"Tứ niệm xứ là dạy cho chúng ta bốn loại quan niệm chính xác. Ngày nay chúng ta tu hành, các đồng tu thường nói công phu không có lực. Nền tảng của chúng ta chưa chắc chắn thì công phu của bạn đương nhiên không có lực. Không có lực là gì? Không buông bỏ được. Tại vì sao không buông bỏ được? Không nhìn thấu. Phật dạy chúng ta phải bắt đầu học từ đâu? Bắt đầu học từ Tứ Niệm Xứ. Tứ niệm xứ cái thứ nhất là “quán thân bất tịnh”, đây là bước đầu vào cửa, chính là làm cho chúng ta đối với thân kiến này tuy là chưa thể đoạn dứt, nhưng cái chấp trước này phải giảm nhẹ, vậy thì có tiến bộ. Dùng phương pháp quán thân bất tịnh này giảm nhẹ ngã chấp.
37 phẩm trợ đạo, thứ nhất là tứ niệm xứ. Tứ niệm xứ có 4 câu, mỗi câu là một phẩm trợ đạo. Một là quán thân bất tịnh, hai là quán thọ thị khổ, ba là quán tâm vô thường, bốn là quán pháp vô ngã. Bốn loại quán này đều thuộc về trí huệ quán.
Quán đầu tiên, quý vị phải quán sát kỹ càng, “thân bất tịnh”. Đơn giản là nhìn từ đâu? Là nhìn từ ngũ tạng lục phủ của chúng ta, từ trong chín huyệt thứ gì chảy ra, thì quý vị biết không sạch sẽ. Lại quan sát kỹ mồ hôi chảy ra từ lỗ chân lông, chẳng khác gì nói toàn thân đang bài tiết, không chỗ nào bài tiết ra là mùi thơm cả, không có mùi thơm, toàn là hôi thối. Đại tiện tiểu tiện, chảy ra ngoài. Rõ ràng nhất là ra mồ hôi, quý vị xem mùi mồ hôi như thế nào? Vị ra sao? Phương pháp quán này, người thật sự giác ngộ, đối với thân thể này không chấp trước nữa, không quý trọng nữa. Danh từ nhà Phật nói là danh xứng với thực, gọi là bọc thịt thối. Bọc là cái túi, túi thịt thối. Những thứ đựng bên trong là thối tha, không sạch, những thứ không sạch sẽ. Có gì đáng để tôn quý? Có gì đáng để yêu thương? Có gì đáng để lưu luyến? Tu hành khổ nhất, không qua được cửa đầu tiên, là chấp trước thân này.
Chấp trước nghiêm trọng nhất, là tham ái thân thể, chấp trước thân thể. Quý vị xem, đức Phật dạy chúng ta phương pháp đối trị tu hành, phương pháp đầu tiên là dạy chúng ta quán thân bất tịnh. Trí huệ xuất hiện rồi, bọc thịt thối này phải buông bỏ. Bây giờ vẫn dùng nó. Trong Phật pháp nói là mượn giả để tu chân. Chúng ta ngày nay cũng có bọc thịt thối, chúng ta giác ngộ rồi, giác ngộ rồi, thì bọc thịt thối không tạo nghiệp hôi thối nữa, không tạo cái này, dùng nó để tu hành, cần dùng nó để tu chân.
Chân là gì? Chân là kiến tánh. Minh tâm kiến tánh là chân, dùng nó để làm việc này. Cần dùng nó để buông bỏ vô minh vọng tưởng, buông bỏ phiền não phân biệt, phiền não trần sa, buông bỏ chấp trước, kiến hoặc tư hoặc, thì có thể trở về với tự tánh. "
Pháp Sư Tịnh Không
Trích DỤC HẢI HỒI CUỒNG - An Sĩ toàn thư
Cs Nguyễn Minh Tiến Dịch
Đức Phật vì những chúng sinh nhiều tham dục nên chỉ dạy pháp quán bất tịnh. Thực hành pháp qán này lâu ngày thuần thục, tự nhiên trừ dứt được tham dục, có thể vượt qua được con sông luyến ái, siêu thoát sinh tử luân hồi.
Nhân lúc thanh nhàn, tôi có xem qua bộ luận Đại trí độ, mượn lấy ý tưởng từ đó mà làm ra bài tụng này, dùng để tự nhắc nhở cảnh tỉnh bản thân, cũng là nhắc nhở cảnh tỉnh người đời.
Bao nhiêu luyến ái rồi cũng dứt,
Thân này xét kỹ được bao lâu?
Rơi lệ khóc người đều vô nghĩa,
Mấy ai quán xét tự ban đầu?
Sinh thời bao dáng vẻ đẹp xinh,
Thoắt chốc thành thây thối trương sình.
Trước mắt những người đang son trẻ,
Mai sau có thoát được tử sinh?
Da thịt đổi sang đỏ, trắng, vàng...
Máu bầm xanh tím rỉ tràn lan,
Hãy nhìn cho kỹ thân xác ấy,
Mới hôm nào y phục xênh xang.
Da thịt ôi thôi vữa nát rồi,
Tim gan phèo phổi lộ ra thôi.
Nếu người sáng suốt như thật quán,
Tham luyến gì trong đống thịt hôi?
Dung nhan tươi đẹp đã mất rồi,
Tử thi đầy máu ứ tanh hôi.
Dù muốn nhìn qua phân đẹp xấu,
Nhưng chỉ mơ hồ một dáng thôi.
Xác người thối rữa khó nhìn thay,
Nồng nặc tanh hôi muốn tránh ngay.
Ngờ đâu thân xác hôi tanh ấy,
Đã từng son phấn biết bao ngày.
Chim, thú chia nhau bữa thịt người,
Người từng ăn chim, thú suốt đời.
Ba tấc hơi ngừng, người với thú,
Cũng đều thối rữa, trắng xương phơi.
Người chết hình hài cũng rã tan,
Tứ chi, xương cốt vãi tràn lan.
Xét kỹ hình dung xưa đẹp đẽ,
Giờ biết về đâu giữa mênh mang?
Xương trắng nằm trơ giữa quạnh hiu,
Khi còn đi lại ngỡ yêu kiều.
Nhưng dáng yêu kiều xưa là giả,
Vẻ thật ngày nay, có đáng yêu?
