ đi uống nước?16 Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày sa-bát sao? "17 Nghe Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi việc hiển hách Người đã thực hiện.

Suy niệm:

Trong dòng tiến hóa từ vượn lên đến người,

có một thay đổi bên ngoài khá rõ nét.

Càng tiến hóa thì lưng con vật càng thẳng hơn.

Khi con người có thể đứng thẳng, tầm nhìn sẽ rộng hơn, xa hơn.

Hai chi trước được tự do nên có thể làm được nhiều điều phức tạp.

Đứng thẳng đúng là một nét đặc trưng của con người.

Người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay bị còng lưng đã lâu.

Mười tám năm không thể nào đứng thẳng lên được (c. 11).

Lưng bà còng hẳn xuống khiến tầm nhìn của bà bị giới hạn.

Có lẽ bà chỉ nhìn thấy mảnh đất nhỏ trước mặt hơn là thấy bầu trời cao.

Bệnh này thật khó chịu, khiến bà đi đứng khó khăn.

Vậy mà bà vẫn có mặt ở hội đường vào ngày sabát, khi Đức Giêsu giảng.

Dù bà thấp vì còng lưng, Ngài vẫn trông thấy bà.

Dù bà chẳng xin gì, Ngài vẫn chủ động gọi để gặp bà (c. 12).

Đức Giêsu nhìn thấy sự trói buộc do cơn bệnh dai dẳng.

“Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền.”

Chữa bệnh chính là đem lại giải thoát cho người phụ nữ.

Hơn nữa, Đức Giêsu còn đặt tay trên bà như một cử chỉ yêu thương.

Tức khắc bà còng lưng đã có thể đứng thẳng lên được.

Điều mơ ước từ mười tám năm, bỗng chốc thành hiện thực.

Bà có thể nhìn thấy bầu trời và cất lời tôn vinh Đấng ngự trên đó (c. 13).

Đức Giêsu coi bệnh của bà như một sự trói buộc của Xatan (c. 16).

Không phải chỉ là trói buộc bằng dây như người ta cột bò lừa (c. 15),

mà là trói buộc bằng xiềng xích.

Chính vào ngày sabát, Đức Giêsu đã cởi xiềng xích đó cho bà,

để bà được tự do, được đứng thẳng như một người bình thường.

Bà còng lưng bị trói buộc bởi gánh nặng của bệnh tật.

Nhưng có bao thứ trói buộc khác làm con người mất tự do.

Như người phụ nữ này, chúng ta muốn và cố làm cho mình đứng thẳng,

nhưng hoàn toàn bó tay từ nhiều năm qua.

Có những thứ trói buộc do tác động bên ngoài,

|nhưng có thứ xiềng xích do chính chúng ta đúc nên để tự giam mình.

Tôi bị trói buộc bởi lòng ích kỷ, tham vọng, thèm muốn…

Chúng ta cần thú nhận mình không tự giải thoát mình được,

không tự đứng thẳng được, không tự cắt đứt những thứ trói buộc mình.

Chúng ta cần Đức Giêsu đặt tay của Ngài trên đời ta để ta được tự do.

Đâu phải chỉ người phụ nữ còng lưng mới bị trói buộc.

Tôi cũng bị trói buộc bởi những giá trị mập mờ của thế tục.

Làm sao để tôi được tự do với cái cell phone tôi đang dùng,

với những hình ảnh mà tôi tìm kiếm trên internet,

với lối sống mà ngày nay bao người coi là đáng ước mơ?

Xin cho tôi không chỉ cúi xuống nhìn thấy miếng đất be bé trước mặt,

nhưng có thể ngước lên để thấy bầu trời mênh mông trên cao.

Cầu nguyện:

Chỉ mong tôi chẳng còn gì,

nhờ thế Người là tất cả của tôi.

Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,

nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,

đến với Người trong mọi sự,

và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.

Chỉ mong tôi chẳng còn gì,

nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.

Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,

nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người

và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.

(R. Tagore)

Thứ Ba Tuần 30 Thường niên:

Lớn lên và trở thành

Lời Chúa: Lc 13, 18-21

18 Vậy Người nói: "Nước Thiên Chúa giống cái gì đây? Tôi phải ví Nước ấy với cái gì?19 Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được."20 Người lại nói: "Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì?21 Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men."

Suy niệm:

Hai dụ ngôn trên đây tỏ ra lạc quan và hy vọng.

Nước Thiên Chúa đã được Đức Giêsu khai mở và loan báo.

Nước ấy cần có thời gian để lớn lên, để tác động trên con người.

Chắc chắn kết quả cuối cùng sẽ rất tốt đẹp.

Một người đàn ông ném vào khu vườn của mình một hạt cải nhỏ bé.

Ông có ước mơ mong mỏi gì không?

Vậy mà theo thời gian, hạt cải ấy đã lớn lên và trở thành một cây.

Cây vững đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành của nó được (c. 19).

Đức Giêsu muốn làm nổi bật sự phát triển mạnh mẽ của Nước Trời.

“Lớn lên và trở thành” là một tiến trình do Thiên Chúa dẫn dắt.

Bất chấp những khó khăn trong hiện tại, Nước Trời vẫn cứ lớn lên,

để rồi sẽ là nơi trú ngụ cho nhiều người ở khắp nơi tìm đến.

Một phụ nữ lấy men và vùi nó vào một lượng bột rất lớn.

Men không nhiều, lại được vùi sâu, nên có vẻ như không hiện hữu.

Nhưng trong thực tế, men đã có đó rồi và đang tác động trên bột.

Với thời gian, men làm cả khối bột dậy men.

Bấy giờ sức biến đổi của men mới được mọi người nhận biết.

Khối bột lên men đã sẵn sàng trở nên những ổ bánh ngon lành.

Đức Giêsu làm nổi bật sức mạnh của Nước Thiên Chúa

trong việc biến đổi thế giới này từ bên trong.

Chính sự tiếp xúc trực tiếp, sự thâm nhập của men vào bột

đã tạo ra sự biến đổi kỳ diệu ấy.

Những lời giảng của Đức Giêsu đã vang lên từ hai mươi thế kỷ.

Nước Thiên Chúa đã được Ngài khai mở và vun trồng mãi đến nay.

Kitô giáo vẫn là một tôn giáo lớn, chiếm một phần ba dân số thế giới.

Nhưng có những lúc chúng ta có cảm tưởng như nó bị chựng lại.

Khi có nhiều nhà thờ phải bán đi vì không có người đi lễ Chúa nhật,

khi các chủng viện hay dòng tu trở nên vắng vẻ, già nua,

khi ở nhiều nơi số linh mục thiếu một cách trầm trọng,

khi tỷ lệ tăng của Kitô hữu không bằng với tỷ lệ tăng của dân số thế giới.

Kitô giáo có tương lai không? Kitô giáo có thể bị tàn lụi không?

Những câu hỏi đó làm nhiều người bận tâm và lo lắng.

Hai dụ ngôn của Đức Giêsu hôm nay đem lại cho ta niềm lạc quan.

Nhưng đó không phải là thứ lạc quan vô trách nhiệm.

Làm cho Nước Thiên Chúa lớn lên và thâm nhập vào thế giới hôm nay,

đó không phải chỉ là chuyện của Thiên Chúa.

Đó là chuyện của từng Kitô hữu chúng ta.

Để hạt cải thành cây, cần một chút chăm bón.

Ai trong chúng ta cũng là một nhúm men nhỏ được vùi trong đống bột,

đống bột của trường học hay công ty, của một tập thể hay cộng đồng.

Làm sao để men của chúng ta tạo ra những tác dụng tốt?

Không cần phải làm những việc lớn lao để thay đổi bộ mặt thế giới.

Chỉ xin làm một nhúm men nhỏ để đến với những người tôi gặp hôm nay.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin thương nhìn đến Hội Thánh

là đàn chiên của Chúa.

Xin ban cho Hội Thánh

sự hiệp nhất và yêu thương,

để làm chứng cho Chúa

giữa một thế giới đầy chia rẽ.

Xin cho Hội Thánh

không ngừng lớn lên như hạt lúa.

Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,

đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.

Ước gì Hội Thánh trở nên men

được vùi sâu trong khối bột loài người

để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.

Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp

để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.

Xin cho Hội Thánh

trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,

nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.

Cuối cùng xin cho chúng con

biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,

nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.

Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,

nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.

Thứ Tư Tuần 30 Thường niên: Tìm ngày 27 tháng 10 năm 2010

Thứ Năm Tuần 30 Thường niên:

Hôm nay, ngày mai

Lời Chúa: Lc 13, 31-35

Khi ấy, có mấy người Pharisêu đến thưa Ðức Giêsu rằng: “Xin ông đi ra khỏi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông!” Người bảo họ: “Các ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này: “Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. Tuy nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được. Giêrusalem, Giêrusalem! Người giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Ðã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các người không chịu. Thì này, nhà các người sẽ bị bỏ mặc cho các người. Mà Ta nói cho các người hay: các người sẽ không còn thấy Ta nữa cho đến thời các người nói: ‘Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Ðức Chúa!’”

Suy niệm:

Sống là bước đi mỗi ngày trong cuộc hành trình, phiêu lưu.

Hơn ai hết Đức Giêsu đã sống phận người của mình như thế.

Cuộc sống nay đây mai đó, không chỗ tựa đầu.

Cuộc sống bấp bênh, sống nhờ lòng tốt của người khác.

Hơn thế nữa, cuộc sống này còn bị đe dọa bởi quyền bính đạo đời.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, vài người Pharisêu báo tin cho Đức Giêsu

về việc tiểu vương Hêrôđê muốn giết Ngài (c. 31).

Họ khuyên Ngài nên ra khỏi vùng đất dưới quyền của Hêrôđê,

vì chính ông này đã giết ngôn sứ Gioan Tẩy giả.

Đức Giêsu lộ vẻ ung dung, không sợ hãi gì.

Ngài gọi Hêrôđê là con cáo, một con vật ranh mãnh quỷ quyệt (c. 32).

Đe dọa của ông ta không làm Ngài chùn bước.

Ngài vẫn tiếp tục làm điều đã làm như trừ quỷ và chữa bệnh.

Hôm nay, ngày mai, ngày mốt vẫn cứ như thế.

“Tôi phải tiếp tục đi” (c. 33).

Đức Giêsu biết rất rõ mình đang đi đâu và đến đâu.

Ngài sẽ tiếp tục lên đường, không phải vì sợ quyền lực của Hêrôđê,

nhưng vì Ngài chấp nhận ở dưới quyền của Thiên Chúa.

Ngài hướng tới Giêrusalem, nơi nhiều ngôn sứ đã chịu bách hại.

Đức Giêsu ý thức mình là một ngôn sứ của Thiên Chúa.

Số phận của Ngài cũng chẳng hơn gì bao ngôn sứ khác.

Cái chết đang chờ đợi Ngài ở Giêrusalem.

Giêrusalem là nơi đáng sợ, nhưng cũng là nơi đáng thương.

Đức Giêsu đã âu yếm gọi hai lần: “Giêrusalem, Giêrusalem!”

Ngài tự ví mình như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh.

“Đã bao lần Ta muốn… nhưng các ngươi lại không muốn” (c. 34).

Một tình yêu bị từ chối nên thốt lên những lời thở than.

Vị ngôn sứ Giêsu phải dừng bước khi con người khép lòng mình lại.

Án phạt đến từ thái độ từ khước của con người,

giống như đàn gà con không để cho gà mẹ chở che dẫn dắt.

“Nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi” (c. 35).

Thiên Chúa bỏ đền thờ, bỏ thành thánh Giêrusalem mà đi,

để mặc cho quân thù vây hãm và tiêu hủy.

Nhưng rồi sẽ đến ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang.

Lúc ấy mọi người sẽ tung hô: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến.

Chúng ta cũng có sứ mạng làm ngôn sứ như Đức Giêsu.

Những đe dọa, đụng chạm đến an toàn là điều không tránh khỏi.

Nhưng chúng ta vẫn được mời gọi đi đến cùng con đường của mình,

với một tinh thần bất khuất, không gì lay chuyển.

Vẫn phải trung thành với việc được Thiên Chúa giao,

dù điều đó dẫn ta đến với cái chết.

Trước một Giêrusalem thù nghịch, xin có được đảm lược của Giêsu.

Trước một Giêrusalem từ khước, xin có được lòng nhân hậu.

Để trái tim chúng ta biết kết hợp đảm lược với lòng nhân.

Cầu nguyện:

Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,

các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu

trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.

Sự hy sinh của các ngài

cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết

và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.

Dù mang phận người yếu đuối,

nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,

các ngài đã chiến thắng khải hoàn.

Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài

biết can trường sống đức tin của bậc cha anh

trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,

biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu

bằng một đời hiến thân phục vụ.

Ước gì ngọn lửa đức tin

mà các ngài đã thắp lên

bằng cuộc sống và cái chết,

được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.

Ước gì máu thắm của các ngài

thấm vào mảnh đất quê hương

để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.

Thứ Sáu Tuần 30 Thường niên:

Chữa khỏi và cho về

Lời Chúa: Lc 14, 1-6

1 Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người.2Và kìa trước mặt Đức Giê-su, có một người mắc bệnh phù thũng.3 Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và những người Pha-ri-sêu: "Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát hay không? "4 Nhưng họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về.5 Rồi Người nói với họ: "Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát? "6 Và họ không thể đáp lại những lời

Suy niệm:

Sau khi dự nghi thức ở hội đường vào ngày sabát,

người ta thường mời khách về nhà dùng bữa trưa.

Bữa ăn này đã được chuẩn bị từ ngày hôm trước.

Hôm nay Đức Giêsu lại được một người Pharisêu mời dùng bữa.

Đây là lần thứ ba Ngài được mời ăn như thế (x. Lc 7, 36; 11, 37).

Và đây cũng là lần thứ ba có sự căng thẳng

vì Ngài chữa bệnh trong ngày sabát (x. Lc 6, 6; 13, 10).

Những người Pharisêu trong bữa ăn hôm nay chăm chú nhìn Ngài (c. 1).

Chúng ta không rõ người mắc bệnh phù thũng có là khách không.

Hay phải chăng anh ấy là người không mời mà đến?

Nếu là khách thì tại sao Đức Giêsu lại cho anh về sau khi chữa khỏi?

Dù sao thì anh ấy cũng đang đứng trước mặt Đức Giêsu (c. 2).

Ngài thấy những dấu hiệu của bệnh phù thũng nơi thân xác anh.

Trên người anh có chỗ sưng lên vì nước bị ứ lại.

Chính Đức Giêsu là người chủ động đặt vấn đề với người Pharisêu.

“Có được phép chữa bệnh trong ngày sabát không ?” (c. 3).

Hiển nhiên đối với họ, chỉ được phép chữa những bệnh nhân hấp hối.

Anh bị phù thũng không nằm trong diện này.

