Phúc Âm Lu Ca là sách thứ ba trong Thánh Kinh Tân Ước. Mặc dầu sách không ghi rõ ai là tác giả, nhiều tài liệu trong Hội Thánh từ những thế kỷ đầu tiên đã công nhận Lu Ca là tác giả của sách này. Irenaeus, một nhà thần học và cũng là một lãnh đạo Hội Thánh Ban Đầu, trong các tác phẩm của ông vào cuối thế kỷ thứ hai đã ghi nhận Lu Ca là tác giả của Phúc Âm Thứ Ba. Titus Flavius Clement (150-215), Origen Adamantius (184-254), Quintus Septimius Florens Tertullian (160-225), những nhà thần học nổi tiếng sống vào cuối thế kỷ thứ hai và đầu thế kỷ thứ ba, cũng có cùng quan điểm như trên.
Mặc dù không rõ tên người viết Phúc Âm Lu Ca, các học giả đều nhìn nhận rằng tác giả Phúc Âm Lu Ca là người có trình độ học vấn cao. Tác giả đã làm công việc của một nhà nghiên cứu: sưu tầm tài liệu, phân tích dữ kiện, đối chiếu sự kiện, sắp xếp và biên soạn vấn đề cách có hệ thống để những người mới tìm hiểu về Chúa Jesus có thể hiểu được một số điểm căn bản.
Tác giả cũng là người có kiến thức rộng và hiểu biết nhiều văn hóa. Phúc Âm Lu Ca là sách dài nhất trong Thánh Kinh Tân Ước. Sách gồm 24 đoạn, 1151 câu, chứa đựng nhiều chi tiết về Chúa Jesus hơn nhiều sách khác trong Tân Ước. Mục đích của sách được viết để giới thiệu Chúa cho người ngoại quốc là những người không quen thuộc với văn hóa Do Thái. Một số khái niệm và từ ngữ của người Do Thái (Hebrew) đã được tác giả trình bày rất ngắn gọn và rõ ràng trong tiếng Hy Lạp (Greek).
Tác giả Phúc Âm Lu Ca cũng là người hiểu rất rõ Thánh Kinh Cựu Ước. Thánh Kinh Cựu Ước gồm 39 sách. Phúc Âm Lu Ca trích dẫn hoặc phân tích những khái niệm từ 31 sách trong Thánh Kinh Cựu Ước. Điều chúng ta cần lưu ý là tác giả sống vào thế kỷ thứ nhất, cách đây gần 2000 năm; vào lúc đó, Thánh Kinh Cựu Ước không phổ biến rộng rãi cho công chúng như ngày nay. Kiến thức sâu rộng về Cựu Ước chứng tỏ tác giả có thể là một người Hy Lạp gốc Do Thái, hoặc là một người ngoại quốc, nhưng đã dành rất nhiều thì giờ để nghiên cứu Thánh Kinh Cựu Ước trước khi viết Phúc Âm Lu Ca.
Tác giả cũng là người có trình độ viết văn xuất sắc trong tiếng Hy Lạp. Một số phân đoạn trong Phúc Âm Lu Ca được các học giả công nhận là mẫu mực cho văn cổ điển Hy Lạp vào thế kỷ thứ nhất.
Đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng Phúc Âm Lu Ca và sách Công Vụ có cùng một tác giả. Cả hai tác phẩm đều được đề tặng cho cùng một nhân vật có tên là Theophilus. Cách hành văn, từ ngữ và mục đích của hai tác phẩm giống nhau. Trong phần mở đầu của sách Công Vụ, tác giả nhắc đến cuốn sách đầu tiên mà ông viết về Chúa đó là Phúc Âm Lu Ca. Vì sách Công Vụ được nhiều nhà nghiên cứu công nhận do Lu Ca viết, cho nên đa số nhìn nhận Lu Ca cũng là tác giả của Phúc Âm Thứ Ba.
