9- Thanh Liên Tông Cửu Tổ Bắc Thiên Mục Linh Phong Trí Húc Đại sư
Trí Húc Đại sư tự Ngẫu Ích, người đời Thanh, họ Chung, nhà ở Ngô huyện. Thân phụ trọ trì chú Đại Bi và Bạch Y, mộng thấy đức Quán Âm đại sĩ trao cho một đứa bé trai mà sanh ra ngài. Thuở niên thiếu ngài học Nho, từng viết sách bác Phật. Sau nhân xem bộ Trúc Song Tùy Bút của Liên Trì Đại Sư, liền đốt quyển sách của mình viết. Năm hai mươi tuổi, ngài đọc kinh Địa Tạng Bản Nguyện phát ý xuất trần, mỗi ngày hằng niệm Phật. Niên hiệu Thiên Khải năm đầu, ngài hai mươi bốn tuổi, sau khi nghe một pháp sư giảng kinh, bỗng phát nghi tình, dụng công tham cứu.
Ít lâu sau, được tỏ ngộ, liền đóng cửa nhập thất ở Ngô Giang. Thời kỳ ấy ngài đau nặng, mới quyết chí niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Bịnh vừa bớt, liền kết đàn trì chú Vãng sanh một thất, đốt ba liều nơi cánh tay, thề phát lòng bồ đề cầu sanh Cực Lạc, để mau chứng đạo qủa, sớm độ chúng hữu tình. Về sau, Đại sư trụ trì trải qua các nơi: Ôn Lăng, Chương Châu, Thạch Thành, Thánh Khê, Trường Thủy và Tân An, rộng truyền giáo pháp Thiên Thai và môn niệm Phật. Thời bấy giờ, những ta tu thiền ở các nơi, phần đông cho pháp môn Tịnh độ là quyền giáo; khi gặp người niệm Phật, tất bảo tham cứu chữ Thùy. Riêng Đại sư lại nhận định pháp Trì danh chính là tâm tông viên đốn. Có ông Trác Tả Xa, một nhà tu thiền, đem những huyền lý bên Thiền gạn hỏi Tịnh độ, ngài liền trả lời một cách thỏa đáng.
Sau đó, Đại sư về dưỡng lão ở Linh Phong. Bình thời, Đại sư từng khai thị rằng: Pháp môn Tịnh Độ không chi chi lạ kỳ đặc biệt, yếu điểm chỉ là tin sâu, nguyện thiết và gắng sức thật hành mà thôi. Phật dạy: “Nếu người nào chuyên niệm A Di Đà, chính là Vô thượng thâm diệu thiền”. Trí Giả đại sư bảo: “Niệm Phật tam muội là vua trong các môn tam muội”. Tổ Vân Thê cũng nói: “Một câu A Di Đà Phật bao trùm tám giáo, tròn nhiếp năm tông”. Đáng tiếc người thời nay xem niệm Phật là cạn cợt tầm thường, bảo đó là là công hạnh của hạng ngu phu, ngu phụ. Bởi thế nên lòng tin không chắc, chẳng gắng sức thật hành, trọn ngày lơ là, công phu khó thành tựu. Có kẻ lại lập phương tiện khéo bảo:”Muốn đi sâu vào niệm Phật tam muội phải tham cứu chữ Thùy”. Họ đâu biết rằng: Một tâm niệm hiện tiền, vốn đã tự rời tứ cú, tuyệt bách phi, chẳng cần phải tác ý rời và tuyệt.