Vậy mà họ đã giữ thái độ thinh lặng trước câu hỏi đó (c. 4).

Đức Giêsu đã chữa bệnh cho anh chỉ bằng một cử chỉ đỡ lấy.

Không có lời nói nào kèm theo.

Có lẽ anh đã đi về nhà, lòng vui sướng vì được khỏi bệnh.

Đức Giêsu đã muốn biện minh cho hành vi chữa bệnh trong ngày sabát

bằng một câu hỏi về cách ứng xử trong một trường hợp cụ thể (c. 5).

“Giả như các ông có đứa con trai hoặc con bò sa xuống giếng,

các ông lại không kéo nó lên ngay lập tức, dù là ngày sabát sao?”

Họ đã không thể đưa ra câu trả lời,

vì dĩ nhiên là phải kéo nó lên ngay, trước khi nó chết dưới giếng.

Đối với Đức Giêsu, chữa bệnh đơn giản là kéo một người lên ngay.

Dù Ngài không phủ nhận tầm quan trọng của việc giữ ngày sabát,

nhưng ngày sabát lại không cấm làm điều phải làm, đó là chữa bệnh.

Rõ ràng Đức Giêsu quan tâm đến nhu cầu của con người.

Nếu để đến hôm sau mới chữa cho anh phù thũng thì cũng được.

Nếu để bà còng lưng mười tám năm chịu thêm một ngày cũng không sao.

Nhưng Ngài muốn giải phóng con người ngay lập tức, khi có thể được.

Ngài muốn làm vơi nỗi đau kéo dài đã lâu của con người.

Chính vì bà còng lưng đã mười tám năm đau khổ

nên không cần kéo dài thêm, dù chỉ một ngày nữa.

Luật lệ đạo đời nhằm phục vụ cho hạnh phúc thực sự của con người.

Trong cuộc sống hôm nay, có nhiều việc cần làm ngay.

Có bao mảnh đời sắp bị đổ vỡ, có những nguy cơ đe dọa nhân phẩm,

có những người trẻ đứng trên bờ vực, có những thai nhi bị chối từ.

Làm sao chúng ta không dửng dưng với những em nhỏ ở kề miệng giếng,

và không quay lưng với những người đã sa xuống vực sâu?

Cầu nguyện:

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,

có bao điều con lãng phí

bên cạnh những Ladarô túng quẫn,

có bao điều con hưởng lợi

dựa trên nỗi đau của người khác,

có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.

Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công

chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm

về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân,

vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó

là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo

là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,

nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

Thứ Bảy Tuần 30 Thường niên:

Ngồi chỗ cuối

Lời Chúa: Lc 14, 1. 7-11

1 Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người. 7Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này:8 "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời,9 và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: "Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.10 Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: "Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.11Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."

Suy niệm:

Khi thấy các khách dự tiệc có khuynh hướng chọn ngồi chỗ nhất,

Đức Giêsu đưa ra một lời khuyên đối với họ (cc. 8-10).

Mới nghe những lời khuyên này,

ta có cảm tưởng đây chỉ là những lời dạy cách ứng xử khôn khéo.

Nên chọn ngồi chỗ cuối,

vì nếu chủ tiệc sắp xếp lại chỗ ngồi theo thứ bậc,

bạn có cơ hội được mời lên chỗ trên.

Thà ngồi dưới rồi được đưa lên, còn hơn ngồi trên mà bị kéo xuống.

Như thế ngồi chỗ cuối rốt cuộc chỉ là một giả vờ,

để che dấu tham vọng muốn được ngồi lên trên.

Ngồi chỗ cuối chỉ là để tránh một xấu hổ, sỉ nhục,

và nhắm đến một vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn (cc. 9-10).

Đức Giêsu có ý khuyên dạy người ta như thế không?

Chắc là không.

Qua dụ ngôn đơn sơ và có thể gây hiểu lầm trên đây (c. 7),

Đức Giêsu muốn nói với khách dự tiệc một điều quan trọng hơn nhiều.

Bài ca Magnificat đã nói đến một sự đảo ngược lớn lao sẽ xảy ra:

Chúa dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi kẻ giàu sang,

nhưng nâng cao kẻ khiêm nhường, ban dư đầy cho người đói (1, 51-53).

Các Mối Phúc cho và Khốn cho cũng nói lên sự đảo ngược này.

Phúc cho người nghèo, người đói, người khóc than.

Khốn cho người giàu, người no, người được ca tụng (6, 20-26).

Dụ ngôn Ladarô và ông nhà giàu là một minh họa về điều đó (16, 19-31).

Trong câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay,

Đức Giêsu cũng nói lên sự đảo ngược ấy khi Nước Thiên Chúa đến.

“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống.

Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (c. 11).

Bị hạ xuống trong bữa tiệc, thật là điều hổ nhục.

Nhưng bị Thiên Chúa hạ xuống trong ngày sau hết thì kinh khủng hơn nhiều.

Nỗi hổ nhục sẽ muôn đời còn mãi.

Để thực hành lời khuyên của Đức Giêsu cho đúng đắn,

thánh Basiliô cho ta một soi sáng như sau:

“Chúng ta phải để cho chủ tiệc lo chuyện xếp chỗ các khách mời.

Như thế chúng ta mới nâng đỡ lẫn nhau trong nhẫn nhục và bác ái,

đối xử với nhau trong sự kính trọng,

xa tránh mọi tìm kiếm hư danh và khoe khoang.

Chúng ta không giả vờ khiêm tốn.

Bởi lẽ thích tranh chấp và cãi vã là dấu hiệu kiêu ngạo

còn lớn hơn chuyện ngồi ghế đầu khi phải ngồi chỉ vì vâng phục.”

Kitô hữu vẫn phải đối diện với cám dỗ của tham vọng và quyền uy.

Ngấm ngầm hay lộ liễu, những tranh giành ảnh hưởng vẫn xảy ra.

Trong lòng, ai cũng nghĩ mình xứng đáng hơn người khác.

Thèm muốn vinh dự, chức tước, đã gây bao chia rẽ trong Giáo Hội.

Chỉ mong tôi thực sự hạ mình trước anh em tôi.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,

nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.

Cho con biết yêu

những công việc bé nhỏ mỗi ngày,

những công việc âm thầm,

những bổn phận mà con làm vì yêu mến.

Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,

vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,

nhưng làm tim con đau đớn.

Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,

đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,

sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.

Hơn nữa, xin cho con can đảm,

dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,

nhờ đó con vui tươi phục vụ mọi người

và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.

Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,

xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,

con đường bé nhỏ và khiêm hạ.

Ước gì con được làm bạn của Chúa

trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,

và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.

Thứ Hai Tuần 31 Thường niên: Thiếu

Thứ Ba Tuần 31 Thường niên:

Xin kiếu

Lời Chúa: Lc 14, 15-24

Khi ấy, một trong những kẻ đồng bàn với Ðức Giêsu nói với Người: “Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa!” Người đáp: “Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. Ðến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng: “Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn.” Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói: “Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; cho tôi xin kiếu.” Người khác nói: “Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu.” Người khác nói: “Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được.” Ðầy tớ ấy trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng: “Mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây.” Ðầy tớ nói: “Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ.” Ông chủ bảo người đầy tớ: “Ra các nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ giậu, ép người ta vào đầy nhà cho ta. Tôi nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi.”

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay vẫn nằm trong bối cảnh của bữa tiệc

do một ông Pharisêu chức sắc mời Đức Giêsu vào ngày sabát (Lc 14, 1).

Những lời Ngài nói trong bữa tiệc đã đánh động một người cùng bàn.

Ông chia sẻ với Đức Giêsu về niềm hạnh phúc

của người được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (c. 15),

ở đó có mặt các tổ phụ và thiên hạ từ khắp tứ phương (Lc 13, 28-29).

Chính vì thế Đức Giêsu đã muốn kể một dụ ngôn về Nước Trời.

Nước Trời giống như một đại tiệc do một người khoản đãi.

Ông đã mời nhiều quan khách đến dự.

Khi đến giờ đãi tiệc, ông còn sai đầy tớ đi mời họ lần nữa.

“Mời quý vị đến, vì mọi sự đã sẵn sàng rồi” (c. 17).

Tiếc thay lời mời ấy, đại tiệc ấy, lại bị mọi người coi nhẹ.

Ai cũng có lý do để xin kiếu từ.

Kẻ thì kiếu vì cần phải đi xem miếng đất mới mua (c. 18).

Kẻ thì kiếu vì phải đi kiểm tra năm cặp bò mới tậu (c. 19).

Kẻ khác lại xin kiếu vì phải ở nhà với người vợ mới cưới (c. 20).

Có vẻ các lý do đưa ra đều có lý phần nào.

Nhưng thực sự chúng có phải là những lý do chính đáng

để từ chối đại tiệc mà mình đã được mời cách trân trọng hay không?

Vấn đề chỉ là chọn lựa.

Xem đất mới mua, xem bò mới tậu, ở nhà với vợ mới cưới,

những điều ấy hẳn cần thiết và quan trọng.

Nhưng có quan trọng bằng chuyện đi dự tiệc không?

Nếu đi dự tiệc để diễn tả sự hiệp thông của tình bạn

thì có thể hoãn các chuyện khác không, để chọn điều có giá trị hơn?

Chúng ta hiểu được sự nổi giận của ông chủ,

khi thấy bữa tiệc dành để khoản đãi các khách quý lại bị đổ vỡ.

Ông thấy chính mình bị xúc phạm, tình bạn bị coi thường.

Ông quyết định dành bữa tiệc này cho những ai không phải là khách quý,

những người thuộc giới hạ lưu, nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (c. 21).

Và khi phòng tiệc vẫn còn chỗ trống, ông đã khẩn khoản lôi kéo vào

cả những người ở ngoài đường hay trong vườn nho (c. 23).

Cuối cùng, người được mời trước thì bị loại, vì họ tự loại chính họ (c. 24).

Còn những người có vẻ không xứng đáng lại được ngồi vào bàn.

Chẳng ai xứng đáng được dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa

nếu Thiên Chúa không mời.

Nhưng chẳng ai bị loại trừ khỏi bàn tiệc cánh chung

nếu họ không cố ý từ chối lời mời đó.

Chẳng ai có thể tự cứu mình mà không cần đến Thiên Chúa,

nhưng con người có thể làm mình bị trầm luân mãi mãi

chỉ vì thái độ khép kín của mình trước ơn Chúa ban.

“Tôi xin kiếu”, đó là câu nói của nhiều người Kitô hữu hôm nay.

Chúng ta xin kiếu một cách quá dễ dàng,

chẳng để ý gì đến nỗi thất vọng và đau đớn của người đãi tiệc.

Lời mời của Thiên Chúa bị từ chối chỉ vì những chuyện không đâu.

Chuyện tất bật làm ăn, chuyện vui chơi giải trí, chuyện mời mọc của bạn bè.

Có nhiều chuyện thấy có vẻ quan trọng hơn, khẩn trương hơn,

đến nỗi có người bỏ tham dự thánh lễ Chúa Nhật.

Hãy chọn Thiên Chúa và biết quý những gì Ngài muốn ban cho ta.

Đại tiệc Thiên Chúa đã dọn sẵn rồi,

không chỉ ở đời sau, mà ngay ở đời này.

Ngài mong ta đến để dự tiệc, hay đúng hơn để chia sẻ một tình bạn.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại

chọn những cầu thủ bóng đá,

những tài tử điện ảnh

làm thần tượng cho đời mình.

Hôm nay

Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,

và chúng con thật sự đắn đo

trước khi chọn Chúa.

Bởi chúng con biết rằng

chọn Chúa là lội ngược dòng,

theo Chúa là bước vào con đường hẹp:

con đường nghèo khó và khiêm nhu,

con đường từ bỏ và phục vụ.

Hôm nay, chúng con chọn Chúa

không phải vì Chúa giàu có,

tài năng hay nổi tiếng,

nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.

Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.

Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.

Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa

nhiều lần trong ngày,

qua những chọn lựa nhỏ bé,

để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,

và để chúng con

thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.

Thứ Tư Tuần 31 Thường niên:

Từ bỏ hết

Lời Chúa: Lc 14, 25-33

Một hôm, có rất đông người cùng đi đường với Ðức Giêsu. Người quay lại bảo họ: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được. Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà. Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”

Suy niệm:

Sống là chấp nhận từ bỏ.

Có những điều xấu phải từ bỏ

như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc...

Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn:

chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...

Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc.

Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng.

Tắt tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình.

Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.

Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn.

Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.

Người mẹ “là mẹ hơn” qua những hy sinh vất vả.

Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.

Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.

Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả,

chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền,

chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể.

Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.

Kitô hữu là người đã chọn theo Ðức Giêsu.

Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.

Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự,

trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất,

trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.

Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng,

nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối

khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.

Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu.

Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta,

đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.

Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu.

Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Ðức Kitô.

Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài,

chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.

Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.

Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pisa.

Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.

Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.

Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày

thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.

Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.

Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.

Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.

Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.

Cần từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.

Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận,

vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.

Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.

Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.

Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu,

dám bán tất cả để thấy mình giàu có.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

sống cho Chúa thật là điều khó.

Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.

Chúa đòi con cho Chúa tất cả

để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.

Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa

để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.

Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà

để cây đời con sinh thêm hoa trái.

Chúa cương quyết chinh phục con

cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.

Xin cho con dám ra khỏi mình,

ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan

để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,

dù phải chịu mất mát và thua thiệt.

Ước gì con cảm nghiệm được rằng

trước khi con tập sống cho Chúa

và thuộc về Chúa

thì Chúa đã sống cho con

và thuộc về con từ lâu. Amen.

Thứ Năm Tuần 31 Thường niên:

XIN CHUNG VUI VỚI TÔI

Lời Chúa: Lc 15, 1-10

1 Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng.2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng."3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:

4 "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.7 Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

8 "Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được?9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."

Chia sẻ:

Nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng cao cả,

nhưng lại xa lạ và lạnh lùng với con người,

vì con người có là gì đâu trước mặt Thiên Chúa.

Thật ra con người là mối bận tâm lớn của Ba Ngôi,

đến độ ta dám nói rằng con người chiếm chỗ trong tâm trí Thiên Chúa.

Trước khi con người hướng về Thiên Chúa

thì Thiên Chúa đã đưa tay ra, hướng về con người.

“Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi.”

Đó là điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.

Thiên Chúa Ba Ngôi sống cho nhau,

nhưng cũng sống vì con người và cho con người.

Hai dụ ngôn hôm nay cho thấy Thiên Chúa quý con người.

Mà con người ở đây lại không phải là những người thánh thiện.

Có những động từ được nhắc đến trong cả hai dụ ngôn :

có, mất, tìm, tìm được, chung vui, vui mừng.

Những động từ này nói lên tất cả tình cảm của Thiên Chúa.

Dụ ngôn về người đàn ông hay người phụ nữ

có một trăm con chiên hay mười đồng quan.

