Trong phẩm này, khuyên chúng ta “đoạn ác tu thiện”. “Đoạn ác tu thiện” mới có thể lìa khổ được vui, cái nào là ác, cái nào là thiện, Phật ở chỗ này vì chúng ta chỉ thị rất rõ ràng.
“Phật cáo Di Lặc: “Nhữ đẳng năng ư thử thế, đoan tâm chánh ý, bất vi chúng ác, thậm vi Đại Đức”. Đây là Phật nói với Di Lặc Bồ Tát, một loại hành giả là người tu hành (cùng Di Lặc Bồ Tát một loại người tu hành) đối với họ tán thán. Các ông có thể ở trong thế gian này, thế gian này là ngũ trọc ác thế, đây là một hoàn cảnh rất xấu, trong hoàn cảnh ác liệt như vậy mà các ông có thể tu thiện, có thể hướng thiện, không tạo ác, điều này thật hiếm có! Đây quả thật là “Đại Đức”, chữ “đức” này là đức hạnh, đây chẳng phải đức hạnh thông thường, là thật sự có đại đức hạnh. Vậy trong câu nói này, tổng cương lĩnh là, “đoan tâm chánh ý”, câu này tức là chơn thành tâm, Nhà Nho gọi là “thành ý chánh tâm”. Còn “đoan tâm”, tức là chánh tâm, còn chữ “chánh ý” phía dưới tức là thành ý, tâm địa chơn thành, bằng tâm chơn thành để xử thế đối người tiếp vật, thì gọi là đoan tâm. Cho nên ý thành thì theo sau tâm mới chánh vậy. Cái tâm đó là nói tác dụng của tâm, thành là cái thể của tâm, cái này cũng tức là trong Đại Thừa Phật Pháp gọi là đại Bồ Tát tâm, đây tức là đại Bồ Tát tâm, phía dưới nói:
“Sở dĩ giả hà?” Vì sao Thế Tôn đối với nhóm người này tán thán như vậy? sự tán thán này, nhất định có đạo lý, câu Sở dĩ giả hà? là tại sao tán thán như vậy, “Thập phương Thế Giới, thiện đa ác thiểu, dị khả khai hóa”, mười phương Chư Phật sát độ, người thiện nhiều, người ác ít, Phật ở nơi đó giáo hóa chúng sanh dễ dàng. “Dị khả khai hóa”, “khai” là khai thị, là Phật giảng Kinh thuyết Pháp. Người thiện nhiều đều ưa thích nghe thì giảng Kinh thuyết Pháp dễ dàng, còn thính chúng người nghe Kinh giác ngộ nhiều, chữ “hóa” này là biến hóa khí chất. Sau khi nghe xong họ liền biến hóa. Trung Quốc chúng ta trước kia nền thế gian giáo dục, mục đích là để biến hóa khí chất, Phật giáo hóa chúng sanh, mục đích là chuyển phàm thành Thánh, tức là hóa phàm thành Thánh, cho nên chữ “hóa” này là sự thành tựu của giáo học, hai chữ này khai là nhân hóa là quả, Phật thuyết Pháp đều chẳng rời khỏi quan niệm và sự thật của nhân quả. Vậy thì mười phương Thế Giới thật tại mà nói cũng bao gồm Ta Bà Thế Giới chúng ta. Ta Bà Thế Giới cũng có lúc tốt, hiện nay là lúc xấu, phong thủy luân chuyển luân lưu chuyển có lúc gặp vận hên, có lúc gặp vận xấu.
Hiện nay trái đất đang gặp vận xấu, cả trái đất bị công nghệ chỗ cảm. Vậy mười phương Thế Giới lúc này họ đang gặp vận hên, còn chúng ta thì gặp vận xấu, chẳng phải toàn là “ngũ trọc ác thế” chỉ có Thế Giới này của chúng ta có mà tha phương Thế Giới cũng có, tuy nhiên chẳng phải là lúc này “duy thử ngũ ác thế gian, tối vi kịch khổ”, đây là Phật cảm than Thế Giới này của chúng ta, thế gian này của chúng ta là ngũ ác, tất cả chúng sanh đang tạo tác ngũ ác, mà ngũ ác tại thế gian này là vô cùng vô cùng phổ biến! vô cùng vô cùng nghiêm trọng! Ngũ ác là gì ? là “sát, đạo, dâm, vọng, tửu”, là mặt trái của ngũ giới, ngũ ác Thế Giới. Cho nên trong đoạn này, chúng ta quan sát phần Kinh Văn này, tức là nói về ngũ giới, vậy nói một cách khác, anh có thể trì ngũ giới, đây tức là thiện, ngược lại, lúc tạo tác tức là ác “tối vi kịch khổ”. Bên trong nhân duyên quả báo, chúng sanh đích thật chẳng có trí tuệ, chẳng có đạo nhãn, chẳng thấy được, mê hoặc điên đảo cho nên chấp ý đang tạo tác đến lúc quả báo hiện tiền hối hận cũng chẳng kịp, cho nên đoạn Kinh Văn này chúng ta phải hết lòng để đọc tụng.
“Ngã kim ư thử tác Phật, giáo hoá quần sanh, linh xả ngũ ác, khứ ngũ thống, ly ngũ thiêu, hàng hóa kỳ ý, linh trì ngũ thiện, hoạch kỳ phước đức”, một tiết nhỏ Kinh Văn này là tổng thuyết, là tổng cương lĩnh của phẩm Kinh này. Dưới đây chia thành từng đoạn, từng đoạn để nói kỹ. “Ngã” là Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng. “Ư thử” là tại thế gian này của chúng ta, ba ngàn năm trước tại trên địa cầu này của chúng ta thị hiện làm Phật giáo hóa chúng sanh. Sự dạy dỗ cơ bản của Phật là dạy chúng ta xả bỏ ngũ ác, đây là nhân, ác là nhân. Phía dưới chữ “thống” và “thiêu” là quả báo. Cái nhân anh tạo, anh tương lai nhất định phải thọ nhận quả báo, “thống” là anh trong đời này, sự thống khổ mang đến cho cuộc sống, sự thống khổ này gọi là hoa báo, giống như hoa nở, hoa nở sau đó thì kết trái, còn chữ “thiêu”, thiêu là địa ngục, sau khi chết thì đọa địa ngục, địa ngục gọi là quả báo, hoa nở sau đó thì kết quả, hoa là gì ? là thống khổ, cho nên chúng ta đời người, đời này cuộc sống rất thống khổ thì cái quả sau đó chẳng thể tốt, hoa nở chẳng tốt thì quả lại làm sao có thể tốt được?! Nếu như trong đời này, đích thật tâm khai ý giải, rất vui sướng thì quả báo tương lai sẽ tốt, cho dù chẳng học Phật, cũng chẳng thể đọa tam ác đạo, một người tâm địa thiện lương, xử thế đối người chánh đại quang minh, tâm họ thanh tịnh quang minh, thì cuộc sống của họ rất vui sướng, thì sẽ rất tự tại, nếu như ngày ngày tự tư ích kỷ, đều là hại người lợi mình, ngày ngày đều làm những việc này, đây là tạo tác tội nghiệp đấy, cho dù có được một tí lợi ích, xong trong tâm họ không an, lương tâm cắn rứt, ban đêm đều nằm ác mộng, sống trong thế gian này, thường thường buồn lo, sợ người ta khám phá chỗ yếu của mình, sợ kẻ khác ám hại họ, thời thời khắc khắc phập phòng lo sợ, nằm ngồi chẳng an, cuộc sống này thì là khổ, thì là thống khổ. Cho nên khổ thống này, ngũ thống này, năm thứ ác nhân này mang đến cho anh năm thứ đau khổ của cuộc sống, tương lai cảm đến khổ báo của địa ngục. Phật Giáo hóa chúng sanh, nền giáo học cơ bản, tức là điểm này, khiến cho chúng ta minh bạch, khiến cho chúng ta liễu giải chân tướng của sự thật này.
“Hàng hóa kỳ ý”, chữ “ý” này tức là vọng tưởng, tham si. Chúng ta minh bạch rồi, hiểu rõ rồi thì cái tham tâm, sân giận tự nhiên hàng phục, biết được việc này không thể làm, sau khi làm rồi thì hậu quả không thể thiết tưởng nỗi, vẫn là ít làm, không làm thì hay hơn, “hàng hóa kỳ ý”. Trong Kinh kim Cang, Tu Bồ Đề tôn giả, nêu ra hai vấn đề. Quý vị, tôi nghĩ rất nhiều người đã niệm qua Kinh Kim Cang, Kinh Kim Cang nói là những gì? Nói hai vấn đề, Tu Bồ Đề Tôn Giả hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật thỉnh giáo “vân hà hàng phục kì tâm”, tâm của chúng ta từ sáng đến tối vọng tưởng tạp niệm, phiền não lung tung, làm thế nào có thể đem nó hàng phục? Điều này đích thật là một vấn đề. Vấn đề thứ hai là “ưng vân hà trụ” tâm này của chúng ta rốt ráo phải an trụ ở đâu? Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói hết một bộ Kinh Kim Cang Bát Nhã Bát Nhã Ba La Mật để giải đáp hai vấn đề này. Tôi tin tưởng có nhiều đồng tu đọc qua Kinh Kim Cang, thậm chí đều nghe qua Kinh Kim Cang, anh biết được làm thế nào để hàng phục kì tâm? tâm anh an trụ ở đâu? Nếu như vẫn chẳng biết thì Kinh Kim Cang đã niệm cũng luống công. Kinh Kim Cang là nói với Tu Bồ Đề, do đây có thể biết Kinh Kim Cang đối với chúng ta mà nói thì chẳng khế cơ, chúng ta có hai vấn đề chưa giải quyết, những lời Phật nói với chúng ta đó, chúng ta không hiểu mà “truy kỳ vân”, chẳng biết Ngài nói những gì, vẫn là Pháp môn này hay, “vân hà hàng phục kì tâm”. Nam mô A Di Đà Phật, anh xem, khi trong tâm vọng tưởng đến nam mô A Di Đà Phật, nam mô A Di Đà Phật… thì vọng tưởng đoạn rồi, thì là hàng phục rồi. “Kinh vân hà trụ”, tâm anh an trụ ở đâu? Nam mô A Di Đà Phật, an trụ tại danh hiệu A Di Đà Phật, anh xem chẳng phải vấn đề đã giải quyết rồi sao!? Một câu nam mô A Di Đà Phật đem vấn đề của Tu Bồ Đề đều triệt để giải quyết ngay, đâu cần dùng đến Kinh Kim Cang phiền phức như vậy. Anh mới biết được Pháp môn này tại sao xưng là đệ nhứt, đạo lý là ở chỗ này. Cho nên đích thật một câu nam mô A Di Đà Phật, “hàng hóa kỳ ý”, là cực kỳ cao minh, cực kỳ thỏa đáng, vả lại còn mau chóng. “linh trì ngũ giới”, tâm ý hàng phục rồi, có nơi an trụ rồi, anh khuyên họ hành thiện thì là dễ dàng, đây là việc rất dễ dàng, tự nhiên hướng thiện. Anh chẳng dạy họ, họ cũng muốn học thiện, vừa muốn dạy thì lại càng tốt hơn nữa.“Hoạch kỳ phước đức”, con người như vậy thì họ tự nhiên có phước đức rồi, vì sao? Vì là hành thiện, tâm thiện, hành thiện, quả báo là phước, là đức. Chữ “đức” này, cùng với chữ “đắc” của “đắc thất” là cùng một nghĩa. Anh đã được phước báo chơn chánh rồi, anh tu như vậy mới có được phước báo chơn chánh. Cho nên kiết hung họa phước là mọi người tự mình cảm chiêu mà đến, chẳng phải kẻ khác cho anh. Người ngu cầu Phật Bồ Tát ban phước, đó là ngu si đấy. Phật, Bồ Tát đâu có quyền lực ban phước cho anh, tự mình đã tạo một thân tội nghiệp rồi, hướng về Phật, Bồ Tát hối lộ, cầu Phật, Bồ Tát tha thứ. Tội nghiệp của anh tạo đó cùng Phật, Bồ Tát vô cang. Phật, Bồ Tát cũng chẳng có quyền lực tha thứ cho anh. Đây là thật. Phật, Bồ Tát giảng lý cho anh, giảng đạo lý cho anh, giảng chơn tướng sự thật cho anh. Anh đạo lý minh bạch rồi, chơn tướng sự thật rõ ràng rồi thì anh biết được phải nên làm cách nào! Đây là Phật Bồ Tát chỉ dạy cho chúng ta, Phật Bồ Tát chẳng phải thần minh, thần minh cũng không thể giúp đỡ bảo hộ anh được, cũng không thể giáng phước cho anh. Nếu anh chẳng có phước báo, nếu họ thật sự giúp đỡ anh, giáng phước cho anh, thì họ tạo tội nghiệp. Phước báo nhất định phải tự mình tu, “linh trì ngũ thiện”, tức là bảo anh tu nhân, tu thiện nhân, anh chắc chắn được thiện quả. Đây là chánh thuyết, đây là chánh giáo. Vậy phía dưới là tường tận vì chúng ta, nói rõ ra, năm thứ ác này. Bề trái của năm thứ ác, tức là năm thứ thiện. Cái thứ nhất là sát sanh ác, thứ hai là thông đạo ác, thứ ba là dâm dục ác, vọng ngữ ác, sau cùng là ẩm tửu ác, năm thứ này là năm đoạn trong bổn Kinh.
A Di Đà Phật.
TẬP 22
Xin lật Kinh bản, chúng tôi đem Kinh Văn đọc một đoạn để đối chiếu.
“Hà đẳng vi ngũ? - Kỳ nhất giả, thế gian Chư chúng sanh loại, dục vi chúng ác, cường giả phục nhược, chuyển tương khắc tặc, tàn hại sát thương, điệt tương thôn hám”, từ chỗ này bắt đầu xem, phẩm Kinh này trên thực tế tức là chánh thọ của ngũ giới, các bạn đồng tu có nhiều người yêu cầu ở trong giữa Pháp hội thọ tam quy ngũ giới. Phần tam quy, chúng tôi có tập sách nhỏ truyền thọ, ngũ giới là một phần khai đạo tối thù thắng! Nếu như chúng ta tỉ mỉ đem nó xem minh bạch rồi, y giáo phụng hành, đây tức là đệ tử ngũ giới chơn thật của Thế Tôn, một tiết ở phía trước nói được vô cùng rõ rệt, Thế Tôn thị hiện tại thế gian này làm Phật, chỉ dạy chúng ta, nhất định phải xả bỏ ngũ ác. Nói một cách khác, tức là chỉ dạy chúng ta phải nghiêm trì ngũ thiện; ngũ thiện nói ở chỗ này tức là ngũ giới;. Như vậy mới có thể có được phước báo chơn thật. Vậy loại phước báo này, trong cuộc sống hiện thực, nó có thể mang đến sự yên ổn cho chúng ta, thân tâm yên ổn, hạnh phúc vui vẻ, cũng là cơ sở niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ của chúng ta. Bởi vì Tây Phương Thế Giới, trong phần Kinh Văn đại tiểu bản đều nói với chúng ta “Chư thượng thiện nhân câu hội nhứt sứ”, nếu như chúng ta ngay nơi ngũ giới đều chẳng thể thanh tịnh thì niệm Phật, cho dù anh có niệm được hết lòng đi nữa cũng rất khó tham dự Pháp hội của Tây Phương “Chư thượng thiện nhân”, người ta đều là người thiện còn chúng ta bất thiện thì làm sao có thể tham dự được? Vì vậy cho nên trong phẩm Kinh này chỗ nói là cái căn bản của căn bản, cái cơ sở của cơ sở, quyết định chẳng thể thấp hơn dưới mức độ này. Vậy chúng ta trong một đời này Vãng Sanh thì chẳng có hy vọng, cho nên các bạn đồng tu phải đặc biệt lưu ý. Hôm nay, thì chúng tôi bắt đầu từng đoạn từng đoạn một để giới thiệu.
