Việc siêu độ trong nhà Phật có lý luận của nó. Điều này ở trước chúng tôi đã nói rất nhiều lần, bây giờ nhắc lại cho mọi người nhớ, tôi tin rằng ấn tượng vẫn còn rất sâu sắc, đều là nhờ nhân niệm Phật từ kiếp trước, đến phút lâm chung đã thành thục rồi, nên mới có quả báo thù thắng như vậy. Sự việc này chẳng thể không biết. Lúc lâm chung họ có đủ ba điều kiện, mới được thù thắng như vậy. Nếu thiếu đi một trong ba điều kiện này, thì không thể vãng sanh.
Điều kiện thứ nhất là gặp được thiện hữu. Điều kiện thứ hai là trí óc minh mẫn, không mê mờ. Chúng ta quan sát thật kỹ, khi lâm chung có mấy người được trí óc minh mẫn? Có rất nhiều rất nhiều người khi bệnh nặng lâm chung, ngay cả người nhà cũng không nhận ra, việc này là phiền phức rồi. Hiện nay gọi đó là chứng mất trí của người già, có chứng bệnh này là vô cùng khó khăn, trợ niệm cũng không dễ gì được vãng sanh. Vì sao vậy? Vì họ không biết niệm Phật theo, họ không biết quý vị niệm cái gì. Quý vị thấy trí óc minh mẫn, quan trọng đến mức nào.
Điều kiện thứ ba là, nghe thiện tri thức khai thị lập tức tiếp nhận, liền tin tưởng không nghi ngờ, y giáo phụng hành mới thành công được.
Ngày xưa khi tôi mới học Phật, thầy Lý rất coi trọng sự việc này, thầy thường nhắc nhở chúng tôi, không được hẹn, bây giờ tôi chưa niệm Phật, khi lâm chung niệm vẫn còn niệm kịp. Khi lâm chung quý vị có đủ ba điều kiện này không? Quý vị có thể nắm chắc điều này không? Một vạn người, trong một vạn người, chẳng có ai nắm chắc được cả. Nghĩ đến đây, thì bây giờ chúng ta siêng năng hàng ngày là quan trọng nhất. Quý vị tuyệt đối không được dựa vào sự may mắn, muốn được thành tựu, thì điều này không đáng để tin cậy.
Nếu không hiểu lý luận, cứ tưởng là niệm vài cuốn kinh thì có thể siêu độ, đâu có chuyện dễ dàng như vậy! Có nhiều người tạo tội nghiệp trong thế gian, đến phút cuối tự mình cũng lo sợ, đi kiếm vài vị pháp sư đến tụng kinh, tiêu tai, cầu siêu. Siêu độ chẳng nổi! Chẳng có hiệu quả.
Bổn kinh này dạy phương pháp tu hành cho chúng ta, chính là nhất tâm chuyên niệm Phật A Di Đà. Nếu chúng ta thật sự nghe hiểu, là đã giác ngộ rồi đó. Hết thảy nhân, sự, vật trong thế gian này, càng đạm bạc càng tốt. Thật sự phát lòng từ bi, muốn độ những chúng sanh khổ nạn này, chúng ta có duyên thì nên làm. Không phải bảo quý vị đừng làm, nếu không có duyên thì đừng nên phan duyên. Việc độ chúng sanh, đợi sau khi đến thế giới Cực Lạc thành tựu viên mãn rồi hãy làm. Nghĩ như vậy là đúng.
Trong cuộc đời được thành tựu viên mãn là việc lớn, không gì lớn hơn. Nói cách khác, người chưa thành Phật, thì thành Phật là việc cần thiết, còn độ chúng sanh chưa gấp gáp. Vì sao vậy? Vì người chưa thành Phật, thật sự mà nói, họ cũng không độ được chúng sanh. Chỉ sau khi quý vị thành Phật rồi, quý vị mới độ được chúng sanh. Quan niệm này vô cùng quan trọng. Phật, Bồ Tát và chư vị tổ sư dạy chúng ta, mỗi lời của họ đều là lời chân thật.
Đại sư Ngẫu Ích từ bi, Ngài hy vọng mỗi người chúng ta, được thành tựu trong đời này. Hiện tiền một câu A Di Đà Phật của chúng ta, hoặc là Nam Mô A Di Đà Phật cũng được, sáu chữ hay bốn chữ đều giống nhau. Một câu danh hiệu Phật này vốn là siêu tình ly kiến. “Tình” là gì? là luân hồi lục đạo. Nhân của luân hồi lục đạo chính là chữ tình, không đoạn tình chấp thì không thể thoát khỏi lục đạo. “Kiến” là gì? là pháp giới tứ Thánh. Họ cao hơn chúng ta, họ không có tình cũng không có kiến. Kiến là phân biệt, tình là chấp trước. Kiến giải này mọi người rất dễ hiểu.
Câu danh hiệu Phật này, trong lục đạo không có. Trong mười pháp giới cũng không có, nên gọi là siêu tình ly kiến. Sự cảm ứng của câu danh hiệu Phật này là ở thế giới Tây phương Cực Lạc. Người niệm Phật đều vãng sanh về thế giới Cực Lạc, không tương ưng với những thế giới khác. “Hà lao thuyết diệu thuyết huyền”. Câu “thuyết diệu thuyết huyền” này nghĩa là gì? Nghiên cứu kinh điển, nghiên cứu kinh điển tức là “thuyết diệu thuyết huyền”. Đại sư Ngẫu Ích nói câu này, là chúng ta hiểu rõ rồi.
Người chân chánh niệm Phật, một lòng quy y Phật A Di Đà, một phương hướng là cầu sanh Tịnh Độ, một mục tiêu là thân cân Phật A Di Đà, thì không cần kinh điển nữa. Vì sao vậy? Vì kinh giáo không còn kịp nữa. Nghiên cứu kinh điển là hiểu được một chút đạo lý, nhưng không thể vãng sanh. Không nghiên cứu kinh điển thì chẳng hiểu gì cả, nhưng họ có thể đến thế giới Cực Lạc. Đến thế giới Cực Lạc rồi thì điều gì họ cũng biết.
Chúng ta có đời quá khứ, có đời vị lai. Đời này khổ sở một chút, đời sau tốt đẹp. Nếu đời này hưởng hết phước, đời sau chịu khổ. Người tin theo nhân quả sẽ nói là “phong thủy luân lưu xoay chuyển”. Vì lẽ đó, chúng ta chẳng hâm mộ kẻ phú quý, vì sao? Trong quá khứ, người đó tu nhân lành, nay người ấy phải được phú quý. Đời quá khứ, chúng ta chẳng tu nhân lành, đời này phải sống khổ sở một chút. Hiểu rõ đạo lý này, tuy cuộc sống của chúng ta thanh bần, ta tu nhiều thiện nhân, tu thiện nhân rất siêng năng, vận mạng của ta bèn chuyển biến ngay trong đời này! Tuổi trẻ chịu khổ một chút, tuổi già hưởng phước, đời sau tốt đẹp hơn. Người hiểu rõ đạo lý này, trong xã hội sẽ chẳng cạnh tranh cùng kẻ khác. Cạnh tranh là phiền não, là tạo nghiệp. Vì thế, cổ nhân biết: “Cả đời đều là mạng, chẳng do người nửa phần”, quý vị tranh chẳng được! Nếu thật sự có thể tranh được, Khổng Tử cũng tham gia cạnh tranh! Vì sao Khổng Tử chẳng tranh giành? Khổng Tử biết là tranh chẳng được. “Trong mạng đã có thì rốt cuộc sẽ có, trong mạng chẳng có, chớ cưỡng cầu”, cầu chẳng được! Đối với chuyện tu nhân, đức Phật đã giảng đạo lý này, chúng ta phải hiểu rõ. Nhà Phật dùng phương pháp gì để tu nhân? Dùng bố thí. Chúng ta hy vọng phát tài, hãy tu tài bố thí. Hy vọng được thông minh, trí huệ, hãy tu pháp bố thí. Hy vọng khỏe mạnh, sống lâu, hãy tu vô úy bố thí; đức Phật dạy chúng ta những điều ấy. Vì thế, “trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Đức Phật dạy quý vị phương pháp và đạo lý, bản thân quý vị nương theo đạo lý ấy để tu học, quả báo bèn hiện tiền. Phát tài, thông minh, trí huệ, khỏe mạnh, sống lâu, có phải là do Phật, Bồ Tát ban cho quý vị hay không? Chẳng phải! Phật, Bồ Tát ban cho quý vị lý luận, phương pháp, quý vị tự cầu nhiều phước. Chớ nên không biết điều này!
Như trong Từ Bi Tam Muội Thủy Sám có nói quốc sư Ngộ Đạt có duyên phận đặc biệt với một vị A La Hán là tôn giả Ca Nặc Ca. Vị A La Hán ấy biết trong tương lai Sư sẽ gặp chuyện không may, sẽ gặp tai nạn lớn, Ngài sẽ giúp Sư hóa giải tai nạn ấy. Vì thế, Ngài biến hóa thành một gã ăn mày, lại còn là một gã ăn mày bệnh tật rất nặng, thân thể tươm mủ, hôi thối khôn sánh, người bình phàm đều chẳng muốn đến gần! Vị A La Hán ấy cố ý khiến cho quốc sư Ngộ Đạt trông thấy. Lúc đó, ngài Ngộ Đạt còn chưa là quốc sư, còn chưa nổi tiếng. Quốc sư Ngộ Đạt là cao tăng mười đời. Sư xuất gia tu hành lần này là đời thứ mười, mỗi lần mất đi lại trở vào nhân gian, lại xuất gia, mười đời đều là xuất gia cao tăng, làm thầy của đế vương. Vì thế, người xuất gia lỗi lạc hơn mọi người đều chẳng phải do một đời tu thành, mà là mười đời! Khi Sư chưa nổi danh, gặp người ăn mày ấy, thấy người ấy rất đáng thương. Sư thật sự giúp đỡ, dùng đầu lưỡi liếm vết thương ứa mủ, hút chất độc ra, người bình thường chẳng thể làm được! Vị A La Hán ấy khảo nghiệm Sư, thấy Sư từ bi chân thật, chẳng giả, từ bi đến mức độ nào? Khá lắm! Ngài thấy rất vừa lòng, bèn bảo quốc sư Ngộ Đạt: “Trong tương lai, nếu thầy gặp tai nạn to lớn, hãy đến tìm tôi”. Ngài nói: “Tôi ở Tứ Xuyên”, cho Sư biết địa phương đó. “Thầy lên trên núi, thấy trên núi có hai cây tùng mọc cùng một chỗ, đến chỗ cây ấy gọi tên tôi, tôi sẽ xuất hiện”.
Chẳng biết trải qua bao nhiêu năm, Hoàng Thượng thật sự bái Sư làm thầy, phong làm Quốc Sư. Có một ngày, Hoàng Thượng tặng Sư một bảo tọa bằng trầm hương. Quý vị thấy đồng tu tặng tôi chuỗi hạt bằng trầm hương này, nghe nói mấy hạt này rất quý, tôi chẳng biết, trước nay tôi chưa hề dùng thứ trân quý này. Người ở Đài Loan tặng cho tôi, phải đến mười mấy vạn đồng Đài Loan mới có được một chuỗi hạt như vậy! Trầm Hương làm thành ghế Thái Sư3, rất nổi tiếng quý báu. Bảo tọa trầm hương ấy, hai người chẳng khiêng được! Hoàng Thượng tặng Sư bảo tọa ấy. Sư ngồi trên đó cảm thấy rất đắc ý, cảm thấy dường như chính mình tuyệt diệu lắm, người xuất gia nào trong thiên hạ cũng chẳng thể sánh bằng ta! Tâm niệm ngạo mạn vừa sanh khởi, thần hộ pháp lìa bỏ. Thần hộ pháp vừa rời khỏi, oán thân trái chủ tìm đến bên thân. Oán thân trái chủ rất lợi hại, đời trước, Sư và kẻ ấy cùng làm quan đời Hán, là đồng sự của nhau. Quốc sư Ngộ Đạt thuở ấy hại chết, hãm hại kẻ ấy, khiến cho Hoàng Thượng xử tử kẻ ấy. Kẻ ấy niệm niệm chẳng bỏ lòng oán hận, muốn báo cừu; nhưng Sư đã xuất gia, tu hành rất nghiêm túc, có thần hộ pháp bảo vệ, quỷ hồn chẳng thể kề cận. Lần này, làm quốc sư, thần hộ pháp càng nhiều hơn. Vì nhận lãnh bảo tọa trầm hương ấy, dấy lên một niệm tâm ngạo mạn, thần hộ pháp bỏ đi, oan gia bèn tới dựa vào thân Sư, khiến cho trên đầu gối Sư mọc lên một mụn ghẻ hình mặt người, gần như sắp mất mạng. Vị này là thầy của Hoàng Thượng, những thầy thuốc giỏi nhất nước và ngự y đều trị liệu, nhưng chẳng có cách nào chữa lành. Sư đột nhiên nhớ tới thuở trước từng gặp một gã ăn mày. Nghĩ tới người ấy, Sư nói: “Nay ta gặp phải đại nạn này, hãy đi tìm thử xem!” Tới nơi đã được chỉ ở Tứ Xuyên, quả nhiên thấy hai cây tùng. Sư bèn gọi to ở đó. Vừa gọi, bèn thấy sau cây có chùa miếu, A La Hán Ca Nặc Ca tôn giả bèn xuất hiện. Vừa thấy Ngài xuất hiện, xa lìa đã lâu nay mới gặp gỡ: “Ta bảo ông tới, quả nhiên ông thật sự tới”. Ngài bèn giảng cho Sư biết nhân duyên nhiễm bệnh: “Mười đời trước, các ông là đồng sự, các ông là bạn bè. Do ông ghen ghét, chướng ngại bèn hại ông ta. Người ta niệm niệm chẳng quên”. Do vậy, dùng nước Từ Bi Tam Muội rửa ghẻ mặt người để hóa giải, điều đình, hóa giải. Đối phương đã nhận lời, mối oán kết ấy được hóa giải, ghẻ mặt người bèn khỏi hẳn! Quý vị ngẫm xem, cao tăng mười đời, lỡ hại chết một người, mà kẻ đó chẳng bỏ mối oán cừu ấy, đợi cơ hội để báo thù, đáng sợ quá!
Pháp sám hối Từ Bi Thủy Sám vẫn còn lưu truyền. Hiện thời, trong Phật môn, lạy Thủy Sám rất nhiều. Lạy Thủy Sám thì nhất định phải nói rõ ràng, minh bạch chuyện này. Con người phải dùng cái tâm từ bi thật sự để đối đãi người khác, tiếp độ vật, chớ nên hại người. Sát sanh hại mạng, quý vị hại người ta, người ta hận quý vị. Quý vị hại súc sanh, quý vị giết nó, ăn nó, nó có cam tâm tình nguyện hay chăng? Do vậy, nghĩ đến chỗ này, sẽ cảm thấy hết sức đáng sợ; quý vị còn dám ăn thịt chúng sanh hay không? Trong kinh, đức Phật có nói: “Quý vị ăn kẻ khác tám lạng, đời sau phải trả kẻ ấy nửa cân”. Nợ mạng phải trả bằng mạng, thiếu nợ phải đền tiền. Nhân quả ba đời chẳng trốn được! Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, liễu giải chân tướng sự thật, trong cuộc đời này, đãi người tiếp vật, tâm bèn bình lặng. Nếu chúng ta bị thua thiệt, người ta dùng thủ đoạn chẳng chánh đáng để tước đoạt tài vật của chúng ta, chúng ta cười, chắc là đời trước ta thiếu nợ hắn, hãy trả lại cho hắn, chẳng có tâm oán hận! Nếu ta chẳng nợ hắn, hắn đoạt đi cũng chẳng sao! Đời sau hắn còn phải trả kèm thêm tiền lời cho ta. Tâm bình khí hòa để xử lý chuyện này, đó là chánh xác. Hắn cướp đoạt những thứ của ta, đó là trộm lấy, là “đạo tâm: cái tâm trộm cắp. Nếu ta dùng thủ đoạn để lấy lại thì cũng là “đạo tâm”, cũng phạm vào sai lầm. Kẻ ấy phạm lỗi lầm, ta chẳng phạm lỗi lầm, chẳng cần phải so đo, hãy thành tựu đức hạnh của chính mình. Không chỉ chẳng oán hận, mà còn phải cảm tạ. Giống như khảo thí, công phu của ta rốt cuộc như thế nào? Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, trải qua sự việc để luyện tâm, trải qua những chuyện ấy để khảo nghiệm chính mình có thành tựu hay không. Vì thế, luôn dùng cái tâm cảm ơn để xử lý.
Phàm là kẻ hủy báng, ganh ghét, lăng nhục, tổn thương ta, ta đều cảm ơn. Vì sao? Toàn là đến khảo nghiệm ta để xem rốt cuộc ta là học Phật thật sự hay giả vờ học. Nếu đối với những nghịch cảnh và các kẻ ác ấy mà còn có tâm oán hận, chứng tỏ chúng ta đã học Phật uổng công rồi! Đức Phật dạy như thế nào, đều quên sạch cả rồi! Quý vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật trong lúc tu nhân, tu Nhẫn Nhục Ba La Mật, gặp phải vua Ca Lợi, bị lăng trì xử tử, Bồ Tát chẳng có chút tâm oán hận nào, Nhẫn Nhục Ba La Mật bèn viên mãn. Nếu không gặp tình cảnh ấy, Ngài vẫn chưa tu viên mãn Nhẫn Nhục Ba La Mật. Trong lần khảo đảo to lớn cuối cùng ấy, Ngài trúng cách, vượt qua, chẳng oán hận vua Ca Lợi, mà còn cảm tạ nhà vua. Lúc sắp chết, bảo vua Ca Lợi: “Trong tương lai, ta thành Phật, sẽ độ nhà vua đầu tiên”. Đó là báo ân, như vậy mới là đệ tử đức Phật, chúng ta hãy nên học tập điều này. Đúng là thật sự học hiểu, chẳng trụ vô vi, chẳng trụ hữu vi. Bất luận trong thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên, đều chẳng động tâm, giữ gìn sự “thanh tịnh, bình đẳng, giác” của chính mình, vĩnh viễn giữ tâm cảm ân, tâm báo ân, đó là đúng. Đừng sợ bị thua thiệt. Bị thua thiệt là có phước, đừng chiếm tiện nghi của kẻ khác. Chiếm tiện nghi là họa hại, là tai họa, biết bị thua thiệt là phước, cổ thánh tiên hiền nói chẳng sai!
