THỜI GIÁNG THẾ
1:1-2:52
(Tuần 1 bao gồm phần giới thiệu và Bài 1)
1/ Báo Tin Chúa Cứu Thế Giáng Sinh Lu-ca 1:1-56
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Lu-ca là sách Phúc âm dài nhất trong bốn sách. Lu-ca cũng có phần thứ hai tức là sách Công Vụ Các Sứ Đồ ghi lại sự hình thành và phát triển của Hội Thánh đầu tiên. Lu-ca cho thấy ông không phải là người đầu tiên ghi chép những biến cố chung quanh Chúa Cứu Thế Giê-su nhưng đã có nhiều người khác ghi chép lại. Những nguồn tài liệu này có thể là tài liệu viết hay truyền khẩu; cũng có thể là sách Phúc âm Ma-thi-ơ và Mác vì ba sách này có rất nhiều chỗ giống nhau. Lu-ca dùng nguồn tài liệu từ những người giảng dạy Lời Chúa từ ban đầu, có thể là các Sứ Đồ. Như thế Lu-ca đã tham cứu nhiều nguồn tài liệu khác nhau và ghi chép sách Lu-ca theo thứ tự. Lu-ca đã dùng bốn cách để nghiên cứu các nguồn tài liệu:
Điều tra vấn đề; tìm hiểu từ đầu; tìm hiểu tất cả sự kiện và nghiên cứu cẩn thận. Thê-ô-phi-lơ là người đã biết về Đạo Chúa và Lu-ca muốn ông biết rõ và chân xác hơn về Chúa Cứu Thế và hội thánh Ngài.
Vua Hê-rốt được hoàng Đế La Mã và Thượng Viện La Mã phong vương và cai trị vùng Giu-đê bao gồm cả Ga-li-lê, Pê-rê và một phần Sy-ri từ 37-4 T.C.N. Vào thời ấy cả hai vợ chồng đều thuộc dòng dõi thầy tế lễ là dấu hiệu của một đặc ân. Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét là những người sùng kính, giữ trọn những điều răn và giới luật của Do Thái giáo. Nhưng hai người không có con; đây là một điều bất hạnh vào thời đó.
Bắt thăm được dâng hương là một vinh hạnh lớn cho thầy tế lễ vì người cũng đại diện cho dân chúng dâng tế lễ toàn thiêu trong nơi thánh của đền thờ. Trong khi thầy tế lễ dâng tế lễ thì dân chúng ở ngoài sân cầu nguyện. Thiên sứ là một thực hữu, không phải là ảo tưởng hay huyền thoại. Xa-ch-ri thấy thiên sứ và sợ hãi.
Vào thời Cựu Ước thầy tế lễ kiêng rượu trong khi thi hành chức vụ. Lê 10:9 Người Na-xi-rê cũng kiêng rượu (Thẩm 13:4-5) vì thề tận hiến cho Chúa. Tuy nhiên Giăng Báp-tít có phải là người Na-xi-rê không thì không chắc vì thiếu nhiều dữ kiện khác.
Giăng Báp-tít được ví với tiên tri Ê-li và được tiên tri Ma-la-chi nói đến Mal 3:1; 4:5-6 Chức vụ của Giăng Báp-tít là chuẩn bị dân chúng để đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sứ điệp của Giăng là sứ điệp ăn năn, quay trở lại với Đức Chúa Trời. Xa-cha-ri không tin rằng việc đó có thể xảy ra nên ông bị câm cho đến khi việc ứng nghiệm.
Đức Chúa Trời cũng sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến báo tin cho Ma-ri về sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế. Nhưng hai sự thông báo hoàn toàn tương phản. Ma-ri là một trinh nữ ở một làng nhỏ nhưng đầy đức tin; trái với một thầy tế lễ già tại đền thờ nhưng thiếu đức tin.
Vấn đề Ma-ri là một trinh nữ thụ thai và sinh ra Chúa Cứu Thế là một việc siêu nhiên. Một số học giả theo khuynh hướng thần học tự do cấp tiến vì thiên về khoa học thực nghiệm và không tin vào quyền năng siêu nhiên nên cho rằng câu chuyện đồng trinh là một huyền thoại hội thánh đầu tiên thêm vào Phúc Aâm sau này. Nhưng đa số học giả Phúc Âm thuần túy không thấy trở ngại gì trong việc tin tưởng vào quyền năng siêu nhiên của Đức Chúa Trời.
Thiên sứ chào Ma-ri, “người được hồng phúc” (không phải người được hồng phúc nhất trong số phụ nữ) như một vài nhà giải Kinh Công giáo giải nghĩa. Con Đấng Chí Cao là Con Đức Chúa Trời. Ngài sẽ là vua trị vì đời đời. Ngài sẽ là dòng dõi vua Đa-vít.
Ma-ri hỏi thiên sứ cho thấy cô không hiểu làm sao việc này, một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh, chứ không phải không tin. Đây là câu hỏi chứ không phải lời khấn nguyện đồng trinh như một vài người Công giáo giải thích. Một số học giả Công giáo dùng câu này để hỗ trợ giáo lý “Đồng trinh trước khi sinh, trong khi sinh và sau khi sinh”. Lu-ca 1:34 chỉ cho thấy Ma-ri đồng trinh trước khi sinh Chúa Giê-su.
Việc giáng sinh của Chúa Cứu Thế là một hành động siêu nhiên, do Đức Chúa Trời thực hiện bởi Đức Thánh Linh. Vì thế Đức Giê-su được gọi là Con Đức Chúa Trời. Thiên sứ nhắc cho Ma-ri biết người họ hàng của cô là Ê-li-sa-bét dù đã già nhưng cũng đã có thai. Vì Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng. Đức Chúa trời đã tạo ra luật thiên nhiên nhưng luật thiên nhiên không có quyền giới hạn Đấng Tạo Hóa.
Đức tin của Ma-ri là đức tin rất lớn vì vào thời ấy một người con gái chưa có chồng mà có thai là một điều sỉ nhục và sẽ bị ném đá chết. Ma-ri đi xuống miền nam để thăm Ê-li-sa-bét; đoạn đường khoảng 150 Km. Phản ứng của bào thai trong bụng Ê-li-sa-bét và lời chào của Ê-li-sa-bét cho thấy Chúa Giê-su cao trọng hơn Giăng Báp-tít.
“Mẹ của Chúa tôi đến thăm tôi” không có nghĩa là mẹ của Đức Chúa Trời; người Do Thái không bao giờ dùng như thế. Từ Chúa ở đây chỉ có nghĩa là bậc cao cả, không phải Đức ChúaTrời. Danh hiệu “Mẹ Chúa Trời” chỉ xuất hiện vào thếkỷ thứ tư sau Công Nguyên.
Bài ca của Ma-ri: Bài ca ngợi mang nhiều tính cách Do Thái hơn là Cơ Đốc giáo cho nên không phải là do hội thánh thêm vào sau này. Ngoài ra trong Cựu Ước nhiều phụ nữ cũng đã ca ngợi Chúa như A-na, Đê-bô-ra v.v.
Ma-ri tôn xưng Đức Chúa Trời và gọi Ngài là Đấng Cứu Rỗi cô cho nên giáo lý “Mẹ Chúa Trời” của Công giáo sau này là điều mâu thuẫn với Kinh Thánh.
B. Một vài tà thuyết về bà Ma-ri.
1. Đồng trinh suốt đời. (Thuyết này chỉ có và được một số giaó hội La Mã công nhận vào thế kỷ thứ 6 hay 7 ) Thánh Kinh trích dẫn:
Lu-ca 1:34 Ma-ri có lời nguyện độc thân. Đây là câu hỏi, không phải lời nguyện.
Mat. 1:25 Không sống với nhau. Câu này có thêm từ 'cho đến khi' tức là hàm ý sau đó hai người sống với nhau như vợ chồng bình thường.
Mat. 13:55 Công giáo cho rằng đây là anh em họ. Nhưng bối cảnh cho thấy là anh em ruột. Ngoài ra từ này 'adelphos' không bao giờ được dùng để chỉ anh em bà con trong Tân Ước. Có một từ khác để chỉ 'anh em họ': 'anepsios' Côl. 4:10
Khảo cổ mới tìm thấy một hộp đựng xương của người Do Thái có khắc chữ: “Gia-cơ, con Giô-sép, em của Giê-su”. Chiếc hộp có niên hiệu 63 SCN các nhà nghiên cứu ngôn ngữ cổ xác nhận chữ viết trên là lọai chữ thông dụng của thế kỷ thứ nhất SCN tại Palestine.
Nhà khảo cổ Lemaire tuyên bố: “Rất có thể” chiếc hộp này thuộc về người em tên Gia-cơ của Chúa Giê-su, người theo truyền thống Cơ Đốc giáo, là lãnh đạo hội thánh Giê-ru-sa-lem.
2. Vô nhiểm nguyên tội (Không mắc tội tổ tông; no original sin) Công giáo trích các câu Thánh Kinh sau để hổ trợ:
Sáng 3:15 Nói đến E-va, không phải Ma-ri
Lu-ca 1:28 "được hồng phúc" là ân phúc chung.
Giê-rê-mi 1; Giăng Báp-tít (Lu-ca 1) cũng được hồng ân của Chúa.
Lu-ca 1:42 Có phước nhất trong vòng phụ nữ. Không phải không tội.
Êph. 1:6 tín hữu Ê-phê-sô cũng được như thế.
3. Được cất lên trời (Không chết) Năm 1950 Các câu Thánh Kinh Công giáo dùng:1Cor. 15:23 Sống lại, không phải cất lên trời. Mat. 27:52-53 Các thánh thời Cựu Ước , không phải Ma-ri Khải 12:1-6 Không phải Ma-ri
4. Cầu nguyện với bà Ma-ri vì bà cầu thay chúng ta (Trung gian ; Mediatrix do giáo hoàng Pius IX 1854). Giăng 19:26-27 Công giáo giải thích theo huyền nhiệm. 1Tim 2:5 Chỉ có một Đấng Trung Gian giữa Đức Chúa Trời và loài người là Chúa Cứu Thế Giê-su mà thôi, không có ai khác. Mat. 2:11 Các mục tử thờ lạy Chúa Giê-su, không phải Ma-ri Thánh Kinh cấm thờ lạy vật thọ tạo hay thiên sứ. Col 2:18 ;Khải 22:8-9
Chúa Giê-su dạy các môn đồ cầu nguyện: "Lạy Cha chúng con ở trên trời" Mat. 6:9 Chúa và các Sứ Đồ dạy tín hữu cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời, không bao giờ cầu nguyện với bà Ma-ri hay các thánh.
Bài 2
Giăng Báp-tít và Sự Giáng Sinh của Chúa Giê-su
Lu-ca 1:57-2:20
I. Bối Cảnh và Lược Giải
A. Giăng Báp-tít. Giăng Báp-tít được sinh ra là sự ứng nghiệm lời tiên tri và lời hứa của Đức Chúa Trời và đây cũng là một ân huệ và phép lạ Chúa ban cho gia đình thầy tế lễ già này.
Tên “Giăng” nghĩa là “Đức Chúa Trời là Đấng ân huệ”. Lễ cắt bì là nghi lễ cắt da qui đầu của đứa con trai mới sinh vào ngày thứ tám sau khi sanh. (Sáng 17:9-14; Lê 12:3) Xa-cha-ri muốn đặt tên cho con theo lời thiên sứ đã bảo cho thấy ông đã học bài học đức tin và vâng lời, vì thế ông nói được trở lại và ca ngợi Đức Chúa Trời.
“Tay Chúa” để chỉ quyền năng của Đức Chúa Trời đang hành động trên trần thế qua biến cố và con người Giăng. Bài ca của Xa-cha-ri: Đây là một bài ca ngợi và một lời tiên tri về Đấng Cứu Thế. Ông ca ngợi Chúa vì Ngài ban cho dân Ngài một Đấng Cứu Thế (Mê-si-a) từ dòng dõi vua Đa-vít và Giăng, con trai ông làvị tiên tri tiền phong đi trước chuẩn bị lòng dân cho Đấng Cứu Thế.
Đức Chúa Trời là Đấng cứu chuộc, thương xót, thành tín với giao ước thánh Ngài đã kết với tổ tiên họ; dân Chúa khi được cứu phải phục vụ Ngài trong sự thánh khiết. Giăng là tiên tri tiền phong chuẩn bị lòng dân chúng bằng cách dạy họ biết ăn năn, biết sự tha thứ tội lỗi do lòng thương xót của Chúa. Bình minh là biểu tượng của Chúa Cứu Thế, Đấng sẽ tỏa ánh sáng chân lý và bình an cho nhân loại trong tối tăm, chết chóc.
Giăng Báp-tít lớn lên cả về tâm linh lẫn thể xác. Giăng sống trong đồng hoang, có lẽ vùng khô khan, bán sa mạc gần Biển Chết.
B. Sự Giáng Sinh của Chúa Cứu Thế Giê-su.
1. Cuộc kiểm tra dân số. Một số người cho rằng vì không có bằng chứng lịch sử và khảo cổ về một cuộc kiểm tra dân số vào thời này nên Lu-ca ghi chép sai.
Giáo sư John McRay cho hay người ta tìm thấy một đồng xu có tên Qui-ri-ni-u làm thống đốc Sy-ri và Ci-li-cia từ năm 11 TCN cho đến sau khi vua Hê-rốt Đại Đế chết. Ngoài ra người ta tìm thấy ít nhất là 3 cuộc kiểm tra dân số dưới thời hoàng đế Au-gút-tơ. Cuộc kiểm tra tại Sy-ri từ năm 9 TCN có thể kéo dài đến vùng Pha-lê-tin vào thời Chúa Giê-su sinh ra đời. Điều quan trọng là trong hai sắc lệnh kiểm tra có nói đến vấn đề trở về quê quán để đăng ký và cũng khai cả người đang sống với mình. (Archaeology & The New Testament, tr. 154-155) Như thế không có bằng chứng khảo cổ không có nghĩa là sai hay không có cuộc kiểm tra dân số. Trái lại những bằng chứng trên cho thấy rất có thể có cuộc kiểm tra như Lu-ca đã nói đến.
2. Bết-lê-hem là quê hương của vua Đa-vít và một lãnh tụ thuộc dòng dõi Đa-vít được nói đến trong Mi-ca 5:1-2. Lu-ca cho hay Chúa Cứu Thế ra đời một cách đơn sơ, khiêm nhường trong máng cỏ vì quán trọ không còn chỗ. Từ “con trai đầu lòng” có thể hàm ý Ma-ri còn có các con khác nữa. (Mat 12:46-47; Lu-ca 8:19-20). Nhà trọ vào thời đó có thể là một nhà có hai tầng, tầng dưới dùng để giữ súc vật, tầng trên đón khách. Có thể nhà trọ và chuồng súc vật kế bên; đôi khi chuồng súc vật là một cái hang. Truyền thuyết cổ vào thế kỷ thứ tư ghi nhận Chúa sinh ra trong một hang tại Bết-lê-hem.
3. Những người chăn chiên và thiên sứ. Những người chăn cừu thường thay phiên thức canh bầy cừu để khỏi bị ăn trộm hay thú rừng hại. Những người chăn cừu không phải là những người bần cùng và bị khinh khi nhưng chỉ là những người tầm thường trong xã hội. Vấn đề thiên sứ có thật hay không tùy thuộc vào vũ trụ quan của một người. Những người không tin siêu nhiên sẽ cho rằng những gì Lu-ca ghi chép ở đây là chuyện thần tiên, không có thật. Những người tin siêu nhiên thì thấy Lu-ca kể lại những chi tiết thật đã xảy ra, không có dấu hiệu nào chứng tỏ đây là những việc huyền thoại bịa đặt về sau này. Thiên sứ loan báo một Tin Mừng (Phúc Aâm). Sự đáp ứng với Tin Mừng là niềm vui. Niềm vui này cho mọi người trong nước lúc bấy giờ. Thiên sứ thông báo Đấng Cứu Thế đến trong ba danh hiệu: Đấng Cứu Rỗi, Đấng Được xức dầu (Chúa Cứu Thế, Christ) và Chúa Tể.
a. Đấng Cứu Rỗi. Đấng giải cứu dân ra khỏi nguy hiểm hay kẻ thù. Sự giải cứu ở đây chỉ về cả vật chất lẫn tâm linh.
b. Đấng được xức dầu. ( Mê-si-a ) Trong thời cựu ước, tiên tri, vua và thầy tế lễ là những người được xức dầu để thi hành nhiệm vụ Chúa giao. Ở đây chú trọng đến việc thừa kế vua Đa-vít trị vì dân Chúa và vương quốc Đức Chúa Trời.
c. Chúa. Lu-ca dùng từ này chỉ về Đức Chúa Trời tể trị. Danh hiệu này dùng cho Chúa Giê-su để nói lên rằng Ngài là Đấng cao cả và quyền năng hơn là một vị cứu tinh dân tộc.
4. Câu hát ca ngợi Đức Chúa Trời trên thiên đàng. Vinh quang ở đây có nghĩa là “tôn vinh hay vinh danh”. Trên trời cũng có thể dịch là nơi cao cả nhất, hay thiên đàng. Trong khi thiên đàng ca ngợi Đức Chúa Trời thì bình an đến với nhân loại ở trần gian. Tuy nhiên sự an khang thịnh vượng chỉ đến với những người Đức Chúa Trời ban ân huệ, tức là những người kính sợ Đức Chúa Trời và đáp ứng lại Tin Mừng của Con Ngài, Chúa Cứu thế Giê-su. Lời công bố của thiên sứ được các mục đồng tin, đi tìm Chúa Cứu Thế và xác nhận với Ma-ri và Giô-sép. Những người chăn chiên này sau khi thấy rõ mọi sự họ càng tin tưởng hơn và họ tôn vinh, ca ngợi Đức Chúa Trời.
Bài 3
Thời Thơ Ấu của Chúa Cứu Thế
Lu-ca 2:21-52
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Lễ cắt bì:
Theo Kinh Luật (Sáng 17:9-14) một bé trai Do Thái sinh ra được tám ngày sẽ nhận lễ cắt bì. Lễ này được thi hành bằng cách cắt dương bì (mẫu da ở đầu dương vật) khi một bé trai Do Thái sinh ra được tám ngày. Đây là biểu tượng của giao ước mà Đức Chúa Trời đã kết với Áp-ra-ham và dòng dõi của ông. Áp-ra-ham và dòng dõi ông sẽ giữ lễ cắt bì này để xác quyết rằng họ tôn thờ và thuộc về Đức Chúa Trời; còn Ngài sẽ là Đức Chúa Trời của họ và ban cho họ đất hứa làm quê hương cũng như ban phúc lành cho họ.
Tên Giê-su: Tên Giê-su là tên thiên sứ bảo Ma-ri đặt cho con mình sẽ sinh ra (Lu-ca 1:31). Tên Giê-su là hình thức Hy Lạp của tên Giê-sua, sau đổi thành Giô-suê. Bản dịch Hy Lạp Bảy Mươi (LXX) của Cựu Ước có nhiều người mang tên này. Giê-sua hay Giô-suê có nghĩa là Gia-huê (Yahweh) là sự cứu rỗi.
Ma-ri và Giô-sép là những người Do Thái mộ đạo; họ thi hành đúng theo Kinh Luật dạy và muốn sống đúng theo giao ước mà Chúa đã ban cho dân tộc họ.
Chúa Giê-su đã sinh ra dưới Kinh Luật; Ngài đã vâng phục Kinh Luật (Ga 4:1-7) và Ngài đến thế gian không phải để hủy bỏ Kinh Luật nhưng để hoàn thành nó (Ma 5:17-18). Trong cuộc đời tại thế, Chúa Giê-su đã từ chối và bác bỏ nhiều truyền thống và tập tục tôn giáo của người Do Thái nhưng Ngài sống và thi hành hoàn toàn Kinh Luật của Đức Chúa Trời. Chúa Cứu Thế đến thế gian để giải thoát dân Do Thái ra khỏi gánh nặng của Kinh Luật (vì không ai làm nỗi tất cả Kinh Luật); Ngài cũng giải thoát những người không có Kinh Luật (tức là những dân tộc khác, không phải dân tộc Do Thái). Giăng 4:42; 1 Giăng 2:1-2.
Lễ dâng Đức Giê-su trong đền thờ: Theo Kinh Luật (Lê-vi 12) sau 40 ngày Ma-ri và Giô-sép phải đem đứa bé lên đền thờ để làm lễ thanh tẩy và dâng hiến em bé cho Chúa vì Đức Giê-su là con trai đầu lòng (Lê-vi 13). Giô-sép và Ma-ri phải nộp một số tiền cho đền thờ và dâng tế lễ thiêu bằng một con chiên (cừu) hay một cặp chim cu hay chim bồ câu non. Ma-ri và Giô-sép đã dâng một cặp chim chứng tỏ họ rất nghèo. Đứa con mà họ đã vâng theo Kinh Luật dâng hiến một cặp chim để chuộc lại chính là Chiên Con của Đức Chúa Trời (Giăng 1:29) sẽ đổ huyết của mình để chuộc tội cho cả thế gian nhân loại (1Phê 1:18-19).
Cụ Si-mê-ôn và bà An-ne: Hai người này là những người công chính và kính sợ Chúa, tức là những người vâng theo Kinh Luật của Chúa và cẩn thận giữ lấy những nghi lễ Do Thái giáo. "Niềm an ủi của người Y-sơ-ra-ên": Một thành ngữ chỉ về sự mong đợi Chúa Cứu Thế hay Mê-si-a. I-sa 49:13; 51:3)
Đức Thánh Linh ở trên cụ: Cụ Si-mê-ôn vẫn còn ở trong thời Cựu Ước. Vào thời này Đức Thánh Linh chỉ ngự xuống một số người đặc biệt và ở với họ trong một thời gian ngắn mà thôi ( Sam-sôn, Sau-lơ). Sau khi Chúa Cứu Thế về trời và Chúa Thánh Linh giáng xuống vào ngày lễ Ngũ Tuần (Công Vụ 2), Ngài ngự trong lòng tín hữu vĩnh viễn.
Tin tưởng và mong đợi Đấng Mê-si-a đến để giải cứu dân Chúa là điều có lẽ nhiều người thời bấy giờ có, nhưng được Đức Thánh Linh hứa cho thấy Chúa Cứu Thế trước khi qua đời là một điều đặc biệt. Cụ Si-mê-ôn khi thấy và bồng hài nhi Giê-su, ông nhận biết đây là Chúa Cứu Thế. Si-mê-ôn gọi Chúa Giê-su là "sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời".
Cụ Si-mê-ôn mô tả sự cứu rỗi hay Chúa Cứu thế là ánh sáng cho các dân tộc ngoại quốc (I-sa 60:1-3) và là vinh quang cho Y-sơ-ra-ên. Vinh quang ở đây có thể hiểu theo nghĩa “sự hiện diện của Đức Chúa Trời giữa dân Ngài” (I-sa 4:21), "chiến thắng" của Đấng Mê-si-a của Y-sơ-ra-ên, giải cứu dân Chúa ra khỏi tội lỗi. Si-mê-ôn cho thấy sự cứu rỗi của Chúa Cứu Thế mà Đức Chúa Trời hứa là sự cứu rỗi hoàn vũ, nghĩa là cho cả người Do Thái lẫn tất cả các dân tộc khác nữa.
Lời tiên tri của cụ Si-mê-ôn cho thấy Chúa Cứu Thế sẽ là một nhân vật làm người Do Thái chia ra làm hai phía, một số sẽ nhận Ngài là Đấng Mê-si-a của họ, một số sẽ khước từ và chống đối. Tấm lòng hay thái độ của người Do Thái đối với Đức Chúa Trời cũng sẽ bày tỏ do phản ứng của họ đối với Chúa Cứu Thế. Riêng đối với Ma-ri, tấm lòng người mẹ sẽ đau đớn khi thấy Chúa Cứu Thế trên cây thập tự.
Nữ tiên tri An-ne: Kinh Thánh Cựu Ước cũng có nói đến nữ tiên tri nhưng rất ít so với nam giới. Người đàn bà góa bụa vào thời đó thường gặp nhiều khó khăn, vất vả. Nhưng nữ tiên tri An-ne là một người sùng kính và có lẽ được kính trọng nhiều. Kiêng ăn, cầu nguyện và phục vụ Chúa là hoạt động của người sùng kính, yêu mến và tận hiến cho Chúa. "sự giải cứu Giê-ru-sa-lem": Một thành ngữ khác nói về sự giải cứu của Đấng Mê-si-a (I-sa 40:1; 49:13; 51:3). Những người thật lòng tin cậy Đức Chúa Trời và tin vào lời hứa của Ngài đều có niềm hy vọng về Đấng Cứu Thế.
Lu-ca cho thấy Chúa Giê-su lớn lên về cả phần thể xác, tâm trí và tâm linh (đẹp lòng Đức Chúa Trời, c. 52). Vấn đề thần tính và nhân tính nơi Chúa Giê-su,(Phi-liùp 2:1-11) nghĩa là ngài là một người hoàn toàn có đầy đủ thể xác, tâm trí, tình cảm và tâm linh của một người nhưng đồng thời ngài cũng là Đức Chúa Trời (Giăng 1:1-5) bình đẳng, hằng hữu với Đức Chúa Cha là một huyền nhiệm chúng ta không thể hiểu thấu và giải thích thỏa đáng nhưng Kinh Thánh dạy rõ ràng như thế nên chúng ta tin.
Dự lễ Vượt Qua: Một trong ba lễ lớn mà tất cả người nam Do Thái bắt buộc phải dự mỗi năm (Xuất 23:14-17; Phục 16:16); hai lễ kia là lễ Lều Tạm và Ngũ Tuần. Phụ nữ và trẻ con không bắt buộc phải dự; điều này cho thấy gia đình Giô-sép, Ma-ri rất mộ đạo.
Mười hai tuổi là tuổi thành nhân và chuẩn bị trở thành "con trai của Kinh Luật" vào tuổi 13 theo phong tục bar mitzvah của người Do Thái. Tuy nhiên phong tục này có thể chưa có vào thời Chúa Giê-su. Những người đi dự lễ thường đi thành từng đoàn, phụ nữ trẻ con đi trước, nam giới đi sau.
Chúa Giê-su có thể đi với trẻ con trong đoàn. Sau một ngày đường Ma-ri và Giô-sép mới khám phá ra Chúa Giê-su không có trong đoàn người trở về. Như thế họ phải mất một ngày trở lại Giê-ru-sa-lem và mộït ngày nữa để tìm kiếm. Vào thời đó vào những dịp lễ lớn các giáo sư thường hay thảo luận với môn đồ ngay trong sân đền thờ. Đây cũng là một cách học vào thời đó.
Bà Ma-ri trách nhẹ cậu bé Giê-su nhưng câu trả lời của Ngài cho thấy Chúa Giê-su ý thức được con người và chức vụ thiêng liêng của mình.
“Con phải ở trong nhà Cha con .”: Thành ngữ này có thể dịch là “con phải lo công việc của Cha con.”với ý nghĩa là làm theo ý Cha. Nhưng vì Chúa Giê-su đang ở trong đền thờ và đang thảo luận trong một lớp học nên “ở trong nhà Cha con có vẻ hợp ý hơn. Chúa muốn nói đến sứ mạng dạy dỗ và phục vụ Đức Chúa Cha. Qua câu trả lời chúng ta thấy Chúa Giê-su lúc này đã ý thức rõ mối liên hệ đặc biệt giữa Ngài và Đức Chúa Cha, Ngài là Con Đức Chúa Trời. Ma-ri và Giô-xép ngạc nhiên vì họ chưa hiểu thấu bản chất và mối liên hệ đặc thù của chúa Giê-su và Đức Chúa Cha.
Lu-ca cũng ghi lại con người của chúa Giê-su, Ngài trở về phục tùng cha mẹ cho đến năm 30 tuổi. (Lu-ca 3:23) Bốn sách Phúc Aâm chỉ ghi lại vài nét về cuộc đời thơ ấu cho đến khi Chúa Giê-su bắt đầu chức vụ công khai. Gia đình Giô-xép và Ma-ri có lẽ nghèo nhưng sùng kính Chúa dù họ sống trong một thời kỳ tôn giáo không mấy thịnh hành.
Vùng Ga-li-lê là vùng bị ảnh hưởng của các dân ngoại quốc nhiều vì thế không mấy được kính nể. Đế quốc La Mã đang cai trị Do Thái, xã hội sống trong sợ hải, dân chúng bị áp bức. Trong thời gian niên thiếu và thành nhân, chúa Giê-su có thể làm nghề thợ mộc như cha nuôi mình (Mat 13:55; Mác 6:3). Ma-ri và Giô-xép cũng có những người con trai, con gái khác (Mat 13:55-56; Mác 6:1-6; Lu 4:16-30; Giăng 7:10). Trong thời gian này Chúa Giê-su sống như một người bình thường; Ngài không làm phép lạ nào cho đến khi thi hành chức vụ tại Ca-na (Giăng 2:1-11).
· Lu-ca đã dùng những nguồn tài liệu nào để ghi lại sách Phúc Aâm Lu-ca?
· Mục đích của Lu-ca khi ghi lại sách Lu-ca là gì?
· Tại sao Lu-ca ghi lại câu chuyện thiên sứ báo tin Giăng Báp-tít ra đời cùng với câu chuyện thiên sứ báo tin Chúa Giê-su ra đời?
· Hãy so sánh và đối chiếu : Thầy tế lễ Xa-cha-ri và cô Ma-ri. Giăng Báp-tít và Chúa Giê-su.
· Câu 1:34 có phải là một lời khấn nguyện ở đồng trinh trọn đời không? Tại sao?
· Tại sao chúng ta tin rằng cô Ma-ri đồng trinh nhưng sinh hạ Chúa Giê-su?
· Ma-ri tin Đức Chúa Trời là đấng thế nào?
· Bà Ê-li-sa-bét nói gì về Ma-ri và hài nhi trong bụng cô?
· Lời ca tụng Đức Chúa Trời cho thấy Ma-ri nghĩ gì về địa vị của mình trước mặt Đức Chúa Trời?
· Bạn học được gương gì nơi trinh nữ Ma-ri?
· Tại sao chúng ta chỉ tin rằng cô Ma-ri đồng trinh khi sinh ra Chúa Cứu Thế nhưng không tin rằng bà Ma-ri đồng trinh trọn đời?
· Tại sao chúng ta không nên cầu nguyện với bà Ma-ri hay các thánh?
· Cả hai vợ chồng thầy tế lễ Xa-cha-ri đều muốn đặt tên cho con là Giăng nói lên điều gì?
· “Có tay Chúa ở cùng Giăng” ám chỉ điều gì?
· Xa-cha-ri đã ca ngợi Đức Chúa Trời và nói tiên tri về những ai?
· Em bé Giăng được tăng trưởng như thế nào? Về những phương diện nào?
· Lu-ca ghi lại niên hiệu hoàng đế Aâu-gút-tơ chứng tỏ điều gì?
· Tại sao Lu-ca đề cập đến dòng dõi vua Đa-vít?
· Sự giáng sinh của Chúa Giê-su có những đặc tính gì?
· Sự giáng sinh của Chúa Giê-su được thiên sứ thông báo như là điều gì? Tại sao?
· Ba danh hiệu của Chúa Giê-su mà thiên sứ loan báo là gì? Có ý nghĩa gì?
· Khi Chúa Cứu Thế giáng sinh các thiên sứ trên trời làm gì?
· Những ai là người dưới trần thế sẽ được bình an? Có phải cả nhân loại không?
· Chúng ta học được gương gì nơi những người chăn chiên (cừu) kia?
· Chúa Giê-su nhận lễ cắt bì chứng tỏ điều gì về thân thế, liên hệ của Ngài đối với người Do Thái?
· Chúa Giê-su được trưởng dưỡng trong một gia đình thế nào?
· Đời sống kinh tế có phải là một yếu tố quyết định lòng tin kính Chúa không? Tại sao?
· Hãy nêu lên một vài đặc tính của người công chính và sùng kính Chúa.
· Tại sao ông Si-mê-ôn nhận biết được em bé Giê-su là Đấng Cứu Thế giữa hàng trăm em bé tại đền thờ ?
· Theo câu 30-31 Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế của ai?
· Hãy nêu lên những điều tiên tri của ông Si-mê-ôn về Chúa Giê-su đã được ứng nghiệm (c. 34-35)
· Lu-ca nêu lên những đặc tính gì nơi nữ tiên tri An-ne làm cho bà khác với nhiều tiên tri khác lúc bấy giờ, tức là những tiên tri, thầy tế lễ và giáo sư Kinh Luật không biết được Chúa Cứu Thế đã đến?
· Theo câu 40 và 52 em bé Giê-su lớn lên về thể xác lẫn tâm trí và tâm linh. Điều này có phải là một nghịch lý chứng tỏ rằng Chúa Giê-su không phải là Đức Chúa Trời không? Tại sao?
· Câu trả lời của chúa Giê-su (c. 49) cho thấy điều gì nơi cậu bé Giê-su lúc 12 tuổi ?
· Theo quan điểm của người Do Thái thời bấy giờ người ta hiểu danh hiệu “Con Đức Chúa Trời” chỉ về ai và liên hệ như thế nào với Đức Chúa Trời? (Đọc thêm các câu Mat 11:27; 16:16; 26:63; 27:43; Giăng 1:49)
· Chúa Giê-su trở về nhà và phục tùng cha mẹ cho đến khi 30 tuổi nêu lên tấm gương gì cho thanh thiếu niên hiện nay?
II/ THỜI CHUẨN BỊ:
3:1-4:13
Bài 4
Người Tiền Phong của Chúa Cứu Thế
Lu-ca 3:1-20
I. Bối Cảnh Lược Giải.
Lu-ca theo cách chép sử thời ấy giới thiệu triều đại hoàng đế Ti-bê-ri cai trị từ 14 đến 37 Sau Công Nguyên. Hê-rốt này là Hê-rốt An-ti-pas, con của Đại Đế Hê-rốt, làm thống đốc vùng Ga-li-lê từ năm 4 trước Công Nguyên đến năm 39 SCN. Hê-rốt Phi-líp làm thống đốc vùng Y-tu-rê và Tra-cô-nít. Phi-lát làm thống đốc Vùng Giu-đê từ năm 26 đến 36 SCN.
Ly-sa-ni không thấy nhắc đến trong các sử liệu bên ngoài Kinh Thánh ngoại trừ một bảng khắc ghi Ly-sa-ni làm thống đốc A-bi-la gần Đa-mách (Sy-ri). Lu-ca ghi chép những niên đại lịc sử đương thời để cho thấy những gì xảy ra về Chúa Cứu Thế là những biến cố thật trong lịch sử chứ không phải những chuyện huyền thoại. Dòng họ nhà An-ne làm trưởng tế giữa vòng các thầy tế lễ khá lâu dài kể từ năm thứ 6 SCN. Cai-pha là con rể của An-ne.
Giăng Báp-tít được coi là tiếng nói tiên tri Cựu Ước cuối cùng sau một thời gian khá lâu dài (khoảng 400 năm, từ thời Nê-hê-mi và Ma-la-chi 433 TCN) không có lời tiên tri của Đức Chúa Trời được ghi nhận.
Giăng Báp-tít bắt đầu giảng dạy từ năm 27 hay 28 SCN. Về tiểu sử và quá trình của Giăng Báp-tít; nhiều học giả ngày nay cho rằng ông thuộc nhóm người Essenes, một cộng đồng Do Thái rút ra khỏi xã hội lúc bấy giờ mà họ cho là băng hoại và sống trong các hang động ở vùng Qumran (Phía nam Biển Chết). Tuy nhiên Giăng cũng có những điều khác với cộng đồng Qumran như việc ăn năn và đời sống cộng đồng. Lu-ca cho thấy Giăng nghe Lời Chúa khải thị và vâng lời ra đi rao giảng lễ Báp-tem ăn năn.
Giăng sống trong đồng hoang, hang động và ăn châu chấu và mật ong. Một số tài liệu tìm thấy trong các hang Qumran cho thấy cộng đồng này cũng ăn châu chấu vì là vật tinh sạch (Lê-vi 11:22). Phép Báp-tem ăn năn: Phép báp-tem của Giăng khác với phép báp-tem của Chúa Giê-su dạy cho các môn đệ thực hành cho những người tin Ngài. Người Do Thái vào thời ấy dùng phép báp-tem để làm lễ thanh tẩy cho những người ngoại quốc mới tòng đạo Do Thái vì họ cho rằng người ngoại quốc là ô uế.
Nhưng Giăng Báp-tít dùng lễ báp-tem cho cả người Do Thái vì họ cũng phạm tội và cần ăn năn. Về hình thức thi hành lễ báp-tem; có thể là hình thức nhận chìm cả người xuống nước. Những hồ chứa nước lớn và sâu trong cộng đồng Qumran và việc Giăng làm phép báp-tem cho dân chúng dưới sông Giô-đanh chứng tỏ rằng họ thực hành phép báp-tem theo cách trầm mình xuống nước.
Ăn năn: Theo tiếng Hy-bá (Do Thái ) có nghĩa là xoay lại khỏi tội lỗi và hướng về Đức Chúa Trời. Lu-ca cho thấy vai trò của Giăng Báp-tít như một vị quan tiên phong đi mở đường, chuẩn bị một địa phương hay vùng nào đó mà Vua sẽ đến tham quan. Điều này đã được tiên tri I-sa báo trước I-sa 40:1-5.
Cộng đồng Qumran dùng đoạn tiên tri I-sa 40:1-5 này để sống biệt lập trong các hang động. Nhưng nhờ Chúa thánh Linh khải thị, Lu-ca, cả Ma-thi-ơ và Mác hiểu rằng đây là đoạn Kinh Thánh nói về chức vụ chuẩn bị lòng dân của Giăng Báp-tít và đây là vấn đề tâm linh, vấn đề tội lỗi trong lòng người cần được thanh tẩy để đón nhận Chúa Cứu Thế.
Lời giảng của Giăng tiêu biểu cho nhiều tiên tri thời Cựu Ước, truyền bá sứ điệp phán xét nặng nề. Ong ví những người Do Thái đến nghe ông giảng như những con rắn độc bò ra khỏi cỏ vì lửa sắp cháy tới nơi. Rắn là biểu tượng của điều ác, của Sa-tan (Khải 20:2). Chúa Giê-su cũng ví những người Pha-ri-si (nhóm người Do Thái trí thức, biệt lập) là loài rắn độc (Mat 23:33).
Kết quả xứng đáng với sự ăn năn: Aên năn thật sẽ thay đổi hành động và cách sống. Người Do Thái cho rằng vì họ là con cháu Aùp-ra-ham theo huyết thống nên họ sẽ được Đức Chúa Trời đối xử khác hơn là người ngoại quốc; một số tin rằng họ được chọn và cứu vì là dòng dõi Aùp-ra-ham, người đã tin Đức Chúa Trời. Giăng Báp-tít bác bỏ điều tin tưởng sai lầm kia. Đức Chúa Trời có toàn quyền tạo nên con người mới bằng chất liệu thiên nhiên như đá. Đây là ý niệm dẫn đến việc Đức Chúa Trời cứu rỗi cả dân Do Thái lẫn dân ngoại quốc qua Con Ngài, Chúa Cứu Thế.
Sự phán xét cũng được ví như cây không sinh trái tốt nên bị chặt và ném vào lửa đốt. Chúa Giê-su cũng dùng hoa quả thích đáng (6:43-45) và cây không sinh trái sẽ bị chặt (13:6-9). Hình ảnh cây vả hay cây nho được dùng để ám chỉ nước Y-sơ-ra-ên (I-sa 5:1-7).
Khi một người đáp ứng lại lời truyền giảng ăn năn, đời sống họ thay đổi thành rộng rải, nhân từ. Người thu thuế thường bị coi là kẻ tội lỗi vì họ đấu thầu việc thâu thuế với đế quốc La Mã theo một số tiền nhất định nhưng thu thuế rất nặng từ dân để thủ lợi. Binh sĩ thường lương không cao nên họ hay dùng quyền đàn áp, bóc lột dân lành để tống tiền.
Dân chúng đang trông mong và suy nghĩ có thể Giăng Báp-tít chính là Đấng Cứu Thế của dân tộc họ nhưng Giăng tuyên bố rõ rằng ông không phải là Chúa Cứu Thế. Giăng chỉ cho họ thấy một số điểm về Chúa Cứu Thế để họ có thể nhận ra Ngài. Chúa cứu Thế là Đấng có thẩm quyền cao cả hơn Giăng. Giăng cảm thấy mình chưa xứng đáng bằng một tên nô lệ mở quai dép cho Chúa Cứu Thế. Giăng làm phép báp-tem bằng nước để người ta ăn năn, sửa soạn lòng đón Chúa.
Ăn năn trong Cựu Ước (sub) có nghĩa là quay trở lại với Đức Chúa Trời, từ bỏ hay xoay lưng lại với tội lỗi. Phép báp-tem của giăng “là một sự tận hiến bao gồm việc công nhận rằng Đức Chúa Trời đang đến.” (Darrell Bock 1994: 288) Công Vụ 19:4 cho thấy phép báp-tem của Giăng giới thiệu người ta đến với Chúa Cứu Thế bởi đức tin. Chúa Cứu Thế là Đấng phán xét. Chúa Cứu Thế sẽ làm phép báp-tem cho người tin Ngài bằng Đức Thánh Linh và lửa.
Đức Thánh Linh là Đấng thanh tẩy người tin và nhận phép báp-tem; Khi Chúa Thánh Linh ngự trong lòng người tin Ngài cũng bảo vệ người đó khỏi bị lửa đoán xét hủy diệt. Phép báp-tem của Chúa Cứu Thế đem lại Đức Thánh Linh cho người tin và lửa đoán xét cho người từ khước Chúa Cứu Thế.
Chúa Cứu Thế là Đấng phán xét tối hậu. Ngài sẽ đón nhận tín hữu vào Nước Thiên Đàng và những người vô tín, từ khước Chúa bị hủy diệt trong lửa. Dụng cụ để lọc lúa ra khỏi vỏ trấu là một cái chĩa bằng gỗ; người ta dùng để xóc lúa ném lên không cho gió hay quạt thổi vỏ bay đi, hạt lúa nặng sẽ rớt xuống sàn nhà. Giăng Báp-tít đã khuyến cáo dân chúng về đạo đức; ông trách vua Hê-rốt An-ti-pa đã cưới Hê-rô-đia, vốn là vợ của Hê-rốt Phi-líp. (Cựu Ước cấm Lê-vi 18:16; 20:21).
Một sử gia Do Thái, Josephus đề cập đến Giăng Báp-tít và cho rằng vua Hê-rốt coi Giăng Báp-tít là một mối đe dọa chính trị.
Bài 5
Chúa Giê-su Nhận Lễ Báp-tem
Lu-ca 3:21-22
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Chúa Giê-su nhận lễ báp-tem cũng được chép trong Phúc âm Ma-thi-ơ và Mác; Giăng đề cập đến biến cố này khi Giăng Báp-tít xác nhận rằng ông thấy Đức Thánh Linh giáng xuống trên Chúa Giê-su (Giăng 1:29-34).
“Khi cả dân chúng đều chịu phép báp-tem, Đức Giê-su cũng chịu phép báp-tem.” Ma-thi-ơ và Mác cho thấy thêm chi tiết: Chúa Giê-su từ Na-xa-rét, vùng Ga-li-lê tức là miền bắc, xuống vùng Giu-đê, tức là miền nam và gần thủ đô Giê-ru-sa-lem để chịu lễ báp-tem.
Điều này cho thấy đây là thời gian Chúa Giê-su bắt đầu chức vụ công khai. Lu-ca ghi “tất cả dân chúng” để nói lên lý do tại sao Chúa Giê-su lại yêu cầu Giăng Báp-tít làm phép báp-tem cho mình. Một vấn đề được đặt ra là tại sao Chúa Giê-su nhận phép báp-ten ăn năn của Giăng; Ngài có cần ăn năn không? Và Giăng Báp-tít có thánh khiết hơn và có thẩm quyền hơn Chúa Giê-su không? Kinh Thánh Tân Ước dạy rõ Chúa Giê-su là Đấng vô tội, hoàn toàn thánh khiết và công chính (Giăng 8:46; 2 Cô 5:21; Hê 4:25; 1Phê 2:22).
Ma-thi-ơ ghi rõ phản ứng của Giăng Báp-tít khi Chúa Giê-su đến nhận lễ báp-tem; Giăng báp-tít từ chối làm phép báp-tem cho Chúa và nói “Chính tôi mới cần Ngài làm phép báp-tem, thế sao Ngài lại đến với tôi.” Mat 3:14 Chúa Giê-su bảo Giăng: “Bây giờ hãy cứ làm đi, để chúng ta làm trọn mọi qui lệ công chính, vì như thế là hợp lẽ.” (c.15)
Chúa Giê-su nhận lễ báp-tem của Giăng Báp-tít có thể là vì ba lý do:
1. Ngài công nhận chức vụ và sứ điệp của Giăng Báp-tít là từ Đức Chúa Trời. (Lu 20:4)
2. Chúa Giê-su đồng hóa với loài người và công nhận tình trạng cần ăn năn của loài người mà Giăng Báp-tít đang công bố.
3. Qua lễ báp-tem và sự kiện Chúa Thánh Linh giáng xuống trên Ngài để chứng tỏ rằng Ngài là Đấng sẽ đến để cất tội lỗi thế gian đi. (Giăng 1: 29-34)
Lu-ca ghi nhận Chúa Giê-su cầu nguyện khi bầu trời mở ra và Đức Thánh Linh ngự xuống trên Ngài. Lu-ca cho thấy Chúa Giê-su cầu nguyện trong nhiều trường hợp quan trọng như lễ báp-tem, trước khi Ngài chọn 12 sứ đồ (6:12), Phê-rơ tuyên xưng Ngài là Con Đức Chúa Trời (9:18), Chua hóa hình trên núi (9:29), Ngài dạy cách cầu nguyện (11:1) và Ngài cầu nguyện trước khi thọ hình (22:41).
Chúa Giê-su cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha khi Ngài bắt đầu chức vụ thiêng liêng trọng đại. Ngài có sự tương giao mật thiết với Đức Chúa Cha, hoàn toàn tận hiến theo ý chỉ của Đức Chúa Cha và nhận năng lực từ Chúa Thánh Linh để thi hành chức vụ tại thế.
“Bầu trời mở ra”: Mác ghi rõ: “ Đức Giê-su thấy các tầng trời mở ra.” Đây là một khải tượng nói lên việc Đức Chúa Trời mở cửa thiên đàng để đi vào trần thế, đến với loài người dưới thế gian. “Đức Thánh Linh trong hình thể giống như chim bồ câu ngự xuống trên Ngài.” Ma-thi-ơ và Mác ghi rõ Chúa Giê-su thấy Đức Thánh Linh như chim bồ câu.
Giăng Báp-tít cũng tuyên bố thấy Đức Thánh Linh giáng xuống như chim bồ câu. (Giăng 1:32) Một vài tà giáo thời hội thánh đầu tiên và ngay trong thời đại này cho rằng Chúa Giê-su chỉ là một người bình thường và người ấy trở thành Chúa Cứu Thế (Đấng Christ) khi Đức Thánh Linh hay Đấng Christ ngự vào người khi chịu lễ báp-tem. Điều này hoàn toàn sai lầm vì Chúa Giê-su được hoài thai bời Đức Thánh Linh (Mat 1:20; Lu 1:35) Chúa Giê-su tuyên bố rằng Ngài hằng hữu (Giăng 8:58).
Giăng cho chúng ta thấy Chúa Giê-su là Ngôi Lời, hiện hữu từ vĩnh hằng (Giăng 1;1-5). Đức Thánh Linh biểu hiện như chim bồ câu là một biểu tượng xác nhận Chúa Giê-su chính là Con Đức Chúa Trời (Giăng 1:34) cũng như xác nhận chức vụ của Chúa Cứu Thế. Đức Chúa Trời xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta hoàn toàn.” Đây là lời xác nhận Chúa Giê-su chính là Con Đức Chúa Trời, Đấng Mê-si-a của người Do Thái hay là Chúa Cứu Thế của nhân loại. Cho đến giờ phút này Đức Giê-su hoàn toàn sống theo ý chỉ và chương trình của Đức Chúa Cha. Ngài bắt đầu thi hành chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Cha. Đời sống của Ngài được tận hiến để thi hành chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời và vì thế mà Đức Chúa Cha hoàn toàn đẹp lòng.
Nhiều học giả cho rằng lời nói từ Trời là lời trong Thánh Thi 2:7 và I-sa 42:1 nói về vị Vua và Tôi Tớ của Đức Chúa Trời; nói về vai trò Vua Mê-si-a và Đầy Tớ thống khổ của Chúa. Đây là hai phương diện của chức vụ của Chúa Giê-su mà nhiều người Do Thái thời bấy giờ không thể nào hiểu thấu. Chúa Giê-su là Vua, Ngài thuộc dòng dõi vua Đa-vít, nhưng là Vua tâm linh, vua của những người tin mà thôi, không phải vua chính trị như một số người Do Thái lúc bấy giờ mong đợi.
Chúa Giê-su cũng là Đầy Tớ chịu thống khổ và chết như tiên tri I-sa đã mô tả (I-sa 53). Một điểm khác khá quan trọng cũng được bày tỏ qua việc Chúa Giê-su nhận lễ báp-tem. Trong biến cố quan trọng này các tác giả Phúc Aâm cho thấy cả Ba Ngôi Đức Chúa Trời cùng hành động trong chương trình cứu rỗi loài người.
Bài 6
Nguồn Gốc và Sự Thử Thách của Chúa Cứu Thế
Lu-ca 3:23-38; 4:1-13
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Gia phả là một tài liệu quan trọng xác nhận dòng dõi của một người. Sau mẫu chuyện về sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế, Lu-ca ghi lại gia phả của Chúa Cứu Thế. Tuy nhiên Lu-ca ghi rõ, gia phả này là theo pháp lý hay nói một cách khác, Chúa Giê-su đã được mô tả là được hoài thai bởi Đức Thánh Linh (1:35) cho nên sự thật Ngài chỉ là ‘con nuôi’ của Giô-sép. Vì vậy Lu-ca ghi chú “người ta cho rằng Ngài là con Giô-sép.”
