Ngồi - Đi - Đứng


Tác giả: Watchman Nee

Dịch từ bản tiếng Anh: Sit, Walk, Stand

Chương Một NGỒI

Chương Hai ĐI

Chương Ba ĐỨNG

PHẦN GIỚI THIỆU

Nếu đời sống Cơ Đốc nhân là phải làm vui lòng Đức Chúa Trời, thì đời sống ấy bắt buộc phải được điều chỉnh cho phù hợp với Ngài trong mọi sự. Trong đời sống mình, chúng ta rất thường nhấn mạnh đến việc áp dụng nguyên tắc này cho một chi tiết riêng lẻ nào đó trong hành vi của mình, hay công tác hầu việc Ngài. Vì vậy, chúng ta thường không quí mức độ điều chỉnh mà chúng ta được kêu gọi đạt đến, thậm chí nhiều khi cũng không quí thời điểm mà sự điều chỉnh ấy phải nên bắt đầu. Nhưng Đức Chúa Trời đo lường mọi sự, từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc, bằng sự trọn vẹn của Con Ngài. Kinh thánh khẳng định cách rõ ràng rằng niềm vui thích tốt lành của Đức Chúa Trời là “tổng hợp mọi sự trong Đấng Christ... trong Ngài chúng ta được làm nên một cơ nghiệp” (Êph. 1:9-11). Trong phần thảo luận tiếp theo đây, tôi tha thiết cầu xin cho mắt chúng ta được mở ra cách mới mẻ để thấy rằng chỉ bằng cách đặt hết mối quan tâm của mình vào đó chúng ta mới có thể hi vọng nhận thức mục đích thần thượng dành cho mình, đó là “chúng ta trở nên cớ để ngợi khen vinh quang Ngài” (1:12).

Chúng ta sẽ lấy Thư Phao-lô gửi cho các thánh đồ tại Ê-phê-sô làm bối cảnh cho những suy nghĩ của mình.

Giống như rất nhiều thư khác của vị sứ đồ, Thư tín này tự nhiên chia làm hai phần, phần giáo lý và phần thực tiễn. Phần giáo lý (các chương từ một đến ba) chính yếu bàn đến những sự thật vĩ đại về sự cứu chuộc mà Đức Chúa Trời đã thực hiện cho chúng ta trong Đấng Christ. Sau đó phần thực tiễn (các chương từ bốn đến sáu) tiếp tục trình bày cho chúng ta những đòi hỏi về hành vi và lòng nhiệt thành của Cơ Đốc nhân, mà Đức Chúa Trời đã đặt ra cho chúng ta trong ánh sáng của sự cứu chuộc ấy. Hai phần này có liên quan mật thiết với nhau, nhưng chúng ta sẽ thấy sự nhấn mạnh trong mỗi phần khác nhau.

Hơn nữa, sau đó, phần thứ hai và là phần thực tiễn rõ ràng hơn của bức thư để tiện lợi có thể lại chia nhỏ ra theo chủ đề, thành một phần thứ nhất, kéo dài từ 4:1 đến 6:9 và phần hai, ngắn hơn nhiều từ 6:10 đến hết. Phần đầu bàn về đời sống chúng ta ở giữa thế gian, phần sau bàn đến chiến trận của chúng ta với ma quỉ.

Như vậy, chúng ta có tất cả ba phần nhỏ của Thư gửi cho người Ê-phê-sô, nêu lên địa vị của người tín đồ trong Đấng Christ (1:1-3:21), đời sống người tín đồ trong thế gian (4:1-6:9), và thái độ của người tín đồ đối với kẻ thù (6:10-24). Chúng ta có thể tóm tắt như sau:

Ê-PHÊ-SÔ

A. Phần giáo lý (Từ chương 1 đến chương 3)

1. Địa vị của chúng ta trong Đấng Christ (1:1—3:21)

B. Phần thực tiễn (Từ chương 4 đến chương 6)

1. Đời sống của chúng ta trong thế gian (4:1—6:9)

2. Thái độ của chúng ta đối với kẻ thù (6:10-24)


Trong tất cả các Thư tín của Phao-lô, chúng ta tìm thấy những lẽ thật thuộc linh cao nhất về đời sống Cơ Đốc trong Thư Ê-phê-sô. Bức thư này đầy dẫy những sự phong phú thuộc linh, tuy nhiên đồng thời cũng vô cùng thực tế. Nửa phần đầu của bức thư bày tỏ đời sống của chúng ta trong Đấng Christ là một đời sống liên hiệp với Ngài trên các từng trời cao nhất. Với những từ ngữ rất thực tế, nửa phần sau trình bày làm thế nào chúng ta có thể sống một cuộc sống thiên thượng như vậy ngay tại trên đất này. Ở đây, chúng tôi không đề nghị nghiên cứu thư này một cách chi tiết. Tuy nhiên, chúng ta sẽ bàn đến một vài nguyên tắc nằm ở trung tâm của bức thư này. Vì mục đích ấy, chúng tôi sẽ lựa chọn một từ ngữ then chốt cho mỗi một phần trong ba phần trên để bày tỏ những gì chúng tôi tin là trọng tâm hay tư tưởng chủ đạo của mỗi phần.

Trong phần đầu của bức thư này, chúng tôi thấy từ ngữ ngồi (2:6) là chìa khóa của phần ấy và là bí quyết trong kinh nghiệm của một Cơ Đốc nhân chân chính. Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta đồng ngồi với Đấng Christ ở các nơi trên trời, và mỗi Cơ Đốc nhân phải bắt đầu đời sống thuộc linh của mình từ chỗ an nghỉ ấy. Trong phần hai, chúng tôi chọn từ ngữ đi (4:1) để diễn tả đời sống chúng ta trong thế gian, là đề tài của phần này. Tại đây chúng ta được thách thức để biểu lộ trong bước đi Cơ Đốc những hành vi phù hợp với sự kêu gọi cao cả của chúng ta. Cuối cùng, trong phần ba, chúng ta tìm thấy bí quyết của thái độ mình đối với kẻ thù chứa đựng trong từ ngữ đứng (6:11), bày tỏ vị trí đắc thắng của chúng ta lúc cuối cùng. Như vậy, chúng ta có:

NHỮNG TỪ NGỮ THEN CHỐT

TRONG THƯ Ê-PHÊ-SÔ

1. Địa vị của chúng ta trong Đấng Christ — “NGỒI” (2:6)

2. Đời sống của chúng ta trong thế gian — “ĐI” (4:1)

3. Thái độ của chúng ta đối với kẻ thù — “ĐỨNG” (6:11)

Đời sống người tín đồ luôn luôn trình bày ba phương diện này: đối với Đức Chúa Trời, đối với loài người và đối với các thế lực Sa-tan. Để hữu dụng trong tay Đức Chúa Trời, một người phải được điều chỉnh cách đúng đắn trong cả ba phương diện: địa vị của mình, đời sống của mình, và chiến trận của mình. Nếu đánh giá thấp tầm quan trọng của một trong ba phương diện ấy, người đó sẽ không đáp ứng được những điều kiện của Đức Chúa Trời, vì mỗi một phương diện là một lãnh vực trong đó Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ “vinh quang của ân điển Ngài, mà Ngài đã ban cho chúng ta cách nhưng không trong Con yêu dấu của Ngài” (1:6).

Như vậy, chúng ta sẽ lấy ba từ ngữ này, đó là “Ngồi”, “Đi”, “Đứng” làm chỉ nam cho sự dạy dỗ của Thư này, và làm bản văn cho sứ điệp đến với lòng chúng ta hôm nay. Chúng ta sẽ được dạy dỗ nhiều nhất khi lưu ý đến cả thứ tự lẫn sự liên kết của các từ ngữ nêu trên.


LỜI NÓI ĐẦU DÀNH CHO TÁC PHẨM NGỒI, ĐI, ĐỨNG VÀ ĐỪNG YÊU THẾ GIAN TRONG BỘ SƯU TẬP CÁC TÁC PHẨM CỦA WATCHMAN NEE

Vào tháng Bảy năm 1938, anh Nghê Thác Thanh đến Anh Quốc và lưu lại tại đó đến tháng Năm, 1939. Trong thời gian ấy, anh đi khắp Âu Châu và giảng một số sứ điệp theo ánh sáng Chúa ban cho anh. Trong số những bài giảng này, nhiều bài được giảng bằng tiếng Anh và chưa được dịch sang tiếng Hoa.

Tuy nhiên, một vài quyển sách bao gồm nội dung những bài giảng ấy được xuất bản dưới quyền chủ bút của Angus Kinnear. Bản quyền của những quyển sách ấy thuộc về công ty xuất bản Kingsway Publishing của ông Kinnear. Những quyển sách ấy, bao gồm Ngồi, Đi, Đứng và Đừng Yêu Thế Gian, đã được thừa nhận là các tác phẩm ưu tú tiêu biểu cho chức vụ của Nghê Thác Thanh trong tiếng Anh, và đã đem lại sự giúp đỡ thuộc linh cho vô số Cơ Đốc nhân. Những quyển sách này được bao gồm trong Bộ Sưu Tập Các Tác Phẩm của anh là kết quả có được nhờ sự vui lòng giúp đỡ và cho phép của công ty xuất bản Kingsway Publishing. Living Stream Ministry xin bày tỏ lòng biết ơn đối với công ty xuất bản Kingsway Publishing vì đã hợp tác trong nỗ lực này.

Tất cả những câu Kinh thánh (tiếng Anh) đều dựa trên bản Revised Standard, như đã được dùng trong những đợt ấn hành đầu tiên của công ty xuất bản Kingsway. Chúng tôi hoàn toàn không tự ý sửa nguyên bản ngoại trừ xếp chữ và dàn trang để hợp với thể thức nhất quán.


LỜI NÓI ĐẦU TRONG ĐỢT ẤN HÀNH LẦN THỨ TƯ

Thu thập từ các bài giảng của Nghê Thác Thanh (Nee To-sheng), tức Watchman Nee, người tỉnh Phúc Châu, và đã được in lần đầu tiên tại Bom-bay, tác phẩm Ngồi, Đi, Đứng tiếp tục khuấy động lòng người đọc với một sứ điệp thức tỉnh. Mặc dầu qua những lần ấn hành liên tiếp, tác phẩm này đã được thêm tài liệu vào phần nào, nhưng tất cả nguồn tài liệu đều phát xuất từ cùng một thời kỳ, đó là những ngày truyền giảng chứng đạo tự do tại Trung Quốc ngay trước cuộc chiến tranh Hoa-Nhật, là giai đoạn tác giả và các bạn Cơ Đốc của ông được tự do hầu việc Đức Chúa Trời, là sự tự do hiếm thấy ngày nay. Một sứ điệp đúng thời điểm đã trình bày lòng tin chắc đầy tính đắc thắng của họ vào công tác đã hoàn tất của Đấng Christ và cảm nhận khiêm nhường của họ về những phẩm chất cao cả mà các đầy tớ của Ngài được kêu gọi đạt đến, là sứ điệp thích hợp cách tươi mới cho chúng ta ngày nay, khi công tác Cơ Đốc khắp nơi đang gặp thử thách. Nguyện Đức Chúa Trời ban ân điển cho chúng ta, không những để nghe sự thách thức của sứ điệp, nhưng cũng tìm cách áp dụng những bài học ấy trong hoàn cảnh thuận lợi của mình đang khi còn có cơ hội.


Chương Một

NGỒI

“Đức Chúa Trời của Chúa chúng ta là Jesus Christ,... khiến Đấng ấy từ người chết sống lại, và làm cho Đấng ấy ngồi bên hữu Ngài tại các nơi trên trời, vượt trên tất cả các bậc cai trị, uy quyền, năng lực, sự thống trị, và mọi danh được tôn xưng, không những trong đời này, mà cũng trong đời sắp đến nữa” (1:17-21).

“Và khiến cho chúng ta cùng sống lại với Ngài, và làm cho chúng ta đồng ngồi với Ngài tại các nơi trên trời, trong Christ Jesus... Vì bởi ân điển nhờ đức tin mà anh em được cứu rỗi, đó không phải thuộc anh em đâu, mà là sự ban cho của Đức Chúa Trời: cũng không phải thuộc việc làm đâu để không ai có thể khoe mình” (2:6-9).

“Đức Chúa Trời... làm cho Ngài ngồi... và làm cho chúng ta đồng ngồi với Ngài”. Trước hết, chúng ta hãy xem xét những gì ngụ ý trong chữ “ngồi” này. Như chúng tôi đã nói, từ ngữ này bày tỏ bí quyết của một đời sống thiên thượng. Đời sống Cơ Đốc không bắt đầu với việc bước đi, mà bắt đầu với việc ngồi. Thời đại Cơ Đốc bắt đầu với Đấng Christ, là Đấng mà chúng ta được biết rằng, khi Ngài đã làm xong sự tẩy sạch tội lỗi rồi, Ngài “ngồi bên hữu Đấng uy nghiêm ở nơi chí cao” (Hê. 1:3). Với lẽ thật tương tự như vậy, chúng ta có thể nói đời sống cá nhân tín đồ bắt đầu với một người “ở trong Đấng Christ”, tức là, khi bởi đức tin chúng ta thấy chính mình đồng ngồi với Ngài trên các từng trời.

Hầu hết các Cơ Đốc nhân lầm lẫn trong việc cố gắng bước đi để được đồng ngồi, nhưng đó là đảo ngược trật tự đúng đắn. Tự nhiên chúng ta lý luận rằng: Nếu không bước đi, làm thế nào chúng ta đạt được mục tiêu? Nếu không nỗ lực, chúng ta sẽ đạt được những gì? Nếu không chuyển động, làm sao chúng ta đến được một nơi nào? Nhưng Đạo Đấng Christ là một công việc kỳ lạ! Nếu từ đầu chúng ta cố gắng làm một điều gì, thì chúng ta sẽ không được gì cả; nếu chúng ta tìm cách đạt đến một điều gì đó, chúng ta sẽ mất tất cả. Vì Đạo Đấng Christ không bắt đầu với một chữ LÀM vĩ đại, nhưng với chữ ĐÃ LÀM XONG vĩ đại. Như vậy, Thư Ê-phê-sô mở ra với lời tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã “ban phước cho chúng ta trong Christ đủ mọi thứ phước thuộc linh ở các nơi trên trời” (1:3), và ngay từ đầu chúng ta đã được mời ngồi xuống và vui hưởng những gì Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta, chứ không phải bắt đầu cố gắng đạt đến điều đó cho chính mình.

Bước đi ngụ ý phải nỗ lực, trong khi Đức Chúa Trời nói rằng chúng ta được cứu, không phải bởi việc làm, nhưng “bởi ân điển... nhờ đức tin” (2:8). Chúng ta thường xuyên nói về “được cứu nhờ đức tin”, nhưng chúng ta có ngụ ý gì khi nói như vậy? Chúng ta có ý nói rằng mình được cứu bằng cách an nghỉ trong Chúa Jesus. Chúng ta không làm gì cả để tự cứu mình, mà chỉ đơn giản đặt trên Ngài gánh nặng của phần hồn “bệnh tật do tội lỗi” của mình. Chúng ta bắt đầu đời sống Cơ Đốc bằng cách không dựa trên việc làm của chính mình, nhưng trên những gì Ngài đã làm xong. Một người không phải là Cơ Đốc nhân cho đến khi người ấy làm điều đó; vì nói rằng: “Tôi không thể làm gì để cứu chính mình, nhưng bởi ân điển Ngài, Đức Chúa Trời đã làm xong mọi sự cho tôi trong Đấng Christ”, có nghĩa là đã đi bước đầu tiên trong đời sống đức tin. Đời sống Cơ Đốc nhân từ đầu đến cuối dựa trên nguyên tắc hoàn toàn lệ thuộc Chúa Jesus. Ân điển mà Đức Chúa Trời muốn ban cho chúng ta không có giới hạn. Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi sự, nhưng chúng ta không thể nhận được gì cả trừ phi an nghỉ trong Ngài. “Ngồi” là thái độ nghỉ ngơi. Một điều gì đó đã xong, công việc đã chấm dứt, và chúng ta ngồi. Chúng ta chỉ có thể tiến bộ trong đời sống Cơ Đốc khi học tập trước hết ngồi xuống, đó là một điều nghịch lý nhưng đúng.

Ngồi xuống thật sự có ý nghĩa gì? Khi đi hay đứng, chúng ta mang cả sức nặng toàn thân trên đôi chân, nhưng khi ngồi xuống, toàn bộ trọng lượng của chúng ta được đặt trên chiếc ghế mình đang ngồi. Chúng ta trở nên mệt mỏi khi đi hay đứng, nhưng cảm thấy được nghỉ ngơi khi ngồi xuống một lúc. Khi đi hay đứng, chúng ta tiêu hao nhiều năng lực, nhưng khi ngồi xuống, chúng ta nghỉ ngơi ngay lập tức; các bắp thịt và dây thần kinh của chúng ta không còn căng thẳng nữa, mà sức ép ấy lại đè trên một điều gì đó ở bên ngoài chúng ta. Trong lãnh vực thuộc linh cũng vậy, ngồi xuống đơn giản nghĩa là đặt tất cả sức nặng của chúng ta, tức là gánh nặng của chúng ta, chính chúng ta, tương lai chúng ta và mọi sự trên Chúa. Chúng ta để Ngài mang trách nhiệm và không còn tự mình mang lấy nữa.

Đó là nguyên tắc của Đức Chúa Trời ngay từ đầu. Trong sự sáng tạo, Đức Chúa Trời làm việc từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu và nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Chúng ta có thể thành thật nói rằng trong sáu ngày đầu, Ngài rất bận rộn. Sau đó, công tác Ngài tự hoạch định cho mình đã hoàn tất, Ngài ngưng làm việc. Ngày thứ bảy trở nên ngày sa-bát của Đức Chúa Trời, đó là sự nghỉ ngơi của Ngài.

Nhưng còn A-đam thì sao? Vị trí của ông ở đâu trong mối liên hệ với sự nghỉ ngơi của Đức Chúa Trời? Chúng ta được biết A-đam được tạo dựng vào ngày thứ sáu. Như vậy, rõ ràng ông không có phần gì trong sáu ngày đầu làm việc, vì ông chỉ xuất hiện vào cuối sáu ngày ấy. Ngày thứ bảy của Đức Chúa Trời thật ra là ngày đầu tiên của A-đam. Trong khi Đức Chúa Trời làm việc sáu ngày và sau đó Ngài vui hưởng sự nghỉ ngơi sa-bát của Ngài, thì A-đam bắt đầu cuộc đời mình với ngày sa-bát; vì Đức Chúa Trời làm việc trước khi Ngài nghỉ ngơi, còn con người phải bắt đầu bước vào sự nghỉ ngơi của Đức Chúa Trời trước, rồi sau đó họ mới bắt đầu làm việc được. Hơn nữa, công tác sáng tạo của Đức Chúa Trời thật sự hoàn tất thì cuộc đời A-đam mới có thể bắt đầu bằng sự an nghỉ. Đây là Phúc âm: Đức Chúa Trời đã đi trước một giai đoạn và cũng đã hoàn tất công tác cứu chuộc rồi, chúng ta không cần làm bất cứ điều gì để xứng đáng với công tác ấy, nhưng bởi đức tin có thể trực tiếp bước vào những giá trị của công tác mà Ngài đã hoàn tất.

Dĩ nhiên chúng ta biết rằng nằm giữa hai sự kiện lịch sử này, giữa sự nghỉ ngơi trong sự sáng tạo và sự nghỉ ngơi trong sự cứu chuộc của Đức Chúa Trời, có cả một câu chuyện bi thảm về tội lỗi và sự phán xét của A-đam, về sự lao khổ không ngừng và không kết quả của con người, và về việc Con Đức Chúa Trời đã đến, lao khổ và dâng chính Ngài cho đến khi địa vị bị mất được phục hồi. “Cha Ta làm việc cho đến bây giờ, và Ta cũng làm việc”, Ngài giải thích khi đang theo đuổi con đường của mình. Chỉ khi giá cứu chuộc đã trả xong, Ngài mới có thể kêu lên: “Xong rồi!”.