Đoạn thứ nhất là sát sanh ác, sát sanh là đại ác đấy, không sát thì đây tức là thiện. Phía dưới đoạn văn này rất dài, đây là Thế Tôn lòng từ bi vô tận vì chúng ta nói ra chơn tướng sự thật của nhân duyên quả báo “kỳ nhất”. Đây là đoạn thứ nhất, “thế gian Chư chúng sanh loại”, câu này bao quát phạm vi vô cùng rộng lớn! Chúng sanh nếu nói rộng cửu Pháp giới đều là hữu tình chúng sanh. Tuy nhiên ở trong đây, Tứ Thánh Pháp Giới, họ là giác mà chẳng mê, họ chẳng thể tạo ác. Trong lục phàm Pháp giới, cũng tức là chúng ta nói lục đạo, thiên nhơn thì trí tuệ cao, phước báo lớn, cũng chẳng sát sanh. Điều kiện sanh thiên là thượng phẩm của thập thiện nghiệp đạo. Trong thập thiện nghiệp đạo điều thứ nhất là “không sát sanh”, đương nhiên là sẽ không làm ác, người làm ác sao có thể sanh thiên được!? Vậy thì điều này chúng ta minh bạch rồi. Có thể tạo ác nghiệp là nhơn đạo trở xuống: người, súc sanh, ngạ quỷ còn địa ngục. Thật tại mà nói là thọ báo cũng sẽ chẳng tạo tội nghiệp, nó là việc hoàn toàn đang thọ khổ báo. Vậy đây là nói về nhóm chúng sanh dễ dàng tạo tác ác nghiệp này.
“Dục vi chúng ác”, tạo ác có cái dục vọng. Cái dục vọng này tóm lại mà nói đều là tự tư ích kỷ, hại người lợi mình, đều là cái nhân tố như vậy, nếu như chẳng phải nhân tố này, đó tức là cái ngu si nghiêm trọng, cũng có thể tạo tội nghiệp.
“Cường giả phục nhược”, đều là kẻ mạnh hiếp đáp kẻ yếu. Cũng như chúng ta thấy các em bé, các em đi bắt chuồn chuồn, bắt bươm bướm, bắt để chơi, mãi đem nó chơi đùa cho đến chết mới thôi, đây là sát hại đấy. Anh bảo chúng có dục vọng gì đâu? Chúng chỉ là chơi đùa mà thôi. Động vật nhỏ, chúng lớn hơn chúng nó, chúng có thể hiếp đáp chúng nó, đây tức là, “cường giả phục nhược”. Phía bên trong cũng chẳng có tâm tham, cũng chẳng có tâm sân giận là ngu si đấy, tạo xong ác nghiệp như vậy, thứ ác nghiệp này chúng ta thấy các em nhỏ thường tạo, nghĩ lại chúng ta lúc còn nhỏ cũng làm những việc này, chẳng biết đã làm bao nhiêu lần rồi, Có tội nghiệp hay không? Đương nhiên là có tội nghiệp. Con vật nhỏ cũng là một mạng sống, chúng ta đã học Phật rồi, hiểu rõ chơn tướng sự thật rồi mới biết được cái nhân quả lợi hại! Thiếu mạng phải trả mạng, thiếu tiền phải trả nợ, chỗ gọi là báo ân báo oán, đòi nợ trả nợ chẳng dứt, chẳng liễu. Chúng ta chẳng phải cố ý, là vô ý. Không sai. Là cái nghiệp vô ý tạo đấy, tương lai vẫn phải là vô ý để đền trả. Cái nhân gì thì có cái quả báo nấy, điều này chúng ta không thể không biết, Phật vì chúng ta nói đó đều là chơn tướng của sự thật.
“Chuyển tương khắc tặc”, đây tức là hỗ tương đền trả, tức là ý nghĩa này, đời này anh hiếp đáp họ, đời sau họ hiếp đáp anh, đáp đền qua lại, thảm hại sát thương, cái này là tàn khốc nhứt trong khổ báo, “điệt tương thôn hám”, câu sau cùng này đặc biệt là nghiệp nặng nơi trên việc ăn ụống. Nhà Phật thường nói: “chúng ta trong đời này ăn nó nữa cân, kiếp sau phải trả nó tám lạng”. Ngày nay anh thích ăn thịt đến kiếp sau thì súc sanh kia (cho nên nói người chết làm dê, dê chết làm người anh ăn thịt dê, dê chết rồi kiếp sau làm người, vậy chúng ta người chết rồi kiếp sau đầu thai làm dê) lại bị nó ăn, lại bị nó giết lại bị nó ăn. Là sự việc thế đó, ăn qua ăn lại, sự việc này oan oan tương báo vô cùng đáng sợ! Phật Pháp tuy trong giới luật, chẳng có bảo chúng ta ăn trường trai, trong giới luật chẳng có. Trong giới luật chỉ dạy chúng ta ăn “tam tịnh nhục”, tam tịnh nhục này tức là chẳng thấy giết, chẳng nghe giết, chẳng vì ta mà giết, chẳng phải vì ta mà giết, vậy hiện nay những đồ đông lạnh bày bán trên thị trường đều là thuộc về loại tam tịnh nhục này. Vậy Phật tại sao nói như vậy? Quy vị nhất định phải biết Thế Tôn năm xưa khi còn tại thế trong tăng đoàn chẳng có nấu nướng, hằng ngày đều đi ra ngoài khất thực. Trong lúc khất thực, nếu anh nhất định buộc người ta phải nấu đồ chay cúng dường cho anh thì chẳng phải khiến người ta phiền phức lắm sao! Cho nên Phật “lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”. Việc khất thực này người ta cho gì thì ăn nấy, là phương thức sinh hoạt lúc bấy giờ.
Sau khi Phật Pháp truyền đến Trung Quốc mới có việc nấu nướng trong tăng đoàn. Tập quán của người Trung Quốc, nếu như nhìn thấy người đi ra ngoài khất thực là đi xin cơm, là kẻ ăn mày. Người Trung Quốc chúng ta không tôn trọng. Tuy nhiên, thời xưa ở Ấn Độ và hiện nay ở Silanka, Thái Lan người xuất gia ra ngoài khất thực xã hội đại chúng đều vô cùng tôn trọng. Hoàn cảnh tại Trung Quốc nếu ra ngoài khất thực xin cơm là kẻ ăn xin, chẳng có ai tôn trọng cả, ngược lại khiến cho người ta tạo nghiệp, huống chi Phật giáo truyền đến Trung Quốc là bậc Đế Quân Trung Quốc phái đặc sứ đi nghênh thỉnh qua, đến Trung Quốc với thân phận là Đế Quân Sư. Vậy Hoàng Đế sao lại bảo thầy mình ra ngoài đi xin cơm chứ!? Làm gì có đạo lý này. Cho nên chỉ ở tại chùa thì sẽ có cúng dường rất tốt, phương thức sinh hoạt sau khi đã đến Trung Quốc thì hoàn toàn thay đổi, hoàn toàn là Trung Quốc hóa rồi. Y phục mặc đều là y phục Trung Quốc, chúng ta mặc loại áo tay rộng là lễ phục thời Hán Triều gọi là Hải Thanh, là lễ phục của Hán Triều là của người đi học mặc vậy. Còn người tại gia thì sao? Thì trên y phục có thêu rất nhiều hoa văn, hoa văn đó đại biểu cho thân phận của họ, chẳng phải tùy tiện có thể thêu. Vậy thì y phục của người xuất gia thì trên mặt chẳng có hoa văn, màu sắc thì đơn sơ mộc mạc hơn, sai biệt là ở chỗ này. Cho nên khi đã đến Trung Quốc thì hoàn toàn là Trung Quốc hóa, ở Trung Quốc thành bổn thổ hóa rồi.
Vậy còn việc ăn chay của Trung Quốc là do Lương Võ Đế đề xướng, vua Lương Võ Đế đọc Kinh Lăng Già thấy Phật nói trong Kinh, Bồ Tát đại từ đại bi không ăn thịt chúng sanh vua Lương Võ Đế sau khi đọc xong rất lấy làm cảm động, tự mình từ đó ăn trường trai. Ông là vị đại hộ Pháp của Phật môn chúng ta. Lấy thân phân một quốc vương để hộ trì Phật Pháp. Đương nhiên việc phát khởi cuộc vận động ăn chay tại trong Phật giáo lập tức liền có tiếng vang rất tốt! Nên học Phật ăn chay trong Phật môn là nét đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc. Hiện này chúng ta đi khắp nơi trên Thế Giới, toàn Thế Giới bất cứ một quốc gia nào Phật giáo không có ăn chay?! Chẳng những Tiểu Thừa khất thực không ăn chay mà chúng tôi đến Nhựt Bản, Phật giáo Nhựt Bản không ăn chay. Đại Hàn cũng không ăn chay, cho nên ở ngoại quốc có nhiều quốc gia Phật giáo đều không ăn chay. Duy chỉ có Phật giáo Trung Quốc ăn chay, chúng tôi đi đến các quốc gia Phật giáo khác thăm viếng, chúng tôi thấy họ ăn thịt lại còn uống rượu, cảm thấy rất lạ lùng! Anh xem Phật giáo Nhựt Bản trước bàn Phật Bồ Tát những thứ rượu ngon cúng đó đều là rượu ngon rất nổi tiếng, họ đem cúng Phật rồi lấy tự uống, chúng tôi nhìn thấy rất lạ lùng. Họ thấy chúng tôi không uống rượu cũng không ăn thịt cũng cảm thấy rất khó chịu. Chúng ta liễu giải những trạng huấn lịch sử này thì chúng ta hiểu được, việc không ăn thịt chúng sanh, quyết định là chính xác! Vả lại đối với sức khỏe có lợi ích rất lớn.
Hiện nay tại Mỹ có rất nhiều người Mỹ hiện nay đều ăn chay, họ chẳng phải học Phật, họ là vì sức khỏe của thân thể, cho nên ăn chay đối với sức khỏe có lợi ích rất lớn. Vậy chúng ta hiểu rõ đạo lý này cho nên mới áp dụng phương thức sinh hoạt này. Tôi hai mươi sáu tuổi học Phật, học Phật được nửa năm thì tôi ăn trường trai, tôi bèn tiếp thụ cái quan niệm này, cảm thấy việc ăn chay đối với chúng ta đích thật là một cách chọn lựa rất hay. Mối oán thù đời đời kiếp kiếp của chúng sanh, chúng ta từ nay trừ bỏ sạch hết. Chẳng cùng với chúng sanh kết oán nữa. Không những không sát sanh mà càng tích cực phóng sanh, hộ sanh không ăn thịt chúng sanh. Nếu như anh nói là không ăn thịt đối với sức khỏe có trở ngại thì anh xem tôi nay đã bảy mươi rồi đâu có kém hơn quí vị! Tôi hai mươi sáu tuổi học Phật, lúc đó tôi cảm thấy học Phật quá trễ! Thật tại mà nói càng sớm càng tốt. Đây là sở dĩ ý nghĩa của hai câu Kinh Văn này vô cùng sâu xa! nhất định phải rõ lý, phải biết chơn tướng sự thật sự lựa chọn của chúng ta là chính xác.
“Bất tri vi thiện”, chữ “vi thiện” ở chỗ này tức là nói giới sát. “Trường chay” tức là ăn trường chay, đều này là thiện hạnh, chẳng biết hành thiện, “hậu thọ ương phạt”, “hậu” là hậu thế đời sau quả báo ấy thì rất là đáng sợ, Phật ở chỗ này nêu lên vài tỉ dụ rất rõ ràng. “Cố hữu cùng khất”, đây tức là kẻ ăn xin, xin cơm “cùng khất” họ vì sao có thể thọ quả báo này? Vì sát nghiệp của đời trước tạo đó quá nặng. “Cô độc”, phàm là phá hoại gia đình của chúng sanh, không thể không thọ báo ứng này. Những cái chúng ta thường thấy nhất: chim nhỏ cũng có gia đình, anh đi bắt chim này lấy đi trứng trong tổ, anh phá hoại gia đình người ta, anh làm cho gia đình người ta nhà tan người chết, đời sau anh sanh làm người cũng phải có cái báo ứng nhà tan người chết này. Nhân thế nào thì quả báo thế ấy, Quả báo thế nào thì trong đời trước nhất định có nhân duyên, cho nên thành ra cô độc.
“Lung manh, ám ác, si ác”, “si” là ngu si, thế gian chúng ta người thường gọi là Bạch Si. “Uông cuồng”, tức là hiện nay chúng ta gọi là thần kinh thất thường, thời nay trong xã hội này thường gọi là bệnh người già, chứng ngu đần đều là thuộc về loại này, đây đều có quả báo, trong đời quá khứ chúng ta đã tạo các ác nghiệp này, trong đời này quả báo này có thể miễn trừ được chăng? Có thể được. Nếu anh biết đạo lý biết phương pháp hết lòng đi tu học, sức mạnh thiện của anh vượt qua lực lượng của ác nghiệp thì thiện nghiệp được báo trước, còn ác nghiệp này không phải không báo mà ác nghiệp đem đặt ở phía sau, kéo dài ra sau; cái thiện báo trước. Còn tối thiện thì chúng ta sanh đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới rồi, cái ác phía sau đó thì là vĩnh viễn chẳng báo trở lại nữa, đây là phương Pháp bảo đảm nhất, an toàn nhất ra khỏi tam giới. Nếu chẳng ra khỏi tam giới khi nhân duyên tụ hội thì quả báo vẫn chẳng thể tránh miễn được, đó vẫn là một sự việc rắc rối, tức là tránh miễn được nhất thời chẳng thể miễn được lâu dài, điều này phải nên biết. Đây là nói lên vài cái thí dụ.
“Giai nhân tiền thế bất tín đạo đức, bất khẳng vi thiện”, đời trước đối với đạo đức họ chẳng tin, chữ “đạo đức” này nếu nói theo nghĩa rộng là bao gồm luân lý đạo đức luôn cả trong đó. Nói theo nghĩa hẹp tức là chỉ cho ngũ giới thập thiện của Phật nói, ngũ giới thập thiện là đạo đấy, anh tu được cái đạo này thì anh tương lai được thiện quả, đó tức là đức, anh “bất khẳng vi thiện”, anh sở dĩ mới có quả báo này hiện tiền, vậy trở ngược lại mà nói “Kỳ hữu tôn quý”, hiện nay trong xã hội chữ “tôn quý” này là nói có địa vị được đại chúng tôn kính. “Hào phú”, thế gian này của chúng ta như hạng có xí nghiệp phát đại tài, có đại tài phú “hào phú”. “Hiền minh”, người này có trí tuệ thông minh có đức hạnh, bậc trưởng giả có đạo đức đều là hạnh này. Ở Ấn Độ xưng là trưởng giả không những có tuổi (cũng là cao tuổi) còn phải có học vấn, có địa vị, có tài phú đây mới có thể gọi là “ trưởng giả”. “Trí dũng, tài đạt”, bốn chữ này tức là ngày nay chỗ gọi là Văn Tài Võ Lược, “trí dũng” là thuộc về cái này. Ở thế gian này gọi những loại quan võ này. Còn “tài đạt” là văn tài, văn học, những thứ này đều là quả báo tốt, người thế gian chúng ta chỗ ước mơ và mong cầu, quả báo của loại này.