Ngoài ra khi ghi chú như thế Lu-ca một lần nữa xác nhận việc Chúa Giê-su được sinh ra bởi nữ đồng trinh Ma-ry. Chúa Giê-su bắt đầu chức vụ lúc “ba mươi tuổi”. Trong Cựu Ước một người bắt đầu chức vụ tế lễ lúc 30 tuổi (Dân 4:3); ngoài ra nhiều nhân vật quan trọng trong lịch sử dân thánh bắt đầu lúc ba mươi tuổi như Giô-sép làm tể tướng trong triều Ai-cập (Sáng 41:46), vua Đa-vít bắt đầu cai trị lúc 30 tuổi (2 Sa 5:4). Cho nên đây là một lứa tuổi thích hợp và có tính cách biểu tượng để bắt đầu một việc lớn và trọng đại.
Gia phả Lu-ca ghi lại có nhiều điểm đặc biệt:
1. Đa số các tên trong gia phả là tên của những người ít ai biết đến; hay không phải là những nhân vật nổi tiếng được ghi chép trong Kinh Thánh Cựu Ước.
2. Lu-ca dùng cấu trúc “con trai của” để chỉ liên hệ phụ hệ trong bản gia phả.
3. Lu-ca liệt kê những nhân vật quan trọng như Đa-vít, Aùp-ra-ham, A-đam. Chúa Giê-su là dòng dõi của vua Đa-vít, tức là người thuộc hoàng tộc và là hậu tự hợp pháp để làm vua theo lời hứa của Đức Chúa Trời cho vua Đa-vít. Chúa Giê-su là dòng dõi của Aùp-ra-ham, tức là hậu tự mà Đức Chúa Trời đã hứa với Aùp-ra-ham và đem lại phước hạnh cho dân Do Thái lẫn nhân loại. Chúa Giê-su là con của A-đam, tức là liên hệ đến nhân loại nói chung.
4. Lu-ca kết thúc bản gia phả bằng sự kiện Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời. Điều này cho thấy sự cứu rỗi là một chương trình của Đức Chúa Trời và sự kiện Chúa Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời đến thế gian để cứu rỗi nhân loại không phải là một việc tình cờ.
Sự khác nhau giữa gia phả ghi trong Ma-thi-ơ và gia phả ghi trong Lu-ca. Nhiều người thắc mắc tại sao hai bản gia phả của Chúa Giê-su lại có nhiều tên khác nhau. Có nhiều cách giải thích đã được đưa ra, sau đây là ba cách giải thích phổ thông nhất:
1. Ma-thi-ơ ghi lại gia phả theo Giô-sép. Lu-ca dựa trên gia phả của Ma-ri, cả Giô-xép và Ma-ri đều là dòng dõi của vua Đa-vít. Câu 3:23 có thể hiểu rằng:( Chúa Giê-su, theo như người ta biết theo pháp lý, là con của Giô-sép, nhưng Ngài là con của Hê-li, tổ tiên của Ma-ri).
2. Ma-thi-ơ ghi gia phả theo pháp lý; Lu-ca theo dòng dõi huyết thống. Điều này có thể xảy ra và vẫn hợp pháp.
3. Trong danh sách tổ tiên của Chúa Giê-su có thể có nhiều trường hợp “thừa kế hôn phối” (levirage marriage). Ngừơi vợ góa của một người không con trai có thề lấy em trai của người đó để có con và đứa con này sẽ mang tên người chồng đã qua đời để nối dòng cho người đó. Trong gia phả của gia tộc đứa con trai kia có thể được kể trong gia tộc của cha ruột nó hay của cha pháp lý (bác) của nó. Hê-li trong gia phả Lu-ca và Gia-cốp trong gia phả Ma-thi-ơ có thể là anh em; Hê-li chết và Gia-cốp lấy chị dâu sinh ra Giô-sép.
Sa-tan Cám Dỗ Chúa Giê-su:
Lu-ca trình bày phần thơ ấu và thiếu thời của Chúa Giê-su và lời xác nhận khen thưởng của Đức Chúa Cha khi Chúa Giê-su nhận lễ báp-tem. Giờ đây, trước khi đi vào chức vụ công khai, Chúa Giê-su bị đem vào sa mạc để chịu Sa-tan thử thách.
Chúa Giê-su đầy dẫy Đức Thánh Linh và cũng được Đức Thánh Linh đưa vào đồng hoang để chịu cám dỗ. Điều này cho thấy rõ Chúa Giê-su không tự mình đi đến chỗ cám dỗ. Cả ba sách Phúc Aâm đều ghi rõ rằng Ngài được đưa vào đồng hoang để chịu cám dỗ. Lu-ca ghi rằng quỉ vương là kẻ cám dỗ Chúa Giê-su; Ma-thi-ơ ghi cả hai tên, quỉ vương và Sa-tan; Mác ghi Sa-tan.
Con số 40 ngày có thể là một biểu tượng mang nhiều ý nghĩa vì trong Cựu Ước, dân Do Thái đã ở trong sa mạc 40 năm; trận hồng thủy thời Nô-ê kéo dài 40 ngày; Môi-se kiêng ăn 40 ngày; tiên tri Ê-li cũng kiêng ăn 40 ngày; tiên tri Ê-xê-chi-ên phải mang tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên trong 40 ngày. Một vấn đề được đặt ra là sự cám dỗ của Chúa Giê-su có thực sự xảy ra hay chỉ là một sự tưởng tượng trong trí hay trong tâm lý của Ngài mà thôi. Nếu chúng ta tin rằng Sa-tan là một hữu thể có thật dù vô hình và loài người không thấy được thì sự cám dỗ là thật, không phải chỉ là một sự tưởng tượng.
Kinh Thánh Cựu Ước cho thấy Sa-tan là một hữu thể có thật, có bản chất như thiên sứ. Ngoài ra nếu Chúa Giê-su nhịn đói và đói thật thì sự cám dỗ là việc xảy ra thật sự. Một sự khác biệt về thứ tự cám dỗ giữa Lu-ca và Ma-thi-ơ đã gây nên nhiều cuộc thảo luận. Ma-thi-ơ ghi cuộc cám dỗ về bánh trong sa mạc, rồi đến sự cám dỗ trên nóc đền thờ và cuối cùng là trên núi cao. Lu-ca lại ghi cuộc cám dỗ trên núi cao trước và tại Giê-ru-sa-lem sau cùng.
Một điểm chúng ta cần nhớ ở đây rằng các tác giả Phúc âm ngày xưa không bắt buộc phải theo thứ tự thời gian khi ghi lại câu chuyện. Mỗi tác giả đều chọn lựa những biến cố thật nhưng cũng sắp xếp theo chủ đề hay mục đích của mình. Vì thế Lu-ca có thể thay đổi thứ tự sự cám dỗ cho hợp với chủ đề lớn của ông, đó là hành trình chức vụ của Con Đức Chúa Trời sẽ kết thúc tại Giê-ru-sa-lem.
Chúa Giê-su kiêng ăn 40 ngày nên Ngài đói. Đây là một điểm tương phản lớn mà các tác giả Phúc âm đều nhấn mạnh. Chúa Giê-su bị cám dỗ khi Ngài ở vị thế yếu kém nhất về thể xác. A-đam và Ê-va, thủy tổ của loài người bị cám dỗ trong khi họ no nê, đầy đủ. Cám dỗ thứ nhất nhằm mục đích gì? Một số người cho rằng từ “nếu” chứng tỏ quỉ vương muốn thử niềm tin, gieo nghi ngờ cho Chúa Cứu Thế về liên hệ “Con Đức Chúa Trời” của Ngài. Tuy nhiên chữ nếu ở đây chỉ là thể trình bày (indicative mood) nên không hẳn là nghi ngờ.
Một vài ý đề nghị về mục đích của sự cám dỗ này:
1. Chúa bị cám dỗ dùng cách không thích đáng để thỏa mãn cơn đói.
2. Nếu Chúa hóa bánh từ đá để thỏa mãn cơn đói tức là Chúa Cứu Thế không tin cậy vào sự chu cấp của Đức Chúa Trời cho con dân Ngài.
3. Dùng quyền năng siêu nhiên để thỏa mãn nhu cầu thể xác. Ý kiến thứ hai và thứ ba phối hợp có lẽ là câu Bài Giải Đáp thỏa đáng nhất. Câu trả lời của Chúa Giê-su được trích từ Phục 8:3.
Đời sống của con người không phải chỉ có vấn đề nhu cầu thể xác. Lời của Chúa là thực phẩm tâm linh và cũng căn bản như nhu cầu vật chất. Chúa Giê-su sẽ tin cậy vào sự cung cấp, bào tồn của Đức Chúa Trời và theo cách của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-su sẽ không đi con đường tắt. Chúa Giê-su làm theo Ý Đức Chúa Cha, không thỏa mãn ý riêng hay nhu cầu cá nhân, cái tôi của mình. Cám dỗ thứ hai: Quỉ vương hứa sẽ cho Chúa Cứu Thế tất cả uy quyền và vinh quang của thế giới nếu Ngài bằng lòng thờ phượng nó.
Nhiều người cho rằng làm sao từ một ngọn núi Chúa Giê-su có thể thấy hết tất cả vương quốc trên thế giới. Rõ ràng ở đây Sa-tan có thể chỉ cho Chúa Giê-su một khu vực rộng lớn, tiêu biểu cho tất cả vương quốc trên thế giới. Cũng có thể là Chúa thấy trong một khải tượng; các tác giả không nói rõ nhưng giả định rằng đó không phải là một việc khó và hoàn toàn có thể xảy ra.
Một vấn đề khác được đặt ra là Sa-tan có thật sở hữu tất cả thế giới này không? Kinh Thánh xác nhận rằng vũ trụ này là do Đức Chúa Trời sáng tạo và Ngài là sở hũu chủ chính thức nhưng nhiều chỗ Kinh Thánh cũng cho thấy Sa-tan tiếm quyền của Chúa và vẫn còn ảnh hưởng rất mạnh trên thế giới cho đến ngày nay (Eâph 2:2; 1Giăng 5:19).
Vì vậy có thể lời hứa của Sa-tan có đôi chút sự thật trong đó và nó có thể cung cấp quyền năng và vinh quang cho ai thờ lạy nó. Điều kiện của Sa-tan không phải đơn thuần là quì gối, cúi đầu lạy nó một cái là xong tất cả nhưng ở đây nói đến hành động qui phục, thờ phượng quỉ vương thay vì thờ phượng Đức Chúa Trời. Sa-tan muốn Chúa Giê-su thuận phục và chấp nhận uy quyền và sự tể trị của Sa-tan thay vì qui phục thẩm quyền và sự tể trị của Đức Chúa Trời. Nếu Chúa Giê-su bằng lòng làm theo lời cám dỗ, ngài cũng sẽ từ bỏ lòng trung thành với Đức Chúa Trời, là Đấng Chủ Tể trời đất và muôn vật.
Chúa Giê-su dùng Phục 6:13 để trả lời Sa-tan. Loài người chỉ nên thờ phượng và trung thành với Đức Chúa Trời duy nhất. Sự cám dỗ thứ hai theo Lu-ca nói đến tấm lòng và mối liên hệ giữa con người và Đức Chúa Trời. Một trong những mục đích của Chúa Cứu Thế là cai trị thế giới theo đường lối của Đức Chúa Trời, tức là bằng sự hy sinh của Ngài trên thập tự giá. Vì thế sự cám dỗ của Sa-tan là một con đường tắt để đi đến sự tể trị thế giới. Ngoài ra sự thỏa hiệp với thế gian để được quyền lợi và được thế gian chấp thuận, hoan nghênh cũng là một sự cám dỗ tế nhị và sâu sắc.
Cám dỗ thứ ba: Nóc đền thờ ở đây có thể là góc phía đông nam của đền nhìn xuống thung lũng Kít-rôn. Từ mái đền xuống đến đất sâu trên 100 m; một sử gia Do Thái thời ấy cho biết từ đây nhìn xuống thung lũng nhiều người bị chóng mặt. Vì thế nếu Chúa Giê-su nhảy xuống từ nóc đền thờ thì chắc chắn là cần có phép lạ để bảo vệ Ngài không bị thương hay chết. Quỉ vương nhắc lại “Nếu ông là Con Đức Chúa Trời”.
Và trích Kinh Thánh (Thi 91:11-12) để thách thức Chúa Giê-su. Sự giả định của quỉ vương rằng nếu Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời thì Ngài sẽ bảo vệ Con Chúa vô điều kiện và rằng Đức Chúa Trời sẽ giữ lời hứa bảo vệ con dân Ngài dù người ấy cố ý làm trái ý Chúa đi nữa cũng vậy. Vào thời này, người ta hay dùng phép lạ để chứng minh rằng mình có quyền phép và là một nhân vật đặc biệt.
Tuy nhiên tác giả không đề cập gì đến khán giả hay người khác có mặt dưới thung lũng nên quan điểm cho rằng quỉ vương thách Chúa nhảy xuống thung lũng để cho mọi người thấy không có bằng chứng hỗ trợ. Sa-tan trích Kinh Thánh nhưng trích ngoài hay sai văn mạch, dùng cho mục đích ác của nó. Thánh Thi 91:11-12 có thêm ‘ trong mọi đường lối ngươi” nghĩa là trong đời sống của con cái Ngài và sống công chính chứ không phải liều mạng vô lý và buộc Đức Chúa Cha phải cứu mình. Ngoài ra thách thức Chúa để đòi hỏi phép lạ là một dấu hiệu của vô tín chứ không phải của tin cậy hoàn toàn và thuận phục ý chỉ của Đức Chúa Trời cho mình. Chúa Giê-su lại dùng Kinh Thánh (Phục 6:16) để bác bỏ sự cám dỗ của Sa-tan.
Những câu Kinh Thánh Chúa Giê-su trích dẫn đều ở trong chương nói về sự thử thách dân Y-sơ-ra-ên đã thử thách Đức Chúa Trời khi họ ở trong sa mạc. Chúa Giê-su cũng đại diện cho con dân Chúa và Ngài sẽ không vi phạm tội mà dân Chúa đã phạm trong sa mạc. Sau khi thất bại trong các cám dỗ, Sa-tan lìa xa Chúa Giê-su nhưng nó vẫn còn chờ cơ hội khác; nó chưa bỏ cuộc trong nỗ lực đánh bại Con Đức Chúa Trời và phá bỏ chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Bài 7
Chúa Cứu Thế Tại Quê Hương Mình
Lu-ca 4:14-30 (Đọc thêm Mat 13:53-58; Mác 6:1-6)
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Lu-ca từ 4:14 đến 9:50 trình bày chức vụ của Chúa Cứu Thế tại Ga-li-lê. Nói về thời gian, Lu-ca không theo thứ tự thời gian khi trình bày chức vụ của Chúa Giê-su, vì thế đây không phải là thời gian bắt đầu chức vụ của Ngài. Nếu chúng ta so sánh với các Phúc Âm khác chúng ta sẽ thấy rằng thời gian này có thể là sau khi Ngài thi hành chức vụ tại Giu-đê.
Câu “tiếng đồn về Ngài lan khắp các vùng lân cận” cho thấy Chúa đã thi hành chức vụ tại nhiều nơi khác. Ga-li-lê là quê hương nơi Ngài lớn lên, là quê của bà Ma-ri và ông Giô-sép (Lu 1:26-27). Ga-li-lê là miền bắc của nước Do Thái, chiều dài chừng 70 km và rộng chừng 50 km; miền bắc giáp giới và bị bao quanh bằng các nước ngoại quốc vì thế Ga-li-lê là miền phóng khoáng và ít bảo thủ nhất cũng như bị ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp nhiều nhất trong ba miền Do Thái. Ga-li-lê là vùng rất phì nhiêu và đông dân cư; theo một sử gia Do Thái có thể có đến ba triệu dân sinh sống trong miền này.
Người vùng Ga-li-lê là những người can đảm, thích theo mới và tham gia những phong trào cách mạng như cuộc nổi loạn năm 37 TCN, sau đó ít lâu do Giu-đa dẫn đầu và vào năm 66 đến 70 SCN. Lu-ca mô tả Chúa Giê-su trở về Ga-li-lê trong quyền năng của Chúa Thánh Linh. Đây là một đặc điểm được Lu-ca đề cập đến thường xuyên. Chúa Giê-su được hoài thai bởi Đức Thánh Linh, được đầy dẫy Đức Thánh Linh, được Đức Thánh Linh dẫn vào sa mạc để chịu cám dỗ; Đức Thánh Linh ngự xuống trên Ngài khi chịu lễ báp-tem.
Nếu chúng ta quan sát trong Công Vụ (cũng do Lu-ca ghi chép) chúng ta thấy Hội Thánh đầu tiên cũng do Đức Thánh Linh giáng xuống, trang bị và hỗ trợ trong chức vụ truyền giảng Phúc Aâm và xây dựng Nước Đức Chúa Trời. Chúa Giê-su dạy dỗ trong các hội đường của người Do Thái. Hội đường là nơi thờ phượng và học hỏi Kinh Thánh tại các địa phương cách xa đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Buổi thờ phượng tại hội đường thường gồm có đọc Shema ( Kinh Thánh Phục 6:4-9; 11:13-21; Dân 15:37-41), cầu nguyện, đọc một đoạn trong Ngũ Kinh (5 sách của Môi-se), sau đó trong các sách Tiên Tri, dịch ra tiếng A-ra-míc, bài giảng và chúc phước.
Hội đường được mở cửa thờ phượng, dạy dỗ vào các ngày Sa-bát (thứ Bảy), thứ Hai, thứ Năm và các ngày lễ. Trong giai đoạn này người ta ca ngợi Chúa Giê-su vì sự dạy dỗ của Ngài tại các hội đường. Trong khi giảng dạy tại miền Ga-li-lê, Chúa Giê-su cũng về tại làng Na-xa-rét, nơi Ngài được trưởng dưỡng. Na-xa-rét vào thời Chúa Giê-su có thể là một thị trấn nhỏ, không phải một làng vì Na-xa-rét được gọi là ‘polis’, tuy nhiên đây chỉ là một thị trấn nhỏ, cách xa các trục giao thông chính, với vài ngàn dân mà thôi.
‘Theo thói quen’ cho thấy Chúa Giê-su là người sùng kính, thường đến hội đường để thờ phượng, học hỏi Kinh Thánh khi Ngài còn sống tại đó. Theo thủ tục lúc bấy giờ một người có thể được mời giảng đoạn Kinh Thánh vừa được đọc hay người đó cũng có thể chọn đoạn Kinh Thánh để giảng. Ở đây có thể Chúa Giê-su tự chọn đoạn Kinh Thánh trong sách tiên tri I-sa 61:1-2 và 58:6 ‘Thần của Chúa’ ở đây chỉ về Đức Thánh Linh. Lu-ca đã ghi lại những biến cố có Đức Thánh Linh tham dự; biến cố gần nhất là lễ báp-tem và ngay khi Ngài thi hành chức vụ tại Ga-li-lê ( 4:14).
‘Xức dầu’ là hành động chọn lựa và ủy nhiệm để thi hành công việc của Đức Chúa Trời. Trong thời Cựu Ước chỉ có vua, tiên tri và thầy tế lễ được xức dầu phong chức. Đoạn Kinh Thánh này thường được những nhà giải kinh Do Thái cho rằng nói về Tôi Tớ của Đức Chúa Trời, về Đấng Mê-si-a hay Đấng Cứu Thế của họ và thời đại giải cứu cuối cùng.
Lu-ca 7:22 giải thích thêm về sứ mệnh của Chúa Giê-su được Chúa áp dụng trong các câu Kinh Thánh này. Kỷ nguyên thi ân là năm thi ân (Lê-vi 25), tức là năm thứ bảy và năm thứ 50, nợ được tha, nô lệ được trả tự do, điền sản được trả về nguyên chủ...v.v. Chúa Giê-su không trích phần thứ hai của I-sa 61:2 “ngày báo thù của Đức Chúa Trời chúng ta.” Người Do Thái lúc bấy giờ thường hiểu rằng vào ngày cứu rỗi của dân Chúa thì Đức Chúa Trời cũng đoán phạt dân ngoại quốc. Điều này rất có ý nghĩa khi chúng ta thấy ngay sau đó Chúa Giê-su đề cập đến người ngoại quốc cũng được ân sủng của Đức Chúa Trời.
Một số người chủ trương thần học giải phóng cho rằng đoạn Kinh Thánh này dạy rằng Chúa Giê-su là một nhà cách mạng xã hội theo ý nghĩa chính trị và kinh tế xã hội. Nhưng nếu chúng ta quan sát toàn diện chức vụ và sứ mệnh của Chúa Cứu Thế; những chỗ Chúa giải thích sứ mệnh của Ngài như 6:23 và 7:22 cũng như Ngài không để cho dân chúng tôn lên làm vua (Gi 6:15), từ chối dùng vũ lực (Gi 18:36) cho thấy sứ mệnh của Chúa Cứu Thế nhằm đáp ứng nhu cầu thể chất và tâm linh hơn là chính trị. Chúa Giê-su ‘ngồi xuống’ để bắt đầu giảng vì các mục sư Do Thái đứng đọc Kinh Thánh nhưng ngồi để giảng dạy.
Chúa Giê-su tuyên bố đoạn Kinh Thánh trên ứng nghiệm trên Ngài và ngay lúc ấy. Thời đại cứu rỗi đang hiện diện với Chúa Cứu Thế và trong thời đại ân sủng của hội thánh sau đó cho đến hiện nay. Dân chúng tại Na-xa-rét ngạc nhiên về tài ăn nói của Chúa Giê-su nhưng không chấp nhận con người và sứ điệp của Ngài vì họ cho rằng Ngài là con của một người thợ mộc địa phương. Mác 6:3 và Mat 13:55-56 ghi lại rằng dân chúng đề cập đến bà Ma-ri, các em trai và em gái của Ngài. Ngoài ra Ngài lại còn nói đến ân sủng của Đức Chúa Trời dành cho người ngoại quốc.
Dân chúng thách thức Chúa Giê-su làm những phép lạ như Ngài đã làm ở Ca-pha-na-um và những nơi khác mà họ đã nghe nhưng Ngài không làm. Mác đưa ra lý do tại sao Chúa Giê-su không làm được phép lạ tại Na-xa-rét (Mác 6:5) là vì lòng vô tín của dân chúng. Chúa trích một câu châm ngôn thông dụng thời ấy và cũng là một thực tại trong lịch sử Do Thái. Ngoài ra qua câu nói này Chúa Giê-su cũng xác nhận với những người đồng hương Na-xa-rét của Ngài rằng chính Ngài là một tiên tri.
Chúa Giê-su nhắc đến hai câu chuyện thật trong lịch sử Do Thái:
1. Tiên tri Ê-li giúp cho người đàn bà góa ngoại quốc ở Sa-rép-ta, một thị trấn ngoại quốc. (1 Vua 17-18) . Hai đoạn Kinh Thánh này nói đến thời kỳ nạn đói và hình phạt vì sự bất trung của dân Chúa. Vì sự bất trung nên sự cung ứng của Chúa cũng thiếu và tiên tri của Chúa cũng không giúp được ai gĩua vòng dân Chúa nhưng chỉ giúp được một người đàn bà gáo ngoại quốc ở xa.
2. Tiên tri Ê-li-sê chữa lành cho một người phung ngoại quốc, tướng Na-a-man, người Sy-ri. (2 Vua 5:1-14) Aân huệ chữa lành ở ngay trong nước Do Thái nhưng một người phung ngoại quốc ở xa lại nhận được và lành bệnh. Ân huệ của Chúa ban cho tất cả mọi người, không phải chỉ cho dân Do Thái. Dù là tuyển dân của Chúa nhưng nếu vô tín, bất trung thì cũng không nhận được ân huệ, sự cung ứng và cứu giúp của Chúa. Tiên tri của Chúa cũng không làm gì được khi dân chúng vô tín và bất trung với Chúa.
Thái độ từ khước tiên tri của Chúa sẽ mang đến hậu quả nghiêm trọng, nguy hiểm. Những người Do Thái tại Na-xa-rét hiểu rõ câu chuyện Chúa Giê-su nêu lên nhưng nổi giận. Tại sao những người Do Thái giận dữ với Chúa Giê-su? Những điều Chúa kể đều là sự thật lịch sử. Người Do Thái tự hào là tuyển dân của Chúa nên họ tự cho mình tốt hơn người ngoại quốc. Nên khi Chúa Giê-su kể lại câu chuyện cho thấy người ngoại quốc được Chúa ban ân huệ trong khi người Do Thái lại không được, nên họ tức giận.
Người Do Thái tại Na-xa-rét không chấp nhận những lời tuyên bố về mình của Chúa Giê-su, rằng Ngài chính là Chúa Cứu Thế hay vị tiên tri của Đức Chúa Trời mà tiên tri I-sa đã viết. Đối với họ ngài chỉ là một anh thợ mộc, con của một người thợ mộc đơn sơ trong làng. Người Do Thái tại đây chỉ yêu sự thật khi sự thật đó nói tốt về họ; họ chống đối, ghét và giận dữ khi sự thật chỉ ra tình trạng tội lỗi (vô tín, bất trung, tự cao) của họ.
Ngày nay khảo cổ cho thấy có vách đứng cao tại phía tây của Thánh Đường Lễ Báo Tin ở Na-xa-rét. Có thể đây là chỗ người ta định xô ngài xuống nhưng Ngài đi thoát.
II. Câu Hỏi Bài 4:
1. Lu-ca trích dẫn nhiều nhân vật lịch sử đương thời với mục đích gì khi trình bày Giăng Báp-tít và Chúa Giê-su?
2. Giăng Báp-tít được ai sai đi truyền giảng và bằng cách nào?
3. Phép báp-tem của Giăng Báp-tít có mục đích gì và có giống với phép báp-tem của Chúa Giê-su truyền không?
4. Vai trò của Giăng Báp-tít là gì trong chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời?
5. Phép báp-tem của Chúa Giê-su truyền khác với phép báp-tem của Giăng ở những điểm nào?
6. Đời sống của một người thật lòng ăn năn sẽ thay đổi như thế nào?
7. Theo bạn nghĩ, Giăng Báp-tít sẽ nói gì với những người kiêu hãnh và tin rằng mình được cứu là vì mình thuộc “đạo dòng nhiều đời” ?
8. Giăng muốn nói về điều gì trong câu 3:9 ?
9. Giăng Báp-tít cho rằng Chúa Cứu Thế hơn Giăng trên ba phương diện nào?
10. Về phương diện đạo đức, Giăng nêu gương gì cho chúng ta?
11. Giăng Báp-tít đem lại tấm gương gì khác cho chúng ta trong chức vụ của ông?
12. Giăng truyền giảng Phúc Aâm để chuẩn bị lòng người đón Chúa Cứu Thế đến; ngày nay chúng ta nên làm gì để chuẩn bị đón Chúa Giê-su tái lâm?
13. Câu Hỏi Bài 5
14. Phép báp-tem của Giăng Báp-tít và phép báp-tem mà chúng ta nhận khác nhau như thế nào?
15. Chúa Giê-su chịu lễ báp-tem của Giăng là vì Ngài cần ăn năn tội như mọi người khác phải không?
16. Tại sao Chúa Giê-su bảo Giăng làm phép báp-tem cho Ngài?
17. Đức Giê-su chỉ là một người bình thường trở thành Đấng Mê-si-a hay Chúa Cứu Thế khi nhận lễ báp-tem phải không? Tại sao?
18. Chúa Giê-su chỉ có Đức Thánh Linh khi Ngài chịu lễ báp-tem phải không?
19. Đức Thánh Linh ngự xuống trên Chúa Giê-su như hình thể chim bồ câu là biểu tượng cho điều gì?
20. Chúa Giê-su cầu nguyện trong khi nhận lễ báp-tem cho chúng ta bài học gì?
21. Cả ba tác giả Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca đều ghi lại lời nói từ trời; họ ghi lại với mục đích gì?
22. Đức Chúa Trời xác nhận hai điều về Chúa Giê-su khi Ngài nhận lễ báp-tem, hai điều đó là gì?
23. Đức Giê-su (Lúc bấy giờ Ngài khoảng 30 tuổi) đã sống như thế nào để được Đức Chúa Cha khen ngợi và đẹp lòng hoàn toàn.?
24. Chúng ta có thể sống đẹp lòng Đức Chúa Trời không? Chúng ta nên sống như thế nào và làm gì để Đức Chúa Trời đẹp lòng?
25. Câu Hỏi Bài 6
26. Tại sao Lu-ca ghi “ Người ta cho rằng Ngài là con Giô-sép” trong gia phả của Ngài?
27. Lu-ca ghi “Giô-xép con Hê-li” trong khi Ma-thi-ơ ghi “Gia-cốp sinh Giô-sép.” (Mat 1:16); như thế một trong hai bản gia phả ghi sai phải không? Giải thích sự khác biệt.
28. Bạn có thấy ý nghĩa đặc biệt khi Lu-ca ghi chép Chúa Giê-su là “con cháu Aùp-ra-ham, Đa-vít, A-đam, Con Đức Chúa Trời” ?
29. Những sự cám dỗ Chúa Giê-su chịu là có thật hay chỉ là tưởng tượng trong tâm lý của Ngài mà thôi? Những sự kiện nào cho thấy đây là những sự kiện thật sự xảy ra?
30. Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời, là Đấng vô tội, tại sao Ngài phải chịu cám dỗ?
31. Chúa Giê-su bị cám dỗ trong điều kiện nào?
32. Mục đích của cám dỗ thứ nhất là gì?
33. Câu trả lời của Chúa Giê-su cho thấy đời sống toàn diện và sung mãn gồm có những gì?
34. Bạn nghĩ sao về những quan điểm cho ràng “tôn giáo, Kinh Thánh là điều tốt nhưng chỉ là phụ thuộc và thứ yếu, người ta chỉ nên thờ phượng hay học Lời Chúa khi rỗi rảnh, lúc trà dư, tửu hậu.”
35. Mục đích của sự cám dỗ thứ hai là gì?
36. Trong thế giới văn minh vật chất hiện đại sự cám dỗ này được thể hiện trong hình thức nào nhiều nhất? Chúng ta phải làm gì để áp dụng lời Bài Giải Đáp của Chúa Giê-su?
37. Mục đích của sự cám dỗ thứ ba là gì?
38. Chúa Giê-su đã dùng điều gì để chống trả và tránh bị cám dỗ?
39. Dùng Kinh Thánh có phải là tự nhiên làm theo ý Chúa không?
40. Chúng ta cần phải làm gì để chống lại những tà giáo dùng Kinh Thánh lệch lạc cho mục đích sai lầm của họ?
41. Câu Hỏi Bài 7
42. Lu-ca muốn nói gì khi ông ghi “Đức Giê-su trở về Ga-li-lê trong quyền năng của Đức Thánh Linh?
43. Những người ở những nơi khác ca ngợi Chúa Giê-su về điều gì?
44. Chúa Giê-su đã ở tại Na-xa-rét 30 năm, trước khi Ngài đi ra giảng đạo. Ngài có thói quen gì?
45. Đoạn Kinh Thánh Chúa Giê-su trích dẫn nói về gì? Và ứng nghiệm trên ai?
46. Những người Do Thái trong hội đường có hiểu đoạn Kinh Thánh đó nói về ai không? Họ có chấp nhận điều Chúa Giê-su tuyên bố về Ngài không?
47. Tại sao những người tại Na-xa-rét không chấp nhận Chúa Giê-su khi Ngài tuyên bố rằng Ngài là Đấng tiên tri mà sách tiên tri I-sa nói đến trong đoạn Kinh Thánh Ngài vừa đọc?
48. Điều gì đã khiến cho người Do Thái tại Na-xa-rét hiểu sai về con người Chúa Giê-su, nguồn gốc thật của Ngài và sứ mệnh của Ngài, trong khi Lu-ca, một người ngoại quốc thời sau (đồng môn với Phao-lô) lại biết rõ và tin đúng?
49. Tại sao Chúa Giê-su không làm nhiều phép lạ tại Na-xa-rét? (Đọc thêm Mat.13:53-58; Mác 6:1-6)
50. Chúa Giê-su muốn nói gì khi Ngài kể hai sự kiện lịch sử có thật về người đàn bà góa ở Sa-rép-ta (người Hy Lạp gốc Phê-ni-xi) và người phung, tướng Na-a-man người Sy-ri?
51. Tại sao những người Do Thái tại Na-xa-rét nổi giận? Họ định làm gì Chúa Giê-su?
52. Nếu Chúa Giê-su, Con Đức Chúa Trời cần quyền năng của Đức Thánh Linh để làm công việc của Đức Chúa Trời tại thế; chúng ta cần gì để làm công việc của Đức Chúa Trời trong hội thánh?
53. Làm thế nào để có quyền năng của Đức Thánh Linh?
54. Một người có đầy quyền năng của Đức Thánh Linh sẽ luôn luôn được hoan nghênh và chấp nhận phải không? Tại sao?
55. Bạn nghĩ sao về một số người quan niệm rằng hội thánh chỉ nên nói đến những ân phúc, những điều ngọt ngào, khen ngợi con người mà thôi; không nên giảng dạy sự thật của Chúa nếu sự thật đó làm mích lòng người ta dù sự thật đó đôi khi chỉ ra, lên án thực trạng tội lỗi, xấu xa trong đời sống của họ?
III/ HÀNH TRÌNH PHỤC VỤ TẠI GALILE
4:14 - 6: 49
Bài 8
Vài hình ảnh Về Chức Vụ của Chúa Cứu Thế
Lu-ca 4:31-44
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Sau khi trình bày Chúa Cứu Thế tại quê hương Ngài, Lu-ca ghi lại sự kiện tại Ca-pha-na-um để cho thấy phản ứng của dân chúng ở đây khác với tại Na-xa-rét. Ca-pha-na-um tọa lạc tại phía tây bắc bờ hồ Ga-li-lê và là nơi cư ngụ chính của Chúa Giê-su khi Ngài thi hành chức vụ tại vùng Ga-li-lê (Mat 4:13-17).
Ngày nay khảo cổ tìm thấy dấu vết của một nhà thờ Byzantine vào thế kỷ thứ V và một hội đường của Cơ Đốc nhân Do Thái vào thế kỷ thứ IV. Những dấu vết của một hội đường Do Thái vào thế kỷ thứ III và I cũng được tìm thấy tại Ca-pha-na-um.
Trong đoạn này Lu-ca cũng cho chúng ta thấy một vài nét chấm phá về chức vụ của Chúa Giê-su. Chúa Giê-su đi thờ phượng tại hội đường mỗi ngày Sa-bát (Thứ bảy). Ngài dạy dỗ dân chúng về Lời Đức Chúa Trời (Kinh Thánh Cựu Ước), đuổi quỉ khỏi người bị ám, chữa lành các chứng bệnh. Lu-ca cho thấy Chúa Giê-su bắt đầu một ngày làm việc bằng sự cầu nguyện với Đức Chúa Cha ở nơi thanh vắng (c. 42; Mác 1:35).
Lu-ca ở cuối phân đọan này cũng ghi lại lời tuyên bố của Chúa Giê-su về mục đích hay sứ mệnh của Ngài tại thế gian. Lu-ca là một y sĩ (Côl 4:14) và là người đồng hành với Phao-lô (Công Vụ ch. 16, 20, 21, 27 ) trong các cuộc truyền giáo của Sứ Đồ cho người ngoại này vì thế khi ông ghi lại các cuộc chữa bệnh và đuổi quỉ, ông phân biệt rõ bệnh tật và bị quỉ ám. Hay nói một cách khác Lu-ca cho thấy có hai thực tại, sự hiện diện của ma quỉ, tà linh và lực lượng này là một quyền năng đen tối đang đàn áp, chế ngự loài người.
Thực tại thứ hai là bệnh tật thể chất cũng đang gây đau khổ cho nhân loại. Lu-ca không nói Chúa Giê-su đuổi quỉ để chữa bệnh; Ngài đuổi quỉ cho những người bị quỉ ám và chữa bệnh cho những người bị bệnh. Chúa Giê-su đã chữa bệnh cũng như đuổi quỉ chỉ bằng lời nói thông thường, không phải một câu thần chú, một vật thiêng hay bài kinh đặc biệt gì cả.
Chúa Giê-su có thẩm quyền của chính Ngài chứ không phải nhờ những vật hay những phép thần thông, ma thuật. Điều này bác bỏ một số quan niệm cho rằng Chúa Giê-su cũng như những thầy pháp (magician) thời cổ dùng ma thuật để chữa bệnh. Lu-ca cho chúng ta thấy Chúa Giê-su có quyền năng giải thoát con người ra khỏi sự đàn áp, chế ngự của các lực lượng tà linh, ma quỉ và Ngài cũng có quyền chữa lành bệnh tật.
Một số người theo quan niệm duy lý và vị khoa học thực nghiệm cho rằng vấn đề ma quỉ, tà linh là mê tín dị đoan của thế giới cổ hay lạc hậu. Tuy nhiên ngày nay tại những xã hội văn minh tân tiến người ta cũng đã chứng kiến nhiều hiện tượng siêu nhiên mà khoa học thực nghiệm không thể giải quyết và Bài Giải Đáp được.
Thật ra ngày nay đa số những người trí thức cũng không phủ nhận sự thực hữu của một thế giới siêu nhiên vựợt ra ngoài giới hạn và khả năng của khoa học thực nghiệm. Vì thế vấn đề ma quỉ, tà linh và phép lạ không phải là không thể có và cũng không phải là chuyện hoang đường, không có thật. Ma quỉ biết Chúa Giê-su là ai và sợ Ngài sẽ hủy diệt chúng nó vì Con Đức Chúa Trời sẽ đoán xét thế gian và Sa-tan cũng như ma quỉ (Khải 19:19-20:10; Giu-đe 6.)
Bài 9
Cuộc Đánh Lưới Cá Lạ Lùng và Phê-rơ
Lu-ca 5:1-11
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Đây là thời gian đầu khi Chúa Giê-su bắt đầu kêu gọi các môn đệ theo Ngài. Vì câu chuyện ở đây có nhiều điểm tương tự như câu chuyện ở Giăng 21 nên nhiều người cho rằng Lu-ca dùng câu chuyện của Giăng 21, nghĩa là câu chuyện sau khi Chúa Giê-su đã sống lại. Những người cho rằng Lu-ca dùng câu chuyện của Giăng 21 cũng hàm ý rằng Lu-ca huyền thoại hóa câu chuyện này.
Những người theo trường phái phê bình hình thức (form criticism) cho rằng câu chuyện của Lu-ca ở đây có tính chất huyền thoại. Tuy nhiên khi so sánh hai câu chuyện chúng ta thấy có nhiều điểm khác biệt: Bối cảnh khác nhau; lưới được mô tả khác nhau; phản ứng của Phê-rơ cũng khác nhau và Chúa ở trong thuyền trong câu chuyện của Lu-ca nhưng ở trên bờ theo câu chuyện của Giăng.
Một số người không chấp nhận phép lạ vì vũ trụ quan của họ chỉ chấp nhận những gì khoa học thực nghiệm có thể chứng minh được và không chấp nhận những hiện tượng siêu nhiên. Đối với những người chấp nhận khoa học thực nghiệm nhưng cũng tin vào thế giới siêu nhiên thì vấn đề phép lạ có thể xảy ra vì Lu-ca chứng tỏ là một người chân thật, cẩn thận trong việc ghi chép Phúc Âm. Hồ Ghê-nê-sa-rết tức là hồ Ga-li-lê.
Lu-ca ghi lại Chúa Giê-su dạy Lời Đức Chúa Trời cho dân chúng. Trong khi dạy dỗ Chúa Giê-su cũng tuyên bố những lời của Ngài chứ không phải chỉ Bài Giải Đáp Kinh Thánh Cựu Ước; ngoài ra Lu-ca cũng gọi những điều các sứ đồ dạy dỗ là Lời Đức Chúa Trời (Công Vụ 13:44; 16:32) vì thế nói chung Tân Ước cũng là Lời Đức Chúa Trời. Lu-ca cho thấy tại đây dân chúng rất ngưỡng mộ Chúa Giê-su và sự dạy dỗ của Ngài chứ không phải như tại Na-xa-rét. Si-môn Phê-rơ là người đánh cá chuyên nghiệp tại hồ Ga-li-lê.
Chúa Giê-su khi sinh sống tại Na-xa-rét vốn là một người thợ mộc (Mác 6:3) và có thể những người ở đây đều biết như thế vì vùng này không xa Na-xa-rét là mấy. Chúa Giê-su thấy hai chiếc thuyền nhưng Ngài chọn chiếc thuyền của Phê-rơ cho thấy Ngài có dụng ý tiếp xúc với Phê-rơ sau khi dạy. Ban đêm là thời gian có nhiều cá nên người chài lưới thường đánh cá vào ban đêm. Phê-rơ và những người đánh cá khác đã đánh suốt đêm nhưng không có cá.
Chúa Giê-su lại bảo những người đánh cá chuyên nghiệp này đi đánh cá vào ban ngày. Phản ứng của Phê-rơ cho thấy ông nhận thấy kiến thức và quyền năng siêu nhiên nơi Chúa Giê-su và ông cũng thấy thực trạng tội lỗi, không xứng đáng nơi mình. Nhiều người cho rằng thái độ của Phê-rơ chứng tỏ tấm lòng ăn năn, khiêm nhừơng của ông. Phê-rơ xưng Chúa Giê-su bằng “thầy” trước khi kéo lưới cá; sau đó ông gọi Ngài là “Chúa” chứng tỏ sự thay đổi lớn trong sự nhận thức của ông về Chúa Giê-su. Ngoài ra hành động quì gối trước mặt Chúa Giê-su cũng nói lên thái độ rất tôn kính. Chúa Giê-su kêu gọi họ trở nên tay đánh lưới cứu người.
Cả ba người, Phê-rơ, Gia-cơ và Giăng cùng đáp ứng ngay lời kêu gọi của Chúa Giê-su để bỏ tất cả đi theo Ngài. Hình ảnh và công việc đánh lưới cá được dùng để biểu tượng cho công việc cứu rỗi ngừơi ta vào nước Thiên Đàng. Môn đệ thời bấy giờ thường theo sống với thầy luôn chứ không phải chỉ học kiến thức mà thôi.
Bài 10
Phép Lạ Bày Tỏ Thẩm Quyền Tha Tội
Lu-ca 5:12-26
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Bệnh phung: Một loại bệnh ngoài da khác với bệnh cùi (Hansen’s disease). Lê-vi 13-14 mô tả thủ tục chẩn đoán bệnh và tuyên bố sạch bệnh. Kinh Thánh Cựu Ước đề cập đến bệnh này trong tình trạng ô uế và tinh sạch trên phương diện lễ nghi tôn giáo hơn là vệ sinh hay bệnh lý. Một người khi được sạch bệnh phải dâng tế lễ cho Chúa trước mặt thầy tế lễ để chứng tỏ mình tinh sạch và được trở lại sinh hoạt trong cộng đồng.
Người bị phung phải bị biệt lập ra khỏi cộng đồng cho đến khi tinh sạch. Người tinh sạch tránh tiếp xúc với người phung vì sợ bị lây ô uế và sờ người phung là một điều khủng khiếp và cấm kỵ. Học giả Mashall cho biết bệnh phung rất khó chữa lành; những mục sư Do Thái (rabbi) thời cổ cho rằng chữa lành bệnh phung cũng giống như cứu người chết sống lại.
Lu-ca ghi lại những điều này để cho thấy Chúa Giê-su không những có thẩm quyền chữa bệnh nhưng Ngài cũng đầy tình thương, sẵn sàng đưa tay sờ người phung, là điều mọi người ghê sợ, để chữa lành họ. Lời yêu cầu của người phung nhấn mạnh đến ý muốn của Chúa Giê-su, chứ không nói đến khả năng có thể chữa lành bệnh, có lẽ người bệnh đã nghe về khả năng chữa bệnh của Ngài.
Chúa dặn người được chữa lành hãy im lặng đi trình diện thầy tế lễ theo như Kinh Luật đòi hỏi, dâng tế lễ thanh tẩy và chứng tỏ cho họ biết anh đã được lành. Trong giai đoạn bắt đầu này Chúa Giê-su không muốn lôi cuốn sự ngưỡng mộ của đám đông dân chúng vì như thế sẽ đem đến sự ganh tị, chống đối của giới lãnh đạo Do Thái. Lu-ca không ghi, nhưng Mác ghi rõ (1:45) vì người này loan truyền tin tức về việc anh được chữa lành, nhiều người đến với Chúa Giê-su nên Ngài phải dạy dỗ họ ngoài đồng hoang và không thể vào thành phố cách công khai. Lu-ca cũng cho chúng ta thấy Chúa Giê-su coi vấn đề cầu nguyện là một phần quan trọng trong hoạt động của Ngài.
Chúa để thì giờ cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha trong khi hết sức bận rộn chứ không lợi dụng dịp tiện xây dựng thêm cho tiếng tăm của mình.
B. Lu-ca 5:17-26
Người Pha-ri-si: Tên này có thể đến từ chữ ‘phân rẽ’ hay biệt phái. Đây là một nhóm người cố giữ theo một số truyền thống cổ của tổ tiên Do Thái về cách sống theo các qui luật và nghi lễ của Ngũ Kinh mà họ cho rằng đa số người Do Thái ở thế kỷ thứ nhất trước và sau CN không còn gìn giữ.
Trong bốn sách Phúc âm, những người Pha-ri-si thường được mô tả như những người chống đối Chúa Giê-su. Tác giả các sách Phúc Aâm cho thấy họ bại hoại về đời sống tâm linh, đạo đức giả về tư cách và họ là những người lãnh đạo tôn giáo dẫn dân Do Thái đi vào chỗ hủy hoại. Giáo sư Kinh Luật: Lúc đầu giáo sư Kinh Luật là những người ghi chép các luật lệ của triều đình (2Vua 12:10) sau lập thành phường và thừa kế các thầy tế lễ và người Lê-vi trong việc Bài Giải Đáp và dạy dỗ Kinh Luật.
Trong bốn sách Phúc âm các giáo sư Kinh Luật thường đi với các thầy tế lễ và người Pha-ri-si. Họ cũng chống đối Chúa Giê-su và tham gia đắc lực trong cuộc xử án Ngài. Con Người: Lu-ca dùng danh hiệu này của Chúa Giê-su 25 lần. Hầu hết các học giả đồng ý rằng danh hiệu Con Người trích từ tiên tri Đa-ni-ên 7:13-14.
Con Người trong Đa-ni-ên đến trên đám mây với uy quyền của Đấng Thái Cổ. Ở đây Con Người làm cho người bại liệt đi được và có thẩm quyền tha tội, một uy quyền đặc biệt của Đức Chúa Trời. Danh tiếng của Chúa Giê-su đã lan rộng từ nam chí bắc vì những người Pha-ri-si và giáo sư Kinh Luật khắp nơi đến để xem và nghe Ngài dạy. Lu-ca đề cập đến những người lãnh đạo tôn giáo này và ghi lại phản ứng của họ về những lời dạy dỗ và hành động của Chúa Giê-su; ông cũng đối chiếu với phản ứng của dân chúng, đám đông đối với Chúa Giê-su.
Nhà ở Do Thái thời bấy giờ thường có tầng gác phía trên; thang lên tầng gác ở bên ngoài. Mái thường là mặt phẳng; lót một lớp sậy trét lớp đất sét dày bên trên. Một số người cho rằng Lu-ca dùng từ ‘ngói’ là sai vì nhà Do Thái thời ấy không lợp bằng ngói. Tuy nhiên từ ‘ngói’ mà Lu-ca dùng cũng có nghĩa là miếng đất sét và như thế thì không có gì sai. Ngoài ra một số người cho rằng vì Lu-ca viết cho người ngoại quốc nên ông dùng từ ngữ quen thuộc với họ tức là ‘ngói’ lợp mái nhà, chứ không phải là ông không biết và dùng sai từ ngữ.
Lu-ca ghi lại câu chuyện này để cho thấy hoạt động của Chúa Giê-su không phải chỉ là dạy dỗ Lời Chúa, chữa bệnh mà còn đi xa hơn thế nữa, đi vào lãnh vực tâm linh. Chúa Giê-su tuyên bố có quyền tha thứ tội lỗi. Các giáo sư Kinh Luật và người Pha-ri-si cho rằng chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền tha tội. Như thế Chúa Giê-su đã phạm thượng. Theo Cựu Ước tội phạm thượng sẽ bị xử tử. (Lê-vi 24:10-16) Chúa Giê-su ‘biết sự suy luận trong tâm trí họ’ chỉ về khả năng biết được tư tưởng của con người.
Một số người cho rằng đây chỉ là một sự nhận xét bén nhạy mà thôi chứ không phải sự hiểu biết siêu nhiên. Mặc dù ngôn ngữ ở đây không xác nhận sự hiểu biết này là siêu nhiên nhưng Lu-ca ám chỉ sự suy luận trong tâm trí chứ không phải họ nói ra. Nếu chúng ta so sánh với những trường hợp khác trong bốn sách Phúc Aâm như Giăng 2:23-25 thì sự hiểu biết ở đây là một sự hiểu biết siêu nhiên của Con Đức Chúa Trời. Chúa Giê-su hỏi: ‘Tội lỗi con đã được tha’ hay ‘Hãy đứng dậy mà đi’ điều nào dễ hơn?
Tuyên bố tha tội là một điều khó vì chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền tha tội, nhưng điều này dễ nói vì không có gì để chứng minh là sự tha tội đã xảy ra hay không, hay không thể chứng minh rằng lời tuyên bố trên đúng hay sai. Chữa bệnh là một điều tương đối dễ hơn vì con người có thể làm được, nhưng điều khó là phải chứng minh rằng người kia lành bệnh.
Vấn đề ở đây là lời Chúa Giê-su tuyên bố có thẩm quyền thật không hay chỉ là lời nói suông. Chúa Giê-su cũng liên kết sự chữa bệnh với sứ điệp thiêng liêng và thẩm quyền tâm linh của Ngài. Một vấn đề khác cũng được đặt ra: Bệnh tật có phải là hậu quả của tội lỗi cá nhân không? Hay nói một cách khác vì người này phạm tội gì đó nên bị bại liệt. Ở đây ngôn ngữ không thể xác định rõ là tội cá nhân hay tội lỗi nói chung.