Nhưng nhờ tiếng kêu đắc thắng ấy, sự suy luận của chúng ta đây mới là thật. Đạo Đấng Christ thật ra có nghĩa là Đức Chúa Trời đã làm mọi sự trong Đấng Christ, và chúng ta chỉ bởi đức tin bước vào vui hưởng sự thật ấy. Từ ngữ then chốt của chúng ta ở đây trong văn mạch dĩ nhiên không phải là một mạng lịnh “hãy ngồi xuống” nhưng là thấy chính mình “đã được đặt ngồi” trong Đấng Christ. Phao-lô cầu nguyện cho mắt của lòng chúng ta được soi sáng (1:18) để hiểu tất cả những gì dành cho chúng ta được chứa đựng trong sự thật hai mặt này, ấy là bởi quyền năng mạnh mẽ của Ngài, Đức Chúa Trời đã “làm cho Ngài ngồi”, và sau đó bởi ân điển “làm cho chúng ta cùng ngồi với Ngài”. Bài học đầu tiên chúng ta phải học là thế này: công tác ban đầu hoàn toàn không phải là công tác của chúng ta, nhưng là công tác của Ngài. Không phải chúng ta làm việc cho Đức Chúa Trời, nhưng Ngài làm việc cho chúng ta. Đức Chúa Trời ban cho chúng ta địa vị an nghỉ. Ngài đem công tác đã hoàn tất của Con Ngài trao cho chúng ta, và sau đó Ngài phán với chúng ta: “Mời con ngồi xuống”. Tôi nghĩ rằng không gì có thể diễn tả sự ban cho của Ngài tốt hơn lời mời đến dự tiệc lớn: “Hãy đến, vì mọi sự đã sẵn sàng rồi” (Lu. 14:17). Đời sống Cơ Đốc nhân bắt đầu với sự khám phá về những gì Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sẵn.


PHẠM VI CÔNG TÁC ĐÃ HOÀN TẤT CỦA NGÀI

Từ khởi điểm này trở đi, kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân tiến triển như đã bắt đầu, không phải trên nền tảng công việc riêng của chúng ta, nhưng luôn luôn trên nền tảng công tác đã hoàn tất của Một Đấng Khác. Mỗi một kinh nghiệm thuộc linh mới đều bắt đầu bằng sự chấp nhận bởi đức tin những gì Đức Chúa Trời đã làm, tức là một “sự ngồi xuống” mới mẻ, nếu anh em thích gọi thế. Đó là nguyên tắc của sự sống, là nguyên tắc chính Đức Chúa Trời đã định ra; và từ đầu đến cuối, mỗi giai đoạn nối tiếp của đời sống Cơ Đốc đều theo nguyên tắc đã được ấn định cách thần thượng này.

Làm thế nào tôi có thể nhận được quyền năng của Linh để phục vụ? Tôi có phải lao nhọc để phục vụ không? Tôi có phải nài nỉ Đức Chúa Trời vì điều đó không? Tôi có phải làm khổ hồn mình bằng cách kiêng ăn và từ chối bản ngã để xứng đáng với điều đó không? Không bao giờ! Đó không phải là sự dạy dỗ của Kinh thánh. Xin nghĩ lại xem: chúng ta đã nhận được sự tha thứ tội lỗi bằng cách nào? Phao-lô cho chúng ta biết ấy là “theo những sự phong phú của ân điển Ngài”, và điều đó “được ban cho chúng ta cách nhưng không trong Con Yêu Dấu của Ngài” (1:6, 7). Chúng ta không làm gì để đáng được điều ấy. Chúng ta được cứu chuộc nhờ huyết Ngài, tức là trên nền tảng của những gì Ngài đã làm.

Như vậy, Đức Chúa Trời đổ Linh ra trên nền tảng nào? Đó là sự tôn cao Chúa Jesus (Công. 2:33). Vì Chúa Jesus đã chết trên Thập Tự Giá, nên tội lỗi tôi đã được tha; vì Ngài đã được tôn cao lên ngai, nên tôi được ban cho quyền năng từ trên cao. Không một sự ban cho nào tùy thuộc vào việc tôi là ai hay tôi làm gì nhiều hơn so với sự ban cho khác. Tôi không đáng nhận được sự tha thứ, tôi cũng không đáng nhận được sự ban cho Thánh Linh. Tôi nhận được mọi sự không phải do bước đi nhưng do ngồi xuống, không phải do làm việc nhưng do an nghỉ trong Chúa. Như vậy, cũng như không cần phải chờ đợi để có kinh nghiệm ban đầu về sự cứu rỗi, thì cũng không cần chờ đợi Linh đổ ra. Tôi xin bảo đảm với anh em rằng anh em không cần khẩn nài Đức Chúa Trời về sự ban cho này, cũng không cần khổ sở, cũng không cần tổ chức những “buổi nhóm chờ đợi”. Điều đó thuộc về anh em không phải vì công việc anh em làm nhưng vì sự tôn cao của Đấng Christ, là Đấng mà “trong Ngài, sau khi anh em đã tin, thì cũng được ấn chứng bằng Thánh Linh đã hứa”. Không thua kém sự tha tội, điều này cũng hàm chứa trong “phúc âm về sự cứu rỗi anh em” (1:13).

Hoặc chúng ta hãy xem xét một đề tài khác, là chủ đề đặc biệt của Thư Ê-phê-sô. Chúng ta trở nên các chi thể của Đấng Christ bằng cách nào? Điều gì làm cho chúng ta thích hợp để trở nên các chi thể của Thân Thể ấy mà Phao-lô nói đến là “sự đầy trọn của Ngài”? Chắc chắn không bao giờ chúng ta đạt đến đó do bước đi. Tôi không được liên kết với Ngài nhờ nỗ lực của chính mình. “Chỉ có một Thân Thể, một Linh, cũng như trong sự kêu gọi mình mà anh em đã được gọi đến một hi vọng” (4:4). Ê-phê-sô trình bày sự thật. Sách Ê-phê-sô bắt đầu với Chúa Jesus Christ, và với sự kiện Đức Chúa Trời đã lựa chọn chúng ta trong Đấng ấy trước buổi sáng thế (1:4). Khi Thánh Linh bày tỏ Đấng Christ cho chúng ta và chúng ta tin Ngài, ngay lập tức, chúng ta bắt đầu có một sự sống hiệp nhất với Ngài, mà không có một hành động gì hơn về phía mình.

Nhưng nếu tất cả những điều này đều thuộc về chúng ta chỉ bởi đức tin, vậy bây giờ vấn đề rất cấp thiết và thực tế về sự thánh hóa của chúng ta thì sao? Làm thế nào chúng ta biết được sự giải cứu hiện tại khỏi sự trị vì của tội lỗi? Làm thế nào “con người cũ” của chúng ta, là kẻ theo đuổi và quấy rối chúng ta nhiều năm bị “đóng đinh” và tiêu diệt? Một lần nữa, bí quyết không phải là bước đi mà là ngồi, không phải trong việc làm nhưng trong sự an nghỉ nơi một điều nào đó đã được làm xong. “Chúng ta đã chết đối với tội”. Chúng ta “đã chịu báp-têm vào trong sự chết của Ngài”. “Chúng ta đã được cùng chôn với Ngài”. “Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta cùng sống động với Đấng Christ” (La. 6:2, 3, 4; Êph. 2:5). Tất cả những lời tuyên bố trên đây đều ở thì quá khứ. Vì sao vậy? Bởi vì Chúa Jesus đã bị đóng đinh bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem cách đây gần hai ngàn năm, và tôi đã bị đóng đinh với Ngài. Đó là một sự kiện lịch sử vĩ đại. Nhờ điều này, kinh nghiệm của Ngài bây giờ đã trở thành lịch sử thuộc linh của tôi, và Đức Chúa Trời có thể nói về tôi như tôi đã trải qua mọi sự “với Ngài”. Tất cả những gì bây giờ tôi có, tôi đều có “với Đấng Christ”. Trong Kinh thánh, chúng ta không bao giờ tìm thấy những điều này được nói đến trong tương lai, ngay cả cũng không phải là ao ước trong hiện tại. Chúng là những sự kiện lịch sử của Đấng Christ, mà tất cả chúng ta là những người tin đều đã bước vào.

Bị đóng đinh, được sống động, sống lại, được đặt ở trên các từng trời “với Đấng Christ” những tư tưởng này gây bối rối cho tâm trí con người cũng y như lời của Chúa Jesus nói với Ni-cô-đem trong Giăng 3:3. Trong câu Kinh thánh ấy vấn đề là làm thế nào để được tái sinh. Tại đây có một điều còn không chắc là có thật, một điều không những đã được thực hiện trong chúng ta, là sự tái sinh, nhưng còn được nhìn thấy và chấp nhận là thuộc về chúng ta vì điều đó đã được thực hiện từ lâu trong một Đấng khác. Làm sao có được một điều như vậy? Chúng ta không thể giải thích. Chúng ta phải nhận lãnh điều đó từ Đức Chúa Trời như một điều Ngài đã làm. Chúng ta không được sinh ra với Đấng Christ, nhưng đã được chôn với Ngài (Ga. 2:20). Vì vậy, sự hiệp một với Ngài bắt đầu từ sự chết của Ngài. Đức Chúa Trời bao hàm chúng ta trong Ngài tại đó. Chúng ta ở “với Ngài” vì chúng ta ở “trong Ngài”.

Nhưng làm thế nào tôi có thể chắc chắn rằng mình “ở trong Đấng Christ?” Tôi có thể chắc chắn về điều ấy vì Kinh thánh khẳng định như vậy, và vì Đức Chúa Trời đã đặt tôi ở đó. “Nhưng bởi Ngài mà anh em được ở trong Christ Jesus” (1 Cô. 1:30). “Đấng làm vững bền chúng tôi với anh em trong Đấng Christ... là Đức Chúa Trời” (2 Cô. 1:21). Đó là điều Ngài đã hoàn thành trong sự khôn ngoan tối cao của Ngài, được chúng ta thấy, tin, chấp nhận và vui hưởng.

Nếu tôi đặt tờ một đô-la vào giữa các trang của một tờ tạp chí, rồi đốt tạp chí ấy đi, tờ đô-la ấy ở đâu? Nó bị đốt cháy theo tờ tạp chí ấy, nó bị biến ra tro. Tờ báo đi đâu thì đồng đô-la cũng đi theo đó. Lịch sử của chúng đã trở nên một. Đức Chúa Trời đã đặt chúng ta trong Đấng Christ một cách hiệu quả y như vậy. Điều gì xảy ra cho Ngài cũng xảy ra cho chúng ta. Tất cả những kinh nghiệm nào Ngài trải qua, chúng ta cũng trải qua trong Ngài. “Người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh với Ngài trên thập tự giá, hầu cho thân thể tội lỗi bị diệt trừ, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội nữa” (La. 6:6). Đó không phải là một lời khuyên hãy chiến đấu. Đó là lịch sử, lịch sử của chúng ta được viết ra trong Đấng Christ trước khi chúng ta ra đời. Anh em có tin điều đó không? Đó là sự thật! Sự việc chúng ta đã bị đóng đinh với Đấng Christ là một sự kiện lịch sử đầy vinh hiển. Việc giải cứu chúng ta khỏi tội không dựa trên những gì chúng ta có thể làm, thậm chí cũng không dựa trên những gì Đức Chúa Trời sẽ làm cho chúng ta, nhưng trên những gì Ngài đã làm xong cho chúng ta trong Đấng Christ. Khi sự thật ấy chiếu sáng trên chúng ta và chúng ta dựa vào đó mà an nghỉ (La. 6:11), thì đó là lúc chúng ta tìm được bí quyết của một đời sống thánh khiết.

Nhưng đúng là trong kinh nghiệm của mình chúng ta biết quá ít về điều này. Hãy ngẫm nghĩ về ví dụ sau đây. Nếu có người đưa ra một nhận xét không tốt về anh em ngay trước mặt anh em, anh em sẽ phải đối phó như thế nào với tình huống ấy? Anh em bặm môi, nghiến răng, nghẹn cổ, cố gắng tự kiếm chế; và nếu anh em hết sức nỗ lực đè nén không biểu lộ vẻ tức giận và lịch sự trả lời cách chín chắn, anh em cảm thấy mình đã đạt được một chiến thắng lớn lao. Nhưng sự tức giận vẫn còn đó; nó chỉ được che đậy mà thôi. Thậm chí thỉnh thoảng anh em không thành công trong việc nỗ lực che đậy nó. Sự rắc rối ở đây là gì? Nan đề là anh em đang cố gắng bước đi trước khi ngồi xuống, và sự thất bại chắc chắn nằm tại đó. Tôi xin nhắc lại: không một kinh nghiệm Cơ Đốc nào bắt đầu bằng cách bước đi, nhưng luôn luôn bằng cách dứt khoát ngồi xuống. Bí quyết của sự giải cứu khỏi tội không phải là làm một điều gì đó mà là an nghỉ nơi điều Đức Chúa Trời đã làm.

Một kỹ sư nọ sống tại một thành phố lớn ở phương Tây đã rời quê hương mình đến miền Viễn Đông. Anh đã xa nhà khoảng hai ba năm; trong thời gian anh vắng mặt, người vợ đã không chung thủy và bỏ chồng để đi với một trong những người bạn tốt nhất của anh. Khi trở về, anh thấy mình đã mất vợ, hai đứa con và người bạn tốt nhất. Vào lúc chấm dứt buổi nhóm mà tôi chia sẻ lời [Chúa] hôm đó, người đàn ông đau khổ này bày tỏ nỗi lòng nặng nề với tôi. Anh nói: “Ròng rã hai năm nay, ngày đêm lòng tôi đầy dẫy hận thù. Tôi là một Cơ Đốc nhân và tôi biết mình nên tha thứ cho vợ mình và người bạn ấy, nhưng dầu tôi cứ cố gắng để tha thứ cho họ, nhưng tôi vẫn không thể tha thứ được. Mỗi ngày tôi đều quyết định thương yêu họ, và mỗi ngày tôi đều thất bại. Tôi có thể làm gì được?” Tôi đáp: “Anh đừng làm gì cả”. Anh ấy kinh ngạc hỏi: “Anh muốn nói gì? Tôi phải tiếp tục ghét họ sao?” Tôi giải thích: “Cách giải quyết nan đề của anh nằm ở đây: khi Chúa Jesus chết trên Thập Tự Giá, Ngài không những mang tội lỗi của anh đi mà Ngài còn mang chính anh đi nữa. Khi Ngài bị đóng đinh, con người cũ của anh bị đóng đinh trong Ngài, cho nên con người không tha thứ của anh, con người không thể yêu thương những người đối xử xấu với mình, đã bị cất bỏ đi trong sự chết của Ngài. Đức Chúa Trời đã giải quyết toàn bộ vấn đề tại Thập Tự Giá, và không có gì còn lại để anh phải giải quyết. Anh chỉ cần thưa với Ngài: “Chúa ơi, con không thể yêu thương và con không cố gắng nữa, nhưng con tin chắc vào tình yêu trọn vẹn của Ngài. Con không thể tha thứ, nhưng con tin cậy Ngài tha thứ thay cho con, từ đây về sau, con xin Ngài làm điều đó trong con”.

Người đàn ông ngồi đó kinh ngạc hỏi: “Tất cả những điều này mới mẻ quá, tôi cảm thấy mình phải làm một điều gì đó”. Một lúc sau, anh nói thêm: “Nhưng tôi có thể làm gì?” Tôi nói: “Đức Chúa Trời đang chờ đợi cho đến khi anh ngưng hành động, khi anh ngưng hành động, đó là lúc Đức Chúa Trời sẽ bắt đầu. Anh có bao giờ cố gắng cứu một người sắp chết đuối chưa? Vấn đề là sự sợ hãi của người ấy làm cho anh ta không giao phó chính mình cho anh. Trong trường hợp ấy, có hai cách tiến hành. Hoặc là anh phải đánh cho người ấy bất tỉnh và kéo anh ta vào bờ, hoặc anh phải để mặc cho người ấy vùng vẫy và kêu la cho đến kiệt sức rồi mới cứu anh ta. Nếu cố gắng cứu người ấy trong khi anh ta còn sức lực, anh ta sẽ vồ lấy anh vì sợ hãi và làm anh đuối sức, rồi có thể cả người ấy lẫn anh đều chết. Đức Chúa Trời đang chờ đợi anh hoàn toàn kiệt sức rồi Ngài mới cứu anh được. Một khi anh ngừng chiến đấu, Ngài sẽ làm mọi sự. Đức Chúa Trời đang chờ đợi anh tuyệt vọng”.

Người bạn kỹ sư của tôi nhảy lên. Anh nói: “Anh ơi, tôi thấy rồi. Ngợi khen Đức Chúa Trời, tôi thấy ổn thỏa rồi! Tôi không phải làm gì cả. Ngài đã làm tất cả!” Sau đó anh ra về vui mừng với vẻ mặt sáng rỡ.

ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ ĐẤNG BAN CHO

Trong tất cả những ẩn dụ của các sách Phúc âm, tôi nghĩ rằng ẩn dụ về người con hoang đàng cho chúng ta hình ảnh minh họa cao nhất về cách làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Người cha nói: “Nhưng lấy làm phải lắm mà ăn mừng và vui vẻ” (Lu. 15:32). Qua những lời này, Chúa Jesus bày tỏ một điều gì đó trong lãnh vực cứu chuộc làm cho Cha Ngài vui mừng cực điểm. Đó không phải là người anh cả, tức người không ngừng làm việc lao khổ cho cha, nhưng là đứa em, tức người để cha làm mọi sự cho mình. Đó không phải là người anh cả tức người luôn luôn muốn ban cho, nhưng là đứa em tức người luôn luôn muốn nhận lãnh. Khi người con hoang đàng trở về nhà, sau khi phung phí của cải trong cuộc sống phóng túng, người cha không quở trách một lời về sự phung phí ấy hay chất vấn gì cả về của cải. Ông không buồn rầu về tất cả những gì đã bị tiêu hao, ông chỉ vui mừng về việc đứa con trở về cho ông có cơ hội chi tiêu hơn nữa.

Đức Chúa Trời giàu có đến nỗi niềm vui chính yếu của Ngài là ban cho. Kho tàng của Ngài đầy dẫy đến nỗi Ngài đau đớn khi chúng ta từ chối không cho Ngài có cơ hội để ban châu báu ấy cho chúng ta cách hào phóng. Cha vui mừng khi thấy người con hoang đàng cần áo, nhẫn, giày, và một bữa tiệc. Ông buồn rầu khi không tìm thấy nhu cầu ấy trong người con cả. Lòng Đức Chúa Trời buồn rầu khi chúng ta cố gắng cung ứng mọi sự cho Ngài. Ngài vô cùng giàu có. Chúng ta đem đến cho Ngài niềm vui thật khi để Ngài ban cho, ban cho và lại ban cho chúng ta. Khi chúng ta cố gắng làm việc cho Ngài, chúng ta làm cho Ngài buồn rầu, vì Ngài có khả năng vô cùng. Ngài ao ước chúng ta để cho Ngài làm, làm và làm. Ngài muốn làm Đấng ban cho đời đời, và Ngài muốn làm Đấng hành động đời đời. Nếu chúng ta thấy Ngài giàu có và lớn lao biết bao, chúng ta sẽ để Ngài ban cho tất cả và hành động trong mọi sự.

Anh em có nghĩ rằng nếu ngừng cố gắng làm đẹp lòng Đức Chúa Trời thì mình sẽ không còn những hành vi, phẩm hạnh tốt đẹp nữa không? Nếu để Ngài ban cho tất cả và hành động trong mọi sự, phải chăng anh em nghĩ rằng kết quả sẽ không tốt đẹp bằng nếu anh em tự làm phần nào? Khi chúng ta tìm cách tự làm việc, đó là lúc chúng ta tự đặt mình trở lại dưới Luật Pháp. Nhưng các công việc luật pháp, ngay cả những nỗ lực tốt nhất của chúng ta, đều là “công việc chết”, đáng ghét đối với Đức Chúa Trời vì không có hiệu quả gì cả. Trong ẩn dụ này, cả hai người con đều xa cách niềm vui trong nhà cha y như nhau. Đúng vậy, người con cả không sống tại một xứ xa xôi, nhưng anh chỉ ở nhà trên lý thuyết mà thôi. “Này, con hầu việc cha đã bấy nhiêu năm... mà...”: lòng anh chưa bao giờ được an nghỉ. Cũng giống như người con hoang đàng, người con cả không bao giờ vui hưởng địa vị mình đã có trên lý thuyết trong khi cứ bám vào những việc lành của mình.

