1-Chuổi kinh của các tôn giáo
Hầu như trong mọi tôn giáo các tín hữu đều có thói quen dùng chuỗi hạt để cầu nguyện. Ấn giáo có chuỗi Japa mala, Phật giáo có chuỗi Mala. Mala trong tiếng Phạn có nghĩa là vòng hoa. Còn Japa là đọc hay hát hoặc lập lại một mantra hay tên hoặc các tên của một vị thần. Có loại Mala gồm 16, 27, 54 hoặc 108 hạt. Phật giáo Tây Tạng dùng loại 108 hạt. Cũng có loại 21 hay 28 hạt tín hữu dùng để phủ phục sát đất. Hồi giáo có chuỗi Tasbeeh hay Tespih, Misbaha, Sebha hay Subha tùy theo thổ ngữ A rập thuộc các quốc gia khác nhau. Nó gồm loại 99 hạt cộng với 1 hạt, hay loại 33 cộng với một hạt. Loại giản lược gồm 34 hạt. Tín hữu đọc nó bằng cách xướng lên 99 tên gọi đẹp của Allah để chỉ nhớ tới Allah và không nghĩ tới những gì không phải là Allah. Tín hữu chính thống có chuỗi Comvoschini. Và tín hữu công giáo có tràng hạt Mân Côi “Rosario”. Từ Rosario phát xuất từ chữ Latinh “Rosarium” có nghĩa là vườn hồng, khóm hồng, tràng hoa hồng, hoặc chuỗi hoa hồng, và cũng còn gọi là Kinh Mân Côi.
Sở dĩ gọi là “chuỗi hoa hồng” hay “tràng hoa hồng” là vì nó bao gồm nhiều hạt. Mỗi một hạt là một kinh Kính Mừng. Khi đọc nó giống như một đóa hồng tín hữu dâng kính Mẹ Thiên Chúa. Rồi nó cũng được gọi là Kinh Mân Côi, vì Mân là tên của một loại ngọc, Côi là một thứ ngọc tốt, ngọc quí lạ. Kinh Mân Côi là “Kinh Ngọc”, là “chuỗi ngọc Mân và ngọc quí lạ”. Mỗi một kinh Kính Mừng dâng lên Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Đấng đầy ơn phước, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, là ngọc Mân, ngọc đẹp quí lạ tín hữu dâng lên Đức Trinh Nữ Maria.
2-150 Thánh Vịnh
Vào khoảng năm 850 một đan sĩ Ailen gợi ý là cho các giáo dân này đọc 150 kinh Lậy Cha thay cho 150 Thánh Vịnh, cũng chia thành ba phần, mỗi phần 50 kinh, tương đương với ba lần đọc kinh Thần Vụ trong ngày của các đan sĩ.
Thói quen này lan sang các nước Âu châu khác. Ít lâu sau đó hàng giáo sĩ và giáo dân trong các vùng khác của Âu châu, chẳng hạn như trong vùng sông Rhein Flamand, bắt đầu thay thế kinh Lạy Cha bằng lời sứ thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ Maria ”Ave Maria”, là phần đầu của kinh Kính Mừng hiện nay. Nhưng để cho lời cầu nguyện duy trì được tính cách chiêm niệm của nó và tránh cho việc đọc kinh trở thành máy móc, 150 kinh gọi là thánh vịnh Lạy Cha Pater Noster hay thánh vịnh của Đức Maria tùy theo công thức sử dụng, người ta giảm xuống còn 50 kinh. Đó là hình thức của Tràng hạt Mân Côi ngày nay.
Vào thế kỷ X và XI, những tu sĩ không biết tiếng la tinh có thói quen đọc 150 kinh Lạy Cha thay cho 150 thánh vịnh trong phụng vụ giờ kinh. Tập thánh vịnh bên lề này bao gồm ba chuỗi năm mươi hạt được gọi là Pentenoster (50 kinh Lạy Cha). Năm mươi kinh Lạy Cha dần dần được thay thế bằng lời chào ‘Ave Maria’ (kính mừng/chào Maria) của thiên sứ Gabriel. Vào thời ấy, hai chuỗi Pentenoster và Tập Thánh Vịnh ca ngợi Đức Mẹ Maria được sử dụng song song.