Vì lý do nào đó, một con chiên hay một đồng quan bị mất.

Sự mất mát này lớn lao đến nỗi người ta muốn tìm cho kỳ được.

Tìm cho kỳ được là tìm đến khi thấy mới thôi (cc. 4. 8).

Việc tìm kiếm này đòi phải hành động quyết liệt.

Người chăn chiên để chín mươi chín con ngoài đồng hoang,

người phụ nữ thắp đèn, quét nhà, moi móc mọi ngõ ngách.

Trong lo âu, người tìm kiếm chỉ nghĩ đến chuyện làm sao tìm lại được.

Chính vì thế niềm vui bùng lên khi tìm thấy điều đã mất.

Niềm vui không giữ lại cho riêng mình trong lòng.

Niềm vui đòi chia sẻ với bạn bè, với bà con lối xóm.

“Xin ông bà anh chị chung vui với tôi, vì tôi tìm thấy rồi” (cc. 5. 9).

Thiên đàng không cắt đứt với trần thế.

Các thiên thần của Thiên Chúa vui vì một người tội lỗi hối cải (c. 10).

Thiên Chúa mừng vui vì Ngài đã từng lo âu, đau khổ, tìm kiếm.

Mỗi tội nhân hoán cải là một thành tựu của Thiên Chúa.

Ngài quý từng con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài.

Thái độ của Đức Giêsu đối với tội nhân cho thấy trái tim Thiên Chúa.

Trái tim ấy nghiêng chiều về những con người đã lạc đường.

Đồng quan không thể tự ý trốn đi, nhưng con người có tự do quay lưng.

Thiên Chúa đi tìm con người quay lưng ấy.

Với sự khiêm hạ, Ngài chinh phục trái tim con người.

Hãy để Ngài đi tìm bạn, và cho Ngài niềm vui khi tìm thấy người đã mất.

Nói cho cùng, Thiên Chúa đi tìm ta suốt đời,

trong một cuộc chơi năm mười kéo dài mà ta chủ yếu là người đi trốn.

Hãy cảm được sự tế nhị của Ngài khi cố tìm ta mà vẫn tôn trọng tự do.

Nếu ta chịu để Ngài tìm thấy, ta sẽ nếm được ngay niềm vui thiên đàng.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin đánh thức con.

Xin đưa con ra khỏi cơn mê

mà tự sức con không sao thoát ra được.

Xin đừng ngại đánh thức con

bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ,

nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ

đang cắt tỉa con vì yêu con.

Ước gì con được tỉnh táo

để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê,

những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.

Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện,

xin cho con thức luôn và sáng luôn,

trước nhan Chúa.

Thứ Sáu Tuần 31 Thường niên:

HÀNH ĐỘNG KHÔN KHÉO

Lời Chúa: Lc 16, 1-8

1 Đức Giê-su còn nói với các môn đệ rằng: "Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông.2 Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: "Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!3 Người quản gia liền nghĩ bụng: "Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.4 Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!

5 "Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: "Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?6 Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi.7 Rồi anh ta hỏi người khác: "Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: "Một ngàn giạ lúa. Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.

8 "Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.

Suy niệm

Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta câu chuyện về Mạnh Thường Quân.

Ông là tướng quân của nước Tề vào thời Chiến Quốc.

Khi ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ về cho mình,

Phùng Huyên lại đốt giấy nợ của nhiều người và tha luôn nợ cho họ.

Mạnh Thường Quân không hiểu hết được ý nghĩa việc làm này.

Một năm sau, khi không được vua Tề tin dùng nữa,

Mạnh Thường Quân phải lui về đất Tiết để cư ngụ.

|Dân chúng đổ xô ra đón ông như một vị ân nhân đáng kính.

Bấy giờ ông mới hiểu việc làm khôn ngoan trước đây của Phùng Huyên.

Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bối rối.

Người quản gia bị mang tiếng là phung phí tài sản của chủ.

Anh phải nghỉ việc, dù không rõ tiếng tiếng đồn ấy có đúng không.

Anh không được bào chữa gì cho chính mình.

Bây giờ anh chỉ lo chuyện tương lai, sau khi thất nghiệp.

Anh suy nghĩ như một độc thoại: “Mình sẽ làm gì đây?”

Và anh nhận ra những hạn chế của mình về thân xác và tâm lý.

“Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi” (c. 3).

Dường như một ý nghĩ đã lóe lên trong anh.

“Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia,

sẽ có người đón rước mình về nhà họ !” (c. 4).

Anh quản gia chỉ có một thời gian ngắn để thu xếp trước khi ra đi.

Anh đã gọi các con nợ của chủ đến,

và trong tư cách là người còn có quyền, anh cho họ tự tay viết lại giấy nợ.

Họ đều là người nợ ông chủ những số nợ lớn.

Số nợ này được giảm đáng kể, dưới sự gợi ý của anh quản gia.

Một trăm thùng dầu ôliu, nay chỉ còn nợ năm mươi thôi.

Một ngàn giạ lúa, bây giờ chỉ còn nợ năm trăm.

Dĩ nhiên đối với anh, tất cả đều phải theo nguyên tắc có qua có lại.

Anh đã cho họ được hưởng lợi vào lúc này,

thì hẳn họ sẽ phải nhớ đến anh lúc anh sa cơ lỡ vận (c. 4).

Ông chủ chắc đã biết trò gian xảo của anh.

Những lời đồn đãi trước đây quả không hoàn toàn vô căn cứ (c.1).

Đúng anh là một tên quản gia bất lương.

Vậy mà ông chủ đã khen anh, điều này làm chúng ta bị sốc.

Nhưng chủ không hề khen sự bất lương của anh.

Ông chỉ khen anh về cách hành động khôn khéo (c. 8).

Anh khôn khéo vì anh biết nghĩ ra cách để tìm được bảo đảm cho mình,

dù đó chỉ là thứ bảo đảm vật chất ở đời này có tính tạm bợ.

Đức Giêsu lấy làm tiếc vì con cái ánh sáng là chúng ta

lại không có được sự khôn ngoan như con cái đời này.

Người ngoài đời có nhiều bí quyết để làm giàu, để thành đạt.

Họ có đủ khôn khéo để công việc kinh doanh được trôi chảy.

Họ dám có sáng kiến và dám liều để đem ra thực hiện.

Ước gì chúng ta có sự khôn ngoan đích thực và ngay thẳng,

nghĩa là biết khéo tận dụng mọi sự mình có,

để được gặp Chúa ở đời này và được hạnh phúc ở đời sau.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

Giàu sang, danh vọng, khoái lạc.

Là những điều hấp dẫn chúng con.

Chúng trói buộc chúng con

Và không cho chúng con tự do ngước lên cao

Để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con

Khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,

Nhờ cảm nghiệm được phần nào

Sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi

Bán tất cả những gì chúng con có,

Để mua được viên ngọc quí là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng

Trước những lời mời gọi của Chúa,

Không bao giờ ngoảnh mặt

Để tránh cái nhìn yêu thương

Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen

Thứ Bảy Tuần 31 Thường niên:

LÀM TÔI TIỀN CỦA

Lời Chúa: Lc 16, 9-15

9 "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.10 Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn.11 Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em?12 Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?

13 "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được."

14 Người Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giê-su.15 Người bảo họ: "Các ông là những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.

Suy niệm:

Khi muốn nói đến sức mạnh của đồng tiền

người ta thường nói: đồng tiền là tiên là phật…

Đức Giêsu còn nói mạnh hơn nữa:

đồng tiền còn có thể là chúa của con người, bắt con người làm tôi.

Ngay cả các kitô hữu, những người đã thuộc về Thiên Chúa,

và chỉ muốn phụng sự một mình Ngài,

cũng bị cám dỗ để đi hàng hai, bắt cá hai tay.

Họ nghĩ mình có thể làm tôi đồng thời cả Thiên Chúa lẫn Tiền Của,

nhờ đó được cả đời sau lẫn đời này.

Đức Giêsu cho thấy điều đó chỉ là một ảo tưởng (c. 13).

Phải chọn một trong hai, vì không thể yêu và gắn bó với cả hai.

Tôi muốn phục vụ ai bây giờ? Thiên Chúa hay Tiền Của?

Lúc đầu hẳn nhiên tôi muốn Tiền Của phục vụ tôi.

Nhưng sau đó Tiền Của trở thành một vị chúa bắt tôi làm nô lệ.

Mamôn (Tiền Của) trong tiếng Do-thái cổ

có thể có nghĩa là điều mà ta cậy dựa.

Khi Tiền Của trở thành chỗ dựa vững chắc và bảo đảm cho tôi,

nó sẽ chiếm lấy chỗ của Thiên Chúa.

Nếu chúng ta thực sự yêu mến và gắn bó với Thiên Chúa,

thế nào chúng ta cũng phải ghét bỏ và khinh dể Tiền Của (c. 13),

nghĩa là dứt khoát đặt nó dưới Thiên Chúa.

Thánh Phanxicô Assisi đã trả lại bộ quần áo đang mặc cho người cha.

Thánh Inhaxiô Loyola đã đổi bộ đồ quý phái cho một người ăn xin.

Bước đường theo Chúa của các bậc thánh nhân

thường bắt đầu bằng hành vi từ bỏ mọi vướng víu vật chất.

Người thanh niên giàu có cũng được mời bán tất cả để cho kẻ nghèo.

Thắng được cám dỗ của vật chất và tiền bạc, là một thách đố lớn

cho mọi cá nhân và tập thể, đạo cũng như đời.

Chúng ta vẫn có nguy cơ thờ lạy Mamôn, ngẫu tượng của mọi thời đại.

Làm sao để tiền của trở nên đầy tớ của chúng ta,

để ta có thể sử dụng nó như đường vào Nước Trời?

Bill Gates, người giàu nhất thế giới vào năm 2009 với tài sản 40 tỷ đô.

Ông đã nghỉ điều hành công ty Microsoft từ năm ngoái,

để cùng vợ dành nhiều thời gian hơn cho việc xây dựng quỹ từ thiện.

Quỹ hàng chục tỷ đô này đã giúp người nghèo, bệnh nhân ở khắp nơi,

và Bill Gates biết cách làm cho quỹ này lớn thêm mãi.

Dù không phải là một kitô hữu đi lễ mỗi sáng Chúa Nhật,

nhưng ông cho ta hình ảnh của một người không quá bám vào của cải.

Kitô hữu không hẳn phải là người khố rách áo ôm,

nhưng chắc chắn phải là người siêu thoát với sức hấp dẫn của tiền bạc.

Trung tín trong việc rất nhỏ, và trong việc sử dụng của cải của tha nhân,

đó là điều Đức Giêsu nhắn nhủ ta khi sống trong nền kinh tế thị trường.

Làm sao để Thiên Chúa, chứ không phải Tiền Của, thực sự làm chủ đời ta?

Cầu nguyện:

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng

tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,

chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,

tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,

có bao điều con lãng phí

bên cạnh những Ladarô túng quẫn,

có bao điều con hưởng lợi

dựa trên nỗi đau của người khác,

có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.

Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công

chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm

về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân,

vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó

là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.

Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo

là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,

nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.

Thứ Hai Tuần 32 Thường niên:

Làm cớ vấp ngã

Lời Chúa: Lc 17, 1-6

Khi ấy, Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã! Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô nó xuống biển còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã. Anh em hãy đề phòng!”

“Nếu người anh em của anh xúc phạm đến anh, thì hãy khiển trách nó; nếu nó hối hận, thì hãy tha cho nó. Dù có xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: ‘Tôi hối hận’, thì anh cũng phải tha cho nó.”

Các tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” Chúa đáp: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em.”

Suy niệm:

Thỉnh thoảng báo chí lại nói đến một chuyện không hay nào đó

bị coi là gây sốc hay phản cảm.

Có những chuyện tồi tệ hơn được gọi là xì-căng-đan.

Xì-căng-đan gốc là một từ Hy-lạp dùng trong Tân Ước (scandalon)

để chỉ một viên đá làm người ta vấp ngã (Rm 11, 9),

hay một duyên cớ khiến người ta phạm tội (Mt 13, 41).

Trong Giáo Hội đôi khi cũng có những xì-căng-đan.

Nơi bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta hãy đề phòng

về những xì-căng-đan trong chính cộng đoàn tín hữu.

Ngài nhìn nhận rằng không thể nào tránh được những xì-căng-đan (c. 1).

Nhưng Ngài lại rất nặng lời với người nào gây ra cớ vấp phạm đó.

Cột cối đá lớn vào cổ anh ta và xô xuống biển cho chết đi

thì tốt cho anh ấy hơn là để anh ấy làm cớ phạm tội

cho một trong những kẻ bé nhỏ này (c. 2).

Những kẻ bé nhỏ ở đây là những người môn đệ của Chúa.

Rõ ràng Đức Giêsu quý tâm hồn trong sạch của con người.

Tuy hiền lành, nhưng Ngài lại tỏ ra không khoan nhượng

với những kẻ làm gương xấu khiến người khác phạm tội.

Ngài muốn bảo vệ những kẻ yếu đuối, đơn sơ, thiếu bản lãnh.

Ngài không muốn những Kitô hữu khác lợi dụng, lôi kéo họ,

khiến họ mất đức tin, mất niềm hy vọng và mất lòng yêu mến.

Trong bài diễn từ cuối cho các kỳ mục của Êphêsô ở Mi-lê-tô,

thánh Phaolô đã khuyên các ông nên coi chừng sói dữ vào đàn chiên,

“giảng dạy những điều sai lạc, lôi cuốn các môn đệ đi theo” (Cv 20,30).

Làm cớ cho người khác phạm tội

là một tội chúng ta ít để ý và ít xưng thú.

Chúng ta cho mình có quyền tự do nói và làm điều mình thấy là đúng.

Nhưng khi làm như vậy, chúng ta lại không để ý

đến những thương tổn có thể gây ra nơi lương tâm

của những người anh em yếu đuối trong cộng đoàn,

cũng như đến chuyện làm cớ cho anh em mình sa ngã (1 Cr 8, 11.13).

Thánh Phaolô nhấn mạnh: phạm đến anh em là phạm đến Đức Kitô.

Không thể vì tự do của tôi mà làm mất một người anh em

đã được Đức Kitô chết cho (1 Cr 8, 11).

Trong cuộc sống nối mạng toàn cầu hiện nay,

cái tốt và cái xấu được loan đi xa với tốc độ chớp nhoáng.

Một biến cố mới xảy ra ở đây, lập tức cả thế giới đều biết.

Nhưng cái xấu xem ra hấp dẫn hơn, mạnh mẽ hơn, dễ bắt chước hơn,

khiến con người hôm nay, đặc biệt là giới trẻ, bị ảnh hưởng nặng nề.

Làm thế nào để những gương tốt được nhân lên khắp đó đây?

Làm thế nào để Giáo Hội bớt đi những viên đá làm người ta vấp ngã?

