Tuyên Giảng Sứ Điệp Kinh Thánh
Tác giả: Dennis J.Mock
Tác giả
Lời Tựa .
· Giáo án.
· Thời khoá biểu môn học
· Các chỉ dẫn cho việc giảng dạy.
· Bố cục
Nội dung môn học
I. Giới thiệu
II. Chuẩn bị cho một Sứ điệp Kinh Thánh
III. Những ví dụ cho Sứ điệp Kinh Thánh
IV. Trình bày sứ điệp
Tác Giả
Tiến sĩ Dennis J.Mock là một mục sư đã hầu việc Chúa tại Hội Thánh First Baptist ở Atlanta, Georgia, Hoa kỳ, từ tháng giêng, 1985 đến tháng 10 năm 1995 như là mục sư đặc trách giáo dục và giảng dạy, huấn luyện Kinh Thánh. Từ tháng Giêng, 1989 chức vụ của ông hầu như tập trung cho Trung tâm Huấn luyện Kinh Thánh cho Quản nhiệm Hội Thánh (Bible Training centre for pastor) mà ông đã sáng lập và là giám đốc điều hành. Hiện nay ông cũng là mục sư của Hội Thánh Genesis Bible, Atlanta. Trước khi bước vào chức vụ năm 1982, tiến sĩ Mock đã hành nghề luật sư 13 năm ở Atlanta. Ong lập gia đình lúc hơn 32 tuổi và hiện có 3 con.
Tiến sĩ Mock đã viết nhiều sách nghiên cứu Kinh Thánh được sử dụng cho Trường Chúa Nhật và là giáo sư cho các khoa bổ túc và mở rộng của trường Cao Đẳng Kinh Thánh Columbia (S.C) từ 1985-1990. Ong đã có các bằng cấp sau: Cử nhân (B.A. 1966) của trường đại học Samford; tiến sĩ luật khoa, J.D (1969) của trường đại học Emory; Cao học thần học về nghiên cứu Kinh Thánh (M.A. 1966) tại chủng viện thần học Dallas. Ong hoạt động trong lãnh vực giảng dạy Kinh Thánh, đào tạo giáo sư, phát triển giáo án và viết sách; ông cũng là diễn giả của các Đại hội, hội thảo.
Lời Cảm Tạ
Mặc dù Đức Chúa Trời đã đặt vào lòng tôi khải tượng về việc khai triển các sách giáo khoa và khái niệm về Trung tâm Huấn luyện Kinh Thánh cho các quản nhiệm Hội Thánh, các tác phẩm này sẽ không được thực hiện nếu không có:
· Sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh
· Sự khích lệ, tình yêu bền bỉ và kiên nhẫn của vợ tôi, Pat.
· Sự hậu thuẫn và hổ trợ vô điều kiện của ông Georgia Morgan, Giám đốc Truyền giáo thế giới của Hội Thánh First Baptist, Atlanta, Georgia, Hoa kỳ.
· Công việc nhất quán của người phụ tá của tôi, Karen Bryan
· Sự chia sẻ khải tượng chung của Chuck Kinzer, Hội Thánh AIC Kibera, Nairobi, Kenya.
Dennis J.Mock
Atlanta, Georgia
Tháng 4, 1989.
Lời Tựa
Tài liệu trong sách này được soạn theo quan điểm thần học Cơ Đốc truyền thống và thực tiển, vì thế nên:
· Bảo thủ · Tin lành · Kinh Thánh là trọng tâm
Giáo khoa của môn học này là một phần của một học trình thống nhất cho một năm, bao gồm 10 môn học căn bản được soạn thảo để cung cấp cho quản nhiệm biết nói tiếng Anh trên thế giới những tri thức và kỹ năng căn bản cần thiết cho việc thực thi hiệu quả trách nhiệm giảng dạy Kinh Thánh như một người quản nhiệm. Tài liệu này có một đặc điểm chung nên có thể được dùng trong hầu hết các nền văn hoá. Vấn đề bối cảnh hay văn hoá chỉ liên hệ trước tiên đến vấn đề truyền thông hơn là nội dung, giảng viên cần phải thêm vào những hình ảnh, thí dụ cần thiết thích hợp để truyền đạt hiệu quả hơn nội dung căn bản.
Sách giáo khoa của 10 môn học này, cùng với cuốn Kinh Thánh theo bản dịch NIV (New International English Version, Zondervan Corporation, 1985), sẽ là tài liệu dùng cho việc giảng huấn của Trung Tâm Huấn Luyện Kinh Thánh cho Quản Nhiệm . Phương cách này được soạn thảo để đáp ứng các thách thức thực tiển , đầy đủ và hiệu quả cho việc trang bị những quản nhiệm nào có rất ít hoặc chưa có cơ hội được huấn luyện trong các trường Kinh Thánh hoặc chủng viện.
Những sách giáo khoa này không thể được dùng cho việc tự học hoặc được dạy bởi một giảng viên không đủ trình độ. Mỗi môn học được soạn cho ít nhất là 40 giờ học tại lớp học cộng thêm 30 giờ cho việc ôn bài, làm bài tập, tiêu hoá nội dung và các kỹ năng được trình bày trong sách giáo khoa. Một số môn học dòi hỏi phải có 60 giờ học tại lớp hoặc nhiều hơn. Sách giáo khoa các môn học dài từ 100 đến 300 trang tùy theo đề tài. Một khi việc huấn luyện được hoàn tất, các sách giáo khoa của 10 môn học này sẽ trở nên một “thư viện để nghiên cứu và là tài liệu tham khảo ” cho người quản nhiệm. Các giáo khoa này sẽ là nguồn tài liệu về Kinh Thánh mà các quản nhiệm sẽ nhờ đó giảng và dạy trong nhiều năm.
Tiền đề Kinh Thánh cơ bản cho phương cách này có thể được tìm thấy trong phần Kinh văn khuyên nhủ người quản nhiệm về việc đào tạo môn đồ bằng cách giảng và dạy Lời Đức Chúa Trời (ITi1Tm 6:2; IITi 2Tm 2:2; Mat Mt 28:18-20), nên hiểu rằng Kinh Thánh là nội dung bắt buộc cho học trình.
“Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sủa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành” (IITi 2Tm 3:16-17).
Mục đích của tài liệu trong học trình này là để trang bị người, hầu họ có thể “làm mục sư và giáo sư, để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng thân thể Đấng Christ” (Eph Ep 4:11-12), để Đức Chúa Trời được vinh hiển và để mở mang mục đích của Ngài trong thế gian.
CÁC MÔN HỌC
1. Phương pháp Học Kinh Thánh và Giải kinh
2. Cựu ước Lược Khảo
3. Tân ước Lược Khảo
4. Tuyên giảng Sứ điệp Kinh Thánh
5. Giáo lý Kinh Thánh Lược khảo
6. Nếp sống thuộc linh cá nhân, mục vụ quản nhiệm
7. Hội Thánh, mục vụ, quản trị, giáo dục
8. Nguyên tắc và phương pháp giảng huấn
9. Lịch sử Hội Thánh lược khảo
10.Truyền giáo, chứng đạo và đào tạo môn đồ
PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC của TTHLKTQN
Để dạy kịp thời và hiệu quả phần tài liệu chỉ định cho mỗi lớp mà không bị đình trệ hoặc lạc đề, giả viên huấn luyện khi dạy nên chú ý đến những đề nghị sau:
giới thiệu qua nội dung bài học
hỏi những câu hỏi gợi ý, hướng tới bài học
nhấn mạnh và giải thích các khái niệm quan trọng
chú trọng và xử dụng những phần Kinh Văn căn bản đã được chọn
làm sáng tỏ các phần tài liệu quan yếu
kích thích sự thích thú của học viên
giúp học viên suy nghĩ theo một chiều hướng đặc biệt
trả lời các câu hỏi trực tiếp, ngắn gọn và để những câu hỏi khác và phần vấn đáp ở phần sau giờ học
đừng dạy tài liệu trong giáo khoa quá chi tiết hoặc “từng lời từng chữ” học viên sẽ có cơ hội đọc và học giáo khoa của họ sau
các chi tiết và phân đoạn nên được giải đúng theo nội dung và liên quan đến bài học
ôn, nhắc lại những chân lý và nguyên tắc đã học trong các bài trước
tóm gọn và thuật lại các ý tưởng chính.. v....v...
nhắc lại và liên hệ với những tài liệu trong sách giáo khoa của các môn học khác
xử dụng cách thuyết trình, thảo luận, trao đổi và câu hỏi/trả lời trong việc dạy
dùng các câu hỏi dọ để lường tiến trình học tập của học viên có hiệu quả không
lượng giá sự tiến bộ căn cứ vào các trang và phần đã được dạy mỗi ngày cũng như trao đổi với các giảng huấn viên khác khi có cơ hội
Môn học: TUYÊN GIẢNG SỨ ĐIỆP KINH THÁNH
Giáo án
Mô tả
Được soạn để trang bị và huấn luyện các quản nhiệm Hội thánh kiến thức vànhững kỹ năng cần thiết hầu chuẩn bị và trình bày cách hiệu quả các sứ điệp giải kinh từ lời Đức Chúa Trời dựa trên Kinh Thánh để đáp ứng nhu cầu của hội chúng. Giáo trình đặc biệt nhấn mạnh đến sự chuẩn bị thiết thực của người giảng và sứ điệp với nhiều ví dụ và bài tập thực tiễn.
Mục đích
1) Chứng minh từ Kinh Thánh sự cấp thiết của việc giảng giải lời Đức Chúa Trời
2) Giúp người giảng nhìn thấy chính họ theo quan điểm của Đức Chúa Trời
3) Nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc chuẩn bị thuộc linh của người giảng.
4) Huấn luyện thực tiễn các mục sư những kỹ năng căn bản cho việc chuẩn bị sứ điệp giải kinh
5) Nhấn mạnh đến nhu cầu để bản văn Kinh Thánh quyết định cả nội dung lẫn cấu trúc của sứ điệp.
6) Dạy các quản nhiệm hội thánh cách trình bày sứ điệp Kinh Thánh có hiệu quả.
7) Chỉ ra mục tiêu của việc giảng dạy là thay đổi đời sống - Càng trở nên giống Chúa Giê-xu Christ hơn.
Rao giảng lời Chúa để mọi
người có thể hiểu và vâng giữ
Tài liệu giảng huấn
(1) Sách giáo khoa môn học này
(2) Cuốn Kinh Thánh NIV tiếng Anh, Zondervan Bible Publisher, 1985
(3) Cuốn Kinh Thánh tiếng Việt.
Điều kiện lớp học
1. Hoạt động lớp. Chuẩn bị để ghi chú vào sách giáo khoa khi nghe giảng bài và thảo luận tại lớp, và tham gia trong việc thảo luận
2. Bài tập hằng ngày (vào buổi chiều): Đọc và ôn cẩn thận phần tài liệu đã được dạy trong lớp buổi sáng bao gồm việc đọc các phần Kinh Thánh trích dẫn và làm các bài tập. Biết chắc là bạn hiểu rõ nội dung, quan niệm và áp dụng của tài liệu (khoảng 4-10 trang mỗi lớp học). Khi đã hoàn tất bài tập, học viên nên dành thì giờ để đọc Kinh Thánh như được ghi ở cuối trang.Phần câu hỏi và trả lời có thể được thực hiện vào phần cuối của một ngày.
3. Hiện diện tại lớp. Hiện diện trong lớp là một việc bắt buộc. Nếu học viên khiếm diện nhiều lần sẽ đưa đến việc cho nghỉ học.Nếu học viên nào vắng mặt trong một lớp học, học viên đó phải dành thì thì giờ để nghe cuộn băng đã được ghi âm và hoàn tất phần bài tập.
4. Lượng giá: Để có thể tiếp tục học các môn học khác với TTHLKTQN, bạn phải chứng tỏ rằng mình hiểu rõ nội dung và khả năng thực hành những điều mình đã học . Đừng ngại hỏi giảng viên những câu hỏi cần thiết hoặc xin làm sáng tỏ những gì mình còn mù mờ. Giảng viên sẽ xem lại những bài tập trong sách giáo khoa của bạn, lượng giá sự tham gia của bạn trong lớp, việc tham gia thực hành mục vụ và tiếp xúc với bạn thường xuyên để bảo đảm rằng việc học của bạn có tiến bộ.
5. Các điều kiện khác:
a. Trước lớp học cuối, bạn phải nộp một bài viết một trang mô tả lẽ thật, nguyên tắc, quan niệm hoặc một nhân vật Kinh Thánh đã tác động trên đời sống bạn nhiều hơn hết qua môn học này.
b. Trong giờ tự học buổi chiều và các tuần nghỉ giữa các môn học, bạn cần phải hoàn tất các đòi hỏi như phía dưới trước khi bạn được phép tiếp tục học môn kế tiếp.
· Đọc lại và ôn cẩn thận giáo khoa của môn học này
· Đọc các phần Kinh Thánh như sau:
Trước khi bắt đầu môn học 3 Sáng - I Vua (522 trang)
Trước khi bắt đầu môn học 5 II Vua - Nhã ca (491 trang)
Trước khi bắt đầu môn học 7 Esai - Ma-la-chi (425 trang)
Trước khi bắt đầu môn học 10 Ma-thi-ơ - Khải (512 trang)
* Đọc 25 trang mỗi ngày (chỉ đọc phần Kinh văn, không cần đọc phần chú giải..v..v..)
· Mỗi lần đọc xong, nên ghi vào một tờ giấy rằng bạn đã đọc xong phần Kinh văn đòi hỏi và nộp cho giảng huấn viên.
Thời khóa biểu môn học
Ghi chú: Giảng viên có thể điền vào thời khoá biểu này và cho học viên biết phần tài liệu sẽ dự định học trong mỗi buổi (khoảng 4-10 trang tùy theo môn học. Giảng viên có thể bắt đầu với phần Các Gợi Ý Thực Tiễn cho việc sử dụng cuốn Kinh Thánh theo bản dịch NIV trong phần Phụ lục.
Thời khoá biểu hằng ngày
Thứ hai - Thứ sáu
Lớp 1 9:00 - 10:30 sáng
Nghỉ 10:00 - 11:00 sáng
Thờ phượng 11:00 - 11:30 sáng
Lớp 2 11:30 sáng - 1:00 chiều
An trưa 1:00 - 1:45 chiều
Tự học 1:45 - 4:00 chiều
Câu hỏi/trả lời 4:00 - 4:30 chiều
Ghi chú : Giờ thờ phượng có thể bao gồm một thì giờ ngắn dành cho việc ngợi khen, cầu nguyện và khoảng 15 phút để nghe giảng theo cách giải kinh bởi một giảng viên hoặc một học viên.
Chương trình trọn ngày
Trong chương trình học trọn ngày, học trình 10 môn học của TTHLKQN được thực hiện bằng cách chia làm năm (5) lần mỗi lần hai (2) môn trong sáu (6) tuần lễ với 3 tuần nghĩ giữa các khoá. Như vậy 10 môn học có thể được thực hiện trong vòng 10 tháng.
Thí dụ : Ngày
Khoá học 1 Môn học 1
(6 tuần) Môn học 2
Nghỉ (3 tuần)
Khoá học 2 Môn học 3
(6 tuần) Môn học 4
Nghỉ (3 tuần)
v.....v.......
Ghi chú: Các môn học sau đây có thể đòi hỏi nhiều giờ học tại lớp, các lớp cần được điều chỉnh để mỗi buổi học có ít nhất là 2 giờ thay vì chỉ có 1-1/2 giờ
2 Cựu ước Lược khảo
3 Tân ước Lược khảo
5 Giáo lý Kinh Thánh Lược khảo
9 Lịch sử Hội Thánh Lược khảo
Chương trình lớp đêm
Mỗi lần dạy một môn học với một tuần nghỉ giữa 2 môn học. 3 tối mỗi tuần (2 giờ tại lớp, 1 giờ tự học). Cộng thêm 4 giờ vào ngày thứ Bảy với một giờ dành để nghỉ và thờ phượng. Các môn học 2, 3, 5, 6, 9, 10 mỗi môn học có thể được hoàn tất trong vòng 18 tháng.
Các chỉ dẫn cho việc giáo huấn
Triết lý giáo dục phía sau các môn học này là trang bị cách thực tiễn - giúp tiêu hoá những căn bản, tri thức hữu ích và khả năng. Các bài tập được soạn thảo để giúp cá nhân học viên tham dự vào việc thực hành những nguyên tắc đã được dạy. Phần lớn ôn lại là để biết chắc học viên hiểu rõ và có thể tóm lại những lẽ thật quan yếu. Giảng viên có thể dùng cách thuyết trình, câu hỏi và trả lời và thảo luận để bảo đảm việc trao đổi và lượng giá trong tiến trình học tập. Giảng viên cũng nên dùng những hình ảnh hoặc thí dụ hợp với văn hoá cho bài học.
Tài liệu được soạn để dạy nhưng không cần phải dùng đến việc thi cử hoặc bài thảo luận hoặc các giáo khoa nào khác ngoại trừ giáo khoa môn học và cuốn Kinh Thánh toàn bộ. Một số giấy trong suốt dùng để rọi hình sẽ được cung cấp cho giảng viên. Mỗi khi ôn hoặc dạy bài trong lớp,dùng máy rọi hình với giấy trong suốt sẽ giúp học viên tham gia học tập. Học viên nên dùng thì giờ tự học để:
· đọc lại phần tài liệu đã học tại lớp trong buổi sáng
· làm hết các bài tập trong ngày
· xin giảng viên giúp thêm nếu cần
· đọc Kinh Thánh theo thời dụng biểu
Giáo khoa của môn học được soạn để khuyến khích học viên tiếp tục xử dụng giáo khoa chính - Kinh Thánh. Các phần Kinh Thánh trích dẫn trong giáo khoa cần được đọc trong lớp học và dùng như là một điểm nhấn mạnh.
Thay đổi cách xử dụng giáo khoa
Trong những nơi mà TTHLKTQN không thể được thành lập và tài trợ, một giảng viên, một quản nhiệm hay giáo sĩ có thể dùng các giáo khoa và cuốn Kinh Thánh NIV để huấn luyện một nhóm quản nhiệm trong một thời gian. Trong trường hợp này, thời khoá biểu có thể thay đổi để thích hợpvới hoàn cảnh. Trong một số trường hợp giáo khoa của vài môn học có thể thích hợp cho việc giáo dục tổng quát trong các Hội Thánh. Các sự thay đổi của chương trình như thế cần phải được viết thư xin phép trước.
Trong vài trường hợp, một lần nên dạy một môn học cho đến khi hoàn tất trước khi bắt đầu môn học khác. Thí dụ, môn học 1 được dạy trong 2 tuần sau đó môn học 2 trong 4 tuần. Một số nên học chiếm ít nhất là 35 giờ học và một số khác khoảng 60 giờ.
Bố cục: Môn Tuyên giảng Sứ điệp Kinh Thánh
I. Giới thiệu
A. Trách nhiệm giảng dạy của Mục sư
B. Giảng giải kinh - Mô tả từ Kinh Thánh
1. Tính chất
2. Gương mẫu từ Nê-hê-mi
3. Sự cần thiết
· Những lý do tiêu cực
· Những lý do tích cực
· Những chân lý quan trọng cần nhớ
C. Những định nghĩa quan trọng khác
1. Chú giải Kinh Thánh
2. Giảng giải kinh
3. Tuyên đạo pháp
II. Chuẩn bị cho một số sứ điệp Kinh Thánh
A. Chuẩn bị con người
1. Bí quyết của sự chuẩn bị hiệu quả
· Tư cách
· Cầu nguyện
· Quyền năng
· Niềm say mê
2. Người giảng được nhìn thấy từ nhãn quan của Đức Chúa Trời
· Như một sứ giả
· Như một tôi tớ
· Như một đại sứ
B. Chuẩn bị sứ điệp
1. Những công việc mở đầu
2. Xác định ý chính
· Ví dụ
· Bài tập
3. Xây dựng Sứ điệp
· Tiến trình
Bước 1 Xác định ý chính
Bước 2 Bố cục nội dung
* Suy gẫm Sứ điệp *
Bước 3 Thêm vào những minh hoạ, ví dụ, áp dụng
Bước 4 Thêm phần giới thiệu
Bước 5 Thêm phần kết luận
· Hình thức được đề nghị cho bố cục sứ điệp
III. Những ví dụ cho Sứ điệp Kinh Thánh
A. Những Sứ điệp mẫu
B. Bài tập thực tiễn
C. Giảng suốt một sách hay một phần của Kinh Thánh
· Phi-líp
· Đời sống Ê-li
· Cô-lô-se
· Phúc âm Mác
IV. Trình bày sứ điệp
A. Những điều cần nhớ
B. Những gợi ý cho việc rao giảng hiệu quả.
· Những nguyên tắc chung cho việc truyền thông hiệu quả
· Những lời khuyên cho cụ thể cho các Sứ điệp Thánh Kinh
· Kêu gọi
· Thời lượng của Sứ điệp
· Dáng điệu và phong cách giảng
NỘI DUNG MÔN HỌC
I. GIỚI THIỆU
A. Trách nhiệm giảng dạy của Quản nhiệm Hội thánh
Với tư cách là một quản nhiệm hội thánh bạn chính là người chăn bầy với vai trò:
· Chăm sóc, nuôi nấng, dưỡng dục, khích lệ.
· Bảo vệ
· Hướng dẫn
· Dạy và huấn luyện (trang bị)
bầy chiên mà Đức Chúa Trời đã giao phó cho bạn (IPhi 1Pr 5:1-4)
1. Nuôi dân sự bằng lời Đức Chúa Trời
Lời Đức Chúa Trời là thức ăn thuộc linh duy nhất bạn phải cung cấp để bầy chiên lớn lên, trưởng thành.
2. Giảng dạy lời Chúa
“Hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời; hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi”
“Hãy chăm chỉ...... khuyên bảo, dạy dỗ..... “
* Quản nhiệm Hội thánh phải giảng dạy lời Chúa *
(Chúng ta không có Sứ điệp nào khác ngoại trừ Lời Đức Chúa Trời)
Giảng - Công bố , giải nghĩa, động viên và áp dụng lời Đức Chúa Trời
Dạy - Hướng dẫn , giải nghĩa và áp dụng lời Đức Chúa Trời
Trong CoCl 1:28, giảng (công bố) và dạy (chỉ dẫn) được dùng có thể thay thế cho nhau. Nhưng nhiều quản nhiệm hội thánh không quan tâm đến trách nhiệm dạy Kinh Thánh của họ.
* Có thể dạy mà không giảng, nhưng không thể giảng Kinh Thánh mà không dạy. Bạn thật sự không có bất cứ điều gì để giảng (động viên) cho đến khi bạn đã dạy.
Lưu ý: Hầu như không có ngoại lệ trong Tân ước, giảng đề cập đến việc công bố phúc âm cho người chưa tin và dạy đề cập đến việc chỉ dẫn lời Chúa cho tín hữu.