Chỉ hãy ngừng “ban cho”, thì anh em sẽ chứng minh Đức Chúa Trời là “Đấng Ban Cho” [phong phú] dường nào! Hãy ngừng “làm việc”, thì anh em sẽ khám phá Đức Chúa Trời là “Đấng Làm Việc” [kỳ diệu] biết bao. Người con trai thứ hoàn toàn sai lầm, nhưng anh trở về nhà và được an nghỉ, đó là chỗ bắt đầu của đời sống Cơ Đốc. “Đức Chúa Trời là Đấng giàu lòng thương xót, vì tình thương yêu lớn lao của Ngài mà Ngài đã thương yêu chúng ta... làm cho chúng ta cùng đồng ngồi với Ngài trong các nơi trên trời trong Christ Jesus” (Êph. 2:4, 6). “Lấy làm phải lắm mà ăn mừng và vui vẻ!”


Chương Hai

ĐI

Chúng tôi đã cố gắng làm sáng tỏ rằng kinh nghiệm của Cơ Đốc nhân không bắt đầu bằng cách đi, nhưng bằng cách ngồi. Mỗi khi chúng ta đảo lộn thứ tự thần thượng thì kết quả sẽ rất bi thảm. Chúa Jesus đã làm mọi sự cho chúng ta, và hiện nay, nhu cầu của chúng ta là an nghỉ với lòng tin chắc nơi Ngài. Ngài đã được đặt ngồi trên ngai, cho nên chúng ta cũng được đắc thắng trong sức mạnh của Ngài. Dầu có nhấn mạnh đến mức nào cũng không phải là quá đáng khi chúng ta nói rằng mọi kinh nghiệm thuộc linh thật đều bắt đầu từ sự an nghỉ.

Tuy nhiên, sự việc không kết thúc tại đó. Mặc dầu đời sống Cơ Đốc bắt đầu với việc ngồi, nhưng theo sau đó luôn luôn là bước đi. Một khi chúng ta đã được đặt ngồi cách tốt đẹp và đúng đắn và tìm được sức mạnh của mình trong việc ngồi xuống, thì chúng ta sẽ thật sự bắt đầu bước đi. “Ngồi” mô tả địa vị của chúng ta với Đấng Christ trong cõi thiên thượng. “Đi” là sự hành động, bày tỏ ra cách thực tiễn địa vị thiên thượng ấy trên đất này. Là một dân thiên thượng, chúng ta được đòi hỏi phải mang dấu ấn của cõi thiên thượng trên mình trong cách cư xử ở thế gian, và điều này làm nổi lên một số vấn đề mới. Vì thế, bây giờ chúng ta phải đặt câu hỏi: Thư Ê-phê-sô nói gì với chúng ta về việc bước đi? Chúng ta sẽ thấy thư này khuyên chúng ta hai điều. Bây giờ, chúng ta hãy xem xét điều thứ nhất.

“Vậy, tôi, là tù nhân trong Chúa, nài khuyên anh em hãy bước đi cách xứng đáng với sự kêu gọi mà anh em đã được gọi, với tất cả sự khiêm nhường và nhu mì...” (4:1, 2).

“Đây là điều tôi nói... anh em đừng nên bước đi như người Ngoại Bang nữa, theo sự hư không của tâm trí họ... Nhưng... lại phải đổi mới trong linh của tâm trí mình” (4:17, 23).

“Hãy bước đi trong tình yêu, cũng như Đấng Christ đã thương yêu anh em và phó chính mình vì anh em” (5:2).

“Hãy bước đi như con cái của sự sáng... xét nghiệm điều gì đẹp lòng Chúa” (5:8, 10).

Từ ngữ “bước đi” được dùng tám lần trong thư Ê-phê-sô. Về nghĩa đen, từ ngữ này có nghĩa là “đi bộ đây đó”, Phao-lô sử dụng ở đây theo nghĩa bóng, có ý nói về sự “cư xử”, “điều khiển hành vi của mình”. Từ ngữ này tức khắc đem chúng ta đến đối diện với đề tài về cách cư xử của Cơ Đốc nhân, và phần thứ hai của bức thư bàn nhiều về điều này. Nhưng trong phần trước, chúng ta đã thấy Thân Thể của Đấng Christ, sự tương giao của các tín đồ Đấng Christ, là một chủ đề lớn khác của Thư Ê-phê-sô. Bây giờ, ở đây trong chương bốn, vấn đề bước đi thánh khiết được nêu ra trong khi chúng ta xem xét đến sự tương giao ấy. Trong ánh sáng sự kêu gọi thiên thượng của chúng ta, Phao-lô tiến tới thách thức chúng ta trong toàn bộ lãnh vực bao gồm mọi mối quan hệ của chúng ta, vừa ở tại nhà riêng, vừa ở chốn công cộng; ông quan tâm cách thực tiễn hơn hết đến tất cả những người láng giềng, vợ chồng, cha mẹ và con cái, chủ nhân và công nhân.

Chúng ta phải sáng tỏ rằng Thân Thể của Đấng Christ không phải là một điều gì xa xôi, không thật, và chỉ được diễn tả bằng những từ ngữ thiên thượng. Thân Thể ấy đang hiện hữu và thực tế, thật sự thử nghiệm lối cư xử của chúng ta trong những mối quan hệ với người khác. Vì mặc dầu chúng ta đúng là một dân tộc thuộc thiên thượng, nhưng nếu chỉ nói về cõi trời ở nơi xa xôi là điều không ích lợi gì cả. Nếu chúng ta không đem tính cách thiên thượng vào nơi chúng ta cư ngụ, vào văn phòng, cửa tiệm, nhà bếp của mình và thực hành tại đó, thì sẽ chẳng có ý nghĩa gì cả. Các bạn thân mến, tôi xin đề nghị những ai làm cha mẹ và làm con cái hãy nhìn vào Tân Ước để xem cha mẹ nên [cư xử] như thế nào và con cái nên [sống] ra sao? Có thể chúng ta rất ngạc nhiên, vì tôi sợ rằng nhiều người trong chúng ta nói mình được ngồi trong cõi thiên thượng cùng với Đấng Christ lại phô bày một lối bước đi đáng nghi ngờ tại nhà riêng của mình. Vợ chồng cũng vậy, có nhiều phân đoạn Kinh thánh dành cho họ. Xin hãy đọc Ê-phê-sô chương 5, và sau đó đến 1 Cô-rin-tô chương 7. Mỗi người chồng, người vợ sẽ được ích lợi nhiều nếu đọc kỹ 1 Cô-rin-tô chương 7 để khám phá một cuộc sống hôn nhân đích thực đòi hỏi những gì, tức là một cuộc sống hôn nhân thuộc linh trước mặt Chúa, chứ không phải chỉ trên lý thuyết. Anh em sẽ không dám lý thuyết hóa một điều thực tế như vậy.

Bây giờ, hãy nhìn vào lãnh vực bao gồm các mối quan hệ của Cơ Đốc nhân, trong phần này, những mạng lịnh Đức Chúa Trời đặt trước mặt chúng ta thẳng thắn biết bao. “Phải bước đi... kiên nhẫn... khoan dung lẫn nhau”. “Phải chừa sự nói dối, mỗi người phải nói thật với kẻ lân cận mình”. “Nếu có giận thì đừng phạm tội”. “Đừng trộm cắp nữa”. “Phải cất bỏ khỏi anh em mọi sự cay đắng”. “Hãy lấy sự nhân từ... tha thứ nhau”. “Hãy... vâng phục nhau”. “Đừng chọc giận”. “Hãy vâng phục”. “Đừng hăm dọa”. Không có điều gì thực tế hơn bảng liệt kê những mạng lịnh này.

Tôi xin nhắc anh em rằng chính Chúa Jesus bắt đầu sự dạy dỗ của Ngài với những lời này. Anh em hãy lưu ý kỹ lời của phân đoạn này từ Bài Giảng Trên Núi của Ngài: “Các ngươi đã nghe phán rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng; nhưng Ta nói cùng các ngươi: Đừng chống cự kẻ ác. Trái lại, hễ ai vả má bên phải ngươi, hãy đưa má kia cho họ luôn, hoặc ai muốn kiện ngươi để lấy áo trong, hãy để họ lấy luôn áo ngoài nữa, hay là ai muốn bắt ngươi đi một dặm, hãy đi hai dặm với họ. Ai xin ngươi, hãy cho, ai muốn mượn của ngươi, thì đừng làm ngơ. Các ngươi đã nghe phán rằng: Hãy yêu người lân cận, và ghét kẻ thù nghịch; nhưng Ta phán cùng các ngươi: Hãy yêu kẻ thù nghịch các ngươi, và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi, hầu cho các ngươi được làm con của Cha các ngươi ở trên trời; vì Ngài khiến mặt trời soi trên kẻ ác cùng người thiện, mưa cho người công chính cùng kẻ bất chính. Nếu các ngươi yêu người yêu mình, thì có được phần thưởng gì đâu? Kẻ thâu thuế không làm như vậy sao? Lại nếu các ngươi chỉ chào anh em mình mà thôi, thì có lạ gì hơn ai? Người Ngoại Bang không làm như vậy sao? Thế thì, các ngươi hãy nên hoàn hảo như Thiên Phụ các ngươi là hoàn hảo” (Mat. 5:38-48).

Anh em nói: “Nhưng tôi không thể làm điều đó. Đó là những mạng lịnh không thể thực hiện được”. Giống như người bạn kỹ sư của tôi, có lẽ anh em cảm thấy mình bị đối xử xấu, có thể bị đối xử xấu kinh khủng, và anh em không thể tha thứ. Anh em ở về phía lẽ phải, và hành động của kẻ thù anh em hoàn toàn không công bình. Yêu kẻ thù là điều lý tưởng, nhưng không thể thực hiện được.

SỰ HOÀN HẢO CỦA CHA

Kể từ ngày A-đam ăn trái của cây kiến thức, con người đã tham gia vào việc quyết định điều gì là tốt và điều gì là xấu. Con người thiên nhiên đã đưa ra những tiêu chuẩn đúng và sai, công bình và bất công, và nỗ lực sống theo những tiêu chuẩn ấy. Là những Cơ Đốc nhân, dĩ nhiên chúng ta khác họ. Nhưng chúng ta khác như thế nào? Từ lúc được hoán cải, một cảm nhận mới về sự công chính phát triển trong chúng ta, kết quả là chúng ta cũng bị chi phối bởi vấn đề tốt và xấu một cách đúng đắn. Nhưng chúng ta có nhận biết rằng khởi điểm là điều khác biệt không? Đấng Christ là Cây Sự Sống đối với chúng ta. Chúng ta không bắt đầu từ vấn đề đúng sai theo mặt đạo đức. Chúng ta không bắt đầu từ cây kia. Chúng ta bắt đầu từ Ngài; và tất cả vấn đề đối với chúng ta là vấn đề Sự Sống.

Không có gì gây thiệt hại cho chứng cớ Cơ Đốc của chúng ta hơn việc chúng ta cố gắng trở nên đúng đắn và đòi hỏi người khác phải đúng đắn. Chúng ta có thành kiến về những gì đúng và không đúng. Chúng ta tự hỏi xem mình đã được đối xử công bình hay bất công, và vì vậy, chúng ta suy nghĩ để biện minh cho những hành động của mình. Nhưng đó không phải là tiêu chuẩn của chúng ta. Toàn bộ vấn đề dành cho chúng ta là việc vác Thập Tự Giá. Anh em hỏi tôi: “Một người vả vào má tôi có đúng không?” Tôi đáp: “Dĩ nhiên là không! Nhưng vấn đề là anh em chỉ muốn điều đúng thôi sao?” Là những Cơ Đốc nhân, tiêu chuẩn sống của chúng ta không bao giờ là “đúng hay sai”, mà là Thập Tự Giá. Nguyên tắc Thập Tự Giá là nguyên tắc hành vi của chúng ta. Ngợi khen Đức Chúa Trời vì Ngài làm cho mặt trời Ngài soi trên kẻ ác và người lành. Đối với Ngài, đó là vấn đề ân điển chứ không phải đúng sai. Nhưng đó cũng là tiêu chuẩn của chúng ta: “Tha thứ nhau cũng như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Christ vậy” (4:32). “Đúng hay sai” là nguyên tắc của người Ngoại Bang và người thâu thuế. Đời sống tôi phải được nguyên tắc Thập Tự Giá và sự hoàn hảo của Cha cai trị: “Thế thì các ngươi hãy nên hoàn hảo như Thiên Phụ các ngươi là hoàn hảo”. Một anh em ở miền nam Trung Quốc có ruộng lúa ở lưng đồi. Vào mùa khô, anh dùng một bánh xe nước, chạy bằng cối xay guồng, để đưa nước từ suối cung cấp nước tưới vào ruộng mình. Người hàng xóm của anh có hai thửa ruộng ở dưới ruộng của anh, và một đêm kia, người ấy xoi một cái lỗ nơi bờ đê ngăn giữa ruộng anh em ấy với ruộng của anh ta, và rút hết nước xuống ruộng dưới. Khi anh em ấy sửa chỗ lủng nơi bờ đê và bơm thêm nước vào ruộng mình, người hàng xóm lại xoi lỗ, rút nước của ruộng anh em ấy đi. Việc này xảy ra ba bốn lần. Vì vậy, anh em ấy hỏi ý kiến các anh em khác. Anh nói: “Tôi đã cố gắng kiên nhẫn và không trả đũa. Nhưng như vậy có đúng không?” Sau khi họ cầu nguyện với nhau về điều này, một người trả lời: “Nếu chúng ta chỉ cố gắng làm điều đúng, chắc chắn chúng ta là những Cơ Đốc nhân rất tầm thường. Chúng ta phải hành động hơn những gì đúng”. Lời ấy gây ấn tượng mạnh mẽ nơi anh em ấy. Sáng hôm sau, anh bơm nước vào hai ruộng dưới, và chiều hôm đó, anh bơm nước vào ruộng mình. Sau đó, nước được giữ lại trong ruộng anh. Người hàng xóm của anh rất ngạc nhiên trước hành động ấy và bắt đầu tìm hiểu lý do, và cuối cùng, chính anh ta cũng trở thành một Cơ Đốc nhân.

Vì vậy, anh em tôi ơi, đừng đứng trên cái đúng của mình. Đừng cảm thấy rằng vì mình đã đi dặm đường thứ hai, nên mình đã làm điều công bình. Dặm đường thứ hai chỉ tượng trưng cho dặm thứ ba và dặm thứ tư. Nguyên tắc ở đây là đồng hóa với Đấng Christ. Chúng ta không có gì để bênh vực, không có gì để yêu cầu hay đòi hỏi. Chúng ta chỉ phải ban cho. Khi Chúa Jesus chết trên Thập Tự Giá, Ngài không chết để bảo vệ “quyền lợi” của chúng ta; ân điển đã đưa Ngài lên đó. Bây giờ, là con cái Ngài, chúng ta luôn luôn cố gắng ban cho người khác những gì họ xứng đáng và còn hơn nữa.

Chúng ta phải tự nhắc nhở rằng mình thường không đúng. Chúng ta thất bại, và luôn luôn được hữu ích khi học tập từ những thất bại của mình, sẵn sàng xưng tội và vui lòng làm quá những gì cần phải làm. Chúa muốn như vậy. Vì sao? “Để các ngươi được làm con của Cha các ngươi ở trên trời” (Mat. 5:45). Vấn đề là về quyền làm con trên thực tế. Đúng như vậy, Đức Chúa Trời đã “dự định cho chúng ta nhờ Jesus Christ được danh phận con cái” (Êph. 1:5), nhưng chúng ta lầm lẫn khi suy nghĩ rằng mình “đã lớn rồi”, tức chúng ta đã là con trưởng thành rồi. Bài Giảng Trên Núi dạy chúng ta biết rằng con cái đạt đến trách nhiệm làm con theo mức độ họ bày tỏ tình trạng gần gũi của linh và thái độ thân thiết đối với Cha. Chúng ta được kêu gọi để trở nên hoàn hảo trong tình yêu, bày tỏ ân điển của Ngài. Vì thế Phao-lô cũng viết: “Vậy, anh em hãy nên người bắt chước Đức Chúa Trời như con cái yêu dấu, và hãy bước đi trong tình yêu thương, cũng như Đấng Christ đã thương yêu anh em, và phó chính mình vì anh em” (5:1, 2).

Chúng ta phải đối diện với một thử thách. Ma-thi-ơ chương 5 đặt ra một tiêu chuẩn mà có lẽ chúng ta cảm thấy quá cao, và trong phần Thư Ê-phê-sô này, Phao-lô đã xác nhận tiêu chuẩn ấy. Nan đề đơn giản là trong chính bản chất thiên nhiên của mình chúng ta không tìm thấy phương tiện để đạt đến tiêu chuẩn ấy, để bước đi “cách thích hợp với các thánh đồ” (5:3). Như vậy, câu trả lời cho nan đề của chúng ta về những đòi hỏi rất cao của Đức Chúa Trời nằm ở đâu?

Theo lời Phao-lô, bí quyết là: “quyền năng hành động trong chúng ta” (3:20). Trong một phân đoạn tương tự (Côl. 1:29), ông nói: “Tôi cũng vì đó mà chịu lao khổ, chiến đấu theo sự hành động của Ngài đang hoạt động trong tôi cách quyền năng”.

Chúng ta trở lại phần đầu của Thư Ê-phê-sô. Sức mạnh bí mật của đời sống Cơ Đốc là gì? Quyền năng của sức mạnh ấy đến từ đâu? Tôi xin trả lời cho anh em bằng một câu: Bí quyết của Cơ Đốc nhân là sự an nghỉ của họ trong Đấng Christ. Quyền năng của Cơ Đốc nhân đến từ địa vị Đức Chúa Trời đã ban cho họ. Hễ ai ngồi đều có thể bước đi, vì trong tư tưởng của Đức Chúa Trời, điều này tự động nối tiếp điều kia. Chúng ta ngồi mãi mãi với Đấng Christ để có thể bước đi liên tục trước mặt loài người. Nếu bỏ chỗ an nghỉ của mình trong Ngài, thì chỉ trong phút chốc chúng ta sẽ vấp ngã ngay lập tức, và chứng cớ của chúng ta trong thế gian bị tổn hại. Nhưng nếu ở trong Đấng Christ, thì vị trí của chúng ta ở tại đó sẽ bảo đảm cho chúng ta có quyền năng để bước đi xứng đáng với Ngài tại đây. Nếu anh em muốn có một hình ảnh minh họa cho diễn biến này, trước hết, hãy suy nghĩ, không phải về một người chạy trong cuộc đua, nhưng một người ngồi trong xe hơi, hay tốt hơn nữa, một người què ngồi trong một toa xe mà toa xe này tự nó không có năng lực nhưng được kéo chạy bằng máy. Anh ấy làm gì? Anh ấy đi, nhưng anh ấy cũng ngồi. Anh tiếp tục đi vì anh tiếp tục ngồi. Anh tiến tới tùy theo vị trí mà anh đã được đặt ngồi vào trong ấy. Dĩ nhiên điều này còn kém xa so với hình ảnh hoàn hảo về đời sống Cơ Đốc, nhưng chúng ta có thể dùng nó để nhắc nhở mình rằng cách cư xử và hành vi của chúng ta tùy thuộc một cách cơ bản vào sự an nghỉ bề trong của chúng ta nơi Đấng Christ.