Kinh Thánh nói rất ít về Lu Ca. Nhân vật Lu Ca chỉ được nhắc đến ba lần, rất vắn tắt, trong Thánh Kinh Tân Ước. Các thư tín của Phao Lô ghi nhận Lu Ca là một bác sĩ được Sứ đồ Phao Lô quý mến (Cô-lô-se 4:14). Ông là người cộng tác với Sứ đồ Phao Lô trong công việc truyền giáo (Phi-lê-môn 1:24). Trong những năm cuối đời, Sứ đồ Phao Lô bị người La Mã cầm tù, phải sống cô đơn (II Ti-mô-thê 4:6-11), Lu Ca là người duy nhất đã sống bên cạnh Sứ đồ Phao Lô trong hoàn cảnh đó.
Qua những dòng chữ ngắn ngủi được Sứ đồ Phao Lô ghi lại trong các bức thư của ông, người đọc có thể nhìn thấy nhân cách của Lu Ca. Lu Ca được mô tả là một người có trình độ chuyên môn, có nhân cách đáng quý, tận tụy hầu việc Chúa, và là người bạn trung thành. Trong sách Công Vụ, tác giả dùng chữ “chúng tôi” (Công Vụ 16:10-17; 27:1-28:16), chi tiết này cho thấy tác giả đã cùng tham gia với Sứ đồ Phao Lô trong một số hành trình truyền giáo.
NIÊN ĐẠI:
Phúc Âm Lu Ca được viết vào thế kỷ thứ nhất. Tác giả cho biết ông không phải là người trực tiếp gặp Chúa Jesus nhưng ông được nghe những người từng chứng kiến những việc Chúa làm kể lại (Lu Ca 1:2). Chi tiết này giúp chúng ta biết Phúc Âm Lu Ca đã được viết vào thế kỷ thứ nhất, lúc những nhân chứng từng gặp Chúa Jesus vẫn còn sống.
Hầu hết các học giả đều đồng ý rằng Phúc Âm Lu Ca đã được viết vào thế kỷ thứ nhất; dầu vậy, các nhà nghiên cứu vẫn tranh luận về việc sách đã được hoàn tất trong khoảng thời gian nào. Có vài quan điểm khác nhau về khoảng thời gian này.
Quan điểm đầu tiên tin rằng Phúc Âm Lu Ca được viết trong khoảng thời gian từ năm 37-66. Quan điểm này cho rằng Theophilus, người nhận Phúc Âm Lu Ca, có thể là Theophilus ben Ananus, thầy tế lễ thượng phẩm tại Jerusalem từ năm 37-41, hoặc con trai ông là Mattathias ben Theophilus, thầy tế lễ thượng phẩm từ năm 65-66. Cả hai cha con Theophilus đều được người La Mã bổ nhiệm vào chức vụ tế lễ thượng phẩm. Tác giả Phúc Âm Lu Ca đã giới thiệu Chúa cho Theophilus khi nhân vật này vẫn còn trong chức vụ. Tác giả đã dùng chữ “quý nhân” (BD1925), “khả kính” (BD2010), hay “kính mến” (BD2011) để bày tỏ lòng kính trọng với Theophilus.
Theo các tài liệu lịch sử của người Do Thái, Theophilus ben Ananus có một người con trai tên là Jonathan, người này là cha của Gian-nơ (Joanna), một phụ nữ quý tộc Do Thái. Joanna được nhắc hai đến hai lần trong Thánh Kinh, và cả hai lần đều được ghi lại trong Phúc Âm Lu Ca. Joanna là vợ của Chu-xa, quan quản gia của vua Hê-rốt. Theo Kinh Thánh, Joanna là một trong những người được Chúa chữa bệnh. Bà cùng một số phụ nữ khác thường đi theo để giúp phái đoàn truyền giáo của Chúa trong vấn đề tài chánh (Lu Ca 8:1-3). Sau khi Chúa Jesus hy sinh, Joanna là một trong những phụ nữ đã đến viếng phần mộ của Chúa trong ngày Chúa phục sinh (Lu Ca 24:10). Năm 1986, Tạp Chí Khảo Cứu Do Thái (Israel Exploration Journal) đã đăng một bài viết cho biết các nhà khảo cổ Do Thái đã tìm thấy bình đựng hài cốt của Joanna. Trên bình đựng hài cốt này có ghi dòng chữ: “Joanna, cháu nội của Theophilus, thầy tế lễ thượng phẩm.”