3. Phục vụ Hội Thánh bằng việc trang bị cho các thánh đồ
* Đức Chúa Trời muốn bạn rèn tập các ân tứ thuộc linh (các khả năng thuộc linh được Chúa ban cho) để trang bị và huấn luyện các thánh đồ cho công tác mục vụ *
Cũng hãy xem về các ân tứ thuộc linh : ICo1Cr 12:1-11
4. Nêu gương tin kính như một người trung trực
“Làm gương cho các tín đồ” trong
· Lời nói
· Nết làm
· Tình yêu thương
· Đức tin
· Sự tinh sạch
Trong tất cả những điều này, cách mau nhất hủy phá lời chứng của bạn là bằng những gì bạn nói:
5. Đề phòng sự dạy dỗ giả dối
Hãy giữ lấy mình và bầy chiên của bạn. Hãy đề phòng giáo huấn giả dối.
Các tốt nhất để phòng chống giáo huấn giả dối là dạy các giáo lý chân chính từ Lời Đức Chúa Trời. Giáo lý chân chính là giáo huấn lành mạnh.
B. Giảng giải kinh - Mô tả của Kinh Thánh
1. Tính chất của việc giảng giải Kinh
Trong môn học này chúng ta sẽ cố gắng sử dụng thuật ngữ sứ điệp Kinh Thánh thay cho từ ngữ “bài giảng”. Từ ngữ “bài giảng” không có trong Thánh Kinh và hầu hết các bài giảng được giảng trong thời của chúng ta không thật sự là giảng Kinh Thánh. Thông thường, “bài giảng” được định nghĩa như sau: “Một bài phát biểu về tôn giáo hay một cuộc nói chuyện trong cộng đồng của một mục sư”. Đó không phải là điều Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta làm với tư cách là mục sư. Mục tiêu cho một sứ điệp được nói hay viết ra là từ Kinh Thánh, sứ điệp đó phải phát nguồn từ lời của Đức Chúa Trời.
Công tác của chúng ta với tư cách là những người truyền đạo không phải là ban phát một bài giảng mà là trình bày một sứ điệp đến từ Lời Đức Chúa Trời cho hội chúng .
Vậy Giảng giải kinh là gì?
Giảng giải kinh bao gồm:
· Công bố bản văn của lời Đức Chúa Trời có hệ thống
· Giải nghĩa để mọi người có thể hiểu được
· Động viên mọi người vâng giữ và áp dụng chân lý
Trong cách giảng giải kinh, người giảng đơn thuần chỉ là công cụ qua đó lời Đức Chúa Trời (sứ điệp) được chuyển giao cho dân sự. Đó là một tiến trình giải bày lời Đức Chúa Trời và để lời Chúa phán với dân sự.
Những đặc điểm của việc giảng giải kinh thật sự:
· Lấy ra và giải nghĩa có hệ thống bản văn Kinh Thánh theo những phân đoạn trong thứ tự chung và theo thượng hạ văn
· Giảng qua nhiều chương, nhiều phần hay nhiều sách trong Thánh kinh
· Để bản văn Kinh Thánh quyết định cả nội dung lẫn cấu trúc của sứ điệp được rút ra từ đó
· Không phải một đề tài nhưng nhiều đề tài sẽ được đề cập trong thời gian thích hợp như là lời Chúa được giải bày.
· Thật sự là ý nghĩa nguyên thủy của bản văn
· Sử dụng minh hoạ và ví dụ từ trong Kinh Thánh và liên quan đến Kinh Thánh
· Tìm cách áp dụng những nguyên tắc và lẽ thật đã được rút ra từ bản văn Kinh Thánh cho những nhu cầu của xã hội đương thời.
· Thúc giục và thách thức dân sự đáp ứng bằng sự vâng theo sứ điệp lời Chúa
2. Một gương mẫu Kinh thánh về giảng/dạy giải kinh
NeNe 8:1-6, 8-9, 12, 15
“Họ đọc rõ ràng trong sách luật pháp của Đức Chúa Trời, rồi giải nghĩa nó ra, làm cho người ta hiểu lời họ đọc (câu 8)
Nêhêmi và Exơra “dạy dỗ dân sự ”(câu 9)
(giải nghĩa )
“Dân sự đều khóc khi nghe đọc các lời luật pháp”(câu 9)
(đáp ứng )
“...... vì chúng có hiểu các lời người ta đã truyền dạy cho mình”(câu 12)
(hiểu biết )
“Hãy đi kiếm trong núi.... đặng làm những nhà lều, y như đã chép” (câu 15)
(vâng lời )
Các yếu tố của việc giảng giải kinh:
1. Giải nghĩa để hiểu biết
2. Chỉ dẫn - dạy dỗ
3. Cáo trách dân sự
4. Đáp ứng chân lý bằng sự vâng lời
Dân sự bị cáo trách khi đối diện với lẽ thật của lời Đức Chúa Trời và đời sống họ thay đổi nhờ sự vâng lời .
Đó là tất cả những gì gọi là Giảng giải kinh !
Chính bài giảng đầu tiên của Phi-e-rơ được ký thuật lại trong sách Công vụ tập trung vào việc đọc bản văn Kinh Thánh và giải nghĩa ra bằng cách liên hệ với những điều họ đã thấy, vì thế dân chúng đã đáp ứng
Bài tập
Đọc Cong Cv 2:14-41
Câu hỏi: Phân đoạn này minh hoạ các yếu tố của việc giảng giải kinh như thế nào?
3.Sự cần thiết của việc giảng giải Kinh
AmAm 8:11 mô tả chính xác tình cảnh thời đó và ngày nay.
Có “một sự đói kém về lời của Đức Giê-hô-va”
Nan đề thực sự trong nhiều bài giảng được giảng ngày nay, là hầu như chứa đựng lời của con người nhiều hơn là lời của Đức Chúa Trời.
*Đức Chúa Trời hứa ban phước cho lời Ngài ,chứ không phải lời của chúng ta *
Những lý do tiêu cực cho việc giảng giải Kinh:
Đặc điểm của nhiều bài giảng ngày nay là
· Sử dụng rất ít lời Chúa - đề cập sơ qua hay chỉ dùng lời Chúa như một lời giới thiệu hay như một “bệ phóng” (Spring board = tấm ván nhún để nhảy)
· Diễn đạt ý tưởng, truyền thống và triết lý của con người
· Khuyến khích quan niệm thế tục về sự thành đạt dựa trên những con số, kích cỡ, bề ngoài....v.....v..
· Để giải trí nhiều hơn là giáo huấn
· Hứa hẹn sức khoẻ, giàu có và thịnh vượng vật chất (một phúc âm giả)
· Giới thiệu một hình ảnh thiếu trung thực, không hoàn hảo về Chúa Giê-xu Christ và Cơ-đốc giáo.
· Đề ra những giải pháp phi Kinh Thánh (như Tâm lý học thế tục) cho những nan đề thuộc linh
· Chứng tỏ một quan niệm yếu ớt, thấp thỏi về sự đầy đủ của Kinh Thánh
· Lôi kéo sự hưởng ứng bằng sự hấp dẫn, nghệ thuật quảng cáo và cách diễn thuyết khéo léo
· Cho rằng sự ăn năn và tái sinh là không cần thiết, chỉ có sự hối tiếc và cải thiện
· Nói với hội chúng những gì họ muốn nghe và những điều khiến họ cảm thấy hài lòng.
· Nói những chuyện thời sự, thường xuyên sử dụng thơ ca ngoài bản văn Kinh Thánh
Làm sao các loại bài giảng này có thể sánh ngang với Lời của Đức Chúa Trời?
Lý do tích cực cho việc giảng giải Kinh:
· Uy quyền của Lời Chúa - khi chúng ta tuyên giảng Lời Chúa, chúng ta ở dưới uy quyền của lời ấy (“Đức Chúa Trời phán.....” không phải dưới ý tưởng hoặc địa vị riêng của chúng ta) ITe1Tx 2:13
· Dân chúng cần được nghe lẽ thật - Hầu hết dân chúng ngày nay, ngay cả các Cơ-đốc nhân - đều thiếu hiểu biết Kinh Thánh . GiGa 8:31-32.
· Lời Chúa có quyền năng cáo trách và thay đổi con người - Lời của chúng ta thì không có quyền năng ấy - HeDt 4:12
· Đề cập đến những nan đề thực sự của con người - Giảng giải kinh qua các sách của Kinh Thánh sẽ dạy dân sự toàn bộ giáo huấn của Đức Chúa Trời. Cong Cv 18:11; 20:20, 27
· Chứng minh được sự đầy đủ của Lời Chúa. Thi Tv 19:7-11.
*Lời của Đức Chúa Trời không cần được củng cố thêm bởi âm nhạc thế tục ,giải trí ,tranh luận ,các giải thưởng ,thức ăn ,v...v ...*
Những lẽ thật nổi bật cần ghi nhớ:
Chúng ta nhận lịnh “Hãy truyền giảng (Lời Chúa)”..... Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành (giáo huấn chân chính). Nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn.”
Phao-lô trong IICo 2Cr 4:2 đưa ra một tiêu chuẩn chính xác
“Nhưng chúng tôi từ bỏ mọi điều hổ thẹn giấu kín; chúng tôi chẳng theo sự dối gạt và chẳng giả mạo lời Đức Chúa Trời. Nhưng trước mặt Đức Chúa Trời chúng tôi tỏ bày lẽ thật , khiến lương tâm mọi người cho chúng tôi là đáng chuộng”
“Hơn nữa chúng tôi từ khước những điều giấu giếm đáng hổ thẹn, không hành đông xảo quyệt, không giả mạo lời Đức Chúa Trời, trái lại trong khi công khai trình bày chân lý , chúng tôi được lương tâm mọi người ca ngợi trước mặt Đức Chúa Trời” (bản dịch mới)
Đừng:
Pha trộn lời Đức Chúa Trời (làm giảm nhẹ hoặc yếu đi)
Giả mạo lời Đức Chúa Trời (nói Kinh Thánh nói mà kỳ thực Kinh Thánh không nói)
Làm nghiêng lệch lời Đức Chúa Trời (Thêm vào hay bớt đi)
(xem ICo1Cr 4:6-7)
Trong I Côr Phao-lô nhắc nhở chúng ta về những lẽ thật quan trọng trong sự giảng dạy
· Đừng giảng với lời khôn ngoan của loài người
- Bạn sẽ làm thập tự giá của Đấng Christ ra vô ích
1:17-19 cũng xem RoRm 1:16-17
· Đừng lo lắng về việc thiếu tài hùng biện hoặc khôn sáng
· Công bố chứng cớ về Đức Chúa Trời
· Tập trung về Chúa Giê-xu Christ và thập tự giá của Ngài
· Giảng trong sự khiêm nhường và kính sợ vì nhận biết sự yếu đuối của bạn và bạn đang tuyên giảng Lời của Đức Chúa Trời.
· Hãy cẩn thận về việc nhờ cậy nơi lời nói khéo léo và có sức thuyết phục
· Bởi đức tin hãy để Đức Thánh Linh chứng tỏ quyền năng của Ngài khi bạn nhờ cậy nơi Lời Đức Chúa Trời chứ không phải lời của bạn.
2:5.
Dân sự phải được tác động bởi lời Đức Chúa Trời , chứ không phải bởi lời của người giảng
C. Những định nghĩa quan trọng khác
Trong sự giảng dạy nên tập chú vào việc giải kinh có hệ thống, có một số các thuật ngữ khác bạn cần biết.
Chú giải - Tiến trình nghiên cứu và phân tích kỹ lưỡng bản văn Kinh Thánh để xác định ý nghĩa nguyên thủy của nó (một cách khác để mô tả phương pháp căn bản khảo học Kinh Thánh)
Giải kinh - Những quy luật giải nghĩa để áp dụng bản văn Kinh Thánh trong việc khảo học Kinh Thánh
Tuyên đạo pháp - Tiến trình thu thập các kết quả của việc khảo học Kinh Thánh (chú giải) và khai triển thành một sứ điệp Kinh Thánh (“bài giảng”) để truyền đạt cho những người khác.
* Nghiên cứu Kinh Thánh kỹ lưỡng , có hệ thống , đồng thời sử dụng các quy luật giải nghĩa sẽ giúp người giảng khai triển được các sứ điệp Kinh Thánh chân chính trong việc giảng giải kinh hiệu quả *
Người giảng phải hiểu biết Lời Chúa để dạy cho người khác - cần có thời gian để nghiên cứu (xem Exo Er 7:10-11).
Ôn tập
1. Trách nhiệm chính của quản nhiệm hội thánh là gì?
2. Sự khác nhau giữa giảng và dạy là gì?
3. Giảng và dạy - Điều nào quan trọng hơn trong Hội Thánh? Tại sao?
4. Định nghĩa giảng giải Kinh
5. Tại sao việc giảng giải kinh là rất cần thiết?
6. Những lẽ thật quan trọng nào người giảng cần phải nhớ?
II. CHUẨN BỊ CHO MỘT SỨ ĐIỆP KINH THÁNH
Có hai phương diện cần thiết của việc chuẩn bị
1) Chuẩn bị người giảng
2) Chuẩn bị sứ điệp
*Xao lãng một trong hai sự chuẩn bị ấy sẽ dẫn đến kết quả việc giảng dạy thiếu hiệu quả *
A. Chuẩn bị con người
1. Những bí quyết của sự chuẩn bị con người hiệu quả
Có một mối liên hệ trực tiếp giữa hiệu quả của việc giảng dạy và chất lượng củaviệc đồng đi với Đức Chúa Trời
Nhà truyền giảng vĩ đại người Tô-cách-lan trong thế kỷ 19 là Robert Murray M’Cheyne có lần đã nói:
“Nhu cầu lớn nhất của dân sự tôi là sự thánh khiết của cá nhân tôi”
John Owen, một mục sư người Anh trong thế kỷ 17, đã định vị Lời Chúa trong cách này:
“Lời Chúa phải ở trong chúng ta với quyền năng trước khi lời ấy có thể xuất ra từ chúng ta với quyền năng”
Đời sống cá nhân Toà giảng
Cầu nguyện ® Quyền năng
Tư cách ® Sự tín nhiệm
*Sự cầu nguyện và tư cách tốt trong đời sống cá nhân của chúng ta mới sản sinh được quyền năng và sự tín nhiệm trên toà giảng *
Quản nhiệm Hội thánh phải chú ý cẩn thận đến chính mình (ITi1Tm 4:16) trong 4 lãnh vực chính:
· Tư cách - Sự trung trực
Phao-lô nói: “Hãy bắt chước tôi cũng như chính mình tôi bắt chước Đấng Christ vậy” ICo1Cr 11:1
Người giảng dạy phải:
· Không chỗ trách được ITi1Tm 3:1-2
· Có tiếng tốt 3:7
· Phải ăn ở ngay lành giữa dân ngoại IPhi 1Pr 2:12
*Xem biểu đồ các phẩm chất của các trưởng lão/lãnh đạo/chấp sự trong Thánh Kinh khảo học IV*
Hành vi không tin kính và không xứng hợp sẽ phủ nhận và vô hiệu hoá những gì bạn truyền đạt từ toà giảng
Sự tín nhiệm trên toà giảng liên quan trực tiếp đến tư cách người giảng
· Cầu nguyện - Thông công với Đức Chúa Trời
Các sứ đồ nói:
“Còn chúng ta sẽ cứ chuyên lo về sự cầu nguyện và chức vụ giảng đạo”
Cầu nguyện không chỉ là cầu xin Chúa điều gì đó ; mà còn là thừa nhận chúng ta cần Chúa và nhờ cậy Ngài. Sự cầu nguyện làm cho việc chuẩn bị được kết quả.
CẦU NGUYỆN
· Trước khi bạn chuẩn bị sứ điệp
· Khi bạn chuẩn bị sứ điệp
· Trong khi bạn trình bày sứ điệp
· Trong lúc kêu gọi sự đáp ứng
· Để Đức Chúa Trời tiếp tục hành động khi Ngài bắt đầu với những người đáp ứng sứ điệp.
· Quyền năng - Năng lực của Lời Chúa và Người giảng
Người giảng hay lời người giảng không thể có quyền năng (khả năng cáo trách và thay đổi) nếu không có sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh
- Công bố về Chúa Cứu Thế trong quyền năng của Thánh Linh, không bởi năng lực riêng của chúng ta. CoCl 1:28, 29
- Quyết định yên nghỉ trong quyền năng của Đức Chúa Trời để trình bày sứ điệp lời Chúa. ICo1Cr 2:4, 5
- Được đầy dẫy (được hướng dẫn, kiểm soát và tác động) bởi Đức Thánh Linh. Eph Ep 5:18
· Niềm say mê Lòng nhiệt thành và khát vọng rao giảng Lời Chúa
Hai yếu tố của niềm say mê:
- Lòng nhiệt thành : Thiết tha, nhiệt tình, thích thú vì Đức Chúa Trời và Lời của Ngài
Vui thích trong Lời Chúa Thi Tv 1:1-2
Yêu mến luật pháp Chúa 119:97
Khát vọng rao giảng RoRm 15:20
Sẵn lòng rao giảng 1:15
Người truyền đạo nên được khuyến khích nghiên cứu và chia sẽ lời Đức Chúa Trời
- Khát vọng : Tin cậy Đức Chúa Trời để có kết quả
1) Rằng dân sự sẽ nghe lời Đức Chúa Trời phán qua bạn như là người rao giảng
2) Rằng dân sự sẽ đáp ứng và thay đổi
3) Rằng nhiều người sẽ được cứu
4) Rằng dân sự sẽ được hướng dẫn và khích lệ bởi Lời Chúa
2. Người truyền đạo (người giảng) được nhìn thấy từ nhãn quan của Đức Chúa Trời
· Như một sứ giả của Phúc âm
Người truyền đạo được Đức Chúa Trời kêu gọi để loan báo, công bố và giảng dạy Phúc âm của Chúa Cứu Thế. Một sứ giả hướng sự chú ý của người ta vào một người khác (Chúa Cứu Thế) và trình bày sứ điệp của Đấng đã sai người đó (Đức Chúa Trời)
*Một sứ giả nói thay cho Đức Chúa Trời*
· Như một tôi tớ
Người truyền đạo phải nhìn thấy chính mình là tôi tớ của Chúa Cứu Thế được Đức Chúa Trời ủy thác với lời quý báu của Ngài. Yêu cầu của một người quản trị lời Chúa là phục vụ người khác, trung tín và rao giảng về Chúa Cứu Thế chứ không phải về mình.
*Một tôi tớ chịu trách nhiệm với chủ mình và phải khai trình mọi việc*
· Như một đại sứ
Người truyền đạo là đại diện được Đức Chúa Trời bổ nhiệm đến với loài người để nói về sự cứu rỗi (sự giảng hoà); kêu nài họ tiếp nhận Chúa Cứu Thế. Những gì người khác thấy về Chúa Cứu Thế họ sẽ thấy nơi người truyền đạo.
*Một đại sứ là đại diện của Chúa Cứu Thế ở thế gian*
Vì thế người truyền đạo phải là:
· một sứ giả
công bố sứ điệp của Đức Chúa Trời, không phải sứ điệp của mình
· Một tôi tớ
rao giảng và tôn cao Chúa Cứu Thế, không phải tôn cao chính mình
· Một đại sứ
đại diện cho Chúa Cứu Thế, không phải chính mình
*Một khi chính bản thân được chuẩn bị về mặt thuộc linh , thì người truyền đạo mới sẵn sàng chuẩn bị sứ điệp của Đức Chúa Trời để trình bày cho dân sự *
On tập
1. Mối liên hệ giữa việc chuẩn bị thuộc linh và việc giảng dạy hiệu quả là gì?
2. Trong cách nào thì quan điểm thế gian của người giảng khác với quan điểm của Đức Chúa Trời?
B. Chuẩn bị sứ điệp
*Quyết định trở thành một mục sư, người được giao phó:
Giảng giải lời Đức Chúa Trời qua việc tìm kiếm giải nghĩa Kinh Thánh để dân sự có thể hiểu và vâng theo
Như một qui luật chung, bạn và Hội Thánh của bạn sẽ được ích lợi lớn nếu bạn giảng và dạy theo thứ tự các sách trong Kinh Thánh hơn là giảng dạy sứ điệp theo chủ đề.
· Hội Thánh của bạn sẽ nhận được nhiều ích lợi từ việc nhìn thấy sự hiệp nhất và không thay đổi của Kinh Thánh và được dạy “toàn bộ giáo huấn” của Đức Chúa Trời.
· Bạn sẽ nhận được nhiều ích lợi bởi việc không phải quyết định những gì bạn sẽ giảng trong lần tới - đơn giản là bạn chỉ giảng phần tiếp theo của Kinh Thánh. Hầu hết những người không giảng theo lối giải kinh đều thừa nhận rằng họ phải mất 80% thì giờ để quyết định xem sẽ giảng gì và 20% thì giờ để chuẩn bị. Tại sao lại không dành 80% thì giờ để chuẩn bị cho bản văn có sẵn?
1. Những công việc mở đầu
a. Cầu xin sự khôn ngoan và dẫn dắt để Đức Chúa Trời chỉ cho bạn phần nào được dùng hầu đáp ứng nhu cầu của Hội Thánh bạn hoặc của cử toạ.
b. Đọc qua trọn sách mà bạn chọn giảng trước khi bạn giảng sứ điệp đầu tiên từ sách đó. Đọc phần giới thiệu và bố cục ở phần mở đầu của sách (bản NIV).
c. Bạn phải chắc chắn hiểu được chủ đề căn bản và mục đích của sách
d. Bắt đầu phần thứ nhất của sách và chọn một phần Kinh Thánh chứa đựng từ một vài câu đến cả đoạn tùy thuộc vào đề tài. Dĩ nhiên, sứ điệp giải Kinh có thể được giảng dựa trên bất cứ phân đoạn thích hợp nào (đoạn, câu ...v.......v.... ).
e. Nghiên cứu từng phân đoạn . Một phân đoạn gồm một hay nhiều câu liên quan đến cùng đề tài hay có ý tưởng giống nhau. Trong NIV Study Bible các phân đoạn mới được chỉ ra bởi “chổ thụt vào đầu hàng”.
f. Đọc đi đọc lại phân đoạn đó cho đến khi bạn hiểu rõ hoàn toàn, rồi suy gẫm những lẽ thật được dạy dỗ.
g. Đọc những câu hoặc đoạn ở trước và sau phân đoạn bạn chọn để củng cố cho bản văn. Đọc bất cứ phân đoạn đối chiếu hay liên hệ. Dùng Thánh Kinh phù dẫn , mục lục chú giải , mục lục chủ đề , hệ thống tham khảo và chú giải khảo học .
h. Nghiên cứu cẩn thận phân đoạn Kinh Thánh đó rồi sử dụng 3 bước bạn đã học:
Quan sát bản văn (phân đoạn Kinh Thánh nầy nói gì)
Giải nghĩa bản văn (Phân đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì)
Ap dụng bản văn (Tôi phải làm gì)
Hãy suy nghĩ cách vận dụng qua phân đoạn này.
i. Xác định ý chính , ý tưởng, khái niệm hay lẽ thật từ phân đoạn này. Nếu bạn không hoàn toàn biết chắc phân đoạn Kinh Thánh này thực sự nói gì, hãy suy gẫm và cầu nguyện để Chúa chỉ cho bạn sứ điệp căn bản cần giảng. Hãy xây dựng sứ điệp xoay quanh ý chính để sứ điệp của bạn có một trọng tâm, trọng điểm hay chủ đề. Sự truyền đạt hiệu quả đòi hỏi người giảng phải giảng một khái niệm riêng rẽ (ý chính) bởi vì thính giả sẽ không lãnh hội được, hiểu được hay có thể áp dụng nhiều hơn một lẽ thật trong một thời điểm. Bí quyết để giảng giải kinh hiệu quả là tìm được ý chính của phân đoạn Kinh Thánh và xây dựng sứ điệp xoay quanh ý chính đó .
