Ấn Quang Đại sư trong "Văn Sao”của Ngài có dạy chúng ta, Thập niệm pháp của Ngài là mười câu A Di Đà Phật. Mỗi một câu nhớ cho rõ ràng, đến mười câu, nếu như bạn không có cái năng lực này. Sợ trong lúc niệm có sai sót, có thể mang nó phân ra, phân làm hai đoạn. Một đoạn 5 câu. Từ 1 đến 5, từ 6 đến 10. Không phải là từ 1 đến 5, rồi từ 1 đến 5, Vậy thì không phải thập niệm. Là từ 1 đến 5, từ 6 đến 10 hoặc có thể phân thành 3 đoạn: 1-2-2... 4-5-6... 7-8-9-10. Như vậy cũng được. Nhớ cho rõ ràng, niệm cho rõ ràng. Một ngày công khóa sớm tối, dùng phương pháp này được, bình thường lúc rảnh dùng phương pháp này cũng được. Nói tóm lại, niệm Phật quan trọng nhất, là để chúng ta thời thời khắc khắc, luôn nhớ đến A Di Đà Phật.
Đây là ý nghĩa quan trọng nhất, không được quên mất A Di Đà Phật. Mấu chốt là ở cái niệm cuối cùng, trong 48 nguyện, thì nguyện thứ 18, có thể vãng sanh hay không là do cái niệm cuối cùng, điều này không thể không biết.
Về việc hỗ trợ vãng sanh, Thì Ấn Quang Đại sư cũng nói rất nhiều, chính là ngày nay chúng ta nói về việc trợ niệm. Trợ niệm thì Đại sư có dặn dò chúng ta, phải dùng tâm chân thành mà đi trợ niệm. Lúc trợ niệm là lúc ta thức tỉnh họ, giúp cho cái niệm sau cùng của họ là A Di Đà Phật, thì họ nhất định được vãng sanh. Nếu như cái niệm sau cùng của họ không phải là A Di Đà Phật, họ nghĩ tới người thân họ hàng của mình, nghĩ tới những chuyện khác, vậy thì lại đến lục đạo tiếp tục luân hồi. Mấu chốt là ở cái niệm cuối cùng, chúng ta kỳ cầu chính là ở cái niệm cuối cùng, nhất định phải làm cho thật quen thuộc. Đương nhiên tốt nhất vẫn là, giống như ở đây nói về "tận hết cuộc đời"Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ vì chúng ta biểu pháp, Ngài là do lão sư giao phó lại, vì kinh Vô Lượng Thọ làm chú giải, Thầy của Ngài là lão cư sĩ Hạ Liên Cư.
Thật vô cùng hiếm có, Ngài dùng thời gian 6 năm để hoàn thành bộ chú giải này. Lúc đó, sức khỏe Ngài rất xấu, Ngài có bệnh, ngày đêm lại không nghỉ ngơi, rốt cuộc cũng hoàn thành được bộ chú giải. Sau khi hoàn thành, thì Ngài chuyên tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Ngài nói với tôi, mỗi ngày niệm Phật 14 vạn tiếng danh hiệu A DI ĐÀ PHẬT. Gấp rút niệm Phật A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật. Một câu tiếp nối một câu. Một ngày niệm 14 vạn tiếng danh hiệu A DI ĐÀ PHẬT. Niệm được nửa năm thì Ngài vãng sanh. Niệm lão có thể nói là Đại đức cận đại của Phật môn chúng ta. Thông tông thông giáo.
Nhưng trì niệm lớn tiếng thì e tổn khí lực, trì mặc niệm thì dễ bị hôn trầm, chỉ có niệm thầm thầm mặc mặc, tiếng phát ra giữa răng và lưỡi đó gọi là trì kim cang. Cũng không nhất định là phải trì theo lối kim cang, nếu ngại tổn khí lực thì cứ trì mặc niệm, nếu sợ hôn trầm quấy nhiễu thì cứ niệm lớn tiếng. Tạp niệm là bệnh, niệm Phật là thuốc hay chơn chánh chữa sạch tạp niệm, mà không có thuốc nào có thể trị hết. Nhờ niệm Phật nên không gần gũi bạn ác. Khi tạp niệm khởi liền dụng tâm gia công niệm, từng câu từng chữ rõ ràng, tạp niệm tự dứt trừ vậy!
Ấn Quang Đại sư nói rất hay: một phần cung kính được một phần lợi ích, mười phần cung kính được mười phần lợi ích, dùng vào việc trì danh niệm Phật của chúng ta cũng đúng như vậy. Tôi đối với Tịnh Tông, đối với Phật A Di Đà, có một phần tâm cung kính, tôi niệm danh hiệu này được một phần công đức. Tôi có mười phần tâm cung kính, tôi liền đạt được mười phần công đức. Quí vị muốn hỏi bản thân quí vị công đức niệm Phật bao nhiêu, đầu tiên phải xem quí vị có tâm thành kính hay không, không có tâm thành kính, một ngày niệm mười vạn tiếng cũng không có công đức. Cổ nhân nói rất hay, hét rách cổ họng cũng vô ích. Vì sao vậy? Không có tâm! Cho nên tôi khuyên mọi người, quan trọng nhất là đem tâm chúng ta, Phật A Di Đà đặt trong tâm chúng ta. Tâm ta chính là Phật A Di Đà, Phật A Di Đà chính là tâm ta, vậy thì công đức không thể nghĩ bàn rồi. Quí vị hiện tại trong miệng niệm A Di Đà Phật, trong tâm là những thứ gì? Trong tâm là vàng, đô la, tiền bạc, vậy thì làm sao mà tương ưng được? Toàn là giả. Đạo lý này không thể không biết vậy. Trong tâm quí vị còn chứa tâm tham, tham tài, than sắc, tham danh, tham lợi, vậy tương lai tiền đồ của quí vị cho dù là niệm Phật, tương lai tiền đồ quí vị đi đến đâu? Vẫn đến ba đường ác. Tâm này của quí vị đối chiếu với kinh Phật là ngạ quỷ, là địa ngục. Niệm A Di Đà Phật cuối cùng lại niệm đến địa ngục rồi, thật là oan uổng. Lời này cũng không phải là do tôi nói. Thời đại Càn Long nhà Thanh pháp sư Quán Đảnh đã nói vậy. Một đời niệm Phật cuối cùng lại đọa vào địa ngục, lúc đó tôi còn trẻ, vừa mới học kinh giáo, đi theo lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, tôi còn chưa xuất gia, lúc tôi đọc đến bài luận này tôi liền đến hỏi thầy giáo, tôi nói niệm Phật là việc tốt, niệm Phật cho dù không thể vãng sanh cũng thể đọa địa ngục, làm sao mà niệm Phật lại đọa địa ngục? Niệm Phật có 100 loại quả báo, thứ nhất chính là đọa địa ngục, quả báo cuối cùng là sanh Thế giới Cực Lạc. Bài viết này, pháp sư Quán Đảnh viết trong Đại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông Chương Sớ Sao, trang cuối cùng. Chư vị xem có thể thấy điều đó. Trang cuối cùng ngài đề xuất 100 loại quả báo của việc niệm Phật, điều đầu tiên là đọa địa ngục, điều cuối cùng là vãng sanh Thế giới Cực Lạc. Thầy giáo nhìn thấy bài viết này, tôi đề xuất vấn đề này hỏi thầy, thầy nói với tôi, thầy nói đây là đại sự, tôi không nói với một mình ông, ông đợi đó, lúc tôi giảng kinh sẽ nói với mọi người. Đó chính là tâm của quí vị không giống nhau. Trong tâm quí vị là A Di Đà Phật, mỗi lời quí vị đều tương ưng với Phật A Di Đà, người này niệm Phật thành Phật rồi. Tâm họ là Phật. Tâm không phải là Phật, niệm như thế nào cũng không được. Cho nên đầu tiên phải đổi tâm quí vị trở lại, không nên có tâm tham, không nên có tâm tự tư tự lợi, không nên có tâm lục đạo luân hồi.
Nắm chặt A Di Đà Phật không buông, tôi liền thành công. Nếu quí vị thật sự biết được đạo lý này, hiểu được chân tướng sự thật này, vạn duyên buông xuống, nhất tâm chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu sanh thế giới Cực lạc, thân cận Phật đà. Đời này quí vị đã viên mãn, không còn bị luân hồi nữa. Bà con quyến thuộc khó rời khó bỏ, nói với họ rằng: mọi người cầu sanh thế giới Cực lạc, mới có thể vĩnh viễn cùng nhau tụ hội. Không thể đến thế giới Cực lạc, vừa chết thì đường ai nấy đi, vĩnh viễn không gặp mặt, đó là sự thật, không giả dối tí nào. Nghiệp báo mỗi người không giống nhau, nơi đến của mỗi người cũng khác. Hiểu được chân tướng sự thật rồi mới biết rằng buông xả là chính xác. Toàn là giả hết. Thế gian này người và người đều là hư tình giả ý. Nói thẳng ra, thì toàn là tự tư tự lợi, toàn là tạo nghiệp luân hồi, tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi, ở trong luân hồi chịu khổ. Người hiểu rõ thì phải buông xả sớm một tí.
Cho nên chúng ta phải học nói lời thành thật. Nếu ta mong sanh về thế giới Cực Lạc, thì phải nghiêm túc với câu này. Nếu không làm được thì ta sẽ lỡ chuyến đi về Cực Lạc, hết sức đáng tiếc! Ngày nay cho quí vị gặp được rồi quí vị nói xem quí vị có may mắn hay không? Cơ hội này quí vị gặp được rồi, quí vị muốn nó vuột qua mất, quí vị không thể trách Phật. Chỉ biết trách bản thân mình có mắt như mù, nhân duyên thù thắng vô cùng làm sao lại để cho qua mất! Chúng ta đọc những thứ này rồi, hiểu được chân tướng sự thật này rồi, tín tâm đối với Thế giới Cực Lạc có thể đạt đến một trăm phần trăm. Nguyện vọng cầu sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc chân thật bất hư, biểu hiện ở đâu? Biểu hiện nơi chỗ buông bỏ được. Chân tín thiết nguyện xem từ đâu? Từ nơi chúng ta thực sự buông bỏ. Trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài A Di Đà Phật ra tất cả đều buông bỏ hết. Đây là thật không phải là hư dối.
Oan thân trái chủ tìm đến quí vị là cầu quí vị siêu độ, cầu quí vị cứu họ, tuyệt đối không tổn hại quí vị. Trong tâm có thứ gì, chính là thứ đó. Trong tâm có Phật chính là Phật, trong tâm có Bồ Tát chính là Bồ Tát, trong tâm có tham chính là ngạ quỷ, trong tâm có sân hận chính là địa ngục, trong tâm có ngu si chính là súc sanh, trong tâm có ái đó là thiên nhân, dục giới thiên, tâm địa thanh tịnh là vô sắc giới thiên. Đây là thật không phải giả đâu. Cho nên Phật nói tất cả pháp từ tâm tưởng sanh. Câu nói này nói hết được rồi! Rất nhiều người biết, biết niệm, không hiểu được ý nghĩa, ý nghĩa này sâu sắc quá. Chúng ta từ sáng đến tối, ý niệm đó là thập pháp giới đều có. Quí vị xem quí vị niệm một câu A Di Đà Phật là pháp giới Phật. Niệm Quan Âm Bồ Tát là pháp giới Quan Âm Bồ Tát. Một lát sau lại khởi tâm tham là pháp giới ngạ quỷ. Từ sáng đến tối không biết trong thập pháp giới quay biết bao nhiêu vòng rồi. Cuối cùng, sau khi sanh mạng này kết thúc, đi đến cõi nào? Phải xem quí vị niệm cuối cùng đó là niệm gì, thì họ đi đến cõi đó. Chúng ta biết được sự việc này lợi hại, sự việc này là đại sự. Chúng ta nên làm thế nào để học tập, đem những pháp giới khác đều để sang một bên, không nên để tâm đến nó nữa. Chỉ chú trọng ở A Di Đà Phật. Tôi chọn Phật pháp giới hay là chọn A Di Đà Phật. Sự chọn lựa này là tuyệt đối chính xác. Sự chọn lựa này nhất định là trí tuệ, nhất định thành tựu.
Chấp trì danh hiệu chính là công đức vô lượng. Danh hiệu nếu như mất đi, công đức sẽ không thấy nữa. Cho nên Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta nhớ Phật niệm Phật, tịnh niệm liên tục. Liên tục không phải là nơi miệng, trong miệng niệm Phật gián đoạn cũng không sao, ý niệm không thể gián đoạn. Trong tâm thực sự có Phật, thực sự coi Phật chính là bản thân, trong một đời này đó là sự việc lớn nhất, giống như cha mẹ bất luận ở nơi đâu, trong ý nghĩa của họ giờ giờ khắc khắc không hề quên đi con cái, thực sự có. Đặc biệt là khi con cái trước ba tuổi, sự nhớ nhung, vướng bận của cha mẹ đối với nó không có giờ khắc nào lãng quên. Trong lòng ông bà thực sự có cháu chắt của họ, đặc biệt là khi chúng còn nhỏ.