3-Theotokos
Danh từ "Mẹ Thiên Chúa", Theotokos, không có trong Thánh Kinh. Danh từ ấy lần đầu tiên được nói lên do thánh Hippolytus ở Rôma năm 235.
Tại công đồng Epheso, năm 431, thánh Cyrillo chống lại Giám mục Nestorio để bênh vực tước hiệu Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa: “Theotokos”.
Trong cuộc rước kiệu kính Đức Mẹ khi bế mạc công đồng, lần đầu tiên người ta đọc lời nguyện “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử. Amen.”
Về sau, vào năm 1569 ĐGH Pio V đã thêm lời nguyện này vào kinh Ave Maria để thành kinh Kính Mừng như ngày nay.
Quyết định quan trọng ấy của Công Ðồng Êphêsô lại được tuyên bố minh bạch thành Tín Ðiều “Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa” do Công Ðồng Calceđônia năm 451.
4-Thánh Đaminh và bè rối Albigeois, thế kỷ 12,13
Tại Languedoc, miền nam nước Pháp, Đức cha Diegô và cha Đôminicô được chứng kiến sự tàn phá mà bè rối Albigeois gây ra. Họ chủ trương rằng: mọi vật chất đều xấu và do ma quỉ. Sự hoàn thiện theo họ, hệ tại sự từ bỏ phi nhân bản để sống khắc khổ. Chủ trương này dẫn tới sự lãnh cảm, chẳng hạn đối với việc hôn nhân, và chôn vùi mọi cơ cấu xã hội gia đình. Họ còn có lễ nghi, và phẩm trật riêng. Người ta bị phân thành hai loại: một bên gồm những người hoàn thiện và những nhà lãnh đạo sống rất khắc khổ; bên kia là quần chúng tìm thấy nơi giáo thuyết mới lý do bào chữa cho sự tự do luân lý không bị kiềm chế của mình.
Trên đường về, Đức cha Diegô và cha Đôminicô đến Rôma xin từ nhiệm để dấn thân vào cuộc truyền giáo quanh vùng Dniepen. Đức Giáo hoàng Innocentê III từ lâu đã mong có người ra đi rao giảng tại miền nam nước Pháp, chống lại ảnh hưởng của bè rối Albigeois, thay vì chấp nhận lời thỉnh cầu, Đức giáo hoàng sai các Ngài tới miền nam nước Pháp. Hai người đã tới phụ lực với các sứ giả đã được sai tới trước kia.
Tại Montpellier, Đức cha Diegô đã nhận thấy sự khác biệt giữa các nhà giảng thuyết công giáo đầy xa hoa với các nhà giảng thuyết phái Albigeois đầy khiêm tốn giản dị. Các Ngài chọn đường lối khác, lấy khó nghèo và cầu nguyện làm gương sáng thu hút mọi người. Tháng 4 năm 1207, nhiều tu sĩ Xitô đến trợ lực. Trong vòng một năm trời, có đến 40 vị dấn thân vào hoạt động. Những thành công sơ khởi bắt đầu tới, nhưng không kéo dài được lâu. Các tu sĩ Xitô nản lòng. Đức cha Diegô trở về Tây Ban Nha kiếm thêm người trợ lực và qua đời tại đây. Một vị sứ thần cũng từ trần. Tệ hại hơn cả là Phêrô Castelman, vị sứ thần khác, bị bọn lạc giáo ám sát.
Còn lại mình cha Đôminicô. Ngài vẫn tiếp tục nhiệt tình hoạt động trong đường lối khổ hạnh và cầu nguyện. Không chấp nhận kiểu rao giảng khua trống gióng chiêng, Ngài nói:
- Không thể như vậy được. Hãy trang bị bằng kinh nguyện và chân không mà đến với tên khổng lồ Goliath.
