Link Youtube VLT 1998:
https://www.youtube.com/watch?v=4by72qnt8es&list=PL62F112A07CCBAAFA
Các vị pháp sư! Các vị đồng tu! Xin mời mọi người cùng tôi quy y Tam Bảo.
A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.
A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.
A Xà Lê tồn niệm, ngã đệ tử Diệu Âm, thỉ tùng kim nhật, nãi chí mạng tồn, quy y Phật Đà lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt Ma ly dục trung tôn, quy y Tăng Già chư chúng trung tôn.
Ngày nay pháp danh dùng trong phái qui y của chúng ta đều gọi là “Diệu âm”. Vậy danh hiệu diệu âm từ đâu mà có? Chính là từ phẩm bốn mươi tám mà có, thọ kí cho chúng ta. Tất cả chúng sinh ở thế giới Ta bà vãng sanh về thế giới Cực lạc, tương lai trong mười thế giới sẽ được thành Phật giáo hoá chúng sanh, danh hiệu đều gọi là Diệu Âm Như Lai. Diệu Âm có nghĩa là gì? Nam mô A Di Đà Phật là diệu âm. Chúng ta nhờ niệm Phật mà thành Phật, tương lai giáo hóa chúng sanh cũng là dùng phương pháp niệm Phật thành Phật này. Cho nên chúng ta hiện nay dùng Diệu Âm cư sĩ, tương lai là Diệu Âm Như Lai, nhân quả tương ứng. Tên gọi này do Phật Thích Ca Mâu Ni đặt cho chúng ta.
Một vị Bổn tôn: “A Di Đà Phật”
Một vị Lão sư: “Pháp sư Tịnh Không”
Một bộ Kinh điển: “Kinh Vô Lượng Thọ”
Một câu Phật hiệu: “Nam Mô A Di Đà Phật”
Một mục tiêu và một phương hướng cầu sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc.
- Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn.
- Một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu.
- Phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”.
* Bí quyết thành công là “Thành thật, nghe lời, thật làm, y giáo phụng hành”.
Mọi người cố gắng nghe Kinh, niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ. Quy Y Tam Bảo, làm một học trò tốt, một đệ tử tốt của Tam Bảo, đem tâm tịnh lại, không nên phan duyên. Nếu có thời gian thì nghe Kinh nhiều. Y giáo phụng hành.
Đạo sư Tịnh Không nói: “Thành thật, nghe lời, thật làm thì không có người nào mà không thành tựu”.
Cầu nguyện chánh pháp cửu trụ - Nam Mô A Di Đà Phật
XIN THƯỜNG NIỆM A DI ĐÀ PHẬT
GIỮ TÂM THIỆN THẾ GIỚI HÒA BÌNH
Ngài truyền trao quy y cho người khác, dạy người ta “quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh”, Ngài chẳng nói “quy y Phật, Pháp, Tăng”.
Ta thật sự quy y, quy y là bái sư, bái ai làm thầy? Bái A Di Đà Phật làm thầy, bái Thích Ca Mâu Ni Phật làm thầy. Quy y chính là bái sư, quy y Tam Bảo, chẳng nói quy y vị pháp sư nào!
Quy là quay đầu, Y là nương cậy, quay đầu nương theo gì? Nương theo trí huệ và đức tướng trong tự tánh, chẳng phải là cậy vào bên ngoài, ngàn muôn phần các đồng học phải ghi nhớ điều này! Nếu quy y một vị pháp sư hay hòa thượng nào đó, hỏng bét rồi, vị ấy có đại triệt đại ngộ hay không? Vị ấy có minh tâm kiến tánh hay không? Nếu vị ấy chưa đại triệt đại ngộ, chưa minh tâm kiến tánh, vị ấy là phàm phu trong lục đạo, ta quy y vị ấy chẳng phải là vẫn tạo nghiệp lục đạo ư? Thầy tạo nghiệp lục đạo, dẫn dắt quý vị vẫn tạo nghiệp lục đạo, chẳng ra khỏi được! Vì thế, đối với chánh pháp do đức Phật đã nói, chẳng thể không học tập, chớ nên không hiểu rõ ràng; sau khi hiểu rõ bèn phải thực hiện, ta chẳng tiếc thân mạng cũng phải thực hiện.
Chúng ta đứng ngoài thấy rất rõ ràng, sư phụ tôi tốt, sư phụ nào cũng không bằng sư phụ tôi, quan niệm này là gì? Quan niệm này chính quan niệm là cầu sinh địa ngục a tỳ. Quí vị nghĩ xem có phải vậy không? Sư phụ quí vị còn có sư huynh, sư đệ, sư huynh đệ của ông ấy cùng một thầy truyền xuống, quí vị gọi ngài là tổ sư. Những sư huynh sư đệ này, mỗi vị lập một môn phái riêng, mỗi người đều có đệ tử của riêng mình, độc lập với nhau, không thể dung hoà với nhau, tất cả đều là tạo nghiệp địa ngục. Vậy là họ đang tu pháp môn gì? Tu pháp môn địa ngục. Tương lai họ sẽ đi về đâu? Sẽ vào địa ngục Vô gián, không thể không biết.
Hãy nên nghiêm túc tu học, để một đời này được vãng sanh Tịnh độ.
Chưa lo xong chuyện sanh tử của mình, nói gì giúp người khác.
Tự mình tu thân được thành tựu thì mới cảm hóa được thiên hạ.
Ấn Quang Đại sư lớn tiếng kêu gọi, dạy cả một đời rồi, được mấy người nghe hiểu? Được mấy người giác ngộ? Đó chính là một phần thành kính một phần lợi ích, mười phần thành kính mười phần lợi ích.
HỎI MÌNH MUỐN THOÁT TỬ SANH
HỎI TA CÓ ĐỦ LÒNG THÀNH HAY CHƯA
ĐỪNG NÊN VIỆN CỚ BUÔNG LÒNG
NGƯỜI XƯA THÀNH TỰU PHẢI NHIỀU GIAN NAN
Con người hiện thời coi kinh Phật như giấy cũ, để lẫn lộn kinh với những thứ khác trên án kinh, tay chẳng rửa ráy, miệng không súc sạch, thân đung đưa, chân gác lên, thậm chí phóng thí, gãi chân, hết thảy phóng túng chẳng e sợ mà muốn đọc kinh để được phước tiêu tội thì chỉ có ma vương muốn tiêu diệt Phật pháp mới chứng minh, tán thán, bảo là hoạt bát viên dung, phù hợp sâu xa với diệu đạo chẳng chấp trước của Đại Thừa! Phật tử chân tu thực sự tu hành, trông thấy chỉ đành ngấm ngầm đau lòng, lặng lẽ ứa lệ, than thở quyến thuộc ma hoành hành, chẳng biết làm sao!
Phật pháp đến nay suy tàn quá đỗi. Chúng sanh mờ mịt như kẻ mù không ai dẫn đường. Dẫu có một hai thiện tri thức khai thị, nhưng do nghiệp sâu chướng nặng, chánh trí chẳng khai, tuy nghe chánh pháp, chẳng sanh tin tưởng. Dẫu sanh tin tưởng cũng vẫn là phù phiếm, như say, như mộng, trọn chẳng có định kiến. Vừa gặp tà ma, ngoại đạo bèn như nhặng bu theo mùi thối, như thiêu thân đâm đầu vào lửa. Kiến bu, chim tụ, xúm xít muôn ngàn.
Ấn Quang Đại sư thường nói: Muốn được sự thật ích của Phật pháp, phải tìm nơi lòng kính sợ. Có một phần cung kính, tiêu một phần tội nghiệp, thêm một phần phước huệ. Có mười phần cung kính, tiêu mười phần tội nghiệp, thêm mười phần phước huệ. Nếu không mảy may cung kính, thì sự tụng kinh niệm Phật tuy chẳng phải hoàn toàn không lợi ích, nhưng do tội khinh lờn ấy, trước phải bị nhiều kiếp đọa vào tam đồ. Đến khi tội hết, mới nương thân nơi nhân lành ấy, lại được nghe pháp tu hành, ăn chay niệm Phật, cầu về Tây phương để thoát đường sanh tử? Nếu hiện đời này hết lòng thành kính, thì hiện đời có thể nương sức từ của Phật đới nghiệp vãng sanh. Và một phen được vãng sanh, thì vượt phàm vào Thánh, thoát khỏi luân hồi, hằng xa lìa các sự khổ, chỉ thuần hưởng những điều vui.
Con người tu phước và tạo nghiệp, tóm lại chẳng qua ba nghiệp sáu căn. Sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Năm căn trước thuộc về thân nghiệp, một ý căn sau thuộc về tâm, tức là ý nghiệp. Ba nghiệp là nghiệp thân, khẩu, và ý.
Người học Phật, ban đêm không nên ở trần, mặc quần đùi mà ngủ. Vì một Phật tử lúc nào cũng phải gìn lòng như đối trước Phật. Đến bữa cơm không nên ăn quá độ, thức ăn dù ngon, hạp miệng cũng chỉ nên ăn tám chín phần mà thôi. Nếu ăn đủ mười phần thì kẻ khác bị thiếu, mà tạng phủ mình cũng thọ thương. Phước đức của phàm phu đâu có bao nhiêu, nếu thường ăn như thế, thọ lộc phải giảm. Vả lại khi ăn quá nhiều, thân tâm mờ mệt, nếu thực phẩm không tiêu, tất ra hơi dưới. Việc này rất không thanh nhã, tội lỗi rất to. Như sự đốt hương ở điện Phật chẳng qua là để tiêu biểu lòng cung kính, xét lại mùi thơm đâu có bao nhiêu? Nếu ăn quá no để cho ra hơi dưới. . . mùi hôi thúi xông đến Tam bảo, thì đời sau tất phải bị quả báo làm loài dòi. Vậy muốn tránh lỗi ấy, tốt hơn là nên ăn cho có điều độ. Thảng như bao tử yếu bị chứng hàn, món ăn khó tiêu, cảm thấy muốn ra hơi dưới, thì nên bước ra ngoài, đến chỗ trống cho ra, đợi khi hơi tan lại đi vào trong. Nếu có việc không ra ngoài được, thì phải dùng sức nén lại, giây phút hơi sẽ tiêu tan ở trong bụng. Có kẻ cho rằng làm như thế e sanh ra bệnh, lời này không nên nghe theo, vì nếu giữ một chút vệ sinh không đáng vào đâu mà để cho ra hơi dưới nơi điện Phật, nhà Tăng, thì khổ báo của tội lỗi còn nặng gấp hơn muôn phần. Trong giới luật của Phật chế, chưa nói đến việc này, có lẽ người xưa thân thể mạnh khỏe, không tham ăn, chẳng có điều bất nhã ấy, nên Phật chưa nói, nếu như có, tất Phật đã nói ra rồi! Vậy chớ cho rằng Phật không chế giới ngăn cấm điều ấy, mà tùy ý cho ra hơi dưới. Làm như thế là tự rước lấy sự đọa lạc, chừng ấy Phật muốn cứu độ cũng không biết làm sao? Thuở xưa đức Khổng Tử lấy tư cách bậc Thánh nhân đến chầu vị quốc quân phàm phu, khi còn ở dưới thềm sắp muốn bước vào triều, đã nén nhẹ hơi thở, huống chi lúc đối trước mặt vua? Cho nên, sách Luận Ngữ nói: “So vạt áo bước lên đền, thân mình cúi xuống, nhẹ hơi dường như không thở”. Chúng ta là phàm phu đầy nghiệp lực, đang lúc ở nơi điện Phật, một đấng trời trong hàng trời, Thánh trong hàng Thánh, là chỗ Tam bảo đầy đủ mà không để tâm thúc liễm, mặc ý cho ra hơi hôi thúi nơi dưới, tội lỗi ấy lớn biết chừng bao? Xin chớ cho rằng tôi nói ra đây việc không thanh nhã, tôi chẳng ngại gì mang tiếng không thanh nhã, chỉ sợ cho những kẻ thô suất lầm gây ra nhân đọa lạc làm loài dòi tửa đó thôi.
Người học Phật, sớm mai thức dậy và sau khi đại tiểu tiện đều phải rửa tay. Khi dùng tay gãi nơi thân, chà dưới chân cùng rờ các chỗ không sạch khác, đều cũng phải rửa. Dù tháng nóng nực, cũng không nên tự do mở nút áo để phơi ngực hoặc vén quần bày bắp vế. Tùy tiện khạc đàm hỉ mũi là một việc rất tổn phước. Chẳng những ở trong Phật điện, Tăng đường, không được hỉ nhổ, mà bên ngoài điện đường chỗ đất sạch sẽ cũng không nên làm việc ấy, vì nơi đất sạch mà bị khạc nhổ, thì liền hiện ra tướng dơ. Có người thô tháo không kiêng dè, cứ hỉ nhổ bừa trong phòng, trên đất, nơi tường, thành ra trong nhà chỗ nào cũng có đàm dãi. Kẻ ấy cho rằng khạc đàm là được thông trệ và bỏ chất nhơ ra ngoài, nhưng không dè mỗi ngày thường nhổ như thế thì bao nhiêu tinh hoa của chất ăn uống đều biến thành đàm, nhiều ngày sẽ sanh ra bệnh. Trong thân người có gì tinh sạch, tốt hơn là nên nuốt đi, lâu ngày sẽ không còn đàm nữa. Đây là phương pháp dùng đàm trừ đàm rất thần diệu. Nếu không nuốt được thì nên nhổ vào khăn tay, phải hành động cho khéo đừng để người thấy. Nhưng việc này cũng nhọc công và không sạch, chẳng bằng nuốt đi, đã không nhọc nhằn lại không bày ra sự nhơ nhớp; hơn nữa còn dứt được bệnh đàm. Vài điều trên đây, dường như không đáng nói, có kẻ lại cho rằng nhỏ nhặt không mấy để tâm. Nhưng người học Phật phải giữ tư cách lễ nghi và biết sợ tội, nếu chẳng thế thì thành ra kẻ thô tháo sỗ sàng, hiện đời phước giảm tội thêm, kiếp sau phải bị đọa lạc.
Đại sư Ấn Quang Thường nói: Muốn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp, thì phải hướng về Tâm cung kính mà cầu. Có một phần cung kính thì tiêu một phần tội nghiệp, tăng phước huệ một phần. Có mười phần cung kính thì tiêu mười phần tội nghiệp, tăng phước huệ mười phần. Nếu không cung kính đến nổi khinh lờn thì tội nghiệp sẽ tăng, phước huệ cũng giãm. Nếu như không có tâm chân thành cung kính, quí vị ngày ngày bên cạnh Phật, Bồ Tát, theo họ cả đời quí vị vẫn là phàm phu, không học được gì cả. Thứ quí vị học được không tách rời sanh tử luân hồi, đây là điều khó của Phật pháp.
Ấn Quang Đại sư lớn tiếng kêu gọi, dạy cả một đời rồi, được mấy người nghe hiểu? Được mấy người giác ngộ? Đó chính là một phần thành kính một phần lợi ích, mười phần thành kính mười phần lợi ích.
Chuyện như vậy nay thấy nhiều lắm.
Con người hiện thời coi kinh Phật như giấy cũ, để lẫn lộn kinh với những thứ khác trên án kinh, tay chẳng rửa ráy, miệng không súc sạch, thân đung đưa, chân gác lên, thậm chí phóng thí, gãi chân, hết thảy phóng túng chẳng e sợ mà muốn đọc kinh để được phước tiêu tội thì chỉ có ma vương muốn tiêu diệt Phật pháp mới chứng minh, tán thán, bảo là hoạt bát viên dung, phù hợp sâu xa với diệu đạo chẳng chấp trước của Đại Thừa! Phật tử chân tu thực sự tu hành, trông thấy chỉ đành ngấm ngầm đau lòng, lặng lẽ ứa lệ, than thở quyến thuộc ma hoành hành, chẳng biết làm sao!
Phật pháp đến nay suy tàn quá đỗi. Chúng sanh mờ mịt như kẻ mù không ai dẫn đường. Dẫu có một hai thiện tri thức khai thị, nhưng do nghiệp sâu chướng nặng, chánh trí chẳng khai, tuy nghe chánh pháp, chẳng sanh tin tưởng. Dẫu sanh tin tưởng cũng vẫn là phù phiếm, như say, như mộng, trọn chẳng có định kiến. Vừa gặp tà ma, ngoại đạo bèn như nhặng bu theo mùi thối, như thiêu thân đâm đầu vào lửa. Kiến bu, chim tụ, xúm xít muôn ngàn.
THẬT VÌ SANH TỬ, PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
Dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật
Có thời gian nên niệm Phật nhiều
Có thời gian nên lạy Phật nhiều
Có thời gian nên tụng kinh nhiều
Có thời gian nên nghe pháp nhiều
Không nên ăn uống ngủ nghỉ nhiều
Không nên nói chuyện suy nghĩ nhiều
Không nên phân biệt chấp trước nhiều
Không nên phan duyên ra bên ngoài nhiều
Thân người khó được Phật pháp khó nghe
Pháp môn Tịnh độ khó gặp khó tin
Liễu sanh thoát tử là việc quan trọng
Hãy nên quý trọng nghiêm túc tu học
Bí quyết thành công: thành thật, nghe lời, thật làm
Nhất môn thâm nhập trường kỳ huân tu
Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn
Duyên khi lở hẹn một giờ, lần sau muốn gặp phải chờ ngàn năm
Không học Phật không hết ngu, không lo tu không hết khổ
Xin thường niệm A Di Đà Phật
Khi tôi bái cụ Lý Bỉnh Nam làm thầy, thầy đặt ra ba điều kiện. Ba điều kiện ấy là ba điều giới luật:
- Điều kiện thứ nhất, chỉ cho phép nghe cụ giảng kinh. Trừ cụ ra, bất luận kẻ nào giảng kinh cũng chẳng được phép nghe.
- Điều kiện thứ hai, xem sách Phật hoặc sách thông thường, nếu chẳng được cụ đồng ý, chẳng được phép xem.
- Điều kiện thứ ba càng hà khắc hơn: “Những gì anh đã học trước đây tôi đều chẳng thừa nhận, nhất loạt bỏ đi. Nay anh đến chỗ tôi để học thì phải học lại từ đầu!”Điều kiện này rất lợi hại, thầy nói gì chỉ được phép nghe theo, chẳng thể biện bác, nói “trong quá khứ, con đã xem ở đâu đó, chẳng giống như thầy nói”. Thầy bảo: “Tôi chẳng thừa nhận điều ấy, bỏ nó đi!”Vì thế, ngay cả cơ hội nói năng cũng chẳng có, chỉ đành ngoan ngoãn nghe theo. Bản thân tôi không giỏi gì, chỉ thành thật, nghe lời, nỗ lực học năm năm. Tôi rất tuân thủ phương pháp này của ông, nửa năm có lợi ích, chính mình liền có cảm xúc rất sâu, vọng niệm giảm. Chúng ta lạy một người làm thầy, chúng ta theo một vị thầy học thì phải theo chắc vị thầy này. Ngoài thầy ra, người khác đến dạy cho ta, nếu ta nghe họ và đi theo họ thì không còn là học trò của thầy giáo này. Người thế gian gọi là khinh sư phản đạo. Cho nên thời trước thầy giáo kèm thúc học trò, trừ khi cùng học với một mình thầy ra, bất cứ thiện tri thức nào khác giảng kinh nói pháp đều không được nghe. Việc ngăn cấm này tốt, giúp học trò không đến nỗi vượt qui. Vì sao? Học trò khi mới học, trí tuệ chưa khai mở, thế pháp Phật pháp chưa phân biệt thứ nào thật, thứ nào giả; chưa phân biệt tà chánh, thiện ác phải quấy, thậm chí đến lợi hại. Người sơ học không có trí tuệ không thể phân biệt. Không cần nói chân vọng tà chánh, nếu bạn không có năng lực phân biệt thì lợi hại trước mắt bạn cũng đều không thể phân được rõ ràng. Cho nên làm học trò có điều kiện để làm học trò; làm thầy giáo có bổn phận của thầy giáo. Điều kiện của học trò là nhất định phải phục tùng thầy giáo, tôn sư trọng đạo. Chúng ta theo một vị thầy giáo thì nhất định phải nghe lời dạy của thầy.
Vì pháp này truyền qua nhiều thế hệ, từ đời này sang đời khác. Bây giờ không còn nữa.
Bây giờ dùng phương pháp này của cổ nhân, người trẻ tuổi chịu không nổi, không thể tiếp nhận. Cho nên pháp đã bị đoạn, pháp đã bị diệt. Hiện nay yêu cầu điều gì? là tự động tự phát. Bây giờ người thật sự phát đại tâm rất ít, quả là hiếm thấy. Đây là sao? Đối với nhận thức về pháp này, họ không quen, không biết pháp này là tốt. Chúng ta ở trong xã hội này, tâm mình có thể không thay đổi sao? Xem nặng danh lợi, thì nhân tâm lập tức thay đổi.
Chúng ta học Phật, học đến cuối cùng rồi sao? Khó khăn thất vọng, học đến không ai để ý đến chúng ta.
Người khác giúp không nổi, nhất định phải tự mình giác ngộ, tự độ chính mình, sửa lỗi lầm, sửa tập khí, sửa tâm lý, đọc tụng Ðại Thừa, y giáo phụng hành như vậy mới có thể thành tựu.
Nếu đời này chẳng thể khắc phục chướng nạn của mình, khắc phục tập khí tật xấu của mình, vẫn cứ theo thói cẩu thả, chúng ta đời này cũng giống như những đời trước, chỉ kết duyên cùng đức Phật A Di Ðà, cùng đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và Ðịa Tạng Bồ Tát, đời này vẫn chẳng thể thành tựu. Duyên đã kết rất sâu, kinh Di Ðà nói: ‘Chẳng thể dùng ít thiện căn, phước đức, nhân duyên được sanh cõi ấy’, duyên này đã kết từ nhiều đời nhiều kiếp, vô lượng kiếp qua đã kết duyên sâu đậm này, nhưng duyên vẫn chẳng thể thành tựu, vẫn còn thiếu một đoạn, tức là chẳng thể khắc phục phiền não tập khí của mình, đọc kinh nghe pháp chẳng thể thâm giải nghĩa thú; hình như đã hiểu rồi, nhưng thực sự chưa hiểu, làm sao biết bạn chưa hiểu? Vì bạn chưa làm được. Nếu bạn đã hiểu rồi thì nhất định sẽ làm được. Tại sao? Biết giá trị của món hàng, đã nhận thức rồi. Trên hai bàn, một bên thì để nắm đất, một bên thì để vàng ròng, nếu tặng cho bạn một thứ, chỉ có thể lấy một thứ thì bạn lấy cái nào? Bạn nhất định sẽ lấy vàng. Tại sao? Vì bạn biết giá trị của nó. Trong kinh điển Phật dạy chúng ta ‘thâm giải nghĩa thú’ (hiểu sâu ý nghĩa), giải khó, hành dễ, tại sao bạn làm không được? Vì bạn chẳng hiểu, bạn chẳng liễu giải, Phật pháp đích thật là: biết thì khó, làm thì dễ. Bởi vậy đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng kinh thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm là vì: biết thì khó, hành chỉ trong vòng một niệm. Một ý niệm chuyển đổi trở lại thì liền siêu phàm nhập thánh, ý niệm chẳng chuyển là vì ‘giải’ chẳng thấu suốt, chẳng thâm nhập.
Chúng ta học Phật tuyệt chẳng phải chỉ học đời này thôi đâu, trong kinh Vô Lượng Thọ chúng ta thấy nhóm người cùng vua A Xà Thế, nói thực ra chính là nói chúng ta, nhiều đời quá khứ đã từng cúng dường bốn trăm ức Phật, đến nay vẫn còn là phàm phu, vẫn luân chuyển trong sáu nẻo. Cúng dường bốn trăm ức Phật, tu hành, nghe pháp chẳng ít, tại sao vẫn không thể thoát khỏi Tam Giới? Tại sao chẳng thể vãng sanh? Ðây là như lúc trước thầy Lý thường nói trong một vạn người niệm Phật khó có được hai, ba người vãng sanh. Bạn đừng coi những người vãng sanh, vãng sanh có tướng lành, có thể họ nghe kinh rất ít, nghe pháp chẳng nhiều, nhưng họ thật sự đã vãng sanh. Bạn lại hỏi thăm kỹ, người này nhất định hiếu thuận cha mẹ, tôn kính sư trưởng, tâm địa rất từ bi. Bạn hỏi thăm xem trong đời sống hằng ngày, xử sự đãi người tiếp vật, họ tuyệt đối phù hợp điều thứ nhất trong Tam phước, có ai dạy họ không? Chẳng có ai dạy họ. Họ vốn là như vậy, họ làm người rất từ bi, rất kính trọng người, họ thật sự làm được. Chúng ta chẳng bằng họ, tại sao vậy? Chúng ta mới đọc được một ít sách vở, học được một ít Phật pháp bèn cống cao ngã mạn, cảm thấy mình rất giỏi, người ta chẳng bằng mình. Họ có thể vãng sanh, chúng ta ngược lại bị lọt tuốt phía sau, còn phải luân hồi, tại sao? Họ chưa từng đọc sách, chẳng biết chữ, rất khiêm tốn, rất nhún nhường, luôn cảm thấy mình chẳng bằng người, nhưng họ đã vãng sanh được. Thế nên càng học nhiều, lúc trước thầy Lý nói lúc chưa học thì còn biết hiếu thuận cha mẹ, học cao rồi, cha mẹ chẳng có học, học vấn cấp bằng của họ cao hơn cha mẹ nhiều, học càng cao thì con mắt càng chạy lên trên đỉnh đầu, ngay cả cha mẹ cũng chẳng coi ra gì, vậy thì làm sao có thể tôn kính sư trưởng! Người như vậy, một ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu cũng chẳng thể vãng sanh. Thế nên chúng ta nhất định phải hiểu đạo lý này, y giáo phụng hành mới chẳng đến nỗi lãng phí đời này.
Chúng ta thấy xã hội ngày nay, quý vị quan sát tường tận người trên thế giới hiện nay, họ khởi ý niệm gì? Khởi tâm động niệm là gì? Ngôn ngữ của họ ra sao? Tạo tác của họ như thế nào? Kinh Địa Tạng nói rằng: “Không có gì không phải nghiệp, không có gì không phải tội lỗi”. Như vậy mới biết, họ đáng thương biết bao, tiền đồ của họ là ba đường ác. Quả là đáng thương, đúng là khổ, sao ta có thể oán hận họ? Vì sao họ làm như vậy? Vì mê hoặc. Mê đắm trong thất tình ngũ dục, mê quá sâu nặng. Chúng ta phải hiểu đạo lý này.
Nhìn thấu, xem nhẹ thất tình ngũ dục, công phu này rất khá. Không có thời gian học tập lâu dài, họ không làm được. Mà học tập đáng quý nhất là không được gián đoạn, một ngày nỗ lực, mười ngày giải đãi, nó không khởi tác dụng.
Xã hội này là một bể nhuộm lớn, bể nhuộm rất nghiêm trọng, mình có thể không bị nó ảnh hưởng chăng? Khiến chúng ta nghĩ đến phương pháp dạy học của cổ nhân: “Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Tám chữ này có thể cứu người thế gian hiện nay. Cho dù học Phật cũng không được học tạp, cũng không được học nhiều. Học nhiều dễ phân tâm, tâm không chuyên nhất, không chuyên nhất dễ bị cảnh giới bên ngoài ảnh hưởng. Nhất định phải thâm nhập, nhất định phải chuyên, chính là ở đây nói “thấu triệt”. Nếu không thâm nhập sao có thể thấu triệt? Học mười bộ kinh muốn thấu triệt, không bằng học một bộ kinh mà thấu triệt. Một bộ kinh dễ thấu triệt, mười bộ kinh không dễ thấu triệt, vì sao vậy? Vì bị phân tâm, không đủ tinh chuyên. Huống gì hiện nay sức mạnh chúng ta rất yếu kém, không kiên cường, dùng vào một môn dể thấu triệt, có chút hy vọng. Ba môn, bốn môn, năm môn, sáu môn không hy vọng, học như vậy là sao? Chỉ học được cái vỏ bên ngoài, không mang đến lợi ích. Vì sao gọi là không có lợi ích? Vì không chống cự nổi sự ô nhiễm bên ngoài, đúng là không hữu ích. Gặp việc xứng tâm vừa ý còn khởi tham luyến, gặp chuyện không như ý còn khởi sân nhuế, đúng là không hữu ích. Hữu ích là có thể hàng phục phiền não, thất tình ngũ dục hiện tiền có thể khắc phục nó, giữ được tự tánh tâm thanh tịnh, không bị bên ngoài làm dao động. Công phu thật sự, bản lĩnh thật sự.
Lúc tôi mới học, tôi học với thầy Lý tại Đài Trung, muốn theo thầy học giáo lý. Thầy đưa ra ba điều kiện và hỏi tôi có thể chấp nhận được không? Chấp nhận được thì có thể hoan nghênh tôi, lúc đó tôi đang ở tại thư viện Từ quang. Thư viện này do thầy sáng lập, có thể ở lại thư viện tu học.
Điều kiện thứ nhất, bắt đầu từ hôm nay, những gì ông đã học trong quá khứ, thật ra trước đó thời gian tôi học không dài, chỉ học với hai thầy giáo, một là thầy Phương Đông Mỹ, một thầy nữa là Đại sư Chương Gia. Những thứ hai thầy giáo của ông dạy ông tôi đều không thừa nhận, hoàn toàn vứt bỏ. Từ hôm nay trở đi sẽ theo tôi học lại từ đầu, đó là điều kiện thứ nhất.
Điều kiện thứ hai, bắt đầt từ hôm nay, tất cả chữ nghĩa ông đọc được, bất kể là kinh Phật hay là những thứ thuộc thế gian, chưa có sự đồng ý của tôi thì không được xem.
Điều kiện thứ ba, bắt đầu từ hôm nay, trừ nghe tôi giảng kinh ra, bất cứ pháp sư đại đức nào giảng kinh cũng không được nghe.
Đưa ra cho tôi ba điều kiện như vậy, tôi vừa nghe xong, nghĩ bụng thầy giáo sao mà tự đại đến vậy. Chỉ có thể nghe một mình thầy, không được nghe những người khác giảng. Tôi lặng người đi, suy nghĩ độ năm phút, tôi bèn chấp thuận. Là ba điều kiện bái sư do chư tổ để lại. Vì sao hạn chế quí vị? Vì trí tuệ của quí vị chưa đủ, nghe nhiều sẽ nhiễu loạn, quí vị sẽ không thể thành tựu. Những điều này thầy không cho tôi biết, chính xác là “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Quí vị theo thầy chỉ có thể theo một thầy. Thầy giáo có trách nhiệm dạy dỗ quí vị thành tựu. Tức là nói quí vị ở trong pháp hội của thầy đắc trí căn bản, đắc tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sinh trí tuệ, có trí tuệ rồi, thầy giáo sẽ giải phóng cho quí vị, tất cả đều đi tham học, học ở đâu cũng được, Vì sao vậy? Vì đã có năng lực phân biệt chánh tà, phân biệt chân vọng, phân biệt đúng sai, quí vị có năng lực phân biệt rồi. Quí vị chưa có năng lực này, mà quí vị đi tham học thì hỏng rồi, quí vị sẽ bị hủy hoại. Đây là sự bảo vệ của thầy giáo đối với học trò. Cần thời hạn, thầy Lí nói xong, tôi đã đáp ứng, đã chấp nhận, thầy giáo nói cần thời hạn, cần bao lâu? Năm năm. Chúng ta mới hiểu được cổ nhân nói năm năm học giới, chính là là ba điều giới này, không phải giới nào khác. Đó chính là ba điều quy ước của thầy giáo đối với học trò. Ngày nay không còn nữa. Vì sao ngày nay không còn nữa? Thầy giáo không có trách nhiệm đối với học trò nữa. Với những đều kiện này, thầy giáo phải tuyệt đối có trách nhiệm với học trò. Tức là thầy giáo phải dẫn dắt học trò từ mê đến giác ngộ, giúp họ phá mê khai ngộ, giúp họ phá mê sinh tín. Họ khai mở trí tuệ rồi, có năng lực phân biệt đúng sai, chánh tà, thì có thể mở cửa cho học trò đi tham học, không quan tâm nữa, lúc này việc tham học đối với quí vị chỉ có lợi ích, không có tai hại.
Xã hội ngày nay, lúc nào ở đâu không ô nhiễm nghiêm trọng, cám dỗ, quí vị có đủ sức để chống lại không? Quí vị không đủ năng lực nhất định sẽ bị nó đồng hóa, quí vị liền đọa lạc. Cho nên ngày nay tu học Phật Pháp khó lắm, khó lắm! Chúng ta dùng ba điều kiện ngày xưa này, thầy Lý đối với tôi, tôi còn có thể chấp nhận, người thông thường không chấp nhận được. Lúc quí vị đưa ra những điều kiện này, họ ngoảnh đầu mà đi, người cao minh hơn ông nhiều lắm, việc gì tôi phải chịu sự trói buộc của ông. Hiện tại, những điều này, lớp trước đối với tôi còn có thể chấp nhận được, tôi mà dùng đến chiêu này thì không có ai nữa, không thể có chuyện đó. Chúng tôi cũng không dám dùng chiêu này. Tổ tổ truyền nhau, điều kiện truyền pháp cơ bản chính là ba điều này.
Kinh Di đà cho chúng ta biết: “Không thể có ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh sang đó”.
Thiện căn mỏng quá, không được, phước đức mỏng quá cũng không được, nhân duyên không đầy đủ cũng không được. Muốn cả ba điều kiện này hợp lại một chỗ là chuyện không dễ dàng, thân người khó được, Phật pháp khó được nghe, nghe được Tịnh độ phải đủ ba điều kiện đó, trong kiếp này quí vị mới thành tựu, ba điều kiện không đầy đủ thì kiếp này quí vị không có phần. Không có phần ở đây được hiểu là quí vị đang ở trong sáu đường, như thế là rắc rối, chúng ta phải muốn vượt thoát luân hồi ngay trong kiếp này, nhưng nếu một trong ba điều kiện trên không đủ, thì phải thêm vào! Ngay trong kiếp này chúng ta có thể bổ sung vào, nên bổ sung bằng phương pháp nào? Tín nguyện trì danh là có thể bổ sung vào được, chúng ta cố gắng làm, buộc mình phải nghe kinh thính pháp, niệm Phật, nếu nghe kinh mà bổ sung thiện căn chưa đủ, niệm Phật chưa đủ để bổ sung phước đức, khi đủ duyên, duyên trong hiện tại chúng ta đang gặp, khi gặp được nó sẽ hội tụ. Ta gặp những lời chú giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, duyên của ta đã đầy đủ, gặp được, nhưng có tin hay không? Liệu có hiểu nổi không? Đấy là thiện căn. Tôi không thể tin, vẫn cứ đọc, đọc mãi rồi phải tin, tại sao? Đã hiểu lí lẽ. Mục đích giảng kinh của đức Phật trong bốn mươi chín năm cũng ở chỗ này, nghĩa là giúp tất cả mọi người đoạn nghi sinh tín, đây là mục đích, mục tiêu hàng đầu của kinh điển, mục đích của việc dạy học, giảng kinh trong bốn mươi chín năm là ở đây. Ngày nay chúng ta đọc nhiều, nghe nhiều, từ từ sẽ có niềm tin, thiện căn được bổ sung thêm. Phước đức là gì? Một hướng chuyên niệm, một hướng chuyên niệm sẽ thực sự có phước, phước đức lớn. Phần trước chúng ta đã nói rất cụ thể, không cần phải tu công đức nào nữa, công đức này đã tròn đầy rồi, chỉ cần siêng năng niệm Phật thì công đức nào cũng tròn đầy. Quí vị muốn nó làm gì nữa? Những thứ khác đâu có tác dụng gì. Siêng năng tụng niệm kinh Vô Lượng Thọ, siêng năng niệm danh hiệu Phật A di đà, như thế là mỗi ngày quí đều tu công đức viên mãn rồi, nghiệp chướng đã tiêu trừ.
Bản thân chúng ta từ sáng đến tối, trong cảnh giới này bản thân không thể phát giác được. Người tu hành có công phu, họ có thể phát giác ra được. Phàm phu từ sáng đến tối không biết bản thân đang làm gì. Thực sự mà nói, ngay cả thế nào là thiện, thế nào là ác, được mấy người có thể phân biệt cho rõ ràng được? Trong Liễu Phàm Tứ Huấn nói rất hay, đó chỉ là lời nhắc nhở, thiện có chân thiện, có giả thiện, có đại thiện, có tiểu thiện, trong thiện có ác, trong ác có thiện, rất phức tạp. Không có trí tuệ tương đối khá thì quí vị làm sao mà phân biệt được? Cho nên từ sáng đến tối không biết bản thân đang làm gì, không biết bản thân đang nghĩ những gì. Người thế gian chúng ta nói sống mơ mơ màng màng. Thực sự là mơ mơ hồ hồ sanh đến thế gian này, mơ mơ hồ hồ sống qua một đời, mơ mơ hồ hồ mà chết đi, mơ mơ hồ hồ luân chuyển trong lục đạo. Cho nên Đức Phật gọi là “kẻ đáng thương”. Phật Bồ Tát có từ bi, có phương tiện hướng dẫn tất cả chúng sanh, chúng sanh không chịu tiếp nhận, vậy là hết cách rồi. Chúng sanh lúc nào mới giác ngộ? Lúc nào hồi đầu? Lúc nào thoát ly tam giới lục đạo, làm Phật làm Bồ Tát? Đều do gặp duyên không đồng. Duyên này quan trọng biết bao. Trong duyên quan trọng nhất là duyên thiện tri thức. Thân cận thiện tri thức là nhân tố thứ nhất. Thế Tôn trong A Nan Vấn Sự Phật Kiết Hung Kinh, câu đầu tiên đã nói với chúng ta thân cận thiện tri thức. Thân cận thiện tri thức quí vị phải có trí tuệ nhận biết được thiện tri thức. Người thế gian đáng thương nhất là xem thiện tri thức thành ác tri thức, coi ác tri thức thành thiện tri thức. Vậy thì một đời hỏng mất rồi. Đối với thiện tri thức nhận biết không rõ ràng, nhận thức không thấu triệt, cho nên không thể trân trọng, coi trọng nhân duyên này. Chư vị có thể suy nghĩ xem.