Hừng hực bốc cao ngọn lửa hồng,
Di hài bỗng chốc đã hóa không.
Hãy nhìn đám khói bay lên đó,
Có thể khởi lòng tham luyến không?
Những thi kệ trên chỉ nêu sơ lược điểm cốt yếu của các phép quán, chưa có sự quán xét sâu xa và phân tích kỹ. Vì thế, dưới đây tiếp tục nêu rõ hơn:
Người thân yêu nay vĩnh biệt rồi,
Mắt nhìn chẳng nỡ, dạ bồi hồi.
Thần thức vừa lìa ra khỏi xác,
Di thể nhập quan khóa chặt thôi.
Đêm khuya nhà trống đèn leo lắt,
Gió thu trướng lạnh hắt từng hồi.
Khuyên ai đang lúc còn sinh lực,
Sớm tĩnh tâm, quán lúc lìa đời.
Hơi dừng thân lạnh khí phát sinh,
Thi hài thoắt chốc đã trương sình.
Thân thể căng phồng như túi nước,
Bụng như dưa héo nhìn phát kinh.
Nước rỉ từ thân bao nhơ nhớp,
Ruồi nhặng đua nhau đến rập rình.
Một lớp da che, không sớm biết,
Lầm lạc bao năm đáng hận mình.
Thây phơi nắng gió dãi vài phen,
Màu sắc chuyển sang vàng, xanh đen.
Da khô vữa nát rơi từng mảng,
Xương cốt nửa phần cũng rã tan.
Tai, mũi giờ đây thành hốc lõm,
Dây gân từng đoạn đứt ngổn ngang.
Ví như tượng đá thường câm lặng,
Nhìn cảnh thê lương cũng lệ tràn.
Da bọc quanh thân vừa rơi rã,
Hình thể liền tan nát xót xa.
Bụng như dưa nứt bày gan ruột,
Giòi bọ từ trong khoét đường ra.
Dây khô vô tình quấn tóc rối,
Rêu ẩm mọc lan nát lụa là.
Nhắn gửi người đắm mê hình sắc,
Thôi đừng tô điểm túi phân da.
Trơ trơ nằm đó khối máu đông,
Ngàn năm bất động, người còn không?
Bê bết lẫn trong lùm cỏ dại,
Ngổn ngang bụi đất cũng ố hồng.
Còn đâu ảo tưởng phân đẹp xấu,
Đâu kẻ nam nhi, khách má hồng?
Đáng thương kẻ mê nơi mắt thịt,
Nhận giả làm chân, mãi chạy rông.
Da mỏng bồi giấy rách khác chi?
Thịt thối, canh thiu càng đổ đi.
Mủ máu hôi tanh từ trong rỉ,
Ruồi nhặng tranh nhau rúc tử thi.
Như kẻ ăn lòng lợn nôn mửa,
Như người tắm chó nước sạch chi?
Nếu không ghê tởm thấu xương tủy,
Làm sao dứt được khối tình si.
Xác quẳng ra muôn loài xâu xé,
Có phần nào còn được vẹn nguyên?
Chẳng đủ no lòng bao quạ đói,
Chưa hết cơn thèm lũ chó điên.
Ngày nay đang sống, không tự liệu,
Lúc thân tàn, ai kẻ tương liên?
Khi ấy không bằng loài dê, lợn,
Thịt chúng còn mang bán được tiền.
Thịt xương bỗng chốc rã tan mau,
Thân người chẳng biết theo về đâu?
Nào chỉ dung nhan, hình thể mất,
Cho đến tuổi tên cũng còn đâu!
Mấy khóm cỏ thu, đời dài vắn,
Thịnh suy xin hỏi gió qua cầu.
Người ơi xin hãy xem xét kỹ,
Ngọn nguồn sinh tử khởi từ đâu?
Da thịt giờ đây rã tan rồi,
Chỉ còn xương trắng nằm trơ thôi.
Gió mưa thêm đổi màu rêu mốc,
Nước tràn in dấu đất tinh khôi.
Trùng kiến không mời thường kéo đến,
Cháu con mong ngóng vắng xa rồi.
Phong lưu một thuở giờ đâu nữa?
Một khối sầu ôm, hồn chơi vơi!
Xương khô, lửa dữ quyện vào ngay,
Phút giây cuồn cuộn ngút trời bay.
Hừng hực lửa hồng, thiêu trời đỏ,
Ngùn ngụt khói đen, phủ ngọn cây.
Vọng niệm theo tro tàn tiêu tán,
Chân tâm như mặt nhật hiển bày.
Muốn thoát luân hồi vượt sinh tử,
Phải tinh cần tu phép quán này.
Khi sắp nhập Niết-bàn, đức Phật có dặn lại các vị tỳ-kheo về sau hãy dựa vào phép quán Tứ niệm xứ mà tu tập an trụ, sẽ được như Phật không khác.
Ngày nay là thời mạt pháp, người tu chính niệm rất ít, nhìn lại pháp môn này, càng không thấy ai tu tập. Chẳng những không hiểu được nghĩa lý, mà e rằng cho đến tên gọi của pháp môn này cũng không mấy ai biết đến. Thật đáng buồn thay!
Nhân lúc ở giữa núi rừng được vô sự, tôi có đọc qua phẩm Di giáo trong kinh Đại Bát Niết-bàn, liền mượn lấy ý tưởng từ đó rồi dùng vần điệu mà làm ra những bài tụng này, giúp cho người ngâm vịnh, đọc tụng có thể tăng trưởng chính niệm, trừ diệt vọng tâm.
Nếu đặt những lời này gần bên chỗ ngồi, hằng ngày xem thấy có thể tự cảnh tỉnh, đồng thời cũng nhờ đó không quên đi những lời dặn dò răn nhắc của đức Thế Tôn.
Một niệm đảo điên vừa sinh khởi,
Huyễn thân duyên hợp đã hiện rồi.
Một bọc chứa đầy bao máu mủ,
Trong ngoài trên dưới rặt tanh hôi.
Giấy mỏng, da che không thấy thịt,
Dây ràng, gân buộc giữ xương thôi.
Lông mọc trên người như cỏ dại,
Trùng bọ trong thân khắp mọi nơi.
Tim gan phèo phổi toàn nhơ nhớp,
Khăn áo xênh xang lấp liếm thôi.