Nếu Theophilus ben Ananus là người nhận Phúc Âm Lu Ca, Phúc Âm này đã được viết trước năm 41. Nếu Mattathias ben Theophilus là người nhận Phúc Âm Lu Ca, Phúc Âm Lu Ca phải được viết trước năm 66. Lúc Mattathias ben Theophilus làm thầy tế lễ thượng phẩm, người Do Thái nổi dậy chống lại đế quốc La Mã. Sau đó, quân La Mã đã đến hủy diệt thành Jerusalem vào năm 70.
Quan điểm thứ hai cho rằng Phúc Âm Lu Ca trích dẫn rất nhiều tài liệu từ Phúc Âm Mác; vì Phúc Âm Mác được viết vào khoảng năm 65-70 cho nên Phúc Âm Lu Ca phải được viết sau đó, có thể trong thời gian từ năm 75-100. Tuy nhiên, một ý kiến khác cho rằng những chi tiết giống nhau giữa Phúc Âm Lu Ca với Phúc Âm Mác, và Phúc Âm Ma-thi-ơ, có thể vì cả ba Phúc Âm đều trích cùng một tài liệu chung nào đó mà ngày nay chúng ta không có. Do đó, không nhất thiết Phúc Âm Lu Ca phải được viết sau Phúc Âm Mác và sau khi thành Jerusalem bị thiêu hủy. Hơn nữa, nếu Phúc Âm Lu Ca được viết sau năm 70, có lẽ tác giả đã không ngần ngại trích dẫn sự kiện thành Jerusalem bị thiêu hủy như là một bằng chứng quan trọng về lời tiên tri của Chúa loan báo Jerusalem bị hủy diệt phải được ứng nghiệm. Do đó, Phúc Âm Lu Ca có thể đã được viết trước năm 70.
ĐỘC GIẢ
Phúc Âm Lu Ca được viết cho độc giả không phải là người Do Thái, hoặc những người Do Thái sống tại ngoại quốc. Sách được đề tặng cho Theophilus, một nhân vật cao trọng (Lu Ca 1:1).
Có vài ý kiến khác nhau về nhân vật Theophilus. Ý kiến thứ nhất, được đa số các học giả ủng hộ, cho rằng Theophilus là một người ngoại quốc và có lẽ là một viên chức cao cấp người La Mã, hoặc do người La Mã bổ nhiệm. Ý kiến thứ hai cho rằng nhân vật Theophilus không hẳn là một người ngoại quốc. Theophilus có thể là một người ngoại quốc gốc Do Thái, hoặc người Do Thái chịu ảnh hưởng Hy Lạp nên lấy tên Hy Lạp. Điều này cũng tương tự như ngày nay nhiều người Việt tại hải ngoại lấy tên ngoại quốc; hoặc người Việt đang sống trong nước nhưng chịu ảnh hưởng của văn hóa mới nên lấy tên ngoại quốc dù vẫn còn sống trong nước. Ý kiến thứ ba cho rằng chữ Theophilus không dùng để chỉ một nhân vật cá biệt, nhưng ám chỉ một số người. Trong nguyên văn Hy Lạp, chữ Theophilus được viết là Θεόφιλος. Đây là một danh từ kép gồm hai chữ θεός (Đức Chúa Trời) và φιλία (tình yêu hoặc trìu mến). Chữ Theophilus có thể dịch là tình yêu của Đức Chúa Trời hay người yêu mến Chúa. Nếu hiểu theo nghĩa thứ hai, chữ Theophilus có thể là một danh từ chung, chỉ về những người yêu mến Chúa.