Trong Giăng 5:1-14 Chúa dạy người kia đừng phạm tội nữa để khỏi bị bệnh tệ hại hơn. nhưng trong Giăng 9:2-3 Chúa Giê-su cho thấy bệnh tật là hậu quả của tội nói chung trên thế giới này. Vì thế chúng ta không thể và không nên kết luận vội vã rằng một người mắc bệnh là vì người đó phạm tội gì đó. Tuy nhiên tội lỗi sẽ đem đến nhiều hậu quả tai hại và bệnh tật có thể là một trong những hậu quả đó. (Gia-cơ 5:15)
Bài 11
Chúa Kêu Gọi Lê-vi
Lu-ca 5:27-39
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Lê-vi, cũng có tên là Ma-thi-ơ (Math 9:9-17) là một người thu thuế. Có thể Lê-vi là nhân viên thuế vụ của Hê-rốt Antipas có văn phòng ở Ca-pha-na-um. Những người buôn bán đem đồ từ chỗ khác đến vùng này đều bị đánh thuế. Một số tiền thuế được gởi về Rô-ma, một số khác do chính quyền địa phương giữ.
Dù là nhân viên thu thuế địa phương, Lê-vi cũng bị coi là người theo chính quyền ngoại quốc bóc lột dân nghèo. Về phương diện tôn giáo, người thu thuế bị coi là ô uế, tội lỗi, không thành thật, gian lận, bóc lột và tham lam. Sách Bài Giải Đáp Do Thái giáo cho rằng người thu thuế như trộm cướp. Người thu thuế cũng có thể là người thầu thu thuế (như Xa-chê ) cho đế quốc La Mã.
Những người này thầu trả cho đế quốc La mã một số tiền nhất định mỗi năm và thu lại từ dân chúng trong vùng. Dĩ nhiên là những người này lợi dụng quyền hành bóc lột dân chúng để thu lại gấp bội nên thường là những người rất giàu có và quyền thế.
Những người thu thuế cho đế quốc La Mã thường bị người ta, nhất là giới lãnh đạo tôn giáo khinh bỉ và coi là tội lỗi, bóc lột dân nghèo nhưng cũng là những người thông đồng với đế quốc, phản quốc. Lu-ca cho thấy Chúa Giê-su chọn và tiếp xúc với những người bị xã hội khinh bỉ, ruồng bỏ. Lu-ca cũng cho thấy quan niệm và gương của Chúa Cứu Thế trong việc sống và truyền giáo trong xã hội. Qua những biến cố này Lu-ca cho thấy một phần nào quan niệm, cách sống của những người lãnh đạo và sùng kính Do Thái giáo thời bấy giờ.
Người Pha-ri-si và giáo sư Kinh Luật chủ trương không giao thiệp và tiếp xúc với những người bị coi là xấu xa, tội lỗi, vô đạo đức và phản quốc. Những người Pha-ri-si phàn nàn với các môn đệ của Chúa Giê-su vì Ngài tiếp xúc, tham dự tiệc ở giữa họ (người thu thuế và tội lỗi). Hãy chú ý đến sứ mệnh của Chúa Giê-su, hay là mục đích của Ngài khi Ngài hành động như đã thấy (c. 32) và Chúa Giê-su không đồng ý cũng như hoan nghênh, ủng hộ hành động và cách sống của những người thu thuế. Chúa Giê-su tiếp xúc, liên lạc để đem họ về với chân lý cứu rỗi chứ không phải hợp tác, hỗ trợ và khuyến khích họ sống và tiếp tục hành động tội lỗi.
Chúa Giê-su nhấn mạnh đến giải pháp cứu rỗi và ân huệ của Đức Chúa Trời để được cứu rỗi vẫn còn mở rộng cho người tội lỗi, chứ không phải cách biệt. Lu-ca cũng cho chúng ta thấy những sự khác biệt căn bản giữa Chúa Cứu Thế và những nhà lãnh đạo Do Thái giáo cùng sự chống đối Chúa Cứu Thế ngày càng trở nên nghiêm trọng và gay gắt. Aên năn: Sự thay đổi thái độ và tư tưởng về tội lỗi và về Đức Chúa Trời; từ bỏ tội lỗi cũng như con đường tội lỗi để quay trở về với Đức Chúa Trời và đường lối của Ngài. Lu-ca 24:46-47 Chúa Giê-su dùng hình ảnh bệnh tật và thầy thuốc để chỉ tội lỗi là bệnh tật thuộc linh và cần phải được chữa trị.
Người bệnh cũng cần ý thức rằng mình bị bệnh để được cứu chữa. Lu-ca cũng cho thấy đào tạo môn đệ là một mục đích trong sứ mệnh của Ngài tại thế gian; ông đã ghi lại cách Chúa Giê-su chọn và đào tạo môn đệ của mình. Kiêng ăn và cầu nguyện: Kinh Thánh Cựu Ước dạy người Do Thái phải kiêng ăn vào ngày lễ Xá Tội (Lê-vi 16:29-31; 23:27-29; Dân 29:7) .
Ngoài ra người ta cũng kiêng ăn trong những trường hợp đặc biệt để cầu nguyện, để chuẩn bị tấm lòng thờ phụng Chúa, vì đang ở trong hoàn cảnh buồn, để cầu nguyện xin giải cứu v.v.
Người Do Thái giữa thời Cựu Ước và Tân Ước kiêng ăn vào ba dịp:
Lễ Xá Tội, Năm Mới và để tránh những tai họa sắp đến. Người Do Thái vào thời Tân Ước, những phái Pha-ri-si, người sống trong các cộng đồng Qumran đặt thêm những luật lệ kiêng ăn; người Pha-ri-si kiêng ăn một tuần hai lần.
Việc kiêng ăn thông thường nhất là kiêng, không ăn uống gì từ khi mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn. Sau đó người ta ăn uống như thường. Kiêng ăn và cầu nguyện thường đi với nhau. Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài có vẻ như không theo những qui luật về kiêng ăn của người Pha-ri-si thời ấy nên họ phàn nàn. Chúa Giê-su cho rằng đang khi Ngài còn ở với các môn đệ thì họ không cần kiêng ăn, vì đó là lúc vui mừng.
Chúa Giê-su không bãi bỏ lệ kiêng ăn nhưng chỉ thực hành đúng lúc. Chúa Giê-su cũng như các môn đệ sau đó tin và thực hành vấn đề kiêng ăn nhưng không qui định các luật lệ về kiêng ăn. Lu-ca cũng nói về sự tận hiến của Lê-vi khi theo Chúa Giê-su. Lê-vi lập tức từ bỏ tất cả, tức là bỏ một nghề nghiệp tương đối an toàn và ổn định về tài chính và đi theo Chúa Giê-su.
Lê-vi mở tiệc lớn đãi Chúa và giới thiệu bàn bè mình với Ngài. Ngụ ngôn xé vải áo mới vá vào áo cũ mang một chút hài hước, mỉa mai. Chúa Giê-su cũng cho thấy Ngài quan niệm đường lối của Ngài là mới mẻ và tốt đẹp hơn là những truyền thống cũ của người Pha-ri-si và giáo sư Kinh Luật. Người ta không thể kết hợp đường lối của Chúa Cứu Thế và đường lối theo truyền thống Pha-ri-si và những giáo sư Kinh Luật mà không hư hại dù hai đường lối đó đều bắt nguồn và đặt nền tảng trên Cựu Ước.
Người ta không đổ rượu mới vào bầu da cũ. Bầu da là bình làm bằng da cừu hay da dê. Bình da cũ lâu ngày trở nên giòn, dễ nứt và bể. Rượu mới còn lên men, nở thể tích làm bình da cũ nứt. Phúc Aâm của Chúa Giê-su không thể ở trong Do Thái giáo mà không làm hư hại cả hai. Cách mới mà Đức Chúa Trời đối xử với nhân loại qua Chúa Cứu Thế Giê-su không thể trộn lẫn với cách cũ.
Phúc âm của Chúa Cứu Thế không phải là cách vá lại con đường cũ của Do Thái giáo theo truyền thống Pha-ri-si. Vấn đề Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo là vấn đề những người tín hữu gốc Do Thái phải đối diện và được giải quyết trong sách Công Vụ và Ga-la-ti. Chúa Cứu Thế Giê-su là hình thật, là Chân Lý, những nghi lễ tôn giáo, luật lệ Cựu Ước chỉ là hình bóng. Cô-lô-se 2:16-17 Câu 39 là một châm ngôn của thời đó. Theo kinh nghiệm thực tế rượu để lâu là rượu ngon. Một người đã uống rượu cũ và hài lòng với rượu đó thì sẽ không muốn uống rượu mới. Một số người cho rằng những người Pha-ri-si sẽ không thay đổi nhưng những người khác sẽ hưởng ứng nhanh chóng.
Qua những lần đối diện và thái độ chống đối của giới lãnh đạo Do Thái giáo, có lẽ Chúa Giê-su muốn ám chỉ sự từ khước của họ đối với Phúc Aâm của Ngài.
Bài 12
Chúa Cứu Thế và Ngày Sa-bát
Lu-ca 6:1-11
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Ngày Sa-bát (Thứ Bảy) là ngày thánh để nghỉ ngơi, thờ phượng theo như mười Điều Răn dạy (Xuất 20:8-11). Các giáo sư Do Thái giáo đã đặt thêm 39 điều lệ để qui định những hoạt động nào là hợp lệ và những hoạt động nào là vi phạm điều răn ngày Sa-bát.
Theo như những qui luật này thì các môn đệ của Chúa đã bứt bông lúa, lấy tay vò đi và ăn tức là đã gặt, đập lúa, sàng sảy và chuẩn bị thức ăn, nghĩa là vi phạm bốn điều trong ngày Sa-bát. Thật ra Kinh Thánh (Phục 23:25) cho phép người ta bứt bông lúa. Những người Pha-ri-si than phiền các môn đệ của Chúa vì cho rằng họ đã vi phạm ngày Sa-bát chứ không phải vì bứt bông lúa mì. Chúa Giê-su dùng câu chuyện của Đa-vít trong 1Sam 21:1-7 và 22:9-10 để trả lời người Pha-ri-si.
Những người này rất quen thuộc với biến cố này trong cuộc đời vua Đa-vít. Bánh thánh trong Đền Tạm chỉ dành cho thầy tế lễ ăn; người khác không được phép ăn. Truyền thống Do Thái cho rằng biến cố này xảy ra vào ngày Sa-bát. Kinh Thánh không nói rõ; nếu quả thật đây là ngày Sa-bát thì lý luận của Chúa Giê-su càng mạnh mẽ hơn nữa. Rõ ràng ở đây Đa-vít đã vi phạm luật về bánh thánh nhưng Kinh Thánh không có chỗ nào lên án Đa-vít cả. Nếu người Pha-ri-si lên án Chúa Giê-su và môn đệ của Ngài thì họ cũng lên án Đa-vít và những người theo ông.
Dĩ nhiên những người Pha-ri-si không dám lên án vua Đa-vít cho nên họ cũng không thể lên án Chúa Giê-su và môn đệ của Ngài. Chúa Giê-su nêu lên trường hợp của vua Đa-vít để cho thấy cách giải thích và áp dụng Kinh Luật của người Pha-ri-si là sai lầm.
Người Pha-ri-si có đọc và biết câu chuyện Kinh Thánh về Đa-vít nhưng họ không hiểu đúng ý nghĩa của nó vì họ không đọc với một tâm trí cởi mở và tấm lòng sẵn sàng vâng phục nhưng có định kiến. Chúa Giê-su là người giữ theo Kinh Luật và hoan thành nó chứ không phải vi phạm.
Trong trường hợp này Chúa Giê-su cho thấy nhu cầu sự sống của con người là quan trọng hơn luật lệ về nghi lễ. Luật về ngày Sa-bát đặt ra là để giúp ích cho con người sống phong phú, sung mãn hơn; Ma-thi-ơ và Mác giải thích rõ hơn về điểm này (Math 12:1-8; Mác 2:23-28). Chúa Giê-su cho thấy Ngài áp dụng tinh thần và ý định của luật chứ không phải áp dụng luật theo từng chữ. Danh hiệu Con Người ở đây có thể hiểu như là đại diện cho loài người.
Nếu hiểu theo nghĩa này Chúa Giê-su là đại diện cho loài người và có quyền trên ngày Sa-bát và cách Bài Giải Đáp của Ngài có thẩm quyền hơn cách Bài Giải Đáp của người Pha-ri-si. Nhưng học giả Leon Morris cho thấy Chúa Giê-su không bao giờ dạy rằng loài người có quyền hơn những nguyên tắc thiêng liêng do Chúa lập nên. Ngoài ra danh hiệu Con Người cũng có thể chỉ về Đấng Mê-si-a và nếu như thế thì Chúa Cứu Thế chính là Chúa đã sáng tạo ra ngày Sa-bát và Ngài hoàn toàn có thẩm quyền giải thích luật để thi hành trong ngày Sa-bát.
Theo các qui luật của người Do Thái, người ta không được chữa bệnh vào ngày Sa-bát ngoại trừ trường hợp nguy hiểm đến tính mạng, sinh con hay làm phép cắt bì cho trẻ con. Ở đây người bị liệt tay không phải là trường hợp khẩn cấp, nguy hiểm đến tính mạng. Chúa Giê-su biết như thế nhưng Ngài vẫn chữa lành cho người bệnh; điều này cho thấy rõ hơn quan niệm và cách giải thích Điều Răn của Chúa Cứu Thế khác hơn truyền thống Do Thái.
Giới chuyên gia Kinh Luật và người Pha-ri-si theo dõi với ý do thám để lấy bằng chứng tố cáo Chúa Cứu Thế.
Câu hỏi của Chúa có hai hàm ý:
1/ Làm điều thiện hay điều tốt đẹp, đem lại lợi ích cho đời sống con người. Luật và Điều Răn được lập ra để bảo vệ gìn giữ đời sống con người; để con người không làm việc quá sức suốt bảy ngày trong tuần; để con người có thì giờ nghỉ ngơi về phần thể xác và có thì giờ thờ phượng Đức Chúa Trời, bồi dưỡng phần tâm linh.
2/ Cứu chữa con người, ở đây chỉ về vấn đề phục hồi, chữa lành người bị đau yếu, bệnh tật là một điều nên làm. Yêu mến và đáp ứng nhu cầu sống căn bản có ưu tiên hơn là câu nệ, cố chấp về luật lệ. Câu hỏi và hành động chữa lành người bị liệt tay cho thấy Chúa Giê-su hiểu và thi hành theo tinh thần và ý định tốt lành của Kinh Luật. Ngoài ra Chúa Giê-su cũng hàm ý sự cố chấp và câu nệ luật lệ của người Do Thái là điều sai, điều ác vì dẫn đến tai hại và hủy diệt. Chúa Giê-su sống và hành động đúng theo Luật Chúa chứ không phải vi phạm và hủy bỏ Kinh Luật (Mat 5:17-18).
Trong đoạn trước (5:36-39) Chúa Giê-su đã kể các ngụ ngôn để giới thiệu về thời đại mới, đường lối mới cùng một vương quốc và công dân thiên Quốc mới. Vì thế Cơ Đốc nhân là những người tin theo Chúa Giê-su cũng có những nguyên tắc mới để theo. Đức Chúa Trời ban cho người Do Thái luật về ngày Sa-bát như là một ngày thánh, một giao ước và dấu hiệu giữa Ngài và họ.
Xuất 20:8-11; 31:12-17.
Ngày Sa-bát được liên kết với sự sáng tạo trời đất và biểu hiệu cho sự yên nghỉ. Đối với Cơ Đốc nhân ngày Chúa Nhật là ngày hoàn tất sự sáng tạo mới (2Cô 5:21; Eâph 4:23-24). Ngày Chúa Nhật là ngày Chúa Cứu Thế Giê-su sống lại từ cõi chết, mở đầu một kỷ nguyên mới.
Hội thánh đầu tiên mới đầu cũng họp lại vào ngày Sa-bát tức thứ Bảy nhưng khi có sự chống đối của người Do Thái cũng như khi số người ngoại quốc tin Chúa nhiều lên, hội thánh bắt đầu họp thờ phượng Chúa vào ngày Chúa Nhật (Công Vụ 20:7; 1 Cô 16;1-2). Tín hữu của Chúa Giê-su không phải là người Do Thái; hội thánh của Chúa không phải là nước Do Thái vì thế chúng ta không bị ràng buộc vào giao ước với người Do Thái và chúng ta được cứu rỗi là do ân huệ, nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-su, không phải nhờ giữ luật lệ. Vì thế người tín hữu ngày nay dùng ngày Chúa Nhật làm ngày nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa không vi phạm luật ngày Sa-bát của Chúa dành cho người Do Thái.
Ngoài ra theo tinh thần của Chúa Giê-su trong đoạn này Cơ Đốc nhân giữ ngày Chúa Nhật làm ngày nghỉ và thờ phượng Chúa là làm đúng theo tinh thần của luật về ngày Sa-bát, chứ không vi phạm luật.
Bài 13
Chúa Chọn Mười Hai Sứ Đồ
Lu-ca 6:12-19
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Lu-ca cho chúng ta thấy từ khi Chúa Giê-su bắt đầu giảng dạy công khai thì sự chống đối Ngài từ giới lãnh đạo Do Thái giáo cũng gia tăng; trong khi đó đám đông dân chúng ngưỡng mộ Chúa lan tràn. Trong bối cảnh của thế lực chống đối Ngài cũng như ngưỡng mộ Ngài như thế, Chúa Giê-su kêu gọi và tuyển mộ một số người để theo Ngài.
Đây là những cột trụ của hội thánh đầu tiên sau này khi Chúa Giê-su về trời. Trước khi chọn mười hai Sứ Đồ, Chúa Giê-su thức suốt đêm cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha. Điều này đã trở nên một mẫu mực trong đời sống của môn đệ Chúa (tín hữu) lẫn hội thánh Chúa sau này. Các môn đồ và Sứ Đồ đều để nhiều thì giờ cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời trước khi có những quyết định quan trọng. (Công Vụ 6:6; 13:2-3; 14:23) Mười hai môn đồ Chúa chọn và đặt cho danh hiệu Sứ Đồ.
Sứ mệnh hay trách nhiệm và danh hiệu đi kèm theo nhau. Ma-thi-ơ 10:1-4 ghi rõ Chúa ban cho mười hai Sứ Đồ quyền uy chữa bệnh và đuổi quỉ. Mác ghi lại Chúa cho mười hai Sứ Đồ theo bên Ngài; sai đi truyền giảng. Tiến trình huấn luyện để trở thành Sứ Đồ gồm có việc sống bên cạnh Chúa; mối liên hệ gần gủi, thân thiết với Chúa; học bằng cách nghe, thấy, theo gương và thi hành sứ mạng của Thầy mình. Theo Công Vụ 1:21-22 Chúa chọn những môn đồ đã theo Ngài từ khi Giăng Báp-tít làm phép báp-tem để theo Ngài cho đến khi Ngài về trời. Như thế thời gian theo Chúa là một trong số các yếu tố để Chúa chọn nhóm người lãnh đạo Hôị Thánh sau này.
Trong các danh sách của mười hai Sứ Đồ, Phê-rơ luôn luôn đứng đầu danh sách và Giu-đa ích-ca-ri-ốt cuối danh sách kèm theo lời chú thích: Kẻ phản Ngài. Nhóm thứ nhất trong danh sách luôn luôn là Phê-rơ, An-rê, Gia-cơ và Giăng. Có ba nhóm, mỗi nhóm gồm bốn người mà những người đứng đầu các nhóm nhỏ luôn luôn là Phê-rơ, Phi-líp và Gia-cơ con A-phê.
Sự chọn lựa Giu-đa Ích-ca-ri-ốt là một điều lạ lùng vì Chúa biết trước rằng người này sẽ phản Ngài. Con số mười hai có thể mang một ý nghĩa quan trọng và liên hệ đến Cựu Ước, dân tộc Do Thái như 12 trưởng tộc, 12 chi tộc Do Thái; ở đây Chúa chọn 12 Sứ Đồ cho Hội Thánh Ngài. Từ ngữ Sứ Đồ cũng được dùng trong nhiều đoạn Kinh Thánh khác và cho một số người khác hơn là mười hai người do Chúa Giê-su chọn để theo Ngài. Công Vụ 14:4; Rô 16:7; 1Cô 9:4-6; 2Cô 8:23; Phi 2:25) Từ này có nghĩa tổng quát là “người đại diện được sai phái, sứ giả”.
Trong Tân Ước mười hai Sứ Đồ trở nên những sứ giả đặc biệt của Chúa Giê-su chọn. Si-môn Phê-rơ: Oâng luôn luôn đứng đầu danh sách và Phê-rơ là tên Chúa đặt cho ông. Phê-rơ có nghĩa là đá. Phê-rơ làm nghề đánh cá, người ở Ca-pha-na-um, Ga-li-lê. An-rê: Em của Phê-rơ; cũng làm nghề đánh cá. Gia-cơ và Giăng: Con của ông Xê-bê-đê và được gọi là con trai của sấm sét. Hai người này cũng là người Ga-li-lê và làm nghề đánh cá. Có thể hai người là anh em bà con với Chúa Giê-su vì Sa-lôm là chị của bà Ma-ri (Giăng 19;25; Mat 27:56; Mác 15:40).
Gia-cơ là người tử đạo rất sớm (Công Vụ 12:1-2). Giăng theo truyền thuyết được gọi là “Giăng yêu dấu” và sống thọ nhất trong số các sứ đồ. Phi-líp: Người ở Bết-sai-đa và giới thiệu Na-tha-na-ên với Chúa Giê-su. Ba-thê-lê-mi: Theo truyền thuyết, người cũng có tên là Na-tha-na-ên. Giăng 1:45 mặc dù truyền thuyết này có từ thế kỷ thứ chín nhưng có thể đúng vì Giăng 21:2 Na-tha-na-ên được kể trong danh sách các sứ đồ.
Ma-thi-ơ: Ong cũng có tên là Lê-vi, người thâu thuế. Một người thuộc những người bị xã hội và nhất là giới lãnh đạo tôn giáo coi thường và đặt ngoài lề xã hội.
Thô-ma: Tên này có nghĩa là “sinh đôi”. Thô-ma được ghi nhớ vì tính nghi ngờ của ông (Giăng 20:24-29). Theo truyền thuyết Thô-ma đi truyền giáo đến tận Ba-tư và Aán Độ.
Gia-cơ con A-phê: Nhiều học giả đề nghị ông là Gia-cơ nhỏ mà Mác nói đến (Mác 15:40) nhưng không có nhiều bằng chứng hỗ trợ.
Si-môn thuộc đảng Ca-na-an: Cũng được gọi là Si-môn Nhiệt thành hay Cách mạng. Một sử gia Do Thái cho biết vào thời đó có một đảng phái chính trị gồm những người quốc gia Do Thái về giáo lý thì theo người Pha-ri-si nhưng chủ trương lật đổ chính quyền La Mã bằng vũ lực. Nhóm người này sau bị quân La mã tàn sát tại núi Masada. Có thể trước khi theo Chúa Giê-su, Si-môn là một thành viên của đảng này.
Giu-đa con Gia-cơ: Có thể ông cũng có tên là Tha-đê hay là Giu-đa khác để phân biệt với Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Giu-đa Ích-ca-ri-ốt: Luôn luôn kể ở cuối danh sách và chú thích là người phản Chúa. Từ ích-ca-ri-ốt có thể là tên họ nhưng cũng có thể chỉ về một địa danh ở Giu-đê. Nếu đây là tên điạ danh thì có thể ông là người duy nhất trong số mười hai Sứ Đồ đến từ miền Giu-đê hay miền nam Do Thái.
Quan sát mười hai Sứ Đồ Chúa chọn chúng ta thấy họ là những người có nghề nghiệp khác nhau, địa phương khác nhau, khuynh hướng chính trị khác nhau, cá tính khác nhau. Chúa Giê-su chọn ngay cả kẻ sẽ phản Ngài cho thấy tình thương và ân huệ của Chúa thật là vĩ đại và sự tự do chọn lựa và quyết định mà Đức Chúa Trời ban cho con người là hoàn toàn thật.
Bài 14
Bài Giảng Phúc Họa
Lu-ca 6:20-26
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Bài giảng này của Chúa Giê-su do Lu-ca ghi lại được gọi là Bài Giảng Dưới Đồng Bằng vì câu Lu-ca 6:17. để phân biệt với Bài Giảng Trên Núi của Ma-thi-ơ 5. Tuy nhiên từ ‘đồng bằng’ cũng có nghĩa là nơi bằng phẳng trên núi vì thế không nhất thiết là Chúa Giê-su và các môn đệ xuống vùng đồng bằng nhưng họ chỉ xuống một nơi bằng phẳng trên núi.
Các học giả tranh luận về ba giả thuyết:
1/ Hai đoạn Ma-thi-ơ 5 và Lu-ca 6 là hai bài giảng khác nhau.
2/ Hai đoạn trên nói về một bài giảng; Lu-ca trình bày tóm lược hơn Ma-thi-ơ.
3/ Hai tác giả ghi lại một bài hợp tuyển những lời dạy của Chúa Giê-su.
Quan điểm về vấn đề này vẫn chưa có một sự đồng nhất vì chúng ta không có đủ dữ kiện để xác định. Tuy nhiên theo một số các học giả Tin Lành thuần túy đây có thể là một bài giảng được giảng trong hai trường hợp khác nhau với một số tiểu tiết khác nhau cho hai mục tiêu khác nhau. Về vấn đề ý nghĩa thần học, có nhiều người chủ trương nhiều đường lối khác nhau nhằm giải thích bài giảng của Chúa.
Sau đây là một số chủ trương chính:
1/ Bài giảng nói về nguyên tắc cứu rỗi.
2/ Bài giảng nói về vấn đề xã hội.
3/ Bài giảng nói đến điều kiện lý tưởng để đem người ta đến chỗ ăn năn.
4/ Bài giảng nói đến hai loại nguyên tắc cho người thường và cho giới tư tế hay chức sắc tôn giáo.
5/ Bài giảng nói về những nguyên tắc sống trong Vương Quốc tương lai trong thời lai thế.
6/ Bài giảng nói về nguyên tắc đạo lý cho thời đại hiện tại, giữa Cựu ước và Vương Quốc đời đời.
7/ Bài giảng nói về nguyên tắc sống trong hai phạm trù tâm linh cá nhân và xã hội thế tục.
Ngoài ra cũng có nhiều quan điểm khác nữa nhưng mỗi quan điểm đều có một số yếu tố hợp lý và mỗi quan điểm đều bị ảnh hưởng của quan niệm thần học, xã hội hay triết lý của mình; không có quan điểm nào hoàn toàn giải thích thỏa đáng mọi nan đề. Chúng ta có thể tạm chấp nhận quan điểm của học giả Darrell Bock (Luke 1994: 943)
“ Bài giảng là một nền đạo đức mà sự công bình và trả thù thuộc về Đức Chúa Trời, trong khi người ta dựa trên ân huệ và tình yêu thương để sống.” Bài giảng của Chúa chủ yếu cho các môn đệ, tức là cho tín đồ nhưng không nhất thiết là chỉ cho tín đồ nhưng cho bất cứ ai đáp ứng lại lời kêu gọi của Chúa. Bài giảng này gồm có hai phần phước và họa. Phước 6:20-23; họa 6:24-26 Phước hay là hạnh phúc là một tình trạng phúc lành nội tâm và hoàn cảnh may mắn. Phước này chủ yếu được mô tả trong hiện tại chứ không phải chỉ về tương lai vì động từ ở thể hiện tại nhưng khi chúng ta xét lời giảng như là một lời hứa thì nó cũng chỉ về hy vọng và tương lai cho bất cứ ai đáp ứng lại lời hứa của Đức Chúa Trời. Lu-ca dùng ngôi thứ hai ‘các con’ cho thấy Chúa chỉ về cá nhân chứ không phải ‘cộng đồng xã hội’ nói chung.
Người nghèo khổ được Lu-ca nhắc đến trong 4:18 (trích từ tiên tri I-sa 61:1) là những người được nghe Phúc âm cho nên không phải là người nghèo về phương diện vật chất, kinh tế xã hội mà thôi nhưng là nghèo về phương diện tâm linh nữa. Trong thời Cựu Ước người nghèo khổ sùng kính là người vì nghèo khổ về vật chất cho nên họ nương cậy vào Đức Chúa Trời để chu cấp và bảo vệ họ, vì thế từ ‘nghèo khổ’ luôn luôn gắn liền với ý nghĩa tâm linh. Nếu chúng ta so sánh với bài giảng trên núi Ma-thi-ơ 5:3 ‘nghèo khổ trong tâm linh’ thì ý nghĩa về tâm linh càng trở nên rõ ràng hơn.
Người nghèo và nhận thức được sự nghèo khổ của tâm linh và tin cậy vào Đức Chúa Trời để vượt qua hoàn cảnh nghèo khổ cả vật chất lẫn tâm linh là người đang ở trong Nước Đức Chúa Trời. Người đói khát vì thiếu ăn cũng bao gồm cả vấn đề vật chất, kinh tế xã hội lẫn tâm linh. Nếu chúng ta so sánh với Lu-ca 4:4 khi Chúa Giê-su đang đói khát và bị cám dổ; câu trả lời của Ngài trích từ Cựu Ước cho thấy sự sống vật chất và tâm linh luôn luôn liên hệ mật thiết với nhau.
Vì thế vấn đề đói khát ở đây cũng như vấn đề nghèo khổ ở trên, Chúa muốn nói đến cả hai. Tuy nhiên lời hứa no đủ không phải là một lời hứa có tính cách chính trị hay kinh tế xã hội mà là tâm linh liên kết với kinh tế xã hội. Người đang khóc lóc là người bị đau khổ, buốn thảm. Văn mạch của đoạn này đòi hỏi chúng ta phải hiểu như hai điều trước, tức là đau khổ về tâm linh lẫn tình cảm. Con người không những đau khổ về nội tâm nhưng cũng vì bị bất công, áp bức, lưu đày trong xã hội như các tuyển dân của Chúa và các tiên tri thời xưa. Niềm vui của những người tin cậy nơi Chúa để sống không những là niềm vui nội tâm hiện tại nhưng cũng là niềm vui hoàn toàn trong cõi lai thế, trong Nước Vĩnh Phúc.
Phước trong lời dạy thứ tư của Chúa hoàn toàn có tính cách tâm linh vì nó liên hệ đến đức tin của những người theo Chúa Cứu Thế nên bị ngược đãi, chống đối. Chúa Giê-su cũng cho thấy những người theo Chúa sẽ gặp sự chống đối và đàn áp nhưng đồng thời họ cũng nhận được phước thiên thượng. Người tin theo Chúa Cứu Thế sẽ bị ghen ghét, loại trừ, lăng mạ và xóa tên. Bị ghét là điều các môn đệ của Chúa sẽ bị. Trong một xãhội mà tôn giáo và văn hóa hòa nhập với nhau quá sâu xa, người bỏ tôn giáo cũ, theo một tôn giáo mới thường bị thù ghét. Loại trừ ở đây có thể là khai trừ ra khỏi hội đường của người Do Thái.
Tuy nhiên trong bối cảnh cũa Lu-ca, một người ngoại quốc và viết cho người ngoại quốc thì sự loại trừ có nhiều tính cách xã hội nói chung hơn là chỉ bị loại trừ ra khỏi hội đường Do Thái. Loại trừ có thể bao gồm vấn đề gia tộc hay cộng đồng xã hội từ bỏ. Lăng mạ là hành động nhục mạ bằng lời nói. Xóa bỏ tên như phường gian ác là coi như người ác, ô uế và vì thế không muốn liên hệ với nữa. Tất cả những điều này xảy ra vì một người tin theo Chúa Cứu Thế. Một người khi có mối liên hệ với Chúa Cứu Thế thì có thể bị trần tục bắt bớ, từ khước, cắt đứt liên hệ hay tẩy chay nhưng người đó được phước từ Đức Chúa Trời. ‘Ngày ấy’ chỉ về lúc người tín hữu bị bắt bớ hay từ khước chứ không phải chỉ về cõi tương lai trên thiên đàng. Vì từ ‘ngày ấy’ được đối chiếu với ‘hiện nay’ (câu 21).
Thái độ vui mừng khi bị bắt bớ, ngược đãi là một chủ đề lớn trong Phúc âm Lu-ca và Công Vụ. Các môn đệ của Chúa đã có thái độ này, coi việc bị bắt bớ ngược đãi là một vinh dự vì tin theo Chúa Giê-su, khi họ bị giới chính quyền và giáo quyền Do Thái bắt bớ (Công 5:41).
Hai lý do người tín hữu của Chúa Cứu Thế nên vui mừng là vì:
1. Họ sẽ được phần thưởng trên thiên đàng. Đức Chúa Trời thấy tấm lòng trung thành của con dân Ngài và có chương trình trọng thưởng cho họ. Phần thưởng thường bị coi như động lực thiếu thánh khiết và lý tưởng nhưng ở đây Chúa không chú trọng đến phần thưởng như một giải thưởng để tranh đua nhưng để thưởng cho tấm lòng trung tín và sự phục vụ.
2. Lý do thứ hai để vui mừng là vì hiiểu rõ và ý thức được thực trạng đã , đang và sẽ xảy ra trong xã hội loài người. Lịch sử người Do Thái chứng tỏ điều này và các nước khác cũng sẽ không khác mấy. Tôi tớ thật của Đức Chúa Trời thường sẽ bị ngược đãi. Bốn điều họa bắt đầu bằng lời tán thán: ‘Khốn”; từ này chỉ về sự đau khổ và đáng thương vì điều bất hạnh sẽ xảy đến cho họ.
Người giàu có sẽ bị khốn khổ không hẳn là vì họ có nhiều tiền bạc, của cải nhưng vì thái độ, quan niệm của họ về tiền bạc thì đúng hơn. Lu-ca đề cập đến nhiều người giàu có nhưng là môn đệ của Chúa Cứu Thế như Xa-chê, Giô-xép A-ri-mathê, Ni-cô-đem v.v. tức là họ không thuộc vào những người bị họa. Người giàu ở đây chỉ về những người coi tiền bạc của cải là phương tiện duy nhất đem lại hạnh phúc và nhất là phước lành từ Chúa. Đối với những người này thì họ đã nhận được phúc rồi, tức là tiền bạc của họ nhưng phước từ Đức Chúa Trời thì họ sẽ không có gì.
Những người no nê, vui cười và được loài người ca tụng cũng sẽ gặp họa vì quan niệm và giá trị tạm bợ tại trần thế của họ chứ không phải vì họ có những thứ đó. Nếu đời sống của một người chỉ giới hạn ở thế gian trần tục và do sức người tạo nên thì những người đó sẽ gặp họa khi nước Trời vĩnh cửu đến. Nếu một người cho rằng giàu có, no đủ, vui chơi, tiếng tăm lừng lẫy là điều đem lại hạnh phúc và cố công hết sức tìm kiếm nó trong đời này thì người đó có thể có các thứ đó nhưng đó là điều họ có, còn phúc hạnh thật từ Chúa họ sẽ chẳng có gì nhưng họ chỉ có họa.
Bài 15
Những Lời Dạy của Chúa Cứu Thế
Lu-ca 6:27-49
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Trong đoạn này Lu-ca ghi lại những lời khuyên của Chúa Giê-su. Điều đặc biệt về những lời khuyên này là một nền tảng mới cho thái độ và hành động của con dân Nước Đức Chúa Trời:Tình yêu thương.
Tình yêu thương trong đoạn này được trình bày qua ba khía cạnh và bốn hành động:
1. Tình yêu thương cho cả kẻ thù.
2. Tình yêu thương trên phương diện đối với bản thân.
3. Tình yêu thương mô phỏng theo tiêu chuẩn thiên thượng.
Bốn hành động cụ thể gồm có:
1. Yêu kẻ thù
2. Đối xử tử tế với những người ghét mình.
3. Chúc phước cho những kẻ rủa mình.
4. Cầu nguyện cho những kẻ lăng mạ mình.
Sau mỗi lời khuyên yêu thương Chúa Giê-su dùng một số minh họa để giải thích rộng thêm hay áp dụng lời khuyên. Trong khi tình yêu thương là CHỦ YẾU, một số những ý niệm khác liên hệ cũng được dạy như thương xót, nhân từ, rộng lượng. Lu-ca 6:37-49 chuyển qua một hình thức dạy dỗ khác, hình thức ngụ ngôn. Các ngụ ngôn này cũng được những tác giả Phúc Aâm khác ghi chép nhưng Lu-ca cô đọng và gom lại vào một chỗ.
“Hãy yêu thương kẻ thù nghịch mình”. Đây là loại yêu thương cao quí nhất, một tình yêu thương thiên thượng và siêu việt mà chỉ những người đã kinh nghiệm được tình yêu thương siêu việt của Chúa mới có thể có. Kinh Thánh Cựu Ước dạy “Hãy yêu người lân cận như mình” Lê 19:18. Nhưng Do Thái giáo giải thích “người lân cận” là những người có đồng tín ngưỡng và chủng tộc. Một số nhóm và phong trào trong Do Thái giáo như nhóm Qumran vấn đề ghét kẻ thù khác tôn giáo là điều có quyển làm. Điều dạy dỗ của Chúa Giê-su rất khó nhưng không phải là không làm được vì các môn đồ và tín hữu của hội thánh đầu tiên đã thực hành điều này. (Công Vụ 7:58-60; Rô 12:16-21; 1Tê-sa 5:15; 1Phê 3:9).
“ Đối xử tử tế với những người ghét mình” Đây là hành động cụ thể của tình yêu thương thiên thượng. Điều này cũng cho thấy đối với Chúa Giê-su, tình yêu thương không phải chỉ là một ý tưởng trừu tượng và tiêu cực, thụ động nhưng là một hành động cụ thể trong cuộc sống. ‘Chúc phước lành cho những kẻ chửi rủa mình’. Người có tình yêu thương thật không những hành động nhưng cũng kêu cầu Chúa ban phước cho kẻ rủa mình. Tình yêu từ trong lòng được thể hiện qua lời nói và với Chúa cho người ghét mình. Người tín hữu có thể rủa không? Phao-lô 1 Cô 16:22 viết
“Ai không yêu mến Chúa, người ấy đáng bị nguyền rủa. Lạy Chúa, xin hãy đến.” và Phao-lô cũng nói với thầy phù thủy Ba-giê-su tại Ba Phô (Công 13:10-11). Như thế trong một vài trường hợp tín hữu không hoàn toàn bị cấm nói lời rủa nhưng dù là lời rủa người nói chủ yếu là muốn đem người ta đến cùng Đức Chúa Trời. “Cầu nguyện cho những người lăng mạ mình”.
Đây là hình thức cao cả của tình yêu thương vì người ta có thể cố gắng lịch sự, tỏ bày những hành động nhân từ bề ngoai nhưng chưa chắc đã có tấm lòng yêu thương. Nhưng một người đến với Đức Chúa Trời và biết rằng họ không thể giấu điều gì trong lòng trước mặt Chúa và vì thế người ta có thể cầu thay cho kẻ ghét, lăng mạ mình khi tấm lòng thật sự yêu thương họ. Chỉ có tình yêu thương thiên thượng của Chúa mới có thể giúp con dân Ngài làm điều đó. “Ai tát má bên này, hãy đưa luôn má bên kia cho họ.”
Đây là hành động minh họa, không hẳnlà một luật lệ phải theo. Điểm Chúa muốn nói ở đây là thái độ chấp nhận bị nhục mạ, sẵn sàng tha thứ và vẫn tiếp tục giúp đỡ kẻ nhục mạ mình dù có thể bị nhục mạ nữa. Đây là thái độ phát xuất từ tình yêu thuơng đến nỗi từ bỏ quyền của mình. Điều Chúa dạy ở đây là vấn đề quyền cá nhân, không phải nói về chính quyền hay một quốc gia. Quốc gia hiện hữu và Phao-lô cho thấy tín hữu phải tôn trọng và vâng phục chín quyền (Rô 13:1-4), vì thế ở đây Chúa không nói đến quyền tự vệ và phòng thủ của một quốc gia.
Minh họa thứ hai cũng tương tự và có thể nói về cướp bóc trong bối cảnh tôn giáo. Thời bấy giờ giáo sĩ hay người đi truyền giáo có thể bị cướp hay bóc lột nhưng không nên sợ bị thiệt hại hơn nữa, hãy tiếp tục phục vụ và không trả thù. Điều này cũng có thể nói về hoàn cảnh bị bắt bớ, ngược đãi gây thiệt hại nhưng những điều này không làm chúng ta ngừng phục vụ hay giúp đỡ người khác.
Minh họa thứ ba chỉ về hành động xin nhưng động từ này cũng có thể hiểu là mượn. Có thể ở đây chỉ về việc xin ăn vì trong đoạn này nói về hành động từ thiện tôn giáo. Minh họa thứ tư nói về việc không đòi lại vật bị lấy đi. Có thể đây cũng chỉ về việc vay mượn. Nhiều người cho rằng đây là những điều kiện lý tưởng, không thể thực hành được trong xã hội; hoặc những điều này chỉ dành cho Nước Đức Chúa Trời trong thời lai thế. Tuy nhiên nếu chúng ta nhìn những điều dạy dỗ này trong bối cảnh có Đức Chúa Trời thưởng phạt công minh thì những con dân Chúa vì biết chắc Chúa sẽ thưởng cho mình trong trần thế hay trong Nước thiên đàng nên có sức mạnh và tình yêu thương của Chúa để sống theo những nguyên tắc này.
Luật vàng: “Các con muốn người làm cho mình thể nào, hãy làm cho người ta thể ấy.” 6:31 Vào thời cổ có nhiều nhà đạo đức và triết gia Do Thái, Hy Lạp, La Mã và Trung Hoa cũng đã tuyên bố những câu tương tự tuy nhiên Chúa Giê-su tuyên bố tích cực và nhấn mạnh nhất. Một người nên đối xử vơí người khác với sự kính trọng và nhạy cảm như mình muốn người khác đối xử với mình vậy.
Tình yêu thương đựơc minh họa bằng ba lời giải thích:
1. “Yêu kẻ yêu mình” là việc bình thường. Câu này nói lên tình yêu thương vô điều kiện chứ không phải “hãy yêu thương người để được yêu thương lại. Hãy làm lành cho người để được làm lành lại.” Aân huệ ở đây có thể hiểu như phần thưởng ỡ Ma-thi-ơ 5:46
2. “Làm ơn cho người làm ơn cho mình”. Ma-thi-ơ không có câu này nên có học giả cho rằng Lu-ca có thể theo câu 5:47 nói về sự chào hỏi anh em mà thôi. Tuy nhiên nếu Lu-ca có một nguồn tài liệu chung và tóm lược tổng quát ý Chúa Giê-su dạy thì rất hợp lý. Làm ơn tức là làm điều lành hay thiện cho người khác bất kể người đó có làm điều tốt cho mình hay không là điều Chúa muốn và Chúa sẽ ban ơn cho người làm như thế.
Điều dạy dỗ này trái với điều một số người Do Thái giáo dạy vào thời giữa Tân và Cựu Ước: “ hãy giúp một người thiện, không nên giúp một tội nhân.” Sir.12:7 (Bock 1994: 600). 3. “Cho mượn” Câu này có thể chỉ về hành động cho vay lấy lời hay chỉ cho mượn và mong trả lại đầy đủ. Trong Cựu Ước Kinh Luật (Xuất 22:25; Lê 25:35-37) dạy người Do Thái chỉ nên cho mượn và không được cho người Do Thái anh em vay lấy lời, nhưng họ có thể cho vay lấy lời đối với người ngoại quốc.
Tuy nhiên trong văn mạch ở đây câu này có nghĩa là cho mượn và mong lấy lại đầy đủ. Điều Chúa muốn nói đến ở đây là động lực cho mượn không những sẽ lấy lại đầy đủ mà còn mong rằng trong tương lai nếu mình có cần mình sẽ được cho mượn lại; nghĩa là có qua có lại, tương trợ lẫn nhau. Đây là một điều tốt nhưng động lực vẫn là ích kỷ vì người cần sự giúp đỡ nhưng không có khả năng trả ơn lại thì sao? Điều Chúa dạy là tình yêu thương thật sẽ cho mượn vì người ta cần mà không có điều kiện ràng bục dù là điều kiện hiểu ngầm và trong tương lai. Để tóm lược Lu-ca cho thấy người tín hữu có thể thực hành những điều trên vì con dân Chúa có sự liên hệ với Đức Chúa Trời và phần thưởng thiêng liêng từ Trời là nền tảng cho hành động phản ảnh bản chất của Đức Chúa Trời, Đấng đầy ân huệ, ban ơn cho người vô ơn và gian ác.
Lu-ca cũng trình bày sơ lược những mỹ tính của Đức Chúa Trời và đó là lý do Chúa khuyên con dân Ngài hành động. Đức Chúa Trời là Đấng yêu thương, ân huệ, nhân từ và thương xót. Thương xót là đức tính giúp người ta không vội vàng và nghiêm khắc lên án người khác.
Bốn lời khuyên về đoán xét
1. Đừng đoán xét thì sẽ không bị đoán xét. Đoán xét không có nghĩa là không có sự nhận xét và phân biệt về đạo đức như Kinh Thánh nhiều lần chứng tỏ Rô 1:32; 1Cô 5:5... Thái độ đoán xét là thái độ nhanh nhẹn lên án, cho rằng người ta đã phạm tội, đáng bị hình phạt và không có thái độ khuyến khích người phạm tội ăn năn, quay về với Đức Chúa Trời. Thái độ đoán xét bao gồm ý tưởng cho rằng mình tốt, thiện hơn; mù lòa trước những lỗi lầm của chính mình. Vì thế đoán xét là hành động chiếm quyền của Đức Chúa Trời.
2. Đừng lên án để khỏi bị kết án. Chúa là Đấng thương xót và ban ân huệ cho những người có lòng thương xót khi đối xử với những người khác.
3. Tha thứ để đươợc tha thứ. Chúng ta hãy tha thứ vì Chúa đã tha thứ chúng ta. Eâph 4:32 Điều này không có nghĩa là chúng ta cho rằng người phạm tội không làm điều sai quấy nhưng chúng ta không coi việc sai quấy ấy là tội lỗi vĩnh viễn để kết án tội nhân. Chúng ta nên có thái độ ân xá như Chúa đã ân xá chúng ta những tội lỗi chúng ta phạm. Điều này là một nguyên tắc cá nhân, không phải nguyên tắc của chính quyền hay xã hội. Tòa án có quyền và kết án sau khi xét xử công bằng. Chúa Giê-su không bài bác và phủ nhận quyền của Sê-sa, của quân đội và nhân viên thâu thuế trong xã hội.
4. Hãy ban cho thì sẽ được ban cho. Rộng lượng là một đặc tính của tình yêu thương. Người rộng lượng sẽ được Chúa đối xử rộng lượng. Hình ảnh đong lúa, lắc, nhận xuống, đổ đầy đến không còn chỗ chứa cho thấy sự rộng rãi của Chúa đối với người rộng lượng. Chúa ban cho người rộng lượng đầy những ân huệ nhưng không nhất thiết là sự giàu có vật chất mà là ân huệ thuộc linh, tinh thần nữa.
Ba Ngụ Ngôn
1. Người mù dẫn người mù, cả hai sẽ té xuống hố sâu. Người mù chỉ về những người Pha-ri-si hay lãnh đạo Do Thái giáo. Nếu nhìn tổng quát toàn thể Kinh Thánh Tân Ước chúng ta có thể thấy rõ Chúa chỉ tỏ nhiều sai lầm của người Pha-ri-si. Nhưng đây là một ngụ ngôn nên không có chỗ nào nói rõ là áp dụng hay chỉ về người Pha-ri-si.
Một số người cho rằng người mù ở đây chỉ về người tự cho mình là người thấy đường và hướng dẫn người khác và những người này có thể là các môn đệ của Chúa vì trong đoạn này, Chúa đang nói với các môn đệ. Thật ra những lời khuyên này được trình bày như những ngụ ngôn vì thế nó có thể áp dụng cho mọi người và mọi thời đại. Chúa Giê-su là con đường và là ánh sáng vì thế ở ngoài Ngài là ở trong bóng tối; thiếu Ngài là thiếu ánh sáng và bị mù lòa. Ngoài ra từ hố sâu ở đây không phải là hố thường mà là vực thẳm của thời lai thế; tức là nói về ý tưởng thuộc linh.
2. Học trò như thầy. Học trò không thể lớn hơn thầy. Trong mối liên hệ thầy trò thời cổ, trò không thể hơn thầy. Thời bấy giờ học qua nghe thầy giảng dạy, không có nhiều sách vở vì thế kiến thức của thầy là thẩm quyền của thầy giáo. Ý nghĩa ở đây có thể nói về việc chọn đúng người để học và tự cho mình thẩm quyền quá cao, hơn cả thầy. Đừng đi quá những gì Chúa Giê-su dạy bảo.
3. Hãy lấy cái đà trong mắt mình trước khi lấy cái dầm trong mắt người khác. Người tự mãn về công chính của mình và chỉ trích người khác nhưng không thấy rằng mình cũng có nan đề lớn trong đời sống mình. Lời khuyên không có ý nói chúng ta không nên giúp đỡ hay quan tâm đến người khác nhưng chỉ có ý rằng một người nên giải quyết nan đề của mình trước đã rồi chúng ta sẽ có thể giúp giải quyết nan đề nhỏ của người khác.
Xem qủa biết cây 6:43-45 Kết quả của một người thầy sản xuất phản ánh bản chất của người thầy. Quả không thể khác bản chất với cây. Quả nói đến sản phẩm của một đời sống. Bạn sẽ sản xuất ra cái gì từ bản chất của bạn, không thể sản xuất cái gì khác hơn bản chất của mình. Người có hành vi tốt vì tấm lòng tốt. Tấm lòng chất chứa điều thiện hay điều ác cho nên lời nói và sự dạy dỗ phát xuất từ tấm lòng.