Điều này giải thích ngôn ngữ của Phao-lô ở đây. Trước hết, ông học ngồi. Ông đã đến chỗ an nghỉ trong Đức Chúa Trời. Kết quả là sự bước đi của ông không dựa vào nỗ lực của mình nhưng nơi hành động mạnh mẽ bên trong của Đức Chúa Trời. Bí quyết sức mạnh của ông nằm tại đó. Phao-lô đã thấy chính mình ngồi trong Đấng Christ; vì vậy, bước đi của ông trước mặt loài người mang tính chất của Đấng Christ là Đấng ngự trong ông. Không có gì lạ khi ông cầu nguyện cho người Ê-phê-sô: “Hầu cho Đấng Christ nhơn đức tin mà ngự trong lòng anh em” (3:17).

Chiếc đồng hồ đeo tay lên dây của tôi chạy bằng cách nào? Bằng cách tự chuyển động trước hay bằng cách được chuyển động? Dĩ nhiên nó chạy vì được chuyển động bởi một năng lực bên ngoài không phải của chính nó. Chỉ khi ấy chiếc đồng hồ mới làm được công việc mà nó được định phải làm. Có những công tác chúng ta được hoạch định phải làm. “Vì chúng ta là công tác của Ngài, được dựng nên trong Christ Jesus vì việc lành, mà Đức Chúa Trời trước kia đã dự bị cho chúng ta bước đi trong các việc lành ấy” (2:10). Phao-lô viết cho người Phi-líp: “Hãy lấy lòng sợ sệt run rẩy mà làm nên sự cứu rỗi của anh em, vì ấy là Đức Chúa Trời hành động trong anh em, để vừa muốn vừa làm theo ý muốn tốt lành của Ngài”. Đức Chúa Trời đang hành động bên trong, anh em hãy bày tỏ ra bên ngoài! Đó là bí quyết. Nhưng nếu chúng ta không vui lòng để Đức Chúa Trời hành động bên trong, thì thật là vô ích khi chúng ta cố gắng làm những việc làm bên ngoài. Chúng ta thường cố gắng nhu mì và hòa nhã mà không nhận biết rằng Đức Chúa Trời vận hành sự nhu mì và hòa nhã của Đấng Christ bên trong chúng ta nghĩa là gì. Chúng ta cố gắng bày tỏ tình yêu, và thấy mình không yêu thương gì cả, nên chúng ta xin Chúa ban tình yêu. Sau đó chúng ta ngạc nhiên vì dường như Ngài không ban tình yêu cho chúng ta.

Tôi xin dùng lại một hình ảnh minh họa đã nêu lên trong chương trước. Có lẽ có một người nào đó mà anh em cảm thấy thật là một thử thách cho mình và anh em thường xuyên gặp nan đề với người ấy. Bất cứ khi nào anh em gặp anh ấy, anh đều nói hay làm một điều gì đó với ý định chọc giận anh em. Điều này làm cho anh em bực mình. Anh em nói: “Tôi là một Cơ Đốc nhân, tôi nên thương yêu anh ấy! Tôi muốn thương yêu anh ấy, thật vậy, tôi quyết định thương yêu anh ấy!” Và anh em cầu nguyện tha thiết: “Chúa ôi, xin gia tăng tình yêu con dành cho anh ấy. Ôi Đức Chúa Trời, xin ban cho con tình yêu!” Sau đó, anh em quyết tâm và tập trung hết năng lực của ý chí, bước ra với một lòng ao ước bày tỏ cho anh ấy tình yêu mà anh em đã cầu xin. Nhưng than ôi, khi gặp mặt anh ấy thì lại có điều gì đó xảy ra làm tiêu tan hết mọi ý định tốt lành của anh em. Thái độ của anh ấy đối với anh em không một chút khích lệ nhưng hoàn toàn ngược lại, và ngay lập tức, sự căm tức bấy lâu lại bùng nổ, và một lần nữa, điều tốt nhất mà anh em có thể làm là tỏ ra lịch sự với anh ấy. Vì sao vậy? Chắc chắn anh em không có gì sai lầm khi tìm kiếm tình yêu của Đức Chúa Trời, phải không? Đúng thế, nhưng anh em sai lầm khi tìm kiếm tình yêu ấy như một điều riêng lẻ, như một kiện hàng, trong khi Đức Chúa Trời ao ước bày tỏ tình yêu của Con Ngài qua anh em.

Đức Chúa Trời đã ban Đấng Christ cho chúng ta. Giờ đây không có điều gì để chúng ta nhận lãnh ở bên ngoài Con ấy. Thánh Linh đã được sai đến để sản sinh ra những gì của Đấng Christ trong chúng ta, không phải để sản sinh một điều gì tách rời với Ngài hay bên ngoài Ngài. Chúng ta “nhờ Thánh Linh của Ngài lấy quyền năng mà làm cho anh em được mạnh mẽ nơi người bề trong;... được biết tình yêu thương của Đấng Christ” (3:16, 19). Những gì chúng ta bày tỏ bên ngoài là những gì Đức Chúa Trời đặt trong chúng ta trước.

Một lần nữa, anh em hãy nhớ lại những lời quan trọng trong 1 Cô-rin-tô 1:30. Không những Đức Chúa Trời đặt chúng ta “trong Đấng Christ”, mà cũng nhờ Ngài “Christ Jesus... trở nên sự khôn ngoan, sự công chính, sự thánh hóa, và sự cứu chuộc cho chúng ta”. Đó là một trong những lời tuyên bố lớn lao nhất trong Kinh thánh. Ngài “trở nên... cho chúng ta”.

Nếu tin điều này, chúng ta có thể đặt vào đó tất cả những gì mình cần, và có thể biết rằng Đức Chúa Trời làm điều đó mãi mãi, vì nhờ Thánh Linh trong chúng ta, chính Chúa Jesus trở nên bất cứ điều gì chúng ta thiếu. Chúng ta đã quen nhìn sự thánh khiết như một mỹ đức, nhìn sự khiêm nhường như một ân điển, nhìn tình yêu như một sự ban cho từ Đức Chúa Trời mà chúng ta cần tìm kiếm. Nhưng chính Đấng Christ của Đức Chúa Trời là mọi điều chúng ta cần.

Trước đây, nhiều lúc có nhu cầu, tôi thường nghĩ Đấng Christ là một thân vị riêng biệt, và tôi đã không nhận ra Ngài một cách thực tế như vậy, tức là Ngài đồng nhất với “những điều” mà tôi cảm thấy mình rất đang thiếu thốn. Trong suốt hai năm, tôi mò mẫm trong bóng tối ấy, tìm cách tích lũy những mỹ đức mà tôi cảm nhận chắc chắn sẽ tạo nên đời sống Cơ Đốc, và những nỗ lực ấy của tôi cũng chẳng đi đến đâu. Rồi một ngày kia, vào năm 1933, ánh sáng từ trời chiếu rọi tôi, và tôi thấy Đấng Christ đã được Đức Chúa Trời dự định ban cho tôi trong sự đầy trọn của Ngài. Thật khác biệt dường nào! Ô, những “điều này, điều kia” thật trống rỗng biết bao! Khi chúng ta nắm giữ những điều ấy tách rời mối liên hệ với Đấng Christ thì chúng chết. Một khi chúng ta thấy điều này, đó sẽ là khởi đầu của một cuộc sống mới cho chúng ta. Sự thánh khiết của chúng ta từ đó sẽ được viết hoa. Tình yêu của chúng ta cũng được viết hoa. Chính Ngài được bày tỏ là câu giải đáp trong chúng ta đối với mọi đòi hỏi của Đức Chúa Trời.

Bây giờ chúng ta hãy trở lại với người anh em khó tính kia, nhưng lần này, trước khi anh em đi, hãy nói với Đức Chúa Trời như thế này: “Chúa ơi, cuối cùng điều này đã trở nên sáng tỏ đối với con, tự con, con không thể yêu thương anh ấy chút nào; nhưng bây giờ con biết rằng có một sự sống trong con, là sự sống của Con Ngài, và luật của sự sống ấy là yêu thương. Sự sống ấy không thể làm gì hơn là yêu thương anh ấy”. Anh em không cần phải ráng sức. Hãy an nghỉ trong Ngài. Hãy nhờ cậy sự sống của Ngài. Như vậy, anh em mới dám đến gặp anh ấy và nói chuyện với anh, đó là điều kỳ diệu! Anh em thấy mình nói chuyện với anh ấy nhẹ nhàng mà chính mình không nhận biết (tôi muốn nhấn mạnh từ ngữ “không nhận biết” ở đây, vì sự nhận biết chỉ đến sau đó), anh em yêu thương anh ấy mà không nhận biết mình yêu thương, anh em nhận biết anh ấy là anh em của mình mà không ý thức điều đó. Anh em trò chuyện với anh ấy một cách tự do, trong sự tương giao thật, và rồi đến lượt chính anh em thấy mình phải ngạc nhiên thốt lên: “Sao vậy nhỉ, bây giờ tôi không để ý lo lắng chút nào, mà tôi lại chẳng bực mình gì cả. Chúa ở với tôi, và tình yêu Ngài đã chiến thắng một cách không thể giải thích được”.

Sự hành động của sự sống Ngài trong chúng ta thì tự phát theo một ý nghĩa đích thật, tức là không có nỗ lực của chúng ta. Luật quan trọng hơn hết không phải là “cố gắng”, mà là “tin cậy”, không nhờ vào sức mạnh của chúng ta, nhưng sức mạnh của Ngài. Vì chính dòng sự sống cho thấy chúng ta thật sự là gì “trong Đấng Christ”. Nước ngọt ngào tuôn chảy ra từ Nguồn sự sống.

Quá nhiều người trong chúng ta bị bắt gặp đang đóng kịch làm một Cơ Đốc nhân. Đời sống của nhiều Cơ Đốc nhân ngày nay phần lớn là giả vờ. Họ sống một đời sống “thuộc linh”, nói một ngôn ngữ “thuộc linh”, tiếp thu những thái độ “thuộc linh”, nhưng tự họ đang làm mọi sự. Nỗ lực của họ trong việc này bày tỏ cho họ biết có điều gì đó sai trật. Họ ra sức kiềm chế mình không làm điều này, không nói điều kia, không ăn món nọ, và họ thấy tất cả đều khó nhọc biết bao! Cũng giống như khi người Hoa cố gắng nói một ngôn ngữ không phải của mình, dù có cố gắng đến đâu, ngôn ngữ ấy cũng không đến cách tự phát; chúng ta bị ép buộc phải nói như vậy. Nhưng khi nói ngôn ngữ của mình, thì không có gì dễ dàng hơn. Thậm chí khi chúng ta quên hết mình đang làm gì, chúng ta vẫn nói được. Ngôn ngữ ấy cứ tuôn tràn ra. Nó đến với chúng ta hoàn toàn tự nhiên, và chính sự tự nhiên ấy bày tỏ cho mọi người biết chúng ta là ai.

Sự sống của chúng ta là sự sống của Đấng Christ, do chính Thánh Linh cư ngụ bên trong thực hiện bên trong chúng ta, và luật của sự sống ấy là tự nhiên. Giây phút chúng ta thấy sự kiện ấy, chúng ta sẽ chấm dứt mọi sự phấn đấu và ném bỏ sự đóng kịch của mình. Không gì tổn thương cho sự sống của một Cơ Đốc nhân cho bằng tình trạng đóng kịch; không gì phước hơn cho bằng khi chúng ta ngừng nỗ lực bề ngoài và thái độ của mình trở nên tự nhiên, tức là khi lời nói, lời cầu nguyện, chính đời sống chúng ta, mọi sự đều bày tỏ sự sống trong chúng ta cách tự nhiên và không ép buộc. Chúng ta đã khám phá Chúa tốt lành như thế nào chưa? Khi ấy, Ngài tốt lành y như vậy trong chúng ta! Quyền năng của Ngài có lớn lao không? Khi ấy quyền năng Ngài trong chúng ta cũng lớn lao không kém! Ngợi khen Đức Chúa Trời, sự sống của Ngài vẫn mạnh mẽ như bao giờ, trong đời sống của những người dám tin Lời Đức Chúa Trời, sự sống thần thượng sẽ bày tỏ trong một quyền năng không kém thời xa xưa chút nào.

Chúa có ý nói gì khi Ngài phán: “Nếu sự công chính của các ngươi chẳng trổi hơn sự công chính của các nhà thông giáo và người Pha-ri-si, thì các ngươi hẳn không vào vương quốc các từng trời được”? (Mat. 5:20). Trên đây, chúng ta đã thấy thế nào Ngài tiếp tục nêu sự tương phản giữa những đòi hỏi của luật pháp Môi-se và những đòi hỏi lớn lao của chính Ngài, bằng cách dùng đi dùng lại những lời sau: “Các ngươi đã nghe phán rằng... nhưng Ta nói cùng các ngươi...” Tuy nhiên, trải qua nhiều thế kỷ, loài người đã tìm cách đạt đến tiêu chuẩn thứ nhất và đã thất bại, làm sao Chúa lại dám nâng tiêu chuẩn lên cao hơn? Ngài có thể làm như vậy vì Ngài tin vào chính sự sống của Ngài. Ngài không sợ đưa ra những đòi hỏi cao nhất cho Ngài. Thật ra, chúng ta được an ủi khi đọc luật của vương quốc được đưa ra trong Ma-thi-ơ từ chương 5 đến chương 7, vì những chương này cho thấy Chúa tuyệt đối tin tưởng sự sống của Ngài, là sự sống đã dành sẵn cho con cái Ngài. Ba chương này đưa ra những yêu cầu thần thượng của sự sống thần thượng. Những đòi hỏi lớn lao của Ngài đối với chúng ta chỉ bày tỏ Ngài tin rằng nguồn tài nguyên mà Ngài đã đặt trong chúng ta có thể đáp ứng những đòi hỏi ấy cách trọn vẹn. Đức Chúa Trời không đòi hỏi những gì mà Ngài không thực hiện, nhưng chúng ta phải gieo mình nương dựa nơi Ngài để những điều này được thực hiện.

Có phải chúng ta đang đối phó với một tình huống khó khăn không? Đó là một nan đề đúng hay sai thiện hay ác? Chúng ta không cần tìm sự khôn ngoan. Chúng ta không còn cần áp dụng cây kiến thức. Chúng ta có Đấng Christ, là Đấng đã trở nên sự khôn ngoan từ Đức Chúa Trời cho chúng ta. Luật của Linh sự sống trong Christ Jesus tiếp tục truyền đạt những tiêu chuẩn đúng, sai của Ngài cho chúng ta, và cùng với những tiêu chuẩn ấy là thái độ của linh để đáp ứng tình huống khó khăn ấy.

Nhiều điều và nhiều điều hơn nữa sẽ xảy ra để làm tổn thương cảm nhận của Cơ Đốc nhân chúng ta về sự công chính và để thử nghiệm phản ứng của chúng ta. Chúng ta cần học tập nguyên tắc Thập Tự Giá, ấy là tiêu chuẩn của chúng ta ngày nay không phải là con người cũ, mà là con người mới, “là người đã được dựng nên y theo Đức Chúa Trời trong sự công chính và sự thánh khiết của lẽ thật” (4:22-24). “Chúa ôi, con không có quyền bào chữa. Mọi sự con có là nhờ ân điển Ngài, và mọi sự đều ở trong Ngài!” Tôi được biết về một bà cụ tín đồ người Nhật bị một tên trộm đột nhập vào nhà. Trong đức tin đơn sơ nhưng thực tế của bà, bà nấu cho tên trộm một bữa ăn, rồi trao chìa khóa cho anh ta. Do hành động của bà, tên trộm cảm thấy xấu hổ, và Đức Chúa Trời đã phán với anh ta. Qua lời chứng của bà, người ấy hiện nay là một anh em trong Đấng Christ.

Quá nhiều Cơ Đốc nhân có đủ mọi giáo lý nhưng sống đời sống trái ngược với giáo lý ấy. Họ biết mọi điều từ chương một đến chương ba của Thư Ê-phê-sô, nhưng họ không thực hành những điều từ chương bốn đến chương sáu. Không có giáo lý thì tốt hơn là sống mâu thuẫn với giáo lý. Đức Chúa Trời truyền dạy một điều gì đó ư? Vậy thì anh em hãy gieo mình nương dựa nơi Ngài để có phương tiện thực hiện điều Ngài đã truyền dạy. Nguyện Chúa dạy dỗ chúng ta rằng toàn bộ nguyên tắc của đời sống Cơ Đốc là tiến xa hơn những gì đúng để làm điều đẹp lòng Ngài.

CHUỘC LẠI THÌ GIỜ

Nhưng chúng ta vẫn cần phải nói thêm một điều gì đó để bổ túc cho phần trên đây về đề tài bước đi của Cơ Đốc nhân chúng ta. Từ ngữ “bước đi” hiển nhiên có một ý nghĩa sâu xa hơn. Trước hết nó gợi ý về cách cư xử hay hành vi, nhưng nó cũng chứa đựng ý tưởng về sự tiến bộ. Bước đi là “tiến tới”, “tiến triển” và bây giờ chúng ta cần vắn tắt xem xét thêm vấn đề tiến lên để đạt đến mục tiêu của mình.

“Vậy, hãy cẩn thận về bước đi của anh em, đừng như kẻ không khôn ngoan, nhưng như người khôn ngoan, hãy chuộc thì giờ, vì những ngày là ác. Vì thế, đừng dại dột, nhưng phải hiểu ý chỉ của Chúa là thể nào” (5:15-17).

Anh em nên lưu ý rằng trong những câu trên có một sự liên kết giữa ý tưởng về thời gian với sự khác biệt giữa sự khôn ngoan và ngu dại. “Hãy... bước đi... như người khôn ngoan, hãy chuộc thì giờ... đừng dại dột”. Đó là điều quan trọng. Bây giờ tôi muốn nhắc anh em về hai phân đoạn khác, trong đó, những điều này cũng được sắp đặt lại với nhau tương tự như vậy:

“Khi ấy, vương quốc các từng trời ví như mười trinh nữ kia... Trong họ, năm nàng dại, năm nàng khôn. Các nàng dại cầm đèn mà không đem dầu theo... Đến nửa đêm có tiếng kêu rằng, Kìa, chàng rể đến! Hãy đi ra nghinh tiếp chàng. Các trinh nữ đều thức dậy cả, sửa soạn đèn mình. Các nàng dại nói... Đèn chúng tôi gần tắt... Nhưng trong khi họ đi mua, thì chàng rể đến; các nàng chực sẵn đều cùng đi với chàng vào tiệc cưới, rồi cửa đóng lại. Rồi sau đó, những trinh nữ khác cũng đến...” ( Mat. 25:1-13).

“Tôi lại thấy, kìa, Chiên Con đứng trên núi Si-ôn, và với Ngài có một trăm bốn mươi bốn ngàn người, đều có danh của Ngài và danh của Cha Ngài ghi trên trán mình... Đây là những người còn đồng trinh. Hễ Chiên Con đi đâu thì họ cũng theo đó. Họ đã được chuộc mua từ trong loài người, để làm trái đầu mùa cho Đức Chúa Trời và Chiên Con. Trong miệng họ chẳng có lời dối nào: họ cũng không có tì vít gì” (Khải. 14:1-5).

Có nhiều phân đoạn Kinh thánh bảo đảm với chúng ta rằng điều gì Đức Chúa Trời đã bắt đầu, Ngài sẽ hoàn tất. Cứu Chúa của chúng ta là một Cứu Chúa tuyệt đối. Cuối cùng, không một tín đồ Đấng Christ nào sẽ “được cứu nửa vời” cả, cho dầu hiện nay có thể nói chúng ta là như vậy theo bất cứ ý nghĩa nào. Đức Chúa Trời sẽ làm cho mỗi một người có đức tin nơi Ngài được trở nên hoàn hảo. Đó là những gì chúng ta tin và chúng ta phải ghi nhớ để làm bối cảnh cho những gì chúng tôi sắp nói đây. Cùng với Phao-lô, chúng ta “cũng tin chắc rằng Đấng đã bắt đầu làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn cho đến ngày của Jesus Christ” (Phil. 1:6). Quyền năng của Đức Chúa Trời không có giới hạn. Ngài “có thể... khiến anh em đứng trước sự hiện diện vinh hiển của Ngài cách không tì vít” (Giu. 24; 2 Ti. 1:12; Êph. 3:20).