Mong có ngày một giáo dân bình thường cũng biết nhận định đúng sai

khi tiếp thu đủ thứ thông tin từ mọi nguồn.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,

việc tông đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt.

để khi thấy con, người ta phải nói:

“vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt”.

Và nếu có ai hỏi con tại sao con lại hiền lành và tốt như thế,

con sẽ trả lời vì con là tôi tớ của một Đấng tốt hơn con nhiều.

“Chớ chi bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!”

Con muốn sống thật tốt để người ta có thể nói:

“Nếu tôi tớ mà tốt như vậy, thì Chủ sẽ tốt đến thế nào!”

(Chân phước Charles Foucauld)

Thứ Ba Tuần 32 Thường niên:

Đầy tớ vô dụng

Lời Chúa: Lc 17, 7-10

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: “Mau vào ăn cơm đi”, chứ không bảo: “Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!”? Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao? Ðối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”

Suy niệm:

Vào thời xưa, những tù binh bại trận phải làm nô lệ cho phe thắng.

Khi nhân phẩm của từng con người chưa được nhận ra

thì chuyện mua bán nô lệ là chuyện dễ hiểu (Xh 21, 21).

Dân Ítraen cũng có kinh nghiệm về việc bị bắt làm nô lệ ở Ai-cập,

và kinh nghiệm được Thiên Chúa giải phóng để trả lại tự do.

Những kinh nghiệm này khiến cho chế độ nô lệ ở Ítraen bớt tàn nhẫn.

Người chủ không có quyền bạc đãi nô lệ của mình (Xh 21, 26-27).

Có những nô lệ còn được trao trách nhiệm quản trị thay cho chủ.

Nếu nô lệ là người Do thái thì sau sáu năm phục vụ,

năm thứ bảy anh phải được trả tự do (Xh 21, 2).

Hơn nữa, sách Lêvi còn nói đến việc chuyển đổi biên chế

để một nô lệ Do thái trở thành người làm công trong nhà (25, 39-55).

Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn nói về chuyện một ông chủ.

Ông có một đầy tớ, hay đúng hơn ông sở hữu một anh nô lệ (doulos).

Có một sự khác biệt lớn giữa nô lệ và người làm công.

Anh nô lệ được mua về, và anh phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ.

Khác với người làm công, anh nô lệ không được đòi hỏi gì.

Người nô lệ phải làm mọi việc chủ bảo làm

mà không được đòi lương hay bất cứ ân huệ nào khác.

Đức Giêsu mời các môn đệ đặt mình vào hoàn cảnh của ông chủ.

Có thể ông chỉ có một anh nô lệ thôi,

nên anh vừa phải lo việc đồng áng, vừa phải lo việc cơm nước.

Khi anh từ ngoài đồng về, sau cả ngày làm việc,

sau khi đã vất vả đi cày hay đi chăn chiên (c. 7),

liệu ông chủ có mời anh ngồi vào bàn, ăn cơm tối với mình không?

Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.

Anh sẽ phải tiếp tục phục vụ chủ bằng cách vào bếp, dọn bữa tối.

Khi bữa tối được dọn xong, khi ông chủ ngồi ăn uống thảnh thơi,

thì anh nô lệ phải đứng hầu bàn,

thắt lưng gọn gàng trong tư thế của người đang làm việc (c. 8).

Chỉ khi ông chủ ăn uống xong, bấy giờ mới đến lúc anh ăn uống.

“Ông chủ có biết ơn anh nô lệ, vì anh đã làm theo lệnh truyền không?”

Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.

Ông chủ chẳng phải trả công cho anh nô lệ.

Và anh cũng không chờ bất cứ một lời khen hay ân huệ nào từ ông chủ.

Anh hồn nhiên làm điều anh phải làm mỗi ngày, thế thôi.

Dụ ngôn này của Đức Giêsu gây sốc cho chúng ta ngày nay,

những người vất vả lo việc Chúa, những người ít khi được nghỉ.

Chúng ta cũng thuộc về Chúa tương tự như một nô lệ (Cv 4, 29).

Chúng ta làm điều phải làm (c. 10),

nhưng không như người làm công chờ lương,

cũng không đòi tiếng khen, quyền lợi, hay đặc ân nào khác từ chủ.

Người tông đồ giống như người đi cày (Lc 9, 62),

chăn chiên (Cv 20, 28), hay hầu bàn (Lc 22, 27).

Khi chu toàn mọi việc được giao, vẫn nhận mình là đầy tớ vô dụng,

không một chút kiêu hãnh, đòi hỏi công lao hay tự hào về thành quả.

Thanh thoát với chính những công việc lớn lao mình đã làm,

siêu thoát khỏi cái tôi muốn phình to bằng công đức,

đó là điều mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa.

Dù sao ta không được phép nghĩ Thiên Chúa như một ông chủ tàn nhẫn.

Đức Giêsu đã mang lấy thân phận một nô lệ để cứu chúng ta (Ph 2, 7).

Ngài đã sống như người hầu bàn cho các môn đệ (Lc 22, 27).

Và Ngài sẽ cư xử như một người hầu bàn ăn cho ta

khi Ngài đến mà thấy ta vẫn tỉnh thức đợi chờ (Lc 12, 37).

Cầu nguyện:

Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,

xin dạy con biết sống quảng đại,

biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,

biết cho đi mà không tính toán,

biết chiến đấu không ngại thương tích,

biết làm việc không tìm an nghỉ,

biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào

ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.

Thứ Tư Tuần 32 Thường niên:

Sấp mình tạ ơn

Lời Chúa: Lc 17, 11-19

Trên đường lên Giêrusalem, Ðức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” Thấy vậy, Ðức Giêsu bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Ðang khi đi thì họ đã được sạch. Một người trong bọn, thấy mặt được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. Ðức Giêsu mới nói: “Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Rồi Người nói với anh ta: “Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”

Suy niệm:

Giáo dục cho trẻ em về lòng biết ơn là điều quan trọng.

Cha mẹ thường dạy con cám ơn người làm ơn cho mình.

Cám ơn là đi từ món quà đến người trao tặng.

Mỗi người chúng ta đã nhận biết bao quà tặng trong đời,

nên chẳng ai là người trọn vẹn nếu không có lòng biết ơn.

Bản thân tôi là một quà tặng do nhiều người cho :

cha mẹ, ông bà tổ tiên, các anh hùng dân tộc…

Chỉ cần để lòng biết ơn đi lên mãi, lên tới nguồn,

tôi sẽ gặp được Thiên Chúa như Người Tặng Quà viết hoa.

Đức Giêsu đã làm bao điều tốt đẹp cho người thời của Ngài.

Nhưng ít khi Tân Ước nói đến chuyện họ cám ơn,

mà Đức Giêsu cũng chẳng bao giờ đòi ai cám ơn mình sau phép lạ.

Bởi đó bài Tin Mừng hôm nay thật độc đáo.

Mười người phong ở với nhau trong một ngôi làng.

Họ biết tiếng của Đức Giêsu và biết cả tên của Ngài.

Họ vui mừng thấy Ngài vào làng, nhưng họ chỉ được phép đứng xa xa.

Tiếng kêu của họ vừa bi ai, vừa đầy hy vọng được chữa lành:

“Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!” (c. 13).

Đức Giêsu đã chẳng chữa lành cho họ ngay lập tức,

như từng làm với một người phong khác trước đây (Lc 5, 12-16).

Dù họ chưa được sạch, Ngài đã bảo họ đi trình diện với các tư tế

để cho thấy là mình đã khỏi rồi.

Họ đã tin tưởng, vâng phục, ra đi, và được khỏi bệnh.

Chỉ có một người, khi thấy mình được khỏi, liền quay lại.

Anh ấy lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, và sấp mình tạ ơn Đức Giêsu.

Đó là một người Samaria, thời đó bị coi như người nước ngoài (c. 18).

Anh được ơn lành bệnh, và hơn nữa anh có lòng biết ơn.

Tôn vinh Thiên Chúa thì làm ở nơi nào cũng được.

Nhưng anh muốn trở lại để gặp người Thiên Chúa dùng để thi ân cho mình.

Cám ơn, biết ơn, tạ ơn, là mở ra một tương quan riêng tư mới mẻ.

Người phong xứ Samaria không chỉ được chữa lành.

Anh còn có kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa và người thi ân là Thầy Giêsu.

Ơn này còn lớn hơn ơn được khỏi bệnh.

Đức Giêsu có vẻ trách móc khi hỏi ba câu hỏi liên tiếp (cc. 17-18).

Ngài ngạc nhiên vì không thấy chín người Do thái kia trở lại cám ơn.

Đôi khi người Kitô hữu chúng ta cũng thiếu thái độ tạ ơn khi cầu nguyện.

Dường như chúng ta ít mãn nguyện với những ơn đã được tặng ban.

Chúng ta chỉ buồn Chúa về những ơn xin mãi mà không được.

Nhận ra ơn Chúa ban cho đời mình và biết tri ân: đó là một ơn lớn.

Người có lòng biết ơn bao giờ cũng vui.

Họ hạnh phúc với những gì Chúa ban mỗi ngày, vào giây phút hiện tại.

Biết ơn là con đường đơn sơ dẫn đến kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa.

Khi tôi biết đời tôi là một quà tặng nhận được,

thì tôi sẽ sống nó như một quà tặng để trao đi.

Cầu nguyện:

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,

những ơn con thấy được,

và những ơn con không nhận là ơn.

Con biết rằng

con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,

biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì

Cha không ban cho con,

và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì

Cha cương quyết không ban

bởi lẽ điều đó có hại cho con,

hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha

dù con không hiểu hết những gì

Cha làm cho đời con.

Thứ Năm Tuần 32 Thường niên:

Nước Thiên Chúa

Lời Chúa: Lc 17, 20-25

Khi ấy, người Pharisêu hỏi Ðức Giêsu bao giờ Nước Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: ‘Ở đây này!’ hay ‘Ở kia kìa!’, vì này Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” Rồi Ðức Giêsu nói với các môn đệ: “Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một trong những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy. Người ta sẽ bảo anh em: ‘Người ở kia kìa!’ hay ‘Người ở đây này!’ Anh em đừng đi, đừng chạy theo. Vì ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.”

Suy niệm:

Từ sau khi dân Ítraen định cư ở đất Canaan,

Thiên Chúa được họ coi như một vị Vua cai trị mọi dân tộc.

Đặc biệt Ngài là Vua ngự giữa dân Ítraen để lãnh đạo và chăm sóc họ.

Các vị vua trần thế đã xuất hiện trong dòng lịch sử của Ítraen

như những người phục vụ cho Đức Vua, cho Nước Thiên Chúa.

Tiếc thay có những vị vua đã không làm tròn sứ mạng.

Trải qua bao triều vua của nước Ítraen, bao thịnh suy của đất nước,

từ sau khi lưu đầy trở về, dân chúng chỉ còn biết chờ một Đấng Mêsia.

Họ tin Đấng ấy sẽ khai mở Nước Thiên Chúa.

“Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (c. 21).

Đức Giêsu đã nói với các ông Pharisêu như vậy

khi họ hỏi Ngài khi nào Nước Thiên Chúa đến.

Nước ấy không đến một cách lộ liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20).

Người Pharisêu không nhận ra Nước ấy đang ở giữa họ.

Chỉ ai biết nhìn, mới nhận ra Nước ấy đang hiện diện và hoạt động

nơi lời giảng và các phép lạ của Đức Giêsu.

Khi bệnh được khỏi, khi quỷ bị trừ, khi tội được tha,

khi con người biết hoán cải để sống những đòi hỏi của Đức Giêsu,

khi ấy Nước Thiên Chúa có mặt và tăng trưởng.

Đức Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa.

Và Nước đó vẫn lớn lên từ từ qua dòng thời gian.

Như hạt giống được gieo trong đất, đêm hay ngày cũng cứ lớn lên,

như chút men làm dậy khối bột, như hạt cải thành cây cao rợp bóng,

Nước Thiên Chúa cũng cần thời gian để đạt đến chỗ viên mãn.

Hai ngàn năm trôi qua, Nước Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt.

Nhưng Kitô hữu chúng ta vẫn thấy còn nhiều điều phải làm

để Nước đó được nhìn nhận bởi hơn 6 tỷ người trên trái đất.

Ngày nào thế giới còn chiến tranh, bạo động, còn áp bức, bất công,

ngày nào nhân loại còn bệnh tật đói nghèo, còn nô lệ cho vật chất,

ngày ấy Nước Thiên Chúa chưa ngự trị trên địa cầu.

Nơi nào công lý và hòa bình, khoan dung và nhân hậu,

chi phối trái tim và cách hành xử giữa người với người,

nơi đó Nước Thiên Chúa đã đến gần hơn.

Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Cha trị đến (Mt 6, 10).

Chúng ta biết mình được mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian.

Để chuẩn bị cho Ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang,

chúng ta còn bề bộn công việc phải làm.

Ngài phải có chỗ trong lòng dân tộc, giữa thế kỷ hai mươi mốt.

Nhưng trước hết Ngài phải có chỗ trong lòng chúng ta.

Xin được đón lấy Nước Thiên Chúa như trẻ thơ, như người nghèo tay trắng.

Xin được quảng đại bán tất cả để mua viên ngọc quý là Nước Trời.

Xin được chia sẻ cho Giêsu nơi những người anh em bé nhỏ nhất.

Vì Nước Thiên Chúa là một tiệc vui quy tụ mọi người từ bốn phương,

xin được mở rộng vòng tay từ bây giờ để ôm lấy cả thế giới.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới :

Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này

là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.

Con mơ ước

không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,

bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.

Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,

không còn những cô gái đứng đường

hay những người ăn xin.

Con mơ ước

những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,

các ông chủ coi công nhân như anh em.

Con mơ ước

tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,

các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con,

con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,

xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,

và xanh của bao niềm hy vọng

nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.

Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,

thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.

Thứ Sáu Tuần 32 Thường niên:

Được đem đi, bị bỏ lại

Lời Chúa: Lc 17, 26-37

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Cũng như thời ông Nôê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng sẽ xảy ra như vậy. Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nôê vào tàu, và nạn hồng thủ ập tới, tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót, thiên hạ ăn uống, mua bán, trồng trọt, xây cất. Nhưng ngày ông Lót ra khỏi Xơđom, thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trờ đổ xuống tiêu diệt tất cả. Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mặc khải. Ngày ấy, ai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy. Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót. Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống. Thầy nói cho anh em biết: đêm ấy, hai người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. Hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.” Các môn đệ lên tiếng hỏi Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, ở đâu vậy?” Người nói với các ông: “Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó.”

Suy niệm:

Gần đây trong y học, người ta nói đến hội chứng Brugada.

Hội chứng này thường gặp ở nơi nam giới vùng Đông Nam Á.

Nó có thể gây tử vong bất thình lình và nhanh chóng,

cho một người khi ngủ vào ban đêm, dù trước đó anh vẫn khỏe mạnh.