Ngày xưa Đại sư Chương Gia tại thế là chân thật thiện tri thức, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam tại thế đó cũng là chân thật thiện tri thức. Người ngày ngày theo thầy học không ít, rất nhiều, có được mấy người trong hội của thầy có thể khai ngộ? Được lợi ích chân thật? Rất ít rất ít. Nguyên nhân là gì? Tuy quen biết, pháp sư này rất tốt, cư sĩ này rất hiếm có, nhưng vẫn không nhận biết rõ ràng. Cho nên không thể trân quý một nhân duyên gặp gỡ đó. Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam trụ tại Đài Trung 38 năm, đích thực có người thân cận ông đến 38 năm, 38 năm vẫn không khai ngộ, 38 năm không có được lợi ích chân thật. Nguyên nhân là gì? Không biết trân trọng. Ngày ngày sống cùng nhau, giống như bạn bè bình thường kết giao vậy thôi. Người nghe thầy Lý giảng kinh thuyết pháp, nghe xong rồi như gió thoảng qua tai, nghe vào lỗ tai này, qua lỗ tai kia đi mất, không để ý. Cho nên lợi ích chân thật không đạt được. Tôi đến Đài Trung, tôi trân trọng nhân duyên này, nguyên nhân là gì? Tôi không phải là người Đài Trung, tôi ở Đài Trung không có chỗ ở, là đến nơi đó để tham học, vì thế thời gian mỗi ngày tôi đều rất trân quý, bởi vì tôi biết, thời gian tôi ở Đài Trung theo thầy Lý học tập sẽ không dài lắm, bất cứ khi nào người ta không vui, thì chúng tôi phải ra đi, xem sắc mặt của người ta mà sống qua ngày, bất cứ lúc nào cũng có khả năng ra đi. Vì thế cơ duyên mỗi ngày tôi rất coi trọng, tôi rất trân quý. Như vậy mới có được một chút lợi ích thực sự. Người có nhà ở Đài trung, tâm tình này sẽ khác, cảm thọ sẽ không tương đồng, họ ở Đài Trung có hộ khẩu, sống một đời tại Đài Trung thời gian theo học thầy Lý cũng dài, hôm này không học được cũng không sao, còn có ngày mai mà, năm nay chưa biết cũng không lo, còn có sang năm mà, ngày tháng sau này còn dài, nên sơ suất mất, không biết trân trọng. Cho nên ngày ngày giao tiếp với nhau, nhưng không học được gì cả. Chúng tôi người bên ngoài đến, cơ duyên vô cùng khó được, vô cùng khó khăn, đối với mỗi một câu giáo huấn của thầy giáo đều rất nghiêm túc mà học tập. Có được lý giải chính xác, y giáo phụng hành. Đây đều là lời của Đại sư Thiện Đạo nói “cơ duyên không đồng”. Những sự thật này, từ xưa đến nay thường có. Cho nên người quây quần bên cạnh thiện tri thức mỗi ngày, không thấy được lợi ích chân thật. Vì vậy trân quí cơ duyên trở thành vô cùng quan trọng.
Như thế nào gọi là nghe hiểu? Tiêu chuẩn của hiểu là làm được, nếu nghe mà không làm được, chưa hiểu, đây là thật. Nếu là hiểu, sao có chuyện không thực hành? Vì sao vậy? Thực hành sẽ thành Phật, thực hành sẽ thoát ly khổ hải, thoát ly luân hồi lục đạo, sao ta có thể không thực hành? Không có đạo lý này. Ta vẫn không chịu thực hành, chắc chắn là chưa nghe hiểu; quý vị nói tôi không tin, tôi đã nghe hiểu, tôi cũng nói được. Máy ghi âm đều nghe hết, không sót chữ nào, còn cao minh hơn quý vị, máy ghi âm có hiểu chăng? Không hiểu. Quý vị nói mình nghe hiểu, vẫn không bằng máy ghi âm. Máy nghi âm ngày ngày đang nghe pháp, nó có thể thành Phật chăng? Nó không thể thành Phật. Vì sao không thể thành Phật? Vì không hiểu! Quý vị hiểu rồi hay chưa hiểu, phải dùng phương pháp này để kiểm nghiệm.
Khi tôi mới học Phật, thảo luận với Đại sư Chương Gia về điều này, chính là sự của tri và hành. Ngài nói với tôi, Phật giáo đúng là khó hiểu dễ hành. Vì sao vậy? Hành chính là quán niệm, trong một niệm, thay đổi ý niệm liền siêu phàm nhập thánh, dễ hành. Khi niệm Phật, Kinh Di Đà nói nếu một ngày cho đến bảy ngày, liền có thể vãng sanh. Vãng sanh ở mức độ nào? Thương thượng phẩm vãng sanh, có gì khó đâu! Khó ở đâu? Khó ở chổ ta không hiểu. Đức Phật nói pháp cho chúng sanh suốt 49 năm, giảng kinh hơn 300 hội, tận tâm tận lực, được mấy người hiểu? Người hiểu đều thành tựu, đều chứng quả; người không hiểu cứ từ từ. Trường hợp này trong kinh Phật gọi là người thuần thục độ trước, thuần thục là người căn tánh thuần thục, căn tánh thuần thục là người nghe hiểu, họ được độ trước, vượt thoát mười pháp giới, họ làm Phật, làm pháp thân đại sĩ. Không hiểu, chúng ta nhất định phải nhớ điều này, chúng ta không làm được tức chưa hiểu, ta có thái độ tu học này mới thành tựu được. Vì sao vậy? Biết mình không được, không hiểu. Nếu chưa hiểu mà cho rằng đã hiểu, cửa ngộ của quý vị bị chướng ngại; hay nói cách khác, đời này không hy vọng khai ngộ, quý vị tự cho rằng đã hiểu.
Đây là căn bệnh rất nặng trên con đường cầu học, một vị thầy dạy học sinh, quan sát học sinh, xem học sinh có thật sự hiểu chăng, có thành tựu chăng, đều qua sát trên các phương diện này. Học sinh này có dạy được chăng, cũng quyết định ở đây, nghĩa là quý vị có thể khiêm tốn, biết mình không hiểu, thầy sẽ dạy quý vị. Tự cho đã hiểu, thầy không dạy, vì sao vậy? Dạy cũng vô ích, không thâm nhập được, họ đã đầy, không tiếp thu thêm được; học sinh đọa lạc thầy cũng hết cách. Tôi cũng từng thỉnh giáo thầy Lý những vấn đề này, thầy Lý lắc đầu, hết cách. Thầy nói rất hay, căn tánh này không những ta không cứu được, Phật đến cũng không cứu được. Tôi thấy, lời thầy nói rất có lý. Vì sao vậy? Vì người học tự mãn, tự cho mình hiểu, thầy còn cách gì khác? Đến đây là chấm hết, không sao nói tiếp được, vì sao vậy? Vì quý vị đã hiểu. Học sinh thật sự, chưa làm được là mình chưa hiểu, phải cầu thầy giúp đở. Bởi vậy tiêu chuẩn đặt ở chổ ta có làm được chăng. Hiểu được nhiều hay ít là xem quý vị thực hành được bao nhiêu, hiểu một phần thì làm một phần, chắc chắn, quý vị hiểu mười phần nhất định làm mười phần, đây là sự thật. Tương lai quý vị họcgiảng kinh thuyết pháp quán cơ, đây là một nguyên tắc quán cơ quan trọng.
Nhưng thực tế mà nói, muốn giúp người khác, trước tiên phải thành tựu chính mình. Trong hàng Bồ Tát, ai không thành tựu chính mình sau đó mới giúp người? Bản than thành tựu, bất luận nhiều hay ít, cần phải có một chút thành tựu, như vậy mới có thể giúp người; nếu bản thân không có chút thành tựu nào, ta không sao giúp được người khác. Không những không thể giúp người khác, ngược lại còn sợ bị chúng sanh độ mất; quý vị không độ được chúng sanh, còn bị chúng sanh độ. Hôm nay tôi nghe một đồng tu nói, có một vị xuất gia tu hành rất tốt, ở trên núi đã nhiều năm, không nói một câu, đúng là “thiện hộ khẩu nghiệp, không nói lỗi người”, tịnh ngữ được bao nhiêu năm. Về sau bị người phát hiện, mời ông hạ sơn, nghe nói không bao lâu, ông hoàn tục hạ sơn, còn sanh con đẻ cái, chẳng phải đã bị người độ mất ư? Có thể thấy vấn đề này không dễ, khó khăn vô cùng! Cho nên chúng ta tu hành, nền tảng không vững vàng, không được xa thầy, xa thầy liền xảy ra phiền phức. Lúc tôi học Phật, thầy Lý yêu cầu tôi học với thầy 5 năm, tôi nhận ân đức của thầy sâu sắc, được lợi ích của ngài. Thầy yêu cầu tôi 5 năm, tôi tự động kéo dài thêm 5 năm, vậy là theo thầy mười năm, mười năm mới xa thầy. Bản thân nhất định phải biết, nền tảng phải vững chắc, phải ổn định. Lìa xa thầy, quý vị đi vào xã hội, xã hội muôn màu muôn vẻ, có thể nói là môi trường quần ma loạn vũ, quý vị có thể chống chọi được hoàn cảnh này, không dao động, không thoái chuyển, không dễ chút nào.
Đương nhiên thuyết pháp phải quán cơ, ở đâu có duyên thì đi đến đó, duyên chưa thuần thục, giúp họ, thúc đẩy họ, duyên thuần thục, giáo hóa, độ thoát họ, rất linh động. Tuy nhiệt tâm giáo hóa chúng sanh như vậy, “mà không động vô sở y”, chúng ta phải học điều này. Đặc biệt không được để cảnh duyên làm dao động, nếu bị cảnh duyên làm dao động sẽ bị đọa lạc. Từ xưa đến nay, rất nhiều pháp sư giảng kinh thuyết pháp bị đọa lạc, vì sao bị đọa lạc? Chính là do không tuân thủ nguyên tắc này. Bất luận xuất gia hay tại gia, đặc biệt quý vị giảng kinh giáo không tệ, thính chúng rất hoan nghênh, tiếp xúc với nhiều người, con người có tình cảm, nếu ta không cẩn thận, không thận trọng để rơi vào trong lưới tình là xong, không sao thoát ra được, quý vị độ chúng sanh ai ngờ cuối cùng bị chúng sanh độ mất tiêu, rất nhiều. Lúc tôi học kinh giáo với thầy Lý, thầy hạn chế tôi trước 40 tuổi không được ra bên ngoài giảng kinh thuyết pháp, vì sao vậy? Sợ bị người độ mất, sau 40 tuổi hơi có chút định lực, tôi tuân thủ nguyên tắc này. Trước 40 tuổi học giảng kinh ở đâu? Giảng ở nhà, không được ra bên ngoài giảng. Như chư vị đồng học hiện nay, quý vị có thể giảng tại Cư Sĩ Lâm, không được đi giảng bên ngoài, ra bên ngoài giảng rất nguy hiểm, đây là nói đến tình cảm con người, cửa ải đó rất khó vượt qua. Thứ hai, hoàn cảnh có thuận cảnh có nghịch cảnh, nghịch cảnh dễ thoái chuyển, thuận cảnh dễ đọa lạc, rất phiền phức.
Ở đây Đức Phật dạy chúng ta, “thuyết pháp khắp mười phương mà bất động vô sở y”. Bất động là gì? Là tâm bất động, bình thản trước nhân tình thế thái, không bị nó làm dao động. Người này tốt với mình, thường thân cận cúng dường mình, ta có thể ứng phó họ, không được động tâm; hoàn cảnh cũng như vậy, ngày nay hoàn cảnh rất thù thắng, hoàn cảnh không tệ cũng không được động tâm. Trong Kinh Kim Cang nói: “Không chấp trước tướng, như như bất động”, như vậy mới giữ được tâm bồ đề, mới giữ được sự tinh tấn không bị thoái chuyển, điều này rất quan trọng. Hay nói cách khác, người hoằng pháp lợi sanh bất luận tại gia hay xuất gia tuyệt đối không được để danh lợi làm dao động, bao nhiêu người thất bại, đọa lạc vì không đột phá được cửa ải danh văn lợi dưỡng này, xưa nay người bị danh văn lợi dưỡng đào thải nhiều vô số. Trước đây tôi cũng từng giảng chổ này, quý vị Phật tử hộ trì đạo tràng, hộ trì pháp sư trẻ, cần phải sáng suốt, phải có trí tuệ, khi họ gặp khó khăn có nhu cầu hãy giúp họ, không cần thiết không khó khăn không được giúp, giúp nhiều dễ sanh khởi tâm tham. Nhà Phật thường nói sơ phát tâm người người đều là Bồ Tát, dư sức thành Phật, vì sao xuất gia vài năm sau liền đọa lạc? Đều do sự cúng dường của Phật tử làm hư họ. Họ thấy tiền, tiền càng nhiều tâm tham càng nặng, họ thấy danh, thấy quyền lực, thấy địa vị, tâm tranh đoạt khởi lên, đánh mất đạo tâm, tạo nhiều tội nghiệp, tương lai đọa vào ba đường ác. Chúng ta phải cận thận, thận trọng đối với việc bố thí cúng dường, chúng ta đem đến lợi ích cho họ, tuyệt đối không được hại họ, không thể vì bố thí cúng dường mà khiến họ khởi tham sân si, khiến họ tạo ác nghiệp; họ tạo ác nghiệp đọa lạc, quý vị cũng bị liên lụy, không thể nói không liên quan đến quý vị, không tránh khỏi liên quan. Do đây có thể biết, nhà Phật bất luận là xuất gia hay tại gia tu học, cần phải có trí tuệ cao độ, chúng ta mới có thể bảo toàn. Vì thế đặc biệt nói đến thuyết pháp khắp mười phương, làm sao để giữ được mình, thật sự làm được tự lợi lợi tha, như vậy cần phải không động tâm, không chấp tướng, nghĩa là không chấp tướng, không động tâm mới được.
Phật Pháp biết khó mà làm dễ”. Quí vị muốn làm rõ nó, hiểu rõ nó thì rất khó. Quí vị nếu thật làm muốn chứng đắc quả vị rốt ráo rất dễ dàng, buông xả là được. Sự việc này nhất định phải thật làm. Làm ở đâu? Làm ở trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt là hoàn cảnh nhân sự, người biết tu hành rất là bản lĩnh, người biết tu hành mọi lúc mọi nơi, đều là đạo tràng lớn của họ. Vì sao vậy? Vì không có cảnh giới quí vị tu cái gì? Tu hành trong cuộc sống hằng ngày, tu cái gì? Không còn chọn lựa nữa, tu điều này, gạt bỏ phân biệt chấp trước, cái gì cũng tốt, không có thứ gì là không tốt. Tu cái gì? Tu trong thói quen của bản thân chúng ta: đối với thứ hợp ý mình thì rất tốt, không hợp thì không tốt, đó là cái tật. Tật gì? Tật phân biệt chấp trước. Hợp với ý mình thì tốt, không hợp với ý mình thì không tốt. Ý của bản thân cũng không phải là tiêu chuẩn, năm nay thích cái này, sang năm thích cái kia, nó không phải là vĩnh hằng. Quí vị xem hiện nay hai người nam nữ tốt với nhau rồi kết hôn, qua vài ngày lại li hôn, sẽ thay đổi. Không phải là thật, là giả thôi. Ngày xưa vì có giáo dục luân lý đạo đức, còn có tiêu chuẩn, cho dù có thay đổi như thế nào cũng vẫn không vô lý, không cách xa tiêu chuẩn lắm. Ngày nay tiêu chuẩn không có nữa, tiêu chuẩn của cổ Thánh tiên Hiền đều bị người ta phủ định hết rồi, không còn tiêu chuẩn nữa. Không có tiêu chuẩn nữa thì loạn rồi. Làm loạn rồi bị quả báo là gì? Trong sáu đường chỉ có một đường là địa ngục. Có tiêu chuẩn mới có sáu đường, không có tiêu chuẩn chỉ có đường địa ngục. Ngoài đường địa ngục ra không có đường thứ hai, quí vị xem đáng sợ biết bao. Ngày nay toàn là bất tín, không có yêu thương, họ không yêu bản thân mình, thì làm sao họ yêu người khác được? Bởi vì họ không yêu chính mình, cho nên không yêu thương cha mẹ họ, không yêu thương anh chị em của họ. Khởi tâm động niệm, nói năng tạo tác toàn là tạo tội nghiệp địa ngục. Trong Kinh Địa Tạng nói không sai tí nào. Người không học Phật thì không có cách gì cả. Người học Phật không thể không biết. Nếu như quí vị thực học thì quí vị phải thật làm. Người học Phật đông, giả thì nhiều, thật học thì ít. Thật học nhiều thì tốt. Giả học Phật không phải là thật học Phật. Danh lợi xuất hiện họ vẫn không buông xuống được. Đó là gì? Đó là thử thách quí vị. Danh cao lợi nhiều bày ra trước mắt, liền quên hết Phật Pháp! Cho nên nó không phải là thật, thứ gì quan trọng? Phật Bồ Tát biết điều này, học Phật quan trọng.
Năm xưa tôi ở Đài Trung học giáo lý với Thầy Lý, có một lần thầy giáo nêu ra một ví dụ. Quí vị thật học Phật hay là giả học Phật? Quí vị nghe kinh ở giảng đường, nghe xong rất hoan hỉ, đột nhiên có một người đến nói với quí vị: nhà quí vị cháy rồi, quí vị sẽ như thế nào? Tâm hoảng ý loạn nhanh chóng về nhà chữa cháy. Quí vị vẫn xem nhà quan trọng, Phật không quan trọng. Nếu như thực sự biết nghe Phật Pháp quan trọng, tôi đang nghe Phật Pháp, lửa cháy cũng mặc kệ, không cần quan tâm nó, đó mới là thật. Trong một trăm người học Phật tìm không ra một người. Mỗi con người cái gì là quan trọng nhất? Bản thân, nhà cửa, tính mạng quan trọng nhất. Làm sao có thể vào cảnh giới Phật? Không những không vào được cảnh giới Phật, ý nghĩa của kinh Phật cũng không hiểu. Thực sự hiểu rồi, cách nghĩ cách nhìn của họ và người thế gian không giống nhau nữa, điều đó là thật, không phải giả.
Chư đại Bồ Tát vì cầu một câu kệ có thể bỏ thân mạng, quí vị nghe một buổi giảng kinh, nhà cửa bị cháy, quí vị còn không nỡ bỏ. Vậy là quí vị thua xa Bồ Tát. Đó là gì? Thật giả, nặng nhẹ, không thể phân biệt. Đâu là thật, đâu là giả? Nhà cửa tài sản của quí vị là giả, thân là giả, quí vị lưu luyến những thứ này làm gì? Ngày nay chúng ta gặp được Kinh Vô Lượng Thọ đệ nhất chân thật trong Phật Pháp. Học Kinh Vô Lượng Thọ”có thể vắng mặt không? Bỏ mạng tôi cũng không thể vắng học. Chúng ta trong đời này mới có thể khế nhập cảnh giới, vãng sanh mới có phần nắm chắc, vãng sanh chính là thành Phật rồi. Cho nên trong lục đạo chúng sanh cái gì là đáng quí nhất? Điều Phật cho chúng ta là đáng quí nhất, số người biết được ít quá. Cảnh giới hiện tiền vẫn bị cảnh giới chuyển, người như vậy chiếm tuyệt đại đa số, tôi cũng là người như vậy. Tôi làm sao có thể giữ vững để không bị cảnh giới chuyển? Luôn thận trọng, sức mạnh bên ngoài lớn lắm, lớn lắm. Thực sự biết trì giới, thực sự biết chịu khó, tôi tình nguyện suốt đời này chịu khổ, tôi đến Thế giới Cực Lạc sẽ không còn chịu khổ nữa. Suốt đời này nếu như tôi không nhẫn nại được, vẫn còn muốn hưởng thụ, thì khổ trong lục đạo luân hồi phải chịu rồi. Sự thực này bày ra trước mắt, quí vị phảinhìn cho rõ. Quí vị không nhìn rõ thì chịu thiệt là quí vị thôi, không phải là người khác. Quí vị chịu khổ nơi ác đạo, không ai có thể thay thế quí vị. Chỉ chỉ có một cách là ngày ngày không rời Phật A Di Đà, ngày ngày không rời kinh giáo, ở nơi này chúng ta không nên chấp trước, đều buông xả hết. Đối với kinh giáo, đối với Phật A Di Đà chắc chắn phải chấp trì, phải chấp trước, phải duy trì. Đời này chúng ta liền được độ. Cuộc sống hiện tại cứ mặc nó. Có ăn thì ăn, có mặc thì mặc, không có ăn, không có mặc thì đến Thế giới Cực Lạc, nhất định không phân biệt chấp trước, nhất định không khởi tâm động niệm, thì tâm là định.
Họ thật tin, họ thực phát nguyện, thật làm. Đó là người hữu duyên. Thông thường nói là người chân thật, nghe lời, thật làm. Vậy người không chân thật thì sao? Tùy họ thôi. Học được bao nhiêu tốt bấy nhiêu, không nên để tâm làm gì. Quí vị sẽ rất tự tại, rất an vui. Mỗi người có thời tiết nhân duyên, đời này họ không thể thành tựu, đời sau đời sau nữa sẽ thành tựu. Phật Bồ Tát cũng không lo lắng, chúng ta lo lắng thì có ích gì? Chúng ta trong đời này, độ bản thân, thành tựu bản thân, phải là điều đầu tiên; giúp đỡ người khác là thứ hai. Nếu xem việc giúp đỡ người khác là số một, vậy thì bản thân đời này không được độ rồi, vẫn phải luân hồi, vậy là sai rồi, sai lầm lớn lắm. Biết bao nhiêu người trong đời này có tu có học, có duyên với chúng sanh, rộng độ chúng sanh, bản thân thì không thể vãng sanh. Làm được bao nhiêu việc tốt đến cõi trời rồi, cõi trời có Phật ở đó giáo hóa. Dục giới thiên có Phật Bồ Tát đang giảng kinh dạy học, sắc giới thiên cũng có, vô sắc giới thiên không có. Đó là một cõi cơm no áo ấm, hạnh phúc mỹ mãn. Khác với thế giới của chúng ta, họ đang hưởng phúc, hiện tại ta đang chịu tội. Hưởng phúc có thể xả bỏ được không? Có thể, nếu thực sự chịu làm, tất cả đều buông xả, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, còn khó khăn hơn chúng ta hiện nay. Ngạn ngữ có câu: “phú quý học đạo khó”, họ không nỡ rời bỏ phú quý, cho nên họ khó khăn hơn chúng ta. Chúng ta hiểu được những chân tướng sự thật này, cuộc sống hiện tại của chúng ta sẽ rất hài lòng. Chúng ta gọi đó là gia đình trung lưu, ănmặc không thiếu, không có phúc gì để hưởng, nhưng cũng bị chịu tội gì nặng nề. Đó là gia đình bậc trung, đây là hoàn cảnh tu học lý tưởng nhất.
Tà sư nói pháp, tại vì sao có nhiều người tin đến như vậy? Tà sư nói ra là lợi ích hiện tiền, hiện tại bạn có thể được lợi ích, còn đời sau thì họ không quan tâm, đời sau vẫn để cho bạn luân hồi, vẫn để bạn đọa ba đường, vậy thì đặc biệt sai lầm, đó là tà sư. Cho nên, Phật pháp là đặc biệt xem trọng lợi ích của đời sau, hiện tiền không có được lợi ích, mà đời sau được lợi ích, đó là chính xác. Hiện tiền được lợi ích, mà đời sau không được lợi ích là chắc chắn sai lầm. Phải quấy, thiện ác, chân vọng chúng ta phải có năng lực phân biệt. Chúng ta phải ghi nhớ, tất cả tạo tác của chúng ta chắc chắn là lợi ích đại chúng, lợi ích chúng sanh, thì đây mới gọi là chánh nghiệp. Lợi ích đại chúng mà có thể không chấp tướng, trên kinh Bát Nhã nói: “Tam luân thể không”, loại tạo tác này lại nâng lên một cấp gọi là “Tịnh nghiệp”, cao hơn một cấp so với “Chánh nghiệp”. Chấp tướng là “Chánh nghiệp”, lìa tướng là “Tịnh nghiệp”, chúng ta phải ở ngay chỗ này mà học tập.
- Vì thế trước khi Đức Phật diệt độ, dạy chúng ta hai vấn đề vô cùng quan trọng, do tôn giả A Nan hỏi, thật ra là hỏi thay chúng ta. Đức Phật tại thế chúng con nương Phật làm thầy, học tập theo ngài, khi Phật diệt độ chúng con nương ai để làm thầy? Đức Phật đã nói hai câu: “Lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”. Điều này đã nói rất rõ, nhất định phải trì giới, nhất định phải biết kham nhẫn, không sợ khổ, vì sao vậy? Vì trì giới nghĩa là không khác gì khi Phật còn tại thế. Chịu đựng được cái khổ đạo tâm mới tăng trưởng, không bị mê luyến thế tục, không bị đọa lạc.
Tại sao có nhiều người niệm Phật không tinh tấn và khó thành một khối? ". Đại sư khai thị: "Điểm quan yếu bậc nhất của sự tu hành là: tha thiết vì thoát ly nỗi khổ sống chết luân hồi. Nếu không tha thiết nghĩ đến điều này, thì làm sao có thể niệm Phật tinh tấn và thành một khối được? Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, mỗi niệm buông theo vọng tưởng, gốc tình ái bám sâu, ngay ở cõi người vui ít khổ nhiều, còn trong nẻo luân hồi thì sanh lên cõi nhơn thiên như đất nơi móng tay, đọa xuống ba đường ác như đất miền đại địa! Cổ nhơn đã bảo: "Tam đồ một đọa ngàn muôn kiếp. Tái phục nhơn thân biết lúc nào? ". Nếu trong đời này không thống thiết vì sự khổ sống chết luân hồi, mỗi niệm vẫn theo tình nhiễm, muốn đem lòng tin hời hợt niệm Phật để cầu thoát ly, thì khác nào mong dùng một gáo nước để cứu muôn xe lửa đỏ? Tu hành như thế chỉ e khi mất thân người khó bề lại được, một phen bê trễ tiếc hận lâu đài! Vậy phải phát lòng tinh tấn, dùng hạnh niệm Phật vượt phá muôn ngàn vọng tưởng, tùy thời tùy chỗ đều giữ cho câu Phật hiệu được hiện tiền. Quyết tâm hạ công phu khổ thiết như thế, lâu ngày sẽ được thuần thục tương ưng, và câu niệm Phật tự thành một khối. Việc này toàn do nơi mình suy gẫm và hết lòng gắng sức. Nếu đem câu niệm Phật làm hình thức bên ngoài, chắc chắn khó mong có ngày được vãng sanh giải thoát!".
Không thấy khổ báo trong địa ngục, siêng tu nhưng không dõng mãnh. Không thấy niềm vui vi diệu ở Tịnh độ, nên mong cầu nhưng ý niệm không mãnh liệt”.
Hôm qua chúng ta học đến đây, mấy câu này trong Hội Sớ. Vì sao nguyện niệm Phật của chúng ta không thể kiên định, lòng tin không chân thật, nguyện lực không khẩn thiết. Đối với vô số ý niệm bất thiện, hành vi bất thiện vẫn không khắc phục được, nguyên nhân do đâu? Chính là vì chúng ta không có thiên nhãn.
Nếu như có thiên nhãn thông, thật sự nhìn thấy địa ngục, như ở trước nói về A la hán. A la hán có thiên nhãn, thấy bản thân mình trong đời quá khứ chịu khổ trong địa ngục, trong lòng vẫn còn sợ hãi, không phải toát hồ hôi lạnh, mà là chảy máu và mồ hôi. Nỗi sợ hãi đó giống như đang ở trước mắt. Chúng sanh không có thiên nhãn nên không biết, không biết nỗi khổ hãi đọa vào ba đường ác trong đời quá khứ, cũng không biết sự thù thắng của thế giới tây phương Cực Lạc. Cho nên ngày ngày nói đoạn ác tu thiện, kết quả đều là hữu danh vô thực. Mong cầu thế giới tây phương Cực Lạc, nhưng tâm nguyện lại không khẩn thiết.
Tại sao trong kinh Lăng Nghiêm đức Thế Tôn giảng Năm Mươi Ấm Ma cho chúng ta. Khi ma cảnh hiện tiền mà chúng ta cho đó là cảnh giới Phật thì sẽ bị lầm to. Thế nên người sơ học chúng ta muốn tránh ma cảnh thì phương pháp duy nhất là phải y giáo phụng hành, tuyệt đối thuận theo những gì Phật dạy trong kinh; tuyệt đối chẳng thể nương dựa những gì người khác nói, chẳng giống lời Phật dạy trong kinh, như vậy mới có thể tránh rơi vào ma đạo. Quan trọng nhất là chúng ta phải tin Phật, chúng ta học theo Phật, chúng ta thân cận một thiện tri thức, những gì vị thiện tri thức này nói phù hợp với lời trong kinh thì chúng ta mới tin; trong kinh chẳng nói như vậy thì chúng ta không tin, chẳng thể học theo họ. Phật nói vô lượng pháp môn, nói là vì ứng theo cơ duyên lúc đó nên mới nói, cơ duyên khác nhau thì Phật nói pháp khác nhau, vì thế chúng ta muốn học pháp môn nào, y theo kinh điển nào, điểm này vô cùng quan trọng, được vậy mới chẳng đến nổi giải sai chân thật nghĩa của Như Lai. Thí dụ Phật nói với chúng ta tây phương Cực Lạc thế giới tuyệt đối là có thật, chúng ta tu Tịnh Ðộ thì chỉ noi theo kinh điển Tịnh Ðộ. Trong kinh điển khác Phật nói vạn pháp đều không, nếu bạn nói trong kinh đức Phật nói hết thảy pháp đều không, nên tây phương Cực Lạc thế giới cũng không, thế thì trật lất, bạn tin như vậy thì chẳng phải bạn đã bỏ uổng cơ hội này hay sao. Học pháp môn nào thì chỉ tu học noi theo kinh điển của pháp môn đó mà thôi, những kinh điển nói khác với kinh này thì tuyệt đối chẳng thể y theo kinh đó.
Thực ra đạo lý này rất cạn cợt, chẳng sâu lắm, chẳng khó hiểu. Giống như học trong trường đại học hiện nay, bạn học khoa hệ nào, nhất định phải học theo khóa trình của khoa hệ đó, bạn chẳng thể học khoa khác; nếu bạn học lớp của khoa hệ khác, chẳng giống với khoa mục của bạn, không những không trợ giúp mà ngược lại có thể phá hoại, đây không phải là đạo lý này sao! Trong kinh Phật thường dùng Y Vương để thí dụ, thí dụ này càng rõ hơn nữa. Thầy thuốc bắt mạch cho bịnh nhân rồi kê toa thuốc, người khác không dám uống theo toa thuốc của bạn, vì bịnh của họ không giống bịnh này. Nếu uống thuốc này, uống vô rồi thì xong ngay, người khác uống thuốc này thì chết liền. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, tám vạn bốn ngàn toa thuốc khác nhau, chữa cho tám vạn bốn ngàn người bịnh khác nhau, làm sao uống bừa bãi được! Thế nên chúng ta tu pháp môn vãng sanh, nhất định phải noi theo ‘kinh vãng sanh’. Trong Ðại Tạng kinh thì tam kinh nhất luận gọi là ‘kinh vãng sanh’, đó là kinh Di Ðà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, Vãng Sanh Luận của Thiên Thân Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, Ðại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông Chương là sau này mới thêm vào, thêm rất đúng, cũng có thể noi theo, tuyệt đối sẽ không tạo thành vấn đề, hiện nay xưng là Ngũ Kinh Nhất Luận. Chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh phải nương nhờ những kinh điển này, như vậy là không sai, chẳng thể nương vào những kinh khác. Nếu những gì nói trong kinh điển khác tương ứng, phù hợp với lý luận, phương pháp, cảnh giới nói trong Ngũ kinh Nhất luận này thì chúng ta có thể tham khảo, nếu không tương ứng thì chúng ta tuyệt đối không thể đọc, nhất định đừng xem, được vậy thì công phu của chúng ta mới có thể nắm vững, mới có thể thành tựu.
Nếu kinh gì bạn cũng xem, kinh gì cũng học, vậy thì bạn bị phiền phức lớn lắm, không những bạn tự tu học chẳng thể thành tựu mà cũng chẳng thể giáo hoá chúng sanh. Khi bạn giáo hóa chúng sanh, lấy một chút ở chỗ này, lấy một ít ở chỗ kia, sẽ làm cho chúng sanh loạn đến mê hoặc điên đảo. Ngày nay học Phật vô cùng khó khăn, tại sao tôi không dạy trong Phật Học Viện, đạo lý là như vậy. Phật học viện mở ra rất nhiều lớp học, mời rất nhiều pháp sư, giảng cho học sinh ngày ngày đều điên đảo, như say, như cuồng, chẳng đạt được hiệu quả. Bản thân tôi học Phật đạt được một chút lợi ích vì may mắn, gặp được thiện tri thức, do một người dạy, chỉ tiếp nhận lời của một nhà, đi theo một con đường, nên rất đơn thuần, chẳng phức tạp, chẳng có nghi hoặc, điểm này rất quan trọng, vô cùng quan trọng! Sau này chúng tôi mới hiểu cái mà nhà Nho, nhà Phật gọi là Sư Thừa chính là ý nghĩa này. Tôi chỉ học theo một thầy, nghe lời của một thầy mà thôi, vị thầy này đối với tôi phải chịu trách nhiệm. Nếu tôi còn muốn học theo người khác thì người thầy này chẳng có cách gì để dạy. Thật sự thân cận thiện tri thức, noi theo Sư Thừa của người xưa, bạn theo sát vị thầy này, nhất định chẳng thể học theo người thứ hai, chẳng thể nghe lời dạy của người thứ hai, được vậy thì bạn mới thành tựu. Vị thầy này phải chịu trách nhiệm nhân quả đối với bạn, trách nhiệm này rất nặng, nếu chỉ sai đường cho bạn, dẫn đi lầm đường thì vị thầy này phải thọ ác báo. Nếu bạn chẳng chịu tiếp nhận, bạn cứ đi khắp nơi nghe người khác, vẫn còn xem bài của người khác, vậy thì người thầy này sẽ chẳng chịu trách nhiệm cho bạn.
Đặc biệt là trong thời đại của chúng ta hiện nay, bên trong có tam độc phiền não. Phật pháp nói tham sân si là tam độc, bây giờ tôi nói là ngũ độc. Phía sau căn bản phiền não tham sân si còn có mạn, còn có nghi, còn có ác kiến. Tôi nói năm loại: Tham sân si mạn nghi. Vấn đề của nghi này rất nghiêm trọng, chúng ta hoài nghi Phật Bồ Tát, nghi ngờ kinh giáo, như vậy làm sao tiếp thu được?
Hiện nay trở về sau có lẽ Sư Thừa sẽ chẳng còn nữa, chẳng thể còn nữa, cho nên có thể thành tựu được hay không hoàn toàn ở tại mỗi cá nhân. Nói cách khác chẳng có vị thầy hết lòng phụ trách dạy bạn, nói thật ra thầy giáo muốn tìm học sinh như vầy cũng tìm không ra, hoàn toàn nhờ giác ngộ của mình. Muốn chân chánh giác ngộ, chân chánh thành tựu thì cũng phải đi theo đường cũ, học theo một vị thầy.
Tôi khuyên mọi người, ngày nay chúng ta học theo ai?
- Học theo A Di Ðà Phật. A Di Ðà Phật ở nơi đâu?
- Kinh Vô Lượng Thọ chính là A Di Ðà Phật.