Tuy nhiên, khi chúng ta quay sang phương diện thuộc kinh nghiệm bản thân về điều này, tức là hành động bày tỏ có tính cách thực tế bên ngoài của điều này trong đời sống chúng ta hiện nay ở trên đất này, thì chúng ta phải đối đầu với vấn đề thời gian. Trong Khải Thị chương 14, có những trái đầu mùa (c. 4) và mùa gặt (c. 15). Trái hái trong mùa và trái đầu mùa khác nhau thế nào? Chắc chắn chúng không khác nhau về phẩm chất, vì tất cả trái hái trong mùa là một. Điểm khác biệt là chúng chín vào những thời điểm khác nhau. Một số trái “đạt đến chỗ trưởng thành” trước những trái khác, và do đó chúng trở nên “trái đầu mùa”.

Tỉnh Phúc Kiến quê tôi nổi tiếng về cam. Tôi muốn nói (chắc chắn là tôi có thành kiến!) rằng khắp nơi trên thế giới này không có cam ở đâu giống như vậy. Khi anh em nhìn lên những ngọn đồi vào đầu mùa cam, tất cả các lùm cây đều màu xanh. Nhưng nếu nhìn cẩn thận hơn, anh em sẽ thấy trên cành lác đác đã có những quả cam vàng xuất hiện. Thật là một cảnh tượng đẹp mắt khi chúng ta thấy những đốm nhỏ màu vàng giữa những cây màu xanh thẫm. Sau đó, tất cả những trái cam rồi cũng sẽ chín và các lùm cây sẽ chuyển sang màu vàng. Tuy nhiên, bây giờ, những trái đầu mùa sẽ được cẩn thận hái trước bằng tay, và sẽ được bán với giá cao nhất, thường là gấp ba giá cam trong mùa.

Dầu sao đi nữa, tất cả những trái trong mùa rồi cũng sẽ chín. Nhưng Chiên Con đang tìm những trái đầu mùa. Người “khôn ngoan” trong ẩn dụ không phải là những người đã làm tốt hơn, nhưng là những ai đã làm tốt vào một thời điểm sớm hơn. Chúng ta hãy lưu ý rằng những người kia cũng là những trinh nữ, dầu “ngu dại” nhưng chắc chắn là thật, không phải giả mạo. Họ cũng đi đón Chàng Rể cùng với những người khôn. Họ cũng có dầu trong đèn, và đèn họ cũng đang cháy. Nhưng họ không nghĩ về việc Chàng Rể đến trễ, và bây giờ khi đèn đã gần tàn, họ không còn dầu dự trữ trong bình, và những người kia cũng không đủ dầu để chia cho họ.

Một số người bối rối về lời Chúa nói với những người ngu dại: “Ta không biết các ngươi đâu”. Họ nghĩ rằng làm sao Ngài có thể nói lời này với họ nếu họ tượng trưng cho con cái thật của Ngài, “đã được gả... cho Đấng Christ... như một trinh nữ trong sạch”? (2 Cô. 11:2). Nhưng chúng ta phải nhận biết toàn bộ sự dạy dỗ của ẩn dụ này, chắc chắn đó là một đặc quyền để phục vụ Ngài trong tương lai mà các con cái Ngài có thể hụt mất do không chuẩn bị. Kinh thánh nói rằng năm nàng đến cửa và nói: “Chúa ơi, Chúa ơi, xin mở cửa cho chúng tôi!” Cửa nào? Chắc chắn không phải là cửa cứu rỗi. Nếu anh em hư mất, anh em không thể đến cửa trời mà gõ. Vì vậy, khi Chúa phán: “Ta không biết các ngươi đâu”, chắc chắn Ngài dùng những lời này trong một ý nghĩa giới hạn nào đó như trong câu chuyện minh họa sau đây.

Tại Thượng Hải, con trai của một thẩm phán thuộc một tòa án cảnh sát nọ bị bắt vì lái xe cẩu thả. Cậu ta được đưa ra xét xử và thấy cha mình ngồi ghế thẩm phán. Thủ tục tòa án tương đối giống như khắp nơi trên thế giới, và cậu được hỏi như sau: “Anh tên gì? Địa chỉ ở đâu? Anh làm nghề gì?” v.v... Cậu ngạc nhiên quay sang hỏi cha: “Ba ơi, ba muốn nói là ba không biết con sao?” Gõ búa lên bàn, người cha trả lời nghiêm khắc: “Anh thanh niên kia, tôi không biết anh đâu. Anh tên gì? Địa chỉ ở đâu?” Dĩ nhiên qua lời này ông không có ý nói rằng ông không biết cậu chút nào. Trong gia đình và trong nhà, ông biết cậu, nhưng tại đây và vào thời điểm này ông không biết cậu. Mặc dầu vẫn là con của cha mình nhưng cậu phải theo thủ tục tòa án và nộp tiền phạt.

Vâng, cả mười trinh nữ đều có dầu trong đèn. Điều khác biệt là những người ngu dại không có dầu dự trữ trong bình. Là những Cơ Đốc nhân thật, họ có sự sống trong Đấng Christ, và chứng cớ trước mặt loài người. Nhưng chứng cớ của họ là một chứng cớ thất thường vì họ chỉ sống để thỏa mãn những nhu cầu cuộc sống hằng ngày. Chúng ta có thể nói họ có Linh, nhưng không “đầy dẫy Linh”. Vào giờ phút nguy cấp, họ phải đi ra mua thêm dầu. Dĩ nhiên cuối cùng cả mười người đều có đủ dầu. Tuy nhiên, sự khác biệt nằm ở sự kiện những người khôn có đủ dầu vào đúng thời điểm, trong khi những người dại mặc dù cuối cùng cũng có đủ dầu, nhưng đã hụt mất mục đích định sẵn cho dầu ấy. Tất cả đều là vấn đề thời gian, và điểm Chúa tìm cách làm cho chúng ta hiểu đó là ở cuối ẩn dụ này, Ngài thuyết phục các môn đồ đừng chỉ làm môn đồ, nhưng hãy làm những môn đồ thức canh.

“Đừng say rượu, vì điều ấy là phóng túng, nhưng hãy đầy dẫy Linh” (5:18). Trong Ma-thi-ơ chương 5, đó không phải là vấn đề tiếp nhận Chúa Jesus Christ lúc đầu, cũng không phải là vấn đề Thánh Linh đến trên các đầy tớ Ngài để ban cho những ân tứ thuộc linh. Đó là vấn đề có dư dầu trong bình, vấn đề ánh sáng được duy trì, bằng sự cung ứng liên tục, kỳ diệu của Linh bề trong, cho dù phải chờ đợi lâu dài bao nhiêu đi nữa (vì có cả đèn lẫn bình trong ẩn dụ này, nhưng trên thực tế, chúng ta là đèn và chúng ta cũng là bình). Cơ Đốc nhân nào có thể sống trong cõi đời đời trên trời mà không biết sự đầy dẫy bề trong này? Phải chăng chắc chắn không một trinh nữ nào có thể thoát khỏi điều này? Ngày nay, Chúa cũng đang thực hiện tất cả những bước có thể thực hiện được để đem chúng ta đến chỗ hiểu biết sự đầy dẫy ấy. “Vậy, hãy thức canh vì các ngươi không biết ngày, cũng không biết giờ”.

“Hãy liên tục đầy dẫy” (plerousthe) là cách nói bất thường được dùng ở đây liên quan đến Thánh Linh. “Hãy để chính anh em được làm cho đầy dẫy liên tục”. Đó không phải một biến cố đặc biệt, như vào Lễ Ngũ tuần, nhưng là một tình trạng chúng ta phải duy trì luôn luôn. Đó không phải một điều bề ngoài, nhưng là bề trong; không phải vấn đề ân tứ thuộc linh và những biểu hiện bên ngoài, nhưng là sự hiện diện và hành động của chính Thánh Linh trong linh chúng ta, để bảo đảm ánh sáng trong bình sẽ cháy luôn không tàn lụn, có thể cháy quá nửa đêm nếu cần.

Hơn nữa, đây không phải hoàn toàn là vấn đề cá nhân. Như câu tiếp theo (5:19) cho thấy cách rõ ràng đó là điều chúng ta san sẻ với các Cơ Đốc nhân khác trong sự lệ thuộc lẫn nhau. Vì trong ngôn ngữ của câu ấy, “đầy dẫy Linh” không chỉ có nghĩa là “miệng hát lòng họa ngợi khen Chúa” nhưng “dùng thi thiên, thánh ca và linh khúc mà đối đáp nhau”. Một số người trong chúng ta thấy rõ mình dễ hát đơn ca, nhưng hát theo nhịp và hòa giọng như một ban tứ ca hay ngay cả hát song ca thì khó hơn nhiều. Tuy nhiên, sứ điệp về sự hiệp nhất trong Linh nằm ở trung tâm phần hai của Thư Ê-phê-sô (4:3, 15, 16). Sự đầy dẫy Linh được ban cho chúng ta để chúng ta cùng hát một bài ca mới trước ngai (Khải. 14:3).

Nhưng để tiếp tục theo sát điểm chính mà chúng ta đang nhấn mạnh, tôi xin nhắc lại rằng khôn hay dại chỉ dựa vào một điểm này mà thôi; nếu khôn, anh em sẽ tìm được sự đầy dẫy sớm hơn, nhưng nếu dại, anh em sẽ trì hoãn về sau. Một số người trong chúng ta là bậc cha mẹ đã có con cái. Tính tình của con cái thật là khác nhau! Đứa thì lập tức vâng lời, đứa thì nghĩ rằng bằng cách trì hoãn, nó sẽ lẩn tránh và không phải làm gì. Nếu gặp trường hợp như vậy, và nếu anh em không cương quyết đủ đến nỗi cho nó kẽ hở để trốn thoát, thì đứa con trì hoãn ấy thật khôn ngoan, vì nó thành công khi không phải làm gì cả. Nhưng nếu anh em cương quyết, nếu nó không thể lẩn tránh lệnh của anh em và cuối cùng vẫn phải vâng lời, thì đứa đối diện cách thẳng thắn với vấn đề ngay lập tức chắc chắn là đứa khôn ngoan hơn.

Anh em phải sáng tỏ về ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu lời của Đức Chúa Trời có thể được xem nhẹ, có lẽ anh em sẽ không ngu dại khi tìm cách tránh né điều Ngài muốn nói; nhưng nếu Ngài là một Đức Chúa Trời không thay đổi, với một ý muốn không thay đổi, thì anh em hãy khôn ngoan và tiếc thì giờ. Trên hết mọi sự, hãy tìm cách có thêm dầu dư trong bình, “hầu cho anh em được đầy dẫy mọi sự đầy đủ của Đức Chúa Trời” (3:19).

Ẩn dụ này không giải đáp mọi thắc mắc của chúng ta. Người ngu dại mua dầu bằng cách nào? Chúng ta không được biết. Không chỗ nào nói cho chúng ta biết những bước tiếp theo mà Đức Chúa Trời có thể thực hiện để đem tất cả con cái Ngài đến chỗ trưởng thành. Đó không phải là mối quan tâm của chúng ta. Ở đây, chúng ta quan tâm đến trái đầu mùa. Chúng ta đang được giục giã phải kiên quyết tiến tới, chứ không phải để suy đoán điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta không tiến tới.

Bằng cách tránh né vấn đề, anh em không thể tránh khỏi việc phải đạt đến chỗ trưởng thành, hay trả giá để trưởng thành. Nhưng sự khôn ngoan được liên kết với thời gian. Những người khôn ngoan đều chuộc lại thì giờ. Như cây bút máy của tôi đang đầy mực, sẵn sàng trong tay để dùng, thì cũng vậy, bằng cách hợp tác với Chúa, những người khôn ngoan là những người cung ứng cho Đức Chúa Trời những điều Ngài cần, ấy là những dụng cụ thích nghi để Ngài sẵn sàng sử dụng.

Chúng ta hãy nhìn sứ đồ Phao-lô. Ông bị nung đốt bởi một ước ao nóng cháy. Ông đã thấy rằng mục đích Đức Chúa Trời dành cho chúng ta được ràng buộc với “lúc các thời kỳ được đầy đủ” (1:10). Ông là một trong những người “trước nhất đã trông cậy Đấng Christ” bằng cách an nghỉ nơi một sự cứu rỗi chưa được bày tỏ đầy đủ như “trong các đời sắp đến” (1:12, 2:7). Với cái nhìn về tất cả những điều này, ông làm gì? Ông bước đi. Không những ông bước đi, mà lại còn chạy nữa. “Vậy, tôi chạy, chẳng phải là chạy bá vơ” (1 Côr. 9:26). “Tôi cứ bươn thẳng tới đích để giựt giải về sự kêu gọi từ trên của Đức Chúa Trời trong Christ Jesus” (Phil. 3:14).

Thường thường, khi có những hồn người bước vào sự hiểu biết những điều thuộc linh và bắt đầu tiến lên với Chúa, cảm tưởng của lòng tôi là: “Ôi, ước gì họ thấy được điều này sớm hơn năm năm!” Thì giờ quá ngắn ngủi, cho dù chúng ta đang tiến tới. Chúng ta cần khẩn cấp tiến lên như vậy. Vì hãy nhớ rằng vấn đề không phải là chúng ta lấy gì ra khỏi đó. Vấn đề là Chúa phải có điều gì ngay bây giờ. Ngày nay Chúa cần những dụng cụ sẵn sàng. Vì sao? “Vì những ngày là ác”. Tình trạng giữa vòng cộng đồng Cơ Đốc vô cùng nghiêm trọng. Ô, nguyện chúng ta thấy điều ấy!

Có lẽ Chúa phải đối xử với chúng ta cách rất quyết liệt. Phao-lô phải nói: “Tôi là một thai sinh non”. Ông đã trải qua những giờ phút vô cùng nguy cấp để đem ông đến chỗ mà ông hiện đang đứng, và ông vẫn còn đang tiến tới. Luôn luôn là vấn đề thời gian. Đức Chúa Trời có thể làm một điều gì đó trong chúng ta cách nhanh chóng, dồn ép điều đó trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, nhưng Ngài phải làm đến mức như vậy. Nguyện mắt của lòng chúng ta được soi sáng để biết điều gì là “hi vọng về ơn kêu gọi của Ngài”, khi ấy chúng ta có thể bước đi, hơn nữa, có thể chạy như những người “hiểu ý muốn Chúa là thể nào” (1:18; 5:17). Chúa luôn luôn thương yêu những hồn người quyết liệt.

Chương Ba

ĐỨNG

“Sau cùng, hãy mạnh mẽ trong Chúa và trong sức mạnh của năng lực Ngài. Hãy mặc lấy toàn bộ binh giáp của Đức Chúa Trời, để anh em có thể đứng chống lại các quỉ kế của ma quỉ... hầu cho trong ngày gian ác, anh em có thể chống nổi, và sau khi đã làm xong mọi sự, mà còn đứng vững... Vậy, hãy đứng, thắt lưng... mặc giáp... chân mang giày... lấy thuẫn... đội mão trụ... và cầm gươm... cầu nguyện... thức canh” (6:10, 11, 13-18).

Kinh nghiệm Cơ Đốc bắt đầu từ vị trí “ngồi” rồi dẫn đến chỗ “đi”, nhưng không dừng lại tại đó. Mỗi Cơ Đốc nhân cũng phải học “đứng” nữa. Mỗi một người trong chúng ta cần phải chuẩn bị chiến đấu. Chúng ta không những phải biết cách ngồi với Đấng Christ trên trời, và biết cách đi xứng đáng với Ngài dưới đất này, mà cũng phải biết cách đứng trước mặt kẻ thù. Vấn đề chiến trận mà chúng ta đang đương đầu nằm trong phần thứ ba của Thư Ê-phê-sô (6:10-20). Đó là điều Phao-lô gọi là “chúng ta đánh trận... với các tà linh độc ác”.

Nhưng trước hết, một lần nữa chúng ta hãy tự nhắc nhở mình về thứ tự những điều mà Thư Ê-phê-sô trình bày cho chúng ta. Đó là “ngồi... đi... đứng”. Vì không một Cơ Đốc nhân nào có thể hi vọng tham gia cuộc chiến của các thời đại mà trước hết không học tập an nghỉ trong Đấng Christ, trong những gì Ngài đã làm, và rồi nhờ sức mạnh của Thánh Linh bên trong mà đi theo Ngài trong đời sống thực tế, thánh khiết trên đất này. Nếu thiếu hụt một trong hai điều này, họ sẽ thấy mọi lời nói về chiến trận thuộc linh vẫn chỉ là nói suông, họ sẽ không bao giờ nhận biết thực tại của điều này. Sa-tan sẽ không để ý đến họ vì họ không có giá trị gì cả. Tuy nhiên, chính những Cơ Đốc nhân ấy có thể mạnh mẽ “trong Chúa và trong sức mạnh của năng lực Ngài” bằng cách trước hết nhận biết các giá trị của sự tôn cao Ngài và sau đó là giá trị của việc Ngài cư trú bên trong chúng ta (xin đối chiếu 6:10 với 1:19 và 3:16). Khi thật sự học nhuần nhuyễn hai bài học này, họ thật sự học hỏi đến mức coi trọng nguyên tắc thứ ba của đời sống Cơ Đốc như bây giờ được tóm tắt trong chữ “Đứng”.

Đức Chúa Trời có một kẻ thù chính, và dưới quyền hắn có vô số các quỉ và thiên sứ sa ngã tìm cách tràn chiếm thế gian bằng điều ác và loại bỏ Đức Chúa Trời khỏi vương quốc của Ngài. Đó là ý nghĩa của câu 12. Đó là lời giải thích những gì xảy ra chung quanh chúng ta. Chúng ta chỉ thấy “thịt và huyết” lập phòng tuyến nghịch cùng chúng ta, tức là một hệ thống thế gian gồm các vua và những người lãnh đạo thù nghịch, các tội nhân và những người gian ác. Không, Phao-lô nói rằng chúng ta không đánh trận cùng những điều này, nhưng “với chấp chánh, với quyền lực, với những nhà cai trị thế giới của sự tối tăm này, với các tà linh độc ác ở các nơi trên trời”, nói tóm lại là với quỉ kế của chính ma quỉ. Hai ngai vị đang chiến đấu với nhau. Đức Chúa Trời đang tuyên bố trái đất thuộc quyền thống trị của Ngài, và Sa-tan đang tìm cách chiếm đoạt thẩm quyền của Đức Chúa Trời. Hội thánh được kêu gọi để truất phế Sa-tan khỏi lãnh vực hiện nay của nó và tôn Đấng Christ làm Đầu mọi sự. Chúng ta đang làm gì đối với điều ấy?

Bây giờ tôi muốn trước hết bàn đến vấn đề chiến trận của chúng ta bằng những từ ngữ tổng quát trong mối liên hệ với cuộc sống cá nhân tín đồ, rồi sau đó trong mối liên hệ với công tác Chúa giao phó cho chúng ta theo một ý nghĩa đặc biệt hơn. Sa-tan có nhiều cuộc đột kích trực tiếp trên con cái Đức Chúa Trời. Dĩ nhiên chúng ta không được đổ tội cho ma quỉ về những rắc rối là hậu quả do chúng ta vi phạm các luật thần thượng. Đến bây giờ chúng ta nên biết cách sửa lại cho đúng. Nhưng có những cuộc tấn công các thánh đồ trên phương diện thuộc thể, tức những cuộc tấn công của kẻ ác trên thân thể và tâm trí thánh đồ, là những điều chúng ta phải thận trọng xem xét. Chắc chắn ít ai trong chúng ta không biết gì về những cuộc tấn công của kẻ thù trên đời sống thuộc linh của mình. Vậy chúng ta sẽ để những điều này trôi qua mà không chống lại sao?