Một câu niệm Phật là hiện tại, cũng vốn vưọt tình lìa kiến, cần chi nói diệu nói huyền? Chỉ quí tin cho chắc, giữ cho vững, rời buông bỏ hết mà niệm. Hoặc mỗi ngày đêm niệm một muôn, hai muôn, năm muôn, bảy muôn, mười muôn câu lấy sự nhất định không thiếu làm tiêu chuẩn. Như thế quyết giữ đến trọn đời, thề không biến đổi. Và nếu đúng như thế mà không được vãng sanh, thì chư Phật trong ba đời đều thành vọng ngữ. Một khi được về Cực Lạc, vĩnh viễn không còn thối chuyển, tất cả pháp môn đều lần lượt hiện tiền. Rất kiêng kỵ kẻ không có chủ trương, nay vầy mai khác. Khi gặp nhà thuyết giáo, thì muốn tầm chương trích cú, học luật học kinh. Gặp người tu thiền lại mong tham cứu thoại đầu, theo cơ phong chuyến ngữ. Gặp bậc trì luật, ưa thích ôm bát khất thực, tu hạnh đầu đà. Thế nên sự sự không rồi, điều điều chẳng trọn.
Đâu biết rằng khi câu Phật hiệu niệm được thuần thục, thì ba tạng, mười hai phần kinh gồm ở trong đó; một ngàn bảy trăm công án, cơ quan hướng thượng đều ở trong đó; ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, tam tụ tịnh giới cũng ở trong đó. Người chân thật niệm Phật, buông bỏ cả thân tâm thế giới là đại bố thí. Niệm Phật không khởi tham sân si là đại trì giới. Niệm Phật không quản nhân ngã thị phi là đại nhẫn nhục. Niệm Phật không gián đọan, không tạp vọng là đại tinh tấn. Niệm Phật không còn vọng tưởng thô tế là đại thiền định. Niệm Phật không bị các pháp khác mê hoặc là đại trí huệ. Thử kiểm điểm lấy mình, nếu chưa quên thân tâm thế giới, chưa dứt niệm tham sân si, chưa tuyệt lòng thị phi nhân ngã, chưa hết gián đoạn tạp vọng, chưa trừ vọng tưởng bông lông, chưa khỏi bị pháp khác cuốn lôi mê hoặc, thì chưa phải là người chân thật niệm Phật. Nếu muốn đến cảnh giới nhất tâm bất loạn, cũng không có cách gì lạ. Khi mới tập niệm, dùng chuỗi ký số rành rẽ, và khắc định thời khóa đừng để cho thiếu sót. Như thế lâu ngày, công phu tụ thuần thục, không niệm mà vẫn tự niệm.
Chừng đó, muốn ký số hay không ký số cũng được. Nếu bước đầu, vội vàng lộ vẻ mình hay giỏi, muốn tỏ ra không trước tướng, muốn học hỏi lối viên dung tự tại, rốt niệm lực khó thành. Đây tổng yếu bởi tin chưa sâu, thực chành chưa hết sức. Người như thế, dù cho giảng thông thuộc ba tạng mười hai phần kinh, thấu suốt một ngàn bảy trăm công án, cũng đều là việc bên bờ sống chết luân hồi mà thôi. Kẻ ấy đến lúc lâm chung, quyết định không dùng chi được….! Năm Thuận Trị thứ hai, vào cuối Đông, Đại sư cảm bịnh nhẹ, ngài di chúc mọi việc và dặn các đệ tử, sau khi trà tỳ, phải tán nhuyễn xương trộn với bột hòa thành viên, chia thí cho loài cá chim để kết duyên Tịnh độ với chúng. Sang đầu năm, ngày 21 tháng giêng, Đại sư sáng dậy sớm, sắc diện tươi khỏe như người không bịnh. Đến đúng ngọ, ngài đoan tọa trên giường, xây mặt về Tây chấp tay niệm Phật mà tịch, thọ được 57 tuổi. Ba năm sau, các môn nhân hội lại, định y pháp làm lễ trà tỳ. Lúc mở bảo tháp ra thấy toàn thân đại sư vẫn còn nguyên vẹn, tóc ra dài phủ hai tai, sắc mặc tươi tỉnh như sống. Đại chúng không nỡ tuân lời di chúc, xây tháp thờ toàn thân ở chùa Linh Phong.
Thanh Liên Tông Cửu Tổ Bắc Thiên Mục Linh Phong Trí Húc Đại sư
Tri Húc Đại sư, người Ngô Huyện, họ Chung tự Ngẫu Ích.