Ý chính = Tóm tắt của lẽ thật căn bản được dạy dỗ
qua phân đoạn Kinh Thánh
j. Trung bình bạn nên chuẩn bị một sứ điệp giải kinh từ 4 đến 6 giờ.
2. Xác định ý chính
Tiến trình xác định ý chính của một phân đoạn Kinh Thánh liên quan đến 2 câu hỏi căn bản:
Đề mục của phân đoạn này là gì ?
Phân đoạn Kinh Thánh này nói gì về đề mục ?
Hãy nhớ
1) Chính phân đoạn Kinh Thánh quyết định nội dung cả sứ điệp
2) Nội dung của cả sứ điệp phải được xây dựng xoay quanh ý chính, khái niệp hay lẽ thật.
Một sứ điệp Kinh Thánh nên tập trung hay nhấn mạnh một ý chính và sau đó:
· trình bày lại
· giải thích
· minh hoạ
· xác nhận
· chứng minh
· làm cho đầy đủ
· khai triển
· áp dụng
ý chính đó
Vì thế, trước hết chúng ta phải tìm ra đề mục của phân đoạn Kinh Thánh và rồi xác định phân đoạn đó nói gì về đề mục đó (dàn ý)
Lời cảm tạ : Tôi đã học khái niệm về ý chính hay “ý lớn” trong khi theo học tại Chủng viện Thần học Dallas, nơi chúng tôi sử dụng sách giáo khoa: Tuyên giảng Kinh Thánh của Haddon W. Robinson (Baker Book house, 1980). Đó là quyển sách tốt nhất cho môn học này.
Bây giờ, chúng ta hãy xem một số ví dụ về ý chính của các phân đoạn Kinh Thánh được chọn.
VÍ DỤ VỀ NHỮNG Ý CHÍNH
(1) Thi Tv 100:1-3
Đề mục: Tại sao chúng ta nên thờ phượng Chúa cách vui mừng
Dàn ý: Ngài là Đức Chúa Trời
· Ngài đã dựng nên chúng ta
· Chúng ta thuộc về Ngài
· Chúng ta là dân sự Ngài
Ý chính : Chúng ta nên thờ phượng Chúa cách vui mừng bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời - Ngài đã dựng nên chúng ta; chúng ta là dân sự Ngài và Ngài là Đức Chúa Trời của chúng ta.
(2) 100:4-5
Đề mục: Tại sao chúng ta nên ngợi khen và cảm tạ Chúa
Dàn ý: Đức Giê-hô-va là thiện
· Sự nhơn từ Ngài hằng có mãi mãi
· Sự thành tín Ngài còn đến đời đời
Ý chính : Chúng ta nên ngợi khen, cảm ta Chúa vì Ngài là tốt lành - Tình yêu và sự thành tín của Ngài đối với chúng ta không bao giờ cắt đứt.
Lưu ý: Thi 100 đủ ngắn để sử dụng cho một sứ điệp. Có một sự hiệp nhất ý chính (chủ đề) và 2 ý tưởng hổ trợ, ví dụ:
(3) 100:1-5
Đề mục:
Dàn ý:
Ý chính : Bởi vì Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, Ngài xứng đáng để chúng ta vui mừng thờ phượng và cảm tạ ngợi khen.
I. Đức Chúa Trời vĩ đại (câu 1-3)
“Phải biết rằng GIÊ-HÔ-VA là Đức Chúa Trời”
a) Ngài là Đấng tạo hoá
b) Ngài là Đức Chúa Trời của chúng ta.
c) Chúng ta là dân sự Ngài
II. Đức Chúa Trời là tốt lành (câu 4-5)
“Vì ĐỨC GIÊ-HÔ-VA là thiện”
a) Sự nhơn từ Ngài hằng có mãi mãi
b) Sự thành tín Chúa còn đến đời đời
Ap dụng: Chúng ta có thể bày tỏ sự tôn kính Đức Chúa Trời như thế nào?
Chúng ta có thể:
· Hát những bài hát vui mừng cho Ngài
· Cảm tạ Ngài
· Đến Hội Thánh với lòng biết ơn
· Ngợi khen danh của Ngài
· Cảm tạ Ngài vì tình yêu và sự thành tín của Ngài
· Vâng lời và phục sự Ngài
(4) SaSt 9:3-6
Đề mục: Tại sao việc giết người là sai trái
Dàn ý:
· Sự sống ở trong huyết
· Đức Chúa Trời truyền lịnh mỗi đời sống phải khai trình
· Con người được tạo dựng theo hình ảnh Đức Chúa Trời
Ý chính : Kinh Thánh phán rằng giết người là sai trật và phải bị trừng phạt bởi con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời và sự sống là đặc biệt và thánh khiết đối với Đức Chúa Trời.
Lưu ý: Đọc kỹ chú giải khảo học và tham khảo NIV về 9:3-6.
(5) ChCn 3:3-4.
Đề mục: Làm thế nào để được tôn trọng và có tiếng tốt trước mặt Đức Chúa Trời và con người.
Dàn ý: Duy trì tâm tính và hành vi tin kính
· “Ghi sự nhơn từ và sự chơn thật (trung tín) nơi bia lòng con”
(thái độ)
(Tâm tính ở bên trong)
· “Đeo sự nhơn từ và sự chơn thật (trung tín) vào cổ”
(hành động)
(hành vi bên ngoài)
Ý chính : Khi chúng ta biểu lộ sự nhơn từ và chân thật đối với người khác, chúng ta sẽ được cả sự tôn trọng lẫn danh tiếng tốt và Đức Chúa Trời sẽ hài lòng.
Lưu ý: Khi bạn học sách Châm ngôn hãy nhớ rằng dạy những nguyên tắc chung, chứ không phải bảo đảm những lời hứa (điều này nghĩa là làm sao đời sống có kết quả luôn).
(6) Gios Gs 1:6-9
Đề mục: Làm thế nào để tin cậy và thành công trong đời sống từ quan điểm của Đức Chúa Trời
Dàn ý: Đức Chúa Trời ở với chúng ta và chúng ta phải vâng lời Ngài.
· Chúng ta có thể tin cậy
- Chớ run sợ
- Chớ kinh khủng
- Hãy vững lòng
- Hãy bền chí
- Đức Chúa Trời vẫn ở cùng chúng ta
· Chúng ta có thể thành công
- Vâng giữ tất cả lời Đức Chúa Trời
- Chớ xây qua bên hữu hoặc bên tả
- Suy gẫm lời Chúa
- Cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong.
Ý chính : Chúng ta có thể sống tin cậy vì Đức Chúa Trời ở với chúng ta và chúng ta có thể thành công khi chúng ta vâng giữ trọn vẹn Lời của Ngài.
Chú ý: Khi bạn dùng đoạn văn này để khai triển một sứ điệp, bên nên minh hoạ qua cuộc đời của Giô-suê ông đã tin cậy Chúa và thành công như thế nào. Bạn cũng nên định nghĩa các khái niệm đó. Theo Kinh Thánh, thành công và thịnh vượng không ám chỉ đến danh tiếng và sự giàu có nhưng là bằng lòng để Đức Chúa Trời hoàn thành mục đích của Ngài cho cuộc đời bạn (xem Thi Tv 1:1-8 và Cong Cv 13:21-22, 36; GiGa 17:4 và 19:30) Đa-vít là một người thất bại trong nhiều phương diện nhưng lại “thành công” trong nhãn quan của Đức Chúa Trời. Chức vụ trên đất của Chúa Giê-xu chấm dứt với việc Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá và theo cách mới của Con người Chúa Giê-xu dường như thất bại trong việc trở nên “Vua dân Do thái”. Nhưng, Ngài đã thành công trong quan điểm của Đức Chúa Trời.“Thành công ” theo như đánh giá của Đức Chúa Trời là mong muốn làm theo ý Ngài và trung tín vâng giữ lời Ngài.
Lưu ý: Khi bạn đọc qua phân đoạn để tìm ý chính, lưu ý những thay đổi trong đoạn văn thường là dấu hiệu cho việc thay đổi chủ đề (ví dụ như tác giả bắt đầu nói về một điều khác hay một khía cạnh khác của cùng chủ đề).
(7) MaMl 2:13-16
Đề mục: Tại sao Đức Chúa Trời ghét sự ly dị
Dàn ý: Hôn nhân là một giao ước trước mặt Chúa
· Ly dị ngăn trở sự thông công của chúng ta với Đức Chúa Trời
“Ngài không nhìn đến của lễ nữa” ( câu 13)
· Hôn nhân là một giao ước (hiệp ước/hợp đồng) đồng hành trọn đời giữa một người nam và một người nữ trước mặt sự chứng kiến của Đức Chúa Trời (câu 14)
· Ly dị bày tỏ sự không trung thành trong giao ước với người bạn đời (câu 14)
· Đức Chúa Trời kết hợp người nam và nữ thành một (thân thể và tâm linh) để sản sinh ra con cái tin kính (câu 15)
· Tự bảo vệ tâm linh của bạn và phải trung thành
· Hôn nhân mô tả mối liên hệ của Đức Chúa Trời với dân Y-sơ-ra-ên của Ngài và mối liên hê của Đấng Christ và Hội Thánh, vì thế thờ hình tượng được xem như tà dâm thuộc linh.
Ý chính : Đức Chúa Trời ghét ly dị và khuyên dạy không được ly dị bởi vì phá vỡ hôn nhân là vi phạm giao ước thánh đã thiết lập trước sự chứng kiến của Ngài; Điều đó kết thúc mối thông công của chúng ta với Đức Chúa Trời và ngăn trở mục đích của Ngài dành cho hôn nhân.
Lưu ý: Trước khi khai triển phần Kinh Thánh này thành một sứ điệp, bạn cần phải nghiên cứu những đoạn văn Kinh thánh liên hê khác như SaSt 2:20-25; PhuDnl 24:1-4; Mat Mt 19:1-12; ICo1Cr 7:1-40; Eph Ep 5:22-23. Kiểm tra phần về ly dị và hôn nhân trong Thánh Kinh khảo theo học NIV mục lục chú thích, mục lục đề mục và Thánh Kinh phù dẫn .
(8) GiGa 9:1-5
Đề mục: Tại sao tất cả bịnh tật không phải đều do một số tội lỗi đặc biệt.
Dàn ý:
· Tội lỗi của cha mẹ không phải là nguyên nhân của sự mù loà
· Tội lỗi của người mù không phải là nguyên nhân của sự mù lòa
· Đức Chúa Trời cho phép người này bị mù từ thuở sinh ra để bày tỏ công việc lạ lùng của Ngài trước mắt con người.
Ý chính : Không phải tất cả bịnh tật đều có nguyên nhân bởi một số tội lỗi đặc biệt - Đức Chúa Trời cho phép một số tội lỗi với mục đích bày tỏ chính Ngài ra với loài người.
(9) IPhi 1Pr 3:7
Đề mục: Tại sao người chồng phải ân cần và tôn trọng vợ mình
Dàn ý:
· Người chồng phải ân cần
· Người chồng phải tôn trọng vợ mình
· Người vợ là “người đồng hành yếu đuối hơn”
· Người vợ là người đồng thừa hưởng sự cứu rỗi
· Không làm như thế sẽ cản trở đời sống cầu nguyện của người chồng.
Ý chính : Đối với Đức Chúa Trời, người vợ cũng có giá trị như người chồng và người chồng không ân cần và tôn trọng vợ mình sẽ bị ngăn trở trong đời sống cầu nguyện.
Lưu ý: Giáo viên có thể chọn một số trong các bài tập này để thực tập trong nhóm và thảo luận.
Bài tập
Trong mỗi một phân đoạn sau đây, hãy viết ra dàn ý và ý chính. Khi bạn tìm ý chính, hãy nhớ rằng đó là một câu tóm tắt bằng lời riêng của bạn dựa trên lẽ thật căn bản, nguyên tắc hay khái niệm được dạy trong phân đoạn đó. Càng đơn giản, rõ ràng, ngắn gọn càng tốt. Hãy dùng chú thích trong Thánh Kinh Khảo học NIV.
*Đừng chỉ viết lại các câu Kinh Thánh*
*Hãy nhớ đọc kỹ thượng hạ văn*
1) Phân đoạn Kinh Thánh: GaGl 6:7-10
Đề mục:
Dàn ý:
Ý chính
2) Phân đoạn Kinh Thánh GiGa 13:34-35
Đề mục
Dàn ý
Ý chính
3) Phân đoạn Kinh Thánh EsIs 59:1-2
Đề mục
Dàn ý
Ý chính
4) Phân đoạn Kinh Thánh ChCn 3:5-6
Đề mục
Dàn ý
Ý chính
5) Phân đoạn Kinh Thánh Mat Mt 12:46-50
Đề mục
Dàn ý
Ý chính
6) Phân đoạn Kinh Thánh XuXh 4:10-11
Đề mục
Dàn ý
Ý chính
7) Phân đoạn Kinh Thánh Mac Mc 7:1-13
Đề mục
Dàn ý
Ý chính
Ôn lại - Ý chính là gì và tại sao ý chính là quan trọng?
3. Xây dựng sứ điệp
· Tiến trình: Giảng giải kinh đơn giản hoá rất nhiều tiến trình chuẩn bị một sứ điệp Kinh Thánh bởi vì:
- Bản văn Kinh Thánh quyết định nội dung sứ điệp
- Bản văn Kinh Thánh định hướng cấu trúc của sứ điệp
Lưu ý: Với tư cách là một truyền đạo (người giảng), trách nhiệm chính của bạn là giải nghĩa Lời Đức Chúa Trời sao cho dân sự có thể hiểu được và vâng theo.
*Tham khảo trang 28 phần Những công việc mở đầu cho những bước tiếp theo
Sau khi bạn đã:
· Chọn một phân đoạn Kinh Thánh
· Nghiên cứu phân đoạn Kinh Thánh đó cách cẩn thận
· Đọc phần giới thiệu, bố cục.....v....v.... trong chú thích Thánh Kinh khảo học NIV
· Xem xét những nhu cầu của Hội chúng
· Cầu nguyện để được soi sáng và hiểu rõ ý nghĩa phân đoạn Kinh Thánh đó.
Bạn sẵn sàng bắt đầu cho việc xây dựng sứ điệp
Hình thức cuối cùng cho mỗi sứ điệp phải gồm có phần sau:
1) Giới thiệu
2) Ý chính
3) Phần chính của sứ điệp (nội dung)
Giải nghĩa
Minh hoạ
Ví dụ
Ap dụng
4) Kết luận
Lưu ý: Nội dung (phần chính của sứ điệp) không gì khác hơn là ý chính được mở rộng thành một sứ điệp và ý chính chỉ là tóm tắt của nội dung sứ điệp.
Khi bạn xây dựng sứ điệp, hãy làm theo thứ tự sau đây:
Tiến trình
Bước 1 Ý chính
Bước 2 Bố cục nội dung
*Suy gẫm sứ điệp *
Bước 3 Minh hoạ, ví dụ, áp dụng
Bước 4 Giới thiệu (nhập đề)
Bước 5 Kết luận
Phần giới thiệu và kết luận được thực hiện sau khi đã hoàn tất ý chính và nội dung sứ điệp. Phần minh hoạ và ví dụ có thể được thêm vào các phần giới thiệu, nội dung hay kết luận. Thứ tự của các bước 3, 4 và 5 không quan trọng mấy và có thể thay đổi tùy sở thích của từng người.
Bước 1: Xác định ý chính
· Viết ra đề mục , dàn ý và ý chính của sứ điệp
Khi bạn xây dựng sứ điệp xoay quanh ý chính, sứ điệp phải được:
Thống nhất: Mỗi phần của sứ điệp phải phù hợp, hổ trợ hay bổ sung cho ý chính
Thứ tự: Khi rao giảng bạn phải biết những gì mình sẽ nói, lúc nào nên nói điều gì để thính giả có thể theo kịp và hiểu được sứ điệp
Tập trung: Bạn có thể sử dụng ý chính để hoàn thành mục tiêu của sứ điệp
Lưu ý:
Đề mục : Phải chắc chắn rằng đề mục của bạn không quá tổng quát (chung chung) hay quá riêng biệt (hẹp hòi). Hãy nghiên cứu Thượng hạ văn cho đến khi bạn biết chắc đề mục được viết về điều gì.
Dàn ý : Một lần nữa bạn phải biết được ý chính, viết ra những gì trong phân đoạn Kinh Thánh nói về ý chính. Có thể có nhiều hơn là một ý tưởng nói về chủ đề (ví dụ như phân đoạn Kinh Thánh có thể có nhiều điều quan trọng nói về đề mục).
Thứ nhứt, sử dụng ngôn từ của bản văn Kinh Thánh, liệt kê mọi điều nói về đề mục.
Thứ hai, xách định xem những câu trong bản liệt kê của bạn thực sự là những ý tưởng nói về chủ đề hay chỉ là những câu hổ trợ cho những ý tưởng đó. Xem xét mỗi ý tưởng nói về chủ đề có thể trở thành một điểm chính của sứ điệp.
Chú ý: Những điểm chính đơn giản chỉ là trình bày lại những ý tưởng của toàn đoạn văn nói về chủ đề.
Thứ ba, sắp xếp các điểm chính theo thứ tự mà bạn nghĩ là bạn muốn truyền đạt cho hội chúng và đặt dưới mỗi điểm những câu hổ trợ cho điều bạn muốn truyền đạt.
Bước 2: Bố cục nội dung
· Soạn bố cục
Hãy viết ra ý chính, đặt những điểm chính yếu và những câu hổ trợ vào một bố cục sẽ phản ảnh được chủ đích hay mục tiêu của sứ điệp
*Đây là lúc bắt đầu tự hỏi câu hỏi: Chủ đích hay mục tiêu của tôi trong sứ điệp này là gì? Khi xem xét chủ đích hay mục tiêu để “rình bày sứ điệp”, trước hết bạn phải lập bố cục để xác định mục tiêu của bạn dành cho hội chúng.
1) Gia tăng kiến thức
2) Thay đổi hành vi
Đáp ứng được khao khát
3) Khác biệt trong thái độ hay cảm xúc
Có mục tiêu trong trí khởi sự sẽ giúp bạn hình thành được bố cục của sứ điệp
Hình thức bố cục
Ý chính: Đây là tóm tắt sứ điệp của tôi (đề mục + những điểm chính yếu)
I. Đây là phần chính trước nhất của tôi (hổ trợ ý chính)
A. Điều này hổ trợ, chứng minh, giải thích, làm rõ hơn hay minh hoạ cho phần chính trước hết của tôi
B. Điều này hổ trợ, chứng minh, giải thích, làm rõ hơn hay minh hoạ cho phần chính trước hết của tôi
II. Đây là phần chính thứ hai của tôi (hổ trợ ý chính)
A. Điều này hổ trợ, chứng minh, giải thích, làm rõ hơn hay minh hoạ cho phần chính thứ hai của tôi.
B. Điều này hổ trợ chứng minh, giải thích, làm rõ hơn hay minh hoạ cho phần chính thứ hai của tôi
III. Đây là phần chính thứ ba của tôi (hổi trợ ý chính)
A. Điều này hổ trợ chứng minh, giải thích, làm rõ hơn hay minh hoạ cho phần chính thứ ba của tôi
B. Điều này hổ trợ chứng minh, giải thích, làm rõ hơn hay minh hoạ cho phần chính thứ ba của tôi
Chú ý: Mọi sứ điệp nên có một ý chính và có thể có từ một đến ba hay thậm chí đến 4 phần chính. Nhưng hãy cố gắng giữ sứ điệp của bạn đơn giản hơn với tối đa là 3 phần chính. Hãy nhớ rằng bạn muốn thính giả có thể nhớ và áp dụng ý chính của bạn. Các phần chính chỉ hổ trợ , chứng minh , giải thích minh hoạ hay làm rõ hơn ý chính của bạn và là phần trình bày lại dàn ý bạn đã tìm thấy trong phân đoạn Kinh Thánh.
Đây là tóm lược của bố cục:
Ý chính: Đây là ý chính của tôi
I. Phần chính Thứ Nhất (Ý nói về chủ đề )
A) Phần hổ trợ
B) Phần hổ trợ
II. Phần chính thứ hai (Ý nói về chủ đề)
A) Phần hổ trợ
B) Phần hổ trợ
*Nếu bạn gặp khó khăn khi soạn bố cục , chỉ hãy viết ra ý chính và liệt kê những điều bạn muốn nói về ý chính đó dựa trên những gì bản văn Kinh Thánh nói về nó *
Ví dụ: (Xem Thi thiên 100, trang 31)
Ý chính: Đức Chúa Trời tốt lành bởi vì sự nhơn từ và thành tín của Ngài
Làm thế nào Đức Chúa Trời bày tỏ cho chúng ta Ngài là tốt lành?
1. Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta
Hổ trợ:
· Sự nhơn từ Ngài hằng có mãi mãi (ý nói về chủ đề)
· Đức Chúa Trời ban cho chúng ta Con Ngài là Chúa Giê-xu
2. Đức Chúa Trời thành tín đối với chúng ta
Hổ trợ: (Ý nói về chủ đề)
· Đức Chúa Trời giữ lời hứa của Ngài
· Đức Chúa Trời cung ứng cho chúng ta
· Cung cấp chi tiết cho bố cục
_ Đọc lại phân đoạn Kinh Thánh và quyết định những gì bạn muốn trình bày về từng phần chính và phần hổ trợ.
_ Viết ra bố cục dưới mỗi phần chính và/hay phần hổ trợ một ý tưởng đầy đủ bằng hình thức một cục từ hay một câu văn để có thể diễn đạt hiệu quả.
Ví dụ, để minh hoạ cho ví dụ ở trên, bạn có thể trình bày dưới câu “Đức Chúa Trời cung ứng cho chúng ta”.
Thi thiên này mô tả Đức Chúa Trời như là một người chăn chiên bảo vệ và chăm sóc chiên của mình
Lưu ý: Đừng cố gắng viết hết toàn bộ sứ điệp từng lời từng chữ, nhưng hãy cung cấp thêm chi tiết cho bố cục của bạn đủ để bạn biết những điều căn bản định trình bày là gì. Để thực tập giảng bạn có thể chỉ dùng một bố cục ngắn và đừng quên sứ điệp của bạn bởi vì sứ điệp đến từ phân đoạn Kinh Thánh mà bạn đã đọc
* Suy gẫm sứ điệp *
Giữa bước 2 và 3 là phần suy gẫm (cân nhắc, suy nghĩ, xem xét, cầu nguyện) và cầu hỏi Đức Chúa Trời ban cho bạn hiểu thấu đáo phân đoạn Kinh Thánh đó và giúp đỡ bạn xây dựng sứ điệp như ý Ngài muốn.
Thi Tv 119:15, 16, 24, 97-99
Bước 3: Thêm vào các minh hoạ ví dụ và áp dụng; xem xét mục tiêu
Những minh hoạ và ví dụ
Qui luật chung: Hãy sử dụng một vài minh hoạ và ví dụ như là điều cần thiết để diễn đạt cách hiệu quả sứ điệp.