Chúng ta có địa vị với Chúa trong cõi thiên thượng, và đang học cách bước đi với Ngài trước mắt thế gian, nhưng chúng ta phải đối phó thế nào trước mặt kẻ thù, là kẻ thù của Ngài và của chúng ta? Lời Đức Chúa Trời phán là “Hãy đứng!” “Hãy mặc lấy toàn bộ binh giáp của Đức Chúa Trời để anh em có thể đứng chống lại các quỉ kế của ma quỉ”. Động từ Hi lạp “đứng” đi với giới từ “chống lại” trong câu 11 thật sự có nghĩa là “hãy giữ lấy chỗ đứng của mình”. Có một chân lý quí báu ẩn giấu trong mạng lịnh này của Đức Chúa Trời. Đó không phải là một mệnh lệnh để xâm lăng một lãnh thổ xa lạ. Theo cách nói hiện đại, chiến trận ngụ ý về một mạng lịnh “tiến quân!”. Các đạo quân tiến vào các nước khác để chiếm đóng và chinh phục. Đức Chúa Trời không bảo chúng ta làm điều này. Chúng ta không tiến quân nhưng “đứng”. Từ ngữ “đứng” ngụ ý rằng vùng đất kẻ thù tranh chấp thật sự thuộc về Đức Chúa Trời, và vì vậy, cũng thuộc về chúng ta. Chúng ta không cần tranh đấu để giành một chỗ đặt chân.

Hầu như tất cả các vũ khí chiến trận của chúng ta được mô tả trong Ê-phê-sô đều thuần có tính cách phòng thủ. Ngay cả gươm cũng có thể được sử dụng để bảo vệ như để tấn công. Sự khác biệt giữa chiến trận phòng thủ và chiến trận tấn công là trong chiến trận phòng thủ, ta đã có lãnh thổ và chỉ cần tìm cách để giữ lãnh thổ ấy, còn trong chiến trận tấn công, ta chưa có lãnh thổ và phải chiến đấu để giành lấy lãnh thổ. Và điều ấy cũng đúng là sự khác biệt giữa chiến trận do Chúa Jesus điều khiển và chiến trận do chúng ta tiến hành. Chiến trận của Ngài là công, còn thực chất của chiến trận chúng ta là thủ. Ngài chiến đấu chống Sa-tan để giành lấy chiến thắng. Nhờ Thập Tự Giá, Ngài đã thực hiện cuộc chiến đến tận chính cửa Âm-phủ, để từ đó Ngài dẫn theo những kẻ bị bắt cầm tù (4:8, 9). Ngày nay, chúng ta chiến đấu chống lại Sa-tan chỉ để duy trì và củng cố chiến thắng mà Đấng Christ đã đạt được. Bởi sự phục sinh, Đức Chúa Trời đã tuyên bố Con Ngài là Đấng Đắc Thắng trên toàn thể lãnh vực tối tăm, và Ngài đã ban cho chúng ta lãnh thổ Đấng Christ đã chiếm được. Chúng ta không cần chiến đấu. Chúng ta chỉ cần giữ vương quốc khỏi tay của tất cả những kẻ khiêu khích.

Công tác của chúng ta là giữ lấy chứ không phải tấn công. Đó không phải là vấn đề tiến quân, nhưng là vấn đề phạm vi lãnh thổ, phạm vi ấy của Đấng Christ. Trong thân vị của Jesus Christ, Đức Chúa Trời đã chinh phục. Ngài đã ban cho chúng ta chiến thắng để chúng ta giữ lấy. Trong phạm vi của Đấng Christ, sự thất bại của kẻ thù đã là một sự kiện, và Hội thánh đã được đặt tại đó để giữ hắn trong tình trạng thất bại. Sa-tan là kẻ phải nỗ lực phản công để đuổi chúng ta ra khỏi phạm vi ấy. Về phần mình, chúng ta không cần tranh đấu để chiếm hữu lãnh thổ vì lãnh thổ đã thuộc về mình. Trong Đấng Christ, chúng ta là kẻ chiến thắng, hơn nữa, “đắc thắng có thừa” (La. 8:37). Vì vậy, trong Ngài chúng ta đứng. Như vậy, ngày nay chúng ta không chiến đấu để đắc thắng; chúng ta chiến đấu từ sự đắc thắng. Chúng ta không chiến đấu để thắng, vì trong Đấng Christ chúng ta đã chiến thắng rồi. Những người đắc thắng là những người an nghỉ trong chiến thắng mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ.

Khi anh em chiến đấu để đạt được chiến thắng, thì anh em đã thua trận ngay từ đầu. Giả sử Sa-tan bắt đầu tấn công anh em tại nhà hay sở làm. Nan đề chồng chất, nhiều sự hiểu lầm dấy lên, hoàn cảnh mà anh em không thể giải quyết hay trốn thoát lại đang đe dọa đè bẹp anh em. Anh em cầu nguyện, anh em kiêng ăn, anh em chiến đấu và chống trả nhiều ngày, nhưng không có gì xảy ra, vì sao? Anh em đang chiến đấu để giành chiến thắng, và khi làm như vậy, anh em đã nhường cho kẻ thù chính lãnh thổ vốn đã thuộc về anh em. Vì đối với anh em, chiến thắng vẫn là một điều còn ở xa, ở một nơi nào đó trước mặt anh em, mà anh em không thể đạt đến. Chính tôi cũng đã có lần ở trong tình trạng đó, và Đức Chúa Trời nhắc tôi nhớ trong Thư Tê-sa-lô-ni-ca thứ nhì nói về con người tội lỗi, mà Chúa Jesus “sẽ hủy diệt nó bởi hơi thở của miệng Ngài”. Tư tưởng này đã đến với tôi: chỉ cần một hơi thở từ miệng Chúa là đủ để kết liễu hắn, còn tôi đây đang cố gắng tạo ra một cơn bão! Không phải Sa-tan đã hoàn toàn bị đánh bại một lần đủ cả sao? Như vậy thì chiến thắng cũng đã có rồi.

Chỉ có những người ngồi mới có thể đứng. Năng lực để chúng ta đứng, cũng như để đi, là ở chỗ chúng ta được đặt cùng ngồi với Đấng Christ trước hết. Sức mạnh để Cơ Đốc nhân bước đi và chiến đấu đều đến từ vị trí của họ tại đó. Nếu không ngồi trước mặt Đức Chúa Trời, họ không thể hi vọng đứng trước mặt kẻ thù.

Mục tiêu chính yếu của Sa-tan không phải gây cho chúng ta phạm tội, nhưng đơn giản là làm cho chúng ta dễ dàng phạm tội bằng cách đem chúng ta ra khỏi chỗ chiến thắng trọn vẹn mà Chúa đã đem chúng ta vào. Qua tâm não hay qua trí tuệ hoặc cảm xúc của chúng ta, Sa-tan tấn công vào sự an nghỉ của chúng ta trong Đấng Christ hay tấn công bước đi của chúng ta trong Linh. Nhưng để đối phó với mọi mũi tấn công của hắn, binh giáp phòng thủ đã được cung cấp, ấy là mũ bảo vệ và áo giáp, dây lưng và giày, và trên hết là thuẫn đức tin để gạt những tên lửa của hắn. Đức tin nói: Đấng Christ đã được tôn cao. Đức tin nói: chúng ta đã được cứu bởi ân điển Ngài. Đức tin nói: nhờ Ngài, chúng ta đã đến gần. Đức tin nói: Ngài cư ngụ trong chúng ta bởi Linh Ngài (1:20; 2:8; 3:12, 17).

Vì chiến thắng thuộc về Ngài, nên cũng thuộc về chúng ta. Nếu chúng ta không cố gắng giành lấy chiến thắng, nhưng chỉ duy trì chiến thắng, chúng ta sẽ thấy kẻ thù hoàn toàn bị đánh tan. Chúng ta không được xin Chúa cho mình có khả năng để thắng kẻ thù, cũng không ngưỡng trông Ngài để chiến thắng, nhưng hãy ngợi khen Ngài vì Ngài đã làm xong; Ngài là Đấng Chiến Thắng. Đó hoàn toàn là vấn đề đức tin nơi Ngài. Nếu tin cậy Chúa, chúng ta sẽ không cầu nguyện nhiều như vậy, nhưng trái lại, sẽ ngợi khen Ngài nhiều hơn. Đức tin chúng ta đặt nơi Ngài càng đơn sơ và trong sáng, chúng ta sẽ càng ít cầu nguyện trong những tình huống như vậy và sẽ càng ngợi khen nhiều hơn.

Tôi xin nhắc lại: Trong Đấng Christ, chúng ta đã là những người đắc thắng. Vì vậy, rõ ràng là nếu chúng ta chỉ cầu nguyện để chiến thắng (trừ khi lời cầu nguyện ấy được dâng lên với thật nhiều lời ngợi khen), thì không phải đó là lời cầu nguyện chuốc lấy sự thất bại do vất bỏ vị trí cơ bản của mình sao? Tôi xin hỏi anh em: Có phải bấy lâu nay anh em đã kinh nghiệm sự thất bại không? Anh em có thấy mình đã hi vọng rằng một ngày kia mình sẽ đủ mạnh để chiến thắng không?

Vậy thì lời cầu nguyện của tôi dành cho anh em không thể vượt quá điều sứ đồ Phao-lô cầu nguyện cho những người đọc thư Ê-phê-sô. Ấy là xin Đức Chúa Trời mở mắt anh em cách mới mẻ để anh em thấy chính mình cùng ngồi với Ngài, là Đấng đã được làm cho ngồi “vượt trên tất cả các bậc cai trị, uy quyền, năng lực, sự thống trị và mọi danh được tôn xưng” (1:20, 21). Những nan đề chung quanh anh em có thể không thay đổi; sư tử có thể vẫn gầm vang như trước, nhưng anh em không còn cần hi vọng để chiến thắng nữa. Trong Christ Jesus, anh em là người chiến thắng trên chiến trường.

TRONG DANH NGÀI

Nhưng đó chưa phải là tất cả. Ê-phê-sô chương 6 liên quan đến nhiều điều hơn là chỉ có phương diện cá nhân trong chiến trận của chúng ta. Chương này cũng liên quan đến công tác Đức Chúa Trời đã giao phó cho chúng ta, ấy là rao giảng huyền nhiệm của Phúc âm mà Phao-lô đã nói đến rất nhiều (3:1-13). Vì điều này, chúng ta đã được trang bị gươm là Lời, và vũ khí “đồng đội” là sự cầu nguyện.

“Hãy... cầm gươm của Linh, là lời của Đức Chúa Trời: bằng mọi sự cầu nguyện và nài xin mà cầu nguyện trong Linh, về điều đó hãy thức canh, bền đỗ mọi bề mà cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ. Cũng hãy vì tôi mà cầu nguyện nữa, để tôi được có lời nói ra, dạn dĩ mở miệng bày tỏ huyền nhiệm của phúc âm, vì phúc âm ấy mà tôi làm một đại sứ trong xiềng xích, hầu cho ở trong đó tôi vẫn có thể dạn dĩ nói ra như tôi đáng phải nói” (6:17-20).

Tôi muốn nói thêm về chiến trận này trong mối liên hệ của nó với công tác chúng ta làm cho Đức Chúa Trời, vì ở đây chúng ta có thể gặp một điều khó khăn. Về một mặt, đúng là Chúa Jesus đang ngồi “vượt trên các bậc cai trị, uy quyền”, và mọi sự đều “phục dưới chân Ngài” (1:21, 22). Rõ ràng là trong ánh sáng của chiến thắng đã được hoàn tất này mà chúng ta phải “luôn luôn cảm tạ về mọi sự trong danh Jesus Christ” (5:20). Tuy nhiên, mặt khác, chúng ta phải nhìn nhận rằng chúng ta chưa thấy mọi sự đầu phục Ngài. Như Phao-lô nói, vẫn còn có những lũ tà linh độc ác ở các nơi trên trời, sự tối tăm, những quyền lực gian ác ở phía sau các vua chúa của thế gian này, chiếm đóng lãnh thổ mà lẽ ra thuộc về Ngài. Chúng ta đúng đến mức nào khi gọi đây là cuộc chiến phòng thủ. Chúng ta không muốn tự phụ một cách sai lầm. Vì vậy, khi nào và dưới những điều kiện nào chúng ta mới được kể là đúng đắn khi chiếm đóng lãnh thổ mà bên ngoài thuộc về kẻ thù và nắm giữ lãnh thổ ấy trong danh Chúa Jesus?

Chúng ta hãy “lấy… lời của Đức Chúa Trời” để giúp đỡ mình trong điều này. Lời Đức Chúa Trời nói gì với chúng ta về sự cầu nguyện và hành động “trong danh”? Trước hết, chúng ta hãy xem xét hai phân đoạn sau: “Thật vậy, Ta nói cùng các ngươi, hễ điều gì các ngươi buộc ở dưới đất thì cũng đã bị buộc ở trên trời, và điều gì các ngươi mở ở dưới đất thì cũng đã được mở ở trên trời. Ta lại nói cùng các ngươi, nếu hai người trong các ngươi đồng tâm hiệp ý ở dưới đất mà cầu xin không cứ việc gì, thì Cha Ta ở trên trời sẽ làm việc ấy cho họ… Vì nơi nào có hai ba người nhóm họp trong danh Ta thì Ta ở giữa họ” (Mat. 18:18-20). “Trong ngày đó các ngươi sẽ không hỏi Ta gì hết. Thật vậy, thật vậy, Ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi xin Cha điều gì, thì trong danh Ta Ngài sẽ ban cho các ngươi. Đến bây giờ các ngươi chưa từng xin điều gì trong danh Ta; hãy xin thì sẽ được, để sự vui mừng các ngươi được trọn vẹn... Trong ngày đó các ngươi sẽ cầu xin trong danh Ta” (Gi. 16:23, 24, 26).

Không ai có thể được cứu mà không biết danh Chúa Jesus, và không ai có thể được Đức Chúa Trời sử dụng cách hiệu quả mà lại không biết uy quyền của danh ấy. Sứ đồ Phao-lô làm sáng tỏ rằng “danh” mà Chúa Jesus nói đến trong những phân đoạn trên không chỉ là danh mà qua đó Ngài được biết đến khi còn sống tại đây ở giữa loài người. Chắc chắn, đó chính là danh thuộc nhân tính Ngài, nhưng danh ấy bây giờ đã được Cha trao cho tước hiệu và uy quyền sau khi Ngài đã vâng phục cho đến chết (Phil. 2:6-10). Danh của sự tôn cao và vinh quang Ngài là kết quả sự chịu khổ của Ngài; ngày nay, ấy là trong “danh vượt trên hết mọi danh” này mà chúng ta nhóm họp và cầu xin Đức Chúa Trời.

Không phải chỉ một mình Phao-lô bày tỏ sự khác biệt ấy, nhưng chính Chúa Jesus cũng đã nói điều đó trong phân đoạn thứ hai được trích dẫn ở trên: “Đến bây giờ các ngươi chưa từng xin điều gì trong danh Ta... Trong ngày đó các ngươi sẽ... xin” (cc. 24, 26). Vì các môn đồ “ngày ấy” sẽ rất khác với “bây giờ” trong câu 22. Có một điều gì đó mà bây giờ họ chưa có, thì đến lúc ấy họ sẽ nhận lãnh, và khi nhận lãnh được điều đó, họ sẽ sử dụng. Điều ấy là uy quyền đi kèm với danh Ngài.

Mắt chúng ta cần phải được mở ra để thấy sự thay đổi lớn lao được thực hiện do sự thăng thiên. Danh của Chúa Jesus chắc chắn tạo nên sự đồng nhất của Đấng ở trên ngai với Người Thợ Mộc ở Na-xa-rét, nhưng danh ấy sâu nhiệm hơn thế nữa. Bây giờ danh ấy tượng trưng cho quyền năng và quyền cai trị mà Đức Chúa Trời ban cho Ngài, một quyền năng và quyền cai trị mà trước quyền năng và quyền cai trị ấy, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất phải quì xuống. Ngay cả những người lãnh đạo Do thái cũng nhận biết ý nghĩa này dầu chỉ trong một danh xưng, khi họ chất vấn các môn đồ về sự chữa lành cho người què: “Bởi quyền năng nào, hay là trong danh nào, mà các ông làm điều này?” (Công. 4:7).

Ngày nay, danh này cho chúng ta biết Đức Chúa Trời đã ủy thác mọi uy quyền cho Con Ngài, để trong chính danh ấy có được quyền năng. Hơn nữa, chúng ta phải lưu ý trong Kinh thánh, từ ngữ “trong danh” được dùng thường xuyên, tức là các sứ đồ đã thật sự dùng danh ấy. Không những Ngài có một danh như vậy, nhưng chúng ta phải sử dụng danh ấy. Trong ba phân đoạn của bài giảng cuối cùng của Ngài, Chúa Jesus lặp lại các từ ngữ “trong danh Ta cầu xin” (Gi. 14:13, 14; 15:16; 16:23-26). Ngài đã đặt uy quyền ấy trong tay chúng ta để chúng ta sử dụng. Không những danh ấy thuộc về Ngài, nhưng danh ấy còn được “ban cho loài người” (Công. 4:12). Nếu không biết phần của mình trong điều này, chúng ta sẽ bị mất mát rất nhiều.

Quyền năng trong danh Ngài hành động theo ba chiều hướng. Trong sự rao giảng của chúng ta, danh ấy hiệu quả để cứu rỗi loài người (Công. 4:10-12) nhờ sự tha thứ tội lỗi, và qua sự tẩy sạch, xưng công chính, và thánh hóa đối với Đức Chúa Trời (Lu. 24:47; Công. 10:43; 1 Cô. 6:11). Trong chiến trận của chúng ta, danh ấy có quyền năng chống lại các quyền lực của Sa-tan, để cột trói và đem chúng đến chỗ đầu phục (Mác 16:17; Lu. 10:17-19; Công. 16:18). Như đã thấy, khi chúng ta cầu xin, danh ấy hiệu quả đối với Đức Chúa Trời, vì Ngài phán hai lần với chúng ta: “Hễ điều gì các ngươi xin...”; và hai lần: “Nếu các ngươi... xin điều chi...” (Gi. 14:13, 14; 15:16; 16:23). Đối diện với những lời đầy thách thức này, có lẽ chúng ta cung kính nói: “Chúa ôi, sự can đảm của Ngài thật lớn lao”.

Đức Chúa Trời phó thác chính mình cho các đầy tớ Ngài như vậy thật là một điều lớn lao. Bây giờ xin anh em hãy cùng tôi xem qua ba sự kiện trong sách Công-vụ để minh họa thêm về điều này: “Phi-e-rơ nói rằng: Trong danh Jesus Christ Người Na-xa-rét, hãy bước đi!” (Công. 3:6). “Phao-lô... quay lại nói cùng linh ấy rằng: Trong danh Jesus Christ ta bảo ngươi hãy ra khỏi nàng. Chính giờ đó, nó liền ra khỏi” (Công. 16-18). “Có mấy người… đi dạo trừ quỉ dám cả gan xưng danh Chúa Jesus trên những kẻ bị ác linh ám rằng: Ta chỉ Jesus là Đấng Phao-lô rao giảng mà đuổi chúng bay... Nhưng ác linh đáp cùng họ rằng: Ta biết Jesus, cũng quen Phao-lô, còn các ngươi là ai?” (Công. 19:13, 15).

Trước hết chúng ta hãy quan sát hành động của Phi-e-rơ khi ông đối xử với người què tại cổng. Trước hết ông không quì xuống cầu nguyện và xin ý kiến của Chúa. Ông nói ngay lập tức: “Hãy đi!”. Ông sử dụng danh ấy như thể danh ấy thuộc về mình để sử dụng, chứ không phải là một điều gì xa xôi trên trời. Phao-lô tại Phi-líp cũng vậy. Ông cảm biết trong linh mình rằng Sa-tan hoạt động như vậy là đủ rồi. Ngay sau đó chúng ta không thấy ông dừng lại để cầu nguyện. Thật đúng như vậy, bước đi của ông là bước đi thật ở trước mặt Đức Chúa Trời, vì thế, như một người gìn giữ danh ấy, ông hành động như thể quyền năng ở trong chính mình. Ông ra lệnh, và “chính giờ đó” uế linh chạy trốn.