Tôi còn nhớ tôi cũng giảng qua mấy lần rồi, một năm nọ, ăn tết ở Đài Loan, ngày tết âm lịch. Trong thư viện có một vị tín đồ lớn tuổi đến thăm tôi, chúc tết, hơn 70 tuổi, nói với tôi, bà ấy nói, thưa Thầy hiện tại con cái gì cũng buông bỏ hết rồi, chỉ là cháu trai con chưa buông bỏ được. Tôi nói với bà ấy: Bà đem đứa cháu đó đổi thành A Di Đà Phật vậy là bà thành công rồi, công đức của bà đã viên mãn rồi. Nghĩa là gì? Niệm A Di Đà Phật cũng giống như bà niệm cháu mình vậy. Bà có thể trong miệng không niệm cháu trái, cháu trai, không niệm vậy, trong tâm thực sự có, đúng là niệm niệm không quên, đây gọi là thực sự niệm Phật. Không quan tâm trong miệng niệm hay không, trong tâm thực sự có niệm. Người niệm Phật chúng ta phải có thể lãnh hội được sự việc này. Trong tâm thực sự có A Di Đà Phật. Ngoài A Di Đà Phật ra thứ gì cũng không quan trọng nữa, thứ gì cũng không quan tâm. Đây gọi là công phu niệm Phật thành phiến. Công phu thành phiến là hạ phẩm nhất tâm bất loạn, trung phẩm là sự nhất tâm bất loạn, thượng phẩm là lý nhất tâm bất loạn. Công phu thành phiến là hạ phẩm. Trong hạ phẩm cũng có cửu phẩm, trong cửu phẩm thượng tam phẩm, vãng sanh có thể được tự tại. Tự tại là gì? Muốn lúc nào đi thì lúc đó đi, muốn ở tại thế gian này sống thêm vài năm nữa cũng không trở ngại gì. Không trở ngại nghĩa là thế gian này thất tình ngũ dục, ngoại duyên như thế nào cũng không thể dao động tâm niệm của họ, đều không thể quấy nhiễu tín nguyện của họ. Đây gọi là không có chướng ngại, gọi là tự tại.
Vì niệm Phật thành Phật. Đạo lý Đức Phật nói rất nhiều, nói rất rõ ràng. Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh. Phật A Di Đà là từ tâm tưởng sanh, thế giới Cực Lạc cũng từ tâm tưởng sanh. Tâm nghĩ đến Phật A Di Đà, tâm nghĩ đến thế giới Cực Lạc, làm gì có đạo lý không sanh Tịnh độ!
Cho nên pháp môn này, Đại sư Ngẫu Ích nói rất hay, có ba điều kiện cơ bản để vãng sanh là tín, nguyện, hạnh. Tín là điều kiện đầu tiên, hoàn toàn kính ngưỡng tin tưởng khẳng định, hoàn toàn không có hoài nghi. Bất luận là căn tánh nào, ba căn thượng trung hạ đều không có gì khác. Chúng ta thấy ngày nay những người tu học pháp môn Tịnh độ rất đông, rất nhiều người niệm Phật, nhưng người vãng sanh không nhiều, thậm chí niệm Phật mà bị đọa địa ngục.
Niệm Phật bất luận niệm như thế nào, dù không tốt đến mấy cũng không đến nỗi niệm vào địa ngục. Nghĩ sao cũng không thông, tôi liền cầm cuốn sách này đến hỏi thầy Lý, thỉnh giáo thầy. Thầy Lý vừa nhìn, đây là việc lớn, không phải việc nhỏ, thầy không nói với riêng tôi, khi giảng kinh thầy sẽ nói với tất cả mọi người.
Tâm thái niệm Phật rất quan trọng, nghĩa thú tương đồng với tông môn của Thiền tông, quý vị biết niệm chăng? Ngày nay niệm Phật, thực tế mà nói người biết niệm rất ít, người không biết niệm thì quá nhiều. Phàm những ai thật sự biết niệm, không có người nào không vãng sanh, không biết niệm đều có phần trong tam đồ lục đạo, lúc này tôi mới hiểu. Dùng tâm sân nhuế niệm Phật, niệm Phật mà còn nổi giận, còn sân si, đây là đường địa ngục. Niệm Phật mà không đoạn tâm tham, đọa vào đường ngạ quỷ. Niệm Phật mà ngu si, không phân chánh tà, không rõ thị phi, đọa vào đường súc sanh. Hành trì nghiêm túc ngũ giới thập thiện, niệm Phật như vậy mới đến được cõi người.
Khi ta niệm Phật dùng tâm chân thành, khi không niệm Phật thì dùng tâm hư ngụy, như vậy sao được? Đó là giả không phải thật. Quý vị không hiểu giáo lý, không hiểu thật tướng các pháp, nên tâm chân thành không hiển lộ được. Tâm mà ta dùng toàn là vọng tâm, toàn là tâm tự tư tự lợi, tâm này không tương ưng với Phật A Di Đà. Sự thù thắng của Tịnh tông được xưng là đạo tối thắng, thực tế mà nói tức là chỉ 48 nguyện của Phật A Di Đà, bổn nguyện của Phật Di Đà. Chúng ta thử nghĩ, ta khởi tâm động niệm đối chiếu với 48 nguyện, thì tương ưng với nguyện nào. Có thể nói là không tương ưng với nguyện nào cả, như vậy sao có thể vãng sanh. Khởi tâm động niệm xưa nay chưa hề quên cái ta, chỉ cần có cái ta liền dẫn đến tự tư tự lợi, danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần, tham sân si mạn, những thứ này là nhân duyên chướng đạo. Chẳng phải Đức Phật không từ bi không đến tiếp dẫn quý vị, mà do những thứ này gây chướng ngại. Ở chỗ Phật không chướng ngại, mà chướng ngại ngay bản thân chúng ta. Cho nên mặc dù bản thân có cảm, Đức Phật có ứng, Phật có đến ứng, không sai, nhưng cái ứng của Phật quý vị không cảm nhận được, tất cả đều bị chướng ngại.
Vì thế trước khi Đức Phật diệt độ, dạy chúng ta hai vấn đề vô cùng quan trọng, do tôn giả A Nan hỏi, thật ra là hỏi thay chúng ta. Đức Phật tại thế chúng con nương Phật làm thầy, học tập theo ngài, khi Phật diệt độ chúng con nương ai để làm thầy? Đức Phật đã nói hai câu: “Lấy giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”. Điều này đã nói rất rõ, nhất định phải trì giới, nhất định phải biết kham nhẫn, không sợ khổ, vì sao vậy? Vì trì giới nghĩa là không khác gì khi Phật còn tại thế. Chịu đựng được cái khổ đạo tâm mới tăng trưởng, không bị mê luyến thế tục, không bị đọa lạc.
Đặc biệt là trong thời đại của chúng ta hiện nay, bên trong có tam độc phiền não. Phật pháp nói tham sân si là tam độc, bây giờ tôi nói là ngũ độc. Phía sau căn bản phiền não tham sân si còn có mạn, còn có nghi, còn có ác kiến. Tôi nói năm loại: Tham sân si mạn nghi. Vấn đề của nghi này rất nghiêm trọng, chúng ta hoài nghi Phật Bồ Tát, nghi ngờ kinh giáo, như vậy làm sao tiếp thu được?
Đại sư Ấn Quang dạy chúng ta học Phật, nghiên cứu kinh giáo: Một phần thành kính được một phần lợi ích, hai phần thành kính được hai phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích. Người bây giờ tuyệt đại đa số tâm tình nông nổi, tâm thái này cho dù Chư Phật Bồ Tát từ bi đến dạy, chúng ta cũng không tiếp thu được gì, vì sao vậy? Vì không có tâm thành kính. Từ đó cho thấy, tuyệt đối không phải Phật Bồ Tát không từ bi, các ngài từ bi vô tận, từ bi đến tột đỉnh. Chỉ trách bản thân chúng ta, chúng ta đã sai, không phải do người khác, điều này không thể không biết.
Nên quán như vậy, nên nghĩ như vậy, đây gọi là trang nghiêm tâm ý.
“Tai mắt miệng mũi đều nên tự đoan”. Tai là nghe cái gì? Âm thanh niệm Phật. Mắt là thấy cái gì? Là hiện tướng của Phật A Di Đà, tất cả cảnh giới của mắt thấy được, đều là do Phật A Di Đà hiện ra. Miệng niệm Phật. Mũi là hô hấp có người dùng hơi thở để nhiếp tâm, mỗi một hơi thở là một câu Phật hiệu, đây gọi là tự đoan. Cũng là điều Đại Thế chí Bồ Tát dạy chúng ta: “đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”. Nên tự đoan tâm, nên tự đoan thân, tai mắt miệng mũi, thêm thân ở phía trước là năm, lại thêm tâm là sáu, đây không phải là đo nhiếp lục căn sao? Câu này dạy cho chúng ta, làm thế nào để đô nhiếp lục căn? Ở đây đã hiểu rõ. Sáu căn đều là Phật A Di Đà, ngoài Phật A Di Đà ra không còn có một thứ gì khác.
Tâm nên đoan chánh, tâm như thế nào mới là đoan chánh? Tâm niệm Phật A Di Đà chính là đoan chánh, vậy thì chúng ta biết, nếu như chúng ta quên mất Phật A Di Đà, thì tâm của chúng ta là tà, chứ tâm không chánh. Chúng ta niệm đức Phật khác thì sao? Niệm đức Phật khác tâm cũng đã lệch, không thể nói là tà, quý vị đã lệch, phương hướng của quý vị đã lệch. Mục tiêu của chúng ta là về thế giới Cực Lạc, là đi theo con đường này, quý vị đi lệch qua một con đường khác. Cho nên chỉ có Phật A Di Đà, trong lòng chỉ có Phật, đây gọi là chánh niệm. Chổ này thật quan trọng, một hướng chuyên niệm, chỉ có thể có một phương hướng, không thể có hai phương hướng. Chúng ta muốn đến thế giới Cực Lạc, thế giới tây Phương Cực Lạc, lại còn muốn đến đông phương thế giới Lưu Ly, thì đó đã sai. Thế giới Lưu Ly Dược Sư Phật, sai rồi. Có lẽ thân thể của quý vị không tốt, muốn Dược Sư Như Lai gia hộ quý vị. Vậy Phật A Di Đà không thể gia hộ quý vị sao? Không muốn đến thế giới tây phương Cực Lạc, có thể niệm Dược Sư Như Lai, nhưng muốn đến thế giới tây phương Cực Lạc, thì không cần niệm Dược Sư Như Lai. Chuyên niệm Phật A Di Đà, Dược Sư Như Lai nếu thấy quý vị, ngài sanh tâm hoan hỷ, ngài tán thán quý vị. Thân tâm của quý vị có bệnh không cần cầu ngài, ngài cũng sẽ giúp quý vị trị lành. Vì sao vậy? Vì quý vị là đệ tử của Di Đà, đệ tử Di Đà rất quý, mỗi vị Phật đều hoan hỷ, đều tán thán. Đệ tử Di Đà đấy, thật là đáng nể! Tự chúng ta phải hiểu được, nên có nhận thức này.
Thời gian rảnh không nên lãng phí thời gian rảnh này, ra bên ngoài du lịch, thì rất đáng tiếc. Mấy ngày thời gian nhàn rỗi này, nên siêng năng để niệm Phật, ngày đêm không ngừng”. Gặp duyên tức tu”, có thể cùng với những người bạn cùng tu, nghĩa là câu Phật hiệu này niệm cho rốt ráo. Phương pháp tốt nhấ có thể nương theo phương pháp của Ấn Quang Đại sư, ngài đã dùng suốt một đời, niệm Phật thật sự thành tựu. Điều này chúng ta nên học tập”. Không để lãng phí, tức chắc được vãng sanh”. Hai chữ chắc được ở đây là then chốt, chỉ cần quý vị không lãng phí thời gian, có thời gian nhàn rỗi thì niệm Phật, quý vị sẽ chắc chắn được vãng sanh. Tất cả không nên nghĩ, trong tâm chỉ có Phật A Di Đà, ngoài Phật A Di Đà ra thì ý nghĩ gì cũng không có. Cái này hay, như thế mới có thể thành tựu. Lo nghĩ, trên thế gian này có việc gì xứng đáng để chúng ta phải lo nghĩ hay không? Không có. Thật có, lo nghĩ của quý vị cũng giải quyết không được vấn đề, lo nghĩ chỉ có đem vấn đề làm thêm loạn hơn. Quý vị không thể giải quyết vấn đề, vậy hà tất quý vị phải lo nghĩ? Chỉ có tỉnh lặng, chỉ có niệm Phật, mới có thể giải quyết vấn đề. Vì sao niệm Phật có thể giải quyết vấn đề? Niệm Phật được Phật lực gia trì, tâm địa thanh tịnh có thể sanh trí tuệ, tự mình có trí tuệ lại được Phật lực gia trì, quý vị mới có biện pháp giải quyết vấn đề. Quý vị vừa hoảng vừa loạn vừa bận thì vấn đề nghiêm trọng hơn. Tỉnh lặng là quan trọng hơn hết! Khi gặp phải tai nạn trước mắt, càng tỉnh lặng, không kinh không hãi, chúng ta mới thực sự có thể giải quyết vấn đề. Trong kinh Phật có dạy, tâm không điên đảo, thì vấn đề có thể giải quyết.