Mục đích của minh hoạ và giới thiệu
· Sử dụng để làm sáng tỏ các chân lý trừu tượng
· Sử dụng để liên hệ giữa chân lý và kinh nghiệm sống hằng ngày
· Sử dụng để giải thích một khái niệm hay chân lý hầu thính giả có thể hiểu rõ.
· Sử dụng để nhấn mạnh một phần chính hay một chân lý quan trọng
Hướng dẫn cách sử dụng minh hoạ và ví dụ
1. Chọn minh hoạ hay ví dụ từ Kinh Thánh nếu được - Dùng Kinh Thánh để giải nghĩa, hổ trợ Kinh Thánh
2. Phải chính xác và súc tích
3. Phải chắc chắn rằng những minh hoạ có liên quan với sứ điệp
4. Phải chắc chắn chúng thích hợp và không gây khó chịu cho thính giả.
5. Sử dụng chúng khi bạn muốn kể một câu chuyện nhằm gây ấn tượng ảnh hưởng
6. Đừng sử dụng nhiều các minh hoạ có tính cách cá nhân hầu bạn không gây bối rối, xúc phạm hoặc vi phạm sự tín nhiệm đối với thính giả.
Hãy đọc các sách phúc âm để thấy Chúa Giê-xu sử dụng minh hoạ và ví dụ (những ẩn dụ)
Những dẫn chứng và hài hước
Qui tắc chung là hãy (giữ hạn chế) việc dẫn chứng và hài hước (những chuyện đùa). Hãy tập trung vào việc đọc và giải nghĩa những gì Đức Chúa Trời phán trong lời Ngài và làm thế nào để áp dụng vào hội chúng.
*Đừng cố công giải trí cho mọi người *
· Ap dụng: Hãy nhớ những ý tưởng để áp dụng sau đây:
Tôi sẽ làm gì?
Làm thế nào để thực hiện việc này?
Làm sao tôi có thể rèn luyện điều này?
Ap dụng là: Vâng lời
_ Chỉ cho thính giả biết cách vâng lời Đức Chúa Trời
_ Gợi cho thính giả biết cách đáp ứng sứ điệp để tìm được lợi ích nhiều nhất cho cá nhân họ
_ Chứng minh sự thay đổi đời sống sẽ xảy ra như là kết quả của sự vâng lời (càng trở nên giống Chúa Giê-xu Christ hơn)
*Không có sự áp dụng - việc giảng dạy là vô nghĩa *
LuLc 6:46-49 và Gia Gc 1:22-25
Sau đây là một số các câu hỏi áp dụng đặc biệt để suy xét: Có một:
· Nguyên tắc để áp dụng không?
· Mạng lịnh để vâng giữ không?
· Tội cần xưng thú và từ bỏ không?
· Thói quen cần thay đổi hay chấm dứt không?
· Thái độ cần sửa đổi không?
· Lẽ thật phải tin nhận không?
· Lời hứa cần công bố không?
· Gương mẫu để noi theo không?
· Điều gì cần Chúa giải cứu không?
· Hành vi đặc biệt phải đối phó không?
· Hoàn cảnh phải đối diện không?
· Người cần tha thứ không?
· Nguy hiểm hay sai lầm cần tránh không?
· Thay đổi để thực hành trong cá tính, hành vi hay đối thoại không?
Những gợi ý cho việc áp dụng đôi khi bao gồm như một phần của kết luận, nhưng để đạt hiệu quả cao nhất nên sắp xếp các gợi ý áp dụng này vào toàn bộ sứ điệp.
Ví dụ: Trong phần giới thiệu cũng có thể trình bày áp dụng Đức Chúa Trời mong muốn người nghe thực hiện. Sự áp dụng cũng có thể được diễn đạt hiệu quả những minh hoạ và ví dụ. Phần áp dụng cũng liên hệ với mục đích của sứ điệp của bạn.
Hãy nhớ: Việc học tập đòi hỏi sự thay đổi và sự thay đổi là kết quả của hành vi. Không có giảng dạy nên không có học tập và không có học tập nếu không có sự thay đổi .
· Xem xét mục đích hay mục tiêu của sứ điệp và nhận diện nhu cầu của thính giả.
Gia tăng kiến thức
· Mục tiêu giáo dục
Câu hỏi : Có phải mục đích chính của tôi là để thông tin hay dạy dỗ không?
Chú ý:
_ Phải chắc chắn lẽ thật hay nguyên tắc bạn đang được đặt nền vững chắc trên Kinh Thánh.
_ Đừng chỉ giảng về các sự kiện; hãy giảng về các nguyên tắc, khái niệm, lẽ thật về Đức Chúa Trời và mối liên hệ giữa chúng ta với Ngài.
_ Sự hiểu biết lẽ thật này có thay đổi được đời sống người nghe không?
_ Tri thức thì tốt nhưng sự hiểu biết lẽ thật phải dẫn đến sự vâng lời. GiGa 7:17
Thay đổi hành vi
· Mục tiêu thực hành
Câu hỏi : Có phải mục đích chính của tôi là khích lệ sự thay đổi trong thói quen, cách sống hay lệ thường của một người không? IPhi 1Pr 1:14-16
Chú ý:
_ Bạn phải trình bày rõ ràng về kết quả mong muốn và làm thế nào để hoàn thành điều đó cách thực tiễn
_ Một phần của chức vụ rao giảng lời Chúa của bạn là chuẩn bị dân sự Chúa cho công tác phục vụ (Eph Ep 4:11-13) và huấn luyện họ trong sự công bình (IITi 2Tm 3:16-17)
Thái độ Cảm xúc Khác nhau
· Mục tiêu thái độ
Câu hỏi : Mục đích chính của tôi có phải là thuyết phục người nghe thay đổi cách họ cảm xúc hay suy nghĩ về những điều gì đó chăng?
Chú ý:
_ Sự khác biệt được ghi nhận trong thái độ hay cảm xúc phải chắc chắn phù hợp với Kinh Thánh.
_ Phải trình bày rõ ràng lý do sự thay đổi là cần thiết và ảnh hưởng nào sẽ xảy ra trong đời sống người nghe.
Ap dụng là chỉ cho người nghe cách vâng lời Đức Chúa Trời và chứng minh sự thay đổi sẽ xảy ra như là kết quả của sự vâng lời .
Bước 4: Thêm vào lời giới thiệu (nhập đề)
Mục tiêu căn bản của lời giới thiệu là để:
· Thu hút sự chú ý của thính giả.
· Giải thích lý do họ cần phải lắng nghe
· Trình bày trước ý chính của sứ điệp
· Gây một ấn tượng tích cực
Lời giới thiệu phải:
· Ngắn gọn (tối đa 3 phút)
· Có liên quan đến sứ điệp
· Thích hợp với thính giả
Những đề nghị cho lời giới thiệu thích hợp, hiệu quả
1. Bắt đầu với 1 phát biểu mạnh mẽ
“Tín đồ không còn tiếp tục phạm tội nữa” (xem RoRm 6:1-12)
“Thánh Kinh phán rằng.....”
2. Bắt đầu với một câu hỏi .
“Quí vị có nhận thức được rằng Đức Chúa Trời biết rõ những gì quí vị sắp nói trước khi quí vị nói ra không? (xem Thi Tv 139:1-6)
“Tại sao quí vị lại nghĩ rằng hiện nay có quá nhiều Cơ-đốc nhân ngã lòng thối chí? (xem GaGl 6:7-10)
*3. Bắt đầu với việc đọc Kinh Thánh
Bạn sẽ chẳng bao giờ sai lầm khi bắt đầu sứ điệp với:
“Khúc Kinh Thánh nền tảng cho sứ điệp này ở trong “
Và rồi đọc đoạn Kinh Thánh đó, hay
“Đề tài của sứ điệp là ,
Và phân đoạn Kinh Thánh nền tảng là “
*Khởi động với lời Đức Chúa Trời càng nhanh càng tốt để thiết lập uy quyền cho những gì bạn sắp trình bày *
Bước 4: Thêm vào lơì kết luận
Mục đích của lời kết luận là
· Nhắc lại ý chính
· Tóm lược ngắn gọn sứ điệp
· Kêu gọi
· Nhắc nhở thính giả về nhu cầu vâng lời và áp dụng.
Một kết luận tốt phải:
· Ngắn gọn (tối đa 3 phút)
· Thực sự chấm dứt sứ điệp
· Không trình bày thêm ý tưởng mới
Những đề nghị
1. Kết thúc với một tóm tắt ý chính
2. Kết thúc với một câu hỏi
“Quí vị sẽ làm gì để đáp ứng lẽ thật này?”
3. Kết thúc với một thách thức vâng lời.
4. Kết thúc với một lời cảnh cáo về nguy cơ của sự không vâng lời
5. Kết thúc với một lời cầu nguyện .
Đề tài của sứ điệp
Một sứ điệp Kinh Thánh không nhất thiết phải cần có một đề mục , nhưng bắt buộc phải có một phân đoạn Kinh Thánh !
Các đề mục thường có ích, nhất là đối với một loạt các sứ điệp dài. Sau đây là một vài đề nghị:
· Đề mục phải ngắn gọn và đơn giản
· Đặt đề mục để tạo nên sự quan tâm
· Sử dụng đề mục để thu hút sự chú ý
· Nếu có thể được lấy đề mục từ bản văn Kinh Thánh
· Phải chắc chắn đề mục thích hợp với sứ điệp.
Hình thức đề nghị cho
Bố cục sứ điệp
Kinh thánh: . Đề mục: .
Giới thiệu:
Ý chính:
Nội dung:
I. Phần chính thứ nhất (Tham khảo Kinh Thánh)
giải nghĩa
A. Phần hổ trợ thứ nhất
giải nghĩa/minh hoạ/ví dụ/áp dụng
B. Phần hổ trợ thứ hai
giải nghĩa/minh hoạ/ví dụ/áp dụng
II. Phần chính thứ hai (Tham khảo Kinh Thánh)
giải nghĩa
A. Phần hổ trợ thứ nhất
giải nghĩa/minh hoạ/ví dụ/áp dụng
B. Phần hổ trợ thứ hai
giải nghĩa/minh hoạ/ví dụ/áp dụng
Kết luận
Tóm tắt
thách thức
Cầu nguyện
*Hãy nhớ : Không phải mọi điều bạn sẽ trình bày là ở trong bố cục -
Hãy để Đức Thánh Linh dẫn dắt bạn !*
Ôn tập
1. Mục tiêu căn bản cho việc soạn bố cục sứ điệp của bạn là gì?
2. Mục đích của các minh hoạ và ví dụ là gì và chúng phải được chọn lọc như thế nào?
3. Mục đích của lời giới thiệu (nhập đề) là gì?
4. Phần kết luận phải được sử dụng như thế nào?
5. Mối liên hệ giữa phần áp dụng và mục đích của sứ điệp là gì?
III. NHỮNG VÍ DỤ VỀ SỨ ĐIỆP KINH THÁNH
A. Những sứ điệp mẫu
Những ví dụ của bố cục sứ điệp giải kinh rút ra từ Kinh Thánh
·Ví dụ 1: Ký thuật Cựu ước (câu chuyện)
Kinh Thánh: SaSt 3:1-7
Giới thiệu: Sa-tan cám dỗ chúng ta phạm tội như thế nào?
Làm sao chúng ta chống cự lại sự cám dỗ?
Ý chính: Sa-tan cám dỗ chúng ta phạm tội bằng việc tấn công và lẽ thật của lời Đức Chúa Trời và khơi dậy dục vọng tự nhiên của chúng ta.
Nội dung:
Sa-tan lừa dối để chúng ta không vâng giữ Lời Đức Chúa Trời bằng cách:
I. Tấn công lẽ thật của lời Đức Chúa Trời 3:1-5
A. Thách thức Lời Đức Chúa Trời (3:1)
Trong 2:15-17 Đức Chúa Trời đã ban cho A-đam một giới hạn rõ ràng. Sa-tan gieo sự nghi ngờ lời Chúa và lý do Đức Chúa Trời cho A-đam một giới hạn.
B. Phải nhận lời Đức Chúa Trời (3:4)
Sa-tan nói với Ê-va rằng Đức Chúa Trời đã nói dối. Ê-va phải chọn lựa chọn hoặc tin lời Đức Chúa Trời hoặc tin lời Sa-tan. Chúng ta cũng có sự lựa chọn tương tự.
C. Xuyên tạc lời Đức Chúa Trời (3:5)
Sa-tan bóp méo lẽ thật của lời Đức Chúa Trời - bằng những lời nửa thật, nửa dối.
Sa-tan cám dỗ chúng ta phạm tội bằng cách:
II. Khơi dậy dục vọng tự nhiên của con người (3:6)
A. Sự mê tham của xác thịt - Trái của cây đó “bộ ăn ngon”
B. Sự tham mê của mắt (sự tham muốn): Trái cây đó “lại đẹp mắt”
C. Sự kiêu ngạo của đời: Trái cây đó “quí vì để mở trí khôn”
Phân đoạn Kinh Thánh liên hệ đến 3 loại cám dỗ căn bản này là: IGi1Ga 2:15-16
Bản chất của tội lỗi và sự cám dỗ thực sự của Sa-tan là vì A-đam và Ê-va tự trở nên Đức Chúa Trời cho chính họ: họ tự quyết định những gì là đúng hay sai, tốt hay xấu.
Làm sao chúng ta có thể chống cự lại sự cám dỗ?
III. Chúng ta chống cự sự cám dỗ bằng cách đứng vững trên lẽ thật của Lời Chúa
Tất cả những gì A-đam và Ê-va đang phải làm là hãy nhớ lại mạng lịnh của Đức Chúa Trời và lựa chọn tin cậy Ngài thay vì tin cậy Sa-tan.
Những phân đoạn Kinh Thánh liên hệ về việc chống cự sự cám dỗ là: ICo1Cr 10:11-13 và Gia Gc 1:13-18
Kết luận: Chúng ta phải đứng vững bởi đức tin trên lẽ thật của Lời Đức Chúa Trời để chống cự lại sự cám dỗ của Sa-tan. Chúng ta sẽ sa ngã hay đứng vững? Sự chọn lựa thuộc về chúng ta!
Ôn tập
1. Nếu bạn đang giảng giải kinh, phần Kinh Thánh cho sứ điệp kế tiếp của bạn là gì?
2. Mục đích của sứ điệp này là gì?
3. Bản văn Kinh Thánh quyết định cho n của sứ điệp
4. Bản văn Kinh Thánh định hướng cho c của sứ điệp
·Ví dụ 2: Thi thiên
Kinh Thánh: Thi Tv 146:1-10
Dẫn nhập: Tại sao chỉ tin cậy Đức Chúa Trời và không tin cậy loài người là khôn ngoan?
Ý chính: Đức Chúa Trời xứng đáng để chúng ta tin cậy, còn loài người thì không.
Nội dung: Ngợi khen Đức Giê-hô-va (c.1 -2) “Ha-lê-lu-gia ”
I. Chớ tin cậy loài người ( c.3-4)
A. Loài người hay hư nát (Tin cậy = Tin nơi)
B. Loài người không có năng quyền để cứu vớt (Nhờ cậy vào)
C. Kế hoạch của loài người chấm dứt khi qua đời (Tin tưởng vào)
Tất cả loài người đều mong manh và một lúc nào đó sẽ làm bạn thất vọng và ngã lòng.
II. Hãy tin cậy Đức Chúa Trời ( c.5-10)
A. Đức Chúa Trời ban phước cho những ai tin cậy Ngài (c.5)
B. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo hoá toàn năng của mọi vật (c.6)
C. Đức Chúa Trời là thành tín đời đời (c.6)
D. Đức Chúa Trời chăm sóc từng cá nhân và giúp đỡ con người (c.7-9)
1. Đoán xét công bình kẻ bị hà hiếp
2. Ban bánh cho người đói
3. Giải phóng cho người bị tù
4. Mở mắt cho người đui (ban sự sáng)
5. Sửa ngay lại những kẻ cong khom (nâng đỡ người đang gánh nặng)
6. Yêu mến người công bình
7. Bảo hộ khách lạ
8. Nâng đỡ kẻ mồ côi và người goá bụa
9. Làm cong quẹo con đường kẻ ác
E. Đức Chúa Trời sẽ cai trị đời đời (c.10)
Đức Chúa Trời không làm bạn ngã lòng hay thất vọng bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời
Ngợi khen Chúa “Ha-lê-lu-gia ”
Kết luận: Thật ngu dại để tin cậy loài người trong khi bạn có thể chọn lựa tin cậy Đức Chúa Trời - Đức Chúa Trời là mọi sự còn loài người chỉ là hư không.
*Đặt sự tin cậy vào loài người thay vì Đức Chúa Trời là đặt nhầm chổ *
·Ví dụ 3: Các sách phúc âm
Kinh thánh: Mac Mc 6:33-44
Dẫn nhập: Làm sao chúng ta có thể đáp ứng nhu cầu của người khác trong khi cũng gặp hoàn cảnh khó khăn thiếu khả năng và các nguồn hổ trợ.
Ý chính: Chúng ta chỉ có thể đáp ứng nhu cầu của người khác khi chúng ta nương dựa vào Đấng Christ và vâng giữ lời Ngài.
Nội dung:
I. Thách thức của hoàn cảnh khó khăn (câu 30-38)
A. Đoàn dân đông đúc
B. Nơi vắng vẻ
C. Trời đã xế chiều
D. Không có tiền bạc
E. Thiếu các nguồn tài trợ
Khi các môn đồ nhìn vào hoàn cảnh họ kết luận rằng họ không thể đáp ứng nhu cầu của đoàn dân. Làm sao hoàn cảnh của quí vị có thể so sánh phải không?
II. Mạng lịnh của Chúa Giê-xu (câu 37-40)
A. “Chính các ngươi phải ăn năn”
B. Bảo dân chúng ngồi thành từng nhóm.
C. Phân phát bánh cho đoàn dân
Đơn giản Chúa Giê-xu muốn các môn đồ vâng theo mạng lịnh của Ngài và trao nan đề của họ cho Ngài. Sự vâng lời là tất cả những gì Đấng Christ đòi hỏi ở chúng ta.
III. Năng quyền của Chúa Giê-xu đáp ứng nhu cầu (câu 40-44)
Chúa Giê-xu lấy 5 cái bánh và 2 con cá, chúc tạ rồi hoá ra nhiều để cung cấp cho nhu cầu của đoàn dân
Kết luận: Chúng ta phải tập trung vào Đấng Christ, không nhìn vào hoàn cảnh khó khăn hay sự thiếu thốn khả năng và các nguồn tài trợ. Đấng Christ đơn thuần kêu gọi chúng ta trung tín và vâng lời. Ngài hứa sẽ làm phần còn lại. (xem Phi Pl 4:13, 19)
·Ví dụ 4: Một ví dụ khác từ các sách Phúc âm
Đây là một loại sứ điệp giải kinh theo đề tài nhưng được lấy ra trực tiếp từ bản văn Kinh Thánh. Chú ý rằng mỗi câu hay mỗi phần chính của ý chính được tóm tắt trong hình thức của một nguyên tắc.
Kinh Thánh: LuLc 9:1-50
Dẫn nhập: Quí vị muốn có một chức vụ kết quả và làm Đức Chúa Trời hài lòng không? Sau đây là mười nguyên tắc cho một chức vụ thành công được rút ra từ phúc âm Lu-ca.
Nội dung:
1. Không nương nhờ nơi tài lực của riêng bạn nhưng thi hành chức vụ với năng lực và uy quyền đã được ủy thác của Đấng Christ (9:1-3)
2. Xác định chức vụ để Đức Chúa Trời đáp ứng nhu cầu của dân sự qua bạn khi bạn phục vụ.
3. Quyết định để Đức Chúa Trời đáp ứng nhu cầu của dân sự qua bạn khi bạn phục vụ.
4. Xây dựng sứ điệp tập trung vào Chúa Giê-xu Christ và Ngài là ai ? (9:18-20)
5. Từ chối quyền sử dụng ý muốn riêng của bạn và giống như một môn đồ đầu phục ý muốn Đức Chúa Trời và bước theo Chúa Giê-xu.
6. Mạnh dạn làm chứng cho Đấng Christ (9:26)
7. Tự hạ mình nhanh chóng khỏi bất cứ kinh nghiệm thuộc linh đỉnh cao nào đối với thực tế của chức vụ (9:27-36)
8. Từ bỏ bất cứ xu hướng nào quên rằng Chúa Giê-xu là nguồn giúp đỡ cho chức vụ (9:37-43)
9. Khá phá bí quyết của sự vĩ đại thật sự: Chức vụ tôi tớ (9:46-48)
10. Loại bỏ mọi nhóm độc quyền về thuộc linh (9:49-50)
Kết luận: Sự vâng giữ các nguyên tắc của Lời Chúa sẽ bảo đảm cho một chức vụ thành công.
·Ví dụ 5: Những thư tín Tân ước
Kinh Thánh: IICo 2Cr 1:3-9
Dẫn nhập: Làm thế nào Đức Chúa Trời giúp đỡ chúng ta khi chúng ta gặp phải những nan đề trong đời sống? Tất cả chúng ta đều sẽ phải đối diện với nan đề và khó khăn trong đời sống - vấn đề ở đây là chúng ta đối phó với chúng như thế nào? Chúng ta có thể bị chúng khuất phục hay chúng ta có thể tăng trưởng qua những nan đề khó khăn đó. Sự chọn lựa là của chúng ta.
Ý chính: Đức Chúa Trời an ủi chúng ta khi đối diện với những nan đề trong đời sống hầu khích lệ và trang bị cho chúng ta để thi hành chức vụ đối với người khác.
Nội dung:
I. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của mọi nguồn an ủi (c.3)
Mọi nguồn an ủi và thương xót đến từ Đức Chúa Trời
II. Đức Chúa Trời an ủi trong mọi nan đề của chúng ta (c.4-7)
A. Đức Chúa Trời khích lệ và an ủi chúng ta (c.4)
B. Đức Chúa Trời giúp đỡ chúng ta chịu đựng hoạn nạn và đau đớn (c.5-7). Không có hoạn nạn thử thách nào chúng ta gặp phải mà Đức Chúa Trời không thể giúp đỡ an ủi chúng ta.
III. Đức Chúa Trời dùng hoạn nạn để giúp chúng ta trưởng thành (c.4, 8-9)
A. Đức Chúa Trời trang bị cho chúng ta để an ủi người khác khi họ gặp hoạn nạn (c.4)
B. Đức Chúa Trời khiến chúng ta nương cậy nơi Ngài trong hoạn nạn thử thách (c.8-9)
C. Đức Chúa Trời luôn có mục đích tốt lành để hoàn thiện chúng ta qua những khó khăn hoạn nạn trong đời sống.
Kết luận: Sự an ủi của Đức Chúa Trời luôn sẵn được ban cho chúng ta và chúng ta nên chấp nhận những hoạn nạn thử thách trong đời sống như là những cơ hội Đức Chúa Trời cho phép để tin cậy Ngài và được trang bị để thi hành chức vụ, đáp ứng nhu cầu cho người khác trong hoạn nạn của họ. Nhìn thấy những hoạn nạn thử thách trong đời sống từ nhãn quan của Đức Chúa Trời như những cơ hội thay vì là những nan đề sẽ giúp chúng ta chịu đựng chúng và trưởng thành trong sự trở nên giống như Đấng Christ.