Đức Phật dạy con người: “Thế gian này chỉ có khổ, chẳng có vui! Cái gọi là “vui” chính là gì vậy?”. Khổ tạm thời ngừng trong chốc lát, tạm ngừng, chẳng phải là vĩnh viễn ngưng dứt, quý vị bèn cảm thấy rất vui. Thí dụ như ăn uống, quý vị ăn no nê, ăn rất ngon, rất vui sướng. Nếu quý vị chẳng được ăn một bữa, liền cảm thấy khổ, đói bụng mà! Hai bữa chẳng được ăn càng khổ hơn. Đói tới bảy ngày sẽ chết đói! Lẽ nào chẳng khổ? Khổ chẳng thể biến thành lạc, cho nên khổ là thật, lạc là giả. Thí dụ như ăn thứ gì đó cảm thấy rất sung sướng. Ăn thứ quý vị ưa thích, ăn một chén rất vui sướng, ăn hai chén vẫn còn được, nhưng bắt quý vị ăn liên tục tới hai mươi chén, khổ ngay! Đó gọi là gì? Lạc có thể biến thành khổ, nên lạc chẳng phải là thật, nhưng khổ chẳng thể biến thành lạc. Trong kinh, đức Phật đã giảng những chuyện này rất nhiều, rất rõ ràng. Ngài dạy chúng ta, người sống trong thế gian này có tám nỗi khổ. Ngoài tám nỗi khổ (được gọi chung là Khổ Khổ), còn có Hoại Khổ, còn có Hành Khổ. Chúng sanh trong Dục Giới phải chịu đủ ba loại khổ lớn này, ai nấy đều chẳng có cách nào tránh né bốn loại đầu trong Khổ Khổ là sanh, lão, bệnh, tử.
“Thần thức” - Nhà Phật gọi là “thần thức”, người thế gian gọi là “linh hồn”. Linh hồn đi đầu thai. Đến đầu thai thì nhất định là có duyên với cha mẹ. Chẳng có duyên, kẻ ấy chẳng đến! Có người mong có con cái, mong ngóng cả đời vẫn chẳng có! Người ấy chẳng có duyên, chẳng có duyên gặp gỡ. Duyên gì vậy? Trong kinh, đức Phật đã dạy, duyên rất nhiều, rất phức tạp, nhưng chẳng ngoài bốn loại lớn, bốn loại lớn ấy gọi là “tứ duyên sanh pháp”. Trong bốn loại lớn ấy, thứ nhất là báo ân. Đứa trẻ ấy sanh vào nhà quý vị hết sức ngoan ngoãn, khéo léo, thông minh, đáng yêu, nó đến báo ân. Người Hoa gọiđứa con như vậy là “hiếu tử, hiền tôn” con hiếu, cháu hiền. Vì thế, người ta phải bố thí ân đức, vì sao? Trong tương lai, con cháu đến báo ân đông đảo. Nếu kết oán cừu cùng kẻ khác, chuyện này sẽ phiền toái lắm! Trong tương lai, đứa trẻ sanh vào nhà quý vị để báo cừu, chẳng phải là phiền phức hay sao?
Thuở trước, hơn bốn mươi năm trước, tôi giảng kinh Lăng Nghiêm tại Đài Bắc. Trong thính chúng có một vị, nay đã mất, cụ đã vãng sanh. Vị lão cư sĩ ấy lớn tuổi hơn chúng tôi rất nhiều, đại khái lớn hơn tôi hai mươi tuổi. Lão cư sĩ đến nghe kinh mỗi ngày. Chúng tôi nói đến những chuyện trong kinh, cụ bảo tôi: “Những chuyện ấy là thật, chẳng giả!” Trước thời Kháng Chiến, tức là trước khi cuộc kháng chiến chống Nhật bùng nổ, cụ sống tại Thượng Hải. Khi ấy, cụ đã buôn bán, chính mắt trông thấy. Không phải là chuyện của chính cụ, mà là chuyện của một người bạn cụ, tuổi cũng xấp xỉ tuổi cụ, hết sức thân thiết, cũng là đồng hương, họ là người tỉnh Chiết Giang. Người bạn ấy giúp việc cho một doanh nhân người Đức. Người Đức ấy kinh doanh một công ty cỡ nhỏ về tàu bè, hình như chỉ có một chiếc tàu. Người bạn ấy hết sức thật thà, làm việc hết sức có trách nhiệm, nên rất được ông chủ tín nhiệm. Sau khi cuộc Kháng Chiến bùng nổ, vị chủ nhân là người Đức, trở về nước, ủy thác công ty cho ông ta, dặn ông ta hãy cố gắng kinh doanh. Sau khi ông chủ trở về nước, ngay cả tin tức cũng chẳng có, cũng chẳng biết là còn sống hay không. Ông ta kinh doanh công ty ấy rất thuận lợi, tiền kiếm được lại dùng mua thêm mấy chiếc tàu nữa, biến thành một công ty tàu bè cỡ lớn. Khi đó, đang trong thời Kháng Chiến, người Nhật chiếm đóng Thượng Hải; ông ta kinh doanh khá lắm, cũng kết hôn, sanh được một đứa con quả thật cũng rất đáng yêu, cũng rất ngoan ngoãn, khéo léo, đó là một bé trai. Sau khi Kháng Chiến thắng lợi, vị bằng hữu ấy tuổi cũng đã rất cao, dường như là nhằm sinh nhật thứ năm mươi, đứa con lên mười. Đứa nhỏ ấy hết sức thích dùng tiền, học Tiểu Học mà luôn đem theo mười mấy đồng. Thuở ấy, mười mấy đồng rất lớn. Trong thời gian Kháng Chiến, có thể nói là mười đồng gần như có thể dùng làm tiền chi dụng cả một tháng cho một gia đình bốn người. Đồng tiền rất có giá! Có một hôm, đứa bé ấy đi đường, làm rớt tiền, một cụ già nhặt được. Cụ già ấy là bạn của cha nó, do quen biết, nên cụ gọi tên đứa bé, cầm tiền trên tay, bảo: “Ngươi gọi ta một tiếng bác, ta sẽ trả món tiền này cho ngươi”. Đứa bé ấy nói như thế nào? “Ông gọi tôi một tiếng bác, tôi cho lại ông mười đồng”. Đứa bé ấy láu lỉnh đến mức độ ấy. Đến hôm sinh nhật, ông ta đột nhiên thấy con mình biến đổi, có hình dạng giống như ông chủ khi trước, nên mới hoảng nhiên đại ngộ: Ông chủ của ông ta đã chết, đầu thai đến nơi đây, tài sản này là của ông ấy. Do ông ta rất thông minh, ngay lúc ấy bèn tuyên bố toàn bộ tài sản của công ty này giao cho con ông ta, còn ông ta làm thuê cho con. Vị lão cư sĩ kể cho chúng tôi nghe câu chuyện này, đứa bé ấy đến đòi nợ. Đời trước, nó ủy thác quý vị kinh doanh, chẳng tặng cho quý vị, nên lại đầu thai đến đòi nợ. Người ấy thật thà, lão thành, sau khi tuyên bố, bèn giữ thân phận làm công, về sau vẫn sống bình yên.
Cuối cùng, vị cư sĩ họ Ổ ấy đến Đài Loan, cũng chẳng có liên lạc, nhưng tôi tin tưởng kết quả cuối cùng của Ổ cư sĩ sẽ tốt đẹp, vì ông ta hiểu nhân quả, chẳng có tâm tham, vẫn chăm sóc đứa con rất chu đáo; bởi lẽ, ông ta hiểu rõ đứa con đến đòi nợ. Quý vị đối xử tốt với nó, nó cũng đối xử với quý vị tốt đẹp, cũng giống như trong quá khứ ông chủ đã tin tưởng, tín nhiệm quý vị. Đức Phật giảng chẳng sai, con cái bất hiếu, khinh lờn cha mẹ, thậm chí giết hại cha mẹ, đó là đến báo oán. Còn có trường hợp đến đòi nợ, hoặc đến trả nợ. Đức Phật chia mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái thành bốn loại lớn ấy. Sau khi đã giác ngộ, bất luận là quan hệ gì, mọi người cùng nhau học Phật, biến thành đồng tham đạo hữu. Chính mình đã khai ngộ, cũng giúp người nhà quyến thuộc ai nấy đều giác ngộ, đó là tốt đẹp! Đây cũng là như trong kinh thường nói: “Phật chẳng độ kẻ vô duyên”. Bất luận đối với quý vị là oán hay thân, là tranh chấp hay nợ nần, nói chung đều là kẻ có duyên, hễ gặp gỡ, đều phải dùng Phật pháp để giải quyết, đó là đúng!
Trong tám khổ, chẳng ai trốn khỏi sanh, lão, bệnh, tử. Sống một trăm tuổi, vẫn phải chết. Sanh Khổ, chúng ta không biết, ai nấy đều quên sạch. Trong kinh, đức Phật dạy rõ những nỗi đau khổ khi trẻ thơ sanh ra. Ở trong thai mẹ mười tháng, kinh Phật hình dung nỗi khổ ấy bằng từ ngữ “thai ngục”, chẳng khác địa ngục cho mấy! Mẹ uống một chén nước nóng, con như ở trong tám địa ngục nóng. Mẹ uống một chén nước đá, con như ở trong tám địa ngục lạnh. Tâm tình, nhất cử, nhất động của mẹ đều gây ảnh hưởng rất lớn cho con. Con phải ở trong bào thai mười tháng, ngạn ngữ nói là “sống một ngày giống như cả năm”; đau khổ như thế đó. Lão Khổ thì chúng ta trông thấy. Quý vị thấy nhiều cụ già, đặc biệt là đến thăm viện dưỡng lão, quý vị sẽ thấy vận mạng bi thảm của người già trong tuổi xế chiều, nhất định quý vị sẽ nghĩ ngợi: “Ta về già có gặp tình cảnh này hay không?” Nếu con cái bất hiếu, chẳng phải là sẽ đưa quý vị vào viện dưỡng lão ư? Rất có thể! Không có con cái, tuổi đã cao, chánh phủ cũng đưa quý vị vào viện dưỡng lão. Bên ngoại quốc, theo quy chế của ngoại quốc, như ở Mỹ, Úc Đại Lợi, những quốc gia ấy còn đỡ, quý vị đã già, sau khi về hưu, quốc gia cấp tiền dưỡng lão, tiền chi dụng mỗi tháng cứ đúng kỳ bèn gởi tới, về phương diện đời sống vật chất chẳng có vấn đề gì! Quá nửa là con cái gởi cha mẹ vào viện dưỡng lão, vì quý vị tuổi đã cao, cần có người chăm sóc, chẳng có cách nào sống trong gia đình của chính mình. Vì thế, tự mình bán nhà, đến sống trong viện dưỡng lão. Cuộc sống vật chất có thể sống được, nhưng chẳng có cuộc sống tinh thần. Nếu quý vị hỏi những người già: “Tình trạng cuộc sống của quý vị là như thế nào?” Họ sẽ trả lời bằng một câu: “Ngồi ăn chờ chết”. Viện dưỡng lão đông người, nói chung, mỗi tuần có một, hai trường hợp tử vong, được khiêng đi. Hằng ngày trông thấy tình hình ấy, “ngày nào sẽ đến lượt ta?” Quý vị nói xem, bi thảm dường nào? Lão Khổ đấy!
Người cõi Diêm Phù Ðề lúc mới sanh xong, không kể là con trai hay con gái, hoặc khi sắp sanh, chỉ nên làm thiện sự để thêm sự lợi ích cho nhà cửa, thì tự nhiên Thần Thổ Ðịa sẽ vô cùng hoan hỷ, ủng hộ cho cả mẹ lẫn con đều được sự an lạc lớn, hàng quyến thuộc cũng được lợi ích. Đây là nói rõ khi người nhà sanh con, trong thế gian đây là việc vui mừng, có con nối dõi, người Trung Quốc rất coi trọng việc tiếp nối giòng họ, cho nên không thể không vui mừng. Vui mừng thì nên làm việc tốt, phải biết làm việc thiện mới có thể tăng thêm lợi ích cho gia đình ấy. Vị thần Thổ Địa cai quản vùng ấy, thần Thổ Địa giống như xã trưởng, trưởng làng ở Trung Quốc thời xưa, các “bảo trưởng, ấp trưởng” cai quản một làng, một vùng như vậy. Những quỷ thần này thấy bạn làm lành, trong nhà bạn lại có thêm một đứa con thì họ “ủng hộ tử mẫu, đắc đại an lạc”, mẹ con bình yên, quyến thuộc của bạn được lợi ích, quỷ thần che chở, gia bị. Xin xem tiếp, nếu không biết ý của thiên địa quỷ thần thì sẽ tạo tội nghiệp.
Hoặc dĩ sanh hạ thận vật sát hại, thủ chư tiên vị, cúng cập sản mẫu, cập quảng tụ quyến thuộc, ẩm tửu thực nhục, ca nhạc huyền quản, năng lịnh tử mẫu bất đắc an lạc.
Hoặc khi đã sanh rồi thì nên cẩn thận, chớ giết hại để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho người sản mẫu, cùng nhóm họp hàng quyến thuộc lại để uống rượu, ăn thịt, ca hát, đánh đàn, thổi sáo; vì có thể khiến cho cả mẹ lẫn con chẳng được an lạc.
Người trong thế gian chẳng biết sự lợi hại này, khi sanh con bèn làm tiệc ăn mừng, ăn mừng bèn sát sanh. Chư vị nghĩ thử xem, sát sanh kết oán thù với những chúng sanh ấy, bạn tạo những tội nghiệp như vậy, món nợ sát sanh này sẽ trút lên đầu hai mẹ con người ấy, tại sao vậy? Vì nếu không sanh con thì họ sẽ không sát sanh ăn mừng, khi sanh con bèn sát hại những con vật ấy để ăn mừng. Người thế gian sát sanh lúc sanh con, lúc chết đi cũng sát sanh, mỗi năm ăn mừng tuổi thọ cũng sát sanh, như vậy thì làm sao được! Tội nghiệp ấy nặng biết bao! Không những không nên sát sanh, những lời nói trong kinh có mấy ai hiểu được? Có mấy ai chịu làm theo? “Thủ chư tiên vị, cung cấp sản mẫu”, sau khi sanh con thì phần đông người ta phải tẩm bổ. Phương pháp tẩm bổ rất nhiều, không lẽ phải sát sanh thì mới được sao? Không lẽ phải ăn thịt mới được sao? Đạo lý này, chỉ có người thật sự học Phật và người hiểu rõ những chân tướng sự thật này mới chọn ăn chay. Cho người mẹ vừa mới sanh con ăn chay tuyệt đối khoẻ mạnh, thứ nhất là tâm họ được yên ổn, thứ nhì là được Phật, Bồ Tát, thiên địa quỷ thần ủng hộ, họ làm sao không yên ổn được! Chúng tôi thường tiếp xúc với một số bạn đồng tu, trong số người này có người nói đến “thai lý tố” (ăn chay lúc mang thai). Ở Đài Loan, tôi biết có vài vị đồng tu từng trải qua việc này, lúc người mẹ mang thai mà ăn thịt thì ói mửa nên phải ăn chay, đứa con sanh ra liền ăn chay, mãi đến khi mấy chục tuổi cũng ăn chay, thân thể rất khoẻ mạnh. Chẳng phải là không ăn thịt thì không được, không ăn thịt thì thân thể không khoẻ mạnh, lẽ nào lại như vậy! Sát sanh tạo nghiệp, tựa đề của đoạn này trong cuốn chú giải gọi là “Nên bảo thẳng thừng với mọi người đừng sát sanh”, nhất quyết không thể sát sanh.
“Quảng tụ quyến thuộc”, đây là lúc bạn bè thân quyến đến nhà chúc mừng, chẳng tránh khỏi uống rượu ăn thịt, gia đình giàu có thì còn “ca nhạc huyền quản”, hiện nay gọi là mở hội khiêu vũ. Những nhà giàu có, trưởng giả ở Trung Quốc, trong dịp này còn có hát tuồng, mời đoàn hát lại hát kịch để ăn mừng. Cách làm này “năng lịnh tử mẫu, bất đắc an lạc”, tại sao vậy? Quý vị vui mừng, quỷ thần ở kế bên nhìn thấy rất bực tức, sẽ chẳng che chở, gia bị cho quý vị. Sát hại những chúng sanh này thì tương lai sẽ bị họ đến đòi mạng. Nếu quý vị thật sự hiểu rõ đạo lý nhân quả báo ứng, đúng như câu “ăn thịt nó nửa cân, tương lai phải trả nó tám lượng”, một tí tiện nghi gì cũng chẳng chiếm được. Chúng ta hiểu được đạo lý, hiểu rõ chân tướng sự thật này thì nhất định sẽ chẳng dám ăn thịt chúng sanh, làm hại chúng sanh, biết rằng làm hại chúng sanh là làm hại chính mình, gây phiền phức cho chúng sanh tức là gây họa cho mình, như vậy là trái nghịch với lòng tốt của quỷ vương và thần Thổ Địa.
Vì sao thế? Bởi vì lúc sanh nở khó khăn đó, có vô số ác quỷ cùng võng lượng, tinh mỵ, muốn tới ăn huyết tanh. Đây là việc phàm phu mắt thịt chúng ta chẳng nhìn thấy được, đích thật có những ác quỷ như vậy, số lượng rất nhiều. “Võng lượng tinh mỵ”, họ làm gì? Đây là những thứ chúng ta thường gọi là yêu quỷ, họ thích ăn những vật này. Hiện nay y học phát triển, mức độ nguy hiểm khi sanh sản thấp hơn lúc trước, chúng ta thử hỏi những trạng huống kể trên còn hay không? Vẫn còn, nếu bạn muốn hiểu trạng huống của quỷ thần thì trong bịnh viện có nhiều nhất. Tôi có vài người bạn đều học ngành Y khoa, lúc chúng tôi gặp nhau họ thường kể những chuyện ma quỷ này cho chúng tôi nghe. Bác sĩ, y tá, người làm việc trong bịnh viện đều tin tưởng. Chính mắt họ nhìn thấy, chính tai họ nghe được, đặc biệt là ở trong bịnh viện lớn, bịnh viện xưa càng có nhiều quỷ, chẳng khác gì với những lời nói trong kinh. Cho nên lúc người còn sống, lúc người chết thì những quỷ thần này nhiều vô cùng. Trong số các ác quỷ, có thể nói phần lớn đều là oán thân trái chủ; nói thật ra nếu họ chẳng có liên quan gì với bạn, ngay cả một chút cũng chẳng thể dính líu. Phàm những ai có thể đến gần thì họ nhất định có quan hệ với bạn trong đời trước. Nhưng những ác quỷ này cũng có người cai quản, là những quỷ vương này cai quản họ. Đối với phần đông chúng ta mà nói, Thổ Địa được kể như vị thần hộ pháp, là đến bảo vệ cho chúng ta, hộ vệ địa phương ấy.
Chính con sớm đã sai các thần linh của nhà cửa đất đai phải bảo hộ người mẹ và đứa con, làm cho họ được an vui mà hưởng nhiều sự lợi ích. Quỷ vương đã sớm ra lịnh cho những thần Thổ Địa, “linh kỳ” cũng là những tiểu quỷ dưới quyền cai quản của ông, bảo hộ mẹ con được bình yên. Như thị chi nhân, kiến an lạc cố, cánh hiệp thiết phước, đáp chư thổ địa.
