ĐIỀU CHÚNG TA CẦN BIẾT VÀ TẠI SAO CÓ CUỘC CẢI CHÁNH GIÁO HỘI
MỤC LỤC
NIÊN BIỂU CUỘC CẢI CHÁNH
Lời tựa: Lindsay Brown
PHẦN I
Câu chuyện và Ý nghĩa quan trọng của cuộc cải chánh Michael Reeves
PHẦN II
Giữ vững đức tin và Lưu truyền lại John Stott
PHỤ LỤC
Lời cầu nguyện của Chúa Giê-xu cho sự hiệp một trong Hội thánh của Ngài. Alan Purser
95 Luận đề của Martin Luther
NIÊN BIỂU CUỘC CẢI CHÁNH
Trong tuyển tập duy nhất rất khiêm tốn này câu chuyện nhỏ nhất có thể bao gồm công việc đáng chú ý của ân điển đã bày tỏ sự can đảm nhất của những đời sống. Mỗi một tên tuổi ở bên dưới với những phẩm chất xứng đáng trong mục này của tuyển tập, như sự sống và sự chết của mỗi một người tuận đạo không được đính kèm ở đây. Kể cả một vài nhân vật lãnh đạo không xuất hiện trong quyển sách này là để mời gọi một sự khám phá xa hơn của độc giả. Trong một vài trường hợp những ngày tháng là không thể xác minh được, chúng tôi đã đưa ra hầu hết được sử dụng rất phổ biến.
1324 John Wycliffe, “Ngôi sao ban mai của sự cải chánh”- xuất thân từ Yorkshire, Anh quốc.
1369 Jan Hus xuất thân từ Husines, Cộng hòa Séc [1]
1384 John Wycliffe qua đời tại Leicestershire, Anh quốc. Thách thức của ông đối với những niềm tin đương thời cứ tiếp tục bởi một nhóm người truyền bá được biết như là Wycliffites hoặc (chế giễu hay nhạo báng) Lollards.
1407 James Resby đã công bố một ‘heretik’= ‘người theo dị giáo’ bị thiêu cháy tại Perth, Xcốt-len năm 1407 hoặc 1408.[2]
1412 Jan Hus đã công khai kêu gọi đến Đức Chúa Giê-xu Christ ở trên thẩm quyền của Hội thánh [3]
1414 Jan Hus bị quyến rũ đến Hội nghị Constance
1416 Graduands tại trường Đại học Thánh Anh-rê bị bắt buộc thề chống lại Lollards
1433 Paul Craw (hoặc Pavel Kravar) từ miền tây Cộng hòa Séc bị thiêu cháy tại Thánh đường Anh-rê, Xốt-len.
1450 Johannes Gutenberg phát minh máy in
1466 Desiderius Erasmus xuất thân từ miền tây nam Hà-lan, Hà-lan.
1483 Martin Luther xuất thân từ Eisleben, Đông Đức.
1483 Huldrych Zwingli xuất thân từ Wildhaus, Thụy sĩ.
1487 Hugh Latimer xuất thân từ miền trung nước Anh - Leicestershire, Anh quốc.
1489 Thomas Cranner xuất thân từ miền trung nước Anh – Nottinghamshire, Anh quốc.
1491 William Tyndale xuất thân từ miền tây nước Anh -Gloucestershire, Anh quốc.
1494 Martin Bucer xuất thân từ Sélestat, Pháp.
1495 Thomas Bilney xuất thân từ Norfolk, Ý, và John A Lasco ở Lask, Ba-lan.
1500 Nicolas Ridley xuất thân từ miền cực bắc nước Anh – Northumberland, Anh quốc.
1505 Luther kết thân với tu viện thuộc thánh Augustine
1504 Heinrich Bullinger xuất thân từ Aargau, Thụy sĩ.
1509 John Calvin xuất thân từ Noyon, Pháp.
1513 John Knox xuất thân từ Haddington, Xcốt-len.
1516 Erasmus xuất bản quyển Tân ước tiếng Hy-lạp
1517 Luther dán 95 luận đề trên cửa của Nhà thờ Castle, Wittenberg.
1521 Cuộc họp ở Worms. Luther bị bắt giữ được bảo vệ trong Wartburg Castle, nơi mà ông dịch quyển Tân ước sang tiếng Đức. Henry VIII xuất bản Lời biện hộ của Bảy Bí - Tích chống lại Luther và được tặng thưởng với tiêu đề “Người biện hộ của Đức tin”.
1522 Luther hoàn thành việc dịch quyển Tân ước sang tiếng Đức
1526 Kinh thánh Tân ước tiếng Anh của William Tyndale được hoàn thành.
1528 Patrick Hamilton bị thiêu cháy vì quan điểm dị giáo tại thánh đường Anh-rê, Xcốt-len.
1531 Thomas Bilney bị thiêu cháy vì quan điểm dị giáo tại miền đông nam Connecticut – Norwich, Anh quốc.
1532 Thomas Cranmer được phong chức như một Tổng giám mục của thành phố đông nam nước Úc.
1534 Henry VIII đã công bố “Người đứng đầu tối cao của nhà thờ trong Anh quốc”. Phiên bản dịch quyển Kinh thánh hoàn thành đầu tiên của Luther.
1536 Calvin đến Geneva. Phiên bản đầu tiên về những tổ chức của ông được xuất bản. Erasmus chết. William Tyndale bị hành hình. Người phụ nữ Jane Gray được sinh ra, có khả năng tại Eisleben, Đức.
1546 Luther chết tại Eisleben, Đức.
1547 Henry VIII chết. Edward VI người con trai truyền giáo của ông kế vị.
1549 Quyển sách bài cầu nguyện chung được xuất bản
1551 Martin Bucer chết tại miền đông nước Anh – Cambridge.
1553 Cái chết của Edward VI. Người chị em họ đệ nhất phu nhân Jane Gray được tôn lên như Nữ hòang Anh, nhưng đã bị truất phế sau 9 ngày.
1553-8 Nữ hòang Mary “Khát máu” được thăng lên ngôi và phục hồi lại Thiên Chúa Giáo La-mã trong Anh quốc.
1554 Người phụ nữ Jane Gray bị chém. đầu.
1555 Nicholas Ridly và Hugh Latimer bị thiêu cháy tại miền nam nước Anh - Oxford.
1558 Elizabeth I kế vị Mary, trở lại với Nhà thờ Anh quốc đến nhà nước sống trong thời
Edward VI.
1560 John a Lasco chết tại Pificz6w, Ba-lan.
1562 Peter Martyr Vermigli chết tại Zurich, Đức.
1564 Calvin chết tại Geneva, Thụy sĩ.
1572 John Knox chết tại Edinburgh, Xcốt-len.
1575 Heinrich Bullinger chết tại Zurich, Thụy sĩ.
1611 Bản dịch Kinh thánh King James (hoặc Kinh thánh bằng tiếng Anh dịch từ tiếng Hê-bơ-
rơ-và Hy-lạp) được hoàn thành.
NHỮNG LỜI TUYÊN BỐ XƯNG TỘI THEO SAU KHỞI ĐẦU CỦA CUỘC CẢI CHÁNH
1523 Sáu mươi bảy bài báo của Ulrich Zwingli
1527 Sự xưng tội của Schleitheim
1530 Sự xưng tội của Augsburg
1536 Sự xưng tội của Genevan
1561 Sự xưng tội của Belgic
1563 Giáo lý vấn đáp của Heidelberg
1571 Ba mươi chín bài báo của Nhà thờ Anh quốc.
1619 Những luật lệ của Nhà thờ
1647 Sự xưng tội của Westminter
1689 Sự xưng tội của Báp-tít Luân đôn thứ hai.
MỘT BÀI THÁNH CA TRƯỚC SỰ CẢI CHÁNH
Ôi, Tình yêu thiên thượng, xin hãy đến, linh hồn con đang khao khát, Hãy thăm viếng con bởi ánh sáng tình yêu rực rỡ của Ngài Đấng Yên Ủi ôi, xin hãy đến gần, trong trái tim con đốt lên ngọn lửa thánh khiết.
Ôi, hãy để ngọn lửa tình yêu tự do bùng cháy, cho đến khi niềm đam mê trần gian trở thành bụi và tro tàn trong sức nóng mãnh liệt; và hãy để ánh sáng vinh quang của Chúa chiếu rọi trước mắt và bao phủ con, đường con đi ngập tràn vinh quang Ngài. Hãy để con lộ ra bên ngoài với trang sức của sự thánh khiết và nhân từ, và chiếc áo của tâm hồn con chính là sự khiêm nhường; lòng khiêm nhu thật của trái tim con, nhận lấy phần thua thiệt (và lấy đi những thiếu xót với điều con miễn cưỡng) Và sự khao khát trở nên mạnh mẽ, linh hồn con đợi chờ, sẽ vượt trội hơn sức mạnh mà trần gian không thể sánh được; vì không ai có thể hiểu thấu được ân sủng của linh hồn, cho đến khi nó trở thành nơi Chúa Thánh Linh ngự.
LỜI TỰA
Lindsay Brown
Tôi nồng nhiệt tiếp nhận cuốn sách ngắn ngủi này. Chúng ta có nhiều điều để học từ lịch sử Hội thánh và ở đây chúng ta thấy những sự kiện cách đây 6 thế kỷ đã đặt để một giai đoạn cho công tác của những người giảng đạo trong thế kỷ 18 và 19 tuyệt vời như thế nào như là: Wesleys, George Whitefield, Jonathan Edwards, Charles Simeon, C.H Spurgeon – và họ đã cho chúng ta Tin lành ngày nay như thế nào. Đây không có ám chỉ rằng Đức Chúa Trời đã lìa khỏi mà không có một lời chứng nào trước khi cuộc cải chánh. Trước thế kỷ thứ 16 chúng ta không chỉ có những công việc của Wycliffe và những đồng bạn của ông, những người tuận đạo đầu tiên, và sự lãnh đạo của Jan Hus, nhưng những tia sáng le lói của ánh sáng qua Châu âu. Ví dụ nhà thơ ẩn danh người Ý và Jesuat, Biance de Siena là những người đã chuyển đến chúng ta một bài thánh ca tuyệt vời, “Ôi tình yêu thiên thượng, xin hãy đến” [4]
Khi chúng ta đọc Phần I, hãy nhìn lại những sự kiện của cuộc cải chánh, chúng ta đừng bỏ qua 4 điều:
Thứ nhất, trong Luther, Đức Chúa Trời đã sử dụng một tu hành rất bình thường, là người không bao giờ mất đi tính khí vụng về, thô kệt của ông. Bộ dạng của ông và sự thật là tính khí của ông có thể là thô lỗ. Nếu một nhà thờ hay một chủng viện ngày hôm nay thông báo về một vị trí hay một chức vụ còn để trống, Luther không thể có trong danh sách sơ tuyển. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, và Ngài chọn những đầy tớ như Ngài muốn cho những thời điểm đặc biệt của Ngài.
Thứ hai, Đức Chúa Trời sử dụng một phong trào với nhiều hướng phát triển, và đã trải dài qua hơn 200 năm, như chúng ta thấy trong niên biểu. Vì vậy trong buổi tối ngày 31 tháng 10 năm 1571 tại Wittenberg được xem như “một sự khởi đầu của công cuộc cải chánh” với tính chất đại chúng, đó là một sự khởi đầu quan trọng đúng đắn hơn hết.
Thứ ba, đó là cần thiết để đấu tranh cho tín lý và thẩm quyền của Hội thánh. Điều này đã đòi hỏi một sự can đảm rất lớn, những sự hỗn loạn và sự căm ghét đã chất đống trong nhiều thế kỷ ở trong Hội thánh thời trung cổ đã thay đổi và làm xáo trộn sứ điệp của những trước giả Tân ước. Vào lúc bấy giờ điều đó phân phát chỉ làm khó hiểu lẽ thật trong Đức Chúa Giê-xu, vì duy chỉ có Kinh thánh là thẩm quyền cuối cùng của chúng ta.
Thứ tư, cuộc cải chánh mang đến một sự bênh vực quan trọng về tín lý. Một sự hiểu biết rõ ràng về tín lý Kinh thánh đem lại những nền tảng vững chắc, ổn định, và bày tỏ một nền tảng cơ bản cho lòng tin chắc chắn trong công tác cứu chuộc của Đức Chúa Giê-xu Christ. Điều đó làm tươi mát chúng ta về thuộc linh như ‘sương móc buổi sáng mai” (Phục truyền luật lệ ký 32:1-2) qua sự đào sâu, thêm sự hiểu biết về Đức Chúa Trời.
Như John Stott nhắc nhở chúng ta trong Phần II, những người cải chánh đơn giản đã xác nhận lại một lần nữa những gì mà những người lãnh đạo Hội thánh đầu tiên, các sứ đồ đã dạy. Đối với đức tin của những người theo phái Tin lành (cách xa lạc đường) đơn giản là một sự xác nhận lại một lần nữa về lẽ thật của các sứ đồ, không hơn không kém. Những người cải chánh đã mở ra những lời Kinh thánh đến với những con mắt hoài nghi và chỉ ra những con người mang mặc cảm tội lỗi và có nhu cầu như thế nào, đó là Kinh thánh đã ban cho họ món quà cứu rỗi bởi ân điển của Đức Chúa Trời chỉ bởi đức tin mà thôi.
Điều đó đã trở thành trào lưu để hạ thấp từ ‘evangelical’- người theo phái Tin lành. Sự thật ra, từ đó thích hợp - và làm hạ phẩm giá bởi những đảng phái chính trị. Thêm vào đó, trong những thế kỷ nào đó từ này đồng nghĩa với từ “Protestant” - người theo đạo Tin lành. Nhưng bởi vì điều này đã từ chối từ đó, có lẽ đây là thời điểm để xác định lại một lần nữa về ý nghĩa và giá trị. Tôi nhớ lại một cuộc trao đổi với John Stott là người đã buồn bã bởi việc sử dụng sai từ đó, ông đã nói với tôi rằng ông không phải là người quan tâm về từ ngữ như là “liberal evangelicals’ - những người theo phái Tin lành tự do’, ‘conservative evangelicals’ – ‘những người theo phái Tin lành bảo thủ’, ‘generous evangelicals’ – ‘những người theo phái Tin lành hào phóng’, ‘open evangelicals’ – ‘những người theo phái Tin lành mở’ hoặc ‘essentially evangelicals’ – ‘bản chất là những người theo phái Tin lành”. Vì ông đã tin rằng từ ‘evangelical’ - người theo phái Tin lành là đủ trong chính từ đó. Đó là khi ông giải thích ‘một từ xuất sắc có một lịch sử lâu dài đáng được tôn trọng’ trải qua một thời gian dài trở về với thế kỷ thứ hai.[5]
John Stott bày tỏ cho chúng ta một sự giải thích tuyệt vời về di sản của những người cải chánh, và về những gì có nghĩa cho chúng ta hiện nay để đứng trong cùng một truyền thống của các sứ đồ. Đó là trong ý nghĩa này mà Hoạt động Lausanne là một họat động truyền giáo không hổ thẹn. Từ ngữ không phụ thuộc vào vì sự khổ sở đặc biệt về chính trị, hay là truyền thống Hội thánh như thế. Chính từ gốc euangelion, tin lành, được sử dụng duy nhất trong Tân ước trong sự liên hệ đến công tác cứu chuộc của Đấng Christ.
Rồi thì yếu tố cơ bản của tin lành là giáo lý của các sứ đồ về sự xưng công nghĩa bởi ân điển chỉ bởi đức tin mà thôi. Như chúng ta biết đây là trung tâm điểm của cuộc cải chánh. Sự thật ra, Luther đã nói, đã tóm tắt điều đó như trong ‘bài báo của một Hội thánh đứng vững hay ngã… điều đó bảo tồn và hướng vào mỗi một giáo lý của Hội thánh[6]
Đó là lý do tại sao Alan Purser kêu gọi chúng ta xem lại lời cầu nguyện của Chúa Giê-xu cho Hội thánh. Trong đêm Chúa Giê-xu bị phản, Ngài đã cầu nguyện rằng những Cơ-đốc nhân còn lại ghi nhớ trong lẽ thật của các sứ đồ. Đây là những điều sẽ giữ chúng ta có kết quả trong công tác phục vụ.
Đây là tương tự duy chỉ bởi quyền năng ân điển của Đức Chúa Trời kêu gọi con người đến bởi đức tin, chúng ta biết thì giờ và một lần nữa khi chúng ta nhìn chung về những thế kỷ đã qua và nhìn ra xung quanh thế giới. Tôi phát hiện ra điều đó rất rõ ràng qua những sự ghi chép, ở đây trong đất nước của tôi, về những cuộc phấn hưng của dân xứ Wales. Đó là chỉ bởi ân điển của Đức Chúa Trời mà Đức Thánh Linh đã hành động trong những cuộc phấn hưng ở Đông Phi và Tây Phi, và trong tòa nhà của Hội thánh Đấng Christ ở Trung hoa, và trong nhiều cuộc nói chuyện chúng ta nghe về điều đó trong thế giới Hồi giáo.
Trọng tâm của ân điển là quan trọng không chỉ đến với những nhà cải chánh, nhưng chúng ta thấy điều đó ở trong những bài viết của Augustine, Wesley, C.S Lewis. Một sự hiểu thấu chắc chắn về ân điển là nền tảng với sự đảm bảo sâu sắc. Hơn cả điều đó, đây là nguồn của những điều có nhu cầu rất lớn nhưng hiếm khi đạt được bởi kinh nghiệm của sự vui mừng. Về lẽ thật này, Luther đã viết ‘Nếu quý vị biết quý vị được cứu rỗi từ điều gì, quý vị chết với sự sợ hãi, nhưng nếu quý vị biết quý vị được ban cho điều gì, quý vị chết với niềm vui.’Đó là lý do tại sao cuộc cải chánh vẫn không kết thúc. Trong thế hệ ‘sau lẽ thật’, sứ điệp về thẩm quyền Kinh thánh cần được công bố rõ ràng như đã từng có, vì Kinh thánh là chân thật, và phải được tin cậy, vâng lời và bảo vệ và nếu cần chúng ta phải được chuẩn bị để chết cho điều đó.
Tôi kết thúc với một câu chuyện cá nhân. Cách đây một vài năm, tôi đã giảng giáo lý về sự xưng công nghĩa bởi ân điển qua đức tin tại một Hội nghị sinh viên ở Argentina. Đó là một đêm có sao và sau khi giảng tôi đã đi ra ngoài để thưởng thức những ngôi sao ở Nam Bán cầu. Một người đàn ông già hơn tôi đã đi theo tôi. Ông ta là một nhà truyền giáo Hà-lan cao tuổi, ông ta nói, “Cảm ơn bạn”, “vì đã giảng về lẽ thật quý báu buổi tối hôm nay’. Chính tôi đã giảng chủ đề này nhiều lần, và tôi luôn được cảm động rất sâu sắc khi nhắc nhớ lại điều đó cho những người khác’ Tôi hỏi “Tại sao?’ Ông ta nói tiếp, ‘Hay lắm’, ‘Trong suốt cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, tôi là một thành viên của thanh niên Hít-le, tôi đã làm và đã thấy những điều kinh khiếp. Ngay lập tức sau cuộc chiến, tôi đã nếm biết ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Trời và tôi trở thành một Cơ-đốc nhân và đã đi theo Chúa Giê-xu Christ. Rồi thì Đức Chúa Trời đã kêu gọi tôi vào trong chức vụ Cơ đốc nhân và tôi được sai đi như một nhà truyền giáo tiên phong đến Irian Jaya - một tỉnh của Inđonesia. Ở đây Đức Chúa Trời đã sử dụng tôi trong cuộc phấn hưng. Vào một Chúa nhật nọ, tôi đã báp têm cho 2000 tân tín hữu. Vì vậy, bạn có hiểu tại sao lẽ thật quý báu này là quan trọng lắm đối với tôi không? Bởi vì điều đó nhắc nhở tôi rằng không có ống xối nào là quá sâu mà Đức Chúa Trời không thể đem chúng ta lên từ đó bởi ân điển của Ngài và đặt chân chúng ta trên đất khô. Tôi đáng bị đoán phạt và vứt bỏ đi, nhưng bởi do ân điển tha tội của Đức Chúa Trời, không chỉ Ngài đã cứu tôi và không chỉ Ngài đã sử dụng tôi trong sự phục vụ, nhưng Ngài đã thấy thích hợp để sử dụng tôi trong sự phấn hưng. Như thế là điều kỳ diệu về sự tha tội của Đức Chúa Trời qua công tác của Đức Chúa Giê-xu Christ.
