Giá trị hàng hóa của một quốc gia so với giá trị hàng hóa của một quốc gia khác, một nhóm quốc gia hoặc phần còn lại của thế giới tại tỷ giá hối đoái hiện hành là bao nhiêu?
Làm thế nào để xác định xem một loại tiền tệ về cơ bản có định giá quá thấp hay quá cao? Câu hỏi này nằm ở cốt lõi của kinh tế quốc tế và nhiều tranh chấp thương mại.
George Soros đã có câu trả lời một lần – vào năm 1992 – khi ông thành công đặt cược 1 tỷ USD chống lại đồng bảng Anh. Sự kiện này hóa ra đã khởi đầu cho một kỷ nguyên mới trong hoạt động đầu cơ tiền tệ quy mô lớn. Dưới sự tấn công của Soros và các nhà đầu cơ khác - với niềm tin rằng đồng bảng Anh đã có định giá quá cao - đồng tiền của Anh đã sụp đổ, buộc Vương quốc Anh phải rút khỏi Cơ chế Tỷ giá Hối đoái châu Âu (ERM), tiền thân của đồng tiền chung châu Âu, đồng euro. Vương quốc Anh không bao giờ quay trở lại sử dụng đồng tiền chung này.
Nhưng trong những năm tiếp theo, cả Soros lẫn các nhà đầu cơ khác đều không thể lặp lại kỳ tích đó một cách nhất quán, và bản thân giới kinh tế học cũng thiếu một phương pháp chắc chắn để xác định khi nào một loại tiền tệ có định giá hợp lý. Thất bại này đáng chú ý vì tỷ giá hối đoái là mức giá trung tâm trong kinh tế học và có một thước đo với rất nhiều dữ liệu có khả năng đưa ra câu trả lời: tỷ giá hối đoái thực (RER).
Những thứ thực sự có giá
Hầu hết mọi người đều quen thuộc với tỷ giá hối đoái danh nghĩa, tức là giá của một loại tiền tệ so với một loại tiền tệ khác. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa thường được biểu thị bằng giá của ngoại tệ tính theo đồng nội tệ. Nếu người nắm giữ đồng đô la Mỹ phải trả 1,36 đô la để mua một euro thì, theo quan điểm của người nắm giữ đồng euro, tỷ giá hối đoái danh nghĩa là 0,735 euro mỗi đô la. Nhưng tỷ giá hối đoái danh nghĩa không phải là toàn bộ câu chuyện. Người hoặc công ty mua một loại tiền tệ khác quan tâm đến những gì có thể mua được bằng đồng tiền đó. Liệu họ sẽ có lợi hơn với đồng đô la hay euro? Đó là lúc RER xuất hiện. RER tìm cách đo lường giá trị hàng hóa của một quốc gia so với giá trị hàng hóa của một quốc gia khác, một nhóm quốc gia hoặc phần còn lại của thế giới, tại tỷ giá hối đoái danh nghĩa hiện hành.
Tỷ giá hối đoái thực là gì?
Tỷ giá hối đoái thực (RER) giữa hai loại tiền tệ là tích của tỷ giá hối đoái danh nghĩa (ví dụ như số lượng đồng đô la để đổi lấy một đồng euro) và tỷ lệ giá cả giữa hai nước. Phương trình cốt lõi là RER = eP*/P, trong đó, trong ví dụ của chúng ta, e là tỷ giá hối đoái danh nghĩa đô la/euro, P* là giá trung bình của một hàng hóa trong khu vực đồng euro và P là giá trung bình của hàng hóa đó ở Mỹ.
Trong ví dụ về Big Mac, e = 1,36. Nếu giá ở Đức là 2,5 euro và giá ở Mỹ là 3,40 đô la thì 1,36*2,5/3,40 cho chúng ta RER bằng 1. Nhưng nếu giá ở Đức là 3 euro và giá ở Mỹ là 3,40 đô la thì RER sẽ là 1,36*3/3,40, tương đương với RER bằng 1,2.
Chúng ta có thể đo lường tỷ giá hối đoái thực giữa hai quốc gia dựa trên một mặt hàng đại diện duy nhất - chẳng hạn như Big Mac, loại bánh sandwich McDonald's được bán với phiên bản gần như giống hệt nhau ở nhiều quốc gia. Nếu tỷ giá hối đoái thực là 1 thì chiếc Big Mac ở Mỹ sẽ có giá tương đương như ở Đức, khi giá được tính bằng đồng tiền chung. Ở đây (với tỷ giá hối đoái danh nghĩa 1,36 đô la đổi 1 euro), tỷ giá hối đoái thực sẽ bằng 1 nếu chiếc Big Mac có giá 1,36 USD ở Mỹ và 1 euro ở Đức (hoặc bất kỳ quốc gia châu Âu nào khác sử dụng đồng euro). Trong thế giới một sản phẩm này (khi giá cả tương đối giữa các quốc gia bằng tỷ giá hối đoái), sức mua tương đương của đồng đô la và đồng euro là như nhau và RER bằng 1.