Những người này thấy sự an ổn vui vẻ thì nên tạo phước để báo đáp các thần Thổ Ðịa. Lúc sanh sản mẹ con được bình yên, phải nên tạ ơn quỷ thần bảo hộ, làm thế nào để tạ ơn? Tu thiện, làm việc thiện mới là tạ ơn. “Phiên vi sát hại, tập tụ quyến thuộc”, thế mà trái lại, họ còn giết hại, tụ tập quyến thuộc.
Như vậy là sai, như vậy chẳng phải là tạ ơn quỷ thần. Thanh Liên pháp sư trong Chú Giải, trích dẫn một câu chuyện, là chuyện triều Minh, năm Vạn Lịch, chuyện này rất đáng để cho chúng ta tham khảo, nói rõ sự hưởng dùng của quỷ thần khác với chúng ta. Câu chuyện của ngài ở trang 123, chữ nhỏ hàng thứ hai đếm ngược lại, nói rõ không thể dùng rượu thịt để cúng dường quỷ thần. Thời xưa cúng tế quỷ thần, tuy nói là dùng rượu nhưng thật ra là nước, trong cổ lễ được gọi là “huyền tửu”, đó là nước, dùng nước để cúng tế thiên địa quỷ thần, dùng đồ chay mới đúng. Nhưng người thế gian chúng ta chẳng biết đạo lý này, cứ cho rằng nếu không sát sanh để cúng tế thì hình như đại bất kính, cứ nghĩ nhất định phải sát sanh để cúng tế. Chẳng biết sát sanh để cúng tế là tạo tội nghiệp rất lớn, chắc chắn sẽ không được thiên địa quỷ thần che chở, gia bị. Ngạn ngữ thường nói “ông trời có đức háo sanh” (thượng thiên hữu háo sanh chi đức). Đã là háo sanh thì làm sao bạn có thể sát sanh để cúng tế họ, lẽ nào như vậy được!
Vì lẽ này, hễ phạm tội tất phải tự gánh chịu, người mẹ và đứa con đều bị tổn hại. Vì trong tiệc vui bạn tạo những tội nghiệp này, chẳng được quỷ thần bảo hộ, ngược lại còn dẫn nhiều ác ma, ác quỷ, yêu tinh quỷ quái đến, họ đến làm loạn, làm cho mẹ con đều không được yên ổn. Nếu chúng ta quan sát kỹ những việc này, tâm tình của người mẹ không yên, sau đó bạn coi đứa con, quan sát kỹ thì thấy đứa bé thường bị sợ hãi, kinh sợ. Chỉ cần bạn lắng lòng quan sát, bạn sẽ thấy hình như nó rất run sợ, rất sợ hãi, tuy nó không biết nói, không biết biểu lộ tình cảm, bạn chỉ cần nhìn động tác trên thân thể nó thì biết được. Đoạn này là nói lúc sanh con, chúng ta phải làm thế nào để tu phước, không thể tạo tội.
Lại ở cõi Diêm Phù Ðề, những người sắp mạng chung, bất luận là thiện hay ác, con đều muốn cho họ không bị đọa lạc vào đường ác; huống chi là kẻ tự tu thiện căn, làm tăng oai lực của con.
Chủ Mạng quỷ vương cũng rất từ bi, không những Chủ Mạng quỷ vương từ bi, phía trước chúng ta coi Ác Độc quỷ vương cũng từ bi, ngài chẳng nỡ nhìn thấy chúng sanh đọa tam ác đạo. Nói thật ra ngài cũng lưu ý từng giờ từng phút để giúp đỡ những người làm ác này, làm thế nào có thể miễn thọ quả báo trong tam ác đạo, cho nên lúc lâm chung chẳng cần biết những người này lúc sanh tiền làm thiện hay làm ác, ngài đều dùng tâm từ bi để giúp đỡ. Nếu người lâm chung này lúc sanh tiền có thể tu một chút thiện căn thì sự giúp đỡ của ngài càng thêm được lợi ích; nói cách khác, ngài càng có thêm lý do để giúp đỡ người ấy.
Thị Diêm Phù Đề, hành thiện chi nhân, lâm mạng chung thời diệc hữu bá thiên ác đạo quỷ thần hoặc biến tác phụ mẫu, nãi chí chư quyến thuộc, dẫn tiếp vong nhân lịnh lạc ác đạo, hà huống bổn tạo ác giả.
Những người làm thiện ở cõi Diêm Phù Ðề, đến lúc lâm chung còn có trăm ngàn quỷ thần trong ác đạo hoặc biến làm cha mẹ, cho đến hàng quyến thuộc, dẫn dắt người chết khiến cho lạc vào ác đạo; huống chi là những kẻ vốn đã tạo ác.
Đoạn kinh này rất quan trọng. Người lâm chung, chúng ta đã gặp qua rất nhiều, lúc lâm chung người ấy sẽ nói với những người ở xung quanh rằng họ nhìn thấy người nào đến. Những người mà họ nhìn thấy đều là những bà con, họ hàng đã qua đời. Có phải thiệt là bà con, họ hàng hay không? Không phải, thật ra đó là những oan gia, chủ nợ biến hiện thành bà con họ hàng, bạn bè đến để dẫn người ấy đi, dẫn đi xong rồi sẽ báo thù, chúng ta phải biết việc này. Vì khi nhìn thấy bà con, họ hàng thì rất dễ đi theo họ. Đặc biệt là lúc chúng ta niệm Phật trợ niệm, việc quan trọng nhất chúng ta phải đề phòng là việc này. Một khi người lâm chung nói họ “nhìn thấy một người nào đó”, thì lập tức phải nhắc họ đừng để ý tới người đó, nhất định phải chờ A Di Đà Phật hiện ra mới đi theo đức Phật A Di Đà. Nếu chẳng phải là đức Phật A Di Đà, bất luận là người nào hiện ra cũng không cần để ý tới. Nếu không để ý, không chú ý thì hiện tượng đó sẽ biến mất rất nhanh, người đó sẽ rời khỏi, điểm này là điểm quan trọng nhất. Trong sự khai thị lúc lâm chung, câu này vô cùng quan trọng! Luôn luôn nhắc nhở họ, suốt hai mươi bốn giờ ngày đêm không thể gián đoạn. Chỉ sợ một khi gián đoạn, một khi sơ suất thì bị những oan gia, chủ nợ biến thành bà con, họ hàng dẫn họ đi mất, đây là việc người trợ niệm lúc lâm chung không thể không biết, như vậy thì trợ niệm mới có lợi ích lớn lao. Người trợ niệm dùng tâm chân thành, thanh tịnh, từ bi để niệm câu Phật hiệu này, người trợ niệm càng nhiều càng tốt, từ trường đó thù thắng, có thể làm cho những quỷ thần cõi ác này chẳng dám đến gần. Nếu người trợ niệm ít, người trợ niệm chẳng có thành tâm, thì quỷ thần ác đạo sẽ thắng thế, sẽ thừa dịp người trợ niệm không đề phòng bèn đi vào phá khuấy, chúng ta phải đặc biệt chú ý điểm này. Thế nên có người hỏi nếu lỡ không tìm được người trợ niệm, chúng ta dùng máy niệm Phật được không? Chỉ có thể nói dùng máy niệm Phật tốt hơn một chút mà thôi, tốt nhất là có người đến niệm, như vậy thì sẽ có hiệu quả khác nhau.
Phàm khi gặp những chuyện này lúc lâm chung, thì người mất chắc chắn sẽ rơi vào ba đường ác, nếu lúc còn sống người ấy lại làm nhiều ác nghiệp thì còn tệ hại hơn nữa! Địa Tạng Bồ Tát cũng cứu chẳng nổi. Sanh tử là việc quan trọng lớn lao, sau khi chết đi sanh vào cõi nào là một vấn đề vô cùng nghiêm túc. Cho nên khi người mắc bịnh, yêu ma ác quỷ đến phá khuấy, trong kinh này nói những người làm việc thiện cả đời cũng rất khó tránh khỏi, huống chi là người làm ác! Nhân thiện thì được quả thiện, nhân ác thì có quả ác, chắc chắn là chẳng sai; quả báo hiện ra hay không là do duyên đầy đủ hay không. Nếu duyên đầy đủ thì quả báo sẽ hiện ra. Thế nên chúng ta tiễn đưa người vãng sanh nói thật ra là giúp đỡ một người đi làm Phật, cả đời chúng ta làm việc thiện, còn việc thiện nào lớn hơn việc tiễn đưa một người đi làm Phật? Chẳng có việc nào lớn hơn việc này hết. Nếu lúc một người lâm nguy, bạn có thể dốc toàn tâm toàn lực để chăm sóc họ, từng giờ từng phút nhắc nhở họ, đây tức là chiến đấu với vô số ác quỷ ác thần, nhất định phải chiến thắng họ, thì người mất mới có thể vãng sanh một cách thuận lợi, được Phật tiếp dẫn. Cho dù người tạo ngũ nghịch, thập ác, nếu gặp tăng thượng duyên này cũng có thể vãng sanh.
Tôi nghĩ chư vị coi Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Vãng Sanh Truyện đều biết chuyện ông Trương Thiện Hòa đời Đường. Trương Thiện Hòa là một kẻ làm nghề giết trâu, cả đời chẳng biết đã làm thịt bao nhiêu con trâu, đã làm bao nhiêu ác nghiệp, cho nên lúc lâm chung ông ta nhìn thấy rất nhiều người đầu trâu đến đòi mạng, trong Phật pháp gọi là tướng địa ngục hiện lên, lúc đó ông ta mới kêu cứu. Duyên của ông rất tốt, may sao có một người xuất gia đi ngang, nghe tiếng kêu cứu trong nhà, người xuất gia ấy liền vào nhà ông để coi là chuyện gì. Ông nói ông nhìn thấy rất nhiều người đầu trâu, họ nói phải đền mạng cho họ. Vị xuất gia đó mới đốt một cây nhang rồi kêu ông cầm trong tay, kêu ông gấp rút niệm A Di Đà Phật. Do vì muốn thoát khỏi cảnh tượng ấy ông bèn niệm lớn tiếng “A Di Đà Phật”, mới niệm mười mấy tiếng, ông liền nói với người nhà “người đầu trâu đã biến mất, đều đi mất, A Di Đà Phật đã đến”, nói xong ông bèn vãng sanh. Do đó bạn mới biết đã tạo ác nghiệp cũng không sao, nếu lúc lâm chung gặp duyên thù thắng, vận may của ông Trương Thiện Hòa thiệt là quá tốt, gặp được thiện tri thức, nếu ông chẳng gặp vị xuất gia ấy thì nhất định sẽ đọa tam ác đạo, chắc chắn là phải đọa địa ngục. Sau khi thọ tội ở địa ngục xong cũng phải làm trâu để đền mạng, bạn giết một con trâu thì phải đền mạng một lần, bạn giết bao nhiêu con trâu thì phải đền mạng bấy nhiêu lần.
Giết trâu bị quả báo như vậy, chư vị phải biết, giết hại bất cứ chúng sanh nào cũng phải đền mạng, cho dù động vật nhỏ đến đâu cũng phải đền mạng, bạn làm sao đền mạng cho hết? Bạn giết một con trùng, một con kiến đều phải đền mạng, muôn vàn xin bạn đừng tưởng đây là những côn trùng gây hại thì không sao, chúng ta không thể coi thường sanh mạng của chúng, chúng cũng là chúng sanh đã làm chuyện ác rồi đầu thai vào cõi súc sanh, biến thành những hình trạng như vậy. Chúng ta trong sáu nẻo luân hồi cũng đã thường làm những chuyện này cả rồi, đời này may mắn được thân người, làm sao biết được sau khi chúng ta mất thân người thì sẽ có thân hình của con vật gì? Thế nên có được thân hình con người này cũng không thể kiêu ngạo, không thể dựa vào thế lực của thân hình này mà tàn sát những động vật nhỏ, vừa chớp mắt thì bạn cũng sẽ phải làm thân hình của chúng, bạn cũng sẽ chịu người khác giết hại, nhân duyên quả báo tơ hào chẳng sai. Xin xem đoạn kinh kế tiếp:
Thế Tôn, như thị Diêm Phù Đề nam tử nữ nhân lâm mạng chung thời, thần thức hôn mê, bất biện thiện ác, nãi chí nhãn nhĩ cánh vô kiến văn.
Bạch Ðức Thế Tôn! Những kẻ nam người nữ ở cõi Diêm Phù Ðề, lúc lâm chung thì thần thức hôn ám mê muội, không phân biệt được thiện ác, cho đến mắt và tai đều không còn thấy nghe gì nữa.
Đây là lúc lâm chung, chúng ta gọi là trạng thái hấp hối, đoạn thời gian này rất ngắn. Đích thật là họ hôn mê chẳng hay chẳng biết, họ chẳng nhận biết được người nhà, sức trí nhớ hoàn toàn tiêu mất, đây là trạng thái cực kỳ nguy hiểm. Duy chỉ có người đầu óc còn tỉnh táo mới dễ được giúp đỡ, một khi đầu óc không tỉnh táo thì sự việc sẽ rất phiền phức. Khi người lâm chung gặp phải trường hợp này, cho dù gặp được thiện tri thức cũng chẳng giúp được gì, đây là nghiệp chướng rất nặng, chúng ta phải ghi nhớ lời dạy trong kinh Địa Tạng, họ hoàn toàn nương nhờ vào sự giúp đỡ của người khác. Hiện nay có một số người mạng sống còn chưa hết, phước báo còn chưa hưởng hết, người hiện nay gọi là chứng người già mất trí nhớ, chính là trạng thái này. Việc nói ở đây là họ chưa đến lúc lâm chung “thần thức hôn mê, bất biện thiện ác, nãi chí nhãn nhĩ cánh vô kiến văn”, đây là chứng người già mất trí nhớ. Phải coi phước báo của người ấy, nếu phước báo lớn thì có thể kéo dài thời gian này suốt mười năm, tám năm, họ còn thở, vẫn còn hô hấp, nhưng mê man chẳng tỉnh táo, người thân nhất trong nhà, người mình thương mến nhất cũng chẳng nhận ra, mỗi ngày hai mươi bốn giờ đều ở trong trạng thái hôn mê.Những người này thiệt đáng thương, cầu sống không được cầu chết cũng không xong, sau khi chết đi nhất định sẽ bị nghiệp lực lôi kéo, sẽ chẳng sanh vào cõi thiện, chắc chắn sẽ đọa nẻo ác. Chúng ta có khả năng bảo đảm chính mình tương lai sẽ không rơi vào tình trạng này hay không? Ai cũng chẳng dám bảo đảm. Ngày nay chúng ta nhìn thấy những tình trạng này, tự mình phải có tâm cảnh giác cao độ, đức Phật dạy cho chúng ta phương pháp cứu chữa, chúng ta phải ghi nhớ.
Hàng quyến thuộc phải nên thiết đại cúng dường, chuyển đọc tôn kinh, niệm danh hiệu của Phật cùng Bồ Tát; những thiện duyên như thế có thể khiến cho người chết thoát khỏi các đường ác, và các ma quỷ, ác thần đều phải rút lui hoặc giải tán.
Chữ quan trọng ở đây là “đại cúng dường”, người nhà quyến thuộc có chịu làm hay không? Rất nhiều người bị chứng người già mất trí nhớ, nói thật ra họ đều là người giàu có, trưởng giả, giòng dõi giàu sang. Quyến thuộc người nhà của họ bận bịu để tranh giành tài sản, có mấy ai chịu làm việc đại cúng dường cho họ? Sống chết gì cũng chẳng có người hỏi thăm, con cháu tìm hết đủ mọi cách để đoạt gia tài, người này thiệt đáng thương, rốt cuộc cũng phải sanh vào ba đường ác. Nếu người nhà thật sự là người thông minh, người hiểu rõ Lý muốn cứu họ thì phải dùng hết thảy tài sản của người ấy để tu đại cúng dường, giống như đoạn trước có nói cô Bà La Môn, cô Quang Mục, vì muốn cứu mẹ nên bán hết đất đai tài sản của mình để làm việc cúng dường. Ngày nay trong thế gian này đi đâu tìm được con cháu hiếu thuận như vậy? Bạn sẽ tìm chẳng được, cũng tìm chẳng được một người bạn đáng tin cậy, thiệt là nguy hiểm! Nguy hiểm đến cùng cực, vậy thì phải làm sao? Không bằng tu đại cúng dường ngay bây giờ, trong kinh nói lúc bạn còn sống làm việc này thì bạn có được trọn tất cả lợi ích, bạn sẽ tránh khỏi lúc già bị bịnh khổ như vậy, hiện nay phải giác ngộ, phải thật sự giác ngộ, con cái cũng tin không nổi, bạn bè cũng tin không nổi, người thân thích nào đến sau cùng lòng dạ cũng sẽ thay đổi, chẳng có ai đáng tin, người thật sự đáng tin được là chính mình. Thừa lúc mình còn khoẻ mạnh, còn hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng ta phải hết lòng tu (chữ tu ở đây nghĩa là làm việc) đại cúng dường, dốc hết tâm hết sức để cúng dường.
Phải tu cúng dường như thế nào, bạn phải có trí huệ, phải thân cận thiện tri thức. Do đó chúng ta phải biết cách tu đại cúng dường, phải tu mau lên, không thể chậm trễ, một khi cơ hội mất đi thì muốn gặp lại thật không dễ. Người thật sự có trí huệ, có phước đức chẳng có gì khác ngoài việc họ nhìn thấy cơ hội, có thể nắm lấy cơ hội để thành tựu trí huệ, phước đức vô lượng vô biên của họ.