Mong muốn cuốn sách này được sử dụng trong một quy mô nhỏ làm lay động tấm lòng của nhiều người trong thế hệ của chúng ta để công bố sứ điệp này mạnh mẽ như những nhà cải chánh thế kỷ thứ 16 đã làm.
PHẦN I
Câu chuyện và Ý nghĩa quan trọng của cuộc cải chánh
Michael Reeves
Một sự bức thiết tìm kiếm sự bình an.
Hai mươi mốt tuổi đã bước vào trường đại học tại Erfurt, Đức. Khi ông bị tóm lấy một cách bất ngờ và rồi cơn bão tố dữ tợn xảy đến. Một tiếng sét ngang tai thình lình ập đến đã đập ông xuống đất. Trong sự hoãng loạn ông đã kêu khóc ‘Lạy thánh An-ne, xin cứu giúp tôi. Tôi sẽ trở thành một nhà tu hành!’ Và vì vậy Martin Luther trẻ tuổi này bắt đầu đời sống của một tu hành.
Đây là một đời sống mà ông đã đi theo với tính nghiêm trọng mãnh liệt. Vì cái chết rất kinh khiếp và suy nghĩ đến việc đứng trước Đấng phán xét của ông, Luther đã chứng tỏ để leo lên bậc thang đến thiên đàng, dầu sao đi nữa độ dốc đã chứng minh cho điều đó. Mỗi một giờ ông còn ở trong xà lim nhỏ bé và tìm cách phục vụ trong nhà nguyện, bắt đầu với những lễ cầu kinh giữa đêm, rồi thì một lần khác lúc 6 giờ vào buổi sáng, một lần khác lúc 9 giờ, một lần khác lúc 12 giờ, vv và vv. Ông thường không có dùng bánh và nước trong 3 ngày mỗi một lần, và hoàn toàn để mình đóng băng trong sự lạnh giá của mùa đông một cách cẩn trọng với sự hy vọng rằng điều đó có thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Dồn ép mình vào việc xưng tội, ông tận dụng hết khả năng của mình cho những người nghe sự xưng tội, thực hiện 6 tiếng đồng hồ một lần để ghi vào danh mục những tội lỗi gần nhất.
Tuy nhiên, càng làm những điều đó ông cảm thấy càng phiền muộn. Điều đó đủ không? Những động cơ của ông có đúng không? Theo sau với tất cả những việc làm bên ngoài của ông làm đến kiệt sức, ông tìm thấy chính mình và hiểu ra được phải có một sự tự xem xét nội tâm sâu hơn. Rồi thì, năm 1510, ông được ban cho một cơ hội viếng thăm La-mã với công việc của tu viện. Đối với ông, đó là ước mơ đã trở thành sự thật: ở đây trong La-mã ông có thể gần gũi với các sứ đồ và các thánh hơn bất cứ nơi nào khác. Là một nơi được nhồi nhét với những thánh tích của họ, và mỗi một điều ông được dạy, được ban cho những ích lợi thuộc linh khác nhau. Khi tới đó, ông đã lao đến một cách điên cuồng từ nơi thánh này đến nơi thánh kia, hy vọng mỗi một lần đều ghi được phẩm chất xứng đáng được khen ngợi. Sự thật ra ông đã mong ước cha mẹ của ông bị chết để mà ông có thể giải thoát họ khỏi ngục luyện tội bởi thói quen tốt từ tất cả những phẩm chất xứng đáng mà ông đã tích lũy.
Rồi thì ông đã quyết định leo lên đến Scala Sancta. Đó là nơi có thể leo bằng thang, giả sử như là, Chúa Giê-xu đã leo lên để xuất hiện trước mặt Phi-lát, và rồi sau đó đã được mang đến La-mã. Và ông đã hôn vào mỗi một bậc thang cấp khi ông đã leo lên, và lặp đi lặp lại Bài cầu nguyện chung một lần, ông đảm bảo ông có thể được giải thoát linh hồn với sự lựa chọn của ông khỏi ngục luyện tội. Dĩ nhiên, ông đã rơi vào sự nghi ngờ, và sự nghi ngờ đến mức ông tự hỏi “Liệu có ai biết đó là sự thật không?”
Khi trở lại, Luther được thuyên chuyển đến tu viện của thánh Augustin trong một thị trấn nhỏ bé của Wittenberg. Đây có thể là nơi rất nhỏ bé, nhưng đây là thủ đô của Electrial Saxony - miền đông nước Đức, và người chuyên quyền địa phương, Frederick ‘the Wise’ đã làm một căn nhà tập hợp với những thánh tích gây ấn tượng sâu sắc của ông ta. Ở đây bên trong nhà thờ Castle, du khách có thể thưởng thức 9 gian bên đã nhồi nhét đầy với hơn 19 ngàn thánh tích. Những chỗ đẹp nhất kể cả một nắm rơm từ máng cỏ của Chúa Giê-xu, một sợi râu của Ngài, một cây đinh từ thập tự giá, một mẫu bánh mỳ từ bữa tiệc thánh sau cùng, một nhánh nhỏ từ bụi gai cháy của Môi-se, một ít tóc của Mary và một vài mảnh áo quần của bà, cũng như vô số những cái răng và cái xương từ các thánh được ca ngợi/kỷ niệm. Hơn cả điều đó, sự tôn trọng đối với mỗi một đồ vật là đáng có được một sự xá tội của 100 ngày (với một món lợi tức chia thêm cho mỗi một gian bên), có nghĩa là người viếng thăm ngoan đạo có thể lên tới hơn 1,900,000 ngày đi đến ngục luyện tội.
Công việc trong ngục luyện tội.
Ngục luyện tội và sự xá tội là những khái niệm không quen thuộc với mọi người ngày hôm nay, nhưng chúng đã xuất hiện từ sự dạy dỗ rằng không nhiều người công bình chết đủ phẩm chất xứng đáng cho sự cứu rỗi hoàn toàn. Vì vậy trừ khi những Cơ-đốc nhân đã chết mà chưa ăn năn về một tội lỗi ‘đáng nguyền rủa’ như là giết người (trong trường hợp đó họ phải đi vào địa ngục), họ đã có cơ hội sau khi chết để tất cả tội lỗi của họ dần dần được làm sạch họ từ trong ngục luyện tội. Rồi thì họ có thể bước vào thiên đàng, được làm sạch hoàn toàn. Không nhiều người đã tận hưởng viễn cảnh của hàng ngàn hoặc thậm chí hàng triệu năm trừng trị sau khi chết, và đã tìm kiếm lộ trình nhanh chóng đi qua ngục luyện tội, cả cho chính họ và cho những người họ yêu mến. Cũng như những người cầu nguyện cho người chết, tất cả những sự phục vụ phần lớn có thể được nói cho những linh hồn trong ngục luyện tội. Rồi thì ân điển của số đông đó có thể được áp dụng một cách trực tiếp đến linh hồn đã chết và bị đau khổ.
Tòan bộ công việc mở ra xung quanh ngục luyện tội chính xác vì lý do này. Những người giàu có đã tìm kiếm những nơi hát lễ trong nhà thờ, là những nhà nguyện đặc biệt với những thầy tế lễ đã tận hiến để dâng lên những lời cầu nguyện và tập trung cho những linh hồn của người đỡ đầu của họ hoặc những giáo sĩ tốt đẹp được hưởng bổng lộc của giáo hội, những người kém giàu có hợp chung trong những tín ngưỡng để trừng phạt giống nhau.
Hầu hết con người có thể mong đợi có một sự hạn chế trong ngục luyện tội sau khi chết. Nhưng Luther đã được dạy rằng ở đây là các thánh, là những người tốt lắm, họ không chỉ có đủ phẩm chất xứng đáng khen ngợi để bước vào thiên đàng trực tiếp, bỏ qua ngục luyện tội nói chung, sự thật ra họ có phẩm chất xứng đáng hơn họ cần. “Phẩm chất dư thừa” này của họ được giữ gìn như nó được giữ ở trong kho bạc của nhà thờ, mà chỉ có giáo hoàng có những chìa khóa. Vì vậy giáo hoàng có thể ban cho một món quà vì phẩm chất xứng đáng đó (một sự xá tội) cho bất cứ linh hồn nào mà ông ta nghĩ rằng là xứng đáng, tiến hành nhanh chóng con đường qua ngục luyện tội của linh hồn đó, hoặc thậm chí tất cả qua khỏi ngục luyện tội (với một sự xá tội “đầy đủ” hoặc “tuyệt đối”) Bởi vì trong thời của Luther, một sự dâng hiến tiền bạc cho nhà thờ thường được cho rằng để hối lỗi đủ để xứng đáng như một sự xá tội. Vì vậy, điều đó trở thành rõ ràng trong tâm trí của dân chúng càng ngày càng tăng: một chút tiền mặt có thể đảm bảo sự ban phước thuộc linh. Đối với một tu hành như Anh Martin, như vậy một sự thương mại tôn giáo dễ dàng đã tạo ra một chế giễu của sự ăn năn thật. Đó là một điều bê bối ảy ra.
Rồi thì Luther đã nghe về Johann Tetzel. Tetzel là một lái buôn xá tội với một kiểu cách kinh tởm và một phương hướng lưu động này đây mai đó. Ông ta đã công khai ca ngợi những sự xá tội với tiếng len ken như ‘Khi một đồng bạc trong những cái thùng két đựng tiền, từ những động cơ của những linh hồn từ ngục luyện tội’, và ông đã hỏi các độc giả của ông ‘Có phải các bạn không nghe những tiếng kêu của cha mẹ các bạn và những người khác đang khóc than, là những người nói, ‘Hãy thương xót chúng tôi, bởi vì chúng tôi ở trong sự đoán phạt và đau đớn dữ dội. Từ điều này chúng tôi có thể được cứu chuộc khi chúng tôi thực hiện một của bố thí nhỏ không? Thậm chí ông không yêu cầu con người xưng nhận tội lỗi của họ. Chỉ có tiền là đủ.
Trong ‘Ngày của tất cả các thánh’, ngày 1 tháng 11, năm 1517, do những phẩm chất xứng đáng của các thánh được dâng lên ở Wittenberg, và Luther đã thấy điều đó như một cơ hội để tranh luận vấn đề này. Vì vậy, vào ngày 31, tháng 10 (Trước ngày các thánh) ông đã dán trên cánh cửa của Nhà thờ Castle một danh sách với 95 luận đề để bàn luận về vấn đề của những sự xá tội. Mọi người nhìn thấy điều đó trong ngày hôm sau. Trong đó ông đã hỏi những câu hỏi như là tại sao giáo hoàng không giải thoát tất cả những linh hồn từ ngục luyện tội bằng tình yêu thương, thay vì phải quản lý điều đó. Nhưng đáng kể nhất, ông đã nhấn mạnh thực hiện của việc đem đến những sự xá tội, vì họ đã thay thế một cách hiệu quả những người cần sự ăn năn thật từ tấm lòng với chỉ một việc làm điều gì đó từ bên ngoài. Hỗ trợ cho sự tranh luận này, ngay lập tức ông tìm thấy rằng bản văn chứng minh từ Thánh kinh bằng tiếng La-tinh mà nó được sử dụng để công nhận bí tích giải tội là một sự diễn dịch sai trong nguyên bản tiếng Hy-lạp. Trong Thánh kinh tiếng La-tinh, Ma-thi-ơ 4:17 hiểu penitentiam agite (‘ăn năn tội’), trong khi đó trong ngôn ngữ tiếng Hy-lạp hiểu là một sự ‘thay đổi tâm trí mình, một điều gì đó từ bên trong và không đơn thuần chỉ bên ngoài.
Luther có thể không bao giờ đã dự đoán trước được những hậu quả của hành động này, vì, không cố ý, ông đã bắt đầu với một loạt những phản ứng mà điều đó đã làm đảo lộn Châu âu. Phản ứng đầu tiên đã xảy ra, từ Johann Tetzel không làm ai ngạc nhiên, ngay lập tức ông ta đưa ra những yêu cầu như sấm đối với Luther để thiêu cháy như một người theo dị giáo, và tiếng la hét nghịch với Luther đã tăng lên. Ngay lập tức Luther đã phải tranh luận với những nhà thần học có khả năng, và điều đó trở nên rõ ràng càng tăng thêm mà vấn đề thật là một trong những thẩm quyền. Cuối cùng điểu đã nói là gì: Giáo hội hay Kinh thánh?
Bước vào nơi cực lạc/vườn phước hạnh
Trong suốt thời gian náo động đó, sự hiểu biết về Cơ-đốc giáo của Luther đã thay đổi. Ông đã dán 95 luận đề của ông bởi vì ông tin rằng sự xá tội đã làm giảm giá trị sự ăn năn. Nhưng càng nghĩ về điều đó ông càng thấy chính ông đã giải quyết tội lỗi của ông rất nông cạn, thiển cận là như thế nào. Trong sự giáo dục ở nhà trường, ông đã nghe các nhà thần học nói rằng ‘Đức Chúa Trời sẽ không từ chối ân điển cho những ai làm điều tốt nhất của họ’ Vì vậy, ông đã hiểu tội lỗi của ông như một vấn đề thuộc hành vi cư xử bên ngoài - một vấn đề mà có thể điều chỉnh với tư cách đạo đức tốt hơn. Dầu sao đi nữa, bây giờ ông đã nhận biết ngày càng tăng thêm rằng vấn đề thật sự là sâu xa hơn: tội lỗi là trong tấm lòng của chúng ta, nó định hình mọi tính cách với những ước muốn của chúng ta. Vì vậy, những người nào “làm điều tốt nhất của họ’ vẫn chỉ hành động từ tội lỗi, đó là trong lòng của họ được quyết định bởi trong sự xấu hổ đầy tội lỗi của họ. Và đó là trường hợp, được cải thiện hành động tính cách và tôn giáo sẽ không có giúp ích. Chúng ta không cần thực hiện sự cải thiện, nhưng là tấm lòng mới/đời sống mới.
Tuy nhiên trong khi cảm nhận về tội lỗi sâu xa của ông, trong một khoảng thời gian dài không có sự hiểu biết về ân điển của Đức Chúa Trời. Nhiều năm Luther chỉ có thể hiểu rằng tất cả nói về Đức Chúa Trời là Đấng phán xét và Đấng không có tình yêu thương, tất cả sự công bình của Ngài chỉ là đoán phạt tội nhân, “tin lành’ của Ngài chỉ là lời hứa về sự đoán phạt. Ở đây là một Đức Chúa Trời, mà ông chỉ có thể nằm thu mình lại trước đây. ‘Mặc dầu tôi sống như một tu hành mà không một sự chê trách’ ông đã viết, ‘Tôi cảm thấy rằng tôi là một tội nhân trước mặt Đức Chúa Trời với một lương tâm lo lắng, bồn chồn vô cùng. Tôi không thể tin rằng Ngài đã hạ bớt cơn giận bởi sự thánh hóa của tôi. Tôi đã không yêu mến, vâng, tôi đã ghét bỏ Đức Chúa Trời công bình là Đấng đoán phạt tội nhân, và một cách kín mật, nếu không báng bổ, chắc chắn những lời kêu ca phàn nàn rất lớn, tôi giận dữ với Đức Chúa Trời, và đã nói, “Quả thật, như thế, đó là không đủ, những tội nhân khốn khổ nghèo nàn, bị hư mất đời đời bởi nguyên tội, bị tiêu diệt từ mọi tai họa bởi luật pháp với mười điều răn, mà không có Đức Chúa Trời thêm vào nỗi đau đớn này đến nỗi đau đớn khác, bởi tin lành và cũng bởi tin lành cảnh báo chúng ta với sự công bình và cơn giận của Ngài! Vì vậy tôi nổi giận với một lương tâm dữ tợn và phiền muộn’ [7]
Tất cả những nỗi đau khổ đó chỉ đẩy ông vào trong xà lim trong một tháp của tu viện, để học hỏi Kinh thánh khó nhọc hơn. Một cách cụ thể, ông muốn biết những gì mà Phao-lô có ý nói gì qua cụm từ “người công bình của Đức Chúa Trời’ trong Rô-ma 1:17.
Sau hết, bởi sự nhân từ của Đức Chúa Trời, suy gẫm ngày và đêm, tôi đã chú ý đến ngữ cảnh của những lời, cụ thể, “Trong đó người công bình của Đức Chúa Trời được bày tỏ, như điều đó được viết, “Người công bình sẽ sống bởi đức tin” Ở đây tôi bắt đầu hiểu rằng sự công bình của Đức Chúa Trời đó là người công bình của Đức Chúa Trời sống bởi món quà của Đức Chúa Trời, cụ thể bởi đức tin. Và đây là ý nghĩa: sự công bình của Đức Chúa Trời được bày tỏ qua tin lành, cụ thể, sự công bình được tác động bởi Đức Chúa Trời đầy nhân từ xưng công bình cho chúng ta bởi đức tin, như có chép rằng, “Người công bình sẽ sống bởi đức tin” Ở đây tôi cảm nhận rằng tôi được sanh lại hòan tòan và đã bước vào nơi cực lạc qua những cái cổng mở. [8]
Với điều này, Luther đã nhận ra một Đức Chúa Trời khác hoàn toàn và một con đường khác hòan toàn mà ông liên hệ với chúng ta. Sự công bình của Đức Chúa Trời, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời: Ở đây không có những con đường nào trong Đức Chúa Trời là nghịch với chúng ta. Đây là những điều mà Đức Chúa Trời sẵn có để Ngài chia sẻ với chúng ta. Ở đây lần đầu tiên Luther đã hiểu tin tức tốt lành thật sự của một Đức Chúa Trời thiện lành và rộng lượng, Đấng ban cho những tội nhân món quà về sự công bình của Ngài. Rồi thì đời sống Cơ-đốc nhân không thể là những cuộc chiến của tội nhân để đạt được sự công bình riêng, không giá trị của con người. Đây là nói đến sự chấp nhận sự công bình thánh, trọn vẹn của Đức Chúa Trời. Ở đây là một Đức Chúa Trời, Đấng không muốn những công đức riêng của chúng ta nhưng là lòng tin cậy của chúng ta. Sự tha thứ không phụ thuộc vào tội nhân đó như thế nào, nhưng đó là người đó ăn năn thật sự, sự tha thứ đơn giản đến bởi tiếp nhận lời hứa của Đức Chúa Trời. Vì vậy, hy vọng của tội nhân được tìm thấy, không ở trong cảm xúc của con người đó, nhưng ở bên ngoài, trong lời hứa của Đức Chúa Trời. Tất cả những cuộc chiến và tất cả những bối rối có thể được thay thế bởi lòng tin chắc rất lớn và đức tin đơn sơ.
Khi (năm 1520) Luther giải thích sự nhận biết của ông cho thế giới trong một tiểu luận nhỏ của ông với tiêu đề: “Sự Tự do của Cơ-đốc nhân”, ông đã sử dụng một minh họa tuyệt đẹp và để bày tỏ ra. Ông đã giải thích, tin lành giống như câu chuyện của một nhà vua (đại diện Chúa Giê-xu) đã kết hôn với một kỵ nữ (đại diện một tội nhân). Không có việc làm của những người nào khác có thể kiếm được cho cô ta quyền để trở thành cô dâu của nhà vua. Dầu sao đi nữa, khi nhà vua đã có lời thề hứa hôn nhân của ông, người kỵ nữ đã trở thành một hoàng hậu, bởi địa vị. Đó không phải cô ta đã bày ra tính cách phù hợp như một bà hoàng và vì vậy để chính cô ta trở thành một hoàng hậu. Thật sự ra, cô ta không biết làm thế nào để cư xử cho phù hợp như một thành viên của hoàng tộc. Nhưng nhà vua đã thay đổi địa vị của cô ta khi nhà vua đã tiếp nhận cô ta là của ông. Vì vậy, cô ta đã tìm thấy chính mình vẫn còn cái bản ngã cũ nghèo nàn trong lòng, nhưng cùng một lúc là một hoàng hậu bởi địa vị.