Số người mắc hội chứng có tính di truyền này hiện đang gia tăng.

Đến nay người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân gây bệnh.

Sống làm người ở đời, con người phải đương đầu với bao bất ngờ.

Những điều tưởng như không thể nào xảy ra được, lại xảy ra.

Những điều đã tính toán rất cẩn thận, lại xảy ra không như ý.

Bệnh tật, rủi ro, tai nạn, và sau cùng là cái chết.

Những cái bất ngờ đến nhanh quá khiến con người không kịp trở tay.

Làm sao ta có đủ bình tĩnh để đón lấy mọi cái bất ngờ trong cuộc sống?

Kitô giáo chờ đợi một bất ngờ,

vì biết bất ngờ đó thế nào cũng đến, chỉ không biết rõ khi nào thôi.

Đó là Ngày Chúa Giêsu trở lại trái đất này

trong tư cách là Vua xét xử cả nhân loại.

Vào buổi đầu, nhiều Kitô hữu tưởng là Ngài sẽ trở lại ngay lập tức.

Nhưng dần dần họ thấy rằng Giáo Hội phải kiên nhẫn chờ đợi.

Chỉ khi chờ đợi điều chắc chắn sẽ xảy ra, tuy không rõ khi nào,

người ta mới không bị hụt hẫng khi biến cố xảy đến.

Giáo Hội đã chờ hai ngàn năm và hôm nay vẫn đang chờ.

Chờ và chuẩn bị cho Ngày Quang Lâm làm nên sức sống của Giáo Hội.

Nhưng chờ đợi lâu dài cũng có thể làm người ta mỏi mòn.

Cuộc sống hàng ngày với nhịp điệu bình thường, đều đặn, êm ả,

có thể cuốn hút ta vào một vòng xoáy khó có lối ra.

Cơn hồng thủy đã bất ngờ ập xuống vào thời ông Nôê,

khi “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang cưới vợ, họ đang lấy chồng.”

Dòng chảy tự nhiên ấy bị cắt đứt đột ngột bởi cơn hồng thủy.

Khi Thiên Chúa tiêu diệt thành Xơđôm bằng lửa bởi trời,

thì “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang mua, họ đang bán,

họ đang trồng, họ đang xây” (c. 28).

Cuộc sống tưởng như cứ trôi đều, ai ngờ nó phải dừng lại.

Chuyện ăn uống, mua bán, lập gia đình, trồng trọt, xây cất

chẳng phải là điều xấu, cần phải tránh xa hay coi thường.

Nhưng chúng ta không để mình bị ru ngủ

bởi cái nhịp tự nhiên và quyến rũ của chúng.

Người Kitô hữu sống đời thường như mọi người một cách tỉnh táo.

Tận tụy nhưng lại không bị mất hút, hết mình nhưng lại còn chút e dè.

Sống tưng bừng giây phút hiện tại nhưng vẫn nhớ đến điểm tới.

Hai người nằm một giường, hai phụ nữ xay một cối (cc. 34-35),

nhưng số phận chung cuộc của họ lại khác nhau.

Có người được đem đi, có người bị bỏ lại.

Làm sao tôi đừng tiếc đồ đạc mà xuống lấy hay quay trở lại nhà (c. 31)?

Làm sao tôi đừng như vợ ông Lót quay nhìn lại và hóa thành cột muối?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã yêu trái đất này,

và đã sống trọn phận người ở đó.

Chúa đã nếm biết

nỗi khổ đau và hạnh phúc,

sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,

nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,

chúng con thấy mình được thêm sức mạnh

để xây dựng trái đất này,

và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,

xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời

không làm chúng con quên trời cao ;

và những vẻ đẹp của trần gian

không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,

mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

Thứ Bảy Tuần 32 Thường niên:

Không được nản chí

Lời Chúa: Lc 18, 1-8

Khi ấy, Ðức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. Người nói: “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: “Xin ngài bênh vực tôi chống lại kẻ kiện tôi.” Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng ông ta nghĩ bụng: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta bênh vực mụ cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nữa chăng?” Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”

Suy niệm:

Một trong những lý do khiến người ta bỏ cầu nguyện,

đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa.

Con người bị áp bức, khổ đau, nên kêu gào lên Chúa,

nhưng tiếng kêu thảm thiết của họ dường như chẳng được nghe.

Thiên Chúa có hiện hữu không?

Nếu Ngài có mặt, sao Ngài không cứu giúp ta ra khỏi nỗi quẫn bách?

Đã có bao lời cầu nguyện từ sáu triệu người Do thái

trước khi họ bị quân Đức quốc xã giết hại dã man.

Họ kêu lên cùng Chúa là Đấng đã giải thoát tổ tiên họ khỏi cảnh nô lệ.

Nhưng tại sao bây giờ Ngài lại lặng yên, để sự dữ lộng hành?

“Phải cầu nguyện luôn luôn và không được nản chí” (c. 1).

Không nên thấy Thiên Chúa lặng thinh mà vội bỏ cuộc.

Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về sự kiên trì của một bà góa.

Bà chẳng còn chỗ dựa tinh thần và vật chất nơi người chồng.

Thiếu sự chở che của chồng, bà dễ bị người khác đối xử bất công.

Chính vì thế bà đã nhiều lần đến vị quan tòa để đòi hỏi công lý.

Tiếc thay vị quan tòa lại không phải là người tốt.

“Ông chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì” (c. 2).

Thế nên vụ kiện cứ bị ngâm trong một thời gian khá lâu.

Nhưng bà góa này quyết không nản lòng, cứ quấy rầy vị quan tòa.

Cuối cùng, ông ta đành giải quyết, chỉ vì muốn yên chuyện (c. 5).

Thiên Chúa dĩ nhiên khác hẳn viên quan tòa bất chính trên đây.

Ngài không trì hoãn việc xét xử, nhưng sẽ mau chóng trả lại công lý

cho những kẻ ngày đêm kêu lên Ngài (cc. 7- 8).

Thiên Chúa không nhậm lời chúng ta để tránh bị quấy rầy hay rắc rối,

nhưng vì Ngài là Đấng Công Chính biết lắng nghe tiếng kêu than.

Trong thế giới hôm nay, sự dữ vẫn làm mưa làm gió.

Bóng tối như nuốt chửng ánh sáng, sự ác có vẻ mạnh mẽ hơn sự thiện.

Vẫn có những bà góa neo đơn phải chịu cảnh bất công.

Vẫn có những phụ nữ và trẻ em bị bóc lột và lạm dụng.

Đức tin người Kitô hữu có thể bị xao động khi nhìn vào thế giới.

Nhiều khi con người cảm thấy mình yếu đuối và bất lực.

Hãy cầu nguyện luôn, hãy kêu lên Chúa đêm ngày!

Đừng mất niềm tin vào Thiên Chúa (c. 8),

dù tiếng kêu của những người thấp cổ bé miệng vọng lên trời cao

vẫn chưa có tiếng trả lời ngay lập tức.

Cuộc chiến với những bất công trên thế giới còn kéo dài.

Người Kitô hữu được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa cho sứ vụ ấy.

Chúng ta cần có sự hỗ trợ từ trời,

để hoán cải lòng người từ bên trong, để xây dựng một thế giới mới.

Kiến tạo một trái đất công bằng và bác ái,

đó là ước mơ của Thiên Chúa và cũng là ước mơ của chúng ta.

Xin Ngài ra tay hành động mạnh mẽ,

nhưng xin cho chúng con trở nên khí cụ hữu hiệu để tay Ngài dùng.

Cầu nguyện:

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,

xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,

xin cho con quý chuộng những lúc

được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,

xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa

để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,

xin cho con thoát được lên cao

nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa,

ước gì tinh thần cầu nguyện

thấm nhuần vào cả đời con.

Nhờ cầu nguyện,

xin cho con gặp được con người thật của con

và khuôn mặt thật của Chúa.

Thứ Hai Tuần 33 Thường niên:

Xin cho tôi nhìn thấy

Lời Chúa: Lc 18, 35-43

35 Khi Đức Giê-su gần đến Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường.36 Nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì.37 Họ báo cho anh biết là Đức Giê-su Na-da-rét đang đi qua đó.38 Anh liền kêu lên rằng: "Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! "39 Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi; nhưng anh càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! "40 Đức Giê-su dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi:41 "Anh muốn tôi làm gì cho anh? " Anh ta đáp: "Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được."42 Đức Giê-su nói: "Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh."43 Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.

Suy niệm:

Trong những năm hành đạo, Đức Giêsu đã chữa một số người mù.

Vào những ngày cuối đời, khi trên đường lên Giêrusalem lần cuối,

Ngài đã chữa cho anh mù ở Giêricô.

Giêricô được coi là thành phố cổ xưa nhất, không xa Giêrusalem,

nằm ở hạ lưu sông Giođan, thấp hơn mực nước biển 300 mét.

Anh mù ở Giêricô kiếm sống bằng cách ngồi bên vệ đường ăn xin.

Anh vừa bị tách biệt với người khác, vừa bị lệ thuộc vào người khác.

Mất khả năng nhìn, nhưng anh vẫn còn khả năng nghe và nói.

Để gặp được Đức Giêsu, anh đã tận dụng mọi khả năng còn lại.

Anh nghe tiếng đám đông đi qua, tiếng chân người rộn ràng (c. 36).

Anh tò mò hỏi xem chuyện gì vậy.

Khi biết là Đức Giêsu Nadarét đang đi ngang qua,

anh thấy ngay điều mình chờ đợi từ lâu, nay đã đến.

Vị ngôn sứ nổi tiếng này anh nghe đồn đã làm bao phép lạ lẫy lừng.

Ngay cả người mù bẩm sinh cũng được Ngài làm cho sáng mắt.

Cơ hội ngàn năm một thuở đã đến rồi.

Anh tự nhủ mình không thể nào để vuột mất.

Nhưng làm thế nào để Đức Giêsu lưu tâm đến anh?

Làm thế nào để cho Ngài dừng lại?

Vũ khí mạnh nhất và gần như duy nhất của anh, là tiếng kêu.

Chỉ tiếng kêu của anh mới lôi kéo được sự chú ý của Ngài,

và báo hiệu cho Ngài về sự hiện diện của anh.

Anh kêu thật to tên Ngài dù không biết Ngài ở đâu.

“Lạy ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi” (c. 38).

Hãy nghe tiếng kêu của anh giữa tiếng đám đông ồn ào cười nói.

Anh kêu tiếng kêu của trái tim, đầy tin tưởng, hy vọng, tha thiết.

Nhưng tiếng kêu ấy lại bị bắt phải im đi, có thể vì sợ gây phiền hà.

Anh mù chẳng những đã không vâng lời, lại còn kêu to hơn nữa.

Rồi tiếng kêu của anh cũng đến tai Đức Giêsu, khiến Ngài dừng chân.

Đức Giêsu muốn gặp người đã gọi tên mình để xin thương xót (c. 40).

Cuộc hạnh ngộ bắt đầu bằng câu hỏi anh mong từ lâu:

“Anh muốn tôi làm gì cho anh?” (c. 41).

Câu trả lời quá hiển nhiên: “Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy.”

Khi được sáng mắt, anh không phải ngồi bên vệ đường như trước đây.

Anh đã nhập vào đám đông những người theo Chúa và đi trên đường.

Nếu hôm nay Chúa hỏi tôi: “Anh chị muốn tôi làm gì cho anh chị?”,

tôi sẽ trả lời Ngài ra sao? tôi sẽ xin Ngài điều gì?

Ơn biết mình mù và muốn thấy rõ chính mình, là một ơn lớn.

Có người mù, không biết mình mù, nên vẫn thản nhiên ở lại trong cảnh mù.

Người ấy có thể vô tội, nhưng có nguy cơ gây hại cho tha nhân (Mt 15, 14).

Lại có người cố ý không muốn thấy, cố ý mù để khỏi phải thay đổi.

Họ không thấy được cái xà trong mắt mình (Mt 7, 3).

Xin Chúa giúp chúng ta xóa những nguyên nhân gây mù,

đó là dục vọng của đôi mắt (1 Ga 2, 16), là thành kiến về người khác.

Xin Chúa giúp chúng ta nhờ đối thoại mà ra khỏi tình trạng mù xem voi,

và được Thánh Thần đưa vào sự thật trọn vẹn (Ga 16, 13).

Ước gì chúng ta khiêm tốn đến với Chúa Giêsu

mà “mua thuốc xức mắt để thấy được” (Kh 3, 18).

Cầu nguyện:

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Xin cho con được thấy bản thân

với những yếu đuối và khuyết điểm,

những giả hình và che đậy.

Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con

cả những khi con không cảm nghiệm được.

Xin cho con thực sự muốn thấy,

thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa

chiếu giãi vào bóng tối của con.

Như người mù ngồi bên vệ đường

xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.

Thứ Ba Tuần 33 Thường niên:

Xuống mau đi

Lời Chúa: Lc 19, 1-10

1 Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy.2 Ở đó có một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có.3 Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn.4 Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó.5 Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: "Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông! "6 Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.7 Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ! "8 Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn."9 Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham.10 Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất."

Suy niệm:

Ở thành phố Giêricô không chỉ có anh mù Báctimê ngồi ăn xin,

mà còn có ông Dakêu, đứng đầu các người thu thuế.

Ông là người giàu có, nhưng thật ra ông là người nghèo,

vì ông bị mọi người khinh rẻ bởi cái nghề thu thuế của ông.

Dakêu đi chung với đám đông, theo sau Đức Giêsu.

Ông có một khao khát mãnh liệt là được thấy mặt Ngài,

vì chắc ông đã nghe nhiều người nói về vị ngôn sứ khác thường ấy.

Giêsu không khinh giới thu thuế, trái lại còn kết bè kết bạn với họ.

Giêsu là ai? Đó là người ông tìm cách gặp mặt (c. 3).

Có hai cản trở khiến cho cuộc gặp gỡ trở nên khó khăn.

Đám đông vây quanh Đức Giêsu khiến ông không thấy Ngài.

Hơn thế nữa, thân hình ông lại thấp bé.

Nhưng Dakêu không dễ nản lòng.

Ông chạy đón đàng trước và leo lên một cây sung để thấy Đức Giêsu,

vì ông biết thế nào Ngài cũng đi qua đó.

Như thế ông đã vượt qua được đám đông và sự thấp bé của mình.

Để vượt qua thì phải chạy chứ không đi từ từ,

và phải vất vả leo lên cao, vượt lên trên cái tôi nhỏ bé.

Dakêu khao khát đến mức nào mới dám nghĩ và dám làm như vậy.

Điều mà Dakêu không ngờ là Đức Giêsu đã dừng lại nơi cây sung,

và ngước mắt nhìn lên ông đang nằm bò trên cây như một đứa trẻ.

Ánh mắt của Ngài kéo theo hàng trăm cái nhìn khác của đám đông.