“Chuyển độc tôn kinh” tức là đọc tụng Đại Thừa, mỗi ngày phải đọc thì không đến nỗi mê hoặc, không đến nỗi bị lay động bởi cảnh giới bên ngoài. Tụng kinh chính là nghe lời dạy của Phật, Bồ Tát. “Niệm Phật, Bồ Tát danh hiệu” tức là trì danh niệm Phật. Trong kinh đức Phật dạy chúng ta phương pháp tu hành thù thắng nhất, ổn thỏa nhất, nhanh chóng nhất, có hiệu quả nhất chính là “nhất tâm xưng niệm A Di Đà Phật”. Bạn phải hiểu rõ “nhất tâm xưng niệm” thì bạn sẽ được tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh sẽ sanh trí huệ; tâm không thanh tịnh sẽ sanh phiền não, khi có phiền não thì bạn sẽ tạo ác nghiệp, tâm thanh tịnh sẽ sanh trí huệ, khi bạn có trí huệ thì bạn mới tạo hết thảy thiện nghiệp. Đây là vài phương pháp đức Phật dạy trong kinh, cảnh giới của những phương pháp này cũng vô cùng rộng lớn, “như thị thiện duyên, năng lịnh vong giả ly chư ác đạo”, tu phước lớn như vậy, đó là việc tu phước. Đoạn kinh phía trước đã nói những quyến thuộc giúp họ tu phước này được sáu phần bảy công đức, người mất chỉ được một phần bảy. Đích thật có thể giúp họ lìa khỏi ác đạo, tại sao vậy? Khi lâm chung đầu óc họ hôn mê, bất tỉnh nhân sự thì họ nhất định sẽ đọa ác đạo. Lúc đó chúng ta trợ niệm cũng chẳng giúp được gì, người được trợ niệm nhất định phải có đầu óc tỉnh táo thì mới có thể vãng sanh. Trong tình trạng hôn mê này có trợ niệm cũng không giúp họ được, vì họ chẳng tỉnh táo, bạn trợ niệm cho họ thì họ cũng chẳng niệm Phật theo bạn, họ cũng chẳng biết “Phật” là gì, đó là lúc vô cùng đáng thương, chết đi sẽ sanh vào cõi nào lúc này là giờ phút quan trọng nhất.
Nếu người nhà của họ không có tâm từ bi, không có trí huệ thì họ sẽ vô cùng đáng thương. Nếu thân quyến họ thật sự có thể hiếu thuận, từ bi, có thể hiểu đạo lý, thì nhất định phải làm như thế, họ mới có thể lìa khỏi ác đạo, mới có thể sanh vào cõi lành. Vì họ có phước báo lớn như vậy, lúc lâm chung những oán gia chủ nợ, những quỷ thần này sẽ thoái lui, tạm thời cũng không dám lại khuấy rối họ. Tuy thoái lui, chẳng có nghĩa là xong chuyện đâu, những quỷ thần này sẽ đợi cơ hội sau này, đợi tới lúc nào bạn mê mờ, chẳng có ai giúp đỡ thì họ sẽ quay trở lại. Do đó chư vị phải biết khi bạn kết oán thù sâu đậm với chúng sanh, ai chịu tha thứ cho bạn? Nếu bạn hiểu đạo lý này thì nhất định phải đừng kết oán thù với tất cả chúng sanh. Trong thế gian chúng ta thấy có một số người có ấn tượng không tốt đối với chúng ta, nhìn rất gai mắt, họ là những oan gia đời trước, họ ác ý huỷ báng, thậm chí còn hãm hại, chúng ta phải đối đãi như thế nào? Phải dùng tâm chân thành cung kính để đối đãi, chúng ta phải dùng tâm sám hối đối xử với họ, tuyệt đối không thể có tâm niệm báo thù. Nếu bạn có tâm niệm muốn trả đũa thì gút mắt này lại càng buộc chặt thêm, đời đời kiếp kiếp báo đền lẫn nhau, dây dưa chẳng dứt. Không bằng cứ tiếp nhận hoàn toàn chẳng than trách, đối với những người ác không những chẳng có ác ý, chúng ta còn có ý kính trọng, thì gút mắt này sẽ được tháo gỡ, món nợ này sẽ tiêu mất, xóa sạch sổ nợ, đó là chuyện tốt! Ấn Quang đại sư trong Văn Sao dạy chúng ta “Nghĩ như là mình trả nợ” thì chuyện gì cũng sẽ được kết thúc. Không kết oán thù với bất cứ người nào, chúng ta phải học “dùng Đức báo Đức, dùng Đức báo oán”, được vậy thì trên con đường Bồ Đề chúng ta sẽ giảm bớt rất nhiều chướng ngại, trên thế gian bất luận chúng ta làm sự nghiệp gì thì cũng sẽ giảm bớt trở ngại, cơ hội thành công sẽ nhiều hơn. Chúng ta nhất định phải hiểu rõ đạo lý này, phải biết thế nào để làm người.
Lúc lâm chung đầu óc còn tỉnh táo, còn rõ ràng, rành rẽ, nếu có thiện tri thức ở kế bên giúp kẻ ấy, chúng ta có thể khẳng định kẻ ấy chắc chắn sẽ không đọa ba đường ác.
Chư vị phải biết những người đọa ba đường ác đều đi vào đó một cách mờ mờ mịt mịt, lẽ nào người có đầu óc còn sáng suốt lại đi làm ngạ quỷ, làm súc sanh, không lẽ nào như vậy cả? Chúng ta phải biết rất ít người lúc lâm chung còn sáng suốt, trong mười người thì hết tám chín người bất tỉnh nhân sự, mù mù mịt mịt, bạn coi như vậy đáng sợ biết bao! Phàm những người lâm chung mà đầu óc còn sáng suốt, cho dù tạo ác nghiệp, tâm địa của họ cũng rất thiện, tạo ác nghiệp là vì họ vô tri, họ chẳng biết làm như vậy là tạo ác nghiệp, thí dụ như việc sát sanh ăn thịt, họ cảm thấy sát sanh ăn thịt là việc rất bình thường, họ chẳng cảm thấy làm vậy là tạo ác nghiệp, nhưng tâm địa người này vẫn là rất tốt, đây là việc chúng ta quan sát kỹ càng thấy được. Nếu tâm người ấy chẳng thiện, thường muốn hại người, cướp đoạt tài sản của người khác, làm những việc lợi mình hại người, những người này lúc lâm chung hơn phân nửa đều mê hoặc điên đảo. Cả đời dựa oai thế để hiếp đáp người khác, thậm chí đến tuổi già mắc chứng mất trí nhớ, trí nhớ hoàn toàn tiêu mất, bất tỉnh nhân sự, hơi thở còn chưa đứt, cứ nằm trên giường bịnh suốt tám năm, mười năm, trong thời đại ngày nay chúng ta thấy những người như vậy rất nhiều, do đó tu thiện là việc vô cùng quan trọng.
Đoạn này chúng ta phải ghi nhớ, đây là lý luận y cứ cho việc trợ niệm, con người lúc lâm chung, nếu chúng ta gặp phải, chúng ta làm thế nào giúp đỡ họ, lúc lâm chung, thời khắc mấu chốt nhất vô vùng ngắn ngủi này, phải dùng phương pháp có hiệu quả cao nhất để giúp họ. Bất luận họ cả đời học Phật hoặc chẳng học Phật, thậm chí phản đối Phật, hủy báng đức Phật mình cũng không cần để ý tới, lúc lâm chung họ mang bịnh nặng nằm trên giường, họ chẳng làm chủ được thì chúng ta làm chủ thay họ, chúng ta niệm A Di Đà Phật cho họ nghe, họ không muốn nghe thì cũng phải nghe, trồng thiện căn cho họ. Vả lại còn phải khuyến dụ họ, phần lớn hầu hết lúc lâm chung cả đời chẳng tin Phật, đến lúc lâm chung hoặc có thể sẽ tin, lúc đó mình nhắc họ, nói cho họ biết lợi ích của sự niệm Phật. Trong lúc đó nếu họ có thể nghe được danh hiệu một vị Bồ Tát, một vị Phật, lúc ấy dùng danh hiệu Phật, Bồ Tát đối với họ là việc có lợi ích lớn nhất. “Kinh điển Đại Thừa, nhất cú nhất kệ”, nói “nhất cú nhất kệ” thì không cần phải đi tìm kinh nào, trong lúc quan trọng nhất này phải buông xuống vạn duyên, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, bất luận cảnh giới gì hiện ra, bạn có thể nói cho họ nghe câu kinh “phàm những gì có tướng đều là hư vọng”, hết thảy đều đừng để ý tới, cứ nói một cách dứt khoát với họ, chẳng có mảy may nghi ngờ gì hết thì mới thật sự là giúp đỡ họ. Cho dù trong đời họ đã tạo tội cực nặng, nhờ thiện duyên này mà tội nghiệp và tội báo của họ sẽ tạm thời không thể hiện ra.
Cho nên quỷ vương nói “Ngã quán như thị bối nhân, trừ Ngũ Vô Gián sát hại chi tội”, tội này chẳng có cách chi hết, tại sao vậy? Tội này quá nặng, Ngũ Vô Gián là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp tăng, tội này quá nặng. Ngài nói ngoại trừ tội Ngũ Vô Gián, quỷ vương chẳng giúp được. Nhưng chúng ta hiểu rõ, cho dù tạo tội Ngũ Vô Gián nếu lúc lâm chung đầu óc còn tỉnh táo, nếu có thể sám hối niệm Phật cũng được vãng sanh, trong kinh có nêu thí dụ. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói với chúng ta, vua A Xà Thế tạo tội sát hại Ngũ Vô Gián, lúc lâm chung sám hối, niệm Phật cũng được vãng sanh; đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với chúng ta, người đó vãng sanh phẩm vị rất cao, Thượng Phẩm Trung Sanh. Cho nên chúng ta đối với người tạo tội nghiệp cũng chẳng dám coi thường, không chừng họ vãng sanh phẩm vị còn cao hơn chúng ta, chẳng thể coi thường. Chỉ cần chưa chết thì vẫn còn cứu được, đến phút lâm chung một hơi thở còn chưa đứt thì vẫn còn cứu được, nếu đứt hơi rồi thì chẳng có cách gì, chẳng cứu nổi. Như việc người nhà thân quyến giúp họ tu đại bố thí cũng chỉ có thể độ họ, cao nhất cũng chỉ độ họ lên trời Ðao Lợi mà thôi, họ chẳng được vãng sanh, chẳng thể thoát ra khỏi tam giới. Nếu chưa tắt thở thì có thể giúp họ vãng sanh, khuyên họ thật sự tin tưởng, thật sự sám hối, thật sự niệm Phật cầu vãng sanh, chẳng có người nào không được độ, do đó mới biết pháp môn Tịnh Tông chẳng thể nghĩ bàn. Một đời tạo ác nghiệp nhỏ “hiệp đọa ác thú giả”, đọa súc sanh, đọa ngạ quỷ, đọa địa ngục nhỏ, những tội nghiệp trên đây nếu bạn tu những điều thiện này thì “tầm tức giải thoát”, “tầm” nghĩa là thời gian rất ngắn. Do đó công đức nghe danh hiệu Phật chẳng thể nghĩ bàn, đây là lời những người niệm Phật thường nói “công đức danh hiệu Phật chẳng thể nghĩ bàn”.
Cuối cùng trích dẫn một đoạn khai thị của Liên Trì đại sư, lời nói tuy chỉ có hai câu, nhưng rất quan trọng: “Do vậy, ngài Vân Thê có dạy khi cúng giỗ tổ tiên chớ nên sát sanh, để giúp thêm phước cho người đã khuất”, câu này là của Liên Trì đại sư nói. Cúng tế người quá cố, tổ tiên không thể sát sanh, bạn cúng tế người quá cố, tế tổ tiên mà sát sanh, món nợ của nghiệp sát sanh này sẽ phải trút lên đầu của tổ tiên, tại sao vậy? Vì họ nên mới sát sanh, nếu không cúng tế thì chẳng phải sát sanh, sát sanh là vì họ mà sát, do đó việc này tăng thêm tội nghiệp của tổ tiên, đây là việc bất hiếu to lớn. Nhưng sát nghiệp này cũng giống như công đức nói ở phía trước, bạn đừng nghĩ là nghiệp sát này do tổ tiên gánh chịu, bạn không liên lụy gì cả, nghĩ vậy thì bạn sai rồi. Sát nghiệp này có bảy phần, người sát sanh phải chịu sáu phần, tổ tiên chỉ chịu một phần, cùng một đạo lý, bạn phải hiểu như vậy. Bạn đã gieo họa cho người ta, họ chẳng kêu bạn đi sát sanh, bạn vì họ mà sát sanh, cho nên trách nhiệm của sát nghiệp này, tự mình phải gánh sáu phần, tổ tiên chỉ gánh một phần, kẻ còn lẫn người mất đều chẳng được lợi. Liên Trì đại sư cũng là người tái lai, ngài biết rõ những chân tướng sự thật này.
Thí dụ có một, hai người làm việc thiện, thiên thần hộ vệ sẽ đặc biệt nhiều; trước kia người thiện nhiều, thiên thần chia nhau hộ trì người hành thiện, số thiên thần hộ trì cho mỗi người sẽ không nhiều; hiện nay người ta đều làm ác, chỉ có một, hai người thiện, tất cả những thiên thần đều đến hộ vệ bạn (người thiện này). Thiệt đó, chẳng phải giả, vậy thì tại sao lại không tu thiện? Tại sao lại tạo ác? Chúng ta dứt ác tu thiện, không cầu Bồ Tát, không cầu Phật, cũng không cầu thiên thần, chư Phật tự nhiên hộ niệm, thiên thần tự nhiên hộ vệ, đâu cần chúng ta cầu họ! Chỗ này nói tin Phật quá khó, hiện nay người thế gian học Phật chẳng tin Phật, tại sao chẳng tin Phật? Ðặc biệt là người xuất gia, Phật dạy chúng ta vạn duyên buông xuống, tất cả đều phải xả bỏ thì ngày mai làm sao sinh sống? Nếu hỏi như vậy thì chính là không tin Phật. Nếu bạn là người xuất gia chân chánh, tâm địa thanh tịnh, chẳng có một chút tâm mong cầu, đối với hết thảy pháp trong thế gian này chẳng phan duyên, nếu bạn bị đói chết, lạnh chết, nói cho chư vị biết tất cả thần hộ pháp đều phải bị cách chức và bị tra hỏi, đó là thật chẳng phải giả đâu. Nhưng mọi người chẳng tin tưởng, tự mình vẫn muốn phan duyên, tự mình làm, thần hộ pháp nhìn thấy bèn rất thích thú vì được tự tại, họ nói: “Ðược lắm, tôi chẳng cần lo nữa”, họ rất nhàn hạ, tự tại.
Có một năm tôi tại Cơ Long (Kuala Lumpur) Thập Phương Ðại Giác Tự, lão hòa thượng thỉnh tôi giảng kinh Lăng Nghiêm nhằm lúc an cư mùa hạ. Giảng đường ở kế bên điện Vi Ðà, tôi nói với mọi người, quý vị phải tin tưởng, đừng phan duyên, cứ ở trong chùa tu hành đàng hoàng, đừng làm Kinh Sám Phật sự, cũng đừng làm pháp hội, nếu quý vị đói chết, Bồ Tát Vi Ðà sẽ bị cách chức và bị tra hỏi, đâu có đạo lý ấy! Thế nên nói cả người xuất gia cũng chẳng tin Phật, thì bạn làm sao dạy cho đại chúng tin Phật! Chẳng có đạo lý này. Nếu chúng ta thật sự tin tưởng thì không sợ, Phật, Bồ Tát bảo hựu lo lắng, thần hộ pháp hộ vệ, có thể đói một, hai bữa cũng chẳng sao, tuyệt đối sẽ chẳng bao giờ chết đói; chịu lạnh một chút, sẽ chẳng lạnh chết, ngài (thần hộ pháp) nhất định sẽ đến. Nhất định phải có lòng tin, như vậy mới gọi là học Phật, mới gọi là chân chánh tin Phật; những gì bạn cần, khi nhân duyên chín muồi những gì mong cầu đều nhất định sẽ đến. Đạo lý này là do Chương Gia đại sư truyền dạy cho tôi, tôi có lòng tin đối với Ngài, Ngài chẳng lừa gạt tôi. Lúc đó đời sống của tôi vô cùng gian khổ, chẳng có tiền để cúng dường Chương Gia đại sư, tôi chẳng có khả năng ấy; Ngài biết, chẳng trách tôi, đối với tôi rất tốt, vô cùng từ bi, lo lắng. Mỗi tuần tôi gặp Ngài một lần, lúc đó tôi phải đi làm, mỗi ngày chủ nhật gặp Ngài, xin Ngài chỉ dạy. Ngài cho tôi hai giờ đồng hồ mỗi tuần, lúc nào bận thì cho một giờ. Nếu một tuần, hai tuần tôi chẳng đến gặp, Ngài đều phái người kiếm tôi hoặc gọi điện thoại hỏi tôi: “Tại sao không đến? Có bị bịnh gì không?” Vô cùng quan tâm, chăm sóc, lòng thương mến đó làm cho tôi không thể không đi.
Ðây là lời Ngài dạy tôi: “Trong nhà Phật, có cầu ắt ứng”, nếu bạn cầu không được là vì bạn có nghiệp chướng, khi nghiệp chướng tiêu trừ hết thì sẽ chẳng bao giờ không có cảm ứng. Nhưng nhất định phải cầu đúng như lý, như pháp, nếu bạn dùng tham - sân - si để cầu thì Phật, Bồ Tát sẽ chẳng giúp bạn tăng thêm tham - sân - si, sẽ chẳng giúp bạn tạo ác nghiệp. Nếu bạn thật sự làm việc thiện, vì chúng sanh, Phật, Bồ Tát cảm ứng đạo giao; nếu vì mình thì không được, nhất định sẽ chẳng có cảm ứng. Nếu vì mình mà có cảm ứng thì đó là Tà ma; Ma thúc đẩy dục vọng của bạn, giúp bạn làm việc xấu. Phật, Bồ Tát sẽ chẳng giúp người đi làm chuyện ác, chỉ cho bạn thiện duyên chứ chẳng cho bạn ác duyên. Do đó có thể biết phàm những gì tăng trưởng dục vọng của chúng ta, tăng trưởng tham - sân - si, tự mình phải có cảnh giác cao độ, đó là ác duyên chứ chẳng phải thiện duyên. Nhưng khi người gặp được duyên này, chẳng bao giờ không ưa thích, không đọa lạc, không bị ma quỷ gạt, lọt vào vòng tay của ma, chúng ta phải có tâm cảnh giác cao độ về chuyện này. Thế nên lúc trẻ tuổi thân cận thiện tri thức rất tốt, gốc rễ đã được vun bồi, khi xử sự, đãi người, tiếp vật cả đời đều có tâm cảnh giác cao độ. Chúng ta muốn được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần hộ vệ thì phải học từ chỗ này.
Thế nên Phật dạy chúng đệ tử: một là “dùng Giới làm thầy”, hai là “dùng Khổ làm thầy”, đặc biệt là người xuất gia, sanh sống cực khổ tốt hơn, luôn thường ở trong tâm cảnh giác, một khi hưởng thọ thì không thể nào chẳng mê hoặc điên đảo được. Do đó nhất định phải hiểu, có phước, người xuất gia tu hành chân chánh nhất định sẽ có phước báo, phước báo đến thì đừng hưởng, nếu hưởng thì sẽ mê muội; khi phước báo đến thì phải chia sớt cho hết thảy tội khổ chúng sanh trong lục đạo hưởng, được vậy thì bạn thật sự độ khổ.
“Thị thời Thánh Nữ quảng thiết phương tiện, khuyến dụ kỳ mẫu, linh sanh chánh kiến, nhi thử nữ mẫu vị toàn sanh tín, bất cửu mạng chung, hồn thần đọa tại Vô Gián địa ngục”.