Phật Thích Ca Mâu Ni dạy cho chúng ta, trong Kinh Kim Cang đã nói: “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”. Quý vị có thể xem thế gian này như một giấc mộng, trong mộng đạt được có phải là thật đạt được không? Không có, sau khi tỉnh dậy đều không có cái gì, trong mộng mất rồi, sau khi tỉnh dậy cái gì cũng không có mất. Quý vị có thể đem cuộc đời nhìn như mộng, cảnh mộng thì quý vị không có được mất. Tâm quý vị đã bình lặng, tâm sẽ vui. Đạt được cũng không vui mừng, mất đi cũng không sầu lo. Khi công phu thật có một chút nền tảng, đạt được vui mừng, mất đi cũng vui mừng, không có điều gì là không vui mừng. Điều này nên xem công phu. Người không có công khi bị mất đi sẽ: ai da! Thật đáng tiếc, tôi lại bị mất rồi. Đó là gì? Đó là công phu chưa được, không có công phu. Lúc thật có công phu được mất đều hoan hỷ. Hoan hỷ là gì? Hoan hỷ là họ đã như như bất động, trong tâm chỉ có Phật, không có thứ khác, tâm đã thanh tịnh, tâm đoan chánh rồi.
Chí tâm, phần trước đã nói là nhất tâm niệm Phật, trong nhất tâm không có vọng niệm, không có tạp niệm, không có hoài nghi, niệm một danh hiệu Phật được như vậy thì tiêu trừ được tội nặng tám mươi ức kiếp sanh tử.
Phật không bao giờ nói dối. Mỗi ngày quí vị đều niệm, niệm đến mấy năm thì tất cả những tội chướng trong vô lượng kiếp đều tiêu tan hết, nghiệp chướng tiêu tan rất rõ. Tại sao vậy? Thân thể rất nhẹ nhàng, tướng mạo đổi khác, tinh thần phấn chấn, tất cả những thứ đó là tướng tốt, tướng tốt ngay hiện tại.
Mỗi niệm thiện có một thiên đường, một niệm tịnh tương ứng với một Tịnh độ, một niệm ác tương ứng với một cửa địa ngục. Trong một giây, chúng ta có một ngàn sáu trăm triệu niệm ác, vậy chẳng phải có một ngàn sáu trăm triệu địa ngục đó sao!
Trong mỗi giây, mỗi niệm chúng ta đều nghĩ đến Phật A di đà, vậy có thể không có một ngàn sáu trăm triệu Phật A di đà được sao! Vấn đề này chúng ta phải hiểu cho rõ ràng minh bạch, như thế chúng ta mới hoan hỉ buông bỏ niệm ác, mỗi niệm đều nghĩ đến Phật A di đà. Bởi vì Phật A di đà là bậc thánh thiện trong các điều thiện, trong sạch nhất trong tất cả sự trong sạch, không có một niệm nào có thể vượt qua được Phật A di đà, vậy tại sao ta không niệm Phật? Niệm Phật không gián đoạn, hiện tại, bây giờ, bất kể lúc nào, nơi nào, miễn nghĩ đến là niệm. Khi quên niệm ta cứ cho qua, mất thì thôi, nghĩ đến lại niệm, khi đã thành thói quen, mỗi ngày quí vị sẽ niệm nhiều hơn. Không cần tính toán mà nên nhớ phương pháp của Đại sư Ấn Quang, mỗi câu đều phải rõ ràng, nhớ rõ ràng, nghe tỏ tường, đếm từ một đến mười, dùng tâm trí để ghi nhớ, phải nhớ câu danh hiệu của ta là câu thứ mấy, vì sao vậy? Kiểu này rất dễ nhiếp tâm, tạp niệm, vọng niệm không xen vào được. Nếu không thực hiện cách này, khi quí vị niệm Phật thì tạp niệm vẫn len lỏi vào. Phương pháp nói trên là tốt nhất, tạp niệm sẽ không vào được. Một khi nó đã xen vào, thì quí vị sẽ không thể nhớ rõ, có tạp loạn thì sẽ không đếm được, ta bắt đầu đếm lại từ đầu, thử xem mình duy trì được bao lâu, khi duy trì được thời gian đủ lâu, quí vị tạm quên, đừng nghĩ đến nó, có nghĩa là để quí vị khỏi phân tâm, đừng vì những việc như thế mà phân tâm. Cố gắng niệm, nhớ nghĩ đến tâm thanh tịnh của mình.
Chúng ta là những phàm phu trong sáu đường, chúng ta muốn được vãng sanh, đây là mục đích của chúng ta, là quĩ đạo của chúng ta. Đối với người thực sự muốn cầu vãng sanh thì câu này có ý nghĩa rất đặc biệt, đây là sự thực, không phải giả dối. Nếu thực sự đúng thì quí vị phải nhận thức đúng đắn về hai thế giới, lúc đó quí vị mới có thể tạm thời buông bỏ thế giới Ta bà, tôi nhất định phải đến thế giới Cực lạc, nếu vẫn còn lưu luyến thế giới Ta bà, nếu vẫn không buông được thì quí vị có đi cũng không đến, niềm tin hiện tại của chúng ta đang bị nó huỷ hoại, nguyện cũng thế, không thể chuyên nhất để niệm Phật. Cũng có nghĩa là đang có rất nhiều tạp niệm và vọng tưởng xen vào, công phu mất hết. Vì thế cần nhận thức, làm rõ thế giới ta đang cư trú ở đây, với thế giới Cực lạc cũng phải nhận thức rõ ràng. Muốn nhận thức rõ ràng thế giới Cực lạc, thì bản kinh này là một lời giới thiệu, chuyên giới thiệu thế giới Cực lạc, cần học tập, nghĩa là cần nhận thức, cần ra tay.
Nếu có sự nghi ngờ, nghi ngờ là nguồn gốc ngăn cản sự vãng sanh, không được lưu giữ một chút nghi hoặc, mới buông bỏ được thế giới này.
Có người nói với tôi: Tiền bạc của con bị người khác lừa mất rồi. Thôi, cho qua, không nghĩ đến nữa, vì sao? Đó là vật ngoài thân, là giả, quí vị vẫn cứ nghĩ đến, đó là một sai lầm. Không có việc đó thì tâm ta mới thanh tịnh, ta niệm Phật mới yên. Bạn làm hại tôi thế nào, tôi vẫn không để ý, bạn muốn, tôi tặng hết. Trong cuộc sống, chúng tôi gặp rất nhiều sự việc tương tự như thế. Đạo tràng, bạn muốn, tôi biếu, ra khỏi cổng. Nếu chúng ta không gặp những chuyện như thế, vui cùng cực, quyết không để những chuyện như vậy trong lòng.
Năm nọ, tôi rời Đài loan, không để ý đến đạo tràng nữa, rời Mĩ, không ngó ngàng gì đến đạo tràng, đến nơi khác, dựng một đạo tràng nho nhỏ, khi dời gót, buông hết. Trong lòng không một chút ràng buộc. Nếu lúc nào cũng nghĩ đến, không phải ta đã tự tìm đến sự rắc rối sao? Nghĩ gì, đó là cái nghĩ của luân hồi sáu đường, nghĩ về địa ngục, đừng nghĩ đến nó nữa. Khi đã chuyển niệm, ta nghĩ ngay đến thế giới Cực lạc, nghĩ đức Phật A di đà, ngoài ra không nghĩ gì khác, bỏ sạch hết. Cho dù trước mặt là vàng bạc ngọc ngà, danh văn lợi dưỡng, nếu có, cứ nghĩ là không có, đừng nghĩ đến nó, nếu có, ta vứt nó sang một bên, ai dùng tuỳ ý, đừng chấp đó là của ta, không có ta, ai đem đi đâu cứ việc, quí vị đã tự tại! Quí vị không còn bị ràng buộc, không lo nghĩ nữa, thực sự buông bỏ, buông bỏ tất cả. Đời này ta chỉ nghĩ đến thế giới Cực lạc, như thế mới có hi vọng. Đừng có một chút lưu luyến, một chút ràng buộc cũng không có, tất cả đều tuỳ duyên. Có cũng tốt, không cũng chẳng sao, như thế chúng ta mới tự tại. Ở thế giới Cực lạc ngày nào cũng được thấy Phật A di đà. Ở đây, trong tâm tưởng của ta ngày nào cũng có Phật A di đà, bất cứ giây phút nào cũng niệm Phật A di đà, không rời Phật A di đà nửa bước, ngày nào cũng đọc kinh Vô lượng thọ, ngày nào cũng được thấy thế giới Cực lạc. Thực sự làm được ức Phật niệm Phật, hiện tại tương lai sẽ được thấy Phật, cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn.
“Ta thực hiện đến đâu”, câu này rất thâm thuý, chúng ta cần suy nghĩ, Muốn có nghĩa hi vọng, chúng ta mong được giống như Phật A di đà, giống như thế giới Cực lạc.
Cổ nhân nói tịnh niệm tương tục, một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật. Nghĩa là nhất niệm đó có tương ưng hay không?
Thế nào gọi là tương ưng? Tịnh niệm chính là tương ưng. Bồ Tát Đại Thế Chí nói: Tịnh niệm tương tục. Tịnh niệm là tâm thanh tịnh, nhất niệm này tương ưng. Ngày nay chúng ta niệm Phật, dù niệm nhiều đến đâu, tâm vẫn không thanh tịnh. Như vậy chúng ta là uế, tương phản với tịnh, chúng ta là uế tâm niệm Phật, tâm nhiễm ô niệm Phật, nên hiệu quả thua xa tịnh niệm. Chúng ta vẫn chưa buông được, không nở buông bỏ thế gian này. Trong kinh nói rõ ràng rằng, trong tất cả pháp thế xuất thế gian không thể sánh được. Chúng ta đối với tất cả pháp thế xuất thế gian, luôn có vướng bận, thường không buông được. Không có cách nào, thật sự không buông được, vì sao vậy? Vì ngày ngày ta phải sống, ta còn có ngày mai, còn có sang năm, ta nghĩ quá nhiều!
Phải dùng cách gì? Ở trước tôi có nói với chư vị, Đại sư Ấn Quang mỗi ngày đều nghĩ đến “chết”. Từ đây tôi lãnh ngộ được một điều, tôi mỗi ngày nghĩ đến hôm nay là ngày cuối cùng tôi ở thế gian, không có ngày mai. Sớm ngày mai thức dậy, sao lại có thêm một ngày? Đây là ngày cuối cùng, tuyệt đối không nghĩ đến chuyện ngày mai, chỉ có hôm nay, hôm nay tôi nên làm những gì? Nên niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, những việc khác phải triệt để buông bỏ, vì sao vậy? Đều là giả, tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh. Bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thiện duyên hay ác duyên, đều buông bỏ hết, chúng ta trở về với tịnh niệm tương tục. Hiệu quả này rất lớn, vì sao vậy? Vì mỗi niệm đều tương ưng với Phật A Di Đà.