Chú ý : Người dạy nên cho học viên cơ hội để chia sẽ bài tập trong lớp học là nơi thích hợp nhất.
B. Làm bài tập
*Phương pháp tốt nhất để học biết
chuẩn bị sứ điệp Kinh Thánh là làm bài tập *
Bài tập 1:
Kinh Thánh: HeDt 12:1-3
Dẫn nhập:
Ý chính:
Nội dung:
I. Những mạng lịnh (c.1-2)
A. Chúng ta hãy (c.1 )
1.
2.
B. Chúng ta hãy (c.1)
C. Chúng ta hãy (c.2)
II. Những kết quả (c.3) “hầu cho ”
A. Anh em sẽ không…………..
B. Anh em sẽ không…………..
Kết luận:
Ghi chú : Tại sao sứ điệp nầy lại thích hợp?
Chương 11 của sách Hê-bơ-rơ liên hệ với 12:1-3 như thế nào?
Bài tập 2:
Kinh Thánh: ITi1Tm 4:12-16
Dẫn nhập:
Ý chính:
Nội dung:
I. Hãy làm một tín đồ gương mẫu trước sự chứng kiến của mọi người (c.12)
A. Chớ để .
B. Nhưng phải .
· Trong .
· Trong .
· Trong .
· Trong .
· Trong .
II. Hãy tận tâm với chức vụ (c.13-14)
A. Dâng mình cho việc
· Chăm chỉ .
· Khuyên bảo và .
B. Đừng bỏ quên .
III. Hãy siêng năng trong đời sống cá nhân (c.15-16)
A. Dâng mình chuyên lo
B. Hãy giữ
· mình con
· của con
C. Phải bền đổ
Kết luận
Ghi chú : Xem phần “Cá tính” trong trang 24 của sách giáo khoa này.
Bài tập 3:
Kinh thánh: CoCl 1:25-29
Dẫn nhập:
Ý chính:
Nội dung:
I. Chúng tôi rao giảng về (c.28) (Truyền giảng )
A. Chức của chúng tôi (c.25)
B. Sự mầu nhiệm .
II. Chúng tôi bày tỏ mọi người trong Đấng Christ (trang bị )
A. Sự răn mọi .
B. Bởi sự dạy với mọi sự .
III. Chúng tôi thi hành chức vụ nhờ của Đức Chúa Trời (c.29 )
A. Chúng tôi làm (nổ lực của con người)
B. Nhờ tất cả quyền của Ngài (Sự giúp đỡ của Chúa)
Kết luận:
Ghi chú : Dùng Kinh Thánh đối chiếu để tìm CoCl 3:16. Tại sao bây giờ chúng ta không thấy năng quyền nhiều hơn trong chức vụ? (Xem Cong Cv 1:8; Eph Ep 5:18; Phi Pl 2:13)
Bài tập 4:
Kinh Thánh: Mat Mt 28:16-20
Dẫn nhập:
Ý chính:
Nội dung:
I. Uy quyền
Hết cả đã giao cho ta, vậy......
II. Mạng lịnh
Hãy đi d d muôn dân
Hãy nhơn danh Đ C , Đ C và Đ T L .
mà làm b t cho họ, và d họ g mọi điều mà
t đã .
III. Lời hứa
Và nầy các ngươi luôn .
Kết luận:
Ghi chú : Dùng mục lục chú thích NIV , mục lục chủ đề và Thánh Kinh phù dẫn phần “môn đồ hoá” để tham khảo thêm. Mạng lịnh Chính của phân đoạn Kinh Thánh này là gì? (xem Cong Cv 14:21-25). Bạn có thể môn đồ hoá mà không cần dạy không? Xem Phi Pl 4:9, IITi 2Tm 2:2; 3:15-17).
Bài tập 5:
Kinh Thánh: Khải huyền
Dẫn nhập:
Ý chính:
Nội dung:
I. Đấng Christ khen ngợi Hội Thánh vì
A. C v .
B. Sự k nh .
C. Sự n n .
D. Vạch mặt s đ g (các giáo sư).
E. Chịu k vì danh Ta
F. Không m nh chút nào
II. Đấng Christ quở trách Hội Thánh vì
Ngươi đã lòng ban đầu
III. Đấng Christ đề nghị chữa trị
A. Hãy n .
B. Hãy ă n .
C. Làm lại ban đầu của mình.
IV. Đấng Christ báo trước kết quả
Ta sẽ đến và của ngươi khỏi chổ nó.
Kết luận:
Ghi chú : Tại sao lá thư này có thể áp dụng cho mọi Hội Thánh?
Đấng Christ đánh giá mỗi Hội Thánh theo tiêu chuẩn nào?
Bài tập 6:
Kinh Thánh: XuXh 20:1-17
Dẫn nhập:
Ý chính:
Nội dung:
“Bấy giờ, Đức Chúa Trời phán mọi lời nầy” (10 điều răn)
Những điều răn liên quan đến Đức Chúa Trời
1. Ngươi có các thần khác
2. Ngươi chớ làm cho mình
3. Ngươi chớ lấy Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi mà làm chơi
4. Hãy nhớ đặng làm nên .
Những điều răn liên quan đến con người
5. cha mẹ ngươi
6. Ngươi chớ .
7. Ngươi chớ .
8. Ngươi chớ .
9. Ngươi chớ cho .
10. Ngươi chớ .
Kết luận:
Ghi chú : Mat Mt 22:34-40 liên hệ với phân đoạn Kinh Thánh nầy như thế nào?
*Trong bài tập này bạn phải quyết định có bao nhiêu phần và những gì cần nói*
Bài tập 7:
Kinh Thánh: IICo 2Cr 3:12-18
Dẫn nhập:
Ý chính:
Nội dung:
Kết luận:
Ghi chú : Đây là một biến cố chỉ xảy ra một lần hay là một tiến trình? Những phần nào chúng ta có trong phân đoạn này?
*Trong bài tập này bạn phải quyết định có bao nhiêu phần và những gì cần nói*
Bài tập 8:
Kinh Thánh: IISu 2Sb 7:13-15
Dẫn nhập:
Ý chính:
Nội dung:
Kết luận:
Ghi chú : “Điều kiện” trong phân đoạn Kinh Thánh này như thế nào?
Trong số các điều kiện, điều kiện nào đang thiếu nhiều nhất ngày nay?
*Trong bài tập này bạn phải quyết định có bao nhiêu phần và những gì cần nói*
Bài tập 9:
Kinh Thánh: ISa1Sm 16:1-13
Dẫn nhập:
Ý chính:
Nội dung:
Kết luận:
Ghi chú : Liệt kê càng nhiều tiêu chuẩn càng tốt mà bởi các tiêu chuẩn đó ngày nay chúng ta lựa chọn lãnh đạo. Những tiêu chuẩn đó khác hơn tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời như thế nào?
*Trong bài tập này bạn phải quyết định có bao nhiêu phần và những gì cần nói*
Bài tập 10:
Kinh Thánh: PhuDnl 8:1-6
Dẫn nhập:
Ý chính:
Nội dung:
Kết luận:
Ghi chú : Mục đích của Đức Chúa Trời kỷ luật chúng ta là gì? (xem HeDt 12:5-11). Làm sao chúng ta tránh được sự sửa phạt của Đức Chúa Trời?
*Trong bài tập này bạn phải quyết định có bao nhiêu phần và những gì cần nói*
Bài tập 11:
Kinh Thánh: LeLv 18:1-5
Dẫn nhập:
Ý chính:
Nội dung:
Kết luận:
Ghi chú : Ngày nay phân đoạn Kinh Thánh này có thể được áp dụng như thế nào? (xem EsIs 55:8-9; RoRm 12:2; IICo 2Cr 10:2-3; IGi1Ga 2:13-17).
Ôn tập
Bản văn Kinh Thánh :
quyết định
định hướng
của sứ điệp
C. Giảng suốt một sách hay một phần của Kinh Thánh
Hãy bắt đầu với một trong những sách ngắn (các thư tín Tân ước các tiểu tiên tri) và dần dần tiến đến các sách dài hơn.
Những bước gợi ý
1. Đọc phần giới thiệu và bố cục trong Thánh Kinh khảo học NIV
2. Đọc nhanh trọn sách để nhận biết chủ đề, một hay nhiều câu gốc và các khái niệm.
3. Cẩn thận đọc trọn sách để khám phá chủ đề được khai triển, giải nghĩa, áp dụng như thế nào.
4. Quyết định xem bạn có thể chia sách thành nhiều phần như thế nào để giảng.
· Xem xét sự phân chia và các tiểu đề của từng đoạn
· Xem xét sự phân chia của những phân đoạn trong những đoạn mà chủ đề thay đổi
· Xác định bao nhiêu câu bạn có thể thoải mái đề cập đến trong một sứ điệp có độ dài bình thường
· Quyết định bạn muốn loạt bài giảng kéo dài bao lâu.
· Viết ra mục đích hay mục tiêu cho loạt sứ điệp mà bạn sắp giảng
· Định rõ một tựa đề hay chủ đề cho loạt bài giảng
· Trước khi bạn bắt đầu một loạt bài giảng hay khi khai triển mỗi sứ điệp, cần định rõ một tựa đề hay chủ đề của mỗi sứ điệp.
· Thông báo loạt bài giảng cho hội chúng của bạn và khích lệ họ bắt đầu đọc qua trọn sách và cầu nguyện cho bạn khi bạn chuẩn bị.
Ghi chú: Bạn quyết định xem loạt bài giảng dài và chi tiết như thế nào là thích hợp hay nó có thể là một khái quát ngắn hay tóm tắt.
Kế hoạch:
Lần đầu tiên bạn giảng suốt một sách, hãy thực hiện ngắn gọn, tập trung vào các lẽ thật căn bản tóm tắt của sách - Đề cập một đoạn hay nửa đoạn mỗi sứ điệp. Trong sứ điệp đầu tiên ban có thể tóm tắt bối cảnh và mục đích của sách - sau đó bạn có thể trở lại và chia sách ra làm nhiều phần nhỏ hơn, rồi giảng các chi tiết, sử dụng một loạt các tóm tắt lúc đầu khi thông báo về loạt bài giảng đó.
Ví dụ về một loạt sứ điệp
Ví dụ 1 Phi-líp
*Sau đây chỉ là những gợi ý. Hãy nghiên cứu và quyết định cho chính bạn làm thế nào để giảng suốt một sách *
Chủ đề: “Hãy có đồng một tâm tình (thái độ) như Đấng Christ”
Ghi chú: Từ ngữ “tâm tình” là chữ dùng chỉ về tâm trí.
Mục đích:
Chứng minh từ thư Phi-líp loại tâm tình hay thái độ mà mỗi tín đồ cần phải có.
Câu gốc: Phi Pl 2:5
“Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có”
Độ dài của loạt bài giảng: Bốn sứ điệp (mỗi sứ điệp 30-35 phút), một sứ điệp cho một đoạn .
Sứ điệp 1 - “Cơ-đốc nhân có tâm trí minh mẫn” (không nên phân tâm)
Câu gốc: 1:21
Các câu khác được đề cập đến: 1:12 1:27
Sứ điệp 2 - “Cơ-đốc nhân phải có tâm trí của một tôi tớ” (không có tâm trí ích kỷ)
Câu gốc: 2:5
Các câu khác được đề cập đến: 2:3-4
Sứ điệp 3 - “Cơ-đốc phải có tâm trí thuộc linh” (không có tâm trí thế tục)
Câu gốc: 3:3-9
Các câu khác được đề cập đến: 3:17-19
Sứ điệp 4 - “Cơ-đốc nhân phải có tâm tình bình an” (Không có tâm trí bối rối, tranh chiến)
Câu gốc: 4:6-7
Các câu khác được đề cập đến: 4:8
Ghi chú: Có nhiều cách khác nhau để giảng suốt một sách. Thậm chí bạn có thể giới thiệu toàn bộ một sách trong một số sứ điệp với trên 4 phần và rồi bắt đầu giảng qua một sách với một hay hai phân đoạn cùng một lúc.
Ví dụ 2 Cuộc đời Ê-li
Chủ đề: “Ê-li cũng là một con người như chúng ta”
Mục đích: Chỉ ra chúng ta có thể được Đức Chúa Trời sử dụng như Ê-li như thế nào - Một con người cầu nguyện và quyền năng.
Câu gốc: Gia Gc 5:16-18
Lưu ý: Trước khi bạn giảng về một nhân vật trong Kinh Thánh, hãy dùng Thánh Kinh phù dẫn , mục lục chú thích NIV , mục lục chủ đề NIV , Thánh Kinh đối chiếu và chú thích khảo học NIV để tìm hiểu những điều Kinh Thánh nói về nhân vật đó.
Ví dụ sau đây chỉ rõ cách chia bản văn Kinh Thánh cho một loạt 6 phần của sứ điệp về Ê-li. Bạn có thể có nhiều hoặc ít sứ điệp tùy thuộc vào cách bạn chia các phân đoạn Kinh Thánh.
Sứ điệp 1 - “Con người Cầu nguyện và Đức tin”
Sứ điệp 2 - “Con người có mục đích và đầy quyền năng”
Sứ điệp 3 - “Con người có động cơ trong sạch”
Sứ điệp 4 - “Con người có đức tin yếu ớt”
Sứ điệp 5 - “Con người đầu phục và kiên định”
19:15-21; 21:17-23; IIVua 2V 1:1-17
Sứ điệp 6 - “Con người đi môn đồ hoá”
Ví dụ 3 Thư Cô-lô-se
Chủ đề: “Sống xứng đáng với Chúa”
Mục đích: Chỉ ra cách làm thế nào Cơ-đốc nhân có thể sống đời sống làm hài lòng Đức Chúa Trời.
Tựa đề
Làm hài lòng Đức Chúa Trời trong mọi khía cạnh CoCl 1:1-14
Sự ưu việt của Đấng Christ 1:15-23
Mục đích của Hội Thánh 1:24-2:5
Sự ưu tiên cho chân lý 2:6-23
Lột bỏ người cũ 3:1-14
Thực hành Cơ-đốc giáo 3:15-4:6
Ghi chú: Xin lặp lại, có nhiều phương cách để giảng suốt thư Cô-lô-se với ít hoặc nhiều sứ điệp
Ví dụ 4 Phúc âm Mác
· Đọc phần giới thiệu và bố cục của sách trong Thánh Kinh khảo học NIV
· Đọc trọn sách Mác
· Quyết định chủ đề và câu gốc
(Đề nghị: Mac Mc 10:45)
· Giảng suốt sách Mác, sử dụng tựa đề của từng đoạn và tiên đề của từng phân đoạn trong Thánh Kinh Khảo học NIV như là một hướng dẫn chung.
· Mỗi sứ điệp bao gôm một hay nhiều hơn một phần hoặc những đề mục của đoạn.
Ví dụ: Sứ điệp 1 có thể là 1:1-14
“Giăng Báp-tít sửa soạn đường lối” 1:1-8
“Lễ báp-têm của Chúa Giê-xu và Ngài bị cám dỗ” 1:9-14
Ghi chú: Một số sứ điệp có thể có chỉ một đề mục; Ví dụ: Ngụ ngôn về người gieo giống: 4:1-20 trong khi đó một số sứ điệp khác có 3 đề mục (4:21-33) và một số sứ điệp khác nữa chỉ có một đề mục (ví dụ: 4:35-41)
· Hãy nhớ, khi bạn giảng các sách phúc âm:
1. Chỉ ra Chúa Giê-xu là ai.
2. Chỉ ra Ngài đã làm gì cho chúng ta.
3. Thách thức dân sự đáp ứng Chúa Giê-xu.
4. Vạch ra từ bản văn Kinh Thánh những lẽ thật và nguyên tắc để áp dụng trong đời sống thường ngày.
Hãy hỏi những câu hỏi sau:
Điểm chính hay bài học của phân đoạn này là gì?
Tại sao nó lại ở đây?
Làm sao tôi có thể áp dụng lẽ thật này vào đời sống cá nhân?
Tiềm năng cho các sứ điệp giải kinh chỉ bị giới hạn bởi chính Kinh Thánh - Bạn sẽ không bao giờ khô cạn kho tàng lẽ thật trong Kinh Thánh nếu bạn siêng năng nghiên cứu và trung tín rao giảng lời Đức Chúa Trời.
*Hãy bắt đầu giảng suốt từng phần của Kinh Thánh . Đức Chúa Trời sẽ luôn tôn cao việc giảng và dạy lời Ngài *
Ôn tập
1. Tại sao việc giảng suốt các sách trong Kinh Thánh là quan trọng?
2. Những nan đề tiềm tàng nào bạn có thể gặp phải nếu bạn không đọc biết một sách trước khi bạn giảng về sách đó?
Ghi chú : Giảng viên có thể phân công cho một số học viên trong lớp trình bày một số sứ điệp Kinh Thánh ngắn. Thì giờ những buổi cầu nguyện cũng có thể được sử dụng cho mục đích này.
IV. TRÌNH BÀY SỨ ĐIỆP
A. Những điều cần nhớ
Người giảng:
· Phải chịu trách nhiệm nặng nề hơn trước mặt Đức Chúa Trời
· Không được dẫn dân sự Đức Chúa Trời đi lạc khỏi lẽ thật
· Là phát ngôn viên cho Đức Chúa Trời và đại diện có uy quyền đối với dân sự
· Phải gương mẫu (trong đời sống thực tế) để những gì rao giảng được tin cậy
· Không bao giờ được quên rằng họ, người giảng, cũng là người đang học hỏi.
· Đừng cố so sánh mình với người khác hay bắt chước phong cách của những giảng sư khác - Hãy là chính mình và phát triển phong cách riêng của bạn .
· Đừng tìm cách giải trí hay gây ấn tượng trên người nghe qua các sứ điệp của mình, nhưng chỉ hãy trình bày lời Đức Chúa Trời với quyền năng Đức Thánh Linh để dân sự có thể hiểu được và áp dụng được lẽ thật.
B. Những gợi ý cho việc giảng dạy hiệu quả
Vì rao giảng chỉ là một trong nhiều phương cách truyền đạt, bạn cần phải nhớ một số điều sau:
Những nguyên tắc chung cho việc truyền đạt hiệu quả:
*Truyền đạt là những gì người ta nghe - Chứ không phải những gì bạn nói *
1. Phải biết rõ sứ điệp của bạn
2. Phải biết rõ thính giả và nhu cầu thuộc linh của họ.
*Nghiên cứu Lời Chúa và tìm hiểu thính giả*
3. Những gì không rõ ràng với bạn cũng sẽ không rõ ràng rõ ràng đối với thính giả - Phải cụ thể và rõ ràng.
4. Dùng các từ ngữ thông dụng với thính giả, nhưng phải chọn lựa những từ ngữ trong sáng và diễn cảm. Cố gắn đừng lạm dụng các từ ngữ và thành ngữ mình thích.
5. Liên kết sứ điệp của bạn với những gì thính giả đã biết rõ (chẳng hạn, Chúa Giê-xu thường giảng các ẩn dụ sử dụng những sự việc xảy ra thường ngày).
6. Khuyến khích thính giả tự học thêm (Gieo giống , không trồng cây ).
7. Hãy mạnh mẽ rao giảng về Chúa và nhiệt thành về sứ điệp, nhưng bạn đừng la hét, gào thét khi giảng.
8. Cố gắng thu hút thính giả chú tâm vào sứ điệp bằng những minh hoạ và ví dụ.
9. Hãy chuyển tải tình yêu, sự quan tâm, chăm sóc đến thính giả của bạn.
*Thính giả sẽ không quan tâm nhiều đến những gì bạn trình bày cho đến khi họ thấy rõ ràng rằng bạn thật sự quan tâm đến những điều đó *
10. Không có sự học hỏi cho đến khi có sự thay đổi.
Những lời khuyên cụ thể cho sứ điệp Kinh Thánh:
Khi bạn truyền đạt Lời Đức Chúa Trời :
1. Đọc lại toàn bộ phân đoạn Kinh Thánh lúc sắp bắt đầu sứ điệp và nhắc lại các câu Kinh Thánh hay thành ngữ đặc biệt nhiều lần trong suốt sứ điệp. Điều này sẽ xác lập lời Đức Chúa Trời như uy quyền cho sứ điệp.
*Hãy để Lời Đức Chúa Trời phán qua bạn *
2. Hãy nhớ mục đích của sứ điệp để chắc chắn rằng bạn sẽ hoàn thành mục tiêu của bạn.
· Có phải để thông tin không?
· Để thay đổi hành vi?
· Để tác động lên thái độ, cảm xúc, tầm nhìn ....v....v.....?
*Với tư cách người giảng, bạn muốn thính giả phát biểu một thế giới quan theo Kinh Thánh không dựa trên nền tảng truyền thống, triết lý, quan điểm hay giáo lý giả, nhưng dựa trên lẽ thật của lơì Đức Chúa Trời. Bạn muốn hội chúng suy nghĩ, hành động, sống và đáp ứng đời sống theo nhãn quan Kinh Thánh, cố gắng để Lời Chúa hướng dẫn cho mọi lãnh vực của đời sống.
3. Hướng dẫn thính giả hiểu được rằng có tri thức mà không vâng lời là vô giá trị.
4. Hãy nhập đề ngắn gọn và sáng tạo để kích thích thính giả quan tâm đến sứ điệp.
5. Hãy theo bố cục căn bản của bạn để thính giả cũng đi theo bố cục đó, nhưng vẫn nhạy bén với Đức Thánh Linh khi bạn rao giảng.
6. Truyền đạt rõ ràng ý chính mà bạn muốn thính giả của bạn áp dụng.
7. Giải nghĩa , minh hoạ , chứng minh và áp dụng ý chính của bạn, nhưng phải tập trung vào bản văn Kinh Thánh và ý chính.
8. Hướng dẫn , động viên , khích lệ, an ủi và sửa lại hội chúng bằng Lời Đức Chúa Trời.
9. Sử dụng kết luận để tóm tắt sứ điệp và nói lại ý chính. Hãy chấm dứt bài giảng khi bạn nói bạn sẽ!!
10. Thách thức hội chúng đáp ứng trong sự vâng lời Đức Chúa Trời. Kết thúc với lời cầu nguyện .
Thời lượng của sứ điệp:
Đề nghị: 30-40 phút
Dẫn nhập: 3 phút
Sứ điệp: 25-30 phút
Kết luận: 3 phút
Kêu gọi: 5 phút
*Đây chỉ là những hướng dẫn chung - Có thể sửa đổi chúng để thích hợp với bạn và nhu cầu của hội chúng *
Kêu gọi:
· Phần kêu gọi có thể dùng trong những hình thức sau:
- Tiếp nhận Chúa Giê-xu Christ như là Cứu Chúa
Bạn có thể đề nghị thân hữu đưa tay lên, đứng lên hay đến trước toà giảng trong lúc đó hay sau buổi nhóm
Người giảng và một vài nhân sự phải sẵn sàng nói chuyện và chăm sóc các thân hữu đáp ứng lời kêu gọi.
- Gia nhập vào Hội Thánh.