Lúc đó Thánh Nữ lập nhiều phương tiện để khuyên nhủ mẹ, hầu làm cho bà sanh chánh kiến, nhưng bà chưa tin hoàn toàn, chẳng bao lâu thì bà mạng chung, thần hồn bị đọa vào địa ngục Vô Gián.
Tri kiến của mẹ cô chẳng ngay thẳng, phiền não tập khí rất nặng. Ðại khái thì cũng ít thấy hình tướng của người học Phật, Phật pháp trong thời Tượng pháp suy thoái, hình tướng tốt của tứ chúng đệ tử trong thời Chánh pháp còn nhiều, hình tướng tốt thời Tượng pháp ít hơn. Thời Mạt pháp lại càng ít nữa, càng hiếm hoi. Thế nên thời Mạt pháp nếu chúng ta có thể chân chánh tu hành đúng như pháp thì chư Phật hoan hỷ gấp bội hơn thời Tượng pháp, long thiên thiện thần hộ vệ cũng tăng gấp bội, hiếm có khó gặp. Chúng ta gặp được duyên thù thắng như vầy thì tại sao tự mình lại chà đạp mình? Như vậy thật là đáng tiếc, tạo tội nghiệp thì nhất định sẽ bị đọa lạc.
Tại sao bà khinh chê Tam Bảo, hủy báng Tam Bảo? Nói thật ra thì hình tướng của người xuất gia chúng ta không tốt. Tại sao thời Phật còn tại thế, đệ tử Phật được người trong xã hội từ quốc vương, đại thần, đến hết thảy đại chúng tôn kính. Nguyên nhân gì? Chúng ta phải nghĩ kỹ. Thời Mạt pháp người xuất gia đi ra ngoài, người ta chẳng kính trọng bạn, kinh chê bạn, ở một bên chỉ chỏ, chê cười bạn, như vậy là vì nguyên nhân gì? Chúng ta có thể trách người ta chăng? Trách người là hoàn toàn sai lầm, hãy quay lại trách chính mình, tín hạnh của chúng ta, hình tướng của chúng ta chẳng đáng để xã hội đại chúng tôn kính. Bên trong còn tham - sân - si - mạn, bên ngoài chỗ nào cũng phan duyên, biểu hiện ra thật sự như mê tín, dẫn dắt xã hội đại chúng mê tín, vậy thì làm sao đáng để người ta tôn kính? Người ta dựa vào gì để tôn kính bạn? Người ta có tôn kính bạn thì đó cũng là mê tín, mê phù hợp với mê; giác tuyệt đối sẽ chẳng tương ứng với mê. Nhưng sự tạo tội nghiệp bất luận là bạn cốt ý hay vô ý, chắc chắn đều có quả báo. Không thể nói vô ý tạo thì không có quả báo, chẳng có việc này. Bạn hiểu pháp luật mà còn phạm pháp, không biết pháp luật mà phạm pháp thì cả hai đều phải chịu hình phạt, vẫn là có tội; không thể nói vì tôi không hiểu pháp luật nên tuy phạm pháp nhưng tôi không có tội; chẳng có chuyện như vậy, chẳng hợp lý. Thế nên mẹ của cô Bà La Môn đọa địa ngục Vô Gián.
Thời Bà La Môn nữ tri mẫu tại thế bất tín nhân quả, kế đương đọa nghiệp, tất sanh ác thú.
Lúc đó cô Bà La Môn biết mẹ cô khi còn sống chẳng tin nhân quả, nghĩ ắt phải theo nghiệp mà sanh vào đường ác.
Con bà là người con hiếu, cô học Phật hiểu đạo lý, biết mẹ cô lúc còn sanh tiền chẳng tin nhân quả báo ứng. “Kế” là trong tâm suy nghĩ, trong tâm đang tính toán. Cô nghĩ cả đời mẹ tạo nghiệp, tương lai quả báo sẽ đi về đâu? Thiện nghiệp nhất định được thiện quả, ác nghiệp nhất định có ác báo, cô nghĩ mẹ cô tạo nghiệp nặng nề; hủy báng Tam Bảo, nghiệp này rất nặng.
Bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương hoa và những vật lễ cúng, rồi đem đến chùa tháp thờ Phật làm lễ đại cúng dường.
Cúng Phật, phải ghi nhớ chỉ dùng tài vật của mình, nếu dùng tài vật của người khác để tu phước thì sai, tự mình chẳng được phước gì hết; nhất định phải dùng vật của mình, không thể dùng vật của người khác. Cô Bà La Môn chẳng có tài lực nên phải bán nhà rồi dùng tiền ấy “sắm nhiều hương hoa và những vật lễ cúng” đem vào chùa cúng dường. Cách cúng dường này là hình thức, hình thức này chúng ta ngày nay rất nhiều, ai cũng biết. Hình thức cúng dường có hiệu quả hay chăng? Phải coi cách dụng tâm bên trong và ngoài có tương ứng hay không? Nếu trong và ngoài tương ứng thì có công đức, nếu không tương ứng thì chẳng có công đức. Còn có nhiều người cúng dường nhưng lại tạo tội nghiệp, không những chẳng có phước mà lại là họa. Cúng dường như thế nào? Ðến trước mặt Phật, Bồ Tát tu cúng dường to lớn, cầu phát tài, cầu thăng quan, trước bàn thờ Phật, Bồ Tát “khấn vái” khi được thăng quan, được phát tài thì sẽ trở lại cúng thêm nhiều nữa. Ðặt điều kiện, hối lộ với Phật, Bồ Tát, coi Phật, Bồ Tát như tham quan, ô lại, cách cúng dường như vậy không những chẳng có phước mà lại tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp. “Nếu ngài phò hộ cho con được phát tài, con kiếm được một triệu thì nhất định sẽ đem một vạn đến cúng dường cho ngài”; Phật, Bồ Tát đâu có “khờ” như vậy, cho người này lời chín mươi chín vạn, đâu có đạo lý như vậy! Bạn xem Phật, Bồ Tát là hạng người nào? Thế nên cách cúng dường như vậy sẽ tạo nên vô lượng vô biên tội nghiệp, sẽ đọa vào tam ác đạo. Ðừng thấy người ta đến tu cúng dường rồi cho là việc tốt, chưa chắc như vậy đâu, bạn phải biết động cơ của họ là gì rồi mới biết họ tạo phước hay họa. Cúng dường như vậy xong nhưng không được thăng quan, không phát tài nên quay lại trách móc, nói Phật, Bồ Tát này không linh, họ nói: “Tôi cúng dường nhưng ngài không phò hộ cho tôi phát tài, tôi oán hận, hủy báng Tam Bảo”, tội nghiệp ấy càng tạo càng nặng.
Thầm nghĩ rằng đức Phật là đấng Ðại Giác đầy đủ hết thảy trí, nếu Phật còn tại thế thì sau khi mẹ tôi mất, nếu như tôi đến hỏi Phật ắt sẽ biết được nơi mẹ tôi thác sanh.
Hận mình phước báo không đủ, chẳng sanh vào lúc Phật còn tại thế, mà sanh vào thời Tượng pháp, Phật đã không còn tại thế. Nếu Phật còn tại thế thì Phật có đại trí huệ, đại thần thông, mình đến hỏi Phật sau khi mẹ mất rồi sanh đến cõi nào, Phật chắc chắn sẽ nói cho mình biết, tiếc là Phật chẳng còn. Trong tâm có “lời nói thầm”, không nhất định phải nói ra, trong tâm có ý niệm này, cho thấy cô có lòng hiếu thảo, muốn giúp mẹ thoát ly khổ nạn. Lúc ấy cô Bà La Môn cúi đầu khóc thầm rất lâu, chiêm ngưỡng quyến luyến tôn tượng của Như Lai. Câu này hình dung lúc cô Bà La Môn trong tự viện, lòng ân cần, nguyện vọng chí thành, khẩn thiết, từ câu này chúng ta có thể cảm thấy lòng thành của cô, khẩn thiết kỳ vọng, lòng thành như vậy có thể cảm. Bỗng nghe trên không trung có tiếng nói: “Này thánh nữ đang khóc kia, thôi đừng bi ai quá, nay ta sẽ nói cho cô biết chỗ thác sanh của mẹ cô”.
Chí thành thì sẽ linh, cảm động Phật đến chỉ dẫn cô. Thánh nữ chắp tay hướng lên hư không mà bạch rằng: “Chẳng hay thần đức nào đã giải bớt lòng âu lo của con như vậy? Từ khi mẹ con mất đến nay, ngày đêm thương nhớ, không có chỗ có thể hỏi mẹ con thác sanh về cõi nào”.
Chữ “giới” tức là thế giới nào? Cõi nào trong thập pháp giới? Nẻo nào trong sáu nẻo? Cô vô cùng cảm kích sự cảm ứng này, cô chẳng biết tiếng nói này từ đâu phát ra? Cũng chẳng biết ai nói? Cho nên cô chỉ biết hướng lên không trung, âm thanh phát ra từ không trung, chẳng nhìn thấy hình tướng, chỉ nghe âm thanh. “Là vị thần đức nào?”.
Lúc ấy trên không trung lại có tiếng nói cho cô biết: “Ta là người cô đang chiêm lễ, là quá khứ Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai, thấy cô nhớ mẹ, nhiều hơn thường tình của chúng sanh nên Ta đến cho cô biết”.
Chỗ này nói rõ nguyên nhân có thể cảm đến chư Phật, đây thật sự là một người con gái có hiếu, chí thành có thể cảm đến Phật, người Trung Quốc thời xưa thường nói: “Hiếu cảm thiên địa”, cho nên cảm động Phật đến chỉ thị cho cô, làm cho cô mãn nguyện.
Thánh nữ Bà La Môn nghe nói xong liền đứng dậy dập đầu lạy xuống, khớp tay chân đều bị thương, được người bên cạnh đỡ dậy. Một lát sau cô mới tỉnh lại rồi bạch lên hư không: “Cúi xin đức Phật từ bi thương xót, mau cho con biết mẹ con sanh về chốn nào, nay thân tâm con đau xót đến cùng cực”.
Biết âm thanh này là âm thanh của Phật, cảm động đến lễ lạy năm vóc sát đất, cách lễ này dùng toàn thân tiếp lễ, cho nên lạy xuống xong khớp tay chân đều bị thương; lạy vô cùng mãnh liệt, người thế gian thường nói là khấu đầu vang thành tiếng, cảm động đến cùng cực. Thế nên lúc lạy ngã xuống đất thì mê man bất tỉnh. Một lát sau mới tỉnh lại, vừa tỉnh lại liền cầu xin đức Phật nói cho biết chỗ mẹ thác sanh. Cô đau xót đến cùng cực, “tương tử bất cửu” là đau xót đến cùng cực.
Lúc ấy đức Phật Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh nữ: “Cô đã cúng dường xong, nên sớm về nhà, ngồi ngay ngắn nghĩ tưởng về danh hiệu của Ta, sẽ biết chỗ mẹ cô thác sanh.”
Ðức Phật chẳng trực tiếp nói cho cô biết mẹ cô hiện nay đang ở chỗ nào, mà dạy cô một phương pháp, làm theo phương pháp này thì cô nhất định sẽ biết. Phương pháp gì? Phương pháp niệm Phật.
Dạy cô, cô đã cúng dường xong hãy mau về nhà, về nhà xong nhất tâm chấp trì danh hiệu, cô hãy niệm Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai, nhất tâm xưng niệm. “Ðoan tọa tư duy”. Ðại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta: “Nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền tương lai, nhất định thấy Phật”. Tư duy tức là ức niệm, chẳng nói là miệng niệm, dùng chữ “tư duy”, ý nghĩa này sâu. Phần đông chúng ta niệm Phật là miệng niệm nhưng tâm không niệm, như vậy thì hét bể cổ họng cũng uổng công. Niệm Phật quan trọng nhất là trong tâm có Phật, tư duy mới là chân thật niệm Phật, trong tâm đích thật có Phật.
Lúc ấy Thánh nữ Bà La Môn lễ Phật xong liền trở về nhà. Nghe Phật nói hãy mau về nhà, làm xong nghi thức cúng dường, hãy mau về nhà. Dĩ ức mẫu cố, đoan tọa niệm Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Kinh nhất nhật nhất dạ.
Vì nhớ mẹ nên cô ngồi ngay thẳng niệm Giác Hoa Ðịnh Tự Tại Vương Như Lai. Trải qua một ngày một đêm. Cô về nhà chân thật niệm, y giáo phụng hành, dùng tâm chân thành nhất tâm trì danh bèn có hiệu quả. “Trải qua một ngày một đêm”, đoạn thời gian này chẳng dài. Hốt kiến tự thân đáo nhất hải biên. Kỳ thủy dũng phất, đa chư ác thú tận phục thiết thân, phi tẩu hải thượng đông tây trì trục, kiến chư nam tử nữ nhân bách thiên vạn số xuất một hải trung, bị chư ác thú tranh thủ thực đạm.
Bỗng thấy thân mình đến một bờ biển, nước biển sôi sùng sục, có nhiều thú dữ toàn thân bằng sắt bay nhảy trên biển, chạy qua chạy lại đuổi nhau, lại thấy nhiều người trai và gái, số nhiều đến trăm ngàn muôn, thoạt chìm thoạt nổi trong biển, bị các thú dữ tranh giành ăn nuốt.
Ðây là cảnh giới trong định. Chư vị nên biết, vì sao Phật dạy cô làm cách này? Tại sao không trực tiếp nói cho cô biết rằng mẹ cô đang ở địa ngục? Nói cho chư vị biết nếu Phật trực tiếp nói cho cô ta chẳng có ích lợi gì hết, chẳng cứu nổi mẹ cô. Làm sao mới cứu nổi mẹ cô? Tự cô nhất định phải tu tập công đức thì cô mới có thể cứu mẹ. Một ngày một đêm, cô chuyên tinh, tâm địa chí thành, một ngày một đêm liền được nhất tâm bất loạn, trong hết thảy phương pháp tu hành, phương pháp này mau nhất. Tu pháp môn khác muốn đạt được công phu này rất khó. Pháp môn Niệm Phật dễ dàng, một ngày một đêm. Kinh Di Ðà dạy “nếu một ngày, nếu hai ngày, … đến bảy ngày”, cô niệm suốt một ngày một đêm được nhất tâm bất loạn, đạt được nhất tâm bất loạn nghĩa là chứng được “Niệm Phật Tam Muội”. Chư vị nên biết Niệm Phật Tam Muội có mức cạn sâu chẳng đồng, Hạ phẩm Niệm Phật Tam Muội là Công Phu Thành Phiến, Trung phẩm là Sự Nhất Tâm Bất Loạn, Thượng phẩm là Lý Nhất Tâm Bất Loạn, cô đạt được Sự Nhất Tâm Bất Loạn. Ðến Sự Nhất Tâm Bất Loạn thì cô thành Bồ Tát, mẹ cô đương nhiên sẽ được độ. Tại sao chỉ một ngày công phu mà cô có thể chứng Nhất Tâm Bất Loạn? Nhờ duyên của mẹ, nếu mẹ cô chẳng đọa ác đạo thì cô sẽ chẳng tinh tấn như vậy, thế nên mẹ cô mới có phước. Mẹ cô giúp cô dụng công tinh tấn, tức khắc liền chứng đến quả vị Bồ Tát, mẹ cô được sanh lên trời là vì đạo lý này.
Nếu Phật chẳng dạy cô cách này mà trực tiếp nói cho cô biết mẹ cô đang ở cõi nào, cô khóc đến chết cũng vô ích. Phật chẳng thể độ mẹ cô, nếu Phật có thể độ thì chúng ta cần gì phải tu hành? Chẳng cần tu hành nữa, tất cả đều được Phật độ, nếu vậy thì Phật mới là đại từ đại bi, nhưng Phật chẳng thể độ. Chính cô mới có thể độ cho mẹ cô, nhờ mẹ tạo ra nhân duyên này nên cô mới hết lòng tu hành, chỉ trong một ngày có thể đạt đến nhất tâm bất loạn. Tại sao cô chân thành như vậy? Tinh tấn như vậy? Là vì tâm cứu mẹ của cô thiết tha đến cùng cực, nhờ sức mạnh này thúc đẩy, đạo lý là như vậy, từ đây bạn mới hiểu nguyên lý của sự siêu độ trong nhà Phật là ở chỗ này. Trong sự siêu độ, nếu tâm của người làm việc siêu độ chẳng thật khẩn thiết, tự mình chẳng thể nâng cao cảnh giới của mình, chẳng thể tu hành chứng quả, thì người siêu độ (người quá vãng) này sẽ chẳng thâu được lợi ích gì hết. Cô tu thành Bồ Tát, mẹ cô là mẹ của Bồ Tát, hơn nữa người mẹ này có công rất lớn, giúp cho cô tu thành Bồ Tát, thì mẹ cô đương nhiên sẽ từ địa ngục sanh lên trời, đây là đạo lý tự nhiên.
Thế nên việc siêu độ trong nhà Phật có lý luận của nó. Nếu không hiểu lý luận, cứ tưởng là niệm vài cuốn kinh thì có thể siêu độ, đâu có chuyện dễ dàng như vậy! Có nhiều người tạo tội nghiệp trong thế gian, đến phút cuối tự mình cũng lo sợ, đi kiếm vài vị pháp sư đến tụng kinh, tiêu tai, cầu siêu. Siêu độ chẳng nổi! Chẳng có hiệu quả. Nhưng nói chung có làm vẫn tốt hơn không làm, vẫn còn biết kiếm vài vị sư tụng kinh, hồi hướng, vẫn còn biết mình có tội. Nhưng phải biết hiệu lực của cách làm trên hình thức như vậy này rất kém, chẳng giúp gì được, chỉ có thể nói là trồng một chút thiện căn mà thôi, không có hiệu quả, phải làm như cô Thánh Nữ này mới có hiệu quả. Do đó nếu người con hiếu muốn siêu độ cho cha mẹ quá khứ hoặc thân bằng quyến thuộc thì phải hiểu đạo lý này. Thỉnh pháp sư tụng kinh siêu độ thì chính mình phải tham dự vào buổi tụng kinh, tại sao vậy? Vì mình không quen thuộc nghi thức, không biết tụng, nên phải tụng theo pháp sư. Ai siêu độ? Tự mình siêu độ, pháp sư chỉ là người trợ duyên, hướng dẫn bạn làm việc này, tự bạn phải chân tâm sám hối, phải khế nhập cảnh giới, được vậy thì người mà bạn muốn siêu độ mới được độ, thật sự có phước. Nếu hoàn toàn giao việc siêu độ này cho các vị pháp sư, còn mình thì ở đó xem như chẳng có chuyện gì xảy ra, như vậy chẳng có tác dụng gì hết, chẳng có cảm ứng gì cả.