“Giai do túc thế từ hiếu, tu thiện tích đức sở trí”. Nó có nguyên do chẳng phải vô duyên vô cớ mà có thể có được. “Túc thế” là không chỉ có một đời, điều này chúng ta có thể tin, cần phải nên biết quả báo tốt của đời này có lẽ là mấy đời trước tu được. “Tu từ bi tâm, tu hiếu kính tâm”, Phật dạy chúng ta, không chỉ là phải hiếu thuận cha mẹ, trong Đại Thừa Bồ Tát giới Kinh nói với chúng ta, phải đem cái tâm hiếu thuận cha mẹ đẩy rộng ra hiếu thuận tất cả chúng sanh, đây mới là tận hiếu. Cho nên Đại Thừa Phật Pháp là xây dựng trên cơ sở của hiếu đạo, chữ này chúng ta phải đặc biệt coi trọng, nếu như có người nói toàn cả Phật Pháp là nói những gì ? Có thể toàn cả Phật Pháp tức là nói một chữ “Hiếu”, cái đẹp, cái thiện của văn tự Trung Quốc là trên toàn Thế Giới bất cứ một quốc gia dân tộc nào đều chẳng thể sánh nỗi! Văn tự Trung Quốc, văn tự là cái phù hiệu, trong cái phù hiệu này, tràn đầy trí tuệ, khiến người thoạt nhìn họ liền có thể lãnh ngộ, điều này trong văn tự ngoại quốc đều chẳng có, chữ “Hiếu” là thuộc về hội ý. Anh xem! Chữ này phần trên là chữ “Lão”, phần dưới là chữ “Tử”, ý này là nói đời trên cùng đời dưới là một thể, người Tây Phương gọi là có sự ngăn cách của thế hệ. Có sự ngăn cách của thế hệ thì chẳng hiếu, thì hiếu chẳng có. Đời trên vẫn còn đời trên nữa, quá khứ vô thỷ. Đời dưới vẫn còn đời dưới nữa, là vị lai vô chung, triệt thủy triệt chung là một cái chỉnh thể, cái chỉnh thể của một sanh mạng, đây là từ trên dọc mà nói, dọc đã hiểu rồi thì ngang tức là biến Pháp giới đấy. Cho nên cái phù hiệu này đại biểu gì đây? Là đại biểu tận hư không biến Pháp giới là một thể, trong Phật Pháp chúng ta nói đó là gì? Đó là Pháp thân đấy. Pháp thân của mỗi một người thì cái phù hiệu này đã hiển thị ra. Cho nên chữ hiếu này là Pháp thân “mười phương ba đời Phật cộng đồng một Pháp thân” nếu anh nói là tận hiếu, thật chẳng dễ dàng! Người nào mới có thể đem chữ hiếu này làm được viên viên mãn mãn? Là thành Phật thì chữ hiếu này mới được viên mãn, Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn một phẩm “sanh tướng vô minh” Chưa phá thì hiếu đạo kia vẫn còn một phần khiếm khuyết; vẫn Chưa viên mãn. Chữ này quả thật là đại đạo vậy. Cái đại đạo vô cực. Từ đâu bắt đầu làm? Từ hiếu cha mẹ bắt đầu làm, nhiên hậu dần dần mở rộng đến tôn trưởng của anh, thầy của anh lại mở rộng đến thân hữu của anh, lại mở rộng đến tất cả chúng sanh. Lấy đại từ đại bi để thực hiện hiếu đạo, đây là căn bản của đạo đức.
“Tu thiện tích đức”, cái gì là thiện? cái gì là ác? Thế Tôn trong bộ Kinh này chỉ thị cho chúng ta vô cùng tường tận rõ ràng! Chúng ta từ trên cương lĩnh mà nói Tịnh Độ Tông là trong tất cả Tông phái là dễ tu nhất, phương Pháp của nó đơn giản nhất, Kinh Điểnít nhất, rất thích hợp cho người thời đại hiện nay để tu học. Ngoại trừ “Tín, Nguyện, Trì Danh” ra, tín nguyện trì danh là chánh tín, chúng ta trước khi Chưa đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới vẫn còn ở nhân gian này, chúng ta không thể rời khỏi xã hội, không thể rời khỏi quần chúng, chúng ta người niệm Phật phải nên cùng đại chúng chung sống như thế nào Phật dạy cho chúng ta vài cái nguyên tắc, những nguyên tắt này thì gọi là trợ hạnh, “chánh trợ song tu” như đôi cánh của chim, hai bánh của cái xe, như vậy mới có thể đạt đến nguyện vọng của chúng ta. Trong cách trợ tu quan trọng nhất là trong Quán Kinh gọi là tam phước. Tam phước, câu thứ nhất hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp, anh xem! tiêu chuẩn này, chẳng phải vì chúng ta nói rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch rồi sao!? Chúng ta phải tin, phải liễu giải, phải hết lòng đi làm, cho nên tam phước thành tựu cơ sở tu hành của chính mình. Cùng đoàn thể chung sống, đặc biệt là tăng đoàn, mọi người khi qui y đã từng niệm qua: “quy y tăng, chúng trung tôn” anh biết niệm, câu này ý nghĩa gì thì nhất định phải biết. “Chúng” tức là chúng ta gọi là đoàn thể. Tăng Đoàn là thế xuất thế gian trong tất cả đoàn thể tôn quí nhất, là đoàn thể đáng được người tôn kính nhất, tại vì sao? Bởi vì nó tu Lục Hòa, tu Lục Hòa Kính tức là Thế Tôn dạy cho chúng ta làm sao cùng với đoàn thể đại chúng chung sống, đây là giới điều trọng yếu. Sáu điều này là:
“Kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa đồng trụ, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt, lợi hòa đồng quân”,
Cái này không thể giảng kỹ, đây là chúng ta nhập chúng. Một cái đoàn thể có thể làm được sáu điều này thì đại chúng đều có thể tuân thủ, đoàn thể này là có Chư Phật Bồ Tát hộ niệm, Long Thiên ủng hộ.
Khoa mục thứ ba là tam học, “giới học, định học, tuệ học”, khoa mục thứ tư là Lục Độ, khoa mục thứ năm là Phổ Hiền Thập Nguyện. Chúng ta trong sinh hoạt ngày thường, cùng đại chúng chung sống, xử thế đối người tiếp vật phải tuân thủ năm khoa mục này, đây tức là tu thiện tích đức, phải thật sự làm, Thế Tôn ở chỗ này đem những nhân quả này đều vì chúng ta khai thị ra một cách rõ ràng.
“Thế gian hữu thử, mục tiền hiện sự. Thọ chung chi hậu, nhập kỳ u minh, chuyển sinh thọ thân, cải hình dị đạo, cố hữu Nê lê, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi thuộc.
“Thế gian hữu thử, mục tiền hiện sự”, đây là chúng ta mắt chỗ thấy, tai chỗ nghe, thân chỗ tiếp xúc những sự việc của nhân duyên quả báo này chỉ cần chúng ta bình tỉnh lưu ý, đi quan sát chẳng cần phải nói thêm nhiều nữa, rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch, người tạo tác ác nhân, người tạo tác ác duyên sau khi thọ chung họ đọa tam đồ, “nhập kỳ u minh”, “u minh” là rộng chỉ cho tam đồ.
“Chuyển sinh thọ thân, cải hình dịch đạo”, sau khi đã mất đi thân người thì xem trong đời này cái hành nghiệp chỗ tạo tác đó hành vi của chúng ta cái nghiệp mà cả thảy tạo đó, nếu là thiện nghiệp đương nhiên là tam thiện đạo thọ thân, nếu là ác nghiệp thì là tam ác đạo đi thọ báo, “chuyển sinh thọ thân”, cái thân thọ đó có khác, “cải hình dịch đạo”, trong lục đạo đổi mất, tức là người tạo ác nghiệp đọa súc sanh (từ nhân đạo đọa đến súc sanh đạo) thay đường đổi đường, thân người đổi thành thân súc sanh đây là đã đổi hình, hình dáng khác nhau. Sự việc này thế gian chúng ta đây thường có. Mấy năm trước, (kể lại sự việc này có lẽ là có đến hai mươi năm rồi) có lẽ có đến hai mươi năm trước tại Cao Hùng ở Đài Loan xẩy ra một chuyện thật lạ lùng, Tiểu Cảng ở Cao Hùng là một thị trấn nhỏ, có cái miễu nhỏ, trong miễu nhỏ có nuôi một con chó, chú chó này đối với ngôi miễu này rất hộ trì, công khóa sáng tối nó đều tham gia, nhưng lạ lùng thay, vừa mới làm lễ Tam Quy thì nó bỏ đi mất, đây là giống cái gì? Giống như lão Hòa Thượng thái độ cao ngạo rất lớn. Về sau người ta phát hiện chú chó này rất lạ lùng! Có một vị Pháp Sư nói Pháp với nó, biết được có lẽ trong miếu này trước kia vị lão hòa thượng ấy chết rồi đầu thai, tức là nó, bèn nói với nó rằng: “ngươi bây giờ chẳng phải trụ trì nữa rồi ngươi là súc sanh, công khóa sáng tối phải làm xong mới được đi, không thể lúc làm lễ tam qui rồi bỏ đi nhé!” Nó quả nhiên nghe lời. Từ đó về sau trong khóa sáng tối nó đều làm xong. Sau cùng đi một mình, nhưng chỉ hai ba tháng sau thì nó chết, cho nên linh tánh của nó vẫn còn đó, tức là đời quá khứ của một lão Hòa Thượng của ngôi miếu này, quả thật là “chuyển sinh thọ thân, cải hình dịch đạo”, may thay thiện căn của nó vẫn Chưa hoàn toàn diệt mất, vẫn có thể nghe Pháp Sư khai thị, vẫn có thể tiếp tục đi niệm Phật, điều này vẫn chẳng tệ. Tôi nghĩ thân chó của nó, sau khi rời khỏi rồi có thể sẽ có quả báo càng tốt hơn. Tuy nhiên nếu lại vừa mê thì là rất khổ. “Cố hữu Nê lê”, tức là địa ngục, có địa ngục cầm thú, “quyên phi nhuyễn động”, là súc sanh, đây tức là có ngạ quỷ, địa ngục súc sanh, những thứ báo ứng này.
Phía dưới là tỉ dụ, “Tỉ như thế Pháp lao ngục, kịch khổ cực hình”, đây là tỉ như anh tạo tác tội nghiệp anh nhất định phải tiếp thọ sự chế tài của Pháp luật, tam ác đạo này thì giống như lao ngục của thế gian vậy. Anh tạo tác những tội nghiệp này anh phải nên đi thọ lãnh quả báo này, cực khổ cực hình, hình phạt rất nhiều, rất là tàn khốc, vô cùng đau khổ. “Hồn thần mạng tinh, tùy tội thú hướng. Sở thọ thọ mạng, hoặc trường hoặc đoản”, đương nhiên anh đi đầu thai, chẳng phải cái thân này đi đầu thai, tục ngữ chúng ta có câu là “linh hồn ấy đi đầu thai”, trong Phật môn chúng ta gọi đó là “thần thức”, người thế gian gọi là linh hồn, điều này đều là sai lầm, quan niệm sai lầm, cái “hồn” đó quyết định chẳng “linh”, nếu là linh thì chúng sao có thể biến thành súc sanh, biến thành ngạ quỷ? Chúng không linh cho nên cái hồn đó rất mê hoặc điên đảo, gọi là mê hồn mới đúng, mê hồn điên đảo đó mà. Chúng chẳng biết chọn lựa. Khổng Lão Phu Tử của Trung Quốc, anh xem! đây là người của hai ngàn năm trăm năm về trước, Ngài trong Kinh dịch có nói (cũng rất có đạo lý) Ngài gọi là “Du Hồn” cách nói này cùng với Phật Pháp vô cùng kề cận. Bởi vì cái hồn này có tốc độ rất lớn, nó chạy lung tung, đích thật là du hồn trong đại ý nói “du hồn nguy biến, tinh khí di vật” cùng với trong Kinh Điển giải thích của nhà Phật về chân tướng của vũ trụ nhân sinh vô cùng kề cận! rất gần! Vậy nó đi đầu thai “tùy tội thú hướng” tùy theo tội nghiệp của nó đến một đạo nào đi đầu thai, thọ mạng chỗ thọ đó dài ngắn khác nhau, tỉ như trong súc sanh có những súc sanh thọ mạng rất dài, có những súc sanh thọ mạng rất ngắn, chúng ta thấy loại phù du trên mặt nước “sáng sanh tối chết” thọ mạng của nó chỉ có mấy tiếng đồng hồ, nhưng cũng có loại thọ mạng rất dài như trong đạo ngạ quỷ trong địa ngục cũng khác nhau: trong địa ngục có căn bản địa ngục có “vô gián địa ngục” đó thì là thọ mạng dài, đó thì quá dài quá dài! dài đến quá kinh khiếp! Tuy nhiên, vẫn còn những thứ “du tăng địa ngục”, “biên địa trên địa ngục” cái tiểu địa ngục này thì thọ mạng đó không dài lắm, không dài lắm! đây là tùy tội nghiệp nặng nhẹ của họ mà thọ báo của họ chẳng tương đương “tương tùng cộng sanh, cánh tương báo thưởng”, đây là nói tất cả chúng sanh; một cái là mạng, một cái là nợ, hỗ tương báo đền, quả là chẳng dứt chẳng liễu. Đây là một việc thật đáng sợ! Cho nên chúng ta chẳng có học Phật thì chẳng rõ đạo lý này, chẳng biết chân tướng sự thật. Ngày nay minh bạch rồi, rõ ràng rồi, những gì chúng ta thiếu của người nhất định phải đền trả, những gì người ta thiếu mình, chẳng cần nữa, từ trên tâm đoạn dứt, chẳng cần nữa, giản tiện. Đòi qua đòi lại rất là khổ não, chẳng dứt chẳng liễu. Chúng ta hi vọng trong một đời này đem nó cả thảy đều thanh toán dứt điểm nó, nhiên hậu mới dễ đi đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, nhẹ nhàng thoải mái mà đi Vãng Sanh, chẳng có tơ hào Chướng ngại, vậy thì là đúng.
“Ương ác vị tận, chung bất đắc ly, triển chuyển kỳ trung, lụy kiếp nan xuất, nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn”, “Ương” là mối họa ương của anh, cái ác nghiệp của anh tạo tác anh Chưa báo hết, anh còn thiếu cái nợ mạng Chưa trả xong, anh làm sao có thể thoát ly lục đạo? Anh ngỡ rằng những oan gia trái chủ gây rắc rối cho anh, người tu hành cũng chẳng được. Chẳng biết ở đây quí vị có bái Tam Muội Thủy Sám hay không? Nếu anh có bái Tam Muội Thủy Sám, anh xem! Ngộ Đạt Quốc Sư kia, mười đời cao tăng, vẫn có oan gia trái chủ chờ đợi trước mặt ông. Ngày nào đó anh phá giới, ngày nào đó anh tạo ác nghiệp thì lập tức báo phục ngay trên thân anh, anh mới biết được việc này là đáng sợ. Ngộ Đạt Quốc Sư, thật tế mà nói chẳng có cái duyên phần tốt như chúng ta, chẳng có gặp được Pháp môn Tịnh Độ, gặp được Pháp môn Tịnh Độ này chẳng phải sớm đã Vãng Sanh rồi sao? Oan gia trái chủ chẳng tìm đến trên thân của ông ta, ông ta Chưa thể Vãng Sanh, cho nên oan gia trái chủ vẫn cứ ở mãi bên mình, kiên tâm để chờ đợi, chờ đến khi đạo tâm ông vừa thối thì rắc rối liền đến, trường hợp này còn kể như là tu hành gặp được Tôn Giả Ca Nặc Ca giúp ông điều giải, Tam Muội Thủy Sám là do nhân duyên như vậy mà có. Cho nên nói, “ương ác vị tận, chung bất đắc ly”, muốn thoát ly lục đạo luân hồi, đích thật chẳng phải là việc dễ dàng, “triển chuyển kỳ trung”, “triển chuyển” tức là tạo luân hồi, ở trong lục đạo luân hồi, lũy kiếp nan xuất, thời gian này là lấy kiếp để tính, lũy kiếp, vô lượng kiếp. Vô lượng kiếp đến nay, chúng ta đều chẳng có cách chi ra khỏi, tu hành muốn ra khỏi tam giới, ít nhất phải đoạn kiến tư phiền não. Kiến tư phiền não chẳng đoạn thì ra chẳng khỏi tam giới, đoạn kiến tư phiền não, khó đấy, khó được giải thoát. Tứ quả A La Hán, mới chỉ ra khỏi tam giới. Cho nên ở trong lục đạo luân hồi, là “thống bất khả ngôn”. Ở trong đó thì là quá khổ quá khổ!