Đúng vậy, một tội nhân, trong sự tiếp nhận lời hứa của Đấng Christ trong tin lành, xảy ra cùng một lúc (i) bên trong lòng của một tội nhân và (ii) được xưng công bình theo địa vị. Một người trở thành một Cơ-đốc nhân cùng một lúc được xưng công bình và là tội nhân (simuljustus et peccator) và sẽ vẫn giữ nguyên thân phận (semperjustus etpeccator). Vì bởi do ân điển của Đức Chúa Trời, các Cơ-đốc nhân được kể là công bình đó không phải bởi công đức riêng của họ:
sự công bình của Đấng Christ. Như Luther đã đưa ra điều đó, chúng ta có một sự công bình mà đó là cả hai (ở bên ngoài, và không phải bởi chúng ta) và thụ động (không kiếm được/không xứng đáng). Điều gì đã xảy ra đó là “một sự trao đổi tràn ngập niềm vui” trong tất cả những điều đó một Cơ-đốc nhân (tội lỗi của người đó) người đó dâng lên cho Đấng Christ, và tất cả điều Ngài sẵn có (sự công bình của Ngài, sự phước hạnh, sự sống và sự vinh hiển của Ngài) ban cho người đó. Tội lỗi của người đó bây giờ không thể hủy hoại họ, từ khi họ được đặt trong Đấng Christ và được nuốt bởi Ngài. Và cô ta có sự công bình đó trong Đấng Christ - chồng của cô ta, và những gì cô ta có thể khoe khoang là bởi sức riêng của cô ta và cô ta có thể để bày tỏ ra một cách tự tin với những tội lỗi của cô ta trong sự đối diện với sự chết và địa ngục và như thể nói rằng, “Khi tôi đã phạm tội, tuy nhiên Đấng Christ của tôi, Đấng mà tôi tin, không có tội/vô tội, và Ngài là tất cả của tôi và tôi thuộc về Ngài, “ như cô dâu trong Nhã ca (2:16a) nói, “Lương nhân tôi thuộc về tôi, và tôi thuộc về Người” [9]
Tôi đứng ở đây
Chẳng bao lâu Luther được triệu tập đến một buổi họp (hoặc ‘cuộc họp của một phiên tòa’) của tòa án có uy quyền lớn ở Worms, nơi hầu hết đã cho rằng chẳng bao lâu nữa Luther bị thiêu cháy vì dị giáo. Khi ông đến nơi ban đầu ông bị hăm dọa nhiều lắm bởi những lời chất vất trong sự hiện diện của tất cả những người cai trị và tầng lớp quý tộc mà ông có thể nói một cách khó khăn.
Đại sứ của giáo hoàng đã cho rằng Luther quá ngu dại để viết tất cả những điều mà ông đã làm, và muốn biết ai là người thật sự đứng phía sau những lời thơ Kinh thánh của cuộc cải chánh. Sau đó một nghi lễ công khai thừa nhận sự sai lầm cho câu trả lời cuối cùng của cuộc cải chánh:
“Tôi tin chắc Kinh thánh mà tôi đã trích dẫn và lương tâm của tôi được giam cầm đến Lời của Đức Chúa Trời. Tôi không thể và tôi sẽ không rút lại/nuốt lời bất cứ điều gì, từ khi điều này không an toàn mà cũng không đúng với lương tâm của tôi. Mặt khác tôi không thể làm, tôi đứng ở đây, Đức Chúa Trời sẽ cứu giúp tôi, A-men” [10]
Điều đó không mất thì giờ để hoàng đế tuyên bố Luther là ‘một người có tư tưởng ly giáo cứng cổ và người theo dị giáo rõ ràng’ là người bị chấp chứa không bởi một người nào và không đọc bởi một người nào về cái đau đớn của sự trừng phạt thảm khốc. Dầu sao đi nữa, Luther không bị kết án gần trong Worms. Ông đã có một chiếc xe ngựa để đến Wittenberg. Đơn giản ông biến mất. Điều gì là rõ ràng, đó là ông đã bị bắt cóc từ chiếc xe ngựa bởi những người cỡi ngựa; rồi thì điều gì là không rõ ràng, đó là điều đã xảy ra với ông. Hầu hết mọi người nghĩ rằng ông đã bị tóm bắt bởi do một sự hành hình ngay tức khắc và yên lặng. Sự thật ra những người bắt cóc ông là được sự thuê mướn của ‘người khôn ngoan’ Frederick, là người đã đặt ra kế hoạch giữ Luther trong sự bắt giam an toàn mà không mắc vào những sự nguy hiểm từ những người có thể nhìn thấy đã chấp chứa một người không luật pháp che chở. Thừa lúc đêm tối, Luther đã được hộ tống một cách bí mật đến lâu dài Wartburg Castle, thành trì của Frederick ở Electoral Saxony.
Lâu đài đó là nhà ẩn náu của Luther được 10 tháng tiếp theo đó. Ông đã để tóc và râu của ông dài, và đã giới thiệu chính ông cho dân chúng như ‘Ngài George’. Đáng chú ý nhất, mặc dầu, ở trong sự ẩn náu, và không hơn mười một tuần lễ, ông đã thành công trong việc dịch Kinh thánh Tân ước tiếng Hy-lạp sang tiếng Đức. Rất tuyệt vời, trong một thời gian ngắn ngủi Luther đã thành công để đưa ra một tác phẩm lớn với bản dịch. Ngôn ngữ có sức thuyết phục, nhiều màu sắc vì vậy đó là một con đường, sách đã được dịch cho mọi người nói tiếng Đức. Luther đã trở thành tiền nhân của ngôn ngữ tiếng Đức hiện đại. Quan trọng hơn, với sự xuất bản trong tháng 9, năm 1522, Luther đã hiểu rõ ước mơ của ông để mà dân chúng ‘có thể hiểu thấu và nếm được chính Lời của Đức Chúa Trời rõ ràng, trong sạch và giữ vững Lời Ngài’
Dầu sao đi nữa, đó không phải thời điểm vui mừng ở đây. Bị giam cầm trong nơi ẩn náu, Luther đã bị những sự nghi ngờ rất lớn. Tuy nhiên điều này đã bày tỏ ông đã chiến đấu với những điều đó như thế nào. Thông thường ông ghi rõ ra một câu Kinh thánh thích hợp để trên tường, trên một mẫu đồ đạc hoặc thật sự ra, bất cứ là gì mà ông nhận được. Vấn đề đó là ông biết rằng ở trong ông ở đây chỉ là tội lỗi và sự nghi ngờ. Mọi hy vọng ở bên ngoài ông, chỉ ở trong Lời của Đức Chúa Trời. Đây là sự đảm bảo của ông trước mặt Đức Chúa Trời, không ảnh hưởng bởi ông đã cảm nhận như thế nào hay ông đã làm như thế nào. Và vì vậy, khi đối diện với sự nghi ngờ, ông không nhìn vào chính ông vì bất cứ một sự an toàn nào, thay vào đó, để mắt trước Lời bên ngoài không thay đổi này.
Một phần tư thế kỷ tiếp theo đó, cho đến cái chết của ông vào năm 1546, Luther đã sống ở Wittenberg đang đẩy mạnh sự cải chánh của Hội thánh trong các bài giảng, những sách giáo lý vấn đáp, những quyển sách, những bài thánh ca, và những cuộc đàm luận. Có lẽ những bài thánh ca nổi tiếng nhất ở giữa những bài thánh ca của ông đó là bài thánh ca cho cuộc cải chánh, ‘Chúa, Bức thánh kiên cố ta’, những lời này từ những ý tưởng của ông gần gũi với hàng triệu người:
Kìa vua tối tăm giận chăng.
Thật ta không nao chi hắn.
Nay hắn khoe khoang nhất thời.
Án hắn xưa Chúa khép rồi.
Thúc thủ khi Christ phán một lời.
Đến cuối cuộc đời của ông, Luther đã có một sắc thái hồng hào và rắn chắc. Một số người yêu mến điều đó, những người khác ít ra đã thấy ông có thể là một chút kém khỏe mạnh và chân thực. Chắc chắn ông không có lý tưởng không sáng suốt. Có lẽ, mặc dù, như một người đàn ông không giữ ý tứ/đần độn chỉ là những điều cần cho nhiệm vụ có vẻ không thể thách thức đến tất cả những người theo Thiên Chúa giáo và xoay hướng họ lại. Ông bày tỏ một liệu pháp làm sững sốt thế giới. Bằng cách này hay cách khác, và tính cách của ông có vẻ như phù hợp cho tin lành mà ông không giấu được: ông đã truyền cảm không vì một sự tự cải tiến về đạo đức; nhưng thay vào đó, bản tánh con người rõ rành rành của ông đã chứng thực hoàn toàn một sự cần thiết của một tội nhân bởi do ân điển của Đức Chúa Trời.
Ba người quyết định then chốt: Eramus, Wycliffe, và Tyndale
Cần thiết đối với câu chuyện của Luther là công việc của một con người nghiên cứu sâu sắc về khoa học nhân văn, Erasmus. Năm 1516, Erasmus đã xuất bản một bản dịch Kinh thánh Tân ước mới quan trọng then chốt tiếng Hy-lạp. Trước đó, hầu hết dân chúng chỉ biết bản dịch Kinh thánh bằng tiếng La-tinh chính thức mà Giáo hội đã sử dụng. Erasmus đã mở ra một sự nghiên cứu trực tiếp về bản dịch tiếng Hy-lạp nguyên bản – và những người như Luther đã tìm thấy một sứ điệp trong đó mà không bao giờ rõ ràng trong tiếng La-tinh.
Nhưng đó không chỉ có Luther. Cũng ở phía tây bắc Châu âu, những học giả ngay lập tức đã dịch bởi những gì họ đã hiểu trong tiếng Hy-lạp. Một thế kỷ rưỡi trước đó, một học giả miền nam nước Anh - Oxford có tên là John Wycliffe đã tổ chức một sự dịch thuật Thánh Kinh bằng tiếng La-tinh sang tiếng Anh, và những người theo ông vẫn đọc những Kinh thánh của họ và đã giảng một cách nhiệt thành. Nhưng những người mà có thể hiểu những điều đã tìm thấy trong phiên bản của Erasmus một điều gì đó khác. Và thậm chí những người không thể đọc chẳng mấy chốc đã đến với những bản sao y từ những quyển sách của Luther, mà đã bắt đầu tràn khắp đất nước. Ở miền đông nước Anh – Cambridge, một nhóm người thuộc những nhà quý tộc/những giáo sư đại học được biết tập hợp tại quán trọ họa tiết hình ngựa, nơi mà tất cả cuộc trò chuyện của Luther đã tạo ra trông giống như Wittenberg mà chẳng mấy chốc có một tên giễu (nicknamed) ‘Người Đức nhỏ bé’
Một học giả như thế chính là một người trai trẻ lỗi lạc biết nhiều thứ tiếng, William Tyndale, đã truyền cảm qua việc nghiên cứu của ông về Tân ước, ông đã kết luận “Điều đó không có thể hình thành từ những người không chuyên môn trong bất cứ một lẽ thật, ngọai trừ Kinh thánh được đặt để trước mắt họ trong tiếng mẹ đẻ của họ’[11]
Vì vậy, ông đã đặt công việc dịch thuật Kinh thánh từ nguyên bản tiếng Hy-lạp và tiếng Hê-bơ-rơ sang tiếng Anh trong cuộc đời của ông. Ông đã nói tiếng Đức, hình thành một đường hướng để đi đến Worms, và ở đây, nơi mà chỉ 5 năm trước đó Luther đã bày tỏ bài diễn thuyết của ông trước mặt Hòang đế, “Tôi đứng ở đây”, Tyndale đã xuất bản bản Kinh thánh Tân ước tiếng Anh đã hòan thành của ông .
Trên một trăm năm, những người theo John Wycliffe đã đem lại và đã đọc những bản dịch Kinh thánh Tân ước tiếng Anh, nhưng họ không thể sản xuất hàng lọat, và tất cả vẫn bị giới hạn về những vấn đề thần học của tiếng La-tinh (ví dụ, ‘do penance ‘ =‘sám hối tội lỗi’ thay vì ‘repent’ = ‘ăn năn tội lỗi’). Dầu sao đi nữa, bản Kinh thánh Tân ước của Tyndale có thể và đã được in ra hàng ngàn cuốn, rồi thì được lén mang vào trong Anh quốc trong những kiện hàng áo quần, và ngay lập tức được phụ thêm vào bởi ‘Ví dụ về người giàu có gian ác’ của ông, một lý lẽ cho sự xưng công nghĩa chỉ bởi đức tin. Quan trọng hơn nữa, Tân ước của Tyndale là một quý giá của công việc dịch thuật. Đó là một quyển sách hấp dẫn xác đáng và đẹp đẽ.
Sau cùng hết cơn giận của Giáo hội đã săn lùng tội phạm Tyndale, nhưng điều đó không xảy ra trước khi ông đã dịch một phần rất tốt của Cựu ước, và 16.000 bản sao y Kinh thánh của ông đã được mang lén vào Anh quốc. Đây là một kỳ công không thể tin được, được biếu tặng một cách rộng rãi cho một dân số ít nhất 2.500.000 người, đó là những người thất học. Năn 1535, ông bị bắt, và tháng 10 tiếp theo đó ông chính thức bị siết cổ chết và bị thiêu cháy gần miền trung nước Bỉ, những lời sau cùng bất hủ của ông, ‘Lạy Chúa, xin mở mắt vua của Anh Quốc.
Vua của Anh quốc đó là Henry VIII, một người cai trị, người mà Luther đã bày tỏ thêm sự ghê tởm qua những năm tháng, khi nhà cải chánh đã phản đối sự hủy bỏ hôn nhân của ông ta. Thật vậy, do sự phản đối Luther, giáo hoàng đã tặng thưởng nhà vua tước hiệu, “Người bảo vệ của đức tin” Có vẻ như ông không có một tia hy vọng tươi sáng cho cuộc cải chánh. Và tuy nhiên, chỉ hai năm sau đó Tyndale chết đã thốt ra lời cầu nguyện đó, điều đó đã được quy định bằng sắc lệnh rằng một quyển Kinh thánh tiếng Anh được để trong mỗi một nhà thờ trong giáo xứ. Năm 1538 vua đã ra lệnh rằng, ‘các ngươi sẽ không được can ngăn một người nào đọc hay nghe Kinh thánh, nhưng rõ ràng là một sự xúi giục/chọc tức, làm náo động và cổ vũ mọi người đọc những điều tương tự như đó là Lời của Đức Chúa Trời rất sống động.
Sáu quyển Kinh thánh tiếng Anh được đặt trong thánh đường Thánh Phao-lô, ngay lập tức dân chúng đã xúm quanh lại những người có thể đọc lớn tiếng đủ để họ có thể nghe. Vì vậy điều lớn lao là sự hớn hở mà các thầy tế lễ đã phàn nàn như thế nào, thậm chí trong suốt bài giảng. Việc đọc Kinh thánh cá nhân đã trở thành một nét đặc trưng lan rộng của việc học để hiểu biết nhiều hơn, vì vậy ngay lập tức tìm thấy được con đường đến gần với Lời của Đức Chúa Trời rất sống động.
Một sự thử thách nảy lửa của những người tuận đạo
Cuộc cải chánh của hội thánh bởi Lời của Đức Chúa Trời không bao giờ có - và không bao giờ có thể xảy ra – trong một con đường bằng thẳng. Khi vua Henry VIII của Anh quốc qua đời năm 1547, một năm sau khi Luther, những nhà cải chánh truyền giảng tin lành bằng lòng, được mệnh lệnh giảng bằng tiếng Anh, và nhiều người giảng cuộc cải chánh có tiếng đã bắt đầu có tên tuổi trong xứ. Nhưng giữa sáu năm đó là tất cả kết thúc: Edward VI đã chết và được kế vị bởi người chị em cùng cha khác mẹ là người cao nhất thuộc về giáo hội Công giáo, Mary, là người sẽ xóa bỏ tất cả những gì mà ông ta đã đạt được. (Ông ta đã bày tỏ một mong ước mà ông được kế vị bởi người chị em họ đầu tiên theo đạo tin lành của ông, Đệ nhất phu nhân Jane Gray, nhưng bà ta bị truất phế bởi Mary sau khi lên kế vị chỉ có 9 ngày).
Càng nhanh càng để Mary có thể trở lại Anh quốc đến Thiên Chúa giáo La-mã. Những giám mục theo phái Tin lành bị cách chức khỏi chức vụ, các quyển Kinh thánh bị dời đi ra khỏi các nhà thờ, và sự thờ phượng Thiên Chúa giáo La-mã được phục hồi lại. Nhiều người theo phái Tin lành đã tìm kiếm để ẩn náu ở nước ngoài, những người khác đã quyết định ở lại và hoạt động một cách yên lặng, đã phân phát một cách bí mật ‘những quyển sách không đúng khuôn phép’ của họ và gặp gỡ nhau trong những sự cuộc họp bí mật (thường là hết sức rộng lớn). Những người ở lại và không nằm yên thì bị bỏ tù và thiêu cháy. Tất cả và hoàn toàn trái ngược với sự khoan dung dưới sự cai trị của Edward, sự cai trị của Mary đã cho thấy cũng vài ba trăm người theo giáo phái Tin lành bị thiêu cháy vì đức tin của họ, không kể đến nhiều người khác đã chết trong những tình trạng khủng khiếp của những nhà tù thế kỷ thứ 16. Ở giữa những nạn nhân nổi danh nhất của Mary như là tổng giám mục - Thomas Cranmer, người giảng đạo và giám mục của miền tây nước Anh – Worcester, Hugh Latimer, và Giám mục Luân đôn - Nicholas Ridley. Tháng 10, 1555, Ridly và Latimer cùng bị thiêu cháy, qua qua lại lại ở cuối con đường Broad ở miền nam nước Anh – Oxford. [12] Latimer, ở tuổi khỏang 80, là người chết đầu tiên, đã hò hét qua những ngọn lửa ‘Hãy nghỉ yên tốt, Giáo sư Ridley, và sự cư xử đúng phẩm cách con người, chúng tôi sẽ chiếu sáng ngày này như một cây nến, bởi ân điển của Đức Chúa Trời, trong Anh quốc, như tôi tin sẽ không bao giờ buồn bực’. Đáng tiếc cho Ridley, gỗ đã được đặt để xung quanh ông ta đến nỗi ông đã chịu đau đớn khủng khiếp, những cái chân của ông ta bị thiêu cháy trước khi những phần còn lại của ông bị đụng đến. Cảnh tượng kinh khiếp dường như đã cảm động hàng trăm người đến chảy nước mắt.
Năm tháng sau đó vào tháng ba năm 1556, Thomas Cranmer bị thiêu cháy trong cùng một chỗ. Tổng giám mục già và là người sáng lập của nhiều cuộc cải chánh dân Anh, bấy giờ gần 70 tuổi, ở dưới sự giam cầm cưỡng ép cùng cực, để từ bỏ/phản đối lại giáo phái Tin lành của ông. Đó là một sự chiến thắng cho sự cai trị của Mary. Dầu sao đi nữa, mặc dù công khai thừa nhận sai lầm của mình, ông là một hiện thân của cuộc cải chánh mà điều đó được quyết định rằng ông phải bị thiêu cháy trong bất cứ trường hợp nào. Đó là một quyết định, vì khi ngày đó xảy đến, Cranmer đã từ chối đọc to sự công khai thừa nhận sai lầm của ông. Thay vào đó ông đã bày tỏ một cách can đảm rằng thật vậy, ông là một người thuộc giáo phái Tin lành, mặc dầu một người hèn nhát vì từ bỏ những nguyên tắc của ông. Như vậy thì, ông đã loan báo, ‘Về việc đó, đến mức độ tay tôi đã khó chịu để viết những điều trái ngược với lòng tôi, tay tôi phải bị đoán phạt trước tiên’ Ông là rất chân thật với lời của mình: khi những ngọn lửa được thắp lên, ông đã giơ tay ra đã ký tên công khai thừa nhận sai lầm của ông đến nỗi nó phải bị thiêu cháy trước tiên. Đã từ chối trong một thời gian ngắn theo giáo phái Tin lành của ông, vì vậy Cranmer đã bị thiêu cháy với sự can đảm công khai phản đối, và vì vậy Tổng giám mục giáo phái Tin lành đầu tiên ở miền đông nam nước Úc - Canterbury đã chết.