Bốn đại vốn là hư huyễn cả,
Sáu căn không thật quá rõ rồi.
Nói năng phát tiếng nhờ hơi gió,
Chuyển động đều do khí xoay vần.
Gượng ép phân chia nam với nữ,
Hư danh đối đãi lập chủ, trần.
Ba thước đất gò, trăm năm dứt,
Một nấm mồ, muôn thuở gửi thân.
Sang hèn rồi cũng buông tay trắng,
Hiền ngu đồng phận đáng tương lân.
Luống kiếp sinh ra toàn vô nghĩa,
Ai người nhận biết cội nguồn chân?
Hỏi xem muôn khổ từ đâu tới,
Mới hay do cảm thọ sinh tình.
Vừa nhận chút tình yêu với ghét,
Bám chấp, ghét bỏ, liền khởi sinh.
Ngay khi vừa thịnh, suy liền đến,
Giờ nhục là do trước đã vinh.
Từ trong thân thích sinh oán đối,
Giữa chỗ vui mừng khổ phát sinh.
Vương, Tạ danh gia, còn đâu nữa?
Lưu, Tào hai nước cũng tan tành.
Buồn vui ngẫm lại đêm trường mộng,
Thắng bại cuộc cờ, ai nhục vinh?
Sự đời luôn chẳng theo như ý,
Đói nghèo, bệnh khổ, bóng theo hình.
Thần tài mời gọi ít khi đến,
Quỷ bần đuổi mãi cứ quẩn quanh.
Hối hả một đời chỉ vô ích,
Uất ức bao phen chứa bất bình.
Không cầu, đâu ngại chi quý tiện,
Biết đủ, thiếu dư cũng mặc tình.
Diệu lý chân không vừa nhận rõ,
Buồn lo, vui thích dứt mầm sinh.
Tâm vọng nếu không nơi bám víu,
Thể tánh rốt cùng sẽ ra sao?
Đuốc trong gió lập lòe chớp lóe,
Thuyền dạt trôi mặt biển nhấp nhô.
Một căn nhà mở ra sáu cửa,
Sáu anh em cùng trải giang hồ.
Rối rắm mỗi người một cõi riêng,
Ngổn ngang trăm mối đều khác biệt.
Màu sắc chợt vàng lại chợt xanh,
Âm thanh khi động rồi khi tĩnh.
Mũi ngửi thối thơm tùy mỗi lúc,
Lưỡi nếm mặn nhạt thường đổi thay.
Nóng lạnh bất chợt, thân thường biết,
Yêu ghét hai đường, ý theo ngay.
Trần cảnh dứt rồi, tâm an ổn.
Tình đã không, trí bám vào đâu.
Lật nhào tận đáy hang năm dục,
Đảo ngược tầng tầng ổ sáu căn.
Giặc cướp về cải tà quy chánh,
Chim chóc mừng vui thoát lưới sa.
Đến khi bừng ngộ lẽ thường trụ,
Vọng niệm trùng trùng thảy tiêu ma.
Các pháp do nhân duyên khởi sanh,
Nào phải do người định mà thành.
Nhân duyên có sanh ắt có diệt,
Niệm khởi đôi bên liền phân tranh.
Người muốn được hóa ra lại mất,
Kẻ mong nhàn cứ phải chạy quanh.
Sợ lạnh, đông triền miên không dứt,
Ghét nóng, hạ càng chẳng qua nhanh.
Nghèo khổ ước mong ngày giàu có,
Già yếu mơ hoài lúc tuổi xanh.
Người người ai cũng mong thuận lợi,
Nào ai lại thích chuyện bất thành?
Đạt tâm tự tại, ấy là chủ.
Nay đổi mai thay, lẽ đâu thường?
Lìa khỏi các căn, niệm nào khởi,
Thức đã không rồi, cảnh chẳng vương.
Trong ngoài xét kỹ đều không cả,
Nơi trung gian tìm lẽ chân thường.
Khi sáu cửa không không, vắng lặng,
Một tòa rực rỡ dưới ánh dương.
Chỉ cần duyên dứt, trần lao tận,
An nhiên thường trụ Đại Giác Vương.
不 淨 觀 頌 (并 敘)
[省 庵 法 師]
佛 為 貪 欲 眾 生 說 不 淨 觀。觀 之 既 久。貪 欲 即 除。可 以 越 愛 河 而 超 苦 海。
余 閒 居 閱 大 智 度 論。因 取 意 而 為 之 頌。以 此 自 警。并 以 警 世 云:
死 想:
(先 作 此 觀, 為 下 九 想 張 本)
有 愛 皆 歸 盡,
此 身 寧 久 長。
替 他 空 墮 淚,
誰 解 反 思 量?
脹 想:
記 得 穠 華 態,
俄 成 胮 脹 軀。
眼 前 年 少 者,
容 貌 竟 何 如?
青 瘀 想:
紅 白 分 明 相,
青 黃 瘀 爛 身。
請 君 開 眼 看,
不 是 兩 般 人。
壞 想:
皮 肉 既 墮 落,
五 藏 於 中 現。
憑 君 徹 底 看,
何 處 堪 留 戀。
血 塗 想:
無 復 朱 顏 在,
空 餘 殷 血 塗。
欲 尋 妍 醜 相,
形 質 漸 模 糊。
膿 爛 想:
腐 爛 應 難 睹,
腥 臊 不 可 聞。
豈 知 膿 潰 處,
蘭 麝 昔 曾 熏。
啖 想:
羊 犬 食 人 肉,
人 曾 食 犬 羊。
不 知 人 與 畜,
誰 臭 復 誰 香?
散 想:
形 骸 一 已 散,
手 足 漸 移 置。
諦 觀 嫵 媚 姿,
畢 竟 歸 何 處?
骨 想:
本 是 骷 髏 骨,
曾 將 誑 惑 人。
昔 時 看 是 假,
今 日 睹 方 真。
燒 想:
火 勢 既 猛 烈,
殘 骸 忽 無 有。
試 看 煙 焰 中,
著 得 貪 心 否?