Trong sáu năm, cha Đôminicô trải qua nhiều sóng gió. Ngay khi mới tới, Đức cha Diegô và Ngài đã thiết lập một cộng đoàn nữ tu tại Prouille. Một ngày kia trong khi nhiệt tình cầu nguyện, thánh nhân than thở tại sao số người lạc giáo quá nhiều mà trở lại thì quá ít. Đức Trinh nữ đã hiện ra và dạy Ngài hãy rao giảng phép lần hạt Mân Côi. Vâng lời Mẹ, thánh nhân dồn nỗ lực vào việc truyền bá sự sùng kính kỳ diệu này. Thay vì tranh luận như trước, Ngài dạy dân chúng hiểu phương pháp và tinh thần khi lần chuỗi. Ngài dẫn giải cho họ các mầu nhiệm thánh. Kết quả thật lạ lùng. Sau một thời gian ngắn, thánh Đôminicô đã được an ủi khi thấy hơn một trăm ngàn người tội lỗi và những kẻ lạc giáo được đưa trở về với Giáo Hội.
Hoàn thành sứ mệnh, thánh Đôminicô có ý định thành lập một dòng tu làm vườn ươm các tông đồ. Ngài trình bày dự tính với Đức Giáo hoàng Innocentê III. Nhưng Đức Giáo hoàng ngần ngại. Đêm sau Ngài mơ thấy đại giáo đường Lateranô bị rung chuyển và thánh Đôminicô đưa vai chống đỡ bức tường cho khỏi sụp đổ. Biết ý Chúa, Ngài cho gọi thánh nhân đến và chấp thuận cho lập dòng mới. Đây là dòng Giảng Thuyết.
Theo cha Lacordaire, một tu sĩ dòng Đa Minh và là một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Paris vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Toulouse, tình thế lúc bấy giờ rất nhiễu nhương : quân của quận Chúa Raymond theo bè rối Albigeois đánh nhau với quân của quận chúa Simon de Montfort theo công giáo. Thánh Đa Minh làm việc tông đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Người thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa các người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế, người mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Người được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mân Côi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi mười kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát vắn hay mấy lời lấy trong các sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, cho thay đổi và đỡ nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về các niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng.
5-Chân phúc Alain de la Roche
Thế kỷ 15, chân phước Alain de la Roche tiến hành một phong trào cổ võ cho kinh Mân Côi và đặt ra hình thức mà ta sử dụng hiện nay.
Chân phúc Alain de la Roche thêm phần suy niệm các mầu nhiệm trong khi lần chuỗi. Từ đó, việc lần hạt Mân Côi được lan tỏa ra khắp nước Pháp và Giáo Hội.
6-Kinh Kính Mừng
Ban đầu kinh Kính Mừng chỉ gồm có lời chào của thiên sứ Gabriel: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Bà" (Lc 1: 28), rồi được thêm lời chào của bà Thánh Elizabeth: "Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Và Con lòng Bà gồm phúc lạ" (Lc 1: 42).
Năm 1569, ĐTC Piô V với Tông sắc "Consueverunt Romani Pontifices" thêm phần thứ hai kinh Kính Mừng: "Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời..." và kinh Sáng Danh vào chuổi Mân Côi, và ấn định kinh Mân Côi như chúng ta đọc ngày nay.
7-Chiến thắng vịnh Lepante,7-10-1571
Lần hạt Mân côi từ bao năm tháng đã là tỏ lòng kính mến Ðức Mẹ. Thực hành này đã có một chiều sâu mới trong thời chúng ta. Ngày 7 tháng 10 năm 1571, một hạm đội công giáo gồm 206 chiến thuyền với 80 ngàn người do thánh Giáo Hoàng Piô thứ V tổ chức, và do Don John của Áo Quốc lãnh đạo đã đối đầu với hạm đội của Thổ Nhĩ Kỳ hồi giáo với 320 chiến thuyền và 120 ngàn quân và người chèo là tù nhân công giáo của Thổ Nhĩ Kỳ trong vịnh Lepante, biển Hy Lạp. ĐTC Pio V kêu gọi mọi người lần hạt Mân Côi cầu xin Đức Mẹ cứu giúp.
Nhóm Mân Côi Rôma đã lần chuỗi Mân Côi để cầu xin chiến thắng cho hải đội công giáo trong nhà thờ Ðức Bà. Khi tin mừng chiến thắng được loan ra, ai ai cũng nhìn nhận đó là do sự phù hộ của Ðức Mẹ.