Dakêu chắc xấu hổ luống cuống, còn Đức Giêsu thì hạnh phúc tràn trề.

Dường như Ngài quên đám đông, để chỉ nghĩ đến con chiên lạc này.

“Dakêu, xuống nhanh đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (c. 5).

Đây là một lời hối thúc dịu dàng và một đề nghị bất ngờ.

Dakêu ngỡ ngàng kinh ngạc trước ánh mắt ấy, lời nói ấy.

Ông đã nhanh chóng leo xuống và dẫn Đức Giêsu về nhà mình.

Đường từ gốc sung về nhà ông bao xa, ta không biết,

nhưng chắc chắn đó là đoạn đường đầy niềm vui.

Dakêu bỗng thấy mình mất đi mặc cảm tự ti, lấy lại được danh dự,

vì Đức Giêsu sắp đến nhà ông, căn nhà ít ai muốn đến (c. 7).

Ông chỉ muốn thấy mặt Ngài, còn Ngài lại muốn vén mở lòng mình.

Cách cư xử của Ngài đối với một người tội lỗi như ông

đã làm lòng ông tan chảy và mời gọi ông đổi đời.

Những thứ ông từng say mê, bây giờ chẳng có gì hấp dẫn.

“Tôi xin cho người nghèo nửa tài sản của tôi…” (c. 8).

Dakêu đã hoán cải một cách bất ngờ, tự nguyện, sâu xa và cụ thể.

Cuộc đổi đời của Dakêu là kết quả của việc hai người đi tìm nhau.

Không phải chỉ Dakêu mới là người đi tìm.

“Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (c. 10).

Dakêu dạy cho chúng ta biết cách tìm kiếm Chúa trong đời.

Phải ước ao cho mãnh liệt, rồi ta sẽ được soi sáng để tìm ra con đường,

ngay cả khi ở trong tình huống tưởng như tuyệt vọng.

“Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (c. 9).

Dakêu đã quảng đại và vui sướng mở lòng để đón lấy ơn cứu độ đó.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

sám hối không phải là điều dễ dàng,

bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn

để nhận mình lầm lỗi.

Chúng con ngỡ ngàng

khi thấy Chúa là Đấng vô tội

mà lại đứng chung với các tội nhân,

chờ Gioan ban phép Rửa.

Chúa đã muốn nên bạn đồng hành

với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.

Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh

lối nghĩ và lối sống của mình,

tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,

thành thật để khỏi tự dối mình.

Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,

dám đi đến những hành động cụ thể,

và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.

Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con

niềm vui của Dakêu,

hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.

Thứ Tư Tuần 33 Thường niên:

Làm ăn sinh lợi

Lời Chúa: Lc 19, 11-28

11 Khi dân chúng đang nghe những điều ấy, thì Đức Giê-su lại kể thêm một dụ ngôn, vì Người đang ở gần Giê-ru-sa-lem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi.12 Vậy Người nói: "Có một người quý tộc kia trẩy đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về.13 Ông gọi mười người trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười nén bạc và nói với họ: "Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến."14 Nhưng đồng bào ông ghét ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: "Chúng tôi không muốn ông này làm vua chúng tôi.

15 "Sau khi lãnh nhận vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền gọi những đầy tớ ông đã giao bạc cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao nhiêu.16 Người thứ nhất đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén.17 Ông bảo người ấy: "Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành.18 Người thứ hai đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén.19 Ông cũng bảo người ấy: "Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành.

20 Rồi người thứ ba đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ kỹ.21 Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo.22 Ông nói: "Hỡi đầy tớ tồi tệ! Tôi cứ lời miệng anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo.23 Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng? Có vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ!24 Rồi ông bảo những người đứng đó: "Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén.25 Họ thưa ông: "Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi!26 -"Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.

27 "Còn bọn thù địch của tôi kia, những người không muốn tôi làm vua cai trị chúng, thì hãy dẫn chúng lại đây và giết chết trước mặt tôi."

28 Nói những lời ấy xong, Đức Giê-su đi đầu, tiến lên Giê-ru-sa-lem.

Suy niệm:

Khi Đức Giêsu đến gần Giêrusalem,

nhiều người nghĩ rằng Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện rồi.

Họ cho rằng khi Ngài tiến vào thành thánh lẫm liệt như một vị vua,

Nước ấy sẽ bừng tỏa trọn vẹn trên đoàn dân của Thiên Chúa (c. 11).

Thật ra Nước Thiên Chúa không đến nhanh như họ nghĩ.

Đức Giêsu còn phải chịu đau khổ, chết, rồi được phục sinh.

Sau đó Giáo Hội còn phải chờ một thời gian dài

trước khi Nước Thiên Chúa đến cách viên mãn qua việc Ngài trở lại.

Thời gian của Giáo Hội là thời gian đợi chờ,

thời gian lo làm ăn sinh lợi với những gì Chúa tặng ban.

Đó chính là ý nghĩa của dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay.

Một nhà quý tộc kia đi xa để lãnh nhận vương quyền.

Trước khi đi ông gọi mười người đầy tớ lại,

và trao cho họ mỗi người một số tiền không lớn lắm, là một đồng mina.

Ông ra lệnh: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến” (c. 13).

Khi nhà quý tộc trở về trong tư cách là vua,

ông truyền gọi các đầy tớ lại để họ báo cáo về công việc làm ăn.

Hai người đầy tớ đầu tiên đã sinh lợi không ít.

Một người được lời thêm mười đồng, người kia được thêm năm đồng.

Cả hai được vua ban thưởng rất trọng hậu, cho cai trị các thành phố.

Còn người thứ ba trả lại cho nhà vua đồng mina anh đã nhận.

“Thưa Ngài, đồng mina của Ngài đây, tôi đã giữ kỹ nó trong khăn.”

Tất cả tội của người đầy tớ này nằm ở thái độ giữ kỹ.

Giữ kỹ thì chẳng mất gì, vẫn còn nguyên vẹn.

Nhưng giữ kỹ lại không thể làm cho đồng tiền sinh lời.

Hơn nữa, giữ kỹ là không vâng lời ông chủ trước khi đi: “Hãy lo làm ăn!”

Người đầy tớ sợ ông chủ, vì ông là người nghiêm khắc (c. 21).

Chính vì sợ làm ăn thua lỗ, sợ bị ông chủ trừng phạt

mà anh chọn thái độ chắc ăn là giữ kỹ đồng vốn trong khăn.

Thái độ này không được ông chủ, nay trở thành nhà vua, chấp nhận.

“Tại sao anh không gửi tiền của tôi vào ngân hàng,

để khi trở về, tôi mới rút được cả vốn lẫn lời chứ ?” (c. 23).

Ý của chủ là đồng tiền cần phải được đầu tư để sinh lời.

Nỗi sợ đã làm cho anh đầy tớ mất đi sự liều lĩnh cần thiết.

Bài Tin Mừng nhắc các Kitô hữu một điều cần.

Giữ kỹ, giữ nguyên những gì Chúa ban vẫn chỉ là một thái độ tiêu cực.

Kitô hữu là người tích cực sử dụng đồng vốn nhận được để sinh lời.

Ra khỏi thái độ rụt rè, sợ hãi, để dám nghĩ, dám làm việc lớn cho Chúa,

đó mới là thái độ đúng đắn của người Kitô hữu có trách nhiệm.

Nếu không liều lĩnh trong những dự tính và hành động,

nhiều nén bạc Chúa ban sẽ bị bỏ quên mãi trong khăn.

Ông chủ trong dụ ngôn thật ra không phải là người ham lời.

Ông chỉ muốn các đầy tớ trung tín trong việc rất nhỏ (c. 17).

Nhờ dấn thân làm việc cho Nước Chúa mà người Kitô hữu được lớn lên.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con dám hành động

theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.

Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,

vì xác tín rằng

Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,

Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,

và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,

xin cho con dám liều theo Chúa

mà không tính toán thiệt hơn,

anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,

can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,

và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.

Ước gì khi dâng lên Chúa

những hy sinh làm cho tim con rướm máu,

con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt

của người một lòng theo Chúa.

Thứ Năm Tuần 33 Thường niên:

Đức Giêsu khóc

Lời Chúa: Lc 19, 41-44

41 Khi đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương42 mà nói: "Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được.43 Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề.44Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm."

Suy niệm:

Người ta có thể khóc vì nhiều lý do.

Khóc vì buồn thương, khóc vì tình yêu của mình bị từ chối.

Khóc vì tiếc nuối một điều tốt đẹp bị hủy hoại.

Một người đàn ông khóc là chuyện không thường xảy ra.

Chính vì thế chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Đức Giêsu khóc.

Con Thiên Chúa nhập thể biết đến nỗi đau của phận người.

Giọt nước mắt của Ngài cho thấy Ngài thật sự có một trái tim.

Đức Giêsu khóc khi đến gần và trông thấy thành phố Giêrusalem.

Trong thành Giêrusalem có ngôi Đền thờ lộng lẫy (Lc 21, 5).

Đền thờ ấy là Đền thờ thứ hai được xây sau khi dân lưu đày trở về.

Còn Đền thờ thứ nhất do Salômôn xây, đã bị quân Babylon phá hủy.

Vua Hêrôđê Cả đã trùng tu và nới rộng Đền thờ thứ hai này.

Công việc sửa sang kéo dài từ năm 20 trước công nguyên,

đến năm 64 sau công nguyên mới hoàn tất.

Vào thời gian này, người Do Thái nổi dậy chống lại quân Rôma.

Vào lễ Vượt qua năm 70, thành phố bị vây hãm (c. 43).

Đền thờ bị thiêu hủy sau tám mươi tư năm tu sửa.

Đây là một bi kịch lớn mà Đức Giêsu đã linh cảm với nỗi đớn đau.

Bài Tin Mừng hôm nay

nằm ngay sau biến cố Đức Giêsu lên Giêrusalem lần cuối (Lc 19, 28).

Ngài biết đây là lần cuối, nên giữa bầu khí tung hô của dân chúng,

Đức Giêsu lại rơi vào nỗi đau buồn, xót xa.

Ngài sẽ là vị ngôn sứ phải chết ở trong thành này (Lc 13, 33).

Như mọi người Do Thái khác, Đức Giêsu quý thành phố và Đền thờ.

Thành phố Giêrusalem là thủ đô của đất nước.

Đền thờ là nơi mỗi năm Ngài lên đó dự các lễ lớn đôi ba lần.

Đây là nhà Cha của Ngài, là nhà cầu nguyện (Lc 2, 49; 19, 46).

Nhưng mọi điều tốt đẹp Ngài đang thấy, có ngày sẽ đổ vỡ tan hoang.

“Không để hòn đá nào trên hòn đá nào” (c. 44).

Thiên Chúa là Đấng đã đi thăm Dân Ítraen (Lc 1, 68; 7, 16; 19, 44).

Ngài thăm Dân Ngài qua Người Con là Đức Giêsu (Lc 1, 78).

Ngài đến thăm để đem ơn cứu độ, đem lại bình an (c. 42).

Hôm nay Thiên Chúa vẫn tiếp tục đi thăm nhân loại.

Ngài vẫn sai Con của Ngài đến với chúng ta để ban ơn bình an.

Nhưng con người hôm nay có thể khép lòng, và để lỡ cơ hội quý báu.

“Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11).

Làm sao mỗi Kitô hữu nhận ra thời điểm Ngài đến thăm mình? (c. 44).

Thế giới Tây phương hôm nay đang có khuynh hướng loại trừ Thiên Chúa.

Họ nhân danh tự do tôn giáo để loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống xã hội.

Nhưng không có Trời thì ai ở được với ai.

Nhân loại bị kéo vào những cuộc chiến tranh, thù hận không lối thoát.

Hãy để Thiên Chúa đi vào đời bạn và chi phối những chọn lựa của bạn.

Chỉ trong Thiên Chúa mọi sự mới có nền tảng vững bền.

Nếu không, như Giêrusalem, chúng ta chỉ còn là những bức tường than khóc.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,

Chúa đã muốn trở nên con của loài người,

con của trái đất, con của một dân tộc.

Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa

dù họ từ khước Tin Mừng

và đóng đinh Chúa vào thập giá.

Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,

một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu

sau những năm dài chiến tranh,

một quê hương đang mở ra trước thế giới

nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc

và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.

Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên

trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,

nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,

và làm một điều gì đó thật cụ thể

cho những đồng bào quanh chúng con.

Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước

bằng khối óc, quả tim và đôi tay.

Và ước gì chúng con biết khiêm tốn

cộng tác với muôn người thiện chí.

Thứ Sáu Tuần 33 Thường niên:

Nhà cầu nguyện

Lời Chúa: Lc 19, 45-48

45 Đức Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán46 và nói với họ: "Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp! " 47 Hằng ngày, Người giảng dạy trong Đền Thờ. Các thượng tế và kinh sư tìm cách giết Người, cả các thân hào trong dân cũng vậy.48 Nhưng họ không biết phải làm sao, vì toàn dân say mê nghe Người.

Suy niệm:

“Đức Giêsu vào Đền thờ” (c. 45),

ngay sau khi Ngài vẻ vang tiến vào thành phố Giêrusalem.

Ngài vào Nhà của Cha Ngài, nơi Ngài đã được tiến dâng (Lc 2, 22),

nơi Ngài đã muốn ở lại năm mười hai tuổi (Lc 2, 49).

Ngài đã lên Đền thờ nhiều lần trong đời, nhưng đây là lần cuối.

Lên Đền thờ lần cuối là một quyết định sinh tử (Lc 9, 51),

vì Ngài biết những gì đang chờ đợi mình ở đây (Lc 13, 33).

“Ngài bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán ở đó.”

Người ta bán những con vật, để người mua dâng cúng cho Đền thờ.

Nơi buôn bán này ở chung quanh Đền thờ,

tuy vẫn nằm trong khu vực Đền thờ, nơi Dân Ngoại được phép lui tới.

Dĩ nhiên việc buôn bán ở đây là có phép của ban an ninh Đền thờ,

nên chúng ta không hiểu tại sao Đức Giêsu lại muốn đuổi họ.

Hiếm khi chúng ta thấy Đức Giêsu nổi giận hay dùng sức mạnh.

Còn ở đây Ngài mạnh mẽ cả trong hành động lẫn lời nói.

“Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện,

thế mà các ngươi đã biến nó thành hang trộm cướp” (c. 46).

Đức Giêsu đã vào thành Giêrusalem như một vị vua khiêm hạ.

Còn bây giờ Ngài đuổi những người buôn bán như một ngôn sứ.

Vị ngôn sứ giận dữ vì thấy nhà cầu nguyện trở thành nơi kinh doanh.

Đức Giêsu đã muốn làm cho Đền thờ được sạch khỏi chuyện bán buôn,

dù chuyện này cũng nhắm phục vụ cho việc tế tự.