***
前 詩 粗 示 端 緒, 尚 未 諦 審 觀 察, 復 作 五 言 律 以 廣 之。
死 想:
所 愛 竟 長 別,
淒 涼 不 忍 看。
識 才 離 故 體,
屍 已 下 空 棺。
夜 火 虛 堂 冷,
秋 風 素 幔 寒。
勸 君 身 在 日,
先 作 死 時 觀。
脹 想:
風 大 鼓 其 內,
須 臾 胮 脹 加。
身 如 盛 水 袋,
腹 似 斷 藤 瓜。
垢 膩 深 塗 炭,
蠅 蛆 亂 聚 沙。
曾 因 薄 皮 誑,
翻 悔 昔 年 差。
青 瘀 想:
風 日 久 吹 炙,
青 黃 殊 可 憐。
皮 乾 初 爛 橘,
骨 朽 半 枯 椽。
耳 鼻 缺 還 在,
筋 骸 斷 復 連。
石 人 雖 不 語,
對 此 亦 潸 然。
壞 想:
肌 膚 才 脫 落,
形 質 便 遭 傷。
瓜 裂 半 開 肉,
蛇 鑽 欲 出 腸。
枯 藤 纏 亂 髮,
濕 蘚 爛 衣 裳。
寄 語 嬋 娟 子,
休 將 畫 糞 囊。
血 塗 想:
一 片 無 情 血,
千 秋 不 起 人。
淋 漓 塗 宿 草,
狼 藉 汙 埃 塵。
莫 辨 妍 媸 相,
安 知 男 女 身。
哀 哉 癡 肉 眼,
錯 認 假 為 真。
膿 爛 想:
薄 皮 糊 破 紙,
爛 肉 棄 陳 羹。
膿 血 從 中 潰,
蠅 蛆 自 外 爭。
食 豬 腸 易 嘔,
洗 狗 水 難 清。
不 是 深 憎 惡,
何 由 斷 妄 情?
啖 想:
屍 骸 遭 啖 食,
方 寸 少 完 全。
不 飽 饑 鳥 腹,
難 乾 饞 狗 涎 。
當 年 空 自 愛,
此 日 有 誰 憐 。
不 若 豬 羊 肉,
猶 堪 值 幾 錢。
散 想:
四 體 忽 分 散,
一 身 何 所 從。
豈 唯 姿 態 失 ,
兼 亦 姓 名 空 。
長 短 看 秋 草,
穠 纖 問 晚 風。
請 君 高 著 眼,
此 事 細 推 窮。
骨 想:
皮 肉 已 銷 鑠,
唯 餘 骨 尚 存。
雨 添 苔 蘚 色,
水 浸 土 沙 痕。
牽 挽 多 蟲 蟻,
收 藏 少 子 孫。
風 流 何 處 去,
愁 殺未 歸 魂。
燒 想:
烈 焰 憑 枯 骨,
須 臾 方 熾 然。
紅 飛 天 際 火,
黑 透 樹 頭 煙。
妄 念 同灰 盡,
真 心 並 日 懸。
欲 超 生 死 路,
此 觀 要 精 研。
四 念 處 頌(並 敘)
[省 庵 法 師]
佛 垂 涅 槃, 囑 諸 比 丘, 依 四 念 處 住, 如 佛 無 異。今 時 丁 末 法, 正 念 者 少, 顧 此 法 門, 何 人 修 學?豈 惟 不 思 其 義, 抑 亦 未 識 其 名, 可 勝 歎 耶!余 山 居 無 事, 讀《涅 槃, 遺 教 品》, 因 取 其 意, 以 入 聲 律, 俾 歌 詠 者, 正 念 增 長, 妄 心 息 滅, 置 諸 座 隅, 日 以 自 警, 並 不 忘 遺 誡 云。
觀 身 不 淨:
一 興 顛 倒 想,
遂 有 幻 緣 身。
膿 血 常 交 湊,
腥 臊 每 具 陳。
紙 粘 皮 裹 肉,
藤 絆 骨 纏 筋。
毛 覆 叢 叢 草,
蟲 居 比 比 鄰。
內 藏 惟 臭 穢,
外 飾 但 衣 巾。
四 大 元 無 實,
諸 根 豈 有 真。
語 言 風 自 響,
動 轉 氣 相 循。
強 號 為 男 女,
虛 名 立 主 賓。
百 年 三 尺 土,
萬 古 一 堆 塵。
貴 賤 空 回 首,
賢 愚 共 愴 神。
徒 生 復 徒 死,
誰 識 本 來 人。
觀 受 是 苦:
眾 苦 從 何 起,
深 知 受 者 情。
順 違 才 領 納,
取 捨 便 縱 橫。
有 盛 衰 還 至,
無 榮 辱 不 成。
怨 從 親 裏 出,
哀 是 樂 中 生。
王 謝 家 何 在,
曹 劉 國 已 傾。
悲 歡 幾 場 夢,
勝 敗 一 棋 枰。
事 與 心 違 背,
貧 將 病 合 併。
錢 神 呼 不 至,
窮 鬼 送 難 行。
戚 戚 終 何 益,
悱 悱 漫 不 平。
無 求 卑 亦 貴,
知 足 欠 還 盈。
若 悟 真 空 理,
憂 欣 何 處 萌。
觀 心 無 常:
妄 心 無 著 處,
體 相 竟 如 何?
閃 閃 風 中 燭,
搖 搖 水 上 波。
一 家 門 戶 別(六 根),
六 個 弟 兄多(六 識)。
擾 擾 各 馳 競(如 眼 逐 色, 耳 逐 聲 等),
紛 紛 總 不 和(如 眼 不 與 聲 和, 耳 不 與 色 和 等),
青 黃 俄 改 換(眼 識 無 常),
動 靜 屢 遷 訛(耳 識 無 常)。
臭 別 香 隨 到(鼻 識 無 常),
甜 來 淡 又 過(舌 識 無 常)。
炎 涼 易 翻 覆(身 識 無 常),
好 惡 每 偏 頗(意 識 無 常)。
境 滅 心 安 寄,
情 忘 智 亦 孤。
掀 翻 五 欲 窟,
搗 盡 六 根 窩。
劫 賊 歸 王 化,
飛 禽 出 網 羅。
何 當 悟 常 住,
諸 妄 盡 消 磨。
觀 法 無 我:
諸 法 從 緣 起,
初 無 我 主 張。
因 緣 有 生 滅,
念 慮 遂 低 昂。
欲 得 翻 成失,
求 閑 反 遇 忙。
畏 寒 冬 不 輟,
苦 熱 夏 偏 長。
貧 憶 富 時 樂,
老 追 年 壯 強。
有 誰 憎 順 適,
若 個 好 危 亡(得 失 閑 忙 冷 熱 等, 皆 從 緣 生, 不 因 我 有)。
自 在 方 為 主,
遷 流 豈 是 常。
離 根 念 何 起,
無 識 境 還 忘。
內 外 無 些 子,
中 間 有 底 藏。
六 窗 虛 寂 寂,
一 室 露 堂 堂。
但 得 塵 勞 盡,
居 然 大 覺 王。
***
Pháp sư Tỉnh Am
Người dịch: Giới Nghiêm
Phật vì những chúng sanh tham dục mà nói bất tịnh quán, quán một thời gian lâu, tham dục liền trừ, có thể vượt ái hà và siêu khổ hải. Tôi rảnh rỗi đọc “Đại Trí Độ Luận”, rồi nhân đó lấy ý, diễn thành kệ, để tự nhắc mình, đồng thời nhắc nhở thế gian, kệ rằng:
Tử tưởng:
Ân ái rồi cũng chết,
Thân này có bền lâu?