Nói với những người muốn gia nhập vào Hội Thánh của bạn cách để họ thực hiện điều này. Phải có một vài nhân sự sẵn sàng trò chuyện với họ.
- Đứng ra để cầu nguyện hay nói chuyện với một người nào đó về một nan đề hay quyết định
- Kết ước tại chỗ họ đang đứng để đáp ứng sứ điệp (bạn có thể yêu cầu họ đứng hoặc đưa tay lên).
*Đáp ứng là việc của Đức Chúa Trời - Còn rao giảng Lời Chúa là trách nhiệm của mục sư *
Hãy rao giảng Lời Chúa bằng quyền năng của Thánh Linh và dâng kết quả lên Đức Chúa Trời.
Dáng điệu và phong cách giảng:
1) An mặc gọn gàng và thích hợp nhưng đừng lưu ý về chính mình.
2) Mắt nhìn vào cử toạ - Không nên đọc sứ điệp của bạn
3) Động tác tự nhiên và thoải mái nhưng đừng quá nhiều
4) Những biểu hiện thích hợp trên vẽ mặt có thể hữu ích
5) Cử chỉ của bàn tay phải tự nhiên và tự phát, chứ không chịu trước.
6) Thay đổi vì tiếng và âm lượng của giọng nói nhưng đừng la hét để truyền đạt quan điểm của bạn.
7) Tránh những ngôn ngữ, động tác, điệu bộ....v.....v... Có thể làm xao lãng s điệp.
8) Hãy là chính bạn.
Thật dễ dàng rao giảng sứ điệp Kinh Thánh khi bạn:
· Đọc lời Đức Chúa Trời cho hội chúng của bạn
· Giải nghĩa lời Đức Chúa Trời cho Hội chúng của bạn để họ có thể hiểu được
· Hướng dẫn Hội chúng làm thế nào áp dụng Lời Đức Chúa Trời cách cá nhân.
“HÃY RAO GIẢNG LỜI CHÚA”
+0ՙ�.�.�9�..�.�Thầy hỏi: Phòng dành riêng cho Ta và các môn đệ Ta ăn lễ Vượt qua ở đâu ?” (Mac Mc 14:4 BDY)
Nhiều câu khác cũng nói đến tầm quan trọng ưu tiên của chức vụ dạy dỗ của Ngài. Như Mat Mt 4:23 chép rằng: “Chúa Giê-xu đi khắp xứ Ga-li-lê, dạy dỗ trong các hội trường....” 5:2 “Chúa dạy dỗ nhân dân như sau ....” 7:29 “Vì Ngài giảng dạy (dạy dỗ) đầy uy quyền...”
“ Rabbi”, có khi được dịch là “Thầy” hay “Giáo sư” cũng là một danh hiệu thường được dùng để gọi Chúa Giê-xu “Rabbi” là một chức của người Do Thái, để nói đến người có khả năng và thẩm quyền để giải thích và dạy dỗ luật pháp Do Thái Giáo. Theo GiGa 1:38, các môn đồ của Giăng-Báp-tít gọi Chúa Giê-xu là Rabbi. Ni-cô-đem cũng gọi Chúa là Rabbi (3:2). “ Rabboni ” cũng tương tự như “rabbi” nhưng nặng tính cách giáo dục hơn, và được bà Mari Ma đơ len dùng để gọi Chúa sau khi Chúa sống lại (20:16)
Chúa Giê-Xu Dạy Dỗ Trong Nhiều Trường Hợp Khác Nhau
Kinh Thánh cho biết Chúa Giê-xu dạy dỗ cho nhiều “nhóm thính gia”khác nhau, có nhóm chỉ có một người, tức là “một dạy một”, có khi thính giả là một nhóm nhỏ ; cũng có khi Chúa dạy cho một đám đông hàng ngàn người.
4:1-42 ghi chép trường hợp “một dạy một”, khi Chúa nói chuyện với người đàn bà Sa-ma-ri bên một giếng nước, tại Thành Si kha, xứ Sa-ma-ri. Trong cuộc đối thoại (hai chiều) này, chẳng những đàn bà được học về “nước sống” và ai “uống nước” Ta cho sẽ chẳng bao giờ khác nữa”Câu 14) mà cũng có cơ hội đáp lại: “Xin cho tôi uống nước ấy (câu 15).
LuLc 22:14-38 ghi chép câu chuyện Chúa dự lễ Vượt qua trên phòng cao với các môn đồ là trường hợp dạy dỗ một nhóm nhỏ. Thật ra, Chúa đã hướng dẫn học tập nhóm nhỏ với môn đồ của Ngài rất nhiều lần. Trong trường hợp này (dự lễ Vượt qua). Chúa và môn đồ có cơ hội họp riêng để ăn bữa tối cuối cùng và để nghe. Chúa bày tỏ cho môn đồ biết được sự hy sinh của Chúa, việc Chúa bị phản bội, chổ của họ trong Vương quốc của Chúa, và việc Phi-e-rơ sẽ chối Chúa. Nhờ có thì giờ học hỏi với Chúa, các môn đồ có một sự nhận thức mới về công việc của Chúa làm và về cách họ phải phục vụ Ngài.
Mat Mt 23:1-39 ghi chép câu chuyện Chúa dạy dỗ đám đông và lên án các thầy dạy luật và người Pha ri si. Suốt mấy năm chức vụ. Chúa Cứu Thế dạy dỗ đám đông nhiều lần vì khi Ngài đi đâu cũng có một đám đông đi theo Ngài. Những lời dạy của Chúa trong 23:1-39 là lời được trình bày thứ tự và đầy quyền năng để dạy cho đám đông nên làm những điều thầy dạy luật và Pha-ri-si nói, nhưng đừng bắt chước làm theo những hành động của họ. Rồi sau khi đã lên án cấp lãnh đạo giả hình, Chúa kết luận bằng lời “Phước cho Đấng nhơn danh Chúa mà đến “(câu 39).
Ngày nay, các tín hữu có trách nhiệm tiếp tục chức vụ dạy dỗ chia xẻ của Chúa Cứu Thế, với đám đông, với nhóm nhỏ, hay với một người, tức là mỗi Cơ-đốc nhân đều phải tham gia vào “mọi điều Đức Chúa Giê-xu đã làm và dạy từ ban đầu”(Cong Cv 1:1). Là người theo Chúa, chúng ta phải biết rằng Phúc Âm được lan truyền là do vâng theo Đại Mệnh Lệnh của Chúa bảo chúng ta “dạy họ giữ hết cả mọi điều Ta đã truyền cho các ngươi” (Mat Mt 28:20). Khi có một nếp sống giống Chúa và có lòng mong muốn tăng trưởng để trưởng thành trong Chúa, bạn sẽ là người chia xẻ sứ điệp trưởng thành trong Chúa, bạn sẽ là người chia xẻ sứ điệp Phúc Âm có tính cách chính thức như các lớp học, hay “không chính thức” như khi sinh hoạt với gia đình, bạn bè, láng giềng hay bạn đồng liêu.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ THÀNH MỘT HƯỚNG DẪN VIÊN HỮU HIỆU .
Kinh Thánh cho biết Chúa Cứu Thế là thầy (Giáo sư và ghi chép những gương dạy dỗ của Chúa. Đồng thời trong Kinh cũng có mệnh lệnh Chúa truyền cho Cơ-đốc nhân phải dạy dỗ chia xẻ Lời Chúa, căn cứ trên nền tảng này, chúng ta nghiên cứu các nguyên tắc cùng với các khả năng có thể giúp chúng ta dạy dỗ chia xẻ Lời Chúa cách hữu hiệu
Frank E. Gaebelein, một nhà sư phạm Cơ-đốc nổi tiếng có trình bày cho chúng ta biết làm thế nào để có thể dạy dỗ chia xẻ hữu hiệu trong bất cứ hoàn cảnh nào. Sau đây là các nguyên tắc của ông ta:
Các Nguyên Tắc Để Dạy Dỗ Hữu Hiệu
Thứ nhất, ai là người cởi mở và bạo dạn làm chứng về Đức tin Cơ-đốc nhân của mình sẽ là người dạy dỗ hữu hiệu. Đây là những người có thể cùng với sứ đồ Phao-lô nói: “Tôi chẳng bao giờ hổ thẹn về Phúc Âm của Chúa Cứu Thế” (RoRm 1:16). Nguyên tắc này có nghĩa là người dạy dỗ hữu hiệu luôn tìm cơ hội để chia xẻ đức tin của mình. Dù ở sở làm, ở nhà, trong Hội Thánh, họ lúc nào cũng để cho lòng hăng say nhiệt thành vì Chúa Cứu Thế bộc lộ mạnh mẽ.
Thứ hai, người dạy dỗ hữu hiệu nhất là người biết Kinh Thánh . Nguyên tắc này có nghĩa là người này đọc và suy gẫm Kinh Thánh mỗi ngày, không phải chỉ đọc ở nhà thờ hay cho tín hữu nào thuận tiện. Các lớp huấn luyện có thể giúp cho tín hữu hiểu biết Lời Chúa sâu nhiệm hơn và biết cách dạy dỗ chia xẻ Lời Chúa sâu nhiệm hơn. Lời của Thượng Đế lúc nào cũng giá trị cho cuộc sống và cho sự học hỏi của Cơ-đốc nhân. Tín hữu nào biết chia xẻ dạy dỗ Lời Chúa cách hữu hiệu cũng đều xác nhận rằng: “Cả Thánh Kinh đều được Thượng Đế cảm ứng, có ích cho việc dạy dỗ, khiển trách, sửa trị, đào luyện con người theo sự công chính “(IITi 2Tm 3:16 BDY)
Thứ ba, người dạy dỗ hữu hiệu phải hoàn toàn hiến mình sống cho chân lý . Đời sống của những người này phải phản ảnh sự chân thật và chính thức. Vì người dạy dỗ chia xẻ Lời Chúa là người làm gương cho học viên, nên phải hoàn toàn làm theo chân lý trong mọi sinh hoạt của cuộc sống, không bao giờ có thể thỏa hiệp với đời.
Thứ tư, người dạy dỗ hữu hiệu là người cố gắng tiến lên trình độ cao đẹp hơn . Chúa không bằng lòng với trình độ tầm thường. Thượng Đế là Đấng vinh quang toàn thiện và tuyệt đối. Là người mang hình ảnh của Thượng Đế, cả người dạy dỗ lẫn học viên đều phải tìm cách tôn vinh Ngài trong mọi ý tưởng, thái độ và hành động. Chuẩn bị thấu đáo, dạy dỗ có phẩm chất cao và mỗi thông công trong tinh thần lo lắng chăm sóc nhau là kết quả của ước muốn đạt đến mức tuyệt hảo trong việc chia xẻ Lời Chúa.
Thứ năm, người dạy dỗ hữu hiệu là người yêu thương người khác . Đối với Chúa Cứu Thế, thiếu nhi, thiếu niên, thanh niên, trung niên và cao niên đều quí giá cả. Vì vậy người hướng dẫn họ học Lời Chúa cũng phải quí trọng và chăm sóc họ như chính Chúa quí trọng và chăm sóc họ vậy. Yêu thương người khác tức là hiểu biết ảnh hưởng của tội lỗi và các cám dỗ trên đời sống họ, là ý thức được rằng tất cả mọi người đều cần có mối liên hệ cứu rỗi của Chúa Cứu Thế Giê-xu, là sẵn sàng dành thì giờ để xây dựng với những người này một mối liên hệ thuộc linh tương thân tương trợ. Có người hướng dẫn chỉ thích kể các câu chuyện thật trong Kinh Thánh mà không tìm biết các sự thật này liên quan đến các học viên như thế nào để có thể đem áp dụng cách thực tế vào đời sống của họ. Việc áp dụng Lời Chúa cũng quan trọng như việc trình bày lời đó vậy, vì chính Kinh Thánh dạy Cơ-đốc nhân phải “nói chân lý trong tình thương để ngày càng tăng trưởng đến mức giống Chúa Cứu Thế về mọi phương diện”(Eph Ep 4:15 BDY)
Cuối cùng, người dạy dỗ hữu hiệu là người hoàn toàn đầu phục Chúa Cứu Thế Giê-xu , là Giáo sư lớn hơn hết . Chính Thượng Đế đã phán rất rõ rệt về Chúa Cứu Thế: “Đây là Con yêu dấu của Ta, làm hài lòng Ta hòan toàn, Mọi người phải nghe lời Con!”, (Mat Mt 17:5 BDY). Mệnh lệnh này đòi hỏi chúng ta phải có cuộc sống tận hiến cho Chúa và làm môn đệ Ngài, Chúa phải là Chúa tể của tất cả, hay Ngài không làm Chúa gì cả! Người dạy dỗ hữu hiệu là người bằng lòng để Chúa lãnh đạo hướng dẫn mình hoàn toàn, dù phải trả giá nào cũng chịu cả. Nhiều người dạy dỗ Lời Chúa đã kể lại rằng nếu để tự ý họ, họ chẳng bao giờ tham gia chức vụ dạy dỗ Lời Chúa. Nhưng họ đã đáp ứng tiếng gọi của Giáo sư của họ là Chúa Cứu Thế, và đã nắm lấy cơ hội phục vụ Chúa.
Các Đức Tính Cần Có Để Dạy Dỗ Hữu Hiệu
Ngoài sáu điểm (hay nguyên tắc) trên đây, nhiều khúc Kinh Thánh cũng có nói đến những đức tính mà người dạy dỗ phải có. Đó là đức tính biết chấp nhận người khác, biết khuyến khích, đức tính kiên nhẫn, biết điều, không nói hành, trung tín, làm gương sáng, biết tháo vát, biết thương người, khôn ngoan và hòa nhã.
Gia-cơ chương 3 và chương 4 cảnh cáo Cơ-đốc nhân để đừng ai coi thường trách nhiệm dạy dỗ. Lời Chúa trong mấy chương này dạy tất cả các Cơ-đốc nhân, đặc biệt là những người “làm thầy “phải hết sức thận trọng trong lời nói. Tất cả đều phải sống cách nào để khỏi xúc phạm đến người khác, không được cay đắng, đố kỵ, xung khắc, dối trá, thiên kiến, giả hình, nhưng phải trong sạch, hòa nhã, cởi mở, có lòng thương xót, gieo giống hòa bình và gặt bông trái công chính (Gia Gc 3:18 BDY).
TÓM LƯỢC
Như bạn đã học trong chương này, sự tăng trưởng tâm linh có liên quan với việc dạy dỗ người khác. Người sống trong Chúa Cứu Thế và người học hỏi với Chúa và phục vụ Ngài. Sự sống đó phải tăng trưởng qua sự chia xẻ Lời Chúa với tinh thần đầu phục và làm theo gương của Chúa là Thầy là Giáo sư. Chính Chúa truyền đạt chân lý của Ngài cho bạn để bạn chia xẻ với người khác. Một cách để bạn cứ tiếp tục tăng trưởng để trưởng thành tâm linh là theo gương của Chúa Giê-xu bằng cách phục vụ Chúa qua chức vụ dạy dỗ.
BÀI LÀM
1. Sự tăng trưởng thuộc linh và chức vụ chia xẻ Lời Chúa liên hệ nhau như thế nào ?
2. Tại sao bạn, là một người đang tăng trưởng để tiến lên trưởng thành tâm linh, phải lưu tâm đến chức vụ chia xẻ Lời Chúa?
3. Xin kể ra một số cách thức mọi người tin Chúa đều có thể dạy chia xẻ về Chúa khi đang sống và làm chứng cho Chúa giữa trần gian này.
4. Bằng những cách nào việc dạy dỗ chia xẻ Lời Chúa có thể làm cho người học được đổi mới đời sống ?
5. Trong số ba “nhóm thính giả” đã đề cập trên đây, bạn coi “nhóm thính giả” nào quan trọng hơn cả ? Tại sao vậy ?
ÁP DỤNG
1. Bạn hãy tìm các câu Kinh Thánh trưng dẫn trong chương này có liên quan đến danh hiệu “Thầy “(Giáo sư) của Chúa Giê-xu, rồi nghiên cứu các câu đó trong thượng hạ văn (context) cùng với các câu trước và sau. Sau khi đã nghiên cứu, bạn hãy ghi lại: Khúc Kinh Thánh đó nói gì về Chúa, về các đặc tính của Lời Chúa và dạy Chúa muốn người nghe phải áp dụng Lời Chúa như thế nào?
2. Bạn tìm xem ai là giáo viên Cơ-đốc mà bạn kính trọng, rồi xin người này cho phép bạn quan sát lớp Kinh Thánh người đó hướng dẫn. Bạn để ý nhận xét và ghi lại: Người đó áp dụng những nguyên tắc nào và bày tỏ những đức tính (khả năng cá nhân) nào trong khi chia xẻ Lời Chúa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Coleman, Lucien E. Why the Church Must Teach . Nashville. Broadman Press, 1984
Gangel, Kenneth O. Understanding teaching . Wheaton, IL: Evangelical Teacher training Association 1968
Held, Ronald Learning Together , Springfield, MO: Gospel Publishing 1976
Joy, Donald M. Meaningful Learning in the Church . Winona Lake, IN: Light and Life Press, 1969
LeBar, Lois E. Education That is Christian . Old Tappan, NJ: Revell 1981
LeBar, Lois E. Focus on People in church Eduation . Old Tappan, NJ: Revell 1968.
Chương 11: PHỤC VỤ QUA CHỨC VỤ LÃNH ĐẠO
Tất cả các Cơ-đốc nhân đang thực sự tăng trưởng thuộc linh đều có phần trong chức vụ lãnh đạo. Lãnh đạo là công tác có nhiều trình độ, nhiều lãnh vực khác nhau, và mỗi tín hữu đều có trách nhiệm hướng dẫn người khác. Vì có nhiều cách thể hiện lãnh đạo, mọi tín hữu đều phải đảm nhiệm vai trò lãnh đạo thích hợp trong gia đình, trong Hội Thánh hay ngoài xã hội.
Kinh Thánh ấn định trách nhiệm lãnh đạo trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Ví dụ, trong gia đình các bậc làm cha mẹ phải có trách nhiệm lãnh đạo gia đình khi trung tín dạy các mệnh lệnh của Chúa cho con cái. Trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ươc, vai trò lãnh đạo của cha mẹ được ấn định rõ rệt Thượng Đế truyền mệnh lệnh này cho dân Y-sơ-ra-ên qua tôi tớ Ngài là Môi-se, trong PhuDnl 6:7 như sau: Khá cẩn thận dạy dỗ điều đó (các mạng lệnh của Chúa) cho con cái người và phải nói đến, hoặc khi người ngồi trong nhà hoặc khi đi ngoài đường hoặc lúc ngươi nằm, hay là khi chổi dậy. “Trong Eph Ep 6:4 (BDY), Chúa cũng dạy: “Cha mẹ không nên chọc giận con cái, nhưng phải nuôi nấng, khiển trách, dạy dỗ chúng theo đường lối Chúa”.
Kinh Thánh mô tả Hội Thánh là một thân thể, trong đó mỗi chi thể có trách nhiệm điều hành “đúng theo mức độ đức tin Thượng Đế ban cho mình”(RoRm 12:3 BDY). Hội Thánh lúc nào cũng có đầy đủ cơ hội lãnh đạo cho mỗi tín hữu, từ việc tiếp khách đến việc khuyên bảo và truyền giảng Lời Chúa.
Nếu muốn tạo nên ảnh hưởng tích cực cho Chúa trong xã hội, thì chúng ta phải cho xã hội thấy các giá trị luân lý, đạo đức của lãnh đạo Cơ-đốc nhân trong mọi phương diện của đời sống qua nếp sống và lời làm chứng của Cơ-đốc nhân. Ngay trong xã hội ban sơ của Sáng Thế Ký, A-đam và Ê-va đã được Chúa dạy phải quản trị (cầm quyền trên, các loài thọ tạo. Thượng Đế phán: “Chúng ta hãy làm nên loài người như hình Ta và theo tượng Ta, đặng quản trị loài cá biển, loài chim trời, loài súc vật, loài côn trùng bò trên mặt đất và khắp cả đất.” (SaSt 1:26). Thi Tv 8:6 cũng chép: “Chúa ban cho người quyền cai trị công việc tay Chúa làm, khiến muôn vật phục dưới chân Ngài” Trong Mat Mt 5:13-16, Chúa Cứu Thế mô tả vai trò lãnh đạo của Cơ-đốc nhân là “muối của đất” là “ánh sáng của thế giới” để cho người khác thấy “việc làm tốt đẹp của các con và ca ngợi Cha các con trên trời”
Trách nhiệm lãnh đạo là của tất cả các Cơ-đốc nhân, không phải chỉ có một vài người đặc biệt mới lãnh trách nhiệm đó. Qua sự lãnh đạo trong gia đình, Hội Thánh và xã hội, bạn là Cơ-đốc nhân đang tăng trưởng để tiến lên trường thánh tâm linh, phải giữ đúng chức năng của bạn là muối có vị mặn và ánh sáng rực rỡ.
ĐỊNH NGHĨA LÃNH ĐẠO
Theo quan điểm Cơ-đốc thì lãnh đạo là gây ảnh hưởng và hướng dẫn đời sống của người khác theo các giống Chúa Cứu Thế, và áp dụng các nguyên tắc đề ra trong Kinh Thánh. Sự lãnh đạo và sử dụng các ân tứ và tài năng Chúa ban cho để phục vụ một người hay một nhóm người trong tình yêu thương và vì danh Chúa. Kết quả của sự lãnh đạo theo Kinh Thánh là cá nhân hay đoàn thể được lớn lên trong sự giống Chúa, để Hội Thánh và Vương quốc của Chúa được gây dựng và bành trướng.
CÁC NGUYÊN TẮC LÃNH ĐẠO CỦA CHÚA CỨU THẾ
Khi nghiên cứu học hỏi đời sống của Chúa Cứu Thế, chúng ta có thể tìm được một số đặc tính (hay nguyên tắc lãnh đạo). Chúa thường nhấn mạnh. Các nguyên tắc này là mẫu mực cho Cơ-đốc nhân tìm kiếm sự tăng trưởng thuộc linh.
Thẩm Quyền Của Kinh Thánh.
Các giáo sư ( rabbi ) trong thời Cựu ước đã bóp méo Lời của Thượng Đế. Những sai lầm này bị Chúa Cứu Thế vạch ra cho dân chúng thấy, và đồng thời Ngài cũng dạy cho họ biết ý nghĩa thật của lời Kinh Thánh, khi phán rằng: “Các người có nghe lời phán.... song ta phán cho các ngươi...” (Mat Mt 5:21, 23)
Tầm Quan Trọng Của Ngôi Vị Và Công Việc Của Chúa Cứu Thế.
Sự lãnh đạo Cơ-đốc không thể nào tách rời ra khỏi công việc của Chúa Giê-xu đã làm khi Ngài xuống trần làm Đấng Cứu thế và Chúa tể, Chúa phán rằng: “Con Loài Người đến trần gian để tìm và cứu những người lầm lạc “(LuLc 19:10 BDY).
Hội Thánh đầu tiên luôn luôn xác nhận uy quyền tuyệt đối của Chúa Giê-xu, vì “Chúa Giê-xu mà đồng bào đã đóng đinh trên thập tự giá đã được Thượng Đế tôn làm Chúa Tể và Đấng Cứu Thế (Cong Cv 2:36 BDY)
Tầm Quan Trọng Của Từng Cá Nhân Một
Chúa Giê-xu tập trung vào từng cá nhân tín hữu là người tăng trưởng tâm linh và nhận lãnh trách nhiệm phục vụ.