Thậm chí lúc tôi vừa mới học Phật, chưa xuất gia, cũng chưa quy y, chỉ vừa tiếp xúc đến Phật pháp, có một hôm đi chơi, đến chùa chơi, ngay lúc ấy trong chùa đang làm Phật sự, đại khái là siêu độ cho cha mẹ của một ông nọ. Pháp sư ở bên ngoài tụng kinh, người nhà ở phía trong cười giỡn, vui vẻ đánh bài tứ sắc, tôi nhìn thấy thiệt chẳng ra gì. Giống cái gì? Giống như cha mẹ chết đi rất tốt, cả nhà rất vui vẻ, cả nhà chẳng có tâm niệm bi thương gì cả. Ðến lúc kêu ra lạy, pháp sư kêu: “Đến đây ! Các vị ra lạy một cái đi!” Người nhà nói: “Dạ, mau mau đi ra lạy.” Lạy xong vừa trở vô bèn ngồi ngay vào bàn đánh bài tiếp, thiệt chẳng ra giống gì, người hiện nay chẳng hiểu lễ nghĩa gì cả, chẳng hiểu chân tướng sự thật, vô cùng đáng thương, thật đúng như trong kinh Phật gọi họ là những người đáng thương xót, chúng ta phải thể hội ý nghĩa của câu này.
Chúng ta phải trải qua 1000 lần khuyên bảo, mười ngàn lần khuyên bảo, quay đầu được xem như là người có căn tánh lớn rồi, là không phải người thường. Người thường là như thế nào? Trong đời này họ có cơ hội gặp được Phật pháp, Phật khuyên họ một đời mà không tỉnh ngộ, vẫn tạo nghiệp, vẫn trôi lăn trong luân hồi. Kiếp sau nếu được làm người lại nghe được Phật pháp, Phật lại khuyên họ một đời cũng không khai ngộ. Vậy thì chúng ta biết rằng, trong đời này gặp được Phật pháp, nghe Phật pháp có thể giác ngộ, có thể quay đầu, có thể tin, nguyện cầu sanh về Tịnh Độ, thì người này giống như trong kinh Kim Cang nói, tuyệt đối họ không phải trong 3-4-5 kiếp trước trồng thiện căn, mà là gì? Họ đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trong vô lượng kiếp tích lũy thiện căn phước đức nhân duyên, ngày nay thành thục, rất đáng chúc mừng cho họ. Cho nên chúng ta biết rằng, đời này chúng ta không khai ngộ là rất bình thường, vì sao vậy? Vì trong kiếp quá khứ không trồng thiện căn phước đức lớn như vậy.
Nhưng Phật pháp không có định pháp, hoàn toàn là sống động, trong kiếp quá khứ không trồng thiện căn sâu dày, nếu có một- hai kiếp thì cũng có thể, đời này chúng ta đã gặp rồi, có thành tựu được không? Đây là pháp bất định. Đại sư Thiện Đạo nói rất hay: “ở chỗ gặp duyên không giống nhau”. Câu này giải thích rất hay, phước đức nhân duyên trong kiếp quá khứ không được sâu dày, kiếp này gặp được duyên vô cùng thù thắng, thì cũng có thể thành công. Nếu đời này gặp duyên không tốt, đời này không thể thành tựu, bởi thiện căn phước đức nhân duyên của quý vị không đủ. Gặp được duyên thù thắng, đủ để bù lại thiện căn phước đức nhân duyên còn thiếu của quý vị, điều này rất hay.
Nếu chúng ta muốn hỏi, phước duyên thiện căn là gì? Trong đời của quý vị gặp được một thiện hữu mà trong tâm của quý vị khâm phục nhất, thiện hữu này có thể là thầy của quý vị, có thể là bạn học của quý vị, không nhất định là địa vị nào. Trong tâm quý vị kính phục họ nhất, tin tưởng họ nhất, không chút hoài nghi về họ, đây gọi là chân thiện tri thức. Quý vị có duyên gặp được, họ dạy quý vị niệm Phật quý vị tin, họ giảng kinh cho quý vị quý vị hiểu được, họ dạy quý vị cách học như thế nào quý vị cũng chịu nghe, trong đời này quý vị vãng sanh thế giới Cực Lạc là thành tựu rồi, đây là thật không phải giả.
Tôi là một điển hình, lúc trẻ tôi rất cống cao ngã mạn, không phục ai, trong ngôn luận tôi có rất nhiều đạo lý không chân chánh, tự cho mình là đúng. Nhưng tôi gặp được ba người, đều là từ trong tâm tôi khâm phục họ, nghe họ. Thầy Phương Đông Mỹ, đại sư Chương Gia, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, đây chính là câu đại sư Thiện Đạo nói: “gặp duyên bất đồng”.
Nếu tôi không gặp được ba vị này, thì tôi đi con đường nào? Ba đường ác, không phải tôi đi con đường phước huệ, không phải tôi đi con đường này, mà tôi đi ba đường ác. Gặp được ba vị thầy này, đã chuyển đổi toàn bộ quan niệm, tư tưởng, phương hướng, mục tiêu của tôi. Lúc đó chuyển đổi không phải là Tịnh Độ tông mà là đại thừa. Điều này nói lên rằng trong kiếp quá khứ tôi đã từng học qua đại thừa, tuy nhiên đã bị mê hơn 20 năm, có người nhắc nhở, sanh tâm hứng thú, hứng thú rất sâu dày. Từ trong đại thừa tôi mới tin Tịnh Độ, thật không dễ chút nào! Thầy Lý tận tình giới thiệu Tịnh Độ cho tôi, tôi hiểu, tôi cám ơn, tôi không phản đối, nhưng tôi không muốn học pháp môn này. Nguyên nhân vì sao? Vì tôi thật sự không hiểu được rõ ràng về Tịnh Độ, kinh điển Tịnh Độ này nói rất rõ ràng minh bạch, quả thực không dễ.
Thời gian phàm phu tu hành thành Phật rất dài, nguyên nhân tại sao? Vì có tiến có thoái, thông thường mà nói thì tiến ít, thoái nhiều, gọi là bồ đề đạo khó hành. Nếu chỉ có tiến mà không thoái, thì chúng sanh thành Phật không khó. Chỉ có tiến mà không có thoái, thì chỉ có một nơi, một đạo tràng, tức là thế giới Cực Lạc, vãng sanh thế giới Cực Lạc, mặc dù là cõi Phàm Thánh Đồng Cư hạ hạ phẩm vãng sanh họ cũng không thoái chuyển. Không giống thế giới chúng ta, đời này gặp được Phật pháp xuất gia tu hành, tu không tốt vẫn đọa địa ngục, khi đọa địa ngục thì mức độ thoái chuyển lớn. Ra khỏi địa ngục là tu đến địa vị bây giờ, mất bao lâu thời gian? Cho nên người xưa nói “lỡ chân một bước, ân hận suốt đời”, sự hình dung này không giả chút nào.
Tôi thật sự tin là từ 53 lần tham vấn trong kinh Hoa Nghiêm, từ chương 25 Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm, phát hiện pháp môn đặc biệt của ngài Quan Âm và ngài Thế Chí. Nếu không phải là nền tảng của những đại kinh đại luận, Tịnh Độ Tông không có những vị như ngài Liên Trì ngài Ngẫu Ích, thì tôi không quy y. Bắt đầu từ khi tôi học Phật cho đến lúc theo Tịnh Độ tông, học Phật khoảng hơn 20 năm tôi mới thật sự tin. Cho nên tôi khẳng định lời chư Phật Như Lai nói, pháp môn này là pháp môn khó tin, rất khó tin! Những lớp trẻ bây giờ tư tưởng khoa học đầy đầu, điều khó trong khó, nếu nghe được mà họ tiếp nhận, tin tưởng, thì họ đại thiện căn, đại phước đức. Vấn đề ở chỗ họ có đại nhân duyên hay không? Nếu họ có đại nhân duyên, thì đời này họ sẽ thành tựu. Không có đại nhân duyên, tuy có đại thiện căn, đại phước đức, có vãng sanh được hay không thì không nhất định, vẫn chưa biết, có thể sanh Tịnh Độ, cũng có thể không sanh Tịnh Độ.
Ðời sống của chúng ta khổ, phải nghĩ đến những người khác trên thế gian này còn khổ hơn mình, chúng ta không sợ khổ, vì có khổ nên chúng ta mới thể hội đến hết thảy chúng sanh khổ. Nếu chúng ta sống trong hoàn cảnh rất giàu sang, khi người ta nói khổ thì mình chẳng thể hội được, chỉ khi mình đã từng trải qua sự khổ này rồi mới biết khổ là gì, tâm giúp đỡ khổ nạn chúng sanh mới thiết tha. Nếu chưa từng trải qua khổ nạn, bạn muốn “vì khổ nạn chúng sanh” nhưng chẳng thể nào thể hội được cái tâm ấy.
12 Minh sư’ là người đã từng trải qua, có tu có chứng, ngày nay chúng ta đi đâu tìm được minh sư như vậy?
Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam thiện nữ nào đối với kinh điển Đại Thừa sanh lòng trân trọng thâm sâu, phát tâm không nghĩ bàn muốn đọc, muốn tụng, dầu gặp được bậc minh sư dạy bảo cho thành thục, song đọc rồi lại quên, trải đến cả tháng, cả năm vẫn không đọc tụng được; những kẻ thiện nam này vì có nghiệp chướng đời trước chưa trừ sạch, cho nên đối với kinh điển Đại Thừa không có tánh đọc tụng.
Câu này dạy chúng ta phương pháp cầu trí huệ. Vì nếu không có trí huệ, muốn tu học Đại Thừa không những chẳng thể khai ngộ, ngay cả kinh văn cũng chẳng thuộc. Trong thời đại chúng ta, những người trung niên trở lên học Phật thường gặp phải sự khó khăn này. Người trẻ tuổi học Phật vẫn là thiểu số, họ phải là người đời trước có thiện căn sâu dày thì lúc còn trẻ mới có thể tiếp xúc tới Phật pháp. Tôi có cơ hội tiếp xúc Phật pháp lúc 26 tuổi, lúc đó tôi biết đã quá trễ, gặp được Phật pháp quá trễ rồi, lúc trẻ tuổi, trong thời gian tốt nhất để học Phật tôi chẳng có duyên phận gặp được Phật pháp, đến lúc có thể hiểu sự việc, có thể giác ngộ thì tuổi đã cao, đọc tụng tương đối khó khăn. May là đời trước còn có một chút thiện căn, trong thế gian còn chưa bị mê hoặc, khi gặp được kinh điển Đại Thừa tôi vô cùng hoan hỷ, thích thú nghiên cứu, đọc tụng, có thể hiểu sâu nghĩa thú. ‘Túng ngộ minh sư’ (Dù gặp minh sư), câu này rất khó thực hiện. ‘Minh sư’ là người đã từng trải qua, có tu có chứng, ngày nay chúng ta đi đâu tìm được minh sư như vậy? Cổ đại đức thế gian và xuất thế gian thường nói ‘thiện tri thức có thể gặp chứ không thể cầu’, có thể gặp được là nhờ thiện căn, nhân duyên đời trước, nếu đời trước không có thiện căn, phước đức, nhân duyên thì bạn làm sao gặp được? Thiện căn phước đức mỏng, gặp rồi nhưng không chịu tin, không chịu tiếp nhận lời dạy, cho dù tiếp nhận nhưng chỉ tiếp nhận bề ngoài, còn bên trong thì trái nghịch, cho nên người đó sẽ không thể thành tựu.
Tiên sinh Phương Đông Mỹ ở Đài Loan dạy học, Chương Gia đại sư, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam vô cùng nhiệt tâm dạy người ta, nhưng có mấy ai chịu nghe lời? Có mấy ai chịu y giáo phụng hành? Các ngài mỗi ngày dạy học, mỗi ngày đều khuyên học trò, khổ nỗi người học bên ngoài thì vâng lời, còn bên trong thì chống trái. Tuy vậy, người dạy cũng không nản chí, đây là đại từ đại bi. Tuy bạn không vâng lời, chỉ cần bạn chịu đến nghe, không làm cũng không sao, các ngài gieo hạt giống thiện căn cho bạn. Biết đời sau kiếp sau, hoặc đời sau kiếp sau nữa, một khi gặp duyên trở lại thì hạt giống thiện căn của bạn sẽ khởi lên. Biết rõ họ làm không nổi, chỉ cần họ chịu đến nghe thì các ngài đều dạy. Nếu bạn nghe hiểu rồi, hiện nay có thể làm được thì hiện nay được lợi ích. Những người như vậy vẫn là thiểu số. Thầy Lý ở Đài Trung giảng kinh thuyết pháp ba mươi tám năm, người nghe thầy giảng kinh thuyết pháp, tôi phỏng đoán rất dè dặt cũng phải vượt hơn năm trăm ngàn người, người y giáo phụng hành vãng sanh Tịnh Độ có chừng năm trăm người, chư vị nghĩ coi trong năm trăm ngàn người chỉ có năm trăm người vãng sanh, những người còn lại chỉ trồng thiện căn mà thôi. Do đó lão nhân gia thường nói ‘trong một vạn người hiếm có được vài người vãng sanh’, vấn đề là bạn nghe xong có hiểu hay không? Có phát tâm sốt sắng thực hành hay không? Nhất định phải có thể tin, có thể hiểu, có thể nguyện, có thể hành thì bạn mới được lợi ích. Cho nên điều kiện đầu tiên cho sự học Phật là gặp được thầy tốt, đây là điều kiện then chốt quyết định sự tu học cả đời của mình sẽ thành công hay thất bại.
Thầy giáo dạy chúng ta như vậy, nói thật ra chúng ta vừa nghe rồi liền quên, ‘toàn đắc toàn vong, động kinh niên nguyệt, bất năng độc tụng’(phút chốc được, phút chốc mất, trải qua năm tháng chẳng thể đọc tụng). Chúng ta vẫn tùy thuận phiền não, tùy thuận tập khí, chẳng thể khắc phục phiền não tập khí của mình, do đó trong kinh giáo không thể khai ngộ, đây là điều chúng ta nên phản tỉnh, kiểm thảo, thì chúng ta mới có thể tìm ra lỗi lầm của mình, mới biết nghiệp chướng của mình nặng bao nhiêu. Tự mình phải khẳng định là nghiệp chướng của mình nặng nề, có vậy thì bạn mới có thể khởi ý niệm tiêu nghiệp chướng, không tiêu trừ nghiệp chướng thì không được, nếu không tiêu trừ thì sẽ tiếp tục làm chuyện luân hồi trong sáu nẻo. Chư vị phải biết, khi luân hồi thì chúng ta sẽ quên hết những gì chúng ta học được trong đời này, làm sao biết được? Đời trước chúng ta đã từng học Phật pháp rồi, đời này lúc chưa tiếp xúc với Phật pháp không phải đã quên ráo trọi rồi sao? Bị cái mê khi cách ấm (nghĩa là bị mê khi chuyển sanh sang đời khác). Đời sau phải học lại từ đầu, đời sau có cơ hội gặp được minh sư hay không? Rất khó nói, chắc chắn không phải đời nào bạn cũng may mắn gặp được, chẳng có chuyện may mắn như vậy, bài kệ khai kinh nói ‘Trăm ngàn muôn kiếp khó gặp được’, lời này là thật. Cho nên nếu đời này không thể thành tựu, một khi mất thân người, tuyệt đối không thể nói là đời sau bạn sẽ gặp được, rất có thể là bạn sẽ bị ngăn cách hết mấy chục đời, mấy trăm đời, cho đến không biết bao nhiêu kiếp sau mới có cơ duyên gặp lại. Đây là nói về việc thoái chuyển, thời gian thoái chuyển này quá dài! Đây là điều chúng ta nhất định phải hiểu rõ, phải hiểu cho thật rành rẽ. Sau đó mới biết cơ duyên này hy hữu khó gặp, gặp rồi thì nhất định phải nắm chắc, tuyệt đối không thể thả lỏng, có gian khổ tới đâu cũng phải chịu đựng, cũng phải thành tựu ngay trong đời này, vậy mới là người thông minh, mới là người thật sự giác ngộ, là người thật sự có trí huệ.
Nói thật ra, đức Phật nói hạng người này rất nhiều, đại đa số những người học Phật đều là hạng người này. Những thiện nam tử này có nghiệp chướng từ đời trước, nghiệp chướng chưa tiêu trừ. Phía trước đã nói cho chư vị biết phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng, ‘quy y cúng dường’, cúng dường là y giáo tu hành, cúng dường thì sẽ tiêu trừ được. Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng có hiệu quả nhất, nhanh chóng nhất là nhất tâm niệm Phật. Thân tâm thế giới, thế pháp, Phật pháp thảy đều buông xuống, nhất tâm niệm Phật, khuyên người niệm Phật, phương pháp tiêu nghiệp chướng này nhanh chóng hơn bất cứ phương pháp nào khác. Bạn có thể đạt được Niệm Phật Tam Muội, Niệm Phật Tam Muội chính là thiền định, bạn có thể chứng được Lý Nhất Tâm Bất Loạn, trong Giáo Hạ gọi là Đại Khai Viên Giải, trong một đời này có thể làm được, người có nghiệp chướng cực nặng cũng có thể làm được. Đây chính là điều mà ngài Thiện Đạo nói ‘gặp duyên chẳng giống nhau’, người có nghiệp chướng nặng hơn nữa cũng có thể làm được. Khi bạn đạt được Niệm Phật Tam Muội thì trí huệ sẽ mở mang, bạn có thể hoằng pháp lợi sanh hay không? Không nhất định. Tại sao vậy? Phải coi pháp duyên, tuy bạn đã khai ngộ, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh nếu bạn không có pháp duyên, tuy bạn có thể giảng rất hay, nhưng người ta sẽ không nghe. Đến lúc đó thì phải làm sao? Hơn phân nửa là vãng sanh tới thế giới Cực Lạc.
Do đó người thành tựu đạo nghiệp trú hay không trú ở thế gian này chẳng phải là chuyện của chính bản thân họ, chẳng có quan hệ gì đối với nghiệp báo của chính họ. Trú hay không trú ở thế gian đều coi pháp duyên, nếu có duyên thì trú vài năm, nếu không duyên thì lập tức vãng sanh. Người thành tựu vãng sanh sẽ nhất định không có bịnh khổ, nhất định sẽ tự tại vãng sanh, nhưng họ thị hiện không nhất định đều giống nhau. Cũng có người thị hiện sanh bịnh, cũng có người thị hiện rất khổ, tại sao vậy? Vì muốn giác ngộ hết thảy chúng sanh, làm cho người ta nhìn thấy tướng trạng đó có thể khởi tâm cảnh giác. Thị hiện cũng chẳng phải ý tứ của người đó, họ sẽ coi duyên của chúng sanh, nên thị hiện như thế nào thì họ sẽ thị hiện như vậy, đúng như câu nói ‘tùy loại hóa sanh, tùy cơ thuyết pháp’, đâu có nhất định phải như thế nào? Nhưng có một nguyên tắc, bất luận là thị hiện như thế nào thì nhất định phải đem lại lợi ích cho chúng sanh, khi có người nhìn thấy, có người nghe đến thì họ nhất định sẽ tỉnh ngộ.