Thân phụ thọ trì chú Đại Bi, nằm mộng thấy Quan Thế Âm Bồ Tát trao
cho một đứa trẻ trai, mà sanh ra ngài.
Thuở thiếu niên ngài học Nho, từng viết sách bác Phật. Sau khi được đọc
bộ “Trúc Song Tùy Bút” của Liên Trì Đại sư, ngài liền đốt quyển sách bác
Phật. Năm 20 tuổi, ngài đọc Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, phát tâm xuất thế,
mỗi ngày niệm Phật.
Năm Thiên Khải thứ nhứt, tuổi hai mươi bốn, sau khi nghe một Pháp sư
giảng Kinh, ngài sanh nghi tình, mới dụng tâm tham cứu. Ít lúc sau, được tỏ
ngộ, ngài bèn đóng cửa thất ở Ngô Giang. Xảy mang bệnh nặng, khi ngọa
bệnh, ngài nhứt tâm cầu sanh Tịnh Độ. Bệnh bớt, ngài kết đàn trì chú vãng
sanh.
Ngài làm kệ phát nguyện:
Cúi lạy A Di Đà
Thần chú dứt gốc nghiệp
Cùng Quan Âm, Thế Chí
Hải chúng Bồ Tát Tăng
Con mê bổn trí quang
Vọng đọa luân hồi khổ
Nhiều kiếp không tạm ngừng
Không được cứu được nương
Nay được thân là người
Vẫn nhằm đời trược loạn
Dầu lại dự Tăng luân
Mà chưa nhận pháp lưu
Mục kích chánh pháp suy
Muốn chống, sức chưa đủ
Chỉ vì từ đời trước
Chẳng tu thắng thiện căn
Nay tâm con quyết định
Cầu sanh Cực Lạc quốc
Rồi ngồi thuyền bổn nguyện
Nếu con không vãng sanh
Thật khó toại bổn nguyện
Vì vậy với Ta Bà
Quyết định phải thoát lìa
Cũng như người bị trôi
Trước cầu mau đến bờ
Sau rồi tìm phương thế
Ra vớt người giữa dòng
Nay con chí thành tâm
Thâm tâm, hồi hướng tâm
Đốt cánh tay ba liều
Kết tịnh đàn một thất
Chuyên trì chú vãng sanh
Chỉ trừ giờ ăn ngủ
Đem công đức tu này
Cầu quyết sanh Cực Lạc
Nếu con thoái bổn nguyện
Quên tưởng về Tây phương
Thì liền đọa địa ngục
Để mau biết ăn năn
Thề chẳng luyến nhơn, thiên
Cùng vô vi Niết-bàn
Ngưỡng nguyện Phật oai thần
Lực, vô úy, bất cộng
Tam bảo đức vô biên
Gia bị Tri Húc này
Chiết phục khiến bất thoái
Nhiếp thọ cho tăng trưởng.
Về sau, Đại sư rộng truyền giáo pháp Thiên Thai ở các nơi: Ôn Lăng,
Chương Châu, Thạch Thành, Thành Khê, Trường Thủy và Tân An, rồi về
dưỡng lão ở Linh Phong.
Đương thời, những nhà tu Thiền các nơi, phần đông cho pháp môn Tịnh
độ là quyền giáo, phàm gặp người niệm Phật, ắt bảo tham cứu chữ “Thùy
(ai)?”. Riêng mình Đại sư cho rằng: Trì hồng danh chính là “tâm tông
viên đốn”.
Ông Trác Tả Xa, một nhà tu thiền, gạn: “Thế nào là “hướng thượng nhứt
lộ” của môn niệm Phật? Thế nào là rời tứ cú, tuyệt bách phi? Cực tắc rốt sau
cả của người niệm Phật là gì? Gì là một dùi sau ót của kẻ hào hoa hư ngụy?
Trông mong Hòa thượng dẹp duy tâm Tịnh độ, tự tánh Di Đà qua một
bên. Thân kiến Như Lai cảnh giới nói mau một phen, để chấn động Đại thiên
thế giới”.