Đối với học sinh biết nghe lời thầy không khách sáo, có đánh có mắng, thầy cũng đánh người. Đối với học sinh không nghe lời thầy rất khách sáo, chưa từng trách cứ, thái độ rất ôn hòa. Chúng tôi tuổi trẻ không hiểu chuyện, mới hơn 20 tuổi, thấy thầy như thế liền sanh nghi hoặc, lại không dám hỏi. Nhưng lâu ngày thầy nhận ra điều đó, kêu tôi đến phòng nói đều này cho tôi nghe, thầy biết tôi có nghi hoặc. Thầy nói người không thể tiếp thu giáo huấn kinh điển, không nghe lời, không cần nỗ lực dạy họ, xem họ như thế nào? Như học sinh dự thính. Thầy dùng cách này để hình dung, xem họ như học trò dự thính, không kết oán thù với họ. Nếu mắng họ ghi hận trong lòng, nếu đánh họ sẽ báo thù, như vậy không phải rất phiền phức ư? Oan oan tương báo không bao giờ dứt. Bởi vậy đối với học trò không nghe lời, thầy rất khách sáo, rất hoan hỷ. Giờ học, hoan nghênh quý vị đến nghe, nghe nhiều hay ít không quan trọng. Người thật sự muốn học dù đánh dù mắng cũng cám ơn, người đó nhất định phải đánh, nhất định phải mắng. Họ sẽ cảm ân, vì họ muốn học, người học thành tựu quả thật không nhiều. Nếu miễn cưỡng cũng coi như có chút thành tựu, tôi thấy bất quá cũng chỉ năm sáu người mà thôi. Thầy dạy trong một phòng học, những gì mọi người đạt được là bình đẳng. Mỗi người lãnh ngộ khác nhau, đó chính là xem ta có nghe lời hay không, có giữ quy củ hay không, quả nhiên y giáo phụng hành đều có thành tựu. Do đây có thể biết thành tựu không do thầy giáo, mà ở bản thân mình. Thầy giáo giỏi, rất tốt, nếu ta không siêng năng học cũng chỉ uổng phí.
Thầy từng nói với tôi, học trò muốn tìm một thầy giáo tốt không dễ, có thể gặp mà không thể cầu. Trái lại thầy giáo muốn tìm một học trò giỏi, còn khó hơn học sinh muốn tìm thầy giáo giỏi, đến đâu để tìm!
Đại sư Ấn Quang dạy chúng ta học Phật, nghiên cứu kinh giáo: Một phần thành kính được một phần lợi ích, hai phần thành kính được hai phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích. Người bây giờ tuyệt đại đa số tâm tình nông nổi, tâm thái này cho dù Chư Phật Bồ Tát từ bi đến dạy, chúng ta cũng không tiếp thu được gì, vì sao vậy? Vì không có tâm thành kính. Từ đó cho thấy, tuyệt đối không phải Phật Bồ Tát không từ bi, các ngài từ bi vô tận, từ bi đến tột đỉnh. Chỉ trách bản thân chúng ta, chúng ta đã sai, không phải do người khác, điều này không thể không biết.
Muốn học Phật, muốn thành tựu, nhất định phải y giáo phụng hành.
Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả, quả báo này thù thắng vô cùng. Đây thật sự là một pháp môn đốn siêu, nghĩa là vượt ngang ra khỏi tam giới, tức sanh thành Phật, thành Phật ngay trong đời này. Nếu họ thật sự hiểu rõ, chân chánh giác ngộ thì họ sẽ quay đầu lại, đây cũng chứng minh thiện căn, phước đức, nhân duyên từ vô lượng kiếp của họ đã chín muồi.
Nói thật ra hạng người như vậy chẳng nhiều, chúng ta coi có bao nhiêu người học Phật, người tu hành, tập khí còn chưa đoạn, chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng khi họ xử sự, đãi người, tiếp vật trong đời sống hằng ngày. Họ vẫn còn tham, sân, si, mạn, và vẫn không coi niệm Phật là việc quan trọng nhất. Niệm Phật tốt nhưng họ để ở hạng nhì, hạng ba, vẫn coi danh văn lợi dưỡng là hạng nhất. Đời này họ có thành tựu hay không? Rất khó, quá khó!Rất khó thành tựu. Vậy là chứng tỏ thiện căn niệm Phật của họ chẳng mạnh lắm, sức mạnh của tập khí ác vô cùng lớn mạnh, đời này như đời quá khứ cũng kết duyên với A Di Đà Phật, nhưng đời này vẫn chẳng vãng sanh nổi. Muốn chân chánh vãng sanh là phải triệt để buông xuống. Bởi vậy chúng ta muôn vàn không thể coi thường những ông cụ, bà cụ, đừng coi thường họ chẳng biết chữ, chúng ta coi thường họ là người không có trí thức, coi họ rất nghèo hèn, chẳng có địa vị trong xã hội, chẳng ai coi trọng họ. Thường thì hạng người này đều thật sự đi làm Phật, họ thật sự đều buông xả. Chúng ta cứ tưởng mình thông minh, rất có tài năng, cuối cùng vẫn trôi lăn trong lục đạo luân hồi, vẫn phải đọa ba đường ác. Cho nên tu đạo thì thật thà là quý nhất, chuyện phiền phức của chúng ta là chẳng chịu thật thà, nghĩ muốn nhường bước nhưng chẳng thoái lui hoàn toàn, muốn thoát ly lục đạo luân hồi nhưng vẫn chẳng xả bỏ chỗ này nổi, vẫn còn lưu luyến rất nhiều sự việc ở đây!
Nói đến chúng sanh trong lục đạo, Diêm Phù Đề có thể bao gồm lục đạo. Trong lục đạo, tại sao họ không thể thoát ra khỏi luân hồi? Tại sao không thể siêu việt tam giới? Vì tập khí từ vô lượng kiếp đến nay quá sâu, quá nặng. Trong kinh đức Phật nói với chúng ta hết thảy những chúng sanh hữu tình này xả thân xong rồi thọ sanh, chúng ta gọi là đầu thai nhận quả báo, đây là đạo lý gì? Đức Phật nói tập khí nào mạnh thì lôi đi trước. Mỗi chúng sanh có đầy đủ tập khí của mười pháp giới, cho dù chúng sanh trong địa ngục cũng có hạt giống Phật, nhưng tại sao họ không thể làm Phật? Tuy họ có hạt giống Phật, sức mạnh của hạt giống này yếu ớt, sức mạnh của tham, sân, si phiền não mạnh mẽ, hạt giống nào mạnh thì thọ báo trước, bởi vậy nên họ mới đọa ác đạo. Đức Phật nói rõ nguyên nhân, chúng ta hãy bình tĩnh suy nghĩ thì sẽ thấy đích thật là như vậy. Chúng sanh trong lục đạo ‘khó điều, khó phục’, ‘điều’ là hòa giải, hòa thuận, việc này thật chẳng dễ, ‘phục’ là hàng phục tập khí tham, sân, si, tương đối không dễ dàng. Đây là đã nói rõ nguyên nhân. Lời Phật nói chẳng sai ‘Tánh tình chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Đề ương ngạnh, khó điều phục’. Chúng ta suy nghĩ cặn kẽ, hãy nghĩ thử xem, sau đó đừng nhìn kẻ khác, chỉ nghĩ về mình, chính mình có phải cũng ‘khó điều khó phục’ hay chăng? Trong đời này chúng ta có thể được độ hay không? Do đó mới biết pháp môn Tịnh Tông vô cùng quý báu, được hết thảy chư Phật tán thán, là có đạo lý vậy.
Ngày nay nhân khẩu thế giới, báo ngày hôm qua đăng, hai ngàn năm sau người trên thế giới đã tới sáu mươi ức. Trong số sáu mươi ức người này có bao nhiêu người gặp được Phật pháp? Hiện nay là thời Mạt Pháp, Phật pháp cũng có giả mạo, không những phẩm vật thương mại có đồ giả, trong Phật pháp cũng có đồ giả, có mấy ai gặp được Phật pháp chân chánh? Cho dù gặp được Phật pháp chân chánh, bạn có tin được hay không? Như vậy lại loại bớt thêm rất nhiều người. Sau khi bạn tin xong, bạn có thể hiểu rõ được không? Sau khi hiểu rõ, bạn có thể y giáo phụng hành hay không? Nói cho bạn biết từng tầng, loại bớt đi từng tầng, người còn sót lại e rằng không đến một trăm người. Ở cõi người, Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng sanh đã khó khăn như vậy, huống chi là trong ác đạo! Trong ác đạo, đức Phật giáo hóa chúng sanh không biết khó khăn hơn cõi người gấp bao nhiều lần, việc tốt như vầy mà họ không tin tưởng thì đâu có cách chi khác? Vì họ chẳng chịu tiếp nhận.
Ngày nay chúng ta quá may mắn- bao nhiêu Thanh văn, bao nhiêu Bồ Tát khắp biến pháp giới hư không giới, trong tâm muốn cầu vị thiện tri thức bậc nhất, muốn cầu đạo tràng bậc nhất, mà bất khả đắc. Trong tâm có cầu, vẫn chưa từng được nghe.
Đời này chúng ta gặp được, Thanh văn Bồ tát khắp mười phương thế giới, khi họ biết được vô cùng ngưỡng mộ, vô cùng tán thán. Nếu đời này chúng ta sơ suất, không thể vãng sanh, quả là đáng tiếc, đó thật sự gọi là không thông sám hối. Chúng ta cần phải có tín tâm kiên định, đại nguyện kiên định, cầu sanh Tịnh độ. Đây gọi là chánh báo “thọ mạng vô lượng”. Chánh báo vô lượng vô biên đức hạnh, thọ mạng là đệ nhất đức. Nếu không có thọ mạng, vạn đức trang nghiêm coi như không, cho nên thọ mạng là đệ nhất đức.
Chúng ta thấy xã hội ngày nay, quý vị quan sát tường tận người trên thế giới hiện nay, họ khởi ý niệm gì? Khởi tâm động niệm là gì? Ngôn ngữ của họ ra sao? Tạo tác của họ như thế nào? Kinh Địa Tạng nói rằng: “Không có gì không phải nghiệp, không có gì không phải tội lỗi”. Như vậy mới biết, họ đáng thương biết bao, tiền đồ của họ là ba đường ác. Quả là đáng thương, đúng là khổ, sao ta có thể oán hận họ? Vì sao họ làm như vậy? Vì mê hoặc. Mê đắm trong thất tình ngũ dục, mê quá sâu nặng. Chúng ta phải hiểu đạo lý này.
Nhìn thấu, xem nhẹ thất tình ngũ dục, công phu này rất khá. Không có thời gian học tập lâu dài, họ không làm được. Mà học tập đáng quý nhất là không được gián đoạn, một ngày nỗ lực, mười ngày giải đãi, nó không khởi tác dụng.
Xã hội này là một bể nhuộm lớn, bể nhuộm rất nghiêm trọng, mình có thể không bị nó ảnh hưởng chăng? Khiến chúng ta nghĩ đến phương pháp dạy học của cổ nhân: “Nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”. Tám chữ này có thể cứu người thế gian hiện nay. Cho dù học Phật cũng không được học tạp, cũng không được học nhiều. Học nhiều dễ phân tâm, tâm không chuyên nhất, không chuyên nhất dễ bị cảnh giới bên ngoài ảnh hưởng. Nhất định phải thâm nhập, nhất định phải chuyên, chính là ở đây nói “thấu triệt”. Nếu không thâm nhập sao có thể thấu triệt? Học mười bộ kinh muốn thấu triệt, không bằng học một bộ kinh mà thấu triệt. Một bộ kinh dễ thấu triệt, mười bộ kinh không dễ thấu triệt, vì sao vậy? Vì bị phân tâm, không đủ tinh chuyên. Huống gì hiện nay sức mạnh chúng ta rất yếu kém, không kiên cường, dùng vào một môn dể thấu triệt, có chút hy vọng. Ba môn, bốn môn, năm môn, sáu môn không hy vọng, học như vậy là sao? Chỉ học được cái vỏ bên ngoài, không mang đến lợi ích. Vì sao gọi là không có lợi ích? Vì không chống cự nổi sự ô nhiễm bên ngoài, đúng là không hữu ích. Gặp việc xứng tâm vừa ý còn khởi tham luyến, gặp chuyện không như ý còn khởi sân nhuế, đúng là không hữu ích. Hữu ích là có thể hàng phục phiền não, thất tình ngũ dục hiện tiền có thể khắc phục nó, giữ được tự tánh tâm thanh tịnh, không bị bên ngoài làm dao động. Công phu thật sự, bản lĩnh thật sự.
Niệm Phật vì muốn cầu sanh thế giới Cực Lạc, sanh đến thế giới Cực Lạc lìa khổ được vui, như vậy có thể vãng sanh chăng? Không thể vãng sanh. Thế giới tây phương Cực Lạc rất tốt, trong kinh nói không sai chút nào”. Siêu thắng độc diệu”là để ta hưởng thụ sao? Thế giới Cực Lạc quá tốt, tôi đến đó, tuyệt đối không lìa xa nữa. Sai, sai lầm hoàn toàn. Người như vậy không thể vãng sanh.
Người như thế nào có thể vãng sanh? Người đến thế giới Cực Lạc để học tập, để thành Phật, sau khi thành Phật phổ độ chúng sanh như Phật vậy. Điều kiện làm Phật phải như vậy, đây gọi là tâm đại bồ đề. Tâm đại bồ đề đầu tiên là “chúng sanh vô biên thề nguyện độ”, nếu như không có nguyện độ chúng sanh, thế giới tây phương Cực Lạc không có phần. Mọi người không thể không biết điều này.
Phàm phu chọn Tịnh độ, vãng sanh thế giới Cực Lạc là đi làm Phật, cần bao nhiêu thời gian? 3 năm, là đủ rồi.
Thật thà, nghe lời, thật làm. 6 chữ này là điều kiện Sư thừa nhất định phải đầy đủ của Trung Quốc từ xưa đến nay, không có điều kiện này Lão Sư sẽ không dạy bạn. Nhưng người đầy đủ điều kiện này không nhiều, chúng ta xem thấy, nghe thấy, quả thật không nhiều, nhưng chân thật có thành tựu.
Lúc đầu Lão Hòa thượng Đế Nhàn có một người đồ đệ làm thợ vá nồi, ông chính là đầy đủ điều kiện này. Ông không biết chữ, chưa từng được đi học, sanh trưởng ở nông thôn, vô cùng khổ cực, gia cảnh thanh bần. Sống ở nông thôn, không có đất đai, ngay cả điều kiện làm nông cũng không đủ, học làm thợ vá nồi, vá nồi vá chén. Lúc kháng chiến vẫn còn loại nghề nghiệp này hiện nay không có, thời kỳ kháng chiến chúng tôi vẫn còn thấy qua. Ông với Pháp sư Đế Nhàn là đồng hương, lúc nhỏ cùng nhau lớn lên ở nông thôn. Gia cảnh của Pháp sư Đế Nhàn tốt hơn một chút, được đi học, có học qua làm kinh doanh, học qua cách làm ăn. Về sau xuất gia, xuất gia, giảng kinh dạy học, trở thành Nhất Đại Tôn Sư. Ông cũng đã đi tìm rất lâu, nhưng tìm không thấy, xem thấy việc xuất gia cũng không tệ, cuộc sống không đến nổi khổ cực như vậy, YÊU CẦU ĐƯỢC xuất gia. Lão Pháp sư Đế Nhàn nói với ông, anh đã hơn 40 tuổi, không kịp nữa rồi, xuất gia ở trong tự miếu, mức độ thấp nhất 5 thời công khóa phải biết làm. Anh xem anh chậm hiểu, anh học không được, giảng kinh thuyết pháp anh lại không biết chữ, hiện nay học đều không còn kịp nữa. Nhưng ông nhất định yêu cầu không đáp ứng không được, sau cùng lão Hòa thượng bị ép, nói điều kiện với ông.
Người thợ vá nồi nói được, không luận ngài nói cái gì tôi cũng đều nghe theo, cứ như vậy mà thế độ cho ông. Sau khi thế độ, không thể ở trong tự miếu, đến Ninh Ba tìm một cái miếu bỏ hoang ở dưới quê, lúc đó ở dưới quê có rất nhiều. Tiểu Miếu ở nông thôn không có người ở, đã bỏ hoang, tìm một nơi như vậy để ông ở. Dưới quê vẫn có một số tín đồ, tìm một vài người hộ trì cho ông, gởi họ một ít gạo, một ít thức ăn, cũng tìm được một bà cụ, là bà cụ niệm Phật, chăm sóc sinh hoạt cho ông, đều này thật khó được. Bữa sáng ông tự lo, bữa trưa và bữa tối bà cụ sẽ lo cho ông, giặt y phục cho ông. Lão Hòa thượng chỉ dạy ông một câu Nam Mô A Di Đà Phật, nói với ông, cứ thế mà niệm tiếp tục, niệm mệt thì nghĩ, nghĩ khỏe rồi lại tiếp tục niệm, không phân ngày đêm. Ông thật sự nghe lời, thật sự thật thà, chính là một câu A Di Đà Phật này niệm được 3 năm, biết trước ngày giờ vãng sanh, đứng mà vãng sanh, công phu được xem là không tệ. Lão Hòa thượng Đế Nhàn thay ông lo việc hậu sự, vô cùng tán thán đối với ông, ông cũng coi như không xuất gia uổng phí, chân thật có thành tựu, làm một tấm gương tốt cho người niệm Phật. Điều kiện thành công của ông chính là, Thật thà, nghe lời, thật làm, một cách tuyệt đối mười phân vẹn mười.
Đại Thế Chí Bồ Tát trong hội Lăng Nghiêm nói với chúng ta, Nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật. Những người này niệm Phật có nhìn thấy Phật không? Chắc chắn có, có một số không chỉ thấy một lần. Thấy Phật, Phật nhất định nói với họ, con vẫn còn bao nhiêu năm thọ mạng, đợi đến lúc con mạng chung ta sẽ đến tiếp dẫn con vãng sanh, xem như là thọ ký.
Nhưng cũng có một số người, họ vẫn còn thọ mạng nhưng không cần nữa, bây giờ liền muốn theo Phật đến thế giới Cực Lạc, A Di Đà Phật rất từ bi không có chuyện không đồng ý. Vì thế chúng ta ở trong vãng sanh truyện Tịnh độ Thánh Hiền Lục xem thấy những người vãng sanh đó, hơn một nửa đại khái đều là 3 năm vãng sanh.
Lúc đầu tôi ở Đài Loan, có một đồng tham đạo hữu là Pháp sư Đức Dung, cũng đã qua đời rồi, thầy ấy thường nghe tôi giảng Kinh, đưa ra một vấn đề, thầy ấy xem Vãng sanh Truyện, Tịnh độ Thánh Hiền Lục có hoài nghi. Tôi nói thầy hoài nghi cái gì? Thầy ấy nói nhiều người như vậy đều là 3 năm vãng sanh, có phải thọ mạng đều đến rồi không? dường như điều này thật không thể nào. Tôi nói với thầy, thật sự nếu như nói đều là 3 năm, làm gì có chuyện trùng hợp như vậy, vài người thì có thể, nhiều người như vậy, về mặt logic nói không thông.
Vậy sự việc này là như thế nào? họ vẫn còn thọ mạng nhưng họ không cần. Hôm nay ta gặp được Phật là chuyện khó được, ta liền khẩn cầu Phật mang ta đi ngay bây giờ, khẩn nài, van xin, nài nỉ, từ đây về sau thọ mạng đều không cần. Phật nhất định sẽ mang họ đi, điều này mới hợp với logic, mới có thể nói được thông.
Hay nói cách khác, Phàm phu chọn Tịnh độ, vãng sanh thế giới Cực Lạc là đi làm Phật, cần bao nhiêu thời gian? 3 năm, là đủ rồi. Hơn nữa chúng ta xem thấy có rất nhiều trường hợp, quá khứ, hiện tại. Hiện nay chúng tôi có rất nhiều đồng học niệm Phật vãng sanh, không ít người 3 năm là vãng sanh. Hơn nữa những người vãng sanh này đều có bản lĩnh, đó chính là không có sanh bệnh mọi thứ vô cùng bình thường, lúc ra đi là đi một cách tự nhiên. Có người đứng mà ra đi, có người ngồi mà ra đi, chính mắt chúng tôi xem thấy, chuyện này làm sao có thể lừa người được? Họ biết được họ đi vào ngày nào, họ cũng không nói với bất kỳ ai, nói với người sẽ gây ra phiền phức. Tại vì sao? Mọi người quấy nhiễu bạn, không cần trợ niệm, trợ niệm cũng có thể bị quấy nhiễu, vì thế họ vãng sanh một cách tự nhiên.
Chúng tôi ở nước Mỹ xem thấy một người, chuyện này đại khái cũng gần 20 năm trước, chính là ở San Francisco, có một bà cụ niệm Phật 3 năm. Con trai của cụ du học ở Mỹ, sau khi tốt nghiệp,... ở Mỹ làm việc, kết hôn, sanh được một cháu trai, con trai sanh được cháu nhỏ, bà cụ ở Đài Loan, đón mẹ đến Mỹ để trông cháu nhỏ, chăm sóc sinh hoạt gia đình. Bà cụ vào lúc đó sáu, bảy mươi tuổi vẫn còn làm được. ở được 3 năm, cháu nhỏ cũng đã lớn, có thể đi nhà trẻ, con trai, con dâu đều có công việc, cả một ngày chỉ có một mình bà. Bà là người niệm Phật, hoàn cảnh này tốt, không có người quấy nhiễu bà, láng giềng là người Ngoại Quốc, nói chuyện không được, ngôn ngữ không rành, không có qua lại, một hoàn cảnh thanh tịnh như vậy, đây chính là đạo tràng của bà, niệm Phật không gián đoạn.
Vào cái ngày vãng sanh, bởi vì buổi sáng mỗi ngày cụ đều là dạy rất sớm chuẩn bị xong bữa sáng, con trai, con dâu, cháu trai sau khi thức dậy liền có thể ăn cơm, sau khi ăn xong đều đi học, đi làm hết. Buổi sáng hôm đó bà không thức dậy, không có người làm cơm, cảm thấy rất kỳ lạ, mở cửa phòng bà cụ, bà mặt áo tràng ngồi trên giường, xếp bằng ngồi trên giường, gọi bà không thấy trả lời, tỉ mỉ xem lại, đi rồi. Đi vào buổi tối, mấy giờ đi thì không biết., bên cạnh giường có để lại di chúc, viết rất dài, hơn nữa hiếu phục của con trai, con dâu, cháu trai đều đã làm xong, đều đặt ở bên cạnh, hậu sự đều chuẩn bị xong. Từ phương diện này mà xem, chí ít 3 tháng trước bà đã biết, nếu không,... chuẩn bị sẽ không chu đáo như vậy. Lúc này con trai gọi điện thoại thông báo cho những người bạn của bà là những người bạn niệm Phật, mọi người đều đến nhà xem, giúp bà lo việc hậu sự, không một ai không bội phục.
Bà là cư sĩ tại gia, sống ở nước Mỹ được 3 năm, thành tựu tốt như vậy. Nếu bà ở Đài Loan có thể sẽ không làm được, tại vì sao? Bạn bè nhiều, qua lại nhiều. Ở Mỹ không có người nói chuyện với bà, ngoài việc niệm Phật ra, bà không còn việc nào khác, duyên không giống nhau con trai đón mẹ đến Mỹ, không hề ngờ rằng duyên phận này lại quá thù thắng, để cho mẹ của cậu có thể bình an tự tại mà vãng sanh, đây là sự việc mà cậu không hề ngờ tới. Nước Mỹ có hoàn cảnh như vậy, chính là xem bản thân bạn có biết cách dùng hay không. Chân thật vạn duyên buông xuống, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra cái gì cũng không có, 3 năm công phu thuần thục bà mới có thể làm được. Ở Đài Loan cũng có, hơn 40 năm trước chúng tôi gặp được một vị, bà lão ở xã Tướng Quân Đài Nam đứng mà vãng sanh, cũng là 3 năm. Gia đình của bà cụ này vô cùng hòa mục, con cái hiếu thuận, bà không hề nói với bất kỳ ai, sợ bị quấy nhiễu, lúc ăn cơm tối thì đi. Lúc ăn cơm tối, bà nói với con trai, con dâu, người nhà, các con cứ ăn cơm trước, mẹ phải đi tắm. Bà thật sự đi tắm, thay y phục, người nhà đợi rất lâu nhưng bà vẫn chưa ra, đi xem thử, thật sự có thay y phục, gọi bà nhưng không có người trả lời. Trong nhà có một Phật đường nhỏ, kết quả xem thấy, bà cụ mặc áo tràng cầm lấy tràng hạt, mặt đối diện tượng Phật đứng ở nơi đó bất động, con trai gọi bà nhưng không trả lời, tỉ mỉ xem lại, đã đi rồi, đứng mà đi, cũng là 3 năm, tín nguyện trì danh, vãng sanh thế giới Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật, là thật không phải giả, đây là tấm gương tốt nhất cho người học Phật hiện đại.
Chùa Phật Lai ở Nam Dương ba vị này là người chân thật có thành tựu vì chúng ta biểu pháp, là tấm gương tốt của chúng ta. Người vãng sanh đầu tiên là mẫu thân của lão Hòa thượng Hải Hiền, bà vãng sanh vào năm 1958, lúc đó bà 86 tuổi. Đương thời lão Hòa Thượng Hải Hiền mới chỉ có 57 tuổi, trong báo cáo này nói được rất rõ ràng, mẫu thân của lão Hòa thượng là biết trước ngày giờ. Vào những năm cuối đời huynh đệ tỉ muội đều đã qua đời, lão Hòa thượng đón bà đến tự viện để phụng dưỡng, mọi người cùng nhau niệm Phật. Có 1 năm bà đột nhiên nói với Hải Hiền Pháp sư, muốn trở về quê nhà, kiên trì phải về quê, Hải Hiền lão Hòa thượng rất hiếu thuận, liền cùng bà trở về quê. Vào cái ngày vãng sanh bà cũng không nói, đích thân xuống bếp gói sủi cảo, dặn dò lão Hòa thượng tìm con gái, cháu gái và người thân trong nhà của bà về hết cùng nhau ăn bữa cơm, đây chính là gia đình đoàn viên, sự đoàn viên sau cùng. Sau khi ăn cơm xong, bà ngồi trên ghế hai chân xếp bằng, nói với mọi người: ta đi đây!một cách rất vui vẻ, ta đi đây, nói một câu này xong, đầu hơi nghiêng, liền đi thật. Thật không phải người bình thường!bạn xem xem, trước khi ra đi còn ở trong nhà bếp làm việc, bà hoan hỷ, thấy mọi người đều vui vẻ, nói với họ ta đi đây, vui vẻ mà ra đi. Do đây mới biết, mẫu thân của ngài vãng sanh. Bà muốn mỗi người thân trong nhà nhìn thấy, sau đó bạn liền sẽ chân thật niệm Phật, bạn mới chân thật mong muốn, ta phải đi tự tại như vậy, không có đau bệnh, hoan hỷ, vui vẻ mà ra đi, không có mảy may vướng bận nào.
Vào thời đó hoàn cảnh rất khó khăn, gia cảnh nghèo khó, Tự Miếu là cái Miếu nhỏ ở dưới quê, hương hỏa cúng dường rất ít, thu nhập rất khó khăn, hoàn toàn dựa vào trồng trọt của bản thân lão Hòa thượng để duy trì sự no ấm, cho nên dùng những tấm ván rất mỏng, đóng thành một cái quan tài, rồi chôn cất mẹ của ngài. Trong tâm lão Hòa thượng cảm thấy ấy nấy đối với sự việc này, thấy có lỗi với mẫu thân, nhưng điều kiện thực tế không làm được. 8 năm sau hoàn cảnh chuyển biến tốt hơn, Ngài muốn cải táng cho mẫu thân ngài đào phần mộ lên, mở quan tài ra, không thấy người, trong quan tài chỉ có mấy cây đinh dùng để đóng quan tài, người không thấy. Sự việc này trong ghi chép của Trung quốc, Tổ Sư Đạt Ma cũng là như vậy. Tổ Sư Đạt Ma sau khi được mai tang, trải qua nữa năm, có người từ Tây vực trở về, nói gặp được Ngài Đạt Ma ở Tây vực, Tổ Sư Đạt Ma một chân mang một chiếc giày, chân còn lại đi chân trần, xem thấy có sự việc như vậy, liền đối chiếu thời gian này, vừa đúng lúc ngài được chôn cất, làm gì có sự việc như vậy. Họ mở phần mộ ra để xem thử, mở phần mộ của ngài ra, mở chiếc quan tài, quả nhiên không thấy người, trong quan tài có một chiếc giày. Nói rõ người này nhìn thấy Tổ Sư Đạt Ma là thật, không phải vọng ngữ.
Ngài Đạt Ma là bồ tát tái lai, vì thế mẫu thân của lão Hòa thượng Hải Hiền có phải là Bồ tát tái lai, du hý thần thông hay không? Phàm phu chúng ta không dám suy đoán, đây đều là người niệm Phật, đi được tự tại như vậy, sau khi ra đi còn có kỳ tích lưu lại cho chúng ta xem. Tuy lúc sanh tiền không hề được nói rõ không hề nói với chúng ta, chúng ta xem thấy hiện tượng kỳ tích này, trong tâm cần phải giác ngộ, chí ít chứng minh sự thù thắng của Pháp môn niệm Phật, không phải giả, sanh tử đại sự. Đây là bổn tâm bổn nguyện của tất cả Chư Phật, phương pháp gì có thể làm được? phương pháp niệm Phật có thể làm được. Bạn xem 3 người của chùa Phật Lai không phải người bình thường, 3 người các Ngài từ một câu A Di Đà Phật đã làm được, còn không có một bộ Kinh, bí quyết chính là chuyên nhất. Tâm phải chuyên, tâm phải nhất, một niệm, không được có niệm thứ hai, một niệm chính là chánh niệm, hai niệm chính là tà niệm. ý niệm của chúng ta quá nhiều, vọng tưởng tạp niệm ngàn ngàn vạn vạn không tính xuể, tạp niệm vọng tưởng không có trong tự tánh, đây đều là sự việc của A Lại Da, A Lại Da mê rồi mới có, Giác rồi sẽ không còn.
Ngày nay chúng ta phải đi con đường giác ngộ, không thể đi con đường mê muội, niệm Phật là đi con đường trực tiếp thành Đại Giác Phật. Chúng ta xem thấy hoan hỷ, chính là 3 vị của chùa Phật Lai người tu hành biểu pháp, làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta xem, các Ngài chính là một câu Phật hiệu, ngay cả Kinh cũng không cần, một câu Phật hiệu liền thành tựu, hơn nữa là thành tựu viên mãn, không phải thành tựu bình thường. chúng ta phải biết xem, chúng ta phải biết học.
Còn có ân đức nào lớn hơn ân đức này không? không có. Tri ân mới biết báo ân, Đại ân Đại đức của Phật Bồ tát đối với chúng ta, chúng ta không biết, người học Phật cũng không biết. Những người nào biết? người thật thà, nghe lời, thật làm biết, người biết được đều thành tựu, đây chính là báo ân. Ba người này của chùa Phật Lai đều là Phẩm vị cao nhất vãng sanh thế giới Cực Lạc, các Ngài chân thật là người báo ân, người tri ân báo ân. Đại nguyện Đại lực của Phật Di Đà chúng ta cũng không biết, vậy ai biết? Chư Phật Như Lai biết.
Mới là phương tiện cứu cánh, một câu Phật hiệu này của tịnh tông là phương tiện cứu cánh trong số phương tiện cứu cánh. Chúng ta nhất định phải trân trọng nhất dịnh không được luống qua, hy vọng trong 1 đời này nhất định có thành tựu, chân thật làm, thật sự chịu làm. Pháp Sư oánh kha triều tống đã làm ra ví dụ cho chúng ta 3 ngày 3 đêm liền mời được A Di Đà Phật đến, người đó cũng chính là phá trai phạm giới tạo tác rất nhiều tội nghiệp, ngài cũng có thể thành công, chúng ta vì sao không thể thành công? không có quyết tâm đó của ngài, tín nguyện không so được với ngài, ngài thật tin thật nguyện.
Nay chúng ta nói là “oán thân trái chủ”, chúng ta phải học điều này. Nay chúng ta bắt đầu học Phật, những điều gây chướng ngại cho chúng ta rất nhiều, chúng ta muốn đến đây nghe kinh, nhưng bạn thân của quý vị gọi điện thoại hẹn sẵn, khiến cơ hội của quý vị bị phá hoại. Đó là gì? Ma chướng đạo. Kẻ ấy do lòng tốt mời quý vị đi chơi, tức là ma ở ngay trong cuộc sống hằng ngày, ở quanh ta. Hôm nay quý vị muốn định tâm, muốn niệm Phật, tính lạy Phật thì có người đến tìm quý vị, quý vị biết đó là ma đến quấy nhiễu. Khi ấy, quý vị tùy thuận giáo huấn của Phật, Bồ Tát, hay tùy thuận ý nghĩ của ma đi theo họ? Lúc ấy do chính quý vị chọn lựa. Chọn lựa đạo nghiệp thì trong tương lai quý vị có thành tựu. Quý vị chọn lựa thù tạc, đi theo ma, đạo nghiệp sẽ bị hủy mất. Từ sơ phát tâm cho đến khi thành Phật, Phật luôn giúp chúng ta, ma cũng luôn nhiễu loạn chúng ta, năm mươi, năm mươi! Mấu chốt thành bại chẳng tại Phật, cũng chẳng do ma, mà do chính mình quyết định. Nếu chính mình có thể kiên trì, một phương hướng, một mục tiêu, chẳng có ai không thành tựu. Nếu phương hướng của quý vị quá nhiều, mục tiêu quá nhiều, chắc chắn quý vị chẳng thể thành tựu. Không thể thành tựu thì chắc chắn vẫn luân hồi trong lục đạo. Phải thấy rõ luân hồi trong lục đạo rất khổ, khổ chẳng thể nói nổi. Thật sự hiểu rõ, thật sự minh bạch, chẳng còn muốn luân hồi nữa. Thời gian trong lục đạo rất dài, đời đời kiếp kiếp trong quá khứ đã chịu lắm nỗi khổ sở oan uổng dường ấy. Bao nhiêu đồng tham đạo hữu đều đã thành Bồ Tát, thành Phật, nhưng chúng ta vẫn luân hồi trong lục đạo, chính mình phải gánh lấy trách nhiệm ấy.
Tôi không cảm thấy giận, quý vị như thế nào, dùng phương pháp gì đối với tôi, tôi đều không giận. Tôi rất có tánh cảnh giác không dễ bị mắc lừa, nổi nóng là tự mình thiệt thòi. Trong Phật pháp nói, một ngọn lửa sân đốt thiêu cả rừng công đức. Lửa là gì? Khi nổi giận sẽ đốt cháy cả rừng công đức. Ma vương đáng sợ như thế nào cũng không đốt cháy được công đức của mình, họ liền nghĩ cách khiến ta nổi giận, nổi giận sẽ đốt cháy chính mình. Quý vị xem không ai có thể đốt cháy được, nếu như vĩnh viễn không nổi giận, công đức đó tích lũy không thể tưởng tượng được! Một niệm sân hận liền đốt cháy tất cả công đức, quý vị nói đáng sợ biết bao! Gặp chuyện không thể nhẫn, lập tức cảnh giác rằng yêu ma quỷ quái muốn đốt cháy rừng công đức của mình, tôi không bị mắc lừa đâu.
Trong lục đạo xả thân thọ thân là do nguyên nhân gì? Vẫn là do cảm ứng. Chúng ta có nhân duyên với cha mẹ, không có duyên không có cảm ứng, có duyên liền có cảm ứng.
Đức Phật nói có bốn loại nhân duyên, báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Quá khứ không biết đời nào, kết bốn loại nhân duyên này với quý vị. Đến báo ân, làm con hiền cháu thảo, không cần yêu cầu, họ tự nhiên hiếu thuận. Vì sao vậy? Vì trong đời quá khứ quý vị tốt với họ, đời này đến báo đáp. Đứa trẻ này rất dễ dạy, rất nghe lời, rất hiếu thuận.
Nếu là báo oán, đứa trẻ này cũng rất lanh lợi thông minh dễ thương, nhưng không biết nghe lời, luôn làm trái ý mình. Nếu dùng ân trọng đối đãi chúng, sự oán hận của chúng hóa giải được đôi chút. Còn như hung dữ với chúng, không biết cách dạy dỗ, vậy thì rất rắc rối, chúng ghi hận trong lòng. Vốn đã có oán hận, bây giờ đối với chúng không tốt lại càng thêm oán hận, sẽ khiến cho quý vị người mất nhà tan, họ đến để báo oán.
Ta nợ họ của cải, dù sau này kiếm tiền nhiều đến mầy đều là của họ. Họ chăm sóc quý vị, đem đến cho quý vị đời sống vật chất rất đơn giản, rất ít, chỉ đủ sống là được. Quý vị có thể ăn no, mặc ấm, thêm căn nhà để che mưa che nắng là đủ, không có tâm cung kính. Đây là gì? Họ đến đòi nợ, là con quỷ đòi nợ. Nếu nợ không nhiều lắm, ba tuổi, năm tuổi là ra đi, chết yểu, nợ đòi xong. Nợ nhiều quá, nuôi chúng đến tốt nghiệp đại học, lấy được học vị tiến sĩ thì ra đi. Họ chưa kiếm tiền nuôi quý vị, vừa trả hết thù họ ra đi.
Trả nợ, khi họ đến_tôi vừa nói là trả nợ. Họ có thể nuôi dưỡng quý vị, nếu nợ nhiều họ chăm sóc cuộc sống của quý vị rất chu đáo, nhưng không có lòng hiếu thuận, không có tâm cung kính. Nếu nợ ít, họ chăm sóc quý vị như người ở trong nhà vậy. Chúng tôi từng thấy trường hợp này. Con trai làm chức lớn, có địa vị, cha mẹ không ở cùng, ở một ngôi nhà nhỏ khác. Có một người ở chăm sóc họ, cuộc sống rất đơn giản, giống như đối với người nhà mình vậy. Một tháng cung cấp cho họ một ít tiền sinh hoạt, rất khổ!
Báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ chính là bốn mối quan hệ này. Cha mẹ là mối quan hệ này, anh em chị em cũng là mối quan hệ này, thân thích bằng hữu cũng là mối quan hệ này. Hiểu rõ đạo lý này, đây là nhân duyên trong lục đạo, là cảm và ứng trong lục đạo. Khi hiểu rõ ràng, phải dùng tâm chân thành, tâm nhân hậu đối đãi người khác. Nhân hậu với người khác chính là nhân hậu với mình, không có gì thiệt thòi cả. Ta có thể quên mình vì người, thì đời nay hoặc kiếp sau sẽ có người xả thân vì mình, quả báo mà! Bởi thế chúng ta khởi tâm động niệm trong tâm phải có cảnh giác, ta khởi tâm gì, nói những gì, đối đãi người khác như thế nào, biết rằng tương lai người ta đối đãi với mình cũng như vậy, không sai chút nào.
Sau khi học Phật, không giống trước. Học Phật, nhờ oai thần của Phật pháp gia trì, bản thân tinh tấn tu học, thay đổi tất cả những vấn đề về báo ân, báo oán. Thay đổi như thế nào? Làm bạn đồng tu, chúng ta đều là đồng học, hóa giải tất cả những chuyện trước đây. Hóa giải chấm dứt mọi thứ, nhất tâm nhất ý cùng nhau đồng tâm đồng đức tu hành. Mục đích là gì? Mục đích là không tiếp tục trôi lăn trong luân hồi lục đạo.
Cho nên khi con cái còn trẻ, nếu hiểu rõ phát tâm xuất gia, cha mẹ hoan hỷ. Biết như thế nào? Một đứa con thành Phật, chín đời sanh lên cõi trời. Trong nhà mình có một người tu hành thành tựu_quý vị xem trong Kinh Địa Tạng, bà la môn nữ, cô gái Quang Mục tu hành thành tựu, gia thân quyến thuộc đều được lợi ích. Tuy mẹ tạo tội đọa địa ngục, vừa nghe nói là mẹ của Bồ Tát, lập tức đưa bà đến trời Đao Lợi. Điều này chứng minh câu ngạn ngữ nói: “một người con thành Phật, chín họ sanh thiên”. Quang Mục thấy mẹ sanh lên cõi trời Đao Lợi, tổ phụ mẫu, tằng tổ phụ mẫu, cao tổ phụ mẫn, lên trên chín đời đều hưởng được lợi ích. Phước báo này lớn biết bao! Đây là phước báo chân thật, không phải nhân gian, phước báo nhân gian là giả, rất ngắn ngủi. Mà mình không có phước báo để hưởng phước này, tai họa lập tức đến, vì thế không phải phước báo của mình, ngày xưa người đọc sách tuyệt đối không dám nhận, vô duyên vô cớ mời họ đi làm quan, cho của cải, họ không dám. Vì sao vậy? Trong lòng họ tự biết, vô công hưởng lộc đằng sau chắc chắn có họa hoạn. Không phải bệnh nặng thì cũng gặp tai họa bất ngờ, vậy họ cần để làm gì? Người có học, người hiểu đạo lý, suốt đời chỉ cầu bình an mà thôi. Bình an chính là phước. Gia đình sum vầy, xóm làng hòa thuận, đó là hạnh phúc thật sự. Quan tâm lẫn nhau, chăm sóc lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau, gia đình như vậy mỹ mãn biết nhường nào. Họ không cầu địa vị hư vinh cao, không ngưỡng mộ những thứ đó, của cải đều không để trong tâm. Chỉ cần ngày ngày ăn nó mặc ấm, an cư lạc nghiệp, đây là hiện tượng của thái bình thạnh thế.
Chúng ta học Phật càng hiểu rõ những điều này, người học Phật không những không lãng phí, mà còn biết tiết kiệm, suốt đời sống có quy củ. Phật dạy hàng đệ tử bốn giới trọng. Trước đây khi thầy giảng kinh thường nhắc nhở chúng tôi: “Không làm quốc tặc, không hủy báng quốc chủ”. Không làm quốc tặc, nghĩa là tuyệt đối không được làm điều tổn hại đến quốc gia, tổn hại đến xã hội đại chúng. Không hủy báng quốc chủ, quốc chủ ngày nay gọi là người lãnh đạo. Người lãnh đạo từ trung ương, đến các giai cấp tỉnh huyện xã thôn, trưởng thôn là quốc chủ của một thôn. Quốc chủ là người lãnh đạo các đơn vị hành chính, dù họ làm không tốt, dù họ làm việc sai, cũng không được hủy báng họ, đây là đệ tử Phật. Họ làm sai, tự nhiên có quốc pháp trừng phạt họ, đệ tử Phật hủy báng là phạm giới. Phật pháp, “từ bi vi bổn, phương tiện vi môn”, phải nhớ điều này. Bất kỳ ai có sai lầm đều không được hủy báng, nuôi dưỡng điều gì? Nuôi dưỡng nhân đạo của mình.
Thông thường chúng ta nói yêu ma quỷ quái. Nó ở đâu? Ở ngay xung quanh chúng ta, chính là những nhân vật xung quanh mà chúng ta thường tiếp cận. Làm sao biết được? Quý vị thử nghĩ xem, trong kinh Đức Thế Tôn dạy về bốn loại duyên giữa con cái và cha mẹ. Quý vị thử nghĩ xem bốn loại duyên này là tính chất gì? Là báo ân, báo oán, đòi nợ hay là trả nợ, đặc biệt là thân tình khó đoạn. Điều đầu tiên của ma chướng là tình thân, quý vị không thể tự tại, không thể được tâm thanh tịnh. Quý vị thường nhớ nhung thấp thỏm, không nhớ gì đến Phật, đáng lý phải nhớ niệm Phật, phải nghĩ đến Phật, quý vị lại nhớ đến người nhà của mình là coi như xong. Nhớ nhung người nhà là trầm luân trong lục đạo, bị như thế nào? Đời đời kiếp kiếp oan oan tương báo. Báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ chính là làm những điều này. Quý vị vô cùng thân thiết đối với họ, nhưng lại rất xa lạ với Phật A Di Đà, đó là người ngoài, không để trong lòng, nên quý vị không thể vãng sanh. Phật A Di Đà ngày ngày hy vọng quý vị đến thế giới Cực Lạc, quý vị cũng có ý này, nhưng quý vị đã đi sai. Quý vị chấp trước tình thân, tình thân là đại ma thứ nhất, vì nó chướng ngại chúng ta tu hành vãng sanh Tịnh độ. Nó đến làm khó, chống lại, nghĩa là không để quý vị vãng sanh. Tóm lại mà nói phải nhận thức, người chúng ta thích là ma, người chúng ta ghét cũng là ma, ghét là gì? Khiến quý vị sanh tâm sân hận, tâm sân hận khiến quý vị đọa địa ngục, quý vị xem họ kéo quý vị vào địa ngục đấy. Người quý vị yêu thích, khiến quý vị sanh tâm hoan hỷ, tâm tham luyến, họ kéo quý vị vào đường ngạ quỷ. Tham sân si là ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, họ không lôi kéo quý vị vào nơi tốt đẹp, mà lôi kéo quý vị vào chỗ xấu xa nhất. Nên vấn đề này chỉ có người thật sự học Phật mới hiểu được, họ mới có cảnh giác cao độ. Ý niệm này khởi lên, cổ nhân nói: “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”, ý niệm vừa khởi lên lập tức đổi thành A Di Đà Phật. Hai câu này của cổ nhân rất hay: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Giác là gì? Luôn niệm câu Phật hiệu này chính là giác ngộ, nhớ niệm tham luyến ân oán đó tức là ma. Bất luận là ai cũng phải biết điều này.
Tôi thường chỉ cho các bạn đồng học một phương pháp tốt, xem tất cả mọi người đều là Phật A Di Đà. Người thân là Phật A Di Đà, oan gia cũng là Phật A Di Đà, nhìn thấy đều là Phật A Di Đà, không sanh tham luyến, không sanh sân nhuế, phương pháp này rất hay. Nếu dùng phương pháp này thuần thục, phải như thế nào? Chỗ xa lạ chuyển thành quen thuộc, chỗ quen thuộc chuyển thành xa lạ, công phu sẽ đắc lực. Công phu đắc lực thì sanh tử tự tại. Thế gian này nhân quả báo ứng rất nhanh! Rất rõ ràng. Chỉ cần chúng ta bình tĩnh quan sát, đều thấy được, người nông nổi không thấy được, tâm địa thanh tịnh đều nhìn thấy, quả báo ở ngay trước mắt. Quả thật là thiện có thiện quả, ác có ác báo.
“Thôi phục nhất thiết ma quân”. Vấn đề này ở trong khi giảng dạy chúng tôi đã nói rất nhiều. Nguyên tắc chung chính là thuận cảnh không khởi tham luyến, nghịch cảnh không sanh sân nhuế. Thuận cảnh khởi tham luyến, đọa vào đường ngạ quỷ, nếu quá đáng sẽ biến thành đường địa ngục. Trong nghịch cảnh sanh sân nhuế, điều này rất dễ, toàn bộ đều đọa vào địa ngục không biết lúc nào. Bởi vậy thuận cảnh chúng ta cảm ân, nghịch cảnh cũng cảm ân, vì sao vậy? Vì nó đến thử thách quý vị, xem công phu tu hành của quý vị đã đủ chưa, có nhẫn được chăng. Không nhẫn được thì xong rồi, đời này quý vị không thể thành tựu, phải đi về đâu thì quý vị sẽ đi về đó. Thật sự có công phu, ma sẽ bị đẩy lùi.
Loại quỷ thần này có đại thần lực, có thể đối đầu khó dể với người tu pháp xuất thế, quân chúng của ma”. Quân chúng ở đây chính là quần chúng, còn gọi là ma quân. Đây là giải thích chữ ma. Có ma, hoàn toàn không phải giả. Thông thường chúng ta nói yêu ma quỷ quái. Nó ở đâu? Ở ngay xung quanh chúng ta, chính là những nhân vật xung quanh mà chúng ta thường tiếp cận. Làm sao biết được? Quý vị thử nghĩ xem, trong kinh Đức Thế Tôn dạy về bốn loại duyên giữa con cái và cha mẹ. Quý vị thử nghĩ xem bốn loại duyên này là tính chất gì? Là báo ân, báo oán, đòi nợ hay là trả nợ, đặc biệt là thân tình khó đoạn. Điều đầu tiên của ma chướng là tình thân, quý vị không thể tự tại, không thể được tâm thanh tịnh. Quý vị thường nhớ nhung thấp thỏm, không nhớ gì đến Phật, đáng lý phải nhớ niệm Phật, phải nghĩ đến Phật, quý vị lại nhớ đến người nhà của mình là coi như xong. Nhớ nhung người nhà là trầm luân trong lục đạo, bị như thế nào? Đời đời kiếp kiếp oan oan tương báo. Báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ chính là làm những điều này. Quý vị vô cùng thân thiết đối với họ, nhưng lại rất xa lạ với Phật A Di Đà, đó là người ngoài, không để trong lòng, nên quý vị không thể vãng sanh. Phật A Di Đà ngày ngày hy vọng quý vị đến thế giới Cực Lạc, quý vị cũng có ý này, nhưng quý vị đã đi sai. Quý vị chấp trước tình thân, tình thân là đại ma thứ nhất, vì nó chướng ngại chúng ta tu hành vãng sanh Tịnh độ. Nó đến làm khó, chống lại, nghĩa là không để quý vị vãng sanh. Tóm lại mà nói phải nhận thức, người chúng ta thích là ma, người chúng ta ghét cũng là ma, ghét là gì? Khiến quý vị sanh tâm sân hận, tâm sân hận khiến quý vị đọa địa ngục, quý vị xem họ kéo quý vị vào địa ngục đấy. Người quý vị yêu thích, khiến quý vị sanh tâm hoan hỷ, tâm tham luyến, họ kéo quý vị vào đường ngạ quỷ. Tham sân si là ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục, họ không lôi kéo quý vị vào nơi tốt đẹp, mà lôi kéo quý vị vào chỗ xấu xa nhất. Nên vấn đề này chỉ có người thật sự học Phật mới hiểu được, họ mới có cảnh giác cao độ. Ý niệm này khởi lên, cổ nhân nói: “không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”, ý niệm vừa khởi lên lập tức đổi thành A Di Đà Phật. Hai câu này của cổ nhân rất hay: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Giác là gì? Luôn niệm câu Phật hiệu này chính là giác ngộ, nhớ niệm tham luyến ân oán đó tức là ma. Bất luận là ai cũng phải biết điều này.
Tôi thường chỉ cho các bạn đồng học một phương pháp tốt, xem tất cả mọi người đều là Phật A Di Đà. Người thân là Phật A Di Đà, oan gia cũng là Phật A Di Đà, nhìn thấy đều là Phật A Di Đà, không sanh tham luyến, không sanh sân nhuế, phương pháp này rất hay. Nếu dùng phương pháp này thuần thục, phải như thế nào? Chỗ xa lạ chuyển thành quen thuộc, chỗ quen thuộc chuyển thành xa lạ, công phu sẽ đắc lực. Công phu đắc lực thì sanh tử tự tại. Thế gian này nhân quả báo ứng rất nhanh! Rất rõ ràng. Chỉ cần chúng ta bình tĩnh quan sát, đều thấy được, người nông nổi không thấy được, tâm địa thanh tịnh đều nhìn thấy, quả báo ở ngay trước mắt. Quả thật là thiện có thiện quả, ác có ác báo.
“Thôi phục nhất thiết ma quân”. Vấn đề này ở trong khi giảng dạy chúng tôi đã nói rất nhiều. Nguyên tắc chung chính là thuận cảnh không khởi tham luyến, nghịch cảnh không sanh sân nhuế. Thuận cảnh khởi tham luyến, đọa vào đường ngạ quỷ, nếu quá đáng sẽ biến thành đường địa ngục. Trong nghịch cảnh sanh sân nhuế, điều này rất dễ, toàn bộ đều đọa vào địa ngục không biết lúc nào. Bởi vậy thuận cảnh chúng ta cảm ân, nghịch cảnh cũng cảm ân, vì sao vậy? Vì nó đến thử thách quý vị, xem công phu tu hành của quý vị đã đủ chưa, có nhẫn được chăng. Không nhẫn được thì xong rồi, đời này quý vị không thể thành tựu, phải đi về đâu thì quý vị sẽ đi về đó. Thật sự có công phu, ma sẽ bị đẩy lùi.
Đức Thế Tôn đã làm tấm gương tốt nhất cho chúng ta, trong nhiều kiếp quá khứ ngài tu hành Bồ Tát đạo, tu hạnh nhục, gặp được vua Ca Lợi. Câu chuyện này trong Kinh Đại Niết Bàn ghi chép rất tường tận, Kinh Kim Cang chỉ nhắc đến một ít: “Vua Ca Lợi cắt bỏ thân thể”, đã nhắc đến câu này. Nói tỉ mỉ là trong Kinh Đại Niết Bàn. Điều này thông thường chúng ta nói là vô cùng nhục nhã. Tâm của nhẫn nhục tiên nhân tốt, tâm thiện hành thiện, vô duyên vô cớ chịu nhẫn nhục, lăng trì xử tử. Bất cứ ai cũng không thể chịu đựng được, không ngờ ngài hoàn toàn tiếp nhận, không hề có chút oán hận nào, cho đến khi ngài mạng chung. Sau cùng còn nói với Vua Ca Lợi, sau khi tôi thành Phật, người đầu tiên tôi độ là ông. Lời của ngài đã thực hiện. Đức Thế Tôn thành Phật, người đầu tiên được độ là tôn giả Kiều Trần Như. Tôn giả Kiều Trần Như chính là vua Ca Lợi năm đó, còn Đức Thế Tôn chính là Nhẫn Nhục Tiên Nhân. Chúng ta đạt được khai thị này, hiểu rõ chân tướng sự thật, người hủy báng tôi cám ơn họ, người hủy nhục tôi cám ơn họ. Người chiếm lợi ích của tôi, hại tôi, lừa gạt tôi, cảm kích họ, nghĩ rằng mình đang trả nợ. Người hãm hại tôi, dù hãm hại đến tột cùng tôi vẫn cảm kích.
Ngày nay người chướng ngại quý vị, chướng ngại quý vị rõ ràng nhất là danh lợi. Tôi không cần danh, buông bỏ danh, họ không cách nào phá hoại được, đây gọi là hàng phục. Lợi, người xuất gia nhiều Phật tử, nhiều người khen ngợi cúng dường, nếu họ đặt chuyện sinh sự, sẽ đẩy tất cả những người này rời xa. Họ cho rằng thầy mình không phải là người tu hành chơn chánh, ông chỉ làm bộ làm dáng gạt chúng ta.
Tôi không cần danh, tôi cũng không cần lợi, tôi cũng không cần khen ngợi, tôi cũng không cần người cúng dường, vậy thì ma hết cách. Chỉ cần có phân biệt chấp trước, ma liền có được cơ hội. Nếu buông bỏ tất cả phân biệt chấp trước, ma đối với quý vị không còn cách nào khác. Đến sau cùng sẽ sát hại, sát hại cũng cảm ân quý vị, giống như Nhẫn Nhục Tiên Nhân vậy, thì ma cũng đành chịu.
Mềm mỏng khắc phục cang cường, đức lớn của nhu hòa nhẫn nhục có thể thành tựu vô lượng công đức, không nhẫn được là thất bại thể thảm.
Trong xã hội hiện nay, thường nghĩ đến Nhẫn Nhục Tiên Nhân biểu diễn cho chúng ta thấy, chúng ta phải lãnh hội một cách sâu sắc, vì sao vậy? Vì trên đường đạo bồ đề chúng ta sẽ gặp một vài vấn đề, cũng có thể gặp rất nhiều lần, chư Phật Bồ Tát từ lâu đã dạy chúng ta ứng phó cách nào rồi. Không chướng ngại chúng ta tu hành, không chướng ngại chúng ta cầu sanh Tịnh độ, không chướng ngại chúng ta thân cận Phật A Di Đà, nên suốt đời phải nắm chắc việc niệm Phật này. Không cho ta niệm Phật, không cho ta mở miệng, vậy thì mặc niệm trong tâm. Họ có thể quản lý được bên ngoài của ta, nhưng không quản được nội tâm ta. Thảm họa càng nghiêm trọng, thành tựu càng thù thắng. Thảm họa càng bức bách, thành tựu càng nhanh chóng, thế nên mọi thứ ngăn trở trước mắt không phải là việc xấu. Đối với người tu hành chơn chánh mà nói, đó là một cơ duyên rất khó được, vì sao vậy? Vì nó khiến chúng ta nhanh chóng thành tựu. Đây là thử thách sau cùng, đề thi vô cùng nghiêm khắc. Không thông qua sẽ đọa lạc, thông qua cảnh giới liền nâng cao, đọa nhanh, lên cũng rất nhanh. Nhẫn được, hiểu lý lẽ, tâm địa thanh tịnh, tâm địa có trí tuệ chắc chắn vượt qua.
Đây là một việc. Hoặc dạ mộng ác quỷ, nãi cập gia thân. Hoặc đêm mộng thấy ác quỷ cho đến kẻ thân thích trong nhà
Đây là việc thứ nhì. Ban đêm thường bị ác mộng, đây chẳng phải là chuyện tốt, cũng rất đau khổ.
Hoặc du hiểm đạo, hoặc đa yểm mị, cộng quỷ thần du
Hoặc đi trên đường hiểm, hoặc nhiều lần bị bóng đè, hoặc cùng quỷ thần dạo chơi
Đây là việc thứ ba, những câu sau đây là tổng kết.
Nhật nguyệt tuế thâm, chuyển phục uông sái, nhãn trung khiếu khổ, thảm thê bất lạc giả.
Trải qua nhiều ngày nhiều tháng nhiều năm, trở nên gầy mòn, lao sái; trong giấc ngủ kêu gào khổ sở, thê thảm không vui.
Đây là trạng huống bịnh lâu ngày. Loại thứ nhất ngày nay chúng ta gọi là bịnh già, danh từ ngày nay gọi là bịnh mất trí nhớ vì tuổi già, nếu nghiêm trọng thì người ta gọi là người thực vật. Kẻ ấy còn thở thoi thóp, đích thật là cầu sống không được, cầu chết cũng không xong, chúng tôi đã gặp rất nhiều. Nằm trên giường bảy, tám năm, mười mấy năm, người cả nhà phải chăm sóc. Phần nhiều người bị bịnh này đều tương đối giàu có, đến tuổi già bị bịnh này. Tiền thuốc men phải tốn kém rất nhiều, ngày đêm ba ca y tá chăm sóc, đây là bịnh phú quý. Tôi đã từng gặp đồng tu, người nhà của họ bị bịnh này hết bảy, tám năm, đã đến mức chẳng hay biết gì cả, gia quyến con cháu trong nhà đều chẳng nhận ra. Hỏi người ấy: “Cha biết con là ai không?”. “Con là ai?”, ông ấy đều chẳng nhận ra. Người nhà lại hỏi tôi: “Bịnh giống như vậy cầu Phật, Bồ Tát được không?”. Được, có lợi ích, nhưng phải hỏi bạn chịu tin hay không?”Tại sao người ấy không chịu ra đi? Ngạn ngữ thường nói: “Lộc hết người mất”9, người ấy là người mất nhưng lộc chưa hết. Nói cách khác, phước báo của kẻ ấy chưa hưởng hết; hoặc là thọ mạng đã đến nhưng phước báo chưa hưởng hết. Vậy thì phải làm sao? Chỉ còn cách nằm trên giường hưởng.
Nếu hiểu được đạo lý này, một năm người ấy phải tốn bao nhiêu tiền thuốc men, bạn đem số tiền ấy đi làm phước, quyên tặng tiền ấy để làm phước. Nếu kẻ ấy còn thọ mạng thì sẽ từ từ khôi phục sức khoẻ, hết bịnh; nếu thọ mạng đã đến thì sẽ qua đời. Kẻ ấy qua đời xong sẽ sanh đến cõi lành, vì tích phước lớn. Nếu bạn không tin, bạn sợ người ta gạt tiền của bạn, thì thôi bạn cứ mướn y tá từ từ tiêu hết số tiền ấy. Chúng tôi nhìn thấy rất rõ ràng, hiểu được đạo lý này. Nếu bạn muốn khoẻ mạnh sống lâu, muốn giảm bớt bịnh tật, bạn nên nghĩ coi bạn sanh bịnh đại khái phải xài hết bao nhiêu tiền, bạn đem hết món tiền ấy đi làm phước, đem tặng cho những người bị bịnh khổ, tặng làm tiền thuốc men cho những người nghèo ấy thì bạn sẽ chẳng sanh bịnh. Tiền thuốc men chữa trị cho bạn đã chẳng còn nữa, đã tặng cho người khác, người ta sanh bịnh thay bạn nên bạn sẽ chẳng sanh bịnh. Có rất nhiều người đều để dành một số tiền, chuẩn bị đến già trị bịnh nên họ làm sao chẳng sanh bịnh cho được? Họ đã dành dụm sẵn một số tiền, tiền thuốc men càng nhiều, thời gian bị bịnh càng dài, bịnh càng nặng, chẳng phải là đạo lý như vậy hay sao? Cho nên tôi thường khuyên người ta, mỗi năm nên đem tiền thuốc men đi làm phước.
Lúc trước trong các buổi giảng tôi khuyên người tu phước nên làm ba việc: in kinh, nhất định sẽ là chuyện tốt, chẳng có tác dụng phụ, chẳng bị tệ hại; thứ hai là giúp kẻ bị bịnh khổ; thứ ba là phóng sanh, đây là việc tôi cực lực đề xướng. Ăn chay, phóng sanh, tôi cũng tu sám hối, lúc trẻ tuổi ham thích săn bắn, sát sanh quá nặng, nghiệp sát sanh quá nặng, sau khi học Phật mới biết rõ, đặc biệt là đọc kinh Địa Tạng, biết quả báo của nghiệp sát sanh quá nặng, cho nên đọc kinh này xong liền chẳng dám ăn thịt nữa. Không những chọn ăn chay mà còn dốc hết sức, hết lòng để phóng sanh, tu pháp sám hối. Ba việc này tuyệt đối là việc tốt, nhất định sẽ chẳng có ảnh hưởng xấu ác. Nếu nói chúng ta xây một ngôi chùa không nhất định là việc tốt; nếu chùa xây xong, những người trụ trong ấy, tại gia, xuất gia, tứ chúng đệ tử đều tu hành đúng như pháp, chân chánh là một đạo tràng tốt, thì công đức ấy vô lượng. Nếu đạo tràng xây xong, tứ chúng đệ tử mỗi ngày đều đánh lộn, tranh danh đoạt lợi, bạn xây đạo tràng như vậy là tạo tội nghiệp. Bạn dẫn những người ấy đọa địa ngục, đâu có lý nào bạn chẳng đọa địa ngục cho được? Nên chuyện đó chưa chắc là phước, cả đời tôi chẳng dám đề xướng. Nếu gặp đạo tràng chánh pháp, phước đức cúng dường sẽ vô lượng vô biên. Trong đời tôi rất ít gặp đạo tràng chánh pháp.
Trong kinh nói ‘Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ’, thời đại này có được một đạo tràng như vậy, thật sự là vô cùng hiếm hoi, hy hữu! Ngày nay chúng ta trồng phước, đương nhiên đây là ruộng phước thật sự. Do đó hết thảy đại chúng cúng dường cho tôi, tôi đem hết số ấy gởi qua bên đó, phước điền thù thắng hiếm có, bạn cúng dường tôi, tôi thay thế bạn trồng phước điền. Bạn cúng dường tôi chẳng có phước, bạn cúng dường đạo tràng này thì phước báo chẳng cùng tận, một đồng, một cắc đều có công đức chân thật, phước báo vô biên.
Đạo tràng phải coi trong ấy có Đạo hay không, thật sự có đạo phong, học phong (phong cách tu học) thì đó là đạo tràng chân chánh, chúng ta phải dốc toàn tâm toàn lực để hộ trì, cúng dường, đời sau chúng ta được đại phước báo, phước điền này chẳng trồng sai chỗ. Nếu đạo tràng ấy là nơi đấu tranh, chúng ta ra tiền, ra sức ở đó là tạo tội, chẳng phải trồng phước. Hồi xưa tôi ở Đài Loan giảng kinh tại một đạo tràng, ở đó giảng chẳng bao lâu, đại khái là hơn một tháng, người xuất gia trong ấy mỗi ngày đều cãi lộn. Vì sao cãi lộn? Tranh chức Chấp Sự. Đạo tràng ấy mới xây chẳng bao lâu, cỡ một hai năm, vị lão sư phụ cho đệ tử đi khắp nơi ở Đài Loan để quyên góp về xây đạo tràng. Sau khi xây xong, đương nhiên chẳng có ai giành địa vị của lão sư phụ, đệ tử của ngài chẳng dám tranh. Họ lại tranh chức Đương Gia, Tri Khách, Giám Viện; họ nói tôi quyên được bao nhiêu tiền, tôi đáng làm chức đó, kẻ kia nói họ quyên được bao nhiêu tiền, đáng phải làm chức gì, mỗi ngày đều tranh cãi chẳng dứt, chẳng yên. Họ còn mời tôi đi giảng kinh, tôi về Đài Trung liền kể chuyện này cho thầy Lý, thầy Lý nói: “Thôi đi! Về đi, đừng đi nữa”. Tôi nói: “Kinh đó giảng mới nửa chừng thì sao?”. “Không sao!”, tôi bèn nghe lời thầy, kinh chưa giảng xong, đại khái giảng chừng một phần ba rồi ngưng. Thầy nói chẳng nên tới những chỗ thị phi như vậy. Những kẻ ra tiền, ra sức xây dựng đạo tràng đó chẳng trồng được phước điền, thật sự gọi là tạo nghiệp. Có lúc thầy Lý giảng kinh cũng nhắc chúng tôi, thầy nói mọi người đồng tâm đồng sức cùng nhau đi khắp nơi quyên tiền xây đạo tràng thì lúc đó là ‘Bồ Tát’, khuyên người ta tu phước, đạo tràng xây xong thì biến thành ‘La Sát’, tranh quyền đoạt lợi.
Chúng tôi đã gặp hiện tượng này quá nhiều, cho nên nghĩ đến Ấn Quang Đại sư cả đời chẳng xây đạo tràng, cả đời chẳng nhận đệ tử xuất gia, chẳng truyền giới, tôi nghĩ rất có đạo lý. Lúc đó tôi chưa xuất gia, đọc Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, được sự giáo huấn của thầy Lý nên tôi rất muốn học theo Ấn Quang pháp sư. Cả đời tôi chẳng xây đạo tràng, nghĩ mình chẳng có phước, chẳng muốn tạo nghiệp, chẳng muốn thọ quả báo này, rất đáng sợ! Cả đời chẳng thâu nhận đệ tử xuất gia, quý vị hiện nay xuất gia chẳng phải theo tôi, mà theo Quán Trưởng xuất gia, Quán Trưởng thâu nhận, tôi chẳng thâu. Hàn Quán Trưởng thật là Y Chỉ Hòa Thượng của quý vị, cụ dùng danh nghĩa của tôi để xây đạo tràng, sau khi cụ vãng sanh, đương nhiên tôi không thể không chăm sóc sự tu học của quý vị, trên đạo nghĩa nhất định phải lo lắng, nhất định phải hiểu. Tôi chỉ truyền thọ Tam Quy, Ngũ Giới, những thứ khác tôi chẳng dám truyền thọ, sợ làm chẳng đúng như pháp thì phải thọ quả báo. Những Lý, Sự này chúng ta đều phải rõ ràng, minh bạch, nhất định phải hết lòng nỗ lực tu học, đời này quyết định cầu sanh Tịnh độ.
Chúng ta sẽ gặp những quả báo này. Bịnh người già si khờ, bạn có thể bảo đảm bạn sẽ chẳng bị không? Người xuất gia, lão hòa thượng lúc già bị bịnh si khờ, chúng ta cũng thấy. Lần này tôi đến Hương Cảng, tôi hỏi lúc trước có một vị lão đồng tham là pháp sư Năng Từ, mỗi lần tôi đến Hương Cảng, thầy đều tiếp đãi tôi. Lần này đi tôi hỏi pháp sư Trí Huệ (Trụ Trì chùa Bảo Liên), vì lúc trước pháp sư Năng Từ có trú tại liêu phòng chùa Bảo Liên. Tôi nói: “Lão pháp sư này còn ở đó không?”, nếu còn thì đã tám, chín chục tuổi rồi. Thầy ấy nói: “Vẫn còn, bây giờ thầy ấy bị chứng người già si khờ”. Thân thể cứng đờ, chẳng biết ăn cơm, phải có người đút, hiện nay trú tại một viện dưỡng lão, thật đáng thương! Thầy ấy trung niên xuất gia, bốn mươi mấy tuổi mới xuất gia. Hồi trước theo Đàm Hư pháp sư, lúc Đàm Hư pháp sư giảng kinh ở Hương Cảng, rất nhiều bài vở đều do thầy ấy ghi chép lại. Thông đạt kinh giáo, đến già cũng thật thà niệm Phật, tại sao lại bị bịnh này? Vọng tưởng quá nhiều. Thầy ấy là người tỉnh An Huy, kể ra là đồng hương với tôi, nên mỗi lần tôi đến đó thầy đều kiếm tôi. Tìm tôi làm gì? Để nói chuyện, nói những chuyện đời xưa, nói hoài chẳng hết. Tâm chẳng thanh tịnh, tôi khuyên thầy, thầy đều biết chẳng cần tôi khuyên, vừa nhắc là thầy biết liền, thầy làm sao không biết được? Chẳng buông xuống nổi, tập khí quá nặng, quá sâu. Những vị lão pháp sư bị bịnh này thật chẳng ít, tôi đã gặp qua, cũng rất hạp với tôi, nhưng lời nói dư thừa quá nhiều, bạn coi đâu có cách chi nữa?
Học Phật thế nào gọi là tiến bộ, tất cả đều không tính toán, cái gì cũng đều thấy thường, buông xuống vạn duyên, tất cả hoan hỉ, cái gì cũng tốt, đó là có tiến bộ.
Nếu không buông xả được, thì đó là chướng ngại rất nghiêm trọng, ải thứ nhất bạn không qua được, cho nên học Phật mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, đều ở ngoài cửa Phật, không vào cửa được, đó là chân tướng sự thật, các bạn bất luận tại gia hay xuất gia, đều phải nên hiểu được, bằng không đời này học Phật cũng như không!
Hiện giờ chúng ta học Phật, đến khi nào chúng ta thành Phật? Bạn đừng hỏi người khác, bạn tự hỏi mình, chỉ có bạn tự biết khi nào có ý nguyện buông xả thì lúc đó sẽ thành tựu. Buông xả không được ư? Buông xả không được thì lại tiếp tục lục đạo luân hồi, đó là lời của Phật Bồ Tát nói với chúng ta, luân hồi lục đạo thật khổ!
Lúc đi dạy phải chuẩn bị tài liệu giảng dạy, giống như các bạn bây giờ, đâu có thời giờ để suy nghĩ lung tung. Giảng kinh dạy học cả đời nên rất đơn thuần, những chuyện thù tạc chẳng có nhiều như kẻ khác nên vọng tưởng ít, vọng niệm ít, nói chuyện tầm phào cũng ít, như vậy mới chuyển được nghiệp chướng của mình.
‘Hoặc đêm mộng thấy ác quỷ cho đến kẻ thân thích trong nhà, hoặc đi trên đường hiểm, hoặc nhiều lần bị bóng đè, hoặc cùng quỷ thần dạo chơi’, việc nói trong đoạn này tôi cũng từng trải qua, lúc trước thường có. Đặc biệt là gặp yểm quỷ, bị bóng đè tức là gặp yểm quỷ, yểm quỷ cũng là một trong bát bộ quỷ thần, chúng ta thấy trong kinh. Khi bị bóng đè trong tâm rất rõ ràng, toàn thân chẳng thể nhúc nhích, lúc trước thường bị. Đặc biệt là nhà mình ở, phần đông người ta gọi là chẳng ‘sạch sẽ’, trong nhà có quỷ. Gặp những chuyện này, hơn phân nữa là vì vận của mình kém một chút, người gặp vận may thì những quỷ thần này chẳng dám phá kẻ ấy, quỷ thần lánh xa; khi vận bạn sa sút thì quỷ thần sẽ hiếp đáp bạn. Khi bị bóng đè liền biết, biết vận mình chẳng tốt, bị họ hiếp đáp. Sau khi học Phật thì những chuyện này từ từ giảm bớt, đại khái mười năm đầu học Phật vẫn còn, sau mười năm đầu thì chẳng còn nữa. Cho nên tu học đích thật có hiệu quả, muốn biết bạn có tiến bộ không, công phu đắc lực không, hãy so sánh với lúc bạn chưa học Phật, hoặc lúc vừa mới học Phật liền biết được. Lúc trước có nhiều ác mộng, lúc nằm mộng thì rất tán loạn, sau này tuy có nằm mộng nhưng mộng rất tỉnh táo, trong mộng cũng giống như sinh hoạt thường ngày, vậy là có tiến bộ rất nhiều. Nếu thường mộng thấy Phật, Bồ Tát, chúng tôi giảng kinh thuyết pháp thường mộng thấy giảng kinh thuyết pháp, đây là chuyện tốt, có thể nhìn thấy tự mình tu học công phu được đắc lực.
Phần cuối là nói về bịnh khổ. Đoạn này trong chú giải Thanh Liên pháp sư cũng nói rất cặn kẽ, ngài nói trong Phật Thuyết Y Kinh có nói bốn bịnh của con người là ‘địa, thủy, hỏa, phong’, chúng ta thường nói là tứ đại chẳng điều hòa. Nói đến chỗ này, con người ăn ngũ cốc, đủ loại lương thực, làm sao không sanh bịnh cho được? Phía trước tôi đã báo cáo với các vị đồng tu, nguồn gốc thứ nhất của bịnh tật là ăn uống. Ăn uống là sanh hoạt vật chất của chúng ta, sơ ý, không để ý bị nhiễm những tật bịnh này, đây là loại thứ nhất. Thứ nhì là oan gia trái chủ, như trong kinh này nói mộng thấy ác quỷ, người nhà thân quyến; thân quyến là những người đã mất. Hoặc mộng thấy chỗ nguy hiểm, mộng thấy bị bóng đè, những thứ này đều liên quan đến oán thân chủ nợ. Phàm có hiện tượng này, chúng ta phải hết lòng nỗ lực, đoạn dứt ác tu thiện, sửa sai đổi mới, thật thà niệm Phật, tại sao? Gặp những chuyện này là vận khí của chúng ta suy thoái, không hưng vượng, nếu bạn có vận may, khí vượng, thì những ác quỷ, ác thần này cũng tránh xa. Dù lúc trước có chuyện xích mích, lúc đó họ cũng chẳng dám đến gây phiền phức cho bạn, họ sẽ lánh xa, đợi đến lúc vận của bạn suy thoái thì họ sẽ đến. Cho nên khi gặp những chuyện này phải biết lúc đó khí vận của mình rất suy thoái, nhất định phải nỗ lực tu học cho đàng hoàng.