Một nơi tốt đẹp như vậy, bây giờ chúng ta đã hiểu, đến đó được hay không là do một niệm sau cùng. Mỗi ngày niệm Phật là đang làm gì? Giống như luyện binh vậy, một niệm khi lâm chung là đánh trận. Chính là hy vọng niệm thuần thục để đừng quên Phật hiệu, đến khi lâm mạng chung vẫn nhớ đến Phật A Di Đà, như vậy là thành công, đạo lý chính là như vậy. Vì sao phải niệm từng giờ từng phút? Là đừng để các tạp niệm khác xen vào. Khi lâm mạng chung khởi lên một vọng niệm, như vậy là phiền phức, tùy nghiệp lưu chuyển. Niệm Phật A Di Đà cũng là nghiệp, có thể gọi là tùy nghiệp lưu chuyển. Nếu một niệm sau cùng là Phật A Di Đà, quý vị sẽ đến được thế giới Cực Lạc. Còn như một niệm sau cùng là tham tâm khởi lên, bất luận là tham điều gì, tham danh hay tham lợi, chỉ cần khởi tâm tham là đi vào đường ngạ quỷ. Nếu như tâm sân nhuế khởi lên, niệm sau cùng là tâm sân nhuế là đi vào đường địa ngục. Ngu si, hồ đồ là đi vào đường súc sanh. Niệm sau cùng là nhân nghĩa đạo đức, ngũ luân ngũ thường, liền đầu thai vào cõi người. Thượng phẩm thập thiện nghiệp đạo sanh vào cõi dục giới, quý vị xem đều là một niệm sau cùng. Đây chính là khiến chúng bình thường đi tu dưỡng tâm mình, cũng phải giống như người ở thế giới Cực Lạc vậy. Trong cuộc sống hằng ngày, bất luận là hoàn cảnh nào, thuận cảnh cũng được, nghịch cảnh cũng tốt. Xung quanh chúng ta, người thiện cũng tốt, người ác cũng tốt, đều có thể duy trì chánh niệm, không bị ngoại cảnh bên ngoài quấy nhiễu, như vậy chắc chắn được sanh. Đó là gì? Bất luận trong hoàn cảnh nào, đều là A Di Đà Phật. Ngoài Phật A Di Đà ra, không có bất kỳ ý niệm nào khác. Cũng không nghĩ đây là người thiện, kia là người ác, đều không nghĩ. Người thiện, A Di Đà Phật; người ác cũng là A Di Đà Phật. Thuận cảnh A Di Đà Phật; nghịch cảnh cũng A Di Đà Phật, như vậy không có niềm vui nào bằng. Niệm Phật như vậy gọi là công đức thành phiến.
Người niệm Phật còn chuyển theo cảnh giới, phiền phức này rất lớn. Thuận cảnh thì tâm sanh hoan hỷ, trong nghịch cảnh có oán hận. Niệm Phật như thế chẳng thể đến được thế giới Cực Lạc, dù niệm suốt đời, đời sau vẫn trôi lăn trong luân hồi lục đạo. Không thể không biết điều này. Cho nên tiêu chuẩn trong kinh, trên đề kinh nói một cách rất rõ ràng, tiêu chuẩn là gì? Là thanh tịnh, bình đẳng, giác. Thanh tịnh bình đẳng giác chính là Phật A Di Đà, Phật A Di Đà chính là thanh tịnh bình đẳng giác. Vì thế chúng ta niệm Phật phải làm cho tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, giác mà không mê của mình hiển lộ ra, như vậy liền được vãng sanh.
Cần thời gian bao lâu? Mỗi người căn tánh không giống nhau. Người lợi căn thì vài ngày, vài tháng là thành tựu. Người căn tánh kém hơn một chút_Từ Vãng Sanh Luận, từ Tịnh độ Thánh Hiền Lục chúng ta thấy, đa phần không quá ba năm, có thể đến được cảnh giới này.
Đặc biệt là hiện nay, quý vị biết nhiều hơn tôi. Tôi không tiếp xúc với tin tức, nên rất nhiều việc không biết, đều là nghe quý vị nói. Thế giới này thiên tai xảy ra khắp nơi, có gì đáng để lưu luyến chăng? Hiện nay gọi là di dân, vì sao không di dân đến thế giới Cực Lạc? Là việc tốt! Phật A Di Đà hoan nghênh chúng ta, không cự tuyệt.
Bộ kinh này là sách chỉ dẫn về thế giới Cực Lạc mà Đức Thế Tôn giới thiệu cho chúng ta, sách chỉ dẫn di dân đến thế giới Cực Lạc. Y theo những gì trong này nói, nhất định đến đó thành công, mà không cần thời gian quá dài. Trước khi thiên tai chưa bộc phát, chúng ta nhất định đến được đó, nó không cần nhiều thời gian. Nên nhớ, chỉ cần thanh tịnh bình đẳng giác; phải nhớ buông bỏ hết những nghịch cảnh, thuận cảnh, thiện duyên, ác duyên trong thế gian này. Ý niệm chúng ta không buông bỏ được, ý niệm khiến nó thống nhất, khiến nó quy nhất. Nghĩa là bất luận gặp ai, đều là A Di Đà Phật. Bất luận là gặp chuyện gì, cũng là Phật A Di Đà, chúng ta đã chuyển đổi được tâm thái.
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, tiếp xúc với rất nhiều người, đưa ra rất nhiều vấn đề, những vấn đề này là gì? Đều là lời vô dụng, đều là vọng niệm, vọng tưởng, là những thứ cần buông bỏ. Nếu tu Tịnh độ, mà còn có nhiều vọng niệm đến thế, như vậy là chưa tu. Ta vì đạo tràng, vì chúng sanh, đó là giả, vì sao vậy? Nếu là tịnh niệm tương tục, nhất định được Chư Phật Như Lai gia trì, Phật A Di Đà hộ niệm, Long thiên thiện thần giúp đở xử lý những tạp vụ này, không cần ta bận tâm, nhất tâm chuyên niệm. Chúng ta cũng tin rằng, không quá ba năm sẽ thành công, quý vị sẽ làm Phật. Đạo lý này không thể không hiểu, mỗi câu mỗi chữ trong kinh nói là chân lý.
Đây là điều chúng ta cần phải học. Người tu học Tịnh độ, đối với trú, hành, danh, ba chữ này là tự hành hóa tha, ở đây Đức Phật làm gương cho chúng ta. Ngày nay Đức Thế Tôn cần phải diễn thuyết diệu pháp của Phật A Di Đà, vì chúng ta mà diễn thuyết. Diễn là biểu diễn, thuyết là nói rõ. Đem tánh tướng, lý sự, nhân quả của thế giới Cực Lạc giới thiệu tường tận rõ ràng cho chúng ta, nên ngài trú nơi chỗ của Phật A Di Đà.
Quý vị thử nghĩ xem, một ngày chúng ta niệm Phật hiệu bao nhiêu thời gian? Không tính số lượng, một ngày chúng ta niệm danh hiệu Phật mấy tiếng? Còn mấy tiếng suy nghĩ lung tung? Quý vị thử tính kỹ điều này. Nếu một ngày thật sự có thể niệm được bốn tiếng danh hiệu Phật, còn 20 tiếng nghĩ đông nghĩ tây. Coi như mỗi ngày chúng ta niệm bốn tiếng Phật hiệu, công phu rất đắc lực. Quả báo này là lên cõi trời, đến đó hưởng phước trời. Con người khi hưởng phước liền hồ đồ, quên mất Phật hiệu. Khi phước hưởng hết, tội báo trong 20 tiếng suy nghĩ lung tung đó liền hiện tiền, khiến chúng ta đi vào trong ba đường ác. Chúng ta nghĩ đến chân tướng sự thật này, không ai không kinh hoàng, không ai không sợ hãi. Phải làm sao? Tôi đem nó điều chỉnh lại. Mỗi ngày tôi niệm Phật 20 tiếng, vọng tưởng 4 tiếng, nhất định được đến thế giới Cực Lạc. Bốn tiếng đó là gì? Bốn tiếng để ngủ. Niệm Phật 20 tiếng, bốn tiếng nghỉ ngơi, đây là gì? Đây là Đức Thế Tôn đặt ra. Không nghĩ sẽ không biết, cứ hồ đồ suốt cả đời, nghĩ lại mới thật đáng sợ! Ngày nào cũng nghe kinh, ngày ngày niệm, ngày ngày đang giảng dạy học tập, nhưng khi đặt kinh xuống thì lập tức mê hoặc, vẫn bị tình chấp làm chủ mà tự cho mình đúng, vấn đề này rất nghiêm trọng. Nếu không bình tĩnh tư duy tường tận, thì tự mình không thể phát hiện ra, còn cho rằng mình tu không tệ, tu rất tốt. Đến cuối cùng không thể vãng sanh, vẫn trôi lăn trong luân hồi lục đạo. Lúc này oán trách: Phật Bồ Tát không linh, Phật Bồ Tát gạt tôi. Như vậy thì tội càng thêm nặng. Ý niệm này vừa khởi, lập tức vào địa ngục, vì sao vậy? Vì báng Phật, báng pháp, báng tăng. Không biết chính mình sai còn đi trách người khác.
Chân Tín Nguyện Hạnh niệm Phật sửa đổi tập khí, tức là đang làm Phật sự (công việc làm để có thể thành Phật), cũng là thật sự tán thán Phật, cúng Phật. Tâm không tập khí (tâm không trụ tướng) thì mới thấy được thật tướng, tự giác giác tha, tức là tâm Bồ đề.
Thời gian không có phân biệt tốt xấu, nếu dùng thời gian để oán hận người khác, nói thị phi, đam mê xem truyền hình hoặc máy điện toán, so đo, không cam chịu, ganh tỵ, lo lắng, tạp niệm …v…v… làm những việc phiền não vô ích, đó là đầu tư vào những việc vô giá trị và lãng phí nhất.
Học Phật không phải là việc phiền phức, học Phật có thể khiến chính mình có trí tuệ xuất thế, là việc rất thoải mái, tự nhiên vui vẻ và tự tại. Trong đời sống hàng ngày, sĩ nông công thương dù lúc bận hay khi nhàn, đi đứng nằm ngồi, chỉ cần khi tâm không chuyên chú vào một việc gì thì bất cứ ở đâu cũng có thể niệm Phật. Nói không có thời gian niệm Phật tu hành chỉ là viện cớ mà thôi.
Học Phật cầu sanh Tịnh độ, trước nên làm người tốt, con người còn chưa làm tốt, nói cho quý vị biết, không thể vãng sanh đâu. Vì sao vậy? Nếu như quý vị còn mang tập khí phiền não của nhân gian đến thế giới Cực Lạc, quý vị sẽ phá hoại không khí của thế giới Cực Lạc. Phật A Di Đà rất từ bi, cho dù ngài đến đưa quý vị đi, đại chúng của thế giới Cực Lạc không đồng ý, họ không mong muốn có người phá hoại môi trường của họ. A Di Đà Phật cũng nên suy nghĩ đến đại chúng, việc mà đại chúng không bằng lòng làm, Phật sẽ không làm. Cho nên Phật đến tiếp dẫn quý vị hay không, quan trọng là ở chính quý vị, điều kiện của quý vị có đầy đủ hay không, tín nguyện hành tất cả đầy đủ. Tập khí phiền não chưa đoạn Phật sẽ không đến. Nói cách khác, công phu niệm Phật của quý vị ít nhất phải có thể không chế được tập khí phiền não, đây gọi là đới nghiệp vãng sanh. Khống chế thế nào? Không cho phát tác. Không phải không có, tham sân si mạn đều có, nhưng câu Phật hiệu này đè xuống được, đây là công phu bình thường của chúng ta. Dụng công lúc nào? Lúc phiền não này khởi lên, thì lập tức khống chế nó lại. Cổ đức dạy chúng ta: “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Tâm tham trổi dậy, ý nghĩa này trỗi dậy, A Di Đà Phật, ý nghĩ thứ hai chính là A Di Đà Phật, đè nén nó lại. Tâm sân nhuế trỗi dậy, A Di Đà Phật, đè nén rồi. Hết thảy ý niệm thiện hay bất thiện trỗi dậy, tất cả đều một câu A Di Đà Phật đè nén hết. Đây gọi là gì? Gọi là công phu đắc lực. Vẫn còn hiện hành, như thế là sao? Là công phu của quý vị không đắc lực. Quý vị đã niệm Phật rồi, niệm Phật không tác dụng. Niệm Phật của quý vị không phục được phiền não. Nói cách khác, quý vị vẫn nhiều vọng niệm như vậy, quý vị chưa giảm bớt, tâm quý vị không thanh tịnh. Công phu niệm Phật đoan chánh ở thân tâm thanh tịnh, tâm địa ngày càng thanh tịnh, năm nay thanh tịnh hơn năm trước, năm trước thanh tịnh hơn năm trước nữa, mỗi năm càng thanh tịnh hơn, cảnh giới tốt. Từ ở đâu mà thấy được? Năm nay so với năm sau phiền não ít, phiền não đã nhẹ, mỗi năm một nhẹ hơn. Thực sự có thể nâng cao đến tháng này nhẹ hơn tháng trước, quý vị chắc chắn được sanh, quý vị không có vấn đề gì nữa. Nếu như cảnh giới trước mắt còn phát tác, ở trong thuận cảnh có tâm tham, ở trong ngịch cảnh có tâm sân nhuế, lại còn khởi lên ý niệm, thì công phu niệm Phật không đắc lực. Ở trong cuộc sống hàng ngày, đối nhân xử thế tiếp vật, mỗi thời mỗi khắc đều kiểm tra công phu của chúng ta. Cho nên có thể vãng sanh hay không, có thể nắm bắt vãng sanh hay không, không cần hỏi người khác, mà quý vị tự hỏi chính mình, rất rõ ràng, rất tường tận, chúng ta có thể vãng sanh Tịnh độ hay không? Tự mình rõ ràng nhất. Đối với thế gian này thực sự không còn tham luyến
Mấy ngày thời gian nhàn rỗi này, nên siêng năng để niệm Phật, ngày đêm không ngừng”. Gặp duyên tức tu”, có thể cùng với những người bạn cùng tu, nghĩa là câu Phật hiệu này niệm cho rốt ráo. Phương pháp tốt nhấ có thể nương theo phương pháp của Ấn Quang Đại sư, ngài đã dùng suốt một đời, niệm Phật thật sự thành tựu. Điều này chúng ta nên học tập”. Không để lãng phí, tức chắc được vãng sanh”. Hai chữ chắc được ở đây là then chốt, chỉ cần quý vị không lãng phí thời gian, có thời gian nhàn rỗi thì niệm Phật, quý vị sẽ chắc chắn được vãng sanh. Tất cả không nên nghĩ, trong tâm chỉ có Phật A Di Đà, ngoài Phật A Di Đà ra thì ý nghĩ gì cũng không có. Cái này hay, như thế mới có thể thành tựu. Lo nghĩ, trên thế gian này có việc gì xứng đáng để chúng ta phải lo nghĩ hay không? Không có. Thật có, lo nghĩ của quý vị cũng giải quyết không được vấn đề, lo nghĩ chỉ có đem vấn đề làm thêm loạn hơn. Quý vị không thể giải quyết vấn đề, vậy hà tất quý vị phải lo nghĩ? Chỉ có tỉnh lặng, chỉ có niệm Phật, mới có thể giải quyết vấn đề. Vì sao niệm Phật có thể giải quyết vấn đề? Niệm Phật được Phật lực gia trì, tâm địa thanh tịnh có thể sanh trí tuệ, tự mình có trí tuệ lại được Phật lực gia trì, quý vị mới có biện pháp giải quyết vấn đề. Quý vị vừa hoảng vừa loạn vừa bận thì vấn đề nghiêm trọng hơn. Tỉnh lặng là quan trọng hơn hết! Khi gặp phải tai nạn trước mắt, càng tỉnh lặng, không kinh không hãi, chúng ta mới thực sự có thể giải quyết vấn đề. Trong kinh Phật có dạy, tâm không điên đảo, thì vấn đề có thể giải quyết.