Nhưng giả sử chiếc burger được bán với giá 1,2 euro ở Đức. Điều đó có nghĩa là sản phẩm có giá cao hơn 20% ở khu vực đồng euro, cho thấy đồng euro có định giá cao hơn 20% so với đồng đô la. Nếu tỷ giá hối đoái thực khác 1 - như mức 1,2 ở đây - sẽ có áp lực buộc tỷ giá hối đoái danh nghĩa phải điều chỉnh bởi vì cùng một hàng hóa có thể được mua với giá rẻ hơn ở một quốc gia so với ở quốc gia khác. Về mặt kinh tế, một động thái hợp lý là mua đô la và sử dụng đô la để mua Big Mac ở Mỹ với giá tương đương 1 euro rồi bán cái bánh ở Đức với giá 1,2 euro. Một chiến lược kinh tế lợi dụng chênh lệch giá như vậy được gọi là giao dịch chênh lệch giá. Khi các nhà giao dịch chênh lệch giá mua đô la để mua Big Mac ở Mỹ và bán ở Đức, cầu đô la sẽ tăng lên, khiến tỷ giá hối đoái danh nghĩa tăng, cho đến khi giá chiếc Big Mac ở Đức và ở Mỹ bằng nhau – RER trở về 1.
Trong thế giới thực, có nhiều chi phí cản trở việc so sánh giá trực tiếp — chẳng hạn như chi phí vận chuyển, rào cản thương mại và sở thích tiêu dùng. Tuy nhiên, khái niệm cơ bản là khi RER phân kỳ, các loại tiền tệ sẽ phải đối mặt với áp lực thay đổi. Đối với các đồng tiền có định giá quá cao, áp lực sẽ là giảm giá, và đối với các đồng tiền có định giá quá thấp, áp lực sẽ là tăng giá. Mọi chuyện có thể trở nên phức tạp hơn nếu các yếu tố như chính sách của chính phủ cản trở quá trình cân bằng trở lại bình thường của tỷ giá hối đoái, thường là một vấn đề trong tranh chấp thương mại.
Với nhiều sản phẩm
Vậy khi các quốc gia bán nhiều hơn một sản phẩm, làm thế nào để so sánh sức mua? Để làm điều này, các nhà kinh tế thường đo tỷ giá hối đoái thực tính theo một giỏ hàng hóa bao phủ rộng. Bởi vì mức giá của một giỏ hàng hóa như vậy thường có dạng một chỉ số - chẳng hạn như chỉ số giá tiêu dùng, bao gồm cả hàng hóa và dịch vụ - RER cũng thường được biểu thị dưới dạng một chỉ số có thể được so sánh với bất kỳ khoảng thời gian nào đã chọn. Quay trở lại ví dụ về đồng đô la và euro, nếu chỉ số RER là 1,2 thì giá tiêu dùng trung bình ở châu Âu cao hơn 20% so với ở Mỹ, trong tương quan với mốc tiêu chuẩn đã chọn. Các chỉ số không đo lường giá tuyệt đối (chẳng hạn như giá của Big Mac) mà đo lường thay đổi về giá tổng thể so với năm cơ sở. (Ví dụ, nếu chỉ số này là 100 vào năm 2000 và 120 vào năm 2011 thì giá trung bình năm 2011 sẽ cao hơn 20% so với năm 2000.)
Chỉ số RER giữa hai quốc gia có thể quan trọng. Thâm hụt thương mại khổng lồ của Mỹ với Trung Quốc đã trở thành một vấn đề chính trị và kinh tế, và liệu nguồn gốc của nó có phải là do tỷ giá hối đoái chênh lệch về cơ bản hay không là một điểm gây tranh cãi.
Tuy nhiên, phần lớn, các nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách quan tâm nhiều hơn đến tỷ giá hối đoái thực hiệu quả (REER) khi đo lường chênh lệch giá trị của một loại tiền tệ trên tổng thể. REER là giá trị trung bình của RER song phương giữa một quốc gia với từng đối tác thương mại của quốc gia đó, được tính theo tỷ trọng thương mại tương ứng của mỗi đối tác. Vì là mức trung bình nên REER của một quốc gia có thể ở trạng thái “cân bằng” (không hiển thị sai lệch tổng thể) khi đồng tiền của quốc gia đó có định giá quá cao so với đồng tiền của một hoặc nhiều đối tác thương mại miễn là nó có định giá thấp so với đồng tiền của các đối tác khác.