Hai nền tảng 6:46-49 Chúa Giê-su nói đến sự đáp ứng bằng cách vâng lời những gì Ngài dạy dỗ. Người vâng lời và thực hành điều Chúa dạy là người khôn ngoan thật. Đời sống chỉ có xưng nhận bằng môi miệng Đức Giê-su làm Chúa Tể nhưng không thực hành điều Ngài dạy là đời sống thiếu thực chất và là đạo đức giả. Chúa Giê-su nói đến những người: Đến với Ngài; nghe Ngài dạy dỗ và làm theo điều Ngài dạy. Lu-ca cho thấy người xây nhà đào sâu, đặt nền nhà trên đá. Nước lụt và bảo tố chỉ về những thử thách trong cuộc đời.
Một số người cho rằng bảo tố chỉ về sự đoán xét vào ngày đoán xét thời tận thế. Ý nghĩa này có thể là ý nghĩa trong Ma-thi-ơ nhưng Lu-ca qua đoạn này chỉ về đời sống hàng ngày. Trái với những người vâng lời thực hành điều Chúa dạy, những người chỉ nghe lời dạy của Chúa giống như người xây nhà trên đất nên khi bão tố đến liền bị sụp. Hình ảnh chỉ về người không có rễ thuộc linh ăn sâu trong lòng vì bỏ qua Lời Chúa dạy. Đây là một lời cảnh cáo, chớ xem thường lời Chúa dạy vì sẽ lãnh hậu quả thảm khốc. Lời cảnh cáo này là một Ngụ ngôn vì thế có thể áp dụng cho đời sống hàng ngày lẫn ý nghĩa về sự đoán xét trong thời tận thế.
HÀNH TRÌNH PHỤC VỤ TẠI GALILE
7:1 - 9: 62
Bài 16 Đức Tin của Viên Đội Trưởng Lu-ca 7:1-10
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Sau những lời dạy dỗ của Chúa Lu-ca ghi lại câu chuyện của người đội trưởng, một sĩ quan La Mã đóng tại vùng đó. Quân đội La Mã có một lữ đoàn đóng ở Sy-ri, một số khác đóng ở hải cảng Sê-sa-rê và một số quân nhân đã giải ngũ có thể sống ở rải rác trong các miền Pha-lê-tin. Đội trưởng là người sĩ quan chỉ huy 100 quân.
Ca-pha-na-um là một thị trấn bên hồ Ga-li-lê và là một trạm thu thuế vì thế cũng có một ít lính tại đó. Quân nhân La Mã thường độc thân nhưng nhiều người có vợ địa phương và cấp chỉ huy cũng làm ngơ. Cấp sĩ quan La Mã thường có các tôi tớ và lâu ngày trở nên thân thiết như gia đình. Viên đội trưởng là người kính sợ Đức Chúa Trời và đã bỏ tiền xây cất hội đường, tức là một hành động hy sinh lớn đối với cộng đồng. Viên đội trưởng có thể kính sợ Chúa nhưng chưa hoàn toàn hay chính thức theo Do Thái giáo vì thế ông biết rằng người Do Thái sùng đạo sẽ không vào nhà một người ngoại đạo vì sợ lây ô uế (Vì thần tượng trong nhà hay đồ ăn đã cúng tế các thần).
Vì thế ông nhờ những người bạn nói với Chúa rằng: “Tôi không xứng đáng để rước thầy vào nhà.” Những trưởng lão Do Thái có thể coi vị đội trưởng như một người tòng đạo rồi vì hành động xây hội đường của ông nên họ xin Chúa Giê-su đến nhà chữa bệnh cho đầy tớ của ông ấy. Quân đội La Mã là một quân đội rất kỷ luật và tôn trọng thẩm quyền vì thế vị đội trưởng cũng tin tưởng vào thẩm quyền siêu nhiên của Chúa Giê-su. Lu-ca ghi lại biến cố này để cho thấy người ngoại quốc cũng có đức tin lớn nơi Đức Chúa Trời và Chúa Cứu Thế khi họ có dịp tiện gặp gỡ.
Chúa Giê-su khen ngợi đức tin của viên đội trưởng và chữa lành bệnh cho đầy tớ của ông cho thấy người ngoại quốc cũng có đức tin như người Do Thái; Đức Chúa Trời cũng đẹp lòng và chấp nhận người ngoại quốc khi họ có đức tin nơi Ngài và Chúa Giê-su không phân biệt chủng tộc; Ngài đến để cứu rỗi tất cả mọi người. Vào thời đó nhiều tiên tri, nhiều thầy phù thủy, ma thuật cũng làm phép chữa bệnh. Nhưng hầu hết đều phải dùng một vật gì hay cầu khẩn thần linh, cúng tế lễ vật; người thầy thuốc phải xức dầu hay làm phép, xoa, sờ vào bệnh nhân v.v. để chữa bệnh.
Lu-ca ghi lại câu chuyện này để cho thấy sự khác biệt của Chúa Cứu Thế Giê-su; Ngài chỉ phán một lời từ xa, người bệnh cũng được lành. Vì tính cách đặc biệt của phép lạ này và sự khác biệt giữa Chúa Giê-su và những thầy thuốc hay ma thuật thời cổ; một số học giả theo khuynh hướng tự do vì không tin vào quyền năng siêu nhiên nên cho rằng đây là một chuyện huyền thoại mà Lu-ca hay hội thánh đầu tiên thêm vào để dạy dỗ. Nhưng sự giải thích này phát xuất từ vũ trụ quan không chấp nhận vấn đề siêu nhiên và chỉ tin vào khoa học thực nghiệm của họ.
Nếu Lu-ca đã ghi chép những phép lạ khác của Chúa Giê-su thì phép lạ này là một trong những điều Chúa đã làm và nó đã thật sự xảy ra dù có hơi khác về cách làm mà thôi.
Bài 17
Chúa Cứu Sống Con Trai Bà Góa
Lu-ca 7:11-17
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Ngày nay có một làng trong thung lũng cách Na-xa-rét chừng vài cây số về phía nam mang tên Ca-in. Tuy nhiên Lu-ca mô tả cổng thành chứ không phải làng. Một số học giả cho rằng có lẽ Lu-ca dùng từ cổng một cách phóng khoáng để chỉ đầu đường vào làng. Một số người khác đề nghị rằng Na-in tức là tên thành Su-nem lâu ngày đọc sai đi. Thành Su-nem cũng ở trong vùng này.
Quan tài của người Do Thái thời đó chỉ là một tấm ván có đòn hai bên để khiêng. Xác người chết được tẩm liệm và bao kín bằng vải từ đầu đến chân; đặt nằm trên tấm ván để khiêng đi ra mộ. Theo phong tục lúc bấy giờ, khi thấy đám tang đi qua, người ta bỏ công việc đang làm, đi theo đưa đám. Cản trở một đám tang là một điều xúc phạm nặng đối với người quá cố và gia đình họ. Người nào đụng tới quan tài người chết sẽ phải ô uế một ngày (Dân 19:21-22); đụng đến xác người chết bị ô uế một tuần lễ (Dân 19:11-20).
Vào thời ấy người đàn bà góa chỉ có một đứa con trai duy nhất qua đời là một thảm họa cho bà vì sẽ không còn ai để nương nhờ lúc tuổi già. Chính quyền lúc bấy giờ không có gì (như an sinh xã hội) để giúp đỡ người già. Trong Kinh Thánh Cựu Ước một vài tiên tri cũng cứu ngườii chết sống lại như tiên tri Ê-li, Ê-li-sê v.v. Một số văn bản ngoại Kinh Thánh thời Tân Ước và sau đó vài thế kỷ cũng có ghi chép một số việc cứu người chết sống lại giữa người Do Thái lẫn những dân tộc khác như Pliny, Natural History 7.37 & 124; Philostratus, Life of Apollonius 4.45 v.v. Luke (Bock 1994, p. 647)
Tuy nhiên những câu chuyện này được mô tả một cách thêu dệt, huyền hoặc và thường không có người chứng. Vì tính cách huyền hoặc và đáng nghi ngờ của những câu chuyện phép lạ cứu người chết sống lại vào thời ấy một số học giả theo khuynh hướng tự do cũng cho rằng câu chuyện này của Chúa Giê-su cũng chỉ là huyền thoại không có thật do hội thánh đầu tiên ghi chép thêm. Một số khác cho rằng đây chỉ là việc cứu người bất tỉnh (comatose) chứ chưa phải chết thật.
Nhưng những câu chuyện huyền thoại đương thời không phải là bằng chứng bác bỏ sự thật lịch sử và phủ nhận tính chất chân thật của tác giả Lu-ca. Khảo cổ chứng tỏ Lu-ca ghi lại chính xác những biến cố và danh tính của những nhân vật lịch sử thời đó. Ngoài ra Lu-ca là một bác sĩ vì thế ông biết rõ sự khác nhau giữa bất tỉnh và chết thật. Thật ra những học giả theo khuynh hướng thần học tự do cho rằng câu chuyện này không có thật vì quan niệm không chấp nhận phép lạ siêu nhiên của họ mà thôi. Lu-ca ghi lại câu chuyện này để cho thấy tình thương bao la nơi Chúa Giê-su cũng như quyền năng của Đức Chúa Cha ở cùng Ngài vì chỉ có Đức Chúa Trời mới là Đấng nắm quyền trên sự sống và sự chết.
Lu-ca cũng ghi lại nhận thức của dân chúng về Chúa Giê-su, Ngài không phải chỉ là một giáo sư tôn giáo tài giỏi, một thầy thuốc hay mà là một tiên tri vĩ đại của Đức Chúa Trời. Khi ghi lại phản ứng và sự nhận thức của dân chúng về Chúa Giê-su, Lu-ca cũng muốn cho thấy sự nhận thức và hiểu biết đúng về Chúa Giê-su ngày càng gia tăng giữa vòng quần chúng Do Thái.
Bài 18
Giăng Báp-tít Hỏi Về Chúa Cứu Thế
Lu-ca 7:18-35
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Lu-ca chỉ ghi lại việc các môn đệ của Giăng Báp-tít đến hỏi Chúa Giê-su mà không đề cập đến việc ông đang bị tù vì Lu-ca đã nói đến vấn đề này rồi (3:19-20). Theo các sử liệu ngoài Kinh Thánh, Giăng bị vua Hê-rốt Đại Đế giam tại một đồn ở phía đông Biển Chết. Các môn đệ của Giăng báo cáo mọi việc Chúa Giê-su dạy và làm (được Lu-ca tóm lược trong đoạn 7:1-17).
Giăng sai hai nhân chứng đến hỏi Chúa Giê-su là điều cần thiết và đúng luật (Phục 19:15) để xác nhận sự thật. Tại sao Giăng Báp-tít phải hỏi Chúa Giê-su rằng Ngài có phải là Chúa Cứu Thế không? Có người cho rằng Giăng hy vọng ; một số cho rằng ông thiếu kiên nhẫn; một số khác nghĩ ràng ông muốn tăng cường đức tin cho các môn đệ của mình về Đấng Mê-si-a. Lý do rõ ràng nhất là nghi ngờ. Có thể Giăng Báp-tít có cùng một hy vọng như đa số những giới lãnh đạo Do Thái giáo lúc bấy giờ, tức là ông hy vọng một vị vua cứu thế đến để đánh đuổi ngoại xâm và đem nước Do thái vào một thời đại hoàng kim về kinh tế, chính trị và quân sự.
Điểm đặc biệt nhất có lẽ là nếu Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a, sao Ngài không giải cứu một vị tiên tri của Đức Chúa Trời đang bị một bạo chúa bỏ tù. Quan niệm thiếu xót, không đầy đủ và méo mó về Chúa Cứu Thế dễ đưa đến nghi ngờ về Ngài. Trong khi các môn đệ của Giăng Báp-tít hỏi thì Chúa Giê-su cũng đang chữa bệnh, đuổi quỉ. Lu-ca muốn ghi lại điều này để ám chỉ rằng các môn đệ của Giăng thấy tận mắt những điều Chúa Giê-su trả lời cho họ. Câu trả lời của Chúa Giê-su cho thấy Ngài tóm lược những gì Ngài thi hành: Chữa lành bệnh tật, đuổi quỉ, cứu người chết sống lại và đem Phúc Aâm đến cho người nghèo.
Thời kỳ này được tiên tri I-sa nói đến trong I-sa 35:5-6; 61:1 tức là thời kỳ của Đấng Mê-si-a và Ngài là Đấng đang thực hiện tất cả những điều đó; Ngài chính là Đấng Mê-si-a. Chúa Giê-su kết luận: “Phước cho ai không vấp phạm vì Ta.” ám chỉ Giăng Báp-tít nghi ngờ vì Chúa không làm và giảng như ông mong đợi. Giăng Báp-tít nói nhiều về sự đoán phạt sau cùng. Chúa Giê-su giảng về Tin Mừng cho người nghèo khổ. Ngài có giảng dạy về sự đoán phạt sau cùng nhưng nhấn mạnh đến thời đại Phúc Aâm, ân điển trong chức vụ của Ngài. Chúa Giê-su nói về Giăng Báp-tít: một người tiên tri có lập trường chứ không phải như một cây sậy bị gió lay động. Người ta đến để xem Giăng Báp-tít là để nghe ông giảng dạy chứ không phải xem sự sang trọng của ông.
Chúa Giê-su cho rằng Giăng Báp-tít lớn hơn một tiên tri như Ê-li chẳng hạn vì ông là một tiên tri rao truyền sứ điệp của Chúa và cũng là người tiên phong mở đường cho Chúa Cứu Thế, người mở đường cho một kỷ nguyên mới. Giăng Báp-tít là người vĩ đại nhất nhưng ông thuộc thời đại cũ; ông chỉ là người tiên phong cho thời đại ân huệ, Phúc Aâm và những phước hạnh của lời hứa của Đức Chúa Trời được ứng nghiệm trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Ở đây Chúa muốn nói đến ân huệ lớn lao của những người tiếp nhận Chúa Cứu Thế ; Phê-rơ cũng cho thấy tất cả tiên tri đều mơ ước thấy ngày Đấng Mê-si-a đến.(1Phê-rơ 1:10-12).
Lu-ca cho thấy hai loại người đáp ứng lại lời kêu gọi của Giăng Báp-tít, một số lớn dân chúng ăn năn. Trong khi đó những người trí thức và chuyên gia Kinh Thánh, hay những người lãnhđạo tôn giáo lại từ khước ý định của Đức Chúa Trời vì họ không chịu ăn năn hối cãi. Chúa dùng ngụ ngôn trẻ em ngoài phố để ví với thế hệ người Do Thái lúc bấy giờ từ khước sứ điệp của Giăng Báp-tít và của Ngài. Khi một người từ khước ý Chúa thì cách trình bày như thế nào người ta cũng từ chối và có cách chỉ trích. Giăng Báp tít là một tiên tri khắc khổ; ông cũng bị chỉ trích.
Chúa Giê-su là một Đấng Cứu Thế đầy lòng thương và hòa đồng với mọi tầng lớp người cũng không được chấp nhận. Những con cái khôn ngoan là những người đáp ứng lại sứ điệp của Đức Chúa Trời qua Giăng Báp-tít hay Chúa Giê-su. Những người đáp ứng và tin theo Chúa Giê-su là bằng chứng , là kết quả của sự khôn ngoan thiêng liêng.
Bài 19
Phụ Nữ và Đức Tin
Lu-ca 7:36-8:3
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Trong chương này Lu-ca cho chúng ta thấy cách Chúa Giê-su tiếp nhận người ta thuộc đủ mọi chủng tộc (7:1-10),giai cấp (7:11-17), tôn giáo (7:24-35) và cả kém đạo đức nữa. Vào thời đó người ta ngồi dưới sàn nhà hay nằm nghiêng để ăn chứ không ngồi trên ghế và ăn trên bàn như chúng ta ngày nay. Người đàn bà trụy lạc có thể ám chỉ một cô điếm hay ít ra cũng là người nổi tiếng kém đạo đức.
Lọ bạch ngọc là bình thường để chứa dầu thơm. Nếu cô này là một người trụy lạc thì cô có thể dùng dầu thơm cho nghề nghiệp của mình và vì thế những người sùng đạo thời ấy sẽ cho là ô uế nên sẽ không để cho cô ta xức dầu cho mình. Vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn nữa đối với Chúa Giê-su, một giáo sư tôn giáo được nhiều người cho là một tiên tri mới xuất hiện. Người chủ nhà thấy khó chịu và nghi ngờ Chúa Giê-su vì Ngài không có cùng một thái độ và quan điểm thần học như giới lãnh đạo và giáo sư tôn giáo thời bấy giờ. Đàn bà có chồng thường trùm đầu khi ra ngoài; người đàn bà để đầu tóc trần là người lẳng lơ, không đứng đắn. Khách vào nhà khá giả thường được đầy tớ rửa chân cho nhưng phong tục này không hẳn là điều bắt buộc.
Người Pha-ri-si này mời Chúa dùng cơm nhưng chưa hoàn toàn kính trọng và chấp nhận Ngài như một tiên tri vì ông ta không chào đón Chúa bằng sự rửa chân, hôn Ngài và xức dầu cho Ngài dành cho khách quí để bày tỏ sự ngưỡng mộ ấy. Theo phong tục thời ấy những buổi tiệc tùng thường cũng mở cửa cho những người nghèo vào để hưởng những đồ thừa. Đồng tiền Đê-na-ri trị giá khoảng một ngày công.
Năm trăm Đê-na-ri là số tiền khoảng hai năm lương, một số tiền tương đối lớn. Ngụ ngôn Chúa Giê-su kể để dạy người Pha-ri-si chủ nhà về tình thương của Chúa đối với tội nhân và sự đáp ứng của tội nhân đối với ân huệ của Chúa. Vào thời đó một người chỉ được thầy tế lễ tuyên bố tội được tha sau khi dâng tế lễ chuộc tội tại đền thờ. Cho nên Chúa Giê-su tuyên bố tha tội cho người đàn bà kia mà không phải dâng tế lễ gì cả là một điều bất thường. Trong câu chuyện này người đàn bà kia không hề nói một tiếng nào, Lu-ca chỉ mô tả hành động của bà, hành động khiêm nhường và ăn năn vì thế chính Chúa Giê-su xác nhận đức tin của bà. Câu chuyện này cũng cho thấy Đức Chúa Trời chuộng tấm lòng khiêm nhường và ăn năn hơn là thái độ tự tôn về tư cách công chính và kiêu ngạo.
Thái độ kiêu ngạo, khinh thị và xa lánh tội nhân cũng được đối chiếu với thái độ tiếp nhận, nhân từ và thương xót của Chúa Giê-su đối với tội nhân. Khi tuyên bố tha tội Chúa Giê-su cũng xác nhận thẩm quyền của Đức Chúa Con trên đất, và đây không phải là lần đầu Chúa tuyên bố tha tội. (Lu-ca 5: 20,24). Lu-ca ghi lại ý tưởng của những người khách tự hỏi về Chúa Giê-su và hành động lẫn lời dạy của Chúa trả lời cho sự thắc mắc đó. Người đàn bà kia chỉ có hành động nhưng Chúa thấy đức tin đã thúc đẩy bà hành động yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và tậïn hiến phục vụ Chúa, vì thế Ngài xác nhận với bà rằng bà đã được tha thứ và cứu rỗi. Ba câu đầu của chương tám cho thấy những đáp ứng khác của một số phụ nữ được cứu rỗi. Những câu này cũng tóm lược chức vụ của Chúa Cứu Thế: Truyền giảng Phúc Âm khắp mọi nơi.
Hai nhóm người theo Chúa truyền giàng Tin Mừng; 12 Sứ Đồ đi theo học hỏi và phụ tá Chúa truyền giàng; các phụ nữ đã tin Chúa đi theo để phục vụ đoàn truyền giáo và dùng tài sản mình tài trợ Phái đoàn. Lu-ca cho thấy các bà đáp ứng lại với ân sủng tha thứ của Chúa bằng cả hành động lẫn tài chánh.
Bài 20
Bốn Loại Tấm Lòng
Lu-ca 8:4-15
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Câu chuyện ngụ ngôn này có thể gọi là ngụ ngôn về bốn loại đất. Nước Do Thái thời bấy giờ là một nước nông nghiệp nên Chúa dùng ngụ ngôn về nông nghiệp để dân chúng dễ hiểu sự dạy dỗ của Ngài. Ngụ ngôn này chủ yếu nói về Lời Chúa được rao truyền và những tấm lòng đáp ứng lại Lời Chúa.
Ngụ ngôn này cũng được ghi trong Mác 4:1-20 và Ma-thi-ơ 13:1-23. Ngoài ra ngụ ngôn này cũng được ghi chép trong các sách ngoại Kinh như Phúc Aâm của Thô-ma 9 và 2 Esdr. 8:41-44 Theo Mác và Ma-thi-ơ Chúa dạy ngụ ngôn này tại Ga-li-lê, bên biển hồ. Ruộng tại vùng Do Thái là ruộng khô; có thể như rẫy tại nước chúng ta. Đường đi ở đây có thể là những đường mòn hay vết chân người trên đất.
Ở vùng này người ta thường gieo hạt giống vào cuối thu hay đầu đông (Tháng Mười đến tháng Mười Hai) là mùa mưa để hạt nảy mầm và mọc cho vụ gặt vào mùa hè (Khoảng tháng Sáu). Hình ảnh gieo hạt giống là hình ảnh biểu tượng cho sự sống sinh nở. Một số học giả cho rằng người Do Thái thời ấy gieo hạt giống trước khi cày đất; tuy nhiên phong tục này không mấy chắc chắn. Người gieo hạt giống đeo một cái bị trước bụng và dùng tay bốc và rải hạt vào ruộng. Người nông phu muốn giao tất cả hạt vào ruộng nhưng một số hạt rơi vào lề đường.
Chỉ có Lu-ca nói đến việc hạt giống rơi trên đường đi bị người ta dẫm lên; Mác và Ma-thi-ơ cũng ghi hạt rơi trên đường đi bị chim ăn hết. Đất tại Do Thái ở nhiều nơi thường chỉ là một lớp đất mỏng ơ trên mặt, phía dưới là đá vôi. Nếu một miếng đất chưa cày thì khó phân biệt đâu là đất sâu, dày và đâu là đá phía dưới. Đá thì không thể giữ nước và rễ cây non không thể đâm vào đá cho nên cây lúa sẽ khô héo và chết. Cây gai ở vùng này rất cao và mạnh; có bụi gai mọc cao đến 1m80 và những nơi nào có bụi gai thì khó có cây gì mọc lên nổi gần đó. Hạt cây gai có thể lẫn trong đất vì thế dù sau đó đất có được cày, hạt gai vẫn còn đó lẫn lộn với hạt lúa. Một số hạt giống rơi vào nơi đất tốt.
Lu-ca cho thấy hạt giống này chìm sâu vào trong đất nên mọc lên và sinh sản hạt lúa. Năng suất trung bình của vùng này là 35%, đôi khi cũng lên đến 60 hay 100% vì thế một hạt lúa giống sinh một trăm hạt khác là trúng mùa lớn. Chúa Giê-su thường kêu gọi dân chúng chú ý đến lời Ngài dạy. Đây cũng là một sự thách thức người ta đáp ứng lại lời của Đức Chúa Trời như các tiên tri thời xưa đã làm, I-sa 55:10-11; 55:3; Ê-xê 3:27 Các môn đệ lúc này chưa hiểu rõ ý nghĩa ngụ ngôn nên hỏi Chúa.
Chúa Giê-su cho biết những người tin theo Chúa Cứu Thế mới có thể được ban cho ơn huệ để hiểu huyền nhiệm Nước Đức Chúa Trời. Một trong những dấu hiệu của người con dân Chúa thật là tấm lòng khao khát tìm hiểu, học hỏi Lời Chúa. Mục đích của Chúa Giê-su khi Ngài dùng ngụ ngôn là để phân biệt hai loại người.
1. Những người có lòng tin và khao khát tìm kiếm nước Đức Chúa Trời như các môn đệ Chúa lúc bấy giờ. Họ cố gắng nỗ lực để tìm hiểu chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời và ý nghĩa của Lời dạy dỗ của Chúa Giê-su.
2. Những người khác không chú ý đến sự cứu rỗi thì sẽ không tìm hiểu sâu xa hơn để biết Chân Lý. Chúa dùng I-sa 6:9-10 để nói đến những người đã cứng lòng, không khao khát sự cứu rỗi như dân Y-sơ-ra-ên thời tiên tri I-sa và vì thế họ sẽ bị đoán phạt và lưu đày.
Ý nghĩa ngụ ngôn: Hạt giống là Lời Đức Chúa Trời. Chim là quỉ vương. Nhóm đầu tiên là những người nghe Lời Chúa nhưng Lời ấy không mọc lên được. Sa-tan lấy Lời Chúa ra khỏi lòng người nghe. Mục đích của Sa-tan là ngăn cản người ta nghe Lời Chúa để được cứu rỗi. Nhóm thứ hai vui mừng nhận Lời Chúa nhưng không có rễ, chỉ tin một thời gian rồi vì gặp khó khăn, thử thách thì bỏ đạo. Ở đây nói về đức tin nông cạn và khi bị thử thách thì bỏ đức tin. Mặt trời sẽ làm cho cây mọc nếu nó có rễ; sự thử thách sẽ làm đức tin (rễ) mạnh thêm nhưng tín đồ giả không chịu nổi. Nhóm thứ ba mọc lên nhưng không kết quả vì những trở ngại như lo lắng, giàu sang, khoái lạc. Đây là những tín hữu có ưu tiên sai lầm trong cuộc sống. Nhóm thứ tư là nhóm hạt giống tốt rơi vào đất tốt và kết quả mỹ mãn. Người có lòng thành thật và tốt. Kiên trì trong đức tin và giữ vững Đạo. Kết quả của tín hữu thật gồm có: Chứng đạo Rô 1:13; dâng tiền cho công việc Chúa Rô 15:25-28; việc thiện Col 1:10; Đạo đức Gal 5:22-23; ca ngợi Chúa Hê 13:15
Bài 21
Đáp Ứng Lời Chúa
Lu-ca 8:16-21
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Đèn dầu thời bấy giờ là một cái bình bằng đất sét có vòi. Tim đèn từ vòi thò ra ngoài và được đốt cháy. Vì bình thấp và nhỏ người ta thường phải để bình ở trên giá đèn hay một chỗ cao trong nhà để soi sáng cả nhà. Sự dạy dỗ của Chúa Giê-su là ánh sáng. Aùnh sáng của Chúa Cứu Thế sẽ phơi bày tất cả trong lòng người nghe; vì thế người nghe phải cẩn thận. Người nghe và phản ứng đúng sẽ được biết thêm về chân lý của Đức Chúa Trời; kẻ nghe và đáp ứng sai lầm sẽ không được nghe thêm chân lý của Chúa mà còn mất tất cả những gì mình tưởng mình đã có.
Mục đích của ánh sáng hay sự dạy dỗ của Chúa Giê-su là soi sáng cho mọi người. Che giấu Lời dạy của Chúa là điều trái với mục đích của Chúa. Lời dạy của Chúa Giê-su cũng là sự phán xét vì thế sự đáp ứng với Lời Chúa càng trở nên nghiêm trọng vì người nghe có thể sẽ mất tất cả những phúc lành thiêng liêng khi từ khước lời dạy dỗ của Ngài. Nếu so sánh với Mat 5:15-16 Chúa Giê-su có thể khuyến khích môn đệ hãy sống như ánh sáng của Chúa và chiếu sáng sự dạy dỗ của Chúa cho thế gian. Nhưng có thể Chúa Giê-su dùng cùng một ví dụ về cây đèn trong hai bối cảnh hơi khác nhau.
Theo bối cảnh của Lu-ca ánh sáng ở đây chỉ về sự dạy dỗ của Chúa Giê-su có vẻ hợp hơn. Aùnh sáng không những chỉ soi sáng nhưng cũng là phương tiện phơi bày tất cả những gì trong bóng tối hay bí mật. Lu-ca 8:17 ám chỉ đến ngày phán xét cuối cùng mà nhân loại sẽ phải đối diện. Lúc ấy Lời Chúa Giê-su sẽ là phương tiện, là tiêu chuẩn để đo lường, xét đoán mọi tư tưởng và hành động của con người. Lời cảnh cáo rất rõ ràng: Chân lý của Đức Chúa Trời sẽ được duy trì, được khải thị cho mọi người và vào một ngày tận thế sẽ được thi hành triệt để.
Vì thế hãy cẩn thận về cách chúng ta đáp ứng lại với Sứ Điệp của Chúa. Một số học giả cho rằng câu 17 cho thấy chân lý của Đức Chúa Trời sẽ được tín hữu truyền bá, dạy dỗ cho đến khi Lời Chúa được toàn thể công nhận là đúng. Câu 18 cho thấy Chúa cảnh cáo người nghe sứ điệp của Ngài. Ai đáp ứng lại lời dạy dỗ của Chúa sẽ nhận được thêm ánh sáng phúc lành; những người từ khước sứ điệp của Chúa hay từ chối Lời Chúa sẽ càng khốn khổ mất mát cả những phúc lành thuộc linh khác.
Câu 19-21 cho thấy Chúa Giê-su nhấn mạnh đến gia đình thuộc linh của Đức Chúa Trời. Những người thuộc về gia đình của Chúa Cứu Thế là những người nghe Lời Chúa và làm theo hay thực hành. Theo Mác lúc này gia đình Chúa Giê-su (các em Ngài) chưa tin Ngài. (Mác 3:21; 30-31) Chúa Giê-su cũng nhấn mạnh ở tại đây rằng chấp nhận Lời Chúa không phải chỉ đồng ý hay chấp nhận trong trí Lời Chúa nhưng phải bày tỏ bằng hành động và việc làm. Lời tuyên bố của Chúa Giê-su không có nghĩa là ngài không công nhận liên hệ gia đình thể xác của Ngài nhưng Ngài muốn nhấn mạnh sự quan trọng của gia đình thuộc linh của Đức Chúa Trời hơn.
Bài 22
Quyền Năng của Chúa Cứu Thế Trên Thiên Nhiên và Ma Quỉ
Lu-ca 8:22-39
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Hồ ở đây là biển hồ Ga-li-lê, dài 22 km và rộng 10 km. Tại vùng biển này hay có bão thình lình vì hồ nằm sâu khoảng 200 m dưới mặt biển và các luồng gió thổi luồn qua các khe núi đồi chung quanh hồ. Vào thời cổ người Hy-lạp và La Mã cũng có những chuyện thần thoại và phép lạ nhưng đa số những nhân vật kia đều nhờ quyền năng của các thần hay qua lời cầu nguyện.
Người Do Thái cũng có những chuyện phép lạ nhưng quyền năng đều do Đức Chúa Trời làm qua lời cầu nguyện như tiên tri Ê-li, Giô-na v.v.Một số học giả theo khuynh hướng thần học tự do cho rằng những phép lạ trong các sách Phúc Aâm chỉ là huyền thoại; nhóm tác giả Jesus Seminar cho rằng những lời đối thoại trong câu chuyện này là “sự sáng tạo của người kể chuyện”. Nhưng xét kỷ câu chuyện Lu-ca kể ở đây người ta thấy rất bình thường như những mẩu chuyện ông ghi lại về lịch sử chính xác trong sách Công Vụ.
Những người theo khuynh hướng thần học tự do đã từ khước các câu chuyện phép lạ dựa trên vũ trụ quan từ khước siêu nhiên của mình. Một số các học giả Tin Lành thuần túy không tìm thấy dấu hiệu của sự thêm thắt gì cả ngoài việc Lu-ca sắp xếp câu chuyện theo chủ đề và mục đích của ông mà thôi. Lu-ca ghi lại câu chuyện này để cho thấy Chúa Giê-su là ai; đây cũng là những thắc mắc của các môn đệ đang theo ngài. Chúa Giê-su là ai mà có quyền trên những hiện tượng thiên nhiên và Ngài cũng có thể can thiệp, giúp đỡ giải cứu các môn đệ khi cần. Những môn đệ là những người đánh cá chuyên nghiệp cho nên tình hình rất nguy hiểm chứ không phải sóng gió bình thường.
Mác ghi rõ Chúa Giê-su dựa gối phía sau lái mà ngủ. Chúa Giê-su quở sóng gió thì biển yên lặng. Chúa cũng quở trách các môn đệ “thiếu đức tin”. Đức tin ở đây không phải là đức tin tiên khởi để được cứu rỗi mà là đức tin nơi quyền năng, sự trung tín, bảo vệ của Đức Chúa Trời trong đời sống của tín hữu.
Lu-ca cũng ghi lại sự thắc mắc của các môn đệ :
Chúa Giê-su là ai? Toàn sách Phúc Aâm Lu-ca chính là câu trả lời. Chúa đuổi đám quỉ ám một người. Ma-thi-ơ ghi tên địa điểm là Ga-đa-ra, Lu-ca ghi: Giê-ra-sê. Đây là một nan đề về các văn bản ghi chép khác nhau. Cảø hai địa điểm đều ở trong cùng một vùng Decapolis, vùng thuộc người ngoại quốc. Đối với những người không tin vào thế giới siêu nhiên và phép lạ cũng sẽ không chấp nhận sự hiện hữu của thần linh, ma quỉ vì thế họ cho rằng đây là huyền thoại, mê tín thời xưa và người ta cố giải thích những câu chuyện về quỉ ám theo khoa tâm lý, tức là người kia chỉ bị bệnh tâm trí.
Tuy nhiên ở đây người ta sẽ khó giải thích hiện tượng các quỉ nhập vào bầy heo và lao đầu xuống biển hết. Những người tin vào siêu nhiên và sự hiện hữu của thần linh, ma quỉ sẽ gặp ít trở ngại để hiểu và chấp nhận câu chuyện này. Tình trạng của người bị quỉ ám rất thê thảm và ô uế vì người sống trong các mồ mả. Mồ ở vùng này là các hang đào sâu trong vách núi. Các quỉ biết Chúa Giê-su là ai, Con Đức Chúa Trời Chí Cao và sợ quyền năng của Ngài. Từ ‘đạo binh’ có thể dịch là ‘lữ đoàn’ chỉ một đơn vị quân đội khoảng một ngàn quân.
Vực sâu ở đây có thể chỉ về vực sâu của biển hay nơi giam giữ ma quỉ. Heo là loài vật ô uế đối với người Do Thái. Nhập vào các bầy heo thì vẫn tốt hơn là đi xuống vực sâu. Câu chuyện ở đây cho thấy Chúa Giê-su có quyền năng trên ma quỉ nhưng chưa phải lúc đoán xét hay hủy diệt chúng vì thế Ngài cho phép ma quỉ nhập vào bầy heo. Giải thoát con người là điều quan trọng và Chúa quan tâm đến sức khỏe, đời sống của người này hơn là thú vật. Ma quỉ nhập vào bầy heo cũng có thể là bằng chứng cho các môn đệ thấy sự hiện diện và quyền năng của ma quỉ trên người và thú vật. Người được giải cứu khỏi đám quỉ ám chứng tỏ ông là người bình thường trở lại và muốn theo Chúa.
Đây là dấu hiệu ông không những được giải cứu khỏi quỉ ám nhưng cũng tin Chúa Giê-su và được cứu rỗi. Trái với phản ứng của dân làng vùng đó; họ quá sợ và muốn Chúa Giê-su rời khỏi vùng đó. Lu-ca chỉ ghi rằng họ sợ, có thể họ sợ sẽ mất thêm những đàn heo hay súc vật khác nữa. Chúa Giê-su bảo người bị quỉ ám được giải cứu: Thuật lại những việc Đức Chúa trời đã làm cho con”. Người được giải cứu vâng lời Chúa Giê-su về nhà truyền giảng việc Chúa Giê-su đã làm cho mình.
Bài 23
Quyền Năng Trên Bệnh Tâït và Sự Chết
Lu-ca 8:40-56
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Chúa Giê-su và các môn đệ trở về phía Ga-li-lê, có thể là Ca-pha-na-um. Quản lý hội đường là một trưởng lão, nhân viên lãnh đạo chính thức quản trị công việc của hội đường. Hội đừơng của người Do Thái là nơi để thờ phượng, giáo dục và làm việc xã hội, dân sự liên quan đến chính quyền. Vì thế Giai-ru là một người lãnh đạo không những tôn giáo nhưng cả trong cộng đồng xã hội nơi ấy nữa. Giai-ru là một người sùng kính và có địa vị cao trong cộng đồng nhưng đã quì dưới chân Chúa Giê-su cho thấy ông rất kính trọng Ngài và tin cậy Ngài có thể chữa lành cho con gái mình.
Ma-thi-ơ và Mác cũng ghi lại câu chuyện này, (Mat 9:18-26; Mác 5:21-43). Một số người cho rằng Ma-thi-ơ khác với Mác và Lu-ca vì Ma-thi-ơ ghi lại rằng Giai-rơ nói với Chúa Giê-su con gái ông đã chết còn Mác và Lu-ca cho hay con gái chưa chết, chỉ hấp hối. Vấn đề ở đây chỉ là cách trình bày biến cố khác nhau. Lu-ca và Mác trình bày theo thứ tự diễn biến, Ma-thi-ơ nói tóm lược một lần mà thôi. Người đàn bà bị xuất huyết: Bệnh này làm cho người đàn bà như có kinh nguyệt hằng ngày và như thế bị kể như ô uế theo luật tinh sạch (Lê-vi 15:25-31).
Theo luật tinh sạch người này đụng đến ai, người đó sẽ bị ô uế và ai đụng đến người bệnh cũng bị ô uế; vì thế bà này là một nan đề không những vì bệnh tật nhưng cũng là một nan đề về xã hội, giao tế. Đây có thể là lý do làm cho bà này không dám xin Chúa Giê-su chữa bệnh một cách công khai nhưng chỉ kín đáo sờ vào gấu áo Ngài. Chúa Giê-su có biết ai sờ vào áo Ngài không? Cách Lu-ca trình bày cho thấy Chúa biết nhưng Ngài hỏi để đưa người đàn bà này đến chỗ công khai thú thật, xưng nhận đức tin và chứng tỏ bà được lành bệnh, tinh sạch.
Chúa Giê-su đáp lời bà: “Đức tin con đã chữa lành con” cho thấy bà này đã hành động trong đức tin nên được chữa lành bệnh. Những người nhà của viên quản lý hội đường đến báo tin con gái ông ta đã chết nên khỏi làm phiền thầy nữa. Đôi với những người này Chúa Giê-su chỉ có quyền chữa bệnh mà thôi; họ không nghĩ rằng con người có quyền cứu sống người chết. Chúa Giê-su không trách những người nhà Giai-ru nhưng chỉ khuyến khích ông này: Đừng sợ và tin mà thôi.
Tin ở đây nói về tin cậy quyền năng của Đức Chúa Trời hành động qua Chúa Giê-su và tình yêu thương của Ngài. Người nhà của cô gái đang khóc lóc chứng tỏ cô gái đã chết thật. Một số người cho rằng cô gái này có thể chỉ bị hôn mê bất tỉnh (coma) mà thôi, nhưng tim còn đập nếu chỉ bị coma và người ta chỉ cho khóc lóc khi người nhà đã được xác nhận là chết thật.
Chúa Giê-su bảo: “Đứa bé không chết đâu, chỉ ngủ thôi.” Thành ngữ “ngủ’ để chỉ về chết cũng được dùng cho La-xa-rơ (Giăng 11:11); Gia-cốp trong Sáng Thế. Ngoài ra Lu-ca ghi chú rằng những người chứng kiến chế nhạo Chúa Giê-su vì họ biết rõ cô gái đã chết. Khi Chúa Giê-su gọi, em bé này sống lại. Lu-ca mô tả ba dấu hiệu của sự sống bình thường: Linh hồn trở lại với thể xác; em bé đứng dậy và Chúa bảo cho em bé ăn.
Tại sao Chúa bảo cha mẹ em bé đừng nói cho ai biết việc này xảy ra? Lu-ca không nói rõ lý do. Tuy nhiên xét chung tình hình và mục đích của Chúa Giê-su, người ta có thể đưa ra một vài lý do sau:
1/ Chúa không muốn người ta chú ý và theo Ngài vì phép lạ. Phép lạ chỉ là dấu hiệu để chỉ rõ về Ngài là ai và mục đích cao cả hơn của Ngài.
2/ Chúa không muốn dân chúng chú trọng vào quyền năng siêu nhiên của Ngài và ép Ngài làm theo ý họ, tức là thi hành những mục đích chính trị (làm đấng cứu tinh dân tộc) mà đa số dân chúng và giới lãnh đạo của họ đang mong chờ.
3/ Chúa muốn những người tin và theo Ngài sẵn sàng tận hiến và hy sinh, chịu khổ như Ngài sẽ phải chịu chứ không phải theo Ngài vì phép lạ.
Bài 24 Sứ Mệnh Truyền Giáo Lu-ca 9:1-9
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Lu-ca ghi lại Chúa Giê-su ban năng lực và thẩm quyền cho mười hai Sứ Đồ để trừ quỉ và chữa bệnh. Năng lực thường để chỉ khả năng và thẩm quyền chỉ về quyền lực hay quyền thế. Tuy nhiên các tác giả Phúc Aâm nhiều khi cũng dùng lẫn lộn hai từ này. Trong những phép lạ trước đây Lu-ca đã cho chúng ta thấy Chúa Giê-su có thẩm quyền trên ma quỉ; giờ đây Ngài ban quyền này cho các Sứ Đồ.
Chúa cũng ban quyền năng chữa bệnh cho các Sứ Đồ. Chúa Giê-su sai các Sứ Đồ đi truyền giảng Nước Đức Chúa Trời và chữa lành người đau yếu. Từ ngữ sai đi mang ý nghĩa “gởi đặc sứ “ đi thay cho mình. Theo luật Do Thái thời ấy sứ giả có thẩm quyền pháp lý như người sai phái mình. Lu-ca không nói rõ chi tiết của sứ điệp về nước Đức Chúa Trời ở đây nhưng tựu trung họ truyền giảng về Nước Đức Chúa Trời đã đến gần, quyền năng, phép lạ của Chúa Giê-su và các Sứ Đồ là bằng chứng cho sự hiện diện của Nước Đức Chúa Trời.
Dân chúng hãy ăn năn và vào nước Chúa. Chuyến truyền giáo này là chuyến truyền giáo ngắn hạn, địa phương vì thế Chúa dặn các Sứ Đồ nên chuẩn bị hành trang nhẹ, đơn sơ. Họ không cần gậy và túi đựng tiền.( Mác 6:8 cho phép môn đệ đem theo một cây gậy) vì thế ở đây Lu-ca nói đến việc không cần đem theo cây gậy thứ hai phòng hờ ngoại trừ cây gậy họ vẫn có như mọi người khác khi đi đường vào thời đó. Người nông dân thời ấy thường chỉ có một cái áo choàng. Những lời dặn dò của Chúa Giê-su cũng nói lên triết lý tổng quát của Ngài cho môn đệ trong việc phục vụ Ngài. Tận hiến cho việc truyền bá Nước Đức Chúa Trời, nhờ cậy Chúa chu cấp nhu cầu vật chất, sống đơn sơ.
Chúa Giê-su tin vào lòng rộng rãi của những người nghe và nhận sứ điệp về Nước Đức Chúa Trời từ các Sứ Đồ và sẽ chu cấp nhu cầu sinh sống, ăn, ở cho họ trong thời gian các sứ Đồ truyền bá Đạo Chúa. Hành động phủi bụi dính chân là hành động của những người Do Thái sùng đạo khi rời khỏi một vùng hay thành của người ngoại đạo vì người Do Thái cho rằng những người ngoại đạo là ô uế. Chúa Giê-su cho thấây hành động không tiếp đón hay từ khước sứ giả của Nước Đức Chúa Trời là một điều nghiêm trọng và nó sẽ đưa đến sự đoán xét dành cho những kẻ vô tín, không thờ phượng Đức Chúa Trời. Trong lời tóm lược cuộc truyền giáo Lu-ca cho thấy các Sứ Đồ đi khắp các thành và các làng khắp nơi để nói lên phạm vi truyền giáo không phải chỉ ở những nơi có đông dân cư như thành mà thôi nhưng cả những làng mạc nhỏ bé nữa. Từ “khắp nơi” cho thấy mục đích lớn của Chúa khi sai các Sứ Đồ đi ra là hành động sơ khởi của cuộc truyền giáo khắp thế giới sau này.(Lu-ca 24:46; Công Vụ 1:8)
Vua Hê-rốt này là con của vua Hê-rốt Đại Đế khi Chúa Giê-su giáng sinh (Mat 2:1). Vua Hê-rốt nghe báo cáo về những lời đồn và quan điểm của dân chúng về Chúa Giê-su. Đa số người Do Thái tin rằng người chết sống lại vào ngày phán xét sau cùng nhưng sống lại vào lúc ấy thì chỉ có một số ít người tin như thế. Người ta cũng tin rằng các tiên tri lớn như Môi-se, Giê-rê-mi, I-sa sẽ trở lại trần thế vào thời đại cuối cùng. Nói chung vào thời điểm này trong chức vụ tại thế, Chúa Cứu Thế Giê-su được coi như một vị tiên tri lớn xuất hiện.
Bài 25 Quyền Năng Cung Ứng Lu-ca 9:10-17
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Phép lạ cung ứng bánh được tất cả bốn sách Phúc Âm ghi chép. Câu chuyện này cho thấy Chúa Giê-su có quyền cung cấp thực phẩm cho môn đồ và dân chúng khi họ không thể cung ứng được. Trong phép lạ này dù Chúa Giê-su là nguồn cung ứng nhưng Ngài cũng sai các môn đệ lấy và phân phát cho dân chúng. Các môn đệ học bài học tin cậy và hành động như những quản gia. Lu-ca ghi câu chuyện này ngay trước biến cố Phê-rơ tuyên xưng Chúa Cứu Thế, một cao điểm trong tiến trình đức tin của các môn đồ.
Bết-sai-đa là thị trấn nằm về phía đông bắc biển hồ Ga-li-lê. Một vài môn đệ của Chúa có thể đến từ thị trấn này. Đây là một trong ba thị trấn lớn của khu vực này. Một số học giả cho rằng Bết-sai-đa nằm về phía tây của hồ Ga-li-lê nhưng vị trí này không có nhiều bằng chứng hỗ trợ. Ma-thi-ơ và Mác cũng ghi lại một phép lạ hóa bánh cho bốn ngàn người ăn. Một số học giả cho rằng có thể hai phép lạ chỉ làmột biến cố, tuy nhiên nếu cả ba sách Phúc âm đầu ghi hai biến cố và hai biến cố này cũng có nhiều điểm khác biệt vì thế đây là hai biến cố riêng biệt chứ không phải một.
Lu-ca tóm lược cuộc tường trình của các Sứ Đồ và Chúa Giê-su đem họ đi riêng ra một chỗ vắng vẻ có lẽ để nghỉ ngơi sau chuyến truyền giáo. Trên phương diện đào luyện môn đệ Lu-ca ghi lại một nguyên tắc quan trọng mà Chúa Giê-su áp dụng, các Sứ Đồ tường trình những gì họ đã làm; tức làhọ đã làm được bao nhiêu những gì họ đã học từ nơi Chúa. Thực hành chứng đạo hay truyền giáo là công việc đương nhiên của môn đệ Chúa. Tường trình và lượng giá công việc là một nguyên tắc khác mà Chúa và các môn đệ đã áp dụng.
Sau đó Chúa đem các môn đệ đi riêng ra một nơi không có dân chúng đông đảo để nghỉ ngơi. Chúa Giê-su là một con người, Ngài hiểu và kinh nghiệm sự mệt nhọc, lao lực nên Chúa không mong mỏi các môn đệ làm hơn sức lực bình thường của một người và dĩ nhiên họ cũng cần nghỉ ngơi (Ma-thi-ơ và Mác ghi rõ Mat 14:13; Mác 6:32). Có thể cũng vì một vài lý do khác nữa như vua Hê-rốt chú ý đến chức vụ của Chúa, nhiều người Ga-li-lê cực đoan theo Chúa và giới giáo quyền Do Thái bắt đầu nghi kỵ và chống đối Chúa Giê-su khiến Ngài đem các môn đệ đi đến nơi thanh vắng; tuy nhiên đây chỉ là những lý do suy diễn từ tình hình chung. Nhưng đám đông biết được và đi theo Chúa và các môn đệ. Điều này cho thấy Chúa Giê-su ngày càng được quần chúng ngưỡng mộ và trở nên nổi danh.
Dù mệt và muốn nghỉ ngơi Chúa Giê-su cũng không từ khước đám đông đến với Ngài. Hai điều Lu-ca thường tóm lược về chức vụ của Chúa Giê-su, Ngài dạy dân chúng về Nước Đức Chúa Trời và chữa lành bệnh tật cho họ. Trong đoạn này Lu-ca ghi lại một việc mới, cung cấp bánh cho dân chúng đang đói và không thể mua bánh được.
Bài 26
Lời Tuyên Xưng của Phê-rơ và sự Khải Thị của Chúa Cứu Thế
Lu-ca 9: 18-36
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Sự tuyên xưng Chúa Cứu Thế có thể coi như đỉnh cao của cuộc hành trình phục vụ của Chúa Giê-su. Trong những đoạn trước Chúa Giê-su chứng tỏ rằng Ngài chính là Chúa Cứu Thế bằng hành động, phép lạ và sự dạy dỗ của Ngài. Trong tiểu đoạn 9:18-21 Chúa Giê-su hỏi chính các môn đệ của mình về Ngài. Phê-rơ đã đại diện cho các môn đệ xác nhận rằng Ngài chính là Chúa Cứu Thế của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-su cũng bắt đầu dạy họ về sự thống khổ, cái chết trong tay giới lãnh đạo Do Thái giáo và sự sống lại của Ngài. Đây là những điều mới lạ về Chúa Cứu Thế mà có lẽ các môn đệ của Chúa chưa hề nghĩ tới. Đây là lúc các môn đệ cần được dạy dỗ về sứ mệnh và số phận của Chúa Cứu Thế.
Lu-ca đặt biến cố tuyên xưng Chúa Cứu Thế trong bối cảnh cầu nguyện cho thấy ý thức thiêng liêng đúng đắn về Chúa Cứu Thế là một vấn đề khải thị thiêng liêng chứ không phải là vấn đề lý trí quan sát mà thôi. Trong giai đoạn này dân chúng nói chung công nhận rằng Chúa Giê-su là một tiên tri; tuy nhiên các môn đệ đã theo Ngài và ở gần với Ngài thì ý thức sâu xa hơn đám đông dân chúng; Phê-rơ đại diện cho các môn đệ tuyên xưng rằng Chúa Giê-su chính là Chúa Cứu Thế (Đấng Mê-si-a hay Đấng Christ) của Đức Chúa Trời. Sự nhận thức của đám đông dân chúng không phải là sai lầm nhưng chưa đầy đủ về Chúa Giê-su.