JOHN CALVIN: CẢI CHÁNH THẾ GIỚI
Năm 1509, một ít năm ngắn ngủi trước khi Luther đã bày tỏ lập trường/quan điểm của mình, John Calvin, người lãnh đạo thứ hai đáng chú ý nhất, được sinh ra ở phía bắc nước Pháp. Như một sinh viên trẻ tuổi, chẳng bao lâu, Calvin đã thấy chính ông hòa nhập với một nhóm những học giả là những người thường tỏ ra ủng hộ/tán thành môt vài ý tưởng về sự cải chánh giáo hội. Thậm chí ông bắt đầu học tiếng Hy-lạp, mà qua những thập niên 1920’ ông đã có một sự nổi danh rõ nét/mạnh mẽ như tiếng nói của cuộc cải chánh. Có lẽ ông đã đọc được một vài bài viết của Luther. Dầu sao đi nữa, ông đã viết điều đó xung quanh thời gian này, ‘Bởi một sự biến cải thình lình, Đức Chúa Trời đã chinh phục và đã đem tâm trí của tôi đến một trạng thái có thể dễ dạy dỗ được’
Trong lúc đó, nước Pháp đang trở nên một nơi nguy hiểm hơn chưa từng có cho những nhà cải chánh. Tên của Calvin bị ghi vào sổ đen và ngay lập tức ông chạy trốn. Ông đã quyết định có một cách để đến miền đông bắc nước Pháp – Strasbourg qua miền tây nam Thụy sĩ – Geneva, một thành phố đã liên minh gần đó với cuộc cải chánh. Calvin không có ý định lưu lại tại Geneva, nhưng ông bị mai phục bởi Guillaume Farel nảy lửa, một kẻ đứng đầu của cuộc cải chánh ở đây. Rồi thì Farel đã cầu xin Đức Chúa Trời rủa sả Calvin nếu ông không ở lại và trợ giúp ông ta trong công việc khẩn cấp của cuộc cải chánh ở đây. Rất kinh ngạc, học giả trẻ tuổi này đã đồng ý ở lại.
Đó là một cuộc họp quan trọng, vì Calvin tận hiến quãng đời còn lại của ông (một sự lưu đày ngắn) đến Geneva, biến nó thành một trung tâm thế giới của công tác rao giảng Tin lành. Bước quan trọng đầu tiên là sự đệ trình đến hội nghị thành phố một danh sách với những đề xuất cho cuộc cải chánh Giáo hội bao hàm tất cả, ở giữa những điều khác, mỗi gia đình phải tiếp nhận sự thăm viếng của mục sư mỗi năm, và mọi người phải học sách giáo lý vấn đáp mới đã giải thích đức tin theo phái tin lành. Những đề xuất đã bày tỏ, vì những điều đó làm cho nó rõ ràng rằng cuộc cải chánh không đơn giản là cắt đứt quan hệ khỏi giáo hội La-mã, nhưng điều đó có nghĩa là sự cống hiến để cuộc cải chánh đang xảy ra bởi Lời của Đức Chúa Trời. Hội thánh được cải chánh phải luôn tiếp tục cải chánh.
Những người truyền giáo từ Châu âu – và một cách đặc biệt từ những khu vực bị bách hại - bắt đầu tụ tập đến Geneva. Tuy nhiên trong khi họ được chào đón nồng nhiệt, Calvin không muốn Geneva là nơi ẩn nấp quá nhiều như một nơi phát triển cho sự trải dài Tin lành. Vì vậy năm 1555 ông đã thành lập một chương trình tuyệt mật cho công cuộc truyền giảng Tin lành của nước Pháp quê hương của ông. Ông đã có từ lâu, như một người lãnh đạo trong sự lưu đày của giáo phái Tin lành nước Pháp, trong sự liên lạc thường xuyên với nhiều nhà thờ bí mật ở đây. Nhưng bấy giờ một mạng lưới bí mật được lắp đặt, với những căn nhà an toàn và những nơi ẩn trú, vì vậy những nhân sự họat động của Tin lành có thể được lẩn trốn qua biên giới vào trong nước Pháp để thành lập những hội thánh mới (theo nghĩa đen thỉnh thỏang là bí mật). Với những nhà máy in ấn bí mật đã lắp đặt trong Paris và Lyons để trang bị chúng, đó là một thành công gây ấn tượng sâu sắc. Cần phải cho tài liệu chẳng bao lâu tài liệu cần phải có những báo chí có thể cung cấp, và việc in ấn trở thành công việc nổi bật trong Geneva trong một sự cố gắng giải quyết đối với nhu cầu.
Hơn 10% toàn bộ dân số người Pháp đã cải cách, với 2 triệu hoặc hơn tập hợp lại hàng trăm các hội thánh vừa mới được thành lập. Học thuyết của John Calvin, khi được biết đến, đã phát triển một cách đặc biệt ở giữa tầng lớp quý tộc, đại khái một phần ba dân số hình như đã được biến cải, bày tỏ đức tin đã cải cách một ảnh hưởng về chính trị thiếu cân đối so với kích cỡ thật sự. Calvin đã viết một lời xưng nhận đức tin cho nhà thờ ở đây năm 1559, và đã xác nhận những điều đó trong bất cứ đường hướng nào ông có thể. Mặc dù sự phát triển của công tác truyền giảng Tin lành ở Pháp, cần một sự khích lệ rất lớn: ví dụ, khi một hội thánh bị tiến hành khám xét bất ngờ trong Paris, hơn 100 Cơ-đốc nhân bị bắt giữ và bị thiêu cháy. Và, trong khi ông viết từ một địa vị tự do để làm cho vững chắc họ, mặc dầu vậy ông không bao giờ nói từ vị trí của một người ẩn mình để xa lánh thực tế. Những lá thư của ông được rơi rải rác khắp nơi với những sự đề cập đến huyết mà ông chắc chắn chẳng bao lâu ông phải đổ ra trong Geneva, ông cảm thấy một sự đe dọa đến sự tuận đạo sắp xảy ra.
Calvin đã làm tất cả những điều mà ông có thể làm để Geneva trở thành một trung tâm quốc tế cho sự truyền bá Tin lành. Ông đã khuyên những người cai trị thuộc phái Tin lành từ Scotland đến Italy; ông đã huấn luyện những người chạy trốn là những người đã đến Geneva và rồi thì trở về những đất nước quê hương của họ; và ông đã phái những nhà truyền giáo đến Ba-lan, Hun-ga-ry, Netherlands, Italy, thậm chí đến Nam Mỹ. Phương tiện thật cho tất cả những điều này là trường Cao đẳng và Viện mà Calvin đã mở ra trong thành phố năm 1559. Khởi đầu với một sự giáo dục chung chung và tiến đến một sự nghiên cứu chi tiết về thần học và những quyển sách Kinh thánh, những điều đó đã trang bị cho những mục sư, là những người có thể được sai đi, được trang bị và huấn luyện đầy đủ.
Việc dạy và giảng đối với Calvin là trọng tâm của cuộc cải chánh, tương tự như đối với Luther. Calvin đã hiến dâng hầu hết thì giờ của ông cho điều này, thuyết trình ba lần một tuần, giảng 2 lần mỗi Chúa nhật và những tuần xen kẽ, cũng như mỗi ngày thường trong tuần. Việc xuất bản trở thành ưu tiên, và qua sự kết hợp những bài thuyết trình của ông, ông đã tìm cách để đưa ra những sự giải nghĩa sâu xác trong mỗi sách của Kinh thánh, để giúp đỡ cho những người giảng ở những nơi khác. Ở đây là một phần giải nghĩa rất khác nhau từ những gì Châu âu đã biết trước đó: mục đích của họ là ‘một sự ngắn ngũi dễ dàng mà không liên hệ khó hiểu’ do/vì ‘sự biến cải thình lình’ của ông, Calvin đã trở nên đã nhận thức rằng Đức Chúa Trời đem đến sự sống và đời sống mới thành hình chỉ bởi Lời của Ngài. Việc công bố điều này đã trở thành yếu tố cơ bản trong công việc của đời sống ông.
Trọng tâm của cuộc cải chánh là gì?
Từ giây phút mà Luther hiểu ra sách Rô-ma 1, sự công bình của Đức Chúa Trời là món quà hòan tòan cho những kẻ không xứng đáng, ông đã hiểu điều này như một lẽ thật quan trọng nhất trong thế giới. Sự xưng công nghĩa là trọng tâm của cuộc cải chánh, vấn đề chủ chốt.
Bởi ‘sự xưng công nghĩa’ những nhà cải chánh như Luther và Calvin có ý trong lời tuyên bố thánh đó là sự công bình của Đấng Christ được kể cho Cơ-đốc nhân chỉ bởi ân điển của Đức Chúa Trời. (sola gratia). Vì vậy, đây là sự xưng công nghĩa chỉ bởi đức tin (solafide) trong Đấng Christ, nghĩa là tất cả sự vinh hiển của sự cứu rỗi chỉ thuộc về Đức Chúa Trời và không thuộc về chúng ta. ‘Không có điều nào trong bài báo này [nói về đức tin] có thể từ bỏ hoặc thỏa hiệp’, Luther đã viết, ‘mặc dầu trời và đất và những điều tạm thời phải bị hủy diệt’. Ông nói, ‘Đây là niềm tin của những điều mà Hội thánh đứng hoặc ngã.’
Không phải mọi người đã nắm được điều này như Luther đã bày tỏ, nhưng kinh nghiệm của Luther với Rô-ma 1 là một dòng mạch trọng tâm của cuộc cải chánh: và đó là qua Kinh thánh mà vấn đề then chốt của sự xưng công nghĩa được nhận ra/được khám phá. Sự xưng công nghĩa là những điều đã hình thành cuộc cải chánh. Và đối với những ai chấp nhận rằng Đức Chúa Trời tuyên bố sự tự do của những tội nhân, được xưng công bình, đó là một giáo lý đầy yên ủi và đầy niềm vui. Khi William Tyndale đã đặt điều đó như, ‘Euangelion (điều chúng ta gọi là Tin lành) là một từ Hy-lạp và có nghĩa là tuyên bố những tin tức tốt lành, vui vẻ, và đầy vui mừng làm cho lòng của một người đầy niềm vui và khiến cho người đó hát, nhảy múa, và nhảy lên vì vui mừng.[13]
Luther cũng cảm thấy rằng bởi điều đó ông ‘được sanh lại hoàn toàn và đã bước vào vườn phước hạnh qua những cái cổng mở.’ Và không ngạc nhiên: sự việc mà ông là một tội nhân thất bại, được yêu thương hoàn toàn bởi Đức Chúa Trời bởi đó ông được mặc lấy sự công bình của Đấng Christ, chính Ngài đã ban cho ông một lòng tin cậy tươi mới. Như ông đã khuyên bảo một người bạn: Khi ma quỷ làm chúng ta lung túng, bối rối bởi tội lỗi của chúng ta và tuyên bố chúng ta là đáng chết mất và đáng ở trong hỏa ngục, vì vậy chúng ta phải nói: “Tôi thừa nhận rằng tôi đáng chết mất và ở trong hỏa ngục. Vậy thì sao? Có phải điều đó có nghĩa là tôi sẽ bị kết án với sự trừng phạt đời đời phải không? Chắc chắn là không. Vì tôi biết một Đấng đã chịu khổ và đã chết đền tội thay cho tôi. Danh Ngài là Đức Chúa Giê-xu Christ, Con Đức Chúa Trời. Ngài ở đây, tôi cũng sẽ ở đây.
Đó là rất khó mặc dầu ý nghĩa quan trọng của sứ điệp này đã lắng dịu xuống qua nhiều năm. Ngày hôm nay chúng ta bị tấn công tới tấp với sứ điệp mà chúng ta sẽ được yêu mến hơn khi chúng ta làm cho mình được thu hút, hấp dẫn hơn và điều đó có thể không có liên hệ đến Đức Chúa Trời, và tuy nhiên đó vẫn là một tôn giáo với những việc làm, và đó là điều ghi vào trí rất sâu. Đối với điều đó, cuộc cải chánh có tin tức tốt lành sinh động nhất. Như Luther đã làm điều này: ‘những tội nhân là được thu hút bởi vì họ được yêu thương, họ không được yêu thương bởi vì họ là hấp dẫn.’ [14]
Khi sự xưng công nghĩa chỉ bởi đức tin là vấn đề then chốt của cuộc cải chánh, thẩm quyền cao nhất của Kinh thánh chính là phương tiện truyền đạt. Để đạt được sự cải chánh quan trọng đáng kể, điều đó đã chiếm hết thái độ của Luther, đó là Kinh thánh là nền tảng chắc chắn duy nhất cho lòng tin (sola Scripture). Kinh thánh phải được thừa nhận như một thẩm quyền cao nhất, và để cho phép phủ nhận và bác bỏ tất cả những lời tuyên bố khác, hoặc chính điều đó bị bác bỏ bởi những điều khác. Nói cách khác, một sự tôn kính đơn sơ đối với Kinh thánh và sự công nhận rằng Kinh thánh có một vài thẩm quyền thì sẽ không bao giờ đủ để dẫn đến cuộc cải chánh. Sola Scripture – lòng tin chắc Kinh thánh là chìa khóa tuyệt đối cần thiết cho sự thay đổi rất sâu sắc và lành mạnh này.
Có phải cuộc cải chánh vẫn còn có ý nghĩa không?
Nếu cuộc cải chánh đơn thuần là một phản ứng tiêu cực đối với một vấn đề lịch sử rất trong sạch, thì điều đó sẽ không có ý nghĩa cho những nhà truyền giảng Tin lành ngày hôm nay. Nhưng một người nhìn kỹ lưỡng hơn, thì rõ ràng hơn: chủ yếu, cuộc cải chánh không phải là một phong trào tiêu cực, về việc rời khỏi La-mã; đây là một phong trào tích cực, về việc hướng đến Tin lành. Và việc hướng đến Tin lành có nghĩa Cơ-đốc giáo nguyên bản được đưa ra ánh sáng, theo Kinh thánh, theo các sứ đồ rồi thì bởi vì được chôn giấu dưới hàng trăm thế kỷ với truyền thống con người. Đó là những gì bảo tồn giá trị của cuộc cải chánh cho ngày hôm nay. Vì Hội thánh phải luôn luôn được cải cách và liên tục hướng đến gần Tin lành hơn. Điều này được chứa đựng gói gọn trong hai từ mà chúng ta thường nghe, ‘semper reformanda’. Nhưng ngữ cảnh của chúng là quan trọng, cụm từ tiếng La-tinh đầy đủ là: Ecclesia reformata et simper reformanda secundum verbum Dei (‘The church reformed and always reforming according to the Word of God’- ‘ Hội thánh được cải chánh và luôn luôn cải chánh theo Lời của Đức Chúa Trời.’). Cuộc cải chánh không thể kết thúc. Điều đó phải là một ngọn cờ truyền giảng Tin lành, cần được mặc lấy cả sự khiêm nhường và sự quyết tâm.
Đối với những người truyền giảng Tin lành/tín đồ Tin lành, đây là câu chuyện của chúng ta. Đây là một câu chuyện của những chứng nhân can đảm và hùng hồn cho lẽ thật của ân điển Đức Chúa Trời được tìm thấy trong Lời của Ngài. Và cũng là câu chuyện của chúng ta thì điều đó cũng phải là tiêu chuẩn của chúng ta. Cầu xin Đức Chúa Trời ban cho chúng ta sự trung tín can đảm của những nhà cải chánh cùng làm việc trong công tác truyền bá Tin lành trong sự hiệp một vì cuộc cải chánh đang tiếp diễn và sự triển Hội thánh của Ngài!
PHẦN II
Vững Đức tin & Lưu truyền lại
John Stott [15]
Niềm tin Cơ đốc giáo là gì? & Tại sao lại quan trọng?
I. Niềm Tin Cơ đốc giáo là gì?
Thứ nhất, niềm tin Cơ đốc giáo là gì? Với mối nguy của việc đơn giản hóa, tôi muốn biện luận rằng niềm tin Cơ dốc giáo không có gì khác hơn là đức tin Cơ đốc giáo truyền thống: tính nguyên bản, tính Kinh thánh, tính tông truyền. Cơ đốc nhân Tin lành tìm kiếm bởi ân sủng của Chúa và trung thành với sự mặc khải mà Chúa đã tỏ bày chính Ngài qua Đấng Christ và qua Kinh Thánh. “Phúc âm” là một từ cao quý cùng với một lịch sử danh dự lâu dài. Chúng ta có được nó với lòng khiêm nhường và biết ơn.
Lẽ tất nhiên chúng ta nhận ra rằng; chúng ta không phải là số Cơ đốc nhân duy nhất trên thế giới này. Một số lượng lớn khác cũng nhận mình là người theo Chúa Jesus Christ như là: “người Công giáo, người Chính thống giáo, hay là người Tin lành tự do.” Cho đến nay, hễ ai tuyên xưng Đức Chúa Giê-xu Christ là Chúa và là Đấng Cứu rỗi thì chắc chắn rằng chúng ta không thể từ chối họ mang danh Cơ đốc nhân được. Chắc hẳn rằng, chúng ta không đồng ý mọi điều họ tin. Nhiều điểm chúng ta còn bất đồng rõ rệt với họ nữa. Chúng ta cũng nhớ rằng không phải tất cả ai tự cho rằng mình thuộc về Đấng Christ thì đều thật như vậy đâu, bởi vì danh xưng Cơ đốc nhân cũng là một hiện tượng hữu danh vô thực trong mỗi Hội Thánh. Trong cùng một lúc ấy, thì chúng ta phải học cách phân biệt giữa nguyên tắc và nhân cách. Chúng ta phải khước từ giáo lý của một người mà vẫn không khước từ chính con người ấy, vậy chúng ta phải học biết sự phân biệt.
Chúng ta cần tôn trọng một người mà chúng ta không đồng ý với họ, chúng ta cần gặp gỡ họ, yêu thương họ, nói chuyện với họ và lắng nghe họ, bởi vì chính chúng ta cũng không thể nào toàn tri và vô ngộ. Chúng ta có thể hợp tác với họ trong những việc thiện nguyện, và công tác xã hội. Có những khi chúng ta được mời để truyền giáo với họ thì chúng ta thấy mình bị rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan bởi vì những chứng nhân cho cùng một niềm tin thì phải hoàn toàn đồng ý với nhau về nội dung của việc truyền giáo.
Những điều mà ta muốn truyền giảng về Phúc âm là những điều ngay thật, rõ ràng trong Thánh kinh Cơ đốc giáo. Đó là lý do tại sao những lời tuyên bố của chúng ta về đức tin Cơ đốc giáo chính là Đức tin nguyên thủy, vẫn không là những lời tuyên bố mang tính kiêu hãnh, mặc dù vẫn có nhiều lúc những lời tuyên bố này thường bị đặt trong những hoàn cảnh nghe có vẻ rất mạo phạm. Khi điều đó được tỏ ra, chúng ta đã hiểu sai hay bóp méo sứ điệp Thánh kinh dù bằng sự thêm vào hay bớt đi; dù là sự thao túng hay bởi sự sai lạc, thì chúng ta phải sẵn sàng và mau chóng thay đổi. Với lòng khiêm nhu, thì mục tiêu của chúng ta là trung thành với sự mạc khải của Thánh kinh.
'Những người cải cách – Chứ không phải những người Người sáng l
Những người cải chánh trong thế kỷ 16 đã đặt ra danh từ “Phúc âm” bây giờ khi nhìn lại thì chúng ta có một lòng tri ân to lớn và đầy ngưỡng mộ họ khi đã hiểu rõ Đức tin Phúc âm chính là Đức tin Cơ đốc giáo trong thể thức nguyên thủy và xác thực. Các lãnh đạo của Công giáo La mã thời bấy giờ đã tố cáo những người cải chánh đã tự tạo ra và giới thiệu một niềm tin mới. Và những người cải chánh đáp lại rằng: chúng tôi đang hồi phục một niềm tin cũ.