Để xác định thời điểm một loại tiền tệ bị định giá sai và, nếu có, ở mức độ nào, chuỗi REER có thể cho chúng ta một đánh giá sơ bộ theo thời gian. Đối với RER tuyệt đối và tương đối, sẽ không có thay đổi nào nếu tiền tệ ở trạng thái cân bằng. Nhưng bởi vì mô hình tiêu dùng có thể thay đổi nhanh hơn so với giỏ thị trường mà các nhà thống kê xây dựng - cũng như các chính sách thương mại, thuế quan và chi phí vận chuyển - những sai lệch trong REER không nhất thiết cho thấy sai lệch về cơ bản.
Tuy nhiên, những biến động của REER đang ngày càng gia tăng, mặc dù chi phí vận chuyển và thuế quan đã giảm mạnh trong thế kỷ qua và giỏ hàng tiêu dùng của các quốc gia đã phát triển đồng đều hơn. Một thế kỷ trước, ở các nền kinh tế tiên tiến, biến động REER nằm trong khoảng 30%. Trong những năm 1980, Mỹ đã chứng khiến REER biến động tới 80%! Các quốc gia khác cũng có những trải nghiệm tương tự.
Những biến số khác trong phương trình
Nhưng không phải tất cả các biến động lớn của REER đều được hiểu là dấu hiệu của sai lệch tỷ giá. Một số động thái điều chỉnh REER lớn diễn ra khá suôn sẻ, cho thấy có thể có các yếu tố khác - ngoài chi phí vận chuyển, thị hiếu và thuế quan - đóng vai trò chính trong việc ảnh hưởng đến REER của một loại tiền tệ đang không bị sai lệch giá trị.
Những thay đổi về công nghệ làm tăng năng suất tạo ra các loại hàng hóa thường được giao dịch giữa các quốc gia - được gọi là hàng hóa có thể trao đổi được - được cho là một trong những yếu tố đó. Bởi vì năng suất tăng dẫn đến chi phí sản xuất thấp hơn, REER sẽ tăng để duy trì trạng thái cân bằng. Nhưng không phải tất cả hàng hóa trong một rổ hàng hóa thị trường nhất định đều có thể trao đổi được và chịu sự cạnh tranh quốc tế. Những hàng hóa không thể giao thương, chẳng hạn như nhà ở và nhiều dịch vụ cá nhân, chỉ phải đối mặt với sự cạnh tranh từ giá quốc tế ở mức tối thiểu. Trong khi giá của các mặt hàng có thể giao dịch có xu hướng cân bằng giữa các quốc gia trong trường hợp không có rào cản thương mại hoặc kiểm soát tiền tệ, giá của các mặt hàng không thể giao dịch có thể khác nhau rất nhiều. Lý thuyết kinh tế cho thấy - và dữ liệu hỗ trợ kết luận rằng - phần lớn biến động của REER giữa các quốc gia là do biến động giá của các hàng hóa và dịch vụ không thể giao thương.
Những thay đổi liên tục của tỷ lệ trao đổi (tỷ lệ giữa giá xuất khẩu của một quốc gia và giá nhập khẩu của quốc gia đó, như các nhà sản xuất dầu thường gặp phải) và sự khác biệt trong chính sách tài chính, thuế quan và thậm chí cả phát triển của hoạt động tài chính cũng có thể giúp giải thích tại sao REER có thể khác nhau giữa các quốc gia. IMF và các nhà phân tích khác tính đến các nguyên tắc cơ bản về tỷ giá hối đoái thực như vậy khi ước tính REER “cân bằng”, mức mà REER thực sẽ dao động xung quanh nếu không có sai lệch.
Việc ước tính RER cân bằng có thể khó khăn vì giá cả có phần cứng nhắc trong ngắn hạn trong khi tỷ giá hối đoái danh nghĩa thì không (ở những quốc gia có tỷ giá hối đoái được xác định theo thị trường). Vì vậy, REER thường biến động đáng kể trong ngắn hạn trước tin tức và những nhiễu loạn trong hoạt động giao dịch. Không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều người tham gia thị trường và các nhà hoạch định chính sách mắc sai lầm - đôi khi rất sai lầm. Điều đó có thể dẫn đến việc tái cân bằng trên quy mô lớn với những hậu quả tàn khốc – chẳng hạn như cuộc khủng hoảng ERM năm 1992. Mặc dù có thể không hoàn hảo, REER đã báo hiệu tỷ giá hối đoái có định giá quá cao trong những giai đoạn trước nhiều cuộc khủng hoảng tài chính, khiến IMF và các tổ chức khác phải giám sát RER song phương và REER đa phương.
Huan Ha dịch từ Luis Catão, IMF, https://www.imf.org/en/Publications/fandd/issues/Series/Back-to-Basics/Real-Exchange-Rates