Thay ai khóc vô ích,
Ai khéo hiểu tư lường?
Trướng tưởng:
Vừa đang độ thanh xuân,
Bỗng thành thân sình trướng;
Tuổi niên thiếu trước mắt,
Dung mạo lại thế nào?
Thanh ứ tưởng:
Tướng trắng đỏ rõ ràng,
Thân xanh vàng ứ nát;
Xin anh mở mắt coi,
Đó chẳng phải người khác.
Hoại tưởng:
Da thịt đã rơi xuống,
Ngũ tạng trong hiện ra;
Nếu nhìn cho thấu đáo,
Chỗ nào đáng luyến lưu?
Huyết đồ tưởng:
Không còn mỹ miều nữa,
Toàn máu mủ tanh hôi;
Muốn tìm tướng xấu đẹp,
Hình chất dần phôi phai.
Nùng lạn tưởng:
Thối rữa thật khó nhìn,
Tanh hôi không thể ngửi;
Đâu ngờ nơi mủ chảy,
Là chỗ từng bôi son.
Đạm tưởng:
Dê chó ăn thịt người,
Người từng ăn dê chó;
Không biết người và thú,
Ai thối lại ai thơm?
Tán tưởng:
Hình hài đã tan rã,
Tay chân cái mỗi đường;
Quán kỹ tướng xinh đẹp,
Rốt cuộc đi về đâu?
Cốt tưởng:
Vốn bộ xương trắng xoá,
Mà từng dối người ta;
Ngày xưa xem là giả,
Ngày nay thấy chân thường.
Thiêu tưởng:
Thế lửa nóng hừng hực,
Xương tàn chốc hoá không;
Nhìn xem trong khói lửa,
Có khởi tham tâm không?
Kệ trên hơi sơ lược, chưa quán kỹ, làm thêm luật ngũ ngôn, cho rộng hơn.
Tử tưởng:
Ái luyến rồi cũng biệt,
Thê lương không nỡ nhìn;
Thức vừa ra khỏi thể,
Thân đã mặc áo quan;
Lửa đêm sưởi nhà trống,
Gió thu lạnh màu tang;
Khuyên ai gặp ngày ấy,
Hãy quán tưởng thân tàn.
Trướng tưởng:
Phong đại thổi bên trong,
Chốc lát đã sình trướng;
Thân như bịch nước đầy,
Bụng tợ dưa bứt dây;
Nước bứa ra ghê tởm,
Rồi ruồi nhặng bu đầy;
Từng vì da mỏng dối,
Hối hận sai năm xưa.
Thanh ứ tưởng:
Nắng gió thổi nướng lâu,
Xanh vàng rất đáng thương;
Da khô đầu tiên háp,
Xương mục nửa phần trên;
Tai mũi khuyết lỗ hổng,
Gân cốt đứt liên hồi;
Người đá tuy không nói,
Nhìn đây cũng hỡi ôi.
Hoại tưởng:
Da thịt vừa vữa ra,
Hình chất liền lở loét;
Nứt nẻ nhiều đường nứt,
Giòi bọ rúc ngổn ngang;
Dây khô quấn tóc rối,
Rêu ẩm vụn áo quần;
Gửi lời người xinh đẹp,
Thôi bôi vẽ túi dơ.
Huyết đồ tưởng:
Một mảng máu vô tình,
Ngàn năm người không dậy;
Đầm đìa bết tử thi,
Bừa bộn dơ đất cát;
Chớ hỏi tướng xấu đẹp,
Ai hay thân gái trai;
Thương thay đôi mắt thịt,
Lầm nhận giả làm chân.
Nùng lạn tưởng:
Da mỏng dán giấy rách,
Thịt thối bỏ canh thiu;
Máu huyết từ trong chảy,
Ruồi nhặng bên ngoài tranh;
Ăn lòng heo dễ ói,
Nước rửa chó khó trong;
Nếu không cực ghê tởm,
Làm sao đoạn vọng tình?
Đạm tưởng:
Thi hài bị thú ăn,
Nham nhở xương trắng hếu;
Không no bụng chim đói,
Không hết chó thèm thuồng;
Năm xưa yêu mình quá,
Ngày nay chẳng ai thương;
Không bằng thịt heo chó,
Còn bán được nhiều tiền.
Tán tưởng:
Tứ chi bỗng chia lìa,
Đâu còn thân nguyên vẹn;
Đâu chỉ vẻ đẹp mất,
Mà tên tuổi cũng không;
Thọ yểu nhìn cỏ thu,
Mập ốm hỏi gió chiều;
Xin ai mở to mắt,
Suy ngẫm kỹ việc này.
Cốt tưởng:
Da thịt đã tiêu trừ,
Chỉ còn xương trắng hếu;
Mưa khiến cho ẩm mốc,
Nước ngập đất in xương;
Bao trùng kiến kéo đến,
Thâu tàng vắng cháu con;
Nét phong lưu đâu mất,
Hồn vất vưởng lang thang.
Thiêu tưởng:
Lửa dữ táp hài cốt,
Chốc đã bùng lên cao;
Đỏ bay đầu ngọn lửa,
Đen tới đỉnh tối cao;
Vọng niệm đồng tro hết,
Chân tâm tợ mặt trời;
Muốn siêu đường sanh tử,
Quán này phải tinh chuyên.