Phật Thích Ca Mâu Ni dạy cho chúng ta, trong Kinh Kim Cang đã nói: “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”. Quý vị có thể xem thế gian này như một giấc mộng, trong mộng đạt được có phải là thật đạt được không? Không có, sau khi tỉnh dậy đều không có cái gì, trong mộng mất rồi, sau khi tỉnh dậy cái gì cũng không có mất. Quý vị có thể đem cuộc đời nhìn như mộng, cảnh mộng thì quý vị không có được mất. Tâm quý vị đã bình lặng, tâm sẽ vui. Đạt được cũng không vui mừng, mất đi cũng không sầu lo. Khi công phu thật có một chút nền tảng, đạt được vui mừng, mất đi cũng vui mừng, không có điều gì là không vui mừng. Điều này nên xem công phu. Người không có công khi bị mất đi sẽ: ai da! Thật đáng tiếc, tôi lại bị mất rồi. Đó là gì? Đó là công phu chưa được, không có công phu. Lúc thật có công phu được mất đều hoan hỷ. Hoan hỷ là gì? Hoan hỷ là họ đã như như bất động, trong tâm chỉ có Phật, không có thứ khác, tâm đã thanh tịnh, tâm đoan chánh rồi.
Đạt được nghĩa là thành tựu, nghĩa là rất dễ vãng sanh thế giới Cực Lạc, ta sẽ đạt được. Nhưng ba vấn đề tín nguyện hạnh trong bốn chữ này, ba điều kiện này phải đầy đủ. Phải tin sâu, phải nguyện thiết, thật sự muốn vãng sanh, không muốn ở thế gian này nữa. Người tin thật, nguyện thiết, có thể khiến cho đời này, những vấn đề nhỏ nhặt trong cuộc sống, đều thỉnh Phật đến sắp đặt giúp là được. Phật Bồ Tát sắp xếp, bản thân không cần lo lắng, tất cả đều tùy duyên, sao cũng được. Được Phật Bồ Tát chăm sóc tự tại biết bao, hà tất tự mình lo lắng? Phật Bồ Tát thật sự chăm sóc ư? Cảm thấy không đáng tin, vẫn là tự mình lo lắng. Nếu ta tự lo, Phật Bồ Tát không quan tâm nữa. Vì sao vậy? Vì bản thân quý vị rất giỏi. Bản thân ngu si, mê muội, hết cách, chỉ biết cầu Phật Bồ Tát gia hộ, Phật Bồ Tát thật sự gia trì.
Phương pháp này, trước đây Đại sư Chương Gia dạy cho tôi, đây là một người thầy tốt! Thầy không dạy tôi điều này, đời này của tôi có thể nói không có gì thành tựu, vì sao vậy? Có thể không nghĩ cho ngày mai chăng? Có thể không nghĩ cho sang năm chăng? Chắc chắn thời gian lo lắng cho mình nhiều, thời gian học tập Phật pháp giảm ít. Chúng ta không phải hàng thượng căn lợi trí, không phải thiện căn sâu dày, đời này đối với việc vãng sanh sẽ có vấn đề. Thầy dạy tôi điều này, tôi suốt đời cảm kích, suốt đời chưa nghĩ cho riêng mình, vì sao vậy? Vì không có phước báo, không có trí tuệ, không có năng lực, nghĩ gì chứ? Qua ngày nào tính ngày đó, căn bản không nghĩ đến chuyện ngày mai. Cho nên rất an vui, ngày ngày an vui. Ngày ngày an vui tích lũy lại, chính là mỗi năm an vui, điều này đạt được từ thầy.
Thầy dạy cho tôi mấy vấn đề, suốt đời lợi lạc vô cùng. Thầy nói với tôi, giống như trong kinh nói vậy: nhất thiết pháp không, vô sở hữu, bất khả đắc. Dạy tôi nhìn thấu, sau khi nhìn thấu mới thật sự có thể buông bỏ. Sự nghiệp mỗi ngày là kinh giáo, chúng tôi là một phần tử tri thức, thích đọc sách, đừng đọc sách khác, chỉ đọc kinh Phật. Kinh Phật chúng ta đọc suốt đời không hết, cho nên phải buông bỏ hết tất cả những sách tịch thế gian, chuyên tham cứu kinh Phật. Lúc còn trẻ vô tri, thầy dạy tôi nhất môn thâm nhập, tôi còn sai lời, muốn quảng học đa văn, mắc cùng một khuyết điểm của những người trẻ tuổi, quảng học đa văn.
Nghiệp là nhân, địa ngục là quả báo, nhân quả nhất định phải tương ưng. Nhân như thế nào liền được quả báo như thế đó, giết người đền mạng, nợ tiền trả bằng tiền. Định luật nhân quả, đời đời kiếp kiếp đeo đuổi như bóng theo hình, không thể trốn thoát.
Người học Phật hiểu rõ, vì thế người học Phật không sợ thiệt thòi, vì sao vậy? Vì căn bản đâu có thiệt thòi, về sau có quả báo mà, đâu có thiệt thòi! Đời này chịu thiệt, đời sau có phước báo lớn. Cổ nhân có câu danh ngôn rằng: “thiệt thòi là phước”, ngược lại chiếm lợi ích là tai họa. Đời này chiếm lợi ích của người, đời sau chịu thiệt rất lớn. Trong kinh điển Phật giáo, trong kinh luận của Nho và Đạo giáo, đều nói đến đạo lý này, tuyệt đối không gạt người.
Hiện nay chúng ta nói hồi hướng cho người khác nhưng lấy gì để hồi hướng? Chúng ta không có thiện căn phươc đức nào cả, lấy gì hồi hướng? Chẳng có gì để hồi hướng cả nên hồi hướng dó là giả, không có thật. Nên cần phải thực sự tu trì, không tu trì thì chỉ là nói dối. Chúng ta không thể dùng tham sân si hồi hướng, không thể đem kiêu mạn tật đố ra hồi hướng. Nên hiểu đạo lý này, thì bạn sẽ hiểu đức Phật A Di Đà rất chân thật, không hề giả trá. Chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực tu học mới có thể có chút ít công đức để hồi hướng cho người khác, hồi hướng cho oan gia trái chủ, mới hóa giải được oan kết.
Có kẻ niệm Phật, đọc kinh sớm tối mỗi ngày, đến khi tuổi già trước lúc vãng sanh mà vẫn còn rất nhiều oan gia trái chủ vây quanh người. Nguyên nhân nào lại thế? Ngày nào cũng hồi hướng nhưng chẳng có gì hồi hướng cho người ta. Nếu có công đức thật thì những oan gia trái chủ này đã bỏ đi lâu rồi. Tâm người, lòng người đều cùng một lý luôn muốn làm rõ việc này.
Tôi chỉ thấy trường hợp một người hồi hướng đúng là rất hiệu quả, đó là cư sĩ Lưu Tố Vân. Bà ấy nhờ vào đâu? Nhờ 10 năm chỉ một bộ kinh, một danh hiệu Phật, chỉ công đức đó thôi. Nhờ vào công đức nghiêm túc, nghe lời, thật thà, công đức của sáu chữ này. Hiệu quả thật sự đấy, chẳng giả chút nào.
Quý vị xem, bao nhiêu năm lại đây chúng tôi hoằng dương kinh này. Ở Đại lục cũng dẫn đến sự phản đối, phê bình bản hội tập, chúng tôi gánh chịu tai nạn lớn này. Cũng may chính phủ Trung quốc sáng suốt, cục Tôn giáo khẳng định bản hội tập này. Cục Tôn giáo in ấn Tịnh độ Ngũ Kinh, Kinh Vô Lượng Thọ chính là bản hội tập. Sáng suốt. Những lời phản đối mới dần dần không còn. Nếu chính phủ Trung quốc không làm như vậy, chúng tôi gặp phải vô vàn khó khăn, đúng là ma đến gây phiền phức.
Chúng ta phải biết, quý vị thấy bản này viên mãn biết bao. Lần này chúng ta cùng nhau chia sẻ, những người có nhân duyên. Ai là người có duyên? Người mở ti vi, mở internet. Đây là người có duyên, không ai không hoan hỷ. Phải tin thật, phải nguyện thiết, phải trì danh.
Quả báo đạt được sau khi vãng sanh, suốt đời này ta chưa hề nghĩ đến, sao lại thù thắng đến thế, thành tựu nhanh chóng như vậy. Đạt được quả gì? Là A Duy Việt Trí Bồ Tát, như vậy không vi diệu ư? A Duy Việt Trí Bồ Tát, người bình thường tu hành bao lâu? Tu vô lượng kiếp. Người ta tu vô lượng kiếp, sao chúng ta một đời là thành tựu? Đây không phải quá nhanh chóng ư?
Đức hiệu Di Đà ở thế giới Tây phương. Tín tâm hoan hỉ, sau khi nghe được thực sự tin tưởng, thực sự sinh tâm hoan hỉ, “cho đến nhất niệm, chí tâm hồi hướng”, trong đây điều quan trọng nhất là nhất niệm. Nhất niệm chính là nhất tâm, nhất tâm là chân tâm. Nhị niệm là vọng tâm, gọi là ba tâm hai ý. Nhất niệm là chân tâm. Nhất niệm ngoài Phật A Di Đà ra, niệm gì cũng không có. Đó gọi là nhất niệm, gọi là nhất tâm. Chí tâm hồi hướng, chí tâm chính là chân tâm. Nhất niệm đến cực điểm. Đem điều bản thân tu tập được, thiện căn đoạn ác, thiện căn tu thiện, tuyệt đối không chú trọng phúc báo ở thế gian, không cần, cần cái gì? Cần cầu sanh Tây phương Tịnh độ. Hồi hướng Thế giới Cực Lạc, tôi tu cho ai? Tôi vì cầu vãng sanh mà tu, như vậy là đúng rồi. Tôi vì cầu gặp Phật A Di Đà, cầu thân cận Phật A Di Đà mà tu tập, vậy là đúng rồi. Còn có một việc nữa là hồi hướng, hồi hướng chúng sanh, không phải vì bản thân tôi. Tôi vì tất cả chúng sanh khổ nạn lìa khổ được vui mà tu hành. Đó đều là điều tốt, không vì bản thân.
“Nguyện sanh kỳ quốc, tức đắc vãng sanh”. Trong bản của Khương Tăng Khải, mấy câu kinh văn như vậy: “đản phục ư hạ bối văn trung”, do vì mấy câu này cũng là bản Ngụy dịch. Bản Ngụy dịch ở Trung Quốc lượng lưu thông rất lớn. Ngày xưa chúng ta học Kinh Vô Lượng Thọ cũng học bản này.