“Thiên địa chi gian, tự nhiên hữu thị, tuy bất tức thời bạo ứng, thiện ác hội đương quy chi”, Mấy câu nói này đơn giản mà nói tức là “nhơn quả bất hư, tất thọ kì báo” sự việc này chẳng phải có người đang chủ tể, chẳng phải Vua Diêm La đang chủ tể, cũng chẳng phải Thượng đế đang chủ tể, Phật Bồ Tát càng chẳng đếm xỉa những việc này, nhân duyên quả báo là hiện tượng tự tự nhiên nhiên, tỉ dụ nói người làm việc xấu, đã làm một việc xấu, tự mình cảm thấy tâm bất an, ban đêm có thể nằm thấy ác mộng. Vậy ban đêm nằm mộng là ai bảo anh nằm mộng đấy? Ai đang ở đó làm chủ tể, bảo anh đi nằm thấy ác mộng, chẳng có ai chủ tể cả, “tự nhiên hữu thị”, cho nên ban ngày có chỗ nghĩ, ban đêm có chỗ mộng, “tự nhiên hữu thị”, chẳng có thần minh, quỷ thần nào làm chủ tể cho anh. Vậy thì hiện tượng lục đạo luân hồi này cũng là như vậy. Vua Diêm La, Tiểu Quỷ là người chấp Pháp, giống như thế gian chúng ta: cảnh sát, quan tòa như để phán tội, anh không phạm Pháp thì họ chẳng dám bắt anh, khi anh phạm Pháp thì họ mới chấp Pháp, họ mới đến chấp hành, Vua Diêm La và Tiểu Quỷ, đó là kẻ chấp Pháp trong đạo ngạ quỷ mà thôi, anh chẳng phạm Pháp thì họ đối với anh chẳng làm gì được, họ cũng chẳng dám tùy tiện trêu chọc anh, trêu chọc anh thì họ phạm Pháp, cho nên phải biết đây là định luật tự nhiên.
“Tuy bất tức thời báo ứng”, quả báo trong ba đời, có hiện thế báo, có lai thế báo, có hậu thế báo. Hậu thế không nhất định thời gian dài ngắn, cho nên tạo tác ác nghiệp, cho dù chúng ta hiện tiền chẳng thấy được báo ứng, phải biết “thiện ác hội đương quy chi” tức là khi nhân duyên tụ hội thì quả báo nhất định hiện tiền. Đây là đoạn thứ nhất Thế Tôn vì chúng ta nói về quả báo của việc sát sanh chúng ta phải biết, phải hiểu rõ, đây mới thật sự đề cao tâm cảnh giác. Chẳng những không sát sanh mà từ này về sau, chúng ta quyết định không ăn thịt chúng sanh, nhất tâm nhất ý cầu sanh Tịnh Độ. Trong đời quá khứ thiếu món nợ mạng với chúng sanh, trong một đời này thiếu món nợ mạng với chúng sanh, tính đến không hết, trả không hết. Những oan gia trái chủ này lẽ nào họ chịu tha cho anh sao? Đâu có đơn giản như vậy. Cho nên chúng ta người niệm Phật mỗi ngày tại sao phải tụng Kinh phải niệm Phật, tại sao hết lòng để tu hành, còn phải hết lòng để hồi hướng, trong kệ hồi hướng “thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” đem công đức chính mình tu tập đó cùng họ cộng hưởng đây tức là báo đáp họ, hi vọng họ có thể tiếp thọ, đừng đến gây rắc rối nữa, tôi thành Phật đối với quí vị đều có lợi ích. Trước kia. sai rồi! là chúng tôi ngu si, ngu muội, vô tri mà tạo ra ác nghiệp, đây tức là phương Pháp điều giải. Nếu anh chẳng phải hết lòng tu hành, họ vừa nhìn thấy anh là giả, anh chẳng phải thật tu hành, họ quyết định chẳng chịu tha cho anh đâu. Nhìn thấy anh tu hành, họ bội phục anh, họ cũng nở mặt, khi anh thành tựu họ nở mặt. Cho nên anh phải thật tu, những oan gia trái chủ này sẽ chẳng tìm đến anh, nếu tu giả vẫn là không tránh miễn được. Lại xem đoạn thứ hai, đoạn thứ hai này là nói về ác nghiệp của sự thông đạo “Ác Đạo Ác Báo”.
“Kỳ nhị giả, thế gian nhân dân, bất thuận Pháp độ”, “Pháp” là Pháp luật, “độ” là chế độ, trái với Pháp luật, trái với chế độ, đây gọi là “bất thuận Pháp độ, xa dâm kiêu túng, nhậm tâm tự tứ”. Cái này là nói theo cái ngu si, tham sân si mạn của họ, mặc tình tạo tác tội nghiệp mưu đồ cái vui nhất thời, tạo tác những tội nghiệp này. “Cư thượng bất minh, tại vị bất chánh”, đây là nói những người có quyền lực, có địa vị. Đây tức là trong xã hội thời nay, chúng ta gọi là tham tàng ngũ Pháp, tức là lạm dụng luật Pháp để hối lộ, bất minh, tức là không phân biệt thị phi không thể minh sát sự lý. “Tại vị bất chánh”, lấy được quyền lực địa vị của họ, để tác oai tác phước, là loại người này. “Hãm nhân oan uổng”, vì tự tư tự lợi mà hại kẻ khác, “tổn hại trung lương”, Tại vì sao? những bậc chánh nhân quân tử này chắc chắn đối với chúng bất lợi, đối với chúng có phương hại, chúng cần phải vì muốn thực hiện tư dục của riêng chúng, phàm là cùng chúng có Chướng ngại chúng thảy đều đem nó nhổ trừ hết, cho nên là lợi dục huân tâm đấy. “Tổn hại trung lương”. Trong lịch sử Trung Quốc chúng ta có một cái gương rõ rệt, đó là Tống Cao Tông giết chết Nhạc Phi, Nhạc Phi có tội gì? Tống Cao Tông có biết ông ta là trung không? Thừa biết. Biết trung nhưng tại sao phải giết ông ta? Đạo lý là nói: Nhạc Phi nếu như còn tiếp tục không ngừng, sau khi đem người Kim đánh bại, đem Vi Khâm hai vị hoàng đế đón về, vua Tống Cao Tông lòng thoạt nghĩ: “Vi Tông là cha ông ta, đương nhiên là thoái vị rồi”. Lúc đó hoàng đế là Khâm Tông, Khâm Tông là anh ông ta, anh ông ta trở về rồi, ông ta muốn làm vua, liệu ông anh có nhường ngôi hay không? Ông ta vừa chợt nghĩ “Ồ! vẫn là chẳng cần hai người này tốt hơn, ta tự làm hoàng đế” Còn Nhạc Phi? Ngu si đấy! Ông nhất định đi đánh lính Kim, đem hai vị hoàng đế rước về, đó là cái gai trong mắt Tống Cao Tông, ông ta sao chẳng giết hắn chứ!? Cho nên Nhạc Phi rất ngu si đấy. Nếu thông minh, Nhạc Phi nếu hiểu được tâm lý của Tống Cao Tông thì tốt nhất là về hưu, phải không? Rút về hưu thì là vô sự, cho nên đây là Ngu Trung. Tần Cối làm thừa tướng, sau khi hai vị vua Vi Khâm trở về, chức thừa tướng nhất định phải nhường cho Nhạc Phi, chức hoàng đế của Tống Cao Tông phải nhường cho Khâm Tông. Hai người này sao có thể cam tâm tình nguyện được chứ!? Thôi được giết quách nó đi! Trung cũng chẳng thể được, trung cũng đem nó giết quách. Vì quyền lợi dục vọng của mình “Tổn hại trung lương”, sự việc là như vậy, quá nhiều quá nhiều! Cổ Kim Trung Ngoại. Chư vị nếu đầu óc hơi định tỉnh một tí, thì có thể nhìn thấy rất rõ ràng minh bạch. “Tâm khẩu các dị”, trong tâm nghĩ tưởng đó cùng lời trong miệng thốt ra khác nhau. “Cơ ngụy đa đoan”, “Cơ” là nói “cơ trá” cái tâm tự lừa, lừa người. “Ngụy” là hư ngụy. “Tôn ty trung ngoại, cánh tương khi cường”, “tôn” là đối với trưởng bối của mình. Đối với thuộc hạ của mình đều chẳng nói lời thật thà, đều là dùng thủ đoạn, gạt gẫm.
“Sân khuể ngu si, dục tự hậu kỷ, dục tham đa hữu, lợi hại thắng phụ, kết phẫn thành thù, phá gia vong thân, bất cố tiền hậu”. những thứ này đều thuộc về đạo tâm, như tôi khi nãy vừa nói, Tống Cao Tông đây là đạo tâm, đoạt lấy ngôi vua của anh mình. Chữ “đạo” này, bất luận anh dùng thủ đoạn gì, chẳng phải đồ của người ta tình nguyện cho anh, anh lấy nó đều gọi là đạo, tức là trộm đạo, Tống Phi Tông vẫn chẳng có truyền ngôi cho Cao Tông khi anh đã làm Hoàng Đế, cự kiệt hắn, chẳng để hắn về nước, đây là đạo tâm đấy. Cho nên Chư vị từ trong thí dụ này thì anh có thể hiểu rõ phạm vi của chữ “đạo” này vô cùng rộng lớn! Phật nói trong Kinh điển giải thích ý nghĩa của chữ đạo là “bất giữ thủ”, vật ấy có chủ, họ Chưa bằng lòng cho anh thì anh lấy về, bất luận dùng thủ đoạn gì, phía trước có nói là, “Cư thượng bất minh, tại vị bất chánh”, tại địa vị này họ có quyền lực, ngày nay muốn nhờ vào họ làm một việc gì, họ cần hối lộ thì anh cam tâm tình nguyện đem tiền tặng cho họ, trên thực tế nào phải cam tâm tình nguyện đâu, bất đắc dĩ mà cho họ đấy! cũng là trộm lấy, cái đó cũng gọi là đạo, tại vì sao? Vì người ta không cam tâm tình nguyện cúng dường cho anh, là anh lấy quyền thế bức bách họ, họ không thể không tặng lễ vật cho anh, cách này đều là đạo tâm, đây đều là đã phạm cái gọi là đạo ác đấy.
“Sân khuể ngu si, dục tự hậu kỷ”, hy vọng tự mình có được lợi ích phong hậu “dục tham đa hữu” đối với thế gian này “danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần” tham mà không chán. “Lợi hại thắng phụ”, đây là nói họ chỗ có được, có lợi, có hại, có thắng có thua, trước mắt là anh có lợi đấy, có thắng. Tuy nhiên oán thù kết sâu rồi thì quả bảo chẳng thể tránh miễn, kết “phẫn” thành “thù”, đến lúc quả báo hiện tiền, phá gia vong thân, đây gọi là Hiện Thế Báo, những sự việc này trước mắt đều có. Trong lúc họ đắc chí, chẳng thể một đời. Khi có quyền có thế, đến lúc họ rớt xuống đài rồi, những người trước kia, đắc tội với họ, đều đến để gây rắc rối, đều muốn đến để trả thù. Lịch sử là một tấm gương, chúng ta trong lịch sử thấy được, những nhân vật uy thế cực thịnh một thời, có mấy ai có thể truyền được ba đời? Phần nhiều đến lúc tuổi về chiều chẳng đảm bảo, một đời đều chẳng đảm bảo, con cháu càng chẳng cần nói nữa, quá nhiều, quá nhiều! Chẳng biết tu thiện tích đức, tự mình lúc còn đương quyền (có quyền có thế) vào lúc này người có trí tuệ, người thông minh thì là đại tu thiện đức, thì quả báo của họ sẽ thù thắng, nếu tác oai tác thế, lấy cái này để khinh khi hiếp đáp kẻ khác, vậy thì tội ác ghê gớm lắm! Đến cuối cùng thì là, “phá gia vong thân, bất cố tiền hậu”, chữ “tiền hậu” này tức là nói nhân quả, “tiền nhân hậu quả” đấy. Anh tạo nhân gì thì theo sau đó quả báo, quả báo đó đang chờ đợi anh. Quả báo này là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đang chờ anh.
“Phú hữu khan tích, bất khẳng thí dử”, “Phú hữu” thật tại mà nói là quả báo của đời trước tu bố thí, tại sao họ có được quả báo tốt lành này lại chẳng chịu tu nhân nữa? Là vì ngu si. Lời Phật nói: tu phước không tu tuệ, có được đại phú, họ ngu si, chẳng biết tiếp tục tu thiện nữa, thì cái phước báo ấy đời nay sẽ hưởng hết, một đời hưởng hết. Họ một đời tạo đó là ác nghiệp, ác nghiệp thành thục rồi, lại phải đọa lạc trở xuống, nhà Phật gọi là “Tam Thế Oán” đời thứ nhất tu phước, đời thứ hai hưởng phước, hưởng phước tạo nghiệp, phước hưởng hết rồi, ác nghiệp thành rồi, đời thứ ba đọa lạc, Tam Thế Oán, oan uổng đấy! Nếu như thật sự hiểu rõ rồi, thật sự biết được những chân tướng sự thật này rồi, ta trong đời này giàu có, hy vọng đời đời đều giàu có, thì anh cứ bố thí tài đi, tài bố thí thì được tài phú; tài thí là tu nhân, được tài phú là quả báo. Ngày nay trong nhóm đồng tu chúng ta, cũng có nhiều người rất giàu có, tôi đều nói với họ “anh cứ tưởng rằng anh có tài cán, anh kiếm được tiền. Sai rồi! Những người tài cán hơn anh khá nhiều, những người có cơ hội tốt hơn anh cũng khá nhiều, tại sao những người đó chẳng phát tài, mà chỉ mình anh phát tài? Là nhờ anh đời trước tu đó, anh đời trước tu bố thí tài, anh đời này được số tài phú này, là có nhất định. Anh trước kia tu được nhiều, thì đời này có được nhiều. Trước kia tu được ít thì đời này có được ít. Trước kia khi bố thí hoan hoan hỉ hỉ, khoái khoái lạc lạc, thì đời này anh kiếm được tiền cũng kiếm được một cách hoan hỉ khoái lạc, một tí cũng chẳng nhọc tâm. Quá khứ bố thí, bố thí rất khó khăn, như cắt thịt mình vậy, Ôi chao! đời này anh buôn bán để kiếm tiền, kiếm được tiền đó rất cực khổ” “nhân duyên quả báo tơ hào chẳng sai”, tức là sự việc như thế đó mà thôi, điều này phải biết. Pháp bố thí là nhân, thông minh trí tuệ là quả, chúng ta muốn có được thông minh trí tuệ, phải tu Pháp bố thí. Khỏe mạnh sống lâu là quả báo phải tu vô úy bố thí. Chư vị biết được, trì giới tức là vô úy bố thí, ví như nói anh giữ cái giới không sát sanh, những loại động vật nhìn thấy anh không sợ hãi, vì sao thế? Vì anh chẳng làm hại chúng, chúng nó không sợ, chúng nó không khủng bố, không sợ hãi. Anh giữ cái giới không trộm cắp thì tiền bạc của họ để sờ sờ trước mắt: “người này giữ giới không trộm cắp, chẳng sao cả, họ sẽ chẳng trộm của tôi” Họ chẳng có cái tâm sợ hải lìa xa khủng bố. Cho nên vô úy bố thí, được khỏe mạnh sống lâu, quả báo thế nào thì có cái nhân thế đó. Cho nên “khang lận” là xã chẳng được, để giúp đỡ kẻ khác, chẳng chịu bố thí ban cho, đây là quả báo của sự bần cùng ở đời sau.