Đại sư đáp: “Hướng thượng nhứt trước” chẳng phải là Thiền chẳng phải
Tịnh. Vừa nói đến tham cứu, đã là quyền tạm vì kẻ hạ căn rồi. Nếu quả thiệt
bậc đại trượng phu tự nên tin chắc “thị tâm tác Phật, thị tâm thị Phật”.
Nếu có một niệm cách với Phật thời chẳng đặng gọi là “niệm Phật Tam
muội”. Nếu niệm niệm không trở cách với Phật, thời cần gì gạn hỏi là “ai?”.
Còn Cực tắc của môn Tịnh độ là: không có Phật ngoài niệm làm sở
niệm của niệm, cũng không có niệm ngoài Phật năng niệm nơi
Phật. Chính lúc hạ thủ, toàn thân lấn vào rời tứ cú tuyệt bách phi.
Chỉ thấy được quang minh của Đức A Di Đà Phật, chính là thấy
thập phương vô lượng chư Phật. Chỉ sanh về Cực Lạc Tây phương,
chính là sanh khắp vô lượng Tịnh Độ, đây là “hướng thượng nhứt lộ” của
môn niệm Phật.
Nếu bỏ A Di Đà hiện tiền mà đi nói tự tánh Di Đà, bỏ Tây phương Cực
Lạc mà đi nói duy tâm Tịnh độ, đó là “hào hoa hư ngụy”.
Kinh dạy: “Tam Hiền, Thập Thánh còn ở quả báo, chỉ một mình Phật là
thật ở Tịnh độ”, lời này là “một dùi sau ót đấy”.
Chỉ tin chắc được môn niệm Phật này, rồi nương tín khởi nguyện,
nương nguyện khởi hạnh, thời niệm niệm lưu xuất vô lượng Như Lai, ngồi
khắp vô lượng thế giới ở mười phương mà chuyển đại pháp luân, chiếu xưa
suốt nay, chẳng phải là việc ngoài phần mình, há lại chỉ chấn động Đại thiên
thế giới mà thôi ư?”
Đại sư từng dạy rằng: “Pháp môn niệm Phật không có gì lạ lùng cả, chỉ
tin chắc rồi cố sức thực hành thôi”.
Phật dạy: “Nếu người nào niệm một Đức Phật A Di Đà, đây gọi là
“Vô Thượng Thâm Diệu Thiền”.Tổ Thiên Thai bảo: “Bốn môn Tam
muội đồng tên niệm Phật. Niệm Phật Tam muội là vua trong các môn
Tam muội”.
Tổ Vân Thê nói: “Một câu A Di Đà Phật gồm hết tám giáo, nhiếp cả
năm tông”.
Đáng tiếc người thời nay xem niệm Phật là việc tầm thường cho là công
phu của hàng ngu phu ngu phụ. Do đó mà lòng tin không chắc, không cố sức
thực hành, trọn ngày lơ lơ nên rồi tịnh nghiệp không thành.
Phải biết rằng một niệm hiện tiền đây vốn tự rời tứ cú tuyệt bách phi,
chẳng cần tác ý rời tuyệt. Chính hiện tiền một câu Phật đương niệm đó cũng
vốn siêu tình ly kiến, nhọc gì nói diệu nói huyền. Chỉ quý là tin cho chắc,
giữ cho vững, rồi niệm đi. Hoặc ngày đêm mười vạn câu, bảy vạn câu, hoặc
năm vạn, ba vạn, phải quyết định chẳng cho thiếu, thề trọn đời không biến
đổi. Đúng như vậy mà không được vãng sanh Tịnh độ thời tam thế chư Phật
là vọng ngữ. Được vãng sanh rồi thời trụ bậc bất thoái, tất cả pháp môn đều
lần lượt hiện tiền.
Rất kỵ này vầy mai khác. Gặp người nghĩa học thời muốn học văn luận,
gặp nhà tu thiền lại mong tham mong cứu, gặp người trì luật thời mộ khất
thực trì bát... Như vậy thì ắt không rồi việc gì, trong tâm lăng xăng đủ sự.