Lúc Phật sắp vào Niết-bàn, căn dặn các Tỳ-kheo, hãy nương vào Tứ Niệm Xứ, như Phật không khác. Nay nhằm vào thời mạt pháp, người giữ chánh niệm ít ỏi, nhìn lại pháp môn này, không mấy ai tu học. Đâu chỉ không tư duy về nghĩa lý của kinh, mà ngay cả tên kinh còn chưa biết, thật là đáng bùi ngùi!
Tôi ở núi nhân rảnh rỗi, đọc phẩm Di Giáo của kinh Niết-bàn, nhân đó rút ý nghĩa, viết thành thi kệ, để cho người ca vịnh, chánh niệm tăng trưởng, vọng niệm tiêu trừ, răn nhắc mình hằng ngày, đồng thời không quên di giáo.
Quán thân bất tịnh:
Hễ khởi điên đảo tưởng,
Liền có huyễn duyên thân;
Máu mủ thường hỗn hợp,
Tanh hôi mãi hiện bày;
Giấy dán da vào thịt,
Dây quấn cốt với gân;
Lông mọc đầy rậm rạp,
Trùng sanh khắp nơi thân;
Nội tạng toàn xú uế,
Trang sức chỉ áo khăn;
Tứ đại vốn không thật,
Các căn chẳng lẽ chân;
Nói năng tiếng tự vang,
Hít thở khí tự hoàn;
Miễn cưỡng gọi nam nữ,
Hư danh lập anh tôi;
Trăm năm ba thước đất,
Vạn cổ một nấm mồ;
Quý tiện đều sanh tử,
Hiền ngu thảy ưu sầu;
Uổng sanh rồi uổng tử,
Ai biết bổn lai nhân.
Quán thọ thị khổ:
Các khổ từ đâu khởi,
Biết chắc từ Thọ sanh;
Thuận nghịch vừa lãnh nạp,
Lấy bỏ liền tung hoành;
Còn có thạnh và suy,
Thì còn vinh và nhục;
Oán từ thân mà khởi,
Buồn do vui mà sanh;
Nhà Vương, Tạ còn đâu,
Nước Tào, Lưu đã đổ;
Vui buồn mấy giấc mộng,
Thắng bại một ván cờ;
Sự với tâm trái nghịch,
Bần với bệnh tìm nhau;
Tiền thần hô không tới,
Nghèo quỷ đuổi không đi;
Lật đật rồi vô ích,
Uất ức khắp bất bình;
Không cầu ti như quý,
Tri túc thiếu thành dư;
Ngộ được chân không lý,
Vui buồn chỗ nào sanh?
Quán tâm vô thường:
Vọng tâm không chỗ mắc,
Thể tướng rốt là sao?
Lập loè đèn trong gió,
Lao xao sóng nước trên;
Một nhà sáu căn khác,
Sáu thức anh em nhiều;
Lộn xộn chạy theo cảnh,
Dồn dập mỗi khác nhau;
Xanh vàng mắt thay đổi,
Dộng tĩnh tai đổi thay;
Thúi thơm mũi phân biệt,
Mặn lạt lưỡi khen chê;
Nóng lạnh thân khó dễ,
Dẹp xấu ý khen chê;
Cảnh diệt tâm tạm ổn,
Tình vong trí lẻ loi;
Lật đổ hang ngũ dục,
Dập nát ổ sáu căn;
Giặc cướp vua chuyển hoá,
Chim bay khỏi võng la;
Khi nào ngộ thường trụ,
Các vọng thảy tiêu ma.
Quán pháp vô ngã:
Các pháp duyên sanh ra,
Vốn không có tự ngã;
Nhân duyên có sanh diệt,
Nghĩ suy liền kém hơn;
Muốn được trở thành mất,
Cầu nhàn gặp bận hơn;
Sợ lạnh đông không dứt,
Khổ nóng hạ miên trường;
Nghèo mong giàu có sướng,
Già bám tuổi tráng niên;
Đâu ai ghét thuận lợi,
Nào ai thích nguy vong;
Tự tại mới là chủ,
Dổi thay đâu phải thường;
Lìa căn niệm nào khởi,
Không thức cảnh hoàn vong;
Trong ngoài không gì cả,
Ở giữa cũng trống trơn;
Sáu cửa không tịch tĩnh,
Căn nhà lộ rõ ràng;
Chỉ cần trần lao hết,
Lộ rõ đại giác vương.
***
Chu Mộng Nhan, còn gọi Tư Nhân, tự An Sĩ, nho sinh Côn Sơn. Bác thông kinh tạng, tin sâu pháp môn Tịnh độ, tự hiệu Hoài Tây cư sĩ. Chúng sanh tạo vô lượng tội, nhất là hai nghiệp dâm sát, vì đó viết hai cuốn giới sát giới dâm.
Cuốn giới sát đặt tên “Vạn Thiện Tiên Tư”, lời lẽ khẩn thiết. Tự bảo mỗi khi đi qua tất cả miếu thần, đều chú nguyện rằng: “Mong chư tôn thần, phát tâm xuất thế, không nhận rượu thịt, một lòng thường niệm A-di-đà Phật, cầu sanh Tịnh độ. Tư Nhân từ nay (24 tuổi) cho đến mạng chung, nếu có giết một con vật nhỏ, cho đến quyến thuộc trong nhà, nếu có một người giết trùng kiến, mong tôn thần cải chánh, trừng phạt, nổi sấm đánh nát sách tôi trước tác. Tư Nhân từ nay (24 tuổi) cho đến mạng chung, xuống nước thấy cá, ngưỡng mặt thấy chim, không nghĩ đến cứu độ, mà ngược lại nghĩ đến sát hại, thì cũng sẽ bị phạt giống như thệ này. Tư Nhân từ nay (24 tuổi) cho đến mạng chung, nếu trong mộng, thấy người sát sanh, mà không thể chí tâm xưng danh hiệu Phật, phát tâm cứu độ, mà ngược lại còn vui theo, thì cũng sẽ bị phạt giống như thệ này”.