“Ái bảo tham trọng, tâm lao thân khổ”, chữ “ái” này là tham ái, tham ái vàng bạc của cải của thế gian, tâm tham rất nặng, họ đều muốn có thể bảo trì giữ lấy, kỳ thật cái chi cũng chẳng được cả, đều là ngu si, đều là ở đó nổi dậy vọng tưởng. Người thế gian thường nói “sanh chẳng mang đến, chết chẳng mang đi” họ vẫn Chưa chết, cho nên họ vẫn muốn bảo trì, kỳ thật mỗi người chúng ta mỗi đêm đều phải chết một lần, lúc anh ngủ, thật tại mà nói, thân thể của anh bị người ta khiêng đi anh đều chẳng hay biết, huống chi là vàng bạc của cải ư? Anh thử nghĩ xem khi anh ngủ đang nằm mơ, cái nào là của anh? Chẳng có một thứ nào là của anh cả. Phải giác ngộ, phải thật sự biết tu thiện tích đức. Vật của thế gian này chẳng có một thứ nào có thể được cả gồm cả cái thân thể của chính anh, đều chẳng thể được cả. Thân thể nếu như có thể được, vậy anh có muốn già không? anh có muốn bệnh không? Người người đều muốn năm năm đều là mười tám cả, tuổi thanh xuân giữ không nỗi tức là thân thể chẳng thể có được, chẳng có một thứ nào có thể có được, thân thể đều chẳng thể có được, huống chi là vật ngoại thân ư!? Cho nên nhất định phải nhìn lạc quang, phải nhìn thấu, thật sự có thể buông xuống rồi thì người này được đại tự tại, đó thật là hạnh phúc khoái lạc đấy. Cho nên việc buông xuống là phải nên, phải nên buông xuống. Vì sao? Là vì chẳng thể được, chẳng thể được thì tại sao chẳng buông xuống? Quả nhiên đã được rồi, nếu anh chẳng buông xuống thì Phật cũng gật đầu, Phật cũng tán thán, chính vì bởi lẽ anh nghĩ thế mấy cũng đều là không, đều chẳng thể được, một trường trống không. Cho nên Phật dạy chúng ta buông xuống là tuyệt đối chính xác, vì lý do gì bảo chúng ta buông xuống? Tức là bởi vì anh vốn chẳng thể có được, cho nên kẻ ngu si kẻ mê hoặc kia thật là đáng thương, tâm lao thân khổ, họ ngu si, chẳng được chi cả mà họ nằng nằng muốn được thì đây là khổ, thân tâm đều khổ cả.
“Như thị chí cánh, vô nhất tùy giả”, đây là đến sau cùng một hơi thở không hít vào nữa thì chẳng có một thứ nào mang theo được, tức là chết, chẳng mang theo đấy, “Thiện ác họa phước, truy mạng sở sanh”, có một thứ có thể mang đi, đó tức là nghiệp lực thiện ác đi theo anh, anh trong đời này hành thiện thì phước sẽ theo sau anh, anh có phước báo. Anh trong đời này làm ác thì tai họa theo anh, anh tránh chẳng khỏi phải thọ khổ thọ nạn; thiện ác, họa phước. “Truy mạng sở sanh”, bất luận anh đến đạo nào nó sẽ đi theo anh, “hoặc tại lạc xứ, hoặc nhập khổ độc”, nếu như là thiện, là phước đó là tốt thì anh sẽ sanh nơi lạc xứ, anh hưởng phước, nếu như anh là tạo tác ác nghiệp (ác nghiệp đa đoan). Vậy tương lai anh vào tam ác đạo mà đi thọ khổ.
“Hựu hoặc kiến thiện tăng báng, bất tư mộ cập. Thường hoài đạo tâm, hy vọng tha lợi, dụng tự cung cấp, tiêu tán phục thủ”. Đến đoạn này đây là đem đạo tâm, hành vi của đạo, tức là tâm và hành vi trộm đạo hiển thị ra vô cùng rõ ràng, nhìn thấy kẻ khác thiện, kẻ khác có thiện hạnh, thiện sự, thiện phước… họ nhìn thấy khó chịu trong lòng, đố kỵ, thành thù hận, muốn tìm cách phá hoại nó, muốn đem lợi ích của nó đem về làm của mình, chiếm làm của mình, đây là đạo tâm. Thấy thiện ghét, hận, phỉ báng, đây là tạo nghiệp rồi. “Bất tư mộ cập”, họ chẳng biết, chẳng hiểu được, gặp người thiện, việc thiện phải nên hân hoan ngưỡng mộ, phải nên biết tùy hỉ “hành nhơn chi thiện”, thấy người ta thiện, thấy người ta có chỗ hay chúng ta nhìn thấy thì lòng sanh hoan hỉ tâm đây tức là tu phước, đây tức là tích đức, nếu như sau khi nhìn thấy thì sanh đố kỵ, có sân giận còn muốn tìm cách đi phá hoại thì tội nghiệp này tạo rất nặng, họ chẳng biết “mộ cập”, chẳng biết tu tùy hỉ công đức. “Thường hoài đạo tâm”, trong mỗi niệm đều có ý niệm của trộm đạo, “hy vọng tha lợi, dụng tự cung cấp”, đây tức là muốn tìm phương cách đoạt lấy lợi ích của người khác có được. Chúng tôi ở phía trước có nói đến Tống Cao Tông là làm cách này. Tống Cao Tông cùng Tần Cối đem công lao lợi ích lúc bấy giờ của Nhạc Phi chiếm làm của riêng mình. “Tiêu tán phục thủ”. Dùng hết rồi, hưởng hết rồi thì làm lại, lại đi đoạt lấy của của kẻ khác, tội nghiệp này tạo rất nặng vậy.
“Thần minh khắc thức, chung nhập ác đạo, tự hữu Tam đồ, vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung, lụy kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn”. Họ chẳng có nghĩ đến, quả báo theo sau thật quá đáng sợ! “Thần minh khắc thức”, chữ “thức” này đọc là sự, chữ thức này là nghĩa ghi chép, tức là có trời đất quỷ thần, anh đang tạo tội nghiệp thì trên sổ sanh tử của họ đều ghi vào cả, là ý nghĩa này, chỗ gọi là “bên cạnh vua Diêm Vương có vị phán quan”, tức là ghi chép sự thiện ác của một đời người, Thần minh chỗ này tức là những vị phán quan họ ghi chép tất cả, một việc cũng chẳng sót, vậy đây là từ trên sự mà nói, nếu như từ trên lý mà nói thì sao? Trong lương tâm của anh chẳng có cách chi tiêu diệt cái tội nghiệp này, đây là từ trên lý mà nói, “chung nhập ác đạo”, kết quả của anh quyết định đọa Tam ác đạo, “Tự hữu Tam đồ”, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, cứ xem tội nghiệp anh tạo đó là nhẹ hay là nặng, tương lai anh phải đến đạo nào để đi thọ tội? Điều này chúng ta phải cảnh giác, phải thật sự bừng tỉnh. Tại thế gian này, cho dù chúng ta đang hưởng phước, hưởng được mấy ngày? Của cải bất nghĩa không nên có được, mà chúng ta dùng thủ đoạn không chính đáng đi đoạt lấy cho dù hưởng thụ được một trăm năm đi, người sống đến một trăm tuổi không nhiều, anh phải đọa lạc đến tam đồ, quả báo đó thật là ngàn ngàn tuổi, vạn vạn tuổi đấy nhé! Thật tại không đáng như vậy. Thật tại không đáng như vậy tại sao chẳng chịu cắn chặt răng mình sống cho qua ngày tháng, cực nhọc vài năm, tương lai Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới được vô lượng thọ, khoái lạc không chi sánh bằng! hà tất phải tạo tội nghiệp này, đây là Thế Tôn tại trong Kinh này nhiều lần bảo chúng ta, phải “thâm tư phải thục kế”, phải suy nghĩ cho đàng hoàng, phải tính toán đàng hoàng kỹ lưỡng, đây quả là “được” chẳng đủ bù chỗ “mất”, quyết định chẳng thể làm, lợi ích quá ít oi, nhưng hậu quả quá khổ quá khổ! Đây là nói về cái ác của sự thâu đạo, nhân quả báo ứng đều vì chúng ta nói ra hết. Đoạn thứ ba là nói về cái ác của dâm dục.
“Kỳ tam giả, thế gian nhân dân, tương nhân ký sanh, thọ mạng kỷ hà”, đây là Thế Tôn vừa mở đầu liền đem chơn tướng của thế nhân vì chúng ta nói ra rồi, “thế gian nhân dân, tương nhân ký sanh”, chữ “tương nhân” là hỗ tương nương tựa nhau, con người đích thật chẳng thể độc lập sinh tồn tại thế gian này, anh xem ba bữa ăn của chúng ta, có bao nhiêu người ở đó Kinh doanh, cung cấp cho chúng ta? Anh nông phu canh tác chúng ta mới có lúa thóc, trồng rau cải chúng ta mới có cải này để ăn, những thứ dầu, muối, tương, giấm, bột ngọt… bao nhiêu công nhân công xưởng đang làm việc? Còn quần áo chúng ta mặc, bất luận là gòn, bất luận là tơ, bất luận là thành phần hóa học hiện đại, bao nhiêu công nhân đang ở đó đổ mồ hôi? Phật hiểu rõ ràng minh bạch, chúng ta sống trong thế gian này, bao nhiêu người đối với chúng ta có ân đức, chúng ta làm cách nào để báo đáp họ? “tương nhân ký sanh”, hỗ tương chi viện đấy mà, thiếu một ngành nghề nào đều chẳng được, điều này thì giống như là tự nhiên sanh thái, thiếu đi một ngành nghề nào thì chẳng được, “thọ mạng kỷ hà”, chúng ta ở tại thế gian này có thể sống được mấy năm? Thật tại là chúng ta cùng Vua Diêm La đâu có ký kế ước gì! Một hơi thở không còn nữa thì một đời qua rồi. Phật trong Kinh nói với chúng ta “mạng người ở giữa sự hô hấp” đây đều là nói lời thật, cho nên nhất định phải biết cảnh giác, lấy thời gian có hạn của chúng ta để đi tu tích công đức cho đàng hoàng, nhất là gặp được Pháp môn này, Pháp môn này thật tại khó gặp được. Gặp được Pháp môn này nói một cách khác, anh có cơ hội siêu việt lục đạo luân hồi, anh có cơ hội một đời thành Phật làm tổ đấy. Chẳng gặp được Pháp môn này, chẳng gặp được Kinh Điển này, thì anh chẳng gặp được cơ hội này, tạo lục đạo luân hồi theo tình thì tha thứ được, có thể tha thứ, nếu gặp được cơ hội này mà vẫn đi tạo lục đạo luân hồi thì đây không thể tha thứ, cho nên nhất định phải đề cao cảnh giác. Phía dưới nói, “Bất lương chi nhân”, “bất lương” tức là bất thiện, chúng ta thường gọi là người ác, Phật nói chuyện rất hàm xúc, chẳng nói người ác mà nói bất lương chi nhân “thân tâm bất chánh, thường hoài tà ác”, chữ “tà” này tức là nói tà dâm, thời nay cái xã hội này, luân lý đạo đức mọi người chẳng nói đến. Xã hội xưa kia bảo thủ, mọi người đều thủ lễ, hiện nay cởi mở, tự do cởi mở, bởi thế nên hiện tượng này trong xã hội này vô cùng phổ biến, so với trước kia không biết tăng trưởng hơn bao nhiêu bao nhiêu lần! Nên thế gian này làm sao có thể chẳng loạn được chứ! Điều này có thể nói là căn nguyên của xã hội động loạn,
“Thường niệm dâm dật, phiền mãn hung trung, tà thái ngoại dật”, hai câu này là hình dung tâm dâm rất mạnh, đây là phiền não, dục vọng như lửa thiêu chẳng khác. “Phí tổn gia tài”, đây là nói kẻ lãng tử ăn uống chơi bời cờ bạc là đứa con phá của. “Sự vi phi Pháp”, sự việc này quyết định là phạm Pháp, quyết định là trái với lễ nghi, là không hợp lý, là phạm Pháp, trái với luân lý đạo đức. “Sở đương cầu giả, nhi bất khẳng vi”. “Đương cầu” là chúng ta thủ lễ, thủ Pháp, họ chẳng chịu làm, họ vẫn làm những việc xấu xa này, muốn đi làm những việc tà ác này
“Hựu hoặc giao kết tụ hội, hưng binh tương phạt, công kiếp sát lục, cưỡng đoạt bức hiếp, quy cấp thê tử, cực thân tác lạc. Chúng cộng tắng yểm, hoạn nhi khổ chi”. Đoạn lời nói này e rằng các bạn đồng tu thông thường chẳng lý giải dễ dàng lắm! Đọc thuộc lịch sử thì anh sẽ hiểu rõ, ý này của Phật chỗ nói. Vào thời xưa, Trung Quốc nhiều cuộc chiến tranh là bởi tham đồ nữ sắc mà dẫn khởi “quốc phá gia vong”, vua Trụ là một thí dụ, Chao Ưu Vương là một thí dụ trong lịch đại nhiều ít, chỉ cần đã phạm sự việc này chẳng phải mất nước thì có lẽ cũng gần như vậy. Đường Minh Hoàng (Chư vị đều biết) vì sủng ái Dương Quí Phi cơ hồ gần mất nước, nhờ bởi một người tốt là Quách Tử Nghi, nếu chẳng có Quách Tử Nghi bình định được An Lộc Sơn thì triều nhà Đường sẽ chẳng còn, là vì cái gì? Vì Dương Quí Phi, khi Mãn Thanh nhập quan, Ngô Tam Quế tiếp dẫn quân Thanh, vì cái gì? Chẳng phải vì bảo vệ quốc gia, là vì yêu cô Trần Viên Viên, đều là vì đàn bà, đoạn này là nói những sự việc này. “Giao kết tụ hội, hưng binh tương phạt, công kiếp sát lục, cưỡng đoạt bức hiếp, quy cấp thê tử”, là đi làm những sự việc này, trong lịch sử Trung Quốc chúng ta có, lịch sử ngoại quốc cũng có, hiện tại trên xã hội này, tình hình của loại này quá nhiều, quá nhiều! Tuy nhiên họ chẳng có uy quyền cao như vậy, chẳng có tổn hại lớn như vậy, hằng ngày chúng ta từ trên báo chí thấy được, hàng ngày trong tin tức thấy được, mang đến sự bất an cho xã hội, chỉ cần phạm rồi, mà chẳng phải nhà tang người chết, mang đến cho chính họ, mang đến cho rất nhiều người bị thọ hại, hại người quyết định chẳng phải chỉ hại một người, hại một người họ còn có thân thuộc, còn có cha mẹ, thậm chí còn có con cái gia đình của mình, vậy điều này chúng ta ở trong xã hội ngày nay, đích thật là vô cùng phổ biến thấy được.