Điều trên là gì? Đó là một ví dụ về điều mà tôi gọi là Đức Chúa Trời “phó thác” chính Ngài cho con người. Đức Chúa Trời đã giao phó chính Ngài cho các đầy tớ của Ngài để Ngài có thể hành động qua họ trong khi họ hành động “trong danh ấy”. Họ đã làm gì? Rõ ràng họ không tự mình làm gì. Họ sử dụng danh ấy. Cũng rõ ràng như vậy, không danh nào khác có hiệu quả như vậy, dầu là danh của họ hay danh một sứ đồ khác. Tất cả đã xảy ra là do tác động của danh Chúa Jesus trên tình huống, và họ đã được ủy quyền để sử dụng danh ấy.

Đức Chúa Trời nhìn Con Ngài trong vinh quang, Ngài không nhìn vào chúng ta trên đất này. Vì Ngài nhìn thấy chúng ta cùng ngồi với Ngài tại đó nên Danh Ngài và uy quyền của Ngài được ủy thác cho chúng ta tại đây. Một hình ảnh minh họa đơn sơ sẽ giúp chúng ta làm sáng tỏ điều này. Cách đây ít lâu, một anh em đồng công gửi thư yêu cầu tôi gửi đến anh một số tiền. Sau khi đọc thư, tôi chuẩn bị những gì anh yêu cầu, và gửi số tiền cho người trao thư. Tôi làm vậy có đúng không? Chắc chắn là đúng. Bức thư mang chữ ký của bạn tôi, và đối với tôi, như vậy là đủ. Tôi có cần hỏi người trao thư rằng anh ấy tên gì, bao nhiêu tuổi, làm nghề gì, quê ở đâu, và rồi bảo anh ấy về vì tôi không tán thành con người của anh ấy không? Không, không thể có điều đó, vì anh ấy đến trong danh của bạn tôi, và tôi tôn trọng danh ấy.

SỰ TỰ GIAO THÁC THẦN THƯỢNG

Đức Chúa Trời đã làm một việc lớn lao khi giao thác chính Ngài cho Hội thánh Ngài. Khi làm như vậy, Ngài đã phó thác quyền năng lớn lao nhất có thể có được cho các đầy tớ của Ngài, đó là quyền năng của Đấng có sự cai trị “vượt trên tất cả... mọi danh được tôn xưng, không những chỉ trong đời này mà cũng trong đời sắp đến” (1:21). Jesus hiện nay đã được tôn cao trên trời, và mọi công tác của Ngài về việc cứu rỗi loài người, việc phán với lòng họ, và việc làm những phép lạ của ân điển Ngài cho họ, đều được thực hiện qua môi giới là các đầy tớ Ngài trong khi họ hành động trong danh Ngài. Như vậy, công tác của Hội thánh là công tác của Ngài. Danh Jesus thật sự là di sản vĩ đại nhất dành cho Hội thánh, vì nơi đâu việc Đức Chúa Trời tự giao thác chính Ngài như vậy thật sự có hiệu lực thì chính Ngài sẽ chịu trách nhiệm về những gì được thực hiện trong danh ấy. Đức Chúa Trời ao ước giao phó chính mình, vì Ngài đã không cho phép một phương tiện nào khác ngoài chính Ngài làm trọn công tác của Ngài.

Trong ý nghĩa này, không một công việc nào đáng được gọi là công việc của Đức Chúa Trời nếu Đức Chúa Trời không giao thác chính Ngài cho công việc ấy. Sự ủy quyền để sử dụng danh ấy mới là điều đáng kể. Chúng ta phải đứng lên và nói ra trong danh Ngài. Nếu không, công tác của chúng ta thiếu tác động thuộc linh. Nhưng tôi xin nói với anh em, đây không phải là điều có thể “phát huy” vào lúc nguy cấp. Đó là bông trái của sự vâng phục Đức Chúa Trời và là kết quả do hiểu biết và duy trì địa vị thuộc linh. Đó là điều chúng ta phải có trước để được chuẩn bị sẵn sàng khi cần.

“Ta biết Jesus, cũng biết Phao-lô”. Ngợi khen Đức Chúa Trời về con người thứ hai! Những quyền lực gian ác nhận biết Con, các sách Phúc âm cho chúng ta nhiều bằng cớ về điều này. Nhưng có những người cũng liên hiệp với Con, và Ha-đét cũng kể họ là quan trọng. Vấn đề là Đức Chúa Trời có thể giao thác chính Ngài cho anh em không?

Tôi xin minh họa điều này một lần nữa. Nếu một điều gì đó có thể được thực hiện trong danh tôi, thì có nghĩa là với một số điều kiện nào đó, tôi trao tên mình cho một người khác sử dụng, và tôi phải chuẩn bị chịu trách nhiệm về những gì người ấy làm dưới danh của tôi. Thí dụ như tôi có thể trao cho anh ấy quyển ngân phiếu của tôi và chữ ký của tôi. Dĩ nhiên, nếu tôi nghèo, bản thân tôi không có địa vị gì và cũng không có được một trương mục ngân hàng nào thì tên tôi không quan trọng bao nhiêu. Tôi nhớ rất rõ khi còn là học sinh, tôi thích đóng dấu tên mình khắp mọi nơi, trên sách, báo, và bất cứ điều gì đến tay tôi. Nhưng khi tôi có quyển ngân phiếu và trương mục ngân hàng lần đầu tiên gồm mười bốn đô la trong Bưu Điện, tôi trở nên rất cẩn thận trong việc sử dụng con dấu riêng, vì sợ có người giả mạo và sử dụng nó1. Tên tôi đã trở nên quan trọng đối với tôi. ( 1Phong tục của người Hoa là mỗi người có một tu-cheng riêng, tức là một con dấu hay một khuôn nhỏ mang chữ của tên mình khắc trên gỗ, đá hay ngà bằng những lối trình bày riêng biệt. Dấu thường được in ra bằng mực đỏ đục. Người ta cho rằng con dấu này khó có thể giả mạo hơn là chữ ký viết tay; con dấu này được cất giữ khóa lại kỹ càng và dùng để ký ngân phiếu cùng những tài liệu cá nhân. A.K. )

Chúa Jesus quyền năng và giàu có biết bao! Danh Ngài quí báu đối với Ngài dường nào! Vì vậy, nếu Ngài phải chịu trách nhiệm về bất cứ kết quả nào có thể xảy ra, thì Ngài phải cẩn thận về cách danh ấy được sử dụng biết bao! Tôi xin hỏi anh em một lần nữa: Đức Chúa Trời có thể giao thác chính Ngài, tức là “tài khoản ngân hàng” của Ngài, “quyển chi phiếu” của Ngài, “chữ ký” của Ngài cho anh em không? Câu hỏi ấy phải được giải quyết trước. Chỉ khi ấy, anh em mới có thể sử dụng danh Ngài cách tự do. Chỉ khi ấy, “hễ điều gì các ngươi buộc ở dưới đất thì cũng bị buộc ở trên trời”. Như vậy, vì việc Ngài giao thác danh Ngài cho anh em trở nên thực tại, anh em có thể hoạt động như một người đại diện cho Ngài trên thế gian này. Đó là kết quả của sự liên hiệp với Ngài.

Chúng ta có ở trong một sự liên hiệp như vậy với Chúa đến nỗi Ngài sẽ giao thác chính mình cho những gì chúng ta đang làm không? Thường thường, dường như chúng ta sẽ liều mình bước vào một tình huống nào đó, chỉ với lời hứa của Đức Chúa Trời hỗ trợ cho chỗ đứng của mình. Vấn đề là liệu Đức Chúa Trời sẽ, hay có thể, hỗ trợ chúng ta không?

Tôi xin phác họa cách ngắn gọn bốn nét chính của một công tác mà Đức Chúa Trời có thể hoàn toàn giao thác chính Ngài. Nhu cầu quan trọng đầu tiên là một khải thị thật đối với lòng chúng ta về mục tiêu đời đời của Đức Chúa Trời. Chúng ta không thể làm việc nếu thiếu điều này. Nếu tôi đang làm công việc xây dựng một tòa nhà, thậm chí là một người lao động không chuyên, tôi phải biết mục tiêu nhắm đến là xây một nhà để xe, hay một nhà chứa máy bay, hay một tòa lâu đài. Tôi phải nhìn thấy sơ đồ, nếu không, tôi không thể là một công nhân khôn ngoan được. Ngày nay công tác truyền giáo được hầu hết các Cơ Đốc nhân cho rằng đó là loại công tác của Đức Chúa Trời. Nhưng công tác truyền giáo không bao giờ có thể là một công việc tách rời, mà phải gắn liền với toàn bộ chương trình của Đức Chúa Trời, vì thật ra, công tác này chỉ là phương tiện để đạt đến cứu cánh. Cứu cánh ấy là sự trổi cao của Con Đức Chúa Trời, và công tác truyền giáo đem về nhiều con mà giữa những người con ấy, Ngài sẽ đứng ở vị trí ưu việt.

Trong thế hệ của Phao-lô, mỗi một tín đồ có một mối quan hệ cụ thể với mục đích đời đời của Đức Chúa Trời (đặc biệt xem 4:11-16). Điều này cần phải đúng như vậy đối với chúng ta ngày nay. Mắt của Đức Chúa Trời đang hướng về vương quốc của Ngài. Cơ Đốc giáo có tổ chức mà chúng ta đã biết chẳng bao lâu sẽ phải nhường chỗ cho một điều khác, đó là sự cai trị tối cao của Đấng Christ. Nhưng cũng như vương quốc của Sa-lô-môn, bây giờ, trước hết có một giai đoạn chiến trận thuộc linh được tượng trưng bằng sự trị vì của Đa-vít. Đức Chúa Trời đang tìm kiếm những người hợp tác với Ngài ngày nay trong chiến trận có tính cách chuẩn bị ấy.

Đó là vấn đề sự đồng nhất giữa mục đích của tôi với mục đích đời đời của Đức Chúa Trời. Toàn bộ công tác Cơ Đốc không đồng nhất như vậy đều trở nên rời rạc và tách biệt, cuối cùng sẽ không đi đến đâu cả. Chúng ta phải tìm kiếm từ Đức Chúa Trời một sự khải thị bởi Thánh Linh cho lòng mình về “quyết nghị của ý chỉ Ngài” (1:9-12) và sau đó tự hỏi mình về công tác mà chúng ta sẽ trở lại làm sau khi đọc lời này: “Công tác ấy có liên quan trực tiếp đến điều đó không?” Khi vấn đề ấy đã được giải quyết, mọi câu hỏi nhỏ nhặt về sự dẫn dắt hằng ngày sẽ tự giải quyết lấy.

Thứ hai, tất cả những công tác nào sẽ trở nên hiệu quả trong mục đích thần thượng đều phải được thai nghén bởi Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta hoạch định công tác và sau đó xin Đức Chúa Trời ban phước cho nó, thì đừng mong Đức Chúa Trời sẽ giao thác chính Ngài cho công tác ấy. Danh của Đức Chúa Trời không bao giờ có thể là một “con dấu cao su” để ủy quyền cho công tác do chúng ta thai nghén. Thật vậy, những công tác ấy có thể được ban phước, nhưng sẽ chỉ được phần nào chứ không đầy trọn. Không thể có sự “trong danh Ngài” ở đó; than ôi, chỉ có danh của chúng ta!

“Con không tự mình làm nổi việc gì”. Trong sách Công-vụ, chúng ta thường thấy sự ngăn cấm của Thánh Linh! Chúng ta đọc trong chương mười sáu thế nào Phao-lô và những người ở với ông bị “Thánh Linh ngăn cấm giảng đạo tại A-si”. Và một lần nữa: “Linh của Jesus không cho phép”. Tuy nhiên, sách này là công vụ của Thánh Linh, không phải là sách chép về sự “không hoạt động” của Ngài. Chúng ta rất thường nghĩ rằng thật sự hành động mới là vấn đề quan trọng. Chúng ta phải học bài học không làm gì, giữ yên lặng cho Ngài. Chúng ta phải học nếu Đức Chúa Trời không chuyển động, chúng ta không dám chuyển động. Khi chúng ta đã học được điều này, Ngài có thể an toàn sai chúng ta đi ra phát ngôn cho Ngài.

Vì vậy, tôi phải biết ý muốn của Đức Chúa Trời trong lãnh vực công tác riêng của tôi. Chỉ khi nào hiểu biết như vậy, tôi mới nên bắt đầu công tác. Nguyên tắc đời đời cho mọi công tác thật của Cơ Đốc nhân là “Ban đầu Đức Chúa Trời...”

Thứ ba, để có hiệu quả, mọi công tác phải tiếp diễn tùy thuộc vào quyền năng của một mình Đức Chúa Trời mà thôi. Quyền năng là gì? Chúng ta thường sử dụng từ ngữ này một cách không chính xác. Chúng ta nói về một người: “Ông ấy là một diễn giả rất quyền năng”, nhưng chúng ta phải tự hỏi: Ông ấy đang sử dụng quyền năng gì? Quyền năng thuộc linh hay năng lực thiên nhiên? Ngày nay, người ta dành quá nhiều chỗ cho năng lực thiên nhiên trong sự hầu việc Đức Chúa Trời. Chúng ta phải học biết rằng ngay cả khi Đức Chúa Trời đã bắt đầu một công việc, nếu chúng ta cố gắng hoàn tất nó bằng năng lực riêng, Ngài sẽ không bao giờ giao thác mình cho công việc ấy.

Anh em hỏi tôi năng lực thiên nhiên là gì. Nói cách đơn giản, đó là những gì chúng ta có thể làm mà không cần sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời. Chúng ta giao cho một người nhiệm vụ tổ chức một việc gì đó, định chương trình cho một chiến dịch truyền giảng Phúc âm chẳng hạn, hay một sinh hoạt Cơ Đốc nào khác, vì anh ấy là một người có tài tổ chức. Nếu như vậy, anh ấy sẽ khó cầu nguyện biết bao! Nếu anh ấy quen nương cậy vào các tài năng thiên nhiên, có lẽ anh cảm thấy không cần kêu cầu với Đức Chúa Trời. Điều rắc rối của tất cả chúng ta là có rất nhiều điều chúng ta có thể làm mà không cần nương dựa nơi Đức Chúa Trời. Chúng ta phải được đem đến chỗ là dầu con người thiên nhiên có thể tài giỏi, chúng ta vẫn không dám nói, trừ phi trong ý thức liên tục nương cậy Đức Chúa Trời.

Ê-tiên mô tả Môi-se là một người mà “lời nói và việc làm đều có năng lực” sau khi ông được hấp thụ nền giáo dục tại Ai-cập. Nhưng sau khi được Đức Chúa Trời xử lý, Môi-se phải nói: “Ô! Thưa Chúa, từ trước đến nay hay là từ lúc Chúa phán cùng kẻ tôi tớ Chúa, tôi không phải là người nói năng lưu loát, vì miệng và lưỡi tôi hay ngập ngừng”. Khi một nhà hùng biện bẩm sinh đến chỗ nói rằng: “Tôi không thể nói được”, thì người ấy đã học được bài học căn bản và đang tiến đến chỗ thật sự hữu dụng cho Đức Chúa Trời. Sự khám phá ấy bao gồm một thời điểm quyết định và sau đó là một tiến trình kéo dài suốt đời, chắc chắn cả hai điều đó được ngụ ý trong lời diễn đạt của Lu-ca: “báp-têm vào trong danh” (Công. 8:16; 19:5). Lời diễn đạt ấy chỉ cho mỗi tín đồ thấy sự cần thiết của một sự hiểu biết cơ bản về sự chết và sự phục sinh của Đấng Christ trong mối liên hệ với toàn bộ con người thiên nhiên. Dầu thế nào đi nữa, đó là lịch sử của chúng ta với Đức Chúa Trời, chúng ta phải kinh nghiệm sự đụng chạm ban đầu của tay Ngài, là sự đụng chạm làm cho què quặt để làm suy yếu năng lực thiên nhiên, hầu chúng ta đứng trên nền tảng của sự sống phục sinh trong một mình Đấng Christ mà thôi, là nơi sự chết không có quyền nữa. Sau đó chu kỳ ấy tiếp tục mở rộng ra, là lúc những lãnh vực mới mẻ của năng lực riêng chúng ta được đem đến dưới sự hành động của Thập Tự Giá. Con đường ấy thật đắt giá, nhưng đó là con đường chắc chắn dẫn đến sự sống và chức vụ kết quả, vì nó cung ứng cho Ngài nền tảng Ngài đòi hỏi để Ngài có thể hỗ trợ những gì chúng ta làm trong danh của Con Ngài.

Trong công tác của Đức Chúa Trời ngày nay, nhiều điều thường được lập ra đến nỗi chúng ta không cần phải nương dựa nơi Đức Chúa Trời. Nhưng lời phán quyết của Chúa trên mọi công tác ấy không có chỗ nhân nhượng: “Ngoài Ta, các ngươi không thể làm chi được”. Công tác nào con người có thể làm tách rời khỏi Đức Chúa Trời là gỗ, cỏ khô và rơm rạ, mà lửa thử nghiệm sẽ chỉ ra. Vì công tác thần thượng chỉ có thể được thực hiện bằng quyền năng thần thượng, và quyền năng ấy chỉ được tìm thấy trong Chúa Jesus mà thôi. Quyền năng ấy được dành sẵn cho chúng ta trong phương diện phục sinh của Thập tự giá. Nói như vậy nghĩa là, khi chúng ta đi đến chỗ kêu lên một cách hết sức thành thật: “Tôi không thể nói được”, ấy là lúc chúng ta khám phá Đức Chúa Trời đang nói. Khi chúng ta đi đến chỗ tận cùng của công tác mình, công tác của Ngài sẽ bắt đầu. Như vậy, lửa trong những ngày tương lai và Thập Tự Giá ngày nay thực hiện cùng một điều. Điều gì không chịu nỗi Thập Tự Giá ngày nay sẽ không tồn tại khi qua lửa ngày mai. Nếu công tác của tôi, là công tác được thực hiện trong năng lực của tôi bị đem vào chỗ chết, thì bao nhiêu điều có thể ra khỏi mồ mả? Không một điều nào cả! Không có điều gì tồn tại sau khi bị Thập Tự Giá xử lý trừ ra những gì hoàn toàn thuộc về Đức Chúa Trời trong Đấng Christ.

Đức Chúa Trời không bao giờ yêu cầu chúng ta làm bất cứ điều gì mà chúng ta có thể làm. Ngài đòi hỏi chúng ta sống cuộc đời chúng ta không bao giờ có thể sống được và làm công tác chúng ta không bao giờ làm được. Tuy nhiên, bởi ân điển Ngài, chúng ta đang sống cuộc đời ấy và đang làm công tác ấy. Cuộc đời chúng ta sống là cuộc đời Đấng Christ sống trong quyền năng của Đức Chúa Trời, và công tác chúng ta làm là công tác của Đấng Christ thực hiện qua chúng ta bởi Linh Ngài là Đấng chúng ta vâng lời. Bản ngã là chướng ngại vật duy nhất cho sự sống ấy và công tác ấy. Nguyện mỗi chúng ta cầu nguyện từ đáy lòng mình: “Ôi Chúa, xin xử lý con!”

Cuối cùng, mọi công tác mà Đức Chúa Trời có thể giao thác chính Ngài phải có cứu cánh và mục tiêu là vinh quang của Ngài. Điều này có nghĩa là chúng ta không nhận được gì cho chính mình từ công tác ấy cả. Nguyên tắc thần thượng là chúng ta càng ít được thỏa lòng mình qua công tác ấy bao nhiêu thì công tác ấy càng có giá trị thật đối với Đức Chúa Trời bấy nhiêu. Không có vinh quang dành cho con người trong công tác của Đức Chúa Trời. Đúng vậy, có một niềm vui sâu xa, quí báu trong tất cả những công tác làm thỏa lòng Ngài và điều đó mở cửa cho sự hành động của Ngài, nhưng nền tảng của niềm vui ấy là vinh quang của Ngài chứ không phải vinh quang con người. Mọi sự “để ngợi khen sự vinh hiển của ân điển Ngài” (1:6, 12, 14).