“Kỳ hữu chí tâm, dục sanh bỉ quốc”, điều này đoạn trước nói: nhất niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sanh nước kia, giả sử không thể làm các công đức, hoặc là không có năng lực, làm công đức phải có trí huệ, phải có năng lực, phải có của cải, còn phải có cơ duyên, thiếu một điều kiện cũng làm không thành công. Bốn điều kiện đều đầy đủ, sự việc này mới có thể thành công được, gọi là chúng duyên hòa hợp mà thành tựu. Chúng ta biết được có rất nhiều sự việc là nên làm tại thế gian này. Nhưng như thế nào? Duyên chưa đủ, làm không thành công. Bốn loại duyên đều đầy đủ không phải là việc dễ. Ở nơi này chúng sanh nếu như không có phước báu, nó liền bị chướng ngại, liền bị quấy nhiễu. Làm cho sự việc quí vị làm không thành công. Không thể làm các công đức, nên phát tâm vô thượng bồ đề. Điều này rất quan trọng, nhất hướng chuyên niệm, tốt lắm! Điều này người khác không quấy nhiễu được. Vì sao vậy? Vì sự việc này toàn nhờ vào duyên của bản thân, không phải nhờ ngoại duyên, nhờ vào ngoại duyên khó. Đây toàn là dựa vào bản thân, cầu bản thân, không cầu người khác. Tâm vô thượng bồ đề chúng ta biết được rồi. Chúng ta không nên ghi nhớ quá nhiều, chỉ nhớ Ngẫu Ích Đại sư nói, Ấn Quang Đại sư tán thán là tốt rồi. Đối với Thế Giới Tây Phương Cực Lạc thật tin, không mảy may nghi ngờ gì cả. Thật muốn đi, thật lòng tình nguyện đi, đó chính là tâm vô thượng bồ đề. Đi đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, điều tốt đầu tiên là thọ mạng vô lượng, quí vị mạnh khỏe trường thọ, thân thể của quí vị không cần phải lo lắng.
Điều tốt thứ hai là gì? Ngày ngày nghe Phật A Di Đà giảng kinh thuyết pháp. Quí vị xem điều tốt thứ nhất: quí vị thật là vô lượng phước báu. Thọ mạng là phước báu số một trong các phước báu. Phước báu thứ hai là ngày ngày nghe kinh vô lượng trí huệ. Đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc làm gì? Tu phước, tu huệ, phước huệ song tu. Chúng ta ở đây không có cách gì. Mỗi ngày tôi giảng 4 tiếng đồng hồ, ở thế gian này cũng tốt lắm rồi, nhưng so với Thế giới Cực Lạc thì kém xa lắm. Mỗi ngày 24 tiếng đồng hồ, quí vị mới có 4 tiếng đồng hồ học tập kinh điển. Ngoài ra 20 tiếng đồng hồ là vọng tưởng. Làm sao có thể sánh với người ta được? Thế Giới Tây Phương Cực Lạc Phật giảng kinh không gián đoạn, đại chúng nghe kinh không gián đoạn, cứ tiếp tục giảng như thế không có ngày đêm. Chư vị nên hiểu Thế giới Cực Lạc không có ngày đêm.
Nam mô A di dà Phật, trực tiếp niệm A Di Đà Phật cũng được. Vì trong kinh Di đà, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy cho chúng ta “chấp trì danh hiệu”, danh hiệu là A Di Đà Phật, hai chữ nam mô, cả sáu chữ này đều là dịch âm tiếng Phạn. Nam mô có nghĩa là qui y, qui mạng, chỉ nghĩa thế thôi, nó không phải là danh hiệu. Vì thế, chấp trì danh hiệu bốn chữ còn lại là được.
Ngày xưa khi Đại sư Liên trì còn tại thế, ngài là người sống năm Vạn lịch cuối đời nhà Minh, có người đến xin thỉnh giáo với ngài: Nên niệm Phật như thế nào? Ngài dạy nên niệm Nam mô A Di Đà Phật, một người khác hỏi ngài: Bản thân ngài có niệm không? Ngài đáp: Tôi niệm A Di Đà Phật. Vì sao dạy người khác niệm Nam mô mà bản thân mình lại không? Đại sư nói với mọi người: Tôi là người phát tâm, cuộc đời này quyết định sẽ sinh về Tịnh độ, gần gũi đức Phật A Di Đà, nên không khách sáo, nam mô là lời khách sáo. Sao lại dạy mọi người niệm nam mô? Họ chưa chắc đã muốn sinh về cõi Tịnh độ nên phải khách sáo một chút, cung kính một chút với Phật A Di Đà. Nam mô cũng có nghĩa là cung kính, lễ kính, cung kính với ngài một chút cũng có những điều hay. Thực tâm muốn vãng sanh thì không cần khách sáo. Câu chuyện này được kể trong Trúc Song Tuỳ Bút, chúng ta cần phải hiểu.
Ngày trước, Đại sư Chương gia đã dạy tôi: Phật pháp nên chuộng mặt nội dung, đừng nên sa đà vào hình thức, không phải với ý này sao? Thực hành chín chắn, trọng thực chất, không chuộng bề ngoài. Làm lấy lệ, thường chuộng bề ngoài, thêm thắt nam mô đó là hình thức. Người thực hành một cách chân chính không cần thêm nam mô, chỉ niệm A Di Đà Phật là được, càng giản đơn càng tốt, ý nghĩa của bốn chữ này đã nói không cùng rồi! Bộ kinh này chúng ta cần mất hơn một ngàn giờ đồng hồ mới có thể nắm bắt được, chứ không phải chỉ phân tích một câu danh hiệu mà thôi, vì thế công đức danh hiệu không thể nói hết.
Xưng danh Phật trong từng niệm niệm nên có thể trừ hết tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Trong kinh Đại thừa đã nói như thế, có phải hơi quá không? Niệm một câu A Di Đà Phật mà có thể trừ được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Thời gian quá lâu, quá dài, trải qua đời kiếp mê hoặc, điên đảo, nhất là sau khi rơi vào luân hồi sáu đường không thoát ra được. Luân hồi là một mê cung, cứ mãi mù mịt trong đó thì mỗi niệm là một nghiệp. Như tôi đã nói, trong tâm chúng ta có niệm, nếu chia nhỏ niệm đó ra thì có đến một ngàn sáu trăm triệu niệm nhỏ, tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử, quí vị có thể hiểu vì sao không thể tiêu diệt. Song nếu dùng chân tâm để niệm thì một niệm là có thể tiêu tan, tại sao lại như thế? Có một thí dụ trong kinh Phật, giống như ngôi nhà tối trăm năm là thí dụ cho sự mê mờ trong vô lượng kiếp, đốt lên một ngọn đèn thì căn nhà liền sáng rực. Ngọn đèn kia thí dụ cho cái gì? Đó là chân tâm, là sự giác ngộ của quí vị. Khi đã giác ngộ rồi thì nghiệp chướng trong vô lượng kiếp sẽ được tiêu diệt, vì sao vậy? Vì nghiệp chướng là giả, không thật, nếu thật thì nó đã không mất”. Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, chúng ta cần phải hiểu.
Có người thắc mắc”, một số người nghi ngờ “Tội đã có trong nhiều kiếp”, nghiệp chướng tạo ra trong nhiều đời nhiều kiếp đến nay, “nghiệp chướng sâu nặng, cần sám hối nhiều”, sám ma tức sám hối, “tích chứa công đức, có thể tiêu trừ”, tức tiêu trừ nghiệp chướng, đây là lối đi phổ thông nhất, được mọi người tin tưởng. Nghiệp chướng nặng, mỗi ngày anh cần sám hối, siêng năng sám hối, từ từ tích chứa công đức mới tiêu trừ tội lỗi, tai nạn, vấn đề này mọi người nên tin tưởng. Bây giờ nói đến đoạn “niệm Phật một tiếng, diệt được tội nhiều kiếp”, có vẻ nhân quá nhỏ nhưng quả lại hơi lớn, “vì thế khó tin”, nghe đến đoạn này, quí vị nghi ngờ không? Một tiếng niệm Phật mà diệt được nhiều tội như thế, vì vậy Đại sư Liên trì nói rất rõ “nay gọi chí tâm tức nhất tâm”Nhất tâm ở đây là gì? Đó là chân tâm, lí nhất tâm, một niệm có thể tiêu tội. Quí vị xem Đại sư Huệ năng, nghe giảng kinh trong phương trượng của Ngũ tổ, tôi tính chắc chưa đến hai giờ đồng hồ, làm sao Ngài minh tâm kiến tánh, thành Phật? Thành Phật là gì? Là tiêu trừ tất cả tội chướng trong vô lượng kiếp, có ai mang tội chướng trong mình để thành Phật không, làm gì có chuyện đó. Đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh mà còn mang tội chướng ư? Không còn, hoàn toàn sạch sẽ rồi. Ngài dùng tâm nào để nghe? Chí tâm. Ngài dùng chân tâm để nghe, hai tiếng đồng hồ mà có thể đai triệt đại ngộ, nếu dùng vọng tâm để nghe, quí vị nghe đến tám vạn đại kiếp cũng không giác ngộ, không đạt đến mức như thế. Vì sao vậy, vì lẫn nhiều tạp niệm, lẫn nhiều vọng tưởng, chân tâm tách khỏi niệm, chân tâm không có ý niệm. Chân tâm tức là không khởi tâm, không động niệm, tâm thanh tịnh, không vướng bụi, dùng tâm như vậy để niệm Phật thì thật đáng nể! Vì thế, một tiếng niệm Phật có thể diệt tội nặng vô lượng kiếp, xét về lí là đúng. Đối với vấn đề này chúng ta không nên hoài nghi. Vấn đề là ở chỗ chúng ta rèn luyện như thế nào để nhất tâm? Việc này không thể hấp tấp, nên thư thả, chúng ta không thể đốn ngộ, mà phải từ tiệm tu. Trước hết làm được công phu thành phiến, chúng ta có niềm tin là sẽ làm được. Sau khi công phu đã thành phiến, ta tiếp tục nỗ lực vươn đến nhất tâm, sự nhất tâm được rồi ta mới vươn đến lí nhất tâm là thành công. Đây là cảnh giới mà đoạn kinh này nói đến. Khi đã đạt đến lí nhất tâm thì tội nghiệp trong vô lượng kiếp đều được tiêu trừ.
Đại sư Liên Trì nói về vấn đề chí tâm, chí tâm ở đây là thuộc lí nhất tâm, khi nhất tâm đã sáng tỏ, “lãng”là sáng tỏ, nhất tâm là trí huệ, nhất tâm là ánh sáng, “tất cả sai lầm đều mất hết”, những điều sai lầm này là gì? Là vọng tưởng, là nghiệp chướng, tích chứa từ vô lượng kiếp đến nay, đó là tích chứa sai lầm, liền biến mất, triệt tiêu hết. Giống như một ngôi nhà tối ngàn năm, đốt một ánh lửa mà bóng tối không mất đi ư. Một khi đã đốt lửa thì bóng tối tự nhiên mất đi. Ngôi nhà tối ngàn năm được ví như sai lầm tích chứa lâu đời, tội chướng của quí vị nặng, nhiều, vì sao không giác ngộ được? Ở đây, ý nghĩa thật sự của nó, vì sao không dùng chân tâm mà lại dùng vọng tâm? Quí vị dùng vọng tâm, dùng vọng thì không thể tiêu diệt vọng, vọng khống chế vọng thì rất khó khăn, chân tâm mới diệt vọng. Chân tâm, ta nên nhớ, trên đề kinh này là Thanh tịnh bình đẳng giác, đó là chân tâm, chân tâm là thanh tịnh, không ô nhiễm. Tâm phân biệt, chấp trước của chúng ta là ô nhiễm, tự tư tự lợi là ô nhiễm, danh văn lợi dưỡng là ô nhiễm, ngũ dục lục trần là ô nhiễm, tham, sân, si, mạn là ô nhiễm. Phải buông bỏ tất cả những thứ này, tự tại tuỳ duyên, thật sự trong cuộc sống hàng ngày được đại tự tại, là chân trí huệ, đại tự tại, thực sự là một cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn. Không phải sung túc của cải, cũng không phải chức vụ cao sang, mà là gì? Là cuộc sống vui vẻ, cuộc sống nhàn hạ, không phiền não, không lo toan, không trói buộc, không áp lực, như thế mới gọi là hạnh phúc.