Cuốn giới dâm đặt tên “Dục Hải Hồi Cuồng”, khuyên người dâm dục, trước quán thai ngục, rõ đủ các khổ, đó là phương tiện dứt dâm đầu tiên; kế đến quán thân này, là ổ vi trùng, ăn tuỷ não người, đó là phương tiện bất tịnh ban đầu; kế nữa quán nam nữ, máu mủ mũi giải, những chất bất tịnh, giống như hầm xí, đó là phương tiện đối trị dứt dâm; kế nữa quán tưởng người chết nằm ngữa, băng lạnh thấu xương, nước vàng chảy ra, thúi không chịu nổi, khắp thân thể đầy giòi bọ chui rúc, da thịt vữa ra, gân cốt lòi ra, thân ta, rốt cuộc cũng thế; kế nữa quán niệm tướng sanh, tướng diệt và tướng bất sanh bất diệt mà kinh “Pháp Hoa” nói, đó là phương tiện đoạn dâm tận gốc; kế nữa quán tự thân, trong hoa sen ở ao thất bảo, nước Cực Lạc, hoa sen nở ra, thấy Phật A-di-đà, ngồi hoa sen báu, đủ các thuỵ tướng trang nghiêm, cũng thấy tự thân, lễ bái cúng dường Phật, quán như thế xong, phát nguyện vãng sanh thế giới Cực lạc, vĩnh viễn ra khỏi lưới dâm, đó là phương tiện giải thoát rốt ráo.
Lại viết “Âm Trắc Văn Quảng Nghĩa” 3 quyển, “Tây Quy Trực Chỉ” 4 quyển. Tháng giêng năm thứ 4 niên hiệu Càn Long, từ biệt mọi người, nói sẽ về Tây Phương, người nhà xin tắm nước thơm, đưa tay ngăn bảo: “Ta tắm nước thơm lâu rồi!” Rồi cười nhẹ mà đi, hương lạ thơm khắp cả phòng, thọ 84 tuổi.
***
Tỉnh Am Đại Sư
Dịch âm Hán Việt
Phật vi tham dục chúng sanh thuyết bất tịnh quán. Quán chi ký cửu. Tham dục tức trừ. Khả dĩ việt ái hà nhi siêu khổ hải.
Dư nhàn cư duyệt « Đại Trí Độ Luận ». Nhân thủ ý nhi vi chi tụng. Dĩ thử tự cảnh. Bính dĩ cảnh thế vân :
(Tiên tác thử quán, vi hạ cửu tưởng trương bổn)
Tử tưởng:
Hữu ái giai quy tận,
Thử thân ninh cửu trường.
Thế tha không đọa lệ,
Thùy giải phản tư lượng?
Trướng tưởng:
Ký đắc nùng hoa thái,
Nga thành bàng trướng khu.
Nhãn tiền niên thiếu giả,
Dung mạo cánh hà như?
Thanh ứ tưởng:
Hồng bạch phân minh tướng,
Thanh hoàng ứ lạn thân.
Thỉnh quân khai nhãn khán,
Bất thị lưỡng ban nhân.
Hoại tưởng:
Bì nhục ký đọa lạc,
Ngũ tạng ư trung hiện.
Bằng quân triệt để khán,
Hà xứ kham lưu luyến.
Huyết đồ tưởng:
Vô phục chu nhan tại,
Không dư an huyết đồ.
Dục tầm nghiên xú tướng,
Hình chất tiệm mô hồ.
Nùng lạn tưởng:
Phủ lạn ưng nan đổ,
Tinh tao bất khả văn.
Khởi tri nùng hội xứ,
Lan xạ tích tằng huân.
Đạm tưởng:
Dương khuyển thực nhân nhục,
Nhân tằng thực khuyển dương.
Bất tri nhân dữ súc,
Thùy khứu phục thùy hương?
Tán tưởng:
Hình hài nhất dĩ tán,
Thủ túc tiệm di trí.
Đế quán vũ mị tư,
Tất cánh quy hà xứ.
Cốt tưởng:
Bổn thị khô lâu cốt,
Tằng tương cuống hoặc nhân.
Tích thời khán thị giả,
Kim nhật đổ phương chân.
Thiêu tưởng:
Hoả thế ký mãnh liệt,
Tàn hài hốt vô hữu.
Thí khán yên diễm trung,
Trước đắc tham tâm phủ?
***
Tiền thi thô thị đoan tự, thượng vị đế thẩm quán sát. Phục tác ngũ ngôn luật dĩ quảng chi.
Tử tưởng:
Sở ái cánh trường biệt,
Thê lương bất nhẫn khán.
Thức tài ly cố thể,
Thi dĩ hạ không quan.
Dạ hỏa hư đường lãnh,
Thu phong tố mạn hàn.
Khuyến quân thân tại nhật,
Tiên tác tử thời quán.
Trướng tưởng:
Phong đại cổ kỳ nhập,
Tu du bàng trướng gia.
Thân như thình thủy đại,
Phúc tự đoạn đằng qua.
Cấu nị thâm đồ thán,
Dăng thư loạn tụ sa.
Tằng nhân bạc bì cuống,
Phiên hối tích niên tha.
Thanh ứ tưởng :
Phong nhật cửu xuy chích,
Thanh hoàng thù khả lân.
Bì can sơ lạn quất,
Cốt hủ bán khô chuyên.
Nhĩ tị khuyết hoàn tại,
Cân hài đoạn phục liên.
Thạch nhân tuy bất ngộ,
Đối thử diệc san nhiên.
Hoại tưởng:
Cơ phu tài thoát lạc,
Hình chất tiện tao thương.
Qua liệt bán khai nhục,
Xà toàn dục xuất tràng.
Khô đằng triền loạn phát,
Thấp tiển lạn y thường.
Kí ngộ thuyền quyên tử,
Hưu tương họa phẩn nang.
Huyết đồ tưởng:
Nhất phiến vô tình huyết,
Thiên thu bất khởi nhân.
Lâm li đồ túc thảo,
Lang tạ ố ai trần.
Mạc biện nghiên xi tướng,
Yên tri nam nữ thân.
Ai tai si nhục nhãn,
Thác nhận giả vi chân.
Nùng lạn tưởng :
Bạc bì hồ phá chỉ,
Lạn nhục khí trần canh.
Nùng huyết tùng trung hội,
Dăng thư tự ngoại tranh.
Thực trư tràng dị ẩu,
Tẩy cẩu thủy nan thanh.
Bất thị thâm tăng ố,
Hà do đoạn vọng tình?