Ðức Giáo Hoàng Piô V thuộc dòng Ðaminh rất sùng kính Kinh Mân côi đã lập ra lễ Ðức Bà Toàn Thắng để đánh dấu chiến thắng này.
Năm 1573 Đức Giáo Hoàng Gregorio XIII đã đổi lễ Đức Bà Toàn Thắng thành lễ Đức Mẹ Mân Côi mà Giáo hội vẫn giữ vào ngày 7/10 mỗi năm.
8-Lộ Đức,1858
Bernadette là một cô bé 14 tuổi, không biết đọc, không biết viết, con một gia đình nghèo ở Lộ Đức. Gia đình cô tạm trú tại một nơi trước kia dùng làm nhà giam.Nơi tồi tàn này, cả gia đình gồm ông bà thân sinh và bốn chị em Bernadette làm nơi nương thân. Đức Mẹ muốn chọn một cô bé nơi nghèo hèn để làm sứ giả của Mẹ.
Theo lời kể của Bernadette. Hôm đó là ngày thứ năm, 11.02.1858, được nghỉ học, Bernadette xin phép mẹ đi nhặt củi. Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây khô. Nhưng suốt buổi sáng đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới tiến đến một hang động gần đó mà dân làng quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay nhặt củi, từ trong hang đá, một thiếu nữ diễm lệ xuất hiện và đứng trên một tảng đá, ánh sáng bao trùm cả hang Massabielle. Theo lời mô tả của cô, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ diễm lệ chỉ mỉm cười. Trong cơn xúc động, Bernadette lấy tràng chuỗi từ trong túi áo ra và bắt đầu đọc kinh Kính Mừng. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người thiếu nữ làm hiệu cho cô tiến lại gần hơn. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn.
Cô về nhà kể lại biến cố ấy, nhưng chẳng ai tin cô. Chính cha mẹ cô cũng không muốn cho cô trở lại hang đá nữa. Nhưng như có một sức hấp dẫn lạ kỳ nào đó khiến cô vẫn trở lại hang đá ấy.
Sau lần này, cô còn được trông thấy “người thiếu nữ diễm lệ” hiện ra 17 lần nữa.
Khi hiện ra lần thứ ba, ngày 18.02.1958, người thiếu nữ ấy mới bắt đầu nói với cô: “Con có vui lòng đến đây liên tiếp 15 lần nữa không? Ta không hứa sẽ làm cho con được sung sướng ở đời này, nhưng là ở đời sau.”.
Trong 15 lần tiếp đó, người thiếu nữ đã nhắn nhủ và truyền cho Bernadette nhiều điều. Cô kể : “Bà dặn tôi nhiều lần rằng: Hãy sám hối, hãy nói với các linh mục xây một nhà nguyện ở đây, hãy đến uống và rửa ở suối này, phải cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn hối cải. Trong vòng 15 lần ấy, Bà còn nói với tôi 3 điều và dặn tôi không được nói với ai. Tôi vẫn trung thành giữ kín. Sau lần thứ 15, tôi hỏi Bà 3 lần liên tiếp: Bà là ai? Nhưng Bà chỉ mỉm cười. Tôi đánh bạo hỏi thêm lần thứ tư. Lúc ấy, Bà mới buông tay xuống, ngước mắt nhìn lên trời rồi vừa nói vừa chắp tay trước ngực: ‘QUE SOY ERA IMMACULADA COUNCEPTIOU’”. Đó là thổ âm của vùng Lộ Đức lúc bấy giờ, được dịch ra tiếng pháp là: ‘Je suis l’Immaculée Conception’, và dịch sang tiếng Việt là:
“Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.”
Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần tại Hang đá Lộ Đức, từ ngày 11 tháng 02 đến ngày 16 tháng 07 năm 1858.
9-Fatima
Đức Mẹ hiện ra từ ngày 13.5 đến 13.10,1917
Ngày 13 tháng 10 năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ mặc khải tên mình cho ba em nhỏ Lucia, Giacinta và Phanxico: “Ta là Nữ Vương Mân Côi.”