Khi những vấn đề này thật sự được giải quyết giữa chúng ta và Đức Chúa Trời, Ngài sẽ phó thác chính Ngài, thật ra tôi tin rằng Ngài sẽ cho phép chúng ta nói rằng Ngài phải làm như vậy. Kinh nghiệm tại Trung Quốc đã dạy chúng tôi điều đó, tức là nếu còn có chỗ nghi ngờ không biết công việc của chúng ta có phải thuộc về Đức Chúa Trời không, thì chắc chắn chúng ta thấy Đức Chúa Trời lưỡng lự đáp lời cầu nguyện liên quan đến công việc ấy. Nhưng khi công việc ấy hoàn toàn thuộc về Ngài, Ngài sẽ giao phó chính Ngài bằng nhiều cách kỳ diệu. Như vậy, trong sự vâng lời Ngài tuyệt đối, anh em có thể sử dụng danh Ngài, và cả Ha-đét sẽ phải nhận biết uy quyền làm điều đó của anh em. Khi Đức Chúa Trời giao phó chính Ngài cho một điều gì, Ngài sẽ xuất hiện trong quyền năng để minh chứng rằng Ngài ở tại đó và chính Ngài là Tác Giả của công tác ấy.


ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA Ê-LI

Để kết thúc, tôi xin thuật cho anh em một kinh nghiệm của chính mình. Vài năm sau khi công tác, chúng tôi bước vào một giai đoạn thử nghiệm gắt gao. Đó là những ngày thất vọng và gần như tuyệt vọng. Chúng tôi đã trở nên mục tiêu cho nhiều lời phê phán và bất tín nhiệm của những người khác vì lập trường chúng tôi đang đứng, hậu quả đưa đến là ngay cả các con cái thật của Đức Chúa Trời cũng trở nên lãnh đạm và xa lánh chúng tôi. Chúng tôi phải thành thật đối diện và xem xét những lời người ta buộc tội mình, vì luôn luôn cần phải coi trọng những lời phê bình và xem xét chúng, chứ không cho qua và nói: “Ôi, anh ta chỉ trích tôi ấy mà!” Tuy nhiên, chúng tôi có lý do để tin rằng Chúa ở với mình, vì khi một năm đặc biệt khó khăn sắp chấm dứt, chúng tôi có thể tính ra trong giai đoạn ấy, Chúa cho chúng tôi vài trăm người thật sự được hoán cải. Sau đó, đến cuối năm, dường như chúng tôi đã đạt đến cao điểm.

Trong vòng vài năm, mỗi năm cứ vào kỳ nghỉ Tết của mọi người, chúng tôi có thông lệ tổ chức một kỳ hội đồng trong thành phố cho các tín đồ thuộc những nhóm liên kết khác nhau từ khắp cả tỉnh. Năm nay, những người chịu trách nhiệm kỳ hội đồng yêu cầu tôi đừng tham dự. Lời yêu cầu ấy làm chúng tôi sửng sốt. Bấy giờ tôi nhận biết rằng đó là nỗ lực của Kẻ Ác nhằm kéo tôi và các anh em tôi khỏi vị trí an nghỉ trong Đấng Christ. Vấn đề là chúng tôi phải phản ứng như thế nào đây?

Thời gian nghỉ Tết là một kỳ nghỉ dài hạn, kéo dài trọn mười lăm ngày, ngoài việc là thời gian thích hợp cho một kỳ hội đồng, đó cũng là giai đoạn tốt nhất cho việc rao giảng Phúc âm. Sau khi tìm kiếm ý muốn của Chúa, chúng tôi thấy rõ Ngài muốn chúng tôi dùng thời gian này để rao giảng Phúc âm, cho nên tôi dự định đem năm anh em cùng đi đến một hòn đảo ngoài khơi bờ biển Hoa Nam để thăm viếng và rao giảng mười lăm ngày. Vào giờ chót, một anh em trẻ tuổi khác, là người tôi sẽ gọi là “anh Wu” gia nhập nhóm chúng tôi. Anh chỉ mới mười sáu tuổi, đã bị đuổi học, nhưng gần đây anh được tái sinh và có một sự thay đổi rõ rệt trong đời sống. Hơn nữa, anh rất sốt sắng muốn đi, cho nên sau một lúc do dự, tôi đồng ý mang anh theo. Như vậy, chúng tôi có tất cả bảy người.

Hòn đảo ấy khá rộng với một ngôi làng chính, rộng lớn gồm “sáu ngàn bếp lò”. Một bạn học cũ của tôi ở đó, là hiệu trưởng của trường làng, tôi đã viết thư trước cho ông, xin một căn phòng để chúng tôi ở suốt thời gian lưu lại đó, từ ngày 1 đến ngày 15 tháng Giêng. Tuy nhiên, lúc chúng tôi đến thì đã trễ, trời đã tối, và khi ông khám phá chúng tôi đến để giảng Phúc âm, ông từ chối không cho chúng tôi chỗ ở. Vì vậy, chúng tôi đi khắp làng, tìm một nơi nào có thể ở được. Cuối cùng, một thầy thuốc bắc thấy tội nghiệp chúng tôi, đã cho chúng tôi vào ở thật thoải mái trên những tấm ván và rơm trong căn gác của ông.

Chẳng bao lâu, thầy thuốc bắc ấy là người đầu tiên hối cải. Nhưng mặc dầu chúng tôi lao khổ cách có hệ thống và nhọc nhằn, và mặc dầu dân làng hết sức lịch sự, chúng tôi gặt hái rất ít kết quả trên đảo ấy. Chúng tôi bắt đầu thắc mắc vì sao như vậy.

Vào ngày 9 tháng Giêng, chúng tôi đang ra đi rao giảng. Anh Wu cùng với vài người khác đến một vùng nọ trong làng, thình lình anh hỏi công chúng: “Vì sao không ai trong các ông bà tin hết vậy?” Ngay lập tức, có người trong đám đông đáp lời: “Chúng tôi có một vị thần là Ta-wang (nghĩa là “Đại Vương”). Ngài không bao giờ làm chúng tôi thất vọng. Ngài là một vị thần rất linh ứng”. Anh Wu hỏi: “Làm sao các ông bà biết mình có thể tin cậy vị thần ấy?” Họ đáp: “Chúng tôi tổ chức lễ rước Ngài đã 286 năm nay vào mỗi tháng Giêng. Ngày được thần chọn bày tỏ cho chúng tôi biết trước nhờ bói toán, và mỗi năm không bao giờ sai. Ngày đó là một ngày hoàn toàn quang đãng không có mưa hay mây”. “Năm nay, đám rước sẽ vào ngày nào?” “Ngày ấy đã được định vào ngày 11 tháng Giêng, lúc 8 giờ sáng”. Anh Wu nói không suy nghĩ: “Tôi hứa với các anh rằng trời chắc chắn sẽ mưa vào ngày 11”. Ngay lập tức, đám đông la lên: “Đủ rồi! Chúng tôi không muốn nghe giảng nữa. Nếu trời mưa vào ngày 11, thì Đức Chúa Trời của các anh thật là Đức Chúa Trời!”

Khi điều này xảy ra, tôi đang ở một nơi khác trong làng. Ngay khi nghe thuật lại, tôi thấy rằng đây là một việc hết sức nghiêm trọng. Tin tức lan tràn như lửa rừng, chẳng bao lâu, trên hai mươi ngàn dân làng đều sẽ biết. Chúng tôi phải làm gì đây? Chúng tôi lập tức ngưng rao giảng, và hết lòng cầu nguyện. Chúng tôi cầu xin Chúa tha thứ chúng tôi nếu chúng tôi đã đi quá xa. Tôi xin nói với anh em, lúc ấy chúng tôi đã ở trong tình trạng vô cùng sốt sắng. Chúng tôi đã làm gì? Có phải chúng tôi đã sai lầm kinh khủng, hay chúng tôi có dám xin Đức Chúa Trời làm một phép lạ không?

Càng muốn Đức Chúa Trời đáp lời cầu nguyện, anh em càng ao ước được trong sáng với Ngài. Phải không có nỗi nghi ngờ nào trong sự tương giao, không có bóng mờ nào giữa anh em với Chúa. Nếu đức tin của anh em ở trong tình trạng đồng nhất với nhau, anh em có khả năng tranh luận với Ngài, nhưng ngược lại thì không. Chúng tôi không buồn phiền gì vì bị đuổi đi nếu chúng tôi đã làm một điều sai quấy. Xét cho cùng, anh em không thể kéo Đức Chúa Trời vào một điều nghịch lại với ý muốn Ngài! Nhưng chúng tôi suy nghĩ, như vậy có nghĩa là lời chứng của Phúc âm trên đảo này phải chấm dứt, và Ta-wang sẽ nắm quyền cai trị tối cao mãi mãi. Chúng tôi nên làm gì? Chúng tôi có nên ra đi ngay không?

Cho đến lúc đó, chúng tôi sợ cầu xin Chúa ban mưa. Sau đó, lời đến với tôi như một tia chớp: “Đức Chúa Trời của Ê-li ở đâu?” Lời ấy đến sáng tỏ và đầy quyền năng đến nỗi tôi biết lời ấy đến từ Đức Chúa Trời. Với lòng tin chắc, tôi tuyên bố với các anh em: “Tôi có câu trả lời. Chúa sẽ ban mưa vào ngày 11”. Chúng tôi cùng nhau cảm tạ Chúa, và sau đó, đầy dẫy sự ngợi khen, chúng tôi đi ra cả bảy người, nói cho mọi người biết. Chúng tôi chấp nhận sự thách thức của ma quỉ trong danh Chúa, và chúng tôi loan báo cho mọi người biết rằng mình chấp nhận như vậy.

Tối hôm ấy, thầy thuốc bắc đưa ra hai nhận xét sắc bén. Ông nói rằng: “Ta-wang là một vị thần linh ứng. Ma quỉ ở với hình tượng ấy. Đức tin của họ đặt nơi thần ấy không phải là vô căn cứ. Hơn nữa, nếu các anh muốn nghe một lời giải thích hợp lý, thì đây là một làng gồm toàn những người đánh cá. Họ ở ngoài khơi suốt hai ba tháng liên tục, và vào ngày 15 họ sẽ ra khơi trở lại. Qua kinh nghiệm lâu năm, mọi người trong vòng họ đều biết trời sẽ không mưa trước hai, ba ngày”.

Điều này làm chúng tôi bối rối. Khi chúng tôi đi cầu nguyện vào buổi tối, một lần nữa, tất cả chúng tôi đều bắt đầu cầu xin mưa ngay bây giờ! Khi ấy có một lời quở trách chúng tôi nặng nề đến từ Chúa: “Đức Chúa Trời của Ê-li ở đâu?” Có phải chúng tôi đang tự chiến đấu trong chiến trận này, hay chúng tôi an nghỉ nơi sự chiến thắng đã hoàn tất của Đấng Christ? Ê-li-sê đã làm gì khi ông nói những lời ấy? Trong kinh nghiệm riêng của mình, ông đã tuyên bố chính phép lạ mà thầy của ông, là Ê-li bấy giờ đang ở trong vinh quang, đã thực hiện. Theo từ ngữ của Tân Ước, bởi đức tin, ông đã đứng trên nền tảng của một công tác đã được hoàn tất.

Một lần nữa, chúng tôi xưng tội. Chúng tôi nói: “Chúa ôi, đến sáng ngày 11 chúng con mới cần mưa”. Chúng tôi đi ngủ, và sáng hôm sau (ngày 10) chúng tôi lên đường đi đến một đảo gần đó để rao giảng một ngày. Chúa đầy ân điển và ngày đó có ba gia đình trở lại với Ngài, xưng nhận Ngài công khai, đốt hình tượng. Chúng tôi trở về trễ, mệt nhọc nhưng vui mừng. Chúng tôi có thể ngủ dậy trễ sáng hôm sau.

Những tia nắng mặt trời chiếu thẳng vào chúng tôi qua cánh cửa sổ duy nhất của căn gác đã đánh thức tôi dậy. Tôi nói: “Đây không phải là mưa”. Lúc ấy đã quá bảy giờ. Tôi thức dậy, quì xuống cầu nguyện. Tôi nói: “Chúa ôi, xin Ngài ban mưa xuống!” Nhưng một lần nữa, lời vang trong tai tôi: “Đức Chúa Trời của Ê-li ở đâu?” Tôi hạ mình xuống, im lặng bước xuống cầu thang trước mặt Đức Chúa Trời. Chúng tôi ngồi xuống ăn điểm tâm, cả tám người trong chúng tôi, kể cả người chủ nhà, đều rất im lặng. Trên trời không có mây, nhưng chúng tôi biết Đức Chúa Trời đã hứa. Khi chúng tôi cúi đầu cầu nguyện trước bữa ăn, tôi nói: “Tôi nghĩ giờ đã đến. Mưa phải đến ngay bây giờ. Chúng ta có thể nhắc nhở Chúa”. Chúng tôi nhắc nhở Ngài với lòng bình tịnh, lần này sự đáp lời đến, không có dấu hiệu quở trách nào trong đó.

“Đức Chúa Trời của Ê-li ở đâu?” Ngay trước khi nói A-men, chúng tôi có thể nghe tiếng vài giọt mưa trên mái nhà. Có tiếng mưa rào đều đặn khi chúng tôi ăn cơm và khi đang bới chén cơm thứ hai. Tôi nói: “Chúng ta hãy cảm tạ Chúa một lần nữa”, và bây giờ chúng tôi xin Đức Chúa Trời ban mưa lớn hơn. Khi chúng tôi bắt đầu ăn chén thứ hai, thì trời mưa như trút nước. Khi chúng tôi ăn xong, ngoài đường đã ngập nước và nước dâng lên ngập ba bậc thang trước cửa nhà.

Chẳng mấy chốc, chúng tôi được nghe những gì đã xảy ra trong làng. Ngay từ giọt mưa đầu tiên, một vài người thuộc thế hệ trẻ đã bắt đầu nói công khai: “Có Đức Chúa Trời; không còn Ta-wang nữa! Mưa đã nhốt ông ta lại rồi!” Nhưng ông ta không bị nhốt. Họ khiêng ông ta ra trên một cái kiệu. Chắc chắn ông ta sẽ chận cơn mưa lại! Sau đó, trời mưa lớn. Sau khi đi được khoảng mười thước, ba người khiêng kiệu vấp chân và ngã xuống. Kiệu và Ta-wang ngã theo, ông ta bị gãy hàm và cánh tay trái. Vẫn một mực cương quyết, họ thực hiện việc sửa chữa khẩn cấp, và lại đặt ông ta lên kiệu. Dầu sao đi nữa, vừa trợt vừa vấp, họ khiêng ông ta đi nửa đường quanh làng. Sau đó trận lụt đánh bại họ. Để đầu trần, không che dù theo như lòng tin vào thời tiết mà Ta-wang báo trước đã đòi hỏi họ, một số người cao tuổi trong làng là những người già từ 60 đến 80 tuổi đã bị té ngã và rơi vào tình trạng vô cùng khốn khó. Đám rước phải ngưng lại và người ta đem hình tượng ấy vào một căn nhà. Người ta bói khoa và thầy bói trả lời: “Hôm nay là ngày kỵ. Ngày lễ phải vào ngày 14 và đám rước sẽ cử hành vào lúc 6 giờ tối”.

Ngay lập tức, chúng tôi nghe lời xác quyết này trong lòng mình: “Đức Chúa Trời sẽ cho trời mưa vào ngày 14”. Chúng tôi cầu nguyện: “Chúa ôi, xin cho trời mưa vào ngày 14 lúc 6 giờ tối, và xin ban cho chúng con bốn ngày có thời tiết tốt cho đến ngày hôm ấy”. Chiều hôm ấy trời thật trong sáng, và người ta chăm chú nghe giảng Phúc âm. Chúa ban cho chúng tôi ba mươi người hối cải thật sự trong làng và trên đảo trong ba ngày ngắn ngủi ấy. Đến ngày 14, trời thật quang đãng, chúng tôi có những buổi nhóm tốt. Khi bóng đêm dần đến, chúng tôi nhóm lại, và đến đúng giờ đã định, chúng tôi yên tịnh đem vấn đề đến nhắc nhở Chúa. Không chậm trễ một phút nào, Ngài đáp lời với một trận mưa như thác đổ và lụt lội như trước.

Ngày hôm sau, thời hạn của chúng tôi đã chấm dứt và chúng tôi phải ra đi. Đến nay chúng tôi chưa trở lại nơi đó. Những người hầu việc Chúa khác xin phép chúng tôi để đến công tác tại những hòn đảo ấy, và chúng tôi không bao giờ thắc mắc về quyền sở hữu của bất cứ ai tại một cánh đồng truyền giáo nào. Nhưng đối với chúng tôi, điều quan trọng là quyền lực của Sa-tan trong hình tượng đó đã bị phá vỡ, và đó là một điều [có giá trị] đời đời. Ta-wang không còn là “một vị thần linh ứng” nữa. Sự cứu rỗi hồn người theo sau, nhưng tự điều ấy chỉ là phụ so với sự kiện quan trọng và không thay đổi này.

Ấn tượng ghi sâu trong chúng tôi là một ấn tượng bền lâu. Đức Chúa Trời đã phó thác chính Ngài. Chúng tôi đã nếm biết uy quyền của danh vượt trên hết mọi danh, danh ấy có quyền năng ở trên trời, dưới đất và Âm-phủ. Trong những ngày ngắn ngủi ấy, chúng tôi đã được biết khi mình nói: “ở chính trung tâm của ý muốn Đức Chúa Trời” thì có nghĩa là gì. Đối với chúng tôi, những lời ấy không còn là điều gì mơ hồ hay hão huyền. Những lời ấy mô tả một kinh nghiệm chính chúng tôi đã trải qua. Cùng với nhau, chúng tôi đã được ban cho một cái nhìn thoáng qua về “huyền nhiệm của ý chỉ Ngài” (1:9; 3:10). Chúng tôi bước đi nhẹ nhàng trong tất cả năm tháng của mình. Nhiều năm sau, tôi gặp “anh Wu”. Từ lâu tôi mất liên lạc với anh, trong thời gian đó, anh đã trở thành phi công của một hãng hàng không. Khi tôi hỏi anh có còn theo Chúa không, anh đáp: “Ông Nghê! Ông có ý nói rằng sau tất cả những gì chúng ta đã trải qua, tôi có thể bỏ Ngài được sao?”

Anh em có thấy “đứng” có nghĩa là gì không? Chúng ta không cố gắng giành lãnh thổ, chúng ta chỉ đứng trên lãnh thổ mà Chúa Jesus đã giành lấy cho chúng ta, và cương quyết từ chối không chịu dời khỏi đó. Khi mắt chúng ta đã mở ra để nhìn thấy Đấng Christ là Chúa đắc thắng của mình, thì lời ngợi khen tuôn chảy tự do và không gì kiềm chế được. Miệng hát lòng họa hướng về Chúa, chúng ta dâng lời cảm tạ về mọi sự trong danh Ngài (5:19, 20). Lời ngợi khen là kết quả của nỗ lực có một âm điệu nặng nhọc và chói tai, nhưng lời ngợi khen tự phát dâng lên từ những tấm lòng yên nghỉ trong Ngài luôn luôn có một âm điệu thuần khiết, ngọt ngào.

Đời sống Cơ Đốc bao gồm việc đồng ngồi với Đấng Christ, bước đi bởi Ngài và đứng trong Ngài. Chúng ta bắt đầu đời sống thuộc linh bằng cách an nghỉ nơi công tác đã hoàn tất của Chúa Jesus. Sự an nghỉ ấy là nguồn sức mạnh của mình để chúng ta bước đi cách vững bền, không chao đảo trong thế gian này. Vào cuối chiến trận gay go với những đạo quân bóng tối, cuối cùng, chúng ta thấy mình đồng đứng với Ngài trong việc chiếm hữu cánh đồng cách khải hoàn. “Nguyện vinh quang thuộc về Ngài cho đến đời đời”.