Thứ ba là bịnh nghiệp chướng, phía trước có nói: “Nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống, cầu chết cũng chẳng thể được”, đây là bịnh nghiệp chướng. Chẳng có cách gì hết, thuốc men bác sĩ cũng chẳng giúp gì được, siêu độ, tiêu tai miễn nạn cũng chẳng được, tiêu chẳng nổi. Nhờ sức lực của người khác tiêu không nổi, nhờ tự mình sám hối, sức mạnh của sự sám hối này rất lớn, rất lớn! Chúng sanh tạo ác nghiệp, đây là nguồn gốc thật sự của bịnh tật. Phật, Bồ Tát, A La Hán chẳng tạo ác nghiệp, đây là lý do các ngài chẳng sanh bịnh, đạo lý là như vậy. Lúc Phật, Bồ Tát sanh bịnh chỉ là thị hiện, đó là hoằng pháp, giống như cư sĩ Duy Ma thị hiện bị bịnh, đó chỉ vì hoằng pháp lợi sanh, thật sự ngài chẳng bị bịnh. Ngài chẳng thể sanh bịnh, ngài chẳng có lý do gì để sanh bịnh. Hết thảy chúng sanh khởi tâm động niệm, những ý niệm nhỏ bé thì tự mình chẳng biết, sau khi chúng ta học Phật, đọc kinh mới biết chuyện này. Một niệm càng nhỏ, càng yếu ớt, nếu một niệm ấy chẳng thiện thì sẽ ảnh hưởng đến sanh hoạt vật lý trong thân thể, nếu là một niệm cực ác sẽ thay đổi thể chất. Hiện nay nhà khoa học, các bác sĩ hiện đại cũng dần dần hiểu được đạo lý này, cho nên người có tâm lý khỏe mạnh, tâm tình ổn định, tâm tình vui đẹp, dù bị bịnh rất nặng thân thể người ấy cũng rất dễ khôi phục. Một số người cho rằng đây là kỳ tích, thật ra đó đâu phải là kỳ tích, là có đạo lý đấy.
Ở đây đức Phật nói với chúng ta, đây là nói rõ loại bịnh nghiệp chướng thứ nhất. Nằm liệt trên giường gối, cầu sống chẳng được cầu chết cũng không xong, là do nguyên nhân gì? Có tới mấy loại nguyên nhân. Một loại là oán gia chủ nợ của họ lúc đó thưa kiện với Diêm La Vương, họ đến đó biện luận, sự việc này còn chưa định án, nên bịnh này của họ chẳng thấy khoẻ hơn, đây là một loại, đích thật có. Loại thứ nhì ‘hoặc khó chết’, tức là việc tôi vừa nói kẻ ấy còn phước báo, chưa hưởng hết, phước báo của họ chẳng chịu xả, nếu họ chịu xả thì vấn đề sẽ được giải quyết nhưng họ chẳng chịu xả. Vẫn còn muốn hưởng phước tiếp nên chỉ còn cách nằm trên giường bịnh mà hưởng, họ chẳng chịu xả, chẳng buông xuống nổi, đây là một loại. Loại thứ ba là ‘hoặc là khó lành’, trong loại này nhất định có một số nguyên nhân sai khác, bịnh của họ chẳng lành nhưng cũng chẳng chết được. Người thế gian chúng ta thấy hiện tượng này nhưng không hiểu rõ nguyên nhân thật sự là gì, đây cũng là nghiệp báo và oán gia trái chủ đòi nợ, trả nợ, chiêu cảm những duyên nghiệp này nên mới có những chuyện như trên phát sanh. Người thế gian chẳng có thiên nhãn, chẳng có túc mạng thông, chẳng biết chân tướng sự thật, nhưng có một nguyên tắc: Chỉ cần bạn tu phước là được. Tuy hết thảy những nguyên nhân gây bịnh này chẳng giống nhau, bạn tu phước chắc chắn sẽ có lợi ích.
Đây là dạy cho chúng ta phương pháp, trong Khoa Chú gọi là ‘Tu phước thoát tội’. Đọc kinh có hiệu quả không? Chúng tôi đã gặp việc này, người nhà quyến thuộc của ông nọ lớn tiếng đọc kinh này trước hình tượng Phật, Bồ Tát coi có hiệu quả gì không? Kết quả là chẳng hiệu quả. Đừng nói đọc một lần, đọc mười lần, đọc một trăm lần, đọc một ngàn lần đều chẳng có hiệu quả. Mấu chốt quan trọng ở chỗ nào? Mấu chốt ở phương pháp đọc kinh, dùng tâm chân thành cung kính mà đọc, khi đọc kinh mà vẫn còn khởi vọng tưởng thì không được, chẳng có hiệu quả. Lần trước tôi kể cho quý vị chuyện của Thích Kế Quang không phải là rất rõ rồi sao. Ông Quang đọc kinh Kim Cang, kinh này rất ngắn, chỉ có năm ngàn mấy chữ, trong lúc đọc kinh có một chút xen tạp bèn chẳng có hiệu quả. Kinh dài như vậy, đọc một bộ nhưng có khởi lên một vọng niệm thì chẳng có hiệu quả nữa. Cho nên mở kinh ra đọc từ câu ‘Như thị ngã văn’ cho đến ‘tín thọ phụng hành’ đọc một lượt chẳng có một vọng tưởng nào cả thì mới có hiệu quả. Người thế gian vẽ bùa, ở Trung Quốc rất thịnh hành, bùa vẽ xong rất linh. Niệm chú, chú cũng rất linh. Linh ở chỗ nào? Linh ở chỗ ‘Thành’. Tâm chân thành vẽ bùa ấy, người vẽ bùa biết, khi đặt bút vẽ một lá bùa thì chẳng sanh một niệm nào cả, tuyệt chẳng sanh một niệm thì lá bùa ấy sẽ linh. Lúc thường phải luyện tập, tập vẽ thật rành, đến lúc vẽ thật sự thì chẳng thể khởi lên một niệm, nếu khởi một niệm lên thì bùa ấy sẽ chẳng linh. Niệm chú cũng vậy, lúc niệm Chú Đại Bi có thể trị hết thảy bịnh, tại sao? Lúc niệm chú thì một niệm chẳng sanh. Đọc kinh cũng vậy, bộ kinh này đọc lên thì chẳng khởi lên một vọng niệm nào hết, đọc kinh như vậy sẽ linh, có ích lợi. Vừa đọc kinh, vừa khởi vọng tưởng thì làm sao được? Vậy thì chẳng linh, mấu chốt quan trọng ở chỗ này.
Nếu bạn hỏi tại sao người ta đọc bộ kinh này cho người ấy thì người ấy được lợi ích? Bạn suy nghĩ về trường hợp của cô Bà La Môn, cô Quang Mục đã được nói trong phần trước thì bạn sẽ hiểu. Người ấy được một phần bảy lợi ích, còn người đọc kinh sẽ được sáu phần bảy. Nếu chẳng vì người sanh bịnh thì kẻ ấy sẽ chẳng đọc kinh, sẽ chẳng chuyên tâm mà đọc, đạo lý là như vậy. Do vì nhân duyên người ấy sanh bịnh nên thành tựu cho công đức đọc kinh của bạn, họ được một phần, bạn đọc hai bộ thì họ được hai phần. Cho nên gặp con cái có hiếu thuận, gia thân quyến thuộc có hiếu, thì có thể tu hành theo phương pháp này, đạt được công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, đây là công đức lợi ích thù thắng nhất, đoạn kinh tiếp theo nói đến những công đức thua kém hơn. Một người trong một đời này có thể có mấy lúc chuyên tâm để đọc kinh, hy hữu khó gặp, đọc kinh như vậy là tự tánh quang minh hiển lộ. Thí dụ chúng ta trong vô minh đen tối, thời gian quá dài quá lâu rồi, niệm bộ kinh này giống như xẹt điện phóng ra một lần ánh sáng, trong vòng trăm ngàn năm hiếm có được một lần phóng ánh sáng, lần này được xẹt một luồng ánh sáng. Ánh quang minh lần này thật hiếm có, có một lần này thì sẽ có lần thứ nhì, có lần nhì thì sẽ có lần thứ ba.
Niệm Phật nhất định cũng phải dùng tâm chân thành mà niệm, chúng tôi thường nói: “Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”, nhất định niệm đến khi tâm thanh tịnh của bạn khơi dậy, tâm thanh tịnh là chân tâm, vọng niệm mất hết, chân tâm hiện tiền, công đức ở chỗ này. Trong kinh đức Phật nói: “Giữ tâm một chỗ, chẳng có chuyện gì không làm được. Đây là khi bạn niệm bộ kinh này, niệm cả bộ kinh thì cũng phải một tiếng rưỡi đến hai tiếng đồng hồ, trong thời gian này bạn giữ tâm một chỗ nên có thể sanh lên hiệu quả lớn như vậy, đây là công đức hạng nhất. Đây là chính, phía dưới là phụ, là trợ duyên.
Hoặc thủ bịnh nhân khả ái chi vật, hoặc y phục bảo bối, trang viên xá trạch.
Hoặc lấy những vật ưa thích của người bịnh, hoặc y phục, đồ quý báu, vườn tược nhà cửa.
Đây là những vật của người bịnh, chẳng kể là nhiều hay ít, nhất định phải dùng để tu phước.
Đối bịnh nhân tiền, cao thanh xướng ngôn
Đối trước người bịnh mà lớn tiếng xướng lên.
Tu phước dùm phải cho người ấy biết. Đặc biệt là lúc người đang lúc lâm chung, nếu đầu óc họ còn tỉnh táo thì phải nhắc họ trong đời họ đã làm được bao nhiêu chuyện tốt. Lúc đó làm cho họ sanh tâm hoan hỷ, nhắc cho họ nhớ họ đã tu nhiều phước, sau khi mất đi họ sẽ sanh đến cõi tốt lành. Lời nhắc nhở này, phần nhiều gọi là khai thị, vô cùng quan trọng! Đừng nhắc đến những tội lỗi họ đã làm trong đời, nhắc những chuyện lỗi lầm trong giờ phút ấy thì họ sẽ sanh vào ác đạo, phải nhắc họ đã làm những chuyện tốt gì, những công đức gì. Cho nên lúc này nếu họ chưa tu phước, người thân trong nhà nên thay họ tu phước, phải nói cho họ biết.
Ngã mỗ giáp đẳng vị thị bịnh nhân đối kinh tượng tiền, xả chư đẳng vật, hoặc cúng dường kinh tượng, hoặc tạo Phật, Bồ Tát hình tượng, hoặc tạo tháp tự, hoặc nhiên du đăng, hoặc thí thường trụ.
Chúng con, tên đó họ đó, xin vì người bịnh này mà đối trước kinh, tượng, thí xả những vật này để cúng dường kinh tượng, hoặc tạo hình tượng Phật, Bồ Tát, hoặc xây dựng chùa tháp, hoặc cúng dầu thắp đèn, hoặc cúng vào Thường Trụ.
Coi tài vật của họ bao nhiêu, coi nhân duyên lúc đó, những chuyện này đều có thể làm, đều tu phước trong Tam Bảo, đây chẳng phải mê tín. Tu phước đức này, đây là việc người thế gian chẳng biết, người thế gian cứ cho rằng lấy tiền đi làm việc từ thiện cứu tế, giúp những người nghèo khổ, công đức đó lớn, chẳng biết tu phước trong Tam Bảo rất thù thắng. Nói thật ra, ngày nay chúng ta, thường nghe nói “Người xuất gia, các hòa thượng quý vị đều gạt người”, họ chẳng tin tưởng, cho nên việc này rất khó, rất khó. Nói lời thật họ chẳng tin, nói lời giả dối thì họ tin. Đây là lúc khẩn cấp, cả đời này chẳng có lúc nào quan trọng bằng lúc này, lúc này nếu đem tiền tài của họ đi làm việc cứu tế, làm những việc từ thiện thì được phước ít, đó là thật chẳng giả, phước báo nhỏ nhoi, chẳng thể chuyển nghiệp của họ. Tu phước trong Tam Bảo, hiến một đóa hoa, đốt một ngọn đèn, thật sự tiêu nghiệp chướng, thật sự được vô lượng phước.
Tại sao hiện nay tu phước trong Tam Bảo chẳng rõ ràng? Chẳng có cảm ứng rõ ràng như được ghi chép lại hồi xưa. Chẳng phải là không có đạo lý, đạo tràng đời xưa thật sự có người tu hành trong ấy, nên có cảm ứng rất rõ ràng. Hiện nay có rất nhiều đạo tràng chẳng đúng như pháp, những người trú trong đạo tràng tu học chẳng đúng như pháp, họ còn tạo thị phi, nhân ngã hằng ngày, vẫn tạo tham, sân, si, mạn, cho nên tu phước ở chỗ đó không phải là không có phước, phước chẳng rõ ràng, chẳng hiện ra, nói cách khác, đời này chẳng được phước, đạo lý là như vậy. Nếu đạo tràng này chân chánh có người tu đạo, tu đạo tiện lợi nhất là có người niệm Phật chân chánh. Người niệm Phật này là người như thế nào? Hết thảy thân tâm thế giới đều thật sự buông xuống, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Có một người như vậy, bạn tu phước ở đạo tràng đó thì công đức sẽ thù thắng vô cùng. Vì người này tương lai nhất định sẽ vãng sanh, vãng sanh sẽ thành Phật, bạn ở đó thắp một cây nhang, đốt một ngọn đèn đều có công đức chân thật, bạn thật sự cúng Phật. Do đó việc tu phước hiện nay, chúng ta phải nhận rõ ruộng phước, ruộng phước chân chánh sẽ được phước vô cùng rõ ràng, chúng ta hiểu được đạo lý này thì tốt lắm.
Ở đây nêu lên vài việc. Duyên tu phước trong Tam Bảo rất nhiều, rất rộng, nêu những thí dụ này là thường thấy nhất, mọi người đều hiểu được. ‘Cúng dường kinh tượng’, kinh là kinh điển Phật, tượng là hình tượng Phật, Bồ Tát. Cúng dường kinh tượng, cúng dường như thế nào? Tài cúng dường và pháp cúng dường chẳng khác nhau, do đó tài cúng dường chính là pháp cúng dường. Giống chúng ta hiện nay in kinh, thời đại hiện nay ngoài việc in kinh ra, ngoài việc dùng kinh điển để hoằng pháp, chúng ta còn có băng thâu âm, thâu hình, CD, nhiều cách thức hơn thời xưa rất nhiều. Tiền bạc của chúng ta dùng trên những chuyện này, đều là cúng dường kinh tượng, kinh điển tượng Phật tùy theo khoa học kỹ thuật mà lưu thông. Như VCD hiện nay có hình ảnh, mạng lưới điện toán quốc tế sau này cũng có hình ảnh; người ta vừa mở màn ảnh lên thì thấy tượng Phật trước, sau đó mới coi đến bài giảng, nghe kinh, mạng lưới điện toán ấy có đầy đủ Tam Bảo. Khi bạn mở lên, nhìn thấy tượng bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật trước tiên, chúng ta tu Tịnh độ thì sau đó nhìn thấy Tây Phương Tam Thánh, Liên Trì hải hội, chúng ta có ba bức hình, sau khi xem xong rồi mới bắt đầu giảng kinh. Như vậy tức là cúng dường kinh tượng.
‘Hoặc tạo hình tượng Phật, Bồ Tát’. Chúng ta xây Niệm Phật Đường, trong ấy có cúng dường hình tượng Phật, Bồ Tát, cúng dường Tây Phương Tam Thánh. Có khả năng thì tự mình tạo một bức, phía trước đã nói, nặn đúc, khắc gỗ, bằng vàng, bạc, đồng, sắt đều được, dựa trên khả năng tiền bạc của mình. Nếu nhiều tiền, tạo tượng vàng, bạc, đồng, sắt sẽ có thể giữ được lâu dài. Còn tượng nặn đúc bằng đất sét, khắc gỗ chẳng giữ được lâu bằng tượng kim loại. Bạn truyền được càng lâu xa, sức ảnh hưởng càng lớn, công đức càng lớn, được phước là từ chỗ này mà nói. Tượng Phật trong thế gian là phẩm vật nghệ thuật cao độ, vàng bạc đồng sắt hợp lại thành hợp kim, thời xưa dùng cách này đúc tượng rất nhiều, là tượng tạo bằng hợp kim, thường là đồng nhiều nhất, trong đó cũng có bạc, vàng. Tạo tượng, phía trước đã nói bất luận hình tượng Bồ Tát lớn nhỏ, công đức đều giống nhau. Nếu đạo tràng này, trong đạo tràng quan trọng là mỗi ngày đều có giảng kinh thuyết pháp, làm cho những tín đồ đến đó đều hiểu được ý nghĩa tiêu biểu pháp của hình tượng Phật, Bồ Tát, họ được lợi ích nhiều nhất.
Kinh Vô Lượng Thọ đầu tiên là khẩu nghiệp, thứ hai là thân nghiệp, thứ ba là ý nghiệp. Quí vị nghĩ thử xem Phật vì sao dùng cách nói như vậy, dụng ý là ở đâu? Chúng sanh ở thế giới Ta bà đặc biệt là hiện tại dễ dàng phạm nhất là khẩu nghiệp.
Khẩu tạo nghiệp gì? Thích phê bình người khác, không biết bản thân đang tạo khẩu nghiệp. Khẩu nghiệp là vọng ngữ, lưỡng thiệt, ỷ ngữ, ác khẩu. Phê bình người khác, có lúc bốn loại này đều phạm mà bản thân họ lại không biết. Cho nên thiện hộ tam nghiệp đầu tiên là khẩu nghiệp, “thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá”. Người khác phạm lỗi tí ti liền ác ý phê phán, quá đáng lắm. Không có lỗi lầm liền đặt ra lời đồn, đó là tội càng nặng hơn nữa. Cổ nhân nói rất hay: “oan gia nên giải không nên kết”, trong đời này không kết oán với người khác. Bất luận họ phạm tội lỗi gì thì đó đều là việc rất bình thường thôi. Cho nên chúng ta nhất định phải đầy đủ điều kiện Phật A Di Đà cho chúng ta. Điều kiện này là tin thật nguyện thiết, chân niệm Phật!
Niệm Phật không thể coi là nghiệp phụ, xem là việc đại sự trọng đại trong đời mình. Chúng ta đến làm gì? Chúng ta đến là để niệm Phật. Trong đời này chúng ta chỉ có một mục tiêu là thế giới tây phương Cực Lạc. Chỉ có một nguyện vọng là thân cận Phật A Di Đà.
Điều đầu tiên của quả báo khẩu nghiệp, điều đầu tiên là gì? Hôi miệng là chứng thường gặp, nói lên điều gì? Nói lên người đó nói dối, có thể nói thế này, nói dối, hai lưỡi, thêu dệt, ác khẩu, vấn đề rất dễ phạm. Thông thường, mọi người hay cho rằng hôi miệng là do dạ dày có bệnh, mới đưa đến chứng hôi miệng. Không ngờ thật sự là do nghiệp không nên trách dạ dày, do bản thân ta tạo khẩu nghiệp.
Thông thường nhất, phổ thông nhất, bản thân chúng ta có hay không? Có, nhưng bản thân chúng ta đã quen, không nhận ra. Cùng ở với mọi người, chúng ta hắt hơi, nói chuyện, mọi người đều nghe thấy, nhưng khi nghe không ai tiện nói, song có thể nhìn thấy, họ tránh xa quý vị, không có điều gì thật sự cần thiết họ sẽ không gần gũi quý vị. Hôi miệng chứng tỏ khẩu nghiệp của quý vị rất nặng, đây là một loại tội.
Họ đến báo thù, họ không để quý vị thoải mái, thân tâm đều chịu khổ. Thân thể mang bệnh hoạn, tâm lí chịu phiền não, lo nghĩ, bức bối, thân tâm không an. Tất cả là oán thân trái chủ tìm đến, không có oán thân trái chủ, làm gì có chuyện đó?
Những chuyện nhỏ này thường xảy ra trong đời thường, tựa hồ không ngày nào thoát khỏi. Chúng ta không tìm ra nguyên nhân, cho rằng thân thể không tốt, tìm thầy thuốc kiểm tra, không vấn đề, rất bình thường, tìm bác sĩ tâm lí cũng không vấn đề gì. Không học Phật không hiểu được, khi học Phật rồi mới hiểu.
Chúng ta ở trong đạo tràng, trong giảng đường, trong Niệm Phật đường, thấy được bao nhiêu người niệm Phật, đang nghe kinh, tinh thần ủ rũ không phấn chấn, thấy họ thế nào? Mệt mỏi, cho thấy họ rất đau khổ, họ không thoải mái, tinh thần không phấn chấn, đều là oán thân trái chủ. Chúng ta hiểu được chân tướng sự thực, quan sát trong đời sống hàng ngày, quý vị sẽ tìm ra câu trả lời, những ai có nhiều oán thân trái chủ, họ sống rất mệt, sống rất khổ sở; Những người nào oán thân trái chủ ít hơn, họ sẽ rất nhẹ nhàng, rất hoạt bát, không thể nhìn nhầm.
- Hãy nghi nhớ bài kệ sau đây mà tu tiến:
Nói ít một câu chuyện - Niệm nhiều một câu Phật
Đánh chết được vọng niệm - Hiển pháp thân chân thật.
Hai câu nói của cổ nhân mà tôi tin và giữ rất cẩn thận, đó là: Biết được nhiều chuyện thì phiền não nhiều. Những điều không cần biết thì cần gì phải cất công tìm tòi, lại còn chạy vạy nghe ngóng, đó không phải tự mình trói mình sao? Tôi dứt khoát không giây vào những chuyện đó. Cổ nhân nói hai câu rất hay: “Thức nhân đa xứ thị phi đa; tri sự đa thời phiền não đa”Càng biết nhiều người càng lắm chuyện, càng biết nhiều chuyện càng phiền não. Nếu không biết rất nhiều chuyện, không cần phải đi khắp nơi tìm nghe. Người ta đưa tin đến, bảo cho mình chuyện gì, chuyện nào không liên can đến mình ta không thèm nghe. Biết càng ít chuyện càng tốt, quen càng ít người càng hay, không cần thiết! Vĩnh viễn giữ được cái tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi của chính mình. Đức Phật thường dạy chúng ta: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”.
Người đời niệm Phật phần nhiều lười biếng, không chỉ hằng ngày chẳng thường lễ bái, thậm chí gặp Phật cũng không lạy, còn như tất cả sự cúng dường phần nhiều thiếu sót.
Lý do chẳng qua là vì miệng niệm thì dễ, thân lễ thì khó; nói suông thì dễ, ra sức thực hành thì khó. Chẳng biết rằng, việc khó làm mà có thể làm được, điều đó mới đáng quý.
Tuy nói tu hành ở bên trong, chẳng phải ở bên ngoài nhưng đáng vẻ cung kính ở bên ngoài cũng không thể thiếu. Vả lại, ở ngay nơi bên ngoài có thể chứng tỏ bên trong, cho nên người xưa nói: “Người tu hành chân thật xem hình vẽ tượng gỗ đồng với Phật thật, thương như cha mẹ, kính như quân vương, sớm chiều yết kiến, hết lòng thành kính, lạy xuống như núi đổ, đứng lên tợ mây thăng, ra thì chấp tay vái chào. Người mà chấp tay vái chào thì dù xa trăm ngàn dặm nhưng cũng như thường ở trước mặt.
Bạn xem, bạn nói một câu thừa thải không được phước, không những không được phước mà còn tạo nghiệp.
Tại sao không đem câu nói thừa thải đổi thành niệm A Di Đà Phật? Người xưa dạy chúng ta "Nói ít một câu chuyện niệm nhiều danh hiệu Phật, đánh chết được ý niệm, để pháp thân bạn sống", đó là Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát nói. Nói chuyện ít, niệm Phật nhiều, câu Phật hiệu này là mỗi ngày bạn đang tu phước, tu đại phước của phước điền, trồng đại phước báo! Tại sao không làm? Tâm tạp lời phiếm, đem thời gian lãng phí hết rồi. Nhìn người ở thế gian đều bình đẳng, ai cũng là A Di Đà Phật, thì không lại còn có phân biệt rồi, tâm phân biệt toàn là sai lầm, đều là đang tu nghiệp tội, không phải đang tu phước báo.
Công đức của câu Phật hiệu này, có thể giúp chúng ta đoạn phiền não, tiêu nghiệp chướng. Tôi không có cầu đoạn phiền não, cũng không có cầu tiêu nghiệp chướng, đừng nên cầu, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, phiền não tự nhiên không còn, nghiệp chướng cũng tự nhiên không còn. Tâm tịnh tức Phật độ tịnh, đạo lý quyết định vãng sanh là ở nơi này.
Hiện thời, toàn bộ bạc nhược, thong dong, biếng nhác, đó là phá hoại và tiêu diệt Phật pháp! Chính chúng ta đang phá hoại, tiêu diệt, nhưng chính mình không biết, vẫn tưởng chính mình làm rất chánh đáng, rất chính xác! Làm như vậy có thể vãng sanh hay chăng? Rất khó!
- Chúng ta thấy người niệm Phật vì bệnh khổ, lúc mất hồ đồ, mê loạn. Quý vị thấy người ra đi như vậy bèn biết quả báo của người ấy, rất đáng cho chúng ta cảnh tỉnh, kiêng dè! Nếu vẫn tiếp tục như vậy, chính mình có phần trong tam đồ, vãng sanh thì sẽ quyết định vãng sanh, nhưng vãng sanh trong địa ngục A Tỳ, chẳng phải là sanh về thế giới Tây Phương.
- Đây là cơ hội tốt. Đời này chúng ta không thể vãng sanh, thì phải luân hồi thêm một vòng nữa. Như vậy thì không biết còn trải qua bao nhiêu kiếp, chắc chắn không chỉ mười kiếp. Vì Sao? Cư sĩ Bành Tế Thanh nói. Đời này của chúng ta có thể gặp được Tịnh độ, gặp được tịnh tông, từ vô lượng kiếp đến nay khó gặp được ngày này. Vô lượng kiếp mới gặp được đấy. Bài kệ khai kinh do bà Võ Tắc Thiên viết. Trong bài kệ nói “bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ”. Chúng ta ngụp lặn trong luân hồi đã trăm ngàn kiếp.
Những việc này suy nghĩ nhiều một chút, cố gắng suy nghĩ, mới có thể buông bỏ được thế gian này. Ngay trong cương vị hiện tại. Bất luận là ai, làm nghành gì đều nên nghiêm chỉnh thực hành. Mục đích là thành Phật, là lợi ích chúng sanh, hành Bồ Tát đạo. Không phải vì kiếm tiền, không phải vì danh lợi. Nên biết nếu mục tiêu là danh lợi, sẽ đoạ lạc trong luân hồi. Học Phật cũng đoạ lạc trong luân hồi. Chúng ta tạo nghiệp luân hồi, tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi. Phải đem tâm luân hồi điều chỉnh lại. Tâm niệm ở nơi thành Phật đạo, ở nơi quyết định cầu sanh Tịnh độ.
Việc này chúng ta làm được mà. Sao chúng ta lại không làm? Duyên này không dễ gặp. Trong khai kinh kệ có nói: “Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ”. Bành Tế Thanh cư sĩ cũng đã nói: “Vô lượng kiếp lai hi hữu nan phùng”. Chúng ta đã gặp được rồi, gặp rồi mà không biết, để lỡ mất thì tiếc biết bao. Đó gọi là gì? Sai lầm thực sự!
Người xưa nói: “học Phật nhất niên, Phật tại nhãn tiền”. Giống như việc này vậy, thật tu. Học Phật hai năm, hai năm liền biến thành bánh quẩy nguội. Phật ở trên trời, cự ly xa lắm. Học Phật ba năm, Phật đã biến thành mây khói rồi, không còn nữa. Đó chính là phóng dật, giải đãi. Bản thân một tí niệm thiện, tâm tốt không giữ được nữa. Dễ dàng bị tài sắc danh thực thùy bên ngoài mê hoặc. Vừa bị quyến rũ đã chạy theo rồi. Người xưa nói: danh cao lợi nhiều là thứ mê hoặc con người. Ngày nay một tí danh lợi đã mê hoặc được quí vị, mê hoặc quí vị theo mất. Quí vị là thứ gì? Ban đầu nhìn người kia tu hành rất tốt, tán thán họ, ca ngợi họ. Danh lợi nhỏ nhoi thôi đặt ở trước mặt tâm liền thay đổi. Phật không còn nữa. Quí vị nghĩ xem như vậy sao được? Sức mê hoặc trong xã hội này lớn lắm! Khi nào chúng ta mới thật sự làm được, không bị cảnh giới bên ngoài mê hoặc, không bị ngoại cảnh quấy nhiễu. Không bị ngoại cảnh quấy nhiễu là quí vị đã có định công. Không bị danh lợi mê hoặc là quí vị đã có trí tuệ rồi.
Đây là điều chư vị tại gia đồng học tu Tịnh độ tông của chúng ta phải nghiêm khắc chấp hành. Tam qui, ngũ giới, thập thiện, phải dùng nghiêm trì giới luật để đối trị. Bởi vì quí vị không giữ được tam quy, ngũ giới, thập thiện, thì niệm Phật có vãng sanh được không? Thật lòng mà nói: không thể vãng sanh. Nói bạn có thể vãng sanh, có thể vãng sanh, đó chính là lời khích lệ, không phải thật. Thầy Lý nói lời chân thật với chúng ta. Quí vị xem, bạn bè trong Liên Xã của Đài Trung là học trò của thầy, theo Thầy Lý đã mấy mươi năm rồi, Thầy Lý sáng lập ra Liên Xã tại Đài Trung đến lúc vãng sanh 38 năm, theo thầy thời gian dài như vậy, có thể vãng sanh không? Không thể vãng sanh. Ngày ngày được thầy giáo huấn, nhưng nhận sự giáo huấn rồi không tu, không làm. Ngày ngày giảng, ngày ngày nghe, thầy có thể nói, nhưng họ làm không được, vẫn còn tham sân si, vậy thì còn cách gì? Những pháp đối trị này, Thầy Lý 38 năm không biết đã giảng bao nhiêu lần rồi. Tôi ở Đài Trung mười năm, nghe không những chỉ vài lần. Quí vị không làm thì chẳng còn cách gì cả. Thầy chỉ có thể khuyên quí vị, nghe hiểu hay không hiểu là việc của quí vị. Sau khi nghe rồi chịu làm hay không, cũng là việc của quí vị, không liên quan gì đến Thầy giáo, không liên quan đến Phật Bồ Tát. Cuối cùng tự làm tự chịu. Thế giới ngày này nói dân chủ, cởi mở, tự do, không ai có thể can thiệp đến ai, cha mẹ không thể dạy con cái, nó không tiếp nhận; thầy giáo không thể dạy học trò, đây là thế giới gì vậy? Đem so sánh với thời xưa thì bất thường! Khác thường đến 180 độ. Đó gọi là lòng người hư rồi. Cho nên chiêu cảm tai nạn lớn. Toàn nhân loại tồn vong trên trái đất, thời khắc cuối cùng, người biết quay đầu vẫn còn cứu được. Người không biết quay đầu thì thật sự theo nghiệp mà đi, đành chịu vậy.
Đầu tiên chúng ta hiểu rồi phải cứu bản thân, cứu bản thân rồi mới có thể giúp người khác. Bản thân cứu không nổi, làm sao có thể giúp đỡ người khác.
Điều này rất nhiều người tu hành, do phóng dật giải đãi nhác nhớm làm tâm thối thất. Đời này tu hành không thành công được, vẫn luân hồi trong sáu nẻo, tùy nghiệp lưu chuyển. Đáng sợ lắm!
Mà điều này là gì? Là bịnh chung của mọi người. Tinh thần trì trệ. Các ban đồng tu học Phật, lúc mới học Phật rất dõng mãnh. Người xưa nói: “học Phật nhất niên, Phật tại nhãn tiền”. Giống như việc này vậy, thật tu. Học Phật hai năm, hai năm liền biến thành bánh quẩy nguội. Phật ở trên trời, cự ly xa lắm. Học Phật ba năm, Phật đã biến thành mây khói rồi, không còn nữa. Đó chính là phóng dật, giải đãi. Bản thân một tí niệm thiện, tâm tốt không giữ được nữa. Dễ dàng bị tài sắc danh thực thùy bên ngoài mê hoặc. Vừa bị quyến rũ đã chạy theo rồi. Người xưa nói: danh cao lợi nhiều là thứ mê hoặc con người. Ngày nay một tí danh lợi đã mê hoặc được quí vị, mê hoặc quí vị theo mất. Quí vị là thứ gì? Ban đầu nhìn người kia tu hành rất tốt, tán thán họ, ca ngợi họ. Danh lợi nhỏ nhoi thôi đặt ở trước mặt tâm liền thay đổi. Phật không còn nữa. Quí vị nghĩ xem như vậy sao được? Sức mê hoặc trong xã hội này lớn lắm! Khi nào chúng ta mới thật sự làm được, không bị cảnh giới bên ngoài mê hoặc, không bị ngoại cảnh quấy nhiễu. Không bị ngoại cảnh quấy nhiễu là quí vị đã có định công. Không bị danh lợi mê hoặc là quí vị đã có trí tuệ rồi. Định công trí tuệ không đạt được thì quí vị phải công phu trì giới, nghiêm trì giới luật thì có thể chống đỡ một tí. Định là thứ khó công phá, huệ liền hóa giải. Đó là cảnh giới cao nhất.
Bởi vì kinh văn dài, trong phẩm thứ tám nói “khéo giữ ba nghiệp”, chúng ta xem thấy thí dụ này không giống với Kinh Đại thừa thông thường. Trong kinh giáo đại thừa, Phật nói ba nghiệp đều là nói thân, khẩu, ý, nhưng ở bổn kinh này Phật lạinói là khẩu, thân, ý. Đem khẩu nghiệp để thứ nhất, đây là có ý nghĩa đặc biệt. Vì sao? Vì khẩu nghiệp rất dễ dàng phạm. Cho nên khẩu nghiệp có tới bốn điều, còn thân nghiệp chỉ có ba điều, ý nghiệp cũng là ba điều, nhưng khẩu là bốn điều. Chính vì khẩu nghiệp rất dễ dàng phạm nên người học Phật, người niệm Phật, công đức đã niệm đều từ trong miệng lưu xuất ra, nhưng nếu vẫn không thể bao dung, không thể dung nhẫn, ưa thích phê bình, thì niệm Phật cả đời vẫn không thể vãng sanh.
Chúng ta là một mặt niệm Phật, nhưng một mặt lại tiêu mất, vì tạo khẩu nghiệp. Cho nên Phật đem khẩu nghiệp xếp hàng thứ nhất, để đặc biệt răn dạy người niệm Phật, bởi vì đây là thông đạo mau chóng đặc biệt, thông đạo mau chóng thành Phật. Trong mười nghiệp thiện, thứ này quan trọng hơn bất cứ thứ gì “Khéo giữ khẩu nghiệp, không nói lỗi người”, cũng chính là không vọng ngữ, không nói hai chiều, không nói thêu dệt, không nói ác khẩu, phải giữ lấy. Tại sao có thể tạo nghiệp? Đương nhiên ý nghiệp là chủ, bạn khởi tâm động niệm bất thiện, ý nghiệp là tham-sân-si, tự tư, tự lợi. Tham-sân-si-mạn-nghi năm độc đầy đủ, khởi tâm động niệm rất dễ dàng, rất tự nhiên đều là nghĩ đến tổn người lợi mình, vậy thì hỏng rồi, vậy thì tạo nghiệp ba đường ác. Chính mình không hề biết, nên hữu ý hay vô ý ngày ngày đang tạo, không tích lũy được công đức, thời gian niệm Phật ít, thời gian tạo nghiệp dài, sức niệm Phật mỏng yếu, sức mạnh tạo ác hùng hậu, vậy thử hỏi bạn làm sao có thể rời khỏi ba đường ác? Nói ra lời nói hơi khó nghe, bạn làm sao có thể rời khỏi địa ngục? Toàn là tạo nghiệp địa ngục. Kinh nghe có hiểu hay không? Không hề hiểu, vì sao? Biến số nghe chưa đủ. Tại vì sao không đủ? Là vì dùng tâm tán loạn để nghe, dùng tâm tán loạn để niệm Phật, cho nên nghe kinh, niệm Phật không có được hiệu quả.
Oan gia trái chủ họ đến báo thù, họ không để quý vị thoải mái, thân tâm đều chịu khổ. Thân thể mang bệnh hoạn, tâm lí chịu phiền não, lo nghĩ, bức bối, thân tâm không an. Tất cả là oán thân trái chủ tìm đến, không có oán thân trái chủ, làm gì có chuyện đó?
Những chuyện nhỏ này thường xảy ra trong đời thường, tựa hồ không ngày nào thoát khỏi. Chúng ta không tìm ra nguyên nhân, cho rằng thân thể không tốt, tìm thầy thuốc kiểm tra, không vấn đề, rất bình thường, tìm bác sĩ tâm lí cũng không vấn đề gì. Không học Phật không hiểu được, khi học Phật rồi mới hiểu.