Một số học giả theo khuynh hướng tự do như nhóm tác giả Jesus Seminar cho rằng sự tuyên xưng của Phê-rơ là lời tuyên xưng của hội thánh sau này, nhưng họ giải nghĩa như thế là vì định kiến sai lầm cho rằng Chúa Giê-su không bao giờ tự xưng mình là ChúaCứu Thế. Tuy nhiên Lu-ca, Ma-thi-ơ và Mác cũng như những điều dạy dỗ trong Tân Ước đều đồng nhất về diều này và không có bằng chứng nào chứng tỏ tiểu đoạn này là đoạn văn do hội thánh thêm vào sau này.
Người Do Thái cho rằng khi Đấng Mê-si-a của họ đến, người sẽ giải phóng dân tộc Do Thái khỏi vòng đô hộ của La Mã vì thế nếu các môn đệ tin quyết và phổ biến rộng rãi rằng Chúa Giê-su chính là Đấng Mê-si-a có thể dân chúng sẽ nổi lên chống đế quốc La Mã. Đó là lý do Chúa Giê-su dặn các môn đệ không được tiết lộ rằng Ngài là Chúa Cứu Thế cho đến khi Chúa Giê-su sống lại. Chúa Cứu Thế mà Đức Chúa Trời sai đến sẽ phải chịu thống khổ, chịu chết và sống lại; đó là con đường và sứ mệnh Chúa Cứu Thế phải thi hành. Điều này hoàn toàn trái ngược với quan niệm phổ thông lúc bấy giờ về Chúa Cứu Thế quyền năng, vinh quang. Không những chính Chúa Cứu Thế phải chịu khổ, chịu chết nhưng những môn đệ theo Ngài cũng phải sẵn sàng chịu như thế.
Con đường theo Chúa Cứu Thế là con đường chịu khổ và khó khăn. Con đường theo Chúa Giê-su là con đường tự bỏ chính mình, từ bỏ cái tôi; chịu khổ hàng ngày, thuận phục Đức Chúa Trời và theo Chúa. Vào thời đó một tử tội phải vác cây thập tự đi đến chỗ hành hình để bị đóng đinh vào đó. Đây là hình ảnh quy phục chính quyền và nhận hình phạt vì tội lỗi. Chúa Giê-su sau này sẽ phải vác thập tự giá của mình và bị đóng đinh trên cây gỗ dù Ngài vô tội.
Các môn đệ của Chúa Giê-su cũng phải sẵn sàng chịu như thế nếu họ muốn theo Chúa Cứu Thế. Nếu một người muốn được đời sống vĩnh phúc thì phải sẵn sàng mất đi sự công nhận cũng như quyền lợi của thế gian vì Đấng ban sự sống vĩnh phúc, chính Ngài cũng sẽ bị dân Do Thái từ khước. Hổ thẹn về Chúa nói đến sự công nhận mình là môn đệ của Chúa Giê-su; nếu một người không dám công khai nhận mình là môn đệ của Chúa Giê-su thì người đó không đáng làm môn đệ Ngài.
Đạo Chúa là sự dạy dỗ của Chúa. Môn đệ của Chúa phải tin tưởng và chấp nhận thẩm quyền của Lời Chúa dạy là sự thật và tin cậy làm theo. Chúa Giê-su sẽ là quan án phán xét thế gian khi Ngài trở lại thế gian. Chúa Giê-su hứa một vài người sẽ không chết cho đến khi họ thấy Nước Đức Chúa Trời. Một số học giả tự do cho rằng Chúa Giê-su đã đoán sai về Nước Đức Chúa Trời sắp đến khi nói rằng một vài môn đệ sẽ thấy Nước Đức Chúa Trời.
Tuy nhiên nếu chúng ta hiểu Nước Đức Chúa Trời được khai mạc khi Chúa Giê-su sống lại và thăng thiên và Nước Đức Chúa Trời khởi đầu trong quyền năng của Phúc âm và của Chúa Thánh Linh giáng lâm thì Chúa Giê-su có thể nói về các môn đệ kinh nghiệm được một chút vinh quang và quyền năng của Nước Đức Chúa Trời khi Chúa Giê-su hóa hình và trò chuyện với Môi-se và Ê-li sau đó. Chúa Giê-su hóa hình đang khi Ngài cầu nguyện. Vì sự hóa hình của Chúa Giê-su nhiều người cho rằng đây là một khải tượng hoặc là một biến cố xảy ra sau khi Chúa Giê-su sống lại. Nhưng nếu chúng ta tin vào phép lạ, siêu nhiên, sự phục sinh thì việc hóa hình không phải là việc không thể xảy ra.
Tại sao Môi-se và Ê-li hiện ra với Chúa Giê-su? Lu-ca không nói rõ nhưng thông thường Môi-se đại diện cho Luật Pháp và Ê-li là biểu tượng của tiên tri. Môi-se và Ê-li hiện ra và thảo luận với Chúa Giê-su nói lên hình ảnh Chúa Cứu Thế sắp hoàn thành sứ mệnh của mình bằng cái chết và sự sống lại tại Giê-ru-sa-lem. Chúa Giê-su là Đấng sẽ làm trọn luật pháp và hoàn thành mọi lời tiên tri của Đức Chúa Trời. Phê-rơ muốn kéo dài thì giờ ở trên núi với Chúa Giê-su và Môi-se cùng Ê-li nhưng Lu-ca cho thấy ông không hiểu ông nói gì. Lời phán từ trong mây xác nhận một lần nữa Chúa Giê-su chính là Chúa Cứu Thế, và là Đấng vĩ đại hơn Môi-se và Ê-li. Hãy nghe theo Ngài.
Bài 27
Chúa Giúp Sự Giới Hạn của Các Môn Đệ
Lu-ca 9:37-43a; (Ma-thi-ơ 17:19-20; Mác 9:28-29)
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Câu chuyện này xảy ra ngay sau khi Chúa và hai môn đệ ở trên núi hóa hình xuống. Ma-thi-ơ và Mác cũng ghi lại câu chuyện này với nhiều chi tiết hơn. Trong ba trước giả, Mác là người ghi chép câu chuyện này với nhiều chi tiết nhất. Mỗi trước giả có một mục đích và muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh khác nhau cho nên chỉ ghi lại những chi tiết cần cho mục đích của họ mà thôi. Theo Phúc âm Lu-ca, đây là phép lạ thứ mười ba và là phép lạ cuối thực hiện tại vùng Ga-li-lê. Lu-ca cho thấy Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế từ trời và Ngài có quyền uy vĩ đại trên các thần linh, ma quỉ. Dù đa số dân chúng vẫn vô tín và đau khổ vì bị ma quỉ áp bức, Chúa Giê-su vẫn thi hành chức vụ cứu giúp loài người. Chúa Giê-su cùng Phê-rơ, Gia-cơ và Giăng từ trên núi đi xuống gặp một đám đông dân chúng.
Các môn đệ muốn ở mãi trên núi và chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Chúa Trời nhưng Chúa Giê-su lại đi xuống núi, đến với đám dân chúng đang bị ma quỉ hành hại để cứu giúp họ. Mác 9:14 ghi thêm phần tranh luận giữa các môn đệ của Chúa và những chuyên gia Kinh Luật Do Thái. Tác giả không nói rõ họ tranh luận về vấn đề gì, nhưng có lẽ về Chúa Giê-su và việc các môn đệ Chúa không chữa lành em bé bị quỉ ám được. Một thực tại khác mà cả ba trước giả Phúc âm đều ghi chép là sự đau khổ do ma quỉ đang lộng hành, áp bức. Sự đau khổ trong thân xác của những người bị ma quỉ hành hại cũng không khác mấy sự đau đớn do bệnh tật gây ra. Người cha của đứa bé đã xin chính Chúa Giê-su cứu giúp vì ông đã xin các môn đệ của Chúa, (chín môn đệ ở lại, không lên núi cầu nguyện với Chúa Giê-su) nhưng họ không chữa lành được. Ma-thi-ơ và Mác đưa ra lý do tại sao các môn đệ kia không đưổi quỉ, chữa lành cho cậu bé được.
Mác cho thấy rõ chi tiết nhiều nhất; người cha của đứa bé cũng xin có đức tin; các môn đệ thiếu đức tin cũng như cầu nguyện và kiêng ăn. Nói chung là các môn đệ cần tin cậy vào quyền năng của Đức Chúa Trời. Kiêng ăn và cầu nguyện là phương cách mà các thánh ngày xưa tìm kiếm Chúa; các Sứ Đồ và hội thánh đầu tiên trong Công Vụ Các Sứ Đồ đã học bài học này và thực hiện được vô số việc làm vinh hiển danh Chúa và xây dựng hội thánh. Quyền năng của Đức Chúa Trời trong đời sống tín hữu không phải là điều tự nhiên mà có vì mình là tín hữu của Chúa Giê-su.
Chúa Giê-su quở trách đám đông hay các môn đệ? Chúa dùng từ “thế hệ” vì thế có thể Ngài chỉ cả đám đông dân chúng. Tuy nhiên Ma-thi-ơ và Mác cho thấy Chúa cũng trách các môn đệ vì họ thiếu đức tin, không nhờ cậy quyền năng của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-su cho thấy Ngài cảm thấy buồn vì sự vô tín của đám đông nhưng cũng vì sự chậm hiểu, chậm học hỏi và tin cậy của các môn đệ. (Ngài vừa mới ban quyền năng và sai 12 môn đệ đi truyền giáo và chữa bệnh khắp nơi. Lu 9:1-6)
Chúa Giê-su mong các môn đệ của Ngài cũng có thể chữa bệnh, đuổi quỉ như Ngài. Chúa Giê-su đuổi quỉ, chữa lành đứa bé và giao lại cho cha nó. Lu-ca nhấn mạnh đến quyền uy của chúa Giê-su; trong khi đó Mác nói đến đức tin và sự cầu nguyện để có quyền năng giải cứu tình trạng đau khổ trầm trọng của đứa bé. Đám đông ghi nhận quyền uy vĩ đại của Đức Chúa Trời được thể hiện qua Chúa Cứu Thế Giê-su.
Bài 28
Những Nguyên Tắc Mới Trong Nước Chúa
Lu-ca 9:43b-62
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Chúa Giê-su bày tỏ vinh quang và quyền năng của Ngài trên ma qủi. Các môn đệ và dân chúng đều vô cùng ngạc nhiên khi thấy quyền năng của Ngài. Lu-ca tóm lược về tất cả công việc quyền năng của Chúa đã thực hiện chứ không phải chỉ việc đuổi quỉ. Đến lúc này Chúa Giê-su bắt đầu dạy các môn đệ bản chất và những nguyên tắc trong Nước Trời. Các môn đệ biết Chúa Giê-su chính là Đấng Cứu Thế (Mê-si-a) nhưng họ không biết và chưa hiểu nổi tại sao Chúa Cứu Thế đầy quyền năng và vinh quang như vậy mà phải chịu khổ hình.
Sự tranh giành địa vị cho thấy các môn đệ tưởng Chúa Cứu Thế sắp làm vua. Chúa Giê-su chuẩn bị cho các môn đồ để đối diện với thực tế; để hiểu rõ con đường, chương trình cứu rỗi thiêng liêng của Đức Chúa Trời. Dù lúc bấy giờ Chúa Giê-su đang được ngưỡng mộ vì những phép lạ quyền năng, nhưng Ngài sẽ phải chịu khổ nạn trong tay loài người.
Lu-ca cho thấy các môn đệ không hiểu vì tâm trí họ bị che khuất. Họ hiểu rõ câu tiên đoán của Chúa rằng Ngài sẽ bị đau khổ, nhưng không hiểu nổi tại sao Con Người phải bị khổ nạn mới cứu rỗi được loài người; hay nói một cách khác các môn đệ chưa hiểu con đường thập tự mà Chúa Cứu Thế phải đi qua. Sự vĩ đại trong chức vụ và Nước Chúa không phải là quyền thế và địa vị mà là mối liên hệ với Chúa Cứu Thế, sự khiêm nhường và tinh thần phục vụ Chúa. Chức cao và địa vị trong giáo hội cũng không phải là điều Chúa quan tâm.
Chúa Giê-su cũng không hề nói ai trong các môn đệ là người lớn nhất trong giáo hội sau này. Ma-thi-ơ 18:1-5 ghi rõ chi tiết về sự vĩ đại trong Nước Trời là sự khiêm nhường của một em bé. Mác 9:33-37 cho thấy thêm người lớn nhất là “người phục dịch mọi người.” Người tiếp nhận Chúa Cứu Thế là tiếp nhận Đức Chúa Trời. Công việc của Đức Chúa Trời không giới hạn vào một nhóm nhỏ đặc ân nào. Những người dù không cùng ở với các môn đệ nhưng cùng làm công việc như họ tức là những người thuận không phải chống các môn đệ và Chúa nên Chúa Giê-su dạy: đừng ngăn cấm họ. “Gần đến ngày về trời” hàm ý sự chết, sống lại và thăng thiên của Chúa Giê-su. Sa-ma-ri là miền trung của nước Do Thái.
Chúa Giê-su rời miền Ga-li-lê, tức miền bắc để đi xuống Giê-ru-sa-lem thuộc vùng Giu-đê, miền nam. Người Sa-ma-ri là những người Do Thái lai với những chủng tộc khác đến định cư tại vùng này và vì thế thường bị những người Do Thái thuần chủng khinh miệt vì cho rằng người Sa-ma-ri đã thỏa hiệp về niềm tin và truyền thống Do Thái. Người Sa-ma-ri chỉ tin và chấp nhận Ngũ Kinh của Môi-se và thờ phượng trên núi Gê-ri-sim, không phải núi Si-ôn (Giê-ru-sa-lem).
Người Do Thái sùng đạo từ Ga-li-lê đi xuống Giu-đê không đi ngang qua vùng Sa-ma-ri nhưng đi vòng ra ngoài để vào Giu-đê. Chúa Giê-su quở trách hai môn đệ vì thời đại này là thời đại ân huệ, sứ mệnh của Chúa Cứu Thế là sứ mệnh hy vọng, cứu rỗi, không phải đoán xét và hủy diệt. Điều kiện để làm môn đệ Chúa Cứu Thế, hay giá phải trả để làm môn đệ Chúa: Giá thứ nhất: Bị thế gian từ khước như Chúa Cứu Thế. Bằng lòng làm người không chỗ cư trú, không nhà ở. Không có phương tiện sung túc, thoải mái của đời này cho những người thật lòng theo Chúa.
Người sẵn lòng chấp nhận như thế nhưng không nhất thiết phải sống như thế. Giá thứ hai: Truyền bá sự sống vĩnh phúc quan trọng và khẩn cấp hơn là lo cho người chết về thể xác lẫn tâm linh. Người Do Thái coi việc chôn cất người chết rất quan trọng. Việc chôn cất người quá cố quan trọng hơn học Kinh Luật, hơn công việc trong đền thờ, hơn việc giết con sinh tế lễ Vượt Qua, hơn lễ cắt bì và hơn đọc sách giải kinh. Có thể câu nói “đi chôn cất cha con trước đã.” hàm ý rằng người này sẽ về nhà phụng dưỡng cha mình và đợi cho đến khi cha của mình qua đời rồi anh ta sẽ theo Chúa.
“Kẻ chết chôn kẻ chết của họ” nói đến sự chết tâm linh. Giá thứ ba: Không thể lưỡng lự, nhìn lại đàng sau nhưng phải nhìn tới trước khi theo Chúa. Theo Chúa Cứu Thế đòi hỏi sự tận hiến và chú tâm vào công việc trước mặt và tương lai thay vì hồi tưởng lại quá khứ. Câu chuyện này cũng tương tự như câu chuyện của Ê-li-sê đước tiên tri Ê-li cho phép về từ giã gia đình trước khi đi theo Ê-li. (1Các Vua 19:19-21)Tuy nhiên ở đây Chúa Giê-su cho thấy Nước Trời khẩn cấp và cần tận hiến hơn thời Cựu Ước. Đây có thể cũng là lời cảnh cáo cho những người muốn theo Chúa Cứu Thế thì phải hết lòng và theo trọn vẹn cho đến cuối cùng.
Một người không thể theo Chúa nhưng còn vươn vấn, nuối tiếc những giá trị của đời sống cũ. Người vẫn còn hai lòng, không tận hiến cho Chúa không thể là người phục vụ Chúa hữu hiệu. Theo Chúa Giê-su không phải là một công việc nữa chúng ta thêm vào cho đời sống mình nhưng là tất cả đời sống.
HÀNH TRÌNH PHỤC VỤ TẠI GIÊSUSALEM
10:1- 13:35
Bài 29
Sứ Mệnh Truyền Giáo
Lu-ca 10:1-24
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Đây làcuộc truyền giáo thứ hai Chúa Giê-su sai các môn đệ đi, lần này không phải chỉ có mười hai Sứ Đồ nhưng đến bảy mươi hai môn đệ khác. Trong sứ mệnh truyền giáo này Chúa Giê-su cũng chuẩn bị cho các môn đồ biết rằng họ sẽ gặp từ khước; Ngài cho thấy số phận của những kẻ từ khước Phúc Aâm thật kinh khiếp và rằng ai từ khước các môn đệ là từ khước Chúa Cứu Thế, kẻ từ khước Chúa Cứu Thế là từ khước Đức Chúa Trời.
Các môn đệ được sai đi với thẩm quyền, sự khải thị, cơ hội và trong niềm vui. Chúa Giê-su cũng đã hân hoan cảm tạ Đức Chúa Cha vì các môn đệ hiểu biết và bắt đầu thi hành chương trình cứu rỗi của Ngài. Chúa Giê-su cũng nhắc nhở các môn đệ rằng nhiều tiên tri và vua chúa ngày xưa cũng mơ ước được chứng kiến và kinh nghiệm những ân huệ và phước lành họ đã chứng kiến và kinh nghiệm.
Sứ mệnh của bảy mươi hai môn đệ. Chúa Giê-su lập và sai 72 môn đệ khác ngoài 12 Sứ Đồ cho thấy ý định của Ngài không phải chỉ giới hạn vào một số nhỏ môn đệ đặc biệt để thi hành sứ mệnh cứu rỗi. Dù sẽ gặp từ khước nhưng cũng sẽ có nhiều người tiếp nhận sứ điệp của Chúa Cứu Thế. Chúa dạy các môn đệ nên cầu nguyện để xin thêm con gặt, tức là những người không những chỉ tin nhận Chúa nhưng tiếp nối dấn thân truyền bá Phúc Aâm như các môn đệ đã làm.
Chúa biết và báo trước cho môn đệ biết rằng sứ mệnh truyền giáo của họ là một sứ mệnh nguy hiểm, không phải dễ dàng. Môn đệ của Chúa như những con cừu non ngây thơ, hiền lành trong một thế giới đầy dẫy những lang sói dữ tợn, hung ác. Nhưng các môn đệ được Chúa Cứu Thế sai đi vì thế họ có thẩm quyền và sự hiện diện của Chúa ở cùng họ.
Hành trang cho cuộc truyền giáo phải nhẹ nhàng, gọn gàng vì tính cách khẩn cấp. Vào thời ấy những triết gia Cynics thường mang bị khất thực; người đi xa thường đem theo một đôi giày phòng hờ. Chào hỏi là điều quan trọng nhưng vì tính cách khẩn cấp của sứ mệnh nên các môn đệ cũng không nên chú trọng đến. Người thi hành sứ mệnh của Chúa nên nhờ cậy Đức Chúa Trời cung ứng mọi nhu cầu và không cần khoe khoang vật chất. Lời chúc bình an cũng có nghĩa là “Chúa ở cùng”.
Nếu nhà nào từ khước sứ giả của Chúa thì sẽ không nhận được sự bình an của Chúa. Chúa Giê-su trong Lu-ca cũng như Ma-thi-ơ (Mat 10:10) và Phao-lô (1Tim 5:18) đều nói đến ý niệm người làm việc thuộc linh, giảng dạy Lời Chúa, đem những lợi ích thuộc linh cho người ta xứng đáng nhận được sự cung ứng vật chất đầy đủ. “Nước Đức Chúa Trời đã đến gần” nói lên sự hiện diện của Chúa Cứu Thế ở giữa họ, Ngài đã bắt đầu thời đại mới trong Nước Đức Chúa Trời trên đất. “Phủi bụi dính chân” là hành động biểu lộ sự tách rời, không liên hệ và không chịu trách nhiệm về sự từ khước của người khác.
Sô-đôm là thành nổi tiếng về tội lỗi trong thời cổ. Hình phạt cho những người và cộng đồng từ khước Phúc âm của Chúa Cứu Thế sẽ nặng hơn cả Sô-đôm vì họ nhận được sứ điệp lớn lao và rõ ràng hơn Sô-đôm thời Cựu Ước. Thành Cô-ra-xin và Bết-sai-đa là hai thành ở vùng Ga-li-lê; Ty-rơ và Si-đôn là hai thành ngoại quốc, vô đạo.( Êxê 26-28; Isa 23) Từ khước sứ điệp của Nước Trời là tội nặng hơn cả tội lỗi của những thành không biết và không thờ Đức Chúa Trời. Số phận thành Ca-pha-na-um cũng không tốt đẹp gì hơn. Môn đệ của Chúa là đại diện của Chúa Cứu Thế; ai từ khước sứ điệp của Chúa do môn đệ Ngài truyền rao là từ khước Chúa Cứu Thế và Đức Chúa Trời. Các môn đệ vui mừng vì kinh nghiệm được quyền năng đuổi quỉ và thấy được sự thất bại của Sa-tan. Môn đệ của Chúa Giê-su nhận được thẩm quyền của Ngài khi truyền bá Phúc Aâm Nước Trời.
Tuy nhiên tên mình được ghi trên thiên đàng mới là ân phúc lớn lao hơn quyền năng. Chúa Giê-su cũng vui mừng ca ngợi Đức Chúa Cha vì sự cứu rỗi và sứ mệnh cứu rỗi đang được các môn đệ tiếp nhận và lưu truyền. Trẻ thơ ở đây hàm ý chỉ những người có tấm lòng đơn sơ như trẻ con.
Câu 22 nói lên ba giáo lý quan trọng về Đức Chúa Con:
a. Đức Chúa Con có tất cả thẩm quyền của Đức Chúa Cha.
b. Đức Chúa Con là sự khải thị trọn vẹn của Đức Chúa Cha.
c. Sự liên hệ giữa ChúaCứu Thế và Đức Chúa Cha là sự liên hệ gần gủi, thân thiết. (Ta với Cha là một. Giăng 10:30).
Thời đại của Chúa Cứu Thế là thời đại ân huệ mà bao nhiêu vua chúa, tiên tri yêu kính Chúa mong được kinh nghiệm và chứng kiến.
Bài 30
Người Sa-ma-ri Nhân Từ
Lu-ca 10:25-37
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Câu chuyện này gồm có hai phần: Phần đầu là câu hỏi về việc thừa hưởng sự sống vĩnh phúc. Phần thứ hai là ngụ ngôn về người Sa-ma-ri nhân từ. Chuyên gia Kinh Luật : Người chuyên môn nghiên cứu Kinh Luật Môi-se (Ngũ Kinh). Lúc đầu chỉ có các thầy tế lễ là chuyên gia Kinh Luật. Vai trò của các chuyên gia Kinh Luật tăng lên sau khi dân Do Thái bị lưu đày qua Ba-by-lôn.
Những chuyên gia này là người ghi chép và bảo tồn các truyền thống Do Thái giáo và Kinh Thánh (Cựu Ước). Họ dạy các môn đệ của mình và bảo tồn các truyền thống đó. Một số chuyên gia cũng là những thẩm phán trong hội đồng quốc gia đặc trách phần thi hành các luật lệ Do Thái giáo. Người Sa-ma-ri: Vào năm 722 TCN Sa-ma-ri, thủ đô của vương quốc Y-sơ-ra-ên phía bắc bị thất thủ, vua Sargon lưu đày hầu hết những người lãnh đạo và giàu có đi A-sy-ri; trong khi đó đế quốc A-sy-ri cho các nhóm dân khác đến định cư tại Sa-ma-ri.
Nhóm người Do Thái nghèo nàn, ít ỏi còn lại hòa đồng với các dân tộc mới để sống còn; tuy vậy họ vẫn duy trì việc thờ phượng Đức Gia-huê (Giê-hô-va), giữ và tin Ngũ Kinh (năm sách của Môi-se); tin rằng nên thờ phượng Chúa tại núi Gerizim thay vì Giê-ru-sa-lem. Sự kỳ thị và thù nghịch giữa người Sa-ma-ri và Do Thái có thể bắt nguồn từ nhiều biến cố chính trị lẫn tôn giáo. Người Do Thái cho rằng người Sa-ma-ri chỉ có Ngũ Kinh mà không có các sách Tiên Tri. Vào thời Maccabean người Sa-ma-ri đã bị áp lực dâng hiến đền thờ của họ ở Gerizim cho thần Zues nhưng sau đó ít lâu đền thờ tại Gerizim bị phá hủy.
Vào năm 6-9 SCN người Sa-ma-ri rải xương người chết trên đền thờ tại Giê-ru-sa-lem trong một dịp lễ Vượt Qua. Khoảng năm 52 SCN người Sa-ma-ri tàn sát tập thể một nhóm người Do Thái từ Ga-li-lê đi hành hương Giê-ru-sa-lem. Theo Ma-thi-ơ và Mác câu chuyện có thể xảy ra ở Giê-ru-sa-lem. Lu-ca cho thấy chuyên gia Kinh Luật này hỏi để thử Chúa Giê-su, một người giáo sư đến từ vùng quê và không thuộc nhóm chuyên gia của họ. Sự sống vĩnh phúc chỉ về sự sống đời đời trong thời đại mới hay Thiên Đàng.
Thay vì trả lời Chúa Giê-su hỏi lại chuyên gia kia về Kinh Luật. Điều này chứng tỏ Chúa Giê-su không dạy và hành động ngoài Lời Chúa hay chống lại Lời Chúa trái lại Ngài dạy và giải thích đúng với Kinh Luật được khải thị. Chuyên gia trích Phục 6:4, đây là một phần của lời tuyên xưng mỗi ngày của người Do Thái sùng kính; câu thứ hai trích từ Lê-vi 19:18 Người lân cận: Theo câu Lê-vi 19:18 người lân cận chỉ về người đồng chủng Do Thái; đây cũng là quan niệm của nhiều người Do Thái lúc bấy giờ.
Tuy nhiên Lê-vi 19:34 cũng cho thấy “người lân cận” là người ngoại kiều ở trong nước Do Thái. Chúa Giê-su khen chuyên gia kia hiểu đúng và khuyên ông nên thực hành điều đó. Hiểu biết điều Chúa đòi hỏi chưa đủ, phải thực hành điều Chúa dạy. Chuyên gia này muốn biện minh điều gì? Có thể ông muốn giới hạn ý nghĩa của từ “lân cận” chỉ dành cho người đồng chủng Do Thái, như thế ông sẽ dễ chu toàn hơn. Qua câu chuyện ngụ ngôn Chúa Giê-su chủ trương “người lân cận” là tất cả những người chúng ta đối diện, kể cả người ngoại chủng nữa.
Con đường từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-cô phải đi qua đèo Adummim và những nơi có nhiều hang hố thuận tiện cho bọn cướp ẩn núp. Nạn nhân là một người Do Thái. Thầy tế lễ là người phục vụ Chúa trong đền thờ. Có nhiều lý do khiến thầy tế lễ tránh không giúp nạn nhân như sợ bị lây ô uế, sợ bị gài bẫy để cướp, sợ đụng đến người tội lỗi v.v. Người Lê-vi có thể coi như phụ tá thầy tế lễ lo các việc phục dịch trong đền thờ. Người này có nhìn kỹ nạn nhân nhưng cũng không giúp.
Người tận tình giúp đỡ nạn nhân là một người Sa-ma-ri mà đa số người Do Thái khinh bỉ. Người Sa-ma-ri là hình ảnh của người lân cận tốt và hành động của người Sa-ma-ri là hành động của tình yêu thương. Chuyên gia Kinh Luật hiểu vấn đề nhưng ông ta chưa thể mở miệng nhắc đến tên Sa-ma-ri, (vì kỳ thị) chỉ nói rằng người săn sóc bệnh nhân. Hiểu biết chân lý của Chúa chưa đủ, phải thực hành. Chúa Giê-su cho thấy yêu Chúa cũng sẽ yêu thương người lân cận.
Bài 31
Ưu Tiên Thuộc Linh
Lu-ca 10:38-42
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Đoạn Kinh Thánh này nằm trong một tiểu đoạn lớn hơn bao gồm ba tiểu đoạn : 10:25-37 nói về một môn đệ có trách nhiệm yêu thương người lân cận ; yêu thương người lân cận tức là phục vụ người đang cần sự giúp đỡ.
10:38-42 Chú ý và đáp ứng lại lời dạy của Chúa Giê-su là điều ưu tiên trong tinh thần tận hiến thờ phượng Chúa. Sự tận hiến của Ma-ri đối với Đức Chúa Trời được thể hiện qua việc để tâm chú trọng vào sự dạy dỗ của Chúa Giê-su.
11:1-13 Nói về sự nương cậy nơi Đức Chúa Trời trong đời sống tích cực cầu nguyện. Giăng cho biết La-xa-rơ, Ma-thê và Ma-ri ở tại làng Bê-tha-ni, bên sườn núi Ô-liu, cách Giê-ru-sa-lem chừng 3 Km về phía đông nam. Ngày nay du khách được hướng dẫn để xem mộ của La-xa-rơ và nhà của Ma-thê và Ma-ri, tuy nhiên không có bằng chứng chắc chắn rằng đây là nhà của Ma-thê và Ma-ri. Câu chuyện này chỉ có Lu-ca ghi lại tuy nhiên Giăng có đề cập đến Ma-ri và Ma-thê (Giăng 11:1-12:8).
Một vài học giả theo khuynh hướng thần học tự do, tác giả Hội Thảo về Giê-su (Jesus Seminar) cho rằng câu chuyện này không có thật nhưng do Lu-ca dựng lên vì thiếu những đặc tính như cách nói ngụ ngôn. Nhưng đây chỉ là những điều kiện chủ quan, độc đoán và cho rằng chỉ có những lời nói ngắn gọn, sâu sắc như cách ngôn mới là thật. Trong khi những học giả khác cho thấy câu chuyện này có nhiều đặc tính văn chương, cú pháp của Lu-ca. Ngoài ra sự nhấn mạnh đến lời dạy dỗ của Chúa Giê-su là một điều tự nhiên trong các sách Phúc Âm.
“Ngồi dưới chân Ngài và lắng nghe lời Ngài dạy.” đây là cách các môn đệ ngồi học dưới chân thầy vào thời đó. Vào thời ấy đại đa số các thầy Do Thái giáo không dạy đàn bà, con gái. Chúa Giê-su đã làm một việc mới, bất thường trong thời đó. Làm cơm thết đãi Chúa và mười hai môn đệ là một việc khá bận rộn và nặng nhọc. Ma-thê bực tức về em mình nhưng cũng có ý cho rằng Chúa không thông cảm, để một mình Ma-thê làm cơm và không bảo Ma-ri giúp chị nên cô đích thân đến yêu cầu Chúa. Ma-thê cho rằng tiếp đãi Chúa ăn uống là cách phục vụ duy nhất lúc bấy giờ.
Chúa Giê-su cho rằng Ma-thê đã lo lắng và rối trí về nhiều việc vật chất. Có thể ở đây Ma-thê lo làm một bữa tiệc linh đình mà Chúa thì chỉ cần một bữa ăn đơn sơ. Nan đề của Ma-thê không phải là vì nàng bị bắt buộc phải làm việc quá sức nhưng nàng đã để công việc lôi kéo mình, làm mình không có thì giờ, xao lãng việc quan trọng và có giá trị hơn. Chúa Giê-su không trách Ma-thê vì nàng bận rộn nấu nướng để phục vụ, nhưng nàng đã quá bận rộn, rối trí đến nỗi không có thì giờ để làm công việc học hỏi Lời Chúa.
Đây là vấn đề quan niệm giá trị và ưu tiên trong việc làm và thì giờ. Sau đó Sứ Đồ Giăng 12:1-2 cho thấy Ma-thê hiểu bài học Chúa dạy vì nàng phục vụ Chúa và các môn đệ nhưng không còn than phiền. Và điều này cũng cho thấy Chúa Giê-su không có ý dạy chúng ta phải chọn lựa một trong hai việc, hoặc phục vụ nấu ăn, tiếp đãi Chúa hay nghe lời Chúa. Chúng ta cần hiểu rõ giá trị công việc và ưu tiên thì giờ để quản trị các công việc của mình một cách quân bình thích hợp với thì giờ, hoàn cảnh và ưu tiên. Chúa Giê-su cho thấy Ma-ri đã chọn việc “cần thiết” hơn là việc “nên làm”. Ma-ri đã chọn phần ăn tốt hơn, phần ăn uống Lời Chúa (Mat. 4:4). Đối với Chúa Giê-su, việc học hỏi Lời Chúa và thờ phượng Chúa rất quan trọng; môn đệ của Ngài cần phải để thì giờ học hỏi Lời Chúa và thờ phượng Ngài.
Chỉ bận rộn làm việc cho Chúa mà không có thì giờ thờ phượng, tỉnh nguyện, tương thông với Chúa thì cũng sẽ nguy hại cho đời sống thuộc linh. Người ta có thể lao lực, bận rộn làm nhiều việc phục vụ Chúa nhưng chỉ là những việc Chúa không muốn, vì thế những người đó sẽ như Ma-thê, không được Chúa khen thưởng. Hãy làm những việc Chúa muốn để phục vụ Ngài chứ không phải những việc chúng ta tưởng hay cho rằng Chúa cần.
Bài 32
Mô Hình Cầu Nguyện của Chúa
Lu-ca 11:1-13
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Vào thời ấy người Do Thái có một số những bài cầu nguyện cố định để cho người ta đọc. Các môn đệ xin Chúa dạy họ cầu nguyện như một cộng đồng. Người Do Thái thời ấy thường cầu nguyện : “Lạy Cha chúng con ở trên Trời”. Tuy nhiên xưng hô một cách thân mật như Chúa Giê-su cầu nguyện và dạy chúng ta cầu nguyện ‘Thưa Ba” hay “Ba ơi” thì hiếm thấy. Nhưng điều này cho thấy Chúa Giê-su muốn chúng ta có mối liên hệ gần gủi, thân thiết với Đức Chúa Cha.
Mặc dù xưng “Thưa Ba” một cách thân mật nhưng người cầu nguyện vẫn tôn kính Chúa trong lời tôn xưng “Danh Cha được tôn thánh.” Môn đệ Chúa không quên rằng Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết và đáng tôn kính. Chúa Giê-su và các môn đệ đang ở trong tiến trình thực hiện Nước Đức Chúa Trời, nhưng điều mong ước của mọi người là Nước Chúa hoàn thành và sự hiện diện toàn hảo và toàn diện của Đức Chúa Trời giữa con dân Ngài. Lúc ấy mọi điều ác sẽ bị loại trừ và sự công chính của Đức Chúa Trời sẽ hiện thực.
Lời cầu xin thứ nhất: Công nhận rằng Chúa là Đấng chu cấp thực phẩm cho chúng ta. Từ “mỗi ngày” chỉ về thực phẩm cần thiết cho một ngày hay cho hằng ngày và kéo dài trong tương lai. Thức ăn ở đây Chúa muốn nói đến thức ăn vật chất hay thiêng liêng? Theo bối cảnh câu chuyện chúng ta thấy chủ yếu là nhu cầu vật chất mỗi ngày nhưng cũng không gạt bỏ hoàn toàn ý niệm thức ăn thiêng liêng (Mat 4:4). Người Do Thái nói tiếng Aramaic có quan niệm cho rằng “tội lỗi” là nợ trước mặt Chúa.
Vì thế tha nợ tức là tha tội. Người muốn được Chúa tha tội cho mình cũng là người bằng lòng tha thứ cho người khác. Lời Chúa dạy ở đây tha “tất cả, mọi người”. Cám dỗ ở đây cũng có thể là sự thử thách, bắt bớ để phải bội đạo. Người cầu nguyện cần nương cậy nơi sức Chúa để tránh phạm tội. Ngụ ngôn mượn bánh nửa đêm đối chiếu sự tương phản giữa một người hàng xóm và Đức Chúa Cha. Nếu vì hiếu khách mà một người có thể quấy rầy người hàng xóm thì con dân Chúa hãy mạnh dạn kèo nài với Cha từ ái, nhân từ trên trời. Điểm kế tiếp là kiên trì trong khi cầu nguyện với Chúa bằng cách xin, tức là cầu nguyện; tìm kiếm sự hiện diện và ý Chúa; và gõ cửa, cầu xin cơ hội và phước hạnh .
Nhà thời bấy giờ thường chỉ có một phòng rộng; trẻ con ngủ trên chiếu giữa nhà ngay trước cửa ra vào. Cửa thường được cài then nên mở cửa sẽ phải tháo then, gây tiếng động ồn ào. Theo tinh thần hiếu khách thời ấy chủ nhà thường phải đãi khách bằng ổ bánh nguyên vẹn, không phải bánh thừa. Thông thường người ta ăn hết số bánh nướng trong ngày; thỉnh thoảng có nhà còn vài ổ bánh nguyên. Cha mẹ còn biết cho con mình đồ tốt huống gì Đức Chúa Trời lại không ban cho con dân Ngài điều tốt hơn sao? Điều tốt nhất cho tín hữu ngày nay là Chúa Thánh Linh để thêm sức, hướng dẫn và những ân tứ của Ngài.
Bài 33 Chúa Cứu Thế và Quỉ Vương Lu-ca 11:14-26
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Câu chuyện này cũng được chép trong Mat 12:22-30và Mác 3:20-27 tuy nhiên Mác và Lu-ca sắp xếp câu chuyện theo chủ đề trong khi đó Ma-thi-ơ theo thứ tự thời gian. Chúa Giê-su làm phép lạ đuổi quỉ câm ra khỏi một người. Những người chứng kiến phép lạ ấy phải quyết định dứt khoát Chúa Giê-su là ai và về thẩm quyền của Chúa Giê-su, Ngài có quyền của Đức Chúa Trời hay Ngài dùng quyền của quỉ vương (Sa-tan). Nếu Chúa Giê-su nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời để thi hành chức vụ thì Nước Trời đã đến.
Người nào không tin và theo Chúa Giê-su tức là chống lại Ngài. Một người không thể giữ vị trí trung lập đối với Chúa Cứu Thế; hoặc theo Ngài hay chống lại và làm ngăn cản người khác vào Nước Trời. Chúa Giê-su cho thấy quyền năng đuổi quỉ chứng tỏ Ngài là Chúa Cứu Thế. Có nhiều người tin vào quyền năng siêu nhiên, phép lạ nhưng đến từ quỉ vương Bê-ên-xê-bun hay Sa-tan. (Tên Bê-ên-xê-bun có thể phát xuất từ tên thần Ba-anh trong Cựu Ước) Ma-thi-ơ và Mác nói rõ rằng những người Pha-ri-si và các chuyên gia Kinh Luật là những người nghi ngờ và không tin; họ cáo Ngài nhờ quyền năng quỉ vương để trừ quỉ, chữa bệnh.
Một số tài liệu cổ cho thấy các giáo sư Do Thái vào thế kỷ thứ hai vẫn cho rằng Chúa Giê-su và các môn đệ của Ngài dùng quyền phép của ma quỉ để làm phép lạ. Lu-ca cũng như Giăng (2:24-25) cho thấy Chúa Giê-su biết rõ tư tưởng trong lòng người. Chúa Giê-su cho thấy Sa-tan và ma quỉ đang hoạt động; công việc của Sa-tan và ma quỉ là ám hại loài người. Chúa Giê-su hủy phá và giải thoát con người khỏi vòng áp chế của ma quỉ thì làm sao Ngài cậy quyền của nó được. Chia rẽ, nội chiến là nguyên nhân khiến cho một nước, một thành hay một gia đình sụp đổ. Một số người Do Thái cũng đuổi quỉ, như thế tất cả đều nhờ quyền năng của Sa-tan cả sao? Nước Đức Chúa Trời làsự cai trị của Ngài trong lòng những người tin; vì thế Chúa Giê-su đến là sự khởi đầu của Nước Trời trong lòng của những người tin.
Nước trời sẽ thể hiện toàn diện và thấy được khi Chúa Giê-su tái lâm. Chúa Giê-su mạnh hơn Sa-tan và chiến thắng nó. Ngài ban phát chiến lợi phẩm cho những người theo Ngài: Chúa Thánh Linh, sự tha thứ, các ân tứ, sự sống đời đời... Người chỉ nhận những ân phúc chữa bệnh, phép lạ nhưng không có đức tin thật nơi Chúa Giê-su sẽ nguy hại vô cùng.
Bài 34 Lời Quở Trách và Cảnh Cáo Về Thái Độ Lu-ca 11:27-36
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Chúa Giê-su đáp lời một người đàn bà ca tụng chức vụ của Ngài; Chúa Giê-su quan tâm đến sự đáp ứng của người ta đối với lời Chúa hơn là sự ngưỡng mộ. Ngoài ra lời nói của Chúa không có ý trách nhưng nói đến điều phước hạnh hơn. Lu-ca đã ghi lại và công nhận Ma-ri là phụ nữ có phước nhất khi cưu mang Chúa Cứu Thế (Lu-ca 1:42) nhưng vâng Lời Đức Chúa Trời còn có phước hơn nữa. Chúa Giê-su nhấn mạnh đến sự lắng nghe và vâng Lời Chúa hơn là đông người theo Ngài và ngưỡng mộ phép lạ. Chúa Giê-su trách thế hệ đang chứng kiến sự giảng dạy của Ngài là thế hệ gian ác vì họ tìm kiếm dấu lạ.
Dấu lạ duy nhất họ biết là dấu lạ Giô-na. Thế hệ người Do Thái đang nghe Chúa Giê-su giảng dạy biết về Giô-na là do Kinh Thánh. Ma-thi-ơ cũng nói đến Giô-na và sự việc ông bị ở trong bụng cá ba ngày ba đêm; nhưng Lu-ca nhấn mạnh đến sự phán xét vì từ khước ăn năn khi nghe Lời Chúa. Thật ra Chúa Giê-su, Con Người còn vĩ đại hơn Giô-na và Sa-lô-môn nữa. Giô-na là một tiên tri nhưng Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời, Chúa Cứu Thế của nhân loại.
Vua Sa-lô-môn nổi tiếng về lời khôn ngoan của ông nhưng Chúa Giê-su là Ngôi Lời hằng sống và lời Ngài dạy là Phúc Aâm sự sống. Chúa Giê-su cho rằng lời Ngài giảng dạy là Lời Đức Chúa Trời. Nếu lời ghi chép về Giô-na là Lời Chúa có đủ thẩm quyền để họ tin thì những lời Chúa Giê-su giảng dạy cũng đủ thẩm quyền cho họ tin. Đáp ứng lại Lời Chúa là điều hết sức quan trọng; nó đem lại kết quả hay hậu quả nghiêm trọng. Chúa Giê-su trách người Do Thái lúc ấy vì họ không bằng người ngoại ở Ni-ni-ve (nước A-sy-ri), nữ hoàng Sê-ba (ở miền nam A-ra-bia).
Đây là điều trách nặng vì Kinh Thánh Cựu Ước thường mô tả cảnh người Do Thái công chính là người sẽ đoán xét thế gian ngoại đạo, vô tín. Chúa Giê-su xác nhận có ngày phán xét cho nhân loại. Chúa Giê-su ví sự dạy dỗ của Ngài giống như ánh sáng và Ngài dạy dỗ công khai, không giấu diếm gì cả. Một người cần phải nhận ánh sáng để được trở thành ánh sáng; môn đồ nhận ánh sáng từ Chúa đề soi sáng cho người khác. Không tin lời giảng dạy của Chúa Giê-su thì không có ánh sáng chân lý và vẫn sống trong tối tăm. Tình trạng thuộc linh của một người tùy thuộc vào sự nhận thức và tin Lời Chúa như là chân lý. Người có mắt tâm linh tốt sẽ thấy chân lý của Chúa nhưng dục vọng ích kỷ, tấm lòng gian ác sẽ làm mờ mắt, che khuất chân lý của Chúa và vì thế không nhận được Lời Chúa.
Bài 35
Lên Án Thái Độ của Người Pha-ri-si và Chuyên Gia Kinh Luật
Lu-ca 11:37-54
I. Bối Cảnh và Lược Khảo.
Người Pha-ri-si: Tên Pha-ri-si có thể xuất phát từ quan niệm cho rằng những người này bị “Ba Tư hóa” về những niềm tin về thiên sứ , ma quỉ, sự sống lại v.v. của thời lưu đày ở Ba-by-lôn. Một giả thuyết khác cho rằng tên Pha-ri-si phát xuất từ động từ “Phân rẽ, biệt riêng” ; đây là nhóm người phân rẽ với những người không giữ theo những qui luật tinh sạch. Nhiều người cho rằng thuyết này hợp lý hơn.
Pha-ri-si là một hội hay đảng Do Thái tự nguyện giữ các qui luật nghiêm khắc về tinh sạch, ngày Sa-bát, cầu nguyện, dâng phần mười...Người Pha-ri-si giới hạn việc giao tế với những người trong xứ vì họ cho rằng những người này không tuân giữ những qui luật truyền thống. Một số người Pha-ri-si có thể là những chuyên gia Kinh Luật. Người Pha-ri-si và chuyên gia Kinh Luật gìn giữ những qui luật truyền khẩu từ các bậc tiền bối của họ mà họ cho rằng được truyền lại từ thời Môi-se và có thẩm quyền ngang hàng với Kinh Luật của Môi-se.
Chuyên gia Kinh Luật: Vào thời cổ ít người biết đọc và viết nên những người biết đọc và viết không những chỉ ghi chép những văn kiện quan trọng nhưng cũng giữ một vai trò quan trọng trong xã hội. Nhiều người chuyên gia là những tổng thư ký, bộ trưởng, cố vấn cho các bậc vua chúa. Đối với người Do Thái sau thời gian bị lưu đày qua Ba-by-lôn, vai trò của các chuyên gia Kinh Luật càng trở nên quan trọng hơn vì họ là những người ghi chép và gìn giữ Kinh Luật của Chúa.
Theo truyền thống Do Thái Ê-xơ-ra là người lãnh đạo và hướng dẫn giới chuyên gia Kinh Luật trong việc học hỏi, gìn giữ và dạy dỗ hậu thế về Kinh Luật của Chúa.
Vào thời đại Tân Ước, các chuyên gia Kinh Luật cũng được gọi là giáo sư Kinh Luật. Họ thuộc giới lãnh đạo trong xã hội và thường liên hệ với người Pha-ri-si. Bốn điều Chúa Giê-su lên án người Pha-ri-si: Người Pha-ri-si đã thiết lập một số qui luật về tinh sạch áp dụng cho chén đĩa, tay chân bên ngoài nhưng Chúa Giê-su đề cập đến sự tinh sạch trong lòng, trong thái độ. Người Pha-ri-si chỉ chú trọng đến hình thức bề ngoài nhưng trong lòng họ đầy dẫy những gian ác và tham lam vì thế họ là những người đạo đức giả. Con người cần phải tinh sạch cảbề trong lẫn bên ngoài. Người Pha-ri-si rất chú trọng đến qui luật dâng một phần mười ngay cả những vật không đáng kể như bạc hà, rau cần nhưng họ thiếu lòng yêu thương và tính công bình, là những nguyên tắc quan trọng hơn.
Chúa Giê-su quan niệm rằng họ nên thực hành cả hai, nghĩa là dâng phần mười như Kinh Thánh Cựu Ước dạy ( Phục 14:22-27; Lê 25:2-7; 27:30-33; Dân 18:21-32 ) và thực hành công lý và tình yêu thương. Người Pha-ri-si là người kiêu ngạo và ham danh, thích chỗ danh dự trong hội đường cũng như nơi công cộng. Người Pha-ri-si là người chỉ chú trọng sự tinh sạch bề ngoài nhưng bên trong họ chính là nguồn ô uế nhất; không những họ ô uế mà còn lây ô uế cho những người khác khi tiếp xúc với họ nữa.
Ba điều Chúa Giê-su lên án các chuyên gia Kinh Luật: Các chuyên gia Kinh Luật đặt ra nhiều qui luật để giữ Kinh Luật nhưng họ không giúp gì cho người dân trong việc thi hành các qui luật đó và như thế họ cũng v phạm và thất bại khi người dân không thi hành nỗi những qui luật nặng nề kia. Ngoài ra người chuyên gia Kinh Luật cũng có những cách giải thích để tránh thi hành một số điều Kinh Luật dạy mà người thường thiếu hiểu biết Kinh Luật phải cố gắng thi hành.
Vì thế có thể Chúa Giê-su lên án sự đạo đức giả của giới này. Các chuyên gia Kinh Luật và người Pha-ri-si thường tôn trọng và gìn giữ những mộ của các tiên tri và tổ phụ của họ. Nhưng khi từ khước sứ điệp của các tiên tri và đặc biệt là của chính Chúa Giê-su, vị tiên tri vĩ đại hơn các tiên tri kia (câu 11:32) họ đã đồng lõa với tổ tiên họ. Chúa Giê-su cũng phán tiên tri về những sự chống đối và bắt bớ khi các Sứ Đồ của Ngài rao truyền Phúc âm sau này giữa vòng người Do Thái. Lời lên án thứ ba cho các chuyên gia Kinh Luật là họ là sự ngăn trở cho người ta biết Đức Chúa Trời. Thay vì cung cấp chìa khoá cho người ta biết Chúa, họ lấy đi chìa khóa để đến với Chúa.
Chuyên gia Kinh Luật không có kiến thức thật về Đức Chúa Trời; họ cũng không có liên hệ thật với Chúa và họ cũng ngăn cản người khác có được kiến thức thật và mối liên hệ với Chúa.