Giống như Trương Thiện Hoà, Trương Thiện Hoà là một tay đồ tể, suốt đời mổ trâu, bán thịt trâu, khi sắp lâm chung, thấy rất nhiều người đầu trâu đến đòi mạng, lúc đó quá khiếp sợ. Những con trâu bị giết đang ở trước mặt, đòi mạng. anh ta kêu cứu thật lớn, duyên của anh ta quá tốt, gặp ngay một vị sư ngang qua nhà, nghe tiếng kêu cứu trong nhà, sư bèn vào xem, thấy người kia đang kêu cứu, nhìn quanh sư thấy toàn là người đầu trâu, sư bèn châm một bó hương rồi đưa cho anh ta, bảo nhanh niệm Nam mô A Di Đà Phật, anh ta lập tức niệm Nam mô A Di Đà Phật, niệm được mấy tiếng A Di Đà Phật, anh nói với sư: Những người đầu trâu biến mất hết cả, Phật A di đà đến dẫn con đi rồi. Quí vị nói anh này chứng được phẩm vị nào? Rõ ràng, không một chút sai lầm, nếu không phải là người có thiện căn phước đức từ đời trước, thì không thể gặp được. Vì thế việc nhất tâm lúc đó của anh ta, khả năng là lí nhất tâm, nếu là lí nhất tâm anh ta sẽ được thượng phẩm thượng sanh. Nếu là sự nhất tâm anh ta sẽ được trung phẩm thượng sanh, anh ta không thể là hạ bối, tức là hạ tam phẩm, chắc chắn không phải. Chúng ta muốn đạt đến trung bối thượng sanh cũng không phải dễ, anh ta một lúc mà được ngay. Vì vậy mỗi niệm đều là tâm, mỗi niệm đều ứng hợp chân tâm, mỗi niệm đều là Phật. Mười niệm lúc sắp lâm chung như thế, đã ứng hợp lí nhất tâm, vì vậy mà hết tội, được vãng sanh. Hết tội, được vãng sanh là thành Phật rồi! Người tội diệt, được vãng sanh là những ai? Đó là những người thượng phẩm thượng sanh. Chuyện này là có thật, không phải hư dối, chúng ta phải nắm vững, phải hiểu rõ. Khi hiểu rõ những chuyện như thế, thì chúng ta không còn coi thường bất cứ một ai, có thể khi lâm chung người đó sẽ giống ông Trương Thiện Hoà, họ được vãng sanh thượng thượng phẩm. Khi đến thế giới Cực lạc, cấp bậc chúng ta khác họ nhiều lắm, không những không khinh thường những người làm ác, mà đối với súc vật chúng ta cũng tôn trọng, không dám khinh những loài như côn trùng sâu kiến, có thể sau này khi được làm người, chúng sẽ thành Phật trước chúng ta. Cần tôn trọng! Cần bảo vệ mạng sống, đấy gọi là tích chứa công đức, có ích rất lớn với bản thân ta.
Không buông bỏ là mê, buông bỏ là ngộ, giác ngộ thì trí huệ hiện tiền, đức năng hiện tiền, phước báo hiện tiền, đấy gọi là tự tại. Hầu như những người học Phật đều hiểu rõ, tập khí nghiệp chướng của mình nặng nề, rất muốn tiêu trừ nghiệp chướng. Nhưng nguyên nhân tại sao nghiệp chướng không thể tiêu trừ? Vì mỗi niệm đều nhớ đến nghiệp chướng của mình, nhớ tập khí của mình, vì thế tập khí nghiệp chướng của bản thân họ chỉ tăng thêm chứ không thể tiêu trừ. Khi nào mới tiêu trừ? Lúc nào mình không nhớ nghĩ nữa, quên những thứ đó đi, mỗi niệm đều nghĩ đến Phật A Di Đà, chỉ nghĩ đến Phật A Di Đà, thì tiêu được tội nặng trong tám mươi ức kiếp sinh tử. Không còn nghĩ đến nghiệp chướng nữa thì nghiệp chướng tự tiêu trừ, đạo lý là ở chỗ này. Đến lúc cấp bách, đang gặp tai nạn, đang mang bệnh tật, luống cuống lật đật, quên cả vọng niệm, danh hiệu Phật cũng không nhớ, lúc đó sẽ thế nào? Mỗi niệm đều làm tăng thêm nghiệp chướng, nên biết rằng mỗi niệm đều tăng thêm. Nói cách khác, mỗi niệm đều đến gần với ác báo, vì sao vậy?
Trong Thái Thượng Cảm Ứng Thiên nói rất rõ: “Không có hoạ phúc, tất cả đều do mình tự chuốc lấy”. Trong kinh đức Phật dạy: Đến lúc đó thì quên sạch. Cả đời học Phật đến lúc đó không lợi ích gì, chỉ có phiền não nổi lên, đến lúc đó còn oán hận trời đất, thậm chí oán hận cả Phật Bồ tát, tội nghiệp càng nặng thêm, tội chướng lúc đó biến thành nghiệp địa ngục vô gián. Những người đệ tử của Phật, do không thấu hiểu kinh điển, hộ trì Phật pháp nhưng lại kể công, sao lại gặp nhiều tai nạn thế này? Hay Phật Bồ tát không linh, Phật Bồ tát không phù hộ mình. Đây là do không thông hiểu nên không lý giải được giáo pháp. Trong kinh điển xác thực, chư Phật Bồ tát có thể cứu độ tất cả chúng sanh lìa khổ được vui, nhưng chúng sanh đã hiểu sai những lời dạy trong kinh điển, tự mình đem tai nạn đến cho mình mà lại oán trách trời đất, làm sao như thế được! Phật có dạy quí vị làm thế đâu. Ngài dạy chúng ta tiêu trừ nghiệp chướng, hoá giải tai nạn, dạy chúng ta buông bỏ, dạy chúng ta bố thí, bố thí là buông bỏ, Bố thí là xả, xả điều gì? Xả bỏ tai nạn, xả bỏ sinh tử, xả bỏ bệnh tật, xả bỏ lục đạo luân hồi, xả bỏ mười pháp giới, thì quí vị sẽ thành Phật. Mỗi niệm quí vị không buông bỏ được thì phiền não càng lớn.
Thật sự luân hồi là thứ rất đáng sợ, nếu quí vị thấu hiểu được luân hồi, thì quí vị biết luân hồi là một chiếc bánh tròn. Cuộc đời mỗi con người, bất luận có mối quan hệ tốt như thế nào, thì chuyển kiếp cũng không còn nhớ nữa, có thể đều điên đảo hết. Ông bà tổ tiên nhiều đời, có thể trở lại làm con cháu của chúng ta, đó là những trường hợp rất thường gặp. Thậm chí tạo nghiệp ác, họ còn đoạ lạc làm súc sinh làm vật nuôi trong nhà quí vị, mắt phàm chúng ta không thể nhận biết được. Vì thế oan oan tương báo trong sáu đường không lúc nào ngưng, đời đời kiếp kiếp phải gánh chịu. Làm thế nào vượt ra được? Làm sao thoát ra được? Trong rất nhiều pháp môn thì pháp môn Tịnh độ là thù thắng, tuyệt vời nhất là một câu danh hiệu, có thể giải quyết tất cả những vấn đề này. Tại sao chúng ta không niệm? Tại sao chúng ta niệm lục đạo luân hồi? Nói cho quí vị rõ, tất cả các tạp niệm đều là luân hồi trong sáu đường. Có thể nói không thể tìm thấy chánh niệm trong thế gian này, chánh niệm trở thành hữu danh vô thực. Xã hội hiện nay, niệm danh hiệu Phật A Di Đà là chánh niệm, ngoài niệm này ra, không có một chánh niệm thứ hai. Ngày xưa còn chứ bây giờ không có nữa, quí vị hãy để ý xem xét, thể nghiệm, khi không niệm Phật tâm ta sẽ nghĩ đến thứ gì, nhớ cái gì? Quí vị cố gắng suy nghĩ thật kĩ những thứ quí vị nghĩ, nhớ tương ứng với thứ nào? Đã hiểu được chưa? Mỗi niệm đều là luân hồi, mỗi niệm đều nghĩ đến những ân oán trong sáu đường, quả báo đắp đổi, quí vị chỉ nghĩ được chừng đó. Sức mạnh này rất hùng dũng, vì thời gian nghĩ đến những thứ này của quí vị khá nhiều, mà thời gian niệm Phật không được bao nhiêu, danh hiệu Phật không địch nổi nghiệp lực, đấy là điều chứng minh tại sao công phu của chúng ta không đắc lực.
Đến cuối đời, Hoàng Niệm Tổ ngả bệnh, sáu tháng trước khi mất, mỗi ngày ông niệm mười bốn vạn danh hiệu Phật, nỗ lực niệm Phật, buông bỏ tất cả. Trong thời gian nửa năm đó, ông đã vãng sanh, một người có đức độ, có tâm tu hành như thế, đến cuối đời vẫn nỗ lực không ngừng mới được vãng sanh, huống gì những người phàm phu bình thường! Ông là một tấm gương cho tất cả những người bình thường như chúng ta. Có thể nói, khoảng thời gian sáu tháng cuối đời, một trăm tám mươi ngày, đã đủ để buông bỏ tất cả, một lòng chuyên niệm, thì chắc chắn sẽ được vãng sanh. Tấm gương đó đã chứng minh cho chúng ta. Vì thế một niệm tâm thanh tịnh nhất định được nuôi lớn trong hàng ngày, cần phải nuôi dưỡng buông bỏ, buông bỏ tất cả.
Tôi cũng đã nói nhiều lần, cảnh tỉnh những người cùng tu, tiền tài mang trên người là của chúng ta, không mang theo người thì không phải là của chúng ta, đừng nên mang theo trong lòng. Áo quần mang trên người là của chúng ta, không mang trên người là không phải của chúng ta, chẳng phải quí vị không phải lo lắng rồi sao? Căn phòng này, hôm nay tôi ngồi đây thì nó là của tôi, bước ra ngoài cổng thì nó không còn là của tôi nữa. Nên thường quán tưởng như vậy thì quí vị có thể buông bỏ được, buông bỏ rồi thì tâm thanh tịnh của quí vị hiện tiền, khi tâm thanh tịnh hiện tiền thì không khó để tìm nhất niệm, chắc chắn sẽ tìm được nhất niệm. Vậy nhất niệm là gì? Đó là chân tâm, quí vị đã tìm lại được chính mình, tìm lại được tự tánh Phật của chính mình, tự tánh Phật chính là Phật A Di Đà, ai là người không phải A Di Đà Phật? Mỗi người đều là Phật A Di Đà.
Ngày nay chúng ta là những người quyết tâm tu tập, mỗi giờ khắc đều tự hỏi mình. Vì sao lại thường nổi lên tập khí phiền não? Ta nhìn nhận việc phát tác đó ra sao? Nên xem nó như một thứ bệnh. Khi phiền não nổi lên, ta nói: sao ta lại phát bệnh nữa rồi? Dùng phương pháp nào để trị liệu? Một câu A Di Đà Phật là trị lành. A Di Đà Phật là viên thuốc vạn năng để trị bệnh chúng ta, đấy gọi là phục phiền não.
Như sách Viên Trung Sao đã viết: “Sức mạnh của nhất niệm có sức đập tan mê mờ”. Nó có thể điều phục được phiền não”. Chánh niệm khi lâm chung”, khi lâm chung chỉ có một câu A Di Đà Phật, ngoài một niệm này, không nhớ nghĩ đến điều gì nữa. Luyện tập hàng ngày thì lúc lâm chung tự nhiên thấy được Phật A Di Đà, những niệm khác không còn nữa, lúc đó nhất định quí vị sẽ vãng sanh.
Sự nhất tâm, như Di Đà Sớ Sao nói: “Nghe danh hiệu Phật, thường ức niệm, để tâm theo đuổi, mỗi chữ rõ ràng, liên tục từ câu trước đến câu sau. Trong mọi hành động, chỉ một niệm ấy thôi, không có niệm khác, không để phiền não tham sân si quấy nhiễu, đó mới chỉ làm được sự, vẫn chưa triệt ngộ về lý, mới chỉ có sức mạnh niềm tin, vì chưa thấy đạo nên gọi là sự nhất tâm”.
Đại sư Liên Trì lấy gì để ví sự nhất tâm? Ngài nói với chúng ta. Có sự có lý, có lý nhất định có sự, sự hiển lộ nên có thể thấy, lý thì cao siêu khó định hình. Chúng ta có thể thực hiện được lý nhất tâm, tuy nói là có thể nhưng cũng không dễ. Phương pháp thực hiện thế nào? Làm sao để tu tập? Đoạn này trong Sớ Sao đã nói rất rõ: “Nghe danh hiệu Phật”. Quí vị nghe danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, thường nghĩ thường niệm, luôn luôn nghĩ đến, trong lòng quí vị danh hiệu Phật này luôn luôn bám chặt, miệng thường niệm, khởi tâm động niệm không nghĩ đến thứ gì khác, chỉ nghĩ đến câu danh hiệu Phật, mỗi chữ đều rõ ràng, liên tục từ câu trước đến câu sau. Lão pháp sư Ấn Quang đã vì chúng ta thị hiện, để dạy pháp môn niệm Phật. Ngài niệm Phật, bất luận là bốn chữ hay sáu chữ, đều niệm rất rõ ràng, nghe rất tinh tường, không ngắt quãng giữa câu trước câu sau, ngài còn nhớ mười niệm, biết rằng câu niệm Phật của mình là câu thứ bao nhiêu trong mười niệm, đó là gì? Là nhiếp tâm.