“Chúng cộng tắng yểm”, chữ “chúng cộng” là xã hội đại chúng thấy được những hành vi này đều chán ghét họ, chẳng thích nhìn thấy, “hoạn nhi khổ chi”, mang đến cho xã hội, sự bất an định, mang đến cho đại chúng sự ưu hoặc, mang đến đau khổ, tội nghiệp do tổn hại tạo nên thì nặng rồi. Vậy thế gian những người tạo tác tội nghiệp này, họ có thể chẳng nghĩ đến, họ chẳng nghĩ đến tầm vóc thương hại lớn như vậy, thương hại có thể sâu như vậy, họ chẳng nghĩ đến, đây là ngu si mộng muội, chẳng có trí tuệ. “Như thị chi ác”, đây là chỉ cho tà dâm, trong tà dâm có thể dẫn khởi “trộm đạo”, có thể dẫn khởi sát hại, tuy nhiên cái nguyên nhân căn bản kia là vì tà dâm cho nên nó cả thảy đều qui ở “dâm ác”, qui ở trong cái này, vì cái động cơ này tạo tác tội nghiệp vô lượng vô biên. “Trước ư nhân quỷ”, chữ “trước” này là hiển trước, người nhìn thấy rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch, quỷ thần cũng nhìn thấy rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch.
“Thần minh ký thức, tự nhập Tam đồ”, đây là nói quả báo tương lai, nhất định được cái báo ứng của địa ngục ngạ quỷ súc sanh. “Vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung, lụy kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn”, Quả báo cùng với cái ác phía trước chỗ tạo, sát sanh, trộm cắp chẳng có khác nhau, rất là nghiêm trọng! Xin xem tiếp đoạn thứ tư, đoạn thư tư là nói về cái quả của vọng ngữ, cùng với sự báo ứng của nó.
“Kỳ tứ giả, thế gian nhân dân bất niệm tu thiện”, chữ “thiện” này là chỉ cho khẩu nghiệp, thiện nghiệp của miệng, “lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ”, “lưỡng thiệt” là khiêu khích thị phi. Ác khẩu là lời nói thô lỗ làm tổn thương tôn nghiêm của người ta, vọng ngôn tức là vọng ngữ, để tâm gạt người, lừa gạt người. Ỷ ngữ cũng là gạt người, tuy nhiên ngôn ngữ nói dùng đó là “hoa ngôn xảo ngữ”, nếu anh chẳng có trí tuệ, chẳng có khả năng biện biệt, họ nói rất là hay, thường thường bị mắc lừa, phạm vi của ỷ ngữ bao quát vô cùng rộng! Giống như hiện nay trên nhiều quảng cáo, chúng ta gọi là quảng cáo màu vàng, quảng cáo màu xám, những loại này như âm nhạc, điện ảnh, ca kịch, chỉ cần là nội dung dụ người ta đi làm sát đạo dâm vọng, đều gọi là ỷ ngữ. Phạm vi của nó bao quát rất rộng, rất rộng! Tạo tác tội nghiệp thì là vô cùng nặng, bởi vì nó ảnh hưởng cả cái xã hội, dẫn dụ xã hội nhân tâm. “Tắng tật thiện nhân, bại hoại hiền minh”, những người vọng ngữ này, đối với người tốt người hiền, thiện họ chẳng những chẳng tôn kính, họ còn đố kỵ, làm hại người ta, tìm biện Pháp phá hoại họ. “Bất hiếu phụ mẫu, khinh mạn sư trưởng”, đây là đạo lý nhất định, giả như họ hiếu thuận cha mẹ, tôn sư trọng đạo thì quyết định sẽ chẳng vọng ngữ tại vì sao? Là vì tiếp nhận sự chỉ dạy của cha mẹ sư trưởng, làm gì có cha mẹ sư trưởng dạy đi gạt người, chẳng có việc này. Đây là ngay cả cha mẹ sư trưởng đều lừa gạt cả, đều chẳng tôn kính, khinh mạn sư trưởng. “Bằng hữu vô tín”, những hạng người này trong xã hội, trong tâm mục của họ, chỉ có lợi hại, chỉ cần đối với họ có lợi thì chẳng có việc ác nào chẳng làm, nếu chẳng có lợi thì họ hoàn toàn bài xích, cho dù là cha mẹ sư trưởng, gia thân quyến thuộc, họ cũng chẳng nhận ra, họ chỉ biết tham đồ hưởng thụ, tham đồ lợi nhỏ trước mắt, “nan đắc thành thật”, thành thật họ chẳng biết là sự việc gì đây, “Tôn quý tự đại, vị kỷ hữu đạo”, đây tức là kiêu mạn, cái ngạo mạn từ giữa vọng ngữ lừa gạt kẻ khác mà sanh ra, loại “mạn” này trong Phật Pháp gọi là “ti mạn” thật tại mà nói từ trong tự ti cảm này, sanh cái ngạo mạn rất mãnh liệt, “Tôn quý tự đại, vị kỷ hữu đạo”, câu này trong Phật Pháp gọi là đại vọng ngữ, đại vọng ngữ Phật trong giới Kinh nói với chúng ta quả báo là a tì địa ngục, tại vì sao? Bởi vì họ phá hoại Tam Bảo, người học Phật bất luận tại gia xuất gia, phải trì giới phải chơn thành, lấy Phật Pháp đi lừa người thì tội ấy lớn đấy, lừa những người nào vậy? Lừa những tín đồ rất thật thà, rất cung kính thành thật, tín đồ chẳng có hoài nghi, thấy anh là đại thiện tri thức, anh là đại Pháp sư, anh là Đại Đức cư sĩ trưởng giả, họ đối với anh tin tưởng, nếu anh giữ lấy tâm thâu đạo, giữ tâm lừa gạt thì tội anh nặng rồi, những hạng người này tuyên bố ra sao? Họ tuyên bố chính họ đã đắc đạo rồi, hiện nay trong xã hội này, chúng ta thường thường nghe thấy, tôi đều thường thường nghe thấy, có người cho tôi hay, người nào đó nói là họ là Bồ Tát… gì đó tái lai, họ là Phật… gì đó tái lai. Ồ! người tái lai sao nhiều quá như vậy! Trong Phật môn chúng ta đích thật có người tái lai, tuy nhiên người tái lai đó một khi thân phận vừa lộ thì liền đi ngay, nếu như thân phận lộ ra rồi mà vẫn còn đó Chưa đi, đây là điều quái lạ! Trong Phật môn Chư vị biết được, Vĩnh Minh Duyên Thọ Đại Sư là người tái lai, là A Di Đà Phật tái lai, điều này trong lịch sử có ghi chép, tuy nhiên người ta thân phận vừa lộ ra thì liền đi mất, xưa kia chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai có Phong Cang Hằng Sơn Thập Đắc là người tái lai, người ta thân phận vừa lộ ra cũng đi ngay, từ trước đến nay Chưa từng nghe nói qua một người nào thân phận lộ ra rồi mà không chịu đi, Chưa thấy qua. Nhưng bây giờ nhiều lắm, rốt cuộc là thiệt, là giả? Anh tự mình đi biện biệt, chúng tôi chẳng cần nói nữa anh tự mình đi biện biệt đi.
“Vị kỷ hữu đạo”, đây là đại vọng ngữ đấy, Chưa được thiền định nói đã được thiền định, Chưa khai trí tuệ nói đã khai trí tuệ, Ôi chao! đây là rất nhiều rất nhiều! Tôi giảng Kinh ở Los Angeles đó là mấy năm về trước, ở Los Angeles có năm thanh niên, tôi nghe người ta nói năm người thanh niên này đều khai ngộ cả, Tây Tạng có một số Lạt Ma Nhân Ba Thiết ở trên ấy hoằng Pháp họ thọ ký cho năm người này, thọ ký chứng minh họ đã khai ngộ, tôi ở bên đó giảng Kinh, sau khi giảng xong họ đến tìm tôi cũng muốn hỏi tôi họ có khai ngộ không? Tôi đều nói lời thật, tôi nói: “Các anh Chưa khai ngộ”. Họ liền rất tức giận, nói: “Phật sống Nhơn Ba Thiết đều nói tôi đã khai ngộ sao thầy nói tôi Chưa khai ngộ?”. Tôi bèn nói: “Tôi Chưa khai ngộ, anh đến hỏi tôi, thì anh nhất định Chưa khai ngộ vậy! Anh đã khai ngộ còn đến hỏi tôi sao?” Thế gian là có những chuyện quái gở như vậy, đúng là chuyện quái gở. Cho nên tôi không nói vọng ngữ, tôi nói lời thật, đây là lừa gạt người tự gạt gạt người, “hoành hành oai thế, xâm dịch vu nhân”, cho nên “hoành hành” bá đạo, xâm phạm kẻ khá. “Dục nhân uý kính, bất tự tàm cụ”, mục đích của họ; thật tại mà nói rất là đơn giản, tức là hy vọng kẻ khác đối với họ cung kính cầu danh văn lợi dưỡng. Hơn nữa là cái xã hội hiện nay chẳng kể thủ đoạn, cái gọi là đề cao độ nổi tiếng, làm những việc này. Đây đều là vọng ngữ ác, chẳng biết hổ thẹn, chẳng sợ nhân quả báo ứng, “nan khả hàng hóa”, Phật Bồ Tát đối với những người này cũng chẳng có biện Pháp dạy dỗ, dắt dẫn họ, tại vì sao? Vì chẳng chịu tiếp thọ, chẳng chịu học cái tốt, “thường hoài kiêu mạn. Lại kỳ tiền thế, phước đức dinh hộ”, họ hiện nay sống cuộc sống rất được chẳng tệ, hình như có vẻ rất có phước báo, nguyên nhân gì vậy? Trong đời quá khứ tu đó phước báo lớn, cho nên trong đời này cái tội nghiệp tạo tác đó quả báo ác Chưa hiện tiền, họ hiện tại đời này chỗ họ thọ đó là phước báo của đời trước tu được, nhà Phật thường nói “dục tri quá khứ nhân, kim sanh thọ giả thị,” trong đời này họ hưởng thụ đó là trong đời quá khứ tu đại phước báo, cho nên họ hiện nay hưởng phước, “dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị”, họ đời này làm việc ác như vậy, đại ác, quả báo Chưa có hiện tiền, quả báo là ở đời sau. Cho nên người thế gian hiện nay rất nhiều người chẳng tin nhân quả báo ứng. “Xem kìa! hình như không đúng. Người thiện làm việc tốt họ đáng thương như vậy, nghèo khó như vậy chẳng có hảo báo. Còn kẻ kia làm ác lại đại phú đại quí, “diệu võ diêu oai” hình như nhà Phật nói về nhân quả báo ứng là giả chẳng phải”. Thật tại, họ chẳng biết được nhân quả. Quả báo là ba đời đấy! Họ chẳng biết được đạo lý này. “Kim thế vi ác, phước đức tận diệt”, phước báo ấy của họ, phước báo của đời trước tu đó, bởi vì đời này làm ác phước báo của họ hưởng hết sạch, dư phước đều chẳng còn, phước báo đó hưởng hết rồi, “thọ mạng chung tận, Chư ác nhiễu quy”, đến khi thọ mạng của họ hết rồi, phước báo hưởng hết rồi, nghiệp lực của ác hiện tiền rồi thì đọa lạc, lúc đó thì khổ chẳng thể nói nữa, “Chư ác nhiễu quy” họ là quyết định chẳng thể miễn trừ được, “hựu kỳ danh tịch”, tên tuổi của họ, những sự tích của họ, tội tích của sự tạo tác những điều ác này tội nghiệp chồng chất, “ký tại thần minh, ương cữu khiên dẫn, vô tùng xả ly”. Họ là quyết định chẳng thể thoát ly, quả báo họ nhất định phải nhận chịu. “Đãn đắc tiền hành, nhập vu hỏa hoạch”, “hỏa hoạch” tức là chúng ta gọi là đỉnh dầu, trong địa ngục có đỉnh dầu (chảo dầu) nhập vào cái đỉnh này, “thân tâm tồi toái, thần hình khổ cực, đương tư chi thời, hối phục hà cấp”, đến trong Địa Ngục để thọ báo này, núi đao, cây kiếm, đỉnh dầu thọ những thứ khổ báo, lúc đó hối hận cũng chẳng kịp nữa.
A Di Đà Phật.
TẬP 23
“Kỳ ngũ giả, thế gian nhân dân tỷ ỷ giải đãi, bất khẳng tác thiện, trị thân tu nghiệp. Phụ mẫu giáo hối, vi lệ phản nghịch, tỉ như oan gia, bất như vô tử, phụ ân vi nghĩa, vô hữu báo thường”, đến chỗ này là một đoạn nhỏ.
Phía sau đoạn thứ năm trong năm giới, đây là giới uống rượu, trong đoạn này nói với chúng ta cái lỗi của rượu, đồng thời trong đoạn văn này, hàm nghĩa rất rộng, vậy cũng đề cập đến tham sân si đây là tam ác của ý nghiệp. Vậy do đây có thể biết trong phẩm Kinh này, chẳng những là nói ngũ giới trên thực tế cũng đem thập thiện bao gồm luôn trong đó. Tỉ như chúng ta đọc đến “vọng ngữ ác”. Trong vọng ngữ Ngài cũng nói đến bốn cái lỗi của miệng: ác khẩu, lưỡng thiệt, vọng ngữ, ỷ ngữ. Trên thực tế Kinh Văn này là rất viên mãn đã bao quát thập thiện nghiệp đạo, ngũ giới cùng với thập thiện nghiệp đạo, khi chúng ta đọc đến phần Kinh Văn, vừa đề ra một tí thì quí vị hiểu rõ ngay. Vừa mới mở đầu là nói về tạo nhân. “Thế gian nhân dân tỷ ỷ giải đãi”, chữ “tỷ ỷ” tức là tâm bất định, có vẻ do dự không quyết định, chữ “giải đãi” là biếng nhác, bốn chữ này ý của nó là hình dung một con người ở thế gian này, chẳng có mục tiêu, chẳng có phương hướng, do dự không quyết định, giải đãi biếng nhác là hình dung cái vẻ này.
“Bất khẳng tác thiện, trị thân tu nghiệp”, hai câu này nối trở lại mà xem, tức là tục ngữ chúng ta thường nói có nghĩa là “bất cụ chánh nghiệp, cẩu thả phóng dật”, chẳng chịu theo đuổi chức nghiệp chính đáng, công việc chính đáng để mà mưu sinh là ý nghĩa này. Vậy còn đối với lời dạy bảo của cha mẹ, “vi nghịch” tức là chẳng muốn tiếp nhận. “Phản nghịch” đó thì càng nghiêm trọng, phản kháng, chẳng những không thể tiếp nhận, mà lại còn phản kháng. “Tỉ như oan gia, bất như vô tử”, khiến cho cha mẹ đối với con cái thiệt là thất vọng, vì con cái mà bận tâm, âu lo. Ngược lại, chẳng bằng chẳng có con cái thì tốt hơn. Vậy thì từ chỗ này thấy được, nỗi thất vọng của cha mẹ đối với con cái đã đạt đến mức độ đau lòng rồi. “Phụ ân vi nghĩa, vô hữu báo thường”, cô phụ cái ân cha mẹ dạy dỗ, dưỡng dục. Họ chẳng biết hiếu dưỡng cha mẹ, việc hiếu dưỡng cha mẹ là “nghĩa”, “nghĩa” là phải nên làm, phải nên làm. Ngay cả động vật có những loài đều biết báo ân, chúng ta từ trong sách vở thấy được, loài quạ có lối “phản mồi” (đút mồi ngược lại) quạ kia đã già rồi thì quạ con có thể ra ngoài tìm thức ăn để về đút lại cho quạ già kia. Còn loài dê thì có “huệ nhũ chi ân”, anh xem! chú dê con khi bú sữa đều phải quì trước mặt mẹ nó, còn con người thì… như vậy thật tại mà nói ngay cả loại vật cũng chẳng bằng.