Khi được Chúa gọi, các môn đồ đều là người ít được hay chưa được huấn luyện. Khả năng duy nhất của họ có lẽ chỉ là sự sẵn sàng để cho Chúa sử dụng. Do đó, Chúa tập trung chức vụ của Ngài vào việc huấn luyện phát triển các môn đồ này. Vì vậy, trước giờ phút từ giã họ để về trời. Chúa Cứu Thế truyền dặn họ tiếp tục công việc của Ngài. “Nhưng khi Thánh Linh giáng trên các con, các con sẽ nhận được quyền năng, các con sẽ làm nhân chứng cho Ta tại Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri và khắp thế gian”(Cong Cv 1:4-5, 8 BDY)
Chúng ta vô cùng phấn khởi khi nghĩ đến sự tăng trưởng vượt mức của các môn đồ qua ba năm rưỡi được chính Chúa huấn luyện, là những ngư phủ hành nghề trên biển Ga-li-lê, các môn đồ đã được biến thành người làm chứng về Chúa cho cả thế giới, thật ra một điều kỳ diệu vì Chúa Giê-xu đã lưu tâm đến từng cá nhân, huấn luyện và trang bị cho họ để họ phục vụ Chúa với quyền năng tối thượng của Thánh Linh.
Đời Sống Và Chức Vụ Có Chủ Đích Của Chúa Giê-Xu .
Chúa Cứu Thế quả quyết rằng Ngài xuống trần gian để thực hiện một chủ đích rõ rệt: “Ta phải làm những việc Cha ta giao thác”(GiGa 9:4). Chủ đích của chức vụ Chúa được trình bày rất rõ ràng từ đầu đến cuối Tân Ước và chủ đích là cứu rỗi nhân loại qua sự chết của Ngài trên thập tự giá Mat Mt 1:21 bắt đầu giới thiệu chủ đích đó: “Ngài sẽ cứu dân Ngài ra khỏi xiềng xích tội lỗi” và sách cuối cùng là KhKh 22:16, 17 chép:” Ta là Giê-xu đã sai thiên sứ báo cho con biết những điều này để truyền lại cho các Hội Thánh.... Ai muốn, tiếp nhận miễn phí nước hằng sống.”
Người lãnh đạo giống Chúa chắc chắn phải theo khuôn mẫu của đời sống Chúa trên trần gian. Muốn được vậy, uy quyền của Kinh Thánh phải được tôn trọng tuyệt đối, phải lấy chính Chúa Giê-xu (thân vị của Ngài) và công việc của Ngài làm trung tâm. Chức vụ lãnh đạo phải tập trung vào việc trang bị cá nhân tín hữu để thi hành công tác thuộc linh, là công bố sứ điệp ăn năn tội lỗi, và đặt đức tin vào Chúa Cứu Thế Giê-xu. Các nguyên tắc lãnh đạo của Chúa Cứu Thế, được trình bày trong Kinh Thánh Tân Ước, phải là những nguyên tắc căn bản mà các người có trách nhiệm lãnh đạo Hội Thánh hiện nay phải noi theo.
ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO CƠ-ĐỐC
Người ta có thể nhận biết các đặc điểm của các cấp lãnh đạo Cơ-đốc qua cách họ thi hành các chức năng và qua mối liên hệ của họ với người khác. Sau đây là năm đặc điểm lãnh đạo do Kinh Thánh dạy, và là cần thiết cho sự tăng trưởng, tinh thần tôi tớ, phục vụ, chăm sóc, ủy quyền và khuyến khích.
Tinh Thần Tôi Tớ
Trong Tân ước nhiều lần Chúa Cứu Thế Giê-xu bày tỏ Ngài là tôi tớ. Lời Chúa dạy rõ rệt nhất về tinh thần tôi tớ lãnh đạo (servant leadership) được chép trong Mat Mt 20:26-28 (BDY), khi mẹ của Gia-cơ và Giăng đến xin Chúa cho hai con trai của bà được giữ địa vị lãnh đạo: “Nhưng giữa các con..... ai muốn làm lớn phải làm tôi tớ người khác. Ai muốn lãnh đạo phải làm nô lệ cho anh em. Các con nên bắt chước Ta, vì Ta dến trần gian không phải để cho người phục vụ, nhưng để phục vụ người và hy sinh tính mạng cứu chuộc nhiều người.” Một lần khác, Chúa cũng dạy rằng: “Ai muốn lãnh đạo, phải làm đầy tớ người khác” (23:11 BDY).
Hai trường hợp Chúa bày tỏ tinh thần tôi tớ cũng là trường hợp Ngài bày tỏ lòng ưu ái chăm sóc các môn đồ. Lần thứ nhất, trước Lễ Tiệc Thánh, khi Chúa rửa chân cho các môn đồ (GiGa 13:1-11) còn lần thứ hai sau khi Chúa sống lại và chuẩn bị bữa ăn sáng cho môn đồ bên bờ biển Ti-bê-ri-át (21:9-14)
Chúa Cứu Thế là mẫu mực tuyệt hảo của tinh thần tôi tớ lãnh đạo. Trong cuốn sách nhan đề: “Một Môn Thần Học Của Cơ-Đốc Giáo Dục” tác giả là Lawrence. O. Richards có nếu ra các đặc điểm của người làm tôi tớ lãnh đạo theo gương Chúa, như sau:
Các Liên hệ tôi tớ: Người tôi tớ lãnh đạo là người ở giữa anh em (quần chúng) và ngang hàng với anh em, chứ không phải là người đứng trên anh em. Điểm cần nhấn mạnh về tinh thần tôi tớ là người làm tôi tớ lãnh đạo không coi mình đứng trong địa vị có quyền hành, nhưng trong địa vị sẵn sàng phục vụ người khác vì cớ Chúa Cứu Thế. Tinh thần này là điều cần thiết để tạo nên bầu không khí thông công tâm linh, cho mỗi người đều có tự do bộc lộ chia xẻ tư tưởng và cảm nghĩ của mình. Đây là điều Chúa Cứu Thế đã cầu xin Cha trong 17:21 (BDY) “Xin Cha cho các môn đệ mới cũ đều hợp nhất, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha và họ ở trong chúng ta, để nhân loại biết Con là Sứ giả của Cha”.
Các Đặc tính tôi tớ: Các đặc tính, hay đức tính này là: khiêm tốn, nếp sống tin kính (kỉnh kiền, godly), tinh thần phục vụ của Cơ-đốc nhân, chăm sóc và khuyến khích người khác. Lời Thượng Đế dạy rằng người lãnh đạo là người phục vụ người khác cách khiêm tốn giống Chúa Cứu Thế để Thân thể của Chúa được trang bị đầy đủ mà thi hành các chức vụ tâm linh. Điểm này có nghĩa là khiêm tốn hạ mình phải là đức tính chính yếu, vì “ai tự hạ mình sẽ được đề cao” (LuLc 18:14 BDY). Với tinh thần khiêm tốn hạ mình, người lãnh đạo lo trang bị các thánh đồ (Cơ-đốc nhân) để mọi người phục vụ đắc lực cho Ngài, cùng nhau xây dựng Hội Thánh là Thân thể Ngài “(Eph Ep 4:12 BDY)
Mẫu Mực Tôi tớ của Nếp sống Tin kính (kỉnh kiền): Đặc điểm mẫu mực của lãnh đạo là làm cho người khác hơn là ra lệnh cho người khác làm. Lời Chúa trong IPhi 1Pr 5:3 dạy các nhà lãnh đạo Hội Thánh “đừng áp chế ai (đừng hống hách làm ra vẻ bề trên), nhưng hãy làm gương tốt cho bầy chiên noi theo”. Người khác chỉ muốn nghe lời của người lãnh đạo khi người này nói và sống đúng theo Kinh Thánh, giống như Chúa Cứu Thế vậy.
Phục Vụ
Phục vụ bao gồm những hoạt động làm cho một người hay một toán có thể thi hành những điều Kinh Thánh gọi là “chức vụ”. Sự phục vụ của Cơ-đốc nhân có thể thấy trong nhiều hoạt động như dạy một lớp Trường Chúa Nhật, phụ giúp trong phòng giữ trẻ em, chăm sóc người đau ốm, làm việc với một nhóm thanh thiếu niên v.v... Các hoạt động để phục vụ Chúa thật ra không có giới hạn vì càng có sáng kiến chúng ta càng tìm ra nhiều hoạt động hữu ích khác nhau nữa.
Chúng ta cần để ý là lúc sống trên trần gian, Chúa Cứu Thế thi hành các chức năng của Ngài theo những đường lối đặc biệt, nhưng tất cả đều được nối chặt với nhau bởi “sợi dây phục vu”. Vì đời sống của Chúa trên đất là đời sống phục vụ nên Ngài thưa với Cha rằng: “Con đã làm sáng rỡ vinh quang Cha trên đất, hoàn tất mọi việc Cha uỷ thác”(GiGa 17:4 BDY), và một lần khác, Chúa phán rằng: Khi còn ban ngày Ta phải làm những việc Cha Ta giao thác” (9:4 BDY). Chúa cũng ban mệnh lệnh cho các môn đồ về những việc họ phải thi hành và mệnh lệnh rõ rệt nhất, mà cũng là mệnh lệnh đầy thách thức nhất “Hãy đi khắp thế giới, công bố Phúc Âm cho cả nhân loại “(Mac Mc 16:15 BDY)
Với cánh tay toàn năng của Đức Thánh Linh và sự dấn thân của người lãnh đạo Cơ-đốc theo đúng kiểu mẫu của Chúa Cứu Thế, tất cả tín hữu tìm cầu sự tăng trưởng thuộc linh đều phải có tinh thần cần mẫn và tinh thần phục vụ Chúa để đem lại thành quả cho Ngài.
Chăm Sóc
Chức vụ chăm sóc được thể hiện trong các hoạt động nâng cao tinh thần tương thân tương ái giữa các nhóm viên trong một nhóm. Những người lãnh đạo có tinh thần chăm sóc phải tìm cách tạo nên mối liên hệ, ấm cúng trìu mến giữa người này với người khác. Trong Kinh Thánh, Chúa Cứu Thế đã biểu lộ tinh thần này rất nhiều lần và Ngài cũng dạy bảo các môn đồ: “Ta truyền cho các người những điều răn đó, đặng các người yêu mến lẫn nhau vậy”(GiGa 15:17). Chúa cũng dành cho con trẻ một tình yêu đặc biệt khi phán rằng: “Cứ để con trẻ đến Ta, đừng ngăn cản, vì Nước trời thuộc về những người giống các em ấy”(Mat Mt 19:14),còn đối với người thu thuế tội lỗi, Chúa tự coi là bạn của họ (11:9)
Người tích cực tham gia lãnh vực chăm sóc người khác, cần có một số đức tính quan trọng trong số đó trái của Thánh Linh là quan trọng hơn cả. Trái của Thánh linh được GaGl 5:22, 23 nêu ra là: Yêu thương, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lương, thành tín, hòa nhã và tự chủ. Ngoài ra, người thi hành chức vụ chăm sóc cũng phải bày tỏ đức tin, hy vọng và tình thương (ICo1Cr 13:13), và tự nhiên tình thương phải đứng hàng đầu.
Ủy Quyền
Ủy thác trách nhiệm và quyền hành cho người khác là điều phải làm, nhưng người ủy thác cần phải tin tưởng và tin cậy nơi người được ủy thác. Người ủy thác cũng phải biết chắc rằng ngươi được ủy thác, tức là người nhận quyền hạn hay trách nhiệm mình giao phó cho, phải có khả năng để đảm nhiệm và thi hành trách nhiệm hay quyền hạn đó. Ví dụ, bạn không thể nào ủy thác trách nhiệm hướng dẫn nhóm thanh niên cho một người nào đó, nếu người này chưa hề có kinh nghiệm làm việc chung với thanh thiếu niên (vào lứa tuổi trung học) và cũng không có trình độ hiểu biết Kinh Thánh cần thiết.
Khi ủy thác trách nhiệm cho ai, bạn phải nhắc cho người đó nhớ rằng Lời của Thượng Đế là căn bản thẩm quyền của Cơ-đốc nhân. Là một người lãnh đạo, bạn cũng phải cẩn thận, đừng bao giờ đặt mình ngang với Kinh Thánh, nhưng người lãnh đạo là tôi tớ và người quản lý tìm cách sử dụng cho có hiệu quả các khả năng và thời gian Chúa ban cho
Một gương ủy thác trách nhiệm và quyền hạn rõ rệt nhất trong Cựu ước là việc Môi-se đã làm, theo lời khuyên bảo của nhạc phụ là Giê-trô. Giê-trô để ý quan sát và thấy Môi-se ôm đồm quá nhiều việc và làm việc quá sức khi một mình ông ngồi đoán xét cả dân tộc Y-sơ-ra-ên (XuXh 18:13). Để cải thiện tình hình đó, Giê-trô đã khuyên Môi-se phải ủy thác trách nhiệm, như được ghi lại trong 18:18-22, là mấy câu nhấn mạnh đến những điểm quan trọng sau đây.
1. Trước khi có thể ủy thác trách nhiệm cho người khác cách đứng đắn, người ủy thác phải có mối liên hệ đúng với Thượng Đế “Con hãy làm kẻ thay mặt cho dân sự trước mặt Đức Chúa Trời” (câu 19)
2. Người ủy thác phải biết rõ cách thi hành trách nhiệm mình ủy thac cho người khác. Chỉ cho họ biết con đường nào phải đi và điều chi phải là (câu 20)
3. Người được ủy thác trách nhiệm phải có khả năng, có lòng kính sợ Chúa, chân thật, ghét sự tham lam, và có đời sống ngay lành với Chúa và là với người khác (câu 21)
Tân Ước cũng cho chúng ta nhiều gương ủy thác trách nhiệm, như khi Đức Chúa Cha ủy thác quyền xét xử nhân loại cho Chúa Cứu Thế (GiGa 5:27 BDY) “Thượng Đế đã giao quyền xét xử loài người cho Con, vì Con Thượng Đế chịu làm Con người” và Chúa Cứu Thế trao trách nhiệm làm chứng nhân cho các môn đồ: “Các con đã chứng kiến các việc đó. Ta sẽ sai Thánh Linh đến với các con như Cha ta đã hứa. Vậy các con cứ chờ đợi trong thành phố này, cho đến khi đầy dẫy quyền năng thiên thượng... Nhưng khi Thánh Linh giáng trên các con, các con sẽ nhận được quyền năng làm chứng cho Ta tại Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri và khắp thế giới” (LuLc 24:48-49) và Cong Cv 1:8)
Khuyến khích
Người biết khuyến khích là người biết lựa chọn lời để giúp đỡ người khác phát triển và tăng trưởng tâm linh. Người biết khuyến khích cũng phải biết chấp nhận, nâng đỡ và khen mọi người khác.
Những nguyên tắc căn bản của sự khuyến khích đều có trong Kinh Thánh. Nguyên tắc trước tiên là phải thận trọng trong lời nói: “Con có thấy kẻ hốp tốp (lanh chanh) trong lời nói mình chăng ? Một kẻ ngu muội côn đồ có sự trông cậy hơn hắn”( ChCn 29:20). Nguyên tắc thứ hai là tín hữu phải nhạy cảm khi nói: “Nhưng sự khôn ngoan từ trên mà xuống thì...đầy dẫy lòng thương xót” (Gia Gc 3:17). Nguyên tắc thứ ba là tín hữu phải nói năng hòa nhã: “Lời đáp êm nhẹ làm nguôi cơn giận”( ChCn 15:1). Mấy lời đơn sơ sau đây có thể giúp bạn trong việc khuyến khích người khác: “Bạn đã giúp tôi rất nhiều...” “Cám ơn bạn đã làm…”, “Tôi rất cảm kích vì việc bạn đã làm...”
TÓM LƯỢC
Trong chương này bạn đã học được nhiều nguyên tắc hướng dẫn về sự lãnh đạo.Bất cứ Cơ-đốc nhân nào muốn tăng trưởng để đạt đến trưởng thành trong Chúa đều phải gánh vác một vài trách nhiệm lãnh đạo trong cuộc sống và trong chức vụ. Khi đảm nhiệm bất cứ một trách nhiệm lãnh đạo nào, bạn cũng phải bắt chước Chúa. Phong cách lãnh đạo của bạn cũng phải nhắm vào việc thi hành chức vụ trong mối thông công nặng tình thương Cơ-đốc, nhờ đó bạn mới có thể tăng trưởng cách tốt đẹp.
BÀI LÀM
1. Bạn định nghĩa lãnh đạo như thế nào
2. Xin cho biết bốn nguyên tắc lãnh đạo Chúa Cứu Thế thường nhấn mạnh trong chức vụ của Ngài ?
3. Bạn cần phải phát huy những đặc điểm nào để trở thành một người lãnh đạo hữu hiệu
4. Xin cho biết một vài gương trong đời sống của Chúa Cứu Thế đã nói lên rõ ràng tính cách quan trọng của tinh thần tôi tớ.
5. Tại sao tinh thần chăm sóc rất cần thiết cho sự lãnh đạo ?
6. Tại sao việc ủy thác trách nhiệm rất quan trọng ?
7. Bạn làm cách nào để có thể khuyến khích người khác ?
ÁP DỤNG
1. Bạn diễn tả (diễn ý) hai khúc Kinh Thánh nói về sự lãnh đạo: Mat Mt 20:26-28 và 23:8-12. Bạn cho biết trong hai khúc này bạn tìm được những nguyên tắc lãnh đạo nào ? Nếu các câu Kinh Thánh này được áp dụng đúng đắn, sự lãnh đạo trong Hội Thánh của bạn sẽ có những gì thay đổi ? Nếu bạn đem áp dụng nguyên tắc này cho chính bản thân một cách kiên định, bạn sẽ kinh nghiệm được những thay đổi trong cuộc sống ?
2. Bạn hãy lấy một tờ chương trình hay bản tin tức của Hội Thánh, rồi căn cứ trên tài liệu này bạn hãy liệt kê ra tất cả các sinh hoạt trong Hội Thánh. Tìm xem sinh hoạt nào bạn chỉ biết sơ sài rồi tìm biết thêm về sinh hoạt đó. Bạn cũng tìm biết sinh hoạt này có nhu cầu gì, và cầu nguyện trong tuần tới xin Chúa thỏa mãn nhu cầu đó. Bạn hãy cho biết lãnh vực sinh hoạt nào của Hội Thánh làm bạn chú ý nhất, và giải thích cho một người quen biết tại sao bạn chú ý đến lãnh vực đó.
3. Đọc lại XuXh 18:18-22 một lần nữa. Căn cứ trên khúc Kinh Thánh này, bạn tìm xem toán của bạn, hay Hội Thánh của bạn cần phải ủy thác trách nhiệm trong những lãnh vực nào để Thân thể của Chúa Cứu Thế có thể điều hành cách hữu hiệu hơn. Bạn đem khái niệm ủy thác trách nhiệm ra thảo luận với một người lãnh đạo trong Hội Thánh và xin người này cho bạn biết một vài gương ủy thác hữu hiệu. Nếu người này có tinh thần cởi mở, bạn hãy đưa ra một số đề nghị để cải thiện việc ủy thác trách nhiệm trong Hội Thánh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Engstrom, Ted W. and Dayton, Edward R. The Art of Management for Christian Leaders . Waco, TX: Word 1976
Gangel, Kenneth O. Leadership for Church Education . Chicago: Moody 1970
Gangel, Competent to Lead . Chicago: Moody 1974
Keating, Charles J. The Leadership Book New York: Paulist Press 1982
Kilinski, Kenneth and Wofford, Jerry.Organization and Leadershiop for the Local Church . Grand Rapids: Zondervan 1973
Richards, Lawrence O. A Theology of Christian Education . Grand Rapids: Zondervan 1975
Sanders, J. Oswald. Spiritual Leadership Chicago: Moody,1967
Chương 12: HỌC HỎI SUỐT ĐỜI
Tăng trưởng là một tiến triển không ngừng trong đời sống của Cơ-đốc nhân. Đây là sự thật chúng ta nhận thấy trong cuộc sống của các nhân vật quan trọng như Môi-se, Đa-vít Phi-e-rơ, Phao-lô,cũng như trong đời sống của hầu hết những người khác trong Kinh Thánh đã được Thượng Đế sử dụng. Ngày nay, câu nói chúng ta thường nghe “Xin kiên nhẫn,vì Thượng Đế chưa hết làm việc trong đời sống tôi” là một câu có ý nghĩa thích hợp với Kinh Thánh.
Sứ đồ Phao-lô nhấn mạnh điểm này rất nhiều lần. Trong Phi Pl 3:12-14, Phao-lô nói ông vẫn “đeo đuổi mục đích cao cả... nhanh chân tiến bước vào tương lai” còn trong IITi 2Tm 4:7, ông gọi đời sống của Cơ-đốc nhân là “cuộc chiến đấu”, “cuộc chạy đua” liên tục không ngừng.
Các nhà giáo dục thường dùng câu “học hỏi suốt đời” để nói về quan điểm này. Trong các lễ tốt nghiệp đại học, các diễn giả thường nhắc nhở sinh viên tốt nghiệp rằng việc họ lãnh bằng cấp chưa phải là điểm chấm dứt nhưng mới là điểm bắt đầu. Nhưng có lẽ lời nói này không có ảnh hưởng nhiều trên sinh viên tốt nghiệp như các diễn giả mong muốn. Tuy nhiên nguyên tắc “học hỏi suốt đời” có nghĩa là: Giai đoạn giáo dục chính thức ở các cấp tiểu học, trung học, đại học chỉ là bắt đầu, chứ không phải là cuối cùng của học vấn. Giai đoạn giáo dục chính thức ở trường học chỉ có thể được kể là thành công nếu sinh viên tốt nghiệp được trang bị đầy đủ để có thể tiếp tục học hỏi suốt đời.
LÀM CÁCH NÀO BẠN CÓ THỂ HỌC HỎI SUỐT ĐỜI?
Người đã đến lứa tuổi trưởng thành có nhiều cách học. Thật ra, nhiều cuộc khảo cứu cho biết rằng những người lớn học nhiều bằng cách khác nhau. Để đáp ứng các nhu cầu học vấn khác biệt nhau này, giáo dục người lớn thường được chia thành hai loại, loại chính qui và loại không chính qui
Học Hỏi Chính Qui
Cơ đố Giáo dục chính qui cho người lớn càng ngày càng được nhiều người chú ý ham thích và thường được tổ chức như là những lớp học thực nghiệm. Sau đây là một vài hình thức Cơ-đốc Giáo dục tráng niên:
Trường Chúa Nhựa Cho Người Lớn : Tổ chức này nằm trong sinh hoạt của các Hội Thánh địa phương và là một cơ hội học hỏi rất tốt cho người thuộc lứa tuổi trưởng thành. Vì lứa tuổi này có những nhu cầu và mối quan tâm khác nhau, nên nhiều nhà thờ có tổ chức các lớp dạy những môn khác nhau, để cho học viên có thể lựa chọn. Học viên lựa chọn môn học nào họ thấy là quí giá nhất cho đời sống. Cơ-đốc cho và sự tăng trưởng tâm linh của họ. Đồng thời, học viên cũng phải biết rõ mục đích mình khi tham dự mỗi môn học. Có khi mục đích của học viên không hòan toàn giống với mục đích của khoa học, nhưng học viên vẫn có thể tham dự những hoạt động hữu ích cho mình trong các giờ học.