Chẳng ngờ: niệm A Di Đà Phật đặng thành thục, thời Tam tạng giáo lý
gồm trong đó; một nghìn bảy trăm công án cơ quan hướng thượng cũng ở
trong đó; ba nghìn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tam tụ tịnh giới cũng không ra
ngoài câu Phật.
Người chơn thật niệm Phật: trong thì quên thân, ngoài quên cảnh, đó
là “đại bố thí”; không sanh lòng tham, sân, si là “đại trì giới”; chẳng chấp
thị phi nhơn ngã là “đại nhẫn nhục”; niệm Phật không gián đoạn là “đại
tinh tấn”; vọng tưởng không móng khởi là “đại thiền định”; không bị sự
khác và pháp khác làm mê lầm là “đại trí huệ”.
Thử kiểm điểm lấy mình, nếu chưa quên được thân tâm thế giới, còn
tham, sân, si, còn thị phi nhơn ngã, còn gián đoạn, còn vọng tưởng tạp niệm,
còn bị việc khác môn khác lôi kéo, thời chưa phải là “chơn thật niệm
Phật”.
Muốn đến cảnh giới nhứt tâm bất loạn cũng không phải là có phương
cách gì khác lạ, lúc mới tập niệm phải dùng xâu chuỗi ghi số rành rẽ định
chắc thời khóa quyết định không thiếu.
Lâu lâu thuần thục, không niệm mà vẫn tự niệm, bấy giờ ghi số hay
không ghi số, đều đặng. Nếu ban đầu vội muốn viên dung tự tại, muốn vô
tướng, thời ắt niệm lực khó thành; đây là vì tin không chắc nên thực hành
không cố gắng.
Tha hồ cho ai giảng suốt mười hai phần giáo, Tam tạng Kinh điển, cùng
thấu cả nghìn trăm công án cũng chỉ là việc bên bờ sanh tử mà thôi. Đến
phút lâm chung quyết định dùng không đặng 27.
Năm Thuận Trị thứ 11, nhà Thanh, mùa Đông, Đại sư có bệnh. Ngài dặn
các đệ tử: sau khi trà tỳ, tán xương trộn bột chia thí cho cá chim để kết
duyên Tịnh độ với chúng nó.
Sang năm, ngày 21 tháng Giêng, Đại sư sáng sớm dậy, khỏe khoắn tươi
tỉnh như không bệnh. Đến giờ ngọ, Đại sư ngồi kiết già trên giường, xoay
mặt về hướng Tây chắp tay mà tịch, thọ 57 tuổi.
Sau khi Đại sư tịch ba năm, các môn nhơn hội lại định y pháp trà tỳ. Lúc
mở nắp khánh, thời thấy toàn thân của Đại sư vẫn nguyên vẹn, tóc ra dài phủ
mép tai, sắc mặt như sống.
Đại chúng không nỡ tuân lời của Đại sư dặn, mới xây tháp thờ ở Linh
Phong.
Dưới đây là một nhà Sư cận đại sa vào chỗ hại của các Tổ đã răn dạy, trích
ở “Ấn Quang Văn Sao”
---o0o---
SƯ NGỘ KHAI
Sư Ngộ Khai, một pháp hữu của Ấn Quang Đại sư, vốn là người có căn
trí, song tánh Sư cao vọng và háo thắng. Ban sơ, Sư tham cứu Thiền tông,
khinh thường Tịnh độ. Ít lúc sau, nhờ Thông Trí Pháp sư khai thị, Sư lần để
tâm nơi Tịnh độ. Dầu Sư đã có lòng tin Pháp môn Tịnh độ, song hành trì
không chuyên, tâm cao vọng không bớt, Ấn Quang Đại sư từng khuyên
nhắc: nên thấp mình chuyên tu. Nhưng vẫn không thể vãn hồi tâm chấp định
của Sư.
Sau một thời gian đó đây giảng diễn, Sư mang bệnh bèn trở về Phổ Đà.
Vừa về đến núi, cùng sư huynh là Sư Nguyên Thông chuyện vãn thăm nom.