Luther viết: “chúng tôi không dạy điều gì mới, nhưng lập lại và tái thiết điều cũ từ các sứ đồ và các thầy dạy đạo trước chúng tôi.[16] Hugh Latimer tuyên bố rằng: “Quý vị nói đây là những học thức mới; nhưng tôi nói cho quý vị biết: đây là những học thức cũ.” [17]Và John Jewel, giám mục từ Salisbury năm 1560 trong quyển “Biện Giải” nổi tiếng của ông viết: “Đây không là những tín lý của chúng tôi đem đến hôm nay. Chúng tôi viết về điều đó, chứ chúng tôi không tạo ra nó. Chúng tôi không đem đến điều gì khác hơn những gì mà các thánh phụ, các sứ đồ và chính Chúa Jesus Christ, Chúa Cứu Thế đã đem đến cho chúng ta.” [18]Lancelot Andrewes đầu thế kỷ 17 viết rằng: “chúng tôi là những người cải cách, chứ không phải người sáng lập”[19]
Vậy thì làm thế nào để tôi tóm tắt lại niềm tin Cơ đốc giáo đây? Nhiều các tín điều, lời tuyên xưng, và các giáo lý được soạn thảo qua nhiều thế kỷ, vì thế không có một thể thức chung về Đức tin Cơ đốc giáo. Bài tín điều các sứ đồ chính là sự chấp nhận phổ thông nhất. Bài tín điều có cấu trúc ba phần với những đoạn liên quan tới niềm tin vào Đức Chúa Trời Ba ngôi là Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh. Tôi xin phép được sử dụng làm bố cục, bởi vì Tin lành Cơ đốc giáo cũng chính là Tin lành Ba ngôi. Cùng một thể ấy, tôi sẽ gạn lọc bớt, bởi vì một số tín lý quan trọng (như là sự đền tội, và bản chất của sự cứu rỗi) sẽ không bao gồm trong đó.
Đức tin về Ba ngôi
Chúng ta tin Đức Chúa Trời là Cha.
Tôi xin chia điều này làm ba phần:
l. Đức Chúa Trời của sự sáng tạo.
Bằng bất cứ phương cách nào đó mà Đức Chúa Trời đã làm trong công cuộc sáng tạo (vẫn còn nhiều tranh luận diễn ra về điều này) thì tất cả chúng ta đều đồng ý rằng chính Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên mọi sự bằng lời nói và ý muốn của Ngài. Đỉnh điểm của sự sáng tạo trong tiến trình và mục đích đó chính là loài người, người nam và người nữ, họ mang lấy ảnh tượng của Đức Chúa Trời và đồng với Ngài cai trị muôn vật trên khắp cả trái đất. Vậy thì, muôn vật, từ nguồn gốc cho tới sự tiến triển đều thuộc về Đức Chúa Trời. Ngài là thực thể siêu việt bên trong lẫn phía sau mọi sự, khiến cho ngũ quan của con người luôn có thể nhận ra được. Trong Ngài, chúng ta sống, động, và có. Chúng ta tìm thấy tính nhân bản là những gì để trở nên nguyên thủy/gốc và – chỉ trong sự nhận biết Ngài, yêu mến Ngài, thờ phượng Ngài và vâng lời Ngài, là hình ảnh mà chúng ta đã được tạo dựng.
Đức Chúa Trời của sự sáng tạo cũng là Đức Chúa Trời của Giao ước.
Trong lúc cả nhân loại đều sa ngã bởi sự bất tuân và trở nên kẻ phản loạn nằm dưới án phạt của Chúa thì bởi ân điển của chính Đức Chúa Trời, Ngài vẫn không từ bỏ họ trong sự gian ác họ. Hơn thế nữa, Chúa lại ban lời hứa ngay lập tức để giải cứu, cứu chuộc và tái dựng con người trở nên mới. Vì thế chương trình cứu rỗi thiên thượng bắt đầu, và đỉnh điểm là trong Chúa Cứu thế Jesus Christ, Đấng Cứu rỗi chúng ta. Đầu tiên, Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham và lập một giao ước với ông. Đây là lời hứa không chỉ Ngài sẽ làm Chúa của ông và ban phước cho ông nhưng cũng qua Áp-ra-ham thì Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho mọi dân tộc trên đất.[20] Đức Chúa Trời đã giữ lời hứa, trước là với dân Y-sơ-ra-ên - dân Giao ước của Ngài; dân mà lịch sử vui buồn của họ được ghi lại qua các trang Thánh kinh Cựu ước. Kế đến là chúng ta hiện nay, những người của Giao ước mới, được ấn chứng bằng huyết của Đức Chúa Jesus; một giao ước không chỉ cho người Do thái nhưng còn cho mọi kẻ tin ở mọi nước, để hoàn thành lời hứa của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham. Tất cả những ai cùng ở trong đức tin với Áp-ra-ham thì cũng nằm trong phước hạnh của Áp-ra-ham nữa.
Đức Chúa Trời của sự sáng tạo và Giao ước cũng là Đức Chúa Trời mạc khải.
Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài qua sự tạo dựng. “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” và “khắp đất đầy dẫy sự vinh hiển Ngài” (Thi thiên 19:1; Ê-sai 6:3). Nhưng đối với tuyển dân của lời hứa thì Chúa ban cho một sự mạc khải đặc biệt; đó là sự mạc khải về kế hoạch yêu thương của Ngài để cứu vớt mọi tội nhân. Chúng ta không thể học biết về kế hoạch ấy nếu chỉ bằng cách ngắm nhìn các ngôi sao trên trời. Chúng ta có thể nhận ra vinh quang Chúa qua các ngôi sao, nhưng chúng ta sẽ không thể nào nhận ra tình yêu thương và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-xu Christ trong các ngôi sao ấy. Vậy thì, phải cần có một sự mạc khải đặc biệt hơn, sự mạc khải được ban cho ấy là qua hành động cứu rỗi tuyển dân Y-sơ-ra-ên, nhưng sự mạc khải với hành động đầy quyền năng cao cả nhất, đó chính là sự chết và sống lại của Đức Chúa Giê-xu Christ. Sự mạc khải này đã được chép xuống bằng văn tự qua các tiên tri trong Cựu ước và các sứ đồ trong Tân ước, họ là những người đã được chọn để ký thuật và giải nghĩa về những điều quyền năng mà Đức Chúa Trời đã làm. Sự mạc khải ấy được bảo tồn đến ngày nay được gọi là “Kinh thánh”.
Phước hạnh không kể xiết của quyển kinh Thánh đến với chúng ta (mỗi ngày và ở mỗi nơi chốn) về điều mà Đức Chúa Trời phán và hành động qua Chúa Giê-xu. Nếu không có Kinh thánh thì chúng ta không thể nào biết một điều cụ thể gì về Chúa Giê-xu cả, và vì vậy, chúng ta cũng sẽ không đem đức tin của mình đến với Ngài, và rồi, chúng ta sẽ không được cứu rỗi. Tạ ơn Đức Chúa Trời về quyển Kinh thánh. Mục đích tối hậu của Kinh thánh là đem Chúa Giê-xu đến với chúng ta và đem chúng ta đến với chính Ngài. Kinh thánh còn làm chứng đầy thẩm quyền về Chúa Giê-xu chính là Đấng Cứu rỗi mà tội nhân đang cần; Đấng Cứu rỗi đã chết rồi sống lại vì cớ con người. Kinh thánh giải bày con đường cứu rỗi thông qua Chúa Giê-xu, và cách mà chúng ta được biện hộ, được thánh hóa và được vinh hiển. Kinh thánh mời gọi con người đến với Chúa Giê-xu, dựa nương nơi Chúa, vâng lời Ngài, trưởng thành trong Ngài, hầu việc Ngài trên đất và chờ đợi Ngài trở lại từ thiên đàng. Mọi điều ấy đều được tìm thấy trong Kinh thánh để minh chứng về Chúa Giê-xu Christ. Chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời là Cha.
Chúng ta tin Đức Chúa Con.
Đặc biệt, chúng ta tin vào thân vị riêng biệt/hoàn toàn độc nhất của Chúa Giê-xu Christ. Tôi xin chia nhỏ để trình bày một lần nữa:
Đức Chúa Giê-xu Christ riêng biệt/hoàn toàn độc nhất trong thân vị của Ngài. Đức Chúa Giê-xu Christ ở Na-xa-rét là Ngôi lời nhập thể; Ngài là Con của Đức Chúa Trời hằng sống đã nhập thể. Cơ đốc nhân Tin lành không hổ thẹn về niềm tin thuần khiết của hai bản tính trong cùng một thân vị trong Đức Chúa Giê-xu Christ, Thần tánh trọn vẹn của Ngài phát xuất từ cõi đời đời trong Cha Ngài; và thật sự Nhân tánh của Ngài phát xuất từ trong cõi thời gian từ lúc mẹ Ngài, bà Mary đồng trinh mang thai. Chúng ta thấy rất nhiều bằng chứng về hai điều này trong các sách Phúc âm. Chưa hề có ai như vậy và cũng sẽ không ai giống như Ngài.
2. Đức Chúa Giê-xu Christ là Độc nhất vô nhị trong công tác của Ngài. sống cuộc đời hoàn hảo trong tình yêu và thuận phục, Chúa Giê-xu đã tình nguyện cách kỹ lưỡng khi bước lên thập tự giá. Ngài không hề có tội hay phạm tội, nhưng “Ngài gánh tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ” (I Phi-e-rơ 2:23). Đó chính là, Ngài gánh chịu hậu quả tội lỗi mà con người đáng ra phải nhận chịu trên thân thể vô tội của Ngài. Sự chết mà Ngài chịu chính là án phạt tội lỗi, không phải tội của Ngài, vì Ngài vô tội, nhưng đó là tội của con người chúng ta, mà Ngài đã tự nhận lấy trên Ngài. Bằng lòng trở thành người thay thế, Chúa Giê-xu thế chỗ để chết cho chúng ta, và Ngài hoàn toàn thỏa mãn cùng một lúc cả hai điều: sự công bình và tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Không phải là Chúa Giê-xu làm điều mà Đức Chúa Cha không muốn, nhưng trái lại, chính Đức Chúa Trời ở trong Ngài để làm điều ấy, với sự công bình và với tình yêu cao cả - một sự hy sinh hoàn toàn cho món nợ tội lỗi. Và rồi đến ngày thứ ba, Chúa Giê-xu sống lại. Hay chính xác hơn, Ngài được Cha Ngài khiến sống lại để minh chứng cách công khai và đầy quyền năng về Thân vị vinh hiển và bản tính trọn vẹn của công tác Ngài; và cũng để suy tôn về địa vị ở bên hữu Đức Chúa Cha đầy vinh quang tối thượng; một vị trí mà khẳng định thẩm quyền và vai trò cứu rỗi của Ngài cho con người chúng ta hôm nay.
3. Đức Chúa Giê-xu Christ và chương trình Cứu rỗi độc nhất: Bởi vì một thân vị riêng biệt mà Chúa Giê-xu có và bởi vì một công tác đặc biệt mà Ngài đã làm, cho nên duy chỉ Ngài mới có thể ban một sự Cứu rỗi độc nhất vô nhị cho những ai chịu ăn năn và tin nhận. Có ba đặc thù riêng biệt về Chúa Giê-xu, một Đấng duy nhất là Trời và Người, cũng là một Đấng ban giá chuộc duy nhất cho vấn đề tội lỗi, và là một Đấng Trung Bảo ở giữa Đức Chúa Trời và loài người (I Ti-mô-thê 2: 5). Không một ai khác có thể làm điều ấy. Như sứ đồ Phi-e-rơ nói: “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu. (Công vụ 4:12). Chúng ta tin vào Đức Chúa Con và ba đặc tính độc đáo trong Ngài.
Chúng ta tin Đức Thánh Linh.
Lần này thì tôi sẽ chia ra theo năm danh xưng của Đức Thánh Linh trong Tân ước.
l. Ngài là Thần Linh sự sống.
Như bản tín điều tại Nicene viết: “Chúng tôi tin vào Đức Thánh Linh là Chúa, Đấng ban sự sống.” Theo quan điểm của chúng ta thì đời sống Cơ đốc nhân bắt đầu khi chúng ta ăn năn và tin nhận Chúa Cứu thế Giê-xu. Nhưng theo Đức Chúa Trời thì nó bắt đầu khi chúng ta chịu chết con người cũ với tội lỗi của nó và được ban đời sống mới bởi sự sanh lại của Thánh Linh sự sống. Được sanh lại nghĩa là được sanh ra từ bên trên, tức được sanh bởi Đức Thánh Linh. Chính Đức Thánh Linh là Đấng ban cho chúng ta một đời sống mới, một bản tính mới, một viễn cảnh mới, với nhiều ước vọng mới và nhiều hoài bão mới. vì “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (II Cô-rinh-tô 5:17). Vậy Ngài là Thần Linh Sự Sống.
2. Đức Thánh Linh là Thần lẽ thật.
Đức Thánh Linh đang ở trong chúng ta, Ngài đếm những lời dối trá của ma quỷ là Cha của sự nói dối; và Đức Thánh Linh làm vững lòng chúng ta bởi sự làm chứng của Ngài rằng: chúng ta là con cái yêu dấu của Đức Chúa Trời; Thánh Linh dạy dỗ chúng ta về Lời Đức Chúa Trời để chúng ta ngày càng lớn lên trong sự thông hiểu về Đức Chúa Trời.
3. Thánh Linh là Đấng Thánh khiết.
Mong ước lớn nhất của Đức Thánh Linh là được biển đổi chúng ta luôn luôn từ vinh hiển qua vinh hiển để vào trong ảnh tượng của Đấng Christ (II Cô-rin-tô 3:18). Thánh Linh của Đấng Christ muốn định dạng Đấng Christ trong chúng ta và làm trưởng thành nhân cách chúng ta để trở nên trái tốt lành của lòng yêu thương, vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ. (Ga-la-ti 5:22-23)
4. Đức Thánh Linh là Thần của sự hiệp nhất.
Ngài là Thánh linh hiệp một. Một Thánh Linh tạo nên một thân thể (Ê-phê-sô 4: 3, 4). Ngài liên kết chúng ta cùng nhau qua sự thông công. Trái đầu tiên của Ngài là trái Yêu thương. Thánh Linh cũng trang bị chúng ta hợp lệ với ơn truyền giảng Tin lành, ơn chăn bầy, để thân thể Đấng Christ được gây dựng phát triển và Ngài cũng ủy nhiệm cho chúng ta để làm chứng nhân cho thế giới.
5. Đức Thánh Linh là Thần vinh hiển
Sứ đồ Phi-e-rơ viết: “sự vinh hiển của Thánh Linh Đức Chúa trời đậu trên anh em” (I Phi-e-rơ 4:14) Sự ngự trị của Đức Thánh Linh mới là phần thứ nhất của sự cứu rỗi trọn vẹn từ Đức Chúa Trời, theo lời hứa đảm bảo của chính Ngài, mà những điều khác sẽ còn tiếp tục cho đến tận thế. Đức Thánh linh không chỉ cứu chuộc thân thể chúng ta mà thôi; Ngài còn giải thoát cả cõi vũ trụ ra khỏi xiềng xích để đem đến sự tự do vinh hiển. (Rô-ma 8:18-25).
Chúng ta đã nhìn thấy Đức Tin Cơ đốc giáo – Đức Tin theo Thánh Kinh - là Đức tin của giáo lý Ba ngôi. Chúng ta tin Đức Chúa Cha là Đức Chúa Trời sáng tạo, giao ước, và mạc khải. Chúng ta tin Đức Chúa Con với sự độc nhất trong thân vi, công tác, và sự cứu rỗi. Chúng ta cũng tin Đức Thánh Linh là sự sống, lẽ thật, thánh khiết, yêu thương, và vinh hiển.
Tín điều niềm tin về Ba ngôi của chúng ta còn là niềm tin vào Chúa Cứu Thế - tức là tập trung vào Đấng Christ. Bởi vì Cha đã sai Con làm Đấng Cứu thế và Đức Thánh Linh làm chứng về Ngài rằng Ngài là Chúa. (I Giăng 4:14; I Cô-rinh-tô 12:3)
Những sự tấn công vào Cơ đốc giáo trải qua nhiều thế kỷ, không gì ngạc nhiên, là tấn công vào thân vị và công tác của Đấng Christ. Vì thế, sự quan trọng của bài tuyên xưng đức tin phải nói rõ tín lý niềm tin về Đức Chúa Giê-xu. Vì lý do ấy cho nên thẩm quyền của Kinh thánh và sự xưng nghĩa bởi đức tin là hai khía cạnh chính của công cuộc cải chánh và cũng là hai dấu hiệu chính của Tin lành Cơ đốc giáo ngày nay.[21]
Tại sao vậy? Đó là do sự kết nối sau cùng của Chúa Giê-xu Christ với những điều mà Đức Chúa Trời đã phán và hoàn tất trong Đấng Christ là chắc chắn, Cơ đốc giáo tin rằng Đức Chúa Trời đã phán bằng nhiều cách, và nhiều lần, thông qua các tiên tri với các tổ phụ, Ngài đã tuyên bố những lời sau cùng trong Đấng Christ và lời chứng các sứ đồ về Đấng Christ. Cơ Đốc Giáo cũng tin rằng Đức Chúa Trời tích cực hành động cách diệu kỳ qua lịch sử tuyển dân, Ngài đã trình bày sự thật cuối cùng trong sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ. Vì thế Chúa Giê-xu Christ chính là Lời Phán và là Hành Động Cứu Rỗi sau cùng cho cả thế giới này cho đến ngày mà Ngài trở lại. Nói một cách khác là: Sự mạc khải và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời thảy đều hoàn tất trong Đấng Christ. Vì thế, trợ động từ “hapax” hay “ephapax” (nghĩa là một lần đủ cả và mãi mãi) được áp dụng trong Thánh kinh Tân ước cho cả hai điều ấy.
Cho nên, nếu chúng ta bắt đầu thêm lời nói riêng của mình vào Lời phán của Đức Chúa Trời đã nói trong Đấng Christ, hay là, khi chúng ta bắt đầu cộng thêm việc làm của mình vào Việc làm mà Đức Chúa Trời đã hoàn tất trong Đấng Chist, thì có nghĩa là chúng ta đang tuyên bố rằng: Lời phán và công tác của Đấng Christ vẫn chưa thỏa mãn và chưa hoàn thành.
Không điều gì khuấy động một sự căm phẫn cho Phúc Âm bằng những tín lý làm suy giảm đi sự thỏa mãn trọn vẹn về Lời Phán và Việc Làm mà Đức Chúa Trời thực hiện qua Đấng Christ. Và cũng không điều gì tiêu biểu của những Cơ-đốc nhân Tin lành hơn là sự thánh khiết, thậm chí đến mức ghen tương, ghen tương vì sự vinh quang độc nhất của Chúa Cứu thế Giê-xu Christ, Chúa chúng ta.
II. Trách nhiệm của chúng ta là gì, trong giai đoạn của chúng ta?
Bây giờ chúng ta bước đến phần khám phá trách nhiệm của mình đối với niềm tin Cơ đốc giáo, và làm thể nào để gìn giữ và lưu truyền niềm tấy. Với mỗi thế hệ thì sẽ có một trách nhiệm riêng biệt, trong gia đình, trong Hội thánh, và trong việc dạy đạo cho người mới, mỗi hoàn cảnh.
Tôi xin phép được đề nghị bốn trách nhiệm chính, và trình bày từ trong Kinh thánh.
1/ Tin và tuyên xưng
Niềm tin Cơ đốc giáo chính là Phúc âm. Đó là Tin lành Cứu rỗi đến từ Đức Chúa Trời qua Đấng Christ và bởi Đức Thánh Linh. Vì thế, trách nhiệm đầu tiên của chúng ta là tiếp nhận Phúc âm cho riêng mình bằng tất cả tâm thần và trí lực, rối kế tiếp là hãy xưng nhận Phúc âm cách công khai qua môi miệng mình. Như sứ đồ Phao lô đã viết trong Rô-ma 10:9 “Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu” Tôi xin nói thêm để làm rõ điều này. Chúng ta không thể tách rời đức tin trong niềm tin Cơ đốc giáo với đức tin nơi Chúa Jesus. Vì trong Kinh thánh Tân ước là cả hai đều đi chung với nhau.