“Phóng tứ du tán, đam tửu thị mỹ, lổ hỗ để đột, bất thức nhân tình”, đoạn này là nói về tham, “Phóng tứ du tán”, ham chơi đùa “du thủ háo nhàn”. “Đam tửu thị mỹ”, đây là tham ăn, chữ “mỹ” ở chỗ này là chỉ cho mỹ vị, ẩm thực; ưa thích uống rượu, ưa thích ăn ngon, để tâm những thứ này, đây là thuộc về bên trong tham sân si (Tham Ác) là ba nghiệp của ý. “Lỗ hỗ để đột”, chữ “lỗ” là thô lỗ, “hỗ” là bạt hỗ cường ngạnh, “để đột” là chẳng thuận theo nhân tình, tức là khi chúng ta nói, hoặc giả là trên ngôn ngữ, hoặc giả là trên thái độ, có sự xung đột tức là nghĩa này. “Bất thức nhân tình”, chẳng thể thông tình đạt lý. “Vô nghĩa vô lễ, bất khả gián hiểu”, nếu như có thể tiếp nhận sự khuyên lơn của kẻ khác thì vẫn là khá, vẫn có thể hồi đầu, xong những người này anh khuyên họ, họ chẳng những không tiếp nhận lại còn chống chọi, cũng tức là họ dùng thái độ của ác ngôn ác ngữ để đáp lại, chẳng thể tiếp nhận. Điều này trong Phật Pháp gọi là ngu si, nghiệp Chướng rất nặng vậy, chẳng thể nghe người khuyến cáo. “Lục thân quyến thuộc, tư dụng hữu vô, bất năng ưu niệm”, một người bình thường họ biết hiếu thuận cha mẹ, đối với bạn bè thân thiết, biết thường thường quan tâm, thường thường niệm ở trong tâm: “Cuộc sống của họ hiện nay ra sao?” Họ biết quan tâm. Câu “lục thân quyến thuộc, tư dụng hữu vô, bất năng ưu niệm”, đối với thân thích bạn bè, đều chẳng có một tí quan tâm. “Bất duy phụ mẫu chi ân”, chữ “duy” là tư duy. Họ chẳng nghĩ đến ơn dưỡng dục của cha mẹ. “Bất tồn sư hữu chi nghĩa”, “bất tồn” là tồn niệm, nghĩa của thầy bạn cũng chẳng hoài niệm, thầy đối với họ dạy dỗ thế nào, lời khuyên trung trực của bạn tốt đối với họ trong tâm họ hoàn toàn chẳng có, họ chẳng nghĩ đến những thứ này. “Ý niệm thân khẩu, tằng vô nhất thiện”, đây là nói về Ý, Thân, Khẩu ba nghiệp. “Thân khẩu ý” ba nghiệp, chẳng có một nghiệp nào là thiện cả, nói một cách khác đây thật sự là tạo ác đa đoan đấy. Tìm không ra họ có được một việc tốt nào đáng cho nguời tán thán, tìm không được. Đoạn này chúng ta thấy được Tham Ác. “Bất tín Chư Phật Kinh Pháp, bất tín sanh tử thiện ác”, hai câu này là nói ngu si, Phật là Thiên Nhân Đạo Sư; thế và xuất thế gian đại Thánh nhân, Phật là một bậc giác ngộ viên mãn! Đối với thật tướng của thế xuất thế gian, các Pháp Ngài đều minh bạch cả đều giác ngộ cả, Ngài vì sao có thể cứu cánh viên mãn giác ngộ? Phật nói với chúng ta đây là Ngài là vì tâm địa thanh tịnh, cùng thế xuất thế gian tất cả Pháp triệt để minh bạch giác ngộ, Phật đã nói rồi. Đây là mỗi một chúng sanh là việc của bản năng vốn nó là sự việc như vậy, chúng sanh vì sao chẳng giác, tại sao có thể mê? Tức là vì có vọng tưởng chấp trước, Phật vọng tưởng chấp trước đã buông xuống rồi, đoạn trừ hết rồi, cho nên bản năng này của Ngài tự tự nhiên nhiên khôi phục chẳng phải từ bên ngoài học được, Phật đem kinh nghiệm của Ngài nói với chúng ta, đem chơn tướng sự thật nói với chúng ta. Hy vọng chúng ta cũng có thể nhanh chóng khôi phục cái bản năng của chính mình chỉ cần đem cái vọng tưởng phân biệt chấp trước buông xuống thì năng lục này của chúng ta rất nhanh khôi phục xong. Phật Pháp giáo hóa chúng sanh thì chỉ là như vậy mà thôi. Cho nên chúng ta phải tin những Kinh mà Phật đã nói, phải tin phương Pháp Phật đã chỉ dạy cho chúng ta, Kinh Điểnchỗ nói về luân lý cảnh giới quyết định là chân thật, Kinh Điểnchỗ truyền về phương Pháp tu học cho chúng ta, quyết định là chính xác. Không tin, đó là ngu si đấy! Trước kia Thầy Lý có nói: “đó chẳng là ngu si thì là cuồng vọng”, cuồng vọng vẫn là ngu si đều chẳng rời khỏi ngu si.
“Bất tín sanh tử thiện ác”, “sanh tử thiện ác” là sự thật đang bày ra trước mặt chúng ta, cái này tức là quả báo của lục đạo luân hồi; thiện nhân, thiện hành nhất định có thiện quả, ác nhân ác hành nhất định là ác báo của tam ác đạo, quyết định chẳng thể tránh miễn được, đều này phải tin. Thật sự tin rồi, chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, tự tự nhiên nhiên sẽ có “thu liễm”, chẳng dám tạo ác, tại vì sao? Tạo ác tạo tác ác nhân thì ác báo theo sau đó thọ không nỗi, đây tức là người thông minh, đây tức người có trí tuệ. Họ chẳng thể tin, chẳng thể tiếp thọ, đây là ngu si đến chỗ cùng cực!
“Dục hại chân nhân, đấu loạn tăng chúng”, hai câu này là Sân Khỏe. Từ đố kỵ tâm sân khỏe sanh ra. “Chân nhân” là người tu đạo, người có đạo đức có tu hành. Họ nhìn chẳng thuận mắt, muốn đi hại họ đi phỉ báng họ, đi hại họ. Tăng đoàn là đoàn thể truyền trì Phật Pháp, Phật Pháp ở tại thế gian, quyết định là lợi ích cho một phương này. Phần Kinh Văn phía sau là tường tận để nói rõ, địa phương này chẳng có Phật Pháp thì chúng sanh sẽ khổ. Cho nên trên Kinh Điển cũng thường thường đem Phật Pháp tỉ dụ cho cây đèn sáng, ở trong tâm tối có một ngọn đèn sáng có thể chỉ dẫn phương hướng cho chúng ta. Họ muốn phá hòa hợp tăng đoàn, cầu đấu loạn tăng chúng, tức là phá hòa hợp tăng đoàn, cho nên sân khỏe. Cho nên trong đoạn này tham sân si, đây là ý tam ác, đây là trong thập thiện chỗ nói.
“Ngu si mông muội”, đây là nói về nỗi đau của si ác, “tự vi trí huệ”. Họ tự cho là thông minh, tự cho là rất có trí tuệ, đây là chúng ta thường nói “thế trí biện thông”, tự cho là đúng; con người như thế. “Bất tri sanh sở tùng lai, tử sở thú hướng”. Hai câu nói này của Phật nói rất hay! Anh tự cho là thông minh, tự cho là đúng, anh sanh từ đâu đến sau khi chết đi đến nơi nào? Có biết hay không? Không biết, không biết đó tức là chẳng phải chơn trí tuệ. Người thật sự có trí tuệ biết được, chúng ta sanh từ đâu đến, sau khi chết đi đến nơi nào, rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch, đại khái học Phật ở trên Phật Pháp, hơi có một tí tu dưỡng, thật sự có được một tí tâm đắc, đều sẽ chẳng mê hoặc, đều phải rất rõ ràng. Vậy thì hiện nay chúng ta học Phật, học đã nhiều năm rồi nhìn thấy hai câu này trong Kinh, ta cũng chẳng biết ta cũng hồ đồ ngớ ngẩn, nếu là tình hình này vậy chúng ta mấy năm nay học đó là hồ đồ Phật, tại sao học Phật rồi càng học lại càng mê hoặc? Vì Chưa rõ ràng. Điều này chẳng những đồng tu tại tọa chúng ta, những người học Phật một cách hồ đồ ngớ ngẩn quá nhiều, quá nhiều! Chơn chánh học Phật có được mấy người đem Phật Pháp hiểu rõ ràng? Những người hiểu rõ ràng chẳng nhiều, giả như người hiểu rõ ràng nhiều rồi, thì xã hội này chẳng thể nói người học Phật chúng ta là mê tín. Hiện nay chúng ta ra ngoài đường rất nhiều người tuổi trẻ, phần tử trí thức gặp chúng ta thế này thì nói mê tín, họ ở sau lưng nói mê tín, chúng ta cũng gặp phải nỗi oan không thể bộc bạch được, đây là lý do gì? Người thật sự hiểu rõ ràng, thật sự minh bạch rồi, chẳng phải số nhiều, là số ít. Điều này chúng ta phải cật lực hoằng dương, cũng tức là bảo chúng ta phải tận tâm tận lực vì xã hội đại chúng nói rõ. Công đức lợi ích chân thật của Phật Pháp đối với chúng ta có lợi ích thiết thực. Chúng ta mỗi người đều muốn sống rất khoái lạc, sống rất hạnh phúc, Phật Pháp đích thật có thể giúp cho chúng ta đạt được điều này.
“Bất nhân, bất thuận, hy vọng trường sanh”, “nhân” là nhân từ. Chẳng có lòng nhân từ, họ chẳng có, họ cũng chẳng thể tùy thuận đại chúng, lại còn hy vọng trường sanh, lại còn hy vọng trường thọ. Cho nên từ trên phần Kinh Văn này xem, hạng người như vậy thì trong tâm là tràn đầy tham sân si. Hy vọng trường sanh là tâm tham đấy. “Từ tâm giáo hối, nhi bất khẳng tín”, ai dạy bảo họ? là cha mẹ, sư trưởng. Đứa con này dù hư hỏng đi nữa, cha mẹ vẫn quang tâm đến nó, vẫn thương yêu bảo hộ nó, vẫn chỉ dạy nó, tuy nhiên nó chẳng tin nó chẳng thể tiếp nhận, thầy cũng như vậy. Tuy nhiên hiện nay cái thế gian này, sư đạo cũng chẳng còn nữa. Hiện nay ở nhà trường sự quan hệ giữa thầy giáo và học trò cùng sự quan hệ giữa thầy giáo và học trò trước kia đã có sự sai biệt rất lớn! Xưa kia thầy đối với học trò sự quan tâm thương yêu bảo hộ ấy còn vượt hơn cha mẹ, Vì sao? Là vì đạo đức học vấn của thầy, phải tìm một người để truyền thọ, tìm một truyền nhân. Con không nhất định truyền được, học sinh thì truyền được, cho nên đem đạo học xem như vô cùng quan trọng! Cậu học trò mà có thể truyền đạo được thì sự quan tâm thương yêu bảo hộ còn quyết định còn vượt hơn con cái của chính mình. Cho nên thầy trò như là cha con vậy, có mối quan hệ sâu dầy thế đó! Tuyệt đối chẳng phải mối giao hảo thông thường, ân tình như vậy. Người hiện nay, chẳng có phước báo này, hiện nay thầy giáo đến giờ thì vào lớp, sau khi lên lớp thì xuống lớp, thầy giáo và học sinh chẳng có tiếp xúc gì. Thầy giáo lên lớp vì sao? Là vì đồng lương, vì phí tổn tính giờ. Học sinh đến cầu học vì sao? Vì điểm, vì thi cử, mỗi người có mục đích của riêng mình. Bỉ thử chẳng có quan tâm. Như tuổi của tôi đây, thật vẫn kể như là rất có phước, lúc nhỏ đi học, trong thời kỳ kháng chiến, chúng tôi rời xa quê nhà, chẳng có cha mẹ chăm lo, nhà trường thu nhận thì thầy giáo thay thế cho cha mẹ, cho nên thầy đối với chúng tôi chiếu cố trên cuộc sống, sanh hoạt tại một nơi, trường học là một mái ấm gia đình. Cho nên chúng tôi đối với thầy, sự cảm niệm ân đức, nhớ nghĩ… thì người hiện nay chẳng có cánh chi tưởng tượng được! Sinh hoạt ngày thường thầy thảy đều chiếu cố đến, đêm đến thầy đều phải đến phòng ngủ của chúng tôi, phải xách chiếc đền lồng nhỏ để trong coi hai lần, sợ học trò ngủ Chưa say, đạp rơi chiếc mềm xuống đất thầy còn phải đắp mềm giùm cho anh, cho nên chúng tôi đối với thầy rất hoài niệm, rất cảm khích! Đây là “từ tâm giáo hối”, còn chẳng tin thì chẳng có cách chi, chẳng tin thì chẳng tiếp thọ, đây thì chẳng còn cách chi nữa.
“Khổ khẩu dữ ngữ, vô ích kỳ nhân”, đây là cha mẹ và sư trưởng từ bi chân thành nhiều lần dạy bảo, nhưng đối với họ mà nói, chẳng có lợi ích, tại sao chẳng có lợi ích? Vì họ chẳng thể tiếp nhận. “Tâm trung bế tắc, ý bất khai giải”, trong tâm của họ hình như có vậy gì nghẹt cứng, bế tắc, nghẹt cứng, chẳng thể khai ngộ, chẳng thể minh bạch, người này ngu si đến trình độ như vậy, cái này gọi là Nỗi Đau Của Si Ác, đích thật là như vậy. Phía trước là nói về nhân, nói về nhân. Còn trong đoạn này, có “phóng tứ du tán, đam tửu” có câu này. Cho nên ở trong năm giới này, đây là thuộc về ẩm tửu ác, nhưng trong toàn bộ Kinh Văn trong đó lại nói đến tham sân si ác, cho nên bao gồm thập ác nghiệp. Thập ác lật ngược lại thì là thập thiện. Chúng ta xem quả báo. “Đại mạng tương chung, hối cụ giao chí”, đến lúc thọ mạng chung, cái ác báo này hiện tiền rồi, có người trong lúc lâm chung, quả báo hiện tiền, vậy nhất định thấy đó là cảnh giới rất xấu, thấy quỷ vô thường, thấy đầu trâu mặt ngựa… thấy những thứ này, đây là lúc lâm chung họ có thể thấy được, đây là quả báo hiện tiền, lúc này những khủng bố sợ sệt hối hận thì đã vô dụng không kịp nữa. “Bất dự tu thiện”, “dự” là dự phòng trước, chẳng biết dự phòng trước để tu thiện “lâm thời nãi hối, hối chi ư hậu, tương hà cập hồ!”, hối hận cũng vô dụng, chẳng kịp nữa rồi, vẫn phải nhận lấy ác báo. Phần Kinh Văn phía dưới là Thế Tôn khuyên chúng ta; phía trước những chỗ, ác nhân, ác duyên, ác quả, đều nói rất rõ ràng rất minh bạch, chúng ta phải thời thời khắc khắc đi phản tỉnh đi kiểm điểm, chúng ta có phạm những lỗi lầm này không? Nếu như có những lỗi lầm này thì phải mau mau sửa đổi.