Bài 36 Tránh Đời Sống Đạo Đức Giả; Tin Trời và Tuyên Xưng Chúa Giê-su Lu-ca 12:1-12
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Sau khi lên án người Pha-ri-si và các giới chuyên gia Kinh Luật Chúa Giê-su nói riêng với các môn đệ theo Ngài để chuẩn bị họ cho sự từ khước sắp xảy ra dù ngay lúc ấy Lu-ca cho thấy đám đông đến nghe Chúa Giê-su giảng dạy càng đông hơn. Men thường chỉ về ảnh hưởng xấu hay tư cách xấu (1Cô 5:6,8). Ở đây men là lối sống đạo đức giả.
Cái động lực muốn tỏ cho người ta thấy mình là đạo đức, thánh thiện có thể đưa đến sới sống hai mặt, đạo đức giả. Đời sống hai mặt, đạo đức giả là đời sống trống rỗng, bất an và bại hoại đưa đến hủy diệt. Chúa Giê-su nói đến ba điều ở đây:
- Đức Chúa Trời biết tất cả mọi sự; Ngài nghe; Ngài thấy tất cả mọi sự.
- Đức Chúa Trời hiện diện ở tất cả mọi nơi.
- Đức Chúa Trời sẽ đoán xét mọi người.
Đây là lời cảnh cáo những người đạo đức giả nên sợ vì họ không giấu diếm được Đức Chúa Trời. Nhưng đây cũng là lời an ủi, khích lệ các môn đệ sống chân thật, tin tưởng nới Chúa vì Chúa biết, thấy tất cả công việc tốt đẹp của họ. Môn đệ của Chúa được Ngài coi như bạn Ngài, một vinh dự lớn lao. Hỏa ngục: Chỉ chỗ kẻ chết bị hình phạt đời đời trong lửa. Từ này (Ghehenna) lấy tên của một địa điểm trong thung lũng Hinnom, ở phía tây nam của Giê-ru-sa-lem, nơi thiêu đốt rác và tử tội. Đây cũng là nơi các vua Y-sơ-ra-ên gian ác ngày xưa thờ thần Ba-anh Mô-lóc và thiêu sống trẻ con để tế thần.
Người ta có hai đời sống, thể chất ngắn ngủi lẫn tâm linh đời đời. Không nên sợ con người, vì họ chỉ có thể hại đời sống vật chất nhưng không có quyền gì trên đời sống vĩnh cửu hay linh hồn chúng ta; chỉ có Đức Chúa Trời có quyền trên cả đời sống vật chất lẫn linh hồn. Trái với quan niệm của một số nhà thần học tự do cho rằng không có hình phạt đời đời; Chúa Giê-xu xác nhận rằng có hỏa ngục, có hình phạt đời đời sau sự chết. Mat 10:28; Khải 20:10-15 cũng dạy về sự hình phạt đời đời.
Chúa Giê-su nói đến sự quan tâm, chăm sóc của Đức Chúa Trời đối với con dân Ngài và sinh vật do Ngài tạo ra. Chim sẻ là vật rẻ tiền nhất ngoài chợ lúc bấy giờ và chỉ người nghèo mới ăn. Nếu Chúa quan tâm đến chim sẻ thì Ngài cũng quan tâm hơn đối với con dân Ngài. Đức Chúa Trời quan tâm và biết rỡ chi tiết mọi tình hình, hoàn cảnh của mỗi người, ngay cả tóc trên đầu một người có bao nhiêu sợi Chúa cũng biết rồi. Tuyên xưng Chúa Giê-su công khai trước mọi người là một dấu hiệu của lòng tin quyết. Người không dám tuyên xưng đức tin hay từ chối Chúa Giê-su sẽ bị từ khước vào nước Thiên Đàng. Danh hiệu Con Người ở đây chỉ về Chúa Giê-su và quyền phán xét của Ngài trong kỳ phán xét cuối cùng.
Tại sao kẻ phạm thượng chống Đức Thánh Linh sẽ không được tha thứ? Từ khước Chúa Giê-su trong khi Ngài còn tại thế vẫn có cơ hội sau này khi nghe sứ điệp của các Sứ Đồ do Đức Thánh Linh cảm thúc. Nhưng tiếp tục từ khước và chống đối sứ điệp của Chúa Thánh Linh và công việc của Ngài làm chứng về Chúa Cứu Thế Giê-su thì không có cách nào khác nữa để được tha thứ tội lỗi. Sự từ khước ở đây là sự từ khước kiên trì và lâu dài chứ không hẳn là hành động nhất thời. Đức Chúa Trời quan tâm, chăm sóc con dân của Ngài nhưng điều này không bảo đảm rằng con dân của Ngài sẽ không bị thế gian, ma quỉ hay chính quyền đàn áp, bắt bớ.
Thật ra Chúa Giê-su chuẩn bị tinh thần cho các môn đệ của Ngài để đối phó với mọi sự đàn áp, bắt bớ sẽ đến cho những người trung kiên theo Chúa. Đặc biệt là những người không từ khước Chúa Thánh Linh sẽ được Ngài giúp trả lời những kẻ bắt bớ họ.
Bài 37 Ngụ Ngôn Người Giàu Dại Dột Lu-ca 12:13-21
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Người Do Thái có luật về vấn đề chia gia tài trong Ngũ Kinh (Phục 21:15-17; Dân 27:1-11; 36:7-9) . Thông thường người con trưởng nam sẽ được gấp đôi phần chia cho những người con khác. Khi có nan đề trong vấn đề chia gia tài người Do Thái thời đó thường mời các giáo sư Do Thái (rabbi) phân xử, giải quyết cho họ vì các giáo sư Do Thái là người giải nghĩa Kinh Thánh.
Sự việc này cho thấy Chúa Giê-su được dân chúng coi như một giáo sư đáng tin cậy có thẩm quyền giải nghĩa Kinh Thánh. Lu-ca không nói rõ nan đề ở đây là gì; người em không được chia gì cả hay phần chia không đồng đều... Chúa Giê-su từ chối làm người phân xử cho vấn đề tranh chấp gia đình cá nhân. Lý do Chúa Giê-su đưa ra: không có ai lập Chúa lên để xử kiện hay chia gia tài. Sứ mệnh của Chúa Giê-su không phải để làm những điều này vì thế Ngài chọn lựa không làm, chứ không phải là chúng ta không nên giải quyết vấn đề này.
Hội thánh đầu tiên đã cử chấp sự lo cho vấn đề xã hội (Công Vụ 6:1-4). Phao-lô cũng khuyến khích hội thánh cử người giải quyết những tranh chấp nội bộ và không nên đưa ra cho quan tòa ngoại đạo phân xử (1Cô 6:4-6). Chúa Giê-su cảnh cáo mọi người nói chung chứ không phải chỉ cho người kia mà thôi. Lòng tham có thể mang mọi hình thức, không phải chỉ có tiền bạc, của cải mà thôi. “Tham” là dục vọng “cứ muốn có thêm mãi” không bao giờ đủ. Lòng tham có thể làm lệch lạc ý nghĩa và quan niệm sống.
Ý nghĩa và mục đích của cuộc sống được xác định bởi mối liên hệ giữa mình với Đức Chúa Trời và ý chỉ của Ngài cho cuộc sống. Cuộc sống của con người không phải được xác định vì có nhiều của cải vật chất.(Gióp 31:24-25; Giáo Huấn 2:1-11) Phao-lô cho thấy tham lam là thờ thần tượng (Côl 3:5; Eâph 5:5). Đời sống giàu có phong phú thật là đời sống giàu có nơi Đức Chúa Trời, không phải nơi của cải vật chất. Đời sống phong phú thật bao gồm việc được tha thứ tội lỗi, được bình an, vui vẻ trong Chúa và có nhiều giá trị đạo đức của Chúa và sẽ nhận phần thưởng vĩnh cửu nơi Chúa.
Chúa Giê-su dạy thêm về vấn đề tham lam bằng một ngụ ngôn. Một điền chủ trúng mùa. Lu-ca không nói gì đến tư cách đạo đức của người này; như thế có thể là ông ta làm ăn lương thiện, bình thường. Chú ý đến cách nói của người này: Ta, của ta... người này bị thu hút với chính mình và của cải của mình. Nan đề của người này gồm có: Tất cả của cải, hoa lợi là công của mình; chỉ một mình ông hưởng thụ, không hề nghĩ đến nhu cầu của một ai khác và không biết đến ân huệ của Đức Chúa Trời đã ban cho ông mà cảm tạ Chúa.
Chúa gọi người này là khờ dại vì người này sẽ chết và không hưởng được gì cả. Chúa không dạy rằng con người không nên hoạch định và Chúa cũng không chống lại sự giàu có. Nan đề Chúa muốn cảnh cáo là cuộc sống tham lam của cải vật chất và ích kỷ cho mình mà thôi. Các nan đề của người này là:
1. Tham lam thâu trữ của cải;
2. Cho rằng sự an toàn của đời sống là do có nhiều của cải nhưng quên đi rằng Đức Chúa Trời quyết định số phận của một người.
3. Đời sống được đo lường bằng số lượng của cải vật chất. Thật ra giá trị, phẩm chất và hạnh phúc của con người không hoàn toàn tùy thuộc vào số lượng vật chất người đó có.
4. Con người là sở hữu chủ của vật chất (không phải Chúa). Loài người chỉ là quản gia của Đức Chúa Trời, Ngài mới là sở hữu chủ của mọi sự, kể cả linh hồn của chúng ta.
5. Ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, chỉ nghĩ đến cái tôi và không hề quan tâm đến người khác.
Bài 38 Giải Pháp Tránh Lo Lắng Lu-ca 12:22-34
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Câu chuyện người nhà giàu ngu dại nói về sự tin cậy vào của cải; Chúa Giê-su tiếp tục dạy về sự tin cậy; ở đây Chúa nói về sự thiếu tin cậy Đức Chúa Trời sẽ gây ra lo lắng thái quá. Chúa Giê-su cảnh cáo về quan niệm sai lầm rằng, con người sẽ sống an toàn nếu có nhiều của cải. Vì nghĩ như thế nên người ta lo lắng để tạo và tích trữ của cải vật chất.
Nhưng sự an toàn của đời sống đều do Đức Chúa Trời ban cho. Hai điểm Chúa Giê-su nêu lên là: Mạng sống quí giá hơn thực phẩm, thân thể quí hơn y phục, cả hai đều do Đức Chúa Trời tạo nên và Ngài coi đời sống chúng ta rất quí giá nên Ngài cũng chăm sóc đời sống chúng ta. Đời sống phải có điều gì cao quí hơn là cơm ăn, áo mặc. Đời sống còn có mối quan hệ với Đức Chúa Trời nữa. Chỉ lo về vật chất sẽ đánh mất sự liên hệ thiêng liêng với Chúa và vì thế mất đi sự sống tâm linh.
Hãy biết rõ rằng đời sống của chúng ta rất quí giá trước mặt Chúa và Ngài sẽ chăm sóc con dân Ngài. Loài vật như chim quạ, một loài chim ô uế mà Chúa còn nuôi chúng đầy đủ huống gì con người. Loài hoa dại còn có hoa đẹp hơn áo vua. Lo lắng thái quá về nhu cầu vật chất hàng ngày là dấu hiệu của sự thiếu tin cậy nơi Chúa, Đấng chu cấp mọi nhu cầu cho chúng ta. Lo lắng không những là triệu chứng của sự thiếu tin cậy, một điều vô ích nhưng cũng gây tổn thương, hủy hại sự sống.
Chú ý về ví dụ Chúa kể cho thấy loài chim không biết lo lắng chứ không phải loài chim không cần làm việc hay đi kiếm mồi. Hoa cỏ là loại ít giá trị và sống ngắn ngủi so với đời sống con người và sự sống vĩnh cửu. Người chỉ lo cho nhu cầu vật chất không mà thôi thì không khác gì người ngoại đạo không tin Đức Chúa Trời và không có sự sống vĩnh phúc. Người có niềm tin nơi Chúa tin rằng Ngài biết rõ nhu cầu của con dân Ngài và Ngài đang tích cực chu cấp, chăm sóc con cái Ngài.
Giải pháp để tránh lo lắng thái quá là gì? Chúa Giê-su khuyên:
“Hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời.” (Mat 6:33) cho thấy đây nên là ưu tiên trong đời sống. Lu-ca nói đến thói quen bình thường trong đời sống một tín hữu là tìm kiếm Nước Chúa. Nếu Chúa đã vui lòng ban Nước Thiên Đàng cho con dân Ngài thì Ngài cũng sẽ vui lòng chu cấp nhu cầu vất chất cho họ. Một người không quá lo lắng về của cải vật chất sẽ được tự do để sống rộng rải, giúp đỡ người khác qua các việc từ thiện.
Tiền của vật chất sẽ củ mòn, mục nát nhưng những gì làm cho Chúa và cho người khác sẽ còn lại đời đời trên trời. Người ta sẽ trung thành và tận hiến cho điều gì mình cho là giá trị nhất. Nếu sự sống vĩnh phúc và thiên đàng là điều giá trị nhất của một người thì người đó sẽ để ưu tiên cao cho sự sống vĩnh phúc và Nước Đức Chúa Trời.
Bài 39 Hãy Sẵn Sàng và Trung Tín Lu-ca 12:35-48
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Trong đoạn trước Chúa Giê-su khuyên môn đệ không nên lo lắng thái quá và kế đến là làm thế nào các môn đệ của Chúa sống trong thời đại cuối cùng này. Một số học giả theo khuynh hướng thần học tự do cho rằng những lời dạy về Chúa Giê-su hay Con Người tái lâm là sản phẩm của những suy tư của hội thánh thời tiên khởi, chứ không phải lời thực của Chúa Giê-su. (Họ ám chỉ hội thánh tiên khởi thêm vào sau này) Sở dĩ họ nghĩ như thế vì họ cho rằng Chúa Giê-su không bao giờ dạy về sự tái lâm của Ngài.
Nhưng sự giả định này không vững vì nếu Chúa Giê-su không dạy về sự tái lâm của Ngài thì hội thánh tiên khởi lấy gì mà dạy về sự tái lâm của Ngài? Hay giáo lý này từ đâu mà ra? Ngoài ra ví dụ về kẻ trộm cho thấy đây là một điều Chúa Giê-su thường dùng, nên những điều giảng dạy này là tự nhiên, không phải là những đoạn văn thêm thắt về sau này. Hai hình ảnh để nói lên sự thức canh và sẵn sàng.
Vào thời ấy người mặc áo dài muốn ở tư thế gọn gàng và sẵn sàng để làm việc hay hành động người ta phải kéo vạt áo lên và thắt ngang hông. Thắp đèn lên ám chỉ thời gian Chúa đến có thể là vào ban đêm, tối tăm. Cả hai hình ảnh này cho thấy Chúa dạy các tín hữu phải có thái độ thức canh và sẵn sàng để đón chủ mình trở lại bất cứ vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm. Hình ảnh kế tiếp là ngụ ngôn ngắn về việc chủ dự tiệc cưới trở về. Vào thời cổ, tiệc cưới có thể kéo dài vài ngày; đôi khi có những tiệc cưới lớn kéo dài cả tuần lễ. Những người đầy tớ phải túc chực sẵn sàng để đón chủ khi người về nhà. Điều này cũng ám chỉ sự tái lâm của Chúa Giê-su.
Phước cho những đầy tớ thức canh, họ sẽ được dự tiệc chung với chủ. Đây có thể là hình ảnh của tiệc cưới Chiên Con trên thiên đàng (Khải 3:20; 19:9). Người La Mã chia 12 giờ ban đêm (6:00PM đến 6:00AM) để canh gác làm 4 canh, mỗi canh 3 giờ. Người Do Thái có thể theo lệ chia ban đêm làm 3 canh. Có thể Lu-ca nói đến cách La Mã ở đây. Tuy nhiên dù với cách nào đi nữa, ý nghĩa chính vẫn là đêm khuya và những người canh không biết khi nào chủ về. Phước cho người đầy tớ nào thức canh và đón chủ khi chủ về.
Chúa Giê-su dùng một ví dụ tiêu cực để nhấn mạnh đến sự tái lâm bất ngờ của mình giống như kẻ trộm khoét vách vào nhà; vì thế các tín hữu phải sẵn sàng và cảnh tỉnh. Con Người là một danh hiệu của Chúa Giê-su. Con Người đến hay Chúa Giê-su tái lâm sẽ đem phước hạnh cho những người biết và chờ đợi Ngài và phán xét cho nhữngkẻ khác. Câu hỏi của Phê-rơ chỉ về môn đệ và đám đông dân chúng; hay chỉ về các Sứ Đồ và 72 môn đệ lãnh đạo và đám đông dân chúng.
Khi ChúaGiê-su trở lại Ngài sẽ phán xét cả nhân loại vì vậy Phê-rơ có thể chỉ các môn đệ và đám đông dân chúng nói chung. Người quản gia trung tín và khôn ngoan được giao cho bổn phận coi sóc gia nhân của chủ khi chủ đi vắng. Ở đây nói đến trách nhiệm trong cộng đồng dân Chúa. Người không biết rằng Chúa sẽ trở lại và không mong Chúa tái lâm sẽ không làm việc cho Chúa. Người trung tín và khôn ngoan là người chu toàn bổn phận cho đến khi Chúa đến. Động lực thúc đẩy một tín hữu sống là muốn làm đẹp lòng Chúa và khi Chúa tái lâm Ngài sẽ thấy mình trung tín phục vụ Chúa. Một trong những phước hạnh của Chúa là có trách nhiệm quản trị lớn hơn và phục vụ trong nước Thiên Đàng.
Người quản gia bất trung là người:- Nghĩ rằng chủ sẽ về trễ; lợi dụng trách nhiệm và địa vị của mình để đánh đập các tôi tớ khác; ăn uống đến say sưa. Sống ích kỷ, đồi trụy. Chúa Giê-su sẽ trở lại trong ngày, giờ những người quản gia bất trung này không biết và không ngờ. Người quản gia bất trung có phải làmột tín hữu thật của Chúa không? Có thể đây là hình ảnh của những người Pha-ri-si hay thầy tế lễ Do Thái thời bấy giờ; họ có địa vị, tiếng tăm và được người ta coi là lãnh đạo dân Chúa, nhà Chúa nhưng là những kẻ vô tín, những giáo sư giả.
Ngày nay cũng có thể có nhiều người có hình thức, địa vị và danh tiếng trong giáo hội, trong hội thánh nhưng là những người hai lòng, giả mạo, không phải những tôi tớ, con dân thật của Chúa. Những người quản gia bất trung kia bị liệt chung với kẻ vô tín và bị hình phạt như kẻ vô tín. Vâng lời, trách nhiệm và hiểu biết ý Chủ đi đôi với phần thưởng hay hình phạt. Tin Chúa lâu năm, có thì giờ, cơ hội, phương tiện mà không hiểu biết Chúa và ý chỉ Ngài là một tội vì Chúa dạy: Ô-sê 4:6; Êph 4:11-13
Bài 40 Hãy Hiểu Biết Các Dấu Hiệu của Thời Đại Lu-ca 12:49-59
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Chúa Giê-su mô tả chức vụ hiện tại của Ngài trong ba tiểu đoạn Kinh Thánh. Chúa mong ước hoàn tất sứ mệnh của Ngài trên thế giới. Trong tiểu đoạn này Chúa cho thấy phản ứng của dân chúng Do Thái đối với sứ điệp của Ngài. Chúa Giê-su thấy rõ lòng dạ con người (Giăng 2:23-24), đa số dân chúng Do Thái và giới lãnh đạo của họ sẽ khước từ Con Đức Chúa Trời nhưng sẽ có một số ít đáp ứng và tin theo Chúa. Tình yêu mà Chúa đòi hỏi những người tin theo Ngài cũng mạnh mẽ như tình thương gia đình, huyết thống, vì thế nó là một sự chọn lựa dứt khoát ; rất có thể người ta phải chọn lựa giữa Chúa, sự cứu rỗi và tình gia đình. (Mat. 10:34-37)
Vì đa số dân Do Thái sẽ từ khước Chúa nên hậu quả là có sự phân rẽ trong xã hội và ngay cả trong gia đình. Dù biết rằng đa số dân chúng sẽ từ khước Ngài và sứ mệnh của Ngài nhưng Chúa Giê-su vẫn kiên tâm tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi mà Đức Chúa Cha đã giao phó cho mình. Lửa là hình ảnh của Đức Thánh Linh và phán xét (Lu-ca 3:9; 16). Chúa Giê-su đến thế gian để cứu rỗi nhân loại, nhưng những ai từ khước ân huệ cứu rỗi của Ngài sẽ bị phán xét. Để giải thoát con người ra khỏi hình phạt Chúa Giê-su sẽ phải gánh chịu hình phạt của nhân loại, hình phạt đó là cái chết trên thập tự giá mà Ngài ám chỉ bằng “một phép báp-tem mà Ta phải chịu.” (Mác 10:38-39)
Chúa Giê-su cũng cảnh cáo dân chúng về sự hiểu biết và phân biệt thời đại họ đang sống. Tại vùng Pha-lê-tin, gió từ phía tây là gió đem mây từ biển Địa Trung Hải vào lục địa vì thế sẽ có mưa. Gió từ phía nam là gió từ sa mạc thổi đến nên sẽ nóng. Người Do Thái sống ở vùng này đều có thể phân biệt và tiên đoán thời tiết nhờ quan sát các hiện tượng thiên nhiên. Chúa Giê-su quở trách dân chúng vì họ có khả năng giải thích hiện tượng tự nhiên nhưng lại không biết và thấy rằng Đức Chúa Trời đang hành động giữa họ qua Con Ngài là Chúa Cứu Thế Giê-su.
Đạo đức giả là lời quở trách nặng (nhiều nhất, 14 lần trong Mat. 23 khi Chúa quở trách giới lãnh đạo Do Thái) để nói đến nan đề về tâm trí của người không muốn biết và không chấp nhận chứ không phải không có khả năng. Chúa Giê-su dùng một trường hợp pháp lý thời đó để làm ví dụ. Trường hợp Chúa đưa ra làm ví dụ làmột trường hợp thiếu nợ. Dàn xếp ngoài tòa án để trả nợ thường là dễ dãi hơn và khỏi bị tù; tù nhân thời bấy giờ hay bị đánh đập, tra khảo để gia đình, thân nhân phải trả tiền; ngoài ra khi đã bị án tù thì phải trả đủ cho đến đồng bạc cuối cùng.
Đồng tiền ở đây là đồng xu có trị giá nhỏ nhất (khoảng 1/28 của một đồng Đê-na-ri, hay một ngày công). Tiếp nhận ân huệ cứu rỗi của Đức Chúa Con thì dễ dàng hơn là đứng trước tòa phán xét cuối cùng. Giải quyết mọi vấn đề trong tình yêu thương và ân huệ bao giờ cũng tốt đẹp và dễ dãi hơn là giải quyết bằng luật lệ nghiêm khắc.
Bài 41 Bài Học cho Dân Do Thái Lu-ca 13:1-9
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Vụ thống đốc Phi-lát giết mấy người Ga-li-lê dù không được Josephus, một nhà sử học Do Thái ghi chép trong tác phẩm Chiến Tranh Do Thái (Jewish War) nhưng không có gì chứng tỏ rằng đây không phải là một sự kiện đã thật sự xảy ra. Ngoài ra ông Josephus cũng chỉ ghi chép một số sự kiện chứ không phải ghi chép tất cả mọi sự kiện đã xảy ra tại Do Thái. Những vụ các nhà cầm quyền La Mã tàn sát dân không có gì là lạ tại vùng này vào thời bấy giờ. Vụ giết chóc này có thể đã xảy ra vào dịp lễ Vượt Qua vì vào lúc đó các người hành hương thường sẽ giết con chiên dâng tế của mình mang đến.
Thống đốc Phi-lát cai trị Giu-đê nhưng bị dân Do Thái thù ghét. Phi-lát, thống đốc La Mã cai trị Giu-đê từ năm 26/27 đến 37 SCN. Phi-lát đặt trung tâm hành chánh tại Sê-sa-rê và có khoảng 5000 quân dưới quyền mình. Biến cố những người Ga-li-lê bị giết có thể là vụ quân của Phi-lát đã giết một số người Do Thái trong một cuộc nổi dậy chống đối thống đốc vì lấy tiền trong đền thờ để xây ống dẫn nước vào Giê-ru-sa-lem. Quan niệm thông thường thời bấy giờ cho rằng những người bị chết thê thảm có thể vì họ đã phạm tội gì đó rất nặng. Các bạn của Gióp cũng có quan niệm sai lầm này Gióp 4:7; 8:4.
Khi bác bỏ quan niệm này, Đức Chúa Giê-su cho thấy không phải tất cả những vụ chết chóc thê thảm đều là do Trời phạt nhưng là hành động của những người gian ác. Chúng ta là những con người đồng loại, chúng ta không nên đóng vai Đức Chúa Trời lên án hay đoán xét người khác. Chúa Giê-su cho thấy tất cả mọi người đều phạm tội; ăn năn là con đường duy nhất để thoát khỏi hình phạt của tội lỗi và sự chết tâm linh đời đời cũng thê thảm như vụ thảm sát kia. Lời phê bình của Chúa Giê-su có thể sẽ gây ảnh hưởng chính trị không thuận lợi cho Ngài. Nếu Chúa bênh vực dân Do Thái chỉ trích hành động tàn sát của Phi-lát, Ngài có thể bị tố cáo là chống chính quyền La Mã. Nếu Chúa Giê-su trả lời thân thống đốc thì dân chúng sẽ cho rằng Ngài phản dân tộc, không xứng đáng là một tiên tri.
Chúa Giê-su dẫn họ đến một thực trạng cao hơn, Ngài dùng việc này để cảnh cáo họ về tội lỗi và khuyên họ ăn năn để khỏi bị hủy diệt. Trường hợp tai nạn tháp Si-lô-ê cũng thế, Chúa Giê-su bác bỏ quan niệm cho rằng những người kia phạm tội nặng hơn những người dân Giê-ru-sa-lem nên bị tai nạn thê thảm đó. Chúa cũng cảnh cáo họ nên ăn năn vì mọi người đều có tội. Trong cả hai trường hợp Chúa Giê-su cho thấy con người cá nhân cũng như tập thể sống và tồn tại là một ân huệ của Đức Chúa Trời; người ta hay dân tộc có thể bị diệt bất cứ lúc nào. Chúa Giê-su cũng có thể dùng hai trường hợp trên để cảnh cáo người Do Thái, nếu họ không ăn năn dân tộc họ có thể bị tai họa hủy diệt như thế. Cây vả thường tượng trưng cho tuyển dân Do Thái. Cây vả này đáng lẽ phải có trái hàng năm nhưng đã ba năm nó không sinh trái.
Vậy cây này có thể đã hiện diện bảy năm trong vườn. Như thế nó hút hết hoa màu của đất và phí phạm. Ngụ ngôn này có thể có một số bài học áp dụng cho cá nhân lẫn tuyển dân Do Thái.
1/ Được trồng trong vườn là một đặc ân; đời sống thể chất lẫn tâm linh là một ân sủng.
2/ Kết hoa quả, sinh bông trái trong đời sống con dân Chúa là một việc tự nhiên.
Mục đích của một đời sống của con dân Chúa là sinh bông trái, làm vinh hiển Chúa. Một tín hữu của Chúa phải có bông trái đạo đức, tức là đổi mới giống như Chúa Giê-su về thái độ, tư tưởng, hành vi đạo đức và kết quả tâm linh là đem được nhiều người trở về cùng Chúa.
3/ Đời sống của một con dân Chúa mà không có kết quả là một tội trọng.
4/ Một đời sống bất hữu dụng cho Chúa là một đời sống phí phạm, vô ích và bị mối nguy cơ hủy diệt. Một số học giả cho rằng Chúa Giê-su đã cảnh cáo và nói tiên tri về sự hủy diệt của Giê-ru-sa-lem và nước Do Thái vào năm 70 SCN.
Bài 42 Tình Thương Tốt Hơn Luật Lệ Lu-ca 13:10-17
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Trong biến cố này tác gỉa cho chúng ta thấy phản ứng của người Do Thái đối với Chúa Giê-su; phản ứng của họ về những phép lạ Ngài thực hiện; kết quả của họ thật là thất vọng và dấu hiệu về thời đại cuối cùng không được nhận thấy. Đồng thời tác giả cũng cho thấy ân huệ và lòng thương xót của Đức Chúa Trời và Chúa Cứu Thế Giê-su thật lớn lao. Mặc dù câu chuyện này chỉ được ghi lại trong Phúc âm Lu-ca nhưng không có bằng chứng nào chứng tỏ nó không thật sự xảy ra hay chỉ là một câu chuyện do Lu-ca dựng lên để dạy dỗ mà thôi.(Như một số học giả tân phái chủ trương). Bệnh này có thể là bệnh về xương sống hay tê liệt bắp thịt lưng.
Trường hợp bị quỉ ám ngày nay cũng vẫn còn xảy ra rất nhiều trên thế giới. Sa-tan là một thực thể chứ không phải chỉ là biểu tượng của sự ác. Bà này bị bệnh đã 18 năm cho thấy đây là một câu chuyện thật vì con số 18 không mang một biểu tượng gì cả. Chúa Giê-su dùng từ “giải thoát khỏi bệnh tật” để nói lên quyền giải thoát của Ngài không những trên bệnh tật nhưng trên cả Sa-tan (câu 13:16).
Chúng ta cũng nên chú ý rằng ở đây Lu-ca không nói gì đến đức tin của bà này vì trong nhiều trường hợp Chúa Giê-su bày tỏ quyền năng của Ngài mà không phải vì người bệnh có đức tin nơi Ngài. Tuy nhiên ChúaGiê-su đặt tay chữa bệnh cho bà này để chứng tỏ rằng quyền năng này là của Ngài và từ Ngài mà ra chứ không phải tình cờ hay may mắn. Bà này đứng thẳng lên và ca ngợi Đức Chúa Trời về quyền năng và tình thương đã được thể hiện qua Chúa Giê-su.
Nhưng viên quản lý hội đường cũng như nhiều người Pha-ri-si và lãnh đạo Do Thái giáo lại nổi giận vì cho rằng Chúa Giê-su vi phạm luật ngày Sa-bát. Do Thái giáo truyền thống dựa trên Kinh Thánh (Phục 5:12-15) đã qui định 39 điều luật để giữ ngày Sa-bát, trong đó có việc dẫn lừa đi uống nước thì không sao. Chúa Giê-su quở trách người quản lý hội đường cũng như giới lãnh đạo Do Thái về thái độ sai lầm của họ. Trong trường hợp này, những kẻ lãnh đạo Do Thái giáo đã coi trọng và đối xử tốt với thú vật hơn là với con người vì sự câu nệ luật lệ do họ đặt ra.
Trong trường hợp này, Chúa Giê-su hiểu đúng tinh thần của Ngày Sa-bát và không vi phạm ngày Sa-bát nhưng Ngài bác bỏ những điều lệ của Do Thái giáo về ngày Sa-bát. Trọng tâm của luật pháp của Đức Chúa Trời là cho lợi ích cho con người, chứ không phải để ép buộc con người. Luật lệ hay truyền thống nào mà ngăn cản người ta giúp đỡ những người cùng khốn, thiếu thốn, đau yếu à những luật lệ không đến từ Chúa nhân từ. Nếu Chúa Giê-su vi phạm luật thánh của Chúa thì làm sao Ngài có thể dùng quyền năng của Đức Chúa Trời chữa lành người bệnh.
Bài 43
Bài Học Về Nước Đức Chúa Trời
Lu-ca 13:18-35
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Trong các ngụ ngôn này Chúa Giê-su nói về các đặc tính của nước Đức Chúa Trời. Đặc tính thứ nhất nói về Nước Đức Chúa Trời bắt đầu nhỏ nhưng sẽ trở nên lớn như hột cải mọc lên thành cây cải. Chim có thể làm tổ trên cành. Hạt cải: Thành ngữ Do Thái nói chung cho rằng hạt cải là hạt nhỏ so với những loại hạt khác như hạt ô liu, hạt dẻ v.v. Cây cải thuộc giống Salvadora Persica có thể cao đến 25 bộ (7.2 m) và giống Sinapis Nigra có thể cao khoảng 10 bộ Anh (3 m). Một cây cải trung bình khoảng 3 hay 4 bộ (1.2 m) cũng có thể là chỗ cho chim làm tổ.
Hình ảnh thứ hai của ngụ ngôn có thể hàm chứa là hình ảnh chim chóc làm tổ trên cây. Nếu cây là hình ảnh của Nước Đức Chúa Trời thì chim chóc chỉ về con dân Chúa trú ngụ trong Nước Trời và chim chóc có thể ám chỉ những người ở xa xôi, tức là người ngoại quốc nữa, không phải chỉ có người Do Thái mà thôi mới được ở trong Nước Đức Chúa Trời. Do Thái giáo thường dùng hình ảnh cây tuyết tùng (cedar) để chỉ Nước Đức Chúa Trời và họ mong đợi Nước Chúa đến một cách nhanh chóng, huy hoàng. Chúa Giê-su dùng hình ảnh cây cải nói lên một yếu tố mới, lạ lùng đối với đa số người thời bấy giờ; Ngài dùng cây cải đơn sơ, bé nhỏ hơn nhưng vẫn hữu dụng.
Ngụ ngôn về men:
Men là chất xúc tác chỉ cần một lượng nhỏ nhưng có thể làm cho đống bột (Ba đấu dung lượng khoảng 39.4 lít) dậy lên và đủ làm bánh cho khoảng trăm người ăn.
Ngụ ngôn này nói lên rằng Nước Đức Chúa Trời bắt đầu nhỏ, nhưng khi đã đến thì vấn đề tăng trưởng là vấn đề đương nhiên. Nước Đức Chúa Trời bắt đầu nhỏ, đơn sơ và gần như không thấy được nhưng sẽ tăng trưởng lớn và hiện diện khắp mọi nơi. Men tác động từ bên trong. Sự thay đổi từ trong lòng, bởi đức tin; con người mới.
Biểu tượng cửa hẹp:
Do Thái giáo dạy rằng người Do Thái vì là dòng dõi Aùp-ra-ham và được chọn nên đa số sẽ được cứu vào ngày tận thế. Chúa Giê-su cho thấy truyền thống và huyết thống không phải là yếu tố quyết định sự cứu rỗi. Không phải đa số người Do Thái sẽ được cứu mà chỉ có ít người mà thôi vì họ phải vào cửa hẹp.
Hình ảnh thứ hai về cửa hẹp là vấn đề thời gian, cửa sẽ bị đóng lại sớm và nhiều người tưởng rằng mình đang ở trong nhà dự tiệc nhưng lại bị ở ngoài. Vấn đề ở đây là thời gian sẽ có lúc chấm dứt, không còn dịp tiện cho người ta vào Nước Trời. Những người bị từ chối là những người không có liên hệ đức tin cá nhân với Chúa Giê-su; Ngài không biết họ dù họ ở cùng trong nước, làm nhiều việc nhân danh Ngài (Mat 7:22-23).
Ba hình ảnh của ngụ ngôn:
1. Một số người Do Thái sẽ bị loại ra ngoài vì không có đức tin và đáp ứng lại sự kêu gọi của Chúa Cứu Thế Giê-su dù họ tưởng rằng vì truyền thống và huết thống Do Thái họ sẽ đương nhiên được ở trong Nước Trời.
2. Nhiều người ngoại quốc từ khắp thế giới sẽ được vào dự tiệc với các tổ phụ và tiên tri của Chúa. Đây là điều ngạc nhiên cho đa số người Do Thái thời bấy giờ, kể cả các Sứ Đồ.
3. Nhiều người ở xa, ở cuối sẽ trở nên gần và được ngồi đồng bàn với các tổ phụ đức tin, trong khi những người Do Thái ở gần và đầy đặc ân, dịp tiện sẽ bị bỏ ra ngoài.
Vua Hê-rốt ở đây là Hê-rốt Antipas, con của vua Hê-rốt đại đế. Có thể là một vài người Pha-ri-si có cảm tình với Chúa Giê-su báo tin cho Ngài biết. Cũng có thể là người Pha-ri-si muốn Ngài rời khỏi vùng đó xuống Giê-ru-sa-lem để họ gài bẫy bắt Ngài. Chúng ta khôngcó đủ dữ kiện để xác định điều này. Chúa Giê-su không sợ vua Hê-rốt giết vì Ngài hành động theo ý chỉ của Đức Chúa Cha. Ngài cho biết rằng Ngài phải chết tại Giê-ru-sa-lem như Lời Kinh Thánh đã báo trước.
Chồn được coi là loài quỉ quyệt và phá hoại; Chúa Giê-su ví vua Hê-rốt như con cáo. Ba ngày, “Ngày nay, ngày mai và ngày kia” có thể nói đến thời gian ngắn nhưng cũng có thể nói đến sự chết và sống lại của Chúa Giê-su. Đây là lần thứ tư Chúa Giê-su nói đến việc Ngài chịu khổ và chết. Giê-ru-sa-lemlà thủ đô của người Do Thái, vì thế Chúa Giê-su muốn nói đến cả nước Do Thái lúc bấy giờ chứ không phải chỉ nói đến dân chúng Giê-ru-sa-lem. Chúa đã kêu gọi, muốn cứu dân Do Thái nhưng họ không nghe lời kêu gọi của Ngài. “Giết các tiên tri và ném đá các sứ giả” của Chúa cho thấy đây là một hình ảnh quen thuộc đã xảy ra trong lịch sử dân tộc này.
Đây cũng là bằng chứng cho thấy cách diễn tả này không phải là cách nói của hội thánh về sau này thêm vào. Chúa Giê-su cảnh cáo họ và đồng thời cũng nói tiên tri về hậu quả của sự khước từ Chúa Cứu Thế của dân Do Thái. Nhà cửa họ sẽ bị hoang phế, tức là họ sẽ bị lưu đày biệt xứ và nhà cửa bị bỏ hoang. “Nhà” cũng có thể nói đến đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Có thể Chúa muốn ám chỉ cả hai. Nhưng Chúa Giê-su cũng cho thấy người Do Thái cũng còn hy vọng vào thời đại cuối cùng khi họ công nhận Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế; người nào tin nhận Chúa Cứu Thế và mong đợi Ngài tái lâm sẽ có dịp tung hô danh Ngài.
HÀNH TRÌNH PHỤC VỤ TẠI GIÊSUSALEM
14:1- 19:48
Bài 44 Những Bài Học Về Nước Trời Lu-ca 14:1-35
I.Bối Cảnh và Lược Giải.
Chúa Giê-su tiếp tục dạy dỗ dân chúng về nước Đức Chúa Trời; các giới lãnh đạo Do Thái ngày càng thấy rõ sự dạy dỗ của Chúa hoàn toàn trái với truyền thống của họ. Chúa Giê-su bày tỏ tình yêu thương và giải nghĩa luật ngày Sa-bát theo nguyên lý nghỉ ngơi, bảo vệ sức khoẻ của con người. Các chuyên gia Kinh Luật Do Thái đã cho rằng chữa bệnh là làm việc vì thế không nên chữa bệnh trong ngày Sa-bát. Chúa Giê-su thấy một người bị phù thũng trong bữa tiệc nên hỏi các chuyên gia Kinh Luật và người Pha-ri-si rằng có nên chữa bệnh cho người đó không? Những người này không trả lời vì họ biết rằng nếu nói “không” theo truyền thống của họ thì tỏ ra không có tình thương.
Chúa Giê-su chữa lành người bệnh và cho ra về. Ngài cũng hỏi khách rằng nếu con trai hay con bò của họ ngã xuống giếng vào ngày Sa-bát, họ có cứu nó không? Dĩ nhiên là họ sẽ cứu nó. Điếu này cho thấy truyền thống của người Pha-ri-si không đúng với tinh thần của ngày Sa-bát; Tinh thần này là cứu người, không phải hại người. Ngoài ra họ không trả lời được vì họ thấy rõ luật lệ của họ đã không có tình thương. Người Pha-ri-si và giới lãnh đạo Do Thái là những người kiêu ngạo và thích được trọng vọng nơi công cộng.
Chúa Giê-su kể ngụ ngôn để dạy về nếp sống và tinh thần khiêm nhường trong Nước Đức Chúa Trời. Chúa sẽ là Đấng tôn cao những người khiêm nhường (Lu-ca 18:14). Ngoài ra trong ngụ ngôn này Chúa cũng dạy người khiêm nhường cách hành sử khôn ngoan để khỏi hổ thẹn và mất mặt trước đám đông. Trong lời khuyên chủ nhà về việc tiệc tùng giao thiệp, Chúa muốn khuyên chủ nhà nên mở rộng mối giao thiệp với những giới thấp kém hơn mình; không nên chỉ tiếp đãi những người có thể báo đáp mình.
Ngoài ra nếu một người đãi tiệc và mong đuợc báo đáp thì không còn chút ơn nào cả. Người con dân Chúa nên làm việc từ thiện vì yêu thương, không mong trả ơn thì mới được Chúa trả ơn. Chúa Giê-su dự tiệc do người Pha-ri-si khoản đãi nhưng Lu-ca cho thấy thái độ của đa số khách không mấy thân thiện. Đây là buổi tiệc cuối Lu-ca và các Phúc Âm ghi chép về Chúa Giê-su ăn tiệc trong nhà người Pha-ri-si. Ngụ ngôn này cho thấy ít nhất là năm điểm Chúa muốn dạy:
Theo phong tục thời đó các khách đã được mời từ lâu và đã nhận lời mời dù chưa biết ngày giờ đích xác. Nhưng đến giờ chót những ngưòi này kiếu từ vì có những ưu tiên khác trong cuộc sống.
1/ Giới lãnh đạo Do Thái giáo đã từ khước cơ hội dự tiệc trong NướcĐức Chúa Trời.
2/ Nước Đức Chúa Trời và buổi tiệc vẫn tổ chức như thường dù không có các khách được mời lúc đầu. Nhưng các khách khác sẽ điền vào các chỗ đó.
3/ Người không được dự tiệc không phải vì Chúa Giê-su không mời nhưng vì họ không nhận lời mời của Ngài; những người nhận lời mời của Chúa Giê-su, dù có vẽ không xứng đáng, sẽ được dự tiệc.
4/ Buổi tiệc vẫn được cử hành như đã định, không trì hoãn vì những khách không nhận lời mời.
5/ Những người tưởng rằng mình chắc chắn sẽ được ở trong Nước Đức Chúa Trời lại là những người không có tên trong sách sự sống vì họ đã từ khước Con Đức Chúa Trời hằng sống.
Chúa Giê-su dùng tu từ pháp thậm xưng để đối chiếu thứ tự ưu tiên trong đời sống, chứ không phải Ngài muốn dạy tín hữu ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình. Vào thời đó khi người ta thấy một người tử tội vác thập tự gía của mình đến chỗ hành hình, tức là người đó đã để tất cả mọi sự phía sau và đang đi đến chỗ chết.
Người theo Chúa Giê-su cũng phải bỏ tất cả những gì mình có để theo Chúa nếu cần phải chọn giữa của cải và ngay cả mạng sống mình với đời sống ChúaGiê-su đem lại. Muốn làm môn đệ Chúa người ta phải trả giá, vì thế phải cân nhắc giá trị, lợi hại khi quyết định chọn lựa sự sống hay cái chết, vinh quang hay hổ nhục.
1/ Tính toán chi phí khi xây tháp. Không xây nổi là một thất bại và se bị chê cười.
2/ Vua đi ra chiến tranh. Thiếu quân, thua trận sẽ thiệt hại lớn.
3/ Giá để làm môn đệ Chúa gồm cả việc lấy sở hữu vật chất đánh đổi lấy sự sống đời đời khi làm môn đệ Chúa là một giá đắt, không phải rẽ.
Điều này không nhất thiết là tất cả mọi người phải bán hết tài sản khi tin Chúa nhưng phải coi giá trị của cải vật chất kém hơn sự sống đời đời và sẵn sàng hy sinh nó nếu cần. Muối là chất xúc tác làm cho dồ ăn thêm ngon, giữ đồ ăn như thịt cá tươi lâu vàkhông bị hư thối. Vào thời đó người tacũng dùng muối để lót duối các lò nướng để khử trùng nhưng sau một thời gian, muối đó hết chất muối nên trở nên vô dụng, người ta phải bỏ đi. Chất muối có thể chỉ nước Do Thái hay chỉ cá nhân tín hữu.
Nước Do Thái khi không có Đấng Cứu Thế của họ sẽ như muối mất chất muối, không ích lợi gì cho nhân loại. Một người không có Chúa Cứu Thế cũng không có sự sống đời đời và trở nên vô dụng trước mặt Chúa và nhân loại.
Bài 45 Ngụ Ngôn Về Con Chiên Đi Lạc Lu-ca 15:1-32
I.Bối Cảnh và Lược Giải
Hai ngụ ngôn về con chiên đi lạc và người đàn bà mất quan tiền có mục đích và động lực tương tự như nhau nên chúng ta sẽ tìm hiểu chung với nhau. Trong hai ngụ ngôn này, Chúa là người giàu tình thương hết sức nỗ lực để tìm kiếm và phục hồi tội nhân về với Ngài. Chúa cũng nhấn mạnh đến tấm lòng vui mừng của ngài và thiên đàng khi có người ăn năn quay lại với Đức Chúa Trời.
Người thu thuế và tội lỗi là những người bị loại ra khỏi cộng đồng tôn giáo Do Thái. Những người lãnh đạo tôn giáo và những người sùng đạo đều tránh giao tiếp với những người này. Chúa Giê-su không những thu hút những người tội lỗi nhưng Ngài còn giao tiếp với họ trong các bữa ăn. Chúa Giê-su thể hiện sự công chính, thánh khiết và cứu rỗi nhưng Ngài đi đến với tội nhân hư mất; Chúa tìm kiếm họ để cứu. Và hai câu chuyện ngụ ngôn này cũng nói lên tấm lòng hân hoan vui mừng khi Chúa tìm được người hư mất trở về với Ngài.
Một bầy chiên vào thời đó trung bình khoảng 100 con. Chiên hay cừu là loài vật ngây thơ, dại dột và có thể ham ăn đi lạc bầy. Nếu không tìm thấy kịp, con chiên đi lạc có thể bị thú dữ tấn công và ăn thịt;hoặc té xuống hầm hố, vách nuí và chết mất. Người chăn cừu thường kiểm điểm bầy chiên vàkhi thấy thiếu một con nào thì có thể dừng lại, giao bầy chiên còn lại cho một người chăn khác gần đó trông hộ, còn mình đi tìm con chiên đi lạc. Người chăn chiên vui mừng tìm thấy con chiên đi lạc và vác nó về.
Vì người chăn chiên thường phải đền nếu để mất chiên; ngoài ra người chăn chiên bị mất chiên cũng bị mang tiếng là thiếu cẩn trọng, chu đáo. Những người bạn chăn chiên và láng giềng đều hân hoan chia vui với người chăn chiên kia. Chúa Giê-su qua ngụ ngôn này cho thấy người chăn chiên từ Đức Chúa Trời mà Ngài là hình ảnh tiêu biểu có nhiều điểm trái ngược với những người lãnh đạo Do Thái giáo (những người chăn dân Chúa). So sánh Người Pha-ri-si và chuyên gia Kinh Luật Chúa Giê-su
- Tin vào sự công chính, thánh thiện theo Kinh Thánh
- Tin như thế
- Người ta phải ăn năn để đến với Chúa
- Phải ăn năn để đến với Chúa
* Không đi tìm kiếm người lầm lạc, tội lỗi
* Nỗ lực tìm kiếm người lầm lạc, tội lỗi
* Không giao tiếp với người phạm tội
* Giao tiếp, nhưng không thoả hiệp
* Không quan tâm đến người lạc mất
* Vui mừng đón nhận kẻ hư mất trở về
* Khinh bỉvà xa lánh người lầm lạc
* Thương yêu người lầm lạc.
Câu chuyện mất quan tiền cũng nói lên cùng một động lực vui mừng khi tìm được quan tiền bị lạc mất. Một quan tiền này tương đương với một đồng tiền Đơ-ni-ê (trị giá khoảng một ngày công) vì thế không phải là lớn lắm. Có học giả cho rằng đồng tiền này là mười đồng tiền bằng bạc đính trên khăn như là một phần của hồi môn nên rất quí. Nhưng dù quan tiền có giá trị lớn hay là một kỷ vật thì người đàn bà này quyết tâm tìm kiếm nó. Và khi tìm thấy quan tiền, người này vui mừng và cũng muốn bạn hữu mình chung vui vì timlại vật đã mất. Trong cả hai ngụ ngôn, thiên đàng, thiên sứ đều hân hoan vui mừng vì tội nhân ăn năn trở lại với Chúa.
Những người Pha-ri-si và lãnh đạo tôn giáo Do Thái không có tình thương yêu tội nhân, không tìm kiếm họ và vì thế cũng không vui mừng vì tội nhân ăn năn. Ngụ ngôn này hàm ý họ không phải là bạn hữu của người chăn chiên và của người đàn bà và cũng không phải là những người ở thiên đàng. Ngụ ngôn thứ ba nói về tấm lòng yêu thương tha thứ của người cha đối với đứa con hư hỏng lầm lạc.
Theo truyền thống Do Thái chuyện này rất hiếm vì yêu cầu chia gia tài tức là cầu mong cha mình chết, tuy nhiên cũng có tài tiệu cổ cho thấy người cha được khuyên không nên chia gia tài sớm quá, tức là việc này có thể xảy ra. Nếu việc này xảy ra, người anh có thể được phần gia tài gấp đôi (Phục 21:17) người em. Người thanh niên trẻ tuổi độc thân bỏ nhà ra đi đến một xứ lạ. Anh sống trụy lạc và tiêu phí tài sản nhanh chóng vàkhông may xứ bị đói kém nên phải tìm việc làm thấp kém nhất thời bấy giờ.
Đối với người Do Thái việc chăn heo còn bị coi là ô uế vì heo là vật ô uế. Tình trạng bi đát vànhục nhả đến độ cậu này đói quá muốn ăn thức ăn của heo mà cũng không có mà ăn. Người thanh niên này tỉnh ngộ, anh nhận thấy tôi tớ trong gia đình cha anh còn đầy đủ hơn anh ta hiện tại. Người con này nay mới thấy cha mình là người chủ nhân lành. Người con hoang đàng nay mới nhận thức được sự sai lầm, tội lỗi của mình trước mặt Chúa và cha mình. Người con bằng lòng trở lại với cha nhưng chỉ xin làm việc như một tôi tớ vì biết mình đã đánh mất quyền thừa kế cũng như quyền làm con. Đây là bức tranh của khiêm nhường và ăn năn thật.