13 Cho nên việc tiêu nghiệp chướng rất quan trọng, thông thường chúng ta thường dùng phương pháp đọc kinh để tiêu nghiệp chướng, đọc tới tương ứng thì sẽ tiêu nghiệp chướng, niệm Phật niệm tới tương ứng sẽ tiêu nghiệp chướng.
Trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, khi khởi tâm động niệm đều đem lợi ích lại cho xã hội, cho chúng sanh thì cũng tiêu nghiệp chướng. Tuyệt đối đừng khởi một niệm mong cầu lợi ích cho mình, chư vị nên biết, lợi ích cho mình là tạo nghiệp, là tăng thêm nghiệp chướng của mình. Rất nhiều đồng tu không thể tiêu nghiệp chướng, cho dù làm việc thiện, hạnh thiện, làm công việc từ thiện giúp đỡ người khác, nhưng họ vẫn còn ‘cái Ta’, nên nghiệp chướng của họ tiêu không nổi, họ vẫn phải chịu quả báo. Ngày nay chúng ta thật may mắn đã biết được đạo lý này, hiểu được chân tướng sự thật này nên nhất định phải buông bỏ cái Ta đi, hết thảy đều vì chúng sanh, vì xã hội, vì hình tượng tốt đẹp cho Phật pháp, vì Phật pháp trụ thế lâu dài; nếu chúng ta có thể luôn giữ tâm này, thường tu hạnh này thì nghiệp chướng sẽ tiêu trừ nhanh chóng.
Khi lâm chung không đoạn tận được tham dục, đọa vào đường ngạ quỷ. Nếu khi lâm chung có người làm họ không vừa lòng, họ còn oán hận: Tôi chưa trả thù họ. Ý niệm này khởi lên, liền đọa vào đường địa ngục. Khi lâm chung mê hoặc, không phân được thị phi chân vọng, đọa vào đường súc sanh. Thế nên người tu hành chân chính, thật sự có chút công phu, khi lâm mạng chung, một ý niệm sai lầm đã đọa vào ba đường ác, có chăng? Có! Không phải một hai người mà rất nhiều người.
* Mỗi người vãng sanh về thế giới Cực Lạc, cho đến loài súc sanh, cho đến loài ngạ quỷ, cho đến địa ngục. Địa ngục có thể vãng sanh thế giới Cực Lạc chăng? Có! Ngạ quỷ cũng có. Hiện nay hình như tôi đều nghe người ta nói, rất nhiều người nói với tôi: Quỷ, súc sanh vãng sanh nhiều hơn người, số lượng người vãng sanh không bằng ngạ quỷ súc sanh, nói như vậy có đạo lý chăng? Suy nghĩ tường tận rất có đạo lý, không phải giả.
* Chúng sanh trong ba đường ác, vãng sanh đến thế giới Cực Lạc, họ dựa vào điều gì? Những gì tu được trong quá khứ. Đời này đọa vào tam đồ, trong kinh có ví dụ nói: “phú quí học đạo nan”, cuộc sống người giàu có quá thoải mái, nên không muốn học đạo, họ lưu luyến cuốc sống hiện tại. Thứ hai “bần cùng học đạo nan”, ngày ba bửa cơm ăn không đủ no, làm gì có tâm để học Phật. Chúng ta đặc biệt dùng ví dụ sau cùng này, ba đường ác giống như người bần cùng, họ quá khổ, họ còn có tâm tư nào để học Phật? Họ đạt được lợi ích trong Phật pháp, toàn là nhờ phước tu ở nhân gian trong quá khứ, tu không tệ. Khi lâm mạng chung, một ý niệm sai lầm mà bị đọa vào tam đồ. Họ tu rất tinh tấn!
Trước đây thầy Lý nói với tôi, ông dùng Liên Xã Đài Trung làm ví dụ: Một vạn người niệm Phật, thật sự vãng sanh chỉ có năm ba người, còn đại đa số đi về đâu? Đọa vào ba đường ác, do một niệm sai lầm khi lâm chung. Một niệm sai lầm khi lâm chung này rất dễ, nên chúng ta phải đề cao cảnh giác, sợ khi lâm mạng chung không giữ mình được. Phương pháp tốt nhất chính là buông bỏ vạn duyên ngay bây giờ, nhất tâm chuyên niệm Phật A Di Đà. Khi lâm mạng chung không nhất định đến hết thọ mạng, quý vị niệm đến công phu thành phiến tự nhiên được vãng sanh, muốn đi lúc nào thì đi lúc đó, như vậy mới nắm chắc được.
Thật sự là nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo, vãng sanh khi còn sống, không phải chết rồi mới vãng sanh, thọ mạng vẫn còn nhưng không cần. Chúng ta vừa khởi lên ý niệm, không cần thọ mạng này nữa, Phật A Di Đà biết ngay, ngài liền hẹn giờ đến đưa chúng ta đi, quý vị nghĩ xem tự tại biết bao. Người như vậy có, không phải không có, đôi lúc chúng ta nhìn thấy, nghe được thì nhiều, đây là thật không phải giả. Thế nên ngay trong đời này, chỉ cần còn hơi thở thì chúng ta vẫn còn cơ hội này, không có hơi thở vào là chúng ta đã mất cơ hội, tùy nghiệp lưu chuyển, đây là điều rất đáng sợ.
Danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần ở thế gian đều không quan trọng, đây là giả tướng, thời gian rất ngắn ngủi, sau khi chết không mang gì theo được. Thật sự cảnh giác được, buông bỏ vạn duyên nhất tâm niệm Phật sẽ thành công. Có năng lực, vẫn còn một chút sức lực, tận tâm tận lực làm cho chánh pháp cữu trú, giúp chúng sanh đau khổ phá mê khai ngộ, công đức này quả thật vô lượng.
Sự giúp đỡ của chư Phật Bồ Tát chỉ là hướng dẫn quí vị, dẫn dắt quí vị. Nhất định phải quí vị tự giác tự ngộ. Đây là thật.
Huệ Năng đại sư trong Pháp Bảo Đàn Kinh từng nói: lúc mê thì thầy độ, sư phụ độ cho con, sau khi ngộ rồi? Thì tự độ. Không dựa vào sư phụ nữa. Tuy không nhờ vào sư phụ nữa, mãi mãi cảm ơn ân đức của sư phụ. Bởi vì không có sư phụ, bản thân quí vị sẽ không tự giác. Quí vị tự giác nhờ Sư phụ. Bản thân thực sự giác ngộ rồi, thì không nhờ sư phụ nữa. Tự giác, giác tha đều là bản thân. Huệ của bản thân do tâm sanh, chân tâm sanh trí tuệ, vọng tâm sanh phiền não. Chân tâm chính là thật trí. Nói cách khác, chư Phật Bồ Tát dạy chúng ta không phải là gì khác, mà dạy chúng ta dùng chân tâm, chớ dùng vọng tâm; dùng trí tuệ chớ dùng phiền não, là tổng nguyên tắc, tổng cương lĩnh.
Chỉ cần quý vị có chút lòng chân thành, không có chút tư tâm, không có danh dự lợi dưỡng, không tham đắm ngũ dục, lục trần. Chút chân tâm này rất dáng quý, nó tương ưng với Thánh học, thông suốt với tâm tánh. Dựa vào điểm này, tôi nói thầy nhất định đạt được sự gia trì của tổ tông, Tam bảo gia hộ, thầy phải tiếp tục nổ lực.
Phương pháp học như thế nào? Học những điều có thể hiểu trước, quí vị học nó trước, những điều xem không hiểu thì để đó, chớ động đến nó. Đợi năm - ba năm sau, bây giờ xem không hiểu, nhưng đến lúc đó sẽ hiểu hết. Đến tám-mười năm sau không những hiểu hết mà còn thông suốt, thông suốt rồi thì khế nhập cảnh giới. Ấn Độ và Trung Quốc cổ xưa, học mọi thứ không chú ở số lượng nhiều, gọi là “nhất môn thâm nhập trường thời huân tu”, đạo lý là ở chỗ này.
Một người chưa hiểu gì, chưa học gì nhiều, thậm chí có người không biết chữ. Pháp sư Đàm Hư trong Ảnh Trần Hồi Ức Lục nói rằng: một pháp sư phơi đèn cầy, pháp sư này tên gì tôi quên mất rồi. 30 năm trước, tôi giảng kinh ở Hong-Kong có nghe nói, pháp sư này là thầy hương đăng, thầy hương đăng tức là người phụ trách hương, đèn, và thắp hương trên chánh điện. Pháp sư quản lý những việc này. Vào tháng 6 mọi người phơi áo quần, kinh sách trong chùa đều đem ra phơi, hồi trước là dùng dây đóng sách, những kinh sách này phải phơi, mỗi năm phải phơi một lần. Có người nói đùa với pháp sư rằng: “thầy hương đăng à, những cây đèn cầy đó thầy cũng đem ra phơi đi”, quý vị xem, thật rất thật thà, thầy liền mang đèn cầy ra phơi, thầy phơi đến chiều thì đèn cầy đó chảy tan hết. Hết cách rồi, buổi tối khi đại chúng tụng kinh, thì thầy đem cái tim đèn cầy đã chảy tan đó đốt lên, chẳng người nào nhịn cười được. Thầy duy na tìm đến vị trụ trì, làm sao bây giờ? Ông ta khờ đến như vậy. Vị trụ trì này rất giỏi, Ngài trì biết nhìn người, người này sau này có thể thành tựu, đây là một nhân tài. Vị trụ trì nói: được rồi, đổi người khác, bảo ông ta đừng làm hương đăng nữa, bảo ông ta đến chùa A Dục Vương, lạy xá lợi Phật Thích Ca Mâu Ni, quy định ông ta một ngày 3 ngàn lạy. Lạy xá lợi Phật Thích Ca Mâu Ni, thầy lạy như vậy 3 năm thì khai ngộ, thầy có thể làm thơ, có thể sáng tác kệ, có thể giảng kinh. Từ chỗ không biết gì cả biến thành thông tất cả. Đó là gì? Cổ kim trong ngoài, bí quyết của người thành công, thầy có đủ. Bí quyết này là mấy chữ: thật thà, vâng lời. Quý vị thấy thầy thật thà, vâng lời. Bảo thầy phơi đèn cầy, thầy liền mang đèn ra phơi, thầy đúng là biết vâng lời và thực hành điều đó.
Chỉ cần có đủ 6 chữ này, chắc chắn con người sẽ thành tựu. Chúng ta quan sát thật kỹ, cổ kim trong ngoài, phàm là người thành tựu, chắc chắn phải có đủ 6 chữ này. Cho nên nói mấy vị thầy giáo của chúng tôi, chỉ cần có đủ điều kiện 6 chữ này là tốt rồi.
Cư sĩ Lưu Tố Vân ở Đông Bắc, đã làm tấm gương tốt cho chúng ta noi theo. Cho nên đối với bản thân phải có niềm tin, đây mới là điểm mấu chốt của sự thành bại. Mình không có niềm tin vào chính mình, thì không thể thành tựu. Quý vị nghĩ xem, tín tâm quan trọng chừng nào. Mình mà còn nghi ngờ chính bản thân mình thì chịu thôi.
Cổ kim trong ngoài, bí quyết của người thành công, thầy có đủ. Bí quyết này là mấy chữ: thật thà, vâng lời. Quý vị thấy thầy thật thà, vâng lời. Bảo thầy phơi đèn cầy, thầy liền mang đèn ra phơi, thầy đúng là biết vâng lời và thực hành điều đó.
Chỉ cần có đủ 6 chữ này, chắc chắn con người sẽ thành tựu. Chúng ta quan sát thật kỷ, cổ kim trong ngoài, phàm là người thành tựu, chắc chắn phải có đủ 6 chữ này. Cho nên nói mấy vị thầy giáo của chúng tôi, chỉ cần có đủ điều kiện 6 chữ này là tốt rồi.
Chúng ta oán hận một người, quý vị có nghĩ đến chăng, họ sẽ lấy oán hận đến báo thù chúng ta, đây gọi là oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp không bao giờ dứt. Quý vị nghĩ xem như vậy đáng thương biết mấy, đau khổ biết mấy, vì không giác ngộ! Thật sự giác ngộ, tôi hy vọng trong đời này của tôi, bỏ qua hết tất cả những ân oán này. Người khác hại tôi, tôi tiếp nhận, và dùng chân thành, sám hối, cảm ân để hóa giải sự việc này. Người khác gia hại, tôi tiếp nhận, vĩnh viễn hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Đem tâm báo thù_lúc nãy nói: Oán hận não nộ phiền, bỏ qua tất cả. Ở trong cảnh giới tu tâm thanh tịnh, tu tâm bình đẳng, công phu chân thật! Không có cảnh giới này, làm sao biết được tâm quý vị thanh tịnh? Làm sao biết được công phu tu hành của quý vị nâng cao? Quý vị không nhận ra được, lại tự cho rằng mình rất đáng nễ, cảnh giới vừa hiện tiền, tập khí phiền não lại hiện ra tất cả. Điều này chứng tỏ quý vị không có chút công phu nào.
Trong khi tôi giảng dạy cũng trình bày rất nhiều lần, phải tu như thế nào? Ngày ngày đọc kinh cũng vô dụng, ngày ngày giảng kinh cũng vô dụng. Đem những gì nghe được, những gì nói ra, tất cả đều thực hiện trong cuộc sống, chuyển cảnh giới, rất hữu ích. Đó gọi là chân tu, đó mới gọi là thật đệ tử Phật. Dù thiên tai có lớn đến trước mặt cũng đều hóa giải hết, không còn nữa. Dù oán hận lớn bao nhiêu đến trước mặt chúng ta, trí tuệ hiện tiền, nó lập tức chuyển ngay, biến thành gì? Biến thành cảm ân, biến thành phản tỉnh.
Đến các bậc thánh nhân đều dạy chúng ta: “Hành hữu bất đắc, phản cầu chư kỷ”, không dạy chúng ta đi tìm người khác. Người khác cái này không đúng, cái kia không đúng. Người khác đều đúng, đầu tiên quý vị phải thừa nhận điều này, người khác đều đúng, tôi không đúng. Quý vị mới được cứu! Tôi đều đúng, họ đều không đúng, vậy là xong, quý vị sẽ đối lập nhau từ đời này qua đời khác, oan oan tương báo không bao giờ dứt.
Đời này tôi học Phật suốt 60 năm, đạt được chút lợi ích, chính là biết phản tỉnh chính mình, xưa nay chưa từng nói điều sai trái của người khác, quý vị theo tôi nhiều năm có thể nhận ra điều này. Chịu uất ức như thế nào, đả kích ra sao, cũng coi như không có việc gì. Tôi phản tỉnh, tôi không đúng, họ đều đúng. Đây là phương pháp trí tuệ giải quyết vấn đề cao độ, đây là thật không phải giả.
Từ mặt nhân quả mà nói, chúng ta càng nên phản tỉnh. Họ hủy báng tôi, sỉ nhục tôi, vì sao họ không hủy nhục người khác, vì sao không sỉ nhục người khác, mà chỉ đối với mình tôi? Trong kinh Phật thường nói: Nghiệp nhân quả báo không thể nghĩ bàn. Cũng có thể trong đời quá khứ tôi đối đãi với họ như vậy, ngày nay gặp lại họ muốn báo thù tôi tất cả, tôi hiểu rõ nên không thể dùng cách báo thù đối với họ. Họ dùng thái độ này để đối phó tôi, tôi trả thù họ, đời sau họ lại trả thù tôi. Như vậy không phải chúng ta cứ đời đời kiếp kiếp trong lục đạo không bao giờ dứt ư? Nên biết, song phương đều đau khổ, sao phải như vậy? Chi bằng thừa nhận, tiếp nhận, cảm ân. Chẳng những không có oán hận, mà còn hoan hỷ, cám ân, tôi tiếp nhận. Quá khứ tôi có điều gì có lỗi với quý vị, hiện nay trả, món nợ này đã trả xong. Quý vị nói an vui biết mấy! Thoải mái biết mấy!
Người khác nợ tôi tiền, không cần nữa, rất tự tại! Vì sao? Trả nợ. Đại khái trước đây tôi mượn họ mà chưa trả, hôm nay họ dùng phương pháp này lấy lại, tốt thôi, đã trả xong. Các bậc cổ đức nói: “Lùi một bước biển rộng trời cao”. Lời nói này quả thật không sai. Thật sự có thể làm được trong đời này, đối với người không tranh, đối với đời không cầu. Cuộc sống nên học Đức Thế Tôn, nên học thánh hiền_đơn giản, cuộc sống khổ một chút cũng tốt. Tốt ở đâu? Đối với thế gian không còn lưu luyến. Cuộc sống thoải mái quá, không muốn lìa xa lục đạo. Cuộc sống quá cực khổ, mỗi niệm đều muốn về thế giới Cực Lạc, vì sao? Vì không lưu luyến thế gian này, đây là việc tốt!
Tiền nhiều, địa vị cao, có lợi ích gì? Tăng trưởng sự lưu luyến của quý vị đối với thế gian, tăng trưởng tình chấp của quý vị. Nói cách khác, kéo dài thời gian trong luân hồi lục đạo của quý vị, điều này không có lợi. Thật sự hiểu, thật sự minh bạch, tôi không làm điều này, niệm niệm đều cầu sanh thế giới tây phương Cực Lạc.
Ngày nay chúng ta gặp được bộ kinh này quả thật không dễ. Kinh Vô Lượng Thọ_Trong cuộc đời của Đức Thế Tôn, ngài giảng rất nhiều kinh. Nếu chúng ta hỏi, trong đời ngài giảng nhiều kinh như vậy, vậy bộ kinh nào quan trọng nhất? Nói cho quý vị biết, chính là Kinh Vô Lượng Thọ. Quý vị xem rất nhiều kinh điển như vậy, nhưng có thể độ chúng sanh thì không nhiều, đây là khế cơ. Duy chỉ có Tịnh độ, trong pháp vận một vạn hai ngàn năm của Thế Tôn, đều khởi tác dụng. Có thể độ tận chúng sanh có duyên của một vạn hai ngàn năm, độ tận chúng sanh có duyên chính là pháp môn này, cần phải hiểu điều này.
Giới luật chỉ có thể độ thời chánh pháp, 1000 năm chánh pháp đã qua, giới luật cũng vô hiệu. Thiền định chỉ có thể độ thời tượng pháp, tượng pháp cũng là 1000 năm. Đã qua thời kỳ tượng pháp, hiện nay tu thiền định không được định, đừng nói khai ngộ, định cũng không đạt được. Nên pháp môn niệm Phật này, chánh pháp hữu hiệu, tượng pháp hữu hiệu và mạt pháp cũng hữu hiệu, đây không phải là đệ nhất kinh ư? Thế nên khi Phật tại thế tuyên thuyết rất nhiều lần.