“Thiên địa chi gian, ngũ đạo phân minh, thiện ác báo ứng, họa phước tương thừa, thân tự đương chi, vô thùy đại giả”, Giữa trời đất tức là giữa vũ trụ, “ngũ đạo” là: Thiên đạo, Nhân đạo, Địa Ngục , Ngạ Quỹ, Súc Sanh thật có đấy! chẳng phải giả. “Phân minh” là rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch, tại sao có những sự việc này? Những sự việc này là thiện ác báo ứng, những người tu thiện vào nhân thiên đi hưởng phước, những người tạo ác đi vào tam đồ đi thọ báo; có phước có họa, “họa phước tương thừa”, chữ “tương thừa” này ý nghĩa là thuyết minh trong phước có họa, trong họa có phước. Họa hưởng hết rồi một chút thiện mà họ đã tu đó liền hiện tiền, người hưởng phước rất dễ tạo tội nghiệp, anh xem! hai chữ họa với phước rất giống nhau đấy! Chẳng có sai biệt bao nhiêu, phải quan sát kỹ lưỡng. Cuối cùng là phước là họa, Ồ! rất chẳng dễ biện biệt! Người ngu si thường đem họa cho là phước, đem phước cho là họa, ngu si làm sai mất. Cho nên “thân tự đương chi, vô thùy đại giả”, chẳng có ai có thể thay thế được. Cái thiện ác quả báo này, thiệt là tự làm tự chịu, chẳng có ai có thể thay thế được.
“Thiện nhân hành thiện, tùng lạc nhập lạc”, thiện nhân, thiện duyên, thiện quả, đây là chơn chánh được “lạc”, duy chỉ có hành thiện mới có thể được “lạc”. “Tùng minh nhập minh”, “minh” là tâm địa có trí tuệ thông minh, càng ngày càng có trí tuệ, càng ngày càng thông minh. “Ác nhân hành ác, tùng khổ nhập khổ”, đây gọi là thân khổ, càng ngày càng khổ, trong đời này đời người rất khổ, đời sau phải biến súc sanh, biến ngạ quỹ, thì thân ấy lại càng khổ, “tùng minh nhập minh”, “minh” là ngu si hồ đồ, càng ngày càng hồ đồ! càng ngày càng ngu si! Đây là hiện tượng chỗ hiển hiện ra của thiện ác, đích thật là cách đó, “thùy năng tri giả, Độc Phật tri nhĩ”, người nào đối với sự việc này liễu giải được rõ rõ ràng ràng minh minh bạch bạch? Phật biết. Vậy thì lời Phật chỗ nói đó chúng ta sao chẳng thể tin? Phật chỗ chỉ dạy chúng ta đó sao chẳng đi phụng hành chứ!? “Giáo ngữ khai thị, tín hành giả thiểu”, Phật hiểu được, Phật rõ ràng minh bạch, Phật chỉ dạy cho chúng ta, vì chúng ta khai thị. Tuy nhiên, người nghe, người tin chẳng nhiều. Người tin chẳng nhiều, Phật vẫn phải nói, vì sao? Vì tất cả chúng sanh từ vô thỷ kiếp sanh tử luân hồi ngu si tập khí rất nặng! Làm gì có nghe một lần khai thị thì liền khai ngộ? Chẳng có đạo lý này. Cho nên nhất định là phải trường kỳ nghe, huân tập lâu dài. Ô! họ thoát nhiên khai ngộ, minh bạch rồi. Điểm này chúng ta nhất định phải rõ ràng, nhất định phải thấu hiểu. Nghe Kinh không thể nghe một lần thì minh bạch, thì tỉnh ngộ trở lại, nhất định phải nghe nhiều lần.
Vào thời kỳ trước kia, cái duyên này rất khó, chỉ có cách là ở một địa phương có Pháp Sư giảng Kinh, quanh năm không ngừng giảng Kinh, anh thường thường nghe Kinh, nghe một năm, hai năm, ba năm giác ngộ rồi, hồi đầu rồi! Đây là phải cần thời gian dài như vậy để huân tập mới có hiệu quả. Hiện nay thế gian này, Pháp Sư, Đại Đức giảng Kinh rất ít, thỉnh thoảng tình cờ mới có Pháp Sư đến giảng một ngày, hoặc vài ngày. Kinh giảng xong thì họ đi mất “một ngày ấm mười ngày lạnh”. Chư vị ở đây nghe một tháng, một năm mới nghe được một tháng, còn mười một tháng kia khởi dậy vọng tưởng, anh nghĩ xem vậy có lợi ích gì đâu? Cho nên chẳng có hiệu quả, hiện nay Pháp Sư giảng Kinh tuy ít, song công cụ khoa học so với trước kia tiến bộ, chúng ta có thể lợi dụng. Chẳng có Pháp Sư giảng Kinh, chúng ta ở đây có băng cassette, băng video, nghe đi nghe lại bộ Kinh này. Nếu như nghe được ba mươi (30) lần, nghe được năm mươi (50) lần thì hiệu quả đó khác hẳn. Chẳng có ba mươi (30), năm mươi (50) lần thì không được, chẳng có lợi ích. Đây là quí vị thật sự nếu muốn trên Phật Pháp có được sự thụ dụng, thì quyết định phải huân tập thời gian dài. Từ xưa đến nay Chư vị Tổ Sư Đại Đức của Trung Quốc cũng đều chẳng ngoại lệ. Chúng ta từ trên lịch sử thấy được: Đời Đường Đạo Tuyên Luật Sư ở Chung Nam Sơn, đây là học Giới Luật, Ngài chuyên công Tứ Phần Luật, nơi nào có Pháp sư giảng “Tứ Phần Luật” thì Ngài nhất định đi nghe, bộ “tứ phần luật” của Ngài đã nghe hết hai mươi (20) lần, đương nhiên chẳng phải một người giảng, cũng chẳng phải một nơi địa phương, ở đâu giảng thì Ngài đến nơi đó để thảo Kinh đơn. Hồi xưa gọi là “thảo Kinh đơn” tức là tôi muốn nghe một bộ Kinh, tôi muốn đến ở nơi anh, anh cho tôi một chút việc làm, tôi cũng làm việc cho anh, giống như là nửa công, nửa làm, nửa học. Ở tại chùa này thảo Kinh đơn. Vậy nghe hết bộ Kinh này thì Ngài đi, nghe hai mươi lần (20) đó thiệt là cực nhọc! Tứ Phần Luật cũng khá dài, giảng một biến cũng mất mấy tháng, lúc đó học hành khổ lắm. Còn hiện nay băng video mang về nhà, vặn ti vi lên ngã mình trên ghế nệm, sướng biết mấy! Pha một bình trà ngon, điều này khác hẳn, người xưa khổ biết bao! Người hiện nay là hưởng thụ, hy vọng mọi người hết lòng để hưởng thụ…!. Chẳng có thời gian hai ba năm thì Phật Pháp cứu cánh là hay ra sao? Cứu cánh là lợi ích ra sao? anh chẳng đạt được, nhất định phải thật sự hạ thủ công phu. Ba năm, công phu ba năm, năm năm này, chúng ta mới có thể nếm được Pháp vị. Pháp vị nếm được rồi, thì là Pháp hỉ sung mãn. Anh mới thật sự nhập vào được. Cho nên trong Kinh Văn này nói, “tùng lạc nhập lạc”, anh mới nhập vào được. “Tùng minh nhập minh”, anh thật sự đã nhập vào rồi, “nhập minh” là khai ngộ rồi, “nhập lạc” là được Pháp hỉ, chơn khoái lạc. Nhiên hậu anh mới biết được, đời người là thật sự hạnh phúc thật sự khoái lạc, anh nếm được rồi. Còn bây giờ nói với anh đời người thật sự khoái lạc thật sự hạnh phúc thì anh chẳng thể hội được. Vì sao? Vì anh Chưa hưởng thụ qua, anh thể hội chẳng được, chỉ có ở trên đây hạ thủ công phu thì anh sẽ đạt được. “Sanh tử bất hưu, ác đạo bất tuyệt”, Sanh tử bất hưu, hai câu này là nói về luân hồi, ở trong luân hồi “xả thân thọ thân”, sanh sanh tử tử, tử tử sanh sanh, chẳng dứt, chẳng liễu. Nghiệp lực chi phối anh, người này thật là đáng thương! Người này thật khổ! “Như thị thế nhân, nan khả cụ tận” người thế gian giống như loại người này, “nan khả cụ tận”, thì là quá nhiều quá nhiều, nói không hết!
“Cố hữu tự nhiên Tam đồ, vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung”, lục đạo luân hồi này chẳng phải Phật tạo, cũng chẳng phải thượng đế an bài, là từ đâu đến? Là do nghiệp lực biến hiện ra, giống như nằm mộng, cảnh giới trong mộng là từ đâu đến? Là nghiệp lực của chính mình biến ra, cho nên nói là, “tự nhiên tam đồ”, chẳng có ai chế tạo ra, là nghiệp lực thiện ác biến hiện ra, vậy bên trong có vô lượng chỗ khổ, anh phải ở trong đó thọ cái báo ứng này, chỉ cần chẳng ra khỏi luân hồi; quí vị nhất định phải ghi nhớ; nhất định là ở trong ác đạo thời gian dài, ở trong thiện đạo thời gian ngắn, đây là đạo lý nhất định. Nếu anh hỏi, rốt ráo là tại sao vậy? Anh thử nghĩ thì rõ ngay. Chúng ta từ sáng đến tối trong một ngày, niệm ác nhiều hay niệm thiện nhiều? Từ việc này thì hiểu rõ ngay, ác niệm tức là vì chính mình, cái niệm tự tư tự lợi, là ác niệm, vào tam ác đạo thọ báo. Biết nghĩ đến kẻ khác, biết niệm niệm vì kẻ khác. “Tốt!” niệm này là thiện niệm. Đem hai cái so sánh thì biết ngay, ác niệm nhiều đương nhiên thời gian trong ác đạo dài lâu, thiện niệm ít đây là thời gian của thiện đạo ngắn tạm, chúng ta được thân người, thân người là thiện đạo, sống được bao nhiêu năm? Nhiều lắm là một trăm tuổi, tuy nhiên tam ác đạo thì thời gian dài lâu, đọa vào tam ác đạo thì mạng ấy quyết định không chỉ một trăm tuổi. Cho nên nói là: “vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung, thế thế lụy kiếp, vô hữu xuất kỳ”, lời này đều là thật. Chúng ta ở trong lục đạo đã là vô lượng kiếp của vô lượng kiếp rồi, chẳng có biện Pháp ra khỏi, “nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn”, chẳng có cách chi giải thoát, chẳng có biện Pháp vượt khỏi, đời đời kiếp kiếp tu hành cũng chẳng thành công, tại sao tu hành mà chẳng thành công? Phía trước Phật nói những lỗi lầm mà chúng ta đã phạm; cố ý phạm, vô ý phạm, đều tạo thành Chướng ngại của sự giải thoát, cũng tạo thành Chướng ngại của sự Vãng Sanh; niệm Phật chẳng được Vãng Sanh.
“Như thị ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu, tỉ như đại hỏa, phần thiêu nhân thân”, đây là tỉ dụ, “ngũ ác” tức là sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Bên trong còn bao quát tham sân si, đây là ác. Tạo tác ngũ ác. Anh trong một đời này chẳng có khoái lạc hạnh phúc, có thể nói cuộc sống của anh, sống rất là đau khổ. “Thống” là hoa báo, ngày tháng của anh sống chẳng vui. Chư vị phải hiểu rõ. Thế gian những người phú quý, tuy họ là đại phú, đại quý; giống như thời cổ chẳng khác “quý vi thiên tử, phú hữu tứ hải”… nhưng ngày tháng của họ cũng chẳng vui sướng, chúng ta từ trên lịch sử thấy được, có được bao nhiêu Đế Vương cuộc sống được rất tự tại, rất vui sướng? Quá ít, quá ít! Cho nên chúng ta thấy được “quý”, quý mà chẳng vui. “phú”, phú mà chẳng vui. Tại sao phú quý mà chẳng vui? Đó là vì tạo cái nhân không tốt, họ tạo ngũ ác. Ngũ thiêu là quả báo của đời sau, tức là tam đồ (Địa Ngục, Ngạ Quỹ, Súc Sanh). “Tỉ như đại hỏa, phần thiêu nhân thân”, tạo cái ác nghiệp này giống như lửa đốt, thọ quả báo giống như thân thể bị lửa đốt, đau đớn thế đó.
Sau cùng, ba hàng này, Phật mới vì chúng ta truyền thọ ngũ giới thập thiện, nói nhiều như vậy đến chỗ này mới chánh thức truyền thọ. “Nhược năng tự ư kỳ trung, nhất tâm chế ý, đoan thân chánh niệm, ngôn hạnh tương phó, sở tác chí thành”, “nhược” là giả thuyết, giả thuyết anh có thể, tự anh có thể ở trong ngũ trọc ác thế này, chữ “kỳ trung”, là phía trước nói ngũ trọc ác thế, chúng ta ở trong hoàn cảnh này, có thể nhất tâm chế ý; tức là có thể khắc phục tạp niệm của chính mình, những cái niệm bất chính đáng, như những niệm sát đạo dâm vọng tham sân si, chúng ta có thể khống chế được; chữ “chế” tức là chế phục, khắc chế đem những vọng tưởng này, đem những phiền não chế phục lấy. “Đoan thân chánh niệm”, thân thể nhất cử nhất động, nhất ngôn nhất hành đều tuân theo giáo giới của Phật, đều như Pháp luật chế độ của thế gian. “Ngôn hành tương phó”, trong ngoài nhất trí, trong tâm nghĩ tưởng, cùng với chỗ nói, chỗ hành quyết định là tương ưng, mà chẳng phải khẩu thị tâm phi, “sở tác chí thành”, lấy tâm chơn thành đối với mình, cũng lấy tâm chơn thành đối với người, đối sự, đây tức là một tấm chơn thành. “Độc tác Chư thiện”, chữ “Chư thiện” này tức là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu, không vọng ngữ, cho đến không tham, không sân, không si. “Chư thiện” này tức là ngũ giới thập thiện. Anh làm được, người khác làm được hay không cùng ta chẳng có liên quan gì. Ta phải làm, ta là đệ tử của Phật, ta nhất định tuân thủ giáo giới của Phật, tiêu chuẩn làm đệ tử của Phật, đây là tiêu chuẩn tối thiểu, nhất định phải tuân thủ Ngũ Giới Thập Thiện. “Bất vi chúng ác”, phía trước chỗ nói những việc ác đó, quyết định không làm.
“Thân độc độ thoát, hoạch kỳ phước đức, khả đắc trường thọ Nê hoàn chi đạo. Thị vi ngũ đại thiện dã”, “ngũ ác” lật ngược trở lại là “ngũ đại thiện”, thân của chúng ta, (người khác chẳng có biện Pháp siêu việt lục đạo luân hồi) nhưng thân này của chúng ta có thể, thì ta một đời này siêu việt lục đạo luân hồi rồi. Chữ “thoát” này là thoát ly tam giới, thoát ly luân hồi, thoát ly lục đạo. Đương nhiên đây là trì giới niệm Phật. Đoạn này là nói trì ngũ giới, ngũ giới thập thiện, trì giới niệm Phật, vậy mới có thể liễu sanh tử, xuất tam giới, có thể được trường thọ Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, thọ mạng vô cực. Vậy thì được Vô Lượng Thọ đấy. Đến Tây Phương Cực Lạc Thế Giới một đời bất thối thành Phật.
“Nê hoàn chi đạo”, thì Đại Bát Niết Bàn, tức là thành Phật. Trong một đời này thoát ly lục đạo luân hồi, Vãng Sanh bất thối thành Phật, năm thứ thiện này đã giúp đỡ lớn lao đáng kể! Cho nên gọi là ngũ đại thiện. Kinh Văn chúng ta giảng đến chỗ này, đây mới là chơn truyền chánh thọ của “ngũ giới thập thiện”. Mọi người ngày nay cũng thấy đều đã thọ xong ngũ giới rồi, cả thảy đều thọ xong thập thiện nghiệp đạo rồi.
A Di Đà Phật
南 無 阿 彌 陀 佛