Đạm tưởng:
Thi hài tao đạm thực,
Phương thốn thiểu hoàn toàn.
Bất bão cơ điểu phúc,
Nan can sàm cẩu tiên.
Đương niên không tự ái,
Thử nhật hữu thùy liên.
Bất nhược trư dương nhục,
Do kham trị cơ tiền.
Tán tưởng:
Tứ thể hốt phân tán,
Nhất thân hà sở tùng.
Khởi duy tư thái thất,
Kiêm diệc tính danh không.
Trường đoản khán thu thảo,
Nùng tiêm vấn vãn phong.
Thỉnh quân cao trước nhãn,
Thử sự tế suy cùng.
Cốt tưởng:
Bì nhục dĩ tiêu thước,
Duy dư cốt thượng tồn.
Vũ thiêm đài tiển sắc,
Thủy tẩm thổ sa ngân.
Khiên vãn đa trùng nghĩ,
Thâu tàng thiểu tử tôn.
Phong lưu hà xứ khứ,
Sầu sát vị quy hồn.
Thiêu tưởng :
Liệt diễm bằng khô cốt,
Tu du phương xí nhiên.
Hồng phi thiên tế hỏa,
Hắc thấu thụ đầu yên.
Vọng niệm đồng khôi tận,
Chân tâm bính nhật huyền.
Dục siêu sanh tử lộ,
Thử quán yếu tinh nghiên.
***
Tỉnh Am Pháp sư
Phật thùy Niết Bàn, chúc chư tỳ kheo, y tứ niệm xứ trụ, như Phật vô dị. Kim thời đinh mạt pháp, chánh niệm giả thiểu, cố thử pháp môn, hà nhân tu học? Khải duy bất tư kỳ nghĩa, ức diệc vị thức kỳ danh, khả thắng thán da!
Dư sơn cư vô sự, đọc (Niết Bàn, Di Giáo phẩm) nhân thủ kỳ ý, dĩ nhập thanh luật, tỉ ca vịnh giả, chánh niệm tăng trưởng, vọng tâm tức diệt, trí chư tọa ngung, nhật dĩ tự cảnh, bính bất vong di giới vân:
Quán thân bất tịnh:
Nhất hưng điên đảo tưởng,
Toại hữu huyễn duyên thân.
Nùng huyết thường giao thấu,
Tinh tao mỗi cụ trần.
Chỉ niêm bì khỏa nhục,
Đằng bán cốt triền cân.
Mao phú tùng tùng thảo,
Trùng cư tỉ tỉ lân.
Nội tạng duy xú uế,
Ngoại sức đản y cân.
Tứ đại nguyên vô thật,
Chư căn khởi hữu chân.
Ngữ ngôn phong tự hưởng,
Động chuyển khí tương tuần.
Cưỡng hiệu vi nam nữ,
Hư danh lập chủ tân.
Bách niên tam xích thổ,
Vạn cổ nhất đôi trần.
Quý tiện không hồi thủ,
Hiền ngu cộng sảng thần.
Đồ sanh phục đồ tử,
Thùy thức bổn lai nhân.
Quán thọ thị khổ:
Chúng khổ tùng hà khởi,
Thâm tri thọ chư tình.
Thuận vi tài lãnh nạp,
Thủ xả tiện tung hoành.
Hữu thịnh suy hoàn chí,
Vô vinh nhục bất thành.
Oán tùng thân lý xuất,
Ai thị lạc trung sanh.
Vương Tạ gia hà tại,
Tào Lưu quốc dĩ khuynh.
Bi hoan cơ trường mộng,
Thắng bại nhất kỳ bình.
Sự dữ tâm vi bội,
Bần tương bệnh hiệp tính.
Tiền thần hô bất chí,
Cùng quỷ tống nan hành.
Thích thích chung hà ích,
Phỉ phỉ mạn bất bình.
Vô cầu ti diệc quý,
Tri túc khiếm hoàn doanh.
Nhược ngộ chân không lý,
Ưu hân hà xứ manh.
Quán tâm vô thường:
Vọng tâm vô trước xứ,
Thể tướng cánh như hà?
Thiểm thiểm phong trung chúc,
Dao dao thủy thượng ba.
Nhất gia môn hộ biệt, (lục căn)
Lục cá đệ huynh đa. (lục thức)
Nhiễu nhiễu các trì cạnh, (như nhãn trục sắc, nhĩ trục thanh đẳng)
Phân phân tổng bất hòa. (như nhãn bất dữ thanh hòa, nhĩ bất dữ sắc hòa đẳng)
Thanh hoàng nga cải hoán, (nhãn thức vô thường)
Động tĩnh lũ thiên ngoa. (nhĩ thức vô thường)
Khứu biệt hương tùy đáo, (tị thức vô thường)
Cam lai đạm hựu qua. (thiệt thức vô thường)
Viêm lương dị phiên phúc, (thân thức vô thường)
Hảo ác mỗi thiên pha. (ý thức vô thường)
Cảnh diệt tâm an kí,
Tình vong trí diệc cô.
Hiên phiên ngũ dục quật,
Đảo tận lục căn oa.
Kiếp tặc quy vượng hóa,
Phi cầm xuất võng la.
Hà đương ngộ thường trụ,
Chư vọng tận tiêu ma.
Quán pháp vô ngã :
Chư pháp tùng duyên khởi,
Sơ vô ngã chủ trương.
Nhân duyên hữu sanh diệt,
Niệm lự toại đê ngang.
Dục đắc phiên thành thất,
Cầu nhàn phản ngộ mang.
Úy hàn đông bất chuyết,
Khổ nhiệt hạ thiên trường.
Bần ức phú thời lạc,
Lão truy niên tráng cường.
Hữu thùy tăng thuận thích,
Nhược cá hảo nguy vong. (đắc thất nhàn mang lãnh nhiệt đẳng, giai tùng duyên sanh, bất nhân ngã hữu)
Tự tại phương vi chủ,
Thiên lưu khởi thị thường.
Ly căn niệm hà khởi,
Vô thức cảnh hoàn vong.
Nội ngoại vô ta tử,
Trung gian hữu để tàng.
Lục song hư tịch tịch,
Nhất thất lộ thường thường.
Đản đắc trần lao tận,
Cư nhiên đại giác vương.
***
A Di Đà Phật
南 無 阿 彌 陀 佛