Không thể tin vào Đức Chúa Giê-xu Christ nếu bước đầu tiên lại không tìm hiểu Đức Chúa Giê-xu Christ là ai để chúng ta đặt niềm tin của mình vào. Cũng như là, không thể tin vào niềm tin Cơ đốc giáo bằng lý trí nếu không tin vào Đức Chúa Giê-xu Christ một cách cá nhân là Đấng mà niềm tin chúng ta chú trọng vào. Đức tin thật không phải là một sự đồng ý khô khan vào niềm tin Cơ đốc giáo bằng tâm trí riêng, cũng không phải là sự cam kết vô ý thức vào một Đức Chúa Giê-xu Christ không xác thực. Đức tin thật là sự tin quyết về một Đức Chúa Giê-xu Christ thực hữu, rồi dẫn chúng ta đến một cam kết với Ngài hôm nay. Đây là một cam kết hoàn toàn (với tâm trí, tấm lòng, ý chí, và đời sống) vào một Đấng Christ trọn vẹn (Ngài là Đức Chúa Trời, là Con người, là Đấng Cứu rỗi và là Chúa Tể). Vậy thì chúng ta không hổ thẹn để tuyên xưng cách công khai về Chúa Giê-xu Christ là Đấng chúng ta tin nhận và cam kết cách trọn vẹn với Ngài. Trách nhiệm đầu tiên đối với niềm tin Cơ đốc giáo là tin và tuyên xưng.
Vâng lời & làm sáng danh/rạng rỡ
Trong Tân ước, đức tin và sự vâng lời thường đi đôi, không thể tách rời. Trong nguyên ngữ/ ngôn ngữ, thật quan trọng khi biết rằng thể thụ động của động từ “peitho” nghĩa là: “bị thuyết phục” thỉnh thoảng cũng được dịch là “tin nhận” (Công vụ 17:4; 26:28) và đôi khi cũng được dịch là “vâng lời” (Rô-ma 2:8; Ga-la-ti 3:1) Đó là tại vì khi chúng ta bị thuyết phục rồi, thì chúng ta đều sẽ tin và vâng lời, cho nên một trong hai điều này đều không thể tách rời. Sứ đồ Phao lô có viết hai lần; lúc bắt đầu và lúc kết thúc của sách Rô-ma (1:5; 16:26) về “Đức tin vâng lời” và trong Hê-bơ-rơ 11 cho chúng ta thấy rằng “bởi đức tin Áp-ra-ham vâng lời” (câu 8). Thật không thể tưởng tưởng được rằng chúng ta tin Chúa Giê-xu nhưng lại không vâng lời Ngài; hay là chúng ta cam kết với Ngài là một Đấng Cứu thế nhưng lại từ chối Ngài là Chúa Chủ Tể; hay là khi chúng ta tin vào niềm tin Cơ đốc giáo nhưng niềm tin ấy lại không ảnh hưởng gì đến đời sống chúng ta. Không, mọi chỗ trong Kinh thánh Tân ước cho thấy: Lẽ thật của Chúa còn là một yếu tố của hành động, chứ không chỉ để tin nhận mà thôi. Lẽ thật của Chúa có kèm theo: mạng lệnh, trách nhiệm, và nghĩa vụ. Niềm tin Cơ đốc giáo biến đổi mạnh mẽ/ mãnh liệt trên những ai tin nhận và giữ trọn.
Kế tiếp, hễ bất cứ khi nào chúng ta vâng phục Phúc âm thì chúng ta cũng tôn quý nữa. Cách diễn tả này trong thư tín Tít 2:10, nơi mà những Cơ-đốc nhân/tín hữu là người nô lệ trong các gia đình được dạy là: phải thật thà, tận tâm, phục tùng và trung thành “để làm cho tôn quý đạo Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta, trong mọi đường”
Tín lý Cơ đốc giáo là tín lý cứu rỗi và đã được tôn quý thêm qua hành vi, phẩm hạnh của những người được cứu. Động từ “tôn quý” hay “làm sáng danh/rạng rỡ”=“kosmeo” từ đó chúng ta có từ “cosmetic= mỹ phẩm” đã được dùng trong Kinh Tân ước cho người phụ nữ làm đẹp cùng với quần áo và đồ trang sức (I Ti-mô-thê 2:9) và cho cô dâu làm đẹp thêm/rạng rỡ thêm cho chồng nàng (I Phi-e-rơ 3:15; Khải huyền 21:2) và cho đền thờ Giê-ru-sa-lem được trở nên rạng rỡ thêm/ đẹp thêm bởi đá quý (Luca 21:5). Sự tôn quý làm tăng thêm vẻ đẹp của một người hay một tòa nhà. Vì vậy, một đời sống thánh khiết giống Chúa Giê-xu sẽ khiến Phúc âm thêm tươi sáng, bày tỏ vẻ đẹp thanh cao và làm cho Phúc âm được thu hút cho người nhìn xem.
Nhu cầu cấp bách đối với chúng ta là những người Tin Lành là tôn quý/Làm Rạng Rỡ Niềm Tin Cơ đốc giáo, như sứ đồ Phao lô viết trong Phi-líp 1:27 “anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với đạo Tin lành của Đấng Christ”. Tin Lành thật vô ích nếu người ta không thấy được Tin lành làm việc lành/hữu hiệu trong đời sống chúng ta. Cơ đốc nhân phải là người tín hữu của Phúc âm cần (1) sống đời sống Phúc âm: giản dị, nhất quán/đồng nhất, giống Chúa; (2) xây dựng gia đình Phúc âm nơi đó: vợ chồng yêu thương lẫn nhau; và yêu thương con cái; con cái thì hiếu kính cha mẹ và được nuôi dưỡng với nề nếp và lời dạy của Chúa Giê-xu (3) phát triển Hội thánh Phúc âm, nơi có sự thờ phượng thật, sự thông công quan tâm nhau thật, và truyền giáo với lòng thương mến.
Làm thể nào mà chúng ta cho là mình tin vào niềm tin Cơ đốc giáo nếu không chịu vâng phục? Sự xưng nhận bằng môi miệng của chúng ta sẽ còn ý nghĩa gì nữa nếu như chúng ta không tôn quý/làm rạng rỡ Phúc âtrong đời sống mình; nơi nhà riêng, và trong Hội thánh?
Rao truyền & Biện hô
Niềm tin Cơ đốc giáo không chỉ là việc tin, xưng tội, vâng lời và tôn quý/làm rạng rỡ, nhưng còn là việc rao truyền nữa. Bởi vậy mỗi tín hữu phải trở nên là nhà truyền giáo. Vì thế chữ “truyền giáo” nghĩa là: rao ra đúng Tin lành. Nhưng việc “truyền giáo” trong xã hội đời thường thì không dễ như chúng ta biết. Chúng ta thường bị hai lỗi lầm đối nghịch nhau.
Lỗi lầm thứ nhất là: “thuộc lòng các từ Kinh thánh” chúng ta thường nói là: các người cần phải “sanh lại”; hay cần được “cứu”; hay “xưng nhận bởi đức tin”; hay cần “rửa sạch bởi huyết chiên con”; hay là họ phải “bước vào vương quốc Đức Chúa Trời” và thế là mọi người đều kinh ngạc vì không hiểu chúng ta đang nói thứ gì vậy?
Lỗi lầm thứ 2 là: chúng ta bị khó khăn khi chuyển từ ngôn ngữ Phúc âm sang ngôn ngữ hiện đại để rồi sản phẩm cuối cùng lại rất ít liên quan đến Kinh thánh Tân ước.
Cả hai lỗi này đều xuất phát từ những động cơ tốt là: trung thành với Thánh kinh, và giao tiếp khéo léo. Chúng ta phải học cùng một lúc để làm tốt hai điều trên; tức là vừa trình bày Phúc Âm với ngôn từ bám sát với Thánh kinh và cũng phù hợp với giao tiếp trong thế giới hiện đại.
Thực hiện tốt nguyên tắc này thì sẽ luôn áp dụng thành công cho bất kỳ ai mà chúng ta muốn đem về cho Đức Chúa Giê-xu. Có thể đó là một sinh viên theo chủ nghĩa nghĩa Mác-xít tại Đại học Anh Quốc, hay người Hồi giáo Ả-rập, người Do thái giáo tại vùng Trung đông, hay người Phật giáo tại Thái lan, người Hindu tại Ấn Độ, một nhà khoa học, hay ngay cả người tự nhận là “tín đồ” bình thường. Mỗi trường hợp, luôn có các trở ngại văn hóa cần vượt qua; hay các hố sâu phong tục cần lấp lại. Vì thế, chúng ta sẽ nhận ra rằng truyền giáo đích thực chính là vấn đề “vượt qua văn hóa / đa văn hóa”. Trong điều này, chúng ta được gọi để đi theo mô hình mà Chúa Giê-xu đã làm qua sự nhập thể của Ngài. Sự nhập thể là sự kiện “vượt qua văn hóa” vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Con Trời bước vào thế gian. Ngài từ bỏ văn hóa của Thiên đàng để đi vào văn hóa của thế giới loài người. Chúng ta cũng cần học cách bước vào thế giới của người khác; trong sự suy nghĩ của họ và trong thế giới cá nhân của họ như là sự đau đớn, sự xa lánh và cô đơn. Chỉ khi đó, ta mới bước vào được lãnh địa của họ, tức là nhà của họ nhưng chắc chắn xa lạ với chúng ta; thì như thế ta mới có thể chia sẻ Phúc âm trong cách thức mà họ có thể hiểu được.
Việc chứng đạo như vậy sẽ xảy ra tranh luận - đây không phải đối đầu dữ dội -, nhưng là “tranh luận với người ở ngoài Thánh kinh”. Chúng ta không thể rao truyền Phúc âm đến những người theo kiểu “cứng đầu cứng cổ; độc đoán; chịu không chịu thì thôi”. Chúng ta cần nhạy bén đối với các cách mà người khác có vẻ từ chối hay hiểu lầm. Chúng ta được gọi để trở thành vừa là “người bênh vực” mà vừa là “người rao báo”. Chắc chắn là không có việc truyền giáo nào thành công mà không có công tác của Đức Thánh Linh. Thánh Linh là Chủ tướng của công tác làm chứng, Chủ tướng của giao tiếp liên lạc; và Chủ Tướng Truyền Giáo. Vì Ngài chính là Thần linh Lẽ thật, nếu không có sự soi dẫn của Ngài thì không ai có thể đến tin nhận được. Vì thế Phao lô tin cậy hòan toàn vào điều mà ông gọi là “sự tỏ ra của Thánh Linh và quyền phép” (I Cô-rinh-tô 2:4) Khi Phao lô thăm viếng Tê-sa-lô-ni-ca, thì Phúc âm không chỉ đến với họ bằng Lời nhưng cũng bằng “năng quyền của Đức Thánh Linh” (I Tê-sa-lô-ni-ca 1:5). Tuy nhiên, Phao lô vẫn có những tranh luận xảy ra. Lu-ca mô tả tại thành Tê-sa-lô-ni-ca, Ê-phê-sô, Cô-rinh-tô và những nơi khác thì Phao-lô cũng “tranh luận” với nhiều người khác vì “họ ở ngoài Thánh kinh” và ông cũng “thuyết phục” họ về Chúa Giê-xu chính là Đấng Cứu Rỗi. (Công vụ 17:2-4)
Có phải việc “tranh luận” và “Đức Thánh Linh” là không tương thích với nhau? Thưa, không phải; mà thật ra là qua những sự giải thích và tranh luận giữa con người chúng ta với nhau thì Đức Thánh Linh làm việc khiến con người ăn năn và tin nhận. Vì thế chúng ta sẽ phải rao truyền và biện hộ cho Phúc âm.
Tin Lành cần được biết đến không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hình ảnh trực quan. Người ta vừa cần được nghe lẫn cần nhìn thấy Phúc âm. Tôi không có ý nói đến/nói đến ý về một đời sống thánh thiện làm tô điểm cho Phúc âm, là điều mà tôi đã đề cập rồi ở phía trên; nhưng mà tôi có ý muốn nói đến “Việc lành” của lòng thương xót. Lời nói và việc làm luôn đi đôi với nhau trong chức vụ của Chúa Giê-xu; Ngài công bố Phúc âm trước, rồi kế tiếp là minh họa về Tin lành của nước Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng nên như vậy. Đây là chỗ cho công tác từ thiện (việc làm của lòng thương xót) và công việc xã hội (tìm kiếm sự công bằng). Chúng thể hiện/bày tỏ tình yêu của Đức Chúa Trời mà chúng ta đang rao giảng. Chúng là các việc lành mà bởi đó, Chúa Giê-xu phán “Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời.” (Ma-thi-ơ 5:16)
Bênh vực & Chịu khổ
Khi gửi lời cám ơn đối với các tín hữu ở hội thánh Phi-líp trong sự “đồng công với đạo Tin Lành từ buổi ban đầu cho đến bây giờ”, thì sứ đồ Phao lô đã nói rằng họ đã chia sẻ cùng ông “trong khi binh vực và làm chứng về đạo Tin lành” (Phi-líp 1:7) ông cũng miêu tả chính mình như là “tại đây” (tức là trong tù) “để binh vực đạo Tin Lành” (câu 16). Hai lần ông dùng từ ngữ Hy lạp “apologia” (sự bênh vực), và một lần ông dùng chữ “bebaiosis” (sự xác tín). Rồi sau đó, ở phần kết (1:27); ông thúc giục họ hãy “đồng tâm chống cự vì đức tin của đạo Tin lành” vì Phúc âm là thật. Nếu chúng ta cùng kết hợp tất cả các cụm từ này lại với nhau thì sự chiến đấu của chúng ta cho đạo Tin lành có cả mặt tiêu cực (bênh vực chống lại sự tấn công) và mặt tích cực (thiết lập hay xác nhận sự thật của đạo Tin lành). Từ lúc bắt đầu, niềm tin Cơ đốc giáo đã bị “chống nghịch”. Người Do thái tại Rô-ma diễn tả về Phao lô bằng chữ “đảng phái” để chỉ một nơi ông thuộc về. “họ nói, chúng tôi biết người ta hay chống nghịch khắp mọi nơi” (Công vụ các sứ đồ 28:22)
Chúa Giê-xu và các môn đệ Ngài đã cho thấy lời cảnh báo rõ ràng về các giáo sư giả nổi lên, nghịch lại với Phúc âm. Ngài gọi những kẻ này là “muông sói” sẽ xâm nhập vào bầy chiên của Chúa nhằm phá hoại, chia rẽ và phân tán. Vậy “hãy coi chừng, hãy cảnh giác”; các giám mục hãy trung thành với các lời dạy từ các sứ đồ “hằng giữ đạo thật y như đã nghe dạy, hầu cho có thể theo đạo lành mà khuyên dỗ người ta và bác lại kẻ chống trả.” (Tít 1:9)
Các sự tấn công vào Tin lành Cơ đốc giáo thường thay đổi theo thời gian. Giống như trước đây có người cho rằng Chúa Giê-xu là một người tốt; hay là Đạo nào cũng đưa đến Thiên đàng. Hiện nay, chúng ta thấy sự trổi dậy của Hồi giáo trong chính trị lẫn tôn giáo; cũng như là nhiều con đường trong thời hậu hiện đại này dẫn chúng ta đến: chủ nghĩa vô thần mới, trong một hình thức khác, cụ thể là ở phương tây trong môi trường giáo dục, như là việc: con người đều có thể đạt đến được mọi thứ với các tư duy cấp cao trong kỷ thuật; hay là: sự phát tán sai lệch về quan điểm của Kinh thánh trong vấn đề tình dục; hay là sự từ chối ý nghĩa rõ ràng của những từ ngữ trong Kinh thánh… và còn nhiều điều khác nữa. Vượt qua những mối đe dọa như vậy, chúng ta được kêu gọi để bảo vệ đức tin, và luôn luôn sẵn sàng để "trả lời" (apologia, bênh vực) “cho mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em” (I Phi-e-rơ 3:15)
Vì thế, chúng ta phải đọc, suy gẫm và thảo luận. Hơn thế nữa, chúng ta phải cầu nguyện xin Chúa dấy lên nhiều nhà biện hộ đầy ơn biết suy nghĩ thắng hơn những kẻ chống nghịch tin lành và tái lập đức tin vững vàng trong Hội thánh. Một vài người Tin lành dường như muốn những tín hữu theo họ cần phải chấm hay gạch dưới những ký tự hay từ ngữ quan trọng theo cách tin riêng của họ. Điều này không phải là không khôn ngoan, cũng không cần thiết lắm trong phương diện của thiên đàng. Vì thế hãy giữ trong phạm vi riêng của phần mình, tức là trong số những người thích hiểu và theo dõi kinh thánh theo cách như vậy; đồng thời chúng ta cũng cần cho người khác một ít tự do nào đó trong việc họ giải nghĩa kinh thánh; ví dụ như là: lượng nước bao nhiêu là đủ để làm báp-têm mới đúng; hay là ân tứ thuộc linh nào là quan trọng hơn; hay là những lời tiên tri xưa áp dụng cho ngày nay ra sao. Những điều này có thể giữ ở trong “phạm vi nhỏ” tức thuộc về gia đình mình, hệ phái mình.
Nhưng khi các vấn đề căn bản, quan trọng, về niềm tin Cơ đốc giáo bị tấn công thì tất cả chúng ta không thể yên lặng và làm ngơ được.
Như là, sứ đồ Giăng gọi giáo sư giả vốn từ chối thân vị Thần Nhân của Đức Chúa Giê-xu là “AntiChrist” (I Giăng 2:18-25); Sứ đồ Phao lô kêu sự đoán phạt của Chúa giáng xuống các thầy giảng dạy Phúc âm sai lệch về ân điển ban cho nhưng không của Đấng Christ (Ga-la-ti 1:6-9). Sứ đồ Phao lô phản đối lại sứ đồ Phi-e-rơ ở nơi công khai khi mà hành động của sứ đồ Phi-e-rơ từ chối Lẽ thật của phúc Âm (Ga-la-ti 1:11-16). Rất đau đớn và xấu hổ, những sự đối chất như vậy thỉnh thoảng vẫn cần thiết của ngày hôm nay nếu như tín lý căn bản bị nguy hại.
Chúng ta không thể bênh vực đạo Tin Lành mà không bị đau đớn; nhưng chúng ta không nên tạo ra sự đối nghịch. Chúng ta sẵn sàng chịu khổ vì đạo Tin Lành “vì đã được ban cho chúng ta” Phao lô viết trong Phi-líp 1:29 “không những tin Đấng Christ mà thôi, lại phải chịu khổ vì Ngài nữa,” Nhiều anh chị em của chúng ta trên thế giới đang chịu khổ, họ bị bắt bớ về thể xác vì đức tin trung kiên của mình. Những đối thủ ồ ạt của Phúc Âm; nào là Hindu, Hồi giáo, hay Vô thần đang đánh đập họ; đốt cháy nhà thờ; tịch thu Kinh Thánh, nhốt họ vào tù; bắt họ vào trại cải tạo; ngay cả giết chết họ. Chúng ta là người phương Tây ít khi bị những sự bắt bớ thể xác như thế, thay vào đó thì chúng ta bị xã hội chế nhạo và tẩy chay vì danh của Chúa Giê-xu. Điều này cũng thật đau đớn, nhưng vì Chúa Giê-xu không hề do dự khi Ngài mang mọi nỗi nhục và khổ đau trên cây gỗ, thì chúng ta cũng đừng ngạc nhiên (nếu chúng ta cũng được gọi để chịu khổ) khi nhiều điều khó khăn đang xảy đến. Đôi lúc thì chúng ta cũng có sự tự thương hại mình. Nhưng chúng ta nên vui mừng bởi vì chúng ta được vinh dự chia sẻ sự đau khổ cùng với Đấng Christ (Công vụ các sứ đồ 5:41; I Phi-e-rơ 4:12-14).
Kết Luận, Chúng ta đã thấy niềm tin Phúc Âm chính là niềm tin Cơ đốc giáo trong lịch sử; cũng chính là đức tin Ba ngôi. Niềm tin này mang tính truyền thống, đúng với Kinh thánh; đức tin tông truyền về Đức Chúa Trời là Cha, Con và Thánh Linh.
Chúng ta cũng nhận ra trách nhiệm của mình là tin và xưng nhận; vâng theo và làm rạng rỡ; rao truyền và biện hộ; bênh vực và chịu khổ với Phúc Âm.
Cầu xin Chúa ban sự khôn ngoan và khích lệ chúng ta trong nhiều cách để chúng ta luôn giữ đức tin trong thế hệ của mình, mà những nhà cải chánh đã dành cho chúng ta; và rồi chúng ta tiếp tục truyền sang các thế hệ kế tiếp.