Chúng ta ở trong đạo tràng, trong giảng đường, trong Niệm Phật đường, thấy được bao nhiêu người niệm Phật, đang nghe kinh, tinh thần ủ rũ không phấn chấn, thấy họ thế nào? Mệt mỏi, cho thấy họ rất đau khổ, họ không thoải mái, tinh thần không phấn chấn, đều là oán thân trái chủ. Chúng ta hiểu được chân tướng sự thực, quan sát trong đời sống hàng ngày, quý vị sẽ tìm ra câu trả lời, những ai có nhiều oán thân trái chủ, họ sống rất mệt, sống rất khổ sở; Những người nào oán thân trái chủ ít hơn, họ sẽ rất nhẹ nhàng, rất hoạt bát, không thể nhìn nhầm.
Gây nhân duyên nghiệp phỉ báng”, đây là đối bản thân, không phải với người khác. Bản thân quý vị thường có nghiệp miệng, tức gieo giống huỷ báng người khác, hoặc người khác huỷ báng quý vị. Quả báo nghiệp nhân, tự thân phải chịu, không phải tự nhiên mà đến. Sau khi chết rồi đoạ vào địa ngục”, địa ngục ở đây, là những gì đã nói với quí vị phần trước, địa ngục Cắt lưỡi. Nghĩ đến nỗi khổ địa ngục, nghĩ đến nỗi khổ cắt lưỡi, không tạo nghiệp khẩu nữa.
Nếu bạn muốn thân thể khỏe mạnh thì phải hết sức cẩn thận khi ăn thức ăn. Nếu bạn muốn cả đời bình an, thì lời nói của bạn phải cẩn thận, quyết định không nên tổn người, quyết định không nên tạo ác nghiệp. Phải giữ lấy không vọng ngữ, không vọng ngữ thì có lợi ích lớn đối với chính mình. Không hai lưỡi, quyết không nên khiêu khích phải quấy, cho dù xem thấy có những sự việc không đúng pháp, chúng ta không chân thật hiểu rõ chân tướng sự thật thì không được tùy tiện mà nói ra. Nhất định phải đem chân tướng sự thật làm cho rõ ràng, đáng nên nói thế nào thì mới nên nói như thế đó. Chúng ta là phàm phu mắt thịt, cho nên xem thấy Phật Bồ Tát có rất nhiều hành trì dường như là không đúng pháp. Kỳ thật, không phải vậy. Họ không có lỗi lầm, chính chúng ta có lỗi lầm, còn khiêu khích phải quấy, tạo nghiệp thì rất là nặng. Trong gia đình mà khiêu khích phải quấy, làm cho người cả nhà bất hòa thì phải gánh lấy trách nhiệm nhân quả. Trong một đoàn thể mà khiêu khích phải quấy, làm cho đoàn thể này bất hòa, nếu là đoàn thể Phật giáo là phạm tội “phá hòa hợp tăng”. Tội lỗi của phá hòa hợp tăng là đọa A Tỳ địa ngục. Phật nói ở trong “Giới kinh”, năm điều nghiệp nhân đọa A Tỳ địa ngục là giết phụ thân, giết mẫu thân, giết A La Hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng (phá hòa hợp tăng là ưa thích khiêu khích phải quấy). Do đó, trong tăng đoàn, tuy là có những sự việc không đúng pháp, chúng ta thấy rồi cũng không dám nói. Tại vì sao không dám nói? Sợ làm cho tăng đoàn phân chia, chúng ta là người nói ra, sẽ có trách nhiệm. Khi chúng ta xem thấy sự việc này thì chỉ có thể khuyên bảo riêng tư, qui quá khuyến thiện. Khuyên bảo không nghe, chúng ta rời khỏi thì tốt rồi, quyết không nên có một câu phê bình. Vì sao vậy? Nếu như bạn ở bên ngoài phê bình tăng đoàn này, thì bạn sẽ làm cho tín chúng mất lòng tin đối với tăng đoàn, vẫn là phá hoại tăng đoàn. Trách nhiệm nhân quả này quá to quá lớn, nhưng hiện tại rất nhiều người không biết. Bất cứ một đoàn thể nào, chúng ta đều hy vọng họ có thể hòa thuận với nhau, không nên phân hóa, không được phá hoại. Ở chỗ lớn hơn mà nói, đó là đoàn thể của chủng tộc, đoàn thể của tôn giáo, đoàn thể của quốc gia, nhất định phải nghĩ.
Ác ý, gây rối, sanh sự, như vậy quả báo càng nghiêm trọng. Thêu dệt là lời nói ngon ngọt lừa gạt chúng sanh, mê hoặc chúng sanh. Ác khẩu là lời nói thô lỗ, rất dễ dàng làm tổn thương người; bất tri bất giác tổn hại người khác mà chính mình vẫn là không biết. Đây đều là làm chướng ngại với chính mình, nhất định phải biết để ngăn ngừa. Khi muốn nói chuyện, Phu Tử nói: “Tái tư khả hỉ”, nghĩ lại xem có nên nói lời nói này hay không. Chánh ngữ phải từ ngay chỗ này mà tu.
Nếu đạo tràng của chúng ta có kẻ như thế đến nhiễu loạn, kẻ ấy muốn chửi bới, cứ để cho hắn chửi. Cứ để mặc hắn, chúng ta hãy khéo niệm Phật. Kẻ ấy chửi mệt rồi, tự nhiên sẽ bỏ đi. Đến chửi mấy lần đều chẳng có hiệu quả gì, kẻ ấy sẽ chẳng đến nữa. Chớ nên cãi lộn với kẻ ấy, càng cãi cọ, càng thêm khúc mắc! Sau khi cãi vã, cảnh sát ở bên ngoài tới, ký giả báo chí tìm tới, hình tượng đạo tràng của chúng ta bị phá hoại, người bị tổn thất thật sự là chúng ta, kẻ đó chẳng bị tổn thất! Nhưng chúng ta bỏ mặc đó, chẳng quan tâm tới, mặc kệ các ngươi muốn làm sao thì làm! Chửi cũng chẳng cãi lại, bị đánh cũng không đập trả, dường như là chúng ta bị thua thiệt đôi chút. Trên thực tế là chiếm đại tiện nghi. Truyền ra ngoài, người ta sẽ nói: “Người trong đạo tràng ấy có tu dưỡng. Người trong đạo tràng ấy là người tốt”, người bên ngoài tán thán quý vị. Mọi người từ bên ngoài sẽ đến chỗ quý vị học tập. Ở chỗ quý vị thật sự có đạo! Vì đối với những chuyện này, chúng tôi học Phật trong nửa thế kỷ qua, đã gặp rất nhiều. Khá nhiều đồng tu chẳng biết xử lý như thế nào, cảm thấy rất ưu lự, rất phiền não! Thật ra, những nỗi phiền não ấy chẳng có! Nếu chúng ta ưu lự, phiền não, chúng ta đã bị lừa, vì sao? Họ đã đạt mục đích. Nếu chẳng có chuyện ấy, hết thảy hành vi của kẻ đó chẳng khởi tác dụng. Chẳng khởi tác dụng, họ sẽ không làm. Chính họ cũng biết chuyện ấy chẳng phải là chuyện tốt đẹp, họ hy vọng sẽ có thể đạt được hiệu quả, thế mà chẳng có hiệu quả, họ còn thực hiện để làm gì? Chẳng làm!
Sống trong thế giới này chẳng lâu, ta sẽ rời đi, còn so đo với những kẻ kiếm chuyện gây phiền phức trong thế giới này nữa hay không? Chẳng cần nữa! Bất luận kẻ kiếm chuyện gây phiền phức to lớn cỡ nào, quý vị cũng đều chẳng so đo, sẽ là tâm bình khí hòa. Quý vị còn ham hố thế giới này, chứ tôi ngay lập tức sẽ ra đi. Dẫu người đó giết tôi, tôi hết sức cảm kích người đó. Vì sao? Người đó khiến cho tôi ra đi ngay lập tức, đúng là đưa tôi sang thế giới Cực Lạc. Nếu không, tôi còn phải ở lại đôi ba năm. Người ấy giết tôi chết, tôi lập tức ra đi. Chẳng có mảy may tâm oán hận, chẳng có mảy may ý niệm báo thù, quý vị mới có thể vãng sanh. Nếu quý vị oán hận, muốn báo thù, thôi rồi, quý vị vẫn đọa trong tam đồ, sau đấy, tìm cơ hội để báo thù. Sai mất rồi! Cơ hội làm Phật trăm ngàn vạn kiếp khó gặp, há nên dễ dãi vứt bỏ? Đó là nghiệp chướng sâu nặng, thật sự sai lầm!
Do vậy, học Phật thì chúng ta nhất định phải chuyển ý niệm, đó là chuyện cơ bản! Đối với chuyện dạy học, tôi đã nói với khá nhiều người theo đuổi công tác giáo dục.
Đức Phật dạy người tu hành đừng nói dối, chẳng nói đôi chiều, chẳng ác khẩu, chẳng nói thêu dệt, phải làm được những điều trên đây thì mới được. Đối với thiện nhân là như thế, mà đối với ác nhân cũng là như thế. Tôi học Phật đã nhiều năm ngần ấy. Hơn hai mươi năm trước, ở Mỹ, đã viết một đôi câu đối như thế này, nay đang treo trong Phật đường, đấy chính là tâm đắc học Phật của tôi. Chúng ta dùng cái tâm gì để đối với người, đối với sự, đối với vật? “Chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi”. Dùng thái độ gì để xử thế? “Khán phá, phóng hạ, tự tại, tùy duyên, niệm Phật”(Nhìn thấu, buông xuống, tự tại, tùy duyên, niệm Phật). Quý vị hỏi về sự tu học của tôi ư? Sự tu học của tôi là hai mươi chữ ấy. Học Phật năm mươi bốn năm, chẳng lìa khỏi hai mươi chữ ấy. Vì thế, gặp bất cứ cảnh giới nào, tôi đều có thể chuyển”. Chuyển”thì công phu cao hơn chịu đựng, nhường nhịn một bậc. Chịu đựng, nhường nhịn thì quý vị hãy còn chấp tướng, còn đang chế phục phiền não, còn đang đè nén. Khi chuyển, sẽ là chuyển biến, chuyển ác thành thiện, chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh, chuyển cảnh giới. Hai mươi chữ ấy là điểm chuyển đổi của tôi, vĩnh hằng bất biến.
“Thấy thấu suốt, buông xuống”là do Chương Gia Đại sư dạy, “thanh tịnh, bình đẳng, giác”được dạy trong tựa đề kinh Vô Lượng Thọ.
Quý vị đừng nên biết quá nhiều chuyện, biết nhiều sẽ lắm phiền não! “Thức nhân đa xứ, thị phi đa”(biết nhiều người, thị phi càng lắm). Quý vị quen biết nhiều người, thị phi sẽ nhiều. Người chẳng bắt buộc phải quen biết thì chẳng cần thiết, biết họ vô ích! Như vậy thì mới có thể thường giữ gìn cái tâm thanh tịnh của quý vị. Nay quý vị thật sự muốn gìn giữ cái tâm thanh tịnh, nói cách khác, quý vị đừng coi TV, đừng nên nghe radio, đừng đọc báo chí, tâm bèn thanh tịnh. Suốt ngày hôm nay, chuyện gì cũng đều chẳng có, thiên hạ thái bình, tâm rất thanh tịnh, rất tự tại. Hễ quý vị xem những thứ ấy, sẽ thấy thế giới này rất loạn, rất dơ bẩn, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng thảy đều dấy lên. Trong có phiền não, bên ngoài là duyên, những thứ ấy đều là duyên, những duyên ấy lôi kéo, dẫn dụ phiền não bên trong, trong lẫn ngoài thảy đều loạn.
Do vậy, người học Phật, niệm Phật đích xác là chẳng dễ gì thành tựu, vì sao niệm nhiều năm ngần ấy, vẫn chưa thể đạt đến công phu thành phiến? Khoan nói tới nhất tâm bất loạn! Nếu quý vị truy tìm nguyên nhân, sẽ thấy chính là do quý vị biết quá nhiều chuyện, quen biết quá nhiều người, nên quý vị niệm Phật chẳng có cách nào niệm đến mức công phu thành phiến. Chúng ta hiểu được đạo lý này, nên thường dùng điều này để kiểm nghiệm công phu chính mình, tự mình sẽ rõ ràng minh bạch, không cần đi thỉnh giáo người khác, đi hỏi người khác, hỏi người khác, người ta cũng không nói với quý vị, người ta nói đều là chúc mừng và tán thán quý vị. Họ sẽ không nói là quý vị chưa đạt. Nên hiện nay tu học đều phải dựa vào chính mình.
Ngày xưa thầy giáo nói thật với quý vị, các bạn đồng tu cũng nói thật với quí vị, cha mẹ cũng nói thật với quí vị. Hiện nay không còn, hiện nay không giám nói, sợ quý vị không vui. Hà tất phải kết oán thù với quý vị? Vì oan gia nên giải không nên kết. Họ thích nghe điều gì thì tán thán vài câu, dù gì cũng không phải là lời thật. Đây là tu hành trong thời đại này, người giúp ta không nhiều, phải dựa vào chính mình, phải dựa vào kinh giáo. Ngày ngày không rời kinh giáo, đối với kinh giáo phải dùng tâm chân thành cung kính, mới có thể đạt được lợi ích. Không có tâm chân thành, không có tâm cung kính sẽ không đạt được lợi ích.
Mấy mươi năm rồi không tiến bộ vẫn là phàm phu, vì nguyên nhân gì? Pháp thì nghe rồi, ngày ngày đều tụng, mỗi ngày đều nghe, nhưng ba chữ sau không có”. Nhạo”tức là pháp hỉ, chưa đạt được pháp hỉ, Vì sao vậy? Nghe xong lại còn nghiên cứu tại sao Phật nói như thế? Ngài nói những lời này có ý nghĩa gì? Chúng ta vẫn luôn khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, nói khó nghe một chút là vẫn còn phê bình. Vậy làm sao được? như thế chi bằng đừng nghe. Vì sao vậy? Có thái độ như vậy đối với Phật là đại bất kính. Người thật tâm cung kính, họ nghe nhiều lần rồi, thì tâm hoan hỉ phụng hành sẽ xuất hiện hết, vì sao vậy? Vì họ cung kính, họ không phê bình. Vì sao chúng ta không hiểu? Vì nghiệp chướng chúng ta sâu nặng, đừng trách ai cả, vì sao người khác vừa nghe đã hiểu, mà mình nghe không hiểu? Họ có điều gì? Họ có tâm sám hối, tâm cung kính, tâm chân thành, họ dùng những tâm này. Tâm này mới đúng đắn. Dùng lâu ngày, dùng mấy năm, dùng mấy mươi năm, thì nghiệp chướng tiêu trừ, trí tuệ khai mở, pháp hỉ liền xuất hiện.
Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Nhưng tại sao phải chia ra nhiều pháp môn như vậy? Căn tánh mỗi người không giống nhau, sở thích không giống nhau, hứng thú không giống nhau, lại còn thiện căn khác nhau, trình độ khác nhau, nhất định phải lựa chọn pháp môn phù hợp điều kiện của bản thân, thì học mới thuận lợi. Nhất đinh phải tôn trọng những pháp môn ta không học, vì sao vậy? Đều là lời Phật dạy. Nếu như nói pháp môn tôi là số một, pháp môn khác không được, coi thường người khác, như vậy gọi là đại bất kính, đại bất hiếu. Quí vị khinh thường người khác, chính là khinh thường Phật Thích Ca Mâu Ni, pháp môn đó là lời Phật dạy. Nếu quí vị coi thường những vị Bồ tát đang tu học pháp môn đó, thì tội của quí vị càng rất nặng. Vì thế khinh mạn người khác, khinh mạn những pháp môn khác, đều là tạo nghiệp địa ngục. Bản thân tạo nghiệp mà lại không biết. Nếu cùng một pháp môn, trong đó mỗi người đều tâng bốc môn phái mình, không trao đổi với nhau, khen mình chê người, lập tức liền đọa xuống địa ngục a tỳ. Họ không phải tu hành Phật hạnh, họ đang tu hạnh địa ngục; Họ không phải cầu sinh thế giới Cực lạc, họ muốn đến địa ngục a tỳ.
Chúng ta đứng ngoài thấy rất rõ ràng, sư phụ tôi tốt, sư phụ nào cũng không bằng sư phụ tôi, quan niệm này là gì? Quan niệm này chính quan niệm là cầu sinh địa ngục a tỳ. Quí vị nghĩ xem có phải vậy không? Sư phụ quí vị còn có sư huynh, sư đệ, sư huynh đệ của ông ấy cùng một thầy truyền xuống, quí vị gọi ngài là tổ sư. Những sư huynh sư đệ này, mỗi vị lập một môn phái riêng, mỗi người đều có đệ tử của riêng mình, độc lập với nhau, không thể dung hoà với nhau, tất cả đều là tạo nghiệp địa ngục. Vậy là họ đang tu pháp môn gì? Tu pháp môn địa ngục. Tương lai họ sẽ đi về đâu? Sẽ vào địa ngục Vô gián, không thể không biết.
Người thực sự có tu hành không phải như thế, cho nên khi thấy những người tung hô môn phái mình, bài xích môn phái người khác, đối với họ quí vị nên kính nhi viễn chi.
Quí vị có phải là người đệ tử Phật chân chánh hay không, cứ nhìn ở đây thì biết. Khen mình chê người, đó không phải là đệ tử Phật, đó là ma, con cháu của ma, họ đến phá hoại Phật pháp, không phải đệ tử Phật. Chỉ có tôi là tốt, những người khác không bằng tôi, sai rồi. Quí vị đã đang hành tà đạo, đã là tâm luân hồi đang tạo nghiệp luân hồi, trong nghiệp luân hồi tạo nghiệp địa ngục, quí vị xem quí vị đáng thương biết bao. Người sáng suốt thấy quí vị đáng thương, trong kinh nói là “người đáng thương”. Ai là người đáng thương? Loại người vừa nói đến là đáng thương, họ ngày ngày tạo nghiệp địa ngục mà bản thân không biết, tương lai đọa địa ngục còn kêu oan uổng, nhưng càng kêu oan thì tội càng nặng. Không có ai oan uổng quí vị, bản thân quí vị oan uổng chính mình, quí vị còn trách ai!
Những chuyện vụn vặt mà cũng so đo tính toán. Cổ nhân nói đó là người không ra gì. Trong nhà Phật ngày nay cũng phổ biến hạng người như thế. Những người này không phải đang hưng thạnh Phật giáo, mà là người hủy diệt Phật giáo, khiến người học Phật tất cả đều vào địa ngục a tì, không phải gọi là diệt Phật giáo sao? Quí vị tạo nghiệp nặng quá! Quí vị vừa bài xích, xây dựng môn phái, bài xích người khác, lại còn kêu gọi tín đồ của quí vị bài xích, tội này nặng hơn tội nào hết, nặng hơn cả tội ngũ nghịch thập ác. Cho nên giới Bồ tát, trong “Du Già Bồ Tát Giới”điều trọng giới thứ nhất, là khen mình chê người, đó là điều được đưa lên hàng đầu. Cho nên chúng ta nhìn thấy những người hoan hỉ phụng hành, hổ thẹn! Nghe pháp rồi, ba chữ này không có, vì sao vậy? Nghe pháp nhưng không nghe hiểu được nghĩa của pháp. Thực sự nghe hiểu, nghe rõ ràng rồi, ba chữ sau đó chắc chắn cũng có: Hoan hỉ, tiếp thọ, phụng hành, họ thật sự làm được rồi. Quí vị tra xem có bộ kinh nào Phật dạy chúng ta tự cao tự đại, khen mình chê người, có dạy quí vị như thế không? Quí vị thử tìm xem. Kinh Phạn Võng”, đây là điều phải tuân thủ, “không làm quốc tặc, không báng quốc chủ”, “không báng quốc chủ”chính là không hủy báng người, đây nói trong tình huống nào? Quốc chủ làm việc bất thiện, làm việc không hay, nếu làm không tốt cũng không được hủy báng, vì sao vậy? Mỗi người đều có nhân quả riêng. Quí vị hủy báng là quí vị tạo nghiệp ác. Họ tạo tác điều bất thiện, quí vị hà tất phải theo họ xuống địa ngục? Quí vị hủy báng họ là theo họ xuống địa ngục rồi. Cho nên nhìn thấy điều bất thiện, thực sự bất thiện thì có lễ kính những không tán thán. Bồ tát Phổ Hiền dạy chúng ta vậy. Lễ kính là điều nên làm, nhưng không tán thán. Tuyệt đối không bảo quí vị hủy báng, không bảo quí vị phê bình.
Cho nên đức hạnh quí vị có cao bao nhiêu, tiếng tăm có lớn bao nhiêu, chỉ cần có chút ngạo mạn là xong rồi, đừng quan tâm đến họ nữa. Họ đều là giả dối, không phải chân thật.
Quí vị cũng không cần nói thẳng với họ, nói thẳng với họ rồi kết oán thù với họ thì không đáng, mà họ cũng sẽ không tha thứ cho quí vị, cho nên đối với họ phải như thế nào? Kính nhi viễn chi. Đây là thái độ cơ bản trong việc tu học.
Đại sự nhân duyên này để ngay trước mắt chúng ta, nếu bỏ lở, tội quý vị sẽ rất nặng. Người khác không gặp được vì không có duyên, điều đó có thể tha thứ. Quý vị gặp được lại bỏ qua, không thực hành đó chính là tội vô gián địa ngục.
Điều đầu tiên của quả báo khẩu nghiệp, điều đầu tiên là gì? Hôi miệng là chứng thường gặp, nói lên điều gì? Nói lên người đó nói dối, có thể nói thế này, nói dối, hai lưỡi, thêu dệt, ác khẩu, vấn đề rất dễ phạm. Thông thường, mọi người hay cho rằng hôi miệng là do dạ dày có bệnh, mới đưa đến chứng hôi miệng. Không ngờ thật sự là do nghiệp không nên trách dạ dày, do bản thân ta tạo khẩu nghiệp.
Thông thường nhất, phổ thông nhất, bản thân chúng ta có hay không? Có, nhưng bản thân chúng ta đã quen, không nhận ra. Cùng ở với mọi người, chúng ta hắt hơi, nói chuyện, mọi người đều nghe thấy, nhưng khi nghe không ai tiện nói, song có thể nhìn thấy, họ tránh xa quý vị, không có điều gì thật sự cần thiết họ sẽ không gần gũi quý vị. Hôi miệng chứng tỏ khẩu nghiệp của quý vị rất nặng, đây là một loại tội.
Nếu học Phật một cách giả tạo, lấy danh hiệu học Phật, phá giới phá luật, thần Hộ pháp sẽ đi hết, thần Hộ giới cũng đi, những oán thân trái chủ của quý vị đều áp vào thân để quấy rầy quý vị. Họ đến báo thù, họ không để quý vị thoải mái, thân tâm đều chịu khổ. Thân thể mang bệnh hoạn, tâm lí chịu phiền não, lo nghĩ, bức bối, thân tâm không an. Tất cả là oán thân trái chủ tìm đến, không có oán thân trái chủ, làm gì có chuyện đó?
Những chuyện nhỏ này thường xảy ra trong đời thường, tựa hồ không ngày nào thoát khỏi. Chúng ta không tìm ra nguyên nhân, cho rằng thân thể không tốt, tìm thầy thuốc kiểm tra, không vấn đề, rất bình thường, tìm bác sĩ tâm lí cũng không vấn đề gì. Không học Phật không hiểu được, khi học Phật rồi mới hiểu.
Chúng ta ở trong đạo tràng, trong giảng đường, trong Niệm Phật đường, thấy được bao nhiêu người niệm Phật, đang nghe kinh, tinh thần ủ rũ không phấn chấn, thấy họ thế nào? Mệt mỏi, cho thấy họ rất đau khổ, họ không thoải mái, tinh thần không phấn chấn, đều là oán thân trái chủ. Chúng ta hiểu được chân tướng sự thực, quan sát trong đời sống hàng ngày, quý vị sẽ tìm ra câu trả lời, những ai có nhiều oán thân trái chủ, họ sống rất mệt, sống rất khổ sở; Những người nào oán thân trái chủ ít hơn, họ sẽ rất nhẹ nhàng, rất hoạt bát, không thể nhìn nhầm.
“Phi nhân đắc tiện”, thiện thần xa lánh, oán thân trái chủ sẽ thấy dễ dàng, sẽ đến tìm quý vị, đây là tội nặng thứ hai.
Khi người trí thức tập hợp lại một chỗ, họ đang bàn bạc vấn đề, họ không cần quý vị tham gia, ngyên nhân do đâu? Khẩu nghiệp quá nặng, người khác không có niềm tin nơi quý vị, ngại sau khi tham dự, trở lại phá hoại công việc, bởi thế không mời quý vị tham dự. Thường bị phỉ báng, tiếng xấu ác bay khắp thiên hạ”, quả báo của quý vị là thường xuyên bị người phê bình, bị người hũy báng. Tiếng xấu, hành động sai trái của quý vị, rất nhiều người biết, đấy là tội, thực tế mà nói cũng là đang tiêu nghiệp chướng.
Gặp những trường hợp này, chúng ta nên nhớ, cổ thánh tiên hiền khuyên răn chúng ta: “Gặp những chuyện không hay, nên hỏi lại mình”. Chúng ta phải nỗ lực phản tỉnh, người ta phê bình mình, coi thường mình, ta có chăng? Có phải đổi, không càng cố gắng. Nếu không có, đó là oan ức, đó là do người ta gắp lửa bỏ tay, cũng tốt, giúp ta tiêu trừ nghiệp chướng, ta phải cảm ân. Nếu có, càng phải cảm ân, họ nhắc nhở ta, để ta tự sửa mình.
Người xưa nói rất hay: “Không phải thánh hiền, ai không mắc lỗi, có thể sửa lỗi, không gì hay hơn”. Người ta nhắc nhở ta, phê bình ta, thực sự ta có lỗi đó tức tốc thay đổi. Đối với người coi khinh ta, phê bình ta, không ôm lòng oán hận, ngược lại đem tâm cảm ân, khiến tội lỗi ngày càng nhẹ nhàng, thiện căn ta ngày càng nuôi lớn, đây là điều tốt. Mọi người coi khinh, tuy có dạy dỗ, mọi người không nghe”, tội nghiệp thứ sáu là như thế, người ta coi khinh quý vị. Qúy vị có rất nhiều lời hay khuyên bảo họ, họ không nghe, họ không làm theo, tất cả đều là quả báo nói dối. Trong vọng ngữ bao gồm hai lưỡi, thêu dệt, ác khẩu. Thường nhiều ưu sầu”, lo nghĩ, chúng ta thường nói phiền não. Tình trạng phiền não rất phổ biến, gây trở ngại rất lớn cho người tu hành, với sự nghiệp của quý vị, có sức phá hoại rất lớn.
Gây nhân duyên nghiệp phỉ báng”, đây là đối bản thân, không phải với người khác. Bản thân quý vị thường có nghiệp miệng, tức gieo giống huỷ báng người khác, hoặc người khác huỷ báng quý vị. Quả báo nghiệp nhân, tự thân phải chịu, không phải tự nhiên mà đến. Sau khi chết rồi đoạ vào địa ngục”, địa ngục ở đây, là những gì đã nói với quí vị phần trước, địa ngục Cắt lưỡi. Nghĩ đến nỗi khổ địa ngục, nghĩ đến nỗi khổ cắt lưỡi, không tạo nghiệp khẩu nữa.
“Nếu được làm người, thường bị coi khinh”, chịu xong quả báo địa ngục, rời địa ngục đến nhân gian. Bởi vẫn mang tập khí ác nghiệp đời trước, vì thế luôn bị người khác coi khinh, vấn đề này cần phải ghi nhớ. Bị người khác hũy báng, nhất định phải nỗ lực phản tĩnh, có phải thay đổi, không phải cố gắng. Đừng oán hận người coi phỉ báng, phải mang lòng cảm ân, phải đem tâm sám hối, phải đem tâm hối cải, họ là nghịch tăng thượng duyên của ta, chúng ta mới được thành tựu. Nếu nghe người khác huỷ báng, trong lòng bứt rứt, liền oán hận, tìm cách trả thù, thế là hỏng, rắc rối rồi đấy, tại sao? Tạo nên oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp không bao giờ ngưng.
Phật Bồ Tát thường khuyên chúng ta: “Oan gia nên giải không nên kết”, oan nhất định phải cởi nó ra, không nên kết oán với người, bản thân mới được vãng sinh, khi vãng sinh mới không bị chướng ngại. Nếu không hiểu rõ đạo lí này, nghe người ta đổ oan cho quý vị, quý vị không phục, phải tranh cãi với họ, phải tìm ra lí lẽ, như thế là kết oán, không cần thiết.
Phê bình của người, huỷ báng của người, nhận tất cả, sau khi tiếp nhận mới phản tỉnh, đây là điều có lợi cho ta. Họ nói không sai, tôi thực sự có lỗi đó, tôi không oan hận họ, tôi phải cảm ân họ, họ nhắc nhở tôi, tôi sẽ sửa đổi. Tôi phản tỉnh, nhận ra đấy không phải lỗi của tôi, họ nói oan cho tôi, tốt quá, tại sao? Cổ nhân cho rằng thua thiệt là phước. Tôi bị người ta hiểu nhầm, bị người đổ oan, đấy là tiêu nghiệp chướng, trước mắt không có tội nghiệp đó, trong quá khứ có thể có. Bây giờ hết báo rồi, là việc rất tốt, không phải chuyện xấu, nên đem lòng cảm ân, hoan hỷ đón nhận.
Từ đó có thể biết, quả báo thiện ác, thị phi, tốt xấu, đều trong một niệm của ta. Có thể chuyển ác báo thành thiện báo, ác niệm trở thành thiện niệm, chuyện xấu trở nên chuyện tốt, tất cả đều trong một niệm. Một niệm ở đây là trí tuệ, không phải phiền não, những gì tạo nên bởi phiền não đều gọi tội nghiệt, những gì tạo nên bởi trí tuệ đều là phước báo.
Có thể thấy ác nghiệp của nói dối, mang lại nhiều tội lỗi, chết đoạ địa ngục, cẩn thận chớ coi thường”. không được xem thường nói dối, rất dễ phạm phải, nhất định phải hiểu được, mỗi ngày đang tích luỹ. Vấn đề này sẽ rất nghiêm trọng, tích luỹ một đời, quả báo phải đoạ điạ ngục. Không nói đến những tội nghiệp khác, chỉ nói khẩu nghiệp, đời này tích góp lại, đủ để đoạ vào địa ngục, thêm những thứ khác nữa sẽ nặng hơn. Bởi vậy nên cẩn thận, không được coi thường nó, không được bỏ qua.
“Ghét bỏ người thiện, phá hoại hiền minh”, đây là tội hai lưỡi, khiêu khích thị phi, thêm thắt phê bình, phá hoại người tốt việc tốt”. Bất hiếu cha mẹ, khinh mạn sư trưởng”, đây là lỗi của miệng, tội lỗi ác khẩu. Không cung kính khi ăn ở với cha mẹ, sư trưởng, không lễ phép, ngôn ngữ thô lỗ, khiến cha mẹ, sư trưởng buồn khổ.
“Không tin bạn bè, khó được thành thật”, đây là tội nói dối. “Tôn quý tự đại, nói ta có đạo”, đây là lỗi thêu dệt. Hai cách nói khác nhau, hơi khác”. Nói chung là lời nói không thật, những lỗi thường mắc trong khẩu nghiệp, nên chưa dễ phân chia rõ ràng”, thường nằm trong lỗi miệng, bốn loại đều có, đều đầy đủ.
Nói ta có đạo”. Như chưa chứng Thánh đạo, nói tôi đã chứng”, đây là đại vọng ngữ, điều này có trong giới luật. Đại vọng ngữ là tội đoạ địa ngục”. Vì thế phá giới đại vọng ngữ, tội phải chịu nặng hơn những lỗi về miệng khác”. Mục đích của đại vọng ngữ ở đâu? Lừa dối chúng sinh, tội này rất nặng, người mắc lừa rất đông.
Qúy vị chưa chứng quả Phật, lại nói mình là Phật tái sanh, lừa dối chúng sinh, chúng sinh cho đó là thật, kéo nhau đến lạy quý vị, cúng dường quý vị, mạo xưng tên Phật Bồ Tát. Bản thân trong đó có ý tham danh, lợi dưỡng, đây là tội đoạ địa ngục Vô gián, vào rất dễ, thoát ra vô cùng khó khăn.
Trong xã hội ngày nay, những việc tương tự rất nhiều, thường gặp! Một số người còn phao tin bịa đặt để người khác tin họ là Phật Bồ tát tái sanh, tội này cực kì nặng. Lại còn một loại làm người khác hiểu nhầm, tạo nên những chuyện nhảm nhí, tôi đã từng gặp. Mấy năm trở lại đây có người nói, tôi là Phật X, Bồ Tát Y tái sanh, quý vị xem có giống chăng? Không giống! Phật Bồ Tát có trí tuệ, ta không có trí tuệ; Phật Bồ Tát có thần thông, ta không có thần thông; Phật Bồ Tát có phước báo, ta không có phước báo. Từ điểm này chư vị thử xem, các vị sẽ phát hiện ra, nếu thực sự có Phật Bồ Tát tái sanh, ba thứ kể trên, chắc chắc sẽ rất rõ ràng, mọi người đều sẽ nhận ra. cống cao ngã mạn”đến “khó răn dạy được”, bốn câu này mô tả bộ mặt thật của xã hội ngày nay, tại sao Phật giáo suy yếu? Không ai học tập, không ai nói, không ai thực hành, Phật giáo đã suy yếu, nguyên nhân ở đâu? Không ai chịu nghe, người muốn giảng cũng không ai nghe, muốn thực hiện cũng không ai ủng hộ. Qúy vị suốt ngày làm, không ai khen ngợi, chỉ thấy chỉ trích, chỉ người phê bình, trong hoàn cảnh đó phải làm sao?
Nếu không phải thực sự có đại thiện căn, đại phước đức, chúng ta thường gọi người tái sanh, không ai không bị xã hội gạt ra. Cho dù người tái sanh đó có đại thiện căn, đại phước đức, liệu họ trụ được mấy ngày? Lâu ngày chầy tháng sẽ bị xã hội đồng hoá, mở miệng không nghe một từ đạo đức, luân lí. Trẻ trung còn học hành đôi chữ, mang vào đời không dùng được vào đâu, xã hội dùng những gì? Sát, đạo, dâm, vọng, lưỡng thiệt, thêu dệt, dùng những thứ đó, bản thân họ cũng hiểu. Nhưng đâu cũng thấy mọi người dùng thứ đó, đấy là thứ thời thượng hiện tại, có vẻ như không học quý vị sẽ bị lạc hậu.
Những người làm ác vẫn sống nhỡn nhơ, chức tước vẫn có, lại rất giàu sang. Ngày nào họ cũng làm ác, giống như không có quả báo, bản thân họ cũng không tin có báo ứng, duyên cớ ở đâu? Phước đức đó, đều là do họ gây tạo từ đời trước, họ chưa hưởng hết. Những tội nghiệp họ tạo ra, quả báo vẫn chưa hiện ra, tại sao? Họ hưởng chưa hết phước báo, đến khi hưởng hết phước báo, những tội báo đó sẽ hiện ra, đến lúc đó hối không kịp. Bởi thế họ có thể làm càn một thời, “đều do phước đức tạo ra đời trước bảo vệ”. Đời nay làm ác, phước đức tận diệt”, lúc đó ác báo mới đến, phước đức họ chưa tận diệt, họ vẫn còn hưởng phước.
Nay do tạo ác, thiện trước diệt rồi, thần thiện bỏ đi, nên đời này gặp nạn, nạn này rất nặng”, quả báo hiện tiền sẽ thế nào? Có thể mang bệnh khổ, hoặc gia sản mất mát, công ty phá sản, mất công ăn việc làm, cuộc sống lập tức bị uy hiếp, đấy là khổ báo. Đời này tạo ác, sẽ mang phước báo đời trước, dần kéo thấp xuống, mọi người chúng ta thường gọi là giảm phúc.
Ví dụ phước báo, của cải là phước báo, số anh ta rất giàu có, bởi ngang tàng bá đạo, cậy thế làm càn, cướp đoạt của cải người khác. Cho rằng ta có thể làm được điều đó, có trí tuệ, có quyền hạn, có thể hại người, đưa của cải mọi người về cho mình, dạng người này không thiếu trong xã hội. Những thứ họ lấy được, nói thật đó là do số họ có, nhưng đã bị giảm.
Thí dụ, vốn số anh ta có một vạn ức, bởi cậy thế làm càn, những của cải anh ta có được, chỉ còn năm nghìn ức, anh ta đã thấy đủ, không ngờ đáng lí mình có một vạn ức, đâu ngờ mình mất một nửa. Tuy thế anh ta vẫn còn năm nghìn ức, anh ta vẫn được hưởng, nhưng nếu anh ta tiếp tục làm ác, mỗi lần tạo tội làm hại người như thế, anh ta bị tổn hại một ít, cuối cùng là mất tất cả, hết phước báo. Hết rồi, những quả báo tội nghiệp anh tạo trong đời này, tất cả bày ra, tội báo bày ra sẽ đến đâu? Đến địa ngục. Đây là người có phước nhưng không có trí, hưởng phước mà không biết tạo phước, chỉ biết lừa dối mọi người, gọi là cậy thế hại người.