Hàn huyên chưa dứt, Sư đã mệt mỏi chẳng nói ra lời. Sau giờ ngọ ngày kế
thì Sư mất. Trọn không có chút điềm lành, cũng không một điểm tốt nào đủ
chứng nghiệm là vãng sanh hay giải thoát cả.
Ôi! Câu: “Nghìn người khó có một giải thoát”, lời của Nhị Tổ và câu:
“Chỉ là việc sanh tử, đến lúc lâm chung trọn dùng không được”, lời của Cửu
Tổ, phải chăng là những nhát búa cho hạng tạp hạnh, phải chăng là những
tiếng sấm bên tai các bậc tài trí!
Mặc Am Đại sư, một đại Thiền sư và cũng là một đại Giảng sư triều
Thanh, lúc lâm chung hỏi đại chúng rằng: “Thế nào gọi là giải thoát?”. Không
ai đáp được, Đại sư cười bảo: “Chẳng chi bằng bắt chước ông lão mụ già ăn
chay, niệm Phật già dặn là được”.
智旭大師(回頂端)
智旭,(1599~1655)明代僧。吳縣(江蘇)木瀆人,俗姓鍾,名際明。字蕅益。號八不道人。少習儒學,以衛道為職事,曾撰闢佛論數十篇。十七歲時,因讀蓮池祩宏之自知錄及竹窗隨筆,始悟己非,取所著闢佛論燒毀。二十歲時誦地藏本願經,發出世之志。二十三歲發四十八願,自名大朗優婆塞;以聽講大佛頂首楞嚴經,對何故有大覺、何以生起虛空和世界等問題生疑,遂決意出家,體究大事。二十四歲從憨山弟子雪嶺剃度,改名智旭。夏秋之間,於雲棲寺聽講唯識論,疑與佛頂經之宗旨相矛盾,叩問之,得「性相二宗不許和會」之答,師猶不解其意,遂往徑山坐禪,豁然而悟性相二宗本無矛盾衝突。二十六歲受菩薩戒,翌年遍閱律藏。偶罹病將危,乃專意求生淨土。三十歲時,依道友雪航之請,於龍居寺講律,後至金陵,深切體察宗門之流弊,自此決意弘律。三十二歲,欲注梵網經,作四鬮於佛前,拈得天台宗之鬮,乃詳究天台教理。翌年,入浙江孝豐靈峰寺,其後歷住九華、溫陵、石城、晟谿、新安等地,弘揚台教,注釋經論。年五十六,於靈峰臥病,撰西齋淨土詩,另贊補九部之書,名為淨土十要。病癒後,撰著閱藏知津、法海觀瀾二書。十月病再發,口授遺囑,並製求生淨土偈。清順治十二年一月,趺坐繩床,舉手向西示寂,世壽五十七,法臘三十四。
師為人嚴峻精到,厭棄名利,固持戒品,弘揚律藏,生平以閱藏著述為業。綜學法相、禪、律、華嚴、天台、淨土諸宗教義,尤重天台宗,並主張佛、道、儒三教一致。除佛教諸宗外,亦研究儒教及基督教,其著作範圍甚為廣泛。其禪法係承繼延壽、梵琦、真可之文字禪,而會歸於天台教觀。於天台教義亦有獨到之見解,在教判方面,安立貫通前後之五時說,於教理主張性具善惡與色心雙具、理事兩重三千,於觀法則沿用山家派之妄心觀。於律學方面,注重戒律實踐。其禪、教、律學,終皆指歸淨土,主張禪淨合一。並鑑於當時佛教中門戶分歧之流弊,故力求諸宗調和,主張禪、教、律三學統一。其思想之總結為三學攝歸一念,以念佛總攝釋迦一代時教。清代以後,台家講教多以師之經論經疏為依據,形成「融合禪、教、律而歸入淨土」之靈峰派,延續至今。
師示寂後,弟子成時私諡「始日大師」之號。世稱靈峰蕅益大師,後人奉為淨土宗第九祖。與憨山、紫柏、蓮池並稱為明代四大高僧。弟子另有照南、靈晟、性旦、等慈等。
Trích ở bộ “Linh Phong Tông Luận”