PHỤ LỤC
Bài Cầu Nguyện Của Chúa Giê-xu Cho Sự Hiệp Một Của Hội Thánh Ngài
Alan Purser[22]
Giăng 17 xem như là đất thánh/ thánh địa: Chúa Giê-xu cầu nguyện cho sự hiệp một trong Hội thánh. Đây cũng là chìa khóa cho việc truyền giảng Phúc âm có hiệu quả. Phân đoạn này cũng thường bị hiểu lầm.
Tôi nhớ có lần được nghe từ một vị lãnh đạo Hội thánh nói rằng: Lý do thất bại lớn nhất trong việc truyền giảng tin lành ở đất nước chúng ta đó là tinh thần không hiệp một giữa các Hội thánh. Người này đề cập đến Giăng 17 để chỉ ra ước nguyện của Chúa Giê-xu về sự hiệp một giữa các sứ đồ; và mối liên hệ rất gần/rất chặt chẽ giữa sự hiệp một và truyền giảng Phúc âm có kết quả. Điều này đưa ra một câu hỏi là: Chúa Giê-xu thật sự ra đã nói gì? Và điều đó đưa chúng ta trở về với đoạn Kinh thánh để tìm hiểu. Trong Giăng 17, sự hiệp một là vô cùng quan trọng – đến 3 lần Chúa Giê-xu cầu nguyện cho điều này (câu 21, 22, 23); vì vậy sẽ khiến chúng ta hỏi rằng: “Ai hiệp một với ai? Sự hiệp một là nghĩa gì? Có mối liên quan gì giữa hiệp một và truyền giảng Phúc âm có hiệu quả?
Trong loạt bài giải nghĩa kinh thánh có tên “Đàm luận trên Phòng Cao” được tác giả John Stott diễn giải tại Hội nghị Truyền giáo sinh viên Bắc Mỹ ở thành phố Urbana, Illinois, gây chú ý rằng: những lời cầu nguyện này thường được trưng dẫn làm ý chính trong các phong trào đại đoàn kết. Vậy thì rất quan trọng để hiểu đúng văn mạch của nó nếu chúng ta giải nghĩa chính xác, không thiên vị, không sai lệch. Ông còn khuyên giúp/thúc giục chúng ta xem xét cách kỷ lưỡng.[23]
Tại đây, chúng ta sẽ học biết cách cẩn thận những lời này trong mối lên hệ/tương quan của Hội thánh và truyền giảng Phúc âm ngày hôm nay.
Cấu trúc rõ ràng của bài cầu nguyện là: đầu tiên, Chúa cầu nguyện cho chính ngài (câu 1-5); kế đến Chúa cầu nguyện cho các môn đệ (câu 6-19); và sau cùng Ngài cầu nguyện cho “những ai sẽ tin qua lời làm chứng của họ” (câu 20-26). Tuy nhiên, nội dung từng phần khác nhau. Lúc này, giờ của Chúa đã gần kề; Ngài cầu nguyện cho chính Ngài đó là Ngài sẽ được vinh hiển khi mang lấy trọn/làm trọn ý muốn của Cha Ngài, cùng với mọi đau đớn sẽ gánh lấy/ kéo theo.
Quay sang cầu nguyện cho các môn đồ, Ngài cầu xin cho họ được nên thánh (chọn để biệt riêng) bằng lẽ thật được tìm thấy trong Lời Đức Chúa Trời, vì điều này mà họ mới có thể chịu nổi sự thù nghịch/hằn của thế gian.
Lời cầu nguyện cho nhóm 11 người mà sau này là các sứ đồ, Chúa Giê-xu cũng đã ban lời hứa về ân tứ Thánh Linh. Vì Đức Thánh Linh sẽ nhắc lại cho họ nhớ mọi điều mà Chúa Giê-xu đã phán cho họ, và Thánh Linh sẽ dẫn họ vào mọi lẽ thật là những điều mà họ vẫn chưa nhận biết. (Giăng 14:26; 16:8-11)
Mặc dầu Chúa Giê-xu cầu nguyện là các môn đồ có thể “hiệp làm một, như chúng ta vậy” (câu 11) nhưng thật ra không phải vậy cho đến phần 3 của bài cầu nguyện khi trọng tâm của Chúa hướng/là vào sự hiệp một. Cùng xem chi tiết trong Giăng 17:20-26, “Ấy chẳng những vì họ mà Con cầu xin thôi đâu, nhưng cũng vì kẻ sẽ nghe lời họ mà tin đến Con nữa” (câu 20) John Stott chỉ ra cho các sinh viên biết là: tại đây Chúa Giê-xu phân biệt giữa các sứ đồ, là những người mà Ngài vừa mới cầu nguyện cho; và những người sau này tin nhận Ngài thông qua những lời chứng của các sứ đồ. Sự khác biệt là vô cùng quan trọng khi chúng ta hiểu ra những điều kế tiếp. John Stot nhấn mạnh điểm này: “Chúa Jesus ám chỉ về 2 nhóm người; và Ngài cùng dùng từ “họ”; Một chữ “họ” (tức là các môn đệ); và một chữ “họ” (tức những người tin Chúa sau này). Câu hỏi xa hơn đó là chữ “ai nấy / họ” trong câu 21, những ai sẽ hiệp nhất theo mong muốn của Chúa, có phải là sự kết hợp của cả 2 từ “họ” phía trên?
Để tôi xin nói rõ thêm chỗ này: Đức Chúa Jesus Christ đang có một cái nhìn tiên tri xa hơn trong/về tương lai. Ngài nhìn thấy thế hệ này nối tiếp thế hệ khác đến tin nhận ngài. Ngài gọi họ là “tín đồ” vì họ sẽ tin Ngài; và họ sẽ tin Ngài qua lời chứng của các môn đồ. Đây là sự mô tả về mỗi tín đồ từ ngày lễ Ngũ tuần mãi cho đến hôm nay, bao gồm chúng ta…Và thế là có 2 nhóm: một nhóm nhỏ các môn đồ - “họ”; và 1 nhóm đông nhiều người sẽ tin Chúa qua lời chứng của môn đồ -“họ”; và câu 21 khi Chúa Giê-xu cầu nguyện cho “ai nấy/ họ” được hiệp làm một; tức là bao gồm luôn cả 2 nhóm.
Chúng ta dừng lại một chút, và đừng bỏ qua điểm này: Điều quan trọng trước hết mà Chúa Giê-xu cầu xin Cha Ngài cho sự hiệp một giữa Hội Thánh Các Sứ Đồ của thế kỷ thứ nhất và Hội Thánh ở các thế kỷ về sau.
Ngài cầu xin để chúng ta tin cùng chung Lẽ thật, bước theo cùng một Chúa; rao truyền chung một sứ điệp; vâng theo chung một lời dạy, chịu khổ chung một lý cớ và chia xẻ chung niềm hy vọng.
Điều này được mô tả về những Cơ-đốc nhân đầu tiên; mà Lu-ca ghi lại “họ bền lòng giữ lời dạy của các sứ đồ và sự thông công anh em” (Công vụ. 2:42). Lời hứa của Chúa Giê-xu được hoàn thành kết quả cho họ mà Tân Ước đã chép tới; và lời hứa này sẽ luôn tiếp tục hoàn thành cho mỗi thế hệ giống như cách mà họ bền lòng giữ lời dạy của các sứ đồ. Đây chính là sự kế thừa tông truyền thuộc linh đã được Đức Chúa Giê-xu dự liệu trước. Đây cũng chính là sự hiệp một mà Ngài cầu nguyện.
Một khía cạnh xa hơn về sự hiệp một cũng được tìm thấy trong phần 2 của câu 21 “lại để cho họ cũng ở trong chúng ta”. Sự thông công đời đời giữa Chúa Giê-xu và Cha Ngài chỉ cho chúng ta thấy về kiểu mẫu của mối liên hệ giữa Hội Thánh & Đức Chúa Trời. Đây nói về sự liên kết hữu thể.
Một lần nữa John Stott giúp giải nghĩa: “Sự hiệp một của Hội thánh mà Chúa Giê-xu cầu nguyện không phải hoàn toàn là giữa chúng ta với một anh chị em khác; nhưng trước hết là hiệp một giữa chúng ta với các sứ đồ; và thứ 2 là hiệp một giữa chúng ta với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Điều thứ nhất là chung một Lẽ thật; và điều thứ hai là chung một Sự sống chung. Cả 2 đều cần để hiệp một Hội thánh.”
Như vậy, cách thức để thiết lập và duy trì sự hiệp một đó là chung một Lẽ thật. Khác với các khái niệm phổ biến của nhiều tín lý; Chúa Giê-xu dạy ngược lại: Hiệp một giữa vòng các môn đồ của Ngài sẽ luôn trở nên đảm bảo bởi do sự trung thành của họ với sự mạc khải Thiên thượng (câu 11), và sự hiệp một của các Hội thánh về sau cũng y như vậy.
John Stott nói tiếp: “Sự hiệp một của Hội thánh chính là sự hiệp một trong Lẽ thật.”
Hugh Latimer nói: "Hiệp một phải dựa trên lời Chúa, nếu không thì sẽ có chiến tranh hơn là có hòa bình. Chúng ta không thể quan tâm nhiều quá về sự hiệp một mà lại bỏ qua Lời chúa dạy về sự hiệp một.”
Vậy thì mối liên hệ giữa sự hiệp một và truyền giảng Phúc âm là gì? Qua những lời cầu nguyện của Chúa Giê-xu, thì mục đích của sự hiệp một chính là để truyền giảng Phúc âm, “để thế gian có thể tin” (câu 21, 23). Luôn có sự kết hợp gần gũi khi truyền giảng Phúc âm trở thành trọng tâm kêu gọi cho cả Hội Thánh. Và đó là đối tượng lẫn mục tiêu của sự hiệp một. Vì thế, chúng ta cùng nhau hành động để duy trì sự hiệp một cho đến khi mục tiêu tối thượng của thiên đàng được hoàn thành (câu 24). Chúng ta kết thúc bằng lời tóm tắt của John Stott: "Lẽ thật, sự thánh khiết, hiệp một và truyền giảng; hết thảy lệ thuộc vào nhau, không thể tách rời”
95 LUẬN ĐỀ CỦA MARTIN-LUTHER
Luận-đề phản-chứng của Tiến-sĩ Martin Luther về Quyền-năng và thực-quả của bùa giải-tội viết bởi Tiến-sĩ Martin Luther ngày 31 tháng 10 năm 1517. Bản dịch viết bởi Tường Hân ngày 07/08/2003 tại Surrey, British Columbia Canada Những luận-đề dự-thảo sau đây sẽ được thảo-luận tại thành-phố Wittenberg dưới sự chủ-tọa của Linh-mục Martin Luther, Cao-học văn-chương, và tiến sĩ Thần-học Bí –tích - Sacred Theology, là Giảng-sư thực-thụ của cùng môn học tại trường, được thúc-đẩy bởi lòng yêu-chuộng cùng sự ước-mong được trình-bày lẽ thật ra ánh-sáng. Bởi vì cớ ấy, ông xin yêu-cầu những vị nào không thể đến tham-dự và tranh-luận bằng lời với chúng tôi thì có thể dùng bài viết. Trong danh Chúa Giê-xu Christ của chúng ta. A-men.
1. Khi Chúa Giê-xu Christ và là Chúa của chúng ta nói rằng “Poenitentiam agite “tức: Các ngươi hãy ăn-năn, thì Ngài muốn rằng suốt cả cuộc đời của người tin Chúa là một sự ăn-năn.
2. Từ-ngữ này không thể được hiểu như là nghi-thức (bí-tích) giải-tội của Công-giáo, tức là sự xưng-tội và đọc kinh giải-tội như cách mà các linh-mục đã làm.
3. Dầu vậy, từ-ngữ này không phải chỉ nói về sự ăn-năn bên trong không thôi: không đâu, không có một sự ăn-năn bên trong nào mà lại không góp phần vào sự làm chết đi những gì của xác-thịt.
4. Thế nên, hình-phạt (của tội-lỗi) vẫn còn tiếp-tục nếu sự ghét-bỏ chính mình vẫn còn tiếp tục; bởi vì đây mới chính thực là sự ăn-năn bên trong, và sự ăn-năn bên trong sẽ còn tiếp-tục cho đến khi chúng ta bước vào thiên-đàng.
5. Vị Giáo-hoàng không hề có ý-định xóa bỏ, và cũng không đủ sức xóa bỏ bất-kỳ một hình-phạt nào, ngoại-trừ những hình-phạt mà ông đã áp-đặt, hoặc bằng chính thẩm-quyền của mình, hoặc bằng thẩm-quyền của Giáo-luật.
6. Vị Giáo-hoàng không thể xóa được bất-kỳ một tội nào, trừ phi bằng cách công-bố rằng tội ấy đã được Đức Chúa Trời xóa bỏ, và bằng cách chấp-nhận sự tha-tội của Đức Chúa Trời; dầu vậy, để cho được chắc-chắn, vị Giáo-hoàng có thể ban sự tha-tội trong những vụ nào đã được để riêng ra chờ sự phán-quyết của ông. Nếu quyền ban cho sự tha tội của ông trong những vụ ấy bị khinh-thường, thì tội ấy vẫn hoàn-toàn chưa được tha.
7. Đức Chúa Trời không tha tội cho bất-kỳ người nào mà Ngài không đồng-thời bắt phục họ trở nên khiêm-nhường trong mọi mặt, và khiến người phải chịu thuận-phục vị cha xứ của Ngài, tức vị linh-mục sở-tại.
8. Những giáo-luật về sự ăn-năn chỉ được áp-đặt trên người còn sống, và theo như những giáo-luật ấy, chúng ta không nên áp-đặt một điều gì trên người sắp chết.
9. Thế nên, Đức Thánh-Linh ngự trong vị Giáo-hoàng tỏ ra rất nhân-từ với chúng ta, bởi vì trong những đạo-luật của ông, ông luôn xem những điều-khoản nói về sự chết và về nhu-cầu là những trường-hợp ngoại-lệ.
10. Trong trường-hợp những người sắp chết, mà những linh-mục nào lại để dành cách giải-tội theo như giáo-điều cho đến khi những người này vào “ngục luyện-tội”, thì đó là những việc làm vô-tâm và độc-ác.
11. Việc đổi hình-phạt theo giáo-luật thành hình-phạt của ngục luyện-tội rõ-ràng là một trong những giống cỏ lùng đã được gieo ra trong lúc các vị giám-mục đang ngủ.
12. Trong thời-gian trước đây, những hình-phạt theo giáo-luật được áp-đặt trước khi, chứ không phải được áp-đặt sau khi đã được tha tội, như là những sự chứng-nghiệm về sự ăn-năn thật.
13. Người sắp chết được miễn tất-cả mọi hình-phạt khi họ qua đời; vì họ xem như đã chết rồi đối với những giáo-luật, và có quyền được giải-thoát khỏi những giáo-luật đó.
14. Sự lành-mạnh không toàn-hảo (của linh-hồn), tức chúng tôi muốn nói rằng, tình yêu không toàn-hảo của người sắp chết mang đến sự sợ-hãi lớn không thể tránh được; nếu tình-yêu đó càng ít , thì sự sợ-hãi càng lớn.
15. Sự sợ-hãi này cùng sự kinh-khiếp tự chúng đã đủ để tạo thành hình-phạt của ngục luyện-tội, bởi vì điều ấy rất gần với sự kinh-khiếp của tuyệt-vọng.
16. Địa-ngục, ngục luyện-tội, và thiên-đàng có vẻ như khác-biệt nhau một cách tương tự như sự khác-biệt giữa tuyệt-vọng, gần tuyệt-vọng, và sự bảo-đảm an-toàn.
17. Đối với những linh-hồn ở trong ngục luyện-tội thì điều cần có là sự kinh-khiếp nên giảm đi và tình yêu-thương phải tăng lên.
18. Chúng ta thấy điều đó có vẻ như không chứng-minh được, dù bằng lý-luận hay bằng Kinh thánh, là những linh-hồn ấy ở ngoài tình-trạng được thưởng, chúng tôi muốn nói là, tình-trạng tình yêu-thương được tăng thêm.
19. Còn nữa, điều chúng ta thấy có vẻ như không chứng-minh được là họ, hay ít ra là tất-cả những linh-hồn ấy lại tỏ ra chắc-chắn, hoặc được cho biết chắc về tình-trạng được phước của chính họ, mặc-dù chúng ta biết khá chắc-chắn về việc này.
20. Thế nên, khi nói rằng “ xóa-bỏ hoàn-toàn mọi hình-phạt “ , thì vị Giáo-hoàng không thực-sự có ý nói là “mọi hình-phạt “ nhưng chỉ nói những hình-phạt nào mà chính ông đã áp-đặt.
21. Thế nên, những người nào giảng về bùa giải-tội đều là sai, tức những người nào nói rằng qua bùa giải-tội của vị Giáo-hoàng thì một người sẽ được giải-thoát khỏi mọi hình-phạt, và linh-hồn sẽ được cứu;
22. Trong khi đó vị Giáo-hoàng lại không xóa một hình-phạt nào cho những linh-hồn ở trong ngục luyện-tội, mà đáng lý ra theo giáo-luật, họ đã phải trả trước rồi trong đời này.
23. Nếu bằng mọi cách nào có thể được để ban sự xóa sạch mọi hình-phạt cho bất-kỳ ai dù tội ấy có như thế nào đi chăng nữa, thì điều chúng ta biết chắc rằng sự xóa-tội này chỉ có thể ban được cho những ai toàn-hảo nhất, tức là , chỉ cho một số người ít nhất.
24. Thế nên, điều ắt có và phải có là phần lớn người ta đã bị đánh lừa bởi lời hứa lầm lẫn về sự giải-thoát khỏi hình-phạt nghe rất kêu này.
25. Nói một cách tổng-quát, thẩm-quyền mà vị Giáo-hoàng có được trên ngục luyện tội, là chỉ giống như thẩm-quyền mà bất-kỳ một vị giám-mục, hay một vị cha xứ có trong vòng địa-phận, hay giáo-xứ của họ, trong trường-hợp riêng-biệt này.
26. Vị Giáo-hoàng làm một điều phải, khi người ban phát sự xóa-tội cho những linh hồn (ở trong ngục luyện-tội), không bởi quyền-năng của chìa khóa ngục (mà chính người không có giữ), nhưng bởi sự cầu thay.
27. Người ta đã giảng-dậy rằng ngay khi những đồng tiền rơi leng-keng vào trong hộp tiền dâng, thì các linh-hồn sẽ bay ra khỏi (ngục luyện-tội)
28. Điều chắc-chắn là khi các đồng tiền rơi leng-keng vào trong hộp tiền dâng, thì vật chất và lòng tham vật-chất có thể tăng lên, nhưng kết-quả sự cầu-thay của Hội-thánh nằm trong quyền-năng của chỉ riêng Đức Chúa Trời mà thôi.
29. Nào ai biết được rằng có phải mọi linh-hồn trong ngục luyện-tội đều muốn được chuộc ra khỏi nơi đó hay không, như trong huyền-thoại của thánh-đồ Severinus và thánh đồ Paschal.
30. Không một ai biết được chắc-chắn rằng sự ăn-năn của chính họ là thành-thật hay không, đừng nói chi đến việc họ có nhậ n được sự xoá-tội hoàn-toàn hay không.
31. Người thực-sự ăn-năn tội-lỗi đã thật hiếm rồi, mà người thực-sự tin vào bùa giải-tội cũng hiếm tương-tự; nghĩa là những người như vậy cực-kỳ hiếm có.
32. Họ sẽ bị rủa-sả đời-đời cùng với các thầy giáo của họ, là những người tin rằng chính họ cảm thấy chắc-chắn về sự cứu-rỗi của mình bởi vì họ có thư ân-xá.
33. Quý-vị phải cảnh-giác về những người nào nói rằng sự ân-xá của vị Giáo-hoàng là quà tặng của Đức Chúa Trời lớn không tưởng được mà nhờ đó con người được hòa-thuận lại với Đức Chúa Trời;
34. Bởi vì những “ân-điển của sự ân-xá ” này chỉ quan-tâm đến những hình-phạt về sự chuộc-tội theo giáo-điều, và những điều này do con người định ra.
35. Họ giảng rằng không một giáo-lý Cơ-đốc nào dạy-dỗ rằng không cần-thiết phải có sự ăn-năn cho những người nào định mua linh-hồn ra khỏi ngục luyện-tội, hoặc định mua lời xưng-tội.