Ăn năn thật khôn dám đòi hỏi gì, chỉ xin lòng thương xót và chu cấp tối thiểu như một người làm công thấp kém nhất. Người cha khi thấy con về từ đàng xa đã chạy ra ôm cổ mà hôn. Một người bề thế, lớn tuổi thường đi đứng chậm rải, không chạy nhảy vì như thế là mất trang nghiêm, đứng đắn. Nhưng người cha đã quá cảm xúc, mừng rỡ nên đã chạy ra ôm con.
Hành động này cũng cho thấy người cha vẫn mong chờ con mỗi ngày. Người con chỉ dám xin về làm đầy tớ hạng thấp nhất nhưng người cha nhận con mình như conruột của một gia đình vọng tộc. Đầy tớ chỉ mặc đồ ngắn, đi chân không và mang dép cho chủ. Ở đây người cha cho con mình aó dài của một công tử, nhẫn của con trai ruột, đi dép của người giàu có, không phải lao động chân tay. Người cha còn bảo giết bò tơ mập ăn mừng. Một con bò có thể đãi tiệc cả làng. Người cha và gia đình vui mừng vì đứa con đã chết, nay sống lại, đã mất nay tìm lại được. Người con cả thấy thế nổi giận, không chịu vào chung vui với gia đình. Người cha phải ra năn nỉ con cả chung vui với gia đình.
Người con cả bày tỏ thái độ của mình:
- Anh cho rằng người cha thiên vị. Cha không thưởng cho hành động vâng lời, làm việc của anh.
- Người con cả chỉ nghĩ tới bản thân mình
- Người con cả ở trong gia đình nhưng hành động và suy nghĩ như một người làm công hay nô lệ.
- Người con cả suy nghĩ đến sự ban thưởng cho công đức, việc thiện nhưng người cha vui mừng vì lòng thương xót, ân huệ, không phải thưởng cho tội lỗi của đứa con. Ngườicha vui mừng vì lòng ăn năn và trở lại của con, không pha i thưởng.
- Người con cả có thái độ tự cho mình công chính như các người lãnh đạo Do Thái giáo và không chấp nhận sự ăn năn.
Người cha nhắc nhở đứa con cả rằng anh ta vẫn có cha bên cạnh, có tất cả tài sản, địa vị con cả. Nhưng người cha cũng không bỏ quyết định vui mừng nhận lại đứa con hư mất của mình. Trái lại ngưòi cha nhấn mạnh đến điều “phải ăn mừng hoan hỉ vì em con đã chết, mà nay được sống, đã mất mà nay tì m lại được.”
Bài 46 Ngụ Ngôn Về Người Quản Gia Bất Lương Lu-ca 16:1-18
I.Bối Cảnh và Lược Giải
Đây là một ngụ ngôn khó giải thích vì Chúa Giê-su đã dùng những hành vi tiêu cực và gương xấu để khuyến khích môn đệ của Ngài hành động tốt đẹp và làm điều thiện lành. Người giải nghĩa ngụ ngôn này có thể khác biệt về các chi tiết nhưng chúng ta cũng có thể thấy vài điểm chung. Con người nói chung ai cũng phải phục vụ một cái gì đó hay một Đấng nào đó, hãy chọn phục vụ Đức Chúa Trời. Phục vụ Đức Chúa Trời tức là phục vụ tha nhân, vậy nên phục vụ người khác một cách rộng lượng.
Điểm quan trọng trong việc phục vụ Chúa là trung tín. Vào thời cổ những người giàu có, điền chủ có thể nuôi nô lệ và cho làm quản gia coi sóc tài sản của mình. Trong trường hợp này người quản gia là một người tự do được chủ muớn cai quản điền sản. Người chủ có thể không ở ngay tại điền sản nhưng ở chỗ khác. Tội của người quản gia là quản trị kém vì phung phí tài sản, có thể là tài chánh của chủ. Cuốc đất hay đào đất là công việc lao động chân tay thấp kém như ăn xin và thời đó.
Người quản gia này biết mình bị đuổi nên tìm cách lấy cảm tình của những khách hàng của chủ để may ra một trong những người này sẽ mướn mình sau này để trả ơn. Một trăm thùng dầu ô-liu tức là 3310 lít trị giá khoảng 1000 Đê-na-ri, tức là khoảng 3 năm lương công nhật , một số tiền lớn. Một trăm giạ lúa trị giá khoảng 2500 đến 3000 Đê-na-ri và số nợ giảm là 20 giạ tức là khoảng 500 đến 600 Đê-na-ri hay hai năm lương công nhật. Người chủ khen anh quản gia này tinh khôn trong việc đối xử với những con nợ của chủ để lấy cảm tình và nhờ cậy trong tương lai. Người quản gia này dù là bất chính nhưng đã tỏ ra khôn ngoan trong việc xử dùng quyền và tiền không phải của mình để hưởng lợi và để chuẩn bị cho tương lai. Con cái của Chúa nên học bài học khôn ngoan này (không phải học theo hành động bất chính).
Tất cả tài sản chúng ta có đều là của Chúa, hãy sử dụng tài sản một cách rộng rãi để có lợi cho mình và phải hành động thích nghi đối với Chúa để chuẩn bị cho tương lai đời đời vì Ngài là Đấng năm giữ tương lai đời đời của chúng ta. Hãy rộng rãi trong việc sử dụng iền bạc của cải trong thế gian để giúp ích cho người khác, chứ không phải ích kỷ hưởng lợi cho mình mà thôi. Dùng của cải tiền bạc để đem người về với Chúa là điểm áp dụng cho tín hữu ngày nay. “Của cải bất chính” là lối nói thậm xưng để chỉ quan niệm thông thường về của cải giàu có ở thế gian thường là do tấm lòng tham lam, ích kỷ và hành động gian dối để có.
Trung tín là đức tính cần thiết trong Nước Đức Chúa Trời. Nếu việc nhỏ và tạm thời như tiền bạc, của cải mà không trung tín thì làm sao có thể trung tín trong những việc lớn như phước hạnh thuộc linh và đời đời trong nước Đức Chúa Trời. Nếu một người không thể lo cho việc không phải của mình, nghĩa là không sợ bị mất, thì cũng sẽ không thể cai quản việc lớn, quan trọng và có nhiều cơ may bị mất. Tiền bạc, của cải được nhân cách hóa,hay thần tượng hoá. Một người không thể sống và phụng vụ hai chủ.
Con dân Chúa phải chọn và phục vụ một chủ mà thôi tức là Đức Chúa Trời. Tiền bạc, của cải không thễ là ưu tiên tối cao trong đời sống một tín hũu của Chúa. Người ta có thể phục vụ Chúa bằng cách sử dụng tiền bạc một cách rộng rãi cho Chúa. Người ta có thể hy sinh những nguồn lợi lớn để làm vinh hiển Chúa. Người ta có thể ban tặng tiền của, chia sẻ phúc lành vàgiúp đáp ứng những nhu cầu vật chất, tình cảm, tâm linh của người khác. Người Pha-ri-si là người tự cao và tự cho rằng mình công ch1nh, vâng phục Kinh Luật của Chúa nhưng trên thực tế họ là người tham lam và vì thế vi phạm Kinh Luật (điều răn chớ tham).
Người Pha-ri-si đã chứng tỏ rằng họ không thực sự tin cậy và thờ phụng Đức Chúa Trời vì họ đã từ khước lời kêu gọi ăn năn của Giăng Bap-tít và sau này cũng từ khước Chúa Cứu Thế Giê-su và sự dạy dỗ của Ngài. Chúa Cứu Thế đến đem Nước Đức Chúa Trời đến theo Ngài và Ngài là người duy nhất chu toàn tất cả Kinh Luật của Đức Chúa Trời. Mat 5:17 Chúa Giê-su nhắc đến luật nguyên thủy của Đức Chúa Trời trong vấn đề hôn nhân. Vì thời bấy giờ người Do Thái có thể theo một trong hai quan niệm về hôn nhân của giáo sư Do Thái giáo Hillel hay Shammai. Hillel quan niệm rất phóng khoáng như không hài lòng về ăn uống cũng có thể ly dị vợ , trong khi đó Shammai chỉ cho phép ly dị khi phạm tội ngoại tình.
Chúa Giê-su nói đến vấn đề trung tín hay chung thủy giữa vợ chồng. Bội tín hay hủy bỏ giao ước với Chúa và với người phối ngẫu là phạm tội.
Bài 47 Người Giàu và La-xa-rơ Lu-ca 16:19-31
I.Bối Cảnh và Lược Giải
Đoạn Kinh Thánh này là loạt bài thứ hai nói về sự giàu có ở thế gian này. Điều thứ nhất ngụ ngôn nói đến là giàu có, của cải ở thế gian này không thể mua phước hạnh trong đời sống vĩnh cửu. Những gì người nghèo không có trong thế gian này, người sẽ được trong đời sống đời đời. Đời sống xa hoa trụy lạc trong đời này sẽ mất phúc lành trong đời sống vĩnh cửu. Những gì người ta gieo trong đời này người đó sẽ gặt trong cõi đời đời.
Câu chuyện này là một ngụ ngôn, một chuyện thật hay một ví dụ điển hình? Lu-ca không dùng tên “ngụ ngôn” để mô tả câu chuyện này. Nhân vật trong câu chuyện có tên rõ ràng; câu chuyện không phải một điều gì xảy ra thường ngày, lập đi lập lại để so sánh; câu chuyện nói về đời sau với nhiều chi tiết. Vì thế có thể xem đây là một câu chuyện ví dụ điển hình như câu chuyện người Sa-ma-ri nhân lành. Người giàu ăn mặc gấm điều, một loại vải rất đắc tiền vào thời đó.
Người giàu này không những mặc áo khoác đắc tiền mà ngay cả đồ lót cũng làm bằng vải đắc tiền trong khi rất nhiều người lúc ấy chỉ có cái khố che thân. Đa số người trong xã hội La Mã là nô lệ, kiếm đủ ăn mỗi ngày là một đặc ân trong khi người giàu có này tiệc tùng lớn mỗi ngày. Tên La-xa-rơ là tên phiên âm của tên Hy-bá-lai Ê-lê-a-sa, có nghĩa là “Đức Chúa Trời giúp đỡ”. Điều này hàm ý rằng dù La-xa-rơ bị loài người quên lãng nhưng Đức Chúa Trời vẫn biết và nhớ đến ông. La-xa-rơ có thể là một người tàn tật và rất nghèo nên ngồi ở cổng nhà người giàu để xin thức ăn thừa. Nhà người giàu có lẽ là một dinh tự lớn lao, có cổng lớn.
Hình ảnh chỉ có chó liếm ghẻ cho thấy La-xa-rơ rất yếu, khó cử động hay di chuyển. Người nghèo mơ ước được ăn những mảnh bánh thừa nhưng cũng không có. Hình ảnh này cho thấy người giàu không quan tâm, không thấy sự đau khổ , đói khát, thiếu thốn của người chung quanh. Về phương diệân nghi lễ tôn giáo, người nghèo này bị chó hoang liếm ghẻ nên cũng bị coi là ô uế. Kinh Thánh dạy rõ ở nhiều nơi cũng như ở câu 22, chết không phải là hết, nhưng chết sẽ thay đổi mọi sự. Sau khi chết con người, hay linh hồn vẫn còn ý thức. “Trong lòng Áp-ra-ham” là một thành ngữ để chỉ nơi Áp-ra-ham và các tổ phụ ở cùng Đức Chúa Trời. Âm phủ là nơi có khổ hình dành cho nguời chết.
Người giàu có kia đang bị đau khổ nơi Âm phủ, có thể là khổ hình về tinh thần. Tín hữu của Chúa Giê-su không bao giờ đi vào Âm phủ khi chết. Kinh Thánh Tân Ước cũng nói đến một chỗ khác là Hoả ngục (Ghehenna), nơi hình phạt sau cùng dành cho tội nhân. Đoạn Kinh Thánh này cũng cho thấy, những người có liên hệ chủng tộc với Áp-ra-ham, người Do Thái, cũng vẫn bị xuống Âm phủ đau khổ. Vì thế “đạo dòng” không có kết quả gì cho người giàu có này trong Nước Trời. Sau khi chết số phận của một người đã bị quyết định, không còn có thể được thay đổi. Người giàu có này định nương cậy vào chủng tộc, dân tộc được chọn, để xin được đổi số phận đau khổ nhưng không được.
Của cải giàu có của người khi còn sống cũng không giúp ích gì cho ông ta trong Nước đời đời. Số phận của một người, hoặc là đi hỏa ngục hay lên thiên đàng với Chúa được quyết định ngay đời sống này. Sau khi chết, số phận củamột người đã bị quyết định và không thể thay đổi vì lời cầu xin của người này hay bất cứ ai. Cầu hồn hay cầu siêu cho người chết là điều vô ích; Kinh Thánh không dạy chúng ta cầu nguyện cho người chết, người đó phải chờ sự phán xét của Chúa. (Hê 9:27) Chúng ta cũng nên chú ý và so sánh với những chổ dạy dỗ khác của Chúa để không đi đến kết luận sai lầm rằng người giàu có này đi địa ngục vì ông ta giàu có.
Giàu có tự nó không phải là tội. Lu-ca cho thấy Xa-chê rất giàu nhưng không đi địa ngục. Người giàu này đi địa ngục vì đã sống xa xỉ, ích kỷ, không lưu tâm giúp đỡ kẻ nghèo đói; không quan tâm đến sự đau khổ của kẻ khác. Người nhà giàu này cũng như nhiều người ngày nay cho rằng nếu một người chết rồi sống lại, trở về cảnh cáo các anh em của người thì họ sẽ ăn năn. Nhưng Áp-ra-ham cho biết nếu một người không tin Lời Chúa được khải thị qua Môi-se và các tiên tri thì không có gì làm cho họ tin, ngay cả người chết sống lại.
Bài 48
Các Huấn Thị và Phép Lạ Chữa Bệnh Phung
Lu-ca 17:1-19
I. Bối Cảnh và Lược Giải.
Trong đoạn này Chúa Giê-su nói với các môn đồ cho nên đây là những đức tính môn đồ của Chúa nên có. Từ ngữ dùng trong câu này (17:1-2) chỉ về hành động dụ dỗ người khác phạm tội, đặc biệt là đi đến niềm tin sai lầm, tà giáo hay bội đạo. Chúa cho biết sự cám dỗ để bị vấp ngã là điều không thể tránh được và điều này có thể xảy ra ngay trong cộng đôàng những người tin Chúa. Ma-thi-ơ 18:6-7 cho thấy thế gian đầy sự cám dỗ. Kẻ bé mọn ở đây nói đến những người mới tin Chúa hay chưa trưởng thành trong Chúa.
Dù là điều khó tránh được trong thế gian, nhưng cố ý gây cho người khác vấp ngã hay phạm tội là một tội trọng. Số phận của kẻ cám dỗ hay dẫn người khác đi đến chỗ tin tưởng sai lầm, phạm tội là điều khủng khiếp. Người làm như thế thà bị chết thảm như bị cột cối đá thả chìm dưới biển còn hơn. Chúa khuyên các môn đệ của Ngài phải luôn luôn cảnh giác trong cuộc sống theo Chúa của họ.
Mục đích chung của cộng đồng con dân Chúa là theo đuổi một cuộc sống công chính, thánh khiết của Chúa Giê-su vì thế mỗi con dân Chúa không những chịu trách nhiệm vì hành vi của mình nhưng cũng có bổn phận xây dựng môn đệ khác trong cộng đồng, trong đại gia đình của Chúa. Khuyến cáo hay quở trách người phạm tội và tha thứ kẻ ăn năn là hai nguyên tắc môn đệ Chúa nên thực hành. Math 18:15-17 mô tả rõhơn về cách đối diện với người phạm tội:
1/ Gặp riêng người phạm tội
2/ đem một hai người chứng đến gặp riêng người phạm tội.
3/ Trình với hội thánh. Vấn đề khiển trách phải được thi hành trong tình yêu thương (Êph 4:15) và không bao giờ làm để trừng phạt hay hạ nhục người anh em phạm tội.
Mục đích của sự khuyến cáo là để phục hồi người sa ngã. Điều này được bày tỏ trong hành động kế tiếp, đó là sự tha thứ khi người phạm tội ăn năn. Nguyên tắc tha thứ được nhấn mạnh đến độ người phạm tội bảy lần trong ngày và ăn năn bảy lần thì chúng ta phải sẵn sàng tha thứ cho người đó.Một người ăn năn đến bảy lần trong ngày thì có vẻ không thành thật, nhưng Chúa dạy chúng ta không nên đoán xét tấm lòng một người mà phải chấp nhận lời mộtngười tuyên xưng.
Điều này cũng nói đến thái độyêu thương thật của con dân Chúa là bỏ qua quá khứ tội lỗi, sống trong hiện tại được tha thứ và tinh sạch bởi dòng huyết của Chúa Giê-su.(ICô 13:4-6) Lòng tha thứ là bài thi để thử đức tin và tình yêu thương của tín hữu. Các môn đồ ở đây xin “thêm đức tin” chứ không phải ban đức tin cho họ.
Điều này cho thấy đức tin nơi tín hữu là một điều sống, có sự tăng trưởng, lớn mạnh. Như thế đức tin không phải là một quyết định nhất thời nhưng là một tiến trình, một cuộc hành trình dài theo Chúa. Các môn đệ mong muốn học hỏi và nhờ Chúa giúp để đức tin của mình tăng trưởng. Hạt cải là hạt nhỏ nhất theo quan niệm của người Trung Đông thời bấy giờ. Có đức tin thật, dù nhỏ bé cũng có thể thực hiện những việc lớn và khó. Chúa Giê-su dùng hình ảnh của một người nô lệ trong xãhội thời bấy giờ để làm minh hoạ.
Người nô lệ đã được chủ mua và nuôi để phục vụ mình. Vì thế quyền lợi và việc phục vụ chủ là ưu tiên và là bổn phận đương nhiên của người nô lệ. Người nô lệ không có quyền đòi phần thưởng khi phục vụ chủ, nhưng điều này không có nghĩa là chủ không thưởng cho các nô lệ khi họ phụcvụ trung tín và xuất sắc. Nhiều ngụ ngôn trong Kinh Thánh cho thấy điểm này Lu-ca 19:11-27. Từ “vô dụng” ở đây muốn nói đến ý nghĩa “không xứng đáng” , không có quyền gì cả để đòi hỏi chủ phải phục vụ hay thưởng cho mình. Câu chuyện về mười người phung cho thấy con người nói chung thường quên ơn Chúa.
Tất cả mười người này đều là những người bị xã hội ruồng bỏ và tránh xa. Dù vậy họ nghe được tiếng tăm của Chúa Giê-su, tình thương và quyền năng chữa bệnh của Ngài. Tất cả mười người phung đều có đức tin nơi Chúa Giê-su và vâng lời Ngài đi trình diện thầy tế lễ . Theo luật lệ tôn giáo của người Do Thái những người phung này phải trình thầy tế lễ khám nghiệm và chứng nhận rằng họ hết bịnh và được thanh sạch. Tất cả mười người đều được lành bệnh, nhưng chỉ có một người Sa-ma-ri trở lại tôn vinh, cảm tạ Đức Chúa Trời và cảm ơn Chúa Giê-su. Vì đức tin và lòng biết ơn của người Sa-ma-ri , anh cũng được cứu rỗi vì Chúa phán: “đức tin con đã chữa lành (cứu) con.”
Bài 49 Nước Chúa được thiết lập. 17:20-37
Bài 50 Kiên trì cầu nguyện. 18:1-8
Bài 51 Khiêm nhường và kiêu căng. 18:9-17
Bài 52 Sự Giàu Có và Sự Sống Vĩnh Phúc Lu-ca 18:18-30
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Lu-ca dùng từ “ một viên quan” hay người cai trị để chỉ những người lãnh đạo hội đường, những người lãnh đạo nhóm Pha-ri-si, những người lãnh đạo chính quyền và những thầy tế lễ lãnh đạo. Ở đây có thể là vị quan, người lãnh đạo chính quyền. Tại sao Chúa Giê-su bác bỏ cách xưng hô “thầy nhân lành” vì đây không phải là cách xưng hô thông thường của người Do Thái thời bấy giờ.
Vị quan này tâng bốc một người quá đáng. Nhân lành ở đây hàm ý “toàn thiện” nhưng chỉ có Đức Chúa Trời là đấng toàn thiện. Chúa Giê-su trong quan niệm của đại đa số người, kể các môn đệ của Ngài lúc bấy giờ, chỉ là một người, một vị tiên tri mà thôi. Chúa Giê-su thấy lòng không thành thật và muốn ông này chú trọng vào Đức Chúa Trời , vâng phục Ngài và điều răn của Ngài. Vị quan này hỏi Chúa Giê-su “Ông ta phải làm gì để được cứu rỗi.” Chúa Giê-su nêu lên các điều răn 7, 6, 8, 9 và 5.
Đây là những điều răn liên quan đến loài người với nhau. Có thể vì cách chúng ta đối xử với con người thể hiện lòng tin và sự vâng lời của Chúng ta đối với Chúa và điều răn, mạng lệnh của Ngài. Chú ý ở đây Chúa Giê-su không nêu lên điều răn thứ 10. “Chớ tham lam”. Vị quan này rất tự tin và trả lời rằng ông đã giữ tất cả những điều đó từ khi còn trẻ. Theo con mắt và tiêu chuẩn của vị quan này ông đã giữ tất cả những điều răn trên. Tuy nhiên người quan này hỏi Chúa Giê-su “ông phải làm gì để được cứu rỗi” chứng tỏ ông còn thắc mắc trong lòng và chưa an tâm rằng ông được cứu rỗi dù đã giữ tất cả điều răn theo quan điểm của Do Thái giáo thời ấy.
Chúa Giê-su bảo ông quan này: Bán tất cả tài sản, phân phát cho người nghèo và theo làm môn đệ Chúa Giê-su. Mạng lệnh này có thể có các ý nghĩa sau:
1/ Một người muốn được cứu rỗi phải bán hết tài sản để phân phát cho người nghèo. Đây không phải là ý Chúa muốn dạy vì nhiều người khác cũng giàu có (Xa-chê, vị quan khác) nhưng Chúa không đòi hỏi họ phải bán hết tài sản mới được cứu rỗi.
2/ Chúa đòi hỏi như thế để chứng tỏ rằng ông quan này chưa giữ đúng tinh thần của các điều răn của Chúa về “yêu người khác như mình”. Ông này không có hết lòng giúp đỡ người nhèo bằng tài sản của mình; ông chỉ giữ hình thức của năm điều răn về người với người.
3/ Chúa đòi hỏi như thế để cho thấy ông này tin tưởng và ỷ lại vào của cải và công đức bề ngoài của tôn giáo để được cứu rỗi chứ không thật lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời và khiêm nhường nhờ cậy ân sủng của Ngài để được cứu rỗi.
Người Do Thái cho rằng giàu có là dấu hiệu của phước đức của Chúa.Vị quan này không để Chúa làm ưu tiên thứ nhất trong đời sống nhưng tiền bạc mới thực sự là ưu tiên số một của ông.
4/ Chúa cho thấy ông này tham lam tiền bạc, tức là thờ thần tương. (Côl 3:5; Êph 5:3) Có thể ý nghĩa thứ hai, thứ ba và bốn là điều Chúa Giê-su muốn dạy cho ông quan này.
Lu-ca cho thấy phản ứng của ông quan này khi nghe Chúa bảo như thế “ông ta trở nên buồn rầu vì giàu có lắm”. Điều mà ông quan này không thể làm được thì các môn đệ của Chúa đã làm, họ bỏ hết để theo Ngài. Chúa Giê-su cũng dạy một điều thực tế khác: Người giàu rất khó vào nước thiên đàng; khó như con lạc đà chui qua lỗ kim.
Tại sao người giàu có lại khó vào nước thiên đàng hay nói nôm na là được cứu rỗi. Những chỗ khác trong Kinh Thánh dạy cho chúng ta thấy nhiều lý do:
1/ Người giàu thường tham lam tiền bạc hơn là nương cậy Chúa.
2/ Người giàu thường tự tin và không khiêm nhường đủ để nhờ cậy ân huệ của Chúa thay vì nhờ tài đức của mình. Những người này thường nghĩ rằng nhờ tài đức của mình nên giàu có, thành công và vì thế cũng muốn nhờ tài đức của mình để vào Nước Chúa Trời.
3/ Người ham làm giàu thường chỉ nghĩ đến mình và sẽ khó trung tín với Đức Chúa Trời.
4/ Người Do Thái có quan niệm giàu là dấu hiệu của ân phước Chúa cho nên nghĩ là mình đã làm đẹp lòng Chúa rồi. Con lạc đà là con vật lớn và lỗ kim là điều nhỏ nhất mà người ta thường phải đối diện. Một số người cho rằng tại cổng vào thành Giê-ru-sa-lem có một cửa nhỏ chỉ vừa đủ cho một người chui qua gọi là “Lỗ kim”.
Một số giáo phụ cho rằng từ “camelos” thường được đọc là “camilos”, nghĩa là “dây cáp neo tàu”. Thật ra đây là một loại tu từ pháp để nhấn mạnh đến sự khó khăn gần như không thể làm được cho nên không cần thiết phải tìm những điều hợp lý hơn. Các môn đệ không hiểu được vì họ cũng có cùng quan niệm như người Do Thái đương thời; người được phước giàu có mà không vào được nước Chúa thì ai sẽ vào được? Chúa Giê-xu hướng họ về Đức Chúa Trời; Chúa có thể làm được nếu họ chú tâm và tin vào Đức Chúa Trời. Người để Đức Chúa Trời và Nước Chúa trên hết là người sẽ được cứu rỗi. “Bỏ” nhà cửa, gia đình ở đây không có nghĩa là từ bỏ hay không lo chăm sóc nhưng là chọn ưu tiên Chúa và Nước Ngài dù phải rời bỏ sự an toàn, êm ấm của nghề nghiệp hay gia đình.
Vì theo Chúa vào thời đó có thể bị từ bỏ, đàn áp, bắt bớ. Nhưng những ai theo Chúa và để Ngài trên hết sẽ được Chúa ban thưởng gấp bội trong đời này lẫn trong nước đời đời. Ngay trong đời này sự bình an, vui mừng, hy vọng và mối quan hệ với Chúa và với tín hữu khác phong phú, sâu đậm hơn trước và đại gia đình của Chúa (Hội thánh) cũng sẽ lớn lao và sâu đậm hơn là gia đình cá nhân. Người theo Chúa sẽ nhận được phước lành trên mà tiền bạckhông thể mua được ngay trong đời này nhiều hơn và giá trị hơn là những điều họ hy sinh.
Bài 53 Quyền Năng của Con Vua Đa-vít Lu-ca 18:31-43
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Theo Lu-ca Chúa Giê-su bắt đầu tiến vào Giê-ru-sa-lem, nơi Ngài sẽ hoàn tất sứ mệnh của mình và ứng nghiệm Kinh Thánh. Chúa Giê-su cũng nhắc nhở các sứ đồ những điều huyền nhiệm về Ngài. Cho đến lúc này các sứ đồ của Chúa vẫn chưa hiểu rõ những lời phán tiên tri trong Kinh Thánh về sư ïthống khổ Chúa Cứu Thế phải chịu; Ngài phải chết rồi sống lại. Các sứ đồ và những nhà lãnh đạo Do Thái không thể hiểu nổi điều này.
Chúa Giê-su nêu lên bảy điều sẽ được ứng nghiệm về Ngài: Bị nộp cho người ngoại quốc, bị chế nhạo, nhiếc mắng, phỉ nhổ, đánh đòn, bị giết và ngày thứ ba sống lại. Các sứ đồ không hiểu nổi những điều này cho đến khi Chúa Giê-su sống lại. Công Vụ 1:1-3 Giê-ri-cô là thành ở phía bắc Biển Chết, cách sông Giô-đanh khoảng 9 Km và trên con đường chính đến Giê-ru-sa-lem. Con vua Đa-vít là một danh hiệu của Đấng Cứu Thế (Mê-si-a). Người mù này chỉ nghe về Chúa Giê-su nhưng anh đã tin rằng Ngài chính là Đấng Cứu Thế có quyền chữa bệnh cho anh. Điều này tương phản với tình trạng mù lòa thuộc linh của đám đông, giới lãnh đạo Do Thái và cả các sứ đồ của Chúa lúc bấy giờ nữa. Sự tương phản càng rõ rệt hơn khi chúng ta so sánh với vị quan giàu có cũng trong đoạn này !8:18-30.
Giàu có, địa vị, đạo đức, sáng mắt và ỷ lại vào công đức của mình nhưng không biết Chúa Cứu Thế và tin cậy Ngài để được cứu. Lu-ca cũng cho thấy Đấng ban sự sống vĩnh phúc là ai và làm thế nào để nhận được sự sống vĩnh phúc. Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế , đầy lòng thương xót, sẵn lòng cứu vớt người đau khổ.
Qua câu chuyện này Lu-ca cho thấy :
-Nền tảng của sự cứu rỗi và chữa bệnh là lòng thương xót (ân huệ) của Chúa.
-Đức Giê-su chính là Đấng Cứu Thế đầy lòng thương, đủ quyền năng cứu rỗi loài người. Chúa Giê-su quan tâm, muốn cứu giúp những người nghèo nàn, bất hạnh, bị xã hội từ bỏ.
-Phải ý thức được sự bất toàn và bất lực của mình và cầu xin Chúa cứu giúp.
-Tin cậy nơi Chúa Giê-su. -Niềm tin đúng nơi Chúa Giê-su sẽ đem lại sự sống vĩnh phúc dù đa số người khác không thấy, không biết và không đáp ứng đúng.
Bài 54 Năng Lực Biến Đổi của Đức Tin Lu-ca 19:1-10
. Bối Cảnh và Lược Giải
Thành Giê-ri-cô là một thành lớn của một vùng trù phú, ở gần biên giới nên chính quyền La Mã có trạm thu thuế cho vùng. Dinh của vua Hê-rốt cũng ở trong vùng này. Xa-chê là một người trưởng đoàn thu thuế, tức là người thầu việc thu thuế với chính quyền La Mã rồi cho thầu lại hay mướn người thu thuế làm việc cho mình.
Những người thu thuế thường bị coi là những kẻ tội lỗi vì họ tham lam, lường gạt và bóc lột dân chúng; họ bị đa số dân chúng và giới lãnh đạo Do Thái khinh miệt vì liên kết với chính quyền đô hộ ngoại quốc. Một người dù xấu xa, tội lỗi nhưng lương tâm vẫn khao khát điều thiện, tốt. Chúa Giê-su khích lệ những tấm lòng đó đáp ứng tiếng gọi của Ngài.
Chúa Giê-su và Phúc Âm của Ngài tìm kiếm những người bị xã hội từ bỏ, khinh miệt. Ăn năn thật luôn luôn đưa đến tấm lòng vui mừng và hành động sửa sai, đền bù những gì mình đã làm thiệt hại cho người khác. Xa-chê làm theo luật pháp. Xuất 22:1 Một người là con cái của Áp-ra-ham không phải vì huyết thống và nghi thức Do Thái giáo bên ngoài nhưng là tấm lòng đáp ứng, tin tưởng Chúa Cứu Thế . Trường hợp của Xa-chê cho thấy vấn đề cứu rỗi là vấn đề của tấm lòng, không phải vấn đề giàu hay nghèo.
Chúa Giê-su cũng không đòi hỏi Xa-chê phải bán hết gia tài và theo Ngài. Khi Xa-chê đáp lại tiếng gọi và tin Chúa Giê-su, tấm lòng của ông được đổi mới, quan niệm về tiền bạc, giàu có cũng thay đổi; Xa-chê trở nên rộng lượng, thương người nghèo khổ. Lu-ca ghi lại sự việc này ngay sau việc người ăn mày mù được Chúa chữa lành và trước đó là câu chuyện của vị quan không muốn theo Ngài để cho thấy Phúc Âm của Chúa Giê-su thật rộng rãi, phong phú và sâu xa; Phúc Âm đến với tất cả mọi người, không phân biệt giàu nghèo, địa vị hay uy tín.
Phúc Âm và sự cứu rỗi là vấn đề tấm lòng liên hệ và đáp ứng với tiếng gọi của Chúa chứ không phải vấn đề nghi thức, giáo điều, công đức cá nhân. Tấm lòng ăn năn và đức tin thật nơi Chúa Cứu Thế Giê-su sẽ đưa đến sự biến đổi tâm trí, thái độ và hành động trở nên tích cực, thiện lành. Theo một số truyền thuyết sứ đồ Phê-rơ đã lập Xa-chê làm giám mục Sê-sa-rê vào thời hội thánh đầu tiên.
Bài 55 Ngụ Ngôn Mười Nén Bạc
Lu-ca 19:11-27
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Ngụ ngôn này cũng được Ma-thi-ơ ghi lại trong một bối cảnh hơi khác Mat 25:14-30 . Lu-ca cho thấy quan niệm thời bấy giờ về Nước Đức Chúa Trời; dân chúng tưởng rằng Chúa Giê-su sẽ là vị vua Đức Chúa Trời sai đến để thành lập Nước của Ngài trên đất. Các môn đệ cũng có đồng quan điểm sai lầm như thế cho đến khi Chúa sống lại. Công Vụ 3:16-21 Lu-ca cho thấy nước Đức Chúa Trời đã đến trong thân vị Đức Chúa Giê-su và sẽ phải đi qua giai đoạn thống khổ và chết rồi mới đến thời đại hoàn toàn vinh quang.
Ngụ ngôn này dạy con dân Chúa phải sống như thế nào trong thời gian ở giữa, chờ đợi Chúa Cứu Thế trở lại. Ngụ ngôn Chúa kể rất có ý nghĩa đối với người nghe vì các biến cố lịch sử Do Thái trước đó. Năm 40 TCN vua Hê-rốt Đại Đế đã đi nhận vương quốc do Mark Antony ban. Sau đó At-khê-lau, con vua Hê-rốt cũng phải đi La Mã để hoàng đế La Mã Augustus phong vương nhưng vì người Do Thái chống đối nên gởi một phái đoàn đến La Mã phản đối. Hoàng đế Augustus dung hòa bằng cách chỉ phong tước ethnarch (Lãnh Chúa) cho At-khê-lau. Mười đầy tớ ám chỉ về môn đệ tổng quát, không phải chỉ nói về mười hai sứ đồ.
Số mười cũng là số thông dụng trong văn hóa Kinh Thánh, mười điều răn, mười thế hệ, mười phép lạ trong thời xuất hành ra khỏi Ai-cập... Một nén bạc (mina) trị giá khoảng 4 tháng lương (3 tháng nếu tính làm việc 7 ngày một tuần). Vị Thái tử kia muốn các đầy tớ của mình đầu tư sinh lợi cho ông khi ông đi xa và hứa sẽ trở về kiểm điểm thành quả. Dân chúng ghét thái tử và không muốn thái tử cai trị họ ám chỉ dân Do Thái từ khước Chúa Giê-su như Đấng Cứu Thế và vua cai trị họ.
Vua trở về xét thành quả của các đầy tớ cho thấy vua mong muốn các đầy tớ hoạt động, đầu tư sinh lợi từ số tiền họ nhận được. Ngụ ngôn này nói lên trách nhiệm quản trị và đầu tư tài sản của con dân của Chúa trong thời gian ở giữa, trước khi Chúa tái lâm. Đầy tớ thứ nhất: Làm lợi gấp mười lần. Vua khen: Được lắm, giỏi, trung tín. Trung tín ở đây không phải chỉ trung thành, không bỏ vua, nhưng cũng làm việc, đầu tư, sinh lợi cho vua nữa. Phần thưởng: Quản trị mười thành trong Nước Đức Chúa Trời. Phần thưởng trong nước Trời bao gồm cả việc cai trị với Chúa. Đầy tớ thứ hai: Làm lợi gấp năm lần.
Người này được phần thưởng bằng tỷ số với người đầy tớ thứ nhất, quản trị năm thành. Đầy tớ khác: Gói tiền trong khăn, không đầu tư. Thông thường vào thời đó người ta chôn bạc để giấu; như thế người đầy tớ này cũng không cẩn thận cho lắm. Người này không đánh mất số tiền nhưng không đầu tư số bạc như chủ mong muốn. Không trung tín nghĩa là không đầu tư tài năng, tài sản để sinh lợi cho Nước Chúa. Người đầy tớ này cho rằng vua la øngười khắc khe, bóc lột và cắt cổ thiên hạ để thủ lợi. Nhưng lời khen hai đầy tớ kia chứng tỏ anh đầy tớ này sai lầm và không hiểu biết rõ chủ mình.
Lời quở trách và hình phạt: Đầy tớ gian ác, không vâng lời. Người này có thể giao tiền cho người đổi bạc để khỏi mất nén bạc mà có lời nữa. Hình phạt: Người đầy tớ bị lấy mất nén bạc đã có, không được cai trị gì cả. Điều khó khăn để xác định trong ngụ ngôn này là số phận của người đầy tớ thứ ba kia. Người này có phải là tín hữu không? Lu-ca không nói rõ nhưng Ma-thi-ơ 25:29-30 nói rõ người đầy tớ này bị chung số phận với người không tin nơi tối tăm, có khóc lóc và rên xiết. Ngoài ra vua cho rằng đây là người đầy tớ gian ác.
Từ gian ác thường để chỉ người không tin Chúa. Ngụ ngôn này dạy một nguyên tắc hơi lạ và có vẻ mâu thuẫn nhưng là sự thật: Người có và trung tín với những gì mình có sẽ được tăng thêm; kẻ không có và không trung tín thì sẽ mất luôn những gì họ tưởng rằng họ có. Người bỏ qua cơ hội đầu tư cho Nước Chúa sẽ không có phần thưởng và có thể mất luôn đặc ân phục vụ Chúa. Đời sống tín hữu cũng vậy, tín hữu trung tín sẽ tiến bộ hơn và sống hiệu quả hơn cho Chúa; kẻ không vâng lời, không trung tín sẽ ngày càng sa sút, tệ hại hơn về đức tin, đạo đức lẫn công việc phục vụ Chúa. Người không vâng lời, không trung tín thường vì không hiểu biết rõ Chúa. Những người chống nghịch vua ám chỉ người lãnh đạo và đa số dân Do Thái từ khước Chúa Giê-su như là Đấng Cứu Thế của họ; những người này sẽ bị án phạt vào ngày phán xét.
Bài 56
Chúa Vào Thành Giê-ru-sa-lem Vinh Hiển
Lu-ca 19:28-48
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Giê-ru-sa-lem là thủ đô của người Do Thái và tọa lạc trên một đồi cao nên người ta thường nói “đi lên Giê-ru-sa-lem”. Thời điểm này có thể là thời điểm bắt đầu tuần lễ cuối cùng của Chúa Giê-su cho đến khi Ngài bị xử án đóng đinh tại Giê-ru-sa-lem. Bết-pha-giê và Bê-tha-ni ở về phía đông Giê-ru-sa-lem, trên các ngọn đồi nhìn xuống thung lũng Kidron. Ngày nay Bê-tha-ni là một làng Hồi giáo mang tên Lazarus. Núi Ô-liu là đỉnh của một rặng núi nhỏ đối diện với đền thờ.
Tiên tri Xa-cha-ri tiên tri rằng Đấng Mê-si-a sẽ xuất hiện trên núi Ô-liu, Xa 14:4-5 Chúa Giê-su biết trước tất cả chi tiết về con lừa chứng tỏ thần tính của Ngài. Chúa biết rõ số phận của mình nhưng vẫn điềm nhiên tiến tới để hoàn thành sứ mệnh cứu rỗi nhân loại. Đây là một điểm chứng tỏ Chúa Giê-su ý thức rõ sứ mệnh của mình và bằng lòng hy sinh tính mạng để cứu rỗi nhân loại chứ không phải Ngài bị thất bại hay chết một cách tình cờ.
Vào thời cổ vua và các quan cũng cỡi lừa trong các cuộc diễn hành dân sự, không phải quân sự. (1Vua 1:38) Vì thế Chúa Giê-su là biểu tượng của vua bình an, không phải vua quân sự để lật đổ đế quốc La Mã như nhiều người mong muốn lúc ấy. Các môn đệ và đám đông dân chúng hoan nghênh Chúa Giê-su đi vào Giê-ru-sa-lem là một hành động làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Mê-si-a. Các môn đệ và đám đông hoan hô Chúa Giê-su như một sứ giả của Đức Chúa Trời vì họ trích hay hát Thánh Thi 118:26; đây là Thánh Thi mô tả vua dẫn đoàn hành hương vào đền thờ và được các thầy tế lễ nghênh đón.
Những người Pha-ri-si yêu cầu Chúa Giê-su quở trách các môn đệ và đám đông vì họ sợ đám đông công nhận Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a của người Do Thái mà chính họ không thừa nhận. Cũng có thể người Pha-ri-si sợ Chúa vào Giê-ru-sa-lem như một lãnh tụ chính trị khuấy động dân chúng nổi dậy và như thế gây nguy cơ bị quân La Mã tấn công. Chúa Giê-xu xác nhận sự ứng nghiệm về Ngài và cho thấy thiên nhiên cũng thấy điều đó mặc dù giới lãnh đạo Do Thái vẫn không thấy và từ khước Đấng Cứu Thế của họ. Chúa Giê-su khóc cho số phận của dân chúng Do Thái mà thành Giê-ru-sa-lem là đại diện.
Họ đã khước từ Vua Bình An nên họ sẽ phải bị tai họa. Chúa Giê-su cho thấy dân chúng đa số vẫn mù lòa, không thấy Đấng Cứu Thế của họ đã đến và đang thăm viếng họ. Lời tiên tri hủy diệt là hậu quả của sự từ khước Đấng Cứu Thế đã thăm viếng họ. Lời tiên tri này đã ứng nghiệm khoảng ba mươi nam sau, vào năm 70 SCN quân La Mã tàn phá Giê-ru-sa-lem và đền thờ; dân chúng bị lưu đày. Từ khước Chúa Cứu Thế sẽ đem lại sự phán xét nặng nề cho cá nhân cũng như dân tộc.
Người Do Thái hành hương để thờ phượng và dâng tế lễ cũng như dâng hiến tiền bạc cho đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Người hành hương từ xa đến Giê-ru-sa-lem mới mua thú vật hợp lệ để dâng tế lễ và đổi tiền bạc ra tiền tiêu chuẩn của đền thờ để dâng cho đền thờ Chúa. Vì thế tại Giê-ru-sa-lem người ta bán nhiều chiên, bò dê v.v. và đổi tiền cho khách hành hhương. Những điều này là thông thường nhưng những thầy tế lễ thời đó vì tham lợi đã cho dân buôn bán ngay trong khuôn viên đền thờ.
HÀNH TRÌNH ĐẾN VINH HIỂN
20:1-24:53
Bài 57 Thẩm Quyền của Chúa và Ngụ Ngôn Vườn Nho Lu-ca 20:1-26
I.Bối Cảnh và Lược Giải
Đến giai đoạn này những người lãnh đạo Do Thái giáo lẫn chính quyền Do Thái tỏ ra sợ hãi về ảnh hưởng của Chúa Giê-su đối với dân chúng vì thế họ tìm cách thách thức và gài bẫy Ngài không những chỉ về tôn giáo nhưng cả về chính trị nữa. Ngoài ra hành động dẹp sạch đền thờ cũng cho thấy Chúa Giê-su chống lại những hành động tham lam, lạm quyền của giới lãnh đạo Do Thái giáo.
Những người lãnh đạo Do Thái hỏi Chúa về hai vấn đề: Chúa Giê-su có quyền gì? và Ai ban cho Chúa quyền đó? Khi hỏi vềà thẩm quyền dạy dỗ họ ám chỉ Chúa Giê-su không ra từ các trường của họ như Pha-ri-si, Sa-đu-sê, thầy tế lễ v.v. và nói về quyền quản trị đền thờ thì họ là những người đang quản trị đền thờ. Chúa Giê-xu hướng họ về Giăng Báp-tít và hỏi họ về Giăng; họ chỉ có hai câu trả lời: Giăng có phải là sứ giả của Đức Chúa Trời không? Chúa Giê-su đã nhận phép báp-tem của Giăng (Lu 3:21-22) và Giăng xác nhận Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a (Giăng 1:29-34).
Trả lời xác nhận thẩm quyền của Giăng cũng là xác nhận về thẩm quyền của Chúa Giê-su vì thế giới thẩm quyền Do Thái từ chối trả lời Chúa. Thái độ của giới lãnh đạo Do Thái là đạo đức giả; họ không dám tuyên bố lập trường của mình trước công chúng. Họ từ khước Giăng Báp-tít nhưng không dám nói ra. Dân chúng tin rằng Giăng Báp-tít là tiên tri của Đức Chúa Trời và Chúa Giê-su cũng vậy; thẩm quyền của Ngài đến từ Đức Chúa Trời. Ngụ ngôn này nói về lịch sử cứu rỗi. Ma-thi-ơ và Mác cũng ghi ngụ ngôn này tuy có khác một vài chi tiết. Ngụ ngôn này cho thấy: Đức Chúa Trời mong muốn dân Ngài đem kết quả về cho Nước Chúa.
Ông chủ vườn nho: Đức Chúa Trời; Tá điền : dân Do Thái; Những đầy tớ: Tiên tri trong lịch sử nước Do Thái; Con trai yêu dấu: Chúa Giê-su, Đấng Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời. Ba đầy tớ của chủ vườn đến để thâu hoa lợi đều bị tá điền đánh đập và đuổi về. Chủ sai con mình đến thì bị giết chết. Chủ nên làm gì? Chủ sẽ hủy diệt nhóm tá điền kia và giao vườn cho người khác. Ma-thi-ơ chỉ về một dân khác (Mat 21:43). Dân chúng hiểu ý ngụ ngôn và cho rằng sẽ không có như vậy.
Những nhà lãnh đạo cũng hiểu rằng ngụ ngôn này nói về họ nên tìm cách bắt Chúa Giê-su. Chúa trích Thánh Thi 118 cho thấy Lời Chúa đã ứng nghiệm. Ngoài ra vào năm 70 SCN quân La Mã đã tấn công Do Thái và tàn phá đền thờ. Sau đó dân Do Thái bị tấn công một lần nữa và lưu đày khỏi xứ sở. Cũng trong thời gian đó Hội Thánh của Chúa Giê-su được thành lập và phát triển khắp thế giới cho đến ngày nay. Những nhà lãnh đạo gài bẫy Chúa Giê-su về vấn đề đóng thuế cho đế quốc La Mã. Nếu Chúa Giê-su đóng thuế cho đế quốc, Ngài bị coi là không ái quốc và theo đế quốc. Nếu không đóng thuế cho La Mã, Ngài sẽ bị tố cáo là bất phục tùng, chống lại nhà cầm quyền La Mã.
Người Do Thái nghĩ rằng cách trả lời nào họ cũng có thể bắt lỗi Chúa được. Chúa Giê-su bảo đưa cho Ngài xem đồng tiền La Mã. Điều này chứng tỏ họ đang sử dụng, sống trong nền tài chính kinh tế của La Mã. Một đồng tiền thời ấy, một mặt có hàng chữ: ‘Tiberius Caesar, Augustus, son of divine Augustus”; mặt kia có hình mẹ của hoàng đế La Mã là Livia, hiện thân của nữ thần hòa bình và hàng chữ “Thầy tế lễ”. Chúa Giê-su cho thấy Ngài chủ trương con người có hai trách nhiệm, một là trách nhiệm dân chính đối với quốc gia và hai là trách nhiệm thiêng liêng đối với Đức Chúa Trời. (Xem thêm Rô 13:1-7; 1Phê-rơ 2:12-17)
Ở đây Chúa không nói đến vấn đề xung đột đạo đức hay tôn giáo giữa quốc gia và Đức Chúa Trời (xem Công Vụ 4:19-20). Chúa Giê-su không chủ trương xây dựng vương quốc của Ngài để lật đổ hay cách mạng chống lại đế quốc La Mã.
Bài 58 Sự Sống Lại và Sự Sống Vĩnh Phúc Lu-ca 20:27-40
I.Bối Cảnh và Lược Giải
Người Pha-ri-si và giới lãnh đạo Do Thái đã dùng mưu để sập bẫy Chúa Giê-su về vấn đề thẩm quyền tôn giáo lẫn chính trị nhưng đều thất bại. Lu-ca cho chúng ta thấy nhóm người Sa-đu-sê cũng thách thức Chúa về vấn đề thần học. Người Sa-đu-sê: Nhóm người Do Thái gồm thầy tế lễ, những người thương gia, quí tộc chủ trương theo nghĩa đen của Ngũ Kinh (5 sách đầu của Môi-se trong Kinh Thánh Cựu Ước) chứ không theo cách giải thích và những luật lệ truyền khẩu của những chuyên gia Kinh Luật (người Pha-ri-si).
Người Sa-đu-sê không tin vào sự sống lại của loài người, linh hồn trường cửu, phần thưởng và hình phạt sau khi chết, thiên đàng, địa ngục, sự hiện hữu của thiên sứ, ma quỉ, thần linh. Người Sa-đu-sê tin vào ý chí tự do của con người.Vào thời Chúa Giê-su, người Sa-đu-sê giữ đa số trong hội đồng quốc gia và đa số những thượng tế theo nhóm Sa-đu-sê. Vì đa số những người Sa-đu-sê thuộc giới thượng lưu và cầm quyền dưới sự đô hộ của đế quốc La Mã nên họ chủ trương duy trì tình trạng như đang có.
Phong tục kết hôn kế tục được ghi trong Phục Truyền 25:5. Những người Sa-đu-sê trưng dẫn một trường hợp giả định để bắt bí và chế nhạo niềm tin về sự sống lại của con người. Chúa Giê-su cho thấy người Sa-đu-sê đã sai lầm trên ba phương diện: Xem thêm Mat 22:23-33
1. Sai lầm về giáo lý sống lại của loài người. Chúa Giê-su cho thấy có sự sống sau khi chết và có thiên đàng. Sự sống sau khi sống lại ở thiên đàng là sự sống vĩnh cửu, không còn chết nữa và khác với sự sống dưới thế gian này. Trên thiên đàng và trong sự sống vĩnh cửu người ta không còn cưới gãvà sống như thiên sứ.