Trường Kinh Thánh Buổi Tối . Trường này có thể do một Hội Thánh, hay do một số Hội Thánh cùng một địa phương cộng tác tổ chức. Chương trình học có thể là một buổi tối mỗi tuần lễ, để học các môn như Kinh Thánh, giáo lý, các chức vụ của tín hữu. Một số chương trình giáo dục này có thể cho “tín chỉ” dùng cho việc cấp chứng chỉ hay bằng cấp.
Đại Học Và Chủng Viện: Trước đây lứa tuổi đông đúc nhất thế giới là lứa tuổi thanh thiếu niên, nhưng bây giờ lứa tuổi tráng niên (từ 25 trở lên) đã trở thành lứa tuổi đông nhất. Ở Hoa Kỳ số thanh thiếu niên tham dự các trường đại học trong thập niên 80 đã giảm xuống, trong khi số người từ 25 đến 44 tuổi tham dự trường đại học đã gia tăng 10 phần trăm, còn tuổi tham dự trường đại học đã gia tăng 10 phần trăm, còn số người từ 65 tuổi trở lên tham dự đại học cũng tăng 7,2 phần trăm. Theo dự tính nhân khẩu học thì trong thập niên 90, lứa tuổi từ 25 đến 45 sẽ tăng lên đến 45% cònlứa tuổi 65 trở lên cũng tăng đến 25%. Căn cứ vào các thống kê này, các trường đại học và chủng viện. Cơ-đốc (nhiều hệ phái) đang lo thích nghi chương trình giáo dục của họ, kể cả loại chương trình có bằng cấp lẫn loại không bằng cấp, để đáp ứng nhu cầu của các lứa tuổi người lớn này. Các chương trình này gồm có: chương trình ban ngày vào thì giờ thích hợp cho học viên, chương trình buổi tối, chương trình hàm thụ, chương trình thứ bảy (cuối tuần), chương trình mùa hè.Học phí cũng được ấn định cho thích hợp với học viên “bán thời “(không học trọn thời gian)
Các Lớp Kinh Thánh Cho Người Lớn . Có lẽ hiện tượng phổ biến nhất trong các hoạt động giáo dục cho Cơ-đốc nhân trong thập niên vừa qua là các lớp học. Kinh Thánh cho người lớn. Các lớp học này có thể được tổ chức tại tư gia, tại nhà thờ hay tại địa điểm nào khác, nhưng chỉ nhắm vào mục đích duy nhất là tạo cơ hội để học hỏi và chia xẻ Lời Thượng Đế trong khung cảnh cởi mở thân mật, để áp dụng chân lý của Kinh Thánh vào sinh hoạt hàng ngày, và để thông công với nhau. Các lớp Kinh Thánh này cũng có nhiều loại, như lớp Kinh Thánh này cũng có nhiều loại, như lớp dành cho phụ nữ, lớp cho nam giới, lớp dành cho người đã lập gia đình (những cặp vợ chồng),lớp dành cho người độc thân và áp dụng chương trình học Kinh Thánh có hệ thống,hay nhắm vào công cuộc truyền bá Phúc Âm. Các lớp Kinh Thánh cho người lớn trên đây có thể đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của mỗi Cơ-đốc nhân, vì tạo cho họ cơ hội để học Kinh Thánh cách nô lệ trong bối cảnh thông công và tương thân tương ái.
Các Lớp Hội Thảo , Hội Kiến , Thực Tập : Mặc dầu hiện nay những hình thức này không còn thịnh hành lắm, nhưng trong thập niên vừa qua, các lớp hội thảo, hội kiến và thực tập cho tín hữu lớp tuổi tráng niên đã thu hoạch được nhiều kết quả khả quan, với những môn học phổ thông như: nghệ thuật lãnh đạo và giảng dạy, hiểu biết về hôn nhân và gia đình, thần học, nội dung Kinh Thánh. Ngoài ra, cũng có các đại hội giáo phái, đại hội bồi linh (giảng dạy) rất được lứa tuổi người lớn ủng hộ. Tuy nhiên, muốn nhận được kết quả tốt qua các lớp hội thảo hay đại hội này, thì trước khi tham dự, mỗi học viên phải tự xác định mục đích mình muốn đạt. Rồi khi chấm dứt hội thảo hay đại hội, học viên phải có kế hoạch để đem ra thực hành điều mình đã học hỏi được. Nếu được thì một số người đã cùng tham tham dự lớp hội thảo hay đại hội nên họp chung lại với nhau để rút tỉa, chia xẻ kinh nghiệm đã học hỏi và thảo luận với nhau đường lối đem các diều đó ra thi hành.
Phân tích cho cùng thì Cơ-đốc giáo dục người lớn là một nổ lực cá nhân. Mặc dầu các cơ hội học hỏi chính thức đề cập trên đây đều đòi hỏi sự chia xẻ đóng góp chung, mỗi cá nhân chỉ thu lượm được kết quả tối đa khi biết xác định mục đích riêng của mình trước khi tham dự và biết thảo kế hoạch đem các điều học hỏi ra áp dụng sau khi học xong.
Học Hỏi Không Chính Qui
Một lối học hỏi suốt đời thường không được chú ý là sự học hỏi không chính thức (tự học), mà mỗi người lớn đều kinh nghiệm hằng ngày, qua các cuộc đàm thoại, đọc sách, khảo cứu hay chương trình tự học có sắp đặt trước. Sau đây là số ví dụ:
Suy Gẫm Lời Chúa Riêng Tư : Việc suy gẫm Lời Chúa cách riêng tư, hoặc bằng cách dùng “lịch cầu nguyện “, dùng tài liệu học Kinh Thánh theo đề tài, hoặc học một sách trong Kinh Thánh.... là một trong những kinh nghiệm học hỏi quan trọng hơn hết mà bạn phải có để tăng trưởng tâm linh. Bạn cần có một cuốn tập để ghi chép những điều được Chúa dạy trong lúc thông công với Chúa và suy gẫm lới Chúa
Các Bài Giảng Luận : Bài giảng là phương tiện rất tốt để học hỏi. Bạn có thể ghi lại bài giảng của mục sư vào sáng hay chiều Chúa Nhật, bài giảng bạn nghe trên ra-đi-ô hay TV v.v... để ôn lại những sự dạy dỗ. Bạn cũng có thể đem các bài giảng này ra thảo luận với người khác (với Mục sư, nếu được) và điều cần thiết là phải áp dụng điều bạn học hỏi vào cuộc sống.
Đọc : Có rất nhiều loại sách, tạp chí và báo chí Cơ-đốc mà bạn có thể đọc. Vi chính bạn tự chọn đề tài mình muốn đọc và tự để riêng thì giờ cho việc đọc, nên việc học hỏi bằng cách đọc là một phương pháp thực tế. Việc đọc một tờ báo hay tạp chí thuộc linh bạn thích có thể giúp bạn khi bước theo Chúa Cứu Thế. Vì vậy Mỗi Cơ-đốc nhân nên có chương trình đọc sách đều đặn để đáp ứng nhu cầu thuộc linh của mình.
Các Dự An Học Hỏi Của Người Lớn : Gần như mỗi ngày, người lớn tuổi thường có cơ hội học hỏi, như khi vào thư viện khảo cứu một vấn đề nào đó, hay khi đặt câu hỏi về một lãnh vực nào đó để nhờ người am hiểu giải đáp giúp. Tuy nhiên khi làm như vậy bạn cũng phải xác định rõ ràng vấn đề bạn muốn học hỏi, và cũng đề ra một đường lối thực hiện để việc học hỏi đó có kết quả.
Học Hỏi Theo Hợp Đồng . Người lớn cũng thường học hỏi theo lối giáo dục chính qui, nhưng cũng có thể học không chính qui theo lối “Hợp đồng Tự học” khi học viên tự chọn các môn học mình thích, tự đặt chương trình riêng để áp dụng và dự tính trước kết quả mình sẽ thu lượm được sau khi học xong. Trong trường hợp này, học hỏi theo hợp đồng, có nghĩa là học viên tự “ký hợp đồng với mình” khi quyết định học gì, đạt kết quả nào, và phần thưởng nào sẽ tự phạt cho mình.
Bạn Nên Đeo Đuổi Các Môn Học Nào
Tăng trưởng tâm linh là một tiến triển suốt đời và chỉ hoàn thành khi bạn thấy Chúa Cứu Thế mặt đối mặt. Vì vậy mục phải đặt mục tiêu suốt đời của bạn là tăng trưởng thành tâm linh, như vậy bạn mới có thể sống cho Chúa. Sau đây là một số lãnh vực học hỏi (môn học) bạn cần lưu ý trong chương trình học hỏi suốt đời của bạn.
Hiểu Biết Kinh Thánh
Kinh Thánh là sách giáo khoa suốt đời của Cơ-đốc nhân, vì vậy đây là môn học quan trọng hơn hết trong chương trình học hỏi suốt đời của bạn. Biết và hiểu Lời Chúa mỗi ngày sâu nhiệm hơn phải là mục đích quan trọng nhất của mỗi tín hữu. Sách nào trong Kinh Thánh bạn ít biết và ít hiểu nhất phải được đem ra học hỏi nhiều nhất. Vào mấy ngày đầu của mỗi năm, bạn phải ấn định các mục tiêu học Kinh Thánh cho chính mình, và cũng phải soạn ra một chương trình để có thể đạt tất cả các mục tiêu đó trong cuối năm.
Thần Học Và Sinh Hoạt Cơ Đốc Thực Hành
Biết rõ các lời dạy trong Kinh Thánh về chức vụ của Chúa Cứu Thế, về các giáo lý của Kinh Thánh, và về cách phải sống thế nào cho xứng đáng là Cơ-đốc nhân, là điều rất quan trọng, vì vậy không một ai là tín hữu lại ngần ngại không chịu học hỏi thần học của Kinh Thánh. Chỉ khi nào đã nắm vững được các lời dạy của Kinh Thánh, bạn mới có thể giới thiệu Lời Chúa cho người chưa tin, biết rõ các luận điệu sai lầm của các tà giáo, và mới có thể sống một đời sống. Cơ-đốc nhân đầy đủ đúng mức.
Chức Vụ Thức Hành (Practical Ministry)
Mỗi Cơ-đốc nhân đều được Đức Thánh Linh ban ân tứ và khả năng để gây dựng Hội Thánh và gây dựng các anh chị em mình trong Chúa. Tuy nhiên, các ân tứ và khả năng này cũng cần được phát triển để có thể được sử dụng đúng mức đúng chổ, là đem vinh quang về cho Thượng Đế. Vì vậy, bạn phải tham dự các lớp huấn luyện của Hội Thánh để phát triển khả năng phục vụ của mình. Các lớp huấn luyện nay gồm có: Huấn luyện hướng dẫn viên, đưa người chưa tin đến với Chúa, khải đạo, thăm viếng, các môn học căn bản hay các chức vụ khác.
ĐÚC KẾT LẠI
Tất cả mọi lãnh vực giáo dục người lớn đều hữu ích cả. Tuy nhiên, để có thể có ảnh hưởng trên cuộc sống, trên chức vụ và trên sự tăng trưởng tâm linh của các Cơ-đốc nhân thuộc lứa tuổi trưởng thành, các lãnh vực giáo dục này phải được tổ chức cách nào để đáp ứng nhu cầu của mỗi tín hữu và giúp mỗi người đạt được mục đích của họ. Sau đây là mấy nguyên tắc bạn có thể dùng để tổ chức một chương trình học hỏi cá nhân với mục đích đáp ứng nhu cầu học hỏi suốt đời.
Xác Định Mục Tiêu Cá Nhân Của Bạn
Bất cứ chương trình học hỏi nào, kể cả chương trình giáo dục người lớn của bạn, cũng phải có đường hướng và mục tiêu dứt khóat. Các mục tiêu này trước hết phải căn cứ trên các nhu cầu của bạn. Ví dụ: bạn nhận thấy có vài lãnh vực bạn cần phải cải tiến trong mấy tháng hay mấy năm sắp đến, hay có lãnh vực khác bạn cần mở mang kiến thức, như sự phục vụ hay vực khác bạn cần mở mang kiến thưc, như sự phục vụ hay các thách thức trong cuộc sống hằng ngày này sẽ giúp bạn xác định các mục tiêu học hỏi của bạn, và bạn cần phải ghi chép lại các mục tiêu này để dùng làm dữ kiện lượng giá sau này.
Xác Định Kinh Nghiệm Nào Có Thể Giúp Bạn Đạt Mục Tiêu
Bước kế tiếp là bạn tìm xem môn học nào, kể cả học chính qui và không chính qui, có thể gíup bạn đạt được các mục tiêu đã đề ra. Có thể bạn chọn tham gia các toán huấn luyện do Hội Thánh tổ chức, hay tham gia một lớp Trường Chúa Nhật, hay các môn học chính thức (có tổ chức). Cũng có thể bạn sẽ cho rằng các phương pháp học hỏi không chính qui là phương pháp thích hợp nhất cho bạn. Việc xác định (và lựa chọn) những môn học, hay phương pháp học hỏi nào thích hợp nhất để đạt mục tiêu là nguyên tắc thứ nhì bạn cần phải áp dụng.
Sắp Xếp Vào Chương Trình Của Bạn Các Kinh Nghiệm Học Hỏi Được Chọn
Nếu các môn học bạn thấy cần thiết để đạt các mục tiêu học hỏi của bạn sẽ được tổ chức vào mỗi tháng hay mỗi tam cá nguyệt, bạn hãy lấy cuốn lịch và sắp xếp những thì giờ đó thành chương trình học hỏi cả năm của bạn. Việc sắp xếp thì giờ này được gọi là: “quản trị thời gian” và là một nguyên tắc rất quan trọng trong cố gắng tăng trưởng thuộc linh của bạn.
Xác Định Cách Nào, Khi Nào Biết Bạn Đã Đạt Được Mục Đích
Sau khi hoàn tất một chương trình học hỏi, bạn có thể có những bằng chứng rõ rệt để biết chắc bạn đã thu lượm những kết quả cụ thể không ? Chắc chắn bạn muốn biết rõ kiến thức của bạn có tiến bộ, tư cách của bạn có thay đổi sau khi xong khóa học. Bằng cách nào đó, bạn cần phải biết làm sao bạn biết khi nào việc học hoàn tất và đạt được mục tiêu. Đấy là những “mục tiêu có thể đo lường được”(measurable objectives).
Một khi bạn đã đạt được mục đích nhờ các cố gắng và kinh nghiệm học hỏi, bạn sẽ thu lượm kết quả là sự tăng trưởng và phát triển thật. Bạn cần nhớ điểm quan trọng này: chương trình học hỏi cá nhân do bạn tự soạn thảo lấy, là chia khóa để thành công tối ca trong việc học hỏi suốt đời của bạn.
TÓM LƯỢC
Tăng trưởng là một quá trình liên tục cho mỗi Cơ-đốc nhân và đòi hỏi nhân phải học hỏi liên tục. Tất cả các nhân vật Kinh Thánh được Thượng Đế sử dụng đều có kinh nghiệm hỏi học liên tục, là điều sứ đồ Phao-lô đặc biệt nhấn mạnh trong các thư tin của ông.
Là một tín hữu đang tăng trưởng tâm linh, bạn có rất nhiều cơ hội để thực hiện chương trình học hỏi suốt đời, qua phương cách chính thức và không chính thức. Tuy nhiên, chỉ khi nào bạn tự soạn thảo một chương trình học hỏi riêng, bạn mới có thể tận dụng được các cơ hội học hỏi này, để bạn trưởng tâm linh và đem vingh quang về cho Chúa Cứu Thế.
BÀI LÀM
1. Bạn tìm xem hiện nay đang có những cơ hội học hỏi chính thức nào đáng lưu ý, rồi liệt kê ra những cơ hội bạn thấy là hữu ích cho bạn trong hai năm sắp tới.
2. Bạn cũng tìm xem hiện nay đang có những cơ hội học hỏi không chính thức nào đáng lưu ý, rồi cũng liệt kê như trên.
3. Tại sao sự hiểu biết Kinh Thánh sâu nhiệm phải được đặt vào hàng ưu tiên trong chương trình học hỏi suốt đời của bạn ? Bạn thấy “chiến lược cá nhân “nào hữu hiệu nhất để giúp bạn hiểu biết Kinh Thánh cách sâu nhiệm hơn?
4. Tại sao “chức vụ thực hành “( pratical ministry ) là một yếu tố quan trọng cho sự tăng trưởng tâm linh ?
5. Những lãnh vực phục vụ nào bạn thấy là thích hợp nhất cho việc áp dụng các ân tứ của bạn ?
6. Tại sao bạn phải soạn một chương trình học hỏi cá nhân(có tổ chức) để dùng riêng cho bạn ?
ÁP DỤNG
Bạn hãy lấy một tờ giấy và viết như sau:
Các Mục Đích Cá Nhân Cơ Hội Học Hỏi Kết Quả
1..............................…………………………………………………………….............................
2..............................……………………………………………………………..............................
3..............................…………………………………………………………….............................
Bạn viết các mục đích của riêng bạn mà bạn cần phải đạt được, vào cột “Mục đích cá nhân”. Sau đó, bạn liệt kê trong cột “Cơ hội học hỏi” những môn học hay phương pháp học chính thức và không chính thức, có thể giúp cho bạn thực hiện được các mục đích cá nhân. Cuối cùng, bạn ghi rõ “mục tiêu có thể đo lường được” vào cột “Kết qua” để dùng vào việc lượng giá sau khi đã đạt được mục đích cá nhân.
Chú thích: để có được “mục tiêu có thể đo lượng được”, bạn chỉ cần câu hỏi đơn giản này: “tôi sẽ phải làm gì khi đã đạt được mục đích ?” Đây là một thái độ cụ thể bạn có thể nhận thấy và “đo lường “được”. Bạn cũng ghi xuống ngày giờ nào bạn mong muốn sẽ thấy rõ kết quả này.
Bạn cứ tiếp tục áp dụng cách thức trên đây cho từng Mục đích cá nhân mà bạn đã liệt kê
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aslanian, Carol B.and Brickell, Henry M. Americans in Transition . Princeton NJ: College Entrance Examination Board, 1980
Sternbron, Melvin J. Can the Pastor do it Alone ? Ventura CA: Regal Books 1987
Sweeting, George W. You Can Climb Higher . Nashville: Thomas Nelson 1985
KẾT LUẬN
Qua 12 chương ngắn ngủi, chúng tôi đã cố gắng trình bày một nền tảng vững chắc và một phạm vi đầy đủ cho sự tăng trưởng tâm linh của bạn, bằng cách khảo sát xem làm cách nào Cơ-đốc nhân có thể tăng trưởng “người bề trong “và qua sự phục vụ. Chúng tôi cũng chia xẻ với bạn những điều chúng tôi nhận thấy về ảnh hưởng của xã hội trên tiến trình tăng trưởng tâm linh.
Là tác giả của 12 chương này, chúng tôi đã cố gắng đưa sự tăng trưởng tâm linh lên ánh sáng như một viên kim cương (hột xoàn), để mỗi khía cạnh đều được nổi bật rõ ràng. Chúng tôi cũng đi đến kết luận là không có một công thức đặc biệt nào có thể bảo đảm sự tăng trưởng tâm linh cả. Như vậy cần có đất tốt và môi trường thích hợp để phát triển. Cơ-đốc nhân cũng cần có đất và môi trường tâm linh để tăng trưởng.
Đất tốt là Lời của Thượng Đế, tức là Kinh Thánh. Kinh Thánh lúc nào nguồn cung cấp cấp cho chất dinh dưỡng cho tâm linh Cơ-đốc nhân. Vì vậy chúng ta phải liên tục trở về với Kinh Thánh để các rễ tâm linh của chúng ta có thể hút được thức ăn cần thiết cho sự sống.
Môi trường cũng là một yếu tố quan trọng khi nghe đến từ ngữ môi trường, có lẽ tín hữu sẽ nghĩ ngay đến Hội Thánh là nơi người tin Chúa được nuôi dưỡng gây dựng. Nghĩ như vậy cũng đúng, nhưng chỉ đúng một phần. Vì ngoài Hội Thánh ra, thế gian cũng là môi trường của Cơ-đốc nhân nữa. Mặc dầu chúng ta không chấp nhận các giá trị của thế gian, nhưng chúng ta cần thế gian là môi trường để ra hoa kết quả. Để có thể tăng trưởng tâm linh, chúng ta cần có cả Hội Thánh lẫn thế gian. Như cây sồi to lớn mạnh mẽ cần bao nhiêu trận bão tố để cho hệ thống rễ lan rộng đâm sâu vào lòng đất và để cho vỏ cây sồi trở nên cứng rắn. Cơ-đốc nhân cũng cần có thể để đức tin có thể lớn lên và tăng cường. Khi thế gian chống đối khước từ và thách thức đức tin chúng ta, thì một hiện tượng kỳ lạ xảy ra, là chúng ta tăng trưởng. Lịch sử Hội Thánh chứng minh rằng khi bị bắt bớ bách hại, Hội Thánh của Chúa Cứu Thế luôn được trưởng thánh thuộc linh.
Chúng ta cũng ý thức được rằng cố gắng sống ẩn dật cho Chúa trong tu viện, là một cuộc sống không sinh sôi nảy nở. Khi phải đương đầu với thế gian, Cơ-đốc nhân được đặt vào môi trường đặc biệt thuận lợi cho sự tăng trưởng tâm linh. Nhưng môi trường đó thật sự đem lại sự tăng trưởng hay không là còn tùy nơi cách Cơ-đốc nhân sử dụng môi trường đó.
Chúng ta cần sống trong môi trường thế gian vì khi ở trong đó chúng ta có thể chia xẻ. Tin Mừng cứu rỗi cho những người đang ở trong tối tăm tội lỗi. Trong khi dân số thế giới đã lên đến 6 tỉ người, việc chia xẻ niềm tin của mỗi cá nhân tín hữu là cần thiết để có thể hoàn thành nhiệm vụ truyền giáo chính Chúa đã ủy thác cho chúng ta. Có một hiện tượng lạ lùng là khi tích cực chia xẻ niềm tin với người khác, chúng ta kinh nghiệm được một sự tăng trưởng tâm linh độc đáo. Một vài nhà thần học học cho rằng chia xẻ niềm tin vào Chúa Cứu Thế là thứ tác nhân kích thích tăng trưởng hữu hiệu nhất.
Một trong các niềm vui lớn lao nhất của người tin Chúa là được thấy đời tâm linh mình sinh sôi nẩy nở qua sự chia xẻ Chúa với người khác. Chắc chắn khi đời tâm linh bạn sinh sôi nảy nở cách đó, bạn đem vinh hiển về cho Thượng Đế. Chúng tôi cầu xin Thượng Đế cho bạn được như vậy.
Tiến sĩ Richard Patterson, Chủ tịch Hội Huấn luyện Phúc Âm.