Người học Phật phải cảnh giác, quan sát thật kĩ, rất kĩ, hậu quả của họ không thể lường được, rất đáng thương. Qúy vị phải nghĩ đến quả báo anh ta phải nhận, quý vị sẽ sinh tâm thương xót, lòng yêu thương, rất đáng thương, rồi sẽ tha thứ cho họ. Thực sự họ không biết, mê lầm điên đảo nên tạo nghiệp nặng.
Đời này gặp nạn, nạn này rất nặng”, đây là gì? Mạng quý vị đang lí chưa hết, khi gặp nạn nhà tan cửa nát, bệnh khổ liên miên, gọi là sống để chịu tội, tội này có ngắn có dài.
Hồi tôi học Phật, đã gặp một trường hợp ở Đài Loan, cũng là một người giàu có, cuối đời mắc chứng quên của người già, rất đáng thương. Mọi người trong nhà không biết, chỉ con dâu biết, vợ đứa con thứ hai của ông, cô săn sóc ông rất cẩn thận, chỉ mình cô này biết, những người con cháu khác không ai biết. Còn sống, có tiền, ba ca hộ lí trực hai mươi bốn giờ, săn sóc mười mấy năm thì mất, chịu tội. Đang sống nhưng nằm bất động trên giường, không biết đến gì, nằm mười mấy năm như thế mới chết, con cái không đứa nào có hiếu, ai săn sóc ông? Đúng là đau khổ một mình.
Tuy lúc đó chúng tôi học Phật, nhưng vẫn chưa thấu hiểu kinh giáo, chưa hiểu sâu sắc, chỉ thấy ông đáng thương. Tiền của dư thừa như thế, hưởng thụ được gì? Chỉ là ba ca hộ lí, túc trực hai mươi bốn giờ, ông chỉ hưởng thụ được chừng đó, dùng tiền vào việc đó, quý vị nghĩ ông tiêu bao nhiêu tiền một tháng? Ăn uống mỗi ngày không thể nào nuốt trôi, phải dùng kim tiêm, bơm dinh dưỡng vào. Tuy kéo dài được mười mấy năm, khi mất, công ty giải thể, con cháu đông, nhà lớn nhà nhỏ đều giải thể hết. Đó là những gì chúng tôi tận mắt chứng kiến, sau này đối chiếu khi đọc kinh Phật, kinh dạy những chuyện như thế. Những công đức thiện căn được gieo trồng từ đời trước, có lúc sẽ hưởng hết, nó đem phước báo đến cho quý vị, phước báo có thể hưởng hết. Sau khi hưởng hết, thần Thiện bỏ đi, không nơi nương tựa, chỗ nương tựa là khổ nạn, đó là đau khổ. Đến lúc đó, thực sự muốn sống không được, muốn chết không xong. Họ không chết, hơi thở vẫn còn, nhưng không biết gì, không biết một thứ gì, ngay ăn uống cũng không biết, bởi thế bác sĩ hướng dẫn, thời gian bao lâu sẽ bơm cho ông những gì, y tá làm theo.
Chúng ta thử nghĩ, ai tạo ra những cảnh tượng trong mơ? Khi tỉnh dậy, bình tĩnh, để tâm nghĩ ngợi, những cảnh tượng trong mơ từ đâu mà có? Không biết đến từ đâu, khi tỉnh dậy, không thấy nữa, nó vẫn chưa biến mất, không đến không đi. Đó là cảnh tượng không sinh không diệt, không người tạo nên, hoàn toàn tự tác tự thọ. Thiện nghiệp sẽ tạo nên mộng lành, ác nghiệp thế nào? Sẽ mơ ác mộng. Thiện ác báo ứng, chúng ta có thể tìm được câu trả lời trong giấc mộng, nghĩa là, tự tác tự thọ, như lời Phật, Bồ Tát, Thánh hiền đã dạy.
Nếu quý vị oán trời trách đất, đây gọi là tội càng thêm tội, sai càng thêm sai, bởi thế hai câu sau rất hay”. Tự vào cõi ác”, là cõi ác từ nơi ác nghiệp của quý vị tạo nên, cõi ác là địa ngục, “nhập vào vạc lửa”, “vạc”là gì? Chảo, chảo lớn gọi là vạc”. Tự nhập vào ngục lửa và chảo nước sôi”, những thứ này mô tả những cảnh tượng địa ngục, cảnh giới địa ngục. Ngục lửa là đốt cháy, vạc sôi là nấu trong nồi, ai làm những việc này? Chúng ta thấy giết vật ăn thịt, xác những động vật này, có phải để chúng nó nấu nướng chăng? Đó là vạc sôi. Hôm nay quý vị nấu thịt, đến địa ngục tự mình nấu mình, tại sao? Nghiệp biến hiện ra. Biến hiện địa ngục vạc sôi, quý vị tự đến nhảy vào đó. Nhảy vào đó, cả địa ngục là biển lửa, quý vị chạy nhảy trong đó.
Trong địa ngục có đầu trâu mặt ngựa, những ác quỉ đó đó đến trị tội quý vị, những ác quỉ đó từ đâu mà có? Tất cả đều do nghiệp lực chúng ta biến hiện ra, không liên can gì đến bên ngoài, tất cả đều do nghiệp lực ta biến ra. Thậm chí ở trong địa ngục, quý vị còn thấy vua Diêm la, thấy quỉ vương, tất cả đó đều do nghiệp lực chúng ta biến hiện ra.
Đêm ngủ quý vị nằm mơ, mơ thấy Phật Bồ Tát, mơ thấy Phật A Di Đà, cũng do tự tánh biến hiện, lí do? Mỗi ngày niệm Phật, mỗi ngày nhớ Phật, nằm mơ, Phật liền hiện ra. Mỗi ngày tạo nghiệp ác, tạo sát đạo dâm vọng, nằm thấy mình đến địa ngục, mơ thấy quỉ vương, tất cả đều do ta mà ra.
Phạm vi của ỷ ngữ bao gồm rất nhiều, phạm vi rất rộng, Ngày nay ta thấy phổ biến nhất, mỗi ngày mở truyền hình, quý vị nghe những bài hát vũ điệu đó, nó có những nội dung gì? Trong Phật giáo đều gọi là ỷ ngữ, họ gọi là biểu diễn, những ca từ của họ, dụ dỗ quý vị làm sát đạo dâm vọng. Cho nên ở nơi này nói, cái này nên ngăn, nên ngăn cấm”. Làm việc ác bằng lời ngon tiếng ngọt trước đây”. Ý nghĩa của ỷ là đẹp đẽ, lời ngon tiếng ngọt, nói nghe rất hay, rất thích nghe. Kỳ thực nó đối lập với tánh đức, tắc là lệch về một bên, nó không thẳng.
Không những bây giờ, mà ở nữa thế kỷ trước, chúng ta nghe những ca khúc phổ biến, đều là thuộc về ỷ ngữ. Người trẻ tuổi bây giờ, trong con mắt của họ là thứ thích nhất, thần tượng của mình đều là những diễn viên, ca sĩ. Vì sao vậy? Vì mỗi ngày họ không rời truyền hình, không rời khỏi nơi múa hát, những cái này đều gọi là ỷ ngữ. Cho nên quý vị phải nhân thức nó, những gì họ biểu diễn ra cho quý vị thấy đươc, cho quý vị nghe được, dẫn quý vị đến phương hướng nào, quý vị có giác ngộ được chăng? Con đường họ đi không phải con đường của thánh hiền, mặt trái của thánh hiền là cái gì? Trong “Tả Truyện”có nói: “nhân khí thường tắc yêu hưng”. Thường là gì? Là nhân nghĩa lễ trí tín. Nếu như ngôn hành của họ bất nhân, bất nghĩa, vô lễ, vô trí, bất tín, dùng tiêu chuẩn của “Lễ Kí”để nói, thì họ không được gọi là con người, họ là yêu ma quỷ quái. Yêu ma quỷ quái không phải mặt xanh nanh vàng, mặt xanh răng nanh thì quý vị sớm đã không tiếp cận họ rồi. Quý vị thấy họ nhất định vô cũng hoan hỷ, họ đang dụ dỗ quý vị. Quý vị thực sự chịu thiệt mắc bẫy mà không biết. Đến lúc quý vị giác ngộ rồi hốn hận cũng không còn kịp nữa. Cho nên chánh diện “nên nói những lời có nghĩa làm thiện lợi ích”. Ngược lại, người xưa gọi là “ngôn chi hữu vật”, nghĩa là trong ngôn từ của quý vị có nội dung, có cái gì? Có nhân nghĩa đạo đức.
Ngày nay không những đài truyền hình không đóng cửa, Đài Loan có lẽ còn mấy mươi đài truyền hình, không chỉ là ba đài, tôi thấy ít nhất phải có 30 đài, làm thế nào được!
Dùng thập thiện để xem những cái này, đều là vọng ngữ, ỷ ngữ, ác khẩu, hai lưỡng, hoàn toàn đã phạm. Nếu chúng ta hàng ngày xem truyền hình, tôi tin rằng niệm Phật không thể vãng sanh. Tôi từ ngày nghe được thầy giáo nói những lời này, đến nay khoảng 45 năm rồi, tôi không còn xem truyền hình nữa. Truyền hình, phát thanh, báo giấy, tạp chí tôi cự tuyệt hết. Họ có quyền diễn xuất, tôi có quyền không xem, vì sao vậy? Vì bảo vệ tâm thanh tịnh của chính mình, không phải chịu sự ô nhiễm nữa. Cho nên nghĩ đến những diễn xuất của thời xưa, nội dung của nó, quý vị xem xem bình kịch của Trung Quốc, sớm hơn là Côn Khúc, thơ từ ca phú. Nội dung bên trong là ngũ luân, ngũ thường, bát đức. Đều là tuyên dương những thứ này. Cho nên xã hội an ổn, thiên hạ thái bình, điều này là chúng ta không thể không biết. Đặt biệt là những người làm phụ huynh, quý vị có con cái, hy vọng con cái tương lai có thể làm một người tốt, thì những thứ này không thể không ngăn cấm. Nhưng trẻ em vẫn thích xem truyền hình, trong nhà có thể có truyền hình không nên có ăng ten. Tiết mục truyền hình không thu được, tự mình có thể mua những dĩa hay một chút, ở trong nhà mở ra dạy con cái cháu chắt của quý vị. Đây là một biện pháp tốt, khiến những gì chúng xem được, tiếp xúc được đều là mặt tốt, không phải mặt xấu. Dĩa chứa mặt tốt có, không nhiều, nhưng có thể xem lại. Đây là giáo dục, đây là dạy học, “đọc sách nghìn lần, nghĩa nó tự thấy”. Xem rồi khiến trẻ em mở mang trí huệ, có năng lực phân biệt thị phi thiện ác. Đối với thiện chúng vui thích gần gủi, cái không tốt chúng có thể bài trừ, như vậy mới có thể nhận được lợi ích chân thực của việc dạy học.
Vậy chúng ta ở trong cuộc sống thường ngày tiếp xúc với người khác, nói chuyện cũng cần chú ý điểm này. Chuyện phiếm tốt nhất không nên nói, lãng phí thời gian. Người học Phật ngạn ngữ gọi là “ba câu không rời bổn hạnh”, câu thứ ba nhất định phải nói đến Phật pháp, tự mình tâm đắc trong tu học có thể chia sẽ với người khác, nghe kinh có chổ ngộ cũng có thể chia sẽ với mọi người. Những lời nói này là lời nói có ý nghĩa, đối với mình, với người khác đều có lợi, điều này nên học tập.
Không ác khẩu, ngăn việc ác trước đây nói lời ác với người, nên nói lời nhẹ nhàng. Trước đây đối nhân xử thế tiếp vật, lời nói không hay, dễ dàng đắc tội với người, đắc tội với người tự mình còn không biết. Lời nói, người xưa rất xem trọng. Khổng Phu Tử dạy học bốn khoa, thứ nhất là đức hạnh, thứ hai chính là lời nói. Lời nó là cửa của họa phúc. Người nói vô tâm người nghe có ý, lời nói làm hại người khác, người ta sẽ nhớ. Ghi nhớ ở tâm, tương lai có cơ hội thì họ đến báo thù quý vị, quý vị không biết họa từ đâu mà đến, cho nên lời nói là dễ đắc tội với người khác nhất. Khuyến thiện chỉ lỗi đều nên dùng lời nhẹ nhàng, mềm mại, bằng không bạn tốt của quý vị sẽ xa lánh với quý vị. Tuy họ có lỗi lầm, quý vị khuyên họ là ý tốt, nhưng ngôn từ thái độ của quý vị không hay, đối phương có thể tiếp nhận không? Thầy giáo dạy học sinh cũng không ngoại lệ.
Tôi theo thầy Lý mười năm, thầy nhắc nhở học sinh tuyệt đối không phải đứng trước mọi người, học sinh đã phạm lỗi lầm, thầy gọi họ vào trong phòng để khuyên bảo họ. Khuyên bảo, lấy lợi hại được mất phân tích cho họ nghe, học sinh đã hiểu được, cảm ơn thầy giáo. Nếu như ở trong chốn đông người quý vị khuyên nhủ họ, không nhất định họ sẽ cảm kích, tuy biết là sai lầm, quý vị khiến họ không còn thể diên, thì họ sẽ ôm hận trong lòng. Ngay cả dạy học, ở thời đại này bây giờ, đều không thể đắc tội học sinh. Bây giờ thậm chí cha mẹ dạy con cái cũng không dám đắc tội với nó. Vì sao vậy? Vì nó không hiểu được hiếu đạo, cho nên sẽ dẫn đến hành vi phản nghịch. Xã hội này bây giờ giết cha, giết mẹ, đã không còn là tin mới nữa, thường xuyên có. Chuyện này trước đây không thể xay ra, xã hội này ngày nay thường có.
Lời nói thái độ của chúng ta có thể không cẩn thận sao? Không cẩn thận, tai họa tự mình mang đến, không thể trách người khác. Phổ Hiền Bồ Tát dạy cho chúng ta lễ kính chư Phật, đối với hết thảy chúng sanh cần phải cung kính, điều này rất có lí. Học sinh cung kính thầy giáo, thầy giáo cũng cung kính học sinh. Không thể như trước đây thầy giáo đối với học sinh dạy nghiêm túc như vậy, không được rồi, không tìm được loại học sinh này. Cha mẹ đối với con cái cũng không ngoại lệ, bây giờ đều xem họ như người bạn để đối đãi. Lễ nghi tôn ti trên dưới không còn nữa, từ nhỏ không học qua, họ cũng không được xem qua.
Không hai lưỡi”. Hai lưỡi là xúi dục thị phi. Ngăn lại việc ác trước đây khiến hai bên đánh nhau. Mối quan hệ của hai người này rất tốt, họ ở giữa xúi dục, khiến phát sinh nghi ngờ lẫn nhau, sau cùng biến thành oan gia đối đầu. Những người này giỏi về hai lưỡi, tội này của họ tạo, trong địa ngục có địa ngục cày lưỡi. Địa ngục cày lưỡi chính là do ác nghiệp hai lưỡi mà chiêu cảm ra. Địa ngục không phải do con người xây nên, quý vị không có nghiệp này, thì sẽ không có sự việc này xảy ra, quý vị đã tạo nghiệp này, thì tự nhiên quả báo sẽ hiện ra. Giống như tình trạng ở đia ngục. Địa ngục là quý vị tạo tác ác nghiệp tự nhiên chiêu cảm ra, thế giới tây phương Cực Lạc là 48 lời nguyện của Phật A Di Đà, nguyện nguyện là độ chúng sanh, thuần tịnh thuần thiện, năm kiếp tu hành mà chiêu cảm ra. Không phải ở người nào đến thiết kế, không phải người nào đến xây dựng, không có, tất cả đều không có. Đạo lý này và ác nghiệp chiêu cảm địa ngục hiện tiền hoàn toàn tương đồng.
Phật A Di Đà cúng dường. Quý vị có thể lĩnh hội được, quý vị mới biết ân đức của Phật A Di Đà đối với chúng ta cao cả biết bao. Chúng ta có phước báu như thế nào, để tiếp nhận sự cúng dường của ngài? Trong kinh nói rất rõ ràng, chính là ba chữ. Quý vị có đầy đủ ba chữ này thì tư cách tiếp nhận sự cúng dường của ngài. Ba chữ: tín nguyện hạnh. Chân tín, chân nguyện về thế giới Cực Lạc, chân niệm Phật, quý vị có đầy đủ ba chữ này, thì quý vị giống như Thiên nhân của trời thứ sáu trong cõi dục giới, quý vị có phước báo lớn như vây. Tương lai đến thế giới Cực Lạc, tiếp nhận Phật A Đi Đà cúng dường. Quý vị xem, đến thế giới Cực Lạc đức Phật A Di Đà đích thân ngài đến đón quí vị, phước báu này lớn biết bao!
Chúng ta ngày nay đi nươc ngoài, đến đất nước người khác, tổng thống, quốc vương của đất nước đó có nghinh đón chúng ta không? Chúng ta đên thế giới Cực Lạc Phật A Di Đà nghinh đón chúng ta, quý vị dựa vào điều gì? Chính là tín nguyện hành. Vậy thì quý vị biết phước báu của tín nguyện hạnh lớn biết bao, có thể cảm động Phật A Di Đà đến nghinh đón. Đến thế giới Cực Lạc Phật A Di Đà đến cúng dường quý vị. Nghe được lời này, nhất định không đươc thối tâm nữa: tôi đâu có phước báu lớn như vậy, thôi, tôi không dám đi nữa đâu. Vậy thì cơ hội này của quý vị sẽ bỏ lỡ ngay trước mắt. Cho nên Ngẩu Ích Đại sư giảng kinh Di Đà Yếu Giải, tín có sáu điều:
Thứ nhất nên tín chính mình chính. Nghĩa là quý vị phải có lòng tự tin, tin chính mình là tin cái gi? Làm sao tin chính mình? Trong kinh điển đại thừa đức Thế Tôn thường dạy: “hết thảy chúng sanh vốn dĩ là Phật”. Tôi nghe được lời này tôi cũng tin tưởng chính tôi, chính tôi vốn dĩ là Phật. Điều này rất quan trọng, tự mình không tin tưởng mình vốn dĩ là Phật, thì quý vị làm sao có thể thành Phật được? Cho nên các bạn học Phật, điều thứ nhất phải khẳng định chính mình vốn dĩ là Phật. Lời nói này là thật, chắc chắn chính xác. Phật không vọng ngữ, chỉ là chúng ta mê thất tự tánh, nói cách khác, chúng ta là vị Phật hồ đồ. Bồ tát tu hành thành Phật, đó là Phật giác ngộ, vị Phật viên mãn giác ngộ. Chúng ta là một vị Phật hồ đồ, là Phật thật không phải giả. Khi nào chúng ta có thể đem mê hoặc buông bỏ, giác ngộ rồi với ngài không khác. Đạo lí này phải nên hiểu. Vậy Phật, Phật là ai? Phật là chính mình, không phải người khác. Như thế chúng ta mới thật sự học Phật.
Ta thật sự yêu thương họ, quan tâm họ, muốn giúp họ, ái ngữ là ngôn ngữ, ngôn ngữ yêu thương họ. Chư vị phải biết, không phải nói lời dễ nghe, là có lợi ích thật sự với họ, nói lời yêu thương, cho nên đánh họ, mắng họ đều là yêu thương. Nhưng giao tình này phải đủ, nếu giao tình chưa đủ, đối phương không dễ tiếp nhận.
Trong tứ nhiếp pháp ở trước, đặc biệt là bố thí, đây là kết chặt tình cảm sâu dày, tình ý sâu dày. Sau đó nhìn thấy lỗi lầm của người, mới có thể khuyên can. Mà khuyên thiện sửa lỗi, khuyên thiện không sao, có thể ở trước mặt đại chúng. Nói ra lỗi lầm thì không được, nếu nói lỗi lầm của người, khuyên họ sửa đổi sai lầm, không được có sự hiện diện của người thứ ba. Vì sao vậy? Phải để ý sĩ diện của họ, hiện nay gọi là không được tổn thương lòng tự trọng của họ. Vậy thì khi nào? Khi không có mặt người thứ ba, lúc này có thể nói lỗi lầm của người, đây là bạn tốt, là chơn thiện tri thức.
Trước đây khi tôi cầu học ở Đài Trung, thầy Lý dạy học sinh, nhất định kêu học sinh vào phòng, tuyệt đối không để người thứ ba nhìn thấy, lúc này mới giáo huấn. Thầy Lý giáo huấn học sinh, học sinh đó nhất định chịu tiếp thu, biết sửa đổi. Nếu quan sát học sinh này không thể tiếp thu, hoặc khi giáo huấn, bên ngoài tiếp thu nhưng không sửa đổi, thầy Lý tuyệt đối không dạy. Vì sao vậy? Như vậy là kết oán thù, có học sinh như vậy. Chúng tôi thấy có một số học sinh đúng là bằng mặt không bằng lòng, thầy Lý đối với những học sinh này rất khách sáo, tuyệt đối không nói khuyết điểm của họ. Có khi chúng tôi cũng hỏi, vì sao thầy không nói bạn này? Thầy chỉ cười, kết chút thiện duyên, đừng kết ác duyên, người này họ chỉ thích lời dễ nghe, nghe người khác tâng bốc mình, tuyệt đối không thể chịu được người khác nói lỗi mình. Bởi vậy dạy học phải biết quán cơ, phải hiểu người này căn tánh như thế nào, phải dùng thời gian dài để dẫn dắt họ. Đến khi nào họ thật sự giác ngộ, thật sự minh bạch, có ý quay đầu, lúc đó mới dạy. Khi chưa có ý quay đầu, thiện tri thức họ rất kiên nhẫn, lúc này không nói. Như những xử sự đối nhân tiếp vật này, chúng ta cần phải hiểu, đây là học vấn thật sự.
Quý vị thấy một vị thiện tri thức, người thiện đối với họ rất tốt, người ác cũng đối tốt với họ, đây là nguyên nhân họ làm người thành công. Bất luận thuận cảnh hay nghịch cảnh, người thiện hay người ác, họ đều ứng xử rất tốt đẹp, chúng ta thường nói họ rất biết cách làm người, họ làm người thành công. Đây là thực hành của trí tuệ, hiển thị của trí tuệ.
Thầy Lý tôi thân cận thầy đến mười năm, kinh giáo tôi học với thầy. Thầy thường nhắc nhở chúng tôi, “chỉ sợ không có đạo, không sợ không có chùa”. Thầy giáo dùng lời này khích lệ chúng tôi, đạo quan trọng chùa không quan trọng, hơn nữa thường nói “có chùa không đạo không thể hưng giáo”, nói rất rõ ràng như vậy. Thứ gì mới là quan trọng? Đạo quan trọng, chùa không quan trọng.
Chớ đi tìm những phiền phức đó vào người. Xây đạo tràng, thử hỏi xem trong đạo tràng mà quí vị xây đó thực sự có đạo không? Nếu như có đạo, mọi người thực sự được phước, nếu như không có đạo vậy là quí vị tạo tội nghiệp rồi, những người kia cũng oan uổng bị quí vị làm liên lụy. Vì sao vậy? Họ giúp quí vị tạo tội nghiệp. Sai rồi!
Chư vị thử suy nghĩ xem, rốt cuộc ngày ngày ta lên hay xuống? Chư vị tổ sư khô hơi rát cổ dạy chúng ta, câu Phật hiệu này đừng rời khỏi miệng, phương pháp này quả thật rất tuyệt diệu. Từ sáng đến tối “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, như vậy sẽ không tạo khẩu nghiệp, 24 tiếng đồng hồ A Di Đà Phật không gián đoạn, vừa đoạn A Di Đà Phật, khẩu nghiệp lập tức khởi lên, phương pháp này rất hay. Miệng niệm Di Đà, tâm vẫn khởi vọng niệm, đừng lo, không sao, đối với tam nghiệp ít nhất hiện tại ta không tạo khẩu nghiệp. Sau khi niệm thuần thục, ý nghiệp liền chuyển theo khẩu nghiệp. Khẩu dễ tạo nghiệp nhất, bắt đầu hạ thủ từ đây, trị bệnh phải trị bệnh nặng nhất trước. Nói quý vị đừng nói chuyện, không nói chuyện cũng rất khó chịu, dạy quý vị niệm Phật A Di Đà, điều này quá hay, tốt hơn không nói chuyện nhiều, bởi vậy phương pháp này quả thật vô cùng vi diệu.
“Khéo hộ trì khẩu nghiệp, không nói lỗi người; khéo hộ trì thân nghiệp, không mất luật nghi; khéo hộ trì ý nghiệp, thanh tịnh không ô nhiễm”, chỉ cần chúng ta thực hành rốt ráo ba câu này, thật tâm niệm Phật, tiền đồ chúng ta rất xán lạn, không ai có thể sánh bằng. Chúng ta có đạt được chăng? Quyền quyết định nơi mình, người khác đã không giúp gì được cũng không chướng ngại được. Nếu người ta chướng ngại được, thì cũng có thể giúp mình được. Nói thật, người khác không thể chướng ngại, cũng không thể giúp mình. Chúng ta cần hiểu rõ đạo lý này, đây là cảnh ngộ trước mắt của chúng ta, không thể không biết.
Khó ở đâu? Khó ở chổ ta không hiểu. Đức Phật nói pháp cho chúng sanh suốt 49 năm, giảng kinh hơn 300 hội, tận tâm tận lực, được mấy người hiểu? Người hiểu đều thành tựu, đều chứng quả; người không hiểu cứ từ từ. Trường hợp này trong kinh Phật gọi là người thuần thục độ trước, thuần thục là người căn tánh thuần thục, căn tánh thuần thục là người nghe hiểu, họ được độ trước, vượt thoát mười pháp giới, họ làm Phật, làm pháp thân đại sĩ. Không hiểu, chúng ta nhất định phải nhớ điều này, chúng ta không làm được tức chưa hiểu, ta có thái độ tu học này mới thành tựu được. Vì sao vậy? Biết mình không được, không hiểu. Nếu chưa hiểu mà cho rằng đã hiểu, cửa ngộ của quý vị bị chướng ngại; hay nói cách khác, đời này không hy vọng khai ngộ, quý vị tự cho rằng đã hiểu.
Đây là căn bệnh rất nặng trên con đường cầu học, một vị thầy dạy học sinh, quan sát học sinh, xem học sinh có thật sự hiểu chăng, có thành tựu chăng, đều qua sát trên các phương diện này. Học sinh này có dạy được chăng, cũng quyết định ở đây, nghĩa là quý vị có thể khiêm tốn, biết mình không hiểu, thầy sẽ dạy quý vị. Tự cho đã hiểu, thầy không dạy, vì sao vậy? Dạy cũng vô ích, không thâm nhập được, họ đã đầy, không tiếp thu thêm được; học sinh đọa lạc thầy cũng hết cách. Tôi cũng từng thỉnh giáo thầy Lý những vấn đề này, thầy Lý lắc đầu, hết cách. Thầy nói rất hay, căn tánh này không những ta không cứu được, Phật đến cũng không cứu được. Tôi thấy, lời thầy nói rất có lý. Vì sao vậy? Vì người học tự mãn, tự cho mình hiểu, thầy còn cách gì khác? Đến đây là chấm hết, không sao nói tiếp được, vì sao vậy? Vì quý vị đã hiểu. Học sinh thật sự, chưa làm được là mình chưa hiểu, phải cầu thầy giúp đở. Bởi vậy tiêu chuẩn đặt ở chổ ta có làm được chăng. Hiểu được nhiều hay ít là xem quý vị thực hành được bao nhiêu, hiểu một phần thì làm một phần, chắc chắn, quý vị hiểu mười phần nhất định làm mười phần, đây là sự thật.
Nghiệp chướng chúng ta sâu nặng, đây là thật không phải giả. Nếu muốn tiêu nghiệp chướng cũng không phải là vấn đề đơn giản, nhưng nó cũng không phải là việc khó. Nói khó không khó, nói dễ không dễ, vì sao không dễ? Vì bên trong tập khí quá nặng, bên ngoài hoàn cảnh không tốt, sức mê hoặc của ngũ dục lục trần quá lớn, đây là khó. Nói nó không khó, không khó là vấn đề này cầu chính mình, không cầu người khác, thế gian cầu người rất khó. Nếu mình có thể phát tâm mạnh mẽ, thực hành, vấn đề này không khó. Phát tâm mạnh mẽ đoạn tận danh văn lợi dưỡng của thế gian, không còn bị nó mê hoặc, không phải không làm được. Vì sao có người làm được? Vì sao họ làm được? Vì sao tôi làm không được? Vì tâm chúng ta chưa kiên quyết, kiên quyết không phải đối với người khác, mà đối với mình. Đối với người khác phải nhu hòa, đối với mình phải kiên quyết. Người bây giờ đã điên đảo, kiên quyết với người khác, không kiên quyết với bản thân, vì thế họ không thể thành tựu. Chúng ta đối với mình cần phải kiên quyết, đoạn tuyệt tất cả sự mê hoặc, biết mọi sự mê hoặc đều là yêu ma quỷ quái. Tất cả những mê hoặc này đưa chúng ta vào trong địa ngục tam đồ, không phải việc tốt. Nếu có thể không bị bên ngoài mê hoặc, bên trong không sanh phiền não, không khởi tâm, không động niệm, điều này có gì khó?
Chư vị cổ đức dạy rằng, nhất môn thâm nhập trường thời huân tu. Đặc biệt là hiện nay, chúng ta chọn Kinh Vô Lượng Thọ rất hay, lúc tiến lúc thoái không sợ, nhất định có ngày đến được thế giới Cực Lạc, nhập vào cảnh giới của Phật A Di Đà. Ngày nay chúng ta cùng nhau tu học bộ kinh này, mỗi ngày cùng nhau nghiên cứu thảo luận giảng giải bộ kinh này. Nhân duyên này quả thật hy hữu, chắc tìm trên toàn thế giới chỉ có ở đây, các đạo tràng khác đều giảng rất nhiều kinh luận, cùng một lúc giảng rất nhiều kinh điển, như vậy rất khó được lợi ích. Vì sao vậy? Vì ta không phải tinh tấn, mà thuộc về tạp tấn, quá nhiều, loạn tấn. Vừa tạp vừa loạn làm gì có tấn? Tấn chỉ là hùa theo, lời khách sáo. Nếu có thể giữ vững vị trí của mình không thoái chuyển, điều đó rất may mắn, vừa tạp vừa loạn nhất định thoái chuyển. Đạo lý và chân tướng sự thật này chúng ta đều phải hiểu rõ, thay đổi quan niệm, đây là then chốt tu hành của chúng ta.
Hiện tại mọi người đều có vi tính, ngày ngày ở trên mạng, những thứ ở trên mạng thì rất là phức tạp, hay nói cách khác, duyên của mười pháp giới đều ở ngay trong đó, chỉ xem bạn thân cận những gì. Ở trong đó có Phật, có Bồ Tát, cũng có yêu ma quỷ quái, cũng có địa ngục, súc sanh, xem bạn chính mình thân cận thứ nào. Nếu mỗi ngày bạn chỉ mở một môn học Phật, bạn nhất định thành Phật. Ngoài việc học Phật ra, bạn vẫn muốn thân cận yêu ma quỷ quái thì khẳng định bạn không thể thành được Phật. Vì sao vậy? Phiền não tập khí của bạn rất nặng, yêu ma quỷ quái có thể làm thỏa mãn sở thích của bạn, có sức mạnh mê hoặc rất lớn, bạn chắc chắn sẽ đi theo họ. Bạn đi theo họ đến nơi nào vậy? Đi đến địa ngục, đi đến ngạ quỷ, súc sanh, cõi thiện chắc chắn sẽ không có phần của bạn. Tất cả đều ở một niệm tín tâm của bạn, bạn xem, tín tâm này của bạn có quan trọng hay không? Cũng có một kẻ cầm đầu, là ma vương Ba tuần đang lãnh đạo, tìm đủ mọi cách để gây trở ngại. Nhưng chúng ta có tín tâm kiên định, thì ta có thể đột phá sự trở ngại của họ.
Ma vương Ba tuần từng đến tìm tôi, chỉ trích tôi, chưa được sự đồng ý của ông ta, không bàn bạc với ông ta, liền xâm nhập đạo tràng của ông ta. Tôi bảo làm gì có, tôi đâu làm chuyện đó. Sao lại không có? Tôi liền nghĩ ra, xin ông ấy thông cảm cho tôi, xin ông ấy từ bi, tôi cúng bài vị cho ông ấy. Đạo tràng của ông ấy ở đâu? Truyền hình vệ tinh là đạo tràng của ông ấy, mạng Internet là đạo tràng của ông ấy, truyền thanh là đạo tràng của ông ấy, báo giấy là đạo tràng của ông ấy, tạp chí là đạo tràng của ông ấy, tất cả những tuyên truyền bất thiện nói về sát đạo dâm vọng đều là đạo tràng của ông ấy. Ngày nay chúng ta cũng có vệ tinh, cũng dùng mạng Internet, như thế là xâm phạm đạo tràng của ông ấy, nên ông ấy đến hỏi tội.
Nếu không may rơi vào địa ngục, địa ngục rất phức tạp, không phải một thứ, rất nhiều, có người ở rất lâu, đó là do tạo tội nghiệp quá nặng, cũng có người ở rất nhanh.
Hồi tôi học kinh điển ở Đài Trung, thầy giáo kể cho chúng tôi về một địa ngục, đây là bình thường, không phải quá nghiêm trọng, mạng sống người ở địa ngục bao lâu? Trước hết phải nói một ngày ở địa ngục là bao nhiêu năm của nhân gian. Thầy giáo cho chúng tôi biết. địa ngục này một ngày ở địa ngục này là hai nghìn bảy trăm năm ở nhân gian. Trung Quốc thường nói có lịch sử năm nghìn năm, trong địa ngục chưa đến hai ngày. Từ đó mới biết rằng, trăm nghìn vạn kiếp, rất có khả năng, không phải bịa đặt.
Quý vị chịu khổ thời gian dài như thế trong địa ngục, luân hồi ác thú, không có thời hạn ra, không có cách nào để ra. Bởi thế tam ác đạo rất dễ vào, rất khó đi ra. Thời gian ở cõi ngạ quỉ cách xa chúng ta, một ngày ở cõi quỉ là một tháng ở nhân gian. Bởi thế chúng ta cúng quỉ thần vào các ngày mùng một và rằm, gặp đúng một ngày ba bữa của họ. Bữa sáng, bữa trưa và bữa tối, mỗi ngày ba bữa. Một ngày của họ bằng một tháng của ta, thọ mạng cõi quỉ, sống ngắn nhất cũng được nghìn tuổi, một nghìn tuổi. Mười hai ngày cõi quỉ bằng ta một năm, thử tính xem, thời gian như thế bao lâu. Vì thế không nên vào ác đạo.
Cõi súc sinh, mạng sống rất ngắn, nhưng nó không thể rời khỏi cõi súc sinh. Chúng ta xem trùng nhỏ trên mặt nước, gọi là phù du, sáng sinh chiều chết. Chúng sống độ mấy tiếng, tạo nghiệp gì mà đoạ làm thân ấy? Người tạo nghiệp giết hại quá nặng, giết hàng vạn, họ sẽ đoạ vào cõi súc sinh. Một ngày chúng nó sống chết ba, bốn lần, suốt ngày chịu khổ trong sinh tử.
Như nhân gian chúng ta làm việc, ban ngày làm việc, tối về có nghỉ ngơi, ở đó họ chịu khổ không được nghỉ ngơi. Ngục tù của thế gian, ban ngày chịu hình phạt, đêm về có thể nghỉ chút ít, địa ngục Vô gián không có ngừng nghỉ.
Tôi giảng Kinh thường hay phụng khuyến các vị: “Một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu”. Không có nền tảng này, bạn muốn không bị những tà tri, tà kiến, tà hạnh của xã hội này mê hoặc thì e rằng không có người nào làm được, trừ khi bạn là Phật Bồ Tát tái sanh; nếu bạn không phải là người tái sanh, bạn không thể nào thoát khỏi bàn tay của ma, bạn chắc chắn sẽ đọa vào ma đạo. Do đó, giáo học là phương tiện cứu độ tất cả chúng sanh tốt nhất.
Quý vị thử nghĩ cái được và mất trong đây, cái đạt được chỉ là sự thọ dụng trên mặt vật chất ở trước mắt, nhưng mất đi chính là niềm an vui của tinh thần.
Con người sống ở thế gian là gì? Sống một cách tê liệt, không giống như con người. Mỗi ngày truy cầu hưởng thụ vật chất, đó chính là hút nha phiến, chích heroin, họ thật sự vui ư? Họ rất thống khổ. Đau khổ này là hoa báo, gọi là năm loại đau khổ, là hoa báo. Quả báo thì sao? Quả báo trong tương lai, ở trong địa ngục tam đồ, thời gian làm người trong đời này không bao lâu. Chỉ ngắn ngủi mấy mươi năm, rồi rơi vào trường kỳ đau khổ trong ba đường ác. Vào ba đường ác rất dể, nhưng ra được rất khó.