3 mệnh lệnh Fatima: Hãy ăn năn đền tội – Hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ - Hãy siêng năng lần hạt mân côi, cầu nguyện cho kẻ có tội.
10-Kinh Mân côi với các Đức Giáo Hoàng
Các Đức Giáo Hoàng, nhất là các Đức Giáo Hoàng gần đây, đã không ngừng kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi, nơi mỗi cá nhân cũng như trong các gia đình.
Đức giáo hoàng Piô V ban ơn đại xá cho những ai gia nhập Hội Mân Côi và năng lần hạt Mân Côi qua Tông hiến “Salvatoris Domini” (05/03/1572).
Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ chúng ta hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình. Cũng chính ngài đã xác định :
Kinh Mân côi là một kho tàng quý giá nhất của Giáo hội.
Tiếp đến Đức Thánh Cha Lêô XIII đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải lần hạt, và người ta đã gọi ngài là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã xuất bản khoảng 12 thông điệp nói về Kinh mân côi, ấy là không kể đến 8 văn kiện khác nữa, chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu : “Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.”
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo chúng ta :
- Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.
Đức Thánh Cha Piô XI cũng đồng quan điểm ấy khi ngài viết:
- Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô XII cũng đã khuyên nhủ các bạn trẻ :
- Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi.
Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, ngài xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục :
- Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết : Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.
Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại, ngài cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.
Khi còn là linh mục ngài lần mỗi ngày 1 chuổi. Khi làm giám mục, dù công việc bận rộn hơn, ngài lần mỗi ngày 2 chuổi. Khi làm Giáo Hoàng, dù trách nhiệm nặng nề với bao công việc quan trọng, ngài lần mỗi ngày 3 chuổi để cầu nguyện cho Hội Thánh.
Đức Hoàng Gioan Phaolô II, đúng một tuần sau khi lên ngôi Giáo Hoàng, trưa 29-10-1978, trước hơn 100.000 người tới dự kinh Truyền tin tại công trường thánh Phêrô, đã nói mấy lời vắn tắt nhưng đầy ý nghĩa về kinh Mân côi như sau:
“Anh chị em thân mến, hôm nay Chúa nhật cuối cùng tháng 10, tôi muốn kéo chú ý anh chị em tới kinh Mân côi, vì tháng 10 là tháng dành riêng để đọc kinh Mân côi trong toàn thể Giáo Hội.
Kinh Mân Côi quả là một kinh tôi mến chuộng cách riêng. Kinh Mân côi là một kinh đặc biệt lạ lùng vì vừa đơn sơ vừa phong phú.
Kinh Mân côi, xét trong toàn bộ diễn lại các mầu nhiệm vui, thương, và vinh hiển của Đức Kitô và làm cho ta hiệp thông với đời sống Đức Kitô, nhờ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ.
ĐTC Gioan-Phaolô II đã thêm Năm Sự Sáng vào chuổi Mân Côi.
Xem đó chúng ta thấy các Đức Thánh Cha đều nhất trí về sự tuyệt hảo của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Và các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi khẩn thiết ấy. Từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, đâu đâu người ta cũng lần chuỗi.
11-Lần chuổi đúng cách
Chúng ta đọc kinh Lạy Cha với tâm tình cầu nguyện như Chúa Giêsu dạy. Đó là lời kinh đẹp nhất, có ý nghĩa nhất.
Chúng ta đọc kinh Kính Mừng trong tâm tình yêu mến, ngợi khen và khẩn cầu Mẹ Maria và cùng với Mẹ suy gẫm các mầu nhiệm về Chúa Giêsu và về Đức Mẹ. Chuổi Mân Côi là cuốn Tin Mừng rút gọn. Lần hạt Mân Côi là suy gẫm Tin Mừng.
Chúng ta đọc kinh Sáng Danh cùng với Mẹ để tạ ơn và kính thờ Chúa Ba Ngôi.
12-15 Lời hứa Mân Côi của Đức Mẹ:
http://www.daobinh.com/memaria/15lhducme.htm
13-Truyện tích Mân Côi, bài giảng, tư liệu: https://sites.google.com/site/sonhaiti/memaria
----------------------------------------
4-10-2015
Tôma Sơn,dcct.
*Nguồn tham khảo: internet.