Tức là Chúa Giê-su cũng công nhận có thiên sứ. Chúa Giê-su cũng cho thấy không phải tất cả mọi người đều được hưởng sự sống vĩnh phúc mà chỉ có những người “xứng đáng”(nhờ đức tin nơi Chúa Gi 3:16).
2. Không hiểu Kinh Thánh (Ngay cả Ngũ Kinh mà họ công nhận và cho rằng họ mới giải thích đúng). Chúa Giê-su trích Xuất 3:6 để chứng minh cho họ thấy họ sai lầm về sự sống lại. Vì chính Đức Chúa Trời nói với Môi-se, các tổ phụ Áp-ra-ham, I-sác và Gia-cốp đều đã qua đời nhưng họ vẫn sống trước mặt Chúa, tức là vẫn có sự sống khác sau khi chết phần thể xác.
3. Không biết quyền năng của Đức Chúa Trời. Những người Sa-đu-sê là điển hình của những người theo chủ nghĩa duy lý hiện nay; họ không tin vào quyền năng siêu nhiên của Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời đã ban cho sinh vật một thân thể thì Ngài cũng có quyền ban cho những người đã chết một thân thể phục sinh vĩnh cửu, không phải giống như thể xác nhưng giống như thiên sứ để sống trong nước thiên đàng vĩnh cửu.
Bài 59 Đường Lối của Đức Chúa Trời Khác Với Đường Lối Phàm Nhân Lu-ca 20:41-21:4
I.Bối Cảnh và Lược Giải
Bài học này bao gồm ba đoạn ngắn nói về Chúa Cứu Thế và sự tương phản giữa lối sống của giới lãnh đạo Do Thái giáo và sự sùng kính thật. Theo truyền thống Do Thái, các giáo sư Do Thái giáo dạy rằng Đấng Cứu Thế của họ sẽ là người thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Điều này đã được ghi chép nhiều trong Kinh Thánh Cựu Ước (2Sam 7; Thi 89:29-37; Isa 9:5-7...) và tương đối phổ thông thời bấy giờ.
Chúa Giê-su đặt câu hỏi để nêu lên vấn đề có phải Đấng Mê-si-a mà người ta đang mong đợi chỉ là vị cứu tinh chính trị (dòng vua) mà thôi không? Và câu hỏi “Sao người ta gọi Chúa Cứu Thế (Đấng Mê-si-a) là con của Đa-vít?” để nói lên bản chất và thẩm quyền của Đấng Cứu Thế, có phải ngài chỉ là một người thôi không? Chúa Giê-su trích Thánh Thi 110:1, một thánh thi nói về vua. Chữ ‘Chúa’ đầu câu chỉ về Đức Chúa Trời; chữ ‘Chúa’ thứ hai chỉ về Đấng Cứu Thế.
Vua Đa-vít là vị vua vĩ đại nhất của lịch sử Do Thái, nhưng tại sao vua phải gọi một người thuôäc hậu tự mình là ‘Chúa’. Vì Đấng Cứu Thế dù về phương diện loài người là hậu tự của vua Đa-vít nhưng về nguồn gốc, bản chất và thẩm quyền thì siêu việt hơn vua Đa-vít, cho nên chính vua Đa-vít phải gọi Đấng Cứu Thế là Chúa. Phao-lô cho thấy Đấng Cứu Thế vừa là con cháu vua Đa-vít nhưng cũng là Con Đức Chúa Trời (Rô 1:3-4). Chúa Giê-su cảnh cáo các môn đệ của Ngài đề phòng hành vi đạo đức giả của giới lãnh đạo Do Thái giáo thời bấy giờ. Truyền thống giáo sư Do Thái giáo thời bấy giờ dạy rằng “thầy dạy Lời Chúa phải được tôn trọng hơn cả cha”.
Đặc tính của những người lãnh đạo này làkiêu ngạo, thích được nổi tiếng và trọng vọng; để được người ta khen ngợi và trọng vọng, những người này thường làm:
1. Mặc áo dài, lộng lẫy, mắc tiền. Có thể đây là áo dài của thầy tế lễ hay của các giáo sư tôn giáo.
2. Những giáo sư tôn giáo và thầy tế lễ được chào hỏi, xưng hô bằng những danh hiệu tôn kính nơi công cộng. Vì thế họ thích được thừa nhận nơi đông người.
3. Họ thích được một chỗ ngồi danh dự trong Hội đường, thường là hàng ghế đầu.
4. Họ thích được ngồi bên cạnh chủ, chỗ vinh dự nhất trong bàn tiệc.
5. Cầu nguyện dài trong hội đường. Những hình thức, danh vọng bề ngoài chỉ là để cho loài người thấy nhưng Chúa thấy bề trong, môn đệ của Chúa Giê-su không nên tìm kiếm những điều này. Các chuyên gia Kinh Luật cũng là những người giải thích và cố vấn về những vấn đề luật lệ Do Thái giáo; họ có thể lợi dụng sự hiểu biết về luật lệ tôn giáo để thủ lợi. Những thầy tế lễ quản trị đền thờ và tiền dâng, sinh tế v.v. tại đền thờ; họ cũng lo quản trị những tài sản của những góa phụ dâng cho đền thờ.
Chúa Giê-su cảnh cáo rằng những hành vi đạo đức giả và kiêu ngạo sẽ bị Đức Chúa Trời trừng phạt nặng nề. Và những người tự cho là hiểu biết và là thầy kẻ khác sẽ bị trừng phạt nặng nề hơn. Vào thời đền thờ còn, có 13 thùng đựng tiền dâng hiến hình cái loa để nơi sân phụ nữ. Những người giàu có dâng hiến nhiều tiền; người đàn bà góa chỉ dâng có hai đồng xu. Mỗi xu là đồng tiền có trị giá nhỏ nhất thời bấy giờ; khoảng 0.01 của một đồng Đê-na-ri. Chúa Giê-su khen ngợi người đàn bà góa nghèo nàn vì bà đã -dâng từ nhu cầu cần yếu của mình; những người giàu dâng từ phần dư thừa. -bà góa dâng là một hành động hy sinh; những người giàu chỉ dâng vì bắt buộc.
-Giá trị số tiền dâng tính từ số lượng mình có chứ không phải số lượng bỏ ra.
-Giá trị số tiền dâng tính theo tỷ số tiền mình có. Bà góa dâng 100% tiền mình có.
Bài 60 Thời Đại Cuối Cùng Lu-ca 21:5-38
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Trong đoạn này Chúa Giê-su nói về hai vấn đề, đền thờ tại Giê-ru-sa-lem sẽ bị tàn phá và thời đại cuối cùng. Các môn đệ nói về đền thờ tại Giê-ru-sa-lem lúc bấy giờ; đền thờ thứ nhất do vua Sa-lô-môn xây đã bị vua Na-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn hủy phá năm 586 TCN; đây là đền thờ thứ hai do Giê-ru-ba-bên xây vào khoảng năm 516 TCN.
Vua Hê-rốt đã tu bổ và nới rộng đền thờ này bằng đá cẩm thạch trắng rất đẹp. Những đồ lễ dâng cho đền thờ là những lễ vật bằng vàng, bạc trang trí trên các cổng và cửa đền thờ. Một sử gia La Mã đã mô tả đền thờ là vĩ đại và huy hoàng. Chúa Giê-su cho biết đền thờ sẽ bị hủy phá. Cả bốn Phúc Âm đều không nói gì đến việc đền thờ bị hủy phá vào năm 70 SCN như là sự ứng nghiệm của lời tiên tri của Chúa Giê-su. Điều này chứng tỏ rằng cả bốn sách Phúc Âm đã hiện hữu trước tai họa lịch sử này.
Nếu bốn sách Phúc Âm là những sản phẩm của hội thánh sáng tác về sau này như một số nhà giải kinh cấp tiến (Liberal) chủ trương thì không thể nào họ không đề cập đến sự tàn phá lớn lao này. Chúa Giê-su nói đến thời tận thế trong ba thời kỳ: Những biến cố không báo trước thời tận thế (Lu 21:8-11) Những biến cố xảy ra trước thời tận thế (21: 12-19) Những biến cố xảy ra song song với kỳ tận thế (21:20-24) Ma-thi-ơ 24:3-31 cho thấy rõ các môn đệ hỏi Chúa Giê-su về ba vấn đề:
1/ Khi nào những điều này sẽ xảy ra? Chúa Giê-su cho biết ngày Giê-ru-sa-lem sụp đổ không phải là dấu hiệu của ngày tận thế, nhưng ngày tận thế cũng sẽ tương tự như vậy và trong thời gian này có nhiều người mạo danh Ngài.
2/ Dấu hiệu của sự tái lâm của Chúa là gì?
3/ Dấu hiệu của kỳ tận thế là gì? Trước thời tận thế sẽ có nhiều chiến tranh và hỗn loạn; các nước chống nghịch nhau và nhiều thiên tai xảy ra như động đất, đói kém, dịch lệ và nhiều dấu hiệu trên trời.
Trước thời kỳ chiến tranh , hỗn loạn kia sẽ có một thời kỳ truyền giáo nhưng đồng thời vấn đề bắt bớ, đàn áp Đạo Chúa cũng gia tăng. Sách Công Vụ Các Sứ Đồ cho thấy những điều này đã xảy ra. Chúa sẽ bảo vệ con dân Ngài; nhưng về phần tín hữu, họ phải trung thành, kiên trì giữ vững đức tin nơi Chúa. Lòng trung thành và sự trung tín là dấu hiệu của đức tin thật. Giê-ru-sa-lem sẽ bị tàn phá và chiếm đóng. Lu-ca mô tả sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem trong tương lai gần ( 40 năm sau, năm 70SCN) chứ không phải thời kỳ tận thế. Một sử gia Do Thái cho thấy 1.1 triệu người Do Thái bị giết và 97,000 người bị lưu đày vào thời này.
Một sử gia Cơ Đốc, ông Eusebius đã ghi lại rằng tín hữu đã bỏ Giê-ru-sa-lem chay ra Pella trong thời chiến tranh Do Thái trước khi Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ; rất có thể là vì họ biết lời tiên đoán này của Chúa Giê-su. Giê-ru-sa-lem sẽ bị người ngoại quốc cai trị nhưng không phải vĩnh viễn. Chúa Giê-su cho thấy rõ sự sụp đổ và mất nước Do Thái là một hình phạt của Đức Chúa Trời đối với một dân bất trung. Chúa Giê-su nói về những dấu hiệu thời tâïn thế (từ câu 25-28). Những dấu hiệu trong vũ trụ và trên trái đất. Tình trạng tinh thần của nhân lọai là lo lắng, hoang mang, sợ hải. Vạn vật và vũ trụ báo hiệu sự đoán phạt của Đức Chúa Trời.
Chúa Giê-su sẽ trở lại thế gian trong quyền năng và vinh quang của Đức Chúa Trời. (Đa-ni-ên 7: 18,22,27) Biết và cảnh giácvề những dấu hiệu này sẽ giúp chúng ta biết chúng ta đang sống gần thời tận thế. Chúa đến rất nhanh chóng và bất ngờ, vậy con dân Chúa phải cảnh tỉnh và sẵn sàng. Phải cầu nguyện và can đảm để chịu đựng và đứng vững cho đến khi Chúa đến. Chúa Cứu Thế trở lại để trừng phạt thế giới vô tín nhưng đem sự cứu rỗi toàn vẹn và vĩnh cửu đến cho con dân Ngài. Chúa Giê-xu xác định lời dạy của Ngài bằng một ngụ ngôn về cây vả. Đặc biệt ở vùng núi Ô-liu, khi cây vả bắt đầu nẩy lộc, trổ lá, đó là dấu hiệu củamùa hè.
Mùa đông cây vả trụi lá. Người nào quan sát những biến cố thế giới như trên sẽ biết tận thế đã gần. Chúa Giê-su cho biết thế hệ nào chứng kiến những biến cố trên chính là thế hệ sẽ đối diện tận thế. Lời dạy dỗ và tiên tri của Chúa phán là chắc chắn, không sai lầm. Chúa Giê-su kêu gọi con dân Ngài cảnh tỉnh và sẵn sàng kẻo ngày tận thế hay Chúa đến bất ngờ. Sự ăn chơi, say sưa và lo làm ăn quá mức là những nguyên nhân gây cho một người không chú ý đến ngày tái lâm của Chúa và sẽ bị sập bẫy và bị hình phạt như thế gian vô tín. Chúa cũng khuyên con dân Ngài cầu nguyện để có sức mạnh từ Chúa hầu cho có thể đứng vững cho đến lúc trình diện trước mặt Chúa Giê-su khi Ngài tái lâm để tưởng thưởng cho con dân trung tín của Ngài.
Bài 61 Âm Mưu Phản Chúa Lu-ca 22:1-38
I.Bối Cảnh và Lược Giải
Lễ Vượt Qua là một trong những ngày lễ lớn nhất của người Do Thái. Lễ kỷ niệm ngày người Do Thái được giải thoát khỏi vòng nô lệ tại Ai-cập và con trai đầu lòng của họ thoát chết (được thần của Chúa vượt qua, không hủy diệt) Xuất 12:1-20 Ngày lễ Vượt Qua cử hành trong một ngày và lễ Bánh Không Men tiếp theo ngay sau đó trong bảy ngày.
Vào dịp này Giê-ru-sa-lem tràn ngập khách thập phương kéo về dự lễ. Giới lãnh đạo Do Thái giáo tìm cách giết Chúa Giê-su nhưng họ cũng sợ dân chúng phản đối vì dân chúng ngưỡng mộ Chúa Giê-su. Mác giải thích rõ giới lãnh đạo Do Thái bàn với nhau: “Không nên làm trong kỳ lễ, kẻo gây náo động trong dân chúng.” Mác 14:2 (Mat 26:3-4) Vào lúc này quỉ Sa-tan nhập vào Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Giăng giải thích “Trong bữa ăn tối, quỷ vương đã gieo vào lòng Giu-đa, con của Si-môn Ích-ca-ri-ốt, ý tưởng phản bội Ngài.” Gi 13:2 Tức là Giu-đa đã để cho quỷ Sa-tan kiểm soát tư tưởng.
Điều này cũng cho thấy Chúa Giê-su không phải chỉ chiến đấu với những con người ác, tội lỗi nhưng với Sa-tan, kẻ cầm quyền tội lỗi và là kẻ thù đứng sau thế giới gian ác này. Động lực khiến cho Giu-đa phản Chúa là tiền bạc (ba chục miếng bạc Mat 26:15). Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca ghi lại Chúa Giê-su và các môn đệ đã ăn lễ Vượt Qua nhưng Giăng 18:28 cho thấy đó là ngày trước lễ Vượt Qua. Vào thời đó người ta tính lịch theo hai cách, theo Do Thái từ mặt trời lặn đến mặt trời lặn; người La Mã tính từ mặt trời mọc đến mặt trời mọc.
Vì thế Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca tính theo cách Do Thái, trong khi Giăng tính theo lối La Mã, nên không có mâu thuẫn ở đây. Lu-ca nói sơ lược về bữa ăn trong lễ Vượt Qua và con chiên lễ Vượt Qua, tức là con cừu con một tuổi sẽ bị giết để tế lễ và ăn thịt. Các môn đệ làm đúng như lời Chúa Giê-su đã chỉ dẫn. Trong nhiều chỗ khác Chúa Giê-su chứng tỏ Ngài có sự biết trước về tương lai. Lu-ca ghi lại vắn tắt nên người ta có thể giải thích rằng Chúa Giê-su đã dàn xếp trước với người chủ nhà để dùng bữa lễ Vượt Qua tại nhà người đó.
Chúa Giê-su biết rõ Ngài sắp hy sinh mạng sống như con chiên lễ Vượt Qua. Đây là bữa ăn lễ Vượt Qua cuối cùng với các môn đệ cho đến khi Chúa tái lâm vào thời tận thế. Người Do Thái uống bốn chén rượu nho trong bữa ăn Lễ Vượt Qua. Có thể Chúa Giê-su đã lập lễ Tiệc Thánh vào lúc giữa chén thứ ba và thứ tư trong bữa ăn lễ Vượt Qua này.
Chúa Giê-su cũng dùng chén rượu thứ ba để biểu tượng cho “Giao Ước Mới” (Tân Ước) trong huyết của Ngài. Ma-thi-ơ giải thích rõ “huyết của giao ước đổ ra cho nhiều người được tha tội.” Mat 26:28 Lu-ca 22:19 Chúa Giê-su nói rõ, hãy cử hành lễ Tiệc Thánh để nhớ, để kỷ niệm sự hy sinh của Ngài. Phao-lô trong 1 Cô 11 cũng nói đến ý niệm “nhớ” hay kỷ niệm. Như thế Chúa không có ý nói chúng ta ăn thịt thật của Chúa và uống huyết của Ngài. Chúa Giê-su biết rõ ai là kẻ sẽ phản Ngài nhưng Ngài vẫn kiên nhẫn ban cơ hội để Giu-đa ăn năn như Phê-rơ. Biến cố này cũng cho chúng ta thấy chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời sẽ xảy ra như Ngài đã định và quyền tự do, trách nhiệm của người tham gia và đáp ứng đi song song với nhau. Chúa Giê-su giới thiệu nguyên tắc sống mới trong Nước Đức Chúa Trời: Tiêu chuẫn để đo lường sự vĩ đại của một người trong nước Đức Chúa Trời là tinh thần và hành động phục vụ, không phải quyền thế cai trị trên thế gian.
Chúa Giê-su là gương phục vụ tuyệt đối. Mười một Sứ đồ được Chúa ban cho quyền lãnh đạo trong Nước Đức Chúa Trời (Hội Thánh). Kiên trì theo Chúa cũng là một điều kiện để được Chúa thưởng trong Nước Ngài. Các môn đệ của Chúa sẽ bị Sa-tan tấn công và vì thế Chúa Giê-su đã cầu nguyện thay cho họ để đức tin của họ không bị lung lạc. Phê-rơ sẽ ngã nhưng sẽ phục hồi và lãnh đạo các môn đệ Chúa phục vụ Ngài. Chúa Giê-su biết rõ tương lai và Ngài biết rõ các môn đệ hơn chính họ biết mình.
Bài 62 Lời Cầu Nguyện Chuẩn Bị Trên Núi Ô-liu Lu-ca 22:39-46
I.Bối Cảnh và Lược Giải.
Sau bữa ăn tối lễ Vượt Qua Chúa Giê-su và các môn đệ đi vào vườn Ghết-sê-ma-nê ở trên núi Ô-liu. Núi Ô-liu ở phía đông Giê-ru-sa-lem, cao 2660 bộ, tọa lạc đối diện với đền thờ. Lu-ca cho thấy Chúa Giê-su và các môn đệ thường đến đây để cầu nguyện khi họ đang ở trong vùng Giê-ru-sa-lem vì thế Giu-đa biết rõ chỗ này và dẫn lính đến bắt Chúa. Tiên tri Xa-cha-ri đã phán tiên tri rằng Đấng Mê-si-a sẽ xuất hiện trên núi Ô-liu trong thời đại tận thế. Xa-cha ri 14:3-5.
Lu-ca sau này ghi nhận Chúa Giê-su được cất lên trời tại núi Ô-liu Công Vụ 1:1-12. Vì thế Chúa Giê-su đến tại địa điểm này để cầu nguyện trước khi bị bắt và hy sinh là một điều mang nhiều ý nghĩa. Các môn đệ của Ngài có thể biết đoạn Kinh Thánh tiên tri Xa-cha-ri, nhưng vẫn chưa hiểu nổi việc Đấng Mê-si-a phải chịu khổ và chết. Chúa Giê-su không những chỉ dạy cho các môn đệ biết thế nào để đối diện với sự từ khước Đấng Cứu Thế từ giới lãnh đạo Do Thái nhưng cũng là người làm gương trong sự hy sinh, chịu chết để thực hiện ý chỉ của Đức Chúa Trời và đạt được chiến thắng vinh quang trong Nước Chúa.
Muốn tránh khỏi sự cám dỗ con dân của Chúa phải cầu nguyện cùng Ngài, nhờ vào quyền năng của Đức Chúa Trời để thoát khỏi sự cám dỗ, thử thách. Trong câu 22:31 Chúa Giê-su đã báo trước cho Phê-rơ biết rằng Sa-tan đang tấn công các môn đệ để làm cho họ thất bại hay bội tín với Chúa. Cầu nguyện là sự bày tỏ rằng mình cần Chúa giúp và tin vào sự chăm sóc bảo vệ của Chúa trong hoàn cảnh bị khước từ và ngay cả đối nghịch, nguy hiểm, chết chóc. Chúa Giê-su đã quỳ gối cầu nguyện trong khi các môn đệ thì ngủ và sầu thảm. Chúa Giê-su không những chỉ dạy bảo nhưng Ngài thực hành và làm gương.
Trong Cựu Ước người cầu nguyện thường đứng và đưa hai tay lên trời để cầu nguyện 1Sam 1:9 ; 2Sử 6:12 nhưng người ta quỳ gối khi khẩn thiết cầu nguyện 2Sử 6:13. Chúa Giê-su cầu nguyện xin Đức Chúa Cha cất “chén này” khỏi Ngài. Chén ở đây chỉ về sự đau khổ, sỉ nhục và chết trên cây thập tự như một tội nhân. Là một con người toàn hảo, vô tội Chúa Giê-su không muốn trở thành tội nhân, dù là tạm thời và mang tội thay thế cho nhân loại. Là một người sống Chúa Giê-su không muốn chết, dù là chỉ chết ba ngày, và Ngài cũng biết chắc rằng Ngài sẽ sống lại, nhưng sự chết tự nó là một điều khủng khiếp.
Chúa Giê-su hoàn toàn thuận phục ý của Đức Chúa Trời cho mình. Đây là nguyên lý sâu xa nhất trong sự cầu nguyện. Cầu nguyện là xin ý Chúa được nên trên đời sống mình và sẵn sàng thuận phục ý chỉ đó. Chúa Giê-su đã làm gương cho con dân Ngài về việc này. Chúa Giê-su đã khẩn thiết cầu nguyện đến nỗi toát mồ hôi, nhỏ giọt như máu. Lu-ca ghi lại “như” chứng tỏ mồ hôi chảy xuống như máu. Ngoài ra trong lịch sử y khoa cũng đã có những trường hợp tinh thần quá căng thẳng người ta chảy mồ hôi pha máu vì các mạch máu ở tuyến mồ hơi bị bể. Chúa Giê-su cầu nguyện xong Ngài trở lại và thấy các môn đệ đang ngủ vì buồn rầu. Các môn đệ cũng cảm thấy được áp lực tai họa sắp đến nhưng họ không đủ sức thức tỉnh và cầu nguyện.
Có thể đó cũng là lý do mà tất cả đều bỏ Chúa Giê-su chạy thoát thân khi Ngài bị bắt. Chúa Giê-su nhắc lại nguyên tắc quan trọng: Hãy cầu nguyện để khỏi bị sa ngã vì cám dỗ hay thử thách.
Bài 63 Chúa Giê-su Bị Phản Bội Lu-ca 22:47-71
I.Bối Cảnh và Lược Giải
Đang khi Chúa Giê-su còn đang nói với các môn đệ Giu-đa dẫn các thượng tế, trưởng lão và vệ binh đền thờ đến bắt Ngài. Mác cho thấy trong số những người lãnh đạo Do Thái có cả các chuyên gia Kinh Luật nữa (Mác 14:43). Điều này cho thấy tất cả các nhóm trong giới lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ âm mưu bắt và giết Chúa Giê-su.
Dấu hiệu Giu-đa dùng để điềm chỉ Chúa là cái hôn. Điêù này nói lên tính đạo đức giả và gian trá của Giu-đa cũng như giới lãnh đạo Do Thái. Cái hôn là hành động biểu tượng cho tình thương, nhưng Giu-đa đã dùng nó để phản thầy mình. Trong lời trách móc Chúa Giê-su vẫn bày tỏ tình thương của Ngài đối với Giu-đa. Giới lãnh đạo Do Thái đi bắt Chúa Giê-su vào lúc đêm khuya vì họ sợ nếu bắt Ngài ban ngày sẽ gây náo động và có thể gây chống đối từ dân chúng. Chúa Giê-su cũng cho thấy : “dây là thì giờ của các ông và của quyền lực tối tăm.”
Chúa Giê-su nói rõ những người lãnh đạo Do Thái giáo lúc ấy (dù tôn giáo của họ thờ Đức Chúa Trời ) là những người ở trong tối tăm và ở dưới quyền lực tối tăm. Các môn đệ của Chúa vẫn chưa hiểu chương trình của Đức Chúa Trời đối với Con Ngài tức là Chúa Giê-su phải bị chết cho nhân loại. Họ thấy Chúa Giê-su sắp bị giới chính quyền dùng bạo lực bắt nên cũng dùng bạo lực chống cự.
Các Phúc Âm khác đều chỉ nói một môn đệ rút gươm dánh và chém đứt tai một đầy tớ của vị Trưởng tế. Giăng nói rõ môn đệ đã chém người đầy tớ kia chính là Phê-rơ. Lu-ca nói rõ tai bên phải bị chém và Chúa Giê-su đã làm phép lạ chữa lành cho người đầy tớ đó. Chúa Giê-su đã dùng tình yêu thương để đáp ứng lại bạo lực, dù Ngài có thể sử dụng quyền lực nếu Ngài muốn. Ma-thi-ơ ghi rõ Chúa Giê-su có thể xin Đức Chúa Cha ban cho Ngài “muời hai đạo thiên binh” để bảo vệ Ngài (Mat. 26:53).
Hành động yêu thương và thuận phục chịu hy sinh theo ý chỉ Đức Chúa Trời của Đấng Cứu Thế Giê-su bác bỏ một số luận điệu của một vài học giả cấp tiến cho rằng Ngài là một người cách mạng vũ trang thất bại bị chính quyền Do Thái và La Mã xử tử. Chúa Giê-su cũng tỏ cho những người bắt Ngài thấy họ hành động như những kẻ cướp gian ác. Chúa Giê-su đã thuận phục Ý Chúa Cha (Lời Chúa) thay vì chiến đấu với kẻ thù. Chúa Giê-su bị bắt và giải đến dinh trưởng tế. Phê rơ và các môn đệ bỏ chạy nhưng Phê-rơ không chạy xa; Phê-rơ vẫn theo dõi đám người bắt Chúa về dinh trưởng tế. So sánh với các Phúc Âm khác cho thấy cuộc xét xử Chúa xảy ra tuần tự trong ba biến cố: Đem về nhà cựu trưởng tế Anna xét hỏi; cuộc thẩm vấn ngay tối hôm đó và cuộc xét xử chính thức sáng hôm sau tại hội đồng trưởng lão. Phê-rơ chối Chúa ba lần. Lần thứ nhất khi một người tớ gái của thầy trưởng tế nhận diện ông thuộcvề nhóm người theo Chúa Giê-su.
Trong lần chối thứ nhất Phê-rơ chối không biết Chúa Giê-su, tức là không có liên hệ gì với Ngài cả. Một lúc sau có thêm người cùng với cô gái kia lại nói rằng Phê-rơ thuộc nhóm các môn đệ Chúa. Một lần nữa, Phê-rơ chối rằng ông cũng thuộc nhóm người theo Chúa. Lần thứ ba, có người quả quyết ông cũng thuộc nhóm người theo Chúa vì ông là người Ga-li-lê. Phê-rơ bị nhận diện có thể vì cách ăn mặc hay giọng nói của người Ga-li-lê (Chúa đang bị bắt tại Giê-ru-sa-lem, thuộc miền Giu-đê ở phía nam nước Do Thái).
Phê-rơ không thể phủ nhận rằng mình là người Ga-li-lê nên ông chối rằng họ đã tưởng lầm người. Ngay khi Phê-rơ chối Chúa lần thứ ba gà gáy như Chúa Giê-su đã báo trước (Lu 22: 34) và Ngài cũng quay lại nhìn Phê-rơ. Chúa Giê-su quay nhìn Phê-rơ để nhắc nhở ông rằng Chúa biết điều này sẽ xảy ra; Ngài sẽ phải đối diện với kẻ thù một mình và Lời Chúa nói là đúng. Phê-rơ ý thức rõ rằng mình đã thất bại và chối Chúa nên ông khóc lóc cay đắng. (Thi 51:17) Thật ra Chúa Giê-su đã biết trước điều này nên Ngài cũng đã chuẩn bị để phục hồi Phê-rơ. (Lu 22:32; Giăng 21:1-14) Quyết tâm và lòng can đảm của Phê-rơ không đủ để giúp ông trung thành với Chúa.
Nếu Phê-rơ lắng nghe lời cảnh cáo của Chúa và thức canh, cầu nguyện thì có lẽ ông có đủ sức trung thành hơn. Những người vệ binh đánh đập và chế nhạo Chúa Giê-su. Lu-ca ghi lại thế nào lời tiên tri của Chúa về Phê-rơ đã xảy ra đúng như Ngài nói. Ở đây những người vệ binh chế nhạo và thách thức Ngài nói tiên tri. Theo luật Do Thái giáo hội đồng không được kết án trọng tội vào ban đêm, nên họ phải xử vào sáng sớm. Hội đồng hỏi Chúa Giê-su có phải là Chúa Cứu Thế hay Đấng Mê-si-a không.
Thời bấy giờ người ta nhấn mạnh đến vấn đề Đấng Mê-si-a là hậu tự chính thống của vua Đa-vít, sẽ là vị vua đến cai trị nướcDo Thái nhưng đồng thời cũng chống lại đế quốc La Mã. Chúa Giê-su không trả lời cũng không hỏi họ vì Ngài biết họ đã định ý gì rồi. Chúa Giê-su tuyên bố Ngài là Con Người (Đa-ni-ên 7:14) và sẽ ngự bên phải Đức Chúa Trơì quyền năng. Chúa Giê-su ám chỉ Ngài sẽ nhân vật của Thánh Thi 110. Đây là câu trả lời cho Hội đồng rằng Ngài là Đấng Mê-si-a, sẽ cai trị và xét xử nhân loại bên phải Đức Chúa Trời.
Chúa xác nhận điều này khi họ hỏi Ngài có phải là Con Đức Chúa Trời không. Người Do Thái chỉ cần có bấy nhiêu bằng chứng vì chính Chúa Giê-su nói rằng Ngài là kẻ cầm quyền, xét xử như là vị vua Mê-si-a. Đây là lý do để họ đem Chúa Giê-su dến cho chính quyền La Mã xử tử Ngài.
Bài 64
Chúa Giê-su bị Xử Án
Lu-ca 23:1-25
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Thống đốc Phi-lát là người được hoàng đế La Mã cử làm thống đốc Giu-đê. Thống đốc có quân đội đóng ở Sê-sa-rê và có một đồn ở Giê-ru-sa-lem. Thống đốc Phi-lát có quyền kiểm soát tài chánh toàn vùng, có quyền sinh sát cư dân trong vùng. Thống đốc là người có quyền bãi án tử hình của Hội Đồng quốc gia Do Thái đệ trình để thông qua chấp thuận.
Thống đốc cũng là người có quyền bổ nhiệm thầy thượng tế và kiểm soát tài chánh của đền thờ. Lu-ca cho thấy hội đồng Do Thái và đám dân chúng đưa Chúa Giê-su đến dinh thống đốc Phi-lát. Toà án La Mã chỉ làm việc từ sáng đến trưa. Những người lãnh đạo Do Thái tố cáo Chúa Giê-su về ba tội: Xúi giục dân chúng nổi loạn; Chống đóng thuế cho chính quyền và là vua cách mạng (Mê-si-a) chống lạ đế quốc La Mã để phục hồi vưong quốc Y-sơ-ra-ên. họ không nói gì đến tội phạm thượng vì xưng mình là Con Đức Chúa Trời; họ biết rõ điều này không liên can gì đến đế quốc La Mã và sẽ bị gạt bỏ ngay.
Hai tội sau trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi và thẩm quyền của thống đốc Phi-lát và đế quốc La Mã. Phi-lát hỏi Chúa Giê-su có phải là vua dân Do Thái không. Chúa Giê-su trả lời rằng chính thống đốc nói ra điều đó. Giăng 18:33-38 ghi lại chi tiết cuộc tra vấn này và Chúa Giê-su cũng cho thấy vương quốc của Ngài là vương quốc thiêng liêng. Phi-lát không thấy Chúa Giê-su có tội gì cả và tuyên bố như thế. Giới lãnh đạo Do Thái tố cáo Chúa Giê-su chống lại La Mã, nhưng Lu-ca cho thấy họ là người chống lại Đấng Cứu Thế của Đức Chúa Trời. Dân chúng và giới lãnh đạo Do Thái cho rằng Chúa sách động dân chúng từ Ga-li-lê đến Giu-đê.
Ga-li-lê là vùng thuộc quyền cai trị của vua Hê-rốt, đây là vua Hê-rốt An-ti-pa, người đã giết Giăng Báp-tít. Vua Hê-rốt muốn thấy Chúa Giê-su làm phép lạ như đã được loan truyền rộng rãi trong dân chúng, nhưng Chúa Giê-su không làm và cũng không trả lời vua. Điêù này ứng nghiệm lời tiên tri I-sa 53: 7-8. Vua Hê-rốt và quân lính của vua không coi Chúa Giê-su ra gì và chế giễu Ngài. Thống đốc Phi-lát nhận lại Chúa Giê-su và cho hay vua Hê-rốt cũng không thấy tội gì (chính trị và quân sự) nơi Ngài cả.
Nhưng giới lãnh đạo Do Thái và đám đông bị họ xúi giục la hét đòi xử tử Ngài. Lu-ca cho thấy mức độ tối tăm, tội lỗi của giới lãnh đạo Do Thái giáo khi họ muốn chính quyền La Mã tha cho một kẻ sát nhân, nổi loạn và giết Đâùng Cứu Thế vô tội của Đức Chúa Trời. Phi-lát trong quá khứ đa õphạm lỗi lầm với dân Do Thái khi đem cờ đế quốc có hình vào khuông viên đền thờ ở Giê-ru-sa-lem và bị phản đối mạnh. Sau đó Phi-lát cũng dùng tiền của đền thờ xây cống nước vào thành phố . Có thể vì thế mà Phi-lát phải tìm cách nhượng bộ với giới lãnh đạo Do Thái để khỏi bị khiếu nại lên hoàng đế La Mã.
Cho nên thống đốc Phi-lát dù thấy Chúa Giê-su vô tội nhưng vì quyền lợi chính trị nên chìu theo ý muốn của giới lãnh đạo Do Thái giáo và dân chúng theo họ. Đám đông dân chúng trước đó vài ngaỳ còn ủng hộ và ngưỡng mộ Chúa Giê-su như là vị vua Cứu Tinh của họ nhưng nay họ la ó đòi xử tử Ngài. Có lẽ vì họ thấy Chúa Giê-su bị bắt và bị xét xử như là một tội nhân bất lực; Ngài không làm phép lạ để cứu mình và hủy diệt chính quyền La Mã như vị vua Cứu Tinh mà họ mong đợi nên họ nghe theo lời tố cáo của những nhà lãnh đạo tôn giaó của họ và lên án Chúa Giê-su. Đức tin bồng bột, sai lầm sẽ dễ đưa đến thay đổi ý kiến và hành động sai lầm.
Bài 65
Chúa Giê-su Bị Đóng Đinh
Lu-ca 23:26-56
I. Bối Cảnh và Lược Giải
Chúa Giê-su bị giải đi đến chỗ hành hình ngoài Giê-ru-sa-lem. Thông thường tử tội bị đánh đòn (Mat 27:26) trước khi đem đi đóng đinh; vì thế Chúa Giê-su bị yếu đi, không còn đủ sức vác cây thập tự và lính La Mã bắt Si-môn, người miền Sy-ren vác thập tự giá cho Ngài. Một số những tài liệu cổ ghi chép sự chết của Chúa Giê-su; D. Bock trích ra năm tác giả Do Thái và La Mã cổ nói về cái chết này: Mara bar Serapion, Josephus, Agapius, Tacitus và Babylonian Talmud. Đây là những bằng chứng lịch sử ngoài Kinh Thánh chứng tỏ sự chết của Chúa Giê-su là một biến cố lịch sử đã xảy ra thật sự chứ không phải một huyền thoại không có thật.
Đoàn dân đông đi theo Chúa Giê-su và các phụ nữ than khóc cho Chúa Giê-su nhưng Ngài khuyên họ nên than khóc cho chính mình và dân tộc họ; vì cái chết của Chúa Giê-su là một tai họa cho dân tộc Do Thái. Điều này hợp với những lời của Chúa Giê-su giải thích về mục đích và tiên báo trước về cái chết của mình.
Thành ngữ “con gái Giê-ru-sa-lem” là thành ngữ chỉ về người dân ở thủ đô Giê-ru-sa-lem và cũng hàm ý nói đại diện cho dân Do Thái. Chúa cũng nói tiên tri về tai họa sắp đến của nước Do Thái. Những lời này nói đến sự tàn phá Giê-ru-sa-lem xảy ra sau đó vào năm 70 SCN. Chúa Giê-su muốn nói gì khi Ngài bảo “Vì nếu cây tươi bị đối xử thế này, thì số phận cây khô còn ra sao nữa?” Cây tươi chỉ về chính Ngài; nếu quân La Mã đối xử với Ngài, một người vô tội như thế thì họ sẽ đối xử với dân Do Thái (như cây khô) như thế nào, ám chỉ rằng sẽ tàn khốc hơn nhiều.
Hoặc có thể hiểu khác đi một chút: Nếu người Do Thái đối xử với Ngài (cây tươi) như thế thì họ (cây khô) sẽ bị đối xử tàn hại hơn thế nữa. Ở đây chúng ta có thể biết chắc rằng Chúa dùng “cây tươi” để chỉ về Ngài và “cây khô” để chỉ về dân Do Thái. Nếu chúng ta hiểu tai họa Chúa nói ở câu 30 ám chỉ biến cố năm 70 SCN thì người trừng phạt ( cây khô) dân Do Thái sẽ là đế quốc La Mã. Chúa Giê-su bị hành hình cùng với hai tử tội; điều này ứng nghiệm lời tiên tri I-sa 53:12 và lời tiên tri của chính Ngài Lu-ca 22:37.
Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su cho những kẻ tố cáo và giết Ngài cho thấy tình yêu thương cao cả của Chúa và Ngài đã hành động điều Ngài đã dạy các môn đệ và nhân loại, Lu-ca 6:28,29. Những người lính La Mã bắt thăm chia nhau chiếc áo dài của Chúa là điều ứng nghiệm Thánh Thi 22: 18. Một số tài liệu ngoại Kinh Thánh vào thời đó cũng đã ghi lại thông lệ này. Lu-ca cho thấy đám dân chúng tò mò đứng xem nhưng những người lãnh đạo Do Thái phỉ báng và thách thức Chúa Cứu Thế hãy tự giải cứu mình.
Họ không thể ngờ cách Đức Chúa Trời giải cứu Chúa Cứu Thế vài ngày sau đó. Các lính La Mã cũng chế nhạo và thách thức Chúa Giê-su. Lu-ca cho thấy cả người Do Thái lẫn người ngoại quốc đều không hiểu họ đang làm gì với Con Đức Chúa Trời. Các sách Phúc Âm khác chỉ ghi lại hai tên cướp phỉ báng Chúa; một mình Lu-ca ghi lại sự việc một tên cướp sau đó ăn năn và xin Chúa cứu mình. Chúa Giê-su hứa với tên cướp: “hôm nay con sẽ ở với ta trong Pa-ra-đi.” lời hứa này được xác nhận một cách nghiêm trọng vì Chúa nói: “Thật Ta bảo cho con biết”.
Câu hứa này cho thấy Kinh Thánh Cựu Ước dạy ngươì qua đời sẽ vào Shê-ôn (Âm Phủ); Chúa Giê-su cho hay ngưòi ăn cướp này tin cậy Ngài và cầu xin Ngài nên anh sẽ vào ngay chốn thiên đàng với Ngài ngay sau khi chết; điều này phù hợp với những chỗ khác dạy về tình trạng của người tín hữu của Chúa ngay sau khi qua đời, 2Cô 12:4 và Khải 2:7.
Kinh Thánh không dạy giáo lý: Người chết phải xuống ngục luyện tội). Sự việc này cũng cho thấy một người được cứu rỗi và vào thiên đàng là nhờ đức tin chứ không có công đức gì cả. Người ăn cướp này không có công đức gì cả, chỉ ăn năn và tin cậy Chúa Giê-su. Ở đây chúng ta cũng thấy người chết vẫn ý thức ngay khi vào thiên đàng chứ không phải mất ý thức hay ngủ trong thời gian chết, chờ ngày phục sinh. Những hiện tượng như trời tối đen, bức màn trong đền thờ bị xé làm hai là những hiện tượng siêu nhiên cho thấy sự chết của Chúa Giê-su không phải là một việc tình cờ hay thông thường nhưng liên hệ và ảnh hưởng ngay chính Đức Chúa Cha và cả thế giới. Bức màn trong đền thờ bị xé làm hai cho thấy Chúa Giê-su đã mở cho nhân loại cánh cửa đến với Đức Chúa Trời qua thân xác Ngài.
Ngày xưa thầy thượng tế Do Thái chỉ được vào trong nơi chí thánh một lần mỗi năm vào ngày lễ Chuộc Tội. Những biến cố trong thiên nhiên xác chứng cho viên đội trưởng biết rằng Chúa Giê-su la ømột người vô tội bị xử tử oan. Chúa Giê-su chết trong sự tin cậy; Ngài trao linh hồn mình trong tay Cha (Thánh Thi 31:5) và hoàn toàn theo ý chỉ của Đức Chúa Cha. Lu-ca cho thấy không phải tất cả những người lãnh đạo Do Thái đều chống Chúa Giê-su. Giô-xép A-ri-ma-thê là một trong những người lãnh đạo làm môn đệ bí mật của Chúa.
Chúa Giê-su được chôn trong một ngôi mộ mới. Lu-ca nói rõ mộ là một hang đục trong đá. Điều này ứng nghiệm I-sa 53:9. Những thủ tục liệm xác của người Do Thái đượctheo đúng cho thấy Chúa Giê-su đã chết thật, không phải chỉ bất tỉnh.
Bài 66
Chúa Phục Sinh
Lu-ca 24:1-49
I.Bối Cảnh và Lược Giải
Sự phục sinh của Chúa Giê-su được ghi chép lại như là một sự kiện lịch sử, không phải một bài diễn thuyết hay một mẩu chuyện có tính cách biểu tượng. Dù Lu-ca không phải là nhân chứng tận mắt nhưng ông đã ghi lại những điều do những nhân chứng đã chứng kiến sự phục sinh. Cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận Chúa Giê-su sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần lễ.
Ngày thứ nhất trong tuần lễ tức là ngày Chúa Nhật; vào lúc hừng đông các bà Ma-ri Ma-đơ-len, Giô-a-na, Ma-ri mẹ của Gia-cơ và những phụ nữ khác đến thăm mộ. Những chi tiết như ngày thứ nhất, vào giờ sáng sớm, nhiều bà với danh tánh rõ ràng chứng tỏ đây là một biến cố thật chứ không phải một câu chuyện do hội thánh đầu tiên dựng lên để dạy dỗ tín hữu. Mộ của người Do Thái vào thời đó và tại vùng đó thường là một hang đục trong đá. Xác người qúa cố được ướp và cuộn trong tấm vải liệm, đặt nằm trong hang.
Người ta cũng dùng một tảng đá làm nắp đậy hang đá hay mộ chứ không lấp đất. Các phụ nữ thấy ngôi mộ trống, không có thi thể Chúa Giê-su trong đó; những người phụ nữ này bối rối, lo sợ vì mất thi thể Chúa chứng tỏ họ không nghĩ đến và mong chờ sự phục sinh của Chúa Giê-su. Đây là một bằng chứng khác cho thấy tác giả Phúc Âm ghi lại một biến cố lạ lùng, ngoài sức tưởng tượng và không có định kiến trước rằng Chúa Giê-su sẽ sống lại. Điều này, sự ngạc nhiên, không tin của các bà này chứng tỏ rằng sự phục sinh là một biến cố thật; không phải là điều những môn đệ đầu tiên vì quá tin tưởng vào sự phục sinh của Chúa (Thật ra họ không tin) mà tưởng tượng ra như một số học giả thần học tự do thường biện luận.
Ngày nay một số học giả tự do cho rằng các môn đệ đầu tiên vì quá tin tưởng vào sự sống lại của Chúa Giê-su nên đặt ra những điều này để truyền bá đạo Chúa, chứ Chúa Giê-su không sống lại thật bằng xương bằng thịt, trong thân xác thật của Ngài. Một số khác cho rằng “tinh thần Giê-su” vẫn sống trong lòng, trong tâm trí môn đệ Ngài, chứ không phải thân xác Ngài sống lại. Lu-ca ghi lại “hai người đàn ông”; Giăng nói rõ đây là hai thiên sứ (Giăng 20:12).
Kinh Thánh thường ghi lại các thiên sứ của Chúa hiện ra như những người. Thiên sứ cho họ biết Chúa Giê-su đã sống lại và trách họ tại sao lại tìm kiếm người chết và khuyên họ hãy nhớ lại lời dạy của Chúa Giê-su trước đây về sự khổ nạn, chết và sống lại của Ngài. (Lu-ca 9:22; 18:32-33) Người Do Thái tính thứ Sáu là một ngày, thứ Bảy là ngày thứ nhì và Chúa Nhật là ngày thứ ba từ khi Chúa chết. Phản ứng đầu tiên của các sứ đồ và môn đồ khi nghe tin ngôi mộ trống và Chúa Giê-su đã sống lại thì không tin.
Các Phúc Âm đều ghi nhận phản ứng không tin lúc ban đầu của các Sứ Đồ và môn đồ cho thấy sự thành thật của các tác giả. Những người này không ngần ngại ghi lại những khuyết điểm của những vị lãnh đạo của hội thánh ban đầu. Nếu câu chuyện phục sinh của Chúa Giê-su là mẩu chuyện do hội thánh ban đầu thêu dệt ra thì có lẽ họ không ghi lại những khuyết điểm trầm trọng của những vị lãnh đạo của họ như nhiều câu chuyện huyền thoại khác.
Ngày nay người ta khôngcòn biết làng Em-ma-út ở đâu; có ba địa điểm có thể là làng Em-ma-ut nhưng không có gì chắc chắn. Lu-ca nêu tên một trong hai môn đệ là Cơ-lê-ô-ba đang bàn thảo về những việc vừa xảy ra ở Giê-ru-sa-lem. Một số văn bản cổ vào thế kỷ thứ IX và X ghi Nathanael và Simon (không phải Phê-rơ). Chúa Giê-su hiện ra và cùng đi với hai môn đệ này, trò chuyện với họ nhưng họ không nhận biết Ngài. Lu-ca cho hay “mắt họ bị che khuất” có thể vì họ không tin và không ngờ rằng người đó là Chúa Giê-su.
Cũng có thể Đức Chúa Trời chưa cho họ biết; họ sẽ biết từ từ theo thời gian và sự khải thị của chính Chúa Giê-su. Hai người môn đệ này tin chắc rằng Chúa Giê-su là một tiên tri; họ hy vọng rằng Ngài là Chúa Cứu Thế (Mê-si-a) sẽ giải cứu dân Y-sơ-ra-ên. Vào thời đó người ta quan niệm sự giải cứu này bao gồm cả chính trị, kinh tế. Hai môn đệ thất vọng vì sự việc xảy ra không như họ mong đợi. Hai môn đệ này phản ánh ý nghĩ của đa số các sứ đồ và môn đồ lúc ấy khi nghe các phụ nữ báo tin thi thể Chúa Giê-su không còn trong mộ và rằng thiên sứ báo tin Ngài đã sống lại; họ không tin, chỉ ngạc nhiên. Chúa Giê-su trách các môn đệ “tối trí và chậm tin”.
Ngài tóm lược lời tiên tri và dạy dỗ của Kinh Thánh Cựu Ước về một Chúa Cứu Thế bị thống khổ và chết rồi bước vào vinh quang trong sự phục sinh. Chúa Giê-su cho thấy toàn thể Kinh Thánh Cựu Ước nói về Ngài, giải nghĩa cho họ hiểu Kinh Thánh. Trong bữa ăn Chúa Giê-su cầm bánh chúc tạ và trao cho họ thì mắt họ mở ra và nhận biết đó là Chúa Giê-su.
Hai môn đệ này lập tức trở lại giê-ru-sa-lem để báo tín cho các Sứ Đồ và những môn đệ khác. Trong khi đó Chúa cũng đã hiện ra cho Si-môn Phê-rơ. Như thế là có các nhóm người ở các địa điểm khác nhau đã thấy Chúa Giê-su sống lại và hiện ra. Chúa hiện ra giữa các môn đệ nhưng họ kinh ngạc và khiếp sợ vì tưởng thấy ma. Đây là bằng chứng cho thấy chính Chua giê-su bằng xương bằng thịt đã sống lại, chứ không phải chỉ có linh hồn Ngài hiện ra với các môn đệ. Chúa Giê-su phục sinh cũng không phải là một thần linh không có thịt xương, nhưng là một thân xác biến hóa và vinh quang hơn cũng như có khả năng đi xuyên qua vật chất (tường hay cửa ).
Chúa Giê-su nhấn mạnh đến việc những điều ghi chép về Ngài đã được ứng nghiệm trong tất cả Kinh Thánh Cựu Ước (thường được chia ra làm ba phần Kinh Luật, Tiên Tri và Thi Văn). Chúa Giê-su mở trí cho các môn đệ hiểu rõ sứ điệp, chương trình của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh Cựu Ước. Chương trình của Đức Chúa Trời từ ban đầu là cứu rỗi tất cả nhân loại. Môn đệ của Chúa Giê-su là những người sẽ thực hiện sứ mạng cứu rỗi đó, nhưng họ sẽ làm công việc này nhờ quyền năng của Chúa Thánh Linh. (Công vụ 1:8)