Ba câu tiếp theo là công phu, đi đứng nằm ngồi là nói mọi lúc, mọi nơi chỉ nhớ một niệm, không có niệm khác, đó mới là người tu niệm Phật thật sự. Nếu ta quá bận rộn, không thể chuyên tâm niệm Phật, mỗi tuần nên chọn một ngày, một tuần một ngày không được thì một tháng dành một ngày, hai mươi bốn giờ phải thực sự thâm nhập bốn câu: “Thường nhớ thường niệm, mỗi chữ rõ ràng, câu trước câu sau, không để gián đoạn”. Dành một ngày trong một tháng để làm đến nơi đến chốn, thì tâm thanh tịnh sẽ hiện tiền, không thể nghĩ bàn. Đừng nên coi thường một tháng chỉ có một ngày, một năm tu mười hai ngày, hiệu quả của nó rất thù thắng. Phải buông bỏ, đó là tăng thượng duyên, không thể không thực hiện. Vì sao vậy? Sẽ tránh được tất cả những nhiễu loạn, không bị phiền não tham sân si quấy nhiễu. Đây chính là việc chúng ta buông bỏ tâm tham lam, năm đại phiền não là tham sân si mạn nghi phải buông bỏ. Gặp thuận cảnh không tham, gặp nghịch cảnh không sân, cảnh duyên trước mặt, ta nhận thức rõ ràng minh bạch, không si mê, lẫn lộn. Khiêm tốn, đó là đức tính rất tuyệt vời, cần phải học, không những thay đổi tập khí ngạo mạn của mình, mà cùng lúc giáo hoá những người khác, tự hành hóa tha. Đối nhân xử thế tiếp vật, lúc nào cũng kính nể người khác, tự mình phải khiêm tốn.
Đoạn nghi tức là tin một cách chắc chắn, không nghi ngờ. Với bản thân, đầu tiên là tin ta vốn là Phật. Trong kinh Đại thừa, đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói điều này, tôi tiếp nhận, tôi thừa nhận, tôi biết tôi vốn là một vị Phật, tôi vốn là vô lượng giác. Hiện tại không giác ngộ là bởi vọng tưởng phân biệt chấp trước, nên không thể chứng đắc. Câu nói này là lời đức Thế tôn nói trong kinh Hoa nghiêm. Tôi vốn đã là một vị Phật, bây giờ khẳng định một câu, nhất định tôi sẽ thấy được bản lai diện mục của tôi, tôi phải thành Phật. Vốn không phải Phật, quí vị muốn thành Phật thì hơi khó! Nhưng vốn là một vị Phật, muốn làm Phật sẽ đơn giản hơn nhiều. Tổ tiên của chúng ta hướng dẫn cho ta rằng bản tính vốn thiện.
Kinh Đại thừa nói: Con người vốn là Phật. Vì thế tất cả những tập khí đó, tất cả những thứ bất thiện, chúng ta đều buông bỏ hết, buông bỏ là đúng rồi. Phương thức tu tập như thế, về sự thì ổn nhưng vẫn chưa triệt ngộ về lý, chưa đại triệt đại ngộ về lý. Về sự, việc gì cũng có thể làm được, làm rất đúng pháp. Về lý, chưa thể triệt ngộ nhưng quí vị đã là người khá rồi. Vì sao vậy? Vì quí vị đã đến chỗ tin sâu sắc, không phải chân tín thì không làm được. Chưa thể tin sâu sắc mà làm theo phương pháp này, cứ tiếp tục làm thêm năm bảy năm thì sẽ phát hiện. Vì sao vậy? Vì nó tương thông với nhất tâm, nó là con đường dẫn về tự tánh, càng đi càng đến gần, chỉ cần quí vị không đi đường vòng, cứ thẳng đường mà đi, thì quí vị sẽ đến nơi. Nhưng trước hết phải có chân tín, sau đó mới nghĩ đến thế giới Cực lạc. Tâm nguyện này rất tuyệt vời, có niềm tin chắc chắn, có nguyện lực chắc chắn, như lời dạy của Đại sư Ngẫu Ích, thì quí vị chắc chắn sẽ vãng sanh. Sanh về thế giới Cực lạc phẩm vị cao thấp, là do công phu niệm Phật của quí vị sâu hay cạn. Có được vãng sanh hay không chắc chắn là ở chỗ có niềm tin và nguyện lực sâu sắc hay không. Phải nhớ rằng người có niềm tin, sức nguyện sâu sắc, thì không để tâm đến thế giới này, buông bỏ hết, có cũng tốt, không có cũng không sao. Không quan tâm, không để ý đến tất cả những thứ trên thế giới này. Có, cũng không cần vứt bỏ; không, cũng không cần cầu. Tuỳ duyên với tất cả thì quí vị sẽ an vui, không cần phải tạo tác. Không có mong cầu là tạo tác, có muốn bỏ đi cũng là tạo tác. Chỉ cần tâm ta thanh tịnh, thì có và không cũng chẳng sao, đều không có sự cản trở, tất cả đều không làm trở ngại tâm thanh tịnh, tuyệt đối không làm nổi lên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, là được rồi, đấy gọi là công phu.
Từ đó cho thấy, tâm thanh tịnh là thứ không cần phải bàn cãi, mọi lúc, mọi nơi đều tu được, thiên đường tu cũng được, địa ngục tu cũng được. Chỉ cần quí vị hiểu được điều này và không ngại tu tập, luôn luôn nhắc nhở mình câu: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, thì rất dễ buông bỏ, không còn sai lầm nữa. Lúc đó công phu của ta sẽ được đắc lực, vì có tín lực, sẽ thành tựu nguyện lực, không kiến tánh, nhưng chưa thấy tánh, chưa thấy đạo nên chưa thấy tánh, cho nên mới gọi là sự nhất tâm. Từ đó cho thấy, kiến tánh mới được gọi là lý nhất tâm.
Cho nên chúng ta không thể coi thường một bà già, một người như thế có niệm đến chỗ nhất tâm bất loạn hay không? Không dám nói là không thể, song không nhiều, nhưng sẽ có, vì sao vậy? Từ sự nhất tâm, những người đó nâng cao lên đó là lý nhất tâm. Quí vị cho họ là những người hồ đồ, không biết gì, quí vị hỏi gì họ cũng chỉ đáp A Di Đà Phật, họ không có niệm thứ hai, công phu không ai sánh bằng”. Tiềm thông Phật trí, ám hợp đạo diệu”, quí vị không nên xem thường họ, cổ đức thường nói không thể sánh được với những người đó, những người thông minh tài trí chưa chắc đã sánh kịp, vì trong tâm người đó không có tạp niệm, không có vọng tưởng. Những người như thế, trong Phật pháp gọi là Thánh hiền, không phải phàm phu. Phàm phu có vọng tưởng, có chấp trước, có tập khí, Thánh nhân không có. Mục đích học Phật của chúng ta là muốn thành Phật, thành Bồ tát, thành Thánh, thành Hiền.
Lần này tôi cùng học Kinh Vô Lượng Thọ với quý vị, tôi nghĩ tôi đã nói rất tường tận. Tâm chúng ta nếu như chân thiện, thiện đến cực điểm là dừng nơi chí thiện. Một câu nam mô A Di Đà Phật chính là dừng nơi chí thiện. Quí vị chỉ cần thật tâm để niệm, Bồ Tát Đại Thế Chí dạy chúng ta, “đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”là được rồi. Nếu quí vị dùng phương pháp này để niệm, vậy là vô cùng linh nghiệm, đây thật linh. Đô nhiếp lục căn chính là ở đây nói chánh định tụ. Sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Mắt thì những thứ thu về từ trong sắc trần không nhìn nữa. Tâm định rồi, quí vị nhìn thì tâm không định nữa. Tai từ trong âm thanh trở về lại không nghe nữa. Ý từ trong pháp trần thu về lại không nghĩ đến nữa. Đây chính là gì? Chúng ta nói vạn duyên buông bỏ. Trong tâm chỉ có Phật A Di Đà, đem Phật A Di Đà để ở trong tâm, khởi tâm động niệm, thời thời khắc khắc, ý niệm vừa khởi chính là A Di Đà Phật, không có niệm thứ hai. Đó mới là thật linh. Vấn đề gì cũng giải quyết được. Ngày nay chúng ta tập khí phiền não thực sự là một phẩm cũng chưa đoạn, đới nghiệp vãng sanh. Trong kinh thường nói tất cả chúng sanh, hết thảy chúng sanh, đây là nói trong thập pháp giới. Phía trên bao gồm Phật Bồ Tát, phía dưới bao gồm chúng sanh địa ngục, chỉ cần thực sự buông bỏ được, chân tín, chân nguyện, chân niệm Phật, nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật. Câu nói này quan trọng. Trong tâm thật có Phật, đó chính là tương ưng, tâm tương ưng với miệng, trong miệng có Phật trong tâm vẫn còn nghĩ những việc khác, vậy là không tương ưng. Cho nên Bồ Tát Đại Thế Chí dạy chúng ta: “nhớ Phật niệm Phật”, nhớ là trong tâm có, trong tâm có Phật, trong miệng cũng niệm Phật, họ đã tương ưng rồi.
Người tu hành hiện nay có kẻ phát nguyện đời sau tiếp tục tu hành. Theo họ nói, tự lường xét đời nay công hạnh cạn mỏng, đời sau giả thêm công hạnh nữa mới mong thành tựu. Như thế thật là rất sai lầm! Trong kinh nói: “Một khi mất thân người, muôn kiếp khó được lại”, dù cho được thân người nhưng có thể bảo đảm còn biết tu hành chăng?
Chúng ta phát tâm niệm Phật, chúng ta dùng phương pháp “truy đảnh” niệm Phật, là câu này tiếp nối câu kia. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ trước khi vãng sanh nửa năm, ngài nói với tôi, ông đã buông xả tất cả rồi, nhất tâm chuyên niệm A-Di-Đà Phật, mỗi ngày ông niệm Phật 14 vạn tiếng. 14 vạn tiếng niệm như thế nào vậy? A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật… “truy đảnh”niệm Phật, câu này tiếp nối câu kia. Tôi từng làm thí nghiệm thì 10 phút niệm 1. 000 tiếng, 20 phút có thể niệm hơn 2. 000 tiếng, 1 giờ niệm 6. 000 tiếng Phật hiệu, 10 giờ thì 6 vạn tiếng Phật hiệu, 20 giờ là 12 vạn tiếng Phật hiệu. Nếu như niệm nhanh hơn một chút nữa, thì 20 giờ là đủ rồi, 20 giờ là có thể niệm được 14 vạn tiếng. Người già thời gian nghỉ ngơi là 4 giờ, 24 giờ một ngày thì 4 giờ nghỉ là đủ rồi, thời gian còn lại đều đang niệm Phật, dốc sức niệm Phật. Bạn hỏi“liệu có cần như vậy không?”Ông thực chất cũng là làm cho chúng ta xem, 20 giờ niệm 14 vạn tiếng, không được có vọng tưởng xen vào trong đó, vọng tưởng không thể vào được, không có tạp niệm, không có vọng tưởng thì nửa năm vãng sanh. Ông cũng là đang biểu pháp, biểu pháp cho chúng ta xem nếu thật sự muốn vãng sanh thì phải làm như vậy.
Ngẫu Ích Đại sư nói rất hay “Có thể vãng sanh hay không, quyết định ở có tín, nguyện hay không?”Thật sự có tín, thật sự có nguyện, thì điều kiện vãng sanh đã đầy đủ rồi. Còn đạt phẩm vị cao thấp khi sinh về thế giới Tây phương Cực-lạc là phẩm vị gì? “Phẩm vị cao thấp, thuộc về công phu niệm Phật sâu hay cạn”. Cho nên muốn vãng sanh thế giới Tây phương Cực-Lạc nhất định phải tín, nguyện, trì, danh. Công phu niệm Phật sâu, sâu ở chỗ nào vậy? Ngài không có nói niệm Phật nhiều ít, niệm Phật nhiều ít không có nói, dù chỉ một niệm hay mười niệm nếu như công phu sâu cũng có thể thượng thượng phẩm vãng sanh. Có người một đời chưa từng niệm Phật, cuối cùng lúc vãng sanh niệm 10 tiếng, họ thượng thượng phẩm vãng sanh. Vậy niệm như thế nào? Thâm tâm. Sao gọi là “thâm”? Tâm thanh tịnh là “thâm”, tâm bình đẳng sâu hơn nữa, giác là sâu nhất. Nếu bạn dùng thanh tịnh, bình đẳng giác niệm là thượng thượng phẩm, dùng tâm bình đẳng niệm là thượng bối là thượng trung phẩm, thượng hạ phẩm; dùng tâm thanh tịnh niệm vãng sanh Phương tiện hữu dư Tịnh độ, là Trung bối vãng sanh, là trung thượng phẩm, trung trung phẩm, trung hạ phẩm; Còn công phu thành khối vãng sanh, đây là người bình thường chúng ta đều có thể làm được, là giống như Hoàng Niệm lão vậy, công phu thành khối.