Từ trong năm nguyên bản dịch, nhận định của các bậc cổ đức đều nhất trí, ít nhất Phật giảng qua ba lần. Nhưng Kinh Vô Lượng Thọ, còn có bảy bản dịch thất truyền. Nếu còn bảy bản đó, có thể lại thấy được một số bất đồng, như vậy thì không chỉ ba lần, có thể bốn lần, năm lần, sáu lần. Trong đời ngài giảng nhiều lần như vậy, dụng ý là gì? Nếu chúng ta lãnh hội được khổ tâm lúc hiện thân thuyết pháp của Thế Tôn, nếu có thể lãnh hội được một phần, liền khởi lên một phần lòng cảm ân. Lãnh hội được hai phần, thì khởi lên hai phần lòng biết ơn, vì sao? Vì chúng ta thật sự hiểu được ngài. Nếu chúng ta không lãnh hội được gì, như vậy không sanh khởi được lòng cảm ân. Quý vị lãnh hội được mười phần, liền có mười phần lòng cảm ân, sẽ tôn trọng Phật, hiếu thuận Phật. Ngài xuất hiện ở thế gian, chính là vì những chúng sanh đau khổ như chúng ta, chúng ta phải trực tiếp gánh vác. Trực tiếp gánh vác như thế nào? Phật thị hiện chính là vì chúng ta, giảng kinh thuyết pháp 49 năm chính là để độ chúng ta.
Đức Phật diệt độ đến nay đã 3000 năm, sau 3000 năm ta mới được độ. Vì sao Phật tại thế chúng ta không được độ? Không tin tưởng, không có lòng tôn trọng đối với Phật. 3000 năm nay đời đời kiếp kiếp, trồng được một chút thiện căn. Ngày nay một chút thiện căn phước đức này khởi hiện hành, cố gắng nắm bắt. Chân thành cung kính cầu hiểu biết, sau đó y giáo phụng hành, chắc chắn trong đời này đến thế giới Cực Lạc, không đợi kiếp sau. Đời này tôi phải đi, nhất định đi, vì sao? Vì đời này hiểu rõ Tịnh độ, biết Phật A Di Đà, biết thế giới Cực Lạc.
Chúng ta tu học pháp môn này, nắm chắc việc vãng sanh thế giới Cực Lạc. Quý vị mới được pháp hỷ sung mãn, mới có thể giống như trí tuệ và đức hạnh của Bồ Tát, ứng đối với tất cả chúng sanh hiện tại, thương yêu tất cả chúng sanh, đây chính là đại từ đại bi. Người thích quý vị thương họ, người ghét cũng thương họ, người đối địch với quý vị cũng thương họ, người hại quý vị cũng thương họ. Bình đẳng, không có phân biệt, đây gọi là hành đạo Bồ Tát, gọi là tu hành chân chánh.
Đối với những oán thân trai chủ này, đều là hiện tiền: 10 năm, 20 năm, 30 năm họ sẽ cảm động. Khi họ hiểu được, trong đời họ không gặp người thứ hai như quý vị vậy. Tôi hận và hại quý vị như vậy, quý vị vẫn ngày ngày cảm ân, hồi hướng và cầu phước cho tôi, không có ngày nào quên. Tôi tin rằng họ sẽ phát khởi tâm lành. Trong đời này, quý vị có thể gặp được người thứ hai như vậy ư? Không gặp được.
Đời đời kiếp kiếp của một người có mấy cơ hội như vậy, gặp được người dùng chân tâm đối đãi quý vị. Quý vị dùng hư vọng đối đãi người, người ta dùng chân tâm đối với quý vị, mãi mãi không thay đổi, đó là ai? Đó là một người học Phật chân chánh, không phải người học Phật chân chánh thì không làm được! Nếu quan sát tường tận từ chỗ này, người học Phật rất nhiều, người thật sự tin tưởng rất ít, người thật sự lý giải càng ít, người thật sự phụng hành ít lại càng ít hơn.
Nếu chúng ta muốn ngay trong đời này, thật sự ly khổ đắc lạc, vãng sanh Tịnh độ, quý vị không làm không được. Nếu không thay đổi những tập khí xấu này, muốn mang những tập khí xấu này đến thế giới Cực Lạc, không đi được đâu. Giống như điều gì? Như hiện nay chúng ta nhập cảnh, khi ở trong phi trường đều có người cầm nhiệt kế đo nhiệt độ cơ thể để kiểm tra. Thế giới Cực Lạc cũng như vậy, thân thể quý vị không khỏe không để quý vị đi, không đi được. Đây chính là tham sân si mạn nghi, oán hận não nộ phiền, đều là độc bệnh của quý vị. Có độc bệnh này, cho dù ngày ngày niệm Phật cũng không đi được. Ngày ngày niệm Phật phải ngày ngày học Phật, học Phật điều gì? Thay đổi tất cả những tập khí phiền não này, trừ bỏ, đoạn tận tất cả những độc bệnh này. Trong kinh Đức Phật thường dạy, điều kiện vãng sanh, điều kiện này là thật không phải giả. Quý vị cũng nghe qua nhiều lần, nhưng đã sơ suất, đức Phật nói: “Tâm tịnh tức cõi Phật tịnh”. Câu này rất quan trọng!
Trên đề kinh nói cho chúng ta ba tiêu chuẩn vãng sanh. Tối thiểu là thanh tịnh, cao hơn một chút là bình đẳng, cao nhất là giác_thanh tịnh bình đẳng chánh giác. Đây là điều kiện tất yếu để vãng sanh, ít nhất phải có tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là buông bỏ hết những độc bệnh này. Thuận cảnh, thiện duyên nhất định không tham luyến. Nghịch cảnh, ác cảnh chắc chắn không có sân nhuế. Đối với cảnh duyên thuận nghịch thiện ác đều cảm ân, chẳng có điều gì không cảm ân. Tâm như vậy, quý vị hoàn toàn tương ưng với Phật A Di Đà, và người ở thế giới Cực Lạc, làm gì có đạo lý không vãng sanh?
Chúng ta được vãng sanh chăng, có nắm chắc không, tự mình có gắng phản tỉnh là biết ngay, không cần hỏi người khác. Người khác nói với quý vị là giả, không phải thật. Vừa phản tỉnh, mở kinh điển đối chiếu sẽ hiểu ngay, tôi có tư cách đến thế giới Cực Lạc hay không.
Nhất định phải tin lời Phật dạy, trong thiên hạ chẳng ai không thể sửa đổi, chỉ cần họ có một chút thiện căn, họ sẽ thay đổi được. Không có chút thiện căn nào, gọi là nhất xiển đề, điều này rất phiền phức. Đối với hạng người này phải trồng thiện căn cho họ, phải giúp, đời này họ không thể thành tựu, thành tựu của họ ở đời sau kiếp sau. Nếu đối với kinh giáo thuần thục rồi, quý vị có thể nhận ra được điều này rất rõ ràng.
15 Đời này chúng ta thật may mắn, từ vô lượng kiếp trước đến nay, chưa từng có may mắn như vậy, vì sao?
Vì chúng ta học được bản hội tập bộ kinh này của Hạ Liên Cư, nhân duyên rất hy hữu. Đem bộ kinh mà Đức Thế Tôn nhiều lần tuyên giảng hợp thành một, nhân duyên này thật hy hữu! Sau khi Phật diệt độ 3000 năm mới xuất hiện, Hạ Liên Cư đã đến.
Điều hy hữu thứ hai là chú giải của Hoàng Niệm Tổ, vì sao ông chú giải? Ông hội tập, hội tập tất cả kinh luận để giải thích. Hội tập sự lãnh hội, báo cáo tâm đắc của Chư Phật Bồ Tát, chư vị tổ sư, đối với kinh Vô Lượng Thọ_hội tập những điều này lại một nơi, trở thành một bộ chú giải, quả thật hy hữu! Đây không phải là việc đơn giản, gọi là khó trong các điều khó.
Trong đời chúng ta gặp được nhân duyên này, nếu không học tập, không biết trân trọng, khi học rồi mới biết quý trọng, mới biết được quả thật rất đáng quý. Bao nhiêu Bồ Tát mong cầu nhân duyên này nhưng không gặp, chúng ta đã gặp được. Chúng ta đọc bộ kinh này, chú giải này, rất dễ lý giải, đích thực khế nhập được, lãnh hội được vài phần. Nếu nắm chặt được cơ duyên này, nỗ lực hành trì, thật sự tin tưởng không chút nghi ngờ, nghe lời, y giáo phụng hành, hiểu được bao nhiêu hành trì bấy nhiêu. Khi chúng ta làm được như vậy, xem đến kinh này ý nghĩa càng nhiều hơn, hiểu nhiểu hơn. Vậy nên giải có thể giúp quý vị hành, hành có thể giúp quý vị giải, hành giải tương ưng.
Giải, Chương Gia đại sư nói là nhìn thấu, hành, đại sư nói là buông bỏ. Buông bỏ giúp chúng ta nhìn thấu, nhìn thấu lại giúp chúng ta buông bỏ. Hai phương pháp này hổ tương nhau thành tựu, từ sơ phát tâm đến Như Lai địa đừng thay đổi sẽ thành công.
Vốn là tôi muốn giảng xong Kinh Hoa Nghiêm, bây giờ nghĩ lại không giảng nữa. Tôi chuyên giảng Kinh Vô Lượng Thọ, chuyên niệm Phật A Di Đà. Kinh Vô Lượng Thọ này tôi sẽ giảng lần này đến lần khác, giảng đến khi tôi vãng sanh là thôi. Tuổi già một bộ kinh, một câu Phật hiệu, đơn giản biết bao!
Cho nên phương pháp trì danh niệm Phật này, mười phương chư Phật không có vị Phật nào không tán dương, vô cùng kỳ diệu!
Đặc biệt là đồng học của Tịnh Tông, phải chăm chỉ niệm Phật, trong 12 tiếng đồng hồ không nên quên mất danh hiệu Phật. Niệm Phật có lúc sẽ quên mất, cũng không sao. Nhớ lại thì nhanh chóng niệm tiếp. Niệm Phật không nên bó buộc nơi chốn, ở đâu cũng được, cũng không câu nệ thời gian, ngày đêm đều có thể niệm, nằm trên giường niệm không nên niệm ra tiếng. Niệm ra tiếng tổn thương thân thể, thương khí. Nên mặc niệm. Nếu như muốn nhiếp tâm, có thể dùng Ấn Quang đại sư, ba phương pháp này rõ ràng. Ấn Quang Đại sư bản thân niệm Phật, suốt đời ngài dùng, chúng ta nghĩ đến đây là Phật Bồ Tát tai lai, thị hiện cho chúng ta, phương pháp này thích hợp nhất cho chúng sanh hiện đại. Thứ nhất Phật hiệu từ trong tâm sanh ra, từ trong miệng niệm ra, niệm được rất rõ ràng thấu đáo. Lại từ lỗ tai mà nghe vào, nghe ai? Nghe âm thanh bản thân niệm Phật. Cho nên tốc độ niệm Phật không nên nhanh quá. Quí vị xem Ấn Quang Đại sư niệm Phật từng chữ từng chữ: A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, từng chữ từng chữ rất rõ ràng, từng chữ từng chữ nghe rõ ràng. Thứ ba là mỗi câu Phật hiệu, biết là câu thứ mấy ở trong mười câu, không nhầm lẫn chút nào. Chỉ nhớ mười, dùng tâm nhớ, không nên có dấu vết, từ thứ nhất đến thứ mười, niệm đến thứ mười sau đó lại từ thứ nhất niệm đến thứ mười. Câu niệm Phật của tôi là câu thứ mấy trong mười câu Phật hiệu. Niệm cho rõ ràng, nghe được rõ ràng, nhớ được rõ ràng. Không thể A Di Đà Phật một, A Di Đà Phật hai, như vậy là sai rồi, không thể niệm Phật như vậy. Ngay cả nhớ trong tâm cũng không nên. Luyện tập đến ngay trong tâm cũng không nên có dấu vết như vậy. A Di Đà Phật hình như trong tâm có một, có hai, đều không nên. Trong tâm đều không có. Trong tâm chỉ có bốn chữ A Di Đà Phật. Nhớ cho rõ ràng như vậy gọi là quí vị nhiếp tâm, vọng niệm của quí vị không sanh khởi được. Nếu như là niệm cho rõ ràng, nghe được rõ ràng, không cần ghi nhớ, sẽ còn có vọng niệm thẩm thấu vào, vọng niệm xen tạp vào. Phải dùng ghi nhớ rõ ràng, vọng niệm sẽ không sanh khởi được, lúc bắt đầu hơi khó, niệm đến một tuần lễ, hai tuần lễ, liền quen dần. Phương pháp này tốt! Không những bản thân có thể niệm cho hết phiền não, niệm cho hết tạp niệm, đây là điều kiện phải có đủ để chúng ta được sanh Tịnh Độ.
Cổ nhân nói: “nhân bất tín vô lập”, con người nếu như không có lòng tin, họ sẽ không thể đứng vững trong xã hội. Hiện nay phổ biến là hoài nghi, cho nên tạo thành đại tai nạn ngày nay trên trái đất. Điều này không thể không biết. Chúng ta học Phật kiên định tín tâm. Đối với Thế giới Cực Lạc phải tin tưởng. Đối với lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni phải tin tưởng. Nếu như chúng ta không tin tưởng, chúng ta làm sao có thể niệm sáu mươi năm? Càng niệm càng hoan hỉ, càng học dường như càng thông minh, càng có trí tuệ. Đây là hiệu quả sáu mươi năm đạt được. Đây không phải là giả, là thật vậy.
Cho nên hi vọng mọi người nhất định phải xây dựng lòng tin, kiên định tín tâm, tuyệt đối không hoài nghi. Nếu như quí vị còn có thể nói: đối với bản thân không hoài nghi, đối với người nhà không hoài nghi, đối với bất cứ người nào bên ngoài cũng không hoài nghi. Họ gạt tôi, gạt tôi cũng không sao, các thứ đều là giả, gạt thì để cho họ gạt, vui vẻ để cho họ gạt, như vậy tốt biết bao! Gạt vài lần họ không còn mặt mũi nào gạt nữa, cũng tìm lại được chân tâm tự tánh trở lại cho họ, đó là một công đức lớn. Cho nên đừng sợ người ta gạt mình, không nên sợ chịu thiệt, không nên sợ mắc lừa. Chịu thiệt là phước, người có phước mới tình nguyện chịu thiệt; người không tình nguyện chịu thiệt không có phước báu. Đây là lời của tổ tông để lại. Cho nên chịu thiệt, bị lừa là việc tốt, không phải là việc xấu. Chắc chắn nâng cao cảnh giới của quí vị. Nâng cao trí tuệ của quí vị, cũng nâng cao phước báo của quí vị.
* Đại sư Liên Trì dạy rất hay: Tam tạng 12 bộ kinh, để cho người khác ngộ, ai muốn học tôi đều tặng, quý vị học đi, tôi không học. Thời gian của tôi đã hết, không học nữa, tôi chỉ học Kinh Vô Lượng Thọ, chỉ niệm Phật A Di Đà, một phương hướng, một mục tiêu. Mục tiêu của tôi là về thế giới Cực Lạc, thân cận Phật A Di Đà.
*** PHẢI BIẾT TIẾC PHƯỚC - HƯỞNG PHƯỚC PHẢI LO TU PHƯỚC - NẾU KHÔNG, PHƯỚC CẠN THỜI THỌ KHỔ !
Đại sư Ấn Quang suốt đời dạy người tiếc phước (tiếc: mến tiếc). Bất cứ gặp ai, luôn luôn răn bảo:
- Khi ăn cơm, ăn cho thật sạch, một hạt cũng không chừa, đều không phung phí, đây là tiếc phước.
Khi mình ăn cơm, phải nghĩ đến người khác, thế gian còn có rất nhiều người bị nạn không có cơm ăn !
- Quần áo phải mặc cho sạch sạch sẽ sẽ, chỉnh chỉnh tề tề, đây là tiếc phước. Quần áo mặc rách rồi không sao, có thể sửa, có thể vá, cần thiết giặt cho sạch, cần thiết có thể che thân, đủ ấm là được.
Thế gian khổ nạn, chúng sanh, kẻ không có quần áo mặc vẫn còn rất nhiều !
Niệm niệm nghĩ đến chúng sanh, và toàn tâm, tận lực giúp đỡ tất cả chúng sanh, luôn luôn lập tâm, định bụng như vậy là lòng thiện.
Trong đời sống hằng ngày, cần thiết để ý. Người tu hành thật sự, một tờ giấy cũng không phí. Tuy khoa học kỹ thuật ngày nay phát triển, vật dụng trong sinh hoạt hằng ngày được làm ra rất dễ dàng.
Nhưng cũng cần phải e ngại, dè dặt, không thể phung phí. Những gì có thể tiết kiệm, dùng hết khả năng mà tiết kiệm. Như thế, bạn có thêm phước, do đó thọ hưởng không hết.
Phung phí tuỳ ý, phước báo của bạn hưởng tận nhanh chóng. Hưởng tận rồi, dù còn thọ mạng, bạn cũng phải chết. Tại sao như vậy ? Phước không còn, lộc tận, người vong.
Bạn có thọ mạng 100 tuổi, nhưng 60 tuổi đã hưởng hết phước báo, thì 60 tuổi bạn phải chết. Nếu như thọ mạng của bạn là 60 tuổi, bạn suốt đời thương tiếc phước báo. Khi đến 60 tuổi, phước của bạn vẫn chưa hưởng hết, thọ mạng thì kéo dài, cho đến khi phước báo đời này hưởng hết.
Thật thà mà nói, người đời nay hưởng thụ đều do phước báo còn lại của những đời trước. Trong đời này, họ chỉ hưởng phước, mà không tu phước.
Đạo lý này, người đời nay không có ai tìm tòi, đến nỗi bạn có nói, người ta cũng không tin.
Chúng ta là người học Phật, thường hay tiếp xúc với Kinh giáo. Đối với lý luận này, cơ hội nghe được sự thật chân tướng nhiều hơn. Nhưng tại sao vẫn không thể quay đầu trở lại ?
Do bởi ảnh hưởng của toàn xã hội. Đại đa số mọi người không tin, cho là lời của Phật và Bồ Tát chưa hẳn là thật.
Cho nên, chúng ta thấy được rất nhiều người học Phật với tấm lòng hoài nghi, tuy nghe rõ ràng, nghe Minh bạch, nhưng cảnh giới hiện tiền vẫn chạy theo cảnh giới trước mắt, không trở đầu lại được.
Do họ không trở đầu lại được, cho nên sau khi chết rồi còn có nạn. Nạn này là đọa lạc tam ác đạo: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.