36. Mọi Cơ-đốc-nhân nào mà thực-sự ăn-năn đều có quyền được tha các hình-phạt và xóa-tội hoàn-toàn, ngay cả khi họ không có thư ân-xá.
37. Mọi Cơ-đốc-nhân thật, dù còn sống hay đã chết, đều được dự-phần trong mọi ơn phước của Chúa Giê-xu Christ và của Hội-thánh; và điều này được chính Đức Chúa Trời ban cho, ngay cả khi họ không có thư ân-xá.
38. Tuy-nhiên, sự xóa-tội và dự-phần (vào ơn-phước của Hội-thánh) nào mà đã được vị Giáo-hoàng ban cho thì không ai có quyền khinh-rẻ, bởi vì như tôi đã nói, chúng là sự công-bố của sự tha-tội thiên-thượng.
39. Thật là một điều khó-khăn nhất, cho ngay cả những nhà thần-học sắc-bén nhất, là trong một lần, và cùng một lúc, tuyên-dương với dân-chúng sự dư-dật của ân-xá và (sự cần-thiết) phải có của ăn-năn thật.
40. Sự ăn-năn thật tìm-kiếm và yêu-mến hình-phạt, nhưng sự ân-xá không nghiêm chỉnh chỉ làm nhẹ đi hình-phạt, và khiến chúng trở nên bị ghét bỏ, hay ít ra, tạo cơ-hội cho việc ấy (để ghét bỏ chúng).
41. Sự ân-xá bởi các thánh-đồ cần được giảng-dạy một cách dè-dặt, vì sợ rằng dân chúng có thể nghĩ một cách sai-lầm rằng điều này tốt hơn là những việc lành khác của tình yêu-thương.
42. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng vị Giáo-hoàng không có ý-định rằng người ta đem so-sánh dưới bất-cứ hình-thức nào việc mua sự ân-xá với việc làm do lòng thương xót.
43. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng ai giúp-đỡ kẻ nghèo-khó, hay cho người đang cần-dùng vay mượn thì làm việc lành tốt hơn là mua giấy ân-xá;
44. Bởi vì tình yêu-thương được sanh ra bởi những việc làm của tình yêu-thương, và con người nhờ đó sẽ trở nên tốt hơn; nhưng con người không trở nên tốt hơn bởi giấy ân xá, mà chỉ được tự-do khỏi sự hình-phạt hơn .
45. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng ai thấy người khác đang có nhu-cầu nhưng bỏ tránh xa và dùng (tiền của mình) mua sự ân-xá, thì người ấy không phải mua được bùa giải-tội của vị Giáo-hoàng, nhưng mua lấy sự thạnh-nộ của Đức Chúa Trời.
46. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng trừ phi họ có nhiều hơn những gì họ cần, họ bắt-buộc phải giữ lại những gì cần-thiết cho chính gia-đình họ, và không được dung phung-phí cho giấy ân-xá dưới bất-cứ hình-thức nào.
47. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng việc mua giấy ân-xá là vấn-đề tự-ý, không phải là điều răn.
48. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng khi ban cho sự ân-xá, vị Giáo-hoàng cần, và do đó, ông cũng mong-mỏi những lời cầu-nguyện khẩn-thiết của họ dành cho ông hơn là những món tiền các Cơ-đốc-nhân này đem đến.
49. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng những sự ân-xá của vị Giáo-hoàng là có ích, nếu họ không đặt niềm tin vào chúng, nhưng chúng hoàn-toàn là có hại, nếu bởi vì cớ chúng mà họ mất đi lòng kính-sợ Đức Chúa Trời.
50. Cơ-đốc-nhân phải được dạy-dỗ rằng nếu vị Giáo-hoàng biết được những thủ-đoạn vòi tiền của những người giảng-dạy về sự ân-xá, thì người sẽ ước thà rằng ngôi vương cung thánh-đường St. Peter bị thiêu-huỷ thành tro bụi còn hơn là để ngôi nhà này được dựng nên bằng da thịt, máu xương của bầy chiên người.
51. Cơ-đốc-nhân cần được dạy-dỗ rằng điều mà vị Giáo-hoàng ước-muốn, và đồng thời cũng chính là bổn-phận của người, là phải đem tiền của chính mình đi cho rất nhiều người khác mà trước đây đã bị những kẻ rao bán sự ân-xá dụ-dỗ tiền-bạc, cho dù người phải bán đi ngôi vương-cung thánh-đường St. Peter để làm việc ấy.
52. Sự bảo-đảm cứu-rỗi nhờ thư ân-xá là vô-ích, ngay cả khi người được ủy-nhiệm, không đâu, ngay cả khi chính vị Giáo-hoàng đặt linh-hồn của người lên để bảo-đảm.
53. Những kẻ nào mà bưng-bít lời Chúa để hoàn-toàn không được rao-giảng tại một số Hội-thánh hầu cho sự ân-xá được rao giảng ở những chỗ khác, thì ấy là kẻ thù của Đấng Christ và của vị Giáo-hoàng.
54. Khi trong cùng một bài giảng mà người ta dùng thời-gian bằng hay nhiều hơn để giảng về sự ân-xá so với thời-gian giảng lời Chúa, thì điều này làm thương-tổn đến Lời của Đức Chúa Trời.
55. Ý-định của vị Giáo-hoàng bắt-buộc phải là, nếu sự ân-xá, vốn là một việc rất nhỏ, được đón mừng bằng một tiếng chuông cùng một lần diễn-hành và nghi-lễ, thì Phúc-âm của Chúa, chính là một điều thật vĩ-đại, phải được rao-giảng với một trăm hồi chuông, một trăm lần diễn-hành và một trăm lần nghi-lễ.
56. Những “ bảo-vật của Hội-thánh ” mà vị Giáo-hoàng đã dùng để ban phát bùa giải tội, đã không được nêu tên đúng mức và cũng không được biết đến trong vòng dân-sự của Đức Chúa Trời.
57. Rằng chúng không phải là bảo-vật tạm-thời là điều rõ-ràng lắm, bởi vì rất nhiều kẻ bán rao đã không ban những bảo-vật này ra một cách dễ-dàng đâu, nhưng chỉ thâu-lượm chúng mà thôi.
58. Và chúng cũng không là những công-đức của Đấng Christ và của các Thánh, bởi vì ngay cả khi không có vị Giáo-hoàng, thì những điều này trở nên ân-điển cho con người bề trong, và là thập-tự-giá, sự chết, và địa-ngục cho con người bề ngoài.
59. Thánh Lawrence nói rằng những bảo-vật của Hội-thánh là những kẻ nghèo-khó của Hội-thánh, nhưng người nói vậy là theo như cách dùng ngôn-từ của thời người đang sống.
60. Chúng tôi có thể nói một cách không cẩu-thả rằng chìa khóa của Hội-thánh, mà đã được ban-cho bởi công-đức của Đấng Christ, chính là bảo-vật ấy;
61. Bởi vì điều chúng ta thấy rõ là để có thể xóa-bỏ những hình-phạt và những trườnghợp
được dành riêng cho người, thì thẩm-quyền của vị Giáo-hoàng tự nó đã là đủ.
62. Bảo-vật thật của Hội-thánh là Phúc-âm chí-thánh của sự vinh-hiển và ân-điển của Đức Chúa Trời.
63. Nhưng bảo-vật này lẽ tự-nhiên là đáng ghét nhất, vì nó khiến kẻ đầu trở nên kẻ sau rốt.
64. Mặt khác, bảo-vật bùa giải-tội thì lẽ tự-nhiên là dễ chấp-nhận nhất, vì nó khiến kẻ sau rốt trở nên kẻ đầu.
65. Thế nên, những bảo-vật của Phúc-âm là những cái lưới mà trước đây họ quen dùng để đánh lưới những con người của sự giàu-có.
66. Còn bảo-vật của bùa giải-tội là những cái lưới mà bây giờ họ dùng để đánh lưới những sự giàu-có của con người.
67. Những bùa giải-tội mà các thầy giảng kêu lên rằng ấy là “những ân-điển vĩ-đại nhất”, thì đã được người ta biết quả là có như vậy, nếu chỉ nói đến việc chúng góp phần vào sự gia-tăng lợi-lộc.
68. Nhưng thực ra chúng là những ân-điển nhỏ nhất so với ân-điển của Đức Chúa Trời và sự đạo-đức của Thập-tự-giá.
69. Các giám-mục và cha xứ bắt-buộc phải công-nhận sự uỷ-nhiệm của ân-xá bởi sứ-đồ bằng tất-cả lòng tôn-kính.
70. Nhưng họ còn bị bắt-buộc nhiều hơn thế nữa, là họ phải mở mắt to để nhìn cho rõ, lắng tai nghe thật chăm-chú, vì e rằng những thầy giảng này rao-giảng những giấc mơ riêng của họ thay vì rao giảng những gì theo sự uỷ-nhiệm của vị Giáo-hoàng.
71. Người nào mà nói nghịch lại lẽ thật về sự ân-xá bởi sứ-đồ, nguyện cho hắn bị tuyệt-thông (a-na-them) và bị rủa-sả !
72. Nhưng người nào chống-trả lại dục-vọng và sự cấp phép cho các thầy giảng bùa ân-xá, thì nguyện người ấy được hưởng phước!
73. Vị giáo-hoàng đã làm việc công-chính khi người cảnh-cáo những kẻ đã dùng mọi xảo-thuật để mưu-định sự thương-tổn của việc mua bán thư ân-xá.
74. Nhưng người còn định cảnh-cáo nhiều hơn thế nữa những kẻ nào dùng chiêu-bài ân-xá để mưu-định sự thương-tổn của tình yêu-thương và lẽ thật thánh-thiện.
75. Nếu ai nghĩ rằng sự ân-xá của vị Giáo-hoàng là vĩ-đại đến độ chúng có thể xóa sạch tội cho một người ngay cả khi người ấy đã phạm một tội lớn không tưởng được và đã xâm-phạm đến người mẹ của Đức Chúa Con – thì đấy là sự điên-cuồng.
76. Trái lại, chúng tôi nói rằng, sự ân-xá của vị Giáo-hoàng không đủ sức để xóa đi những tội dù nhỏ nhất của những tội loại không đáng chết.
77. Người ta còn nói rằng, ngay cả thánh Phi-e-rơ (Phê-rô) nếu bây giờ là vị Giáo hoàng, cũng không thể ban cho ân-điển lớn hơn được; đây là lời phạm-thượng đối với thánh Phi-e-rơ (Phê-rô) và đối với vị Giáo-hoàng.
78. Trái lại, chúng tôi nói rằng, ngay cả vị Giáo-hoàng hiện-tại, hay bất-kỳ một vị Giáo hoàng nào nói chung, đều có sẵn những ân-điển lớn hơn để người tuỳ-tiện xử-dụng; tức là Phúc-âm, quyền-năng, ơn-tứ chữa bệnh, vân vân… như đã được chép trong 1 Cô-rinh-tô 12.
79. Nếu người ta nói rằng thập-tự-giá, khi được chạm-trổ cầu-kỳ bằng huy-hiệu của vị Giáo-hoàng, vốn là sự xếp-đặt (bởi những kẻ rao-giảng về thư ân-xá), thì có giá-trị ngang với Thập-tự-giá của Đấng Christ, thì ấy là tội phạm-thượng.
80. Các vị giám-mục, linh-mục và các vị giáo-sư thần-học nào mà cho phép những câu chuyện như vậy lan-truyền trong vòng dân-sự thì sẽ có một món nợ phải trả.
81. Sự giảng-dạy không hạn-chế về thư ân-xá này khiến cho sự việc trở nên không dễ-dàng, cho ngay cả những người giầu kiến-thức, để có thể cứu-vãn sự tôn-kính mà vị Giáo hoàng đáng được hưởng khỏi bị hoen-ố, kể cả việc cứu-vãn khỏi những câu hỏi tinh-tế của hàng giáo-dân.
82. Tức họ nói rằng :” Tại sao vị Giáo-hoàng lại không đại-phóng-thích ngục luyện-tội vì cớ tình yêu-thương, và vì nhu-cầu cấp-bách của những linh-hồn hiện đang ở đó, mà lại cứu vô-số kể những linh-hồn để được những món tiền đáng thương, rồi dùng tiền đó để xây thánh-đường ? Những lý-do đầu thật công-bình, còn những lý-do sau thì thật là vụn vặt.”
83. Còn nữa :” Tại sao những thánh-lễ an-táng và kỷ-niệm tang-lễ cho người đã chết vẫn còn được tiếp-tục, và tại sao vị Giáo-hoàng lại không thay mặt cho họ hoàn lại, hay cho phép rút ra khoản tiền hứa dâng, bởi vì việc cầu-nguyện cho người đã được cứu-chuộc là điều sai-trật?
84. Còn nữa :” Sự đạo-đức mới này của Đức Chúa Trời và của vị Giáo-hoàng là như thế nào, khi chỉ vì tiền mà các Đấng ấy lại cho phép một người vốn là vô đạo-đức và là kẻ thù của các Đấng ấy, mua ra khỏi ngục luyện-tội một linh-hồn đạo-đức của một người bạn Đức Chúa Trời, mà các Đấng ấy lại không vì chính nhu-cầu của linh-hồn đạo-đức thân-yêu ấy mà giải-thoát linh-hồn này bởi cớ một tình yêu-thương đơn-thuần ?
85. Còn nữa: “Tại sao qua những dữ-kiện thực-tế và qua sự không xử-dụng cho thấy rằng những kinh giải-tội đã bị mất hiệu-lực và đã chết từ lâu rồi, mà bây giờ chúng lại được xem là đủ điều-kiện qua sự ban-bố bùa giải-tội, như thể là chúng vẫn còn sống, và đang sống một cách mạnh-mẽ ?
86. Còn nữa :” Tại sao vị Giáo-hoàng, ngày hôm nay vốn là người mà sự giàu-có còn hơn cả người giàu nhất của những người giàu, lại không dùng tiền của chính mình để xây ngôi vương-cung thánh-đường St. Peter, mà lại dùng tiền của những tín-đồ nghèo để xây ?
87. Còn nữa :” Vị Giáo-hoàng tha những gì, và người ban-bố sự dự-phần nào cho những người mà qua sự ăn-năn hoàn-toàn của họ, họ có quyền được hưởng sự tha-tội hoàn-toàn và được dự-phần hoàn-toàn ?
88. Còn nữa :” Có ơn-phước nào đến với Hội-thánh lớn hơn bằng ơn-phước khi vị Giáo hoàng ngày hôm nay chỉ cần làm một lần những gì mà trước đây người phải làm hằng trăm lần mỗi ngày, và ban-phát được cho mọi tín-đồ những sự tha-tội và dự-phần này ?
89. “ Bởi vì vị Giáo-hoàng, qua sự ân-xá của người, đi tìm-kiếm sự cứu-rỗi cho linh hồn hơn là đi tìm tiền-bạc, thì tại sao người lại đình-chỉ những bùa giải-tội và thư ân-xá đã được ban-bố từ trước đến bây giờ, trong khi những vật này có thực-quả tương-đương ?
90. Nếu chỉ dùng sức mạnh để bắt-phục những sự tranh-luận và ngờ-vực của hàng giáo-dân, mà không giải-quyết bằng cách trình-bày lý-lẽ, tức là phơi-bày Hội-thánh và vị Giáo-hoàng cho kẻ thù bêu-riếu, và làm cho các Cơ-đốc-nhân buồn lòng.
91. Cho nên, nếu những thư ân-xá được rao giảng theo tâm-linh và tâm-trí của vị Giáo hoàng, thì tất-cả những ngờ-vực này sẽ được hóa-giải dễ-dàng; không phải vậy, chúng sẽ không còn hiện-hữu.
92. Vậy đó, hỡi những tiên-tri nào mà nói với dân-sự của Đấng Christ rằng :” Bình-an, bình-an “trong khi không có sự bình-an, các ngươi hãy dang xa ra!
93. Nguyện ơn-phước đến cho những tiên-tri nào nói với dân-sự của Đấng Christ là: “Thập-tự-giá, thập-tự-giá, “trong khi không có thập-tự-giá!
94. Cơ-đốc-nhân phải được thúc-giục rằng họ cần phải bền-đỗ trong việc theo Đấng Christ, là Đầu của họ, để vượt qua những hình-phạt, sự chết, và địa-ngục.
95. Và vì thế, họ sẽ trở nên tin-quyết về việc vào thiên-đàng qua nhiều sự khổ-nạn, hơn là qua sự bảo-đảm bình-an.
---------------------------------------------------------------------
1 Onetime Rector of the University of Prague, himself influenced by Wycliffe, and whose writing would influence Luther
2 See the classic The story of the Scottish Reformation by A.M Renwick (Christian Focus Publication)
3 Marked the start of Bohemia’s Reformation. Unnamed ‘common men’ were burned this year, probably the next-earliest martyrs. Over the course of the fifteenth century there was a spiritual dawn in several European countries. To borrow from Reformation scholar Heiko Oberman, the Reformation was the great harvest of the preceding centuries. Martin Luther himself was standing on the shoulders of giants.
4 Lindsay Brown served as IFES General Secretary from 1991 to 2007, and as International Director of the Lausanne Movement from 2008 to 2016. He is IFES Evangelist-at-large.
5 We know of its use to refer to people of ‘the gospel’ and ‘the book’ at leaset as far back as 180 AD, in debates between the heretic Marcion and early Christian leaders.
6 Balthasar Meisner described this expression as ‘a proverb of Luther’ (Anthropologia sacra disputation 24, [Wittenberg: Johannes Gormannus, 16151].
7 Martin Luther, Luther’s works, Vol.34:Career of the Reformer IV,ed. Jaroslav Jan Pelikan, Hilton C Oswald, and Helmut T Lehmann (Philadelphia: Fortress Press, 1999), 336-37.
8 Ibid., 337
9 Martin Luther, Luther’s works, Vol.31: Career of the Reformer I, ed. Jaroslav Jan Pelikan, Hilton C Oswald, and Helmut T Lehmann (Philadelphia: Fortress Press, 1999), 352.
10 Martin Luther, Luther’s works, Vol.32: Career of the Reformer II, ed. Jaroslav Jan Pelikan, Hilton C Oswald, and Helmut T Lehmann (Philadelphia: Fortress Press, 1999), 112-13.
11 William Tyndale, The Preface of Master William Tyndale, That He Made Before the Five Books of Moses, Called Genesis’ in the Works of William Tyndale (1848; repr., Edinburgh: Banner of Truth, 2010), 394.
12 A cross, in cobbles, still marks the place.
13 ‘A Pathway into Holy Scripture; in the Works of William Tyndale (Edinburgh & Carlisle, PA: Banner of Truth, 2010), 1:8.
14 To Jerome Weller, July 1530,in Luther: Letters of Scriptual Counsel, Library of Christian Classics, T. G Tappert, ed. (Vancouver: Regent College, 2003), p.86-87.
15 John Stott,Chief Architect of the Lausanne Covenant, was Honorary Vice President of the Lausanne Movement. He wrote over fifty books, and was founder of what is now Langham Partnership International, which works to strengthen the Church in the Majority World..
16 Commentary on the Apostle Paul’s Epistle to the Galatians (Chapter1:4a)
17He continued strikingly: ‘Ye say it is old heresy, new scoured. Nay, I tell you it is old truth, long rusted with your canker,and now made bright and scoured.’ (In the Politics of the Public Sphere in Early Modern England by Peter Lake and Steven Pincus)
18 Apology of the Church of England, 1562.
19 Scholar and Bishop of Chichester, Ely, then Winchester, who oversaw the translation of the King James Version (also known as the Authorized Version) of the Bible.
20 Genesis 12:2, 8.
21 See the Westminster Confession of Faith, completed in 1647, for the fullest exposition of evangelical belief following the Reformation. It opens with a finely crafted tenclause section laying out the nature of Scripture; its supreme authority and sufficiency for all matters of belief and life.
22 AlanPurser has served in parish ministry in the UK, in student ministry in SouthAfrica, and on thestaff of the Proclamation Trust and BCMS Crosslinks. Travelling widely in Africa and Europe,hehas worked to promote a biblical theology of mission, and to root today’s practice of mission engagement in the instruction of Jesus and his apostles.
23 John Stott’s addresses (1964). See urbana.org for its growing video archive.
David Nguyen