BỐ CỤC SÁCH LUCA
THỜI GIÁNG THẾ: 1:1-2:52
Báo tin Giáng Sinh. 1:1-56
Giăng Báp-tít và sự giáng sinh. 1:57-2:52
Thời thơ ấu của Chúa Cứu Thế. 2:21-52
THỜI CHUẨN BỊ: 3:1-4:13
Người Tiền Phong của Chúa Cứu Thế 3:1-20
Chúa nhận lễ Báp-tem 3:21-22
Nguồn gốc của Chúa Cứu Thế 3:23-38
Chúa bị cám dỗ 4:1-13
III/ HÀNH TRÌNH PHỤC VỤ TẠI GALILE (PHẦN I) 4:14 - 6: 49
Chúa tại quê hương 4:14-30
Quyền năng của Chúa 4:31-44
Đánh Lưới Kỳ Diệu và Phê-rơ 5:1-11
Chúa và quyền tha tội 5:17-26
Chúa gọi Lê-vi 5:27-39
Chúa và ngày Sa-bát 6:1-11
Kêu gọi 12 Sứ Đố 6:12-19
Các Lời Dạy của Chúa Giê-su 6:20-49
1V/ HÀNH TRÌNH PHỤC VỤ TẠI GALILE (PHẦN II) 7:1 - 9: 62
Đức tin của Đội Trưởng 7:1-10
Cứu Sống con trai của bà goá 7:11-17
Giăng Báp-tít hỏi thăm 7:18-35
Phụ nữ và Đức Tin 7:36-8:3
Bốn loại Đất 8:4-15
Sự đáp ứng với chân lý. 8:16-21
Quyền năng của Chúa. 8:22-39
Quyền năng trên bệnh tật và sự chết. 8:40-56
Chúa Truyền sứ mệnh cho các môn đệ. 9:1-9
Quyền năng cung ứng. 9:10-17
Lời tuyên xưng của Phê-rơ và sự khải thị của Chúa 9:18-36
Chúa giúp sự giới hạn của các môn đệ. 9:37-43a
Những nguyên tắc trong nước Chúa. 9:43b-62
V/ HÀNH TRÌNH PHỤC VỤ TẠI GIÊSUSALEM (PHẦN I) 10:1- 13:35
Sứ mệnh truyền giáo của 72 môn đệ. 10:1-24
Người lân cận tốt. 10:25-37
Ưu Tiên thuộc linh. 10:38-42
Lời cầu nguyện của Chúa. 11:1-13
Chúa và quỉ vương. 11:14-26
Cảnh cáo về thái độ. 11: 27-36
Cảnh cáo người Pha-ri-si và giáo sư Kinh Luật. 11:37-54
Cảnh cáo về đạo đức giả. 12:1-12
Ngụ ngôn người giàu dại dột. 12:13-21
Chúa dạy về sự lo lắng. 12:22-34
Hãy Sẵn Sàng và Trung Tín. 12:35-48
Hãy hiểu biết thời đại. 12:49-59
Bài học cho dân Do Thái. 13:1-9
Tình thương hơn là luật lệ. 13:10-17
Bài học về Nước Đức Chúa Trời. 13:18-35
VI/ HÀNH TRÌNH PHỤC VỤ TẠI GIÊSUSALEM (PHẦN II) 14:1- 19:48
Các ngụ ngôn về Nước Trời 14:1-34
Ngụ ngôn về con chiên đi lạc. 15:1-32
Ngụ ngôn về người quản gia bất trung. 16:1-18
Ngụ ngôn về người giàu và La-xa-rơ. 16:19-31
Sự vấp phạm và tha thứ. Lòng Tin và Biết Ơn17:1-19
Nước Chúa được thiết lập. 17:20-37
Kiên trì cầu nguyện. 18:1-8
Khiêm nhường và kiêu căng. 18:9-17
Sự giàu có và Nước Trời. 18:18-30
Con Vua Đa-vít. 18:31-43
Xa-chê gặp Chúa. 19:1-10
Ngụ ngôn về mười nén bạc. 19:11-27
Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem. 19:28-48
VII/ HÀNH TRÌNH ĐẾN VINH HIỂN . 20:1-24:53
Uy quyền của Chúa. 20:1-8
Ngụ ngôn về các công nhân vườn nho. 20:8-26
Sự sống lại của loài người. 20:27-40
Chúa Cứu Thế , giáo sư Kinh Luật và người đàn bà góa. 20:41-21:4
Giê-ru-sa-lem sẽ bị hủy phá và tận thế. 21:5-38
âm mưu giết Chúa. 22:1-38
Lời cầu nguyện trên núi Ô-liu. 22:39-46
Chúa bị phản bội. 22:47-53
Phê-rơ chối Chhúa 22:54-62
Chúa bị xử án. 22:63-23:25
Chúa bị đóngđinh và chết. 23:26-55
Chúa Phục sinh. 24:1-12
Chúa hiện ra cho hai môn đồ và các môn đồ khác. 24:13-49
Chúa thăng thiên. 24:50-53; Công Vụ 1:1-11