Tính theo thời gian của nhân gian, đọa vào súc sanh đạo, một hai trăm năm ra khỏi, được coi là nhanh. Đọa vào ngạ quỷ lại càng đáng sợ. Trong kinh Phật dạy rằng: Một ngày trong đường ngạ quỷ bằng một tháng ở nhân gian, nên rằm, mồng một người nhân gian cúng quỷ thần là có đạo lý. Một ngày cúng cơm buổi trưa và buổi tối, một ngày của họ là một tháng ở nhân gian. Một năm ở nhân gian là ngạ quỷ 12 ngày, họ một năm có 360 ngày. Họ sống bao lâu? 1000 tuổi. Quý vị nên biết, quỷ đạo muốn đến nhân gian không dễ. Đường địa ngục thời gian càng dài, địa ngục chủng loại rất nhiều, thời gian sai biệt rất lớn.
Trước đây, thầy Lý tổ chức giảng tọa chuyên môn về Phật học, giới thiệu về địa ngục. Ông dùng hình như là ít nhất, một ngày ở địa ngục, là 1700 năm ở nhân gian. Người Trung quốc hiệu xưng 5000 năm lịch sử, cũng chẳng qua bằng ở địa ngục 2 ngày, quý vị mới biết đáng sợ chừng nào. Trong địa ngục cũng có người ra được sớm hơn thời hạn này, Bồ Tát Địa Tạng Vương đến cứu họ, như vậy là sao? Tất cả đều là người học Phật, tu học Phật pháp không tệ, vì một niệm sau cùng sai lầm tạo nghiệp địa ngục, nên đọa vào đó. Hạng người này, vì trong A lại da thức của họ có chủng tử Phật pháp, có thiện căn. Bồ Tát đi cứu họ, giúp họ, họ dễ giác ngộ, chỉ cần họ giác ngộ liền rời xa địa ngục. Nếu họ không giác ngộ, Bồ Tát Địa Tạng cũng không cách nào cứu được họ.
Những tình trạng này trong lục đạo, chỉ có trong kinh Phật mới nói một cách thấu triệt rõ ràng, về nhân quả nghiệp báo. Trong Đạo giáo nói về nhân quả, nói về quả báo nhiều, nhưng nguyên nhân gì đọa đến địa ngục ít nói hơn, không nói tường tận như trong kinh Phật.
Quý vị thử nghĩ xem, một ngày chúng ta niệm Phật hiệu bao nhiêu thời gian? Không tính số lượng, một ngày chúng ta niệm danh hiệu Phật mấy tiếng? Còn mấy tiếng suy nghĩ lung tung? Quý vị thử tính kỹ điều này. Nếu một ngày thật sự có thể niệm được bốn tiếng danh hiệu Phật, còn 20 tiếng nghĩ đông nghĩ tây. Coi như mỗi ngày chúng ta niệm bốn tiếng Phật hiệu, công phu rất đắc lực. Quả báo này là lên cõi trời, đến đó hưởng phước trời. Con người khi hưởng phước liền hồ đồ, quên mất Phật hiệu. Khi phước hưởng hết, tội báo trong 20 tiếng suy nghĩ lung tung đó liền hiện tiền, khiến chúng ta đi vào trong ba đường ác. Chúng ta nghĩ đến chân tướng sự thật này, không ai không kinh hoàng, không ai không sợ hãi. Phải làm sao? Tôi đem nó điều chỉnh lại. Mỗi ngày tôi niệm Phật 20 tiếng, vọng tưởng 4 tiếng, nhất định được đến thế giới Cực Lạc. Bốn tiếng đó là gì? Bốn tiếng để ngủ. Niệm Phật 20 tiếng, bốn tiếng nghỉ ngơi, đây là gì? Đây là Đức Thế Tôn đặt ra. Không nghĩ sẽ không biết, cứ hồ đồ suốt cả đời, nghĩ lại mới thật đáng sợ! Ngày nào cũng nghe kinh, ngày ngày niệm, ngày ngày đang giảng dạy học tập, nhưng khi đặt kinh xuống thì lập tức mê hoặc, vẫn bị tình chấp làm chủ mà tự cho mình đúng, vấn đề này rất nghiêm trọng. Nếu không bình tĩnh tư duy tường tận, thì tự mình không thể phát hiện ra, còn cho rằng mình tu không tệ, tu rất tốt. Đến cuối cùng không thể vãng sanh, vẫn trôi lăn trong luân hồi lục đạo. Lúc này oán trách: Phật Bồ Tát không linh, Phật Bồ Tát gạt tôi. Như vậy thì tội càng thêm nặng. Ý niệm này vừa khởi, lập tức vào địa ngục, vì sao vậy? Vì báng Phật, báng pháp, báng tăng. Không biết chính mình sai còn đi trách người khác.
Chân Tín Nguyện Hạnh niệm Phật sửa đổi tập khí, tức là đang làm Phật sự (công việc làm để có thể thành Phật), cũng là thật sự tán thán Phật, cúng Phật. Tâm không tập khí (tâm không trụ tướng) thì mới thấy được thật tướng, tự giác giác tha, tức là tâm Bồ đề.
Thời gian không có phân biệt tốt xấu, nếu dùng thời gian để oán hận người khác, nói thị phi, đam mê xem truyền hình hoặc máy điện toán, so đo, không cam chịu, ganh tỵ, lo lắng, tạp niệm,v.v... làm những việc phiền não vô ích, đó là đầu tư vào những việc vô giá trị và lãng phí nhất.
Học Phật không phải là việc phiền phức, học Phật có thể khiến chính mình có trí tuệ xuất thế, là việc rất thoải mái, tự nhiên vui vẻ và tự tại. Trong đời sống hàng ngày, sĩ nông công thương dù lúc bận hay khi nhàn, đi đứng nằm ngồi, chỉ cần khi tâm không chuyên chú vào một việc gì thì bất cứ ở đâu cũng có thể niệm Phật. Nói không có thời gian niệm Phật tu hành chỉ là viện cớ mà thôi.
Chỉ cần "Thiểu dục tri túc”(ít ham muốn biết đủ) đừng ở trong “Mộng huyễn bào ảnh”(nghĩa là như mơ như ảo như bọt như bóng) vô thường để kiếm vĩnh hằng hay khoái lạc, tâm chỉ trụ vào câu Phật hiệu, trong đời sống hằng ngày sẽ có định và tuệ, thân tâm và hiện tướng của ngoài tâm tự nhiên được hòa thuận.
Quý vị nghe rồi tin tưởng, quý vị thực hành, buông bỏ vạn duyên, nhất tâm cầu sanh Tịnh độ, thì chắc chắn được vãng sanh. Pháp môn này vô cùng thù thắng, pháp môn này không dễ gặp.
Quý vị thấy bây giờ toàn thế giới có gần 7 tỷ người, trong 7 tỷ người này có bao nhiêu người gặp được Phật pháp? tôi muốn nói được nghe đến Phật, biết có Phật, khoảng chừng 1/7 thôi, có khoảng 1 tỷ người. 7 tỷ người chỉ có 1 tỷ người, 1/7, 1/7 người này nghe được, biết được có Phật pháp. Nhưng thật sự tiếp xúc với Phật pháp, có thể là 1/10, 1 tỷ người biến thành 100 triệu người, thật sự tiếp xúc được Phật pháp. Tiếp xúc được Phật pháp, nhưng Phật pháp có thật có giả, nếu tiếp xúc Phật pháp giả, thì không khởi tác dụng. Gặp được Phật pháp thật, có thể trong 10 người chỉ có một người thôi, quý vị sẽ giảm dần dần, 1 tỷ người biến thành 100 triệu người, 1/10. 1/10 này là 1 trăm triệu người, nếu như gặp được Tịnh độ, có thể lại là 1/10, vậy thì còn lại 10 triệu người. Trong 10 triệu người, có thể gặp được bộ kinh này, bổn Hội Tập này, gặp được chú giải của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, e rằng không đến 100 người, vậy quý vị mới biết rằng pháp môn này đáng quý chừng nào.
Vì nó quá dễ, ngược lại khiến người ta hoài nghi, vả lại thành tựu pháp môn này lại rất thù thắng. Bởi thế gặp được Phật pháp, người tin Tịnh độ rất ít. Khi đã gặp Tịnh độ, kinh luận Tịnh độ, mới nhìn qua tưởng rất dễ, trên thực tế cực kì thâm áo. Nếu ta không thật sự tin, lại còn nghi hoặc, thấy pháp môn khác, nghe pháp môn khác, sẽ khởi tâm động niệm. Cảm thấy Tịnh tông không bằng những pháp môn kia, sẽ dể thoái tâm, sẽ thay đổi, như thế thua thiệt sẽ rất lớn.
Bởi thế ở đây nói, mất luôn lợi lớn, người đó mãi mãi mất đi lợi ích thù thắng nhất, khi mất rồi sẽ thế nào? Trong trăm nghìn vạn kiếp -Không phải năm, không phải trăm nghìn vạn năm, mà trăm nghìn vạn kiếp, thời gian này rất dài, ta sẽ làm những gì? Bị luân chuyển trong ác đạo, không có thời hạn được ra, đây là lời nói thật, không phải phù phiếm. Nếu không may rơi vào địa ngục, địa ngục rất phức tạp, không phải một thứ, rất nhiều, có người ở rất lâu, đó là do tạo tội nghiệp quá nặng, cũng có người ở rất nhanh.
Hồi tôi học kinh điển ở Đài Trung, thầy giáo kể cho chúng tôi về một địa ngục, đây là bình thường, không phải quá nghiêm trọng, mạng sống người ở địa ngục bao lâu? Trước hết phải nói một ngày ở địa ngục là bao nhiêu năm của nhân gian. Thầy giáo cho chúng tôi biết. địa ngục này một ngày ở địa ngục này là hai nghìn bảy trăm năm ở nhân gian. Trung Quốc thường nói có lịch sử năm nghìn năm, trong địa ngục chưa đến hai ngày. Từ đó mới biết rằng, trăm nghìn vạn kiếp, rất có khả năng, không phải bịa đặt.
Quý vị chịu khổ thời gian dài như thế trong địa ngục, luân hồi ác thú, không có thời hạn ra, không có cách nào để ra. Bởi thế tam ác đạo rất dễ vào, rất khó đi ra. Thời gian ở cõi ngạ quỉ cách xa chúng ta, một ngày ở cõi quỉ là một tháng ở nhân gian. Bởi thế chúng ta cúng quỉ thần vào các ngày mùng một và rằm, gặp đúng một ngày ba bữa của họ. Bữa sáng, bữa trưa và bữa tối, mỗi ngày ba bữa. Một ngày của họ bằng một tháng của ta, thọ mạng cõi quỉ, sống ngắn nhất cũng được nghìn tuổi, một nghìn tuổi. Mười hai ngày cõi quỉ bằng ta một năm, thử tính xem, thời gian như thế bao lâu. Vì thế không nên vào ác đạo.
Cõi súc sinh, mạng sống rất ngắn, nhưng nó không thể rời khỏi cõi súc sinh. Chúng ta xem trùng nhỏ trên mặt nước, gọi là phù du, sáng sinh chiều chết. Chúng sống độ mấy tiếng, tạo nghiệp gì mà đoạ làm thân ấy? Người tạo nghiệp giết hại quá nặng, giết hàng vạn, họ sẽ đoạ vào cõi súc sinh. Một ngày chúng nó sống chết ba, bốn lần, suốt ngày chịu khổ trong sinh tử.
Như nhân gian chúng ta làm việc, ban ngày làm việc, tối về có nghỉ ngơi, ở đó họ chịu khổ không được nghỉ ngơi. Ngục tù của thế gian, ban ngày chịu hình phạt, đêm về có thể nghỉ chút ít, địa ngục Vô gián không có ngừng nghỉ.
Thứ tư là “mạng vô gián. Ở trong địa ngục này, thọ mạng một trung kiếp”. Quý vị xem, thọ mạng rất dài, thọ mạng là một trung kiếp. Một trung kiếp bằng 20 tiểu kiếp, tiếp kiếp tính như thế nào? Trong kinh Phật cũng có nhiều tư tưởng khác nhau. Trước đây chúng tôi học Phật, thầy giáo đưa ra một cách rất đơn giản. Nhân thọ, thọ mạng của con người ngắn nhất là mười tuổi, chúng ta nói là tuổi bình quân, bây giờ tuổi bình quân khoảng 70 tuổi. 10 tuổi là tính như thế nào? Mười tuổi là ít nhất. 100 năm thêm một tuổi, qua 100 năm nữa lại thêm một tuổi, thêm đến tám vạn bốn ngàn tuổi, đây là thọ mạng dài nhất của con người, gọi là kiếp tăng. Từ ít dần dần thêm nhiều, đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Đến tám vạn bốn ngàn tuổi rồi, sau khi được tám vạn bốn ngàn tuổi, cứ 100 năm giảm một tuổi, lại giảm đến mười tuổi, bây giờ chúng ta đang sống trong kiếp giảm. Một tăng một giảm gọi là một tiểu kiếp, bây giờ chúng ta là ở thời kỳ kiếp giảm.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, lúc đó thọ mạng bình quân của con người là 100 tuổi, mỗi 100 năm giảm 1 tuổi. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ đến nay là 3037 năm, vừa đúng giảm 30 tuổi, cho nên tuổi bình quân hiện nay là 70 tuổi. Về sau cứ 100 năm giảm một tuổi, pháp vận của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni về sau còn 9000 năm. 9000 năm, còn có bao nhiêu năm là đến mười tuổi? Hiện nay là 70 tuổi, hai ba bốn năm sáu bảy, 6000 năm, 6000 năm sau là giảm còn mười tuổi. 6000 năm sau, tức là một năm lại tăng thêm một tuổi, còn phải tăng đến 3000 năm, đây là pháp vận của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật pháp vẫn chưa đoạn, vẫn còn ở thế gian. Cho nên người ta nói về vấn đề địa cầu hủy diệt, người học Phật không tin. Pháp vận của Phật ở sau vẫn còn 9000 năm, đâu có hủy diệt nhanh thế. Chắc chắn có thiên tai thảm họa, điều này không thể tránh khỏi, nhưng tuyệt đối không có tận thế. Ở đây là nói đến Pháp vận của Phật.
Một lần tăng giảm gọi là một kiếp, một tiểu kiếp, 20 tiểu kiếp là một trung kiếp. Quý vị xem, địa ngục Vô gián thọ mạng dài bao nhiêu? Dài 20 tiểu kiếp, điều này rất phiền phức. Nếu như đọa vào trong địa ngục này, phải chịu khổ thời gian dài như thế. Quý vị xem, một tiểu kiếp là từ 10 tuổi tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi, tám vạn bốn ngàn tuổi lại giảm lui 10 tuổi, đây là một tiểu kiếp. 100 năm tăng giảm một tuổi, điều này có thể tính đếm được, có thể tính ra. Tôi tính không giỏi, bản thân quý vị có thể tính thử, nếu tính ra quý vị sẽ cảm thấy sợ hãi. Vì thế tuyệt đối không được phạm tội ngũ nghịch thập ác!
Hiện nay rất nhiều người phạm phải, phạm tội gì nhiều? Bất hiếu cha mẹ, bất kính tôn trưởng, đây chính là tội của địa ngục Vô gián. Trong tội ngũ ngịch, đầu tiên là giết hại cha mẹ, bất hiếu cha mẹ. Quý vị chưa giết hại cha mẹ, nhưng bất kính đối với cha mẹ, bất hiếu đối với cha mẹ, tội này nhẹ nhất trong giết hại cha mẹ. Giống như tám tầng địa ngục này, chắc chắn có phần trong tầng đầu tiên. Nếu thật sự giết hại cha mẹ, như vậy phải đọa vào vô gián, đọa vào trong địa ngục Vô gián. Quý vị thử nghĩ xem, điều này đáng sợ biết bao. Cho nên con người, đời này chịu khổ không sao, nhưng tuyệt đối không tạo tội. Chịu khổ là gì? Chịu khổ là tiêu tội nghiệp. Trong đời quá khứ không tích lũy công đức, không tu thiện nghiệp, đời này mới nghèo hèn, mới khổ não. Khi hiểu được điều này cần biết an phận.
Ở đây bổ sung thêm một câu, thọ mạng của địa ngục ngắn nhất, tính theo thời gian của nhân gian, ngắn nhất. Nhân gian 3750 năm là một ngày ở địa ngục, cũng như cách tính của nhân gian vậy, một tháng 30 ngày, một năm 12 tháng. Nên nhớ, một ngày của địa ngục, là nhân gian 3750 năm. Trung quốc hiệu xưng 5000 năm lịch sử, trong địa ngục chưa đến hai ngày.
Địa ngục thọ mạng dài bao nhiêu? Ở trước có nói, là một trung kiếp, bằng 20 tiểu kiếp. Cũng có người dùng chữ số để nói, thọ mạng ngắn nhất trong địa ngục là 10 ngàn năm. Như vừa mới nói, một ngày ở địa ngục bằng 3750 năm ở nhân gian. Họ 10 ngàn năm, 10 ngàn năm bằng nhân gian chúng ta 135 ức năm. Quý vị xem, đọa địa ngục rất dễ, muốn ra khỏi đó quá khó!
Tội nghiệp ba đường ác của mỗi người chúng ta nặng cỡ nào? Nghiệp nhân của tam đồ là tham, sân, si, chúng ta phải thêm vào hai thứ, thành tham, sân, si, mạn, nghi, gọi chung là Ngũ Độc, chúng ta có hay không? Những ý niệm ấy thường thường khởi lên, chẳng biết mỗi ngày khởi lên bao nhiêu lần, quý vị sẽ biết nghiệp nhân của ba đường ác này nặng đến mức nào! Duyên bên ngoài gồm có tài, sắc, danh, thực, thùy (tiền tài, sắc đẹp, tiếng tăm, ăn uống, ngủ nghỉ), bên trong có gốc rễ tham, sân, si, mạn, nghi. Bịnh độc trong A Lại Da Thức là gốc rễ. Duyên bên ngoài là tài, sắc, danh, thực, thùy. Khi nhân gặp duyên, quý vị liền tạo nghiệp, tạo nghiệp của ba đường ác, quý vị nói xem: Chuyện này có đáng sợ hay không? Mỗi lần khởi lên một ý niệm là một lần tạo nghiệp; mỗi ngày quý vị khởi lên bao nhiêu ý niệm? Quý vị tạo bao nhiêu nghiệp nhân trong ba đường ác? Chúng ta lắng lòng suy nghĩ sẽ biết. Mỗi ngày tôi niệm A Di Đà Phật là tạo tịnh nghiệp của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thời gian niệm Phật ít, thời gian khởi ác niệm nhiều! Ý niệm thiện đang niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, niệm mấy câu liền chẳng thấy thiện niệm đâu nữa, chẳng biết đã quên khuấy từ lúc nào. Lúc ý niệm ác khởi lên thì niệm niệm liên tục, quý vị thấy chuyện này lợi hại hay không, có đáng sợ hay không? Lắng lòng suy nghĩ, quan sát, mới biết phiền phức lớn lắm.
Trong Phật pháp không học kinh, không nghe pháp, dần dà xa cách tánh đức, bất thiện lớn dần, nên mới mắc những lỗi đó. Nếu nghiệp được tạo từ đời trước, ta đến thế gian này, sẽ bị thân thể khiếm khuyết như: mù, điếc, câm, ngọng, ngày nay chúng ta gọi đó là tàn tật. Khuyết tật đôi khi bẩm sinh, đôi lúc đã ra đời. Đã ra đời đa phần là do tai nạn, trong tai nạn ngày nay, phần lớn là tai nạn giao thông.
“Quỉ mị làm trướng”, nghĩa là quỉ áp vong, mang đến vô số bệnh tật, khiến ta nằm ngồi không yên. Trong đời này: “Cầu sống không được, muốn chết không xong”, sống rất khổ sở. Tất cả những việc này xảy ra ngay trước mắt, chỉ cần chúng ta lưu tâm, có thể thấy được. Nghĩ đến những điều trong kinh Phật nói, đối chiếu với những gì ta thấy, sẽ hiểu, Phật không nói sai.
“Hoặc khiến cho chết”, họ chết, chết rồi đi đâu? Đến thẳng địa ngục. Trước mắt ngồi nằm không yên, lòng như lửa đốt, đấy là hoa báo. Chết đoạ tam đồ, đó là quả báo, quả báo khổ hơn”. Chịu khổ não lớn trong tám vạn kiếp”, đây là thí dụ, thời gian dài trong địa ngục, chịu khổ cực trong địa ngục tám vạn kiếp”. Trăm nghìn vạn kiếp không nghe đến tiếng uống ăn”. Khát không có nước uống, đói không thấy thức ăn, không phải thời gian ngắn, rất dài. Trăm nghìn vạn kiếp là số tượng trưng.
“Lâu sau được ra”, tất nhiên họ sẽ có lúc chịu xong tội báo, chịu xong họ ra khỏi địa ngục, đi đâu sau khi ra khỏi địa ngục? Phần nhiều đến cõi súc sinh, họ đi làm trâu, làm ngựa, làm heo, làm dê”. Nói chung không khỏi bị người giết mổ”, mọi người ăn thịt chúng”. Chịu khổ rất nặng”, khi bị giết thì không thể kể hết nỗi khổ.
Họ sinh đến nhân gian, không có trí tuệ, ngu si, không có phước báo, nghèo khổ, phải chịu khổ trong kiếp người, đấy là gì? Phần bất thiện còn lại của tam ác đạo, chúng ta thường gọi là tập khí, do tập khí bất thiện mang lại. Nếu may mắn nghe được lời giáo huấn Thánh hiền, họ có thể vượt qua được cuộc sống khốn khó, nâng linh tánh mình lên, đấy chính là hạnh phúc lớn nhất trong bất hạnh. Nếu không gặp được lời giáo huấn của Thánh hiền, họ còn khổ nữa, tại sao? Chết rồi tiếp tục đoạ ác đạo, tuy không tạo nghiệp nặng, trong tâm họ vẫn còn oán hận, bất bình, dẫn nghiệp này, lại lôi họ vào tam ác đạo.
Như Kinh Địa Tạng đã nói, chúng sinh địa ngục được ra, không lâu sau lại quay vào, nguyên nhân do đâu? Không có trí tuệ, không biết là tự làm tự chịu. Lúc nào cũng mang tâm oán than trời trách đất, như thế là ta đang tạo lại ác nghiệp, nhưng bản thân không hay biết”. Trăm nghìn vạn kiếp không được tự tại”, có nghĩa là lúc nào cũng u buồn. Không giải được oán kết, không mở được, khí oan không tan.
“Không lúc nào nghe được tên Tam bảo”, nghe được tên Tam bảo là được cứu, suốt đời không tiếp xúc với Tam bảo, người này thật đáng thương”. Bởi thế nơi những người vô trí, không tin, không nói kinh này vậy”, câu này nói rất quan trọng. Với những người không có niềm tin, người không có trí tuệ, ta đừng nói bộ kinh này với họ. Tại sao? Họ huỷ báng, lại tạo nghiệp.
Lưu luyến thế gian này tức là không muốn thoát khỏi lục đạo luân hồi. Trong lục đạo, cõi trời và cõi người kể ra vẫn còn đỡ một chút, nhưng thời gian ngắn ngủi, tạm bợ, một trăm năm giống như thời gian khảy ngón tay, đến lúc quý vị bảy tám chục tuổi sẽ biết, chẳng đáng lưu luyến tí nào! Được làm thân người, phải nên tu hành, phải nên thoát khỏi lục đạo luân hồi. Chuyện tốt trên thế gian chỉ có một chuyện, đó là giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ, đó là chuyện tốt. Những chuyện tốt khác đều chẳng thể thoát khỏi lục đạo luân hồi, đều là nghiệp luân hồi. Chỉ có niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là chuyện tốt. Đã thật sự hiểu rõ ràng, minh bạch, hãy dốc hết tâm lực để niệm Phật. Có nghi hoặc thì phải nghe giảng kinh, phải đọc kinh, giúp quý vị phá mê, sanh tín. Quý vị có nghi hoặc, tín tâm chẳng đủ nên phải nghe kinh, đọc kinh hòng giúp quý vị đoạn nghi, sanh tín. Khi tín nguyện đã vững chắc, có thể không đọc kinh, có thể không nghe giảng, nhất tâm niệm Phật là được rồi! Nếu còn nghi hoặc, tín tâm còn chưa vững chắc, kinh giáo sẽ giúp đỡ quý vị rất nhiều. Nếu không có kinh giáo, rất dễ đọa lạc, tự mình chống đỡ không nổi! Do đó, kinh giáo là trợ duyên của Phật, Bồ Tát đối với chúng ta.
Đời nay ta sống được bao lâu? Dù vất vả kinh doanh, khi có của cải ta hưởng được mấy năm? Nếu chúng ta đọc lịch sử Trung Quốc, quý vị xem vua chúa các thời đại, phước báo lớn nhất, có thể qua được hai mươi năm, được mấy người? Quá nữa không hơn hai mươi năm tại vị, họ hưởng hết, tại vị sáu mươi năm, là ghê gớm. Cho rằng thế nào? niềm vui ở phương Tây không bằng trên trời. Đọc kinh Phật, chúng ta quan sát bằng phương pháp khách quan, không bằng trên trời, trên trời thế nào? Ăn chơi khoái lạc, thế giới Cực lạc suốt ngày học hành, làm học sinh ở phương Tây. Phật A Di Đà suốt ngày giảng kinh, suốt ngày lên lớp, hình như không lúc nào ăn uống vui vẻ, không bằng. Họ không biết đến phước tu thiện, tuy được sinh lên trời, nhưng thọ mạng cõi trời có hạn. Tuy sống lâu, nhưng vẫn có thời hạn, thời hạn đến họ cũng phải chết, chết rồi lại quay lại luân hồi. Quý vị hưởng hết phước báo cõi trời, hết phước, sau khi chết đi, ác nghiệp liền hiện ra, ác báo cũng hiện ra. Sau khi đã chết ở cõi trời thì không có cách nào sinh trở lại đó, đoạ lạc xuống dưới, đấy là nỗi khổ. Bởi thế cái vui ở cõi trời không phải rốt ráo.
Tất cả pháp đều tự tánh biến hiện ra, tự tánh năng sinh, năng hiện, năng biến. Các pháp là tự sinh, sở hiện, sở biến, nói rất cụ thể, rất rõ ràng, phải hiểu, phải nhận thức đầy đủ, nếu chúng ta sửa tâm, vấn đề gì cũng được giải quyết. Vạn pháp duy tâm, nếu tâm tốt lành, tâm nếu tốt, đối nhân xử thế, một lòng chân thành, một mực yêu thương, việc gì cũng được giải quyết.
Là tham ăn. Điều này cũng nghiêm trọng, xã hội bây giờ chúng ta có thể thấy được, một buổi dạ tiệc, nghe nói một bàn ăn giá trị mấy mươi vạn. Tôi nghe nói như vậy cảm thấy giật mình. Quý vị nghĩ mà xem trên thế giới ngày nay, có bao nhiêu người cùng khổ, ba bữa không đủ ăn, tại sao có thể nhẫn tâm lãng phí như vậy! Một bàn ăn giá trị mấy mươi vạn, bằng sinh hoạt phí một năm của một gia đình bốn người, một bữa ăn quý vị thì đã ăn hết. Quý vị biết tội này nặng lắm không!
Chúng ta thấy Phật Thích Ca Mây Ni, cuộc sống một đời của ngài, ba y một bình bát, ngày ăn một bữa, nghĩ dưới gốc cây. Phật, không phải người khác, Phật là trí tuệ viên mãn, phước báu viên mãn, vì sao làm ngài như vậy, cách làm này của ngài gọi là “thay chúng sanh khổ”. Làm tấm gương để mọi người thấy, một chút đức Phật cũng không lãng phí, ngài biết tích phước.
Thế giới ngày nay người có phước báu lớn rất nhiều, nếu như lãng phí như vậy, phước báu của họ có thể hưởng được mấy năm? Họ có phước báu 100 năm, đại khái không đến 10 năm thì đã hưởng hết rồi, sau khi hưởng hết người xưa có câu: “lộc hết người chết”, tuy quý vị vẫn còn thọ mạng, nhưng phước báu của quý vị không còn, quý vị cũng sống không được. Sau khi chết rồi đi đến nơi nào? Tam đồ, địa ngục, sẽ đi đến nơi đó. Con người bây giờ không tin có tam đồ, địa ngục, không tin có lục đạo luân hồi, họ nói đây là mê tín. Đợi đến khi họ thấy được rồi, hối hận đâu kịp nữa. Làm sao có thể làm việc này chứ! Cho nên điều này nhất định phải bỏ hẳn. Các bạn đồng học Phật có thể dứt bỏ ăn thịt, bỏ ăn mặn, đây là việc tốt. Nhưng trong thức ăn chay nếu cũng thèm muốn, cũng phải nghiên cứu món này món nọ, thì cũng sai vậy, vẫn là hưởng phước. Cho nên thời xưa chùa chiền miều đường, bây giờ thay đổi rồi. Thời xưa chùa chiền miếu đường chỉ một món ăn, nồi thức ăn lớn, đỡ tốn thì giờ! Chùa chiền miếu đường ăn cơm nó có quy củ, một món mặn, một món canh. Người xưa tu phước không hưởng phước, đem sự hưởng phú hồi hướng về thế giới Cực Lạc, vãng sanh đến thế giới Cưc Lạc hưởng phước. Trước lúc chưa đến thế giới Cực Lạc nhất định không hưởng phước. Người bây giờ coi trọng việc hưởng phước trước mắt, có thể đến thế giới Cực Lạc hay không, đó là vấn đề lớn rồi. Cho nên nhất định phải biết, phải buông xả niệm tham, tham ăn cũng buông xả. Bủn xỉn tài pháp gọi là kiên. Kiên chúng ta nói là không xả được, mình có của cải mà không thể giúp người khác, mình hiểu được những pháp này không muốn truyền cho người khác, dạy người khác là thêm một đối thủ. Vì sao vậy? Vì sợ người khác vượt qua mình. Người khác vượt qua mình thì ganh ghét, mình dạy người khác thêm một đối thủ. Tâm như vậy là không tốt, đây hoàn toàn là tâm luân hồi, những việc họ làm là nghiệp luân hồi, tức là tâm mê tài và pháp không thể bố thí lợi người, không bằng lòng giúp đỡ người khác. Như vậy chúng ta biết được, đây không phải tâm Phật, đây không phải là tâm Bồ Tát.
Trung hối thông thường chúng ta gọi là gì? Là hối hận. Vì sao phải hối hận? Vì có tâm tham lam, lòng tham chưa buông xả, ganh ghét chưa buông xả. Cho nên vừa nghe xong, nhất thời phát tâm, làm việc tốt. Sau khi làm xong thì hối hận nói: hôm nay tôi bị lừa rồi, quý vị thấy vô duyên vô cớ mất đi nhiều tiền tài như vậy, lợi ích nằm ở đâu? Phát tài là lợi ích. Vô duyên vô cớ đem tiền tài này quyên tặng cho người khác, đối với tôi có lợi ích gì đâu? Đạt được là vinh dự, nó là giả vậy. Cho quý vị một giấy tờ khen, một trang giấy. Tự mình thật sự mất đi rất nhiều tiền tài, đây đều là tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi. Đối với thật tướng của các pháp đương nhiên không hiểu được. Chẳng những không hiểu được mà đối với chư Phật Bồ Tát cũng không có nhận thức, xem chư Phật Bồ Tát như thần thánh để đối đãi, loại người này thật quá nhiều quá nhiều. Những người này tin Phật gọi là mê tín, cho nên xung đột thường có, hoài nghĩ thường có, hối hận cũng thường có. Họ có phải thật sự tin Phật không? Không phải. Có phải thật sự là đệ tử Phật môn không? Không phải, họ là giả vậy. Đối với Phật giáo không biết gì, họ là mê tín, họ không phải chánh tín. Họ học Phật, cho rằng Phật là thần tiên có thể giúp họ thăng quan phát tài, cúng dường các ngài giống như đi hối lộ vậy. Ra điều kiện với Phật, ngài gia hộ tôi phát tài, phát một trăm vạn, tôi cúng dường một vạn cho ngài. Cho rằng Phật Bồ Tát cũng là tham quan, ngài sẽ nhần tiền hối lộ, tạo tội nghiệp. Không học Phật còn tốt, học Phật rồi thì đi vào địa ngục, người niệm Phật nếu không hiểu rõ những đạo lí này, quả báo cũng là địa ngục.
Thời đại Càn Long tiền Thanh, Từ Vân Quán Đảnh pháp sư có một quyển sách tựa đề là: Đại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông Chương Sớ Sao. Tôi lúc trước giảng Viên Thông Chương đã lựa chọn Sớ Sao của ngài. Tổng kết sau cùng của Sớ Sao, niệm Phật có một trăm loại quả báo, đều là người niệm Phật nhưng quả báo không giống nhau, một trăm loại quả báo. Tôi tin rằng một trăm không phải là chữ số, mà đưa ra một trăm ví dụ, quả báo quá nhiều rồi, không giống nhau.
Quả báo thứ nhất chính là A Tỳ địa ngục, lúc đó, lúc trẻ tuổi tôi thấy được cái này rất kinh ngạc. Niệm Phật là việc tốt, tại sao lại đọa vào Vô Gián địa ngục? Tôi đem quyển sách này đi hỏi thầy giáo- Lý Bính Nam lão cư sĩ. Ông vừa xem đến vấn đề này, đây là vấn đề lớn, đây không phải vấn đề nhỏ, ta không nói với một mình ông. Ta muốn lúc giảng kinh nói cho mọi người. Giống như những người có tâm này để niệm Phật, đều vào A Tỳ địa ngục. Tôi hỏi vì sao? Vì quý vị cho xã hội đại chúng một sai lầm nghiêm trong, cho rằng người học Phật là như vậy, khiến mọi người hủy báng Phật pháp, hoài nghi Phật pháp, không còn tin tưởng Phật pháp, đoạn mất pháp thân tuệ mạng của người. Cái tội này nên đọa vào A Tỳ địa ngục hay không? Nên, không sai chút nào.
Học Phật cầu sanh Tịnh độ, trước nên làm người tốt, con người còn chưa làm tốt, nói cho quý vị biết, không thể vãng sanh đâu. Vì sao vậy? Nếu như quý vị còn mang tập khí phiền não của nhân gian đến thế giới Cực Lạc, quý vị sẽ phá hoại không khí của thế giới Cực Lạc. Phật A Di Đà rất từ bi, cho dù ngài đến đưa quý vị đi, đại chúng của thế giới Cực Lạc không đồng ý, họ không mong muốn có người phá hoại môi trường của họ. A Di Đà Phật cũng nên suy nghĩ đến đại chúng, việc mà đại chúng không bằng lòng làm, Phật sẽ không làm. Cho nên Phật đến tiếp dẫn quý vị hay không, quan trọng là ở chính quý vị, điều kiện của quý vị có đầy đủ hay không, tín nguyện hành tất cả đầy đủ. Tập khí phiền não chưa đoạn Phật sẽ không đến. Nói cách khác, công phu niệm Phật của quý vị ít nhất phải có thể không chế được tập khí phiền não, đây gọi là đới nghiệp vãng sanh. Khống chế thế nào? Không cho phát tác. Không phải không có, tham sân si mạn đều có, nhưng câu Phật hiệu này đè xuống được, đây là công phu bình thường của chúng ta. Dụng công lúc nào? Lúc phiền não này khởi lên, thì lập tức khống chế nó lại. Cổ đức dạy chúng ta: “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Tâm tham trổi dậy, ý nghĩa này trỗi dậy, A Di Đà Phật, ý nghĩ thứ hai chính là A Di Đà Phật, đè nén nó lại. Tâm sân nhuế trỗi dậy, A Di Đà Phật, đè nén rồi. Hết thảy ý niệm thiện hay bất thiện trỗi dậy, tất cả đều một câu A Di Đà Phật đè nén hết. Đây gọi là gì? Gọi là công phu đắc lực. Vẫn còn hiện hành, như thế là sao? Là công phu của quý vị không đắc lực. Quý vị đã niệm Phật rồi, niệm Phật không tác dụng. Niệm Phật của quý vị không phục được phiền não. Nói cách khác, quý vị vẫn nhiều vọng niệm như vậy, quý vị chưa giảm bớt, tâm quý vị không thanh tịnh.
Công phu niệm Phật đoan chánh ở thân tâm thanh tịnh, tâm địa ngày càng thanh tịnh, năm nay thanh tịnh hơn năm trước, năm trước thanh tịnh hơn năm trước nữa, mỗi năm càng thanh tịnh hơn, cảnh giới tốt. Từ ở đâu mà thấy được? Năm nay so với năm sau phiền não ít, phiền não đã nhẹ, mỗi năm một nhẹ hơn. Thực sự có thể nâng cao đến tháng này nhẹ hơn tháng trước, quý vị chắc chắn được sanh, quý vị không có vấn đề gì nữa. Nếu như cảnh giới trước mắt còn phát tác, ở trong thuận cảnh có tâm tham, ở trong ngịch cảnh có tâm sân nhuế, lại còn khởi lên ý niệm, thì công phu niệm Phật không đắc lực. Ở trong cuộc sống hàng ngày, đối nhân xử thế tiếp vật, mỗi thời mỗi khắc đều kiểm tra công phu của chúng ta. Cho nên có thể vãng sanh hay không, có thể nắm bắt vãng sanh hay không, không cần hỏi người khác, mà quý vị tự hỏi chính mình, rất rõ ràng, rất tường tận, chúng ta có thể vãng sanh Tịnh độ hay không? Tự mình rõ ràng nhất. Đối với thế gian này thực sự không còn tham luyến.