Sau khi thanh tẩy Đền thờ, Ngài đã chọn nơi thánh này

làm nơi Ngài tập trung dạy dỗ từng ngày cho đến lễ Vượt Qua (c. 47).

Ngài đã sống những ngày cuối đời như một vị Thầy dạy.

Lời giáo huấn của Đức Giêsu đã gây ra những phản ứng ngược nhau.

Dân chúng thì say sưa với những lời Ngài dạy (c. 48),

còn giới lãnh đạo tôn giáo ở Đền thờ lại tìm cách giết Ngài (c. 47).

Phải chăng họ khó chịu với việc Đức Giêsu được dân chúng tung hô,

hay bực bội về việc Ngài như có quyền đuổi những người buôn bán,

hay ghen tương với việc dân chúng mê mải nghe Ngài?

Đời người Kitô hữu gắn liền với nhiều đền thờ.

Có những đền thờ, nhà thờ bằng gỗ đá, được cung hiến.

Có những đền thờ thiêng liêng như Hội Thánh, như các tín hữu.

Chính bản thân tôi, thân xác tôi, tâm hồn tôi cũng là đền thờ.

Nơi nào có Chúa hiện diện, nơi ấy là đền thờ.

Cần bỏ dép ở ngoài trước khi bước vào ngôi đền thờ là trái tim tha nhân.

Cần năng thanh tẩy lại đền thờ tâm hồn mình bằng bí tích Hòa Giải.

Chúng ta thường thiếu sự giận dữ của Đức Giêsu

khi đứng trước những đền thờ là tâm hồn của những người trẻ bị ô uế.

Chúng ta dửng dưng khi Chúa bị trục xuất ra khỏi đền thờ lòng mình,

để thay vào đó là những thần tượng vô hồn, rẻ tiền và câm lặng.

Xin Giêsu giúp ta quét dọn các rác rưởi nơi đền thờ của trí tuệ,

để lời Chúa làm chúng ta say mê lắng nghe và thực hành.

Cầu nguyện:

Như đóa sen trong đầm lầy,

xin giữ tâm hồn con thanh khiết.

Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,

xin gìn giữ mắt con.

Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,

xin dạy con biết trân trọng thân xác.

Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,

xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.

Xin nâng con lên cao

vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,

để biết tự hiến trong yêu thương.

Xin đừng để con phung phí sức lực

vào những chuyện tình cảm chóng qua,

nhưng giúp con tự rèn luyện mình

để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.

Như đóa sen trong đầm lầy,

xin giữ thân xác con thanh khiết.

Thứ Bảy Tuần 33 Thường niên:

Đời này, đời sau

Lời Chúa: Lc 20, 27-40

27 Có mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại.28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: "Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết.30 Người thứ hai,31 rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào.32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết.33 Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ? "

34 Đức Giê-su đáp: "Con cái đời này cưới vợ lấy chồng,35 chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.37 Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham,Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp.38 Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống." 39 Bấy giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: "Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm."40 Thế là, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa.

Suy niệm:

Cuộc đời con người có vẻ như chấm dứt bằng cái chết.

Một triết gia Ðức bảo con người sinh ra để chết.

Cái chết là số phận của mỗi người,

nhưng nói chung ai cũng muốn sống.

Kitô giáo cho rằng con người sinh ra là để sống mãi.

Cái chết chỉ là cánh cửa mở vào cõi vĩnh hằng.

Một số tôn giáo tin rằng đời người có nhiều kiếp.

Kitô giáo chỉ nhận có một cuộc đời ta đang sống.

Chính cuộc đời duy nhất này

định đoạt số phận vĩnh cửu của ta.

Không có một cơ hội thứ hai để làm lại.

Chính vì thế phải sống hết mình cho đời này

để đáng hưởng hạnh phúc đời sau.

Ðời sau mãi mãi là một mầu nhiệm.

Chẳng ai chụp hình được thiên đàng hay hỏa ngục.

Người đã khuất cũng không trở lại để kể ta nghe.

Bởi thế, nhiều người không tin có đời sau.

Cả những tín hữu cũng bị cuốn hút bởi vật chất,

và sống như thể chỉ có đời này.

Ðời sau là chuyện ở đâu đó, hoàn toàn xa lạ.

Người thuộc phái Xađốc tin rằng sau cái chết

linh hồn con người vất vưởng như cái bóng nơi âm phủ.

Âm phủ là nơi tối tăm, buồn chán, thiếu sự sống.

Người Pharisêu lạc quan hơn, cho rằng

đời sau là sự kéo dài của đời này.

Người ta sống như trước, nhưng tràn trề hạnh phúc.

Ðức Giêsu vén mở cho ta phần nào bức màn đời sau.

Ðời sau khác hẳn đời này.

Người ta không cưới vợ lấy chồng, không cần con nối dõi,

nhưng sống như các thiên thần,

nghĩa là chỉ lo phụng sự và ca ngợi Thiên Chúa.

Ðời sau là nơi không còn bóng dáng của thần chết.

Người ta thoát khỏi quy luật thông thường của lẽ tử sinh.

Toàn bộ con người được sống lại: cả hồn lẫn xác.

Thân xác tuy đã tan thành tro bụi theo thời gian,

nhưng sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu

để chung hưởng hạnh phúc với linh hồn.

Trong tháng cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời,

chúng ta nghĩ đến cái chết và đời sau.

Cái chết dạy tôi biết cách sống.

Ðời sau kéo tôi ra khỏi những hạnh phúc giả tạo,

và những nỗi khổ đau do mê lầm.

Tôi đang đi về đời sau

để gặp Ðấng mà tôi đã tin yêu suốt đời.

Tất cả cuộc hành trình đều phải hướng về nguồn cội.

Chúng ta đã được dựng nên cho Thiên Chúa,

và chúng ta còn khắc khoải mãi cho đến khi gặp được Ngài.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

khi ra thăm nghĩa địa,

khi vào viếng phòng hài cốt,

con hiểu rằng mình phải có lòng tin lớn lao

mới dám nghĩ một ngày nào đó

những thân xác hư hoại này sẽ sống lại.

Con người trở về bụi tro,

nhưng bụi tro sẽ trở lại làm người,

vì con người sinh ra là để bất tử như Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu,

trần gian này quá đẹp

khiến con mải mê, quên mình là lữ khách;

thiên đàng lại xa xôi, chẳng có chỗ trong con.

Con loay hoay vun quén cho đời sống cá nhân,

như thể con sẽ sống mãi trên mặt đất.

Xin khơi dậy nơi con

niềm khát khao những điều cao cả.

Xin đừng để con

mãn nguyện với những cái tầm thường.

Ước gì Chúa cho con nếm chút vị ngọt của trời cao,

khi con quên mình

để sống cho anh em trên mặt đất.

Thứ Hai Tuần 34 Thường niên:

BỎ VÀO TẤT CẢ

Lời Chúa: (Lc 21,1-4)

Ngước mắt lên nhìn, Đức Giê-su thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền.2 Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm.3 Người liền nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết.4 Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình."

Suy niệm:

Thánh Luca là văn sĩ tuyệt vời viết về sự hiền dịu của Đức Kitô.

Nhưng thánh nhân cũng là người nhấn mạnh đến sự đòi hỏi.

Thầy Giêsu đòi ai muốn theo Ngài phải từ bỏ tất cả (Lc 14, 33).

Các môn đệ đầu tiên như Simon, Gioan, Giacôbê, Lêvi,

đều là những người đã bỏ tất cả để theo Thầy (Lc 5, 11. 28).

Bà góa nghèo trong bài Tin Mừng hôm nay (c.4)

cũng là người đã bỏ vào thùng tiền tất cả những gì bà có để sinh sống.

Tất cả và trọn vẹn, chính là điều Thiên Chúa đòi hỏi nơi con người.

Yêu Ngài bằng tất cả trái tim và tất cả sức lực của mình,

đó là mệnh lệnh của Thiên Chúa dẫn đến sự sống vĩnh cửu (Lc 10, 27).

Có người tự hỏi nếu bà góa nghèo dâng cho Đền thờ

tất cả số tiền nhỏ nhoi còn lại thì ngày mai bà sống bằng gì.

Bà có phải là người bị đầu độc và bóc lột bởi các kinh sư không,

vì đã có những kinh sư nuốt chửng nhà của các bà góa (Lc 20, 47)?

Đức Giêsu có coi bà góa này như một tấm gương cho ta không?

Khi ngồi nhìn người ta dâng cúng tiền cho Đền thờ,

Đức Giêsu thấy người giàu bỏ tiền, có khi là những món tiền lớn.

Nhưng Ngài cũng thấy một bà góa nghèo bỏ tiền vào thùng.

Một món tiền rất nhỏ, bằng đơn vị tiền tệ nhỏ nhất.

Ngài nói cho các môn đệ nghe về cách đánh giá của Ngài,

cũng là cách đánh giá của Thiên Chúa.

Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn những người giàu.

Vì các môn đệ có thể bị ngỡ ngàng, nên Ngài giải thích cho họ.

Người giàu bỏ vào từ sự dư thừa của họ.

Còn bà góa bỏ vào từ sự túng thiếu của bà (c. 4).

Trao đi một điều đụng chạm đến cuộc sống của mình

thì khó hơn gấp bội,

vì mình phải gánh chịu hậu quả ngay lập tức.

Bà góa ở Xarépta chắc chắn đã gặp khó khăn

khi ngôn sứ Êlia xin bà làm cho ông một cái bánh nhỏ trước đã,

rồi sau đó mới làm cho bà và con bà (1 V 17,13).

Bà đã dám vâng lời dù đang túng thiếu,

dù nhà chỉ còn một nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò.

Cái chết đang đến với mẹ con bà, vậy mà bà đã dám chia sẻ.

Chia sẻ của hai bà góa trên đây đều nằm trong những tình huống

tưởng như không thể chia sẻ được, vì chẳng có gì để chia sẻ.

Chia sẻ cho Chúa hay cho tha nhân lúc ấy, thật là quý biết bao,

vì nó đòi ta ném mình vào sự mất an toàn,

và đồng thời ném mình vào vòng tay quan phòng của Thiên Chúa.

Mọi tính toán kiểu con người biến mất,

để nhường chỗ cho lòng quảng đại vô bờ.

Chắc chắn Thiên Chúa chẳng để cho bà góa nghèo phải chết đói.

Hũ bột không cạn và bình dầu không vơi

vẫn là quà tặng Chúa ban cho bất cứ ai dám trao đi tất cả đời mình,

vì trao đi mà sau đó mình không thấy thiếu thì không thật là trao đi.

Lời nguyện:

Lạy Chúa,

xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,

và trọn cả ý muốn của con,

cùng hết thảy những gì con có,

và những gì thuộc về con.

Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,

lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.

Tất cả là của Chúa,

xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.

Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.

Ðược như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.

(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)

Thứ Ba Tuần 34 Thường niên:

Anh em làm chứng cho Thầy

Lời Chúa: Lc 21, 5-11

Nhân có mấy người nói về Ðền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Ðức Giêsu bảo: “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” Họ hỏi Người: “Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước?” Ðức Giêsu đáp: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây”, và “Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục đâu.”

Rồi Người nói tiếp: “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện.”

Suy niệm:

Trong số 117 vị Tử Ðạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988,

có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con.

Ðó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Ðê.

Trước khi là một anh hùng tử đạo,

bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu.

“Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con.

Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý,

sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ.”

Ðó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.

Nhà bà Ðê là nơi các linh mục trú ẩn.

Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861,

quan Tổng Ðốc Nam Ðịnh cho quân bao vây làng của bà.

Bà Ðê bị bắt lúc đã 60 tuổi.

Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo,

|bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người.

Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam,

đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu,

bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng:

“Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy,

mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”

Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình,

người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.

Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam

là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.

Thiên Chúa đã làm điều phi thường

nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối.

Quan “Hùm Xám” tỉnh Nam Ðịnh cũng phải bó tay

trước sự yếu đuối kiên vững của bà.

Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ,

bà thánh Ðê đã phó mặc cho Chúa đời mình.

Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án,

vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin,

dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.

Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu,

không đòi hy sinh mạng sống,

nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.

Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa,

trước thập giá của Ðức Giêsu,

y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.

Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình,

đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.

Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin.

Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo

gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp

mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.

Ước gì chúng ta không để mất đức tin

được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo,

và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy

cho hơn 80 triệu đồng bào trên quê hương.

Cầu nguyện:

Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,

các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi kitô hữu

trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.

Sự hy sinh của các ngài

cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết

và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.

Dù mang phận người yếu đuối,

nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,

các ngài đã chiến thắng khải hoàn.

Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài

biết can trường sống đức tin của bậc cha anh

trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,

biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu

bằng một đời hiến thân phục vụ.

Ước gì ngọn lửa đức tin

mà các ngài đã thắp lên

bằng cuộc sống và cái chết,

được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.

Ước gì máu thắm của các ngài

thấm vào mảnh đất quê hương

để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.

Thứ Tư Tuần 34 Thường niên:

Một sợi tóc

Lời Chúa: Lc 21, 12-19

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: “Chính ta đây”, và: “Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu.” Rồi Người nói tiếp: “Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện. Nhưng trước khi tất cả các sự ấy xảy ra, thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp cho các hội đường và nhà tù, và điệu đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. Ðó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.”

Suy niệm:

Lúc trời còn tối, ngày 16 tháng 11 năm 1989, tại nước El Salvador,

một nhóm người có vũ trang đã xâm nhập vào Đại Học Trung Mỹ.

Chúng đã giết sáu linh mục Dòng Tên và hai mẹ con người nấu ăn.

Giết xong chúng đã kéo xác ra ngoài vườn và làm những trò man rợ.

Các linh mục này đều là những nhà trí thức, có ảnh hưởng trong xã hội.

Họ muốn nói lên tiếng nói của người nghèo, chịu cảnh bất công,

muốn chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài khiến hơn 70 ngàn người chết.

Họ đã phải trả giá bằng vụ thảm sát bất ngờ,

đã chết như những chứng nhân, những vị tử đạo thời mới.

Chuyện ấy đã xảy ra cách đây hai mươi năm rồi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói về những cuộc bách hại

xảy ra trước khi Ngài trở lại trong ngày tận thế.

Các môn đệ sẽ phải chịu những gì Thầy mình đã chịu.

Họ sẽ bị bắt, bị ngược đãi, bị tù đày, bị đem ra tòa đạo, tòa đời (c. 12).

Họ sẽ bị nộp bởi chính người thân, bị mọi người thù ghét,

và thậm chí bị giết hại (cc. 16.17).

Tất cả những gì các môn đệ phải chịu đều là vì danh Thầy (cc. 12. 17).

Chính tình yêu trung tín đối với Thầy và giáo huấn của Thầy

đã khiến bao Kitô hữu tự nguyện đón nhận khổ đau và cái chết.

Không phải chỉ chối Thầy cách công khai mới mang tội bất trung.

Không phải chỉ bước qua thập giá mới là phản bội.

Bất cứ khi nào chúng ta bước qua những giá trị ngàn đời của Kitô giáo,

như sự thật, sự sống, công bằng, bác ái, nhân phẩm, tự do, lương tâm,

khi ấy chúng ta chối bỏ Đức Kitô Giêsu.

Bất cứ khi nào chúng ta dám xả thân để sống cho những giá trị đó,

chúng ta đã làm chứng cho Ngài rồi.

Gioan Tẩy Giả đã chết vì nói sự thật mất lòng với Hêrôđê.

Maria Goretti đã chết vì muốn sống trong sạch.

Maximilien Kônbê đã xin chết thay cho người khác vì lòng bác ái.

Tất cả đều được Giáo Hội tôn kính như những vị tử đạo,

dù họ không chết vì tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu.

Đối với Đức Giêsu, giây phút đứng trước tòa là giây phút quan trọng.

Người môn đệ có cơ hội công khai làm chứng cho Thầy (c. 13).

Đức Giêsu không để họ một mình đối diện với sức mạnh của quyền uy.

Ngài hứa sẽ giúp họ trả lời những cáo buộc của tòa án (c. 15; Cv 6, 10).

Thế nên họ chẳng có gì phải xao xuyến, lo âu (c. 14).

Tòa án trở thành nơi làm chứng tuyệt vời của người môn đệ.

Điều quan trọng khi bị bách hại là phải kiên trì (c. 19).

Có nhiều kiểu hành hạ nhằm làm cho người môn đệ bỏ cuộc.

Nhưng một sợi tóc anh em cũng không bị mất (c. 18)

nghĩa là Chúa sẽ lo từng li từng tí cho môn đệ của mình.

Mạng sống của các môn đệ ở đời này có thể bị mất (c. 16),

nhưng nếu họ kiên trì và trung tín, họ sẽ giữ được nó ở đời sau.

Chúng ta cầu cho nhau được ơn kiên trì giữa thử thách của thời đại mới.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,

Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.

Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,

lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.

Thế gian này vàng thau lẫn lộn.

Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.

Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,

giữ được vị mặn của muối,

và sức tác động của men,

để đem đến cho thế gian

một linh hồn, một sức sống.

Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,

chỉ sợ mình bỏ sống đạo

vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.

Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng

chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,

những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.

Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,

thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui

của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.

Thứ Năm Tuần 34 Thường niên:

Sắp được cứu chuộc

Lời Chúa: Lc 21, 20-28

20 "Khi anh em thấy thành Giê-ru-sa-lem bị các đạo binh vây hãm, bấy giờ anh em hãy biết rằng đã gần đến ngày khốc hại của thành.21 Bấy giờ, ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi; ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng quê, thì chớ vào thành.22 Thật vậy, đó sẽ là những ngày báo oán, ngày mà tất cả những gì đã chép trong Kinh Thánh sẽ được ứng nghiệm. 23 Khốn thay những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! "Vì sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân này. 24 Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại. 25 "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét.26 Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.27 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.28 Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc."

Suy niệm:

Theo Josephus, một sử gia người Do Thái đáng tin cậy,

bốn quân đoàn của vị tướng Rôma là Titus

đã vây hãm thành phố Giêrusalem vào lễ Vượt Qua năm 70,

khiến người dân trong thành rơi vào cảnh đói khát cùng cực.

Ông kể chuyện một phụ nữ quê ở Pêrêa vì quá đói

đã túm lấy đứa con còn thơ dại, giết con và nướng để ăn.

Cũng theo sử gia này, quân Rôma đã dùng gươm

để giết hơn một triệu người ở Giêrusalem và Giuđê.

Những người Do Thái bị bắt làm tù binh là gần một trăm ngàn.

Ai có thể tưởng được điều khủng khiếp như vậy đã xảy ra

chỉ bốn mươi năm, sau khi Đức Giêsu nói những lời tiên báo.

Giêrusalem là thành trì vững chắc, nơi trú ẩn an toàn,

bây giờ lại là nơi nguy hiểm, cần phải tránh xa (c. 21).

Tai họa ập xuống trên phụ nữ mang thai và cho con bú (c. 23).

trên cả tội nhân lẫn trẻ thơ vô tội.

Thành đô đã bị bao vây, bị thiêu rụi, bị quân Rôma giày xéo.

Dân thành bị ngã gục, bị đi đày, phải tản mác khắp nơi.

Sự sụp đổ của thành đô đã là một biến cố trên đất Ítraen.

Nhưng trước khi Đức Giêsu ngự đến trên mây trời

như Con Người đầy quyền năng và vinh hiển (c. 27),

sẽ có những dấu lạ đáng sợ khác trên bầu trời và ngoài biển cả (c. 25).

Thánh Máccô nói đến hiện tượng mặt trời, mặt trăng mất sáng,

và các vì sao sa xuống từ trời (Mc 13, 24-25).

Thánh Luca nói đến cảnh biển gào, sóng thét.

Những điều đó làm muôn dân hoang mang, hồn xiêu phách lạc,

nhưng không làm các môn đệ hoảng hốt, âu lo.

Ngược lại họ mừng vui vì Đấng họ chờ đợi từ lâu nay đã đến.

“Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (c. 28).

Đứng thẳng để đón Đấng mà họ đã suốt đời thắp đèn chờ đợi.

Ngẩng đầu để mừng giây phút ơn cứu chuộc đã đến gần.

Chỉ khi Đức Giêsu phục sinh trở lại như Đấng xét xử quyền năng,

Ngài mới trọn vẹn hoàn thành Nước Thiên Chúa trên mặt đất.

Vào cuối năm phụng vụ, Lời Chúa nói với chúng ta về ngày tận thế.

Đó là ngày vừa đáng sợ, vừa chan chứa niềm vui,

ngày được gặp mặt Đấng chúng ta đã tin tưởng, mến yêu và hy vọng.

Người ta vẫn hay đoán già đoán non về ngày tận thế.

Nhiều người tưởng là năm 2000, gần đây có người lại nói là 2012.

Điều quan trọng là làm sao tôi có thể đứng thẳng, ngẩng đầu khi Ngài đến,

làm sao nhân loại trên trái đất này sẵn sàng ra nghênh đón Ngài

như đón Đấng Cứu Tinh mà họ nóng lòng chờ đợi.

Nếu ngày mai Ngài đến với cả thế giới hay đến với riêng mình tôi,

tôi có sẵn sàng chưa hay còn bị còng lưng, cúi đầu vì bao gánh nặng?

Mỗi người đều có ngày tận thế của mình. |

Xin cho tôi được bình an khi ngày ấy đến mà không có điềm lạ nào báo trước.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

nếu ngày mai Chúa quang lâm,

chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.

Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,

còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.

Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,

Chúa đâu muốn mất một người nào...

Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa

xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,

vui tươi và hạnh phúc,

để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn

cho mọi người và cho cả vũ trụ.

Xin nuôi dưỡng nơi chúng con

niềm tin vững vàng

và niềm hy vọng nồng cháy,

để tất cả những gì chúng con làm

đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.

Thứ Sáu Tuần 34 Thường niên:

Xem cây vả

Lời Chúa: Lc 21, 29-33

Khi ấy, 29 Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe một dụ ngôn: "Anh em hãy xem cây vả cũng như tất cả những cây khác.30 Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần rồi.31 Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.32 Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.33 Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.

Suy niệm:

Cây vả là một cây rất thường thấy ở xứ Paléttin.

Khi nó đâm chồi, người ta biết ngay đã vào mùa hè.

Rồi thì nó sẽ ra hoa và kết trái.

Không phải chỉ có cây vả, mọi cây khác cũng vậy (c.29).

Cứ nhìn tình trạng hiện tại của cây, ta biết được điều gì sắp xảy đến.

Nước Thiên Chúa cũng vậy.

Trước khi Nước Thiên Chúa đến sẽ có những dấu hiệu

ở trên trời, dưới đất hay ngoài biển khơi.

Đức Giêsu đã nhắc cho ta về những dấu hiệu đó (Lc 21, 11. 25-26).

Khi bắt đầu đi rao giảng cách đây hai ngàn năm,

Đức Giêsu tuyên bố: Nước Thiên Chúa đã đến gần (Mc 1, 15).

Và Nước ấy đã được khai mạc với chính con người Đức Giêsu.

Lời nói và việc làm của Ngài đã mở ra Nước ấy trên mặt đất.

Như hạt giống, Nước ấy đã không ngừng lớn lên cả ngày lẫn đêm,

đã ảnh hưởng mạnh mẽ như nhúm men trong đống bột,

và đã phải chịu sự tấn công của kẻ thù gieo cỏ lùng vào giữa lúa.

Với sự phục sinh của Đức Giêsu, Nước ấy chắc chắn sẽ đến.

Chắc chắn Nước Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang,

dù chúng ta không biết rõ khi nào, tuy sẽ có những điềm báo trước.

Ngày Nước Thiên Chúa đến cách huy hoàng trên trái đất

sẽ là ngày tận thế, ngày Đức Giêsu trở lại để phán xét mọi người.

Kitô hữu là người tin vào lời Đức Giêsu.

“Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua” (c. 33).

Chúng ta chờ đợi, vì chúng ta tin Đức Giêsu sẽ trở lại.

Sau hai ngàn năm chờ đợi và nỗ lực dựng xây,

ngày Đức Giêsu quang lâm đã gần hơn nhiều.

Biết đâu câu nói sau của Đức Giêsu

lại chẳng ứng nghiệm cho chính thế hệ chúng ta:

“Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.” (c. 32).

Không được để mình nguội lạnh và mất đi thái độ chờ đợi.

Không được để chiến thắng tạm thời của sự dữ ở đâu đó

khiến chúng ta mất đi lòng tin,

và những bách hại khiến ta mất đi lòng kiên trì cần thiết (Lc 21, 19).

Nước Thiên Chúa vẫn đến gần hơn mỗi ngày.

Không thiếu dấu chỉ để nhận ra Nước Thiên Chúa đang đến.

Chúng ta phải thấy có biết bao dấu chỉ tích cực, đầy hy vọng,

ngay giữa những khi tưởng như Nước ấy bị xóa sổ, loại trừ.

Đừng để mình rơi vào thái độ bi quan, khoanh tay vì chán nản.

Phải làm sao để ngày tận thế không phải là một ngày buồn,

ngày của những đổ vỡ và mất mát chia ly.

Phải làm sao để ngày ấy là ngày lịch sử nhân loại mở sang trang mới.

Đức Giêsu xuất hiện như Điểm Ômêga, Điểm đến của cả vũ trụ.

Con người và cả vũ trụ đều được hưởng ơn cứu chuộc (Rm 8, 19-23),

và Thiên Chúa Cha được tôn vinh.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã yêu trái đất này,

và đã sống trọn phận người ở đó.

Chúa đã nếm biết

nỗi khổ đau và hạnh phúc,

sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,

nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,

chúng con thấy mình được thêm sức mạnh

để xây dựng trái đất này,

và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,

xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời

không làm chúng con quên trời cao;

và những vẻ đẹp của trần gian

không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,

mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

Thứ Bảy Tuần 31 Thường niên:

Phải đề phòng

Lời Chúa: Lc 21, 34-36

Khi ấy, Ðức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đử sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.”

Suy niệm:

Tháng 9-2009, Tổng Thống Nga Medvedev

gọi nạn nghiện rượu là quốc nạn.

Mỗi năm tính bình quân mỗi người dân uống khoảng 18 lít,

gấp đôi lượng rượu được coi là nguy hiểm cho sức khỏe.

Nửa số người Nga chết giữa khoảng 15-54 tuổi là do hậu quả của rượu.

Trẻ em và phụ nữ cũng nghiện.

Tuổi thọ trung bình của đàn ông chỉ còn là 59.

Vì nhiều người chết nên dân số Nga sụt giảm mỗi năm.

Làm gì để cai nghiện cho hơn hai triệu người Nga,

đó là chuyện nhức đầu cho các nhà lãnh đạo.

Nhưng tại sao người ta lại bị nặng nề bởi rượu Vodka?

Bài Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta

về những thứ nặng nề đè trên trái tim người Kitô hữu.

Trong khi chờ đợi Chúa đến vào thời điểm không đoán trước được,

chúng ta có thể bị vướng vào những thú vui buông thả.

Sống bừa bãi, phóng túng, nhậu nhẹt, say sưa,

đó vẫn là cám dỗ muôn thuở của thân xác.

Chỉ cần đi một vòng thành phố hay các vùng quê vào ban đêm,

chúng ta thấy ngay cả một thế giới của ăn uống, hưởng thụ.

Nhưng trái tim con người còn có thể trở nên nặng nề

bởi những lo âu trần thế (x. Lc 8, 14).

Làm sao nhà cửa có thêm tiện nghi? làm sao thêm lương và lên chức?

Những nỗi lo toan về cuộc sống vật chất vắt kiệt con người,

khiến con người không còn khả năng mở ra trước Chúa và tha nhân.

Con người giàu lên, nhưng lại thấy mình bất hạnh và gia đình đổ vỡ.

Mỗi năm ba mươi ngàn người chết vì tự tử ở Nhật.

Trái tim nặng nề nên nhiều người mắc bệnh tim mạch.

Trái tim bị kéo xuống cái thực dụng tầm thường ở trên mặt đất,

nên con người bị còng xuống, không ngước lên được điều trên cao.

Ngày Chúa đến như một bất ngờ, như một cái bẫy sập xuống,

không phải chỉ trên người Do Thái,

nhưng trên mọi dân cư ở khắp mặt địa cầu (c. 35).

Cả thế giới phải chịu phán xét chẳng trừ ai.

Bởi đó thái độ cần có mỗi ngày của người môn đệ

là luôn luôn thức tỉnh và cầu nguyện,

để có sức mà thoát khỏi mọi điều sắp xảy ra (c. 36).

Để chuẩn bị cho cái chung cục, thì phải sống đều đặn cái hàng ngày.

Làm sao để khi Con Người là Đức Giêsu trở lại trên mây trời,

Ngài thấy chúng ta đang ở tư thế đứng thẳng,

không phải xấu hổ cúi đầu, không bị ràng buộc bởi đam mê,

nhưng vui sướng vì mình đã không uổng công chờ đợi.

Có những lo âu vẫn chi phối tôi làm tôi nặng lòng.

Có những mê đắm kéo ghì tôi xuống và bắt tôi làm nô lệ.

Mùa Vọng sắp đến mời tôi tỉnh thức và cầu nguyện, để đứng lên.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

nếu ngày mai Chúa quang lâm,

chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.

Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,

còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.

Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,

Chúa đâu muốn mất một người nào...

Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa

xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,

vui tươi và hạnh phúc,

để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn

cho mọi người và cho cả vũ trụ.

Xin nuôi dưỡng nơi chúng con

niềm tin vững vàng

và niềm hy vọng nồng cháy,

để tất cả những gì chúng con làm

đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại