Maria Valtorta
TIN MỪNG NHƯ ĐÃ MẶC KHẢI CHO TÔI
QUYỂN THỨ BẢY
Năm thứ ba đời sống công khai
(Phần thứ ba)
7
156* TẠI CĂN NHÀ CỦA CHOUZA Ở MIỀN QUÊ,
BÊN KIA SÔNG GIOĐAN
Trên bờ phía bên kia, chỗ ra khỏi chiếc cầu, đã có một cái xe có mui đang chờ.
- Mời Thầy lên xe. Thầy sẽ không mệt, dù đường dài, không phải vì đường dài, mà vì những đôi bò này con đã ra lệnh túc trực sẵn sàng ở đây rồi, để không gây nghi ngờ cho những người khách đáng kính nhất của Lề Luật... Phải ái ngại cho họ.
- Nhưng họ đâu ?
- Họ đã đi trước, trên những chiếc xe khác. Tôbít!
- Thưa ông chủ ? - Người lái xe đang đóng cặp bò vào ách nói.
- Những người khách khác họ đâu rồi ?
- Ồ ! Đi trước lâu rồi. Họ sắp tới nhà.
- Thầy nghe thấy không ?
- Nhưng nếu Thầy không đến ?
- Ồ, chúng con chắc là Thầy sẽ đến. Tại sao Thầy lại phải không đến ?
- Tại sao nữa!! Chouza, Thầy đến để chứng tỏ cho con rằng Thầy không hèn. Chỉ những kẻ xấu mới hèn, những kẻ có tội mà công lý làm cho họ sợ... Công lý loài người, khốn nạn thay! Trong khi đáng lẽ trước tiên họ phải sợ, và chỉ nên sợ công lý của Thiên Chúa... Nhưng Thầy, Thầy không có tội và Thầy không sợ loài người.
- Nhưng Chúa ơi, những kẻ ở với con toàn là những người tôn kính Thầy cũng như con! Và chúng con tuyệt đối không làm Thầy phải sợ. Chúng con muốn tôn vinh Thầy chứ đâu có xỉ vả Thầy - Chouza khổ, hầu như phẫn uất.
Giêsu ngồi trước mặt ông, trong khi chiếc xe tiến từ từ, kêu lóc cóc giữa miền quê xanh mướt, Người trả lời: “Còn hơn là chiến tranh công khai với kẻ thù, Thầy phải sợ cái chiến tranh nham hiểm của các bạn bè giả mạo, hay sự nhiệt thành bất chính của các bạn thực, nhưng chưa hiểu Thầy. Con thuộc loại người này. Con có nhớ điều Thầy đã nói ở Béther không ?”
- Con, Chúa ơi, con hiểu Thầy mà! - Chouza lẩm bẩm, không
8
chắc bụng mấy, và không trả lời đúng vào câu hỏi.
- Đúng, con đã hiểu Thầy. Dưới tác động của đau đớn và của vui mừng, qủa tim con trở nên trong sáng, cũng như sau cơn mưa bão, bầu trời trong trẻo với chiếc cầu vồng, và con nhìn thấy đúng. Rồi... Chouza, con hãy quay mặt để nhìn biển Galilê của chúng ta, nó hiện ra rất trong trẻo trong bình minh. Ban đêm, sương sa đã thanh lọc khí quyển và sự tươi mát ban đêm đã làm giảm sự bốc hơi của nước. Bầu trời và cái hồ là hai tấm gương bằng lam ngọc nguyên chất phản chiếu vẻ đẹp hỗ tương. Các ngọn đồi ở chung quanh tươi mát và trong sạch tựa như Thiên Chúa đã tạo dựng nên chúng vào lúc ban đêm. Bây giờ thì coi: Bụi đường ở bờ hồ do người và vật qua lại, sức nóng của mặt trời làm bốc khói các khu rừng và khu vườn tựa như các nồi súp-de ở trên lò lửa, và nó đun nóng cái hồ, làm nước bốc hơi. Con coi, tất cả những cái đó làm lu mờ chân trời. Trước thì các bờ bãi như ở rất gần, thanh quang giống như chúng ở trong không khí trong sạch, bây giờ con coi... chúng tựa như rung động, bị phủ mờ, bị nhòa, tựa như một vật mà người ta nhìn qua một lớp nước dơ. Đó là điều xảy đến cho con: bụi là nhân tính, mặt trời là sự kiêu căng. Chouza, đừng làm vẩn đục cái tôi của con.
Chouza cúi đầu, mân mê một cách máy móc những đồ trang điểm nơi y phục của ông, và chiếc khóa của cái giây lưng qúi giữ thanh gươm của ông.
Giêsu nín lặng, mắt hầu như nhắm, làm như Người buồn ngủ. Chouza kính trọng giấc ngủ của Người, hoặc điều mà ông coi như vậy.
Chiếc xe từ từ tiến theo hướng đông nam, về những vùng hơi gợn sóng mà tôi tin đó là chặng đầu tiên của vùng cao nguyên bao quanh thung lũng sông Giođan ở phía đông, chắc chắn nhờ những mạch nước ngầm dồi dào hoặc vài mạch nước khác, nên miền quê mầu mỡ và rất đẹp. Các chùm nho và các loại trái cây lấp ló giữa các chòm lá.
Chiếc xe đi vào một con đường của tư nhân khi nó ra khỏi lộ chính và đi sâu vào con đường rậm rạp, mát vì nhiều bóng râm, ít
9
nhất là tương đối so với cái lò của con đường lớn đầy mặt trời.
Một căn nhà thấp mầu trắng, vẻ đặc biệt, xuất hiện ở cuối lối đi. Các căn nhà khác khiêm tốn hơn thì rải rác đó đây giữa đồng ruộng hay vườn nho.
Chiếc xe băng qua một cái cầu nhỏ và một hàng rào, qua đó thì vườn cây ăn trái biến thành vườn cảnh mà lối đi trải sỏi. Nghe tiếng động khác do bánh xe lăn trên sỏi, Giêsu mở mắt ra. Chouza nói:
- Chúng ta tới nơi rồi Thầy. Kìa, những người khác đã nghe thấy chúng ta và họ chạy ra.
Qủa vậy, một số khá đông người, tất cả đều có vẻ giầu có, tụ họp ở đầu lối đi, và họ chào vị Thầy đang tới bằng những tôn kính cầu kỳ. Tôi thấy và tôi nhận ra: Manaen, Timon, Êlêazar, và tôi thấy những người khác hình như không lạ đối với tôi, nhưng tôi không nhớ tên họ. Và rồi một số rất đông những người tôi chưa bao giờ thấy, hay ít nhất, tôi chưa bao giờ nhận xét họ cách đặc biệt. Có nhiều người mang kiếm. Những người khác không có kiếm thì phô trương những thứ vô giá trị và thừa thãi của các pharisiêu, các thầy cả hay rabbi.
Chiếc xe dừng. Giêsu xuống trước và nghiêng mình chào họ cách tập thể. Các môn đệ Manaen và Timon tiến lên để trao đổi cái chào đặc biệt. Rồi tới Êlêazar (người pharisiêu ở trong bữa tiệc tại nhà Ismael) và cùng với ông, hai vị tiến sĩ luật tiến lên tự giới thiệu: một ông là người Tarichée có đứa cháu trai được chữa lành vào ngày bánh hóa nhiều lần thứ nhất. Ông kia là người đã nuôi đám đông ở chân núi Phước Thật. Một người nữa rẽ đám đông để tiến lên: ông pharisiêu mà hôm ở trong nhà Giuse vào kỳ gặt lúa, đã được Giêsu giáo huấn về lý do đích thực của sự ghen tương bất công của ông.
Chouza tiến hành việc giới thiệu, và tôi để họ đi qua trong yên lặng, vì thật là điên đầu trong đám đông của những Simon, những Gioan, Lêvi, Êlêazar, Natanael, Philíp, Giuse v.v. và v.v. của các người saddu, luật sĩ, thầy cả. Phái Hêrôđê rất đông. Tôi phải nói
10
rằng nhóm người của Hêrôđê là đông nhất; và lẻ tẻ vài mạng tân tòng, mấy pharisiêu, hai nhân viên Đại Pháp Đình và bốn trưởng giáo đường, và tôi không biết làm sao lại lọt vào đây một ông phái khổ hạnh.
Giêsu nghiêng mình sau mỗi tên trong khi nhìn đăm đăm vào mỗi khuôn mặt và thỉnh thoảng nhếch một nụ cười, giống như khi người ta muốn xác định đặc tính của một người dựa vào sự kiện đặc biệt đã đặt họ vào sự giao tiếp với Giêsu. Chính vì vậy mà một ông Joakim nào đó người Bozra đã thưa với Người: “Maria, vợ tôi đã được Thầy chữa khỏi bệnh cùi. Xin chúc tụng”. Và ông khổ hạnh: “Tôi đã nghe Thầy khi Thầy nói ở gần thành Jêricô, và một trong số anh em tôi đã bỏ bờ Biển Mặn để theo Thầy. Tôi cũng còn nghe nói về Thầy vì lẽ phép lạ cho Êlisê ở Engaddi. Trên mảnh đất này, chúng tôi sống đơn thuần trong sự chờ đợi...”
Tôi không biết ông ta chờ đợi gì. Tôi chỉ biết rằng trong khi nói như vậy, ông ta nhìn những người khác với vẻ kẻ cả, hơi tự tán dương, chắc chắn những người này không can dự vào việc thần bí, nhưng phần đông họ tỏ ra hoan hỉ nhẹ nhàng với sự thoải mái mà hoàn cảnh của họ cho phép.
Chouza lấy trộm vị khách lớn của ông ra khỏi các nghi lễ chào hỏi và dẫn Người vào một phòng tắm tiện nghi, ông để Người lại đó để Người làm việc tắm rửa, chắc chắn là dễ chịu vào giờ nóng bức này, và ông trở lại với những người khách kia. Ông nói với họ ồn ào. Họ gần như đi tới chỗ cãi nhau vì các ý kiến qúa bất đồng. Một số muốn bắt đầu bài thuyết trình ngay. Bài thuyết trình nào? Trái lại, một số khác đề nghị không nên công hãm ông thầy ngay, nhưng hãy bắt đầu thuyết phục Người bằng sự trọng kính sâu xa của họ. Ý kiến này ưu thắng, vì nhiều người thuận. Và Chouza, với tư cách là chủ nhà, liền gọi các đầy tớ của ông để chuẩn bị một bữa tiệc vào buổi tối, để cho Giêsu “rõ ràng là mệt mỏi, có giờ để nghỉ ngơi”. Điều đó mọi người đều ưng thuận, và khi Giêsu trở lại, tất cả đều tạm biệt Người bằng cách cúi sâu rồi lui ra, để Người ở lại với Chouza. Ông dẫn người vào một phòng trong bóng mát, ở đó có
11
một cái giường thấp được phủ một tấm thảm quí.
Giêsu ở lại một mình, Người giao xăng đan và y phục của Người cho một đầy tớ để anh ta phủi bụi và lấy đi những dấu tích của cuộc viễn du ngày hôm trước. Người không ngủ. Người ngồi trên bờ giường, chân trần để trên cái chiếu phủ nền nhà với chiếc áo cộc hay áo lót, ngắn tay tới cùi chỏ và dài tới đầu gối. Người suy nghĩ rất lung. Nếu sự ăn mặc gọn ghẽ như vậy cho Người cái vẻ trẻ hơn trong cơ thể trưởng thành và điều hòa một cách hoàn hảo tuyệt vời của Người, thì việc suy nghĩ lung, chắc chắn không phải là về điều vui, nó ghi trên trán Người những nếp nhăn, và co rút khuôn mặt của Người, làm cho Người có một bộc lộ mệt mỏi đau đớn và già đi.
Không một tiếng động nào ở trong nhà, không một người nào ở trong cánh đồng, nơi các chùm nho đang chín trong sức nóng nặng nề. Những tấm màn gió đậm mầu treo ở các cửa sổ và cửa ra vào không chút nhúc nhích.
Hàng giờ qua đi như vậy...
Bóng tối mờ gia tăng theo đà mặt trời lặn, nhưng sức nóng vẫn giai giẳng, cũng như sự chiêm niệm của Giêsu.
Sau cùng căn nhà như tỉnh thức. Người ta nghe thấy các tiếng nói, các bước chân, các mệnh lệnh.
Chouza nhẹ nhàng vén màn gió để quan sát mà không làm phiền Giêsu.
- Vào đi, Thầy không ngủ - Giêsu nói.
Chouza vào. Ông ta đã mặc y phục sang trọng của đại tiệc. Ông nhìn và ông thấy rằng cái giường không có vẻ gì là đã có người nằm: “Thầy không ngủ à ? Tại sao ? Thầy mệt mà!...”
- Thầy đã nghỉ ngơi trong sự yên lặng và bóng mát. Như vậy là đủ cho Thầy rồi.
- Con đi bảo mang quần áo tới.
- Không. Bộ đồ của Thầy chắc khô rồi. Thầy thích mặc nó hơn. Thầy có ý định ra đi ngay vào cuối bữa tiệc. Thầy xin con sẵn sàng xe và thuyền cho mục đích này.
12
- Thưa Chúa, như Chúa muốn. Con đã muốn giữ Thầy cho tới lúc bình minh...
- Thầy không thể. Thầy phải đi...
Chouza cúi mình và đi ra.
Người ta nghe thấy nhiều tiếng thì thầm.
Qua đi một lúc, các đầy tớ trở lại với bộ y phục bằng vải gai mới giặt, thơm mùi mặt trời, và với đôi xăng đan lau sạch, đánh xi bóng láng và mềm mại. Một đầy tớ khác theo sau với một cái thau, một cái bình và khăn lau tay. Họ đặt tất cả trên bàn và họ bỏ đi.
... Giêsu đến với các người khách khác tại tiền đình, nơi phân chia căn nhà phía bắc với phía nam, tạo thành một nơi thoáng mát dễ chịu, có nhiều ghế, được trang hoàng bằng những màn gió nhẹ và nhiều mầu, làm biến đổi ánh sáng mà không cản sự thoáng khí. Bây giờ các màn được kéo về một bên, để lộ khung cảnh xanh tươi chung quanh nhà.
Giêsu rất oai vệ. Mặc dầu Người không ngủ, Người cũng như đã lấy lại sức, và dáng đi của Người là dáng của một ông vua. Chiếc áo Người mới mặc lại bằng vải rất trắng, và mái tóc bóng lại nhờ việc tắm rửa ban sáng, lóng lánh với vẻ mịn màng, đóng khung lấy khuôn mặt bằng mầu óng vàng của nó.
- Mời Thầy vô. Chúng con chỉ đợi có Thầy - Chouza nói, và ông dẫn Người vào chỗ thứ nhất ở trong một phòng có kê nhiều bàn.
Người ta ngồi sau lời cầu nguyện và một lần rửa tay bổ túc nữa, và bữa ăn bắt đầu, vẫn cầu kỳ như thường xuyên. Lúc đầu thì lặng thinh, rồi băng giá bị đập bể.
Giêsu có ở bên Người: một bên là Chouza, bên kia là Manaen rồi đến Timon như bạn hộ vệ. Những người khác thì do Chouza xếp đặt - theo sự hiểu biết với tư cách là cận thần của ông - ở hai bên dẫy bàn kê hình chữ U. Chỉ có ông phái khổ hạnh là khăng khăng từ chối dự phần vào bữa tiệc, và không ngồi chung bàn với các người khác. Chỉ khi một người đầy tớ, do lệnh của Chouza, mang tới cho ông một cái rổ qúi đầy trái cây, ông mới chấp nhận ngồi trước một cái bàn thấp, sau khi đã rửa tay bao nhiêu lần tôi không
13
biết, và sau khi ông đã xắn cao tay áo rộng của cái áo trắng của ông. Tôi không biết vì ông sợ nó dính vết hay đây là một nghi thức của ông.
Đây là một bữa tiệc kỳ dị mà người ta liên lạc với nhau bằng cái nhìn hơn là các lời thuyết lý. Chỉ có những lời ngắn ngủi vì lịch sự, và người ta dò xét lẫn nhau: Giêsu dò xét các người đồng bàn, và họ dò xét Người.
Sau cùng, Chouza làm hiệu cho các người đầy tớ lui ra sau khi họ đã mang tới một mâm lớn các trái cây lạnh mát, có lẽ đã để ở trong giếng, rất đẹp, tôi nói là hầu như đông lạnh. Sự lạnh giá này cho ta thấy đó là loại trái cây đặc biệt bảo trì trong lạnh giá.
Các đầy tớ rút lui sau khi đã đốt lên các ngọn đèn mà lúc này còn vô ích, vì trời còn sáng trong những giờ hoàng hôn dài mùa hè.
Chouza bắt đầu: “Thưa Thầy, hẳn Thầy đã tự hỏi cái tại sao của cuộc họp này, và sự yên lặng mà chúng con giữ gìn. Nhưng điều chúng con phải nói với Thầy là điều rất hệ trọng, không thể được nghe bởi những lỗ tai thiếu khôn ngoan. Bây giờ chỉ có chúng ta, và chúng con có thể nói tự do. Thầy thấy đó, tất cả đều có một sự kính trọng sâu xa đối với Thầy. Thầy ở giữa những người tôn kính Thầy như một người và như Đức Messi. Sự công chính của Thầy, sự khôn ngoan của Thầy, những ơn mà Thiên Chúa ban cho Thầy, trong đó có ơn làm bá chủ. Chúng con biết, và chúng con cảm phục những điều đó. Đối với chúng con, Thầy là Đức Messi của Israel theo ý tưởng siêu nhiên và ý tưởng chính trị. Thầy là đấng được trông đợi, là đấng phải chấm dứt những đau thương, những nhục nhã của cả một dân tộc, và không phải chỉ là của dân này, khép kín trong các biên giới của Israel, đúng hơn là của Palestin, mà là cho toàn thể Israel, hàng ngàn và hàng ngàn đoàn kiều dân rải rác trên khắp thế giới, những người sẽ làm vang dội danh của Đức Jêova dưới mọi vùng trời; những người sẽ tuyên truyền sự hiểu biết về lời hứa, về những hy vọng mà bây giờ được thực hiện do Đức Messi, Đấng Sửa Chữa, Đấng Báo Thù, Đấng Giải Phóng, Đấng Thiết Lập nền độc lập thực sự của quê hương Israel, tức là của quê hương vĩ đại nhất
14
là thế giới; quê hương là vua và đấng thống trị, đấng xóa bỏ mọi kỷ niệm của qúa khứ, và mọi dấu hiệu sống động về sự nô lệ, Hy-Bá toàn thắng trên mọi sự và trên mọi người và tới đời đời, vì đó là lời sách nói, và đó là điều được nên trọn. Chúa ơi, ở đây, trước mặt Thầy, Thầy có toàn thể Israel trong những người đại diện cho các giai cấp khác nhau của dân tộc vĩnh cửu này, bị phạt bởi Đấng Tối Cao, nhưng cũng là con yêu của Người và Người đã công bố là thuộc về Người. Thầy có ở đây: con tim sống động và lành mạnh của Israel trong các nhân viên Đại Pháp Đình và các thầy cả; Thầy có quyền bính và sự thánh thiện với các pharisiêu và saddu; Thầy có sự khôn ngoan nơi các luật sĩ và các rabbi; Thầy có các chính trị viên cao gía với các người của Hêrôđê; Thầy có sự giầu sang với các người có tài sản; Thầy có dân chúng với các thương gia, các sở hữu chủ; Thầy có kiều dân với các người tân tòng; Thầy có cả tới những người đã phân ly, nhưng bây giờ sẵn sàng để hợp nhất, vì họ nhìn nhận nơi Thầy đấng đang trông đợi, đó là các người phái khổ hạnh, những người khổ hạnh bất khả hòa giải. Ôi Chúa, xin nhìn xem cái kỳ công này, cái dấu hiệu vĩ đại này về sứ mạng của Thầy. Thầy, không hung bạo, không phương tiện, không tôi tớ, không lính tráng, không gươm giáo, mà Thầy qui tụ tất cả dân của Thầy lại như một cái thùng thu tích nước của hàng ngàn con suối. Thầy, hầu như không lời nói, và tuyệt đối không mệnh lệnh, mà Thầy qui tụ chúng con là đám dân chia rẽ vì những bất hạnh, những ghen ghét, những tư tưởng chính trị và tôn giáo, và Thầy giải hòa chúng con. Ôi ! Hoàng Tử Hòa Bình, hãy vui mừng vì đã cứu chuộc và chỉnh đốn ngay cả trước khi nhận phủ việt và triều thiên. Nước của Thầy, nước trông đợi của Israel đã sinh ra. Của cải của chúng con, thế lực của chúng con, gươm đao của chúng con ở dưới chân Thầy. Xin hãy nói, xin hãy ra lệnh. Giờ đã điểm”.
Tất cả đều tán đồng bài thuyết trình của Chouza. Giêsu khoanh tay nín thinh.
- Ôi Chúa, Thầy không nói sao? Thầy không trả lời sao? Có lẽ sự việc làm Thầy ngạc nhiên?... Có lẽ Thầy cảm thấy Thầy không chuẩn bị, và nhất là Thầy do dự rằng Israel phải được chuẩn bị...
15
Nhưng không phải như vậy. Xin nghe lời chúng con. Con nói, và Manaen cùng với con: đối với lâu đài hoàng gia, nó không xứng đáng tồn tại nữa. Đó là sự ô nhục, sự hư nát của Israel. Đó là bạo quyền đáng xấu hổ, chỉ đàn áp dân và tự hạ một cách đê hèn để thoa dịu kẻ tiếm vị. Giờ của nó đã tới. Ôi! Hỡi Ngôi Sao của Jacob, hãy đứng lên và hãy làm cho cái cơ đội tội ác và đáng xấu hổ này trốn chạy. Ở đây là những người bị gọi là nhóm Hêrôđê, nhưng là kẻ thù của các kẻ phạm thánh được gọi là các Hêrôđê, những kẻ đáng ghét đối với họ. Đến lần qúi vị nói đi.
- Thưa Thầy, tôi gìa rồi, và tôi nhớ tới cảnh tưng bừng xưa kia. Vì cái tên anh hùng được đặt cho một xác chết thối là Hêrôđê, và được gọi bởi các con cháu hủ hóa, làm mất gía trị dân ta. Đây là lúc phải làm lại hành động mà bao lần Israel đã làm khi các triều đại bất xứng cai trị trên sự thống khổ của dân chúng. Chỉ một mình Thầy xứng đáng làm hành động này.
Giêsu nín thinh.
- Thưa Thầy, hình như Thầy cho là người ta có thể ngờ vực ? Chúng con đã nghiên cứu Sách Thánh: Thầy là đấng này, Thầy phải cai trị - một luật sĩ nói.
- Thầy phải là Vua và là thầy cả, là Nêhêmi mới, còn lớn hơn ông ta nữa. Thầy phải đến và thanh tẩy. Bàn thờ đã bị phàm tục hóa. Nguyện cho sự sốt sắng của Đấng Tối Cao thúc đẩy Thầy - một thầy cả nói.
- Nhiều người trong chúng tôi đã chống đối Thầy: những kẻ sợ sự cai trị khôn ngoan của Thầy, nhưng dân chúng đi với Thầy, và những người tốt nhất trong chúng tôi vào hùa với dân chúng. Chúng tôi cần một vị khôn ngoan.
- Chúng tôi cần một người trong sạch.
- Một ông vua thực sự.
- Một vị thánh.
- Một vị Cứu Thế. Càng ngày chúng tôi càng bị nô lệ về tất cả mọi sự và mọi người. Chúa ơi, xin bảo vệ chúng tôi!
- Trong thế giới, càng ngày chúng tôi càng bị chà đạp, vì mặc
16
dầu số người và của cải của chúng tôi, chúng tôi vẫn như đàn cừu không người chăn. Xin Thầy kêu gọi sự hợp quần bằng tiếng kêu xa xưa này: “Hỡi Israel, hãy vào lều!” Và từ khắp nơi bị phân tán, các đoàn đội sẽ đứng lên, sẽ phát xuất những người của Thầy để lật đổ các chiếc ngai lung lay của sức mạnh không được Thiên Chúa yêu.
Giêsu vẫn nín thinh. Chỉ có mình Người là ngồi bình tĩnh, tựa như không phải là Người ở giữa khoảng bốn chục kẻ điên cuồng này. Tôi chỉ nhớ được khoảng mười phần trăm các câu lý luận của họ, vì tất cả họ đều nói cùng một lúc, ồn ào lộn xộn như cái chợ. Người vẫn giữ thái độ của Người và tiếp tục nín lặng.
Tất cả đều rống lên: “Nói một lời đi! Trả lời đi!”
Giêsu từ từ đứng dậy, tì tay vào cạnh bàn. Người tạo được một yên lặng sâu xa. Bị thiêu đốt bởi lửa của tám chục con ngươi, Người mở môi, và những người khác cũng mở ra như để hít lấy câu trả lời của Người. Nhưng câu trả lời qúa vắn tắt và qúa minh bạch: “Không”.
- Nhưng thế nào ? Nhưng tại sao ? Thầy phản bội chúng tôi! Thầy phản bội dân Thầy! Thầy từ chối sứ mạng của Thầy! Thầy từ chối mệnh lệnh của Thiên Chúa!...- Đó là sự xôn xao, huyên náo. Các khuôn mặt trở nên đỏ gay, các đôi mắt phát hỏa, các bàn tay như dọa nạt... Thay vì là các tín hữu, họ giống như kẻ thù. Nhưng là vậy đó: Khi một tư tưởng chính trị chế ngự các con tim, thì ngay những kẻ hiền lành cũng trở nên mãnh thú đối với kẻ có tư tưởng nghịch với tư tưởng của họ.
Tiếp theo sự huyên náo là một yên lặng kỳ lạ, tựa như sau khi tiêu hao hết sức mạnh của họ, họ cảm thấy kiệt lực, tới mức. Họ nhìn nhau với vẻ nghi vấn và buồn... Một số bực tức...
Giêsu dạo cái nhìn khắp chung quanh. Người nói: “Tôi đã biết rằng qúi vị muốn tôi tới đây vì chuyện này. Tôi đã biết sự vận động của qúi vị là vô ích. Chouza có thể nói rằng ở Tarichée tôi đã nói như vậy. Tôi đã đến để chứng tỏ với qúi vị rằng tôi không sợ một cạm bẫy nào, bởi vì chưa đến giờ của tôi, và tôi cũng không sợ nó khi giờ của cạm bẫy đến với tôi, bởi vì chính vì thế mà tôi đến. Tôi
17
đến để thuyết phục qúi vị. Không phải tất cả qúi vị, nhưng nhiều người trong qúi vị có lòng tin tốt. Nhưng tôi phải sửa chữa sự sai lầm mà vì đó, qúi vị bị té xuống từ lòng tin tốt. Qúi vị thấy không? Tôi không khiển trách qúi vị. Tôi không khiển trách ai cả, kể cả những người đã là môn đệ trung thành, đáng lẽ phải được hướng dẫn bởi sự công chính và chỉnh đốn các tham vọng riêng của họ cách công chính. Thầy không trách con, Timon ngay thẳng, nhưng Thầy phải nói với con rằng, tận đáy lòng, tình yêu của con muốn tôn vinh Thầy, nhưng cũng có cái tôi của con nó hoạt động, và nó mơ một thời kỳ đẹp hơn mà con có thể thấy những kẻ đã đánh con bị đánh. Thầy không khiển trách con, Manaen, mặc dầu con đã chứng tỏ rằng con đã quên sự khôn ngoan và gương mẫu hoàn toàn siêu nhiên mà con đã có nơi Thầy, và trước đó thì có nơi ông Tẩy Giả. Nhưng Thầy nói với con rằng ở trong con có cái rễ nhân loại, nó tái sinh sau đám cháy của tình yêu Thầy. Tôi không khiển trách ông, Êlêazar, người công chính đã đối xử tốt với người đàn bà gìa mà người ta để lại cho ông, luôn luôn công chính, ngoại trừ lúc này. Thầy không khiển trách con, Chouza, mặc dầu đáng lẽ Thầy phải làm, bởi vì nơi con, cái tôi của con nó sống động mạnh hơn nơi tất cả những người có niềm tin tốt muốn tôn Thầy làm vua. Vua, phải, con muốn Thầy làm vua. Không có cái bẫy nào trong lời của con. Con không có ý làm Thầy sai lỗi, để tố cáo Thầy nơi Đại Pháp Đình, với ông vua, với Rôma. Nhưng còn hơn là vì tình yêu - con tin là con chỉ hành động vì tình yêu, nhưng không phải vậy - còn hơn là vì tình yêu, con hành động để báo thù những xúc phạm con phải chịu trong lâu đài hoàng gia. Thầy là khách của con, đáng lẽ Thầy phải nín lặng về những sự thật nơi tình cảm của con, nhưng Thầy là Sự Thật trong mọi sự, và Thầy nói vì ích lợi của con. Nó cũng giống vậy về ông, Joakim Bozra, và về ông, luật sĩ Gioan, và về ông nữa, và về ông, và về ông, và về ông”. Người chỉ vào người nọ người kia, không giận ghét, nhưng buồn... Và Người tiếp tục: “Tôi không khiển trách qúi vị, vì tôi biết không phải tự nhiên mà qúi vị muốn như vậy. Đó là do kẻ giương bẫy, đó là đối phương làm việc trong
18
qúi vị... Qúi vị là những dụng cụ trong tay nó mà không biết. Kể cả tình yêu, kể cả tình yêu của qúi vị: ôi Timon, ôi Manaen, ôi Joakim, ôi tất cả những người thực sự yêu tôi, ngay cả sự tôn kính của qúi vị, ôi những người thấy hiện diện nơi tôi một vị rabbi hoàn hảo, cả điều đó nữa, ma qủi cũng dùng để gây thiệt hại, để gây thiệt hại cho tôi. Nhưng tôi, tôi nói với qúi vị và với những người không có những cảm tình như qúi vị, và là những kẻ, với những mục đích càng ngày càng xuống thấp cho tới sự phản bội và tội ác, muốn rằng tôi chấp nhận làm vua, tôi nói: Không, nước tôi không thuộc về thế giới này. Hãy đến với tôi để tôi thiết lập nước của tôi ở trong qúi vị. Không có gì hơn. Bây giờ hãy để cho tôi đi”.
- Chúa ơi, không. Chúng tôi đã quyết định chắc chắn. Chúng tôi đã bỏ của ra để vận động, chuẩn bị chương trình. Chúng tôi đã quyết định ra khỏi sự do dự nó duy trì sự lo lắng của Israel, và vì đó những người khác lợi dụng để làm hại nó. Đúng là người ta dựng lên những cạm bẫy cho Thầy. Thầy có những kẻ thù ngay ở trong Đền Thờ. Tôi, một trong các kỳ lão, tôi không chối điều đó. Nhưng để chấm dứt chuyện đó, thì đây, phải có việc xức dầu cho Thầy, và tất cả chúng tôi đều sẵn sàng để làm cho Thầy. Đây không phải lần đầu tiên một người trong Israel được công bố là vua như vậy, để chấm dứt sự bất hạnh của quốc gia và chấm dứt sự bất hòa. Có người ở đây có thể nhân danh Thiên Chúa để làm. Hãy để cho chúng tôi làm - một thầy cả nói.
- Không. Điều đó các ông không được phép. Các ông không có quyền làm việc đó.
- Vị Thầy Cả Thượng Phẩm là người đầu tiên muốn việc đó, cho dù ông ta không tỏ ra như vậy. Ông không thể dung thứ cho tình trạng hiện nay về sự cai trị của Rôma và gương mù của triều đình nữa.
- Thầy cả ơi, đừng nói dối. Lời nói dối ở trên môi ông thì sự xúc phạm sẽ nặng gấp đôi. Có lẽ ông không biết hay ông lầm, nhưng ở Đền Thờ, người ta không muốn điều đó.
- Vậy Thầy cho sự xác nhận của chúng tôi là nói dối ?
- Đúng, nếu không phải cho tất cả các ông thì cũng cho nhiều
19
người trong các ông. Đừng nói dối. Tôi là Ánh Sáng và tôi soi thấu các con tim...
- Chúng tôi thì Thầy có thể tin chúng tôi. Chúng tôi không yêu Hêrôđê Antipa, cũng không yêu ai khác - các người của Hêrôđê kêu lên.
- Không. Các ông chỉ yêu chính các ông, đúng vậy. Và các ông không thể yêu tôi. Tôi sẽ được dùng như chiếc đòn bẩy để lật đổ ngai vàng, để mở đường cho một quyền bính mạnh hơn, và để làm cho dân chúng phải chịu đựng một sự đàn áp tàn tệ hơn. Đó là một sự lừa phỉnh đối với tôi, đối với dân chúng và đối với chính các ông, vì khi các ông tiêu diệt ông vua, Rôma sẽ đến để tiêu diệt tất cả các ông.
- Chúa ơi, trong những miền kiều dân bị phân tán cư ngụ, có những người sẵn sàng để nổi loạn... Chúng con sẽ ủng hộ họ bằng tài nguyên của chúng con - các người tân tòng nói.
- Và các người của tôi, với tất cả sự trợ lực của miền Auraniti và Tracôniti. Tôi biết điều tôi nói. Các ngọn núi của chúng ta có thể nuôi cả một đạo binh và ở ngoài mọi cạm bẫy, để tung họ lên như cánh chim phượng hoàng để phục vụ Thầy - người đàn ông ở Bozra nói.
- Cả miền Pêrê nữa.
- Cả Gaulaniti nữa.
- Thung lũng Gahas đi với Thầy.
- Và cũng đi với Thầy: các bờ Biển Mặn với các đoàn du mục tin rằng chúng ta là các thần, nếu Thầy bằng lòng kết hợp với chúng tôi - ông khổ hạnh kêu lên, và ông ta tiếp tục trong một tràng dài dòng như xuất thần, nhưng bị lạc mất trong sự ồn ào.
- Các người miền núi xứ Juđê là nòi giống của các vị vua can đảm.
- Và những người ở miền bắc Galilê là những anh hùng khí phách như Đêborat. Cả các phụ nữ, các trẻ em cũng anh hùng.
- Thầy tưởng là chúng ta ít người sao ? Chúng ta có những toán đông đảo. Toàn dân đều về phe Thầy. Thầy là Vua thuộc dòng Đavít, Đức Messi ! Đó là tiếng kêu trên môi các người thông thái
20
cũng như kẻ ngu si, bởi vì đó là tiếng kêu của qủa tim. Các phép lạ của Thầy... Các lời của Thầy... Các dấu hiệu...- Đây là một sự lộn xộn mà tôi không theo dõi được.
Giêsu giống như tảng đá cứng bị bao bọc bởi một dòng nước xoáy. Người không nhúc nhích, cả đến không phản ứng. Người điềm nhiên. Và các lời xin, lời năn nỉ, các lý lẽ tiếp tục thay phiên.
- Thầy làm chúng con nản! Tại sao Thầy muốn chúng con tiêu tan? Thầy muốn chỉ mình Thầy hành động thôi sao? Thầy không thể đâu. Mathatia Maccabê đã không từ chối sự giúp đỡ của các người Assiđê, và Juđa giải phóng cho Israel với sự giúp đỡ của họ... Nhận đi Thầy!!! - Thỉnh thoảng các tiếng kêu hợp nhất với nhau trong ba chữ này.
Giêsu không nhượng bộ.
Một ông kỳ lão rất già nói chuyện với một thầy cả và một luật sĩ còn già hơn ông. Họ tiến lên phía trước. Họ áp đặt sự yên lặng. Vị luật sĩ già nói sau khi đã gọi Êlêazar lại cùng với ông và hai luật sĩ Gioan: “Chúa ơi, tại sao Ngài không muốn đội triều thiên của Israel ?”
- Bởi vì nó không thuộc về tôi. Tôi đâu phải con trai một thủ lãnh Hy-Bá.
- Chúa ơi, có lẽ Ngài không biết. Hai ông này và chính tôi, cái ngày đó, chúng tôi được gọi đến, vì ba nhà Đạo Sỹ đã đến để hỏi đấng đã sinh ra là vua người Hy-Bá ở đâu. Ngài hiểu không: “Sinh ra là Vua”. Người ta tụ họp chúng tôi, chúng tôi: thủ lãnh của các thầy cả và các luật sĩ trong dân, do lệnh của Hêrôđê đại đế, để trả lời cho câu hỏi. Và cùng với chúng tôi, có Hillel, người công chính. Câu trả lời của chúng tôi là: “Ở Bétlem xứ Juđa”. Ngài, chúng tôi biết, Ngài đã sinh ra ở đó, và những dấu hiệu vĩ đại đã đi kèm sự sinh ra của Ngài. Trong số các môn đệ của Ngài có những chứng nhân. Ngài có thể chối rằng Ngài đã được thờ lạy như vị vua bởi ba nhà Đạo Sỹ không ?
- Tôi không chối điều đó.
- Ngài có thể chối các phép lạ đi trước Ngài, đi kèm với Ngài và
21
đi sau Ngài như dấu hiệu của Trời không ?
- Tôi không chối điều đó.
- Vậy nhân danh Thiên Chúa hàng sống, tại sao Ngài muốn đánh lừa niềm ước vọng của cả một dân ?
- Tôi đến để làm tròn các ước vọng của Thiên Chúa.
- Những ước vọng nào ?
- Ước vọng cứu chuộc thế giới, ước vọng thành lập Nước Thiên Chúa. Nước của tôi không thuộc về thế giới. Hãy lấy lại các tài nguyên và khí giới của các ông. Hãy mở to con mắt và tâm hồn các ông ra để đọc Sách Thánh và các lời tiên tri để đón nhận sự thật của tôi, và các ông sẽ có Nước Thiên Chúa ở trong các ông.
- Không. Sách Thánh nói về một ông vua giải phóng.
- Giải phóng cho khỏi nô lệ Satan, tội lỗi, sai lầm, xác thịt, ngoại đạo, tà thần. Ôi! Hỡi Hy-Bá, dân tộc khôn ngoan, Satan đã làm gì cho các ông để các ông lầm lạc về sự thật của các lời tiên tri. Ôi Hy-Bá anh em của tôi! Satan đã làm gì cho các ông để các ông thành mù? Ôi, các môn đệ của Thầy! Nó đã làm gì cho các con để các con cũng không hiểu nữa? Cái bất hạnh lớn nhất của một dân tộc và một tín hữu là rơi vào một sự giải thích sai lầm về các dấu hiệu. Và sự bất hạnh đó đã xảy ra ở đây. Những lợi ích cá nhân, những thành kiến, những kích thích bồng bột, tình yêu hiểu sai đối với quê hương, tất cả đều được dùng để tạo ra hố sâu... Vực thẳm sai lầm mà dân tộc sẽ hư đi trong đó vì không nhận ra vị Vua của nó.
- Chính Thầy đã không biết nó.
- Chính các ông đã không tự biết mình và không biết tôi. Tôi không phải là ông vua như loài người. Và các ông... Ba phần tư số người trong các ông tụ họp ở đây biết điều đó: các ông muốn điều dữ cho tôi chứ không phải điều lành cho tôi. Tôi nói với những người có con tim ngay thẳng rằng: “Hãy trở về nhà các ông, đừng vô tình làm đầy tớ cho sự dữ”. Hãy để tôi đi. Không còn điều gì khác để nói nữa.
Một yên lặng đầy sững sờ...
22
Êlêazar nói: “Tôi không phải kẻ thù của Ngài. Tôi nghĩ rằng mình làm đúng, và không phải chỉ có mình tôi... Nhiều người bạn tốt cũng nghĩ như tôi”.
- Tôi biết. Nhưng hãy nói cho tôi, và hãy chân thành: Gamaliel nói sao ?
- Vị rabbi ?... Ông nói... Đúng, ông nói: “Đấng Tối Cao sẽ cho một dấu hiệu, nếu ông ấy là Đấng Kitô”.
- Ông ta có lý. Còn Giuse, vị Kỳ Lão ?
- Ông nói rằng Thầy là Con Thiên Chúa, và Thầy sẽ trị vì trong Thiên Chúa.
- Giuse là một người công chính. Còn Lazarô Bêtani ?
- Ông ta đau... Ông nói rất ít. Nhưng ông nói... rằng Thầy chỉ trị vì khi tâm hồn chúng ta tiếp nhận Người.
- Lazarô khôn ngoan: khi tâm hồn các ông tiếp nhận tôi. Lúc này các ông, kể cả những người tôi đã tin là có tâm hồn rộng mở, các ông cũng không tiếp nhận vị Vua và Vương Quốc. Và đó là điều đau đớn cho tôi.
- Tóm lại là Thầy từ chối ? - một số đông kêu lên.
- Các ông đã nói đúng.
Những người khác, tức là nhóm Hêrôđê, luật sĩ, pharisiêu, saddu, thầy cả... kêu lên: “Ông đã làm chúng tôi mang họa, ông làm thiệt hại cho chúng tôi, ông...”
Giêsu liền rời bàn và tiến lại trước nhóm này với đôi mắt rực lửa. Ôi thật là cái nhìn!... Họ vô tình nín lặng, dồn sát vào chân tường... Giêsu thực tình đi tới, mặt đối mặt với từng người, và Người nói cách êm đềm nhưng sắc bén, cắt như một thanh gươm: “Có lời rằng: ‘Khốn cho kẻ ném đá giấu tay, kẻ nhận qùa cáp để kết án người vô tội’. Ta, Ta bảo các ông: Ta tha cho các ông, nhưng Con Người biết tội của các ông. Nếu ta không tha cho các ông, thì thực sự Jêova đã biến nhiều người Israel thành tro...” Nhưng Người thật là dễ sợ khi nói như vậy, đến nỗi không ai dám nhúc nhích. Rồi Giêsu mở tấm màn kép nặng ra và bước vào tiền đường mà không ai dám làm một cử chỉ.
23
Chỉ tới khi tấm màn đã hết nhúc nhích, tức là sau vài phút, họ mới hoàn hồn.
- Phải đi với Người... Phải giữ Người lại... - những người hăm hở nhất nói.
- Phải xin lỗi - những người tốt nhất xít xao, tức là Manaen, Timon, các tân tòng, người ở Bozra. Tóm lại là những người có con tim ngay thẳng.
Họ vội vã ra khỏi phòng. Họ tìm. Họ hỏi các đầy tớ: “Ông Thầy đâu ?”
Ông Thầy ? Chả ai thấy cả, kể cả những người tại hai cái cửa của tiền đường. Không có Thầy... Với các đuốc và đèn, họ tìm Người trong khu vườn tối, trong phòng mà Người đã nghỉ. Không có ai cả. Áo khoác Người đã để trên giường không còn ở đó, cái xách tay Người đã để ở tiền đường cũng không còn...
- Người đã trốn chúng ta! Đó là Satan!... Không, Người là Thiên Chúa. Người làm điều Người muốn. Người sẽ phản bội chúng ta! Không. Người biết chúng ta là thế nào - một sự ồn ào của các ý kiến và các lời chửi rủa lẫn nhau. Những người tốt nói: “Các ông đã lôi kéo chúng tôi. Quân lừa đảo! Đáng lẽ chúng ta phải nghĩ tới điều đó!” Những người xấu, tức là phần đông hơn, thì đe dọa. Và sau khi đã bị mất kẻ chịu trận mà họ không thể đối đầu được nữa, hai nhóm quay ra đối địch với nhau...
Còn Giêsu, Người ở đâu ? Tôi thấy Người, vì Người muốn như vậy. Người ở rất xa, về phía cầu ở cửa sông Giođan. Người đi lẹ tựa như gió mang Người đi. Tóc Người bồng bềnh chung quanh khuôn mặt xanh xao của Người; y phục của Người đập như cánh buồm trong bước đi mau lẹ. Rồi khi Người thấy rằng đã ở một khoảng xa nhà, Người đi vào bãi sậy dọc theo bờ hồ phía đông. Ngay khi Người thấy những tảng đá ở dưới chân một bờ dốc cao, Người leo lên đó, không lo gì tới sự thiếu ánh sáng có thể nguy hiểm cho việc trèo lên bờ dốc cheo leo. Người lên, lên mãi cho tới một tảng đá de ra ngoài hồ, nơi có một cây sồi cổ thụ che phủ. Người ngồi ở đó, khửu tay tì lên đầu gối, cằm tì lên bàn tay, nhìn đăm đăm vào
24
khoảng mênh mông mù sương. Người bất động, chỉ hơi nhìn thấy do mầu trắng của y phục và khuôn mặt xanh mét của Người.
Nhưng có kẻ đã đi theo Người, đó là Gioan: một Gioan ăn mặc sơ sài, chỉ có bộ đồ ngắn của dân chài, tóc cứng thẳng như người vừa dầm nước, thở hổn hển và xanh mét. Ông nhẹ nhàng lại gần Giêsu của ông. Ông tựa như một cái bóng lướt trên bờ đá dốc gồ ghề. Ông dừng lại ở xa một khoảng và canh chừng Giêsu... Ông không nhúc nhích, tựa như ông là một phần của núi đá. Bộ đồ đậm mầu của ông càng che giấu ông hơn, chỉ có khuôn mặt, cẳng chân và cánh tay trần là hơi nhìn thấy trong bóng đêm.
Nhưng khi, không đúng là ông nhìn thấy, mà là nghe thấy Giêsu khóc, ông không thể kháng cự được nữa. Ông tiến lại gần và gọi Người: “Thầy!”
Giêsu nghe tiếng thì thầm, Người ngẩng đầu lên, sẵn sàng để lẩn trốn, và Người xắn quần áo.
Nhưng Gioan kêu: “Họ đã làm gì cho Thầy mà Thầy không nhận ra Gioan nữa?”
Giêsu nhận ra kẻ ưu ái của Người, Người giơ cánh tay ra và Gioan nhào vào đó. Hai người cùng khóc vì hai nỗi đau khác nhau và một tình yêu duy nhất.
Nhưng rồi các nước mắt dịu lại. Trước tiên là Giêsu lại nhìn thấy mọi sự cách rõ ràng. Người nhận ra rằng Gioan chỉ ăn mặc sơ sài với chiếc áo ẩm ướt, không giầy dép, lạnh ngắc: “Vậy làm sao con ở đây, trong tình trạng này? Tại sao con không ở với các người khác?”
- Ôi! Đừng la con Thầy ơi. Con không thể ở lại... Con không thể để Thầy đi... Con cởi quần áo, tất cả, trừ cái này. Con nhảy xuống nước và bơi trở về Tarichée. Từ đó con đi theo bờ, rồi con băng qua cầu và con có thể theo Thầy. Con nấp ở trong cái lỗ gần căn nhà, sẵn sàng để tới giúp Thầy, ít nhất là để biết họ có bắt cóc Thầy không. Con nghe họ cãi nhau, rồi con thấy Thầy đi qua rất nhanh trước mặt con. Thầy tựa như một thiên thần. Để theo Thầy mà mắt không lạc mất Thầy, con té xuống cái hố đầm lầy và con bị dính
25
bùn. Chắc con làm dơ áo của Thầy... Con nhìn Thầy từ lúc Thầy ở đây... Thầy khóc à? Chúa của con, họ đã làm gì cho Thầy? Họ đã chửi rủa và đánh Thầy à?
- Không, họ muốn tôn Thầy làm vua, một ông vua tội nghiệp, Gioan ạ! Nhiều người muốn làm vậy vì tin là tốt, bởi tình yêu thực, với ý hướng tốt... Còn phần lớn... là để có thể tố cáo Thầy và loại trừ Thầy...
- Họ là những ai?
- Đừng hỏi điều đó.
- Còn những người khác?
- Cũng đừng hỏi tên họ. Con không được ghét và con không được chỉ trích... Thầy, Thầy tha thứ...
- Thưa Thầy... Có các môn đệ Thầy ở đó không? Chỉ nói cho con điều đó thôi.
- Có.
- Và các tông đồ?
- Không, Gioan. Không có tông đồ nào cả.
- Thực à Chúa?
- Thực đó Gioan.
- A! Ngợi khen Thiên Chúa về điều đó... Nhưng tại sao Thầy còn khóc nữa? Chúa ơi, con ở với Thầy mà! Con yêu Thầy cho tất cả. Ngay cả Phêrô, Andrê và các người khác... Khi họ thấy con nhảy xuống hồ, họ cho con là điên. Phêrô phát xùng. Anh con thì bảo là con muốn chết trong dòng nước xoáy. Nhưng rồi họ hiểu ra và họ la lên: “Nguyện Thiên Chúa ở với cậu. Đi đi! đi đi!...” Chúng con yêu Thầy, nhưng không có ai như con, đứa trẻ tội nghiệp.
- Đúng. Không có ai như con. Gioan, con bị lạnh. Lại đây. Hãy chui vào dưới áo khoác của Thầy.
- Không, ở chân Thầy như vầy này... Thầy của con ơi! Tại sao tất cả họ không yêu Thầy như đứa trẻ tội nghiệp là con đây?
Giêsu kéo ông vào ngực Người khi ngồi bên cạnh ông: “Bởi vì họ không có con tim trẻ thơ của con...”
- Họ muốn phong Thầy làm vua à? Nhưng họ còn chưa hiểu rằng nước của Thầy không thuộc về trái đất ?
26
- Họ không hiểu!
- Chúa ơi, không nói các tên, nhưng kể cho con đi!...
- Nhưng con sẽ không nói ra điều Thầy kể cho con chứ ?
- Chúa ơi, nếu Thầy không muốn thì con sẽ không nói...
- Con sẽ chỉ nói điều này khi người ta sẽ muốn giới thiệu Thầy như một thủ lãnh dân chúng thông thường. Một ngày kia, việc đó sẽ xảy ra. Con sẽ ở đó và con sẽ nói: Người đã không là một ông vua của trái đất, bởi vì Người không muốn, bởi vì nước của Người không thuộc về trái đất này. Người là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể, Người không thể chấp nhận cái thuộc về trái đất. Người đã muốn đến trong thế gian, mặc lấy một thân xác để cứu chuộc các thể xác, các linh hồn và thế giới. Nhưng Người đã không muốn chấp nhận những huy hoàng của thế gian và các lò tội lỗi. Nơi Người không có gì là xác thịt và thế tục. Ánh Sáng không bao bọc mình bằng bóng tối. Vô tận không chấp nhận những cái hữu hạn, nhưng Người đã làm cho những tạo vật giới hạn bởi xác thịt thành những tạo vật giống Người hơn, bằng cách dẫn đưa những kẻ tin vào Người tới Vương Quốc thực, bằng cách thiết lập triều đại của Người trong các con tim trước khi thiết lập nó ở trên Trời, nơi Người sẽ ở trọn vẹn và đời đời với tất cả những ai được cứu rỗi. Gioan, con sẽ nói những điều đó với những người chỉ thấy nơi Thầy một thần trí, với những người từ chối là Thầy đã chịu cám dỗ... và đau đớn... Con sẽ nói với người ta rằng Đấng Cứu Chuộc đã khóc... Và họ, loài người, đã được cứu chuộc cũng bởi nước mắt của Thầy nữa.
- Vâng, Chúa ơi! Thầy chịu đựng chừng nào! Giêsu!...
- Thầy cứu chuộc chừng nào! Nhưng con, con yên ủi Thầy trong đau đớn. Tới rạng đông, chúng ta sẽ từ đây đi. Chúng ta sẽ tìm thấy một cái xuồng. Con có tin Thầy không nếu Thầy nói với con rằng chúng ta sẽ có thể đi không cần mái chèo ?
- Con sẽ tin Thầy, cho dù Thầy nói với con rằng chúng ta sẽ đi không cần có thuyền...
Họ tiếp tục ôm nhau, cuốn gọn trong áo khoác của Giêsu. Và
27
sau cùng, Gioan thiếp ngủ trong sự ấm áp vì mệt mỏi, như một đứa trẻ trong vòng tay của má nó.
157* GIÊSU NÓI VỀ KẺ BIỆT ÁI
Giêsu nói:
Chính những kẻ có con tim ngay thẳng là những kẻ được ban những trang Tin Mừng này. Nó không được biết đến, nhưng nó có thể cắt nghĩa rất nhiều, rất nhiều. Khi Gioan viết Phúc Âm của ông sau rất nhiều năm, đã dùng lối ám chỉ vắn tắt trong các sự kiện. Vâng theo ước muốn của vị Thầy mà ông trình bày bản tính Thiên Chúa ra ánh sáng hơn tất cả các Phúc Âm thánh sử khác, ông tiết lộ cho loài người những chi tiết không được biết, và ông tiết lộ nó với sự dè dặt trong trắng, bao phủ mọi hành động và mọi lời nói của ông bằng một sự bẽn lẽn khiêm tốn và thận trọng.
Gioan, kẻ tâm phúc của Cha trong những sự kiện quan trọng nhất của đời Cha, không bao giờ tự phụ kiểu cách về những ơn mà Cha ban cho ông. Các con hãy đọc một cách chú ý, dường như ông khổ vì phải tiết lộ nó, tựa như ông nói: “Tôi nói điều đó vì nó là một sự thật để tán dương Chúa của tôi, nhưng tôi xin qúi vị tha thứ vì phải tỏ ra rằng điều đó chỉ mình tôi biết”. Và bằng những lời vắn tắt, ông nói ám chỉ về những chi tiết chỉ mình ông biết.
Hãy đọc chương đầu Tin Mừng của ông, nơi ông kể về cuộc gặp gỡ của ông với Cha: “Gioan Tẩy Gỉa đang ở với hai người trong số các môn đệ của ông... Hai môn đệ đã nghe những lời này... Andrê, em của Simon Phêrô là một trong số hai người đã nghe những lời của Gioan và đã đi theo Chúa Giêsu. Người đầu tiên mà Andrê gặp...” Ông không xưng tên, trái lại, ông núp ở đàng sau Andrê, người mà ông đặt ra ánh sáng.
Tại Cana, ông đã ở đó với Cha, nhưng ông nói: “Giêsu đã ở đó với các môn đệ của Người... Và các môn đệ của Người tin Người”. Chính những người khác cần phải tin. Ông thì ông đã tin rồi, nhưng
28
ông hòa mình với những người khác, tựa như ông cũng cần thấy các phép lạ để tin.
Là nhân chứng tại lần đầu tiên Cha xua đuổi các kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ, tại lần nói chuyện với Nicôđêmô, tại giai đoạn của người đàn bà Samari, nhưng ông không bao giờ nói: “Tôi đã ở đó”, nhưng ông giữ lối xử sự mà ông đã có ở Cana, ông nói: “Các môn đệ của Người”, ngay cả khi chỉ có một mình ông hay với một người khác. Và tiếp tục như vậy, không bao giờ xưng danh, luôn luôn đặt các bạn ông lên trước, tựa như ông không phải là người trung thành nhất, người luôn luôn trung thành, người trung thành cách trọn hảo. Các con hãy nhớ sự tinh tế mà ông đã dùng để ám chỉ ở giai đoạn bữa Tiệc Ly, do kết qủa của sự kiện ông là kẻ ưu ái, và các người khác cũng biết như vậy, họ đã yêu cầu ông khi họ muốn biết các bí mật của Thầy: “Vậy các môn đệ bắt đầu nhìn nhau, không biết Thầy nói ám chỉ về ai. Một người trong số họ, kẻ được Chúa Giêsu yêu hơn, đang tựa đầu vào ngực Người. Simon Phêrô liền làm hiệu cho ông hỏi xem Người nói về ai. Người môn đệ này, đang tựa vào ngực Chúa Giêsu, liền hỏi Người: ‘Chúa ơi, ai vậy?’” Ông cũng không xưng tên khi được gọi vào Gétsêmani với Phêrô và Giacôbê. Ông cũng không nói: “Tôi đã theo Chúa”. Ông nói: “Simon Phêrô đi theo Người với một môn đệ khác, người môn đệ khác này biết vị Giáo Chủ nên vào tiền đường của nhà vị Giáo Chủ với Chúa Giêsu”. Không có Gioan thì Cha không được cái an ủi được gặp ông cùng với Phêrô trong những giờ đầu tiên Cha mới bị bắt. Nhưng Gioan không khoe việc đó. Là một trong các nhân vật chính trong những giờ của cuộc thương khó tử nạn; là tông đồ duy nhất không ngừng hiện diện nơi đó, đầy tình yêu, đầy thương xót, hiện diện một cách anh hùng gần bên Đức Kitô, gần mẹ Người, đối diện với Jêrusalem xổ lồng. Ông không nói tới tên ông cả trong giai đoạn đẫm máu của sự đóng đanh và những lời của kẻ hấp hối: “Bà ơi, đây là con bà”. “Đây là mẹ con”. Và chính “người môn đệ”,
người không tên, không có tên nào khác ngoài cái tên là vinh quang của ông, sau khi đã là ơn gọi của ông: “Người môn đệ”.
29
Được trở nên “Con” của Mẹ Thiên Chúa, ngay cả sau cái vinh dự này, ông cũng không tự tán dương. Trong sự phục sinh, ông còn nói: “Phêrô và môn đệ kia (hai người đã được Maria Lazarô nói cho về cái mồ trống rỗng) liền ra và đi... Họ chạy... Nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và ông đến trước. Khi cúi nhìn, ông thấy... nhưng ông không vào...” Một cử chỉ khiêm nhường ngọt ngào! Ông, kẻ biệt ái, kẻ trung thành, ông để cho Phêrô vào trước, Phêrô, vị thủ lãnh, dù ông đã phạm tội vì hèn, nhưng Gioan không xét đoán ông. Đó là vị Giáo Chủ của ông. Ông cứu giúp Phêrô kể cả bằng sự thánh thiện của ông. Bởi vì chính các thủ lãnh có thể cần, và họ cần cả các người của họ giúp họ. Biết bao người tốt hơn các thủ lãnh! Ôi, các kẻ thánh thiện, các con đừng bao giờ từ chối tình thương của các con với các thủ lãnh, những người cúi gù dưới gánh nặng mà họ không biết mang, hoặc bị mù, bị say vì khói của vinh dự. Ôi, các con thánh thiện, hãy là các Simon Cyrênê cho các cấp trên của các con. Các con hãy là, con hãy là, ôi, Gioan nhỏ của Cha, vì Cha nói với con là cho tất cả “các Gioan” chạy đến trước và hướng dẫn “các Phêrô”, rồi sau đó dừng lại để cho họ vào, vì kính trọng chức vụ của họ, và là những kẻ - ôi! Tuyệt tác phẩm của nhân loại! - và là những kẻ, để không làm nhục cho các Phêrô không biết hiểu, không biết tin, họ tỏ ra, và để cho người ta tin rằng họ cũng trì độn và cứng lòng tin như các Phêrô.
Các con hãy đọc giai đoạn sau cùng trên hồ Tibêriat: lại cũng Gioan, nhắc lại hành động trước kia khi nhận ra Chúa trong con người đang đứng trên bãi, và sau khi mọi người đã chia sẻ của ăn với nhau, trong câu hỏi của Phêrô: “Và người này, anh ta sẽ ra sao?” vẫn luôn luôn là “người môn đệ”, không có gì hơn.
Đối với những gì có liên can tới ông thì ông tự làm biến đi, nhưng khi có những điều làm sáng tỏ một ánh sáng càng lúc càng Thiên Chúa hơn cho Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể, thì đó, Gioan vén bức màn và tiết lộ bí mật.
Ở chương sáu của Tin Mừng, ông nói: “Nhận thấy là họ muốn tôn người lên làm vua, Người đã trốn lên núi một mình”. Và ông
30
cho các tín hữu biết về giờ này của Đức Kitô, để các người tin biết rằng những thử thách và chiến đấu mà Đức Kitô đã chịu đựng thì nhiều và phức tạp trong các phẩm cách khác nhau của Người: là một người, một vị thầy, là Đức Messi, là Đấng Cứu Thế, là Vua; và biết rằng loài người cũng như Satan, đứa xúi dục đời đời của loài người, đã không chừa cho Đức Kitô một cạm bẫy nào, để làm giảm thiểu Người, đánh bại Người, tiêu diệt Người. Các sự độc ác của Satan và của loài người ẩn nấp dưới vẻ bề ngoài như tốt, đã nổi lên ào ạt tấn công chống lại Con Người, chống lại vị Linh Mục đời đời, chống lại vị Thầy, và cả chống lại vị Chúa. Những khát vọng của người dân, của lòng ái quốc, của người con, của loài người, tất cả đều châm chích hay cố gắng khám phá ra một điểm yếu để đặt cái đòn bẩy vào đó.
Ôi! Các con của Cha, các con chỉ nghĩ tới những cám dỗ đầu tiên và cám dỗ sau cùng. Đối với những mệt mỏi của Đấng Cứu Thế nơi Cha, các con thấy như nó chỉ có vẻ “mệt” ở giai đoạn sau cùng, chỉ đau đớn ở các giờ sau cùng, chỉ cay đắng và thất vọng ở những kinh nghiệm sau cùng. Các con hãy đặt mình vào địa vị của Cha một lúc. Hãy tưởng tượng chính các con là người được người ta hé cho thấy: Sự bình an đối với các người đồng hương, sự trợ giúp của họ, khả năng có thể làm việc thanh tẩy cần thiết để cho xứ sở thân yêu trở nên thánh, khả năng có thể tu bổ nó, tụ họp các phần tử chia lìa của Israel, chấm dứt đau khổ, nô lệ, phạm thượng. Cha không bảo các con đặt mình vào địa vị Cha khi người ta dâng cho các con cái triều thiên. Cha chỉ bảo các con hãy có qủa tim con người của Cha trong một giờ, và hãy nói cho Cha: cái đề nghị hấp dẫn này sẽ làm cho các con ra sao ? Kẻ chiến thắng trung thành với ý tưởng của Thiên Chúa hay kẻ bị đánh bại? Các con sẽ ra khỏi đó cách thánh thiện và siêu nhiên hay các con sẽ tự tiêu diệt chính mình bằng cách liên kết với chước cám dỗ và nhượng bộ trước những đe dọa? Các con sẽ thoát ra thế nào, sau khi nhận ra rằng Satan đã đẩy các vũ khí của nó tới điểm nào, để làm tổn thương cho Cha trong sứ mệnh của Cha và trong tình cảm của Cha, bằng
31
cách làm cho các môn đệ tốt của Cha đi lạc vào con đường xấu; bằng cách đặt Cha vào cuộc chiến công khai với các kẻ thù của Cha, bây giờ đã bỏ rơi mặt nạ và trở nên hung bạo vì âm mưu bị khám phá?
Đừng ở lì với chiếc com-pa và cái thước trong tay, với cái kính hiển vi của khoa học nhân loại. Đừng ở lì trong những lý luận với giọng mô phạm của các luật sĩ để đo lường, để đối chất, để thảo luận xem Gioan đã nói điều nọ điều kia đúng sự thật tới điểm nào. Đừng xếp chồng lên câu của Gioan trong giai đoạn đã cho ngày hôm qua để coi xem các trường hợp có phù hợp không. Gioan không lẫn lộn vì sự yếu đuối của tuổi gìa, và Gioan nhỏ không lẫn lộn vì sự yếu đuối của bệnh tật. Gioan nhỏ nói điều nó thấy. Gioan lớn, nhiều năm sau khi sự kiện xảy ra, mô tả điều ông biết với một sự liên lạc chính xác giữa các nơi và các sự kiện, đã tiết lộ điều bí mật mà chỉ mình ông biết về các quyến rũ không phải là không qủi quyệt trong việc phong vương cho Đức Kitô.
Chính tại Tarichée, sau việc bánh hóa nhiều lần thứ nhất, đã nảy sinh ra trong dân chúng tư tưởng phong vị rabbi Nazarét lên làm vua Israel. Lúc đó có Manaen, ông luật sĩ và nhiều người khác hiện diện. Tuy họ còn bất toàn trong tâm trí, nhưng có con tim ngay thật, họ đón nhận tư tưởng này và tuyên truyền ra để tôn vinh Thầy, để chấm dứt cuộc chiến bất công chống lại Người. Đó là sự sai lầm trong việc giải thích Kinh Thánh, sai lầm này lan tràn trong toàn thể Israel mù lòa vì giấc mộng một triều đại nhân loại, và hy vọng có thể thánh hóa cái quê hương bị ô uế bởi qúa nhiều thứ.
Và nhiều người tựa như tự nhiên liên kết với tư tưởng này cách đơn sơ. Một số rất đông giả vờ tham gia vào tư tưởng đó một cách thâm hiểm để làm hại Cha. Những người này hợp nhất lại do sự thù ghét đối với Cha, quên đi sự hận thù giai cấp từ trước vẫn chia rẽ họ. Họ đồng minh với nhau để thử thách Cha, để có một vẻ bề ngoài hợp pháp cho tội ác mà họ đã quyết định trong lòng. Họ hy vọng tìm thấy nơi Cha một yếu đuối, một điểm kiêu căng. Sự kiêu căng và yếu đuối này sẽ tiếp theo là sự chấp nhận việc phong
32
vương mà họ hiến cho Cha, sẽ là lý do cho những kết án mà họ muốn tố cáo Cha. Và sau đó... Và sau đó, họ sẽ dùng nó để dẹp yên lương tâm nham hiểm bị cắn rứt của họ, với hy vọng có thể nói rằng: “Rôma chứ không phải chúng ta, đã trừng trị tên phiến loạn Nazarét”. Vậy là loại trừ được kẻ thù của họ, mà thực ra là Vị Cứu Tinh của họ, một cách hợp pháp...
Đó là những lý do của việc thử tuyên dương này. Đó là cái chìa khóa của sự thù ghét mạnh nhất sẽ tiếp theo sau đó. Sau cùng, đây là bài học sâu xa của Đức Kitô. Các con có hiểu bài học này không? Đó là bài học khiêm nhường, công minh, vâng lời, can đảm, dè dặt, trung thành, tha thứ, nhẫn nại, tỉnh thức, nhịn nhục, đối với Thiên Chúa, đối với sứ mạng riêng của Cha, đối với các bạn Cha, đối với những kẻ mơ mộng, đối với các kẻ thù của Cha, đối với Satan, đối với những người nó sử dụng để cám dỗ Cha, đối với các sự vật, đối với các ý tưởng. Tất cả phải được suy niệm, chấp nhận hay từ chối, yêu hay không, trong khi nhìn vào mục đích thánh của con người: Nước Trời, Ý Thiên Chúa.
Gioan nhỏ ơi, như vậy đã là một trong những giờ của Satan đối với Cha. Cũng như Đức Kitô đã có những giờ đó, các Kitô nhỏ cũng có. Phải chịu đựng nó, thắng vượt nó mà không kiêu căng, không nản lòng. Chúng không phải không có mục đích, không có mục đích tốt. Nhưng đừng sợ. Trong những giờ này, Thiên Chúa không bỏ rơi, nhưng cứu giúp kẻ trung thành. Rồi sau đó Tình Yêu sẽ đến để phong vương cho các kẻ trung thành. Ngoài ra, khi chấm dứt thời giờ của trái đất, các kẻ trung thành sẽ lên Nước Trời trong bình an đời đời, vinh thắng đời đời.
Bình an của Cha, Gioan nhỏ được đội triều thiên gai. Bình an của Cha...
158* TẠI BÉTSAIĐA VÀ CAPHANAUM.
KHỞI HÀNH MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH
TRUYỀN GIÁO MỚI
- Lái thuyền về Bétsaiđa - Giêsu ra lệnh khi Người đang ở với Gioan trong chiếc xuồng nhỏ, một cái gáo dừa thực sự ở giữa hồ, được soi sáng từ từ đồng thời với ánh sáng ban ngày.
33
Gioan vâng lời, không nói gì. Một cơn gió nhẹ làm căng cánh buồm nhỏ và làm chiếc xuồng lướt đi mau lẹ, nó nghiêng về một bên vì trôi qúa lẹ. Bờ hồ phía đông bẻ cua mau chóng và cái vòm cung của bờ phía bắc càng lúc càng gần.
- Hãy ghé lại trước làng. Thầy muốn tới nhà Porphyrê mà không muốn cho ai thấy. Còn con, sau đó con sẽ đến tìm Thầy ở chỗ thông thường, và hãy chờ Thầy ở trong thuyền.
- Thưa Thầy vâng. Vậy nếu có ai nhìn thấy con?
- Hãy giữ họ lại mà đừng nói Thầy ở đâu. Thầy sẽ làm lẹ.
Gioan nhận thấy trên bãi có một điểm thuận lợi để ghé vào. Ông thấy chỗ này thực sự giống như một con suối cát, nơi người ta đã hốt cát đi để làm gì đó, tạo cho nó có hình dáng một cái vịnh nhỏ rộng chừng vài mét, trong đó thuyền có thể cập vào bờ chỉ cao hơn mực nước chừng vài tấc.
Ông ghé vào đó. Chiếc thuyền cà nhẹ vào bãi cát nhưng sát vào bờ được. Gioan giữ cho nó đứng lại bên bờ bằng cách bám vào cái rễ ló ra khỏi cát. Giêsu nhảy lên bờ. Gioan ấn mái chèo vào bờ để lại đẩy cái thuyền ra ngoài hồ. Làm xong, ông ngửa khuôn mặt được soi sáng bằng một nụ cười đẹp lên và nói: “Tạm biệt Thầy”.
- Tạm biệt Gioan - Giêsu đi vào giữa đám cây cối trong khi Gioan chạy vát con thuyền của ông.
Giêsu quay về phía đất liền, băng qua các khu vườn ở sau lưng Bétsaiđa. Người đi mau để tránh vào làng khi nó sắp náo nhiệt. Người tới nhà Phêrô mà không gặp ai. Người gõ vào cửa nhà bếp. Sau vài giây, cái đầu của Porphyrê ngập ngừng ló ra ở bên trên bức tường lan can của sân thượng. Bà nhìn thấy và phát ra một tiếng “ôi” đầy kinh ngạc. Bà lấy tay vơ mái tóc lộng lẫy của bà - sắc đẹp duy nhất của bà - hoàn toàn xõa trên vai. Bà chạy xuống dưới qua chiếc cầu thang nhỏ, đi chân trần vì việc rửa ráy mau lẹ ban sáng.
- Lạy Chúa, Thầy, một mình?
- Ừ, Porphyrê. Margziam đâu?
- Nó ngủ. Nó còn ngủ. Nó cứ hơi buồn, hơi yếu, đứa nhỏ... Con hơi chiều nể nó. Đó cũng tại cái tuổi... Sự phát triển... Khi nó ngủ
34
thì nó không suy nghĩ và không khóc.
- Nó hay khóc à?
- Thưa Thầy vâng. Con tin là tại vì sự yếu đuối lúc này. Con tìm cách củng cố cho nó... yên ủi nó... Nhưng nó nói: “Con ở lại một mình. Tất cả những người con yêu đều ra đi. Khi Giêsu không còn ở đây nữa...” Và nó nói tựa như Thầy phải từ bỏ chúng con... Chắc chắn... nó có rất nhiều đau khổ trong đời nó... Nhưng con, nhưng Simon, chúng con yêu nó... chừng nào! Xin Thầy tin vậy đi.
- Thầy biết. Nhưng tâm hồn nó đã đoán được... Porphyrê, Thầy cần nói với con về chính điều này đó. Vì thế mà Thầy tới, không có Simon vào giờ này. Chúng ta phải tới chỗ nào để Margziam không nghe thấy, và không ai làm phiền chúng ta?
- Chúa ơi... Con chỉ có... phòng của vợ chồng hay phòng để lưới... Margziam ở trên phòng trên, con cũng đã ở đó để tránh sức nóng. Chúng con đã lên ngủ ở trên đó...
- Chúng ta vào phòng để lưới, nó ở xa hơn và Margziam sẽ không nghe thấy, dù nó có thức dậy.
- Chúa ơi, đi - và bà dẫn Người vào một căn phòng thô sơ, cồng kềnh đủ thứ đồ: lưới, mái chèo, đồ dự trữ, rơm cỏ cho cừu, một cái khung dệt...
Porphyrê vội vã dẹp đồ ở trên một cái giống như cái bàn kê tì vào tường. Bà lau nó bằng một búi xơ đay để Thầy ngồi ở đó.
- Bà ơi, không quan trọng đâu. Thầy không mệt.
Porphyrê ngước đôi mắt đầy êm dịu của bà lên khuôn mặt hốc hác mệt mỏi của Giêsu, và tựa như bà muốn nói: “Có, Thầy mệt mà!” Nhưng vì có thói quen nín lặng nên bà không nói gì.
- Nghe đây, Porphyrê. Con là một phụ nữ dũng cảm và là một môn đệ tốt. Thầy rất yêu con từ khi Thầy biết con. Và chính với niềm vui lớn lao, Thầy đã tiếp nhận con như một môn đệ, và Thầy ký thác đứa trẻ cho con. Thầy biết rằng con thận trọng và nhân đức như rất ít người có. Thầy biết rằng con biết nín lặng, một nhân đức rất hiếm nơi phụ nữ. Chính vì lý do đó nên Thầy đến nói với con cách kín đáo, và tiết lộ cho con một điều không ai biết, kể cả các
35
tông đồ, kể cả Simon. Thầy thổ lộ cho con, vì Thầy phải nói cho con là trong tương lai, con phải xử sự thế nào với Margziam và với mọi người... Thầy chắc rằng con sẽ làm vui lòng Thầy của con về điều Thầy xin con, và con sẽ thận trọng như con vẫn luôn luôn...
Porphyrê thực sự đỏ bừng khi nghe lời khen của Chúa bà, nhưng bà chỉ ưng thuận bằng gật đầu, vì bà qúa cảm động - bà qúa bẽn lẽn, và qúa quen bị cai trị bởi các ý muốn độc đoán áp đặt trên bà mà không cần biết bà có sẵn sàng để thoả mãn không - bà qúa cảm động để nói ra lời về những điều bà cảm thấy.
- Porphyrê... Thầy sẽ không bao giờ trở lại vùng này nữa, không bao giờ nữa, cho tới khi tất cả được nên trọn... Con biết, phải không, điều mà Thầy phải làm trọn?...
Nghe những lời này, Porphyrê buông mái tóc mà bà vẫn giữ bằng bàn tay trái ở sau gáy. Rồi còn hơn là tiếng kêu, bà phát ra những tiếng nấc mà bà làm nghẹt nó bằng cách lấy hai bàn tay ôm mặt, trong khi bà qùi gối xuống và rên rỉ: “Con biết, lạy Chúa, Thiên Chúa của con!...” Và bà khóc với tiếng khóc lặng lẽ, chỉ bộc lộ ra bằng những giọt nước mắt từ các ngón tay áp trên mặt nhỏ xuống đất.
- Đừng khóc, Porphyrê. Chính vì vậy mà Thầy đã đến. Thầy đã sẵn sàng... và họ cũng sẵn sàng, những kẻ, trong khi phục vụ điều ác, họ sẽ phục vụ điều thiện, đúng vậy, vì họ làm bừng dậy giờ cứu chuộc. Nó có thể hoàn thành ngay từ lúc này, vì Thầy cũng như họ, chúng ta đã sẵn sàng... Và tất cả những giờ khác qua đi, hay tất cả những biến cố sẽ xảy tới, chỉ là sự hoàn tất trọn vẹn cho tội ác của họ và cho hy sinh của Thầy. Nhưng ngay cả những giờ này, cũng còn nhiều, sẽ qua đi trước giờ đó, cũng được dùng... Còn một số việc nữa phải làm xong, và còn những điều phải nói, để tất cả những gì phải hoàn tất để làm cho người ta biết Thầy đều được làm... Nhưng Thầy sẽ không trở lại đây nữa... Thầy nhìn nơi này lần chót... Thầy vào căn nhà ngay thật này lần chót... Đừng khóc... Thầy không muốn ra đi mà không nói lời từ biệt con và cho con phúc lành của Thầy. Thầy sẽ mang Margziam đi với Thầy. Thầy sẽ
36
mang nó đi với Thầy bây giờ trong khi đi về vùng biên giới Phênici và trong khi đi xuống Juđê dịp Lễ Lều. Thầy sẽ không thiếu dịp để gởi nó về trước mùa đông. Đứa trẻ tội nghiệp! Nó sắp được hưởng Thầy trong một thời gian... và rồi, Porphyrê, sẽ không tốt để nó hiện diện vào giờ của Thầy. Vậy con sẽ không để cho nó đi vào dịp lễ Vượt Qua...
- Chúa ơi, giáo điều...
- Thầy miễn giải giáo điều. Porphyrê, Thầy là Thầy và là Thiên Chúa. Là Thiên Chúa, Thầy có thể miễn giải trước một sự thiếu sót, cả đến không phải là thiếu sót, vì Thầy đã ra lệnh nó với lý do chính đáng. Việc vâng theo mệnh lệnh của Thầy, tự nó đã là sự xá giải cho việc bỏ qua giáo điều. Vì sự vâng lời Thiên Chúa - và đó cũng là sự hy sinh đối với Margziam - luôn luôn ở bên trên mọi sự khác. Thầy là vị thầy. Một ông thầy không biết đo lường khả năng và phản ứng của môn đệ mình, không biết đắn đo những hậu qủa có thể xảy ra nơi người môn đệ khi nó phải làm một cố gắng vượt sức chịu đựng của nó, đó không phải là ông thầy tốt. Ngay cả khi đòi hỏi nhân đức, cũng phải khôn ngoan và đừng đòi hỏi tối đa, vượt qúa sự đào tạo tinh thần và các nguồn tổng quát mà một thực thể có thể cho. Khi đòi hỏi một nhân đức hay một sự chế ngự thiêng liêng qúa mạnh so với mức độ sức mạnh siêu nhiên, tinh thần, và cả vật chất mà một tạo vật đã đạt được, người ta có thể gây ra sự phân tán nghị lực đã thu tích được, và làm tan nát thực thể về ba phương diện: siêu nhiên, tinh thần và vật chất. Margziam là đứa trẻ tội nghiệp, đã đau khổ qúa nhiều, đã biết qúa nhiều sự tàn ác của tha nhân tới cỡ cảm thấy gớm ghét họ, nó sẽ không chịu đựng nổi những điều sẽ là cuộc tử nạn của Thầy: một biển tình yêu đau thương, trong đó Thầy sẽ rửa sạch tội lỗi thế giới, và một biển căm hờn của Satan mà nó cố gắng dìm tất cả những kẻ Thầy yêu vào để vô hiệu hóa tất cả công việc vị thầy của Thầy. Thực vậy, Thầy nói với con rằng cả những kẻ mạnh nhất cũng bị uốn cong dưới làn sóng của Satan, ít nhất là trong một thời gian ngắn. Nhưng Thầy không muốn cho Margziam bị dìm và uống thứ nước đau thương
37
này... Đó là đứa trẻ vô tội và nó thân thiết đối với Thầy. Thầy thương, rất thương những kẻ đã chịu đựng nhiều hơn là sức lực của nó cho phép... Thầy nhớ tới thần trí của Gioan Enđo ở bên kia thế giới.
- Ông ta chết rồi sao ? Ôi, Margziam đã viết nhiều ru-lô cho ông... Một đau khổ nữa cho đứa trẻ...
- Thầy, Thầy sẽ nói cho nó về cái chết của Gioan... Thầy sẽ nói rằng Thầy đã lấy đi sự sống ông để tránh cho ông cái sốc của giờ đó. Gioan cũng đã qúa khổ vì loài người. Tại sao lại khơi lại những tình cảm đã lắng dịu ? Thiên Chúa nhân từ, Người thử thách con cái Người, nhưng Người không phải là nhà thí nghiệm thiếu khôn ngoan... Ôi! Nếu loài người biết làm như vậy thì sẽ bớt được bao tâm hồn hư hỏng, hay đơn giản là sẽ bớt được bao nhiêu cơn lốc nguy hiểm trong các tâm hồn!... Nhưng hãy trở lại Margziam: nó không nên đi lễ Vượt Qua sắp tới. Lúc này con sẽ không nói chuyện đó với nó, nhưng khi đến giờ, con sẽ nói với nó như vầy: “Thầy đã ra lệnh cho má không gởi con đi, và Người hứa cho con một phần thưởng riêng biệt, nếu con vâng lời Người”. Margziam tốt, và nó sẽ vâng lời... Porphyrê, đó là điều Thầy muốn ở con: sự yên lặng của con, sự trung thành của con, tình yêu của con.
- Chúa của con, tất cả những gì Thầy muốn. Thầy cho tôi tớ Thầy qúa nhiều vinh dự... Con không xứng đáng với bấy nhiêu... Hãy đi bình an, Thầy của con và Thiên Chúa của con. Con sẽ làm điều Thầy muốn... - nhưng sự đau đớn đã thắng nơi bà nên bà gục mặt xuống đất. Trước thì bà qùi gối, ngồi trên gót chân, mắt nhìn đăm đăm vào mặt Giêsu, bây giờ bà gục xuống đất, tóc bao phủ lấy bà như chiếc áo khoác bằng huyền, bà bật ra nức nở: “Nhưng đau đớn chừng nào! Thầy ơi! Đau đớn chừng nào! Sẽ kết thúc thế nào! Sẽ kết thúc thế nào cho thế giới, cho chúng con là những kẻ yêu Thầy! Cho nữ tì của Thầy! Thầy là người duy nhất, người duy nhất thực sự yêu con, người không bao giờ khinh bỉ con, người không bao giờ hống hách với con, người đã đối xử với con như những người khác, dù con dốt nát, nghèo hèn, ngu si. Ôi! Margziam và
38
con, vì chính Margziam đã nói với con trước, nhưng rồi chúng con tự trấn an... vì mọi người đều nói rằng việc đó không thể nào là thật được... tất cả: Simon, Natanael, Philíp, các bà vợ của họ... và họ biết, họ khôn ngoan... và Simon... hé! Simon của con, nếu Thầy đã chọn ông ta, ông ta phải có gía về cái gì !... Và tất cả! Tất cả đều nói rằng điều đó không thể... Nhưng bây giờ chính Thầy nói điều đó, chính Thầy nói điều đó... và người ta không thể nghi ngờ lời Thầy...” Bà thực sự buồn, và bà đau khổ xao xuyến chừng nào!
Giêsu cúi xuống vừa đủ để đặt tay trên đầu bà: “Đừng khóc như vậy... Margziam sẽ nghe thấy... Thầy biết điều đó... Không ai tin việc đó cả, không ai muốn đi tới chỗ tin... và chính sự khôn ngoan của họ, chính tình yêu của họ là nguyên nhân của việc họ từ chối tin... Nhưng như vậy đó... Porphyrê, Thầy đi đây. Trước khi rời con, Thầy chúc lành cho con bây giờ và mãi mãi. Hãy luôn luôn nghĩ rằng Thầy yêu con, và Thầy bằng lòng về tình yêu của con đối với Thầy. Thầy không nói với con: ‘hãy kiên trì trong tình yêu’, vì Thầy biết rằng con sẽ kiên trì, vì cái kỷ niệm về Thầy của con sẽ luôn luôn là sự êm đềm cho con, và con sẽ tìm được ở đó sự nương náu, sự êm dịu và bình an cho con, kể cả trong giờ chết. Lúc đó hãy nghĩ đến rằng Thầy con đã chết để mở cửa Thiên Đàng cho con, và Người chờ con ở đó... Nào, đứng dậy đi! Thầy đi đánh thức Margziam và giữ nó lại. Còn con, hãy xóa các vết nước mắt của con đi rồi đến với chúng ta. Gioan đang chờ Thầy để chở Thầy về Caphanaum. Nếu con có cái gì gởi cho Simon thì hãy sửa soạn. Con hãy nhớ rằng ông sắp cần quần áo ấm...”
Porphyrê, tạo vật luôn luôn chịu lụy, liền mau mắn vâng lời. Bà hôn hai bàn chân Giêsu và sắp đứng dậy, nhưng một làn sóng tình yêu làm bà quẩn trí, mặt đỏ gay, bà cầm hai bàn tay Giêsu và hôn một, hai, mười lần, rồi bà đứng dậy và để cho Người đi.
Giêsu ra ngoài, đi lên sân thượng, vào trong một thứ giống như cái lều làm bằng cánh buồm căng trên các sợi giây, trong đó có hai cái giường nhỏ. Margziam còn ngủ, mặt hầu như cúi, tựa trên chiếc gối nhỏ. Người ta chỉ nhìn thấy một gò má trên khuôn mặt ngăm ngăm, và một cánh tay dài, gầy, ló ra bên ngoài tấm phủ giường mà
39
nó đắp.
Giêsu ngồi dưới đất, gần cái giường nhỏ, vuốt nhẹ mấy lọn tóc rơi lộn xộn trên má tái mét của người đang ngủ. Nó nhúc nhích nhưng không thức dậy. Giêsu làm lại cử chỉ của Người và Người cúi xuống đặt một cái hôn trên trán của khuôn mặt bây giờ đã lộ ra. Margziam mở mắt và thấy Giêsu ở bên cạnh, đang cúi xuống trên nó. Nó khó tin, có lẽ nó nghĩ là mình mơ. Nhưng Giêsu gọi nó, lúc đó cậu con trai liền ngồi nhổm dậy, lăn vào cánh tay Giêsu và ẩn ở đó.
- Thầy ở đây?
- Thầy đến đón con để đem con đi với Thầy trong thời gian vài tháng. Con bằng lòng không?
- Ôi! Còn Simon?
- Ông đang ở Caphanaum. Thầy, Thầy đến cùng với Gioan...
- Ông ta cũng đến à? Chắc ông ta sướng lắm! Con sẽ cho ông ta những thứ con đã viết.
- Thầy không nói về Gioan Enđo, nhưng về Gioan Zêbêđê. Con không bằng lòng à?
- Có. Con cũng yêu ông lắm. Ông kia cũng vậy... hầu như còn hơn...
- Tại sao vậy Margziam? Gioan Zêbêđê cũng rất tốt.
- Đúng. Nhưng ông kia đã phải qúa khổ. Con cũng vậy, con đã phải qúa khổ, và con cũng còn hơi khổ... Giữa những người đã đau khổ, người ta hiểu nhau và yêu nhau...
- Con có bằng lòng để biết rằng ông không phải khổ nữa và ông rất sung sướng không?
- Có, con sẽ bằng lòng. Nhưng ông ta chỉ có thể sung sướng khi ông ta được ở với Thầy. Hay là... Chúa ơi, có lẽ ông ta đã chết?
- Ông ta đang ở trong bình an. Phải biết bằng lòng về điều đó, không ích kỷ, vì ông đã chết trong sự công chính, và bởi vì bây giờ không còn sự chia cách giữa linh hồn ông với linh hồn chúng ta. Chúng ta có thêm một người bạn nữa cầu nguyện cho chúng ta.
Margziam có hai giọt nước mắt lớn trên khuôn mặt thực sự gầy
40
và xanh, nhưng nó thì thầm: “Đúng vậy”.
Giêsu không nói gì khác nữa về đề tài này, Người cũng không nhận xét gì về tình trạng thể xác và tinh thần của Margziam mà rõ ràng là rất yếu. Trái lại, Người nói: “Nào, chúng ta đi. Thầy đã nói với Porphyrê. Chắc chắn bà đang chuẩn bị quần áo cho con. Con cũng hãy sửa soạn, vì Gioan chờ chúng ta. Chúng ta sẽ cho Simon một ngạc nhiên. Có phải kia là thuyền của ông ta đang trở về Caphanaum không? Có lẽ ông đã đánh cá trên đường trở về đó...”
- Vâng, nó đó. Chúa ơi, chúng ta đi đâu?
- Về phía bắc, rồi đi Juđê.
- Một thời gian dài?
- Một thời gian dài.
Margziam vui mừng với tư tưởng được ở với Giêsu, nó đứng dậy lẹ làng và chạy ra hồ để tắm rửa. Nó trở về với mái tóc còn ướt và kêu: “Con đã thấy Gioan, ông làm hiệu để chào con. Ông ta ở chỗ cửa sông, giữa đám sậy...”
- Chúng ta đi.
Họ đi xuống. Porphyrê đang kết thúc buộc miệng hai cái giỏ và bà giải thích: “Con đã nghĩ tới sẽ gởi quần áo ấm sau này qua ông anh con, tới Gétsêmani vào dịp Lễ Lều. Qúi vị sẽ bước dễ dàng hơn, con cũng như bố con”. Và trong khi chấm dứt buộc các giây, bà chỉ vào các thứ bà đã sửa soạn: sữa, bánh, trái cây...
- Chúng ta sẽ lấy tất cả và chúng ta sẽ ăn ở trên thuyền. Thầy muốn đi khỏi trước khi có qúa đông người ở trên bãi. Chào Porphyrê. Nguyện Thiên Chúa luôn luôn chúc phúc cho con, và nguyện bình an của các kẻ công chính luôn luôn ở trong con. Đi, Margziam...
Họ mau chóng đi hết khoảng đường ngắn, và trong khi Margziam lại tìm Gioan thì Giêsu đi lại chiếc thuyền. Hai người ra khỏi đám sậy và đến với Người ngay. Họ nhảy lên thuyền, ấn mái chèo vào bờ để đẩy chiếc thuyền ra chỗ nước sâu.
Khoảng đường ngắn chấm dứt mau chóng và họ dừng lại ở bãi của Caphanaum để chờ chiếc thuyền của Phêrô sắp tới. Giờ giấc cho phép họ tránh được tấn công của đám đông, và họ có thể bình
41
an để ăn bánh và trái cây của họ, được bày ra trên cát, trong bóng của chiếc thuyền.
Simon không biết con thuyền nhỏ. Chỉ khi ông đã đặt chân lên bãi và thấy Giêsu đứng sau chiếc thuyền, ông mới chú ý tới nó.
- Thầy! Và con, Margziam! Nhưng từ lúc nào vậy?
- Vừa tức thời. Thầy đi qua Bétsaiđa. Lẹ lên! Phải đi ngay...
Phêrô nhìn Người và không nói gì. Ông và các bạn ông khuân lên khỏi thuyền số cá mà họ đã chài được, cùng với các túi quần áo, kể cả quần áo của Gioan mà sau cùng ông muốn mặc vào. Phêrô hỏi bạn ông cái gì, ông này làm hiệu như muốn nói: “Chờ tí đi...”
Họ về nhà hết và vào trong đó. Các tông đồ đã ở lại nhà liền chạy ra.
- Mau đi. Phải đi ngay. Mang tất cả đi, vì chúng ta không trở lại đây - Giêsu ra lệnh.
Các tông đồ nhìn nhau. Có những dấu hiệu diễn câm giữa hai nhóm, nhưng họ vâng lời. Tôi tin rằng họ làm việc cách vội vã để có thể nói chuyện với nhau trong các phòng khác.
Giêsu ở lại trong bếp với Margziam và từ giã ông bà chủ nhà, nhưng Người không nói: Thầy không trở lại nữa. Người cũng không nói vậy với các người Caphanaum đã nhìn thấy Người và chào Người. Người chào họ đơn giản giống như Người vẫn làm mỗi lần Người ra đi. Người chỉ dừng lại tại nhà Jairô, nhưng Jairô chưa về...
Ở gần phông-ten, Người gặp bà già ở gần nhà thằng nhỏ Alphê, Người nói với bà: “Ít lâu nữa, có một bà góa sẽ tới đây, bà ta sẽ tìm bà. Bà ta sẽ cư ngụ ở đây. Hãy làm bạn với bà ta, và hãy yêu thương đứa trẻ và các anh nó. Hãy làm việc đó cách thánh thiện nhân danh Thầy...”
Người đi tiếp và nói: “Thầy muốn chào tất cả các trẻ em...”
- Thầy có thể làm. Tại sao Thầy không nghỉ ngơi ? Hẳn Thầy mệt lắm. Mặt Thầy tái mét và con mắt mệt mỏi. Điều đó sẽ làm Thầy đau... Trời còn nóng, và chắc Thầy đã không ngủ ở Tibêriat cũng như ở nhà Chouza.
42
- Simon, Thầy không thể. Thầy phải đi tới một số nơi, mà thời gian gấp rút.
Họ ra gần tới bãi. Giêsu gọi các cậu con trai của Phêrô và Người chào chúng trong khi ra lệnh cho chúng đem chiếc thuyền nhỏ về ngôi làng ở trước Ippo và trả lại cho Saul Zacari.
Người đi vào con đường có bóng mát ở bờ sông, Người đi cho tới chỗ rẽ đôi và đi vào.
- Chúa ơi, chúng ta đi đâu ? - Phêrô hỏi. Từ nãy tới giờ, ông nói chuyện nhỏ tiếng với các bạn ông.
- Tới nhà Juđa và Anna, rồi sau đó đi Corozain. Thầy muốn chào các bạn tốt của Thầy.
Các tông đồ lại liếc nhau và rì rầm nhỏ tiếng. Sau cùng Giacôbê Alphê tiến lên để đến với Giêsu đang đi ở phía trước với Margziam.
- Anh ơi, chúng ta không trở lại đây, vì Thầy nói rằng Thầy muốn chào các bạn tốt. Chúng con muốn biết chuyện.
- Chắc chắn các con sẽ trở về, nhưng sau nhiều tháng.
- Còn Thầy ?
Giêsu làm một cử chỉ lững lờ... Margziam kín đáo rút lui và đến với các người khác, tức là tất cả, trừ Giacôbê Alphê ở với Giêsu và Iscariot đi một mình ở phía sau, ủ rũ và như uể oải.
- Anh ơi, Thầy làm sao vậy? - Giacôbê hỏi khi để một bàn tay lên vai Giêsu.
- Tại sao con hỏi vậy?
- Bởi vì... Con không biết. Tất cả chúng con đều hỏi nhau. Chúng con thấy Thầy khang khác... Thầy đi một mình với Gioan... Simon nói rằng Thầy đã là khách của Chouza... Thầy không nghỉ... Thầy chỉ chào một ít người... Hình như Thầy không muốn trở lại đây nữa... Và khuôn mặt Thầy... Chúng con không đáng được biết nữa sao? Cả đến con... Thầy đã yêu con mà... Thầy đã nói với con những điều chỉ có mình con biết...
- Thầy vẫn yêu con. Nhưng Thầy không có gì để nói. Thầy đã mất mất một ngày hơn là dự tính, và Thầy phải bắt kịp.
- Có cần thiết phải đi lên phía bắc không ?
43
- Cần chứ anh ơi!
- Vậy... Ôi! Thầy khổ. Con cảm thấy điều đó.
Giêsu bá vai người anh họ của Người bằng cách quàng một cánh tay sau vai ông: “Gioan Enđo chết rồi, con biết chứ ?”
- Simon đã nói với con khi con sửa soạn quần áo. Rồi sao?
- Thầy ở xa mẹ Thầy.
- Rồi sao? - Giacôbê nhỏ con hơn Giêsu, nhìn Người từ phía dưới, nhấn mạnh, xoi mói.
- Rồi Thầy bằng lòng ở bên con, với các con, với Margziam. Thầy sẽ giữ nó ở bên Thầy vài tháng. Nó cần điều đó. Nó buồn và khổ. Con có thấy nó vậy không?
- Có. Nhưng không phải những chuyện đó đâu... Thầy không muốn nói. Không sao. Con rất yêu Thầy, dù Thầy không xử với con như bạn bè.
- Giacôbê, con rất hơn là một người bạn đối với Thầy. Nhưng qủa tim Thầy cần nghỉ ngơi.
- Vậy là để khỏi nói điều đã làm Thầy khổ. Con hiểu. Chính Judas đã làm Thầy khổ ?
- Ai? Em con à?
- Không. Ông kia.
- Sao lại hỏi vậy?
- Con không biết. Trong khi Thầy vắng mặt, một người do ai sai đến, chúng con không biết, cứ đến tìm Judas nhiều lần. Ông ta luôn luôn từ chối, nhưng...
- Đối với tất cả các con, mọi hành động của Judas luôn luôn là tội ác. Tại sao lại thiếu bác ái ?
- Bởi vì ông ta cứ lườm nguýt, trợn trừng, bối rối. Ông trốn các bạn ông, ông uể oải...
- Hãy để kệ ông ta làm. Từ hơn hai năm nay ở với chúng ta, ông ta vẫn thế. Hãy nghĩ đến hai người gìa nhỏ, họ sẽ sung sướng chừng nào. Con biết tại sao Thầy tới đó không? Thầy muốn gởi gắm thằng bé thợ mộc ở Corozain cho họ...
Họ đi cách ra trong khi nói, vì ở đàng sau, nhóm các tông đồ đã đứng lại để chờ Judas, không muốn để ông một mình, mặc dầu rõ
44
ràng là họ khó chịu và không có gì là khích lệ để có ông ta cùng với họ.
159* TẠI NHÀ JUĐA VÀ ANNA GẦN HỒ MÊRON
Họ tới nơi, tất cả đều nóng bức, mặc dầu họ đi qua các vườn cây rậm rạp mà các cành cong xuống dưới sức nặng của trái chín. Từ các vườn nho, nhiều và tuyệt đẹp, bay tới cái mùi đặc biệt của các chùm nho chín và các lá bắt đầu úa lúc sang thu.
Trước tiên họ thấy hai người nông dân từ vườn cây đi tới, mang nặng những rổ táo tuyệt vời và họ báo cho người đầy tớ lo việc mua sắm. Trong khi đó hai người nông dân chào Giêsu và loan báo rằng có nhiều môn đệ đã dừng lại trong nhà, họ đến từ miền núi xứ Gaulaniti, Iturê, và họ hướng về Jêrusalem, và rằng ông bà chủ của họ đã quyết định đi Lễ Lều với các môn đệ bằng đường Thập Tỉnh và Pêrê. Nhưng họ chưa kịp loan hết bản tin thì các chủ với nhiều môn đệ đi trước và theo sau, đã chạy ùa ra khỏi nhà để tới gặp Thầy.
Trong số các môn đệ, hầu như có tất cả các người trước là mục đồng ở Bétlem, và cùng với họ, có những người khác nữa, như người cùi được chữa trước tiên và người gù được phép lạ, bạn ông, và những người khác nữa, tức là những người ở bên kia sông Giođan, trừ Timon. Tôi không thấy Isaac, Étienne, Hermas, Hermastê, Giuse Emmau, cũng không thấy Abel người Bétlem, Nicolai Antioche, Gioan Êphêsô. Lẫn lộn với các môn đệ, có các đầy tớ và nông dân, trong đám đó có đứa trẻ tê liệt được chữa khỏi vào vụ mùa năm trước, và mẹ nó.
- Bình an cho tất cả các con và cho nhà này - Giêsu nói khi giơ tay chúc phúc.
- Xin mời Thầy vào nghỉ ngơi dưới mái nhà của chúng con. Mùa này còn qúa nóng để đi bộ vào giờ này. Nhưng chúng con sẽ biếu Thầy cái gì để bồi dưỡng, và các phòng mát để qua đêm.
45
- Thầy chỉ ở lại đây trong vài giờ. Chiều nay Thầy phải đi. Chỉ còn ít thời gian trước Lễ Lều, mà Thầy còn phải đi nhiều nơi.
Các chủ nhà thất vọng, nhưng họ không nài nỉ. Họ chỉ nói: “Chúng con đã hy vọng rằng Thầy chờ chúng con. Ngày mai là ngày gặt, và vụ hái trái đã bắt đầu. Sau khi ép nho xong, tất cả chúng con sẽ đi cùng với các môn đệ đang ở đây. Chúng con gìa, đường sá không được an toàn từ khi các toán trộm cắp tới. Chúng con không biết chúng từ đâu tới, chúng cướp phá bờ phía này của sông Giođan. Chúng ẩn nấp trong miền núi tại Rabbat Ammon và Galaad, dọc thung lũng Jaboc, và chúng tấn công các đoàn du mục. Lính Rôma đuổi chúng... Nhưng... các cuộc đụng độ có tốt không? Chúng con thích ở với họ hơn. Đó là các môn đệ của Thầy, và chắc chắn Thiên Chúa bảo vệ họ.
Giêsu hơi mỉm cười, nhưng Người không nói gì về vấn đề này. Người vào trong nhà và thưởng thức những thứ giải nhiệt mà các chủ nhà biếu cho các cổ họng khát khô. Rồi Người nghe các môn đệ kể các công việc họ đã làm trên núi: “Nhưng Thầy ơi, ít kết qủa lắm. Rất ít, kể cả ở Cêsarê Philíp. Nhưng đó là nơi chúng con không bị ngược đãi. Chúng con sẽ trở lại đó với Thầy, và lúc đó!...”
Giêsu nhìn họ, không làm họ thất vọng, Người trả lời: “Bằng cách kiên trì, chắc chắn các con sẽ hoán cải họ. Thiên Chúa luôn luôn giúp các tôi tớ Người”.
Rồi Giêsu rời họ để đến với bà chủ nhà. Bà đang tự tay sửa soạn bàn ghế. Người mời bà ra ngoài với Người, vì Người phải nói chuyện với bà. Bà gìa nhỏ tốt bụng không chờ phải nói hai lần. Và để không phải đi đến chỗ nóng nảy ở bên ngoài, bà dẫn Giêsu vào một phòng dài mát mẻ ở phía bắc.
- Anna à, bà luôn luôn nói rằng bà muốn phục vụ Thầy bằng mọi cách...
- Chúa ơi, vâng, Juđa và con. Nhưng Thầy không bao giờ cầu cứu tới chúng con. Bây giờ là đại lễ đối với chúng con, vì các môn đệ của Thầy cũng có chút ít những gì của Thầy, và có họ ở trong nhà thì chúng con thấy cũng như phục vụ Thầy.
46
- Qủa đúng vậy, vì điều gì làm cho môn đệ tức là làm cho ông thầy, và cả đến một ly nước hay một cái bánh cho đi để cứu giúp kẻ đang mệt nhọc vì Thầy, cũng sẽ tìm được phần thưởng nơi Thiên Chúa. Các môn đệ săn sóc tâm hồn các tín hữu thì các tín hữu phải có tình yêu với các môn đệ, và cung cấp cho nhu cầu của họ, khi nghĩ rằng họ đã từ bỏ cả mạng sống để cống hiến cho các tín hữu con đường, sự sống và chân lý mà Thầy đã cho họ, và truyền cho họ tặng lại cho các tín hữu.
- Ôi lạy Chúa, xin cho phép con gọi Juđa. Các lời Thầy qúa thánh!...
- Hãy gọi Juđa của bà - Giêsu mỉm cười bằng lòng. Người đàn bà ra rồi trở lại với chồng bà mà bà đang nhắc lại các lời của Thầy cho ông ta.
- Chúng con, xin Thầy tin, chúng con sẽ tình nguyện làm điều đó. Nhưng chúng con ở xa đường, chắc vì vậy nên các môn đệ Thầy ít tới đây - ông gìa nói, và ông có vẻ ân hận vì bị bỏ qua một bên như vậy.
- Thầy sẽ bảo họ năng tới, và trong khi chờ đợi, Thầy xin các con một ơn...
- Thầy? Nhưng phục vụ Thầy là một ơn đối với chúng con! Chúa ơi, xin ra lệnh. Chúng con gìa và chúng con không thể đi theo Thầy như nhiều người làm, nhưng chúng con ước ao phục vụ Thầy. Thầy muốn gì ạ? Dù đó là các vườn nho này và căn nhà này, chúng rất thân thiết, bởi vì do ba con để lại, và vì các con cái con đều sinh ra ở đây, hãy nói cho chúng con, nếu chúng làm Thầy vui lòng, nếu Thầy muốn chúng, thì chúng con sẽ dâng cho Thầy, chỉ cần hứa với chúng con lòng thương xót của Thiên Chúa cho tâm hồn chúng con.
- Đừng nghi ngờ rằng các con có thể bị thiếu tình thương. Nhưng Thầy không xin các con một hy sinh lớn như vậy. Hãy nghe đây: Thầy sắp đi Jêrusalem, và mùa đông sắp tới rồi. Ở Corozain có một bà góa đông con, đứa đầu lòng mới hơn đứa trẻ một tí. Ba nó là thợ mộc...
- A! Ông thợ mộc! Ôi! Mọi người đều nói về điều Thầy đã làm...
47
Nhưng Corozain không hoán cải, mặc dầu điều Thầy làm còn hơn là lời nói, đáng lẽ Thầy phải được điều đó. Bà mẹ làm việc với đồng lúa, nhưng bà không được khỏe... Chúng con biết, chúng con biết.
- Vậy Thầy không xin các con làm cho họ thành những kẻ nhàn rỗi, nhưng là giúp họ. Các con sẽ tìm thấy những dịp để cho chúng nó cái nọ cái kia. Hãy nghĩ tới bé Giuse, và mong rằng sự trả lương chính đáng được phụ thêm bởi tình thương nhân hậu của các con.
- Ôi, thưa Thầy, qúa ít mà! Con, con đã nói, bà nói sao, bà xã tôi? Tôi, tôi nói nhận hai đứa bé gái để cho chúng lượm lặt tại nhà chúng ta. Nhà cửa rộng rãi, và bà, bà đã gìa rồi, Maria và Noêmi cũng gìa... Những điều nhỏ mọn...
- Đó là điều chúng ta sẽ làm, Juđa ạ, để tưởng nhớ con gái nhỏ của chúng ta... Đứa con gái duy nhất, Chúa ơi... Nó chỉ nở được có ba mùa xuân... Rồi... Bao năm đã qua đi mà nỗi đau vẫn hiện diện... Nếu Thầy đã ở giữa chúng con thì nó đã không chết... Con đã không bị mất nó... Một đứa con gái thì luôn luôn là một nụ cười... - bà gìa nhỏ cảm động và ông gìa thở dài.
- Nó đâu có bị mất... Nó đang chờ các con... Đó là một tâm hồn vô tội, và các con hãy chắc chắn là sẽ tìm lại được nó. Phải sợ hơn cho những đứa con trai đã lớn mà không hoàn toàn ở trong đường lối của Chúa...
- Đúng vậy! Đúng vậy... Chúa ơi, Thầy biết... Thầy biết tất cả. Trong căn nhà yên tĩnh này có cái nỗi đau đó... Thưa Thầy, đôi khi sự hy sinh cũng lôi kéo được ơn phúc chứ ?
- Không phải đôi khi, mà là luôn luôn.
- A! Thật êm đềm được nghe nói như vậy. Thầy hãy đi bằng an. Bà góa ở Corozain sẽ được giúp đỡ, và tới mùa thu, gặp lại họ, Thầy sẽ bằng lòng. Vì nếu Thầy đã gởi gắm cho mùa đông, đó là dấu hiệu Thầy sẽ không trở lại trước mùa xuân.
- Thầy không trở lại. Thầy xuống Juđê và Thầy không trở lại.
- Và cậu môn đệ nhỏ cũng đi Juđê sao ?
- Ừ, Margziam đi Juđê.
48
- Thầy ơi, cuộc hành trình dài. Cậu ấy rất ốm o...
- Nó vừa bị mất người bà con sau cùng. Các con biết chuyện của nó... Và cái đau mới này làm cho nó yếu đi.
- Cũng tại lứa tuổi và sự phát triển... Nhưng chúng con biết... Và chúng con cũng biết điều tốt cậu ấy làm... Một ông thầy nhỏ, thực sự là một ông thầy nhỏ... Người bà con của cậu ấy ở trong đồng bằng Esdrelon phải không? Ông ta chết ở đó à? Và ông ta đã khổ rất nhiều ở đó?
- Đúng đó bà. Tại sao bà hỏi vậy?
- Bởi vì... Thưa Thầy, đáng lẽ con không được nói với Thầy là vị thầy, nhưng con là đàn bà và con là mẹ, và con đã khóc... Con thưa Thầy: tại sao Thầy muốn dẫn cậu ta đến những nơi đó? Hãy để cậu ta đi với con cho tới Jêrusalem... Con sẽ lại cảm thấy như tiến về Thành Thánh với các con nhỏ của con... Và cậu ấy sẽ không bị mệt, không phải chịu khổ hơn nữa. Các môn đệ khác cũng cùng đi mà!
Giêsu suy nghĩ, Người biện bác: “Margziam sung sướng được ở với Thầy và Thầy với nó”.
- Vâng, nhưng nếu Thầy bảo cậu ấy, cậu ấy sẽ vui lòng vâng lời. Đó chỉ là sự chia lìa có mấy ngày. Có là gì, chỉ hơn hai tuần lễ đối với một người còn trẻ như vầy? Cậu ấy còn giờ để vui hưởng Thầy mà.
Giêsu nhìn bà, nhìn chồng bà. Cả hai đều không biết rằng thời gian còn lại để vui hưởng Vị Cứu Tinh không còn dài. Nhưng Người không nói gì. Người mở cánh tay ra như để nói: “Cầu được như bà muốn”, Người chỉ nói: “Vậy hãy gọi Margziam và Simon”.
Ông già đi ra rồi trở lại với hai người. Simon nhìn Người với vẻ nghi vấn. Ông có vẻ nghi ngờ điều gì tôi không biết. Nhưng khi ông nghe biết lý do, ông bình tĩnh nói: “Nguyện Thiên Chúa trả công cho qúi vị. Thằng bé rất mệt, và nói thực, tôi thấy là thiếu khôn ngoan khi bắt nó phải đi bộ như vầy”.
- Nhưng con tình nguyện đi. Con ở với Thầy. Và nếu Thầy dẫn con đi với Người thì đó là dấu con có thể đi... Người làm mọi sự rất tốt... - hầu như có nước mắt trong giọng nói của Margziam.
49
- Đúng thế, Margziam. Nhưng cũng phải vị nể. Đây là hai người bạn tốt đối với Thầy và đối với hết các bạn Thầy. Thầy thì Thầy làm vui lòng ước muốn của họ. Còn con?
- Như Thầy muốn, Thầy của con. Nhưng ở Jêrusalem?
- Ở Jêrusalem, con sẽ đi với Thầy - Giêsu hứa, và Margziam dũng cảm không nói gì.
Mọi người ra khỏi phòng và Giêsu đi tìm các môn đệ. Họ sung sướng vì cuộc gặp gỡ bất ngờ này.
Ông gìa chủ nhà lượn vòng chung quanh nhóm, Giêsu nhận ra ông nên ông hỏi Người:
- Đây, con muốn nghe lời Thầy. Thầy mệt, con thấy. Nhưng sau bữa ăn có giờ nghỉ, bởi vì Thầy sẽ nghỉ ít nhất là tới chiều. Thầy sẽ không nói gì sao?
- Thầy sẽ nói trước khi khởi hành. Như vậy cả các đầy tớ ở trong nhà, cả các người làm ngoài đồng đều có thể nghe Thầy. Bây giờ vợ ông đang gọi chúng ta, ông thấy không?
Và Giêsu đứng dậy để vào trong phòng, nơi họ đã sửa soạn bàn ghế cho các khách được chúc phúc.
160* GIÊSU NÓI DỤ NGÔN VỀ VIỆC PHÂN PHỐI NƯỚC
Chắc chắn tin về việc Thầy ở đây và Người sẽ nói trước buổi chiều đã lan đi, nên chung quanh căn nhà đầy những người. Họ nói nhỏ tiếng vì biết rằng Thầy còn đang nghỉ, và họ không muốn đánh thức Người. Họ kiên nhẫn chờ dưới các bóng cây che cho họ khỏi mặt trời, nhưng cũng không thoát được sức nóng còn mạnh. Không có bệnh nhân, ít nhất là tôi thấy vậy. Nhưng như thường xuyên, luôn luôn có các trẻ em, và để giữ cho chúng yên, Anna phân phát trái cây.
Nhưng Giêsu không ngủ lâu. Mặt trời còn cao ở bên trên chân
50
trời, Người đã xuất hiện, lách chiếc màn gió ra và mỉm cười với đám đông. Người có một mình. Có lẽ các tông đồ còn ngủ tiếp. Giêsu đi về phía họ, tới bên một cái giếng, chắc chắn là dùng để tưới cây trong vườn, vì các đường dẫn nước nhỏ từ đó tỏe ra theo hình rẻ quạt để tới các cây. Người ngồi trên bờ giếng thấp và bắt đầu nói ngay:
- Hãy nghe dụ ngôn này: Một ông lãnh chúa giầu kia có rất nhiều người tùy thuộc vào ông phân tán ra trong nhiều nơi thuộc quyền sở hữu của ông. Những vùng đất này không phải tất cả đều dồi dào về nước cũng như sự mầu mỡ của đất. Có những nơi khan hiếm nước, và tại đó, người còn khổ hơn là đất, vì đất được trồng những cây chịu được hạn hán, nhưng người thì rất khổ vì thiếu nước. Trái lại, ông chúa giầu có tại nơi ông ở một cái hồ luôn luôn đầy nước, do một mạch nước ngầm phun lên.
Một ngày kia, ông chúa quyết định đi thanh tra một vòng các nơi thuộc sở hữu của ông, ông thấy một số nơi, những nơi gần cái hồ hơn thì có nước dồi dào; những nơi khác ở xa thì không có: họ chỉ có nước do Thiên Chúa gởi đến cho họ bằng các cơn mưa. Ông cũng thấy rằng những người có nước dồi dào không tốt với những người anh em họ bị thiếu nước, và họ bủn xỉn cả đến một thùng nước, lấy cớ là sợ không có nước dùng. Ông chúa suy nghĩ, rồi ông quyết định: “Ta sẽ cho nước hồ của ta chảy tới các nơi gần, và ta sẽ ra lệnh cho họ không được từ chối nước với các tôi tớ của ta đang phải khổ vì đất khô cằn”.
Ông cho bắt đầu công việc ngay: Ông cho đào các đường dẫn nước từ cái hồ của ông tới các khu đất ở gần mà ông đã cho đào những bể chứa lớn để tích một khối lượng nước quan trọng, như vậy những nơi đó được gia tăng nguồn nước. Từ những nơi này, ông làm các đường dẫn nước ít quan trọng hơn để tiếp nước cho các bể nước ở xa hơn. Rồi ông gọi các người cư ngụ ở các nơi này tới và nói với họ: “Các con hãy nhớ việc ta đã làm, không phải là để cho các con có dư thừa, nhưng là để, qua sự trung gian của các con, tán trợ những người bị thiếu cả đến sự cần thiết. Vậy hãy biết thương xót
51
cũng như ta”. Rồi ông cho họ đi.
Qua đi một thời gian, ông chúa giầu lại làm một cuộc thanh tra nữa qua tất cả các miền sở hữu của ông. Ông thấy những người ở gần nên đẹp đẽ sung túc, và không phải họ chỉ giầu về các cây cối hữu ích, mà cả về các cây để trang trí, các bể nước, các hồ bơi, các phông-ten được thiết lập trong các nhà và rải rác nhiều nơi chung quanh nhà. Ông chúa nhận xét:
- Các ngươi đã làm cho nơi này thành gia cư của các người giầu sang. Ngay cả ta, ta cũng không có tới từng ấy vẻ đẹp dư dật như vầy - Và ông hỏi: “Còn những người khác, họ có tới không? Các ngươi có cho họ nước dồi dào không? Các đường dẫn nước nhỏ có nước chảy chứ ?”
- Có. Họ được tất cả những gì họ hỏi. Cả đến họ đòi hỏi qúa. Họ không bao giờ bằng lòng. Họ không dè giữ, cũng không chừng mực. Họ đến đòi hỏi bất cứ lúc nào, làm như chúng tôi là đầy tớ của họ. Chúng tôi phải bảo vệ và che chở những gì chúng tôi có. Họ không bằng lòng với những đường dẫn nước và các bể nhỏ, họ đi tới tận cái bể lớn.
- Và vì vậy nên các ngươi đã làm hàng rào chung quanh khu vực, và đặt ở mỗi nơi một con chó dữ ?
- Thưa chúa, vậy đó. Họ vào mà không ý tứ gì. Họ đòi lấy hết của chúng tôi và làm hư tất cả...
Nhưng có thật là các ngươi đã cho họ không? Các ngươi biết rằng ta làm những thứ này là để cho họ, và ta đặt các ngươi làm trung gian giữa cái hồ và vùng đất khô cằn. Ta không hiểu... Ta đã cho chảy tràn nước hồ để có đủ cho mọi người mà không làm lãng phí.
- Nhưng ông hãy tin là chúng tôi không bao giờ từ chối nước.
Ông lãnh chúa liền đi về các nơi sở hữu xa hơn. Các cây lớn thích hợp được với khô cằn thì xanh và có lá: “Chúng nói đúng”. Ông chúa nói khi nhìn từ xa, ông thấy chúng rung động trong gió. Nhưng khi ông tới gần, ông thấy đất nóng bỏng, cỏ hầu như khô mà các con cừu kiệt lực gặm một cách khó khăn. Các khu vườn ở gần nhà thì toàn là cát. Rồi ông gặp những người nông dân đầu tiên,
52
khổ sở, mắt đỏ và nhục nhã... Nhìn thấy ông, họ cúi đầu và lảng đi tựa như họ sợ.
Ngạc nhiên vì thái độ này, ông gọi họ lại với ông. Họ run rẩy lại gần: “Các con sợ gì? Ta không phải là ông chúa tốt của các con, người đã săn sóc các con bằng những việc phòng xa để các con khỏi bị thiếu nước sao? Tại sao các khuôn mặt bệnh hoạn như vầy? Tại sao đất đai khô cằn như vầy? Tại sao các đàn vật qúa nhỏ gầy như vầy? Và tại sao dường như các con sợ ta? Hãy nói, đừng sợ. Hãy nói cho chúa của các con điều làm cho các con đau khổ”.
Một người đàn ông đại diện nói thay cho tất cả: “Thưa chúa, chúng con hoàn toàn thất vọng và rất đau khổ. Chúa đã hứa cho chúng con sự giúp đỡ, nhưng chúng con đã bị mất cả những cái chúng con có trước, và chúng con mất lòng tin tưởng nơi chúa”.
- Thế nào? Tại sao? Ta đã chẳng cho nước chảy dư dật tới cho các người ở gần, và ra lệnh cho họ để cho các con lợi dụng dồi dào sao?
- Đó là điều chúa đã nói sao? Có thực không?
- Đương nhiên, chắc chắn là thực. Mặt đất ngăn cản ta không thể cho nước chảy thẳng tới đây, nhưng với thiện chí, các con có thể đến kín ở các ống dẫn nhỏ của các bể. Hãy đến đấy với các vò và các con lừa, và kín bao nhiêu tùy ý các con. Các con có đủ vò và lừa không? Ta đã chẳng ở đó để phát cho các con sao?
- Đó, tôi đã nói mà! Tôi đã nói: “Không thể nào ông chúa lại ra lệnh từ chối nước”. Nếu chúng ta có mặt ở đó!
- Chúng con đã sợ. Họ nói với chúng con rằng nước là phần thưởng cho họ, và rằng chúng con bị phạt - Và họ kể cho ông chủ tốt rằng các người tá điền ở các đất có lợi đã nói với họ rằng ông chúa, để phạt những người ở vùng đất khô về tội không sản xuất nhiều hơn, đã ra lệnh lường, không phải chỉ nước ở bể, mà cả nước ở các giếng đầu tiên. Theo cách đó, nếu trước đây họ được mỗi ngày tới hai trăm thùng cho họ và đất đai của họ mà họ phải chở vất vả một quãng đường dài, thì bây giờ họ chỉ được năm mươi thùng. Và để có lượng nước này cho người và vật, họ phải tới cái lạch ở gần nơi đất có phước, đó là chỗ chảy nước thải của các khu vườn, các nhà tắm,
53
để múc thứ nước đục này, và họ sẽ chết vì bệnh và vì khát. Các vườn cây và các đàn cừu cũng sẽ chết.
- Ôi! Qúa lắm rồi! Phải chấm dứt những thứ này. Các con hãy mang đồ đạc của các con, các con vật của các con và đi theo ta. Các con sẽ mệt một tí, vì các con đã kiệt lực rồi. Nhưng sau đó sẽ là bình an. Ta sẽ đi nhẩn nha để các con mệt mỏi cũng đi theo kịp. Ta là ông chúa tốt, là người cha đối với các con, và ta cung cấp cho nhu cầu của các con ta - và ông nhẩn nha lên đường, đám đông buồn tẻ theo sau: các đầy tớ của ông và các con vật của họ. Nhưng họ vui vì sự khích lệ và tình yêu của ông chủ tốt của họ.
Họ tới khu đất được cung cấp nước dồi dào. Khi tới đó, ông chủ chỉ định vài người khỏe mạnh nhất và bảo họ: “Hãy đi nhân danh ta để xin cái gì giải khát”.
- Nhưng nếu họ xua chó ra tấn công chúng con?
- Ta ở đàng sau các con. Đừng sợ. Hãy tới nói rằng ta sai các con đến, và họ sẽ không đóng cửa lòng lại trước sự công bằng, bởi vì tất cả nước đều thuộc về Thiên Chúa, và mọi người là anh em. Mong rằng họ sẽ mở các đường dẫn nước ra ngay.
Họ tới, và ông chủ ở đàng sau họ. Họ tới trước một cái cổng, ông chủ nấp ở sau bức tường bao quanh. Họ gọi. Các người tá điền chạy ra.
- Các ông muốn gì?
- Hãy thương chúng tôi. Chúng tôi chết. Ông chủ sai chúng tôi với mệnh lệnh lấy lượng nước ông để chảy ra cho chúng tôi. Ông nói rằng chính Thiên Chúa ban cho ông, và ông cho qúi vị để cho chúng tôi, vì chúng ta là anh em. Và ông bảo mở các đường dẫn nước ra ngay.
- A!A! - các kẻ độc ác cười và nói: “Các anh em! Bọn rách rưới này! Các ông chết à? Càng hay. Chúng ta sẽ lấy đất của các ông và chúng ta sẽ dẫn nước tới đó. Đúng, lúc đó chúng ta sẽ dẫn nước tới, và chúng ta sẽ làm cho đất đó thành mầu mỡ. Nước cho các ông à? Ngu chừng nào! Nước thuộc về chúng tôi”.
- Xin thương! Chúng tôi sắp chết. Xin mở cửa. Đó là lệnh của ông chủ.
54
Các tá điền độc ác bàn bạc với nhau, rồi họ nói: “Hãy chờ một lát”, và họ chạy đi, rồi trở lại và mở cửa, nhưng họ có các con chó và các dùi côn nặng. Các người nghèo sợ... “Vào đi! Vào đi!... Bây giờ chúng tôi mở cửa mà các ông không vào, rồi các ông lại nói là chúng tôi không quảng đại...” Một kẻ thiếu khôn ngoan bước vào là một loạt gậy đập trên anh ta, trong khi các con chó được thả ra tấn công các người khác.
Ông chủ liền ra khỏi phía sau bức tường: “Quân độc ác! Các ngươi làm gì? Bây giờ ta biết các ngươi, các ngươi cũng như các con vật của các ngươi, và ta đập các ngươi”. Ông liền bắn các mũi tên vào các con chó và bước vào, nghiêm khắc, thịnh nộ: “Các ngươi thi hành mệnh lệnh của ta như thế sao? Chính vì vậy mà ta cho các ngươi các thứ giầu sang này sao? Hãy gọi tất cả mọi người của các ngươi. Ta muốn nói với các ngươi”.
Và ông nói với các tôi tớ đói khát: “Còn các con, hãy đi vào cùng với vợ con các con, chiên cừu, bò lừa, bồ câu và các con vật khác của các con. Hãy uống, hãy giải nhiệt, hãy hái những trái cây ngon lành này. Còn các con, các trẻ em vô tội, hãy chạy nhảy giữa muôn hoa. Hãy lợi dụng tất cả. Sự công bằng ở trong con tim của ông chủ tốt, và sự công bằng cho mọi người”.
Và trong khi các người khát chạy tới các bồn nước và ngụp lặn trong các hồ bơi; các đoàn vật thì tới các bể... Tất cả là sung sướng cho họ, thì những người kia chạy trốn theo mọi ngả.
Ông chủ leo lên trên một cái bồn nước và nói: “Ta đã làm các công việc này và ta đã đặt các ngươi làm thụ ủy mệnh lệnh của ta về cái kho tàng này, vì ta đã chọn các ngươi làm thừa tác viên của ta. Các ngươi đã thất bại trong thử thách. Các ngươi có vẻ tốt, đáng lẽ các ngươi phải vậy, vì sự thoải mái phải làm cho nên tốt, biết ơn đối với kẻ làm ơn. Ta đã luôn luôn ưu đãi các ngươi khi cho các ngươi cư ngụ trong mảnh đất được tưới dồi dào này. Sự dư dật và sự lựa chọn của ta đã làm cho các ngươi thành cay nghiệt, khô cằn hơn những mảnh đất mà các ngươi đã làm cho ra hoàn toàn khô cằn. Các ngươi bệnh hoạn hơn những kẻ khát này. Qủa vậy, họ có thể
55
được chữa bằng nước, trong khi các ngươi, với sự ích kỷ của các ngươi, các ngươi đã đốt cháy tâm hồn các ngươi là cái rất khó chữa, và rất khó lòng mà nước bác ái trở lại nơi các ngươi. Bây giờ ta phạt các ngươi: hãy tới ở trong các đất của họ và chịu đựng những thứ họ đã chịu”.
- Xin thương, Chúa ơi! Xin thương chúng tôi. Ngài muốn chúng tôi chết sao? Ngài thương chúng tôi là những con người còn ít hơn chúng tôi thương các con vật.
- Vậy họ, họ là gì? Họ không phải là người và là anh em với các ngươi sao? Các ngươi đã có tình thương nào? Họ xin các ngươi nước, các ngươi đã cho họ những cây gậy và những chua chát. Họ hỏi các ngươi cái của thuộc về ta mà ta cho các ngươi, các ngươi từ chối và nói rằng nó thuộc về các ngươi. Nước thuộc về ai? Cả đến ta cũng không nói rằng nước hồ thuộc về ta, mặc dù cái hồ là của ta. Nước thuộc về Thiên Chúa. Ai trong các ngươi có thể sáng tạo ra dù chỉ một giọt sương? Đi đi!... Và với các con, ta nói: Các con đã phải khổ, hãy tốt. Hãy làm cho họ điều mà các con muốn họ làm cho các con. Hãy mở ra các đường dẫn nước mà họ đã đóng lại. Hãy làm chảy nước cho họ ngay khi các con có thể. Ta đặt các con làm kẻ phân phát của ta cho các anh em có tội này mà ta cho họ khả năng và thời giờ để tự cứu chuộc. Chính Chúa Tối Cao, còn hơn là ta, giao phó cho các con của cải này và nguồn nước này, để các con trở nên ân nhân của các kẻ thiếu nó. Nếu các con biết làm với tình yêu và sự công chính bằng cách giữ cho các con sự cần thiết, và cho phần dư cho các kẻ khổ sở; bằng cách công bằng, không gọi những của đã nhận được, đúng hơn là đã được ký thác, là của các con, thì các con sẽ được bình an lớn lao, và tình yêu của Thiên Chúa và của ta sẽ luôn luôn ở với các con.
Dụ ngôn kết thúc và mọi người đều có thể hiểu. Thầy chỉ nói với các con rằng những người giầu là những kẻ được ký gởi những của cải của Thiên Chúa với mệnh lệnh là để phân phát cho những kẻ khổ sở. Hãy suy nghĩ tới cái vinh dự mà Thiên Chúa làm cho các con trong việc chọn các con làm cộng tác viên cho sự quan phòng
56
về ích lợi của các người nghèo khó, bệnh tật, góa bụa, mồ côi. Thiên Chúa có thể làm mưa tiền bạc, quần áo, thực phẩm trên bước chân của người nghèo, nhưng như vậy Người lấy đi của người giầu cái công nghiệp lớn: công nghiệp bác ái đối với anh em. Không phải hết mọi người giầu đều có thể thông thái, nhưng tất cả đều có thể tốt. Không phải hết mọi người giầu đều có thể săn sóc người bệnh, chôn kẻ chết, thăm viếng bệnh nhân, tù nhân, nhưng hết mọi người giầu, và ngay cả những người không giầu, cũng có thể cho một cái bánh, một ngụm nước, một cái áo mà họ không mặc nữa; đón nhận kẻ run rẩy vì lạnh vào bên lò sưởi, để dưới mái nhà một kẻ không nhà hoặc ở dưới mưa hay dưới mặt trời. Người nghèo là người thiếu những cái cần thiết để sống. Những người khác không nghèo, họ có những phương tiện tuy giới hạn, nhưng luôn luôn giầu so với kẻ chết vì đói, vì thiếu thốn, vì lạnh.
Thầy ra đi, Thầy không thể làm ơn cho những người nghèo ở vùng này. Con tim của Thầy khổ khi nghĩ đến họ bị mất một người bạn... Vậy Thầy, người đang nói với các con, các con biết Thầy là ai, Thầy xin các con hãy là kẻ làm ơn cho các người nghèo ở lại mà không có người bạn thương xót. Hãy bố thí, hãy yêu họ nhân danh Thầy, để nhớ đến Thầy... Hãy là những kẻ tiếp tục Thầy. Hãy làm nhẹ nhõm con tim nặng nề của Thầy bằng lời hứa này: các con sẽ luôn luôn nhìn thấy Thầy nơi kẻ nghèo, và các con tiếp nhận họ như các đại diện thực sự của Đức Kitô là kẻ nghèo, là kẻ đã muốn nghèo vì tình yêu đối với những kẻ khốn nạn nhất trên trái đất, và để, bằng những thiếu thốn của Người, và bằng tình yêu đau buốt của Người, đền bù những tội hoang phí bất công và ích kỷ của loài người.
Các con hãy nhớ: Tình bác ái, lòng thương xót sẽ được phần thưởng đời đời. Các con hãy nhớ: Tình bác ái, lòng thương xót là sự xá giải tội lỗi. Thiên Chúa tha thứ rất nhiều cho kẻ yêu, và tình yêu dành cho các kẻ bần cùng không thể đáp trả, là tình yêu đáng thưởng nhất trước mắt Thiên Chúa. Các con hãy nhớ những lời Thầy đã nói với các con cho tới trọn cuộc đời, thì các con sẽ được cứu, và
57
được hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa.
Nguyện phúc lành của Thầy xuống trên những kẻ đón nhận lời Thầy và đem ra thi hành.
Các tông đồ và Margziam với các môn đệ đã từ từ ra khỏi nhà trong khi Giêsu nói, và họ tụ thành một nhóm đứng chặt sau lưng dân chúng. Nhưng khi Giêsu ngừng nói thì họ tiến lên. Khi đi, họ nhận lấy các của bố thí mà dân chúng dâng cúng, và họ mang tới cho Giêsu.
Một người đàn ông len lỏi ở sau lưng họ, vẻ ốm yếu, với bộ dạng rất nghèo. Ông tiến lên, đầu cúi gằm tới nỗi tôi không thể nhìn thấy mặt ông. Ông tới chân Giêsu và đấm ngực rên rỉ: “Chúa ơi, con đã phạm tội, Ngài đã phạt con, con đáng bị phạt, nhưng ít nhất hãy cho con sự tha thứ trước khi đi. Hãy thương tên Jacob tội lỗi!” Ông ngẩng mặt lên và tôi nhận ra ông, đúng hơn là nhờ ông ta xưng tên, vì khuôn mặt hốc hác của ông: Đó là người nông dân đã được ơn lộc một lần, rồi lại bị phạt vì đã chai đá khắc nghiệt với hai đứa trẻ mồ côi.
- Sự tha thứ của Thầy! Lần trước ông đã muốn điều đó, và ông lo lắng vì hạt giống của ông bị hư. Họ đã gieo cho ông, và có phải ông không có bánh ăn không ?
- Con có vừa đủ.
- Và đó không phải là sự tha thứ sao? - Giêsu rất nghiêm khắc.
- Không. Con muốn chết đói, nhưng được cảm thấy tâm hồn con bình an. Với một chút ít con có, con đã cố gắng để sửa chữa... Con đã cầu nguyện và khóc lóc... Nhưng một mình Thầy có thể tha thứ và cho tâm hồn con được bình an. Chúa ơi, con chỉ xin Thầy sự tha thứ thôi...
Giêsu nhìn ông đăm đăm... Người nâng khuôn mặt ông lên, vì ông cúi mặt, và Người dò xét nó bằng đôi mắt sáng rực của Người trong khi Người hơi cúi xuống trên ông... Rồi Người nói: “Hãy đi. Ông sẽ có hay không có sự tha thứ tùy theo cách ông sẽ sống trong thời gian còn lại cho ông”.
- Ôi! Chúa tôi ơi, không như vậy! Ngài đã tha cho những tội còn
58
nặng hơn...
- Đó không phải là những kẻ đã nhận các ơn lành như ông, và họ không phạm những tội chống lại trẻ thơ. Người nghèo luôn luôn là thiêng liêng, nhưng thiêng liêng hơn tất cả là các trẻ mồ côi và người góa bụa. Ông không biết lề luật sao?
Người đó khóc. Ông muốn một sự tha thứ ngay lập tức. Giêsu nhấn mạnh: “Ông đã xuống dốc hai lần và ông không vội vã để trở lên... Ông hãy nhớ: điều mà ông, một con người, ông đã tự cho phép mình, là điều Thiên Chúa không cho phép. Thiên Chúa luôn luôn nhân từ, Người không nói với ông rằng Người tuyệt đối không tha cho ông, nhưng Người tha tùy thuộc vào cách sống của ông cho tới khi ông chết. Đi đi”.
- Ít nhất là hãy chúc lành cho con... để con có nhiều sức mạnh hơn để sống công chính.
- Thầy chúc lành rồi.
- Không. Không như vậy. Hãy chúc lành cho con cách riêng biệt. Ngài thấy qủa tim của con...
Giêsu đặt tay trên đầu ông và nói: “Ta đã nói rồi, nhưng mong rằng sự âu yếm này cho ông hiểu được rằng dù Ta khắt khe với ông, nhưng Ta không ghét ông. Tình yêu nghiêm khắc của Ta là để cứu ông, để đối xử với ông như người bạn tội nghiệp, không phải vì ông nghèo, nhưng vì ông xấu. Hãy nhớ rằng Thầy đã yêu ông, và Thầy thương cho linh hồn ông. Mong rằng cái kỷ niệm này làm cho ông ước ao có Thầy làm bạn và không còn nghiêm khắc nữa”.
- Lạy Chúa, khi nào, và ở đâu, con sẽ tìm lại được Ngài, vì Ngài nói là Ngài đi?
- Trong nước của Thầy.
- Nước nào? Thầy thiết lập nó ở đâu? Con, con sẽ đến.
- Nước của Thầy sẽ ở trong tâm hồn ông nếu ông trở nên tốt. Rồi nó sẽ ở trên Trời. Chào. Thầy phải đi, vì chiều đến rồi. Và Thầy phải chúc lành cho những người Thầy rời bỏ - Giêsu cho ông đi rồi hướng về các môn đệ và các chủ nhà, Người chúc lành cho từng người một. Rồi Người lên đường sau khi đã đưa tiền cho Judas...
59
Miền quê xanh tươi dìm ngập Người trong khi Người tiến về phía tây nam theo hướng Caphanaum. Simon kêu lên:
- Thầy ơi, Thầy đi bộ qúa nhiều! Chúng con mệt. Chúng con đã đi biết bao chặng...
- Simon, hãy tốt. Chúng ta sắp nhìn thấy Corozain. Các con hãy vào đó và hãy tới mấy nhà là bạn của chúng ta, đặc biệt là nhà bà góa. Các con sẽ nói với bé Giuse rằng Thầy muốn chào nó vào lúc rạng đông. Các con hãy dắt nó lại cho Thầy trên con đường đi về Giscala.
- Nhưng Thầy không vào Corozain sao?
- Không. Thầy đi cầu nguyện trên núi.
- Thầy tới mức rồi. Thầy xanh mét. Tại sao Thầy lơ là vậy? Tại sao Thầy không đi với chúng con? Tại sao Thầy không vào thành phố” - họ chất đầy cho Người các câu hỏi. Tình cảm của họ đôi khi làm phát mệt.
Nhưng Giêsu kiên nhẫn, Người trả lời cách nhẫn nại: “Các con biết, đối với Thầy, ở giữa người ta là mệt mỏi, và cầu nguyện là sự nghỉ ngơi khi Thầy không phải ở giữa họ để chữa bệnh hay giảng Tin Mừng. Vậy Thầy sẽ lên núi, tại chỗ Thầy đã tới lần trước. Các con biết chỗ rồi”.
- Trên lối đi về nhà Joakim?
- Đúng. Các con biết tìm Thầy ở chỗ nào. Lúc rạng đông, Thầy sẽ tới gặp các con...
- Và... Chúng ta sẽ đi về Giscala?
- Đó là con đường tốt để đi về biên giới Syro-Phênici. Khi ở Afêca, thầy đã nói rằng Thầy sẽ tới đó, nên Thầy tới.
- Tại vì... Thầy có nhớ lần trước không?
- Simon, đừng sợ. Họ đã đổi kiểu. Lúc này thì họ tôn vinh Thầy.
- Ồ! Vậy là họ yêu Thầy?
- Không. Họ ghét Thầy hơn trước. Nhưng vì không thể hạ Thầy bằng võ lực, họ cố gắng làm bằng mưu mô của họ. Họ cố gắng để lôi kéo Con Người... Và để lôi kéo, họ sử dụng danh dự, dù là giả dối. Trái lại... Tất cả hãy lại gần Thầy đây - Người nói với những
60
người khác đang đi thành nhóm ở phía trước vì thấy Giêsu nói riêng với Phêrô.
Họ tụ lại, Giêsu nói: “Thầy đã nói với Simon - và Thầy nói với tất cả, vì Thầy không có gì bí mật đối với các bạn Thầy - Thầy đã nói với Simon là các kẻ thù của Thầy đã thay đổi cách làm hại Thầy, nhưng họ không thay đổi tư tưởng đối với Thầy. Trước kia họ dùng cách xỉ vả và dọa nạt, bây giờ họ dùng danh dự đối với Thầy và chắc chắn là đối với tất cả các con. Hãy mạnh mẽ và khôn ngoan, đừng để mình bị lầm bởi các lời dối trá, bởi các qùa tặng, bởi những dụ dỗ. Các con hãy nhớ sách Đệ Nhị Luật nói: ‘Các tặng phẩm làm mù mắt kẻ khôn ngoan và biến đổi lời nói của kẻ công chính’. Các con hãy nhớ lại Samson: ông đã là kẻ biệt ái của Thiên Chúa từ lúc sinh ra, ngay từ trong lòng mẹ ông, người mẹ đã cưu mang ông trong sự kiêng khem do mệnh lệnh của thiên thần, để ông trở nên vị quan xét công minh của Israel. Nhưng với bấy nhiêu ơn lành, ông đã chấm dứt ở đâu? Và thế nào? Và bởi ai? Không là gì khác ngoài vinh dự và tiền bạc, và bởi các phụ nữ đã được trả tiền với mục đích này. Sức mạnh của ông bị liệt bại để trở nên trò chơi cho kẻ thù. Bây giờ hãy canh chừng, hãy tỉnh táo để đừng bị lừa bởi lời dối trá, và để đừng phục vụ cho kẻ thù, dù là vô tình. Các con hãy biết giữ mình tự do như con chim, nó thích những lương thực thanh đạm và một cành cây để đậu hơn là một cái lồng bằng vàng, nơi có dư dật đồ ăn và một cái ổ dễ chịu, nhưng là nơi con người giữ nó làm tù binh. Hãy nghĩ đến các con là tông đồ của Thầy, nên các con chỉ là tôi tá Thiên Chúa, cũng như Thầy, Thầy chỉ hiến thân theo ý Thiên Chúa. Họ sẽ tìm cách dụ dỗ các con. Có lẽ họ đã làm, bằng cách bắt chộp mỗi người các con ở điểm yếu của các con. Vì tôi tớ của kẻ ác thì qủi quyệt, được dạy dỗ bởi đứa qủi quyệt. Đừng tin vào lời chúng, nó không chân thành đâu. Khi nào nó chân thành, Thầy sẽ nói trước với các con rằng: ‘Chúng ta hãy chào họ như các anh em tốt của chúng ta’. Ngược lại thì phải nghi ngờ các hành động của họ, và cầu nguyện cho họ để họ trở nên tốt. Thầy, Thầy làm như vậy. Thầy cầu nguyện cho các con để
61
các con không bị lừa trong trận chiến mới này, và Thầy cầu nguyện cho họ, để họ ngừng âm mưu chống lại Con Người và xúc phạm đến Thiên Chúa, Cha của Người. Các con hãy bắt chước Thầy. Hãy cầu xin cùng Thánh Linh rất nhiều, để Người ban Ánh Sáng cho các con, để các con thấy rõ. Và hãy trong sạch, nếu các con muốn có Người làm bạn. Thầy, trước khi rời bỏ các con, Thầy muốn củng cố cho các con. Thầy miễn giải cho các con, nếu cho tới lúc này, các con đã phạm tội. Thầy xá giải hết cho các con. Hãy tốt trong tương lai: Tốt lành, khôn ngoan, trong trắng, khiêm nhường và trung thành. Nguyện ân sủng do sự xá giải của Thầy củng cố cho các con... Tại sao con khóc, Andrê? Và con, anh Thầy, tại sao con xao xuyến?”
- Bởi vì điều đó giống như một từ biệt... - Andrê nói.
- Và con nghĩ rằng Thầy từ biệt các con với qúa ít lời vậy sao? Đó chỉ là một lời khuyên lúc này. Thầy thấy rằng tất cả các con đều xao xuyến. Đừng để xẩy ra như vậy. Sự xao xuyến làm xao động sự bình an. Phải luôn luôn có sự bình an trong các con. Các con phục vụ Bình An. Nó yêu các con đến nỗi đã chọn các con làm các tôi tớ đầu tiên của nó. Nó yêu các con. Vậy các con phải nghĩ rằng nó sẽ luôn luôn giúp các con, kể cả khi các con ở lại một mình. Bình an chính là Thiên Chúa. Nếu các con trung thành với Thiên Chúa, Người sẽ ở trong các con. Có Người ở trong các con thì các con còn sợ chi nữa? Và ai có thể phân rẽ các con với Thiên Chúa, nếu các con không tự đặt mình vào trường hợp để mất Người? Chỉ có tội lỗi làm chia lìa với Thiên Chúa, còn những thứ khác: cám dỗ, bách hại, sự chết, cả sự chết, cũng không chia lìa Thiên Chúa, nhưng nó làm liên kết hơn với Người. Vì mọi cám dỗ thắng được sẽ làm các con lên cao hơn một bậc trên trời; vì các sự bách hại cho các con một tình yêu bảo vệ gấp đôi của Thiên Chúa. Sự chết của một kẻ thánh hay kẻ tử đạo chỉ là sự hiệp nhất với Chúa là Thiên Chúa. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng, ngoại trừ các đứa con sa đọa, không ai trong số các môn đệ lớn của Thầy sẽ chết nữa trước khi Thầy mở các cửa Trời ra. Vậy không ai trong số các môn
62
đệ trung thành của Thầy phải chờ đợi sự ôm ẵm của Thiên Chúa, sau khi đã đi từ nơi lưu đày tối tăm này về ánh sáng của đời sống bên kia. Thầy sẽ không nói với các con điều này nếu đó không phải là sự thật. Ngay bữa nay, các con cũng đã thấy một người sau khi lầm lạc, đã trở về đường công chính. Không được phép phạm tội, nhưng Thiên Chúa thương xót, Người tha cho kẻ sám hối. Và kẻ sám hối cũng có thể vượt qua cả các người không phạm tội, nếu sự sám hối của nó là tuyệt đối và anh hùng, và nó có các nhân đức tiếp theo sự thống hối. Thật là êm đềm được ở trên đó! Được thấy các con lên với Thầy, Thầy chạy ra đón các con, ôm hôn các con, dẫn các con đến với Cha Thầy và nói: “Đây là một trong số các kẻ yêu dấu của con, nó luôn luôn yêu con, vậy là nó luôn luôn yêu Cha từ lúc con nói với nó về Cha. Bây giờ nó đã tới. Cha ơi, hãy chúc phúc cho nó, và nguyện phúc lành của Cha là triều thiên huy hoàng của nó”. Các bạn của Thầy... Bạn ở đây và bạn ở trên Trời. Các con không thấy rằng mọi hy sinh đều là nhẹ nhàng để chiếm lấy niềm vui vĩnh cửu này sao? Bây giờ các con yên tâm rồi, chúng ta tạm biệt ở đây. Thầy lên trên kia, còn các con, hãy tốt. Hãy cho nhau cái hôn.
Và Người ôm hôn từng người một. Judas khóc khi hôn Người. Ông ta đã chờ để được hôn sau cùng - ông ta là người luôn luôn tìm cách để là người thứ nhất - và ông ôm chặt lấy Giêsu, hôn Người nhiều lần, và thì thầm trong tóc, gần lỗ tai Người: “Hãy cầu nguyện, cầu nguyện, cầu nguyện cho con...”
Họ rời nhau. Giêsu đi lên đồi, những người khác tiếp tục con đường tới Corozain mà họ đã nhìn thấy bóng trắng giữa đám cây xanh.
161* THẦY KHÔNG CÓ SỰ NGHỈ NGƠI NÀO
TỐT HƠN LÀ NÓI ĐƯỢC RẰNG THẦY ĐÃ
CỨU MỘT KẺ ĐÃ HƯ MẤT.
Giêsu nói:
63
Thời gian mà Cha nói với con về giai đoạn hôm thứ tư (20-9-1944), nếu các con làm công việc cân đối, thì các con phải để nó vào một năm trước khi Cha chết, vì nó rơi vào vụ mùa của năm Cha 32 tuổi (chương 95, quyển 6)
Sự yên ủi và giáo huấn cho con, cưng nõn của Cha, và cho các người khác, đã ép buộc Cha theo một thứ tự đặc biệt để cho các con thị kiến hay các bài đọc liên hệ tới đó. Nhưng khi cần, Cha sẽ chỉ cho các con phải phân phối các giai đoạn của ba năm trong đời sống công khai của Cha thế nào. Thứ tự của Tin Mừng là tốt, nhưng không hoàn toàn như thứ tự của một thời dụng biểu. Một quan sát viên chú ý sẽ nhận ra được.
Nhân vật có thể cho một thứ tự chính xác về các sự kiện, vì ông đã ở với Cha từ lúc bắt đầu giảng Tin Mừng cho tới khi Cha lên trời, đã không làm. Qủa vậy, Gioan, đứa con thực sự của Ánh Sáng, chỉ bận tâm và lo lắng làm cho Ánh Sáng chiếu soi qua lớp y phục của thể xác, trước mắt các tà thuyết muốn tấn công cái thực tại của một Thiên Tính dấu ẩn trong một thân xác loài người. Tin Mừng cao cả của Gioan đã đạt được mục đích siêu nhiên này, nhưng nó không giúp cho vấn đề thời sự trong đời sống công khai của Cha.
Ba Phúc Âm thánh sử kia trình bày giống nhau về các sự kiện, nhưng họ thay đổi thứ tự thời gian, vì trong ba ông, chỉ có một người đã hiện diện trong hầu hết đời sống công khai của Cha: Mathêu. Và ông cũng chỉ viết nó vào mười lăm năm sau đó, trong khi các ông kia còn viết sau đó hơn nữa, sau khi đã nghe các tường thuật của Mẹ Cha, của Phêrô, và của các tông đồ cũng như môn đệ khác.
Cha muốn hướng dẫn cho các con để kết hợp các sự kiện của ba năm, từng năm một.
Vậy bây giờ hãy nhìn và hãy viết: các giai đoạn tiếp theo vào giai đoạn hôm thứ tư (20-9-1944)
Tôi Thấy Giêsu từ từ đi lại trên lối ngõ thôn dã được ánh trăng soi tỏ. Đây là đêm trăng tròn, mặt trăng tươi cười lồng lộng trong bầu trời tuyệt đối thanh quang. Dựa vào vị trí của nó trên bầu trời, nơi nó sắp lặn, tôi suy đoán lúc này đã qúa nửa đêm.
Giêsu vừa đi vừa suy nghĩ, và chắc chắn là cầu nguyện, mặc dầu tôi không nghe được các lời, nhưng tôi không rời mắt về những gì ở chung quanh Người. Một lần Người đứng lại, mỉm cười nghe tiếng hót dài của một con chim họa mi say sưa thực hiện một bài hợp âm du dương, và rung láy những nốt sô-lô rất vững, rất mạnh và rất dài, tới nỗi tôi không thể nghĩ được rằng điều đó đến từ một sinh vật chỉ toàn là lông. Để không làm xao động nó, dù là bằng tiếng động của xăng đan trên đá sỏi ở lối đi, và của quần áo quẹt vào cỏ, Giêsu dừng lại, khoanh tay, ngửa mặt và mỉm cười, tới độ Người hầu như nhắm mắt để tập trung hơn vào thính giác. Khi con
64
họa mi kết thúc bằng một cung bắc lên cao, lên cao, lên cao bằng các tam trình (nếu tôi nhớ đúng), và chấm dứt bằng một nốt cực bắc, kéo thật dài hết sức khi làn hơi của nó cho phép, Người ưng thuận và hoan hô, không bằng lời, mà bằng cách cúi đầu hai ba lần với nụ cười thỏa mãn.
Bây giờ, ở chỗ khác, Người cúi xuống trên một đám cây kim ngân đầy hoa mà hàng ngàn và hàng ngàn chiếc bông trắng tỏa ra mùi thơm ngát. Trông chúng giống như các mỏ rắn đang he hé mở với cái lưỡi rung rung là các nhị cái vàng vàng, với một vệt vàng bóng trên các cánh hoa ở phía dưới. Các bông hoa có vẻ trắng hơn dưới ánh trăng, trông như bạc. Giêsu cảm phục, hít lấy mùi thơm và lấy tay vuốt nhẹ trên chúng.
Người trở gót. Nơi này chắc hơi cao hơn, vì ánh trăng cho thấy ở phía nam một phần của cái hồ, chắc là vậy, vì đó là cái gì sáng như một tấm kiếng được trăng soi, và đó không phải là sông, cũng không phải là biển. Nó cho thấy nó được bao quanh bởi các ngọn đồi ở phía đối diện với nơi Giêsu đang ở.
Giêsu nhìn tấm gương yên tĩnh của làn nước phẳng trong đêm hè lặng lẽ. Rồi Người quay mặt nửa vòng từ nam qua tây và nhìn vào ngôi làng mầu trắng, ở xa tối đa là hai cây số, có lẽ gần hơn. Một ngôi làng đẹp. Người dừng lại để nhìn và Người lắc đầu như theo đuổi một tư tưởng làm Người đau khổ nhiều.
Người tiếp tục việc bách bộ và cầu nguyện cho tới lúc Người ngồi xuống trên một tảng đá lớn tại gốc một cây rất cao. Người ngồi theo vị trí thông thường của Người: Hai khửu tay chống trên đầu gối, hai cánh tay trước đưa ra đàng trước, hai bàn tay nắm lại với nhau để cầu nguyện.
Người ngồi như vậy một lúc. Chắc Người sẽ giữ vị trí này lâu hơn nếu không có một người, một cái bóng, từ trong đám cây tiến về phía Người và gọi: “Thầy!”
Giêsu quay lại, vì người đó đến ở phía sau, và Người nói : “Judas à ? Con muốn gì?”
- Thầy ở chỗ nào?
65
- Ở gốc cây hồ đào. Tới đi - Và Giêsu đứng dậy, đến trên lối đi dưới ánh trăng để Judas có thể nhìn thấy Người.
- Judas, con đến để cho Thầy con có bạn à? - bây giờ hai người đã ở bên nhau. Giêsu tình nghĩa để một cánh tay trên vai người môn đệ: “Hay là ở Corozain, người ta cần đến Thầy?”
- Thưa Thầy không. Không ai cả. Con muốn đến tìm Thầy.
- Vậy hãy tới. Có đủ chỗ cho cả hai trên tảng đá này - Hai người ngồi sát vào nhau trong yên lặng. Judas không nói, ông nhìn Giêsu, ông chiến đấu.
Giêsu muốn giúp ông, Người nhìn ông cách êm đềm nhưng sắc bén: “Judas, đêm đẹp chừng nào! Con coi, nó trong sạch chừng nào! Thầy tin rằng cái đêm đầu tiên đã cười trên trái đất và trên giấc ngủ của Ađam trong Thiên Đàng dưới đất cũng không trong sạch hơn. Hãy ngửi mùi thơm của các bông hoa này, hãy hít thở, nhưng đừng hái nó. Chúng rất đẹp, rất trong sạch! Thầy cũng không hái, vì hái chúng tức là làm mất giá trị của chúng. Sự hung bạo luôn luôn xấu đối với cây cối cũng như súc vật, đối với súc vật cũng như con người. Tại sao lấy đi sự sống của nó? Sự sống rất đẹp khi nó được sử dụng tốt... Các bông hoa này sử dụng sự sống rất tốt, vì nó tỏa hương thơm của nó. Nó làm vui bằng sắc đẹp và mùi thơm của nó; nó tặng mật cho ong và bướm. Nó nhường hạt vàng của bầu nhị cái cho chúng, để đặt các giọt hoàng ngọc li ti trên viên ngọc của cánh chúng, và dùng làm giường cho tổ của chúng... Nếu con đã ở đây từ nãy thì con đã nghe một con họa mi hát êm ái chừng nào về niềm vui được ca ngợi Chúa. Những con chim thân yêu, chúng là gương mẫu cho loài người chừng nào! Chúng bằng lòng với một chút ít, và chỉ bằng lòng với những gì được phép và thánh: một cái hạt và một con sâu nhỏ mà người Cha Tạo Hóa ban cho chúng. Và nếu chúng không có, chúng không bày tỏ sự tức giận và hờn dỗi, nhưng chúng đánh lừa cái đói của thân xác chúng bằng sự qúa đầy tràn của con tim, làm cho chúng hát lời ca ngợi Chúa và niềm vui trông cậy. Chúng sung sướng mệt mỏi để bay nhảy từ rạng đông tới tối, để làm một cái tổ ấm áp, mềm mại, an toàn, không phải vì ích kỷ, nhưng vì tình yêu đối với các con chúng. Chúng hát niềm vui
66
được yêu nhau cách ngay thật. Con đực hát cho bạn nó, và cả hai hát cho con chúng. Các con vật luôn luôn sung sướng, vì chúng không cảm thấy sự ân hận trong con tim, vì con tim chúng không khiển trách chúng điều gì. Chính chúng ta làm cho chúng khổ sở, vì con người độc ác, không biết kính trọng, thống trị và tàn bạo. Họ độc ác với nhau chưa đủ, sự tàn bạo của họ còn tràn đổ trên các vật hạ cấp. Càng bị hối hận, lương tâm càng cắn rứt, họ càng thi hành sự tàn ác trên người khác. Thầy chắc rằng người kỵ mã hôm nay đã thúc đinh tới làm chảy máu con ngựa của ông, làm nó đầy mồ hôi, mệt nhoài. Ông quất nó tới nỗi làm nó dựng đứng lông trên cổ, trên sườn, và cả tới trên mũi và trên mu mắt khép lại cách đau đớn, phủ lấy cặp mắt rất nhẫn nhục, rất êm đềm của nó... Thầy chắc là người kỵ mã này không có tâm hồn bằng an: hoặc là ông ta đã phạm tội gì gian dối, hoặc ông ta sắp sửa phạm”. Giêsu nín lặng và suy nghĩ.
Judas nín thinh. Ông cũng suy nghĩ, rồi ông nói: “Thưa Thầy, thực là đẹp được nghe Thầy nói như vầy! Tất cả đều trở nên sáng sủa trước mắt, trước trí khôn và con tim... Và tất cả đều trở nên dễ dàng, kể cả để nói: “Tôi muốn tốt”. Kể cả để nói với Thầy... Kể cả để nói với Thầy... Để nói với Thầy: “Thầy ơi, con cũng có tâm hồn xao xuyến. Thầy đừng ghê tởm con, Thầy, người yêu những kẻ trong sạch”.
- Ôi! Judas của Thầy! Thầy, ghê tởm à? Bạn ơi, con ơi, con có điều gì làm con xao xuyến?
- Thầy ơi, hãy giữ con ở bên Thầy. Hãy giữ chặt lấy con... Con đã thề sẽ tốt từ khi Thầy nói với con qúa êm đềm. Con đã thề lại trở nên Judas của những ngày đầu tiên, con đã theo Thầy và đã yêu Thầy như người chồng yêu vợ mình, và con chỉ mơ về Thầy, tìm thấy mọi thỏa mãn nơi Thầy. Con đã yêu Thầy như vậy đó Giêsu...
- Thầy biết... Chính vì vậy mà Thầy đã yêu con... Nhưng Thầy vẫn còn yêu con, người bạn bị thương tội nghiệp của Thầy.
- Làm sao Thầy biết là con như vậy? Thầy biết về cái gì?...
Một yên lặng. Giêsu nhìn Judas bằng con mắt rất êm đềm... Hình như một giọt nước mắt làm cho nó thành to hơn và điều hòa
67
vẻ sáng của nó: con mắt của trẻ nhỏ vô tội và không khí giới, ban tặng toàn thân trong tình yêu.
Judas lết xuống dưới chân Người, gục mặt trên đầu gối Người, hai tay ôm lấy cạnh sườn Người và rên rỉ: “Thầy ơi, hãy giữ con ở bên Thầy... Hãy giữ lấy con... Thân xác con kêu gào như một thằng qủi... và nếu con nhượng bộ là, đó, mọi sự xấu nhào tới... Con biết rằng Thầy biết, nhưng Thầy chờ con nói ra... Nhưng Thầy ơi, thật khó để nói: ‘Con đã phạm tội’”.
- Bạn ơi, Thầy biết. Chính vì vậy nên phải hành động cho tốt để không phải hạ mình mà nói: “Con đã phạm tội”. Nhưng Judas ơi, trong câu nói này có một phương thuốc hiệu nghiệm: Việc phải cố gắng khi kể điều lỗi ra nó giữ cho ta khỏi lỗi. Và nếu điều lỗi đã phạm rồi thì sự khổ sở để tự kết án đã là một việc sám hối có sức cứu chuộc. Nếu sau đó người ta đau khổ, không phải vì kiêu căng, cũng không phải vì sợ hình phạt, mà vì họ biết rằng trong khi thiếu sót, họ gây ra đau đớn, lúc đó, chính Thầy nói điều này: Điều lỗi đã biến mất, và chính tình yêu đã cứu.
- Con, con yêu Thầy, nhưng con rất yếu đuối... Ôi! Thầy không thể yêu con! Thầy trong sạch và Thầy yêu những kẻ trong sạch... Thầy không thể yêu con bởi vì con... bởi vì con... Ôi Giêsu! Hãy lấy đi cho con cái đói của giác quan! Thầy biết nó là thằng qủi nào không?
- Thầy biết nó. Thầy đã không ưng thuận nó, nhưng Thầy biết nó có giọng nói nào.
- Thầy thấy nó không? Thầy thấy nó không? Thầy ghê tởm nó tới nỗi chỉ nói tới nó, khuôn mặt Thầy đã xao xuyến... Ôi! Thầy không thể tha cho con!
- Judas, con không nhớ sao: Maria? Mathêu? Người thâu thuế này đã trở nên như cùi? Người phụ nữ đó, một gái điếm Rôma mà Thầy đã tiên tri là sẽ có một chỗ trên Trời, bởi vì sau sự tha thứ của Thầy, bà sẽ có sức mạnh để sống thánh thiện.
- Thầy... Thầy... Thầy... Ôi! Con đau tim chừng nào!... Tối nay con đã trốn, con đã trốn Corozain... Vì nếu con ở lại... nếu con ở lại,
68
con sẽ hư mất. Thầy biết... giống như người uống rượu rồi bị bệnh... Thầy thuốc lấy rượu và tất cả các đồ uống làm say đi thì nó được khỏi và lành mạnh bao lâu nó không cảm thấy cái vị này... Nhưng nếu nó nhượng bộ, dù chỉ một lần, thì trong khi lại cảm thấy cái vị này... một cái khát sẽ đến với nó... nó khát thứ đồ uống này... vậy là nó không chống lại được nữa... Nó uống và uống... và nó lại bệnh... bệnh muôn đời... điên... bị ám... bị ám bởi thằng qủi của nó... bởi thằng qủi của nó... Ôi! Giêsu, Giêsu, Giêsu!... Đừng nói với các người khác... Đừng nói... Con xấu hổ ở trước mọi người...
- Nhưng không ở trước mặt Thầy.
Judas hiểu lầm: “Đúng vậy. Xin lỗi! Đáng lẽ con phải xấu hổ trước mặt Thầy hơn trước mặt mọi người, vì Thầy toàn thiện...”
- Không, con ơi, Thầy không nói vậy. Mong rằng sự đau đớn của con, sự lo lắng của con, sự nhục nhã của con không che sự thật trước mắt con. Thầy đã nói rằng con có thể bị xấu hổ trước mặt mọi người, nhưng không trước mặt Thầy. Một người con không phải sợ, cũng không phải xấu hổ trước mặt một người cha tốt, cũng như một bệnh nhân không phải sợ hay xấu hổ trước mặt một thầy thuốc có khả năng. Và người nọ cũng như người kia, họ thú nhận, không sợ sệt, bởi vì một người thì yêu và tha thứ, một người thì hiểu và chữa lành. Thầy, Thầy hiểu con và yêu con, Thầy cũng tha thứ và chữa cho con. Nhưng Judas, hãy nói cho Thầy: cái gì đã nộp con cho thằng qủi của con: Thầy? Các anh em con? Các đàn bà hư hỏng? Không, chính là ý muốn của con. Bây giờ Thầy tha cho con và Thầy chữa cho con... Ôi Judas của Thầy! Con đã cho Thầy nỗi vui chừng nào! Thầy đã được hưởng biết bao trong đêm nay: thanh quang, thơm tho, tiếng hót làm vui sướng. Thầy đã ngợi khen Chúa. Bây giờ nỗi vui mà con cho Thầy nó vượt qua vầng trăng sáng này, các hương thơm này, sự bình an này, những tiếng hót này. Con có nghe thấy không? Hình như con họa mi cũng hợp với Thầy để nói với con rằng nó sung sướng vì ý muốn tốt của con, nó, ca sĩ nhỏ đầy thiện chí để làm cái tại sao nó đã được tạo dựng. Cũng vậy, làn gió đầu tiên của ban mai bay phớt trên các bông hoa để đánh thức nó,
69
làm chảy vào lỗ của tràng hoa một hạt sương như kim cương, để bươm bướm và mặt trời sắp tìm thấy nó, bươm bướm thì để giải khát, mặt trời thì để biến nó thành tấm gương li ti cho ánh sáng của nó. Con hãy nhìn: mặt trăng sắp lặn, rạng đông được báo hiệu bằng tiếng gà trống gáy ở xa. Đêm tối và những ma quái về đêm biến đi. Con coi, thời gian qua đi êm đềm và mau lẹ chừng nào. Nếu con không đến với Thầy thì nó sẽ qua đi trong ân hận và ghê tởm. Hãy luôn luôn đến khi con sợ hãi chính mình con. Cái tôi riêng của con!!! Nó là người bạn lớn, tên cám dỗ lớn, kẻ thù lớn, vị thẩm phán lớn. Judas, con thấy không? Trong khi nó là người bạn chân thành và trung tín nếu con tốt. Nó cũng biết là người bạn không thành thật nếu con không tốt. Sau khi đã là kẻ đồng lõa với con, nó tự tôn mình làm thẩm phán khắc nghiệt và nó hành hạ con bằng những khiển trách... Nó rất hung dữ trong các khiển trách của nó... chứ không phải Thầy. Thôi, chúng ta đi. Đêm đã qua...
- Thưa Thầy, con đã không để Thầy nghỉ ngơi... và bữa nay Thầy lại phải nói rất nhiều.
- Thầy đã nghỉ ngơi trong niềm vui con cho Thầy. Thầy không có sự nghỉ ngơi nào tốt hơn là nói được rằng: “Hôm nay Thầy đã cứu một kẻ đã hư mất”. Đi, đi... Hãy xuống Corozain. Ôi! Nếu thành phố này biết bắt chước con, Judas!
- Thưa Thầy... Thầy sẽ nói gì với các bạn con?
- Không nói gì cả nếu họ không hỏi... Nếu họ hỏi, Thầy sẽ nói rằng chúng ta nói về lòng thương xót của Thiên Chúa... Đó là đề tài thực và vô hạn tới nỗi một đời sống dài nhất cũng không đủ để khai triển. Chúng ta đi...
Và họ xuống dốc, cao lớn với vẻ đẹp khác nhau, nhưng cùng trẻ trung. Người nọ ở gần người kia, họ biến mất sau một lùm cây...
162* MỌI SA NGÃ ĐỀU CÓ SỰ CHUẨN BỊ
TRONG THỜI GIAN
70
Giêsu nói:
Đây là giai đoạn của tình thương, cũng như đối với Maria Mađalêna. Nhưng nếu các con làm một cuốn sách thì tốt hơn là để các biến cố theo thứ tự thời gian chứ không theo các loại biến cố. Như vậy bớt cho các con được việc phải ghi chú hoặc ở trước, hoặc ở sau, là biến cố đó đã xảy ra vào thời kỳ nào.
Tại sao Cha đặt ra ánh sáng khuôn mặt của Judas? Nhiều người sẽ tự hỏi điều đó.
Cha trả lời: Khuôn mặt của Judas đã bị biến dạng qúa nhiều theo dòng thời gian. Và vào thời kỳ sau cùng này, nó đã hoàn toàn bị biến tính. Trong một số trường học, người ta đã hầu như thần thánh hóa nó, đã coi như ông ta là tay thợ phụ cần thiết cho công trình Cứu Chuộc. Rồi nhiều người lại nghĩ rằng ông ta đã sa ngã vì một tấn công bất ngờ và dữ dội của tên cám dỗ. Không. Mọi sa ngã đều có sự chuẩn bị trong thời gian. Sự sa ngã càng trầm trọng, nó càng được chuẩn bị nhiều. Các điều đi trước sự kiện giải thích cho sự kiện. Người ta không sa ngã bất ngờ, và người ta cũng không lên cao bất ngờ, trong sự lành cũng như sự dữ. Có những nguyên nhân lâu dài và thâm sâu cho sự sa ngã cũng như có sự kiên nhẫn thánh thiện cho việc lên cao.
Bi kịch bất hạnh của Judas có thể cho các con biết bao giáo huấn để tự cứu rỗi, và để biết các phương pháp của Thiên Chúa, biết tình thương mà Người sử dụng để cứu và tha thứ cho những kẻ đi xuống trong vực thẳm.
Người ta không đi tới chỗ mê sảng của Satan - nơi con đã thấy Judas dẫy dụa sau tội ác của ông - nếu người ta đã không hoàn toàn hư hỏng bởi các thói quen của hỏa ngục mà họ đã tìm kiếm trong nhiều năm một cách khoái lạc. Khi một người hoàn thành một tội ác vì bị lôi kéo bởi một biến cố bất ngờ làm cho nó mất trí khôn, nó đau khổ nhưng nó biết đền tội, vì vẫn còn một phần trong qủa tim nó thoát được nọc độc của hỏa ngục. Trước cái thế giới từ chối Satan, bởi vì nó có Satan ở trong chính nó tới nỗi nó không nhận ra, nó đã ước vọng Satan, và Satan là một phần trong cái tôi của nó, Cha chứng minh rằng Satan hiện hữu, nó vĩnh viễn và bất biến trong các phương pháp nó thực hiện để biến các con thành nạn
71
nhân của nó.
Bấy nhiêu là đủ cho lúc này. Con hãy nghỉ ngơi trong sự bình an của Cha.
163* TỪ BIỆT SỐ TÍN HỮU ÍT ỎI CỦA COROZAIN
Trời chưa bình minh khi Giêsu gặp lại nhóm mười một. Ở giữa họ có thằng bé Giuse thợ mộc. Nó phóng như một mũi tên khi nó nhìn thấy Giêsu, và nó ôm chặt lấy đầu gối Người với sự đơn sơ của trẻ nhỏ. Giêsu cúi xuống để đặt một cái hôn trên trán nó, rồi Người cầm tay nó và đến với Phêrô và các người khác.
- Bình an cho các con. Thầy không nghĩ rằng sẽ tìm thấy các con đã ở đây.
- Đứa trẻ thức dậy khi còn là đêm. Nó muốn đến, và nó sợ bị trễ - Phêrô giải thích.
- Một lát nữa mẹ nó sẽ ở đây với các đứa trẻ khác. Bà ta muốn chào Thầy - Juđa Alphê thêm.
- Và cả người đàn bà trước bị biến dạng, con gái của Isaac, bà mẹ của Êlie và những người khác mà Thầy đã chữa. Họ đã cho chúng con ở trọ...
- Còn những người khác?
- Lạy Chúa...
- Corozain vẫn giữ tâm hồn chai đá. Thầy hiểu. Không can hệ gì. Hạt giống tốt đã được gieo, một ngày kia nó sẽ nảy mầm... nhờ vào chúng... - và Người nhìn vào đứa trẻ.
- Nó sẽ là môn đệ, và nó sẽ hoán cải họ?
- Môn đệ thì nó đã là rồi, phải không Giuse?
- Vâng. Nhưng con không biết nói. Những điều con biết nói thì họ không nghe.
- Không sao. Con sẽ nói bằng lòng tốt của con.
Giêsu cầm khuôn mặt nhỏ của đứa trẻ trong bàn tay dài của Người, Người hơi cúi xuống trên khuôn mặt ngửa hẳn lên và nói với nó:
- Giuse, Thầy đi. Hãy tốt, hãy siêng năng làm việc. Hãy tha cho
72
các kẻ không yêu các con. Hãy biết ơn những người làm ơn lành cho các con. Hãy luôn luôn nghĩ như vầy: Thiên Chúa hiện diện trong những kẻ giúp đỡ con, bởi vậy, hãy tiếp nhận mọi ơn huệ với lòng trọng kính, không đòi hỏi, không nói: “Tôi sẽ chả làm gì cả, vì có người nghĩ đến tôi”, không phí phạm những sự cứu trợ nhận được. Hãy làm việc, vì công việc là thánh, và con, một đứa con, con là người đàn ông duy nhất trong gia đình con, con hãy nhớ rằng giúp đỡ mẹ con tức là tôn trọng bà. Con hãy nhớ rằng con có bổn phận phải làm gương sáng cho các em trai con và canh chừng danh dự cho các em gái con. Hãy ước ao có các sự cần và hãy làm việc để có nó, nhưng đừng thèm khát giầu sang và đừng ước ao của cải để vui hưởng nhiều. Con hãy nhớ rằng thầy con đã dạy con, không những lời của Thiên Chúa, mà cả tình yêu đối với công việc, sự khiêm nhường và sự tha thứ. Giuse, hãy luôn luôn tốt, và một ngày kia chúng ta lại ở cùng nhau.
- Nhưng Thầy không trở lại nữa sao? Chúa ơi, Thầy đi đâu?
- Thầy tới nơi ý Cha trên trời muốn. Ý muốn của Người phải luôn luôn mạnh hơn ý chúng ta, và thân yêu với chúng ta hơn ý chúng ta, vì nó luôn luôn là ý muốn hoàn hảo. Con cũng vậy, trong cuộc sống, đừng để ý con vượt qua ý Thiên Chúa. Tất cả những kẻ vâng lời sẽ gặp lại nhau ở trên trời, và như vậy sẽ là đại lễ. Cho Thầy cái hôn đi con.
Một cái hôn! Đó là một số vô tận những cái hôn và nước mắt mà đứa trẻ dâng cho Người. Trong khi nó ôm ghì lấy cổ Giêsu như vậy thì mẹ nó bất chợt đến trong giữa một đám trẻ và mấy người khác, rất ít, tất cả chỉ có bảy người của Corozain.
- Tại sao con trai con nó khóc? - người đàn bà hỏi sau khi đã chào Thầy.
- Bởi vì mọi từ biệt đều đau đớn. Nhưng dù chúng ta xa lìa nhau, chúng ta cũng luôn luôn hợp nhất nếu con tim các con tiếp tục yêu Thầy. Các con biết thế nào là tình yêu đối với Thầy, và nó cốt tại điều gì: cốt tại làm những điều Thầy dạy, vì kẻ làm theo những điều mà người nào đó dạy cho nó, là nó chứng tỏ nó mến chuộng
73
người đó - mà mến chuộng luôn luôn là tình yêu - đối với người đó. Vậy hãy làm điều Thầy đã dạy các con bằng lời nói và gương mẫu, và hãy làm những điều mà các môn đệ Thầy sẽ dạy cho các con nhân danh Thầy. Đừng khóc. Thời gian qua rất mau, và sắp sửa chúng ta sẽ tụ họp trong những điều kiện tốt hơn. Cũng đừng khóc vì ích kỷ. Hãy nghĩ đến con số đông đảo còn đang chờ Thầy, nghĩ đến đông đảo những người phải chết mà không được thấy Thầy, tới đông đảo những người sẽ yêu Thầy mà không bao giờ biết Thầy. Các con đã có Thầy hơn một lần, và điều đó có thể làm dễ dàng cho đức Tin, đức Cậy và đức Mến hiện hữu giữa các con. Còn họ, trái lại, họ phải có một đức tin lớn lao, một đức tin mù quáng để có thể nói rằng: “Người thực là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Tinh, và lời Người là chân lý”; một đức tin lớn lao để có thể có niềm hy vọng vĩ đại của đời sống vĩnh cửu và được chiếm hữu Thiên Chúa ngay sau một đời công chính. Họ phải yêu đấng mà họ không biết, đấng mà họ không được nghe tiếng, đấng mà họ không nhìn thấy thi hành các phép lạ. Nhưng chỉ khi yêu như vậy, họ mới được sự sống đời đời. Các con, hãy chúc tụng Chúa, đấng đã đổ đầy ơn lành cho các con trong khi làm cho các con biết Thầy. Bây giờ hãy đi. Hãy trung thành với Lề Luật của núi Sinai và điều răn mới của Thầy, là tất cả các con hãy yêu nhau như anh em, bởi vì Thiên Chúa ở trong tình yêu. Hãy yêu cả những kẻ ghét các con, vì Thiên Chúa là người thứ nhất đã làm gương yêu thương những kẻ, do tội lỗi, đã bộc lộ sự thù ghét đối với Thiên Chúa. Hãy luôn luôn tha thứ như Thiên Chúa đã tha thứ cho con người, bằng cách sai Ngôi Lời của Người làm Đấng Cứu Chuộc để xóa tội lỗi, nguyên nhân của oán ghét và xa cách. Từ biệt. Xin bình an ở trong các con. Hãy giữ trong tim các con cái kỷ niệm về các hoạt động của Thầy, để củng cố cho nó chống lại lời nói của những kẻ muốn thuyết phục các con rằng Thầy không phải là Vị Cứu Tinh của các con. Hãy giữ gìn phúc lành của Thầy để có sức mạnh trong các thử thách tương lai.
Giêsu giơ tay chúc lành bằng cách đọc lời chúc phúc của Môise
74
trên nhóm nhỏ qùi phục ở chân Người. Rồi Người quay lưng và ra đi.
164* GIÊSU NÓI VỀ BỔN PHẬN GIỮA
MẸ CHỒNG VÀ CON DÂU
Các núi non mầu mỡ và cây cối rậm rạp của Giscala trình diện một chỗ nghỉ ngơi giữa cây xanh, gió nhẹ, nước và chân trời luôn luôn huy hoàng và thay đổi theo phương hướng mà người ta nhìn về: Phía bắc là sự liên tiếp của các đỉnh cao cây cối rậm rạp với mầu xanh rất thay đổi. Người ta thấy như trái đất vươn lên vòm trời xanh để dâng hiến tất cả vẻ đẹp của cây cỏ, để tỏ lòng biết ơn vì nước và những tia sáng mặt trời mà nó nhận được. Ở phía đông bắc, con mắt, sau khi đã say mê dừng lại trên một báu vật mà mầu sắc thay đổi theo giờ khắc và ánh sáng, tức là ngọn Đại Hermon, nó vươn cái đỉnh cao nhất của nó lên như một ngọn tháp bằng kim cương, bằng miêu ngọc, lam ngọc lợt hay hồng ngọc rất dịu, hoặc thép vừa trui - tùy theo mặt trời chiếu trên nó hay rời bỏ nó - con mắt lại hạ thấp cái nhìn dọc theo các sườn dốc xanh ngát của các cao nguyên, các đỉnh, các đèo, các nơi thẳng đứng, làm thành cái bệ của ông hoàng đế khổng lồ. Rồi đây, khi hơi quay về phía đông, người ta thấy vùng cao nguyên mênh mông xanh rờn của Gauraniti và Auraniti trải ra trước mắt, được bao bọc ở phía đông bởi các ngọn núi mờ mờ trong sương mù ở xa, ở phía tây bởi mầu xanh khác dọc theo bờ sông Giođan và ghi dấu miền thung lũng, và ở gần nhất là hai hồ Mêron huy hoàng như hai viên lam ngọc, tạo thành cái nền của một đồng bằng tưới tiêu dồi dào, và vùng Tibêriat đẹp như bức tranh mầu phấn tinh tế, ở giữa các ngọn đồi bao quanh nó với hình dáng và mầu sắc khác nhau, và với những bờ hồ muôn năm hoa nở: giấc mơ đông phương với các khóm thốt nốt mà gió của các ngọn đồi làm gợn sóng các ngọn cây, bài thơ về cái hồ đẹp nhất của chúng ta với sự bình lặng của làn nước và sự canh tác ở quanh bờ. Rồi ở phía nam là Tabor với cái đỉnh đặc thù, và ngọn
75
Tiểu Hermon xanh tươi canh chừng trên đồng bằng Esdrelon mà người ta đo lường bề mặt trong cái khung của chân trời không một ngọn núi nào làm gián đoạn. Thấp hơn nữa về phía nam là các núi cao hùng vĩ của xứ Samari tới mút mắt về phía Juđê. Một phía duy nhất người ta không nhìn thấy là phía tây, nơi có ngọn Carmel và đồng bằng đi về Ptolêmai, nhưng bị khuất bởi một rặng cao hơn Carmel và che tầm mắt. Từ chỗ này, người ta nhìn được những phong cảnh đẹp nhất Palestin.
Giêsu tiến bước trên con đường ở giữa các ngọn núi, khi thì một mình, khi thì đi với người nọ người kia trong số các môn đệ của Người.
Một lần Người dừng lại để vuốt ve các đứa con của một người mục đồng đang chơi bên đàn vật, và Người nhận sữa mà người mục đồng biếu “cho Thầy và các người của Thầy”, vì ông nhận ra Giêsu nhờ những người khác đã thấy Người và mô tả cho ông.
Một lần khác Người nghe một bà già nhỏ, bà không biết Người là ai, nhưng bà kể các khó khăn mà nàng dâu bà gây cho bà vì gắt gỏng và không biết kính trọng.
Giêsu thương bà gìa nhỏ nhưng khích lệ bà kiên nhẫn để dẫn người ta tới lòng tốt bởi lòng tốt: “Bà phải như một bà mẹ đối với cô ta, dù cô ta không ăn ở như con gái đối với bà. Hãy chân thành: nếu thay vì là con dâu, cô ta là con gái của bà thì bà có thấy các khuyết điểm của cô ta trầm trọng như vậy không?”
Bà già nhỏ suy nghĩ, rồi thú nhận: “Không... Nhưng một con gái thì luôn luôn là một con gái...”
- Vậy nếu một trong các con gái của bà nó nói với bà rằng trong nhà của chồng nó, mẹ chồng nó bạc đãi nó, thì bà nói sao?
- Nói rằng bà ta độc ác. Vì bà ta phải dạy cho nó các thứ gia dụng - mỗi nhà có cái của nó - một cách nhân từ, nhất là nếu cô vợ còn trẻ. Tôi nói rằng bà phải nhớ lại thời kỳ bà là cô dâu mới, bà được sung sướng biết bao vì tình yêu của mẹ chồng nếu bà có đủ may mắn để thấy rằng mẹ chồng bà tốt; và bà khổ sở chừng nào nếu bà có một mẹ chồng độc ác. Và đừng bắt người ta phải khổ những điều bà đã không phải chịu, hoăc đừng bắt người ta phải
76
khổ, vì bà đã biết thế nào là khổ. Ôi! Con sẽ bảo vệ con gái con.
- Con dâu của bà bao nhiêu tuổi rồi?
- Thưa rabbi, mười tám. Và nó đã lấy Jacob được ba năm rồi.
- Qúa trẻ. Cô ấy có trung thành với chồng cô không?
- Ồ, có chứ. Luôn luôn ở nhà và luôn luôn dễ thương đối với nó, và với thằng bé Lêvi, và với con bé. Con bé có tên là Anna giống như tôi. Nó sinh vào lễ Vượt Qua, và nó rất xinh.
- Ai đã muốn đặt tên cho nó là Anna?
- Maria, hen! Lêvi là tên của bố cô, và Jacob đã lấy để đặt cho đứa đầu lòng. Còn Maria, khi nó có đứa bé gái, nó nói: “Cho đứa con gái này tên của mẹ anh”.
- Và điều đó bà không cho là vì tình yêu và kính trọng?
Bà già nhỏ suy nghĩ... Giêsu tiếp: “Cô ta thật thà, cô ta luôn luôn ở nhà, cô ta là người vợ tình nghĩa và là bà mẹ dễ thương; cô ta lo lắng làm vui lòng bà... Cô ta có thể đặt cho con bé tên của mẹ riêng cô, nhưng cô đã đặt tên bà. Cô ta làm vinh dự cho nhà bà bằng lối sống của cô...”
- Ôi! Về điều đó thì đúng. Cô ta không giống như cái cô Jisabel khốn nạn.
- Vậy tại sao bà lại có những lời than thở phàn nàn về cô ta? Bà không thấy là bà có hai cái thước trong khi bà xét đoán con dâu bà khác với điều bà sẽ xét đoán về con gái của bà sao?
- Là vì... là vì... cô ta đã lấy mất tình yêu của con trai tôi. Trước nó hoàn toàn thuộc về tôi, bây giờ nó yêu cô ta hơn tôi... - sau cùng, cái lý lẽ ước đoán thực sự và vĩnh tồn của các bà mẹ chồng đã tràn ra khỏi con tim của bà gìa nhỏ cùng một trật với nước mắt bà.
- Con trai bà có thiếu sót với bà điều gì không? Từ khi nó lấy vợ, nó có chểnh mảng với bà không?
- Không. Tôi không thể nói điều đó. Nhưng, tóm lại là bây giờ nó thuộc về vợ nó - bà gìa rên rỉ và khóc mạnh hơn.
Giêsu có một nụ cười êm ái thương xót đối với bà gìa nhỏ ghen tương. Nhưng cũng như Người luôn luôn êm dịu, Người không khiển
77
trách bà. Người động lòng trắc ẩn cho bà mẹ và Người tìm cách làm cho bà nguôi ngoai. Người đặt một bàn tay trên vai bà gìa nhỏ như để hướng dẫn bà, vì nước mắt làm mờ mắt bà, có lẽ để nhờ sự tiếp xúc đầy tình yêu này, bà cảm thấy được an ủi và được chữa lành. Và Người nói: “Mẹ à, như vậy là không tốt phải không? Chồng bà đã làm như vậy đối với bà, và mẹ ông vẫn có ông, đâu có bị mất như bà nói và nghĩ. Nhưng bà ta có bị kém đi một tí tình yêu, bởi vì chồng bà chia sẻ nó giữa bà và mẹ ông. Còn về phía người cha của chồng bà, ông ta đã hoàn toàn hết thuộc về mẹ ông để yêu người mẹ của các con ông. Và như vậy, từ thế hệ này qua thế hệ kia, trở lên qua dòng thời gian cho tới Evà, người mẹ đầu tiên nhìn thấy con cái chia sẻ với vợ chúng, tình yêu mà trước đó chúng độc nhất chỉ dành cho cha mẹ. Nhưng sách Sáng Thế đã chẳng nói: “Sau cùng, đây, xương của xương tôi và thịt của thịt tôi... Vì bà, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ ông để kết hợp với vợ ông, và cả hai chỉ còn là một thân xác”? Bà sẽ nói: “Đó là lời nói của người đàn ông”. Đúng, nhưng người đàn ông nào? Ông ta đang ở trong tình trạng vô tội và có Ân Sủng. Ông phản chiếu Đấng Khôn Ngoan đã tạo dựng nên ông một cách trong sáng, và ông biết chân lý về việc đó. Nhờ Ân Sủng và sự vô tội, ông cũng có các ơn khác của Thiên Chúa trong mức độ tràn đầy. Tình cảm của ông phục tùng lý trí. Ông có một thần trí không bị làn hơi của tình dục phủ mờ. Nhờ vào kiến thức cân xứng với tình trạng của ông, ông đã nói những lời của chân lý. Vậy ông là tiên tri. Bà biết rằng tiên tri tức là nói nhân danh một người khác, và vì các tiên tri thực luôn luôn nói những điều phù hợp với thần trí và về tương lai, cho dù vẻ bề ngoài của nó phù hợp với hiện tại và thân xác. Qủa vậy, trong tội lỗi về thân xác và các sự kiện hiện tại có những hạt giống về các hình phạt tương lai, hoặc các sự kiện tương lai có căn nguyên trong các biến cố xa xưa. Ví dụ việc Đấng Cứu Tinh đến có nguồn gốc là tội Ađam, và các hình phạt của Israel được các tiên tri nói trước có cái hạt giống của chúng trong lối sống của Israel. Như vậy đấng kích thích làn môi của các tiên tri để nói những điều thuộc về thần trí thì chỉ có
78
thể là Thần Trí Vĩnh Cửu, đấng nhìn thấy mọi sự trong một hiện tại vĩnh cửu. Chính Thần Trí Vĩnh Cửu nói trong các thánh, vì Người không thể ở nơi người tội lỗi. Ađam đã là thánh, tức là sự công chính tràn đầy nơi ông, và nơi ông hiện diện mọi nhân đức, vì Thiên Chúa đã đổ vào trong tạo vật của Người sự sung mãn của các ơn Người. Hiện tại, để đạt tới sự công chính và chiếm hữu các nhân đức, con người phải rất vất vả, vì nó mang ở trong nó những cái ổ phát sinh điều ác. Nhưng nơi Ađam không có những cái ổ này, trái lại, ông có Ân Sủng làm cho ông chỉ hơi ở bên dưới Đấng Tạo Hóa của ông một tí. Bởi vậy các lời từ môi ông nói là các lời của Ân Sủng. Vậy một trong các lời của chân lý là lời này: “Vì bà, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ ông để kết hợp với vợ ông, và họ chỉ còn là một thân xác”. Điều đó tuyệt đối và thực sự đến nỗi Đấng Rất Tốt Lành, để an ủi các người cha và các bà mẹ, sau đó đã đặt trong luật của Người giới răn thứ bốn: “Hãy tôn kính cha mẹ ngươi”. Điều răn này không chấm dứt với việc kết hôn của người đàn ông, nó vẫn kéo dài sau sự kết hôn. Trước đó, theo bản tính tự nhiên, các người tốt vẫn tôn kính cha mẹ họ, cả sau khi đã bỏ các ngài để thiết lập một gia đình mới. Từ thời Môise, đó là sự bó buộc của Lề Luật. Và điều đó là để làm dịu nỗi khổ của các cha mẹ, qúa thường bị con cái quên lãng sau khi chúng kết hôn. Nhưng Lề Luật không hủy bỏ lời tiên tri của Ađam: “Vì vợ mình, người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ...” Đó là một lời chính đáng và sống động, nó phản chiếu tư tưởng của Thiên Chúa. Mà tư tưởng của Thiên Chúa thì bất biến, vì nó trọn lành. Vậy bà là bà mẹ, bà phải chấp nhận tình yêu của con trai bà đối với vợ nó, không ích kỷ, và bà cũng sẽ là thánh. Ngoài ra, mọi sự hy sinh đều có phần thưởng, ngay từ ở trái đất này. Bà không thấy êm đềm được ôm ấp các cháu của bà, các đứa con của con trai bà sao ? Và chẳng êm đềm sao, lúc xế chiều của đời bà, và ở giấc ngủ sau cùng của bà, bà có ngay bên cạnh bà, tình yêu tế nhị của một người con gái để thế chỗ cho những đứa con gái khác mà bà không còn ở trong nhà?...
- Làm sao Ngài biết rằng các con gái tôi, tất cả đều lớn hơn
79
thằng con trai, đã kết hôn và ở xa đây?... Ngài cũng là tiên tri sao? Ngài là vị rabbi, các nút trên áo Ngài chứng tỏ điều đó. Nhưng cho dù Ngài không có những nút đó thì lời của Ngài cũng nói lên điều đó, vì Ngài nói như một vị đại tiến sĩ. Có lẽ Ngài là bạn của Gamaliel? Bữa hôm kia ông ta đã ở đây. Bây giờ thì tôi không biết... Và có rất nhiều rabbi ở với ông ta, và nhiều người trong số môn đệ ưu ái của ông. Nhưng Ngài, có lẽ Ngài tới trễ?
- Tôi biết Gamaliel, nhưng tôi không đi tìm ông ta. Cả đến tôi không vào Giscala...
- Nhưng Ngài là ai? Chắc chắn là một rabbi. Nhưng Ngài nói còn hay hơn Gamaliel...
- Vậy hãy làm điều tôi nói với bà, và bà sẽ được bình an trong lòng. Chào bà mẹ. Tôi đi tiếp. Bà thì chắc bà vào thành phố.
- Đúng... Bà mẹ!... Những rabbi khác đâu có khiêm tốn như vầy trước một đàn bà tội nghiệp... Chắc chắn kẻ đã cưu mang Ngài còn thánh hơn cả Judith, vì bà đã cho Ngài con tim êm đềm này đối với mọi thụ tạo.
- Thực sự bà ấy là thánh.
- Nói cho tôi tên bà đi.
- Maria.
- Còn tên Ngài ?
- Giêsu.
- Giêsu!... - bà già nhỏ kinh ngạc. Cái tin này làm bà tê cứng và trồng bà tại chỗ.
- Chào bà. Bình an cho bà - và Giêsu bước đi mau lẹ, hầu như chạy, trước khi bà gìa hoàn hồn. Các tông đồ theo Người với cùng nhịp bước, trong khi gió làm phất phơ y phục của họ. Họ thực sự bị theo đuổi bởi tiếng kêu của người đàn bà. Bà năn nỉ: “Xin các ngài dừng lại, rabbi Giêsu! Xin Ngài dừng lại! Tôi muốn nói với Ngài một điều...” Họ giảm tốc khi các lá của ngọn núi rậm rạp đã che khuất họ. Từ con đường dùng cho lừa ngựa đi này, người ta không còn nhìn thấy con đường dẫn về Giscala nữa.
- Thầy nói qúa hay với người đàn bà - Batôlômêo nói.
80
- Bài học của vị tiến sĩ! Tiếc là bà ta có một mình... - Giacôbê Alphê nhận xét.
- Tôi muốn nhớ những lời này - Phêrô kêu lên.
- Người đàn bà đã hiểu, hay hầu như vậy, sau khi biết được tên Thầy... Bây giờ bà sẽ nói về Thầy trong thành phố - Tôma nói.
- Miễn là bà ta đừng chọc các con ong và không xua chúng đuổi theo chúng ta - Judas Kêriot lẩm bẩm.
- Ồ, bây giờ chúng ta ở xa rồi, và ta đâu có để lại dấu vết trong các khu rừng này. Chúng ta sẽ không bị quấy rầy - Andrê nói với vẻ lạc quan.
- Dù có bị phiền... Thầy đã xây dựng bình an trong một gia đình - Giêsu trả lời cho mọi người.
- Thực là các bà!... Tất cả các bà nhạc đều giống nhau! - Phêrô nói.
- Không. Chúng ta đã biết những bà tốt. Anh có nhớ bà mẹ chồng của Jérusa ở Doco không? Và bà mẹ chồng của Dorca ở Cêsarê Philíp?
- Nhưng, đúng, Giacôbê... Cũng có mấy bà tốt... - Phêrô nhìn nhận, nhưng chắc chắn ông nghĩ rằng bà nhạc của ông là một vết thương.
Giêsu ra lệnh: “Chúng ta hãy dừng lại đây để ăn uống. Chúng ta sẽ nghỉ, rồi sau đó chúng ta vào làng ở thung lũng để qua đêm”.
Họ dừng lại tại một khu lòng chảo nhỏ xanh tươi, giống như ở trong một cái vỏ sò xanh vĩ đại được cẩn vào trái núi và mở ra để đón khách hành hương trong bình an. Ánh sáng êm dịu, mặc dầu giờ nóng bức, vì các cây cao to lớn tạo thành một cái vòm rì rào ở bên trên đồng cỏ. Gió nhẹ thổi qua miền núi làm dịu nhiệt độ. Một con suối nhỏ êm đềm chảy như một tia bạc giữa hai tảng đá đen, nó hát nhẹ trong khi biến mất vào lớp cỏ dầy ở cái lòng suối tí hon mà nó đã đào, chỉ rộng chừng hơn gang tay, hoàn toàn bị che phủ bởi cỏ ở bên bờ, dợn sóng trong gió nhẹ. Rồi nó đổ xuống bờ dốc hiểm ở phía dưới. Chân trời đóng khung giữa hai thân cây đồ sộ, một chân trời lờ mờ và xa xăm về hướng núi Liban: một quang cảnh
81
tuyệt vời...
165* GIÊSU NÓI VỀ NƯỚC CỦA NGƯỜI
VÀ LUẬT CỦA NGƯỜI.
Giờ nghỉ ngơi trên cao nguyên nhỏ thật êm đềm, nhưng phải khôn ngoan để xuống thung lũng khi còn là ban ngày, vì đêm đến rất mau và sẽ tối om dưới vòm lá của các cây bao phủ trái núi.
Giêsu đứng dậy trước tiên. Người đi rửa mặt mũi chân tay cho mát trong tia nước có dạng cái suối nhỏ. Rồi Người gọi các tông đồ đang ngủ trong cỏ, yêu cầu họ chuẩn bị khởi hành. Trong khi họ bắt chước Người, hết người nọ tới người kia đến rửa trong suối mát, và kín đầy vào các bình bằng nước tia ra từ núi đá, thì Người chờ họ ở đầu đồng cỏ nhỏ, gần hai cây cổ thụ ở bờ phía đông, và Người nhìn về chân trời xa.
Philíp là người đầu tiên đến với Người và nhìn về hướng Thầy đang nhìn. Ông nói: “Quang cảnh thật đẹp! Thầy thán phục nó...”
- Ừ, nhưng không phải Thầy chỉ nhìn vẻ đẹp mà thôi.
- Vậy cái gì? Có lẽ Thầy nghĩ tới lúc Israel sẽ thật lớn tới những nơi ở bên ngoài Liban và Orontô này, nơi mà trong bao thế kỷ, chúng đã làm khổ chúng ta, và chúng còn đang làm khổ chúng ta, vì chính đó là nơi cư ngụ của trung tâm quyền lực áp bức chúng ta với viên Khâm Sai. Qủa vậy, lời tiên tri nói về chúng thật đáng ngại, lời được nói bởi một tiên tri, và cả đến bởi nhiều tiên tri: “Ta sẽ chà nát người Assyri trong đất của ta, ta sẽ dày đạp chúng trên núi của ta. Chính bàn tay giơ ra trên các dân... và ai có thể giữ lại... Đó, Damas sẽ hết hiện hữu, nó chỉ còn lại một đống đá đổ nát... Đó là điều sẽ xảy ra cho các kẻ đã cướp phá chúng ta”. Chính là Isaie đã nói! Và Jêrêmi cũng nói: “Ta sẽ châm lửa vào các tường thành của Damas, và nó sẽ tiêu hủy các bức tường của Bénadab”. Và điều này sẽ xảy ra khi vua của Israel, đấng đã được hứa, sẽ cầm vương trượng của Người, và Thiên Chúa sẽ tha cho dân Người khi
82
ban vua Messi cho nó... Ôi! Chính Êzêkiel nói: “Các ngươi, hỡi núi non của Israel, hãy nảy sinh các cành, hãy mang trái cho Israel dân Ta, vì nó sắp sửa trở lại... Ta sẽ lại dẫn dân Ta đến cho các ngươi, và chúng sẽ có các ngươi làm của thừa tự... Ta sẽ không còn để cho các dân lăng mạ chống lại ngươi nữa...” Và các Thánh Vịnh hát cùng với Étan Esraita: “Ta đã tìm được Đavít tôi tớ Ta và Ta đã xức dầu thánh của Ta cho Người. Tay Ta sẽ trợ lực cho Người... Kẻ thù không thể làm gì được Người... Với danh Ta, Người sẽ lớn lên trong sức mạnh... Bàn tay phải Người sẽ giơ ra trên sông, trên biển... Và Ta, Ta sẽ làm cho Người nên anh trưởng, nên bá vương giữa các vua của trái đất”. Và Salômôn hát: “Người sẽ tồn tại như mặt trời và mặt trăng... Người sẽ thống trị từ biển nọ qua biển kia, từ sông ngòi tới tận cùng trái đất... Mọi vua trên trái đất sẽ thờ lạy Người, mọi dân tộc là bầy tôi của Người...” Thầy, Đấng Messi, vì nơi Thầy có mọi dấu hiệu về thần trí và thân xác, mọi dấu hiệu mà các tiên tri đã cho. Allêluia cho Thầy, con Đavít, Vua Messi, Vua Thánh!
- Alleluia! - Những người khác đồng thanh. Họ đã tụ lại với Giêsu và Philíp, và họ đã nghe những lời của ông này. Và lời Alleluia dội lại tiếng vọng từ khe nọ tới khe kia, từ đồi nọ tới đồi kia...
Giêsu nhìn họ, rất buồn... Và Người nói để trả lời: “Nhưng các con không nhớ lời Đavít đã nói về Đức Kitô và điều Isaie đã nói về Đức Kitô... Các con uống mật ong êm dịu, rượu say sưa của các tiên tri... Nhưng các con không suy nghĩ rằng để làm Vua các vua, Con Người phải uống mật đắng và dấm chua, và mặc y phục đỏ bằng máu Người... Nhưng đó không phải là tại lỗi các con nếu các con không hiểu, và sự lầm lạc trong những hiểu biết của các con là do tình yêu. Thầy muốn nơi các con một tình yêu khác. Nhưng lúc này các con không thể... Bao thế kỷ tội lỗi đã chống lại loài người để ngăn cản Ánh Sáng vào trong họ. Nhưng Ánh Sáng sẽ phá đổ các bức tường và sẽ vào trong các con... Đi thôi”.
Họ trở lại con đường cho lừa ngựa đi, con đường họ đã bỏ để đi lên cái cao nguyên biệt lập, và họ mau lẹ đi xuống thung lũng. Các tông đồ nói nhỏ tiếng với nhau...
83
Philíp chạy lên phía trước, đến với Thầy và hỏi: “Chúa ơi, con làm phật ý Thầy à? Con đã không muốn... Thầy có giận con không?”
- Không, Philíp. Nhưng Thầy muốn ít nhất là có các con hiểu.
- Thầy đã nhìn về phía đó với đầy vẻ ước mong...
- Bởi vì Thầy nghĩ đến biết bao nơi còn chưa có Thầy và sẽ không có Thầy... vì thời gian của Thầy chạy biến... Thời gian của loài người nó ngắn chừng nào! Và loài người thì hành động chậm chạp chừng nào!... Linh hồn cảm thấy trái đất giới hạn chừng nào!... Nhưng... Cha ơi! Nguyện ý Cha được thi hành!
- Nhưng, Thầy của con, Thầy đã đi hết các vùng thuộc về các chi tộc xưa kia... Thầy đã thánh hóa chúng ít là một lần. Người ta có thể nói rằng Thầy đã nắm trong tay mười hai chi tộc...
- Đúng vậy, các con, sau đó các con sẽ làm những việc mà thời gian không cho phép Thầy làm.
- Thầy đã làm cho sông ngừng chảy, cho biển yên lặng, mà Thầy không thể làm cho thời gian chậm lại sao?
- Thầy có thể. Nhưng Cha ở trên Trời, Con ở dưới đất, Tình Yêu ở trên Trời và dưới đất nôn nóng để hoàn thành việc tha thứ... - và Giêsu đắm chìm trong việc suy niệm sâu xa. Philíp kính trọng Người nên để Người lại một mình và trở về với các bạn ông. Ông tường thuật lại cuộc đàm thoại cho họ nghe.
... Đã gần tới thung lũng và họ đã nhìn thấy con đường, một con đường lớn thực sự từ phía nam đi về phía tây với khúc quặt ở chân núi, đi vòng ở dưới thấp và tiếp tục hướng về một ngôi làng đẹp trải ra giữa mầu xanh, ở gần một dòng suối mà lòng suối lúc này chỉ có đá và vài cây sậy có thể tồn sinh ở chỗ nọ chỗ kia, nhất là ở giữa, nơi có một tia, thực sự là một tia nước, quyết khăng khăng chảy về phía biển.
Mọi người đều tụ họp trước khi vào lộ lớn. Nhưng khi họ mới đi được vài mét thì có hai người đàn ông tới gặp họ và chào họ.
- Hai môn đệ của các rabbi, một trong hai người là người Lêvi. Họ muốn gì? - các tông đồ nói với nhau. Họ không bằng lòng vì cuộc gặp gỡ. Tôi không hiểu nhờ vào cái gì mà họ suy ra được rằng
84
đó là các môn đệ và một người là thầy Lêvi. Tôi vẫn chưa hiểu ý nghĩa của các nút, các tua rua và các bí mật khác trong y phục của người Israel.
Khi Giêsu còn cách hai người chừng vài mét, và thấy rằng không thể có gì đáng nghi, vì con đường bây giờ không có người qua lại, dù đi bộ hay đi ngựa để vội vã vào làng, Người trả lời tiếng chào lặp đi lặp lại của họ và Người đứng lại để chờ họ.
- Bình an cho Ngài, rabbi - người Lêvi nói khi ông tới gần và cúi sâu để chào.
- Bình an cho ông, và cho ông - Giêsu trả lời và nói với người kia.
- Có phải Ngài là rabbi có tên là Giêsu không?
- Tôi là người đó.
- Trước giờ ngọ, một người đàn bà đã vào trong làng và bà nói bà đã nói chuyện ở trên lộ với một rabbi còn lớn hơn cả Gamaliel, bởi vì ngoài việc khôn ngoan hơn, Ngài còn tốt. Tin tức đã đến tai chúng tôi, và các thầy đã sai tất cả chúng tôi đi như số người chúng tôi có, và hoãn lại việc đi Jêrusalem để đi tìm Ngài: mỗi con đường hai người, trên tất cả các con đường từ Giscala về đồng bằng. Nhân danh họ và qua trung gian của chúng tôi, họ nói với Ngài: “Xin hãy vào thành phố, vì chúng tôi muốn hỏi ý kiến Ngài”.
- Vì lý do gì?
- Để Ngài tuyên bố về một sự kiện đã xảy ra ở Giscala mà hậu qủa còn kéo dài.
- Và các ông không có các vị Đại Tiến Sĩ của Israel để xét đoán sao? Tại sao các ông lại hỏi tới một rabbi lạ?
- Nếu Ngài là người mà các rabbi nói thì Ngài không phải người lạ. Có phải Ngài là Giêsu Nazarét không?
- Tôi là người đó.
- Các rabbi biết sự khôn ngoan của Thầy.
- Và tôi, tôi biết sự thù ghét của họ đối với tôi.
- Thưa Thầy, không phải tất cả. Nhân vật lớn nhất và công chính nhất không ghét Thầy.
85
- Tôi biết. Ông ta cũng không yêu tôi. Nhưng rabbi Gamaliel đang ở Giscala mà?
- Không. Ông đã đi để tới Sêphoris trước ngày Sabát. Ông ta đi ngay sau việc xét xử.
- Vậy tại sao các ông tìm tôi? Tôi cũng vậy, tôi phải tôn trọng ngày Sabát, và tôi chỉ có vừa đủ giờ để tới đó. Đừng giữ tôi lâu hơn.
- Thầy sợ sao?
- Tôi không sợ, vì tôi biết rằng lúc này không một quyền lực nào được cho các kẻ thù của tôi. Nhưng tôi để cho các nhà thông thái cái vui được xét xử.
- Thầy muốn nói gì?
- Nói rằng tôi, tôi không xét xử. Tôi tha thứ.
- Thầy biết xét xử đúng hơn mọi người khác. Gamaliel đã nói như vậy. Ông đã nói: “Chỉ một mình Giêsu Nazarét có thể xét xử công bình trong việc này”.
- Tốt. Nhưng bây giờ các ông đã xét xử rồi, và sự việc không thể lại đem ra nghi vấn nữa. Tôi sẽ cho ý kiến để làm dịu các tham vọng trước khi xét xử. Nếu đã có điều lỗi thì kẻ có tội có thể sám hối để tự cứu chuộc. Nếu không có điều lỗi thì, trước mắt Thiên Chúa, sẽ không có khổ hình cho kẻ bị coi là rắp tâm sát nhân.
- Thưa Thầy, nhưng làm sao Thầy biết? Người đàn bà đã nói rằng Thầy chỉ nói với bà về các việc của bà... vậy mà Thầy biết... vậy Thầy đúng thực là tiên tri.
- Ta là Người mà Ta là. Chào. Bình an cho ông. Mặt trời đã tới chân trời - và Người quay lưng để vào làng.
- Thưa Thầy, Thầy đã làm đúng. Chắc chắn chúng giương bẫy cho Thầy - các tông đồ đoàn kết với Thầy. Nhưng lời khen của họ, lý lẽ của họ bị gián đoạn, bởi vì hai người lúc nãy lại chạy đến với họ và năn nỉ Giêsu trở lên Giscala.
- Không. Mặt trời sẽ lặn khi tôi ở giữa đường. Hãy nói với các người đã sai các ông rằng tôi luôn luôn giữ luật, khi sự tuân giữ không làm thiệt hại cho một giới răn khác lớn hơn luật của ngày Sabát: giới răn tình yêu.
86
- Thưa Thầy, thưa Thầy, chúng tôi năn nỉ Thầy. Đây là xét xử một vấn đề tình yêu và công bằng. Xin Thầy đến với chúng tôi.
- Tôi không thể, và các ông cũng không thể. Các ông không thể lên tới đó kịp giờ.
- Chúng tôi đã có phép để đi trong trường hợp này.
- Cái gì? Họ đã cao giọng khi tôi chữa một bệnh nhân, và khi tôi miễn xá cho nó vào ngày Sabát. Vậy mà với các ông, họ đã cho phép vi phạm ngày Sabát vì một chuyện phiếm vô ích. Vậy là trong Israel có hai cái thước. Đi đi, đi đi! Và hãy để cho tôi đi.
- Thưa Thầy, Thầy là tiên tri, bởi vậy Thầy biết. Con, con tin điều đó, và ông này cũng tin. Tại sao Thầy xua đuổi chúng con?
- Tại sao!... - Giêsu dừng lại và nhìn họ đăm đăm. Đôi mắt nghiêm nghị của Người xuyên thấu bức màn của thân xác để đọc con tim. Người nhìn và chế ngự hai kẻ ở trước mặt Người. Đôi mắt Người như không thể chịu nổi vì sự nghiêm khắc, nhưng rất êm ái trong tình yêu. Người đổi cái nhìn và lấy một sự bộc lộ rất tâm tình, rất thương xót, đến nỗi nếu lúc trước con tim run sợ trước sức mạnh của ánh nhìn, thì bây giờ nó run vì cảm động trước ánh sáng tình yêu của Đức Kitô. “Tại sao!” Người nhắc lại... “Không phải Thầy xua đuổi, nhưng là loài người xua đuổi Con Người, và Con Người phải ngờ vực anh em mình. Nhưng với những người không gian manh trong qủa tim, Thầy nói: “Hãy đến”. Và Thầy còn nói với những kẻ ghét Thầy: “Hãy yêu tôi”...
- Vậy thưa Thầy...
- Vậy Thầy vào làng để nghỉ ngày Sabát.
- Ít nhất, xin Thầy chờ chúng con.
- Vào lúc hoàng hôn của ngày Sabát, Thầy sẽ đi. Thầy không thể chờ.
Hai người nhìn nhau, và họ ở lại phía sau để bàn bạc, rồi một trong hai, người mà khuôn mặt có vẻ cởi mở hơn, và hầu như luôn luôn là ông ta nói, chạy tới.
- Thưa Thầy, con ở lại với Thầy đến hết ngày Sabát.
Phêrô ở bên cạnh Giêsu, liền kéo áo Người để bó buộc Người
87
quay về phía ông và ông thì thầm: “Không. Một do thám đó!” Juđa Thađê ở đàng sau em họ của ông cũng thổi cho Người: “Em hãy nghi ngờ!” Natanael đã chạy lên trước với Phêrô và Philíp, cũng quay lại và trợn tròn mắt để làm hiệu cho Người là “Không”. Cả đến hai người tín cẩn nhất là Andrê và Gioan cũng làm hiệu là “Không” ở đàng sau kẻ quấy rầy.
Nhưng Giêsu không kể gì đến những nghi ngờ sợ sệt của họ, Người trả lời vắn tắt: “Hãy ở lại”, và những người khác phải rán chịu.
Người đó bằng lòng, thấy mình bớt lạ lẫm hơn, và cảm thấy nhu cầu phải nói tên ông, ông là ai, tại sao ông ở Palestin trong khi ông sinh tại Diaspora, nhưng được dâng hiến cho Thiên Chúa từ lúc sinh ra, vì ông “là sự yên ủi của cha mẹ ông”, những người biết ơn Thiên Chúa vì được có ông, đã ký gởi ông cho các người bà con ở Jêrusalem để ông thuộc về Đền Thờ. Ở đó, trong khi phục vụ nhà Chúa, ông được biết rabbi Gamaliel và trở nên môn đệ ân cần yêu dấu của ông: “Các ngài đã đặt tên con là Giuse, vì cũng như Giuse xưa kia, con đã lấy đi cho mẹ con cái khổ bị son sẻ. Nhưng mẹ con luôn luôn gọi con là ‘sự an ủi của tôi’ trong khi bà nuôi con, và con trở nên Barnabê cho mọi người. Ngay cả vị đại rabbi cũng gọi con như vậy, vì ông tìm thấy sự an ủi nơi các học trò tốt của ông”.
- Hãy làm sao để Thiên Chúa cũng cho con cái tên đó, và cả đến ở bên trên tất cả là Thiên Chúa gọi con như vậy - Giêsu nói.
Họ vào trong làng.
- Con biết nơi này không?
- Không. Con chưa bao giờ tới đây. Đây là lần đầu tiên con tới miền này, thuộc về Nephtali. Vị rabbi mang con theo với ông và các người khác để con khỏi phải ở lại một mình.
- Con có Thiên Chúa làm bạn không?
- Con hy vọng có. Con cố gắng phục vụ Người tốt hết sức có thể.
- Vậy con đâu có cô đơn. Cô đơn là kẻ tội lỗi.
- Con cũng là kẻ tội lỗi...
- Con, môn đệ của vị đại rabbi, chắc chắn con biết những điều
88
kiện để một hành động trở thành tội.
- Lạy Chúa, tất cả đều là tội. Con người phạm tội liên tục, vì các giáo điều thì nhiều hơn là các chốc lát của một ngày, và không phải luôn luôn sự suy nghĩ và các hoàn cảnh giúp chúng ta không phạm tội.
- Thực vậy, cả các hoàn cảnh, và nhất là nó, thường dẫn chúng ta tới chỗ phạm tội. Nhưng con có một ý tưởng rõ ràng về đặc tính chính yếu của Thiên Chúa không?
- Công bằng.
- Không.
- Mạnh mẽ.
- Không.
- ... Nghiêm khắc.
- Ít hơn là không bao giờ.
- Nhưng... nó đã bộc lộ ra trên núi Sinai, và cả sau đó nữa...
- Lúc đó người ta đã thấy Đấng Tối Cao ở giữa sấm chớp. Họ đã bao bọc dung nhan của Chúa Cha và Đấng Tạo Hóa bằng một hào quang dễ sợ. Thực vậy, các con không biết khuôn mặt thực của Thiên Chúa. Nếu các con biết Người, và nếu các con biết Người bằng tâm hồn, các con sẽ thấy đặc tính chính yếu của Thiên Chúa chính là Tình Yêu và Tình Yêu Thương Xót.
- Con biết rằng Đấng Tối Cao đã yêu chúng ta, chúng ta là dân được tuyển chọn. Nhưng phục vụ Người thực là dễ sợ!
- Nếu con biết rằng Thiên Chúa là Tình Yêu, làm sao con có thể nói rằng Người đáng sợ ?
- Là vì khi phạm tội, chúng ta bị mất tình yêu của Người.
- Trước tiên Thầy đã hỏi con xem con có biết những điều kiện mà vì đó, một hành động trở thành tội.
- Khi nó không phải là một hành động trong sáu trăm mười ba giáo điều và về các truyền thống, các quyết định, các thói lệ, các lời chúc tụng, các lời cầu nguyện, và thêm vào đó là mười điều răn của Lề Luật, hoặc là khi nó không giống như các điều các luật sĩ đã dạy, lúc đó nó là một tội.
89
- Cho dù người ta không làm nó với ý thức hoàn toàn và với sự bằng lòng trọn vẹn của ý muốn à ?
- Cả trong trường hợp đó. Bởi thế, ai có thể nói được rằng: “Tôi không phạm tội”. Vào giờ chết, ai có thể được sự bình an nơi Abraham?
- Thần trí của loài người có trọn hảo không?
- Không, vì Ađam đã phạm tội, và chúng ta có cái tội này ở trong chúng ta. Nó làm cho chúng ta thành yếu đuối. Con người đã mất Ân Sủng của Thiên Chúa, sức mạnh duy nhất để hướng dẫn chúng ta...
- Chúa có biết điều đó không?
- Người biết hết.
- Vậy con tin rằng Người không có tình thương khi xét đến những điều đã làm yếu nhược con người sao? Con tin rằng Người đòi hỏi nơi những người đã bị phạt cái điều Người đã có thể đòi hỏi trước tiên nơi Ađam sao? Ở đó có một sự khác nhau mà các con không xét tới. Thiên Chúa công bằng, đúng. Người quyền phép, đúng. Có lẽ Người cũng nghiêm khắc với những kẻ không sám hối và tiếp tục phạm tội. Nhưng khi Người thấy rằng con cái Người - tất cả các con đều là con cái Người trên trái đất, nơi chỉ là một giờ so với cái đời đời của linh hồn, là cái sẽ trở nên trưởng thành tại cuộc sát hạch thiêng liêng cho tuổi thành niên vĩnh viễn trong sự phán xét riêng - khi Người thấy rằng con cái Người thiếu sót bởi vì nó đãng trí, nó chậm phân biệt; bởi vì nó được giáo huấn ít qúa, bởi vì nó yếu về một hay nhiều khía cạnh, con nghĩ rằng người Cha Rất Thánh có thể xét xử nó với một sự nghiêm khắc bất khả dung sao? Con đã nói: loài người đã mất Ơn Sủng, sức mạnh để nó chiến đấu chống lại các cám dỗ và các thèm khát. Thiên Chúa biết điều đó. Không nên sợ Thiên Chúa và trốn Người như Ađam sau khi phạm tội, nhưng hãy nhớ Người là Tình Yêu. Dung nhan Người chói lọi trên con người không phải để biến họ thành tro, nhưng để tăng cường cho họ như mặt trời gia tăng cường lực bằng các tia sáng của nó. Thiên Chúa chiếu tỏa tình yêu chứ không phải sự nghiêm khắc, các tia
90
mặt trời chứ không phải các mũi tên quật ngã. Ngoài ra... vậy chính tình yêu bó buộc cái gì ? Một gánh nặng mà người ta không thể mang ư ? Một qui luật gồm vô số điều mà người ta không thể nhớ ư ? Không. Chỉ có mười điều răn để cầm cương con-người-động-vật như một con ngựa tơ, không có giây cương là nó sẽ đi tới chỗ hư mất. Nhưng khi loài người sẽ được cứu, khi Ân Sủng được trả lại; khi sẽ là Nước của Thiên Chúa, tức là sự thống trị của Tình Yêu, thì chỉ có một giới răn duy nhất được ban cho các con cái Thiên Chúa, và cho các người của Vua, và trong đó sẽ có tất cả, đó là: “Hãy yêu Thiên Chúa của con hết lòng, và yêu tha nhân như chính mình con”. Bởi vì, ôi con ơi, hãy tin rằng Thiên-Chúa-Tình-Yêu chỉ có thể làm nhẹ nhàng cho cái ách, và làm cho nó êm đềm hơn. Và với tình yêu, phục vụ Thiên Chúa sẽ là êm đềm, không còn sợ hãi, mà là yêu. Chỉ có yêu. Yêu Người vì chính mình Người, và yêu Người trong anh em của ta. Lề Luật sau cùng sẽ đơn giản chừng nào! Thiên Chúa hoàn thiện chừng nào trong sự đơn giản của Người! Hãy nghe: Yêu Thiên Chúa với tất cả chính mình, yêu tha nhân như chính mình. Hãy suy nghĩ: sáu trăm mười ba giáo điều nặng nề cùng với tất cả các lời cầu nguyện và các bài chúc tụng đã chẳng liệt kê trong hai câu này, trong khi cởi bỏ tất cả những chi tiết vô ích, những điều không phải là tôn giáo, mà là nô lệ đối với Thiên Chúa sao? Nếu con yêu Thiên Chúa, chắc chắn con tôn vinh Người trong mọi lúc. Nếu con yêu tha nhân, chắc chắn con không làm những điều khiến họ phải khổ. Con không nói dối, con không trộm cắp, con không giết người hoặc gây thương tổn, con không gian dâm. Có phải vậy không?
- Đúng như vậy. Thầy công chính, con muốn ở lại với Thầy. Nhưng Gamaliel, vì Thầy, đã bị mất mấy môn đệ tốt nhất của ông... Con...
- Chưa phải giờ để con đến với Thầy. Khi giờ đó đến, ngay chính ông thầy của con sẽ bảo con điều đó, vì ông là người công chính.
- Ông ta sẽ vậy thực sao? Thầy đã nói vậy?
- Thầy nói điều đó, vì đó là sự thật. Thầy không phải là người
91
quật ngã để vươn mình lên bên trên kẻ Thầy đã quật ngã. Thầy nhìn nhận của ai thì thuộc về người đó... Nhưng họ đang gọi chúng ta... Chắc chắn họ đã tìm được chỗ trọ. Ta đi thôi...
166* MỘT SỰ XÉT XỬ CỦA GIÊSU
- Con không ưa trạm nghỉ này với cái người đã nhập bọn với chúng ta - Phêrô cầu nhầu khi đang ở với Giêsu trong một vườn cây um tùm.
Lúc này chắc là buổi sau trưa của ngày Sabát, vì mặt trời còn ở cao bên trên chân trời, còn khi họ vào làng thì đã là hoàng hôn.
- Sau các lời cầu nguyện, chúng ta sẽ khởi hành. Đây là ngày Sabát, chúng ta không thể đi xa, và sự nghỉ ngơi ở đây sẽ tốt cho chúng ta. Chúng ta sẽ không dừng lại nữa cho tới ngày Sabát tới.
- Nhưng Thầy nghỉ ít qúa. Tất cả những người bệnh này!...
- Từng ấy kẻ bây giờ ca tụng Chúa. Để tiết kiệm cho các con bao là đường đất, Thầy đã muốn ở lại đây hai ngày để những người được chữa lành có thời gian mang tin tới bên ngoài biên giới, nhưng các con lại không muốn.
- Không, không! Con muốn đã đi xa rồi. Và... Thầy ơi, đừng qúa tin tưởng. Thầy nói! Thầy nói! Nhưng Thầy có biết rằng mỗi lời Thầy, ở trong một số cửa miệng, đã biến thành thuốc độc cho Thầy không? Tại sao họ lại sai ông ta đến với chúng ta?
- Con biết rồi.
- Vâng. Nhưng tại sao ông ta ở lại?
- Đây không phải người đầu tiên ở lại sau khi đã tới gần Thầy.
Phêrô lắc đầu. Ông không chịu nhận. Ông nói lúng búng: “Một tên do thám! Một tên do thám!”
- Simon, đừng xét đoán. Một ngày kia có thể con sẽ phải hối hận vì sự xét đoán của con lúc này...
- Con không xét đoán. Con sợ cho Thầy, và đó là tình yêu. Đấng Tối Cao không thể phạt con vì đã yêu Thầy.
92
- Thầy không nói con sẽ hối hận vì yêu Thầy, nhưng vì đã nghĩ xấu cho anh em con.
- Ông ta là anh em với những kẻ ghét Thầy, vậy không phải là anh em con.
Một cách nhân loại thì lý luận của ông là đúng, nhưng Giêsu lưu ý ông: “Ông ta là môn đệ của Gamaliel. Gamaliel đâu có chống đối Thầy”.
- Nhưng ông ta cũng không về phe với Thầy.
- Ai không chống đối Thầy là về phe với Thầy, dù là họ không có vẻ như vậy. Người ta không thể đòi hỏi rằng một Gamaliel, vị tiến sĩ lớn nhất mà Israel có được, ngày nay là một cái giếng về sự hiểu biết của các rabbi, một cái hầm mỏ, trong đó có tất cả các chất của khoa rabbi, mà lại có thể mau chóng từ bỏ tất cả để nhận Thầy... Thầy, Simon ơi, cả các con cũng còn khó lòng để qúa khứ ra một bên để tiếp nhận Thầy...
- Nhưng chúng con, chúng con đã tiếp nhận Thầy!
- Không. Con có biết thế nào là tiếp nhận Thầy không? Không phải chỉ là yêu Thầy và theo Thầy. Điều đó đúng ra là công trạng của con người Thầy, vì Thầy lôi kéo thiện cảm của các con. Nhưng nhận Thầy, tức là nhận giáo lý của Thầy, nó giống như giáo lý xưa về lề luật của Thiên Chúa, nhưng nó hoàn toàn khác với luật này, khác với cái đống luật loài người đã tích tụ lại qua bao thế kỷ, để làm thành tất cả một mớ luật và công thức không có gì là thuộc về Thiên Chúa cả. Các con, tất cả những kẻ khiêm tốn của Israel, và có cả vài kẻ lớn công chính, đều phàn nàn và chỉ trích các công thức vụn vặt của các luật sĩ và pharisiêu, tính khăng khăng và cứng cỏi của họ... Nhưng các con cũng không tránh được điều đó. Đó không phải lỗi của các con. Trong bao thế kỷ và bao thế kỷ, dân Hy-Bá đã từ từ hòa đồng vào các mùi khí loài người của những kẻ chế hóa Lề Luật của Thiên Chúa, là luật tinh tuyền và siêu nhân. Con biết, khi một người đã sống trong bao năm và bao năm theo một kiểu khác với lối sống ở quê hương nó, vì nó sống ở một nước không phải nước của nó, và con cháu nó cũng sống ở đó, sẽ xảy ra
93
là sau cùng, con cháu nó sẽ trở nên như những người ở nơi nó sống. Nó thích hợp với thủy thổ tới nỗi nó mất cả dáng vẻ thể xác của dân tộc nó, kể cả các thói quen tinh thần, và khốn thay, tới mức mất cả tôn giáo của cha ông nó... Nhưng những người khác đang tới. Chúng ta đi lên giáo đường.
- Thầy có nói không?
- Không. Thầy là một tín hữu thường. Thầy đã nói bởi các phép lạ sáng nay.
- Miễn là điều đó không làm thiệt hại cho Thầy... - Phêrô thật sự bất bình và lo lắng, nhưng ông theo Thầy để đến với các tông đồ khác đang ở trên đường cùng với người đàn ông ở Giscala và những người khác, có lẽ là dân làng.
Trong giáo đường, ông trưởng giáo đường quay về với Giêsu và nói cách kính cẩn: “Ôi rabbi, Ngài có muốn cắt nghĩa Lề Luật không?”
Nhưng Giêsu từ chối. Như một tín hữu thông thường, Người theo tất cả các nghi lễ. Và cũng như mọi người khác, Người hôn chiếc ru-lô mà người phụ tá (tôi gọi như vậy vì tôi không biết danh từ chuyên môn nào họ gọi người phụ tá của ông trưởng giáo đường) giơ cho Người, và Người nghe cắt nghĩa điểm đã được chọn. Nhưng chắc chắn dù Người không nói, thái độ của Người về cách cầu nguyện cũng đã là một bài giảng. Nhiều kẻ nhìn Người. Người môn đệ của Gamaliel không bỏ mất Người một phút. Các tông đồ hoàn toàn ngờ vực, cũng không rời mắt khỏi ông ta.
Giêsu không quay lại, cả khi có tiếng huyên náo tại cửa giáo đường làm nhiều người chia trí. Lễ nghi chấm dứt và người ta ra ngoài công viên của giáo đường. Mặc dù Giêsu đứng ở gần cuối giáo đường, nhưng Người là một trong những kẻ ra sau cùng. Người về nhà lấy giỏ xách để khởi hành. Nhiều người tại nơi đó đi theo Người, trong số đó có môn đệ của Gamaliel mà vào lúc đó có ba người đứng tựa vào tường của một căn nhà gọi ông ta. Ông ta nói với họ, và cùng với họ rẽ ra một con đường để đến với Giêsu.
- Thưa Thầy, những người này muốn nói với Thầy - ông ta nói để
94
lôi kéo sự chú ý của Giêsu, vì Người nói chuyện với Phêrô và anh họ Juđa.
- Các luật sĩ! Con đã nói mà! - Phêrô băn khoăn kêu lên.
Giêsu chào cách trọng thể ba nhân vật đã chào Người và Người hỏi: “Các ông muốn gì?”
Người già nhất nói: “Ngài đã không đến nên chúng tôi đến. Và để không ai nghĩ được rằng chúng tôi không tôn trọng ngày Sabát, chúng tôi nói với mọi người là chúng tôi chia quãng đường ra làm ba thời gian. Đoạn thứ nhất đi cho tới tia sáng sau cùng của hoàng hôn; đoạn thứ hai sáu chặng, đi trong lúc mặt trăng soi sáng các lối đi; đoạn thứ ba bây giờ mới chấm dứt và không vượt qúa khoảng đường luật định. Điều này được nói cho tâm hồn chúng tôi và tâm hồn qúi vị. Nhưng cho tâm hồn chúng tôi thì chúng tôi xin sự khôn ngoan của Ngài. Ngài có biết điều gì xảy ra trong thành phố Giscala không?
- Tôi từ Caphanaum tới và tôi không hay biết điều gì cả.
- Xin nghe đây: Một người đàn ông vắng nhà vì các công việc lâu dài, khi trở về, ông ta hay rằng trong lúc ông vắng nhà, vợ ông đã phản bội ông đến nỗi đã có một đứa con mà không thể nào là đứa con của người chồng, vì ông ta đã vắng nhà trong vòng mười bốn tháng. Người đó đã kín đáo giết vợ của ông, nhưng bị tố cáo bởi một người đã biết chuyện qua đứa đầy tớ gái. Ông ta bị kết án tử theo luật của Israel. Người tình nhân, theo luật của Israel thì phải bị ném đá, ông trốn đến tị nạn ở Cédès, và chắc chắn từ đó ông sẽ tìm cách trốn đi các nơi khác. Đứa con hoang mà người chồng cũng muốn có để giết, nhưng người vú nuôi của nó không giao. Bà này liền đến Cédès để xin người cha thật của đứa trẻ lo săn sóc nó, vì người chồng của bà vú nuôi không muốn giữ đứa con hoang ở trong nhà ông, nhưng người đàn ông này từ chối và nói với người vú nuôi rằng con trai ông sẽ làm ngăn trở cho ông trong việc trốn tránh. Theo Thầy thì Thầy xử vụ này thế nào?
- Tôi không nghĩ rằng bây giờ người ta có thể xét xử, vì mọi việc xét xử, dù công bằng hay bất công, đều đã được công bố.
95
- Theo Thầy thì sự xét xử nào là công bằng, và cái nào là không công bằng? Có nhiều tư tưởng bất đồng giữa chúng tôi về vấn đề gia đình của kẻ sát nhân.
Giêsu nhìn họ đăm đăm, hết người nọ tới người kia, rồi Người nói: “Tôi sẽ nói. Nhưng trước tiên, hãy trả lời các câu hỏi của tôi, dù nó nặng nề tới đâu, và hãy thành thật: Người đàn ông giết vợ có phải người vùng này không?
- Không. Ông ta đã tới đây ở sau khi lấy vợ. Bà vợ thì người ở đây.
- Việc gian dâm có xảy ra ở đây không?
- Có.
- Làm sao người đàn ông bị phản biết rằng ông ta bị phản? Tội đó có công khai không?
- Thực sự không. Và người ta không hiểu tại sao ông ta biết chuyện. Người đàn bà đã vắng mặt từ nhiều tháng, vì bà nói rằng để không bị ở một mình, bà tới nhà cha mẹ bà ở Ptolêmai, và khi trở về, bà nói rằng bà đã nhận đứa con của một người bà con bị chết.
- Khi bà ta ở Giscala, lối sống của bà ta có trơ trẽn không?
- Không. Trái lại, tất cả chúng tôi đều ngạc nhiên vì sự liên lạc của bà ta với Marc.
- Người bà con của tôi không phải tội nhân. Đó là người vô tội bị kết án - một trong ba người nói. Người này chưa hề nói.
- Đó là bà con của ông sao ? Ông là ai ? - Giêsu hỏi.
- Tôi là người thứ nhất trong các kỳ hào của Giscala. Bởi vậy tôi đã muốn kết án tử cho kẻ sát nhân, vì không những ông ta đã giết người, mà lại giết một người vô tội - và ông nhìn xéo người đàn ông thứ ba khoảng bốn mươi tuổi, ông này trả lời: “Luật bảo giết kẻ sát nhân”.
- Ông đã muốn giết người đàn bà và người đàn ông ngoại tình.
- Đó là luật.
- Nếu không có một lý do khác thì chẳng ai nói tới nó.
Cuộc cãi lộn liền bốc lửa giữa hai kẻ đối kháng và họ hầu như
96
bỏ quên Giêsu. Nhưng người đã nói đầu tiên, người gìa nhất, áp đặt sự yên lặng và nói một cách vô tư: “Người ta không thể chối cãi việc sát nhân, cũng như người ta không thể chối cãi là đã có điều lỗi. Người đàn bà đã thú nhận điều đó với chồng bà. Nhưng chúng ta hãy để cho ông Thầy nói”.
- Tôi, tôi đã hỏi: làm sao người chồng biết chuyện? mà các ông không trả lời.
Người muốn bảo vệ người đàn bà liền nói: “Bởi vì có người đã nói từ khi người chồng trở về”.
- Vậy tôi, tôi nói rằng con người đó không có tâm hồn trong sạch - Giêsu nói, và Người nhìn xuống để che cái nhìn của Người và để nó khỏi kết án.
Nhưng người đàn ông bốn mươi tuổi, kẻ muốn giết người đàn bà và tình nhân của bà, liền nổi chứng: “Tôi, tôi đâu có ước ao người đàn bà này”.
- A! Bây giờ là rõ ràng! Chính mày đã nói ra! Tao đã nghi, nhưng bây giờ mày đã tự phản bội! Đồ sát nhân!
- Còn mày, mày giúp đỡ tên ngoại tình. Nếu mày không báo tin cho nó thì nó đâu có trốn đi. Nhưng đó là bà con của mày! Công lý của Israel là như vậy đó! Chính vì vậy mà mày bênh vực việc nhớ tới người đàn bà: là để bênh vực bà con của mày. Nếu chỉ có bà ta thôi thì mày đâu có bận tâm gì tới vụ này.
- Còn mày, mày đã quăng ông ta vào người đàn bà để báo thù những từ chối của bà?
- Còn mày, nhân chứng duy nhất chống lại người chồng đó, mày đã trả tiền cho con đầy tớ trong nhà đó để nó bênh mày. Nhân chứng duy nhất đâu có giá trị, chính luật đã nói vậy.
Một sự ồn ào như cái chợ.
Giêsu và người đàn ông già cố gắng làm êm hai người đàn ông đại diện cho hai mối lợi và hai luồng tư tưởng đối chọi nhau, tiết lộ một sự ghen ghét không thể chữa được của hai gia đình. Họ thành công không phải không khó, và bây giờ là Giêsu nói. Bình tĩnh và trang nghiêm, Người bắt đầu bằng cách tự bênh vực mình trước sự
97
kết án đến từ một trong hai kẻ đối lập: “Thầy là kẻ bảo vệ gái điếm...”
- Tôi, không những tôi nói rằng sự gian dâm đã phạm là một tội ác chống lại Thiên Chúa và tha nhân, mà tôi còn nói: ngay cả kẻ ước ao điều ô uế với vợ của một người khác, đã là gian dâm trong lòng rồi, và nó đã phạm tội. Khốn thay nếu tất cả các đàn ông ước ao vợ của người khác đều bị kết án tử! Những kẻ ném đá sẽ phải luôn luôn có đá trong tay. Nhưng nếu nhiều lần tội lỗi không bị phạt bởi loài người ở trên trái đất, thì tội sẽ bị đền ở đời bên kia, bởi vì Đấng Tối Cao đã nói: “Ngươi sẽ không tà dâm và ngươi sẽ không ước ao vợ của người khác”, và phải vâng lời Thiên Chúa. Nhưng tôi cũng nói: “Khốn cho kẻ gây gương mù và khốn cho kẻ tố cáo anh em”. Ở đây mọi người đều có sự thiếu sót. Đối với người chồng, ông ta có thực sự cần phải bỏ vợ ông ta trong thời gian lâu như vậy không? Ông ta có luôn luôn đối xử với bà bằng tình yêu có thể giữ được con tim của vợ ông không? Ông ta có tự tra xét mình để coi xem trước khi bị vợ xúc phạm, ông có xúc phạm đến bà không? Luật trả báo nói: “Mắt thế mắt, răng thế răng”, nhưng nếu luật này nói để đòi sự bồi thường, thì sự bồi thường này chỉ được ban cho một phía thôi sao? Tôi không bênh người đàn bà ngoại tình, nhưng tôi nói: Biết bao lần bà đã có thể kết án chồng bà về tội này?
Người ta xì xèo: “Đúng vậy! Đúng vậy!” Ông già ở Giscala và người môn đệ của Gamaliel cũng xác nhận. Giêsu tiếp tục:
- Tôi, tôi nói: Làm sao kẻ đã gây ra một thảm cảnh như vầy vì báo thù, lại không biết sợ Thiên Chúa? Ông ta có muốn thảm cảnh này ở trong lòng gia đình ông không? Tôi, tôi nói: người đàn ông đi trốn sau khi đã vui hưởng để gây ra cảnh khốn nạn, bây giờ lại từ chối cả đứa trẻ vô tội, ông ta tin rằng khi trốn tránh, ông ta sẽ thoát được Đấng Báo Oán đời đời sao? Đó là điều tôi nói. Và tôi còn nói: Luật đòi ném đá kẻ gian dâm và kết án tử kẻ sát nhân. Nhưng sẽ có một ngày kia mà Lề Luật, điều cần thiết để kìm hãm sự hung dữ và dâm ô của con người không được củng cố bởi Ân Sủng của Chúa,
98
sẽ được cải đổi. Và nếu vẫn còn những giới răn: “Chớ giết người, chớ gian dâm”, nhưng những trừng phạt chống lại tội này sẽ được tha bởi một công lý cao hơn công lý của thù ghét và máu. Một công lý mà so với nó, cái công lý hiện hữu mà các thẩm phán loài người luôn luôn gian dối và bất công, công lý mà tất cả những kẻ gian dâm, có thể là nhiều lần, nhưng không có sát nhân thì chẳng bị gì cả, tôi nói về công lý của Thiên Chúa, cái sẽ hạch hỏi nơi con người cả đến các ước muốn không trong sạch, mà từ đó sẽ đưa đến báo thù, tố giác, sát nhân. Và nhất là sẽ hạch hỏi tại sao người ta từ chối cho kẻ có tội thời gian để chuộc tội, và vì đó người ta bắt kẻ vô tội phải mang cái gánh nặng của tội người khác. Ở đây, tất cả đều có tội, tất cả, ngay cả các vị thẩm phán bị lay động vì các nguyên do đối nghịch của việc báo thù cá nhân. Chỉ có một kẻ vô tội, và chính nó là kẻ tôi thương. Tôi không thể trở lại phía sau, nhưng ai trong qúi vị sẽ là người bác ái đối với nó, và đối với tôi là kẻ tội nghiệp cho nó?
Giêsu liếc trên đám đông một cái nhìn cầu xin buồn bã. Nhiều người nói: “Thầy muốn gì? Nhưng Thầy nên nhớ đó là đứa con hoang”.
- Ở Caphanaum có một người đàn bà tên là Sara, bà người Afêca, một trong các môn đệ của tôi. Hãy đem đứa trẻ đến cho bà và hãy nói với bà: “Giêsu Nazarét giao phó nó cho bà”. Khi Đấng Messi mà qúi vị trông đợi sẽ xây dựng Nước của Người và mang tới cái lề luật không hủy bỏ các lời của núi Sinai, nhưng làm hoàn bị nó bằng tình bác ái, thì những đứa con hoang sẽ không còn phải không có mẹ, vì tôi sẽ là người cha cho các trẻ không có cha, và tôi sẽ nói với các tín hữu của tôi: “Hãy yêu chúng vì tình yêu đối với Thầy”. Và nhiều điều khác nữa cũng sẽ thay đổi, vì sự hung dữ sẽ được thay thế bằng tình yêu.
Có lẽ trong khi hỏi tôi, qúi vị đã tin là tôi sẽ làm đối lại với Lề Luật, và chính vì vậy nên qúi vị tìm tôi. Qúi vị hãy nói với chính mình và nói với những người sai qúi vị đến rằng: tôi đến để hoàn thiện Lề Luật chứ không bao giờ để nói ngược lại nó. Hãy nói với
99
chính mình qúi vị và với người khác rằng đấng rao giảng Nước Thiên Chúa chắc chắn không thể nói những điều là gớm ghiếc ở trong Nước Thiên Chúa, và do đó chúng không thể được chấp nhận. Hãy bảo chính mình qúi vị và bảo những người khác nhớ lại sách Đệ Nhị Luật: “Chúa là Thiên Chúa của ngươi sẽ gây dựng nên cho ngươi, từ dân tộc ngươi, giữa các anh em ngươi, một tiên tri. Hãy nghe lời Người. Đó là điều ngươi đã xin cùng Chúa là Thiên Chúa ngươi gần Horeb, ngươi đã nói: ‘Đừng để tôi nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa tôi, và đừng để tôi thấy ngọn lửa mênh mông này, để tôi khỏi bị chết’. Và Chúa đã bảo tôi: ‘Chúng đã nói đúng, và Ta, Ta sẽ làm phát sinh ra cho chúng, giữa các anh em chúng, một tiên tri giống như ngươi. Ta sẽ đặt các lời Ta trên môi Người, Người sẽ nói với chúng tất cả những gì ta truyền cho Người. Và nếu có ai không muốn nghe những lời Người nói nhân danh Ta thì Ta sẽ báo oán”. Thiên Chúa đã sai Ngôi Lời của Người đến với qúi vị, để Người nói mà tiếng nói của Người không làm qúi vị chết. Thiên Chúa đã nói biết bao với loài người, nhiều hơn là loài người đáng nghe, vừa bởi Lề Luật ở Sinai, vừa bởi các tiên tri. Nhưng còn biết bao điều phải nói, và Thiên Chúa đã dành cho vị tiên tri trong thời kỳ Ơn Phúc của Người, cho đấng Người đã hứa cho dân Người. Nơi Người là lời của Thiên Chúa, và sự tha thứ sẽ được hoàn thành nơi Người. Là đấng thiết lập Nước Thiên Chúa, Người sẽ thiết lập Lề Luật với những giáo điều mới của tình yêu, bởi vì kỷ nguyên của tình yêu đã tới. Người sẽ không xin Đấng Tối Cao báo oán các kẻ không tin Người, nhưng chỉ xin cho lửa của Thiên Chúa làm tan chảy lớp sắt đá của các con tim, để Lời của Thiên Chúa có thể thấm nhập vào đó và xây dựng Nước Thiên Chúa ở đó, tức là Nước của tâm hồn, cũng như Vua của nước ấy là vua thiêng liêng. Tất cả những ai yêu Con Người, Con Người sẽ cho họ Đường Đi, Chân Lý và Sự Sống để đến với Thiên Chúa, biết Người và sống đời sống vĩnh cửu. Với các kẻ tiếp nhận lời tôi thì các dòng suối và ánh sáng Ân Sủng sẽ mở ra trong lòng họ, nơi đó, họ biết được ý nghĩa dấu ẩn trong các lời của lề luật, và họ sẽ thấy rằng những điều cấm không phải là
100
những đe dọa, mà là những sự mời gọi của Thiên Chúa, Đấng muốn cho con người được hạnh phúc chứ không bị luận phạt, được chúc phúc chứ không bị nguyền rủa.
Một lần nữa, bằng một sự việc đã được giải quyết, và vì nó không được giải quyết cách thánh thiện, các ông đã dùng nó làm một dụng cụ để tra xét tôi, để bắt gặp tôi phạm tội. Nhưng tôi, tôi biết rằng tôi không phạm tội, và tôi không sợ nói ra tư tưởng của tôi: kẻ sát nhân đã đền tội, trước tiên bởi sự nhục nhã, sau đó, bởi cái chết, đã chiếm được mục đích của đời sống. Người đàn bà đã đền tội bằng cái chết của bà và - điều này làm qúi vị ngạc nhiên, nhưng là như vậy - và bởi lời thú nhận của bà, với ý hướng dẫn đưa chồng bà tới tình thương đối với đứa trẻ vô tội, bà đã giảm sức nặng của tội bà trước mắt Thiên Chúa. Những người khác, ông và ông, và người đã đi trốn không thương cả đến con mình, qúi vị nặng tội hơn là hai người đầu tiên. Qúi vị lẩm bẩm ư ? Qúi vị đã không đền tội bằng cái chết và qúi vị không có trường hợp được giảm khinh của người chồng bị phản, cũng không có trường hợp của người đàn bà bị bỏ rơi và đã thú tội. Và tất cả qúi vị đều đã phạm tội, tất cả, trừ người vú nuôi của đứa trẻ: Đó là tội khước từ đứa trẻ vô tội này, tựa như nó là sự xấu xa đáng xấu hổ. Qúi vị đã biết giết kẻ sát nhân, qúi vị cũng đã biết giết các kẻ ngoại tình. Những thứ công lý khắt khe thì qúi vị đã biết làm và qúi vị sẽ biết làm. Nhưng không một người nào đã biết hay đang biết mở cánh tay tình thương ra cho trẻ vô tội. Nhưng qúi vị không hoàn toàn chịu trách nhiệm. Qúi vị không biết... qúi vị không bao giờ biết đúng điều qúi vị làm và điều phải làm. Về điều này, qúi vị có quyền thối thác.
Khi người môn đệ của Gamaliel đến tìm tôi, ông đã nói với tôi: “Xin đến, vì họ muốn hỏi ý Ngài về một sự kiện mà hậu qủa còn tồn tại”. Hậu qủa chính là trẻ vô tội. Vậy bây giờ qúi vị đã biết tư tưởng của tôi, có lẽ qúi vị thay đổi sự xét xử ở điều nào đó có thể? Tôi đã nói với ông ta: “Tôi thì tôi không xét xử, tôi tha thứ”. Gamaliel đã nói: “Chỉ có Giêsu Nazarét mới có thể xét xử việc này cách công bình”. Tôi, như tôi đã nói với ông này, tôi khuyên tất cả, tôi
101
nói với tất cả: khi xét xử, hãy chờ một cuộc xét nghiệm thận trọng, và chờ cho các đam mê dịu lại rồi hãy phạt. Rất nhiều điều có thể thay đổi mà không vi phạm lề luật. Bây giờ sự việc đã qua, cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho ai đã sám hối hay sẽ sám hối. Tôi không có gì khác để nói, hay đúng hơn, tôi còn một điều là nguyện Thiên Chúa tha thứ cho các ông một lần nữa vì đã thử thách Con Người.
- Không có con đâu, thưa Thầy, không có con! Con yêu rabbi Gamaliel đúng như một môn đệ phải yêu Thầy mình: hơn là người cha, hơn cha mình, vì một rabbi đào tạo sự thông hiểu, điều cao cả hơn thể xác. Và... Con không thể bỏ rabbi của con để theo Thầy. Nhưng đây, để tung hô Thầy, con chỉ tìm được các lời Thánh Vịnh của Judith. Nó trổ hoa trong đáy lòng con, vì con cảm thấy sự công chính và sự khôn ngoan trong hết mọi lời Thầy: “Adonai, lạy Chúa, Ngài cao cả và huy hoàng trong uy quyền của Ngài. Không ai có thể vượt qua Ngài. Không ai có thể chịu nổi tiếng Ngài. Những kẻ kính sợ Ngài sẽ luôn luôn ở trước mặt Ngài!...” Chúa ơi, con sẽ đi Caphanaum, tới nhà người đàn bà mà Thầy đã nói. Và Thầy, xin Thầy cầu nguyện cho con, để cái sắt đá của con nó tan chảy, để lời Thầy thấm nhập vào đó mà thiết lập Nước Thiên Chúa trong chúng con... Bây giờ con đã hiểu. Chúng con ở trong lầm lạc, và chúng con, các môn đệ, chúng con nhẹ tội hơn.
- Thằng ngu, mày nói gì vậy? - ông kỳ lão Giscala mạnh mẽ ngắt lời người môn đệ của Gamaliel.
- Điều tôi nói à? Tôi nói rằng thầy tôi có lý, và ai hiến cho Người một nước tạm thời để thử Người là một thằng Satan, vì Người là tiên tri thực sự của Đấng Tối Cao, và Đấng Khôn Ngoan nói bởi môi miệng Người. Thầy ơi, xin Thầy nói cho con: Con phải làm gì?
- Suy niệm.
- Nhưng...
- Suy niệm... Con là một trái cây xanh, và con cần một việc tháp cành. Thầy sẽ cầu nguyện cho con. Các con, đi thôi...
Và cùng với các tông đồ mang vác giỏ xách, Người lên đường, để các nhà bình luận lại ở phía sau.
102
167* GIÊSU CHỮA ĐỨA TRẺ
BẨM SINH MÙ NGƯỜI SIDON
Tôi thấy Giêsu với các tông đồ và dân chúng bao quanh, ra khỏi giáo đường. Tôi hiểu rằng đó là giáo đường vì cửa mở rộng. Tôi thấy cả đến những bàn ghế mà tôi đã thấy trong giáo đường Nazarét trong một thị kiến về chuẩn bị cuộc khổ nạn.
Giáo đường tọa lạc tại một quảng trường ở trung tâm làng. Một quảng trường trần trụi, chung quanh chỉ có nhà cửa. Một cái bể ở giữa, được tiếp nước bởi một phông-ten. Nước trong chảy tới từ một cái miệng duy nhất làm bằng một tảng đá khoét như hình viên ngói. Bể nước dùng cho các vật bốn chân uống. Có nhiều bồ câu bay lượn từ nhà nọ qua nhà kia, còn phông-ten thì để đổ đầy vào vò cho các bà. Có nhiều cái vò bằng đồng chạm trổ rất đẹp, một số khác thì bằng đồng trơn, sáng bóng dưới mặt trời, vì trời nắng và nóng. Đất của quảng trường khô ráo, mầu hơi vàng, tựa như mặt trời nóng sấy khô nó. Không có một cây nào tại quảng trường, nhưng có các cành sung và cành nho vươn qua các bức tường thấp của các khu vườn dọc theo bốn con lộ đổ vào quảng trường. Lúc này hẳn là cuối mùa hè và cuối một ngày. Có các chùm nho chín dưới dàn và mặt trời không chiếu thẳng, nhưng có những tia sáng nghiêng của hoàng hôn.
Các bệnh nhân chờ Giêsu tại quảng trường, nhưng tôi không thấy phép lạ trong đám họ. Người đi qua, cúi xuống trên họ, chúc lành và khích lệ họ, nhưng người không chữa, ít nhất là lúc này thì vậy. Cũng có các phụ nữ với các trẻ em và nam giới đủ cỡ tuổi. Tựa như Vị Cứu Tinh biết họ, vì Người chào họ bằng tên họ, và họ bao vây lấy Người cách thân thiện. Giêsu vuốt ve các đứa trẻ, cúi xuống trên chúng cách yêu thương.
Trong một góc của quảng trường có một người đàn bà với một đứa con trai nhỏ hay con gái (vì tất cả chúng đều mặc cùng một
103
kiểu áo rộng mầu sáng). Bà có vẻ không phải người địa phương. Tôi cho là bà có địa vị xã hội cao hơn những người khác. Y phục của bà làm tỉ mỉ công phu hơn với những sọc và ly nếp. Đó không phải áo dài đơn giản của đàn bà thuộc dân chúng, thường chỉ có ở thắt lưng một sợi giây như đồ trang điểm duy nhất, và thích hợp với cái áo. Trái lại, người đàn bà này mang y phục phức tạp hơn, không phải loại y phục tuyệt tác phẩm của Maria Mađalêna, nhưng trang trí rất nhiều. Trên đầu bà có một khăn voan rất nhẹ, rất nhẹ hơn chiếc voan bằng vải gai mịn của các phụ nữ khác. Voan của bà như bằng mút-xơ-lin, vì nó rất nhẹ. Nó được giữ ở giữa đầu một cách duyên dáng, còn nhìn thấy mái tóc nâu đen chải kiểu. Các sợi kết bím đơn sơ nhưng cẩn thận hơn mái tóc các bà khác, thường kết nhiều bím buông rơi sau gáy hay quấn trên đầu. Bà khoác một áo choàng thực sự, tôi không biết là vải may hay dệt tròn, ở cổ có một giải buộc kết thúc ở đầu mút bằng một búp bằng bạc. Chiếc áo choàng rũ xuống rất rộng với nhiều ly cho tới gót chân.
Người đàn bà cầm tay đứa bé gái hay trai mà tôi đã nói, một đứa trẻ đẹp độ bảy tuổi. Nó vạm vỡ nhưng có vẻ thiếu linh hoạt. Nó đứng yên, đầu hơi cúi, trong tay mẹ, dửng dưng với những gì xảy ra.
Người đàn bà nhìn nhưng không dám lại gần nhóm người vây quanh Giêsu. Bà có vẻ do dự, băn khoăn muốn tới đó, nhưng lại sợ tiến bước. Nhưng rồi bà dùng một phương thế hạn định là lôi kéo sự chú ý của Giêsu. Bà thấy Người ẵm trong tay một đứa bé hồng hào mà một bà mẹ giơ ra cho Người. Và trong khi vẫn nói chuyện với một ông già nhỏ, Người ghì đứa bé vào ngực Người và ru nó. Bà cúi xuống trên con bà và nói với nó điều gì đó.
Đứa trẻ ngẩng đầu lên, lúc đó tôi thấy một khuôn mặt buồn, mắt nhắm. Nó mù: “Giêsu, xin thương con!” nó nói.
Tiếng nói của trẻ con rẽ làn khí yên tĩnh của quảng trường và bay tới chỗ đám đông với lời than thở của nó.
Giêsu quay lại và thấy. Người di chuyển với một tình cảm ân cần, cả đến không trả cho bà mẹ đứa trẻ Người ẵm trong tay. Người đi, cao lớn, đẹp trai, về phía đứa trẻ mù tội nghiệp. Sau khi đã kêu,
104
nó lại cúi mặt xuống. Bà mẹ ân cần bảo nó nhắc lại lời kêu, nhưng vô ích.
Giêsu đã đến trước mặt người đàn bà. Người nhìn bà, bà ta cũng nhìn Người, rồi e lệ, bà nhìn xuống đất. Giêsu giúp bà. Người trả đứa trẻ Người đang ẵm trong tay cho người đàn bà đã đưa nó cho Người.
- Đây là con trai bà à?
- Thưa Thầy vâng. Đứa con đầu lòng của con.
Giêsu vuốt ve cái đầu nhỏ đang cúi. Người có vẻ như không nhìn thấy tật mù của đứa trẻ, nhưng tôi nghĩ rằng Người có ý làm cho bà mẹ trình bày lời cầu xin của bà.
- Vậy Đấng Tối Cao đã chúc phúc cho nhà bà với con cái đông đảo, và cho bà một con trai đầu lòng để dâng hiến cho Chúa.
- Con chỉ có một đứa con trai là nó, và ba đứa bé gái. Con không còn đứa nào khác... - và bà nức nở khóc.
- Tại sao bà khóc?
- Thưa Thầy, vì đứa con trai của con bị mù.
- Và bà muốn cho nó nhìn thấy. Bà có tin không?
- Thưa Thầy, con tin. Người ta nói với con là Thầy đã mở ra các con mắt bị nhắm. Con trai nhỏ của con sinh ra với đôi mắt khô. Giêsu, xin Thầy nhìn nó: dưới mu mắt chẳng có gì cả...
Giêsu nâng khuôn mặt lên về phía Người, khuôn mặt nhỏ nghiêm trang trước tuổi. Người nhìn nó, lấy ngón tay cái kéo mu mắt lên. Ở bên dưới là trống rỗng. Người lại bắt đầu nói, trong khi một tay vẫn nâng khuôn mặt nhỏ lên về phía Người.
- Vậy tại sao bà tới?
- Tại vì... Con biết rằng đối với con con thì khó hơn... Nhưng nếu đúng Thầy là đấng đang trông đợi thì Thầy có thể làm. Cha Thầy đã làm ra toàn thế giới... mà Thầy, Thầy không thể làm hai con ngươi cho con con sao?
- Bà tin rằng Thầy đến từ Cha, Chúa Tối Cao sao?
- Con tin vậy, và Thầy, Thầy có thể tất cả.
Giêsu nhìn bà như để xác nhận lòng tin ở nơi bà và sự tinh tuyền
105
của đức tin này. Người mỉm cười, rồi Người nói: “Bé con, lại đây với Thầy”, và Người cầm tay nó, đặt nó lên một bức tường con cao độ nửa mét, xây ở bờ đường trước một căn nhà, một loại lan can để bảo vệ con đường ở chỗ quặt này.
Khi đứa trẻ đã ở yên trên bức tường, Giêsu trở nên trang trọng, oai nghiêm. Đám đông chen chúc chung quanh Người và đứa trẻ với người mẹ đang lo lắng của nó. Tôi nhìn thấy Giêsu theo phía nghiêng, bao bọc trong áo khoác xanh dương đậm ở bên ngoài áo trong mầu sáng hơn. Khuôn mặt Người linh động như thần hứng. Người có vẻ cao lớn hơn, cả đến vạm vỡ hơn, giống như mọi lần khi Người giãi tỏa một quyền năng lạ lùng. Và đây là một lần nữa, tôi thấy Người oai phong. Người đặt tay trên đầu đứa trẻ, bàn tay mở ra với hai ngón cái để trên hai tròng mắt. Người ngửa mặt lên và cầu nguyện khẩn thiết, nhưng môi Người không nhúc nhích, chắc chắn là một cuộc đàm thoại với Cha Người. Rồi Người nói: “Hãy nhìn thấy, Ta muốn vậy! Và hãy ngợi khen Chúa!” Và Người nói với người đàn bà: “Cho đức tin của bà được thưởng. Đây, con bà sẽ là vinh dự và bình an của bà. Hãy chỉ nó cho chồng bà, và ông sẽ trở lại trong tình yêu đối với bà, và nhà bà sẽ lại biết những ngày hạnh phúc”.
Khi ngón tay cái Thiên Chúa buông ra, người đàn bà kêu lên một tiếng the thé khi bà nhìn vào chỗ hai tròng mắt rỗng lúc trước, bây giờ có hai con mắt tuyệt vời mầu xanh lơ đậm giống như mắt của ông Thầy, chúng đăm đăm nhìn bà, ngạc nhiên và sung sướng ở dưới bờ tóc đen nhánh. Bà lại kêu lên tiếng nữa, trong khi vẫn ghì chặt con bà vào lòng, bà qùi dưới chân Thầy và nói: “Cả điều này nữa, Thầy biết? A! Thầy thực là Con Thiên Chúa”. Bà hôn áo Người và xăng đan của Người. Rồi bà đứng dậy, biến dạng vì vui. Bà nói: “Tất cả hãy nghe: Tôi đến từ miền đất xa xôi thuộc xứ Sidon. Tôi đã đến vì có một bà mẹ khác kể cho tôi về vị rabbi Nazarét. Chồng tôi người Do-Thái, một thương gia giầu có và trung thành với lề luật. Ông có trong thành phố này những quầy hàng buôn bán với người Rôma. Sau khi tôi cho ông một đứa con trai khổ sở, tôi lại
106
cho ông ba đứa con gái nữa, rồi tôi trở nên bất lực, thế là ông hết yêu tôi. Ông bỏ nhà đi xa. Tôi không bị rẫy, nhưng tôi ở trong hoàn cảnh giống như người bị rẫy. Tôi biết rằng ông muốn thoát khỏi tôi để, với một người đàn bà khác, có một đứa con thừa kế để tiếp tục việc buôn bán của ông và thừa hưởng gia tài của cha. Trước khi đi, tôi đã đến tìm chồng tôi và nói với ông: ‘Thưa chúa, xin hãy chờ, hãy chờ tôi trở về. Nếu tôi trở về với đứa con trai vẫn còn mù thì ông hãy rẫy tôi. Nếu trái lại thì đừng làm tử thương con tim của tôi, và đừng từ chối làm cha của các con ông’. Và ông đã thề với tôi: ‘Bà ơi, vì vinh quang của Chúa, tôi thề với bà rằng nếu bà dẫn con về được lành lặn, thì tôi sẽ trở lại với bà như những ngày tình yêu đầu tiên của chúng ta. Tôi không biết bà sẽ làm cách nào, vì cái dạ bà đã không biết cho nó các con mắt’. Ông Thầy không thể biết về nỗi buồn người vợ của tôi, nhưng Người đã an ủi tôi về điều này. Vinh danh cho Thiên Chúa và cho Thầy, là Thầy và là Vua”. Người đàn bà lại qùi gối và khóc vì vui mừng.
- Đi đi! Hãy nói với Daniel chồng bà rằng đấng đã tạo dựng nên vũ trụ đã đặt hai vì sao sáng vào tròng mắt cho đứa trẻ được dâng hiến cho Chúa, vì Thiên Chúa trung thành với các lời hứa của Người. Người đã thề rằng kẻ tin ở Người sẽ thấy mọi sự kỳ diệu. Ước rằng bây giờ ông trung thành với lời ông đã thề, và ông không phạm tội ngoại tình. Hãy nói vậy với Daniel. Đi đi! Hãy sung sướng. Thầy chúc lành cho bà, bà và đứa trẻ này, và tất cả những người thân thiết của bà cùng với bà.
168* GIÁO HUẤN TRONG THỊ KIẾN TRÊN VỀ SỰ TRUNG
THÀNH VỚI CHỒNG
Giêsu nói:
Đối với những kẻ tin ở Thiên Chúa, Người luôn luôn vượt qua các điều cầu xin của con cái Người. Người cho chúng nhiều hơn chúng xin. Con hãy tin điều đó, và tất cả hãy tin điều đó. Người
107
đàn bà từ Sidon tới tìm Cha với hai lưỡi gươm đã cắm vào con tim bà, bà chỉ dám nói với Cha một lưỡi. Phải tiết lộ một số đau khổ sâu kín thì nặng nề hơn là nói: “Tôi bị bệnh”. Nhưng Cha đã ban cho bà cả phép lạ thứ hai.
Trước mắt thế giới, có vẻ, và sẽ luôn luôn có vẻ dễ hơn nhiều để tái lập sự hòa hợp của một cặp vợ chồng, bị chia rẽ bởi một nguyên do mà bây giờ đã vượt qua, hơn là may mắn mà làm được hai con ngươi cho đôi mắt không có nó khi sinh ra. Nhưng không phải như vậy. Đối với đấng là Thiên Chúa và là Tạo Hóa, làm hai con mắt là điều đơn giản, cũng như trả lại hơi thở sự sống cho một xác chết. Vì Vị Thầy của sự sống và sự chết, Thầy của tất cả những gì hiện hữu trong việc tạo dựng, chắc chắn không thiếu gì hơi thở sống để lại thổi vào cho kẻ chết, và hai giọt chất lỏng cho đôi mắt khô, chỉ cần là Người vui lòng muốn, vì điều đó chỉ lệ thuộc vào ý muốn của Người. Nhưng về sự hòa hợp giữa loài người thì phải có ý muốn loài người phối hợp với sự ước ao của Thiên Chúa. Thiên Chúa rất hiếm khi vi phạm tự do của loài người. Phần nhiều thời gian, Người để các con hành động như các con muốn.
Người đàn bà này sống trong một xứ thờ tà thần, nhưng bà đã tin như chồng bà, vào Thiên Chúa của tổ phụ ông. Bà đã đáng được sự nhân hậu của Thiên Chúa. Rồi bà đẩy đức tin của bà qua các giới hạn thuộc phạm vi nhân loại, vượt qua các nghi ngờ và phủ nhận của phần đông các tín hữu Do-Thái, và chứng tỏ điều đó bằng lời nói với chồng bà: “Hãy chờ tôi trở về”, vì bà chắc chắn sẽ trở về với đứa con được chữa lành. Bà đã đáng được một phép lạ kép. Bà cũng đáng được cái phép lạ khó này, là mở mắt tâm hồn cho chồng bà, những con mắt đã nhắm lại trước tình yêu và sự đau khổ của vợ ông và kết tội bà một điều không phải là tội.
Cha cũng muốn như vậy cho các bà vợ. Mong rằng người ta suy nghĩ đến sự kính trọng khiêm nhường trong lòng họ: “Con đã đi tìm chồng con và nói với ông: Chúa ơi, hãy chờ tôi...” Bà có lý, vì buộc tội một bà mẹ vì một sự bất toàn trong việc sinh sản, đó là ngu xuẩn và độc ác. Trái tim bà đã tan nát vì thấy con bà khốn khổ. Bà
108
có lý gấp đôi, vì bị chồng bỏ rơi từ lúc bà không sinh sản được nữa, và biết được ý định ly dị của ông, nhưng bà vẫn luôn luôn là vợ, tức là người bạn trung thành và tùng phục chồng như Chúa muốn và truyền dạy qua sách thánh. Không phản động, cũng không khát báo thù hay ý định tìm một người đàn ông khác để không phải là một “đàn bà cô đơn”: “Nếu tôi không trở về với đứa con được chữa lành thì hãy rẫy tôi. Nhưng nếu trái lại thì đừng làm tử thương con tim của tôi, và đừng từ chối làm cha của các con ông”. Ông ta đã chẳng như nghe Sara và các đàn bà Hy-Bá xưa kia nói sao?
Ôi, các bà vợ! Ngôn ngữ của các bà ngày nay thực khác hẳn. Nhưng những điều các bà nhận được từ Thiên Chúa và từ người chồng của các bà cũng khác biết bao! Và các gia đình càng ngày càng bị phá hủy.
Cũng như luôn luôn, khi hoàn thành phép lạ, Cha phải cho một dấu hiệu để làm cho nó trở nên sắc bén hơn. Cha phải khuất phục cả một thế giới khép kín trong những hàng rào của bao thế kỷ về cách suy nghĩ, và bị điều khiển bởi một phe phái thù nghịch với Cha. Từ đó, Cha cần phải làm sáng tỏ quyền năng siêu nhiên của Cha. Nhưng giáo huấn của thị kiến không phải ở đó. Nó ở trong đức tin, trong sự khiêm nhường, trong sự trung thành với chồng, trong con đường tốt các bà phải theo, ôi hỡi các bà vợ và các bà mẹ đã tìm được những gai tại nơi các bà đã hứa cho mình những hoa hồng, để làm nảy sinh ra những cành hoa trên những gai nhọn đã làm các con bị thương.
Các con hãy quay về với Chúa là Thiên Chúa các con, đấng đã đặt ra hôn nhân để người đàn ông và đàn bà không bị cô đơn, nhưng yêu nhau để làm thành một thân xác duy nhất không thể chia lìa, vì nó đã kết hợp, và Người đã cho các con bí tích để phúc lành của Người xuống trên sự kết hợp của các con, và nhờ Cha, các con có được những gì các con cần cho đời sống mới của vợ chồng và của các kẻ đồng sáng tạo. Và để các con có thể quay về với Người với một khuôn mặt và một tâm hồn mạnh dạn, thì hãy thật thà, tốt, kính trọng, trung thành, là người bạn thực của người chồng chứ không
109
phải chỉ là bà chủ trong nhà, hay còn tệ hơn: là những người lạ mà sự tình cờ đã tụ họp dưới cùng một mái nhà, giống như sự tình cờ đã tụ họp các người hành hương trong một khách sạn.
Điều này ngày nay thường qúa hay xảy ra. Người đàn ông đã thiếu sót bổn phận của họ ư ? Họ đã hành động sai. Nhưng điều đó không thể biện minh cho lối hành động của qúa nhiều bà vợ. Điều đó càng ít biện minh cho các bà hơn khi đối với một ông chồng tốt, các bà không biết trả điều tốt cho điều tốt, tình yêu cho tình yêu. Cha không muốn dừng lại ở trường hợp qúa thường về sự bất trung của các con trong thân xác, nó làm cho các con không khác gì gái điếm, mà những trường hợp trầm trọng thì đi tới trụy lạc gian dối, làm nhơ bẩn bàn thờ của gia đình, nơi các linh lồn thiên thần của con cái các con quây quần, nhưng Cha nói về sự bất trung tinh thần đối với giao ước tình yêu đã thề hứa trước bàn thờ Cha.
Cha đã nói: “Kẻ nhìn một người đàn bà mà ước ao nó thì đã phạm tội gian dâm trong lòng”. Cha đã nói: “Kẻ rẫy vợ với một tờ khai ly dị là đặt nó vào sự gian dâm”. Nhưng bây giờ, bây giờ có qúa nhiều bà vợ là người lạ đối với chồng họ, Cha nói: “Những bà không yêu chồng với tất cả linh hồn họ, trí khôn họ và thân xác họ, là đẩy chồng tới gian dâm. Và nếu Cha hỏi các ông cái tại sao về tội của họ, thì Cha cũng làm vậy với các kẻ không thi hành tội, nhưng là nguyên nhân của tội. Phải hiểu luật của Thiên Chúa trong tất cả bề mặt và chiều sâu của nó. Phải biết sống nó với tất cả sự thật.
Những điều này không liên can tới con. Hãy nghỉ trong bình an của Cha và hãy giữ tâm hồn con luôn luôn kết hợp với Cha.
169* KHI TỪ BIÊN GIỚI SYRO-PHÊNICI TRỞ VỀ
Cũng như họ thường làm khi đi đường để giải khuây và làm nhẹ nhàng cho sự buồn tẻ của các bước chân liên tục, các tông đồ nói chuyện với nhau, nhắc lại và bình luận các biến cố vừa qua, thỉnh thoảng cũng đặt câu hỏi nơi Thầy. Người thường ít nói, chỉ nói để
110
khỏi khiếm nhã, và chỉ dành sự mệt mỏi này cho các trường hợp cần giáo huấn người ta hay các tông đồ, sửa chữa những ý tưởng lầm lạc, khích lệ các người khổ sở.
Giêsu là LỜI, nhưng chắc chắn Người không phải là kẻ lẻo mép! Kiên nhẫn và nhã nhặn như không hề có ai khác, không bao giờ tỏ vẻ khó chịu khi phải nhắc lại một tư tưởng một, hai, mười, một trăm lần, để làm cho nó thấm vào những cái đầu bọc thép của các giáo huấn thuộc loại pharisiêu, rabbi, mà không lo mệt nhọc. Đôi khi nó nặng nề tới nỗi nó trở thành đau đớn, để lấy đi cái đau khổ vật chất hoặc tinh thần cho kẻ khác. Nhưng tỏ tường là Người thích yên lặng, biệt lập nơi yên tĩnh để chiêm niệm, có khi kéo dài nhiều giờ nếu không có ai lôi Người ra khỏi đó bằng các câu hỏi. Thường thường Người đi hơi ở phía trước các tông đồ, và lúc đó Người bước, đầu hơi cúi, nhưng thỉnh thoảng lại ngẩng lên nhìn trời, nhìn đồng quê, nhìn người ta hay các con vật. Tôi đã nói là nhìn, nhưng tôi nói không chỉnh. Tôi phải nói là Yêu. Vì đó là một nụ cười, một nụ cười Thiên Chúa chảy tràn qua con ngươi mắt Người để âu yếm thế giới và các thụ tạo. Một nụ cười tình yêu, vì chính là tình yêu tỏ lộ, lan tràn, chúc phúc, thanh tẩy. Ánh sáng trong cái nhìn của Người luôn luôn mạnh mẽ, nhưng nó hết sức mạnh mẽ khi Người vừa ra khỏi sự chiêm niệm.
Các sự chiêm niệm của Người có thể là gì? Con nghĩ, và con chắc chắn không bị lầm, vì chỉ cần quan sát sự bộc lộ nơi dung nhan Người là thấy nó là gì. Con nghĩ nó còn rất nhiều hơn những cuộc xuất thần của chúng ta mà trong đó tạo vật như đã được sống trên trời. Đó là sự kết hợp mật thiết của Thiên Chúa với Thiên Chúa. Thiên tính luôn luôn hiện diện và kết hợp với Đức Kitô là Thiên Chúa như Chúa Cha. Dưới đất cũng như trên trời, Chúa Cha ở trong Chúa Con, và Chúa Con ở trong Chúa Cha. Cha Con yêu nhau, và trong khi yêu nhau, phát sinh ra Ngôi Thứ Ba. Quyền năng của Chúa Cha, tức là thế hệ của Chúa Con, và hành động sinh ra và được sinh ra tạo thành Lửa, tức là Thần Trí của Thần Trí Thiên Chúa. Quyền Năng quay về với Sự Khôn Ngoan mà Người đã sinh ra, và Sự Khôn Ngoan quay về với Quyền Năng trong niềm vui được làm một với ngôi kia và tự biết mình là gì. Và cũng như mọi hiểu biết hỗ tương đều tạo ra tình yêu - kể cả sự hiểu biết bất toàn của chúng ta - Đó là Thánh Linh...
111
Đó là đấng mà, nếu có thể thiết lập một sự toàn vẹn trong những toàn vẹn của Thiên Chúa, thì Người phải được gọi là Đấng Toàn Vẹn của Đấng Toàn Vẹn. Thánh Linh! Đấng mà chỉ một tư tưởng về Người cũng cho đầy tràn ánh sáng, niềm vui và bình an...
Trong các cuộc xuất thần của Đức Kitô, khi mầu nhiệm không thể hiểu được về sự kết hợp và về Ba Ngôi Thiên Chúa được làm mới lại trong Trái Tim Cực Thánh của Chúa Giêsu, thì biết bao toàn vẹn, trọn lành, nồng nàn, thánh hóa, vui mừng, bình an, tình yêu sản xuất không phải cưu mang, tràn ra như sức nóng tỏa ra từ một lò lửa cháy mạnh, như hương thơm từ một bình hương đang cháy, để hôn các tạo vật với nụ hôn Thiên Chúa, trên các vật đã được tạo dựng bởi Chúa Cha, được làm qua trung gian của Chúa-Con-Ngôi-Lời, được làm vì tình yêu, chỉ vì tình yêu, bởi vì mọi tác động của Thiên Chúa đều là tình yêu.
Đó chính là cái nhìn của Người-Thiên-Chúa khi, trong con người và trong Thiên Chúa, Người ngước mắt lên, con mắt đã chiêm ngưỡng trong chính mình Người: Chúa Cha, Người, và Tình Yêu, để như một Con Người, nhìn vũ trụ và cảm phục sức mạnh sáng tạo của Thiên Chúa, và như Thiên Chúa, hân hoan vì có thể cứu nó trong tạo vật oai phong nhất của việc tạo dưng: con người.
Ôi! người ta không thể, không ai có thể, dù là thi sĩ, nghệ sĩ, họa sĩ, có thể làm cho đám đông thấy rõ cái nhìn này của Giêsu khi Người ra khỏi sự ôm ẵm, sự kết hợp đầy cảm xúc với Thiên Tính, một sự kết hợp thần linh nhất thể với Con Người, luôn luôn là Người, nhưng luôn luôn qúa sâu xa và qúa bén nhậy đối với Người là Đấng Cứu Thế, và bởi vậy, phải thêm vào với vô số đau khổ, vô số sự hạ mình của Người, cái đau khổ này nữa, rất lớn, là không thể luôn luôn ở trong Chúa Cha, trong các cơn bão của tình yêu như Người ở trên Trời: Toàn năng... tự do... vui thỏa. Sức mạnh cao cả là cái nhìn của phép lạ. Êm đềm là sự bộc lộ của cái nhìn con người. Ánh sáng đau thương rất buồn là cái nhìn trong những giờ đau đớn... Nhưng đó còn là những cái nhìn của loài người, mặc dầu có sự bộc lộ toàn vẹn. Cái nhìn này, cái nhìn của Thiên Chúa chiêm ngưỡng và yêu mình trong sự Duy Nhất của Ba Ngôi, không thể so sánh được, không có từ nào cho nó cả...
Và như vậy, các lời thảo luận của các tông đồ về thời kỳ ở Giscala, về phép lạ cho đứa trẻ mù, về Ptolêmai mà họ đang tiến về trên con đường bậc thang đẽo vào núi đá, mà họ đi để tới ngôi làng sau cùng của vùng biên giới SyroPhênici và Galilê - Đây hẳn là con đường con đã nhìn thấy khi họ đi Alexandrocène - về Gamaliel, và v.v. đều diễn ra, hay đúng hơn, những điều mà con cảm thấy về nó, đều ở lại trong qủa tim con. Con chỉ nói rằng con muốn nói điều này, là
các tông đồ, trong những thời gian đầu, ít được đào tạo về tinh
112
thần, thường làm phiền Thầy dễ dàng. Bây giờ tinh thần tiến bộ hơn, họ kính trọng sự yên tĩnh của Người và họ thích nói với nhau hơn ở đàng sau hai ba mét. Chỉ khi họ cần một chỉ dẫn, một xét đoán, hoăc khi họ bị thôi thúc bởi tình yêu đối với Thầy, họ mới lại gần Người.
170* KHI ĐI VỀ SÊPHORIS
- Hãy bò dậy và chúng ta đi - Giêsu ra lệnh cho các người của Ngài đang ngủ nặng nề trên cỏ, đúng ra là sậy hơn là cỏ, chất đống trong cánh đồng gần một con suối đang chờ mưa thu đổ đầy cho lòng suối của nó.
Các tông đồ vâng lời, không nói gì. Còn nửa ngủ nửa tỉnh, họ lượm giỏ xách, mặc áo khoác mà họ đã dùng làm mền ban đêm, và lên đường với Giêsu.
- Chúng ta đi lối Carmel à? - Giacôbê Alphê hỏi.
- Không. Lối Sêphoris, rồi sau đó chúng ta sẽ lên đường đi Mageddo. Chúng ta có vừa đủ thời gian... - Giêsu trả lời.
- Vâng, bây giờ đêm qúa ẩm ướt và qúa lạnh để ngủ ngoài đồng khi người ta không đón tiếp chúng ta vì lý do nào đó - Mathêu nhận xét.
- Loài người! Nhưng họ quên đi dễ dàng chừng nào!... Chúa ơi, có phải luôn luôn vậy không? - Andrê hỏi.
- Luôn luôn vậy.
- Vậy! Nếu họ đối với Thầy như vậy, thì sẽ ra thế nào khi chúng con là người hành động? Chúng con sẽ vừa quay lưng đi là tất cả đều bị xóa bỏ - Tôma nói cách thất vọng.
- Nhưng tôi, tôi nói rằng ở đây có người làm cho quên. Bởi vì, đúng, loài người quên rất dễ dàng. Nhưng họ không luôn luôn quên. Tôi nói rằng ở giữa chúng ta, giữa đám loài người chúng ta, chúng ta nhớ những điều chúng ta đã có và đã cho. Trái lại, đối với Thầy... Không. Luôn luôn có cùng thứ người làm việc để xóa bỏ những kỷ
113
niệm về Thầy - Phêrô nói.
- Đừng xét đoán khi không có căn bản chắc chắn - Giêsu nói.
- Thưa Thầy, tại vì căn bản thì con có.
- Anh có à ? Anh đã khám phá ra cái gì ? - Iscariot hỏi cách rất lưu tâm, và cùng với ông, những người khác cũng hỏi. Nhưng sự lưu ý của Judas mạnh hơn, tôi nói là lo âu.
Phêrô đang nhìn Giêsu, liền quay lại nhìn Iscariot... một cái nhìn chăm chú, canh chừng, nghi ngờ. Ông nhìn hắn ta một lúc và nín lặng. Rồi ông nói: “Ồ, chả có gì cả...và có tất cả, nếu điều đó không làm phiền anh khi biết. Dầu sao, nếu tôi là người dùng mọi phương tiện để thành công trong việc chạy đi để tố giác nhiều điều với các kẻ cai trị chúng ta, tôi chắc rằng sẽ có kẻ bị phiền. Nhưng tôi thích thà không thành công còn hơn có sự giúp đỡ của phía bên đó. Trong những sự thuộc về Thiên Chúa, tôi chỉ chấp nhận sự trợ giúp của Thiên Chúa. Tôi thấy như phàm tục hóa những sự về Thiên Chúa khi dùng sự giúp đỡ... của họ... để dày đạp loài bò sát. Họ cũng là loài bò sát... và... tôi không hãnh diện vì... có khả năng cùng một trật dày đạp những kẻ bị tố cáo và những kẻ tố cáo... Như thế... Tôi tự ý hành động. Vậy đó!”
- Nhưng anh không nhận thấy là anh xúc phạm tới Thầy sao?
- Tôi? Tại sao?
- Bởi vì Người cũng lui tới với họ.
- Người là Người, và nếu Người lui tới với họ thì không phải vì mối lợi, mà là để lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Người có thể làm điều đó...và Người làm. Nhưng Người không chạy theo họ... Anh thấy rằng chính họ đến với Người để nghe “triết gia”, như họ nói. Nhưng bây giờ tôi thấy như họ không ước ao Người như vậy nữa. Và tôi, tôi chả khóc đâu.
- Hồi lễ Vượt Qua, anh cũng đã tỏ vẻ bằng lòng!
- Hình như... con người thường hay ngu. Hình như không vậy nữa. Điều đó không vậy nữa. Và tôi có lý.
- Như một người không pha trộn lợi ích của loài người với các sự siêu nhiên thì con có lý, Simon - Giêsu nói. “Nhưng như một tông
114
đồ mà lại vui rằng những người khác rời xa ánh sáng thì không, con không có lý. Nếu con suy nghĩ rằng mọi linh hồn chiếm được về cho ánh sáng đều là một vinh quang cho Thầy con thì con sẽ không nói như vậy”.
Judas Iscariot nhìn Phêrô với một nụ cười châm biếm. Phêrô nhìn thấy... nhưng ông tự trấn áp và không nói gì.
Giêsu cũng nhìn thấy và Người nói với Phêrô, nhưng làm như Người nói với tất cả: “Nhưng hãy biết rằng một sự ngại ngùng qúa đáng về tôn giáo với một mục đích tốt thì dễ tha thứ được hơn là vượt qua tất cả, không băn khoăn, để đạt được những mục đích loài người. Thầy đã nói với các con nhiều lần rằng: chính ý muốn tốt hay xấu đặt qủa cân cho hành động. Trong trường hợp này thì là ý muốn tốt, cho dù nó bất toàn trong hình thức của nó, khi phản đối việc dẫn người phàm lại với siêu nhân, và đó là những người họ cho là ô uế trước mặt Thiên Chúa. Tính khăng khăng của ông không chính đáng, vì Thầy đến cho mọi người. Nhưng sự xét đoán của ông rất gần hoàn thiện khi ông cho rằng: trong những điều thuộc về Thiên Chúa, người ta chỉ được cầu cứu sự cứu giúp siêu nhiên chứ không được ăn mày những giúp đỡ có lợi hay thực dụng của loài người”. Với sự phê phán công bình này, Giêsu làm chấm dứt các tranh luận.
Họ đi qua một cái suối bị thiêu đốt bởi trời hè với bàn chân khô ráo, và đi vào con đường chính dẫn từ Sicaminon đến Samari. Nếu tôi nhớ đúng thì đây là nơi tôi đã nhìn thấy lần trước. Con đường rất đông người vì gần ngày lễ, và nó đã có cái vẻ đặc biệt của các con đường Palestin vào kỳ có các cuộc hành hương bắt buộc về Đền Thờ. Các người du hành, lừa, xe, chở người với lều bạt, đồ dùng tại các trạm nghỉ, và ngay cả ở trong Jêrusalem, nơi luôn luôn bị xâm lăng vào các dịp trọng đại, tới điểm đã có lời khuyên nên cắm trại tại các đồi ở ngoài thành, nếu thời tiết cho phép.
Vậy trong dịp Lễ Lều này, đám người thiên di còn dễ nhìn thấy hơn, vì họ di chuyển cả gia đình. Nhưng không phải vì số người hành hương đông hơn dịp lễ Vượt Qua hay lễ Ngũ Tuần, mà vì khi
115
phải sống dưới lều trong nhiều ngày, họ có những đồ đạc mà trong những dịp trọng thể khác thì họ không kéo theo với họ. Thật là cuộc xuất hành của một dân từ mọi con đường đổ về thủ đô, giống như máu từ mọi mạch chảy về tim.
Ngay cả ngày nay, để hiểu cái tôn giáo rất kiên cố của Israel, rất bền giai, rất hợp nhất - vì vậy những người đồng tôn giáo giúp đỡ nhau. Họ như bị thúc đẩy bởi số phận, nên cho dù họ ở đâu, cho dù họ sinh ra trong quốc gia nào, điều đó cũng không phải là một trở ngại, vì một người Do-Thái của một quốc gia khác cũng luôn luôn cảm thấy là anh em và đồng hương với người cùng tôn giáo mà họ gặp - Phải nhớ rằng họ bị phân tán, bị bách hại, bị khinh dể, bề ngoài như không có quê hương, nhưng họ không cảm thấy gì về điều đó. Họ có quê hương của họ, nơi mà Jêova của họ đã cho họ. Họ có thủ đô của họ: Jêrusalem. Chính đó là nơi qui tụ về những gì là tốt nhất trong thực thể của họ: Thần trí và con tim. Họ đã phạm tội ư ? Thiên Chúa đã phạt họ ư ? Các lời tiên tri đã được thực hiện ư ? Phải, đúng vậy. Nhưng điều này vẫn tồn tại nơi họ một cách sáng sủa, tạo cho họ một hy vọng sâu xa về sự tái lập vương quốc Israel và về Đấng Messi phải đến... Và trong niềm đau sợ bị bất xứng với Thiên Chúa, và trong câu hỏi trường tồn: “Giêsu Nazarét có thực là Đấng Messi không?” họ tìm cách tái lập quốc gia để có Đấng Messi này. Họ tìm cách duy trì lòng tin bền bỉ này nơi tôn giáo của họ để đáng được Thiên Chúa tha thứ, và để được thấy lời hứa thực hiện.
Con là một đàn bà tội nghiệp và con không biết gì về vấn đề chính trị; con không bao giờ lưu ý tới các người Hy-Bá ngày nay và các nỗi khổ của họ, nhưng đôi lần con đã cười họ, vì họ vẫn còn chờ đấng đã tới rồi mà họ đã đóng đanh. Con thấy như họ đã đổ ra các nước mắt cá sấu. Con thấy lối sống của họ không có vẻ là họ có thể xứng đáng được điều họ hy vọng nơi Thiên Chúa, không phải nơi Đức Kitô mà rừ rày, chỉ còn trở lại vào ngày sau cùng, nhưng cũng không thể, cả việc tụ họp giòng giống Hy-Bá tản mát về lại trong một quốc gia độc lập. Nhưng ngày nay, một cách siêu nhiên, con thấy cha ông của những người Hy-Bá hiện tại, và con hiểu cái bi kịch bao thế kỷ của họ, sự kiên trì của họ, cái nguồn gốc của sự kiên trì mà họ vẫn luôn luôn giữ. Đó vẫn còn là dân Thiên Chúa, dân mà bởi ý muốn của Thiên Chúa, qui tụ về mảnh đất đã hứa cho cha ông, các tổ phụ; một dân mà hàng trăm thế kỷ, vẫn thi hành các nghi thức của Môise trong khi nghĩ tới Jêrusalem, tới Đền Thờ của họ rực rỡ trên núi Moriah. Họ không thể tới đó ư ? Có chứ. Nhưng họ cũng hướng lòng về đó.
Các lưỡi lê, đại bác, nhà tù dùng để chống lại con người, nhưng không thể chống lại thần trí. Israel không thể tàn lụi, vì họ tồn tại trong tôn giáo của họ. Lý thuyết, giả dối, nghi thức, không có gì là sự sống thực của một tôn giáo, là hòa hợp tâm hồn với các nghi thức vật chất?... hay tất cả những gì qúi vị muốn. Nhưng chung quanh cái cơ thể phân tán làm thành một dân tộc này, và ngày nay thì là một số vô vàn những mảnh nhỏ phân tán trên khắp trái đất, nó vẫn tồn tại để duy trì một toàn thể các tư tưởng, các nghi thức, các giáo điều hàng bao thế kỷ, đến từ các tiên tri, các rabbi, như chiếc đèn pha mà mọi phần trên trái đất đều thấy, một nơi huy hoàng: Jêrusalem, và tên nó giống như lời kêu gọi tụ họp. Nó giống như một hiệu kỳ căng ra cho sự nhắc nhớ, cho các kỷ niệm, các lời hứa.
116
Không. Dân tộc này không thể rút lại trong yên lặng bởi bất cứ một sức mạnh loài người nào.
Trong nó có một sức mạnh hơn loài người. Tất cả những điều đó cho ta hiểu, khi quan sát một dân ra đi bằng những con đường khó khăn vượt bực, vào những mùa nặng nề, không lo gì đến những khó nhọc, vì niềm vui được về Thành Thánh. Tất cả những điều đó cho hiểu, khi người ta thấy họ ra đi, người giầu cùng với người nghèo, trẻ em với người gìa, từ xứ Palestin hay từ miền Diaspora, tiến về con tim của họ: Jêrusalem. Tất cả những điều đó cho hiểu, khi người ta thấy họ hát các Thánh Vịnh của họ... Và con thú thật, con muốn rằng chúng ta, các Kitô hữu và các người Công Giáo, chúng ta phải giống như họ, vì chúng ta có con tim của đạo Công Giáo, đó là Rôma, Giáo Hội, và vị sống ở đó là Phêrô của hôm nay. Chúng ta phải có những tâm tình của những người mà con thấy đi, đi, đi. Con muốn chúng ta có điều họ có, cộng thêm vào với đức tin toàn vẹn của chúng ta, bởi vì là Kitô hữu.
Người ta sẽ nói với con: “Họ đầy khuyết điểm”. Còn chúng ta? Chúng ta có tránh được không? Chúng ta là những người được củng cố bằng Ân Sủng của các bí tích, chúng ta có tránh được khuyết điểm không? Trong khi chúng ta phải trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời?
Con đã lạc đề. Nhưng trong khi theo dõi bước chân của các tông đồ lẫn lộn với đám đông Israel, tư tưởng của con đã làm việc.
Và nó làm việc cho tới lúc mà, tại một ngã tư, một nhóm môn đệ nhận ra Thầy, và họ bao chặt lấy Người. Trong đám họ có Abel người Bétlem, ông qùi ngay xuống tại chân Giêsu và nói: “Thầy ơi, con đã cầu xin Đấng Tối Cao biết bao cho con được gặp Thầy. Con tưởng đã hết hy vọng, nhưng Người đã nhận lời con. Bây giờ Thầy, xin Thầy nhận lời môn đệ của Thầy”.
- Con muốn gì, Abel? Hãy lại đàng kia, ở bờ ruộng. Ở chỗ này qúa đông người, chúng ta sẽ bị phiền.
Cả đám đi tới nơi Giêsu chỉ, và ở đó, Abel nói điều ông muốn.
- Thưa Thầy, Thầy đã cứu con khỏi chết và khỏi sự vu khống, và Thầy đã làm cho con thành một môn đệ. Vậy là Thầy rất thương con?
- Con còn có thể hỏi vậy sao?
- Con hỏi vậy để chắc chắn được là Thầy sẽ nhận lời cầu xin của con. Khi Thầy cứu con, Thầy đã làm cho các kẻ thù của con phải khổ vì một hình phạt ghê sợ. Thầy đã làm họ khổ, và chắc chắn điều đó là công bằng. Nhưng ôi! Chúa ơi, thật là ghê sợ! Con đã đi
117
tìm ba người này. Mỗi lần con về nhà mẹ con, con đều tìm họ trên núi, trong các hang, trong thành phố của con, nhưng con không bao giờ tìm thấy họ.
- Tại sao con tìm họ?
- Chúa ơi, để nói với họ về Thầy, để khi tin vào Thầy, họ cầu khẩn Thầy để được sự tha thứ và sự chữa lành. Chỉ có vào mùa hè con mới tìm thấy họ, nhưng không cùng với nhau. Một trong số họ, kẻ ghét con tại vì mẹ con, chia tay hai người kia khi họ lên cao hơn trên các ngọn núi cao của Jiphtael. Hai người này đã cho con biết ông ta ở đâu. Con có được dấu vết những người này là nhờ các mục đồng ở Bétlem đã cho Thầy trú đêm hôm đó. Các người mục đồng với đoàn vật của họ đi khắp nơi nên họ biết được nhiều chuyện. Họ biết rằng hai người cùi mà con tìm ở trên núi của con Suối Đẹp. Con liền tới đó. Ôi!... - Sự sợ hãi hiện ra trên nét mặt của người thanh niên còn rất trẻ.
- Tiếp tục đi.
- Họ đã nhận ra con. Con, con không thể nhận ra các người đồng hương của con ở nơi hai quái vật này... Họ đã gọi con. Họ đã cầu xin con, làm như con là vị thần. Nhất là người đầy tớ làm con thương hại, vì sự sám hối chân thành của nó. Chúa ơi, nó chỉ muốn được sự tha thứ của Thầy. Aser cũng muốn được lành. Anh ta có một bà mẹ gìa, Chúa ơi, một bà mẹ gìa đang chết vì buồn ở trong thành phố...
- Còn người kia, tại sao anh ta tách ra?
- Bởi vì đó là một thằng qủi, kẻ thủ phạm chính thức, đã từng gian dâm, rồi trở thành sát nhân. Hắn đã thúc đẩy Aser, hối lộ người đầy tớ của Joel là đứa hơi ngu và dễ bị ảnh hưởng. Ông ta tiếp tục là ma qủi. Từ miệng ông ta phát ra sự thù ghét và phạm thượng; con tim của ông ta chỉ có thù oán và độc ác. Con cũng có gặp ông ta... Con muốn cho ông nên tốt. Ông ta nhảy bổ vào con như con diều hâu. Chỉ nhờ con chạy lẹ và dai sức, vì con còn trẻ và lành mạnh, con mới thoát nạn. Nhưng con không thất vọng trong việc cứu ông ta. Con sẽ trở lại... một lần, hai lần, bao lâu cần, với các đồ cứu trợ và với tình yêu. Con sẽ làm cho con được yêu. Ông
118
ta tưởng con đến để cười nhạo sự khốn nạn của ông, nhưng con, con đến để tái thiết cho ông. Nếu ông có thể đi tới chỗ yêu con, ông ta sẽ nghe lời con. Nếu ông ta nghe lời con, sau cùng ông ta sẽ tin vào Thầy. Đó là điều con muốn. Những người khác thì ôi, việc đó dễ hơn, vì chính họ, họ đã suy niệm và đã hiểu. Người đầy tớ đã trở nên ông thầy đơn sơ cho ông kia, vì anh ta có biết bao lòng tin, và ước ao sự tha thứ cách mạnh mẽ biết bao! Chúa ơi, xin đến. Con đã hứa với họ là con sẽ dẫn Thầy đến cho họ khi con gặp Thầy.
- Abel, tội của họ qúa lớn, nhiều tội dồn lại, và thời gian họ đền tội còn qúa vắn...
- Sự dày vò và sự thống hối của họ rất lớn. Xin Thầy tới.
- Abel, họ đã muốn cho con chết.
- Không sao. Chúa ơi, con muốn sự sống cho ho.
- Sự sống nào?
- Sự sống mà Thầy cho, sự sống cho tâm hồn, sự tha thứ, ơn cứu chuộc.
- Abel, đó là những Cain của con. Họ đã ghét con như người ta không thể ghét hơn. Họ đã muốn lấy hết của con: sự sống, danh dự và người mẹ của con...
- Họ là những ân nhân của con, vì nhờ họ mà con có Thầy. Con, con yêu họ vì ơn huệ họ đã làm cho con, và con xin Thầy để con ở đâu thì họ cũng ở đó: Theo Thầy. Con muốn phần rỗi cho họ cũng như cho con, còn hơn cho con, vì tội của họ lớn hơn.
- Của lễ nào con sẽ dâng cho Thiên Chúa để đổi lấy phần rỗi cho họ, nếu Người hỏi con?
Abel suy nghĩ một lát, rồi anh ta nói quả quyết: “Ngay cả chính con, sự sống của con. Con sẽ mất một nắm bùn để chiếm được Nước Trời, một sự mất mát có phước; một lợi ích lớn lao, vô tận, là Thiên Chúa, Nước Trời. Và hai người tội lỗi được cứu chuộc là những kẻ đầu lòng trong đoàn mà con hy vọng dẫn về cho Thầy và dâng cho Thầy, ôi Chúa!”
Giêsu làm một cử chỉ mà Người không bao giờ làm trước công chúng: Người cúi xuống, vì Người rất lớn hơn Abel, Người cầm lấy
119
đầu Abel trong hai bàn tay, Người đặt một cái hôn trên môi ông và nói: “Nguyện cho được như vậy”. Tôi hiểu rằng ít nhất, đó là cái “Maranata” của Người. Và Người thêm: “Về những tình cảm của con, sẽ được làm cho con như lời con xin. Hãy đi với Thầy, con sẽ dẫn đường cho Thầy. Gioan, hãy đi với Thầy. Còn các con, hãy đi trước đi, theo con đường từ Mageddo tới Engannim. Các con chờ Thầy ở đó nếu các con chưa gặp Thầy”.
- Và chúng con sẽ rao giảng Thầy và giáo lý của Thầy - Iscariot nói.
- Không. Các con chỉ việc chờ Thầy trong khi các con xử sự như những người hành hương ngay lành và khiêm nhu, và trong khi là anh em với nhau. Không làm gì hơn. Lúc đi, các con ghé qua nhà các nông dân của Giocana để cho họ cái gì các con có, và nói với họ rằng Thầy, nếu có thể, Người sẽ ghé qua Jezrael vào lúc rạng đông của ngày mốt. Đi đi. Bình an cho các con.
171* GIÊSU TẠI NƠI TRÚ CỦA CÁC
NGƯỜI TỘI LỖI BỊ CÙI CỦA
BÉTLEM THUỘC GALILÊ
Dẫy núi hiểm trở của Jiphtael ngự trị ở phía bắc và khép chân trời lại. Nhưng tại nơi bắt đầu những bờ dốc đá lở của dẫy núi nghiêng hầu như thẳng đứng này, là con đường của các đoàn du mục từ Ptolêmai đi về Sêphoris và Nazarét. Có nhiều hang động ở trong cái khối đá chìa ra khỏi núi, treo trên vực thẳm, được dùng làm nền và mái che cho các hang này.
Cũng như luôn luôn, các người cùi đứng gần các trục lộ quan trọng, biệt lập, nhưng đồng thời đủ gần để các người du hành nhìn thấy và cứu trợ. Một toán nhỏ của các người cùi hô lên tiếng kêu cảnh giác và kêu gọi khi thấy Giêsu đi qua cùng với Gioan và Abel. Abel liền ngửa mặt về phía họ và nói: “Người này là đấng mà tôi đã nói với qúi vị. Tôi dẫn Người đến với hai người cùi mà qúi vị đã
120
biết. Qúi vị không có gì để xin cùng Người, con của Đavít sao?”
- Điều chúng tôi xin với qúi vị là bánh và nước để khỏi đói trong khi có các người hành hương đi qua. Sau đây, mùa đông tới, sẽ là đói...
- Hôm nay tôi không có lương thực, nhưng tôi có sự cứu rỗi ở với tôi...
Nhưng lời mời gọi hấp dẫn về việc cầu cứu tới Sự Cứu Rỗi không được đón nhận. Các người cùi bỏ sườn dốc, quay lưng lại và đi vòng quanh mỏm núi để coi có các người hành hương ở con đường khác không.
- Con tin đó là các thủy thủ dân ngoại hay hoàn toàn thờ tà thần. Họ mới đến đây, bị xua đuổi ở Ptolêmai. Họ từ châu Phi tới. Con không biết tại sao họ mắc bệnh. Con chỉ biết rằng từ nước họ, họ ra đi khỏe mạnh. Sau khi đã làm một cuộc hành trình dài quanh các bờ biển châu Phi để chất ngà voi, và con tin có cả ngọc trai, để bán cho các thương gia vùng Latin, họ tới đây đã bị bệnh. Các viên chức ở cảng đã cô lập họ và đã đốt cả tàu của họ. Người thì đi về đường Syro-Phênici, người thì tới đây. Những người tới đây bị nặng hơn, vì họ hầu như không bước nổi nữa. Nhưng họ có linh hồn còn bệnh hoạn hơn. Con đã cố gắng để cho họ một chút đức tin... Họ chỉ xin lương thực thôi...
- Trong các cuộc đàm thoại, phải kiên trì. Điều không thành công trong một năm, sẽ thành công trong hai năm hay hơn nữa. Phải kiên trì để nói với họ về Thiên Chúa, cho dù họ giống như núi đá mà họ trú ẩn.
- Vậy con đã làm sai khi nghĩ đến lương thực của họ sao?... Con sắp đặt để luôn luôn mang lương thực cho họ trước ngày Sabát, vì trong ngày Sabát, các người Hy-Bá không du hành, và chả có ai nghĩ đến họ cả...
- Con làm rất đúng. Con đã nói: Đó là các dân ngoại, bởi vậy họ lo lắng cho thân xác hơn là tâm hồn. Sự lo lắng tình nghĩa mà con có đối với cái đói của họ thức tỉnh tình cảm của họ đối với kẻ không quen đã nghĩ tới họ. Và trong khi yêu con, họ sẽ nghe con, dù
121
con nói về cái gì khác với của ăn. Tình yêu luôn luôn sẵn sàng để theo kẻ mà người ta đã học biết yêu. Một ngày kia, họ sẽ theo con trên đường thiêng liêng.
Các công việc của tình thương đối với thân xác san bằng con đường cho các việc thiêng liêng, và nó làm cho con đường nên quang đãng, bằng phẳng, tới nỗi lối vào của Thiên Chúa trong một tâm hồn được sửa soạn theo cách này cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, đi tới chỗ chính cá nhân đó cũng không biết. Nó tìm được Thiên Chúa ngay ở trong nó, và nó không biết Người vào bằng lối nào. Bằng lối nào! Đôi khi sau một nụ cười, sau một lời nói của tình thương, sau một tấm bánh, đã bắt đầu mở chiếc cửa bị đóng kín của con tim ra cho Ân Sủng, và đã bắt đầu con đường của Thiên Chúa để Người vào trong tim. Các linh hồn! Đó là cái gì khác nhau nhất. Không một chất liệu nào, và có biết bao chất liệu trên trái đất, nhưng hình dáng của nó không khác nhau cho bằng các linh hồn khác nhau trong các khuynh hướng và các phản ứng của nó.
Các con có thấy cây thông dầu mạnh mẽ này không? Nó ở giữa cả một rừng cây giống như nó, cùng một loại. Có bao nhiêu cây? Hàng trăm và hàng trăm, có lẽ hàng ngàn, có lẽ nhiều hơn. Nó mọc kín cái sườn núi dốc này, nó tỏa mùi thơm chát và bổ dưỡng của nó ra, át đi tất cả các mùi khác của thung lũng và núi non. Nhưng các con nhìn coi: có hàng ngàn cây và hơn nữa, nhưng không cây nào giống hệt một cây khác, về độ lớn, chiều cao, sức mạnh, chiều nghiêng, cách bài trí... Nếu người ta quan sát kỹ: cây thì thẳng như lưỡi kiếm, cây thì quay về bắc hay nam, đông, tây. Cây thì mọc ở chỗ đất bằng, cây thì mọc ở chỗ lồi ra mà người ta không biết làm sao đất giữ được nó, và làm sao nó có thể đứng, treo trên không như vầy, hầu như làm thành một cái cầu với bờ phía bên kia, ở cao bên trên cái suối này, bây giờ thì suối khô, nhưng chảy xiết vào mùa mưa. Cây này thì vặn vẹo, tựa như một người nào ác đã vặn nó khi nó còn là một cây nhỏ mềm. Cây kia thì không có khuyết tật gì. Cây thì phủ đầy lá cho tới gần gốc, cây thì chỉ có vừa một chòm ở trên đỉnh. Cây thì chỉ có cành ở bên phải, cây kia thì chỉ có lá ở
122
dưới thấp, ngọn cây bị cháy thành tro vì sét. Cũng như cây khác kia bị chết, rồi sống lại do một cái chồi duy nhất, lì lợm, mọc hầu như ngay ở trên rễ, nhận lấy số nhựa không còn lên tới ngọn được nữa. Và cây kia mà Thầy đã chỉ cho các con để bắt đầu, đẹp hầu như nó không thể đẹp hơn được nữa. Nó chỉ có một cành, một nhánh, một lá sao? Thầy nói sao khi nói tới một cái lá duy nhất trong số hàng ngàn lá nó mang? Nó có giống hệt một lá nào khác không? Coi thoáng thì thấy các lá đều giống nhau, nhưng không phải vậy. Các con nhìn cái cành này, cành ở thấp nhất. Hãy quan sát chỗ chóp đầu cành thôi. Có bao nhiêu lá ở đó? Có lẽ cỡ hai trăm chiếc lá nhỏ xanh và mịn. Nhưng coi này: không một lá nào giống lá nào về mầu sắc, độ mạnh, độ tươi, độ mềm, độ gìa, dáng dấp? Không có. Đối với các linh hồn cũng vậy. Có bao nhiêu linh hồn thì có bấy nhiêu khác nhau về các khuynh hướng và các phản ứng. Một ông thầy, một bác sĩ của các linh hồn sẽ không tốt, nếu không hiểu biết họ và làm việc với họ theo các khuynh hướng và các phản ứng khác nhau của họ. Đó không phải là công việc dễ dàng đâu các bạn ạ. Phải có sự học hỏi liên tục và có thói quen suy niệm, là những việc soi sáng cho ta nhiều hơn đọc một bản văn dài cố định. Cuốn sách mà người thầy, người bác sĩ của các linh hồn phải học hỏi, là chính các linh hồn. Các lá cũng nhiều như các linh hồn, và ở mỗi lá có nhiều tình cảm, nhiều đam mê qúa khứ, hiện tại và đang phôi thai. Vì vậy phải có sự nghiên cứu liên tục, chăm chú suy gẫm, kiên nhẫn, bền bỉ, can đảm, để biết săn sóc các vết thương hôi thối nhất, để băng bó cho nó mà không bày tỏ sự ghê tởm làm nhục cho kẻ đã đau khổ vì nó, và không được thương xót cách gỉa dối để không làm bẽ mặt, bằng cách khám phá được các vết hôi thối mà không thanh tẩy, vì sợ làm đau cho phần tử hư thối, và để nó hư hỏng, làm thối nát toàn bộ vật thể; đồng thời phải khôn ngoan để không làm trầm trọng hơn các vết thương của tâm hồn bằng những phương cách qúa cứng cỏi, và để không bị nhiễm độc khi tiếp xúc
với nó, và khi muốn tỏ ra rằng mình không sợ bị ô nhiễm khi liên lạc với người tội lỗi.
123
Tất cả những nhân đức cần thiết cho ông thầy và vị lương y của các linh hồn này, nó ở đâu? Ánh sáng của nó ở đâu để có thể thấy và hiểu? Ở đâu, sự kiên nhẫn đôi khi phải anh hùng để kiên trì, mặc dầu sự lạnh nhạt, đôi khi cả các xúc phạm; sự can đảm để săn sóc một cách khôn ngoan, sự thận trọng để không làm hư hại cho bệnh nhân và cho chính mình... chúng ở đâu? Ở trong tình yêu, luôn luôn ở trong tình yêu. Chính tình yêu ban ánh sáng cho mọi sự. Nó ban khôn ngoan, can đảm, thận trọng. Nó đề phòng cho khỏi các tò mò có thể bắt bẻ các lỗi đã được chữa lành. Khi một người hoàn toàn là tình yêu thì không một ước muốn hay một hiểu biết nào khác ngoài tình yêu có thể vào trong nó. Các con thấy không? Các thầy thuốc nói rằng khi một người bệnh yếu liệt sắp chết vì một chứng bệnh, thì nó không thể nhiễm độc hơn nữa, hoặc nhiễm thêm một cách khó khăn, vì trong máu nó đã có bệnh, và bệnh này thắng chất độc mới. Ý tưởng này không hoàn toàn đúng, nhưng nó không hoàn toàn sai. Nhưng tình yêu, thay vì là căn bệnh, nó là sức khỏe. Nó làm điều các thầy thuốc nói, và chữa cho hết các đam mê không tốt. Kẻ yêu Thiên Chúa và tha nhân cách mạnh mẽ thì không thể làm điều gì gây đau khổ cho Thiên Chúa và anh em. Vì vậy, dù tới gần các bệnh nhân về tâm hồn và biết được những điều mà cho tới lúc này, tình yêu vẫn còn giữ kín, nó cũng không hư hỏng, vì nó trung thành với tình yêu, và tội lỗi không thể vào trong nó. Các con nghĩ giác quan là gì đối với kẻ đã thắng các giác quan bằng tình bác ái? Của cải là gì đối với kẻ đã tìm thấy kho tàng của nó trong tình yêu Thiên Chúa và các linh hồn? Thức ăn ngon, tính hà tiện, sự cứng lòng tin, sự lười biếng, sự kiêu căng là gì đối với kẻ chỉ ước ao Thiên Chúa, đối với kẻ đã cho đi chính mình, cả đến chính mình, để phụng sự Thiên Chúa, đối với kẻ tìm thấy mọi điều lành của nó trong đức tin; đối với kẻ bị thiêu đốt bởi ngọn lửa luôn luôn hoạt động của đức ái, làm việc không biết mệt để kiếm niềm vui cho Thiên Chúa; đối với kẻ biết Thiên Chúa - Yêu Người tức là biết Người - và không thể kiêu hãnh nữa, vì nó biết nó là gì so với Thiên Chúa.
124
Một ngày kia các con sẽ là các linh mục của giáo hội Thầy, vậy các con sẽ là các bác sĩ, các vị thầy của các linh hồn, các con hãy nhớ lại những lời này mà Thầy nói với các con. Sẽ không phải cái tên các con mang, cũng không phải y phục các con mặc, cũng không phải công việc các con thi hành, làm cho các con thành những linh mục, tức là các vị thừa hành của Đức Kitô, vị thầy và bác sĩ của các linh hồn, nhưng là tình yêu mà các con có sẽ làm cho các con thành những linh mục. Tình yêu sẽ cho các con tất cả những gì cần thiết để làm. Và các linh hồn, tuy hoàn toàn khác nhau, sẽ tiến tới một sự giống nhau duy nhất: Giống Chúa Cha, nếu các con biết làm việc với họ bằng tình yêu.
- Ôi! Một bài học hay chừng nào! Thầy ơi! - Gioan nói.
- Nhưng chúng con, chúng con không bao giờ tới được điểm như vậy - Abel thêm.
Giêsu nhìn người nọ rồi nhìn người kia, Người quàng hai cánh tay quanh cổ hai người và kéo họ sát vào Người, một ở bên phải, một ở bên trái, Người đặt trên mỗi mái tóc một cái hôn và nói: “Các con sẽ tới được, vì các con đã hiểu tình yêu”.
Họ đi một lúc nữa. Con đường càng lúc càng khó đi, vì nó hầu như được đẽo vào sườn núi. Ở bên dưới rất xa, có một con đường mà họ nhìn thấy người qua lại.
- Thầy ơi, chúng ta dừng lại đây. Thầy thấy ở đàng kia, từ tảng đá bằng, hai người đang thả một cái rổ buộc vào sợi giây xuống cho người qua lại. Ở bên kia tảng đá bằng là hang của họ. Bây giờ con gọi họ - Rồi tiến lên, anh ta hô một tiếng gọi trong khi Giêsu và Gioan ở lại phía sau, bị các cây rậm che khuất.
Một lát sau, một khuôn mặt... chúng ta gọi là khuôn mặt vì nó ở trên đỉnh một thân mình... nhưng cái đó cũng có thể gọi là cái mõm, một quái vật, ác mộng... xuất hiện ở bên trên một khóm dâu.
- Anh đó à? Nhưng anh không đi Lễ Lều sao?
- Tôi tìm thấy Thầy nên tôi quay trở lại. Người đang ở đây!
Nếu Abel đã nói: “Jêova ngự ở trên đầu các anh”, thì rất có lẽ tiếng kêu, cử chỉ, sự nồng nhiệt của hai người cùi sẽ bớt thình lình
125
và ít kính trọng hơn - Vì trong khi Abel nói thì người thứ hai cũng tới - Họ qùi phập trên mặt bằng, dưới mặt trời, sấp mặt xuống đất và kêu: “Lạy Chúa, chúng con đã phạm tội, nhưng lòng thương xót của Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng con!” Họ kêu mà cả đến không chắc là có thực Giêsu ở đó không, hay là Người còn ở xa, hay Người đang tiến về phía họ. Đức tin của họ tới cỡ làm họ nhìn thấy, cho dù con mắt họ, vì các vết thương trên mu mắt, chắc chắn không nhìn thấy Người.
Giêsu tiến lên trong khi họ nhắc lại: “Lạy Chúa, tội của chúng con không đáng tha, nhưng Chúa là Tình Thương! Lạy Chúa Giêsu, nhân danh Chúa, xin cứu chúng con. Chúa là tình yêu, và Chúa có thể thắng sự công bằng”.
- Ta là tình yêu, đúng vậy, nhưng ở bên trên Ta còn có Chúa Cha, và Người là đấng công thẳng - Giêsu nói cách nghiêm nghị khi Người tiến lên trên đường mòn cùng với Gioan.
Hai người ngẩng khuôn mặt biến dạng lên và nhìn Người qua làn nước mắt chảy lẫn với những hư thối. Hai khuôn mặt trông dễ sợ! Ai gìa? Ai trẻ? Ai là người đầy tớ? Ai là Aser? Không thể nói được. Bệnh hoạn đã làm họ nên giống nhau bằng cách biến họ thành hai hình thể ghê gớm gây nôn mửa.
Giêsu đứng ở giữa lối đi, mặt trời bao trùm Người bằng các tia nắng của nó và làm chói sáng làn tóc hoe vàng của Người. Người xuất hiện với họ thế nào, tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng họ nhìn Người, rồi che mặt và rên rỉ: “Jêova! Ánh Sáng!” Nhưng rồi họ lại kêu: “Chúa Cha đã sai Ngài để cứu, Người gọi Ngài là Lòng Nhân Ái của Người, Người thỏa thích ở trong Ngài, Người sẽ không từ chối việc Ngài ban ơn tha thứ cho chúng con”.
- Sự tha thứ hay sức khỏe?
- Sự tha thứ - một người kêu; và người kia: “...Và rồi sức khỏe. Mẹ con đang chết vì buồn là tại con”.
- Nếu Thầy tha cho các con, cũng vẫn luôn luôn còn công lý của loài người, nhất là đối với con. Vậy sự tha thứ của Thầy có giá trị gì để làm cho mẹ con được sung sướng đâu? - Giêsu thử để làm cho
126
họ nói ra những lời Người chờ đợi để thi hành phép lạ.
- Nó có giá trị. Bà là người Israel thực sự, và bà muốn lòng Abraham cho con. Và nơi này không phải là chỗ người ta chờ đợi Nước Trời, vì con đã qúa phạm tội!
- Qúa! Con đã nói đúng.
- Qúa!... Đúng vậy... Nhưng Thầy... Ôi! Bữa hôm đó có mẹ Thầy... Bây giờ mẹ Thầy đâu? Bà đã thương mẹ của Abel. Con đã nhìn thấy. Nếu bây giờ bà nghe thấy, bà sẽ thương cho mẹ của con. Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương, nhân danh mẹ Ngài!...
- Sau đó các con sẽ làm gì?
- Sau đó à? - họ nhìn nhau sợ hãi: Sau đó sẽ là sự luận phạt của loài người, sẽ là sự khinh bỉ, trốn tránh, lưu đày. Trước viễn ảnh được chữa lành, họ run sợ tựa như họ bị mất phần rỗi.
Con người bám lấy sự sống chừng nào! Hai người nghĩ tới cảnh khó xử: Được lành rồi nhận sự trừng phạt của loài người, hoặc là sống với bệnh cùi. Và hầu như họ thích sống với bệnh cùi hơn. Họ nói điều đó, họ thú nhận điều đó bằng các lời: “Sự gia hình qúa dễ sợ!” Nhất là người mà tôi hiểu đó là Aser, một trong hai kẻ sát nhân, đã nói câu đó.
- Nó dễ sợ, nhưng ít nhất, nó là sự công bằng. Còn các ngươi, các ngươi đã làm điều đó cho kẻ vô tội này. Ngươi, vì một mục đích ám muội, còn ngươi, vì một chút tiền.
- Đúng vậy, ôi Thiên Chúa của con! Nhưng anh ta đã tha thứ, xin Ngài cũng tha thứ, xin Ngài cũng tha thứ. Vậy chúng con sẽ chết, nhưng tâm hồn chúng con được cứu thoát.
- Bà vợ của Joel đã bị ném đá như người ngoại tình. Bốn đứa con sống trong sự quẫn bách với mẹ bà, vì các anh em của Joel đã đuổi chúng như các con ngoại hôn để chiếm gia tài của anh họ. Các ngươi có biết không?
- Abel đã kể cho chúng con.
- Và ai sẽ cứu trợ cho sự khốn khó của chúng? - Giọng nói của Giêsu vang như tiếng sấm. Đúng là tiếng nói của Thiên Chúa phán xét, và nó dễ sợ. Một mình dưới mặt trời, đứng thẳng, cứng ngắc. Một dung nhan thật đáng sợ. Hai kẻ nhìn Người kinh hoàng. Chắc
127
chắn mặt trời nung nấu các vết thương của họ, nhưng họ không nhúc nhích, cũng như Giêsu không nhúc nhích, dù mặt trời bao phủ Người. Các yếu tố đều mất sức mạnh của nó trong những giờ này của linh hồn...
Sau một lúc, Aser nói: “Nếu Abel hoàn toàn thương tôi, xin anh về tìm mẹ tôi và nói với bà rằng Thiên Chúa đã tha cho tôi và...”
- Ta, Ta chưa tha mà!
- Nhưng Ngài sẽ tha, vì Ngài nhìn thấy qủa tim của con... Và anh sẽ nói với bà rằng hãy cho các con của Joel tất cả những gì thuộc về tôi, theo ý muốn của tôi. Dù tôi chết hay tôi sống, tôi từ bỏ những của cải đã làm cho tôi sa đọa.
Giêsu mỉm cười. Người biến hình trong nụ cười của Người, làm Người chuyển từ khuôn mặt nghiêm khắc qua một dung nhan đầy tình thương. Và với một giọng đã hoàn toàn biến đổi, Người nói: “Thầy nhìn thấy qủa tim các con. Các con hãy đứng dậy. Hãy nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để chúc tụng Người. Hãy xa cách với thế giới như các con đang làm lúc này. Các con có thể ra đi mà thế giới không dò hỏi gì tới các con. Và thế giới chờ các con để cho các con khả năng để chịu đựng và đền tội”.
- Lạy Chúa, Thầy cứu chúng con à? Thầy tha cho chúng con? Thầy chữa chúng con?
- Ừ, Thầy để lại sự sống cho các con, vì đời sống là một đau khổ, nhất là đối với những người có những kỷ niệm như các con. Nhưng bây giờ các con không thể ra khỏi đây. Abel phải đi với Thầy. Anh ấy phải đi Jêrusalem như mọi người Hy-Bá. Hãy chờ ngày anh ấy trở lại: nó sẽ trúng vào ngày các con được khỏi. Anh sẽ lo cho các con, dắt các con tới thầy cả và báo tin cho mẹ con. Thầy sẽ bảo Abel những gì phải làm và phải làm cách nào. Các con có thể tin vào lời Thầy dù Thầy ra đi mà không chữa các con không?
- Lạy Chúa, có. Nhưng xin nhắc lại cho chúng con rằng Chúa tha cho tâm hồn chúng con. Điều đó được rồi, sau đó, tất cả sẽ xảy ra như Chúa muốn.
- Thầy tha cho các con. Hãy sinh lại với một tâm hồn mới, và hãy có thiện chí không phạm tội nữa. Các con hãy nhớ rằng để
128
thêm vào việc xá giải tội lỗi, các con phải làm tròn các hành vi công bằng được dùng để hủy bỏ hoàn toàn các nợ nần của các con trước mắt Thiên Chúa, và bởi vậy, sự sám hối của các con phải liên tục, vì món nợ của các con nó lớn, rất lớn! Cách riêng là con, các món nợ của con nó liên can tới hết mọi giới răn của Thiên Chúa. Hãy nghĩ tới đó và con sẽ thấy là con đã không chừa ra một giới răn nào: Con đã quên Thiên Chúa, con đã coi các giác quan là thần tượng của con. Con đã làm các ngày lễ thành những ngày nhàn cư cuồng loạn. Con đã xúc phạm và làm nhục cho mẹ con. Con đã hợp tác với kẻ sát nhân và làm theo ý muốn của kẻ sát nhân. Con đã ăn cắp sự sống và muốn ăn cắp một người con của một người mẹ. Con đã làm cho bốn đứa trẻ mất cha mất mẹ. Con đã dâm đãng, con đã làm chứng gian, con đã ước muốn một cách dâm đãng người đàn bà trung thành với người chồng qúa cố của bà. Con đã ước muốn những thứ thuộc về Abel tới nỗi muốn loại trừ Abel để xâm chiếm của cải của nó.
Aser rên rỉ ở mỗi sự xác nhận: “Đúng vậy, đúng vậy”.
- Như con đã thấy, Thiên Chúa đã có thể biến con thành tro mà không cần phải dùng tới hình phạt của loài người. Nhưng Người đã tránh nó cho con, để Thầy, Thầy có thể cứu giúp thêm một người nữa. Nhưng con mắt Thiên Chúa canh chừng trên con, và sự thông minh của Người vẫn nhớ. Đi đi - và Người trở lưng để lại chỗ Abel và Gioan đang đứng dưới bóng của một cây ở sườn núi.
Hai người vẫn còn dị dạng. Có lẽ họ mỉm cười. Nhưng ai có thể nói một người cùi mỉm cười khi nào? Với giọng nói đặc biệt của người cùi, chói tai, giọng mũi không liên tục, và thình lình đổi giọng khi Giêsu xuống núi bằng lối mòn dốc kinh sợ, họ xướng thánh vịnh 114.
- Họ sung sướng - Gioan nói.
- Tôi cũng vậy - Abel nói.
- Con tưởng là Thầy chữa họ ngay lập tức - Gioan lại nói.
- Con cũng nghĩ vậy, giống như Thầy luôn luôn làm.
- Đó là những đại tội nhân. Sự chờ đợi này là chính đáng đối với
129
những kẻ đã qúa phạm tội. Bây giờ hãy nghe đây, Anania...
- Chúa ơi, con tên Abel mà! - người thanh niên ngạc nhiên và anh nhìn Giêsu như tự hỏi: “Sao Người lại lộn được?”
Giêsu mỉm cười: “Đối với Thầy thì con là Anania, bởi vì thực sự con được sinh ra bởi lòng nhân từ của Chúa. Hãy như vậy càng ngày càng hơn, và hãy nghe đây: Khi trở về sau lễ Lều, con sẽ về thành phố của con để nói với bà mẹ của Aser làm điều con bà muốn, và làm mau hết sức có thể, bằng cách cho đi để sửa chữa, tất cả, trừ một phần mười. Điều đó là vì thương bà mẹ gìa. Bà sẽ cùng với con bỏ Bétlem thuộc Galilê để đi Ptolêmai gặp con bà. Nó và bạn nó sẽ gặp bà cùng với con. Con, sau khi đã gởi bà vào nhà của một môn đệ trong thành phố, con sẽ đi lấy những gì cần cho việc thanh tẩy của các người cùi, và con sẽ không rời họ cho tới khi mọi việc đều xong. Vị thầy cả phải là người không biết qúa khứ của họ, một người thuộc miền khác.
- Rồi sau đó?
- Sau đó, con trở lại nhà con, hoặc con phối hợp với các môn đệ. Còn họ, một khi được chữa lành, họ sẽ đi vào con đường đền tội. Thầy nói những điều cần thiết, rồi Thầy để cho người ta tự do hành động...
Họ xuống dốc, xuống dốc không biết mệt, mặc dầu con đường khó đi và sức nóng của mặt trời... Không biết mệt, nhưng trong yên lặng một lúc lâu.
Rồi Abel phá sự yên lặng để nói: “Chúa ơi, con có thể xin Thầy một ơn không?”
- Ơn gì?
- Để cho con về thành phố của con. Con tiếc vì phải rời Thầy. Nhưng bà mẹ này...
- Đi đi, nhưng đừng chậm. Con chỉ có vừa đủ giờ để tới Jêrusalem.
- Cám ơn Chúa. Con chỉ đi tìm có bà thôi. Bà già tội nghiệp, phải xấu hổ vì tất cả từ khi Aser phạm tội. Nhưng bà sắp có nụ cười. Con phải nói gì với bà nhân danh Thầy?
- Nói rằng nước mắt và lời cầu nguyện của bà đã kéo được ơn
130
phúc, và Thiên Chúa khuyến khích bà trông cậy mỗi ngày một hơn, và Người chúc phúc cho bà. Nhưng trước khi rời nhau, chúng ta hãy nghỉ ngơi trong vòng một giờ, không lâu hơn. Đây không phải là lúc để nghỉ ngơi. Rồi con sẽ đi theo lối của con, Gioan và Thầy theo lối của chúng ta, và theo lối tắt. Và con, Gioan, con sẽ đi trước về nhà Mẹ Thầy, con mang cho mẹ giỏ quần áo vải gai và con sẽ trở lại với y phục bằng len. Con sẽ nói với Mẹ là Thầy muốn gặp Mẹ, và Thầy chờ mẹ trong rừng của Mathatia, rừng của bà vợ, con biết rồi. Chỉ nói với Mẹ thôi, rồi trở lại ngay.
- Con biết cái rừng ở chỗ nào rồi. Còn Thầy, Thầy ở lại một mình sao?
- Thầy ở lại với Cha Thầy. Đừng sợ - Giêsu nói khi giơ tay trên đầu người môn đệ ưu ái ngồi trên cỏ bên cạnh Người. Rồi Người mỉm cười nói với ông: “Nhưng chúng ta phải ở đó vào buổi chiều...”
- Thầy ơi, khi con được làm vui lòng Thầy, con không thấy mệt, Thầy biết đó. Và đi về nhà Mẹ Thầy!... Tựa như các thiên thần mang con đi vậy. Lại nữa, đâu có xa xôi gì.
- Không bao giờ xa, điều người ta làm với niềm vui... Nhưng con sẽ qua đêm ở Nazarét.
- Còn Thầy?
- Còn Thầy, Thầy sẽ ở với Cha Thầy sau khi đã ở với Mẹ Thầy một ít. Rồi Thầy sẽ lên đường vào lúc rạng đông để đi Tabor mà không vào Nazarét. Con biết rằng Thầy phải ở Jezrael vào rạng đông ngày mốt.
- Thầy ơi, Thầy sẽ rất mệt. Thầy đã mệt rồi.
- Chúng ta sẽ có giờ để nghỉ ngơi trong mùa đông. Đừng sợ, và đừng hy vọng có thể luôn luôn giảng Tin Mừng trong sự bình an như ở đây. Chúng ta sẽ gặp nhiều cấm cản... - Giêsu cúi đầu trầm ngâm trong khi nhai miếng bánh của Người và làm bạn với hai người kia. Họ ăn ngon miệng vì họ còn trẻ và sung sướng được ở với Thầy hơn là vì thèm ăn. Khi Người quên ăn và đắm chìm trong yên lặng thì hai người trẻ kính trọng và nín lặng nghỉ dưới bóng núi. Họ bỏ dép, để chân trần tìm được sự mát mẻ trong đám cỏ mọc ở gốc một cây
131
lớn, và họ thiu thiu ngủ. Nhưng Giêsu ngẩng đầu lên và nói: “Đi thôi. Tới ngã tư, chúng ta sẽ tạm biệt nhau”.
Sau khi đã xỏ xăng đan lại, họ lên đường. Bóng cây và gió bắc giúp họ mang sự nặng nề của giờ giấc hãy còn nóng, dù là không đến nỗi nung nấu như trong các tháng giữa mùa hè.
172* GIÊSU VÀ MẸ NGƯỜI
Ở TRONG RỪNG CỦA MATHATIA
Giêsu ở một mình trên cao nguyên hơi có dạng lòng chảo do sự dợn sóng nhẹ nhưng liên tục. Nó lên dốc ở sườn đồi, chắc chắn là các đồi bao quanh hồ Galilê, vì tôi nhìn thấy ở bên dưới, phía tay mặt, mầu xanh huy hoàng của nó đã bị tối mờ vì mặt trời đang lặn lấy mất của nó sự lấp lánh của các tia nắng. Ở sau lòng chảo về phía bắc là núi Arbêla, và bên kia là các núi cao hơn ở phía xa hồ, trên đó có thành Mêieron và Giscala. Ở xa về phía đông bắc là ngọn Đại Hermon mạnh mẽ và oai phong mà mặt trời đang lặn chiếu soi cách kỳ ảo các sườn dốc cao của nó, cho nó từ mầu ngọc vàng hồng ở phía tây thành mầu ngọc mắt mèo, trải ra trên cái sắc thái không thể định nghĩa được này một mầu xanh tuyết mà đôi khi tôi đã thấy trên các đỉnh của dẫy Alpes ở biên giới của chúng ta.
Tôi nhìn phía bắc, điều tôi thấy, vì tôi thấy dễ dàng: Bên phải, ở dưới thấp là cái hồ. Cao hơn là các đồi cản mắt không cho thấy đồng bằng ở bờ hồ. Nhưng nếu quay mặt về phía nam, tôi thấy núi Tabor. Ở bên ngoài là các đồi có sườn thoai thoải, chắc chắn đây là các đồi bao quanh Nazarét. Mãi dưới thấp có một thành phố nhỏ, gần một con đường đông người qua lại, nơi họ đang vội vã về nơi nghỉ ngơi ở giữa các chặng.
Giêsu không nhìn cái gì trong những thứ tôi nhìn. Người chỉ tìm một nơi để ngồi, và chọn nó ở gốc một cây sồi rất lớn mà các lá xanh đã bảo vệ cây cỏ ở dưới đất cho qua kỳ đại nhiệt, nên chúng còn tươi và rậm tựa như sức nóng đã không đi qua để thiêu đốt.
132
Như vậy Giêsu ngồi, trước mặt Người là cái hồ, bên cạnh là con đường mòn ở giữa các cây cao mà Người đã đi để lên, và ở phía bên kia là những miền dợn sóng ở phía bắc đồng cỏ lòng chảo và cánh rừng Người đang ngồi. Tất cả đều xanh tươi nhờ các cây sồi xanh và các loại cây khác mà lá tồn tại, không rụng vào mùa thu. Người ta chỉ thấy ở đó đây vài vết máu đỏ, đó là vài chiếc lá đổi mầu trước khi rụng, để nhường chỗ cho cái lá khác đã bắt đầu mọc ngay bên lá đang chết.
Giêsu, vẻ rất mệt mỏi, tựa lưng vào thân cây đồ sộ một lát, mắt nhắm, như để dưỡng sức. Nhưng rồi Người lại ngồi theo thói quen: tách rời thân cây, hơi nghiêng về phía trước, khửu tay trên đầu gối chân, hai cánh tay trước về phía trước, hai bàn tay đan các ngón vào nhau. Người suy nghĩ, chắc chắn Người cầu nguyện. Thỉnh thoảng, vì Người nghe thấy tiếng động - chim chóc đang tranh chấp để giành một chỗ qua đêm, vài con vật bò trong cỏ, làm rơi một cục đá dọc theo sườn dốc, một cành cây cà vào một cành khác khi có gió - Người ngước mắt lên, cái nhìn suy tư và chắc chắn không thấy gì, Người quay về phía tiếng động, nhất là khi nó đến từ con đường lên dốc băng qua các cây sồi xanh. Rồi Người lại cúi xuống để trầm tư một mình. Hai lần Người nhìn chăm chú vào cái hồ đã tối, rồi Người quay đầu nhìn về phía tây, nơi mặt trời đã biến mất sau các đồi cây cối rậm rạp. Lần thứ hai, Người thực sự đứng dậy và đi ra con đường mòn để nhìn xem có ai đang lên không, rồi Người lại trở về chỗ ngồi.
Sau cùng, đây, tiếng động của bước chân và hai khuôn mặt nhô lên: Maria mặc mầu xanh dương đậm, và Gioan xách giỏ. Gioan kêu hai lần: “Thầy ơi!” Và khi Giêsu vừa quay lại, ông thêm: “Mẹ Thầy đây”, và ông giúp Mẹ băng qua con suối nhỏ và các cục đá người ta đặt trên lối đi với mục đích làm cho chắc chắn và dễ dàng việc đi xuống và lên, nhưng thực tế, kết qủa là một cái bẫy cho các bàn chân đi dép.
Giêsu đứng dậy ngay để tới gặp Mẹ Người, và Người cùng với Gioan để giúp Mẹ bước lên khối đất lở ở sườn đồi, nhưng thực sự
133
toàn là rễ cây sồi ở đầy trong khối đất này. Bây giờ Maria được đỡ bởi Con Mẹ. Người quan sát Mẹ và hỏi: “Mẹ mệt?”
- Không đâu Giêsu - và Mẹ mỉm cười với Người.
- Trái lại, con thấy là mẹ mệt. Con tiếc là phải kêu Mẹ đến, vì con không thể về.
- Ôi, không sao đâu con. Mẹ chỉ hơi chảy mồ hôi, nhưng ở đây rất dễ chịu... Đúng ra là con mệt, và cả thằng Gioan tội nghiệp nữa...
Nhưng Gioan lắc đầu cười, để cái giỏ mới và đầy của Giêsu và giỏ của ông xuống trên cỏ, bên gốc cây sồi, rồi ông lui ra và nói: “Con đi xuống dưới. Con đã nhìn thấy một dòng suối nhỏ, con đi rửa ráy trong nước đó cho mát. Nhưng con sẽ nghe xem Thầy và Mẹ có gọi con không”. Và ông rút lui để cho hai người được tự do.
Maria nới áo khoác, bỏ khăn voan ra để lau mồ hôi điểm ngọc trên trán Mẹ. Mẹ nhìn Giêsu và mỉm cười với Người, và Mẹ uống nụ cười của Người, vì Người cũng mỉm cười với Mẹ trong khi vuốt ve bàn tay Mẹ và áp lên má Người để được mơn trớn. Thật qủa là con trong cử chỉ này của Người mà trước đây tôi đã được thấy một lần! Maria nhấc bàn tay ra và vuốt lại thứ tự mái tóc của Giêsu, nhặt đi cho Người những miếng vỏ cây nhỏ dính vào tóc. Mỗi cử động của bàn tay Mẹ là một vuốt ve âu yếm. Mẹ làm với một tình yêu bao la chừng nào! Mẹ nói: “Giêsu, con ướt mồ hôi. Vai áo khoác của con ướt như trời mưa trên đó. Nhưng bây giờ con có thể mặc một cái khác. Cái này Mẹ đem về. Nó bị bạc mầu vì mặt trời và cát bụi. Mẹ đã sửa soạn tất cả, và... chờ mẹ! Mẹ biết rằng con đã chỉ hơi ăn một tí: một tí bánh cũ với một nhúm oliu mặn tới nỗi nó cắn vào cổ họng. Chính Gioan đã nói với mẹ vậy. Khi nó tới nhà, nó chỉ có uống. Nhưng mẹ đã mang cho con bánh mới mẹ vừa lấy ra khỏi lò, và một tầng mật ong mà mẹ vừa lấy ngày hôm qua để cho các đứa nhỏ của Simon. Nhưng cho chúng nó thì mẹ có tầng khác. Con ơi, con ăn đi. Nó đến từ nhà mình đó...” Và Mẹ cúi xuống để mở giỏ: Ở bên trên các thứ khác là một cái rổ bằng mây đầy trái cây, ở bên trên có một tầng mật ong gói trong những lá nho
134
dài. Mẹ đưa tất cả cho Con Mẹ cùng với bánh mới ra lò còn dòn.
Trong khi Giêsu ăn, Mẹ kéo từ túi ra các quần áo mà Mẹ đã chuẩn bị cho các tháng mùa đông: bền chắc, ấm, có thể tránh được lạnh và nước. Mẹ dở ra cho Giêsu coi. Người nói với Mẹ: “Bao nhiêu là việc! Má à, con vẫn còn các quần áo của mùa đông năm ngoái mà...”
- Các ông, khi họ sống xa các bà vợ của họ, thì phải làm mới lại hết cho họ, để không có gì phải sửa chữa, và để được hoàn hảo. Nhưng mẹ đâu có phí phạm. Áo khoác của mẹ đây là áo của con, mẹ đã cắt ngắn bớt và nhuộm lại. Với mẹ thì nó còn coi được, nhưng với con thì không được nữa. Con là Giêsu!...
Để nói những gì chứa đựng trong câu này thì không thể: “Con là Giêsu”. Một câu nói đơn giản, nhưng là tất cả tình yêu của người mẹ, của người môn đệ, của người phụ nữ Israel xưa đối với Đấng Messi đã được hứa, và của người Israel trong thời gian hồng phúc được có Giêsu. Tất cả ẩn tàng trong mấy tiếng này. Nếu Mẹ đã qùi gối để thờ lạy Con Mẹ như Thiên Chúa, thì đó cũng chỉ là hình thức giới hạn trong việc biểu lộ kính trọng. Nhưng mấy lời này còn hơn là một việc thờ lạy của đầu gối gập lại, lưng cong xuống, trán chạm đất. Ở đó có tất cả những gì của thực thể Maria: xác thịt của Mẹ, linh hồn Mẹ, trái tim Mẹ, thần trí Mẹ, tình yêu Mẹ, tất cả đều thờ lạy Thiên-Chúa-Người một cách toàn bộ và trọn vẹn.
Tôi chưa bao giờ thấy sự gì cao cả hơn, tuyệt đối hơn là sự thờ phượng của Maria đối với Ngôi Lời của Thiên Chúa, là con Mẹ, nhưng là đấng Mẹ luôn luôn nhớ là Thiên Chúa. Không một người nào được Giêsu chữa lành hay cải hóa mà tôi thấy thờ phượng Đấng Cứu Tinh của họ, ngay cả nơi những người nhiệt thành nhất, ngay cả những người không chú ý diễn tuồng trong sự hăng say của tình yêu họ, cũng không có cái gì giống như ở đây. Họ yêu trọn vẹn, nhưng vẫn là tình yêu của một thụ tạo bị thiếu một cái gì để được hoàn hảo. Tôi dám nói: Maria yêu một cách Thiên Chúa. Mẹ yêu hơn là một thụ tạo. Ôi! Mẹ thực là con gái của Thiên Chúa, được miễn mọi tội lỗi. Bởi thế Mẹ có thể yêu như vầy!... Và tôi nghĩ tới điều con người đã bị mất với tội nguyên tổ... Tôi nghĩ tới
135
cái mà Satan đã ăn cắp của chúng ta khi nó lôi kéo các cha mẹ đầu tiên. Nó đã lấy của chúng ta cái khả năng yêu Thiên Chúa như Maria yêu... Nó đã lấy của chúng ta cái khả năng để yêu Thiên Chúa như phải yêu.
Trong khi tôi suy nghĩ và nhìn cái cặp trọn hảo này, thì Giêsu đã chấm dứt bữa ăn của Người. Người lết xuống để ngồi trên cỏ bên chân của Mẹ Người và tựa đầu vào đầu gối Maria như một đứa con mệt mỏi và buồn, tìm nương náu nơi người duy nhất có thể an ủi nó. Maria vuốt ve mái tóc Người, lướt tay qua vầng trán nhẵn của Giêsu. Tựa như Mẹ muốn làm cho chạy trốn đi tất cả những mệt mỏi, những đau khổ làm nặng lòng Giêsu của Mẹ bằng những vuốt ve này. Giêsu nhắm mắt lại và Maria ngừng vuốt ve, nhưng tay vẫn để trên mái tóc. Có lẽ Mẹ tin là Giêsu ngủ. Người qúa mệt... Nhưng Giêsu lại mở mắt ra ngay, Người thấy buổi tối đã tới. Người thấy rằng Người không được phép kéo dài cái giờ an ủi này. Lúc đó Người ngẩng đầu lên, nhưng vẫn ngồi tại chỗ, và Người nói: “Má à, Má biết con ở đâu tới không?”
- Má biết. Gioan đã nói với Má. Hai linh hồn trở về với Thiên Chúa, một niềm vui cho Con và cho Má.
- Đúng, với niềm vui này, con đi Jêrusalem.
- Để con tự khích lệ vì thất vọng con đã có ngay vào ngày chúng ta rời nhau.
- Làm sao Má biết? Gioan đã nói điều đó với Má à? Chỉ một mình nó biết...
- Không. Má đã hỏi nó, nhưng Gioan đã trả lời Má: “Mẹ ơi, Mẹ sắp gặp Người rồi. Mẹ hãy hỏi Người điều đó”.
Giêsu mỉm cười nói: “Gioan trung thành cách tỉ mỉ”. Nghỉ một lát, rồi Giêsu hỏi: “Vậy ai nói việc đó với Má?”
- Không phải với Má. Có những người đến nhà Giuse, anh con. Rồi... nó đến nhà Má. Nó vẫn còn hơi... Đúng, con ơi, tốt hơn là nên nói sự thật: nó còn hơi bực tức sau cuộc gặp gỡ với con ở Caphanaum, và đăc biệt là sau cuộc nói chuyện với Juđa và Giacôbê. Chúng đã gặp nhau khi con vắng mặt. Và cả Giacôbê, hay nói đúng
136
hơn thì: nhất là Giacôbê, đã khắt khe... rất... má nói là qúa. Nhưng Thiên Chúa luôn luôn nhân từ, đã rút ra điều lành từ sự bất bình nhẹ nhàng này. Chắc chắn đó là sự bất bình gây ra bởi hai nguồn tình yêu thực sự khác nhau, nhưng luôn luôn là tình yêu. Thực sự thì nó bất toàn, vì nếu nó hoàn toàn, ít nhất là nơi một trong hai người, thì nó không gây ra bực tức.
Nói rằng bực tức thì có lẽ nó qúa mạnh để đặt tên cho tình trạng tâm hồn của Giacôbê. Nhưng chắc chắn là nó đã nghiêm khắc... Chắc chắn con đã nhắc nhở nó về đức bác ái. Má... má không chấp nhận như vậy, nhưng má thương xót, vì má biết cái gì đã làm cho Giacôbê bực tức đến thế, trong khi nó là người luôn luôn nhẫn nại. Người ta không thể đòi hỏi nó phải trọn lành... Đó là một người. Nó cũng còn rất người. Ôi! Còn nhiều đường đất phải đi để Giacôbê tới được chỗ công chính như Giuse của Má. Người... luôn luôn trấn tĩnh... và luôn luôn tốt... Nhưng má lạc đề! Má nói về tình yêu bất toàn của hai người đối với con. Qủa thật họ yêu con, ôi! Rất nhiều, cả Giuse, mặc dầu điều đó có vẻ không đúng khi thoạt nhìn. Nhưng đó là tình yêu đối với con. Tất cả những săn sóc nó làm cho người đàn bà tội nghiệp này đều là tình yêu đối với con. Cái lối suy nghĩ theo người Israel cổ xưa của nó dính chặt vào tư tưởng của nó cũng như cha nó. Có cái gì mà nó không cho để thấy con được mọi người yêu! Theo cách của nó... đương nhiên... Nhưng, để đi tới sự việc thì má phải nói với con rằng Giuse, mà thái độ quả quyết của Giacôbê cũng không làm hại cho nó, đã bắt đầu tới nhà má mỗi ngày. Con biết tại sao không? Để má giải thích Thánh Kinh cho nó “như cô và con cô hiểu”, nó nói với má. Cắt nghĩa Kinh Thánh trong ánh sáng của chân lý!... Thật là khó khi người nghe là một Giuse con Alphê, tức là một người tin mãnh liệt vào sự trị vì tạm thời của Đức Messi, vào sự sinh ra vương giả của Người, và vào bao nhiêu điều khác nữa.
Nhưng để làm cho nó chấp nhận tư tưởng rằng Vua Israel phải là từ chồi vương giả, dòng dõi Đavít, đúng, nhưng không cần thiết là Người phải sinh ra trong đền vua, má đã dùng ngay chính sự kiêu
137
căng của nó. Nó... Ôi! Nó quan tâm đến việc thuộc dòng dõi Đavít chừng nào! Má đã nhẹ nhàng nói với nó biết bao điều... và tư tưởng này má khơi lên trong nó. Bây giờ nó nhận con là người đã được loan báo, phù hợp với các lời tiên tri. Nhưng má không thành công, ôi! không, má không thành công để thuyết phục nó rằng con, rằng sự cao cả thực sự của con, chính là sự kiện làm Vua Thần Trí, điều duy nhất có thể làm cho con thành vị Vua Phổ Quát và Vĩnh Cửu, nếu không có hai lần người ta đến tìm nó... Những người lần đầu là các người Caphanaum và những người khác cùng với họ, sau khi lôi kéo nó bằng những lời hứa huy hoàng về sự lớn lao cho cả gia đình, họ thấy nó không sẵn sàng nhượng bộ có lợi cho họ - họ đã quyết định ép buộc con, và ép buộc má làm cho con chấp nhận một triều thiên - họ tự phản bội khi chuyển qua đe dọa... Các đe dọa theo thói quen họ thường dùng: dao sắc bọc len mềm để có vẻ không nguy hại... Giuse đã phản ứng bằng cách nói với họ: “Tôi là người lớn nhất, nhưng nó đã trưởng thành, và trong gia đình chúng tôi, tôi thấy là không bao giờ có đứa ngu hay đứa điên. Vì nó đã trưởng thành từ bốn cái ngũ niên rồi, nó biết điều nó làm. Vậy hãy đi hỏi nó, nếu nó từ chối thì hãy để cho nó yên. Nó chịu trách nhiệm về các hành vi của nó”.
Nhưng sau đó, và chính xác là buổi tối áp ngày Sabát, họ tới, trong số đó có các môn đệ của con... Con nhìn má à? Hãy cho phép má không nói tên họ. Nhưng cũng hãy cho phép má xin con tha cho họ... tha cho một đứa con đã giơ tay trên đầu tóc trắng của cha nó, cho một thầy Lêvi đã tục hóa bàn thờ. Nếu họ biết sợ cơn giận của Jêova thì họ đã không như vậy. Họ đến từ Caphanaum, nơi họ tìm con... rồi họ đi theo bờ hồ, từ Caphanaum tới Magđala, rồi tới Tibêriat, hy vọng gặp con. Họ gặp Hermas và Étienne đang đi xuống Jêrusalem với những người khác, sau khi đã là khách của Gamaliel trong mấy ngày. Má không muốn nói điều họ đã nói, điều họ muốn nói với con, và họ nôn nóng muốn nói với con. Nhưng các lời của họ đã làm gia tăng nỗi khổ của các môn đệ đã lạc đường tới nỗi kết hợp với những kẻ muốn phản con bằng một sự xức dầu lừa đảo. Khi
138
họ tới thì Giuse đang ở nhà má, và điều đó là may mắn. Ôi! Giuse chưa đến với ánh sáng, nhưng nó đã ở vào lúc chớm nở của rạng đông. Giuse đã hiểu cái bẫy, và... Giuse của chúng ta, bây giờ nó yêu con nhiều hơn. Nó yêu con, má không dám nói một cách chính xác, nhưng ít nhất, như một anh cả, nó khổ cái khổ của con, nó canh chừng để giữ gìn con, nó biết các kẻ thù của con...
Đó là tại sao má biết điều họ đã làm cho con, con má. Một nỗi đau... và một niềm vui, bởi vì thêm được một người nữa biết con là gì. Nỗi đau và niềm vui này dành cho con và cho má. Và chúng ta tha thứ cho tất cả, phải không? Má, má đã tha cho những kẻ sám hối, trong phạm vi má được phép.
- Má ơi, má có thể tha thứ cho tất cả, kể cả con, vì con, con đã tha thứ khi nhìn thấy con tim họ. Đó là các con người... má đã nói đúng!... Nhưng con cũng được niềm vui khi thấy Giuse tiến về rạng đông của ánh sáng thực...
- Ừ, nó ước ao gặp con. Con gặp nó thì rất tốt. Hôm nay nó vắng mặt cho tới lúc mặt trời lặn, và nó sẽ khổ vì không gặp được con. Nhưng nó có thể gặp ở Jêrusalem.
- Không, má ơi, con sẽ không ở lại Jêrusalem theo kiểu để được nhìn thấy. Con cần giảng Tin Mừng cho kinh thành và vùng phụ cận, nhưng người ta sẽ đuổi con ngay nếu họ khám phá ra con. Vì vậy con phải hành động tựa như kẻ làm điều xấu trong khi con làm điều tốt... Nhưng như vậy đó.
- Vậy là con sẽ không gặp Giuse? Ngày mai nó sẽ khởi hành để đi Lễ Lều. Các con có thể cùng đi với nhau.
- Con không thể...
- Tức là chúng đã bách hại con tới điểm này rồi sao, con má? - biết bao lo lắng trong tiếng nói của người mẹ.
- Không, má à, không. Không hơn lúc trước. Má hãy an lòng. Và cả đến... có những tâm hồn tốt đến với con. Những người khác không tốt thì dừng lại để suy nghĩ, trong khi trước đây thì chúng tấn công không lý lẽ. Các môn đệ cũng tăng số. Những người cũ thì càng ngày càng được đào tạo. Các tông đồ đều tiến bộ. Con không
139
nói tới Gioan, nó luôn luôn là một ân huệ mà Chúa Cha ban cho con. Nhưng con nói về Simon Jonas và các người khác. Simon là người con có thể nói rằng ông cải biến từng ngày một. Từ một người, ông trở thành tông đồ, và má biết con muốn nói gì. Và ông cho con biết bao niềm vui. Và Natanael, và Philíp, biết cởi bỏ những sợi giây trong ý tưởng của họ. Và Tôma, và... Nhưng con nói gì! Tất cả, vâng, má tin đi. Vào giờ này, tất cả đều tốt: niềm vui của con. Má hãy an lòng khi biết rằng con ở với họ, họ là bạn hữu, người an ủi, người bảo vệ của con má. Má có thể được yêu mến và bảo vệ như vậy không?
- Ôi! Má thì má đã có Maria, má có các bà vợ của Giuse và Simon, chính họ và các con cái họ. Má có Alphê dễ thương. Lại nữa, ở Nazarét, ai mà không yêu Maria Nazarét? Con cứ an tâm... tất cả làng đều yêu má của con.
- Nhưng họ chưa yêu con, ngoại trừ vài người. Con biết. Và con biết rằng tình yêu của họ đối với má thấm đẫm sự thương hại mà người ta có đối với bà mẹ của một thằng điên, một đứa lang thang. Nhưng má biết rằng con không phải vậy, và con yêu má. Má biết rằng việc xa cách má là việc vâng lời, con không nói là việc vâng lời lớn nhất, nhưng là đau đớn tha thiết nhất mà Chúa Cha đòi ở con...
- Đúng, con má! Đúng, má biết. Má không hề phàn nàn điều gì cả. Chắc chắn là má muốn, má thích ở với con hơn, trong bùn lầy, trong gió, dưới các vì sao đẹp, bị bách hại, bị mệt mỏi, không mái nhà, không lửa ấm, không bánh ăn, như con đã từng bao lần như vậy, thay vì được ở trong nhà mình. Khi con ở xa, má nghĩ tới con, má không biết con ra sao. Con ở với má, má ở với con thì con sẽ bớt khổ hơn, và má, má bớt khổ hơn. Bởi vì con là con má, và má luôn luôn có thể ẵm con trong tay, bảo vệ con cho khỏi lạnh, khỏi sự cứng rắn của đá, nhất là sự cứng rắn của các con tim, bằng tình yêu của má, trên lòng má, trong cánh tay má. Con là con má, má đã từng ấp con trên trái tim má trong hang đá, trong cuộc hành trình qua Ai-Cập, lúc trở về, luôn luôn, khi thời tiết khắc nghiệt hay loài
140
người có thể làm hại cho con. Tại sao bây giờ má lại không thể làm? Có lẽ bây giờ má không còn là má con nữa, bởi vì con đã là một người đàn ông rồi sao? Vậy có lẽ một bà mẹ không còn là tất cả cho con bà nữa, bởi vì nó không còn nhỏ nữa sao? Má nghĩ rằng nếu má ở bên con, họ không thể làm khổ cho con... vì không có ai... không, má ngu qúa!... Con là Đấng Cứu Thế... và má đã thấy, người ta không có tình thương cả đến với chính mẹ họ... Nhưng hãy để má đến gần con, tất cả sẽ tốt cho má hơn là ở xa.
- Nếu người ta đã tốt hơn thì con sẽ còn có thể trở về Nazarét. Nhưng kể cả Nazarét... Không sao. Họ sẽ đến với con. Lúc này con đến với những người khác... và con không thể mang má đi theo với con. Con sẽ không trở lại đây nữa cho đến khi họ biết con là ai. Bây giờ con đi Juđê... Con lên Đền Thờ... Rồi con sẽ ở lại trong miền đó... Con sẽ còn ghé qua Samari một lần nữa. Con sẽ làm việc ở nơi nào có nhiều việc nhất để làm. Cũng vậy, ôi má ơi, con khuyên má nên chuẩn bị để đến với con vào đầu mùa xuân và hãy cư ngụ ở gần Jêrusalem, chúng ta sẽ gặp nhau dễ hơn. Con sẽ còn lên tới tận miền Thập Tỉnh vài lần nữa, và chúng ta sẽ còn gặp nhau... con hy vọng vậy. Nhưng thường thường con sẽ ở Juđê. Jêrusalem là con cừu cần được săn sóc nhất, vì thật vậy, nó cứng đầu hơn một con cừu già, và hay gây lộn hơn một con dê rừng. Con sẽ tung vãi Lời ở đó như hạt sương không mệt mỏi rơi xuống nơi khô cằn...
Giêsu đứng lên, ngừng nói và nhìn mẹ Người. Mẹ cũng nhìn Người chăm chú. Người mở miệng, rồi Người lắc đầu và nói: “Còn phải nói điều này nữa trước việc sau cùng... Má à, nếu Giuse muốn nói với con thì vào rạng đông ngày mốt, nó hãy ở trên con đường dẫn từ Nazarét tới Jezrael qua lối Tabor. Con sẽ ở đó một mình, hoặc với Gioan”.
- Con ơi, má sẽ nói điều đó.
Một yên lặng, một yên lặng sâu xa, vì chim chóc đã ngừng cãi lộn trong các chòm lá và gió cũng ngừng thổi, trong khi hoàng hôn tối dần. Rồi tựa như Giêsu khó khăn để tìm ra những lời sau cùng, Người nói: “Má ơi, sự nghỉ ngơi đã chấm dứt. Một cái hôn đi má, và
141
phúc lành của má”. Hai người hôn nhau và chúc lành cho nhau.
Rồi Giêsu cúi xuống để lượm cái voan của mẹ Người và gọi Gioan, tựa như để làm cho các lời của Người bớt nghiêm trang, và Người nói: “Khi má đi Jêrusalem, hãy mang cho con những y phục đẹp nhất, cái mà má đã dệt cho các ngày lễ trọng. Tại Jêrusalem, con phải là Thầy theo nghĩa rộng nhất, và cả đến dễ cảm nhất đối với loài người, bởi vì các tâm hồn khép kín và giả hình nhìn bề ngoài, tức là y phục, nhiều hơn là nhìn bên trong: giáo lý. Và cả đến Judas Kêriot cũng sẽ bằng lòng... và cả Giuse cũng sẽ bằng lòng khi thấy con trong y phục vương giả. Ôi! Đó sẽ là một chiến thắng! Và y phục mà má đã dệt cũng sẽ góp phần...” Và Người mỉm cười lắc đầu để làm giảm nhẹ cái sự thật độc ác giấu ẩn trong các lời này.
Nhưng Maria không bị lừa. Mẹ đứng dậy, tựa vào cánh tay Giêsu và kêu lên: “Con ơi!” bằng một giọng tan nát làm tôi thấy đau lòng. Giêsu ghì chặt mẹ trên trái tim Người, và mẹ khóc ở trên đó.
- Má ơi, con đã muốn nói với má những điều này trong lúc bình an này. Con thổ lộ cho má bí mật của con và là điều chí thiết nhất đối với con trên trần gian này. Không một môn đệ nào biết rằng chúng ta không trở lại phía này nữa, trừ khi mọi việc đã được nên trọn. Nhưng má... với má thì không có bí mật... Con đã hứa vậy với má. Má à, đừng khóc. Chúng ta cũng còn nhiều giờ để ở bên nhau. Chính vì vậy mà con bảo má: “Hãy tới Juđê”. Việc có má ở bên cạnh con sẽ đền bù lại những mệt nhọc của việc rao giảng Tin Mừng khó khăn nhất cho các con tim chai đá, luôn luôn cản trở lời Thiên Chúa. Má hãy đến cùng với các nữ môn đệ người Galilê. Qúi vị sẽ rất hữu ích cho con. Gioan sẽ lo tìm chỗ trú cho má và các bà. Bây giờ, trước khi nó tới, chúng ta hãy cầu nguyện chung với nhau. Rồi má sẽ trở về làng. Con cũng sẽ đi về ban đêm.
Họ cầu nguyện chung, và Gioan xuất hiện trong bóng mờ vào những lời chót của kinh Lạy Cha. Khi lại gần, ông ngạc nhiên thấy những vệt nước mắt trên mặt Maria. Nhưng ông không nói gì về chúng. Ông chào Thầy và nói với Người: “Vào lúc rạng đông, con
142
sẽ ở trên con đường bên ngoài Nazarét... Đi, mẹ. Bên ngoài rừng trời còn hơi sáng, và ở dưới thấp, con đường được soi rõ bởi đèn của các xe qua lại...”
Maria lại hôn Giêsu nữa và khóc dưới khăn voan của mẹ. Rồi Gioan cầm ở khửu tay mẹ để giúp mẹ xuống con đường mòn, rồi xuống dưới thung lũng.
Giêsu ở lại một mình, cầu nguyện, suy nghĩ, khóc. Giêsu khóc khi nhìn mẹ Người xuống dốc. Rồi Người trở lại chỗ Người đã ngồi lúc trước, lấy lại vị trí của Người trong khi màn tối và sự thinh lặng càng lúc càng dầy ở chung quanh Người.
173* GIÊSU ĐÀM THOẠI VỚI GIUSE ALPHÊ
Mặt trời mới hơi lú lên trên thiên nhiên ẩm ướt vì một cơn mưa rào, chắc là mới rơi, vì bụi đường còn ẩm và không có bùn. Đó là tại sao tôi nói trời mới mưa, và đó chỉ là một cơn mưa rào, cơn mưa thu đầu tiên báo trước những trận mưa của tháng mười một, sẽ biến đường xá của Palestin thành những giải băng lầy nhầy bằng bùn. Nhưng trận mưa này nhẹ, có lợi cho khách du hành, nó chỉ làm ướt lớp bụi - một tai ách của Palestin trong những tháng mùa hè, cũng như bùn ở các tháng mùa đông - và thanh lọc không khí, rửa sạch lá, cỏ, làm chúng bóng láng dưới những tia đầu tiên của mặt trời. Một làn gió nhẹ và trong sạch thổi qua các vườn oliu bao phủ các ngọn đồi của Nazarét, tựa như đường bay rộng lớn của các thiên thần băng qua các cây cối bình an. Tiếng rì rào của các chòm lá nhắc nhở biết bao tới tiếng động của những đôi cánh lớn dao động trong đường bay, và chúng sáng loáng với ánh bạc của chúng, nghiêng hết về một phía, tựa như một giải sáng thiên đàng còn để lại sau đường bay thiên thần.
Giêsu đi theo đường tắt băng qua các ngọn đồi. Thành phố đã qua khỏi vài chặng khi Người đi vào con đường lớn dẫn từ Nazarét tới đồng bằng Esdrelon. Con đường của các đoàn du mục mỗi phút
143
một nhộn nhịp bởi các khách hành hương. Người đi vài chặng nữa tới chỗ con đường rẽ đôi. Bia đá của quân đội ở hai bên một chiếc cổng có đề: “Jafia Simonia - Bétlem Carmel” ở phía tây, và “Xalot - Naim Scythopolis - Engannim” ở phía đông. Ở đó, Giêsu nhìn thấy hai anh họ Giuse và Simon của Người cùng với Gioan Zêbêđê đang đứng ở bờ đường. Họ chào Người ngay.
- Bình an cho các anh! Các anh đã ở đây rồi? Tôi đang tính dừng lại đây để chờ các anh, vì tưởng mình sẽ là người đến trước... ai dè các anh đã ở đây - và Người hôn họ, rõ ràng là bằng lòng được gặp họ.
- Đời nào em đến trước được... Vì sợ em đi qua đây trước khi các anh đến, nên các anh đã ra đi dưới ánh sao. Chúng vừa bị mây che.
- Tôi đã nói với các anh là các anh sẽ gặp tôi mà! Vậy là con, Gioan, con đã không ngủ.
- Một tí thôi, nhưng chắc chắn luôn luôn là nhiều hơn Thầy, nhưng không sao cả - và khuôn mặt trong sáng của Gioan mỉm cười. Rõ ràng là tấm gương phản chiếu tính tình tuyệt vời của ông, luôn luôn bằng lòng với tất cả.
- Vậy, ông anh của tôi, anh muốn nói với tôi à? - Giêsu nói với Giuse.
- Ừ... Vào sâu trong vườn nho này tí đi. Chúng ta sẽ được yên tĩnh hơn - Và Giuse Alphê đi trước vào giữa hai hàng nho đã hái hết trái, chỉ còn sót lại trên cành vài chùm giữa các lá đã vàng và sắp sửa rụng, dành cho cơn đói của các người nghèo và các khách hành hương, theo các qui luật của Môise.
Giêsu theo ông cùng với Simon. Gioan ở lại trên đường, nhưng Giêsu gọi ông và nói: “Gioan, con có thể tới. Con là chứng nhân của Thầy”.
- Nhưng... - Vị tông đồ nói khi sững sờ nhìn hai người con ông Alphê.
- Ừ, ừ, mày cũng tới. Cả chúng ta cũng muốn mày nghe các lời của chúng ta - Giuse nói. Và lúc đó đến lần Gioan cũng vào vườn nho, và cùng nhau, họ đi sâu vào theo đường cong của các hàng
144
nho, cho tới chỗ mà từ trên đường, người ta không nhìn thấy họ nữa.
- Giêsu, anh sung sướng thấy rằng em yêu anh - Giuse nói.
- Và anh lại còn có thể nghi ngờ điều đó? Tôi đã chẳng luôn luôn yêu anh sao?
- Anh cũng vậy, anh luôn luôn yêu em. Nhưng... trong tình yêu của chúng ta, từ ít lâu nay, chúng ta không còn hiểu nhau nữa. Anh, anh không thể chấp nhận điều em làm, vì anh thấy đó sẽ là cái chết cho em, cho mẹ em và cho chúng ta. Em biết... chúng ta, tất cả những người gìa ở Galilê, chúng ta còn nhớ Juđa người Galilê đã bị đập tới cỡ nào, bà con và các môn đệ của ông bị phân tán, tài sản bị tịch thâu. Những người không bị giết thì bị đày đi khổ sai chung thân, và tài sản của họ bị xung công. Anh, anh không muốn việc đó xảy ra cho chúng ta. Chính vì... đúng, anh thấy như điều đó không thể là thực, là trúng ngay vào gia đình mình, dòng dõi Đavít, phải, nhưng như vậy... Chúng ta đâu có thiếu bánh ăn, điều đó thì không, và ngợi khen Đấng Tối Cao. Nhưng sự cao cả vương giả mà tất cả các tiên tri nói về kẻ sẽ là Đức Messi nó ở chỗ nào? Và em, em có là chiếc gậy để đánh mà cai trị không? Em không phải là ánh sáng khi em sinh ra. Cả đến em đã không sinh ra tại nhà em... Ôi! Anh biết rành các lời tiên tri. Chúng ta là những củi khô, nhưng không có điều nào nói rằng Chúa sẽ mặc cho nó những hoa lá. Và em, em là gì nếu không chỉ là một kẻ công chính?
Chính vì những tư tưởng này mà anh chiến đấu với em trong khi rên xiết vì sự tàn đời của chúng ta. Và trong khi anh rên xiết như vậy, thì đây, các kẻ dụ dỗ tới để làm cháy bùng thêm những tư tưởng của anh về sự cao cả, vương quyền... Giêsu, anh của em đã là thằng ngu. Anh đã tin họ và anh đã làm em phật ý. Thật gay go để thú nhận điều đó, nhưng anh phải nói. Và em hãy nghĩ rằng toàn thể Israel đều giống như anh, ngu đần như anh, chắc chắn như anh rằng: diện mạo của Đức Messi không phải là những điều mà em cho chúng ta. Thật khó lòng để nói: “Tôi đã lầm, chúng tôi đã lầm, và chúng tôi đang lầm! từ bao thế kỷ nay”. Nhưng mẹ em đã giải thích các lời tiên tri cho anh.
Ôi, đúng, Giacôbê có lý, Juđa có lý. Khi nghe từ miệng nó giống
145
như các trẻ nhỏ nghe, thì người ta thấy rằng em là Đức Messi. Đây, tóc anh đã trắng, vì anh không còn là trẻ nhỏ, và anh cũng đã không nhỏ khi Maria từ Đền Thờ trở về với tư cách là vợ chú Giuse. Anh còn nhớ những ngày đó, và nhớ sự bài bác sửng sốt của ba anh khi ông thấy rằng em ông không lo làm đám cưới cho lẹ hết sức. Sự sửng sốt của ông, sự sửng sốt của Nazarét, và cả sự dèm pha. Bởi vì người ta không có thói quen để qua bao nhiêu tháng như vậy trước đám cưới, đặt mình vào những điều kiện tội lỗi và... Giêsu, anh kính trọng Maria, anh kính trọng kỷ niệm của người bà con anh. Nhưng thế giới, đối với thế giới thì đó không phải là một thời kỳ tốt... Em, ôi! Bây giờ anh biết. Mẹ em đã cắt nghĩa cho anh các lời tiên tri. Đó là tại sao Thiên Chúa đã muốn cho đám cưới chậm lại để ngày sinh của em trùng hợp với Đại Chiếu Chỉ, để em sinh ra tại Bétlem xứ Juđa. Và... Maria đã cắt nghĩa hết cho anh. Tất cả, đúng, và có một ánh sáng để anh hiểu điều mà cô đã nín lặng vì khiêm nhường. Và anh nói: “Em là Đức Messi”. Đó là điều anh nói và anh sẽ nói. Nhưng nói vậy cũng chưa phải là thay đổi tâm trí... Vì tâm trí anh nghĩ rằng Đức Messi là Vua. Các tiên tri đều nói... và khó lòng để hiểu nơi Đức Messi một đặc tính khác với đặc tính Vua... Em có theo dõi anh không? Em mệt à?
- Không, tôi nghe.
- Vậy... Những người tìm cách lôi kéo con tim của anh đã đến, vì họ muốn là anh cưỡng ép em... Và bởi vì anh không muốn nên chiếc mặt nạ của họ rơi xuống và họ hiện ra như họ là: Các bạn hữu giả, các kẻ thù thực sự... Và những người khác thì đến, khóc lóc như kẻ tội lỗi, và anh đã nghe họ. Họ đã nhắc lại các lời của em trong nhà của Chouza... Bây giờ anh biết là em ngự trị trên các tâm hồn, tức là em sẽ là đấng tập trung tất cả sự khôn ngoan của Israel để ban bố Lề Luật mới và phổ quát. Nơi em có sự khôn ngoan của các tổ phụ và các quan xét, sự khôn ngoan của các tiên tri, của các tổ phụ Đavít và Salômôn của chúng ta; nơi em có sự khôn ngoan đã hướng dẫn Nêhêmi và Esdras; nơi em có sự khôn ngoan đã dẫn dắt các Maccabê. Tất cả sự khôn ngoan của một dân tộc, của dân tộc
146
chúng ta, của dân Thiên Chúa. Anh hiểu rằng em sẽ ban Lề Luật rất khôn ngoan của em cho toàn thế giới. Tất cả sẽ chịu phục dưới uy quyền của em, và dân của em sẽ thực sự là một dân thánh. Nhưng em ơi, em không thể làm một mình. Môise, ít nhất cũng đã chọn những người giúp đỡ, và đó chỉ là một dân. Em... cả thế giới. Tất cả đều ở dưới chân em!... A! Nhưng để làm việc đó, em phải làm cho người ta biết em... Tại sao lại có nụ cười trên môi em, và em cứ nhắm mắt?
- Bởi vì tôi nghe và tôi tự hỏi: “Ông anh của tôi đã quên rằng ông đã khiển trách tôi vì tôi làm cho người ta biết tôi, khi ông nói rằng tôi làm thiệt hại cho cả gia đình”. Đó là tại sao tôi cười. Và tôi cũng nghĩ rằng từ hai năm rưỡi nay, tôi chỉ những làm cho người ta biết tôi.
- Đúng vậy. Nhưng... Ai đã biết em: các người nghèo, các nông dân, các người tội lỗi, các dân chài và đám phụ nữ! Các ngón tay của bàn tay cũng đủ để đếm. Giữa đám những kẻ biết em phải có những người không phải là đám bất tài vô gía trị. Anh nói rằng em phải được biết bởi các tay tổ của Israel: các thầy cả, các thủ lãnh của các thầy cả, các kỳ lão, các luật sĩ, các đại rabbi của Israel, tất cả những kẻ, không đông, nhưng họ có giá trị như vô số. Chính họ phải biết em. Họ, những người không yêu em, trong số những lời buộc tội của họ mà bây giờ anh biết là sai, có một điều là thực, là đúng, tức là em chểnh mảng đối với họ. Tại sao em không giới thiệu em là ai? Tại sao em không chinh phục họ bằng sự khôn ngoan của em? Hãy lên Đền Thờ và ngồi ở cổng Salômôn - em là chồi Đavít và là tiên tri, chỗ này thuộc về em, nó không thuộc về ai khác như thuộc về em, về quyền - và hãy nói.
- Tôi đã nói. Chính vì vậy mà họ ghét tôi.
- Hãy nhấn mạnh, và hãy nói như ông vua. Em không nhớ sức mạnh và sự oai phong trong các hành vi của Salômôn sao? Nếu (thực là rực rỡ cái “nếu” này) em là đấng mà các tiên tri đã nói, như các tiên tri đã chỉ cho các con mắt của tâm hồn, thì em không còn là một người. Ông ta, Salômôn, chỉ là một người. Vậy hãy tỏ ra
147
em là ai, và họ sẽ thờ lạy em.
- Các người Do Thái, các thủ lãnh, các trưởng gia đình và các trưởng chi tộc Israel sẽ thờ lạy tôi ư ? Không phải tất cả, nhưng một số người bây giờ không thờ lạy tôi, rồi sẽ thờ lạy tôi trong tinh thần và chân lý. Nhưng bây giờ thì chưa. Trước hết, tôi phải đội triều thiên, cầm phủ việt và mặc áo đỏ đã.
- A! Vậy là em làm vua, và sắp sửa rồi, em đã nói. Đúng như anh nghĩ! Đúng như nhiều người nghĩ !
- Trong thực tế, anh không biết tôi trị vì thế nào. Chỉ có Đấng Tối Cao và tôi, và vài tâm hồn mà Thánh Thần của Chúa bằng lòng tiết lộ cho là biết. Bây giờ cũng như trong qúa khứ, chúng ta đều biết Vua Israel, Đấng Xức Dầu của Thiên Chúa sẽ trị vì thế nào.
- Nhưng em ơi, xin cũng nghe anh đây - Simon Alphê nói. “Giuse có lý. Làm sao em muốn họ yêu em hay họ sợ em, nếu em luôn luôn tránh làm họ sửng sốt? Em không muốn kêu gọi Israel cầm khí giới. Lời kêu gọi lâm chiến và chiến thắng, em không muốn nói tới. Nhưng ít nhất - đây không phải là lần đầu xảy ra những lời kêu gọi lên ngai như vậy trong Israel - nhưng ít nhất, bằng các tiếng vạn tuế của dân, ít nhất cũng phải biết giật lấy các tiếng vạn tuế này bằng sức mạnh của vị rabbi và vị tiên tri của em để trở thành vua.
- Tôi đã là vua rồi, từ đời đời.
- Đúng - Simon đáp. “Một ông trưởng ở Đền Thờ đã nói điều đó với chúng ta. Em sinh ra đã là vua Do-Thái. Nhưng em không thích Juđê. Em là ông vua đào ngũ vì em không đến với nó. Em là ông vua không thánh, vì em không yêu Đền Thờ, nơi ý muốn của toàn dân thánh hiến em làm vua. Không có ý muốn của dân, nếu em không muốn áp đặt nó bằng bạo lực, em không thể trị vì.
- Không có ý muốn của Thiên Chúa, anh muốn nói, Simon? Ý muốn của dân là gì? Dân là gì? Nó là dân bởi ai? Ai nâng đỡ nó như vậy? Thiên Chúa. Simon ơi, đừng quên điều đó. Và tôi, tôi sẽ là như Thiên Chúa muốn. Chính bởi ý muốn của Người mà tôi sẽ là điều tôi phải là. Và không gì có thể ngăn cản tôi là như vậy. Tôi, tôi sẽ không hô hào tụ họp, nhưng toàn thể Israel sẽ hiện diện để tung
148
hô tôi. Tôi không cần lên Đền Thờ để được tung hô. Họ sẽ mang tôi tới đó. Toàn dân sẽ mang tôi tới đó để tôi lên ngai của tôi. Các anh kết án tôi là không yêu Juđê... Chính tại con tim của Juđê này, tại Jêrusalem, tôi sẽ trở nên “Vua người Do-Thái”. Saul đã không được xưng vương tại Jêrusalem, Đavít cũng không, Salômôn cũng không. Nhưng tôi, tôi sẽ được thánh hiến làm vua tại Jêrusalem. Nhưng bây giờ tôi chưa tới Đền Thờ cách công khai, tôi cũng sẽ không ở lại đó, vì giờ tôi chưa đến.
Giuse tiếp lời: “Em đã để cho giờ của em qua đi. Chính anh nói điều đó với em. Dân chúng đã mệt mỏi bởi những kẻ áp bức và bởi các thủ lãnh của chúng ta. Đây là giờ rồi, anh nói vậy với em đó. Tất cả Palestin, ngoại trừ Juđê, và cũng không phải tất cả, đều theo em với tư cách là Rabbi, và còn hơn nữa. Em giống như ngọn cờ treo trên cao, và tất cả đều nhìn em. Em giống như chim phượng hoàng, và tất cả đều theo đường bay của em. Em giống như một kẻ phục thù và tất cả đều chờ em nhả tên. Hãy đi, hãy rời Galilê, miền Thập Tỉnh, miền Pêrê và các miền khác, và hãy tới con tim của Israel, trong kinh thành mà tất cả mọi điều xấu đều ẩn nấp, và là nơi phải đem đến mọi điều tốt, và hãy chinh phục nó. Ở đó em cũng có các môn đệ, nhưng họ hững hờ, vì họ biết em qúa ít, và họ không đông, vì em không ở đó; họ không vững vàng, vì em không làm ở đó những kỳ công mà em làm ở các nơi khác. Hãy đi Juđê, để họ cũng được thấy em là ai qua các công việc của em. Em trách người Do-Thái không yêu em, nhưng làm sao em đòi hỏi được điều đó, nếu em cứ ẩn mặt? Không có ai tìm được tung hô công khai và ước ao điều đó mà lại làm các công việc của họ ở nơi kín đáo, nhưng họ làm theo cách nào để công chúng thấy. Vậy nếu em có thể làm các kỳ công nơi con tim, trên thân xác và trên các yếu tố, thì hãy tới đó và làm cho thế giới biết em”.
- Tôi đã nói với các anh là không phải giờ của tôi. Giờ của tôi chưa đến. Các anh luôn luôn thấy rằng đây là lúc thuận tiện, nhưng không phải như vậy. Tôi phải dùng những giờ thuộc về tôi, không trước, không sau. Trước thì sẽ là vô ích. Tôi sẽ làm cho mình bị xóa
149
bỏ khỏi thế giới và khỏi các con tim trước khi hoàn tất công việc của tôi, và các công việc đã làm rồi sẽ không cho tôi kết qủa, vì nó không hoàn tất, không có sự trợ giúp của Thiên Chúa, đấng muốn rằng tôi làm tròn, không chểnh mảng một lời nào hay một hành động nào. Tôi phải vâng lời Cha tôi, và tôi sẽ không bao giờ làm điều các anh ước ao, vì nó chỉ dùng để làm hư hỏng chương trình của Cha tôi.
Tôi hiểu các anh và tôi tha cho các anh. Tôi không oán giận các anh. Tôi không tỏ ra mệt mỏi hay phiền phức vì sự mù quáng của các anh... Các anh không biết, nhưng tôi biết. Các anh không biết, các anh chỉ nhìn thấy bề mặt của diện mạo thế giới, còn tôi, tôi nhìn thấy dưới đáy sâu. Thế giới còn tỏ bày bộ mặt tốt với các anh, nó không ghét các anh, không, nó yêu các anh, vì các anh không đáng bị ghét. Các anh là qúa ít điều. Nhưng nó ghét tôi, bởi vì tôi là sự nguy hiểm cho thế giới: mối nguy hiểm cho sự giả trá, sự tham lam, sự hung dữ của thế giới.
Tôi là Ánh Sáng, và ánh sáng soi chiếu. Thế giới không ưa ánh sáng, vì nó phơi bày các hành động của thế giới. Thế giới không yêu tôi, nó không thể yêu tôi, vì nó biết rằng tôi đến để thắng nó trong các con tim người ta, và trong tên Vua Tối Tăm, kẻ thống trị nó và làm cho nó lạc đường. Thế giới không muốn nhìn nhận rằng tôi là thầy thuốc của nó, là phương dược của nó. Và giống như một tên điên, nó muốn hạ thủ tôi để không bị chữa lành. Thế giới còn không muốn nhìn nhận rằng tôi là vị thầy, vì những điều tôi nói thì ngược với những điều nó nói. Vì vậy nó tìm cách khỏa lấp tiếng tôi nói với thế giới để dạy dỗ nó cho Thiên Chúa, để tỏ cho nó thấy bản chất thực của các hành động của nó là xấu.
Giữa thế giới và tôi có một vực thẳm, và không phải vì lỗi của tôi. Tôi đến để ban cho thế giới ánh sáng, đường đi, chân lý, sự sống. Nhưng thế giới không muốn tiếp nhận tôi, và ánh sáng của tôi trở nên bóng tối cho nó, bởi vì ánh sáng này trở nên nguyên nhân sự kết án cho những kẻ không muốn tôi. Trong Đức Kitô có tất cả ánh sáng cho những ai trong loài người muốn tiếp nhận nó.
150
Nhưng trong Đức Kitô cũng có tất cả sự tối tăm cho những kẻ ghét tôi và xua đuổi tôi. Chính vì vậy mà vào lúc khởi đầu cuộc sống tạm này của tôi, tôi đã được nói tiên tri (bởi Siméon), được chỉ định như “dấu của sự mâu thuẫn”, bởi vì tùy cách người ta đón tiếp tôi, tôi sẽ là phần rỗi hay sự luận phạt, sự chết hay sự sống, ánh sáng hay bóng tối.
Nhưng với những kẻ tiếp nhận tôi thì thực vậy, thực vậy, tôi bảo các anh rằng họ sẽ trở nên con cái của ánh sáng, tức là của Thiên Chúa, vì họ được sinh ra trong Thiên Chúa bởi đã đón nhận Thiên Chúa. Bởi thế, nếu tôi đã đến để làm cho loài người trở nên con Thiên Chúa, thì làm sao tôi có thể, bởi tình yêu hay thù ghét, bởi sự đơn sơ hay qủi quyệt, mà làm vua như nhiều người trong Israel muốn? Các anh không hiểu rằng làm vua như vậy là tôi phá hủy chính mình tôi, cái chính mình thực sự của tôi, tức là Đức Messi chứ không phải Giêsu con của Maria và Giuse Nazarét. Tôi sẽ phá hủy vị Vua các vua, Đấng Cứu Thế, đấng được sinh ra bởi một Trinh Nữ, được gọi là Emmanuel, được gọi là Đấng Đáng Kính, Vị Cố Vấn, Đấng Mạnh Mẽ, Cha của các thế kỷ tương lai, Hoàng Tử Bình An, Thiên Chúa; đấng mà thế lực và bình an không có giới hạn khi ngồi trên ngai của Đavít, vì là dòng dõi Đavít, nhưng có cả thế giới làm bệ dưới chân, tất cả các kẻ thù của Người đều làm bệ dưới chân Người, và Chúa Cha ở bên Người như sách Thánh Vịnh đã nói, bởi quyền lợi siêu nhân do nguồn gốc Thiên Chúa của Người sao? Các anh không hiểu rằng Thiên Chúa không thể làm người để cứu loài người nếu không vì lòng nhân từ trọn hảo của Người, nhưng Người không thể, không phải hạ thấp chính mình Người xuống tới những điều tội nghiệp của loài người sao? Các anh không hiểu rằng nếu tôi chấp nhận chiếc triều thiên vương quyền như các anh hiểu, là tôi thú nhận rằng tôi là Kitô giả, tôi sẽ nói dối Thiên Chúa, tôi sẽ phủ nhận chính tôi và tôi phủ nhận Chúa Cha, và tôi sẽ còn tệ hơn Lucifer, vì tôi sẽ làm mất của Thiên Chúa niềm vui được có các anh; tôi sẽ còn tệ hơn Cain đối với các anh, vì tôi kết án các anh đời đời lưu đày xa Thiên Chúa trong Lâm Bô, không bao giờ có hy vọng Thiên Đàng sao?
151
Tất cả những điều đó, các anh không hiểu sao? Các anh không hiểu cái bẫy mà người ta muốn tôi rơi vào sao? Cái bẫy của Satan để đánh Thiên Chúa trong Con Yêu của Người và trong tạo vật của Người là loài người sao? Sự kiện tôi chỉ ước vọng những sự thiêng liêng để cho các anh nước thiêng liêng của Thiên Chúa, các anh không hiểu rằng đó là dấu hiệu tôi hơn là một con người, rằng tôi là Người-Thiên-Chúa sao?... Các anh không hiểu cái dấu hiệu rằng tôi...
- Những lời của Gamaliel! - Simon kêu lên.
-...rằng tôi không phải là một ông vua, mà là VUA, tức là sự thù ghét của tất cả hỏa ngục và của toàn thế giới đối với tôi sao? Tôi phải dạy dỗ, chịu đựng và cứu các anh. Đó là điều tôi phải làm, và điều đó, Satan không muốn, các satan cũng không muốn. Một trong các anh đã nói: “Những lời của Gamaliel”. Đây, ông ta không phải môn đệ của tôi, và ông sẽ không bao giờ là, bao lâu tôi còn ở thế gian này, nhưng đó là một người công chính. Vậy trong số những kẻ đề nghị với tôi và những kẻ đề nghị với các anh cái nước tội nghiệp này của loài người, tình cờ trong số đó có Gamaliel không?
- Ồ, không - Simon nói. “Étienne nói rằng vị rabbi, sau khi đã nghe biết những điều xảy ra tại nhà Chouza, đã kêu lên: ‘Thần trí tôi run sợ tự hỏi không biết ông ta có đúng thực như ông ta nói không. Nhưng tất cả câu hỏi sẽ chết trước khi thành hình trong tâm trí tôi, và chết vĩnh viễn, nếu ông ta đã bằng lòng nhận đề nghị này. Đứa trẻ mà tôi đã nghe, đã nói rằng vấn đề nô lệ cũng như vương quốc, không phải là điều mà chúng ta tin, vì chúng ta hiểu sai lời tiên tri, tức là chúng ta hiểu nó một cách vật chất, trong khi nó là tinh thần, nhờ Đức Kitô, Đấng Cứu Thế cho khỏi tội, và là đấng thiết lập Nước Thiên Chúa trong các tâm hồn. Tôi nhớ những lời này, và tôi luận xét vị rabbi dựa trên những lời này. Nếu trong khi luận xét, tôi thấy ông ta ở bên dưới độ cao này, tôi sẽ xua đuổi ông ta như một tên tội lỗi và dối trá. Và tôi sẽ run sợ để thấy rằng niềm hy vọng mà đứa trẻ cho tôi bị tan biến trong hư vô’”.
- Đúng. Nhưng trong khi chờ đợi, ông ta không gọi đứa trẻ là
152
Đức Messi - Giuse nói.
- Ông ta nói ông ta chờ đợi một dấu hiệu - Simon trả lời.
- Vậy em hãy cho ông ta đi để ông ta được mạnh mẽ.
- Tôi sẽ cho ông ta điều tôi đã hứa với ông, nhưng bây giờ thì chưa. Các anh, hãy đi lễ. Tôi sẽ không đến đó cách công khai như một rabbi hay như một tiên tri để áp đặt, vì chưa tới giờ của tôi.
- Nhưng ít nhất, em sẽ tới Juđê chứ ? Em sẽ cho các người DoThái những bằng chứng để chinh phục họ? Để họ không thể nói...
- Đúng. Nhưng anh nghĩ rằng các bằng chứng sẽ giúp tôi vãn hồi bình an sao? Anh ơi, tôi càng hành động thì họ càng ghét tôi thôi. Nhưng tôi sẽ làm vui lòng anh. Tôi sẽ cho họ những bằng chứng lớn nhất có thể có... và tôi sẽ nói với họ những lời có thể biến chó sói thành con chiên, biến đá cứng thành sáp ong mềm. Nhưng điều đó cũng chẳng có ích gì...- Giêsu thực sự buồn.
- Anh làm em khổ sao? Anh nói điều đó vì ích lợi của em.
- Không, anh không làm tôi buồn... nhưng tôi muốn rằng anh hiểu tôi. Anh là anh tôi, tôi muốn anh thấy tôi đúng như tôi là... Tôi muốn ra đi với niềm vui được biết anh là bạn của tôi, một người bạn hiểu và canh chừng trên lợi ích của bạn mình...
- Và anh, anh nói với em là anh sẽ làm điều đó. Anh biết là họ ghét em, từ nay thì anh biết. Vì vậy nên anh mới tới. Nhưng em biết là anh canh chừng cho em. Anh là anh cả, anh sẽ bác bỏ những vu khống, và anh sẽ nghĩ đến mẹ em - Giuse hứa.
- Cám ơn Giuse. Gánh nặng của tôi rất lớn, và anh đã làm cho nó nhẹ bớt. Sự đau đớn như một cái biển tiến lại với các làn sóng của nó để dìm ngập tôi, và cùng với nó là sự thù ghét... Nhưng nếu tôi có tình yêu của các anh thì nó không là gì cả. Là vì Con Người có một trái tim... và trái tim này cần tình yêu...
- Và anh, anh cho em tình yêu. Phải, dưới con mắt của Thiên Chúa đang nhìn thấy anh, anh nói với em là anh cho em tình yêu. Giêsu, hãy đi bằng an vào việc của em. Anh sẽ giúp em. Chúng ta yêu nhau nhiều. Rồi... bây giờ chúng ta hãy trở nên như chúng ta là trước kia, người nọ với người kia. Em: Đấng Thánh; anh: con người,
153
nhưng hợp nhất vì vinh quang Thiên Chúa. Chào em.
- Chào Giuse.
Họ hôn nhau. Bây giờ đến lần Simon xin: “Hãy chúc lành cho chúng ta để con tim chúng ta mở hết ra cho ánh sáng”.
Giêsu chúc lành cho họ, và trước khi rời họ, Người còn nói: “Tôi ký thác mẹ tôi cho các anh...”
- Hãy đi bình an. Bà sẽ có hai con trai nơi chúng ta.
Họ từ biệt nhau.
Giêsu trở lại trên đường với Gioan ở bên cạnh Người. Họ bắt đầu bước nhanh, rất nhanh.
Sau một lúc, Gioan phá sự yên lặng để hỏi: “Nhưng Giuse Alphê, bây giờ ông ta đã chịu nhận chưa?”
- Chưa đâu.
- Vậy Thầy, Thầy là gì đối với ông ta: Đấng Messi? Một người? Vua? Thiên Chúa? Con không hiểu rõ, con thấy hình như...
- Giuse như còn đang ở trong một trong các giấc mơ của ông. Vào buổi sáng, trí khôn đã trở về thực tế, thoát ra khỏi giấc ngủ nặng nề mà ông đã có các giấc mơ không thực tại và các cơn ác mộng. Ma quái ban đêm đã đi xa, nhưng trí khôn còn bập bềnh trong cơn mơ mà người ta không muốn chấm dứt, vì nó đẹp... Đối với ông ta là như vậy đó. Ông ta gần thức tỉnh, nhưng lúc này ông ta còn mơn trớn giấc mơ của ông. Có thể nói là ông ta giữ nó lại, vì nó đẹp đối với ông... Nhưng phải biết lấy cái mà người ta có thể cho, và ca tụng Đấng Tối Cao vì sự biến đổi xảy ra cho tới lúc này. Hạnh phúc cho các trẻ nhỏ. Chúng tin dễ dàng chừng nào!
Và Giêsu quàng một cánh tay qua lưng Gioan, kẻ biết làm trẻ nhỏ và tin, để làm cho ông cảm thấy tình yêu của Người.
174* TRONG KHI CHỜ CÁC NÔNG DÂN CỦA
GIOCANA GẦN CÂY THÁP TẠI JEZRAEL
- Gioan, con mệt lắm rồi, nhưng phải đến Engannim vào ngày mai, trước lúc mặt trời lặn.
- Chúa ơi, chúng ta sẽ tới mà - Gioan nói, và ông mỉm cười, mặc
154
dầu ông tái mét vì mệt. Ông là người đã đi bộ nhiều hơn tất cả. Và ông cố gắng bước đi nhẹ nhàng để thuyết phục Thầy là ông không qúa mệt. Nhưng rồi ông lại trở về bước chân của kẻ không bước nổi nữa, lưng cúi gù, đầu gục về đàng trước tựa như có một cái ách đè trên ông, đôi chân lết và vấp hoài.
- Ít nhất, hãy đưa các túi xách cho Thầy. Túi của Thầy nặng.
- Thầy ơi, không. Thầy đâu có ít mệt hơn con.
- Con mệt hơn, vì con từ Nazarét tới rừng của Mathatia, rồi con lại trở về Nazarét.
- Nhưng con đã được ngủ trên giường, còn Thầy thì không. Thầy đã canh thức trong rừng, và Thầy đi từ sớm.
- Con cũng vậy. Giuse đã nói là các con đi với các vì sao.
- Ôi! Nhưng các sao còn hiện rõ cho tới rạng đông! - Gioan mỉm cười. Nhưng rồi ông trở nên nghiêm trang và nói thêm: “Nhưng không phải thiếu ngủ làm cho người ta khổ...”
- Cái gì khác, Gioan? Cái gì đã làm cho con khổ? Có lẽ các anh Thầy...
- Ôi, không. Chúa ơi! Cả họ... nhưng điều làm nặng nề cho con... không... Điều làm cho con gìa đi, là vì đã thấy mẹ Thầy khóc... Mẹ đã không nói với con tại sao mẹ khóc. Con cũng không hỏi mẹ, dù con ước ao hỏi. Nhưng vì con cứ nhìn mẹ nên mẹ bảo con: “Về nhà mẹ sẽ nói cho con. Bây giờ thì không, vì nó sẽ làm mẹ khóc mạnh hơn”. Và về nhà rồi, mẹ đã nói với con cách dịu dàng và buồn chừng nào, tới nỗi con cũng khóc luôn!
- Mẹ đã nói gì với con?
- Mẹ bảo con yêu Thầy nhiều, đừng bao giờ làm cho Thầy khổ, dù là một điều nhỏ mọn, vì sau đó sẽ phải ân hận rất nhiều. Mẹ nói với con: “Chúng ta hãy làm tất cả các bổn phận của chúng ta trong những tháng còn lại cho chúng ta, và hãy làm hơn là bổn phận”. Vì nếu chỉ làm bổn phận thôi thì qúa ít đối với Thầy là Thiên Chúa. Và mẹ cũng nói với con - và điều này làm cho con đau buồn biết bao, và nếu không phải là chính mẹ nói thì con không thể nào tin được - mẹ bảo con: “Và cũng là qúa ít nếu chỉ làm bổn phận đối với kẻ ra đi, là kẻ sau đó chúng ta sẽ không còn có thể phục vụ nữa... Để có
155
thể nhẫn nhục khi Người không còn ở giữa chúng ta nữa, thì phải làm nhiều hơn là bổn phận. Phải biết cho tất cả: tất cả tình yêu, sự săn sóc, sự vâng lời, tất cả, tất cả. Như vậy, trong sự chia ly tan nát, ta có thể nói: ‘Ôi, tôi có thể nói được rằng trong suốt thời gian mà ý Thiên Chúa còn cho tôi có Người, tôi đã không ngừng yêu Người và phục vụ Người một lúc nào’”. Và con, con đã nói: “Nhưng thực sự là Thầy ra đi sao? Còn biết bao việc phải làm. Người sẽ còn thời gian”, và mẹ đã lắc đầu nói với hai giọt nước mắt lớn chảy ra khỏi mắt mẹ: “Man-na thực, Bánh Hằng Sống sẽ trở về với Chúa Cha khi loài người vui hưởng hương vị của hạt lúa mới... và Gioan ơi, lúc đó chúng ta sẽ một mình”. Con, để an ủi mẹ, con đã nói: “Một đau đớn lớn lao. Nhưng nếu Người trở về với Chúa Cha thì chúng ta phải vui mừng. Không ai có thể làm khổ cho Người nữa”. Và mẹ đã rên rỉ: “Ôi! Nhưng trước đó!” và con tin mình đã hiểu. Nhưng Chúa ơi, sẽ thực sự như vậy sao? Thực sao? Thực sao? Thầy thấy, không phải vì chúng con không tin vào lời Thầy, nhưng vì chúng con yêu Thầy, và ... Con sẽ không nói với Thầy như Simon bữa hôm đó: “Điều đó không thể xảy đến cho Thầy”. Con tin, tất cả chúng con đều tin... Nhưng chúng con yêu Thầy, và... Ôi! Chúa của con! Các tội của tình yêu có thực sự là tội không?
- Gioan, tình yêu không bao giờ phạm tội.
- Vậy chúng con, những kẻ yêu Thầy, chúng con sẵn sàng chiến đấu và giết người để bảo vệ Thầy. Những người khác không ưa các người Galilê vì họ nói là chúng ta hay cãi lộn. Vậy chúng con sẽ cải chính điều nổi tiếng này bằng cách bảo vệ cho Thầy. Chúng ta đang ở tại nơi mà vào thời của Débora, Barac đã phá hủy quân đội của Sisara cùng với mười ngàn người của ông, và mười ngàn người thuộc Nephtali và Zabulon. Chúng ta là dòng dõi của họ. Các tên ngày nay tuy khác, nhưng qủa tim thì vẫn vậy.
- Họ là mười ngàn người... Nhưng bây giờ, dù các con là mười lần mười ngàn, thì các con có thể làm được gì?
- Cái gì? Thầy sợ các đội quân Rôma à? Họ đâu có đông như vậy. Vả nữa... họ đâu có ghét Thầy. Thầy đâu có làm gì phiền cho
156
họ. Thầy không nghĩ tới vương quốc, tới cái vương quốc sẽ giật con mồi của các con ó Rôma. Họ sẽ không can thiệp vào việc giữa chúng ta và các kẻ thù của Thầy. Và chúng sắp bị thua rồi.
- Dù các con là một ngàn, mười ngàn, một trăm ngàn, sẽ là gì trước ý muốn của Chúa Cha? Thầy, Thầy phải làm trọn ý muốn đó.
Gioan bị đè nặng, không nói nữa. Thật là kỳ lạ sự cứng đầu này, sự bất lực tinh thần này để hiểu sứ mệnh cao cả nhất của Người, ngay cả nơi những người tốt nhất trong số các kẻ đi theo Giêsu. Họ nhìn nhận Người là Thầy, là Đức Messi. Họ tin vào quyền năng cứu vớt và đền chuộc của Người. Nhưng khi họ đối diện với phương cách mà Người sẽ cứu chuộc, thì đây, sự thông hiểu của họ liền khép lại, tựa như đối với họ, lời tiên tri không còn giá trị nữa. Và điều đó nói về tất cả các người Israel là những người, nếu ta có thể nói: họ hít thở, bước đi, nuôi mình và sống bằng phương tiện của các lời tiên tri! Tất cả những gì Sách Thánh nói đều thực, ngoại trừ điều này: Đức Kitô phải đau khổ, phải chết, bị thua loài người. Điều đó họ không thể chấp nhận. Tôi thấy họ như mù và điếc khi Giêsu nhọc công để chỉ cho họ những bức tranh về cuộc tử nạn tương lai của Người, để họ có thể đọc ở đó mà biết nó thế nào. Nhưng họ nhắm mắt lại, vì thế họ không thấy, cũng không hiểu gì.
Buổi chiều hơi tối đã tới khi họ nhìn thấy Jezrael ở trước mắt.
Giêsu an ủi Gioan, ông đã ngừng nói và bước như người mắc chứng mộng du vì qúa mệt. Người nói với ông: “Chúng ta sắp tới đó. Con sẽ vào đó để tìm một chỗ trọ cho con”.
- Và cho Thầy.
- Không, Gioan. Thầy ở lại gần con đường dẫn về đồng bằng. Thầy nghĩ họ sắp tới vào lúc ban đêm, và Thầy muốn an ủi họ rồi cho họ về trước lúc rạng đông.
- Thầy qúa mệt rồi... và có lẽ trời sắp mưa cũng như đêm vừa qua. Xin Thầy đi nghỉ, ít nhất là tới giữa vọng canh gà gáy.
- Không, Gioan.
- Vậy con ở lại với Thầy. Chúng ta ở gần miền đất của các pharisiêu... Vả nữa, con đã hứa với mẹ Thầy và với chính mình con.
157
Con không muốn có những điều sẽ phải ân hận...
Các ngọn tháp, tôi không biết để làm gì, được xây ở bốn góc thành Jezrael. Chắc chắn nó đã rất cổ vào lúc tôi nhìn thấy. Chúng giống như bốn người khổng lồ cau có, mà người ta đặt như bốn tên cai ngục của thành phố nhỏ, tọa lạc trên một cao độ nhìn thấy hết vùng đồng bằng đang biến đi trong bóng tối đến sớm của một buổi chiều mây mù.
- Chúng ta hãy lên sườn đồi, chỗ gần ngọn tháp. Chúng ta sẽ nhìn thấy hết con đường mà không bị ai nhìn thấy. Có cỏ để nằm, và bậc thềm ở trước cửa sẽ đón tiếp chúng ta nếu có mưa - Giêsu nói.
Họ lên dốc. Họ ngồi trên bức tường rất thấp, đã đổ nát một nửa, ở cách tháp độ mươi mét. Chắc đó là bức tường thành xưa kia đã xây bao quanh ngọn tháp này, bây giờ hầu như hoàn toàn đổ nát. Một lớp cỏ dầy phủ lên những xà bần với rất nhiều cây bìm bìm thả rơi như màn gió, và nhiều thứ cây khác, nhất là trên xà bần, với những chiếc lá lớn có lông mà tôi không biết tên.
Trong những tia sáng sau cùng của ngày, họ tóm tém một chút bánh, không có gì khác. Gioan, dù rất mệt, cũng liếc nhìn các cành của một cây sung mọc giữa đám đá, hoàn toàn vặn vẹo và mọc xiên xéo. Ông khám phá ra ở giữa các lá đã bắt đầu vàng, vài trái sung tội nghiệp mà chim trời cũng như trẻ con đã chừa lại. Họ ăn, và như vậy là hoàn tất bữa ăn. Họ có nước trong bình. Bữa ăn chấm dứt mau lẹ.
- Ngọn tháp có người ở không? - Gioan hỏi cách bần thần.
- Thầy nghĩ là không. Không thấy nó phát ra ánh sáng và tiếng nói. Con muốn hỏi một chỗ trọ à? Con không chịu nổi nữa sao?...
- Ồ, không. Con nói để có cái nói... Nhưng ở chỗ này thật dễ chịu chứ!...
- Gioan, ít là con hãy nằm ra đi. Cỏ dầy, và ở đây chưa có mưa, đất còn khô.
- ...Không... Không... Chúa ơi, con không buồn ngủ... Chúng ta nói chuyện. Nói cho con cái gì đi... một dụ ngôn... Con ngồi đây, ở
158
chân Thầy. Con chỉ cần tựa đầu vào đầu gối Thầy là đủ - Và ông ngồi, tựa đầu vào đầu gối Giêsu, mặt ngửa lên trời. Ông làm những cố gắng anh hùng để không ngủ. Ông cố nói để thắng giấc ngủ... Ông tìm cách lưu ý tới những gì ông nhìn thấy... các ngôi sao trên trời, ánh sáng dưới con đường. Tinh tú càng lúc càng nhiều, vì gió đẩy mây đi. Ánh sáng dưới đường thì càng lúc càng hiếm, vì đêm đã làm các khách hành hương dừng bước. Chỉ những người gan lì mới tiếp tục đi trong xe với chiếc đèn bão rung rinh buộc vào đầu cái chiếu hay mền căng ở cửa xe.
Nhưng sự yên lặng càng lúc càng sâu làm lợi cho giấc ngủ... Gioan nói, với giọng càng lúc càng xa xôi: “Bao nhiêu là ánh sáng trên trời! Thầy coi, tựa như có vài vì sao bay xuống đất, và chúng rung rinh nhấp nháy như ở trên đó... nhưng chúng nhỏ hơn và mờ hơn... Chúng ta không thể là những vì sao... các ngôi sao của chúng ta có khói và mùi đèn... và tất cả đều có thể thổi tắt nó. Có lần Thầy đã nói rằng để dập tắt ánh sáng ở trong chúng ta, chỉ cần một con bướm. Và Thầy so sánh con bướm với những quyến rũ của thế giới... Rồi Thầy nói rằng... trong khi các con bướm có thể làm tắt ánh sáng, thì cánh các thiên thần, và Thầy gọi các thiên thần là các sự thiêng liêng, làm cho ánh sáng ở trong chúng ta linh hoạt hơn... con... thiên thần... ánh sáng...” Gioan từ từ đi vào giấc ngủ, ông nằm dài ra mà không hay biết gì, bị đánh bại bởi mệt mỏi.
Giêsu chờ cho ông thực sự nằm thoải mái, rồi Người luồn cái túi xuống dưới đầu ông và lấy áo khoác của Người đắp cho ông. Người làm các cử chỉ với đầy tình phụ tử. Trong tia sáng sau cùng của sự tỉnh táo, Gioan còn thì thầm: “Con không ngủ, Thầy biết không? Chỉ có như vầy con mới nhìn thấy các ngôi sao nhiều hơn, và nhìn thấy Thầy rõ hơn...” Để nhìn thấy Giêsu và bầu trời đầy sao rõ hơn, ông chìm vào giấc ngủ sâu và mơ ở trong đó.
Giêsu lại ngồi trên cái thảm cỏ xanh của Người, tì khửu tay phải trên đầu gối, tựa má trên lòng bàn tay và suy nghĩ, cầu nguyện, trong khi nhìn xuống con đường đã vắng. Còn kẻ ưu ái, một cánh tay gấp lại để dưới đầu, ngủ ngon lành như một đứa trẻ bên chân
159
Người.
175* TRONG KHI ĐI VỀ ENGANNIM
- Gioan ơi, rạng đông rồi, bò dậy và chúng ta đi - Giêsu nói khi người lay vị tông đồ để ông tỉnh dậy.
- Thầy ơi, mặt trời mọc rồi à? Con ngủ say chừng nào! Còn Thầy?
- Thầy cũng vậy, ở bên cạnh con, dưới áo khoác của chúng ta.
- A! Thầy đã thấy là các người nông dân không tới, và Thầy ngủ. Con đã đoán vậy...
Giêsu mỉm cười và trả lời: “Họ đã tới khi vị trí của các ngôi sao Đại Hùng Tinh chỉ rằng tiếng gà gáy đã bắt đầu”.
- Ôi, con chả nghe thấy gì cả... - Gioan hơi bẽ mặt. “Sao Thầy không đánh thức con?”
- Con qúa mệt mà. Con giống như đứa trẻ ngủ trong nôi của nó. Tại sao lại đánh thức con?
- Để con ở với Thầy cho có bạn.
- Nhưng con đã làm việc đó trong giấc ngủ yên hàn của con. Con đã ngủ trong khi nói về các thiên thần, các vì sao, các linh hồn, về ánh sáng... và chắc chắn con đã tiếp tục thấy thiên thần, tinh tú và Giêsu của con trong giấc ngủ... Tại sao lại đem con trở về với sự độc ác của thế giới, trong khi con ở rất xa nó như vậy?
- Nhưng nếu... nếu thay vì các nông dân, lại có những kẻ bất lương lên đây?
- Lúc đó thì Thầy sẽ gọi con. Nhưng ai có thể tới đây?
- Nhưng... con không biết... Giocana, ví dụ vậy... ông ta ghét Thầy...
- Thầy biết. Nhưng chỉ có các đầy tớ của ông tới thôi. Không có ai phản bội cả... Con cũng đã nghĩ tới điều đó, vì sợ có ai nói ra để làm hại Thầy và làm hại con. Nhưng không có ai phản bội cả. Và Thầy đã làm rất đúng khi chờ họ ở đây. Tên quản lý mới phù hợp với chủ của anh ta, anh ta có những mệnh lệnh rất nghiêm khắc,
160
Thầy không thiếu bác ái khi nói rằng độc ác. Dùng một từ khác thì sẽ là nói dối... Họ đã chạy khi đêm vừa về trong khi cầu xin Chúa cho họ được gặp Thầy. Thiên Chúa luôn luôn thưởng công cho lòng tin, và an ủi các con cái khổ cực của Người. Nếu họ không tìm thấy Thầy, họ sẽ ở lại đây tới sáng, rồi họ trở về để người ta thấy họ ở ngoài đồng vào lúc rạng đông... Như vậy Thầy sẽ nhìn thấy họ và chúc lành cho họ...
- Và Thầy buồn khi thấy họ bị đè nén như vậy.
- Đúng thế. Buồn biết bao... buồn vì họ bị đè nén như con nói, vì không có gì để cho cơ thể kiệt quệ của họ, vì nghĩ tới là sẽ không gặp họ nữa...
- Thầy đã nói những điều đó với họ?
- Không. Tại sao lại thêm một nỗi đau nữa vào nơi đã toàn là đau đớn?
- Con cũng muốn tình nguyện chào họ một lần chót.
- Đối với con thì không phải là lần chót. Trái lại, con với các người đồng môn đệ của con sẽ săn sóc nhiều đến họ khi Thầy đã đi rồi. Thầy phó thác cho các con tất cả những kẻ đã theo Thầy, đặc biệt là các kẻ khổ sở nhất, chỉ có đức tin là sự nâng đỡ duy nhất của họ, và là niềm vui duy nhất trong ước vọng về trời.
- Ôi! Thầy ơi, con cũng sẽ nói như anh Giuse của Thầy: “Thầy ơi, hãy đi bình an. Con sẽ tiếp tục Thầy như con có thể. Thầy tin vậy đi”.
- Thầy chắc chắn vậy... Ta đi thôi... Đường sá đã nhộn rồi. Mây chồng chất trên bầu trời. Ánh sáng, thay vì gia tăng thì lại giảm. Trời sắp mưa và mọi người đều vội vã tới chỗ dừng chân sắp tới. Nhưng các đám mây đã tốt với chúng ta: ban đêm trời ấm và không mưa cho chúng ta là những kẻ ở ngoài trời. Chúa Cha luôn luôn canh chừng trên các con yêu của Người.
- Thầy là con yêu. Con thì...
- Con là con yêu, vì con yêu Thầy.
- Ồ, điều đó thì đúng, cho tới chết...
Và trà trộn vào đám đông, họ tiến về phía nam...
161
176* GIÊSU VÀ GIOAN TỚI ENGANNIM
Thời tiết đã thực sự giữ lời hứa và giải quyết bằng một trận mưa không vui, nhỏ hạt nhưng giai giẳng. Những người đi xe thì được che chở tốt, nhưng những người đi bộ hay ngồi trên lưng lừa thì bị ướt và khổ, nhất là những người, ngoài cái phiền vì bị ướt đầu ướt vai, lại thêm cái khổ bị lớp bùn càng lúc càng nhão chui vào xăng đan, dính vào chân và bắn lên quần áo. Các khách hành hương đội áo khoác hay mền lên đầu, đôi khi họ gấp đôi lại, và trông họ giống như từng ấy thầy dòng đội nón.
Giêsu và Gioan đi bộ, bị ướt đẫm. Nhưng họ không lo bảo vệ thân mình cho bằng che cho các túi xách, trong đó có các quần áo để thay đổi. Họ tới Engannim như vậy, và bắt đầu đi tìm các tông đồ. Họ chia tay nhau để đi tìm cho mau hơn. Gioan là người tìm thấy họ, đúng hơn là ông tìm được Giacôbê Zêbêđê đã mua được lương thực cho ngày Sabát.
- Chúng tôi đã lo, và nếu chúng tôi không gặp hai người thì chúng tôi sẽ trở lại con đường, dù là ngày Sabát. Thầy đâu?
- Người đi tìm các anh, trên con đường đầu tiên đi về phía gần nhà người thợ rèn.
- Vậy... hãy nhìn đây: chúng tôi ở trong căn nhà này: một người đàn bà đại độ sống với ba đứa con gái. Hãy đi tìm Thầy ngay rồi tới đây...
Giacôbê hạ giọng và thì thầm trong khi nhìn chung quanh ông: “Ở đây có nhiều pharisiêu... và... và chắc chắn là với ý đồ xấu. Họ hỏi chúng tôi tại sao Thầy không ở với chúng tôi. Họ muốn biết Người đã đi trước hay còn ở đàng sau. Trước tiên chúng tôi đã nói: “Chúng tôi không biết”, và đó là đúng, vì làm sao chúng tôi có thể nói khi chúng tôi không biết Người ở đâu. Nhưng họ không tin chúng tôi. Lúc đó Iscariot, anh ta chẳng ngần ngại gì, đã nói: “Người đi trước rồi”. Nhưng vì họ không tin nên đặt các câu hỏi: đi với ai, đi bằng gì, Người đi hồi nào nếu người ta biết rằng thứ sáu tuần trước
162
Người còn ở Giscala... anh ta đã nói: “Ở Ptolêmai, Người lấy chỗ trên một chiếc tàu và như vậy Người đi trước chúng tôi. Người sẽ lên đất ở Joppê để vào Jêrusalem bằng cổng Damas, để tới ngay nhà của Giuse Arimathi, căn nhà của ông ở Bêzêta”.
- Nhưng tại sao lại từng ấy nói dối? - Gioan bực mình hỏi.
- Nào ai biết. Chúng tôi cũng đã nói vậy với anh ta, nhưng anh ta cười và nói: “Mắt thế mắt, răng thế răng, và nói dối cho nói dối. Chỉ cần là Thầy được an toàn. Tôi biết họ tìm Người để hại Người”. Phêrô cũng lưu ý anh ta là nhắc đến tên Giuse như vậy có thể làm phiền cho ông ta, nhưng Judas trả lời: “Họ sẽ chạy tới đó, và khi thấy sự kinh ngạc của Giuse, họ sẽ hiểu là điều đó không đúng”. “Họ sẽ ghét anh vì trò khôi hài anh làm cho họ...” Chúng tôi phản đối, nhưng anh ta cười và nói: “Ồ, tôi cười trên sự thù ghét của họ. Tôi biết cách làm cho nó thành vô hại...” Nhưng đi đi Gioan. Cố tìm Thầy rồi trở lại cùng với Người. Trời mưa giúp ích cho chúng ta. Các pharisiêu ở lại trong nhà để khỏi bị ướt bộ y phục thùng thình của họ.
Gioan trao cái giỏ của ông cho anh ông và ông chạy đi, nhưng Giacôbê giữ ông lại và nói: “Đừng nói với Thầy các lời nói dối của Judas, dù ông đã nói với mục đích tốt, nó vẫn luôn luôn là các lời nói dối, và Thầy ghét sự dối trá”.
- Em sẽ không nói - và Gioan chạy đi.
Giacôbê đã nói đúng: các người giầu ở lại trong nhà. Ngoài đường chỉ toàn là các người nghèo nhốn nháo đi tìm một chỗ trọ...
Giêsu ở dưới lối vào gần xưởng bịt móng ngựa. Gioan lại với Người và nói: “Tới mau Thầy ơi. Con đã tìm thấy họ. Chúng ta sẽ có thể thay đồ khô”. Và ông không nói gì hơn nữa để giải thích sự vội vã của ông.
Họ mau lẹ tới nhà và vào trong qua cái cửa chỉ cần đẩy ra. Lập tức mười một tông đồ bao quanh lấy Giêsu tựa như họ đã không thấy Người trong nhiều tháng. Bà chủ nhà, một người đàn bà nhỏ tàn tạ, gầy gò, liếc nhìn họ qua cái cửa hé mở.
- Bình an cho các con - Giêsu nói với một nụ cười, và Người hôn
163
tất cả họ với cùng một tình cảm.
Mọi người đều nói. Có biết bao điều để nói. Nhưng Phêrô hô lên: “Yên lặng, và hãy để cho Người yên. Các bạn không thấy Người bị ướt và mệt chừng nào sao?” Và ông nói với Thầy: “Con đã sửa soạn nước nóng cho Thầy tắm, và... hãy đưa áo khoác ướt của Thầy cho con... và các quần áo ấm, con đã lấy ở trong giỏ của Thầy...” Rồi ông quay về phía nhà trong và kêu lên: “Bà ơi, khách tới, mang nước lên. Còn các thứ khác tôi sẽ lo”.
Người đàn bà, e lệ cũng như các người đau khổ khác - và khuôn mặt của bà nói lên là bà đau khổ - lặng lẽ băng qua hành lang, được theo sau bởi ba cô con gái cũng mảnh khảnh như bà, với cùng một vẻ biểu lộ, vào nhà bếp để bưng các nồi nước sôi.
-Thầy ơi, tới đây, cả cậu nữa, Gioan. Qúi vị lạnh như kẻ chết đuối. Nhưng con đã cho luộc cây đỗ tùng với dấm để pha vào nước. Cái đó sẽ làm dễ chịu - Thực vậy, khi đi qua, cái nồi xông ra mùi dấm và các mùi thơm khác.
Giêsu đi vào một phòng nhỏ, trong đó có hai cái thùng gỗ lớn, có lẽ dùng để giặt giũ. Người nhìn người đàn bà đi ra cùng với các con gái của bà và chào: “Bình an cho bà và các con gái của bà. Nguyện Chúa trả công cho bà”.
- Cám ơn Chúa - và bà lủi đi.
Phêrô vào phòng cùng với Giêsu và Gioan, ông khép cửa lại và xì xèo: “Cẩn thận, đừng để cho bà ta biết Thầy là ai... Tất cả chúng ta đều là khách hành hương, và Thầy, Thầy là rabbi, còn chúng con là bạn Thầy. Thực vậy, tận đáy lòng... không phải là... hum! Đó chỉ là một sự thật bị che phủ... có qúa nhiều pharisiêu và... những người lưu ý đến Thầy. Xin Thầy cẩn thận kín đáo. Sau đó chúng con sẽ nói”. Rồi ông đi ra, để hai người ở lại, và trở về với các bạn ông đang ngồi trong một phòng nhỏ.
- Và bây giờ chúng ta sẽ nói gì với Thầy đây? Nếu chúng ta nói rằng chúng ta đã nói dối thì Người sẽ buồn. Nhưng... chúng ta không thể không nói điều đó với Người - Phêrô nói.
- Nhưng đừng lo. Chính tôi đã nói dối, tôi sẽ nói điều đó với
164
Người.
- Và điều đó sẽ làm cho Người buồn hơn. Anh không thấy Người buồn tới cỡ nào sao?
- Tôi thấy. Nhưng bởi vì Người mệt... Ngoài ra, kể cả tôi có thể nói với các pharisiêu: “Tôi nói dối các ông”. Đó chỉ là những chuyện nhỏ nhặt. Điều quan trọng là làm sao để Người không phải khổ.
- Tôi, tôi sẽ không nói gì với ai cả. Nếu anh nói điều đó với Người, anh sẽ không giữ kín nó được. Nếu anh nói với họ, anh sẽ không thể cứu Người khỏi cạm bẫy của họ - Philíp nhận xét.
- Chúng ta sẽ coi - Judas nói cách bảo đảm.
Qua đi một lúc, rồi Giêsu vào với y phục khô ráo, được bổ sức bởi tắm rửa. Gioan theo sau Người.
Họ nói về tất cả những gì đã xảy đến cho nhóm các tông đồ cũng như cho Thầy và Gioan. Nhưng không ai nói gì về các pharisiêu cho tới lúc Judas tuyên bố: “Thưa Thầy, con biết chắc chắn là các kẻ ghét Thầy tìm Thầy, nên để cứu Thầy, con đã tung ra cái tin là Thầy không đi Jêrusalem bằng các con đường theo thói quen, nhưng bằng đường biển cho tới Joppê. Họ sắp đi về hướng đó. A ha!”
- Nhưng tại sao nói dối?
- Và họ, tại sao họ nói dối?
- Họ, đó là họ. Và con, con không là, con không được là như họ.
- Thưa Thầy, con chỉ là điều này: một người biết Thầy và yêu Thầy. Thầy muốn mất mạng sao? Con, con sẵn sàng để ngăn cản việc đó. Xin Thầy nghe rõ con đây, và hãy cảm nhận qủa tim của con trong các lời của con: ngày mai Thầy sẽ không ra khỏi đây...
- Ngày mai là ngày Sabát.
- Đúng, nhưng Thầy không ra khỏi đây. Thầy sẽ nghỉ ngơi, Thầy...
- Judas, tất cả, trừ ra tội. Không một lý do nào có thể làm Thầy chấp nhận thiếu sót việc thánh hóa ngày Sabát.
- Họ...
- Họ hãy làm điều họ muốn. Thầy, Thầy sẽ không phạm tội. Lại nữa, nếu Thầy làm, tội của Thầy sẽ đè trên Thầy, Thầy sẽ đặt vào tay họ một khí giới để tiêu diệt Thầy. Con không nhớ họ đã nói
165
rằng Thầy là kẻ xúc phạm ngày Sabát sao?
- Thầy có lý - các người khác nói.
- Được rồi, Thầy sẽ làm điều Thầy muốn về ngày Sabát, nhưng về đường đi thì không. Chúng ta đừng đi theo con đường của mọi người. Thầy ơi, hãy nghe con, hãy đánh lạc hướng họ.
- Nhưng sau cùng, anh là người nói, anh biết được điều gì chính xác? - Simon la lên khi vung vẩy cánh tay ngắn của ông. “Xin Thầy ra lệnh cho anh ta nói”.
- Hãy bình an, Simon. Nếu anh em con đã biết được một điều gì nguy hiểm, có thể là một nguy hiểm cho chính anh ta, và anh loan báo cho chúng ta, chúng ta không được đối xử với anh như kẻ thù, nhưng phải biết ơn anh về điều đó. Nếu anh ta không thể nói tất cả, vì nó liên lụy tới các người thứ ba không đủ can đảm để khởi xướng việc nói ra, nhưng còn đủ thật thà để không cho phép một tội ác. Tại sao các con lại muốn ép buộc anh nói? Vậy hãy để anh nói, và Thầy, Thầy sẽ nhận điều gì là tốt trong kế hoạch của anh, và từ bỏ những gì không tốt. Hãy nói đi Judas.
- Cám ơn Thầy. Thực tình chỉ có Thầy biết con là gì. Con đã nói: ở bên trong biên giới của Samari thì chúng ta có thể đi bằng an, vì ở Samari, Rôma chỉ huy nhiều hơn là ở Galilê và Juđê, và họ, những kẻ ghét Thầy, họ không muốn phiền phức với Rôma. Nhưng, luôn luôn là để đánh lạc hướng các kẻ do thám, con nói đừng đi theo con đường thẳng, nhưng khi ra khỏi đây, ta sẽ đi về phía Dothain, rồi không vào Samari, không đi băng qua tỉnh đó, nhưng đi về Sichem, rồi xuống Ephraim, qua Adomin và Carit, rồi từ đó đi về Bêtani.
- Đường xa và khó đi, nhất là nếu trời mưa.
- Nguy hiểm, Adomin...
- Hình như anh muốn tìm sự nguy hiểm...
Các tông đồ không thiện cảm, nhưng Giêsu nói: “Judas có lý. Chúng ta sẽ đi lộ trình đó. Sau đó chúng ta sẽ có giờ để nghỉ ngơi. Thầy còn có các việc khác phải làm trước khi giờ đến và phải hoàn tất. Thầy không thể vì ngu dốt mà nộp mình cho họ trước khi tất cả đều hoàn tất. Như vậy chúng ta sẽ đi qua nhà Lazarô. Chắc chắn ông bệnh rất nặng và ông đang chờ Thầy... Các con hãy ăn đi. Thầy
166
rút lui. Thầy mệt...”
- Cả đến không dùng một tí đồ ăn à? Thầy không bệnh chứ ?
- Không đâu Simon. Nhưng đã bảy ngày rồi, Thầy không ngủ trên giường. Chào các bạn. Bình an cho các con... - Và Người rút lui.
Judas hớn hở: “Các anh thấy không? Người là kẻ khiêm nhường và chính trực, Người không từ chối điều gì Người cảm thấy là tốt...”
- Đúng... nhưng... Anh có tin là Người bằng lòng không? Thực sự bằng lòng không?
- Tôi không tin... Nhưng Người hiểu là tôi có lý...
- Tôi muốn biết anh làm cách nào mà biết được bao nhiêu là chuyện. Tuy nhiên... anh vẫn luôn luôn ở với chúng tôi!...
- Đúng. Và các anh canh chừng tôi như một con vật nguy hiểm. Tôi biết. Nhưng không sao. Các anh hãy nhớ điều này: người ta có thể lợi dụng ngay cả một tên ăn mày, ngay cả một thằng ăn cắp để biết, và ngay cả các phụ nữ nữa. Tôi đã nói chuyện với một tên ăn mày mà tôi cho nó của bố thí; với một tên ăn cắp, và tôi khám phá ra... Với một...người đàn bà và... bao nhiêu là điều người đàn bà có thể biết!
Các tông đồ nhìn nhau kinh ngạc. Bằng cái nhìn, họ hỏi nhau: Judas đã lại gần và biết ở đâu, khi nào?...
Ông ta cười và nói: “Và với một người lính! Đúng, vì người đàn bà đã nói nhiều tới nỗi gửi tôi đến nhà một người lính. Và tôi được sự xác nhận, và tôi đã biết... Tất cả đều được phép khi cần, ngay cả các gái điếm, và các binh sĩ!”
- Anh là... Anh là... - Batôlômêo nói, và ông kìm hãm lại điều ông muốn nói.
- Đúng, tôi là tôi, không có gì ngoài là tôi, một người tội lỗi đối với các anh. Nhưng tôi, với tất cả tội lỗi của tôi, tôi phục vụ Thầy tốt hơn các anh. Và ngoài ra... Nếu một gái điếm biết được điều các kẻ thù của Giêsu muốn, thì đó là dấu họ đã tới nhà các gái điếm, hay họ có các cô ở với họ. Tôi cũng có thể có họ. Điều đó giúp ích cho tôi. Các anh thấy không? Hãy suy nghĩ rằng Người có thể bị bắt ở biên giới Juđê, và hãy nói rằng tôi đã khôn ngoan để tránh
167
được điều đó...
Tất cả đều lo nghĩ và ăn thực phẩm của họ một cách bất đắc dĩ. Rồi Batôlômêo đứng dậy.
- Anh đi đâu đó?
- Tìm Người. Tôi không tin là Người ngủ. Tôi đi mang sữa nóng cho Người... và tôi sẽ thấy.
Ông đi ra, vắng mặt một lát, rồi ông trở lại.
- Người ngồi trên giường... và Người khóc... Judas, anh làm khổ cho Người. Tôi đã nghĩ đúng vậy.
- Người nói vậy à? Tôi đi cắt nghĩa cho Người.
- Không, Người không nói vậy. Trái lại, Người nói rằng anh cũng có công. Nhưng tôi hiểu. Đừng tới. Hãy để cho Người yên.
- Tất cả các anh đều ngốc! Người khổ vì Người bị bách hại, bị trở ngại trong sứ mạng của Người - Judas nói cách phẫn nộ.
Gioan xác nhận: “Đúng vậy. Người đã khóc ngay cả trước khi đến gặp các anh. Người rất khổ, kể cả cho mẹ Người và các anh Người, cho các nông dân tội nghiệp. Ôi! Biết bao là đau khổ!...”
- Kể đi, kể đi!
- Rời xa mẹ Người là một cái khổ; thấy rằng người ta không hiểu Người, không ai hiểu Người cả, đó là một cái khổ; thấy rằng các đầy tớ của Giocana...
- Hé, đúng! Đúng là khổ để thấy họ! Tôi bằng lòng vì Margziam không gặp họ. Nó sẽ khổ và ghét tên pharisiêu... - Phêrô nói.
- Nhưng các anh tôi vẫn còn làm khổ cho Giêsu à? - Juđa Thađê hỏi cách nghiêm khắc.
- Không. Trái lại, họ đã gặp nhau và nói chuyện cách tình nghĩa. Rồi họ từ biệt nhau trong bình an và với những lời hứa tốt... Nhưng Người muốn họ... cũng như muốn chúng ta... muốn chúng ta hơn tất cả, Người muốn tất cả chúng ta xác tín về Nước của Người, và về bản chất của nước ấy. Và chúng ta... - Gioan không nói thêm... Và sự yên lặng bao trùm căn phòng nhỏ được soi sáng bằng một cây đèn hai ngọn, soi cho mười hai khuôn mặt suy nghĩ khác nhau.
168
177* GIÊSU VÀ NGƯỜI MỤC ĐỒNG XỨ SAMARI
Tôi không biết họ đang ở nơi nào của xứ Samari. Chắc chắn là ở giữa miền núi, mặc dù đây không phải là những núi cao nhất, vì các núi cao nhất thì ở lui về phía nam hơn với những sườn dốc dựng đứng của nó trước bầu trời bây giờ đã thanh quang trở lại.
Các tông đồ tiến bước, bao quanh Giêsu hết sức có thể. Nhưng lối đi, một lối tắt, thường không cho phép họ, nên nhóm người cứ tụ rồi tan liên tục. Có nhiều mục đồng cùng với đoàn vật của họ ở trên núi, và các tông đồ nói với họ để hỏi thăm xem lối đi có còn luôn luôn là đường dẫn ra con đường của các đoàn du mục từ biển tới Pella không. Mặc dầu là người Samari, họ trả lời không thô lỗ. Tại chỗ giao nhau của nhiều con đường nhỏ chạy về đủ hướng, có một người trong số các mục đồng này nói với họ: “Lát nữa tôi sẽ đi xuống thung lũng. Qúi vị nghỉ một tí đi, rồi chúng ta đi cùng với nhau. Nếu qúi vị lạc trong các núi này... đó sẽ là điều không tốt...” Rồi ông ta hạ giọng và thêm: “Các tên trộm!...” và ông nhìn hết chung quanh, tựa như ông sợ chúng đang ở gần và đe dọa. Rồi lại an lòng, ông nói nữa: “Từ trên các sườn núi Garizim và Ébal, chúng xuống và phân tán ra trong thời kỳ hành hương này, và chúng luôn luôn tìm được gì để làm, mặc dầu các người Rôma đã tăng cường việc canh chừng các trục lộ... vì luôn luôn có những người tránh con đường đông đúc để đi cho lẹ hơn, hoặc vì những lý do khác”.
- Các ông có rất nhiều trộm cướp, hen? - Philíp nói với một nụ cười nhiều ý nghĩa.
- Ông, người Galilê, ông tưởng chúng là những người Samari sao? - người mục đồng nói, vì bỗng dưng bị xúc phạm.
Iscariot can thiệp, vì chính ông đã đề nghị cái lộ trình này, ông cảm thấy bó buộc phải tránh mọi tức giận bất ngờ: “Không, không! Nhưng vì người ta biết các ông hiếu khách, và có những kẻ hành động xấu đến trú ẩn ở đây, làm như... làm như tất cả các ông là nơi tị nạn. Các kẻ bất lương biết rằng không có ai, dù người Galilê hay Do-Thái, theo dõi họ ở đây, nên họ lợi dụng. Và thiên nhiên cũng giúp họ: các ngọn núi này...”
169
- Ha! Tôi đã tưởng rằng các ông nghĩ... Nhưng các ngọn núi, đúng, phục vụ cho chúng rất nhiều. Hai ngọn cao nhất, rồi... đúng... Nhưng Adomin và khe Ephraim đã dẫn đến bao nhiêu tên! Đủ mọi nòi giống, hé, hé!... Và đám lính Rôma rất qủi quyệt... Họ sẽ không lôi chúng ra khỏi tổ. Chỉ có các con rắn và chim ó là có thể biết ổ của chúng và vào đó. Người ta kể những chuyện rùng rợn! Nhưng các ông ngồi xuống đi, tôi cho các ông sữa uống... Là dân Samari, đúng, nhưng tôi cũng biết Ngũ Kinh, và tôi không xúc phạm đến những người không xúc phạm đến tôi. Các ông... các ông không xúc phạm đến tôi, dù các ông là Galilê hay Do-Thái. Nhưng người ta nói rằng một tiên tri đã đến trong các ông và dạy yêu chúng tôi. Nếu tôi không nghĩ đến như các người luật sĩ và pharisiêu của Israel nói: họ nói chúng tôi là những kẻ bị nguyền rủa, thì tôi nói rằng các vị đại tiên tri đã yêu chúng tôi, dù chúng tôi là Samari, và đã trở lại sống trong vị đó, như một số người nói. Nhưng tôi, tôi không tin chuyện đó... Sữa đây... Nhưng tôi thích gặp vị tiên tri này. Người ta nói rằng vị tiên tri khác kia, vị đã đến trú ở biên giới của chúng tôi, và chúng tôi đã không phản bội - Những kẻ chửi rủa chúng tôi phải nhớ điều đó - đã nói rằng vị tiên tri xuất hiện trong Israel còn lớn hơn cả Êlia. Họ gọi Người là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng Kitô. Và các người Samari ở Sichem đã được nói với Người, và họ nói những sự vĩ đại về Người. Nhiều người đã lên đứng ở trên con lộ lớn, vì nghĩ rằng Người sẽ đi qua đó. Và cả đến - đây là lần đầu tiên việc này xảy ra - cả đến các người Do-Thái, các pharisiêu và các tiến sĩ cũng đã hỏi chúng tôi trong tất cả các thành phố. Họ bảo chúng tôi rằng nếu chúng tôi thấy Người, chúng tôi sẽ chạy lên phía trước để nói rằng Người tới, vì họ muốn làm đại lễ cho Người.
Các tông đồ nhìn nhau ở bên dưới, nhưng vì thận trọng nên không nói. Judas mà người ta thấy đôi mắt đen của ông sáng rỡ, đầy ánh sáng chiến thắng, dường như muốn nói: “Các anh nghe không? Bây giờ các anh đã chịu nhận là tôi có lý chưa?”
Người mục đồng tiếp tục nói: “Chắc chắn các ông biết Người. Các ông từ đâu tới?”
- Từ phía bắc Galilê - Judas trả lời ngay.
170
- Ha! Các ông là... không... ông, ông không phải người Galilê.
- Chúng tôi thuộc đủ mọi nơi. Chúng tôi đi hành hương tại lăng các vị tiến sĩ.
- Ha! Có lẽ các ông là môn đệ... Nhưng người kia, chính ông ta không phải là rabbi sao? - ông nói khi chỉ vào Giêsu.
- Chúng tôi là các môn đệ, ông nói đúng. Phải, người đó là một rabbi. Nhưng ông biết là từ rabbi nọ tới rabbi kia, có những sự khác biệt.
- Tôi biết. Chắc là vị này còn trẻ, ông còn phải học nhiều nơi các đại tiến sĩ trong Đền Thờ của các ông - Có một sự khinh bỉ tỏ tường trong sở hữu tĩnh từ ông dùng, nhưng Judas luôn luôn lẹ làng để đối đáp, và là một trong những câu thích đáng tuyệt vời nhất.
Các người khác không nói. Giêsu như trầm tư, và như vậy mũi tên không gây ra phản ứng. Trái lại, Judas mỉm cười nói: “Qủa thật, ông ta còn rất trẻ, nhưng ông là người khôn ngoan nhất trong chúng tôi”. Và để chấm dứt cuộc đàm thoại có thể trở nên nguy hiểm, ông nói: “Ông còn ở lại chỗ này lâu không? Chúng tôi muốn ở dưới đó vào lúc đêm”.
- Không. Tôi đi đây. Tôi đi lùa đàn cừu, rồi tôi tới.
- Tốt. Vậy trong lúc đó, chúng tôi đi trước... - và ông đứng dậy để cùng với các người khác đi lại con đường mòn.
Tới khi có một đám cây rậm ở giữa ông và người mục đồng, ông cười và nói: “Nhưng dễ chừng nào để nhạo thiên hạ! Bây giờ các anh đã nhận rằng tôi không nói dối, và tôi không phải là thằng ngu chưa?”
- Không, anh đã không nói dối... nhưng bây giờ, anh vừa nói dối.
- Tôi đã nói dối à? Không. Philíp, làm sao anh có thể nói vậy? Tôi biết cách nói sự thật mà không kéo theo sự thiệt hại. Phải chăng chúng ta không đến từ bắc Galilê? Phải chăng chúng ta không thuộc về đủ mọi miền? Phải chăng chúng ta đã không có bữa bị ném đá vì viếng lăng các tiến sĩ ? Phải chăng chúng ta đã không đi qua ngay bên Giscala, ngay cả trong cuộc du hành sau cùng? Phải chăng tôi đã từ chối rằng Giêsu là một rabbi? Phải chăng tôi đã không nói
171
rằng Người là vị khôn ngoan nhất trong chúng ta?... Và trong khi nói, tôi đã nghĩ, tôi đã cười thầm, vì khi nói “chúng tôi” là tôi đã xúc phạm đến các rabbi, tất cả đều ở bên dưới Thầy, mặc dầu họ tin là không phải vậy; và tôi nhạo cười người mục đồng... Ha ha ha! Các chuyện, phải biết cách nói... và người ta nói hết mà không phạm tội, không nguy hại.
Juđa Alphê làm cử chỉ nhăn mặt ghê tởm và nói: “Đối với tôi, đó luôn luôn là nói dối”.
- Được, tôi đã làm vậy. Nhưng anh cũng đã nghe, hen? Họ đã bỏ rơi thành kiến của họ, sự ghê tởm của họ, tính tự phụ của họ để bảo các người Samari báo hiệu Thầy đi qua, để làm lễ cho Người ở biên giới! Ha ha! Lễ lạy nào chứ!
- Lễ! Họ cũng biết nói và nghĩ trong khi nói dối như nói thật... Judas Kêriot có lý - Tôma nói.
Giêsu quay lại và nói: “Đúng, các lời của họ là sự lừa dối và khả ố. Nhưng nói một điều để cho người ta hiểu một điều khác, dù với mục đích tốt, cũng vẫn luôn luôn là đáng trách. Con tưởng là Chúa cần những điều như vậy để bảo vệ Đức Messi của Người sao? Đừng nói dối nữa, dù với mục đích tốt. Linh hồn sẽ quen thói tưởng tượng ra các điều nói dối, và môi miệng sẽ nói ra. Không, Judas, hãy tránh thiếu chân thành”.
- Thưa Thầy, con sẽ làm như vậy. Nhưng bây giờ chúng ta hãy nín lặng. Người mục đồng đang chạy lại với chúng ta.
Qủa vậy, bị đẩy đi trước, đàn cừu cảm thấy như ở gần chuồng nên chúng bắt đầu vừa chạy vừa nhảy, kêu bê bê, húc vào nhau, mạnh mẽ vượt qua các tông đồ, hầu như xô vào họ. Đây, người mục đồng tới, theo sau là một người mục đồng nhỏ và một con chó. Ông chỉ dừng lại sau khi đứa trẻ và con chó đã giúp ông giảm tốc bước chân của các con cừu, lùa gọn chúng lại để chúng không chạy tản mát hoăc đi một mình xuống thung lũng.
- Đây là những con vật ngu nhất trên trái đất, nhưng chúng có ích biết bao! - ông ta nói khi lau mồ hôi, và ông thở dài: “Ôi, nếu còn Ruben! Nhưng chỉ có đứa nhỏ này!...” Ông lắc đầu trong khi
172
xuống dốc theo sau đàn cừu mà đứa trẻ và con chó dẫn đầu để giữ cho chúng đi gọn lại, và ông độc thoại: “Nếu tôi tìm thấy vị tiên tri, thì dù tôi là Samari, tôi cũng nói với Người”.
- Ông sẽ nói gì với Người? - Giêsu hỏi.
- Tôi sẽ nói: “Tôi có một bà vợ tốt như dòng nước trên núi đối với kẻ khát, mà Đấng Tối Cao đã bắt mất bà. Tôi có một đứa con gái tốt y như mẹ nó, nhưng một người Rôma gặp nó và muốn nó làm vợ, rồi mang nó đi xa. Tôi có một đứa con trai, con cả của tôi, nó là tất cả cho tôi... Nó trượt chân trên núi vào một ngày mưa, và nó bị gẫy xương sống, bị liệt; bây giờ nó bệnh, vì các bộ phận bên trong bị bệnh, và các thầy thuốc nói rằng nó sắp chết! Tôi, tôi không hỏi Ngài tại sao Thiên Chúa phạt tôi, nhưng tôi xin Ngài chữa cho con trai tôi”.
- Ông tin rằng Người có thể chữa nó cho ông sao?
- Phải, chắc chắn rằng tôi tin điều đó. Nhưng tôi không bao giờ thấy Người...
- Tại sao ông chắc chắn điều đó? Người đâu có phải dân Samari?
- Đó là người công chính, và người ta nói đó là Con Thiên Chúa.
- Các ông đã xúc phạm đến Thiên Chúa nơi tổ phụ của các ông.
- Đúng vậy. Nhưng có lời rằng Thiên Chúa sẽ tha thứ tội lỗi khi nhìn vào Đấng Cứu Thế. Trong sách Ngũ Kinh, ở bên cạnh sự kết án Ađam và Evà, người ta đọc thấy lời hứa này. Và sách nói tới nó ở nhiều chỗ. Nếu Người đã tha cho tội này, lẽ nào Người không thương tôi là kẻ không có lỗi khi sinh ra là người Samari. Tôi tin rằng nếu Đức Messi biết nỗi khổ của tôi, Người sẽ thương tôi.
Giêsu mỉm cười, nhưng Người không nói gì. Các tông đồ cũng có nụ cười đồng ý, nhưng người mục đồng không nhận thấy.
- Vậy đứa trẻ này không phải con ông à? - Giêsu hỏi.
- Không. Đó là đứa con trai của một bà góa có tám đứa con trai khổ vì đói. Tôi đã nhận nó như một sự giúp đỡ... và như con trai... để không bị cô đơn... Sau đó... khi Ruben đã ở trong mồ... - và ông thở dài.
- Nhưng nếu con trai ông được lành, ông sẽ làm gì với đứa trẻ
173
này?
- Tôi sẽ giữ nó. Nó tốt và tôi thương nó... - và ông hạ giọng để nói: “Nó không biết... Nhưng cha nó chết vì tù khổ sai chèo thuyền”.
- Ông ta đã làm gì mà bị như vậy?
- Không có gì cố ý cả. Xe của ông đã xô té một tên lính say, và ông bị kết án là đã cố ý làm như vậy...
- Làm sao các ông biết là ông ta đã chết?
- Ôi! Người ta không sống lâu được với mái chèo! Nhưng người ta chắc chắn được nhờ trung gian của một người lái buôn ở Samari đã thấy ông ta chết, được cởi xiềng và vất xuống biển ở bên ngoài Colonnes.
- Thực tình ông sẽ giữ nó với ông chứ ?
- Tôi sẵn sàng để thề điều đó. Nó khổ sở, tôi cũng khổ sở. Và đâu phải chỉ có mình tôi. Những người khác cũng đã nhận con trai của bà góa, và bà chỉ còn sống với ba đứa con gái của bà. Vẫn còn là qúa nhiều, nhưng bốn mạng thì còn hơn là mười hai mạng... Nhưng tôi chả cần thề... Ruben sắp chết rồi...
Người ta đã nhìn thấy con đường rất đông khách hành hương đang vội vã tới trạm nghỉ. Chiều tà đã gần.
- Ông có chỗ nào để ngủ không? - người mục đồng hỏi.
- Thực tình thì không.
- Tôi mời ông: “Hãy đến”. Nhà tôi nhỏ, không đủ chỗ cho tất cả, nhưng chuồng cừu rất lớn.
- Nguyện Thiên Chúa trả ơn cho ông giống như ông đã cho tôi trọ, nhưng tôi còn đi tiếp tục cho tới khi trăng lặn.
- Như ông muốn. Nhưng ông không sợ lạc và không sợ các cuộc gặp gỡ xấu sao?
- Đối với các kẻ trộm cắp, tôi được bảo vệ bởi sự nghèo nàn của tôi và của các bạn tôi; về đường sá thì tôi ký thác cho thiên thần của các khách hành hương.
- Tôi phải đi lên đầu đàn vật. Đứa trẻ chưa biết, mà đường thì đầy xe... - và ông chạy lên phía trước để hướng dẫn đàn cừu tới nơi an toàn.
174
- Thầy ơi, bây giờ đến lúc xấu rồi. Có một đoạn đường phải đi ở giữa người ta - các tông đồ xì xèo.
Đây, các ngài đã ở trên đường, theo sau đàn cừu đang tiến bước, bị dồn sát bởi núi, tiếng la lối của người mục đồng và sự canh chừng của con chó. Bây giờ đứa trẻ ở gần Giêsu và Người vuốt ve nó.
Họ tới chỗ đường rẽ đôi. Người mục đồng cho đàn vật dừng lại và nói: “Đây là đường của ông, đường kia là của tôi. Nhưng nếu ông vào làng, ông sẽ tìm thấy một con đường thứ ba gần hơn để tới làng bên cạnh. Coi đây: ông thấy cây sung thật lớn kia không? Hãy đi ngay tới đó rồi quẹo tay phải, ông sẽ tới một quảng trường nhỏ có cái phông-ten, rồi tới một căn nhà đen vì khói, đó là lò rèn. Sau nhà đó có con đường. Ông không lộn được đâu. Chào”.
- Chào! Ông tốt, và Thiên Chúa sẽ an ủi ông.
Người mục đồng theo đường của ông, và Giêsu theo đường của Ngài. Chung quanh người thứ nhất là đàn cừu, chung quanh người thứ hai là các tông đồ: hai người chủ chăn ở giữa bầy của họ...
Bây giờ họ cách xa nhau, bị che khuất bởi mấy căn nhà phân chia con đường chính mà người mục đồng đi với con đường nhỏ dẫn tới một thôn nghèo của làng, xóm nghèo nhất, tôi tin vậy...yên lặng... cách biệt... Những người dân nghèo đã ở trong nhà họ. Các cửa hé mở cho nhìn thấy lửa ở trong các nhà bếp... Chiều rơi với sương mù của hoàng hôn.
- Chúng ta sẽ dừng lại ở chỗ ra khỏi làng - Judas nói. “Tôi nhìn thấy những căn nhà ở ngoài đồng”.
- Không. Tốt hơn là nên đi tiếp - các ý kiến khác nhau.
Họ tới cái phông-ten và chạy vội lại để rửa ráy và hấng nước vào bình. Đây, người thợ rèn. Ông đang đóng cửa cái xưởng đen thui của ông. Đây là con đường đi về các cánh đồng... Họ đi vào đó.
Nhưng một tiếng kêu từ xa, từ trong làng vọng tới: “Rabbi! Rabbi! Con trai tôi! Dân chúng ơi, này, vị hành hương đâu vậy?”
- Chúa ơi, họ tìm chúng ta. Thầy đã làm gì vậy?
175
- Chạy đi. Nếu chúng ta đến cái rừng kia, sẽ không ai nhìn thấy chúng ta cả.
Họ chạy băng qua đồng cỏ phủ đầy những cỏ mới cắt. Họ tới bờ dốc, họ leo lên và biến mất, theo sau bởi các tiếng nói bây giờ có vẻ đông, và bởi các người ở rải rác bên ngoài làng. Họ gọi hơn là nhìn, vì bây giờ trời tối mờ mờ che phủ nhiều thứ. Họ dừng lại ở chân sườn dốc.
- Tôi bảo qúi vị: đó là vị rabbi đã đến Sichem. Chỉ có thể là Người, và Người đã chữa Ruben cho tôi. Nhưng tôi, tôi không nhận ra Người. Rabbi! Rabbi! Rabbi! Xin cho phép con tôn kính Ngài. Hãy nói cho con Ngài nấp ở đâu!
Chỉ có tiếng vọng trả lời, và hình như nó nói: “Abbi! Abbi! Abbi!”
Người thợ rèn nói: “Nhưng Người không thể ở xa. Người vừa đi qua trước nhà tôi thì anh tới...”
- Nhưng Người không có ở đây. Anh thấy đó, không có ai ở trên đường cả. Mà chắc chắn Người phải đi đường chứ!
- Có thể Người ở trong rừng.
- Không. Người gấp lắm!... - Rồi ông gọi sự giúp đỡ của con chó. Ông kích thích nó: “Tìm đi! Tìm đi!” Và trong một lúc, hầu như con chó sắp tìm ra chỗ các đấng nấp, vì nó chạy về phía rừng sau khi đã đánh hơi ở đồng cỏ. Nhưng rồi con vật dừng lại, sững sờ, giơ một chân lên, mũi ngửa lên trời... Rồi bị lừa bởi cái gì tôi không biết, nó sủa lên rồi chạy về phía ngược lại với những người chạy theo sau nó...
- Ôi! Ngợi khen Chúa! - các tông đồ kêu lên, thở ra một hơi nhẹ nhõm. Và họ không thể cầm lòng để không nói với Thầy: “Nhưng Chúa ơi, Thầy đã làm gì vậy?” Và họ hầu như trách Người vì đã làm: “Thầy biết là tốt nếu họ không chỉ điểm Thầy, vậy mà Thầy...”
- Thầy không thể thưởng cho một đức tin sao? Và không tốt khi họ tin rằng Thầy ở trên đường từ Dothain tới Pella sao? Có lẽ các con không muốn rằng họ chẳng còn hiểu gì cả?
- Đúng vậy, Thầy có lý. Nhưng nếu con vật khám phá ra Thầy?
- Ồ, Simon! Con không nghĩ rằng đấng có thể đặt định ý muốn
176
của Người, cho dù ở xa, trên các bệnh tật và các yếu tố; đấng xua đuổi được ma qủi, lại không thể áp đặt cho một con vật sao? Bây giờ hãy trở lại con đường ở chỗ khúc quặt. Họ không nhìn thấy chúng ta nữa đâu. Đi thôi.
Và hầu như phải rờ rẫm, họ bước trong khu rừng nhỏ của ngọn đồi cho tới khi họ trở lại con đường nhỏ, được soi sáng bởi mặt trăng đã mọc, ở xa ngôi làng mà ngọn đồi che khuất hoàn toàn.
178* MƯỜI NGƯỜI CÙI Ở GẦN EPHRAIM
Các đấng vẫn ở trong miền núi với các ngọn núi dựng đứng, trên những con đường nhỏ mà chắc chắn xe cộ không thể qua, chỉ có các khách bộ hành và các người cỡi lừa, loại lừa khỏe mạnh của miền núi, lớn hơn và lực lưỡng hơn các lừa người ta thường gặp trong những miền ít gập ghềnh hơn. Một nhận xét mà đối với nhiều người, nó có vẻ vô ích, nhưng dù sao tôi cũng làm. Samari có nhiều tập quán khác với các nơi, về y phục cũng như nhiều thứ khác. Một trong những điều này là số lượng chó, nó làm tôi chú ý cũng như sự hiện diện của heo ở miền Thập Tỉnh làm tôi chú ý. Ở đây có nhiều chó, có lẽ vì Samari có nhiều mục đồng, và chắc là có nhiều chó sói trong miền núi hoang vu này. Cũng vì các mục đồng ở Samari, tôi thường thấy họ một mình, cùng lắm là thêm một đứa trẻ, để chăn đoàn vật riêng của họ, trong khi ở những nơi khác thì phần đông họ gồm nhiều người, giữ những đoàn vật đông đảo của vài người giầu. Ở đây, các mục đồng có con chó riêng của họ, hoặc là nhiều con, tùy theo số cừu trong bầy của họ. Một đặc tính khác nữa, và chi tiết, là các con lừa, lớn như ngựa, lực lưỡng, có thể leo núi với một trọng tải lớn trên yên, kể cả các khúc cây lớn. Chúng cũng mạnh khi xuống dốc từ các ngọn núi phủ đầy cây cổ thụ tuyệt vời này. Một điều đặc biệt khác nữa là tính cách tự do thoải mái của người dân, không là các kẻ “tội lỗi” như các người Do Thái và các người Galilê xét đoán. Họ cởi mở, thẳng thắn, không cuồng tín,
177
không có tất cả những chuyện ở các miền khác, và họ hiếu khách. Điều nhận xét này làm tôi nghĩ rằng, dụ ngôn người Samari tốt lành không phải chỉ có ý làm nổi bật tư tưởng rằng ở khắp nơi đều có người tốt người xấu, bất cứ ở đâu và nơi nòi giống nào, ngay cả nơi những người tà giáo, cũng có những người có con tim ngay thẳng, nhưng còn là sự diễn tả thực sự các thói quen của người Samari đối với những người cần sự giúp đỡ. Họ dừng lại ở Ngũ Kinh - Tôi chỉ nghe họ nói có bấy nhiêu - nhưng họ thi hành, ít nhất là đối với tha nhân, họ có nhiều ngay thẳng hơn những người khác với sáu trăm mười ba điều luật của họ, và v.v.
Các tông đồ nói chuyện với Thầy, dù họ là những người Israel không thể sửa đổi, họ cũng phải nhận ra và khen cái tinh thần họ đã nhận thấy nơi các người dân ở Sichem, mà tôi hiểu nhờ các câu đàm thoại tôi nghe được, đã mời Giêsu nghỉ lại ở giữa họ. Phêrô nói:
- Thầy đã nghe, hen? Họ đã nói rõ là họ biết sự thù ghét của người Do Thái. Họ đã nói: “Đối với Thầy và ở trên Thầy có nhiều thù ghét hơn là đối với chúng con, những người Samari, về tất cả những gì chúng con là và đã là. Sự thù ghét của họ đối với Thầy không có bờ bến”.
- Và ông già đó, ông ta nói đúng chừng nào! “Tự bản chất, thực đúng là như vậy. Bởi vì Thầy không phải là một người, nhưng là Đức Kitô, Vị Cứu Tinh của thế giới. Vậy Thầy là Con Thiên Chúa, vì chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu thế giới đã hư hỏng, Bởi vậy, vì Thiên Chúa vô tận, Thầy cũng vô tận trong quyền phép của Thầy, trong sự thánh thiện của Thầy, trong tình yêu của Thầy, cũng như sẽ vô tận trong chiến thắng của Thầy trên sự dữ. Và sự thù ghét thì là một với sự dữ, là vô tận để chống lại Thầy”. Qủa thực ông ta nói rất hay! Cái lý lẽ này cắt nghĩa bao nhiêu điều! - Zêlote nói.
- Theo anh thì nó cắt nghĩa cái gì ? Tôi... tôi nói nó chỉ cắt nghĩa rằng đó là những điều ngu xuẩn - Tôma nói cách giản tiện.
- Không, sự ngu ngốc thì còn tha thứ được. Nhưng họ không ngốc.
178
- Vậy là họ say, say men thù ghét - Tôma đối đáp.
- Cũng không. Sự say sưa nhượng bộ sau khi hết say. Sự thù oán này không nhượng bộ.
- Và còn nổi cuồng mạnh hơn nữa! Nhưng từ qúa lâu rồi... bây giờ nó phải hạ xuống chứ!
- Các bạn ơi, nó chưa đạt tới đích - Giêsu nói cách bình tĩnh tựa như cái đích của sự căm hờn không phải là khổ hình của Người.
- Chưa sao? Nhưng nếu họ không bao giờ để cho chúng ta yên?!
- Thầy ơi, các bạn còn chưa nhận là con nói sự thật. Nhưng con đã nói rồi, ôi, đúng, con đã nói rồi. Và con cũng nói rằng nếu chuyện đó tùy thuôc vào các anh thì tất cả các anh đều rơi vào bẫy giống như ông Tẩy Giả đã rơi vào. Nhưng họ sẽ không thành công, bởi vì tôi canh chừng... - Iscariot nói.
Giêsu nhìn ông. Tôi cũng nhìn ông và tôi tự hỏi, từ mấy ngày nay tôi nhìn ông và tự hỏi xem thái độ của Iscariot là do sự trở lại tốt và thực sự trên đường lành và trên tình yêu đối với Thầy; một sự giải thoát khỏi những sức lực nhân loại và ngoài nhân loại nó cầm giữ ông, hay đó chỉ là một công việc tinh tế hơn để sửa soạn cho cú sau cùng, cho sự lệ thuộc lớn nhất vào các kẻ thù của Đức Kitô và vào Satan. Nhưng Judas là một thực thể qúa đặc biệt đến nỗi không thể nào hiểu được. Chỉ có Thiên Chúa hiểu được ông ta. Và Thiên Chúa là Giêsu, thì lại phủ một tấm màn tình thương và khôn ngoan trên tất cả mọi hành động và nhân cách của vị tông đồ của Người... Một tấm màn sẽ bị xé ra để soi sáng hoàn toàn bao nhiêu cái tại sao mà bây giờ còn bí nhiệm, khi cuốn sách của các tầng trời sẽ được mở ra.
Các tông đồ qúa bận trí với tư tưởng là sự thù ghét của kẻ thù chưa đạt tới cùng đích, tới nỗi họ không nói gì trong một lúc, rồi Tôma lại nói với Zêlote: “Vậy nếu họ không say, cũng không ngu, và nếu sự thù ghét của họ cắt nghĩa được bao nhiêu thứ mà lại không cắt nghĩa điều này, vậy nó cắt nghĩa cái gì? Họ là gì? Anh chưa nói điều đó”.
- Họ là gì à? Là các kẻ bị ám. Chúng là điều chúng nói về Người.
179
Điều đó cắt nghĩa rằng sự thù ghét của họ không bao giờ ngừng, trái lại, nó phát triển mạnh hơn tới mức nó bộc lộ ra trong sức mạnh của nó. Người Samari này đã nói rất đúng: Nơi Người, con của Chúa Cha và của Maria, là người và là Thiên Chúa, có sự vô tận của Thiên Chúa. Và sự thù ghét vô tận đối chọi với sự trọn lành vô tận này. Cho dù cả hai đều vô giới hạn, nhưng sự thù ghét không hoàn toàn, vì chỉ mình Thiên Chúa hoàn toàn trong các hành động của Người. Nhưng nếu sự thù ghét có thể tới được vực thẳm hoàn toàn, thì nó sẽ xuống đó, cả đến nó sẽ vội vã nhảy xuống, để rồi lại nảy lên và được mạnh sức hơn nhờ đã rơi tới vực thẳm của hoả ngục, để chống lại Đức Kitô, để làm tổn thương cho Người với tất cả những khí giới giật được của hỏa ngục. Bầu trời được Thiên Chúa qui định chỉ có một mặt trời, nó mọc lên, chiếu sáng rồi biến đi, nhường chỗ cho mặt trời nhỏ hơn là mặt trăng. Mặt trăng này, sau khi đã chiếu sáng, thì đến lần nó cũng lặn để nhường chỗ cho mặt trời. Các thiên thể dạy cho loài người rất nhiều điều, vì nó phục tùng ý muốn của Đấng Tạo Hóa, nhưng con người thì không. Đó là một ví dụ về việc chống lại Thầy. Cái gì sẽ xảy ra nếu vào một rạng đông, mặt trăng nói rằng: “Tôi không muốn lặn, và tôi trở lại con đường tôi đã đi”? Chắc chắn nó sẽ đụng vào mặt trời, gây ra kinh sợ và thiệt hại cho tất cả tạo vật. Đó là điều họ muốn làm khi họ tin rằng họ có thể đập bể mặt trời...
- Đó là cuộc chiến của Tối Tăm chống lại Ánh Sáng. Chúng ta thấy nó mỗi ngày vào lúc bình minh và hoàng hôn. Hai sức mạnh đối chọi với nhau để lần lượt lập đế quốc ở trên trái đất. Nhưng sự tối tăm luôn luôn bị thua, vì nó không bao giờ tuyệt đối. Luôn luôn có một tí ánh sáng le lói, ngay cả trong những đêm ít sao nhất. Người ta nói rằng không khí đã tạo ra ánh sáng bằng chính nó trong không gian vô tận của bầu trời và nó chiếu ra, mặc dù nó rất hữu hạn, để nói với con người rằng các tinh tú không bị tắt. Tôi nói rằng cũng giống vậy, trong bóng tối đặc biệt này là sự ác chống lại ánh sáng là Giêsu, mặc dầu tất cả cố gắng của Sự Tối Tăm, Ánh Sáng vẫn luôn luôn ở đó để an ủi những kẻ tin vào nó”. Gioan nói, và
180
ông mỉm cười với tư tưởng của ông, trầm tư mặc tưởng trong chính mình ông tựa như ông độc thoại.
Tư tưởng của ông được Giacôbê Alphê tiếp nhận: “Trong sách có nói rằng Đức Kitô là Sao Mai, vậy người cũng sẽ có một đêm, và - tôi sợ hãi nó - chúng ta cũng sẽ biết một đêm, một lúc mà ánh sáng coi như bị mất hết sức mạnh của nó, và là lúc Sự Tối Tăm tựa như toàn thắng. Nhưng vì Người được gọi là Sao Mai theo cách loại trừ hết mọi giới hạn trong thời gian, nên tôi nói rằng sau cái đêm tạm thời, Người sẽ là ánh sáng ban mai, tinh ròng, mát mẻ, trong trắng, làm mới lại thế giới, giống như ánh sáng đã kế tiếp vào cái hỗn mang của ngày đầu tiên. Ôi! Đúng, thế giới sẽ được tái tạo trong Ánh Sáng”.
- Và sự nguyền rủa sẽ rơi trên các kẻ bị đày, đã muốn giơ tay để đánh vào Ánh Sáng, để lặp lại những sai lầm đã bị làm, từ Lucifer cho tới các kẻ phạm thượng của dân thánh. Jêova để cho loài người tự do hành động, nhưng vì tình yêu đối với chính loài người, Người sẽ không cho phép hỏa ngục ưu thắng.
- Ôi! Sung sướng là sau sự uể oải qúa lâu của thần trí, giống như nó bị khép chặt và bị tê cóng, như hậu qủa của sự gìa sớm, khôn ngoan lại tươi nở trên môi chúng ta! Chúng ta sẽ như không còn là mình nữa. Bây giờ tôi tìm lại được Zêlote và Gioan, hai người anh em ngày trước - Iscariot nói cách hoan hỉ.
- Tôi cho rằng chúng ta sẽ không thay đổi tới cỡ không còn là chúng ta nữa - Phêrô nói.
- Có, chúng ta đã thay đổi! Tất cả. Trước tiên là anh, rồi đến Simon và các người khác, kể cả tôi. Nếu có một người vẫn hơi giống như họ lúc trước, thì đó là Gioan.
- Hum! Thực tình tôi không biết về cái gì...
- Về cái gì à? Chúng ta lầm lì như mệt mỏi, dửng dưng, suy tư... Người ta sẽ không bao giờ nghe các cuộc đàm thoại như trước đây hay như bây giờ nữa, dù chúng rất hữu ích...
- Để cãi cọ - Thađê nói, vì ông nhớ lại thường như vậy, vì qủa thực các cuộc đàm thoại thường biến thành cãi vả.
- Không, để đào tạo chúng ta, vì chúng ta đâu phải tất cả đều là
181
Natanael hay Simon, hay các Alphê, về bẩm sinh hay về khôn ngoan, và kẻ có ít hơn thì phải luôn luôn học ở kẻ có nhiều hơn - Iscariot đối đáp.
- Thực sự... tôi nói điều cần thiết hơn tất cả là việc tự đào luyện trong sự công chính. Về điều này thì Simon đã cho chúng ta một bài học tuyệt vời - Tôma nói.
- Tôi à ? Anh nhìn lầm. Tôi là thằng ngu hơn tất cả - Phêrô nói.
- Không. Anh là người đã thay đổi nhiều nhất. Về điều này Judas Kêriot có lý. Trong anh không còn nhiều cái của Simon mà tôi biết khi tôi đến với các anh, và, tôi xin lỗi, chúng đã tồn tại trong một thời gian. Từ lúc tôi gặp lại anh sau cuộc chia tay dịp Lễ Ánh Sáng, anh chỉ toàn là biến đổi. Bây giờ anh là... đúng, tôi nói, anh có tình phụ tử nhiều hơn, đồng thời khắc khổ hơn. Anh thương cảm với tất cả các anh em nghèo, trong khi trước đây... Và người ta thấy rõ, ít nhất là tôi, tôi thấy rằng điều đó đã đắt gía cho anh, nhưng anh trấn tĩnh. Và trước đây anh không tỏ ra kính trọng chúng tôi như bây giờ là lúc anh nói rất ít, anh phiền trách chúng tôi rất ít...
- Nhưng bạn ơi, anh thật tử tế để thấy tôi như vậy... Tôi, ngoài tình yêu đối với Thầy là cái luôn luôn lớn thêm, tôi thực tình chả thay đổi gì hết.
- Không. Tôma có lý. Anh đã thay đổi nhiều - nhiều người xác nhận.
- Nhưng, đó là do các anh nói - Phêrô nhún vai, rồi ông thêm: “Chỉ có sự xét đoán của Thầy mới là chắc. Nhưng tôi không hỏi Người. Người biết sự yếu đuối của tôi, và Người biết rằng chỉ một lời ca ngợi không hợp thời cũng có thể làm thiệt hại cho tâm hồn tôi. Người cũng không khen tôi, và Người làm đúng. Càng ngày tôi càng hiểu con tim của Người hơn, cũng như các phương pháp của Người mà tôi thấy là hoàn toàn chính đáng”.
- Là vì con có tâm hồn ngay thẳng và càng lúc càng biết yêu nhiều. Cái làm cho con thấy và hiểu, đó là tình yêu của con đối với Thầy, vị Thầy của con, vị Thầy thực sự và lớn nhất. Đấng làm cho con hiểu Thầy của con, đó là Tình Yêu - Giêsu nói. Từ nãy tới giờ,
182
Người chỉ nghe mà không nói.
- Con nghĩ rằng... cũng vì sự đau khổ con có ở trong này...
- Đau khổ à? Tại sao? - có vài người hỏi.
- Ôi! Vì bao nhiêu thứ. Thực sự thì nó chỉ là một điều: tất cả những gì Thầy phải chịu... Và tư tưởng về tất cả những gì Người sẽ phải chịu. Người ta không còn có thể sao lãng như thời gian đầu, sao lãng như những con nít không biết gì. Bây giờ người ta biết rằng loài người có thể là gì, và người ta phải chịu đựng thế nào để cứu nó. Ôi! Thời gian đầu, chúng ta đã tin là mọi người đều dễ dàng! Chúng ta đã tin rằng chỉ cần chúng ta tự giới thiệu là những người khác sẽ đứng về phía chúng ta! Chúng ta đã tin rằng việc chinh phục Israel và thế giới sẽ giống như... quăng lưới vào một bề sâu nhiều cá! Tội nghiệp cho chúng ta! Tôi nghĩ rằng nếu Người không thành công đánh những mẻ cá tốt, thì chúng ta, chúng ta sẽ không làm được gì cả. Nhưng điều đó cũng chỉ là không. Tôi nghĩ rằng họ rất độc ác để làm khổ Người, và tôi nghĩ đó là lý do cho sự thay đổi của chúng ta, một cách tổng quát.
- Đúng vậy, đối với tôi, điều đó đúng - Zêlote xác nhận.
- Đối với tôi cũng vậy - Đối với tôi cũng vậy - những người khác nói.
- Tôi thì từ lâu rồi, tôi đã lo lắng về điều đó, và tôi tìm cách để... có những sự giúp đỡ có gía trị. Nhưng họ đã phản bội tôi... và các anh không hiểu tôi... và tôi, tôi đã không hiểu các anh. Tôi đã tin rằng các anh như vậy vì tinh thần mệt mỏi, vì nản lòng, vì thất vọng...
- Tôi thì không bao giờ tôi hy vọng niềm vui loài người nên tôi không thất vọng - Zêlote nói.
- Em tôi với tôi, chúng tôi muốn Người chiến thắng, nhưng chỉ vì niềm vui của Người. Chúng tôi đã theo Người vì tình bà con trước khi theo như môn đệ. Chúng tôi luôn luôn theo Người từ khi còn nhỏ. Người trẻ nhất trong đám chúng tôi là các anh của Người, nhưng Người luôn luôn rất lớn hơn chúng tôi - Giacôbê nói với sự cảm phục không bờ bến đối với Giêsu của ông.
183
- Nếu chúng ta khổ, thì chính là vì tất cả chúng ta, những bà con của Người, chúng ta không yêu Người trong thần trí, và không chỉ yêu Người với thần trí chúng ta thôi. Nhưng chúng ta không phải những người duy nhất trong Israel đã yêu Người cách sai lầm - Thađê nói.
Judas Iscariot nhìn ông và có lẽ ông ta sẽ nói, nhưng ông bị cản lại bởi tiếng kêu đến với họ từ trên ngọn đồi ở bên trên ngôi làng nhỏ mà họ đang đi vòng quanh để tìm lối vào:
- Giêsu! Rabbi Giêsu, con Đavít và Chúa của chúng con, xin thương chúng con!
- Các người cùi! Đi đi Thầy, nếu không, dân làng sẽ chạy tới và giữ chúng ta lại trong nhà họ - các tông đồ nói.
Nhưng các người cùi có lợi thế để đến phía trước các ngài. Các ngài đang ở trên đường, nhưng xa ngôi làng ít nhất là năm chục mét. Họ đi cà nhắc để xuống dốc và chạy lại với Giêsu trong khi lặp lại tiếng kêu của họ.
- Thầy ơi, chúng ta vào làng đi, vì họ không thể vào đó - có mấy tông đồ nói, nhưng những người khác đáp: “Đã có mấy phụ nữ tới coi rồi. Nếu chúng ta vào đó, chúng ta tránh được người cùi, nhưng không tránh được bị nhận diện và bị giữ lại”.
Và trong khi họ hỏi nhau xem phải làm gì, thì các người cùi càng lúc càng lại gần Giêsu. Người không lo gì tới các “nhưng” và “nếu” của các tông đồ, Người tiếp tục con đường. Các tông đồ đành chịu đi theo Người, trong khi các người đàn bà với con nhỏ của họ bám vào váy, và mấy người già trong làng đã đến coi. Họ đứng xa xa vì thận trọng với các người cùi đang đứng chỉ cách Giêsu vài mét và vẫn năn nỉ: “Giêsu, xin thương chúng con”.
Giêsu nhìn họ một lát, rồi, không lại gần nhóm người đau khổ, người hỏi: “Các con có phải người làng này không?”
- Thưa Thầy không. Chúng con thuộc nhiều nơi khác nhau, nhưng chúng con trú ở ngọn núi này, vì ở phía bên kia nó nhìn xuống con đường về Jêricô, nên nơi này thuận tiện cho chúng con.
- Vậy hãy đi vào làng nào gần ngọn núi của các con nhất, và hãy
184
trình diện với các thầy cả.
Rồi Giêsu tiếp tục đi, bằng cách đi trên vệ đường để không quẹt vào các người cùi đang nhìn Người đi qua. Họ không có gì khác ngoài cái nhìn hy vọng trong đôi mắt bệnh hoạn khốn nạn của họ. Giêsu, khi Người đi qua chỗ họ thì Người giơ tay chúc lành cho họ.
Các người dân làng nản lòng trở về nhà họ... Các người cùi lại leo lên núi để trở về hang của họ hay về con đường Jêricô.
- Thầy đã làm đúng khi không chữa họ, nếu không, dân làng này sẽ không để cho chúng ta đi.
- Đúng. Và phải tới Ephraim trước khi đêm về.
Giêsu lặng lẽ bước. Bây giờ ngôi làng đã khuất sau khúc quặt của một con đường rất quanh co, vì nó đi theo sự thay đổi của ngọn núi mà nó được đục vào ở chân núi.
Nhưng một tiếng nói vọng tới tai họ: “Ngợi khen Thiên Chúa Tối Cao và Đức Messi thực sự của Người. Nơi Người có tất cả mọi quyền năng, khôn ngoan và tình thương! Ngợi khen Thiên Chúa Tối Cao đã ban cho chúng con bình an qua Người. Hãy ngợi khen Người, tất cả qúi vị, dân Juđê, dân Samari, dân Galilê, và cả bên kia sông Giođan, cho tới cả tuyết của đỉnh Hermon, cho tới cả đá nóng cháy của miền Iđumê, cho tới cát ướt bằng nước của Biển Lớn. Nguyện cho vang rền lời ngợi khen Đấng Tối Cao và Đức Kitô của Người. Đây, lời tiên tri của Balaam đã nên trọn: ngôi sao của Jacob chói sáng trên bầu trời được tái lập của quê hương được thống nhất bởi người mục tử thực sự. Đây cũng là nên trọn các lời đã được hứa cùng các tổ phụ! Đây, đây là lời của Êlia, đấng yêu chúng ta. Ôi! Hỡi Palestin, hãy nghe và hãy hiểu nó. Người của Thiên Chúa đã nguyền rủa bàn thờ giả khi nói tiên tri rằng: ‘Đây, từ nhà Đavít sẽ sinh ra một con trai tên là Josias, đấng sẽ sát tế trên bàn thờ và tiêu thụ các xương của Ađam, lúc đó bàn thờ sẽ xẻ ra cho tới tạng phủ của trái đất, và tro bụi của sự sát tế sẽ tung vãi từ bắc tới nam, từ đông tới tây’. Đừng giống như Ochosias ngu đần, sai người đi hỏi ý thần của Acaron, trong khi Đấng Tối Cao ở ngay trong Israel. Đừng ở dưới thấp hơn con lừa của Balaam, vì nó kính
185
trọng thần trí của ánh sáng nên đã đáng được sống, trong khi vị tiên tri thì bị đánh ngã và không nhìn thấy. Đây, Ánh Sáng đi qua giữa chúng ta. Ôi! Hỡi các người mù trong tâm hồn, hãy mở mắt ra và hãy coi”. Và một trong các người cùi theo các ngài càng lúc càng gần, cả khi các ngài đã lên lộ lớn, và ông chỉ Giêsu cho các người hành hương.
Các tông đồ bực tức. Hai ba lần họ quay lại để ra lệnh cho người cùi đã hoàn toàn được lành phải nín lặng, và cả đến lần sau cùng, các vị đe dọa ông ta.
Người này liền ngừng những lời ông đang nói với mọi người và trả lời: “Nhưng các vị muốn gì? Muốn rằng tôi không ngợi khen những điều cả thể Thiên Chúa đã làm cho tôi sao? Qúi vị muốn rằng tôi không chúc tụng Người sao?”
- Hãy chúc tụng Người trong lòng và nín đi! - họ bực mình trả lời.
- Không, tôi không thể nín. Thiên Chúa đã đặt các lời trên môi tôi - rồi ông lại lớn tiếng: “Hỡi những người ở hai phía biên giới, hỡi những người tình cờ đi qua, qúi vị hãy dừng lại để thờ lạy đấng sẽ cai trị nhân danh Chúa. Tôi đã cười nhạo biết bao lời, nhưng bây giờ tôi nhắc lại nó, vì tôi thấy nó nên trọn. Đây, mọi dân sẽ rung chuyển và sung sướng đến với Chúa bằng các đường biển và đường sa mạc, qua đồi qua núi, và cả chúng ta nữa, đoàn dân đi trong tăm tối, chúng ta sẽ bước đến với Ánh Sáng vĩ đại đã xuất hiện, đến với sự sống, và ra khỏi miền của sự chết. Chúng ta là những chó sói, hổ báo và sư tử, chúng ta sẽ tái sinh trong thần trí của Chúa và chúng ta sẽ yêu nhau trong Người, dưới bóng cái chồi Jessê đã trở thành một cây bách hương, dưới đó mọi dân tộc được Người tụ họp từ bốn phương của trái đất, sẽ dựng lều. Đây, đã đến ngày chấm dứt những ghen tương của Ephraim, vì không còn Israel, cũng không còn Juđa, mà chỉ có một nước duy nhất, nước thuộc về Đức Kitô của Chúa. Đây, tôi hát lời ca ngợi Chúa, đấng đã cứu tôi và an ủi tôi. Đây, tôi nói: Hãy ca tụng Người, hãy đến uống nước phần rỗi trong suối của Đấng Cứu Tinh. Vạn tuế! Vạn tuế những việc cả thể Người làm.
186
Vạn tuế Đấng Tối Cao đã đặt thần trí của Người ở giữa loài người, bằng cách mặc cho Người một thân xác, để Người trở thành Đấng Cứu Thế”.
Ông ta không biết mệt. Người ta đến đông hơn, tụ họp làm cản đường. Những người ở phía sau chạy lên, những người ở phía trước đi ngược trở lại, những người ở trong ngôi làng nhỏ mà bây giờ các đấng đang ở gần, tới tụ họp với các khách qua đường.
- Nhưng Chúa ơi, bảo ông ta im đi. Người ta nói đó là một người Samari. Ông ta không được quyền nói về Thầy trong khi Thầy không cho phép cả đến chúng con đi trước để loan báo Thầy - các tông đồ nói cách bực tức.
- Các bạn ơi, Thầy nhắc lại lời của Môise nói với Josuê, con trai Num, khi ông này phàn nàn về việc Eldad và Madad nói tiên tri trong lều: “Ngươi ghen tị cho Ta thay vì Ta sao? Ôi! Chớ gì toàn dân đều nói tiên tri như vậy, và chớ gì Chúa có thể ban thần trí của Người cho tất cả”. Nhưng Thầy sẽ dừng lại và bảo anh ta đi để làm vui lòng các con.
Rồi Người dừng bước, quay lại, gọi người cùi được lành đến với Người. Ông ta chạy lại, qùi phục trước mặt Giêsu và hôn bụi đất.
- Con đứng dậy đi. Những người kia đâu? Các con chẳng phải là mười người sao? Chín người kia đã không cảm thấy cần phải cám ơn Chúa. Thế nào? Mười người cùi, trong đó chỉ có một người Samari, và chỉ có người ngoại quốc này cảm thấy cần phải trở lại để ca ngợi Thiên Chúa trước khi chính ông trở lại với đời sống và với gia đình ông? Và người ta gọi ông là “người Samari”. Vậy là các người Samari không còn say nữa, vì họ nhìn thấy và không lóa mắt, và họ không lảo đảo để chạy trên đường cứu rỗi. Vậy ra Lời đã nói một ngôn ngữ ngoại quốc, vì nó được hiểu bởi các người ngoại quốc chứ không bởi dân Người.
Người liếc đôi mắt tuyệt vời của Người trên đám đông thuộc khắp miền của xứ Palestin hiện diện ở đó. Trong ánh sáng của nó, đôi mắt này trở nên không chịu nổi... Nhiều người cúi đầu xuống, thúc con vật của họ hoăc bỏ đi...
187
Giêsu hạ cái nhìn xuống trên người Samari đang qùi dưới chân Người, và mắt Người trở nên rất êm dịu. Người nâng cánh tay đang buông xuôi theo thân mình lên, và bằng cử chỉ chúc phúc, Người nói: “Con hãy đứng dậy và đi đi. Đức tin của con đã cứu một cái hơn là thân xác ở trong con. Hãy tiến bước trong ánh sáng của Thiên Chúa. Thôi đi đi”.
Người đó lại hôn đất trước khi đứng dậy và hỏi: “Lạy Chúa, một cái tên, một cái tên mới, vì tất cả đều mới ở trong con, và mới mãi mãi”.
- Chúng ta đang ở trong vùng đất nào đây?
- Vùng đất Ephraim.
- Vậy từ nay con sẽ gọi là Ephrem, bởi vì đấng là Sự Sống đã ban sự sống cho con hai lần. Đi đi.
Người đó đứng dậy và đi.
Những người dân ở đó và những người hành hương muốn giữ Giêsu lại, nhưng Người chế ngự họ bằng cái nhìn của Người, không nghiêm khắc, nhưng rất êm đềm, khi Người nhìn họ. Nhưng chắc chắn nó thoát ra sức mạnh, nên không ai làm một cử chỉ nào để giữ Người lại cả.
Giêsu rời con đường, không ghé vào làng, băng qua một cánh đồng, rồi một con suối và một đường mòn, và Người đi lên đồi phía đông phủ đầy cây. Người vào đó với các tông đồ của Người và nói: “Để không bị lộn, chúng ta sẽ đi men song song với lộ nhưng ở lại trong rừng. Sau chỗ quẹo này, con đường sẽ bám vào sườn núi. Chúng ta sẽ tìm được ở đó vài cái hang để ngủ. Đến rạng đông, chúng ta sẽ đi băng qua Ephraim...”
179* GIÊSU TẠI EPHRAIM.
DỤ NGÔN VỀ TRÁI LỰU
Giêsu tưởng rằng vào tia sáng đầu tiên của rạng đông, Ephraim còn im bặt, đường sá vắng vẻ, Người có thể đi qua Ephraim mà
188
không bị ai thấy. Vì thận trọng, Người đi vòng quanh thành phố mà không ghé vào, dù mới tinh sương.
Nhưng khi từ con đường nhỏ mà các đấng đã đi ở phía sau làng, họ đi vào lộ lớn, họ liền thấy mình ở trước mặt tất cả dân làng, có thể nói vậy. Và cùng với dân làng này, có những người đến từ các nơi khác mà các ngài đã đi qua, và họ chỉ Giêsu cho dân Ephraim ngay khi Người tới. May thay, tuyệt đối không có các pharisiêu hay luật sĩ và các người cùng loại của họ.
Các người Ephraim để các kỳ hào của họ đứng ở phía trước, và một ông, sau khi chào cách trọng thể, đã đại diện cho tất cả để nói: “Chúng con biết rằng Thầy đã ở giữa chúng con, và Thầy đã không chê thương xót một số người. Chúng con biết rằng Thầy đã đầy tình thương đối với các người Sichem, và chúng con ước ao gặp Thầy. Và đấng nhìn thấy mọi tư tưởng của con người đã dẫn Thầy đến cho chúng con. Xin Thầy nghỉ lại và nói, vì chúng con cũng là con cháu Abraham”.
- Thầy không thể nghỉ lại được.
- Ôi! Chúng con biết rằng họ tìm Thầy, nhưng không tìm ở phía này đâu. Thành phố này là giới hạn của sa mạc và các ngọn núi Máu. Họ không tình nguyện đi qua đây. Vả lại, từ sau những người đã tới lần trước, chúng con không nhìn thấy một mạng nào nữa.
- Thầy không thể ở lại...
- Chúng con biết rằng Đền Thờ đang chờ Thầy. Nhưng xin Thầy hãy tin chúng con: qúi vị coi chúng con như những kẻ bị trục xuất, vì chúng con không cúi mình trước vị giáo chủ của Israel. Nhưng vị giáo chủ, ông ta có phải Thiên Chúa không? Chúng con ở xa, nhưng không đủ xa để không biết rằng các thầy cả của qúi vị cũng không kém bất xứng hơn các thầy cả của chúng con. Và chúng con nghĩ rằng Thiên Chúa không thể ở với họ nữa. Không, Đấng Tối Cao không nấp ở sau hương khói. Người ta có thể nghỉ đốt hương, và người ta có thể đi vào nơi cực thánh mà không sợ bị biến thành tro bởi sự huy hoàng của Thiên Chúa trong vinh quang của Người. Chúng con thờ Thiên Chúa và cảm thấy Người ở bên ngoài các
189
tảng đá của Đền Thờ, nó trống rỗng vì không còn được Người ở. Chúng con không nói rằng đền thờ của chúng con trống rỗng hơn của qúi vị nếu qúi vị muốn kết án chúng con là có một đền thờ tà thần. Thầy thấy rằng chúng con công bằng, vì vậy xin nghe chúng con .
Rồi ông lấy giọng trang trọng: “Tốt hơn là Thầy dừng lại để thờ Cha ở giữa những người, ít nhất, còn biết nhìn nhận là họ có một tinh thần tôn giáo thiếu chân lý mà những người khác không muốn nhìn nhận nó, và họ xúc phạm đến chúng con. Đơn độc, bị xua đuổi như những người cùi, không tiên tri, không tiến sĩ, ít nhất chúng con cũng còn biết hợp nhất và cảm thấy chúng con là anh em. Và luật của chúng con là không phản bội. Có lời chép rằng: ‘Đừng theo đám đông để làm điều xấu, và khi xét xử, đừng làm sai lệch sự thật để theo ý kiến của phe đông hơn’. Có lời chép rằng: ‘Đừng làm chết kẻ vô tội và người công chính, vì Ta ghét kẻ nhẫn tâm; đừng nhận qùa tặng, vì nó có thể làm mù mắt người khôn ngoan và làm lung lay lời người công chính. Đừng làm khổ cho người ngoại quốc, vì các ngươi biết thế nào là sự kiện phải là một người ngoại quốc trên đất người khác’. Và trong các lời chúc phúc được đọc ngay tại Garizim, ngọn núi chí thiết với Chúa, vì Người đã chọn nó làm núi chúc phúc, mọi sự lành đều được hứa cho kẻ giữ các luật thực sự của Ngũ Kinh. Vậy nếu chúng con từ bỏ các lời của loài người, coi như tà thần, để giữ lấy các lời của Thiên Chúa, mà chúng con lại bị gọi là kẻ thờ tà thần sao? Sự nguyền rủa của Thiên Chúa xuống trên những kẻ đánh sau lưng tha nhân, và nhận thù lao để kết án tử hình kẻ vô tội. Chúng con không muốn bị Thiên Chúa nguyền rủa vì các hành động của chúng con, và chúng con sẽ không bị nguyền rủa bởi lẽ chúng con là dân Samari, vì Thiên Chúa công minh, Người thưởng cho nơi nào có điều lành. Đó là điều chúng con hy vọng nơi Chúa”.
Ông ta suy tư một lát rồi ông tiếp: “Vì tất cả những điều đó nên chúng con nói với Thầy: tốt hơn là Thầy nên ở lại giữa chúng con. Đền Thờ họ ghét Thầy và tìm cách làm khổ Thầy, và đâu phải chỉ
190
có mình họ. Thầy ở qúa nhiều với những kẻ xua đuổi Thầy như xua đuổi một sự nhục nhã. Tình yêu không đến với Thầy từ người Do Thái đâu”.
- Thầy không thể ở lại, nhưng Thầy sẽ nhớ lời của các con. Thầy bảo các con: dù sao cũng hãy kiên trì trong việc tuân giữ các lề luật chính đáng mà các con đã nhắc lại, là luật chảy ra từ giáo điều về tình yêu tha nhân. Giáo điều này cùng với giới răn về tình yêu đối với Thiên Chúa, làm thành giới răn chính của đạo cũ và của Thầy. Đối với kẻ công chính thì họ không xa con đường về Trời. Chỉ cần một bước nữa là có thể dẫn những người ở trên con đường kế cận, bị chia lìa chỉ vì một khía cạnh danh dự hơn là vì sự xác tín, về con đường của Nước Thiên Chúa.
- Đường của Thầy!
- Đường của Thầy, nhưng không phải một nước như người ta tưởng tượng, một nước của quyền lực tạm thời, và lợi dụng võ lực để được hùng mạnh, nhưng là một nước bắt đầu trong con tim người ta, mà vị Vua thiêng liêng ban bố những luật thiêng liêng, và sẽ ban những phần thưởng thiêng liêng. Người sẽ công bố nước của Người, một nước mà trong đó không phải chỉ độc có người Do Thái hay Galilê hoặc Samari, nhưng là nơi mà mọi người trên trái đất có một đức tin duy nhất: Tin vào Thầy, và họ sẽ có một cái tên duy nhất trên Trời: Thánh. Các nòi giống và sự phân chia các chủng tộc chỉ có ở trên trái đất, chỉ giới hạn ở đó. Trong nước của Thầy không có vấn đề nòi giống khác nhau, mà chỉ có một nòi của các Con Thiên Chúa. Các con của Đấng Duy Nhất chỉ có thể thuộc về một chồi duy nhất. Bây giờ hãy để cho Thầy đi. Con đường Thầy phải đi từ giờ tới tối sẽ rất dài.
- Thầy đi Jêrusalem à?
- Đi Ensemès.
- Vậy chúng con sẽ chỉ cho Thầy con đường mà chỉ có chúng con biết để tới khúc sông cạn, không gián đoạn và không nguy hiểm. Thầy không chở nặng và không có xe cộ thì Thầy có thể đi. Vào giờ thứ chín (15 giờ), Thầy sẽ ở đó. Và rất ích lợi là Thầy biết con đường
191
này. Nhưng xin Thầy nghỉ lại một giờ ở giữa chúng con, và nhận lấy bánh và muối, rồi ban cho chúng con lời Thầy để đổi lại.
- Hãy làm như các con muốn. Nhưng hãy ở lại chỗ chúng ta đang ở đây, vì ngày qúa êm dịu và chỗ này qúa đẹp.
Qủa vậy, họ đang ở một nơi toàn là cây trái, ở giữa có một con suối nhỏ mà những trận mưa đầu mùa đã cung cấp nước chảy ào ào dưới mặt trời, đổ xuống các tảng đá, bể ra thành những bọt mầu xà cừ, đi về Giođan. Các cây đã kháng cự được với mùa hè như vui đùa ở hai bên bờ suối đầy bọt nước biến thành bụi sáng loáng, rì rào nhè nhẹ dưới làn gió ôn hòa, có mang theo mùi táo chín và mùi trái cây lên men.
Giêsu đi ngay lại con suối và ngồi trên một tảng đá. Trên đầu Người là cái bóng nhẹ của một cây liễu, ở bên cạnh là dòng nước vui tươi chảy xuống thung lũng. Những người khác ngồi trên cỏ mọc ở hai bên bờ.
Trong khi đó, từ trong làng, người ta mang tới bánh, sữa mới vắt, phó mát, trái cây và mật ong. Họ dâng tất cả cho Giêsu để Người dùng với các thuộc hạ của Người. Họ nhìn Người ăn sau khi Người đã dâng hiến và chúc phúc các thực phẩm, đơn sơ như một người trần, đẹp đẽ cách tuyệt hảo, oai phong cách siêu nhiên như một Thiên Chúa. Người mặc chiếc áo bằng len trắng nõn như len kéo sợi ở nhà, và một áo khoác xanh dương đậm khoác trên vai. Mặt trời lọt qua lá liễu chiếu sáng mái tóc óng ánh vàng, phất phơ cùng với lá liễu nhẹ. Một tia thành công vuốt ve trên má trái Người, làm cho lọn tóc mềm, tận cùng bằng những sợi rơi trên má, trông giống như những búp chỉ bằng vàng mà mầu sắc hơi lạt hơn bộ râu mềm, nhẹ nhàng phủ trên cằm và phần dưới mặt. Làn da mầu ngà cũ, trong ánh mặt trời, cho nhìn thấy rõ các gân máu được thêu cách tinh tế trên má và thái dương, với một sợi chạy từ mũi lên tới chân tóc, băng qua vầng trán cao và nhẵn.
Tôi nghĩ rằng chính tại sợi gân máu này là chỗ tôi đã thấy chảy ra biết bao máu trong cuộc tử nạn vì bị một chiếc gai đâm vào... Luôn luôn, khi tôi thấy Giêsu rất đẹp, rất hòa hợp trong dáng vẻ trưởng thành của Người, tôi nhớ lại những đau đớn, những
192
lăng mạ của loài người đã hạ thấp Người tới cỡ nào.
Giêsu ăn và mỉm cười với các đứa trẻ chen chúc chung quanh đầu gối Người và tì đầu chúng vào đó, hoặc nhìn Người ăn như chúng nhìn cái gì tôi không biết. Khi Giêsu ăn tới trái cây và mật ong thì Người phát cho chúng nó, Người đút vào miệng những đứa nhỏ nhất những trái nho hay miếng bánh có trét mật ong, tựa như đó là những con chim nhỏ.
Một đứa bé, có lẽ những thứ đó làm nó vui và nó muốn có, nó liền chạy qua nhóm người, vào một vườn trái cây, rồi nó trở lại với hai cánh tay ôm ghì lấy lồng ngực nhỏ của nó, như làm thành một cái rổ sống động, trong đó có ba trái lựu lớn và đẹp tuyệt vời, và nó khẩn khoản tặng cho Giêsu.
Giêsu cầm lấy các trái lựu và bổ ra hai trái, làm thành những miếng nhỏ bằng với số các bạn nhỏ mà Người có, và Người phát cho chúng. Rồi Người cầm trái thứ ba trong tay, đứng lên và bắt đầu nói, vẫn giữ trong bàn tay trái lựu tuyệt vời trước mắt mọi người:
- Thầy sẽ so sánh thế giới nói chung, và xứ Palestin nói riêng, với cái gì đây? Ngày xưa Palestin, trong tư tưởng của Thiên Chúa, là một nước duy nhất. Rồi bị phân chia bởi một sai lầm và một mối oán hờn cố chấp giữa các anh em. Thầy sẽ so sánh Israel đã tự ý rút nhỏ lại này với cái gì? Thầy so sánh nó với trái lựu này.
Thực vậy, Thầy bảo các con rằng những bất đồng ý kiến giữa các người Do Thái và Samari sinh ra dưới những hình thức và mức độ khác nhau, nhưng với cùng một cái nền là sự thù ghét, cũng như giữa các nước trên thế giới, và đôi khi giữa các tỉnh của cùng một nước.
Người ta nói rằng những bất đồng ý kiến này là không thể vượt qua, làm như chính Thiên Chúa đã tạo dựng nên nó. Không, Thiên Chúa đã không tạo dựng nên từng ấy Ađam và từng ấy Evà như là từng ấy nòi giống đối nghịch nhau, hoặc như từng ấy chi tộc, từng ấy gia đình chống đối nhau như những kẻ thù đâu. Người đã tạo
193
dựng nên một Ađam duy nhất và một Evà duy nhất, và từ họ, mọi người sinh ra, rồi rải rác để ở khắp trái đất, tựa như nó là một căn nhà duy nhất mà càng ngày càng gia tăng số phòng theo mức lớn lên của con cái, và chúng thành lập gia đình để đồng sáng tạo hậu sinh cho cha ông.
Vậy tại sao giữa người với người có biết bao thù ghét, bao rào cản, bao không hiểu nhau? Các con đã nói: “Chúng con biết hợp nhất và cảm thấy mình là anh em với nhau”. Điều đó không đủ. Các con cũng phải yêu cả những người không phải là Samari nữa.
Các con hãy nhìn cái trái cây này. Các con biết mùi vị của nó chứ không phải chỉ biết có vẻ đẹp. Nó khép kín như vầy, nhưng nó hứa cho các con cái nước cốt dịu ngọt ở phần bên trong của nó. Một khi bổ ra, nó cũng làm vui con mắt bằng những dẫy hạt khút khít nhau tựa như từng ấy viên hồng ngọc cất trong chiếc hòm sắt. Nhưng khốn cho kẻ nào thiếu khôn ngoan, cắn vào nó mà không loại bỏ cái màng ngăn cách rất đắng nằm ở giữa các lớp hạt. Nó sẽ bảo là trái cây này độc hại cho môi miệng nó và tạng phủ nó, nó sẽ quăng trái cây đi và nói: “Đây là thuốc độc”.
Cũng giống như vậy về sự chia cách và thù ghét giữa dân này với dân kia, giữa chi tộc này với chi tộc khác. Nó sẽ làm cho cái đã được tạo dựng để là sự êm dịu thành độc hại. Nó vô ích, cũng như cái màng ở trong cái trái này, nó chỉ tạo ra những giới hạn làm mất chỗ, nén ép, và làm khổ. Nó đắng, và nó cho vị đắng của nó, một chất làm độc hại cho tâm hồn những kẻ nào cắn vào nó hay cắn vào người thân cận mà nó không ưa, để xúc phạm đến họ và làm khổ họ. Có phải nó là thứ không thể tẩy trừ không? Không. Thiện chí loại trừ được nó, cũng giống như bàn tay đứa trẻ lấy đi những vách ngăn này ở trong cái trái ngon ngọt mà Đấng Tạo Hóa đã làm ra cho sự sảng khoái của con cái Người.
Và thiện chí, người đầu tiên có thiện chí cũng chính là vị Chúa độc nhất, là Thiên Chúa của người Do Thái cũng như người Galilê, người Samari, người Batanê. Người chứng tỏ nó bằng cách gởi Vị Cứu Tinh duy nhất để cứu người nọ cũng như người kia, không đòi
194
hỏi gì khác ngoài niềm tin vào bản tính Người và giáo lý của Người. Vị Cứu Tinh đang nói với các con sẽ đi qua để triệt hạ những vách ngăn vô ích, và xóa bỏ cái qúa khứ đã chia rẽ các con, để đặt vào đó một hiện tại làm cho các con thành anh em vì danh Thầy. Tất cả các con ở đây cũng như ở bên kia các biên giới, các con chỉ có việc phụ giúp nó, và sự thù ghét sẽ bị triệt hạ, sự nhục nhã tạo ra oán ghét sẽ bị triệt hạ, sự kiêu căng gây ra bất công sẽ bị triệt hạ.
Đây là giới răn của Thầy: Mọi người hãy yêu nhau như anh em. Họ hãy yêu nhau như Cha trên Trời yêu họ, và như Con Người yêu họ, đấng, bởi nhân tính của Người mà Người đã mặc lấy để cảm thấy là anh em giữa loài người, và bởi tình phụ tử của Người để cảm thấy là Thầy, chiến thắng Sự Ác và tất cả những hậu qủa của nó. Các con đã nói: “Luật của chúng con là không phản bội”. Vậy hãy bắt đầu bằng cách không phản bội linh hồn các con bởi làm cho nó mất Nước Trời. Các con hãy yêu nhau, hãy yêu nhau trong Thầy, và sự bình an sẽ đến trong tâm hồn mọi người như đã được hứa. Và rồi sẽ tới sự thống trị của Thiên Chúa, là sự thống trị của bình an và tình yêu cho tất cả những ai có ý muốn chân thành để phục vụ Chúa là Thiên Chúa của họ.
Thầy từ biệt các con. Nguyện cho ánh sáng của Thiên Chúa soi chiếu tâm hồn các con... Chúng ta đi.
Người mặc áo khoác, cầm giỏ đeo vào vai và Người đi đầu. Ở hai bên Người, một bên là Phêrô, một bên là vị kỳ hào đã nói lúc đầu. Đàng sau Người là các tông đồ; đàng sau nữa, vì không thể đi thành nhóm trên lối đi dọc bờ suối, là các người trẻ tuổi ở Ephraim.
180* GIÊSU TẠI BÊTANI DỊP LỄ LỀU
Mầu xanh, sắc thái của tất cả miền quê bao quanh Bêtani hiện ra trước mắt ngay khi người ta băng qua ngọn đồi và đặt chân vào sườn phía nam, đi theo con đường chữ chi dẫn về Bêtani. Mầu xanh bạc của các cây oliu, mầu xanh đặc biệt của các cây táo rải rác đó
195
đây những lá vàng đầu tiên; mầu xanh hiếm hoi và vàng nhiều của các cây nho; mầu xanh đậm và chắc của các cây sồi và cây keo, lẫn lộn với mầu nâu của các cánh đồng đã cày, đang chờ hạt giống, cho tới mầu xanh mềm mại của các đồng cỏ, nơi cỏ mới mọc, và các khu vườn mầu mỡ, làm thành một tấm thảm muôn mầu đối với kẻ từ trên cao nhìn xuống Bêtani và vùng chung quanh. Và, nổi bật trên mầu xanh, ở chỗ thấp hơn, là ngọn bút lông của thốt nốt và chà là luôn luôn thanh nhã, nhắc nhở tới phương đông.
Ngôi làng nhỏ Ensemès quây quần ở giữa mầu xanh và được soi sáng bởi mặt trời sắp lặn, được băng qua mau lẹ, cùng với con suối dồi dào nước hơi ở phía bắc, chỗ bắt đầu Bêtani. Rồi đây, căn nhà đầu tiên ở giữa mầu xanh.
Các đấng tới đây sau bao đường đất, những con đường đầy mệt mỏi. Nhưng cho dù sự mệt mỏi tột độ của họ, họ cũng như vãn hồi sức lực chỉ vì đã tới gần căn nhà bạn hữu ở Bêtani.
Thành phố nhỏ yên tĩnh, hầu như trống vắng. Chắc hẳn nhiều người dân đã ở Jêrusalem để mừng lễ. Vì vậy Giêsu đi qua mà không ai hay biết cho tới gần nhà của Lazarô. Chỉ khi Người tới gần khu vườn bỏ hoang của căn nhà, nơi có biết bao loại chim, Người mới gặp hai người đàn ông. Họ nhận ra Người và chào Người. Rồi họ hỏi Người: “Thầy tới nhà Lazarô à? Thầy làm đúng. Ông ta qúa bệnh. Chúng con trở về sau khi đã mang cho ông sữa lừa cái của chúng con, đồ ăn duy nhất mà bao tử của ông còn tiêu hóa được, với một chút nước trái cây và mật ong. Hai cô em chỉ có khóc, mệt mỏi vì canh thức và đau đớn... Và ông ta chỉ ước ao Thầy. Con tin rằng đáng lẽ ông đã chết, nhưng sự lo âu muốn gặp Thầy đã giữ cho ông ta sống tới lúc này”.
- Thầy đến ngay lập tức. Thiên Chúa ở cùng các con.
- Và Thầy sẽ chữa cho ông ấy chứ? - họ tò mò hỏi.
- Ý Thiên Chúa sẽ biểu lộ nơi ông cùng với quyền phép của Người - Giêsu trả lời khi từ giã hai người đang phân vân, và Người vội vã đi lại cổng vườn.
Một người đầy tớ trông thấy Người và chạy ra mở cho Người,
196
nhưng không một tiếng kêu vui mừng nào. Vừa khi cửa mở ra, ông qùi gối để tôn kính Giêsu, và ông nói với giọng buồn bã: “Ôi Chúa, Thầy đến đúng lúc! Và xin cho việc Thầy đến là dấu hiệu vui mừng cho căn nhà buồn bã này. Lazarô, ông chủ con...”
- Thầy biết. Tất cả hãy vâng theo ý Chúa. Người sẽ thưởng cho sự hy sinh của ý muốn các con cho ăn hợp với ý muốn của Người. Hãy đi gọi Matta và Maria. Thầy chờ họ ở trong vườn.
Người đầy tớ chạy đi và Giêsu từ từ bước theo sau ông, sau khi đã nói với các tông đồ: “Thầy tới bên Lazarô. Các con hãy nghỉ, vì các con cần”.
Hai chị em hiện diện trước ngưỡng cửa. Các cô không sao nhận ra Chúa được, vì mắt các cô qúa mệt bởi canh thức và nước mắt, và mặt trời chiếu ngay trước mặt càng tăng sự khó khăn cho các cô để thấy. Trong lúc đó, các đầy tớ ra ngoài bởi một cửa phụ để gặp các tông đồ và dẫn các ngài đi với họ.
- Matta, Maria! Thầy đây. Các con không nhận ra Thầy sao?
- Ôi! Thầy! - hai chị em kêu lên và bắt đầu chạy lại với Người, qùi phục dưới chân Người, không sao dằn được tiếng nấc. Những cái hôn và nước mắt rơi trên chân Giêsu như ngày trước trong nhà người pharisiêu Simon.
Nhưng lần này Giêsu không cứng đơ như lúc đó để nhận cơn mưa nước mắt của Matta và Maria. Bây giờ Người cúi xuống, rờ vào đầu các cô, vuốt ve và chúc phúc. Người bó buộc hai cô đứng dậy khi nói: “Đi, chúng ta hãy đi dưới vòm cây lài. Các con có thể rời Lazarô à?”
Bằng cử chỉ hơn là bằng lời nói, toàn là nấc, các cô nói là vâng. Và họ đi tới cái lều rợp bóng dưới tàn lá dầy, từ đó có vài ngôi sao hoa lài bền bỉ tỏa hương.
- Vậy nói đi!...
- Ôi Thầy! Thầy đến trong một căn nhà qúa buồn! Chúng con đần độn vì đau đớn. Khi người đầy tớ bảo chúng con: “Có người tìm các cô”, chúng con đã không nghĩ tới Thầy. Khi chúng con thấy Thầy, chúng con không nhận ra Thầy. Nhưng Thầy thấy không?
197
Mắt chúng con bị cháy vì nước mắt. Lazarô sắp chết!... - và tiếng khóc lại đến làm gián đoạn những lời của hai chị em thay nhau để nói.
- Và Thầy đã đến...
- Để chữa cho anh? Ôi! Chúa của con! - Maria nói, sáng lên niềm hy vọng qua làn nước mắt.
- Ôi! con, con đã nói rồi! Nếu Thầy đến... - Matta khoanh tay nói trong bộ điệu vui mừng.
- Ôi! Matta! Matta! Con biết gì về những việc làm và những chiếu chỉ của Thiên Chúa?
- Than ôi! Thầy! Thầy sẽ không chữa anh sao? - hai cô kêu lên và lại rơi vào đau khổ.
- Thầy bảo các con: “Hãy tin không bờ bến nơi Chúa. Hãy tiếp tục tin, dù là có tất cả mọi xỉa xói và mọi biến cố, và các con sẽ thấy những điều vĩ đại khi mà con tim các con không còn lý do để hy vọng được thấy. Lazarô nói sao?”
- Anh ấy có tiếng vọng của các lời Thầy trong các lời của anh. Anh bảo chúng con: “Đừng nghi ngờ lòng tốt và quyền phép của Thiên Chúa. Cho dù xảy ra bất cứ sự gì, Người sẽ can thiệp vì sự lành cho anh và cho các em, và vì sự lành của một số đông đảo tất cả những người sẽ bền gan trung thành với Chúa như anh và như các em”. Và khi anh có thể làm, anh cắt nghĩa kinh thánh cho chúng con. Bây giờ anh chỉ còn đọc có Kinh Thánh, và anh nói với chúng con về Thầy. Anh nói anh chết trong thời gian hồng phúc, vì kỷ nguyên bình an và tha thứ đã bắt đầu. Nhưng Thầy sẽ nghe anh ấy... Vì anh cũng nói tới những điều khác làm cho chúng con cũng khóc, khóc nhiều hơn là khóc cho anh chúng con... - Matta nói.
- Chúa ơi, xin đến. Mỗi phút qua đi là mỗi mất đi niềm hy vọng của Lazarô. Anh ấy tính từng giờ... Anh nói: “Nhưng ngày lễ thì Người sẽ ở Jêrusalem, và Người sẽ đến...” Chúng con là những người biết được nhiều chuyện mà chúng con không nói với Lazarô để không làm anh khổ. Chúng con đã ít hy vọng hơn, vì chúng con nghĩ rằng Thầy sẽ không tới để tránh những kẻ tìm Thầy... Đó là điều chị Matta nghĩ, nhưng con thì không, vì... nếu con ở địa vị
198
Thầy thì con sẽ thách đấu với kẻ thù. Con không phải loại đàn bà sợ loài người. Và bây giờ con không sợ cả đến Thiên Chúa, vì con biết Người nhân từ chừng nào với các linh hồn sám hối... - Maria nói, và cô nhìn Người bằng cái nhìn của tình yêu.
- Maria, con không sợ gì hết sao? - Giêsu hỏi.
- Sợ tội... sợ chính mình con... Con rất sợ lại rơi vào điều xấu. Con nghĩ chắc là Satan ghét con lắm.
- Con có lý. Con là một trong những linh hồn mà Satan ghét nhất. Nhưng con cũng là một trong những linh hồn được Thiên Chúa yêu nhất. Con hãy nhớ điều đó.
- Ôi! Con nhớ. Kỷ niệm này là sức mạnh của con. Con nhớ những lời Thầy đã nói trong nhà Simon. Thầy đã nói: “Cô ta được tha nhiều vì cô ta yêu nhiều”. Và Thầy nói với con: “Các tội con đã được tha. Đức tin của con đã cứu con. Hãy đi bằng an”. Thầy đã nói: “các tội”, không phải nhiều, mà là tất cả. Ôi Thiên Chúa của con! Vậy con nghĩ rằng Thầy đã thương con không bờ bến. Và nếu lòng tin tội nghiệp của con lúc đó, như nó có thể trồi lên trong một tâm hồn nặng nề vì tội mà được nhận biết bao từ Thầy, thì đức tin của con bây giờ lại không thể bảo vệ con khỏi tội lỗi sao?
- Đúng, Maria. Hãy tỉnh thức và canh chừng chính con. Đó là khiêm nhường và thận trọng. Nhưng hãy tin nơi Chúa, Người ở với con.
Họ vào trong nhà. Matta tới tìm anh bà. Maria muốn phục vụ Giêsu nhưng Người muốn vào thăm Lazarô trước hết. Họ vào trong căn phòng mờ sáng, nơi Lễ Hy Sinh đang hao mòn.
- Thầy!
- Bạn của Thầy!
Các cánh tay xương xẩu của Lazarô giơ lên, các cánh tay của Giêsu hạ xuống để ôm lấy cơ thể của người bạn rũ liệt. Một sự ôm ấp lâu. Rồi Giêsu lại đặt bệnh nhân nằm trên gối và ngắm nghía ông với tình xót thương. Nhưng Lazarô mỉm cười, ông sung sướng. Trên khuôn mặt tàn tạ, chỉ còn đôi mắt sâu là sáng và sống động, và nó được làm cho tươi tắn bởi niềm vui được có Giêsu ở đó.
199
- Con thấy không? Thầy đã tới, và Thầy sẽ ở lâu với con.
- Ôi! Chúa ơi, Thầy không thể. Người ta không nói hết với con, nhưng con biết đủ để nói với Thầy rằng Thầy không thể. Cùng với những đau đớn họ làm cho Thầy, họ thêm vào cái đau của con, phần của con, bằng cách không để cho con tắt thở trong tay Thầy. Nhưng con là kẻ yêu Thầy, con không thể ích kỷ để giữ Thầy ở bên cạnh con, trong nguy hiểm. Đối với Thầy... Con đã dự liệu... Thầy phải đổi chỗ không ngừng. Hết mọi căn nhà của con đều mở cửa cho Thầy. Các người gác dan và cả các người quản lý các cánh đồng của con đều đã được lệnh. Nhưng Thầy đừng đến nghỉ tại Gétsêmani, nơi đó rất bị canh chừng. Con nói về căn nhà thôi, vì vườn oliu, nhất là những vườn ở trên cao, Thầy có thể tới đó bằng nhiều con đường mà họ không biết. Margziam, Thầy biết rằng nó đã ở đây chứ ? Margziam đã bị mấy người hỏi han khi nó ở tại chỗ máy ép với Marc. Họ muốn biết Thầy ở đâu, Thầy có đến không. Đứa trẻ đã trả lời rất hay: “Người là một công dân Israel thì Người sẽ đến. Bằng đường nào thì tôi không biết. Tôi đã từ biệt Người ngay từ ở Mêron”. Như vậy nó ngăn cản họ nói rằng Thầy phạm tội và nó không nói dối.
- Thầy cám ơn con, Lazarô. Thầy sẽ nghe con. Nhưng dầu sao chúng ta cũng còn năng gặp nhau - và Người lại ngắm nghía ông.
- Thầy nhìn con à? Thầy thấy con đã bị giảm thiểu tới cỡ nào rồi? Giống như một cây bị rụng hết lá vào mùa thu, từ giờ nọ qua giờ kia, con lột bỏ xác thịt, sức lực, thời gian sống. Nhưng con nói thật rằng: nếu con ân hận vì không được sống đủ để thấy chiến thắng của Thầy, thì con cũng sung sướng ra đi để không phải thấy sự thù ghét lớn lên ở chung quanh Thầy mà con bất lực, không hãm nó lại được.
- Con đâu có bất lực. Con không bao giờ bất lực. Con cung cấp nhu cầu cho Bạn con ngay cả trước khi nó tới. Thầy có hai căn nhà bình an mà Thầy có thể nói là nó thân thiết ngang nhau: căn nhà Nazarét và căn nhà này. Nếu ở đó có mẹ Thầy, có thể nói là tình yêu thiên quốc, lớn như bầu trời cho Con-Thiên-Chúa, thì ở đây
200
Thầy có tình yêu của loài người cho con-loài-người, tình yêu bằng hữu, đầy đức tin và kính cẩn... Cám ơn các bạn của Thầy!
- Mẹ Thầy sẽ không bao giờ tới nữa?
- Vào đầu mùa xuân.
- Ôi, vậy là con sẽ không gặp mẹ nữa...
- Có, con sẽ gặp mẹ. Chính Thầy nói với con điều đó. Con phải tin Thầy.
- Chúa ơi, con tin tất cả, dù là các sự kiện cải chính nó.
- Margziam, nó ở đâu?
- Ở Jêrusalem với các môn đệ, nhưng buổi chiều nó sẽ tới đây, sắp sửa rồi. Còn các tông đồ của Thầy, họ không ở với Thầy à?
- Họ ở phòng bên với Maximin, ông cứu trợ sự mệt mã và mòn mỏi của họ.
- Qúi vị đã đi bộ nhiều?
- Rất nhiều, không ngừng. Thầy sẽ kể cho con... Lúc này con hãy nghỉ đi. Thầy chúc lành cho con bây giờ - Giêsu chúc lành cho ông rồi rút lui.
Bây giờ các tông đồ đang ở với Margziam và hầu như hết các mục đồng. Họ nói về sự nài nỉ của các pharisiêu để biết những điều về Giêsu. Các môn đệ nói rằng điều đó làm họ nghi ngờ, tới nỗi họ đã nghĩ đến việc canh chừng trên hết mọi con đường dẫn vào nội thành Jêrusalem để loan báo cho Thầy.
Isaac tường trình: “Qủa vậy, chúng con đã phân tán ra trên hết các con đường, canh chừng ở khoảng cách xa các cổng vài chặng, và chúng con thay phiên nhau để qua một đêm ở đây. Đây là phiên chúng con”.
Judas cười và nói: “Thưa Thầy, các anh ấy nói rằng ở cổng Jaffa có khoảng nửa số Pháp Đình viên. Họ cãi cọ với nhau, vì một số người nhớ những lời con nói ở Engannim, một số khác thề rằng họ đã nghe nói rằng Thầy đã ở Dothain; trái lại, một số nữa thì nói họ đã thấy Thầy ở Ephraim. Và điều đó làm họ phát khùng vì không biết Thầy ở đâu”. Và ông cười vì cái trò khôi hài ông đã chơi với các kẻ thù của Giêsu.
201
- Ngày mai họ sẽ thấy Thầy - Giêsu nói.
- Không. Ngày mai chính chúng con sẽ đi. Tất cả đã đồng ý: đi cả đám với nhau để cho mọi người thấy.
- Thầy không muốn. Con sẽ nói dối.
- Con thề với Thầy rằng con sẽ không nói dối. Nếu họ không nói gì với con thì con sẽ không nói gì với họ. Nếu họ hỏi chúng con xem Thầy có ở với chúng con không, con sẽ nói: “Vậy các ông không thấy rằng Người không có ở đây sao?” Nếu họ muốn biết xem Thầy ở đâu, con sẽ trả lời: “Thì các ông hãy đi tìm Người. Làm sao các ông lại muốn rằng tôi phải biết lúc này Người ở đâu?” Qủa vậy, con không thể biết chắc rằng Thầy đang ở nhà chỗ này hay ngoài vườn cây, hay ở đâu, con đâu có biết.
- Judas, Judas, Thầy đã bảo con...
- Và con, con bảo Thầy rằng Thầy có lý. Về phần con, con không luôn luôn đơn sơ như chim bồ câu, nhưng con khôn như con rắn. Thầy là chim bồ câu, con là con rắn, và cùng nhau, chúng ta làm thành sự trọn hảo mà Thầy đã dạy - Và ông bắt chước giọng điệu của Giêsu khi người giáo huấn noi gương Thầy về sự hoàn thiện, ông nói: “Thầy sai các con đi như con chiên giữa bầy sói. Hãy khôn như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu. Đừng lo lắng phải trả lời thế nào, vì lúc đó, các lời sẽ được đặt trên môi cho các con, vì không phải các con nói, mà là Thánh Linh nói trong các con. Khi người ta bách hại các con trong một thành, hãy trốn qua thành khác cho tới khi Nước của Con Người đến...” Con nhớ những lời đó, và đây là lúc để thi hành.
- Thầy đâu có nói như vậy, và đâu phải Thầy chỉ nói có những câu này - Giêsu phản đối.
- Ôi! Lúc này thì chỉ cần nhớ câu này thôi, và nói nó như vậy. Con biết Thầy muốn nói gì. Nhưng nếu niềm tin vào Thầy chưa được thành lập vững chắc, và đó là một viên đá trong nước của Thầy, thì không thích đáng khi nộp mình cho kẻ thù. Rồi... chúng con sẽ nói và làm những gì còn lại...
Sự giãi bày của Judas rất sáng sủa về thông minh và về tinh
202
ranh, tới nỗi nó chinh phục mọi người, trừ Giêsu chỉ thở dài. Đúng thật là một tên dụ dỗ không thiếu điều gì để thắng loài người.
Giêsu thở dài và suy nghĩ... nhưng người nhượng bộ, vì cho rằng sự phòng thủ của Judas không hoàn toàn xấu. Judas bầy tỏ tất cả kế hoạch của ông với vẻ chiến thắng.
- Vậy ngày mai, ngày mốt, cho tới sau ngày Sabát, chúng ta sẽ đi, và chúng ta sẽ ở lại trong chiếc lều bằng cành cây dưới thung lũng Cédron như những người Israel chính tông. Họ sẽ mệt mỏi vì chờ Thầy... Lúc đó Thầy sẽ tới. Trong khi chờ đợi, Thầy sẽ ở lại đây, bình an và nghỉ ngơi. Thầy hao mòn rồi, Thầy của con, và chúng con không muốn như vậy. Một cách bí mật, một người trong chúng con sẽ tới để nói cho Thầy là họ làm gì. Ôi! Thật là đẹp được thấy chúng thất vọng.
Mọi người đều đồng ý, và Giêsu không kiên trì để chống đối nữa. Có lẽ vì sự mệt mỏi tột độ của Người, có lẽ vì Người mong ước củng cố cho Lazarô, muốn cho ông tất cả sự khích lệ trước cơn chiến đấu sau cùng, nên Người quyết định nhượng bộ. Cũng có lẽ vì sự cần thiết phải giữ mình thực sự tự do bao lâu chưa hoàn tất mọi việc thiết yếu để Israel không nghi ngờ gì về bản tính của Người, và không xét đoán là Người có lỗi... Điều chắc chắn là người nói: “Hãy làm như vậy, nhưng đừng tìm cách cãi cọ. Hãy tránh nói dối. Tốt hơn là nên nín lặng, đừng nói dối. Bây giờ chúng ta đi, vì Matta gọi chúng ta. Đi, Margziam. Thầy thấy con có vẻ khá hơn...” Người đi trong khi vẫn nói, một cánh tay quàng quanh vai người môn đệ trẻ nhất.
181* GIÊSU TẠI ĐỀN THỜ VÀO NGÀY LỄ LỀU:
“NƯỚC THIÊN CHÚA KHÔNG ĐẾN VỚI VẺ HUY HOÀNG
LỘNG LẪY”
Giêsu vào Đền Thờ. Người đi với các tông đồ của Người và rất nhiều môn đệ mà tôi biết, ít nhất là vì đã nhìn thấy. Và ở sau cùng,
203
nhưng tụ tập thành nhóm, làm như họ chứng tỏ rằng họ muốn được coi là các môn đệ của Thầy, là các khuôn mặt mới, tất cả đều lạ, ngoại trừ tên Hy Lạp ranh mãnh đến từ Antioche. Ông ta nói chuyện với những người khác có lẽ cũng là dân ngoại như ông, nên trong khi Giêsu và các người của Ngài tiến vào sân Israel, thì ông ta cùng với những người nói chuyện với ông dừng lại ở sân dân ngoại.
Đương nhiên việc Giêsu đi vào ngôi Đền Thờ chật ních người, không thể nào người ta không nhận ra. Một sự ồn ào nổi dậy tựa như một tổ ong bị người ta quậy, làm át tiếng các vị tiến sĩ đang giảng bài dưới hành lang dân ngoại. Các bài học bị gián đoạn giống như bị ếm, và các học trò của các luật sĩ chạy đi tứ phía để loan tin việc Giêsu đến, tới nỗi khi Người vào nội khu thứ hai, nơi có đại phòng của dân Israel, thì đã có rất nhiều pharisiêu, luật sĩ và thầy cả qui tụ tại đó để quan sát Người. Nhưng họ không nói gì với Người trong khi Người cầu nguyện, và cả đến họ không lại gần Người. Họ bằng lòng để chỉ canh chừng Người.
Khi Giêsu trở lại hành lang dân ngoại thì họ đi theo Người. Và tiếp đó, số các kẻ dã tâm gia tăng, cũng như số các người tò mò hay có ý hướng tốt. Sự ồn ào nhỏ tiếng lan trong đám người. Thỉnh thoảng có một nhận xét lớn tiếng: “Qúi vị thấy Người đã đến? Người là kẻ công chính, Người không thể thiếu sót ngày lễ”. Hoặc: “Ông ta đến để làm gì? Để làm cho dân chúng lạc đường hơn nữa”, hoặc: “Bây giờ các ông bằng lòng chưa? Lúc này các ông đã thấy rõ Người ở đâu? Các ông cứ hỏi hoài!”
Các tiếng nói lẻ loi bị tắt ngay, bị chận lại trong họng bởi những cái nhìn nhiều ý nghĩa của các môn đệ hay những người về phe với họ. Bằng chính tình yêu của họ, họ dọa nạt các kẻ thù hay oán ghét. Các giọng nói mỉa mai, độc địa, phun một tia nọc độc rồi nín vì sợ đám đông. Sau sự bộc lộ có ý nghĩa thiện cảm với ông Thầy, đám đông yên lặng vì họ sợ các kẻ mạnh trả đũa. Sự sợ hãi hỗ tương ngự trị ở đây...
Một người duy nhất không sợ là Giêsu. Người bước nhẩn nha với vẻ oai phong về nơi Người muốn tới, hơi trầm tư, nhưng sẵn
204
sàng ra khỏi sự trầm mặc để vuốt ve một đứa trẻ mà một bà mẹ giơ ra cho Người, hoặc mỉm cười với một ông gìa chào Người và chúc phúc cho Người.
Trong hành lang dân ngoại, Gamaliel đang đứng giữa một nhóm học trò, tay khoanh, trong bộ đồ huy hoàng, trắng tinh và rất rộng. Nó càng có vẻ trắng hơn, vì nó nổi bật bên trên chiếc thảm đỏ thẫm trải dưới đất nơi ông đứng. Ông có vẻ suy nghĩ, đầu hơi cúi, làm như không lưu ý gì tới những gì đang xảy ra. Trái lại, có sự dao động mạnh trong đám các môn đệ của ông, gây ra bởi sự tò mò, tới nỗi một học trò, vì nhỏ con, đã trèo lên một cái ghế đẩu cao để nhìn cho rõ.
Nhưng khi Giêsu đi tới ngang chỗ Gamaliel, vị rabbi liền ngẩng mặt lên, và đôi mắt sâu dưới vầng trán suy tư của ông dán chặt vào khuôn mặt bình an của Giêsu một lát. Một cái nhìn dò xét, khổ não và gây khổ não. Giêsu cảm thấy và quay lại. Người nhìn ông. Hai tia chớp: Đôi mắt đen và đôi mắt lam ngọc giao nhau. Cái nhìn của Giêsu cởi mở, êm đềm, cho phép dò xét. Cái nhìn của Gamaliel là không thể hiểu, là cố gắng để biết, để vén màn bí nhiệm của sự thật - Vì đối với ông, vị rabbi Galilê là một bí nhiệm - Nhưng tư tưởng của ông ghen tương một cách pharisiêu tới nỗi nó tự khép lại với mọi tìm hiểu không phải là Thiên Chúa. Một thoáng, rồi Giêsu tiến bước, và rabbi Gamaliel lại cúi đầu, như điếc với mọi câu hỏi thẳng thắn, lo âu của một số người ở chung quanh ông, hoặc câu hỏi nham hiểm và thù ghét của những người khác: “Ông ta đó à Thầy? Thầy nói sao?”; “Thầy ơi, Thầy xét thế nào? Ông ta là ai?”
Giêsu tới chỗ Người chọn. Ôi! Đâu có thảm dưới chân Người! Cả đến Người không ở trong hành lang. Người chỉ tựa lưng vào một cái cột, đứng trên bậc thềm cao nhất ở cuối hành lang, một chỗ khiêm tốn nhất. Chung quanh Người là các tông đồ, các môn đệ, các người cùng phe, các người tò mò. Xa hơn là các pharisiêu, các luật sĩ, các thầy cả, rabbi. Gamaliel không rời chỗ ông đang đứng.
Giêsu bắt đầu giảng cho lần thứ một trăm về việc nước Thiên Chúa đến và việc chuẩn bị cho nước này. Và tôi có thể nói là Người
205
nhắc lại mạnh hơn, những tư tưởng đã được trình bày hai mươi năm trước đây, hầu như tại cùng một nơi. Người nói về lời tiên tri của Daniel, về Vị Tiền Hô đã được nói trước bởi các tiên tri. Người nhắc lại ngôi sao của các nhà Đạo Sĩ, việc tàn sát các trẻ vô tội. Và sau những lời nói đầu có mục đích trình bày những dấu hiệu về việc Đức Kitô đến trên trái đất, để xác nhận về việc Người đến, Người kể ra những dấu hiệu hiện tại đi kèm theo Đức Kitô là thầy dạy dỗ, cũng như trước đó, các dấu hiệu đi kèm việc đến của Đức Kitô nhập thể, tức là Người nhắc lại những mâu thuẫn đi kèm với Người, cái chết của vị Tiền Hô, các phép lạ được thi hành liên tục minh xác rằng Thiên Chúa ở với Đức Kitô của Ngài. Người không bao giờ tấn công đối phương, cả đến Người làm như không thấy họ. Người nói để làm vững chắc đức tin của những kẻ theo Người, để soi sáng chân lý cho những kẻ ở trong đêm tối không vì lỗi của họ...
Một giọng nói khó chịu phát ra từ cuối đám đông: “Làm sao Thiên Chúa có thể ở trong các phép lạ của ông, nếu nó xảy ra trong một ngày bị cấm? Mới hôm qua đây, ông đã chữa một người cùi trên đường Bétphagê”.
Giêsu nhìn kẻ làm gián đoạn mà không trả lời. Người tiếp tục nói về việc giải phóng cho khỏi những sức mạnh đàn áp con người và việc thiết lập nước của Đức Kitô: Đời đời, vô hình, vinh quang, trọn lành.
- Và bao giờ có điều đó? - một luật sĩ hỏi cách chế nhạo, và ông thêm: “Chúng tôi biết ông muốn xưng mình là vua, nhưng một ông vua như ông thì tiêu ma cho Israel. Quyền bính ông vua của ông ở đâu? Quân đội của ông đâu? Các kho báu của ông đâu? Các đồng minh của ông đâu? Ông điên!” Và nhiều người trong đám giống như ông ta lắc đầu khinh bỉ.
Một pharisiêu nói: “Các anh đừng hành động như vậy. Làm thế thì chúng ta sẽ không biết ông ta muốn gì về cái nước ấy. Cái nước này sẽ có những lề luật nào, và nó sẽ trình diện như thế nào. Và gì? Có phải tình cờ nước Israel cũ trở nên trọn hảo như vào thời của Đavít và Salômôn trong nháy mắt không? Các anh nhớ: Có biết
206
bao biến thiên và các thời kỳ tăm tối trước khi đến triều đại huy hoàng của ông vua toàn vẹn? Để có ông vua đầu tiên thì trước hết phải đào tạo người của Thiên Chúa. Thiên Chúa phải xức dầu cho ông, và bởi đó, phải lấy đi sự son sẻ cho Anna Elqana và thúc dục bà dâng hiến cái qủa của lòng bà. Hãy suy niệm thánh vịnh của Anna. Đó là một giáo huấn cho sự chai đá và mù quáng của chúng ta: ‘Không ai thánh như Chúa... Đừng vì khoe khoang mà tăng thêm các lời kiêu căng... chính Chúa làm cho chết và sống... Người nâng kẻ nghèo hèn lên... Người cho bước chân các vị thánh được vững chắc, và cho kẻ ô uế phải câm nín, vì không phải do sức mình mà con người mạnh, nhưng bởi sức mạnh đến từ Thiên Chúa’. Ôi, các anh hãy nhớ: ‘Chúa sẽ xét xử các biên giới của trái đất, và Người sẽ ban quyền bá chủ cho vị Vua của Người, và Người sẽ tán dương quyền phép của Đấng Kitô của Người’. Đức Kitô của các tiên tri, Người chẳng phải đến từ Đavít sao? Vậy tất cả những chuẩn bị, kể từ việc Samuel được sinh ra, chẳng phải là các chuẩn bị cho triều đại của Đức Kitô sao? Vậy Thầy, Thầy đã chẳng đến từ Đavít, sinh ra ở Bétlem sao?” Sau cùng, ông đã hỏi thẳng Giêsu.
- Ông đã nói đúng điều đó - Giêsu trả lời vắn tắt.
- Ôi! Vậy hãy thỏa mãn sự thông hiểu của chúng tôi. Thầy thấy rằng sự yên lặng không phải là điều tốt, vì nó khơi dậy những đám mây nghi ngờ trong các con tim.
- Không phải là nghi ngờ, mà là kiêu ngạo, một điều trầm trọng hơn.
- Thế nào? Nghi ngờ về Thầy còn ít trầm trọng hơn là kiêu căng sao?
- Đúng, vì kiêu căng là sự dâm đãng của trí tuệ, và đó là tội nặng nhất. Đó là tội của chính Lucifer. Thiên Chúa tha thứ biết bao tội, và ánh sáng của Người rực rỡ với tình yêu để soi sáng những kẻ không biết, và đánh tan những nghi ngờ của họ. Nhưng Người không tha cho kẻ kiêu căng là kẻ chế nhạo Người bằng cách nói rằng họ lớn hơn Người.
- Ai đã nói vậy giữa đám chúng tôi? Ai nói rằng Thiên Chúa nhỏ hơn chúng tôi? Chúng tôi đâu có phạm thượng? - nhiều người kêu
207
lên.
- Các ông không nói như vậy bằng môi các ông, nhưng các ông xác nhận điều đó bằng hành động của các ông. Các ông qủa quyết nói với Thiên Chúa: “Không thể nào Đức Kitô lại là người Galilê, một người trong dân chúng. Không thể nào lại là ông ta”. Cái gì là không thể đối với Thiên Chúa?
Giọng nói của Giêsu như tiếng sấm. Nếu trước tiên, dáng vẻ của Người khiêm tốn khi Người tựa vào cái cột như một người hành khất, bây giờ Người đứng thẳng, tách rời cái cột, ngẩng đầu lên bên trên cổ một cách oai phong, và Người ném những cái nhìn sáng quắc trên đám đông. Người vẫn còn ở trên bậc thềm, nhưng tựa như Người ở trên một chiếc ngai cao. Thái độ của Người oai phong chừng nào!
Người ta giật lùi như sợ. Không ai trả lời cho câu hỏi sau cùng.
Rồi một rabbi nhỏ thó, nhăn nheo, dáng điệu gắt gỏng, chắc chắn cũng giống như linh hồn ông, ông hỏi, nhưng trước khi đặt câu hỏi, ông làm một tràng cười rồ rồ giả mạo: “Sự dâm đãng được hoàn thành với hai người. Vậy trí tuệ hoàn thành việc đó với ai. Nó đâu có xác, làm sao nó có thể phạm tội dâm đãng? Nếu nó không có xác thì nó kết hợp với cái gì để phạm tội?” Và ông cười, trong khi kéo lê tiếng nói và giọng cười của ông.
- Với ai? Với Satan. Trí tuệ kẻ kiêu căng phạm tội dâm ô với Satan, chống lại Thiên Chúa và chống lại tình yêu.
- Vậy Lucifer, nó đã làm với ai để trở nên Satan, nếu Satan chưa hiện hữu?
- Nó đã làm điều đó với chính nó, với tư tưởng thông minh và rối loạn của chính nó. Ôi, hỡi luật sĩ, dâm ô là cái gì?
- Nhưng... Tôi đã nói với ông! Mà ai lại không biết dâm ô là cái gì? Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm.
- Ông không phải là một rabbi thông sáng, vì ông không biết cái bản chất thực của cái tội phổ quát này, cái hậu qủa chấp ba của Sự Ác, cũng như Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là hình thức chấp ba của tình yêu. Ôi luật sĩ, dâm ô tức là sự rối trật tự, một
208
sự rối loạn được điều khiển bởi một trí tuệ tự do và có ý thức, nó biết rằng sự ước ao của nó là xấu, nhưng dù sao nó cũng muốn thỏa mãn. Dâm đãng là sự rối loạn và hung bạo phản lại các luật tự nhiên, phản lại sự công bằng và phản lại tình yêu đối với Thiên Chúa, đối với chính mình và đối với tha nhân. Hết mọi thứ dâm đãng: dâm đãng của xác thịt cũng như dâm đãng nhắm vào của cải hay chức quyền thuộc về trái đất, cũng như dâm đãng của những kẻ muốn ngăn cản Đức Kitô làm tròn sứ mệnh của Người, bởi vì họ âm mưu với các tham vọng vượt mức của họ, và họ run lên vì sợ bị Ta sửa trị.
Một ồn ào mạnh chạy lan trong đám đông. Gamaliel chỉ còn một mình ở trên thảm, ông ngẩng đầu và ném một cái nhìn sắc nhọn trên Giêsu.
- Nhưng khi nào thì triều đại của Thiên Chúa đến? Ông chưa trả lời - ông pharisiêu lúc nãy trở lại vấn đề.
- Khi Đức Kitô sẽ ở trên cái ngai mà Israel chuẩn bị cho Người, cao hơn tất cả các ngai, cao hơn ngay cả chính Đền Thờ này.
- Nhưng người ta đang chuẩn bị nó ở đâu, nếu không thấy có một cái gì huy hoàng? Có bao giờ lại có sự thật là Rôma để cho Israel nổi dậy không? Vậy các con diều hâu đã trở nên mù để không nhìn thấy những cái đang được chuẩn bị sao?
- Nước Thiên Chúa không đến với vẻ huy hoàng lộng lẫy. Chỉ có con mắt Thiên Chúa mới thấy nó đang được tạo thành, vì con mắt Thiên Chúa đọc được nội tâm con người. Cũng vậy, đừng đi tìm xem nước này ở đâu, nó được chuẩn bị ở chỗ nào. Và đừng tin vào những kẻ nói rằng: “Người ta mưu đồ nó ở Batanê, người ta mưu đồ nó ở các hang trong sa mạc Engaddi, người ta mưu đồ nó ở bờ biển ...” Nước Thiên Chúa ở ngay trong qúi vị, trong nội tâm qúi vị, trong tâm hồn mà qúi vị đón tiếp lề luật từ Trời mà đến như lề luật của quê hương thật, lề luật làm cho người thi hành nó trở thành công dân của nước ấy. Chính vì vậy mà Gioan đã đến trước tôi để sửa soạn con đường là các con tim mà giáo lý của tôi phải thấm nhập vào. Các con đường được chuẩn bị bằng sự sám hối. Nước này sẽ
209
được thành lập bằng tình yêu, và sự nô lệ của tội lỗi, điều ngăn cản con người vào Nước Trời, sẽ bị triệt hạ.
- Nhưng ông này qủa là vĩ đại! Vậy mà các ông nói ông ta là thợ thủ công! - một người đã chăm chú nghe, rồi nói lớn. Những người khác, theo như y phục của họ thì họ là Do Thái, và có lẽ bị kích thích bởi các kẻ thù của Giêsu, họ nhìn nhau kinh ngạc, và họ nhìn những kẻ kích thích họ: “Nhưng các ông đã xúi chúng tôi cái gì? Ai có thể nói được rằng ông này xúi giục dân chúng?” Và những người khác nữa: “Chúng tôi tự hỏi, và chúng tôi hỏi các ông điều này: nếu đúng thật là không ai trong các ông đã dạy ông ta, làm sao ông ta lại có bấy nhiêu khôn ngoan. Ông ta đã học được ở đâu, nếu ông ta không bao giờ học ở nơi một ông thầy?” Và họ hỏi Giêsu: “Vậy hãy nói cho chúng tôi: ông lấy ở đâu ra cái giáo lý mà ông dạy?”
Giêsu ngửa khuôn mặt được linh ứng lên và nói: “Thực vậy, thực vậy, tôi bảo qúi vị rằng giáo lý này không phải của tôi, mà là của đấng đã sai tôi đến với qúi vị. Thực vậy, thực vậy, tôi bảo qúi vị rằng không một ông thầy nào đã dạy nó cho tôi, và tôi không tìm thấy nó trong một cuốn sách sống, một ru-lô hay một bia đá nào. Thực vậy, thực vậy, tôi bảo qúi vị rằng tôi đã sửa soạn cho giờ này bằng cách nghe Đấng Hằng Sống nói trong thần trí tôi. Bây giờ đã đến giờ để tôi ban cho dân Chúa Lời đã đến từ trời. Tôi làm việc đó, và tôi sẽ làm việc đó cho tới hơi thở cuối cùng của tôi. Và lúc đó, khi tôi sẽ phát ra tiếng sau cùng của Lời này, thì những tảng đá sẽ nghe tiếng tôi mà không sụp đổ, sẽ cảm thấy một sự kính sợ Thiên Chúa còn mạnh hơn điều Môise đã cảm thấy trên núi Sinai. Và trong sự kính sợ, với tiếng nói đích thực, hoặc chúc phúc, hoặc nguyền rủa, các lời giáo lý của tôi mà bị từ chối, sẽ tự ghi khắc trên đá, và những lời này sẽ không xóa đi được nữa. Dấu hiệu sẽ tồn tại, là ánh sáng cho những kẻ tiếp nhận nó, ít là vào lúc đó, và là sự tối tăm tuyệt đối cho những kẻ, ngay cả lúc đó, cũng không hiểu rằng chính Thiên Chúa đã sai tôi thiết lập Nước của Người.
Lúc khởi đầu của việc tạo dựng, Người đã nói: “Ánh sáng hãy được làm ra”, và ánh sáng liền được làm ra trong sự hỗn mang; lúc
210
khởi đầu của đời tôi, lời đã được nói: “Bình an cho người có thiện chí”. Người thiện chí là người làm theo ý Thiên Chúa và không chống cự nó. Và kẻ nào làm theo ý Thiên Chúa và không chống cự thì đều cảm thấy là họ không thể chống cự lại tôi, vì họ cảm thấy rằng giáo lý của tôi đến từ Thiên Chúa chứ không phải tự mình tôi. Tôi có tìm vinh quang cho tôi không? Tôi có nói rằng tôi là tác giả của Lề Luật ân sủng của kỷ nguyên tha thứ không? Không. Tôi không giữ cái vinh quang không phải là của tôi, nhưng tôi dâng sự vinh quang cho Vinh Quang của Thiên Chúa, tác giả của mọi sự lành. Và vinh quang của tôi là làm những gì Chúa Cha muốn tôi làm, vì điều đó làm cho Người được vinh quang. Kẻ nói có lợi cho mình để người ta ca ngợi là tìm vinh quang cho chính họ. Nhưng đấng, dù không tìm, cũng có thể có vinh quang của loài người vì những gì Người đã nói và đã làm, nhưng Người đã từ chối mà nói rằng: “Nó không thuộc về tôi. Nó được tạo ra bởi tôi, nhưng nó khởi nguyên từ vinh quang của Chúa Cha, cũng như tôi, tôi khởi nguyên từ Người”, đấng đó ở trong chân lý, nơi Người không có bất công, vì Người dành cho mỗi người cái thuộc về họ, không giữ lại điều gì không phải là của Người. Tôi hiện hữu, vì Người đã muốn tôi.
Giêsu ngừng một lát. Người liếc mắt trên đám đông, lục lọi các lương tâm, đọc và cân nhắc nó. Rồi Người lại nói: “Qúi vị nín thinh, một nửa vì cảm phục, một nửa thì tự hỏi phải làm sao để cho tôi câm đi. Mười điều răn là của ai? Chúng từ đâu mà đến? Ai đã ban hành nó cho qúi vị?”
- Môise - đám đông kêu lên.
- Không. Đấng Tối Cao. Môise là tôi tá Người đã mang chúng đến cho qúi vị, nhưng nó là của Thiên Chúa. Qúi vị, những người có những công thức, nhưng không có đức tin, qúi vị nói trong lòng: “Thiên Chúa thì chúng tôi không thấy, những người Hy Bá ở chân núi Sinai cũng không”. Ôi, ngay cả những sấm chớp và đám cháy ở trên núi khi Thiên Chúa làm sấm sét trước mặt Môise, cũng không đủ để qúi vị tin là Thiên Chúa hiện diện. Những sấm sét và động
211
đất cũng chẳng giúp cho qúi vị tin rằng Thiên Chúa ở trên qúi vị để viết cái minh ước đời đời về sự cứu rỗi và luận phạt. Qúi vị sẽ thấy một lễ Hiển Linh mới ở trong các bức tường này, kinh khủng, và sắp sửa rồi. Và những chỗ thánh được giấu kín sẽ ra khỏi bóng tối, vì triều đại của ánh sáng bắt đầu, và nơi cực thánh sẽ lộ ra trước mắt mọi người, không còn bị che bởi ba lớp màn nữa. Và qúi vị cũng vẫn sẽ không tin. Vậy phải cái gì mới làm được cho qúi vị tin? Phải có sấm sét của sự công bằng ghi dấu trên thân xác qúi vị ư ? Nhưng lúc đó sự công bằng sẽ êm đềm, sấm sét của tình yêu sẽ đổ xuống, nhưng nó vẫn không viết được sự thật trên con tim qúi vị, trên tất cả các con tim qúi vị, và không khơi được sự sám hối. Và rồi tình yêu...
Bây giờ Gamaliel có vẻ mặt căng thẳng, nhìn đăm đăm vào mặt Giêsu.
- Nhưng Môise, qúi vị biết, đó là một người giữa loài người. Các nhà chép sử của thời ông đã để lại cho qúi vị những miêu tả về ông. Nhưng dù đã biết ông là ai, ông đã có các lề luật từ ai và thế nào, nhưng qúi vị có thi hành luật đó không? Không, không ai trong qúi vị thi hành.
Tiếng kêu phản đối nổi lên từ đám đông, nhưng Giêsu áp đặt sự yên lặng:
- Qúi vị nói rằng điều đó không đúng, rằng qúi vị giữ luật. Vậy tại sao qúi vị tìm cách giết tôi? Phải chăng giới răn thứ năm không cấm giết người? Các ông không nhìn nhận Đức Kitô nơi tôi, nhưng các ông không thể chối rằng tôi là một người. Vậy tại sao các ông tìm cách giết tôi?
- Nhưng ông điên sao? Ông bị qủi ám. Một thằng qủi đã nói trong ông, nó làm ông mê sảng và nói dối! Không ai trong chúng tôi nghĩ tới giết ông! Ai muốn giết ông? - ngay chính những kẻ muốn làm việc đó kêu lên.
- Ai nữa? Chính các ông. Và các ông tìm cách bào chữa để làm việc đó. Các ông khiển trách tôi những lỗi không có thực. Đây đâu phải lần đầu tiên các ông khiển trách tôi vì đã chữa cho một người
212
trong ngày Sabát. Môise đã chẳng nói phải thương cho con lừa, con bò rơi xuống hố, vì chúng là của cải của anh em sao? Vậy tôi, tôi lại không thương thân xác bệnh tật của một người anh em, mà sức khỏe, khi được vãn hồi sẽ là một của lành về vật chất, và một phương tiện tinh thần để chúc tụng Thiên Chúa và yêu Người vì lẽ sức khỏe tốt của họ sao? Và phép cắt bì mà Môise đã dạy cho các ông vì đã nhận được từ các tổ phụ, các ông đã không thi hành, dù là ngày Sabát đó sao? Nếu việc cắt bì cho một người trong ngày Sabát không phải là một sự vi phạm luật Môise về ngày Sabát, vì nó được dùng để làm cho một đứa con trai thành con của Lề Luật, thì tại sao các ông phẫn nộ vì trong ngày Sabát, tôi đã chữa cho một người toàn bộ trong thân xác và trong linh hồn nó, và tôi làm cho nó nên con Thiên Chúa? Đừng xét đoán theo vẻ bề ngoài và theo từng chữ, nhưng hãy xét đoán công minh theo thần trí của các ông. Vì chữ nghĩa, các công thức, các vẻ ngoại diện là những thứ hay chết, là những bức tranh được vẽ chứ không phải sự sống thực, trong khi tinh thần của các lời và của ngoại diện là sự sống thực và là nguồn mạch vĩnh cửu. Nhưng các ông không hiểu những điều này, vì các ông không muốn hiểu. Chúng ta đi thôi.
Người trở lưng và hướng về phía cửa ra, được bao vây bởi các tông đồ và các môn đệ. Họ nhìn Người, buồn thay cho Người, và đầy khinh bỉ đối với các kẻ thù của Người.
Giêsu tái mét, mỉm cười với họ và nói: “Đừng buồn. Các con là bạn Thầy, và các con làm rất tốt để trở nên như vậy, bởi vì thời gian của Thầy đang tới hồi kết thúc. Sắp sửa đến thời mà các con sẽ ước ao được thấy một trong những ngày này của Con Người, nhưng các con không còn thể thấy. Lúc đó sẽ là sự khích lệ cho các con để nói: ‘Chúng ta đã yêu Người và đã trung thành với Người bao lâu Người còn ở giữa chúng ta’. Và để nhạo cười các con, và để làm cho các con có vẻ như điên, họ sẽ nói với các con: ‘Đức Kitô đã trở lại, Người ở đây, Người ở kia!’ Đừng tin lời họ. Đừng đi. Đừng theo những kẻ mỉa mai giả hình này. Con Người, một khi đã ra đi, chỉ còn trở lại trong ngày của Người. Và lúc đó, sự xuất hiện của Người
213
sẽ giống như chớp lóe sáng, băng qua từ đầu này tới đầu kia bầu trời nhanh tới nỗi con mắt khó lòng mà theo dõi được. Các con, và không phải chỉ có các con, không ai có thể theo Thầy trong sự xuất hiện sau cùng của Thầy khi Thầy tụ họp mọi người đã sống, đang sống và sẽ sống. Nhưng trước khi việc đó xảy ra, Con Người sẽ phải đau khổ rất nhiều, phải chịu hết mọi thứ đau đớn của nhân loại, và ngoài ra, Người sẽ bị từ chối bởi thế hệ này”.
- Nhưng Chúa ơi, vậy Thầy sẽ chịu hết mọi điều ác mà thế hệ này có thể đánh trên Thầy - mục đồng Mathia nhận xét.
- Không. Thầy đã nói: “Tất cả mọi đau đớn của nhân loại”, đã có trước thế hệ này, và sẽ có trải qua mọi thế hệ sau thế hệ này. Nó sẽ luôn luôn phạm tội, và Con Người sẽ nếm tất cả những cay đắng của tội lỗi qúa khứ, hiện tại và tương lai, cho tới cái tội sau cùng. Người sẽ nếm tất cả trong tâm hồn Người trước khi là Đấng Cứu Thế. Ngoài ra, danh dự của Người sẽ phải khổ trong Tâm Hồn Tình Yêu của Người khi thấy nhân loại dày đạp Tình Yêu của Người. Lúc này thì các con chưa thể hiểu được... Bây giờ chúng ta hãy vào căn nhà này, nó là bạn của Thầy.
Người gõ vào cửa. Nó mở ra để Người vào, và người gác cổng không chút ngạc nhiên gì về số người vào theo sau Giêsu.
182* TẠI ĐỀN THỜ. “QÚI VỊ BIẾT TÔI LÀ AI
VÀ TÔI TỪ ĐÂU TỚI”
Đền Thờ còn chật ních hơn chiều hôm qua. Trong đám đông làm đầy và náo nhiệt tại sân thứ nhất, tôi thấy nhiều dân ngoại, rất nhiều hơn hôm qua. Tất cả, Israel cũng như dân ngoại, đều hồi hộp chờ đợi. Và họ nói chuyện, dân ngoại với dân ngoại, Hy Bá với Hy Bá, từng nhóm rải rác đó đây, mắt không rời các cổng.
Dưới các hành lang, các vị tiến sĩ khản cổ cao giọng để lôi kéo và khoa trương tài hùng biện. Nhưng người ta chia trí và họ chỉ nói với số học trò ít ỏi. Gamaliel ở đó, tại chỗ của ông, nhưng ông
214
không nói. Ông đi đi lại lại trên chiếc thảm sang trọng, tay khoanh, đầu cúi, chiêm niệm trong y phục dài của ông. Áo khoác dài mà ông đã cởi nút, được giữ treo vào vai bằng hai cái móc bằng bạc, kéo lê đàng sau ông mà chân ông đá vào mỗi khi ông trở gót. Các môn đệ ông, những người trung thành nhất, tựa lưng vào tường, nhìn ông trong yên lặng sợ sệt, và họ kính trọng sự chiêm niệm của thầy họ.
Các pharisiêu, các thầy cả làm như họ có nhiều việc phải làm, và họ đi qua đi lại... Người ta hiểu ý hướng thực của họ, nên người ta chỉ tay và phát ra vài bình luận như khai hỏa chiếc hỏa tiễn để đốt cháy sự giả hình của họ, nhưng họ làm bộ như không nghe thấy. Họ không đông so với những người không ghét Giêsu mà lại ghét họ. Bởi vậy họ thấy có khôn thì đừng phản ứng.
- Người đó! Người đó! Hôm nay Người tới qua Cổng Vàng.
- Chúng ta chạy.
- Tôi ở lại đây. Người sẽ đến nói ngay tại chỗ này. Tôi giữ chỗ của tôi.
- Tôi cũng vậy. Chúng ta ở lại thì những người bỏ đi nhường chỗ cho chúng ta.
- Nhưng họ có để cho Người nói không?
- Nếu họ đã để cho Người vào!...
- Đúng. Nhưng đó là chuyện khác. Vì Người là con trai lề luật, họ không thể ngăn cản Người vào. Nhưng là rabbi, họ có thể đuổi Người nếu họ muốn.
- Qúa khác nhau! Nếu họ để cho Người nói với Thiên Chúa, tại sao lại không để cho Người nói với người ta? - một dân ngoại nói.
- Đúng vậy - một dân ngoại khác nói. “Chúng ta, bởi vì chúng ta ô uế, họ không để cho chúng ta vào đó, nhưng ở đây thì được, với hy vọng chúng ta trở nên người cắt bì...”
- Im đi Quintus. Chính vì vậy họ để cho Người nói với chúng ta, hy vọng có thể đẽo gọt chúng ta làm như chúng ta là khúc cây. Nhưng chúng ta đến lấy những ý tưởng của Người như các chồi để ghép vào các cây dại là chúng ta.
215
- Anh nói đúng. Chỉ có mình Người là không khinh bỉ chúng ta!
- Ôi! Về điều đó thì... Khi chúng ta đi mua sắm với cái túi đầy tiền thì những người khác cũng không khinh chúng ta.
- Coi! Bọn dân ngoại chúng ta làm chủ chỗ này. Chúng ta sẽ nghe rõ, và chúng ta sẽ nhìn rõ! Tôi khoái nhìn khuôn mặt các kẻ thù của Người. Lạy Jupiter! Một cuộc giao tranh của các khuôn mặt!...
- Nín đi! Đừng để người ta nghe thấy gọi tên Jupiter. Điều đó bị cấm ở đây.
- Ôi! Giữa Jupiter và Jêova chỉ có hơi khác nhau. Và giữa các thần với nhau, họ không bị xúc phạm đâu... Tôi tới đây với niềm ước mong thực sự được nghe Người chứ không phải để nhạo. Khắp nơi người ta nói về vị Nazarét này. Tôi đã nói: Thời tiết đẹp rồi, tôi đi nghe Người. Có những người còn đi xa hơn nữa để nghe lời thánh dạy...
- Anh từ đâu tới?
- Từ Perge. Còn anh?
- Từ Tarse.
- Tôi gần như Do Thái. Ba tôi là người giỏi tiếng Hy Lạp ở Iconium, nhưng ông cưới vợ người Rôma ở Antioche thuộc Cilicie, và ông chết trước khi tôi ra đời. Nhưng nòi giống tôi là Hy Bá.
- Người đến trễ... Họ có bắt Người không?
- Đừng sợ. Tiếng la của đám đông nói cho chúng ta điều đó. Các người Hy Bá này kêu như chim ác tà lo sợ, luôn luôn vậy...
- Ôi! Đúng Người rồi. Có thực Người sẽ tới chỗ này không?
- Anh không thấy là họ đã cố ý chiếm hết các chỗ, ngoại trừ cái góc này sao? Anh không nghe tất cả các ếch nhái này đều la uồm uộp để cho người ta tin rằng chúng là chủ sao?
- Nhưng ông đó thì nín thinh. Có đúng thực đó là vị tiến sĩ lớn nhất của Israel không?
- Đúng, nhưng... giọng mô phạm qúa! Để tiêu hóa cái khoa học của ông ta, tôi phải uống nhiều ly Falerne de Tito ở Bêzêta - và họ cười với nhau.
216
Giêsu từ từ tiến lại. Người đi qua trước mặt Gamaliel. Ông này cả đến không ngẩng mặt lên. Rồi Người lại chỗ của Người tối hôm qua.
Đám người bây giờ lẫn lộn Israel, tân tòng và dân ngoại. Hiểu rằng Người sắp nói, họ xì xèo: “Đó, Người nói công khai mà họ đâu có nói gì với Người”.
- Có lẽ các thủ lãnh, các người lãnh đạo đã nhìn nhận Người là Đức Kitô rồi. Hôm qua, khi vị Galilê đã đi khỏi, Gamaliel đã nói với các kỳ lão rất lâu.
- Có thể được không? Làm sao mà đùng một phát, họ nhận ra Người ngay, trong khi mới trước đây, họ coi Người như đáng chết?
- Có lẽ Gamaliel có các bằng cớ...
- Bằng cớ nào? Qúi vị nghĩ ông ta có bằng cớ nào có lợi cho người này? - một người đáp trả.
- Câm đi, chó rừng! Mày chỉ là tên học mót sau chót. Ai hỏi mày? - và họ nhạo ông ta nên ông bỏ đi.
Nhưng có những người khác tới. Họ không thuộc về Đền Thờ, nhưng chắc chắn là nhóm Do Thái không tin: “Các bằng cớ, chúng tôi có. Chúng tôi biết ông ta từ đâu tới. Nhưng Đức Kitô, khi Người tới, không ai biết Người từ đâu tới. Chúng ta không biết được gốc tích của Người. Nhưng ông này!!! Đó là con một thợ mộc ở Nazarét, và tất cả dân làng ông có thể mang tới đây sự chứng minh của họ chống lại chúng tôi, nếu chúng tôi nói dối...”
Lúc đó người ta nghe thấy một người dân ngoại nói: “Thưa Thầy, hôm nay Thầy nói với chúng con một tí đi. Người ta nói rằng Thầy đã xác nhận là hết mọi người đều đến từ một Thiên Chúa độc nhất: Thiên Chúa của Thầy, tới nỗi Thầy gọi họ là con của Cha. Các thi sĩ khắc kỷ nơi chúng con cũng có cùng một tư tưởng này. Họ đã nói: ‘chúng ta thuộc nòi giống Thiên Chúa’. Các người đồng hương với Thầy nói chúng con còn ô uế hơn loài vật. Thầy giải hòa hai khuynh hướng này thế nào ?”
Câu hỏi được đặt phù hợp với các tranh luận về triết học, ít nhất là tôi tin như vậy. Giêsu sắp trả lời thì nổi lên mạnh mẽ hơn những tranh luận giữa các người Do Thái không tin và các người tin. Một
217
giọng nói sắc nhọn nhắc lại: “Ông ta là một người thường. Đức Kitô đâu có như vậy. Mọi cái đều đặc biệt nơi Người: hình dáng, bản tính, nguồn gốc...”
Giêsu quay về hướng đó và Người nói lớn tiếng: “Vậy qúi vị biết tôi, và qúi vị biết tôi từ đâu tới sao? Qúi vị có chắc chắn vậy không? Ngay cả cái chút ít mà qúi vị biết, nó cũng không nói gì với qúi vị sao? Nó không xác nhận với qúi vị các lời tiên tri sao? Nhưng qúi vị đâu có biết tất cả về tôi. Thật vậy, thật vậy, tôi bảo qúi vị rằng, tôi không đến từ tôi, và từ nơi mà qúi vị tưởng là tôi đến. Chính Chân Lý mà qúi không biết, đã sai tôi”.
Có tiếng la ó phẫn nộ nổi lên ở phía kẻ thù.
- Chính Chân Lý. Nhưng các ông không biết các công việc của Người. Các ông không biết đường lối của Người, những con đường mà từ đó, tôi đã tới. Sự thù ghét không thể biết các công việc và đường lối của Tình Yêu. Sự tối tăm không thể chịu đựng được cái nhìn của ánh sáng. Nhưng tôi, tôi biết đấng đã sai tôi, bởi vì tôi là của Người, tôi là một phần của Người, và tôi là một Tất Cả với Người, và Người đã sai tôi để tôi hoàn thành những gì Tư Tưởng của Người muốn.
Một sự ồn ào nổi lên. Các kẻ thù nhào tới giơ tay trên Người, chụp lấy Người và đánh Người. Các tông đồ, các môn đệ, dân chúng, dân ngoại, tân tòng, phản ứng để bảo vệ Người. Những người khác đột kích chạy tới để cứu các người thứ nhất, và có lẽ họ đã thành công. Nhưng Gamaliel, cho tới lúc đó vẫn như người lạ với tất cả, liền rời chiếc thảm của ông và tiến về phía Giêsu đã bị đẩy xuống khỏi hành lang bởi những người muốn bảo vệ Người, và ông quát: “Hãy để cho ông ta yên. Ta muốn nghe những điều ông nói”.
Tiếng nói của Gamaliel hành động mạnh hơn là phân đội lính từ đồn Antonia chạy đến để dẹp sự hỗn loạn, và sự lộn xộn tan đi như một ổ nước xoáy bị bể. Các tiếng la ó dịu lại để trở nên một tiếng rì rầm. Đám lính, vì thận trọng, đứng lại ở gần nội vực phía ngoài, nhưng bây giờ thì không cần nữa.
- Nói đi - Gamaliel ra lệnh cho Giêsu. “Hãy trả lời cho những kẻ kết tội ông”. Giọng nói hách dịch nhưng không khinh bỉ.
218
Giêsu tiến về phía sân, một cách bình tĩnh, Người lại bắt đầu nói. Gamaliel ở lại chỗ của ông. Các môn đệ ông lăng xăng lo mang lại cho ông chiếc thảm và cái ghế của ông để ông được thoải mái. Nhưng ông vẫn đứng, khoanh tay, cúi đầu, nhắm mắt, hoàn toàn cầm trí để nghe.
- Các ông đã kết tội tôi vô lý, tựa như tôi đã nói phạm thượng thay vì nói sự thật. Tôi nói không phải là để tự vệ, mà là để cho các ông ánh sáng, để các ông có thể biết Sự Thật. Và cũng không phải tôi nói cho chính tôi, nhưng tôi nói để nhắc lại cho các ông những lời các ông tin và các ông thề trên đó. Những lời đó minh chứng cho tôi. Các ông thì tôi biết, các ông chỉ coi tôi là một người giống như các ông, và ở dưới thấp hơn các ông. Và các ông thấy không thể nào một người lại có thể là Đức Messi. Các ông nghĩ ít nhất Đức Messi phải là một thiên thần, từ một nguồn gốc rất bí nhiệm, đến nỗi Người không thể là vua vì quyền bính của Người cho bằng vì sự bí nhiệm mà nguồn gốc của Người tạo ra. Vậy có khi nào trong lịch sử của dân ta, trong những cuốn sách gói ghém lịch sử này, là những sách muôn đời vĩnh tồn với thế giới, vì chính ở đó mà các tiến sĩ của mọi nước và mọi thời đại tìm tòi để củng cố cho khoa học của họ và sự hiểu biết qúa khứ của họ, dựa vào ánh sáng của chân lý, vậy trong những cuốn sách này, có khi nào thấy nói rằng Thiên Chúa đã phán với một trong các thiên thần của Người rằng: “Từ nay trở đi con là con Ta, vì Ta đã sinh ra con” không ?
Tôi thấy Gamaliel bảo đưa cho ông một cái bàn nhỏ và một tấm giấy da, và ông ngồi để viết...
- Các thiên thần là những thụ tạo thiêng liêng, là tôi tớ của Đấng Tối Cao và là sứ giả của Người, đã được Người tạo dựng cũng như loài người, cũng như loài động vật, cũng như tất cả những thứ đã được tạo dựng, nhưng các vị không được sinh ra bởi Người. Vì Thiên Chúa độc nhất chỉ sinh ra một chính Người khác, vì Sự Toàn Thiện chỉ có thể sinh ra một Sự Toàn Thiện, một vật thể khác giống như chính Người, để không làm giảm giá sự trọn lành của Người bởi thế hệ của một tạo vật thấp hơn chính Người.
219
Vậy nếu Thiên Chúa không sinh ra các thiên thần, cũng không nuôi dưỡng các đấng theo sự xứng đáng là con của Người, thì ai là người con mà Người đã nói câu: “Con là con Ta, hôm nay Ta đã sinh ra con”? Và người con này sẽ có bản tính nào, nếu khi sinh ra Người, Thiên Chúa đã chỉ vào Người mà nói với các thiên thần: “Tất cả các thiên thần của Chúa hãy thờ lạy Người”? Và người con này sẽ thế nào để đáng được nghe nói bởi Chúa Cha, bởi đấng mà nhờ ơn Người, loài người có thể gọi tên với một tâm hồ tự hạ thẳm sâu trong thờ lạy: “Hãy ngồi bên phải Ta cho tới khi Ta làm cho các kẻ thù của con thành bệ của chân con”? Người con này chỉ có thể là Thiên Chúa cũng như Cha mà Người chia sẻ bản tính và quyền phép, và cùng với Cha, Người vui hưởng Đức Ái là điều làm vui cho cả hai trong tình yêu khôn tả và không thể hiểu được của Đấng Trọn Lành vì chính mình.
Nhưng nếu Thiên Chúa đã không cho là thích đáng để nâng một thiên thần lên hàng con cái, thì có bao giờ Người có thể nói về một con người điều mà Người đã nói về đấng đang nói với qúi vị tại đây - và nhiều người trong số các ông, những người đã đánh tôi, đã hiện diện khi Người nói điều đó - ở chỗ đó, tại khúc sông cạn của Bêtabara vào cuối của năm trước đây hai năm. Các ông đã nghe Người và đã run sợ. Bởi vì tiếng của Thiên Chúa không thể lẫn lộn với bất cứ tiếng nào khác, và không có ơn đặc biệt của Người thì nó quật ngã kẻ nghe nó, và nó làm rung chuyển con tim của họ.
Vậy người đang nói với qúi vị đây là ai? Người có được sinh ra bởi hạt giống loài người và ý muốn loài người như tất cả qúi vị không? Và Đấng Tối Cao có thể đặt thần trí của Người cư ngụ trong một thân xác đã bị mất ơn sủng như thân xác của các người được sinh ra do ý muốn của xác thịt không? Và để đền trả cho cái Trọng Tội, Đấng Tối Cao có thể thỏa mãn vì sự hy sinh của một người không? Qúi vị hãy suy nghĩ. Thiên Chúa đã không chọn một thiên thần để làm Đấng Messi và Đấng Cứu Thế, vậy Người có thể chọn một người để làm việc đó không? Và Đấng Cứu Thế có thể nào chỉ là Con Chúa Cha mà không đảm nhận bản tính loài người, và chỉ
220
dùng các phương tiện và quyền bính vượt qúa những lý lẽ của loài người không? Và người Con Đầu Lòng của Thiên Chúa có thể có cha mẹ, nếu Người là Con Đầu Lòng vĩnh cửu không?
Những ý tưởng kiêu căng có bị xáo trộn trước những nghi vấn này, là những điều bay lên tới nước của Chân Lý càng lúc càng gần, và chỉ tìm được câu trả lời trong những con tim khiêm nhường và đầy đức tin không?
Đức Kitô phải là ai? Một thiên thần ư ? Hơn là một thiên thần. Một người ư ? Hơn là một người. Một Thiên Chúa ư ? Đúng. Một Thiên Chúa, nhưng với một thân xác loài người được kết hợp với Người để có thể làm trọn việc đền tội cho thân xác đắc tội. Hết mọi sự đều phải được chuộc lại bằng vật chất mà với nó, thân xác đã phạm tội. Như vậy thì đáng lẽ Thiên Chúa phải sai một thiên thần để đền tội cho các thiên thần sa ngã, đền tội cho Lucifer và các thiên thần môn đệ của nó sao? Vì qúi vị biết rằng Lucifer cũng đã phạm tội. Nhưng Thiên Chúa không sai một thần trí thiên thần để cứu chuộc các thiên thần tối tăm. Chúng không thờ lạy Con Thiên Chúa, và Thiên Chúa không tha cho chúng cái tội phạm đến Ngôi Lời của Người, đấng được sinh ra bởi Tình Yêu của Người. Nhưng Thiên Chúa yêu loài người, và đã sai Người, sự trọn lành độc nhất để cứu chuộc người và vãn hồi bình an với Thiên Chúa. Và thật chính đáng là chỉ có Người-Thiên-Chúa có thể hoàn thành việc cứu chuộc loài người và làm nguôi Thiên Chúa.
Chúa Cha và Chúa Con yêu nhau và hiểu nhau. Chúa Cha đã nói: “Cha muốn”, và Chúa Con đã nói: “Con muốn”. Và rồi Chúa Con đã nói: “Hãy cho con”, và Chúa Cha đã nói: “Hãy lấy”. Và Ngôi Lời có một thân xác mà sự tạo thành là một mầu nhiệm. Và thân xác này được gọi là Giêsu Kitô, Messi, đấng phải chuộc lại loài người, dẫn họ về Nước Trời, toàn thắng ma qủi, bẻ gẫy xích xiềng nô lệ.
Toàn thắng ma qủi! Một thiên thần đã không thể làm việc đó, và không thể hoàn thành điều Con Người có thể hoàn thành. Vì vậy, đây, Thiên Chúa kêu gọi vào đại sự, không phải các thiên
221
thần, mà là Người. Đây là Người mà về nguồn gốc, qúi vị còn chưa chắc chắn, hay phủ nhận, hay còn suy xét. Đây là Người, Người mà Thiên Chúa chấp nhận. Người đại diện cho tất cả anh em mình. Người như qúi vị về sự giống nhau, Người ở bên trên qúi vị và khác với qúi vị về nguồn gốc không từ loài người, nhưng từ Thiên Chúa, được sinh ra và được thánh hiến cho sứ mệnh của Người, đứng trước bàn thờ đã được dựng lên để làm Thầy Cả và Lễ Hy Sinh vì tội lỗi thế giới, là Vị Giáo Chủ đời đời và tối thượng, Linh Mục thượng phẩm theo dòng Melkisédech.
Qúi vị đừng run. Tôi không giơ tay về chiếc vương miện giáo chủ đâu. Một chiếc vương miện khác đang chờ tôi. Đừng run! Tôi không lấy mất của qúi vị cái bố tử tế phục đâu, một cái khác đã sẵn sàng cho tôi. Nhưng hãy chỉ run rằng sự Hy Sinh của Con Người và lòng Thương Xót của Đức Kitô không giúp được gì cho qúi vị cả. Tôi đã yêu qúi vị chừng nào! Tôi yêu qúi vị tới nỗi tôi xin được phép Chúa Cha để hư vô hóa chính mình tôi. Tôi yêu qúi vị chừng nào! Tôi yêu qúi vị tới nỗi tôi đã xin chịu đựng hết mọi đau đớn của thế giới để ban cho qúi vị hạnh phúc đời đời.
Tại sao qúi vị không muốn tin tôi? Qúi vị còn chưa có thể tin sao?
Đã chẳng được nói về Đức Kitô rằng: “Con là Linh Mục đời đời theo dòng Melkisédech” sao? Nhưng chức tư tế đã bắt đầu từ bao giờ? Có lẽ vào thời Abraham chăng? Không. Và qúi vị biết điều đó. Vị Vua Công Chính và Bình An đã xuất hiện để loan báo tôi qua một khuôn mặt tiên tri, từ lúc rạng đông của dân tộc chúng ta. Ông đã chẳng loan báo cho qúi vị rằng có một vị tư tế hoàn toàn hơn, đến trực tiếp từ Thiên Chúa, cũng như Melkisédech mà không ai có thể biết nguồn gốc, người ta gọi Người là “Linh Mục”, và Người vẫn là linh mục đời đời. Các ông không tin ở lời linh ứng nữa sao? Nếu các ông còn tin thì ôi, hỡi các tiến sĩ, sao các ông không biết cho các lời nói về tôi một sự giải thích có thể chấp nhận được: “Con là Linh Mục đời đời theo dòng Melkisédech”?
Vả lại, có một chức tư tế khác trước chức tư tế của Aaron, và có
222
lời được nói về chức tư tế này rằng: “Con là”, chứ không phải “Con đã là”, cũng không phải “Con sẽ là”: “Con là Linh Mục muôn đời”. Đó, trong câu này loan báo rằng Linh Mục Đời Đời sẽ không phải từ chồi đã được biết của Aaron. Người sẽ không từ một cái chồi tư tế nào, nhưng sẽ từ một nguồn gốc mới bí nhiệm cũng như Melkisédech, Người thuộc về cái nguồn gốc này. Và nếu quyền năng của Thiên Chúa đã sai Người, thì đó là dấu chỉ Thiên Chúa muốn canh tân hàng giáo sĩ và các nghi thức để nó trở nên ích lợi cho nhân loại.
Qúi vị biết nguồn gốc của tôi ư ? Không. Qúi vị biết các công việc của tôi ư ? Không. Qúi vị thấy các kết qủa của nó ư ? Không. Qúi vị không biết gì về tôi cả. Vậy qúi vị thấy rằng về điều này cũng vậy, tôi là Đức Kitô mà Nguồn Gốc, Bản Tính và Sứ Mệnh phải bị không được biết cho tới khi Thiên Chúa vui lòng mặc khải cho loài người. Phúc cho những ai đang và sẽ biết tin, trước khi sự mặc khải khủng khiếp của Thiên Chúa chà nát họ dưới đất bằng sức nặng của Người, chôn chặt họ ở đó, đập bể họ dưới cái Sự Thật sấm sét, mạnh mẽ làm ngạc nhiên các tầng trời và được kêu gào lên bởi trái đất: “Người là Đức Kitô của Thiên Chúa”.
Qúi vị nói: “Ông ta người Nazarét, ba ông là Giuse, mẹ ông là Maria”. Không, tôi không có người cha đã sinh tôi ra như một người. Tôi không có người mẹ đã sinh tôi ra như Thiên Chúa sinh. Nhưng tôi có một thể xác, và tôi nhận lấy nó do công việc mầu nhiệm của Thánh Linh, và tôi đã đến ở giữa qúi vị bằng cách đi qua nhà tạm thánh. Và tôi sẽ cứu qúi vị sau khi đã tự tạo thành chính tôi do ý muốn của Thiên Chúa. Tôi sẽ cứu qúi vị bằng cách để tỏa ra chính tôi thực sự từ nhà tạm của thân xác tôi, để làm trọn lễ Hy Sinh Cao Cả của một Thiên Chúa tự sát tế cho phần rỗi của loài người.
Lạy Cha, Cha của con! Con đã thưa Cha vào lúc khởi đầu thời gian: “Con đây, để làm theo ý Cha”. Con đã thưa Cha vào giờ của Ân Sủng, trước khi rời Cha để mặc lấy thân xác, để có thể chịu đau khổ: “Con đây, để làm theo ý Cha”. Và con còn thưa Cha điều đó một lần nữa để thánh hóa những kẻ mà vì họ, con đã đến: “Con
223
đây, để làm theo ý Cha”. Và con sẽ còn luôn luôn thưa Cha điều đó nữa, cho tới khi ý Cha được nên trọn...
Giêsu đã giơ tay lên trời để cầu nguyện. Bây giờ Người hạ cánh tay xuống, khoanh lại trước ngực, cúi đầu, nhắm mắt, đắm chìm trong lời cầu nguyện bí mật.
Người ta xì xèo. Không phải tất cả đều hiểu, cả đến phần đông không hiểu (và tôi ở trong số này). Chúng ta qúa ngu muội. Nhưng chúng ta có trực giác là Người đã phát biểu những điều cao cả, và chúng ta yên lặng với đầy cảm phục.
Những kẻ ác ý, không hiểu hay không muốn hiểu, chế nhạo: “Ông ta sảng”. Nhưng họ không dám nói hơn và họ bỏ đi, hoặc lắc đầu đi ra cổng. Tôi tin họ thận trọng vì các ngọn giáo và lưỡi kiếm của Rôma sáng loáng dưới mặt trời ở đầu bức tường.
Gamaliel rẽ một lối đi ở giữa những người ở lại, ông tới bên Giêsu, Người vẫn còn cầu nguyện, trầm tư như xa vời với đám đông và với nơi này. Ông gọi Người: “Rabbi Giêsu!”
- Ngài muốn gì, rabbi Gamaliel? - Giêsu hỏi khi ngẩng đầu lên, đôi mắt vẫn còn chìm đắm trong thị kiến nội tâm.
- Một lời giải thích của Thầy.
- Xin nói.
- Tất cả hãy rút lui - Gamaliel ra lệnh với một giọng tới nỗi tất cả các tông đồ, các môn đệ, các người thiện cảm, các người tò mò, và ngay cả các môn đệ của ông đều mau lẹ rút lui ra xa. Hai người còn lại, người nọ trước mặt người kia, và họ nhìn nhau. Giêsu luôn luôn đầy êm dịu ngọt ngào, ông kia thì vẻ hống hách, dù không muốn, và với vẻ kiêu căng ngoài ý muốn. Sự biểu lộ này chắc chắn đã đến với ông vì từ bao năm đã được người ta khúm núm qúa mức.
- Thưa Thầy... Người ta đã tường trình cho tôi một số lời của Thầy được nói tại một bữa tiệc... mà tôi phản đối, bởi vì nó thiếu chân thành. Tôi, dù tôi chống đối hay tôi không chống đối, tôi luôn luôn rõ ràng... Tôi đã suy gẫm những lời này. Tôi đối chiếu nó với những lời trong cái kỷ niệm của tôi... và tôi đã chờ Thầy ở đây để hỏi Thầy về nó... Nhưng trước khi hỏi, tôi đã muốn nghe Thầy nói...
224
Họ không hiểu. Tôi, tôi hy vọng có thể hiểu. Tôi đã ghi các lời Thầy trong khi Thầy nói, để suy gẫm chứ không phải để làm hại cho Thầy. Thầy có tin tôi không?
- Tôi tin Ngài. Và nguyện Đấng Tối Cao làm cho nó cháy sáng lên trong tâm hồn Ngài.
- Cầu được như vậy. Xin nghe đây: “Những tảng đá phải run sợ, có lẽ là những tảng đá của con tim chúng tôi?”
- Không đâu rabbi. Những tảng đá này (và với một cử chỉ quay tròn, Người chỉ vào các bức tường của Đền Thờ) Tại sao Ngài hỏi điều đó?
- Bởi vì qủa tim tôi đã run sợ khi người ta tường thuật cho tôi các lời của Thầy trong bữa tiệc, và các câu Thầy trả lời cho các kẻ thử thách Thầy. Tôi đã tin rằng sự run sợ này đã là dấu hiệu...
- Không đâu rabbi. Sẽ là qúa ít nếu sự run sợ này của con tim Ngài và của vài người khác để làm dấu hiệu có thể xóa bỏ mọi nghi ngờ... dù là Ngài, nhờ sự xét đoán họa hiếm của sự nhận biết khiêm tốn về chính mình, Ngài đã cho con tim Ngài cái tên là đá. Ôi! rabbi Gamaliel, thực tình Ngài không thể làm cho con tim bằng đá của Ngài trở thành một bàn thờ bằng ánh sáng để đón nhận Thiên Chúa sao? Không phải vì lợi ích của tôi đâu rabbi, mà là để cho sự công chính của Ngài được trọn vẹn...
Giêsu nhìn cách êm dịu người thầy gìa khi ông dày vò bộ râu của ông, luồn các ngón tay vào dưới mũ để bóp chặt lấy trán và thì thầm: “Tôi không thể... Tôi chưa thể... Nhưng tôi hy vọng... Dấu hiệu này, chắc chắn Ngài sẽ cho?”
- Tôi sẽ cho.
- Chào rabbi Giêsu.
- Nguyện Chúa đến với Ngài, rabbi Gamaliel.
Họ chia tay. Giêsu làm hiệu cho các người của Ngài, và họ ra khỏi Đền Thờ.
Luật sĩ, pharisiêu, thầy cả, môn đệ của các rabbi vội vã đến vây quanh Gamaliel như từng đó con diều hâu, trong khi ông lo nhét những tờ mà ông đã viết vào chiếc giây lưng lớn của ông.
225
- Vậy Thầy nghĩ thế nào? Một tên điên à? Thầy đã làm rất phải khi ghi chép những lời nói lông bông này. Chúng sẽ có ích cho chúng ta. Thầy đã quyết định chưa? Thầy có xác nhận không? Hôm qua... hôm nay... qúa đủ để Thầy xác nhận - họ nói ồn ào, Gamaliel nín thinh trong khi ông chỉnh lại chiếc giây lưng, đậy lại lọ mực mà ông đã bỏ giở, trả lại cho môn đệ ông cái bàn nhỏ mà ông đã tì vào để viết trên các mảnh giấy da.
- Thầy không trả lời sao? Từ hôm qua tới nay Thầy không nói...
- một người đồng bạn nói với ông để ông quyết định.
- Tôi nghe, không phải nghe các ông, mà là nghe ông ta. Và tôi tìm cách nhận ra trong những lời của bây giờ, những lời đã nói với tôi một ngày xưa kia, tại đây.
- Có lẽ Thầy đã thành công? - nhiều người cười nói.
- Cũng như tiếng sấm khác nhau tùy theo người ta ở gần hay ở xa nó, nhưng nó luôn luôn là tiếng sấm.
- Vậy là một tiếng động không cho phép đủ để kết luận - một người nói đùa.
- Lêvi, đừng cười. Trong tiếng động cũng có thể có tiếng nói của Thiên Chúa, và chúng ta có thể đủ ngu để tưởng rằng đó là tiếng động của đám mây bị xé ra... Elchias, ông cũng đừng cười, và ông nữa, Simon, sợ rằng sấm sẽ biến thành sét, và biến chúng ta thành tro...
- Vậy là... ông... hầu như ông nói rằng tên Galilê là đứa trẻ mà cùng với Hillel, qúi vị tin là tiên tri, và đứa trẻ đó, và người này là Đức Messi... - những kẻ chế diễu hỏi, mặc dầu âm thầm, vì Gamaliel bắt phải kính trọng.
- Tôi không nói gì cả. Tôi nói tiếng sấm thì luôn luôn là tiếng sấm.
- Gần hơn hay xa hơn?
- Than ôi! Những lời nói mạnh hơn là tuổi tác có thể có. Nhưng hai mươi năm trôi qua đã làm cho sự hiểu biết của tôi đóng cửa lại hai mươi lần chắc hơn trên kho tàng mà nó sở hữu, và âm thanh lọt vào yếu ớt hơn... - Gamaliel cúi đầu, gục cằm vào ngực, suy nghĩ.
- Ha! Ha! Ha! Ông già và ông trở thành ngu, Gamaliel. Ông cho
226
con ma là sự thật. Ha! Ha! Ha! - và tất cả đều cười.
Gamaliel nhún vai cách khinh bỉ, rồi ông lật chiếc áo khoác ông đeo ở vai, cuốn quanh mình nhiều vòng, vì nó rất rộng. Ông quay lưng lại mọi người, không đáp một lời, đầy khinh bỉ trong sự thinh lặng của ông.
183* “THẦY CHỈ CÒN Ở VỚI CÁC CON
MỘT ÍT THỜI GIAN NỮA”
Không bận tâm chút nào về những ác cảm của người khác, Giêsu trở lại Đền Thờ ngày thứ ba. Nhưng chắc Người không ngủ tại Jêrusalem, vì thấy xăng đan của Người dính đầy bụi. Có lẽ Người đã qua đêm trên các ngọn đồi bao quanh Jêrusalem, và chắc các anh Người: Giacôbê và Juđa, cùng với Salômôn và người mục đồng Giuse đã ở với Người. Họ gặp các tông đồ và các môn đệ khác gần bức tường phía đông của Đền Thờ.
- Thầy biết không? Họ đã tới nhà chúng con cũng như nhà các môn đệ, và họ thấy rõ rằng Thầy không có ở đó.
- Chúng ta phải luôn luôn hành động như vậy.
- Tốt. Nhưng chúng ta sẽ nói chuyện sau. Đi thôi.
- Một đám rất đông đã đến trước Thầy và đến trước chúng con. Họ tán dương các phép lạ của Thầy. Biết bao người nhìn nhận và tin vào Thầy. Về điểm này thì các anh Thầy có lý - tông đồ Gioan nói.
- Thầy biết không? Họ tới tìm Thầy cả ở nhà Annalia.
- Và ở lâu đài của Jeanne. Nhưng họ chỉ gặp có Chouza, và... buồn cười! Ông ta đuổi họ như những con chó trong khi ông nói rằng ông không muốn những tên do thám ở nhà ông, và rằng ông đã có đủ rồi. Jonatha lúc đó ở với ông chủ của ông, và ông kể với chúng con - Daniel (mục đồng) nói.
- Thầy biết không? Các luật sĩ muốn giải tán những người chờ Thầy bằng cách thuyết phục họ rằng Thầy không phải Đức Kitô, nhưng họ đối đáp: “Đó không phải Đức Kitô? Vậy các ông muốn ai là? Có bao giờ có một người nào khác có thể làm những phép lạ
227
mà Người làm không? Có phải tình cờ các kẻ đã xưng mình là Đức Kitô làm được như vậy không? Không, không. Có thể nổi lên hàng trăm, hàng ngàn tên bịp, bị các ông mua chuộc để xưng mình là Đức Kitô, nhưng không bao giờ có ai có thể làm những phép lạ như Người làm, và làm được nhiều như Người làm”. Và vì các pharisiêu và các luật sĩ chống chế rằng Thầy đã làm vậy vì Thầy là một Benzêbut, thì họ đáp: “Ôi, vậy thì các ông phải làm vang dội các phép lạ đó, vì chắc chắn các ông là những Benzêbut, nếu người ta so sánh các ông với Vị Thánh”. Phêrô kể và ông cười, và tất cả đều cười khi nhớ lại những đối đáp của đám đông, và sự phẫn nộ của các luật sĩ và pharisiêu phải nhục nhã bỏ đi.
Bây giờ họ đã ở trong nội khu Đền Thờ, và lập tức họ bị bao vây bởi đám đông còn nhiều hơn hai ngày hôm trước.
- Bình an cho Thầy, Chúa! Bình an! Bình an! - người Israel kêu.
- Chào Thầy! - các dân ngoại nói để chào Người.
- Nguyện cho bình an và ánh sáng đến với các con - Giêsu trả lời bằng lời chào duy nhất.
- Chúng con đã sợ rằng chúng đã bắt Thầy, hoặc Thầy không đến vì dè dặt hay vì ghê tởm. Và chúng con tính phân tán đi khắp nơi để tìm Thầy - nhiều người nói.
Giêsu có một nụ cười tê tái, và Người hỏi: “Vậy là các con không muốn mất Thầy?”
- Thầy ơi, nếu chúng con mất Thầy thì ai sẽ cho chúng con những giáo huấn và những ơn huệ mà Thầy đã cho chúng con?
- Các giáo huấn của Thầy sẽ tồn tại trong các con, và các con sẽ còn hiểu hơn khi Thầy ra đi... Và sự vắng mặt của Thầy giữa loài người không ngăn cản ơn phúc xuống trên những ai cầu nguyện với lòng tin.
- Ôi! Thầy ơi! Nhưng thực tình Thầy muốn ra đi sao? Hãy nói
228
cho chúng con biết Thầy đi đâu, và chúng con sẽ theo Thầy. Chúng con cần Thầy biết bao!
- Ông Thầy nói vậy để coi chúng ta có yêu Người không đó! Nhưng qúi vị muốn vị rabbi của Israel đi đâu, nếu không phải là ở trong Israel, ở đây?
- Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng: Thầy chỉ còn ở với các con một ít thời gian nữa thôi, và Thầy đến với những kẻ mà Chúa Cha sai Thầy đến. Rồi các con sẽ tìm Thầy, nhưng các con không tìm thấy Thầy. Nơi Thầy ở, các con không thể tới được. Nhưng bây giờ hãy để cho Thầy đi. Hôm nay Thầy sẽ không nói ở đây, trong nội khu. Thầy có những người nghèo đang chờ Thầy ở nơi khác. Họ không thể đến vì họ rất bệnh. Sau lời cầu nguyện, Thầy sẽ đến với họ.
Và với sự giúp đỡ của các môn đệ, Người rẽ ra một lối đi để vào sân Israel. Những người ở lại nhìn nhau:
- Vậy Người sẽ đi đâu?
- Chắc chắn đến nhà người bạn Lazarô của Người. Ông ta bệnh rất nặng.
- Tôi, tôi nói rằng nơi Người đi, không phải là hôm nay, nhưng là khi Người sẽ bỏ chúng ta luôn. Qúi vị đã chẳng nghe Người nói rằng chúng ta không thể tìm thấy Người sao?
- Có lẽ Người sẽ đi tụ họp Israel, bằng cách đi rao giảng Tin Mừng cho những người của chúng ta đang tản mát giữa các dân. Miền Thập Tỉnh cũng tin tưởng nơi Đức Messi như chúng ta.
- Hay là Người sẽ đi dạy dỗ dân ngoại để lôi kéo họ vào nước của Người.
- Không. Chắc chắn không phải vậy. Chúng ta sẽ luôn luôn có thể tìm thấy Người, cho dù Người ở các miền xa xôi bên Châu Á, ở trung Phi, ở Rôma, ở nước Gaul hay ở Ibérie hay ở Thrace, hay nơi người Sarmate. Nếu Người đã nói rằng chúng ta không tìm thấy Người, dù là chúng ta đi tìm Người, có nghĩa là Người sẽ không ở đâu trong những nơi này.
- Nhưng đúng! Có nghĩa là gì điều Người nói rằng: “Các con sẽ
229
tìm Thầy, nhưng các con không tìm thấy Thầy, và nơi Thầy ở, các con không thể tới được”. “Thầy ở”, chứ không phải “Thầy sẽ ở”. Vậy Người ở đâu, nếu không phải là ở đây, giữa chúng ta ?
- Tôi, tôi bảo anh, Juđa: Người giống như một người, nhưng là một thần trí!
- Nhưng không phải: trong đám các môn đệ, có những người đã thấy Người lúc mới sinh. Và ngay cả họ đã gặp mẹ Người trong lúc mang thai Người mấy giờ trước khi Người sinh ra.
- Nhưng có thực sự đó là một trẻ thơ mà bây giờ trở thành người lớn không? Ai có thể bảo đảm với chúng ta rằng đó không phải là một người khác?
- Ê, không. Người có thể là một người khác, và các mục đồng có thể lầm. Nhưng mẹ Người, nhưng các anh Người! Nhưng cả một làng!
- Các mục đồng có nhận ra bà mẹ không?
- Đương nhiên là có.
- Vậy... nhưng tại sao Người nói: “Nơi Thầy ở, các con không thể tới được”? Đối với chúng ta thì đó là tương lai: Các con sẽ không thể. Đối với Người thì điều đó vẫn là hiện tại: Thầy ở. Vậy ra người này không có thời tương lai?
- Tôi không biết nói sao với anh. Như vậy đó.
- Tôi, tôi bảo các anh: Đó là tên điên.
- Chính mày điên! Do thám của Đại Pháp Đình!
- Tôi? Một do thám? Tôi là một người Do Thái cảm phục Người. Các ông đã chẳng nói rằng Người tới nhà Lazarô sao?
- Chúng ta không nói gì cả, do thám gìa! Chúng ta không biết gì cả. Và nếu chúng ta biết, chúng ta cũng không nói cho mày. Hãy đi nói với những kẻ sai mày rằng chính họ hãy đi tìm Người. Do thám! Do thám! Tên bị mua chuộc!
Người đó thấy rằng câu chuyện trở thành bất lợi nên bỏ đi.
- Nhưng chúng ta ở lại đây! Nếu chúng ta ra ngoài thì chúng ta đã nhìn thấy Người. Anh chạy lối này đi! Còn anh, hãy chạy lối kia!... rồi nói cho chúng tôi biết Người đi theo đường nào. Bảo
230
Người đừng tới nhà Lazarô.
Những người khỏe chân phóng đi lẹ... rồi họ trở lại: “Người không còn ở đó... Người đã trà trộn vào đám đông và không ai biết nói gì...”
Đám đông thất vọng, từ từ tản mát...
Nhưng Giêsu ở rất gần hơn họ tưởng. Ra khỏi cổng, Người vòng quanh đồn Antonia và Người ra khỏi thành phố bằng cổng Đoàn Vật để xuống thung lũng Cédron, nó chỉ có rất ít nước ở giữa lòng suối. Giêsu băng qua nó bằng cách bước trên những tảng đá ngập trong nước, và Người hướng về núi Oliu. Cái phần này của Jêrusalem còn rậm rạp như rừng, làm cho nó tối, tôi nói là nó có vẻ tang tóc. Nó nằm ép giữa các bức tường xám của khu Đền Thờ. Phía bên này là núi Moriah cao vượt hẳn lên với Đền Thờ của nó, phía bên kia là núi Oliu. Xa hơn về phía nam thì thung lũng quang đãng và nở rộng ra, nhưng ở đây thì nó rất hẹp. Một phát của cái móng vuốt khổng lồ đã đào ra một rãnh sâu giữa núi Moriah và núi Oliu.
Giêsu không tới Gétsêmani, trái lại, Người đi về phía đối diện, theo phương bắc, luôn luôn đi trên núi. Sau đó núi này phình ra thành thung lũng hoang vu dựa vào sườn của các đồi khác, tạo thành cái vòng cung ở phía bắc thành phố. Sau các cây oliu là các cây khác không có trái, gai góc, cong queo, bù xù, lẫn lộn với những cây gai leo vươn các tua vòi của nó ra tứ phía. Một nơi rất buồn, rất quạnh hưu, nó có cái gì qủi quái, bí hiểm. Có vài nấm mộ, không có gì nữa, người cùi cũng không. Cái quạnh hưu này có vẻ kỳ lạ, trái ngược với đám đông của thành phố ở rất gần, đầy người và tiếng động. Ở đây, ngoài tiếng róc rách của nước trên các tảng đá và tiếng rì rào của gió trong những cây mọc chen giữa các tảng đá, người ta không nghe thấy tiếng động nào. Nó thiếu cả những nốt vui vẻ của chim chóc rất đông đảo trong các cây oliu của Gétsêmani và trong các vườn oliu. Gió đông bắc khá mạnh tung lên những lớp bụi nhỏ, đẩy đi những lao xao của thành phố. Sự yên lặng, sự yên lặng của một nơi chết ngự trị ở đây, nặng nề, hầu như sợ hãi.
- Nhưng thực tình ta đi lối đó sao? - Phêrô hỏi Isaac.
231
- Đúng, đúng. Ta cũng có thể tới đó bởi các đường khác, bằng cách ra lối cổng Hêrôđê, và tốt hơn là cổng Damas. Nhưng rất tốt là chúng ta biết những lối đi không thông dụng. Chúng tôi đã đi vòng khắp vùng để biết, và để chỉ cho các anh. Như thế các anh có thể đi tới nơi các anh muốn trong vùng mà không phải đi vào các con đường quen thuộc.
- Và ta có thể hãnh diện về các người Nobê không - Phêrô lại hỏi.
- Giống như những người trong nhà riêng của anh. Tôma, trong mùa đông vừa qua, Nicôđêmô thì luôn luôn, thầy cả Gioan môn đệ của Người, và những người khác nữa, đã làm cho ngôi làng nhỏ thành một nơi thuộc về họ.
- Và anh, anh đã làm nhiều hơn tất cả - Benjamin (mục đồng) nói.
- Ôi! Tôi!! Trong khi mọi người tham gia vào đó, nếu tôi đã hành động... Nhưng Thầy hãy tin con rằng ở khắp các vùng chung quanh thành phố, Thầy đều có những nơi an toàn...
- Rama cũng vậy... - Tôma nói khi nhớ tới thành phố của ông. “Ba con và anh rể con đã nghĩ tới Thầy cùng với Nicôđêmô”.
- Vậy thì Emmau cũng thế - một người mà tôi đã biết nói, nhưng tôi không thể nói chắc ông ta là ai, bởi vì tôi gặp nhiều người Emmau ở Juđê, không kể Emmau ở gần Tarichée.
- Như con đang làm bây giờ thì thật xa xôi để đi đi về về, nhưng con sẽ không thiếu sót để thỉnh thoảng về đó.
- Và nhà con - Salômôn nói.
- Ở đó, ít là một lần để chào ông già.
- Cũng có cả Béther nữa.
- Và Betsur.
- Thầy sẽ không tới nhà các nữ môn đệ nữa, nhưng khi cần, Thầy sẽ bảo họ tới.
- Con có một người bạn chân thành ở En Rogen. Nhà của ông ta đã mở ra cho Thầy. Và Thầy ở đó thì không ai trong những kẻ ghét Thầy nghĩ rằng Thầy ở gần họ như vậy - Étienne nói.
232
- Người làm vườn của vua có thể cho Thầy trọ. Ông ta thân thiết với Manaen, người đã xin cho ông chỗ làm này... Lại nữa, bữa đó Thầy đã chữa cho ông...
- Thầy à? Thầy không biết ông ta...
- Vào lễ Vượt Qua, ông ta là một trong những người Thầy đã chữa tại nhà Chouza. Một phát lưỡi phạng có dính phân dơ bẩn đã làm ông hư cẳng chân nên ông chủ thứ nhất của ông đã đuổi ông. Ông hành khất cho các con ông và Thầy đã chữa cho ông. Manaen đã để ông làm vườn. Ông đã được chỗ này nhờ một lúc vui của Antipa. Bây giờ ông làm tất cả những gì Manaen bảo. Và rồi Thầy...
- mục đồng Mathia nói.
- Thầy không bao giờ thấy Manaen cùng một trật với các con... - Giêsu nói khi nhìn Mathia đăm đăm và thật lâu, làm ông biến sắc và băn khoăn. “Đi lên phía trước với Thầy đi”.
Người môn đệ đi theo Người.
- Nói đi!
- Chúa ơi... Manaen lầm... Và ông rất khổ, cũng như Timon và một người nào đó nữa. Họ không còn bình an, vì Thầy...
- Họ sẽ không đến nỗi nghĩ rằng Thầy ghét họ...
- Ôi! Không. Nhưng...Họ sợ các lời Thầy và dung nhan Thầy.
- Ôi! Lầm lạc chừng nào! Chính vì họ đã lầm nên họ phải đến với phương thuốc. Con biết họ ở đâu không?
- Thưa Thầy biết.
- Vậy hãy đi tìm họ và nói rằng Thầy chờ họ ở Nobê.
Mathia ra đi, không để mất thời giờ.
Đường miền núi đi lên, cho thấy toàn bộ Jêrusalem nhìn từ phía bắc... Giêsu và các người của Ngài quay lưng về nó khi họ tiến về phía đối diện với thành phố.
184* TẠI NOBÊ. PHÉP LẠ TRÊN GIÓ
Đây là một làng nhỏ quây quần, được giữ gìn cẩn thận. Dân làng đều ở trong nhà, vì có nhiều gió. Nhưng khi các môn đệ đến
233
báo tin rằng Giêsu ở đây, thì tất cả đàn bà, trẻ con, các người già mà tuổi tác giữ họ lại trong làng, đều quây quần chung quanh Giêsu khi Người dừng lại ở quảng trường nhỏ chính yếu của làng. Ngôi làng ở trên cao nên có không khí và ánh sáng, dù là trong ngày mây phủ. Từ đó, con mắt bao quát Jêrusalem ở phía nam, và Rama ở phía bắc (Tôi nói đó là Rama, vì tên này được ghi trên tấm bảng chỉ đường cùng với khoảng cách)
Người ta rất cảm động. Được là người tiếp đãi Chúa, đối với họ là qúa mới, qúa cảm động!... Một ông già, một lão trượng thật sự, nói điều đó thay cho tất cả, và các phụ nữ xác nhận bằng những gật đầu.
Có thói quen bị chà đạp bởi sự kiêu căng của các thầy cả và các pharisiêu, họ sợ sệt... Nhưng Giêsu làm họ thoải mái ngay bằng cách ẵm một con bé mới bắt đầu tập bước trong tay Người. Người vuốt ve một ông già và hỏi: “Các con chưa bao giờ gặp Thầy?”
- Thấy từ xa... Đi trên đường... vài người ở Đền Thờ. Nhưng với chúng con là những người ở rất gần thành phố mà lại khó khăn hơn để được cái điều mà những người đến từ xa lại được - ông già nói.
- Luôn luôn vậy đấy bố. Điều có vẻ làm cho dễ thì lại làm cho khó, bởi vì mọi người đều dựa vào ý tưởng là nó dễ. Nhưng bây giờ chúng ta sẽ biết nhau. Hãy về nhà của bố đi. Mùa thu gió thổi nhiều, và nó không tốt cho các lão trượng.
- Ôi, tôi ở một mình, ngày giờ chẳng có giá trị gì đối với tôi...
- Con gái ông ta lấy chồng ở xa đây, còn vợ ông chết vào dịp lễ Ánh Sáng - một người đàn bà giải thích.
- Gioan, ông không nên nói như vậy. Hôm nay ông có vị rabbi ở với ông. Ông đã ước ao Người biết bao! - một bà già nhỏ nói.
- Đúng vậy. Nhưng... Ngài là Đức Messi phải không?
- Đúng vậy đấy bố.
- Vậy tôi còn mong gì hơn nữa? Bây giờ tôi đã thấy Người và tôi đã thấy hoàn thành lời đã được hứa cùng Abraham. Một ông già, chính cho Người mà một ông già đã hát vào bữa đó, tại Đền Thờ. Hôm ấy tôi cũng ở đó, vì bà Lia của tôi thanh tẩy về việc sinh đứa
234
con độc nhất của bà, và tôi ở bên cạnh bà. Và trước chúng tôi, đã xong nghi thức cho một bà chỉ hơi hơn đứa trẻ một tí... Một ông già đã hát khi hôn đứa trẻ của bà mẹ còn rất trẻ này rằng: “Lạy Chúa, bây giờ xin Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bằng an, vì mắt tôi đã nhìn thấy Vị Cứu Tinh”. Vậy ra đứa trẻ mới sinh đó là Ngài. Ôi! Hạnh phúc chừng nào cho tôi. Lúc đó tôi đã cầu xin cùng Chúa rằng: “Xin cũng làm cho con như vậy, con có thể chết sau khi nhận biết Người”. Bây giờ tôi đã biết Ngài. Ngài ở đây. Bàn tay của Chúa tôi đã đặt trên đầu tôi. Tiếng Người đã nói với tôi. Thiên Chúa đã nhận lời tôi. Tôi sẽ nói gì, nếu không là nói những lời của ông già Simêon, kẻ hiểu biết và công chính. Tôi nói những lời ấy: “Lạy Chúa, xin hãy để cho tôi tớ Chúa ra đi bằng an, bởi vì mắt con đã biết Đức Kitô của Chúa!”
- Ông không muốn chờ đợi triều đại của Người sao? - một người đàn bà nói.
- Không, Maria. Các lễ lạy không phải là những thứ dành cho các ông già. Và tôi, tôi không tin vào những điều phần đông người ta nói. Tôi nhớ các lời của Simêon... Ông đã loan báo một lưỡi gươm sẽ đâm vào lòng người đàn bà trẻ này, vì không phải tất cả thế giới đều yêu Vị Cứu Tinh... Ông đã nói rằng sự hư đi và sự phục sinh sẽ đến với nhiều người bởi Ngài... Và lại còn Isaie, lại còn Đavít... Không. Tôi muốn chết để chờ đợi hồng ân của Người ở bên kia... và triều đại của Người từ bên đó...
- Bố ơi, bố nhìn rõ hơn các người trẻ. Nước của Thầy là Nước Trời. Nhưng với bố, việc Thầy đến không phải là sự hư mất, vì bố biết tin ở Thầy. Chúng ta hãy tới nhà bố. Thầy sẽ ở lại với bố.
Và với ông già đưa đường, Người vào một căn nhà nhỏ trắng tại một con đường nhỏ ở giữa các khu vườn. Cây cối trơ trụi, vì lá bị gió giật. Có Phêrô, hai con ông Alphê và Gioan đi với Người. Các người khác tản mát vào các nhà khác... Rồi sau một hồi, họ tới chen chúc nhau trong căn nhà nhỏ và khu vườn, trên sân thượng, trèo cả lên bức tường nhỏ bằng đá ngăn cách con đường với khu vườn, trèo lên cây bồ đào to lớn, cây táo vững chắc, không lo gì tới
235
gió thổi càng lúc càng mạnh làm bụi bay tung.
Họ muốn nghe Giêsu. Người ngập ngừng một lát rồi bắt đầu nói, đứng tại cửa nhà bếp, chỗ tiếng nói của Người có thể nghe thấy ở bên trong cũng như bên ngoài nhà.
- Có một ông vua hùng mạnh và nước của ông rộng mênh mông. Một ngày kia ông muốn đi thăm các người của ông. Ông ở trong một lâu đài cao, từ đó ông ban bố các mệnh lệnh qua các đầy tớ và các sứ giả của ông, sai họ mang các ơn huệ của ông tới cho các người của ông, như vậy để họ biết sự hiện hữu của ông, tình yêu của ông đối với họ, cũng như các kế hoạch của ông, nhưng họ không biết cá nhân của ông, họ không biết giọng nói và ngôn ngữ của ông. Tóm tắt, họ biết rằng có ông, và ông là ông chúa của họ, nhưng không còn gì hơn. Và thường hay xảy ra là nhiều điều luật và nhiều giáo huấn của ông bị biến đổi, hoặc bởi ý xấu, hoặc bởi thiếu khả năng hiểu biết, tới nỗi các lợi ích của các người của vua, cũng như các ước mong của vua là mang cho họ sự sung sướng, cũng bị tổn hại. Đôi khi ông bó buộc phải phạt, và ông còn thấy khổ hơn là họ. Nhưng sự sửa phạt đã không làm cho họ tu chỉnh. Lúc đó ông nói: “Ta sẽ đi và Ta sẽ nói thẳng với họ. Ta sẽ làm cho họ biết Ta. Họ sẽ yêu Ta, theo Ta hơn và trở nên sung sướng”. Và ông rời nơi ở cao sang của ông để đến với dân của ông.
Việc ông tới gây ra một ngạc nhiên lớn. Dân chúng cảm động, sôi nổi; người thì vui, người thì sợ; một số thì công nhận, một số thì ngờ vực, và một số thì thù ghét. Ông vua kiên nhẫn, không hề chán nản. Ông bắt đầu lại gần những kẻ yêu ông cũng như những kẻ sợ ông và những kẻ ghét ông. Ông bắt đầu giải thích lề luật, nghe các người của ông, làm ơn cho họ và chịu đựng họ. Và sau cùng, nhiều người yêu ông và không còn trốn tránh ông vì lẽ ông qúa cao cả. Một số khác, không đông, đã hết nghi ngờ và thù ghét. Đó là điều tốt nhất. Nhưng rất nhiều người vẫn giữ như trước, họ không có thiện chí. Nhưng ông vua là người rất hiền đức, ông cũng chịu đựng chuyện này, và ông nương náu nơi những kẻ tốt nhất, để được an ủi cho những mệt nhọc của ông.
236
Nhưng việc gì xảy ra? Xảy ra là ngay cả nơi những kẻ tốt nhất, ông cũng không được hiểu bởi tất cả. Ông đến từ qúa xa! Ngôn ngữ của ông qúa mới mẻ! Các ý muốn của ông qúa khác với ý muốn của các người của ông! Và ông không được tất cả hiểu... Và cả đến một số làm khổ ông. Và cùng với nỗi đau khổ, họ làm cho ông phải chịu những thiệt hại, hay ít là liều làm cho ông phải chịu, vì họ hiểu lầm ông. Khi họ hiểu rằng họ đã làm khổ cho ông và làm thiệt hại cho ông, thì họ buồn rầu và trốn tránh sự hiện diện của ông. Họ không đến với ông nữa, vì sợ các lời của ông.
Nhưng ông vua đọc được các con tim, và mỗi ngày ông kêu gọi họ bằng tình yêu của ông. Ông cầu xin Chúa cho ông tìm lại được họ để nói với họ: “Tại sao các con sợ Ta? Đúng là sự không thông cảm của các con làm cho Ta khổ, nhưng Ta thấy nó không phải là độc ác, nó chỉ là kết qủa của việc các con bất lực để hiểu ngôn ngữ của Ta, vì nó qúa khác với ngôn ngữ của các con. Điều làm đau đớn cho Ta là sự sợ hãi của các con, nó nói cho ta rằng không những các con không hiểu ta là một ông vua, mà còn không hiểu rằng Ta là người bạn. Tại sao các con không đến? Hãy trở lại đi! Việc các con không hiểu niềm vui được yêu Ta đã được tỏ rõ khi các con thấy khổ vì đã làm cho Ta đau khổ. Ôi! Hãy đến, hãy đến, các bạn của Ta! Đừng gia tăng sự không hiểu biết của các con bằng cách ở xa Ta. Đừng gia tăng sự lo âu của các con bằng cách trốn tránh Ta. Đừng gia tăng nỗi chua cay của các con bằng cách cấm mình yêu Ta. Các con thấy không? Các con cũng như Ta đều khổ vì xa cách. Ta còn khổ nhiều hơn các con. Vậy hãy đến, hãy cho Ta niềm vui”.
Đó là điều ông vua muốn nói. Đó là những lời của ông và cũng là của Thiên Chúa nói với các kẻ phạm tội, và Vị Cứu Tinh cũng nói vậy với những kẻ có thể đã bị lầm. Và đó cũng là điều Vua Israel nói với dân Người, vị Vua thực của Israel, đấng muốn dẫn dân Người từ vương quốc nhỏ của trái đất tới Đại Vương Quốc trên Trời. Những kẻ không theo Vua thì không thể vào đó. Những kẻ không học để hiểu Lời Người và tư tưởng của Người cũng không
237
thể vào đó. Nhưng làm sao để hiểu được nếu sau sự sai lầm thứ nhất, họ trốn tránh ông Thầy?
Mong rằng đừng ai để mình bị hạ nếu họ đã phạm tội và đã sám hối; nếu họ đã lầm và nhìn nhận sự sai lầm của mình. Họ hãy đến với dòng suối tẩy rửa sai lầm và ban ánh sáng khôn ngoan. Họ hãy giải khát nơi nó, vì nó nóng nảy muốn ban mình, và nó từ Trời xuống để ban mình cho loài người.
Giêsu nín lặng. Chỉ có tiếng gió càng lúc càng mạnh. Trên ngọn đồi, nơi xây dựng Nobê, gió thổi mạnh tới nỗi người ta nghe cây cối chuyển răng rắc dễ sợ.
Mọi người bị bó buộc trở về nhà họ. Nhưng khi họ đi khỏi và Giêsu vào nhà và đóng cửa lại, thì Mathia với Manaen và Timon theo sau, ra khỏi bức tường thấp, vào trong vườn và gõ trên chiếc cửa đóng.
Chính Giêsu ra mở cửa: “Thưa Thầy, họ đây...” Mathia nói khi chỉ vào hai người đang đứng lại ở cuối vườn và không dám ngửa mặt lên để nhìn Giêsu.
- Manaen, Timon, các bạn Thầy! - Giêsu nói và bước ra vườn sau khi đã đóng cửa lại để chỉ rằng những người ở trong đừng ra vì tò mò. Và Người đến với hai người, mở đôi cánh tay, giang sẵn ra để ôm họ.
Hai người ngẩng mặt lên, cảm động vì tình yêu làm run giọng nói của Thầy. Họ nhìn thấy khuôn mặt và đôi mắt đầy tình yêu, và nỗi sợ của họ tan đi. Họ chạy lên phía trước và nói với một tiếng kêu mà nước mắt làm cho thành khàn khàn: “Thầy!” Họ sụp xuống đất ở chân Người, ôm mắt cá chân Người, hôn đôi chân trần mà họ rửa bằng nước mắt của họ.
- Các bạn Thầy! Không phải ở đó! Ở đây, trên qủa tim. Thầy đã chờ các con biết bao! Thầy rất hiểu. Nào!... - và Người tìm cách nâng họ dậy.
- Xin tha, ôi! Xin tha. Đừng từ chối chúng con. Thầy ơi, chúng con đã khổ não biết bao!
- Thầy biết. Nhưng nếu các con đã đến sớm hơn, thì Thầy đã nói
238
với các con sớm hơn rằng: “Thầy yêu các con”.
- Thầy yêu chúng con sao?! Cũng như trước sao?!” Timon nói trước, khi ông ngửa khuôn mặt nghi vấn lên.
- Còn hơn trước, vì bây giờ các con đã được chữa khỏi cái nhân tính trong tình yêu của các con đối với Thầy.
- Thực vậy! Ôi! Thầy của con! - và Manaen đứng bật dậy, ông không kháng cự được nữa, ông nhào vào ngực Giêsu. Timon cũng bắt chước ông...
- Các con thấy thoải mái chừng nào ở chỗ này? Chả hơn là ở trong cái lâu đài tội nghiệp của triều đình sao? Đâu có chỗ nào người ta có Thầy nhiều hơn, mạnh mẽ hơn, êm đềm hơn, giầu có hơn bằng những kho tàng vô tận, như chỗ người ta chiếm hữu Thầy là Vị Cứu Tinh, Đấng Cứu Thế, Vua thiêng liêng, người Bạn Chí Thiết?
- Thực vậy, thực vậy! Ôi, họ đã lôi kéo chúng con! Và chúng con thấy như họ tôn vinh Thầy và ý tưởng của họ là chính đáng!
- Đừng nghĩ tới đó nữa. Đó là qúa khứ. Điều đó thuộc về qúa khứ. Hãy để cho thời gian đang trôi nhanh như cơn lốc đập vào chúng ta, mang nó đi xa, phân tán nó tới muôn đời... Nhưng hãy vào trong nhà. Không thể ở lại chỗ này được...
Thực sự, đây là cơn lốc từ phía bắc thổi tới làng. Các cành cây gẫy rớt xuống, các viên ngói bay, vài bức tường nhỏ không chắc chắn của sân thượng bị đổ. Cây hồ đào và cây táo vặn vẹo tựa như chúng muốn giựt rễ ra khỏi đất.
Họ vào trong nhà và bốn tông đồ ngạc nhiên nhìn khuôn mặt còn ướt nước mắt của hai môn đệ, phản ngược với nụ cười của họ. Nhưng họ không nói gì.
- Vài điều bất hạnh đang được sửa soạn - ông già Gioan nói.
- Đúng. Những người đang ở trong lều, tôi không biết họ làm sao... - Phêrô nói.
Gió mạnh tới nỗi các ngọn lửa của cây đèn ba tim được đốt để soi sáng cho căn phòng cứ chập chờn, mặc dầu các cửa đều đóng và gài kỹ.
239
Tiếng rít của gió càng lúc càng mạnh, đập vào nhà cùng với đất và đá sạn, tới nỗi giống như mưa đá, hoà lẫn với các tiếng kêu của phụ nữ càng lúc càng gần. Đó là các bà vợ sợ hãi, các bà mẹ lo lắng: “Chồng chúng con! Con chúng con! Họ đang ở trên đường. Chúng con sợ. Một bức tường của căn nhà bỏ hoang đã sập... Lạy Chúa! Giêsu! Xin thương!”
Giêsu đứng dậy, mở cửa ra một cách khó khăn, vì gió đẩy rất mạnh. Các người đàn bà cúi gù để chống lại gió - một cơn lốc thực sự dưới bầu trời đe dọa - Các bà rên khi giơ tay ra.
- Vào đi, đừng sợ! - Giêsu nói. Và Người nhìn trời, nhìn các cây cối đang sắp bật rễ.
- Vào đi Giêsu! Thầy thấy các cành cây gẫy rơi xuống, và các viên ngói bay không? Ở lại bên ngoài là không khôn ngoan đâu - Juđa Alphê kêu.
- Các cây oliu tội nghiệp! Mưa đá rồi. Mưa đá ở đâu là mất mùa ở đó - Phêrô thì thầm.
Giêsu không vào. Người ra đứng ngay giữa cơn giông làm quần áo Người cuốn vào thân và tóc Người bồng bềnh. Người giang tay cầu nguyện, rồi Người ra lệnh: “Đủ rồi! Ta muốn!” Rồi Người vào nhà.
Gió rít một hơi chót, rồi thình lình im bặt. Sự yên lặng tiếp ngay sau những đổ bể làm cho xúc động tới nỗi các khuôn mặt trong các căn nhà đều bộc lộ vẻ ngạc nhiên. Chỉ còn lại các dấu vết của cơn cuồng phong: lá, cành bị giật đứt, các mảnh màn gió... Nhưng tất cả đều yên tĩnh. Bầu trời trả lời cho trái đất đã yên tĩnh bằng cách cắt bớt các tầng mây và nó trở nên lợt, phân tán ra mà không gây thiệt hại nào, chỉ để rơi một làn mưa bụi để hoàn tất việc rửa sạch không khí bị dơ vì bao nhiêu bụi.
- Nhưng cái gì vậy?
- Hết rồi.
- Có vẻ hết bão rồi, và bây giờ trời đẹp.
Các tiếng hỏi han vọng từ nhà nọ qua nhà kia.
Các người đàn bà đã xin Giêsu cứu chạy ra ngoài: “Chúa, Chúa ở với chúng ta! Người đã làm phép lạ! Người đã làm gió ngừng.
240
Người đã làm tan mây! Vạn tuế! Vạn tuế! Ngợi khen con Đavít! Bình an! Chúc tụng! Đức Kitô ở với chúng ta! Người ở với chúng ta! Đấng đáng chúc tụng! Đấng Thánh! Đấng Thánh! Đấng Thánh! Đấng Messi ở với chúng ta! Alleluia!”
Ngôi làng thực sự đổ ra ngoài đường hết mọi người dân của nó cũng như những người tình cờ đến đây, tức là các tông đồ, các môn đệ. Tất cả đều chạy lại căn nhà Giêsu ở. Tất cả đều muốn hôn Người, đụng vào Người, chúc tụng Người.
- Hãy ngợi khen Chúa Tối Cao. Chính Người là chủ gió và nước. Nếu Người đã nhận lời Con Người, thì là vì để thưởng cho đức tin và tình yêu của các con đối với Người.
Người muốn cho họ đi, nhưng ai có thể làm yên tĩnh cả một làng đang mừng lễ, lao xao vì phép lạ tỏ tường, nhất là nếu ngôi làng đầy những đàn bà? Những cố gắng của Giêsu đều vô ích. Người mỉm cười cách kiên nhẫn, trong khi ông gìa cho Người ở hôn bàn tay trái của Người, và ông tưới nó bằng nước mắt của ông.
Đây, những người đàn ông đầu tiên từ Jêrusalem trở về, thở dốc, hoảng sợ. Tôi không biết họ sợ bất hạnh nào. Họ thấy dân chúng mừng lễ: “Có chuyện gì? Đã có chuyện gì? Nhưng qúi vị không thấy bão sao? Từ trên núi, người ta thấy thành phố biến mất dưới làn mây bụi. Chúng tôi tưởng nó đã bị đổ nhào. Vậy mà ở đây, tất cả đều an bình!”
- Chúa! Chúa! Người đã đến kịp thời để cứu chúng ta khỏi bị tàn phá. Chỉ có một căn nhà bị nguyền rủa là đổ, và vài viên ngói, vài cành cây. Còn các ông? Cái gì đã xảy ra tại Jêrusalem?
Các câu hỏi và trả lời giao nhau. Nhưng các người đàn ông vạch ra một lối đi để đến tôn vinh Vị Cứu Tinh. Chỉ sau khi họ đã giải thích rằng thành phố đang sợ hãi vì cơn bão đe dọa, và mọi người ở trong các lều đều chạy trốn vào các căn nhà, và chủ các vườn oliu đã khóc cho mùa màng của họ... thì thình lình gió im bặt, bầu trời sáng ra và để rơi một cơn mưa bụi... Tất cả thành phố đều ngạc nhiên. Và bởi vì óc tưởng tượng làm việc mau lẹ trong một số trường hợp, các người đàn ông kể rằng trong khi người ta chạy trốn, nhiều người đã ở trong Đền Thờ vào những ngày trước, nhìn thấy núi
241
Moriah bị xâm chiếm mạnh nhất bởi các cơn giông, tới nỗi các quầy đổi tiền bị lật và nhà của vị Giáo Chủ bị thiệt hại, họ nói rằng đó là hình phạt của Thiên Chúa, vì đã xỉ vả Đức Messi của Người. Và lăng nhăng lít nhít!... Người ta càng đến thì các bài tường thuật càng được thêu dệt tô mầu, nhiều lúc nó trở nên kinh hoàng hơn những cảnh tận thế của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh...
185* GIÊSU TẠI CÁNH ĐỒNG CỦA CÁC
NGƯỜI GALILÊ CÙNG VỚI CÁC
TÔNG ĐỒ ANH HỌ CỦA NGƯỜI
- Juđa và Giacôbê, hãy đi với Thầy.
Hai người con ông Alphê không đợi nói lần thứ hai. Họ đứng dậy ngay và cùng với Giêsu ra khỏi căn nhà ở ngoại ô phía nam Jêrusalem, nơi họ được tiếp đón bữa nay.
- Chúng ta đi đâu, Giêsu? - Giacôbê hỏi.
- Đi chào các người Galilê ở trên núi Oliu.
Họ đi một lúc về phía Jêrusalem, men theo các ngọn đồi nhỏ, nơi có những căn nhà nằm giữa đám cây xanh, chắc chắn là nhà của các chủ đất. Họ băng qua con đường dẫn về Bêtani và Jêricô ở lui về phía nam, và sẽ kết thúc ở giữa Tophet và Siloan. Họ lượn qua phía sau một ngọn đồi khác đã bắt đầu dựa vào núi Oliu. Họ băng qua một con đường khác dẫn thẳng từ núi Oliu về Bêtani, và bởi một con đường nhỏ thứ hai băng qua giữa các cây oliu, họ đi lên trại của các người Galilê, nơi chỉ còn lại một ít lều, và còn lại những thứ như các kỷ niệm của đám đông: các cành cây đã héo quăng trên đất, chỗ còn lại của các lò lửa thô sơ, nơi đã được đốt bằng cỏ, với tro tàn, củi cháy dở; các đồ cũ, những thứ luôn luôn còn lại của các cuộc cắm trại.
Mùa lạnh và mưa sớm đã giục giã các người hành hương lên đường. Các đoàn xe của phụ nữ và trẻ em, ngay lúc này cũng đang sắp sửa lên đường. Đàn ông, nhất là những người khỏe mạnh thì ở lại để kết thúc kỳ lễ.
242
Những người Galilê tin vào Chúa có lẽ đã được vài môn đệ loan báo, vì tôi nhìn thấy họ, tất cả, và thuộc về hết mọi làng mà tôi quen biết nhất. Nazarét với hai môn đệ, Alphê (Sara), người mà Giêsu đã tha thứ sau cái chết của mẹ ông, và một người khác. Nhưng tôi không thấy Giuse và Simon Alphê. Đổi lại, những người khác thì không vắng, trong đám đó có ông trưởng giáo đường, rõ ràng là rất lúng túng để chào Người một cách kính trọng, sau khi đã làm trở ngại biết bao cho Người. Nhưng ông gỡ rối bằng cách nói rằng các người bà con của Giêsu trọ tại “nhà người bạn mà Thầy biết”, vì các đứa trẻ không chịu được gió đêm. Còn Cana thì hiện diện với ông chồng của Suzane, ba của ông và mấy người khác. Cũng thế, Naim với người sống lại của họ và những người khác. Bétlem thuộc Galilê với nhiều dân thành; và các thành phố ở phía tây hồ với dân chúng của nó...
- Bình an cho các con! Bình an cho các con! - Giêsu nói để chào khi Người đi qua ở giữa họ, vuốt ve các trẻ em còn hiện diện, các bạn nhỏ xứ Galilê của Người. Người nghe Jairô, ông nói với Người rằng ông tiếc biết bao vì đã không ở đó lần trước.
Giêsu hỏi han để biết xem bà góa người Afêca đã đến cư ngụ tại Caphanaum chưa, và bà có nhận đứa trẻ mồ côi ở Giscala không: “Thưa Thầy, con không biết, có lẽ vì con đã đi khỏi...” Jairô nói.
- Có, có. Có một người đàn bà tới, và bà cho các trẻ con biết bao mật ong và vuốt ve; và bà cho chúng con bánh tráng nướng. Tất cả các trẻ em đã quen đến với Thầy thì chúng cứ đến đó để ăn. Buổi sau cùng, bà đã cho chúng con coi một đứa trẻ còn rất bé. Bà đã mua hai con dê để có sữa. Bà nói với chúng con rằng đó là đứa trẻ của Trời và của Chúa. Bà không thể đi lễ như bà muốn, vì bà không thể mang theo với bà một đứa trẻ còn qúa nhỏ như vậy. Và bà đã xin chúng con nói với Thầy rằng bà sẽ yêu nó cách chính đáng, và bà chúc tụng Thầy.
Các trẻ nhỏ của Caphanaum líu lo chung quanh Giêsu. Tất cả đều hãnh diện vì biết được điều mà ông trưởng giáo đường không biết. Và chính chúng nó là các đại sứ của vị Thầy tốt. Người chú ý
243
nghe chúng nó cũng như nghe các người lớn. Người trả lời: “Và các con cũng hãy nói với bà rằng Thầy chúc phúc cho bà, và bà hãy yêu các trẻ cho Thầy. Và các con, hãy yêu bà nhiều. Đừng lạm dụng lòng tốt của bà. Đừng yêu bà chỉ vì mật ong và bánh tráng, nhưng vì bà tốt, tốt đến nỗi đã hiểu rằng kẻ yêu một đứa trẻ vì danh Thầy thì làm cho Thầy vui sướng. Và tất cả, lớn cũng như nhỏ, hãy bắt chước bà bằng cách nghĩ rằng kẻ đón nhận một đứa trẻ vì danh Thầy, thì chỗ của họ đã được ghi dấu trên trời. Bởi vì tình thương sẽ luôn luôn được thưởng, dù chỉ cho một chén nước vì danh Thầy. Nhưng tình thương người ta dành cho các trẻ nhỏ, khi cứu chúng khỏi đói, khát, lạnh, và nhất là khỏi sự đồi trụy của thế giới, sẽ được thưởng vô tận... Thầy đến để chúc phúc cho các con trước khi các con lên đường. Các con sẽ mang phúc lành của Thầy về cho vợ con, nhà cửa các con...
- Nhưng Thầy không trở lại nhà chúng con nữa sao?
- Thầy sẽ trở lại... Nhưng không phải bây giờ. Sau lễ Vượt Qua...
- Ôi! Nếu lâu như vậy, chắc chắn Thầy sẽ quên lời hứa của Thầy...
- Đừng sợ. Mặt trời sẽ ngừng chiếu trước khi Giêsu quên những kẻ hy vọng vào Người.
- Thời gian sẽ qúa dài...
- Và buồn!
- Nếu chúng con bệnh...
- Nếu chúng con có những nỗi khổ...
- Nếu cái chết đến nhà chúng con...
- Ai sẽ cứu giúp chúng con? - nhiều người thuộc nhiều nơi khác nhau nói.
- Thiên Chúa. Người ở với các con nếu các con ở lại trong Thầy bằng ý muốn của các con.
- Và chúng con, chúng con mới tin ở Thầy đây. Chúng con thú nhận điều đó. Vậy là chúng con không được củng cố? Nhưng bây giờ, từ lúc chúng con thấy Thầy làm các phép lạ và Thầy nói ở trên Đền Thờ. Ôi! Chúng con tin Thầy...
244
- Và Thầy được niềm vui lớn vì thấy các người đồng hương ở trên đường cứu rỗi. Đó là ước mong nồng nàn nhất của Thầy.
- Thầy yêu chúng con biết bao? Nhưng trong thời gian qúa lâu, chúng con đã xúc phạm đến Thầy, và chúng con đã chế nhạo Thầy...
- Đó là qúa khứ. Nó không còn nữa. Hãy trung thành trong tương lai. Và thực vậy, Thầy bảo các con rằng dưới đất cũng như trên trời, qúa khứ của các con đã được xóa bỏ.
- Thầy ở lại với chúng con không? Chúng ta sẽ chia sẻ bánh như bao lần ở Nazarét, khi tất cả chúng ta đều giống nhau trong ngày Sabát, chúng ta nghỉ ngơi trong vườn oliu; hoặc khi Thầy còn là một Giêsu thông thường, Thầy đã đến với chúng con, và như khi chúng ta ở Jêrusalem trong các dịp lễ... - Có một sự hối hận và nuối tiếc qúa khứ trong giọng nói của người Nazarét bây giờ đã tin.
- Thầy muốn đi gặp Giuse và Simon. Nhưng Thầy sẽ đi sau. Tất cả các con đều là anh em với Thầy trong Thiên Chúa. Và đối với Thầy, tâm hồn và đức tin có gía trị hơn máu thịt, vì máu thịt sẽ thối nát, trong khi linh hồn và đức tin thì bất tử.
Trong khi một số người vội vã đốt lửa để nướng thịt, đốt những cành oliu, để sửa soạn bữa ăn, thì những người già hơn và những người có địa vị xã hội cao hơn thuộc mọi nơi trong miền Galilê, chen chúc chung quanh Giêsu để hỏi Người tại sao sáng nay và ngày hôm qua Người không ở Đền Thờ, và hỏi xem ngày mai Người có tới đó không - mai là buổi chót của ngày lễ.
- Thầy đã ở nơi khác... Nhưng ngày mai chắc chắn Thầy sẽ ở đó.
- Và Thầy sẽ nói?
- Nếu Thầy có thể...
Alphê Sara hạ giọng, nhìn chung quanh ông và nói nhỏ với Giêsu: “Các anh Thầy đã đi để bảo đảm cho Thầy sự trợ giúp trong thành phố... Một ông kia biết được rất nhiều điều, vì nhờ các đàn bà, ông là bà con với một người của Đền Thờ... Giuse lo lắng cho Thầy, Thầy biết không? Thực sự thì... ông ta tốt”.
- Thầy biết. Nhưng ông ta sẽ luôn luôn tốt hơn khi ông tốt một cách siêu nhiên.
245
Có những người Galilê khác từ thành phố tới. Đám đông tăng số chung quanh Giêsu. Các trẻ em bất mãn vì bị các người lớn đẩy ra, và chúng không thể lại gần Giêsu. Khi Người quan sát thấy đám đông thơ ngây hờn dỗi, Người mỉm cười và nói: “Hãy để cho các trẻ em đến sát bên Thầy”. Ôi, lúc đó, khi cái vòng đai bị gẫy, chúng chạy lại với Giêsu, lại sung sướng như một đàn chim bay. Người vuốt ve chúng trong khi vẫn tiếp tục nói với các người lớn. Bàn tay dài của Người, còn nâu sạm vì mặt trời mùa hè, đi qua đi lại trên các mái đầu nhỏ đen, nâu, với vài cái hoe vàng bị chìm mất giữa đám. Các trẻ em chen nhau để có thể đụng vào Người, các khuôn mặt nhỏ nấp trong áo Người, dưới áo khoác của Người, bám vào đầu gối Người, ở bên cạnh Người, thèm khát cái vuốt ve, sung sướng vì có được.
Họ quây vòng tròn để ăn sau khi Giêsu đã chúc phúc của ăn và phân phát, trong sự đồng lòng hợp ý tình nghĩa và bình an.
Những người khác, những người không theo Giêsu, ở xa để nhìn, cười nhạo, không tin. Nhưng không ai bận tâm tới họ...
Bữa ăn chấm dứt. Giêsu đứng dậy trước tiên và người gọi Jairô, Alphê, Daniel Naim, Êlia Corozain và Samuel (trước kia tàn tật, tôi không biết quê ở đâu), rồi một ông Urie nào đó; rồi một trong số nhiều Gioan, một trong số nhiều Simon, một Lêvi, một Isaac, Abel Bétlem, và những người khác nữa. Tóm lại là mỗi làng một người, và nhờ sự giúp đỡ của các anh họ, Người chia hai túi tiền đầy thành bấy nhiêu phần đều nhau, Người giao cho các người mà Người đã gọi, mỗi người một phần, để họ giúp cho những người nghèo trong làng của họ.
Rồi ở lại, hết tiền, Người chúc lành cho mọi người, từ biệt họ. Người rất muốn chia tay họ để đi về Gétsêmani, rồi vào thành phố qua Cổng Chiên, nhưng hầu như tất cả đều đi theo Người, nhất là các trẻ em, chúng không rời y phục và các vạt áo khoác của Người, và chắc chắn chúng làm bấn chân Người, nhưng Người để cho chúng làm.
Và đứa trẻ ở Magđala, tên Benjamin, thằng nhỏ mà một hôm,
246
nó đã nói toẹt ra điều nó nghĩ về Judas Kêriot, nó cứ kéo áo Giêsu cho tới khi Người cúi xuống để nghe nó nói riêng biệt :
- Thầy không còn cái ông độc ác đó ở với Thầy nữa chứ ?
- Ông nào độc ác ? Ở với Thầy đâu có ai vậy... - Giêsu mỉm cười nói với nó.
- Có, có mà! Cái ông cao lớn, tóc nâu đen, đã cười... Thầy biết, ông mà con nói chỉ đẹp bề ngoài nhưng xấu ở trong lòng. Ông ta xấu tính.
- Nó nói về Judas đó - Thađê nói. Ông đi ở đàng sau Giêsu và ông đã nghe.
- Thầy biết - Giêsu quay lại trả lời. Rồi Người nói với đứa trẻ: “Chắc chắn là ông ta ở với Thầy. Ông đó là một trong các tông đồ của Thầy. Nhưng bây giờ ông ta rất tốt... Tại sao con lắc đầu? Người ta không được nghĩ xấu cho tha nhân, đặc biệt là người mà ta không quen.
Đứa trẻ cúi đầu và nín lặng.
- Sao con không trả lời Thầy?
- Thầy không muốn con nói dối... Và con đã hứa với Thầy là sẽ không nói dối. Nhưng nếu bây giờ con nói với Thầy rằng đúng, con tin là ông ta tốt, thì tức là con nói một điều không thật, vì con nghĩ rằng ông ta xấu. Con có thể ngậm miệng để làm vui lòng Thầy, nhưng con không thể ngậm đầu để không nghĩ.
Lối thoát thật là nồng nhiệt và thật hữu lý trong sự đơn giản còn trẻ con của nó mà những người đã nghe thấy đều cười, tất cả, trừ Giêsu. Người thở dài và nói: “Vậy con phải làm một việc: cầu nguyện cho ông để ông trở nên tốt, nếu thực tình con thấy như ông xấu. Con phải là thiên thần của ông. Con có làm không? Nếu ông trở nên tốt hơn thì Thầy được vui hơn. Vậy là khi cầu nguyện cho ông ta là con cầu nguyện cho Thầy được sung sướng”.
- Con sẽ làm. Nhưng nếu ông ta xấu và không trở nên tốt hơn đối với Thầy thì lời cầu nguyện của con chẳng được việc gì.
Giêsu cắt đứt lý luận bằng cách dừng lại, cúi xuống hôn các đứa trẻ. Rồi người ra lệnh cho tất cả trở lại.
247
Khi chỉ còn lại một mình Giêsu với hai anh họ, sau một lúc yên lặng, Juđa Alphê như lý luận với chính mình: “Nó có lý, nó hoàn toàn có lý. Con, con cũng nghĩ như nó”.
- Nhưng em nói về ai vậy? - anh Giacôbê của ông hỏi. Ông đi ở đàng trước, hơi trầm tư, trên con đường hẹp mà họ chỉ có thể đi hàng một.
- Em nói về Benjamin và về điều nó nói. Và... nhưng Thầy, Thầy không muốn nghe nó. Và con cũng nói với Thầy rằng Judas là... Không, đó không phải là một tông đồ thực... ông ta không chân thành, ông ta không yêu Thầy, ông ta không...
- Juđa! Juđa! Tại sao con làm khổ Thầy?
- Em tôi ơi! Tại vì con yêu Thầy, và con sợ Iscariot. Con sợ ông ta hơn là sợ rắn độc...
- Con bất công. Không có ông ta thì có lẽ Thầy đã bị bắt.
- Giêsu có lý. Judas đã làm nhiều. Ông ta tự chuốc lấy sự ghen ghét và nhạo báng không dè dặt, nhưng ông đã làm việc, và ông ta làm việc cho Giêsu - Giacôbê nói.
- Con, con không thể nghĩ được rằng Thầy dại hay Thầy nói dối... Vì vậy con tự hỏi tại sao Thầy nâng đỡ Judas. Con không nói vì ghen, cũng không vì ghét. Con nói bởi vì ở trong con, con cảm thấy ông ta xấu và thiếu chân thành... Tất cả điều con có thể chấp nhận vì tình yêu đối với Thầy, là nhận rằng ông ta điên, một tên điên tội nghiệp mà hôm nay mê sảng theo một chiều, ngày mai theo một chiều khác. Nhưng tốt thì không. Ông ta không tốt. Hãy nghi ngại, Giêsu, hãy nghi ngại!... Không ai trong chúng con tốt, nhưng Thầy hãy nhìn kỹ chúng con: con mắt chúng con trong sáng. Hãy quan sát chúng con cho rõ: lối sống của chúng con không thay đổi. Nhưng điều đó không nói gì với Thầy rằng các pharisiêu đã trả tiền cho những chế diễu của ông sao? Không nói gì về việc các người ở Đền Thờ không phản ứng gì về các lời của ông sao? Về việc ông luôn luôn có các bạn bè ngay giữa đám những kẻ mà ông xúc phạm với vẻ bề ngoài thôi sao? Về việc ông luôn luôn có tiền? Con không nói tới hai đứa chúng con, nhưng ngay cả Natanael là
248
người giầu, ngay cả Tôma là người không thiếu phương tiện, mà cũng chỉ có các thứ cần. Còn ông ta thì... Ôi!...
Giêsu nín lặng.
Giacôbê nhận xét: “Thằng em con nó có lý một phần. Điều chắc chắn là Judas luôn luôn tìm các phương kế để ở một mình, để đi một mình, để... Nhưng con không muốn xì xèo và xét đoán. Thầy biết...”
- Đúng, Thầy biết. Chính vì vậy nên Thầy nói rằng Thầy không muốn sự xét đoán. Khi các con sẽ ở giữa thế giới để thay thế Thầy, các con sẽ tới gần những kẻ kỳ cục hơn Judas nhiều. Các con sẽ là tông đồ thế nào nếu các con dẹp họ qua một bên bởi vì họ kỳ cục. Chính vì họ như thế nên các con phải yêu họ bằng một tình yêu nhẫn nại, để làm cho họ thành những con chiên của Chúa. Bây giờ chúng ta hãy tới nhà Giuse và Simon. Các con đã nghe rồi phải không? Họ làm việc kín đáo cho Thầy. Các con sẽ nói: tình yêu gia đình. Phải, đúng vậy, nhưng luôn luôn là tình yêu. Lần vừa qua, các con đã bất bình bỏ đi. Bây giờ hãy làm hòa với nhau. Họ và các con đều có cái đúng cái sai. Mong rằng mỗi người nhận biết cái sai của mình và đừng đòi quyền lợi về cái đúng của mình.
- Anh ấy đã xúc phạm đến Thầy rất nhiều, và xúc phạm đến Thầy cực độ - Giacôbê nói.
- Con rất giống Giuse, ba của Thầy. Còn anh Giuse của con thì lại rất giống Alphê, ba ông. Và Giuse ba Thầy thường bị anh cả của ông chỉ trích, nhưng ông luôn luôn khoan dung và tha thứ, vì ông, ba Thầy, là vị đại công chính. Con hãy giống như ông...
-Vậy nếu anh ta khiển trách con, làm như con là con nít? Thầy biết là khi anh ấy bực tức là anh không nghe lý lẽ gì hết...
- Con hãy nín lặng. Đó là phương pháp duy nhất để làm dịu cơn tức. Con hãy yên lặng cách khiêm nhường và nhẫn nhục. Và nếu con cảm thấy con không thể nín lặng mà không vô lễ thì con hãy bỏ đi. Biết nín lặng, biết chạy trốn, không phải vì hèn, cũng không phải vì không biết nói gì, nhưng vì nhân đức, vì khôn ngoan, vì bác ái, vì khiêm nhường. Trong cuộc cãi vả, rất khó lòng để giữ sự công bằng và sự bình an của tâm hồn. Luôn luôn có cái gì đến để làm hư
249
hỏng nơi thâm sâu, để làm xáo trộn, để gây huyên náo, lúc đó hình ảnh Thiên Chúa phản chiếu trên các tâm hồn tốt sẽ bị mờ đục, bị tan biến, và người ta không thể nghe thấy tiếng Người nữa. Hãy bình an! Bình an giữa các anh em. Bình an ngay cả với các kẻ thù. Nếu họ là kẻ thù của chúng ta thì họ là bạn của Satan. Nhưng chúng ta có muốn cũng trở nên bạn của Satan bằng cách ghét những người ghét chúng ta không? Làm sao chúng ta có thể dẫn họ tới tình yêu nếu chúng ta ở bên ngoài tình yêu? Các con bảo Thầy: “Giêsu, Thầy đã nói biết bao lần, và Thầy làm, nhưng Thầy vẫn luôn luôn bị ghét”, nhưng Thầy vẫn luôn luôn nói. Khi Thầy không còn ở với các con nữa, thì từ trên Trời, Thầy sẽ soi sáng cho các con. Thầy cũng bảo các con là đừng đếm những thất bại, hãy đếm những toàn thắng thôi. Hãy ngợi khen Chúa vì nó. Không một tuần trăng nào qua đi mà không ghi dấu một cuộc chinh phục. Đó là điều các người thợ của Chúa phải nhận xét để vui mừng trong Chúa, không hờn giận như các người thế gian khi họ bị mất một trong những chiến thắng đáng thương của họ. Nếu các con hành động như vậy thì...
- Bình an cho Thầy. Thầy có nhận ra con không? - một người đàn ông trẻ nói. Ông ta đang từ thành phố đi về Gétsêmani.
- Con à?... Con là người Lêvi năm ngoái đã ở với chúng ta, với vị thầy cả.
- Chính con đó. Làm sao Thầy nhận ra con vậy? Vì Thầy thấy đầy những người ở chung quanh Thầy.
- Thầy không quên những khuôn mặt và những tâm hồn trong những đặc tính của họ.
- Cái gì là đặc tính của tâm hồn con?
- Nó tốt và không thỏa mãn. Con mệt với những gì ở chung quanh con. Tâm hồn con nhắm về những gì tốt hơn. Con cảm thấy chúng hiện hữu. Con cảm thấy đã đến lúc phải quyết định cho những của cải đời đời. Con cảm thấy ở bên kia lớp sương mù có mặt trời, có ánh sáng. Con muốn ánh sáng.
- Người thanh niên qùi phập xuống: “Thưa Thầy, Thầy nói đúng. Thật vậy, đó là điều con có ở trong lòng. Nhưng con không biết
250
quyết định. Vị thầy cả già Jonatha đã tin, rồi ông chết. Ông ta gìa rồi. Con thì còn trẻ. Nhưng con đã nghe Thầy nói ở Đền Thờ... Chúa ơi, xin đừng xua đuổi con. Không phải mọi người ở đó đều ghét Thầy. Con là một trong những kẻ yêu Thầy. Xin Thầy nói cho con: như một người Lêvi thì con phải làm gì?...”
- Làm bổn phận của con cho tới thời kỳ mới. Hãy suy nghĩ, vì con không đi về vinh quang của trái đất khi con đến với Thầy, nhưng đi về đau khổ. Nếu con kiên trì, con sẽ được vinh quang trên Trời. Hãy học hỏi giáo lý của Thầy, và hãy vững vàng trong giáo lý ấy...
- Với cái gì?
- Chính Trời sẽ làm cho con vững chắc bằng các dấu hiệu của nó. Hãy tự xác nhận lại với sự giúp đỡ của các môn đệ Thầy, và hãy học để biết thi hành càng ngày càng hơn các điều Thầy dạy. Hãy làm như vậy và con sẽ được sự sống đời đời.
- Chúa ơi, con sẽ làm. Nhưng... con còn có thể phục vụ tại Đền Thờ không?
- Thầy đã nói với con: cho tới thời kỳ mới.
- Xin Thầy chúc lành cho con, và phúc lành này sẽ là sự thánh hiến mới cho con.
Giêsu chúc lành và hôn ông. Họ chia tay.
- Các con thấy không? Đời sống các người thợ của Chúa là vậy đó. Hạt giống đã gieo vào tâm hồn này một năm nay, và lúc đó thì không có vẻ là một chiến thắng, vì anh ta không đi theo chúng ta. Sau một năm, đây, anh ta đến để xác nhận lời Thầy vừa nói lúc nãy. Một chiến thắng. Và nó không tô điểm cho ngày của chúng ta sao?
- Giêsu của con, Thầy luôn luôn có lý... Nhưng hãy cẩn thận với Judas! Con ngu si để nói như vậy. Con biết. Thầy biết... Nhưng con có cái dằn vặt này ở trong lòng... Con không nói với những người khác, nhưng nó ở đó... Và con chắc rằng họ cũng có như vậy.
Giêsu không đáp trả. Người nói: “Thầy bằng lòng vì Giuse và Nicôđêmô đã cho Thầy số tiền đó, như vậy Thầy có thể gởi một giúp đỡ cho các người nghèo nhỏ bé ở Galilê của Thầy”.
251
Họ tới cổng và đi vào thành phố, rồi biến mất trong đám đông.
186* NGÀY TRỌNG ĐẠI SAU CÙNG
CỦA LỄ LỀU
Đền Thờ lại thực sự đầy người, nhưng nó thiếu yếu tố phụ nữ và trẻ em. Một mùa mưa gió sớm, giai giẳng và mạnh, dù là vắn cơn, đã thuyết phục phụ nữ hồi hương với con cái. Những nam giới thuộc mọi vùng của Palestin, các người tân tòng miền Thập Tỉnh, đã làm đầy Đền Thờ hoàn toàn để cầu nguyện lần chót, dâng của lễ lần chót, nghe lần chót các giáo huấn của các luật sĩ.
Số người Galilê theo Giêsu đã có mặt đầy đủ với các thủ lãnh quan trọng nhất ở hàng đầu. Ở giữa, rất thấu triệt về phẩm chất họ hàng, có Giuse Alphê và em Simon của ông. Một nhóm đông khác đang chờ, đó là nhóm bảy mươi hai môn đệ. Tôi gọi họ như vậy để chỉ nhóm các môn đệ Giêsu đã chọn để rao giảng Tin Mừng, nhưng thực sự thì con số cũng như khuôn mặt đã thay đổi: một số người cũ không còn ở đó do cuộc đào ngũ sau bài thuyết trình về Bánh Bởi Trời, và có những người mới tới như Nicolai Antioche. Một nhóm thứ ba, rất hợp nhất và rất đông, đó là nhóm các người Do Thái. Trong đám họ, tôi thấy các ông trưởng của các giáo đường Emmau, Hébron, Kêriot, Jutta; và một phần khác, thấy có ông chồng của bà Sara và các người bà con của Êlise Betsur.
Họ ở gần cửa Đẹp, và rõ ràng là họ có ý định bao vây lấy Thầy ngay khi Người vừa xuất hiện. Qủa vậy, Giêsu chưa thể bước một bước vào phía trong nội khu Đền Thờ thì ba nhóm này đã bao vây lấy Người, tựa như để tách rời Người khỏi những kẻ ác ý hay chỉ tò mò.
Giêsu đi về đại phòng dân Israel để cầu nguyện. Các người khác theo Người thành nhóm rất chặt hết sức có thể của đám đông, như điếc với sự bất mãn của những người bị đẩy ra để tránh chỗ cho số người đông bao quanh Giêsu. Người ở giữa các anh Người. Giuse Alphê, cái nhìn không êm dịu như của Giêsu, và thái độ không khiêm tốn như Giêsu, ông tỏ tường nhìn vào tận mặt một số pharisiêu.
252
Họ cầu nguyện, rồi trở ra sân dân ngoại. Giêsu khiêm tốn ngồi trên đất, tựa lưng vào bức tường của hành lang. Họ tạo thành một vòng bán nguyệt càng lúc càng chặt bởi có những dẫy người tới đứng ở phía sau những người ở gần Giêsu. Họ cũng ngồi, hay đứng đâu lưng vào tường. Đó là một tập hợp của các khuôn mặt và các tia nhìn hội tụ về một khuôn mặt duy nhất. Những người tò mò, những người không biết vì từ xa tới, những kẻ ác tâm thì ở bên ngoài cái hàng rào của các kẻ trung thành. Họ cố gắng nhìn bằng cách nghển cổ hay kiễng chân lên.
Trong khi chờ đợi, Giêsu nghe người nọ người kia hỏi ý kiến Người hay tường trình các tin tức. Do đó các người bà con của Êlise nói về các tin tức của bà và hỏi xem bà có thể tới phục vụ Thầy không. Người trả lời: “Thầy không ở lại đây. Sau này bà sẽ tới”. Người bà con của Maria Simon, mẹ Judas Kêriot, nói với Người rằng ông ở lại để lo việc khai khẩn, còn Maria thì hầu như ở suốt với mẹ của Joanne. Judas ngạc nhiên trợn tròn con mắt, nhưng ông không nói. Rồi đến chồng của Sara loan báo cho Người về một đứa con khác sắp sanh, và hỏi Người gọi tên nó là gì. Giêsu trả lời: “Gioan, nếu là con trai, Anna, nếu là con gái”. Và ông già trưởng giáo đường Emmau xì xèo với Người điều gì về lương tâm mà Giêsu trả lời nhỏ nhẹ. Và tiếp tục như vậy.
Trong khi đó số người càng lúc càng đông. Giêsu ngẩng đầu lên nhìn. Vì cái hành lang ở trên cao vài bậc, Người vẫn ngồi trên đất, nhưng nhìn bao quát được một phần sân. Từ chỗ này, Người nhìn thấy một số đông các khuôn mặt.
Người đứng dậy và nói lớn, bằng tất cả tiếng nói chính xác và mạnh của Người: “Ai khát, hãy đến cùng Thầy và hãy uống. Những dòng sông Nước Sự Sống sẽ chảy vọt ra từ lòng những kẻ tin vào Thầy”.
Tiếng Người tràn ngập cái sân mênh mông và các dẫy hành
253
lang lộng lẫy, chắc chắn nó cũng băng qua những kẻ ở phía này và lan tới các nơi khác, vượt át tất cả các tiếng động khác như tiếng sấm hòa hợp đầy hứa hẹn. Người nói, rồi nín lặng một lát, tựa như Người loan báo đề tài của bài thuyết trình, rồi để thời giờ cho các thính giả không quan tâm tới nó có thể ra đi mà không gây phiền cho phần tiếp theo. Các luật sĩ, tiến sĩ nín lặng, đúng ra là họ bớt giọng thành những xì xèo, chắc chắn là ác ý. Tôi không nhìn thấy Gamaliel.
Giêsu tiến lại giữa hình bán nguyệt, nó mở ra cho Người đi, rồi khép lại sau lưng Người, và hình bán nguyệt biến thành vòng tròn. Người bước từ từ một cách oai phong, tựa như Người lướt đi trên nền đá cẩm thạch nhiều mầu với áo khoác hơi mở lướt đi ở sau lưng Người. Người đi tới góc hành lang, chỗ bậc thềm nhìn xuống sân, và Người dừng lại đó. Như vậy Người nhìn thấy hai phía của nội khu thứ nhất. Người giơ cánh tay phải với cử điệu Người thường làm khi Người bắt đầu nói, trong khi bàn tay trái, Người giữ cho chiếc áo khoác ở tại chỗ trên ngực.
Người nhắc lại câu đã nói lúc đầu: “Ai khát, hãy đến cùng Thầy và hãy uống. Những dòng sông Nước Sự Sống sẽ chảy vọt ra từ lòng những kẻ tin vào Thầy!
Kẻ đã nhìn thấy những hình ảnh mặc khải của Chúa: vĩ nhân Êzêkiel, thầy cả và tiên tri, sau khi đã thấy một cách tiên tri, những hành động ô uế trong nhà bị tục hóa của Chúa; sau khi đã thấy, luôn luôn một cách tiên tri rằng, chỉ những kẻ được ghi dấu chữ thập mới được sống trong Jêrusalem đích thực, còn những người khác sẽ biết một và một cuộc tàn sát, một và một sự kết án, một và một hình phạt - và thời gian đã gần, ôi hỡi các con đang nghe Thầy, đã gần rồi, gần hơn các con tưởng. Vậy với tư cách là Thầy và là Vị Cứu Tinh, Thầy hối thúc các con đừng chậm trễ nữa việc lo ghi cho mình cái dấu hiệu cứu rỗi; đừng chậm trễ nữa việc để cho ánh sáng và sự khôn ngoan vào trong các con; đừng chậm trễ nữa việc sám hối và than khóc cho mình và cho những người khác để có thể được cứu rỗi - Êzêkiel, sau khi đã thấy những điều này và những điều
254
khác nữa, đã nói một thị kiến kinh khủng, thị kiến về các bộ xương khô.
Sẽ đến một ngày mà trên một thế giới chết, dưới vòm trời đã tắt, vào lúc có tiếng kèn của các thiên thần, sẽ xuất hiện toàn là xương và xương của các kẻ đã chết. Và giống như cái bụng mở ra để sanh con, trái đất sẽ đẩy ra khỏi bụng nó tất cả xương cốt của những người đã chết ở trên nó, và bị chôn ở trong bùn đất của nó, từ Ađam cho tới người sau cùng. Và đó sẽ là sự sống lại của các kẻ chết cho cuộc phán xét vĩ đại và sau cùng. Sau đó, giống như một trái táo của thành Sôđôma, thế giới sẽ thanh toán hết để trở nên hư vô, và đó sẽ là tận cùng của bầu trời và các tinh tú của nó. Tất cả đều chấm dứt, ngoại trừ hai thứ đời đời, xa nhau, ở hai đầu mút của hai vực thẳm sâu khôn tả, đối nghịch nhau về hình thức và diện mạo, và về cách thế mà quyền năng của Thiên Chúa sẽ tiếp tục muôn đời ở trong đó. Đó là : Thiên Đàng, nơi của ánh sáng, niềm vui, bình an, tình yêu; và Hỏa Ngục: nơi tối tăm, đau đớn, khủng khiếp, thù ghét.
Nhưng các con tưởng rằng thế giới chưa chết, và tiếng kèn của các thiên thần chưa kêu gọi cuộc tụ họp, cánh đồng vô biên giới của trái đất chưa bị bao phủ bằng xương cốt không sự sống, khô héo hết mức, trơ trơ, phân tán, chết, chết, chết sao? Thực vậy, Thầy bảo các con rằng nó đang như vậy đó. Trong giữa những kẻ sống, gọi là sống vì họ còn thở, có vô số kẻ giống như các xác chết, các xương cốt khô mà Êzêkiel nhìn thấy. Họ là ai? Đó là những kẻ không có sự sống linh hồn ở trong họ.
Có như vậy trong Israel cũng như trong toàn thế giới. Và trong các dân ngoại, các kẻ thờ tà thần thì toàn là các kẻ chết đang chờ được hồi sinh bởi Sự Sống. Đó là một điều tự nhiên, nó chỉ làm cho các kẻ chiếm hữu sự Khôn Ngoan thấy khổ thôi, vì họ hiểu rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên các loài cho Người chứ không phải cho tà thần. Và kẻ khôn ngoan đau khổ khi thấy người ta ở trong sự chết. Nếu Thiên Chúa có sự đau đớn này, và nó đã rất lớn lao rồi, thì Người còn đau đớn tới đâu đối với những kẻ của dân Người mà
255
chỉ là những xương cốt trắng, không sự sống, không thần trí?
Những kẻ được lựa chọn, được ưu ái, được nuôi dưỡng, dạy dỗ trực tiếp bởi Người hoăc bởi các tôi tá Người là các tiên tri của Người, tại sao họ lại là những xương cốt một cách đắc tội, trong khi một dòng nước Sự Sống từ Trời chảy ra vẫn được dành cho họ, để giải khát cho họ bằng Sự Sống và Chân Lý. Họ được trồng trong đất của Chúa, tại sao họ khô héo? Tại sao thần trí của họ chết trong khi Thần Trí Vĩnh Cửu sẵn sàng cho họ tất cả kho tàng khôn ngoan để họ đạt tới đó và sống bằng nó? Ai trong số họ có thể nhờ một kỳ công nào đó mà trở về được với Sự Sống, nếu họ từ bỏ các suối nguồn, các đồng cỏ, các ánh sáng do Thiên Chúa ban; nếu họ tiến bước bằng cách mò mẫm trong sương mù, uống nước ở những suối không trong sạch, và nuôi mình bằng những thực phẩm không thánh?
Họ có bao giờ trở về được với Sự Sống không? Có. Thầy qủa quyết nhân danh Đấng Tối Cao. Nhiều người sẽ sống lại. Thiên Chúa đã chuẩn bị các phép lạ, và cả đến Người đã vào việc, Người đã thi hành trong một số, và nhiều xương cốt khô đã mặc lại sự sống, bởi vì Đấng Tối Cao, đấng không có gì là không làm được, đã giữ lời hứa của Người, và còn giữ và làm trọn nó càng ngày càng hơn. Từ trời cao, Người kêu với các xương cốt đang chờ Sự Sống: “Đây, Ta sẽ đổ thần trí trên các ngươi, và các ngươi sẽ sống”. Và Người đã lấy Thần Trí của Người, Người tự lấy chính mình Người để làm một xác thịt và mặc cho Lời Người, và Người gởi tới cho những kẻ chết này, để khi nói với họ thì Sự Sống lại đổ tràn trên họ.
Qua dòng các thế kỷ, biết bao lần Israel đã kêu lên: “Xương cốt của chúng tôi khô héo, hy vọng của chúng tôi tiêu tan, chúng tôi bị chia lìa”. Nhưng tất cả mọi lời hứa đều là thánh, mọi lời tiên tri đều là sự thật. Đây, đã đến thời đấng được Thiên Chúa sai đến mở các nấm mồ ra để cho các kẻ chết ra khỏi đó, tái sinh nó, dẫn nó đi cùng với Người vào trong Israel thực, vào Nước của Chúa, vào Nước của Cha Thầy và Cha của các con.
Thầy là Sự Sống Lại và là Sự Sống! Thầy là Ánh Sáng đến để soi cho những kẻ ở trong tối tăm! Thầy là mạch suối vọt ra Sự Sống
256
Đời Đời.
Ai đến với Thầy sẽ không phải chết. Ai khát Sự Sống thì hãy đến và hãy uống. Ai muốn chiếm hữu Sự Sống tức là Thiên Chúa thì hãy tin vào Thầy, và từ lòng nó sẽ vọt ra, không phải những giọt, mà là những dòng sông Nước Sự Sống, bởi vì những kẻ tin ở Thầy thì nó cùng với Thầy tạo ra một Đền Thờ mới, nơi chảy ra Nước Cứu Rỗi mà Êzêkiel nói.
Hãy đến với Thầy, ôi hỡi các dân! Hãy đến với Thầy, ôi hỡi con người! Hãy đến để làm thành một Đền Thờ duy nhất, vì Thầy không từ chối một ai, nhưng vì tình yêu, Thầy muốn các con ở với Thầy, trong các việc của Thầy, trong các công nghiệp của Thầy, trong vinh quang của Thầy.
“Và tôi thấy nước vọt ra từ bên dưới cửa Bàn Thờ ở phía đông... Và nước chảy ra từ bên phải, xuống phía nam bàn thờ”.
Đền Thờ này là những kẻ tin vào Đức Messi của Chúa, vào Đức Kitô, vào Lề Luật mới, vào giáo lý của thời gian cứu rỗi và bình an. Giống như các bức tường của Đền Thờ này được làm bằng đá, cũng vậy, các bức tường mầu nhiệm của ngôi Đền Thờ không bao giờ chết nữa, được làm bằng các tâm hồn sống động, và sẽ từ đất bay lên trời giống như Vị Sáng Lập của nó, sau cuộc chiến đấu và thử thách.
Bàn thờ, nơi nước vọt ra, bàn thờ ở phía đông này chính là Thầy. Và dòng nước của Thầy sẽ chảy ra từ bên phải, vì bên phải là chỗ của các kẻ được chọn vào Nước Thiên Chúa. Nước sẽ từ Thầy mà chảy ra, và đổ vào trong các kẻ được chọn của Thầy, làm dồi dào cho họ bằng làn nước sinh lực để dẫn dắt họ, và tung họ đi từ bắc tới nam, từ đông tới tây để ban sự sống cho trái đất, tại nơi các dân đang trông chờ giờ của Ánh Sáng, giờ sẽ đến, giờ tuyệt đối phải đến cho hết mọi nơi, trước khi trái đất ngừng hiện hữu.
Dòng nước của Thầy sẽ vọt ra và chảy tràn, hòa với nước mà chính Thầy đã ban và sẽ ban cho những kẻ theo Thầy. Và luôn luôn, trong khi chảy ra để làm tươi tốt cho trái đất, nó sẽ tụ lại trong một dòng sông Ân Sủng duy nhất, càng ngày càng sâu, càng ngày càng
257
mênh mông, ngày qua ngày, từng bước một, dòng nước của các tín hữu mới sẽ tăng trưởng, cho tới khi nó trở nên một biển để tưới cho khắp nơi, để thánh hóa trái đất.
Thiên Chúa muốn như vậy và Thiên Chúa làm. Một đại hồng thủy đã rửa sạch thế giới bằng cách làm chết các kẻ tội lỗi; một đại hồng thủy mới bằng một chất lỏng không phải là nước mưa, sẽ rửa thế giới để cho nó Sự Sống.
Và bởi hành động mầu nhiệm của Ân Sủng, người ta có thể là phần tử của cái đại hồng thủy thánh hóa này, bằng cách kết hợp ý muốn của họ với ý muốn của Thầy, sự mệt mỏi của họ với của Thầy, sự đau khổ của họ với của Thầy. Thế giới sẽ biết Chân Lý và Sự Sống, rồi ai muốn tham dự vào đó thì đều có thể. Sẽ chỉ có những kẻ không muốn được nuôi bằng nước của Sự Sống mới trở nên một nơi bùn lầy và hôi thối, hoặc những kẻ vẫn ở trong tình trạng cũ, không được biết đến những mùa gặt dồi dào các hoa trái của Ân Sủng, khôn ngoan, phúc lộc mà những kẻ sống trong Thầy được biết.
Thực vậy, một lần nữa, Thầy bảo các con rằng: kẻ khát mà đến với Thầy thì sẽ được uống và không còn khát nữa, vì Ân Sủng sẽ mở ra trong lòng nó những suối nguồn, những sông nước hàng sống. Kẻ nào không tin vào Thầy thì sẽ chết như một nơi đầm lầy dơ bẩn, nơi sự sống không thể tồn tại được.
Thực vậy, Thầy bảo các con rằng dòng suối ở sau Thầy sẽ không khô cạn, vì Thầy sẽ không chết, nhưng Thầy sẽ sống. Và sau khi Thầy đi, đi chứ không phải chết, để mở cửa Nước Trời, thì một đấng khác sẽ đến, đấng giống như Thầy, Người sẽ hoàn tất công việc của Thầy, bằng cách làm cho các con hiểu điều Thầy đã nói với các con, và bằng cách thiêu đốt các con để biến các con thành “những ánh sáng”, vì các con đã tiếp nhận Ánh Sáng.
Giêsu nín lặng.
Đám đông đã im bặt dưới ảnh hưởng của bài thuyết trình, bây giờ bắt đầu xì xèo bình luận theo nhiều cách khác nhau.
Một người nói: “Thật là những lời!... Đây thực là vị tiên tri!”
258
Một người khác: “Đây là Đức Kitô, tôi nói với anh vậy đó. Chính Gioan cũng không nói được như vậy, và không một tiên tri nào mạnh được như vậy”.
- Và rồi Người làm cho chúng ta hiểu lời tiên tri, kể cả Êzêkiel mà những ám chỉ của ông rất khó hiểu.
- Anh đã nghe, hen? Nước, bàn thờ! Rõ ràng rồi!
- Và các xương cốt khô?! Anh thấy các luật sĩ, các pharisiêu và các thầy cả bối rối chừng nào không? Họ đã hiểu Thánh Vịnh.
- Đúng. Và họ đã sai lính gác tới. Nhưng chúng... chúng đã quên bắt Người, và chúng đứng yên như các trẻ nhỏ nhìn thấy thiên thần. Hãy nhìn chúng ở đàng kia kìa, chúng như đang sửng sốt.
- Coi kìa! Coi kìa! Một ông viên chức đang nhắc lại cho chúng và khiển trách chúng. Chúng ta lại nghe coi đi!
Trong lúc đó, Giêsu chữa các bệnh nhân mà người ta đem lại cho Người. Người không lo gì tới những chuyện khác cho tới khi, bằng cách phăng ra một lối đi qua đám đông, một nhóm các thầy cả và pharisiêu, dẫn đầu họ là một người khoảng ba mươi, ba lăm tuổi, mà mọi người sợ hãi chạy trốn như trốn tên khủng bố. Ông ta tới bên Giêsu.
- Ông còn ở đây sao? Đi ngay, nhân danh Thầy Cả Thượng Phẩm!
Giêsu đứng thẳng lên - vì Người đang cúi trên một người bại liệt - Người bình tĩnh nhìn cách êm dịu, rồi Người lại cúi xuống để đặt tay trên bệnh nhân.
- Đi ngay! Ông hiểu chưa? Tên dụ dỗ đám đông! Hay chúng ta sẽ cho lệnh bắt ông.
- Hãy đi và ca tụng Chúa bằng một đời sống thánh thiện - Giêsu nói với người bệnh đã được khỏi và đang đứng dậy. Đó là câu trả lời duy nhất của Người trong khi các kẻ đe dọa Người khạc ra nọc độc của họ. Nhưng đám đông, bằng những tiếng hô vạn tuế, báo cho họ biết là đừng làm gì nguy hại cho Giêsu.
Giêsu êm đềm, nhưng Giuse Alphê thì không. Ông đứng thẳng, ưỡn ngực, ngửa đầu ra phía sau cho có vẻ cao lớn hơn, và ông la lớn: “Ôi Êlêazar, ông với các người cùng thứ với ông muốn triệt hạ
259
vương trượng của người Con được lựa chọn của Thiên Chúa và của Đavít, hãy biết rằng ông đang đốn hết các cây, bắt đầu bằng cây của ông mà ông rất hãnh diện. Chiếc gươm của Thiên Chúa đang vung trên đầu ông vì hành vi bất chính của ông”. Ông còn nói những lời khác nữa, nhưng Giêsu đặt tay trên vai ông và nói: “Anh của tôi ơi! Bình an! Bình an!” Giuse đỏ gay vì phẫn uất, nhưng ông nín lặng.
Họ đi về phía lối ra. Khi đã ra ngoài nội khu, người ta đến kể cho Giêsu rằng các thủ lãnh thầy cả và các pharisiêu đã khiển trách các lính gác vì đã không bắt Giêsu. Bọn lính bào chữa khi nói rằng chưa hề có ai nói hay như Giêsu. Câu trả lời làm cho các thủ lãnh thầy cả và pharisiêu phát điên, trong số họ có nhiều nhân viên Đại Pháp Đình, để chứng tỏ cho các lính gác rằng chỉ có những kẻ ngu mới bị lôi cuốn bởi một tên điên, họ muốn tới bắt Người như kẻ phạm thượng để dạy cho đám đông hiểu sự thật. Nhưng Nicôđêmô hiện diện ở đó, ông phản đối và nói rằng: “Các ông không thể khởi cáo chống lại Người. Luật của chúng ta cấm kết án một người trước khi nghe họ và thấy những gì họ làm, và chúng ta chỉ nghe và chỉ thấy nơi Người những điều không thể kết án”. Các kẻ thù của Giêsu liền phẫn uất quay ra chống lại Nicôđêmô. Chúng dọa nạt ông, chửi rủa ông, nhạo báng ông, làm như ông là kẻ ngu đần và tội lỗi. Rồi Êlêazar con Anna đích thân ra đi cùng với các kẻ hung dữ nhất để đuổi Giêsu, không dám làm gì hơn, vì lẽ đám đông.
Giuse Alphê rất xùng. Giêsu nhìn ông và nói với ông: “Ôi, anh, anh thấy không?” Người không nói lời gì hơn... Nhưng có biết bao lời trong mấy tiếng này! Có sự khuyến cáo rằng Người có lý, dù Người nói hay nín lặng, có sự nhắc nhở lại các lời của Người, có sự biểu thị rằng ở Juđê, đẳng cấp thống trị là thế nào, rằng thế nào là Đền Thờ... và tiếp theo như vậy.
Giuse cúi đầu, và ông nói: “Em có lý...” Ông nín thinh, trầm tư. Rồi thình lình ông ôm lấy cổ Giêsu, khóc trên ngực Người và nói: “Tội nghiệp cho đứa em của tôi! Tội nghiệp cho Maria! Tội nghiệp cho bà mẹ!” Tôi tin rằng lúc đó Giuse có trực giác rõ ràng về số
260
phận của Giêsu...
- Đừng khóc! Anh cũng hãy làm như em: theo ý Cha chúng ta! - Giêsu nói để khích lệ ông, và Người ôm hôn ông để an ủi ông.
Khi Giuse đã hơi bình tĩnh, họ tiến về căn nhà mà họ ở trọ và họ hôn nhau để chào nhau. Giuse vô cùng xúc động, nói tựa như những lời sau cùng: “Giêsu, hãy đi bình an, bên trên tất cả. Anh nhắc lại điều anh đã nói với em ở gần Nazarét, và anh nói cách mạnh mẽ hơn: Hãy đi bình an. Hãy chỉ lo lắng cho công việc của em, còn những gì khác thì anh sẽ lo. Hãy đi và nguyện Thiên Chúa củng cố cho em”. Rồi ông lại hôn Người với tình phụ tử, ông vuốt ve Người như để để lại trên đầu Người phúc lành của vị gia trưởng. Rồi Giuse chào các em của ông. Simon cũng chào họ. Nhưng tôi nhận thấy không biết vì lý do nào, Giacôbê có vẻ dè giữ với Giuse, và cũng một cách hỗ tương. Ngược lại, với Simon thì ông có vẻ tình nghĩa hơn.
Giuse nói với Giacôbê câu này: “Vậy anh phải nói rằng anh đã mất em sao?”
- Không. Anh ơi, anh phải nói rằng anh biết em ở đâu, và có ngày anh sẽ tìm lại được em. Em không hề giận hờn, trái lại, em cầu nguyện rất nhiều cho anh. Nhưng trong những sự về thần trí, không thể đồng thời đi hai con đường. Anh biết em muốn nói gì...
- Em thấy rằng anh bảo vệ Người...
- Anh bảo vệ một con người và một bà con. Điều đó không đủ để được những dòng sông Ân Sủng mà Người đã nói. Hãy bảo vệ người Con Thiên Chúa, không sợ gì thế giới, không tính toán lợi lộc, và anh sẽ toàn vẹn. Chào. Em ký thác mẹ chúng ta và mẹ của Giêsu cho anh.
Tôi không biết Giêsu có nghe thấy họ không, vì Người đang lo chào các người Nazarét và các người Galilê khác. Khi việc chào từ biệt đã xong, Người ra lệnh: “Chúng ta hãy lên núi Oliu, rồi từ đó, chúng ta sẽ đi nơi khác nào đó”.
187* TẠI BÊTANI: “NGƯỜI TA CÓ THỂ
GIẾT NGƯỜI BẰNG NHIỀU CÁCH”.
261
Một căn nhà Bêtani càng ngày càng buồn, nhưng luôn luôn hiếu khách. Sự hiện diện của các bạn hữu và các môn đệ không lấy đi được cho căn nhà nỗi buồn của nó. Có Giuse, Nicôđêmô, Manaen, Êlise, Anastasica, những người mà theo như tôi hiểu, không biết chịu đựng việc ở xa Giêsu, nên đã xin lỗi về điều đó như một sự không vâng lời, nhưng nhất quyết không bỏ đi. Êlise giải thích những lý do vững chãi về điều đó là: Hai cô em Lazarô không thể theo Thầy để cung cấp cho Người và các tông đồ những săn sóc của phụ nữ, cần thiết cho một nhóm toàn nam giới, hơn nữa, lại bị bách hại.
- Chỉ có mình chúng con là có thể, vì Matta và Maria không thể bỏ anh các cô. Jeanne không có ở đây, Annalia thì qúa trẻ để đi với chúng con. Đối với Nique thì tốt hơn là bà ở lại nơi ở của bà để đón tiếp qúi vị. Mái tóc trắng của con tránh được những chuyện ngồi lê mách lẻo. Con sẽ đi trước Thầy tới nơi Thầy sẽ tới. Con sẽ ở lại nơi Thầy bảo con, và Thầy sẽ luôn luôn có một bà mẹ ở gần Thầy. Và con, con sẽ nghĩ rằng con còn một đứa con trai. Con sẽ làm điều Thầy muốn, nhưng hãy để cho con phục vụ Thầy.
Giêsu bằng lòng khi cảm thấy rằng mọi người đều tìm ra được những điều chính đáng. Có lẽ cũng vì Người có nỗi chua cay lớn lao ở trong tim, chắc Người cũng ước ao có ở bên cạnh Người một con tim bà mẹ, nơi Người tìm thấy một tia phản chiếu êm đềm của Mẹ Người.
Êlise toàn thắng trong niềm vui.
Giêsu nói với bà: “Thầy sẽ thường ở Nobê. Con hãy tới nhà của ông già Gioan. Ông ta đã biếu cho Thầy để Thầy ở. Thầy sẽ gặp con ở đó mỗi khi chúng ta trở lại”.
- Thầy tính đi, dù là trời mưa sao? - Giuse Arimathi hỏi.
- Ừ, tôi còn muốn đi về miền Pêrê, dừng lại ở nhà Salômôn, rồi đi Jêricô và Samari. Ôi! Tôi còn muốn đi biết bao nơi nữa...
- Thầy đừng đi quá xa các đường được canh gác và các thành phố có một viên bách binh. Họ không chắc, những người khác cũng không chắc luôn. Hai cái sợ và hai sự canh chừng ở trên Thầy, và
262
một cách hỗ tương. Nhưng Thầy hãy tin rằng đối với Thầy thì phe người Rôma ít nguy hiểm hơn.
- Họ bỏ rơi chúng tôi rồi!... - Judas Kêriot nói cách thô lỗ.
- Anh tin vậy sao? Không. Trong số dân ngoại nghe Thầy, anh có thể phân biệt những người được sai đến là của Claudia hay của Ponciô không? Trong số những người nô lệ được giải phóng của Claudia và của các bạn bà, không phải là ít người có thể nói tại Bel Nidrac nếu họ là dân Israel. Đừng bao giờ quên rằng những người học thức có ở khắp nơi, rằng Rôma đã chinh phục thế giới, rằng các nhà qúi tộc của họ thích lấy những chiến lợi phẩm tốt nhất để trang hoàng nhà cửa của họ. Nếu các ông quản đốc thao trường và các ông chủ gánh xiếc chọn những gì có thể tạo cho họ tiền bạc và vinh quang, thì những nhà qúi tộc sẽ chọn những người mà văn hóa hay vẻ đẹp là đồ trang hoàng và sự thú vị cho nhà họ và cho chính họ... Thầy ơi, các lời này làm con nhớ tới một chuyện cũ. Con có được phép hỏi Thầy một câu không?
- Nói đi.
- Người đàn bà đó, cái cô Hy Lạp đã ở với chúng ta hồi năm ngoái... và đã gây ra một sự kết án chủ chốt chống lại Thầy, cô ta đâu rồi? Nhiều người tìm cách biết... với ý định không tốt. Nhưng con, con không có kế hoạch xấu... chỉ có điều... cô ta trở về sự sai lầm thì con thấy là không thể. Cô ta thông minh, chân thành, ngay thẳng. Nhưng người ta không nhìn thấy cô ta nữa...
- Ở một nơi nào đó trên trái đất. Cô ta, một dân ngoại, đã biết thi hành đối với một người Israel bị bách hại, một tình bác ái mà các người Israel không có.
- Thầy muốn nói về Gioan Enđo à? Ông ta có ở với cô ta không?
- Ông ta chết rồi.
- Chết à?
- Đúng. Và đáng lẽ người ta đã có thể để cho ông ta chết ở bên cạnh tôi... Ông ta không phải chờ lâu... Những người, và có rất nhiều người đã làm việc để gây ra sự đi xa của ông, họ đã phạm một tội sát nhân giống như họ giơ bàn tay cầm dao trên ông. Họ đã
263
làm bể qủa tim ông. Và dù biết là ông chết vì vậy, họ cũng không nghĩ đến tội sát nhân của họ. Họ không cảm thấy hối hận vì đã làm như vậy. Người ta có thể giết anh em bằng nhiều cách, với một khí giới hay một lời nói, hoặc một hành động xấu, cũng giống như tường thuật cho kẻ bách hại chỗ ẩn náu của kẻ bị bách hại, lấy đi của kẻ khổ sở một chỗ mà họ tìm được sự an ủi... Ôi! Có biết bao cách để giết người... Nhưng người ta không cảm thấy hối hận. Người ta đã giết chết sự hối hận, và đó là dấu chỉ về sự thoái hóa thiêng liêng.
Giêsu rất nghiêm khắc khi nói những lời này, đến nỗi không ai còn thấy có đủ sức mạnh để nói. Họ nhìn nhau bằng khóe mắt, cúi đầu, bối rối, kể cả những kẻ vô tội và những kẻ tốt nhất.
Sau một lúc yên lặng, Giêsu nói: “Mong rằng đừng ai tường thuật cho các kẻ thù của người chết và của Thầy điều Thầy đã nói, để cho họ cái vui của Satan. Nhưng nếu người ta hỏi các con thì chỉ nói rằng Gioan đang ở trong bình an, với thân xác ông ở trong mồ xa xôi, và tâm hồn ông đang chờ Thầy”.
- Chúa ơi, điều đó làm Thầy khổ sao? - Nicôđêmô hỏi.
- Cái gì? Cái chết của ông à?
- Vâng.
- Không. Cái chết của ông cho Thầy bình an, bởi vì đó là sự bình an. Đó là một nỗi đau, một nỗi đau lớn lao mà họ đã làm cho Thầy, những kẻ mà vì một tình cảm thấp hèn, đã tố cáo với Đại Pháp Đình về sự hiện diện của ông trong đám các môn đệ, và đã dẫn tới sự ra đi của ông. Nhưng mỗi người có tư tưởng riêng của mình, và chỉ có một thiện chí rất lớn mới có thể thay đổi tính tình và các ý tưởng. Nhưng Thầy bảo các con rằng: “Kẻ tố giác thì sẽ còn tố giác nữa, kẻ làm chết người thì sẽ còn làm chết người nữa”. Nhưng khốn cho nó! Nó tưởng là thắng, nhưng nó đi tới sự hư mất, và sự phán xét của Thiên Chúa đang chờ nó.
- Thầy ơi, tại sao Thầy lại nhìn con như vậy? - Gioan Zêbêđê hỏi. Ông bối rối và đỏ mặt tựa như ông là người có tội.
- Là tại vì dù Thầy có nhìn con thì cũng không ai, dù là người
264
xấu nhất, nghĩ rằng con đã có thể ghét một người anh em.
- Người đó có thể là một pharisiêu hay Rôma... Ông ta bán trứng cho họ... - Judas Kêriot nói.
- Đó phải là một thằng qủi. Nhưng nó đã làm điều lành cho ông ta trong khi nó muốn làm hại ông, vì nó đã gia tốc việc thanh tẩy trọn vẹn của ông và sự bình an của ông.
- Làm sao Thầy biết? Ai đã mang tin tới cho Thầy? - Giuse hỏi.
- Thầy lại cần người ta mang tin tức cho Người sao? Có lẽ Người không nhìn thấy các hành động của con người sao? Người đã chẳng gọi Jeanne đến với Người và chữa cho bà sao? Có gì là không thể đối với Thiên Chúa?” Maria Magđala nói cách hăng hái.
- Đúng vậy đó cô. Nhưng ít có người được đức tin như cô... và vì vậy tôi đã đặt câu hỏi ngu xuẩn.
- Tốt. Vậy bây giờ đi đi Thầy. Lazarô đã thức dậy và anh đang chờ Thầy.
Và nàng dẫn Người đi, cương quyết và sắc bén cắt đứt mọi đàm thoại và câu hỏi.
188* GẦN PHÔNG-TEN CỦA EN ROGEL
Giêsu từ Bêtani trở lại thành phố bằng con đường ở dưới thấp (nói vậy để chỉ rằng còn một con đường dài hơn, không đi qua núi Oliu, nó dẫn về thành phố bằng cách đi qua vùng ngoại ô Tophet) Trước hết, Người dừng lại để cho đồ cứu trợ các người cùi, những người chỉ biết xin Người bánh thôi. Rồi người đi thẳng tới một chỗ lòng chảo hình chữ nhật, có mái che và rào kín chung quanh, chỉ chừa ra một phía. Đó là một cái giếng, một cái giếng lớn có mái che, cái giếng lớn nhất mà tôi thấy lần đầu. Nó lớn hơn cái giếng của người đàn bà Samari và chắc chắn nó phải nhiều nước hơn, vì đất ở vùng chung quanh cho biết có nước dồi dào và rất mầu mỡ, trái ngược với sự khô cằn và chết chóc của thung lũng Hinnom mà người ta thấy thoáng một phần ở phía tây bắc. Chỉ những xây cất bằng đá tảng như ở chỗ giếng này, cùng với mái che của nó mới có
265
thể chịu đựng được ẩm độ của đất. Và các tảng đá, không cần phải là chuyên gia, người ta cũng thấy là chúng rất xưa, vững chắc, đen và đồ sộ, để bảo vệ dòng nước qúi.
Mặc dầu là một ngày âm u, và mặc dầu ở gần các ngôi mộ của người cùi luôn luôn tỏa ra chung quanh vẻ ảm đạm, nhưng đây là nơi dễ chịu, về sự mầu mỡ của nó cũng như về khung cảnh, vì ở phía sau nó, về phương bắc, có một khu vườn mênh mông trồng đủ loại cây, và các ngọn lá của chúng vươn lên bầu trời xám chìm thấp xuống trên thành phố. Ở đàng trước, về phía nam, là thung lũng Cédron mà dòng suối đã phình ra, và chảy cuồn cuộn một dòng nước dồi dào. Cũng thế, thung lũng cho thấy cảnh vui và sáng hơn khi đi theo con đường dẫn về Bêtani và Jêricô trên một quãng dài.
Rất đông người ở đó: đàn bà với các vò, các người cỡi lừa với các xô, các đoàn du mục đi hoặc về, thấy đi qua gần giếng nên kín nước. Đất ướt át hầu khắp chỗ, vì nước tràn ra ngoài khi người ta đổ vào các đồ chứa.
Giọng nói phụ nữ bình an và êm đềm, giọng nói sắc nhọn của trẻ con, giọng trầm, khàn và mạnh của các ông. Tiếng lừa bư bư, lạc đà nhăn nhó nằm dưới hành lý nặng để chờ người cỡi trở lại cùng với nước. Đây là quang cảnh rất đặc biệt dưới một hoàng hôn âm u mà bầu trời có những vết kỳ lạ, với một mầu vàng không tự nhiên, bất ngờ phủ xuống trên tất cả một ánh sáng lạ, trong khi ở trên cao hơn, các đám mây nặng mầu chì dồn dập bay về phía tây.
Các phần cao nhất của thành phố có cái diện mạo cải lương, trong ánh sáng kỳ lạ ở trước chân trời mầu chì có rạch những đường mầu lưu huỳnh.
- Tất cả những cái này là do nước và gió - Phêrô nói thầm, và ông hỏi: “Chiều nay chúng ta đi đâu?”
- Tới nhà người có nhiều vườn. Ngày mai Thầy sẽ lên Đền Thờ và...
- Lại lên nữa? Hãy cẩn thận những gì Thầy làm. Tốt hơn là nên nhận đến trong giáo đường của các nô lệ được giải phóng theo lời mời của họ - Simon Zêlote khuyên.
266
- Vậy là giáo đường thay thế giáo đường. Còn nhiều giáo đường khác cũng tỏ ý muốn có Người. Tại sao lại đến ngay với họ? - Judas Kêriot nói.
- Bởi vì đó là nơi an toàn nhất. Điều đó đúng khỏi cần nói - Zêlote đối đáp.
- An toàn! Cái gì bảo đảm cho anh?
- Sự kiện là họ vẫn trung thành, mặc dầu những thứ họ phải chịu.
- Các con đừng cãi nhau. Ngày mai Thầy sẽ lên Đền Thờ. Thầy đã nói. Lúc này hãy ở lại đây một lát. Đây luôn luôn là nơi tốt để giảng Tin Mừng.
- Không hơn các nơi khác. Con không biết tại sao Thầy thích đây hơn.
- Tại sao à Judas? Vì nhiều lý do mà Thầy sẽ nói với những người tụ họp ở đây, và một lý do mà Thầy sẽ nói riêng với các con. Chính tại cái giếng này của phông-ten Rogel, nơi các nhà Đạo Sĩ phương đông nghỉ lại trong lưỡng lự và thất vọng, vì ngôi sao đã dẫn dắt họ từ rất xa đã biến mất ở đây. Nếu là những người khác thì đã mất sự tin tưởng nơi Thiên Chúa và nơi chính mình, nhưng họ thì đã cầu nguyện cho tới rạng đông, bên cạnh những con lạc đà mệt mỏi của họ, những người duy nhất tỉnh thức giữa những đầy tớ ngủ say. Rồi lúc rạng đông, họ đứng dậy để đi về phía cổng thành, đương đầu với sự nguy hiểm bị coi là điên hay kẻ gây rối, đương đầu với cả sự nguy hiểm đe dọa tính mạng. Các con nhớ rằng lúc đó là triều đại của Hêrôđê khát máu. Chỉ cần rất ít lời hơn là câu mà họ - các nhà Đạo Sĩ - nói với ông ta, là đủ để ông ta hạ lệnh cái chết của họ. Nhưng họ tìm Thầy. Họ không tìm vinh quang, của cải, danh dự. Họ tìm Thầy, chỉ một mình Thầy: một đứa trẻ, Đấng Messi của họ, Thiên Chúa của họ. Sự tìm kiếm Thiên Chúa, vì nó tốt, nó luôn luôn cho mọi trợ giúp và sự gan dạ. Sợ hãi là điều thấp hèn, là gia tài của những kẻ mơ những điều thấp hèn. Các nhà Đạo Sĩ ước mơ thờ lạy Thiên Chúa, họ mạnh mẽ nhờ tình yêu của họ, và chỉ vài giờ sau, tình yêu của họ được thưởng, bởi vì ở đó, trong đêm trăng, ngôi sao lại hiện ra trước mắt họ. Không bao giờ thiếu sao
267
sáng của Thiên Chúa cho những kẻ tìm Thiên Chúa với sự công chính và tình yêu. Ba nhà Đạo Sĩ! Họ có thể dừng lại giữa những danh dự giả tạo mà Hêrôđê cho họ sau câu trả lời của các thủ lãnh các thầy cả, các luật sĩ và tiến sĩ. Họ qúa mệt mà!... Nhưng họ không dừng lại, dù là một đêm... Và trước khi các cổng khép lại, họ đã ra ngoài để nghỉ ở đây cho tới rạng đông. Rồi... không phải là rạng đông của mặt trời, mà là rạng đông của Thiên Chúa, lại hiện ra để trả lại lộ phí. Ngôi sao gọi họ bằng ánh sáng của nó, và họ đến với Ánh Sáng. Hạnh phúc! Hạnh phúc cho họ và những kẻ biết bắt chước họ!
Các tông đồ với Margziam và Isaac, tất cả đều lắng nghe. Họ luôn luôn có khuôn mặt sung sướng khi Giêsu gợi lại sự sinh ra của Người. Isaac mơ màng, xít xoa, mỉm cười với kỷ niệm... Khuôn mặt xuất thần, xa xôi với thời gian và nơi chốn, trở lại đàng sau hơn ba mươi năm, về với đêm đó, về với vì sao mà chắc chắn ông đã nhìn thấy từ giữa bầy vật của ông...
Những người khác cũng sát lại gần, vì đây là con đường đông người qua lại, và họ nghe. Có vài người nhớ lại đoàn du hành phi thường và cái tin họ mang tới... và những gì tiếp theo đó.
- Đây luôn luôn là nơi để suy gẫm. Lịch sử luôn luôn nhắc lại. Đây cũng luôn luôn là nơi thử thách cho người tốt cũng như người xấu. Nhưng suốt đời sống là một thử thách cho đức tin và sự công chính của con người.
Thầy nhắc lại cho các con sự trung tín của Cousai, của Sađốc và Abiatha, của Jonatha và Achimaas, đã từ nơi này ra đi để cứu vua của họ, và Thiên Chúa đã bảo vệ họ, vì họ hành động theo sự công chính.
Thầy nhắc lại cho các con một biến cố có liên can tới nơi này, nhưng nó đã trở thành tai hại, vì đó là điều không chính đáng, và do đó Thiên Chúa không chúc phúc cho nó: Ở gần tảng đá của Zoêlet, bên phông-ten của Rogel, Adonia âm mưu phản lại ý muốn của cha ông và làm cho mình được phong vương bởi các kẻ về phe với ông. Nhưng sự lạm dụng này không ích lợi gì cho ông, vì trước khi bữa tiệc kết thúc, thì các tiếng hô vạn tuế vang dậy trong Gihon đã cho
268
ông biết, ngay cả trước khi Jonatha Abiatha nói, rằng Salômôn đã là vua, và ông, kẻ muốn chiếm ngôi, phải chỉ còn việc đặt mình dưới sự thương xót của Salômôn.
Có qúa nhiều người làm lại hành động của Adonia: chiến đấu với Vua thực, hoặc mưu đồ chống lại Người bằng cách đi theo các bè phái họ cho là mạnh nhất. Và qúa ít người, sau khi đã hành động như vậy mà biết bám chặt lấy bàn thờ để xin tha thứ, và phó thác cho lòng thương xót của Thiên Chúa.
Chúng ta là những kẻ đã cứu xét ba biến cố xảy ra gần cái giếng này, chúng ta có thể nói rằng nơi này đã chịu ảnh hưởng tốt hay xấu không? Không. Không phải nơi chốn, cũng không phải thời gian, cũng không phải các biến cố, mà là ý muốn của con người đã làm rối loạn các hành động của họ. En Rogel đã thấy sự trung thành của các đầy tớ Đavít và tội của Adonia, cũng như đã thấy đức tin của các nhà Đạo Sĩ. Cũng vẫn cái giếng này, đá và nước của nó tựa vào nhau, đã giải khát cho Jonatha và Achimaas cũng như Adonia và các người của ông, cũng như các nhà Đạo Sĩ. Nhưng nước và đá này đã nhìn thấy ba điều khác nhau: một sự trung thành với vua Đavít, một sự phản bội đối với Đavít, và một sự trung thành với Thiên Chúa là Vua các vua. Luôn luôn chính ý muốn của con người là cái hoàn thành điều thiện hay điều ác. Và ở bên trên ý muốn của con người là: Ý muốn của Thiên Chúa chiếu tỏa ánh sáng của Người, và ý muốn của Satan xì hơi độc vào. Con người có bổn phận tự ý đón nhận ánh sáng hay chất độc để trở nên người công chính hay tội nhân.
Tại cái giếng này, người ta đã đặt một người canh giữ để không ai làm dơ nước. Và thêm vào với người gác, người ta đã xây các bức tường và làm mái che, để gió không làm bay vào bên trong các lá cây và vấn rác có thể làm dơ dòng nước qúi. Đối với con người cũng vậy, Thiên Chúa đã đặt một người canh gác: ý chí thông minh và lương tâm của họ; và những mái che: các mệnh lệnh và các lời khuyên của các thiên thần, để tâm hồn con người không bị hư hỏng một cách ý thức hay vô ý thức. Nhưng khi con người làm hư hỏng
269
lương tâm của nó và trí thông minh của nó, thì nó không còn nghe sự soi sáng của Trời nữa, nó dày đạp lên Lề Luật. Nó giống như người canh gác không canh chừng cái giếng, hay giống như một tên điên phá hủy các đồ bảo vệ, nó để cánh đồng tự do cho các kẻ thù thuộc về Satan, cho sự dâm đãng của thế giới và của xác thịt, cho các cám dỗ, những thứ dù người ta không tán trợ nó, họ cũng phải thận trọng canh chừng và xua đuổi.
Hỡi các con cái của Jêrusalem, các người Hy Bá, các dân tân tòng, các khách du hành mà sự tình cờ đã tụ họp lại đây để nghe tiếng Thiên Chúa, hãy khôn ngoan bằng sự khôn ngoan thật, tức là biết bảo vệ cái “tôi” của riêng mình cho khỏi những hành động làm ô nhục cho con người.
Thầy thấy ở đây có nhiều dân ngoại, Thầy nói với họ rằng không phải chỉ có của cải và hàng hóa là thứ phải mua tậu, mà còn một thứ khác phải sắm, đó là sự sống của linh hồn mình. Qủa vậy, mỗi người có ở trong mình một linh hồn, một thứ không rờ mó được, nhưng là cái làm cho sống; một cái không chết, cho dù sau khi thể xác chết; một cái có quyền sống một đời sống thực và vĩnh cửu của nó. Nhưng nó không thể sống nếu con người giết chết cái chính mình thực sự của họ bằng những hành động xấu.
Ngẫu tượng và dân ngoại không phải là cái không thể vượt qua. Kẻ khôn ngoan chiêm niệm và họ nói: “Tại sao tôi phải theo các ngẫu tượng và không hy vọng một đời tốt đẹp hơn, trong khi nếu tôi đến với Thiên Chúa thực, tôi có thể chinh phục niềm vui đời đời?” Người ta tiết kiệm các ngày của họ, và cái chết làm cho họ sợ. Người ta càng bị bao trùm trong sự tối tăm của một tôn giáo giả hay trong sự cứng lòng tin thì người ta càng sợ chết. Nhưng kẻ đến với Đức Tin thật thì sẽ hết sợ chết, vì họ biết rằng ở bên kia cái chết có một đời sống vĩnh cửu, nơi các tâm hồn gặp lại nhau, và là nơi không còn đau khổ, không còn chia cách. Không khó lòng gì để theo con đường của sự sống, chỉ cần tin vào Thiên Chúa thực và độc nhất, và yêu tha nhân, yêu sự ngay thẳng trong hết mọi hành động.
270
Các con Israel, các con biết những điều gì đã được truyền phải giữ và những điều gì bị cấm, nhưng Thầy nói với những người nghe Thầy, và sẽ mang các lời Thầy đi xa cùng với họ, những điều này là gì... (và Người nói mười điều răn).
Tôn giáo thực cốt tại những điều đó chứ không phải cốt tại những lễ hy sinh khoa trương vô ích. Vâng lời lề luật với tinh thần trọn hảo, với nhân đức không thiếu sót, sử dụng tình thương, tránh những gì làm ô nhục con người, từ bỏ những phù phiếm, những bói toán sai lạc, những chiêu hồn giả trá, những mơ mộng độc ác như sách Khôn Ngoan đã nói, sử dụng cách công chính các ơn của Thiên Chúa, tức là sức khỏe, sự thịnh vượng, của cải, sự thông minh, quyền bính; không kiêu căng, đó là dấu hiệu của sự ngu ngốc, vì con người chỉ sống lành mạnh, giầu có, khôn ngoan, quyền bính chừng nào Thiên Chúa ban; đừng có những ước ao qúa mức, vì nhiều khi nó dẫn tới tội ác. Tóm lại, hãy sống như một người chứ đừng như một con vật hoang. Đó cũng là kính trọng chính mình.
Thật dễ dàng để đi xuống, và khó khăn để trở lên. Nhưng ai lại muốn sống trong một vực thẳm hôi thối chỉ vì lẽ đã bị té vào đó, mà không tìm cách ra khỏi đó để lên trên đỉnh đầy hoa và mặt trời? Thực vậy, Thầy bảo các con rằng đời sống của người tội lỗi là ở trong vực thẳm, và đời sống trong sự lầm lạc cũng vậy. Nhưng những kẻ đón nhận Lời Chân Lý và đến với Chân Lý thì sẽ bay lên đỉnh cao, trong ánh sáng.
Bây giờ tất cả hãy đi vào công việc của các con. Hãy nhớ rằng ở gần phông-ten của En Rogel, Suối Khôn Ngoan đã cho các con uống nước của nó để các con còn khát nó nữa và các con trở lại với nó.
Giêsu vạch ra một lối đi và hướng về thành phố, để mọi người lại với những bình luận, các câu hỏi và các câu trả lời của họ.
189* GIÊSU, CÁC PHARISIÊU,
NGƯỜI ĐÀN BÀ NGOẠI TÌNH
Tôi thấy phía bên trong nội khu Đền Thờ, tức là một trong số
271
nhiều sân có hành lang bao quanh. Tôi cũng thấy Giêsu được bao bọc bằng áo khoác che kín áo dài của Người, không phải áo dài trắng, mà là đỏ đậm (hình như bằng len nặng). Người đang nói với đám đông vây quanh Người.
Tôi cho đây là một ngày mùa đông, vì mọi người đều mặc đồ ấm. Đúng là trời lạnh, nên thay vì ở yên, người ta bước mạnh mẽ, tựa như để sưởi ấm. Có gió làm nhúc nhích các áo khoác và làm tung bụi trong các sân.
Nhóm người vây quanh Giêsu là nhóm duy nhất đứng yên tại chỗ, trong khi tất cả các nhóm khác ở chung quanh thầy nọ thầy kia đều đi đi lại lại. Họ mở ra để cho đi qua một nhóm luật sĩ và pharisiêu không ngớt khuơ chân múa tay và nhiều nọc độc hơn bao giờ hết. Họ phun nọc độc bằng cái nhìn, bằng khuôn mặt đỏ gay, bằng miệng. Một đàn rắn độc! Họ kéo lôi thì đúng hơn là dẫn, một người đàn bà trạc ba mươi tuổi, tóc rối, quần áo xộc xệch, giống như một người bị bạc đãi, và đầy nước mắt. Họ quăng bà tại chân Giêsu như một đống giẻ rách hay một xác chết. Bà ở lại đó, co quắp, úp mặt trên hai cánh tay như một cái gối ở giữa mặt đất và khuôn mặt.
- Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt qủa tang phạm tội ngoại tình. Chồng bà yêu bà, không để cho bà thiếu thốn gì, bà là nữ hoàng trong nhà, nhưng bà đã phản bội ông, vì đây là phụ nữ tội lỗi, một kẻ trụy lạc, vô ơn, một kẻ phạm thánh. Đây là kẻ ngoại tình, và như vậy là bị ném đá, Môise đã nói vậy. Trong luật của ông, ông đã truyền rằng những đàn bà như vậy phải bị ném đá như các con vật nhơ bẩn. Và các bà như vậy là dơ bẩn, vì các bà phản bội lòng tin trong hôn nhân, và phản bội người đàn ông yêu thương và săn sóc các bà. Các bà giống như đất không bao giờ no, luôn luôn thèm khát dâm ô. Các bà còn tệ hơn các gái điếm, vì không bị rúc rỉa bởi nhu cầu, mà các bà hiến mình để cung cấp lương thực cho sự dâm ô của các bà. Các bà đồi trụy, các bà ô nhiễm, các bà phải bị kết án tử hình. Môise đã nói vậy, còn Thầy, thầy nói sao?
Giêsu đã bị gián đoạn bài thuyết trình của Người khi đám pharisiêu ồn ào tới. Người nhìn đám người hận thù bằng cái nhìn
272
xuyên thấu, rồi người liếc mắt trên người đàn bà hèn mọn bị vất bên chân Người, nín thinh. Người ngồi xuống, cúi nghiêng, và với một ngón tay, Người viết trên đá của hành lang mà bụi do gió tung lên đã phủ một lớp. Họ nói, còn Người thì viết.
- Thưa Thầy, chúng tôi nói với Thầy rồi đó. Hãy nghe chúng tôi. Hãy trả lời chúng tôi. Thầy không hiểu sao? Người đàn bà này bị bắt qủa tang phạm tội ngoại tình trong nhà bà, trong giường của chồng bà, bà đã làm dơ nó bởi khát vọng của bà.
Giêsu viết.
- Nhưng người này là thằng ngu! Các bạn không thấy là hắn ta chả hiểu gì hết, và hắn ta vẽ những dấu hiệu trên bụi như một thằng điên tội nghiệp sao?
- Thưa Thầy, vì danh thơm tiếng tốt của Thầy, xin hãy nói. Xin sự khôn ngoan của Thầy trả lời cho câu hỏi của chúng tôi. Chúng tôi nhắc lại cho Thầy: người đàn bà này không thiếu thốn gì, bà có lương thực, quần áo, tình yêu, và bà đã phản bội.
Giêsu viết.
- Bà ta đã nói dối người đàn ông tin tưởng ở bà. Bằng cái miệng dối trá của bà, bà đã chào ông ta, tươi cười dẫn ông ta tới tận cửa, rồi bà mở cửa cách kín đáo để cho tình nhân của bà vào. Và trong khi chồng bà vắng nhà để làm việc cho bà, thì bà ngụp lặn trong dâm đãng như một con vật dơ bẩn.
- Thưa Thầy, bà đã phạm đến lề luật và chăn gối hôn nhân. Đó là kẻ phản động, kẻ phạm thánh, kẻ phạm thượng.
Giêsu viết. Người viết, rồi với bàn chân đi xăng đan, người xóa đi và viết ở xa hơn, trong khi từ từ xoay quanh để tìm chỗ, giống như đứa trẻ chơi đùa. Nhưng điều Người viết không phải là những chữ để cười. Người đã viết liên tiếp: cho vay nặng lãi, giả dối, con cái không biết kính trọng, tà dâm, sát nhân, phàm tục hóa lề luật, ăn cắp, dâm đãng, chiếm đoạt, chồng và cha bất xứng, phạm thánh, phản ngụy với Thiên Chúa, gian dâm. Người viết đi viết lại, trong khi các kẻ kết án lại nói:
- Nhưng thưa Thầy, tóm tắt, sự xét xử của Thầy? Bà này phải được xét xử. Bà ta chỉ có thể làm ô nhiễm trái đất, hơi thở của bà
273
làm xao xuyến các con tim.
Giêsu đứng dậy. Lạy tình thương! Ôi một dung nhan!... Đó là những tia chớp rơi xuống trên những kẻ kết án. Người có vẻ cao lớn hơn khi Người ngẩng đầu lên. Phải nói đó là ông vua trên ngai, vì Người nghiêm khắc và oai phong chừng nào! Áo khoác của Người tụt ra khỏi một vai, hơi lết đất ở đàng sau, nhưng Người không lưu ý tới.
Vẻ mặt Người nghiêm nghị, rất xa hơn bao giờ hết với những nét của nụ cười trên môi cũng như ở khóe mắt. Người cắm đôi mắt này trên đám đông, làm họ giật lùi như ở trước hai lưỡi dao bén. Người nhìn họ trừng trừng, từng người một, với một cường độ dò xét làm phát sợ. Những người bị nhìn tìm cách lủi vào đám đông và biến mất trong đó. Như vậy cái vòng người được nới rộng và tản ra như qủa mìn bị nổ dưới sức mạnh bí mật.
Sau cùng Người nói: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném vào người đàn bà này viên đá đầu tiên”. Tiếng nói của Người như tiếng sấm, kèm theo những cái nhìn còn lóe sáng hơn. Người đứng khoanh tay, thẳng như ông thẩm phán đứng chờ. Cái nhìn của Người không cho bình an, nó lục lọi, xuyên thấu, kết án.
Những người hiện diện, bắt đầu là một người, rồi hai, rồi năm, rồi cả nhóm, cúi đầu bỏ đi. Không phải chỉ có các luật sĩ và pharisiêu, mà cả những người lúc trước ở chung quanh Giêsu và những người đã sáp lại để nghe xét xử và kết án, người nọ cũng như người kia, đều đã hợp nhau để chửi bới kẻ có tội và xin ném đá.
Giêsu ở lại một mình với Phêrô và Gioan. Tôi không nhìn thấy các tông đồ khác.
Giêsu lại bắt đầu viết trong lúc xảy ra việc lẩn trốn của các kẻ kết án, và bây giờ Người viết: Pharisiêu, rắn độc, mồ mả hôi thối, gian dối, phản bội, kẻ thù của Thiên Chúa, kẻ xỉ vả Ngôi Lời của Người...
Khi cái sân đã trống rỗng và hoàn toàn yên lặng, chỉ còn lại tiếng gió rì rào và tiếng róc rách của phông-ten nước ở trong một góc, Giêsu ngẩng mặt lên nhìn. Bây giờ vẻ mặt của Người dịu lại.
274
Người buồn nhưng không còn giận. Người liếc nhìn Phêrô đã hơi lảng ra xa để tựa vào một cái cột, và Gioan gần như ở phía sau ông, đang nhìn Người bằng cái nhìn say mê của ông. Giêsu có nụ cười hơi tối khi nhìn Phêrô, và một nụ cười tươi hơn khi nhìn Gioan: hai nụ cười khác nhau.
Rồi Người nhìn người đàn bà còn đang bạc nhược và khóc ở chân Người. Người quan sát bà. Người đứng lên, chỉnh lại áo khoác tựa như Người sắp lên đường. Người làm hiệu cho hai tông đồ đi về phía cửa ra.
Ở lại một mình, Người gọi người đàn bà: “Này bà, hãy nghe Thầy. Hãy nhìn vào Thầy”. Người nhắc lại mệnh lệnh, vì bà ta không dám ngửa mặt lên: “Này bà, chỉ có chúng ta thôi, hãy nhìn Thầy”.
Kẻ khốn nạn ngửa mặt lên, trên đó nước mắt và bụi đất làm thành một cái mặt nạ hèn mọn.
- Ôi bà, những kẻ kết án bà đâu? - Giêsu nói êm đềm với sự nghiêm trang đầy thương xót. Người đứng, mặt và thân mình hơi nghiêng về phía mặt đất, trên kẻ khốn nạn, đôi mắt Người bộc lộ sự khoan dung chan chứa: “Không ai kết án bà sao?”
Người đàn bà trả lời giữa hai tiếng nấc: “Thưa Thầy, không ai cả”.
- Thầy cũng không kết án bà đâu. Hãy đi và đừng phạm tội nữa. Hãy làm cho mình được tha thứ bởi Thiên Chúa và bởi kẻ đã bị xúc phạm. Đừng lạm dụng lòng tốt của Chúa. Đi đi.
Người giúp bà chỗi dậy bằng cách cầm tay bà. Nhưng Người không chúc phúc cho bà, cũng không ban bình an. Người nhìn bà xa dần, đầu cúi, hơi lảo đảo dưới sự xấu hổ. Rồi khi bà đã khuất, Người cũng bỏ đi cùng với hai môn đệ.
190* VỚI KẺ CÓ TỘI, CHA CHỈ CHO
CON ĐƯỜNG PHẢI THEO ĐỂ CHUỘC TỘI
Chúa Giêsu nói:
Điều gây thương tích cho Cha là sự thiếu bác ái và chân thành
275
nơi các kẻ kết án, chứ không phải sự kết án là gian dối. Người đàn bà thực sự có tội, nhưng họ thiếu chân thành trong khi phẫn nộ về một điều mà chính họ đã phạm cả ngàn lần, mà chỉ vì đại gian xảo và dịp may lớn đã giữ nó kín. Người đàn bà, vào dịp phạm tội lần đầu đã ít gian xảo hơn và ít may hơn. Nhưng không ai trong số các kẻ nam và nữ kết tội bà, đã tránh được tội đó. Vì ngay cả các phụ nữ, cho dù họ không lên tiếng, họ cũng thầm kết án trong lòng.
Kẻ hành động thực sự cũng như kẻ mong mỏi hành động và ước ao nó hết sức, đều là gian dâm. Sự dâm đãng hiện hữu trong kẻ phạm tội cũng như trong kẻ ước ao phạm tội. Tội lỗi, chỉ không làm thì chưa đủ, còn phải không ước ao làm nữa.
Maria, con hãy nhớ lại những lời đầu tiên của Thầy con khi Người gọi con ở bờ vực thẳm mà con đang ở: “Tội lỗi, chỉ không làm thì chưa đủ, còn phải không ước ao làm nữa”.
Điều mơn trớn các ý tưởng nhục dục bởi những sách vở và các quang cảnh cố ý tìm tòi, và bởi các thói quen xấu, gây ra những cảm giác về nhục dục, cũng xấu như kẻ phạm tội thực chất. Cha dám nói rằng nó còn nặng tội hơn, vì bởi tư tưởng, nó đi tới chỗ chống lại luật tự nhiên, chứ không phải chỉ chống lại luật luân lý mà thôi. Cha cũng không nói về những kẻ đã thực sự hành động chống lại luật tự nhiên. Một sự bào chữa duy nhất có thể được là: bị bệnh về các cơ quan hay tâm lý. Kẻ không có sự miễn thứ này thì ở bên dưới các loài vật dơ bẩn mười độ. Muốn kết án người khác cách công bình thì chính mình phải vô tội.
Cha bảo các con trở lại những bài học trước, nơi Cha nói về những điều kiện cốt yếu để làm thẩm phán.
Đâu phải Cha không biết con tim của các pharisiêu và các luật sĩ cũng như những kẻ vào hùa với họ để kết án kẻ có tội. Trong khi phạm tội chống lại Thiên Chúa và tha nhân, nơi họ đã có những tội phạm đến việc thờ phượng, đến cha mẹ, đến tha nhân, nhất là rất nhiều tội xúc phạm đến các bà vợ của họ. Nếu bởi một phép lạ, Cha truyền cho máu của họ viết các tọi của họ lên trán họ, thì trong
276
số rất nhiều tội bị kết án, tội “ngoại tình” sẽ nhiều hơn cả, bởi sự kiện cũng như bởi lòng ước ao. Cha đã nói: “Chính những gì từ trong tim mà ra là cái làm cho người ta dơ bẩn”.
Họ không chân thành và không bác ái, ngay cả sự kiện là họ giống như bà ta trong cái khát của tình dục, cũng không đem họ tới tình bác ái. Đáng lẽ Cha phải là người duy nhất có sự ghê tởm, nhưng Cha lại là người thương xót đối với người đàn bà bị hạ giá. Các con hãy nhớ kỹ điều này: người ta càng tốt thì người ta càng thương kẻ có tội, và người ta không khoan dung cho điều lỗi của chính mình, điều đó thì không. Nhưng người ta thương những kẻ yếu đuối, không biết kháng cự với tội lỗi.
Con người! Ôi! Họ còn mỏng dòn hơn cây sậy, và yếu ớt hơn cây bìm bìm, họ xếp lại cách dễ dàng trước cám dỗ và bám chặt vào nơi họ hy vọng có sự an ủi.
Thường thường tội lỗi xảy ra, nhất là nơi phái yếu, là do việc tìm kiếm sự an ủi này. Cha cũng nói rằng kẻ không có sự thương yêu đối với vợ mình, hoặc ngay cả với con gái của chính họ, là chịu trách nhiệm hết chín mươi phần trăm về tội của các bà, và phải trả lời thay cho các bà về tội đó. Cũng có những tình cảm ngu ngốc, đúng ra chỉ là sự nô lệ ngu ngốc của một người đàn ông đối với một người đàn bà, hay của người cha đối với con gái ông mà trong đó không có sự thương mến, hay tệ hơn, đó là tội của những đam mê riêng, đã đưa người chồng tới những tình yêu khác, và đưa các cha mẹ tới những lo âu kỳ lạ cho con cái họ. Đó là những gia đình gian dâm và những ổ điếm mà Cha kết án. Các con là những thực thể được phú bẩm lý trí, được hướng dẫn bởi luật của Thiên Chúa và luật luân lý, vậy sự tự hạ xuống tới một đời sống man dại hay bán khai phải làm cho sự kiêu hãnh của các con ghê sợ. Sự kiêu hãnh, trong trường hợp này thì nó có ích, các con cũng còn dùng nó cho nhiều điều khác nữa.
Cha đã nhìn Phêrô và Gioan bằng hai cách khác nhau, vì Phêrô là một người mà Cha muốn nói: “Phêrô, con cũng vậy, đừng thiếu bác ái và chân thành”, và nói với ông, vị Giáo Chủ tương lai của Cha: “Con hãy nhớ lấy giờ này, và trong tương lai, hãy xét xử giống
277
như Thầy của con”. Trong khi với Gioan, một người trẻ với tâm hồn trẻ thơ, Cha muốn nói: “Con có thể xét đoán, nhưng con không xét đoán, vì con có cùng một con tim như Thầy. Cám ơn con yêu, con là của Thầy chừng nào! Cầu cho con là một thứ ngã của Thầy”. Cha đã cho hai người tránh xa ra trước khi gọi người đàn bà để không làm gia tăng sự nhục nhã của bà do sự hiện diện của hai chứng nhân.
Ôi! Hỡi các người không tình thương, hãy học! Cho dù một kẻ tội lỗi đến đâu, cũng phải luôn luôn đối đãi họ cách kính trọng và bác ái. Đừng vui vì sự nhục nhã hèn hạ của họ. Đừng hăm hở chống lại họ. Hãy thương, hãy thương kẻ bị té!
Với kẻ có tội, Cha chỉ cho con đường phải theo để tự chuộc tội: Hãy trở về nhà, khiêm nhường xin lỗi và giữ lấy sự tha thứ bằng một đời sống ngay chính. Đừng nhượng bộ xác thịt nữa. Đừng lạm dụng lòng tốt của Thiên Chúa và của loài người, để không phải trả giá nặng nề hơn lần thứ nhất vì tội gấp đôi hay gấp bội. Thiên Chúa tha thứ. Người tha thứ bởi vì Người nhân từ. Nhưng loài người, mặc đầu Cha đã nói: “Hãy tha cho anh em bảy mươi lần bảy lần”, họ cũng không biết tha tới hai lần đâu.
Cha không ban bình an và phúc lành cho bà, bởi vì ở trong bà không có sự cương quyết dứt bỏ hoàn toàn tội lỗi của bà là điều thiết yếu để được tha thứ. Trong thân xác bà, và khốn thay, trong tâm hồn của bà, bà không có sự ghê tởm tội lỗi. Maria Magđala, sau khi đã thưởng thức hương vị của lời Cha, đã có sự ghê tởm tội lỗi, và cô đã đến cùng Cha với ý muốn hoàn toàn trở nên một người khác. Nhưng bà này, bà còn bấp bênh giữa tiếng nói của xác thịt và của linh hồn. Và trong sự băn khoăn lúc này, bà chưa thể đặt cái rìu vào gốc cây xác thịt để triệt hạ nó, để cưa đứt sức nặng của sự khát khao mà tiến về Nước Thiên Chúa. Vì khi cưa đứt những gì làm cho bà bị tiêu diệt, bà sẽ được cung cấp những gì là cứu rỗi.
Con muốn biết sau đó bà có được cứu rỗi không ư ? Không phải Cha được làm Vị Cứu Tinh cho hết mọi người. Cha muốn làm như vậy cho mọi người, nhưng Cha không thể, vì không phải mọi người
278
đều có ý muốn được cứu. Và điều đó là một trong những mũi tên sắc nhọn nhất trong cơn hấp hối của Cha tại Gétsêmani.
Con hãy đi bằng an, Maria của Maria, và hãy ước ao không phạm tội, dù trong những điều tầm thường. Dưới áo choàng của Maria chỉ toàn là những thứ trong sạch. Con hãy nhớ điều đó.
Một bữa, Maria mẹ Cha đã bảo con: “Với nước mắt, mẹ xin các con cho Con mẹ”. Và một lần khác: “Mẹ để cho Giêsu của mẹ lo việc làm cho mẹ được yêu... Khi các con yêu mẹ, mẹ sẽ đến, và việc mẹ đến sẽ là niềm vui và cứu rỗi”.
Mẹ Cha đã muốn con, và Cha đã tặng con cho mẹ. Đúng hơn là Cha đã mang con tới, vì Cha biết ở nơi nào Cha có thể dùng uy quyền để chinh phục. Mẹ sẽ mang các con bằng những vuốt ve của tình yêu, và mẹ mang các con còn hay hơn Cha. Sự đụng chạm của mẹ là con dấu làm cho Satan chạy trốn. Bây giờ con có vạt áo của mẹ, và nếu con trung thành với lời xin của hai lãnh đạo, con sẽ suy ngắm mỗi ngày tất cả đời sống của mẹ chúng ta: các niềm vui và nỗi đau của mẹ, tức là các niềm vui và nỗi đau của Cha. Vì từ lúc Ngôi Lời trở thành Giêsu, Cha đã sung sướng và khóc cùng với mẹ, và vì cùng một lý do.
Vậy con thấy rằng yêu Maria tức là yêu Giêsu, tức là yêu Người cách dễ dàng hơn. Vì Cha, Cha đặt Thánh Gía trên vai con, và Cha đặt con trên Thánh Giá. Nhưng mẹ, trái lại, mẹ ẵm con, hoặc ở lại bên chân Thánh Gía để ôm con trên trái tim chỉ biết yêu của mẹ. Dù là trong khi chết, lòng của Maria cũng êm hơn một cái nôi. Kẻ tắt thở trong mẹ thì chỉ còn chờ nghe tiếng của ca đoàn các thiên thần bay lượn chung quanh Maria. Nó không thấy sự tối tăm, nhưng thấy những tia êm đềm của Vì Sao Mai; nó không thấy tiếng khóc, nhưng thấy nụ cười của Người. Nó không biết đến sợ hãi. Ai dám giật khỏi tay Maria một trong những đứa con của mẹ, tức là chúng ta, những kẻ yêu mẹ?
Đừng nói “cám ơn” đối với Cha. Hãy nói với mẹ là đấng không muốn nhớ gì khác ngoài một chút điều tốt mà con đã làm, và tình yêu mà con có đối với Cha. Chính vì vậy mà mẹ muốn có con, để mẹ chế ngự dưới chân mẹ, điều mà thiện chí của con không trấn át nổi. Hãy kêu: “Vạn tuế Maria”, và ở yên dưới chân mẹ bên chân Thánh Gía. Con sẽ trang điểm y phục của con bằng những viên hồng ngọc của máu Cha, và các hạt trai của nước mắt mẹ. Con sẽ có bộ y phục của Bà Hoàng để vào nước của Cha.
Hãy đi bằng an. Cha chúc lành cho con.
191* GIÁO HUẤN CÁC TÔNG ĐỒ
VÀ CÁC MÔN ĐỆ
Giêsu đã trở lại với mười tông đồ và các môn đệ chính tại chân núi Oliu, gần phông-ten Siloan. Khi họ thấy Giêsu đang bước mau tới ở giữa Phêrô và Gioan, họ liền chạy ra đón Người, và họ tụ họp ngay bên phông-ten.
279
- Chúng ta hãy lên con đường Bêtani. Thầy rời thành phố ít lâu. Trong khi đi, Thầy sẽ nói cho các con điều các con phải làm - Giêsu ra lệnh.
Trong số các môn đệ, có cả Manaen và Timon, đã được an tâm, họ trở lại vị trí của họ; và có cả Étienne, Hermas, Nicolai, Gioan Êphêsô, thầy cả Gioan... Tóm lại, tất cả những người quan trọng nhất vì sự khôn ngoan của họ, và những người khác đơn sơ, nhưng rất nhiệt thành do ơn Thiên Chúa và ý muốn riêng của họ.
- Thầy bỏ thành phố à? Đã xảy đến cho Thầy điều gì vậy? - nhiều người hỏi.
- Không. Nhưng có những nơi đang chờ...
- Sáng nay Thầy đã làm gì?
- Thầy đã nói... các tiên tri... thêm một lần nữa. Nhưng họ không hiểu...
- Không có phép lạ nào sao? - Mathêu hỏi.
- Không. Có một sự tha thứ và một sự bảo vệ.
- Ai được? Ai tấn công?
- Những người cho mình là vô tội kết án một người đàn bà có tội. Thầy đã cứu bà.
- Nhưng nếu đó là một đàn bà có tội thì họ có lý.
- Xác thịt của bà chắc chắn có tội. Linh hồn bà... Thầy sẽ phải nói nhiều nữa về các linh hồn. Không phải Thầy chỉ gọi những người đã phạm tội tỏ tường là tội nhân, mà cả những người đã đẩy người khác vào đàng tội cũng là tội nhân, và tội của họ còn qủi quyệt hơn. Cùng một trật, họ chơi cả hai vai: vai con rắn và vai kẻ phạm tội.
- Nhưng người đàn bà đã làm gì?
- Ngoại tình.
- Tội ngoại tình! Vậy mà Thầy cứu bà ta? Thầy không nên!! - Iscariot kêu lên.
Giêsu nhìn ông đăm đăm và hỏi: “Vậy tại sao Thầy lại không nên?”
- Nhưng... Bởi vì... việc đó có thể thiệt hại cho Thầy. Thầy biết
280
họ ghét Thầy chừng nào, và họ tìm cớ để kết án Thầy. Và chắc chắn... cứu một người ngoại tình là phản với Lề Luật.
- Thầy đã không nói rằng Thầy cứu bà. Thầy chỉ nói với họ rằng ai vô tội thì hãy đánh bà. Và đã không ai đánh, vì không có ai vô tội cả. Vậy là Thầy đã xác nhận rằng Lề Luật chỉ định ném đá kẻ gian dâm, nhưng Thầy đã cứu người đàn bà, vì không có người ném đá.
- Nhưng, Thầy...
- Con muốn nói rằng Thầy phải ném đá bà? Điều đó là chính đáng, vì Thầy đã có thể ném đá bà, nhưng đó không phải là tình thương.
- A! Bà ta đã hối hận! Bà ta đã năn nỉ Thầy, và Thầy...
- Không. Cả đến bà ta không hối hận. Bà ta chỉ nhục nhã và sợ hãi.
- Vậy thì... tại sao?... Con không hiểu nổi Thầy nữa! Trước con đã có thể hiểu sự tha thứ của Thầy cho Maria Magđala và Gioan Enđo, cho... tóm lại là cho nhiều tội...
- Hãy nói đi: cho Mathêu. Tôi không bất bình việc đó. Trái lại, tôi cám ơn anh nếu anh đã giúp tôi nhớ lại món nợ về lòng biết ơn của tôi đối với Thầy tôi - Mathêu nói cách bình tĩnh và nghiêm trang.
- À, đúng, kể cả Mathêu... Nhưng họ hối hận về tội của họ, về đời sống rối loạn của họ. Nhưng bà này!... Con không hiểu nổi Thầy nữa! Và cũng không phải con là người duy nhất không hiểu Thầy...
- Thầy biết, con không hiểu Thầy... Con luôn luôn rất ít hiểu Thầy, và con không phải người duy nhất. Nhưng điều đó không thay đổi lối hành động của Thầy.
- Sự tha thứ chỉ nên cho kẻ nào xin nó.
- Ôi! Nếu Thiên Chúa chỉ tha cho kẻ nào xin! Và phạt ngay những kẻ nào không sám hối sau khi phạm tội! Con đã có bao giờ được nghe tha thứ trước khi sám hối chưa? Thực tình con có thể nói rằng con đã sám hối, và vì thế, con đã được tha không?
- Thưa Thầy, con...
281
- Tất cả hãy nghe Thầy đây, vì nhiều người trong các con cho rằng Thầy lầm và Judas có lý. Ở đây có Phêrô và Gioan là những người đã nghe những điều Thầy đã nói với người đàn bà, và họ có thể nhắc lại cho các con. Thầy đã không ngu xuẩn trong khi tha thứ. Thầy đã không nói những điều như Thầy đã nói với các tâm hồn mà Thầy đã tha vì họ hoàn toàn sám hối. Nhưng Thầy đã cho linh hồn này khả năng và thời giờ để tiến tới sám hối và thánh thiện, nếu nó muốn. Các con hãy nhớ lấy điều đó cho khi các con sẽ là thầy của các linh hồn.
Có hai điều cốt yếu phải có để có thể là người thầy thực, và xứng đáng là người thầy thực. Điều thứ nhất là một đời sống khắc khổ với chính mình, để có thể xét đoán mà không giả dối khi kết án người khác về một điều mà mình tha cho chính mình. Điều thứ hai là một tình thương kiên nhẫn để cho các linh hồn khả năng tự chữa trị và củng cố. Không phải mọi linh hồn đều được lành các vết thương của nó ngay lập tức. Chắc chắn nó chỉ tới được chỗ đó bằng nhiều giai đoạn kế tiếp, đôi khi chậm chạp và có thể có những sa ngã lại. Xua đuổi họ, kết án họ, làm họ sợ hãi, đó không phải là nghệ thuật của thầy thuốc thiêng liêng.
Nếu các con xua đuổi họ ra xa các con, họ sẽ bị dội lại và trở về phó mình trong vòng tay của các bạn hữu gỉa và các ông thầy gỉa. Hãy luôn luôn mở vòng tay và con tim các con ra cho những linh hồn tội nghiệp, sao cho họ cảm thấy nơi các con một kẻ tâm phúc thực sự và thánh thiện, mà họ có thể khóc trên đầu gối mà không xấu hổ. Nếu các con kết án họ và không cho họ sự trợ giúp tinh thần, các con sẽ làm cho họ càng ngày càng bệnh và yếu hơn.
Nếu họ sợ các con và sợ Thiên Chúa, thì làm sao họ có thể ngước mắt về các con và về Thiên Chúa? Chính con người là kẻ con người gặp trước tiên như một thẩm phán. Chỉ những người biết sống một cách siêu nhiên mới biết gặp Thiên Chúa trước tiên. Nhưng một tạo vật đã tiến tới chỗ biết sống một cách siêu nhiên thì không còn sa ngã vào những tội trầm trọng nữa. Phần nhân tính có thể còn những yếu đuối, nhưng linh hồn đã mạnh mẽ canh chừng, và sự yếu
282
đuối không trở thành các lỗi nặng. Trong khi người còn nhiều xác thịt và máu huyết, phạm tội và gặp con người, mà nếu người có bổn phận phải chỉ Thiên Chúa cho nó và đào tạo tâm hồn nó lại làm cho nó sợ, thì làm sao kẻ có tội có thể tín thác nơi họ, và làm sao nó có thể nói: “Tôi khiêm hạ vì tôi tin rằng Thiên Chúa nhân từ và Người tha thứ”, nếu nó thấy một trong những người của Chúa không tốt?
Các con phải là dụng cụ để so sánh, để đo lường xem Thiên Chúa là gì, cũng như một đồng xu là một phần tử làm cho người ta hiểu gía trị của một nén vàng. Các con, những đồng xu, là một phần của Đấng Vô Tận, và là kẻ giới thiệu Người, nhưng nếu các con độc ác với các linh hồn thì họ sẽ tin Thiên Chúa là thế nào, họ sẽ tưởng tượng một sự khắc nghiệt khăng khăng tới cỡ nào nơi Người?
Judas, con là người xét đoán khắt khe, nếu lúc này Thầy nói với con: “Thầy đi tố cáo với Đại Pháp Đình rằng con thực hành phép thần thông phù thủy...”
- Chúa ơi, Thầy sẽ không làm điều đó! Điều đó sẽ là... sẽ là ... Thầy biết đó là...
- Thầy biết và Thầy không biết. Nhưng con thấy rằng con lập tức xin sự thương xót cho con... và con biết rằng con sẽ không bị họ kết án, vì...
- Thầy muốn nói gì? Tại sao Thầy lại nói vậy? - Judas rất xao xuyến và nói ngắt lời Giêsu.
Người rất bình tĩnh, nhưng với cái nhìn xuyên thấu con tim của Judas, và đồng thời hãm lại sự lo lắng cho vị tông đồ của Người, vì nó lôi kéo cái nhìn của mười một tông đồ kia và của nhiều môn đệ, Người nói: “Bởi vì họ yêu con. Con có những bạn tốt ở đó. Con đã nói vậy nhiều lần”.
Judas thở dài nhẹ nhõm và lau mồ hôi, việc thật kỳ lạ trong ngày lạnh lẽo và có gió, rồi ông nói: “Đúng vậy, các bạn cũ. Nhưng con không tin rằng nếu con phạm tội...”
- Và con xin tình thương về điều đó?
283
- Chắc chắn rồi. Con còn bất toàn, và con muốn trở nên toàn thiện.
- Con nói đúng. Vậy tạo vật này cũng còn bất toàn, và Thầy đã cho bà thời gian để trở nên tốt, nếu bà muốn.
Judas không đối đáp nữa.
Bây giờ họ đã ở trên đường Bêtani, xa Jêrusalem. Giêsu dừng lại và nói: “Còn các con, các con đã cho người nghèo những cái Thầy đưa cho các con chưa? Các con đã làm tất cả những gì Thầy bảo các con chưa?”
- Thưa Thầy, làm tất cả rồi - các tông đồ và các môn đệ nói.
- Vậy hãy nghe đây: Bây giờ Thầy sẽ chúc lành cho các con rồi Thầy cho các con đi. Các con sẽ tảm mát ra khắp xứ Palestin. Các con sẽ lại tụ họp ở đây vào lễ Vượt Qua. Lúc đó thì đừng vắng mặt... Và trong những tháng này, hãy củng cố tâm hồn các con và tâm hồn những kẻ tin vào Thầy. Hãy cố gắng càng ngày càng công chính, không vụ lợi, kiên nhẫn. Hãy là người giống như Thầy đã dạy các con là. Hãy đi vòng các thành phố, các làng mạc, các nhà hẻo lánh. Đừng tránh ai cả. Hãy chịu đựng tất cả. Không phải các con phục vụ cái “tôi” của các con, cũng như Thầy không phục vụ cái “tôi” của Giêsu Nazarét, nhưng phục vụ Cha Thầy. Các con cũng phục vụ Cha của các con. Bởi vậy, không phải lợi ích của các con, mà là lợi ích của Người, phải là thánh đối với các con, cho dù nó có thể làm khổ hay làm thương tổn cho lợi ích nhân loại của các con. Hãy có tinh thần hy sinh và vâng lời. Có thể xảy ra là Thầy gọi các con đến, hoặc Thầy ra lệnh cho các con ở lại nơi các con đang ở. Đừng xét đoán mệnh lệnh của Thầy, dù nó thế nào, hãy vâng lời, trong khi tin chắc rằng mệnh lệnh này là tốt, và nó được ra cho các con vì sự lành của các con. Đừng ghen tương nếu Thầy gọi một số người mà không gọi một số khác. Các con thấy đó... một số đã bỏ Thầy... và Thầy đau khổ vì vậy. Đó là những người còn muốn tự dàn xếp theo trí khôn của họ. Sự kiêu căng là cái đòn bẩy lật đổ các tâm hồn và là nam châm giựt họ ra khỏi Thầy. Đừng nguyền rủa những kẻ đã bỏ Thầy. Hãy cầu nguyện để họ trở lại...
284
Các mục đồng của Thầy hãy ở với nhau, từng hai người một, trong các vùng gần Jêrusalem. Lúc này thì Isaac hãy đi cùng với Thầy và Margziam. Các con khác hãy rất yêu nhau, giúp đỡ nhau. Các bạn ơi, những gì còn lại thì tâm hồn các con sẽ nói cho các con và nhắc lại cho các con những gì Thầy đã dạy các con, và các thiên thần của các con sẽ nói cho các con. Thầy chúc lành cho các con.
Tất cả đều qùi phục trong khi Giêsu đọc lời chúc phúc của Môise. Rồi họ vội vã chào Giêsu. Sau cùng, họ từ biệt Người. Người cùng với nhóm mười hai, Isaac và Margziam tiến trên con đường về Bêtani.
- Bây giờ chúng ta sẽ dừng lại một lát để chào Lazarô, rồi chúng ta tiếp tục đi về Giođan.
- Chúng ta đi Jêricô à? - Judas Kêriot lưu ý hỏi.
- Không, đi Bêtabara.
- Nhưng... ban đêm...
- Từ đây tới sông đâu có thiếu gì nhà cửa làng mạc...
Không ai nói nữa. Ngoài tiếng gió rì rào trong các cây oliu và tiếng bước chân, không còn tiếng động nào khác.
192* TRONG LÀNG VÀ TRONG NHÀ
CỦA SALÔMÔN
Để không bị người ta nhìn thấy, các đấng đi theo bờ sông để đi vào trong làng, nơi có căn nhà nhỏ của Salômôn. Sự đề phòng đã vô ích, vì buổi chiều đến sớm của tháng mười một hay cuối tháng mười đã đem mọi người vào trong nhà. Đường xá trống trơn, hoàn toàn vắng vẻ, cả đến không có một tiếng bò lừa bê bê. Có thể gọi đây là nơi hoang vắng.
Họ lắc cái cổng nhỏ. Nó đóng rất kỹ trước mảnh vườn mà trong bóng mờ, người ta thấy rất tứ tự.
- Gọi đi, ông đang ở trong bếp, một tia sáng lọt qua cái cửa lá kéo - Giêsu nói.
285
Tôma có giọng rất mạnh, tự nhận việc gọi ông già, và lập tức ông mở cửa nhìn ra ngoài đường. Ông không phân biệt rõ, vì bên ngoài qúa ít ánh sáng khi ông vừa từ nhà bếp ra, nơi có lửa sáng và một ngọn đèn.
Nhưng Giêsu nói: “Chúng ta đây”. Ông gìa nhận ngay ra được giọng nói và kêu lên: “Thầy!” Rồi ông xuống khỏi bậc thềm thô kệch và chạy ra mở.
- Chúa của con! Xin vào! Xin vào nhà, và nguyện cho ngày được chúc phúc vì nó chấm dứt bằng việc Thầy đến! - ông nói khi loay hoay bên cái cổng đóng, và ông giải thích: “Con có một mình nên con khóa rất cẩn thận... Các kẻ trộm có thể tất cả. Có những tên đã làm thiệt hại chỗ nọ chỗ kia khi chúng xuống trong thung lũng của các núi Galaad. Không phải con sợ cho mạng sống con, nhưng con làm những đồ dự phòng cho Thầy và... Được rồi Thầy. Vào đi. Buổi chiều ẩm thấp và tóc Thầy ướt sương”.
- Bố ơi, bố còn sốt sắng hơn là người vợ trong Thánh Vịnh. Điều đó làm cho bố không thấy nặng nề khi phải chịu phiền hà để đón tiếp khách hành hương - Giêsu mỉm cười nói.
- Phiền hà? Thời gian dài chừng nào! Ngày qua ngày, ngày nọ qua ngày kia. Con đã gieo các hạt của qúi vị và con thấy rau cỏ mọc. Con đã nói: “Nếu Người đến, chắc cái này làm Người vui”. Nhưng rồi rau gìa đi mà Thầy không đến... Và con thấy trái cây chín trên cành, con đã ăn và con ân hận vì Thầy không ăn. Con cừu này đã cho con một con chiên đực, toàn trắng. Con đã giữ nó thật lâu để cùng ăn với Thầy. Con hy vọng thấy Thầy trước Lễ Lều. Rồi... Cả một con chiên cho một mình con... Qúa nhiều! Con đã đổi chỗ thịt còn lại để lấy một con cừu nhỏ. Họ tốt với con, họ đã không lấy số tiền chênh lệch. Nhưng các trái cây và phó mát, con đã giữ nhiều hết sức có thể cho Thầy; và cá khô, và rau trái. Con còn vài trái dưa và một chút rượu. Con không uống rượu, nhưng con làm cho Thầy, cho mùa đông.
Ông nói trong khi ông lau bàn, đặt chén dĩa, khơi to lửa, thêm nước vào nồi. Và ông lăng xăng, rất sung sướng. Người ta nói ông
286
không còn là ông già trước đây mấy tháng nữa.
Ông đi ra, rồi trở lại với sữa và xin lỗi: “Có ít thôi, vì chỉ có một con cừu cho sữa. Nhưng sắp sửa sẽ có hai. Nhưng cho Thầy thì bây nhiêu cũng đủ”.
Ông rất có tình phụ tử. Vừa tận tụy, vừa đầy tình phụ tử. Ông thu các áo khoác ẩm ướt, các xăng đan dính bùn, ông mang đi nơi khác. Rồi ông trở lại với một ít táo, lựu và nho, và mấy trái sung sấy hơi beo. Ông giải thích: “Con sấy nó như vầy để Thầy ăn thử. Con nghĩ... con nghĩ tới thằng Anania của con, nó thích cái này chừng nào, sửa soạn theo kiểu này!...” Tiếng nói của ông lúc đầu trong trẻo, liền hạ xuống thành giọng buồn khi ông nói những lời này. Rồi ông nói để chấm dứt: “Và... và con nghĩ chúng làm Thầy vui, và trong khi sửa soạn nó... con thấy giống như con còn sửa soạn nó cho cháu nội con”. Ông lắc đầu, cố gắng để mỉm cười, với những giọt nước long lanh trong mắt.
Giêsu đã ngồi vào bàn, nhưng Người đứng dậy, quàng một cánh tay qua cổ ông gìa, kéo ông sát vào Người: “Chúng làm Thầy vui rất nhiều. Đó là điều nhắc Thầy nhớ tới hồi còn nhỏ... và tới ba Thầy. Nhưng ông không nên nhịn nhiều thứ như vậy cho Thầy. Chúng tốt cho người gìa. Ông phải luôn luôn lành mạnh và khỏe khoắn như vầy để tiếp đón Thầy. Thật êm đềm khi tìm được một căn nhà như vầy, với một người cha chờ đợi chúng ta. Phải không, các bạn Thầy?”
- Chắc chắn là đúng vậy! Và cũng chắc chắn là qúa đẹp nếu chúng ta lười biếng không phụ với Anania - Phêrô nói và ông đứng dậy tiếp: “Chúng ta đi sửa soạn giường chiếu của chúng ta trong khi Giêsu nói chuyện với ông”.
- Ôi! Vô ích, chúng luôn luôn sẵn sàng và sạch sẽ... chỉ có điều... không có đủ. Qúi vị nhiều hơn số mười hai. Nhưng tôi, tôi sẽ tới
287
đống cỏ và...
- Bố ơi, điều đó không được. Con sẽ tới đó - Gioan nói.
- Không, để tôi - Andrê và nhiều người khác nói.
- Không, không cần. Tôi sẽ ngủ ở đây, trên cái bàn này. Chắc chắn là nó không cứng hơn cái lòng thuyền của tôi. Và Margziam...
- Phêrô nói.
- Nó ngủ với Thầy... - Giêsu ngắt lời.
- Hay với con, nếu Thầy muốn... giống như thằng bé Anania đã làm - ông gìa nói, và mắt ông có sự van lơn.
- Thưa Thầy vâng. Thầy sẽ còn có con. Còn ông... con đi ngủ với ông - Margziam nói.
Giêsu vuốt ve nó. Người hiểu cử chỉ của nó.
Rồi ông gìa lại nói: “Họ đến đây tìm Thầy nhiều lần sau lễ Ngũ Tuần. Rồi họ không đến nữa”.
- Ai tìm Người?
- Các pharisiêu, hen! Và những người khác giống như họ. Họ muốn hỏi Thầy. Nhưng con, con đã nói: “Hãy tới làng của Người. Người không ở đây, và tôi không biết khi nào Người sẽ tới...” Đúng vậy. Rồi họ mệt không tới nữa. Họ cũng tìm một người khác, một ông Gioan nào đó. Họ nói rằng ông ở với Thầy, và có lẽ họ nghĩ rằng ông núp ở đây. Con đã nói: “Nhưng đó là tông đồ của Người. Ông ấy ở với Người”. Họ nói: “Tông đồ của ông ta có chột mắt, gìa, bệnh, gần chết không?” Con hiểu là không phải cậu, và con đã trả lời: “Tôi chỉ biết một tông đồ Gioan, một thanh niên, tốt hầu như một đứa trẻ, lành mạnh trong tâm hồn và thân xác”. Họ dọa nạt con. Nhưng con có thể nói được điều gì khác? Đó là sự thật...
- Đúng, đó là sự thật. Hãy luôn luôn chân thực, dù bố phải làm thiệt cho Thầy. Đừng bao giờ nói dối bố ạ.
- Chúa ơi, tóc con đã trắng trong khi luôn luôn tìm vâng lời Chúa. Và trong sự vâng lời cũng có điều dạy rằng đừng nói những lời sai trái. Nhưng... Chúa ơi, tại sao họ tìm Thầy như vậy? Con, trước con mù, con không đi Jêrusalem. Bây giờ con trở lại đó... chỉ để làm nghi thức thôi, vì con muốn có mặt ở đây để chờ Thầy... và con đã
288
cảm thấy sự thù ghét và tình yêu ở chung quanh Thầy... và con cho là có nhiều thù ghét hơn là tình yêu nơi các thủ lãnh của dân. Con đã ở Đền Thờ vào buổi sáng mà họ muốn xúc phạm tới Thầy... Và con lủi đi, buồn bã, để chờ Thầy và khóc ở đây. Tại sao con người độc ác qúa vậy?
- Vì họ đã giết linh hồn họ, và cùng với linh hồn họ là cái khả năng để cảm thấy hối hận vì đã bất công.
- Đúng vậy!... Và họ tìm Thầy để làm hại Thầy?
- Đúng.
- Đúng!! Israel muốn làm hại Vua của nó? Đáng sợ! Israel tự kết án mình bằng hình phạt đã tiên tri!... Ôi! Bây giờ con bằng lòng vì con trai con đã chết... và con cũng muốn chết để không nhìn thấy tội lỗi của Israel...
Một yên lặng nặng nề. Người ta chỉ còn nghe tiếng củi tí tách trong lò.
- Nhưng nói chuyện gì khác đi! Toàn là nói chuyện chết chóc, thù ghét, phản bội! Đủ rồi! Đủ rồi! Tôi không thể nghe nói chuyện đó nữa! - Iscariot nói. Ông ta băn khoăn, đôi mắt trợn trừng, lay lắc, và ông ta vùng vẫy ở trong bếp với tất cả chân, tay, và toàn thân ông.
- Judas có lý - nhiều người nói.
- Nhưng không muốn nghe nói cũng chẳng ích lợi gì. Điều cần thiết là đừng ưng thuận - Giêsu nói với cử chỉ cam chịu của Người khi mở đôi tay, bàn tay ngửa lên ở bên trên cái bàn thô kệch.
- Thầy muốn nói gì? Ưng thuận? Ai ưng thuận việc đó? - Judas vẫy tay hầu như ngay trước mặt Giêsu, trong khi ông nghiêng người, hầu như muốn nằm dài trên bàn để với tới Thầy.
- Ai? Tất cả những ai đã mơ được nhìn thấy Thầy chết trong máu Thầy. Máu! Máu Đấng Messi của mi! Máu ở trên mi! Hỡi trái đất không muốn Chúa của mi! Máu rực rỡ hơn ngọn lửa này! Máu, lửa, ở trong sự băng gía và sự tối tăm của một thế giới tội ác! Họ hy vọng giết được Ánh Sáng bằng cách làm đổ máu Người. Nhưng Ánh Sáng là thần trí. Máu cũng còn là vật chất. Vật chất làm nặng
289
nề cho thần trí cũng như máu ở trên mặt kiếng làm cho ánh sáng yếu đi, không đúng vậy sao? Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng, cũng như củi gỗ không chiếu sáng cho tới khi nó trở thành lửa, và các nhựa của nó chói lọi khi nó cháy, và trở thành ánh sáng rực rỡ. Cũng vậy, khi mọi sự được hoàn tất, và máu thịt được tiêu thụ bởi sự hy sinh, thì đó, giống như ngọn lửa này đã đổi tất cả thành ánh sáng, Thần Trí Thầy sẽ cháy bừng hơn bao giờ hết trên thế giới, và Thầy sẽ là Ánh Sáng hơn bao giờ hết. Một Ánh Sáng sẽ muôn đời làm chói mắt những kẻ ghét Ánh Sáng, những kẻ đã muốn giết nó. Một Ánh Sáng sẽ làm tan chảy các cửa bằng vàng của Nước Trời, bị đóng chặt trước nhân loại từ bao thế kỷ, và Trời sẽ mở ra cho người công chính. Một Ánh Sáng sẽ xuyên thâu qua cái vòm bằng đá tảng của Vực Thẳm, và lửa khốc liệt của Hỏa Ngục sẽ trở nên tàn bạo cực độ dưới ánh chớp do các tia sáng của Thầy. Và khốn cho, khốn cho, khốn cho những kẻ đã dựng lên các cạm bẫy cho Ánh Sáng! Máu và Ánh Sáng! Hai thứ này sẽ hiện diện trước mắt họ tới nỗi làm cho họ thành điên và thất vọng. Các ma qủi!
Giêsu đã đứng dậy khi Người nói “thực vậy”. Người thật dễ sợ, vì Người qúa oai nghiêm trong căn nhà bếp thấp với những bức tường tối, có hào quang bởi ngọn lửa trong lò. Bây giờ Người ngồi xuống và nín lặng.
Mọi người đều nhìn nhau, trừ Judas, ông như bị thôi miên để nhìn củi cháy... ông bị thôi miên và sợ hãi. Một sự sợ hãi cho ông ta cái mặt nạ tàn bạo, một vẻ xanh trắng bạch, tái mét, trên đó lửa của củi đặt lên những vết đỏ lợt. Ông làm tôi nhớ tới khuôn mặt dễ sợ của ông vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Rồi thình lình ông quay lại và kêu: “Nhưng Thầy nín đi! Nín đi! Tại sao Thầy hành hạ chúng con?” Và ông ra ngoài, đóng cửa cái rầm...
- Theo lối của ông, đúng vậy, nhưng ông yêu Thầy nhiều... Ông khổ khi nghe một số lời - Tôma nói, và ông kết thúc: “Nó cũng làm cho chúng con rất khổ. Nhưng chúng con, chúng con ít... kỳ lạ hơn, đúng, phải nói là kỳ lạ...”
290
Không ai khác nói nữa. Chính Giêsu cũng nín thinh...
- Rau chín rồi. Sữa đã nóng - ông già nói nhỏ nhẹ rụt rè, không dám nói những lời vô vị sau một sự bất ngờ như vậy...
- Hãy gọi Judas và chúng ta ăn tối - Giêsu ra lệnh.
Gioan ra ngoài để gọi bạn ông. Họ vào... Judas có khuôn mặt bơ phờ, và đó là cái bơ phờ không bình an... Nhưng ông ngồi vào bàn, rồi cùng với những người khác đứng dậy khi Giêsu dâng hiến và chúc phúc. Ông nhìn Giêsu từ phía dưới khi Người chia phần. Người giữ cho ông ta phần chót.
Mọi người đều muốn làm tan biến cái buồn đang ngự trị trong phòng. Không ai đạt mục đích cho tới khi Giêsu nói với ông già để hỏi ông xem ngôi làng nhỏ và các vùng chung quanh có đón nhận lời Chúa không.
- Thưa Thầy có, có, và rất, rất tốt. Con nói là còn hơn bờ sông bên kia. Thầy biết... ở đây kỷ niệm về ông Tẩy Gỉa còn rất sống động, và các môn đệ của ông bây giờ là của Thầy, đã giữ họ tỉnh thức và họ đặt Thầy ra ngoài ánh sáng bằng các phương tiện của họ. Lại nữa, ở đây... trong miền Pêrê và miền Thập Tỉnh không có nhiều pharisiêu, và thế là...
193* GIÊSU VÀ SIMON JONAS
Tôi không biết các đấng đang ở đâu. Chắc chắn là không còn ở trong thung lũng sông Giođan, nhưng ở trên miền núi gần bờ sông, vì tôi thấy thung lũng xanh tươi và con sông xanh đẹp ở dưới thấp, trong khi các đỉnh núi cao trồi lên bên trên vùng cao nguyên mênh mông trải ra về phía đông sông Giođan.
Tôi thấy Phêrô, một mình ở trên một mô đất nhỏ, nhìn đăm đăm về phía đông bắc và ông thở dài, rất buồn. Ông có một bó củi để ở bên chân, chắc chắn ông đã lượm ở trong khu rừng bao phủ ngọn đồi này. Có một ngôi làng nhỏ ẩn hiện trong mầu xanh. Phêrô thực sự bị đè nặng. Sau cùng ông ngồi lên bó củi và lấy hai tay ôm đầu, cúi gù xuống. Ông ngồi yên như vậy, lạc lõng không ý thức gì về thời gian và mọi sự, trầm tư tới nỗi ông không nhận thấy có vài đứa
291
trẻ đi qua, theo đàng sau mấy con dê chứng. Các đứa trẻ quan sát ông rồi bỏ đi, chạy theo đàn dê về ngôi làng nhỏ. Mặt trời từ từ lặn mà Phêrô không nhúc nhích.
Trên lối đi dẫn từ ngôi làng tới gò đất, Giêsu tiến bước. Người bước nhẹ, tránh gây tiếng động. Người tới chỗ Phêrô, đứng yên trước mặt ông và gọi: “Simon!”
- Thầy! - Phêrô giật nảy, ngửa khuôn mặt bối rối lên khi nói tiếng này.
- Con đã làm gì vậy Simon? Tất cả các bạn con đều đã về mà chỉ còn mình con chưa về, và chúng ta đã lo, đến nỗi em con và các con của Zêbêđê cùng với Tôma và Judas đã tản mát lên trên núi, trong khi các anh Thầy với Isaac và Margziam thì xuống thung lũng để tìm con.
- Con xin lỗi... Con xin lỗi vì đã gây ra lo lắng và mệt nhọc...
- Các bạn con rất yêu con... Và chính là Judas đã lo lắng trước tiên, và ông đã trách Margziam vì đã để con đi một mình.
- Hum!
- Simon, con làm sao?
- Có gì đâu Thầy.
- Con đã làm gì ở đây, một mình ngay ở sườn dốc trong khi chiều xuống?
- Con nhìn...
- Simon, có lẽ lúc trước con đã nhìn, nhưng bây giờ thì con không nhìn... Các đứa trẻ đã đi qua gần bên con, và chúng hầu như sợ rằng con đã chết, bởi vì con cúi rũ xuống. Chúng đã chạy về chuồng cừu, nơi cho chúng ta trú, và chúng nói với Thầy vậy... Thầy đã tới... Simon, con đã nhìn cái gì?
- Con đã nhìn... Con nhìn về Ramot Galaad, về Gêrasa, Bozra, Arbêla... cuộc hành trình của chúng ta năm ngoái, qúa đẹp! Qúa... Có mẹ Thầy ở với chúng ta! Các nữ môn đệ... Gioan Enđo... Người lái buôn... cả ông ta cũng tốt và làm cho cuộc hành trình dễ chịu... Bao nhiêu điều đã thay đổi! Khác nhau chừng nào... và đau khổ chừng nào!... Đó là cái con nhìn: cái qúa khứ.
292
- Và tương lai, ôi Simon của Thầy - Giêsu ngồi xuống trên bó củi ở bên cạnh Phêrô, quàng cánh tay quanh cổ ông và nói với ông: “Con đã nhìn chân trời... và nỗi buồn làm cho con thấy nó tối sầm. Hiện tại như một cơn lốc đã làm nổi lên những đám mây sợ hãi, và che khuất những kỷ niệm tươi sáng, đầy hứa hẹn và hy vọng của con, và nó làm con hoảng sợ. Simon ơi, con đã bị khuất phục bởi một trong những giờ buồn và chán nản mà bản tính con người của chúng ta gặp trên đường. Không ai tránh được giờ đó, vì nó được tạo ra bởi kẻ ghét con người. Và con người càng phục vụ Thiên Chúa thì Satan càng làm nó sợ hãi, mệt mỏi, để nó cởi bỏ sứ mạng của nó. Con cũng bị khuất phục bởi một giờ chán nản... Những dấu liên tục về sự bách hại Thầy làm con mệt mỏi - mà con không biết rằng không phải tại con, mà là tại đứa cám dỗ - làm con nghe thấy tiếng thì thầm: “Ngày mai? Ngày mai sẽ ra sao?”
- Chúa ơi, đúng vậy. Thầy đã đọc trong qủa tim của con. Nhưng Thầy cũng biết rằng nếu con đã đặt câu hỏi này, thì không phải là vì sợ cho con. Chính tại vì... không, con không bao giờ có thể nhìn Thầy bị hành hạ... Thầy hay nói về tội ác, phản bội. Con... đâu phải chỉ có mình con! Bao nhiêu người, nhất là trong đám những người già, đã xin Thầy để được chết trước khi thấy Vua của họ bị xúc phạm. Còn con... con, Thầy biết, Thầy là tất cả cho con. Không có gì không phải là Thầy làm con lưu ý nữa. Đâu phải như Judas nói là tại con nuối tiếc cái thuyền và bà vợ của con... Thầy hãy nhìn, và Thầy thấy có phải con nói sự thật không. Con đã năn nỉ biết bao để có Margziam. Tính loài người của con đã muốn có ít nhất là một đứa con thừa nhận, thay vì đứa con mà vợ con không cho con, làm nhục cho nam tính của con là cái muốn trường tồn. Nhưng bây giờ, nhưng hôm nay, con... con yêu nó, đúng. Nhưng nếu Thầy lấy nó đi
293
khỏi con, con sẽ không phản ứng. Con chỉ nói với Thầy... Nhưng không, con không nói gì cả!
- Con chỉ nói với Thầy cái gì? Nói hết đi.
- Thưa Thầy, vô ích.
- Nói đi!
- Con nói: “Hãy cho nó cho người nào tốt hơn con, để làm cho nó lớn lên trong sự công chính”. Không còn gì hơn! Tức là... và điều này, con nói với Thầy trong nước mắt, cho nó, cho con, cho chú em con, và cũng cho cả Gioan và Giacôbê, và cũng cho cả những người khác, chúng con... chúng con là những người đầu tiên của Thầy... - và Phêrô lết, qùi tựa vào đầu gối Giêsu, giơ tay, bàn tay ngửa lên trên, năn nỉ, với những giọt nước mắt chảy trên má và biến mất trong hàm râu ông... “...Con nói điều đó cho chúng con: hãy làm cho chúng con chết, hãy đem chúng con đi trước khi chúng con... Ôi! Con, con nghĩ tới đó, từ bao tháng nay con luôn luôn nghĩ tới đó. Và Thầy coi có phải là tư tưởng này đã ăn mòn con, đã làm con già đi; có phải là một cái sợ hãi liên tục làm con không sao ngủ được. Con nghĩ rằng nếu thực sự như Thầy nói, thì con cũng có thể là tên phản bội, hay Andrê, hay Gioan, hay Giacôbê, hay Margziam... Và nếu người ta không đi tới chỗ đó, tới chỗ là một trong những kẻ mà Thầy đã nói ba bữa trước đây tại nhà Anania, một trong những kẻ muốn rằng máu Thầy phải đổ ra, thì cũng là một, một trong những kẻ vì hèn mà không biết phản kháng, vì sợ bị hại mà đồng ý với sự ác... Con... nếu con chỉ đồng ý bằng cách không phản kháng, vì sợ... Thầy ơi! Ôi! Thầy của con, con sẽ tự giết con để phạt mình, hay con sẽ giết chúng, nếu con gặp chúng, những kẻ giết Thầy. Con... nếu Thầy không muốn vậy, xin Thầy làm cho con chết trước, ngay lập tức, tại đây... Sự sống chả là gì, nhưng thiếu tình yêu đối với Thầy, là một trong số họ...là... thấy và không...” Ông qúa xao xuyến tới nỗi ông không tìm ra lời. Ông cúi xuống, gục mặt trên đầu gối Giêsu, khóc với nước mắt chua chát của một người già thô kệch, ít quen với nước mắt, và bị xáo trộn bởi qúa nhiều tình cảm.
294
Giêsu để hai bàn tay Người trên đầu ông như để làm dịu nỗi đau này, và để làm tan biến những tư tưởng rối loạn của ông, Người nói: “Bạn của Thầy, con tin rằng có thể xảy ra là... con có thể bất toàn vào giờ đó, mà Chúa là Đấng công bằng, lại không cân nhắc sự sai lầm của con với sức nặng của tình yêu và ý chí của con lúc này sao? Và con sợ rằng vàng của tình yêu này và ý chí này sẽ nhẹ hơn sự bất toàn nhất thời của con, và nó không đủ để được sự khoan dung của Thiên Chúa, và cùng với sự khoan dung là tất cả những trợ giúp để con lại trở nên chính con: Simon qúi yêu của Thầy sao?”
- Xin làm cho con chết! Xin cứu con! Con sợ!
- Simon, con là Đá của Thầy. Thầy có thể làm tan vỡ tảng đá mà trên đó Thầy phải xây dựng cái điều sẽ lưu tồn Thầy trên trái đất không?
- Con bất xứng, con cảm thấy vậy. Con là con người tội nghiệp, ngu si, tội lỗi. Tất cả mọi khuynh hướng xấu đều ở trong con. Con không đáng! Con không đáng! Con sẽ trở nên đồi bại, sát nhân, tất cả những gì là xấu... Hãy cho con chết. Hãy hiểu rằng nếu con khám phá ra kẻ ghét Thầy...
- Simon, cả thế giới ghét Thầy. Phải tha thứ...
- Con, con nói về thủ phạm chủ chốt. Phải có một tên là chủ chốt và...
- Có nhiều cái một, và tất cả đều có nhiệm vụ chủ chốt.
- Nhiệm vụ nào? Nhiệm vụ... Ôi! Đừng bắt con nói! Nhưng con...
- Nhưng con phải tha thứ, như Thầy và cùng với Thầy. Tại sao con xao xuyến như vầy Simon, trong khi nghĩ tới những điều con có thể làm để phạt? Hãy để Chúa lo việc này. Con, con hãy yêu và tha thứ, thương xót và tha thứ. Họ, tất cả những kẻ sẽ có tội đối với Giêsu của con, họ cần sự giúp đỡ biết bao để được tha thứ!
- Không có sự tha thứ cho chúng!
- Ôi! Con nghiêm khắc với anh em con chừng nào! Simon, hãy chắc chắn rằng cũng có sự tha thứ cho họ, nếu họ sám hối. Khốn thay, nếu tất cả những kẻ đã xúc phạm đến Thầy đều không được
295
tha thứ! Nào, đứng dậy đi Simon. Chắc chắn là nỗi lo của các bạn con đã gia tăng khi họ thấy rằng Thầy cũng không có mặt ở chuồng cừu. Nhưng hãy để họ khổ thêm một chút nữa trước khi đi tìm họ, chúng ta hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện với nhau. Không còn chuyện gì khác có thể làm để vãn hồi bình an, sức mạnh tinh thần, tình yêu, lòng trắc ẩn... cả đối với chính chúng ta. Lời cầu nguyện làm cho các bóng ma của Satan chạy trốn, làm cho chúng ta cảm thấy ở gần Thiên Chúa. Và với Thiên Chúa ở bên mình, người ta có thể đương đầu với tất cả, và chịu đựng tất cả một cách công chính và xứng đáng. Chúng ta hãy cầu nguyện như vậy, con và Thầy cùng với nhau, tại đây, trên ngọn núi này, mà từ đây nhìn thấy trải ra một phần rộng lớn của quê hương chúng ta, cũng như Môise trên đỉnh Nêbo, ông thấy đất hứa trải ra trước mắt. Chúng ta may mắn hơn ông, chúng ta mang Lời Chúa và Phần Rỗi đến cho mảnh đất thuộc về Đức Kitô này. Thầy bắt đầu, rồi con tiếp tục. Con nhìn coi, trong những tia sáng sau cùng của ngày, ta còn nhìn thấy các ngọn núi của miền Juđê, nhưng ở bên kia các núi là đồng bằng, là biển, rồi các đất đai khác, là thế giới... Chúng đang chờ con, Phêrô, chúng đang chờ con để biết rằng có một Thiên Chúa thực, một Thiên Chúa ban ánh sáng thực cho các linh hồn đang mò mẫm trong đêm của các thuyết dân ngoại và tà thần. Con hãy coi, trên trái đất, ánh sáng tối sầm. Làm sao các khách du hành có thể không bị lạc hướng trong một đêm không ánh sáng? Kìa, ngôi Sao Bắc Cực, nó đã mọc để hướng dẫn khách du hành. Tôn giáo của Thầy sẽ là ngôi sao hướng dẫn kẻ du hành thiêng liêng trên đường về trời. Và con sẽ kết hợp với nó tới nỗi chỉ là một ánh sáng duy nhất với Thầy và với giáo lý của Thầy. Ôi Phêrô của Thầy! Ôi viên đá phúc đức của Thầy! Chúng ta hãy cầu nguyện cho cái giờ mà loài người sẽ được cứu nhờ danh Thầy: “Lạy Cha chúng con ở trên Trời...”
Người đọc nhẩn nha kinh Lạy Cha trong khi cầm tay Phêrô, giống như Người giới thiệu ông với Chúa Cha. Khi giơ tay lên như vậy, tay phải Người nắm bàn tay trái của vị tông đồ.
- Bây giờ chúng ta đi xuống, để lại đây những cái buồn vô ích và
296
những lo lắng vô ích về ngày mai. Với bánh hàng ngày, ngày mai Cha sẽ cho chúng ta cho ngày mai. Mỗi ngày mai có sự trợ giúp của nó. Con có nhìn nhận vậy không Simon?
- Thưa Thầy có, con tin vậy - Phêrô nói cách qủa quyết. Khuôn mặt ông không còn xao xuyến, nhưng khắc khổ, như ông đã vậy từ nhiều tháng nay, làm ông rất khác với người dân chài quê mùa và dễ thương mà ông đã là trong hai năm đầu.
Họ xuống dốc. Giêsu đi trước, Phêrô theo sau với bó củi của ông. Và hầu như ngay trước căn nhà đầu tiên của làng, họ gặp các tông đồ đang lo lắng.
- Nhưng anh đi đâu vậy? - họ kêu với Phêrô.
- Đáng lẽ chúng ta đã ở đây lâu rồi, nhưng Thầy đã dừng lại để nói với ông khi nhìn về Gêrasa... - Giêsu trả lời thay cho ông.
Họ quẹo tay phải, về phía một chuồng súc vật đã gần sập. Ở bên trong cái hàng rào đã đổ một nửa, ngoài những thứ khác đã mốc rêu và lung lay, có một cái kho với các bức tường thô sơ, không che kín, không bao bọc đủ, với tường ở ba phía, phía thứ tư là các tấm ván. Bên trong chỉ có một ít cỏ ở trên đất, và một cái lò cổ lỗ sĩ ở trong một góc.
Tôi nghĩ rằng họ đã không được tiếp đón trong làng nên họ trú ở đây.
194* GIÊSU VỚI THAĐÊ VÀ GIACÔBÊ ZÊBÊĐÊ
- Nhưng thực tình Thầy muốn đi con đường này sao? Con thấy điều này là kém khôn ngoan vì nhiều lý do... - Iscariot phản đối.
- Những lý do nào? Những người ở các làng này đã chẳng đến tận Caphanaum với Thầy để tìm sự cứu rỗi và khôn ngoan sao? Họ chẳng phải là các tạo vật của Thiên Chúa sao?
- Đúng... Nhưng... Đối với Thầy thì sẽ là không khôn ngoan khi tới qúa gần Machéronte... Đó là nơi tai họa cho các kẻ thù của Hêrôđê.
Machéronte ở xa. Thầy đâu có giờ để tới tận đó. Thầy muốn tới Pétra và bên ngoài đó... nhưng Thầy chỉ tới được khoảng nửa đường,
297
và có lẽ còn ít hơn. Dù sao, chúng ta hãy đi...
- Giuse đã khuyên Thầy...
- Ở lại trên các đường có canh gác. Con đường này chính là con đường thuộc phía bên kia sông Giođan, trên đó người Rôma có nhiều đồn trú mạnh. Thầy không hèn, Judas ạ, cũng không kém khôn ngoan đâu.
- Con, con không tin cậy vào họ. Con thì con sẽ không rời xa Jêrusalem. Con...
- Nhưng hãy để cho Người làm. Người là Thầy, chúng ta là môn đệ. Có bao giờ người ta thấy môn đệ chỉ giáo cho ông thầy không?
- Giacôbê Zêbêđê nói.
- Bao giờ ? Đâu phải là đã qua đi lâu năm rồi, em anh đã bảo Thầy đừng đi Acor, và Người đã nghe lời nó. Bây giờ Người nghe lời tôi.
- Anh ghen và độc đoán. Nếu em tôi đã nói và đã được nghe, là vì nhận xét của nó chính đáng và phải nghe. Bữa hôm đó chỉ cần nhìn Gioan là hiểu rằng thật chính đáng để nghe nó.
- Ôi! Với tất cả sự khôn ngoan của anh ta, anh ta chưa bao giờ biết bảo vệ Người, và anh ta sẽ không bao giờ biết làm. Trái lại, đó là điều tôi mới làm đây, lúc đi về Jêrusalem.
- Anh đã làm bổn phận của anh. Em tôi cũng đã làm vào dịp đó bằng những phương tiện khác, vì nó không biết nói dối, dù là với mục đích tốt. Và tôi sung sướng vì nó như vậy...
- Anh xúc phạm đến tôi. Anh cho tôi là kẻ nói dối...
- Hé! Anh muốn tôi nói rằng anh thật thà trong khi anh đã nói dối một cách khéo léo không hề biến sắc?
- Tôi đã làm vậy...
- Đúng, tôi biết. Tôi biết! Để cứu Thầy. Nhưng điều đó không nên, không nên với bất cứ ai trong chúng ta. Chúng tôi thích câu trả lời đơn sơ của ông già hơn. Chúng tôi thích nín lặng để cho người ta bảo rằng chúng tôi ngu, hay cả đến người ta ngược đãi chúng tôi, hơn là nói dối. Người ta bắt đầu nói dối vì một điều tốt, và sau cùng sẽ là vì một điều không tốt.
298
- Ai xấu thì xấu, không phải tôi. Ai ngu thì ngu, không phải tôi.
- Đủ rồi. Trong khi các con có lý, các con kết cục bằng sai lầm. Một sai lầm khác với cái sai của kẻ mà các con khiển trách, đó là cái sai chống lại đức bác ái. Điều Thầy nghĩ về sự thành thật, tất cả các con đều đã biết; điều Thầy đòi hỏi về đức bác ái cũng vậy. Các thứ cãi cọ của các con làm nặng nề cho Thầy hơn là những chửi rủa của các kẻ thù.
Và Giêsu, rõ ràng là bất mãn, bắt đầu bước thật nhanh một mình, trên con đường mà chả cần là nhà khảo cổ cũng hiểu rằng nó được xây bởi Rôma. Nó đi về phía nam, thẳng hầu như mút mắt giữa hai rặng núi khá cao. Con đường đều đều, hơi tối bởi sườn dốc có cây rậm rạp bao phủ, ngăn cản không cho thấy chân trời, nhưng tình trạng rất tốt. Thỉnh thoảng có một cái cầu Rôma băng qua một khe nước hay một con suối, chắc chắn chảy về Giođan hay biển Chết. Tôi không biết đích xác, vì núi che không nhìn thấy phía tây, nơi chắc chắn là phía sông và biển. Có vài đoàn xe du mục đi qua, có lẽ là các đoàn từ Biển Đỏ đi lên và đi về đâu tôi không biết, với nhiều lạc đà cùng với người chăn và các thương gia rõ ràng là không phải nòi Hy Bá.
Giêsu luôn luôn đi một mình ở đàng trước. Phía sau Người là các tông đồ chia thành hai nhóm, nói chuyện với nhau. Các người Galilê đi trước, đàng sau là các người Do thái, thêm vào đó là Andrê, Gioan và hai môn đệ đi cùng với họ. Nhóm thứ nhất cố an ủi Giacôbê bị xuống tinh thần vì sự khiển trách nghiêm khắc của Thầy. Nhóm kia thì cố thuyết phục Judas đừng luôn luôn bướng bỉnh và gây hấn như vậy. Hai nhóm đồng ý với nhau để khuyên hai người đã nhận sự quở trách hãy lên tìm Thầy để làm hòa với Người.
- Tôi à? Tôi đi ngay lập tức. Tôi biết rằng tôi có lý. Tôi biết các hành động của tôi. Đâu phải tôi là kẻ nói xỏ xiên ác ý. Tôi đi - Iscariot nói. Ông ta bạo dạn, tôi phải nói là trơ tráo. Ông gia bước để đến với Giêsu. Một lần nữa tôi lại tự hỏi: trong những ngày này, không biết ông đã sẵn sàng để phản bội chưa, và ông đã âm mưu gì
299
với các kẻ thù của Đức Kitô chưa...
Trái lại, Giacôbê, thực tình thì nhẹ tội hơn, ông thảm sầu vì đã làm khổ Thầy tới nỗi ông không có can đảm để đi lên phía trước. Ông nhìn người Thầy của ông bây giờ đang nói với Judas. Ông nhìn Người, và sự ước ao được nghe tha thứ hiển hiện rõ trên khuôn mặt ông. Nhưng chính tình yêu của ông, chân thành, chung thủy, mạnh mẽ, làm cho ông thấy như sự sai trái của ông là không thể tha.
Bây giờ hai nhóm họp lại với nhau, và cả Simon Zêlote, Andrê, Tôma, và Giacôbê đều nói: “Nhưng này, anh không hiểu Người đó. Người đã tha cho anh rồi”. Và với sự xét đoán nhiều tinh tế, Batôlômêo, người lớn tuổi và khôn ngoan, đặt một bàn tay lên vai Giacôbê và nói với ông: “Tôi, tôi nói với anh: chính vì để không gây ra những bão tố khác nữa nên Người đã khiển trách cả hai, nhưng qủa tim Người là chỉ nói với Judas thôi”.
- Đúng vậy đó Batôlômêo! Ông em tôi kiệt lực vì phải chịu đựng cái ông đó, kẻ mà Người kiên trì muốn hoán cải, và Người mệt để tìm cách làm cho ông ta có vẻ... giống như chúng ta. Người là Thầy, và tôi... tôi là tôi... chứ nếu tôi là Người thì ôi! Cái người xứ Kêriot khỏi có ở với chúng ta! - Thađê nói với những tia chớp trong đôi mắt rất đẹp của ông, đôi mắt nhắc người ta nhớ tới đôi mắt của Đức Kitô.
- Anh tin? Anh nghi ngờ ? Cái gì ? - nhiều người hỏi.
- Đâu có gì. Không có gì chính xác. Nhưng cái người đó không ưng ý tôi.
- Ông ta không bao giờ ưng ý em đâu em ơi! Đó là sự ghê tởm vô lý, vì nó đã có ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên. Em đã thú vậy với anh. Nó đi ngược với tình yêu. Em phải thắng nó. Chỉ có vậy mới làm vui lòng Giêsu - Giacôbê Alphê nói, bình tĩnh và đầy thuyết phục.
- Anh có lý. Nhưng... em không làm được. Đi! Giacôbê, cùng nhau chúng ta tới gặp ông em của tôi - và Juđa Alphê qủa quyết cầm cánh tay Giacôbê Zêbêđê và lôi ông ta đi với ông.
Judas nghe thấy họ tới và ông quay lại, rồi ông nói gì với Giêsu. Giêsu dừng lại để chờ họ. Judas quan sát vị tông đồ khiêm hạ với
300
đôi mắt tinh quái.
- Xin lỗi, anh làm ơn tránh ra xa một chút. Tôi cần nói riêng với em tôi - Thađê nói. Câu nói lịch sự, nhưng giọng rất khô.
Iscariot cười nhếch mép, rồi ông nhún vai, đi trở ngược lại để họp bầy với các bạn ông.
- Giêsu, chúng con là những tội nhân - Juđa Thađê nói.
- Chính tôi là tội nhân, không phải anh - Giacôbê cúi đầu thì thầm.
- Giacôbê ơi, chúng ta là những tội nhân, vì điều mà anh đã làm thì tôi, tôi đã nghĩ. Tôi xác nhận điều đó. Tôi có nó ở trong lòng, vậy tôi cũng đang ở trong tội. Bởi vì từ trong qủa tim tôi nó ra sự xét đoán đối với Judas để làm ô uế đức bác ái của tôi... Giêsu, Thầy không nói gì với các người môn đệ đã nhận biết lỗi của mình sao?
- Thầy phải nói gì? Cái gì mà các con chưa biết? Các con sẽ có thay đổi thái độ đối với bạn các con, nhờ vào các lời Thầy không?
- Không. Không nhiều hơn những sự mà ông ta thay đổi nhờ vào các lời Thầy nói với ông ta - ông anh họ của Người trả lời thẳng thừng cho ông và cho những người khác.
- Hãy để Người làm, Juđa, hãy để Người làm! Chính tôi là kẻ có lỗi. Câu hỏi đó là cho tôi, và tôi phải lo phận mình chứ không phải phận người. Thưa Thầy, xin Thầy đừng giận con.
- Giacôbê, Thầy muốn ở con, ở tất cả, một điều. Thầy đã đau khổ biết bao vì bao là không hiểu mà Thầy gặp, vì bao là khăng khăng chống đối. Các con thấy đó... một nơi cho Thầy niềm vui thì ba nơi từ chối Thầy và xua đuổi Thầy như kẻ bất lương. Nhưng sự hiểu biết, sự liên kết mà những người khác không cho Thầy, thì ít nhất, Thầy muốn có nơi các con. Thế giới không yêu Thầy, Thầy cảm thấy bị ngộp vì tất cả những ghen ghét, ác cảm, hiềm thù, ngờ vực bao quanh Thầy bằng những điều đê tiện đủ loại, bằng những ích kỷ, bằng tất cả những gì mà tình yêu vô tận của Thầy đối với nhân loại làm cho Thầy phải chịu đựng một mình, thật là nặng nề. Nhưng Thầy còn đau khổ và còn chịu đựng nữa. Thầy đến để chịu
301
đựng những thứ đó về phía những kẻ ghét phần rỗi. Nhưng các con, không, điều đó Thầy không chịu! Điều đó: điều các con không thể yêu nhau, trong số các con với nhau, và nhờ đó hiểu Thầy; điều các con không liên kết với tâm hồn Thầy bằng cách cố gắng làm điều Thầy làm.
Tất cả các con, các con tin, các con có thể tin rằng Thầy không thấy những sai lầm của Judas, và không biết gì về ông ta sao? Ôi! Hãy chắc chắn rằng không phải như vậy. Nếu Thầy muốn có những con người với tâm hồn toàn vẹn, thì Thầy có thể làm cho các thiên thần nhập thể, và Thầy sẽ được bao quanh bởi các đấng. Thầy có thể làm điều đó. Nhưng như vậy có thực sự tốt không? Về phía Thầy thì đó là ích kỷ và khinh thường. Thầy đã né tránh cái khổ đến với Thầy do sự bất toàn của các con, và Thầy đã khinh thường loài người được tạo dựng bởi Chúa Cha, và Người đã yêu họ tới nỗi đã sai Thầy đến để cứu họ. Còn về phía loài người, điều đó sẽ có hại cho tương lai. Một khi sứ mạng của Thầy chấm dứt và Thầy trở lên Trời với các thiên thần của Thầy, thì còn lại gì để tiếp tục sứ mạng của Thầy, và còn ai? Người nào có thể cố gắng làm những điều Thầy nói, nếu chỉ có Thiên Chúa và các thiên thần làm mẫu mực cho đời sống mới, được điều chỉnh bởi thần trí. Vậy thật cần thiết là Thầy mặc lấy một thân xác để thuyết phục loài người rằng nếu họ muốn, họ có thể sống trong trắng và thánh thiện về mọi phương diện. Và như vậy, thật cần thiết là Thầy nhận những con người bằng lòng trả lời cho sự kêu gọi của thần trí Thầy bằng thần trí họ, mà không nhìn tới họ giầu hay nghèo, thông thái hay dốt nát, thành thị hay thôn quê. Thầy phải nhận họ như Thầy tìm thấy họ, và ý muốn của Thầy cùng với ý muốn của họ từ từ biến đổi họ thành thầy cho những người khác.
Con người có thể tin vào con người, vào người mà họ nhìn thấy. Thật khó lòng cho con người để tin vào Thiên Chúa mà họ không nhìn thấy, khi họ đã bị rơi xuống qúa thấp như vậy. Những sấm sét trên núi Sinai chưa chấm dứt thì ở chân núi đã xảy ra việc thờ tà thần... Môise là người mà người ta không thể nhìn mặt, mà ông
302
chưa chết thì người ta đã phạm tội chống lại Lề Luật. Nhưng khi các con được biến đổi thành những vị Thầy, các con sẽ là gương mẫu, là chứng nhân, là men giữa loài người, thì loài người không còn có thể nói: “Đó là những vị thần xuống ở giữa loài người, và chúng tôi không thể bắt chước họ”. Họ phải nói: “Đó là những người như chúng ta. Chắc chắn họ cũng có những bản năng và những khuynh hướng như chúng ta, và cũng có những phản ứng như chúng ta, nhưng họ biết chống cự với những khuynh hướng và những bản năng tự nhiên của họ, để có những phản ứng rất khác với những phản ứng độc ác của chúng ta”. Và họ nhìn nhận là con người có thể tự thánh hóa, chỉ miễn là họ canh chừng để đi trong đường của Thiên Chúa. Các con hãy quan sát các dân ngoại và các kẻ thờ ngẫu tượng: Tất cả các Olympe của họ, tất cả các tượng thần của họ có làm cho họ tốt hơn không? Không. Vì nếu họ không tin, họ sẽ nói đó là các chuyện hoang đường; nếu họ tin thì họ sẽ nghĩ: “Đó là các thần, còn tôi, tôi là một người”, và họ sẽ không cố gắng để bắt chước... Vậy các con hãy tìm cách để trở nên các thứ ngã của Thầy, và đừng lật đật. Con người tiến bộ một cách chậm rãi từ tình trạng một động vật có lý trí tới tình trạng một thực thể có siêu nhiên. Hãy khoan dung với nhau. Ngoài Thiên Chúa ra thì không ai là trọn lành cả.
Và bây giờ, tất cả đã qua đi rồi phải không? Với một ý chí cương quyết, các con hãy tự biến đổi mình. Hãy noi gương Simon Jonas, trong vòng không đầy một năm, ông ta đã tiến những bước vĩ đại. Nhưng... ai trong các con đã loài người hơn Simon với tất cả những khuyết điểm của một con người rất vật chất?
- Đúng vậy đó Giêsu. Con không ngừng học hỏi ông này. Ông ta đã là sự cảm phục của con - Thađê thú nhận.
- Đúng. Con ở với ông ta từ còn bé. Con biết ông ta tựa như ông là anh con. Nhưng bây giờ con đối diện với một Simon mới. Con thú với Thầy rằng khi Thầy nói ông ta là thủ lãnh của chúng con, con, và không phải chỉ có mình con, con phân vân. Con thấy như ông ta là người bất xứng hơn tất cả: Simon so với ông Simon kia và
303
Natanael! Simon so với em con và các anh Thầy! Nhất là so với năm người này! Con thấy điều đó có vẻ thực là một sai lầm... Bây giờ con nói là Thầy có lý.
- Và các con chỉ thấy cái bề mặt của Simon. Nhưng Thầy, Thầy thấy đáy lòng của ông ta. Ông còn phải làm việc nhiều và khổ sở nhiều để nên hoàn thiện, nhưng Thầy muốn có nơi tất cả các con cái thiện chí của ông, sự đơn sơ của ông, sự khiêm nhường của ông, và tình yêu của ông.
Giêsu nhìn phía trước mặt Người. Hình như Người thấy cái gì tôi không biết. Người đắm chìm trong tư tưởng của Người và mỉm cười với cái Người thấy. Rồi Người hạ con mắt xuống trên Giacôbê và mỉm cười với ông.
- Vậy là... con được tha rồi?
- Thầy muốn có thể tha được cho tất cả như tha cho con... Kìa, thành phố kia chắc phải là Hesbon. Người đó đã nói: sau chiếc cầu ba nhịp có một thành phố. Chúng ta hãy đợi những người khác để vào thành phố cùng với nhau.
195* GIÊSU VÀ NGƯỜI ĐÀN ÔNG
XỨ PÉTRA (GẦN HESBON)
Tôi không nhìn thấy thành phố Hesbon. Giêsu và các người của Ngài đã ra khỏi đó, và nhìn vẻ mặt của các tông đồ thì tôi hiểu rằng đó là một nỗi thất vọng. Họ được theo, đúng ra là bị theo đuổi, ở một khoảng cách chừng vài mét, bởi một đám đông gào thét và đe dọa.
- Các nơi này bao chung quanh Biển Mặn, đều bị nguyền rủa cũng như chính cái biển - Phêrô nói.
- Cái nơi này! Luôn luôn là nơi của thời Môise, và Thầy qúa tốt để không phạt nó như Môise làm hồi đó. Nhưng nó đáng lắm, và rất nên đi tới cùng của sức mạnh từ trời hay của trái đất, tất cả, cho tới người sau cùng và thôn xóm sau cùng - Natanael bực tức nói với
304
những tia khinh bỉ ở trong đôi mắt sâu của ông. Nòi giống Hy Bá phát lộ mạnh mẽ nơi vị tông đồ mảnh khảnh và có tuổi trong cơn khinh bỉ, làm cho ông trông rất giống nhiều ông rabbi và pharisiêu, những kẻ luôn luôn đối nghịch với Giêsu.
Giêsu quay lại, giơ tay để nói: “Bình an! Bình an! Họ cũng sẽ được kéo về với Chân Lý. Nhưng phải bình an. Phải có tình thương. Chúng ta chưa bao giờ tới đây. Họ không biết chúng ta. Những nơi khác họ cũng giống vậy vào lần đầu, nhưng rồi họ thay đổi”.
- Nhưng nơi này cũng giống như Masađa: bị mua chuộc. Chúng ta hãy trở lại sông Giođan - Phêrô nói cách khẩn khoản.
Nhưng Giêsu đi vào con đường của quân đội. Người đi về hướng nam. Những kẻ chống đối Người cách hung hăng nhất không ngừng theo đuổi và lôi kéo người qua lại.
Có một người - hẳn đó là một thương gia giầu có, hay ít nhất là người phục vụ cho một thương gia - ông dẫn đầu một đoàn du mục dài đi về phía bắc. Ông ngạc nhiên quan sát họ. Ông dừng con lạc đà của ông lại, và đồng thời tất cả những người khác cũng dừng lại. Ông nhìn Giêsu, ông nhìn các tông đồ, những người không khí giới với vẻ rất nhân hậu. Ông nhìn những người vừa đi vừa la hét, dọa nạt, và, tò mò, ông hỏi thăm họ. Tôi không nghe thấy các lời của ông, nhưng tôi nghe những tiếng la lối trả lời cho ông: “Đó là tên Nazarét bị nguyền rủa, tên điên, tên bị ám. Chúng tôi không muốn hắn ở bên trong tường thành của chúng tôi”.
Người đó không hỏi thêm nữa. Ông quay đầu con lạc đà của ông lại, ông kêu cái gì với người đi theo ở gần ông và thúc con vật của ông trong mấy sải để đến bên các tông đồ: “Nhân danh Thiên Chúa của các ông, ai trong các ông là Giêsu Nazarét?” ông hỏi các tông đồ Mathêu, Philíp, Simon Zêlote cùng với Isaac là nhóm nhỏ đi sau cùng.
- Tại sao ông hỏi Người? Ông cũng hỏi để làm khổ Người sao? Các người đồng hương của ông làm chưa đủ sao? Ông cũng muốn tham gia với họ à?” Philíp nói với vẻ rất bực bõ.
- Tôi đáng gía hơn chúng, và tôi hỏi để xin một ơn. Xin đừng xua đuổi tôi. Tôi hỏi các ông nhân danh Thiên Chúa của các ông.
305
Trong giọng nói của người đàn ông có cái gì thuyết phục bốn ông, nên Simon nói với ông: “Người thứ nhất trong đám ở đàng trước, cùng với hai người khác trẻ hơn”.
Người đó lại thúc con vật, vì Giêsu ở đàng trước, tiến bước hàng đầu, và Người không biết mấy câu đàm thoại vắn của họ.
- Lạy Chúa... Xin nghe một kẻ khốn nạn... - ông ta nói khi ông tiến tới sau lưng Người. Giêsu, Gioan và Margziam quay lại, ngạc nhiên.
- Ông muốn gì?
- Lạy Chúa, con người Pêtra. Con đi lo việc cho một người khác về các hàng hóa từ Biển Đỏ tới, cho tới Damas. Con không nghèo, nhưng con cũng tựa như vậy. Lạy Chúa, con có hai đứa con, và sự bất hạnh đã lấy mất mắt của chúng, nên chúng mù. Một đứa mù hoàn toàn, vì nó bị trước, đứa kia cũng gần mù, và sắp sửa nó sẽ mù hẳn. Các thầy thuốc không làm được phép lạ, nhưng Ngài thì làm được.
- Làm sao ông biết điều đó?
- Con có quen một người lái buôn giầu, ông ta biết Ngài. Đôi khi ông dừng lại nơi con ở, và đôi khi con cũng lo việc cho ông. Khi ông thấy các đứa trẻ, ông đã nói với con: “Chỉ có Giêsu Nazarét là có thể chữa chúng. Hãy đi tìm Người”. Con đã tìm Ngài, nhưng con có ít thời giờ, và con phải đi theo những con đường được chỉ định”.
- Ông gặp Alexandre hồi nào?
- Vào giữa hai kỳ lễ vào mùa xuân của qúi vị. Từ lúc đó, con đã hành trình hai lần nữa, nhưng con chưa bao giờ gặp Ngài. Chúa ơi, xin thương!
- Ông à, Thầy thì Thầy không thể xuống Pêtra, còn ông, ông không thể bỏ đoàn du mục...
- Được, con có thể. Arisa là người đáng tin cẩn, con sẽ để ông ta đi trước. Ông sẽ đi từ từ. Còn con, con sẽ bay về Pêtra. Con có một con lạc đà lẹ hơn gió sa mạc, và dẻo dai như một con linh dương.
306
Con sẽ đón các đứa trẻ với một người đầy tớ trung thành khác. Con sẽ đến với Thầy, Thầy sẽ chữa cho chúng... Ôi! Ánh Sáng cho các vì sao đen của mắt chúng, bây giờ đang bị phủ một lớp mây dầy! Rồi con sẽ đi tiếp trong khi chúng trở về với mẹ chúng. Chúa ơi, con thấy Ngài đi tiếp, Ngài đi về đâu?
- Thầy đi Debon...
- Đừng tới đó. Ở đó đầy những... người của Machéronte, Chúa ơi, những nơi bị nguyền rủa. Lạy Chúa, xin đừng tránh những kẻ khốn nạn bằng cách phó mình cho những kẻ đáng bị nguyền rủa.
- Đó là điều con đã nói - Batôlômêo lẩm bẩm trong hàm râu của ông, và nhiều người khác cho là ông có lý.
Bây giờ tất cả họ đều vây quanh Giêsu và người đàn ông Pêtra. Trái lại, các người Hesbon thấy rằng đoàn du mục có vẻ tử tế với kẻ bị bách hại, liền quay trở lại con đường. Đoàn du mục dừng lại, chờ quyết định và hướng đi.
- Ông ơi, nếu Thầy không đi về các thành phố ở phía nam thì Thầy cũng đi về phía bắc, và không có lời nào nói rằng Thầy nghe lời ông.
- Con biết rằng con hèn hạ đối với qúi vị Israel. Con không cắt bì. Con không đáng cho người ta nghe con. Nhưng Ngài, Ngài là Vua thế giới. Trong thế giới, có cả chúng con ở đó...
- Không phải vậy. Chính là... Làm sao ông có thể tin là Thầy có thể làm điều mà các thầy thuốc không thể làm?
- Bởi vì Ngài là Đức Messi của Thiên Chúa. Misace đã nói vậy với con. Và con, con tin điều đó. Ngài có thể làm tất cả, kể cả làm cho một kẻ khốn nạn như con - Câu trả lời đầy bảo đảm, và người đó hoàn tất bằng cách tụt xuống, cả đến không bắt con lạc đà qùi gối, và ông phủ phục, nằm dài hoàn toàn trong bụi đất.
- Đức tin của ông lớn hơn của nhiều người. Hãy đi. Ông biết Nêbo ở đâu không ?
- Lạy Chúa, có. Ngọn núi này chính là ngọn Nêbo. Chúng con cũng biết Môise. Ông ta lớn, qúa lớn, chúng con không thể không biết. Nhưng Ngài, Ngài lớn hơn. Giữa Môise và Ngài cũng giống
307
như một cục đá so với ngọn núi.
- Hãy đi Pêtra. Thầy, Thầy chờ ông trên Nêbo...
- Có một làng ở chân núi cho những kẻ thắng cảnh núi. Có những quán trọ... Con sẽ ở đây chậm nhất là trong mười ngày. Con sẽ thúc con vật, và nếu Đấng đã sai Ngài bảo vệ con thì con sẽ không gặp bão.
- Hãy đi, và hãy trở lại sớm hết sức có thể. Thầy phải đi các nơi khác nữa...
- Lạy Chúa! Con... con không cắt bì, sự chúc phúc của con cho Ngài là sự ô nhục, nhưng sự chúc phúc của người cha không bao giờ là sự ô nhục. Con chúc phúc cho Ngài và con đi.
Ông lấy cái còi bằng bạc và ông thổi ba lần. Người ở trên đầu đoàn phóng tới. Họ nói với nhau, chào nhau. Rồi người đó trở lại đầu đoàn du mục, nó bắt đầu tiến bước chậm rãi, còn người này trèo lên con lạc đà của ông và phi về phía nam. Giêsu và các người của Ngài tiếp tục con đường.
- Thực sự chúng ta đi Nêbo à?
- Ừ, chúng ta sẽ bỏ các thành phố để lên các sườn núi Abarim. Sẽ có nhiều mục đồng, bởi họ, chúng ta sẽ biết các đường để lên núi Nêbo, và họ sẽ bởi chúng ta mà biết con đường để lên núi của Thiên Chúa. Và rồi chúng ta sẽ dừng lại vài ngày như chúng ta đã làm trên núi Arbêla gần Carit.
- Ôi! Sẽ đẹp chừng nào! Chúng ta sẽ trở nên tốt hơn. Chúng ta luôn luôn mạnh hơn và tốt hơn khi từ những nơi đó đi xuống - Gioan nói.
- Và Thầy sẽ nói cho chúng con tất cả những gì mà Nêbo nhắc lại cho Thầy. Này em ơi, em có nhớ hồi chúng ta còn nhỏ, một bữa em đã đóng vai Môise chúc lành cho Israel trước khi chết không? - Juđa Alphê nói.
- Đúng. Và mẹ Thầy đã kêu thét lên khi thấy Thầy nằm như chết. Bây giờ thì chúng ta đi Nêbo thực sự - Giacôbê Alphê nói.
- Và Thầy sẽ chúc lành cho Israel. Thầy là thủ lãnh thực sự của dân Thiên Chúa - Natanael kêu lên.
308
- Nhưng Thầy không chết ở đó. Thầy không bao giờ chết phải không? - Judas Kêriot hỏi với nụ cười kỳ lạ.
- Thầy sẽ chết và Thầy sẽ sống lại như đã chép. Nhiều người sẽ chết mà không bị chết trong ngày đó. Và trong khi các người công chính sẽ sống lại, cho dù đã chết từ bao nhiêu năm, thì những người còn sống trong thân xác, nhưng linh hồn đã chết hoàn toàn trong ngày đó, sẽ không sống lại. Hãy cẩn thận để đừng vào số những người này.
- Và Thầy, hãy cẩn thận để người ta không nghe Thầy nhắc lại rằng Thầy sẽ sống lại. Họ nói đó là lời lộng ngôn - Judas Kêriot đối đáp.
- Đó là sự thật, và Thầy nói nó.
- Người đàn ông đó có đức tin mạnh chừng nào! Và cả cái ông Misace nữa - Zêlote nói để thử lái câu chuyện.
- Nhưng Misace là ai? - những người năm ngoái không ở trong cuộc hành trình bên kia sông Giođan hỏi. Và họ đi xa trong khi nói về những điều này. Giêsu nói với Margziam và Gioan, bắt lại câu chuyện bị gián đoạn lúc trước.
196* KHI TỪ NÊBO ĐI XUỐNG
- Tôi sẽ luôn luôn nuối tiếc ngọn núi này và sự nghỉ ngơi trong Chúa - Phêrô nói khi ông sẵn sàng để đi xuống thung lũng theo một phía sườn rất hoang vu.
Họ đang ở trong một dẫy núi rất cao. Ở phía đông, bên ngoài thung lũng còn có các núi khác. Phía nam cũng là núi, và còn các núi cao hơn ở phía bắc. Ở tây bắc là thung lũng sông Giođan xanh tươi chạy ra Biển Chết. Ở phía tây, trước tiên là biển mầu tối, rồi bên kia là sa mạc khô cằn và sỏi đá, chỉ gián đoạn bởi cái ốc đảo Engaddi lộng lẫy, rồi đến các núi thuộc miền Judê. Một quang cảnh hùng vĩ trải ra bất cứ phía nào mắt quay về. Trong một quang cảnh về đời sống thảo mộc như vầy, người ta quên rằng có một cái hồ dầu hắc tối mù, không cánh buồm, không sự sống, luôn luôn đen
309
ngòm, dù dưới mặt trời, buồn thê thảm, kể cả trong cái bán đảo thấp nhô ra từ phía đông hầu như tới tận giữa hồ. Nhưng đường lối nào để xuống thung lũng đây! Chỉ có các con vật mới thấy thoải mái trong những lối đi này. Nếu không bám vào các thân cây và các bụi rậm thì người ta không thể từ đỉnh núi đi xuống. Điều đó làm cho Iscariot càu nhàu.
- Tuy nhiên tôi vẫn còn muốn trở lại đó - Phêrô đáp lại.
- Anh có cái gu riêng biệt. Ở đây còn tệ hơn cái chỗ thứ nhất và chỗ thứ hai.
- Nhưng không tệ hơn chỗ Thầy đã chuẩn bị để đi thuyết giáo - Gioan phản đối.
- Ôi! Với cậu thì tất cả đều luôn luôn đẹp...
- Đúng. Tất cả những gì ở chung quanh Thầy của tôi đều đẹp và tốt, và tôi thích nó.
- Hãy coi chừng, trong cái “tất cả” này có cả tôi, và thường có cả các pharisiêu, saddu, luật sĩ, phái Hêrôđê... cậu thích cả họ nữa?
- Người yêu họ.
- Và cậu, ha ha! Cậu làm giống như Người, hen? Nhưng Người là Người, còn cậu là cậu. Tôi không biết cậu có thể luôn luôn yêu họ không. Cậu là người mới nghe đến phản bội và chết là đã tái mét, cũng như khi nhìn thấy những kẻ ước ao những thứ này.
- Đó là dấu chỉ rằng tôi còn rất bất toàn, nên tôi còn xao xuyến vì sợ cho Người hay vì phẫn uất đối với kẻ đắc tội.
- A! Cậu cũng xao xuyến vì phẫn uất nữa? Tôi đã không tin. Vậy cạu... nếu tình cờ một ngày nào đó có kẻ thực sự làm hại Thầy thì cậu làm sao?
- Tôi à? Anh còn hỏi tôi điều đó? Luật đã nói: “Mắt thế mắt, răng thế răng”. Hai bàn tay tôi sẽ trở thành gọng kìm chung quanh cổ nó.
- Ô! Ô! Người đã nói là phải tha thứ! Đó là tất cả những cái hay mà sự suy niệm đã làm cho cậu đó sao?
- Hãy buông tôi! Tên quấy rối! Tại sao anh thử tôi và làm tôi xao xuyến? Anh có cái gì ở trong lòng? Tôi muốn đọc thấy nó...
310
- Đối với những kẻ dò la làn nước của Biển Chết thì các bí mật của đáy biển không hiện ra. Làn nước này là tảng đá mộ đậy trên những hư thối mà nó đã nhận - Batôlômêo nói ở đàng sau họ. Ông đi sau chót. Những người khác thì ít nhiều đi ở đàng trước nên không nghe thấy, nhưng Batôlômêo thì nghe. Ông xen vào cuộc đàm thoại của hai người, và cái nhìn của ông có vẻ bài bác.
- Ô! Hiền nhân Batôlômêo! Nhưng chắc anh không có ý nói rằng tôi giống như nước Biển Mặn chứ?
- Tôi không nói với anh. Tôi nói với Gioan. Đi với tôi đi, con trai Zêbêđê. Tôi không làm cậu xao xuyến - và ông, một vị có tuổi, ông cầm cánh tay Gioan như muốn tì vào người bạn trẻ lanh lợi.
Judas ở lại phía sau. Ông làm ở sau lưng họ một cử chỉ phẫn nộ độc ác, tựa như ông thề cái gì với chính mình ông, hay ông đe dọa...
- Judas muốn nói gì, và anh, anh muốn nói gì? - Gioan hỏi ông gìa Natanael.
- Bạn ơi, đừng nghĩ tới đó nữa. Trái lại, chúng ta hãy nghĩ tới tất cả những điều Thầy đã giải thích cho chúng ta trong những ngày này, về những gì Israel hiểu.
- Đúng. Tôi, tôi không hiểu sao biết bao người không hiểu điều đó!
- Chúng ta cũng không, Gioan, chúng ta cũng không hiểu hoàn toàn. Chúng ta không muốn hiểu. Cậu thấy chúng ta khó khăn chừng nào để chấp nhận tư tưởng của Người về Đức Messi?
- Đúng, với mọi thứ, chúng ta tin cách mù quáng, nhưng về điều đó thì không. Anh là người có học, anh có thể nói cho tôi cái tại sao của điều đó không? Chúng ta thấy rằng các rabbi trì độn ở trước đức Kitô, vậy tại sao chúng ta cũng không thể đạt tới một ý tưởng trọn vẹn về một vương quốc thiêng liêng của Đức Messi?
- Tôi cũng đã tự hỏi biết bao lần, vì tôi cũng muốn đạt tới cái mà cậu gọi là ý tưởng trọn vẹn. Và tôi tin có thể yên tâm khi nói với chính mình rằng điều đối nghịch ở trong chúng ta, những kẻ có ý muốn theo Người, không phải chỉ một cách vật chất và về giáo lý, mà cả về tinh thần, để chấp nhận điều đó, là tất cả những thế kỷ ở
311
sau lưng chúng ta... và nó ở trong chúng ta, trong nội tâm chúng ta. Cậu thấy không? Cậu hãy nhìn về hướng đông, hướng nam và hướng tây. Mỗi viên đá có một kỷ niệm và một cái tên. Mỗi viên đá, mỗi phông-ten, mỗi lối đi, mỗi làng, mỗi thị trấn hay thành phố, mỗi con sông, mỗi ngọn núi, chúng nhắc nhở cho chúng ta cái gì? Nó kêu với chúng ta cái gì? Lời hứa một Vị Cứu Tinh. Sự thương xót của Thiên Chúa với dân Người. Giống như một giọt dầu từ một cái bầu bị châm lỗ, khởi đầu là một nhóm nhỏ, cái nhân của Israel tương lai với Abraham đã lan ra, băng qua thế giới, tới tận Ai Cập xa xôi. Rồi càng ngày càng đông, nó cùng với Môise trở về đất của cha Abraham, đầy những lời hứa càng ngày càng mênh mông và vững chắc, và những dấu hiệu về tình phụ tử của Thiên Chúa, trở nên một dân thực sự, vì được ban một lề luật thánh nhất trong các luật. Nhưng rồi sau đó đã xảy ra điều gì? Điều đã xảy ra cho cái đỉnh núi này, vừa lúc nãy sáng dưới mặt trời, bây giờ hãy nhìn nó: nó bị mây bao phủ và biến dạng. Nếu chúng ta không biết rằng đó là nó, và nếu chúng ta phải nhận ra nó để đi vào con đường chắc chắn, thì chúng ta có thể định hướng được không, trong khi nó bị đè nặng bởi một lớp mây dầy, trông giống như cái gò với cái vòm tròn như vầy? Đó là điều xảy ra ở trong chúng ta. Đức Messi là điều Thiên Chúa đã nói với cha ông chúng ta, với các tổ phụ và các tiên tri, không hề thay đổi. Nhưng điều chúng ta đã đặt vào trong chúng ta để... giải thích Người theo sự khôn ngoan tội nghiệp của loài người, là đó, chúng ta tạo ra một Đức Messi, một dung nhan đạo đức của Đức Messi sai trái tới nỗi chúng ta không còn nhận ra Đức Messi thực nữa. Và chúng ta, với các thế kỷ và các thế hệ ở đàng sau chúng ta, chúng ta tin vào vị Messi mà chúng ta đã tưởng tượng ra, vào Vị Báo Thù, vị Vua nhân loại, rất nhân loại. Và mặc dầu những điều chúng ta nói và tin, chúng ta không đi được tới chỗ quan niệm một Đức Messi và Vua thực sự như Người là, như Người được Thiên Chúa muốn. Như vậy đó bạn!
- Như vậy là chúng ta không bao giờ đạt tới việc nhìn thấy, tin và muốn một Đức Messi thực sự sao?
312
- Chúng ta sẽ đạt tới đó. Nếu chúng ta không thể đạt tới đó thì Người đã không chọn chúng ta. Và nếu nhân loại không bao giờ tới được chỗ có thể được hưởng Đấng Messi thì Đấng Tối Cao đã không sai Người.
- Nhưng Người sẽ chuộc tội nguyên tổ bởi một mình công nghiệp của Người, dù không có sự góp phần của nhân loại.
- Bạn à, sự cứu chuộc khỏi tội nguyên tổ là một sự cứu chuộc rất lớn, nhưng nó không hoàn toàn. Chúng ta có trong chúng ta những tội cá nhân khác nữa thêm vào tội nguyên tổ, và để tẩy rửa những tội này, cần phải có Đấng Cứu Thế và lòng tin của kẻ chạy đến cùng Người như Phần Rỗi của nó. Tôi nghĩ rằng sự cứu chuộc sẽ hành động cho tới tận cùng thời gian. Đức Kitô sẽ không lúc nào ngưng hoạt động kể từ lúc Người sẽ là Đấng Cứu Thế và ban sự sống của Người cho nhân loại. Người sẽ như một đòng suối ban mình cho kẻ khát, một cách liên tục, ngày qua ngày, tuần trăng này sau tuần trăng kia, năm này qua năm khác, thế kỷ nọ qua thế kỷ kia. Nhân loại sẽ luôn luôn cần sự sống. Người sẽ không ngừng ban nó cho kẻ ước ao và tin vào Người cách khôn ngoan và công chính.
- Anh có học, Natanael. Tôi, tôi là thằng ngu tội nghiệp!
- Cậu, bởi bản năng tự nhiên, cậu làm công việc biến đổi từ người Israel qua người Kitô hữu, điều mà tôi phải làm một cách vất vả bởi những suy luận của lý trí... Nhưng cậu sẽ đạt tới mau lẹ hơn vào đúng kỳ hạn, vì cậu biết yêu hơn là suy nghĩ. Chính tình yêu mang cậu đi và biến đổi cậu.
- Anh tốt, Natanael. Nếu tất cả chúng ta đều được như anh! - Gioan thở ra một hơi thật dài.
- Gioan, đừng nghĩ tới đó! Chúng ta hãy cầu nguyện cho Judas - Vị tông đồ gìa nói, vì ông hiểu cái thở dài của Gioan...
- Ôi! Các anh cũng ở đây! Chúng tôi đã trông các anh tới. Các anh nói gì với nhau nhiều vậy? - Tôma mỉm cười hỏi.
- Chúng tôi nói về Israel xưa. Thầy đâu?
- Người đi lên trước với các anh Người và Isaac để thăm một người mục đồng bệnh. Người bảo chúng ta đi vào con đường này cho tới chỗ gặp con đường đi lên đỉnh.
313
- Vậy chúng ta đi.
Bây giờ họ xuống bởi một đường ít dốc hiểm hơn cho tới một con đường thực sự cho lừa ngựa đi, dẫn lên núi Nêbo. Có vài căn nhà ở trong rừng. Dưới thấp hơn, gần như ở thung lũng, một ngôi làng thực sự phơi bày các căn nhà trắng của nó trên sườn núi đã trở thành thoai thoải. Từ con đường nhỏ nơi các vị đang ở, họ nhìn thấy người ta đang đi vào làng.
- Chúng ta sẽ chờ người Pêtra ở chỗ đó à? - Phêrô hỏi.
- Đúng. Đó là ngôi làng. Chúng ta hy vọng ông ta tới, nếu không, ngày mai chúng ta sẽ đi con đường của Giođan. Tôi không biết. Tôi không cảm thấy an tâm ở đây - Mathêu nói.
- Thầy đã bảo đi lên phía trước rất nhiều - Iscariot nói.
- Đúng. Nhưng tôi hy vọng người ta sẽ thuyết phục Người điều ngược lại.
- Nhưng anh sợ cái gì? Hêrôđê? Hay cảnh binh của ông?
- Các cảnh binh, đâu phải chỉ có ở gần Hêrôđê. Ôi! Thầy kia rồi. Các người mục đồng đông đảo và sung sướng. Họ bị chinh phục. Đó là những dân du mục, họ sẽ đi loan báo tin mừng rằng Đấng Messi đã ở trên mặt đất - Mathêu lại nói.
Giêsu lại với họ. Từng đoàn mục tử và súc vật theo sau Người.
- Nào. Chúng ta chỉ có vừa đủ giờ để vào làng. Họ sẽ cho chúng ta trọ. Họ biết - Giêsu rất bằng lòng ở giữa những người đơn sơ biết tin vào Chúa.
197* BÓNG TỐI KHÔNG MUỐN ÁNH SÁNG
Một buổi sáng đẹp mùa thu. Ngoài những lá vàng đỏ phủ mặt đất nhắc tới mùa thu, cỏ cây xanh tươi với vài bông hoa nhô lên từ các bụi rậm đã lấy lại sự sống nhờ những trận mưa hồi tháng mười. Không khí trong sạch luồn qua các cành cây đã rụng lá một phần, làm ta nhắc tới một khởi đầu mùa xuân, càng nhắc hơn nữa là các cây không thay lá mọc lẫn lộn với các cây thay lá, đặt những nốt
314
vui tươi của các lá xanh non mọc ở đầu cành, gần những cành trụi của các cây khác, và như vậy, giống như chúng mọc những lá đầu tiên. Các đàn cừu ra khỏi chuồng, hướng về đồng cỏ, kêu bê bê, với những con chiên của lứa đẻ mùa thu. Nước của một cái phôngten ở đầu làng sáng bóng như kim cương lỏng dưới cái hôn của mặt trời, và khi chảy vào một cái bể tối, nó tạo thành những lấp lánh muôn mầu ở trước một căn nhà nhỏ mà thời gian đã làm đen các bức tường.
Giêsu ngồi trên bức tường thấp bao quanh một quãng bờ đường, và Người chờ. Các người của Ngài vây quanh Ngài. Cũng có cả dân làng, trong khi các người mục đồng mà đoàn vật của họ bó buộc không thể phân tán ra qúa xa, nên thay vì lên cao trên đồi, chúng đàn ra hai bên đường về phía đồng bằng.
Trên con đường dẫn từ thung lũng lên núi Nêbo, lúc này không có ai cả.
- Ông ta có tới không? - các tông đồ hỏi.
- Ông ta sẽ tới, và chúng ta chờ ông. Thầy không muốn làm thất vọng một sự cậy trông đang thành hình, và phá hủy một đức tin tương lai - Giêsu trả lời.
- Qúi vị không thoải mái ở giữa chúng tôi sao? Chúng tôi đã biếu qúi vị những gì là tốt nhất của chúng tôi - một ông già nói khi ông đang sưởi dưới mặt trời.
- Bố ơi, tốt hơn những nơi khác. Và Thiên Chúa sẽ thưởng cho lòng tốt của các con - Giêsu trả lời.
- Vậy xin Thầy nói với chúng con nữa đi. Ở đây thỉnh thoảng có các pharisiêu hăng say và các luật sĩ kiêu căng tới, nhưng họ không có gì để nói với chúng con. Điều đó đúng. Họ ở cao bên trên tất cả... họ là những người tách biệt và thông thái. Trong khi chúng con... chả lẽ chúng con phải không biết gì cả, vì lẽ số phận đã cho chúng con sinh ra ở đây sao?
- Trong nhà của Cha Thầy không có sự tách biệt, cũng không có sự khác nhau trong số những kẻ đã tin vào Người và thi hành lề luật của Người, là các qui tắc của ý muốn Người, miễn là người ta sống
315
công chính để có một phần thưởng đời đời trong Nước của Người.
Hãy nghe đây: một người cha có nhiều con cái. Một số luôn luôn sống trong sự liên lạc mật thiết với cha, một số khác, vì nhiều lý do, tương đối ở xa người cha hơn. Tuy nhiên vì biết được những ước muốn của cha, nên dù ở xa, họ cũng có thể hành động giống như trước mặt ông. Có những người khác ở xa hơn nữa, và ngay từ khi họ sinh ra, họ đã được nuôi nấng giữa đám đầy tớ là những kẻ nói ngôn ngữ khác và theo những phong tục khác. Nhưng họ cố gắng phục vụ người cha theo sự ít ỏi mà nhờ bản năng hơn là nhờ kiến thức, họ biết là nó vui lòng cha. Một ngày kia người cha, không phải là không biết rằng tại sao, mặc dầu có lệnh của ông, các người đầy tớ cũng không cho những người ở xa biết tư tưởng của ông: vì trong sự kiêu căng của chúng, chúng cho là những người con này ở bên dưới chúng và chúng không yêu họ chỉ vì họ không ở chung với cha, và ông muốn tụ họp tất cả con cái ông. Vậy các con có nghĩ rằng ông sẽ xét đoán theo lề luật loài người, bằng cách chỉ phát của cải cho những người luôn luôn ở trong nhà hay rất ít đi xa, nên không bị ngăn trở để biết các mệnh lệnh và ước muốn của ông không? Không. Trái lại, ông xét đoán hoàn toàn khác. Quan sát các hành động của các kẻ công chính vì tình yêu đối với cha mà họ chỉ biết tên, nhưng họ tôn kính ông bằng tất cả hành động của họ, ông gọi họ đến bên ông và nói với họ: “Các con được công gấp đôi vì đã công chính, vì các con như vậy chỉ nhờ vào ý muốn của các con, và không có sự giúp đỡ. Hãy đến vây quanh cha, các con rất có quyền. Những người trước luôn luôn có cha, và mọi hành động của họ đều được chỉnh đốn bởi lời khuyên của cha, và được thưởng bởi nụ cười của cha. Các con thì các con đã phải hành động một mình, chỉ bởi đức tin và tình yêu. Hãy đến, vì chỗ của các con đã sẵn sàng ở trong nhà cha, và nó sẵn sàng từ lâu rồi. Và trước mắt cha, sự khác biệt không phải là vì đã luôn luôn ở nhà hay ở xa, nhưng là các hành động mà các con cha đã hoàn thành lúc ở gần cũng như ở xa cha”.
Đó là dụ ngôn, và đây là sự giải thích: các luật sĩ hay các pharisiêu
316
là những kẻ sống ở chung quanh Đền Thờ, cũng có thể không được ở trong nhà Thiên Chúa vào ngày vĩnh cửu, và nhiều người ở xa, chỉ biết về Thiên Chúa một cách giản lược, có thể lúc đó lại ở trong lòng Người. Chính ý muốn của con người hướng về sự vâng lời Thiên Chúa là cái ban Nước Trời cho họ, chứ không phải những đống thực hành và thông biết.
Vậy hãy làm những điều mà Thầy cắt nghĩa ngày hôm qua. Hãy làm, đừng sợ, vì sự sợ hãi qúa đáng làm tê liệt. Hãy làm, đừng kể đến như vậy để khỏi bị phạt. Hãy làm chỉ vì tình yêu đối với Thiên Chúa là đấng đã tạo dựng nên các con để yêu các con và để được các con yêu, và các con sẽ có một chỗ trong nhà Cha.
- Ôi! Xin Thầy nói với chúng con nữa đi!
- Thầy phải nói gì với các con?
- Hôm qua Thầy đã nói rằng có những hy sinh làm vui lòng Thiên Chúa hơn chiên và dê, và có những bệnh cùi đáng xấu hổ hơn là bệnh cùi của thân xác. Con không hiểu tư tưởng của Thầy - một người mục đồng nói, và ông kết thúc: “Trước khi một con chiên được một tuổi, người ta kháng cự mọi cám dỗ, và nếu người ta săn sóc nó, người ta quyến luyến nó, viên ngọc của bầy. Thầy biết phải hy sinh lớn chừng nào để giết nó, không lợi dụng nó, với bao đau đớn không? Có thể nào có một hy sinh lớn hơn để dâng cho Chúa không?”
- Ông ơi, Thầy nói với ông: Thực ra của lễ hy sinh không ở trong con vật bị giết, mà là ở trong sự cố gắng ông đã làm khi giữ nó để giết. Thực vậy, Thầy nói với các con: sắp sửa đến ngày mà, giống như lời được linh ứng, Thiên Chúa sẽ nói: “Ta không cần các chiên dê làm của hy sinh”, và Người sẽ đòi hỏi một của hy sinh duy nhất và trọn hảo, và kể từ giờ đó, mọi lễ hy sinh sẽ là thiêng liêng. Đã từ bao thế kỷ, người ta đã nói về lễ hy sinh mà Thiên Chúa thích: Đavít đã kêu lên trong nước mắt: “Nếu Chúa muốn một lễ hy sinh thì con đã dâng cho Chúa, nhưng các lễ toàn thiêu không đẹp lòng Chúa. Lễ hy sinh dâng cho Thiên Chúa là tâm hồn sám hối (và Thầy, Thầy thêm vào: vâng lời và yêu mến, vì người ta cũng có thể
317
làm trọn lễ hy sinh bằng lời ngợi khen, bằng niềm vui và tình yêu, chứ không phải chỉ có đền tội). Lễ hy sinh dâng cho Thiên Chúa là tấm lòng tan nát, là con tim thống hối và khiêm nhường. Ôi Thiên Chúa! Ngài không khinh chê nó”. Không, Cha các con, Người không khinh bỉ tấm lòng đã phạm tội mà biết khiêm nhường, vậy Người sẽ đón nhận lễ hy sinh của con tim trong sạch, công chính và yêu mến Người thế nào? Đây là lễ hy sinh làm vui lòng Người nhất:
Hàng ngày, ta hy sinh ý muốn loài người của ta vì ý muốn của Thiên Chúa, được biểu lộ ra trong lề luật, trong những ơn soi sáng
và các biến cố mỗi ngày. Cũng giống vậy, không phải bệnh cùi
trong thân xác, cái trục xuất ta ra khỏi mắt loài người và các nơi cầu nguyện, là cái đáng xấu hổ nhất, mà là bệnh cùi của tội lỗi. Thực tình nó đi qua mà con người không biết. Nhưng các con sống cho loài người hay cho Chúa? Có phải tất cả đều chấm dứt ở đây hay nó còn tiếp tục ở đời sống bên kia? Các con biết rồi. Vậy hãy thánh thiện để đừng bị cùi trước mắt Thiên Chúa là đấng nhìn thấy lòng mọi người. Và hãy giữ linh hồn luôn luôn trong sạch để được sống đời đời.
- Vậy nếu ai đã phạm tội rất nhiều?
- Thì nó đừng bắt chước Cain, nó đừng bắt chước Ađam và Evà, nhưng nó hãy chạy đến chân Thiên Chúa. Và với sự sám hối chân thành, nó hãy cầu xin tình thương của Người. Một bệnh nhân, một kẻ bị thương thì đến với Thầy thuốc để được chữa. Kẻ có tội hãy đến với Thiên Chúa để được sự tha thứ của Người. Thầy...
- Thầy ở đây à? - một người đang lên đường dốc kêu lên. Ông ta bọc kín mình trong áo choàng, giữa những người khác.
Giêsu quay lại để nhìn ông.
- Ông không nhận ra tôi sao? Tôi là rabbi Sađốc. Thỉnh thoảng chúng ta lại gặp nhau.
- Thế giới luôn luôn nhỏ bé khi Thiên Chúa muốn hai người gặp nhau. Rabbi ơi, chúng ta sẽ còn gặp nhau nữa. Trong khi chờ đợi thì nguyện bình an ở với ông.
Ông kia không đáp lễ lời chào bình an, nhưng ông hỏi: “Ông làm
318
gì ở đây?”
- Điều mà ông sắp làm thì tôi đã làm. Ngọn núi này không phải là nơi thánh đối với ông sao?
- Ông đã nói đúng. Và tôi tới với các môn đệ tôi. Nhưng tôi, tôi là một luật sĩ.
- Và tôi, tôi là con trai Lề Luật. Vậy tôi tôn kính Môise cũng như ông tôn kính Người.
- Đó là lời nói dối. Ông hủy bỏ lời ông ta bằng lời của ông, và ông đòi hỏi người ta vâng lời ông chứ không vâng lời chúng tôi nữa.
- Vâng lời các ông, không. Sự vâng lời đối với các ông không cần thiết...
- Nó không cần thiết sao? Dễ sợ!
- Không, nó không cần thiết hơn những thứ ở trên y phục của ông để giữ cho ông có vẻ mùa thu, những thứ tua và giải băng bay phất phới nhiều vô kể trang điểm cho y phục của ông. Chính y phục của ông là cái bảo vệ cho ông. Một số rất nhiều lời mà người ta giảng dạy cũng thế. Tôi, tôi chấp nhận những lời cần thiết và thánh, các lời của Môise, và tôi không lo các chuyện khác.
- Quân Samari! Ông không tin các tiên tri sao?
- Các ông cũng không tin các tiên tri và không giữ lời các đấng. Nếu các ông giữ thì các ông đã không gọi tôi là quân Samari.
- Nhưng kệ hắn ta đi Sađốc. Ông muốn nói với thằng qủi sao? - một người hành hương khác nói với ông ta khi đến nơi cùng với những người khác. Ông liếc cái nhìn khe khắt trên nhóm người vây quanh Giêsu, ông thấy Judas Kêriot, ông chào Judas cách chế nhạo.
Có lẽ sẽ xảy ra chuyện bất bình vì các người dân làng muốn bảo vệ Giêsu. Nhưng đây, vừa la hét vừa phăng ra một lối đi, người đàn ông xứ Pêtra với một đầy tớ theo sau. Ông ta và người đầy tớ, mỗi người ôm trong tay một đứa trẻ: “Hãy để cho tôi qua! Lạy Chúa! Con đã làm Ngài chờ qúa lâu!”
- Không đâu ông ơi. Hãy đến với Thầy.
Người ta rẽ ra để cho ông đi qua. Ông đến với Giêsu và qùi gối
319
để đặt xuống đất một bé gái mà đầu cuốn đầy băng. Người đầy tớ bắt chước ông để đặt xuống đất một bé trai mù mắt.
- Lạy Thầy và Chúa! Đây là các con con! - Trong câu nói vắn tắt này, tất cả sự đau đớn và hy vọng của một người cha đều rung lên.
- Ông ơi, ông có rất nhiều đức tin. Nhưng nếu Thầy làm ông thất vọng? Nếu ông không tìm thấy Thầy? Nếu Thầy nói với ông là Thầy không thể chữa?
- Con sẽ không tin câu nói đó của Thầy. Kể cả con không tin vào sự tỏ tường là con không gặp Thầy. Con sẽ nói rằng Thầy núp đi để thử đức tin của con, và con sẽ tìm Thầy cho tới khi con tìm được Thầy.
- Vậy còn đoàn du mục và lợi tức của ông?
- Những thứ đó? Chúng là gì so với Thầy là đấng có thể chữa cho các con của con, và cho con một đức tin vững chắc vào Thầy?
- Hãy gỡ băng trên mặt đứa bé gái ra - Giêsu ra lệnh.
- Con giữ nó bịt kín, vì nó bị đau bởi ánh sáng.
- Chỉ phải đau một lát thôi - Giêsu nói.
Nhưng đứa bé bắt đầu khóc một cách tuyệt vọng và không muốn cho người ta dỡ băng ra.
- Là vì nó nghĩ rằng Thầy sắp hành hạ nó bằng lửa, giống như các thầy thuốc - Người cha giải thích, và ông vùng vẫy với các bàn tay nhỏ của đứa bé để gỡ lớp băng ở ngoài.
- Ôi! Con gái nhỏ! Đừng sợ. Con tên gì?
Đứa bé khóc và không trả lời. Người cha trả lời thay cho nó: “Tamar, tên của nơi nó sinh ra. Còn đứa con trai là Fara”.
- Đừng khóc, Tamar. Thầy không làm đau cho con đâu. Con rờ bàn tay Thầy đây, Thầy không cầm gì trong tay cả. Hãy đến trên đầu gối Thầy. Trong khi chờ đợi, Thầy sẽ chữa cho anh con, và anh con sẽ nói cho con điều nó cảm thấy.
Người đầy tớ đẩy lại gần đầu gối Giêsu, đứa bé trai mù tội nghiệp, mắt bị hư vì chứng đau mắt hột. Giêsu vuốt đầu tóc nó và hỏi:
- Con biết Thầy là ai không?
- Giêsu Nazarét, vị rabbi Israel, Con Thiên Chúa.
320
- Con có muốn tin vào Thầy không?
- Có.
Giêsu đặt bàn tay Người trên mắt nó, che đi hơn một nửa khuôn mặt. Người nói: “Ta muốn. Nguyện cho ánh sáng của đồng tử mắt mở ra cho con con đường tới ánh sáng đức tin”. Rồi Người bỏ tay ra.
Đứa trẻ kêu lên một tiếng, rờ tay lên mắt, rồi nó nói: “Ba ơi, con thấy!” Nhưng nó không chạy lại với cha nó. Trong sự hồn nhiên của đứa trẻ, nó bám chặt vào cổ Giêsu, hôn lên má Người và giữ yên như vậy, tay bám cổ Giêsu, cái đầu nhỏ tì trên vai Người để con ngươi của nó làm quen với ánh sáng mặt trời.
Đám đông kêu hô lên phép lạ, trong khi cha đứa bé rất muốn gỡ nó khỏi cổ Giêsu.
- Để kệ nó. Nó không làm phiền Thầy. Chỉ có điều, Fara, hãy nói cho em gái con điều Thầy đã làm cho con.
- Tamar ơi, một cái vuốt ve giống như tay má. Ôi! Em cũng hãy được khỏi, và chúng ta lại chơi với nhau!
Đứa bé gái còn hơi ngập ngừng khi để cho người ta đặt nó lên đầu gối Giêsu. Người muốn chữa nó không cần đụng tới vải băng. Nhưng các luật sĩ và đồng bọn của họ la lên: “Đó là một mánh lới, đứa bé nhìn thấy. Một trò được dựng lên để lạm dụng lòng tin tốt của qúi vị đó, hỡi các người dân ở đây”.
- Con gái tôi bệnh. Tôi...
- Để kệ họ. Bây giờ con, Tamar, hãy tử tế để cho Thầy gỡ vải băng ra cho con.
Đứa bé chịu nhận để cho làm. Quang cảnh hãi hùng hiện ra khi dỡ tới lớp băng sau cùng! Hai vết thương đỏ, đóng cục, sưng phồng tại chỗ hai con mắt mà từ đó mủ và nước mắt chảy ra. Người ta rì rào ghê sợ và thương xót, trong khi con bé lấy hai bàn tay nhỏ của nó để lên vầng trán đỏ vì những vết mới đốt, để che ánh sáng chắc làm cho nó đau ghê gớm.
Giêsu gỡ hai bàn tay nhỏ ra. Người hơi phớt nhẹ lên sự hư hỏng này bằng cách áp tay Người lên đó và nói: “Lạy Cha là Đấng đã
321
tạo ra ánh sáng cho niềm vui của các sinh vật, và đã ban con ngươi mắt cho cả con ruồi nhỏ, xin Cha trả lại ánh sáng cho tạo vật nhỏ này là tạo vật của Cha, để nó thấy Cha và tin vào Cha. Và nguyện cho từ ánh sáng của trái đất, nó được vào trong ánh sáng của nước Cha, nhờ đức tin.” và Người bỏ tay ra.
- Ôi! - mọi người đều kêu lên.
Không còn vết thương, nhưng con bé vẫn nhắm mắt.
- Tamar, mở mắt ra đi, đừng sợ. Ánh sáng không làm đau cho con đâu.
Đứa bé vâng lời, hơi e sợ, và khi mở mu mắt ra, nó để lộ hai con mắt đen rất linh động.
- Ba ơi, con nhìn thấy ba! - và nó cũng tựa đầu vào vai Giêsu để từ từ làm quen với ánh sáng.
Đám đông rất cảm động, trong khi người xứ Pêtra qùi dưới chân Giêsu, nức nở khóc vì mừng.
- Đức tin của con đã được thưởng. Từ giờ trở đi, nguyẹn cho sự biết ơn của con mang niềm tin của con nơi Con Người tới một lãnh vực cao hơn: niềm tin vào Thiên Chúa thực. Hãy đứng dậy và chúng ta đi.
Giêsu để con bé xuống đất. Nó mỉm cười sung sướng, và Người rời đứa bé trai ra khi đứng dậy. Người lại vuốt ve chúng nữa, và muốn lách ra khỏi đám đông những người túm lại chung quanh Người để coi những con mắt được khỏi.
- Ông cũng phải xin chữa cho đôi mắt mờ của ông đi - một môn đệ nói với một ông gìa mà người ta cầm tay để dắt đi, vì mắt ông rất mờ.
- Tôi à?! Tôi à?! Tôi không muốn ánh sáng của một thằng qủi. Trái lại, tôi kêu tới Ngài, ôi Thiên Chúa hằng hữu! Xin nghe tôi. Hãy để cho tôi những tăm tối tuyệt đối, nhưng đừng để cho tôi thấy mặt ma qủi, tên ma qủi này, tên lộng ngôn này, tên chiếm vị này, tên phạm thánh này, tên giết Chúa này! Cầu cho bóng tối phủ lên mắt tôi mãi mãi. Bóng tối, bóng tối, để không thấy. Không bao giờ! Không bao giờ! Không bao giờ!” Người ta nói ông ta là thằng qủi.
322
Trong cơn kích động cực độ của ông, ông đập vào hai tròng mắt, tựa như ông muốn làm nổ tung đôi mắt của ông.
- Đừng sợ. Ông sẽ không thấy tôi. Sự Tối Tăm không muốn Ánh Sáng, và Ánh Sáng không ép buộc kẻ xua đuổi nó. Tôi đi đây ông gìa. Ông sẽ không thấy tôi nữa trên trái đất, nhưng dù sao ông cũng sẽ thấy tôi ở nơi khác.
Và Giêsu, với sự chán nản trong bước chân đặc biệt nơi những người cao lớn, hơi cúi về phía trước, Người bắt đầu xuống dốc. Người u sầu tới nỗi trông người đã giống như kẻ bị kết án đang xuống dốc núi Moriah dưới sức nặng của cây Thập Gía... và các tiếng kêu của kẻ thù, được kích thích bởi ông gìa giận dữ, nghe giống như tiếng kêu của đám đông tại Jêrusalem ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Người xứ Pêtra đau đớn, với đứa con gái của ông khóc vì sợ ở trong tay ông, ông thì thầm: “Chúa ơi, vì con, tại con. Thầy, biết bao tình yêu cho con, và con cho Thầy. Con để trong lều trên con lạc đà những thứ dành cho Thầy, nhưng nó là gì ở bên cạnh những nguyền rủa mà con đã gây ra cho Thầy. Con xấu hổ đã đến với Thầy...”
- Không, ông ơi... đó là bánh cay đắng của Thầy mỗi ngày, và con là mật ong làm cho nó dịu lại. Luôn luôn có nhiều bánh hơn là mật ong, nhưng chỉ cần một giọt mật ong là làm dịu được nhiều bánh.
- Thầy nhân từ... Nhưng ít nhất hãy nói cho con, con phải làm gì để chữa những vết thương này?
- Hãy giữ lòng tin nơi Thầy. Lúc này thì làm như con có thể, và bao nhiêu tùy con có thể. Chỉ ít lâu nữa... Ừ, các môn đệ Thầy sẽ tới tận Pêtra và xa hơn nữa. Lúc đó hãy theo giáo lý của họ, vì Thầy nói ở trong họ. Lúc này con hãy nói với những người Pêtra về những gì Thầy đã làm cho con. Như vậy, khi những người ở chung quanh Thầy đây và những người khác nữa sẽ đến nhân danh Thầy, thì danh Thầy không còn bị lạ lẫm đối với họ.
Ở cuối dốc, trên con đường Rôma, có ba con lạc đà đã dừng ở đó. Một con chỉ có cái yên, hai con kia có mang cái kiệu. Một
323
người đầy tớ canh chừng chúng.
Người đàn ông vào một trong hai chiếc kiệu và lấy ra những gói. Ông nói khi biếu cho Giêsu: “Đây, nó sẽ hữu ích cho Thầy. Đừng cám ơn con. Chính con phải chúc tụng Thầy vì điều Thầy đã làm cho con. Nếu Thầy đã có thể làm như vậy cho một người không cắt bì, thì xin Thầy cũng chúc lành cho con cùng với các con con. Ôi lạy Chúa!” Và ông qùi gối cùng với hai đứa trẻ. Các đầy tớ cũng bắt chước.
Giêsu giơ tay, ngước mắt lên trời và cầu nguyện nhỏ tiếng.
- Đi đi. Hãy sống công chính và con sẽ tìm được Thiên Chúa trên đường của con, và con sẽ theo Người và không mất Người nữa. Chào Tamar, chào Fara! - và Người vuốt ve chúng trước khi mỗi đứa lên một con lạc đà với người đầy tớ.
Các con vật đứng dậy với tiếng kêu crrr, crrr của người chăn lạc đà, và họ quay để đi nước kiệu bởi con đường dẫn về hướng nam. Hai bàn tay nâu nhỏ ló ra khỏi cái màn che, và người ta nghe hai giọng nói trẻ con: “Chào Chúa Giêsu! Chào ba!”
Đến lượt người đàn ông sắp trèo lên. Ông cúi mình tới sát đất và ông hôn gấu áo Giêsu, rồi ông lên yên và đi về hướng bắc.
- Bây giờ chúng ta đi - Giêsu nói khi đến lượt Người cũng hướng về phương bắc.
- Thế nào? Thầy không tới nơi Thầy muốn à? - các tông đồ hỏi.
- Không. Chúng ta không thể đi được nữa!... Tiếng nói thế giới có lý!... và như vậy bởi vì thế giới qủi quyệt, và nó biết những công việc của ma qủi... Chúng ta đi Jêricô.
Giêsu buồn biết bao!... Tất cả đi theo Người, mang vác những gói mà người đàn ông đã cho. Họ bị đè nặng và câm nín...
198* GIÊSU CỦNG CỐ CHO CÁC
TÔNG ĐỒ CỦA NGƯỜI
Khúc sông cạn tại Bêtabara vừa được băng qua. Nhìn qua bề
324
rộng của dòng sông xanh, đã khá lớn, vì nó được cấp nước bởi các chi lưu đầy nhờ các trận mưa thu, người ta thấy ở bờ bên kia, bờ phía đông, một nhóm người đang khua chân múa tay. Trên bờ phía tây, nơi Giêsu đang ở với các người của Ngài, thì trái lại, chỉ có một người mục đồng với đoàn vật của ông đang gặm cỏ ở bờ sông.
Phêrô ngồi phịch xuống trên mấy mảnh còn lại của bức tường nhỏ ở chỗ đó, chẳng buồn lau đôi chân ướt vì lội qua nước. Vào mùa này người ta đi qua bằng thuyền, và để không bị đụng vào lòng sông cạn, người ta chèo nó ở chỗ sâu hơn. Họ dừng lại để cho khách lên bờ ở chỗ sống thuyền cà vào lớp cỏ bị ngập. Như vậy khi lên bờ, khách phải lội nước mấy bước.
- Anh làm sao vậy? Anh cảm thấy khó chịu à? - người ta hỏi ông.
- Không. Nhưng tôi không chịu nổi nữa. Trên Nêbo, cái hung hăng đó, và trước đó tại Hesbon, và trước đó tại Jêrusalem, và trước đó tại Caphanaum, và lúc sau Nêbo, tại Calliroê, và bây giờ tại Bêtabara... Ôi!... - ông lấy hai bàn tay ôm đầu và ông khóc.
- Simon, đừng chán nản. Đừng làm Thầy cũng khổ vì sự thiếu can đảm của con, của các con - Giêsu nói khi lại gần ông và đặt tay Người trên cái áo mầu xám nặng bao bọc thân mình vị tông đồ.
- Con không thể, con không thể thấy! Con không thể thấy Thầy bị ngược đãi như vầy! Nếu Thầy để con hành động... có lẽ con đã có thể. Nhưng như vầy, con phải nén chịu... và tham dự vào sự chửi rủa của chúng, vào sự đau khổ của Thầy, giống như một đứa trẻ bất lực... Ôi! Cái đó làm con tan nát nội tâm, và con trở thành miếng giẻ rách... Nhưng các anh nhìn coi, có thể thấy Người như vậy không! Giống như người bệnh, một người đang chết vì sốt... giống như kẻ có tội bị theo dõi, không thể tìm được chỗ nào để dừng lại mà ăn một miếng bánh, để uống một ngụm, để tìm một viên đá tựa đầu! Con linh cẩu ở Nêbo! Các con rắn ở Calliroê! Cái tên điên vẫn còn ở đó! (và ông chỉ tay về phía bờ bên kia). Cái tên ở Calliroê còn hơi bớt ma qủi hơn, mặc dầu nó là đứa thứ hai mà Thầy nói là bị Benzêbut thống trị. Con, con sợ những người bị ám. Con nghĩ rằng nếu Satan đã nhập vào họ như vậy thì chắc họ phải rất xấu. Nhưng...
325
người ta có thể ngã mà không có ý. Trái lại, những kẻ không bị ám mà hành động như họ, với tất cả tự do và lý luận!... Ôi! Thầy sẽ không bao giờ thắng họ đâu, bởi vì Thầy không muốn phạt họ! Và họ, họ sẽ thắng Thầy... - Và nước mắt của vị tông đồ trung thành, đã hơi cạn đi dưới ngọn lửa tức giận, lại chảy ra mạnh mẽ.
- Phêrô của Thầy, con tin rằng họ không bị ám sao? Con nghĩ rằng bị ám thì phải giống như cái người ở Calliroê và các người khác mà chúng ta đã gặp sao? Con nghĩ rằng việc bị ám chỉ bộc lộ bởi các tiếng kêu rối loạn, những cái nhảy, những giận dữ qúa mức, với thói quen sống trong hang hốc, chứng câm, chứng tê bại tứ chi, chứng mất lý luận, đến nỗi kẻ bị ám hành động một cách vô tri sao? Không, cũng có những sự bị ám khác, đúng hơn là những thứ bị chiếm hữu khác, tinh quái hơn, mạnh mẽ hơn, và nguy hiểm hơn, vì nó không gây phiền phức, không làm yếu liệt lý trí để ngăn cản nó làm điều tốt, mà trái lại, nó làm lý trí phát triển, gia tăng nó để nó mạnh mẽ mà phục vụ cho kẻ chiếm hữu nó. Thiên Chúa, khi Người chiếm hữu một tâm hồn để phục vụ cho Người, thì trong những giờ nó phục vụ Người, Người chuyền vào cho nó một sự thông sáng siêu nhiên, làm gia tăng rất nhiều sự thông minh tự nhiên của nó. Ví dụ các con nghĩ rằng Isaie hoặc Êzêkiel hay Daniel và các tiên tri khác, nếu họ phải đọc và giải thích các lời tiên tri này tựa như nó được viết bởi những người khác, thì họ sẽ không thấy những chỗ tối không thể giải thích mà các người đương thời thấy ở đó sao? Tuy nhiên Thầy bảo các con rằng trong khi họ đón nhận chúng thì họ hiểu rất hoàn toàn. Con nhìn đây Simon, chúng ta hãy coi bông hoa này, mọc bên chân con. Trong chỗ tối này, con thấy gì ở chung quanh tràng hoa? Không có gì. Con chỉ thấy một cái cúp sâu và một cái miệng nhỏ, không còn gì hơn. Bây giờ hãy nhìn nó trong khi Thầy hái nó và thầy mang lại đây, dưới ánh sáng mặt trời. Con nhìn thấy gì?
- Con nhìn thấy những bầu nhị cái. Con thấy phấn hoa và một vòng lông tơ nhỏ giống như lông mi chung quanh bầu nhị cái, và một giải đầy những tiêm mao trang điểm cho cánh hoa to và hai cánh hoa nhỏ... và con thấy một hạt sương nhỏ ở đáy cúp... và... Ôi!
326
Đó, một con ruồi nhỏ đã chui vào bên trong để uống, và nó bị dính vào các lông tơ có tiêm mao, và nó không ra được nữa... Nhưng vậy là... cho coi rõ hơn đi! Ôi, các lông tơ như có mật, chúng dính... Con hiểu! Thiên Chúa đã làm ra như vậy để cho các cây nhỏ có đồ ăn, hay để các con chim có đồ ăn khi chúng đến mổ các con bọ, hoăc để không khí đào thải chúng... Kỳ công chừng nào!
- Nhưng nếu không có sức mạnh của ánh sáng mặt trời thì con không thể thấy gì.
- Hé! Không.
- Cũng giống vậy trong sự chiếm hữu của Thiên Chúa. Tạo vật, tự mình nó, chỉ việc áp dụng thiện chí của nó để yêu Thiên Chúa của nó cách hoàn toàn, phó thác cho ý muốn của Người, thi hành các nhân đức và chế ngự các đam mê, nó thấy mình được hút vào trong Thiên Chúa, vào trong ánh sáng là Thiên Chúa, trong sự khôn ngoan là Thiên Chúa. Nó thấy và hiểu hết. Rồi khi hành động tuyệt đối đã chấm dứt, tạo vật tiếp tục nơi nó tình trạng mà nó đã được nhận, bằng cách biến nó thành kỷ luật của đời sống và thành sự thánh hóa, nhưng nó lại trở nên mờ tối, đúng hơn là những gì trước đó sáng tỏ, lại trở thành hoàng hôn. Ma qủi là đứa liên tục bắt chước Thiên Chúa, cũng tạo ra một ảnh hưởng tương tự, mặc dầu có hạn, vì chỉ có Thiên Chúa là vô hạn, nơi những kẻ bị chiếm hữu trong tâm hồn, nơi những kẻ nó chiếm hữu, những kẻ tự nhiên phó mình cho nó để thắng đối phương. Nó thông cho họ một sự thông hiểu cao hơn, nhưng chỉ hoàn toàn hướng về điều ác để làm hại, để xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân. Như vậy hành động của Satan ở trong tâm hồn đồng lõa với nó là liên tục, và bởi thế, nó dẫn tới sự hiểu biết hoàn toàn về điều ác. Đó là những sự chiếm hữu xấu nhất. Nó không có gì tỏ lộ ra bên ngoài nên người ta không chạy trốn. Nhưng nó hiện hữu. Như Thầy đã nói nhiều lần: Con Người sẽ bị giết bởi những kẻ bị ám kiểu này.
- Nhưng Thiên Chúa không thể đánh phạt hỏa ngục sao? - Philíp hỏi.
- Người có thể. Người là kẻ mạnh nhất.
327
- Vậy tại sao Người không làm để bảo vệ Thầy?
- Các lý do của Thiên Chúa sẽ được biết ở trên trời. Chúng ta đi, hãy ra khỏi sự nặng nề của các con.
Người mục đồng đã nghe mà có vẻ như không nghe gì, ông hỏi: “Thầy có chỗ nào để đi không? Có ai chờ Thầy không?”
- Không ông ơi. Thầy phải đi tới bên ngoài Jêricô, nhưng không có ai chờ Thầy.
- Rabbi ơi, Thầy qúa mệt rồi?
- Mệt, đúng. Người ta không cho chúng ta chỗ trọ cũng như trạm nghỉ từ Nêbo tới đây.
- Vậy... con muốn thưa Thầy... Con ở gần Bétagla cổ... Con có người cha mù và con không thể đi xa để không phải bỏ ông lại trong từng tuần trăng. Nhưng con khổ trong lòng và đoàn vật cũng khổ. Nếu Thầy muốn... Con sẽ hiến cho Thầy chỗ ở. Không xa đâu. Ông già tin ở Thầy biết bao! Giuse, con của Giuse, môn đệ Thầy, biết điều đó.
- Chúng ta đi.
Người đàn ông không đợi nói hai lần. Ông thu thập đoàn vật và lùa chúng về ngôi làng ở phía tây bắc chỗ các vị đang ở. Giêsu theo sau đoàn vật với các người của Ngài. Sau một lúc, Iscariot hỏi: “Thưa Thầy, ở Bétagla chắc chắn không có người nào có thể mua các tặng vật của ông đó...”
- Khi chúng ta đi Jêricô để tới nhà Nique, chúng ta sẽ bán nó.
- Là vì... người này, ông ta nghèo, phải bồi thường, mà con không có đồng xu nào.
- Chúng ta có một số lượng thực phẩm lớn, có đủ cả cho vài người hành khất. Lúc này thì không cần gì hơn.
- Như Thầy muốn. Nhưng tốt hơn là Thầy cho con đi trước. Con có thể...
- Điều đó không cần.
- Thưa Thầy, đó là sự bất tín nhiệm! Tại sao Thầy không sai chúng con đi như hồi trước, từng hai người một?
- Bởi vì Thầy yêu các con và Thầy nghĩ đến điều tốt cho các
328
con.
- Đâu phải là tốt khi Thầy giữ chúng con không cho ai biết tới. Người ta sẽ nghĩ rằng chúng con bất xứng, bất lực... Đã có lần Thầy để cho chúng con đi. Chúng con đã rao giảng, đã làm phép lạ. Chúng con đã được biết tới...
- Con ân hận vì không làm như vậy nữa sao? Con thấy tốt cho con để đi không có Thầy sao? Chỉ có mình con là phàn nàn vì không được đi một mình... Judas!...
- Thưa Thầy, Thầy biết là con có yêu Thầy không! - Judas nói cách bảo đảm.
- Thầy biết, và Thầy giữ con ở bên Thầy để tâm hồn con không hư hỏng... Con là kẻ nhận và phân phát, là kẻ bán hoặc trao đổi cho những người nghèo. Như vậy là đủ rồi, là qúa rồi. Hãy quan sát các bạn con: không ai xin điều con xin cả.
- Nhưng Thầy đã chấp nhận cho các môn đệ... Sự khác nhau này là bất công.
- Judas, chỉ mình con nói là Thầy bất công... nhưng Thầy tha cho con. Hãy đi lên phía trước và bảo Andrê lại với Thầy.
Giêsu chậm bước lại để chờ Andrê và nói riêng với ông. Tôi không biết Người nói gì. Tôi thấy Andrê mỉm cười với nụ cười êm đềm của ông và cúi xuống để hôn tay Thầy, rồi ông trở lên phía trước.
Giêsu ở lại một mình sau lưng mọi người... đầu cúi gằm. Người tiến bước khi lau mặt bằng góc vạt áo khoác, tựa như Người đổ mồ hôi. Nhưng đó là những giọt nước mắt chứ không phải mồ hôi, chảy trên đôi má hốc hác và tái xanh.
199* BÀ VỢ CỦA NGƯỜI PHÁI SADDU,
PHÁP SƯ CHIÊU HỒN
Vẫn còn là Giêsu không biết mệt đi trên các con đường của Palestin. Dòng sông ở bên phải Người, và Người đi cùng chiều với
329
dòng nước đẹp mầu xanh lơ, lóng lánh tại những nơi nó nhận được cái hôn của mặt trời. Nó có mầu ve-lơ ở gần bờ sông, nơi bóng của cây xanh phản chiếu với mầu ve đậm của nó.
Giêsu ở giữa các môn đệ của Người. Tôi nghe Batôlômêo hỏi: “Vậy thực tình chúng ta đi Jêricô sao? Thầy không sợ cạm bẫy à?”
- Thầy không sợ. Thầy đã đi Jêrusalem dịp lễ Vượt Qua bằng một đường khác, và họ thất vọng, vì không còn biết phải bắt Thầy ở đâu để không lôi kéo sự chú ý của đám đông. Batôlômêo, hãy tin rằng đối với Thầy, các thành phố đông dân ít nguy hiểm hơn các lối đi tách biệt. Dân chúng tốt và chân thành, nhưng họ cũng cuồng nhiệt, họ sẽ nổi dậy nếu người ta bắt Thầy khi Thầy đang ở giữa họ để giảng dạy và chữa bệnh. Loài rắn làm việc ở nơi cô tịch và trong bóng tối. Lại nữa... Thầy còn ngày hôm nay và ngày hôm nay và ngày hôm nay nữa để làm việc. Rồi... Sẽ đến giờ của ma qủi và các con sẽ mất Thầy, để sau đó lại tìm được Thầy. Hãy tin vậy. Và hãy biết tin khi các biến cố dường như cải chính lời Thầy hơn bao giờ hết.
Các tông đồ thở dài, buồn rầu nhìn Người với tình yêu và đau đớn. Gioan để thoát ra một tiếng rên: “Không!” Và Phêrô, với đôi tay ngắn và lực lưỡng, ôm ghì lấy Người như để bảo vệ Người, và ông nói: “Ôi! Chúa và Thầy của con!” Ông không nói gì hơn, nhưng đã có biết bao điều trong những lời này.
- Như vậy đó các bạn. Chính vì vậy nên Thầy đã đến. Các con hãy mạnh mẽ. Các con hãy coi Thầy tiến bước cách vững chắc chừng nào tới đích của Thầy, giống như một người đi tới mặt trời và mỉm cười khi mặt trời hôn lên trán họ. Sự hy sinh của Thầy sẽ là mặt trời cho thế giới. Ánh Sáng của Ân Sủng sẽ xuống trên các con tim. Sự bình an với Thiên Chúa sẽ làm cho họ sinh hoa trái. Các công nghiệp do sự tử đạo của Thầy sẽ làm cho loài người có khả năng chiếm được Nước Trời. Và Thầy muốn gì, nếu không phải là những điều này, để đặt bàn tay các con trong bàn tay Thiên Chúa, Cha Thầy và Cha các con, và nói: “Đây, con dẫn những đứa con này về cho Cha. Ôi Cha ơi! Xin hãy nhìn: chúng trong sạch, chúng
330
có thể trở về với Cha”, để thấy các con chen chúc trong lòng Người và nói: “Sau cùng, các con hãy yêu nhau. Các con đã lo lắng điều đó, bởi vì tại một người mà những người khác đã lo lắng và đau khổ vì không thể yêu nhau cách sâu xa”. Đó là niềm vui của Thầy. Và mỗi ngày Thầy mỗi tới gần sự hoàn thành việc trở về này, việc tha thứ này, việc hợp nhất này. Nó gia tăng nỗi lo âu của Thầy để tiêu thụ lễ toàn thiêu, để ban Thiên Chúa và Nước Người cho các con.
Giêsu rất trang trọng, hầu như xuất thần khi nói những lời này. Người bước rất thẳng trong y phục mầu xanh lơ của Người, với chiếc áo khoác mầu đậm hơn, đầu để trần vào giờ còn mát này của buổi sáng. Người có vẻ mỉm cười. Tôi không biết Người thấy gì trên bầu trời mầu xanh trong sáng. Mặt trời hôn trên má trái Người, làm cháy sáng hơn cái nhìn rạng rỡ của Người, và đặt những óng vàng trên bộ tóc bềnh bồng bởi gió nhẹ và bởi bước đi mạnh mẽ. Làn môi lại đỏ hồng và mở ra để mỉm cười. Dường như toàn thể dung nhan Người được soi sáng bởi niềm vui mà thực sự nó đến từ nội tâm đáng thờ lạy của Trái Tim Người, cháy bừng vì tình bác ái đối với chúng ta.
- Thưa Thầy, con có được nói một lời không? - Tôma hỏi.
- Cái gì?
- Ngày hôm kia, Thầy đã nói rằng Đấng Cứu Thế - là Thầy - sẽ có một kẻ phản bội. Làm sao một con người có thể phản bội Thầy là Con Thiên Chúa?
- Qủa vậy, một người không thể phản bội Con Thiên Chúa là Thiên Chúa như Chúa Cha. Nhưng đứa phản bội sẽ không phải là một người, đó sẽ là một thằng qủi ở trong thân xác loài người, đứa bị chiếm hữu nhất, bị ám nhất trong loài người. Maria Magđala đã có bảy qủi, nhưng kẻ bị chiếm hữu trong những ngày sau cùng sẽ bị thống trị bởi Benzêbut, ở trong nó sẽ là Benzêbut với tất cả triều thần ma qủi của nó... Ôi! Qủa rất thật là hỏa ngục sẽ ở trong qủa tim này để cho nó cái táo bạo dám bán Con Thiên Chúa cho các kẻ thù của Người, giống như bán một con chiên cho hàng thịt.
- Thưa Thầy, hiện tại người này đã bị Satan chiếm hữu rồi sao?
331
- Judas Iscariot hỏi.
- Chưa, Judas. Nhưng nó nghiêng về Satan. Nó nghiêng về phía Satan, có nghĩa là nó đặt mình trong những điều kiện để rơi vào tay Satan.
- Vậy tại sao nó không đến với Thầy để được chữa khỏi sự nghiêng chiều của nó? Nó có biết nó có như vậy không, hay là nó không biết? - Andrê hỏi.
- Nếu nó không biết thì nó không nặng tội như vậy. Nhưng vì nó biết là nó nghiêng chiều về điều ác, mà nó không cương quyết theo những giải pháp để thoát ra. Nếu nó cương quyết thì nó đã đến với Thầy... nhưng nó không đến... Thuốc độc đã ngấm, và sự kề cận với Thầy không thanh tẩy được nó, và thay vì ước ao Thầy thì nó lại trốn Thầy... Ôi! Loài người! Cái sai lầm của các con: các con chạy trốn Thầy khi các con cần Thầy hơn.
- Nhưng thỉnh thoảng nó có đến với Thầy không? Thầy có biết nó không? Và chúng con, chúng con có biết nó không?
- Mathêu ơi, Thầy biết người ta từ trước khi họ biết Thầy. Con biết nó, và họ biết nó. Chính Thầy đã gọi các con, vì Thầy biết các con.
- Nhưng chúng con biết nó không? - Mathêu nhấn mạnh.
- Chẳng lẽ các con lại không biết những kẻ đến với Thầy các con sao? Các con là bạn Thầy, và các con chia sẻ với Thầy lương thực, sự nghỉ ngơi, sự mệt nhọc. Ngay cả tới nhà của Thầy, Thầy cũng đã mở ra cho các con, căn nhà của Mẹ Thánh Thầy. Thầy dẫn các con tới đó để làn khí từ đó tỏa ra làm cho các con có thể hiểu Nước Trời với tiếng nói và các mệnh lệnh của nó. Thầy dẫn các con tới đó như một thầy thuốc dẫn bệnh nhân vừa ra khỏi một cơn bệnh tới suối nước lành mạnh, để củng cố cho nó, giúp nó thắng vượt những dư chứng còn lại của căn bệnh là cái có thể lại trở nên độc hại. Vậy các con không thể không biết bất cứ ai trong những người đến với Thầy.
- Thầy đã gặp nó ở trong thành phố nào?
- Phêrô, Phêrô!
332
- Đúng vậy Thầy. Con còn tệ hơn một đàn bà bi bô. Con xin lỗi Thầy. Nhưng đó là tình yêu, Thầy biết...
- Thầy biết. Bởi vậy Thầy bảo con rằng khuyết điểm của con không làm Thầy khó chịu, nhưng con phải chừa bỏ nó đi.
- Vâng, lạy Chúa con.
Lối đi hẹp lại, chạy giữa một rặng cây và một cái rãnh, nên nhóm người phải phân tán. Giêsu nói với chính Judas để ra lệnh cho ông về các chi tiêu và các của bố thí. Những người khác đi ở đàng sau, từng hai người một. Phêrô đi một mình ở sau cùng. Ông suy nghĩ, ông bước, đầu cúi gằm, chìm sâu trong suy tư tới nỗi ông không nhận ra rằng ông đi cách các người khác một quãng dài.
- Hé, ông! Ông có ở với vị Nazarét không? - một kỵ mã đi qua và hỏi.
- Có. Tại sao?
- Qúi vị đi Jêricô à?
- Ông muốn biết sao? Tôi, tôi không biết gì cả. Tôi đi theo Thầy nhưng tôi không hỏi. Người đi đâu là đó tốt. Đường này thì là đường đi Jêricô, nhưng chúng tôi cũng có thể tới miền Thập Tỉnh. Ai mà biết! Nếu ông muốn biết nhiều hơn thì Thầy ở đàng kia kìa - Người đó thúc ngựa và Phêrô làm ở sau lưng ông ta những nhăn mặt ngộ nghĩnh, và ông cầu nhầu: “Tôi không tin cẩn đâu, ông chúa đẹp trai của tôi! Tất cả các ông là một bầy chó. Tôi, tôi không muốn là kẻ phản bội. Tôi thề với chính mình: cái miệng này sẽ bị niêm phong”. Và ông làm một dấu hiệu trên môi ông như để khóa nó lại.
Người kỵ mã đến bên Giêsu và hỏi Người điều gì. Việc đó làm cho Phêrô đến kịp với những người khác. Khi người đó lại ra đi, ông giơ tay chào Iscariot. Không ai nhận ra điều đó, trừ Phêrô là người đến sau cùng, và ông có vẻ không tán thành cái chào này. Ông kéo tay áo Judas và hỏi: “Ai vậy? Anh biết hắn? Thế nào vậy?”
- Ngó thì biết đó là một tên giầu ở Jêrusalem.
- Anh có các bạn hữu ở cấp cao! Tốt... miễn là nó tốt. Nói cho tôi tí đi: có phải khuôn mặt cáo gìa này đã nói cho anh bao là thứ đó
333
không?...
- Những thứ gì?
- Nhưng... những thứ mà anh nói là biết về Thầy!
- Tôi à?
- Đúng, anh. Anh không nhớ cái buổi chiều toàn là nước và bùn, vào kỳ nước lũ?
- À, không! Không! Nhưng anh còn nhớ những lời đã nói trong lúc khó chịu sao?
- Tôi nghĩ tới tất cả những gì có thể làm khổ cho Giêsu: các vật, các người, các bạn, các kẻ thù... Và tôi luôn luôn sẵn sàng giữ lời hứa của tôi về việc tôi sẽ làm cho kẻ nào muốn làm khổ cho Giêsu. Chào.
Judas nhìn ông bỏ đi với thái độ kỳ lạ: có sự kinh ngạc, sự chịu đựng, sự tức giận, cả đến phải nói hơn nữa là sự thù ghét.
Phêrô lại với Giêsu và gọi Người.
- Ôi! Phêrô! Lại đây! - và Người quàng cánh tay trên vai ông.
- Tên Do Thái thô tục đó là ai vậy?
- Thô tục à Phêrô? Ông ta bảnh bao và thơm phức!
- Chính cái lương tâm của ông là cái thô tục. Hãy coi chừng, Giêsu.
- Thầy đã nói với con rằng đây không phải giờ của Thầy. Khi đến giờ của Thầy thì không một coi chừng nào có thể cứu được Thầy... nếu Thầy muốn trốn. Ngay chính những cục đá cũng sẽ la lên và sẽ trói Thầy lại nếu Thầy muốn trốn.
- Có thể... Nhưng hãy coi chừng... Thầy?
- Con có chuyện gì đó Phêrô?
- Thưa Thầy... con có một điều để nói với Thầy, và một gánh nặng trên quả tim.
- Một điều? Một gánh nặng?
- Vâng. Gánh nặng là một tội; một điều, đó là một lời khuyên.
- Hãy bắt đầu bằng cái tội.
- Thưa Thầy... con... con ghét... con ghê tởm, đó, nếu con không ghét, bởi vì Thầy không muốn người ta ghét, đối với một người
334
trong chúng con. Ông làm con thấy như ở gần một cái hang, nơi xông ra sự ghê tởm của loài rắn trong sức nóng. Và con không muốn nó xông ra như vậy để làm hại Thầy. Cái người này là một ổ rắn, và chính anh ta ở trong sức nóng với ma qủi.
- Con suy diễn nó ra từ đâu?
- Bah!... Con không biết. Con quê mùa và vô học thức, nhưng con không ngu đần. Con có thói quen đọc trong gió và mây... và con cũng giải được các con tim. Giêsu... Con sợ.
- Đừng xét đoán, Phêrô. Đừng nghi ngờ. Sự nghi ngờ tạo ra ảo tưởng, làm người ta nhìn thấy những điều không có.
- Nguyện Thiên Chúa hằng hữu canh chừng để không có chuyện gì. Nhưng con, con không chắc là không có.
- Ai vậy Phêrô?
- Judas Kêriot. Ông ta khoe khoang có bạn bè ở cấp cao, và cả ngay lúc nãy, cái tên ám muội đã chào ông như người ta chào một người quen. Trước đây ông ta không có như vậy.
- Judas là người nhận của và phân phát, ông có dịp qua lại với các người giầu. Ông ta biết làm việc đó.
- Đúng! Ông ta biết làm... Thầy ơi, nói sự thật cho con đi: Thầy không nghi ngờ sao?
- Phêrô, con thân yêu đối với Thầy vì lẽ qủa tim của con. Nhưng Thầy muốn con phải trọn lành. Kẻ không vâng lời thì đâu có trọn lành. Thầy đã bảo con: đừng xét đoán và đừng nghi ngờ.
- Nhưng trong khi chờ đợi, Thầy không nói cho con...
- Chúng ta sắp tới gần Jêricô, và chúng ta sẽ dừng lại để chờ một người đàn bà là người không thể tiếp đón chúng ta trong nhà bà...
- Tại sao? Một đàn bà tội lỗi?
- Không. Một kẻ khốn nạn. Người kỵ mã vừa rồi làm cho con lo lắng đã đến bảo Thầy chờ bà. Và Thầy sẽ chờ bà, mặc dầu Thầy biết là sẽ không làm gì được cho bà. Và con biết ai đã đặt bà, và cả người kỵ mã nữa, trên đường của Thầy không? Judas. Con thấy ông ta cũng có một lý do ngay thật để quen biết người Do Thái này.
335
Phêrô cúi đầu, nín lặng, có lẽ chưa chịu lý, và vẫn còn tò mò, nhưng ông nín lặng.
Giêsu dừng lại ở bên ngoài tường thành, mệt mỏi, Người ngồi dưới bóng một bụi rậm che mặt trời cho cái phông-ten, nơi có các con vật đang uống nước. Các môn đệ cũng ngồi để chờ. Đây hẳn là một khu phụ của thành phố, vì ngoài những con ngựa và lừa, chắc chắn là thuộc về các thương gia đang du hành, thì thấy rất ít người.
Một người đàn bà tiến bước, trùm kín trong áo khoác, hầu như che hết mặt. Chiếc voan dầy mầu đậm phủ tới nửa mặt. Có người kỵ mã lúc nãy đi với bà. Bây giờ ông ta đi bộ cùng với ba người đàn ông khác ăn mặc sang trọng.
- Chúng tôi chào Thầy.
- Bình an cho qúi vị.
- Người đàn bà đây. Hãy nghe bà nói và chấp nhận sự ước ao của bà.
- Nếu tôi có thể.
- Thầy có thể tất cả.
- Ông tin vậy à, ông saddu? - Người saddu là người kỵ mã lúc nãy.
- Tôi tin cái gì tôi thấy.
- Ông đã thấy là tôi có thể?
- Tôi đã thấy.
- Ông biết tại sao tôi có thể không? - Một yên lặng. “Tôi có thể biết ông xét đoán thế nào về việc tôi có thể không?” Lại một yên lặng.
Giêsu không lưu ý đến ông ta và các người khác nữa. Người nói với người đàn bà: “Bà muốn gì?”
- Thưa Thầy... Thưa Thầy...
- Nói đi, đừng sợ.
Người đàn bà liếc mắt nhìn xéo những người đi với bà, và họ giải thích theo kiểu của họ: “Người đàn bà này có ông chồng bị bệnh, và bà xin Thầy chữa cho ông. Đó là một người có ảnh hưởng trong triều Hêrôđê. Thầy sẽ có lợi khi nhận lời bà”.
336
- Không phải vì bà có ảnh hưởng, mà vì bà khổ sở, tôi sẽ nhận lời bà nếu tôi có thể. Tôi đã nói vậy rồi. Chồng bà làm sao? Tại sao ông ta không tới? Và tại sao bà không muốn tôi tới tìm ông?
Lại một yên lặng khác, và một cái nhìn xéo khác.
- Bà muốn nói với Thầy không nhân chứng? Lại đây - và Người lùi ra xa mấy bước. “Nói đi!”
- Thưa Thầy, con tin ở Thầy... Con tin tới nỗi con chắc chắn rằng Thầy biết hết về ông ta, về con, về đời sống khốn nạn của chúng con... Nhưng ông ta không tin... Nhưng ông ta ghét Thầy... Nhưng ông ta...
- Nhưng ông ta không thể khỏi, vì ông ta không có đức tin. Chẳng những ông ta không tin vào Thầy, mà còn không tin nơi Thiên Chúa thực.
- A! Thầy biết? - người đàn bà khóc một cách tuyệt vọng. “Đó là cái hỏa ngục, cái nhà của con: một cái hỏa ngục! Thầy trừ cho những người bị ám. Vậy Thầy biết ma qủi là gì. Nhưng thằng qủi này tinh ranh, thông minh, giả dối, học thức, Thầy biết nó không? Thầy biết nó đi tới những đồi trụy nào không? Những tội nào Thầy biết không? Thầy biết bao nhiêu hư hại nó gây ra ở chung quanh nó không? Cái nhà của con có phải là một cái nhà không? Không, đó là hỏa ngục. Ông chồng của con có phải là người chồng không? Bây giờ ông ta bệnh và ông ta không màng tới con, nhưng khi ông ta khỏe mạnh và ước ao tình yêu, ông có phải là một người đã ôm con, đã giữ con, đã chiếm hữu con không? Không. Con đã ở trong cái vòng xoắn của một thằng qủi; con đã cảm thấy hơi thở và chất nhớt của một thằng qủi. Con đã yêu nó biết bao. Con yêu nó. Con là vợ nó và nó đã lấy đi sự đồng trinh của con khi con mới chỉ lớn hơn đứa trẻ một tí: con mới vừa mười bốn tuổi. Nhưng khi con nhớ lại cái giờ đầu tiên này, và với giờ đó, con nghĩ tới những tình cảm nguyên vẹn của sự ôm ấp đầu tiên đã làm cho con thành người đàn bà, trước tiên là những gì tốt đẹp nhất trong con, rồi đến thịt và máu con. Con đã đẩy lui sự sợ hãi do nhớ tới nó đã bị ô nhơ vì phép chiêu hồn. Con thấy như đó không phải là người đàn ông của con,
337
nhưng là những người chết mà nó gọi về. Chúng ở trên con và no nê bằng con... Và ngay cả bây giờ, chỉ việc nhìn thấy nó sắp chết mà còn đắm chìm trong những trò yêu thuật này, con cảm thấy ghê tởm. Không phải con nhìn thấy nó, mà là nhìn thấy Satan! Ôi! Cái đau đớn của con nó ghê sợ chừng nào! Ngay cả khi chết, con cũng sẽ không ở với nó, vì lề luật cấm. Thầy ơi, xin Thầy cứu nó. Con xin Thầy cứu nó để nó có thời giờ mà sửa mình”. Người đàn bà khóc cách lo âu.
- Bà tội nghiệp ơi! Thầy không thể chữa ông ta được.
- Lạy Chúa, tại sao?
- Bởi vì ông ta không muốn.
- Có. Ông ta sợ chết. Có chứ, ông ta nuốn.
- Ông ta không muốn. Ông ta không phải là người điên, không phải là kẻ bị ám mà không biết tình trạng của mình, nên không xin trừ qủi vì họ không thể suy nghĩ cách tự do; ông không phải kẻ mà ý muốn bị đình chỉ. Ông ta là một người muốn như vậy. Ông biết điều ông làm là bị cấm; ông biết ông bị nguyền rủa bởi Thiên Chúa Israel, nhưng ông khăng khăng. Cho dù Thầy có chữa cho ông, bắt đầu là chữa linh hồn, rồi ông cũng sẽ trở lại sự khoái lạc Satan của ông. Ý chí của ông đã hư hỏng. Đó là kẻ phản động. Thầy không thể.
Người đàn bà khóc mạnh hơn. Những người đi với bà liền lại gần.
- Thầy không làm vui lòng bà sao?
- Tôi không thể.
- Tôi đã bảo các ông mà! Vậy lý do?
- Chính ông, người saddu, ông hỏi điều đó sao? Tôi nhắc lại cho ông Sách Các Vua. Hãy đọc điều Samuel nói với Saul, và điều Êlia nói với Ochozias. Thần trí của vị tiên tri khiển trách vua đã làm rầy rà ông bởi triệu hồi ông từ thế giới kẻ chết. Không được phép làm như vậy. Hãy đọc sách Lêvi, nếu ông không còn nhớ lời của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và là Chúa của mọi sự hiện hữu. Đấng canh giữ sự sống và canh giữ các kẻ chết. Kẻ sống kẻ chết đều ở trong
338
tay Thiên Chúa, và các ông không được giựt họ ra khỏi tay Người, dù bằng sự tò mò vô ích, dù bằng sự hung bạo bất kính, dù bằng sự không tin bị nguyền rủa. Các ông muốn biết gì? Biết xem có một tương lai vĩnh cửu không? Các ông nói rằng các ông tin Thiên Chúa, nếu có một Thiên Chúa thì Người cũng có một triều đình, và nó sẽ thế nào, nếu không phải là vĩnh cửu cũng như Người, được tạo thành bởi các thần trí vĩnh cửu? Nếu các ông nói rằng các ông tin Thiên Chúa, tại sao các ông không tin vào lời Người? Lời Người đã chẳng nói: “Các ngươi không được thi hành phép bói toán, các ngươi không được tuân thủ những mộng mị”. Người đã chẳng nói: “Kẻ nào tiếp xúc với các thuật sĩ và thầy bói và phạm tội tà dâm với chúng, Ta sẽ ngoảnh mặt đi khỏi chúng, và Ta sẽ tận diệt chúng khỏi dân”. Người đã chẳng nói: “Các ngươi không được làm ra các thần thánh theo sở thích của các ngươi”? Và các ông là ai? Các người Samari và các kẻ đã hư mất, hay là các con cái Israel? Và các ông là ai? Các kẻ đần độn hay người có khả năng lý luận? Nếu các ông đã lý luận để từ chối sự bất tử của linh hồn, thì tại sao các ông lại gọi hồn những người chết? Linh hồn, cái phần tử vô thể làm cho con người sống, nếu nó không bất tử thì con người còn lại gì sau khi chết? Chỉ còn sự thối nát và xương cốt, các xương cốt khô còn lại sau dòi bọ. Các ông không tin vào Thiên Chúa tới nỗi các ông cầu cứu tới các tượng tà thần và các dấu hiệu để được sự khỏi bệnh, tiền bạc, và các câu trả lời, giống như kẻ mà các ông xin sức khỏe cho đã làm, bởi vì các ông làm ra các thần theo sở thích của các ông, và các ông tin nó có thể nói cho các ông những lời chân thật hơn, thánh thiện hơn, thần linh hơn những lời Thiên Chúa đã nói với các ông. Bây giờ tôi nói với các ông cùng một câu trả lời của Êlia cho Ochozias: “Tại sao nhà vua lại sai sứ giả để thỉnh ý Benzêbut, thần của Acaron, làm như ở Israel, người ta không có một Thiên Chúa để thỉnh ý? Vì lẽ đó, vua sẽ không xuống khỏi cái giường mà vua đã lên, và chắc chắn vua sẽ chết trong tội của vua”.
- Luôn luôn vẫn là ông chửi rủa và tấn công chúng tôi. Tôi nhắc ông nhận xét điều đó. Chúng tôi đến với ông là để...
339
- Để kéo tôi vào một cái bẫy. Nhưng tôi đọc được con tim các ông. Thấp hèn, các người phe Hêrôđê, bị bán cho kẻ thù của Israel! Thấp hèn, các pharisiêu gian trá và độc ác! Thấp hèn, các saddu: những người Samari chính tông. Thấp hèn, các luật sĩ mà lời nói trái với việc làm! Thấp hèn, những kẻ đeo mặt nạ: tất cả các ông, những kẻ vi phạm lề luật của Thiên Chúa, kẻ thù của Chân Lý, tình nhân của Ma Qủi. Đả đảo những kẻ phàm tục hóa nhà của Thiên Chúa. Đả đảo các ông là những kẻ lôi kéo các lương tâm yếu đuối! Đả đảo các chó rừng, đánh hơi nạn nhân của nó trong không khí và đuổi theo dấu vết của nạn nhân, rình rập và chờ giờ thuận tiện để giết nạn nhân mà các ông liếm môi thèm thuồng được thưởng thức mùi máu, và các ông mơ tới giờ đó!... Ôi! Các kẻ buôn bán đồ cổ và các kẻ tà dâm, đã bán với giá rất rẻ hơn một nắm hạt đậu, cái quyền trưởng nam của các ông giữa các dân tộc, và các ông không còn phúc lành nữa. Các dân khác sẽ mặc lấy bộ lông của Con Chiên Thiên Chúa, và chúng sẽ trình diện Đấng Tối Cao giống như Đức Kitô thực sự. Và khi Người cảm thấy mùi thơm Đấng Kitô của Người tỏa ra từ nơi chúng, Người sẽ nói: “Đây là mùi thơm của Con Ta, giống như mùi của cánh đồng đầy hoa được Thiên Chúa chúc phúc. Sương Trời: Ân Sủng sẽ đổ xuống trên các con. Nơi các con là sự sinh sôi nảy nở của trái đất, hoa trái của máu Ta. Trong các con sẽ dư dật men và rượu, là mình và máu Ta mà Ta sẽ ban cho người ta để họ có sự sống và ghi nhớ đến Ta. Mọi dân hãy phục vụ các con, mọi người hãy cúi mình trước các con, vì đâu có dấu hiệu Con Chiên của Ta thì đó là Trời. Và trái đất phục tùng Trời. Hãy là chủ các anh em của các con, vì những kẻ theo Đấng Kitô của Ta sẽ là các vua thần trí, vì họ sẽ có Ánh Sáng, và những người khác sẽ hướng về Ánh Sáng này trong khi hy vọng vào sự cứu giúp của nó. Các con cái của mẹ các con - là trái đất - hãy cúi mình trước họ. Phải, hết mọi con cái của trái đất, một ngày kia sẽ cúi mình trước dấu hiệu của Ta. Các kẻ nguyền rủa các con sẽ bị nguyền rủa; các kẻ chúc phúc cho các con sẽ được chúc phúc. Vì các sự nguyền rủa và các phúc lành được làm cho các con sẽ trở về với Ta, Cha của các con và Thiên Chúa của các con”. Người sẽ
340
phán như vậy. Điều đó, ôi các kẻ gian dâm, các ông có thể có một đức tin chân thành làm vị hôn thê yêu dấu của linh hồn các ông, nhưng các ông gian dâm với Satan và các giáo thuyết giả dối của nó. Người sẽ phán như vậy, ôi các kẻ sát nhân, sát nhân của tâm hồn và thân xác. Đây là các nạn nhân của các ông. Mặc dầu có hai con tim bị tàn sát, nhưng các ông chỉ có một Thân Xác trong một thời gian của Jonas. Rồi Người sẽ tái hợp với bản thể bất tử của Người để xét xử các ông”.
Giêsu thật dễ sợ trong bài kết tội này. Kinh khủng! Tôi nghĩ rằng ngày tận thế cũng giống vậy.
- Nhưng các kẻ sát nhân này ở đâu? Ông nói sảng! Ông là tình nhân của Benzêbut, ông gian dâm với nó, chính nhờ tên nó mà ông thi hành các phép lạ, và ông không có khả năng trong trường hợp của chúng tôi, vì chúng tôi là bạn hữu của Thiên Chúa.
- Satan đâu có xua đuổi chính nó. Ta, Ta xua đuổi ma qủi, vậy nhân danh ai?
Yên lặng.
- Trả lời đi!
- Nhưng sao lại mất công để lo tới cái tên bị ám này! Tôi đã bảo các ông rồi mà các ông không tin. Các ông hãy nghe điều đó từ miệng hắn. Này tên điên Nazarét, hãy trả lời: mày biết sciemanflorasc không ?
- Tôi không cần cái đó.
- Các ông nghe không? Một câu hỏi nữa: mày có ở bên Ai Cập không?
- Có.
- Các ông thấy không? Ai là pháp sư chiêu hồn hở tên Satan? Kinh sợ! Đi bà ơi! Chồng bà là thánh so với hắn. Đi!... Bà phải thanh tẩy. Bà đã đụng vào Satan!... - và họ bỏ đi, lôi theo người đàn bà đầy nước mắt với những cử chỉ ghê tởm sống sượng.
Giêsu khoanh tay, theo họ bằng những tia chớp của mắt Người.
- Thầy... Thầy... - các tông đồ hoảng sợ, vừa vì sự mạnh mẽ của Giêsu, vừa vì các lời của các người Do Thái.
341
Phêrô hỏi, và ông cúi gù xuống trong khi nói: “Họ muốn nói gì trong những câu hỏi sau cùng? Cái đó là gì vậy?”
- Cái gì? Sciemanfloracs?
- Vâng. Là cái gì?
- Đừng nghĩ tới đó. Chúng pha trộn sự thật với dối trá, Thiên Chúa với Satan. Và trong sự kiêu căng qủi ma của chúng, chúng nghĩ rằng Thiên Chúa, để chiều theo ý muốn của loài người, Người cần được trừ ếm bằng cái tên không đọc được của Người (YHVN). Chúa Con nói với Chúa Cha bằng ngôn ngữ thực, và với ngôn ngữ này, bởi tình yêu hỗ tương của Chúa Cha và Chúa Con mà phép lạ hoàn thành.
- Nhưng tại sao ông ta lại hỏi Thầy xem Thầy có ở bên Ai Cập không?
- Bởi vì kẻ ác dùng cả những thứ vô hại nhất để làm cáo trạng kết án kẻ nó muốn hạ. Thời kỳ tuổi thơ của Thầy ở bên Ai Cập sẽ là một trong những cáo trạng chính yếu vào giờ chúng báo thù. Các con và các kẻ kế nghiệp các con hãy biết rằng, đối với Satan đầy xảo quyệt và với các đầy tớ trung thành của nó, phải khôn khéo gấp đôi. Chính vì vậy Thầy đã bảo các con: “Phải tinh ranh như con rắn chứ không phải chỉ đơn sơ như chim câu mà thôi”. Như vậy để đừng đặt một khí giới nhỏ nhặt nào vào tay ma qủi. Và điều đó cũng không vô ích. Chúng ta đi.
- Đi đâu Thầy? Đi Jêricô?
- Không. Chúng ta sẽ đi thuyền, và lại qua miền Thập Tỉnh. Chúng ta lại ngược lên sông Giođan cho tới ngang Enon thì chúng ta lên bờ. Sau đó, trên bờ Génésarét, chúng ta sẽ lấy thuyền khác để đi Tibêriat, và từ đó đi Cana, rồi Nazarét. Thầy cần mẹ Thầy, và các con cũng cần. Điều mà Đức Kitô không làm bằng lời của Người thì Maria sẽ làm bằng sự yên lặng của mẹ. Điều mà sức mạnh của Thầy không làm thì sự trong sạch của mẹ sẽ làm. Ôi! Mẹ của Thầy!
- Thầy khóc sao? Thầy khóc? Ôi! Không! Chúng con sẽ bảo vệ Thầy! Chúng con yêu Thầy!
- Thầy không khóc, và Thầy không sợ những kẻ muốn làm hại
342
Thầy. Thầy khóc bởi vì các con tim còn cứng hơn đá vân thạch, và Thầy không thể làm gì được cho rất nhiều người trong đám họ. Đi thôi các bạn.
Họ xuống bãi rồi lên thuyền. Tất cả chấm dứt như vậy ở đây.
200* MỘT LỜI CẦU NGUYỆN CÓ THỂ
KẾT HỢP CÁC CON VỚI THIÊN CHÚA,
CHỨ KHÔNG PHẢI MỘT CÔNG THỨC KỲ DIỆU
Chúa Giêsu nói: “Con và vị hướng dẫn con, hãy suy niệm rất nhiều câu trả lời của Cha cho Phêrô”.
Thế giới - và ở khắp thế giới chứ không phải Cha chỉ nghe thấy nơi người trần tục - từ chối những điều siêu nhiên, nhưng rồi ở trước những biểu lộ của Thiên Chúa, họ mau lẹ giải thích, không phải theo cách siêu nhiên, nhưng bằng những sức mạnh dấu kín, những bí ẩn. Họ lẫn lộn hai điều khác nhau. Bây giờ hãy nghe: Siêu nhiên là những điều đến từ Thiên Chúa. Bí ẩn là những điều đến từ một nguồn bên ngoài trái đất, nhưng không có căn nguyên nơi Thiên Chúa.
Thực vậy, Cha bảo các con rằng các thần trí có thể đến với các con. Nhưng đến thế nào? Bằng hai cách: Theo lệnh của Thiên Chúa hay theo sự hung bạo của loài người. Theo lệnh của Thiên Chúa thì có thể đến: các thiên thần, các thánh, các thần trí đã ở trong ánh sáng của Thiên Chúa. Theo sự hung bạo của loài người thì có thể đến các thần trí do ngay một người ra lệnh, bởi vì những thần trí này chìm trong một vùng thấp hơn vùng của con người. Nơi con người, dù nó không còn Ân Sủng linh hoạt, nó vẫn còn có một kỷ niệm về Ân Sủng. Những thần trí thuộc loại thứ nhất đến một cách hồn nhiên vì vâng lời một mệnh lệnh duy nhất, mệnh lệnh của Cha, và họ mang theo những sự thật mà Cha muốn cho các con biết. Những thần trí khác đến bởi một sức mạnh phức tạp, phối hợp bởi sức mạnh của một con-người-ngẫu-tượng với sức mạnh của Satan
343
ngẫu-tượng. Chúng có thể cho các con những sự thật không? Không. Không bao giờ. Tuyệt đối không bao giờ. Một công thức, cho dù nó được chỉ dạy bởi Satan, nó có thể bắt Thiên Chúa tùng phục ý muốn loài người không? Không. Thiên Chúa luôn luôn tự mình mà đến. Một lời cầu nguyện có thể kết hợp các con với Thiên Chúa, chứ không phải một công thức kỳ diệu.
Nếu có ai biện bác: “Samuel đã hiện ra với Saul”, Cha nói: “Đó không phải nhờ bà phù thủy, nhưng là do ý muốn của Cha, với mục đích lay động ông vua phản ngụy với lề luật”. Một số người sẽ nói: “Và các tiên tri?” Các tiên tri nói bởi vì các ngài biết những chân lý được trực tiếp linh ứng cho họ, hoặc được chuyển cho họ bởi các thiên thần đặc phái. Một số nữa sẽ bắt bẻ: “Còn bàn tay viết trong bữa tiệc của vua Balthasar?” Họ hãy đọc câu trả lời của Daniel: “... Cả ông, ông đã đứng lên chống lại Chúa Trời... bằng cách tôn kính các thần bằng bạc, bằng đồng, bằng sắt, bằng vàng, bằng gỗ, bằng đá, những thứ không nghe được, không nhìn thấy, không biết gì, và ông không tôn vinh Đấng Thiên Chúa mà mọi hơi thở, mọi cử động của ông đều ở trong tay Người. Chính vì vậy mà Người đã sai ngón tay đến (sai đến một cách hồn nhiên, trong khi ông, ông vua khờ dại và người khờ dại, ông chỉ nghĩ tới và bận tâm để ruôn đầy bụng và bơm phình tâm hồn). Ngón tay của bàn tay này đã viết những gì đang có ở đó”.
Đúng, đôi khi Thiên Chúa nhắc nhở các con bằng những biểu lộ mà các con gọi là “đồng bóng”, mà thực sự là tình thương của Tình Yêu muốn cứu các con. Nhưng về phần các con, các con không được muốn tạo ra nó. Những cái mà các con tạo ra không bao giờ chân thành, không bao giờ hữu ích. Nó không bao giờ dẫn tới điều lành. Đừng làm cho các con trở thành nô lệ của những cái làm cho các con hư mất. Các con đừng nói, cũng đừng tin là mình thông hiểu hơn những kẻ khiêm nhường, chỉ biết tùng phục Chân Lý đã được đặt trong Giáo Hội của Cha từ bao thế kỷ nay, chỉ vì các con là những kẻ kiêu căng, tìm kiếm trong sự bất tuân những phép chuẩn cho bản năng bất chính của các con. Hãy trở về và ở lại
344
trong kỷ luật của bao thế kỷ. Từ Môise tới Đức Kitô, từ Đức Kitô tới các con, từ các con tới ngày tận thế, chỉ có kỷ luật đó, không có gì khác.
Khoa học của các con có từ khoa học mà ra không? Không. Khoa học ở trong Cha và trong giáo lý của Cha. Sự khôn ngoan của các con hệ tại vâng lời Cha. Sự tò mò không nguy hiểm ư? Không. Nhưng nó là sự truyền nhiễm mà sau đó các con phải chịu các hậu qủa. Satan phải ở ngoài nếu các con muốn có Đức Kitô. Cha là Đấng Tốt Lành, nhưng Cha không đến để sống chung với Thần Xấu Xa. Hoặc Cha hoặc nó, các con hãy chọn.
Ôi! “phát ngôn viên” của Cha, hãy nói điều đó với những ai cần phải được nói. Đó là lời sau cùng đến với họ. Và con cũng như vị giám đốc của con, hãy khôn ngoan. Các bằng cớ sẽ trở thành phản bằng cớ trong tay Kẻ Thù và các kẻ thù của các bạn Cha. Hãy canh chừng!
Hãy đi với sự bình an của Cha.
201* NHỮNG KẺ YÊU CON RA ĐI
- Các con hãy đứng dậy, và chúng ta đi. Chúng ta lại ra sông tìm một cái thuyền. Con, Phêrô, hãy đi với Giacôbê. Nó sẽ chở chúng ta tới quanh vùng Bêtabara. Chúng ta sẽ dừng lại một ngày tại nhà Salômôn, rồi sau đó...
- Nhưng chúng ta không đi Nazarét sao?
- Không. Thầy đã quyết định điều này hồi đêm qua. Thầy tiếc cho các con, nhưng Thầy phải trở lại phía sau.
- Con khoái vậy - Margziam kêu lên. “Con sẽ được ở lại với Thầy nữa”.
- Ừ, đứa con tội nghiệp, mặc dầu con đã thấy những ngày thực buồn ở bên Thầy.
- Chính vì vậy mà con muốn ở lại với Thầy, để cho Thầy tình yêu. Con chỉ muốn có vậy. Con không xin gì hơn.
Giêsu đặt một cái hôn trên trán nó.
345
- Và chúng ta lại đi Bêtabara? - Mathêu hỏi.
- Không. Chúng ta qua sông bằng thuyền của vài dân chài.
Phêrô trở lại cùng với Giacôbê: “Thầy ơi, không có thuyền cho tới chiều... Và... Con có phải nói không?”
- Nói đi!
- Chắc chắn họ đã đi qua đây... Chắc họ phải trả rất đắt, hoặc phải dọa nạt ghê gớm. Con không nghĩ rằng chiều nay Thầy cũng không tìm được thuyền... Họ tàn nhẫn... - Phêrô thở dài.
- Không quan trọng. Chúng ta hãy lên trên đường... rồi Chúa sẽ giúp chúng ta.
Đây là mùa xấu, mùa của mưa và bùn. Đường sá lầy lội. Trên đường, sương đêm phụ vào với mưa ướt át suốt dọc bờ sông. Mặc dầu vậy họ cũng đi, bước lên giải đất hẹp hơi cao ở dọc đường, ít bùn hơn và ít bị nước mưa, tuy nhỏ hạt nhưng liên tục, nhờ một rặng liễu che bớt hạt mưa, nhưng thình lình một cơn gió làm rơi hết các giọt đọng trên cành xuống.
- Hé! Bây giờ là giờ của nó! - Tôma nói một cách triết lý khi ông thắn quần áo.
- Giờ của nó! - Batôlômêo xác nhận, và ông thở dài.
- Chúng ta sẽ sấy khi tới chỗ nào đó. Không phải tất cả đều... hăng say chống lại chúng ta - Phêrô nói.
- Chúng ta luôn luôn có thể tìm được một cái thuyền... Điều này sách không nói - Giacôbê Alphê nói thêm.
- Nếu chúng ta có tiền, chúng ta sẽ tìm thấy tất cả. Nhưng Người không muốn cho tôi đi bán ở Jêricô - Judas Kêriot nói.
- Nín đi! Tôi xin anh. Thầy qúa khổ! Nín đi anh! - Gioan năn nỉ.
- Tôi nín. Và cả đến tôi rất khoái vì cái lệnh của Người. Như vậy người ta không thể nói được rằng mấy người saddu ở gần Jêricô là do tôi bảo đến - và ông nhìn Phêrô, nhưng Phêrô đang trầm tư nên không nghe thấy và không trả lời.
Họ đi, họ đi dưới mưa bụi giống như sương mù trong một ngày trời xám. Thỉnh thoảng họ nói với nhau, nhưng tựa như họ nói với chính mình, vì những lời này giống như câu kết luận của một cuộc
346
đàm thoại với kẻ vô hình:
- Sau cùng chúng ta cũng phải dừng lại ở chỗ nào đó.
- Đâu cũng vậy, vì họ đến ở khắp nơi.
- Bách hại cho bách hại. Tốt hơn là nên dừng lại trong thành phố, ít nhất là không bị ướt.
- Nhưng họ muốn gì khi họ tới?
- Tội nghiệp Maria! Nếu mẹ biết...
- Lạy Thiên Chúa Tối Cao! Xin bảo vệ các tôi tớ Người.
Và tiếp tục như vậy... Rồi họ tụ lại để thảo luận nhỏ tiếng.
Giêsu đi một mình ở đàng trước... Một mình cho tới lúc Margziam và Zêlote đến với Người.
- Những người khác đã xuống bờ sông coi có cái thuyền nào không, để chúng ta có thể đi mau hơn. Thầy có muốn chúng con đi với Thầy không?
- Đi. Lúc nãy các con nói về chuyện gì đó?
- Về sự đau khổ của Thầy.
- Và về sự thù ghét của loài người. Chúng con có thể làm gì để an ủi Thầy và ngăn cả sự thù ghét? - Zêlote hỏi.
- Về đau khổ của Thầy thì có tình yêu của các con... Về sự thù ghét... chỉ có cách chịu đựng... Đó là điều sẽ chấm dứt cùng với đời sống trên trái đất... Tư tưởng này cho ta kiên nhẫn và can đảm để chịu đựng... Margziam! Con! Sao con lại xao xuyến?
- Bởi vì điều đó nhắc con nhớ tới Doras...
- Con có lý. Đã đến giờ để Thầy gởi con về nhà...
- Không! Giêsu! Không! Tại sao Thầy muốn phạt con về một điều xấu mà con không làm?
- Không phải là phạt con, mà là đề phòng cho con... Thầy không muốn con nhớ tới Doras. Cái gì đã nổi lên trong lòng con với cái kỷ niệm này? Trả lời đi...
Margziam cúi đầu và khóc. Rồi nó ngửa mặt lên và nói: “Thầy có lý. Tâm hồn con chưa có khả năng để thấy và tha thứ. Nó chưa thể. Nhưng tại sao Thầy để con đi xa? Nếu Thầy khổ thì con phải ở lại bên Thầy với nhiều lý do hơn. Thầy đã yên ủi con, Thầy, luôn
347
luôn. Con không còn là một đứa trẻ ngu mà năm ngoái đã nói với Thầy: ‘Đừng để cho con thấy sự đau đớn của Thầy’. Bây giờ con thực sự là một người. Hãy cho phép con được ở lại. Ôi! Lạy Chúa!... Ông, nói vậy với Người đi, ông, Simon!”
- Thầy biết cái gì là tốt cho chúng ta. Và có lẽ... Người muốn giao cho con vài nhiệm vụ... Ông không biết... Ông nói tư tưởng của ông...
- Con nói đúng. Đáng lẽ Thầy sẽ rất vui lòng giữ nó cho tới qua lễ Ánh Sáng. Nhưng... Mẹ Thầy có một mình ở ngoài đó... Tiếng đồn về sự thù ghét rất mạnh, mẹ có thể sợ nhiều hơn là phải sợ. Mẹ Thầy, bà cô đơn, và chắc chắn mẹ khóc. Con sẽ tới nhà mẹ để nói với mẹ rằng Thầy chào mẹ. Và kể từ bây giờ, Thầy bắt đầu chờ mẹ để gặp mẹ vào sau lễ Ánh Sáng. Và Margziam, con sẽ không nói gì khác.
- Nhưng nếu mẹ hỏi con?
- Ôi! Con có thể không nói dối khi nói... rằng đời sống Giêsu của mẹ giống như bầu trời tháng Étamin: mây và mưa, đôi khi có cơn lốc, nhưng cũng không thiếu những ngày có mặt trời, giống như hôm qua, giống như có lẽ ngày mai. Nín lặng không phải là nói dối. Con sẽ nói với Mẹ những phép lạ mà con đã thấy. Con sẽ nói với mẹ rằng Êlise ở với Thầy, rằng Anania đã như một người cha để tiếp đãi Thầy, rằng tại Nobê, Thầy đã ở trong nhà một người Israel tốt. Ngoài ra... Những chuyện còn lại, con hãy giữ sự yên lặng. Rồi con sẽ tới nhà bà Porphyrê và con hãy ở lại đó cho tới khi Thầy gọi con.
Margziam khóc mạnh hơn.
- Tại sao con khóc như vậy? Con không bằng lòng tới nhà mẹ Maria sao? Hôm qua con đã muốn mà... - Simon nói.
- Hôm qua, đúng, bởi vì mọi người đều tới đó. Và rồi con khóc, vì con sợ không còn được thấy Thầy... Ôi! Chúa! Chúa ơi! Sẽ không bao giờ có những ngày sung sướng như những ngày vừa qua nữa!
- Chúng ta sẽ còn gặp nhau nữa, Margziam. Thầy hứa điều đó với con.
- Bao giờ? Không trước lễ Vượt Qua. Qúa lâu! - Giêsu nín lặng.
348
“Thực tình Thầy không muốn có con trước Lễ Vượt Qua sao?”
Giêsu quàng một cánh tay qua đôi vai còn mảnh khảnh của nó và kéo nó sát vào Người: “Tại sao con muốn biết tương lai? Chúng ta hiện hữu hôm nay, ngày mai chúng ta không còn hiện hữu nữa. Con người, kể cả những người giầu có nhất và hùng mạnh nhất, cũng không thể thêm một ngày nữa vào đời của họ. Cuộc đời cũng như mọi tương lai đều ở trong tay Thiên Chúa...”
- Nhưng lễ Vượt Qua, con phải tới Đền Thờ chứ! Con là người Israel, Thầy không được làm con phạm tội!
- Con sẽ không phạm tội. Và cái tội đầu tiên con phải hứa với Thầy sẽ không bao giờ phạm, là tội không vâng lời. Con sẽ luôn luôn vâng lời. Bây giờ là vâng lời Thầy, rồi sau đó là vâng lời tất cả những ai nói với con nhân danh Thầy. Con có hứa vậy không? Con hãy nhớ rằng Thầy là Thầy và là Thiên Chúa của con, mà Thầy đã vâng lời Cha Thầy, và Thầy sẽ vâng lời tới... chót cuộc đời của Thầy.
Giêsu rất nghiêm trang khi nói những lời này.
Margziam như bị thôi miên, nó nói: “Con sẽ vâng lời. Con thề điều đó trước mặt Thầy và Thiên Chúa hằng hữu”.
Một lúc yên lặng, rồi Zêlote hỏi: “Nó về đó một mình sao?”
- Chắc chắn là không. Nó sẽ đi với các môn đệ. Chúng ta sẽ tìm được những người khác, thêm vào với Isaac.
- Thầy cũng sai Isaac đi Galilê?
- Ừ. Ông sẽ trở lại cùng với mẹ Thầy.
Người ta gọi từ dưới sông. Ba người dời chỗ. Họ băng qua đường và đi xuống phía nước.
- Thầy coi, chúng con đã tìm thấy, và họ không muốn lấy gì cả. Đây là bà con của một người được phép lạ. Nhưng họ chở cát vào làng này. Phải đi bộ tới đó, rồi họ sẽ chở chúng ta.
- Nguyện Thiên Chúa thưởng công cho họ. Chiều nay chúng ta sẽ ở nhà Anania.
Phêrô bằng lòng. Ông trở lên đường và ông thấy khuôn mặt bối rối của Margziam: “Con làm sao? Nó đã làm gì vậy?”
349
- Không có gì xấu cả Phêrô. Thầy đã bảo nó rằng tới chỗ đầu tiên mà chúng ta gặp các môn đệ thì Thầy sẽ gởi nó về nhà, và nó buồn vì vậy.
- Về nhà... phải... nhưng đúng rồi... về nhà... - Phêrô suy nghĩ. Rồi ông nhìn Giêsu và kéo tay áo Người để Người cúi xuống tận miệng ông. Ông nói vào lỗ tai Người: “Thầy ơi, nhưng tại sao Thầy gởi nó đi mà không chờ...”
- Tại vì mùa này, con đã nói mà.
- Và rồi?
- Simon, Thầy không muốn nói dối con. Và rồi bởi vì sẽ tốt là Margziam không bị đầu độc con tim...
- Thầy có lý. Đầu độc con tim... Đó, đúng là cái sau cùng sẽ tới - Rồi ông cao giọng: “Thầy thực tình có lý. Thầy sẽ đi và... chúng ta sẽ gặp nhau vào dịp lễ Vượt Qua. Sau cùng... nó cũng đến lẹ thôi... Khi qua tháng Casleu rồi... Ôi! Chỉ một thời gian ngắn nữa là tháng Nisan đẹp đẽ. Đúng, chắc chắn Người có lý...” Tiếng nói của Phêrô ít bảo đảm. Ông nhắc lại cách chậm rãi và buồn bã: “Người có lý...” Và trong khi tự nói với chính mình: “Cái gì sẽ xẩy ra từ đây tới tháng Nisan?” ông đập bàn tay trên trán, vẻ buồn rầu.
Và họ đi, họ đi trong ngày ẩm ướt. Trời ngừng mưa cho tới khi họ lội bùn lên tới đầu gối để lên năm chiếc xuồng nhỏ, ướt và dính cát, để rồi trôi theo dòng nước. Lúc đó trời lại mưa. Trong khi rơi vào mặt nước yên lặng của dòng sông phản chiếu những đám mây xám, nước mưa vẽ lên đó những vòng tròn, tạo ra rồi tan đi liên tục như trong trò chơi các mặt vỏ ốc.
Quang cảnh giống như sa mạc. Trên bờ, trong những thôn xóm tí hon, không thấy một mạng sống nào. Mưa đã khép cửa các căn nhà lại và làm cho đường sá vắng tanh. Cũng thế, khi họ lên đất vào lúc bắt đầu hoàng hôn tại nơi có làng của Salômôn, họ thấy đường làng yên lặng và vắng vẻ. Họ về tới nhà mà không một ai nhìn thấy. Họ gõ, họ gọi. Không có gì cả. Người ta chỉ nghe tiếng gù gù của chim câu, tiếng bê bê của các con cừu và tiếng hạt mưa rơi.
- Không có ai cả. Chúng ta làm gì đây?
350
- Hãy đi tới các nhà khác trong làng, trước tiên là nhà Micael - Giêsu ra lệnh.
Và trong khi các tông đồ trẻ mau lẹ tới đó, Giêsu đứng lại gần căn nhà với các người già hơn. Họ quan sát và bàn tán.
- Tất cả đều đóng... Hàng rào cũng đóng chắc và buộc kỹ. Coi này! Có cả tới một cái đinh to đóng vào, và các cửa sổ đóng như lúc ban đêm. Buồn thực! Và tiếng than van của các con cừu và bồ câu? Có lẽ ông ta bệnh? Thầy nghĩ sao?
Giêsu lắc đầu. Người mệt và buồn...
Các tông đồ chạy về. Andrê tới trước tiên, và khi ông còn cách mấy mét, ông đã kêu: “Ông ta chết rồi... Anania chết rồi... Ta không thể vào nhà vì nó chưa được thanh tẩy... Ông mới ở trong mồ có mấy tiếng đồng hồ thôi. Nếu chúng ta tới ngày hôm qua... Người đàn bà, người mẹ của Micael sắp tới”.
- Nhưng cái gì nó theo đuổi chúng ta vậy? - Batôlômêo kêu lên.
- Ông gìa tội nghiệp! Ông ta đã sung sướng! Ông đã khỏe mạnh! Nhưng làm sao vậy? Ông ngã bệnh từ hồi nào?... - mọi người đều nói cùng một trật.
Người đàn bà tới, đứng ở xa mọi người một quãng và bà nói: “Lạy Chúa, bình an cho Thầy. Nhà con mở cửa cho Thầy đó. Nhưng... con không biết con có... con đã sửa soạn cho người chết, bởi vậy con đứng ở xa. Nhưng con có thể chỉ cho Thầy các nhà sẽ đón tiếp qúi vị”.
- Bà ơi, được. Nguyện Thiên Chúa trả công cho bà và tất cả những ai có tình thương với người lữ hành. Nhưng ông ta chết thế nào vậy?
- Ôi, con không biết. Ông ta không bị bệnh. Ngày hôm kia thì ông còn khỏe. Đúng, chắc chắn là ông khỏe. Buổi sáng Micael đã tới mang hai con cừu đi cùng với bầy của chúng con. Ông đã đồng ý như vậy. Và vào lúc chính ngọ, con đã tới mang lại cho ông những quần áo mà con đã giặt cho ông. Ông ngồi tại bàn và ông ăn, rất khỏe mạnh. Buổi chiều cũng vậy, Micael đã dẫn các con cừu về và múc cho ông hai vò nước, và ông đã cho nó hai cái bánh tráng nướng mà ông đã làm. Sáng hôm qua, con trai con tới tìm các con
351
cừu. Tất cả đều đóng chặt như đang lúc này và không ai trả lời cho tiếng gọi của đứa trẻ. Nó đẩy cửa hàng rào, nhưng nó không mở được, vì cửa đóng rất chắc. Lúc đó Micael rất sợ, nó chạy về với con. Chồng con và con đã chạy đến cùng với những người khác nữa. Chúng con mở cửa hàng rào và đập vào cửa nhà bếp... Chúng con đã phá cửa... Ông vẫn còn ngồi bên bếp lửa, đầu tựa xuống bàn, cái đèn cũng ở gần, nhưng đã tắt cũng như ông; một con dao phay ở dưới chân ông, một cái tô bằng gỗ mới đẽo một nửa... Ông đã chết như vậy... Ông mỉm cười... Ông ở trong bình an... Ôi! Ông có khuôn mặt của kẻ công chính. Cả đến ông có vẻ đẹp hơn! Con, con mới lo cho ông lúc nãy. Nhưng con quyến luyến ông... và con khóc...
- Ông đang bình an. Chính bà đã nói. Đừng khóc! Qúi vị đã để ông ở đâu?
- Chúng con biết rằng Thầy rất yêu ông, do đó chúng con đã đặt ông trong ngôi mộ mà Lêvi mới tự xây. Ngôi mộ duy nhất, vì Lêvi giầu. Chúng con thì chúng con không giầu. Ở đàng kia, chỗ tận cùng, phía bên kia đường. Nếu Thầy muốn, bây giờ chúng con sẽ thanh tẩy hết và...
- Ừ. Bà hãy bắt lấy các con cừu và bồ câu. Các thứ còn lại, hãy giữ cho các người của Thầy và Thầy, để thỉnh thoảng Thầy có thể ở đây. Nguyện Thiên Chúa chúc lành cho bà. Chúng ta đi ra mộ.
- Thầy muốn cho ông ta sống lại à? - Tôma ngạc nhiên hỏi.
- Không. Đối với ông, đó không phải là niềm vui. Ông sung sướng hơn ở chỗ ông đang ở. Ông đã ước ao chỗ đó hơn các nơi khác.
Nhưng Giêsu hoàn toàn bị đè nặng. Hình như tất cả đều hợp lực để gia tăng nỗi buồn của Người. Tại cửa của các căn nhà, các phụ nữ nhìn, chào và bàn tán.
Họ mau chóng tới mồ: một cái ô vuông mới xây. Giêsu cầu nguyện ở gần đó. Rồi Người quay lại, mắt ướt nước, Người nói: “Chúng ta đi... vào những nhà trong làng. Trong căn nhà nhỏ của chúng ta, không còn ai chờ chúng ta để chúc phúc cho chúng ta nữa... Cha của con ơi! Sự cô đơn bao bọc con Cha. Sự trống rỗng
352
càng ngày càng mênh mông và càng tối tăm. Những kẻ yêu con ra đi và còn lại những kẻ ghét con... Lạy Cha của con! Nguyện cho ý Cha luôn luôn được hoàn thành và chúc tụng!...”
Họ trở về làng, và hai người chỗ này, ba người chỗ kia, họ vào trong nhà của các người không đụng vào người chết, để tìm một chỗ trú và bồi dưỡng.
202* DỤ NGÔN VỊ THẨM PHÁN BẤT CÔNG.
Giêsu lại ở Jêrusalem, một Jêrusalem mùa đông, có gió với bầu trời xám. Margziam vẫn còn ở với Giêsu, cả Isaac nữa. Họ đi lên Đền Thờ, vừa đi vừa nói chuyện.
Có Giuse và Nicôđêmô ở với nhóm mười hai. Hai ông nói với Zêlote và Tôma nhiều hơn là với những người khác. Nhưng rồi họ tách ra, đi lên phía trước để chào Giêsu, nhưng không dừng lại.
- Họ không muốn cho người ta thấy tình bạn của họ đối với Thầy. Điều đó nguy hiểm - Iscariot thổi vào lỗ tai Andrê.
- Tôi tin họ làm vậy vì một sự phê phán chính đáng chứ không phải vì hèn - Andrê nói để bảo vệ họ.
- Ngoài ra, họ đâu phải là môn đệ nên họ có thể làm vậy. Họ chưa bao giờ là môn đệ - Zêlote nói.
- Không à? Tôi thấy như...
- Lazarô cũng không phải là môn đệ. Cũng không...
- Nhưng nếu anh loại trừ và loại trừ thì còn lại ai?
- Ai? Những người có sứ mệnh của môn đệ.
- Vậy họ, họ là ai?
- Các bạn. Không hơn gì các người bạn. Họ có bỏ nhà cửa, công việc của họ để theo Giêsu không?
- Không. Nhưng họ sung sướng khi nghe Người, và họ giúp Người và...
- Nếu như vậy thì các dân ngoại cũng làm. Anh thấy tại nhà Nique, chúng ta đã gặp những người nghĩ đến Thầy, và chắc chắn các phụ nữ này không phải là môn đệ.
- Anh đừng nóng! Tôi nói vậy chỉ là để có cái mà nói thôi. Anh
353
bám qúa chặt lấy sự kiện là các bạn anh không phải là môn đệ. Tôi nghĩ đáng lẽ anh phải muốn điều ngược lại.
- Tôi không nóng, và tôi không muốn cái gì cả, kể cả anh làm khổ cho họ khi nói họ là môn đệ của Người.
- Nhưng anh nghĩ tôi nói điều đó với ai? Tôi luôn luôn ở với các anh...
Simon Zêlote nhìn ông cách nghiêm khắc tới nỗi nụ cười cứng ra trên môi Judas, và có lẽ ông thấy là hợp lúc để thay chủ đề đàm thoại, ông hỏi: “Bữa nay hai ông muốn gì mà nói chuyện với các anh như vậy?”
- Họ đã tìm được một căn nhà cho Nique ở bên cạnh các khu vườn gần cổng. Giuse biết người chủ, và ông biết chủ muốn bán với giá rẻ. Chúng ta sẽ cho Nique biết tin.
- Cái ước ao muốn vất bỏ tiền!
- Tiền của bà, bà muốn làm gì tùy ý bà. Bà muốn ở gần Thầy. Bà làm điều đó để vâng lời ý chồng bà và con tim của bà.
- Chỉ có má tôi là ở xa... - Giacôbê Alphê xít xoa.
- Và má tôi! - Ông Giacôbê kia nói.
- Nhưng chỉ ít lâu thôi. Anh có nghe Giêsu nói với Isaac, Gioan và Mathia không? “Khi các con trở lại vào tuần trăng mới của tháng Scébat, các con hãy đi cùng với các nữ môn đệ và với cả mẹ Thầy”.
- Tôi không biết tại sao Người không muốn Margziam trở lại với các bà. Người đã bảo nó: “Con sẽ tới khi Thầy gọi con”.
- Có lẽ để cho Porphyrê không bị thiếu người giúp... Ở ngoài đó, nếu nhà không có ai đi chài thì người ta khỏi ăn. Nếu không có ai đi thì Margziam phải đi. Chắc chắn là mấy cây sung, mấy tổ ong, vài cây oliu và hai con cừu không đủ để cấp dưỡng cho một người đàn bà, cho bà mặc và nuôi bà... - Andrê nhận xét.
Giêsu dừng lại trước bức tường trong nội khu Đền Thờ, nhìn họ tới. Ở bên Người là Phêrô, Margziam và Juđa Alphê. Các người nghèo đứng dậy từ các ghế đá đặt trên đường dẫn vào Đền Thờ (con đường dẫn từ núi Sion tới núi Moriah chứ không phải con đường từ Ophel tới Đền Thờ), và họ đến với Giêsu, than van để xin Người
354
của bố thí. Không ai xin chữa bệnh cả. Giêsu ra lệnh cho Judas phát tiền cho họ. Rồi Người vào Đền Thờ.
Không có đám đông. Sau những tấp nập của những ngày lễ, không còn người hành hương nữa. Chỉ có những người vì những việc quan trọng bó buộc họ phải tới Jêrusalem, hoặc các người dân sống ngay tại thành phố, là lên Đền Thờ. Các sân và các hành lang không hoàn toàn vắng vẻ, nhưng rất ít người qua lại, và hình như nó có vẻ mênh mông hơn, thánh thiện hơn, vì ít ồn ào hơn. Cũng vậy, số các người đổi tiền, bán bồ câu và các con vật khác cũng ít hơn. Họ quay lưng về các bức tường ở phía mặt trời, một mặt trời lợt lạt đang cố rẽ ra một con đường băng qua các tầng mây xám.
Sau khi đã cầu nguyện tại sân Israel, Giêsu đi trở lại. Người tựa lưng vào một cái cột để quan sát... Chính Người cũng bị quan sát.
Người thấy đi tới, chắc là từ sân Hy Bá, một người đàn ông và một người đàn bà. Họ không khóc tỏ tường, nhưng biểu lộ khuôn mặt đau đớn hơn là nước mắt. Người đàn ông cố gắng an ủi người đàn bà, nhưng người ta thấy rằng ông ta cũng rất sầu não.
Giêsu rời chiếc cột và tới gặp họ: “Ông bà khổ vì điều gì?” Người hỏi với đầy tình thương.
Người đàn ông nhìn Người, ngạc nhiên vì sự lưu tâm này mà có lẽ ông cho là thiếu tế nhị. Nhưng con mắt Giêsu qúa êm đềm làm ông an lòng. Tuy nhiên trước khi nói về nỗi khổ của ông, ông hỏi: “Làm sao một vị rabbi lại lưu tâm đến sự đau khổ của một tín hữu thường?”
- Ôi ông ơi! Là vì vị rabbi là anh em của ông, anh em trong Chúa, và người yêu ông như giới răn đã nói.
- Anh em! Tôi là một nông dân nghèo tại đồng bằng Saron, về phía Dora. Ông, ông là một rabbi.
- Sự đau khổ thì với các rabbi cũng như với mọi người. Tôi biết thế nào là đau khổ và tôi muốn an ủi ông.
Người đàn bà vén khăn voan của bà ra một lúc để nhìn Giêsu, và bà thì thầm với chồng bà: “Hãy nói với Người đi, có lẽ Người có thể giúp chúng ta...”
- Thưa rabbi, chúng tôi có một đứa con gái, chúng tôi còn có nó,
355
lúc này thì chúng tôi còn có nó... Chúng tôi đã gả nó một cách danh dự cho một người đàn ông trẻ mà một người bạn chung đã... đã bảo đảm với chúng tôi là người chồng tốt. Chúng lấy nhau được sáu năm rồi, và chúng có hai đứa con của cuộc hôn nhân. Hai đứa... vì sau đó tình yêu bị bể... tới nỗi bây giờ... người chồng muốn ly dị. Con gái của chúng tôi khóc và kiệt quệ. Bởi vậy chúng tôi đã nói với Ngài là chúng tôi còn có nó, vì chỉ ít lâu nữa nó sẽ chết vì buồn. Chúng tôi đã cố gắng hết cách để thuyết phục người đàn ông, và chúng tôi đã cầu xin Đấng Tối Cao biết bao... Nhưng không ai trong hai người nghe chúng tôi cả... Chúng tôi hành hương tới đây cũng vì vậy, và chúng tôi sẽ ở lại suốt một tuần trăng. Hết mọi ngày ở Đền Thờ, tôi ở chỗ tôi, bà ở chỗ bà... Sáng nay một đứa đầy tớ của con gái tôi đem cho tôi cái tin rằng người chồng đã đi Cêsarê, rồi từ đó, ông sẽ gởi cho nó tờ ly dị. Đó là câu trả lời mà các lời cầu nguyện của chúng tôi có được...
- Giacôbê, đừng nói vậy - người đàn bà năn nỉ nhỏ tiếng. Và bà nói để kết thúc: “Vị rabbi sẽ nguyền rủa chúng ta như những kẻ phạm thượng... và Thiên Chúa sẽ phạt chúng ta. Đó là sự đau khổ của chúng ta, nó đến từ Thiên Chúa... Và nếu Người đánh chúng ta thì đó là dấu chúng ta đáng bị”. Và bà kết thúc bằng tiếng nấc.
- Không, bà ơi. Tôi không nguyền rủa bà đâu, và Thiên Chúa sẽ không phạt ông bà. Tôi nói với ông bà: Không phải Thiên Chúa làm cho ông bà cái khổ này, mà là loài người. Thiên Chúa cho phép nó để thử thách ông bà và thử thách người chồng của con gái ông bà. Đừng mất lòng tin, và Thiên Chúa sẽ nhận lời ông bà.
- Qúa trễ rồi, từ giờ, con gái chúng tôi bị rẫy, bị nhục, và nó sắp chết... - người đàn ông nói.
- Không bao giờ qúa trễ đối với Đấng Tối Cao. Vì sự kiên trì của lời cầu nguyện, Người có thể, chỉ trong chốc lát, thay đổi cả loạt tất cả các biến cố. Từ lúc để cái chén vào môi, vẫn còn thời giờ trước khi sự chết nhấn lưỡi dao của nó, để ngăn cản kẻ đã kề chén vào môi để uống, đó là sự can thiệp của Thiên Chúa. Tôi bảo ông bà: hãy trở về chỗ ông bà cầu nguyện, và kiên trì bữa nay, bữa mai và
356
bữa mốt nữa. Nếu ông bà có đức tin, ông bà sẽ thấy phép lạ.
- Thưa rabbi, Ngài muốn an ủi chúng tôi... Nhưng vào lúc này... không thể được nữa. Ngài biết, hủy bỏ chứng từ một khi nó đã được đặt vào tay người đàn bà bị rẫy... - người đàn ông nhấn mạnh.
- Hãy có đức tin. Tôi đã nói. Thực sự người ta không thể hủy bỏ nó. Nhưng ông biết con gái ông đã nhận được chưa?
- Từ Dora tới Cêsarê, con đường đâu có xa. Trong khi đứa đầy tớ tới đây thì chắc chắn Jacob đã về nhà và đuổi Maria ra.
- Con đường không dài, nhưng ông có chắc là anh ta đã hoàn thành việc đó rồi không? Một ý muốn ở bên trên ý muốn loài người lại chẳng có thể dừng một người lại, trong khi Josuê, với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, đã làm mặt trời dừng lại sao? Lời cầu nguyện kiên trì và tin tưởng của ông bà, được làm với ý hướng tốt, đã chẳng là ý muốn thánh đối nghịch với ý muốn xấu của anh ta sao? Và Thiên Chúa, vì ông bà xin Người một điều tốt, thì Người là Cha của ông bà, lại không giúp ông bà để cản bước của một kẻ điên sao? Người đã chẳng từng giúp ông bà sao? Cho dù anh ta còn ngoan cố để làm việc đó, anh ta có thể không, nếu ông bà khăng khăng xin Cha một điều chính đáng? Tôi bảo ông bà: Hãy đi cầu nguyện hôm nay, ngày mai, ngày mốt nữa, rồi ông bà sẽ thấy phép lạ.
- Ôi, đi, Giacôbê! Vị rabbi biết. Nếu Ngài đã bảo cầu nguyện, thì đó là dấu chỉ Ngài biết việc đó chính đáng. Hãy tin, ông ơi. Tôi cảm thấy một bình an lớn lao, một hy vọng mãnh liệt chỗi dậy tại chỗ mà tôi đã có biết bao đau đớn. Nguyện Thiên Chúa trả công cho Ngài, ôi rabbi. Ngài tốt, và Chúa nghe Ngài. Xin Ngài cũng cầu nguyện cho chúng tôi. Đi, Giacôbê! Đi!
Và bà thành công thuyết phục chồng bà đi theo bà, sau khi đã chào Giêsu bằng lời chào quen thuộc của dân Hy Bá: “Bình an ở với Ngài” mà Giêsu trả lời bằng cùng một kiểu.
- Tại sao Thầy không nói với ông ta Thầy là ai. Họ sẽ cầu nguyện bình an hơn - Các tông đồ hỏi. Và Philíp thêm: “Con đi nói với ông ta”.
Nhưng Giêsu giữ ông lại khi nói: “Thầy không muốn. Qủa ông
357
ta sẽ cầu nguyện bình an hơn, nhưng ít gía trị hơn, ít công nghiệp hơn. Như vầy thì đức tin của họ sẽ hoàn toàn và sẽ được thưởng”.
- Thực sự sao?
- Vậy các con nghĩ là Thầy nói dối để đánh lừa hai kẻ tội nghiệp này sao?
Người nhìn những kẻ đã tụ tập lại, cỡ một trăm người, và Người nói: “Hãy nghe dụ ngôn này, nó sẽ nói cho các con giá trị của lời cầu nguyện kiên trì:
Các con biết điều sách Đệ Nhị Luật nói về các vị thẩm phán và các quan chức. Họ phải công bằng và thương xót để nghe cách điềm đạm những người chạy đến với họ, bằng cách luôn luôn nghĩ tới xét xử tựa như trường hợp họ phải xét xử là trường hợp của cá nhân họ, không màng tới các tặng phẩm hay các lời đe dọa, không thiên vị cho bạn bè có tội, không khắt khe với những kẻ không thuận thảo với bạn bè của mình. Nhưng nếu các lời của lề luật là chính đáng, thì con người lại không thế, và họ không biết vâng lời lề luật. Do đó ta thấy rằng công lý loài người thường bất toàn, vì rất hiếm có vị thẩm phán biết giữ mình trong sạch đối với hối lộ; có tình thương và kiên nhẫn với người nghèo cũng như người giầu; đối với các góa phụ và kẻ mồ côi cũng như với các kẻ khác.
Vậy trong thành phố kia có một ông thẩm phán rất bất xứng đối với chức vụ mà ông đã có được nhờ một bà con mạnh thế. Ông ta bất công qúa đáng trong sự xét xử của ông, vì ông luôn luôn dành lẽ phải cho những người giầu và mạnh thế, hoăc những kẻ được các người giầu hay mạnh thế bảo lãnh, hoặc những kẻ mua chuộc ông bằng những qùa tặng lớn. Ông không kính sợ Thiên Chúa, ông cười trước những than van của người nghèo và những kẻ yếu thế, vì họ cô đơn, không có người quyền thế bảo vệ. Khi ông không muốn nghe một kẻ có lý tỏ tường trước một người giầu mà ông không muốn xử là họ sai theo bất cứ cách nào, ông cho đuổi họ ra khỏi mặt ông và dọa bỏ tù họ. Phần đông đều đành chịu sự hung bạo của ông, đành chịu thua để ra đi, chịu đựng sự thất bại trước khi vụ án được xét xử.
358
Nhưng trong thành phố này có một bà góa đông con. Bà phải được một số tiền lớn từ một người giầu mạnh thế vì những công việc mà người chồng qúa cố của bà đã làm cho người giầu này. Bà bị thúc đẩy bởi nhu cầu và tình mẫu tử, đã cố gắng xin người giầu trả món tiền, để bà có thể cho các con bà ăn, và mặc cho chúng trong mùa đông sắp tới. Nhưng sau khi đã thấy rằng mọi áp lực và năn nỉ đối với người giầu đều vô ích, bà liền chạy đến với vị thẩm phán.
Vị thẩm phán là bạn của người giầu, và người giầu đã nói với ông: ‘Nếu anh xử cho tôi thắng thì tôi cho anh một phần ba số tiền đó’. Do vậy, ông ta như điếc trước những lời của bà góa van nài: ‘Hãy xử cho tôi thắng đối phương của tôi. Ông thấy rằng tôi cần. Mọi người đều có thể nói rằng tôi có quyền được món tiền này’. Ông thẩm phán làm như điếc và cho các kẻ thụ ủy đuổi bà ra. Nhưng người đàn bà trở lại một, hai, mười lần; buổi sáng, lúc giờ ngọ, lúc ba giờ chiều, buổi tối, không biết mệt; kể cả bà theo ông ta trên đường và kêu: ‘Xin xử cho tôi! Các con tôi đói và rét. Tôi không có tiền mua bột và quần áo’. Bà đứng trước nhà ông thẩm phán khi ông này về nhà và ngồi vào bàn với các con ông, và lời kêu gào của bà góa: ‘Xin xử cho tôi chống lại đối phương của tôi, vì các con tôi và tôi, chúng tôi đói và rét’ vọng vào trong nhà, vào phòng ăn, vào phòng ngủ lúc ban đêm, vật nài như tiếng kêu của con chim chào mào: ‘Hãy xử cho tôi, nếu ông không muốn Thiên Chúa phạt ông! Hãy xử cho tôi! Ông hãy nhớ rằng các bà góa và các trẻ mồ côi là thánh đối với Thiên Chúa, và khốn cho kẻ nào chà đạp họ. Hãy xử cho tôi nếu ông không muốn một ngày kia phải chịu như chúng tôi đang chịu. Cái đói của chúng tôi, cái lạnh của chúng tôi, ông sẽ thấy chúng ở đời sống bên kia. Nếu ông không xử công minh cho tôi, ông sẽ khổ sở!’
Ông thẩm phán không sợ Thiên Chúa, cũng không sợ tha nhân, nhưng với sức bị quấy rầy, bị trở nên trò cười cho tất cả thành phố vì những cuộc theo đuổi của bà góa, và cũng trở nên đối tượng của khiển trách, ông mệt vì những chuyện đó. Vậy một ngày kia ông tự
359
nhủ: Mặc dầu ta không sợ Thiên Chúa, cũng không sợ những dọa nạt của bà này, cũng như những điều dân chúng nghĩ, nhưng để chấm dứt bấy nhiêu phiền phức, ta sẽ mở phiên tòa cho bà góa và xử cho bà, bằng cách bó buộc người giầu phải trả, chỉ cần là bà ta đừng theo đuổi ta nữa, và đừng luẩn quẩn ở chung quanh ta. Ông gọi người giầu đến và nói: ‘Bạn ơi, tôi không thể nào làm vui lòng bạn nữa. Hãy làm nhiệm vụ của bạn, và hãy trả, vì tôi không thể vì anh mà bị quấy rầy thêm nữa. Tôi đã nói rồi đó!’ Và người giầu đành xuất kho số tiền phù hợp với công lý.
Đó là dụ ngôn. Bây giờ các con hãy áp dụng nó: Các con đã nghe lời của một người bất công: ‘Để chấm dứt bấy nhiêu phiền phức, ta sẽ mở phiên tòa cho người đàn bà này’, và đó là một người bất công. Nhưng Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, có lẽ nào Người lại ở bên dưới một vị thẩm phán xấu? Có lẽ nào Người không xử cho các con cái biết kêu cầu Người ngày đêm? Và lẽ nào Người bắt họ chờ các ơn phúc qúa lâu tới nỗi tâm hồn bị đè nặng của họ ngừng cầu xin. Thầy bảo các con: Người sẽ mau lẹ xử để tâm hồn họ không mất đức tin. Nhưng cũng phải biết cầu nguyện không mệt mỏi sau những lần đầu, và phải biết xin những điều tốt. Rồi cũng phải tin cẩn vào Thiên Chúa để nói: ‘Nhưng nguyện sự khôn ngoan của Chúa làm những gì hữu ích nhất cho chúng con’.
Hãy tin. Hãy biết cầu nguyện với đức tin trong lời cầu nguyện và trong Thiên Chúa là cha các con, và Người sẽ xử cho các con chống lại các kẻ áp bức các con, dù là loài người hay ma qủi, bệnh hoạn hay các khốn khó khác. Lời cầu nguyện kiên trì mở trời ra, và đức tin cứu vớt linh hồn, cho dù lời cầu nguyện được nghe và được nhận theo bất cứ cách nào. Thôi, chúng ta đi”.
Người đi hướng về lối ra. Khi đã sắp ra bên ngoài nội khu, Người ngẩng đầu lên quan sát một số ít kẻ theo Người, và một số đông dửng dưng hay hận thù đứng xa để nhìn Người, Người thốt lên cách buồn rầu: “Nhưng khi Con Người trở lại, Người còn tìm thấy lòng tin ở trên trái đất không?” Người thở dài, quấn chặt áo khoác hơn và bước dài về phía khu Ophel.
360
203* “TA LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN”
Giêsu còn ở Jêrusalem, không ở trong Đền Thờ, nhưng ở trong một phòng nào đó rộng mênh mông, được trang hoàng lộng lẫy, một trong số rất nhiều phòng ở trong nội khu lớn như một ngôi làng.
Người mới vào. Người còn đang ở bên cạnh kẻ đã mời Người vào, có lẽ để tránh luồng gió lạnh thổi trên núi Moriah. Các tông đồ bước ở đàng sau Người với mấy môn đệ khác. Tôi nói “mấy”, bởi vì ngoài Margziam và Isaac, còn có Jonatha, và trong đám những người vào theo Thầy, còn có Lêvi Zacari, người mà mấy hôm trước đây đã nói với Người rằng ông muốn làm môn đệ Người. Cũng có hai người khác tôi đã thấy ở với các môn đệ, nhưng tôi không biết tên. Giữa đám họ, rất tử tế như thường lệ, là các pharisiêu không thể thiếu và không thể tránh được. Họ dừng lại ngay tại cổng, làm như tình cờ họ gặp nhau ở đó để nói về công việc, nhưng thực sự họ ở đó để nghe ngóng, nhiệt thành chờ đợi nghe lời Chúa giữa những người hiện diện!
Người nhìn đám đông tụ họp, rõ ràng là họ thuộc nhiều quốc tịch khác nhau chứ không phải toàn là Palestin, mặc dầu họ theo đạo Hy Bá. Người nhìn đám đông này mà nhiều người có lẽ chỉ ngày mai là phân tán về các miền mà từ đó họ đã tới, và họ sẽ mang lời Người tới đó khi nói rằng: “Chúng tôi đã nghe vị mà người ta gọi là Đức Messi của chúng ta nói”. Và với họ là những người đã được giáo huấn về lề luật, Người không nói về lề luật như Người thường làm khi Người biết rằng những kẻ ở trước mặt Người là những kẻ không biết, hoăc là đức tin bị lung lay. Nhưng Người nói về chính Người để người ta biết Người.
Người nói: “Ta là Ánh Sáng thế gian. Kẻ theo Ta không bước đi trong tăm tối, nhưng có ánh sáng của Sự Sống”. Và Người yên lặng sau khi đã công bố đề tài của bài thuyết trình mà Người sẽ khai triển, giống như thói quen Người làm khi Người sắp công bố một
361
bài quan trọng. Người nín lặng để cho người ta có giờ quyết định xem họ có quan tâm tới đề tài được công bố không, và cũng để cho những người không quan tâm tới đề tài đó có thời giờ để ra đi. Trong số những người hiện diện, không ai bỏ đi cả. Ngay cả các pharisiêu ở cửa, bận rộn với những đàm thoại gò ép và có nghiên cứu trước, cũng nín lặng, quay về phía bên trong giáo đường ngay vào những lời đầu tiên của Giêsu. Và họ đi vào, phăng ra một lối đi cách hống hách như thường lệ.
Khi tất cả các tiếng động đã chấm dứt, Giêsu nhắc lại câu đã nói với giọng mạnh hơn. Người bắt đầu và tiếp tục: “Ta là Ánh Sáng thế gian, vì Ta là con của Chúa Cha, đấng là Cha của Ánh Sáng. Con thì luôn luôn giống Cha, đấng đã sinh ra mình, có cùng bản tính như Cha. Cũng vậy, Ta giống đấng đã sinh ra Ta, và Ta có cùng một bản tính. Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, Thần Trí toàn vẹn và vô tận, là Ánh Sáng của Tình Yêu, Ánh Sáng của Khôn Ngoan, Ánh Sáng của Sức Mạnh, Ánh Sáng của Lòng Nhân Từ, Ánh Sáng của Vẻ Đẹp. Người là Cha của mọi Ánh Sáng, và kẻ sống bằng Người và trong Người thì nó ở trong Ánh Sáng, và nó nhìn thấy như Thiên Chúa muốn cho các tạo vật của Người thấy. Người đã cho con người trí khôn và tình cảm để nó có thể thấy Ánh Sáng, tức là chính Người, hiểu Người và yêu Người. Và Người đã cho loài người con mắt để nó có thể thấy những sự đẹp đẽ nhất trong số các tạo vật được tạo dựng, sự trọn hảo của các yếu tố, những cái làm cho tỏ tường việc tạo dựng. Cái là một trong những hành động đầu tiên của Thiên Chúa Tạo Hóa, và mang dấu hiệu tỏ tường nhất của đấng đã tạo dựng nên nó, đó là ánh sáng: vô thể, sáng láng, phúc đức, an ủi, cần thiết như Cha của mọi sự: Thiên Chúa vĩnh cửu và tối cao.
Bởi trật tự trong tư tưởng của Người, Người đã tạo dựng bầu trời và trái đất, tức là khối khí quyển và khối bụi, vô thể và hữu thể, những cái nhẹ và những cái nặng, nhưng cả hai còn nghèo nàn và trống rỗng, không hình dạng, vì chúng bị bao bọc bởi tối tăm, không thiên thể và không sự sống. Nhưng để cho trái đất và bầu trời có
362
cái diện mạo thực sự của nó, để làm cho nó thành hai thứ đẹp, hữu ích, thích hợp cho việc tiếp tục công trình sáng tạo, thì Thần Trí của Thiên Chúa - Đấng đứng ở trên nước, hoàn toàn là một với Đấng Tạo Hóa đã tạo dựng, là đấng Khơi Động và Thúc Đẩy tới tạo dựng, để có thể yêu, không phải chỉ yêu chính mình trong Cha và trong Con, nhưng cả trong một số vô vàn các tạo vật, chúng mang tên thiên thể, hành tinh, nước, biển, rừng, cây, hoa, động vật bay, chuyền, bò, chạy, nhảy, trèo... và sau cùng là loài người, tạo vật hoàn bị nhất, hoàn bị hơn mặt trời, vì nó có một linh hồn thêm vào với vật chất; một trí khôn thông minh thêm vào với bản năng, một sự tự do thêm vào với mệnh lệnh. Con người giống Thiên Chúa về thần trí, giống động vật về xác thịt, là bán Thiên Chúa và trở nên Thiên Chúa nhờ Ân Sủng của Thiên Chúa và nhờ ý muốn riêng. Thực thể nhân loại, nhờ ý muốn của nó, có thể biến thành thiên thần, được yêu thương nhất trong các thụ tạo hữu cảm, mà ngay từ trước khi thời gian hiện hữu, Người đã biết nó sẽ phạm tội, và Người đã chuẩn bị cho nó Vị Cứu Tinh: Nạn Nhân trong Thực Thể yêu mến vô biên, trong Người Con, trong Ngôi Lời mà vì Người, mọi sự được tạo dựng - Nhưng để cho trái đất và bầu trời có cái diện mạo thực sự của nó như Ta đã nói, thì đây, Thần Trí của Thiên Chúa đứng trong vũ trụ kêu lên, và đây là Lời lần đầu tiên bộc lộ: “Hãy có ánh sáng”, và ánh sáng hiện hữu, tốt đẹp, lành mạnh, hùng vĩ về ban ngày, yếu mờ về ban đêm, và nó sẽ không bị tiêu diệt bao lâu còn thời gian. Từ đại dương của những kỳ diệu là ngai Thiên Chúa, là cung lòng Thiên Chúa, Thiên Chúa rút ra cái mầm đẹp nhất, đó là ánh sáng, đến trước cái mầm toàn vẹn nhất, là sự tạo dựng con người mà trong nó, không phải chỉ có cái báu vật của Thiên Chúa, mà là có chính Thiên Chúa, với hơi thở của Người mà Người đã thổi trên bùn đất, để làm cho nó thành một xác thịt và một sự sống, và là thừa tự của Người trong Thiên Đàng trên Trời, nơi Người chờ đợi các kẻ công chính, con cái của Người, để Người vui mừng trong nó và nó trong Người.
Nếu từ khởi đầu việc tạo dựng, Thiên Chúa đã muốn có ánh
363
sáng trên các công trình của Người; nếu để làm ra ánh sáng, Người đã dùng Lời Người; nếu Thiên Chúa đã ban cho các tạo vật ưu ái của Người sự giông giống với Người cách toàn vẹn nhất: Ánh Sáng, ánh sáng vật chất vui tươi, vô thể, ánh sáng thiêng liêng khôn ngoan và thánh hóa, thì lẽ nào Người lại không cho người Con của tình yêu Người cái là chính Người? Thực vậy, đối với đấng mà Người được thỏa lòng từ đời đời, Đấng Tối Cao đã cho tất cả, và trong cái tất cả này, Người đã muốn rằng cái thứ nhất và mạnh nhất phải là Ánh Sáng, để không cần chờ lúc lên Trời, loài người đã có thể biết những kỳ diệu của Ba Ngôi, điều làm cho ca đoàn các kẻ hạnh phúc hát vang trên Trời, hát vì sự êm ái của niềm vui rạng rỡ đến với các thiên thần do sự chiêm ngắm Ánh Sáng, tức là Thiên Chúa. Ánh Sáng đầy tràn Thiên Đàng và là hạnh phúc cho dân Thiên Quốc.
Ta là Ánh Sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không bước đi trong tăm tối, nhưng sẽ có ánh sáng của Sự Sống! Cũng như ánh sáng vô hình dạng trên trái đất đã cho các thảo mộc và động vật có thể sống, thì ánh sáng của Ta cũng cho các thần trí được sống đời đời.
Thầy là Ánh Sáng. Thầy tạo ra sự sống trong các con, Thầy gìn giữ nó, phát triển nó, tái tạo các con trong nó, biến đổi các con, dẫn các con tới chỗ ở của Thiên Chúa bởi các con đường của sự khôn ngoan, của tình yêu, của sự thánh hóa. Kẻ có Ánh Sáng ở trong mình thì có Thiên Chúa ở trong nó, vì Ánh Sáng là một với Đức Ái, và ai có Đức Ái thì có Thiên Chúa. Ai có Ánh Sáng ở trong mình thì có Sự Sống ở trong nó, vì nơi đâu người ta đón nhận Con Yêu của Người thì Thiên Chúa ở đó.
- Ông nói vô lý. Ai đã thấy Thiên Chúa thế nào? Chính Môise cũng không thấy Thiên Chúa. Qủa vậy, trên núi Horeb, ngay khi ông ta biết ai là người nói trong bụi cây cháy rực, ông đã che mặt. Và cả những lần khác, ông cũng không thể nhìn thấy Người ở giữa những ánh chớp chói lòa. Vậy mà ông nói rằng ông đã thấy Thiên Chúa. Với Môise là người chỉ nghe Thiên Chúa nói mà khuôn mặt ông còn lưu lại sự chói lọi. Còn ông, ông có ánh sáng nào trên mặt
364
ông? Ông là tên Galilê tội nghiệp mà mặt mũi tái mét như phần đông trong các ông. Ông bệnh tật, mệt mỏi và ốm o. Thực vậy, nếu ông đã thấy Thiên Chúa, và nếu Người yêu ông, thì ông đâu có như kẻ gần chết thế này. Ông muốn cho sự sống mà ông chẳng có cho chính mình! - Và họ lắc đầu với sự thương hại mỉa mai.
- Thiên Chúa là Ánh Sáng, và Ta, Ta biết Ánh Sáng là gì. Vì các con cái thì biết cha chúng, và mỗi người cũng biết chính mình. Ta, Ta biết Cha Ta, và Ta cũng biết Ta là ai. Ta là Ánh Sáng thế gian. Ta là Ánh Sáng, vì Cha Ta là Ánh Sáng, và Người đã sinh ra Ta bằng cách cho Ta bản tính của Người. Lời không thể nào lại không giống Tư Tưởng, vì Lời bộc lộ những gì Tư Tưởng nghĩ. Ngoài ra, các ông không biết lời tiên tri sao? Các ông không nhớ Êzêkiel, và nhất là Daniel sao? Để diễn tả Thiên Chúa mà ông thấy trên chiếc xe của bốn con vật, ông thứ nhất nói: “Trên ngai có một người mà diện mạo giống như diện mạo một người. Nơi Người và ở chung quanh Người, tôi thấy một thứ hổ phách vàng như mật ong. Người có diện mạo như lửa, và ở chỗ thắt lưng Người, bên trên và bên dưới, tôi thấy một thứ lửa chói sáng khắp chung quanh, giống như chiếc cầu vồng tạo nên trong đám mây vào một ngày mưa. Tất cả chung quanh sự rực rỡ này cũng vậy”. Còn Daniel thì nói: “Tôi mải nhìn cho tới khi người ta nâng các chiếc ngai lên, và vị Kỳ Lão ngồi xuống. Y phục của Người trắng như tuyết. Tóc Người giống như len trắng sáng chói. Ngai của Người bằng lửa cháy rực, và các bánh xe của chiếc ngai là thứ lửa sáng láng. Một con sông bằng lửa chảy nhanh trước mặt Người”. Thiên Chúa là như vậy đó, và tôi sẽ là như vậy khi tôi đến xét xử các ông.
- Lời chứng của ông không có giá trị. Ông làm chứng cho chính ông, vậy lời chứng của ông có giá trị gì? Đối với chúng ta thì nó không thực.
- Mặc dầu tôi làm chứng cho chính tôi, chứng cớ của tôi vẫn thực, vì tôi biết tôi từ đâu đến và tôi sẽ đi đâu. Nhưng các ông, các ông không biết tôi từ đâu tới, cũng không biết tôi đi đâu. Các ông có sự khôn ngoan là những gì các ông nhìn thấy. Trái lại, tôi, tôi
365
biết tất cả những gì loài người không biết. Tôi đến để cho các ông cũng được biết. Chính vì vậy tôi nói tôi là ánh sáng, vì ánh sáng cho biết những gì bóng tối che giấu. Trên trời thì có Ánh Sáng; trên trái đất, nhất là trong thế giới của Tối Tăm, nó giấu không cho các tâm hồn biết sự thật, vì Tối Tăm ghét linh hồn người ta, nó không muốn cho họ biết đấng Chân Lý và các sự thật để họ không thể tự thánh hóa. Chính vì vậy mà tôi đã đến để cho người ta có Ánh Sáng, và bởi đó có Sự Sống. Nhưng các ông không muốn tiếp nhận tôi. Các ông muốn xét đoán cái mà các ông không biết, và điều này thì các ông không thể xét đoán, vì nó qúa cao ở bên trên các ông, và nó là điều không thể hiểu nổi đối với những ai không chiêm ngắm nó bằng con mắt linh hồn, và với một linh hồn khiêm nhường, được nuôi dưỡng bằng đức tin. Nhưng các ông, các ông xét đoán theo xác thịt, nên các ông không thể xét đoán theo sự thật. Tôi, trái lại, tôi không xét đoán ai nếu tôi được phép miễn xét đoán. Tôi nhìn các ông với tình thương và tôi cầu nguyện cho các ông, để các ông mở lòng mình ra cho ánh sáng. Nhưng khi tôi phải xét xử thực sự, lúc đó, sự xét xử của tôi sẽ đúng, vì tôi không một mình, nhưng tôi ở với Cha là đấng đã sai tôi. Và Người, trong sự vinh quang của Người, Người thấy bên trong các con tim. Và như Người thấy nội tâm các ông, Người cũng thấy nội tâm của tôi. Vậy nếu Người thấy trong tim tôi một sự xét xử bất công, thì vì tình yêu đối với tôi, và vì danh dự của sự công chính Người, Người sẽ báo cho tôi biết. Nhưng Chúa Cha và tôi, chúng ta xét xử theo cùng một cách. Chúng ta là hai chứ không phải chỉ là một để xét xử và chứng minh. Trong luật của các ông có viết rằng lời chứng của hai chứng nhân xác nhận cùng một điều thì phải được coi là thật và có gía trị. Vậy tôi làm chứng cho bản tính của tôi, và cùng với tôi, Chúa Cha là đấng đã sai tôi chứng nhận cùng một điều. Bởi vậy điều tôi nói là sự thật.
- Chúng tôi đâu có nghe thấy tiếng Đấng Tối Cao. Chính ông nói rằng Người là Cha ông...
- Người đã nói với các ông về tôi tại sông Giođan.
- Đúng. Nhưng đâu phải chỉ có mình ông tại Giođan. Có cả Gioan
366
ở đó. Người có thể nói về ông ta. Đó là một đại tiên tri.
- Chính bởi môi miệng các ông, các ông kết án chính mình. Hãy nói cho tôi: “Ai nói trên môi miệng các tiên tri ?”
- Thần Trí của Thiên Chúa.
- Và đối với các ông, Gioan là một tiên tri?
- Một trong những vị lớn nhất, nếu không là vị lớn nhất.
- Vậy tại sao các ông đã không tin vào lời ông ta, và tại sao các ông đang không tin vào đó? Ông ta đã chỉ điểm tôi như Con Chiên Thiên Chúa, đến để xóa tội thế giới. Với ai hỏi ông xem ông có phải là Đức Kitô không, ông đã nói: “Tôi không phải Đức Kitô, nhưng là kẻ đi trước Người. Và ở sau tôi là đấng mà thực sự đi trước tôi, vì Người hiện hữu trước tôi. Và tôi, tôi đã không biết Người, nhưng đấng sai tôi làm phép rửa đã nói với tôi: Người mà con thấy Thánh Thần ngự xuống ở trên, đó là đấng sẽ tẩy rửa với Thánh Thần và trong lửa”. Các ông không nhớ sao? Nhiều người trong các ông đã hiện diện ở đó. Vậy tại sao các ông không tin vào vị tiên tri đã chỉ vào tôi sau khi đã nghe những lời của Trời? Phải chăng vì vậy, tôi phải nói với Cha tôi: “Dân của Cha không tin vào các tiên tri nữa”.
- Cha của ông đâu? Giuse thợ mộc đã ngủ trong mồ từ bao năm nay rồi. Ông đâu có còn cha.
- Các ông không biết Cha tôi, cũng không biết tôi. Nhưng nếu các ông muốn biết tôi thì các ông cũng biết Cha thực của tôi.
- Ông là tên bị ám và dối trá. Ông là kẻ lộng ngôn khi ông xác nhận rằng Đấng Tối Cao là Cha ông, và ông đáng bị người ta đánh phù hợp với lề luật.
Các người pharisiêu và các người khác của Đền Thờ rống lên những lời dọa nạt, trong khi người ta xì xèo để bảo vệ Đức Kitô.
Giêsu nhìn họ, không nói thêm lời nào. Rồi Người ra khỏi nơi đó bằng một cửa hông nhỏ mở ra lối hành lang.
204* “CHÚNG TÔI LÀ CON CHÁU ABRAHAM”
367
Giêsu vào Đền Thờ với các tông đồ và các môn đệ. Một số tông đồ, và không phải chỉ có các tông đồ, lưu ý Người là phải thận trọng khi vào đó. Nhưng Người trả lời: “Người ta có thể lấy quyền nào mà không cho Thầy vào? Có phải tình cờ Thầy là kẻ bị kết án không? Không. Lúc này thì Thầy chưa phải là kẻ bị kết án. Vậy Thầy sẽ lên bàn thờ của Thiên Chúa như mọi người Israel kính sợ Chúa”.
- Nhưng Thầy có ý định nói...
- Đó chẳng phải là nơi mà các rabbi thường tụ tập để nói sao? Trường hợp ngoại trừ mới ở ngoài chỗ này để nói và giảng dạy, và điều đó là để phù hợp với sự nghỉ ngơi mà vị rabbi muốn, hoăc vì sự cần thiết cá nhân. Nhưng chỗ này mới là nơi mà mọi người đều thích để làm trường cho các môn đệ. Các con không thấy ở chung quanh các rabbi có những người thuộc mọi quốc tịch sao? Họ tới gần để nghe các rabbi nổi tiếng ít nhất là một lần. Như vậy để khi trở về quê hương, họ có thể nói: “Chúng tôi đã nghe một vị thầy, một triết gia nói theo kiểu Israel”. Vị Thầy, đối với những kẻ đã là Hy Bá hay có khuynh hướng trở thành Hy Bá; triết gia đối với các dân ngoại đúng nghĩa. Các rabbi không ghê tởm khi được nghe bởi loại người thứ hai, với hy vọng họ sẽ trở thành tân tòng. Không có cái hy vọng này - một điều, nếu không khiêm nhường thì cũng là thánh - họ sẽ không đứng ở trong sân dân ngoại, mà họ sẽ đòi hỏi để được nói trong sân Hy Bá, và nếu có thể, được nói ngay trong nơi thánh. Vì theo sự xét đoán của họ về chính họ, thì họ thánh tới nỗi chỉ có Thiên Chúa ở trên họ... Vậy Thầy, Thầy là ông thầy, Thầy nói ở nơi các ông thầy khác nói. Nhưng đừng sợ, chưa phải lúc đâu. Khi đến lúc thì Thầy sẽ nói cho các con, để các con củng cố con tim các con.
- Thầy sẽ không nói điều đó - Iscariot nói.
- Tại sao?
- Bởi vì Thầy sẽ không thể biết. Không có dấu hiệu nào chỉ cho Thầy biết. Không có dấu hiệu. Đã gần ba năm nay con ở với Thầy, con luôn luôn thấy Thầy bị đe dọa và bách hại kể cả hồi Thầy có
368
một mình. Bây giờ ở đàng sau Thầy, Thầy có dân chúng yêu Thầy, và là đám người mà các pharisiêu sợ. Vậy Thầy mạnh hơn. Cái gì sẽ chỉ cho Thầy biết là đến giờ đó?
- Chính là vì Thầy thấy con tim của loài người.
- Judas yên lặng sững sờ một lát, rồi ông nói: “Và Thầy cũng sẽ không nói bởi vì... Thầy tránh cho chúng con, vì Thầy nghi ngờ sự can đảm của chúng con”.
- Chính vì để không làm cho chúng ta buồn nên Người nín lặng - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Cả điều đó nữa. Nhưng chắc chắn Thầy sẽ không nói.
- Thầy sẽ nói cho các con. Và bao lâu Thầy chưa nói cho các con thì dù các con thấy sự hung bạo và căm hờn chống lại Thầy mạnh mẽ tới đâu cũng đừng sợ. Nó không có hiệu qủa. Hãy đi lên trước đi. Thầy ở lại đây để chờ Manaen và Margziam.
Bất đắc dĩ, nhóm mười hai và các người ở với họ tiến lên trước.
Giêsu trở lại cổng để chờ hai người, cả đến Người ra ngoài phố và đi về phía đồn Antonia.
Các người lính đứng ở gần pháo đài giơ ngón tay chỉ Người và nói với nhau. Dường như họ có sự thảo luận, rồi một người trong đám họ nói lớn: “Tôi đi hỏi ông ta” và anh ta tách ra để lại với Giêsu.
- Chào Thầy. Hôm nay Thầy cũng nói ở bên trong?
- Nguyện ánh sáng soi cho anh. Đúng, tôi sẽ nói.
- Vậy... Xin Thầy cẩn thận giữ mình. Có người đã biết chuyện và đã báo cho chúng tôi; và có một bà cảm phục Thầy đã ra lệnh canh chừng. Chúng tôi sẽ ở gần đường hầm ở phía đông. Thầy biết lối vào không?
- Tôi không phải không biết, nhưng nó khóa cửa ở cả hai đầu đường.
- Thầy tin vậy à? - người lính cười một lát trong bóng của chiếc nón két của anh. Mắt và răng anh ta sáng loáng làm cho anh có vẻ trẻ hơn. Rồi anh cứng đơ người để chào: “Chào Thầy. Xin Thầy nhớ tới Quintus Félix”.
369
- Tôi sẽ nhớ. Nguyện ánh sáng soi cho anh.
Giêsu lại lên đường và người lính trở về chỗ lúc trước của anh, và anh nói chuyẹn với các bạn anh.
- Thưa Thầy, chúng con bị trễ? Có qúa nhiều người cùi! - Manaen và Margziam nói cùng một trật. Manaen chỉ mặc một bộ đồ nâu sậm đơn giản.
- Không. Các con đã làm lẹ đó. Nhưng chúng ta đi thôi. Các người khác đang chờ chúng ta. Manaen, có phải con đã báo cáo với người Rôma không?
- Về cái gì Chúa? Con không nói gì với ai cả. Và con đã không biết... Các bà Rôma không ở Jêrusalem.
Họ lại đã tới gần cổng vào nội khu. Vị Lêvi Zacari đang ở đó, làm như tình cờ họ gặp nhau.
- Bình an cho Thầy. Con muốn nói với Thầy... Con sẽ cố gắng luôn luôn ở bên cạnh Thầy, tại đây, trong nội khu. Và Thầy, Thầy đừng rời mắt khỏi con. Và nếu có sự huyên náo và Thầy thấy rằng con bỏ đi, thì hãy luôn luôn tìm cách theo con. Họ ghét Thầy kinh khủng! Con không thể làm gì hơn. Xin Thầy hiểu con...
- Nguyện Thiên Chúa trả ơn cho con và chúc lành cho con, vì tình thương của con đối với Ngôi Lời của Người. Thầy sẽ làm điều con nói. Nhưng đừng sợ rằng có người sẽ biết tình yêu của con đối với Thầy.
Họ chia tay.
- Có lẽ chính ông ta đã nói với các người Rôma. Bởi vì ông ta ở trong cuộc, ông ta biết... - Manaen lẩm bẩm.
Họ đi băng qua nhiều người để tới nơi cầu nguyện. Người ta nhìn họ với những cảm tình khác nhau. Khi Người cầu nguyện xong và trở lại sân Hy Bá thì họ tới tụ tập với Người.
Khi ra khỏi nội khu thứ hai, Giêsu sắp sửa dừng lại thì Người thấy mình bị bao vây bởi một nhóm lẫn lộn các luật sĩ, pharisiêu và các thầy cả. Một trong số các viên chức của Đền Thờ nói đại diện
370
cho tất cả:
- Ông còn ở đây sao? Ông không hiểu rằng chúng tôi không muốn có ông; cả đến ông không sợ sự nguy hiểm đe dọa ông ở đây sao? Đi khỏi đi! Chúng tôi để cho ông vào cầu nguyện đã là nhiều lắm rồi. Chúng tôi không cho phép ông giảng dạy giáo lý của ông.
- Đúng, đi đi! đi đi! Kẻ phạm thượng!
- Phải, tôi đi như các ông muốn. Và không phải chỉ đi ra ngoài các bức tường này mà thôi. Tôi sẽ đi. Tôi đang đi khỏi, tới nơi xa hơn, nơi các ông không thể đến với tôi. Và sẽ đến cái giờ mà các ông cũng sẽ tìm tôi, không phải là để bách hại tôi nữa, mà là vì một nỗi sợ dị đoan rằng sẽ bị phạt vì đã xua đuổi tôi, vì nỗi lo âu mê tín mong được tha thứ tội lỗi và được hưởng tình thương. Nhưng tôi bảo các ông: Đây là giờ của tình thương, đây là giờ để trở nên bạn hữu với Thiên Chúa. Khi giờ này qua đi, mọi chỗ náu ẩn sẽ là vô ích. Các ông sẽ không còn có tôi nữa, và các ông sẽ chết trong tội của các ông. Dù các ông chạy rảo khắp trái đất, dù các ông có thành công lên tới các hành tinh và các thiên thể, các ông cũng không tìm thấy tôi nữa, vì nơi tôi đi, các ông không thể tới được. Tôi đã bảo các ông: Thiên Chúa đến và Người đi qua. Kẻ nào khôn thì đón nhận Người với những ơn phúc do sự đi qua của Người. Kẻ nào ngu dại thì để Người đi qua và không bao giờ tìm thấy Người nữa. Các ông đến từ dưới thế này, còn tôi, tôi từ trên cao. Các ông thuộc về thế gian này, còn tôi, tôi không thuộc về thế gian. Cũng vậy, một khi tôi lại trở về nơi ở của Cha tôi, xa cái thế giới này là thế giới của các ông, các ông sẽ không tìm thấy tôi nữa, và các ông sẽ chết trong tội của các ông, vì các ông không biết đến với tôi, kể cả đến một cách thiêng liêng bằng đức tin.
- Ông muốn tự tử sao, Satan? Chắc chắn rằng khi đó, trong hỏa ngục, nơi các kẻ tàn ác xuống, chúng tôi không thể đến với ông, vì hỏa ngục thuộc về những kẻ bị kết án, những kẻ bị nguyền rủa, mà chúng tôi là những con cái được chúc phúc của Đấng Tối Cao - một số nói.
Và những người khác xác nhận khi nói: “Chắc chắn hắn ta muốn
371
tự tử, vì hắn nói nơi hắn đi, chúng ta không thể tới. Hắn hiểu hắn bị bại lộ, hắn sẽ thất bại nên hắn tự diệt, không đợi để bị diệt như tên Galilê Kitô giả trước đây”.
Và một số khác tử tế hơn: “Nhưng nếu trái lại, nếu ông ta thực sự là Đức Kitô, và ông ta trở về với đấng đã sai ông ta?”
- Về đâu? Về Trời à? Abraham không có ở đó, vậy mà anh nghĩ ông ta lên đó? Trước hết, Đức Kitô phải đến đã.
- Nhưng Êlia đã được đem lên trời trong chiếc xe bằng lửa.
- Trên một chiếc xe thì có. Nhưng lên Trời!... Ai có thể bảo đảm?
Và cuộc tranh luận kéo dài, trong khi các pharisiêu, các luật sĩ, các viên chức, các thầy cả, các người Do Thái phục tùng các thầy cả, luật sĩ và pharisiêu chèn ép xô đẩy Người băng qua dẫy hành lang mênh mông, giống như bầy chó vờn con thịt mà chúng đã khám phá ra.
Nhưng một số người tốt ở giữa đám đông hận thù, những người thực tình được hướng dẫn bởi sự mong ước chân thành, họ rẽ ra một lối đi để đến với Giêsu và lo lắng hỏi Người một câu mà tôi đã biết bao lần nghe được hỏi bởi tình yêu hoặc thù ghét: “Thầy là ai? Hãy nói để chúng tôi biết lối xử sự. Hãy nói sự thật, nhân danh Đấng Tối Cao”.
- Ta là chính Chân Lý và Ta không bao giờ nói dối. Ta là đấng mà Ta luôn luôn công bố với các con từ ngày đầu tiên mà Ta nói với đám đông, trong mọi nơi của Palestin, điều mà ta đã nói nhiều lần ở đây, gần ngay nơi cực thánh mà Ta không sợ bị sét đánh, bởi vì Ta nói sự thật. Ta còn nhiều điều phải nói và xét xử trong ngày của Ta, về những gì liên can tới dân này, dù là chiều tà đã có vẻ gần cho Ta. Ta biết rằng Ta sẽ nói và ta sẽ xét xử mọi người, vì đó là điều mà đấng đã sai Ta, đấng là Chân Lý, đã hứa với Ta. Người đã nói với Ta trong sự ôm ẵm đời đời của tình yêu, trong khi nói với Ta tất cả tư tưởng của Người, để Ta có thể nói cho thế giới bằng Lời Ta. Ta không thể nín lặng, và không ai có thể bắt Ta nín lặng cho tới khi Ta đã loan báo cho thế giới hết những gì Ta đã nghe nơi Cha Ta.
- Ông vẫn còn lộng ngôn? Ông vẫn còn tiếp tục xưng mình là
372
Con Thiên Chúa? Nhưng ông muốn rằng ai tin ông? Ông muốn ai là người nhìn thấy người Con Thiên Chúa nơi ông? - Các kẻ thù của Người nói với Người bằng những cử điệu mạnh mẽ, với nắm tay của họ giơ lên hầu như trước mặt Người. Họ điên lên vì thù ghét.
Các tông đồ, các môn đệ và các người có ý hướng tốt đẩy họ ra, làm thành một hàng rào để bảo vệ Thầy họ. Ông Lêvi Zacari lẹ làng len lỏi. Ông đo lường các cử động của ông để không lôi kéo sự chú ý của các kẻ hung hăng, và ông đến tận chỗ Giêsu, ở bên cạnh Manaen và hai người con ông Alphê.
Bây giờ họ đang ở đầu hành lang dân ngoại, vì bước chân chậm chạp giữa hai dòng người trái ngược, và Giêsu dừng lại ở chỗ quen thuộc của Người, tại chiếc cột sau cùng ở phía đông. Người dừng lại đó. Tại nơi Người đứng, ngay cả các dân ngoại cũng không thể đuổi một người Israel thực sự mà không khiêu khích đám đông, điều họ muốn tránh một cách nham hiểm. Và từ chỗ này, Người tiếp tục bài thuyết trình của Người để trả lời cho những kẻ xúc phạm đến Người. và cùng với họ là nói cho mọi người: “Khi các ông sẽ nâng Con Người lên...”
Các pharisiêu và luật sĩ la lên: “Ông muốn ai là người nâng ông lên? Cái xứ khốn nạn nào lại muốn một ông vua là thằng điên lẻo mép, một tên lộng ngôn nhục nhã của Thiên Chúa. Không ai trong chúng tôi sẽ nâng ông lên cả. Hãy chắc chắn điều đó. Và một chút ánh sáng còn lại cho ông phải làm cho ông hiểu kịp thời khi người ta đặt ông vào thử thách. Ông biết rằng chúng ta sẽ không bao giờ đặt ông làm vua của chúng ta”.
- Tôi biết, các ông sẽ không nâng tôi lên một cái ngai. Tuy nhiên các ông sẽ nâng tôi lên. Và các ông tưởng là hạ tôi xuống khi nâng tôi lên. Nhưng chính ngay vào lúc các ông tưởng là đã hạ được tôi xuống, thì tôi được nâng lên. Không phải chỉ ở bên trên xứ Palestin, không phải chỉ ở trên toàn thể Israel rải rác trong thế giới, nhưng trên toàn thể thế giới, trên cả các quốc gia dân ngoại, trên cả những nơi mà những nhà thông thái của thế giới cũng chưa biết tới. Và tôi sẽ như vậy, không phải chỉ kéo dài trong cuộc đời một người, nhưng kéo dài trong suốt đời sống của trái đất. Và hiệu kỳ của ngai tôi sẽ
373
càng ngày càng tràn lan ra trên trái đất cho tới khi nó bao phủ trái đất hoàn toàn. Chỉ khi đó tôi mới trở lại, và các ông sẽ thấy tôi. Ôi! Các ông sẽ thấy tôi!
- Nhưng qúi vị hãy nghe bài thuyết trình của thằng điên! Chúng ta sẽ nâng hắn lên khi hạ hắn xuống, và chúng ta hạ hắn xuống khi nâng hắn lên! Một thằng điên! Một thằng điên! Và bóng ngai của hắn trên khắp trái đất! Còn lớn hơn Cyrus! Hơn Alexandre! Hơn César! Ông sẽ để César vào đâu? Ông tin rằng César để cho ông chiếm đế quốc Rôma sao? Và hắn sẽ ở lại trên ngai trong suốt sự tồn tại của thế giới! Ha ha ha! - Sự mỉa mai của họ quất mạnh hơn một cái roi.
Nhưng Giêsu để cho họ nói. Người cất cao giọng để người ta nghe được giữa tiếng la ó của những kẻ chế nhạo Người cũng như những kẻ bảo vệ Người. Sự rộn ràng làm đầy nơi đó như tiếng ồn ào của biển động:
- Khi các ông nâng Con Người lên, lúc đó các ông sẽ biết tôi là ai, và tôi không làm gì tự ý tôi, nhưng tôi nói những gì Cha tôi đã dạy tôi, và làm những gì Người muốn. Và đấng đã sai tôi không bỏ tôi một mình, Người ở với tôi. Cũng như bóng đi theo thân mình, Cha tôi ở đàng sau tôi, canh chừng, hiện diện, dù là vô hình. Người ở đàng sau tôi, an ủi tôi, giúp đỡ tôi. Người không rời xa tôi, vì tôi luôn luôn làm vui lòng Người. Trái lại, Thiên Chúa rời xa đi khi các con cái Người không tuân theo các lề luật của Người và các soi dẫn của Người. Khi đó Người đi, để họ một mình. Chính vì vậy nhiều người trong Israel phạm tội. Bởi vì con người, khi bị bỏ một mình, họ khó lòng giữ mình công chính, và họ ngã dễ dàng vào vòng xoắn của Con Rắn. Thực vậy, thực vậy, tôi nói với các ông rằng vì tội của các ông cố tình chống lại Ánh Sáng và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ rời xa các ông, Người sẽ để nơi này và con tim các ông trống vắng, không có Người. Và điều mà Jêrêmi đã than khóc trong các lời tiên tri và các lời than van của ông sẽ thực hiện hoàn toàn đúng. Hãy suy niệm các lời tiên tri này. Hãy run sợ và trở về với chính các ông với một thần trí tốt. Hãy nghe, không
374
phải chỉ những đe dọa, nhưng lòng nhân từ vẫn còn là của người Cha cảnh cáo con cái Người, trong khi Người còn cho phép chúng sửa đổi và cứu lấy mình. Hãy nghe Thiên Chúa trong các lời và các sự kiện. Và nếu các ông không muốn tin vào lời tôi, vì con người Israel cũ làm ngộp các ông, thì ít nhất hãy tin vào con người Israel cũ, trong nó, các tiên tri kêu lên những nguy hiểm và những khốn khó của Thành Thánh, và của toàn thể quê hương chúng ta, nếu nó không quay về với Chúa là Thiên Chúa của nó, và nếu nó không theo Vị Cứu Tinh. Bàn tay Thiên Chúa đã đè nặng trên dân này trong những thế kỷ đã qua, nhưng qúa khứ cũng như hiện tại sẽ không là gì so với cái tương lai đáng ngại đang chờ nó vì đã không muốn đón nhận Đấng Thiên Chúa sai đến. Nó không thể so sánh được, về sự khắc nghiệt cũng như sự kéo dài, cái đang chờ Israel vì đã từ rẫy Đức Kitô. Chính tôi nói với các ông điều đó khi tôi nhìn sâu vào các thế kỷ: Giống như một cây bị gẫy và bị quăng vào dòng nước xoáy của một con sông cuồng phong, dòng dõi Hy Bá cũng sẽ bị đánh như vậy bởi sự nguyền rủa của Thiên Chúa. Với sự bền giai, nó sẽ tìm cách dính vào bờ sông chỗ nọ chỗ kia, và một cách kịch liệt, nó sẽ đâm chồi và rễ. Nhưng khi nó tưởng là đã dính chặt được vào chỗ ở, thì nó lại bị dòng nước mạnh mẽ giựt ra, bẻ gẫy rễ và chồi, và nó sẽ đi xa hơn, chịu đựng, bám chặt vào, để rồi lại bị giựt ra và phân tán. Và không gì có thể cho nó bình an, vì dòng nước theo đuổi nó sẽ là cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và sự khinh bỉ của các dân tộc. Chỉ khi nào nó nhảy vào một biển máu sống và có sức thánh hóa, nó mới có thể tìm thấy bình an. Nhưng nó sẽ chạy trốn máu này, mặc dầu máu này vẫn mời gọi nó, bởi vì nó thấy như đó là tiếng máu của Abel gọi nó, và nó là Cain của Abel trên Trời.
Một ồn ào rộng lớn nữa lan ra trong nội khu như tiếng sóng thủy triều, nhưng nó thiếu tiếng ồn ào của các giọng chua cay của các pharisiêu, luật sĩ, và các người Do Thái vào phe với họ.
Giêsu lợi dụng sự kiện này để thử ra đi. Nhưng một số người ở xa, liền lại bên Người và thưa: “Xin Thầy nghe chúng con, không
375
phải tất cả chúng con đều như họ (và họ chỉ vào các kẻ thù) nhưng chúng con rất khó lòng để theo Thầy, bởi vì tiếng Thầy là một, chống lại với một trăm, một ngàn tiếng nói trái ngược với điều Thầy nói. Và những điều họ nói là những điều chúng con đã nghe cha ông chúng con nói từ nhỏ. Tuy nhiên lời Thầy lôi kéo chúng con tin. Nhưng phải làm sao để tin cách hoàn toàn, và để có sự sống? Chúng con giống như bị trói bởi các tư tưởng qúa khứ...”
- Nếu các con gắn bó với lời Thầy, thì điều đó giống như một sự tái sinh, các con sẽ tin cách hoàn toàn và sẽ trở nên môn đệ của Thầy. Nhưng các con phải cởi bỏ qúa khứ và tiếp nhận giáo lý của Thầy. Nó không xóa bỏ hết qúa khứ, trái lại, nó duy trì và làm mạnh mẽ lại những gì là thánh và siêu nhiên trong quá khứ, và lấy đi những gì vô ích thuộc về con người, bằng cách đặt giáo lý trọn hảo của Thầy vào chỗ của giáo lý luôn luôn bất toàn của loài người. Nếu các con đến với Thầy, các con sẽ biết chân lý, và chân lý sẽ làm cho các con được tự do.
- Thưa Thầy, đúng như chúng con đã nói với Thầy rằng chúng con bị trói buộc bởi qúa khứ, nhưng sợi giây này không phải là một nhà tù, cũng không phải sự nô lệ. Chúng con là con cháu Abraham về tinh thần. Qủa vậy, nếu chúng con không lầm thì khi nói con cháu Abraham, tức là nói con cháu về tinh thần, đối nghịch với con cháu của Agar là con cháu nô lệ. Vậy làm sao Thầy có thể nói rằng chúng con sẽ trở nên tự do?
- Con cháu của Abraham cũng có cả Ismael và con cháu ông. Thầy bảo các con nhận xét điều đó, vì Abraham là cha của Isaac và Ismael.
- Nhưng con cháu ô uế, vì đó là con của người đàn bà nô lệ và người Ai Cập.
- Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng chỉ có một sự nô lệ, là nô lệ tội lỗi. Chỉ có kẻ phạm tội mới là nô lệ, và là thứ nô lệ mà không một món tiền nào có thể chuộc được, và là nô lệ của một ông chủ cay nghiệt, tàn ác. Nó bị mất tất cả quyền tự do tối thượng của Nước Trời. Một người mà chiến tranh hay bất hạnh làm cho
376
thành nô lệ, họ cũng có thể rơi vào tay một người chủ tốt, nhưng hoàn cảnh tốt của nó luôn luôn bấp bênh, vì chủ của nó có thể bán nó cho một chủ độc ác. Nó là một món hàng, không gì hơn. Đôi khi người ta cũng dùng nó như một món tiền để trả nợ, và nó không có cả đến quyền được khóc. Trái lại, người đầy tớ thì sống trong nhà chủ cho tới khi nó được cho phép đi. Nhưng người con thì luôn luôn sống trong nhà cha, và người cha không nghĩ tới đuổi nó. Chỉ có do ý muốn tự do của nó, nó có thể ra khỏi đó. Trong điều này, có sự khác nhau giữa nô lệ và tôi tớ, giữa tôi tớ và con cái. Sự nô lệ đặt con người vào sợi giây xích, sự tôi đòi đặt nó vào sự sẵn sàng cho một người chủ, quan hệ cha con đặt nó luôn luôn, và với sự đồng đều suốt đời ở trong nhà cha. Sự nô lệ tiêu hủy con người, sự phục vụ làm cho nó thành phụ thuộc, tử hệ làm cho nó tự do và sung sướng. Tội lỗi làm cho người ta thành nô lệ vô tận của một ông chủ độc ác nhất: Satan. Sự tôi đòi, trong trường hợp luật cũ, làm cho con người sợ sệt đối với Thiên Chúa như đối với một chủ thể khăng khăng. Tử hệ, tức là việc đến với Thiên Chúa cùng với Con Trưởng của Người, tức là với Thầy, làm cho con người tự do và sung sướng, vì nó biết Cha nó, và nó tin cẩn vào tình bác ái của Người. Đón nhận giáo lý của Thầy tức là đến với Thiên Chúa cùng với Thầy, Con Trưởng của một số con yêu đông đảo của Người. Thầy sẽ bẻ gẫy xiềng xích của các con, miễn là các con đến với Thầy để Thầy bẻ gẫy nó, và các con sẽ thực sự tự do và đồng thừa hưởng Nước Trời với Thầy. Thầy biết các con là con cháu Abraham, nhưng những người trong đám các con tìm giết Thầy thì không tôn kính Abraham, nhưng tôn kính Satan, và phục vụ nó với tư cách là nô lệ trung thành. Tại sao? Vì họ từ chối lời Thầy. Và lời Thầy không thể thấm nhập vào được trong số rất nhiều người các con. Thiên Chúa không cưỡng ép con người để bó buộc họ tin. Người không cưỡng ép họ để buộc họ tiếp nhận Thầy, nhưng Người sai Thầy để Thầy chỉ cho các con ý muốn của Người. Và Thầy, Thầy nói cho các con những gì Thầy đã thấy và nghe nơi Cha Thầy, và Thầy làm những gì Người muốn. Nhưng những kẻ trong các con bách hại Thầy, là họ làm
377
những gì họ đã học nơi cha của họ, và những gì nó chỉ bảo cho họ.
Giống như sự cực phát của một cơn bệnh trở lại sau một thời gian thuyên giảm, sự tức giận của các người Do Thái, pharisiêu và luật sĩ như đã hơi dịu, lại bùng lên dữ dội. Họ xông vào như một cái nêm qua đám người vây chặt chung quanh Giêsu và họ tìm cách lại gần Người. Đám đông chuyển động như một làn sóng ngược chiều, giống như các cảm tình của các con tim cũng ngược chiều. Các người Do Thái tái mét vì giận và căm thù. Họ la lớn: “Cha của chúng tôi là Abraham. Chúng tôi không có cha nào khác”.
- Cha của mọi người là Thiên Chúa. Chính Abraham cũng là con của Cha chung. Nhưng nhiều người đã từ bỏ người Cha thật để nhận một kẻ không phải là cha. Họ chọn nó làm cha vì họ thấy như nó mạnh hơn, và nó sẵn sàng để thỏa mãn những ham muốn vô độ của họ. Con cái thì làm những gì nó thấy cha nó làm. Nếu các ông là con cái Abraham, tại sao các ông không làm các việc của Abraham? Các ông không biết các việc đó sao? Tôi có phải liệt kê chúng cho các ông về thực chất và về tượng trưng không? Abraham vâng lời khi ra đi tới nước mà Thiên Chúa chỉ cho ông, tượng trưng cho một người phải sẵn sàng từ bỏ tất cả để tới nơi Thiên Chúa sai họ tới. Abraham vị nể người con trai của anh ông và để cho ông này chọn miền đất mà ông ta thích hơn: hình thức kính trọng sự tự do hành động và tình bác ái mà người ta phải có với tha nhân. Abraham khiêm nhường dù Thiên Chúa đã ghi cho ông dấu hiệu biệt ái của Người, và ông tôn vinh Người tại Mambrê trong khi luôn luôn cảm thấy mình là không trước Đấng Tối Cao đã nói với ông: đó là hình thức tình yêu trọng kính mà con người phải luôn luôn có đối với Thiên Chúa của họ. Abraham tin vào Thiên Chúa và vâng lời Người ngay cả trong những sự khó tin nhất, và khó hoàn thành nhất. Và để cảm thấy an toàn, ông đã không ích kỷ, nhưng ông đã cầu nguyện cho các người thành Sôđôma. Abraham đã không ký thỏa hiệp với Chúa trong khi muốn một phần thưởng cho nhiều việc vâng lời của ông, và cả cho việc ông thờ phượng Người tới cùng, tới giới hạn sau cùng: hy sinh đứa con yêu của ông cho Người...
- Ông đâu có hy sinh nó.
378
- Ông đã hy sinh đứa con yêu của ông, vì thực vậy, ông đã sát tế nó trong lòng bằng ý muốn vâng lời của ông trong suốt cuộc hành trình. Thiên thần ngừng ông lại khi con tim của người cha đã bị bổ ra trước lúc ông bổ qủa tim của con ông. Ông đã giết con ông để tôn kính Thiên Chúa. Còn các ông, các ông giết con Thiên Chúa để tôn kính Satan. Vậy các ông có làm các việc của vị mà các ông gọi là cha các ông không? Không. Các ông không làm. Các ông tìm cách giết tôi bởi vì tôi nói sự thật như tôi đã nghe được nơi Thiên Chúa. Abraham đâu có hành động như vậy. Ông ta không tìm cách giết tiếng nói từ Trời mà tới, nhưng ông vâng lời. Không, các ông không làm các việc như Abraham, nhưng làm các việc mà cha các ông chỉ cho các ông.
- Chúng tôi đâu có sinh ra bởi đứa nô lệ, chúng tôi không phải những đứa con ngoại hôn. Chính ông đã nói rằng cha của mọi người là Thiên Chúa, và chúng tôi là dân được tuyển chọn, và là giai cấp được chọn trong dân. Vậy là chúng tôi có Thiên Chúa là Cha duy nhất.
- Nếu các ông nhìn nhận Thiên Chúa là Cha trong tâm hồn và trong sự thật thì các ông sẽ yêu tôi, vì tôi bắt nguồn và tôi đến từ Thiên Chúa. Tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi. Bởi vậy nếu các ông biết Cha thực sự thì các ông cũng biết tôi, con của Người, và là anh em, Vị Cứu Tinh của các ông. Có thể nào các anh em lại không biết nhau? Có thể nào các con của một người cha duy nhất lại không biết cái ngôn ngữ mà người ta nói ở trong nhà của người cha duy nhất đó? Vậy tại sao các ông không hiểu ngôn ngữ của tôi và không chịu được các lời của tôi? Là vì tôi từ Thiên Chúa mà đến, còn các ông thì không. Các ông đã rời bỏ nơi ở của thân phụ và đã quên đi khuôn mặt và ngôn ngữ của những kẻ ở đó. Các ông đã tự ý bỏ đi để tới những miền khác, tới những chỗ ở khác, nơi một kẻ không phải là Thiên Chúa ngự trị, và là nơi người ta nói một ngôn ngữ khác. Kẻ cai trị đã áp bức để vào đó, và người ta đã tự coi mình như con của nó và vâng lời nó. Các ông đã làm và đang làm như vậy. Các ông phản bội, các ông từ chối Thiên
379
Chúa là Cha các ông để chọn một cha khác, đó là Satan. Các ông có ma qủi làm cha, và các ông muốn hoàn thành điều nó gợi ra cho các ông. Và các ước muốn của ma qủi là các ước muốn phạm tội và tàn bạo mà các ông tiếp nhận. Ngay từ khởi đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không kiên gan trong chân lý, vì nó là kẻ phản ngụy chống lại chân lý, nên trong nó không có tình yêu và chân lý. Khi nó nói, nó nói như nó là, tức là một kẻ dối trá và tăm tối. Vì thực vậy, nó là kẻ dối trá, nó đã cưu mang và sinh ra sự dối trá sau khi đã tăng gấp nó lên bằng sự kiêu căng, và nuôi dưỡng nó bằng sự phản ngụy. Trong lòng nó có tất cả sự dâm đãng, nó khạc ra và tiêm chích để làm nhiễm độc hết mọi thụ tạo. Nó là đứa tối tăm, đứa hay chế diễu, loài bò sát bị nguyền rủa. Nó là sự ô nhục và ghê tởm. Từ bao thế kỷ và bao thế kỷ nay, các công việc của nó làm con người vật vã quay cuồng, và các dấu hiệu, các hậu qủa của các việc này luôn luôn hiện diện trước sự hiểu biết của loài người. Nhưng chính với nó, kẻ dối trá và làm hại, thì các ông lại lắng tai nghe, trong khi tôi nói những điều thật và tốt thì các ông lại không tin tôi, và các ông cho tôi là kẻ tội lỗi. Nhưng trong số rất đông đảo những người đã đến gần tôi với sự thù ghét hay với tình yêu, ai có thể nói rằng họ đã thấy tôi phạm tội? Ai có thể nói điều đó với tất cả sự thật? Ở đâu, những bằng cớ để minh xác với tôi, và thuyết phục những người tin ở tôi rằng tôi là kẻ có tội? Tôi đã thiếu sót điều nào trong mười giới răn? Trước bàn thờ Thiên Chúa, ai có thể thề rằng họ đã thấy tôi lỗi luật và các thói tục, các giáo điều, các truyền thống, các lời cầu nguyện? Ai trong tất cả mọi người có thể có bằng cớ chắc chắn, có thể làm tôi biến sắc vì bị thuyết phục là đã phạm tội? Không ai có thể làm, không ai trong loài người, không vị nào trong các thiên thần. Thiên Chúa kêu lên trong qủa tim loài người: “Người vô tội”. Về điều này, tất cả qúi vị đều nhìn nhận. Và với các ông là những kẻ kết án tôi thì còn biết hơn tất cả những người khác rằng giữa tôi và các ông, ai có lý. Nhưng kẻ thuộc về Thiên Chúa thì nghe lời Thiên Chúa. Các ông thì các ông không nghe, mặc dầu ngày đêm nó vang dội trong tâm hồn các ông, nhưng
380
các ông không nghe nó, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa.
- Chúng tôi là những người sống cho lề luật, trong sự tuân giữ những điều nhỏ mọn nhất của các giáo điều để tôn vinh Đấng Tối Cao, mà chúng tôi không thuộc về Thiên Chúa sao? Và ông dám nói như vậy. A!!! - và họ như bị nghẹt vì ghê sợ, làm như có sợi giây xiết cổ họ: “Và chúng tôi không thể nói được rằng ông bị qủi ám và là dân Samari sao?”
- Tôi không phải người nọ, cũng không phải người kia. Tôi tôn vinh Cha tôi, cho dù các ông từ chối điều đó để khiển trách tôi. Sự khiển trách của các ông cũng không làm tôi khổ sở. Tôi không tìm vinh quang cho tôi. Đã có đấng lo việc đó và là đấng xét xử. Tôi nói vậy với các ông là những kẻ muốn hạ nhục tôi. Còn với những người có thiện chí, tôi nói rằng kẻ đã tiếp nhận lời tôi hay sẽ tiếp nhận nó mà biết tuân giữ, sẽ không bao giờ phải chết đời đời.
- A! Bây giờ chúng tôi thấy rõ rằng thằng qủi đã chiếm hữu ông nói qua miệng ông. Chính ông đã nói: “Nó dối trá”. Điều ông đã nói là lời nói dối, vậy lời ông thuộc về ma qủi. Abraham đã chết, các tiên tri đã chết, mà ông nói rằng kẻ giữ lời ông sẽ không phải chết đời đời. Vậy là ông không chết?
- Tôi chỉ chết như một người để rồi sống lại vào giờ Ân Sủng. Nhưng như Ngôi Lời thì tôi sẽ không chết. Lời là Sự Sống và nó không chết. Và kẻ đón nhận Lời thì có Sự Sống ở trong nó, và nó không chết đời đời, nhưng nó sống lại trong Thiên Chúa. Và tôi, tôi sẽ làm cho nó sống lại.
- Lộng ngôn! Điên! Ma qủi! Ông còn hơn cha chúng tôi là Abraham, kẻ đã chết, và hơn các tiên tri sao? Ông nghĩ ông là ai?
- Là Nguyên Lý, tôi, người đang nói với các ông.
Có sự huyên náo phản đối. Trong khi đó, ông Lêvi Zacari nhẹ nhàng đẩy Giêsu vào một góc hành lang, hai người con ông Alphê cũng đẩy phụ, và nhiều người khác cũng đẩy theo mà có lẽ họ không biết mình làm gì.
Khi Giêsu đã tựa chắc vào bức tường và được bảo vệ bởi những kẻ trung thành nhất ở trước mặt Người và sự huyên náo đã dịu bớt,
381
kể cả trong sân, Người nói bằng giọng rất sâu sắc, rất hay, rất bình tĩnh của Người, dù là lúc lộn xộn nhất: “Nếu tôi tự tôn vinh cho tôi thì vinh quang của tôi không có gía trị. Mỗi người có thể nói về mình như họ muốn. Nhưng đấng tôn vinh cho tôi là Cha tôi mà các ông nói Người là Thiên Chúa của các ông, mặc dù Người là Thiên Chúa của các ông ít tới nỗi các ông không biết Người, và các ông sẽ không bao giờ biết Người, và các ông không muốn biết Người qua tôi là kẻ nói với các ông về Người, bởi vì tôi biết Người. Nếu tôi nói rằng tôi không biết Người để làm dịu sự thù ghét của các ông đối với tôi, thì tôi cũng sẽ là kẻ nói dối như các ông khi các ông nói rằng các ông biết Người. Tôi biết rằng tôi không thể nói dối vì bất cứ lý do nào. Con Người không nói dối, cho dù việc nói sự thật là nguyên nhân cho cái chết của Người. Bởi vì nếu Con Người nói dối thì Người không còn là con của Chân Lý, và Chân Lý sẽ xua đuổi Người ra xa nó. Tôi biết Thiên Chúa với tư cách là Thiên Chúa và với tư cách là một người. Và vì là Thiên Chúa và là người, tôi giữ các lời Người và tôi thi hành nó. Hỡi Israel, hãy suy xét: Chính đây là nơi lời hứa được nên trọn. Chính ở nơi Ta mà nó được hoàn thành. Hãy nhận biết Ta về điều Ta là! Abraham, cha của các ngươi đã ước mong được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy một cách tiên tri nhờ một ơn huệ của Thiên Chúa, và ông đã nhảy mừng. Còn các ngươi là những người được sống thực cái ngày này...
- Nhưng câm đi chứ ! Ông chưa được năm mươi tuổi mà ông nói rằng Abraham đã thấy ông và ông đã thấy Người sao? - và tiếng cười chế nhạo của họ lan ra như làn sóng thuốc độc, hay như thứ acít ăn mòn.
- Thực vậy, thực vậy, Ta bảo các ông rằng, trước khi Abraham được sinh ra, thì Ta, Ta đã hiện hữu.
- Ta đã hiện hữu? - Chỉ có Thiên Chúa mới nói được vậy, vì Người đời đời, ông thì không. Tên lộng ngôn! “Ta đã hiện hữu”! Tên phạm thánh! Có lẽ ông là Thiên Chúa để nói như vậy?
Một tên la lên với Người. Có lẽ tên này là nhân vật lớn, vì ông vừa tới mà ông đã ở gần bên Giêsu. Mọi người đều tránh ra, hầu
382
như họ sợ hãi khi ông ta tới.
- Ông đã nói đúng! - Giêsu trả lời với giọng như sấm.
Tất cả đều trở nên khí giới trong tay những kẻ thù ghét. Trong khi tên đã chất vấn Người sau cùng lo làm tất cả những cử điệu để tỏ vẻ ghê sợ và phẫn uất: giật chiếc mũ trên đầu, tự dằn vặt bằng cách giật tóc giật râu, giật ra những cái búp buộc cổ áo của ông, làm như ông cảm thấy kiệt lực vì sợ. Các cục đất, đá của các người bán bồ câu và các con vật khác dùng để căng giây làm giới hạn, và các người đổi tiền dùng để đè cẩn thận các chiếc hộp mà họ giữ kỹ hơn là mạng sống, được quăng về phía ông Thầy, và đương nhiên là rơi trên đám đông, vì Giêsu ở qúa sâu dưới hành lang nên không ném tới nơi. Và đám đông chửi rủa, phàn nàn...
Zacari, người Lêvi, đẩy Giêsu một phát thật mạnh, một phương cách duy nhất để đưa Người tới chiếc cửa thấp giấu trong bức tường của hành lang, nó đã mở sẵn. Ông ta đẩy Người vào đó cùng một trật với hai con ông Alphê, Gioan, Manaen và Tôma. Những người khác ở lại bên ngoài trong sự huyên náo, mà tiếng động nghe thấy rất yếu ở trong đường hầm nằm giữa các bức tường dầy mà tôi không biết trong khoa kiên trúc nó gọi là gì. Các tảng đá được lắp chèn vào nhau. Có thể nói các tảng lớn chèn giữa các tảng nhỏ, và ngược lại. Tôi không biết tôi có diễn tả rõ không. Chúng mầu tối, rất chắc, được đẽo thô sơ, chỉ hơi nhìn thấy trong bóng mờ của các khe hở ở bên trên, được đặt trong những khoảng cách đều nhau để thông gió, và để đường đi không hoàn toàn tối đen. Đó là một đường hầm hẹp, tôi không biết để làm gì, nhưng nó cho tôi cảm tưởng là nó đi vòng bên dưới hết dẫy hành lang. Có lẽ nó được làm để bảo vệ, để che chở, để làm gấp đôi bề dầy các bức tường, do đó làm cho thêm vững mạnh các bức tường của các hành lang được làm như từng ấy nội khu của Đền Thờ chính thức, của nơi cực thánh. Tóm lại là tôi không biết, tôi nói cái tôi thấy. Mùi ẩm thấp, và từ sự ẩm thấp này, tôi không biết nó có lạnh như các nhà hầm không.
- Chúng ta làm gì ở đây? - Tôma hỏi.
- Nín đi. Zacari nói với tôi là anh ta sẽ tới. Anh ta bảo hãy nín
383
lặng và đứng yên tại chỗ - Thađê trả lời.
- Nhưng... Có thể tin cẩn không?
- Tôi hy vọng có.
- Đừng sợ, ông đó tốt - Giêsu nói để khích lệ họ.
Ở bên ngoài, sự huyên náo xa dần. Qua đi một lúc, rồi có tiếng bước chân nặng và một ánh sáng nhỏ chập chờn đi tới những chỗ tối mù mịt.
- Thầy có ở đây không? - một tiếng nói muốn cho nghe, nhưng lại sợ bị nghe.
- Có, Zacari.
- Ngợi khen Jêova. Con đã bắt qúi vị chờ? Con phải chờ cho mọi người ra cổng. Đi, Thầy... Các tông đồ của Thầy... Con đã thành công nói với Simon, bảo tất cả họ hãy tới Bétasda và chờ ở đó. Từ đây, ta đi xuống... Ít ánh sáng, nhưng con đường an toàn. Ta xuống các bể, rồi ta ra ngoài ở phía Cédron. Đây là con đường xưa, không hay được chỉ định dùng. Nhưng lần này thì nên dùng, và việc này sẽ thánh hóa nó.
Họ tiếp tục xuống dốc vào trong bóng tối mà chỉ có ánh lửa rung rinh của ngọn đèn soi sáng, cho tới khi thấy một ánh sáng khác ở xa, tận đáy... Và bên ngoài đó, một ánh sáng xanh có vẻ xa xôi. Một khung sắt, hầu như là cánh cửa, vì nó nặng và liền vào nhau, chấm dứt đường hầm.
- Thưa Thầy, con đã cứu Thầy. Thầy có thể đi, nhưng xin nghe con. Xin Thầy ngừng tới đây trong một thời gian. Con không thể luôn luôn phục vụ Thầy mà không bị quan sát. Và... Xin hãy quên, quên đi tất cả con đường này cùng với con là người đã dẫn đường - Zacari nói trong khi lo làm hoạt động các bộ phận cơ khí của chiếc cổng nặng, và mở hé ra vừa đủ cho mấy người đi qua. Và ông nhắc lại: “Hãy quên đi vì thương con”.
- Đừng sợ. Sẽ không ai trong chúng ta nói. Và nguyện Thiên Chúa ở với con vì tình bác ái của con - Giêsu giơ tay để trên mái đầu cúi xuống của người đàn ông trẻ.
Người đi ra, hai ông anh họ và các người khác theo sau. Họ thấy
384
mình ở một nơi hoang vu, ngổn ngang những cây gai, nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cho họ đứng, ở đối diện với vườn oliu. Một lối đi của dê cừu dẫn từ giữa các bụi gai tới suối.
- Chúng ta đi. Chúng ta sẽ lên dốc tới ngang Cửa Chiên, rồi Thầy sẽ tới nhà Giuse cùng với các anh Thầy, còn các con, hãy tới Bétesda để đón những người khác đến với Thầy. Ngày mai, sau hoàng hôn, chúng ta sẽ đi Nobê.
205* TRONG NHÀ CỦA GIUSE SÊPHORIS
Nhà của Giuse, không phải Giuse Arimathi, nhưng là ông già, dân Galilê, thuộc vùng Sêphoris, bạn của các con ông Alphê, đặc biệt là bạn của các anh lớn tuổi, vì ông ta đã là bạn, và có lẽ cũng hơi có họ với ông gìa Alphê bây giờ đã chết. Và nếu tôi không lầm, ông ta cũng có những liên lạc với các con ông Zêbêđê trong việc buôn bán cá khô của hồ Génésarét, mà người ta nhập vào thủ đô cùng với các sản phẩm khác của miền Galilê, là những thứ thân thiết đối với người Galilê lạc lõng ở Jêrusalem. Đó là điều tôi suy diễn ra dựa vào những lời mà hai con ông Alphê và Gioan nói với Tôma.
Về phần Giêsu, Người đi hơi lùi ở đàng sau với Manaen mà Người giao cho nhiệm vụ đi tới nhà Giuse Arimathi và nhà Nicôđêmô để xin hai ông tới gặp Người, điều mà Manaen làm ngay lập tức. Giêsu vẫn còn ở với ba ông một lúc để ra lệnh nữa cho các ông về việc khôn ngoan trong lúc truyện vãn “vì tình yêu đối với người Lêvi đã đặt họ vào sự an toàn”. Rồi Người chia tay họ và bước nhanh vào một đường mòn...
Nhưng Gioan mau lẹ trở lại với Người.
- Tại sao con trở lại?
- Chúng con không thể để Thầy một mình như vầy, nên con, con tới...
- Và con nghĩ rằng con có thể bảo vệ Thầy, một mình con, chống lại từng ấy người sao?
385
- Con không chắc điều đó. Nhưng ít nhất, con sẽ chết trước Thầy, và như vậy là đủ cho con rồi.
- Con sẽ chết sau Thầy rất nhiều, Gioan ạ. Nhưng đừng tiếc. Nếu Đấng Tối Cao để con lại trong thế giới, là để cho con phục vụ Người và phục vụ Ngôi Lời của Người.
- Nhưng sau đó...
- Sau đó con sẽ phục vụ. Con phải sống bao nhiêu thời gian để phục vụ Thầy như hai con tim chúng ta mong ước. Nhưng cả sau khi chết, con cũng phục vụ Thầy.
- Thầy của con, con sẽ làm thế nào? Nếu con ở trên trời với Thầy thì con thờ lạy Thầy, nhưng con không thể phục vụ Thầy trên trái đất, một khi con đã lìa bỏ nó...
- Con tin vậy thực sao? Nhưng Thầy, Thầy bảo con rằng con sẽ phục vụ Thầy cho tới khi Thầy lại đến, tức là đến lần sau cùng. Rất nhiều thứ sẽ bị khô héo trước thời gian sau cùng, giống như các con sông, sau khi đã là một dòng nước xanh đẹp và lành mạnh, nó khô cạn và trở nên bụi đất và đá vụn khô cằn. Nhưng con, con sẽ còn là con sông vang vọng lời Thầy và phản chiếu ánh sáng của Thầy. Con sẽ là ánh sáng tối cao, tồn tại để nhắc người ta nhớ tới Đức Kitô, vì con sẽ là một ánh sáng hoàn toàn siêu nhiên, và thời kỳ sau cùng sẽ là trận chiến của tối tăm chống lại ánh sáng, của xác thịt chống lại linh hồn. Những kẻ kiên trì trong đức tin sẽ tìm được hy vọng, sức mạnh, an ủi trong những điều con sẽ để lại đàng sau con, là cái vẫn còn là con... và nhất là vẫn còn là Thầy, bởi vì con và Thầy, chúng ta yêu nhau, và con ở đâu thì Thầy ở đó, và Thầy ở đâu thì con ở đó. Thầy đã hứa với Phêrô rằng Giáo Hội có Phêrô của Thầy là thủ lãnh và nền tảng, sẽ không bị nản lòng thối chí bởi hỏa ngục trong những cơn tấn công liên tiếp, và càng ngày càng hung dữ của nó. Nhưng bây giờ Thầy bảo con rằng, cái điều vẫn còn là Thầy mà con sẽ để lại như ánh sáng cho kẻ tìm ánh sáng, sẽ không bị phá hủy, mặc dù tất cả cố gắng của hoả ngục để vô hiệu hóa nó. Và điều nữa là: Cả những kẻ tin không trọn vẹn vào Thầy, vì khi tiếp nhận Thầy, họ không tiếp nhận Phêrô của Thầy, họ cũng
386
sẽ luôn luôn bị lôi kéo bởi chiếc đèn pha của con, giống như các con thuyền nhỏ không tay lái, không la bàn, trong bão tố, hướng về ánh sáng, vì ánh sáng có nghĩa là phần rỗi.
- Nhưng Chúa của con ơi, con sẽ để lại cái gì? Con là... đứa ngu si tội nghiệp... Con chỉ có tình yêu...
- Đó, con sẽ để lại tình yêu. Và tình yêu đối với Giêsu của con sẽ là lời nói. Và nhiều người, nhiều người, ngay cả trong số những người không thuộc về Giáo Hội Thầy, không thuộc về giáo hội nào cả, nhưng họ tìm ánh sáng và sức mạnh, họ bị kích thích bởi tâm hồn không được thỏa mãn của họ, bởi sự cần thiết phải thương cho linh hồn họ, họ sẽ đến với con và sẽ tìm thấy Thầy.
- Con muốn rằng những người đầu tiên tìm thấy Thầy là những người Do Thái độc ác này, những pharisiêu, những luật sĩ này... Nhưng con không dùng...
- Không gì có thể vào trong một nơi mà mọi thứ đều đầy tràn. Nhưng con đừng nản chí... Đây, chúng ta đã đến nhà Giuse. Hãy gõ và chúng ta vào.
Đó là một căn nhà hẹp và cao, ở bên cạnh có một cửa tiệm thấp, mùi hôi vì các hành hóa chất đống. Phía bên kia là một cái sân tối, vì các mái hành lang gie ra ở trên nó, một cái sân giống như sân của các quán trọ thời đó: có các hành lang để hàng hóa, các chuồng cho lừa ngựa, các phòng lớn cho khách trọ. Ở đây là một cái sân lát sơ sài, một bể nước, hai chuồng lừa ngựa thấp và tối, một cái kho thô sơ dùng như hành lang đâu lưng vào nhà với một cái cửa thông ra cửa tiệm. Thêm một điều nữa là căn nhà này cũ, tối, với một cửa ra vào cao và hẹp mà người ta vào sau khi đã lên ba bậc thềm bằng đá đã mòn.
Gioan gõ vào cửa và ông chờ cho tới khi nó mở ra một khe hẹp, một khuôn mặt nhăn nheo xuất hiện, một bà già nhỏ quan sát trong bóng mờ: “Ồ, Gioan! Bà mở ngay đây. Thiên Chúa ở cùng con”. Cái miệng của khuôn mặt nhăn nheo nói, và cửa mở ra với tiếng động mạnh của then cài.
- Maria, con không phải một mình. Có Thầy đi với con.
387
- Bình an cả cho Người, vinh dự của Galilê. Và hạnh phúc cho ngày đã mang bàn chân của vị thánh vào bên trong các bức tường của một người Israel thực sự. Mời Chúa vào! Tôi đi báo cho Giuse ngay. Ông ta đang giao các mối hàng sau cùng, vì hoàng hôn đến rất lẹ trong tháng Étanim buồn tẻ.
- Bà ơi, hãy để cho ông làm việc. Chúng ta còn ở đây cho tới ngày mai.
- Ngày đại vui cho chúng con. Chúng con đã chờ Thầy từ lâu rồi. Vả nữa, mới mấy bữa nay, anh Giuse của Thầy đã sai người hỏi tin tức của Thầy. Nhưng ông chồng con sẽ nói cho Thầy rõ hơn. Đây, Thầy có thể ở lại đây... Chúa ơi, con phải rời Thầy, vì con đang làm bánh giở giang. Nó phải chín trước hoàng hôn. Nếu Thầy muốn cái gì thì Gioan nó biết con ở chỗ nào.
- Hãy đi bình an. Chúng ta không cần gì ngoài việc trú chân.
Họ ở lại một lúc. Rồi một khuôn mặt nhỏ nâu xuất hiện ở sau chiếc màn gió ngăn cách căn phòng với mái hiên, và nó liếc nhìn, vừa sợ sệt, vừa tò mò.
- Đứa trẻ này là ai vậy? - Giêsu hỏi Gioan.
- Chúa ơi, con không biết. Những lần trước con không thấy nó ở đây. Thực tình thì từ khi con đi theo Thầy, con không đến đây để lo việc cho ba con nữa. Lại đây đi bé con.
Đứa trẻ đến với những bước nhỏ.
- Con là ai?
- Con sẽ không nói cho ông.
- Tại sao vậy?
- Con không muốn nghe những lời nói khó chịu. Nếu ông nói những lời đó, con sẽ cãi lời ông, và Giuse không muốn như vậy.
- Chuyện mới! Thầy ơi, Thầy nói sao? - và Gioan mỉm cười, giải trí vì những lý lẽ của đứa nhỏ.
Giêsu cũng mỉm cười, nhưng người giơ tay kéo đứa bé và Người quan sát nó, và Người nói: “Vậy con, con biết Ta là ai không?”
- Chắc chắn là con biết... Ngài là Đức Messi, đấng sẽ làm cho cả thế giới thành của Ngài, và khi đó người ta sẽ không còn nói những lời khó chịu với những đứa trẻ như con nữa.
388
- Con không phải người Israel phải không?
- Con đã cắt bì... Và điều đó làm cho con rất đau. Nhưng... cái đói cũng làm con đau, và... không còn má... không còn ai cả... Nhưng còn đau hơn khi nghe người ta... người ta... - và nó khóc, nó đã mất đi sự cứng cát lúc đầu của nó.
- Gioan à, đây chắc là một trẻ mồ côi ngoại quốc. Chắc Giuse đã nhận nó vì tình thương, và ông ta đã cắt bì cho nó - Giêsu giải thích cho Gioan. Người ngạc nhiên vì những lý lẽ và những nước mắt. Rồi Người nâng đứa trẻ lên, để nó trên đầu gối Người.
- Con nhỏ, hãy nói tên con cho Thầy đi. Thầy rất thương con. Giêsu rất yêu tất cả các trẻ nhỏ, nhất là các trẻ mồ côi. Thầy cũng có một đứa, tên nó là Margziam, và nó...
- Con cũng vậy, vì con (giọng nói nhỏ chỉ còn là sự thì thầm hơi nhận ra) vì con, con người Rôma...
- Thầy đã nói rồi! Con mồ côi phải không?
- Vâng... Ba con, con không nhớ. Má con, con còn nhớ. Bà chết khi con đã lớn... Con ở lại một mình, và không ai muốn có con cả. Từ Cêsarê, con đi bộ theo các người du hành, sau khi ông chủ đã đi xa. Con rất đói. Nhưng nếu con nói tên con ra, con sẽ bị ăn đòn... vì người ta hiểu bởi cái tên, hé?! Và con đến đây vào ngày lễ. Con đói, con vào chuồng lừa với đoàn du mục. Con núp trong rơm cỏ để ăn lúa kiều mạch và các qủa keo của lừa. Nhưng một con lừa cắn con nên con khóc. Người ta chạy tới và người ta muốn đánh con, nhưng Giuse nói: “Không, Người đã làm điều đó và Người bảo hãy làm điều Người làm. Vậy tôi nhận đứa trẻ và tôi sẽ làm cho nó thành dân Israel”. Và ông nhận con và săn sóc con, bà Maria cũng vậy. Ông cho con một cái tên khác, vì tên con... Má con gọi con là Martial... -và nước mắt nó lại bắt đầu chảy.
- Vậy Thầy, Thầy sẽ gọi con là Martial giống như má con. Điều Giuse đã làm là rất tốt, và con phải yêu ông ta nhiều.
- Vâng. Nhưng Thầy nhiều hơn. Ông ta bảo vậy. Ông luôn luôn nói: “Nếu một ngày kia con gặp Giêsu Nazarét, Đấng Messi, con hãy yêu Người hết lòng, vì chính nhờ Người mà con được cứu khỏi
389
sự lầm lạc”. Con nghe bà Maria ở phòng bên nói với các đầy tớ rằng Đấng Messi đang ở trong nhà, nên con đã tới để nhìn vị đã cứu con.
- Con không biết rằng Giuse đã làm điều này. Ông ta rất... keo kiệt... Không bao giờ con nghĩ ông có thể... Ông Giuse tội nghiệp! Ông keo kiệt và bất hòa với con cái ông. Chúng không kính trọng tóc trắng của ông.
- Thầy biết. Nhưng con thấy không? Có lẽ với đứa trẻ này, ông đã tự đổi mới... và quên đi. Thiên Chúa thưởng cho ông về điều ông đã làm cho đứa trẻ. Bây giờ con được gọi tên là gì?
- Một cái tên xấu. Con chỉ bằng lòng bởi vì nó bắt đầu giống như tên con: Manassê, con tên đó!... Nhưng Maria, bà hiểu nên bà gọi con là Man - đứa trẻ nói điều đó với khuôn mặt nhỏ rất buồn tới nỗi Giêsu và Gioan không thể nín cười.
Nhưng để an ủi nó, Giêsu giải thích: “Manassê là một tên mà ý nghĩa rất êm đềm đối với chúng ta. Nó có nghĩa là: Chúa đã làm cho tôi quên mọi đau đớn. Giuse đã đặt cho con tên đó vì ông muốn nói rằng con đã làm cho ông quên mọi đau khổ của ông. Và con sẽ làm điều đó, hen, để tỏ lòng biết ơn ông? Và chính con, với cái tên mới, con hãy tự nhủ rằng Chúa đã yêu con tới nỗi lại cho con một người cha, một người mẹ, và một mái nhà, phải không?”
- Vâng. Cắt nghĩa như vậy, vâng... Nhưng Giuse nói rằng con phải quên đi cả nhà con. Con, con không muốn quên má con!
Giêsu nhìn Gioan và Gioan nhìn Thầy ở bên trên mái đầu đen nhỏ. Có cả một bài thuyết trình trong cái nhìn này...
- Con ơi, bà mẹ thì người ta sẽ không quên. Giuse đã giải thích sai, đúng ra là đã hiểu sai. Chắc chắn ông muốn nói rằng con phải quên đi tất cả những đau đớn qúa khứ của con, đau đớn của nhà con, vì bây giờ con có cái nhà này, và con phải sung sướng.
- A! Như vậy, vâng. Maria tốt, và bà làm con vui. Ngay lúc này bà đang làm bánh tráng nướng cho con. Con đi coi nó chín chưa, và con cũng sẽ mang cho Thầy - Và nó tụt khỏi đầu gối Giêsu. Tiếng động của bàn chân trần mất đi trong dẫy hành lang.
390
- Vẫn luôn luôn cái khuynh hướng khắt khe, ngay cả nơi những người tốt nhất trong chúng ta. Đòi hỏi những điều không thể được. Các con cái của dân Thiên Chúa, họ khắt khe hơn Người. Đứa trẻ tội nghiệp! Làm sao người ta có thể đòi hỏi một đứa trẻ quên mẹ nó chỉ vì bây giờ nó đã cắt bì? Thầy sẽ nói điều đó với Giuse.
- Thực tình con không biết ông ta đã làm việc này. Ba con cũng như nhiều người Galilê tới đây vào các dịp lễ, mà ông không nói tới nó với con. Hình như ba con không biết sự việc... Nhưng con nghe có tiếng nói của Giuse...
Giêsu đứng dậy, Gioan cũng bắt chước, sẵn sàng để chào với những trọng kính mà họ phải có đối với ông. Ông chủ nhà bước vào, và đến lượt ông, ông tự hạ khi cúi sâu, và sau cùng qùi gối ở chân Giêsu.
- Đứng dậy đi Giuse. Thầy đã tới, con thấy đó.
- Xin tha cho con vì đã để Thầy chờ. Ngày thứ sáu luôn luôn là ngày trọng thể! Chào Gioan, con có tin tức của ông Zêbêđê không?
- Không, kể từ lúc con gặp ông vào dịp Lễ Lều.
- Vậy hãy biết rằng ông mạnh khỏe. Salômê cũng vậy. Tin tức mới tinh của sáng nay cùng với mớ cá gởi sau cùng. Và cả với Thầy nữa: con có thể nói rằng bà con Thầy mạnh khỏe, tất cả đều tốt ở Nazarét. Những người tới sẽ đi vào sau ngày Sabát, nếu Thầy muốn nhắn tin... Thầy trò có một mình thôi sao?
- Không. Lát nữa là những người khác sẽ ở đây...
- Tốt. Có chỗ cho hết mọi người. Đây là căn nhà trung thành. Con tiếc là Maria bận làm bánh, và con bận việc buôn bán, nên đã để qúi vị một mình... Chúng con đã thiếu sót việc tôn vinh Thầy và tiếp đãi Thầy cho xứng một vị khách, một vị khách quan trọng!
- Một người Con Thiên Chúa cũng như ông, Giuse ạ. Tất cả những ai theo lề luật của Thiên Chúa đều bình đẳng.
- He! Không đâu. Thầy là Thầy. Con đâu có ngu như những người Do Thái đó. Thầy là Đức Messi!
- Điều đó là bởi ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng về những gì có liên can tới ý muốn của Thầy và bổn phận của Thầy, thì Thầy cũng
391
như con: Con trai của lề luật.
- He! Những kẻ vu khống cho Thầy không biết nói và làm điều Thầy nói bây giờ, và không biết làm điều Thầy luôn luôn làm!
- Nhưng ông, ông đã làm rất nhiều về những gì Thầy đã dạy. Thầy đã thấy đứa trẻ, Giuse ạ...
- A! Thầy đã thấy nó? Nó đã tới! Nó biết rằng con không muốn! Tại vì Thầy... Con đã sung sướng, nhưng điều đó có thể không phải là Thầy...
- Vậy có chuyện gì?
- Là... Điều đó con không thích, vậy đó!
- Tại sao vậy Giuse? Để người ta đừng khen con à? Tư tưởng của con đáng khen, nhưng đứa trẻ có thể nghĩ rằng con xấu hổ khi phơi bày nó ra...
- Đúng vậy!
- Đúng vậy à? Nhưng tại sao? Hãy giải thích sự việc cho Thầy nghe.
- Đây: Đứa trẻ không sinh ra là dân Hy Bá bởi cha mẹ Hy Bá, cả đến không phải là tân tòng, cả đến không phải do một người đàn bà thuộc nước ta và một người đàn ông dân ngoại. Đó là đứa con của hai người Rôma, các nô lệ được giải phóng của một người Rôma ở Cêsarê Maritime. Ông ta giữ đứa bé trong thời gian ông ta ở đó, nhưng khi ông đi, ông không lo cho nó nữa, và đứa trẻ ở lại một mình. Đương nhiên là những người Hy Bá không nhận nó. Các người Rôma... Các người Rôma là thế nào, Thầy biết rồi... và nhất là các người Rôma ở Cêsarê. Đứa trẻ đi ăn mày...
- Đúng. Thầy biết. Nó đã đến đây, và con đã nhận nó. Thiên Chúa đã ghi hành động của con trên Trời.
- Và con đã cắt bì cho nó. Con đã đổi tên cho nó. Tên của nó! Dân ngoại! Thờ tà thần! Nhưng con không muốn nó để cho người ta thấy, và con không muốn nó nhớ tới qúa khứ của nó.
- Tại sao Giuse? - Giêsu hỏi cách êm ái, và Người thêm: “Đứa trẻ khổ vì vậy. Nó nhớ mẹ nó. Điều đó dễ hiểu”.
- Nhưng cũng dễ hiểu ước muốn của con là không muốn bị chỉ
392
trích vì đã tiếp đón một ...
- Một trẻ vô tội, không có gì ngoài điều đó, Giuse ạ. Tại sao con sợ sự xét đoán của loài người trong khi sự xét đoán cao hơn: sự xét đoán của Thiên Chúa, đã xác nhận hành động của con, vì nó thánh? Tại sao con xấu hổ bởi một hành động tốt, vì kính trọng loài người hay vì sợ sự trả đũa? Tại sao con muốn cho đứa trẻ một gương mẫu phức tạp như việc đổi tên, việc khỏa lấp qúa khứ vì sợ nó làm tổn hại cho con? Tại sao con muốn ghi vào đứa trẻ sự khinh dể cha mẹ? Giuse, con đã làm một hành động đáng khen, nhưng con lại bao trùm nó bằng những lớp bụi của những... tư tưởng bất toàn này. Con đã bắt chước một trong các hành vi của Thầy, con đã tiếp nhận tốt lời Thầy, nhưng tại sao con không làm cho hoàn hảo việc bắt chước Thầy bằng cách hoàn thành một cách thẳng thắn công việc này khi nói rằng: “Đúng, đứa trẻ người Rôma, nhưng tôi không ghê tởm, vì nó là con Đấng Tạo Hóa như tất cả chúng ta. Chỉ có điều tôi muốn cho nó ở trong luật của chúng ta nên tôi đã cắt bì cho nó”? Thực vậy... Phép cắt bì thực sự sắp tới, và người ta sẽ thực hiện nó trên con tim của người ta, và nó sẽ lấy đi cái vòng đai thắt nghẹn của sự dâm đãng chấp ba. Bởi vậy, dù cho tới lúc này, đứa trẻ vẫn còn là đứa trẻ...Thầy không muốn khiển trách con, con đã làm đúng: con là Hy Bá, con làm cho nó thành Hy Bá. Ôi! Trong tương lai, sẽ có biết bao Martial, Caius, Félix, Cornélius, Claudius và những người khác, sẽ thuộc về Đức Kitô và Nước Trời. Cũng có thể đối với nó, lúc này không biết thế nào là Hy Bá và dân ngoại, sẽ tới tuổi trưởng thành khi lề luật mới và thực sự đã được đặt nền tảng, với một Đền Thờ mới, với các thầy cả mới, và nó sẽ tới đó không như con nghĩ, nhưng để được sát hạch bởi Thiên Chúa, và được nhìn nhận là xứng đáng với Đền Thờ mới của Người. Hãy để cho nó cái tên mà mẹ nó đã cho nó, đó cũng còn là một vuốt ve của từ mẫu. Thầy hiểu điều con muốn nói khi gọi nó là Manassê, nhưng hãy để cho nó cái tên Martial. Và nếu ai hỏi thì chỉ nói: “Đúng, đó là Martial, hầu như là môn đệ của Đức Kitô, và Maria đã đặt tên này cho nó”. Giuse, hãy can đảm trong điều tốt, và con sẽ lớn, rất lớn...
393
- Thưa Thầy... Như Thầy muốn. Con không muốn làm trái ý Thầy. Và Thầy tin rằng ... con cũng đã hành động đúng như một người?
- Con đã hành động đúng. Sự đau khổ của con đã làm cho con nên tốt. Những điều con đã làm đều tốt, và hành động này tốt.
Những tiếng gõ trên cái cửa mở ra ngoài phố đã làm gián đoạn cuộc đàm thoại.
206* THẦY CẢ GÌA MATAN (HAY NATAN)
Khi bước vào, Phêrô có thái độ bị đè nặng như hôm ở bờ Giođan, lúc đi qua khúc sông cạn ở Bêtabara. Ông ngồi phịch xuống như bị kiệt lực trên chiếc ghế đầu tiên mà ông nhìn thấy, và ông lấy hai bàn tay ôm đầu. Những người khác cũng rất rụng rời, tất cả đều biến đổi, tái mét, có thể nói là lạc lõng, kẻ ít người nhiều. Hai con ông Alphê với Giacôbê Zêbêđê và Andrê, có thể nói là không trả lời nổi cho lời chào của Giuse Sêphoris và vợ ông khi họ vào cùng với một người đầy tớ gìa, mang theo bánh nóng và các thực phẩm khác.
Margziam có vết nước ở dưới mắt. Isaac chạy lại bên Giêsu, cầm tay Người, vuốt ve nó và thì thầm: “Luôn luôn giống như trong đêm của cuộc tàn sát... và được cứu khi xưa. Ôi! Chúa của con! Cho tới khi nào? Thầy có thể trốn thoát cho tới khi nào?”
Chính những tiếng kêu này đã làm các miệng khác mở ra, và tất cả đều nói trong sự hỗn độn, để kể những sự tàn tệ, những đe dọa, những sợ sệt mà họ đã có... Một tiếng gõ cửa khác...
- Ôi! Họ không theo dõi chúng ta chứ? Tôi đã nói đúng là phải đi từng toán nhỏ! - Iscariot nói.
- Đúng vậy, điều đó tốt hơn. Chúng ta luôn luôn có họ ở sau gót chúng ta. Nhưng từ nay... - Batôlômêo nói.
Giuse, mặc dầu không muốn lắm, cũng đích thân ra nhìn qua cái lỗ nhòm, trong khi bà vợ ông nói: “Từ trên sân thượng, qúi vị có thể xuống các chuồng lừa, rồi từ đó đi vào khu vườn phía sau. Tôi dẫn
394
qúi vị đi coi...” Nhưng trong khi bà bỏ đi thì chồng bà kêu lên: “Giuse, vị Kỳ Lão! Qúa vinh dự!” Và ông mở cửa để cho Giuse Arimathi vào.
- Bình an cho Thầy. Con đã ở đó, và con đã thấy... Manaen đã gặp con khi con ra khỏi Đền Thờ, muốn nôn mửa tới chết, và không thể can thiệp, không thể làm gì để hữu ích đối với Thầy và... Ôi! Thầy ở đây. Và cả ông nữa, Judas Kêriot? Ông đã có thể hành động, ông có biết bao bạn hữu! Ông không cảm thấy bổn phận người tông đồ của ông sao?
- Còn ông là môn đệ...
- Không. Nếu tôi là môn đệ, tôi đã đi theo Người như những người khác. Tôi là một trong các bạn của Người.
- Cũng vậy thôi.
- Không. Lazarô cũng là bạn Người, nhưng ông không thể nói ông ta là một môn đệ...
- Trong tâm hồn thì đúng.
- Những người không thuộc về Satan thì đều là môn đệ của lời Người, vì họ cảm thấy đó là lời của Đấng Khôn Ngoan.
Cuộc đấu khẩu nhỏ giữa Giuse và Judas Kêriot tàn lụi, trong khi Giuse Sêphoris bây giờ mới hiểu rằng có nhiều chuyện xấu, nên hỏi người nọ người kia với nhiều quan tâm, và với những cử chỉ đau đớn: “Phải nói cho Giuse Alphê biết! Phải nói cho ông ta, và tôi sẽ lo việc đó... Ông muốn gì ở tôi, Giuse?” Ông nói khi quay sang vị Kỳ Lão lúc ông này đụng vào vai ông như muốn hỏi han ông.
- Không có gì. Tôi chỉ muốn mừng cho anh vì diện mạo khỏe mạnh của anh. Đây, một người Israel tốt, trung thành và công chính trong mọi sự. He! Tôi biết. Người ta có thể nói về ông này rằng Thiên Chúa đã biết và xác nhận ông ta...
Một loạt gõ cửa nữa. Cả hai Giuse đều cùng đi ra phía cửa để mở. Nhưng tôi thấy Giuse Arimathi cúi xuống nói gì vào lỗ tai ông Giuse kia, làm ông này có một cử động ngạc nhiên mạnh mẽ, và ông quay lại nhìn các tông đồ một lát. Rồi ông mở cửa.
Nicôđêmô và Manaen vào, theo sau họ là tất cả các môn đệ mục đồng đang hiện diện ở Jêrusalem, tức là Jonatha và những
395
người đã là môn đệ ông Tẩy Giả. Rồi cùng với họ, có thầy cả Gioan và một người khác rất già, và Nicôlai. Đàng sau nữa là Nique cùng với cô gái mà Giêsu đã ký thác cho bà, và Annalia cùng với mẹ cô. Các bà dỡ tấm voan che mặt ra, và người ta thấy khuôn mặt bối rối của họ.
- Thầy! Nhưng chuyện gì đã xảy ra cho Thầy vậy? Con đã nghe được... trước hết là bởi người ta, rồi bởi Manaen... Thành phố đầy tràn sự ồn ào giống như của một tổ ong, và những người yêu Thầy chạy đi tìm Thầy khắp nơi mà họ nghĩ rằng có thể tìm thấy Thầy. Giuse, chắc chắn họ đã chạy tới cả nhà ông... Chính tôi cũng chạy tới nhà Lazarô... Qúa lắm rồi! Làm sao Thầy chạy thoát vậy?
- Đấng Quan Phòng canh chừng trên Thầy. Mong rằng các môn đệ đừng khóc, nhưng hãy chúc tụng Thiên Chúa và củng cố con tim của họ. Và cho tất cả các con: ơn huệ và phúc lành. Tình yêu và sự công chính chưa hoàn toàn chết trong Israel, và điều đó khích lệ Thầy.
- Vâng. Nhưng Thầy ơi, đừng vào Đền Thờ nữa! Đừng tới đó! Đừng tới đó trong một thời gian thật dài! - hết mọi tiếng nói đều đồng thanh nói như vậy. Và cái “đừng tới đó” đầy khổ não vang dội trong các bức tường vững chắc của căn nhà cổ như tiếng năn nỉ báo động.
Thằng bé Martial nấp ở đâu tôi không biết, nghe tiếng ồn ào này, nó tò mò chạy tới, ló khuôn mặt nhỏ của nó vào khe hở của cái màn gió. Nhìn thấy bà Maria, nó chạy lại ẩn mình trong cánh tay bà, vì nó sợ sự quở trách của Giuse Sêphoris. Nhưng Giuse qúa bị lay động và bận nghe người nọ người kia, hoặc cho lời khuyên hay sự ưng thuận, và các thứ tiếp theo như vậy, nên ông không nghĩ tới nó. Ông chỉ nhìn thấy nó khi đứa trẻ, sau khi đã nghe bà già Maria bảo điều gì đó, nó lại với Giêsu, ôm Người bằng cách quàng cánh tay quanh cổ Người. Giêsu cũng quàng một cánh tay quanh nó và kéo nó sát vào Người, trong khi vẫn trả lời cho nhiều người về những thứ họ nói với Người là tốt nhất để làm.
- Không. Từ đây, Thầy không nhúc nhích nữa. Lazarô đang chờ
396
Thầy. Các con hãy tới nhà ông để nói với ông rằng Thầy không thể. Thầy, dân Galilê, từ mấy năm nay Thầy là bạn của gia đình ông. Thầy ở lại đây cho tới hoàng hôn ngày mai. Rồi sau đó... Thầy sẽ coi xem đi đâu...
- Thầy luôn luôn nói vậy nhưng rồi Thầy lại trở lại đó. Nhưng chúng con không để Thầy đi nữa, ít nhất là con. Thực tình con đã tin rằng mất Thầy rồi... - Phêrô nói, và hai giọt nước mắt xuất hiẹn trong đôi mắt lồi của ông.
- Chưa bao giờ thấy như vậy. Và như vậy là đủ rồi. Đó là điều đã làm con quyết định. Nếu Thầy không từ chối con... Bây giờ con đã qúa già để lên bàn thờ, nhưng để chết cho Thầy thì con còn vững vàng. Và con sẽ chết, nếu cần, ở giữa tiền đường và bàn thờ như vị hiền nhân Zacari, hay như Onias, kẻ bảo vệ Đền Thờ và kho bạc; con sẽ chết ở ngoài nội khu thánh, nơi con đã cống hiến đời con. Ôi! Con không thể nhìn sự ghê tởm! Tại sao đôi mắt gìa của con lại còn phải nhìn từng ấy? Sự ghê tởm các tiên tri nhìn thấy đã ở bên trong các bức tường, và nó dâng lên, nó dâng lên như dòng nước lũ sắp sửa nhận chìm cả một thành phố! Nó dâng lên! Nó dâng lên! Nó tràn vào các sân và các hành lang, ngập các bậc thềm. Nó tiến nữa! Nó dâng lên! Nó dâng lên! Nó đã đập vào nơi Thánh. Nước bùn đã liếm vào các tảng đá lát nền nơi Thánh. Mầu sắc qúi báu đã biến mất! Bàn chân Thầy cả bị ô uế vì nó! Áo choàng bị thấm bùn! Áo tế bị thấm bùn, các đá ngọc qúi của bố tử tế phục bị phủ bùn và người ta không còn đọc được chữ nữa. Ôi! Ôi! Làn nước ghê tởm bắn lên mặt vị Đại Thượng Tế và làm nó lem luốc, sự thánh thiện của Chúa nằm dưới lớp bùn, và chiếc ngọc miện giống như miếng vải rơi vào ao bùn. Bùn! Bùn! Nhưng nó dâng lên từ bên ngoài hay nó tràn ra từ đỉnh núi Moriah, rồi đổ trên thành phố và trên toàn thể Israel? Lạy Cha Abraham! Lạy cha Abraham! Cha đã chẳng muốn đốt lên ở đó ngọn lửa cho lễ Hy Sinh để làm chói sáng lễ toàn thiêu của con tim trung thành của cha sao? Bây giờ bùn đã làm lem luốc cái nơi đáng lẽ phải là lửa! Isaac đang ở giữa chúng con và dân chúng sát tế nó. Nhưng Vật Hy Sinh rất trong sạch!... Vật Hy Sinh rất trong sạch... Chỉ các kẻ dâng lễ Hy Sinh là ô nhơ. Nguyền rủa
397
trên chúng ta. Trên núi, Chúa sẽ nhìn thấy sự ghê tởm của dân Người!... A! - Ông gìa cùng với thầy cả Gioan phục xuống đất, che mặt và thoát ra tiếng khóc buồn thảm của cụ già.
- Con đã dẫn ông lại cho Thầy. Ông đã muốn đến từ lâu... Nhưng hôm nay, sau những điều ông đã thấy, không ai cản được ông nữa. Ông già Matan (hay Natan) thường có thần trí tiên tri. Nếu con mắt ông càng ngày càng mờ, thì thần trí ông càng ngày càng thấy tỏ. Lạy Chúa, xin nhận bạn con - thầy cả Gioan nói.
- Thầy không từ chối ai hết. Đứng dậy đi thầy cả, và hãy nâng cao tâm hồn ông lên. Ở trên cao không có bùn, và bùn không đụng tới kẻ biết đứng ở trên cao.
Ông gìa đứng dậy, đầy kính trọng. Nhưng trước khi đứng dậy, ông cầm gấu áo Giêsu và hôn.
Các phụ nữ, nhất là Annalia, còn khóc vì cảm động dưới khăn voan, và các lời của ông già làm gia tăng dòng nước mắt của họ. Giêsu gọi họ, và từ góc của các bà, các bà đến với Người, đầu cúi sâu. Nếu Nique và bà mẹ của Annalia biết cầm hãm tiếng khóc và hầu như giấu được, thì người môn đệ trẻ thực sự nức nở, không nghĩ gì tới những người quan sát cô với những tình cảm khác nhau.
- Xin Thầy tha cho nó. Nó mắc nợ Thầy sự sống và nó yêu Thầy. Nó không thể nghĩ được rằng họ làm hại Thầy. Lại nữa... nó... một mình và qúa... qúa buồn kể từ khi... - bà mẹ Annalia nói.
- Ôi! Không! Không phải vậy! Chúa! Thầy! Vị Cứu Tinh của con! Con... Con... - Annalia không sao nói được, một phần vì các tiếng nấc... phần khác vì xấu hổ hay cái gì khác.
- Cô ta sợ bị trả đũa, vì cô ta là môn đệ. Chắc chắn là vì vậy. Nhiều người đã bỏ đi vì sợ như vậy... - Iscariot nói.
- Ôi, không! Điều đó thì lại càng ít hơn. Ông chả hiểu gì hết, hay ông gán tư tưởng của ông cho người khác. Nhưng Thầy, Chúa con, Thầy biết cái gì làm cho con khóc. Con sợ Thầy bị chết và Thầy không nhớ tới lời hứa của Thầy... - và cô kết thúc bằng cái thở dài, sau khi đã cố gắng nói những lời đầu tiên để phản lại sự xỏ xiên của Judas.
398
Giêsu trả lời cô: “Thầy không bao giờ quên, đừng sợ. Hãy về nhà con, bình tĩnh chờ giờ khải hoàn của Thầy và sự bình an của con. Đi đi. Mặt trời sắp lặn rồi. Các phụ nữ, hãy trở về nhà các con và bình an cho các con”.
- Chúa ơi! Con không muốn rời Thầy... - Nique nói.
- Vâng lời tức là yêu.
- Thưa Thầy, đúng vậy. Nhưng tại sao con không được như Êlise?
- Bởi vì con ích lợi cho Thầy ở đây cũng như Êlise ở Nobê. Đi đi, Nique, đi đi! Xin các ông hộ tống các bà để người ta không làm phiền các bà.
Jonatha và Manaen đã sẵn sàng để vâng lời, nhưng Giêsu dừng Jonatha lại để hỏi ông: “Vậy con trở về Galilê à?”
- Thưa Thầy vâng. Sau ngày Sabát. Ông chủ sai con về đó.
- Con có chỗ trên xe con không?
- Thưa Thầy con đi một mình.
- Vậy con hãy mang Margziam và Isaac đi với con. Con, Isaac, con đã biết điều con phải làm. Và cả con cũng vậy, Margziam...
- Thưa Thầy vâng - cả hai trả lời. Isaac với nụ cười êm đềm của ông. Margziam với đôi môi run rẩy và nước mắt trong tiếng nói của nó.
Giêsu vuốt ve Margziam, và nó quên mọi giữ gìn, lăn xả vào ngực Giêsu và nói: “Từ giã Thầy... Bây giờ là lúc tất cả đều bách hại Thầy!... Ôi! Thầy của con! Con sẽ không bao giờ gặp Thầy nữa!... Thầy đã là mọi sự lành cho con! Con đã tìm thấy tất cả nơi Thầy! Tại sao Thầy gởi con về? Hãy để cho con chết với Thầy! Thầy muốn đời sống là gì cho con nếu từ nay con không có Thầy?”
- Thầy nói với con điều Thầy đã nói với Nique: “Vâng lời tức là yêu”.
- Con đi! Chúc lành cho con đi, Giêsu!
Jonatha ra đi cùng với Manaen, Nique và ba người đàn bà khác. Các môn đệ khác cũng ra đi theo từng nhóm nhỏ.
Chỉ khi căn phòng mà lúc trước đầy người, bây giờ hầu như trống rỗng, người ta mới nhận ra là Judas không có ở đó. Nhiều
399
người ngạc nhiên, vì mới lúc nãy ông ta ở đó, và ông ta không nhận được mệnh lệnh nào cả.
- Có lẽ ông ta đi mua đồ cho chúng ta - Giêsu nói để ngăn cản mọi bình phẩm, và Người tiếp tục nói chuyện với Giuse Arimathi và Nicôđêmô, hai người duy nhất còn ở lại cùng với mười một tông đồ và Margziam, nó đứng ở bên cạnh Giêsu với sự khao khát được hưởng Người trong những giờ sau cùng này. Và như vậy, Giêsu ở giữa thanh niên Margziam và đứa trẻ Martial, cả hai đều tóc đen, gầy, giống nhau về những bất hạnh của tuổi thơ, và giống nhau vì được tiếp đón nhân danh Giêsu bởi hai người Israel tốt.
Giuse Sêphoris và vợ ông thận trọng tránh ra để Thầy được tự do. Nicôđêmô hỏi:
- Nhưng đứa trẻ nào vậy?
- Đó là Martial, một đứa trẻ mà Giuse đã thừa nhận.
- Con không biết nó.
- Không ai, hầu như không ai biết nó.
- Ông ta rất khiêm nhường. Nếu một người khác thì đã đặt hành động của mình làm minh tinh - Giuse nhận xét.
- Ông tin vậy sao?... Đi, Martial, dẫn anh Margziam đi coi nhà đi... - Giêsu nói, và khi hai đứa trẻ đi khỏi, Người lại bắt đầu nói: “Giuse, ông lầm. Thực khó để xét đoán cách công minh!”
- Nhưng Chúa ơi, đón nhận một đứa trẻ mồ côi, vì chắc đây là đứa trẻ mồ côi, mà không khoe khoang, thì chắc chắn là khiêm nhường.
- Đứa trẻ, tên của nó chỉ cho biết nó không phải người Israel...
- A! Bây giờ con hiểu! Vậy thì ông ta làm đúng khi giấu kín nó.
- Nhưng nó đã được cắt bì.
- Không quan trọng. Thầy thấy: Gioan Enđo cũng cắt bì... nhưng ông đã là nguyên nhân của một sự bài xích. Giuse người Galilê cũng có thể bị phiền nhiễu, dù có cắt bì. Có biết bao trẻ mồ côi trong Israel... Chắc chắn là với cái tên này... và khuôn mặt này...
- Tất cả các ông đều “Israel” chừng nào! Ngay cả những người tốt nhất! Và cũng tiếc chừng nào khi làm việc tốt, các ông không
400
biết làm cho trọn hảo! Các ông còn chưa hiểu rằng Cha trên Trời là duy nhất, và mọi người là con của Ngài. Các ông còn chưa hiểu được rằng người ta chỉ có thể có một phần thưởng duy nhất hay một hình phạt duy nhất, và là phần thưởng hay hình phạt thực sự? Tại sao các ông tự làm nô lệ cho sự sợ hãi loài người? Nhưng đó là kết qủa do việc làm hư hỏng lề luật của Thiên Chúa, chế biến nó qúa mức, đè nặng nó qúa mức bằng những điều lệ của loài người, đến nỗi làm cho nó khép kín lại, và làm cho thành tối tăm ngay cả tư tưởng của các kẻ công chính thực hành nó. Trong luật Môise, tức là luật Thiên Chúa, và trong cả luật trước thời Môise, lời dạy duy nhất đến từ sự linh ứng của Trời, có chỗ nào nói rằng kẻ nào không thuộc về Israel thì không thể nhập vào đó để làm thành phần trong đó không? Người ta đã chẳng đọc trong Sách Sáng Thế: “Trong vòng tám ngày, trong các ngươi, mọi con trai phải được cắt bì, cũng như mọi trẻ trai sinh ra trong nhà các ngươi, cũng như mọi kẻ mà người ta đã mua, dù nó không thuộc về nòi giống các ngươi”? Điều đó đã được nói. Tất cả những điều thêm vào đều đến từ các ông. Thầy đã nói điều đó với Giuse, và Thầy nói với các ông: Sắp sửa phép cắt bì cũ không còn nhiều quan trọng nữa. Một phép cắt bì mới sẽ đến thay thế, và nó thực sự hơn, và được làm trên phần quí phái nhất. Nhưng bao lâu còn tồn tại phép cắt bì thứ nhất, thì các ông, bởi trung thành với Chúa, làm cho các trẻ trai sinh ra bởi các ông hay các ông thừa nhận, đừng xấu hổ để làm nó trên thể xác của các nòi giống khác. Thể xác thuộc về nấm mồ, linh hồn thuộc về Thiên Chúa. Người ta cắt bì xác thịt trong khi bất lực không thể cắt bì trên những gì thiêng liêng. Nhưng chính trên linh hồn là nơi dấu hiệu thánh được rực rỡ, và linh hồn thuộc về người Cha của mọi người. Hãy suy niệm điều đó.
Một lúc yên lặng, rồi Giuse Arimathi đứng dậy nói: “Con đi đây Thầy. Ngày mai Thầy sẽ tới nhà con?”
- Không. Tốt hơn là Thầy không đến đó.
- Vậy tới nhà con, căn nhà ở trên đường vườn oliu để đi về Bêtani. Có sự bình an và ...
401
- Cũng không. Thầy sẽ tới vườn oliu để cầu nguyện... Tâm hồn Thầy tìm sự cô tịch... Xin miễn thứ cho Thầy.
- Như Thầy muốn. Và... đừng lên Đền Thờ. Bình an cho Thầy.
- Bình an cho các ông.
Hai người ra đi.
- Con muốn biết Judas đi đâu. Con đã nghĩ ông tới nhà các người nghèo, nhưng túi tiền vẫn ở đây - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Đừng bận tâm điều đó... Ông ta sắp về...
Maria vợ Giuse vào phòng với hai ngọn đèn, vì ánh sáng không còn thể lọt qua tấm mi-ca dầy che lỗ trổ ra trên mái nhà của căn phòng, và hai đứa trẻ đi vào.
- Con rất bằng lòng để lại cho Thầy một đứa có tên hầu như giống tên con, như vậy khi Thầy gọi nó, Thầy sẽ nhớ đến con - Margziam nói.
Giêsu kéo nó lại với Người.
Đến lượt Judas trở về. Bà đầy tớ mở cửa cho ông. Ông mạnh dạn, tươi cười, qủa quyết!
- Thưa Thầy, con muốn coi... Giông tố đã hạ. Con đã hộ vệ các bà... Cô con gái trẻ, cô ta nhát chừng nào! Con đã không nói gì với Thầy, vì sợ Thầy cản con. Mà con, con muốn coi xem có gì nguy hiểm cho Thầy không. Nhưng không ai nghĩ tới đó nữa. Ngày Sabát đã làm cho đường sá vắng tanh.
- Tốt. Bây giờ chúng ta ở lại đây bình an, và ngày mai...
- Thầy đã nói không lên Đền Thờ mà! - các tông đồ kêu lên.
- Không. Tới giáo đường của chúng ta, như những người Galilê trung thành.
207* CHỮA NGƯỜI MÙ TỪ BẨM SINH
Giêsu ra ngoài cùng với các tông đồ và Giuse Sêphoris hướng về giáo đường. Một ngày trong sáng, thanh quang, vui như lời hứa của mùa xuân sau những ngày gió và mây thực sự của mùa đông. Nhiều người dân Jêrusalem ra đường, người thì tới giáo đường,
402
người thì ở đó về hoăc về từ các nơi khác; một số người với cả gia đình ra khỏi thành phố để tận hưởng mặt trời ở đồng quê. Từ cổng Hêrôđê, nhìn rõ từ nhà Giuse Sêphoris, ta thấy nhiều người đang ra khỏi các bức tường thành để tìm những thú tiêu khiển ở ngoài trời. Lặn sâu vào vùng cây xanh, trong không gian, trong sự tự do ở bên ngoài các phố xá hẹp giữa các dẫy nhà cao. Tôi tin rằng các miền đồng quê bao quanh Jêrusalem rất được dân chúng ước ao cách hồn nhiên. Họ muốn hòa hợp khoảng đường được đi trong ngày Sabát với nỗi ước ao không khí và mặt trời của họ, và họ đi tìm ở cả ngoài đường chứ không phải chỉ ở trên sân thượng của các căn nhà. Nhưng Giêsu không đi về phía cổng Hêrôđê, trái lại, Người quay lưng về nó để đi về phía nội thành. Nhưng Người mới đi được vài bước trên con đường lớn mà con đường có căn nhà của Giuse Sêphoris vừa đổ vào, thì Judas Kêriot lôi kéo sự chú ý của Người tới một người đàn ông trẻ đang tiến về phía họ, bằng cách rờ rẫm dọc theo các bức tường bằng cây gậy của anh. Anh ngửa khuôn mặt không có mắt của anh lên trời, với những bước đi đặc biệt của người mù. Y phục của anh ta nghèo, nhưng sạch sẽ. Đây hẳn là một người mà nhiều người ở Jêrusalem biết, vì nhiều người giơ tay chỉ anh ta, và một số người nói: “Ông ơi, hôm nay ông đi lộn đường rồi. Tất cả các con đường đi về Moriah đều đã đi qua. Ông đã tới Bêzêta”. - Hôm nay tôi không xin tiền - người mù trả lời với một nụ cười, và ông luôn luôn tiến bước với nụ cười này về phía bắc thành phố. - Thầy ơi, Thầy nhận xét anh ta: anh ta có các mí mắt bị hàn dính. Con nói đúng hơn là anh ta không có mí mắt. Trán nối liền với má, không có lỗ mắt, và hình như ở dưới không có nhãn cầu. Kẻ khốn nạn! Anh ta sinh ra là đã vậy, và anh ta sẽ chết mà không được một lần thấy ánh sáng mặt trời cũng như khuôn mặt một người. Thưa Thầy, bây giờ xin Thầy nói cho con: bị phạt như vậy là chắc chắn anh ta có tội. Nhưng anh ta sinh ra đã mù, chắc chắn vậy, làm sao anh ta có thể phạm tội trước khi được sinh ra? Có lẽ cha mẹ anh
ta đã phạm tội nên Thiên Chúa đã phạt họ bằng cách làm cho anh ta sinh ra như vầy?
403
Các tông đồ khác cũng như Isaac và Margziam đều sát lại gần Giêsu để nghe câu trả lời của Người. Có hai người vội vã nhấn bước, tựa như bị lôi kéo bởi khổ người cao của Giêsu nhô lên bên trên đám đông. Đó là hai bậc vị vọng với vẻ ở trong những điều kiện dư dật. Họ chạy hơi ở đàng sau người mù, và ở khoảng giữa họ là Giuse Arimathi. Ông không lại gần, nhưng đứng tựa lưng vào một cái cửa ở cao bên trên hai bậc thềm, ông quay mặt nhìn về tất cả các khuôn mặt và quan sát họ.
Giêsu trả lời, và người ta nghe rõ ràng các lời của Người trong yên lặng. Người nói: “Không phải nó, cũng không phải cha mẹ nó đã phạm tội hơn mọi người khác thường phạm, có lẽ còn phạm ít hơn, vì sự nghèo khó thường là cái thắng kìm hãm tội lỗi. Nhưng nó sinh ra như vậy để một lần nữa, sức mạnh và các công trình của Thiên Chúa được biểu lộ. Thầy là ánh sáng đến trong thế gian để cho những người ở trên thế gian, những kẻ đã quên Thiên Chúa hay đã mất hình ảnh thiêng liêng của Người, được thấy và nhớ lại, và cho những kẻ tìm Thiên Chúa hay đã thuộc về Người, được xác nhận trong đức tin và tình yêu. Chúa Cha đã sai Thầy, để trong những ngày còn chấp nhận cho Israel, Thầy hoàn tất sự hiểu biết về Thiên Chúa trong Israel và trong thế giới. Vậy đây, Thầy hoàn tất những công việc của Đấng đã sai Thầy, để minh chứng rằng Thầy có thể tất cả những gì Người có thể, bởi vì Thầy là một với Người, và để thế giới biết và thấy rằng Con không khác gì Cha, và để họ tin vào Thầy về những gì Thầy là. Sau đó, đêm sẽ về, lúc ấy người ta không thể làm việc được nữa. Bóng tối sẽ đến, và kẻ nào không được ghi khắc dấu hiệu của Thầy và đức tin vào Thầy, thì họ không thể làm được nữa trong bóng tối và sự hỗn độn, sự đau đớn, sự phiền muộn và sự điêu tàn bao phủ những nơi này. Các linh hồn sẽ kiệt quệ vì qúa bị kích thích bởi đau đớn. Nhưng bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là Ánh Sáng, là Chứng Nhân, là Lời, là Đường, là Sự Sống, là sự Khôn Ngoan, là Sức Mạnh và Tình Thương. Vậy hãy đến với người mù và dắt anh ta lại đây cho Thầy.
- Andrê, anh đi đi. Tôi muốn ở lại đây xem Thầy làm gì - Judas
404
trả lời khi ông chỉ vào Giêsu đang cúi xuống trên đường đầy bụi. Người nhổ bọt trên một nhúm đất, và Người lấy ngón tay nhào bụi với nước bọt, làm thành một chút bùn. Trong khi đó, Andrê ân cần tới đón người mù khi anh ta sắp cua vào con đường nhỏ có căn nhà của Giuse Séphoris. Giêsu trét bùn trên hai đầu ngón tay trỏ và đứng yên như vậy, tay giơ ra như linh mục khi làm lễ. Nhưng Judas bỏ chỗ của ông khi nói với Mathêu và Phêrô: “Các anh lại chỗ này đi. Các anh nhỏ con, như vậy các anh thấy rõ hơn”. Và ông đứng ở đàng sau mọi người, hầu như bị chắn bởi hai con ông Alphê và Batôlômêo là những người cũng lớn con.
Andrê trở lại. Ông dắt tay người mù, anh ta nói không dứt: “Tôi không muốn tiền. Hãy để tôi đi. Tôi biết người có tên là Giêsu đang ở đâu. Tôi đến để xin...”
- Chính Giêsu đang ở trước mặt anh đó - Andrê nói khi dừng lại ở trước mặt Thầy.
Giêsu, trái với thường lệ, không hỏi người đó điều gì cả. Người trét ngay lập tức lên đôi mắt mù của anh một chút bùn ở trên các ngón tay trỏ của Người và Người ra lệnh cho anh ta: “Bây giờ hãy đi nhanh hết sức có thể, tới bể nước ở Siloê mà rửa, đừng đứng lại để nói với ai cả”.
Người mù, khuôn mặt lem luốc vì bùn, đứng lại phân vân một lát. Anh ta mở môi để nói, nhưng rồi anh lại khép lại, và anh ta vâng lời. Những bước đầu tiên thì còn chậm chạp, tựa như anh ta suy nghĩ hay nản lòng. Rồi anh nhấn bước trong khi rờ rẫm bức tường bằng cái gậy của anh. Anh đi càng lúc càng nhanh như một người mù có thể, có lẽ còn nhanh hơn, tựa như anh ta cảm thấy có người hướng dẫn...
Hai bậc vị vọng có cái cười châm biếm. Họ lắc đầu bỏ đi. Sự kiện làm tôi ngạc nhiên là Giuse Arimathi cả đến không tới chào Thầy. Ông đi trở ngược lại con đường, tức là về phía Đền Thờ, vì ông từ phía đó mà tới. Như vậy là người mù, hai bậc vị vọng và Giuse Arimathi đi về phía nam thành phố, trong khi Giêsu đi về phía tây, và tôi không thấy Người nữa, vì Chúa muốn cho tôi theo
405
dõi người mù và những kẻ đi theo anh ta.
Sau khi qua khỏi Bêzêta, tất cả họ đều đi vào thung lũng ở giữa núi Moriah và núi Sion - Hình như lần trước tôi đã nghe gọi nơi này là Tiropéon - Họ đi theo hết thung lũng cho tới Ophel, đi vòng quanh nó, và đi vào con đường dẫn tới bồn nước Siloê, luôn luôn giữ theo thứ tự: trước tiên là người mù, chắc chắn rất được quen biết trong khu bình dân, rồi đến hai bậc vị vọng, sau cùng, ở một quãng hơi xa là Giuse Arimathi.
Giuse dừng lại ở một căn nhà nhỏ không có gì đáng chú ý, bị che khuất bởi một hàng dậu bằng cây hoàng dương mọc bao quanh nhà, nhưng hai ông kia thì tới sát bên bồn nước. Họ quan sát người mù tới gần cái bể mênh mông một cách thận trọng, rờ rẫm vào bức tường ướt, nhúng một bàn tay vào. Khi anh ta rút ra thì nước nhỏ tong tong. Anh ta rửa mắt một, hai, ba lần. Lần thứ ba, anh bỏ rơi cái gậy và ép cả bàn tay kia lên mặt. Anh ta phát ra một tiếng kêu tựa như bị đau đớn. Rồi anh ta từ từ bỏ tay ra, và tiếng kêu trước vì đau của anh biến thành tiếng kêu vui mừng: “Ôi! Đấng Tối Cao! Tôi thấy!” Rồi anh ngồi bệt trên đất, tựa như để thắng sự cảm động. Anh lấy tay che mắt, rồi ép vào hai bên thái dương, lo lắng vì nhìn thấy nhưng bị chói bởi ánh sáng, và anh lặp lại: “Tôi thấy! Tôi thấy! Vậy ra đây là đất! Ánh sáng! Cỏ mà tôi chỉ biết vì sự tươi mát của chúng...” Rồi anh đứng dậy, nhưng cúi gù, tựa như kẻ vác gánh nặng: gánh nặng niềm vui của anh. Anh đi ra cái khe, chỗ nước bể tràn ra vì qúa đầy, anh nhìn nó chảy lấp lánh và vui vẻ. Anh thì thầm: “Cái này là nước... Đó, như vầy là cái tôi cảm thấy ở giữa các ngón tay (và anh nhúng tay vào đó), nó lạnh và lỏng, nhưng tôi không biết nó... A! Đẹp! Đẹp! Tất cả đều đẹp chừng nào!” Anh ngửa mặt lên và thấy một cây... Anh lại gần, đụng vào nó, giơ tay kéo một cành nhỏ, anh nhìn nó và cười. Anh cười, lấy tay che mắt cho khỏi chói, và anh nhìn bầu trời, mặt trời, và hai giọt nước mắt rơi xuống từ hai mí mắt trinh trong của anh mà anh đã mở ra để chiêm ngắm thế giới... Và anh hạ cái nhìn xuống trên cây cỏ, nơi có một bông hoa đu đưa bên trên cái cộng của nó, và anh thấy bóng anh phản chiếu dưới khe nước. Anh nhìn mình và nói: “Tôi là như
406
vầy đây!” Anh quan sát một cách kinh ngạc con chim cu đến uống ở gần đó, và một con dê con đang giật những lá sau cùng của một cây hồng dại, rồi một người đàn bà tới bồn nước với đứa bé trong lòng. Và người đàn bà này nhắc anh nhớ tới mẹ anh, người mẹ với khuôn mặt chưa biết. Rồi anh giơ tay lên trời và kêu: “Chúc tụng Đấng Tối Cao vì ánh sáng, vì người mẹ, vì Giêsu!” Và anh chạy đi, để lại trên đất cây gậy bây giờ đã thành vô ích...
Hai bậc vị vọng không đợi để coi tất cả. Từ khi họ thấy anh mù nhìn được, họ chạy lẹ về thành phố. Trái lại, Giuse ở lại tới chót. Khi người mù không còn mù đi qua trước mặt ông để đi vào các lối quanh co trong khu đông dân cư vùng Ophel, thì đến lượt ông, ông cũng bỏ chỗ ông để quay trở về thành phố, rất đăm chiêu...
Khu Ophel vốn đã hay ồn ào, bây giờ đầy sôi nổi. Người ta chạy về bên phải, về bên trái; người ta đặt câu hỏi, người ta trả lời.
- Nhưng các ông đã lộn anh ta với một người khác...
- Không, tôi nói với anh mà! Tôi đã nói với nó và đã hỏi nó: “Có phải đúng mày là Sidonia biệt hiệu Bartolmai không?” Và nó bảo tôi: “Chính tôi”. Tôi muốn hỏi nó đã xảy ra thế nào, nhưng nó chạy vội đi.
- Bây giờ nó đâu?
- Chắc là ở nhà mẹ nó.
- Ai? Ai đã thấy nó? - những người chạy tới hỏi.
- Tôi. Tôi - nhiều người trả lời.
- Nhưng chuyện xảy ra thế nào?
- ... Tôi thấy nó đang chạy mà không có gậy, với hai con mắt ở trên mặt, và tôi đã nói: “Coi này! Có phải đúng thằng Bartolmai, nếu...”
- Tôi nói với anh là tôi run bắn lên. Khi bước vào nhà, nó la lên: “Mẹ ơi, con nhìn thấy mẹ!”
- Một niềm vui lớn cho cha mẹ nó. Bây giờ nó có thể giúp đỡ ba nó và kiếm lương thực cho nó...
- Cái bà tội nghiệp! Bà hầu té xỉu vì mừng. Ôi! Một điều! Một điều! Tôi đã đến đó để xin tí muối và...
407
- Chúng ta chạy đến nhà nó để coi cho biết...
Giuse Arimathi như bị giữ ở giữa sự ồn ào huyên náo này, và tôi không biết bởi tò mò hay bởi tính hay bắt chước, ông đi theo dòng người vào một con đường cùng đổ vào thung lũng Cédron. Ở đây đám đông chen chúc, không nghe được gì vì những tiếng la lối và tiếng động của thác nước đã nở lớn vì các trận mưa thu.
Giuse tới đó vào đúng lúc hai bậc vị vọng lúc nãy từ một lối đi khác đổ vào con đường cùng, cũng tới với ba người khác: một luật sĩ, một thầy cả, người thứ ba thì y phục của ông không cho phép tôi nhận định loại người. Họ hống hách rẽ lối đi, tìm cách vào trong căn nhà chật cứng. Căn nhà gồm một nhà bếp rộng, đen như nhựa đường, với một góc được phân ra bởi một cái phên thô sơ, là một cái chõng, và một cái cửa mở thông vào một phòng khác có một cái giường lớn hơn. Một cửa khác mở ra trên bức tường đối diện cho nhìn thấy một mảnh vườn nhỏ chỉ vài mét vuông. Đó là tất cả.
Người mù được khỏi tì vào một cái bàn, nói để trả lời những người hỏi anh, tất cả đều là dân nghèo như anh, cùng đinh của Jêrusalem cư ngụ ở khu này, có lẽ là khu nghèo nhất. Mẹ anh đứng bên anh, bà nhìn anh và khóc, lấy khăn voan lau mắt. Người cha, một người đàn ông hao mòn vì công việc, quấy lộn hàm râu của ông bằng bàn tay lật bật vì run.
Đi vào nhà là không thể được, kể cả với các người Do Thái và các tiến sĩ hống hách, năm người phải đứng ở bên ngoài để nghe các lời của người mù được khỏi.
- Làm sao nó được mở ra à? Vị mà người ta gọi là Giêsu, đã trét đất ướt lên mắt tôi và bảo tôi: “Hãy đi rửa ở phông-ten Siloê”. Tôi tới đó, tôi rửa, mắt tôi liền mở ra, và tôi thấy.
- Nhưng làm sao mày tìm được vị rabbi? Mày luôn luôn nói rằng mày bất hạnh vì mày không bao giờ gặp được ông ta, kể cả khi ông ta đi qua đây để tới nhà Jonas tại Gétsêmani... Vậy mà hôm nay, bây giờ là lúc người ta không biết ông ta ở đâu...
- Hé! Chiều hôm qua, một trong các môn đệ của Người đã tới, ông ta đã cho tôi hai đồng tiền và nói: “Tại sao anh không tìm cách
408
để thấy?” Tôi trả lời: “Tôi đã tìm, nhưng tôi không bao giờ gặp được vị Giêsu, vị làm các phép lạ. Tôi đã tìm Người từ lúc Người chữa cho Annalia, cô ở cùng xóm với tôi. Nhưng khi tôi đến một nơi thì Người đã đi nơi khác...” Ông ta bảo tôi: “Tôi là một trong các tông đồ của Người, và điều tôi nói với Người là Người làm. Ngày mai anh hãy tới Bêzêta và tìm nhà Giuse người Galilê, buôn bán cá khô: Giuse Sêphoris, ở gần cổng Hêrôđê, ở chỗ cua của quảng trường về phía đông, và anh sẽ thấy hoăc sớm hoặc muộn, Người sẽ đi qua đó, hoặc là vào trong nhà, và tôi, tôi sẽ giới thiệu anh cho Thầy”. Tôi nói: “Nhưng ngày mai là ngày Sabát” Tôi có ý muốn nói là Người sẽ không làm gì trong ngày Sabát. Ông ta nói với tôi: “Nếu anh muốn được khỏi thì đó là đúng ngày, vì sau đó chúng ta sẽ rời thành phố, và anh sẽ không biết anh có thể gặp được Người ở đâu không”. Tôi, tôi còn nói: “Tôi biết rằng người ta bách hại Người. Tôi nghe thấy khi tôi ở cổng vào nội khu Đền Thờ để ăn mày. Tôi cũng nói rằng bây giờ họ bách hại Người như vậy, Người sẽ muốn người ta bớt bách hại Người hơn nên Người không chữa bệnh ngày Sabát”. Và ông ta nói: “Hãy làm điều tôi bảo anh, và ngày Sabát anh sẽ thấy mặt trời”. Và tôi, tôi tới đó. Ai lại không tới trong khi chính tông đồ của Người đã bảo? Ông ta cũng nói với tôi: “Tôi là người mà Người nghe lời nhiều nhất. Tôi cố ý tới đây, vì anh làm tôi thương, và tôi muốn sức mạnh của Người rực rỡ sau khi người ta đã khinh dể Người. Anh, mù từ lúc sinh ra, anh sẽ làm cho nó rực rỡ. Tôi biết điều tôi nói. Hãy đến, và anh sẽ nhìn thấy”. Và tôi tới đó, nhưng tôi chưa tới nhà Giuse thì có một người cầm tay tôi, và theo giọng nói thì không phải là ông hôm qua, ông ta bảo tôi: “Anh ơi, hãy đi với tôi”, nhưng tôi không muốn đi, vì tôi nghĩ ông ta sẽ cho tôi bánh và tiền, hay có lẽ quần áo, nên tôi bảo ông ta để cho tôi đi, vì tôi đã biết vị mà người ta gọi là Giêsu đang ở đâu. Người đó bảo tôi: “Đây là Giêsu. Người đang ở trước mặt anh”. Nhưng tôi không thấy gì, vì tôi mù. Tôi cảm thấy hai ngón tay dính đất ướt dụng vào tôi ở hai bên, và một giọng nói: “Hãy đi ngay tới Siloê, hãy rửa và đừng nói với ai”. Và tôi đã làm. Nhưng tôi đã thất
409
vọng, vì tôi hy vọng nhìn thấy ngay lập tức, và tôi đã sờn lòng tin, tưởng đó là trò dỡn chơi của những người trẻ không có con tim, và tôi hầu như từ chối đi tới đó. Nhưng tôi nghe như có tiếng nói: “Hãy trông cậy và vâng lời”. Lúc đó tôi đi tới phông-ten, tôi rửa, và tôi nhìn thấy.
Người thanh niên dừng nói, như xuất thần khi nghĩ lại niềm vui của cái nhìn đầu tiên...
- Cho người đàn ông ra đây. Chúng tôi muốn chất vấn ông ta - năm ông kêu lên.
Người thanh niên phăng một lối đi và ra trước cửa.
- Người đã chữa cho anh đâu rồi?
- Tôi không biết - người thanh niên nói trong khi một người bạn của anh lèo xèo: “Đó là các luật sĩ và các thầy cả”.
- Làm sao anh lại không biết? Anh vừa nói rằng anh đã biết. Đừng nói dối với các tiến sĩ luật và các thầy cả! Khốn cho kẻ tìm cách lừa dối các chức sắc của dân!
- Tôi không lừa dối ai cả. Người môn đệ đó đã nói với tôi: “Người ở trong nhà đó”, và điều đó là thật, vì tôi đã gần tới nơi khi tôi được cầm tay và dắt đến với Người. Nhưng bây giờ Người ở đâu thì tôi không biết. Người môn đệ đã bảo tôi rằng họ đi. Có lẽ họ đã ra khỏi cổng rồi.
- Nhưng ông ta đi đâu?
- Làm sao tôi biết được? Có lẽ đi Galilê... Vì cách người ta đối xử với Người ở đây!...
- Ngu xuẩn và bất lịch sự! Hãy coi chừng cách ăn nói của mày! Cặn bã xã hội! Tao hỏi mày ông ta đi về con đường nào?
- Nhưng làm sao các ông lại muốn rằng tôi biết, bởi vì lúc đó tôi còn mù mà! Một người mù có thể nói nơi mà một người khác đi không?
- Được rồi. Hãy đi theo chúng ta.
- Các ông muốn dẫn tôi đi đâu?
- Tới nhà các thủ lãnh pharisiêu.
- Tại sao? Họ có cái gì để làm với tôi? Có phải tình cờ họ đã
410
chữa cho tôi để tôi phải cám ơn họ không? Khi tôi còn mù và tôi ăn mày, bàn tay tôi không bao giờ rờ được đồng tiền của họ, tai tôi không bao giờ nghe được từ họ một lời thương hại, và qủa tim tôi không bao giờ biết đến tình yêu của họ. Tôi phải nói gì với họ? Chỉ có một người tôi phải nói “cám ơn” sau cha tôi và mẹ tôi, những người trong bao năm đã thương tôi trong bất hạnh, đó là vị Giêsu đã chữa cho tôi trong khi thương tôi bằng tất cả con tim của Người, giống như cha mẹ tôi bằng con tim của họ. Tôi, tôi không đi tìm các pharisiêu, tôi ở lại nhà với cha tôi và mẹ tôi để vui hưởng sự nhìn được dung mạo các ngài, và các ngài, để nhìn đôi mắt tôi bây giờ được sinh ra, sau bao mùa xuân kể từ mùa xuân tôi ra đời mà không thấy ánh sáng.
- Đừng qúa nhiều lời! Đi! Hãy theo chúng ta.
- Không, tôi không đi. Đã có bao giờ các ông lau một giọt nước mắt cho người mẹ nhục nhã vì nỗi bất hạnh của tôi, hay lau một giọt mồ hôi cho người cha của tôi, kiệt lực vì công việc không? Bây giờ tôi có thể làm được với hoàn cảnh của tôi, mà tôi lại phải bỏ các ngài để đi theo các ông sao?
- Chúng ta ra lệnh cho mày. Không phải mày là kẻ ra lệnh, nhưng là Đền Thờ và các thủ lãnh của dân. Nếu sự kiêu căng vì được khỏi tật đã khóa kín trí khôn mày, nên mày không nhớ rằng chúng ta lãnh đạo, thì chúng ta nhắc cho mày. Tiến lên! Bước!
- Nhưng tại sao tôi phải đi? Các ông muốn gì ở tôi?
- Để mày làm một tờ cung khai. Đây là ngày Sabát. Công việc hoàn thành trong ngày Sabát thì phải được ghi chép, vì lẽ nó là tội, tội của mày và của tên Satan đó.
- Chính các ông là Satan! Các ông đã phạm tội! Tôi phải tới cung khai chống lại đấng đã làm ơn lành cho tôi sao? Các ông say rồi! Tôi chỉ tới Đền Thờ để chúc tụng Chúa, không làm gì hơn. Tôi đã bao năm ở trong bóng tối của tật mù, nhưng mí mắt khép kín của tôi chỉ tạo ra tối tăm cho con mắt tôi mà thôi, còn tâm hồn tôi ở trong ánh sáng và trong ân phúc của Thiên Chúa, nó bảo tôi rằng dù sao tôi cũng không được làm thiệt hại cho Đấng Thánh duy nhất
411
của Israel.
- Đủ rồi, mày không biết rằng có hình phạt dành cho những kẻ chống lại các chức sắc của dân sao?
- Tôi không biết gì cả. Tôi đang ở đây và tôi ở lại đây. Và các ông có lợi gì khi quấy rầy tôi. Các ông thấy rằng toàn thể Ophel đều về phe với tôi.
- Đúng, đúng! Hãy để cho anh ta yên! Các sói rừng! Thiên Chúa che chở anh ta, đừng đụng tới anh ta! Thiên Chúa ở với người nghèo! Thiên Chúa ở với chúng ta, hỡi các tên đói khát và giả hình! - Dân chúng la lối hăm dọa, một trong những biểu lộ tự nhiên của người dân, là sự bùng nổ phẫn uất của kẻ bé mọn đối với những kẻ đàn áp họ, hoặc là tình yêu đối với kẻ bảo vệ họ. Và họ la lối: “Khốn cho các ông nếu các ông đánh Vị Cứu Tinh của chúng tôi, bạn của dân nghèo, Đấng Messi ba lần thánh! Khốn cho các ông! Chúng ta không sợ cơn giận của Hêrôđê cũng như của các thủ lãnh khi chúng ta muốn. Chúng ta không sợ các ông, các linh cẩu già với quai hàm móm răng! Chó sói với vuốt bị cắt cụt! Hống hách vô ích! Rôma không muốn huyên náo và không đàn áp vị rabbi, vì Người hòa bình, nhưng họ biết các ông. Cút đi! Cút đi! Hãy ra khỏi khu vực của những người mà các ông áp bức bằng các thuế thập phân lớn hơn là lợi tức, để có tiền thỏa mãn những khát vọng của các ông, và ký kết những thị trường đáng xấu hổ. Dòng dõi Lason! Dòng dõi Simon! Những kẻ tra tấn các Êlêazar thực sự, các thánh Onias. Các ông khinh dể các tiên tri! Cút đi! Cút ra khỏi đây! - Sự huyên náo càng lúc càng nảy lửa.
Giuse Arimathi bị ép sát vào một bức tường nhỏ. Từ nãy tới giờ ông chỉ là khán giả lưu tâm nhưng bất động của các sự kiện, bây giờ, với sự lanh lẹ không ngờ nơi một người lớn tuổi, hơn nữa, lại bị vướng vít bởi y phục với áo khoác, ông cố trèo lên để đứng ở trên bức tường thấp và hô lên: “Yên lặng, dân chúng, và hãy nghe kỳ lão Giuse!”
Một, hai, mười cái đầu quay về phía có tiếng hô. Họ thấy Giuse, họ kêu tên ông. Chắc hẳn ông được biết như người thường giữ các
412
vai trò có lợi cho dân, và các tiếng la phẫn uất nhường chỗ cho các tiếng kêu vui mừng: “Có Kỳ Lão Giuse! Vạn tuế ông ta! Bình an và trường thọ cho người công chính! Bình an và phúc lành cho ân nhân của các kẻ khổ sở! Hãy yên lặng để Giuse nói! Yên lặng!”
Sư yên lặng được thiết lập không phải không khó, và trong mấy phút, người ta nghe thấy tiếng ồn ào của suối Cédron ở bên ngoài con đường cùng. Tất cả mọi cái đầu đều quay về phía Giuse, quên đi cái đối tượng đã làm họ quay về phía đối diện: năm kẻ khổ sở và không biết dự phòng nên đã gây ra sự ồn ào.
- Hỡi dân Jêrusalem! Hỡi dân chúng Ophel! Tại sao qúi vị để mình bị mù tối bởi sự nghi ngờ và giận dữ? Tại sao qúi vị thiếu kính trọng truyền thống, qúi vị là những người luôn luôn trung thành với lề luật của cha ông? Qúi vị sợ điều gì? Phải chăng Đền Thờ là một Moloch (thần của người Canane) không chịu trả lại cái họ đã đón nhận? Có lẽ sự xét đoán của qúi vị đã bị mù, mù hơn là người bạn của qúi vị, mù trong tim và điếc về vấn đề công chính? Chẳng phải ích lợi sao khi một sự kiện kỳ diệu được cung khai, được viết và được lưu trữ bởi kẻ có quyền cho biên niên sử của Israel? Vậy hãy cho phép, và kể cả vì danh dự cho vị rabbi mà qúi vị yêu mến, hãy cho phép kẻ được phép lạ đi để làm việc cung khai về công việc mà Người đã làm. Qúi vị còn ngập ngừng sao? Vậy tôi đứng ra bảo đảm là sẽ không có chuyện gì xấu xảy ra cho Bartolmai. Qúi vị biết rằng tôi không nói dối. Tôi sẽ hộ vệ anh ta tới đó như người con thân yêu của tôi, và sau đó tôi sẽ đem anh ta trở về đây cho qúi vị. Hãy tin cẩn ở tôi, và đừng làm cho ngày Sabát trở thành ngày tội lỗi bằng cách chống lại các thủ lãnh của qúi vị.
- Ông ta có lý! Ta không nên. Chúng ta có thể tin ông. Đó là người công chính. Trong những thảo luận tốt của Đại Pháp Đình, luôn luôn có tiếng nói của ông.
Người ta thay đổi ý kiến, và sau cùng la lên: “Với ông thì được, bạn của chúng tôi. Chúng tôi giao phó anh ta cho ông”. Và họ nói với người thanh niên: “Đi đi, đừng sợ. Với Giuse Arimathi, anh được bảo đảm an toàn như với ba anh và còn hơn nữa”. Và họ mở
413
vòng vây ra để người thanh niên có thể lại với Giuse. Ông xuống khỏi cái tòa án ứng biến của ông khi anh ta tới. Họ nói: “Chúng tôi cũng đi. Đừng sợ”.
Giuse, trong y phục sang trọng bằng len qúi, đặt một tay lên vai người thanh niên, và họ lên đường. Y phục cũ và lạt mầu với cái áo khoác cộc của anh ta quẹt vào áo dài rộng thùng thình mầu đỏ, với chiếc áo khoác đắt tiền mầu đỏ đậm hơn của vị Đại Pháp Đình viên gìa. Đàng sau là số năm người, và sau đó nữa là vô số dân Ophel.
Đây, họ ở trong Đền Thờ sau khi đã băng qua các phố chính, lôi kéo sự chú ý của một số đông người. Họ giơ tay chỉ vào người trước kia mù và nói: “Nhưng đó là anh ăn mày mù phải không? Bây giờ anh ta có mắt rồi! Nhưng có lẽ ai đó giống anh ta! Không, chắc chắn là anh ta. Và họ dẫn anh ta vào Đền Thờ. Chúng ta đi coi cho biết”. Và đoàn tùy tùng càng lúc càng lớn thêm cho tới khi các bức tường của Đền Thờ nuốt hết mọi người.
Giuse Arimathi dẫn người thanh niên vào một phòng. Đó không phải là Đại Pháp Đình. Một số đông đảo pharisiêu và luật sĩ đang hiện diện. Giuse vào, và cùng với ông là Bartolmai và số năm người. Dân chúng Ophel bị đẩy ra ngoài sân.
- Người đó đây. Chính tôi dẫn anh ta đến cho các ông sau khi đã tham dự mà không bị ai thấy, vào việc gặp gỡ của anh ta với vị rabbi và vào sự khỏi tật của anh ta, và tôi có thể nói với các ông rằng đây là sự kiện hoàn toàn bất ngờ đối với vị rabbi. Người này, các ông đã nghe anh ta nói, được dẫn tới, hay đúng hơn là được mời tới nơi vị rabbi ở bởi Judas Kêriot mà qúi vị đã biết, và tôi đã nghe, và hai vị này cũng đã nghe như tôi, vì hai ông có mặt, rằng Judas đã thúc giục thế nào để Giêsu Nazarét làm phép lạ. Bây giờ tôi tường trình ở đây rằng nếu có việc phạt một người nào đó, thì không phải là anh mù, cũng không phải vị rabbi, mà là người xứ Kêriot, tác giả duy nhất của sự kiện, vì anh ta đã gây ra một sự vận động có dự mưu. Thiên Chúa thấy rằng tôi không nói dối khi nói ra điều tôi nghĩ trong lòng. Tôi đã nói xong.
414
- Sự tuyên bố của ông không hủy bỏ tội của ông rabbi. Nếu môn đệ phạm tội thì ông thầy không được phạm tội. Ông ta đã phạm tội khi chữa bệnh trong ngày Sabát. Ông ta đã hoàn thành một việc hèn hạ.
- Nhổ bọt xuống đất đâu có phải là một việc hèn hạ, đụng vào mắt người khác đâu phải là việc hèn hạ. Tôi cũng vậy, tôi đã đụng vào anh ta mà tôi không tin là đã phạm tội.
- Ông ta đã làm một phép lạ trong ngày Sabát. Chính điều đó là cái tội.
- Tôn vinh ngày Sabát bằng một phép lạ là một ân huệ của Thiên Chúa và của lòng nhân từ Người. Đó là ngày của Người, và Đấng Toàn Năng lại chẳng có thể cử hành nó bằng một phép lạ để làm sáng chói quyền phép của Người sao?
- Chúng tôi không ở đây để nghe ông. Ông không phải kẻ bị kết án. Chính anh này là người chúng tôi muốn chất vấn. Anh hãy trả lời: “Làm sao anh nhìn thấy?”
- Tôi đã nói rồi, và họ cũng đã nghe tôi: người môn đệ của vị Giêsu này đã nói với tôi hôm qua: “Hãy đến, và tôi sẽ làm cho anh được chữa”. Tôi đã đến, và tôi cảm thấy người ta trét bùn lên tôi ở đây, và một tiếng nói bảo tôi đi tới Siloê mà rửa. Tôi làm như vậy, và tôi nhìn thấy.
- Nhưng anh biết ai là người đã chữa cho anh không?
- Chắc chắn là tôi biết! Giêsu. Tôi đã nói vậy với các ông rồi.
- Nhưng anh biết chính xác Giêsu là ai không?
- Tôi, tôi không biết gì cả. Tôi là kẻ nghèo hèn và ngu dốt, và tôi mù, mới khỏi được một lúc thôi. Điều đó thì tôi biết. Và tôi biết rằng Người đã chữa tôi. Nếu Người đã có thể làm điều đó thì chắc chắn Thiên Chúa ở với Người.
- Đừng lộng ngôn! Thiên Chúa không ở với kẻ không giữ ngày Sabát - một số người la lên.
Nhưng Giuse và pharisiêu Êlêazar, Gioan và Joakim bảo họ nhận xét: “Nhưng một người tội lỗi không thể làm một việc kỳ diệu như vậy”.
415
- Các ông cũng bị lôi kéo bởi cái tên bị ám đó sao?
- Không. Chúng tôi công minh. Chúng tôi nói rằng nếu Thiên Chúa không thể ở với người làm phép lạ trong ngày Sabát, thì cũng không thể nào một kẻ không có sự trợ giúp của Thiên Chúa mà làm được cho kẻ mù từ lúc sinh ra nhìn thấy - Êlêazar nói cách bình tĩnh, và những người tốt khác đồng ý với ông.
- Vậy ma qủi thì các ông để nó vào đâu? - các kẻ xấu co cáu la lên.
- Tôi không thể tin, và các ông cũng không thể tin rằng ma qủi có thể làm những việc để cho người ta ca tụng Chúa - pharisiêu Gioan nói.
- Nhưng ai ca tụng Người?
- Người thanh niên, cha mẹ anh ta, toàn thể Ophel, và tôi cùng với họ, và cùng với tôi là tất cả những ai công chính và kính sợ Thiên Chúa một cách thánh thiện - Giuse đối đáp.
Những người xấu sượng sùng, xấu hổ, chỉ biết bắt bẻ, liền quay về với Sidonia, còn gọi là Bartolmai: “Mày, mày nói thế nào về kẻ đã mở mắt cho mày?”
- Đối với tôi, đó là một tiên tri, và còn lớn hơn Êlia đối với con trai bà góa thành Sêrepta, vì Êlia làm cho linh hồn của đứa trẻ trở về với nó. Nhưng vị Giêsu này đã cho tôi cái mà tôi không bao giờ bị mất, tôi chưa bao giờ có nó: cái nhìn. Và nếu trong nháy mắt, không có cái gì cả, ngoại trừ một tí bùn, Người đã làm cho tôi hai con mắt, trong khi mẹ tôi, suốt chín tháng với thịt và máu bà, bà đã không thành công làm nó cho tôi. Vậy là Người phải lớn như Thiên Chúa, đấng đã làm ra con người với một tí bùn,
- Cút đi! Cút đi! Lộng ngôn! Dối trá! Bị mua chuộc! - và họ đuổi anh ta như kẻ bị đày hỏa ngục.
- Tên đó nói dối. Chuyẹn đó chẳng thể có thật. Mọi người đều có thể nói rằng kẻ đã mù từ lúc sinh ra thì không thể nào khỏi được. Có lẽ người nào đó giống như Bartolmai, và tên Nazarét đã chuẩn bị... hoặc là... Bartolmai không bao giờ mù.
Trước sự qủa quyết kinh ngạc này, Giuse Arimathi đối đáp: “Sự
416
thù ghét làm cho người ta thành mù, điều đó người ta đã biết từ thời Cain, nhưng nó làm cho ra ngu xuẩn thì người ta chưa biết. Các ông nghĩ rằng một người đang ở tuổi nẩy nở trọn vẹn của tuổi trẻ mà lại giả bộ mù để... chờ một biến cố rực rỡ suy đoán ra và rất xa xôi sao? Hay là cha mẹ Bartolmai không biết con của họ, hay là họ thích ứng với việc nói dối này sao?”
- Tiền bạc có thể làm tất cả, mà họ là những người nghèo.
- Vị Nazarét còn nghèo hơn họ.
- Anh nói dối! Đã qua tay ông ta những món kếch sù!
- Nhưng nó không lưu lại đó lúc nào. Những món này thuộc về các người nghèo. Nó phục vụ điều tốt, không phải cho việc dối trá.
- Anh bảo vệ hắn ta chừng nào! Mà anh lại là một trong số Kỳ Lão.
- Giuse có lý. Phải nói sự thật, cho dù ở bất cứ địa vị nào - Êlêazar nói.
- Hãy chạy đi gọi tên mù và dẫn hắn ta trở lại đây. Và mấy người khác đi tìm cha mẹ hắn và dẫn họ tới đây - Elchias la lên khi ông tới mở cửa ra hết cỡ, và ra lệnh cho mấy người đang chờ ở bên ngoài. Miệng ông ta hầu như đầy bọt rãi, vì sự phẫn uất bóp nghẹt ông.
Người chạy phía này, kẻ chạy phía kia. Người thứ nhất trở lại là Sidonia Bartolmai với vẻ ngạc nhiên và khó chịu. Họ trồng anh ta trong một góc và nhìn anh ta như bầy chó săn nhìn con thịt...
Rồi sau một lát, đây, cha mẹ anh ta tới cùng với đám đông bao quanh.
- Ông bà vào trong. Các người khác ở bên ngoài!
Hai người kinh ngạc đi vào, và họ thấy con họ ở đàng kia, tận đáy phòng, vẻ lành mạnh, nhưng trong tình trạng như bị bắt. Bà mẹ rên rỉ: “Con ơi! Đáng lẽ nay là ngày đại lễ cho chúng ta!”
- Hãy nghe chúng ta. Người này là con ông bà phải không?
- Phải, đó là con trai chúng tôi. Các ông muốn đó là ai, nếu không phải là nó?
- Các người chắc chắn chứ?
Người cha và người mẹ qúa sững sờ bởi câu hỏi tới nỗi trước khi
417
trả lời, họ nhìn nhau.
- Trả lời đi!
- Thưa ông pharisiêu qúi phái, ông có thể nào nghĩ rằng một người cha và một người mẹ có thể lầm lộn đứa con của họ không?
- người cha nói cách khiêm nhường.
- Nhưng... các người có thể thề rằng... đúng... rằng các người đã không được yêu cầu, vì một món tiền, để nói rằng đây là con của các người, trong khi đây là một người khác giống như nó?
- Yêu cầu để nói? Nhưng bởi ai chứ? Thề à? Sẵn sàng một ngàn lần, trên bàn thờ và nhân danh Thiên Chúa, nếu các ông muốn - họ xác nhận với đầy qủa quyết tới nỗi người ương ngạnh nhất cũng phải lúng túng.
Nhưng các pharisiêu không lúng túng. Họ hỏi: “Nhưng con các người không có sinh ra đã mù chứ?”
- Có. Nó sinh ra đã như vậy. Với hai mí mắt nhắm nghiền, và ở dưới trống rỗng, không có gì hết...
- Vậy làm sao bây giờ nó nhìn thấy? Nó có hai con mắt mà trên đó mí mắt mở ra. Các người không muốn nói là các con mắt có thể tự phát sinh ra như vậy, giống như các bông hoa về mùa xuân, và mí mắt nhất định sẽ mở ta, giống như các cánh của bông hoa!... - một pharisiêu khác nói với cái cười châm biếm.
- Chúng tôi biết rằng đứa này là con trai chúng tôi đã gần ba mươi năm nay, và nó sinh ra đã mù. Nhưng làm sao bây giờ nó lại nhìn thấy, chúng tôi không biết. Và chúng tôi không biết ai đã mở mắt cho nó. Ngoài ra, qúi vị hãy hỏi nó. Nó không ngu dốt và nó không phải là đứa trẻ. Nó đã khôn lớn. Qúi vị hãy hỏi nó, và nó sẽ trả lời cho qúi vị.
- Các người nói dối. Trong nhà các người, nó đã kể nó được chữa ra sao và bởi ai - hai bậc vị vọng đã đi theo người mù lúc trước kêu lên.
- Chúng tôi qúa ngây ngất sững sờ vì ngạc nhiên đến nỗi chúng tôi không nghe - hai người nói để tự biện hộ.
Các pharisiêu lại quay về Sidonia Bartolmai: “Mày, tiến lại đây, và hãy tôn vinh Thiên Chúa, nếu mày có thể! Mày không biết rằng
418
kẻ đã động tới mắt mày là tên tội lỗi ư ? Mày không biết? Vậy hãy học cho biết. Chúng ta nói cho mày. Chúng ta biết hắn”.
- Nhưng, cái đó sẽ là như các ông nói. Đối với tôi, đó là kẻ tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng trước đây tôi mù mà bây giờ tôi nhìn thấy, và thấy tỏ tường.
- Nhưng hắn đã làm gì cho mày? Hắn đã mở mắt cho mày thế nào?
- Tôi đã nói điều đó với các ông, và các ông đã nghe tôi. Bây giờ các ông lại muốn nghe nữa? Tại sao? Có lẽ các ông cũng muốn trở thành môn đệ của Người?
- Ngu xuẩn! Mày, mày hãy là môn đệ của hắn. Chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môise. Chúng ta biết tất cả về Môise, và chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông. Còn người này, chúng ta không biết gì cả, không biết hắn từ đâu đến, và hắn là ai, và không có một điềm lạ trên trời nào chỉ cho thấy hắn là tiên tri.
- Chính xác là ngay ở đây là nơi các ông tìm thấy sự kỳ diệu! Các ông không biết Người là ai và Người ở đâu tới, và các ông nói không có việc phi thường nào chỉ cho thấy là Người công chính. Nhưng Người đã nở mắt cho tôi, điều mà không ai trong chúng ta ở Israel có thể làm, ngay cả tình yêu của mẹ tôi và các hy sinh của cha tôi. Nhưng một điều mà tất cả chúng ta, các ông cũng như tôi đều biết, là Thiên Chúa không nhận lời kẻ tội lỗi, nhưng nhận lời kẻ kính sợ Người và làm theo ý muốn của Người. Người ta chưa hề nghe nói có ai trong toàn thể thế giới đã có thể mở mắt cho người mù từ lúc sinh ra. Nhưng điều này, Giêsu đã làm. Nếu Người không phải là Thiên Chúa thì Người đã không thể làm.
- Mày hoàn toàn sinh ra trong tội. Mày có tâm hồn dị dạng hơn cơ thể dị dạng của mày mà mày muốn giảng bài cho chúng ta ư? Cút đi! Ranh con khốn kiếp! Và hãy là Satan cùng với đứa đã quyến rũ mày. Cút đi! Cút đi! Tất cả, cùng dinh ngu dốt và đàn bà tội lỗi! - và chúng đuổi họ ra ngoài: người con, người cha và người mẹ, tựa như ba người cùi.
Ba người đi ra mau lẹ. Các bạn họ theo sau. Nhưng vừa ra khỏi
419
nội khu, Sidonia quay lưng lại và nói: “Các ông hãy ở lại, và hãy nói cái gì các ông muốn. Điều chân thật là tôi nhìn thấy, và tôi ca ngợi Thiên Chúa. Còn Satan, chính các ông sẽ là nó, chứ không phải đấng tốt lành đã chữa cho tôi”.
- Nín đi! Nín đi con! Miễn là việc này không làm nguy hại gì cho chúng ta là được - bà mẹ rên rỉ.
- Ôi, mẹ ơi! Không khí của cái phòng đó đã đầu độc tâm hồn mẹ. Trong đau đớn của con, mẹ đã dạy con ca ngợi Thiên Chúa, mà bây giờ, trong niềm vui, mẹ không biết cám ơn Người, mà lại sợ loài người sao? Nếu Thiên Chúa đã yêu con dường ấy, và yêu mẹ dường ấy, đến nỗi đã cho chúng ta phép lạ, chẳng lẽ Người lại không bảo vệ chúng ta khỏi tay một nhóm người sao?
- Bà ơi, con bà có lý. Chúng ta hãy lên giáo đường của chúng ta để ca tụng Chúa, vì họ đã đuổi chúng ta khỏi Đền Thờ. Chúng ta hãy mau mau tới đó trước khi chấm dứt ngày Sabát...
Và nhấn bước, họ biến mất trong các con đường của thung lũng.
208* GIÊSU TẠI NOBÊ. JUDAS KÊRIOT NÓI DỐI
Giêsu đang ở Nobê, và có lẽ Người đã ở đó một lúc lâu, vì Người đang tổ chức và phân phối nhóm mười hai thành ba nhóm nhỏ, mỗi nhóm bốn người để sai họ đi vào các nhà. Ở với Người thì có Phêrô, Gioan, Judas Kêriot và Simon Zêlote; trong khi Giacôbê Zêbêđê làm trưởng nhóm gồm Mathêu, Juđa Alphê và Philíp. Nhóm thứ ba được ủy thác cho Batôlômêo, dưới quyền ông là Giacôbê Alphê, Andrê và Tôma.
- Sau bữa tối, các con hãy tới các nơi người ta dành cho các con và tiếp đón các con. Các con sẽ trở lại đây vào sáng mai. Thầy sẽ nói cho các con điều các con phải làm. Chúng ta sẽ gặp nhau vào lúc bữa ăn. Các con hãy nhớ điều Thầy đã nói với các con nhiều lần, là các con cũng phải rao giảng giáo lý của Thầy bằng cách sống của các con: sống với nhau và với người tiếp đón các con. Vậy
420
hãy tiết độ, kiên nhẫn, ngay thẳng trong lời nói và trong hành động, cũng như trong cái nhìn, làm sao để sự công chính của các con tỏa ra như hương thơm. Các con thấy con mắt của thế giới luôn luôn ở trên chúng ta để vu khống chúng ta hay tìm hiểu chúng ta, và cũng vì trọng kính chúng ta nữa. Nhưng trọng kính thì chỉ là số ít trong số đông đảo các con mắt quan sát chúng ta. Nhưng chính nhóm nhỏ này là nhóm chúng ta phải săn sóc đặc biệt nhất, vì chính đức tin của họ là cái thế giới tìm cách tấn công và làm cho tan rã, và tất cả đều là khí giới cho nó để tiêu diệt tình yêu của các người tốt đối với Thầy, và do đó, đối với các con. Vậy đừng giúp cho thế giới bằng một đời sống không thánh, và đừng làm gia trọng thêm nỗi khổ của những người phải bảo vệ đức tin của họ chống lại những cạm bẫy của các đối phương của Thầy, bằng cách làm gương mù cho họ. Gương mù làm cho các linh hồn phân vân do dự, làm họ xa lìa và yếu nhược. Vô phúc cho vị tông đồ làm gương mù cho các linh hồn. Nó phạm tội chống lại Thầy nó, chống lại đồng loại của nó, chống lại Thiên Chúa và chống lại đoàn chiên của Thiên Chúa. Thầy tin cẩn ở các con. Đừng làm gì để nỗi khổ đã qúa lớn của Thầy lại còn bị thêm vào cái khổ đến với Thầy bởi các con.
- Thầy đừng sợ. Sẽ không có cái khổ đến với Thầy từ chúng con, miễn là Satan không làm cho tất cả chúng con lạc hướng - Batôlômêo nói.
Anastasica phụ với Êlise ở trong bếp, bà vào và nói: “Thưa Thầy, bữa tối đã sẵn. Xin xuống khi nó còn nóng, và Thầy sẽ bồi dưỡng”.
- Chúng ta đi.
Và Giêsu đứng dậy để theo người đàn bà, xuống cái cầu thang nhỏ dẫn từ trên lầu, nơi đã chuẩn bị giường chiếu, để xuống mảnh vườn nhỏ, và từ đó vào trong nhà bếp đang vui tươi với ngọn lửa tí tách.
Ông già Gioan ở gần bếp lửa. Êlise lăng xăng quanh các món ăn, bà quay lại với nụ cười hiền mẫu để nhìn Giêsu vào, rồi vội vã đổ một khay lớn hạt lúa mạch vào trong sữa, món mà tôi đã thấy Maria Alphê làm ở Nazarét trước lúc khởi hành của Gioan Enđo và Sintica.
421
- Đó, con nhớ lại Maria Clêopha đã bảo con rằng Thầy thích món này, và con đã giữ lại thứ mật ong tốt nhất để làm. Margziam cũng thích... Con tiếc vì đứa trẻ không tới...
- Nique đã giữ nó cùng với Isaac, bởi vì họ sẽ khởi hành vào rạng đông ngày mai, và bà lợi dụng chiếc xe để về Jêricô hoàn thành sứ mạng mà con đã biết...
- Sứ mạng gì vậy Thầy? - Iscariot hỏi cách lưu tâm.
- Một sứ mạng rất phụ nữ: nuôi một đứa trẻ. Chỉ có điều đây không phải là đứa trẻ cần sữa, nhưng cần đức tin, vì thần trí của nó là trẻ nhỏ. Người đàn bà luôn luôn là bà mẹ, và các bà biết làm việc này. Khi các bà đã hiểu!... các bà đáng giá như các ông, cộng thêm vào đó là sức mạnh và sự êm đềm của người mẹ.
- Thầy tốt với chúng con chừng nào! - Êlise nói với cái nhìn vuốt ve.
- Thầy là sự thật, Êlise ạ. Chúng ta, dân Israel, và không phải chỉ có chúng ta, chúng ta có thói quen nhìn người đàn bà như nhân vật hạ cấp, và nghĩ rằng họ như vậy. Nhưng không. Nếu họ chịu lụy người đàn ông làm như ông ta là người công chính, nếu các bà bị ảnh hưởng hình phạt nhiều hơn vì tội Evà, nếu sứ mạng của các bà được tiền định để thi hành dưới tấm voan và trong bóng tối, không chứng từ và không tiếng kêu ồn ào, nếu tất cả mọi sự nơi các bà đều như bị che lấp bởi tấm màn, thì các bà cũng không kém mạnh mẽ và không kém năng lực hơn các ông. Không cần nhắc lại những người đàn bà vĩ đại trong Israel, Thầy nói với các con rằng có rất nhiều sức mạnh trong con tim người phụ nữ, cũng như đối với các con phái nam về sự thông minh. Và Thầy bảo các con rằng hoàn cảnh của người đàn bà sắp được thay đổi, về phong tục cũng như về nhiều điều khác nữa. Và điều đó là chính đáng đối với Thầy cũng như đối với mọi người, vì có một người Đàn Bà sẽ đạt được Ân Sủng và sự cứu chuộc cho hết mọi phụ nữ bằng một cách thế rất đặc biệt.
- Một đàn bà à? Thầy muốn một người đàn bà cứu chuộc như thế nào? - Judas Kêriot cười nói.
422
- Thực vậy, Thầy bảo con rằng Bà đã đang cứu chuộc rồi. Con biết cứu chuộc là gì không?
- Chắc chắn là con biết: Đó là giải trừ tội cho một người nào đó.
- Đúng. Nhưng giải tội không phục vụ được nhiều, vì Đối Phương là vĩnh cửu, và nó sẽ trở lại để giương bẫy. Nhưng từ vườn Địa Đàng, một tiếng nói đã tới, tiếng nói của Thiên Chúa, để nói rằng: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mày và Người Đàn Bà... Bà sẽ đạp nát đầu mày, và mày sẽ cố làm hại gót chân Bà”. Không còn gì cạm bẫy hơn, vì Người Đàn Bà sẽ có, và đang có ở trong chính Bà cái để thắng Đối Phương. Vậy Bà cứu chuộc từ lúc Bà hiện hữu, Bà là Sự Cứu Chuộc linh hoạt, dù kín ẩn. Nhưng sắp sửa rồi, Bà sẽ hiện diện trước thế giới, và các phụ nữ sẽ được củng cố trong Bà.
- Thầy cứu chuộc... thì đúng. Nhưng một người đàn bà có thể làm... con không chấp nhận vậy đâu Thầy.
- Con không nhớ Tôbia sao? Thánh Vịnh của ông?
- Có. Nhưng đó là ông nói về Jêrusalem.
- Vậy tình cờ Jêrusalem có được cái Nhà Tạm có Thiên Chúa ngự không? Sự vinh quang của Thiên Chúa có thể hiện diện với các tội lỗi đang diễn ra ở bên trong các bức tường của Đền Thờ không? Cần phải có một Nhà Tạm khác, và nó phải thánh, phải là một vì sao để đem về cho Đấng Tối Cao những gì đã bị mất. Và điều đó người ta có ở trong vị Nữ Đồng Công Cứu Chuộc, đấng muôn đời sẽ có niềm vui được làm mẹ của các kẻ được cứu chuộc: “Con sẽ sáng chói như ánh chớp huy hoàng. Mọi dân tộc trên trái đất sẽ phủ phục trước mặt con. Các dân từ xa sẽ đến để mang cho con các lễ vật, và họ sẽ thờ lạy Chúa ở trong con... Họ sẽ kêu cầu danh vĩ đại của con... Các kẻ không nghe con sẽ bị nguyền rủa, các kẻ quây quần bên con sẽ được chúc phúc... Con sẽ sung sướng trong con cái con, vì chúng sẽ là các kẻ được chúc phúc tụ họp bên Chúa”. Thánh Vịnh thực sự của Vị Nữ Đồng Công Cứu Chuộc. Các thiên thần trên trời đã nhìn thấy và đã đang hát. Jêrusalem mới
423
trên trời được bắt đầu ở trong Bà. Ôi! Đúng. Đó là sự thật mà thế giới không biết, và các rabbi tối tăm của Israel không biết... - Giêsu đắm chìm trong tư tưởng của Người.
- Nhưng Người nói về ai vậy? - Iscariot hỏi Philíp đang ở gần ông.
Trước khi Philíp trả lời thì Êlise, bà đang đặt phó mát và oliu đen trên bàn, bà nói với ông có vẻ cứng cỏi: “Người nói về mẹ Người. Ông không hiểu sao?”
- Nhưng tôi chưa bao giờ biết bà được các tiên tri gọi là tử đạo... Người ta chỉ nói tới Đấng Cứu Thế và...
- Nhưng ông nghĩ rằng chỉ có các cực hình trong thân xác thôi sao? Ông không biết rằng nó không là gì đối với một bà mẹ, so với cái cực hình phải thấy con mình chết. Cái thông minh của ông - tôi không nói về con tim của ông, vì tôi không biết các cử động của nó - cái thông minh của ông mà ông vẫn khoe, nó không nói cho ông rằng người mẹ bằng lòng chịu hành hạ mười lần và mười lần, cho tới cả cái chết, để không phải nghe một tiếng rên của con bà sao? Ông ơi, ông là nam nhi, và ông có sự hiểu biết. Tôi, tôi chỉ là đàn bà và bà mẹ, nhưng tôi nói với ông rằng ông còn ngu dốt hơn tôi, vì ông không biết cả đến qủa tim của mẹ ông.
- Ôi! Bà xúc phạm đến tôi!
- Không. Tôi gìa rồi và tôi khuyên ông hãy làm cho qủa tim ông minh mẫn, và ông sẽ tránh được nước mắt và hình phạt. Hãy làm điều đó, nếu ông có thể.
Các tông đồ, đặc biệt là Juđa Alphê, Giacôbê Zêbêđê, Batôlômêo và Zêlote, nhìn nhau ở phía dưới, và họ cúi đầu để giấu nụ cười điểm trên môi họ, vì sự nhận xét thẳng thắn của Êlise đối với vị tông đồ tự tin là mình toàn thiện. Giêsu vẫn trầm tư, không nghe gì cả.
Êlise quay về Anastasica và nói: “Này, trong lúc họ dùng bữa, chúng ta hãy đi sửa soạn thêm hai cái giường nữa, vì ba cái thì qúa ít”. Và bà sắp đi ra.
- Êlise! Chắc chắn bà không được nhường cái giường của bà -
424
Phêrô kêu lên. “Cái đó là không được đâu. Gioan và tôi, chúng tôi có thể ngủ trên bàn. Chúng tôi có thói quen”.
- Không, Simon. Có những tấm phên và chiếu. Nhưng đã dàn xếp rồi. Bây giờ chúng tôi đem trải chúng trên những cái gía - và bà ra ngoài cùng với bà kia.
Các tông đồ mệt mỏi, hầu như mơ màng trong sự ấm áp của nhà bếp. Giêsu suy nghĩ, khửu tay tì trên bàn, đầu tựa lên bàn tay.
Một tiếng gõ cửa. Tôma ở gần đó, đứng dậy mở và kêu lên: “Ông, Giuse?! Và cùng với Nicôđêmô? Vào đi! Vào đi!”
- Bình an cho Thầy và những người ở trong nhà này. Thầy ơi, chúng con đi Rama. Nicôđêmô mời con tới đó. Khi qua đây, chúng con nói: “Chúng ta dừng lại để chào Thầy”. Chúng con muốn biết xem... Thầy còn bị quấy rầy không, vì họ đã đến tìm Thầy ở nhà Giuse. Họ tìm Thầy ở khắp nơi kể từ lúc Thầy chữa người mù đó. Thực sự hồi trước họ không ra khỏi tường thành, họ không di chuyển một cái ghế để khỏi tục hóa ngày Sabát, và vì vậy họ tin là mình trong sạch. Nhưng để tìm Thầy và theo dõi Bartolmai thì ôi! họ đi rất nhiều hơn quãng đường được phép.
- Nhưng làm sao họ biết, bởi vì Thầy đâu có làm gì ở trên đường - Mathêu hỏi.
- Này, chúng tôi không biết cả đến việc nó được khỏi. Chúng tôi đã tới giáo đường, rồi sau đó đi chào Nique và Isaac với Margziam tại nhà bà. Rồi sau khi mặt trời lặn, chúng tôi đi lẹ tới đây - Phêrô nói.
- Các anh không biết, nhưng các người được các pharisiêu sai đi thì biết. Các anh không thấy, nhưng tôi, tôi đã thấy. Hai người trong số họ đã có mặt khi Thầy đụng vào mắt người mù. Họ đã chờ bao nhiêu giờ.
- Vậy thế nào? - Judas Kêriot hỏi với vẻ ngây thơ.
- Anh hỏi ngay chính tôi điều đó?
- Đó là một điều kỳ lạ nên tôi hỏi.
- Điều lạ hơn nữa là từ ít lâu nay, luôn luôn hễ Thầy ở đâu là có các kẻ do thám ở đó.
425
- Diều hâu thì bay tới nơi có mồi, và chó sói thì tới gần bầy chiên.
- Và tên ăn cắp thì tới nơi mà tên đồng lõa báo cho nó là có một đoàn du hành. Anh đã nói đúng.
- Anh muốn xỏ xiên gì?
- Chả có gì cả. Tôi hoàn tất câu ngạn ngữ bằng cách áp dụng vào người ta. Giêsu là một người, vì vậy kẻ giương bẫy cho Người là người ta.
- Kể đi Giuse, kể đi... - nhiều người nói.
- Nếu Thầy muốn. Tôi đã đến đây để kể mà!
- Nói đi - Giêsu nói.
Và Giuse kể một cách tỉ mỉ tất cả những gì ông đã nhận thấy, nhưng ông bỏ qua các chi tiết về việc Judas đã chỉ nơi ở của Giêsu cho người mù. Có nhiều sự phê phán, giận ghét, đau khổ, tùy theo các con tim. Và Judas Kêriot (theo vẻ bề ngoài) là người bực tức nhất chống lại mọi người, đặc biệt là chống đối người mù thiếu khôn ngoan, đã đi trên đường của Giêsu vào ngày Sabát, và đã tin cậy vào lòng nhân từ lừng lẫy của Thầy...
- Ôi! Chính anh đã chỉ nó cho Người! Lúc đó tôi ở gần anh, và tôi đã nghe - Philíp ngạc nhiên nói.
- Chỉ, đâu có nghĩa là ra lệnh phải làm.
- Ôi! Tôi cũng biết chắc rằng anh đâu có được phép ra lệnh cho Thầy làm... - Thađê nói.
- Tôi? Nhưng trái hẳn lại, tôi chỉ trỏ nó để xin Thầy một lời giải thích.
- Đúng. Nhưng đôi khi chỉ trỏ cũng là cố ý làm, và điều đó thì anh đã làm - Thađê đối đáp.
- Anh nói vậy nhưng không đúng vậy - Judas qủa quyết cách trơ trẽn.
- Không đúng sao? - Giuse Arimathi hỏi. “Anh có chắc không? chắc như anh đang sống, rằng anh không bao giờ nói về Giêsu với người mù, rằng anh không khuyên bảo nó đến với Giêsu, và hơn nữa, không thúc đẩy nó làm việc đó ngay, trước khi Giêsu rời thành
426
phố?”
- Chắc chắn mà! Và ai đã từng nói chuyện với người này? Chắc chắn là không phải tôi. Ngày đêm tôi ở với Thầy, và khi không ở với Thầy thì ở với các bạn.
- Tôi tin rằng anh đã làm ngày hôm qua, khi anh đi với các phụ nữ - Batôlômêo nói.
- Hôm qua! Tôi để thời gian đi và về còn ít hơn một con én bay. Làm sao tôi có thể đi tìm người mù, gặp được anh ta và nói với anh ta trong một thời gian ngắn như vậy?
- Anh có thể đã gặp nó rồi...
- Không bao giờ gặp.
- Vậy ra người đó là kẻ nói dối, vì nó đã xác nhận rằng anh bảo nó đi tới đâu, làm thế nào, và anh đã bảo đảm với nó rằng Giêsu sẽ nghe lời anh và... - Giuse Arimathi nói.
- Judas ngắt lời ông cách hung hăng: “Đủ rồi! Đủ rồi! Nó đáng bị mù lại vì tất cả những điều dối trá nó đã nói! Tôi, tôi có thể thề trên Nơi Thánh, tôi chỉ biết nó vì nhìn thấy nó, và tôi không bao giờ nói với nó”.
- Thực sự đủ rồi! Linh hồn của anh hợp lệ, ôi Judas Kêriot, kẻ không sợ Thiên Chúa, vì anh biết rằng hành động của anh thánh. Anh... Phúc cho kẻ không có gì phải sợ - Giuse nói với ông khi nhìn ông bằng một con mắt nghiêm khắc, một con mắt xuyên thấu.
- Tôi không sợ, không, vì tôi không có tội.
- Judas, tất cả chúng ta đều phạm tội, và là ít nếu chúng ta biết hối cải sau các tội thứ nhất, để không làm phát triển số lượng và sự tàn ác của chúng - Nicôđêmô nói, từ nãy tới giờ ông nín lặng. Rồi ông quay về với Thầy và nói: “Điều phiền là Giuse Sêphoris bị đe dọa trục xuất khỏi giáo đường nếu ông ta còn tiếp đón Thầy, và Bartolmai đã bị đuổi. Anh ta tới đó với cha mẹ anh, nhưng các pharisiêu đã chờ họ ở đó để từ chối không cho vào, và đã kêu lời nguyền rủa trục xuất trên họ”.
- Nhưng qúa rồi! Chúa ơi! Cho tới khi nào?... - nhiều người kêu lên.
427
- Bình an! Bình an! Không sao cả. Bartolmai đang ở trên đường của Nước Trời. Vậy nó mất cái gì? Nó đang ở trong ánh sáng, vậy nó không là con Thiên Chúa hơn trước đây sao? Ôi! Các con đừng lẫn lộn các giá trị. Hãy bình an! Bình an! Chúng ta sẽ không tới nhà Giuse nữa... Thầy tiếc vì Isaac phải dẫn mẹ Thầy và Maria Alphê tới đó... Nhưng việc đó sẽ chỉ kéo dài trong vài giờ, vì đã có người lo liệu - và Người nói với Gioan Nobê: “Bố ơi, bố có sợ Đại Pháp Đình không? Bố thấy rằng cho Con Người trọ là cái giá thế nào... Bố già rồi, bố là người Israel trung thành, bố có thể bị đuổi khỏi giáo đường trong những ngày Sabát cuối cùng của bố. Bố có thể chịu đựng được không? Hãy nói một cách chân thành. Nếu bố sợ, Thầy sẽ ra đi. Chắc chắn trong ngọn núi này của Israel còn một cái hang cho Con Thiên Chúa...”
- Chúa ơi, tôi à? Nhưng Thầy muốn là tôi sợ cái gì, nếu không phải là Thiên Chúa? Tôi không sợ cái cửa mồ, trái lại, tôi nhìn nó như một người bạn, vậy mà Thầy muốn rằng tôi sợ miệng người đời sao? Tôi chỉ sợ sự phán xét của Thiên Chúa nếu vì loài người mà tôi xua đuổi Giêsu, Đấng Kitô của Thiên Chúa ra khỏi nhà tôi.
- Chúa ơi, hãy đến nhà con ở Rama - Nicôđêmô nói.
- Và nếu việc đó làm thiệt cho ông?
- Các pharisiêu đã chẳng mời Thầy với ý hướng xấu sao? Con lại chẳng có thể làm điều đó để học hỏi con tim của Thầy sao?
- Đúng, Thầy ơi, chúng ta hãy đi Rama. Ba con sẽ rất sung sướng nếu ông có ở nhà. Nếu ông không ở đó như ông thường tới đó, ông sẽ tìm được phúc lành của Thầy khi ông tới - Tôma nói với giọng năn nỉ.
- Ngày mai chúng ta sẽ đi Rama như điểm tới đầu tiên.
- Chúng con tạm biệt Thầy. Chúng con có các con vật ở bên ngoài. Chúng con sẽ có mặt ở Rama trước cuối vọng canh thứ hai. Mặt trăng soi sáng đường đi như một mặt trời mờ. Chào Thầy. Bình an cho Thầy - Nicôđêmô nói.
- Bình an cho Thầy... và xin Thầy nghe lời khuyên tốt của Kỳ Lão Giuse: “Hãy hơi ranh mãnh. Hãy nhìn chung quanh Thầy. Hãy mở to mắt và ngậm chặt môi. Hãy làm, nhưng đừng bao giờ nói
428
trước điều Thầy muốn làm... và đừng tới Jêrusalem trong một thời gian. Và nếu Thầy tới đó thì Thầy chỉ ở lại Đền Thờ thời gian cần thiết để cầu nguyện thôi. Thầy có nghe con không? Chào Thầy. Bình an cho Thầy - Giuse đã nhấn mạnh rất rõ những lời tôi gạch dưới. Khi nói những lời ấy, ông nhìn Giêsu đăm đăm. Chỉ cái nhìn của ông cũng đã là một sự cảnh cáo.
Họ đi ra vườn dưới những tia sáng trắng của mặt trăng, tháo giây của các con vật lực lưỡng buộc ở gốc cây bồ đào, nhảy lên
yên và ra đi trên con đường sáng trăng vắng vẻ... Giêsu vào nhà bếp với các người của Ngài.
- Nhưng thực sự họ muốn nói gì?
- Làm sao họ biết vậy?
- Chúng sẽ làm gì cho Giuse Sêphoris đây?
- Chẳng có gì. Chỉ có nói mồm. Không gì hơn là các từ ngữ. Đừng nghĩ tới đó nữa, những chuyện qúa khứ và không hệ trọng. Nào, chúng ta đọc lời cầu nguyện rồi chia tay để đi ngủ... Lạy Cha chúng con....
Người chúc lành cho họ, nhìn họ ra đi. Rồi Người lên lầu với bốn vị mà Người đã chọn giữ lại trong phòng có kê giường.
209* GIÊSU Ở GIỮA NHỮNG ĐỔ NÁT CỦA
MỘT NGÔI LÀNG BỊ PHÁ HỦY
Tôi không biết Giêsu đang ở miền nào. Chắc chắn đây là miền núi, và ở trong một nơi bị bỏ hoang sau khi đã bị phá hoặc bởi một tai biến nào đó, hoặc bởi chiến tranh, và tôi nói đúng hơn là do chiến tranh, vì các căn nhà đổ nát còn cho thấy dấu vết đám cháy trong các vòm để che mưa, còn nhìn thấy dưới các cây gai, cây trường xuân và các cây leo khác, hoặc các cây ký sinh mọc chằng chịt ở khắp nơi. Có những tàu lá lớn có lông của một loại cây mà tôi không biết tên, nhưng tôi thấy cũng có ở trong nước Ý, bao phủ hoàn toàn vùng đổ nát có vẻ như một ngọn núi nhỏ cheo leo này. Ở xa hơn, một bức tường còn đứng trơ trụi một mình để chiêm ngắm những hoang tàn của căn nhà đã sập, bị xâm lăng bởi các cây bạch
429
hoa và các cây trắc mô. Và từ các bậc thềm lủng lỗ, từ chỗ xưa là sân thượng, chúng vươn ra những cành của một cây ông lão đu đưa trong gió như mái tóc rối. Một căn nhà khác mà phía trong đã sập, nhưng các bức tường chung quanh còn đứng, trông giống như cái bình bông khổng lồ mà các cành hoa là các cây mọc tự nhiên trong chỗ mà trước kia có lẽ là các phòng. Một nhà khác, còn một phần đứng được với các bậc thềm, giống như một bàn thờ được sửa soạn cho một nghi lễ mà các đồ trang trí toàn là mầu xanh. Bên trên các đổ nát này, một cây bạch dương cao lỏng chỏng, vươn lên như để hỏi trời cái tại sao của tất cả những bất hạnh này. Từ nhà nọ qua nhà kia, từ một đổ nát này tới một đổ nát khác, các cây ăn trái gan lỳ và thoái hóa thành các cây dại, bị đô hộ bởi các cây khác hoặc đô hộ chúng, mọc lên do các trái rụng xuống, cong queo hay thẳng thắn, hoặc bò, ló ra từ một lỗ của bức tường, từ một cái giếng khô, làm ta nhớ tới một khu rừng mê ly. Bồ câu và các loại chim bay ra từ những khe nứt của sự đổ nát, nhào xuống một cách thèm khát, vào những nơi có lẽ xưa là cánh đồng cày cấy, bây giờ chằng chịt những cây đậu dại cứng, khô héo bởi mặt trời, mở cái vỏ của nó ra cho hạt rơi xuống để mọc vào mùa xuân, cùng với các thứ cỏ dại và cỏ lùng. Với sự hung hăng của đôi cánh, các con bồ câu xua đuổi những loại chim nhỏ hơn tới tìm những hạt kê hay hạt cây gai, tôi không biết chúng mọc lên từ các hạt giống xa xôi nào, mà qua bao năm trường, vẫn tồn tại trong cánh đồng không trồng cấy này nhờ sự gieo giống tự nhiên. Chim chóc, đặc biệt là chim sẻ, ưa cãi lộn, báo thù bằng cách rứt các bông kê lép của một cây kê tội nghiệp để mang về tổ của chúng, bay lên một cách nặng nề, cuộn lại dưới sức nặng và sự vướng vít của chùm bông.
Giêsu không những có các tông đồ ở với Người, mà còn có một nhóm môn đệ, trong đó có Clêopha, Hermas người Emmau, con của ông già Clêopha trưởng giáo đường, và Étienne. Cũng có các đàn ông đàn bà, hình như họ đến từ một làng nào đó để mời Giêsu tới nhà họ, hay là họ đã theo Người sau khi Người đi qua làng. Trong khi đi qua nơi đổ nát này, Giêsu thường dừng lại để nhìn, và
430
Người dừng hẳn lại tại một nơi cao hơn, từ đó Người nhìn thấy toàn bộ cảnh đổ nát và các loại thảo mộc. Loài động vật được đại diện duy nhất bởi các con bồ câu, chắc chắn khi xưa hiền lành và thuần thục, bây giờ trở thành hoang dại và hung hăng. Người khoanh tay, hơi cúi đầu để chiêm ngắm. Và càng nhìn thì Người càng tái mét và buồn.
- Tại sao Thầy dừng lại đây? Nơi này làm Thầy buồn, rõ ràng vậy. Đừng đứng lại để nhìn ngắm nữa. Con ân hận vì đã dẫn Thầy đi qua đây, nhưng vì con đường ngắn nhất - Clêopha Emmau nói.
- Ôi! Thầy đâu có nhìn cái mà các con thấy.
- Chúa ơi, vậy cái gì? Có lẽ Thầy thấy lại các biến cố đã qua? Chắc chắn là nó khủng khiếp. Đây là nơi thứ bảy của Rôma... - người Emmau khác nói.
- Và điều đó phải làm cho ta suy nghĩ. Tất cả các con hãy nghĩ coi: Ở đây trước là một thành phố, không lớn nhưng đẹp, có nhiều nhà giầu hơn nhà nghèo. Những nơi bây giờ là rừng hoang, trước thuộc về những người giầu. Các cánh đồng không sinh sản, phủ đầy gai, cỏ lùng, cỏ tầm ma, trước kia cũng thuộc về các người giầu. Thời đó đã có những vườn cây đẹp với những cánh đồng đầy hoa mầu. Nhà cửa lúc đó thật đẹp với các khu vườn đầy hoa, với những giếng nước, các phông-ten, nơi chim bồ câu tắm mát và trẻ em chơi đùa. Tất cả dân chúng nơi này đều sung sướng. Nhưng hạnh phúc đã không làm cho họ nên công chính. Họ đã quên Chúa và lời Người... Và đó!... Không còn nhà cửa, không còn bông hoa, không còn phông-ten, không còn mùa màng, không còn trái cây. Chỉ còn lại các con bồ câu, nhưng chúng không được sung sướng như xưa. Thay vì những hạt lúa vàng và những cây cải xưa chúng ham thích và tọng đầy bụng, bây giờ chúng giành nhau để được một tí cây đậu rại và cỏ lùng đắng nghét. Và sẽ là đại lễ nếu chúng tìm được một bông lúa mạch mọc giữa đám đổ nát!... Nhưng khi nhìn, Thầy không thấy cả đến các con bồ câu nữa, mà là các khuôn mặt và các khuôn mặt... mà rất nhiều chưa sinh ra... Và Thầy thấy những đổ nát và đổ nát, những cây gai và những cây nho dại, những cây đậu dại bao phủ mặt đất của quê hương... Và tất cả những thứ
431
đó là vì người ta không muốn đón nhận Chúa. Thầy nghe tiếng khóc của những trẻ nhỏ kiệt quệ, khốn khổ hơn là những con chim mà Thiên Chúa còn cho trợ cấp tối thiểu để giữ sự sống cho nó, trong khi những đứa trẻ này bị thiếu mọi trợ giúp, là nạn nhân của hình phạt toàn diện, lả đi trên cái vú khô của mẹ, chết vì thiếu thốn, vì đau đớn, vì nỗi sợ hãi không tên. Và Thầy nghe tiếng khóc than của các bà mẹ vì con họ chết đói trong lòng họ, tiếng than của các bà vợ không còn chồng, các trinh nữ bị bắt để phục vụ thú vui của kẻ thắng, các đàn ông bị bắt đi sau khi đã biết tất cả những thứ xấu hổ của chiến tranh, các cụ già đã sống đủ để thấy hoàn thành lời tiên tri của Daniel. Thầy nghe tiếng nói không biết mệt của Isaie trong làn gió thổi giữa những đổ nát này, trong tiếng than của bồ câu ở giữa những ngổn ngang này: “Chính với những ngôn từ man rợ và bằng một tiếng nói lạ, Thiên Chúa sẽ nói với dân này, một dân mà Người đã nói: ‘Đây là chỗ nghỉ ngơi của Ta. Hãy bồi dưỡng cho kẻ mỏi mệt; đó là sự khuây khỏa của Ta’”
Nhưng họ không muốn nghe. Không, họ không muốn. Và Chúa không tìm được sự nghỉ ngơi ở giữa dân Người. Đấng mệt mỏi, kiệt quệ vì chạy rảo khắp miền của nó để giảng dạy, chữa bệnh, hoán cải, an ủi, đã không tìm được chỗ nghỉ ngơi, mà chỉ thấy bách hại, không thấy sự khuây khỏa, nhưng thấy cạm bẫy và phản bội. Con thì chỉ là một với Cha, và nếu đấng là Chân Lý đã dạy rằng một ly nước đem làm phúc cho người cũng sẽ có phần thưởng, vì mọi hành vi của tình thương làm cho anh em tức là làm cho chính Thiên Chúa, thì sẽ có hình phạt nào cho kẻ tranh dành để chiếm cả cục đá trên đường là cái có thể làm gối đầu cho Con Người, cả dòng suối trong núi đá chảy ra vì lòng tốt của Tạo Hóa, cả một trái cây bị quên trên cành, được chừa ra vì nó bệnh hay còn xanh, cả bông lúa giành được của bồ câu, và họ là những kẻ đã chuẩn bị sợi giây để làm nghẹn không khí vào cổ họng, và cùng với không khí là sự sống. Ôi! Israel khốn nạn, mi đã mất sự công chính ở trong mi, và mi mất tình thương của Thiên Chúa!
Đây, đây, tiếng nói của Isaie lại vang lên trong gió chiều, đáng ngại hơn tiếng của con chim kêu chết, đáng ngại gần như tiếng nói
432
vang lên trong vườn Địa Đàng để luận phạt hai kẻ có tội, và - ôi! một điều ghê sợ! - lời tiên tri này không được kết hợp với lời hứa tha thứ như khi đó. Không. Không có sự tha thứ cho kẻ khinh dể Thiên Chúa, cho kẻ nói: “Chúng ta đã liên minh với Sự Chết, chúng ta đã ký khế ước với hỏa ngục. Khi tai ương đến, nó sẽ không rơi trên chúng ta, vì chúng ta đã đặt niềm hy vọng của chúng ta nơi Đứa Dối Trá, và chúng ta sẽ được bảo vệ bởi nó là kẻ mạnh”.
Đây, đây, Isaie nhắc lại điều ông đã nghe nơi Chúa: “Đây, để làm nền móng cho Sion, Ta sẽ đặt một viên đá góc, qúi báu, được lựa chọn... Ta sẽ cân sự phán xét, Ta sẽ đo sự công chính, và mưa đá sẽ phá hủy hy vọng nơi Đứa dối Trá, các làn nước sẽ lật đổ các chỗ trú ẩn, liên minh của các ngươi với Sự Chết sẽ bị phá hủy, khế ước của các ngươi với hỏa ngục không còn nữa. Khi tai ách giông tố xảy ra, bất cứ giờ nào, mỗi lần nó tới, nó sẽ làm cho các ngươi điên đảo, và sẽ chỉ có hình phạt để làm cho các ngươi hiểu bài học”.
Israel khốn nạn! Giống như những cánh đồng này, chỉ còn lại những cây đậu dại và các cỏ lùng đắng, không còn các hạt nữa. Israel cũng sẽ như vậy. Mảnh đất không muốn Thiên Chúa sẽ không có bánh cho con cái nó. Và con cái nó, những kẻ không muốn đón tiếp Đấng Mệt Mỏi, sẽ bị trừng trị, trở nên như điên cuồng, như những người tù khổ sai chèo thuyền, phải ra đi, làm nô lệ cho những kẻ mà chúng khinh dể như bọn hạ cấp. Thực tình Thiên Chúa sẽ trừng trị dân tộc kiêu căng này dưới sức nặng của lẽ công bằng của Người, và đập bể nó bằng cái máy cán của sự phán xét của Người...
Đó là điều Thầy nhìn thấy trong những đổ nát này. Đổ nát! Đổ nát! Từ bắc tới nam, từ đông sang tây, và nhất là ở trung tâm, trong con tim, nơi kinh thành đắc tội sẽ biến thành cái hố thối tha...
Và những giọt nước mắt từ từ lăn trên khuôn mặt tái mét của Giêsu. Người trùm áo khoác lên đầu để che mắt, không để lộ đôi mắt trương nở vì thị kiến đau thương.
Người lại lên đường trong khi những kẻ đi với Người ngập ngừng không dám nói, lạnh cứng vì sợ...
433
210* GIÊSU NÓI TẠI EMMAU THUỘC MIỀN NÚI
Quảng trường Emmau đầy người, hoàn toàn đầy. Ở giữa quảng trường, Giêsu khó lòng để nhúc nhích, vì Người bị bao vây, bị chèn ép bởi những người ngồi ở đó. Giêsu ở giữa người con của ông trưởng giáo đường và một môn đệ khác người Emmau, và ở chung quanh Người là các tông đồ và các môn đệ, với ý định may ra có thể bảo vệ Người. Ở giữa các tông đồ và các môn đệ là các trẻ em, chúng len lỏi vào khắp nơi như những con thằn lằn chui qua hàng rào cây dầy.
Sự lôi cuốn của Giêsu trên đám trẻ con thật là kỳ diệu! Không bao giờ, tại một nơi quen thuộc hay không quen, mà Người không bị bao vây bởi các trẻ. Chúng sung sướng bám vào y phục của Người, và còn sung sướng hơn nữa khi bàn tay Người lướt trên chúng một cái vuốt nhẹ đầy tình cảm, kể cả khi đồng thời Người nói những điều nghiêm khắc với các người lớn; và chúng vô cùng sung sướng khi Người ngồi trên một cái ghế, một bức tường thấp, một tảng đá, một thân cây ngả, hoặc ngay cả trên đất. Lúc đó chúng có Người ở ngang tầm với chúng, chúng có thể ôm Người, tựa đầu vào vai Người, vào đầu gối Người, luồn vào dưới áo khoác của Người để được tay Người ôm quàng, giống như các gà con tìm được sự che chở bảo đảm nhất, yêu thương nhất. Và Giêsu luôn luôn bảo vệ chúng khỏi sự tự phụ của các người lớn, khỏi sự trọng kính bất toàn của họ đối với Người, những kẻ vì không được rèn luyện, bởi những lý do chính đáng, muốn tỏ ra hăng hái bằng cách đẩy các trẻ con ra xa Thầy.
Bây giờ cũng vậy, câu nói thông thường của Người vẫn phát ra để bảo vệ các bạn nhỏ của Người: “Để kệ cho chúng làm. Ôi! Chúng không làm phiền Thầy đâu. Không phải các trẻ là những kẻ làm phiền và làm khổ Thầy”.
Giêsu cúi xuống trên chúng với nụ cười rạng rỡ làm cho Người
434
trẻ lại, làm cho Người giống như người anh cả, đồng tình một cách nhân hậu với trò chơi con nít, và Người xì xèo: “Hãy tử tế, yên lặng, yên lặng, như vậy họ sẽ không đuổi các con đi, và chúng ta sẽ ở lại với nhau”.
- Và Thầy sẽ kể cho chúng con một dụ ngôn thật đẹp - đứa gan dạ nhất nói.
- Ừ, cho tất cả các con. Sau đó Thầy sẽ nói với cha mẹ các con. Tất cả hãy nghe đây: Điều dùng được cho các trẻ em thì cũng dùng được cho các người lớn.
Một ngày kia, có một người được một vị đại vương gọi tới và nói: “Ta nghe rằng mi xứng đáng một phần thưởng, vì mi khôn ngoan và mi làm vinh dự cho thành phố của mi bằng các công việc của mi, và bằng khoa học của mi. Vậy ta sẽ không cho mi vật này vật kia, nhưng ta sẽ dẫn mi vào trong kho báu của ta, mi hãy chọn lấy cái gì mi thích, và ta sẽ cho mi. Bằng cách này, ta sẽ xét coi mi có đúng như sự nổi tiếng của mi không.
Trong lúc đó, ông vua đang ở trên khoảng đất bằng bao quanh tiền đường của ông, ông liếc nhìn qua quảng trường ở trước lâu đài hoàng gia, và ông thấy một đứa bé đi qua. Nó rất bé, ăn mặc nghèo nàn, chắc là con một gia đình rất nghèo, có lẽ là đứa trẻ mồ côi và hành khất. Ông nói với các đầy tớ của ông: “Hãy tới tìm đứa trẻ và đưa nó vào đây cho ta”.
Các đầy tớ đi và trở lại với đứa bé. Nó run lật bật vì thấy mình ở trước mặt vua. Mặc dầu sự nhắc bảo cương quyết của các đại thần trong triều, họ nói với nó: “Hãy cúi xuống để chào và nói: ‘Danh dự và vinh quang cho Ngài, vua của tôi. Tôi qùi gối trước nhan Ngài, vua hùng mạnh mà trái đất tán dương như nhân vật cao cả nhất hiện hữu’”. Nhưng đứa bé không muốn cúi xuống và không nói những lời đó. Các đại thần phẫn nộ, lắc nó rất mạnh và nói: “Ôi, vua, đứa trẻ này thô lỗ, bần tiện, làm ô danh cho cung điện của vua. Xin Ngài cho phép chúng tôi đuổi nó ra khỏi đây, quăng nó ra đường. Nếu đức vua muốn có một đứa trẻ ở bên cạnh Ngài, thì chúng tôi sẽ tìm tại nhà của những người giầu trong thành phố,
435
và chúng tôi sẽ dẫn nó đến cho Ngài nếu Ngài đã chán những đứa trẻ của chúng tôi. Nhưng đừng giữ cái đứa quê mùa này, nó cả đến không biết chào!...”
Người đàn ông giầu có và thông thái, trước tiên, ông cúi mình với hàng trăm luồn cúi bần tiện, cúi sâu tựa như ông ở trước bàn thờ, rồi ông nói: “Các cận thần của thánh thượng nói rất đúng. Vì ngai vàng oai phong của thánh thượng, thánh thượng phải ngăn cản việc người ta không dâng cho bản thân Ngài những gì thuộc về nó”. Và trong khi nói những lời này, ông ta phủ phục tới nỗi hôn bàn chân của ông vua.
Nhưng ông vua nói: “Không, ta muốn đứa trẻ này. Không phải chỉ có thế, ta còn muốn dẫn nó vào kho tàng của ta để nó chọn cái gì nó muốn, và ta sẽ cho nó. Đâu phải bởi vì ta là vua mà ta không được phép làm cho một đứa trẻ nghèo được sung sướng? Nó chẳng phải là con dân của ta như tất cả các ông sao? Nó có lỗi gì khi nó nghèo không? Không. Vạn tuế Thiên Chúa. Ta muốn làm cho nó vui ít nhất là một lần. Lại đây con, đừng sợ ta”. Và ông vua giơ tay ra cho nó, đứa trẻ cầm tay ông và hôn cách đơn sơ tự nhiên. Ông vua mỉm cười. Rồi ở giữa hai hàng cận thần cúi rạp để tôn kính vua, trên chiếc thảm đỏ thêu hoa bằng chỉ vàng, ông đi về phía kho báu, với người giầu có thông thái ở bên phải ông, bên trái ông là đứa trẻ nghèo và ngu dốt. Chiếc áo khoác hoàng gia trái nghịch với bộ đồ nhỏ cũ rích và đôi chân trần của đứa trẻ nghèo.
Họ đi vào phòng của kho báu mà hai đại thần đã mở cửa. Đó là một phòng cao ráo, hình tròn, không có cửa sổ, nhưng ánh sáng thấu vào qua bức trần làm bằng một tấm mi-ca vĩ đại. Một ánh sáng êm dịu, nhưng nó làm sáng chói những chiếc đinh bằng vàng của các tủ sắt, và những giải băng đỏ tía của nhiều ru-lô da đặt trên các kệ cao trang trí đẹp. Các ru-lô sang trọng với những cái trục cuốn qúi, các móc cài và các tựa đề trang trí bằng những viên đá ngọc chói lọi. Đó là các tác phẩm hiếm mà chỉ ông vua mới có. Rồi trên một cái kệ đơn giản, mầu tối, chỉ hơi cao, có một ru-lô cuộn vào một chiếc trục bằng gõ trắng, được buộc bằng sợi giây thô
436
kệch, đầy bụi, giống như một đồ vật không đáng kể, bị bỏ rơi.
Ông vua chỉ lên các bức tường và nói: “Đây, nơi này có tất cả mọi kho báu của trái đất, và những thứ khác còn lớn hơn các của báu của trái đất, vì ở đây có hết các tác phẩm của các vĩ nhân, và có cả những tác phẩm đến từ các nguồn siêu nhân. Nào, hãy lấy những gì các con muốn”. Và ông đứng khoanh tay ở giữa phòng để quan sát.
Người đàn ông giầu có và thông thái đi trước tiên tới các hòm sắt. Ông nâng chiếc nắp lên với sự vội vã càng lúc càng nóng nảy: vàng khối, vàng nữ trang, bạc, ngọc trai, lam ngọc, hồng ngọc, bích ngọc, miêu ngọc... chói sáng trong tất cả các hòm sắt. Các tiếng kêu cảm phục phát ra ở mỗi lần mở hòm... Rồi ông lại phía các kệ, ông đọc tựa đề của các ru-lô. Các tiếng cảm phục lại phát ra từ môi ông, và sau cùng, ông say mê, quay về với vua và nói: “Ngài có một kho tàng khôn lường, với những đá qúi cũng gía trị như các rulô hay ngược lại. Thực tình tôi được chọn tự do sao?”
- Ta đã nói rồi. Tựa như tất cả đều thuộc về mi.
Người đàn ông gục mặt xuống đất và nói: “Tôi thờ Ngài, ôi vua vĩ đại!” Và ông đứng dậy, trước hết chạy đến các hòm, rồi đến các kệ, lấy thứ nọ thứ kia, những gì ông cho là tốt nhất.
Ông vua mỉm cười trong hàm râu của ông lần thứ nhất khi thấy người đàn ông như lên cơn sốt, chạy từ hòm nọ tới hòm kia, và lần thứ hai khi vua thấy người đó phục xuống đất để thờ lạy ông, và vua mỉm cười lần thứ ba khi ông nhạn thấy người đàn ông đã chọn những đá qúi và các cuốn sách với sự tham lam nào, với qui tắc nào, với sự ưu tiên nào. Vua quay về với đứa trẻ vẫn đứng bên ông và hỏi: “Còn con, con không chọn các đá qúi và các ru-lô có giá trị sao?”
Đứa trẻ lắc đầu để nói rằng không.
- Tại sao?
- Bởi vì các ru-lô thì con không biết đọc; với các thứ đá thì... con không biết gía trị của nó. Đối với con, đó là những đá sỏi, không là gì hơn.
437
- Nhưng nó làm cho con giầu...
- Con không có cha, không mẹ, không anh em. Có ích lợi gì cho con khi đi vào chỗ trú của con với các báu vật trong bụng?
- Nhưng với nó, con có thể mua cho con một căn nhà...
- Con sẽ ở đó, luôn luôn cô đơn.
- Và các quần áo.
- Con sẽ luôn luôn lạnh, vì con thiếu tình yêu của cha mẹ.
- Và đồ ăn.
- Con sẽ không thể được no bằng những cái hôn của má, cũng không thể mua nó với bất cứ giá nào.
- Con sẽ học đọc với các ông Thầy...
- Điều đó con thích hơn. Nhưng sau đó, đọc cái gì?
- Các tác phẩm của các thi sĩ, triết gia, các bậc khôn ngoan, các lời dạy xưa và lịch sử các dân.
- Những điều vô ích, hão huyền hay đã qua... Những cái đó không đáng nhọc công.
- Đứa bé ngu chừng nào! - người đàn ông kêu lên. Bây giờ ông ôm các ru-lô đầy cánh tay; giây lưng và áo trên ngực của ông phình ra đầy những đá qúi.
Ông vua lại cười trong hàm râu của ông. Ông ẵm đứa nhỏ trong tay và đem nó lại bên các hòm sắt. Ông thọc tay vào đống ngọc trai, hồng ngọc, hoàng ngọc, tử ngọc, ông làm cho chúng rơi xuống như mưa, sáng lấp lánh, và ông đẩy đứa nhỏ tới cho nó lượm.
- Không, ôi vua, con không muốn những thứ này. Con muốn cái gì khác cơ!...
Ông vua dẫn nó lại các giá sách, đọc cho nó các đoạn thơ, chuyện các vị anh hùng, các bài tường thuật về các nước.
- Ôi! Đọc thì hay hơn. Nhưng đây không phải là cái con muốn...
- Vậy cái gì? Hãy nói, và vua sẽ cho con.
- Ôi vua, con không tin là vua có thể, dù vua có uy quyền. Đó không phải là cái ở trên trần gian này...
- A! Con muốn những tác phẩm không thuộc về trái đất! Vậy đây: đây là các tác phẩm do Thiên Chúa đọc cho các tôi tá Người. Hãy nghe đây - và ông đọc cho nó các trang được linh ứng.
438
- Hay hơn rất nhiều. Nhưng để hiểu nó, trước hết phải biết cái ngôn ngữ của Thiên Chúa. Không có cuốn sách nào dạy nó và làm cho hiểu Thiên Chúa là gì sao?
Ông vua có một cử động kinh ngạc. Ông thôi cười và ông ôm đứa bé vào lòng.
Trái lại, người đàn ông có cái cười chế nhạo và nói: “Ngay các nhà thông thái còn chưa biết Thiên Chúa là gì, vậy mà mày, một đứa bé ngu si, mày muốn biết Người? Nếu mày muốn trở nên giầu với cái đó!...”
Ông vua nhìn ông ta cách nghiêm khắc trong khi đứa bé trả lời: “Tôi không tìm của cải, tôi tìm tình yêu, và một bữa kia, tôi đã được nghe nói rằng Thiên Chúa là tình yêu”.
Ông vua dẫn nó lại cái kệ đơn sơ, trên đó có một ru-lô nhỏ, được buộc bằng sợi giây nhỏ và dính bụi. Ông cầm lấy, mở ra và đọc dòng đầu tiên: “Kẻ nào bé nhỏ, hãy đến với Ta, và Ta, Thiên Chúa, Ta sẽ dạy cho nó khoa học của tình yêu, nó ở trong sách này, và Ta...”
- Ôi! Đó là điều con muốn. Và con sẽ biết Thiên Chúa, con sẽ có tất cả khi có Người. Ôi vua, xin ban cho con cái ru-lô này, và con sẽ sung sướng.
- Nhưng nó không có một gía trị nào về tiền bạc - người đàn ông nói. “Đứa bé này thực sự ngốc! Nó không biết đọc mà nó lấy một cuốn sách! Nó không khôn mà nó không muốn được dạy bảo, nó bần cùng mà nó không lấy các của báu”.
- Tôi sẽ cố gắng để chiếm hữu tình yêu, và cuốn sách này sẽ dạy nó cho tôi. Ôi vua, cầu cho Ngài được chúc phúc, vì đã cho con cái làm cho con không còn cảm thấy mồ côi và nghèo nàn nữa.
- Ít nhất là hãy thờ vua giống như ta đã làm, nếu mày cảm thấy là qua trung gian của vua, mày trở nên sung sướng như vậy.
- Tôi, tôi không thờ người ta, nhưng tôi thờ Thiên Chúa là đấng làm cho vua trở nên qúa tốt.
- Đứa trẻ này là kẻ thông thái thực sự trong nước ta. Ôi ông ơi, ông đã chiếm đoạt sự nổi tiếng là thông thái! Sự kiêu căng và tham
439
lam đã làm cho ông say tới nỗi bộc lộ sự thờ phượng đối với tạo vật, thay vì thờ Đấng Tạo Hóa, và ông như vậy, bởi vì tạo vật đã cho ông các đá qúi và các tác phẩm loài người. Ông đã không suy nghĩ rằng ông có các đá qúi, cũng như ta đã có nó, vì Thiên Chúa đã dựng nên nó; và ông có các ru-lô hiếm, nơi chứa đựng các tư tưởng của loài người, vì Thiên Chúa đã ban cho loài người sự thông minh. Đứa trẻ này bị đói, lạnh và cô đơn, bị hành hạ bởi mọi thứ đau khổ, nó sẽ được miễn thứ và có thể được miễn thứ nếu nó say trước của cải. Nhưng đây, nó biết công bằng để tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban lòng tốt cho con tim ta, và nó chỉ tìm một sự cần thiết duy nhất: Yêu Thiên Chúa, hiểu biết tình yêu để chiếm hữu những của cải thực sự ở đời này và đời sau. Ông ơi, ta đã hứa cho ông những gì ông chọn. Lời của vua là thánh. Vậy hãy đi với các đá qúi và các ru-lô của ông: đá sỏi đủ mầu và rơm rác của tư tưởng con người. Và hãy sống trong sự sợ hãi trộm cướp và mối mọt: loại thứ nhất là kẻ thù của các đá qúi, và loại thứ hai là kẻ thù của các tấm giấy da; và hãy lóa mắt vì ánh sáng giả tạo của các thứ nhảm nhí này, rồi hãy chứng tỏ sự chán ngán cái vị hơi êm của khoa học nhân loại, nó chỉ là cái vị, không có sức nuôi dưỡng. Đi đi. Đứa trẻ này sẽ ở lại bên ta, và cùng nhau, chúng ta sẽ cố gắng đọc cuốn sách là tình yêu, tức là Thiên Chúa. Và chúng ta sẽ không có cái ánh sáng phù phiếm của các đá lạnh, cũng không có cái vị hơi êm của cỏ rơm nơi các tác phẩm về sự hiểu biết của nhân loại. Nhưng lửa của Thần Trí Vĩnh Cửu sẽ ban cho chúng ta sự hoan lạc Thiên Đàng ngay từ đời này, và chúng ta sẽ chiếm hữu Sự Khôn Ngoan bổ sức hơn rượu, nuôi dưỡng hơn mật ong. Đi, con nhỏ. Đấng Khôn Ngoan đã tỏ bày dung nhan Người cho con để con ước ao Người như một hiền thê thực sự.
Và sau khi đã đuổi người đàn ông đi, ông giữ đứa trẻ ở lại với ông để giáo huấn nó trong sự khôn ngoan Thiên Chúa, để nó nên người công chính, nên một ông vua xứng đáng được xức dầu thánh ở trên trái đất, và là một công dân của Nước Thiên Chúa trong đời sống bên kia.
Đó là dụ ngôn đã được hứa với các trẻ, và được đề nghị với
440
người lớn.
Các con có nhớ Baruc không? Ông đã nói: “Ôi, Israel! Vì lý do nào mà ngươi ở trong đất của kẻ thù, ngươi già đi trong xứ lạ? Phải chăng ngươi đã bị ô nhiễm ở giữa những người chết, và bị kể vào số những kẻ đi xuống âm phủ?” Và ông trả lời: “Chính là vì ngươi đã từ bỏ suối Khôn Ngoan. Nếu ngươi đã bước đi trên đường của Chúa thì ngươi đã được sống lâu dài, trong bình an tới muôn đời”.
Hãy nghe: các con là những kẻ qúa thường phàn nàn vì bị lưu đày, dù các con vẫn sống ở quê hương, nhưng vì quê hương không thuộc về các con, mà thuộc về kẻ đô hộ các con. Các con phàn nàn vì thế, mà các con không biết rằng so sánh với những gì đang chờ các con trong tương lai, nó chỉ là một giọt của cái chén làm cho say ngất ngư mà người ta tặng cho các kẻ bị kết án. Các con biết là nó đắng hơn tất cả mọi đồ uống. Dân Thiên Chúa phải chịu đựng, vì họ đã từ bỏ sự Khôn Ngoan. Làm sao các con có thể có sự cẩn trọng, sức mạnh, thông minh nếu các con không giải khát nữa ở Suối Khôn Ngoan; làm sao các con lại chỉ có thể biết nó ở đâu, để nhờ đó biết được những thứ không quan trọng?
Nước Thiên Chúa không thuộc về trái đất, nhưng tình thương của Người chấp nhận cho nó một cái suối. Nó ở trong Thiên Chúa, nó là chính Thiên Chúa, và Thiên Chúa mở lòng Người ra để nó chảy xuống trên các con. Israel có hay đã có - và với sự kiêu căng ngu xuẩn, nó tin là nó vẫn còn những điều kỳ diệu mà nó đã mất, nó tin là nó vẫn còn dồi dào, và vì tin như vậy, nó yêu sách sự tùng phục, trong khi thực sự nó chỉ nhận được lòng trắc ẩn hay sự chế diễu - Israel có hay đã có những tài nguyên, những lãnh thổ chinh phục được, những danh dự, nhưng nó có chiếm hữu được kho tàng duy nhất không? Không, nó bị mất cả những cái còn lại. Vì kẻ mất sự Khôn Ngoan thì cũng mất khả năng làm lớn. Kẻ không khôn ngoan rơi từ sai lầm này qua sai lầm kia. Israel biết rất nhiều thứ, qúa nhiều, nhưng nó không biết Sự Khôn Ngoan nữa.
Baruc có lý khi nói: “Lớp trẻ của dân này đã thấy ánh sáng, đã sống trên trái đất, nhưng chúng không biết đường của Đấng Khôn
441
Ngoan cũng như các lối ngõ của Người, và con cái chúng không đón tiếp Người, nên Người bỏ đi xa chúng”.
Bỏ đi xa chúng! Các con cái không tiếp nhận Sự Khôn Ngoan! Lời tiên tri! Thầy, Thầy là Sự Khôn Ngoan đang nói với các con, mà ba phần tư Israel không tiếp nhận Thầy. Và Đấng Khôn Ngoan lìa xa, và sẽ lìa xa hơn nữa, để họ ở lại một mình... Và họ, những kẻ tưởng là mình vĩ đại và có khả năng bắt buộc Thiên Chúa giúp họ, phục vụ họ, lúc đó họ sẽ làm gì? Họ là những kẻ vĩ đại và hữu dụng cho Thiên Chúa để thiết lập Nước Người ư ? Không. Thầy, Thầy nói cùng với Baruc: “Để thiết lập nước thực sự của Người, Thiên Chúa không chọn những kẻ kiêu căng này, và Người để chúng chết trong sự ngu xuẩn của chúng”, ở xa các đường nẻo của Người. Vì để lên trời bằng tâm hồn và hiểu các bài học của Đấng Khôn Ngoan, phải có tâm hồn khiêm nhường, vâng lời, và nhất là hoàn toàn yêu mến. Bởi vì Đấng Khôn Ngoan nói bằng ngôn ngữ của Người, tức là ngôn ngữ của tình yêu, vì Người là chính Tình Yêu. Để biết các đường nẻo của Người, phải có cái nhìn trong sáng và khiêm nhu, bài trừ thứ dâm đãng chấp ba. Để có sự Khôn Ngoan, phải mua nó bằng đồng tiền sống là các nhân đức.
Điều đó, Israel không có, và Thầy đã đến để giải thích Sự Khôn Ngoan, để dẫn các con vào đường nẻo của nó, để gieo các nhân đức vào lòng các con. Bởi vì Thầy biết hết, Thầy thấu suốt tất cả, Thầy đã đến để dạy cho Jacob tôi tớ Thầy, và cho Israel thân yêu của Thầy. Thầy đã đến trên trái đất để nói chuyện thân mật với loài người, để cầm tay loài người. Thầy là Lời của Chúa Cha, Thầy là con Thiên Chúa và con loài người. Thầy là Đường của Sự Sống. Thầy đã đến để đem các con vào phòng của kho báu đời đời. Thầy là đấng mà Chúa Cha ban tất cả. Thầy là Người Yêu vĩnh cửu, Thầy đã đến để đón Hiền Thê của Thầy là nhân loại mà Thầy muốn nâng lên tới ngai của Thầy, và đem vào xuân phòng của Thầy, để nó ở với Thầy trên Trời; và để đem nó vào hầm rượu, để nó được no say bằng cây nho thật, mà từ đó, các cành hút lấy Sự Sống. Nhưng Israel là một người vợ lười biếng, nó không bò dậy khỏi cái giường để mở cửa cho đấng đã đến. Và Phu Quân bỏ đi.
442
Người sẽ đi qua, Người sắp đi qua. Rồi sau đó Israel sẽ tìm Người cách vô ích. Nó sẽ không tìm thấy tình thương và tình yêu của Vị Cứu Tinh của nó, nhưng sẽ thấy các chiến xa của những kẻ đô hộ nó, và nó sẽ bị nghiền nát để mất đi sự kiêu căng của nó, và mất mạng sống của nó sau khi nó đã muốn nghiền nát cả đến ý muốn đầy tình thương xót của Thiên Chúa.
Ôi! Israel! Israel! Kẻ đã mất Sự Sống Thật để duy trì một ảo ảnh uy quyền dối trá! Ôi! Israel, kẻ tin là sẽ tự cứu và muốn tự cứu mình bằng những con đường không phải là đường của Đấng Khôn Ngoan, và ngươi hư mất khi ngươi tự bán mình cho Dối Trá và Tội Ác; Israel bị chìm đắm mà không chịu bám vào sợi giây thừng vững chắc mà người ta quăng cho ngươi để cứu ngươi, nhưng lại bám vào những gì còn lại của qúa khứ gẫy nát của ngươi! Và giông tố mang ngươi đi nơi khác, ra khơi, trên một mặt biển kinh sợ, không ánh sáng. Ôi Israel! Có ích gì cho ngươi để cứu mạng sống mình và dự đoán sẽ cứu được nó trong thời gian một giờ, một năm, mười năm, hai ba lần mười năm, với gía của một tội ác, để rồi sau đó ngươi sẽ chết đời đời? Đời sống, vinh quang, uy quyền là gì? Một giọt dơ trên nước giặt đã được dùng bởi các bà giặt đồ, nó phản chiếu cái cầu vồng trên trời, không phải vì nó được làm bằng đá qúi, nhưng bằng chất béo dơ bẩn kết hợp với muối Kali, phình ra thành cái bọt để rồi bể tan mà không còn lại gì, trừ một vòng tròn trên nước bùn của mồ hôi loài người. Ôi Israel! Chỉ có một sự cần: Chiếm hữu Đấng Khôn Ngoan, dù với gía cả đời sống. Qủa vậy, đời sống không phải là thứ qúi báu nhất, và thà rằng mất một trăm lần đời sống còn hơn là mất linh hồn mình.
Giêsu chấm dứt giữa sự yên lặng đầy cảm phục. Người tìm cách giải vây để ra đi, nhưng các trẻ em đòi những cái hôn của Người, và các người lớn xin phúc lành của Người. Chỉ sau khi cho Clêopha và Hermas Emmau đi, Người mới có thể ra đi.
211* TẠI BETERON
443
Giêsu vẫn còn ở trong miền núi. Có nhiều người theo Ngài cùng với các tông đồ và các môn đệ. Trong đám họ bây giờ có những môn đệ trước là mục đồng mà có lẽ họ đã gặp trong làng nhỏ nào đó ở những nơi họ đã đi qua. Giêsu đi từ một thung lũng lên núi bởi một con đường vòng quanh sườn núi, và chắc đó là con đường của người Rôma, theo kiểu lát đường mà người ta không thể lầm lẫn, và sự bảo trì cẩn thận mà người ta chỉ thấy tại những con đường được xây dựng và bảo trì bởi người Rôma. Nhiều người qua lại ở đó, đi xuống thung lũng hoặc từ thung lũng đi lên các rặng núi với những ngôi làng hay thành phố ở trên đỉnh giống như triều thiên. Một số người khi thấy Giêsu và các kẻ theo Người thì hỏi xem Người là ai, rồi cũng đi theo Người, trong khi một số khác thì bằng lòng để chỉ nhìn Người, và một số khác nữa thì lắc đầu chế diễu.
Một phân đội Roma đến với Người trong bước đi nặng nề và tiếng ồn ào của khí giới cũng như áo giáp. Họ quay mặt để nhìn Giêsu lúc Người đang bỏ con đường Rôma để đi vào con đường xứ Juđa, hướng lên đỉnh núi, nơi có một ngôi làng. Đó là con đường đá lởm chởm với bùn, vì trời đã mưa, trên đó, bàn chân hoặc trượt trên các cục đá, hoặc ngập trong các lằn bánh xe. Chắc chắn toán lính đi về cùng một thành phố, và sau một lúc nghỉ vắn, họ lại lên đường, bó buộc mọi người đứng tránh ra bên lề để nhường chỗ cho toán lính bước cứng ngắc theo hàng lối. Vài lời chửi rủa thổi lên trong không khí, nhưng kỷ luật của bước đi theo hàng ngăn cản các người lính trả lời theo cùng một kiểu.
Đây, họ lại tới gần Giêsu. Người tránh ra để cho họ đi qua và nhìn họ bằng đôi mắt êm dịu của Người, tựa như Người chúc lành và vuốt ve bằng ánh sáng từ các đồng tử lam ngọc của Người. Khuôn mặt đanh thép của các người lính nhếch một nụ cười không chế diễu, trái lại, có vẻ trọng kính như một lời chào.
Họ đi qua. Mọi người lại tiếp tục con đường ở đàng sau Giêsu là người đi trước tiên. Một người thanh niên rời khỏi đám đông và đến bên Thầy. Anh chào Người cách kính trọng. Giêsu chào lại anh ta.
444
- Thưa Thầy, con muốn hỏi Thầy một điều.
- Nói đi.
- Con đã tình cờ nghe Thầy vào một buổi sáng sau lễ Vượt Qua, gần một ngọn núi thuộc các khe Carit. Và từ đó con nghĩ rằng... con cũng có thể ở giữa những người mà Thầy gọi. Nhưng trước khi đến, con muốn biết chính xác điều gì cần thiết phải làm, và điều gì người ta không được làm. Con đã hỏi các môn đệ của Thầy mỗi khi con gặp họ, và người nọ nói cho con điều này, người khác nói điều kia. Con ngập ngừng, hầu như sợ, bởi vì tất cả họ đều đồng ý về một điều, với ít hoặc nhiều khăng khăng, tức là sự bó buộc phải nên trọn lành. Con... Chúa ơi, con là con người tội nghiệp, mà sự trọn lành chỉ thuộc về Thiên Chúa... Con lại nghe Thầy một lần thứ hai... Và chính Thầy đã nói: “Hãy nên trọn lành”, và con thất vọng. Lại một lần thứ ba, mới ít ngày nay, tại Đền Thờ, và mặc dầu Thầy khắt khe, con thấy rằng đó không phải là một điều không thể trở nên, bởi vì... Con không biết cả đến tại sao, làm sao để giải thích nó cho mình và giải thích nó cho Thầy. Nhưng con thấy như nếu đó là điều không thể được, hay đó là điều nguy hiểm khi ước ao trở thành như vậy, tựa như làm cho mình thành các Thiên Chúa, thì Thầy là đấng muốn cứu chúng con, Thầy đã không đề nghị với chúng con. Vì tự cao tự đại là một tội, và muốn làm Thiên Chúa tức là tội của Lucifer. Nhưng có lẽ có cách để là như vậy, để trở nên như vậy mà không phạm tội, và đó là đi theo giáo lý của Thầy, chắc chắn là một giáo lý cứu rỗi. Con nói có đúng không?
- Con nói đúng. Rồi sao?
- Rồi con tiếp tục hỏi người nọ người kia. Khi biết rằng Thầy ở Rama, con đã tới đó. Từ lúc đó, với sự cho phép của ba con, con đã theo Thầy, và đây, con càng ngày càng muốn đến...
- Vậy hãy đến. Con sợ cái gì?
- Con không biết... Con không biết ngay cả chính con... Con hỏi, con hỏi... Nhưng luôn luôn, khi con nghe Thầy thì con thấy là dễ, và con quyết định tới. Rồi sau đó, khi suy nghĩ, và tệ hại nhất là khi hỏi người nọ người kia, con lại thấy là qúa khó.
445
- Thầy nói cho con điều đó là thế nào: Đó là một cái bẫy của ma qủi để ngăn cản con tới. Nó làm cho con sợ bằng những bóng ma, nó làm con bối rối, làm con đi hỏi những người cũng đang cần ánh sáng như con. Tại sao con không đến thẳng ngay với Thầy?
- Bởi vì... con... không phải là sợ, nhưng... các thầy cả, rabbi của chúng ta! Qúa khắt khe và kiêu căng! Còn Thầy... Con đã không dám đến gần Thầy. Nhưng ở Emmau, hôm qua!... Ôi! Con tin rằng mình đã hiểu là không nên sợ. Và bây giờ con ở đây để hỏi Thầy điều con muốn biết. Vừa lúc nãy, một trong các tông đồ của Thầy đã nói với con: “Hãy tới, đừng sợ. Người nhân từ với cả những người tội lỗi”. Và một người khác nói: “Hãy làm cho người sung sướng bằng sự tin cẩn của anh. Kẻ tin cẩn vào Người sẽ thấy Người êm dịu hơn một bà mẹ”; và một người khác nữa: “Tôi không biết tôi có lầm không, nhưng tôi bảo anh rằng Người sẽ nói với anh: sự hoàn thiện ở trong tình yêu”. Đó là điều các tông đồ của Thầy đã nói với con, ít nhất là mấy người, êm đềm hơn các môn đệ. Nhưng không phải tất cả. Trong đám các môn đệ, có một số giống như tiếng vọng của lời Thầy, nhưng số này qúa ít. Và trong đám các tông đồ của Thầy, chắc chắn có người... làm cho một kẻ tội nghiệp như con phải sợ. Một trong số họ đã nói với con với một cái cười không tốt: “Anh muốn nên trọn lành à? Chúng tôi là các tông đồ của Người mà còn chưa trọn lành, huống hồ anh mà cũng muốn! Điều đó không thể được”. Nếu những người khác không nói thì con sẽ thất vọng và bỏ trốn, nhưng con thử lần chót... nếu Thầy cũng nói với con là không thể...
- Con ơi! Có lẽ nào Thầy lại đến để đề nghị với người ta một điều không thể được? Con nghĩ ai đã đặt vào tim con sự ước ao nên trọn lành này? Tự chính qủa tim của con à?
- Chúa ơi, không. Con tin rằng chính là Thầy, bằng lời nói của Thầy.
- Con không xa xôi gì với sự thật. Nhưng hãy trả lời: các lời Thầy là gì đối với con?
- Chân thật.
446
- Tốt. Nhưng Thầy muốn nói: Đó là những lời của một người hay của một vị còn hơn là một người?
- Ôi! Thầy, Thầy nói như Sự Khôn Ngoan, và còn êm dịu sáng tỏ hơn. Con cũng nói rằng các lời Thầy là của một đấng hơn loài người. Và con tin rằng con không lầm khi con hiểu các lời Thầy nói ở trong Đền Thờ, vì hình như lúc đó Thầy đã nói rằng Thầy là Lời của chính Thiên Chúa, vậy là Thầy nói trong Thiên Chúa.
- Con đã hiểu đúng và nói đúng. Vậy ai đã đặt vào qủa tim con sự ước ao nên trọn lành?
- Chính Thiên Chúa đã đặt nó vào đó qua sự trung gian của Thầy là Lời của Người.
- Vậy là chính Thiên Chúa. Bây giờ hãy suy nghĩ: nếu Thiên Chúa, đấng biết rõ khả năng của con người, đã nói với họ: “Hãy đến với Ta. Hãy nên trọn lành”, điều đó có nghĩa là Người biết rằng loài người, nếu nó muốn, nó có thể nên trọn lành. Đó là lời nói xa xưa. Nó đã vang lên lần thứ nhất vào tai Abraham như một mặc khải, một mệnh lệnh, một sự mời gọi: “Ta là Thiên Chúa Toàn Năng. Hãy bước đi trước nhan Ta. Hãy trọn lành”. Thiên Chúa tỏ mình ra để các tổ phụ không nghi ngờ gì về sự thánh thiện của mệnh lệnh và về sự chân thật của lời mời gọi. Người ra lệnh bước đi trước nhan Người, vì kẻ bước đi trong đời sống của nó, thỏa thuận sống dưới con mắt của Thiên Chúa, thì không làm những hành động xấu, và bởi vậy, nó đặt mình trong những điều kiện để có thể nên trọn lành như Thiên Chúa mời gọi tới.
- Đúng vậy. Hoàn toàn đúng. Nếu Thiên Chúa đã nói, tức là điều đó có thể làm được. Ôi! Thầy, người ta hiểu tất cả khi chính là Thầy nói. Nhưng tại sao các môn đệ của Thầy, và cả đến vị tông đồ đó đã bộc lộ một ý tưởng qúa... dễ sợ về sự thánh thiện như vậy? Có lẽ họ không tin các lời đó và các lời của Thầy là thực? Hay là họ không biết bước đi trước nhan Chúa?
- Đừng nghĩ tới đó là cái gì. Đừng xét đoán. Con hãy coi: đôi khi sự ước ao nên trọn lành và sự khiêm nhường của họ làm cho họ sợ là không thể nào trở nên được.
447
- Vậy sự ước ao nên trọn lành và sự khiêm nhường là những trở ngại để trở nên trọn lành sao?
- Không đâu con. Sự ước ao và sự khiêm nhường không phải là trở ngại, cả đến phải cố gắng để có chúng một cách sâu xa, nhưng có trật tự. Nó là có trật tự khi nó không hấp tấp, thiếu suy nghĩ, chán nản cách vô lý, nghi ngờ và thiếu tin cậy, như tin rằng bản thân con người là bất toàn nên không thể nên trọn lành được. Hết mọi nhân đức đều cần thiết, kể cả sự ước ao mãnh liệt đi tới công chính.
- Đúng. Những người con đã hỏi cũng nói với con như vậy. Họ bảo con là cần phải có các nhân đức, nhưng người thì bảo nhân đức này cần, người khác thì nói nhân đức khác. Nhưng tất cả đều xác định sự cần thiết tuyệt đối của nhân đức mà họ cổ võ như là điều tối cần để nên thánh. Và điều đó làm con sợ, vì làm sao người ta có thể có hết mọi nhân đức dưới dạng hoàn toàn, làm cho nó nảy sinh ra như một bó hoa muôn mầu? Phải có thời gian... và đời sống thì qúa vắn. Thầy, xin Thầy giải thích cho con nhân đức nào cần thiết.
- Đó là Đức Ái. Nếu con yêu, con sẽ thánh. Vì từ tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân, hết mọi nhân đức và hành động tốt sẽ phát xuất.
- Đúng? Như vậy dễ hơn. Vậy sự thánh thiện chính là tình yêu. Nếu con có đức ái, con sẽ có tất cả... sự thánh thiện được làm bằng điều đó.
- Bằng điều đó, và bằng các nhân đức khác nữa. Vì sự thánh thiện không phải chỉ là khiêm nhường, hay chỉ là khôn ngoan, hay trong sạch, và v.v. nhưng là nhân đức. Con coi: khi một người giầu muốn làm một bữa tiệc, có phải ông ta chỉ ra lệnh làm một món thôi sao? Và ví dụ nữa: Khi một người muốn làm một bó hoa để dâng tặng, có phải họ chỉ dùng một bông hoa thôi sao? Không, phải không? Vì nếu ông ta để trên bàn vô số đĩa của cùng một món, thì các khách dự tiệc sẽ phê bình ông ta như một ông chủ bất tài, chỉ lo chứng tỏ khả năng có thể mua nhiều, mà không chứng tỏ được sự tinh tế của vị Chúa, biết lo tới khẩu vị khác nhau của các khách
448
mời, là những người thích có món nọ món kia, không phải chỉ biết ăn no, mà còn thưởng thức thú vị. Cũng giống vậy đối với người muốn làm bó hoa: một bông hoa duy nhất, dù nó to tới đâu, cũng không thể làm thành một bó hoa. Phải có nhiều hoa để làm, cũng như phải có nhiều mầu và nhiều hương thơm khác nhau, dễ thương cho cả thị giác và khứu giác, và làm cho người ta ca tụng Chúa. Sự thánh thiện là điều chúng ta phải coi như một bó hoa dâng cho Chúa. Nó phải được làm bằng mọi nhân đức. Trong tâm hồn này thì khiêm nhường là nổi bật, trong tâm hồn khác là sức mạnh, trong người khác nữa là tiết độ, người khác là kiên nhẫn, người nữa thì tinh thần hy sinh hoặc sám hối... Hết mọi nhân đức đều phát sinh dưới bóng của cây vương giả và thơm tho tuyệt vời là tình yêu, mà bông hoa của nó nổi bật lên trong bó hoa. Nhưng mọi nhân đức đều góp phần tạo thành sự thánh thiện.
- Nhưng bông nào phải lo vun trồng cẩn thận nhất?
- Đức Ái. Thầy đã nói với con rồi.
- Rồi tiếp theo?
- Con ơi, không có phương pháp. Nếu con yêu Chúa, Người sẽ ban cho con các ơn của Người, tức là thông hiệp với con, khi đó các nhân đức mà con cố gắng làm sẽ tăng trưởng mạnh mẽ dưới mặt trời của Ân Sủng.
- Nói cách khác: trong tâm hồn biết yêu, có Thiên Chúa hành động cách mạnh mẽ?
- Đúng đó con. Có Thiên Chúa hành động cách mạnh mẽ, trong khi vẫn để cho con người tự ý đặt vào đó cái ý muốn tự do hướng về sự trọn lành của họ, các cố gắng của họ để xua đuổi các cám dỗ, để duy trì sự trung thành với điều họ đã tự nguyện, các chiến đấu của họ để chống lại xác thịt, thế gian, ma qủi, khi chúng công hãm họ. Và điều đó là để cho con cái Người có công phúc trong sự thánh thiện của họ.
- A! Đó, vậy là rất đúng để nói rằng con người được dựng nên để được trọn lành như Thiên Chúa muốn. Cám ơn Thầy. Bây giờ con biết và con sẽ làm. Và Thầy, xin Thầy cầu nguyện cho con.
449
- Thầy sẽ giữ con trong qủa tim Thầy. Hãy đi, và đừng sợ rằng Thiên Chúa có thể để cho con không có sự trợ giúp.
Người thanh niên rời bỏ Giêsu, rất bằng lòng...
Bây giờ họ đã tới gần làng. Batôlômêo với Étienne đến với Giêsu để kể cho Người rằng trong khi Người nói chuyện với người thanh niên thì có một người ở Beteron, bà con với pharisiêu Elchias, đã tới để xin ông dẫn Người ngay tới bên vợ ông sắp chết.
- Chúng ta đi. Rồi sau đó Thầy sẽ nói. Các con biết bà ta ở đâu không?
- Ông ta đã để lại với chúng con một người đầy tớ. Ông ta đang ở đàng sau với các người khác.
- Bảo ông ta tới, và chúng ta đi mau.
Người đầy tớ chạy tới. Đây là một ông già vạm vỡ. Ông ta hoảng hốt. Ông ta chào và nhìn Giêsu từ phía dưới khi Người mỉm cười với ông và hỏi ông: “Bà chủ ông sắp chết vì bệnh gì?”
- Về... Bà phải sinh một đứa con, nhưng nó chết trong bụng bà và máu bà bị hư thối. Bà mê sảng như điên. Chắc bà sắp chết. Người ta đã cắt mạch máu bà để hạ cơn sốt, nhưng máu bà hoàn toàn bị nhiễm độc. Người ta dìm bà vào bể nước để tắt sức nóng. Nó hạ khi bà ở trong nước lạnh, nhưng rồi nó lại lên mạnh hơn trước. Và bà ho, bà ho... bà hẳn chết.
- Đương nhiên! Với cái lối săn sóc như vậy! - Mathêu cầu nhầu giữa hai hàm răng.
- Bà bệnh từ hồi nào?
Người đầy tớ sắp trả lời thì từ trên một con dốc, người trưởng đội lính Rôma chạy tới. Ông ta dừng lại trước mặt Giêsu.
- Chào! Ngài là vị Nazarét?
- Đúng tôi. Ông muốn gì ở tôi?
Những người đi theo Giêsu chạy tới, họ tin là có cái gì, tôi không biết...
- Có một hôm, một trong những con ngựa của chúng tôi đã húc phải một đứa trẻ Hy Bá, và Thầy đã chữa cho nó để ngăn cản các người Hy Bá biểu tình chống lại chúng tôi. Bây giờ các viên đá Hy
450
Bá đã làm ngã một người lính, và anh ta nằm dài với một chân bị gẫy. Tôi không thể dừng lại. Tôi đang có sự vụ. Không ai trong làng muốn có anh ta. Anh ta không thể bước, và tôi không thể kéo anh ta đi với cẳng chân gẫy. Tôi biết rằng Ngài không khinh dể chúng tôi như tất cả các người Hy Bá làm...
- Anh muốn rằng tôi chữa cho người lính?
- Vâng. Ngài cũng đã chữa cho đầy tớ của viên bách binh đội trưởng và con bé của Valêria. Ngài đã cứu Alexandre khỏi cơn giận của các người đồng hương của Ngài. Điều đó mọi người đều biết, từ cấp cao tới cấp thấp.
- Chúng ta đi tìm anh lính.
- Còn bà chủ của tôi? - người đầy tớ bất bình hỏi.
- Sau đó - và Giêsu bước theo sau người hạ sĩ. Ông ta ngốn con đường thật lẹ bằng đôi chân dài lực lưỡng, và vì đã được cởi bỏ mọi y phục cồng kềnh của ông. Nhưng cả khi bước đi ở đàng trước mọi người, ông ta cũng tìm được phương tiện để nói vài lời với người đi theo ngay đàng sau ông ta, tức là Giêsu. Và ông ta nói: “Lần trước tôi có ở với Alexandre. Anh ta... Anh ta nói về Ngài. Sự tình cờ đã đặt tôi ở gần Ngài lúc này”.
- Tình cờ à? Tại sao lại không nói là Thiên Chúa, Thiên Chúa thực?
Người lính nín lặng một lát, rồi ông nói theo kiểu chỉ có mình Giêsu nghe được: “Thiên Chúa thực sẽ là Thiên Chúa của người Hy Bá... Nhưng Người không làm cho người ta biết yêu. Nếu Người cũng giống như các người Hy Bá! Họ không có tình thương, dù đối với một người bị thương...”
- Thiên Chúa thực là Thiên Chúa của người Hy Bá cũng như của người Rôma, người Hy Lạp, người Ả Rập, người Parthe, người Scythe, người Iberie, người Gaul, người Celte, người Liby, người bắc cực. Chỉ có một Thiên Chúa! Nhưng rất nhiều người không biết Người. Những người khác thì biết sai về Người. Nếu họ biết rõ Người, họ sẽ như các anh em, và sẽ không có bất công, thù ghét, vu khống, báo thù, dâm đãng, trộm cắp, sát nhân, gian dâm, dối trá.
451
Tôi, tôi biết Thiên Chúa thực, và tôi đến để làm cho người ta biết Người.
- Người ta nói... chúng tôi phải luôn luôn có tai để nghe ngóng để tường trình cho bách binh đội trưởng, để họ phúc trình lại cho ông Thủ Hiến. Người ta nó rằng Ngài là Thiên Chúa. Có đúng không? - người lính rất lo lắng khi nói câu này. Ông ta nhìn Giêsu dưới bóng nón cối của ông, và ông ta hầu như sợ hãi.
- Tôi là Thiên Chúa.
- Lạy Jupiter! Vậy đúng là các thần đã xuống để nói chuyện với loài người sao? Sau khi đã đi vòng quanh thế giới sau quân kỳ, tôi tới đây, đã gìa rồi, để tìm được một Thiên Chúa!
- Thiên Chúa. Độc nhất. Không phải một Thiên Chúa - Giêsu sửa sai.
Nhưng người lính thất kinh với tư tưởng đang đứng trước một vị thần... Anh ta không nói nữa... Anh ta suy nghĩ. Anh ta suy nghĩ cho tới khi đến ngay tại lối vào làng. Họ nhìn thấy phân đội lính đã dừng lại chung quanh người bị thương đang rên rỉ dưới đất.
- Đây! - người hạ sĩ nói rất vắn tắt.
Giêsu rẽ ra một lối đi và lại gần. Chân anh ta có một vết gẫy rất xấu. Bàn chân quay hẳn về phía trong và nó đã sưng phồng, tái mét. Chắc anh ta đau lắm. Khi thấy Giêsu giơ tay ra, anh năn nỉ: “Làm tôi đau ít thôi!”
Giêsu mỉm cười. Người chỉ hơi đụng đầu ngón tay vào chỗ có một vòng tái mét chứng tỏ vết gẫy. Rồi Người nói: “Hãy đứng dậy”.
- Nhưng có một chỗ gẫy thứ hai ở cao hơn, chỗ háng - người hạ sĩ nói, có vẻ như anh ta muốn hỏi: “Ngài không đụng vào chỗ đó sao?”
Ngay lúc đó thì kìa, một người Beteron tới: “Thầy ơi! Thầy ơi! Thầy mất thời giờ với đám dân ngoại, trong khi vợ tôi gần chết!”
- Hãy đi và đem bà đến với Ta.
- Tôi không thể. Bà ta điên!
- Hãy đi và đem bà đến với Ta, nếu ông tin ở Ta.
- Thưa Thầy, người ta không giữ bà được. Bà ta ở trần và không mặc đồ cho bà được. Bà điên và xé rách quần áo. Bà sắp chết và
452
bà không đứng được.
- Hãy đi và đem bà đến cho Ta nếu đức tin của ông không ở bên dưới đức tin của các dân ngoại này.
Người đàn ông bất bình bỏ đi.
Giêsu nhìn người Rôma đang nằm ở chân Người: “Còn anh, anh biết tin không?”
- Con, thưa có. Con phải làm gì?
- Hãy đứng dậy.
- Cẩn thận, Camille, kẻo... - viên hạ sĩ còn đang nói vậy thì người lính đã đứng dậy, nhanh nhẹn, lành mạnh.
Các người Israel không hô vạn tuế, vì người được chữa lành không phải là Hy Bá. Họ còn có vẻ bất bình, hay ít nhất, vẻ mặt của họ bộc lộ sự chỉ trích về hành động của Giêsu. Nhưng các người lính không vậy. Họ tuốt các thanh đoản kiếm rộng bản của họ ra và giơ lên trong không khí sau khi đã đập trên các tấm khiên của họ trong dấu hiệu vui mừng. Giêsu ở giữa một vòng tròn các lưỡi kiếm.
Người hạ sĩ nhìn Người. Ông không biết phải bộc lộ thế nào và phải làm gì. Ông: một người ở bên một vị thần; ông: một dân ngoại ở bên Thiên Chúa... Ông suy nghĩ và ông tìm ra rằng ít nhất, ông phải làm cho Thiên Chúa điều mà ông làm cho César, và ông ra lệnh làm kiểu lính chào hoàng đế (tôi tin như vậy, vì tôi nghe vang động một tiếng Ave rất mạnh trong khi các lưỡi kiến sáng loáng được cầm ngang trong các cánh tay giơ cao trên đầu) Và chưa thỏa mãn, người hạ sĩ nói nhỏ nhẹ: “Hãy đi cách vững tâm, dù là ban đêm. Tất cả các con đường đều được canh gác... Công việc chống trộm cướp. Ngài sẽ an toàn. Tôi...” Ông ta ngừng bặt, không biết nói gì nữa.
Giêsu mỉm cười với ông ta khi nói: “Cám ơn. Hãy đi và hãy tốt. Ngay cả với các kẻ trộm, hãy nhân đạo. Trung thành với nghĩa vụ, nhưng không độc ác. Đó là những kẻ khốn nạn, và họ phải phúc trình các hành vi xấu của họ trước Thiên Chúa”.
- Tôi sẽ như vậy. Chào! Tôi còn muốn gặp Ngài...
Giêsu nhìn ông ta đăm đăm, rồi người nói: “Chúng ta sẽ gặp
453
nhau trên một ngọn núi khác”. Và Người nhắc lại: “Hãy tốt. Chào!”
- Các người lính lại tiến bước. Giêsu đi vào làng. Nhưng Người mới đi được mấy mét thì thấy một nhóm đông người đang tới gặp Người và những kẻ đi theo Người. Nhóm đông vừa đi vừa la lối những lời bình phẩm. Một người đàn ông và một người đàn bà tách ra khỏi nhóm - trước tiên là người đàn ông - Họ cúi mình trước Giêsu. Người đàn bà qùi gối, người đàn ông chỉ nghiêng mình.
- Hãy đứng dậy và hãy ngợi khen Chúa. Nhưng với ông, tôi phải nói rằng lương tâm của ông không trong sáng. Ông đã đến với tôi vì ích kỷ chứ không vì tình yêu đối với tôi, cũng không phải bởi lòng tin nơi tôi. Ông đã nghi ngờ lời tôi dù ông biết tôi là ai! Rồi ông đã có ý nghĩ không tốt, vì ông muốn ngăn cản tôi chữa cho người dân ngoại. Cũng vậy, cả làng đều có thái độ không tốt, vì đã từ chối tiếp nhận người bị thương. Bởi tôi qúa tràn đầy tình thương, và để làm cho qủa tim ông nên tốt, tôi đã chữa cho vợ ông mà không vào nhà ông. Ông không xứng đáng điều đó. Tôi làm vậy để chứng tỏ cho ông rằng tôi không cần đi để hành động, chỉ cần là tôi bằng lòng. Nhưng thực sự, Thầy bảo các con, tất cả các con rằng: những người mà các con khinh bỉ, họ tốt hơn các con, và họ biết tin vào quyền năng của Thầy hơn các con. Bà đứng lên đi. Bà không có tội, vì bà không sử dụng được lý trí. Hãy đi, và từ nay, hãy biết tin vì biết ơn Chúa.
Thái độ của dân làng trở nên lạnh lùng và ngạo nghễ vì lời khiển trách của Giêsu. Họ cau có đi theo Giêsu tới quảng trường , nơi Người dừng lại để nói, vì Người được cho biết rằng ông trưởng giáo đường không mời Người vào giáo đường, cũng không căn nhà nào mở cửa ra cho Thầy hết.
- Khi Thiên Chúa ở với người ta thì người ta có thể chống lại mọi thứ bất hạnh, dù nó có bất cứ cái tên nào. Trái lại, khi Thiên Chúa không ở với người ta thì họ không thể làm gì được để chống lại bất hạnh. Thành phố này, trong biên niên sử của nó, đã nhiều lần nhắc lại điều này. Thiên Chúa đã ở với Josuê, và Josuê đã thách đấu với vua người Canane. Và trên con đường này, Thiên Chúa đã giúp ông
454
tiêu diệt các kẻ thù của Israel “bằng cách từ trời quăng xuống trên họ những cục đá lớn, và họ đã chết vì mưa đá nhiều hơn là vì gươm”. Đó là điều người ta đọc thấy trong sách Josuê. Thiên Chúa ở với Juđa Maccabê, ông đã lên ngọn đồi này với toán quân nhỏ của ông để nhìn quân đội hùng mạnh của Séron, thủ lãnh các toán quân Syrie. Và Thiên Chúa xác nhận lời của vị thủ lãnh Israel bằng một chiến thắng lẫy lừng. Nhưng điều kiện để có Thiên Chúa ở với chúng ta là phải hành động vì một lý do công chính. Maccabê đã nói: “Trong trận chiến, chiến thắng không tùy thuộc vào số đông, mà vào sự trợ lực của Trời Cao”. Trong mọi sự của đời sống, sự lành không đến từ của cải, chức quyền hay các duyên cớ khác, mà do sự trợ giúp đến từ Trời, và nó đến bởi vì người ta xin sự trợ giúp cho những điều tốt cho đời sống chúng ta và lề luật của chúng ta. Maccabê còn nói như vậy. Nhưng khi người ta chạy đến với Thiên Chúa vì những mục đích xấu hay không trong sạch, thì họ kêu gào trợ giúp một cách vô ích. Thiên Chúa sẽ không trả lời, hay Người sẽ trả lời bằng những hình phạt thay vì phúc lành.
Sự thật này ngày nay đã qúa bị quên lãng nơi Israel. Người ta muốn Thiên Chúa giúp, người ta kêu cầu Người với những mục đích không tốt. Người ta không thi hành nhân đức, người ta không giữ các giới răn cách thực tình, tức là về các giới răn, người ta chỉ làm những gì để cho người đời nhìn thấy và ca tụng, nhưng điều che dấu ở bên dưới ngoại diện thì rất khác.
Thầy, Thầy đến để nói: Hãy chân thành trong mọi hành động của các con, vì Thiên Chúa thấy tất cả. Lễ hy sinh sẽ vô ích, lời cầu nguyện sẽ không công, nếu người ta làm nó với sự khoa trương thuần túy của việc tế tự, trong khi con tim thì chứa đầy tội lỗi, thù ghét, và các ước muốn xấu.
Hỡi Beteron! Chớ gì dân cư của ngươi không làm điều mà Abdias nói về Eđom. Eđom tưởng mình được an toàn nên tự cho phép mình áp bức Jacob và vui hưởng sự thất bại của ông. Hỡi thành phố tư tế, đừng làm như vậy. Hãy cầm lấy sách Abdias và suy niệm. Hãy suy niệm, suy niệm, suy niệm, và hãy thay đổi đường lối của ngươi.
455
Hãy theo sự công chính nếu ngươi không muốn có những ngày ghê sợ. Ngươi sẽ không được cứu nhờ vào vị trí ở trên đỉnh núi cao của ngươi, cũng không phải như ngươi có vẻ ở bên ngoài các trục lộ chiến tranh. Ta, Ta thấy nơi ngươi có rất nhiều kẻ không có Thiên Chúa ở trong họ, và những kẻ không muốn có Thiên Chúa. Các con xì xèo ư ? Thầy, Thầy nói sự thật với các con. Thầy lên tận nơi đây để nói sự thật cho các con, để cứu các con.
Các con không mang một tên gọi duy nhất sao? Israel không phải là tất cả sao? Tại sao nó phân chia để lấy hai tên? Ôi! Thực sự điều này nhắc Thầy nhớ tới cuộc hôn nhân của Osê với người gái điếm, và những đứa con đã sinh ra bởi người đàn bà tà dâm. Nhưng vị tiên tri nói gì? “Số con cái Israel sẽ như số cát ngoài biển... và thay vì nói với chúng: ‘các ngươi không phải là dân ta’, ông đã nói: ‘Các con là con Thiên Chúa hằng sống’. Và các con cái của Juđa và của Israel sẽ tụ họp và sẽ chọn một thủ lãnh duy nhất, và chúng sẽ lan tràn ra bên ngoài Đất, vì ngày của Jezrael thật là trọng đại”. Ôi! Tại sao các con chỉ trích đấng phải qui tụ tất cả để làm thành một dân duy nhất, một dân lớn, duy nhất giống như Thiên Chúa; đấng phải yêu hết mọi con cái loài người, bởi vì tất cả họ đều là con cái Thiên Chúa; đấng phải làm cho cả những kẻ có vẻ như chết, trở thành con của Thiên Chúa hàng sống. Các con có thể xét đoán các hành động của Thầy, và con tim của họ cũng như của các con không? Ánh sáng từ đâu đến với các con? Từ Thiên Chúa mà đến. Nếu Thiên Chúa đã sai Thầy với sứ mạng qui tụ mọi người dưới một vương trượng duy nhất, làm sao các con có thể có ánh sáng thực của Thiên Chúa, nếu nó chỉ cho các con thấy các sự theo một cách trái với cách Thiên Chúa thấy. Tuy nhiên các con thấy theo cách trái ngược với cách Thiên Chúa thấy.
Các con đừng lẩm bẩm. Đó là sự thật. Các con ở bên ngoài sự công chính, và các kẻ lôi kéo các con vào đường bất chính thì còn ở xa sự công chính hơn nữa, và họ sẽ bị phạt gấp đôi. Các con kết án Thầy thông dâm với kẻ thù, với kẻ cai trị chúng ta, thầy đọc thấy trong tim các con. Còn các con, các con không thông dâm với Satan
456
bằng cách về phe với các kẻ chống đối Con Người, Đấng Thiên Chúa sai đến sao? Vì thế các con ghét Thầy. Nhưng Thầy biết mặt kẻ đã nhỏ sự thù ghét trên các con. Giống như sách Osê đã nói, Thầy đến với đôi tay mang đầy ơn và con tim đầy tràn tình yêu. Thầy đã tìm cách lôi kéo các con bằng những cách êm đềm nhất để làm cho Thầy được yêu. Thầy đã nói với dân Thầy như phu quân nói với hiền thê trong khi hiến cho nàng tình yêu muôn đời và sự bình an, sự công chính, tình thương. Còn một giờ nữa để ngăn cản dân chúng đuổi Thầy, vì các thủ lãnh kích thích họ - Thầy biết họ - tiếp tục không có vua, không thủ lãnh, không lễ hy sinh, không bàn thờ. Nhưng ở gần sào huyệt, nơi sự thù ghét mạnh hơn và hình phạt cũng sẽ nặng nề hơn, người ta đang hoạt động, tìm cách mua chuộc các lương tâm để lôi kéo họ tới tội ác. Ôi! Thực vậy, những kẻ làm sai lệch và làm lạc hướng các lương tâm sẽ bị phán xét bảy lần nghiêm khắc hơn những kẻ mà họ đã làm cho lạc đường.
Chúng ta đi. Thầy đã đến và Thầy đã làm một phép lạ, và Thầy đã nói sự thật cho các con để các con biết Thầy là ai. Bây giờ Thầy đi. Và nếu trong các con có lấy một người công chính duy nhất, thì họ hãy theo Thầy, vì tương lai sẽ rất buồn cho nơi này là chỗ rắn độc ẩn nấp để lôi kéo và phản bội.
Và Giêsu quay lưng để trở lại con đường mà Người đã đi để tới.
- Ôi rabbi, tại sao Thầy nói với họ như vậy? Họ sẽ ghét Thầy - các tông đồ hỏi.
- Thầy không tìm cách chinh phục tình yêu bằng cách liên minh với dối trá.
- Nhưng chả tốt hơn là đừng đến đây sao?
- Không. Không nên để lại một nghi ngờ nào.
- Và Thầy đã chinh phục được ai?
- Không ai cả. Lúc này thì không ai cả. Nhưng sắp sửa, họ sẽ nói: “Chúng ta không thể nguyền rủa ai được, vì chúng ta đã được tiên báo mà chúng ta không hành động”. Và nếu họ phiền trách Thiên Chúa vì đã phạt họ, thì sự phiền trách của họ là lời phạm thánh.
457
- Nhưng Thầy muốn ám chỉ vào ai khi nói rằng...
- Hãy hỏi Judas Kêriot, ông ta biết nhiều người ở nơi này, và ông ta biết các mánh lới của họ.
Hết mọi tông đồ đều nhìn Judas.
- Đúng. Hầu như tất cả nơi này đều dưới quyền Elchias. Nhưng... tôi không tin là Elchias... - Các lời tắt đi trên môi Judas khi ông ngước mắt lên khỏi cái giây lưng của ông mà ông chỉnh lại để giữ sự bình tĩnh, ông gặp cái nhìn của Giêsu, một cái nhìn sắc bén và thấu suốt như thôi miên. Ông liền cúi đầu xuống và kết thúc: “Đương nhiên đây là cái xứ kiêu căng và đáng ghét, xứng với kẻ cai trị nó. Mỗi người cái mình đáng. Họ có Elchias, chúng ta có Giêsu. Và Thầy đã làm đúng khi cho họ biết rằng Người biết. Rất tốt”.
- Chắc chắn là họ xấu. Các anh thấy không? Không có cả đến một lời chào sau phép lạ! Cũng không có của dâng cúng! Không có gì cả! - Philíp nhận xét.
- Nhưng tôi, tôi run khi Thầy lột mặt nạ họ như vậy - Andrê xít xoa.
- Làm vậy hay không làm vậy cũng thế thôi. Họ vẫn ghét Người theo cùng một cách. Tôi, tôi muốn trở về Galilê - Gioan nói.
- Đúng, về Galilê! - Phêrô nói khi xít xoa và cúi đầu trầm tư.
Ở phía sau, những người đi theo Giêsu và không rời bỏ Người, không ngớt bình luận với các môn đệ.
212* ĐI VỀ GABAON
Nhưng Giêsu không thể ở yên lâu với các tư tưởng của Người. Gioan và ông anh Giacôbê của Người, rồi tới Phêrô và Simon Zêlote, đến với Người để lôi kéo sự chú ý của Người về quang cảnh mà họ nhìn thấy từ trên đỉnh đồi, và có lẽ trong ý định giải trí cho Người, vì rõ ràng là Người rất buồn. Họ nhắc lại cho Người những biến cố đã xảy ra trong vùng và đang hiện diện trước mắt họ: cuộc hành trình đi Ascalon... căn nhà của các nông dân ở đồng bằng Saron,
458
nơi Giêsu chữa mắt cho người cha già của Gamala và Jacob... cuộc tĩnh tâm trên núi Carmel của Giêsu và Giacôbê... Cêsarê Maritime với cô bé Auréa Galla... cuộc gặp gỡ với Sintica... Các dân ngoại ở Joppê... Các người trộm cướp gần Modin... Phép lạ về mùa lúa trong nhà Giuse Arimathi... Bà già nhỏ mót lúa... Đúng, mọi sự đều muốn làm hoan hỉ... nhưng trong đó, với mọi người hay với một mình Người, nó có pha trộn những nước mắt và kỷ niệm đau thương. Chính các tông đồ cũng nhận ra điều đó, và họ thì thầm: “Thực tình, mọi sự trên trái đất đều có pha đau đớn. Đây là nơi đền tội”.
Nhưng ngay cả Andrê, đã trở lại trong nhóm của Giacôbê Zêbêđê cũng nhận xét: “Định luật công bình cho chúng ta là những tội nhân. Nhưng đối với Người, tại sao lại từng ấy đau khổ?”
Có một cuộc thảo luận êm đềm và được duy trì như vậy cho tới khi tiếng nói của một nhóm người lôi kéo sự chú ý của những người khác, và họ tụ họp cả lại với nhau. Ngoại trừ Judas Iscariot, ông lăng xăng giữa đám những kẻ khiêm nhường mà ông giáo huấn bằng cách bắt chước giọng nói, các cử chỉ và tư tưởng của Thầy. Nhưng đó là lối bắt chước cải lương, khoe mẽ, trong đó ông thiếu sự nhiệt thành và xác tín, và thính giả của ông nói thẳng với ông, không cần nói lòng vòng. Điều đó làm cho Judas phát xùng và ông khiển trách họ là dân bán thịt, do đó không hiểu gì cả. Rồi ông tuyên bố với họ là ông bỏ rơi họ, vì “chẳng cần nhọc công mà quăng cho bầy heo những hạt trai của sự khôn ngoan”, và ông dừng lại. Nhưng những người kia khiêm nhường, bị hạ nhục, họ vẫn xin ông thương họ. Họ thú nhận họ “ở bên dưới ông, giống như một con vật ở dưới thấp so với con người”.
Giêsu không lưu ý những gì nhóm mười một nói với Người về các thứ ở chung quanh Người, vì Người để ý nghe Judas nói, và điều Người nghe thấy chắc chắn không làm cho Người vui... Nhưng Người chỉ thở dài và nín lặng, cho tới khi Batôlômêo lưu ý Người trực tiếp, bằng cách trình bày với Người những nhãn giới khác nhau về các lý do tại sao Người không có tội gì mà phải chịu đau khổ:
Batôlômêo nói: “Con cho rằng điều đó xảy ra vì người ta ghét
459
kẻ tốt. Con nói về các kẻ có tội, tức là phần đông. Số đông này thấy rằng so sánh với kẻ không có tội thì tội của họ nổi bật hơn cùng với các tật xấu của họ, và vì hờn ghen, họ báo thù bằng cách làm khổ cho kẻ tốt”.
- Con thì con cho rằng Thầy khổ vì sự tương phản giữa sự toàn thiện của Thầy và sự bần cùng của chúng con. Dù là một người không khinh dể Thầy cách nào cả, Thầy cũng khổ giống như vậy, vì sự trọn lành của Thầy phải cảm thấy một sự ghê tởm đau đớn vì tội lỗi của loài người - Juđa Thađê nói.
- Con, trái lại, con cho rằng vì không được miễn mặc nhân tính, nên Thầy đau khổ bởi phải cố gắng, bằng phần siêu nhiên của Thầy, để kìm hãm những phản động của nhân tính Thầy chống lại các kẻ thù của Thầy - Mathêu nói.
- Còn con, chắc chắn con lầm, vì con là đứa ngu, nhưng con nói rằng Thầy khổ vì thấy tình yêu của Thầy bị từ chối. Thầy không khổ vì không thể phạt như phía nhân tính có thể ước ao, nhưng Thầy khổ vì không thể làm sự lành như Thầy muốn - Andrê nói.
- Con, sau cùng - Zêlote nói. “Con cho rằng Thầy khổ vì Thầy phải chịu đựng mọi thứ đau đớn để chuộc lại mọi đau đớn. Nơi Thầy, không bản tính nào nổi vượt hơn bản tính nào, nhưng cả hai bản tính đều giống nhau nơi Thầy, tan hoà trong một sự quân bình trọn vẹn, để làm nên một của lễ hy sinh toàn vẹn, siêu nhiên tới nỗi nó có sức mạnh làm cho dịu những xúc phạm tới Thiên Tính, nó nhân loại tới nỗi nó có thể đại diện cho nhân loại và dẫn nó về tình trạng nguyên tuyền của Ađam thứ nhất, để hủy bỏ qúa khứ và cưu mang một nhân loại mới phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa, tức là một nhân loại thực sự có hình ảnh của Thiên Chúa, sự giông giống với Người, và định mệnh của con người là: chiếm hữu Thiên Chúa, có khả năng ước vọng chiếm hữu Thiên Chúa trong nước Người. Thầy phải khổ một cách siêu nhiên, và Thầy khổ vì mọi thứ Thầy nhìn thấy người ta làm, và những gì bao quanh Thầy. Có thể nói đó là sự xúc phạm tới Thiên Chúa trường tồn. Thầy phải khổ một cách nhân loại, và Thầy chịu đựng để chà nát sự dâm đãng nơi
460
chúng ta, bị đầu độc bởi Satan. Chính do sự đau đớn toàn vẹn của hai bản tính trọn lành mà Thầy hủy bỏ hoàn toàn những xúc phạm tới Thiên Chúa, tội lỗi của loài người”.
Những người khác nín lặng. Giêsu hỏi họ: “Còn các con, các con không nói gì sao? Theo các con thì định nghĩa đúng nhất là cái nào?”
Người nói điều nọ, người nói điều kia. Chỉ có Giacôbê Alphê là yên lặng cùng với Gioan.
- Còn hai con, các con không xác nhận điều nào sao? - Giêsu nói để kích thích sự lưu ý của họ.
- Không. Chúng con thấy trong mọi định nghĩa đều có cái đúng, hoặc nhiều cái đúng. Nhưng chúng con vẫn cảm thấy thiếu cái gì là đúng nhất.
- Và các con không tìm ra cái đó?
- Có lẽ Gioan và con, chúng con tìm ra nó. Nhưng chúng con cảm thấy như phạm thượng để nói ra... Chúng con là những người Israel tốt, và chúng con kính sợ Thiên Chúa tới nỗi hầu như không dám xướng danh Người. Và vì nghĩ rằng nếu các người của dân được chọn, các người con Thiên Chúa, không thể xướng lên thánh danh đáng chúc tụng, nên đã tạo ra những từ thay thế để gọi tên Thiên Chúa của họ; và nghĩ rằng nếu Satan có thể dám làm phiền Thiên Chúa thì chúng con thấy như điều này là sự phạm thánh. Nhưng chúng con thấy sự đau đớn không ngớt hành động đối với Thầy, vì Thầy là Thiên Chúa nên Satan ghét Thầy, ghét Thầy hơn bất cứ ai khác. Thầy gặp sự thù ghét, em tôi ơi, bởi vì em là Thiên Chúa! - Giacôbê Alphê nói.
- Đúng - Gioan nói. “Thầy gặp sự thù ghét bởi vì Thầy là tình yêu. Không phải các pharisiêu hay các rabbi; không phải người nọ người kia, không phải cái nọ cái kia đứng lên để làm cho Thầy đau đớn, mà chính là đứa Thù Ghét nhập vào người ta và dựng họ lên để chống lại Thầy, họ đầy tràn thù ghét, vì bằng tình yêu của Thầy, Thầy đã giật qúa nhiều miếng mồi của đứa Thù Ghét”.
- Trong số nhiều định nghĩa, vẫn còn thiếu một cái gì nữa. Hãy
461
tìm cái lý do đúng nhất mà bởi đó Thầy hiện hữu... - Giêsu nói để khích lệ họ.
Nhưng không ai tìm ra. Họ suy nghĩ, suy nghĩ. Sau cùng họ chịu thua và nói: “Chúng con không tìm ra...”
- Nó rất đơn giản. Nó luôn luôn ở trước mắt các con. Nó vang dội trong các lời của sách vở, trên khuôn mặt của lịch sử chúng ta... Nào, tìm đi! Trong tất cả các định nghĩa của các con đều có điều đúng, nhưng nó thiếu cái lý do thứ nhất. Hãy tìm nó, không phải ở hiện tại, nhưng ở trong qúa khứ xa xưa, trước thời của các tiên tri, trước thời các tổ phụ, trước khi tạo dựng vũ trụ...
Các tông đồ suy nghĩ... nhưng họ không tìm ra.
Giêsu mỉm cười, rồi Người nói: “Nhưng nếu các con nhớ lại các lời Thầy, các con sẽ tìm ra lý do. Nhưng các con chưa thể nhớ được hết. Một ngày kia các con sẽ nhớ lại. Hãy nghe đây: chúng ta hãy cùng nhau đi ngược lại dòng thời gian, qua tất cả các thế kỷ cho tới giới hạn của thời gian. Ai đã làm hư hỏng thần trí con người, các con biết nó rồi: đó là Satan, Con Rắn, Đối Phương, Kẻ Thù, Kẻ Ghen Ghét. Hãy gọi nó bằng cái tên tùy các con muốn. Nhưng tại sao nó lại làm hư hỏng con người? Vì một sự ghen tị rất lớn lao: ghen vì thấy loài người được tiền định vào Nước Trời, nơi nó đã bị đuổi ra. Nó muốn cho loài người sự lưu đày mà nó đã có. Tại sao nó lại bị đuổi? Là vì đã phản ngụy chống lại Thiên Chúa. Các con biết điều đó rồi. Nhưng về cái gì? Về sự vâng lời. Tại chỗ khởi đầu của đau thương, có một sự bất tuân. Vậy chẳng phải là nhu cầu hợp lý rằng: để tái lập trật tự, điều luôn luôn là niềm vui, thì phải có một sự vâng lời trọn vẹn sao? Vâng lời là điều khó, nhất là trong những việc hệ trọng. Việc khó khăn thì làm cho kẻ thi hành nó phải khổ. Vậy hãy suy nghĩ rằng nếu Tình Yêu đã xin Thầy, và nếu Thầy đã muốn đem lại niềm vui cho con cái Thiên Chúa, Thầy phải chịu khổ vô tận để làm trọn sự vâng lời Tư Tưởng của Thiên Chúa. Vậy Thầy phải chịu đựng để thắng, để xóa bỏ, không phải một hay một ngàn tội, và chính cái tội tuyệt đỉnh ở trong thần trí thiên thần của Lucifer hay ở trong thần trí đã kích thích Ađam, đã là, và luôn luôn là tội không vâng lời Thiên Chúa, cho tới người sau cùng. Đối với
462
các con là loài người, sự vâng lời của các con chỉ ở trong giới hạn nhỏ xíu - các con thấy nó có vẻ rất lớn, nhưng nó nhỏ xíu - mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi các con. Trong sự công bình của Người, Người chỉ đòi hỏi các con cái gì các con có thể dâng. Về các ý muốn của Thiên Chúa, các con chỉ biết những điều các con có thể hoàn thành. Nhưng Thầy, Thầy biết toàn bộ tư tưởng của Người, về những biến cố trọng đại cũng như những điều nhỏ mọn nhất. Đối với Thầy, không có giới hạn về sự hiểu biết và thực hành. Đấng dâng lễ Hy Sinh Tình Yêu, một Abraham Thiên Chúa, đã không miễn trừ sự kiện Vật Hy Sinh là Con của Người. Chính Tình Yêu không được thỏa mãn và bị xúc phạm đã đòi hỏi sự sửa chữa và của lễ. Nếu Thầy sống hàng ngàn và hàng ngàn năm, cũng sẽ chẳng là gì, nếu Thầy không hy sinh nhân tính tới thớ thịt sau cùng. Cũng vậy, sẽ chẳng có gì hiện hữu nếu từ đời đời, Thầy đã không nói vâng với Cha Thầy, và sẵn sàng để vâng lời như Thiên Chúa Con và như một người vào lúc mà Cha Thầy cho là chính đáng. Sự vâng lời là đau đớn và vinh quang. Kẻ vâng lời không bao giờ chết, cũng như linh hồn. Thật vậy, Thầy bảo các con rằng những kẻ vâng lời thực sẽ trở nên như những Thiên Chúa sau khi đã chiến đấu liên tục chống lại chính mình, chống lại thế gian và Satan. Vâng lời là ánh sáng. Càng vâng lời, người ta càng được soi sáng và càng nhìn thấy rõ. Vâng lời là kiên nhẫn. Càng vâng lời, người ta càng chịu đựng được các vật và các người. Vâng lời là khiêm nhường. Càng vâng lời, người ta càng khiêm tốn với tha nhân. Vâng lời là bác ái, vì nó là hành động của tình yêu, và càng vâng lời thì các hành động của người ta càng nhiều và trọn hảo. Vâng lời là anh hùng. Kẻ anh hùng trong tâm hồn tức là thánh, là công dân của Nước Trời, là người được thần hóa. Nếu Đức Ái là nơi người ta tìm thấy Thiên Chúa độc nhất và Ba Ngôi, thì trong Đức Vâng Lời, người ta tìm thấy Thầy: Thầy của các con. Hãy làm sao để thế giới nhận ra các con là môn đệ của Thầy bằng một sự vâng lời tuyệt đối về tất cả những gì là thánh. Hãy gọi Judas. Thầy cũng có điều muốn nói với ông ta...
Judas chạy tới. Giêsu chỉ cho ông quang cảnh đang thu hẹp lại từ
463
từ theo đà họ xuống thấp, và Người nói: “ Một dụ ngôn nhỏ cho các con, các vị thầy tương lai của các tâm hồn. Các con sẽ thấy nó rõ ràng hơn theo đà các con leo lên trên đường trọn lành là đường gian lao và nặng nhọc. Chúng ta, trước hết, chúng ta nhìn thấy hai đồng bằng: Đồng bằng Philitin và đồng bằng Saron với nhiều làng mạc, cánh đồng và các vườn cây, tới tận miền xanh lơ ở xa là biển lớn, và núi Carmel xanh ngát ở tận cùng. Bây giờ chúng ta chỉ còn thấy một ít thứ. Chân trời đã thu hẹp, và nó sẽ càng ngày càng thu hẹp cho tới khi biến mất khi chúng ta tới đáy thung lũng. Cũng giống vậy đối với người mà tâm hồn đi xuống thay vì đi lên. Nhân đức và sự khôn ngoan của nó càng ngày càng giới hạn. Sự xét đoán của nó càng ngày càng thu hẹp cho tới khi triệt tiêu. Lúc đó ông thầy của các tâm hồn sẽ chết vì sứ mạng của ông. Ông không còn phân biệt được, cũng không thể dẫn dắt ai nữa. Đó là một xác chết và nó có thể làm hư thối kẻ khác cũng như chính nó hư thối. Sự xuống dốc đôi khi, và hầu như luôn luôn lôi kéo nó, vì nó tìm thấy ở dưới thấp những thỏa mãn cho giác quan. Chúng ta cũng vậy: chúng ta xuống thung lũng để tìm sự nghỉ ngơi và lương thực. Nhưng nếu điều đó là cần cho thân xác, thì nó không cần để làm thỏa mãn khẩu vị của giác quan và sự lười biếng của tâm hồn, bằng cách đi xuống thung lũng của tình dục về tinh thần và siêu nhiên. Chỉ có một thung lũng được phép xuống là thung lũng khiêm nhường, vì chính Thiên Chúa đã xuống đó để chụp lấy các tâm hồn khiêm nhường và đem nó lên với Người. Kẻ tự hạ sẽ được tán dương. Tất cả các thung lũng khác đều nguy chí tử, vì nó xa Trời.
- Chính vì điều này mà Thầy cho gọi con?
- Chính vì đó. Con đã nói rất nhiều với những kẻ hỏi han con.
- Vâng. Nhưng việc đó không khó gì. Họ có đầu óc cứng hơn đầu lừa.
- Và Thầy, Thầy muốn đặt một tư tưởng vào nơi mà tất cả đã ra khỏi, để con có thể nuôi tâm hồn con.
Judas sững sờ nhìn Người. Ông không biết đó là một ơn huệ hay một lời quở trách. Những người khác không biết những đàm thoại của Judas với những người đi theo nhóm họ nên họ không hiểu
464
rằng Giêsu khiển trách Judas vì sự kiêu căng của ông.
Judas muốn khôn khéo dẫn cuộc đàm thoại về một hướng khác, nên ông hỏi: “Thưa Thầy, Thầy nghĩ thế nào về những người Rôma đó, cũng như cái ông ở Pêtra. Có bao giờ họ đạt tới giáo lý của Thầy không? Họ qúa ít giao tiếp với Thầy; và cả cái anh Alexandre nữa. Anh ta đi... chúng ta không gặp anh ta nữa. Và những người sau cùng này cũng vậy. Người ta nói rằng nơi họ có sự tìm kiếm chân lý theo bản năng. Nhưng họ dìm ngập tới cổ trong ngẫu tượng giáo. Có bao giờ họ kết thúc bằng một cái gì tốt không?
- Con muốn nói là tìm thấy Chân Lý?
- Thưa Thầy vâng.
- Tại sao họ lại phải không thành công?
- Bởi vì đó là những người tội lỗi.
- Chỉ có họ là người tội lỗi thôi sao? Không có trong số chúng ta sao?
- Rất nhiều. Con nhìn nhận vậy. Nhưng chính là con nói rằng nếu chúng ta, đã được nuôi dưỡng bằng sự khôn ngoan và chân lý từ bao thế kỷ nay mà chúng ta còn tội lỗi, không sao để trở nên công chính và theo giáo lý của Thầy được, thì họ, những người bão hòa sự ô uế, làm sao họ có thể làm?
- Mọi người đều có thể đạt tới và chiếm hữu Chân Lý, tức là Thiên Chúa, dù họ khởi đầu ở bất cứ điểm nào. Khi họ không kiêu căng trong tâm hồn và không đồi trụy trong thân xác, họ tìm ánh sáng và chân lý với ý hướng trong sạch và khát vọng về Thiên Chúa, thì chắc chắn họ ở trên đường của Thiên Chúa.
- Kiêu căng trong tâm hồn... Đồi trụy trong thần xác... thưa Thầy... vậy là...
- Tư tưởng của con tốt. Tiếp tục đi.
Judas kiếm cớ loanh quanh, rồi ông nói: “Vậy là họ không thể đến với Thiên Chúa, vì đó là những kẻ trụy lạc”.
- Judas, đó không phải là điều con muốn nói. Tại sao con bịt miệng tư tưởng và lương tâm của con? Ôi! Con người khó lên với Thiên Chúa chừng nào! Và trở ngại lớn nhất ở ngay trong bản thân
465
nó. Nó không muốn suy nghĩ về chính mình để nhận ra các khuyết điểm của mình. Thực sự người ta cũng hay vu khống cho Satan bằng cách đổ cho nó là nguyên nhân của mọi sụp đổ thiêng liêng. Và người ta vu khống cho Thiên Chúa còn nhiều hơn nữa bằng cách gán cho Người mọi biến cố. Thiên Chúa không cưỡng bách tự do của con người. Satan không thể thắng một ý chí vững vàng trong điều thiện. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng bảy mươi phần trăm người ta phạm tội là bởi ý muốn riêng của họ. Và - người ta không ngờ, nhưng sự thực là như vậy - và họ không chỗi dậy khỏi tội lỗi vì họ từ chối xét mình. Và cả khi lương tâm của họ, bởi một cử động bất ngờ nào đó, nổi dậy trong họ để kêu lên sự thật mà họ không muốn suy niệm, thì họ cũng bóp nghẹt tiếng kêu này; họ vô hiệu hóa sự trình bày được dựng lên trước tâm hồn nghiêm khắc và khổ sở của họ. Họ cố làm hư hỏng tư tưởng được gợi ra bởi tiếng nói kết án, và từ chối nói, ví dụ nói câu: “Chúng ta - hay tôi - không thể đạt tới chân lý, vì tôi kiêu căng trong tâm hồn và đồi trụy trong thân xác”. Đúng, thực vậy, ở giữa chúng ta, người ta không tiến tới đường lối của Thiên Chúa, bởi vì ở giữa chúng ta có sự kiêu căng trong tâm hồn và sự đồi trụy trong thân xác. Một sự kiêu căng thực sự đua tranh với sự kiêu căng của Satan, tới độ nó xét đoán hay cản trở các hành động của Thiên Chúa khi chúng trái ngược với những lợi lộc của mình hay của bè đảng. Và cái tội này làm cho nhiều người trong Israel bị kết án đời đời.
- Nhưng đâu phải tất cả chúng con đều như vậy.
- Không. Cũng còn những tâm hồn tốt trong mọi tầng lớp, đông hơn nơi những người nghèo và đám dân thường, ít hơn nơi những người thông thái và những người giầu có. Nhưng vẫn có. Tuy nhiên, được bao nhiêu so với dân Palestin này mà từ xấp xỉ ba năm nay, Thầy đã rao giảng Tin Mừng, đã đổ đầy ơn lành, và vì họ, Thầy đã mỏi mệt? Có nhiều ngôi sao trong đêm mây mù hơn là số tâm hồn trong Israel quyết định vào Nước Thầy.
- Các dân ngoại, những người dân ngoại này, họ có vào đó được không?
466
- Không phải tất cả, nhưng rất nhiều. Và ngay cả chính các môn đệ của Thầy, cũng không phải tất cả đều kiên trì tới cùng. Nhưng chúng ta đừng bận tâm tới các trái khô đã rụng xuống khỏi cành. Chúng ta hãy tìm cách làm cho chúng không khô héo bao lâu có thể, bằng các phương tiện: êm đềm, cương quyết, quở trách, tha thứ, kiên nhẫn và bác ái. Rồi khi họ nói “không” với Thiên Chúa và với các anh em muốn cứu họ, và khi họ phó mình vào tay Sự Chết, Satan, bằng cách chết mà không sám hối, thì chúng ta hãy cúi đầu dâng cho Thiên Chúa sự đau khổ của chúng ta, vì đã không dâng cho Người niềm vui cứu rỗi linh hồn này. Hết mọi vị thầy đều biết sự thất bại này, và nó cũng dùng để hạ thấp sự kiêu căng của các bậc thầy thiêng liêng, và để chứng tỏ sự kiên trì của họ trong sứ mạng. Sự thất bại không được làm mệt mỏi ý chí của nhà giáo dục thiêng liêng, mà trái lại, nó phải thúc đẩy họ làm nhiều hơn và làm tốt hơn trong tương lai.
- Tại sao Thầy nói với tên tiểu đội trưởng rằng Thầy sẽ gặp hắn trên một ngọn núi? Làm sao Thầy biết được điều đó?
Giêsu nhìn Judas bằng cái nhìn kéo dài và kỳ lạ, với sự buồn bã pha lẫn vào nụ cười, và Người nói: “Bởi vì ông ta sẽ là một trong những người hiện diện trong sự nâng lên của Thầy, và ông ta sẽ nói với vị tiến sĩ vĩ đại của Israel một lời nghiêm khắc của sự thật. Rồi kể từ lúc đó, ông sẽ bước đi vững vàng về với ánh sáng. Nhưng đây, chúng ta đã tới Gabaon. Phêrô với bảy người khác hãy đi rao giảng Thầy. Thầy sẽ nói ngay để giải tán những người làng bên cạnh đã đi theo Thầy. Những người khác sẽ ở lại với Thầy cho tới sau ngày Sabát. Con, Judas, con ở lại với Mathêu, Simon, và Batôlômêo
Tôi không nhận ra tên tiểu đội trưởng là một trong những người đã hiện diện trong lúc đóng đanh. Nhưng khi nghe nhận xét của Giêsu, tôi phải nói rằng lúc đó tôi không phân biệt họ được nhiều. Đối với tôi, đó là một toán lính được chỉ định cho công việc, không có gì hơn. Ngoài ra, khi tôi đã có thể quan sát rõ hơn, vì vào lúc “mọi sự đã hoàn tất”, có rất ít ánh sáng, nên chỉ các khuôn mặt rất quen mới nhận ra được. Nhưng dựa theo lời của Giêsu, tôi nghĩ đó là người lính đã nói với Gamaliel những lời mà tôi không nhớ, nhưng tôi không thể kiểm tra, vì tôi có một mình, nên tôi không thể xin ai lấy cho tôi các cuốn vở viết về cuộc tử nạn.
467
213* TẠI GABAON
Gabaon tọa lạc trên đỉnh một ngọn đồi có sườn thoai thoải, ít cao, đơn độc giữa một đồng bằng rất mầu mỡ. Về mùa xuân, mùa hè và mùa thu, chắc hẳn nó là một thành phố thanh nhã, thoáng khí, vui hưởng một phong cảnh tuyệt vời. Các căn nhà nhỏ hầu như nấp trong mầu xanh của các cây không thay lá đủ loại, lẫn lộn với các cây bây giờ đã trụi lá bởi mùa này. Vào mùa đẹp trời, chắc chắn những cây này biến ngọn đồi thành một đám mây hoa nhẹ nhàng, và sau đó là mùa trái chiến thắng. Bây giờ, trong mầu xám của mùa đông, nó để lộ các sườn đồi được gạch sọc bằng những hàng nho trụi lá và các dẫy oliu mầu xám, hoặc lốm đốm bởi các vườn cây trụi lá với các thân cây mầu tối. Nhưng thành phố đẹp, thoáng khí, con mắt được nghỉ ngơi trên các sườn đồi và các đồng bằng được canh tác.
Giêsu đi tới một bồn nước rất lớn, hay là cái giếng. Nó nhắc tôi nhớ tới cái giếng ở Samari hay giếng ở En Rogel, hoặc nữa là các bể chứa ở gần Hébron.
Rất nhiều người vội vã kín nước chừa cho ngày Sabát đã gần tới; những người khác lo cho xong các việc sau cùng. Những người đã xong các việc thì họ đã bắt đầu nghỉ ngơi ngày Sabát.
Trong đám họ có tám vị tông đồ rao giảng Thầy. Họ đã có những thành công, vì tôi thấy họ dẫn về những người bệnh và tụ họp các người hành khất cũng như những người đến từ nhà họ.
Khi Giêsu đặt chân vào khu vực có bể nước thì những tiếng xì xèo biến thành tiếng hô nhộn nhịp: “Vạn tuế! Vạn tuế! Con vua Đavít đang ở giữa chúng ta! Chúc tụng Đấng Khôn Ngoan đã tới nơi Người được kêu cầu”.
- Hãy được chúc phúc, các con là những kẻ tiếp đón Người. Bình an! Bình an và phúc lành - Rồi lập tức, Người đến với các bệnh nhân và các người tàn tật vì tai nạn hay vì bệnh hoạn, và những
468
người không thể thiếu là mù, hoặc gần mù, và người chữa cho họ.
Thật là đẹp, phép lạ cho đứa trẻ câm mà mẹ nó vừa khóc vừa giơ nó cho Người. Giêsu chữa nó bằng một cái hôn trên miệng. Cái hôn dùng làm lời đã được ban cho nó bởi đấng là Lời, để nó kêu lên hai tiếng đẹp nhất: “Giêsu! Má!” Và từ cánh tay của mẹ nó, vì bà giữ nó cao ở bên trên đám đông, nó trượt vào tay Giêsu, ôm chặt lấy cổ Người cho tới khi Giêsu trả nó lại cho bà mẹ sung sướng của nó. Bà giải thích với Giêsu rằng đứa trẻ này là con đầu lòng của bà, và cha mẹ nó đã quyết định trong lòng ngay từ trước khi nó sinh ra, là sẽ cho nó làm thầy Lêvi. Bây giờ nó có thể làm, vì nó không còn khuyết tật: “Không phải là cho con mà con đã xin Chúa cùng với ông chồng Joakim của con, nhưng là để cho nó phụng sự Chúa. Và không phải là để cho nó gọi con là mẹ, và để nó nói là nó yêu con, mà con đã xin lời cho nó. Đôi mắt của nó và những cái hôn của nó đã nói với con điều đó. Nhưng con xin cho nó để nó có thể, như một con chiên không tì vết, được dâng trọn vẹn cho Chúa và ngợi khen danh Người”
Giêsu trả lời: “Chúa đã nghe những lời của tâm hồn nó, bởi vì nó cũng như mẹ nó, đã chuyển những tình cảm thành lời nói và hành động. Ước ao của bà tốt, và Đấng Tối Cao đã chấp nhận. Bây giờ hãy giáo dục con bà cho lời ca ngợi trọn vẹn, và để nó được trọn lành trong việc phụng sự Chúa”.
- Thưa rabbi, vâng. Nhưng Thầy, xin Thầy nói cho con, con phải làm gì?
- Hãy làm cho nó yêu Chúa là Thiên Chúa với tất cả con người của nó, rồi tự nhiên trong lòng nó sẽ nở ra lời ca ngợi hoàn toàn, và nó sẽ trọn hảo trong việc phục vụ Thiên Chúa của nó.
- Ôi rabbi, Thầy nói rất đúng. Sự khôn Ngoan ở trên môi Thầy. Con xin Thầy cũng nói với tất cả chúng con nữa - một bậc vị vọng Gabaon nói. Ông rẽ ra một lối đi để đến tận bên Giêsu và mời Người vào giáo đường. Chắc đó là ông trưởng giáo đường.
Giêsu đi tới đó. Mọi người đi theo. Nhưng vì không thể vào đó hết mọi người dân thành cùng với những người đã theo Giêsu rồi,
469
nên Người nhận lời khuyên của ông trưởng giáo đường để nói từ trên sân thượng của căn nhà kề cận với giáo đường. Đó là căn nhà rộng và thấp, hai bên là hai tấm thảm xanh bằng những cây lài trồng sát vào nhau.
Tiếng nói của Giêsu mạnh và du dương lan trong không khí yên lặng của buổi chiều đang xuống, vang qua quảng trường và ba đường phố đổ vào đó, trong khi một mặt biển của các đầu người ngửa mặt lên để nghe:
- Người đàn bà của thành phố các con đã ao ước tiếng nói cho con trai bà, không phải để được nghe từ cặp môi của con bà những lời êm ái, mà là để nó có đủ khả năng phục vụ Thiên Chúa. Việc này nhắc Thầy nhớ lại một lời xa xưa, được phát ra từ cặp môi của một đại nhân vật của chính thành phố này. Thiên Chúa đã nhận lời đó cũng như lời của người đồng hương với các con, vì ở trong cả hai, Người thấy lời cầu xin phù hợp với sự công chính, một sự công chính phải có trong hết mọi lời cầu nguyện để tìm được sự chấp nhận và ơn phúc nơi Thiên Chúa. Cái gì là cần thiết trong cuộc đời để sau đó được phần thưởng đời đời trong đời sống thực, vô tận, hạnh phúc vĩnh cửu? Phải yêu Chúa hết sức mình và yêu tha nhân như chính mình. Đó là điều cần thiết nhất để được Thiên Chúa là bạn, và được ân huệ và phúc lành của Người. Khi Salômôn đã trở thành vua sau cái chết của Đavít, đảm nhận quyền bính, ông đã lên thành phố này, nơi ông đã dâng nhiều lễ hy sinh. Và đêm đó, Đấng Tối Cao đã hiện ra với ông để nói: “Hãy xin điều gì con muốn nơi Ta”. Đó là sự nhân hậu cao cả của Thiên Chúa, và một thử thách lớn về phía loài người. Vì mọi ơn đều phù hợp với một trách nhiệm lớn đối với kẻ nhận ơn. Ơn càng lớn thì trách nhiệm càng lớn. Và đây là một thử thách về trình độ đào tạo mà tâm hồn ông đã đạt tới. Nếu một tâm hồn đã được đầy tràn ơn lành của Thiên Chúa, mà thay vì nên toàn thiện, lại đi xuống về phía vật chất, là nó đã hỏng cuộc thử thách, và bởi đó, nó chứng tỏ mình không có đào tạo hay đào tạo không đủ. Có hai điều cho biết gía trị tinh thần của một người: cách nó xử sự lúc vui và cách nó xử sự trong lúc đau đớn.
470
Chỉ những kẻ được đào tạo trong sự công chính mới biết ở khiêm nhường trong vinh quang, trung thành trong niềm vui, biết ơn và kiên trì cả sau khi đã nhận ơn, cả khi họ không còn ước ao điều gì nữa. Kẻ biết kiên trì, trung thành yêu mến Thiên Chúa của họ khi mọi khó khăn trút đổ trên họ, kẻ đó thực sự là thánh.
- Thưa Thầy, con có thể hỏi một điều không? - một người dân Gabaon nói.
- Nói đi.
- Tất cả những điều Thầy nói đều thực. Và nếu con hiểu đúng thì Thầy muốn nói rằng Salômôn đã thắng thử thách cách vẻ vang. Nhưng rồi sau đó ông lại phạm tội. Bây giờ xin Thầy nói cho con: Tại sao Thiên Chúa lại đổ tràn ơn cho ông như vậy nếu sau đó ông phạm tội? Chắc chắn Chúa biết tội lỗi trong tương lai của vua, vậy tại sao Người lại nói với ông: “Hãy xin Ta cái gì con muốn”? Như vậy là tốt hay xấu?
- Luôn luôn là tốt, vì Thiên Chúa không làm các hành động xấu.
- Nhưng Thầy đã nói rằng mọi ơn đều phù hợp với trách nhiệm. Salômôn đã xin, và đã được khôn ngoan...
- Con muốn nói rằng ông có trách nhiệm phải khôn ngoan, nhưng ông đã không vậy? Đúng thế. Và Thầy bảo con rằng việc thiếu sót của ông đối với sự khôn ngoan đã bị phạt, và phạt cách công bằng. Nhưng hành động Thiên Chúa ban cho ông sự khôn ngoan mà ông đã xin là tốt; và cũng là tốt, hành động Salômôn đã xin sự khôn ngoan chứ không xin các thứ vật chất. Và vì Thiên Chúa là Cha, và Người công bằng, vào lúc ông sai lỗi, Người đã tha một phần lớn tội lỗi khi nhớ lại là kẻ có tội trước đó đã biết yêu sự khôn ngoan hơn mọi thứ khác và mọi người khác. Một hành động đã làm giảm bớt một hành động khác. Hành động tốt làm trước khi phạm tội vẫn tồn tại, và nó có giá trị để được sự tha thứ, nhưng chỉ được khi kẻ có tội sám hối sau khi phạm tội. Chính vì vậy, Thầy bảo các con rằng: Đừng bỏ qua dịp để làm các hành động tốt, để nó sẽ như món đền bù tội lỗi của các con khi nhờ ơn Chúa, các con sám hối.
Các hành động tốt, cho dù đã qua, và bởi đó người ta nghĩ lầm
471
rằng nó không làm việc nữa nơi chúng ta để tạo ra một khích lệ mới và một sức mạnh mới cho điều lành, nhưng nó vẫn luôn luôn hoạt động. Đó là cái kỷ niệm chỗi dậy tận đáy linh hồn đã bị giảm giá, nó gây nên sự hối tiếc thời kỳ họ còn tốt. Và sự hối tiếc thường là bước đầu trên con đường trở về với sự công chính. Thầy đã nói một ly nước cho kẻ khát uống vì tình yêu cũng không mất phần thưởng. Đôi khi phần thưởng là sự trở về đàng lành, được tạo ra bởi kỷ niệm về hành động này, hoặc bởi những lời của người anh em bị khát, những tình cảm của con tim vào lúc đó: con tim đã cho kẻ khát uống nhân danh Thiên Chúa và bởi tình yêu. Và đây, tiếp theo những kỷ niệm, Thiên Chúa sẽ trở lại như mặt trời mọc sau đêm tối, để rạng rỡ ở chân trời của tâm hồn tội nghiệp đã mất Người, và bị thôi miên bởi sự hiện diện khôn tả của Người, nó sẽ khiêm nhường kêu lên: “Cha ơi! Con đã phạm tội. Xin tha! Con lại yêu Cha”.
Tình yêu đối với Thiên Chúa là khôn ngoan, và là sự khôn ngoan của mọi khôn ngoan, vì kẻ yêu thì biết tất cả và có tất cả. Ở đây, trong khi chiều đang xuống, và gió chiều làm lạnh run các cơ thể dưới y phục, làm rung rinh các ngọn đuốc mà các con đã đốt lên, Thầy không nói với các con điều các con đã biết rồi: đoạn Sách Khôn Ngoan mô tả Salômôn đã được sự khôn ngoan như thế nào, và lời cầu xin mà ông đã nói để được nó. Nhưng khi nhớ đến Thầy, con đường vững chắc, ánh sáng hướng dẫn các con, Thầy khuyến khích các con suy niệm những trang này cùng với ông trưởng giáo đường của các con. Sách Khôn Ngoan phải là luật của đời sống thiêng liêng. Giống như bàn tay người mẹ, nó phải hướng dẫn các con và đem các con tới sự hiểu biết hoàn toàn về các nhân đức và về giáo lý của Thầy, vì sự khôn ngoan chuẩn bị con đường cho Thầy, và làm cho người ta, “các tôi tớ và con của nữ tì Thiên Chúa, với cuộc đời ngắn ngủi, không có khả năng hiểu các xét đoán và các luật”, thành những thần thánh trong Thiên Đàng của Thiên Chúa.
Trước hết, hãy tìm sự khôn ngoan để tôn vinh Thiên Chúa, và các con sẽ được nghe Người nói trong ngày vĩnh cửu: “Vì con đã có
472
điều đó, nhất là ở trong lòng, chứ không phải sự giầu sang, của cải, vinh quang, sống lâu hay toàn thắng trên kẻ thù, vậy Ta ban cho con sự Khôn Ngoan”, tức là chính Thiên Chúa, vì Thần Trí Khôn Ngoan chính là Thần Trí Thiên Chúa. Trước hết, hãy tìm sự khôn ngoan thánh, và Thầy nói với các con: tất cả những thứ khác sẽ được ban cho các con theo cách mà không nhân vật lớn nào trên thế giới có thể kiếm được. Hãy yêu Thiên Chúa. Hãy chỉ lo lắng để yêu Người. Hãy yêu tha nhân để tôn vinh Thiên Chúa. Hãy hiến thân phụng sự Thiên Chúa, hiến thân cho chiến thắng của Người trong các tâm hồn. Hãy hoán cải những người không phải là bạn của Thiên Chúa và đem họ về cho Người. Hãy thánh. Hãy tích góp các công việc thánh để bảo vệ các con chống lại những yếu đuối mà con người có thể có. Hãy trung thành với Chúa. Đừng chỉ trích người sống cũng như kẻ chết, nhưng hãy cố gắng bắt chước những người tốt, không phải vì niềm vui của các con trên mặt đất, mà vì niềm vui của Thiên Chúa. Hãy xin cùng Thiên Chúa các ơn, và các con sẽ được ban.
Chúng ta đi. Ngày mai chúng ta sẽ cầu nguyện chung với nhau, và Thiên Chúa sẽ ở với các con.
Giêsu chúc lành cho họ và giải tán họ.
214* KHI TRỞ LẠI JÊRUSALEM
Gió ẩm và lạnh lướt trên các ngọn đồi và đẩy lên trời những khối mây mầu xám. Mọi người đều bọc thân trong áo khoác dầy và nặng của họ. Giêsu và nhóm mười hai cùng với Étienne từ Gabaon đi xuống bởi con đường dẫn tới đồng bằng. Họ nói chuyện với nhau trong khi Giêsu yên lặng trầm tư, như xa xôi đối với những gì ở chung quanh. Người như vậy cho tới khi gặp một ngã tư ở lưng chừng đồi, có thể nói là ở gần chân đồi. Người nói: “Hãy đi phía này, và chúng ta về Nobê”.
- Thế nào? Thầy không trở về Jêrusalem sao? - Iscariot nói.
473
- Nobê và Jêrusalem hầu như là một đối với người có thói quen đi bộ. Nhưng Thầy thích ở Nobê hơn. Con không thích à?
- Ôi! Thưa Thầy, đối với con, chỗ nọ hay chỗ kia... Đúng ra, con không thích là Thầy qúa ít hiện diện ở những nơi thuận lợi. Thầy đã nói nhiều ở Beteron, nơi chắc chắn không phải là bạn của Thầy. Con nghĩ Thầy phải làm ngược lại: hãy luôn luôn tìm cách lôi kéo những thành phố mà Thầy thấy rằng thuận lợi, làm cho chúng thành những... phòng thủ chống lại các thành bị thống trị bởi các kẻ thù nghịch với Thầy. Thầy biết nó quan trọng chừng nào, sự cần thiết phải có các thành phố kế cận với Jêrusalem vào phe với Thầy? Sau cùng, Jêrusalem đâu phải là tất cả. Cả những nơi khác cũng có thể quan trọng, và sự quan trọng của chúng làm áp lực trên các ý muốn của Jêrusalem. Thường thường các vua được tuyên dương trong những thành phố trung thành nhất, và các thành phố khác phải chịu nhận một khi sự tuyên dương đã được công bố.
- Khi họ phản động thì lúc đó là cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Tôi tin rằng Đức Messi không muốn bắt đầu triều đại của Người bằng một cuộc nội chiến - Philíp nói.
- Thầy chỉ muốn một điều: Chớ gì nó bắt đầu ở trong các con cái nhìn chính đáng về các sự việc. Nhưng các con chưa có cái nhìn này... Vậy bao giờ các con mới hiểu?
Đoán rằng có lẽ sắp có một lời quở trách, nên Iscariot hỏi: “Vậy tại sao ở Gabaon Thầy nói ít qúa vậy?”
- Thầy thích nghe và nghỉ ngơi. Các con không hiểu rằng Thầy cũng cần nghỉ ngơi sao?
- Chúng ta có thể dừng lại đó và làm vui lòng họ. Nếu Thầy mệt, tại sao Thầy lại lên đường? - Batôlômêo hỏi.
- Không phải là Thầy mệt ở tứ chi. Thầy không cần dừng lại cho chúng nghỉ. Chính là con tim của Thầy mệt và nó cần nghỉ. Và Thầy tìm thấy chỗ nghỉ ở nơi nào có tình yêu. Có lẽ các con nghĩ rằng Thầy vô cảm đối với bấy nhiêu thù ghét? Rằng sự từ chối không làm Thầy buồn? Các con nghĩ rằng Thầy vô cảm đối với những âm mưu chống lại Thầy? rằng sự phản bội của kẻ giả vờ là
474
bạn Thầy, mà thật ra là do thám của kẻ thù của Thầy, được đặt ở bên cạnh Thầy để...
- Chúa ơi! Điều đó không bao giờ có. Cả đến Thầy không nên giả tỉ. Nói như vậy là Thầy xúc phạm đến chúng con! - Iscariot phản đối với sự phẫn uất khổ sở hơn tất cả những người khác, mặc dầu tất cả đều phản đối và nói: “Thưa Thầy, Thầy làm khổ chúng con bằng những lời này. Thầy nghi ngờ chúng con”. Và Giacôbê Zêbêđê xung động, la lên: “Con, con chào Thầy! Con trở về Caphanaum đây. Qủa tim tan nát, nhưng con đi. Và nếu Caphanaum không đủ, con sẽ đi các nơi khác. Con sẽ đi với các dân chài tới Tyr và Sidon; con sẽ đi Cintium. Con sẽ đi, con không biết đi đâu, nhưng đi xa tới nỗi Thầy không thể nghĩ được rằng con phản bội Thầy. Xin Thầy cho con phúc lành của Thầy làm lộ phí!”
Giêsu ôm ông và nói: “Bình an, tông đồ của Thầy! Có rất nhiều người xưng mình là bạn Thầy chứ đâu phải chỉ có mình các con. Các lời Thầy làm con khổ, nó làm các con khổ. Nhưng Thầy phải trút sự lo âu của Thầy, và Thầy tìm sự củng cố trong các qủa tim nào, nếu không là trong con tim các tông đồ yêu dấu và các môn đệ chắc chắn của Thầy. Thầy tìm nơi các con một phần của sự kết hợp mà Thầy đã bỏ để kết hợp với loài người: sự kết hợp với Cha Thầy ở trên Trời; và tìm một giọt của tình yêu mà Thầy đã lìa xa vì yêu loài người: tình yêu của mẹ Thầy. Thầy tìm nó để nâng đỡ mình. Ôi! Làn sóng cay đắng, các sức nặng tàn nhẫn dã man nó xâm chiếm Thầy và chèn ép trên qủa tim Thầy, trên Con Người!... Cuộc tử nạn của Thầy, giờ của Thầy, nó càng lúc càng đầy... Các con hãy giúp Thầy chịu đựng, làm trọn... bởi vì nó rất đau đớn!
Các tông đồ nhìn nhau, cảm động vì sự đau đớn sâu xa rung động trong các lời nói của Thầy, và họ không biết làm gì hơn là ép sát vào Người, vuốt ve Người, ôm Người... Bởi thế có cùng một lúc cái hôn của Judas ở bên phải, và của Gioan ở bên trái khuôn mặt của Giêsu. Người nhắm mắt để giấu đôi mắt trong khi Judas Iscariot và Gioan hôn Người...
Họ lại lên đường và Giêsu có thể hoàn tất tư tưởng của Người
475
đã bị gián đoạn: “Trong sự lo âu qúa lớn lao, trái tim Thầy tìm những nơi nó thấy có tình yêu và sự nghỉ ngơi. Nơi mà, thay vì nói với những cục đá khô khan, hoặc với rắn độc nham hiểm, hay với các con bướm hững hờ, nó có thể nghe thấy những lời của các con tim khác và tự an ủi, vì nó cảm thấy họ chân thành, yêu thương, công chính. Gabaon là một trong những nơi này. Thầy chưa bao giờ tới đó, nhưng Thầy tìm thấy ở đó một cánh đồng được cày bừa và gieo hạt bởi những người thợ tuyệt vời của Thiên Chúa. Ông trưởng của ngôi giáo đường đó! Ông đến với Ánh Sáng, nhưng tâm hồn ông đã rực rỡ rồi. Một người tôi tớ tốt của Thiên Chúa có thể làm gì! Chắc chắn Gabaon không tránh được những âm mưu của các kẻ ghét Thầy. Người ta cũng sẽ cố gắng len lỏi để làm hư hỏng ở cả đó nữa. Nhưng họ có một ông trưởng giáo đường là người công chính, nên ở đó, nọc độc của điều ác bị mất tính độc hại của nó. Các con nghĩ rằng Thầy thấy dễ chịu để luôn luôn sửa sai, khiển trách, kể cả lên án sao? Đối với Thầy, thật êm đềm hơn khi có thể nói: “Con đã hiểu sự khôn ngoan. Hãy tiến trên đường của con, và con sẽ thánh”, như Thầy đã nói với ông trưởng giáo đường Gabaon.
- Vậy chúng ta sẽ trở lại đó?
- Khi Chúa Cha cho Thầy tìm được một nơi bình an thì Thầy vui hưởng nó và Thầy chúc tụng Chúa Cha vì nó. Nhưng không phải vì vậy mà Thầy đến. Thầy đến để hoán cải về cho Chúa những nơi tội lỗi và ở xa Người. Các con thấy rằng Thầy có thể ở lại Bêtani, nhưng Thầy không ở lại đó.
- Nhưng cũng là để khỏi làm phiền Lazarô.
- Không, Judas Simon. Ngay cả đá sỏi cũng biết Lazarô là bạn Thầy. Cũng vì lẽ đó, sẽ vô ích là Thầy kìm hãm sự ước ao được khích lệ của Thầy. Nhưng là vì...
- Là vì các cô em của Lazarô, đặc biệt là Maria.
- Cũng không phải, Judas Simon. Cả đá sỏi cũng biết rằng sự dâm ô của xác thịt không làm Thầy xao xuyến. Hãy lưu ý là trong số vô vàn điều kết tội mà người ta làm cho Thầy, cái thứ nhất bị rớt là điều đó. Ngay cả các đối thủ hung hăng nhất của Thầy cũng
476
hiểu rằng chủ trương điều đó là lột mặt nạ cái thói quen dối trá của họ. Không ai trong số những người thật thà có thể tin rằng Thầy dâm đãng. Sự dâm ô chỉ lôi kéo được những kẻ không nuôi mình bằng những của siêu nhiên và ghê sợ sự hy sinh. Nhưng với kẻ hiến thân hy sinh, với kẻ là Lễ Vật Hy Sinh, con nghĩ cái chỉ làm cho vui thú trong một giờ có gì là hấp dẫn đối với họ? Sự vui thích của tâm hồn hy sinh hoàn toàn ở trong thần trí, và nếu nó mặc một thân xác, thì thân xác chỉ là cái áo. Con nghĩ y phục chúng ta mặc nó có cảm giác không? Thân xác đối với kẻ sống bằng tâm hồn cũng thế: một cái áo, không có gì hơn. Con người siêu nhiên thực sự là một siêu nhân, vì họ không làm nô lệ cho giác quan, trong khi con người vật chất là kẻ vô giá trị so với phẩm giá thực sự của con người, vì họ có qúa nhiều thèm khát làm cho họ giống như một vật sơ khai, và cả đến còn thấp hơn vật sơ khai, vì họ đi qua từ bản năng tự nhiên xuống tới loài vật thoái hóa đê hèn.
Judas phân vân, cắn môi, rồi ông nói: “Đúng, vả lại, Thầy sẽ không thể làm phiền Lazarô nữa. Không còn bao lâu, cái chết sẽ loại trừ cho ông mọi nguy hiểm của báo thù... Vậy tại sao Thầy không năng tới Bêtani hơn?”
- Bởi vì Thầy không đến để vui hưởng, nhưng để hoán cải. Thầy đã nói vậy với con rồi.
- Tuy nhiên... Thầy vui hưởng có các anh Thầy ở với Thầy?
- Đúng. Nhưng cũng thực là Thầy không có ưu tiên nào cho họ cả. Khi chúng ta phải phân tán để tìm chỗ trong các nhà, thường thường họ không ở với Thầy, nhưng là các con. Và như vậy để chứng tỏ cho các con thấy rằng trước mắt và trước thần trí của kẻ hiến thân cứu chuộc thì xác thịt và máu huyết không có giá trị, nhưng điều duy nhất có giá trị là sự đào tạo các tâm hồn và sự cứu chuộc họ. Bây giờ chúng ta sắp vào Nobê và chúng ta lại phân tán để ngủ. Thầy còn giữ con với Thầy, và Thầy cũng giữ Mathêu, Philíp và Batôlômêo.
- Có lẽ chúng con ít được đào tạo hơn, đặc biệt là con, nên Thầy luôn luôn giữ ở gần Thầy?
477
- Con đã nói đúng, Judas Simon.
- Cám ơn Thầy. Con hiểu - Iscariot nói với sự tức giận không sao kìm hãm được.
- Nếu con đã hiểu, tại sao con không cố gắng tự đào tạo? Con tin rằng để không làm bỉ mặt cho con, Thầy có thể nói dối sao? Lại nữa, chúng ta là anh em. Khuyết điểm của một người không thể là đề tài để chế diễu, không được là nguyên do để nản lòng vì sự khuyến cáo được làm trước mặt các người khác, vì đã biết nhau cách hỗ tương là mỗi người trong anh em đều có điều gì khiếm khuyết. Không ai trọn lành cả. Chính Thầy đã nói điều đó với các con. Nhưng ngay cả những bất toàn của mỗi người, rất nặng nề khi nhìn thấy và chịu đựng, cũng phải tạo ra được sự tu chỉnh cho chính mình, để không làm tăng trưởng những phiền phức hỗ tương. Và Judas, hãy tin Thầy, mặc dù Thầy nhìn thấy hết những gì con là, nhưng không có ai, kể cả mẹ con, yêu con như Thầy yêu con, và không ai cố gắng để làm cho con nên tốt như Giêsu của con.
- Nhưng, trong khi chờ đợi, Thầy khiển trách con và làm bẽ mặt con ngay cả trước mặt một môn đệ.
- Có phải đây là lần đầu tiên Thầy kêu gọi con tới sự công chính không? - Judas nín lặng. “Trả lời đi, Thầy nói với con!” Giêsu nói cách hách dịch.
- Không.
- Vậy bao nhiêu lần Thầy đã làm công khai? Con có thể nói được rằng Thầy đã bao phủ con bằng sự xấu hổ không? Hay con phải nói rằng Thầy đã che chở cho con và bảo vệ con? Nói đi!
- Thầy đã bảo vệ con, đúng vậy. Nhưng bây giờ...
- Nhưng bây giờ là vì sự lành cho con. Tục ngữ nói rằng kẻ vuốt ve một đứa con có tội thì sau đó sẽ phải băng bó vết thương cho nó. Và một câu tục ngữ khác nói rằng một con ngựa không trị sẽ trở thành con ngựa bất trị; đứa con thả lỏng cho chính mình sẽ trở thành kẻ vong mạng.
- Nhưng có lẽ con là con của Thầy sao? - Judas hỏi trong khi sự giận dữ đã dịu lại trên khuôn mặt của ông để ghi dấu sự hối hận
478
của ông.
- Nếu Thầy đã sinh ra con thì con cũng không thể được hơn, và Thầy sẽ moi lòng dạ của Thầy ra để cho con qủa tim của Thầy, để làm cho con nên như Thầy muốn.
Judas có một trong các lần qui hồi của ông... và chân thành, thực sự chân thành, ông lăn vào cánh tay Giêsu và kêu lên: “A! Con không xứng đáng với Thầy! Con là thằng qủi và con không xứng đáng với Thầy! Thầy qúa tốt! Cứu con với Giêsu!” Và ông khóc, ông khóc thực sự với những giọt nước mắt xao xuyến của một con tim rối bời vì những thứ không tốt, và bởi những đối chọi của nó với sự hối hận vì đã làm khổ cho kẻ yêu nó.
215* TA LÀ MỤC TỬ TỐT.
Giêsu vào thành bằng cổng Hêrôđê. Người đang đi qua cổng để đi về phía Tiropéon và khu Ophel.
- Chúng ta có lên Đền Thờ không? - Iscariot hỏi.
- Có.
- Cẩn thận điều Thầy làm! - nhiều người nói để cảnh cáo Người.
- Thầy chỉ ở lại đó thời gian để cầu nguyện.
- Họ sẽ giữ Thầy lại.
- Không. Chúng ta sẽ vào bằng cửa bắc và ra bằng cửa nam. Họ
sẽ không có giờ để tổ chức quấy rối Thầy, nếu không có kẻ nào luôn luôn ở sau lưng Thầy để canh chừng và tố giác Thầy.
Không có ai đối đáp. Giêsu tiến về Đền Thờ đang hiện ra trên đỉnh đồi của nó như một thứ ma quái, trong ánh sáng xanh vàng của một buổi sáng mùa đông tối trời, mà mặt trời chỉ còn là một kỷ niệm, dù nó khăng khăng ra mặt bằng cách tìm một lối đi xuyên qua các khối mây dầy nặng: một cố gắng vô ích! Sự rực rỡ vui tươi của bình minh giảm thiểu thành một tia trắng xanh, với mầu vàng không thực, không khuyếch tán mà chỉ vạch một giải mầu chì với những tia sọc xanh ve. Dưới ánh sáng này, các khối vàng của Đền
479
Thờ hiện ra tái mét và buồn, tôi nói là tang thương như những đổ nát tràn ngập một vùng chết.
Giêsu nhìn nó cách đăm chiêu khi bước về phía nội khu, và Người nhìn khuôn mặt của các người qua lại lúc sớm mai, phần đông là các người khiêm tốn: làm vườn, mục đồng với các con vật của hàng thịt, đầy tớ hoặc nội trợ ra chợ. Tất cả những người này bước đi lặng lẽ, cuộn mình trong áo khoác, hơi cúi để tránh gió buốt lúc ban mai. Cả các khuôn mặt cũng có vẻ xanh mét hơn thường đối với các người thuộc nòi giống này. Chính ánh sáng kỳ lạ làm cho họ xanh xao, hoặc hầu như có mầu ngọc trai, trong y phục bằng vải mầu, với những áo khoác thường mầu xanh ve, mầu tím đậm hay vàng tươi, chúng không thể nào cho những nét phản chiếu mầu hồng trên các khuôn mặt. Một số chào Thầy nhưng không dừng bước. Đây không phải giờ thuận tiện. Chưa có những người ăn mày để phát ra những tiếng kêu than van tại các ngã tư hay dưới các mái hiên lề ra ngoài đường ở mỗi bước. Giờ giấc và mùa góp phần cho Giêsu đi tự do, không bị cản trở.
Đây, các ngài đã vào nội khu. Họ vào tiền đường Israel. Họ cầu nguyện trong khi một hồi kèn bằng bạc, tôi nói thế dựa vào âm sắc của nó, chắc là loan báo một cái gì quan trọng, âm vang ra khắp đồi, trong khi một mùi thơm ngọt xông lên, ngăn cản người ta ngửi thấy các mùi khác ít dễ chịu hơn thường có trên đỉnh Moriah, tức là cái mùi trường tồn tự nhiên của thịt hơ trên lửa, mùi bột cháy, mùi dầu sôi luôn luôn đọng ở trên đó, mạnh yếu hơn kém tùy lúc, nhưng luôn luôn hiện diện vì các lễ toàn thiêu liên tục.
Họ đi ra theo một hướng khác và bắt đầu bị quan sát bởi những người lên Đền Thờ trước tiên, bởi những người thuộc về Đền Thờ, bởi những người đổi tiền, những người bán hàng đang dựng quầy hay bao ranh giới của họ. Nhưng họ qúa ít người, và họ qúa ngạc nhiên tới nỗi không biết phản ứng. Họ trao đổi với nhau những lời ngạc nhiên.
- Người đã đến!
- Người không đi Galilê như người ta nói.
480
- Người nấp ở đâu mà họ không tìm thấy Người ở đâu cả.
- Thực tình Người muốn coi thường họ.
- Ngu chừng nào!
- Thánh chừng nào!
Và tiếp tục như vậy, tùy tâm linh mỗi người.
Giêsu đã ra khỏi Đền Thờ và Người đi vào con đường dẫn về Ophel. Khi tới ngã tư giao với đường dẫn về Sion, Người gặp người mù từ lúc sinh ra, mới được chữa mấy bữa trước đây. Anh ta vác những cái rổ đầy táo thơm và đi cách nhẹ nhàng trong khi nói đùa với các thanh niên khác cũng vác như vậy. Họ đi theo hướng ngược với hướng của Người.
Đối với người thanh niên thì cuộc gặp gỡ sẽ qua đi mà không biết, vì anh ta không biết mặt Giêsu cũng như mặt các tông đồ. Nhưng Giêsu biết mặt của người được phép lạ và Người gọi anh ta. Sidonia biệt hiệu Bartolmai quay lại và nhìn Người, tự hỏi là ai, người đàn ông cao lớn, oai phong, mặc dầu y phục đơn giản, gọi tên anh khi đi vào một ngõ hẻm.
- Lại đây - Giêsu ra lệnh.
Người thanh niên tới gần, không để gánh nặng xuống, nhìn Người qua khóe mắt, tưởng rằng có việc làm với một người thích táo. Anh ta nói với Người: “Ông chủ tôi đã bán rồi, nhưng vẫn còn, nếu anh muốn. Táo đẹp và ngon, mới từ các vườn ở Saron chở tới hôm qua. Nếu anh mua nhiều, anh sẽ được bớt nhiều, vì...”
Giêsu giơ bàn tay mặt lên trong khi mỉm cười, để tốp cái bài lẻo mép của người thanh niên lại và Người bảo anh ta: “Ta không gọi anh để mua táo đâu, nhưng để vui với anh, và cùng với anh chúc tụng Đấng Tối Cao đã ban ơn cho anh”.
- Ôi! Đúng. Tôi đã không ngớt làm việc đó, vừa vì ánh sáng mà tôi đã được nhìn thấy, vừa vì công việc mà tôi có thể làm để giúp đỡ ba má tôi. Sau cùng tôi cũng tìm được một ông chủ tốt. Ông ta không phải người Hy Bá, nhưng ông tốt. Người Hy Bá không muốn mướn tôi vì... họ biết tôi bị đuổi ra khỏi giáo đường - người thanh niên nói khi để các rổ táo xuống đất.
481
- Họ đã đuổi anh à? Tại sao? Anh đã làm gì?
- Tôi, chả làm gì hết, tôi cam đoan điều đó với anh. Chính Chúa đã làm. Ngày Sabát, Người đã cho tôi tìm thấy vị đó, vị mà người ta gọi là Đức Messi, Người đã chữa cho tôi như anh thấy đây. Và vì vậy họ đã đuổi tôi.
- Vậy ra Người đã chữa cho anh, thực sự đã chẳng làm cho anh một việc tốt - Giêsu nói để thử anh ta.
- Anh ơi, đừng nói như vậy. Đó là anh phạm thượng đó! Trước tiên Người đã chứng tỏ cho tôi là Thiên Chúa yêu tôi, rồi Người ban cho tôi nhìn thấy... Anh đâu có biết thế nào là “nhìn thấy”, vì anh luôn luôn thấy. Nhưng kẻ chưa bao giờ thấy! Đó là... Ôi!... Đó là hết mọi thứ người ta có được bởi nhìn thấy. Tôi, tôi nói với anh là khi tôi nhìn thấy, ở đó, ở gần Siloê, tôi vừa cười vừa khóc, nhưng vì vui, hen! Tôi khóc như tôi chưa bao giờ khóc trong sự bất hạnh của tôi. Vì lúc đó tôi hiểu Đấng Tối Cao cao cả chừng nào. Và rồi tôi có thể sinh sống bằng một công việc thích hợp. Và rồi... Và rồi... đây là điều tôi ước ao hơn tất cả, hơn cả phép lạ mà tôi đã được: tôi ước ao gặp được đấng xưng mình là Messi và người môn đệ của Người đã...
- Anh sẽ làm gì khi đó?
- Tôi muốn chúc tụng Người và môn đệ của Người. Và tôi muốn nói với Người, đấng chắc chắn từ Thiên Chúa mà đến, để xin Người nhận tôi làm tôi tớ của Người.
- Thế nào? Tại Người mà anh bị trục xuất, anh đã khó khăn để kiếm việc làm. Anh có thể bị phạt hơn nữa, vậy mà anh muốn phục vụ Người sao? Anh không biết rằng đấng đã chữa cho anh cũng như những kẻ theo Người, tất cả họ đều bị bách hại sao?
- Hé! Tôi biết. Nhưng đó là Con Thiên Chúa, như chúng tôi nói với nhau, mặc dầu những người ở trên đó (anh ta chỉ vào Đền Thờ) không muốn người ta nói như vậy. Và do đó chẳng đáng bỏ tất cả để phục vụ Người sao?
- Vậy anh tin vào Con Thiên Chúa và sự hiện diện của Người tại Palestin?
482
- Tôi tin vậy, nhưng tôi muốn biết Người, không phải chỉ bằng tâm trí, nhưng bằng tất cả con người của tôi. Nếu anh biết Người là ai và Người ở đâu, xin anh nói cho tôi, để tôi đến với Người để thấy Người, để tôi tin hoàn toàn vào Người và tôi phục vụ Người.
- Anh đã thấy Người, và không cần anh phải đến với Người. Đấng mà anh nhìn thấy lúc này và Người đang nói với anh, chính là Con Thiên Chúa.
Tôi không thể qủa quyết cách chắc chắn, nhưng tôi thấy hình như khi nói những lời này, có thể nói là Giêsu có một sự hiển dung rất vắn, bằng cách trở nên đẹp, tôi nói là sáng láng. Tôi cho là để thưởng cho kẻ khiêm nhường tin ở Người, và để minh xác với anh ta trong đức tin, trong một thời gian của một tia chớp, Người đã để lộ dung nhan đẹp đẽ của Người: tôi muốn nói là dung nhan Người mặc lấy sau khi sống lại và Người duy trì ở trên Trời; sắc đẹp của nhân tính vinh hiển của Người, của thân xác vinh hiển hòa tan trong vẻ đẹp khôn tả của sự trọn lành thuộc về Người. Trong một khoảnh khắc, tôi nói là một tia chớp, cái góc tối mờ, nơi họ đứng tránh vào để nói dưới mái hiên, trong ngõ hẻm, đã sáng lên cách lạ lùng bởi một ánh chớp từ Giêsu tỏa ra, và tôi nhắc lại: Người trở nên rất đẹp.
Rồi tất cả trở lại như lúc trước, ngoại trừ người thanh niên bây giờ gục mặt xuống đất, thờ lạy và nói: “Con tin, lạy Chúa, Thiên Chúa của con!”
- Con đứng dậy đi. Thầy đến trong thế gian để mang ánh sáng và sự hiểu biết về Thiên Chúa, để thử thách loài người và xét xử họ. Đây là thời gian của Thầy, thời gian để lựa chọn, tuyển trạch và sa thải. Thầy đến để những kẻ trong sạch trong lòng và trong ý hướng, những kẻ khiêm nhường, hiền lành, những kẻ yêu sự công chính, tình thương, hòa bình, để những kẻ khóc và những kẻ biết đặt cho các của cải khác nhau cái gía trị thực của nó, và biết thích những thứ siêu nhiên hơn vật chất, tìm được cái mà tâm hồn họ khát vọng; và để những kẻ mù vì bị người ta dựng lên một bức tường dầy để ngăn chặn ánh sáng, tức là sự hiểu biết về Thiên Chúa, được thấy rõ ràng, và để những kẻ tự tin là mình thấy thì trở nên mù...
483
- Vậy là ông ghét phần lớn người ta và ông không tốt như ông nói. Nếu ông tốt, ông sẽ tìm cách để mọi người đều thấy, và để những người đã thấy thì không trở nên mù - một số pharisiêu ngắt lời. Họ đã đến từ con đường chính và lại gần với những người khác. Họ dè dặt đứng ở sau các tông đồ.
Giêsu quay lại nhìn họ. Bây giờ chắc chắn Người không còn hiển dung với sắc đẹp êm đềm. Đây là một Giêsu nghiêm khắc. Người cắm cái nhìn lam ngọc của Người trên các kẻ bách hại Người, và tiếng Người không còn những nốt vàng của niềm vui, nhưng là nốt đồng, và như tiếng kêu của kim loại đồng, nó sắc bén và nghiêm khắc khi Người trả lời: “Không phải Ta muốn cho họ không thấy sự thật, những kẻ hiện đang chống đối sự thật. Nhưng chính họ đã dựng lên các tấm bảng trước con ngươi của họ để không nhìn thấy, và họ tự thành mù bởi ý muốn tự do của họ. Cha Ta đã sai Ta để sự phân chia được thực hiện, để người ta thực sự biết các con cái của Ánh Sáng và con cái của Tối Tăm: những kẻ muốn thấy và những kẻ tự ý muốn mù.
- Có lẽ chúng tôi cũng là những kẻ mù này?
- Nếu các ông là vậy thì hãy tìm cách để thấy, các ông sẽ không đắc tội. Nhưng vì các ông nói: “Chúng ta thấy”, rồi sau đó không muốn thấy rằng các ông phạm tội, nên tội của các ông tồn tại. Các ông không tìm cách thấy và muốn giữ tình trạng mù.
- Vậy chúng tôi phải thấy gì?
- Đường Đi, Chân Lý, Sự Sống. Một người sinh ra đã mù giống như anh này, vẫn luôn luôn có thể dùng cái gậy để tìm cái cửa của nhà anh để ra và vào đó, vì anh ta biết nhà đó. Nhưng nếu người ta đem anh ta đến một nơi khác, anh ta không thể vào cửa của căn nhà mới, vì anh ta không biết nó ở chỗ nào, và anh ta sẽ húc vào tường.
Thời kỳ của luật mới đã tới. Tất cả đều canh tân, và một thế giới mới, một dân tộc mới, một vương quốc mới sẽ bùng lên. Bây giờ những người của thời qúa khứ không biết những thứ đó, họ chỉ biết thời của họ. Họ giống như những người mù được đem đến một xứ
484
mới, nơi có lâu đài hoàng gia của Cha, nhưng họ không biết chỗ đó.
Ta đến để dẫn dắt họ và đem họ vào đó để họ thấy. Nhưng chính Ta là Cửa, người ta phải qua đó để vào nhà thân phụ, vào Nước Thiên Chúa, vào Ánh Sáng, vào Con Đường, vào Chân Lý, vào Sự Sống. Ta cũng là đấng đến để tụ họp đoàn chiên không kẻ chăn để dẫn chúng về một chuồng duy nhất: chuồng của Cha. Ta biết cửa chuồng, vì cùng một trật, Ta là Cửa và là Mục Tử. Ta vào đó và ra khỏi đó như Ta muốn và khi Ta muốn. Ta tự do ra vào qua cửa, vì Ta là Mục Tử.
Khi kẻ nào đến để cho bầy chiên của Thiên Chúa những chỉ dẫn khác, hoặc tìm cách đánh lạc hướng chúng bằng cách dẫn chúng đến những nơi khác, những con đường khác, thì nó không phải là mục tử tốt, nhưng là mục tử giả. Và cả những kẻ không đi qua cửa để vào chuồng, nhưng tìm cách vào bằng một lối khác, bằng cách nhảy qua hàng rào, thì nó không phải là mục tử, mà là kẻ trộm, kẻ sát nhân, vào đó với ý định ăn cắp và giết chóc, để các chiên mà chúng bắt không có tiếng nói để than van, để không lôi kéo sự chú ý của các người canh gác và của mục tử. Trong số chiên của bầy Israel, cũng có những mục tử giả tìm cách lẻn vào để làm cho chiên ra khỏi đồng cỏ, đi xa Mục Tử thật. Chúng vào đó, sẵn sàng dùng bạo lực để giật chiên ra khỏi bầy, và sẵn sàng chờ dịp để giết, để đập đánh bằng đủ cách, để ngăn cản các chiên nói và chỉ cho Mục Tử những qủi quyệt của mục tử giả, và kêu cầu Thiên Chúa bảo vệ chúng chống lại đối phương của chúng và đối phương của Mục Tử.
Ta là Mục Tử tốt. Các chiên của Ta biết Ta, và những kẻ tới muôn đời là kẻ giữ cửa chuồng chiên thực đều biết Ta. Họ đã biết Ta và tên Ta, và họ đã nói để Israel biết; họ đã miêu tả Ta, họ đã dọn đường cho Ta. Và khi tiếng Ta được nghe thấy, thì đây, người sau cùng trong số họ đã mở cửa cho Ta và nói cho bầy chiên đang chờ Mục Tử thực, cho bầy chiên đang tụ họp chung quanh chiếc gậy của ông: “Đây là đấng mà tôi nói rằng Người đến sau tôi, nhưng Người ở trước tôi, vì Người có trước tôi, và tôi, tôi không biết Người, nhưng như vậy để các ngươi sẵn sàng đón nhận Người. Tôi
485
đến rửa bằng nước để Người được thể hiện trong Israel”. Và các chiên tốt đã nghe tiếng Ta khi Ta gọi chúng bằng tên chúng. Chúng chạy đến và Ta dẫn chúng đi với Ta giống như người mục tử tốt làm, người mà các chiên nhận ra tiếng, và chúng theo mục tử đi khắp nơi mà ông tới. Và khi ông đã cho chúng ra ngoài hết, ông đi ở đàng trước chúng, và chúng theo ông, vì chúng yêu tiếng nói của mục tử. Chúng không theo người lạ, trái lại, chúng trốn xa họ, vì chúng không biết họ và chúng sợ họ. Ta cũng vậy, Ta đi ở đàng trước các chiên của Ta để chỉ đường cho chúng, để đương đầu với các nguy hiểm trước, và chỉ bảo cho bầy mà Ta muốn dẫn tới nơi an toàn trong nước Ta.
- Israel sẽ không còn là vương quốc của Thiên Chúa nữa sao?
- Israel là nơi mà từ đó, dân Thiên Chúa phải đi lên tới Jêrusalem thực, là Nước của Thiên Chúa.
- Vậy còn Đấng Messi đã được hứa ban? Đấng Messi này mà ông xác nhận ông là, Người không phải làm cho Israel khải hoàn, vinh hiển, làm chủ thế giới, bằng cách chinh phục mọi dân dưới vương trượng của Người, và bằng cách báo thù, ôi, bằng cách báo thù tàn bạo hết mọi kẻ đã bắt nó tùng phục kể từ khi nó là một dân sao? Vậy không có điều nào trong những điều đó là thật sao? Ông từ chối các tiên tri sao? Ông cho các rabbi của chúng ta là ngu? Ông...
- Vương Quốc của Đức Messi không thuộc về thế giới này. Nước của Thiên Chúa được xây dựng trên tình yêu, nó không là gì khác. Đức Messi không phải là vua các dân và quân đội, nhưng là vua các tâm hồn. Đức Messi sẽ đến từ dân được tuyển chọn, từ chồi hoàng gia, và nhất là từ Thiên Chúa, đấng đã sinh ra Người và sai Người đi. Chính Israel là nơi bắt đầu nền móng của Nước Thiên Chúa, là nơi ban bố lề luật của tình yêu, loan báo Tin Mừng mà các tiên tri đã nói. Nhưng Đấng Messi sẽ là vua thế giới, là Vua các vua, và nước Người sẽ không có giới hạn, không biên cương trong thời gian cũng như không gian. Các ông hãy mở mắt ra mà nhìn nhận sự thật.
486
- Chúng ta chẳng hiểu gì về những chuyện lẩm cẩm của ông. Ông nói những lời không có ý nghĩa. Hãy nói và trả lời, không bằng dụ ngôn: Ông là, hay không là Đức Messi?
- Các ông còn chưa hiểu ư ? Chính vì vậy tôi nói với các ông rằng tôi là Cửa và là Mục Tử. Cho tới lúc này, chưa có ai được vào Nước Thiên Chúa, vì nó đã được xây tường chung quanh và không có lối vào. Nhưng bây giờ tôi đã đến, và cửa đã được làm.
- Ôi! Có những người khác cũng đã nói họ là Đức Messi, nhưng sau đó người ta nhận ra họ là những kẻ cướp và phản động, và sự công bằng loài người đã phạt sự phản động của họ. Ai bảo đảm với chúng tôi được là ông không giống như họ? Chúng tôi mệt mỏi vì phải chịu đựng và làm cho dân phải chịu đựng sự khắc nghiệt của Rôma tại vì những tên dối trá đã xưng mình là vua và thúc đẩy dân chúng làm loạn.
- Không. Câu nói của các ông không chính xác. Các ông không muốn chịu đựng, điều đó đúng. Nhưng dân chúng chịu khổ chứ các ông không chịu. Và điều rất đúng nữa là các ông đã thêm sự khắc nghiệt của các ông vào sự khắc nghiệt của những kẻ cai trị chúng ta, bằng cách áp bức người dân nhỏ bé trả những thuế thập phân qúa mức và nhiều thứ khác nữa. Ai bảo đảm với các ông rằng tôi không phải là tên trộm cướp ư ? Các hành động của tôi. Tôi không làm nặng bàn tay của Rôma, nhưng trái lại, tôi đã cố làm cho nó nhẹ hơn, bằng cách khuyên những người cai trị chúng ta có lòng nhân đạo, và khuyên những người bị cai trị sự kiên nhẫn. Ít nhất là vậy.
Đây cũng là ý kiến của nhiều người, vì bây giờ số thính giả đã tăng lên nhiều, và không ngừng gia tăng tới độ làm cản trở giao thông trên lộ lớn, nên người ta đi hết vào con đường nhỏ, nơi tiếng nói dội lại dưới các khung cửa tò vò. Họ xác nhận lời của Giêsu: “Nói rất đúng về thuế thập phân. Đúng vậy, Người khuyên chúng ta tùng phục, và khuyên người Rôma có tình thương”.
Cũng như luôn luôn, các pharisiêu chua cay vì những tán đồng của đám đông. Họ trở nên mỉa mai hơn trong giọng nói của họ với
487
Giêsu: “Trả lời đi, đừng nhiều lời như vậy, và hãy xác nhận rằng ông là Đức Messi”.
- Thực vậy, thực vậy, tôi nói với các ông rằng tôi là Đức Messi. Chính tôi, một mình tôi là cửa chuồng chiên của Trời. Ai không đi qua tôi thì không thể vào đó. Chắc chắn đã có những Messi giả và sẽ còn có nữa. Nhưng Đức Messi thực sự và duy nhất, chính là tôi. Cho tới nay, đã bao nhiêu người đến nói như vậy, nhưng họ không là vậy, mà chỉ là trộm cướp. Và không phải chỉ có những người yêu cầu được gọi là Messi bởi một nhóm nhỏ người có cùng tâm địa như họ, nhưng cũng có những người khác không xưng danh như vậy, nhưng đòi hỏi một sự thờ phượng mà ngay cả Đức Messi thực cũng không được cho. Hãy nghe, hỡi những ai có tai để nghe. Hãy nhận xét rằng: các chiên không nghe các Messi giả, cũng không nghe các mục tử và các thầy giả, vì tâm hồn chúng cảm thấy sự giả dối trong tiếng nói của họ. Họ muốn tỏ ra là mình êm dịu, mà thực ra là độc ác. Chỉ có các con dê theo họ để làm bè bạn nham hiểm của họ. Các con dê man rợ, không thuần thục, không muốn vào chuồng của Thiên Chúa, dưới vương trượng của Vua và Mục Tử thật. Bây giờ Israel đã có Đấng là Vua các vua trở nên Mục Tử của bầy, trong khi ngày xưa thì kẻ là mục tử của bầy trở thành vua. Người nọ và người kia đều đến từ một chồi duy nhất: chồi của Isai, như đã được nói trong các lời hứa và lời tiên tri. Các mục tử giả không nói cách chân thành và không an ủi. Họ đã phân tán và hành hạ đoàn chiên, hoăc bỏ rơi nó cho sói rừng, hoặc giết nó để kiếm lời bằng cách bán nó để bảo đảm đời sống, hoặc lấy các đồng cỏ của nó để làm nhà hành lạc và các bụi rậm cho tà thần.
Các ông biết sói rừng là gì không? Đó là những đam mê xấu, những trụy lạc mà chính các mục tử gỉa đã dạy cho đoàn chiên, và chính họ đã thực hành trước. Các ông biết các bụi rậm của tà thần là gì không? Đó là những ích kỷ thuần túy mà qúa nhiều người đã đốt nhang trước mặt nó. Còn hai thứ kia thì không cần cắt nghĩa, bởi vì ý nghĩa của các từ đã qúa rõ. Các mục tử gỉa hành động như vậy là hợp lý, vì chúng chỉ là kẻ cướp, đến để cướp phá, giết chóc
488
và phá hủy đoàn chiên, để dẫn chúng ra ngoài chuồng, tới những đồng cỏ giả, hoăc dẫn chúng vào những chuồng giả là các lò sát sinh. Nhưng những chiên đến với Ta thì được an toàn. Chúng có thể ra để tới các đồng cỏ của Ta, hoặc vào để tới nơi nghỉ ngơi của Ta, và trở nên mạnh mẽ, béo tốt, với những tinh hoa của thánh thiện và sức khoẻ. Vì ta đến với mục đích: để cho dân Ta, các chiên của Ta, từ trước tới giờ ốm yếu, khổ sở, được có sự sống, và một đời sống dồi dào, một đời sống bình an và vui tươi. Và ý muốn của Ta là: Ta đến để ban sự sống của Ta, để các chiên của Ta có sự sống tràn đầy, dư dật của người con Thiên Chúa.
Ta là mục tử tốt. Một người mục tử tốt thì liều mạng để bảo vệ đoàn chiên của họ cho khỏi sói rừng và trộm cướp. Trong khi người làm công là người không yêu con chiên. Chỉ vì món tiền họ kiếm được, họ mới dẫn chúng tới đồng cỏ. Họ chỉ lo sẵn sàng để chạy trốn với số tiền cất trong bụng. Khi họ thấy sói rừng hay trộm cướp, họ liền chạy trốn đi để rồi sau đó trở lại lượm vài con chết dở vì sói rừng, hoặc lạc bầy vì kẻ trộm, rồi làm thịt những con thứ nhất để ăn hoặc bán như của riêng họ, còn những con thứ hai thì đem giấu đi, rồi sau đó nói với ông chủ, với những nước mắt cá sấu rằng họ không cứu được một con nào. Đối với người làm công, việc sói rừng bắt và phân tán đoàn chiên, hoặc kẻ trộm vơ vét để dẫn chúng tới hàng thịt, đâu có gì là quan trọng? Họ có canh chừng trên chúng khi chúng lớn lên, hoặc họ có chịu cực để làm cho chúng béo tốt không? Nhưng người chủ thì biết một con chiên có gía trị chừng nào, phải mất bao nhiêu giờ mệt mỏi, bao nhiêu canh thức, bao nhiêu hy sinh, nên ông ta yêu chúng và săn sóc chúng, vì chúng là tài sản của ông. Nhưng Ta, Ta còn hơn một người chủ. Ta là Vị Cứu Tinh của đoàn chiên Ta. Ta biết phần rỗi đáng gía bao nhiêu, dù chỉ của một linh hồn. Vì vậy Ta sẵn sàng tất cả để cứu một linh hồn. Nó đã được Cha Ta giao phó cho Ta. Hết mọi linh hồn đều được giao phó cho Ta với mệnh lệnh cứu vớt một số vô kể. Ta càng thành công giật nó khỏi cái chết của tâm hồn thì Cha Ta càng được vinh quang. Vì vậy Ta chiến đấu để giải phóng cho chúng khỏi hết mọi
489
kẻ thù của chúng, tức là khỏi cái tôi của chúng, khỏi thế gian, xác thịt, ma qủi, và khỏi các đối phương của Ta, những kẻ tranh giành họ với Ta để làm khổ Ta. Ta làm như vậy vì Ta biết tư tưởng của Cha Ta, và Cha Ta đã sai Ta để làm như vậy, vì Người biết tình yêu của Ta đối với Người và các linh hồn. Cũng vậy, các chiên ở trong bầy của Ta biết Ta, biết Ta và tình yêu của Ta, và chúng cảm thấy rằng Ta sẵn sàng hiến mạnh sống Ta cho chúng được vui.
Ta còn nhiều chiên khác, nhưng nó không thuộc về chuồng này, nó cũng không biết Ta là ai. Nhiều kẻ không biết rằng Ta hiện hữu và Ta là ai. Những con chiên mà nhiều người trong các ông cho là xấu hơn các con dê rừng, và các ông xét đoán là không xứng đáng biết Chân Lý, không xứng đáng được Sự Sống và Nước Trời, nhưng không phải như vậy. Chúa Cha muốn cả những chiên ấy nữa. Vậy Ta phải lại gần chúng, làm cho chúng biết Ta, biết Tin Mừng, dẫn chúng về đồng cỏ, tụ họp chúng. Và chúng cũng sẽ nghe tiếng Ta, và sau cùng chúng sẽ yêu Ta. Và sẽ chỉ có một bầy duy nhất, dưới quyền một mục tử duy nhất. Và Nước Thiên Chúa sẽ được thiết lập ở dưới đất, sẵn sàng để được di chuyển và được đón tiếp ở trên Trời, dưới vương trượng của Ta, dấu hiệu của Ta và tên thực của Ta.
Tên thực của Ta! Mới chỉ có mình Ta biết. Nhưng khi số những kẻ được chọn đã đầy đủ; và khi, ở giữa những tiếng ca hân hoan, họ sẽ ngồi vào bàn tiệc lớn, bàn tiệc của Phu Quân với Hiền Thê, lúc đó danh Ta sẽ được nhận biết bởi các kẻ được chọn của Ta, những kẻ vì trung thành với Phu Quân, đã hy sinh, mặc dầu không biết tất cả bề mặt và bề sâu của sự kiện được ghi dấu bằng Danh Ta, và được thưởng vì tình yêu của họ đối với Ta, phần thưởng mà họ cũng chưa biết nó sẽ thế nào... Đó là điều Ta muốn ban cho các con chiên trung thành của Ta. Đó cũng là niềm vui của Ta...
Giêsu quay đôi mắt xuất thần lóng lánh nước mắt của Người trên những khuôn mặt quay về với Người, và một nụ cười run run nở trên môi Người. Nụ cười qúa siêu nhiên trên dung mạo siêu nhiên, đến nỗi đám đông như run khi nhận ra sự xuất thần của Đức Kitô trong một thị kiến thần linh, và sự ước ao của tình yêu Người
490
muốn thấy nó hoàn thành. Người trấn tĩnh, nhắm mắt một lát để che dấu mầu nhiệm mà thần trí Người đã thấy, mà con mắt có thể qúa biểu lộ. Rồi Người tiếp:
- Ôi dân Ta! Ôi bầy chiên của Ta! Chính vì vậy mà Chúa Cha yêu Ta, bởi lẽ vì ngươi, vì hạnh phúc đời đời của ngươi mà Ta ban sự sống của Ta, rồi sau đó Ta sẽ lấy lại. Nhưng trước đó, Ta ban nó để ngươi có sự sống, có Vị Cứu Tinh của ngươi cho sự sống riêng của ngươi. Và Ta sẽ ban nó theo cách để ngươi được nuôi bằng nó, bằng cách Ta tự biến đổi từ Chủ Chăn thành ra đồng cỏ và suối nước, những thứ là đồ ăn và đồ uống, không phải chỉ bốn mươi năm như các người Hy Bá được nuôi trong sa mạc, nhưng trong suốt thời gian lưu đày qua sa mạc trái đất. Thực sự, không ai có thể lấy đi mạng sống của Ta. Những kẻ yêu Ta với tất cả toàn thân họ và xứng đáng để Ta chết cho họ, cũng như những kẻ giết Ta vì sự thù ghét vô giới hạn và sự sợ hãi ngu xuẩn, không ai có thể lấy đi sự sống của Ta nếu chính Ta không bằng lòng cho nó, và nếu Cha Ta không cho phép điều đó. Vì cả hai chúng ta đều mê sảng vì tình yêu đối với nhân loại tội lỗi. Chính Ta tự mình cho nó đi, và Ta có quyền lấy lại khi Ta muốn. Vì sẽ không thích hợp nếu để cho sự chết lấy nó đi trên đấng là Sự Sống. Chính vì vậy mà Chúa Cha đã cho Ta cái quyền này, và cả đến Chúa Cha đã truyền cho Ta làm. Và bởi sự sống của Ta được dâng hiến và tiêu thụ, các dân tộc sẽ trở nên một dân duy nhất: dân của Ta, dân Thiên Quốc của các con Thiên Chúa, để phân chia dê ra khỏi chiên ở trong dân, và để các chiên đi theo Chủ Chăn của chúng vào Nước của Đời Sống Vĩnh Cửu.
Từ đầu tới giờ Giêsu nói lớn tiếng, bây giờ Người hạ giọng để nói với Sidonia Bartolmai, luôn luôn ở trước mặt Người với rổ táo thơm của anh ở bên chân, Người nói với anh: “Con đã quên hết vì Thầy. Bây giờ chắc con sẽ bị phạt và mất chỗ làm. Con thấy không? Thầy luôn luôn mang cho con đau khổ. Vì Thầy, con đã mất giáo đường, và bây giờ con sắp mất ông chủ...”
- Nhưng con làm gì với những thứ đó nếu con có Thầy? Chỉ có
491
Thầy là có gía trị đối với con. Con bỏ hết để theo Thầy, miễn là Thầy cho phép con. Chỉ xin Thầy cho phép con mang những thứ này cho người mua, rồi con sẽ thuộc về Thầy.
- Chúng ta đi với nhau, rồi chúng ta tới nhà ba con. Vì con còn ba, và con phải tôn kính ông bằng cách xin phúc lành của ông.
- Thưa Chúa vâng. Tất cả những gì Thầy muốn. Nhưng xin Thầy dạy dỗ con thật nhiều, vì con chẳng biết gì cả, kể cả đọc và viết, vì con đã mù.
- Đừng lo điều đó. Thiện chí của con sẽ là trường học cho con.
Và Người trở lại con đường chính, trong khi đám đông phê bình, bàn luận, kể cả cãi lộn, nghi ngờ giữa các ý kiến đối lập, luôn luôn vẫn là đề tài: Giêsu Nazarét là kẻ bị qủi ám hay vị thánh? Họ bất đồng ý kiến và bàn cãi trong khi Giêsu bỏ đi.
216* KHI ĐI VỀ BÊTANI VÀ TẠI NHÀ LAZARÔ
Giêsu từ biệt các môn đệ Lêvi, Giuse, Mathia và Gioan mà Người đã gặp ở đâu tôi không biết. Người ký thác cho các ông người môn đệ mới Sidonia Bartolmai. Việc này xảy ra tại căn nhà đầu tiên thuộc về Bêtani. Các môn đệ mục đồng ra đi cùng với người mới tới và bảy người khác ở cùng với họ. Giêsu nhìn họ ra đi, rồi Người quay lại nhìn các tông đồ của Người và nói: “Bây giờ chúng ta chờ Judas Simon ở đây...”
- A! Thầy đã biết là ông ta bỏ đi? - những người khác ngạc nhiên nói. “Chúng con ngỡ là Thầy không lưu ý. Qúa đông người, và Thầy không ngừng nói chuyện, trước là với người thanh niên, rồi sau đó là với các mục đồng...”
- Thầy thấy từ lúc đầu tiên ông ta bỏ đi. Không có gì thoát được Thầy. Vì vậy Thầy đã vào các nhà bạn hữu và bảo họ rằng nếu Judas tìm Thầy thì hãy bảo ông ta về Bêtani...
- Cầu Thiên Chúa là không... - Juđa cầu nhầu giữa hai hàm răng của ông.
492
Giêsu nhìn ông, nhưng Người không tỏ ra rằng Người sắp bài trừ câu nói. Người tiếp tục nói với tất cả, vì Người thấy rằng tư tưởng của Thađê có ở trong mọi người - đôi khi nét mặt nói nhiều hơn là các lời - : “Đây sẽ là sự nghỉ ngơi thoải mái trong khi chờ ông ta trở lại. Nó sẽ cho mọi người sự ủy lạo. Sau đó chúng ta sẽ đi Técua. Thời tiết lạnh, nhưng sẽ trở trời đẹp. Thầy sẽ giảng Tin Mừng cho thành phố này. Rồi chúng ta lại trở ngược lên bằng cách đi qua Jêricô, rồi chúng ta qua bờ phía bên kia. Các người mục đồng nói với Thầy rằng có nhiều bệnh nhân tìm Thầy, và Thầy đã bảo họ tới nói rằng đừng lo du hành, nhưng hãy chờ Thầy tại những nơi này”.
- Vậy chúng ta hãy tới đó đi! - Phêrô nói khi thở dài.
- Anh không bằng lòng tới nhà Lazarô sao? - Tôma hỏi.
- Tôi bằng lòng chứ !
- Anh nói có vẻ...
- Tôi nói vậy không phải tại Lazarô. Tôi nói tại vì Judas...
- Phêrô! Con có tội! - Giêsu nói để cảnh cáo ông.
- Con có tội. Nhưng... ông ta, Judas Kêriot, người đã ra đi, kẻ hỗn xược, kẻ gây hỗn độn, ông ta không có tội sao? - Phêrô nói mạnh mẽ, bực dọc, không chịu nổi nữa.
- Ông ta có tội. Nhưng nếu ông ta như vậy thì con không được vậy. Không ai trong các con được như vậy. Các con hãy nhớ rằng Thiên Chúa sẽ đòi chúng ta tính sổ. Thầy nói: sẽ đòi chúng ta, vì trước tiên là nơi Thầy, rồi tới nơi các con, Thiên Chúa đã ký thác người này, về những gì chúng ta sẽ làm để cứu chuộc ông ta.
- Và Thầy hy vọng thành công sao, ông anh tôi? Con không thể tin. Thầy thì con tin. Thầy biết qúa khứ, hiện tại và tương lai, vì vậy Thầy không thể lầm về con người này. Và... nhưng tốt hơn là con không nên nói thêm nữa.
- Thực sự, biết nín lặng là một nhân đức lớn. Nhưng hãy biết rằng sự dự đoán, đúng ít hay nhiều, về tương lai của một linh hồn, không miễn cho ai việc phải kiên trì tới cùng để cứu linh hồn này cho khỏi hư mất. Con cũng đừng rơi vào thuyết định mệnh của các pharisiêu. Họ cho rằng những gì định mệnh đã ấn định thì phải
493
hoàn thành, và không gì có thể ngăn cản sự hoàn thành những gì định mệnh đã ấn định. Đó là lý do họ biện minh cho tội lỗi của họ, và họ sẽ biện minh cho tới hành động sau cùng của họ về sự thù ghét đối với Thầy. Thiên Chúa rất thường chờ đợi sự hy sinh của một tâm hồn biết vượt thắng những buồn nôn, những ghê tởm, những ác cảm, ngay cả những bào chữa, để cứu một linh hồn cho khỏi cái đầm lầy mà nó bị chìm ngập. Đúng, Thầy bảo con: rất thường thường, Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng, Đấng là tất cả, chờ đợi nơi một thụ tạo, một thứ là không, xem họ làm hay không làm một hy sinh, một lời cầu nguyện, để ký hay không ký sắc lệnh phạt một linh hồn. Không bao giờ là chậm, không bao giờ là qúa trễ để cố gắng, và để hy vọng cứu một linh hồn. Thầy sẽ cho các con bằng cớ. Ngay tại ngưỡng cửa của sự chết, khi kẻ tội lỗi cũng như người công chính đều xao xuyến vì gần lìa bỏ trái đất, để đến trước sự xét xử lần đầu của Thiên Chúa, người ta vẫn luôn luôn có thể cứu hay được cứu. Tục ngữ nói: “Giữa cái ly và cặp môi, luôn luôn có chỗ cho cái chết”. Thầy, Thầy nói trái lại: “Giữa lúc sau cùng của cơn hấp hối và cái chết, luôn luôn có thời giờ để được tha thứ cho chính mình hay cho kẻ mà chúng ta muốn xin ơn tha thứ cho”.
Không ai nói lời nào cả.
Bây giờ đã đến bên chiếc song sắt nặng. Giêsu lớn tiếng gọi một người đầy tớ để được mở cổng. Người vào và hỏi các tin tức của Lazarô.
- Ôi, Lạy Chúa, Thầy thấy không? Con trở về sau khi đã hái các lá nguyệt quế, lá long não và các qủa trắc bá, và các thứ lá và qủa thơm khác để nấu với rượu và nhựa thông để làm nước tắm cho ông chủ. Thịt của ông rớt ra từng miếng. Người ta không chịu được sự hôi thối. Thầy tới, nhưng con không biết người ta có để cho Thầy vào xem không -Và như để ngăn cản chính mình nghe thấy, anh đầy tớ tắt tiếng nói đi thành một tiếng thì thầm: “Người ta không còn có thể giấu là ông có những vết thương. Các bà chủ đuổi hết mọi người ra... vì sợ... Thực sự, Lazarô được yêu bởi rất ít người... Và nhiều người, vì nhiều lý do, lại vui vì... Ôi! Đừng để con nghĩ tới cái
494
sợ của tất cả nhà”.
- Các bà làm đúng. Nhưng đừng sợ. Sự bất hạnh đó sẽ không xảy ra.
- Nhưng... ông sẽ có thể khỏi? Một phép lạ của Thầy...
- Ông không khỏi. Nhưng việc này để tôn vinh Chúa.
Người đầy tớ thất vọng... Giêsu chữa hết mọi người, nhưng không làm gì ở đây cả!... Nhưng anh ta chỉ có một cái thở dài để bộc lộ tư tưởng của anh. Rồi anh nói: “Con đi tìm các bà chủ để báo tin Thầy tới”.
Các tông đồ bao vây chung quanh Giêsu. Họ lưu ý tới tình trạng sức khỏe của Lazarô và họ hoảng hồn khi Giêsu loan báo cho họ. Nhưng hai chị em đã tới. Sự tươi nở và sắc đẹp khác nhau của họ như bị phủ sương mù vì đau đớn và những canh thức kéo dài. Tái mét, kiệt quệ, hốc hác, những đôi mắt trước đây linh động, bây giờ mệt mỏi. Người nọ cũng như người kia, không cà rá, không vòng xuyến, y phục đậm mầu xám tro. Các cô giống các đầy tớ hơn là chủ. Các cô qùi gối ở xa Giêsu một đoạn để chỉ dâng Người những nước mắt của họ; những nước mắt cam chịu, câm lặng, chảy xuống như từ một cái suối ở trong cơ thể và không thể dừng lại.
Giêsu lại gần. Matta giơ tay ra và thì thầm: “Chúa ơi! Xin tránh ra. Thực vậy, từ nay chúng con sợ đã phạm tội chống lề luật về những người cùi. Nhưng chúng con không thể, ôi Thiên Chúa! Chúng con không thể thi hành một sắc lệnh như vậy đối với Lazarô của chúng con. Nhưng xin Thầy đừng lại gần. Chúng con ô uế vì không ngừng đụng vào các vết thương. Chỉ có chúng con, vì chúng con đã cho mọi người tránh xa ra, và người ta tới để mọi thứ ở cửa cho chúng con và chúng con lấy, chúng con rửa, chúng con đốt đi ở trong phòng kế bên phòng của Lazarô. Thầy thấy tay chúng con không? Chúng con bị cháy vì vôi sống mà chúng con dùng cho các bình phải đưa lại cho các đầy tớ. Chúng con nghĩ như vậy sẽ nhẹ tội hơn”. Và bà khóc.
Maria Magđala từ nãy tới giờ nín thinh, bây giờ đến lượt cô rên rỉ: “Đáng lẽ chúng con phải gọi Thầy cả. Nhưng... Con là kẻ nặng
495
tội nhất, vì con phản đối việc đó. Con nói rằng đây không phải là cái bệnh kinh khủng bị nguyền rủa trong Israel. Không và không! Nhưng họ qúa ghét chúng con, và họ rất đông đảo nói là bệnh như vậy. Simon tông đồ của Thầy bị tuyên bố là cùi bởi rất ít người hơn như vậy”.
- Maria! Em không phải Thầy cả, cũng không phải thầy thuốc - Matta nói khi nức nở.
- Không. Nhưng chị biết điều em đã làm để chắc chắn điều em nói. Chúa ơi, con đã ra đi rảo khắp thung lũng Hinnom, tất cả Siloan, tất cả những ngôi mộ gần En Rogel. Con ăn mặc như người đầy tớ, trùm khăn kín, ngay từ khởi đầu rạng đông, con mang nặng thực phẩm và nước thuốc, vải băng, quần áo, con cho, con cho. Con nói đó là lời nguyền cho người con yêu, và đúng thật như vậy. Con chỉ xin được nhìn các vết thương của người cùi. Chắc hẳn họ tin là con điên... Ai lại muốn nhìn những cái ghê sợ này?! Nhưng con, sau khi đã để các đồ biếu ở chỗ sườn dốc giới hạn, con xin được coi. Họ ở bên trên, con ở dưới thấp. Họ ngạc nhiên, con ghê tởm. Họ khóc, con cũng khóc. Con nhìn, nhìn, nhìn. Con đã nhìn các cơ thể phủ đầy vảy, đầy vỏ cứng, đầy vết thương, các khuôn mặt bị gậm nhấm, tóc trắng và cứng hơn sừng, mắt chảy ra máu và mủ, người ta nhìn thấy răng ở má, cái sọ người ở trên một cơ thể sống, các bàn tay biến thành vuốt quái vật, các bàn chân giống như cành cây có nhiều mấu, ghê tởm, kinh sợ, thối tha. Ôi! Nếu con đã phạm tội vì phụng thờ xác thịt, nếu con đã hưởng thụ bằng con mắt, bằng khứu giác, bằng thính giác, bằng xúc giác, những gì là đẹp đẽ, thơm tho, đều hòa, mềm mại, mịn màng, ôi! Từ nay con bảo đảm với Thầy là giác quan của con đã được thanh tẩy bởi cái hy sinh của sự hiểu biết này! Con mắt con đã quên đi vẻ đẹp hấp dẫn của con người khi nhìn xem những quái vật này. Tai con đã đền tọi vì trong qúa khứ đã thưởng thức tiếng nói nam nhi, bằng những giọng nói lè khè này, nó không còn thuộc về con người nữa. Xác thịt con đã run giùng, khứu giác con phản loạn... Và tất cả các phụng thờ cá nhân khác đều chết, vì con đã thấy điều người ta sẽ là sau khi chết...
496
Nhưng con mang theo với con sự xác tín này: Lazarô không bị cùi. Giọng nói của anh không thay đổi, tóc anh và mọi sợi lông của anh đều nguyên vẹn, và các vết thương của anh khác hẳn. Anh không cùi, không! Và Matta làm khổ con vì chị không tin con, vì chị không khích lệ Lazarô bằng cách ngăn cản anh nghĩ rằng anh ô uế. Thầy thấy không? Bây giờ anh biết là Thầy ở đây mà anh không muốn gặp Thầy để không làm Thầy bị nhiễm uế. Cái sợ ngu si của chị con làm anh mất cả sự khích lệ của Thầy!
Bản tính hăng hái của cô làm cô phát xùng. Nhưng khi thấy chị cô đau khổ, khóc nức nở, cơn giận của cô tan ngay. Cô ôm Matta, cho bà một cái hôn và nói: “Ôi! Matta! Em xin lỗi! Xin lỗi! Sự đau đớn làm em bất công. Chính tình yêu của em đối với Lazarô muốn thuyết phục anh chị. Bà chị tội nghiệp của em! Chúng ta là những đàn bà tội nghiệp!”
- Nào, đừng khóc như vậy. Các con cần bình an và tình thương hỗ tương đối với nhau và đối với anh ấy. Lại nữa, Lazarô không bị cùi. Chính Thầy bảo các con như vậy.
- Ôi! Chúa ơi, xin đến gặp anh. Ai tốt hơn Thầy để luận xét là anh ấy cùi hay không - Matta năn nỉ.
- Thầy đã chẳng nói với con là anh ấy không bị cùi sao?
- Vâng. Nhưng làm sao Thầy có thể nói vậy, nếu Thầy không nhìn thấy?
- Ôi! Matta! Matta! Thiên Chúa tha cho con vì con khổ nên con giống như mê sảng! Thầy thương cho con và Thầy đi gặp Lazarô, Thầy sẽ xem các vết thương của anh ấy và...
- Thầy sẽ chữa anh? - Matta hỏi khi đứng dậy.
- Thầy đã nói với con lần trước là Thầy không thể làm... Nhưng Thầy sẽ cho các con sự bình an được biết rằng các con hợp lệ về luật đối với người cùi. Nào, đi...
Và Người đi trước vào nhà trong khi làm hiệu cho các tông đồ đừng theo Người.
Maria chạy đi trước. Cô mở một cái cửa, chạy qua một hành lang, mở một cửa nữa, cửa nhìn ra cái sân nhỏ phía bên trong, đi
497
mấy bước và vào trong một phòng sáng lờ mờ, ngổn ngang những thau, hũ, bình, vải băng... Một mùi lẫn lộn của dầu thơm và thịt thối bay vào mũi. Có một cái cửa đối diện với cửa thứ nhất, Maria mở ra và kêu lên bằng giọng nói trong sáng vui mừng: “Đây là Thầy. Người đến nói với anh là em có lý. Anh ơi, nào, mỉm cười đi! đấng là niềm vui và sự bình an của chúng ta đang vào!” Và cô cúi xuống trên anh cô, nâng ông lên trên gối, hôn ông, không ngán gì mùi hôi mà dù với tất cả sự chữa trị tạm thời, nó vẫn xông ra từ cơ thể phủ đầy vết thương. Và cô lại cúi xuống để xê xích cho ông trong khi lời chào êm dịu của Giêsu đã vang lên trong phòng, căn phòng với ánh sáng mờ mờ, tựa như trở nên sáng tỏ vì sự hiện diện của Thiên Chúa.
- Thầy! Thầy không sợ... con bị...
- Bệnh! Không có gì hơn. Lazarô, các luật lệ đã được ban bố rất rộng rãi và rất nghiêm khắc, với mức độ thận trọng dễ hiểu. Thà rằng thận trọng qúa còn hơn là không thận trọng trong một số trường hợp như các bệnh lây lan. Nhưng con không lây lan, người bạn tội nghiệp của Thầy. Con không ô uế, đến nỗi Thầy không nghĩ rằng Thầy thiếu thận trọng đối với các anh em khi Thầy ôm con như vầy - và Người hôn ông, ôm cơ thể hốc hác của ông trong cánh tay Người.
- Thầy thực sự là bình an. Nhưng Thầy chưa nhìn thấy. Đây, Maria mở những sự ghê gớm ra. Chúa ơi, con đã là người chết. Con không biết làm sao các em gái con nó chịu được...
Tôi cũng không chịu được, vì nó qúa ghê sợ và tởm gớm. Các vết thương bị tạo ra dọc theo các tĩnh mạch bị trương nở của hai chân. Các bàn tay tuyệt vời của Maria làm việc cách rất nhẹ nhàng trên chúng, trong khi cô trả lời bằng giọng oanh vàng của cô: “Các đau đớn của anh là các bông hồng cho các em gái anh. Các bông hồng có gai chỉ vì anh phải chịu đựng. Đây, Thầy, Thầy thấy không? Bệnh cùi đâu có như vầy!”
- Nó không như vầy. Đây là chứng bệnh nặng nó tiêu hao con, nhưng nó không nguy hiểm. Hãy tin ở Thầy con. Đậy lại đi Maria.
498
Thầy thấy rồi.
- Và... Thầy không đụng vào à? - Matta thở dài nói, ngoan cố trong hy vọng của bà.
- Không nên. Không phải vì gớm, nhưng để không làm rát các vết thương.
Matta không năn nỉ thêm nữa. Bà cúi xuống trên cái thau đựng rượu và dấm thơm. Bà nhúng khăn vào rồi trao cho em bà. Các giọt nước mắt câm nín rơi vào chất lỏng mầu hồng...
Maria bọc lại các cẳng chân tội nghiệp, và đắp mền lên bàn chân đã trơ trơ, vàng khè như chân người chết.
- Thầy có một mình à?
- Không. Với tất cả, trừ Judas Kêriot ở lại Jêrusalem, và ông ta sẽ tới... Nhưng nếu Thầy đã đi xa thì các con hãy bảo ông ta tới Bêtabara, Thầy sẽ ở đó. Bảo ông ta chờ Thầy ở đó.
- Thầy sắp đi rồi?
- Và Thầy sẽ mau chóng trở lại. Sắp tới lễ Cung Hiến Đền Thờ, Thầy sẽ ở nhà con trong những ngày đó.
- Con sẽ không thể tôn vinh Thầy vào Lễ Ánh Sáng...
- Thầy sẽ ở Bétlem vào ngày đó. Thầy cần nhìn lại cái nôi của Thầy...
- Thầy buồn... Con biết... Ôi! Không gì có thể!
- Thầy không buồn. Thầy là Đấng Cứu Thế... Nhưng con mệt, bạn Thầy. Đừng cố gắng chống trả giấc ngủ.
- Là để tôn kính Thầy...
- Ngủ đi, ngủ đi. Rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau... - và Giêsu rút lui không một tiếng động.
- Thầy thấy không? - Matta hỏi khi đã ra ngoài sân.
- Thầy đã thấy. Các môn đệ tội nghiệp của Thầy... Thầy khóc với các con... Nhưng thực sự Thầy thổ lộ với các con rằng qủa tim Thầy có nhiều vết thương hơn anh các con. Trái tim Thầy bị gậm nhấm bởi đau thương... - và Người nhìn họ với sự buồn bã qúa sâu xa mạnh mẽ tới nỗi hai cô quên đi nỗi đau của họ vì nỗi đau của Người. Và vì là phụ nữ nên không thể hôn Người, các cô chỉ giới
499
hạn ở cái hôn trên tay và áo Người với lòng ước ao phục vụ Người như những người em yêu thương. Các cô tiếp Người trong một phòng nhỏ, bao quanh Người bằng tình yêu thương.
Các tiếng nói mạnh của các tông đồ được nghe thấy ở bên kia sân... Tất cả, ngoại trừ tiếng nói của người môn đệ xấu. Giêsu nghe và thở dài... Người thở dài trong khi kiên nhẫn chờ kẻ chạy trốn.
217* KHI ĐI VỀ TÉCUA. ÔNG GIÀ ÊLI-ANNA
Các đấng vẫn là mười một tông đồ khi các vị lên đường. Mười một khuôn mặt trầm tư và chán ngán ở chung quanh khuôn mặt đau khổ của Giêsu. Người đã từ giã hai chị em. Sau một lúc suy nghĩ, trước khi ra khỏi cửa song sắt, Người ra lệnh cho Simon Zêlote và Batôlômêo: “Hai con ở lại đây. Các con sẽ đến với Thầy ở Têcua, tại nhà Simon, hoặc tại nhà Nique gần Jêricô, hoặc ở Bêtabara; làm như vậy, nếu ông ta tới. Và... Hãy sử dụng tình bác ái. Các con hiểu Thầy không?”
- Xin Thầy yên lòng ra đi. Chúng con sẽ không lỗi về tình yêu tha nhân dưới bất cứ hình thức nào - Batôlômêo bảo đảm.
- Dù ông ta tới với các con vào bất cứ giờ nào, hãy ra đi ngay.
- Thưa Thầy, ngay lập tức. Và... cám ơn Thầy đã tin tưởng nơi chúng con - Zêlote nói.
Họ trao đổi cái hôn, và trong khi người đầy tớ đóng cửa, Giêsu ra đi, hai người ở lại trở về nhà với hai chị em.
Giêsu đi một mình ở đàng trước. Đàng sau là: Phêrô ở giữa Mathêu và Giacôbê Alphê, rồi Philíp với Andrê, Giacôbê và Gioan Zêbêđê, sau cùng là Tôma và Juđa Thađê, cũng yên lặng như những người khác. Nhưng tôi giải thích giở! Phêrô yên lặng, hai người đi bên ông trao đổi vài lời, còn ông, ở giữa họ, nhưng ông không nói. Ông bước đi lầm lì, đầu cúi sâu, tựa như ông trao đổi những đàm thoại câm với đá và cỏ mà ông bước lên trên. Hai người đi sau cùng cũng có thái độ gần giống vậy. Tôma tựa như chìm vào sự chiêm ngắm một cành liễu nhỏ mà ông bứt ra từng lá một. Ông nhìn các
500
lá sau khi đã bứt ra tựa như để nghiên cứu cái mầu xanh lạt ở một mặt, và mầu bạc ở mặt kia, hoặc các đường gân lá. Juđa Thađê nhìn đăm đăm thẳng trước mặt ông. Tôi không biết ông đang nhìn chân trời, sau khi băng qua một đỉnh cao, mở rộng ra trên ánh sáng đầy hơi nước của một đồng bằng lúc rạng đông, hay ông chỉ nhìn đầu tóc hoe vàng của Giêsu. Người đã lật áo khoác ra sau, tựa như để thưởng thức mặt trời tháng mười hai chiếu trên đầu. Sau cùng, sự bận rộn của Tôma và sự chiêm ngắm chân trời hay đầu Thầy của Juđa Thađê đều chấm dứt cùng một lúc. Juđa Thađê hạ con mắt xuống và quay đầu để nhìn bạn ông, trong khi Tôma, sau khi đã thu nhỏ cành liễu thành một cái roi, ông ngửa mặt lên nhìn Thađê, một cái nhìn sắc bén, vừa tốt vừa buồn, và nó gặp cùng một cái nhìn.
- Như vậy đó bạn! Thực tình như vậy đó! - Tôma nói, tựa như để chấm dứt một cuộc đàm thoại.
- Đúng, như vậy đó. Và sự đau đớn của tôi thật lớn lao... Đối với tôi, tôi còn có thêm cả tình nghĩa họ hàng nữa...
- Tôi hiểu. Nhưng... Anh đâu có sự dằn vặt về tình cảm trong tim. Nhưng tôi? Tôi có một sự ân hận nó dằn vặt tôi, và cái đó còn tệ hơn.
- Một sự ân hận à? Anh? Anh đâu có gì dẫn chứng cho sự ân hận. Anh tốt và trung thành. Giêsu bằng lòng với anh, và chúng tôi, chúng tôi không bao giờ thấy ở anh lý do để bực tức. Vậy làm sao tư tưởng ân hận lại đến với anh?
- Từ một kỷ niệm. Kỷ niệm cái ngày mà tôi đã quyết định đi theo vị rabbi mới đã xuất hiện ở Đền Thờ... Judas và tôi, chúng tôi ở bên nhau và chúng tôi cảm phục thái độ cũng như lời nói của Thầy. Và tôi đã quyết định đi tìm Người... Tôi còn quyết định mạnh hơn Judas. Và tôi, có thể nói là tôi đã lôi kéo ông ta. Ông ta nói ngược lại, nhưng là vậy đó. Đó là lý do sự ân hận của tôi: đã khẩn khoản để ông ta đến... Tôi đã đem đến cho Giêsu một đau đớn liên tục. Nhưng Judas, tôi đã biết ông ta, hồi đó được trọng vọng bởi... nhiều người. Và tôi đã nghĩ rằng ông ta có thể ích lợi. Tôi đã ngu si cũng như mọi người, chỉ biết nghĩ đến một ông vua Israel lớn hơn
501
Đavít và Salômôn, nhưng luôn luôn là ông vua... một ông vua mà Người nói rằng Người không bao giờ là. Tôi đã nhiệt liệt ao ước rằng có ông ta trong số các môn đệ của Người là Người có ích lợi! Lúc đó tôi đã hy vọng như vậy, và chỉ bây giờ tôi mới hiểu. Và tôi càng hiểu sự công minh của Giêsu hơn, vì người đã không nhận ông ta ngay, ngay cả người đã ngăn cản ông ta tới tìm Người... Một sự ân hận, tôi đã nói với anh! Một ân hận! Con người đó không tốt.
- Ông ta không tốt, nhưng anh đừng ân hận. Không phải vì qủi quyệt mà anh đã làm điều đó, bởi vậy anh không có lỗi. Tôi nói với anh vậy đó.
- Anh có chắc không? Hay anh nói vậy để yên ủi tôi.
- Tôi nói vậy bởi vì đúng như vậy. Tôma, đừng nghĩ tới qúa khứ nữa, điều đó chẳng thể dùng để hủy bỏ nó...
- Anh nói đúng. Nhưng hãy nghĩ coi: Nếu tại tôi mà Thầy tôi phải chịu những bất hạnh... Qủa tim tôi đầy lo âu và ngờ vực. Tôi có tội vì tôi xét đoán đồng đội, và sự xét đoán của tôi tàn nhẫn. Và tôi có tội vì đáng lẽ tôi phải tin vào lời Thầy... Người bào chữa cho Judas... Anh, anh tin Em anh về điều đó không?
- Tin hết mọi sự, trừ điều đó. Nhưng anh đừng buồn. Tất cả chúng ta đều có cùng một tư tưởng. Ngay cả Phêrô, đã hao mòn biết bao để cố gắng nghĩ hết mọi điều tốt cho người đó; ngay cả Andrê là người êm đềm hơn một con chiên con, ngay cả Mathêu, người duy nhất trong chúng ta không hề có sự ghê tởm đối với nam nữ tội nhân, và cả Gioan, rất tình cảm, rất trong sạch, đã được cái số phận sung sướng là không biết sợ sự dữ cũng như nết xấu, vì anh ta đầy tràn tình bác ái và sự trong sạch tới nỗi anh ta không còn chỗ để đón tiếp các thứ khác. Và Em tôi có ông ta, tôi nói về Giêsu, vì chắc chắn Người cũng có những tư tưởng khác về việc này, những tư tưởng mà vì đó, Người thấy là cần phải giữ Judas... cho tới khi Người đã thử hết mọi cách để làm cho ông ta nên tốt.
- Đúng. Nhưng... kết cục sẽ thế nào? Ông ta có nhiều... ông ta không có... Anh hiểu, dù tôi không nói ra. Ông ta sẽ đi tới đâu?
- Tôi không biết... Có lẽ ông ta sẽ xa lìa chúng ta... Có lẽ ông ta
502
sẽ ở lại để chờ coi ai mạnh hơn trong cuộc chiến giữa Giêsu và thế giới Hy Bá...
- Còn chuyện kia? Anh không nghĩ rằng ngay từ lúc này, ông ta đã phục vụ hai chủ rồi sao?
- Điều đó chắc chắn.
- Và anh không sợ rằng ông ta có thể phục vụ nhóm đông hơn, theo cách để làm tổn hại cho Thầy hoàn toàn sao?
- Không. Tôi không ưa ông ta, nhưng tôi không thể nghĩ rằng ông ta... ít nhất, lúc này thì không. Nhưng chắc chắn là tôi sẽ sợ nếu một ngày kia đám đông bỏ rơi Thầy. Trái lại, nếu tiếng hô của dân chúng thánh hiến Người là Vua và là thủ lãnh của chúng ta, thì tôi chắc chắn rằng Judas sẽ từ bỏ mọi người vì Giêsu. Đó là tên hay lợi dụng... Cầu Thiên Chúa giữ ông ta lại và bảo vệ Giêsu cũng như tất cả chúng ta!...
Hai người nhận ra rằng họ đã chậm bước lại và ở lùi đàng sau các bạn một quãng xa, và không nói nữa, họ bắt đầu dấn bước để bắt kịp các người khác.
- Nhưng các anh làm gì vậy? - Mathêu nói. “Thầy hỏi các anh đó”.
Tôma và Thađê vội vã đến tìm Giêsu.
- Các con nói chuyện gì vậy? - Giêsu hỏi khi nhìn đăm đăm vào mặt họ.
Hai người nhìn nhau. Nói? Không nói? Sự thật thà đã thắng họ: “Về Judas” hai người cùng nói.
- Thầy biết, nhưng Thầy muốn thử sự thành thật của các con. Các con sẽ làm khổ Thầy nếu các con nói dối... Nhưng đừng nói nữa, nhất là nói kiểu đó. Có biết bao điều tốt mà người ta có thể nói. Tại sao cứ luôn luôn hạ thấp mình để cứu xét những thứ rất, qúa vật chất? Isaie nói: “Hãy từ bỏ người có tâm hồn trong lỗ mũi”. Thầy, Thầy bảo các con: Hãy chấm dứt phân tích con người này và hãy săn sóc cho linh hồn ông. Con vật nó ở trong ông ta, con quái vật của ông không được lôi kéo cái nhìn của các con cũng như sự xét đoán của các con. Nhưng hãy có tình yêu, một tình yêu đau đớn
503
và linh động cho tâm hồn ông. Hãy giải thoát ông cho khỏi con quái vật nó cầm giữ ông. Các con không biết...
Người quay lại để gọi bảy người kia: “Tất cả hãy lại đây, vì điều Thầy nói có ích cho tất cả, vì tất cả các con đều có cùng một ý nghĩ trong lòng...Các con không biết rằng các con học được nhiều điều qua Judas Kêriot hơn qua mọi người khác sao? Các con sẽ gặp nhiều Judas và rất ít Giêsu trong sứ mạng tông đồ của các con. Các Giêsu thì tốt, êm dịu, trong sạch, trung thành, vâng lời, thận trọng, không tham lam, chỉ có rất ít. Nhưng các con sẽ gặp thấy biết bao, biết bao Judas Kêriot trên đường đời, các con cũng như những người sẽ theo các con, những người kế vị các con. Và để có thể làm thầy và hiểu biết, các con phải học ở ngôi trường này... Ông ta, với các khuyết điểm của ông, bày tỏ cho các con đúng như con người là. Thầy thì Thầy chỉ cho các con con người như nó phải là. Hai kiểu mẫu cần thiết tương đương. Các con, bằng cách hiểu rõ mẫu người nọ cũng như mẫu người kia, các con phải tìm cách biến đổi mẫu thứ nhất thành mẫu thứ hai... và mong rằng sự kiên nhẫn của Thầy là mẫu mực cho các con”.
- Chúa ơi, con đã là một tội nhân, và chắc chắn con cũng là một kiểu mẫu. Nhưng con muốn rằng Judas - không phải là tội nhân như con - trở nên một kẻ hoán cải như con. Nói như vậy có phải là kiêu ngạo không?
- Không, Mathêu, không phải là kiêu ngạo. Con tôn kính hai sự thật khi nói như vậy. Điều thứ nhất là nhận định rằng: “Thiện chí của con người thi hành được những phép lạ thuộc về Thiên Chúa”; sự thật thứ hai là Thiên Chúa đã yêu con vô biên ngay từ khi con chưa nghĩ tới, và Người hành động như vậy vì Người biết khả năng anh hùng của con. Con là hoa trái của hai sức mạnh: Ý muốn của con và tình yêu của Thiên Chúa. Thầy đặt ý muốn của con lên hàng đầu, vì không có nó, tình yêu của Thiên Chúa cũng vô ích. Vô ích và trơ trơ.
- Nhưng Thiên Chúa không thể hoán cải chúng con mà không cần ý muốn của chúng con sao? - Giacôbê Alphê hỏi.
504
- Chắc chắn có thể. Nhưng rồi ý muốn của con người sẽ luôn luôn bị sử dụng để khăng khăng không thay đổi theo sự hoán cải đã được cách lạ lùng.
- Vậy là nơi Judas, ý muốn này không có, và nó không có trước khi biết Thầy cũng như bây giờ... - Philíp nói cách mạnh mẽ. Một số người cười, một số khác thở dài.
Giêsu là người duy nhất bảo vệ vị tông đồ vắng mặt: “Đừng nói như vậy! Ông ta đã có và đang có. Nhưng định luật xấu của xác thịt chế ngự nó từng chặp một. Đó là một bệnh nhân... Một anh em bệnh hoạn tội nghiệp. Trong mọi gia đình đều có người yếu đuối, người bệnh tật, người là sự đau buồn, là nỗi lo âu, là gánh nặng của gia đình. Nhưng đứa trẻ yếu đuối chẳng phải là đứa con cưng nhất của bà mẹ sao? Đứa em nhỏ bất hạnh chả là đứa được chiều chuộng nhất trong đám anh em sao? Chẳng phải nó là người mà người cha đã lấy ở đĩa cho nó miếng ăn ngon nhất, để cho nó một niềm vui, để nó không hiểu rằng nó là gánh nặng, và bằng cách đó, không làm cho sự tàn tật của nó nên nặng nề sao?”
- Đúng vậy. Hoàn toàn đúng. Bà chị sinh đôi với con rất yếu đuối khi còn nhỏ. Bao nhiêu sức mạnh là con lấy hết. Nhưng tình yêu của cả gia đình đã nâng đỡ bà chừng nào, đến nỗi bây giờ bà là bà vợ và bà mẹ mạnh khoẻ, tươi tốt - Tôma nói.
- Đó, các con, đối với người anh em tinh thần suy yếu, hãy làm điều mà các con làm cho người anh em sức khỏe suy yếu. Thầy sẽ không khiển trách ông ta một lời nào. Các con cũng sẽ không hơn Thầy. Tình yêu kiên nhẫn của các con là lời khiển trách mạnh nhất mà người ta không thể phản ứng. Tại Têcua, Thầy sẽ để Mathêu và Philíp ở lại để chờ Judas... Mong rằng người thứ nhất nhớ rằng mình đã là tội nhân, và người thứ hai nhớ rằng mình là người cha...
- Thưa Thầy vâng. Chúng con sẽ nhớ.
- Tại Jêricô, nếu ông ta chưa ở với chúng ta, Thầy sẽ để lại Andrê và Gioan. Và mong hai người sẽ nhớ rằng không phải mọi người đều nhận được các hồng ân nhưng không của Thiên Chúa ở cùng một mức độ... Nhưng hãy tới tìm người ăn mày đang lảo đảo
505
trên đường kia. Thành phố đã ở trong tầm mắt. Với của bố thí, ông ta có thể kiếm được bánh.
- Chúa ơi, chúng con không thể. Judas đã cầm túi tiền đi... Và hai chị em chẳng cho chúng con cái gì cả - Phêrô nói.
- Con có lý, Simon. Các cô như bị trì độn vì đau đớn, và chúng ta cũng vậy đối với các cô. Không quan trọng. Chúng ta có một ít bánh. Chúng ta còn trẻ và khỏe mạnh. Hãy đem cho ông già để ông không ngã qụi trên đường.
Họ lục lọi trong giỏ của họ, thu lượm những miếng bánh và đem cho ông gìa nhỏ. Ông ta ngạc nhiên nhìn họ.
- Ăn đi! Ăn đi! - Giêsu nói để khích lệ ông gìa, và Người cho ông uống nước ở bình của Người trong khi hỏi xem ông đi đâu.
- Đi Têcua. Ngày mai có phiên chợ. Nhưng từ hôm qua tới giờ tôi không ăn.
- Ông một mình à?
- Còn tệ hơn một mình... Con trai tôi đã đuổi tôi... - Giọng nói gìa cả như xé lòng khi người ta nghe.
- Thiên Chúa sẽ mở Nước của Người cho ông nếu ông biết tin ở tình thương của Người.
- Và ở tình thương của Đấng Messi của Người. Nhưng con trai tôi sẽ không có Đức Messi. Nó không thể có Đức Messi, vì nó ghét Người tới độ ghét cả cha nó vì ông tin ở Người.
- Vì vậy mà nó đuổi ông?
- Vì vậy, và vì để khỏi mất tình bạn của một số kẻ bách hại Người. Nó đã muốn chứng tỏ với họ rằng sự thù ghét của nó vượt qua sự thù ghét của họ, tới nỗi nó thống trị cả tiếng nói của nhục huyết.
- Sợ hãi! - tất cả các tông đồ đều nói.
- Sẽ rất sợ hãi hơn nếu tôi có cùng một tư tưởng như con tôi - ông già nhỏ nói cách mạnh mẽ.
- Nhưng ai vậy? Nếu tôi hiểu đúng thì đó là một kẻ mạnh thế và được người ta nghe... - Tôma nói.
- Ông ơi, một người cha thì không nói tên đứa con có tội của
506
mình ra để làm cho người ta khinh bỉ nó. Tôi phải nói rằng tôi đói và lạnh. Tôi, bằng sức làm việc, tôi đã gia tăng sự thoải mái trong nhà, để làm cho con trai tôi sung sướng. Nhưng không còn điều gì hơn. Hãy nghĩ rằng tôi người Juđê, và nó cũng người Juđê, như vậy chúng tôi thuộc cùng một nòi giống, nhưng chúng tôi không suy nghĩ như nhau. Các thứ còn lại là vô ích.
- Và ông, một kẻ công chính, ông không xin gì cùng Thiên Chúa sao? - Giêsu hỏi cách êm đềm.
- Cầu cho Người kích thích qủa tim của con tôi để nó tin điều tôi tin.
- Nhưng cho ông, cho riêng ông, ông không xin gì sao?
- Xin gặp Đấng đối với tôi là Con Thiên Chúa, để thờ phượng Người, rồi chết.
- Nhưng nếu ông chết, ông sẽ không thấy Người nữa. Ông sẽ ở Lâm Bô...
- Chỉ một thời gian vắn. Anh là một rabbi phải không? Tôi nhìn thấy rất mờ... tuổi tác... nhiều nước mắt, và cả cái đói nữa. Nhưng tôi nhìn thấy những cái nút ở giây lưng của anh... Nếu anh là rabbi tốt như tôi cảm thấy, thì hẳn anh cũng thấy rằng thời gian đã tới, thời gian mà Isaie đã nói, tôi muốn nói vậy. Và sắp tới giờ mà Con Chiên mang lấy trên mình Người hết mọi tội lỗi của thế giới, và sẽ mang lấy mọi buồn rầu và đau đớn của chúng ta, và vì lẽ đó, Người sẽ bị đâm thâu và bị giết để chúng ta được lành và được bình an với Thiên Chúa.
- Ông chưa bao giờ thấy Người sao?
- Không. Tôi đã nghe Người nói trong Đền Thờ vào ngày lễ. Nhưng tôi nhỏ con, và tuổi tác làm cho tôi nhỏ lại hơn nữa. Tôi nhìn được rất ít như tôi đã nói. Cũng thế, nếu tôi ở trong đám đông thì tôi không thấy vì những người ở trước mặt tôi, còn nếu tôi ở lại chỗ xa thì tôi không thấy vì khoảng cách. Ôi! Tôi muốn gặp Người ít là một lần.
- Bố ơi, bố sẽ thấy Người. Thiên Chúa sẽ làm thỏa lòng bố. Ở Têcua, bố có chỗ nào để tới không?
507
- Tôi sẽ ở dưới hành lang hay ở một lối vào. Bây giờ tôi quen như vậy rồi...
- Hãy đi với con. Con biết một người Israel tốt. Ông ta sẽ tiếp đón bố nhân danh Giêsu, vị Thầy xứ Galilê.
- Nhưng anh cũng người Galilê mà. Tôi nhận thấy ở giọng nói của anh.
- Đúng... Bố mệt? Chúng ta đã tới những căn nhà đầu tiên. Sắp sửa bố sẽ được nghỉ và bố sẽ bồi dưỡng.
Giêsu cúi xuống để nói gì với Phêrô, và Phêrô rời chỗ để nói với những người khác điều Giêsu đã nói với ông mà tôi không nghe được. Rồi cùng với các con ông Alphê và Gioan, họ gia bước để vào thành phố. Giêsu theo họ cùng với những người khác, điều hòa bước chân với ông gìa nhỏ. Ông già không nói nữa, đã hoàn toàn hết mức, tới nỗi ông ở lùi lại phía sau với Andrê và Mathêu.
Thành phố như trống rỗng. Lúc này là chính ngọ, người ta ở trong nhà để dùng bữa. Sau mấy mét, đây, Phêrô: “Chúa ơi, xong rồi. Simon tiếp nhận ông ta vì do Thầy dẫn tới, và ông cám ơn Thầy vì đã nghĩ tới ông”.
- Chúng ta hãy chúc tụng Chúa. Vẫn còn người công chính trong Israel. Ông gìa này là một, Simon là một nữa. Đúng, vẫn còn người tốt, biết thương xót, trung thành với Chúa. Và điều đó đền bù lại biết bao chua cay, và cho ta hy vọng rằng sự công bằng của Thiên Chúa sẽ nhẹ bớt vì những người công chính này.
- Nhưng!... Một đứa con xua đuổi cha để khỏi mất tình bạn của vài pharisiêu mạnh thế!
- Về điểm này có thể có thù ghét đến với Thầy! Con phẫn nộ! - Philíp nói.
- Ôi! Các con sẽ còn thấy nhiều hơn nữa! - Giêsu trả lời.
- Hơn nữa? Còn gì hơn là một người cha mà người ta xua đuổi bởi vì ông không ghét Thầy? Tội của người này thật là nặng nề!...
- Tội của cả một dân chống lại Thiên Chúa của nó sẽ là tội nặng hơn... Nhưng chúng ta hãy chờ ông già...
- Con ông ta có thể là ai?
508
- Một pharisiêu!
- Một Đại Pháp Đình viên!
- Một rabbi - nhiều ý kiến khác nhau.
- Một kẻ khốn nạn. Đừng tìm cách để biết. Hôm nay ông ta đã đánh cha ông, ngày mai ông ta sẽ đánh Thầy. Vậy các con thấy rằng tội của Judas đã bỏ đi như một đứa loi choi chẳng là gì so với tội này. Nhưng Thầy sẽ cầu nguyện cho người con trai vô ơn này, cho người Hy Bá đã xúc phạm đến Thiên Chúa này, để ông ta hối cải. Các con cũng hãy làm như vậy... Lại đây bố ơi! Bố tên gì?
- Êli-Anna. Tôi không bao giờ được sung sướng. Ba tôi chết trước khi tôi sinh ra và mẹ tôi chết khi sinh tôi. Bà ngoại tôi đã nuôi tôi, và cho tôi tên của ba tôi và má tôi hợp lại.
- Ông ơi, thực sự ông là một Êli, và con trai ông thì giống như Finnes - Philíp nói, vì ông không thể nhẫn nhục được với một tội như vậy.
- Ông ơi, nguyện Thiên Chúa không muốn cho nó chết. Finnes chết trong tội và ông chết khi hòm bia bị bắt. Điều đó sẽ là bất hạnh cho linh hồn nó và cho toàn thể Israel - ông già nhỏ trả lời.
- Ông ơi, căn nhà này là nhà của bạn tôi và tôi đã được điều tôi xin. Nó thuộc về một người tên là Simon, kẻ công chính trước mặt Thiên Chúa và loài người. Simon sẽ tiếp đón ông vì tình yêu đối với tôi, nếu ông chấp nhận nơi này - Giêsu nói trước khi gõ vào cửa.
- Tôi có thể lựa chọn sao? Tôi sẽ khẩn cầu phúc lành của Thiên Chúa xuống trên người đã cho tôi bánh và chỗ ở của tình bác ái. Nhưng tôi muốn làm việc. Làm đầy tớ đâu phải là đáng xấu hổ. Phạm tội mới đáng xấu hổ...
- Chúng ta sẽ nói với Simon - Giêsu nói với nụ cười thương xót khi nhìn ông gìa tự hạ tới cùng bởi thiếu thốn và sự đau đớn tinh thần.
Người ta mở cửa: “Mời Thầy vào. Bình an cho Thầy và các người ở với Thầy. Đâu là người anh em mà Thầy dẫn đến cho con, để con có thể tặng ông cái hôn bình an và sự tiếp đãi? - người đàn ông trạc
509
năm mươi nói.
- Ông ta đây, và nguyện Thiên Chúa thưởng công cho ông.
- Con sẽ được, vì Thầy là khách của con. Ai được Thầy là được Thiên Chúa. Con đã không chờ Thầy nên con không thể tôn kính Thầy như con muốn. Nhưng con nghe rằng Thầy tính ở đây vài ngày, vậy con sẽ lo liệu để tiếp đãi Thầy cho thích hợp.
Bây giờ họ đã ở trong một căn phòng, nơi các thau nước bốc hơi đã được chuẩn bị cho việc tẩy rửa. Ông gìa e lệ ở lại bên cửa, nhưng ông chủ nhà cầm tay ông, dắt tới một cái ghế và muốn chính tay cởi dép cho ông, phục vụ ông như ông vua, rồi xỏ xăng đan mới cho ông. Nhưng ông gìa nói: “Tại sao? Nhưng tại sao? Tôi đến để hầu hạ mà ông lại hầu tôi! Không được!”
- Ông ơi, được mà! Tôi không thể theo Thầy vì nhà tôi cần sự hiện diện của tôi. Nhưng là môn đệ chót của vị Thầy Chí Thánh, tôi dàn xếp để thực hành lời Người.
- Ông biết rõ Người, thực sự ông biết rõ Người, vì ông tốt. Nhiều người trong Israel biết Người, nhưng cách nào? Bằng con mắt và sự thù ghét của họ, vậy là họ không biết Người. Người ta biết một người đàn bà khi không còn cái gì của bà là người ta không biết, và người ta chiếm hữu bà hoàn toàn. Về Giêsu Nazarét cũng vậy. Tôi không biết Người bằng con mắt, nhưng tôi biết Người hơn biết bao kẻ khác, vì tôi tin rằng nơi Người có sự khôn ngoan. Nhưng ông, ông thực sự biết Người, Người cũng như giáo lý của Người.
Người đàn ông nhìn Giêsu, nhưng ông không nói gì.
Ông gìa tiếp: “Tôi đã nói với vị rabbi này là tôi muốn làm việc...”
- Vâng, vâng. Chúng tôi sẽ tìm một công việc cho ông. Nhưng lúc này hãy tới ngồi vào bàn đã. Thưa Thầy, các môn đệ Thầy sắp tới. Chúng ta có thể dù sao cũng ngồi vào bàn không, hay Thầy thích chờ họ hơn?
- Thầy thích chờ. Nhưng nếu con có công việc phải làm...
- Ôi, Thầy! Thầy biết rằng thực là vui cho con khi được vâng lời những ước muốn nhỏ nhặt nhất của Thầy.
Ông gìa nhỏ lúc này có những nghi ngờ về đặc tính của con người đã cứu trợ ông trên đường. Ông nhìn Người, nhìn Người, rồi
510
nhìn các bạn Người... ông xem xét họ cách chăm chú... ông đi vòng chung quanh họ... Hai người con ông Alphê đi vào cùng với Gioan. Giêsu liền gọi họ bằng tên của họ.
- Ôi! Lạy Thiên Chúa Tối Cao! Vậy là... Chính Ngài! - ông gìa kêu lên và phục xuống đất để tôn kính Người.
Sự ngạc nhiên của ông cũng không kém sự ngạc nhiên của những người khác. Thật lạ kỳ khi người ta nhận ra Thầy kiểu này! Tới nỗi Phêrô hỏi: “Nhưng có gì đặc biệt trong những tên rất thông thường này nơi Israel, để nó làm ông hiểu được rằng ông đang ở trước mặt Đức Messi?”
- Là vì tôi biết Judas, ông ta luôn luôn đến nhà con trai tôi và...
- ông gìa dừng lại vì thấy phiền là đã nhắc đến con trai ông...
- Nhưng ông ơi, tôi chưa bao giờ gặp ông - Thađê nói khi đứng ngay trước mặt ông và cúi xuống để hoàn toàn mặt đối mặt.
- Tôi cũng không. Tôi không biết anh. Nhưng một ông Judas môn đệ của Đức Kitô thường đến nhà con trai tôi, và tôi đã nghe đến tên một Gioan, một Giacôbê, một Simon bạn của Lazarô ở Bêtani và biết bao điều khác nữa. Nghe nói tới ba cái tên đã biết là người trong số các môn đệ thân thiết nhất của Thầy! Và Người qúa tốt... Tôi đã hiểu. Đó! Nhưng ông Judas kia đâu?
- Ông ta không ở đây. Nhưng đúng, ông đã hiểu. Chính Thầy đây. Bố ơi! Chúa rất nhân từ. Bố đã ước ao gặp Thầy, và bố đã gặp. Chúng ta hãy chúc tụng lòng thương xót của Thiên Chúa... Đừng tránh ra, Êli-Anna, bố đã ở gần Thầy khi Thầy đối với bố chỉ là một khách bộ hành, không có gì hơn. Tại sao lúc này là lúc bố đã biết Thầy là Cùng Đích mà bố lại muốn ở xa Thầy? Bố không biết con tim bố đã an ủi Thầy chừng nào! Bố không thể biết. Chính Thầy là kẻ đã nhận nhiều hơn chứ không phải bố... Trong khi ba phần tư Israel, và còn nhiều hơn nữa, ghét Thầy tới nỗi đi tới tội ác; khi những kẻ yếu đuối lìa xa con đường của Thầy, khi những phiền sầu vì vô ơn, giận ghét, vu khống, làm tổn thương Thầy khắp nơi, khi Thầy không tìm được sự nhẹ nhõm trong tư tưởng rằng sự Hy Sinh của Thầy sẽ là sự cứu rỗi cho Israel, mà tìm được một người như
511
bố, bố ơi, đó là được một phần thưởng cho những đau đớn của Thầy... Bố không biết... Không ai biết nỗi buồn càng lúc càng sâu xa của Con Người. Thầy khát tình yêu... Và có qúa nhiều con tim là những dòng suối khô, và họ có đến gần Thầy cũng vô ích... Nhưng chúng ta đi thôi...
Và Người cầm tay ông gìa để giữ ông ở gần Người, Người đi vào một phòng mà các bàn đã dọn sẵn.
218* GIÊSU NÓI TẠI TÊCUA
Phía sau căn nhà của Simon Têcua là một công trường đơn sơ, bao vây bằng hai dẫy nhà. Tôi gọi nó là công trường, vì vào những ngày họp chợ như ngày tôi nhìn thấy đây, thì người ta mở cửa ra ở ba chỗ của chiếc hàng rào phân chia nó với một quảng trường lớn hơn, và nhiều người bán hàng với các thứ trưng bày của họ, vào chiếm chỗ trong công trường, dưới các hành lang ở ba phía của căn nhà, mà bây giờ tôi hiểu nó là mối lợi về tài chánh, vì Simon, với tư cách là người Hy Bá tốt, trưng thu của mỗi người bán hàng cái gía của chỗ họ bày hàng. Ông dẫn ông già nhỏ đi với ông, đã được ăn mặc xứng hợp, và ông giới thiệu với tất cả các người bán hàng bằng cách nói: “Đây, từ nay, chính với ông này, qúi vị sẽ trả món tiền thích hợp”. Rồi khi đã làm hết vòng các hành lang, ông nói với Êli-Anna: “Đó là công việc của ông ở đây, còn ở trong nhà thì là quán nước và chuồng ngựa. Nó không khó khăn, cũng không mệt nhọc, nhưng nó chứng tỏ sự tin cẩn của tôi đối với ông. Tôi đã đuổi ba người làm công, người nọ sau người kia, bởi vì chúng không thật thà. Nhưng tôi thích ông, hơn nữa, chính Người đã dẫn ông tới, và Thầy là người biết các con tim. Bây giờ chúng ta đi tìm Người để nói với Người rằng nếu Người muốn, thì bây giờ là lúc thuận tiện để nói” và ông đi, ông gìa theo đàng sau.
Người ta càng lúc càng xâm lấn cái công trường, và sự ồn ào không ngừng gia tăng. Các phụ nữ đến mua sắm; các hàng hóa, súc
512
vật, các người tậu bò để cày bừa hay các con vật khác; các nông dân cúi gù dưới sức nặng của các thúng trái cây và khoe khoang hàng hóa của họ. Các người bán dao búa với những dụng cụ sắc bén, với tiếng động ghê hồn khi họ đập búa rìu lên các khúc gốc cây để chứng tỏ độ chắc của lưỡi, hoặc đập búa vào các lưỡi phạng treo ở một cái gía, để cho thấy lưỡi phạng được trui cách tuyệt hảo; hoặc họ giơ chiếc lưỡi cày lên, rồi với hai tay, họ cắm nó xuống đất, làm đất rẽ ra, để cho bằng cớ là lưỡi cày sắc tới mức không có thứ đất nào chống lại được. Còn người bán xoong chảo, đèn, thì đập vào các kim loại, gây ra tiếng động điếc tai, để chứng tỏ rằng chúng dầy và chắc. Họ la khản cổ để giới thiệu những chiếc đèn có một hay nhiều ngọn, dùng cho ngày lễ của tháng Casleu sắp tới. Bên trên tất cả những tiếng động này, là tiếng kêu đều đều chói tai như tiếng than của cú mèo về đêm, của các hành khất, vang lên tại điểm chiến lược của khu chợ.
Giêsu từ nhà tới cùng với Phêrô và Giacôbê Zêbêđê. Tôi không thấy các người khác. Tôi nghĩ rằng họ đi rảo trong thành phố để loan báo Thầy, vì tôi thấy đám đông nhận ra Người ngay lập tức, và nhiều người chạy tới, trong khi tiếng động của chợ cũng dịu lại. Giêsu cho phân phát của bố thí cho vài người ăn mày, và Người dừng lại để chào hai người đàn ông có các đầy tớ theo sau, sắp rời chợ sau khi đã mua sắm, nhưng bây giờ họ cũng dừng lại để nghe Thầy. Giêsu bắt đầu nói, rút ra đề tài từ những gì Người thấy.
- Mỗi thứ vào giờ của nó, mỗi thứ vào chỗ của nó: người ta không họp chợ vào ngày Sabát, người ta không buôn bán trong giáo đường, người ta cũng không làm việc ban đêm, trái lại, họ làm ban ngày. Chỉ những kẻ tội lỗi mới buôn bán vào ngày của Chúa, hoặc phàm tục hóa các nơi được chỉ định để cầu nguyện bằng những liên lạc loài người, hoặc hành động như kẻ trộm về ban đêm để phạm tội ăn cắp và các tội ác. Cũng vậy, thương gia tốt, thật thà, lo chứng tỏ cho người mua thấy phẩm chất tốt của các thực phẩm của họ, hoặc sự bền chắc của các dụng cụ của họ. Và người mua ra đi, thỏa mãn vì sự mua tậu có hời. Nhưng nếu ví dụ do tài mánh lới,
513
người bán thành công đánh lừa người mua, và rồi người mua nhận ra rằng đồ dùng hay thực phẩm không có chất lượng tốt, và họ đã trả qúa đắt, thì có phải là người mua, tối thiểu là tự vệ bằng cách không bao giờ mua gì của người bán đó nữa, và tối đa là cầu cứu các quan tòa để lấy lại tiền không? Đó là điều vẫn xảy ra, và là điều chính đáng.
Chúng ta, trong Israel, chúng ta đã chẳng thấy các người bán hàng hư hỏng lừa bịp người ta để bán giống như các hàng tốt, và dèm pha những người bán đồ tốt thực, vì họ là những người công chính của Chúa sao? Phải, tất cả chúng ta đều thấy. Chiều hôm qua, nhiều người trong các con đã đến kể những mưu kế của những người bán hàng xấu, và Thầy, Thầy đã nói: “Hãy để họ làm. Hãy giữ con tim của các con cho vững chắc, rồi Thiên Chúa sẽ bổ xung cho”.
Những người bán hàng không tốt, họ xúc phạm đến ai? Đến các con? Đến Thầy? Không? Đến chính Thiên Chúa. Kẻ đắc tội không phải là kẻ bị lừa, mà là kẻ lừa bịp. Muốn bán tống đi những đồ không tốt, để người mua không đi tới những nơi có đồ tốt, đó không phải là tội chống lại loài người nhiều cho bằng chống lại Thiên Chúa. Thầy không bảo các con: Hãy phản ứng, hãy báo thù. Đó không phải là lời nói có thể đến với các con từ Thầy. Thầy chỉ bảo các con: Hãy nghe cái âm thanh thực của các lời; hãy quan sát trong ánh sáng những hành động của các kẻ nói với các con. Hãy nếm ngụm đầu tiên hay miếng đầu tiên của cái người ta biếu cho các con, nếu các con cảm thấy một âm thanh gay gắt, nếu lối sống của kẻ khác có cái gì tối tăm, nếu mùi vị để lại trong tim các con làm cho các con xao xuyến, thì hãy từ khước cái được hiến cho các con như từ khước một của không tốt. Sự khôn ngoan, sự công bằng, tình bác ái không bao giờ chua cay, không làm xao xuyến, và không thích hành động trong bóng tối.
Thầy biết rằng Thầy đã được các môn đệ Thầy đến báo trước, và Thầy để lại cho các con hai trong số tông đồ của Thầy; hơn nữa, chiều hôm qua, bằng các hành động hơn là bằng lời nói của Thầy,
514
Thầy đã minh chứng cho các con rằng Thầy từ đâu mà tới, và với sứ mệnh nào. Vậy không cần những bài thuyết trình dài để lôi kéo các con vào đường của Thầy. Hãy suy nghĩ và hãy có ý chí muốn ở lại đó. Hãy bắt chước các vị sáng lập ra thành phố này, ngay ở biên giới sa mạc khô cằn. Đừng bao giờ thôi nghĩ rằng ở bên ngoài giáo lý của Thầy là sa mạc khô cằn, trong khi ở trong giáo lý của Thầy có suối nước của sự sống. Và cho dù các biến cố có thể xảy đến nhiều tới đâu, các con cũng đừng xao xuyến, đừng phẫn uất. Các con hãy nhớ lại lời Chúa trong Isaie. Bàn tay Thầy sẽ không bao giờ bị cắt cụt, bị thu nhỏ để không thể đổ đầy ơn lành cho những kẻ đi theo con đường của Thầy. Cũng vậy, bàn tay Đấng Tối Cao sẽ không bao giờ giảm thiểu tới số không để không phạt những kẻ làm cho Thầy những xúc phạm và đau đớn - làm cho Thầy là đấng đã đến và đã tìm được qúa ít người đón tiếp; làm cho Thầy là đấng đã kêu gọi mà qúa ít người trả lời - cũng như kẻ tôn vinh Thầy là tôn vinh Chúa Cha, đấng đã sai Thầy, thì kẻ khinh dể Thầy là khinh dể đấng đã sai Thầy. Và theo luật cũ về sự trả báo: kẻ xua đuổi Thầy thì sẽ bị xua đuổi.
Nhưng các con là những kẻ tiếp nhận lời Thầy, đừng sợ những nhục nhã của loài người, đừng run vì những xúc phạm, trước tiên chúng nhắm vào Thầy, rồi sau đó chúng nhắm vào các con là những kẻ yêu Thầy. Thầy, mặc dầu Thầy dường như bị bách hại và sẽ như bị diệt trừ, nhưng Thầy sẽ an ủi các con và bảo vệ các con. Đừng sợ, đừng sợ con người hay chết, họ sống hôm nay, và ngày mai chỉ còn là kỷ niệm và bụi đất. Nhưng hãy sợ Chúa, hãy sợ Người với một tình yêu thánh. Không phải sợ hãi, nhưng là kính sợ vì không biết yêu Người xứng với tình yêu vô biên của Người. Thầy không bảo các con: hãy làm điều nọ điều kia. Các điều phải làm thì các con biết rồi. Thầy bảo các con: Hãy yêu. Hãy yêu Thiên Chúa và Đức Kitô của Người. Hãy yêu tha nhân như Thầy đã dạy các con. Các con sẽ làm tất cả nếu các con biết yêu.
Thầy chúc lành cho các con, hỡi dân chúng Têcua, thành phố ở biên giới sa mạc, nhưng là ốc đảo bình an cho Con Người bị bách
515
hại. Nguyện phúc lành của Thầy ở trong lòng các con, trong nhà các con bây giờ và mãi mãi.
- Xin ở lại, Thầy ơi! Xin ở lại với chúng con. Sa mạc luôn luôn là nơi tốt cho các vị thánh của Israel.
- Thầy không thể. Thầy còn các nơi khác đang chờ Thầy. Các con ở trong Thầy, Thầy ở trong các con, vì chúng ta yêu nhau.
Giêsu rất khó lòng đi băng qua những người theo Ngài, quên cả việc buôn bán và mọi thứ khác. Những người bệnh đã được khỏi còn chúc tụng Người nữa, các con tim được an ủi cám ơn Người, các người hành khất chào Người: “Man-na hằng sống của Thiên Chúa”... Ông gìa nhỏ ở bên cạnh Người, luôn luôn theo bên Người cho tới ranh giới thành phố. Chỉ khi Giêsu chúc lành cho Mathêu và Philíp ở lại Têcua, ông mới chịu rời Vị Cứu Tinh của ông. Ông hôn trên bàn chân trần của Thầy với những nước mắt và các lời biết ơn.
- Êli-Anna, đứng dậy đi để Thầy cho ông một cái hôn, cái hôn của một người con trai cho người cha, và cầu cái hôn này là phần thưởng cho ông trong tất cả. Thầy áp dụng cho ông lời tiên tri: “Ngươi là kẻ khóc lóc, nhưng ngươi sẽ không khóc nữa, vì Tình Thương đã thương xót ngươi”. Chúa đã cho ông một chút bánh và một chút nước. Thầy không thể làm hơn. Ông đã bị xua đuổi bởi một người, còn Thầy bị xua đuổi bởi tất cả quyền hành của một dân tộc. Và sẽ là rất nhiều nếu Thầy tìm được cho Thầy và cho các tông đồ của Thầy một chút lương thực và một chỗ trú. Nhưng đôi mắt ông đã thấy đấng mà ông ước ao, tai ông đã nghe các lời Thầy, cũng vậy, chắc chắn con tim của ông đã cảm thấy tình yêu của Thầy. Hãy đi bình an, ông là kẻ tử đạo vì sự công chính bởi một trong số những kẻ bách hại của hết những kẻ bị bách hại vì Thầy. Bố ơi, đừng khóc - Rồi Người đặt một cái hôn lên đầu tóc bạc của ông.
Ông gìa đáp trả lại cái hôn của Người trên má, và thì thầm vào tai Người: “Chúa của con ơi, hãy nghi ngờ ông Judas đó. Con không muốn làm ô uế lưỡi con... Nhưng hãy ngờ vực. Ông ta đến nhà con trai con không phải vì những tư tưởng tốt đâu...”
516
- Ừ. Nhưng đừng nghĩ tới qúa khứ nữa. Sắp chấm dứt tất cả rồi, và không ai có thể làm hại Thầy nữa. Chào Êli-Anna. Chúa ở với ông.
Họ chia tay...
- Thầy ơi, ông gìa nói nhỏ với Thầy cái gì đó? - Phêrô hỏi. Ông bước bên cạnh Giêsu cách khó nhọc, vì Giêsu bước những bước dài với cẳng chân dài của Người, điều mà Phêrô nhỏ con không làm được.
- Ông gìa tội nghiệp! Con nghĩ rằng ông nói với Thầy điều mà Thầy chưa biết sao? - Giêsu trả lời và tránh trả lời chính xác.
- Ông ta đã nói với Thầy về con trai ông, hen? Ông ta nói với Thầy anh ta là ai?
- Không, Phêrô. Thầy bảo đảm với con: ông ta giữ cái tên này trong qủa tim ông.
- Nhưng Thầy biết chứ?
- Thầy biết, nhưng Thầy sẽ không nói cho con biết đâu.
Một yên lặng kéo dài. Rồi câu hỏi của Phêrô lại quay cuồng cùng với sự thú nhận của ông: “Nhưng tại sao, thưa Thầy, với mục đích nào mà Iscariot tới nhà một người rất xấu như là con trai của Êli-Anna? Thầy ơi, con sợ. Anh ta không có bạn tốt, anh ta không tới đó cách công khai, anh ta không có sức mạnh để chống lại điều xấu. Thầy ơi con sợ! Tại sao? Tại sao Judas tới nhà những người này cách bí mật?” Khuôn mặt Phêrô bộc lộ sự nghi vấn lo âu.
Giêsu nhìn ông và không trả lời. Qủa thực, Người phải trả lời thế nào? Cái gì? Để không nói dối, và không quăng Phêrô trung thành vào sự chống đối Judas bất trung. Người thà để cho Phêrô nói.
- Thầy không trả lời con à? Từ hôm qua tới giờ, từ lúc ông gìa đã nhận ra Judas trong số chúng ta, con không được bình an. Con giống như bữa Thầy nói với bà vợ ông Saddu, Thầy nhớ không? Thầy có nhớ sự nghi ngờ của con không?
- Thầy nhớ. Và con, con có nhớ lời Thầy nói với con lúc đó không?
517
- Thưa Thầy có.
- Vậy không còn điều gì khác để nói nữa, Simon. Các hành động của con người có một ngoại diện khác với thực tế. Nhưng Thầy bằng lòng vì đã cung cấp được nhu cầu cho ông già này, tựa như Anania đã trở lại. Thực vậy, nếu Simon Têcua không tiếp nhận ông thì Thầy sẽ dẫn ông đến căn nhà nhỏ của Salômôn, để luôn luôn có ở đó một người cha chờ đợi chúng ta. Nhưng với Êli, như vầy thì tốt hơn. Simon tốt, ông ta có nhiều cháu. Êli yêu trẻ con... và trẻ em làm quên đi những điều đau đớn.
Với thói quen của kẻ biết cách làm đãng trí kẻ đàm thoại với Người, và dắt họ tới một đề tài khác khi Người thấy không thích hợp để trả lời các câu hỏi nguy hiểm, Giêsu đã làm Phêrô sao lãng tư tưởng của ông. Và Người tiếp tục nói với ông về các đứa trẻ Người đã biết tại nơi nọ nơi kia, để đi tới chỗ nhắc ông nhớ tới Margziam, có lẽ giờ này đang kéo lưới sau khi đã thả nó trong chiếc hồ đẹp Génésarét.
Phêrô bây giờ đã ở xa tư tưởng về Êli và Judas, ông mỉm cười hỏi: “Nhưng sau lễ Vượt Qua, chúng ta sẽ về đó phải không? Qúa đẹp! Ôi, đẹp rất nhiều hơn ở đây. Chúng ta, dân Galilê, chúng ta là người tội lỗi đối với dân Juđê... Nhưng để sống ở đây! Ôi, lạy Tình Thương muôn thuở! Nếu chúng ta có bị ngược đãi ở đây thì chắc chắn không được phần thưởng.
Giêsu gọi những người khác đang đi lùi ở đàng sau, và Người cùng với họ đi vào con đường được sưởi bởi mặt trời của tháng mười hai.
219* TẠI JÊRICÔ
Giêsu rất được chờ đợi. Một đám đông người tạm trú trong miền quê ở gần thành phố để chờ. Một quan sát viên đậu trên một cây hồ đào cao, vừa khi ông ta phóng ra tiếng kêu: “Đây, Con Chiên Thiên Chúa!” là mọi người đứng dậy và chạy đến với Giêsu đang đến trong những hạt sương đầu tiên của hoàng hôn.
- Thầy! Thầy! Chúng con đã chờ Thầy rất lâu rồi! Các bệnh
518
nhân của chúng con! Các trẻ nhỏ của chúng con! Các người gìa chờ phúc lành của Thầy để tắt thở bình an! Chúa ơi, nếu Thầy chúc lành cho chúng con, chúng con sẽ tránh được những bất hạnh!...- Tất cả mọi người đều nói đồng loạt trong khi Giêsu giơ tay với những cử chỉ chúc phúc lặp đi lặp lại, và nói đi nói lại: “Bình an! Bình an! Bình an cho tất cả các con!” Các tông đồ đi theo Người bị đẩy đi trong dòng nước xoáy của đám đông và bị ngăn cách với Giêsu. Người hầu như không bước được vì bị đám đông cản, dù họ phàn nàn là đã chờ qúa lâu.
Ông Zakê tội nghiệp vùng vẫy chiến đấu để đến với Giêsu, để được Người nghe thấy, ít nhất là được Người nhìn thấy. Nhưng vì ông nhỏ thó, không lanh lẹ, cũng không lực lưỡng, ông luôn luôn bị đẩy lui bởi các làn sóng đám đông mới. Tiếng kêu của ông tan biến trong tiếng ầm ỹ lớn, thân mình của ông biến mất trong sự lộn xộn của các đầu, cánh tay, y phục vùng vẫy. Ông năn nỉ cách vô ích, đôi khi ông trách móc để được một chút tình thương. Người ta luôn luôn ích kỷ đối với kẻ tìm niềm vui và tàn nhẫn với kẻ yếu đuối. Ông Zakê tội nghiệp kiệt quệ vì những cố gắng ông đã làm, nhận định ra sự vô ích, nên bỏ mất ý muốn phấn đấu. Bẽ bàng, ông đành chịu thua. Qủa thực, làm sao có thể thành công, vì ở mỗi đường phố kéo ra thêm những người khác. Các đường phố tựa như từng ấy con suối chảy tất cả vào một con sông duy nhất: con đường mà Giêsu đi, và mỗi chi lưu mới là những đợt sóng mới, làm cho đám đông thành không thể nào vượt qua được, tới mức đáng sợ khi ở trong đó, và Zakê tội nghiệp bị đẩy ra sau.
Thađê nhìn thấy ông và cố gắng phăng ra một lối đi để đem ông ra khỏi góc phố mà đám đông đã đẩy ông vào và kìm chặt ông ở đó. Nhưng rồi đến lần ông, Juđa Alphê cũng bị đẩy lại bởi những người chen ở đàng sau ông, và cuộc thử nghiệm của ông thất bại. Tôma, mạnh và lực lưỡng, húc cùi chỏ, la bằng giọng nói rất mạnh của ông: “Tránh chỗ!” với cùng một thử nghiệm. Than ôi, người ta làm thành một bức tường vững chắc hơn tường đá và mềm hơn cao su: nó gập lại nhưng nó không mở ra. Đó là sự ôm xiết mà giây
519
xích không thể đứt. Tôma cũng chịu thua.
Zakê mất hết hy vọng, vì Didyme là tông đồ sau cùng cũng đã bị dòng người lôi đi. Và sau cùng dòng nước chảy qua... Nó đi qua... các mảnh vải, các nơ, vài tua viền, trâm cài tóc, khóa quần áo... rải rác trên đất để làm nhân chứng cho sự vùng vẫy. Có cả đến một chiếc xăng đan nhỏ của trẻ em, bị chà bấy, tựa như buồn rầu chờ bàn chân nhỏ đã mất nó... Zakê bắt đầu theo sau mọi người, ông cũng buồn như chiếc dép nhỏ bị giật khỏi người chủ nhỏ của nó.
Không còn nhìn thấy Giêsu đâu nữa. Một chỗ quặt của đường phố đã cướp Người khỏi tầm mắt của Zakê tội nghiệp. Nhưng khi ông theo sau đám đông tới quảng trường mà lúc trước có quầy thuế của ông, ông thấy người ta dừng lại và kêu la, cầu xin, năn nỉ. Và ông thấy Giêsu trèo lên một bậc thềm, rồi bằng hai cánh tay và đầu, Người làm dấu hiệu phủ định, và Người nói điều gì, nhưng người ta không thể hiểu trong sự gào thét của đám đông. Sau cùng ông thấy Giêsu, với nhiều khó khăn, xuống khỏi cái bục của Người, tiếp tục bước, và Người quẹo, đúng, Người quẹo ngay về phía có căn nhà của ông. Lúc đó Zakê hồi phục được tất cả sự hăng say của ông. Người ta đông, nhưng quảng trường lớn, vì vậy đám đông ít cứng ngắc hơn, và có thể bị xuyên thủng như một hàng rào không qúa dầy bởi một người thật cương quyết và không sợ trầy sứt. Zakê trở thành một mũi nhọn, một máy phóng đá, một con cừu đực. Ông húc mọi người, chen đẩy, len lỏi, phân phát và nhận những cú đấm vào mặt, những cú húc cùi chỏ vào bao tử, những cú đá vào ống chân. Nhưng ông phăng được lối đi và tiến tới... Đây, ông đã tới phía đối diện... Nhưng ở đây không còn phải là quảng trường, mà lại là một bức tường bằng người không thể xuyên qua. Chỉ còn ngăn cách với Giêsu có mấy bước, Người đã dừng lại ở gần nhà ông. Nhưng nếu khoảng cách này là sa mạc hay sông ngòi thì có nhiều hy vọng xuyên qua để đến với Người hơn. Ông bực mình, la lối, áp đảo: “Tôi phải vào nhà tôi! Hãy để cho tôi qua. Qúi vị không thấy rằng Người muốn vào nhà tôi sao?”
Đáng lẽ ông không nên nói vậy, vì điều đó khiêu khích đám
520
đông muốn có Thầy trong những căn nhà khác. Một số người cười và nhạo ông Zakê tội nghiệp, một số khác trả lời ông cách độc ác. Không ai có tình thương cả, trái lại, họ la lối và múa may để ngăn cản Thầy nghe và nhìn thấy Zakê. Một số người la: “Ông gìa tội lỗi, ông đã được có Người qúa nhiều rồi!”
Với bấy nhiêu giận ghét, tôi thấy chả lạ gì cái kỷ niệm về việc trưng thu qúa mức và phiền nhiễu trước kia. Con người, dù là những người sẵn sàng hơn với các sự siêu nhiên, hầu như vẫn luôn luôn giữ một góc nhỏ làm nơi cho tình yêu tiền bạc sống, và nhất là cái kỷ niệm về kẻ đã làm thiệt hại cho tiền bạc này sống mạnh hơn...
Nhưng giờ thử thách đã qua cho Zakê, và Giêsu thưởng cho sự kiên gan của ông. Giêsu kêu bằng tất cả sức mạnh của tiếng nói Người: “Zakê, hãy đến với Thầy! Hãy để cho ông đi qua, vì Thầy muốn vào nhà ông”.
Sức mạnh được vâng lời. Đám đông ép lại để chừa lối cho Zakê tiến lên. Ông đỏ gay vì mệt, vì mừng, và ông cố gắng đặt lại thứ tự mái tóc rối của ông, áo bị tuột núc của ông, giây lưng với các mối thắt nút ở sau lưng thay vì phải ở đàng trước. Ông tìm áo khoác của ông, nhưng nào ai biết nó ở đâu!... Không quan trọng. Bây giờ ông ở trước Giêsu, hơi cúi để tôn kính Người. Ông không thể làm hơn, vì chỉ có chỗ để hơi cúi thôi.
- Bình an cho con, Zakê. Vậy hãy tới để Thầy cho con cái hôn bình an. Con rất xứng đáng được - Giêsu nói khi mỉm cười, một nụ cười thật vui, trẻ trung, thực sự như nó làm cho Người trẻ lại.
- Ôi, vâng, lạy Chúa, con rất đáng được, vì Thầy ơi, khó chừng nào để đến với Thầy - Zakê nói khi nghển cổ lên hết sức có thể để có tầm gần với Giêsu khi Người cúi xuống để hôn ông. Khi làm như vậy, ông để cho Thấy khuôn mặt chảy máu vì một vết trầy ở má phải, và một con mắt xanh vì một cú húc cùi chỏ mà ông đã nhận trên tròng mắt.
Giêsu hôn ông rồi nói với ông: “Không phải vì sự mệt nhọc này mà Thầy thưởng con đâu, nhưng là vì những điều khác, kín đáo đối với người ta, nhưng Thầy biết. Đúng, thực vậy, đến với Thầy là
521
khó, nhưng không phải đám đông là trở ngại duy nhất, cũng không phải trở ngại khó nhất mà người ta gặp khi đến với Thầy.
Nhưng hỡi dân chúng, những người có thể nói là đã mang Thầy đi trong chiến thắng, trở ngại khó nhất, kiên cố nhất, luôn luôn được tái tạo sau khi người ta đã cố gắng để bẻ gẫy nó và thắng vượt nó, đó là cái tôi cá nhân. Các con thấy có vẻ như Thầy không thấy gì, nhưng Thầy thấy hết, và Thầy phê phán tất cả. Nhưng Thầy thấy gì? Thầy thấy một người tội lỗi hoán cải, một kẻ trước kia có con tim khắt khe, thích tiện nghi dễ dãi; một kẻ kiêu căng, tự phụ, dâm đãng và keo kiệt, và Thầy thấy ông loại bỏ tất cả cái tôi cũ của ông ngay cả trong những việc ít quan trọng; và ông thay đổi cách hành động và các tình cảm của ông cũng như trong việc này, để chạy đến với Vị Cứu Tinh của ông, chiến đấu để đến với Người, năn nỉ cách khiêm nhường, nhận lấy những chế diễu và trách móc một cách kiên nhẫn; chịu đau trong thân xác vì những va chạm của đám đông, và chịu trong lòng vì thấy mình bị đẩy ra sau mọi người, cả đến không thể nhận được một cái nhìn của Thầy. Và Thầy thấy những điều khác nơi ông, những điều mà các con biết, nhưng các con không muốn kể tới, mặc dầu nó đã làm cho các con được nhẹ nhõm.
Các con sẽ nói: ‘Làm sao Thầy biết, Thầy đâu có ở giữa chúng con?’ Thầy trả lời các con: Cũng như Thầy đọc được trong các con tim, Thầy cũng biết các hành động của người ta, và Thầy biết chính đáng để thưởng cân xứng với con đường đã đi để đến với Thầy, những cố gắng đã làm để dọn sạch khu rừng hoang bao phủ tâm hồn, làm cho nó nên tốt bằng cách dẹp bỏ hết những gì không phải là cây sự sống, và trồng cây sự sống như cây vua trong cái tôi, bao quanh nó bằng các cây nhân đức để nó được tôn kính, canh chừng để không một con vật ô uế nào, không loài bò sát nào - là các ham hố đồi trụy, dâm đãng hay nhàn cư: các đam mê xấu khác nhau - có thể nấp trong các chòm lá, nhưng chỉ có một thứ duy nhất được ở trong đó, là thần trí các con, cái tốt và có khả năng ca tụng Chúa, tức là các tình cảm siêu nhiên, như từng ấy con chim ca hót, từng
522
ấy con chiên hiền lành sẵn sàng để được hiến tế, sẵn sàng lời ca tụng trọn hảo cho tình yêu Thiên Chúa.
Cũng như Thầy biết các việc của Zakê, các ý nghĩ của ông, sự mệt mỏi của ông, Thầy cũng biết rằng nơi nhiều người trong thành phố này, những người đã hoan hô Thầy, có một tình yêu tình cảm hơn là siêu nhiên. Nếu các con yêu Thầy theo lẽ công chính, các con sẽ thương người đồng hương của các con, các con sẽ không hạ nhục ông bằng cách nhắc lại qúa khứ của ông. Cái qúa khứ này đã được bãi bỏ cho ông, và vì vậy Thiên Chúa không nhớ tới nó nữa, vì Người không quay trở lại trên sự tha thứ mà Người đã ưng thuận, miễn là tạo vật không phạm tội nữa. Và Người trở lại đó để phán xét các tội mới chứ không phải các tội đã được tha. Vậy Thầy bảo các con, và Thầy cho các con như người bạn đi kèm trong sự suy niệm ban đêm, rằng không phải trong tiếng hoan hô là luôn luôn bao hàm tình yêu thực sự đối với Thầy, nhưng trong việc làm tròn những điều Thầy làm và dạy về việc thực hành tình yêu hỗ tương, sự khiêm nhường và tình thương xót, trong khi nhớ rằng về phần vật chất, các con đã được tạo thành bởi cùng một thứ bùn, mà bùn thì luôn luôn có khuynh hướng về với đầm lầy, và bởi vậy, nếu cho tới lúc này, sức mạnh trong các con đã giữ cho các con ở bên trên đầm lầy, tức là tâm hồn không hề biết đến thất bại - nhưng điều này không hề có, vì con người là tội lỗi, chỉ có mình Thiên Chúa là vô tội - thì ngày mai, tâm hồn các con có thể phải biết, và có lẽ nhiều hơn và trầm trọng hơn những tội của ông gìa tội lỗi, từ rày đã được tái sinh trong Ân Sủng, và bởi Ân Sủng, lại trở nên một người trẻ và mới như một trẻ nhỏ, với sự khiêm nhường do cái kỷ niệm đã là một tội nhân, và ý muốn cương quyết làm trong quãng đời còn lại rất nhiều việc lành, đủ để làm đầy cuộc đời giống như một đời trường thọ hoàn toàn cống hiến cho việc lành, tới nỗi sửa lại với sự tràn đầy và dư dật, tất cả các điều xấu họ có thể đã làm.
Ngày mai Thầy sẽ nói với các con. Với chiều nay thì Thầy đã chấm dứt. Hãy đi với lời dặn dò của Thầy, và hãy chúc tụng Thiên Chúa vì Người đã gởi thầy thuốc đến cho các con để tỉa xén tình
523
dục của các con ẩn náu dưới tấm màn của sức khỏe thiêng liêng, giống như bệnh tật ẩn kín dưới hình thức sức khỏe của thân xác... Đi, Zakê.”
- Vâng, Chúa của con. Con chỉ còn một người đầy tớ gìa, và chính con sẽ mở cửa, và cùng với cửa là con tim cảm động của con, ôi, biết bao cảm động, vì lòng tốt vô biên của Thầy.
Sau khi đã mở chấn song, ông mời Giêsu và các tông đồ vào, rồi ông dẫn Người vào nhà, băng qua một khu vườn đã trở thành vườn rau. Căn nhà cũng đã được dẹp bỏ hết các thứ dư thừa. Zakê thắp lên một cái đèn và gọi người đầy tớ.
- Đây, Thầy ở đây. Người ngủ ở đây với các người của Ngài và dùng bữa tối ở đây. Ông đã chuẩn bị như tôi nói chưa?
- Dạ rồi. Chỉ còn rau mà bây giờ tôi sẽ bỏ vào nước sôi. Tất cả đã sẵn sàng.
- Vậy hãy thay quần áo và đi nói với những người mà ông đã biết rằng Người ở đây, để họ tới.
- Thưa ông chủ, tôi đi. Xin chúc tụng Thầy, đấng làm cho con chết vì thỏa lòng - và ông ra đi.
- Đó là người đầy tớ của ba con, ông ở lại với con. Những người khác, con đã cho đi. Nhưng ông rất thân thiết với con. Đó là tiếng nói không biết mệt khi con phạm tội, và con đã xử tệ với ông vì vậy. Bây giờ, sau Thầy thì ông ta là người con yêu hơn tất cả các người khác... Xin mời các bạn tới. Ở đây có lửa và những thứ có thể phục hồi tứ chi mệt mỏi và gía lạnh. Mời Thầy vào phòng riêng của con... - Và ông dẫn Người vào một phòng ở đáy hành lang.
Ông vào, đóng cửa lại, pha nước nóng đựng trong một cái bình, cởi xăng đan của Giêsu, phục vụ Người. Trước khi xỏ lại xăng đan cho Người, ông hôn lên bàn chân trần, rồi để nó lên cổ và nói: “Như vậy để Thầy chà đạp những gì còn lại của tên Zakê cũ!” Ông đứng dậy, nhìn Giêsu với một nụ cười làm môi ông run run, một nụ cười khiêm nhường, hơi ướt bởi vài giọt nước mắt. Ông làm cử chỉ rộng, chỉ vào tất cả chung quanh và nói: “Con đã phạm tội biết bao ở đây! Nhưng con đã thay đổi hết, để những gì có mùi vị đó không
524
còn hiện diện cho con nữa. Các kỷ niệm... Con yếu đuối... Con chỉ còn để cho sống cái kỷ niệm về sự hoán cải của con trong những bức tường trơ trụi này, trong chiếc giường cứng rắn này... Các thứ khác... con đã biến nó thành tiền, vì con không còn nữa, và con muốn làm việc lành. Mời Thầy ngồi...”
Giêsu ngồi xuống trên một ghế gỗ, Zakê ở dưới đất, nửa ngồi nửa qùi, ông lại bắt đầu nói:
- Con không biết con có làm đúng không. Nếu Thầy có thể xác nhận công việc của con. Có lẽ con đã bắt đầu ở chỗ con phải chấm dứt. Nhưng họ cũng ở đó, và chỉ có mình người thâu thuế gìa là có thể không có sự ghê tởm đối với họ trong Israel. Không, con nói không rõ ràng. Không phải chỉ có người thâu thuế gìa, mà cả Thầy nữa, hay đúng hơn là chính Thầy đã dạy con yêu họ thực sự. Trước đây họ là những người đồng lõa với con trong trụy lạc, nhưng con đã không yêu họ. Bây giờ con ngăn cản họ, nhưng con yêu họ. Thầy và con, Đấng Rất Thánh và kẻ tội lỗi hoán cải. Thầy, bởi vì Thầy không bao giờ phạm tội, và Thầy muốn cho chúng con niềm vui của kẻ vô tội là niềm vui của Thầy; và con, vì con đã qúa phạm tội, và con biết sự bình an đến từ sự kiện được tha thứ, được cứu chuộc, được đổi mới... nó êm đềm chừng nào. Con muốn điều đó cho họ. Con đã tìm họ. Ôi! Việc đó lúc đầu thật là gay go. Con muốn cho họ nên tốt, nhưng chỉ có con là kẻ con phải làm cho nên tốt... Khổ chừng nào! Canh chừng con, vì con biết là họ canh chừng con. Chỉ cần một cái chẳng là gì cũng có thể làm họ xa lìa... Lại nữa... nhiều người phạm tội vì nhu cầu, bởi sự cần thiết của nghề nghiệp. Con đã bán hết đồ để có tiền duy trì họ cho tới khi họ tìm được một công việc ít lợi hơn, mệt nhọc hơn, nhưng thật thà. Luôn luôn có người trong đám họ tới, hơi vì tò mò, hơi vì ước muốn làm một người chứ không phải chỉ là con vật. Và con phải tiếp đón họ bao lâu họ không tự đặt mình vào một cái ách mới. Nhiều người đã cắt bì, một bước đầu tiên đi về với Thiên Chúa thực. Nhưng con không bó buộc họ. Con có cánh tay dài để ôm ấp các khốn nạn, con là người không được bày tỏ sự ghê tởm. Con cũng muốn cho họ
525
điều Thầy muốn cho mọi người: niềm vui không phải hối hận nữa, vì chúng con không thể vô tội như Thầy. Bây giờ, ôi Chúa của con, hãy nói cho con xem con có cả gan qúa không.
- Con đã làm rất tốt, Zakê. Con đã cho họ nhiều hơn con hy vọng, và nhiều hơn con nghĩ rằng Thầy muốn cho loài người. Không phải chỉ có niềm vui được tha thứ, không phải hối hận, mà còn nỗi vui sắp được làm công dân trên Nước Trời của Thầy. Thầy biết những việc con làm. Thầy theo con trong sự tiến bước của con trên con đường lao nhọc nhưng vinh quang của đức bác ái, vì đó là đức bác ái, và là thứ tinh ròng nhất. Con đã hiểu ngôn ngữ của Nước Trời. Rất ít người hiểu nó, vì ở nơi họ tồn tại một thứ quan niệm xa xưa, một sự tin tưởng rằng mình thánh thiện và khôn ngoan. Con, một khi loại trừ khỏi lòng con cái qúa khứ của con, con trở thành trống rỗng, bởi đó con có thể, đúng hơn là con đã muốn đặt vào nội tâm con những lời mới, một tương lai và sự vĩnh cửu. Zakê, hãy tiếp tục như vậy, và con sẽ là kẻ sách nhiễu Chúa Giêsu của con - Giêsu nói để chấm dứt khi Người mỉm cười và đặt tay trên đầu Zakê.
- Lạy Chúa, Thầy chuẩn nhận cho con? Trong tất cả?
- Trong tất cả, Zakê. Thầy cũng đã nói vậy với Nique khi bà nói với Thầy về con. Nique hiểu con. Bà biết mở rộng với tình thương phổ quát.
- Nique đã giúp đỡ con nhiều. Nhưng bây giờ con chỉ gặp bà vào mỗi tuần trăng mới... Con muốn theo bà, nhưng Jêricô thuận lợi cho công việc mới của con...
- Bà sẽ không ở lại Jêrusalem lâu... Con sẽ dời chỗ vô ích. Rồi sau này Nique cũng sẽ trở lại đây...
- Sau khi nào Chúa?
- Sau sự công bố của nước Thầy.
- Nước Thầy... Con sợ cái lúc đó. Những người bây giờ xưng mình là tín hữu của Thầy, lúc đó họ còn là vậy không? Vì chắc chắn sẽ có những cuộc nổi dậy và những cuộc chiến đấu giữa những kẻ yêu Thầy và những kẻ ghét Thầy... Lạy Chúa, Thầy biết không? các kẻ thù của Thầy mua chuộc cả đến những tên trộm cắp, bọn
526
cặn bã xã hội, để có đồng đảng cho đông, sẵn sàng để đàn áp những người khác. Con biết được điều đó bởi một trong những anh em tội nghiệp của con... Ôi! Giữa những kẻ ăn cắp một cách hợp pháp, giữa các kẻ ăn cắp danh dự và kẻ ăn cắp của khách qua đường, có thể có nhiều dị biệt không? Con cũng đã ăn cắp một cách hợp pháp mãi cho tới lúc Thầy cứu con. Nhưng cả khi đó, con cũng không phụ giúp với những kẻ ghét Thầy... Anh ta còn trẻ, một tên ăn cắp, đúng, một tên ăn cắp. Một buổi chiều, con đi về Adomin để chờ ba người giống như con từ Ephraim đến với đoàn vật mua với gía rẻ nhất, con thấy nó đang mai phục ở một khe núi. Con nói chuyện với nó... Con chưa bao giờ lập gia đình, nhưng con tin rằng nếu con có con trai, con cũng nói với nó như vậy, để thuyết phục nó thay đổi đời sống. Nó đã cắt nghĩa cho con bằng cách nào, và tại sao nó đã trở nên kẻ cắp... Ôi! Biết bao lần những kẻ có tội thực lại có vẻ như chẳng làm gì ác cả!... Con đã nói với nó: “Đừng ăn cắp nữa. Nếu mày đói thì vẫn còn bánh cho mày. Tao sẽ tìm cho mày một công việc ngay lành. Bởi vì mày không phải là sát nhân, hãy dừng lại, hãy cứu lấy mình”. Con đã thuyết phục được nó. Nó nói với con rằng nó ở lại một mình, vì những người khác đã bị mua chuộc bằng một món tiền lớn bởi những kẻ ghét Thầy, và bây giờ họ sẵn sàng để kích thích sự dấy loạn và bảo nhau gây phẫn nộ trong dân. Chúng ẩn trong các hang ở Cédron, trong các nhà mồ, về phía Faselo, trong các hang ở phía bắc thành phố, ở giữa các lăng vua và lăng thẩm phán, khắp nơi... Ôi, Chúa ơi, họ muốn làm gì?
- Josuê đã có thể làm cho mặt trời dừng lại, nhưng họ, với tất cả mọi phương tiện của họ, họ không thể ngăn cản được ý muốn của Thiên Chúa.
- Chúa ơi! Họ có tiền. Đền Thờ rất giầu. Vàng được dâng cúng vào Đền Thờ chẳng là gì đối với họ nếu nó giúp họ toàn thắng.
- Họ chẳng có gì cả. Chính Thầy là kẻ có sức mạnh. Lâu đài của họ sẽ sụp đổ như lá bị khô bởi gió mùa thu mà các trẻ con đã dùng để xây một lâu đài. Zakê, đừng sợ, Giêsu của con sẽ là Giêsu.
527
- Chúa ơi! Cầu Thiên Chúa canh chừng để được như vậy... Người ta gọi chúng ta. Ta đi.
220* GIẢNG THUYẾT TẠI JÊRICÔ
Giêsu ra khỏi nhà của Zakê, buổi sáng đã rạng. Cùng với Người, có Zakê, Phêrô và Giacôbê Alphê. Các tông đồ khác có lẽ đã tản mát vào miền quê để loan báo rằng Thầy đang ở trong thành phố. Đàng sau nhóm của Giêsu với Zakê và các tông đồ, còn có những người khác rất khác nhau về diện mạo, tuổi tác, y phục. Chả khó khăn gì để tuyên bố cách chắc chắn rằng những người này thuộc về các nòi khác nhau, có lẽ cả đến hận thù với nhau, nhưng các biến cố của đời sống đã đưa họ tới thành phố này của xứ Palestin và qui tụ họ lại, để từ hố sâu của họ, họ trở lên về với ánh sáng. Đây phần đông là các khuôn mặt tàn tạ của những người đã sống và lạm dụng đời sống bằng nhiều cách. Phần đông có đôi mắt mệt mỏi, những người khác thì có cái nhìn của kẻ đã lâu dài bị lôi kéo vào những công việc... cướp bóc thuế khoá hay những chỉ huy tàn nhẫn, đã làm cho họ thành tham lam và hà khắc. Và đôi khi cái nhìn cũ này tái xuất hiện dưới lớp màn khiêm tốn và suy tư mà đời sống mới đã đặt vào. Và điều đó đặc biệt xảy ra khi có người dân nào ở Jêricô nhìn họ với vẻ khinh bỉ hay quăng cho họ vài lời lăng mạ lẩm bẩm. Rồi cái nhìn của họ lại trở về mệt mỏi, khiêm tốn, và đầu họ lại cúi xuống, bẽ bàng.
Hai lần Giêsu quay lại để quan sát họ, thấy họ ở đàng sau, đi chậm lại theo đà họ tới nơi đã được chọn để nói, và đã đầy người, Người cũng bước chậm lại để chờ họ, và sau cùng Người bảo họ: “Hãy tiến lên đi trước mặt Thầy và đừng sợ. Các con đã thách thức cả thế giới khi các con làm điều xấu, bây giờ các con đã bài trừ nó, các con không phải sợ. Điều lúc đó đã giúp các con chế ngự được thế giới là sự dửng dưng với các xét đoán của thế gian, khí giới duy nhất để làm cho nó mệt mỏi để xét đoán, bây giờ các con cũng hãy
528
sử dụng nó, và họ sẽ mệt khi lo để ý đến các con, rồi họ sẽ hút thấm lấy các con, mặc dầu chậm chạp, để làm cho các con biến mất trong cái khối vô danh là cái thế giới khốn khổ này, mà thực sự, người ta đã cho nó qúa nhiều quan trọng”.
Đám người, con số là mười lăm, vâng lời tiến lên trước.
- Thưa Thầy, các người bệnh thuộc miền quê ở đàng kia - Giacôbê Zêbêđê nói khi tới gặp Giêsu và chỉ cho Người một góc được sưởi ấm bởi mặt trời.
- Thầy tới. Những người khác đâu?
- Ở trong đám người, nhưng họ đã nhìn thấy Thầy và họ sắp tới. Cũng có Salômôn, Giuse Emmau, Gioan Êphêsô, Philíp Arbêla ở với họ. Họ đã tới nhà Philíp Arbêla và họ đến từ Joppê, Lidda và Modin. Họ có cùng với họ các người ở bờ biển và các phụ nữ. Họ tìm Thầy, vì họ không đồng ý với nhau về việc xét đoán một phụ nữ. Nhưng họ sẽ nói với Thầy...
Giêsu mau lẹ bị bao vây bởi số các môn đệ khác. Họ chào Người cách tôn kính. Đàng sau họ là những người mới được lôi kéo về với giáo lý của Giêsu. Nhưng Gioan Êphêsô không có ở đó, và Giêsu cũng không hỏi lý do.
- Ông ta dừng lại với một người đàn bà và cha mẹ của bà trong một căn nhà xa đám người. Về phần người đàn bà, người ta không biết bà ta bị qủi ám hay là một tiên tri. Bà ta nói những điều tuyệt diệu, theo như các người ở xứ bà nói. Nhưng các luật sĩ đã nghe bà thì nói là bà bị ám. Cha mẹ bà đã nhiều lần gọi các thầy trừ tà, nhưng họ không thể đuổi thằng qủi đã cầm giữ bà và làm cho bà nói. Nhưng một người trong đám họ đã nói với cha mẹ người đàn bà - đó là một bà góa đồng trinh ở lại trong gia đình -: “Đối với con gái ông thì cần phải có Đấng Messi Giêsu. Người hiểu các lời của bà và Người biết chúng đến từ đâu. Tôi, tôi đã thử áp đặt thần trí nói ở trong bà, bắt nó ra khỏi bà nhân danh Giêsu được gọi là Kitô. Các thần trí tối tăm luôn luôn chạy trốn khi tôi sử dụng tên này, nhưng lần này thì không. Tôi nói về bà này: hoặc đó là Benzêbut, chính nó nói, và nó thành công cự lại được với cả tên này mà tôi đã
529
xướng lên, hoặc đó là chính thần trí của Thiên Chúa, bởi vậy Người không sợ, vì Người chỉ là một với Đức Kitô. Tôi tin vào lối cắt nghĩa thứ hai hơn lối thứ nhất. Nhưng cho chắc chắn thì chỉ có Đức Kitô có thể xét đoán. Người hiểu lời nói và nguồn gốc của nó”. Và ông ta đã bị ngược đãi bởi các luật sĩ có mặt tại đó, và họ đã tuyên bố là ông ta bị qủi ám cũng như người đàn bà, và cũng như Thầy. Con xin lỗi vì con phải nói như vậy... Và các luật sĩ không buông chúng con nữa. Có mấy ông trực ở bên người đàn bà, vì họ muốn xác định xem người đàn bà có thể nhận ra việc Thầy đến không. Qủa vậy, bà ta bảo là bà ta biết mặt Thầy và tiếng nói của Thầy, và bà ta nhận ra Thầy giữa bao ngàn người, trong khi ông ta xác nhận là bà ta không bao giờ ra khỏi làng, và cả đến không ra khỏi nhà từ thời kỳ đó, đã mười lăm năm, lúc mà chồng bà chết vào buổi tối trước lễ cưới. Và ông ta cũng xác nhận rằng Thầy không bao giờ đi qua làng của bà, gọi là làng Betlechi. Các luật sĩ chờ chứng cớ sau cùng này để tuyên bố bà bị ám. Thầy có muốn gặp bà ngay không?
- Không. Thầy muốn nói với dân chúng, và việc gặp gỡ sẽ qúa ồn ào ở đây, giữa đám đông. Hãy đi nói với Gioan Êphêsô và với cha mẹ người đàn bà, và cả với các luật sĩ nữa, rằng Thầy chờ họ tất cả vào lúc khởi đầu mặt trời lặn, trong khu rừng dọc theo bờ sông, tại lối đi của khúc sông cạn. Đi đi.
Và Giêsu, sau khi Salômôn đã nói thay cho tất cả, Người cho ông đi, rồi Người đến với các bệnh nhân xin được chữa và Người chữa cho họ: một bà gìa bị cứng đơ bởi chứng liệt khớp, một người bại xuội, một thanh niên khờ dại, một bé gái mà tôi cho là lao phổi, và hai người đau mắt.
Đám đông hô lên những tiếng kêu vui mừng náo nhiệt.
Nhưng dẫy bệnh nhân chưa hết. Một bà mẹ tiến lên, biến dạng vì buồn, được nâng đỡ bởi hai người bạn hay bà con. Bà qùy gối và nói: “Con có đứa con trai sắp chết. Người ta không thể mang nó tới đây... Xin thương con!”
- Bà có thể tin vô giới hạn không?
- Tất cả, ôi Chúa của con!
530
- Vậy hãy trở về nhà bà đi.
- Về nhà... không có Thầy!... - người đàn bà nhìn Người một lát, lo lắng, rồi bà hiểu. Khuôn mặt tội nghiệp liền biến đổi. Bà kêu lên: “Lạy Chúa, con về. Xin chúc tụng Thầy và Đấng Tối Cao đã sai Thầy” và bà đi, chạy lẹ hơn cả các bạn bà.
Giêsu quay về với một người Jêricô, một người vị vọng: “Người đàn bà này có phải Hy Bá không?”
- Không. Ít là không phải do bẩm sinh. Bà từ Milet tới, và kết hôn với một người trong chúng ta. Từ đó, bà tham gia lòng tin của chúng ta.
- Bà ta biết tin hơn nhiều người Hy Bá - Giêsu nhận xét.
Rồi trèo lên bậc thềm cao của một căn nhà, Người làm cử chỉ thông thường là giang tay trước bài diễn từ của Người, để áp đặt sự yên lặng. Khi đã yên lặng, Người vơ lại các tà áo khoác bị mở ra trên ngực khi Người làm cử chỉ trên, và Người giữ nó bằng bàn tay trái, trong khi cánh tay mặt Người hạ xuống trong cử điệu như khi người ta tuyên thệ, và Người nói:
- Hỡi dân thành Jêricô, hãy nghe những dụ ngôn của Chúa, rồi sau đó mỗi người suy niệm trong lòng, và rút ra từ đó những bài học để nuôi linh hồn mình. Các con có thể làm việc đó, vì không phải mới hôm qua, cũng không phải mới tuần trăng vừa qua, cũng không phải cả đến mùa đông năm ngoái, mà các con biết lời Chúa. Trước khi Thầy làm thầy, thì Gioan, vị Tiền Hô của Thầy, đã sửa soạn các con cho việc Thầy đến. Và từ khi Thầy là thầy, các môn đệ của Thầy đã cày bừa mảnh đất này bảy và bảy lần, để gieo ở đó tất cả số hạt giống mà Thầy đã cho họ. Vậy các con có thể hiểu lời của dụ ngôn.
Thầy có thể so sánh những người sau khi là tội nhân, đã hối cải, với ai? Thầy so sánh họ với các bệnh nhân được chữa lành.
Thầy có thể so sánh những người không phạm tội cách công khai, hoặc những người, còn hiếm hơn là các ngọc trai đen, không bao giờ phạm những lỗi trầm trọng, dù là cách kín đáo, với ai? Thầy so sánh họ với những người khỏe mạnh.
531
Thế giới có hai loại người này, về tâm hồn cũng như về thân xác. Nhưng nếu cách so sánh là giống nhau, thì sẽ khác nhau ở cách người ta sử dụng nó với các bệnh nhân được lành về bệnh của thân xác, với các bệnh nhân được lành về bệnh của tâm hồn, tức là các tội nhân hoán cải.
Đây là điều các con thấy: Khi một người bệnh, dù là bệnh cùi là bệnh nguy hiểm, và bị cô lập vì sự nguy hiểm, mà được ơn lành bệnh, thì sau khi đã được các thầy cả kiểm tra và thanh tẩy, người ta lại nhận họ vào trong xã hội, và những người trong tỉnh làm lễ mừng cho họ vì họ được lành bệnh, trở lại đời sống, trở lại với gia đình và công việc. Đúng là đại lễ trong gia đình và trong thành phố khi có người cùi được ơn lành bệnh! Chính cho họ mà những người trong gia đình và dân thành phố mang tới vật nọ vật kia, hoặc nếu họ một mình, không nhà cửa, không đồ dùng, thì biếu họ cái giường hay cái bàn cái ghế, và mọi người đều nói: “Đó là một kẻ ưu tiên của Thiên Chúa. Chính ngón tay Người đã chữa cho anh ta. Vậy chúng ta hãy làm vinh hạnh cho anh và làm vinh quang cho đấng đã tái tạo anh”. Và thật chính đáng để hành động như vậy. Khi bất hạnh là ngược lại: một người có những dấu hiệu đầu tiên của bệnh cùi, thì với một tình yêu lo âu biết bao, cha mẹ và bạn bè đổ đầy cho họ những âu yếm bao lâu họ còn có thể làm, tựa như để tặng cho họ, trong một lần duy nhất, tất cả kho tàng tình cảm mà họ sẽ cho anh trong nhiều năm, để anh mang theo với anh vào nấm mồ của người sống.
Nhưng tại sao người ta không làm như vậy đối với các bệnh khác. Một người bắt đầu phạm tội, các phần tử trong gia đình, nhất là các người đồng hương nhìn thấy họ, tại sao không tìm cách giật người đó ra khỏi tội lỗi bằng tình yêu? Một người mẹ, một người cha, một người vợ, một người chị còn có thể làm được, nhưng các người anh làm thì đã khó rồi, Thầy không nói đến cái khó khi con cái của các anh hay chị của người cha hay người mẹ làm. Sau cùng, các người đồng hương chỉ biết chỉ trích, chế nhạo, hỗn xược, phẫn nộ, phóng đại tội lỗi của tội nhân, chỉ ngón tay, đứng ở xa như với
532
người cùi. Đó là những kẻ công chính nhất, còn những kẻ không công chính thì đồng lõa với nó để lợi dụng tiền bạc của nó. Chỉ rất họa hiếm mới có một cái miệng, nhất là một con tim, đến tìm kẻ khốn nạn, với tình thương và sự cương quyết, với sự kiên nhẫn và tình yêu siêu nhiên, để lo lắng hãm phanh sự xuống dốc trong đàng tội.
Và thế nào? Kẻ có bệnh trong tâm hồn chẳng trầm trọng hơn, thực sự trầm trọng hơn tới nỗi có thể chết sao? Nó chẳng làm cho mất nước Thiên Chúa, và mất tới đời đời sao? Việc bác ái trên hết đối với Thiên Chúa và tha nhân, chẳng phải là việc này, việc chữa cho một tội nhân vì sự lành của linh hồn nó và vì vinh quang Thiên Chúa sao?
Và khi một tội nhân hoán cải, tại sao lại cứ khăng khăng kết án họ, tựa như hối tiếc vì nó đã tìm lại được sức khỏe thiêng liêng? Các con có thấy sự phỏng đoán của các con rằng một người nào đó trong số đồng hương của các con sẽ bị kết án, là điều sai lầm không? Nhưng các con phải vui mừng, vì đấng sửa sai cho các con là Thiên Chúa tình thương, đấng cho các con một số lượng lòng nhân từ của Người, để các con lấy lại can đảm sau những lỗi lầm ít hay nhiều trầm trọng của các con.
Vậy tại sao lại cương quyết cho là ô uế, là đáng khinh, đáng bị cô lập, cái mà Thiên Chúa và thiện chí của một tâm hồn đã làm cho nên trong sạch, đáng khen, đáng được sự qúi mến của anh em, và kể cả sự cảm phục của họ?
Các con vui mừng khi một con bò, con lừa hay con lạc đà của các con, hoặc một con cừu của bầy, hoặc một con bồ câu cưng của các con được khỏi bệnh! Các con cũng rất vui nếu một người lạ mà các con chỉ hơi nhớ tên vì đã nghe nói tới vào thời kỳ mà anh ta bị cô lập vì bị cùi, lại được lành sạch trở về! Vậy tại sao các con không vui vì những tâm hồn được chữa lành, những chiến thắng của Thiên Chúa? Nước Trời hoan hỉ khi một người tội lỗi hoán cải. Nước Trời là: Thiên Chúa, các thiên thần rất trong sạch, những vị không biết tội là gì. Còn các con là những con người, các con lại
533
muốn khăng khăng hơn Thiên Chúa sao?
Hãy làm, hãy làm cho qủa tim các con nên công chính. Hãy nhận ra sự hiện diện của Chúa, không phải chỉ ở trong các đám mây của hương khói và các thánh vịnh của Đền Thờ; không phải chỉ tại nơi mà chỉ có sự thánh thiện của Chúa trong vị Đại Thượng Tế mới được vào, và là nơi phải Thánh như tên của nó đã chỉ rõ, nhưng cả trong những kỳ công của các tâm hồn phục sinh này, của các bàn thờ lại được thánh hiến này, mà trên đó, tình yêu của Thiên Chúa xuống cùng với lửa của Người để thiêu đốt lễ vật hy sinh.
Giêsu bị gián đoạn bởi bà mẹ lúc nãy. Bà muốn tôn thờ Người với những tiếng kêu chúc tụng. Giêsu nghe bà, chúc phúc cho bà rồi cho bà về nhà bà để tiếp tục bài diễn văn không ngớt của bà.
- Vậy nếu một người tội lỗi mà trước đây đã cho các con một cảnh để bêu xấu rùm beng, thì bây giờ các con nhận được nơi họ một cảnh khuyến đức. Đừng khinh dể họ, nhưng hãy bắt chước họ. Vì không có ai hoàn toàn tới nỗi không một người nào có thể chỉ bảo. Và điều lành thì luôn luôn là bài học cần phải nghe, dù là kẻ thực hành nó trước đây đã là đối tượng của sự chê bai. Hãy bắt chước và giúp đỡ, vì khi hành động như vậy là các con làm vinh danh Chúa, và các con chứng tỏ rằng các con đã hiểu Ngôi Lời của Người. Đừng như các người mà các con chỉ trích trong lòng các con, vì hành động của họ không phù hợp với lời nói của họ. Nhưng hãy làm sao để mọi hành động tốt của các con đến đội triều thiên cho các lời nói tốt của các con, và lúc đó, các con thực sự sẽ được Thiên Chúa nhìn và nghe cách nhân hậu.
Hãy nghe dụ ngôn khác này để hiểu cái gì là những điều có gía trị trước mắt Thiên Chúa. Nó sẽ dạy cho các con tự sửa chữa một tư tưởng không tốt ở trong nhiều con tim. Phần đông người ta tự đoán xét chính mình, nhưng vì chỉ có một phần ngàn số người thực sự khiêm nhường, nên người ta tự cho là mình trọn hảo, chỉ có mình họ là trọn hảo, còn nơi những người khác thì họ nhận thấy hàng trăm thứ tội.
Một ngày kia có hai người lên Jêrusalem để lo công việc. Họ
534
lên Đền Thờ giống như mọi người Israel tốt làm mỗi khi đặt chân vào thành thánh, một người là pharisiêu, một người là dân thâu thuế. Người thứ nhất đến để nhận xét những lợi tức của một số cửa tiệm và để tính sổ với những người quản lý sống ở quanh thành phố. Người kia là để nộp số thuế đã trưng thu, và để xin tình thương cho một bà góa không thể trả thuế cho chiếc thuyền và lưới của bà, vì đứa con cả của bà thả lưới chỉ kiếm hơi đủ để cho đàn con đông của bà có của ăn.
Trước khi lên Đền Thờ, người pharisiêu đã ghé phớt qua các cửa tiệm, ông đã liếc nhìn và thấy chúng đầy hàng hóa và khách mua. Ông rất thỏa mãn. Ông gọi người thừa canh nơi đó và nói: “Tôi thấy việc buôn bán của anh phồn thịnh”.
- Phải, nhờ ơn Chúa, tôi bằng lòng với công việc của tôi. Tôi đã có thể gia tăng hàng tồn trữ. Tôi hy vọng còn có thể làm hơn. Tôi đã tu bổ cửa hàng, năm tới tôi không còn phải tiêu pha cho bàn ghế và tủ kệ, vậy là tôi sẽ kiếm được khá hơn.
- Tốt! Tốt! Tôi rất bằng lòng. Anh trả bao nhiêu cho nơi này?
- Một trăm đồng mỗi tháng. Qúa đắt, nhưng địa điểm tốt...
- Anh nói đúng. Địa điểm tốt. Bởi vậy tôi tăng gấp đôi lệ phí.
- Nhưng Chúa ơi! - người thương gia kêu lên. “Làm kiểu này thì ngài lấy hết tiền lời của tôi”.
- Điều đó đúng. Không lẽ ta phải làm giầu cho anh và cho những kẻ sống bám vào ta? Mau lên, hoặc anh nộp cho ta hai ngàn bốn trăm đồng ngay lập tức, hoặc là ta đuổi anh ra ngoài, ta lấy các hàng hóa. Nơi này thuộc về ta nên ta làm như ta muốn.
Ông ta làm như vậy đối với người thứ nhất, người thứ hai và người thứ ba trong số các người thừa canh cửa tiệm của ông, tăng gấp đôi lệ phí, như điếc với mọi lời cầu xin. Nhưng vì người thứ ba nặng gánh gia đình, muốn cự lại, ông ta liền gọi gác dan, cho niêm phong cửa tiệm và đuổi kẻ khốn nạn ra ngoài.
Rồi ở trong lâu đài của ông, ông xem xét sổ sách của các tên quản lý để coi có thể thấy được điều gì có thể phạt như là lười biếng, để chiếm đoạt phần của mà lề luật dành cho họ. Một trong
535
số họ có con trai bệnh liệt, và vì phải tiêu pha nhiều, anh ta đã bán đi một phần số dầu để lo thuốc thang, nên ông ta không còn gì để trả cho ông chủ hay đòi hỏi.
- Xin ông chủ thương tôi! Thằng con trai tội nghiệp của tôi sắp chết! Sau đó tôi sẽ làm thêm công việc phụ để hoàn trả cho ông điều ông cho là chính đáng. Nhưng bây giờ, ông biết là tôi không thể.
- Anh không có thể sao? Tôi sẽ cho anh biết là anh có thể hay không có thể - và ông đi tới máy ép với người quản lý tội nghiệp, ông lấy hết chỗ dầu mà người quản lý còn chừa lại cho thực phẩm hèn mọn của anh và để châm đèn canh thức cho con anh.
Về phía người thu thuế, sau khi đã tới nhà cấp lãnh đạo và nộp số thuế đã trưng thu, anh được nghe nói: “Nhưng ở đây thiếu mất ba trăm sáu mươi đồng. Vậy là thế nào?”
- Đây, tôi xin thưa ông: trong thành phố có một bà góa với bảy đứa con. Chỉ có đứa thứ nhất là tới tuổi làm việc, nhưng nó không thể bơi thuyền ra xa bờ, vì cánh tay nó còn yếu đối với mái chèo và cánh buồm, và nó không thể trả tiền để thuê một đứa chèo thuyền. Ở lại gần bờ, nó bắt được rất ít cá, và việc chài lưới của nó chỉ tạm nuôi tám kẻ khốn nạn. Tôi không có con tim có thể đòi tiền thuế.
- Ta hiểu, nhưng luật là luật. Nếu người ta biết rằng vận rủi nó có tình thương, thì mọi người đều tìm được lý do để không trả. Người thanh niên phải đổi nghề và bán thuyền đi nếu anh ta không thể trả.
- Đó là bánh của họ trong tương lai... và đó là kỷ niệm của người cha.
- Ta hiểu, nhưng người ta không thể điều đình.
- Đúng vậy. Nhưng tôi, tôi không thể nghĩ đến việc tám kẻ khốn nạn bị mất cái gia tài duy nhất của họ. Tôi xin trả món ba trăm sáu chục đồng bằng tiền của tôi.
Sau khi đã làm những việc này, hai người đi lên Đền Thờ. Khi đi qua kho bạc, người pharisiêu, một cách khoa trương, rút ra trong bọc của ông một túi tiền to, và ông dốc cho tới đồng xu nhỏ sau
536
cùng vào hòm bạc. Trong túi này có tiền đã lấy trội của các thương gia và tiền bán số dầu đã lấy của anh quản lý, và bán ngay cho một thương gia. Về phía người thâu thuế, sau khi đã giữ lại số cần thiết để trở về nhà, anh bỏ một nắm các đồng tiền nhỏ vào hòm. Người nọ cũng như người kia đều dâng cái họ có. Và bề ngoài thì người pharisiêu có vẻ quảng đại hơn, vì ông dâng cho tới đồng bạc sau cùng ông có trong mình. Nhưng phải nghĩ rằng trong lâu đài của ông, ông có những món tiền khác, và ông có những món cho vay nơi các người đổi tiền giầu có.
Từ đó, họ đi tới trước nhan Chúa. Người pharisiêu hoàn toàn ở phía trên, tại chỗ ranh giới giữa tiền đường dân Hy Bá và nơi Thánh. Người thâu thuế thì ở cuối, hầu như ở bên dưới cửa tò vò dẫn vào sân phụ nữ, và ông cúi mình, bị đè nặng bởi tư tưởng về sự khốn nạn của ông so với sự trọn lành của Thiên Chúa. Và họ cầu nguyện, người nọ cũng như người kia.
Người pharisiêu đứng thẳng, hầu như ngạo mạn, tựa như ông là chủ nơi đó, và ông xứng đáng được tán dương như một người khách, ông nói: “Đây, tôi đến bái Chúa trong ngôi nhà là sự vinh quang của chúng ta. Tôi đã đến, dù tôi cảm thấy Chúa ở trong tôi, vì tôi công chính. Tôi biết ở công chính. Nhưng dù biết rằng bởi công nghiệp của tôi mà tôi được như vậy, tôi cũng cám ơn Chúa như luật đã chỉ, về những gì tôi là. Tôi không tham lam, bất công, gian dâm, tội lỗi như tên thu thuế, đứa đến cùng loạt với tôi, bỏ vào kho bạc một mớ đồng xu nhỏ. Tôi thì Chúa đã thấy, tôi dâng hết số tiền tôi có trong mình. Trái lại, cái tên bần tiện kia đã chia tiền làm hai phần, và hắn cho Chúa phần nhỏ hơn, phần kia, chắc chắn hắn giữ lại để nhậu nhẹt say sưa và chơi đàn bà. Nhưng tôi, tôi trong sạch, tôi không tự làm ô nhiễm. Tôi trong sạch và công chính, tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, tôi trả thuế thập phân về những gì tôi có. Đúng, tôi trong sạch, công chính, được chúc phúc, vì tôi thánh. Xin Chúa giữ những điều đó làm kỷ niệm”.
Người thâu thuế, đàng góc của ông ở xa, không dám ngước mắt nhìn những chiếc cửa qúi của Đền Thờ. Ông đấm ngực và cầu
537
nguyện: “Lạy Chúa, con không đáng ở nơi này, nhưng Chúa công minh và thánh thiện, và Chúa còn cho phép con, vì Chúa biết rằng con người là tội lỗi, và nếu nó không đến cùng Chúa thì nó sẽ trở nên thằng qủi. Ôi! Lạy Chúa của con, con muốn tôn vinh Chúa ngày đêm, nhưng con phải làm nô lệ cho công việc biết bao thời giờ, một công việc gay go, nó làm nhục con, bởi vì nó làm đau khổ cho tha nhân khốn nạn nhất của con, nhưng con phải vâng lời cấp trên, vì đó là bánh của con. Ôi Thiên Chúa của con, xin làm cho con biết điều hòa bổn phận của con với cấp trên và tình bác ái đối với các anh em tội nghiệp, để con không thấy sự kết án trong công việc của con. Mọi công việc đều thánh nếu nó được làm với tình bác ái. Xin Chúa giữ tình bác ái của Chúa luôn luôn hiện diện trong lòng con, để con, một kẻ khốn nạn, con biết thương những người dưới quyền con như Chúa đã thương con, đại tội nhân. Ôi Chúa, con muốn tán dương Chúa nhiều, Chúa biết. Nhưng con nghĩ rằng lấy số tiền định dành cho Đền Thờ để nâng đỡ tám con tim khốn khổ là điều tốt hơn là bỏ vào kho bạc, rồi lại làm đổ nước mắt buồn phiền của tám kẻ vô tội khổ sở. Nhưng nếu con lầm thì xin Chúa làm cho con hiểu, ôi Chúa, và con sẽ dâng Chúa tới đồng xu nhỏ sau cùng, con sẽ đi bộ để trở về xứ và ăn mày bánh của con ở dọc đường. Ôi lạy Chúa, xin thương con, vì con là đại tội nhân”.
Đó là dụ ngôn. Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng người pharisiêu ra khỏi Đền Thờ với một tội mới thêm vào số tội ông đã phạm trước khi trèo lên núi Moriah, trong khi người thu thuế ra khỏi đó, được sự biện minh và phúc lành của Thiên Chúa đi kèm về nhà và ở lại đó, vì ông ta khiêm nhường và thương xót. Các hành động của ông còn thánh hơn lời nói của ông, trong khi người pharisiêu chỉ tốt trong lời nói và ở vẻ bề ngoài, còn ở nội tâm của ông, ông là thợ của Satan và ông làm công việc của nó bởi kiêu căng và khắc nghiệt trong lòng, và Thiên Chúa ghét ông vì vậy.
Kẻ tự tuyên dương, không sớm thì muộn, sẽ bị hạ nhục, nếu không ở đời này thì ở đời bên kia. Kẻ tự hạ sẽ được tuyên dương, đặc biệt là ở trên trời, nơi người ta nhìn thấy các hành động của con
538
người trong sự thật tỏ tường của nó.
Đi, Zakê. Đi, các con ở với Thầy, và các con, tông đồ và môn đệ của Thầy. Thầy còn nói riêng với các con nữa.
Người cuộn mình trong áo khoác của Người và trở về nhà Zakê.
221* TRONG NHÀ ZAKÊ VỚI
CÁC NGƯỜI HOÁN CẢI
Họ tụ họp tất cả trong một căn phòng rộng mênh mông và trống rỗng, khi trước chắc là đẹp lắm, bây giờ chỉ còn là một phòng rộng. Họ đã mang tới đó các ghế và giường lấy từ phòng ăn và các phòng ngủ. Tất cả đều ngồi chung quanh Thầy mà họ đã để cho ngồi trên một thứ giống như ghế bành bằng gỗ chạm trổ, có trải một tấm thảm dệt go sọc, đồ dùng sang trọng nhất trong nhà.
Zakê nói về một mảnh đất đã mua bằng tiền gom góp của nhóm họ: “Nhưng chúng con phải làm cái gì chứ! Sự nhàn cư không phải là phương thuốc tốt để không phạm tội. Đó là mảnh đất chưa được mầu mỡ, vì nó bị bỏ thí, cũng như chúng con, chúng con đầy cây gai, đá sỏi, một nơi khô cằn với cỏ độc hại. Nique đã cho chúng con mượn các đầy tớ của bà là nông dân, để chỉ cho chúng con phải làm sao thông các hầm cống bỏ hoang, phát quang cánh đồng, tỉa bớt các cây cối đã có ở đó và trồng cây con. Chúng con đã biết nhiều điều... nhưng không biết các việc thánh của con người. Tuy nhiên trong việc này, mới mẻ đối với chúng con, chúng con sẽ thực tình tìm được một cuộc đời mới. Chung quanh không có gì nhắc nhớ qúa khứ của chúng con, chỉ có lương tâm chúng con nó nhắc lại, nhưng như vậy là tốt... Chúng con là những tội nhân... Thầy có tới coi chỗ đó không?”
- Từ đây chúng ta sẽ ra đi cùng với nhau để đi về sông Giođan, và Thầy sẽ dừng lại ở đó. Con nói với Thầy là nó ở ngay trên con đường đi ra sông...
- Thưa Thầy vâng. Nhưng nó ở trong tình trạng bi thảm! Căn nhà đã hư hỏng và nó không có bàn ghế gì. Chúng con không có tiền
539
cho mọi thứ. Trong mức độ có thể, sau khi đã sửa lại những thiếu sót của chúng con với đồng loại, những người này, ngoại trừ Đêmêtê, Valen và Lêvi, qúa gìa để có thể chịu đựng một số thiếu thốn, họ ngủ ở đây, bằng lòng với rơm cỏ, Chúa ạ.
- Rất nhiều lần Thầy không có cả đến rơm cỏ. Zakê, Thầy cũng sẽ ngủ trên rơm. Thầy đã ngủ ở đó trong những giấc ngủ đầu tiên của Thầy, và nó êm đềm vì có tình yêu canh chừng. Thầy cũng có thể ngủ ở đó giấc ngủ này, và nó sẽ không hề xao xuyến, vì Thầy ngủ ở giữa những người mà thiện chí đã trở lại trong họ.
Và Người nhìn với cái nhìn vuốt ve, những hoa trái đầu mùa này của những kẻ được cứu chuộc thuộc mọi dân nước. Và họ nhìn Người... Đó không phải là những người có nước mắt cách dễ dàng, nhưng ai biết được họ đã đổ ra bao nhiêu nước mắt. Các khuôn mặt họ là từng ấy cuốn sách, trong đó ghi chép cái qúa khứ bất hạnh của họ. Và nếu bây giờ cuộc sống mới đã che đi sự cộc cằn thô lỗ của các lời nói này, người ta vẫn còn có đủ để hiểu họ và thấy được là họ đã từ cái vực thẳm nào để lên với ánh sáng. Nhưng diện mạo họ tươi tắn, sáng sủa, cái nhìn bảo đảm với một tia sáng hy vọng siêu nhiên, với sự thỏa mãn tinh thần, rạng rỡ khi họ nghe Thầy nói với họ là họ đã trở về với thiện chí.
Zakê nói: “Vậy là Thầy ưng chuẩn mọi việc con đã làm? Thầy coi, bữa đó con đã nói rằng con sẽ theo Thầy, và thực sự con muốn theo Thầy cách vật chất. Nhưng chính ngay chiều hôm đó, Đêmêtê đến nhà con vì một trong những... vì một trong những thị trường ô nhục của ông ta... và ông ta cần tiền. Ông từ Jêrusalem tới... bởi vì người ta nói là nó thánh, nhưng không có cái xấu hổ nào mà người ta không thấy ở đó, và những người đầu tiên muốn những cái xấu hổ này là những người sau đó ném đá chúng con tựa như chúng con là những người cùi... Nhưng chúng con phải nói về tội của chúng con chứ không phải tội của họ: Lúc đó con không có tiền, con đã dâng cho Thầy hết. Và cả những món còn lại ở trong nhà con thì cũng giống như nó đã được cho đi, vì con đã chia phần để trả lại cho những người mà con đã bòn mót bằng cách cho vay nặng lãi.
540
Con đã nói với ông ta: ‘Tôi không có tiền, nhưng tôi có một thứ cao gía hơn tất cả mọi kho tàng’, và con kể cho ông việc hoán cải của con, các lời của Thầy, sự bình an ở trong con... Con đã nói nhiều đến nỗi ánh sáng của một ngày mới đã vào để soi sáng các khuôn mặt, và làm cho ngọn đèn thành vô ích trong khi con vẫn còn đang nói. Con không biết đích xác là con đã nói những gì, con chỉ biết rằng ông đã nắm tay và thoi một cú trên mặt chiếc bàn mà chúng con ngồi, và ông la lên: ‘Mercure (thần của các thương gia và người lữ hành) đã mất một tín đồ và thần hoang dã mất một người bạn. Hãy cầm lấy cả tiền này đi, nó không đủ cho một tội ác, nhưng đủ để cho người ăn mày một cái bánh, và hãy nhận tôi cùng với bạn. Tôi muốn biết mùi thơm sau biết bao hôi thối’. Và ông ta ở lại. Chúng con đã cùng nhau đi Jêrusalem, con thì để bán đồ đạc, ông ta thì để trút bỏ mọi... cam kết. Và khi trở về, con đã nói... - con đã cầu nguyện ở Đền Thờ, kể từ lâu lắm rồi, với con tim trong sạch và bình an của một đứa trẻ - con đã tự nhủ: ‘chuyện này chẳng phải là theo Thầy sao? Có lẽ ta theo Người tốt hơn bằng cách ở lại Jêricô, nơi có các bạn thâu thuế của ta, các kẻ khốn nạn như ta, các chủ sòng bạc, các kẻ chơi bời trụy lạc, các kẻ cho vay nặng lãi, các tổng quản gia của các tù khổ sai, các thuyền nô, các nô lệ, các nhân viên tra tấn của hết mọi kẻ khốn cùng, các binh sĩ không lề luật, cũng không tình thương, các kẻ chơi bời trong say sưa để quên sự hối hận... đến tìm ta để sử dụng tiền bạc vô phúc của họ, hay đề nghị với ta các thương vụ, hoặc mời ta đi dự tiệc và các thứ ô nhục khác? Thành phố khinh dể ta. Các người Hy Bá luôn luôn cho ta là tội lỗi, còn họ thì không. Họ cũng giống như ta. Họ ô uế, nhưng có thể có trong họ cái gì để đẩy họ về với sự thiện, và họ không tìm được ai giơ bàn tay ra cứu giúp. Ta, ta đã giúp họ trong điều xấu, có lẽ họ cũng đã phạm tội bởi các lời khuyên của ta, bởi những điều mà đôi khi ta hỏi họ. Ta có bổn phận phải giúp họ đến với điều lành. Cũng như ta đã trả lại cho những người ta đã làm thiệt hại, cũng như ta đã sửa chữa đối với các người đồng hương của ta, ta cũng phải tìm họ để sửa chữa đối với họ’. Và con ở lại đây. Họ đã
541
đến, lúc người nọ, lúc người kia, người của thành phố này cũng như các thành phố khác, và con đã nói với họ. Không phải tất cả đều như Đêmêtê. Một số đã từ chối sau khi khinh bỉ con; những người khác thì lần lữa luẩn quẩn, những người khác nữa thì ngừng lại, rồi sau ít lâu họ lại trở về cái hỏa ngục của họ. Đây là những người ở lại, và từ nay, con thấy rằng con phải theo Thầy như vầy, chúng con phải theo Thầy như vầy, để chiến đấu với chính mình chúng con, để chịu đựng những khinh bỉ của thế giới không biết tha thứ. Con tim chúng con không thiếu nước mắt khi chúng con thấy rằng thế giới không tha thứ, khi các kỷ niệm trở về với chúng con... chúng rất nhiều và nặng nề. Nơi một số người, chúng là...”
- Nêmêsis (thần báo thù) khủng khiếp, nó khiển trách tội ác của chúng con, đe dọa báo thù bằng những sa ngã khác - một người nói.
- Đó là tiếng than trách của những kẻ đã kiệt lực mà con còn đánh để bắt họ làm việc.
- Đó là những lời nguyền rủa của những kẻ mà con đã bắt làm nô lệ, sau khi bằng cách cho vay nặng lãi, con đã lấy hết những gì họ có.
- Đó là những tiếng năn nỉ của các bà góa và các trẻ mồ côi không thể trả tiền mà con đã nhân danh lề luật để tịch thâu hết những nguồn lợi sau cùng của họ.
- Đó là những tàn bạo thi hành trong những nước bị xâm lăng, trên những kẻ không khí giới, kinh hoàng vì thất bại.
- Đó là nước mắt của mẹ con, của vợ con, của con gái con, đã chết vì thiếu thốn trong khi con hoang phí hết trong các đám tiệc.
- Đó là... ôi, đối với con, đó là tội ác không tên! Chúa ơi, con thì con không có máu ở bàn tay (không giết người), con không ăn cắp tiền, con không áp bức các tù khổ sai qúa mức, con không cho vay nặng lãi, con không đánh kẻ thua trận, nhưng con khai khẩn hết mọi kẻ khốn nạn yếu đuối. Con đã làm giầu trên các thiếu nữ trẻ của các kẻ thua trận, trên các con gái mồ côi, trên các đàn bà bị bán vì một tấm bánh như một món hàng. Con đã đi khắp thế giới để chộp cơ hội, theo sau quân đội, tới nơi nào có nạn đói kém, nơi nào có lụt
542
lội đã lấy đi hết lương thực, nơi dịch tễ đã để lại những mạng sống non trẻ không bảo vệ... Con lấy nó như một món hàng, một món hàng nhục nhã thơ ngây: nhục nhã cho con là kẻ rút tiền ở đó, thơ ngây vì nó không biết sự sợ hãi trong đó. Chúa ơi, con đã có trong tay con sự trinh trong của các cô gái nhỏ bị hạ nhục cũng như danh dự của các bà vợ trẻ bắt được trong những thành phố bị xâm lăng. Các cửa tiệm của con... các nhà điếm của con rất nổi tiếng. Lạy Chúa! Bây giờ Thầy đã biết, xin đừng nguyền rủa con...
Các tông đồ vô tình tránh ra xa người đã nói sau cùng. Giêsu đứng dậy và tới bên ông, Người đặt tay trên vai ông và nói: “Đúng vậy, tội của con rất lớn. Con có rất nhiều để đền bù. Nhưng Thầy là tình thương, Thầy nói với con rằng cho dù con đích thân là ma qủi, và cho dù ở trên con có hết mọi tội ác của thế giới, nếu con muốn, con có thể sửa chữa hết và được tha thứ bởi Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa thực, cao cả và nhân từ. Nếu con muốn, hãy kết hợp ý muốn của con với ý muốn của Thầy. Thầy cũng muốn rằng con được tha thứ. Hãy kết hợp với Thầy. Hãy cho Thầy cái tâm hồn tội nghiệp, hư hỏng, phủ đầy vết thẹo, bị mất gía của con từ khi con từ bỏ tội lỗi. Thầy sẽ đặt nó trong trái tim Thầy. Đó là nơi Thầy đặt những tội nhân nặng nề nhất, và Thầy sẽ mang nó theo với Thầy vào trong Lễ Hy Sinh chuộc tội. Dòng máu thánh thiện nhất, máu của trái tim Thầy, dòng máu sau cùng của đấng sẽ bị tiêu hao vì loài người, sẽ chảy xuống trên những đổ vỡ lớn lao nhất và sẽ phục hồi nó. Lúc này thì, con ơi, hãy trông cậy, một sự trông cậy lớn lao hơn tội ác mênh mông của con, nơi lòng thương xót của Thiên Chúa, vì nó không bờ bến, đối với kẻ biết tín nhiệm vào Người”.
Người đó rất muốn cầm để hôn bàn tay đang đặt trên vai ông, bàn tay rất xanh, rất gầy, ở trên mầu áo nâu của ông, trên vai vạm vỡ của ông, nhưng ông không dám. Giêsu hiểu nên Người đưa tay cho ông và nói: “Con ơi, hãy hôn lòng bàn tay này. Thầy sẽ tìm lại được cái hôn này để chữa cho một trong những hành hình của Thầy. Bàn tay được hôn, bàn tay bị thương. Được hôn vì tình yêu, bị thương vì tình yêu. Ôi! Nếu tất cả đều biết hôn Nạn Nhân Vĩ Đại! Người
543
sẽ chết trong y phục bằng các vết thương trong khi biết rằng trên mỗi vết thương có những cái hôn, là tình yêu của tất cả những kẻ được cứu chuộc!” Và Người để lòng bàn tay Người áp vào đôi môi cạo nhẵn của người đàn ông, mà coi toàn thể diện mạo của ông, tôi nói ông là người Rôma. Người giữ như vậy cho tới khi ông ta rời ra như đã no, sau khi đã dập tắt vết phỏng hối hận của ông bởi uống no Tình Thương của Chúa trong lòng bàn tay Thiên Chúa.
Giêsu trở về chỗ của Người. Khi đi qua, Người để tay trên đầu tóc quăn của một thanh niên, tôi cho anh ta chỉ xấp xỉ hai mươi, nếu không nói là anh ta trẻ hơn. Anh ta chưa hề nói. Chắc chắn anh ta dòng giống Hy Bá. Giêsu hỏi anh: “Còn con, con trai Thầy, con không nói gì với Vị Cứu Tinh của con sao?”
Người thanh niên ngẩng đầu lên nhìn Người... Cái nhìn này là cả một bài thuyết trình. Đó là câu chuyện của đau thương, oán ghét, thống hối, tình yêu.
Giêsu hơi cúi xuống trên anh ta, mắt Người ở trong mắt người trẻ tuổi. Người đọc ở đó một chuyện câm nào đó và Người nói: “Vì vậy Thầy đã gọi con là ‘con trai Thầy’. Con không còn cô đơn. Hãy tha thứ cho tất cả những ai cùng dòng máu với con cũng như cho người lạ, như Thiên Chúa tha cho con. Và hãy yêu Tình Yêu đã cứu con. Hãy đi với Thầy một lát. Thầy muốn nói riêng với con một lời”.
Người thanh niên đứng dậy và theo Người. Khi họ đã ở riêng, Giêsu nói với anh: “Con ơi, Thầy muốn nói với con điều này: Chúa rất yêu con, mặc dầu việc đó không tỏ hiện đối với sự xét đoán thiển cận. Đời sống đã làm con đau khổ nhiều. Loài người đã làm tổn hại cả thể cho con. Một bà và những người khác có thể làm cho con những đổ vỡ không thể sửa chữa được. Đàng sau họ có Satan là đứa thèm linh hồn con, nhưng ở trên con có con mắt của Thiên Chúa, và con mắt đáng chúc tụng này đã ngăn ngừa các kẻ thù của con. Tình yêu của Người đã sai Zakê đến trên đường của con, và cùng với Zakê là Thầy, người đang nói với con. Bây giờ Thầy bảo con rằng con phải tìm thấy trong tình yêu này tất cả những gì con
544
đã không có. Con phải quên đi tất cả những gì làm con chua xót. Và hãy tha thứ. Hãy tha cho mẹ con, hãy tha cho ông chủ ô nhục của con, hãy tha cho chính con. Con ơi, đừng hận thù đối với mình. Hãy ghét thời gian mà con đã phạm tội, nhưng đừng ghét linh hồn con, nó đã biết bỏ đàng tội. Tư tưởng của con phải là người bạn tốt của linh hồn con để chúng cùng nhau đạt tới sự trọn lành”.
- Con, sự trọn lành!
- Con đã nghe những gì Thầy nói với ông kia chứ? Mà ông ta đã ở tận đáy vực thẳm!... Và, cám ơn con!
- Chúa ơi, về cái gì? Chính con là người phải cám ơn Thầy...
- Vì đã không muốn đi tới nhà những người mua người ta để phản bội Thầy.
- Ôi! Chúa ơi, lẽ nào con có thể làm vậy khi biết rằng Thầy không khinh bỉ chúng con, dù chúng con là trộm cắp? Con cũng đã ở trong số những kẻ đã mang thịt chiên đến cho Thầy ở Carit. Một trong số chúng con đã bị người Rôma bắt - ít nhất là người ta nói như vậy. Điều chắc chắn là từ lâu trước Lễ Lều, người ta không còn thấy anh ta trong các nơi trú ẩn của những người ăn cắp - Người đó đã nói với con các lời của Thầy trong thung lũng gần Modin... Vì con, lúc đó con chưa ở với đám ăn cắp. Con tới đó vào cuối tháng Adar vừa qua, và con đã bỏ họ vào đầu tháng Etanim. Nhưng con không làm gì để đáng sự cám ơn của Thầy. Thầy qúa tốt. Con cũng đã muốn tốt. Và rồi sự khuyến cáo của một trong các bạn của Thầy... con có thể gọi Zakê như vậy không?
- Được, con có thể. Tất cả những ai yêu Thầy đều là bạn Thầy. Con cũng vậy, con là thế.
- Ôi!... Con đã muốn khuyến cáo Thầy cẩn thận giữ mình. Nhưng một sự khuyến cáo đâu có đáng sự cám ơn...
- Thầy nhắc lại cho con: chính bởi vì con đã không để mình bị mua chuộc để chống lại Thầy nên Thầy cám ơn con. Chính đó là điều có giá trị.
- Còn sự khuyến cáo thì không?
- Con ơi, không gì có thể ngăn cản sự thù ghét đang công hãm
545
Thầy. Con đã bao giờ thấy dòng suối tràn bờ chưa?
- Có. Hồi ở gần Jabès Galaad, con đã thấy những thiệt hại gây ra bởi con sông tràn bờ trước khi nó đổ vào Giođan.
- Có gì có thể ngăn cản những dòng nước đó không?
- Không. Nó bao phủ và phá hủy hết. Nó lật đổ cả nhà cửa.
- Sự thù ghét cũng vậy. Nhưng nó không lật đổ Thầy. Thầy sẽ bị chúng dìm ngập, nhưng không bị phá hủy. Và vào giờ rất cay đắng, tình yêu của kẻ không muốn ghét Đấng Vô Tội sẽ là sự khích lệ cho Thầy, là ánh sáng giữa đêm tối cho Thầy trong giờ thuộc về Sự Tối Tăm, là sự êm dịu của Thầy trong chén rượu pha mật đắng và một dược.
- Thầy?... Thầy nói về Thầy tựa như... Cái chén này là để cho các tên trộm cướp, cho kẻ đi để chết trên thập gía. Nhưng Thầy không phải trộm cướp. Thầy không có tội! Thầy là...
- Đấng Cứu Thế. Cho Thầy cái hôn đi con.
Người cầm lấy đầu anh ta trong hai bàn tay Người và đặt một cái hôn lên trán anh, rồi Người nghiêng xuống để nhận cái hôn của người thanh niên. Đó là cái hôn e lệ, chỉ hơi phớt trên gò má gầy... Rồi người thanh niên lăn vào khóc trên ngực Giêsu.
- Đừng khóc con ơi! Thầy hy sinh vì tình yêu. Đó vẫn là sự hy sinh êm dịu, mặc dầu đó là cơn cuồng phong đau đớn đối với bản tính loài người.
Người ôm anh ta trong tay cho tới khi anh ta thôi khóc. Rồi Người về chỗ trong khi dắt tay anh và để anh ngồi bên Người tại chỗ lúc trước Phêrô ngồi.
Người lại bắt đầu nói: “Trong khi chúng ta dùng bữa, một người trong các con, không phải dân Israel, đã nói rằng anh muốn xin một sự giải thích. Vậy anh ấy hãy làm bây giờ đi, vì sắp sửa chúng ta phải trở lại với người ta, rồi chúng ta đi”.
- Chính con đã nói vậy, nhưng nhiều người muốn biết điều đó. Zakê không biết cắt nghĩa điều này, và những người khác trong chúng ta có cùng tôn giáo với Thầy cũng không. Chúng con đã hỏi điều đó với các môn đệ Thầy khi họ đi qua đây, nhưng họ không
546
nói với chúng con cách rõ ràng.
- Vậy con muốn biết điều gì?
- Chúng con không biết cả đến rằng chúng con có một linh hồn. Tức là... Ít nhất là chúng con phải biết điều đó, vì tổ tiên chúng ta... nhưng chúng con không còn đọc sách tổ tiên nữa. Chúng con là các con vật... Và chúng con không còn biết linh hồn là cái gì. Cả bây giờ chúng con cũng không biết nó. Linh hồn là cái gì, có lẽ là lý trí ? Chúng con không tin như vậy, vì nếu là thế thì chúng con đang không có nó. Mà chúng con đã nghe nói rằng không có linh hồn là không có sự sống. Vậy linh hồn là cái gì mà người ta nói là vô thể, mà người ta bảo chúng con là bất tử, nếu nó không phải là lý trí ? Tư tưởng thì vô thể, nhưng nó không bất tử, vì nó chấm dứt với đời sống. Cả đến người hiền đức nhất cũng không còn suy nghĩ sau khi chết.
- Ông ơi, linh hồn không phải là tư tưởng. Linh hồn là thần trí, là cái cương yếu vô hình của đời sống; cái cương yếu không thể rờ mó được, nhưng nó thực sự. Nó là cái làm cho linh động toàn thể con người và nó tồn tại sau con người. Chính vì thế nó được gọi là bất tử. Đó là một thứ cao cả tới nỗi dù là tư tưởng mạnh nhất cũng không là gì sánh với nó. Tư tưởng có một tận cùng, nhưng linh hồn, mặc dầu nó có một lúc bắt đầu, nhưng nó không có tận cùng. Hoăc được hạnh phúc, hoặc bị kết án, nó tiếp tục hiện hữu. Hạnh phúc là những kẻ biết giữ nó trong sạch, hoặc trả lại sự trong sạch cho nó sau khi đã làm nhơ uế nó, để trả lại nó cho Đấng Tạo Hóa của nó như khi Người ban nó cho ta để làm linh động nhân tính của ta.
- Nhưng nó ở trong chúng ta hay nó ở bên trên chúng ta giống như con mắt của Thiên Chúa?
- Ở trong chúng ta.
- Vậy nó là tù nhân cho tới chết, hay là nô lệ?
- Không, ông hoàng. Trong tư tưởng đời đời, linh hồn, thần trí, là thứ cai trị trong con người, trong động vật được tạo dựng mà người ta gọi là người. Nó đến từ vị Vua và là Cha của tất cả các vua và các cha, nó là hơi thở và là hình ảnh của Người, là ân huệ và là
547
quyền lợi của Người, và nó có sứ mạng làm cho tạo vật gọi là người thành một ông vua của vương quốc to lớn và vĩnh cửu, làm cho tạo vật gọi là người thành một vị thần ở đời sống bên kia, một kẻ sống trong nơi ở của Thiên Chúa độc nhất và cao cả. Nó được tạo dựng là ông hoàng với uy quyền và định mệnh của một ông hoàng. Các nữ tì của ông là tất cả các nhân đức và khả năng của con người; bộ trưởng của ông là thiện chí của con người, đầy tớ của ông là tư tưởng. Tư tưởng của con người là đầy tớ và là học trò của ông. Chính bởi linh hồn mà tư tưởng tậu được sức mạnh và chân lý, sự công chính và khôn ngoan, và có thể vươn tới một sự trọn lành tuyệt hảo. Một tư tưởng không có ánh sáng của linh hồn sẽ luôn luôn khiếm khuyết, mờ tối và không bao giờ có thể hiểu chân lý. Qủa thật, đối với kẻ đã xa lìa Thiên Chúa và đã mất vương vị của linh hồn, thì những chân lý này còn khó hiểu hơn là mầu nhiệm. Tư tưởng của loài người sẽ mù và đần độn nếu nó thiếu điểm tựa cho cái đòn bẩy thiết yếu để hiểu, để vươn lên bằng cách lìa trái đất và phóng lên cao để gặp Đấng Thông Minh và Sức Mạnh, tóm lại là gặp Thiên Chúa. Chính với con mà Thầy nói như vậy đó Đêmêtê. Vì con không phải luôn luôn chỉ là người đổi tiền, và con muốn hiểu để giải thích cho những người khác.
- Thưa Thầy, Thầy đúng là nhà linh thị. Không, con không phải chỉ là người đổi bạc... Việc đó là bậc sau cùng trong sự xuống dốc của con... Xin Thầy nói cho con: nếu linh hồn là ông hoàng, tại sao nó không ngự trị và không áp chế tư tưởng xấu và xác thịt xấu của con người?
- Áp chế không phải là tự do, đó là đàn áp.
- Nhưng tư tưởng và xác thịt thường làm nặng nề cho linh hồn - con nói về con, về chúng con - và rất hay làm cho nó thành nô lệ. Chính vì vậy mà con nói nó là nô lệ ở trong chúng ta. Làm sao Thiên Chúa có thể cho phép một sự qúa cao cả như vậy - Thầy đã định nghĩa nó là hơi thở của Thiên Chúa và là hình ảnh của Người - lại bị hạ gía bởi những thứ hạ cấp như vậy?
- Tư tưởng của Thiên Chúa là linh hồn không phải biết đến sự nô
548
lệ. Nhưng con đã quên kẻ thù của Thiên Chúa và của loài người rồi sao? Các thần trí hạ cấp, các con cũng đã biết.
- Vâng, và tất cả đều có những ước muốn độc ác. Đối với con, khi nhớ lại từ khi con còn bé, con có thể nói rằng tại vì các thần trí ô nhục này mà con trở thành con người như con đã là, và con đã là cho tới ngưỡng cửa của tuổi già. Bây giờ con tìm lại được đứa trẻ bị lạc khi đó. Nhưng con có thể làm cho mình trở nên trẻ nhỏ đủ để trở lại sự trong sạch khi đó không? Có được phép đi trở lui không?
- Không cần phải trở lui. Con không thể làm việc đó. Thời gian qua đi không trở lại nữa. Người ta không thể làm cho nó trở lại, và người ta cũng không thể trở lại đó. Nhưng điều đó không cần.
Một số người trong các con thuộc về những nơi người ta biết những lý thuyết của trường Pythagore. Đó là một lý thuyết sai lầm. Các linh hồn, một khi đã qua thời kỳ cư ngụ trên trái đất, không bao giở trở lại mặt đất nữa trong bất cứ thân xác nào: không trong cơ thể động vật, vì một vật thể siêu nhiên hoàn toàn như linh hồn không phù hợp để ở trong một vật thô thiển; không ở trong cơ thể con người, vì làm sao thân xác được thưởng công khi nó tái hợp với linh hồn vào lúc phán xét cánh chung, nếu linh hồn này đã được tái mặc lấy bởi nhiều cơ thể? Những người tin theo thuyết này nói rằng thân xác sau cùng sẽ được hưởng linh hồn, bởi vì trong các qúa trình thanh tẩy liên tiếp nhau trong những đời sống kế tiếp, thì chỉ ở lần tái nhập thể sau cùng thì linh hồn mới đạt tới một sự hoàn thiện xứng đáng một phần thưởng. Đó là một sai lầm và một xúc phạm! Một sai lầm và xúc phạm đối với Thiên Chúa, vì như vậy là cho rằng Người chỉ có thể tạo dựng một số linh hồn có hạn. Sai lầm và xúc phạm với loài người vì xét đoán nó rằng nó qúa hư hỏng tới nỗi nó khó lòng xứng đáng một phần thưởng. Nó sẽ không được thưởng ngay lập tức, chín mươi chín phần trăm sẽ phải chịu sự thanh tẩy sau đời sống, nhưng sự thanh tẩy chuẩn bị cho niềm vui. Cũng vậy, kẻ được thanh tẩy đã là kẻ được cứu. Một khi được cứu thì nó sẽ chung hưởng với thân xác của nó sau ngày cánh chung. Mỗi linh hồn chỉ có thể có một thân xác duy nhất với một đời sống duy nhất
549
ở thế gian này. Chính thân xác mà cha mẹ, các vị đồng sáng tạo đã làm ra, sẽ cùng với linh hồn mà Đấng Tạo Hóa đã tạo ra cho nó để làm cho nó sống, sẽ chung vui hưởng phần thưởng.
Việc tái nhập thể không được chấp nhận, cũng như việc thời gian đi trở lui không được ban, nhưng việc tự tái tạo bởi cử động của ý chí tự do thì được, Thiên Chúa chúc lành cho ý chí này và giúp nó. Tất cả các con đã có điều đó. Đây: con người tội lỗi, trụy lạc, ô uế, tội ác, ăn cắp, hư hỏng, thối nát, sát nhân, phạm thánh, gian dâm... trong bể tắm của sám hối, tái sinh cách siêu nhiên, phá hủy những chất hư hỏng của con người cũ, phân tán cái tôi tinh thần bị hư hỏng còn nhiều hơn nữa. Ý chí muốn được cứu chuộc tựa như chất axít tấn công và phá hủy những lớp vỏ dơ che dấu một báu vật, để làm lộ ra cái thần trí trong sạch, được thanh tẩy, lại trở nên lành mạnh, lại được mặc bằng tư tưởng mới, bộ y phục trong trắng đẹp đẽ như trẻ thơ. Ôi! Cái y phục có thể lại gần Thiên Chúa, có thể che phủ cách xứng đáng cho linh hồn được tái tạo, và giữ nó, giúp nó cho tới mức siêu sáng tạo của nó, tức là hoàn tất sự thánh thiện mà ngày mai - trong một ngày mai có lẽ là xa xôi nếu người ta nhìn nó với trí khôn và cách đo thời gian của loài người, nhưng rất gần nếu người ta nhìn ngắm nó bằng tinh thần vĩnh cửu - sẽ được vinh hiển trong nước Thiên Chúa.
Khi người ta muốn thì mọi người đều có thể tái tạo trong chính họ sự trong sạch trẻ thơ của những ngày thơ ấu: đứa trẻ yêu thương, khiêm nhường, thẳng thắn, tốt, mà mẹ nó ôm ghì vào lòng bà, mà cha nó nhìn cách hãnh diện, mà thiên thần của Chúa yêu qúi, mà Thiên Chúa nhìn với tình yêu. Các bà mẹ của các con! Có lẽ các bà đã là những phụ nữ nhân đức... Thiên Chúa sẽ không để cho nhân đức của các bà thiếu phần thưởng. Vậy các con hãy làm sao để có các phần thưởng tương tự, để tái ngộ với các bà khi sẽ chỉ có một điều duy nhất cho tất cả các kẻ nhân đức: Nước của Thiên Chúa cho những người tốt. Có lẽ các bà đã không tốt và đã góp phần vào sự hư hỏng của các con? Nhưng nếu các bà đã không yêu các con, nếu các con không được biết đến tình yêu, nếu sự thiếu tình yêu
550
này đã làm cho các con ra xấu, thì bây giờ Tình Yêu Thiên Chúa đã đón nhận các con, các con hãy thánh để có thể vui hưởng một tình
yêu vượt trên hết mọi tình yêu, trong niềm vui Thiên Quốc. Các con còn điều gì để hỏi không?
- Lạy Chúa, không. Chúng con đã có tất cả để học. Lúc này chúng con không thấy điều gì khác...
- Thầy sẽ để lại Gioan và Andrê cho các con trong vài ngày, rồi Thầy sẽ gởi đến cho các con những môn đệ tốt và khôn ngoan. Thầy muốn cho các con ngựa rừng biết các đường lối của Chúa và các đồng cỏ của Người như những người Israel, vì Thầy đến cho mọi người, và Thầy yêu tất cả theo cùng một cách. Các con hãy đứng dậy và chúng ta đi.
Và Người đi trước ra ngoài mảnh vườn đã được khai phá. Các vị của Người đi theo ở gần bên và họ phàn nàn nhẹ nhàng: “Thầy ơi, Thầy đã nói với họ như rất ít khi Thầy nói với những kẻ Thầy đã chọn”.
- Và các con phàn nàn vì vậy? Các con không biết rằng trong thế giới, người ta làm như vậy khi người ta muốn chinh phục một người mà người ta yêu sao? Nhưng với những người mà chúng ta biết rằng họ yêu chúng ta với tất cả con người của họ, và họ thuộc về gia đình chúng ta, thì không cần tới nghệ thuật để chinh phục, chỉ cần nhìn thấy nhau để người nọ ở trong người kia, trong niềm vui và bình an - Giêsu nói với nụ cười Thiên Chúa, thực sự Thiên Chúa, vì nó thông đạt niềm vui. Các tông đồ không phàn nàn nữa, và cả đến họ sung sướng nhìn Người, tự tan biến trong hoan lạc của tình yêu hỗ tương.
222* GIÊSU TUYÊN BỐ VỀ BÀ SABÊA,
NGƯỜI LÀNG BETLECHI
Thật là một mảnh đất khai khẩn nghèo nàn, nơi cấp dưỡng cho nhóm người tạp hợp: các bạn của Zakê. Nhất nữa, bây giờ là mùa
551
đông, chắc chắn nó không làm vui lòng người. Nhưng họ thích nó và chỉ nó cho Giêsu cách hãnh diện: ba thửa ruộng lúa mì, đất nâu đen, đã cày bừa; vườn cây với mấy cây đã có hoa lợi tốt, các cây khác còn non để hy vọng nó sẽ cho trái; vài hàng nho, vài hàng rau tội nghiệp... Một chuồng súc vật nhỏ với một bò sữa và một con lừa để kéo nước; một lều nhỏ với vài con gà và năm đôi bồ câu, sáu con cừu; một căn nhà lụp xụp gồm nhà bếp và ba phòng ngủ, một kho chứa củi, đồ lặt vặt và rơm cỏ; một cái giếng bể miệng, một thùng chứa nước đục. Không còn gì hơn.
- Nếu mùa màng thuận lợi...
- Nếu các con vật đẻ con...
- Nếu các cây con mọc rễ...
Tất cả đều ở trong điều kiện... Những hy vọng rất bấp bênh...
Nhưng có người nhớ tới điều họ đã nghe nói một trong những năm trước: mùa gặt lạ lùng mà Doras đã có nhờ phép lành Thầy ban để Doras nhân đạo hơn với các nông dân của ông, và anh ta nói: “Nếu Thầy chúc lành cho nơi này... Doras cũng đã là tội nhân...”
- Con có lý. Điều Thầy đã làm khi biết rằng Thầy sẽ không thay đổi được con tim đó, Thầy cũng sẽ làm cho các con là những người mà con tim đã thay đổi.
Và Người mở cánh tay ra để chúc lành, rồi nói: “Thầy làm ngay lập tức để thuyết phục các con rằng Thầy yêu các con”.
Rồi Người tiếp tục con đường về phía bờ sông bằng cách đi quanh các thửa ruộng đã cày bừa với đất thịt đen và vườn cây mà mùa thu đã làm trơ trụi.
Ở một chỗ khúc quanh, đây, vài pharisiêu tiến tới: “Bình an cho Thầy. Chúng tôi chờ Thầy ở đây để... kính bái Thầy”.
- Không. Để chắc chắn rằng tôi không bịp bợm. Các ông đã làm đúng. Hãy vững dạ rằng tôi không có cách nào để gặp người đàn bà cũng như bất cứ ai ở với bà. Các ông, ông và ông, đã canh chừng ở nhà Zakê, và các ông đã thấy rằng không ai trong chúng tôi ra khỏi nhà. Các ông đã đi trước chúng tôi ở trên đường, và các ông đã thấy rằng không có ai trong chúng tôi đã đi trước. Các ông đã
552
định tâm áp đặt cho tôi các điều kiện để gặp người đàn bà này, và tôi nói với các ông rằng tôi đã chấp nhận ngay cả trước khi các ông đề nghị.
- Nhưng... nếu ông không biết những điều kiện đó...
- Có đúng là các ông muốn đặt điều kiện không?
- Đúng vậy.
- Vậy cũng như tôi biết các ý định của các ông, cái mà chỉ có các ông biết, tôi cũng biết điều các ông sắp nói với tôi nên tôi nói với các ông rằng tôi chấp nhận điều các ông muốn đề nghị với tôi, vì điều đó sẽ phục vụ vinh quang của Sự Thật. Nói đi.
- Vậy ra ông biết nó là thế nào?
- Tôi biết rằng các ông phán quyết là người đàn bà này bị qủi ám. Tuy nhiên không thầy trừ tà nào có thể xua đuổi ma qủi. Nhưng tôi biết rằng bà không nói những lời thuộc về ma qủi. Đó là điều những người đã nghe bà ta nói thuật lại.
- Ông có thể thề là ông chưa bao giờ gặp bà ta không?
- Người công chính không bao giờ thề, vì họ biết họ có quyền được người ta tin những gì họ nói. Tôi nói với ông rằng tôi chưa bao giờ gặp bà ta, tôi chưa bao giờ đi qua làng của bà, và tất cả làng có thể xác nhận điều đó.
- Nhưng bà ta qủa quyết rằng bà ta biết mặt ông và tiếng nói của ông.
- Đúng vậy, linh hồn bà biết tôi, do ý muốn của Thiên Chúa.
- Ông nói rằng do ý muốn của Thiên Chúa, nhưng làm sao ông qủa quyết được điều đó?
- Người ta đã nói với tôi rằng bà ta nói những lời được linh ứng.
- Ma qủi cũng nói về Thiên Chúa.
- Nhưng với những sai lầm lẫn lộn cố ý, để làm lạc hướng người ta vào những tư tưởng sai lầm.
- Vậy... chúng tôi muốn rằng ông để cho chúng tôi thử thách người đàn bà này.
- Bằng cách nào?
- Thực tình ông không biết bà ta chứ ?
553
- Tôi đã nói với các ông là không.
- Vậy như vầy: chúng tôi sẽ cho một người đến hô lên: “Đây, Chúa đây!” Và chúng tôi sẽ xem bà ta có chào kẻ đi với người này tựa như đó là chính Chúa, tức là ông, không.
- Cái thử thách tồi! Nhưng tôi cũng chấp nhận. Hãy chọn trong số những người đi với tôi những người các ông muốn cho đi trước. Còn tôi, tôi sẽ đi theo các ông với những người khác. Nhưng nếu người đàn bà nói gì thì các ông phải để cho bà ta nói, để tôi phán đoán các lời của bà.
- Điều đó chính đáng. Minh ước đã được làm, và chúng ta sẽ giữ một cách ngay thẳng.
- Mong nó được như vậy, và mong rằng sự việc làm xúc động con tim các ông.
- Thưa Thầy, không phải tất cả chúng tôi đều là đối phương của Thầy. Một số người trong chúng tôi do dự... và có ý ngay thẳng muốn coi cái gì là thật để theo Thầy - một luật sĩ nói.
- Đúng vậy, và họ sẽ được Thiên Chúa yêu.
Các luật sĩ xem xét các tông đồ. Họ ngạc nhiên vì sự vắng mặt của nhiều người, đặc biệt là Iscariot. Rồi họ chọn Juđa Thađê và Gioan. Họ lấy thêm anh thanh niên ăn cắp hoán cải, vì anh ta xanh xao, gầy, với mái tóc hơi hung đỏ. Tóm lại là những người mà diện mạo có những điểm tương tự với Thầy.
- Chúng tôi sẽ đi trước với họ. Ông, ông ở lại đây với các bạn tôi và các người của ông, và một lát nữa hãy đi theo chúng tôi.
Họ làm như vậy.
Họ đã tới mảnh rừng ở dọc bờ sông. Mặt trời mùa đông đang lặn, phủ vàng cho các ngọn cây và tỏa ra một ánh sáng vàng tươi trên những người tụ tập gần các cây to.
- Đây! Đây là Đức Messi! Hãy đứng dậy! Hãy ra đón Người! - các luật sĩ đã đi trước kêu lên. Họ đã tới trước qua một lối đi dẫn tới một cây sồi khổng lồ có rễ rất lớn nhô lên một nửa, có thể dùng làm chỗ ngồi cho những người trú chân gần thân cây của nó. Nhóm người tụ họp ở chung quanh quay lại, đứng lên, túa ra để tới gặp
554
những người đang tới. Ở lại gần thân cây chỉ còn ba người luật sĩ, Gioan Êphêsô, một người đàn ông và một người đàn bà già, cùng với một phụ nữ khác ngồi trên cái rễ nhô lên, quay lưng vào thân cây, đầu cúi trên đầu gối mà bà lấy hai cánh tay ôm. Bà được che kín hoàn toàn bằng tấm voan mầu tím than, hầu như đen. Bà tựa như người lạ với tất cả, và tiếng hô hào không làm cho bà nhúc nhích.
Một luật sĩ đụng vào vai bà: “Sabêa, ông Thầy ở đây, hãy đứng dậy và chào Người”.
Người đàn bà không trả lời, cũng không nhúc nhích.
Ba người luật sĩ nhìn nhau và cười mỉa mai trong khi làm hiệu đồng ý với những người khác đã tiến tới. Và vì những người đang chờ không nhìn thấy Giêsu nên nín thinh, họ và các bạn họ lại la lớn hơn bao giờ hết để người đàn bà không nhận ra sự gian trá của họ.
Một luật sĩ nói với bà mẹ già đang ở bên con gái bà: “Bà ơi, ít nhất là bà, hãy chào Thầy và bảo con gái bà làm”.
Người đàn bà qùi phục cùng với chồng bà trước mặt Thađê, Gioan và anh ăn trộm hối cải, rồi bà đứng dậy và nói với con gái bà: “Sabêa, Chúa của con ở đây. Hãy tôn kính Người”.
Người đàn bà trẻ không nhúc nhích.
Các luật sĩ nhếch nụ cười mỉa mai của họ, và một người trong đám họ, một ông gìa gầy mũi to, nói bằng giọng mũi kéo dài: “Mày đã không chờ cái thử thách này phải không? Và qủa tim mày run sợ vì mày cảm thấy danh hiệu nữ tiên tri lừng danh của mày bị nguy ngập, và mày không thử thời vận... Tao thấy là đã đủ để tuyên bố là mày dối trá...”
Thình lình người đàn bà ngẩng đầu lên, bà lật chiếc voan ra đàng sau, nhìn với đôi mắt mở to của bà và nói: “Ôi ông luật sĩ, tôi không nói dối, và tôi không sợ vì tôi ở trong sự thật. Chúa đâu?”
- Thế nào? Mày nói là mày biết Người mà mày không nhìn thấy Người sao? Người đang ở trước mặt mày.
- Không có ai trong đám họ là Chúa cả, vì vậy nên tôi không
555
nhúc nhích. Không ai trong đám họ.
- Không ai sao? Thế nào? Người Galilê tóc hoe vàng này không phải là Chúa sao? Tao không biết Người, nhưng tao biết là Người tóc hoe vàng với đôi mắt mầu trời.
- Đây không phải là Chúa.
- Vậy ông này, cao lớn và nghiêm khắc. Nhìn coi, bao nhiêu vẻ của vị vua. Chắc là đúng Người.
- Không. Đây không phải Chúa. Chúa không ở trong đám họ - và người đàn bà lại gục đầu trên đầu gối như trước.
Qua đi một lúc, rồi đây, Giêsu tiến tới. Các luật sĩ đã áp đặt sự yên lặng cho các người ở đó. Sự tiến lại của Người cũng không bị lộ bởi một tiếng vạn tuế nào cả.
Giêsu tiến bước giữa Phêrô và anh họ Giacôbê. Người bước nhẩn nha, lặng lẽ... cỏ rậm đã nuốt hết tiếng động của bước chân. Trong khi bà già lau nước mắt bằng khăn voan của bà, và khi một luật sĩ xỉ nhục bà bằng cách nói: “Con gái của bà điên và nói dối”, trong khi người cha thở dài và khiển trách con gái ông bằng cùng một lời, Giêsu tới đầu đường và dừng lại.
Người đàn bà trẻ, dù không nghe thấy gì, không nhìn thấy gì, liền đứng bật dạy, lật chiếc voan, và như vậy bà để đầu trần, giơ hai cánh tay ra và phát ra tiếng kêu rất mạnh: “Đây, Chúa tôi đến với tôi, chính Người là đấng Messi. Ôi các ông, các ông muốn đánh lừa tôi, hạ nhục tôi. Tôi nhìn thấy ánh sáng của Thiên Chúa ở trên Người để chỉ Người cho tôi, và để tôi tôn kính Người”. Và bà qùi phục xuống đất, nhưng vẫn ở tại chỗ, cách Giêsu chừng hai mét, sấp mặt xuống đất ở trong cỏ và kêu lên: “Con chào Ngài, ôi Đấng Đáng Ngưỡng Mộ, ôi Hoàng Tử Bình An, Cha của các thế kỷ vô tận, Thủ Lãnh dân mới của Thiên Chúa!” Và bà vẫn phục dưới áo khoác mầu tím than hầu như đen, cũng như chiếc voan. Nhưng khi bà đứng dậy ở trước thân cây - và sau khi đã lật chiếc voan ra sau, bà đứng yên, hai tay giơ ra đàng trước như bức tượng - tôi có thể nhìn thấy rằng ở bên dưới áo khoác, bà mặc một áo len dầy mầu trắng ngà, chỉ buộc lại bằng giây ở cổ và thắt lưng. Và nhất là tôi có
556
thể cảm phục sắc đẹp của người đàn bà đứng tuổi. Bà độ ba mươi, mà ba mươi tuổi ở Palestin thì tương đương với ít là bốn mươi tuổi nơi chúng ta. Nếu Đức Thánh Trinh Nữ là ngoại lệ, thì những người khác, tuổi trưởng thành đến rất sớm, nhất là đối với những phụ nữ tóc đen, da sậm mầu và đầy đặn như bà này.
Đó là loại đàn bà Hy Bá kiểu xưa. Tôi tin là các phụ nữ nổi tiếng về sắc đẹp như Rakel, Ruth, Judith xưa cũng vậy: lớn con, đầy đặn và dong dỏng, da nhẵn, trắng hơi vàng, miệng nhỏ, môi hơi dầy và đỏ tươi, mũi thẳng, dài và gọn, thanh bai; đôi mắt sâu âm u, dịu dàng dưới hàng mi cong, dài và dầy; trán cao, nhẵn, vẻ oai sang trọng; khuôn mặt trái soan hơi dài với mái tóc huyền tuyệt vời như một triều thiên bằng mã não. Đó không phải là một bảo vật, mà là thân hình một bức tượng, với sự oai phong của bà hoàng.
Đây, bà đứng, giơ ra đôi bàn tay dài, da ngà rất đẹp, nối vào cánh tay bởi cái cổ tay nhỏ. Đây, bà lại đứng trước thân cây mầu đậm. Bây giờ bà lặng lẽ nhìn Thầy, lắc đầu vì các luật sĩ bảo bà: “Sabêa, mày lầm. Ông ta không phải Đức Messi, nhưng là người mà mày đã gặp trước đây mà không nhận ra”.
Bà lắc đầu, cương quyết, nghiêm khắc, mắt không rời Chúa. Rồi khuôn mặt bà biến hình, có một sự diễn tả mà tôi không biết là bà vui sướng nồng nàn hay mơ màng ngất trí. Bà có cả cách này và cách kia. Bà tái mét như sắp xỉu, trong khi tất cả sự sống tập trung nơi con mắt đã trở nên rạng rỡ bằng thứ ánh sáng vui mừng, chiến thắng, tình yêu... Tôi không biết có phải đôi mắt này cười không? Không, chúng không cười, cũng như khóe miệng nghiêm khắc không cười. Nhưng ở đó có ánh sáng vui mừng, và những con mắt này càng lúc càng có cường độ mạnh mẽ làm người ta xúc động. Giêsu nhìn bà, cái nhìn của Người dịu dàng và hơi buồn.
- Ông thấy là bà ta điên? - một luật sĩ xì xèo với Người.
Giêsu không trả lời, tay trái để xuôi theo thân mình, tay phải giữ áo khoác trên ngực. Người nhìn và nín lặng.
Người đàn bà mở miệng và giơ tay ra như trước. Bà giống như một con bướm khổng lồ với đôi cánh mầu tím than, thân mình mầu ngà cũ. Một tiếng kêu khác thoát ra từ môi bà: “Ôi Adonai (tên gọi
557
Thiên Chúa trong cổ Hy Bá) Chúa cao cả, một mình Chúa cao cả. Ôi Adonai! Chúa cao cả trên trời và dưới đất, trong thời gian và muôn thuở bên ngoài thời gian, từ muôn đời và tới muôn đời. Ôi Chúa, Con của Chúa. Dưới chân Chúa có các kẻ thù của Chúa, và tình yêu của những kẻ yêu Chúa nâng đỡ ngai tòa của Chúa”.
Tiếng nói phát ra càng lúc càng mạnh và vững vàng, trong khi đôi mắt đã rời Giêsu và nhìn xa xôi, hơi ở bên trên đầu các kẻ vây chung quanh bà và chăm chú, trong lúc bà đứng trước thân cây sồi, chính nó cũng mọc ở chỗ đất cao, nên bà nhìn bao quát không khó khăn gì.
Sau một lát nghỉ, bà tiếp: “Ngai của Chúa tôi được trang hoàng bằng mười hai tảng đá của mười hai chi tộc các người công chính. Trong chiếc ngai như viên ngọc lớn, chiếc ngai trắng, qúi và sáng láng của Con Chiên Rất Thánh, được cẩn những hoàng ngọc với tử ngọc, bích ngọc với lam ngọc, hồng ngọc với hồng mã não và lục kim thạch, lục ngọc thạch và mã não vân, đá hoa vân và miêu ngọc: Những kẻ tin, những kẻ trông cậy, những kẻ yêu mến, những kẻ sám hối, những kẻ sống và chết trong sự công chính, những kẻ đau khổ, những kẻ từ bỏ sai lầm để theo sự thật, những kẻ chai đá trong lòng đã trở nên hiền lành vì danh Người, những kẻ vô tội, những kẻ sám hối, những kẻ từ bỏ tất cả để được nhẹ nhàng mà theo Chúa, những kẻ tâm hồn trinh trong chói sáng bằng một ánh sáng giống như bình minh trong Trời của Thiên Chúa... Vinh quang cho Chúa! Vinh quang cho Adonai! Vinh quang cho Vua ngự trên ngai!”
Tiếng nói như tiếng chuông. Mọi người bị kích động bởi một sự run giùng. Người đàn bà như thực sự nhìn thấy những thứ bà nói, tựa như đám mây vàng đang trôi trên bầu trời quang đãng mà bà như nhìn theo nó bằng cái nhìn hân hoan, đối với bà, nó là cái thấu kính cho bà nhìn thấy những vinh quang trên trời. Bà ngừng để nghỉ tựa như mệt, nhưng không thay đổi thái độ. Chỉ có khuôn mặt bà biến đổi mạnh bởi vẻ trắng xanh của da và vẻ sáng của đôi mắt.
Rồi bà lại bắt đầu nói, hạ tầm mắt xuống trên Giêsu, Người nhìn bà, đứng giữa một vòng vây các luật sĩ, họ lắc đầu cười nhạo, ngờ
558
vực. Các tông đồ và các tín hữu thì tái mét bởi sự xúc động thánh. Bà lại bắt đầu nói bằng giọng rõ ràng, nhưng ít mạnh hơn: “Tôi Thấy! Tôi thấy trong Người những gì được giấu ẩn trong Người. Đấng Thánh là Người, và đầu gối tôi gập lại trước Đấng Cực Thánh ẩn trong Người”.
Giọng nói lại trở nên mạnh, hống hách như một mệnh lệnh: “Ôi dân Thiên Chúa! Hãy nhìn Vua của ngươi! Hãy nhạn ra dung nhan Người! Vẻ đẹp của Thiên Chúa ở trước mặt ngươi. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã dùng miệng để giáo huấn ngươi. Ôi Israel, đây không còn là các tiên tri nói với ngươi về đấng không thể gọi tên. Đây chính là Người, đấng biết những mầu nhiệm của Thiên Chúa, nói với ngươi về Thiên Chúa. Ôi hỡi dân vẫn còn là trẻ con sau bao thế kỷ, Người, đấng biết Tư Tưởng của Thiên Chúa ôm ngươi vào lòng Người, để nuôi ngươi bằng sữa khôn ngoan của Thiên Chúa để làm cho ngươi trưởng thành trong Thiên Chúa. Chính vì để làm việc đó nên Người đã nhập thể trong một tấm lòng, trong lòng của một phụ nữ Israel cao cả hơn tất cả mọi phụ nữ khác trước mặt Thiên Chúa và loài người, Bà đã làm hoan hỉ trái tim Thiên Chúa bởi chỉ một cái mấp máy bồ câu của Bà. Vẻ đẹp của tâm hồn Bà đã hấp dẫn Đấng Tối Cao, và Người đã làm cho bà thành ngai của Người. Maria của Aaron đã phạm tội, vì bà có tội ở trong bà. Débora đã nhận định điều bà phải làm, nhưng bà không tự tay làm. Jahel can đảm nhưng ô uế vì máu, Judith công chính và kính sợ Chúa, và Thiên Chúa ở trong các lời bà và cho phép bà hành động để cứu Israel, nhưng vì tình yêu quê hương, bà đã làm một việc sát nhân qủi quyệt. Nhưng người đàn bà đã cưu mang Người vượt qua tất cả những phụ nữ này, vì bà là nữ tì toàn vẹn của Thiên Chúa, và bà phụng sự Người không với tội lỗi. Hoàn toàn trong sạch, vô tội và đẹp đẽ. Đó là Thiên Thể của Thiên Chúa, đẹp đẽ từ lúc mọc tới lúc lặn của bà. Hoàn toàn đẹp đẽ, lộng lẫy và trong sạch để là tinh tú, là vầng trăng, là ánh sáng cho loài người để họ tìm thấy Chúa. Bà không đi trước và không theo sau Hòm Bia thánh như Maria Aaron, bởi vì chính bà là Hòm Bia. Trên làn nước dơ của trái đất bị bao phủ bởi Hồng Thủy của tội lỗi, bà lướt đi và cứu vớt, vì kẻ nào vào
559
trong bà là tìm thấy Chúa. Là bồ câu không tì vết, bà mang và sinh ra cây oliu, cây oliu bình an cho loài người, vì bà là trái oliu đẹp. Bà nín lặng, và trong sự nín lặng của bà, bà nói và làm nhiều hơn Débora, Jahel và Judith. Bà không cố vấn cho chiến trận, không thúc đẩy vào tàn sát, không đổ ra máu nào ngoài máu bà, được lựa chọn nhất, máu mà bà đã làm thành con bà. Người mẹ tội nghiệp! Người mẹ cao cả!... Judith kính sợ Chúa, nhưng bông hoa của bà thuộc về một người. Còn bà, bông hoa của bà không bị xâm phạm, bà đã dâng nó cho Đấng Tối Cao. Và Lửa của Thiên Chúa đã xuống vào trong tràng của bông huệ ngọt ngào, và lòng dạ người phụ nữ đã mang Đấng là Sức Mạnh, Sự Khôn Ngoan và Tình Yêu của Thiên Chúa. Vinh quang cho Bà. Hỡi các phụ nữ Israel, hãy hát ca tụng Bà!”
Người đàn bà nín lặng tựa như giọng nói của bà cạn kiệt. Thực sự tôi không biết bà đã làm sao để giữ tiếng nói của bà mạnh như vậy.
Các luật sĩ nói: “Mụ ta điên! Mụ ta điên! Hãy bắt bà câm đi! Vừa điên vừa bị ám. Hãy trục xuất thần trí cầm giữ bà”.
- Tôi không thể. Chỉ có thần trí của Thiên Chúa, và Thiên Chúa đâu có xua đuổi chính mình Người!
- Ông không làm bởi vì mụ ta khen ông, ông và mẹ ông, và điều đó làm cho sự kiêu căng của ông thích thú.
- Ông luật sĩ ơi, hãy suy nghĩ những gì ông biết về tôi, và ông sẽ thấy rằng tôi không biết kiêu căng.
- Nhưng chỉ có ma qủi mới có thể nói trong mụ ta để ca ngợi một người đàn bà như vậy!... Người đàn bà! Đàn bà là gì trong Israel và cho Israel ? Bà là gì nếu không phải là một tội trước mắt Thiên Chúa? Là sự dụ dỗ và kẻ dụ dỗ! Nếu không có đức tin, hầu như người ta sẽ nghi ngờ không biết đàn bà có linh hồn không. Bọn họ bị cấm tới gần nơi Thánh vì sự ô uế của họ. Vậy mà mụ ta nói rằng Thiên Chúa đã xuống trong bà!... - một luật sĩ khác nói, phẫn uất, và các bạn ông cũng đồng thanh.
Giêsu nói, không nhìn ai ở trước mặt cả, tựa như Người nói với chính mình: “Người đàn bà sẽ đạp dập đầu Con Rắn... Người Trinh
560
nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, đấng sẽ được gọi là Emmanuel... Một chồi sẽ nảy sinh từ rễ Jessê, một bông hoa sẽ mọc ra từ rễ này, và Thần Trí của Chúa sẽ ngự trên Người”. Người đàn bà này: Mẹ Ta. Ôi hỡi luật sĩ, vì danh dự sự hiểu biết của ông, hãy nhớ lại và hãy hiểu những lời trong sách.
Các luật sĩ không biết trả lời làm sao nữa. Các lời này, họ đã nói hàng ngàn lần, và nói như sự thật. Bây giờ họ có thể chối không? Họ nín thinh.
Có người ra lệnh đốt lửa, vì đã cảm thấy lạnh ở gần bờ sông, nơi gió chiều thổi. Người ta vâng lời, và hai đống lửa vòng bởi cành cây cháy lên chung quanh đám người tụ tập.
Ngọn lửa nhảy múa như đánh thức người đàn bà, vì bà đã nín lặng, nhắm mắt như trầm tư với chính mình. Bà lại mở mắt, lúc lắc. Bà lại nhìn Giêsu và kêu: “Adonai! Adonai! Ngài cao cả. Chúng ta hãy hát cho Thiên Chúa bài Thánh Vịnh mới! Shalem! Shalem! Malchich!!... Bình an! Bình an! Ôi! Vị Vua không gì có thể kháng cự!...”
Người đàn bà bỗng dưng nín bặt. Đây là lần đầu tiên từ lúc bà nói: bà liếc mắt quanh những kẻ bao quanh Giêsu, bà nhìn đăm đăm vào các luật sĩ tựa như bà thấy họ lần đầu tiên. Và không có lý do nào bề ngoài, nhưng nước mắt bà ứa ra trong đôi mắt lớn của bà, khuôn mặt bà trở nên buồn, không sáng sủa. Bây giờ bà nói nhẩn nha bằng một giọng sâu xa như kẻ nói về một điều đau đớn: “Không, có những kẻ kháng cự Thầy! Ôi dân chúng, hãy nghe! Ôi dân làng Betlechi! Từ lúc tôi đau đớn, qúi vị đã nghe tôi nói. Sau bao năm trời yên lặng và đau đớn, tôi đã nghe và tôi nói những gì tôi đã nghe thấy. Bây giờ tôi không còn ở giữa những chòm cây xanh của Betlechi nữa, bà góa đồng trinh tìm được nơi Chúa sự bình an duy nhất cho mình. Tôi không còn chỉ có các người đồng hương ở chung quanh tôi để nói với họ: “Hãy kính sợ Chúa, vì đã đến giờ phải sẵn sàng cho tiếng gọi của Người. Hãy trang điểm cho đẹp y phục của con tim chúng ta để xứng đáng trước nhan Người. Hãy thắt đai lưng sức mạnh của chúng ta, vì giờ của Đức Kitô là giờ thử thách. Hãy
561
thanh tẩy chúng ta như bánh thánh trên bàn thờ để có thể được nhận bởi đấng đã sai Người tới. Kẻ tốt phải nên tốt hơn, kẻ kiêu căng hãy nên khiêm nhường, kẻ dâm ô hãy bài trừ xác thịt để có thể theo Con Chiên, kẻ hà tiện hãy nên quảng đại, vì Thiên Chúa đổ đầy cho chúng ta trong Đấng Messi của Người, và mọi người hãy thi hành sự công chính để có thể thuộc về dân của đấng được chúc phúc đang tới”. Bây giờ tôi nói ở trước mặt Người và trước mặt những ai tin ở Người cũng như những kẻ không tin và chế diễu Đấng Thánh, và trước mặt những ai nói và tin ở Danh Người và ở Người. Tôi không sợ. Các ông nói rằng tôi điên, các ông nói rằng một thằng qủi nói ở trong tôi. Tôi biết rằng các ông có thể làm cho tôi bị ném đá như kẻ phạm thượng. Tôi biết các ông cho những lời tôi nói với các ông là những lời chửi rủa và phạm thượng, và các ông ghét tôi. Nhưng tôi không sợ. Có lẽ đây là tiếng nói sau cùng nói về Người trước giờ biểu lộ của Người. Có lẽ tôi cũng có số phận của các tiếng nói khác, và tôi không sợ. Cuộc lưu đày trong sự lạnh lẽo và cô đơn của trái đất nó qúa dài đối với kẻ nghĩ tới lòng Abraham, và tới Nước của Thiên Chúa mà Đức Kitô mở ra cho chúng ta, thánh thiện hơn lòng Abraham. Sabêa Carmel, dòng dõi Aaron không sợ chết, nó chỉ sợ Thiên Chúa, và nó nói khi Chúa làm cho nó nói, để không bất tuân ý muốn của Người, và nó nói sự thật, vì nó nói về Thiên Chúa bằng những lời Thiên Chúa cho nó. Tôi không sợ chết, dù các ông gọi tôi là qủi và ném đá tôi như kẻ phạm thượng; dù là cha tôi và mẹ tôi và các anh tôi đều chết vì sự nhục nhã này. Tôi không run vì sợ và vì đau đớn. Tôi biết rằng không có ma qủi ở trong tôi, vì ở trong tôi, mọi lò lửa xấu đều tắt, và toàn thể Betlechi đều biết. Tôi biết rằng các viên đá không thể làm ngừng tiếng ca của tôi lâu hơn thời gian của một hơi thở, rồi sau đó tôi lại có thể hát tự do hơn ở bên kia thế giới. Tôi biết rằng Thiên Chúa sẽ yên ủi sự đau đớn của những kẻ thuộc dòng máu của tôi, và nó sẽ vắn, trong khi sau đó sẽ là vĩnh cửu, niềm vui là cha mẹ tử đạo của một kẻ tử đạo. Tôi không sợ cái chết từ qúi vị, nhưng sợ cái chết sẽ từ Thiên Chúa đến với tôi nếu tôi không vâng
562
lời Người. Và tôi nói, tôi nói những lời đã được chuyển giao cho tôi. Ôi dân chúng, hãy nghe; và hãy nghe, ôi các ông, các luật sĩ của Israel”.
Bà lại cất cao giọng đau đớn và nói: “Một tiếng nói, một tiếng nói từ trên cao đến với tôi, và nó kêu lên trong tim tôi, nó nói: ‘Dân tộc xưa của Thiên Chúa không thể hát bài Thánh Vịnh mới, vì nó không yêu Vị Cứu Tinh của nó. Sẽ hát bài Thánh Vịnh mới: những kẻ được cứu thuộc mọi dân tộc, những kẻ thuộc về dân mới của Chúa Kitô, chứ không phải những kẻ ghét Ngôi Lời của Ta’... Dễ sợ! (và thực sự bà phát ra một tiếng kêu làm dợn tóc gáy) Tiếng nói cho ánh sáng, ánh sáng cho nhìn thấy. Sợ hãi! Tôi thấy!” Và bà gầm thét thì đúng hơn là kêu. Bà vặn mình tựa như bà bị giữ lại ở trước một quang cảnh sợ hãi nó hành hạ con tim bà mà bà tìm cách chạy trốn để chấm dứt. Áo khoác tụt khỏi cổ, bà còn lại y phục trắng trước thân cây đen lớn. Trong ánh sáng từ từ tắt với ánh phản chiếu xanh của cây cối, và trong ánh sáng đỏ lạt của ngọn lửa nhảy múa, khuôn mặt bà có vẻ bi đát và mạnh mẽ. Những bóng tối tạo ra dưới đôi mắt, chung quanh mũi, bên dưới môi, làm người ta thấy như khuôn mặt bị đào lỗ bởi đau đớn. Bà vặn tay và nhắc lại nhè nhẹ: “Tôi thấy! Tôi thấy!” Và bà uống nước mắt bà trong khi tiếp tục: “Tôi thấy các tội ác của dân này là dân của tôi, mà tôi bất lực để ngăn cản. Tôi thấy con tim của các người đồng hương mà tôi không thể thay đổi. Sợ hãi! Sợ hãi! Satan đã bỏ chỗ ở của nó để đến ở trong con tim họ”.
- Bảo bà ta im đi! - Các luật sĩ ra lệnh cho Giêsu.
- Các ông đã hứa là để cho bà ta nói... - Giêsu trả lời.
Người đàn bà tiếp tục: “Ôi Israel, những kẻ còn biết yêu Chúa, hãy sấp mặt xuống đất, trong bùn. Hãy phủ tro trên mình, mặc áo nhặm cho mi, cho họ! Jêrusalem! Jêrusalem! Hãy cứu lấy mình! Tôi thấy một thành phố huyên náo tới để xin một tội ác. Tôi nghe, tôi nghe tiếng kêu của những kẻ thù ghét gọi máu xuống trên chúng. Tôi thấy người ta treo Nạn Nhân lên trong ngày lễ Vượt Qua của máu, và Máu này chảy, và Máu này kêu mạnh hơn máu của Abel
563
trong khi các tầng trời mở ra và trái đất run giùng, mặt trời thành tối. Máu này không đòi báo oán, nhưng xin tình thương cho dân Người là kẻ giết Người, tình thương cho chúng ta, Jêrusalem!!! Hãy hoán cải! Máu này! Máu này! Một dòng sông! Một dòng sông rửa thế giới, chữa mọi đau đớn, xóa mọi tội lỗi... Nhưng với chúng ta, với chúng ta thuộc Israel, máu này là lửa; đối với chúng ta, đó là con dao mổ ghi trên các con cái của Jacob tội giết Chúa và sự nguyền rủa của Thiên Chúa. Jêrusalem! Hãy thương lấy chính mình ngươi và thương lấy chúng ta!...”
- Nhưng bảo mụ ta câm đi! Chúng tôi truyền cho ông! - các luật sĩ la lên khi người đàn bà nức nở và che mặt.
- Tôi không thể ra lệnh cho Sự Thật nín lặng được.
- Sự Thật! Sự Thật! Đó là con điên nói sảng! Ông là ông thầy thế nào nếu ông cho những lời của một con điên nói sảng là sự thật?
- Và ông là Đấng Messi thế nào nếu ông không biết làm cho một mụ đàn bà nín lặng?
- Ông là tiên tri thế nào nếu ông không biết xua đuổi ma qủi? Nhưng lần trước ông đã làm được mà!
- Ông ta đã làm, đúng, nhưng chuyện này không thích hợp với ông ta. Đó là trò chơi rất có mưu toan để làm cho đám đông sợ.
- Tôi đã chọn giờ này, nơi này, với một nhúm người để làm, trong khi tôi có thể làm ở Jêricô giữa năm ngàn người và còn đông hơn nữa, đã theo tôi và bao quanh tôi nhiều lần, mà nội khu Đền Thờ cũng còn qúa nhỏ để chứa hết những người muốn nghe tôi? Phải chăng ma qủi có thể nói những lời khôn ngoan? Ai trong các ông, với lương tâm, có thể nói rằng một lời sai lầm đã phát ra từ cặp môi này? Đã chẳng vang lên trên đôi môi bà, với tiếng nói phụ nữ, những lời kinh khủng của các tiên tri sao? Các ông không nghe thấy tiếng gào thét của Jêrêmi, tiếng khóc của Isaie và các tiên tri khác sao? Các ông không nghe thấy tiếng nói của Thiên Chúa qua tạo vật, tiếng nói tìm cách làm cho mình được tiếp nhận vì sự lành của các ông sao? Tôi thì các ông không nghe. Tôi nói thì các ông có
564
thể nghĩ là vì điều lợi cho tôi. Nhưng bà ta, người lạ đối với tôi, bà hy vọng cái lợi nào trong những lời này? Bà sẽ được gì nếu không là sự khinh dể của các ông, những đe dọa của các ông, và có lẽ sự báo thù của các ông? Không, tôi không bắt bà ta yên lặng! Và hơn nữa, để cho mấy người này nghe bà, để cho các ông cũng nghe bà và các ông có thể sám hối, tôi ra lệnh cho bà: “Nói đi! Nói đi! Ta bảo bà, nhân danh Chúa!”
Bây giờ là chính Giêsu áp đặt, chính là Đức Kitô mạnh mẽ của những giờ phép lạ, đôi mắt to như thôi miên với ngôi sao xanh lam sáng ngời của chúng mà lửa của đống củi đốt ở giữa Người và bà ta làm cho chúng sinh động hơn.
Trái lại, người đàn bà bị đè nặng bởi đau đớn, ít oai vệ hơn. Bà cúi đầu, lấy tay che mặt, tóc đen rối xõa rơi xuống trên vai và ở trước mặt như chiếc mũ tang trên y phục trắng.
- Nói đi, Ta bảo bà. Các lời đau đớn của bà không phải không sinh hoa trái. Sabêa, con cháu Aaron, nói đi.
Người đàn bà vâng lời, nhưng bà nói nhỏ nhẹ, nhỏ nhẹ tới nỗi tất cả đều sát lại gần bà để nghe cho rõ hơn. Bà tựa như nói với chính mình, trong khi bà nhìn về dòng sông chảy kêu ào ào ở bên phải với những tia phản chiếu sau cùng trên mặt nước của nó trong những tia sau cùng của ngày. Bà tựa như nói với con sông: “Ôi Giođan, dòng sông thánh của cha ông, với làn sóng xanh biếc và xoắn như tấm lụa qúi, phản chiếu những vì sao tinh ròng và vầng trăng trong trắng, vuối ve những cây liễu ở bên bờ của mi. Mi là con sông bình an nhưng mi đã chịu biết bao đau đớn. Ôi Giođan, trong những giờ bão tố, mi mang theo trong dòng nước trương nở và cuồn cuộn của mi, đất cát của hàng ngàn con suối và tất cả những gì chúng giật được, và đôi khi chúng giật đi một cây mềm, trên đó có một tổ chim, và mang nó đi trong những khuấy trộn, về vực thẳm chí tử của Biển Mặn. Mi đã không thương đôi chim vừa bay vừa kêu đau đớn, đi theo cái tổ của chúng bị sự tàn bạo phá hủy. Cũng vậy, ôi Giođan thánh, mi sẽ thấy dân tộc không muốn Đức Messi phải ra đi, bị giáng phạt bởi cơn giận của Thiên Chúa, bị giật ra khỏi nhà
565
cửa và bàn thờ để đi tới chỗ chết, để chết một cái chết ghê gớm hơn. Hỡi dân tôi! Hãy cứu lấy mình! Hãy tin vào Chúa ngươi! Hãy theo Đức Messi của Người! Hãy nhận biết Người về những gì Người là: không phải ông vua của các dân tộc và quân đội, mà là Vua các linh hồn, các linh hồn của ngươi, Vua của hết mọi linh hồn. Người đã xuống để tụ tập các linh hồn công chính, Người sẽ trở lên để dẫn họ về với Vương Quốc vĩnh cửu. Ôi qúi vị là những người còn có thể yêu, hãy sát lại gần Đấng Thánh! Ôi qúi vị là những người có trong con tim số phận của quê hương, hãy hợp nhất với Vị Cứu Tinh. Cầu cho dòng dõi Abraham không phải chết hoàn toàn. Hãy chạy trốn các tiên tri giả miệng lưỡi dối trá và con tim cướp bóc, muốn giật qúi vị ra khỏi phần rỗi. Hãy ra khỏi sự tối tăm đang vươn lên ở chung quanh qúi vị. Hãy nghe tiếng Thiên Chúa! Những kẻ mạnh mà hôm nay qúi vị sợ đã là cát bụi trong chiếu chỉ của Thiên Chúa. Chỉ có một Đấng Sống. Những nơi mà họ ngự trị và họ áp bức đã là sự đổ nát. Chỉ có một cái tồn tại. Ôi Jêrusalem! Các con cái Sion kiêu căng mà ngươi tự hào đâu rồi? Các rabbi, các thầy cả là những đồ trang điểm của ngươi mà ngươi chiều chuộng đâu rồi? Hãy nhìn họ: bị đè nặng, bị xiềng xích, họ ra đi tới nơi lưu đày, băng qua các lâu đài đổ nát của họ, và qua các thây kinh tởm của các kẻ đã chết vì gươm hay vì đói. Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa ở trên ngươi, ôi Jêrusalem, kẻ xua đuổi Đức Kitô của ngươi và đánh vào mặt, vào trái tim Người. Mọi vẻ đẹp đều bị phá hủy nơi ngươi, mọi hy vọng đều chết cho ngươi, Đền Thờ và bàn thờ bị tục hóa...
- Bảo mụ ta nín đi! Mụ ta phạm thượng! Bảo mụ ta câm, chúng tôi đã nói với ông.
-... Áo tế bị giật bỏ, nó không được dùng nữa...
- Ông có tội, nếu ông không bắt mụ ta nín!
-...bởi vì nó không trị vì nữa. Có một vị khác, vị Giáo Chủ đời đời, Người là Thánh, được Thiên Chúa sai đến, là Vua và Thầy Cả đời đời, bởi đấng đã nhận lấy những xúc phạm tới Đấng Kitô như xúc phạm tới chính Người, và Người thi hành sự báo thù. Một vị Giáo Chủ khác, thực sự, thánh, được xức dầu bởi Thiên Chúa và
566
bởi Hy Sinh của Người, thay thế cho những kẻ mà ngọc miện ở trên trán là sự ô nhục, vì nó che phủ những tư tưởng kinh khủng!...
- Câm đi! Khốn kiếp! Câm đi! nếu không, chúng tao đập mày! - và các luật sĩ lôi bà cách hung bạo, nhưng bà tựa như vô cảm.
Dân chúng phản đối mãnh liệt: “Để cho bà ta nói. Các ông đã nói biết bao. Bà ta nói sự thật. Như vậy đó, không còn sự thánh thiện trong đám các ông nữa. Chỉ có một vị là thánh mà các ông lại hành hạ Người”.
Các luật sĩ xét là nên thận trọng nín lặng, và người đàn bà tiếp tục bằng giọng nói mệt mỏi ai oán: “Người đã đến mang cho ngươi bình an mà ngươi gây chiến với Người... Mang phần rỗi, nhưng ngươi khinh bỉ... Mang tình yêu, nhưng ngươi thù ghét... Mang phép lạ, nhưng ngươi gọi Người là ma qủi... Tay Người đã chữa các bệnh nhân của ngươi, nhưng ngươi đã đâm thủng. Người mang ánh sáng cho ngươi, nhưng ngươi phủ mặt Người bằng đờm rãi và rác rến. Người mang Sự Sống cho ngươi, nhưng ngươi cho Người cái chết. Hỡi Israel, hãy khóc sự sai lầm của ngươi và đừng công kích Chúa khi ngươi đi tới nơi lưu đày, một cuộc lưu đày không có cùng như những lần xưa kia. Israel, ngươi sẽ đi rảo khắp trái đất, nhưng giống như một dân thua trận và bị nguyền rủa, bị theo đuổi bởi tiếng nói của Thiên Chúa, bởi cùng những lời đã được nói với Cain, và ngươi sẽ không thể trở về đây để tái xây dựng một tổ ấm vững chắc, cho tới khi ngươi nhận ra cùng với các dân tộc khác rằng Người là Giêsu, là Đức Kitô, là Chúa, Con của Chúa...” Giọng nói người đàn bà rã rời như đầy mệt mỏi, yếu như tiếng kẻ sắp chết.
Nhưng bà chưa nín, trái lại, bà hồi lực cho mệnh lệnh sau cùng: “Hỡi dân còn biết yêu! Hãy phục xuống đất, hãy rắc tro trên mình, hãy mặc áo nhặm. Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa treo trên chúng ta như đám mây mang đầy mưa đá và sấm chớp trên cánh đồng bị chúc dữ”.
Người đàn bà qùi gối, tay giơ về phía Giêsu và bà kêu: “Bình an! Bình an! Ôi Vua công chính và bình an! Bình an, ôi Adonai cao cả và mạnh mẽ, đấng mà chính Chúa Cha cũng không chống lại!
567
Xin hãy khẩn nài cho chúng con sự bình an, vì danh Ngài, ôi Giêsu, Vị Cứu Tinh và Đấng Messi, Chúa Cứu Thế và Vua, Thiên Chúa ba lần thánh!” Và bà gục xuống đất, phập phồng trong tiếng nấc, mặt dìm trong cỏ.
Các luật sĩ bao vây lấy Giêsu, kéo Người riêng ra và bảo mọi người tránh xa với những cái nhìn và những lời đe dọa, và một người trong đám họ nói: “Ít nhất, điều ông có thể làm là chữa cho bà ta. Vì nếu ông muốn nói thực tình là bà ta không có ma qủi, thì ông cũng không thể chối là bà ta bệnh. Các phụ nữ!... và một phụ nữ phải hy sinh vì số phận... sinh lực của họ đã chảy vào đâu đó... và họ huyên thuyên... họ nhìn thấy những điều không có thực... và nhất là các bà thấy ông, ông trẻ và đẹp, và...”
- Nín ngay! Miệng lưỡi rắn độc! Chính ông cũng không tin vào điều ông nói - Giêsu thốt lên với giọng hách dịch, làm cắt đứt lời trên môi tên luật sĩ gầy, mũi to mà lúc đầu đã nhạo báng người đàn bà là tiên tri giả.
- Đừng xúc phạm đến Thầy. Chúng ta đã chọn Người làm thẩm phán cho một trường hợp mà chúng ta không xét xử được - một luật sĩ khác nói. Đó là người đã đi gặp Giêsu trên đường với các người khác, và đã nói với Giêsu rằng không phải hết mọi luật sĩ đều chống đối Người, nhưng một số quan sát Người và cũng xét đoán với ý muốn chân thành để theo Người nếu họ luận xét thấy Người là Thiên Chúa.
- Nhưng nín đi Joel Alamot con Abia! Chỉ những kẻ đèo đẹt như anh mới có thể nói những lời này - những người khác nói với ông cách ác hiểm.
Người luật sĩ trở nên đỏ gay dưới lời nhục mạ, nhưng ông trấn tĩnh và trả lời cách nghiêm chỉnh: “Nếu thiên nhiên không có lợi cho con người của tôi, thì nó cũng không cắt cụt sự thông minh của tôi, trái lại, trong khi nó lấy đi của tôi nhiều thú vui, nó đã làm cho tôi nên người khôn ngoan. Và nếu các ông thánh, các ông đã không hạ nhục người này, nhưng các ông sẽ kính trọng kẻ khôn ngoan”.
- Rồi. Hãy nói về điều chúng ta bận tâm. Thầy có bổn phận phải
568
chữa cho bà ta, vì trong sự mê sảng, bà làm cho người ta sợ, và bà xúc phạm đến hàng giáo sĩ, các pharisiêu và chúng tôi.
- Nếu bà ta khen ngợi các ông, các ông có xin tôi chữa cho bà không? - Giêsu hỏi nhỏ nhẹ.
- Không, vì việc đó sẽ giúp cho người ta kính trọng chúng tôi. Cái dân hay chướng này, họ ghét chúng tôi trong lòng và khinh dể chúng tôi khi họ có thể - một luật sĩ trả lời mà không nhận ra là mình rơi vào bẫy.
- Nhưng đó vẫn còn là một chứng bệnh chứ? Tôi sẽ không có bổn phận phải chữa cho bà sao? - Giêsu lại hỏi nhỏ nhẹ. Người tựa như một học trò hỏi thầy giáo điều gì phải làm. Và các luật sĩ mù quáng vì kiêu căng, không hiểu là mình đang tự phản bội.
- Trong trường hợp này thì không. Trái lại, hãy để kệ bà ta. Hãy để cho bà yên hàn với sự mê sảng của bà. Hãy làm hết những gì có thể để người ta tin bà là nữ tiên tri. Hãy tôn kính bà! Hãy giới thiệu bà...
- Nhưng nếu đó là những điều không đúng?!...
- Ôi Thầy! Một khi lấy đi được những điều bà nói chống chúng tôi, thì các chuyện còn lại sẽ rất ích lợi để nâng cao sự hãnh diện của Israel chống lại Rôma và hạ thấp sự kiêu căng của dân chúng chống lại chúng tôi.
- Nhưng người ta không thể bảo bà: “hãy nói như vầy và đừng nói cái đó” - Giêsu nói cách quả quyết.
- Nhưng tại sao?
- Bởi vì người mê sảng thì nói mà đâu có biết mình nói gì.
- Ôi! Với tiền và mấy lời đe dọa... là người ta được hết. Người ta đã kiểm tra được cả các tiên tri...
- Thực sự tôi không hay biết điều đó...
- Hé! Là vì ông không biết đọc ở chỗ giữa các hàng chữ, và đâu phải tất cả đều được để lại bằng bản viết.
- Nhưng ôi luật sĩ, thần trí tiên tri đâu có biết những ảnh hưởng bên ngoài, nó đến từ Thiên Chúa, và Thiên Chúa không bị mua chuộc, và người ta không thể làm cho Người sợ - Giêsu nói trong khi đổi giọng. Đây là lúc bắt đầu việc phản công.
569
- Nhưng bà ta không phải tiên tri. Không còn là thời của các tiên tri nữa.
- Không còn là thời của các tiên tri nữa ư ? Nhưng tại sao?
- Bởi vì chúng ta không xứng đáng với họ. Chúng ta qúa hư hỏng.
- Thực sự sao? Chính ông nói vậy? Ông là người mà vừa lúc nãy đã xét là bà đáng phạt, vì bà đã nói cùng một điều đó?
Ông luật sĩ bị lạc hướng. Một ông khác đến cứu bồ: “Thời kỳ các tiên tri đã chấm dứt với Gioan... Các đấng không phục vụ nữa”.
- Vậy nhưng tại sao?
- Bởi vì ông đã ở đây để nói về lề luật và về Thiên Chúa.
- Ngay trong thời các tiên tri cũng đã có lề luật và các vị khôn ngoan để nói về Thiên Chúa, nhưng họ vẫn hiện hữu.
- Nhưng họ đã nói tiên tri về điều gì? Về việc ông đến. Bây giờ ông đã đến nên họ không phục vụ nữa.
- Một trăm và một trăm lần, tôi đã nghe các ông hỏi, các ông và các thầy cả, các pharisiêu, hỏi xem tôi là hay không là Đức Kitô, và vì tôi trả lời xác định nên tôi bị đối xử như kẻ phạm thượng và kẻ điên, và người ta đã lấy đá để ném tôi. Có phải ông là Sađốc, mệnh danh là luật sĩ vàng không? - Giêsu nói khi chỉ vào viên luật sĩ mũi to, kẻ đã ngược đãi người đàn bà sau khi đã cố đánh lừa bà.
- Đúng tôi đây. Thì sao?
- Vậy là ông, chính là ông, kẻ đầu tiên ở Giscala cũng như ở Đền Thờ, đã bắt đầu những hung dữ chống đối tôi. Nhưng tôi, tôi tha cho ông. Tôi chỉ nhắc lại rằng ông đã làm vậy khi ông nói rằng tôi không thể nào là Đức Kitô. Vậy mà bây giờ ông lại chủ trương ngược lại. Tôi cũng nhắc lại cho ông sự thách đố mà ông đã thách tôi ở Cédès. Kể từ nay, chỉ ít lâu nữa, ông sẽ thấy nó hoàn thành một phần. Khi mặt trăng trở lại lộ trình của nó, bây giờ nó đang sáng láng trong bầu trời, tôi sẽ cho ông cái bằng cớ thứ nhất, còn cái kia, ông sẽ có khi các hạt, bây giờ còn đang ngủ trong đất, sẽ rung rinh những bông còn xanh của nó trong gió của tháng Nisan. Còn với những kẻ nói rằng các tiên tri là vô ích thì tôi trả lời: “Ai có
570
thể đặt giới hạn cho Chúa Tối Cao?” Thực vậy, thực vậy, tôi bảo các ông rằng sẽ luôn luôn có các tiên tri bao lâu còn có con người. Đó là những ngọn đuốc ở giữa những tối tăm của thế giới. Đó là những lò lửa ở giữa thế giới giá băng. Đó là tiếng kèn đánh thức kẻ ngủ say. Đó là tiếng nói nhắc nhớ tới Thiên Chúa và các chân lý của Người bị rơi vào quên lãng và ơ hờ bởi thời gian, và mang tới cho con người những lời trực tiếp của Thiên Chúa, bằng cách gây ra những lao xao xúc động nơi những kẻ quên, nơi những đứa con hờ hững của loài người. Nó sẽ có những tên khác, nhưng có cùng một sứ mệnh và cùng một số phận đau thương về nhân loại, và niềm vui về siêu nhân loại. Khốn thay nếu không có những linh hồn này, những kẻ mà thế gian ghét và Thiên Chúa yêu siêu vời! Khốn thay nếu không có họ để chịu đựng và tha thứ, yêu và làm việc trong sự vâng lời Chúa! Nếu không có họ, thế giới sẽ chết giữa những tối tăm, giá lạnh, giữa cơn hôn mê chí tử, giữa sự đần độn ngu muội hoang dại và dốt nát. Chính vì vậy mà Thiên Chúa khích động họ, và sẽ luôn luôn có họ. Ai có thể áp đặt Thiên Chúa để Người không làm như vậy? Ông, Sađốc? Hay ông? Hay ông? Thực sự, tôi bảo các ông rằng các thần trí của Abraham, của Jacob, của Môise, của Êlia, của Êlisê đã không thể đặt cho Thiên Chúa những giới hạn, và chỉ mình Thiên Chúa biết họ thánh tới mức nào, và họ là những ánh sáng đời đời thế nào.
- Vậy ông không muốn chữa người đàn bà, cũng không muốn kết án bà?
- Không.
- Và ông cho bà là tiên tri?
- Được linh ứng. Đúng.
- Ông là thằng qủi giống như bà ta. Chúng ta đi. Không nên mất
thời giờ thêm với những tên qủi này - Sađốc nói, và ông đẩy Chúa Kitô ra như đồ vô lại để Người tránh ra.
Một số lớn đi theo ông, một số ở lại, trong đám họ có ông mà họ gọi là Joel Alamot.
- Còn qúi vị không theo họ sao? - Giêsu hỏi khi chỉ vào đám
571
người ra đi.
- Thưa Thầy không. Chúng con sắp đi vì đêm đến rồi. Nhưng chúng con muốn nói với Thầy là chúng con tin ở sự xét đoán của Thầy. Thiên Chúa có thể tất cả, đúng vậy. Và đối với chúng con là những kẻ đã sa ngã vào nhiều lỗi lầm, Người có thể kích thích các thần trí để họ nhắc nhở chúng con về với công chính - một người rất già trong đám họ nói.
- Ông nói đúng. Và sự khiêm nhường mà ông bày tỏ có giá trị trước mặt Thiên Chúa hơn sự hiểu biết của ông.
- Vậy xin Thầy nhớ tới con khi Thầy sẽ ở trong nước của Thầy.
- Ừ, Jacob.
- Làm sao Thầy biết tên con?
Giêsu mỉm cười, không trả lời.
- Thầy ơi, xin cũng nhớ đến con nữa - ba người khác nói, và sau cùng là Joel Alamot, ông cũng nói: “Và chúng ta hãy chúc tụng Chúa vì đã ban cho chúng ta giờ này”.
- Chúng ta hãy chúc tụng Chúa - Giêsu trả lời.
Họ chào nhau và chia tay.
- Giêsu tụ họp lại với các tông đồ của Người, và cùng với họ, Người tới gần người đàn bà. Bà ta còn giữ vị trí như lúc đầu: ngồi cuộn tròn trên cái rễ cây trồi lên.
Cha và mẹ bà ta lo lắng hỏi Thầy: “Đó là thằng qủi, con gái chúng con? Họ đã nói vậy trước khi đi”.
- Không, bà không phải vậy. Hãy bình an và hãy yêu bà, vì số phận của bà rất đau đớn, cũng như số phận của tất cả những người giống như bà.
- Nhưng họ nói rằng Thầy đã xét đoán...
- Họ nói dối. Thầy, Thầy không nói dối. Hãy bình an.
Gioan Êphêsô tiến lên cùng với Salômôn và các môn đệ khác: “Thưa Thầy, con xin thưa Thầy là Sađốc đã dọa nạt họ”.
- Dọa nạt họ hay bà ta?
- Họ và bà ta. Có phải không ông bà?
- Vâng. Họ đã nói với chúng con, với mẹ nó và với con, rằng nếu
572
chúng con không biết làm cho con gái chúng con ngậm miệng thì khốn cho chúng con. Còn với Sabêa thì họ nói: “Nếu mày nói, chúng tao sẽ tố cáo mày với Đại Pháp Đình”. Chúng con tiên đoán những ngày xấu cho chúng con! Nhưng trong lòng chúng con bình an vì điều Thầy đã nói với chúng con... Và chúng con sẽ chịu đựng những gì còn lại. Nhưng với cô ấy, chúng con phải làm gì? Xin Thầy chỉ dẫn cho chúng con.
Giêsu suy nghĩ, rồi hỏi: “Các con không có bà con nào ở xa Betlechi sao?”
- Thưa Thầy không.
Giêsu suy nghĩ, rồi ngửa mặt lên nhìn Giuse, Gioan Êphêsô và Philíp Arbêla. Người ra lệnh: “Các con hãy hành trình cùng với họ, rồi từ Bétlechi, cùng với bà và nhóm của bà, các con sẽ đi Aera. Các con hãy bảo bà mẹ của Timon giữ bà nhân danh Thầy. Bà biết thế nào là có một đứa con bị bách hại”.
- Thưa Chúa, chúng con sẽ làm. Đó là quyết định tốt. Aera xa xôi và ngoài tầm với của họ - ba ông nói.
Người cha và người mẹ của Sabêa hôn tay của Thầy, cám ơn Người và chúc phúc cho Người.
Giêsu nghiêng xuống trên người đàn bà, đụng vào đầu tóc phủ khăn của bà và se sẽ gọi: “Sabêa, hãy nghe Thầy đây!”
Người đàn bà ngước mắt lên nhìn Người rồi qùi lên. Giêsu để một tay trên đầu bà và nói: “Nghe đây, Sabêa. Con sẽ đi tới nơi Thầy gởi con đến, ở bên một người mẹ. Thầy muốn gởi con đến bên mẹ Thầy, nhưng Thầy không thể. Hãy tiếp tục phụng sự Chúa trong sự công chính và vâng lời. Thầy chúc lành cho con. Hãy đi bình an”.
- Vâng, lạy Chúa con và Thiên Chúa con. Nhưng khi con phải nói, con có thể không?
- Thần trí yêu con sẽ hướng dẫn con tùy lúc. Đừng nghi ngờ về tình yêu của Người. Hãy khiêm nhường, trong trắng, đơn sơ và chân thành, và Người sẽ không bỏ con. Hãy đi bình an.
Người lại đến với các tông đồ và Zakê cùng với các người của
573
ông, họ dừng lại ở xa vài mét, cũng là để giữ sự tò mò của các người khác.
- Chúng ta đi, đêm rồi. Thầy không biết những người phải về Jêricô, các con làm cách nào để trở về đó.
- Cần hơn là phải lo cho người đàn bà và cha mẹ bà. Nếu Thầy cho là tốt thì chúng con sẽ ở bên ngoài nhà, còn Thầy và họ thì có thể ngủ ở trong đó tới sáng - một trong các bạn của Zakê đề nghị. - Ý kiến hay. Hãy tới bảo Sabêa đến cùng với các người của bà và các môn đệ. Họ sẽ ngủ ở đó. Thầy sẽ ở với các con. Đây không phải là đêm có gió. Chúng ta sẽ đốt lửa và chúng ta sẽ chờ rạng đông như vậy. Thầy sẽ giáo huấn các con và các con sẽ nghe Thầy.
Rồi nhẩn nha, họ lên đường dưới tia sáng trăng đầu tiên.
223* TẠI BÉTABARA
- Bình an cho Thầy - đó là lời chào của các môn đệ mục đồng đã đi trước ít ngày để chờ Người ở bên kia khúc sông cạn cùng với các bệnh nhân mà họ đã tụ tập, và những người khác muốn nghe Thầy.
- Bình an cho các con. Các con chờ Thầy lâu chưa?
- Ba ngày.
- Thầy đã bị giữ lại trên đường. Chúng ta hãy đến với các bệnh nhân.
- Chúng con đã dựng lều cho họ trú để khỏi phải đi đi lại lại ở các làng bên cạnh. Các bạn mục đồng của chúng con đã cho họ sữa. Bây giờ họ đang ở đây cùng với bầy súc vật của họ để chờ Thầy - các môn đệ nói khi dẫn Giêsu đi dưới những bụi rậm có thể dùng làm mái nhà cho những ai trú ở đó.
Ở chỗ đó có khoảng hai mươi cái lều nhỏ được dựng ở trên các cọc, hoặc từ thân cây này qua thân cây kia, trong lều là đám dân nhỏ buồn của các bệnh nhân đang chờ. Ngay khi họ hiểu được vị đang đến là ai, họ liền thốt ra tiếng kêu thông thường: “Giêsu, con vua Đavít, xin thương chúng con”.
Giêsu không muốn để họ chờ lâu, Người xuất đầu lộ diện, đúng hơn là Người cúi vào hết lều nọ tới lều kia, vì thân mình cao lớn
574
của Người không cho phép Người đứng thẳng trong lều. Người để vào trong mỗi lều khuôn mặt và nụ cười của Người, chúng cũng đã là ân phúc. Mặt trời ở đàng sau Người chiếu bóng của Người trên các chõng và trên các khuôn mặt hốc hác, hay các chi thể trơ trơ. Người chỉ nói một câu vắn: “Bình an cho các con biết tin”, rồi Người qua lều khác.
Và một tiếng kêu theo sau Người, một tiếng kêu lặp đi lặp lại cũng như câu nói của Người lặp đi lặp lại. Tiếng kêu lặp lại tại lều Người rời khỏi giống như tiếng vang của lời ở trong lều Người đã rời khỏi trước: “Tôi được khỏi. Vạn tuế con vua Đavít”. Và đám nhỏ dân bệnh nhân lúc đầu nằm trong những chiếc lều tối, ra khỏi lều và tụ họp sau bước chân Thầy, một dân nhỏ sống ngày lễ, vứt bỏ gậy, nạng, gói trong những tấm mền trên những chiếc băng ca bị bỏ rơi, tháo ra các vải băng bây giờ thành vô ích, và nhất là nhảy mừng trong niềm vui được lành bệnh.
Bây giờ tất cả đã được chữa. Giêsu quay lại với nụ cười êm dịu nhất và nói: “Chúa đã thưởng cho đức tin của các con. Chúng ta hãy cùng nhau chúc tụng lòng nhân từ Người”. Và Người xướng thánh vịnh: “Toàn thể trái đất, hãy hân hoan tung hô Chúa. Hãy phụng sự Chúa với lòng hoan hỉ. Hãy đến trước nhan Người với lòng mừng rỡ. Hãy biết rằng Chúa là Thiên Chúa, và Người đã dựng nên chúng ta...”
Người ta hát theo Người như họ có thể. Một số có lẽ không phải Israel, theo dõi tiếng hát bằng cách đọc nho nhỏ, nhưng con tim của họ hát, và ánh sáng trên khuôn mặt họ bộc lộ điều đó. Chắc chắn Thiên Chúa đón nhận những tiếng rung động tội nghiệp này hơn là tiếng ca hay và khô cằn của mấy pharisiêu.
Mathia nói với Giêsu: “Ôi Chúa ơi, khi nói với những người đang chờ lời Thầy, xin Thầy nhắc tới Gioan của chúng ta”.
- Thầy đã nghĩ đến làm việc đó, vì nơi này mang đến cho Thầy diện mạo còn rất sống động của vị Tẩy Giả - người ta bao quanh Người, Người trèo lên một mô đất cao có phủ một lớp cỏ mỏng và Người bắt đầu nói:
575
- Các con tìm gì ở nơi đây? Sức khỏe phần xác, ôi các bệnh nhân, và các con đã được; lời của Tin Mừng, và các con đã tìm thấy. Nhưng sức khỏe phần xác phải là sự chuẩn bị cho việc tìm kiếm sức khỏe của tâm hồn, cũng như Lời của Tin Mừng phải là sự chuẩn bị cho ý muốn nên công chính của các con. Khốn thay, nếu sức khỏe phần xác chỉ giới hạn ở niềm vui cho máu thịt, còn những gì thuộc về linh hồn thì vẫn trơ trơ!
Các con đã ca tụng Chúa, đấng đã cho các con ơn lành về sức khỏe. Nhưng một khi giờ phút hoan hỉ qua đi thì đừng chấm dứt chứng tỏ lòng các con biết ơn Chúa, và bộc lộ nó ra trong ý muốn yêu Người cách chân thành.
Mọi ân huệ của Chúa sẽ là không, dù nó chứa đầy sức mạnh linh động, nếu người ta không có ý muốn làm việc đền bù bằng cách dâng hiến chính tâm hồn mình cho Thiên Chúa.
Nơi đây đã nghe sự thuyết giáo của Gioan. Chắc chắn nhiều người trong các con đã nghe ông. Biết bao người trong Israel đã nghe ông, nhưng nó không sinh ra cùng một kết qủa trong mọi người, mặc dầu ông Tẩy Giả đã nói với mọi người cùng một lời. Tại sao lại có nhiều khác nhau như vậy? Nó bởi đâu? Bởi ý muốn khác nhau của người ta khi nhận các lời này. Đối với một số người, nó thực sự là những lời sửa soạn cho Thầy, và bởi vậy, cho sự thánh thiện của họ. Với một số khác thì trái lại, nó chuẩn bị chống lại Thầy, và bởi vậy, chuẩn bị cho sự bất công của họ. Giống như tiếng kêu của người lính gác, nó vang lên, và đạo quân các linh hồn phân chia, mặc dầu chỉ có một tiếng kêu duy nhất. Một phần trong số họ sửa soạn đi theo thủ lãnh của họ, một phần khác thì đã võ trang và nghiên cứu phương án để chiến đấu với ông: Thầy và những kẻ theo Thầy. Bởi thế Israel sẽ thua trận, vì một nước mà nội bộ chia rẽ thì không thể mạnh, và ngoại quốc sẽ lợi dụng để xâm lăng nó.
Cũng giống vậy trong mỗi tâm hồn. Nơi mỗi người đều có những sức mạnh tốt và những sức mạnh không tốt. Sự khôn ngoan nói với mọi người, nhưng ít người biết làm cho phần tốt thành phần duy nhất ngự trị. Về ý muốn lựa chọn một phần duy nhất và bầu nó làm
576
vua thì các con cái đời này có nhiều khả năng. Họ biết hoàn toàn xấu khi họ muốn, và họ vất bỏ đi như một chiếc áo vô ích, những phần tốt còn có thể kháng cự ở trong họ.
Trái lại, những người không thuộc về đời này, là những kẻ được đẩy tới ánh sáng, họ chỉ biết bắt chước các con cái đời này cách khó khăn để dục bỏ đi xa họ những y phục mà họ khước từ, là những phần xấu còn cố gắng kháng cự ở trong họ. Thầy đã nói rằng nếu một con mắt gây dịp tội thì phải móc nó đi, nếu một bàn tay gây dịp tội thì phải chặt đi, vì thà rằng bị cắt cụt mà vào ánh sáng đời đời, còn hơn là vào nơi tối tăm đời đời với hai mắt và hai tay.
Ông Tẩy Giả là một người của thời chúng ta. Nhiều người trong các con đã biết ông. Hãy bắt chước gương anh hùng của ông. Vì tình yêu Chúa và vì linh hồn ông, ông đã dục bỏ rất nhiều hơn một con mắt và một bàn tay, tức là bỏ chính sự sống ông để trung thành với công chính. Nhiều người trong các con đã là môn đệ ông, và họ vẫn còn nói rằng họ yêu ông. Nhưng các con hãy nhớ rằng tình yêu đối với Thiên Chúa và với các vị thầy, những người dẫn dắt tới Thiên Chúa, tỏ lộ ra bằng cách làm những gì họ dạy, bằng cách bắt chước những công việc chính đáng của họ, và bằng cách yêu Thiên Chúa hết mình, tới độ anh hùng. Và đây, trong khi hành động như vậy, các ơn huệ về sức khỏe và về khôn ngoan mà Thiên Chúa đã ban sẽ không bị vô hiệu và không trở nên án phạt, trái lại, nó là cái thang để lên nơi ở của Cha Thầy và Cha các con, Đấng đang chờ chúng ta trong Nước Người.
Vì lợi ích của các con, hãy làm cho hy sinh của ông Tẩy Giả: suốt đời hy sinh và kết thúc bằng việc tử đạo, và hy sinh của Thầy: suốt đời hy sinh và kết thúc bằng việc tử đạo một trăm và một trăm lần lớn hơn sự tử đạo của vị Tiền Hô của Thầy, không bị vô hiệu qủa cho các con.
Hãy công chính, hãy có đức tin, hãy tuân theo các lời của Trời. Hãy canh tân trong lề luật mới. Chớ gì Tin Mừng thực sự là tốt cho các con, bằng cách làm cho các con nên tốt và xứng đáng hưởng Lòng Tốt, tức là Chúa Tối Cao trong ngày muôn thuở. Hãy biết
577
phân biệt các mục tử thật và mục tử giả, và hãy theo những vị nào cho các con những lời của Sự Sống mà họ đã học được nơi Thầy.
Sắp tới lễ Ánh Sáng và lễ cung hiến Đền Thờ. Các con hãy nhớ rằng đèn đuốc nhiều để mừng lễ của Chúa sẽ chẳng là gì, nếu tâm hồn các con vẫn không có ánh sáng. Ánh Sáng là đức Ái, là ước muốn của ý chí ước ao yêu Chúa bằng những việc tốt. Hãy nhớ rằng việc cung hiến Đền Thờ là việc tốt, nhưng sẽ rất lớn hơn, tốt hơn, đẹp ý Chúa hơn, là việc dâng hiến tâm hồn mình cho Chúa, và tái thánh hiến nó bằng tình yêu. Tâm hồn công chính trong thể xác công chính, vì thể xác giống như các bức tường bao quanh bàn thờ, và tâm hồn là bàn thờ mà trên đó, vinh quang của Thiên Chúa ngự xuống. Thiên Chúa không thể xuống trên các bàn thờ bị tục hóa bởi các tội riêng, hoặc bởi tiếp xúc với các xác thịt bị cắn bởi tình dục hay các tư tưởng xấu.
Hãy tốt. Sự khó khăn để tốt trong những thử thách liên tục của đời sống sẽ được đền bù vượt mức bởi phần thưởng tương lai, và ngay từ đời này, bởi sự bình an yên ủi kẻ công chính ở cuối mỗi ngày của họ, khi họ nằm để nghỉ ngơi và thấy chiếc gối của họ loại trừ mọi hối hận, mọi ác mộng của những kẻ muốn những thú vui bất hợp pháp chỉ làm cho mình xao xuyến, không bình an.
Đừng thèm khát của cải, đừng ghét ai cả, đừng ước ao những thứ các con nhìn thấy nơi người khác. Hãy bằng lòng với hoàn cảnh của các con bằng cách nghĩ đến làm theo ý Thiên Chúa trong mọi sự. Đó là cái chìa khóa để mở cửa của Jêrusalem đời đời.
Thầy từ biệt các con. Rất nhiều người trong các con sẽ không gặp Thầy nữa, vì Thầy sắp đi dọn chỗ cho các môn đệ Thầy... Thầy chúc lành đặc biệt cho con cái các con, các bà vợ của các con mà Thầy sẽ không gặp nữa. Và các con, nam giới... Phải, Thầy muốn chúc lành cho các con... Phúc lành của Thầy sẽ giúp những người mạnh nhất không bị ngã, và nâng dậy những kẻ yếu hơn. Chỉ có những kẻ phản bội Thầy bằng cách ghét Thầy, thì phúc lành của Thầy mới không có giá trị.
Người chúc lành cho mọi người đồng loạt. Rồi Người chúc lành cho các bà và ôm hôn các đứa trẻ. Rồi từ từ, Người trở lại khúc
578
sông cạn với năm tông đồ còn lại với Người và các môn đệ là mục đồng trước kia.
224* TRÊN ĐƯỜNG TRỞ LẠI NOBÊ
Họ đã ở trên sườn núi Oliu và ba cặp tông đồ được để lại ở Jêricô, Têcua và Bêtani đã họp mặt trở lại với Thầy. Nhưng Judas Kêriot vẫn vắng mặt và các tông đồ nói nhỏ với nhau về sự kiện đó.
Giêsu có vẻ buồn vô hạn. Các tông đồ nhận ra và họ nói với nhau: “Chắc tại vì Lazarô. Thực sự đó là người tận số... Và các cô em, thấy mà thương... Cả đến Thầy không thể dừng lại trong nhà đó, mặc dù bao là oán ghét theo đuổi Người. Nếu được thì sẽ là điều an ủi cho người bệnh, cho hai cô em và cho cả Thầy”.
- Tôi, tôi không thể hiểu được tại sao Người không chữa cho ông - Tôma kêu lên.
- Cả đến điều đó là chính đáng: một bạn thân... đã giúp Người biết bao... một người công chính... - Batôlômêo rì rầm.
- A! Về sự công chính thì thực sự là công chính. Tôi tin là trong những ngày này anh đã nhìn nhận... - Zêlote nói với Batôlômêo.
- Phải, đúng vậy. Và điều anh ám chỉ cũng đúng nữa. Nhưng tôi không hoàn toàn nhìn nhận sự công chính của ông ta... Với những liên lạc của ông ta với dân ngoại, với nền giáo dục mà ông đã nhận từ cha ông là người rất, rất... tôi nói là ưa thích một lối sống mới khác hẳn với chúng ta...
- Bà mẹ là một thiên thần - Simon Zêlote nói cách qủa quyết.
- Có lẽ vì vậy mà họ là những người công chính... Chúng ta hãy bỏ qua qúa khứ của Maria. Bây giờ cô ta đã chuộc tội... - Philíp nói.
- Đúng. Nhưng tất cả những điều đó làm tôi nghi ngờ. Bây giờ tôi thực sự nhìn nhận và tôi ngạc nhiên là Thầy...
- Ông em tôi - Giacôbê Alphê nói. “biết ước định giá trị của mọi
579
người. Chúng tôi cũng đã khổ vì vậy trong một thời gian dài, bởi một sự ghen tị tự nhiên của con người, khi thấy rằng những người lạ được nhận lời nhiều hơn chúng tôi là những người trong gia đình. Nhưng bây giờ chúng tôi đã hiểu rằng tư tưởng của chúng tôi là sai lầm, và tư tưởng của Người là chính đáng. Chúng tôi đã cho cách đối xử của Người như là sự dửng dưng, và cả đến như làm mất giá và không hiểu gía trị của chúng tôi. Bây giờ thì đã hiểu: Người muốn lôi kéo về với Người những kẻ xấu xí, dị dạng. Người... bằng những phương tiện vô biên, Người lôi kéo các linh hồn bần tiện nhất, lạc xa nhất, ở trong tình trạng nguy hiểm nhất... Các anh có nhớ dụ ngôn con chiên lạc không? Thực sự, cái chìa khóa của lối hành động của Người nó ở trong dụ ngôn này. Khi Người thấy các con chiên trung thành theo Người, ở lại nơi Người muốn cho chúng, thì tâm hồn Người nghỉ ngơi. Nhưng người dùng sự nghỉ ngơi này để chạy theo các kẻ lạc. Người biết rằng chúng ta yêu Người, rằng Lazarô và các em ông yêu Người, rằng các nữ môn đệ yêu Người, và các người chăn chiên cũng vậy, nên Người không mất thời giờ với chúng ta trong những bằng chứng của tình yêu. Người không ngừng yêu chúng ta, chúng ta luôn luôn ở trong qủa tim Người, kể cả chúng ta vào đó và chúng ta không muốn ra nữa. Nhưng những người khác, những tội nhân... các con chiên lạc!... Người phải chạy theo, lôi kéo họ bằng tình yêu của Người, các phép lạ của Người, sức mạnh của Người. Người làm như vậy nhưng Lazarô, Maria và Matta tiếp tục yêu Người, dù không có phép lạ”.
- Đúng vậy - Andrê nói. “Nhưng Người muốn nói gì bằng lời chào sau cùng của Người? Các anh đã nghe đó: “Tình yêu của Chúa đối với các con bộc lộ tương xứng với tình yêu của các con. Và các con hãy nhớ rằng tình yêu có hai cánh để nên trọn hảo, hai cánh càng to thì nó càng trọn hảo, đó là đức tin và đức cậy”.
- Đúng, Người muốn nói gì vậy? - nhiều người hỏi.
Một yên lặng. Rồi Tôma, với cái thở dài thật sâu, kết luận bài thuyết trình nội tâm của ông: “...Nhưng không phải luôn luôn sự kiên nhẫn của Người đạt được sự cứu chuộc. Tôi cũng vậy, đôi khi
580
tôi cũng phải chịu đựng vì sự ưu ái Người tỏ ra với Judas Kêriot...”
- Ưu ái à? Tôi thấy không phải vậy. Người xử với ông như với mọi người khác trong chúng ta... - Andrê nói.
- Bởi công bình thì đúng. Nhưng coi, người đó đáng phải chịu sự nghiêm khắc hơn biết bao...
- Đúng thế.
- Vậy nên đôi khi tôi cũng phải cam chịu. Nhưng bây giờ tôi hiểu rằng Người làm vậy bởi vì... đó là kẻ dị dạng nhất trong chúng ta.
- Tôma, anh phải nói là đáng thương nhất - Thađê nói. “Kẻ đáng thương nhất. Các anh nghĩ rằng nỗi buồn này đến với Người (và ông chỉ vào Giêsu đang đi ở phía trước, một mình, trầm tư trong đau khổ) tại vì cơn bệnh của Lazarô hay nước mắt của các em ông sao? Tôi, tôi nói với các anh rằng nó đến do sự vắng mặt của Judas. Người đã hy vọng ông ta sẽ đến khi Người đi về Bêtabara. Người hy vọng ít nhất là gặp ông ở Jêricô, Têcua hay ở Bêtani vào lúc trở về. Bây giờ Người không hy vọng nữa. Người đã chắc chắn Judas hành động xấu. Tôi đã không ngừng quan sát Người... Và tôi thấy khuôn mặt Người có vẻ buông xuôi tuyệt đối khi anh, Batôlômêo, anh nói: ‘Judas không đến’”.
- Nhưng Người biết các sự trước khi nó tới. Tôi chắc chắn vậy - Gioan kêu lên.
- Rất nhiều, nhưng không phải tất cả. Tôi nghĩ rằng vì tình thương, Chúa Cha cũng còn giấu Người một ít điều - Zêlote nói.
Nhóm mười một chia làm hai phe: những người công nhận giả thuyết này và những người công nhận giả thuyết kia, và mỗi người đem ra lý do để biện hộ cho giả thuyết của mình.
Gioan kêu lên: “Ôi, tôi, tôi không muốn nghe nhóm này cũng như nhóm kia, cũng không nghe kể cả chính mình tôi. Tất cả chúng ta đều là những con người tội nghiệp, và chúng ta không thể thấy cách đích xác. Tôi đi tìm Thầy để hỏi Người”.
- Đừng. Có thể Người đang nghĩ về chuyện khác, và với câu hỏi này, Người nghĩ tới Judas, và Người sẽ khổ hơn - Andrê nói.
- Nhưng không. Chắc chắn là tôi không nói với Người rằng chúng ta nói về Judas. Tôi sẽ nói với Người như vầy, không bóng gió.
581
- Đi đi! Đi đi! - Phêrô nói khi đẩy Gioan. “Như vậy sẽ làm Người giải khuây. Các anh không thấy Người khổ chừng nào sao?”
- Tôi đi. Ai đi với tôi?
- Đi đi! Đi một mình đi. Với cậu thì Người nói không e dè. Rồi cậu nói lại cho chúng tôi...
Gioan đi.
- Thưa Thầy!
- Gioan, con muốn gì? - và Giêsu, với nụ cười tươi trên mặt, giơ tay ôm eo kẻ ưu ái của Người, và giữ ông sát gần Người suốt trong khi bước:
- Chúng con nói chuyện với nhau và chúng con có sự nghi ngờ về một điều. Điều này: Thầy biết tất cả tương lai hay Thầy bị giấu một phần? Người thì nói thế này, người thì nói thế kia.
- Còn con, con nói thế nào?
- Con nói rằng tốt hơn là đi hỏi Thầy.
- Và vì thế nên con tới. Con làm đúng. Điều đó ít nhất là giúp cho chúng ta, tức là cho con và Thầy, hưởng một lúc của tình yêu... Từ nay trở đi sẽ rất hiếm có được một chút bình an!...
- Thực thế, thời gian đầu nó đẹp chừng nào!...
- Đối với chúng ta là loài người thì đúng, nó đẹp hơn. Nhưng đối với thần trí ở trong chúng ta thì thời gian này là tốt hơn, bởi vì bây giờ Lời Thiên Chúa đã được biết, và bởi vì chúng ta chịu khổ nhiều hơn. Người ta càng đau khổ thì càng cứu chuộc, Gioan ạ... Cũng vậy, trong khi nhớ lại thời kỳ thanh quang, chúng ta phải yêu những kẻ làm cho chúng ta đau khổ, vì cùng với các đau khổ, họ cho chúng ta các linh hồn. Nhưng Thầy trả lời cho câu hỏi của con. Con nghe đây: Thầy biết như Thiên Chúa, và Thầy biết như loài người. Thầy biết những biến cố của tương lai, vì Thầy ở với Chúa Cha từ trước thời gian, và Thầy thấy ở bên ngoài thời gian. Còn như một người không có những bất toàn và những giới hạn do tội nguyên tổ và tội riêng, Thầy được ơn quan sát nội tâm của các tâm hồn. Ơn này không phải chỉ có nơi Đức Kitô, nhưng cũng có, với nhiều mức độ khác nhau, nơi những kẻ đã đạt được sự thánh thiện và được kết
582
hợp với Thiên Chúa tới nỗi họ có thể nói rằng họ không không hành động bởi chính họ, nhưng bởi Đấng Trọn Lành ở trong họ. Vậy Thầy có thể trả lời cho con rằng Thầy biết các thế kỷ về tương lai như Thiên Chúa, và như một người công chính, Thầy biết tình trạng của các tâm hồn.
Gioan nín lặng suy nghĩ. Giêsu để yên cho ông một lát, rồi Người nói: “Ví dụ Thầy thấy ở trong con tư tưởng này: ‘Vậy là Thầy của con biết đích xác tình trạng của Judas Kêriot!’”
- Ôi! Thầy!
- Đúng. Thầy biết nó. Thầy biết ông ta và Thầy tiếp tục là Thầy của ông ta, và Thầy muốn các con tiếp tục là anh em với ông.
- Thầy rất thánh!... Nhưng thực tình Thầy luôn luôn biết tất cả sao? Đôi khi chúng con nói là điều đó không đúng, vì Thầy đi vào những nơi có các kẻ thù của Thầy. Trước khi đến đó, Thầy biết rằng Thầy sẽ gặp họ ở đó, và Thầy tới đó để chiến đấu với họ bằng tình yêu của Thầy, để thuyết phục họ cho tình yêu, hay là... Thầy không biết, và Thầy chỉ thấy các kẻ thù khi họ ở trước mặt Thầy, và Thầy đọc các con tim của họ? Có lần Thầy đã bảo con - lúc đó Thầy cũng rất buồn, và luôn luôn vì cùng một lý do - rằng Thầy giống như kẻ không nhìn thấy.
- Thầy cũng có sự tử đạo này của loài người: bổn phận phải tiến, không nhìn thấy, chỉ phó thác hoàn toàn cho Đấng Quan Phòng. Thầy phải biết hết những gì về con người, ngoại trừ phạm tội. Và điều đó không phải là hậu qủa của một hàng rào mà Cha Thầy đặt để cản xác thịt, thế gian và ma qủi, nhưng là bởi ý muốn loài người của Thầy. Thầy giống như các con, nhưng Thầy biết muốn hơn các con. Thầy cũng chịu đựng những cám dỗ, nhưng Thầy không nhượng bộ cám dỗ, và chính vì vậy Thầy có công nghiệp, cũng như các con.
- Những cám dỗ, Thầy!... Con thấy điều đó như không thể được...
- Con chịu cám dỗ ít, bởi vì con trong sạch, vì thế con nghĩ rằng Thầy trong sạch hơn con nên Thầy không bị cám dỗ. Đối với các cám dỗ của xác thịt thì vì sự trong trắng của Thầy, nó rất yếu tới nỗi nó không bao giờ cảm xúc vào cái tôi của Thầy. Nó giống như một cánh hoa đập vào tảng đá hoa cương, nó không làm rạn nứt tảng đá
583
được, rồi nó dội lại, bắn ra xa hơn... Chính ma qủi cũng phóng vào Thầy cái lao này. Nhưng Gioan, con không biết rằng còn bao nhiêu thứ cám dỗ khác nó vây quanh Thầy.
- Thầy? Thầy không ham của cải, cũng không ham danh dự. Vậy là cái gì?
- Vậy con không nghĩ rằng Thầy cũng có một sự sống, những tình cảm, và cả những bổn phận đối với mẹ Thầy, và những điều này kích thích Thầy chạy trốn nguy hiểm? Nó, Con Rắn, ta gọi nó là nguy hiểm, nhưng tên thực của nó là Hy Sinh. Và con không nghĩ rằng Thầy cũng có những tình cảm? Cái tôi tinh thần nó không vắng bóng ở trong Thầy, và nó khổ vì những xúc phạm, khinh dể, tráo trở. Ôi! Gioan của Thầy! Con không tự hỏi Thầy cảm thấy ghê tởm chừng nào với sự dối trá và kẻ dối trá? Con biết không? Bao nhiêu lần ma qủi xúi dục Thầy phản ứng vì những điều này là những cái làm Thầy đau đớn, nó cám dỗ để làm cho Thầy hết nhân từ, để làm cho Thầy cay nghiệt và ngoan cố? Và sau cùng, con không nghĩ rằng biết bao lần nó đã thổi cái hơi thở nóng bỏng kiêu căng của nó để nói: “Hãy làm vinh danh cho mình bằng điều nọ điều kia. Ông cao cả, thế giới cảm phục ông, các yếu tố vâng lời ông!” Cái cám dỗ tự hào vì là thánh! Thứ cám dỗ tinh vi nhất! Bao nhiêu thánh thiện đã tạo được, rồi bị mất vì cái kiêu căng này! Satan đã làm hư hỏng Ađam thế nào? Bằng cách cám dỗ giác quan, tư tưởng, thần trí. Và Thầy chẳng phải là người phải tái tạo lại nhân loại sao? Chính từ Thầy mà nhân loại mới sẽ tới. Và đây, Satan tìm cũng những con đường này để phá hủy giòng giống các con cái Thiên Chúa mãi mãi. Bây giờ hãy đến với các bạn con và nhắc lại cho họ các lời Thầy. Và đừng tự hỏi Thầy biết hay không biết những điều Judas làm. Hãy nghĩ rằng Thầy yêu con. Tư tưởng này không đủ cho một con tim lo bận tâm tới sao?
Người hôn ông rồi để cho ông đi.
Lại ở một mình, Người ngước mắt lên bầu trời mà người ta nhìn thấy qua các chòm lá oliu, và Người rên rỉ: “Lạy Cha của con! Xin hãy làm cho con giữ kín được tội ác ít nhất là tới giờ sau cùng, để
584
ngăn cản các kẻ thân thiết của con khỏi bị ô uế vì máu. Xin Cha thương họ. Cha ơi, họ còn qúa yếu đuối, không thể không phản ứng đối với sự xúc phạm! Nguyện cho họ không có sự thù ghét trong tim vào giờ của Đức Ái trọn vẹn”. Và Người lau những nước mắt mà chỉ có Thiên Chúa nhìn thấy...
225* TẠI NOBÊ. JUDAS KÊRIOT KHÔNG
TÙNG PHỤC NỮA
- Thưa Thầy, vâng. Judas Kêriot ở đây từ nhiều ngày. Ông ta đã tới vào một buổi chiều ngày Sabát. Ông có vẻ mệt mỏi và muốn đứt hơi. Ông nói rằng ông đã lạc mất Thầy trong các đường phố của Jêrusalem, và ông đã chạy đi tìm Thầy trong những nhà Thầy thường tới. Ông ta tới đây mỗi buổi chiều. Ông ta sắp sửa tới đó. Buổi sáng thì ông ra đi, và ông nói ông tới các vùng lân cận để rao giảng Thầy.
- Tốt, Êlise... và con tin ông ta?
- Thưa Thầy, Thầy biết là con không ưa người này. Nếu con trai con mà như vậy thì con sẽ cầu xin Chúa đem chúng đi khỏi con. Không, con không tin các lời của ông ta, nhưng vì tình yêu đối với Thầy, con giữ sự xét đoán của con cho riêng con... Con đã xử sự rất tình mẫu tử với ông. Bằng cách này, ít nhất là con làm được cho ông ta trở lại đây mỗi chiều.
- Con làm rất phải - Giêsu nhìn bà đăm đăm và bất chợt hỏi: “Anastasica đâu?”
Khuôn mặt Êlise đổi qua sắc tím của người già, nhưng bà trả lời thẳng thắn: “Ở Betsur”.
- Con làm rất phải cả việc này nữa. Và Thầy xin con hãy thương người đàn ông đó.
- Chính vì con thương ông ta nên con đã muốn dập tắt đám cháy trước khi nó bùng lên một cách ô nhục, hay ít nhất, ông ta không làm cho con gái con ghê sợ.
- Nguyện Thiên Chúa chúc phúc cho con, người đàn bà công
585
chính.
- Thầy khổ lắm phải không?
- Thầy khổ, đúng vậy. Với một bà mẹ thì Thầy có thể nói điều đó.
- Với một bà mẹ, Thầy có thể nói điều đó... Nếu Thầy không phải là Giêsu, là Chúa, thì con muốn được nhận cái đầu mệt mỏi của Thầy trên vai con, và ôm ghì con tim đau khổ của Thầy trên qủa tim con. Nhưng Thầy thánh thiện tới nỗi một người đàn bà không phải là mẹ Thầy thì không thể đụng vào Thầy...
- Êlise, bạn tốt của mẹ Thầy và là một bà mẹ tốt, sắp sửa rồi, Chúa con sẽ được đụng bởi nhiều bàn tay ít thánh hơn tay con, và được hôn... ôi!... rồi sau đó, những bàn tay khác... Êlise, nếu con được phép đụng vào nơi cực thánh thì con sẽ làm với tâm hồn thế nào? Con có xin miễn việc đó không, nếu tiếng của Thiên Chúa, qua làn khói của hương nhang, xin con tình yêu, để ít nhất được một cái vuốt ve của tình yêu sau khi bao kẻ đã tới gần Người mà không có tình yêu?
- Lạy Chúa con! Nếu Thiên Chúa xin con điều đó, con sẽ đi tới bằng đầu gối, và bao phủ nơi thánh bằng những cái hôn, và mong Thiên Chúa hài lòng và được an ủi bởi tình yêu của con.
- Vậy thì Êlise, người bạn tốt của mẹ Thầy, môn đệ trung thành và tốt của Vị Cứu Tinh đau khổ của con, hãy cho phép Thầy để đầu Thầy trên qủa tim con, vì trái tim Thầy đau buồn tới nỗi nó cảm Thấy đau đớn như chết được.
Và Giêsu, vẫn ngồi ở chỗ Người ngồi, rất gần với Êlise đang đứng, Người thực sự gục trán Người vào ngực người môn đệ già, và những giọt nước mắt lặng lẽ chảy dọc theo y phục sậm mầu của người đàn bà. Bà không thể kìm hãm đặt bàn tay trên cái đầu đang gục vào lòng bà. Và khi bà cảm thấy nước mắt rơi xuống bàn chân bà, chân trần trong xăng đan, bà cúi xuống để phớt một cái hôn nhẹ trên tóc Giêsu. Đến lượt bà cũng khóc lặng lẽ. Bà ngước mắt lên trời trong lời cầu nguyện thầm. Bà rất giống Đức Mẹ Đau Thương thời cổ. Bà không cố gắng một lời hay một cử chỉ nào khác, nhưng
586
bà rất “mẹ” trong thái độ của bà mà bà không thể làm hơn.
Giêsu ngẩng mặt lên nhìn bà. Người có một nụ cười tái mét và nói: “Nguyện Thiên Chúa chúc phúc cho bà vì tình thương của bà. Ôi, một bà mẹ thật là cần thiết khi sự đau đớn đè nặng trên sức lực của con người”.
Người đứng dậy, lại nhìn người môn đệ và nói: “Cầu mong giờ này ở lại giữa con và Thầy trong mọi chi tiết của nó. Chính vì vậy nên Thầy đến trước một mình”.
- Thưa Thầy vâng. Nhưng Thầy không thể ở một mình. Hãy bảo mẹ Thầy tới.
- Từ đây, còn hai tuần trăng nữa, bà sẽ ở với Thầy... - Người sắp sửa nói thêm điều gì nữa thì ở dưới nhà, trong bếp, vang lên giọng nói mạnh, luôn luôn hơi trâng tráo và mỉa mai của Judas Kêriot: “Vẫn còn với cái đồ điêu khắc của ông à ông già? Trời lạnh mà ở đây không có lửa. Tôi đói mà chưa có cái gì được sửa soạn. Có lẽ Êlise ngủ? Bà đã muốn làm một mình, nhưng những người già thì chậm chạp và trí nhớ của họ suy nhược. Hé! Ông không nói à? Chiều nay ông hoàn toàn điếc à?”
- Không, nhưng ta để cho anh nói. Anh là tông đồ, và không thích hợp cho ta để khiển trách anh - ông già nói.
- Khiển trách? Tại sao?
- Hãy tìm trong chính anh, và anh sẽ thấy.
- Lương tâm tôi nó không nói.
- Đó là dấu hiệu nó đã bị biến dạng hay anh đã bẻ què nó.
- Ha! Ha! Ha! - Chắc Judas đã ra khỏi nhà bếp, vì ngưới ta nghe cửa đập cái rình, rồi có tiếng bước chân lên cầu thang.
- Con xuống sửa soạn nhe Thầy.
- Đi đi, Êlise.
Êlise từ căn phòng trên sân thượng đi xuống, và gặp ngay Judas sắp đặt chân lên sân thượng.
- Tôi đói và lạnh.
- Có vậy thôi sao? Vậy là ông còn có qúa ít.
- Vậy tôi phải có thêm gì nữa?
587
- Ôi! Biết bao thứ!... - tiếng nói của Êlise xa đi.
- Tất cả đều là các lão già ngu xuẩn. Ouf!... - Ông đẩy cửa và thấy mình ở trước mặt Giêsu. Sự kinh ngạc làm ông giật lùi một bước. Rồi ông sực tỉnh và nói: “Thầy!! Bình an cho Thầy!”
- Bình an cho con, Judas - Giêsu nhận cái hôn của vị tông đồ, nhưng Người không hôn đáp trả.
- Thầy! Thầy có... Thầy không cho con cái hôn à?
Giêsu nhìn ông và nín lặng.
- Thực sự con đã sai lầm, nhưng không hôn con là điều duy nhất Thầy có thể làm cho con! Đừng xét đoán con qúa khắt khe. Bữa đó con bị bắt bởi một số người... không yêu Thầy, và con đã tranh luận với họ đến khản cổ. Rồi... con đã nói: “Ai biết Người đi đâu?!” và con trở lại đây để chờ Thầy. Có phải nhà này bây giờ là nhà Thầy không?
- Bao lâu người ta cho phép.
- Thầy sẽ không oán giận con về việc đó?
- Không. Thầy chỉ bảo con hãy xem xét cái mẫu gương mà con cho các người khác.
- Ôi! Con đã nghe các lời của họ. Nhưng con có cách để biện minh trước mặt họ. Với Thầy thì con chả biện minh, vì con biết Thầy đã tha cho con.
- Thực vậy, Thầy đã tha cho con.
Người ta chờ đợi nơi Judas một cử chỉ khiêm nhường và tình yêu vì biết bao nhân từ. Nhưng trái lại, ông ta đã hoàn toàn đối nghịch. Với cử chỉ phật ý, ông kêu lên: “Vậy là không có phương tiện nào để được nhìn thấy Thầy phẫn uất?! Thầy là người thế nào?”
Giêsu nín lặng, và Judas nhìn người, ông ta đứng, Giêsu ngồi, đầu cúi. Người lắc đầu với nụ cười xấu trên môi. Đối với ông ta, việc bất ngờ đã vượt qua, và ông ta bắt đầu nói hết chuyện nọ tới chuyện kia, làm như ông ta là người hợp nguyên tắc nhất.
Đêm về, tiếng động ngoài đường dừng lại.
- Chúng ta xuống - Giêsu ra lệnh.
Họ xuống nhà bếp, nơi có lò lửa và một cây đèn ba ngọn cháy
588
sáng.
Giêsu mệt mỏi, ngồi gần lò lửa. Tựa như Người buồn ngủ trong căn phòng ấm áp...
Người ta gõ. Ông già mở cửa. Đó là các tông đồ. Phêrô vào trước tiên, thấy Judas, ông chọc: “Người ta có thể biết anh đã ở đâu không?”
- Ở đây. Hoàn toàn đơn giản là ở đây. Tôi đã ngu ngốc chạy đó đây sau những người đã biến mất. Tôi đã đến đây, nơi tôi chắc chắn qúi vị sẽ trở lại.
- Đó là cách hành động hay đó!
- Thầy đã không phiền trách tôi. Ngoài ra, hãy biết rằng tôi đã không để mất thời giờ. Tôi đã giảng Tin Mừng hết mọi ngày, và cả đến tôi đã làm phép lạ, và vậy là tốt.
- Và ai đã ra lệnh cho anh? - Batôlômêo nói cách nghiêm nghị.
- Chả ai cả. Không phải anh, cũng không phải ai cả. Nhưng chỉ cần là những... là... tóm tắt: người ta ngạc nhiên và xì xèo cười chúng ta, các tông đồ mà chả làm gì cả. Và tôi, tôi biết, nên tôi đã hành động thay cho tất cả, và tôi còn làm nhiều hơn. Tôi đã tới gặp Elchias và tôi đã chứng tỏ cho ông rằng người ta không hành động sai khi người ta thánh. Họ đông người, nhưng tôi đã chinh phục họ. Các anh sẽ thấy là họ không còn quấy rầy chúng ta nữa. Và bây giờ tôi rất thỏa mãn.
Các tông đồ nhìn nhau. Họ nhìn Giêsu. Khuôn mặt Người như không hiểu nổi. Tựa như nó bị phủ bằng một sự mệt mỏi thể chất nặng nề. Chỉ có điều đó là người ta nhìn thấy.
- Anh có thể làm điều đó với sự cho phép của Thầy. Chúng tôi không ngừng lo lắng về anh - Giacôbê Alphê nói.
- Ồ, tốt. Bây giờ các anh được giải phóng khỏi mọi lo âu. Người không bao giờ cho phép tôi. Người qúa... bảo vệ chúng ta, tới cỡ người ta xì xèo là Người ghen với chúng ta. Người sợ chúng ta làm nhiều hơn Người, và cả đến Người phạt chúng ta. Người ta có miệng lưỡi chua chát. Sự thực thì trái lại, chúng ta cao gía đối với Người hơn là con ngươi trong mắt Người. Phải không Thầy? Và Người sợ
589
chúng ta gặp nguy hay chúng ta làm... bẽ mặt. Và chúng ta cũng vậy, trong lòng chúng ta, chúng ta thấy như bị một thứ hình phạt, và nghĩ rằng Người ghen...
- Về điều đó thì không! Tôi, tôi không bao giờ nghĩ như vậy - Tôma ngắt lời và những người khác đồng thanh. Ngoại trừ Thađê, ông cắm đôi mắt ngay thẳng và rất đẹp của ông vào đôi mắt cũng rất đẹp, nhưng chạy trốn của Judas và nói: “Làm sao anh có thể làm phép lạ? Nhân danh ai?”
- Làm sao? Nhân danh ai? Nhưng anh không nhớ rằng chính Người đã cho chúng ta cái quyền này? Người đã lấy đi khỏi chúng ta sao? Không, tôi biết, và vì vậy...
- Và vì vậy tôi, tôi không bao giờ tự cho phép mình làm điều gì mà không có sự đồng ý của Người và lệnh của Người.
- Nhưng tôi, tôi muốn làm. Tôi sợ sẽ không biết làm nữa. Tôi đã làm, và tôi sung sướng! - Và ông cắt gọn bằng cách bỏ đi ra trong khu vườn tối.
Các tông đồ quay nhìn theo, kinh ngạc vì từng ấy táo bạo. Nhưng không ai nhẫn tâm nói lời gì có thể làm đau khổ hơn cho Thầy của họ mà diện mạo đã tố cáo sự đau đớn.
Họ bỏ các giỏ xách ra và Gioan cùng với Tôma đem lên trên nhà. Batôlômêo, khi cúi xuống lượm một cành cây khô rơi xuống từ một bó củi, thì thầm với Phêrô: “Xin Chúa cho việc đó không phải là ma qủi đã giúp ông”.
Phêrô làm một cử chỉ bằng bàn tay như muốn nói: “Lạy Tình Thương!” Nhưng ông không đối đáp lời nào. Ông đi tìm Giêsu, để một tay trên vai Người và hỏi: “Thầy qúa mệt ?”
- Rất mệt, Simon.
- Thưa Thầy đã xong, xin vào bàn. Hay là... Không, hãy ngồi yên đây, bên lò lửa. Con sẽ mang sữa và bánh lại cho Thầy - Êlise nói. Và qủa vậy, sau khi đã đặt vào chiếc khay một tô lớn sữa bốc hơi và bánh trét mật ong, bà mang khay lại cho Giêsu. Bà chờ Người đứng dậy để cầu nguyện và dâng hiến của ăn xong, bà ngồi xổm trên đất. Bà già tốt, đầy tình mẹ, bị xâm chiếm hoàn toàn bởi
590
ước ao yên ủi Người. Bà mỉm cười với Người, khuyến khích Người ăn và trả lời cho Giêsu khi Người trách nhẹ bà vì đã trét mật ong lên bánh: “Con sẽ dâng Thầy máu của con để củng cố cho Thầy, Thầy của con! Đó là mật ong hèn trong vườn của con ở Betsur, và nó chỉ có thể củng cố cho cơ thể Thầy thôi. Nhưng qủa tim của con...”
Những người khác ăn ở chung quanh bàn với khoái khẩu mạnh của những người đã đi bộ nhiều. Judas bình tĩnh, hầu như trơ trẽn, ăn cùng với họ. Chỉ có mình ông ta là nói...
Ông ta vẫn còn nói khi Giêsu ra lệnh: “Đi, mỗi người hãy tới những căn nhà đã cho mình trọ. Bình an cho các con”.
Judas, Batôlômêo, Phêrô, Andrê ở lại với Người. Giêsu ra lệnh đi nghỉ ngay. Người bày tỏ một sự mệt mỏi chí tử, tới nỗi Người không thể chịu nổi sự mệt mỏi để nói và nghe nữa. Còn tôi, tôi nghĩ rằng Người không thể chịu nổi sự cố gắng để tự chủ về những gì có liên can tới Judas Kêriot.
226* TẠI NOBÊ NHỮNG NGÀY TIẾP THEO
Đây là những ngày lạnh và thanh quang của mùa đông. Trên đỉnh ngọn núi nhỏ, nơi Nobê được xây cất, có thể nói là không bao giờ thiếu gió, nhưng được ôn hòa bởi mặt trời từ lúc nó mọc tới lúc nó lặn. Với những tia sáng của nó, nó vuốt ve các mái nhà và các khu vườn xanh rờn các thứ rau cỏ mùa đông, từ các mảnh vườn nhỏ dưới bóng các mái nhà tới các mảnh đất nhỏ phủ rau xanh; các chỗ đất có canh tác khác là mầu đất trần, đã sẵn sàng để gieo hạt rau cải. Khi nhìn chung quanh đây, con mắt không thấy mầu xám của các cây oliu, và các hàng ngoằn ngoèo xương xẩu của các cây nho trụi lá, nhưng thấy các thửa ruộng được cày bừa, đã gieo hạt, sắp sửa nảy mầm vào lúc ấm áp đầu tiên của mùa xuân đến sớm ở Palestin được mặt trời sưởi ấm. Tôi thấy hầu như trong những ngày thanh quang như ngày tôi đang nhìn ngắm đây, người ta đã cảm
591
thấy sự ấm áp của mùa xuân, một sự ấm áp làm nảy mầm, tới nỗi trên những cây hạnh đào vươn lên bên trên các bức tường nhà, mới mấy bữa trước đây còn hoàn toàn trơ trụi, bây giờ đã lú ra các chồi trên cành. Các cành cây mầu nâu đậm, các chồi vừa lú ra cũng nâu, nhưng chúng đã xác nhận là sự sống vươn dậy, rằng sự hồi sinh đã gần tới trong thân cây lực lưỡng.
Trong mảnh vườn nhỏ của ông già Gioan ở sau nhà, một giải đất được chăm bón. Nó bị che rợp ở một phía bởi một cây hồ đào. Trong giải đất là một cây hạnh đào duy nhất, to lớn, có lẽ cao niên hơn ông chủ của nó. Nó tựa rất gần vào căn nhà tới nỗi trên một phần lớn của thân cây, chỉ có cành ở ba phía, phía thứ bốn bị tường nhà ngăn cản. Nhưng ở trên cao, các cành um tùm mọc xiên xéo vào nhau, khi nở bông, chắc chắn nó tạo ra một làn mây nhẹ ở bên trên cái sân thượng tội nghiệp, như một cái lều qúi còn đẹp hơn cái kiệu của nhà vua.
Để không nhàn rỗi, Giêsu và các tông đồ làm việc dưới mặt trời vui tươi và ấm áp. Trong y phục ngắn, những người đóng vai thợ mộc và thợ làm khóa thì sửa sang hay làm các dụng cụ, các khung, các giàn. Những người khác thì xới đất, vun gốc các cây rau đã bứng ra trồng, làm cho vững các hàng rào bằng cây sậy khô và cây sơn tra tươi, làm thành hàng rào ở hai phía mảnh vườn nhỏ, hoặc tỉa cây hạnh đào và cây hồ đào, hoặc buộc lại các cành nho mà gió mùa đông đã giật ra. Tôi nhận thấy là Giêsu ở đâu thì ở đó người ta không bao giờ ở không. Trước tiên là Người, Người dạy vẻ đẹp của công việc tay chân khi họ tạm ngưng việc giảng Tin Mừng. Hôm nay Giêsu cũng làm việc với các anh họ của Người để sửa một cái cửa mà phía dưới đã hư và ổ khóa đã gần sút ra. Về phía Philíp và Batôlômêo, các ông làm việc với kéo tỉa cây và dao cưa trên những cây ăn trái đã gìa, trong khi các dân chài thì làm việc với các giây rợ và những mái che cũ. Có những người làm những đồ sửa chữa rất... nam nhi, có người khác thì đặt lại các bánh lăn và các ròng rọc, có lẽ với ý định làm ở trên sân thượng một cái rạp hữu ích cho mùa hè.
- Bà sẽ rất dễ chịu ở đây, Êlise ạ - Phêrô hứa khi ông nghiêng
592
người ra bên trên bức tường lan can của sân thượng để nói với người môn đệ già đang xe sợi len, ngồi trước bức tường có mặt trời.
- Đúng. Khi các cành nho đã được buộc và cây hạnh đào được xếp đặt, đây sẽ thực là chỗ tốt cho mùa hè - Philíp nói giữa hai hàm răng, vì ông ngậm ở môi những cây lác mà ông dùng để buộc các cành nho vào các cây cọc.
Giêsu ngẩng đầu lên để nhìn, trong khi Êlise thì ngẩng lên để nhìn Thầy, và bà nói: “Ai biết được chúng ta có ở đây vào mùa hè không...”
- Tại sao chúng ta lại không được ở đây bà? - Andrê hỏi.
- Nhưng... Tôi không biết... Tôi không làm các dự án nữa từ khi... từ khi tôi thấy tất cả các dự đoán của tôi đều kết thúc bằng nấm mồ.
- Ôi! Nhưng Thầy có chết thì chúng ta mới không ở đây. Từ nay Thầy đã chọn nơi này làm chỗ ở, phải không Thầy? - Tôma hỏi.
- Đúng vậy. Nhưng điều Êlise nói cũng đúng nữa... - Giêsu trả lời trong khi làm việc với cái bào ở bên chiếc cửa mà người sửa.
- Nhưng Thầy còn trẻ, và nhất là sức khỏe tốt!
- Người ta không phải chỉ chết vì bệnh mà thôi - Giêsu lại nói.
- Ai nói về chết? - Batôlômêo nói. “Thầy à? Nói về Thầy à?... Thực tình thì từ mấy bữa nay, sự thù ghét hình như dịu lại. Coi, không ai quấy rối chúng ta nữa. Họ biết rằng chúng ta ở đây. Cả đến hôm qua chúng con đã gặp họ khi đi mua đồ về, mà họ không quấy rối gì chúng con”.
- Đúng, chúng con cũng vậy. Khi chúng con đi qua các làng bên cạnh để loan báo rằng Thầy ở đây, chúng con không bị một phiền phức nào, mặc dầu chúng con đã gặp Elchias với Simon, và rồi cả Sađốc và Samuel, và rồi Nahum với chính ngay Doras. Hơn nữa, họ còn chào chúng con. Có phải không Giacôbê? - Gioan nói khi hỏi anh ông.
- Đúng. Thực có lý là Judas Kêriot đã làm việc giỏi, trong khi trong lòng chúng ta, chúng ta đã chỉ trích ông. Khi trở về đây, không còn phiền phức, là các sự kiện đã minh xác các lời của ông. Tựa như chúng ta trở lại thời vàng son của thời kỳ đầu ở Nước Đẹp. Ôi!
593
Nếu đúng thực như vậy! - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Nếu việc đó có thể thực! - Phêrô nói khi thở dài.
- Thời tiết không luôn luôn trong sáng khi sấm sét không gầm thét - Êlise lặng lẽ nói khi quay trục chỉ của bà.
- Bà muốn nói gì? - Phêrô hỏi.
- Tôi nói rằng đôi khi sự bình lặng tại một nơi thường có gió lốc, là sự báo trước một cơn bão, và là cơn bão nguy hiểm hơn bao giờ hết. Anh là dân chài, anh phải biết điều đó.
- Hé! Bà ơi tôi biết! Đôi khi cái hồ giống như một cái thau mênh mông đầy dầu xanh lơ, và hầu như luôn luôn, khi cánh buồm rũ xệ và nước bất động như vậy là một cơn bão đã ở gần, và là một trong những cơn bão xấu nhất. Gió của bình lặng là gió của nấm mồ đối với các thuyền nhân.
- Hum! Đúng. Vì vậy nếu tôi ở địa vị các ông thì tôi sẽ ngờ vực với bấy nhiêu bình an. Qúa nhiều bình an!
- Vậy là!... Trong khi chiến tranh, người ta khổ vì chiến tranh; trong khi hoà bình, người ta khổ vì có thể xảy ra chiến tranh tàn bạo hơn. Vậy khi nào thì người ta được vui? - Tôma hỏi.
- Trong đời sống bên kia. Ở đây, đau thương luôn luôn sẵn sàng.
- Ôi! Bà thê thảm chừng nào bà ơi! Vậy là thời kỳ vui của tôi thực sự còn xa, vì tôi là một trong những người trẻ nhất! Batôlômêo, anh hãy vui mừng, vì anh ở gần ngày vui hơn. Và anh nữa, Zêlote - Giacôbê Zêbêđê nói đùa.
- Các bà thê thảm và ranh mãnh. A! Các bà gìa! Nhưng đôi khi các bà đoán đúng. Ngay cả mẹ tôi, khi bà nói với ai trong chúng tôi: “Hãy coi chừng! Con đang ở trên đường để làm một điều ngu dại vì lẽ nọ lẽ kia”, là bà luôn luôn đoán đúng - Tôma nói khi cúi xuống để cào đất.
- Các phụ nữ ranh mãnh và xảo quyệt hơn con cáo! Chúng ta là không đối với họ để hiểu một số điều mà người ta không muốn cho các bà hiểu - Phêrô lặng lẽ nói.
- Anh thì anh im đi! Anh được rơi trúng vào một bà tin anh, cho dù anh nói rằng núi Liban được làm bằng bơ! Điều anh nói là lề
594
luật đối với bà. Bà chỉ nghe, tin và nín lặng - Andrê nói với anh ông.
- Đúng. Nhưng mẹ bà đối với bà cũng vậy, và đối với hàng trăm bà khác cũng vậy. Đúng là con rắn!
Mọi người đều cười, kể cả Êlise và ông gìa đang giúp các người trẻ xới đất.
Zêlote, Mathêu và Judas Kêriot về: “Xong hết rồi Thầy. Chúng con mệt! Đi một vòng thật là dài. Nhưng ngày mai con sẽ nghỉ. Ngày mai sẽ đến lần các anh” Iscariot nói với những người đang cuốc đất, và ông cầm một cái cuốc, đi lại với họ để làm việc.
- Nếu anh mệt thì tại sao anh làm việc? - Tôma hỏi.
- Vì tôi có các cây non phải trồng. Chỗ này trơ trụi như cái sọ ông già, và thật đáng tiếc - ông lặng lẽ nói khi cắm cái cuốc xuống đất bằng sức mạnh của bàn chân.
- Vào thời vàng son xưa nó đâu có vầy! Nhưng sau đó... qúa nhiều thứ đã chết, và đối với tôi, chả gì phải nhọc công để làm lại. Tôi già, và còn hơn già là tôi rầu! - ông gìa trả lời.
- Nhưng sao anh đào lỗ lớn qúa vậy! Như vầy là cho một cây to chứ không phải một cây con như anh nói - Philíp nhận xét. Ông đã xuống sau khi buộc xong các cành nho.
- Khi một cây to còn non thì nó luôn luôn là cây nhỏ. Các cây của tôi cũng vậy. Lúc này là thời tiết thuận lợi. Người đã cho tôi những cây này đã bảo đảm với tôi như vậy. Thầy biết ai không Thầy? Người bà con này của Elchias là nông dân, và ông trồng cấy giỏi. Một vườn cây ăn trái và các vườn oliu. Ông ta đang thay mới một phần của vườn oliu. Con đã nói với ông: “Cho tôi những cây này đi”. “Để cho ai ?”- ông ta hỏi con - “Cho một ông gìa nhỏ ở Nobê, người cho chúng tôi trọ. Nó sẽ giúp tôi được tha thứ về tất cả những gương mù tôi đã làm cho ông ta”.
- Không, nam tử của tôi ơi! Không phải bởi các cây, mà là bởi một lối sống tốt mà điều đó có thể xảy ra, và với Thiên Chúa. Tôi... tôi nhìn, tôi cầu nguyện và tôi tha thứ. Nhưng sự tha thứ của tôi... Tuy nhiên tôi cũng biết ơn anh về những cây... mặc dầu... anh tin là
595
tôi có thể ăn trái những cây này sao?
- Tại sao không? Phải luôn luôn hy vọng, và cả đến phải muốn toàn thắng, và lúc đó người ta sẽ toàn thắng...
- Người ta không thể thắng tuổi già! Và tôi cũng không ham thắng nó.
- Người ta cũng không thắng được về nhiều thứ khác nữa. Nếu cứ muốn là được thì tôi, tôi đã có các con trai tôi! - Êlise thở dài.
Mathêu nói: “Thưa Thầy, các lời của Êlise nhắc con nhớ tới một câu hỏi mà một số người đã hỏi chúng con hôm nay ở ngoài đường. Họ hỏi, vì có xảy ra một sự kiện trong làng, họ hỏi phép lạ có luôn luôn là bằng chứng về sự thánh thiện không. Con bảo họ rằng phải, nhưng họ nói rằng không. Qủa vậy, trong làng đó, ở biên giới Samari, có một người làm nhiều việc dị thường, nhưng chắc chắn người đó không phải là người công chính. Con bảo họ nín đi bằng cách nói rằng loài người luôn luôn xét đoán sai lầm, và kẻ họ bảo là không công chính lại là người công chính, có lẽ còn hơn họ. Còn Thầy thì Thầy nói sao?”
- Thầy nói rằng mọi người đều có lý, mỗi người về phía họ. Con đã nói rằng phép lạ là bằng cớ của sự thánh thiện: thường thường là như vậy; và cả con có lý để nói rằng không nên xét đoán để khỏi bị lầm. Nhưng họ cũng có lý để nghi ngờ rằng người này đã làm các việc dị thường nhờ một nguồn khác.
- Nguồn nào? - Iscariot hỏi
- Các nguồn tối tăm. Có những kẻ thờ Satan, vì họ thờ sự kiêu căng, và vì muốn áp đặt những người khác nên họ đã tự bán mình cho Satan để có nó làm bạn - Giêsu trả lời ông.
- Nhưng có thể được không? Phải chăng là chuyện hoang đường của các xứ dân ngoại, rằng người ta có thể làm những giao ước với ma qủi hay với các thần trí trong hỏa ngục? - Gioan kinh ngạc hỏi.
- Có thể. Không phải như người ta kể trong truyện thần thoại của dân ngoại, không phải bằng tiền hay các giao ước vật chất, nhưng là sự liên kết với điều ác, chọn lựa và phó mình cho sự ác để có được một giờ chiến thắng nào đó. Thực vậy, Thầy bảo các con
596
rằng những kẻ bán mình cho đứa bị nguyền rủa để đạt mục đích của họ thì đông số hơn người ta tưởng.
- Và họ thành công không? Họ có thực sự được điều họ xin không?
- Andrê hỏi.
- Không luôn luôn và không tất cả. Nhưng họ cũng được cái gì.
- Và làm sao lại có thể được? Ma qủi có đủ sức mạnh để giả vờ làm Thiên Chúa không?
- Không, nếu người ta thánh. Nhưng vì rất thường người ta là một thằng qủi bởi chính họ. Chúng ta bỏ qua những trường hợp bị nhập tỏ tường, ồn ào, nhốn nháo. Những điều này thì mọi người đều nhận thấy. Chúng ít dễ chịu đối với các người trong gia đình hay trong thành phố, và nhất là nó hiện diện dưới những hình thức vật chất. Người ta luôn luôn bị đập bởi những gì nặng, những gì đập vào giác quan. Còn những thứ phi vật chất, chỉ có thể nhận ra được bởi những cơ quan phi vật chất, là lý trí và tâm hồn, người ta không nhận ra nó, và dù họ có nhận ra, họ cũng không lo lắng, nhất là khi nó không làm thiệt hại cho họ. Nhưng sự bị chiếm này kín đáo, do đó nó thoát được quyền trừ khử của chúng ta. Nó nguy hại nhất, vì nó làm việc trên phần tử được lựa chọn nhất, với phần tử được lựa chọn nhất, và trên các phần tử được lựa chọn khác nữa: lý trí với lý trí, tâm hồn với tâm hồn. Nó giống như thứ chướng khí phá hoại. Nó không nhúc nhích nên người ta không nhận ra nó cho tới khi cơn sốt báo cho họ biết là kẻ sốt bị nhiễm chướng khí.
Tất cả đều hỏi: “Satan giúp à? Thực sao? Tại sao? Và sao Thiên Chúa lại để cho nó làm? Và Người sẽ để cho nó làm hoài sao? Kể cả sau khi Thầy đã ngự trị?”
- Satan giúp để bắt lệ thuộc. Thiên Chúa để cho nó làm, vì từ cuộc chiến này giữa trên cao và dưới thấp, giữa sự Thiện và sự Ác, gía trị của con người mới tỏ hiện, gía trị và ý muốn của họ. Người sẽ luôn luôn để cho nó làm, kể cả sau khi Thầy đã được nâng lên. Nhưng lúc đó Satan sẽ có một kẻ thù rất lớn chống lại nó, và loài người sẽ có một người bạn rất mạnh.
- Ai? Ai?
597
- Ân Sủng.
- Ồ, tốt! Vậy với những kẻ của thời chúng ta, không có Ân Sủng, sẽ dễ dàng bị chinh phục hơn, nhưng sự sa ngã sẽ ít trầm trọng hơn - Iscariot nói trong khi vẫn xới đất.
- Không, Judas. Sự phán xét sẽ giống nhau.
- Vậy đó là bất công, vì nếu chúng ta được giúp ít hơn thì chúng ta phải bị phạt ít hơn.
- Anh không sai hết đâu - Tôma nói.
- Trái lại, anh ta sai, Tôma. Vì chúng ta là Israel, chúng ta đã có biết bao đức tin, đức cậy, đức mến, và biết bao ánh sáng khôn ngoan, tới nỗi chúng ta không thể xin lỗi là không biết. Rồi đối với các con, các con đã có Ân Sủng làm thầy các con từ gần ba năm nay rồi. Các con đã là những người của thời mới và sẽ bị xét xử như vậy” Giêsu nói nhấn mạnh những tiếng sau cùng trong khi nhìn Judas, ông ngẩng đầu lên suy tư, nhìn đăm đăm vào khoảng không.
Rồi Judas Kêriot lắc đầu, tựa như ông kết luận những lý lẽ nội tâm, và lại nhấn xẻng vào đất trong khi hỏi: “Và kẻ bán mình cho ma qủi như vậy, nó trở thành cái gì?”
- Một thằng qủi.
- Một thằng qủi! Theo cách này, ví dụ nếu con, để xác nhận rằng sự giao tiếp với Thầy đã cho con một quyền lực siêu nhiên, con làm những điều... mà Thầy chỉ trích, con sẽ là một thằng qủi?...
- Con đã nói đúng.
- Nhưng tôi rất hy vọng là anh không làm - Andrê nói, hầu như sợ hãi.
- Tôi? A!A! Tôi trồng cây cho ông gìa của chúng ta - và ông chạy về phía bên kia vườn, rồi trở lại với năm cây con mà rễ được phủ kín đất làm cho nó chắc là nặng.
- Nhưng anh đã từ Beteron về với gánh nặng này ở trên vai sao?
- Phêrô hỏi.
- Anh phải nói là từ bên kia Gabaon. Ở đó là một phần trong số các vườn cây ăn trái của Daniel. Vùng đất tuyệt vời. Anh coi này!... - và ông vò nát giữa các ngón tay một chút đất bao bọc rễ cây. Rồi ông cởi ra sợi giây buộc năm khúc cây mầm lớn như cánh tay, chỉ
598
có hai khúc là có mấy lá ở trên đầu, và đó là lá oliu: “Đó, cây này là cho Giêsu, cây kia là cho Maria, các vị là hòa bình của thế giới. Tôi trồng chúng trước, vì tôi là người bình an. Chỗ này... và chỗ kia” và ông đặt chúng ở hai đầu của giải đất. “Và ở đây là một cây táo non, ngon như cây ở vườn Địa Đàng, ôi Gioan, để nhắc cho ông rằng ông cũng đến từ Ađam, và ông không ngạc nhiên nếu... tôi có thể là người tội lỗi. Ông, hãy coi chừng Con Rắn... Và ở đây... không, ở đây không tốt, ở kia, phía trước, gần bức tường, cây sung non này. Làm sao ông lại không có một cây sung trong vườn, trong khi nó mọc như cỏ gấu ở vùng này. Và ở lỗ giữa, chúng ta sẽ trồng một cây hạnh đào non. Nó sẽ dạy cho các ông già trăm tuổi biết sức mạnh của sự sinh sản. Rồi, xong. Khu vườn nhỏ của ông sẽ đẹp trong tương lai... Và khi nhìn nó, ông sẽ nhớ tới tôi”.
- Dù sao tôi cũng sẽ nhớ đến anh, vì anh đã ở đây với Thầy. Tất cả sẽ nói với tôi về thời gian này. Và khi nhìn các thứ, tôi sẽ nói: “Giống như một đứa con, Người đã muốn xếp đặt lại thứ tự căn nhà của tôi”. Tuy nhiên... nếu tôi có thể có một ý muốn khác với ý muốn có lẽ đã được viết ở trên Trời, tôi muốn không có gì nhắc tôi nhớ đến thời kỳ qúa đẹp này, đẹp hơn là khi những cây này, bây giờ đã già, thời chúng còn non, tôi còn trẻ cũng như vợ tôi, và con gái nhỏ của tôi chơi ở đây... Lúc đó tôi đã thích thú săn sóc cây táo, cây lựu, cây sung và cây nho, vì bàn tay nhỏ của con gái tôi nó tham lam, và thật đẹp khi nhìn vợ tôi ngồi dưới bóng cây xanh để dệt vải hay kéo sợi... Từ khi... con gái tôi ra đi... và qúa hay quên!... bệnh tật và cái chết của vợ tôi... Cho ai và tại sao săn sóc những thứ xưa kia đẹp đẽ? Vì vậy mà tất cả đều chết, chỉ trừ hai cây già còn sống để nhắc tôi nhớ tới tuổi trẻ của tôi. Tôi muốn chết trước khi có những thứ nhắc cho tôi rằng khi đó đã có một người đàn bà công chính là Lia sống ở đây. Tôi cám ơn anh vì các cây, vì công việc, vì tất cả. Tôi cám ơn tất cả các anh. Nhưng tôi xin Chúa giật cây già của tôi khỏi trái đất này trước khi cái giờ bình an này chấm dứt cho ông già Gioan...
Giêsu lại gần ông và đặt tay trên vai ông, Người êm đềm, đồng
599
thời khắc khổ: “Ông đã làm biết bao trong cuộc đời dài của ông. Ông chỉ còn thiếu một điều là chấp nhận giờ chết bởi Thiên Chúa, không xin cho nó được sớm hơn hay trễ hơn một phút. Ông đã cam chịu biết bao điều, vì vậy nên Thiên Chúa yêu ông. Hãy biết nhẫn nhục chịu điều khó nhất là sống, khi người ta chỉ muốn chết. Bây giờ chúng ta vào nhà. Mặt trời đã lặn sau núi và mau lạnh. Ngày Sabat sắp bắt đầu. Sau đó chúng ta sẽ hoàn tất công việc...” Người thu lượm cưa, búa, cuốc, và vào nhà, trong khi những người khác bó các cành cây đã cắt, tưới các cây mới trồng, và lắp cánh cửa mới sửa lại vào bản lề.
227* GIÊSU CHỜ JUDAS KERIOT, KẺ DÂM ĐÃNG
Toàn thể Nobê còn ngủ. Đây là tia sáng đầu tiên của ngày. Trong những tia sáng dịu của mùa đông, rạng đông có một mầu sắc tinh tế mong manh như không thực. Đây không phải là ánh sáng xanh bạc của các rạng đông mùa hè, phát hiện rồi mau lẹ đổi thành vàng lạt, rồi thành đỏ càng lúc càng mạnh, nhưng đây là mầu ngọc xanh với sắc thái xám xanh rất nhẹ, ló ra ở phương đông bằng một hình bán nguyệt nhỏ, thấp ở chân trời: một điểm sáng bị phủ mờ, có thể nói là mỏi mệt, giống như ánh sáng của ngọn lửa xanh do lưu huỳnh cháy đàng sau bức màn bằng khói trắng mờ. Nó ngập ngừng trải ra trên bầu trời còn xám, vẫn thanh quang, và còn những ngôi sao vẫn tiếp tục nhìn thế giới. Nó ngập ngừng đẩy mầu xám đi để thay thế bằng mầu ngọc xanh cao qúi của nó, và bằng mầu hồng trong trẻo của bầu trời Palestin. Nó xuất hiện, e dè như sợ lạnh, ngừng lại ở giới hạn của phương đông. Nó còn lần lữa ở đó, rồi cái bán cầu ánh sáng lưu huỳnh của nó nở ra rất từ từ, hơi pha loãng từ mầu xanh lờ lờ qua mầu trắng, pha lẫn một tí kỷ niệm của mầu vàng, rồi bị phế bỏ bởi một mầu hồng đột ngột và đuổi khỏi bầu trời tấm màn đêm sau cùng, làm cho nó thành rõ ràng và qúi báu như một chiếc kiệu bằng sa tanh mầu lam ngọc. Một đám lửa cháy lên ở chân trời tựa như có một bức tường bị đổ xuống, để lộ một lò lửa cháy bừng
600
bừng. Nhưng đây là lửa hay khối hồng ngọc bị đốt bởi ngọn lửa ngầm? Không. Đây là mặt trời trồi lên: nó đó, vừa lú ra khỏi đường cong của chân trời, nó đã tìm được phương tiện để sơn cho các lọn mây một mầu san hô đỏ, và biến các giọt sương thành kim cương trên các ngọn cây có lá không thay đổi. Một cây sồi lớn ở đầu làng có một tấm voan bằng kim cương trên chòm lá nâu của nó về hướng đông. Nó giống như từng ấy ngôi sao sáng nhấp nháy trên cành của cây cổ thụ này mà ngọn của nó vươn lên trời xanh. Có lẽ ban đêm, các vì sao đã xuống qúa thấp trên ngôi làng để thì thầm những bí mật thiên quốc với dân làng Nobê, hoặc có lẽ để an ủi, bằng ánh sáng tinh ròng của nó, Con Người đang canh thức, bước đi lặng lẽ ở trên sân thượng của nhà Gioan.
Đúng, bởi vì một mình, trong làng Nobê còn yên giấc, Giêsu canh thức, đo đạc cái sân thượng của căn nhà nhỏ, tay khoanh ở dưới áo khoác phủ chặt lấy toàn thân để tránh gió, nó cũng là chiếc mũ của Người. Mỗi khi đi dạo tới đầu sân thượng, Người nhìn ra ngoài, nghiêng mình để nhìn con đường chạy vào trung tâm làng. Con đường vẫn còn lờ mờ, trống rỗng và yên lặng. Rồi Người lại bước, đi tới đi lui, tiến về phía trước, trở lại phía sau, nhẩn nha trong yên lặng, thường thường cúi đầu suy nghĩ, đôi khi quan sát bầu trời càng lúc càng tỏ với các làn sóng mầu sắc của rạng đông và bình minh, hoặc liếc nhìn theo đường bay rung rinh của con sẻ đầu tiên bị đánh thức bởi ánh sáng, rời bỏ viên ngói hiếu khách của mái nhà bên cạnh để xuống quẹt mỏ vào gốc cây táo già của Gioan, rồi lại bay lên sau khi đã nhìn Giêsu với tiếng chíp chíp sợ sệt, đánh thức những con chim khác đậu trú ở đó đây.
Tiếng kêu bê bê của cừu từ chuồng vọng tới, rung trong không khí rồi tan biến mất. Ngoài đường đã có tiếng động của các bước chân vội vã.
Giêsu nghiêng mình để nhìn, rồi Người vội vã chạy xuống cái cầu thang nhỏ, vào trong nhà bếp tối và khép cửa lại.
Tiếng bước chân lại gần, và bây giờ vang lên trong mảnh vườn ở bên cạnh nhà, dừng lại trước lối vào nhà bếp. Một bàn tay thử rờ ổ
601
khóa, nhận ra rằng chìa khóa không có ở đó, liền vặn chiếc qủa đấm cửa mà người ta có thể quay ở phía ngoài cũng như phía trong, đồng thời có tiếng nói: “Đã có người dậy rồi sao?” Lại một bàn tay mở cánh cửa cách cẩn thận, không làm nó cót két. Cái đầu của Judas đi qua cửa mở hé... Ông nhìn, hoàn toàn tối thui, lạnh, yên lặng.
- Họ đã để cửa mở... Nhưng... mình thấy như nó đóng... Ngoài ra, chuyện không quan trọng!... Người ta đâu có ăn trộm của người nghèo, và đâu có ai bần cùng hơn chúng ta... Hé!... Nhưng hy vọng rằng... chuyện này không kéo dài như vầy nữa. Cái quẹt khốn kiếp nó đâu rồi?... Ta không tìm thấy nó... Nếu ta có thể nhóm lửa... Là vì ta về trễ, đúng, thực sự qúa trễ... Nhưng nó đâu? Có qúa nhiều bàn tay cầm vào nó. Trên lò sưởi? Không... Trên bàn? Không... Trên các ghế? Không... Trên cái kệ? Cũng không? Cái cửa mọt này kêu ken két khi người ta mở... gỗ mọt... bản lề rỉ sét. Tất cả đều cũ kỹ, mốc meo, kinh khủng ở đây. A! Judas tội nghiệp! Không thấy nó ở đây... Chắc tôi phải vào phòng ông già...” Suốt trong khi nói, ông rờ rẫm chỗ nọ chỗ kia, không nhìn thấy trong bóng tối, cẩn thận như một kẻ trộm hay một con chim đêm để tránh các chướng ngại vật có thể gây ra tiếng động... Ông xô vào một cơ thể và ông phát ra tiếng kêu sợ hãi như bị nghẹn.
- Đừng sợ. Thầy đây. Cái quẹt đang ở trong tay Thầy. Nó đây. Đốt lửa lên đi - Giêsu nói cách bình tĩnh.
- Thầy! Thầy làm gì một mình ở đây, trong bóng tối, trong khí lạnh... Hôm nay chắc chắn sẽ có nhiều bệnh nhân, sau ngày Sabát và hai ngày mưa. Nhưng họ sẽ không đến đây qúa sớm đâu. Từ các thành phố lân cận, chỉ giờ này họ mới bắt đầu ra đi, vì chỉ bây giờ người ta mới biết rằng hôm nay không mưa. Gió đêm đã làm sạch đường sá.
- Thầy biết, nhưng đốt lửa lên đi. Không thích hợp với những người thật thà nói chuyện trong bóng tối như vầy. Nó chỉ tốt với kẻ trộm, kẻ dối trá, kẻ dâm ô, kẻ sát nhân. Các kẻ đồng lõa với các hành động xấu mới thích bóng tối. Thầy, Thầy không đồng loã với
602
ai cả.
- Thưa Thầy, con cũng không. Con muốn sửa soạn một lò lửa đẹp, vì vậy con dậy sớm... Thầy nói gì?... Thầy lẩm bẩm giữa hai môi Thầy nên con không hiểu.
- Vậy đốt lên đi.
- A!... Con thấy như vậy là rất đẹp. Trời lạnh, mọi người đều thích tìm lò lửa đẹp... Thầy thức dậy vì Thầy nghe con động đạt ở đây hay tại ông gìa... Ông ta vẫn còn đau à?... Đó, sau cùng! Bùi nhùi và quẹt ẩm rì tới nỗi nó không muốn bắt lửa... chúng ướt nhèo!...
Một ngọn lửa nhỏ cháy lên ở trên một tim đèn nhỏ, rung rinh... nhưng đủ để nhìn thấy hai khuôn mặt: Khuôn mặt tái mét của Đức Kitô và khuôn mặt nâu điềm nhiên của Judas.
- Bây giờ con nhóm lò. Thầy tái mét như người chết. Thầy không ngủ! Và tại ông già này! Thầy qúa tốt!
- Đúng vậy, Thầy qúa tốt, với mọi người, với cả những người không đáng. Nhưng ông già xứng đáng, đó là một người hiền lành, một con tim trung thành. Nhưng không phải Thầy thức vì ông ta, mà vì một người khác. Qủa thật bùi nhùi và diêm quẹt bị ẩm, nhưng không phải tại bát nước đổ hay chất lỏng khác tràn ra cách tình cờ, mà là do nước mắt Thầy đã chảy lên trên. Qủa thực trời đẹp và lạnh, và gió đã thổi sạch đường sá, nhưng lúc bình minh có sương rơi. Rờ áo khoác của Thầy coi, nó ẩm rì... Rồi rạng đông tới để chứng tỏ thời tiết đẹp, ánh sáng tới để cho thấy một chỗ trống, và mặt trời tới để làm lóng lánh sương mai trên lá và nước mắt trên mi. Quả thực hôm nay sẽ có nhiều bệnh nhân, nhưng không phải Thầy chờ họ, mà là chờ con, vì chính bởi con mà Thầy thức suốt đêm. Chính tại con mà, vì không thể khép cửa ngồi đây để chờ con, Thầy đã lên sân thượng để tung vào trong gió tiếng gọi của Thầy, để tỏ bày với các ngôi sao nỗi đau của Thầy, cho bình minh nước mắt của Thầy. Không phải vì ông già bệnh mà vì ông trẻ lạc đường, người môn đệ đi trốn thầy, người tông đồ của Thiên Chúa thích trụy lạc hơn Nước Trời, thích dối trá hơn sự thật, đã giữ Thầy đứng suốt đêm để chờ con. Và khi Thầy nghe thấy bước chân con, Thầy đã
603
xuống đây để chờ con nữa... Không phải là chờ thân thể con bây giờ đang ở gần Thầy, và đã mò mẫm với những cử động của kẻ trộm trong nhà bếp tối, mà là tình cảm của con... Thầy đã chờ đợi một lời... Và con đã không biết nói khi con cảm thấy Thầy đứng ở trước mặt con. Kẻ mà con đang bán linh hồn con cho nó, đã không báo cho con rằng Thầy biết sao? Nhưng không, nó không thể báo cho con, cũng không thể gợi cho con, dù chỉ một lời mà con có thể, mà con phải nói, nếu con là người chính đáng. Nó đã gợi cho con những lời dối trá mà Thầy không hỏi, những lời vô ích, xúc phạm hơn là việc trốn đi ban đêm của con. Nó đã gợi cho con những lời đó trong khi cười nhạo, thỏa mãn vì đã làm cho con xuống thêm một bậc nữa, và làm cho Thầy một đau đớn khác nữa. Qủa thực, rất nhiều bệnh nhân sẽ tới, nhưng bệnh nhân trầm trọng nhất không đến với thầy thuốc của nó, và chính thầy thuốc cũng phát bệnh vì bệnh nhân này không muốn được lành. Qủa thực, tất cả đều thực, kể cả Thầy đã thì thầm một lời mà con không hiểu. Sau những lời Thầy đã nói với con, con có thể đoán ra.
Giêsu nói giọng nhỏ nhẹ, nhưng rất sắc bén, rất đau đớn, đồng thời rất nghiêm khắc, tới nỗi Judas, vào những lời đầu tiên thì tươi cười, đứng thẳng, trơ tráo, ở rất gần Giêsu, từ từ ông giật lùi, co rụt lại, làm như mỗi lời là một roi đòn, trong khi Giêsu luôn luôn thẳng đứng, thực sự một quan tòa, và thực sự thê thảm trong thái độ đau đớn của Người.
Bây giờ Judas bị kẹt giữa chiếc thùng nhồi bột và góc tường, ông lẩm bẩm: “Nhưng... con không biết...”
- Không biết? Vậy Thầy nói cho con biết, vì Thầy không sợ nói sự thật: Tên nói dối! Đó là điều Thầy nói cho con. Nếu người ta còn chịu đựng được đứa trẻ nói dối, vì nó không biết tầm mức của một lời nói dối, và người ta còn dạy được cho nó không nói dối nữa, nhưng nơi người lớn thì người ta không chịu đựng được, và nơi người tông đồ, môn đệ của chính Chân Lý, nó gây ra sự ghê tởm, một sự ghê tởm hoàn toàn. Đó là tại sao Thầy chờ con suốt đêm, và tại sao Thầy khóc ướt bàn, nơi có cái quẹt. Và rồi Thầy đã thức và gọi con
604
bằng tất cả linh hồn Thầy trong ánh sáng của các vì sao. Đó là tại sao Thầy bị ướt sương giống như người tình trong Thánh Vịnh. Nhưng đầu Thầy bị phủ sương mai một cách vô ích, các lọn tóc Thầy bị ướt sương đêm một cách vô ích. Thật vô ích việc Thầy gõ vào cửa của linh hồn con để nói với nó: “Hãy mở cho Thầy, vì Thầy yêu con, mặc dù con không trong sạch”, và cả đến chính vì nó dơ bẩn nên Thầy muốn vào để thanh tẩy nó; chính vì nó bệnh nên Thầy muốn vào để chữa nó. Hãy cẩn thận, Judas! Hãy canh chừng kẻo chú rể bỏ đi và đi luôn, và con không thể tìm thấy Người nữa... Judas, con không nói sao?...
- Bây giờ qúa trễ để nói rồi! Thầy đã nói: con làm Thầy ghê tởm. Hãy đuổi con đi!...
- Không. Ngay các người cùi cũng không làm thầy ghê tởm, nhưng Thầy thương họ. Nếu họ gọi Thầy, Thầy chạy tới và Thầy thanh tẩy cho họ. Con không muốn được thanh tẩy sao?
- Qúa trễ rồi... vô ích. Con không biết nên thánh. Hãy đuổi con đi, con đã bảo Thầy.
- Thầy không phải là một trong số các bạn pharisiêu của con, họ gọi vô số thứ là ô uế, họ chạy trốn hay xua đuổi chúng cách cay nghiệt, trong khi họ có thể thanh tẩy cho chúng bằng đức bác ái. Thầy là Vị Cứu Tinh, và Thầy không xua đuổi ai cả.
Một yên lặng kéo dài. Judas ở yên trong góc của ông, Giêsu tựa lưng vào một cái bàn, mệt mỏi, khổ sở, tựa như Người đứng được là nhờ cái bàn... Judas ngẩng đầu lên nhìn Người, ngập ngừng và thì thầm: “Vậy nếu con bỏ Thầy thì Thầy sẽ làm gì con?”
- Chả làm gì cả. Thầy tôn trọng ý muốn của con trong khi cầu nguyện cho con. Nhưng đến phiên Thầy, Thầy cũng nói với con rằng nếu bây giờ con bỏ Thầy thì cũng qúa trễ rồi.
- Tại sao Thầy?
- Tại sao? Con biết điều đó cũng như Thầy... Bây giờ nhóm lửa lên đi. Người ta đã đang bước ở trên lầu. Hãy dẹp chuyện ô nhục đi tại đây, ở giữa chúng ta. Đối với mọi người, chúng ta không ngủ được nên chúng ta tụ ở đây vì muốn sức nóng... Cha của con ơi!...
605
Trong khi Judas lại gần lò với những cành cây đã xếp sẵn, ông thổi cho cháy vào những dăm bào, Giêsu để bàn tay trên đầu, rồi bịt vào hai mắt...
228* GIÊSU VÀ VALÊRIA.
PHÉP LẠ CHO THẰNG BÉ LÊVI Ở NOBÊ
Giêsu đang ở giữa các bệnh nhân và các người hành hương từ nhiều nơi thuộc xứ Palestin đến với Người. Có cả tới một nhân viên hàng hải người Tyr mà một tai nạn ngoài biển đã làm cho ông bại liệt. Ông kể sự bất hạnh của ông: Sự lắc lư đã làm rơi các vật nặng, và các hàng hóa nặng đã rớt trên ông, làm thương tổn cột sống của ông. Ông không chết, nhưng như vầy còn tệ hại hơn là chết. Vì bất toại như vậy, ông bó buộc cha mẹ ông phải bỏ công việc của họ để săn sóc ông. Ông nói rằng ông đã đi với họ tới Caphanaum, rồi tới Nazarét, và ông được Maria cho biết rằng Người đang ở Juđê, và chính xác là ở Jêrusalem: “Bà đã cho con tên người bạn có thể cho Thầy trọ, và một người Galilê quê ở Sêphoris bảo con rằng Thầy ở đây, và con đã tới. Con biết rằng Thầy không khinh dể ai cả, kể cả các người Samari. Và con hy vọng Thầy nhận lời con. Con có biết bao đức tin”. Vợ ông ta không nói, nhưng bà ngồi chồm hổm bên cái chõng của người bệnh và nhìn Giêsu với đôi mắt van nài hơn hết mọi lời nói.
- Ông bị trúng ở chỗ nào?
- Chỗ bên dưới cổ. Ngay chính chỗ đó, con bị chạm mạnh nhất, và con nghe thấy ở trong đầu con một tiếng động giống như tiếng kêu khi người ta đập vào tấm đồng. Rồi sau đó, nó được thay thế bằng tiếng gầm liên tục của biển trong lúc bão tố; và các ánh sáng, các ánh sáng đủ mầu nhảy múa trước mắt con... Rồi con không cảm thấy gì nữa trong nhiều ngày. Chúng con đã đi trong vùng biển của Cintium, nhưng con thấy mình ở nhà mà không biết bằng cách nào. Rồi con thấy tiếng gầm thét ở trong đầu và các ánh sáng ở trước mắt trong lâu ngày và lâu ngày. Rồi nó qua đi... Nhưng hai tay đã chết, hai chân cũng vậy. Chúa ơi, một nam nhi chấm hết ở
606
tuổi bốn mươi, mà con có bảy đứa con!
- Bà ơi, đỡ chồng bà lên và để lộ chỗ bị đụng ra coi.
Người đàn bà vâng lời, không nói gì. Với các cử chỉ khéo léo và đầy tình mẫu tử, được giúp đỡ bởi các người đi với bà, tôi không biết đó là anh trai hay anh rể của bà, bà luồn một tay dưới vai của chồng bà, trong khi tay kia bà đỡ lấy đầu ông, và với sự nhẹ nhàng như khi người ta trở mình cho đứa trẻ mới sinh, bà đỡ cơ thể nặng của ông lên khỏi giường. Một cái thẹo đỏ chỉ cho biết chỗ bị đập mạnh nhất.
Giêsu cúi xuống. Mọi người đều nghển cổ lên để nhìn. Giêsu ấn đầu ngón tay lên vết thẹo và nói: “Ta muốn!” Người đàn ông có một co giật giống như bị điện giật, và ông phát ra tiếng kêu: “Ôi! Lửa!”
Giêsu nhấc ngón tay ra khỏi xương sống bị thương và người nói: “Đứng dậy đi!”
Người đàn ông không đợi nói hai lần. Ông chống hai cánh tay trơ trơ từ bao tháng trời của ông trên cái chõng, lúc lắc để gạt ra hết những người đỡ ông, ném hai chân xuống khỏi chõng và đứng dậy. Sự kiện xảy ra trong thời gian rất mau hơn thời gian tôi đã dùng để diễn tả phép lạ.
Người đàn bà kêu lên, các người bà con của bà kêu lên, người đàn ông được lành giơ hai tay lên trời, trở nên câm nín vì niềm vui. Sau một lúc vui kinh ngạc, ông trở lại với chính mình, với sự vững vàng của một nam nhi nhanh nhẹn hơn, ông thấy mình ở trước mặt Giêsu, lúc đó ông tìm ra được lời và kêu lên: “Xin chúc tụng Ngài và Đấng đã sai Ngài. Tôi tin vào Thiên Chúa của Israel và vào Ngài, Đấng Messi của Người”. Và ông qùi phục xuống đất để hôn bàn chân Giêsu trong khi người ta vẫn còn hò la.
Rồi đến các phép lạ khác cho các trẻ em, các phụ nữ, và các người gìa là phần đông. Rồi Giêsu nói:
- Các con đã thấy các phép lạ: các xương bị gẫy được lành, các chi thể chết sống lại. Điều đó là do Chúa ban cho các con để củng cố đức tin nơi những người đã tin, và kích thích niềm tin nơi những
607
kẻ không tin. Và phép lạ được chấp nhận cho mọi người thuộc mọi nơi đã đến đây để tìm sức khỏe, vì được thúc đẩy bởi lòng tin vào khả năng chữa lành của Thầy.
Ở đây có những người Do Thái và người Galilê, người Liban và người Syro-Phênici, dân cư miền Batanê xa xôi và dân các miền bờ biển. Tất cả đã đến, không lo gì về thời tiết và đường dài, và các người đi hộ vệ họ cũng không phàn nàn, lẩm bẩm vì phải để lại các công việc, phải bỏ rơi việc buôn bán, vì mọi hy sinh đều là không so với điều họ sẽ nhận được. Họ loại trừ sự ích kỷ và những do dự con người, loại bỏ những tư tưởng chính trị và tôn giáo là những bức tường ngăn cản người ta coi nhau như tất cả đều là anh em, và tất cả đều bình đẳng về đời sống, về đau khổ, về ước ao và hy vọng sức khỏe và sự an ủi.
Và Thầy, với tất cả những người biết hợp nhất trong hy vọng, điều cũng đã là đức tin, Thầy ban cho sức khỏe và sự an ủi, bởi vì đó là điều chính đáng.
Thầy là mục tử phổ quát, và Thầy phải đón nhận tất cả những con chiên muốn gia nhập vào bầy của Thầy. Thầy không phân biệt các chiên lành mạnh với các con bệnh tật, các con yếu đuối với các con cường tráng, các con đã biết Thầy vì đã thuộc về bầy của Thiên Chúa, và các con chiên cho tới lúc này chưa biết Thầy, và cả đến chưa biết Thiên Chúa thực. Vì Thầy là mục tử của nhân loại, và Thầy nhận các chiên ở khắp nơi nó sống và nó hướng về Thầy. Đây là những con chiên gầy gò, dơ bẩn, bị hạ giá, ngu muội, bị đánh bởi các mục tử không yêu chúng, xua đuổi chúng và nói rằng chúng ô uế. Không có sự ô uế nào không thể được thanh tẩy. Không có sự ô uế nào có thể bị xua đuổi viện lẽ là ô uế khi người ta muốn thanh tẩy và cầu xin sự giúp đỡ để được thanh tẩy.
Những ước ao tốt lành là do Thiên Chúa kích thích. Nếu Người đã kích thích nó thì đó là dấu Người muốn cho nó thành sự thật. Chính Thánh Thần của Thiên Chúa, bởi lời cầu nguyện khôn tả, đã xin sự kích thích này của Tình Yêu cho hết mọi người, vì Thánh Thần của Thiên Chúa ước ao lan tràn và trở thành phong phú. Lan
608
tràn bằng cách yêu một số lượng vô biên các thực thể, như vậy cũng chỉ hơi đủ để làm vừa lòng Tình Yêu Vô Hạn của Người; trở thành phong phú bởi tình yêu của một số lượng vô biên các thực thể được lôi kéo về với Người bởi hương thơm êm đềm của Người. Vì vậy không ai được khinh dể và xua đuổi những kẻ muốn gia nhập bầy chiên thánh.
Điều này Thầy nói cho các con có ấp ủ ở trong lòng cái tư tưởng của phần lớn Israel: tư tưởng phân biệt và xét đoán không đẹp lòng Thiên Chúa, vì nó trái ngược với chương trình của Người, là qui tụ mọi dân thành một dân duy nhất, mang tên của Đấng Messi do Người sai tới.
Nhưng lúc này Thầy cũng nói với tất cả các con từ ngoài mà tới, với những con chiên mà cho tới lúc này là những chiên rừng, nhưng cảm thấy muốn gia nhập vào bầy duy nhất của Mục Tử Duy Nhất, Thầy nói: Cầu cho không gì làm cho họ nản lòng, không gì làm hạ thấp phẩm gía của họ. Không một người tà giáo nào, không một kẻ thờ tà thần nào, không một lối sống nào khác với lối sống Thầy dạy, mà lại có thể bị từ chối hay xua đuổi, để cho phép các tâm hồn được canh tân, được giải phóng khỏi hết mọi cây xấu, để có khả năng đón nhận các hạt giống mới, và mặc lấy bộ y phục mới.
Chính điều đó, còn hơn là sức khoẻ của các chi thể, là cái phải thúc đẩy mọi dân tộc về với Thầy. Cũng vậy - và điều này áp dụng cho các người Hy Bá sống ở Palestin, cũng như các người Hy Bá và dân tân tòng ở miền Diaspora, cũng như cho các dân ngoại - cũng như các con biết đến với Thầy để cái ách của tàng tật được lấy đi khỏi thân xác bệnh hoạn của các con, hãy biết đến để tâm hồn các con được lấy đi cái ách của tội lỗi và tà giáo. Tất cả các con phải xin thầy trước tiên, và ước ao bằng tất cả sức lực của các con, để được giải phóng khỏi những gì làm cho tâm hồn các con thành nô lệ của các quyền lực xấu xa đang thống trị nó. Các con phải ước ao sự giải phóng này. Trước tiên, phải muốn được Nước Thiên Chúa ở trong các con như là phép lạ thứ nhất. Bởi vì một khi Nước Thiên Chúa đã đến trong các con, thì mọi sự khác sẽ được ban cho các con, và được ban theo cách để ơn huệ không đè nặng như một hình
609
phạt ở đời sống bên kia.
Các con đã không nghĩ đến thời tiết xấu, đến sự mệt nhọc, đến tiền bạc bị mất, để có được sức khỏe cho các chi thể là cái cho dù nó được chữa lành hôm nay, nhưng trong một tương lai gần, nó sẽ bị cái chết của thể xác hủy hoại. Chính với cùng một con tim như vậy, các con phải biết đương đầu với tất cả để có sức khỏe cho tâm hồn, có đời sống vĩnh cửu và chiếm được Nước Thiên Chúa. Những khinh bỉ, dọa nạt của bà con, của người đồng hương hay của các kẻ mạnh có là gì so với việc các con sẽ có tất cả, và nơi mà các con sẽ được tới, nếu các con biết đến với Chân Lý và Sự Sống. Ai lại ngập ngừng không đến một nơi mà họ biết rằng một đời sống hạnh phúc đang chờ họ, để ở lại hưởng một ngày lễ sẽ chấm dứt vào lúc mặt trời lặn? Nhưng đó lại là điều rất nhiều người làm. Để được ăn no trong một khoảng khắc thời gian, những cái vui vô vị và vô ích của thế giới, họ từ chối chạy đến nơi mà họ sẽ tìm được tới muôn đời những lương thực ngon, sức khỏe thực, niềm vui thực, và không sợ phải thấy nó bị giật mất bởi một kẻ thù ghen ghét.
Trong Nước Thiên Chúa không có thù ghét, không có chiến tranh, không có bất công. Ai biết vào đấy thì không còn phải biết tới đau đớn, lo âu, quấy nhiễu, nhưng nó được sự bình an vui sướng tỏa ra từ Cha Thầy.
Thầy giải tán các con. Hãy đi, hãy trở về làng mạc của các con. Bây giờ các môn đệ của Thầy đã đông và rải rác khắp các miền của Palestin, hãy nghe họ, nếu các con muốn biết giáo lý của Thầy và sẵn sàng cho ngày quyết định, ngày mà đời sống vĩnh cửu của rất nhiều người sẽ tùy thuộc vào. Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy để nó đi theo với các con.
Sau khi đã chúc lành cho đám đông, Giêsu vào trong nhà... Các tông đồ còn ở lại bên ngoài một lúc, rồi họ vào để dùng bữa, vì mặt trời đã lên cao trong bầu trời, chứng tỏ rằng đã chính ngọ.
Họ ngồi vào cái bàn thô kệch để dùng lương thực gồm có phó mát, rau cải nấu với nước, đồ gia vị và dầu. Sau khi Người đã chúc lành cho của ăn, họ nói về những biến cố của buổi sáng. Họ mừng vì số môn đệ giảng Tin Mừng bây giờ đã có thể cho Thầy bớt mệt
610
bởi nói liên tục trong điều kiện mệt mỏi của Người lúc này.
Qủa thực, từ thời gian gần đây, Giêsu trở nên gầy gò hơn nữa. Mầu da của Người thường thì có mầu trắng ngà đậm, với hơi một chút hồng ở bên dưới mầu da đậm ở hai bên gò má. Nhưng bây giờ nó hoàn toàn trắng, giống như cánh hoa mộc lan đã mất sự tươi tắn của nó. Trước kia tôi đã sống ở Milan lâu năm, tôi biết cái mầu tế nhị của đá cẩm thạch Candolia đã được dùng để xây cái vòm tuyệt vời ở đó. Khuôn mặt của Chúa vào những tháng đau đớn sau cùng trong cuộc sống dương gian của Người, tôi thấy đúng là có mầu của loại đá này. Nó không trắng, không hồng, không vàng, nhưng nó nhắc nhở tới sắc thái tinh tế nhất của ba mầu này. Mắt lõm sâu hơn, bởi vậy có vẻ âm u hơn, có lẽ cũng là một sự mệt mỏi làm khó chịu cho mu mắt và tròng mắt. Đây là mắt của người ngủ ít, khóc nhiều và đau khổ. Bàn tay như dài hơn, bởi vì nó mất thịt và xanh. Bàn tay êm dịu của Chúa tôi đã thấy nhô lên những đường gân và mạch máu, và có những chỗ lõm vì gầy còm, dưới đó lộ ra những xương. Bàn tay thánh tử đạo, đã sẵn sàng cho chiếc đinh xuyên qua, và lý hình sẽ dễ dàng tìm được điểm để đặt mũi đinh, vì không có lớp mỡ trên bàn tay khắc khổ của Chúa tôi. Bây giờ nó buông lơi như vì mệt mỏi, trên tấm gỗ đậm mầu của mặt bàn, trong khi Người lắc đầu, mỉm cười cách khó khăn với các tông đồ, vì họ nhận ra sự mệt mỏi vô tận nơi các chi thể của Người, nơi giọng nói của Người, nhất là nơi con tim Người, qúa đau khổ, qúa kiệt quệ bởi phải cố gắng hợp nhất bao con tim khác nhau; phải chịu đựng để giữ kín sự ô nhục của người môn đệ bất khả trị.
Phêrô ra lệnh: “Từ nay tới lễ cung hiến Đền Thờ, Thầy phải tuyệt đối nghỉ ngơi. Chính chúng con sẽ lo cho những người tới. Thầy, Thầy sẽ tới... đúng, tới nhà Tôma. Thầy sẽ ở gần đây trong bình an”.
Tôma hỗ trợ đề nghị của Phêrô, nhưng Giêsu lắc đầu. Không, Người không muốn đến đó.
- Vậy Thầy sẽ không nói trong những ngày này. Chúng con có thể nói. Đây không phải là những lời cao xa. Chúng con sẽ bằng
611
lòng với những gì chúng con biết. Còn Thầy, Thầy chỉ lo cho các bệnh nhân thôi.
- Việc đó chúng con cũng có thể làm - Judas Iscariot nói.
- Hum! Tôi, tôi từ chối việc đó - Phêrô nói.
- Nhưng anh cũng đã làm!
- Chắc chắn rồi. Khi Người không ở với chúng ta, và chúng ta phải giới thiệu Người và làm cho Người được yêu. Nhưng lúc này Người ở đây thì chính Người làm các phép lạ. Chỉ mình Người xứng đáng. Chúng ta, phép lạ!!! Nhưng chúng ta cần nhận phép lạ để cải cách chính mình, vì tôi thấy rõ, tự chúng ta, không bao giờ chúng ta làm được điều gì tốt. Chúng ta là những kẻ khốn nạn, tội lỗi và ngu dốt.
- Làm ơn hãy nói về anh thôi. Tôi, tôi không hề cảm thấy khốn nạn! - Judas Kêriot đối đáp.
- Thầy bị mệt. Sự mệt mỏi của Người là về tinh thần hơn là vật chất. Nếu thực tình chúng ta yêu Người thì hãy tránh đừng cãi cọ. Đó là điều làm cho Người mệt nhất - Zêlote nói cách nghiêm nghị.
Giêsu ngước mắt lên nhìn vị tông đồ già luôn luôn khôn ngoan, và Người giơ tay qua bàn để vuốt ve ông. Zêlote cầm bàn tay trắng này trong đôi tay nâu của ông và hôn nó.
- Anh có lý. Nhưng tôi cũng có lý khi tôi nói rằng Người phải tuyệt đối nghỉ ngơi. Người có vẻ bệnh! - Phêrô nhấn mạnh.
Mọi người đều đồng ý, kể cả ông già Gioan và Êlise, bà nói: “Tôi đã nói vậy từ lâu rồi. Về điều này, tôi muốn...”
Có tiếng gõ ở cổng.
Andrê ở gần nhất, ra mở. Ông ra khỏi phòng và khép lại sau lưng.
Ông trở vào: “Thưa Thầy, có một người đàn bà, bà năn nỉ xin gặp Thầy. Có một đứa con gái nhỏ đi với bà. Chắc bà thuộc cỡ lớn, dù là bà mặc y phục đơn giản. Bà không bệnh, con gái bà cũng không, con thấy vậy. Nhưng con không biết tại sao bà trùm khăn dầy. Đứa bé gái ôm trong tay một bó hoa tuyệt vời”.
- Bảo bà ta đi đi! Chúng ta đang nói là Người phải nghỉ ngơi, và
612
chú không cho Người cả đến ăn xong bữa! - Phêrô cầu nhầu.
- Tôi đã nói vậy với bà, nhưng bà nói là bà sẽ không làm mệt cho Thầy, và bà nói chắc chắn Người sẽ vui vì gặp bà.
- Bảo bà ta rằng ngày mai hãy đến cùng với mọi người. Bây giờ Thầy sắp đi nghỉ.
- Andrê, hãy dẫn bà lên phòng trên sân thượng, Thầy lên ngay lập tức - Giêsu nói.
- Đó! Tôi biết mà! Người dàn xếp như vậy đó! Đúng hệt như chúng ta tính làm - Phêrô bực mình.
Giêsu đứng dậy, và trước khi ra ngoài, Người đi qua đàng sau Phêrô, đặt một tay lên vai ông, cúi xuống hôn lên tóc ông và nói: “Tốt, Simon! Kẻ yêu Thầy làm Thầy bớt mệt hơn là nằm nghỉ trên giường”.
- Nhưng Thầy có biết đó là người yêu Thầy không?
- Ôi! Simon! Sự lo lắng làm con nói những lời mà con đã hối tiếc rồi, vì con nhận ra là nó ngu dốt! Tốt, tốt! Một người đàn bà đến với một đứa trẻ ngây thơ, bà dẫn đến cho Thầy đứa trẻ ngây thơ của bà, tay ôm đầy hoa, đó chỉ có thể là một người yêu Thầy, là người thấy rằng Thầy cần một chút tình yêu và sự trong trắng ở giữa bao là thù ghét và ô uế.
Rồi Người ra, đi lên cầu thang của sân thượng, trong khi Andrê đã làm xong sứ mạng, trở vào nhà bếp.
Người đàn bà đứng ở cửa căn phòng trên sân thượng, cao lớn, thẳng thắn dưới áo khoác dầy mầu xám. Khuôn mặt phủ một lớp vải lụa mầu ngà, rủ xuống từ chiếc mũ áo bao quanh khuôn mặt bà. Đứa bé gái còn con nít, vì nó tối đa là ba tuổi, mặc bộ y phục nhỏ bằng len trắng, với một áo choàng cũng trắng có mũ, nhưng cái mũ bị lật ra sau lưng, để lộ những lọn tóc nâu lạt thật mịn, vì đứa bé ngửa cổ lên nhìn người đàn bà. Khuôn mặt nhỏ của nó lú ra khỏi đống hoa mà nó ôm ghì trong đôi tay. Những bông hoa huy hoàng lộng lẫy mà người ta chỉ tìm thấy trong nước này trong gía băng của tháng mười hai: các bông hồng đào lẫn lộn với những hoa trắng tế nhị mà tôi không biết. Tôi không rành nghề trồng bông.
613
Giêsu vừa đặt chân lên sân thượng thì Người nghe tiếng chào bằng giọng trẻ nhỏ, và đứa bé chạy ra gặp Người, được đẩy bởi người đàn bà, trong khi nó nói: “Chào Chúa Giêsu” (Ave Domine Jésu)
Giêsu cúi thân mình cao lớn của Người xuống trên kẻ ngưỡng mộ tí hon, Người để tay trên đầu tóc nó và nói: “Bình an cho con”. Rồi Người đứng thẳng lên và đi theo con bé. Nó líu lo vui vẻ và trở về với người đàn bà. Bà cúi sâu để chào rồi đứng tránh ra một bên cửa để Thầy đi qua.
Giêsu chào bà bằng cái gật đầu rồi vào trong phòng. Người ngồi xuống trên cái ghế đầu tiên mà người gặp, lặng lẽ tựa như Người chờ. Người rất oai, ngồi trên cái ghế tội nghiệp không có lưng tựa mà giống như Người ngồi trên ngai, phẩm gía của Người thật khổ hạnh. Không có áo khoác, chỉ có áo len mầu xanh dương đậm, không trang trí, hơi bạc mầu ở trên vai, nơi mưa, nắng, bụi và mồ hôi đã tấn công mầu sắc. Y phục sạch sẽ nhưng nghèo nàn, Người có vẻ như đã mặc đỏ thẫm, vì Người rất oai nghiêm trong thái độ của Người. Đầu ở trên cổ rất cứng như bức tượng, bàn tay xòe ra để trên đầu gối, chân trần để trên nền nhà lát gạch đã cũ; hậu cảnh là bức tường trơ trụi, hơi trắng mầu vôi, treo bên trên đầu Người, không phải màn, cũng không phải trướng, mà là cái rây bột và một sợi giây, trên đó có treo những chùm tỏi và hành. Người oai vệ hơn là nếu Người có một vật qúi lót dưới chân với bức tường bằng vàng ở sau lưng, và một tấm màn đỏ giát ngọc ở trên đầu.
Người chờ. Sự oai phong của Người làm cho người đàn bà tê liệt trong một sự tôn kính sững sờ. Đứa bé cũng nín lặng, đứng ở bên cạnh người đàn bà, có lẽ hơi sợ. Nhưng Giêsu mỉm cười và nói: “Thầy ở đây cho các con. Đừng sợ”.
Và thế là mọi sợ sệt đều biến mất. Người đàn bà thì thầm điều gì với con bé, và nó tiến lên, người đàn bà theo sau nó. Đứa bé đến trước đầu gối Giêsu và đặt lên đó tất cả bó hoa của nó và nói: “Các bông hồng của Faustina dâng cho Vị Cứu Tinh của nó”. Nó nói câu đó nhẩn nha giống như người nói một ngôn ngữ mà họ không thông
614
thạo như ngôn ngữ của họ. Trong khi đó, người đàn bà qùi ở đàng sau đứa bé và lật chiếc voan ra đàng sau: Đó là Valêria, mẹ của đứa bé. Bà chào Giêsu theo kiểu chào Rôma của bà: “Ôi, chào Thầy”.
- Nguyện Thiên Chúa đến với con. Làm sao con lại ở đây, và một mình như vầy? - Giêsu nói trong khi vuốt ve đứa bé. Nó đã hết sợ, và nó không bằng lòng vì đã để các hoa trên đầu gối Giêsu, các bàn tay nhỏ của nó còn bới trong đống hoa thơm để chọn những bông mà nó cho là đẹp nhất, và nó nói: “Cầm lấy đi! Cầm lấy! Để cho Thầy đấy, Thầy biết không?” Và nó cầm, lúc thì bông hồng, lúc thì một trong các tán hoa lớn với những ngôi sao nhỏ thơm, nó giơ lên tận gần mặt Giêsu, Người cầm lấy và lại để xuống trên đống thơm tho.
Trong lúc đó, Valêria nói: “Con đã ở Tibêriat, vì con gái con hơi bệnh, và Thầy thuốc đã khuyên điều đó...”
Valêria nghỉ một hơi dài, biến sắc, rồi nói vội: “Và con có một nỗi đau lớn trong tim, nên con ước ao Thầy. Bởi vì với sự đau khổ của con, chỉ có một lương y tìm ra phương dược là Thầy, người Thầy mà trong mọi sự, đều có những lời chính đáng. Vậy dù sao con cũng đến. Bởi ích kỷ để được sự an ủi của Thầy, và cũng để biết con phải làm gì để... vâng, để chứng tỏ sự biết ơn của con đối với Thầy và Thiên Chúa của Thầy, đấng đã cho con có đứa con của con... Nhưng thưa Thầy, chúng con biết rất nhiều. Các phúc trình về các sự kiện, dù nhỏ nhặt nhất trong đế quốc, đều mỗi ngày được đặt trên bàn làm việc của Ponciô Pilatô, ông ta biết hết. Nhưng để quyết định về các đề tài đó thì ông bàn bạc với Claudia... Có rất nhiều phúc trình nói về Thầy và những người Hy Bá nuôi sự náo động trong nước, bằng cách cho Thầy là người dạy sự lay tỉnh quốc gia, đồng thời là nguyên nhân sự thù ghét trong dân chúng. Claudia nhìn cách chính đáng khi bà nói với chồng bà rằng trong cả xứ Palestin, chỉ có một người ông không phải sợ sẽ là nguyên nhân bất hạnh cho ông, chính là Thầy. Và Pilatô nghe lời bà ngày qua ngày... Cho tới lúc này thì Claudia là người mạnh hơn, nhưng nếu mai
615
ngày có một sức mạnh khác thống trị Pilatô... Vậy con đã biết và cảm thấy rằng sự vô tội của con sẽ an ủi Thầy...
- Con có qủa tim đầy tình thương và được soi sáng. Nguyện Thiên Chúa soi sáng cho con cách hoàn toàn, và hãy canh chừng đứa nhỏ của con bây giờ và mãi mãi.
- Cám ơn Chúa. Con cần Thiên Chúa... - và những giọt nước mắt rơi xuống từ mắt Valêria.
- Đúng, con cần Người, và nơi Thiên Chúa, con tìm được mọi an ủi khích lệ, và con sẽ biết tìm ra một vị hướng dẫn để sống công chính bằng cách xét đoán, tha thứ và yêu thương, nhất là để giáo dục con bé này, để nó có một đời hạnh phúc của những kẻ là con của Thiên Chúa thực.
Con coi: Vị Thiên Chúa mà con không biết, mà có lẽ con đã cười nhạo Người và lề luật của Người, rất khác với các thần của các con, các lề luật và các thực thi tôn giáo của các con; đấng mà chắc chắn con đã xúc phạm bởi lối sống ở nơi mà nhân đức không được kính trọng, và biết bao điều khác nữa, tuy nhẹ, nếu con muốn nói, nhưng đã dẫn tới việc làm tổn thương nhân đức cách trầm trọng, và xúc phạm đến Thiên Chúa đã tạo dựng nên con. Vị Thiên Chúa này đã yêu con biết bao, mà do sự đau đớn con đã cảm thấy trong nhân tính của người mẹ, của một người mẹ không biết đời sống tương lai, và do đó, không biết tính cách tạm thời của việc chia lìa của thể xác với thể xác, Người đã yêu con biết bao đến nỗi đã dẫn con lại với Thầy, đến nỗi đã dẫn Thầy tới Cêsarê khi con đang hấp hối, có thể nói vậy, trên thân xác của đứa con đã lạnh trong cơn hấp hối; Người đã yêu con tới nỗi sau cùng, Người đã trả nó lại cho con, để con luôn luôn có hiện diện trong tâm hồn con, lòng tốt và quyền phép của Thiên Chúa thật, và để con biết kìm hãm những qúa đáng của dân ngoại, và được củng cố trong tất cả những đau khổ của người đàn bà kết hôn. Người đã yêu con khi, do một đau khổ khác, Người đã củng cố trong con cái ý muốn đến với Đường Đi, với Chân Lý, với Sự Sống, và gắn bó con vào đó cùng với con nhỏ của con, để ít nhất là ngay từ tuổi trẻ của nó, nó có những gì là an ủi và bình an, hạnh phúc và ánh sáng trong những ngày buồn trên trái
616
đất, có những thứ đó để tránh những gì làm đau khổ cho phần tốt nhất trong thực thể của con cũng như trong tình cảm của con. Phần thứ nhất là bản tính tự nhiên tốt và không thể chịu đựng được cái bùn ảm đạm, nơi mà nó bó buộc phải sống; phần thứ hai: sự vô trật tự trong lòng tốt của nó.
Chính trong tình cảm của con, ôi người đàn bà là dân ngoại không phải tại lỗi con, mà là lỗi của thời đại con sống, và của cái thuyết dân ngoại mà con đã lớn lên. Chỉ có kẻ ở trong tôn giáo thực mới biết cho các tình cảm cái gía trị thực của nó, mức độ của nó và sự biểu lộ chính đáng của nó. Con, người mẹ không biết gì về đời sống vĩnh cửu, con đã yêu con nhỏ của con cách vô trật tự, và khi thấy nó sắp chết, con phản động một cách tuyệt vọng để chống lại sự mất mát này, trở thành điên vì cái chết sắp xảy ra. Con giống như người thấy một tên điên bắt lấy kẻ thân thiết nhất của họ, và thấy người này bị treo trên một vực thẳm mà nếu bị rơi vào đó là không thể nào ra được, cũng không thể kể cả được mang ra như một xác chết lạnh cho cái hôn của kẻ yêu nó. Cũng vậy, con đã thấy Faustina của con bị treo trên vực thẳm của hư vô... Bà mẹ tội nghiệp sẽ không còn con gái mình! Không còn trong thân xác cũng như trong tâm hồn. Hư vô: cái tận cùng, cái tận cùng khắc nghiệt là cái chết đối với những kẻ không tin vào đời sống vĩnh cửu.
Con, người vợ dân ngoại, kẻ biết yêu và trung thành, con đã yêu ở trong ông chồng của con một Thiên Chúa ở dưới đất bằng một tình yêu xác thịt. Ông Thiên Chúa đẹp của con đã làm cho mình được con thờ lạy bằng cách hạ phẩm gía của con xuống ngang hàng nô lệ. Người đàn bà hãy tùng phục chồng mình, hãy khiêm nhường, trung thành và trong trắng. Còn ông ta, người đàn ông, là trưởng gia đình, đúng, nhưng là trưởng không có nghĩa là bạo chúa. Là trưởng không có nghĩa là ông chủ bốc đồng, được phép hết mọi thứ cơn chướng không phải chỉ trên thân xác, mà cả trên phần tốt nhất của người vợ. Các con nói: “Ông, Caius, ông ở đâu thì tôi, Caia, tôi ở đó”. Những người đàn bà tội nghiệp của một nơi mà sự dâm dật có ngay trong truyện về các thần của họ. Nếu ai trong các con là người không dâm đãng buông tuồng thì làm sao họ có thể ở nơi các ông
617
chồng của họ ở? Điều không thể tránh được là người đàn bà không dâm đãng, không hư hỏng, sẽ tự tách ra với sự ghê tởm, và cảm thấy một sự đau đớn kinh khủng tựa như bị xẻ thịt ra; một sự kinh sợ, một sự sụp đổ của tất cả những thờ phượng đối với ông chồng mà từ trước đến giờ được chiêm ngưỡng như vị thần, khi bà khám phá ra rằng kẻ mà bà thờ như một Thiên Chúa, chỉ là một vật thể thảm thương, bị thống trị bởi thú tính độc ác, nhục dục, gian dâm, sao lãng, dửng dưng, nhạo cười những tình cảm và những phẩm giá của vợ mình.
Đừng khóc. Thầy biết tất cả mà không cần tới phúc trình của các bách binh đội trưởng. Bà ơi, đừng khóc. Trái lại, hãy học yêu ông chồng bà trong trật tự.
- Con không thể yêu ông ta nữa. Ông ta không đáng yêu nữa. Con khinh dể ông. Con không làm mất gía trị của con bằng cách bắt chước ông. Nhưng con không thể yêu ông ta nữa. Tất cả đã chấm dứt giữa chúng con. Con đã để cho ông đi, không giữ ông lại... thực sự sau cùng con đã biết ơn ông vì ông bỏ đi... Con sẽ không tìm ông. Ngoài ra, ông đã là bạn tình của con khi nào? Bây giờ, một khi để rơi cái vải tôn thờ nó bịt mắt con xuống, con nhớ lại và con cứu xét các hành động của ông: Ông có ở với qủa tim con không khi con khóc vì phải theo ông tới đây, từ bỏ bà mẹ bệnh tật và quê hương con trong khi con là người vợ mới và sắp sinh? Ông ta và các bạn ông cười tự mãn vì những nước mắt và những nôn mửa của con. Ông chỉ cảnh cáo con là đừng làm dơ y phục của ông. Ông có ở với con trong sự luyến nhớ xa quê của con không? Không. Ông ở ngoài với các bạn ông, ở những bữa tiệc mà tình trạng của con không cho phép con tới... Ông có cùng con cúi xuống trên nôi của con thơ không? Khi người ta đưa cho ông coi con bé, ông cười và nói: “Tôi rất muốn bảo để nó xuống đất. Không phải để có các con gái mà tôi đã mang cái gông hôn nhân”. Ông không tham dự vào lễ thanh tẩy và nói rằng đó là một màn kịch vô ích. Và bởi vì con bé khóc, ông bỏ đi và nói: “Người ta hãy cho nó cái tên Libitina, và hãy cống hiến nó cho nữ thần”. Và khi Faustina sắp chết, ông có
618
chia sẻ nỗi lo âu của con không? Ông đã ở đâu vào đêm trước khi Thầy đến? Tại một bữa tiệc trong nhà Valérien. Nhưng con đã yêu ông ta, Thầy nói đúng, đó là Thiên Chúa của con. Tất cả đã có vẻ tốt cho con, ngay nơi ông. Nó đã cho phép con yêu ông... Và con đã là một nô lệ trên hết mọi nô lệ của ý muốn ông. Thầy biết tại sao ông đã tách con ra xa ông không?
- Thầy biết. Bởi vì linh hồn đã tỉnh thức trong thân xác con, và con không còn là một con vật giống cái nữa, mà là một người đàn bà.
- Chính vậy. Con đã muốn làm cho nhà con thành một nhà nhân đức... Và ông đã xin được chuyển đi Antioche, tới gần tòa lãnh sự. Ông không cho con đi theo ông, và ông mang theo những tên nô lệ ưng ý nhất. Ôi! Con sẽ không đi theo ông. Con có con gái con là có tất cả.
- Không. Con không có tất cả. Con có một phần, một phần nhỏ của cái tất cả là cái giúp con nên nhân đức. Cái Tất Cả là Thiên Chúa. Con gái con không được là lý do cho sự bất công đối với Đấng Tất Cả, nhưng là lý do cho sự công chính. Con có bổn phận phải nên nhân đức cho nó và với nó.
- Con đến để an ủi Thầy mà hóa ra Thầy lại an ủi con. Nhưng con cũng đến để hỏi Thầy phải giáo dục con bé này thế nào để xứng đáng với Vị Cứu Tinh của nó. Con đã nghĩ đến trở thành tân tòng của qúi vị, và cho cả nó nữa...
- Còn chồng của con?
- Ôi! Tất cả đã chấm dứt với ông ta rồi.
- Không. Tất cả mới bắt đầu. Con luôn luôn là vợ ông. Bổn phận của một người vợ tốt là làm cho chồng mình nên tốt.
- Ông ta nói ông muốn ly dị, và chắc chắn ông sẽ làm. Về điều đó...
- Ông ta sẽ làm, nhưng ông ta chưa làm. Và bao lâu ông ta chưa làm thì con vẫn là vợ ông, ngay theo luật của các con cũng vậy. Và như vậy, con có bổn phận phải ở lại trong địa vị một người vợ của con. Địa vị của con là chỗ thứ hai trong nhà, đối với chồng con, ở
619
bên con gái con, trước mặt các đầy tớ và thế giới. Con hãy nghĩ: ông ta đã làm gương mù, đúng vậy, nhưng điều đó không miễn cho con việc làm gương sáng về nhân đức. Ông ta bỏ đi, đúng vậy. Con, hãy giữ địa vị của con bên cạnh con gái con và các đầy tớ của con.
Trong thói tục của các con, không phải tất cả đều đáng trách. Khi Rôma còn ít hư hỏng thì các phụ nữ của họ đã trong trắng, chuyên cần, và họ đã phục vụ các thần bằng một cuộc đời nhân đức và với lòng tin. Mặc dù hoàn cảnh dân ngoại tội nghiệp của họ đã làm cho họ phục vụ các thần gỉa tạo, nhưng ý tưởng của họ vẫn tốt. Các bà đã để nhân đức của họ vào ý tưởng tôn giáo, vào nhu cầu phải kính trọng một tôn giáo, một Thiên Tính mà họ chưa biết chính danh, nhưng họ cảm thấy sự hiện hữu của Người, và cảm thấy Người lớn hơn Olympe dâm đãng, nơi các thần hạ cấp ở theo như huyền thoại lưu truyền. Olympe của các con không hiện hữu, các thần của các con không hiện hữu, nhưng nhân đức cổ truyền của các con là hoa trái của sự xác tín là phải nhân đức để có thể được các thần nhìn với tình yêu. Đó là hoa trái của bổn phận mà các con cảm thấy phải có đối với các chư thần mà các con tôn thờ. Trước mắt thế giới, đặc biệt là thế giới Hy Bá của chúng ta, các con bị coi như ngu dại vì những tôn kính mà các con dành cho những cái không hiện hữu. Nhưng đối với Đấng Công Chính thực và đời đời, với Thiên Chúa Tối Cao, Độc Nhất và Toàn Năng, Tạo Hóa của mọi người và mọi vật, thì những nhân đức này, sự kính trọng này, bổn phận này không vô ích. Điều lành thì luôn luôn là điều lành. Lòng tin luôn luôn có gía trị của lòng tin, tôn giáo luôn luôn có giá trị của tôn giáo nếu kẻ theo tôn giáo đó và thực hành nó tin rằng mình ở trong sự thật.
Thầy khích lệ con noi gương các người đàn bà xưa: đẳng cấp, siêng năng, trung thành, ở lại trong địa vị của con là cột trụ và là ánh sáng trong nhà con và của nhà con. Đừng nghĩ rằng các đầy tớ sẽ ít kính trọng con hơn vì con ở một mình. Từ trước tới giờ họ đã phục vụ con vì sợ, đôi khi với cảm tình thù ghét và phản ngụy dấu kín. Từ nay, họ sẽ phục vụ con với tình yêu. Những kẻ khốn nạn
620
yêu những kẻ bị khốn nạn. Các nô lệ của con đã biết sự đau đớn. Niềm vui của con đã là mũi nhọn cay đắng đối với họ. Sự đau khổ của con trong khi lột bỏ cái chớp sáng lạnh lùng của bà chủ, với ý nghĩa đáng ghét nhất của từ ngữ, sẽ mặc lại cho con sự ấm áp của tình thương. Valêria, con sẽ được yêu vừa bởi Thiên Chúa, vừa bởi con gái con và các đầy tớ của con. Và dù con không còn là vợ, nhưng là người vợ ly dị, con hãy nhớ (Giêsu đứng dậy) rằng sự chia lìa hợp pháp không loại bỏ bổn phận của người đàn bà là trung thành với lời thề của người vợ.
Con muốn gia nhập tôn giáo của chúng ta, một trong các lề luật của Thiên Chúa là: người đàn bà là xác thịt của xác thịt người chồng, và không có gì, cũng không người nào có thể chia lìa cái mà Thiên Chúa đã làm cho thành một thân xác duy nhất. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có sự kiện ly dị. Nó đã đến như kết qủa xấu xa của sự dâm đãng của loài người, của tội nguyên tổ, của sự trụy lạc loài người. Nó không đến từ Thiên Chúa một cách hồn nhiên. Thiên Chúa không thay đổi lời của Người. Mà Thiên Chúa đã nói bằng cách linh ứng cho Ađam, lúc vẫn còn vô tội, và như vậy là Người nói với một trí khôn thông minh, không bị tội lỗi phủ mờ, những lời: vợ chồng, một khi đã kết hợp, thì phải là một thân xác duy nhất. Thể xác không chia lìa với thể xác, ngoại trừ bởi sự bất hạnh của cái chết hay bệnh tật.
Sự ly dị theo Môise, được chấp nhận để tránh những tội ác tàn bạo, chỉ cho người đàn bà một chút tự do hèn mọn. Người phụ nữ ly dị luôn luôn là người đàn bà giảm giá trong tư tưởng người đàn ông, dù bà ta ở vậy hay bước qua một hôn nhân thứ hai. Trong sự xét xử của Thiên Chúa, nếu bà ta ly dị do ác tâm của người chồng và bà vẫn giữ tình trạng ly dị đó, thì bà là một kẻ tội nghiệp. Nhưng nếu bà ta ly dị bởi sự đê tiện của lỗi riêng bà và bà lại tái hôn, thì bà chỉ là một tội nhân, một kẻ gian dâm. Còn con, nếu con muốn gia nhập tôn giáo của chúng ta, con muốn làm việc đó để theo Thầy, trong khi Thầy, Ngôi Lời của Thiên Chúa, thời kỳ của tôn giáo trọn lành đã tới, và Thầy nói với con điều Thầy đã nói với nhiều người: người
621
ta không được phép chia lìa điều Thiên Chúa đã phối hợp, kẻ nào mà vợ hay chồng còn sống mà tái hôn thì luôn luôn là gian dâm.
Ly dị là việc làm điếm hợp pháp, nó đặt người đàn ông và người đàn bà vào hoàn cảnh để phạm tội dâm ô. Người đàn bà ly dị khó lòng luôn luôn là bà góa của người chồng còn sống, và khó lòng là bà góa trung thành. Người đàn ông ly dị thì không bao giờ trung thành với hôn nhân lần đầu. Người nọ cũng như người kia, khi bước qua một cuộc phối hợp khác, đã xuống dốc từ ngôi vị làm người tới hàng con vật thô thiển: loài vật có thể thay đổi con cái ở mọi tiếng gọi của giác quan. Tội tà dâm nguy hiểm cho gia đình và xứ sở, là tội ác đối với các trẻ vô tội. Các trẻ em của các người ly dị đương nhiên sẽ xét đoán cha mẹ chúng. Sự xét đoán của các trẻ em sẽ nghiêm khắc! Các con cái sẽ kết án cha mẹ, ít là một trong hai người. Và vì sự ích kỷ của cha mẹ, các trẻ em bị kết án sống một đời tình cảm bị cắt cụt. Nếu sau đó, do hậu qủa gia đình của sự ly dị đã phân chia người cha hay người mẹ đối với con cái, lại thêm vào một cuộc hôn nhân mới của người cha hay người mẹ là người được ký thác giữ các đứa con vô tội, thì cùng với án phải sống một đời tình cảm bị cưa cụt mất một trong hai người, chúng phải chịu thêm một sự cưa cụt khác: bị mất hoàn toàn hay một phần tình cảm của người đó, vì họ bị phân chia hoặc hoàn toàn bận rộn với tình yêu mới và con cái của người yêu mới. Nói về hôn lễ, hôn nhân, trong trường hợp là sự kết hôn mới của một ông hay một bà đã ly dị, tức là tục hóa sự kiện kết hôn. Chỉ có cái chết của một trong hai người, và do đó người còn sống là góa thực sự, mới có thể biện minh cho một hôn nhân thứ hai. Tuy nhiên Thầy xét rằng tốt nhất là nên nghiêng mình trước phán quyết luôn luôn chính đáng của đấng điều hành vận mệnh con người, và bao bọc mình bằng sự trong trắng khi cái chết chấm dứt tình trạng hôn nhân, bằng cách hiến thân hoàn toàn cho con cái, và yêu người đã qua bên kia thế giới trong con cái họ. Đó là tình yêu loại trừ hết vật chất: tình yêu thực sự và thánh thiện.
Những đứa trẻ tội nghiệp thay! Sau một cái chết, phải biết sự
622
sụp đổ của gia đình, sự cay nghiệt của cha kế hay mẹ kế, sự lo buồn bởi thấy những vuốt ve âu yếm bị chia sẻ với những đứa con khác không phải là anh chị em chúng!
Không. Trong tôn giáo không có chuyện ly dị. Bất cứ kẻ nào ký kết sự ly dị dân sự để ký kết một hôn phối mới, đều là gian dâm và tội lỗi. Luật của loài người không thay đổi sắc lệnh của Thầy. Trong tôn giáo của Thầy, hôn nhân sẽ không còn chỉ là một khế ước dân sự, một lời hứa tinh thần, được làm và thừa nhận do sự hiện diện của các nhân chứng được ủy thác việc đó, nhưng nó sẽ là một sợi giây không thể thủ tiêu, được đóng chặt, được hàn, được thánh hóa bởi sức mạnh thánh hóa mà Thầy sẽ ban cho các khế ước đã trở thành Bí Tích, để cho con hiểu, thì tức là các nghi thức thánh. Quyền năng này sẽ giúp thi hành một cách thánh thiện hết mọi nhiệm vụ của hôn nhân. Nó cũng là sự xác nhận tính cách bất khả thủ tiêu của sợi giây liên kết.
Cho tới lúc này, hôn phối là giao kèo hỗ tương tự nhiên và luân lý giữa hai người thuộc hai phái khác nhau. Kể từ lúc mà luật của Thầy sẽ hiện hữu, nó sẽ trải rộng ra tới linh hồn của hai vợ chồng. Bởi vậy nó cũng trở thành một khế ước siêu nhiên, được Thiên Chúa thánh hóa qua trung gian các sứ giả của Người. Bây giờ con biết rằng không có gì ở bên trên Thiên Chúa, vậy điều Người đã kết hợp thì không một quyền bính nào, không một luật nào, không một cơn chướng nào của con người có thể phân chia.
Cái câu: “Caius, anh ở đâu thì tôi, Caia, tôi ở đó” trong nghi thức của các con sẽ tồn tại ở đời bên kia, trong nghi thức của chúng ta, trong nghi thức của Thầy, vì chết không phải là hết, mà là sự chia lìa tạm thời giữa người chồng và người vợ. Nghĩa vụ yêu thương cũng tồn tại ở bên kia cái chết. Chính vì vậy mà Thầy nói rằng Thầy muốn sự trong trắng nơi các kẻ góa bụa. Nhưng con người không biết sống trong trắng, cũng vì thế Thầy nói rằng vợ chồng có bổn phận phải cải thiện cho nhau.
Đừng lắc đầu! Đó là một bổn phận, và phải làm tròn bổn phận này nếu người ta thực sự muốn theo Thầy.
623
- Thầy ơi, hôm nay Thầy khắt khe!
- Không, Thầy là ông thầy, và Thầy có ở trước mặt Thầy một người có thể lớn lên trong đời sống Ân Sủng. Nếu con không là như con đang là thì Thầy sẽ áp đặt con ít hơn. Nhưng con có một khí phách tốt, và sự đau khổ thanh tẩy, trui rèn tấm kim loại của con mỗi ngày một hơn. Một ngày kia con sẽ nhớ đến Thầy, và con sẽ chúc tụng Thầy vì Thầy đã là như Thầy là.
- Chồng con sẽ không trở lại sau lưng...
- Vậy con, con sẽ đi lên phía trước. Trong khi cầm tay đứa trẻ vô tội của con, con sẽ bước đi trên đường công chính, không oán ghét, không báo thù, nhưng cũng không chờ đợi vô ích, không hối tiếc cái gì đã mất.
- Vậy là Thầy biết con sẽ mất ông ta!
- Thầy biết. Nhưng không phải con mất ông ta, mà là ông ta mất con. Ông ta không đáng được con. Bây giờ hãy nghe đây... Thật gay go. Đúng. Con đã mang cho Thầy những bông hồng và những nụ cười thơ ngây để an ủi Thầy... Thầy... Thầy chỉ có thể sửa soạn cho con để đội triều thiên gai của các người vợ bị bỏ rơi... Nhưng hãy suy nghĩ: nếu thời gian có thể lùi lại đàng sau và mang con trở lại buổi sáng mà Faustina đang chết; và nếu qủa tim con bị đặt vào sự lựa chọn giữa con gái con và chồng con, trước sự cần thiết phải mất một trong hai, thì con, con chọn gì?
Người đàn bà suy nghĩ, tái mét, nhưng can đảm trong sự đau khổ của bà sau vài giọt nước mắt mà bà đã đổ ra lúc đầu cuộc đàm thoại... Rồi bà cúi xuống đứa nhỏ của bà đang ngồi trên nền nhà, giải trí bằng cách đặt các hoa nhỏ trắng chung quanh chân Giêsu. Bà ẵm lấy nó, hôn nó và nói: “Chính nó là người con chọn. Vì với nó, con có thể hiến cả chính qủa tim con để làm cho nó lớn lên như con đã học được là người ta phải sống. Con của con! Và được hợp nhất cả sau đời này. Con luôn luôn là mẹ nó, nó luôn luôn là con gái con!” Và bà bao phủ nó bằng những cái hôn trong khi đứa bé ôm ghì lấy cổ bà, toàn là tình yêu và nụ cười.
- Hãy nói cho con, ôi Thầy là người dạy sống anh hùng, hãy nói
624
cho con điều... Phải nuôi nó thế nào để cả hai sẽ ở trong nước của Thầy? Phải dạy nó lời nào, hành động nào?...
- Không cần lời nào cũng như hành động nào đặc biệt. Con hãy toàn thiện để nó phản chiếu sự toàn thiện của con. Hãy yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân để nó học biết yêu. Hãy sống trên trái đất với những tình cảm của con đối với Thiên Chúa, và nó sẽ bắt chước con. Bây giờ hãy vậy đã. Sau này rồi Cha Thầy, đấng đã yêu các con cách đặc biệt, sẽ cung cấp cho các nhu cầu siêu nhiên của các con, và các con sẽ trở nên khôn ngoan trong đức tin là cái sẽ mang tên Thầy. Đó là tất cả những gì phải làm. Trong tình yêu Thiên Chúa, con sẽ tìm thấy tất cả những gì để chống lại điều ác. Trong tình yêu tha nhân, con sẽ có sự giúp đỡ để chống lại những nặng nề của cô đơn. Hãy dạy sự tha thứ cho chính mình con và cho con gái con. Con hiểu điều Thầy nói không?
- Con hiểu... Điều đó chính đáng... Thưa Thầy, con từ giã Thầy. Hãy chúc lành cho người đàn bà tội nghiệp, tội nghiệp hơn một người ăn mày có người bạn trung thành...
- Bây giờ con đang ở đâu? Ở Jêrusalem?
- Không. Ở Béther. Jeanne rất tốt, đã gởi con vào lâu đài của bà... Con qúa khổ ở trên đây. Con sẽ ở đó cho tới khi Jeanne đi Jêrusalem, không bao lâu nữa. Bà sẽ đi Juđê với mẹ Thầy và các môn đệ khác vào những ấm áp đầu tiên của mùa xuân. Rồi con sẽ ở lại với bà một thời gian, và rồi những bà khác sẽ tới, và con sẽ đi với các bà. Nhưng thời gian như vậy đã băng bó vết thương cho con rồi.
- Thời gian, nhưng nhất là Thiên Chúa và nụ cười của con bé này. Chào Valêria. Nguyện Thiên Chúa thực mà con tìm với một tâm hồn tốt, yên ủi và che chở con - Giêsu đặt tay trên đầu con bé để chúc lành cho nó. Rồi người đi lại chiếc cửa đóng trong khi hỏi: “Con đến một mình sao?”
- Không. Với người nô lệ được giải phóng. Xe chờ con ở trong rừng, ở lối vào làng. Chúng ta còn gặp nhau không Thầy?
- Vào lễ cung hiến Đền Thờ, Thầy sẽ ở Jêrusalem, trong Đền
625
Thờ.
- Con sẽ tới đó Thầy ạ. Con cần lời Thầy cho cuộc đời mới của con...
- Hãy đi bình tĩnh. Thiên Chúa không để cho kẻ tìm Người phải thiếu sự trợ giúp.
- Con tin... Ôi! Cái thế giới ngoại giáo của chúng con thật là buồn!
- Có cái buồn ở khắp những nơi nào không có một đời sống thực trong Thiên Chúa. Ngay cả trong Israel người ta cũng khóc... Vì người ta không sống theo luật của Thiên Chúa nữa. Chào. Bình an cho con.
Người đàn bà cúi mình thật sâu và bà bảo con bé cái gì, nó liền giơ hai tay lên và nhắc lại bằng cái giọng chim sẻ con của nó: “Chào Chúa Giêsu!”
Giêsu cúi xuống để nhận trên cái miệng nhỏ cái hôn thơ ngây đã được tạo ra ở đó, và Người lại chúc lành cho nó... Rồi Người trở lại phòng và ngồi trầm tư bên những bông hoa rải rác trên nền.
Qua đi một lát, rồi có người gõ cửa.
- Vào đi!
Cửa mở, và trong chỗ mở hé, hiện ra khuôn mặt ngay thật của Phêrô.
- Con à? Tới đi...
- Không. Chính Thầy là người phải đến với chúng con. Trời lạnh ở đây. Hoa đẹp quá! Đắt gía lắm đây! - Phêrô nói trong khi quan sát Thầy của ông.
- Đúng, đắt. Nhưng hành động và cách người ta hoàn thành nó còn có giá trị hơn hoa. Chúng đã được mang cho Thầy bởi con bé của Valêria, bà Rôma bạn của Claudia.
- Hé! Con biết. Con biết! Nhưng tại sao?
- Để an ủi Thầy. Các bà biết rằng Thầy khổ, và Valêria đã có tư tưởng này. Bà đã nghĩ rằng những bông hoa của một đứa bé ngây thơ có thể an ủi Thầy.
- Một phụ nữ Rôma!... Còn chúng con, Israel, chúng con chỉ cho
626
Thầy sự đau đớn... Judas đã đoán đúng. Ông nói ông đã nhìn thấy một cái xe ngừng lại, và một người đàn bà, chắc là bà Rôma... và...
ông ta bối rối, Thầy ạ... - Phêrô có vẻ rất nghi vấn. Nhưng Giêsu chỉ nói: “Judas đâu?”
- Ở bên ngoài. Con muốn nói là ở ngoài đường, gần khu rừng. Ông ta muốn coi xem ai đến gặp Thầy.
- Chúng ta xuống.
Judas đã ở trong nhà bếp. Ông quay lại và thấy Giêsu vào, ông nói: “Dù Thầy có muốn chối thì Thầy cũng không thể chối được rằng người đàn bà này đến để... phàn nàn điều gì. Các bà vẫn còn chuyện để nói? Các bà không có bận rộn gì khác ngoài rình mò và báo cáo, và...”
- Thầy không bắt buộc phải trả lời cho con, nhưng Thầy trả lời là vì mọi người. Simon Phêrô đã biết đó là ai, và Thầy nói với tất cả tại sao bà lại đến. Ngay cả những người bề ngoài có vẻ là sung sướng nhất, cũng có thể cần đến sự an ủi và lời khuyên... Andrê, lên nhà lấy những bông hoa mà con bé đã mang tới, và hãy đem cho thằng bé Lêvi.
- Tại sao?
- Tại vì nó sắp chết.
- Nó sắp chết? Con vừa gặp nó vào giờ thứ ba, nó khỏe mạnh - Batôlômêo kinh ngạc hỏi.
- Nó đã khỏe mạnh. Nó sẽ chết trước buổi tối.
- Nếu nó bệnh như vậy thì nó sẽ không chơi hoa...
- Không. Nhưng cả nhà đang hoảng sợ. Các bông hoa do Vị Cứu Tinh gởi tới sẽ nói một lời tươi sáng...
Giêsu ngồi, trong khi mọi người nói về sự mong manh của đời sống. Êlise mặc áo khoác vào và nói: “Tôi cũng đi với Andrê... Bà mẹ tội nghiệp này!...”
Người ta thấy Andrê và Êlise xa dần với những bông hoa trong tay...
Giêsu nín lặng, Judas cũng nín lặng, ngập ngừng. Giêsu lặng lẽ nhưng không nghiêm khắc... Judas đi quanh Người, bị châm chích
627
bởi ước ao muốn biết, bởi sự lo âu dằn vặt kẻ không có lương tâm bằng an. Nhưng sau cùng, ông kéo Phêrô ra chỗ riêng để hỏi. Ông bình tĩnh sau khi đã nói với Phêrô, và ông tới chọc Mathêu đang ngồi viết bình tĩnh ở góc bàn.
Andrê chạy về, ông nói như muốn đứt hơi: “Thưa Thầy... Đứa trẻ thực tình sắp chết... Bất chợt... người ta đã bảo là những người điên... Nhưng khi Êlise nói: ‘Của Chúa gởi tới đó’, và con, con đã nghĩ rằng họ sẽ hiểu là để làm đám tang. Nhưng người mẹ và người cha nói cùng một trật: ‘Ôi! Đúng rồi! Chạy đi kêu Người đi, Người sẽ chữa cho nó’”.
- Lời của đức tin. Chúng ta đi - và Giêsu ra, hầu như chạy. Đương nhiên là mọi người đều theo Người, kể cả ông già Gioan, khập khễnh đi theo ở đàng sau mọi người.
Căn nhà ở đầu làng, nhưng Giêsu mau lẹ tới nơi và rẽ ra một lối đi ở giữa đám người đứng chắn cái cửa mở. Người đi thẳng tới một phòng ở đáy lối vào, vì đó là căn nhà rộng mênh mông, rất đông người ở, có lẽ là anh em với nhau.
Trong phòng, người cha, người mẹ, và Êlise đang cúi xuống trên chiếc giường ứng biến. Họ không nhìn thấy Giêsu khi người nói: “Bình an cho nhà này”.
Lúc đó các cha mẹ tội nghiệp mới rời cái giường và tới phục bên chân Giêsu. Chỉ có mình Êlise ở lại chỗ bà đang ở, bận rộn dùng những chất thơm để thoa bóp các bộ phận của cơ thể đang hóa lạnh.
Đứa bé thực sự đã tới mức. Cơ thể nó đã ra nặng và buông xuôi cho cái chết. Khuôn mặt nhỏ của nó mầu sáp với hai lỗ mũi đen thui và đôi môi tím. Đứa bé thở khó khăn với những co rút trong lồng ngực nhỏ, và mỗi hơi thở đều giống như hơi sau cùng, vì nó qúa xa với hơi trước đó.
Người mẹ gục mặt trên chân Giêsu và khóc. Người cha cũng cúi xuống sát đất và nói: “Xin thương! Xin thương!” Ông không biết nói điều gì khác.
Giêsu nói: “Lêvi, lại đây với Thầy!” Và Người giơ tay ra cho nó.
Đứa trẻ, một thằng bé độ năm tuổi, có cái gì giống như sự co
628
giật, tựa như có ai gọi nó qúa mạnh trong khi nó đang ngủ. Nó ngồi dậy dễ dàng, và nó dụi mắt bằng hai nắm tay nhỏ của nó. Nó nhìn chung quanh cách ngạc nhiên, khi thấy Giêsu, nó mỉm cười, nhảy xuống khỏi cái giường nhỏ của nó và bước cách vững vàng lại với Người trong cái áo choàng nhỏ của nó.
Hai bố mẹ vẫn cúi như vậy nên không thấy gì, nhưng tiếng kêu của Êlise: “Lòng nhân từ muôn đời!”, và của các tông đồ, các người tò mò ở ngoài lối vào phát ra một tiếng “Ồ” kinh ngạc, đã báo cho ông bà điều vừa xảy ra. Họ ngẩng mặt lên khỏi đất và họ thấy thằng bé ở đó, khỏe mạnh, tựa như nó không hề gần chết.
Niềm vui làm cho cười, khóc, hô hoán hay lặng thinh, tùy phản ứng của mỗi người. Ở đây nó sinh ra một sự câm nín kinh ngạc, tựa như sợ hãi. Hoàn cảnh qúa khác nhau giữa lúc trước và lúc này, nên hai người cha mẹ tội nghiệp, đã trì độn vì đau đớn, còn ngập ngừng để đón nhận niềm vui.
Nhưng sau cùng họ thành công trong khi đứa trẻ nằm gọn trong cánh tay Giêsu, sự câm lặng được nối tiếp bằng một làn sóng các lời pha lộn những tiếng kêu vui mừng với những lời chúc tụng. Thật khó để theo dõi trận hồng thủy của các lời dư dật và lộn xộn này. Tôi mô tả dựa theo các lời này: khoảng giờ ngọ, đứa trẻ đang chơi trong vườn, nó vào nhà và kêu đau bụng. Bà nó ẵm nó trong tay và giữ nó ở gần lửa, và nó có vẻ hơi đỡ. Nhưng rồi một lát trước giờ thứ chín (15 giờ), nó ói ra chất phân và rơi vào cơn hấp hối ngay. Chứng sưng màng bụng cấp tính cổ điển.
Người cha đã chạy đi Jêrusalem ngay vào lúc có dấu hiệu đầu tiên của cơn bệnh và trở về với một thầy thuốc. Ông thầy thuốc nhìn thấy nó trong lúc nó đang ói, ông nói: “Nó không thể sống được”, rồi ông bỏ đi... Và thật vậy, từ phút nọ qua phút kia, chứng bệnh gia tăng và đứa trẻ bắt đầu lạnh. Các cha mẹ, trong nỗi lo âu của sự bất hạnh không dè này, đã không thể nghĩ tới Vị Cứu Tinh của họ. Chỉ khi Êlise bước vào với những bông hoa và nói: “Giêsu gởi chúng cho Lêvi”, họ mới có được ánh sáng nội tâm và đã nói: “Giêsu sẽ cứu nó”.
- Và Thầy đã cứu nó. Muôn đời chúc tụng! Các bông hoa của
629
Thầy! Lòng trông cậy! Đức tin! Ôi! Đúng, đức tin vào tình yêu của Thầy đối với chúng con! Nhưng làm sao Thầy đã biết? Chúc tụng! Hãy bảo chúng con những gì Thầy muốn! Hãy ra lệnh như với các nô lệ! Chúng con mắc nợ Thầy tất cả!...
Giêsu vẫn luôn luôn ẵm đứa trẻ trong tay, Người nghe họ, Người để cho họ nói cho tới khi họ mệt, để các gân bị một sức căng qúa lớn được co lại và được nhẹ nhõm. Rồi Người nói cách êm đềm: “Thầy yêu các trẻ em và các con tim trung thành. Tất cả các con ở Nobê đã rất tốt đối với Thầy. Nếu Thầy đã tốt với những kẻ ghét Thầy, thì Thầy sẽ ban những gì cho những kẻ yêu Thầy? Thầy đã biết... Và Thầy cũng đã biết rằng sự đau đớn làm cho các con quên đi cái Nguồn của Sự Sống, nên Thầy đã muốn chỉ cho các con con đường...
- Nhưng Chúa ơi, tại sao chính Thầy không đến? Có lẽ Thầy sợ chúng con không tiếp đón Thầy?
- Không. Thầy biết rằng các con sẽ tiếp đón Thầy với tình yêu. Nhưng trong số những người ở chung quanh chúng ta, có người cần được thuyết phục rằng về những gì có liên can tới loài người và tình trạng các tâm hồn, không có gì là Thầy không biết. Và Thầy cũng muốn những người khác hiểu rằng Thiên Chúa trả lời cho những kẻ kêu gọi Người với lòng tin. Bây giờ hãy bình an và hãy luôn luôn lớn lên trong niềm tin vào lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Bình an ở cùng các con. Chào Lêvi. Bây giờ hãy đến với mẹ con đi. Chào bà. Cũng hãy thánh hiến cho Chúa đứa con bà đang mang ở trong bụng bà để ghi nhớ lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với bà. Chào ông. Hãy bảo trì tâm hồn ông trong sự công chính.
Người quay lưng để ra đi. Người phải khó khăn để đi qua giữa đám bà con chen chúc ở lối vào: ông bà, cô chú, anh em họ hàng của đứa được phép lạ. Tất cả đều muốn nói với Giêsu, chúc phúc cho Người, được Người chúc phúc, hôn y phục Người hay bàn tay Người...
Rồi sau đám đông bà con là các dân làng, họ cũng muốn những thứ như vậy. Nhưng những người này đổ ra đường, theo sau Giêsu,
630
để lại những người của căn nhà được chúc phúc bởi phép lạ ở lại với niềm vui của họ. Và trong những con đường đã bắt đầu tối, với những tiếng động thông thường của những giờ mừng lễ, toàn thể Nobê tháp tùng Giêsu trở lại căn nhà nhỏ của Gioan. Và phải tất cả quyền lực của các tông đồ để thuyết phục các người dân trở về nhà họ để Thầy được yên. Cùng với quyền lực, họ cũng phải thêm vào các phương tiện mạnh hơn, bằng cách đe dọa nếu họ không để cho Người nghỉ thì ngày mai tất cả họ sẽ bỏ đi khỏi đấy, để thành công trong việc trấn át của họ.
Và sau cùng, Đấng Mệt Mỏi đã có thể nghỉ ngơi.
229* GIÊSU VÀ NGƯỜI ĐÀN BÀ TỘI LỖI
ĐƯỢC SAI ĐẾN ĐỂ THỬ NGƯỜI
Dân chúng nói chung, và nam giới nói riêng, luôn luôn hơi trẻ con và hơi thô lỗ, hay ít nhất là chất phác, bởi vậy họ rất nhậy cảm đối với những gì có vẻ mới mẻ, khác thường, và âm vang như một ngày lễ.
Sự tới gần của các dịp trọng thể luôn luôn có sức làm con người phấn khởi, tựa như đình đám và lễ lạy làm biến đi những gì khiến cho họ buồn và mệt. Từ lúc gần tới ngày lễ, có một cái gì tôi không biết, một sự vui vẻ hăng hái, hơi bồng bột, khích động mọi người, tựa như đó là tiếng trống của các người man rợ trong các lễ tà thần của họ, hay các công việc hiếu chiến của họ.
Các tông đồ cũng vậy: gần tới Lễ Ánh Sáng, họ ở trong tình trạng khoan khoái. Họ nói huyên thuyên, vui vẻ; họ bắt đầu sắp xếp chương trình, nhắc lại các lễ đã qua. Các lời đàm thoại hơi có vẻ buồn, nhưng rồi không khí ngày lễ trở lại và thúc đẩy họ hành động để mọi sự được tốt đẹp trong ngày lễ.
Đèn đóm ở trong nhà Gioan qúa ít ư ? Ôi! Nhà Tôma ở Rama đầy dẫy! Thế là Tôma đi Rama để lấy đèn. Dầu không được dồi dào lắm ư ? Ôi! Êlise có rất nhiều dầu ở Betsur, và bà biếu. Thế là
631
Andrê và Gioan đi Betsur để lấy dầu. Để làm bánh tráng nướng, phải có ngọn lửa êm của các cành nhỏ, thì đây, hai Giacôbê đi lên núi để lượm. Hình như hơi ít bột, lúa mạch và mật ong cho các món theo nghi thức? Nhưng Nique làm gì ở Jêrusalem? Bà hầu như bị xúc phạm vì người ta không bao giờ hỏi bà thứ gì cả. Vì vậy không gì bằng được biếu mật ong vàng, bột và lúa mạch thuộc về lãnh địa của bà. Và Phêrô cùng với Simon Zêlote tới nhà Nique, trong khi Juđa Alphê giúp Êlise tô điểm cho căn nhà. Cả đến ông già Batôlômêo cũng chia sẻ niềm vui chung: ông cùng với Philíp sơn một nước vôi cho căn nhà bếp ám khói để nó có vẻ vui hơn.
Judas Iscariot dành mối phần trang trí, không ngừng trở về với những giây trường thanh thơm tho, ông trang hoàng ở cửa và đặt khéo léo lên các kệ và bờ lò sưởi.
Buổi chiều trước lễ Ánh Sáng, căn nhà nhỏ tựa như được sửa soạn để đón dâu, vì nó thay đổi biết bao với những chén bát bằng đồng sáng bóng, các cây đèn soi sáng như mặt trời, các cành lá vui tươi trên bức tường trắng, trong khi mùi bánh mì và bánh tráng tỏa lan trong không khí đã được ướp thơm bởi các cành cây đã cắt.
Giêsu để cho họ làm. Người có vẻ như xa xôi với tất cả, rất suy tư và cả buồn nữa. Người trả lời cho những ai hỏi Người, bởi câu hỏi mà họ đặt ra để hỏi Người, họ xin một lời khen về những gì họ đã làm. Chính những câu hỏi này đã cho phép tôi tái lập những việc các tông đồ làm, với những nhận xét của họ: “Tôi đã chẳng có ý kiến hay là về nhà lấy đèn sao?” hay: “Philíp với tôi đã làm rất đúng để quét vôi lại tất cả! Nó có vẻ vui và như rộng rãi hơn”; hoặc nữa: “Thầy thấy không? Êlise rất bằng lòng. Bà thấy như ở nhà bà vào thời các con trai bà. Hôm nay bà hát khi đổ dầu của bà vào đèn, và khi bà nhồi bột với mật ong và đổ sữa vào lúa mạch”; và nữa: “Elchias cứ nói như ông ta muốn, nhưng thực sự mầu xanh làm cho dễ chịu... Nếu Tạo Hóa đã làm ra các cành cây thì là để cho chúng ta dùng, phải không?” Tất cả những lời đó cho phép tôi thiết lập công việc của mỗi người. Mặc dầu Giêsu cũng đã trả lời cho những câu hỏi ước mong một lời khen này, nhưng tư tưởng của
632
Người như xa vắng, điều đó thấy rõ.
Chiều xuống. Sau những lời chào cuối cùng của dân chúng, những người trước khi về để khép kín trong nhà họ, họ ló đầu vào trong bếp để chào Thầy. Sự yên lặng được thiết lập tại Nobê. Đây là giờ ăn bữa chiều, và đã là giờ nghỉ ngơi của các trẻ em và những người gìa, của tất cả những ai mà bệnh tật hay tuổi tác làm cho ra mong manh.
Chắc người ta có tập quán tặng qùa vào dịp lễ Ánh Sáng, vì tôi thấy khi ông gìa Gioan vừa rút lui về phòng nhỏ của ông ở bên cạnh nhà bếp, thì Êlise và các tông đồ cũng hoàn tất: Êlise thì một cái áo, những người khác thì những vật dụng đẽo bằng gỗ, và một màn gió bằng lưới với những sợi nhuộm mầu đỏ, xanh, vàng và tím, công việc đặc biệt của các dân chài.
Tôma, Mathêu, Batôlômêo và Simon Zêlote thì chỉ lo mải nhìn.
- Đó, xong! - Êlise nói khi đứng dậy, giũ quần áo cho khỏi những sợi chỉ dính vào.
- Áo này sẽ giữ cho ông ta được ấm. Ông gìa tội nghiệp! - Phêrô nói khi rờ vào vải. “Hé! Chúng ta, đực rựa, không có các bà, chúng ta thực sự bất hạnh. Tôi tự hỏi nếu không có bà, chúng tôi sẽ sút kém chừng nào sau bao tháng trời vắng nhà. Tôi có thể làm cái này, nhưng nếu phải nhịn đói!...”
- Bà làm rất lẹ. Bà cũng giống bà xã tôi - Batôlômêo nói.
- Tôi cũng vậy, tôi đã làm xong. Gỗ tốt, dễ cắt nhưng đồng thời bền - Thađê nói khi để trên mặt bàn mầu tối một cái hộp có thể dùng để đựng muối hay đồ gia vị.
- Trái lại, công việc của tôi còn giang dở. Có một mạch gỗ cứng không chịu để cho người ta làm việc. Có lẽ tôi không thành công và tôi rất tiếc. Nhưng mạch gỗ sậm mầu ở trên gỗ lạt trông thật đẹp. Coi này Giêsu. Nó không nhắc tới những đỉnh núi được vẽ trên gỗ sao? - Giacôbê Alphê nói, và ông giơ ra một cái như cái bình mà tôi không biết để làm gì, hình dáng thực sự đẹp, với một cái nắp hình bán cầu có những mạch gỗ đẹp ở trên vòm nắp. Nhưng ngay chính trên cái nắp này, tại chỗ cái núm để cầm, là nơi gỗ cứng kháng cự
633
một cách bướng bỉnh.
- Hãy kiên trì, kiên trì, anh sẽ thành công. Hãy nung đỏ sắt để tấn công thớ gỗ, và anh sẽ thành công. Khi đã lấy đi được lớp thứ nhất thì... - Giêsu quan sát và trả lời.
- Nhưng nó không hư vì lửa sao? - Mathêu hỏi.
- Không. Nếu biết sử dụng nó cách khéo léo. Ngoài ra... hoăc là theo cách đó, hoặc là dục bỏ hết.
Giacôbê nung đỏ mũi của cái đục sắc, rồi đưa mũi đỏ vào điểm gỗ cứng. Có mùi gỗ cháy...
- Đủ rồi. Bây giờ hãy làm việc, và anh sẽ thành công - Giêsu nói, và Người giúp ông anh họ bằng cách giữ chặt chiếc nắp tựa như tay Người là cái ê-tô. Hai lần lưỡi đục trượt và sớt vào ngón tay Giêsu.
- Nhấc tay ra đi Em! Anh không muốn làm Em bị thương... - Giacôbê Alphê nói, nhưng Giêsu tiếp tục giữ cái nắp.
Lần thứ ba, cái đục làm chảy máu ở ngón tay cái của Giêsu.
- Đó! Thấy không? Em bị đau rồi. Đưa anh coi!
- Không sao. Hai giọt máu... - Giêsu trả lời trong khi vảy ngón tay để máu chảy ra từ chỗ bị cắt rơi xuống đất. Rồi Người thêm: “Tốt hơn là lau cái nắp đi! Nó bị vết”.
- Không. Cứ để vậy! Như thế nó sẽ qúi hơn. Hãy lau ngón tay Thầy vào đây, ở đây, vào khăn voan của con. Máu của Thầy, máu phước lộc - Êlise nói, và bà gói bàn tay Giêsu trong khăn voan của bà.
Cái nắp bình, nguyên nhân của bấy nhiêu bất hạnh, sau cùng bị khắc phục. Các đường sọc được hoàn tất.
- Trước tiên, nó muốn làm cho người ta đau - Zêlote phê bình.
- Đúng, rồi sau đó nó để cho làm. Thứ gỗ cứng đầu! - Tôma nói.
- Bằng chất sắt, chất lửa và sự đau đớn. Hình như đó là một câu nói hay của người Rôma - Simon Zêlote nhận xét.
- Đối với tôi, không biết tại sao các lời đó lại nhắc tôi nhớ đến các tiên tri về một số điểm. Chúng ta cũng vậy, chúng ta là thứ gỗ cứng đầu... Có lẽ phải có sắt, lửa và sự đau đớn để làm cho chúng
634
ta nên tốt? - Batôlômêo hỏi.
- Thực vậy, phải có những thứ đó. Và như vậy mà vẫn chưa được việc. Thầy, Thầy làm việc với lửa và sự đau đớn của Thầy, nhưng không phải mọi con tim đều biết bắt chước cái gỗ này... Nín lặng coi! Có ai ở bên ngoài... Có tiếng động của bước chân...
Họ lắng nghe, nhưng họ không nghe thấy gì.
- Thầy ơi, có lẽ gió. Có những lá khô ở trong vườn.
- Không. Đó là những bước chân...
- Một con vật ăn đêm nào đó. Con thì con chả nghe thấy gì cả.
- Con cũng không.
- Con cũng không.
Giêsu nghe. Người có vẻ như lắng nghe. Rồi Người ngẩng mặt lên nhìn Judas đăm đăm. Ông ta cũng đang nghe Người, nghe với hết sức lỗ tai của ông còn hơn những người khác. Người nhìn ông đăm đăm tới nỗi Judas hỏi: “Tại sao Thầy nhìn con như vậy?” Nhưng không có câu trả lời, vì một bàn tay đã gõ vào cửa.
Mười bốn khuôn mặt được ngọn đèn soi sáng, chỉ có khuôn mặt của Giêsu là vẫn vậy. Các người khác đều biến sắc.
- Các con ra mở đi! Mở đi, Judas Kêriot.
- Con, không. Con không mở. Chắc đó là kẻ bất lương giả vờ đến trong đêm. Con sẽ không làm hại cho Thầy.
- Simon Jonas, ra mở đi!
- Không đời nào! Đúng hơn là con lấy bàn chặn lối vào! - Phêrô nói và ông sẵn sàng để làm.
- Gioan, mở đi. Đừng sợ.
- Ôi! Nếu thực sự Thầy muốn cho họ vào thì con đi vào phòng ông gìa. Con không muốn thấy gì cả - Iscariot nói, và trong khi nói, ông chạy bốn bước dài tới cửa phòng ông gìa và biến mất trong phòng đó.
Gioan đứng gần cửa, một tay ở trên chìa khoá, nhìn Giêsu với vẻ sợ sệt và thì thầm: “Chúa ơi!...”
- Mở đi. Đừng sợ
- Nhưng đúng rồi! Chúng ta là mười ba nam nhi khỏe mạnh. Họ
635
đâu có kéo tới cả một đạo binh! Với bốn qủa thoi và la lối thật nhiều - Êlise, bà có thể la lối, nếu cần - chúng ta sẽ làm cho họ chạy trốn. Đâu phải chúng ta ở trong sa mạc - Giacôbê Zêbêđê nói, và ông cởi áo dài, thắn tay áo lót, sẵn sàng để tự vệ. Phêrô cũng bắt chước ông.
Gioan vẫn còn ngập ngừng, nhưng ông mở, nhìn qua khe hở, nhưng không thấy gì, ông kêu lên: “Ai làm phiền đó?”
Một giọng đàn bà trả lời yếu ớt tựa như bà đau khổ: “Một phụ nữ. Tôi muốn gặp Thầy”.
- Đây không phải giờ để vào trong nhà - Phêrô nói, vì ông đã tới đứng ở sau lưng Gioan. “Nếu bà bệnh thì làm sao bà lại ở ngoài vào giờ này; nếu bà cùi thì làm sao bà lại phiêu lưu vào trong làng; nếu bà khổ sở thì ngày mai hãy trở lại. Đi đi. Hãy trở lại với công việc của bà”.
- Ôi! Xin thương! Tôi một mình ở trên đường. Tôi đói, tôi lạnh. Xin gọi Thầy cho tôi. Người có tình thương.
Các tông đồ nhìn Giêsu, sững sờ. Giêsu rất nghiêm nghị và nín thinh. Họ lại đóng cửa vào.
- Làm sao Thầy? Ít nhất chúng ta cho bà một tí bánh. Không có chỗ. Phải vào các nhà với một người không quen... - Philíp can thiệp.
- Chờ tí, để tôi ra coi - Batôlômêo nói, và ông cầm theo một cây đèn để coi cho rõ.
- Con không cần phải ra. Người đàn bà này không đói, không lạnh, và bà biết rõ là bà đi đâu. Bà ta không sợ đêm tối. Nhưng đó là kẻ bất hạnh, mặc dù bà không bệnh, cũng không cùi. Đó là cô gái điếm, và cô ta đến để thử Thầy. Thầy nói vậy với các con để các con biết rằng Thầy biết hết, để các con nhìn nhận rằng Thầy biết. Và Thầy còn nói với các con rằng cô ta không đến do sự phóng túng cá nhân, nhưng đến vì cô ta được trả tiền để đến - Giêsu nói lớn tiếng, lớn đủ để người ở phòng kế bên, nơi có Judas, có thể nghe thấy.
- Thầy nghĩ ai là người làm như vậy? Với mục đích nào? - Chính Judas nói. Ông ta đã tái xuất hiện trong nhà bếp. “Chắc chắn không
636
phải các pharisiêu, cũng không phải các luật sĩ, cũng không phải các thầy cả, nếu đó là một gái điếm. Và con không tin là các người của Hêrôđê có đủ... thù ghét để chịu phiền hà mà... con cũng không biết tại sao nữa”.
- Cái tại sao thì Thầy nói nó cho con đây: Để có thể nói rằng Thầy tội lỗi, một người liên lạc với các kẻ tội lỗi công khai. Con biết cũng như Thầy biết là như vậy. Thầy cũng nói với con rằng Thầy không nguyền rủa bà ta cũng như những kẻ đã sai bà. Thầy vẫn luôn luôn là tình thương. Thầy đi tìm bà. Nếu con cho là tốt để đi với Thầy thì hãy đi. Thầy đi tìm bà vì thực sự bà là kẻ bất hạnh. Bà đã nói bà bất hạnh trong khi bà tin là mình nói dối, vì bà còn trẻ, đẹp, và được trả giá cao, lành lặn và bằng lòng với đời sống hỏa ngục của bà. Nhưng bà bất hạnh. Đó là sự thật duy nhất bà đã nói trong số bao lời nói dối. Hãy đi trước Thầy và tham dự cuộc đàm thoại.
- Con, không. Con không tham dự. Tại sao con phải làm việc đó?
- Để minh chứng cho những kẻ hỏi con.
- Thầy muốn ai là người hỏi con? Trong số chúng ta, không ai đặt câu hỏi cả. Còn những người khác... Con đâu có gặp ai.
- Hãy vâng lời. Ra trước đi.
- Không. Con không muốn vâng lời điều này. Và Thầy không thể bó buộc con tới gần một gái điếm.
- Hơ! Anh là ai? Thầy cả thượng phẩm chắc? Con, thưa Thầy con ra. Con không sợ mình bị bất cứ cái gì - Phêrô nói.
- Không. Thầy đi một mình. Mở cửa đi.
Giêsu ra ngoài vườn, trong bóng đen tuyệt đối của một đêm không trăng. Người ta không thấy gì cả. Cửa nhà bếp lại mở, và Phêrô ra ngoài với một cái đèn: “Ít nhất là cầm cái này đi Thầy, nếu thực sự Thầy không muốn con”. Ông nói lớn câu đó, rồi ông lại hạ giọng nói nhỏ: “Nhưng chú ý là chúng con ở đàng sau cửa. Nếu Thầy cần thì cứ gọi...”
- Ừ, đi đi. Và đừng cãi cọ với nhau.
Giêsu cầm chiếc đèn và giơ lên để coi. Đàng sau cái thân lớn
637
của cây hồ đào có một bóng người. Giêsu bước hai bước về phía bà và ra lệnh: “Hãy theo Ta” và Người tới ngồi trên cái ghế đá nhỏ trước căn nhà về phía đông.
Người đàn bà tiến bước, phủ khăn voan kín mít và cúi gù. Giêsu để cái đèn xuống trên ghế đá, ở gần bên Người.
- Nói đi! - mệnh lệnh thực là khắc khổ và cứng cỏi. Người thực sự Thiên Chúa tới nỗi người đàn bà, thay vì tiến lại và nói, bà giật lùi, cúi sâu hơn nữa và nín lặng.
- Nói đi, Thầy đã bảo bà. Bà đã hỏi Thầy, Thầy đã tới. Hãy nói đi - Người nói với sắc thái êm đềm trong giọng nói của Người.
Yên lặng.
- Vậy thì chính Thầy nói. Thầy hỏi con: “Tại sao con ghét Thầy tới nỗi phục vụ cho những kẻ chỉ muốn giết Thầy, và mơ tới việc đó bằng cách tìm mọi lý do để có thể làm? Hãy trả lời: Thầy đã làm gì cho con, ôi kẻ bất hạnh? Điều gì xấu đã được làm cho con bởi người mà ngay trong qủa tim cũng không khinh dể con vì đời sống hỏa ngục mà con theo đuổi. Cái gì? Có phải Người đã làm hư hỏng con, người mà dù trong lòng cũng không hề ước muốn con, để con phải ghét Người hơn những kẻ đã chơi điếm với con, là những kẻ khinh bỉ con mỗi lần họ đến vơi con? Hãy trả lời! Giêsu Nazarét đã làm gì cho con, Con Người mà con chỉ hơi biết bằng cách thoáng nhìn khi gặp Người trong đường phố? Giêsu, người không biết tới khuôn mặt con, không bận tâm tới sắc đẹp của con, vì chỉ về linh hồn của con mà Người tìm hình ảnh dơ bẩn, bị biến dạng của con để biết nó và chữa cho nó? Hãy nói đi!
Con không biết Thầy là ai sao? Có, con biết một phần. Con biết Người cả đến hai phần ba. Con biết rằng Thầy là một người, và con thích Thầy. Đó là điều thú tính buông tuồng của con nói cho con. Và cái lưỡi đàn bà bị say của con đã nói điều đó với kẻ đã đón tiếp lời thú nhận dục vọng của con, để nó lợi dụng, làm một khí giới để hại Thầy.
Con biết rằng Thầy là Giêsu Nazarét, Đức Kitô. Điều đó những kẻ khai khẩn ước muốn xác thịt của con đã nói với con, đã trả tiền
638
cho con để con đến thử thách Thầy. Chúng đã nói với con: “Ông ta xưng mình là Đấng Kitô, và đám đông gọi ông ta là Thánh, là Đức Messi, nhưng đó chỉ là tên bịp. Chúng ta cần bằng cớ về con người khốn nạn của ông ta. Hãy cho chúng ta những bằng cớ đó, và chúng ta sẽ bao phủ mày bằng vàng”. Con, bởi một chút công chính mà con còn, một chút sau cùng còn lại của cái kho tàng công chính mà Thiên Chúa đã đặt trong thể xác con cùng với linh hồn mà con đã xé nát và phân tán, con đã không muốn làm hại cho Thầy, bởi vì con yêu Thầy theo cách của con. Lúc đó họ nói với con: “Chúng ta sẽ không làm hại gì cho ông ta. Trái lại, chúng ta sẽ giao phó ông ta cho mày, và chúng ta sẽ cho mày các phương tiện để làm cho ông ta sống như một ông vua ở bên cạnh mày. Chỉ cần là chúng ta có thể nói với chính mình, để cho lương tâm chúng ta được bằng an, rằng ông ta chỉ là một người thường. Chúng ta có bằng cớ là chúng ta đúng khi tin rằng ông ta không phải Đấng Messi”. Đó là điều họ đã nói với con, và con tới đây. Nhưng nếu Thầy chấp nhận những lời nịnh hót của con, thì đó sẽ là hỏa ngục cho Thầy. Họ đã hoàn toàn sẵn sàng để bao phủ Thầy bằng bùn và chụp lấy Thầy. Và con là một dụng cụ để họ làm việc đó.
Con thấy rằng Thầy không hỏi con. Thầy nói, bởi vì Thầy biết mà không cần hỏi. Nhưng nếu con biết hai điều đó, thì điều thứ ba này con không biết: Con không biết Thầy là ai, ngoại trừ điều Thầy là một người, là Giêsu. Con nhìn thấy con người, và những người khác nói: “Đó là người Nazarét”. Nhưng Thầy, Thầy nói cho con Thầy là ai: Thầy là Đấng Cứu Thế. Để cứu chuộc, Thầy phải không có tội. Khả năng tình dục của Thầy, con xem, Thầy chà đạp nó dưới chân. Cũng như Thầy làm với một con sâu ghê tởm mà trong bóng tối, nó bò từ vũng bùn này tới vũng bùn kia với các tình yêu dâm bôn của nó. Thầy luôn luôn chà đạp nó dưới chân như vậy. Và ngay cả lúc này Thầy cũng đang chà đạp nó dưới chân như vậy. Và chính như vậy, Thầy sẵn sàng giật lấy các bệnh hoạn của con để chà đạp nó dưới chân, để giải phóng cho con, để làm cho con nên lành và thánh, bởi vì Thầy là Đấng Cứu Chuộc, chỉ là vậy thôi. Thầy đã
639
mặc lấy một thân xác loài người để cứu các con, để phá hủy tội lỗi chứ không phải để phạm tội. Thầy mặc thân xác để lấy tội lỗi đi cho các con chứ không phải để phạm tội với các con. Thầy mặc thân xác để yêu các con, nhưng với một tình yêu hiến sự sống, máu huyết, lời nói, tất cả, để dẫn các con về Trời, tới sự công chính, chứ không phải để yêu các con như một vật thô thiển, và cả đến cũng không yêu các con chỉ như một người, vì Thầy còn hơn là một người. Con biết chính xác Thầy là ai không? Con không biết. Con không biết cả đến cái hậu qủa của việc con đã đến để làm. Về điều này thì Thầy tha cho con, dù con không xin Thầy. Con đã không biết. Nhưng về việc làm điếm của con! Làm sao con có thể sống trong tình trạng này? Trước con đâu có như vậy. Con đã tốt. Ôi, con tội nghiệp! Con không nhớ thời còn nhỏ của con sao? Con không nhớ những cái hôn của mẹ con sao? Các lời của bà? Các giờ cầu nguyện? Những lời khôn ngoan mà con đã nghe giải thích vào buổi chiều bởi ba con, và vào ngày Sabát bởi ông trưởng giáo đường... Ai đã làm cho con thành đần độn và mê muội? Con không nhớ sao? Con không hối tiếc sao? Hãy nói cho Thầy: con có thực tình sung sướng không? Con không trả lời. Vậy Thầy nói cho con. Thầy nói: không, con không sung sướng. Khi con thức dậy, con thấy sự xấu hổ ở bên cạnh con để cho con cái vòng thứ nhất về sự hành hạ mỗi ngày. Và tiếng nói của lương tâm con nó la lối khiển trách con trong khi con chải tóc, xức thuốc thơm để làm vui lòng người, và con cảm thấy một mùi hỏa ngục trong những tinh dầu thơm tho nhất, và các món ăn hiếm lạ nhất cũng làm cho con buồn nôn. Các sợi giây chuyền của con nó đè con như xiềng xích, nó là vậy. Và trong khi con cười để quyến rũ, trong nội tâm con có cái gì nó rên xiết. Con say sưa để thắng những phiền phức và sự buồn nôn của đời con. Và con ghét những người mà miệng con nói rằng yêu để lợi dụng họ. Con nguyền rủa chính mình. Giấc ngủ của con nặng nề những ác mộng, và tư tưởng về mẹ con là một lưỡi gươm trong tim con. Sự nguyền rủa của ba con không để cho con bình an. Rồi nữa là những xúc phạm của những kẻ mà con gặp. Sự độc ác của những kẻ sử dụng con không thương hại, không bao giờ. Con là một món hàng. Con tự
640
bán mình. Món hàng, một khi đã mua, người ta sử dụng như người ta muốn: người ta xé rách, người ta tiêu thụ, người ta chà dưới chân, người ta khạc nhổ lên trên. Đó quyền của người mua, con không thể phản ngụy... Hoàn cảnh này có làm cho con vui sướng không? Không. Con tuyệt vọng, con bị xiềng xích, con bị hành hạ. Trên trái đất, con là miếng giẻ ghê tởm mà mỗi người có thể chà đạp dưới chân. Nếu trong một giờ khổ sở, con cố gắng tìm sự an ủi bằng cách nâng lòng con về Thiên Chúa, con cảm thấy cơn thịnh nộ của Người ở trên con, một gái điếm, và cửa Trời đóng chặt đối với con còn hơn là đối với Ađam. Nếu con cảm thấy bệnh, con sẽ sợ chết, vì con biết số phận của con: Vực Thẳm là chỗ dành cho con.
Ôi! Con khốn nạn! Như vậy còn chưa đủ sao? Con còn muốn kết thêm vào dẫy tội của con cái tội làm thiệt hại cho Con Người, cho đấng yêu con, đấng duy nhất yêu con nữa sao? Cũng vì linh hồn con nữa mà Người đã mặc thân xác. Thầy có thể cứu con nếu con muốn. Ở trên vực thẳm hèn hạ của con, có vực thẳm thánh thiện của Lòng Thương Xót đang cúi xuống, và nó chờ nơi con một sự ước ao phần rỗi, để nó kéo con ra khỏi vực thẳm ô nhơ của con. Con nghĩ trong lòng rằng Thiên Chúa không thể tha cho con. Con rút nền tảng của tư tưởng này ra từ sự so sánh với thế giới là cái không thể tha cho con cái tội làm điếm. Nhưng Thiên Chúa không phải là thế giới. Thiên Chúa là lòng nhân từ. Thiên Chúa là sự tha thứ. Thiên Chúa là tình yêu.
Con đã đến với Thầy, được trả tiền để làm hại Thầy, nhưng thực vậy, Thầy bảo con rằng Đấng Tạo Hóa, để cứu tạo vật của Người, có thể xoay điều ác thành điều thiện. Và nếu con muốn thì việc con đến với Thầy sẽ biến thành điều tốt. Đừng xấu hổ với Vị Cứu Tinh của con. Đừng xấu hổ bày tỏ cho Người qủa tim trần trụi của con. Dù con có giấu, Người cũng thấy và Người khóc trên nó. Khóc và yêu. Đừng xấu hổ để sám hối. Hãy táo bạo trong việc sám hối cũng như con đã táo bạo trong tội lỗi. Con không phải người gái điếm đầu tiên khóc ở chân Thầy và Thầy dẫn về đàng công chính... Thầy không bao giờ xua đuổi ai, dù là nó tội lỗi đến đâu. Trái lại,
641
Thầy tìm cách lôi kéo nó và cứu nó. Đó là sứ mạng của Thầy.
Thầy không ghê sợ tình trạng của một tâm hồn. Thầy biết Satan và các việc của nó. Thầy biết con người và sự yếu đuối của họ. Thầy biết điều kiện của người phụ nữ phải trả theo phép công bằng, một cách nặng nề hơn đàn ông, về những hậu qủa của tội Evà. Vì vậy Thầy biết xét đoán và thương xót. Và Thầy bảo con rằng Thầy nghiêm khắc với những người đã đưa đẩy người phụ nữ tới chỗ sa ngã hơn là với chính người phụ nữ. Đối với con là kẻ đáng thương, Thầy nghiêm khắc với những kẻ đã sai con đi hơn là với con là kẻ đã đến mà không biết chính xác mình tiếp tay cho cái gì. Thầy thích hơn nếu con đã đến vì bị thúc đẩy bởi ước muốn được cứu chuộc giống như các chị em khác của con. Nhưng nếu con chấp nhận ước muốn của Thiên Chúa, và nếu con làm cho hành động xấu của con thành một viên đá góc cho đời sống mới của con, thì Thầy sẽ nói cho con các lời của bình an...
Lúc đầu Giêsu nghiêm nghị, nhưng càng lúc càng êm dịu trong khi vẫn ngồi yên như vậy... Thiên Chúa loại trừ những tình cảm yếu đuối , và cả những sai lầm trong sự phê phán về lòng nhân từ của Người. Bây giờ Người yên lặng nhìn người đàn bà, vẫn đứng nhưng cúi gù, và càng lúc càng cúi sâu, ở cách Người chừng hai mét. Vào lúc giữa bài thuyết của Giêsu, người đàn bà giơ tay ép tấm voan vào mặt. Hai bàn tay đẹp nổi bật trên áo khoác mầu tối, mang đầy cà rá. Ở cổ tay và cánh tay trần, nàng mang vòng xuyến lên đến tận khửu tay.
Tôi không thể nói rõ bà ta khóc hay không. Nếu có khóc thì đó là khóc thầm, vì không nghe thấy tiếng nức nở và không thấy bà lúc lắc. Bà giống như một bức tượng, vì bà bất động trong y phục mầu tối. Rồi thình lình bà qùi gối và cuộn tròn mình dưới đất. Bây giờ bà khóc thực, không cần kìm hãm để người ta khỏi thấy. Rồi như vậy, giống như một đống giẻ trên mặt đất, bà nói: “Đúng vậy. Thực sự Thầy là một tiên tri...hoàn toàn đúng... Họ đã trả tiền cho con về việc này... Nhưng họ đã nói với con rằng đó là một cuộc thách đấu... Họ sẽ khám phá ra Thầy ở trong nhà con... và cả ở bên Thầy...”
642
- Bà ơi, Thầy chỉ nghe tường thuật về lỗi của bà thôi...
- Đúng vậy. Con không có quyền kết án ai, vì con là một hố sâu dơ bẩn. Tất cả đều đúng. Con không sung sướng... Con không vui hưởng được của cải, tiệc tùng, tình yêu... Con xấu hổ khi nghĩ đến mẹ con... Con sợ Thiên Chúa và sợ chết... Con ghét những kẻ trả tiền cho con. Tất cả những điều Thầy nói đều đúng. Nhưng lạy Chúa, xin đừng xua đuổi con. Chưa hề có ai, kể cả mẹ con, đã nói với con như Thầy. Và kể cả Thầy đã nói với con êm đềm hơn mẹ con. Trong thời gian sau cùng, bà đã khắc nghiệt với con vì lối sống của con... Để khỏi phải nghe bà, con đã trốn đi Jêrusalem... Nhưng Thầy... Giống như sự êm dịu của Thầy là tuyết rơi trên ngọn lửa nó thiêu đốt con, làm cho ngọn lửa của con dịu lại, và cả, đó là ngọn lửa khác. Trước kia, nó là ngọn lửa mạnh, nhưng nó không cho con ánh sáng, cũng không có sức nóng. Con đã giá lạnh trong tối tăm! Ôi! Con đã tự ý muốn khổ chừng nào! Biết bao đau đớn vô ích và đáng nguyền rủa mà con đã tự làm cho mình. Chúa ơi! Con đã nói ở ngoài cái cổng hé mở rằng con bất hạnh và xin thương xót. Đó là lời nói dối chúng đã dạy cho con nói với Thầy để kéo Thầy vào bẫy. Chúng bảo con rằng sau đó sắc đẹp của con sẽ làm những gì còn lại... Sắc đẹp của con!... Y phục của con!...
Người đàn bà đứng dậy. Bây giờ nàng đứng thẳng, tôi thấy nàng cao lớn. Nàng đã giật khăn voan và áo khoác của nàng ra. Nàng hiện ra trong vẻ đẹp của người đàn bà tóc đen, da rất trắng. Đôi mắt to và đẹp, được làm cho to hơn nữa bằng mầu nâu đậm. Nàng có cái nhìn thơ ngây đáng ngạc nhiên, rất lạ nơi loại đàn bà này. Có lẽ nước mắt đã rửa chúng. Người đàn bà giựt và chà đạp lên cái áo khoác, xé rách khăn voan, giựt các bông tai qúi ở bên nọ và bên kia và quăng xuống đất; tháo nhẫn và vòng xuyến, quăng ra xa những đồ trang điểm ở trên đầu, nắm lấy những lọn tóc quăn cắm đầy những trâm sáng loáng, vò rối bời để làm biến đi cái kiểu chải tóc mỹ thuật của nàng trong cơn hy sinh giận dữ làm phát sợ. Chuỗi giây nàng đeo ở cổ bị giật mạnh, các hạt rơi xuống đất và chân đi xăng đan của nàng chà lên để làm bể các hạt ngọc. Cái giây lưng
643
qúi cũng chịu cùng một số phận, kể cả chiếc kim cài để giữ cái áo cách nghệ thuật trên ngực cũng vậy. Trong khi làm như vậy, nàng luôn luôn nói nhỏ với giọng lo âu, nhắc đi nhắc lại: “Xa đi! Xa đi! Những thứ bị nguyền rủa! Xa đi! Chúng mày và những đứa đã tặng chúng mày cho tao! Xa đi! Sắc đẹp! Xa đi! Tóc tai! Xa đi! nước da mầu hoa lài của tao!”
Hung hăng, nàng nắm lấy một cục đá nhọn mà nàng nhìn thấy dưới đất, nàng đập vào mặt, vào miệng tới chảy máu. Nàng cào mặt với những móng tay đỏ. Máu chảy ra từ các vết thương, các nét của nàng sưng lên dưới những cú... Khi cơn thịnh nộ của nàng dịu lại, nàng thở hổn hển, kiệt lực, biến dạng, tóc rối, rách rưới, y phục dơ bẩn vì máu và đất, nàng phục xuống đất ở bên chân Giêsu và rên rỉ: “Và bây giờ Thầy có thể tha cho con, nếu Thầy thấy tâm hồn con, vì con không còn gì của qúa khứ nữa. Không còn gì của... Lạy Chúa! Ngài đã thắng các kẻ thù của Ngài và thắng xác thịt con... Xin tha tội cho con...”
- Thầy đã tha cho con ngay từ lúc Thầy ra để gặp con. Đứng dậy đi và đừng bao giờ phạm tội nữa.
- Xin Thầy nói cho con điều con phải làm.
- Hãy xa lánh những nơi con đã phạm tội và những người biết con là ai. Mẹ con...
- Ôi! Chúa ơi, bà sẽ không nhận con nữa. Bà ghét con vì ba con đã chết do tội con, và ông đã nguyền rủa con.
- Nếu Thiên Chúa là Thiên Chúa mà đã đón nhận con, và nếu Người đã đón nhận con vì Người là cha, lẽ nào mẹ con là người đã sinh ra con, và cũng là đàn bà như con mà lại không đón nhận con? Hãy đến với bà cách khiêm nhường. Hãy khóc ở chân bà cách khiêm nhường như con đã khóc ở chân Thầy. Hãy thú nhận với bà như con đã thú nhận với Thầy. Hãy nói cho bà nỗi khổ của con. Hãy kêu cầu tình thương của bà. Mẹ con chờ đợi giờ phút này đã bao năm rồi. Bà chờ nó để được chết bình an. Hãy chịu đựng lời quở trách yêu thương của bà như con đã chịu đựng lời trách của Thầy. Thầy là người lạ đối với con mà con đã nghe, thì với mẹ con,
644
con có bổn phận gấp đôi phải nghe bà cách kính trọng.
- Thầy là Đức Messi, Thầy hơn là mẹ con.
- Bây giờ con nói như vậy. Nhưng khi con đến để thử Thầy, con không biết Thầy là Đức Messi, nhưng con đã nghe lời Thầy.
- Thầy rất khác người ta... như vậy... vì Thầy là thánh, ôi Giêsu Nazarét!
- Mẹ con thánh như một bà mẹ và như một người. Do lời cầu nguyện của bà, con đã tìm thấy Lòng Thương Xót nơi Thiên Chúa. Bà luôn luôn thánh, bà mẹ! Và Thiên Chúa muốn người ta tôn kính bà.
- Con đã làm nhục bà. Cả làng đều biết điều đó.
- Thêm một lý do nữa để con đến với bà và nói: “Mẹ ơi! Xin tha!” và để dành đời sống của con cho bà, bù lại những đau khổ bà đã phải chịu vì con.
- Con sẽ làm như vậy... Nhưng... Chúa ơi! Xin đừng sai con đi Jêrusalem. Họ đang chờ con... Và không biết con có thể kháng cự lại được với những đe dọa của họ không... Xin cho con ở lại đây tới rạng đông, rồi sau đó...
- Hãy chờ một lát.
Giêsu đứng dậy, lại trước cửa nhà bếp và gõ. Cửa mở, Người nói: “Êlise, ra ngoài đi”.
Êlise vâng lời. Giêsu dẫn bà lại với người đàn bà. Bà này thấy một người đàn bà lớn tuổi đi tới thì có vẻ xấu hổ, nên tìm cách che mặt và che y phục khêu gợi của bà bằng những gì còn lại của cái áo khoác và cái voan rách.
- Nghe đây Êlise. Thầy rời bỏ căn nhà này ngay bây giờ. Con sẽ nói với các tông đồ của Thầy rằng họ hãy đến với Thầy vào lúc bình minh tại cổng Hêrôđê. Tất cả, trừ Judas Kêriot phải đi với Thầy bây giờ. Con hãy cho bà này ngủ với con. Con có thể lấy giường của Thầy, vì còn lâu nữa Thầy mới trở lại Nobê. Ngày mai, khi ông già Gioan thức dậy, con với ông ta sẽ hộ tống người đàn bà này tới nơi bà ta sẽ nói cho các con. Con cho bà ta một bộ đồ thông thường và một trong các áo khoác của con. Và các con sẽ giúp bà
645
trong mọi sự.
- Được rồi, thưa Chúa, mọi sự sẽ như Chúa muốn. Con tiếc cho Gioan...
- Thầy cũng vậy. Thầy muốn làm vui lòng ông ta. Nhưng sự thù ghét của loài người không cho phép Con Người ban một giờ của ngày lễ cho người công chính...
- Chúa ơi, rồi sau đó?
- Sau đó? Con có thể trở về Betsur để chờ... Chào Êlise. Phúc lành và bình an của Thầy ở với con. Chào con. Thầy giao phó con cho một người mẹ, và là một người công chính. Nhưng nếu con thấy là phải trở về để lấy đồ đạc của con...
- Không. Con không muốn có cái gì của qúa khứ nữa.
- Nhưng người đàn bà dũng cảm của tôi ơi! Chắc chắn bà không thể bỏ rơi tất cả. Bà không có các đầy tớ, cũng không có cha mẹ sao? - Êlise nói.
- Tôi chỉ có một người đầy tớ gái... và...
- Bà phải cho cô ta đi, bà phải...
- Tôi xin chính bà làm việc đó khi bà trở về. Ôi bà! Xin bà giúp con được lành hoàn toàn - Bà có sự lo âu thực tình trong giọng nói của bà.
- Đúng, con gái tôi! Đúng, con đừng lo. Ngày mai chúng ta sẽ nghĩ tới tất cả. Bây giờ hãy lên nhà với bà.
Êlise cầm tay cô ta và dẫn lên sân thượng qua chiếc cầu thang, vào căn phòng nhỏ. Rồi bà lẹ làng chạy xuống: “Lạy Chúa, con nghĩ tốt nhất là để cho mọi người thấy Thầy và không có cô ta. Các nữ trang này...” Bà cúi xuống để lượm các cà rá, vòng lắc, bông tai, trâm cài tóc, cùng với giây lưng và bao hạt trai mà bà có thể thấy của cái chuỗi đeo cổ bị đứt. “Chúa ơi, con làm gì với những thứ này?”
- Hãy đi với Thầy. Con có lý. Rất tốt là họ thấy Thầy.
Họ vào nhà bếp. Mọi người đều nhìn Giêsu với vẻ nghi vấn. Ông già Gioan cũng dậy, có lẽ bị đánh thức bởi tiếng tranh luận.
- Êlise, hãy đưa cho Tôma những thứ qúi. Và con, Tôma, ngày
646
mai con sẽ bán cho một người thợ kim hoàn nào đó. Nó có thể phục vụ các người nghèo. Đúng, đó là nữ trang của phụ nữ, của người đàn bà đó. Đó là câu trả lời cho những ai nghĩ rằng một thân xác có thể dụ dỗ được Con Người và làm cho Người xa lìa sứ mạng. Đó cũng là lời khuyên cho những ai ghét Thầy rằng tất cả mọi mưu mô đều vô ích để tìm lẽ kết án. Gioan, Êlise sẽ nói cho ông biết điều ông phải làm. Thầy chúc lành cho ông.
- Lạy Chúa! Thầy rời bỏ con sao? - Ông gìa thực đau khổ.
- Thầy phải làm. Chào. Bình an cho ông - Người quay về với các tông đồ: “Các con đi ngủ đi, tất cả, trừ Judas Kêriot thì đi với Thầy”.
- Nhưng đi đâu? Đêm rồi - Judas phản đối.
- Cầu nguyện. Việc đó không làm nguy hại cho con, ngoại trừ con sợ không khí ban đêm nếu con hít thở nó với Thầy.
Judas cúi đầu, vẻ miễn cưỡng, ông cầm áo khoác trong khi Giêsu mặc áo của Người.
- Ngày mai, tại cổng Hêrôđê, lúc bình minh. Chúng ta sẽ vào Đền Thờ và...
- Không! - một tiếng không nhất loạt. Tiếng của Judas là mạnh nhất.
- Chúng ta sẽ vào Đền Thờ. Con đã chẳng nói rằng con đã thuyết phục được họ để cho Thầy yên sao?
- Đúng vậy.
- Vậy thì chúng ta sẽ vào Đền Thờ. Đi! - và Người đi ra cổng.
- Vậy là chấm dứt ngày lễ mà chúng ta đã sửa soạn... - Phêrô nói khi thở dài.
- Anh phải nói là chấm dứt khi chưa bắt đầu - Giacôbê Zêbêđê trả lời ông.
Giêsu đã ở trước cửa mở rộng. Người quay lại chúc lành và biến mất trong đêm.
Trong nhà bếp, tất cả đều nín lặng. Sau cùng Mathêu hỏi Êlise: “Nhưng có chuyện gì vậy?”
- Tôi không biết. Có một người đàn bà khóc. Và Người nói với tôi điều Người cũng đã nói với các anh. Bà ta là ai, bà ta ở đâu đến
647
và tại sao, tôi không biết...
- Rồi. Chúng ta đi...
Tất cả đều bỏ đi, trừ Mathêu và Batôlômêo ngủ tại nhà đó.
230* GIÊSU VÀ JUDAS KÊRIOT ĐI JÊRUSALEM
Rạng đông soi sáng chân trời. Rừng oliu bao phủ ngọn đồi được soi sáng rất từ từ và ra khỏi bóng tối. Các thân cây còn bị tối, không nhìn rõ, trong khi chòm lá xanh bạc đã lộ ra rồi. Giống như sương mù đã phủ trên ngọn đồi, nhưng đó chỉ là những chòm lá xanh bạc trong ánh sáng lờ mờ của buổi sáng.
Giêsu chỉ có một mình ở dưới gốc các cây oliu, nhưng đây không phải là Gétsêmani, vì tôi biết rằng Gétsêmani thì nằm song song với ngọn Moriah, trong khi ở đây thì thấy Moriah ở trước mặt. Vậy là chúng ta đang ở phía bắc Jêrusalem, ở bên ngoài lăng tẩm của các vua. Giêsu còn đang cầu nguyện, và Người không chấm dứt, dù chim chóc đã líu lo để chỉ cho Người biết rằng ngày đã tới. Chỉ khi tia sáng đầu tiên của mặt trời bây giờ đã mọc, chiếu một tia trên khối vàng mà cho tới lúc này vẫn lờ mờ, của cái mái vòm Đền Thờ, Người mới đứng dậy. Người đứng và phủi áo khoác có những vết đất và vài cái lá khô dính vào vải dầy. Người lấy bàn tay vuốt râu và tóc, chỉnh áo và giây lưng lại cho ngay ngắn. Người quan sát các khóa của xăng đan, mặc lại áo khoác và đi xuống chân đồi bởi một lối mòn chỉ hơi nhận ra ở giữa các thân cây. Có lẽ Người đi tới căn nhà nhỏ ở lưng chừng đồi, đang có khói tỏa ra ở trên mái? Nhưng không. Người quẹo vào một con đường rộng hơn, để đi vào con lộ chính dẫn về thành phố.
Đàng sau Người, Iscariot bổ nhào xuống đồi. Tôi nói bổ nhào, vì ông chạy hỏa tốc để bắt kịp Thầy. Khi tới vừa tầm tiếng nói, ông gọi Người. Giêsu dừng lại. Judas đến với Người, thở dốc: “Thưa Thầy... may mắn cho con là con đã nghĩ đến đi tìm Thầy! Không có con mà Thầy đi? Tối hôm qua Thầy bảo con chờ Thầy ở trong nhà,
648
và chắc chắn Thầy sẽ tới. Trái lại...”
- Thầy đã chẳng nói với mọi người chờ Thầy ở cổng Hêrôđê lúc bình minh sao? Bây giờ là bình minh nên Thầy đi tới cổng Hêrôđê.
- Đúng, nhưng... đó là với những người khác. Hai chúng ta đi với nhau.
- Với nhau? - Giêsu rất nghiêm nghị.
- Nhưng đúng, thưa Thầy. Chúng ta đã đi với nhau. Thầy đã muốn vậy. Rồi Thầy lại thích cầu nguyện một mình hơn. Nhưng con đã sẵn sàng để đến với Thầy.
- Ở Nobê, con đã biểu lộ rõ ràng là con thấy không dễ chịu để qua đêm trong cầu nguyện với Thầy của con, nên Thầy đã tránh cho con khỏi làm một hành động nhân đức bó buộc. Nó sẽ chẳng ích lợi gì. Việc tốt, phải làm một cách tự nhiên, để nó có hương thơm và sinh hoa trái. Trong trường hợp trái lại thì nó chỉ là một... diễn viên kịch câm, và đôi khi còn tệ hơn diễn viên kịch câm nữa.
- Nhưng, con... Tại sao từ ít lâu nay Thầy rất khắt khe với con? Thầy không yêu con nữa sao?
- Chính với rất nhiều lý do hơn, Thầy có thể hỏi con: con không yêu Thầy nữa sao? Nhưng Thầy không hỏi, vì câu hỏi này sẽ là điều vô ích, và Thầy, Thầy không bao giờ làm những điều vô ích.
- Hé! chắc chắn rồi! Vì Thầy biết rõ rằng con yêu Thầy!
- Judas Kêriot, Thầy đã muốn điều đó. Thầy đã muốn có thể nói với con rằng: Thầy biết con yêu Thầy. Nhưng cũng giống như Thầy không bao giờ làm điều vô ích, Thầy cũng không bao giờ nói lời không đúng, vậy Thầy không nói với con rằng Thầy biết con yêu Thầy.
- Nhưng thế nào Thầy? Con không yêu Thầy sao? Con không làm việc cho Thầy sao? Thầy có thể nghi ngờ điều đó sao? Như vậy là làm cho con khổ. Con, từ khi con biết cái gì làm cho Thầy khổ là con không làm nữa, và con canh chừng để không ai làm. Thầy coi: con đã hiểu rằng Thầy không bằng lòng vì con... ra ngoài ban đêm, thì con không ra nữa. Con đã hiểu rằng Thầy mệt mỏi qúa đáng vì những tranh luận với các đối phương của Thầy, con đã
649
đi - và người ta cũng không tránh xúc phạm đến con - nói với họ từ bỏ việc đó. Và Thầy thấy rằng Thầy không còn bị quấy rầy nữa. Và con hy vọng rằng Thầy cũng không còn bị như vậy ở Đền Thờ nữa. Thầy ơi, Thầy không công bình với thằng Judas tội nghiệp này!
- Con là người thứ nhất trong những người theo Thầy buộc tội cho Thầy là bất công...
- Ôi! Xin lỗi. Nhưng các lời Thầy, sự khắt khe của Thầy làm con khổ tới nỗi con không biết suy nghĩ nữa. Thầy hãy tin là điều đó làm con hoảng hồn. Nào, bình an của con, chúng ta hãy làm hòa với nhau. Con muốn ở với Thầy tựa như con là một với Thầy. Luôn luôn cùng nhau...
- Trước đây chúng ta đã như vậy. Nhưng bây giờ, Judas, hãy nói cho Thầy: Khi nào thì chúng ta như vậy?
- Lại cũng tại cái đêm đó? Hay tại vì con không đến với Thầy tại Bêtabara? Nhưng Thầy biết tại sao con không đến: vì lợi ích của Thầy... Còn cái đêm đó... Con còn trẻ, Chúa à! Nhưng ngoài những lúc đó ra, và con thú nhận con có thể lầm, và cả chắc chắn con đã lầm, ngoài những lúc đó ra thì con luôn luôn ở bên Thầy.
- Thầy không nói về sự gần gũi thân xác, nhưng về sự gần gũi tinh thần, gần gũi về tư tưởng và con tim. Judas, con ở rất xa Vị Cứu Tinh của con, và con càng ngày càng xa hơn.
- Đó, hết mọi lời khiển trách cho con! Nhưng Thầy thấy là con đón nhận nó với lòng khiêm nhường như thế nào. Con đã bảo Thầy: “Hãy đuổi con đi”. Thầy đã giữ con lại... Vậy Thầy muốn gì ở con?
- Điều Thầy muốn!! Thầy muốn rằng Thầy không mặc lấy thân xác một cách vô ích cho con. Đó là điều Thầy muốn! Nhưng từ nay con đã thuộc về một người cha khác, một xứ sở khác, con nói một ngôn ngữ khác... Ôi lạy Cha! Phải làm gì để thanh tẩy đền thờ bị tục hóa của kẻ là con Cha và là anh em của con? - Giêsu khóc, rất tái mét khi Người nói với Cha Người.
Judas cũng có khuôn mặt mầu đất, ông hơi tách xa ra trong yên lặng. Giêsu đi lên trước vài bước và xuống đồi, cúi đầu, khép kín trong sự đau đớn của Người. Lúc đó Judas làm một cử chỉ khinh bỉ,
650
dọa nạt, tôi nói là một lời thề độc ác ở sau Đấng Vô Tội. Khuôn mặt ông, cho tới lúc đó, vẫn mang một mặt nạ bóng bảy giả dối của êm đềm và khiêm nhường, liền trở thành gầy, cay nghiệt, hung dữ, độc ác, thực sự ma qủi. Tất cả thù ghét, một sự thù ghét không thuộc về nhân loại, đều ở trong ngọn lửa của con ngươi đen trong mắt ông, và ngọn lửa thù ghét này tập trung lại trên khổ người cao của Giêsu. Rồi sau một cái nhún vai và một phát đá chân giận dữ, Judas chấm dứt cuộc lý luận nội tâm của ông, ông lại lên đường, sau khi sực tỉnh, giống như kẻ đã quyết định một điều mà từ nay không thể bãi bỏ được nữa.
Thành phố đã gần với các bức tường của nó. Nhiều người chen chúc nhau ở cổng: người ngoại quốc, các người trồng rau, dân chúng các làng chung quanh. Trong số họ có mười một tông đồ đứng ở gần tường. Trông thấy Thầy, họ đến gặp Người.
- Thưa Thầy, trong khi chúng con chờ ở đây, có một người đến tìm Thầy. Ông ta nói rằng Valêria xin Thầy đến giáo đường của các người nô lệ được giải phóng của người Rôma. Nhưng hãy đến thực sự để bà ta có mặt ở đó.
- Được, chúng ta sẽ tới đó. Trước tiên, chúng ta tới nhà Giuse Sêphoris, vì y phục của Thầy không sạch sẽ.
- Chúa ơi, Thầy đã ngủ ở đâu? - Phêrô hỏi.
- Không ở đâu cả, Simon. Thầy cầu nguyện ở trên đồi, mà đất ẩm ướt, có cả bùn nữa. Con thấy đó.
- Chúa ơi, tại sao Thầy cầu nguyện ở ngoài trời như vậy ? Điều đó có thể làm Thầy mắc bệnh...
- Các yếu tố không làm phiền cho Con Người. Mọi sự thuộc về Thiên Chúa đều tốt... Chính người là kẻ ghét Người.
Phêrô thở dài... Họ bỏ đi về phía ngôi nhà của người Galilê. Những người khác theo sau.
231* GIÊSU TẠI GIÁO ĐƯỜNG CỦA CÁC NÔ LỆ ĐƯỢC
GIẢI PHÓNG CỦA NGƯỜI RÔMA
651
Ngôi giáo đường của người Rôma nằm đối diện ngay với Đền Thờ, gần trường đua ngựa. Có nhiều người chờ Giêsu. Khi người ta báo hiệu Người ở đầu đường là các phụ nữ trước tiên, ra gặp Người. Giêsu đi với Phêrô và Thađê.
- Chào Thầy, con biết ơn Thầy vì đã nhận lời con. Thầy vừa tới thành phố?
- Không. Thầy ở đây từ giờ kinh sáng. Thầy tới Đền Thờ rồi.
- Tới Đền Thờ? Chúng không chửi bới Thầy sao?
- Không. Còn qúa sớm. Họ không biết là Thầy tới.
- Con đã cho gọi Thầy vì vậy... Và cũng vì ở đây có những dân ngoại muốn nghe Thầy nói. Từ nhiều ngày, họ đã tới Đền Thờ để chờ Thầy, nhưng người ta cười nhạo họ, và cả đến dọa nạt họ. Hôm qua con cũng ở đó, và con hiểu rằng họ chờ Thầy để xỉ vả Thầy. Con đã cho người tới tất cả các cửa. Với vàng, người ta có được tất cả...
- Thầy biết ơn con. Nhưng Thầy không thể không lên Đền Thờ. Thầy là rabbi của Israel. Những người đàn bà này là ai vậy?
- Tusnilde, người nô lệ được giải phóng của con. Chúa ơi, hai lần bà bị dính bọn thô bạo ở rừng Teutberg, là mồi của những tình yêu trâng tráo này, những kẻ đã đổ máu bao người. Ba con đã tặng bà cho má con, rồi má con lại tặng cho con vào dịp lễ cưới của con. Bà đã đi từ các thần của bà tới các thần của chúng con, rồi từ các thần của chúng con tới Thầy, vì bà làm những gì con làm. Bà rất tốt. Các bà khác là vợ của các dân ngoại đang chờ Thầy, thuộc khắp mọi miền. Phần đông là khổ sở, đến đây theo tàu của chồng họ.
- Chúng ta hãy vào giáo đường...
Ông trưởng giáo đường đứng ở cửa, cúi mình và tự giới thiệu: “Thưa Thầy, Mathatia Sicule xin dâng Thầy lời ca ngợi và phúc lành”.
- Bình an cho ông.
- Xin mời vào. Con đóng cửa để được yên tĩnh. Sự thù ghét mạnh tới nỗi các viên gạch cũng có mắt và các tảng đá cũng có tai
652
để quan sát Thầy và tố cáo Thầy. Có lẽ chúng có gía hơn những người này là những người, miễn là chúng con không đụng tới lợi lộc của họ là họ để cho chúng con làm - ông gìa trưởng giáo đường nói khi ông bước bên cạnh Giêsu để dẫn Người qua bên kia cái sân nhỏ để vào một phòng mênh mông là giáo đường.
- Mathatia, trước hết, chúng ta hãy chữa cho các bệnh nhân. Đức tin của họ đáng được thưởng - Giêsu nói, và Người đi từ bà này qua bà kia để đặt tay.
Một số bà khỏe mạnh, nhưng các con nhỏ ở trong tay các bà bị đau, và Giêsu chữa cho các trẻ em. Có một con bé hoàn toàn tê liệt, khi được khỏi, nó kêu lên: “Chúa ơi, cho Sitarê hôn tay Chúa!”
Giêsu đã đi qua, Người trở lại, mỉm cười và hỏi: “Con người Syrie à?”
Bà mẹ nó giải thích: “Lạy Chúa, người Phênici, ở bên ngoài Sidon. Chúng con ở trên bờ sông Tamiri. Con còn có mười đứa con trai khác và hai đứa con gái khác. Một con gái tên Sira, đứa kia là Tamira. Sira bị góa, dù nó mới hơi lớn hơn đứa trẻ một tí. Từ khi được tự do, nó ở đây với anh nó trong thành phố, và nó là một trong số tín hữu của Thầy. Chính nó đã nói với chúng con là Thầy có thể tất cả.
- Nó không ở đây với bà sao?
- Lạy Chúa, có, ở đàng sau các bà này.
- Tiến lại đây - Giêsu ra lệnh.
Người đàn bà tiến lên, vẻ sợ sệt.
- Con không phải sợ Thầy, nếu con yêu Thầy - Giêsu nói để an ủi bà.
- Con yêu Thầy. Bởi vậy con đã rời Alexandrocène, vì con nghĩ rằng con sẽ còn được nghe Thầy và... để con học chấp nhận sự đau đớn của con... - và bà khóc.
- Con bị góa từ hồi nào?
- Vào cuối tháng Adar của qúi vị... Nếu Thầy đã ở đó thì Zêno không chết, anh ấy nói vậy... Vì anh ấy đã nghe Thầy và tin Thầy...
- Vậy thì con ơi, anh ta không chết. Vì ai tin ở Thầy thì sống.
653
Không phải sống những ngày mà thân xác sống, mà là sống thực. Đời sống thực là đời mà người ta được bằng cách tin và theo đấng là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống, và hành động phù hợp với lời Người. Cho dù họ chỉ tin và theo trong một thời gian ngắn, và chỉ làm việc trong một thời gian ngắn, rồi mau chóng bị gián đoạn bởi cái chết của thân xác, dù là thời gian ngắn này chỉ là một ngày hay một giờ, thì Thầy bảo con rằng thực sự, kẻ đó không chết nữa. Thực vậy, Cha Thầy là Cha của mọi người, không tính toán thời gian đã qua đi trong lề luật của Thầy và trong lòng tin nơi Thầy, nhưng là ý chí của người đó muốn sống trong lề luật này và lòng tin này cho tới chết. Thầy hứa đời sống đời đời cho kẻ nào tin vào Thầy và hành động theo điều Thầy nói, bằng cách yêu Vị Cứu Tinh, tuyên truyền cho tình yêu này, thi hành các giáo huấn của Thầy trong thời gian được ban cho nó. Các người thợ của vườn nho Thầy là tất cả những ai đến và nói: “Chúa ơi, xin nhận con vào số thợ của Thầy”, và ở lại trong ý muốn này cho tới khi Cha Thầy xét là thời hạn của họ chấm dứt. Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng sẽ có những người thợ chỉ làm việc một giờ, giờ sau cùng của họ, mà được phần thưởng mau lẹ hơn những người đã làm việc từ giờ thứ nhất, nhưng luôn luôn uể oải, bị đẩy vào công việc chỉ vì tư tưởng duy nhất là để khỏi đáng bị hỏa ngục, tức là bởi sợ hình phạt. Không phải với kiểu làm việc này mà Cha Thầy thưởng cho một vinh quang ngay lập tức. Trái lại, với những kẻ tính toán ích kỷ, chỉ lo làm điều lành, và chỉ làm một chút điều lành tối cần để không phải lãnh hình phạt đời đời, thì Vị Thẩm Phán muôn thuở sẽ cho một việc đền tội lâu dài. Nhờ vào sự đền tội lâu dài này, họ phải học để tạo cho mình một tâm hồn linh hoạt trong tình yêu, và trong tình yêu thực, hoàn toàn hướng về sự vinh quang Thiên Chúa. Thầy cũng bảo các con rằng trong tương lai sẽ có rất nhiều người, đặc biệt là nơi các dân ngoại, sẽ chỉ là thợ trong một giờ, mà sẽ trở nên vinh quang trong nước của Thầy, bởi vì trong cái giờ duy nhất phù hợp với Ân Sủng đã mời gọi họ vào trong vườn nho của Chúa này, họ đã đạt được Đức Ái tới độ trọn lành. Vậy con hãy can đảm lên. Chồng con không chết, nhưng ông ta sống. Con không bị mất ông
654
ấy, nhưng ông chỉ xa cách con một thời gian. Bây giờ con giống như người vợ chưa về nhà chồng, con phải sửa soạn cho đám cưới thực sự bất tận với kẻ mà con khóc. Ôi! Hôn lễ hạnh phúc của hai tâm hồn được thánh hóa và lại đoàn tụ đời đời tại nơi không còn chia lìa nữa, cũng không còn sợ bị giảm tình yêu, bị đau khổ; tại nơi các linh hồn sẽ hoan hỉ trong tình yêu của Thiên Chúa và trong tình yêu hỗ tương. Lúc chết đối với người công chính là lúc sống thực, vì không gì có thể đe dọa sự sống của tâm hồn, tức là sự trường tồn của nó trong sự công chính. Ôi Sira, đừng khóc và đừng tiếc những gì hư nát. Hãy nâng tâm hồn con lên và nhìn trong sự công chính và sự thật. Thiên Chúa yêu con trong khi cứu chồng con cho khỏi sự nguy hiểm mà thế giới làm để hủy hoại lòng tin của ông ta nơi Thầy.
- Ôi! Chúa ơi, Thầy đã an ủi con. Con sẽ sống như Thầy nói. Nguyện Thầy được chúc tụng, và Cha Thầy cùng với Thầy tới muôn đời.
Ông trưởng giáo đường nói khi Giêsu sắp đi qua: “Con có thể nói với Thầy một điều bác bẻ mà không xúc phạm tới Thầy không?”
- Nói đi. Thầy ở đây, là thầy, để ban sự khôn ngoan cho những ai hỏi Thầy.
- Thầy đã nói rằng một số người sẽ được vinh quang ngay lập tức ở trên Trời. Vậy Trời không bị đóng sao? Các người công chính không phải ở trong Lâm Bô chờ đợi để vào đó sao?
- Như thế này đây: Nước Trời bị đóng, và nó sẽ chỉ được mở ra bởi Đấng Cứu Chuộc. Nhưng giờ của Người đã tới. Thực vậy, Thầy bảo ông rằng: bình minh của ngày cứu chuộc đã ló ra ở phương đông, và sắp sửa sẽ là thanh thiên bạch nhật. Thực vậy, Thầy bảo ông rằng sau lễ này, sẽ không còn lễ nào nữa trước ngày đó. Thực vậy, Thầy bảo ông rằng Thầy đã đẩy vào các cửa, vì Thầy đã ở trên đỉnh núi Hy Sinh của Thầy... Sự hy sinh của Thầy đã đẩy vào các cửa Trời, và nó đã hoạt động. Ông ơi, ông hãy nhớ, khi nó được hoàn tất, thì các tấm màn thánh và các cửa Trời sẽ mở ra, vì Jêova không còn hiện diện bằng sự vinh quang của Người trong nơi cực
655
thánh nữa, nên sẽ là vô ích để đặt tấm màn giữa Đấng Không Thể Biết Được và các kẻ hay chết. Rồi nhân loại đã đi trước chúng ta và đã sống công chính sẽ tới nơi đã được tiền định cho họ, với vị dẫn đầu là người Trưởng Tử, đã hoàn toàn trong thân xác và linh hồn Người, cùng với các anh em của Người trong y phục bằng ánh sáng, mà họ sẽ mặc cho tới khi thân xác họ cũng được mời gọi tới niềm hoan lạc.
Giêsu lấy giọng vui tươi đặc biệt, giống như các ông trưởng giáo đường hay các rabbi, khi Người nhắc lại Sách Thánh hay các Thánh Vịnh, Người nói: “Và Người nói với tôi: Hãy nói tiên tri về các bộ xương này và hãy bảo chúng: Hỡi các xương khô, hãy nghe lời của Chúa... Đây, Ta sẽ phú thần trí vào cho các ngươi, và các ngươi sẽ sống. Ta sẽ đặt trên các ngươi gân cốt, và Ta sẽ làm thịt nảy sinh trên các ngươi; Ta sẽ trải da ra. Ta sẽ cho các ngươi thần trí, và các ngươi sẽ sống, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa... Đây, Ta sẽ mở mồ ra cho các ngươi, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi đó... Khi Ta sẽ phú thần trí của ta vào cho các ngươi, các ngươi sẽ có sự sống, và Ta sẽ cho các ngươi nghỉ ngơi trên đất thuộc về các ngươi”.
Người lại lấy giọng thông thường, hạ cánh tay mà Người giơ ra đàng trước xuống, và Người nói: “Có hai sự sống lại của những cái khô, đã chết đối với cuộc sống này, hai điều phản chiếu trong lời tiên tri. Điều thứ nhất là sự sống lại vào Sự Sống và trong Sự Sống, tức là trong Ân Sủng, chính là Sự Sống của những kẻ đón nhận Lời Chúa, là Thần Trí bởi Chúa Cha mà sinh ra, là Thiên Chúa như Chúa Cha mà Người là Con, Người có tên là Ngôi Lời. Ngôi Lời là Sự Sống và ban Sự Sống. Sự Sống này là điều mọi người đều cần, nhưng Israel cũng như dân ngoại đều không có. Đối với Israel, cho tới lúc này, muốn có sự sống, chỉ cần hy vọng và chờ đợi Sự Sống từ trời mà xuống. Nhưng từ nay trở đi, muốn có sự sống, Israel phải đón nhận Sự Sống. Thực vậy, Thầy nói với các con rằng: những người thuộc về dân Thầy mà không đón nhận Thầy-Sự-Sống, thì không có sự sống, và việc Thầy đến sẽ là nguyên nhân cái chết cho họ, vì họ đã từ chối Sự Sống đến với họ để hiệp thông với họ. Giờ đã đến để Israel phân chia giữa những người sống và những người
656
chết. Đây là giờ để lựa chọn, hoặc sống hoặc chết. Lời đã nói, đã biểu lộ nguồn gốc của Người và sức mạnh của Người. Người đã chữa lành, dạy dỗ, cho sống lại, và Người sắp sửa hoàn tất sứ mạng của Người. Những kẻ không đến với Sự Sống sẽ không thể bào chữa được nữa. Chúa đi qua. Một khi Người đi qua thì Người không trở lại. Người không trở lại Ai Cập để ban lại sự sống cho những con đầu lòng của những kẻ đã khinh dể Người và áp bức Người trong các con cái Người. Lần này Người cũng sẽ không trở lại nữa sau khi sự sát tế của Con Chiên quyết định số phận của họ. Những kẻ không tiếp nhận Thầy trước sự đi qua, và những kẻ ghét thầy hay sẽ ghét Thầy, sẽ không có máu Thầy trên tâm hồn họ để thánh hóa họ, họ sẽ không được sống, họ sẽ không có Thiên Chúa ở với họ trong quãng còn lại của cuộc hành hương trên mặt đất của họ. Không có man-na của Thiên Chúa, không có mây và ánh sáng bảo vệ, không có Nước từ Trời xuống, không có Thiên Chúa, họ sẽ lang thang qua cái sa mạc mênh mông là trái đất, tất cả trái đất toàn là sa mạc cho kẻ đi ở trên đó mà thiếu kết hợp với Trời, thiếu thân cận với Cha và Bạn: Thiên Chúa. Cũng có một sự sống lại thứ hai: Sự sống lại phổ quát, trong đó các xương đã tiêu tan và tản mát qua bao thế kỷ, sẽ trở lại tươi tốt, được bao bọc bằng thịt, gân và da. Đó sẽ là sự phán xét. Thịt và máu các người công chính sẽ hoan lạc cùng với linh hồn trong Nước Vĩnh Cửu. Thịt và máu của những kẻ bị kết án sẽ khổ sở cùng với linh hồn trong hình phạt đời đời.
Thầy yêu con, ôi Israel! Thầy yêu con, ôi dân ngoại! Thầy yêu con, ôi loài người! Chính vì tình yêu này mà Thầy mời gọi tất cả tới Sự Sống và Sự Sống Lại hạnh phúc!
Những người tụ họp trong căn phòng mênh mông đều như xuất thần. Không có gì khác nhau giữa sự ngạc nhiên của người Hy Bá và của những người thuộc nhiều nơi và nhiều tôn giáo khác nhau. Tôi cũng có thể nói rằng những người có sự ngạc nhiên với vẻ trọng kính hơn, đó là các người ngoại quốc.
Có một người, một ông già nhỏ rất nghiêm trang, lẩm bẩm điều gì giữa hai hàm răng.
657
- Ông ơi, ông nói gì đó? - Giêsu quay lại hỏi.
- Tôi nói rằng... Tôi đã tự nhắc lại những lời mà khi còn trẻ, tôi đã nghe từ thầy giáo của tôi: “Con người được phép, bằng nhân đức, vươn lên tới một sự trọn lành như Thiên Chúa. Trong thụ tạo có sự phản chiếu của Tạo Hóa. Người tự mặc khải để con người tự làm cho mình nên cao qúi bằng nhân đức, hầu như tiêu hao vật chất đi trong lửa của nhân đức. Và con người được ban cho biết, ít nhất là một lần trong đời sống của một người, đấng mà với một tình yêu đoan trang hay tình yêu phụ tử, tự tỏ mình ra cho thụ tạo, để nó có thể nói: ‘Tôi phải tốt. Tôi sẽ bất hạnh nếu tôi không tốt! Bởi vì một quyền năng vô biên đã chiếu sáng trước mặt tôi để cho tôi hiểu rằng nhân đức là một nhiệm vụ, và nó là dấu chỉ đặc tính cao qúi của con người’. Qúi vị sẽ tìm thấy ánh sáng này của Thiên Tính, khi thì trong vẻ đẹp của thiên nhiên, khi thì trong lời của một kẻ sắp chết, hoặc ngay trong cả cái nhìn của một kẻ khốn nạn nhìn qúi vị và xét đoán, hoặc trong sự yên lặng của một người thân yêu không nói gì để kết án một hành vi ô nhục của qúi vị. Qúi vị thấy nó trong sự sợ hãi của đứa trẻ trước hành động hung bạo của qúi vị, hoặc trong sự lặng lẽ của những đêm qúi vị ở một mình với chính mình, trong căn phòng đóng kín và đơn độc nhất. Qúi vị sẽ cảm thấy một cái tôi khác rất mạnh hơn cái tôi của qúi vị, nó nói với qúi vị một âm thanh không âm thanh, và đó là Thiên Chúa. Thiên Chúa này chắc chắn hiện hữu, vị Thiên Chúa mà tạo vật thờ lạy, dù không có ý thức. Vị Thiên Chúa này độc nhất, thực sự thỏa mãn tình cảm của con người nhân đức là những người không cảm thấy thỏa mãn và an ủi bởi các nghi thức và các giáo thuyết của chúng ta, cũng không thỏa lòng trước các bàn thờ trống rỗng, hoàn toàn trống rỗng, dù là trên đó có một bức tượng”. Tôi rất thuộc những lời này, vì từ nhiều ngũ niên, tôi nhắc lại như luật của tôi và niềm hy vọng của tôi. Tôi đã sống, đã làm việc, và cũng đã khổ và khóc. Nhưng tôi đã chịu đựng được tất cả. Và tôi hy vọng, với nhân đức, trước khi chết, tôi gặp được vị Thiên Chúa này mà Hermogène đã hứa với tôi là tôi sẽ gặp. Bây giờ tôi nói rằng tôi đã thực sự thấy Người. Tôi đã nghe
658
tiếng người, và việc này không phải là một ánh chớp, cũng không phải một âm thanh không âm thanh, nhưng là một hình thể con người rất bình an và đẹp đẽ. Thiên Chúa đã hiện ra với tôi, tôi đã nghe tiếng Người, và tôi được tràn ngập một sự ngạc nhiên thánh. Linh hồn, điều mà loài người thực sự nhìn nhận, ôi Đấng Toàn Thiện, linh hồn tôi đón tiếp Người, và nó nói với Người: ‘Hãy dạy cho con Đường Lối của Ngài, Sự Sống của Ngài, Chân Lý của Ngài, để một ngày kia, con, con người cô độc, con được xum họp với Ngài, Vẻ Đẹp tối cao’”.
- Chúng ta sẽ xum họp. Và Thầy còn nói với ông rằng sau này ông sẽ được xum họp với Hermogène.
- Nhưng ông ta đã chết mà không biết Thầy!
- Không phải chỉ có sự biết về vật chất mới là cần thiết để chiếm hữu Thầy. Người nào mà bởi nhân đức, cảm nhận được vị Thiên Chúa mà họ không biết này, và sống nhân đức để tôn vinh Thiên Chúa này, rất có thể nói được rằng họ đã biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa tự mặc khải cho họ để thưởng đời sống nhân đức của họ. Khốn thay nếu cần thiết phải biết Thầy một cách cá nhân! Nếu vậy thì sắp sửa rồi, sẽ chẳng còn ai có phương tiện để xum họp với Thầy nữa. Qủa vậy, chính Thầy nói với các con: sắp sửa rồi, Đấng Sống sẽ rời bỏ nước của các kẻ chết để trở về Nước của Sự Sống, và loài người sẽ không còn phương tiện nào khác để biết Thầy ngoài bởi đức tin và tâm hồn. Nhưng thay vì dừng lại, sự hiểu biết về cá nhân Thầy sẽ lan truyền, và lan truyền cách toàn thiện, vì nó sẽ loại trừ được những gì là nặng nề của giác quan. Thiên Chúa sẽ nói, Thiên Chúa sẽ thực hiện, Thiên Chúa sẽ sống động, Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho linh hồn các tín hữu của Người với bản tính bất khả tri và trọn lành của Người. Và loài người sẽ yêu ThiênChúa-Người, và Thiên-Chúa-Người sẽ yêu loài người bằng những phương tiện mới, với những phương tiện không thể xóa mờ mà Tình Yêu vô biên của Người sẽ để lại trên trái đất, trước khi trở về bên Chúa Cha sau khi đã làm trọn tất cả.
Nhiều người kêu lên: “Ôi! Chúa ơi! Chúa ơi! Xin hãy nói cho
659
chúng con: chúng con phải làm sao để có thể tìm thấy Thầy và biết rằng chính Thầy nói với chúng con; và Thầy ở đâu sau khi Thầy đã ra đi?” Và một số người khác thêm: “Chúng con là những dân ngoại, và chúng con không biết luật của Thầy. Chúng con không có thời giờ để ở lại đây và đi theo Thầy. Chúng con phải làm sao để có được các nhân đức làm cho chúng con xứng đáng được biết Thiên Chúa?”
Giêsu mỉm cười với vẻ đẹp rạng rỡ trong niềm vui của cuộc chinh phục mà Người đã làm giữa các dân ngoại, và Người êm đềm giải thích: “Các con đừng lo để biết nhiều luật. Họ sẽ đến (và Người để tay trên vai Phêrô và Thađê) để đem luật của Thầy vào trong thế giới. Nhưng bao lâu họ chưa đến thì hãy coi vài câu sau đây như lề luật, đó là tóm tắt tất cả lề luật cứu rỗi của Thầy:
Hãy yêu Thiên Chúa hết lòng. Hãy yêu các người cầm quyền, cha mẹ, bạn hữu, tôi tớ, dân tộc và cả kẻ thù, giống như các con yêu chính mình. Và để chắc chắn là mình không phạm tội, thì trước khi làm bất cứ hành động nào, dù là được truyền lệnh, dù là tự nhiên, các con hãy tự hỏi: “Điều mà tôi sắp làm cho người này, tôi có muốn nó được làm cho tôi không?” Và nếu các con thấy rằng các con không muốn thì đừng làm.
Với vài hàng đơn sơ này, các con có thể vạch ra trong các con một con đường mà qua đó, Thiên Chúa sẽ đến với các con, và cũng bởi đường này, các con đến với Thiên Chúa. Qủa vậy, không ai muốn con cái vô ơn với họ, hoăc ai giết họ, hoặc ai nữa trộm cắp của họ, hoặc cướp vợ của họ, hoặc làm nhục chị hay em gái họ, hay con gái họ, hoặc chiếm đoạt nhà cửa, ruộng vườn hay các đầy tớ trung thành của họ. Với qui luật này, các con sẽ là những con thảo và cha mẹ tốt, chồng tốt, anh em tốt, thương gia tốt, bạn bè thực sự. Như vậy là các con nhân đức, và Thiên Chúa sẽ đến với các con.
Chung quanh Thầy không phải chỉ có các người Hy Bá và dân tân tòng, nơi họ không có qủi quyệt, Thầy muốn nói là họ không đến với Thầy với ý định bắt gặp Thầy trong các khuyết điểm, giống như các người đã đuổi các con ra khỏi Đền Thờ, để ngăn cản các
660
con đến với Sự Sống, nhưng cũng có những dân ngoại thuộc mọi nước thế giới. Thầy nhìn thấy các người Crète và các người Phênici lẫn lộn với các dân ở Pont và ở Phrygie, và cũng có người ở các bờ biển xa lạ, trên con đường về những miền đất lạ, nơi mà Thầy cũng sẽ được yêu. Thầy thấy các người Hy Lạp với các người Sicule, các dân ở Cyrénaique và các người châu Á. Vậy Thầy bảo các con: Hãy đi, hãy nói ở xứ sở các con rằng Ánh Sáng đã ở trên thế giới, và họ hãy đến với Ánh Sáng. Hãy nói rằng Đấng Khôn Ngoan đã bỏ trời để biến mình thành bánh cho loài người, thành nước cho các kẻ héo hon. Hãy nói rằng Sự Sống đã đến để chữa những kẻ bệnh, phục sinh kẻ chết. Và hãy nói... Hãy nói rằng thời gian đi nhanh như cái chớp trong mùa hè. Kẻ nào ước ao Thiên Chúa thì hãy tới, tâm hồn họ sẽ được biết Thiên Chúa. Kẻ nào muốn được chữa lành thì hãy tới. Bàn tay Thầy, bao lâu nó còn được tự do, nó sẽ chữa cho hết những ai kêu cầu với lòng tin.
Hãy nói... Đúng! Hãy đi, và hãy đi cách vội vã và hãy nói rằng Vị Cứu Tinh đang chờ những ai chờ đợi và ước ao sự trợ giúp của Thiên Chúa, vào dịp lễ Vượt Qua, trong Thành Thánh. Hãy nói vậy với những ai cần, và với cả những người chỉ đơn giản là tò mò. Từ một cử động không trong sạch của sự tò mò, có thể vọt lên cho họ một tia sáng đức tin vào Thầy, Đức Tin Cứu Rỗi. Đi đi! Giêsu Nazarét, Vua Israel, Vua thế giới, kêu gọi tụ tập mọi người đại diện cho thế giới để ban cho họ những kho báu ơn phúc của Người, và để có họ làm chứng nhân về sự nâng lên của Người, là điều sẽ thánh hiến chiến thắng của Người muôn đời để làm Vua các vua và Chúa các chúa. Đi đi! Đi đi!
Vào lúc rạng đông của đời sống trần thế của Thầy, các người đại diện của dân Thầy, từ nhiều nơi, đã đến để thờ lạy Hài Nhi mà nơi Người, Sự Vô Biên được giấu ẩn. Ý muốn của một người tưởng là mình uy quyền, đã là một đầy tớ của ý muốn Thiên Chúa, đã ra lệnh việc khai sổ nhân đinh trong đế quốc. Trong khi vâng lời một mệnh lệnh không biết và không thể tránh được của Đấng Tối Cao, người ngoại giáo này đã tự làm sứ giả mang mệnh lệnh của Thiên
661
Chúa, đấng muốn có hết mọi người Israel tản mát trên khắp trái đất, ở trong mảnh đất của dân tộc này, tại gần Bétlem Ephrata, để ngạc nhiên về những dấu hiệu từ trời mà đến vào những mấp máy đầu tiên của một trẻ sơ sinh. Và tựa như với bấy nhiêu cũng chưa đủ, các dấu hiệu khác nữa lại nói với các dân ngoại và các người đại diện của họ đã đến thờ lạy Vua các vua, bé nhỏ, nghèo khó, còn xa việc đội mũ triều thiên trần thế của Người, nhưng đã, ôi! đã là vua trước mặt các thiên thần rồi.
Đã đến giờ Thầy sẽ là Vua trước mặt các dân trước khi trở về nơi mà từ đó Thầy đã đến.
Vào lúc hoàng hôn của đời sống dương thế của Thầy, vào chập tối của đời sống làm người của Thầy, thật chính đáng để có những người thuộc mọi dân tộc để nhìn xem đấng mà họ phải thờ lạy, mà nơi Người giấu ẩn tất cả Tình Thương, và để họ, những người tốt, được hưởng những hoa trái đầu mùa của vụ gặt mới của Tình Thương này. Tình Thương này sẽ mở ra như những đám mây của tháng Nisan để làm cho các dòng sông nở phình ra bằng các dòng nước cứu rỗi, có thể làm sinh hoa trái trên các cây mọc ở bờ, giống như ta đọc thấy trong sách Êzêkiel.
Rồi Giêsu lại bắt đầu chữa bệnh, đàn ông, đàn bà, và nghe tên họ, vì bây giờ mọi người đều muốn nói tên mình: “Con là Zilla... con, Zabdi... con Gail...con Andrê... con Théophane... con Sélima... con Olinto... con Philíp... con Élissa... con Bérénice... con gái con Gaia... con Argénide... con... con... con...”
Người đã xong. Người muốn đi, nhưng họ xin nài biết bao để Người ở lại và nói nữa!
Có một người, có lẽ chột mắt, vì ông có một mắt bịt băng, ông nói để giữ Người lại thêm: “Chúa ơi, con bị đánh bởi một người ghen vì việc buôn bán của con. Con đã khó khăn để cứu được mạng sống, nhưng con bị mất một mắt, bị bể vì cú đánh. Bây giờ đối phương của con trở nên nghèo và bị khinh chê. Ông trốn tới một xứ ở gần Corintô. Con là người Corintô, con phải làm gì cho kẻ thất bại trong việc giết con. Đừng làm cho người khác điều con không
662
muốn nhận, đúng, nhưng con đã phải nhận từ hắn sự đau đớn, rất đau đớn...” Và khuôn mặt của ông bộc lộ rõ ràng, người ta có thể đọc được ở đó tư tưởng không nói ra của ông: “Vậy con phải báo thù...”
Nhưng Giêsu nhìn ông với nụ cười đầy ánh sáng trong đôi mắt mầu lam ngọc của Người, đúng, nhưng với tất cả phẩm gía của một vị thầy trên khuôn mặt Người, và Người nói: “Chính con, một người Hy Lạp, mà con hỏi Thầy điều đó? Các vĩ nhân của các con đã chẳng nói rằng: người ta sẽ trở nên giống như Thiên Chúa khi họ phù hợp với hai ân huệ mà Thiên Chúa ban cho họ để làm cho họ nên giống Người, đó là: Có thể ở trong chân lý và làm điều tốt cho tha nhân?
- A! Đúng! Pythagore!
- Và họ đã chẳng nói rằng con người tới gần Thiên Chúa không phải bằng khoa học hay quyền thế, hay cái gì khác, nhưng bằng cách làm điều tốt.
- A! Đúng! Démosthène! Nhưng con xin lỗi Thầy nếu con hỏi Thầy... Thầy chỉ là người Hy Bá, và các người Hy Bá không thích các triết gia của chúng con... Làm sao Thầy biết các điều đó?
- Ông ơi, bởi vì Thầy là sự khôn ngoan, Thầy soi sáng cho các trí tuệ bộc lộ ra các lời này. Nơi nào sự lành hoạt động thì Thầy ở đó. Con, dân Hy Lạp, hãy nghe lời khuyên của các hiền nhân, nơi họ cũng vẫn là Thầy nói. Hãy làm điều lành cho kẻ đã làm điều ác cho con, và con sẽ được gọi là thánh bởi Thiên Chúa. Bây giờ hãy để cho Thầy đi. Còn có những người khác đang chờ Thầy. Chào Valêria. Đừng sợ cho Thầy. Chưa đến giờ của Thầy. Khi giờ đó đến thì tất cả các đạo quân của César cũng bất lực để đặt một hàng rào cản các đối phương của Thầy.
- Chào Thầy, xin Thầy cầu nguyện cho con.
- Để bình an chiếm hữu con. Chào. Bình an cho ông, ông trưởng. Bình an cho những ai tin và cho những kẻ hướng lòng về bình an.
Rồi với cử chỉ chào và chúc phúc, Người ra khỏi phòng, băng qua sân và ra đường.
663
232* JUDAS VÀ CÁC KẺ THÙ CỦA GIÊSU
Tôi không thấy Giêsu, cũng không thấy Phêrô, Juđa Alphê và Tôma, nhưng tôi thấy chín vị kia đang đi về phía khu Ophel.
Các người ở trên đường không đông lắm như trong dịp lễ Vượt Qua và lễ Ngũ Tuần hay Lễ Lều. Đây hơn kém là những người sống ở thành phố. Có lẽ lễ Ánh Sáng không quan trọng lắm và không đòi hỏi dân Hy Bá phải có mặt tại Jêrusalem. Chỉ có những người tình cờ đến thành phố hay những người ở các làng bên cạnh Jêrusalem mới vào thành để lên Đền Thờ. Những người khác, vì lẽ mùa lạnh hay vì tính chất đặc biệt của ngày lễ, đã ở lại trong tỉnh của họ và nhà của họ.
Tuy nhiên nhiều môn đệ, vì tình yêu Chúa, đã rời nhà cửa, cha mẹ, lợi lộc và công việc để đi Jêrusalem, và họ họp đoàn với các tông đồ. Nhưng tôi không nhìn thấy Isaac, cũng không Abel, không Philíp, cũng không Nicolai, người đã đi hộ vệ Sabêa tới Aera. Họ nói chuyện thân mật với nhau, kể và nghe hết mọi sự kiện đã xảy ra trong thời gian họ xa nhau. Nhưng ta có thể nói là họ đã gặp Thầy, có lẽ tại Đền Thờ, vì họ không ngạc nhiên về sự vắng mặt của Người. Họ bước nhẩn nha, thỉnh thoảng họ dừng lại như để chờ, nhìn về phía trước và phía sau, nhìn vào các con đường từ núi Sion dẫn tới các con đường đi về các cổng ở phía nam thành phố.
Iscariot hầu như ở sau chót mọi người, và ông hùng biện với một nhóm môn đệ mà lòng trí đầy thiện chí hơn là khoa học. Hai lần ông được gọi đích danh bởi mấy người Do Thái đi phía sau nhóm, nhưng không lẫn lộn vào nhóm. Tôi không biết ý định của họ và không biết họ có nhiệm vụ gì. Và cả hai lần, Judas đều nhún vai, cả đến không quay lại. Nhưng lần thứ ba, ông bó buộc phải quay lại, vì một người Do Thái đã rời nhóm của ông, tự ý băng qua các môn đệ, cầm tay áo Judas và bó buộc ông dừng lại khi nói với ông: “Lại đây một lát, vì chúng tôi cần nói với anh”.
664
- Tôi không có thời giờ và tôi không thể - Judas trả lời với giọng sắc bén.
- Đi đi, đi đi. Chúng tôi chờ anh. Vì bao lâu chúng ta chưa gặp Tôma thì chúng ta không thể rời thành phố - Andrê, người ở gần Judas nhất, nói với ông.
- Được. Vậy đi trước đi, tôi sẽ tới ngay - Judas nói. Rõ ràng là ông ta không có vẻ muốn làm điều ông ta phải làm.
Ở lại một mình, Judas nói với người quấy rầy ông: “Nào, ông muốn gì? Các ông muốn gì? Các ông còn chưa thôi quấy rầy tôi sao?”
- Ôi! Ôi! Điệu bộ kỳ cục! Nhưng khi chúng tôi gọi anh để cho tiền anh thì anh đâu có thấy rằng chúng tôi quấy rầy anh! Ông ơi, ông qúa kiêu căng! Nhưng hãy nhớ rằng có người có thể làm cho ông nên khiêm nhường...
- Tôi là người tự do và...
- Không, anh không tự do. Tự do là kẻ mà chúng ta không có cách nào để làm cho nó thành nô lệ, và anh biết tên đó. Còn anh... anh là nô lệ về tất cả và của tất cả, và trước tiên là của sự kiêu căng của anh. Tóm tắt, hãy chú ý là nếu anh không đến nhà Caipha vào trước chính ngọ thì khốn cho anh! - một tiếng “khốn” thực sự đe dọa.
- Được rồi, tôi sẽ tới. Nhưng các ông sẽ làm tốt hơn bằng cách để cho tôi yên, nếu các ông muốn...
- Cái gì? Cái gì! lái buôn lời hứa, chẳng được việc gì cả... - Judas tự giải thoát bằng cách đẩy lui thật mạnh kẻ giữ ông và bỏ đi trong khi nói: “Tôi sẽ nói khi tôi ở đó”.
Ông lại với các người khác của nhóm ông. Ông lo nghĩ và có vẻ lúng túng. Andrê hỏi ông cách vồn vã: “Tin buồn à? Không, hen? Có lẽ mẹ anh...”
Judas, lúc đầu nhìn xéo ông và đã sẵn sàng cho ông một câu trả lời chua cay, nhưng rồi ông làm bộ nhân đạo và nói: “Đúng, các tin không được tốt... Anh biết... mùa này... Bây giờ... vì bây giờ tôi nhớ ra một mệnh lệnh của Thầy. Nếu ông đó không kéo tôi dừng lại thì
665
tôi đã quên mất, cả việc đó nữa... Nhưng ông ta đã nói với tôi cái tên chỗ ông ta ở, và nhờ vào cái tên này, tôi nhớ tới mệnh lệnh đã được truyền cho tôi. Vậy bây giờ, khi tôi đi lo việc đó, tôi sẽ tới nhà ông này, và tôi sẽ biết nhiều hơn...”
Andrê, luôn luôn đơn sơ và thật thà, đương nhiên là không hề nghi ngờ rằng bạn ông có thể nói dối, nên ông ân cần nói: “Đi đi! Đi ngay đi. Tôi sẽ nói với những người khác. Đi đi, đi đi. Hãy trút bỏ cho anh sự lo lắng này”.
- Không, không. Tôi phải chờ Tôma vì lẽ tiền bạc. Hơn kém chỉ một lúc...
Những người khác đã đứng lại chờ Tôma, nhìn họ tới.
- Judas có tin buồn - Andrê loan báo.
- Đúng... mới có vài câu. Nhưng tôi sẽ biết nhiều hơn khi tôi đi làm điều tôi phải...
- Cái gì? - Batôlômêo hỏi.
- Kìa, Tôma đang chạy tới - Gioan nói cùng một lúc với Batôlômêo, và Judas lợi dụng để khỏi phải trả lời.
- Tôi để các anh phải chờ à? Lâu không? Là vì tôi muốn được giá... và tôi đã thành công. Các anh nhìn túi tiền này. May mắn cho các người nghèo. Thầy sẽ vui lòng.
- Phải vậy. Chúng ta không có lấy một xu cho các người hành khất - Giacôbê Alphê nói.
- Đưa nó cho tôi đi - Iscariot nói khi giơ tay về cái túi tiền mà Tôma lúc lắc trong tay ông.
- Nhưng thực sự... Giêsu đã giao cho tôi nhiệm vụ đi bán, và tôi phải trao tận tay Người cái tôi đã nhận.
- Anh sẽ nói cho Người số tiền. Bây giờ hãy đưa cho tôi, vì tôi vội phải đi.
- Không. Tôi không đưa cho anh. Giêsu đã nói với tôi khi chúng ta đi qua Sixte: “Rồi con sẽ đưa cho Thầy món tiền”, và tôi, tôi làm như vậy.
- Anh sợ gì? Sợ tôi lấy bớt hay sợ tôi lấy mất của anh công lao đi bán. Tại Jêricô tôi cũng đã đi bán, và còn có lợi hơn. Từ mấy năm
666
rồi, chính tôi lo nhiệm vụ về tiền bạc. Đó là quyền của tôi.
- Ôi! Nghe đây: nếu anh muốn gây chuyện về cái này thì cầm lấy đi. Tôi hoàn tất nhiệm vụ và tôi không lo những chuyện còn lại. Đây, cầm lấy đi. Còn biết bao thứ khác đẹp hơn cái này!... - và Tôma đưa túi tiền cho Judas.
- Thực sự, nếu Thầy đã nói... - Philíp nói.
- Thôi, đừng bàn cãi nữa. Bây giờ tất cả chúng ta đã ở với nhau, tốt hơn là lên đường thôi. Thầy đã nói là phải tới Bêtani trước giờ ngọ. Chúng ta chỉ có hơi đủ giờ - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Vậy tôi tạm rời các anh. Các anh đi trước đi. Tôi, tôi đi rồi tôi trở lại.
- Nhưng không được! Người đã nói rõ ràng: “Hãy hợp nhất tất cả với nhau” Mathêu nói.
- Hợp nhất tất cả các anh. Còn tôi, tôi phải đi, nhất là bây giờ tôi có các tin tức của mẹ tôi!...
- Sự việc đã xảy ra như vậy. Nếu anh ấy có những mệnh lệnh mà chúng ta không biết... - Gioan nói dung hòa.
Những người khác, ngoại trừ Tôma và Andrê, có vẻ ít đồng ý cho ông ta đi, nhưng sau cùng họ nói: “Vậy đi đi. Nhưng hãy làm cho lẹ, và hãy cẩn thận...”
Judas chuồn lẹ vào một đường mòn dẫn lên đồi Sion trong khi những người khác tiếp tục bước.
Sau một lúc, Zêlote nói: “Nhưng không đúng. Chúng ta đã hành động sai. Thầy đã nói rằng: ‘Hãy luôn luôn ở với nhau và hãy tốt’. Chúng ta đã không vâng lời Thầy. Tôi thấy băn khoăn”.
- Tôi cũng nghĩ như vậy - Mathêu trả lời ông.
Các tông đồ đã tụ họp lại từ lúc họ phải quyết định về điều họ phải làm. Tôi thấy các môn đệ luôn luôn tránh ra xa cách trọng kính khi các tông đồ tụ lại để bàn bạc.
Batôlômêo nói: “Chúng ta hãy làm như vầy: hãy giải tán những người đi theo chúng ta ngay từ lúc này, đừng đợi cho tới con đường Bêtani. Rồi chúng ta chia làm hai nhóm để chờ Judas, một nhóm ở con đường dưới thấp, một nhóm ở đường trên cao. Nếu Thầy có
667
đến trước chúng ta, Người sẽ thấy là chúng ta đến cùng với nhau, vì nhóm nọ chờ nhóm kia ở bên ngoài Bêtani”.
Vấn đề được quyết định. Họ giải tán các môn đệ, rồi họ đi chung với nhau tới chỗ có đường dẫn về Gétsêmani thì họ chia hai: một nhóm đi vào con đường lên núi Oliu, một nhóm đi vòng suối Cédron, theo con đường thấp dẫn về phía Bêtani và Jêricô...
Trong lúc đó, Judas chạy trốn tựa như bị người ta theo đuổi. Hắn tiếp tục lên dốc một lúc trong con đường hẹp dẫn lên đỉnh Sion về phía tây. Rồi hắn quặt vào một con đường hẹp hơn nữa, hầu như một ngõ hẻm, và thay vì lên dốc, nó lại xuống về phía nam. Hắn có vẻ nghi ngờ. Hắn chạy, nhưng thỉnh thoảng quay đầu lại như sợ sệt. Rõ ràng là hắn ta sợ bị theo dõi. Ngõ hẻm ngoằn nghoèo giữa những căn nhà xây cất vô trật tự, bây giờ đổ vào một miền quê rộng. Có một ngọn đồi ở bên kia thung lũng, bên ngoài tường thành, một ngọn đồi thấp phủ đầy oliu, ở bên ngoài thung lũng sỏi đá khô cằn Hinnom. Bây giờ Judas chạy thật lẹ, băng qua các hàng dậu bao quanh các khu vườn ở đàng sau các nhà đối diện với tường thành: các căn nhà nghèo của các người dân Jêrusalem nghèo. Để ra khỏi thành phố, hắn không đi qua cổng Sion rất gần đó, nhưng hắn chạy trong khi lên dốc, tới một cổng khác hơi ở phía tây. Hắn ra khỏi thành phố, chạy lắt nhắt như con ngựa tơ để đi cho mau. Hắn chạy như gió qua một cái cầu gần bên những hang buồn của các người cùi ở Hinnom, như điếc với những than thở của họ. Rõ ràng là hắn tìm những nơi mà những người khác chạy trốn. Hắn đi thẳng về ngọn đồi phủ đầy oliu, đơn độc ở phía nam thành phố. Hắn thở một hơi dài nhẹ nhõm khi hắn đã tới sườn đồi và hắn bước chậm lại. Hắn chỉnh lại mũ, giây lưng, quần áo mà hắn đã thắn lên, lấy tay che mắt để nhìn, vì mặt trời chiếu vào mặt. Hắn nhìn về phía đông, về nơi có con đường thấp dẫn về Bêtani và Jêricô, nhưng hắn thấy không có gì đáng lo. Trái lại, có một góc đồi ngăn cách hắn với con đường này. Hắn mỉm cười. Hắn bắt đầu lên dốc ngọn đồi từ từ để hết đứt hơi. Trong lúc đó hắn suy nghĩ. Nhưng càng suy
668
nghĩ, hắn càng trở nên âm u. Chắc chắn hắn độc thoại với chính mình, nhưng trong yên lặng. Rồi tới một chỗ, hắn dừng lại, lôi túi tiền của Tôma ra khỏi bụng, nhìn nó, rồi lại để vào trong bụng sau khi đã phân chia số tiền và bỏ một phần vào túi tiền của hắn, có lẽ là để cái túi tiền hắn cất trong bụng ít có vẻ lộ liễu.
Có một ngôi nhà ở giữa đám cây oliu, một căn nhà đẹp, đẹp nhất ngọn đồi, vì các nhà khác đều rải rác ở sườn đồi, phụ thuộc hay độc lập với căn nhà đẹp, đều khiêm tốn hơn. Hắn đi vào một con đường phủ cát ở giữa các cây oliu trồng thẳng hàng. Hắn gõ cửa, tự giới thiệu và vào. Hắn đi cách vững vàng qua tiền đường, vào một cái sân vuông có nhiều cửa ở các phía. Hắn mở một cửa. Hắn đi vào một phòng mênh mông, nơi có nhiều nhân vật khác nhau mà tôi nhận ra: khuôn mặt nham hiểm và hận thù của Caipha, khuôn mặt siêu pharisiêu của Elchias, khuôn mặt cáo của Pháp Đình viên Félix, khuôn mặt hổ mang của Simon. Hơi xa hơn là Doras con của Doras mà các nét càng ngày càng giống ba ông, và cùng với ông là Cornélius và Tolmai. Và các luật sĩ khác là Sađốc và Canania, già khụ, nhưng nhẵn nhụi, vả lại, rất trẻ trung trong sự độc ác. Và kỳ lão Collascébona, và Natanael Ben Faba; rồi một Doro nào đó, một Simon, một Giuse, một Joakim mà tôi không biết. Caipha nói các tên, tôi ghi chép. Ông kết thúc: “... tụ họp ở đây để xét xử mày”.
Judas có khuôn mặt kỳ dị: vừa sợ, vừa giận, vừa hung bạo. Nhưng hắn nín lặng. Hắn không tỏ ra oai vệ. Những người khác bao quanh hắn, cười nhạo hắn, mỗi người theo lối của mình:
- Nào, mày đã làm gì với tiền của chúng ta? Mày nói gì với chúng ta đây? Nhân vật khôn ngoan, nhân vật làm được tất cả, làm lẹ và làm hay? Công việc của mày đâu? Mày là tên nói dối, một tên mách lẻo chẳng được việc gì. Người đàn bà đâu rồi? Cả đến mày không có bà ta nữa? Và như vậy, thay vì phục vụ chúng ta, mày lại phục vụ cho ông ta, hen? Mày giúp chúng ta kiểu đó sao? - Một tràng la ó, gào thét, dọa nạt, vì vậy nhiều câu tôi không nghe được.
669
Judas để cho họ la ó thả cửa. Khi họ đã mệt và thở dốc, hắn mới nói: “Tôi đã làm điều tôi có thể. Có phải do lỗi tôi mà người đó là một người không ai có thể làm cho phạm tội không? Các ông đã nói rằng các ông muốn thí nghiệm nhân đức của ông ta, tôi, tôi đã cho các ông bằng cớ là ông ta không phạm tội. Vậy tôi đã phục vụ chương trình của các ông. Tất cả các ông, có lẽ các ông đã thành công trong việc đặt ông ta vào trong một hoàn cảnh của kẻ bị tố? Không. Với tất cả những cố gắng của các ông để làm cho ông ta xuất hiện như một kẻ phạm tội, để kéo ông ta vào bẫy, ông ta đều ra khỏi, cao cả hơn trước. Vậy nếu các ông, với tất cả sự thù ghét của các ông mà các ông không thành công, làm sao tôi lại phải thành công? Tôi là người không ghét ông ta. Tôi chỉ thất vọng vì đã theo một kẻ vô tội đáng thương, một người qúa thánh để có thể làm vua, một ông vua chà nát kẻ thù! Ông ta đã làm điều gì xấu cho tôi để tôi làm điều xấu cho ông ta? Tôi nói như vậy bởi vì tôi nghĩ rằng các ông ghét Người tới nỗi muốn Người chết. Tôi không còn có thể tin được rằng các ông chỉ muốn thuyết phục dân chúng rằng đó là một tên điên, cũng như thuyết phục chúng tôi, thuyết phục tôi, vì điều tốt cho chúng tôi, và cho chính ông ta vì thương hại ông ta. Các ông qúa quảng đại đối với tôi, và qúa dữ tợn khi thấy ông ta ở bên trên điều ác, để tôi có thể tin điều đó. Các ông đã hỏi tôi rằng tôi làm gì với tiền của các ông. Tôi đã dùng nó vào việc mà các ông đã biết. Để thuyết phục người đàn bà, tôi đã phải tiêu rất nhiều... Và tôi không thành công làm việc đó với bà thứ nhất và...
- Nhưng câm đi! Chẳng có gì đúng cả. Bà ta mê hắn như điên, và chắc chắn bà ta đã đến lập tức. Ngoài ra, mày đã bảo đảm như vậy, vì mày nói rằng bà ta đã thú với mày điều đó. Mày là thằng ăn cắp! Ai biết được mày đã dùng tiền của chúng ta vào việc gì!
- Vào việc hủy hoại linh hồn tôi, kẻ sát nhân của một linh hồn! Để làm cho tôi thành người nham hiểm, một kẻ không còn bình an, một kẻ khả nghi đối với Người và các bạn Người. Vì, hãy biết rằng Người đã khám phá ra tôi... Ôi! Nếu Người đã đuổi tôi đi! Nhưng Người không đuổi tôi. Không, Người không đuổi tôi. Người bảo vệ
670
tôi, Người che chở cho tôi, Người yêu tôi!... Tiền của các ông!... Nhưng tại sao tôi lại nhận đồng xu nhỏ đầu tiên?
- Bởi vì mày khốn nạn. Trong khi chờ đợi, mày đã vui hưởng tiền của chúng ta, rồi bây giờ mày lại khóc vì đã tiêu nó. Tên gian dối! Trong khi chờ đợi thì chưa thành công được một việc gì, mà đám đông ở chung quanh hắn càng ngày càng nhiều và càng ngày càng say mê. Chúng ta sắp tiêu ma, và đó là tại lỗi mày!
- Lỗi tôi? Vậy tại sao các ông không bắt Người và kết án Người về tội muốn xưng mình là vua? Các ông đã bảo tôi rằng các ông muốn thử Người, mặc dầu tôi đã nói với các ông rằng vô ích, rằng Người không thèm quyền bính. Tại sao các ông không đưa Người đến tội phản lại sứ mạng của Người, nếu các ông dũng cảm như vậy?
- Bởi vì hắn thoát khỏi tay chúng ta. Đó là một thằng qủi biến đi khi nó muốn, giống như một làn khói. Hắn ta giống như một con rắn: Hắn thôi miên. Qúi vị không thể làm được cái gì khi hắn nhìn qúi vị!...
- Khi Người nhìn các kẻ thù của Người, là các ông thôi. Còn tôi thấy khi Người nhìn những kẻ không ghét Người bằng tất cả bản thân họ như các ông ghét, khi đó cái nhìn của Người làm cho linh hoạt, làm cho hành động. Ôi! Cái nhìn của Người! Tại sao Người nhìn tôi như vậy, và Người làm cho tôi nên tốt, tôi, một con quái vật đối với chính tôi, và đối với các ông là những kẻ làm cho tôi thành quái vật mười lần hơn nữa.
- Những lời kỳ cục chừng nào! Chính mày đã bảo đảm với chúng ta rằng vì ích lợi của Israel, mày sẽ giúp chúng ta. Nhưng ôi thằng khốn nạn! Mày không hiểu rằng tên đó là sự tiêu ma của chúng ta sao?
- Chúng ta à? Của ai?
- Nhưng của toàn dân! Tụi Rôma...
- Không. Chỉ là sự tiêu ma của các ông thôi. Các ông sợ cho chính các ông. Các ông biết rằng Rôma không nghiêm trị chúng ta do tại Người. Các ông biết điều đó cũng như tôi biết, cũng như toàn dân biết. Nhưng các ông run sợ vì các ông biết, vì các ông sợ rằng
671
Người sẽ quăng các ông ra khỏi Đền Thờ, ra khỏi nước Israel. Và Người sẽ làm đúng. Người sẽ làm đúng khi tống khứ các ông ra khỏi lãnh vực của Người, các ông, loài linh cẩu, loài ô uế, phân rác, rắn độc... - hắn ta thực sự nổi xùng.
Họ nắm lấy hắn, lắc hắn, và đến lần họ nổi xùng. Thật chính đáng nếu họ quăng hắn ta xuống đất... Caipha kêu ngay sát vào mặt hắn: “Được rồi, như vậy đó. Nhưng nếu như vậy thì chúng ta có quyền bảo vệ những gì thuộc về chúng ta. Nhưng vì các phương tiện nhỏ không đủ để thuyết phục ông ta trốn đi để cho thao trường được tự do, thì bây giờ đây, chính chúng ta sẽ hành động. Hãy để mày ra một bên, tên đầy tớ hèn, lái buôn lời. Và sau hắn ta, chúng ta sẽ xử trí tới mày, đừng nghi điều đó và...”
Elchias bịt miệng Caipha lại và nói với giọng phớt tỉnh lạnh lùng của con rắn đầy nọc độc: “Không, đừng nói vậy, Caipha, anh vượt qúa mức. Judas đã làm những gì nó có thể. Anh không nên dọa nạt nó. Ngoài ra, nó không có cùng một nguồn lợi như chúng ta sao?”
- Nhưng anh ngu sao Elchias? Tôi, những nguồn lợi của người này à? Nhưng tôi muốn rằng hắn ta phải bị chà nát, còn Judas lại muốn hắn ta toàn thắng để toàn thắng với hắn. Vậy mà anh nói... - Simon kêu lên.
- Bình an! Bình an! Các anh luôn luôn nói rằng tôi nghiêm khắc. Nhưng đây, hôm nay tôi là người hiền từ duy nhất. Phải hiểu Judas và tha cho nó. Nó đã giúp chúng ta như nó có thể. Nó là người bạn tốt đối với chúng ta, nhưng đương nhiên cũng là bạn của ông Thầy. Con tim của nó lo âu... Nó muốn cứu Thầy, cứu chính Thầy và Israel... Làm sao hòa giải được điều trái ngược? Chúng ta hãy để cho nó nói.
Cả bầy bình tĩnh lại. Sau cùng Judas có thể nói. Hắn nói: “Elchias có lý. Tôi... Các ông muốn gì ở tôi, tôi còn chưa biết đích xác? Tôi đã làm điều tôi có thể. Tôi không thể làm hơn. Người qúa lớn hơn tôi. Người đọc được trong lòng tôi... và Người không bao giờ đối xử với tôi như tôi đáng. Tôi là kẻ có tội, Người biết và Người xá giải cho tôi. Nếu tôi ít đê hèn hơn thì tôi phải... tôi phải tự tử để đặt
672
mình vào điều kiện không thể làm hại cho Người”. Judas ngồi, bị đè nặng, hai tay ôm mặt, đôi mắt mở trừng trừng, lạc vào khoảng không. Tỏ tường là hắn ta khổ sở trong cuộc chiến giữa các bản năng đối lập của hắn ta...
- Nhảm nhí chưa! Mày muốn là hắn ta biết điều gì? Mày hành động như vậy vì mày hối hận là đã đặt mình lên phía trước! - Người có tên là Cornélius kêu lên.
- Và nếu được như vậy? Ôi! Nếu được như vậy! Nếu tôi thực sự sám hối và trở nên có thể giữ mãi tình cảm này!...
- Nhưng các anh thấy nó không? Các anh nghe nó không? Cái công qũi tội nghiệp của chúng ta! - Canania kêu như vịt.
- Chúng ta có gì để làm với một kẻ không biết nó muốn gì? Chúng ta đã chọn một kẻ còn tệ hơn là ngu nữa! - Félix thêm thắt.
- Một đứa ngu à? Anh phải nói là một hình nộm! Tên Galilê kéo nó bằng một sợi giây thì nó đến với tên Galilê, chúng ta kéo nó thì nó đến với chúng ta - Sađốc kêu lên.
- Nếu các ông qúa khôn khéo hơn tôi đến vậy thì từ nay các ông hãy tự ý hành động. Tôi, từ nay tôi không thiết gì nữa. Các ông đừng chờ đợi một tin tức, một lời nào nữa. Ngoài ra, tôi không thể cho các ông nữa, vì từ rày, Người có kẻ canh giữ, và Người canh chừng tôi...
- Nhưng mày đã nói là hắn xá giải cho mày?
- Đúng, Người xá giải cho tôi. Nhưng chính vì Người biết tất cả... Người biết tất cả! Người biết tất cả! Ôi! - Judas lấy hai tay bịt mặt.
- Vậy đi đi! Đàn bà trong y phục đàn ông! Đứa trẻ đèo đẹt, không cân đối! Đi đi! Chính chúng ta sẽ hành động. Và hãy cẩn thận, cẩn thận đừng nói cho hắn những điều này, nếu không, chúng ta sẽ bắt mày phải trả.
- Tôi đi! Tôi đi! Chớ gì tôi đã không tới. Nhưng hãy nhớ điều tôi đã nói với các ông. Simon, người đã gặp ba anh; và Elchias, Người đã gặp em rể của ông. Tôi không tin là Daniel nói. Tôi có mặt, và tôi không hề thấy anh ta nói riêng. Nhưng ba anh, ông ta không nói
673
gì, theo như các người đồng môn đệ với tôi nói. Ông ta cả đến không tiết lộ tên anh. Ông chỉ giới hạn ở chỗ nói rằng con trai ông đã đuổi ông vì ông yêu Thầy và ông không chấp nhận lối sống của anh. Nhưng ông ta đã nói rằng chúng ta đã gặp nhau, và tôi đã tới nhà anh... Và ông cũng có thể đã nói những điều khác. Têcua đâu phải ở tận cùng thế giới... Sau này đừng nói rằng tại tôi nói, trong khi đã có qúa nhiều người biết chương trình của các ông.
- Cha tôi sẽ không bao giờ nói nữa. Ông ta chết rồi - Simon nhẩn nha nói.
- Chết? Anh đã giết ông? Sợ hãi! Tại sao tôi lại nói cho anh ông ta ở đâu!...
- Tôi, tôi không giết ai cả. Tôi không nhúc nhích khỏi Jêrusalem. Có bao nhiêu cách chết. Anh ngạc nhiên vì một ông già, và một ông già đi thu tiền bị giết? Ngoài ra... Đó là lỗi của ông. Nếu ông ta đã ở yên; nếu ông ta đừng có mắt, có tai, có lưỡi để thấy, để nghe và để khiển trách, thì ông ta còn được tôn trọng và phục vụ trong nhà của con trai ông...- Simon nói với sự nhẩn nha khiến phát khùng.
- Tóm lại... Anh đã cho người giết ông? Tội giết cha!
- Anh điên! Ông già bị đánh. Ông té vập đầu nên ông chết. Một tai nạn, chỉ là một tai nạn. Đó là điều xấu cho ông vì ông đã đòi tiền một tên cướp...
- Tôi biết anh, Simon. Và tôi không thể tin... Anh là tên sát nhân...
- Judas hoàn toàn sững sờ.
Tên kia cười vào mũi hắn và nhắc lại: “Còn anh, anh mê sảng. Anh thấy tội ác ở nơi chỉ có điều bất hạnh. Tôi mới được tin ngày hôm kia. Tôi đã dùng các biện pháp để báo thù và tôi đã ca tụng ông. Nhưng nếu tôi có thể ca tụng một xác chết, thì tôi lại không thể bắt kẻ sát nhân. Chắc là một tên ăn cắp nào đó từ Adomin xuống để bày ở chợ những đồ ăn cắp... Bây giờ ai mà bắt được nó?”
- Tôi không tin... Tôi không tin... Tôi đi! Tôi đi! Hãy để cho tôi đi... Các ông còn... tệ hơn loài linh cẩu... Tôi đi! Tôi đi! - Và hắn lượm áo khoác của hắn đã bị rớt xuống đất và sắp sửa đi ra. Nhưng
674
Canania nắm lấy hắn bằng bàn tay tham lam của lão: “Còn người đàn bà? Người đàn bà đâu? Bà ta nói sao? Bà ta đã làm gì, mày biết không?”
- Tôi chẳng biết gì cả... Hãy để tôi đi...
- Mày nói dối! Mày là tên nói dối - Canania kêu lên.
- Tôi không biết gì cả. Tôi thề điều đó. Bà ta đã tới, điều đó thì chắc, nhưng không ai thấy bà, kể cả tôi là người phải đi ngay với vị Rabbi. Các bạn tôi cũng không. Tôi đã khéo léo hỏi họ... Tôi thấy các nữ trang bị bể mà Êlise mang vào nhà bếp... Và tôi không biết gì khác nữa. Tôi thề bởi Bàn Thờ và Lều Tạm!
- Ai có thể tin mày? Mày là thằng hèn. Mày đã phản bội ông thầy của mày thì mày cũng có thể phản bội chúng ta. Nhưng mày hãy coi chừng!
- Tôi không phản bội. Tôi thề trên Đền Thờ của Thiên Chúa.
- Mày là đứa thề gian. Bộ diện mày nói điều đó. Chính hắn ta là người mày phục vụ chứ không phải chúng ta...
- Không. Tôi thề nhân danh Thiên Chúa.
- Thề đi, nếu mày dám làm để xác nhận tuyên ngôn này!
- Tôi thề điều đó trên Jêova - hắn tái vàng như đất khi phát ra danh Thiên Chúa. Hắn run rẩy, hắn ấp úng, cả đến hắn không còn biết phát âm như thông thường nữa. Tựa như hắn nói một chữ J, một chữ h, một chữ v rất kéo dài, tôi nói là tận cùng bằng hơi thở. Tôi tái xây dựng như sau: Jeocvèh. Tóm lại là hắn phát âm cách kỳ lạ.
Một yên lặng, có thể nói là sợ hãi, ngự trị căn phòng. Cả đến họ tránh xa Judas... Nhưng rồi Doras và một người nữa nói: “Hãy nhắc lại cùng một lời thề để xác nhận rằng mày chỉ phục vụ có chúng ta thôi...”
- A! Không! Khốn kiếp! cái đó là không! Tôi thề với các ông rằng tôi không phản bội các ông, và tôi không tố cáo các ông nơi Thầy, vậy là tôi đã phạm một tội rồi. Nhưng tương lai của tôi, tôi không trói nó vào với các ông. Các ông là những kẻ mai ngày, vì lời thề của tôi, có thể áp bức tôi... bất cứ cái gì, ngay cả tội ác.
675
Không! Hãy tố cáo tôi với Đại Pháp Đình như kẻ lộng ngôn phạm thánh; hãy tố cáo tôi là sát nhân với người Rôma. Tôi sẽ không tự vệ. Tôi sẽ để cho người ta giết tôi... Và đó là điều tốt cho tôi. Nhưng tôi, tôi không thề nữa... Tôi không thề nữa...” Và hắn mạnh mẽ đẩy những người giữ hắn ra và chạy trốn khi la lên: “Nhưng hãy biết rằng Rôma canh chừng các ông; rằng Rôma yêu Thầy...” Lối đi vang lên tiếng động trong nhà chỉ cho biết rằng Judas đã ra khỏi cái hang sói này.
Họ nhìn vào mặt nhau... Sự điên dại, có lẽ là sự sợ hãi, làm họ tái mét... Và vì không thể trút sự tức giận và sự sợ hãi của họ trên ai được, nên họ cãi lẫy với nhau. Mỗi người tìm cách đổ trên lưng người kia cái trách nhiệm về những vận động đã được làm, và những hậu qủa có thể có. Người thì trách cứ điều này, người thì phàn nàn điều kia; người nọ thì về qúa khứ, người kia thì về tương lai. Có mấy người kêu: “Anh đã muốn dụ dỗ Judas”; người khác thì: “Các anh đã hành động sai khi ngược đãi hắn ta. Các anh đã bị bại lộ!” Có người đề nghị: “Hãy chạy theo hắn cùng với tiền và lời xin lỗi...”
- A! Cái đó thì không! - Elchias là người bị nhiều khiển trách nhất kêu lên. “Hãy để cho tôi làm, rồi các anh sẽ phải nói rằng tôi khôn ngoan. Judas, khi hắn hết tiền thì hắn rất hiền. Ôi! Hiền như một con chiên!” Và ông cười như một con rắn. “Hắn coi như tốt bữa nay, ngày mai, hay có lẽ trong một tháng... Nhưng sau đó... Hắn ta qúa trụy lạc, làm sao có thể sống trong sự nghèo nàn mà vị rabbi cho hắn... Và hắn sẽ đến với chúng ta... Ha! Ha! Hãy để tôi làm! Hãy để tôi làm! Tôi, tôi biết...”
- Đúng. Nhưng trong khi chờ đợi... Anh có nghe không? Rôma rình rập chúng ta! Các người Rôma yêu ông ta. Và đúng vậy, ngay sáng nay, và hôm qua, và hôm kia nữa, có những dân ngoại trong số những người chờ ở tiền đường để nghe ông ta. Các phụ nữ của Antonia luôn luôn ở đó... Các bà ở mãi tận Cêsarê đến để nghe ông ta...
- Các cơn chướng của đàn bà! Tôi chả lưu tâm. Ông ta đẹp trai
676
và nói hay. Các trò lẻo mép mị dân và các triết gia là các bà mê như điên! Đối với các bà, tên Galilê là một trong số đó, không có gì hơn. Và ông ta dùng chúng để giải khuây trong những trò tiêu khiển của các bà. Phải kiên nhẫn để thành công! Kiên nhẫn và qủi quyệt, và cả can đảm nữa. Nhưng qúi vị không có những thứ đó. Qúi vị muốn hành động không tỏ lộ, tôi bảo qúi vị là tôi sẽ làm. Nhưng qúi vị không muốn...
- Tôi, tôi sợ dân. Họ qúa yêu hắn ta. Tình yêu chỗ này, tình yêu chỗ kia. Ai động vào hắn ta được? Nếu chúng ta đuổi hắn, chúng ta sẽ bị đuổi... Phải... - Caipha nói.
- Phải không được để mất dịp nữa. Chúng ta đã để mất bao nhiêu dịp! Ngay khi xuất hiện cơ hội đầu tiên là phải làm áp lực trên những người còn ngập ngừng trong số chúng ta, và phải hành động cả với người Rôma nữa.
- Nói thì lẹ, nhưng khi nào và ở đâu chúng ta có dịp? Hắn ta không phạm tội, không tìm quyền bính, không...
- Nếu không có tội thì tạo ra cho có!... Thôi bây giờ chúng ta đi. Trong khi chờ đợi, ngày mai chúng ta sẽ canh chừng hắn... Đền Thờ thuộc về chúng ta. Ở bên ngoài thì Rôma chỉ huy, ở bên ngoài thì có dân chúng bảo vệ hắn ta. Nhưng ở bên trong Đền Thờ...
233* BẢY NGƯỜI CÙI ĐƯỢC KHỎI.
GIÊSU VỚI CÁC TÔNG ĐỒ.
VỚI MATTA VÀ MARIA
Giêsu với Phêrô và Juđa Thađê đi rất mau trong một vùng đá sỏi buồn tẻ ở bên cạnh thành phố. Vì tôi không thấy mầu xanh của oliu, mà thấy một cái đồi, hay đúng hơn là những đồi, rất ít, hầu như không có cây xanh, ở phía tây Jêrusalem, trong số đó có Golgota buồn tẻ. Tôi nghĩ chắc chắn đây là phía tây ở bên ngoài thành.
- Chúng ta có thể cho nhờ vào những thứ chúng ta đã nhận. Thật là kinh khủng phải sống trong mồ mả về mùa đông - Thađê nói trong khi xách nặng những gói và giỏ, cũng như Phêrô.
- Con rất bằng lòng vì đã đến với những người được phóng thích
677
để có những của này cho người cùi, các kẻ khốn nạn đáng thương! Trong những ngày lễ này, chả ai nghĩ tới họ. Mọi người đều vui hưởng... họ thì nghĩ đến nhà cửa đã bị mất của họ... Than ôi! Giá ít là họ tin ở Thầy! Họ có tin không Thầy? - Phêrô nói, luôn luôn đơn sơ và thân mật với Thầy của ông.
- Hãy hy vọng điều đó, Simon. Hãy hy vọng. Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy cầu nguyện... - Và họ tiếp tục đi trong khi cầu nguyện.
Thung lũng Hinnom buồn tẻ hiện ra với các nấm mồ sống của nó.
- Hãy tiến lên trước và hãy cho - Giêsu nói.
Hai người tiến lên trong khi nói lớn tiếng. Các khuôn mặt cùi hiện ra ở cửa các hang và các chòi.
- Chúng tôi là môn đệ của vị rabbi Giêsu - Phêrô nói. “Người sắp tới, và Người sai chúng tôi mang cho các bạn đồ cứu trợ. Các bạn là bao nhiêu người?
- Ở đây bảy, và ba người ở phía bên kia, bên ngoài En Rogel - một người nói thay cho tất cả.
Phêrô mở bịch của ông, Thađê của ông. Họ chia bánh, phó mát, bơ, oliu làm mười phần. Còn dầu? Dầu đang đựng trong một cái bình, làm sao bây giờ?
- Một người nào đó trong các bạn hãy mang tới tảng đá này cái gì để đựng. Các bạn phân chia dầu giữa anh em với nhau. Các bạn là anh em nhân danh Thầy là đấng rao giảng tình yêu tha nhân - Phêrô nói.
Một người cùi đi cà nhắc xuống chỗ họ đang ở gần tảng đá lớn và để lên đó một cái bình sứt mẻ. Anh ta nhìn hai ông khi họ ruôn dầu và hỏi cách ngạc nhiên: “Các ông không sợ ở qúa gần tôi như thế này sao?” Qủa thật, giữa hai tông đồ và người cùi chỉ cách nhau có một tảng đá.
- Chúng tôi, chúng tôi chỉ sợ xúc phạm đến tình yêu. Người đã sai chúng tôi đi và bảo chúng tôi trợ giúp các bạn, vì kẻ thuộc về Đức Kitô thì phải yêu như Đức Kitô yêu. Nguyện cho thứ dầu này mở lòng các bạn ra cho ánh sáng giống như nó được đốt trong cái
678
đèn của tâm hồn các bạn. Thời ân phúc đã tới cho những ai hy vọng nơi Chúa Giêsu. Hãy tin vào Người. Người là Đức Messi. Người chữa bệnh thân xác và tâm hồn. Người có thể tất cả, vì Người là Đấng Emmanuel - Thađê nói với phẩm giá luôn luôn có sức thuyết phục của ông.
Người cùi đứng yên với cái bình trong tay và nhìn ông như bị thôi miên. Rồi anh ta nói: “Tôi biết rằng Israel đã có Đức Messi, vì các người hành hương tới Jêrusalem để tìm Người nói tới Người, và chúng tôi nghe được các lời đàm thoại của họ. Nhưng tôi, tôi chưa hề thấy Người, vì tôi mới tới đây ít lâu thôi. Các ông nói Người có chữa cho tôi không? Trong đám chúng tôi, có những kẻ nói phạm tới Người, và có những kẻ chúc tụng Người. Còn tôi, tôi không biết tin ai.
- Những kẻ nguyền rủa Người, họ có tốt không?
- Không. Họ độc ác và xử tàn tệ với chúng tôi. Họ muốn những chỗ tốt nhất và những phần ăn nhiều hơn. Vì vậy chúng tôi không biết chúng tôi có thể ở lại đây không.
- Vậy anh thấy rằng chỉ những kẻ có hỏa ngục ở trong họ, họ mới ghét Đức Messi. Là vì hỏa ngục cảm thấy nó bị thua là tại Người, vì vậy nó ghét Người. Nhưng tôi, tôi nói là phải yêu Người, và yêu với lòng tin, nếu người ta nuốn có ơn phúc của Đấng Tối Cao, ở đời này cũng như ở bên kia thế giới - Thađê lại nói.
- Nếu tôi muốn có ơn phúc! Tôi mới kết hôn được hai năm và tôi có một con trai nhỏ, nó không biết tôi. Tôi bị cùi mới có vài tháng, các ông thấy đó - Qủa vậy, ông ta chỉ có ít dấu hiệu.
- Vậy hãy xin Người với lòng tin. Coi kìa, Người đang tới. Hãy báo cho các bạn anh rồi trở lại đây. Người sẽ đi qua và sẽ chữa cho anh.
Người đó đi cà nhắc lên sườn đồi và gọi: “Uria! Gioab! Adina! và cả các người không tin nữa. Chúa đến để cứu chúng ta”.
Một, hai, ba. Ba kẻ khổ sở tiến tới, càng ở đàng sau càng khốn cùng. Nhưng người đàn bà chỉ hơi ra mặt. Đó là một vật sống kinh sợ... Có lẽ bà khóc, và có lẽ bà nói, nhưng không thể hiểu được, vì giọng nói của bà không rõ, được thoát ra ở một nơi gọi là miệng,
679
nhưng bây giờ chỉ còn là hai quai hàm không có răng, lộ ra, trông kinh tởm...
- Đúng, tôi bảo bà rằng họ bảo tôi đi gọi các bạn, Người sẽ đến chữa chúng ta.
- Tôi, không. Mấy lần trước tôi đã không tin... Người sẽ không nghe tôi nữa. Với lại tôi không bước nổi nữa - người đàn bà nói rõ hơn với bao là khó khăn: bà phải lấy ngón tay giữ lấy các miếng môi rách để người ta hiểu được điều bà nói.
- Adina, chúng tôi sẽ mang bà đi... - hai người đàn ông cùng với người cầm bình dầu nói.
- Không... Không... Tôi phạm tội qúa nhiều - và bà ngồi sụp tại chỗ.
Có ba người khác chạy lại, như họ có thể, hống hách, họ nói: “Trong khi chờ đợi, hãy đưa dầu cho chúng ta, rồi chúng mày đi tìm Benzêbut, nếu chúng mày muốn”.
- Dầu là để cho mọi người - người cầm chiếc bình nói, và anh ta tìm cách bảo vệ kho báu của anh. Nhưng ba tên kia hung bạo, độc ác, đè cổ anh ta xuống và giật lấy cái bình.
- Đó, luôn luôn như vậy... Qúa lâu rồi mới được một tí dầu!... Nhưng bây giờ Thầy đến... Chúng ta hãy đi tìm Người. Thực tình bà không đi à Adina?
- Tôi không dám.
Ba người đi xuống tảng đá. Họ dừng lại để chờ Giêsu. Các tông đồ đã ra gặp Người. Khi Người tới nơi thì họ kêu: “Giêsu của Israel! Xin thương chúng con. Chúng con hy vọng nơi Chúa!”
Giêsu ngửa mặt lên nhìn họ bằng cái nhìn không thể bắt chước được. Người hỏi: “Tại sao các con muốn có sức khỏe?”
- Để cho gia đình chúng con, để cho chúng con... Thực kinh khủng phải sống ở đây...
- Các con ơi, không phải các con chỉ có thân xác mà thôi. Các con còn có một linh hồn, và nó có nhiều giá trị hơn thân xác. Các con phải lo lắng cho nó. Vậy đừng chỉ xin sự chữa bệnh để lo cho các con, cho gia đình các con, nhưng để cho có thời giờ mà biết lời Thiên Chúa và sống xứng đáng với Nước của Người. Các con là
680
người công chính ư ? Hãy công chính hơn nữa. Các con tội lỗi ư? Hãy xin sống để có thời giờ sửa chữa điều xấu các con đã phạm... Người đàn bà đâu? Tại sao bà ta không đến? Bà không dám đối diện với Con Người trong khi bà đã không sợ gặp dung nhan Thiên Chúa khi bà phạm tội? Hãy đi nói với bà rằng bà đã được tha thứ rất nhiều vì sự thống hối của bà và sự nhẫn nhục của bà; và nói Đấng Hằng Hữu đã sai Thầy để xá giải tất cả tội lỗi cho những kẻ sám hối vì qúa khứ của họ.
- Thưa Thầy, Adina không thể bước đi được nữa...
- Hãy tới giúp bà xuống đây và hãy mang một đồ đựng khác. Chúng ta còn cho các con dầu nữa...
- Chúa ơi, chỉ có hơi đủ cho những người khác - Phêrô nói nhỏ với Người khi các người cùi đi tìm người đàn bà.
- Sẽ có cho tất cả. Hãy tin, vì đối với con thì tin về điều này dễ hơn là các kẻ khốn nạn này tin rằng cơ thể họ lại trở nên như trước kia.
Trong lúc đó, ở trên cao, trong hang, có sự ẩu đả giữa ba người cùi xấu về sự phân chia đồ ăn.
Người đàn bà xuống, được khiêng trong các cánh tay... Bà rên rỉ như bà có thể: “Xin tha! Cho qúa khứ, và cho việc đã không xin tha các lần trước!... Giêsu, con Đavít, xin thương con!”
Họ đặt bà ở chân tảng đá. Trên tảng đá, họ đặt một thứ như cái nồi, hoàn toàn lồi lõm móp méo.
Giêsu hỏi: “Các con nói sao? Làm gia tăng số lượng dầu trong bình và làm phát triển thịt tại những nơi mà bệnh cùi đã phá hủy, việc nào dễ hơn?”
Một yên lặng... Rồi chính người đàn bà nói: “Dầu, nhưng cả thịt cũng vậy, vì Thầy có thể tất cả. Và Thầy cũng có thể cho con một linh hồn của những năm đầu tiên trong đời con. Chúa ơi, con tin”.
Ôi! Nụ cười Thiên Chúa! Giống như ánh sáng tỏa ra đầy êm dịu, vui mừng, ngọt ngào! Nó ở trong mắt, trên môi, trong tiếng nói Người khi Người nói: “Vì lòng tin của con, con hãy được chữa lành và được tha thứ. Các con cũng vậy, hãy có dầu và lương thực để bồi dưỡng. Hãy đi tỏ mình ra cho các thầy cả như đã được chép. Ngày
681
mai, vào lúc rạng đông, Thầy sẽ trở lại cùng với quần áo, để các con đi trong sự đoan trang. Chúng ta hãy ca tụng Chúa, vì các con đã được khỏi cùi”.
Bốn người từ nãy tới giờ cứ đăm đăm nhìn vào Chúa, bây giờ họ nhìn vào nhau và kêu lên sự ngạc nhiên của họ. Người đàn bà muốn đứng dậy, nhưng bà ta qúa trần trụi. Y phục của bà tả tơi, chỗ hở nhiều hơn là chỗ được che. Bà núp dưới tảng đá với sự ngượng ngùng, không phải chỉ với Giêsu, mà với cả các bạn. Nét mặt bà được phục hồi, chỉ hơi gầy do sự thiếu thốn. Bà khóc khi không ngừng nói: “Chúc tụng! Chúc tụng! Chúc tụng!” Và các lời chúc tụng của bà hòa lẫn với những tiếng phạm thượng kinh khủng của ba người cùi xấu đã trở thành điên cuồng khi thấy những người khác được chữa lành. Vấn rác và đá bay tới.
- Các con không thể ở lại đây. Hãy đi với Thầy. Sẽ không có gì xấu xảy ra cho các con đâu. Các con coi đường sá trống rỗng. Giờ trưa đã đem mọi người vào nhà. Các con sẽ ở cho tới ngày mai với các người cùi khác. Đừng sợ. Hãy đi theo sau Thầy. Cầm lấy đi bà - và Người cho bà ta chiếc áo khoác của Người để che thân.
Bốn người hơi sợ sệt, hơi hoảng hốt, đi theo Người như bốn con chiên. Họ đi hết quãng còn lại của thung lũng Hinnom, băng qua con đường dẫn tới Siloan, một nơi buồn tẻ khác của các người cùi. Giêsu dừng lại ở chân sườn dốc và ra lệnh: “Hãy đi lên và nói với họ rằng ngày mai, vào giờ kinh sáng, Thầy sẽ ở đây. Hãy đi mừng lễ cùng với họ và rao giảng Thầy của Tin Mừng”. Người truyền cho họ tất cả số lương thực còn lại và chúc phúc cho họ trước khi cho họ đi...
- Bây giờ chúng ta đi. Đã qua giờ ngọ rồi - Giêsu nói khi quay lại để đi vào con đường dẫn về Bêtani.
Nhưng lập tức, một tiếng kêu gọi Người lại: “Giêsu, con Đavít, xin cũng thương chúng con với!”
- Họ không chờ tới rạng đông - Phêrô nhận xét.
- Chúng ta đi tìm họ. Có qúa ít giờ để Thầy có thể làm điều lành mà không bị các kẻ ghét Thầy quấy rối những người mà Thầy làm ơn lành cho - Giêsu trả lời, và Người trở bước, đi thẳng lại với ba
682
người cùi của Siloan đang có mặt trên khoảng đất bằng của ngọn đồi nhỏ và nhắc đi nhắc lại tiếng kêu của họ, được phụ bởi những người đã được khỏi đứng ở đàng sau họ.
Giêsu vui lòng giơ tay ra và nói: “Cho các con được như các con xin. Hãy đi và hãy sống trong đường lối của Chúa”. Và Người chúc lành cho họ trong lúc bệnh cùi bị xóa bỏ trên cơ thể họ như mặt trời làm tan một lớp tuyết mỏng. Rồi Giêsu vội vã ra đi, được theo sau bởi lời chúc tụng của các người được phép lạ, từ khoảng đất bằng của họ, họ giơ tay ra như một sự ôm ẵm thực sự hơn là nếu họ được thi hành.
Người trở lại con đường về Bêtani, dọc theo Cédron, quặt một góc nhọn ở chừng một trăm bước cách với Siloan. Nhưng khi ra khỏi khúc quặt, người ta có thể nhìn thấy hết con đường tiếp tục về Bêtani. Và kìa, Judas Kêriot đang bước lẹ một mình.
- Nhưng Judas mà! - Thađê kêu lên, vì ông nhìn thấy Judas trước tiên.
- Ohé, Judas! Tại sao lại ở đây một mình? - Phêrô kêu lên.
Judas quay phắt lại. Ông tái nhợt, hầu như xanh. Phêrô nói với ông: “Anh đã thấy ma qủi hay sao mà anh có mầu của rau xà lát vậy?”
- Con làm gì ở đây, Judas? Tại sao con lại rời các bạn con? - Giêsu hỏi cùng một trật.
Judas đã hoàn hồn, ông nói: “Con đã ở với họ, rồi con gặp một người có các tin tức về mẹ con. Coi đây...” ông lục lọi ở giây lưng, rồi ông lấy tay đập vào trán và nói: “Con để lại trong nhà ông đó rồi! Con đã muốn đưa cho Thầy đọc cái thơ... hay con đã làm rơi mất trên đường... Bà không được khỏe, và cả đến bà bị bệnh... Nhưng các bạn kìa... Họ đã dừng lại. Họ đã thấy Thầy... Thầy ơi, con bị rối loạn...”
- Thầy thấy.
- Thưa Thầy, túi tiền đây. Con đã chia làm hai để không lôi kéo sự chú ý... Con có một mình...
Các tông đồ Batôlômêo, Philíp, Mathêu, Simon và Giacôbê
683
Zêbêđê hơi ngượng. Họ lại gần Giêsu cách tình nghĩa, nhưng với ý thức là đã thiếu sót.
Giêsu nhìn họ và nói: “Đừng làm như vậy nữa. Sẽ không bao giờ tốt khi các con chia lìa nhau. Nếu Thầy đã bảo các con đừng làm vậy, là vì Thầy biết các con cần nâng đỡ nhau hỗ tương. Các con không đủ mạnh để hành động một mình. Đoàn kết thì một người sẽ hãm phanh, hoặc nâng đỡ người khác. Chia rẽ thì...”
- Thưa Thầy, chính con đã khuyên điều sái, vì sau đó chúng con đã nhớ ra rằng Thầy đã bảo đừng phân chia nhau, hãy đi tới Bêtani tất cả với nhau, và Judas đã bỏ đi vì lý do chính đáng, và chúng con đã không nghĩ tới đi với anh ta. Xin Thầy tha cho con - Batôlômêo nói khiêm nhường và thành thật.
- Đương nhiên là Thầy tha cho các con. Nhưng Thầy nhắc lại là: đừng làm như vậy nữa. Hãy nghĩ rằng sự vâng lời cứu, ít nhất là khỏi một tội: tội ỷ lại là mình có khả năng tự ý hành động. Các con không biết có bao là ma qủi quanh quẩn ở chung quanh các con, để nắm lấy mọi lý do có thể làm cho các con phạm tội, để cho các con làm tổn hại cho Thầy các con là kẻ đã qúa bị bách hại. Đây là thời gian càng lúc càng khó khăn cho Thầy và cho tổ chức mà Thầy tới để thành lập. Vì vậy phải rất thận trọng để tránh cho tổ chức đó, Thầy không nói là bị thương và bị giết, vì sẽ không bao giờ có như vậy nữa cho tới tận thế, nhưng là tránh cho nó khỏi bị dính bùn. Các kẻ thù của nó nhìn các con một cách chăm chú. Chúng không bao giờ rời mắt khỏi các con. Cũng như chúng cân nhắc mọi hành vi của Thầy và mọi lời nói của Thầy, để tìm ra cái gì có thể chê bai. Nếu các con tỏ ra hay cãi cọ, chia rẽ, bất toàn về bất cứ cách nào, dù là những điều không quan trọng, họ cũng thu thập, chế hóa những gì các con đã làm, để tung ra, giống như một nắm bùn, một sự kết án chống lại Thầy và giáo hội Thầy mới đang thành hình. Các con thấy đó! Thầy không khiển trách các con, nhưng Thầy cho các con những lời khuyên, vì sự lành cho các con. Ôi! Các bạn Thầy! Các con không biết rằng ngay cả những điều tốt nhất, họ cũng chế biến nó, trưng bày nó để có thể kết án Thầy với một cái gì tựa như là
684
chính đáng sao? Vậy trong tương lai, hãy vâng lời hơn và thận trọng hơn.
Tất cả các tông đồ đều xúc động về sự êm đềm của Chúa Giêsu. Judas Kêriot không ngừng thay đổi sắc diện. Ông giữ vẻ khiêm tốn, đi hơi ở đàng sau mọi người cho tới khi Phêrô nói với ông: “Anh làm gì ở đó vậy? Anh không sai lầm hơn những người khác. Vậy hãy đi lên trước cùng với nhau” và ông bó buộc phải vâng lời.
Họ bước mau lẹ, vì dù có mặt trời, nhưng có gió như mời gọi mọi người dấn bước để sưởi ấm. Họ đã đi được một quãng thì Natanael cảm thấy lạnh, ông nói ra khi cuộn mình chặt hơn bao giờ hết trong áo khoác của ông, và ông nhận thấy là Giêsu chỉ có một cái áo: “Thầy ơi! Nhưng Thầy đã làm gì với áo khoác của Thầy?”
- Thầy cho một người đàn bà cùi. Chúng ta đã chữa và an ủi bảy người cùi.
- Nhưng chắc hẳn Thầy lạnh. Mặc áo của con đi! - Zêlote nói, và ông thêm: “Trong các mồ mả gía băng, con đã quen với gió mùa đông”.
- Không, Simon, coi kìa, Bêtani kia rồi. Chúng ta sẽ dễ chịu ở trong nhà. Và Thầy chả thấy lạnh gì cả. Hôm nay Thầy được nhiều niềm vui thiêng liêng, và nó dễ chịu hơn cái áo khoác ấm.
- Anh tôi ơi! Thầy cho chúng con những công nghiệp mà chúng con không có. Chính Thầy đã chữa lành và an ủi chứ không phải chúng con! - Thađê nói.
- Các con đã chuẩn bị các con tim cho đức tin trong phép lạ, vậy các con đã cùng với Thầy và giống như Thầy để chữa lành và an ủi. Nếu các con biết được Thầy vui chừng nào để liên hiệp các con lại với Thầy trong hết mọi công việc của Thầy! Các con không nhớ lời của Gioan Zacari, anh họ của Thầy: “Người phải lớn lên, và tôi phải nhỏ lại” sao? Ông đã nói vậy bởi vì con người, dù là người lớn tới đâu, dù lớn như Môise và Êlia, cũng sẽ mờ đi như ngôi sao trước ánh sáng mặt trời, vào lúc xuất hiện của đấng từ Trời mà xuống, là đấng vượt trên mọi người, vì Người là đấng đến từ Chúa Cha chí thánh. Nhưng cũng như Thầy, Vị Sáng Lập của tổ chức sẽ tồn tại
685
bao lâu còn thời gian, và sẽ thánh thiện như Đấng Sáng Lập và Thủ Lãnh của nó; một tổ chức sẽ tồn tại để đại diện cho Thầy, và sẽ chỉ là một với Thầy, giống như các chi thể của một thân thể con người chỉ là một với đầu là cái điều khiển, Thầy phải nói: “Thân thể này phải sáng lên, và Thầy phải mất sự chói lọi của Thầy đi”. Các con phải tiếp tục Thầy. Chẳng bao lâu nữa, Thầy sẽ chẳng còn ở giữa các con, ở đây, trên trái đất, ở đây, một cách thực chất hữu hình, để điều khiển các tông đồ của Thầy, các môn đệ của Thầy và những kẻ theo Thầy... Nhưng Thầy sẽ ở với các con một cách siêu nhiên, luôn luôn. Và tâm hồn các con sẽ cảm thấy Thần Trí của Thầy, sẽ nhận được ánh sáng của Thầy. Nhưng khi Thầy đã trở về nơi mà từ đó Thầy đã đến, thì các con phải đứng ở hàng đầu. Chính vì vậy Thầy đã ứng dụng từng bậc một để chuẩn bị cho các con xuất hiện những lần đầu. Đôi khi các con bảo Thầy nhận xét: “Vào những thời gian đầu, Thầy đã sai chúng con đi nhiều hơn”, là vì lúc đó các con cần phải được người ta biết. Bây giờ các con đã được biết, bây giờ, trong cái góc nhỏ này của thế giới, các con đã là “các tông đồ”, nên Thầy giữ các con luôn luôn hợp nhất với Thầy, tham dự vào mọi hành động của Thầy, theo cách để cho thế giới nói: “Người đã liên kết họ vào các công việc Người đã hoàn thành, vì họ sẽ ở lại sau Người để tiếp tục Người”. Đúng đó các bạn Thầy! Các con phải luôn luôn tiến lên phía trước hơn, trở nên rạng sáng hơn, tiếp tục Thầy, là Thầy, trong khi Thầy giống như bà mẹ từ từ ngưng việc nâng đỡ đứa con đã tập đi, Thầy rút lui... Thầy không làm đột ngột việc chuyển từ Thầy qua các con, vì như vậy các con nhỏ của bầy, các tín hữu khiêm tốn sẽ sợ. Thầy từ từ chuyển từ Thầy qua các con, để họ không có cảm tưởng là bị ở một mình, dù là chỉ một lúc. Và các con hãy yêu họ rất nhiều, giống như Thầy yêu họ. Hãy yêu họ để nhớ đến Thầy, giống như Thầy đã yêu họ.
Giêsu nín lặng và lạc vào tư tưởng sâu kín của Người. Người chỉ ra khỏi đó khi tới chỗ chỉ còn một quãng ngắn nữa ở bên ngoài Bêtani, Người gặp các tông đồ khác đến bởi một con đường khác. Hợp nhất, họ tiếp tục đi vào nhà Lazarô. Gioan nói rằng họ đã
686
đang được chờ, vì các người đầy tớ đã thấy họ, và ông nói rằng Lazarô bệnh rất nặng.
- Thầy biết. Vì vậy nên Thầy đã bảo các con rằng chúng ta sẽ ở lại trong nhà Simon. Nhưng Thầy không muốn lui ra mà không chào ông một lần nữa.
- Nhưng tại sao Thầy không chữa cho ông ta? Điều đó rất chính đáng. Các tôi tớ tốt nhất của Thầy, Thầy để cho chết hết trơn! Con, con không hiểu được... - Iscariot hỏi, luôn luôn táo bạo, ngay cả trong những lúc tốt nhất của ông.
- Không cần thiết là con phải hiểu trước.
- Đúng, không cần. Nhưng Thầy biết các kẻ thù của Thầy nói sao không? Nói rằng Thầy chữa lành khi Thầy có thể chứ không phải khi Thầy muốn; rằng Thầy che chở khi Thầy có thể... Thầy không biết rằng ông già ở Têcua chết rồi sao? Và chết vì bị ám sát.
- Chết? Ai? Êli-Anna à? Thế nào? - Hết mọi người đều lao xao hỏi. Chỉ có Phêrô hỏi: “Làm sao anh biết được điều đó?”
- Tôi vừa biết cách tình cờ trong căn nhà mà tôi đã ở, và Thiên Chúa biết rằng tôi không nói dối. Hình như có một tên ăn cắp xuống với tư cách là lái buôn, và thay vì trả tiền ông thì hắn lại giết ông...
- Ông già tội nghiệp! Một đời sống bất hạnh chừng nào! Một cái chết buồn chừng nào! Thầy không nói gì sao? - nhiều người nói.
- Chẳng có điều gì để nói ngoại trừ nói rằng ông già đã phục vụ Đức Kitô tới chết. Nếu tất cả đều được như vậy!
- Này con trai Alphê, nói tí đi, có lẽ không phải như anh nói, hen? - Phêrô hỏi Thađê.
- Có thể lắm. Một người con vì thù ghét mà đuổi cha, và với sự thù ghét kiểu này, họ có thể làm tất cả. Em tôi ơi, các lời của em thật đúng: “Anh chống lại em, cha chống lại con trai”.
- Đúng. Và kẻ hành động như vậy tin là mình phục vụ Thiên Chúa. Mắt bị mù, con tim chai đá, tâm hồn không có ánh sáng. Tuy nhiên các con phải yêu họ - Giêsu nói.
-Nhưng chúng con phải làm sao để yêu những kẻ đối xử với chúng con như vậy. Nếu chúng con không phản ứng và chúng con
687
chịu đựng các hành động của họ một cách nhẫn nhục thì đã là nhiều lắm rồi - Philíp kêu lên.
- Thầy sẽ cho các con một gương mẫu để huấn luyện cho các con vào lúc của nó. Nếu các con yêu Thầy thì các con sẽ làm điều Thầy sẽ làm.
- Kìa, Maximin và Sara. Chắc hẳn Lazarô bệnh lắm nên hai cô không ra gặp Thầy - Zêlote nhận xét.
Hai người chạy tới và qùi phục. Ngay trên khuôn mặt và quần áo họ cũng ghi dấu thảm hại đau đớn, mệt mỏi, của các phần tử trong một gia đình đang chiến đấu chống lại sự chết. Họ chỉ nói: “Thầy, xin tới...” nhưng vẻ khổ sở của họ bộc lộ mạnh hơn một bài hùng biện. Họ dẫn Giêsu ngay tới cái cửa nhỏ của phòng Lazarô, trong khi các đầy tớ khác lo săn sóc các tông đồ.
Vừa nghe tiếng gõ nhẹ vào cửa, Matta chạy tới mở hé và ló khuôn mặt gầy xanh xao của bà qua khe mở: “Thầy! Xin vào. Chúc tụng Thầy!”
Giêsu vào, băng qua căn phòng ở trước phòng bệnh nhân và vào phòng bệnh. Lazarô ngủ. Lazarô: một bộ xương, một xác ướp vàng khè, có thở... Cái đầu đã là đầu người chết với khuôn mặt của nó. Và trong giấc ngủ, càng thấy rõ hơn sự tàn tạ của ông đã làm cho ông hốc hác như người chết. Da vàng như sáp bị kéo lồi lên ở những góc nhọn của gò má, của quai hàm, và trên tròng mắt lõm sâu tới nỗi nó có vẻ như không có nhãn cầu. Cái mũi nhọn giống như cao qúa mức, vì nó làm mất đi đường vòng của gò má. Cặp môi xám hầu như biến mất, và hình như nó không thể ngậm lại trên hai hàm răng để lộ một nửa, hơi hở... Đó là khuôn mặt người chết rồi.
Giêsu cúi xuống để nhìn. Rồi Người đứng thẳng lên, nhìn hai chị em đang nhìn Người với tất cả tâm hồn họ tập trung trong con mắt: tâm hồn đau đớn, tâm hồn đầy hy vọng. Người làm hiệu cho hai cô, và không gây một tiếng động, Người trở ra ngoài, vào cái sân nhỏ ở đàng trước hai phòng trên. Matta và Maria theo Người. Các cô khép cửa lại sau lưng.
Chỉ có ba người giữa bốn bức tường, trong yên lặng, dưới trời
688
xanh. Họ nhìn nhau. Hai chị em không còn biết hỏi gì, cả đến không còn biết nói gì nữa. Nhưng Giêsu nói: “Các con biết Thầy là ai. Thầy biết các con là ai. Các con biết rằng Thầy yêu các con. Thầy, Thầy biết rằng các con yêu Thầy. Các con biết quyền phép của Thầy. Thầy, Thầy biết lòng tin của các con nơi Thầy. Các con cũng biết, đặc biệt là con, Maria, rằng người ta càng yêu nhiều thì người ta càng được nhiều. Yêu chính là biết trông cậy và biết tin vượt mức, tin vượt trên cả những thực tại có thể đính chính cho lòng tin và lòng trông cậy. Chính vì vậy nên Thầy bảo các con hãy biết hy vọng và tin, bất chấp tất cả những thực tại trái ngược. Các con hiểu Thầy không? Thầy nói: Hãy biết hy vọng và tin, bất chấp tất cả những thực tại trái ngược. Thầy chỉ dừng lại đây vài giờ. Đấng Tối Cao biết rằng là một người, Thầy muốn ở lại đây chừng nào với các con, để trợ giúp ông và an ủi ông; để trợ giúp các con và củng cố cho các con. Nhưng là con Thiên Chúa, Thầy biết sự cần thiết là Thầy phải đi, phải lánh xa ra... Cần thiết là Thầy phải không ở đây khi... các con sẽ ước ao Thầy hơn là không khí mà các con thở. Một ngày kia, và sắp sửa rồi, các con sẽ hiểu cái lý do mà bây giờ có vẻ như độc ác đối với các con. Đó là những lý do của Thiên Chúa, đau đớn cho Thầy, một người, cũng như cho các con. Đau đớn bây giờ... bây giờ, bởi vì các con không thể ôm ấp được vẻ đẹp và sự khôn ngoan trong đó; và Thầy, vì không thể tiết lộ cho các con. Khi tất cả sẽ được hoàn thành, các con sẽ hiểu và các con sẽ vui mừng... Hãy nghe đây: Khi Lazarô sẽ... đã chết... Đừng khóc như vậy! Lúc đó hãy cho gọi Thầy ngay. Và trong khi chờ đợi, các con hãy lo việc mai táng và hãy mời rất nhiều người như xứng đáng với Lazarô và với nhà các con. Ông là một vĩ nhân Do Thái, ít được mến chuộng vì những điều ông là. Nhưng ông vượt qua rất nhiều người trước mắt Thiên Chúa... Thầy sẽ cho các con biết Thầy ở đâu, để các con luôn luôn có thể tìm thấy Thầy.
- Nhưng tại sao Thầy không ở đây, ít nhất là vào lúc đó? Chúng con sẽ nhẫn nhục, vâng, với cái chết của anh ấy... Nhưng Thầy... Nhưng Thầy... Nhưng Thầy... - Matta nức nở, không thể nói điều gì
689
khác. Bà bóp nghẹn tiếng khóc của bà trong vạt áo.
Trái lại, Maria nhìn Giêsu đăm đăm, đăm đăm như bị thôi miên... và cô không khóc.
- Hãy biết vâng lời. Hãy biết tin, biết hy vọng... Hãy luôn luôn biết nói “vâng” với Thiên Chúa... Lazarô gọi các con... Đi đi. Bây giờ Thầy sắp đi. Nếu Thầy không còn dịp để nói riêng với các con, thì hãy nhớ lại những điều Thầy đã nói.
Trong khi các cô vội vã trở vào, Giêsu ngồi xuống trên một ghế đá, và Người cầu nguyện.
234* GIÊSU TRONG NGÀY LỄ
CUNG HIẾN ĐỀN THỜ
Không thể nào không cử động trong buổi sáng lạnh và có gió. Trên đỉnh núi Moriah, gió đông bắc thổi tới buốt giá, làm bay tốc quần áo, làm đỏ mặt đỏ mắt. Tuy nhiên cũng có những người lên Đền Thờ cầu nguyện. Trái lại, không thấy các rabbi với nhóm học trò đặc biệt của họ. Các hành lang có vẻ mênh mông hơn, nhất là xứng đáng hơn, vì vắng bóng những nhóm đông tụ họp ồn ào thường lệ ở đây.
Đây hẳn là điều rất kỳ lạ thấy nó trống rỗng như vầy, nên mọi người đều ngạc nhiên như một điều bất thường, và Phêrô đâm ra nghi ngờ. Tôma hôm nay có vẻ vạm vỡ hơn, cuộn mình thật kỹ trong chiếc áo khoác rộng và dầy, ông nói: “Họ đóng kín cửa trong căn phòng nào đó, vì sợ gió làm mất tiếng. Anh tiếc sao?” Và ông cười.
- Tôi, không. Chớ gì tôi có thể không bao giờ thấy họ! Nhưng tôi không muốn nó là... - và ông nhìn Iscariot. Ông này không nói gì, nhưng khi nhận được cái liếc mắt của Phêrô thì ông nói: “Thực tình họ đã hứa không làm phiền nữa, trừ trường hợp Thầy... làm họ phẫn nộ. Chắc chắn họ có canh chừng, nhưng vì ở đây người ta không phạm tội, cũng không xúc phạm, nên họ vắng mặt”.
- Tốt hơn là như vậy. Xin Thiên Chúa chúc phúc cho anh nếu anh
690
đã thành công làm cho họ hữu lý hơn.
Hãy còn sớm. Có rất ít người ở trong Đền Thờ. Tôi nói “Ít” là giống như vậy, vì lẽ diện tích mênh mông của nó, muốn có vẻ đầy thì phải một tập thể dân chúng. Hai ba trăm người cũng chưa là gì trong từng ấy sân, hành lang, tiền đường, lối đi của khu Đền Thờ...
Giêsu là vị Thầy duy nhất trong hành lang mênh mông của dân ngoại. Người đi đi lại lại để nói với các người của Ngài, và với các môn đệ mà Người đã gặp trong nội khu Đền Thờ. Người trả lời cho những biện bác và các câu hỏi của họ, soi sáng những điểm mà họ không biết soi sáng cho chính họ và cho người khác.
Có hai người dân ngoại tới, họ nhìn Người rồi bỏ đi, không nói gì. Người đi qua những người của Đền Thờ, họ nhìn Người nhưng cũng không nói gì. Có vài tín hữu lại gần, chào và nghe Người, nhưng còn rất ít.
- Chúng ta còn ở lại đây sao? - Batôlômêo hỏi.
- Trời lạnh và không có người. Nhưng thật vui được ở bình an như vầy. Thầy ơi, hôm nay Thầy được thực sự ở trong nhà Cha Thầy và Thầy là chủ ở đây - Giacôbê Alphê mỉm cười nói, và ông thêm: “Chắc chắn Đền Thờ cũng như vầy vào thời Nêhêmi và các vua khôn ngoan đạo đức”.
- Tôi, tôi nói là nên đi ra. Họ rình rập chúng ta từ đâu đó... - Phêrô nói.
- Ai? Các pharisiêu à?
- Không. Những người đã đi qua trước, và các người khác. Chúng ta đi thôi Thầy...
- Thầy chờ các bệnh nhân. Họ đã nhìn thấy Thầy vào thành, tiếng đồn chắc đã lan ra. Họ sẽ tới khi trời ấm áp hơn. Chúng ta hãy ở lại ít là tới một phần ba buổi trưa - Giêsu trả lời, và Người lại bắt đầu những trăm bước chân để không bị bất động trong khí lạnh.
Quả vậy, sau một lúc, mặt trời làm dịu hiệu qủa của gió bắc, một người đàn bà tới với đứa con gái nhỏ bệnh và xin chữa. Giêsu làm vui lòng bà. Người đàn bà đặt của dâng cúng bên chân Giêsu và nói: “Để cho những trẻ em đau khổ khác”. Iscariot liền lượm lấy
691
tiền.
Một lát sau, người ta mang tới trên chiếc băng ca một ông già bị đau chân. Giêsu chữa cho ông ta.
Thứ ba là một nhóm người đến để xin Giêsu ra bên ngoài tường của khu Đền Thờ để xua đuổi ma qủi cho một con bé mà tiếng la xé trời của nó vang tới tận bên trong. Giêsu đi theo sau họ vào một con đường dẫn vào thành phố. Nhiều người, trong số đó có những người ngoại quốc, chen chúc nhau chung quanh những người cầm giữ con bé. Nó sủi bọt mép, dẫy dụa, trợn ngược con mắt. Các lời thô tục đủ loại phát ra ở môi nó, và nó càng phát ra nhiều theo đà Giêsu tiến lại gần nó. Và cũng vậy, nó dẫy dụa mạnh hơn. Bốn người đàn ông lực lưỡng giữ nó một cách khó khăn. Cùng với các lời nguyền rủa, nó phát ra những tiếng kêu nhìn nhận Giêsu là Đức Messi, và những tiếng lo âu của thần trí chiếm giữ nó để năn nỉ Người đừng đuổi nó. Và có cả các sự thật được nhắc đi nhắc lại với giọng đều đều: “Đi đi! Đừng bắt tôi gặp tên chết tiệt này. Cút đi! Cút đi! Nguyên nhân sự sụp đổ của chúng ta. Tôi biết ông là ai. Ông là... Ông là Đấng Kitô... Ông đã không nhận phép xức dầu nào khác ngoài phép xức dầu từ trên cao. Quyền lực của Trời bao phủ ông và bảo vệ ông. Tôi ghét ông! Khốn kiếp! Đừng đuổi tôi. Tại sao ông đuổi chúng tôi và không muốn có chúng tôi, trong khi ông giữ ở bên cạnh ông một đạo binh ma qủi ở trong một kẻ duy nhất. Ông không biết rằng toàn thể hỏa ngục ở trong con người duy nhất đó sao? Có chứ, ông biết... Vậy hãy để cho tôi ở đây, ít nhất là cho tới giờ của...” Đôi khi lời nói khựng lại như bị nghẹn, có khi nó thay đổi, lần khác thì nó ngừng lại trước hoặc kéo dài trong những tiếng kêu ngoài nhân loại, như khi nó kêu: “Ít nhất là hãy để cho tôi vào trong hắn ta. Đừng bắt tôi vào trong vực thẳm. Giêsu, Con Thiên Chúa, tại sao ông ghét chúng tôi? Ông là như vậy chưa đủ sao? Tại sao ông cũng muốn nắm đầu chúng tôi? Chúng tôi không muốn các mệnh lệnh của ông! Tại sao ông đến hành hạ chúng tôi, dù chúng tôi từ chối ông? Đi đi, đừng đổ lửa của Trời xuống trên chúng tôi. Đôi mắt của ông! Khi nó tắt, chúng ta sẽ cười... A! Không! Cả khi đó cũng không... Ông thắng chúng tôi! Ông thắng chúng tôi!
692
Khốn kiếp, ông và Người Cha đã sai ông, và đấng bởi các ông mà ra, và là các ông... Aaaaa!”
Tiếng kêu sau cùng thật dễ sợ, tiếng kêu của một kẻ bị cắt họng mà lưỡi dao sát nhân nhấn vào từ từ. Nó bắt đầu bị như vậy từ lúc Giêsu, sau nhiều lần ngăn chặn lời nói của kẻ bị chiếm bằng một mệnh lệnh nhẩm trong trí, Người chấm dứt nó bằng cách đụng đầu ngón tay vào trán con bé. Tiếng kêu la chấm dứt trong một sự co giật khủng khiếp cho tới khi, với một sự gẫy vỡ như cười nhạo, và tiếng kêu của một con vật trong cơn ác mộng, ma qủi lìa khỏi nó khi la: “Nhưng ta không đi xa... Ha! Ha! Ha!” được theo sau bởi một tiếng động khô như tiếng sét, mặc dầu bầu trời tuyệt đối trong sáng.
Nhiều người sợ bỏ chạy. Một số khác thì áp lại gần để quan sát con bé. Nó thình lình yên tĩnh lại, sụn xuống trong tay những người giữ nó. Nó ở yên như vậy một lát, rồi nó mở mắt ra, mỉm cười. Nó thấy mình không có khăn voan trên đầu và trên mặt, ở giữa bao nhiêu người. Nó cúi đầu xuống và lấy tay che mặt. Những người đi kèm nó muốn cho nó cám ơn Thầy, nhưng Người nói: “Hãy để kệ nó trong sự bẽn lẽn của nó. Linh hồn nó đã cám ơn Thầy rồi. Hãy dẫn nó trở về nhà nó, nhà của mẹ nó. Đó là vị trí của nó, một con gái nhỏ...” và Người quay lưng để trở vào Đền Thờ, nơi Người đã ở lúc trước.
- Chúa ơi, Thầy có thấy là nhiều người Do Thái đã đi theo chúng ta không? Con nhận ra được mấy người... Họ kia kìa! Đó là những người đã rình rập chúng ta trước. Coi, họ đang cãi nhau... - Phêrô nói.
- Họ đang quyết định xem ma qủi đã nhập vào ai trong đám họ. Cũng có cả Nahum, nhân vật tin cẩn của Anna. Đó là người có địa vị... - Tôma nói.
- Đúng, nhưng anh không thấy, vì anh quay lưng lại. Nhưng ngọn lửa đã tỏa ra ngay trên đầu ông ta. Tôi đã đứng gần ông ta và tôi sợ... - Andrê nói. Ông run rẩy, răng đập vào nhau.
- Thực vậy, họ đứng túm lại với nhau. Nhưng tôi thấy ngọn lửa
693
tỏa ra ở trên chúng ta, và tôi tưởng là phải chết... Cả đến tôi run sợ cho Thầy. Thực sự như nó ở trên đầu Người - Mathêu nói.
- Nhưng không, trái lại, tôi thấy nó ra khỏi con bé và đập vào bức tường của Đền Thờ - Lêvi, người môn đệ chăn chiên đối đáp.
- Các con đừng bàn cãi với nhau. Ngọn lửa không chỉ định người nọ người kia. Nó chỉ là dấu hiệu rằng ma qủi đã chạy trốn - Giêsu nói.
- Nhưng nó đã nói rằng nó không đi xa... - Andrê kháng biện.
- Các lời của ma qủi... Đừng nghe. Tốt hơn là hãy ca tụng Đấng Tối Cao vì ba người con của Abraham đã được chữa lành trong thân xác và linh hồn.
Trong lúc đó, một số rất đông người Do Thái ra khỏi chỗ nọ chỗ kia - nhưng trong nhóm họ, không thấy một pharisiêu, luật sĩ hay thầy cả nào - Họ đến gần Giêsu và bao vây lấy Người. Một trong số họ tiến lên và nói: “Hôm nay Thầy đã làm những việc vĩ đại! Thực sự là công việc của tiên tri và đại tiên tri. Và các thần trí của vực thẳm đã nói về Thầy những điều vĩ đại, nhưng lời của chúng không thể được chấp nhận nếu lời Thầy không xác nhận. Chúng con sợ hãi vì những lời này, nhưng chúng con cũng sợ một sự phỉnh gạt cả thể, vì người ta biết rằng Benzêbut là thần trí dối trá. Chúng con không muốn lầm, cũng không muốn bị lừa. Vậy hãy nói cho chúng con Thầy là ai, từ miệng sự thật và công chính của Thầy”.
- Vậy tôi đã chẳng nói cho các ông bao nhiêu lần rằng tôi là ai rồi sao? Đã gần ba năm nay tôi nói điều đó với các ông, và trước tôi, Gioan cũng đã nói ở sông Giođan, và tiếng của Thiên Chúa đến từ trời.
- Đúng vậy. Nhưng những lần trước chúng tôi không ở đó. Chúng tôi... Thầy là người công chính, Thầy phải hiểu sự lo lắng của chúng tôi. Chúng tôi muốn tin Thầy là Đấng Messi. Nhưng cho tới giờ, qúa nhiều lần dân Thiên Chúa bị lừa bởi các Kitô giả. Hãy yên ủi con tim chúng tôi là kẻ hy vọng và chờ đợi, bằng một lời nói bảo đảm, và chúng tôi sẽ thờ lạy Thầy”.
Giêsu nhìn họ cách nghiêm khắc. Đôi mắt Người như xuyên
694
thấu xác thịt và lột trần con tim họ. Rồi Người nói: “Thực vậy, nhiều lần loài người biết nói dối hay hơn Satan! Không, các ông sẽ không thờ lạy tôi. Không bao giờ, dù tôi nói bất cứ cái gì với các ông. Và cho dù các ông làm được việc đó, thì các ông sẽ thờ lạy ai?”
- Ai? Thì Đấng Messi của chúng tôi!
- Các ông cao giá nhỉ? Theo các ông thì Đức Messi là ai? Hãy trả lời để tôi biết gía trị thực của các ông.
- Đức Messi à? Nhưng Đức Messi là đấng, do lệnh của Thiên Chúa, sẽ tụ họp Israel tản mát lại để làm thành một dân chiến thắng, và dưới quyền của Người là cả thế giới. Và gì? Thầy không biết Đức Messi là gì sao?
- Tôi biết Người như các ông không biết Người. Vậy là với các ông, đó là một người trổi vượt Đavít, Salômôn, và Juđa Maccabê, sẽ làm cho Israel thành một dân cai trị thế giới?
- Chính vậy. Thiên Chúa đã hứa điều đó. Tất cả sự báo thù, tất cả vinh quang, tất cả những yêu sách sẽ đến từ Đấng Messi đã được hứa.
- Có lời rằng: “Ngươi sẽ không thờ lạy ai khác ngoài Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Vậy tại sao các ông thờ lạy tôi, nếu các ông chỉ thấy nơi tôi một Người-Messi?
- Vậy chúng tôi phải thấy gì khác nữa nơi Thầy?
- Cái gì? Và chính với những tình cảm này mà các ông đến hỏi tôi? Dòng dõi rắn độc, nham hiểm và độc ác! Và cả phạm thánh nữa. Vì nếu ở nơi tôi, các ông không thấy gì khác ngoài vị Messi loài người mà các ông thờ lạy tôi, thì các ông là kẻ thờ tà thần, vì chỉ được thờ lạy một mình Thiên Chúa thôi. Thực vậy, tôi nói với các ông một lần nữa rằng: người đang nói với các ông còn rất hơn vị Messi mà các ông trình bày cho mình, với một sứ mạng, một chức vụ và các quyền hành mà các ông đã tưởng tượng ra, vì các ông không có thần trí và sự khôn ngoan. Đức Messi không đến để cho dân Người một nước như các ông tin. Người không đến để thi
695
hành sự báo thù trên những quyền hành khác. Nước của Người không thuộc về thế giới này, và quyền lực của Người vượt qua tất cả những quyền lực có hạn khác của thế giới này.
- Thầy hạ nhục chúng tôi. Nếu Thầy là Đức Messi, và nếu chúng tôi không biết, tại sao Thầy không muốn giáo huấn chúng tôi?
- Điều đó tôi đã làm từ ba năm nay rồi, nhưng các ông càng ngày càng ở trong tối tăm, vì các ông xua đuổi Ánh Sáng.
- Đúng vậy. Có lẽ đúng. Nhưng những gì đã ở trong qúa khứ thì không thể ở trong tương lai. Và sao? Thầy là người thương xót cả những kẻ thâu thuế và các gái điếm, và Thầy xá giải cho các tội nhân, sao Thầy lại không muốn thương chúng tôi chỉ vì chúng tôi cứng đầu và chúng tôi không sao hiểu được Thầy là ai.
- Không phải là các ông không hiểu được, mà là các ông không muốn hiểu. Trì độn không phải là một tội. Thiên Chúa có biết bao ánh sáng, Người có thể làm ra ánh sáng trong những trí khôn cùn lụt nhất nhưng đầy thiện chí. Chính thiện chí là cái các ông thiếu, và hơn nữa, các ông có ý muốn đối nghịch. Chính vì vậy mà các ông không hiểu tôi là ai.
- Có lẽ như Thầy nói. Thầy thấy là chúng tôi khiêm nhường. Nhưng chúng tôi xin Thầy, nhân danh Thiên Chúa, hãy trả lời câu hỏi của chúng tôi. Đừng giữ chúng tôi lâu hơn nữa trong sự dùng dằng. Thần trí chúng tôi phải ở trong nghi ngờ tới bao giờ nữa. Nếu Thầy là Đức Messi, hãy nói rõ ra đi.
- Tôi đã nói điều đó với các ông. Trong các nhà, trên các công trường, trong đường phố, trong các làng mạc, trên núi, dọc bờ sông, trước mặt biển, trước sa mạc, trong Đền Thờ, trong giáo đường, tại chợ búa... tôi đã nói điều đó với các ông, nhưng các ông không tin. Không có nơi nào trong Israel mà không nghe thấy tiếng tôi. Cho tới cả những nơi lạm dụng để mang tên Israel từ bao thế kỷ, nhưng đã tách rời với Đền Thờ; cho tới những nơi đã đặt tên của họ cho đất của chúng ta, nhưng là những kẻ từ địa vị kẻ cai trị, đã trở thành thuộc hạ, nhưng không bao giờ thoát ly hoàn toàn những sai lầm của họ để đến với chân lý; cho tới cả miền Syro-Phênici mà các
696
rabbi chạy trốn như những vùng đất tội lỗi, tất cả đều đã nghe tiếng tôi và biết sự hiện hữu của tôi.
Tôi đã nói điều đó với các ông, nhưng các ông không tin lời tôi. Tôi đã hành động, nhưng các ông không cho tư tưởng của các ông về các hành động của tôi một tinh thần tốt. Nếu các ông đã làm việc với ý hướng ngay thẳng là tìm để biết về tôi, thì các ông sẽ đi đến chỗ tin vào tôi, vì những việc mà tôi làm nhân danh Cha tôi làm chứng cho tôi. Các người có thiện chí thì đều đến với tôi và theo tôi, vì họ nhận ra tôi là Mục Tử, họ tin lời tôi và tin vào bằng chứng là các việc làm của tôi.
Và gì nữa ? Có lẽ các ông không tin rằng những việc tôi làm đều có mục đích là ích lợi cho các ông? ích lợi cho hết mọi người? Các ông hãy giác ngộ. Đừng nghĩ rằng ích lợi chỉ là sức khỏe được ban cho cá nhân do uy quyền của tôi, hoặc là sự giải thoát cho khỏi bị ám hay khỏi tội lỗi của người nọ người kia. Đó là những ích lợi hữu hạn của cá nhân. Nó qúa ít so với sức mạnh bị giải tỏa và cái nguồn sức mạnh đã giải tỏa nó: một nguồn siêu nhiên, và còn hơn là siêu nhiên, nó là Thiên Chúa. Đừng nghĩ đó là lợi ích duy nhất. Các công việc tôi làm còn có những ích lợi tập hợp: lợi ích cho việc lấy đi sự nghi ngờ nơi những người còn do dự, chinh phục những người chống đối, và thêm một lợi ích nữa là củng cố mỗi ngày một hơn đức tin của những người tin.
Chính vì lợi ích tập hợp này - cho các người thời nay cũng như trong tương lai, vì các việc của tôi sẽ minh chứng về tôi nơi các thế hệ tương lai và thuyết phục họ về tôi - mà Cha tôi đã cho tôi quyền năng để làm những điều tôi làm. Các công việc của Thiên Chúa, không có gì được làm mà không có mục đích tốt. Các ông hãy luôn luôn nhớ điều đó. Hãy suy gẫm cái chân lý này.
Giêsu dừng lại một lát. Người nhìn đăm đăm vào một người Do Thái đang cúi đầu và Người nói tiếp: “Ông, người đang suy nghĩ như vậy; ông, người mặc y phục mầu oliu chín, ông tự hỏi xem Satan có được tạo dựng với mục đích tốt không. Đừng làm điều ngu dại là lo chống đối tôi và tìm những sai lầm trong các lời của tôi.
697
Tôi trả lời ông rằng Satan không phải là tác phẩm của Thiên Chúa, mà là của ý muốn tự do của thiên thần phản ngụy. Thiên Chúa đã đặt nó làm vị thừa sai vinh quang của Người, vậy là Người đã tạo dựng nên nó với mục đích tốt. Đó, bây giờ ông lại nói với cái tôi của ông: “Vậy ra Thiên Chúa ngu, vì Người đã ban vinh quang cho một kẻ phản ngụy tương lai, và ủy thác ý muốn của Người cho một kẻ bất tuân”. Tôi trả lời cho ông: “Thiên Chúa không ngu, nhưng toàn vẹn trong các hành động của Người và các tư tưởng của Người. Người là Đấng hoàn toàn trọn lành. Các tạo vật thì bất toàn, dù là tạo vật hoàn bị nhất, trong nó luôn luôn có những điểm thấp hơn so với Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa yêu chúng, đã chấp nhận cho các tạo vật này cái ý muốn tự do, để nhờ đó, tạo vật tự kiện toàn trong các nhân đức, và như vậy, làm cho mình nên giống Thiên Chúa là Cha của nó hơn”. Tôi còn nói với ông, ôi kẻ hay chế nhạo, xảo quyệt, tìm tòi tội lỗi trong các lời của tôi, rằng từ điều ác mà người ta tự ý làm ra, Thiên Chúa cũng còn kéo ra được một tận cùng tốt, là làm cho người ta chiếm hữu được một vinh quang xứng đáng. Những chiến thắng trên Sự Ác là triều thiên của các kẻ được chọn. Nếu Sự Ác không thể gây ra một hậu qủa tốt cho những người có thiện chí thì Thiên Chúa sẽ phá hủy nó, vì không có gì trong việc tạo dựng mà không có sự kích thích hay hậu qủa tốt.
Ông không trả lời? Thật gay go đối với ông là phải công bố rằng tôi đã đọc hết qủa tim của ông, và tôi đã thắng sự ức đoán bất công trong tư tưởng quanh co của ông. Tôi không ép buộc ông làm điều đó. Trước mặt mọi người, tôi để kệ ông với sự kiêu căng của ông. Tôi không yêu cầu ông công bố là tôi thắng, nhưng khi ông ở một mình với những người giống như ông, và với những người đã sai các ông tới, lúc đó hãy thú nhận rằng Giêsu Nazarét đã đọc các tư tưởng trong thần trí ông, và đã bóp nghẹn các điều bác bẻ của ông trong cổ họng bằng khí giới duy nhất là lời chân lý.
Nhưng chúng ta hãy để những ngắt lời cá nhân này lại, và quay về với số đông những người nghe tôi. Nếu chỉ được lấy một trong số đông đảo những người này quay lòng họ về với Ánh Sáng, thì tôi
698
cũng đã được thưởng công là không phải khó nhọc để nói với các cục đá, đúng ra là nói với các mồ mả đầy rắn độc.
Tôi đã nói rằng những người yêu tôi thì đều nhận ra tôi là Mục Tử dựa vào các lời tôi và các việc của tôi. Nhưng các ông, các ông không tin, các ông không thể tin, vì các ông không phải là chiên của tôi.
Các ông là ai? Tôi hỏi các ông điều đó. Hãy hỏi điều đó với nội tâm các ông. Các ông không ngu dốt, các ông có thể biết các ông là gì. Các ông chỉ cần nghe tiếng nói của linh hồn các ông, nó không được yên vì không ngừng xúc phạm đến Con của đấng đã tạo dựng nên nó. Các ông luôn luôn biết rằng các ông là gì, nhưng các ông không nói ra. Các ông không khiêm nhường, cũng không chân thành. Nhưng tôi, tôi nói các ông là gì: Các ông, một phần là chó sói, một phần là ngựa hoang, mặc dầu lớp da chiên mà các ông mang để làm cho mình trông giống như chiên. Không ai trong các ông là chiên thực cả. Dưới lớp lông trắng mềm, các ông có tất cả những mầu sắc hung dữ: những cái sừng nhọn, những răng nanh và móng vuốt của dê xồm và thú dữ. Nhưng các ông muốn ở lại trong tình trạng đó, vì các ông thỏa mãn để là như vậy. Các ông mơ tới hung dữ và phản động. Vậy các ông không thể yêu tôi; các ông không thể theo tôi và hiểu tôi. Nếu các ông vào trong bầy của tôi, tức là để gây thiệt hại, để mang vào đó sự đau đớn và lộn xộn. Các chiên tôi sợ các ông. Nếu chúng giống các ông thì hẳn chúng ghét các ông, nhưng chúng không biết ghét. Chúng là chiên của Hoàng Tử Hòa Bình, của vị Thầy Tình Yêu, của Mục Tử Tình Thương, và chúng không biết ghét. Chúng không bao giờ ghét các ông, cũng như tôi, tôi không bao giờ ghét các ông. Tôi để sự thù ghét cho các ông, nó là hoa trái xấu của sự dâm đãng chấp ba, với cái tôi xổ lồng trong con người thú vật, sống mà quên cả rằng mình có một linh hồn cùng với thân xác. Tôi, tôi giữ lấy những gì là của tôi: tình yêu. Và tôi thông hiệp nó với các chiên của tôi; tôi cũng tặng nó cho cả các ông nữa, để làm cho các ông nên tốt.
Nếu các ông làm cho mình nên tốt, lúc đó các ông sẽ hiểu tôi và
699
các ông sẽ đến với bầy của tôi giống như những người khác đang ở đó. Chúng ta sẽ yêu nhau. Các chiên và tôi, chúng tôi yêu nhau. Chúng nghe tôi, chúng nhận ra tiếng tôi. Các ông, thực sự các ông không hiểu thế nào có nghĩa là biết tiếng nói của tôi: tức là không nghi ngờ gì về nguồn gốc của nó, và phân biệt được nó giữa hàng ngàn tiếng nói khác của các tiên tri giả, để biết nó là tiếng nói thực sự từ Trời mà tới. Bây giờ và mãi mãi, ngay trong số những kẻ tin mình là tín hữu của Sự Khôn Ngoan, và họ đúng là vậy được một phần, cũng có rất nhiều người không biết phân biệt tiếng nói của tôi với những tiếng nói khác, cũng nói về Thiên Chúa với ít nhiều đúng đắn, nhưng luôn luôn là tiếng nói ở dưới tiếng nói của tôi.
- Ông luôn luôn nói rằng ông sắp sửa ra đi, và rồi ông nói rằng ông sẽ nói mãi mãi. Khi ông đã đi thì ông đâu có nói nữa! - Một người Do Thái bắt bẻ với giọng khinh bỉ như ông nói với người trí tuệ thấp kém.
Giêsu vẫn còn trả lời với giọng kiên nhẫn và đau khổ của Người. Người chỉ có giọng nghiêm khắc lúc đầu, khi nói với các người Do Thái, và sau đó, khi Người trả lời cho những bắt bẻ thầm kín của người Do Thái này. “Tôi sẽ nói mãi mãi, để giữ cho thế giới khỏi trở thành kẻ thờ tà thần hết. Và tôi sẽ nói với các người của tôi, với những người tôi đã chọn để nhắc lại lời tôi cho các ông. Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ nói, và họ sẽ hiểu những điều mà chính các hiền nhân cũng không biết hiểu. Qủa vậy, các kẻ thông thái nghiên cứu các lời, các câu, các cách, các nơi chốn, các thế nào, các dụng cụ mà qua đó Lời đã nói, trong khi các kẻ mà tôi đã lựa chọn không vùi đầu vào những nghiên cứu vô ích này, họ chỉ nghe, chìm đắm trong tình yêu, và họ sẽ hiểu, vì đó là Tình Yêu nói với họ. Họ sẽ phân biệt được những trang đầy bài trí của các nhà thông thái, hay những trang dối trá của các tiên tri giả, các rabbi gỉa hình, những kẻ dạy các giáo thuyết đồi bại, hay dạy những điều mà chính họ không thi hành. Họ phân biệt được chúng với những lời đơn sơ, chân thành, sâu xa từ tôi mà đến. Nhưng vì vậy, thế giới sẽ ghét họ, vì thế giới ghét tôi: Ánh Sáng, và họ ghét các con cái của Ánh
700
Sáng. Thế giới tối tăm yêu bóng tối thuận lợi cho tội lỗi của nó. Các chiên của tôi biết tôi và sẽ luôn luôn biết tôi và theo tôi, ngay cả trên các con đường đổ máu và đau đớn mà tôi sẽ đi trước tiên, họ sẽ đi sau tôi. Con đường dẫn các linh hồn tới sự khôn ngoan, con đường máu và nước mắt của những kẻ bị bách hại bởi vì họ giảng dạy sự công chính, sẽ sáng tỏ, bởi vì họ chói sáng trong sương mù u ám của thế giới và của Satan. Họ giống như luồng sáng của các tinh tú để dẫn dắt những người tìm Đường, tìm Chân Lý và tìm Sự Sống mà không kiếm được ai để dẫn họ tới đó. Vì đây là điều các linh hồn cần: những người dẫn họ tới Sự Sống, Chân Lý và Chính Lộ. Thiên Chúa đầy tình thương xót đối với những kẻ tìm mà không thấy, không phải tại lỗi họ, nhưng tại sự lười biếng của các mục tử thờ tà thần. Thiên Chúa đầy xót thương những linh hồn bị bỏ rơi cho chính họ. Họ lạc lõng và được tiếp đón bởi các thừa tác viên của Lucifer, luôn luôn sẵn sàng đón tiếp các kẻ đi lạc, để biến họ thành những tân tín đồ cho giáo thuyết của nó. Thiên Chúa đầy xót thương đối với những kẻ bị lừa chỉ vì các rabbi của Thiên Chúa, các rabbi mạo danh của Thiên Chúa không quan tâm tới họ. Thiên Chúa đầy xót thương đối với những kẻ đi tới thất vọng, tới sương mù, tới cái chết do lỗi của các thầy giả, chỉ là thầy trong y phục, và kiêu hãnh vì được gọi là thầy. Và vì những linh hồn tội nghiệp này, thì cũng như Người đã sai các tiên tri cho dân Người, cũng như Người đã sai tôi cho toàn thể thế giới, sau này, sau tôi, Người sẽ sai các tôi tớ của Lời, của Chân Lý và của Tình Yêu để nhắc lại các lời tôi. Vì chính lời tôi ban sự sống. Vì vậy các chiên của tôi bây giờ cũng như sau này sẽ có sự sống mà tôi sẽ ban cho chúng qua Lời của tôi là Sự Sống đời đời cho những kẻ đón nhận nó, và chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể giật chúng khỏi tay tôi.
- Chúng tôi không bao giờ từ chối lời của các tiên tri thực. Chúng tôi đã luôn luôn kính trọng Gioan, vị tiên tri sau cùng - một người Do Thái trả lời cách tức giận, và các bạn ông ta đồng thanh.
- Ông ta đã chết kịp thời để không bị các ông coi thường và bị bách hại bởi chính các ông. Nếu ông ta còn ở giữa các kẻ sống thì
701
câu “không được phép” của ông, đã được nói với một kẻ xác thịt loạn luân, cũng sẽ được nói với các ông là những kẻ phạm tội ngoại tình thiêng liêng bởi sự tà dâm của các ông với Satan chống lại Thiên Chúa, và các ông sẽ giết ông ta như các ông có ý định giết tôi.
Các người Do Thái bộc lộ sự căm phẫn cách ồn ào. Họ đã sẵn sàng để đánh, vì họ mệt do phải giả bộ êm đềm.
Nhưng Giêsu không lưu tâm việc đó. Người giơ tay để trấn át sự ồn ào và kêu lên: “Các ông đã hỏi tôi là ai, ôi các kẻ giả hình? Các ông đã nói rằng các ông muốn biết điều đó để được chắc chắn? Rồi bây giờ các ông nói rằng Gioan là tiên tri sau cùng? Vậy là hai lần các ông tự kết án mình về tội nói dối. Lần thứ nhất, vì các ông nói rằng các ông không bao giờ từ chối lời của tiên tri thực; lần thứ hai, vì khi nói rằng Gioan là tiên tri sau cùng, và rằng các ông tin vào tiên tri thực, các ông đã loại trừ sự kiện tôi cũng là một tiên tri, ít nhất là một tiên tri, một tiên tri thực. Ôi! Những cái miệng dối trá, những con tim lừa đảo! Đúng, thực vậy, thực vậy, tôi, ở đây, trong nhà của Cha tôi, tôi công bố rằng tôi còn hơn là một tiên tri. Tôi có cái mà Cha Tôi đã cho tôi. Cái mà Cha tôi cho tôi thì cao qúi hơn tất cả, và đó là cái mà ý muốn và quyền hành của tất cả loài người cũng không thể đụng bàn tay tham lam của họ vào được. Tôi có cái mà Thiên Chúa ban cho tôi, là: tất cả những ai ở trong tôi thì cũng ở trong Thiên Chúa, và không ai có thể giật họ khỏi tay Cha tôi cũng như tay tôi, vì cả hai đều là cùng một bản tính Thiên Chúa. Chúa Cha và tôi, chúng ta là Một”.
- A! Ghê chưa! Lộng ngôn! Phạm thánh! - Sự ồn ào của các người Do Thái vang dội Đền Thờ. Và một lần nữa, các cục đá của các người đổi tiền và các người bán động vật để ngăn cách giới hạn khoảng đất của họ, lại được dùng làm khí giới của những kẻ tìm dụng cụ để đập đánh.
Nhưng Giêsu đứng, khoanh tay trước ngực. Người trèo lên một cái ghế đá để có vẻ cao lớn hơn, và để mọi người nhìn thấy. Từ chỗ đó, Người trấn át họ bằng những tia của đôi mắt lam ngọc của Người. Người trấn át và phóng cái nhìn của Người, nó oai phong tới
702
nỗi làm họ tê liệt. Thay vì ném đá Người, họ vất bỏ hay chỉ giữ trong tay chứ không có cái táo bạo để quăng vào Người. Cả tiếng ồn ào cũng dịu lại để nhường chỗ cho một sự sợ hãi kỳ lạ. Qủa thực là Thiên Chúa tỏ lộ nơi Đấng Kitô của Người. Và khi Thiên Chúa tỏ lộ như vậy thì con người, dù xấc láo nhất cũng thành bé bỏng và sợ hãi.
Tôi nghĩ tới ngày Thứ Sáu Tuần Thánh: Mầu nhiệm chừng nào Người đã che giấu để các người Do Thái có thể dã man dường ấy! Mầu nhiệm chừng nào sự vắng bóng quyền lực trấn át này nơi Đức Kitô trong ngày đó. Đúng thực là giờ của tối tăm, giờ của Satan, và chỉ có chúng ngự trị... Thiên Tính, tình Cha của Thiên Chúa đã bỏ rơi Đức Kitô của Ngài, và Người không còn gì hơn là một nạn nhân...
Giêsu đứng yên như vậy vài phút, rồi Người lại bắt đầu nói với đám đông bị mua chuộc và hèn hạ này, nhưng họ đã mất hết sự hỗn láo do sự kiện duy nhất là đã thấy ánh chớp của Thiên Chúa: “Nào, các ông muốn làm gì? Các ông đã hỏi tôi rằng tôi là ai, tôi đã nói điều đó với các ông, và các ông trở nên hung dữ. Tôi đã nhắc lại cho các ông các việc tôi đã làm; tôi đã chỉ cho các ông thấy và nhắc lại cho các ông nhiều việc lành từ Cha tôi mà tới, và được hoàn thành nhờ vào quyền năng đã từ Cha tôi mà đến với tôi. Vậy vì việc nào trong những việc này mà các ông ném đá tôi? Vì đã dạy sự công chính ư ? Vì đã mang Tin Mừng đến cho loài người ư? Vì đã đến mời gọi các ông vào Nước Thiên Chúa ư ? Vì đã chữa cho các bệnh nhân của các ông, đã trả lại cái nhìn cho người mù, cho các chi thể tê liệt được cử động, ban tiếng nói cho người câm, giải phóng cho các kẻ bị qủi ám, cho kẻ chết sống lại, làm phước cho người nghèo, tha thứ cho kẻ có tội, yêu mọi người, kể cả những người ghét tôi, tức là các ông và những kẻ đã sai các ông? Vì việc nào trong những việc này mà các ông muốn ném đá tôi?”
- Không phải vì những việc tốt ông đã làm mà chúng tôi ném đá ông, nhưng vì ông phạm thượng. Ông là người mà ông xưng mình là Thiên Chúa.
703
- Đã chẳng được viết trong lề luật của các ông rằng: “Ta đã nói: các ngươi là những Thiên Chúa và là con Đấng Tối Cao” sao? Bây giờ, nếu Người gọi “những Thiên Chúa” là những kẻ Người nói với để ban một mệnh lệnh: là phải sống theo cách để sự giông giống với Thiên Chúa và hình ảnh Thiên Chúa nơi con người được thể hiện, và để con người không phải là một thằng qủi, cũng không phải là một vật thô thiển. Nếu con người được gọi là những Thiên Chúa trong kinh thánh là điều được Thiên Chúa linh ứng, và bởi đó kinh thánh không thể bị thay đổi hay hủy bỏ theo ý thích và lợi lộc của loài người, thì tại sao các ông nói là tôi phạm thượng, bởi vì tôi nói: “Tôi là Con Thiên Chúa”, tôi, người mà Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến trong thế giới? Nếu tôi không làm các công việc của Cha tôi thì các ông có lý để không tin vào tôi. Nhưng tôi đã làm các việc đó mà các ông không muốn tin vào tôi. Vậy ít nhất hãy tin vào các việc này để các ông biết và nhận ra rằng Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha.
Cơn bão của các tiếng kêu gào và sự hung bạo lại nổi lên mạnh hơn lúc trước. Từ một trong các sân thượng của Đền Thờ, chắc chắn là nơi các thầy cả, các luật sĩ và pharisiêu đã ẩn núp để nghe, phát ra nhiều tiếng kêu: “Hãy túm lấy tên phạm thượng này. Bây giờ tội nó đã công khai. Tất cả chúng ta đều đã nghe. Cái chết cho kẻ phạm thượng đã tự xưng mình là Thiên Chúa! Hãy cho hắn những hình phạt giống như đã cho các con của Salumit Dabri. Hãy lôi nó ra ngoài thành và ném đá nó! Đó là quyền của chúng ta. Đã chép rằng: ‘Kẻ phạm thượng thì phải chết’”
Tiếng kêu của các thủ lãnh kích thích sự giận dữ của các người Do Thái. Họ tính chụp lấy Giêsu, trói tay Người và nộp cho các viên chức của Đền Thờ. Các người này cũng đang chạy tới với lính gác Đền Thờ theo sau.
Nhưng lại một lần nữa, các đội lính Rôma lẹ hơn họ. Từ đồn Antonia, họ đã theo dõi sự náo động và họ ra khỏi đồn để tới nơi có tiếng kêu. Họ không vị nể ai cả. Các cán giáo đập thật mạnh trên đầu và lưng. Bằng những đùa cợt và những lời thô tục, họ kích thích
704
nhau làm việc mạnh trên các người Do Thái: “Về chuồng! Lũ chó! Tránh chỗ! Lucinus, hãy đập mạnh cho tên đỉa đói này. Cút đi! Cái sợ làm cho chúng mày hôi thối hơn bao giờ hết! Nhưng loài qụa! Chúng mày ăn gì mà thối hoắc vậy? Bassus, anh nói đúng: chúng thanh tẩy, nhưng chúng hôi rình! Hãy nhìn tên mũi to kia! Áp vào tường! Áp vào tường để chúng ta ghi tên chúng mày. Và chúng mày, cú mèo! Hãy xuống ngay. Bây giờ chúng tao biết chúng mày rồi. Ông bách binh đội trưởng đã làm một bài tường trình rất hay cho thủ lãnh. Không, ông đó, hãy để ông ta yên, đó là một tông đồ của vị Rabbi. Anh thấy là ông ta có mặt người chứ đâu phải mặt linh cẩu. Coi, coi, chúng trốn vào lối này nhiều lắm! Hãy để cho chúng đi. Muốn thuyết phục chúng thì phải xâu chúng hết vào ngọn giáo của chúng ta, chỉ như vậy chúng ta mới chế ngự được chúng. Nếu chuyện này có thể xảy ra ngày mai! A! Nhưng mày! Mày bị bắt và mày đừng hòng trốn. Tao đã thấy mày, mày biết không? Cục đá đầu tiên là cục của mày. Mày sẽ trả lời vì đã đánh một người lính Rôma... Tên này nữa. Nó đã nguyền rủa chúng ta và chửi bới hiệu kỳ. A! Đúng? Thực sao? Lại đây. Chúng tao sẽ làm cho mày được yêu trong đề lao của chúng tao...”
Và như vậy, vừa đột kích vừa chế nhạo, trong khi bắt một số, để cho trốn chạy một số, các toán lính quét sạch người khỏi cái sân mênh mông.
Nhưng khi các người Do Thái thấy hai người trong bọn họ đã thực sự bị bắt, họ mới để lộ chân tướng của họ: hèn, hèn, hèn! Hoặc họ chạy trốn trong khi lẻo mép cục tác như gà mái bay nhào khi thấy diều hâu sà xuống, hoăc họ qùi dưới chân các người lính để van xin tình thương với vẻ ti tiện và nịnh bợ đến làm phẫn uất. Một ông già nhăn nheo, một trong những tên chống đối Giêsu kịch liệt nhất, bám vào chân một quân nhân hữu cấp và gọi ông ta là “Quân tử và công chính”. Tên hữu cấp hất ông ta ra với cái hất chân mạnh tới nỗi tên Do Thái lăn lộn ra phía sau ba bước, và anh ta la: “Cút đi! Cáo già đỉa đói”. Và anh ta quay về một người lính bạn, giơ bắp chân ra và nói: “Chúng có móng vuốt cáo già và chất
705
nhờn của rắn độc. Coi này Maximus! Lạy Jupiter! Bây giờ tôi đến thẳng nhà tắm hơi để tẩy đi những dấu vết của tên già nhớp nhúa này!” Và thực sự anh ta bực mình đi ra với bắp chân bị trầy sát.
Tôi hoàn toàn bị lạc mất Giêsu. Tôi không biết Người đi đâu, Người ra bởi cổng nào. Trong một lúc, tôi chỉ thấy chìm ngập rồi biến mất trong sự lột xộn: các khuôn mặt của hai con ông Alphê và của Tôma, chiến đấu để mở đường, và khuôn mặt của vài môn đệ mục đồng lo cùng một chuyện. Rồi họ cũng biến mất, chỉ còn lại những tiếng lải nhải sau cùng của các người Do Thái phản trắc, lo chạy vào đâu đó để tránh khỏi bị đám lính bắt và nhận diện. Tôi có cảm tưởng rằng đối với đám lính, đây thực là buổi lễ, vì có thể quăng vào các người Hy Bá một trận đòn, để bù lại tất cả những thù ghét mà họ phải thưởng thức.
235* GIÊSU TỚI HANG ĐÁ SINH NHẬT
ĐỂ TỰ CÔ LẬP
Giêsu đang ở phía sau Đền Thờ, gần cổng Đoàn Vật, phía bên ngoài thành. Chung quanh Người có các tông đồ và các môn đệ chăn chiên, ngoại trừ Lêvi. Họ sợ hãi, và kể cả giận dữ. Tôi không thấy ai trong số môn đệ lúc trước đã ở trong Đền Thờ với Người. Họ bàn cãi với nhau. Tôi có thể nói là họ tranh luận với nhau và với Giêsu, và đặc biệt là với Judas Kêriot. Họ trách Judas về sự tức giận của các người Do Thái, và họ làm với sự mỉa mai hơi cay chua. Judas để cho họ nói và nhắc lại: “Tôi đã nói với các pharisiêu, các luật sĩ và các thầy cả, và đâu có ai trong số họ ở giữa những người này”.
Họ khiển trách Giêsu vì đã không ngừng tranh luận sau khi đã làm yên ồn ào lần thứ nhất, và Giêsu trả lời: “Thầy phải hoàn thành sự biểu lộ của Thầy”.
Và nữa, họ không nhất trí về nơi sẽ đi, mà bây giờ đã gần ngày Sabát, và đây là những ngày lễ. Simon Phêrô đề nghị nhà Giuse
706
Arimathi, vì đã cho rằng không nên đi Bêtani vì sự làm phiền, nhất là từ lúc Giêsu tuyên bố là không nên đi Bêtani nữa.
Tôma trả lời: “Giuse không có ở nhà ông, Nicôđêmô cũng không. Họ đi khỏi nhà để mừng lễ. Hôm qua tôi đã chào họ khi chúng ta chờ Judas, và họ đã nói thế với tôi”.
- Vậy tới nhà Nique đi - Mathêu đề nghị.
- Bà đi Jêricô mừng lễ - Philíp trả lời.
- Tới nhà Giuse Sêphoris - Giacôbê Alphê nói.
- Hum! Giuse... - Phêrô nói. “Chúng ta sẽ không là món qùa tặng cho ông ta! Ông ta đã có những phiền phức, và... đúng, tôi bảo anh: ông ta tôn kính Thầy, nhưng ông muốn được yên tĩnh. Ông ta giống như chiếc xuồng bơi ở giữa hai dòng nước ngược nhau... và để có thể luôn luôn nổi, ông nghĩ đến mọi thứ đồ dằn, ngay cả thằng bé Martial... tới nỗi ông ta thấy là qúa đẹp để đẩy nó qua cho Giuse Arimathi”.
- A! Ra vì vậy mà hôm qua ông ta ở với Giuse?! - Andrê kêu lên.
- Chắc chắn rồi! Vậy nên tốt hơn là để ông yên hàn trong cái cảng nhỏ của ông... Hé! Ta đã không can đảm mấy! Đại Pháp Đình đã làm cho cả đám sợ - Phêrô lại nói.
- Hãy nói về anh thôi, tôi xin anh. Tôi, tôi không sợ ai cả - Iscariot nói.
- Tôi cũng không. Để bảo vệ Thầy, tôi thách đấu với tất cả một đạo quân. Nhưng chúng ta, chính chúng ta... Những người khác... Hé! Họ có công việc của họ, nhà cửa của họ, vợ con của họ... Họ nghĩ tới đó.
- Chúng ta cũng vậy. Chúng ta có những thứ đó - Batôlômêo nhận xét.
- Nhưng chúng ta là các tông đồ, và...
- Và các con cũng giống những người khác thôi. Đừng chỉ trích ai cả, vì thử thách chưa tới đâu - Giêsu nói.
- Nó chưa tới sao? Vậy Thầy muốn cái gì hơn nữa ngoài những cái chúng ta đã trải qua? Tuy nhiên Thầy thấy là hôm nay con đã bảo vệ Thầy rất hăng! Tất cả chúng con đều bảo vệ Thầy. Nhưng
707
con, hơn mọi người. Con đã dẹp đường với một số người bị đẩy đi như người ta lật chiếc xuồng!... Một ý kiến! Chúng ta đi Nobê, ông già sẽ sung sướng!
- Đúng. Đúng. Đi Nobê - tất cả đều đồng ý.
- Gioan không có ở đó. Các con sẽ đi đường vô ích. Các con có thể đi Nobê, nhưng không vào nhà Gioan.
- Các con có thể! Vậy Thầy, Thầy không có thể sao?
- Thầy không thể, Simon Jonas. Thầy đã có nơi để đi trong mấy buổi chiều dịp Lễ Ánh Sáng này. Nhưng vắng Thầy, các con có thể yên tĩnh ở bất cứ đâu. Vì vậy Thầy bảo các con: hãy đi tới nơi các con muốn. Thầy chúc lành cho các con. Thầy nhắc lại cho các con là hãy hợp nhất thể xác và tâm hồn. Hãy tùng phục Phêrô, thủ lãnh của các con, nhưng không phải như ông chủ, mà như người anh cả. Ngay khi Lêvi trở lại với cái xắc của Thầy, chúng ta sẽ chia tay.
- Chúa ơi, cái đó không được. Để Thầy một mình là không đời nào đâu! - Phêrô kêu lên.
- Luôn luôn được, nếu Thầy muốn, Simon Jonas. Nhưng đừng sợ. Thầy không ở lại trong thành phố. Không ai, nếu không là thiên thần hay ma qủi, khám phá ra chỗ trú của Thầy.
- Nhưng có qúa nhiều ma qủi ghét Thầy. Con, con nói với Thầy rằng Thầy sẽ không đi một mình!
- Cũng có các thiên thần nữa, Simon ạ. Và Thầy, Thầy sẽ đi.
- Nhưng đi đâu? Vào nhà nào? Vì Thầy đã từ chối những nhà tốt nhất hay tự nguyện, hay vì sau những trường hợp?!... Chắc chắn Thầy sẽ không vào một cái hang trên núi vào mùa này?
- Nếu có như vậy thì nó cũng sẽ luôn luôn ít gía lạnh hơn con tim của những kẻ không yêu Thầy - Giêsu nói tựa như nói với chính mình, trong khi Người cúi đầu để che một giọt nước mắt long lanh trong mắt Người.
- Kìa Lêvi, ông đang chạy tới - Andrê nói khi ông nhìn từ bờ đường.
- Vậy chúng ta cho nhau cái hôn rồi chúng ta chia tay. Nếu các con đi Nobê thì các con chỉ có vừa đủ giờ trước khi mặt trời lặn.
708
Lêvi tới, thở hổn hển: “Thầy ơi, chúng tìm Thầy ở khắp nơi... Những người yêu Thầy nói với con vậy... Chúng đã vào nhiều nhà, nhất là những nhà nghèo...”
- Chúng có thấy anh không? - Giacôbê Zêbêđê hỏi.
- Chắc chắn rồi. Kể cả chúng đã chặn tôi lại. Nhưng tôi, tôi đã biết nên tôi nói: “Tôi đi Gabaon”, và tôi ra ngoài bằng cổng Damas, và tôi chạy đàng sau các bức tường... Chúa ơi, con không nói dối, vì họ với con, chúng con sẽ đi Gabaon sau ngày Sabát. Đêm nay chúng con sẽ ở lại trong miền quê thành Đavít... Đây là những ngày kỷ niệm đối với chúng con... - và ông nhìn Giêsu với nụ cười thiên thần trên khuôn mặt trưởng thành đầy râu ria. Một kỷ niệm thức dậy trên các nét của ông về trẻ bé của cái đêm xa xưa.
- Tốt. Vậy các con hãy đi, và các con cũng vậy. Thầy cũng đi. Mỗi người theo đường của mình. Các con sẽ đến làng của Salômôn trước Thầy. Trong vài ngày nữa Thầy sẽ tới đó. Trước khi chia tay các con, Thầy nhắc lại lời Thầy đã nói với các con trước khi sai các con đi từng hai người một qua các thành phố: “Hãy đi, hãy rao giảng, hãy loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã rất gần. Hãy chữa các người bệnh, thanh tẩy người cùi, phục sinh cho kẻ chết về tâm hồn và thân xác, bằng cách đặt tay trên họ nhân danh Thầy, để cho họ sự phục sinh tâm hồn, sự tìm kiếm Thầy là Sự Sống, hay sự phục sinh từ cái chết. Đừng kiêu hãnh vì điều các con làm. Hãy tránh cãi cọ với nhau và với những người không yêu chúng ta. Đừng đòi hỏi gì về điều các con làm. Hãy đến với các chiên lạc của nhà Israel hơn là đến với dân ngoại và người Samari, điều đó không phải vì ác cảm, mà vì các con chưa có đủ khả năng để hoán cải họ. Hãy cho đi những gì các con có. Đừng lo lắng cho ngày mai. Hãy làm tất cả những gì các con đã thấy Thầy làm, và làm với tinh thần giống như Thầy. Đây, Thầy ban cho các con quyền năng để làm những gì Thầy làm, và Thầy muốn rằng các con làm để Thiên Chúa được vinh danh. Rồi Người thổi hơi trên họ, hôn họ từng người một và cho họ đi.
Tất cả đều tiếc xót để lìa xa Người và họ còn quay lại nhiều lần.
709
Người giơ tay chào họ cho tới khi Người thấy tất cả đã đi khỏi. Rồi Người xuống lòng thung lũng Cédron, giữa các bụi rậm. Người ngồi trên một tảng đá ở bờ, gần chỗ nước róc rách. Người uống thứ nước trong này, chắc là buốt giá. Người rửa mặt, tay, chân, rồi mặc lại áo và trở lên để ngồi. Người suy nghĩ... Người không nhận ra những gì xảy ra ở chung quanh.
Tông đồ Gioan đã đi xa cùng với các bạn ông, lại trở gót một mình, bắt chước Người, cũng ngồi nấp trong bụi rậm...
Giêsu ngồi một lúc, rồi Người đứng dậy, đeo giỏ lên vai và đi theo suối Cédron, giữa các bụi rậm. Người đi tới chỗ giếng En Rogel, rồi Người quay về phía tây nam để vào con đường đi về Betlem. Gioan đi cách khoảng một trăm mét ở đàng sau, theo Người, hoàn toàn ấm áp trong áo khoác của ông, để không bị nhận diện.
Họ bước không ngừng trên con đường trơ trụi về mùa đông. Giêsu với bước chân dài, ngốn lẹ con đường. Gioan theo Người không phải không mệt, vì ông phải cẩn thận để không bị khám phá. Hai lần Giêsu dừng bước và quay lại. Lần thứ nhất khi đi qua gần ngọn đồi nhỏ, chỗ Judas đã đi qua để đến với Caipha và đồng bọn; lần thứ hai ở gần một cái giếng mà Người đã ngồi để nhâm nhi một tí bánh, rồi uống nước trong bình của một người đàn ông. Sau đó Người tiếp tục đi trong khi mặt trời xuống, xuống, xuống... và hoàng hôn tới. Người tới mồ của Rakel khi tia đỏ sau cùng của mặt trời tắt đi trong một giải dài mầu tím. Bầu trời ở phía tây giống như một giàn cây hoàng đậu đầy hoa, trong khi ở phía đông, nó đã có mầu tím đen của bầu trời mùa đông lạnh, và các ánh sao đầu tiên đã xuất hiện ở vùng trời xa xôi nhất.
Giêsu vội vã để tới nơi trước khi trời tối hẳn. Nhưng khi tới một vị trí cao, từ đó người ta có thể nhìn thấy toàn thể thành phố Bétlem, Người dừng lại, nhìn và thở dài... Rồi Người đi xuống mau lẹ. Người không vào thành phố. Người đi vòng đàng sau các nhà và đi thẳng tới chỗ đổ nát của căn nhà, tức là tháp Đavít, tới chỗ Người đã sinh ra. Người băng qua cái suối chảy ở gần hang đá. Người đặt chân lên khoảng đất nhỏ phủ đầy lá khô... Người liếc nhìn vào bên trong.
710
Không có ai cả. Người vào...
Gioan dừng lại ở gần bên cạnh, cẩn thận để không bị nghe, cũng không bị nhìn. Ông lục lọi, ông nhìn, rờ rẫm thì đúng hơn là nhìn. Ông tìm thấy một cái chuồng súc vật nhỏ khác bỏ hoang, và đến lần ông, ông cũng vào và đốt lửa lên trong một góc. Có một cái ổ rơm, một ít rơm dơ, vài cành cây và cỏ ở trong máng ăn.
Gioan bằng lòng. Ông nói với chính mình: “Ít nhất... ta sẽ nghe thấy... và... hoặc chúng ta chết cùng nhau, hoặc ta sẽ cứu Người”. Rồi ông thở dài và nói: “Người đã sinh ra ở đây, và Người tới đây để khóc sự đau đớn của Người... Và... Ôi Thiên Chúa hằng hữu! Xin cứu Đấng Kitô của Người. Quả tim con run sợ, ôi Thiên Chúa Tối Cao, vì Người luôn luôn cô lập trước những công việc trọng đại... Và công việc trọng đại nào Người có thể làm nữa, nếu không là tỏ mình ra với tư cách là Vua Cứu Chuộc. Ôi! Tất cả mọi lời của Người đều ở trong nội tâm con... Con là đứa ngu đần và con hiểu rất ít. Tất cả chúng con đều hiểu rất ít. Ôi Cha đời đời của chúng con! Nhưng con, con sợ! Con sợ! Vì Người nói về cái chết, một cái chết nặng nề, về sự phản bội, và về những điều kinh khủng... Con sợ! Con sợ! Lạy Thiên Chúa của con! Xin củng cố cho qủa tim con. Lạy Chúa vô tận, xin tăng cường cho qủa tim của đứa con tội nghiệp như chắc chắn Cha tăng cường cho qủa tim Con Cha, cho những biến cố sắp tới... Ôi! Con cảm thấy nó. Người đã tới đây vì điều đó, để nghe tiếng Cha hơn bao giờ hết, và tự củng cố trong tình yêu của Cha. Con, con bắt chước Người. Ôi Cha rất thánh! Hãy yêu con và làm cho con yêu Cha để con có sức mạnh mà chịu đựng tất cả, không hèn nhát, để củng cố cho Con Cha”.
Gioan cầu nguyện hồi lâu trong khi đứng, hai tay giơ lên trong ánh sáng rung rinh của hai cành cây mà ông đã đốt trong chiếc lò cổ sơ. Ông cầu nguyện cho tới khi ông thấy lửa sắp tắt, ông liền trèo vào một cái máng ăn rất lớn và ngồi chồm hổm trong cỏ. Ông chỉ còn là một bóng đen trong đêm tối, cuộn tròn trong áo khoác đậm mầu của ông. Cái hang cũng hoàn toàn trong tối đen. Khi một tia sáng đầu tiên của vầng trăng lọt vào qua cửa hang để nói cho
711
ông rằng đêm đã khuya, Gioan mệt mỏi và ông thiếp ngủ. Hơi thở của ông và tiếng suối róc rách nhẹ là những tiếng động duy nhất của đêm nay trong tháng mười hai.
Trên trời cao, các đám mây nhẹ lững lờ như những tấm màn mà mặt trăng đụng vào, tựa như chúng hoàn toàn được đẩy đi bởi các thiên thần... Nhưng không có tiếng hát thiên thần. Thỉnh thoảng, các chim chóc trong đống đổ nát trả lời nhau bằng những tiếng hu hu hu thê thảm, đôi khi chúng kết thúc bằng những điệu như giọng cười đồng bóng đặc biệt của loại cú mèo, và từ xa vọng lại lời than giống như tiếng chim tu hú. Một con chó bị nhốt trong trại kêu ăng ẳng với mặt trăng, hoăc một con sói mà gió đã mang đến cho cái mùi của con mồi, vẫy đuôi đập vào sườn, rú lên sự thèm khát, nhưng không dám lại gần các chuồng được canh chừng cẩn mật.
Rồi đây, có các tiếng nói và tiếng các bước chân, với một ánh sáng đo đỏ rung rinh trong những đổ nát. Và đây, người nọ đi sau người kia, các môn đệ mục đồng: Mathia, Gioan, Lêvi, Giuse, Daniel, Benjamin, Êlie, Simêon. Mathia giơ cao một cành cây cháy để soi đường, nhưng người chạy lên trước là Lêvi, và ông là người đầu tiên ló đầu vào trong hang của Giêsu. Lập tức ông quay lại làm hiệu cho mọi người dừng lại và nín lặng. Ông nhìn lại một lần nữa, rồi đưa tay phải ra phía sau làm hiệu cho các người khác tiến tới, và ông đứng tránh ra, luôn luôn giữ một tay ở trên môi để làm hiệu là phải im lặng, ông dành chỗ cho các người khác bước tới, và người nọ sau người kia, nhìn rồi lui ra, rất cảm động, cũng như Lêvi.
- Chúng ta sẽ làm gì? - Lêvi xì xèo.
- Chúng ta ở yên đây để chiêm ngắm - Giuse nói.
- Không. Không ai được phép xâm phạm những bí mật thiêng liêng của các tâm hồn. Chúng ta hãy rút lui - Mathia nói.
- Anh có lý. Chúng ta hãy vào cái chuồng ở bên cạnh, như vậy chúng ta còn được ở đây, gần bên Người - Lêvi nói.
- Đi! - họ nói. Nhưng trước khi bỏ đi, họ nhìn lén vào trong hang giáng sinh một lần nữa, rồi họ lui ra, cảm động, cố tìm cách không gây tiếng động.
712
Nhưng khi đến lối vào của hang kế bên, họ nghe tiếng ngáy gỗ của Gioan.
- Có người - Mathia dừng lại và nói.
- Có thể có vậy sao? Có lẽ một người ăn mày trú ở đây, vì chắc đây là người ăn mày. Vậy chúng ta cũng có thể trú ở đây - Benjamin đối đáp.
Họ giơ cao cành cây cháy và đi vào. Gioan hoàn toàn cuộn tròn trong chiếc giường ứng biến và không thoải mái của ông, mặt khuất dưới tóc và áo khoác. Ông tiếp tục ngủ. Hõ se sẽ lại gần, với ý định ngồi trên cỏ trải gần cái máng. Nhưng khi làm như vậy, Daniel liếc nhìn chăm chú vào người đang ngủ và ông nhận ra. Ông nói: “Tông đồ của Chúa: Gioan Zêbêđê. Họ trú ở đây để cầu nguyện... và giấc ngủ đã thắng vị tông đồ... Chúng ta rút lui. Anh ta có thể cảm thấy bẽ mặt khi biết mình bị khám phá đang lúc ngủ, thay vì lo cầu nguyện...”
Họ tiếc xót trở ra và lại vào cái chuồng kế tiếp với hang này. Siméon phàn nàn: “Tại sao không ở lại tại hang của Người để thỉnh thoảng nhìn Người? Chúng ta đã bao năm ở dưới sương và ánh sao để canh chừng đoàn chiên, vậy mà với Con Chiên Thiên Chúa, chúng ta lại không làm? Chúng ta rất có quyền, chúng ta là những kẻ đã thờ lạy Người trong giấc ngủ đầu tiên của Người!”
- Anh có lý về phương diện là một người và kẻ thờ lạy Thiên Chúa làm người. Nhưng anh đã thấy gì khi nhìn vào trong đó? Một người ư ? Không. Chúng ta, dù không muốn, chúng ta đã băng qua ngưỡng của cái cửa cấm khi vạch ra cái màn chấp ba được chăng ra để che giấu mầu nhiệm, và chúng ta đã thấy điều mà chính các Thầy Cả Thượng Phẩm cũng không thấy khi vào trong nơi cực thánh. Chúng ta đã thấy tình yêu không thể xóa mờ của Thiên Chúa với Thiên Chúa. Chúng ta không được phép rình mò hơn nữa. Sức mạnh của Thiên Chúa có thể phạt con ngươi của mắt chúng ta vì đã táo bạo nhìn sự xuất thần của Con Thiên Chúa. Ôi! Hãy vui lòng với những gì chúng ta đã có. Chúng ta đã muốn đến đây để qua đêm trong cầu nguyện trước khi chúng ta chia tay lên đường làm sứ
713
mạng, cầu nguyện và nhớ lại cái đêm xa xưa... Nhưng trái lại, chúng ta đã chiêm ngắm Tình Yêu Thiên Chúa! Ôi! Thiên Chúa đã thực tình yêu chúng ta rất nhiều, trong khi ban cho chúng ta niềm vui được nhìn ngắm con trẻ bé nhỏ, và niềm vui được chịu đau khổ vì Người, được loan báo Người giống như môn đệ của Trẻ-Nhỏ-ThiênChúa và của Người-Thiên-Chúa! Bây giờ Người cũng đã ưng thuận cho chúng ta mầu nhiệm này... Hãy chúc tụng Đấng Tối Cao và đừng ước ao hơn nữa - Mathia nói. Tôi có cảm tưởng là ông có quyền nhất trong đám các mục đồng vì sự khôn ngoan và công chính của ông.
- Anh có lý. Thiên Chúa đã yêu chúng ta rất nhiều. Chúng ta không được đòi hỏi hơn nữa. Samuel, Giuse và Mathia chỉ có niềm vui được thờ lạy Trẻ Sơ Sinh và chịu đau khổ vì Người. Jonas đã chết mà không thể theo Người. Chính Isaac lại không ở đây để thấy điều chúng ta đã Thấy. Và nếu có ai xứng đáng thấy thì đó chính là Isaac, kẻ đã hao mòn để rao giảng Người - Gioan nói.
- Đúng vậy! Đúng vậy! Isaac sẽ sung sướng chừng nào được thấy điều này! Nhưng chúng ta sẽ nói với ông - Daniel nói.
- Đúng. Chúng ta hãy để hết vào trong tim để nói cho ông ta - Êlie nói.
- Và cho các môn đệ và các tín hữu khác nữa! - Benjamin kêu lên.
- Không, không cho các người khác. Không phải vì ích kỷ, nhưng vì thận trọng, và vì kính trọng mầu nhiệm. Nếu Thiên Chúa muốn thì sẽ đến những giờ chúng ta có thể nói. Lúc này thì chúng ta phải biết nín lặng - Mathia lại nói. Và ông nói với Simêon: “Anh cũng là môn đệ của Gioan giống như tôi. Anh nhớ ông đã dạy dỗ chúng ta biết bao về cách thận trọng với các đồ thánh: ‘Nếu một ngày kia, Thiên Chúa, như Người đã đổ đầy ơn lành cho các con, Người lại đổ cho các con những ơn huệ đặc biệt hơn nữa, thì mong rằng việc đó không làm cho các con thành say sưa lẻo mép. Hãy nhớ rằng Thiên Chúa tỏ mình ra cho các thần trí là cái ẩn kín trong thể xác, vì đó là những hạt ngọc thiên quốc, không được phơi bày nó ra
714
trước sự ô uế của thế gian. Hãy thánh trong các chi thể và ngũ quan của các con, để có thể hãm lại tất cả những nổi dậy của xác thịt. Hãy thánh trong con mắt cũng như lỗ tai, trong lưỡi cũng như bàn tay của các con. Hãy thánh trong tư tưởng của các con để biết hãm dẹp sự kiêu căng muốn làm cho người ta biết những điều các con có. Vì giác quan cũng như các bộ phận và trí tuệ phải phục vụ chứ không được cai trị. Chúng phải phục vụ linh hồn chứ không được cai trị trên linh hồn. Chúng phải bảo vệ linh hồn chứ không được làm cho nó xao xuyến. Bởi vậy trên các bí mật của Thiên Chúa nơi các con, ngoại trừ khi có lệnh rõ ràng, hãy đặt trên đó con dấu của sự thận trọng, cũng như linh hồn có con dấu về sự giam hãm tạm thời của nó trong thân xác. Thân xác và trí tuệ sẽ là những thứ hoàn toàn vô ích, xấu và nguy hiểm, nếu chúng không giúp cho ta có công nghiệp, bằng những tình cảm mà chúng ta cho chúng, để trả lời cho những kích thích mà chúng làm cho chúng ta; và nếu chúng không giúp cho chúng ta phục vụ Đền Thờ, cho bàn thờ mà vinh quang của Thiên Chúa ngự, là linh hồn chúng ta’. Các anh có nhớ không? Anh, Gioan, và anh, Simêon? Tôi hy vọng rằng có, vì nếu các anh không nhớ lời của vị thầy thứ nhất của chúng ta, thì thực sự Người đã chết đối với chúng ta. Một ông thầy sẽ sống mãi, bao lâu giáo thuyết của ông còn sống trong các môn đệ ông. Và nếu sau đó ông được thay thế bởi một vị thầy lớn hơn - và với môn đệ của Giêsu, thầy của mọi thầy - họ cũng không bao giờ được quên những lời của vị thầy thứ nhất là vị đã chuẩn bị cho chúng ta hiểu và yêu Con Chiên Thiên Chúa với sự khôn ngoan”.
- Đúng vậy. Anh nói khôn ngoan. Chúng tôi vâng lời anh.
- Nhưng thật là nặng nề mệt nhọc để kháng cự khi người ta ở
ngay bên cạnh Người mà không được nhìn Người một lần nữa! Không biết Người còn như lúc nãy không? - Simêon hỏi.
- Ai mà biết. Khuôn mặt Người sáng láng chừng nào!
- Còn hơn là mặt trăng vào một đêm thanh quang...
- Trên miệng Người có nụ cười Thiên Chúa...
- Và từ mắt Người chảy ra một giọt nước mắt Thiên Chúa...
- Người không nói lời nào, nhưng nơi Người, tất cả đều là lời cầu
715
nguyện.
- Vậy Người đã thấy gì?
- Thiên Chúa, Cha của Người. Anh nghi điều đó sao? Chỉ có thấy như vậy mới có diện mạo này. Và, tôi nói sao? Còn hơn là thấy Thiên Chúa, Người ở trong Thiên Chúa: Lời với Tư Tưởng! Và các đấng yêu nhau... A! - Lêvi nói, và ông cũng như xuất thần.
- Chính vì vậy mà tôi nói rằng chúng ta không được phép ở lại đó. Hãy coi, cả vị tông đồ của Người, Người cũng không muốn ở với Người.
- Đúng vậy. Thầy chí thánh, còn hơn là đất khô cần nước, Người cần được dìm ngập bởi tình yêu Thiên Chúa. Sự thù ghét qúa lớn ở chung quanh Người!...
- Nhưng tình yêu cũng rất lớn lao. Tôi, tôi muốn... Đúng, tôi làm! Thiên Chúa Tối Cao hiện diện ở đây, tôi dâng mình tôi và tôi nói: “Lạy Chúa, Thiên Chúa Tối Cao, Thiên Chúa và Cha của dân Người, đấng nhận và thánh hóa các con tim và các bàn thờ, và sát tế các vật hy sinh đẹp ý Chúa, nguyện ý Chúa xuống như ngọn lửa và tiêu hao con đi như Lễ Hy Sinh cùng với Đức Kitô, như Đức Kitô và bởi Đức Kitô, Con Chúa và Đấng Messi của Chúa, Thiên Chúa con và Thầy con. Con phó thác mình con cho Chúa. Xin Chúa nhận lời con”. Mathia, sau khi đã đứng với hai tay giơ lên để cầu nguyện, ông trở về ngồi trên đống cành cây như ngồi trên cái ghế.
Mặt trăng đã ngừng soi sáng cái hang, vì nó quay về phía tây. Ánh sáng của nó còn tỏa trên miền quê, nhưng nó không còn vào trong chỗ này, và như vậy, các khuôn mặt và mọi thứ đều biến mất trong bóng tối duy nhất. Các lời nói cũng hiếm hoi và các giọng nói yếu dần. Cho tới lúc cơn buồn ngủ thắng thiện chí thì không còn lời nào rõ ràng, và đôi khi không có câu trả lời... Vào lúc rạng đông, cái lạnh buốt giá là sự khích lệ chống lại cơn buồn ngủ và họ đứng lên, đốt các cành cây để sưởi các chi thể tê cứng của họ...
- Người sẽ làm sao? Chắc chắn Người không nghĩ tới lửa - Lêvi nói, run rẩy đập hai hàm răng.
- Và Người có chút đồ ăn nào không? - Êlie hỏi, và ông thêm:
716
“Bây giờ chúng ta chỉ có tình yêu và một tí thực phẩm tội nghiệp... và hôm nay là ngày Sabát...”
- Anh biết không? Chúng ta hãy để tất cả đồ ăn của chúng ta ở cửa hang rồi chúng ta đi. Chúng ta luôn luôn có thể tìm được một cái bánh trước buổi chiều tại nhà Rakel hay nhà Eliscia. Và chúng ta sẽ là sự quan phòng cho Đấng Quan Phòng, cho Con của đấng đã cung cấp tất cả cho chúng ta - Giuse đề nghị.
- Đúng, đúng. Chúng ta hãy đốt lửa lớn để thấy rõ và để sưởi. Rồi chúng ta mang tất cả lại đó và chúng ta đi, trước khi Người hay vị tông đồ ra ngoài cùng với rạng đông và nhìn thấy chúng ta.
Và trong ánh lửa, họ mở giỏ xách của họ, lấy ra bánh, phó mát khô, vài củ khoai. Họ lấy một ôm củi và đi ra, không gây tiếng động, trong khi Mathia soi sáng cho họ bằng một cành cây rút ở đống lửa ra. Họ đặt tất cả ở lối vào hang của Giêsu, đống củi ở dưới đất, ở bên trên củi là bánh và các thực phẩm khác. Rồi họ rút lui, lại băng qua con suối, người nọ theo sau người kia. Họ ra đi vào lúc khởi đầu tia thứ nhất của rạng đông lặng lẽ mà bỗng chốc một con gà trống xé tan.
236* GIÊSU VÀ GIOAN ZÊBÊĐÊ
Đây là một buổi sáng mùa đông thanh quang nhưng khắc nghiệt. Sương giá phủ trắng toát mặt đất và cỏ cây bằng những tinh thể trong suốt của nó, và biến các cành cây khô rơi trên đất thành những đồ nữ trang qúi dát ngọc trai.
Gioan ra khỏi hang của ông, rất xanh xao trong y phục mầu nâu đậm. Chắc chắn ông rất lạnh hay rất khổ, tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng ông xanh xao, tái mét, và không có dáng đi vững vàng của người khỏe. Ông đi ra suối, tự hỏi có nên nhúng tay xuống đó không. Rồi ông quyết định. Ông vụm tay lại múc nước và uống một ngụm thứ nước trong nhưng chắc là rất lạnh này. Ông vẩy tay và lau khô bằng vạt áo. Rồi ông đứng do dự... Ông nhìn về chỗ đổ nát,
717
nơi có Giêsu và chỗ trú của ông. Ông từ từ trở về, nhưng tới chỗ hở dùng làm lối vào hang, ông choáng váng và chập chững. Ông sẽ ngã nếu ông không tì vào bức tường đã đổ một nửa. Ông ở đó, gấp cánh tay lại, tì lên tường và gục đầu vào cánh tay một lúc, rồi ông ngẩng đầu lên và nhìn chung quanh... Ông không vào hang của ông nữa. Bằng cách lần mò theo bức tường, bám vào những tảng đá lúc lắc và không trét hồ, ông đi khoảng đường mấy bước ngăn cách hang của ông với hang của Giêsu. Khi tới gần cửa vào, ông qùi
phập xuống và rên rỉ: “Giêsu, Chúa của con, xin thương con!” Giêsu xuất hiện ngay: “Gioan? Con làm gì? Con làm sao?”
- Ôi! Chúa ơi! Con đói! Hầu như hai ngày nay con không ăn gì. Con đói và lạnh... - và ông đập lắc cắc hai hàm răng, tái mét.
- Lại đây, vào trong này! - Giêsu nói khi giúp ông đứng dậy.
Vị tông đồ được cánh tay Giêsu đỡ, khóc, nghiêng đầu trên vai Người và than thở: “Chúa ơi, đừng phạt con, nếu con đã không vâng lời Thầy...”
Giêsu mỉm cười trả lời: “Con đã bị phạt rồi. Con giống như kẻ đang đền tội... Con ngồi xuống trên tảng đá này đi. Bây giờ Thầy đi đốt lửa và cho con ăn...” Và Giêsu nhúm lửa bằng những cành nhỏ. Một ngọn lửa đẹp bốc lên trong cái lò thô kệnh ở gần cửa. Mùi cành cây cháy và ánh lửa vui tỏa ra trong cái hang tồi tàn. Giêsu xâu mấy mẩu bánh vào một cành cây rồi hơ nó trên lửa. Khi Người thấy chúng đã nóng, Người nhét vào phần ruột bánh mềm những mảnh phó mát mà các mục đồng đã để lại. Giêsu lại hơ nó trên lửa trong khi giữ nó ngang như ở trên cái đĩa, và phó mát chảy lỏng dính vào bánh.
- Bây giờ ăn đi và đừng khóc - Giêsu mỉm cười nói khi trao bánh cho Gioan. Ông khóc không ra tiếng, giống như đứa trẻ kiệt lực. Ông không ngừng khóc khi ăn cách thèm khát thứ đồ ăn tăng cường sinh lực này.
Giêsu đi lại cái máng cỏ, rồi người trở lại với mấy củ khoai và người ủ dưới tro nóng nhờ củi cháy, được đỡ bởi hai cục đá dùng làm đầu rau.
- Bây giờ đỡ hơn chưa? - Giêsu hỏi khi ngồi xuống bên vị tông
718
đồ của Người. Ông gật đầu tỏ dấu là “khá rồi”, nhưng không ngừng khóc.
Giêsu quàng tay quanh cổ ông và kéo ông sát vào Người. Điều đó làm gia tăng nước mắt của Gioan, có lẽ còn qúa mệt hay qúa xao xuyến bởi sợ bị mắng, hoặc bởi cảm động thấy mình được tiếp đón như vậy, nên không biết làm gì hơn là khóc.
Giêsu giữ ông sát chặt vào Người và không nói gì bao lâu ông còn ăn. Rồi Người nói: “Lúc này thì vậy là đủ rồi. Khoai thì con sẽ ăn sau. Thầy muốn cho con một tí rượu, nhưng Thầy không có. Sáng hôm kia, vào lúc rạng đông, Thầy thấy có củi và đồ ăn ở bên ngoài hang, nhưng không có rượu nên Thầy không thể cho con. Có lẽ lát nữa Thầy sẽ tìm được sữa nơi các mục đồng mà Thầy đã thấy họ chăn bầy ở bên kia suối. Nhưng bầy cừu sẽ không ra khỏi chuồng bao lâu băng giá chưa tan...
- Chúa ơi, con khá hơn rồi. Đừng lo lắng cho con.
- Còn con, con khổ về cái gì mà trông giống như cái cây mà mặt trời vừa làm cho tan giá? - Giêsu nói khi mỉm cười mạnh hơn và hôn lên trán Gioan.
- Chúa ơi, vì con bị cắn rứt bởi hối hận... và... vâng! Để con qùi! Con phải qùi để nói với Thầy, để xin Thầy tha thứ...
- Gioan tội nghiệp! Thực sự một cố gắng vượt qúa những điều con có thể đã làm cho con yếu đuối, kể cả trí tuệ. Con tưởng Thầy cần các lời của con để xét đoán con và miễn giải cho con sao?
- Vâng, vâng, Thầy biết hết, con biết. Nhưng con không được bình an bao lâu con chưa nói với Thầy cái tội của con, hay đúng hơn là tội của chúng con. Hãy để con làm. Hãy để con kết án các tội của con.
- Vậy được, nói đi, nếu điều đó cần để con được bình an.
Gioan lết qùi xuống, ngửa khuôn mặt đầy nước mắt lên và nói: “Con đã phạm tội không vâng lời, bởi tự phụ và bởi... con không biết con có nói đúng không khi con nói: bởi nhân đạo. Nhưng chắc chắn nó là tội mới đây nhất của con, tội nặng nhất. Nó đã cho con sự đau đớn lớn lao nhất; nó nói với con rằng con là đầy tớ vô ích,
719
đúng hơn là ích kỷ và thấp hèn”.
Nước mắt thực sự đầm đìa khuôn mặt ông trong khi nụ cười của Giêsu luôn luôn tươi sáng hơn. Giêsu hơi nghiêng xuống trên vị tông đồ trong nước mắt, và nụ cười Thiên Chúa là tất cả sự âu yếm trên sự đau khổ của Gioan. Nhưng Gioan qúa khổ tới nỗi ông không được khích lệ bởi nụ cười này, và ông tiếp tục: “Con đã không vâng lời Thầy. Thầy đã nói rằng chúng con không được chia lìa nhau, nhưng con chia lìa với các bạn con ngay, và con đã làm gương mù cho họ. Con đã trả lời xéo cho Judas Kêriot, khi ông bảo con nhận định rằng con phạm tội, con nói: ‘Hôm qua anh đã làm, và tôi làm hôm nay. Anh đã làm để có các tin tức của mẹ anh, tôi làm để ở với Thầy và canh chừng để bảo vệ Người’... Con ỷ y vào con, vì con muốn làm vậy... Con, một kẻ bất lực tội nghiệp mà đòi bảo vệ Thầy! Lại nữa, con ỷ y vì con muốn bắt chước Thầy. Con đã nói: ‘Chắc chắn Người đi cầu nguyện và ăn chay, tôi sẽ làm điều Người làm với một ý chỉ cũng như Người’. Nhưng trái lại...” Nước mắt đã được thay thế bằng những tiếng nấc trong khi lời thú nhận về sự khốn nạn của con người, về việc vật chất đã thắng ý muốn của tâm hồn, ra khỏi làn môi của Gioan: “Nhưng trái lại... con đã ngủ. Con ngủ ngay lập tức! Và con chỉ thức dậy khi đã sáng tỏ. Con thấy Thầy ra suối, rửa ráy rồi trở về đây. Con hiểu rằng nếu chúng có chụp lấy Thầy thì con cũng chẳng sẵn sàng để bảo vệ Thầy. Rồi con muốn làm việc hãm mình và ăn chay, nhưng con không có khả năng làm. Từng miếng nhỏ một để làm hầu như không ăn, sau cùng con đã ăn hết ngay ngày đầu chút bánh của con. Thầy biết rằng con không còn gì khác. Và khi con ăn hết, con cũng chưa no. Rồi ngày hôn sau, con bị đói hơn, và đêm nay... Ôi! Đêm hôm trước con ngủ ít vì đói và lạnh, đêm vừa qua con không ngủ tí nào... Sáng nay thì con không thể chịu đựng hơn nữa... và con đã đến với Thầy vì con sợ con sẽ chết vì kiệt lực... Và điều này làm con khổ nhất, là không biết tỉnh thức, cầu nguyện và canh chừng trên Thầy, nhưng đã biết đến vì những lôi kéo của cơn đói... Con là đầy tớ ngu muội và hèn hạ. Hãy phạt con đi, Giêsu!”
720
- Đứa con tội nghiệp! Thầy ước gì mọi người đều biết phàn nàn về các tội như tội con. Nhưng hãy nghe. Hãy đứng dậy và nghe Thầy, rồi bình an sẽ trở về với tâm hồn con. Con có bất tuân đối với Simon Jonas không?
- Thưa Thầy không. Con không bao giờ làm, vì Thầy đã nói rằng chúng con phải tùng phục ông như anh cả. Nhưng ông ta, khi con nói với ông: “Tôi không được yên lòng khi thấy Người đi một mình”. Ông trả lời: “Cậu có lý. Nhưng tôi, tôi không thể đi, vì tôi bó buộc phải hướng dẫn qúi vị. Cậu đi đi. Và xin Thiên Chúa ở với cậu”. Những người khác đều lên tiếng, và Judas làm hơn mọi người. Họ đã nhắc lại sự vâng lời, và kể cả trách móc Simon Phêrô.
- Họ đã nhắc? Hãy thành thật, Gioan.
- Thưa Thầy, đúng vậy. Chính Judas đã quở trách Simon và bạc đãi con. Những người khác chỉ nói: “Thầy đã ra lệnh ở cùng với nhau”, và họ nói với con chứ không phải với thủ lãnh của chúng con, nhưng Simon trả lời: “Thiên Chúa thấy ý hướng của hành động, và Người sẽ tha, vì đó là tình yêu”. Rồi ông chúc lành cho con và hôn con, rồi bảo con đi theo Thầy, giống như hôm Thầy đi tới nhà Chouza ở bên kia hồ.
- Vậy là Thầy, Thầy đâu có phải xá giải cho con cái tội này.
- Bởi vì nó qúa trầm trọng sao?
- Không, bởi vì nó không có. Lại đây Gioan, ở bên cạnh Thầy con và hãy nghe bài học của Người: Phải biết áp dụng các mệnh lệnh một cách chính đáng và phân biệt, trong khi hiểu biết tinh thần của mệnh lệnh chứ không phải chỉ hiểu các chữ làm thành mệnh lệnh. Thầy đã nói: “Các con đừng chia lìa nhau”. Con đã chia lìa, vì vậy con đã phạm tội. Nhưng trước đó, Thầy đã nói: “Hãy hợp nhất thể xác và tâm hồn, hãy tùng phục Phêrô”. Bằng những lời này, Thầy đã chọn ông làm đại diện hợp pháp của Thầy giữa các con, với đầy đủ năng lực để xét đoán và điều khiển các con. Vì thế điều Phêrô đã làm hay sẽ làm khi Thầy vắng mặt, sẽ là làm đúng. Bởi vì Thầy, khi ban cho ông quyền điều khiển các con, Thánh Thần Chúa ở trong Thầy cũng sẽ ở trong ông để hướng dẫn ông ra
721
các mệnh lệnh mà hoàn cảnh đòi hỏi và sự khôn ngoan kích thích người tông đồ thủ lãnh, vì lợi ích của tất cả. Nếu Phêrô bảo con: “Đừng đi”, mà con vẫn cứ đi, thì cử động tốt trong hành vi của con: ý muốn theo Thầy vì tình yêu, muốn bảo vệ Thầy và ở với Thầy trong nguy hiểm, sẽ không đủ để hủy bỏ tội của con. Nó thực sự phải có sự tha thứ của Thầy. Nhưng Phêrô, thủ lãnh của con, đã bảo con: “Hãy đi”, thì sự vâng lời ông sẽ hoàn toàn biện minh cho con. Con đã nhận ra chưa?
- Thưa Thầy rồi.
- Thầy có phải xá giải cho con cái tội tự phụ của con không? Hãy nói cho Thầy, không tự hỏi Thầy có thấy trong lòng con không: Con có tự tin một cách kiêu căng là muốn bắt chước Thầy để có thể nói: “Bởi ý muốn của tôi, tôi đã thủ tiêu những nhu cầu của thân xác, bởi vì tôi có thể làm điều tôi muốn”? Hãy suy nghĩ cho kỹ...
Gioan suy nghĩ, rồi ông nói: “Chúa ơi, không. Khi xét mình kỹ, con thấy là không. Con không làm vì vậy. Con đã hy vọng có thể làm, vì con hiểu rằng sự khổ hạnh là đau khổ cho thân xác, nhưng là ánh sáng cho tâm hồn. Con hiểu rằng đó là một phương tiện để tăng sinh lực cho sự yếu đuối của chúng ta và được nhiều ơn của Thiên Chúa. Thầy đã làm vì vậy, nên con, cũng vì vậy nên con muốn làm. Và con tin rằng con không lầm khi nói rằng: Thầy là đấng khỏe mạnh, quyền phép, thánh thiện mà Thầy còn làm, thì chúng con, chúng con phải làm luôn luôn, nếu luôn luôn có thể làm, để được bớt yếu đuối và bớt vật chất. Nhưng con không thể làm. Con luôn luôn đói và con chỉ muốn ngủ...” Và các giọt nước mắt lại từ từ chảy một cách khiêm nhường, với lời thú thực về khả năng giới hạn của con người.
- Vậy cái sự khốn nạn nhỏ này của thân xác, con có nghĩ là nó vô ích không? Ôi! Trong tương lai, con phải nhớ tới nó khi con bị cám dỗ xử đối khắt khe với các môn đệ và các tín hữu của con. Nó sẽ trở lại trong tư tưởng của con để nói: “Mày hãy nhớ là mày cũng đã nhượng bộ sự mệt mỏi và cái đói. Đừng đòi hỏi người khác phải mạnh hơn mày. Hãy là một người cha đối với các tín hữu của mày,
722
cũng như Thầy mày đã là người Cha đối với mày trong buổi sáng hôm đó”. Con đã có thể tỉnh thức và sau đó không cảm thấy cái đói cồn cào này. Nhưng Chúa đã cho phép để cho con phải tùng phục nhu cầu này của thân xác, để làm cho con nên khiêm nhường, luôn luôn khiêm nhường hơn, luôn luôn đầy tình thương hơn đối với tha nhân. Nhiều người không biết phân biệt cám dỗ và tội đã phạm. Điều thứ nhất là một thử thách làm cho có công và không lấy mất ân sủng đi. Điều thứ hai là một sa ngã làm mất công nghiệp và ân sủng. Có những người khác nữa thì không biết phân biệt các việc tự nhiên và các tội, và tự ngại ngùng vì đã phạm tội - đó là trường hợp của con - trong khi họ chỉ tuân theo các định luật tự nhiên là cái tốt. Khi nói “tốt”, Thầy phân biệt các định luật tự nhiên với các bản năng phóng túng buông tuồng. Vì tất cả những cái ngày nay người ta gọi là “luật tự nhiên” thì không đúng, và không tốt. Nó tốt, là những luật liên kết với bản tính con người mà Thiên Chúa đã cho các cha mẹ đầu tiên: nhu cầu về thực phẩm, sự nghỉ ngơi, đồ giải khát. Rồi cùng với tội lỗi, các bản năng thú vật đã thâm nhập và lẫn lộn với các luật tự nhiên, với các đồi trụy, các dục vọng đủ thứ, làm ô nhơ những cái tốt vì thiếu điều độ. Và Satan lại khơi thêm ngọn lửa, khiêu khích thói hư bằng những cám dỗ của nó. Bây giờ con thấy rằng nhượng bộ các nhu cầu về ăn uống và nghỉ ngơi không phải là một tội, nhưng trái lại, ăn uống say sưa, nhàn cư lâu dài sẽ là tội. Ngay cả nhu cầu kết hợp và đồng sáng tạo cũng không phải là một tội, trái lại, Thiên Chúa đã ra lệnh làm để con người sinh sản ra trên trái đất. Nhưng hành vi kết hợp chỉ để thỏa mãn giác quan sẽ là không tốt. Con có nhận ra điều này không?
- Thưa Thầy có. Vậy hãy nói cho con một điều: những kẻ không muốn đồng sáng tạo, họ có phạm tội chống lại Thiên Chúa không? Đã có lần Thầy nói rằng tình trạng đồng trinh là tốt.
- Đó là tình trạng toàn vẹn nhất, giống như toàn vẹn nhất là tình trạng của kẻ không bằng lòng với việc chỉ sử dụng tốt các của cải, mà còn từ bỏ nó hoàn toàn. Đó là những sự trọn lành mà người ta có thể đạt tới, và chúng sẽ được tưởng thưởng rất lớn lao. Có ba
723
điều là những điều trọn lành nhất: Tự nguyện sống nghèo khó, ở
trong trắng chung thân, vâng lời tuyệt đối trong tất cả những gì
không phải là tội. Ba điều này làm cho con người nên giống các thiên thần. Và sẽ là trọn lành hoàn toàn: hiến cả đời sống riêng mình vì tình yêu Thiên Chúa và anh em. Điều này làm cho người ta nên giống Thầy, vì nó mang họ tới tình yêu tuyệt đối. Và kẻ yêu một cách trọn vẹn thì nên giống Thiên Chúa, nó được thấm nhập vào Thiên Chúa, hoà tan với Người. Vậy hãy bình an, cưng nõn của Thầy. Không có tội ở nơi con. Thầy nói điều đó cho con. Vậy tại sao con lại khóc nhiều hơn?
- Vì luôn luôn có một tội: tội biết đến với Thầy vì nhu cầu, biết tỉnh thức vì đói chứ không vì tình yêu. Con sẽ không bao giờ tha tội đó cho mình. Điều này sẽ không bao giờ xảy ra cho con nữa. Con sẽ không ngủ nữa trong khi Thầy đau khổ. Con sẽ không bao giờ quên Thầy bởi ngủ trong khi Thầy khóc.
- Đừng cam kết cho tương lai, Gioan. Ý muốn của con sẵn sàng, nhưng nó vẫn còn có thể bị thua xác thịt, và con sẽ cảm thấy một sự giảm giá trị sâu xa và vô ích, nếu sau đó con nhớ tới lời hứa này mà con đã làm với chính mình, rồi sau đó không giữ được vì sự mong manh của thân xác. Nghe đây: Thầy bảo con điều con phải nói để được bằng an, dù bất cứ cái gì xảy đến cho con. Hãy nói cùng với Thầy: “Con, với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, con tự nguyện không nhượng bộ sự nặng nề của thân xác với hết sức có thể của con”. Và hãy gắn bó với ý muốn này. Nếu sau đó, một ngày kia, dù con không muốn, nhưng thân xác mỏi mệt và đau khổ, nó đi tới chỗ thắng ý muốn của con, thì lúc đó, cũng như bây giờ, con sẽ nói: “Tôi nhìn nhận rằng tôi là một con người tội nghiệp, cũng như mọi anh em tôi, và mong rằng việc này giúp tôi hạ triệt sự kiêu căng của tôi”. Ôi! Gioan! Gioan! Không phải giấc ngủ vô tội của con có thể làm đau đớn cho Thầy đâu! Cầm lấy đi. Cái này sẽ củng cố cho con hoàn toàn. Chúng ta chia sẻ với nhau trong khi chúc phúc cho những người đã tặng chúng cho Thầy”. Và Người lấy các củ khoai bây giờ đã chín và nóng hổi, Người cho Gioan ba củ, và giữ cho
724
Người ba củ.
- Chúa ơi, ai đã cho Thầy đó? Ai đã đến tìm Thầy? Ai đã biết rằng Thầy ở đây? Con không nghe thấy tiếng nói cũng như bước chân, dù là từ đêm đầu, con đã không ngừng tỉnh thức...
- Thầy ra ngoài khi vừa rạng sáng, Thầy thấy có củi ở lối vào, và ở bên trên có bánh, phó mát và khoai tây. Thầy không nhìn thấy ai. Nhưng chỉ có vài người có thể có sự ước ao nhắc lại một cuộc hành hương và một cử chỉ tình yêu... - Giêsu nói cách chậm rãi.
- Đúng rồi! Các người mục đồng! Họ đã nói: “Chúng tôi sắp đi tới miền đất của Đavít... Đây là những ngày kỷ niệm...” Nhưng tại sao họ không dừng lại?
- Tại sao! Họ đã thờ lạy và...
- Và họ thương. Họ đã thờ lạy Thầy và họ thương con... Những người này, họ tốt hơn chúng con.
- Ừ, họ đã duy trì lòng tốt. Ý muốn của họ luôn luôn tốt hơn. Ơn Thiên Chúa ban cho họ đã không làm thiệt hại gì cho họ...
Giêsu không mỉm cười nữa. Người suy nghĩ và trở nên buồn. Rồi người quay nhìn Gioan, ông cũng đang nhìn Người, và Người nói: “Vậy chúng ta đi chứ! Con hết mệt chưa?”
- Hết rồi Thầy. Con tin rằng con sẽ không rất mạnh, vì con ê ẩm khắp người. Nhưng con nghĩ con có thể bước.
- Vậy chúng ta đi. Hãy qua lấy giỏ của con trong khi Thầy lượm các thứ còn lại vào giỏ của Thầy, và chúng ta đi. Chúng ta sẽ đi con đường về phía Giođan để tránh Jêrusalem.
Và khi Gioan trở lại, họ lên đường, đi lại con đường đã đi khi tới, và họ băng qua miền quê được sưởi ấm dưới mặt trời êm dịu của tháng mười hai.
237* GIÊSU, GIOAN VÀ MANAEN
Họ đã ở trong miền đất giống như vùng ở chung quanh Biển Chết, bên ngoài hết mọi con đường, và họ hướng về phía đông bắc. Ngoài sự gồ ghề của mặt đất đầy đá sắc nhọn và các tinh thể muối,
725
bao phủ đầy cỏ gai thấp, thì bước chân được dễ dàng, nhất là yên tĩnh, vì nhìn mút mắt cũng không thấy một bóng người nào, và nhiệt độ êm, mặt đất khô ráo.
Họ nói chuyện với nhau. Chắc mấy ngày trước đấy họ đã gặp các mục đồng và nghỉ ở giữa đám môn đệ này, vì họ nói về chuyện đó. Họ cũng nói về một đứa trẻ được chữa lành. Êm đềm trong tình yêu, ngay cả khi họ ở lặng, họ cũng nói với nhau bằng con tim, và nhìn nhau bằng cái nhìn của kẻ sung sướng được ở bên người bạn qúi yêu. Họ ngồi để nghỉ và ăn một chút lương thực, rồi lại lên đường, luôn luôn với không khí yên tĩnh này, nó làm cho lòng tôi cũng bình an chỉ nguyên vì nhìn nó.
- Đây là Galgala - Giêsu nói khi chỉ tay về phía trước, vào một nhóm căn nhà đang phản chiếu mầu trắng của nó dưới mặt trời, trên một ngọn đồi nhỏ ở phía đông bắc: “Chúng ta đã đến gần bờ sông”.
- Và chúng ta sẽ vào Galgala để nghỉ đêm?
- Không, Gioan. Thầy chủ ý tránh hết mọi thành phố, và Thầy sẽ tránh cả thành phố này. Nếu chúng ta gặp ai trong số các mục đồng khác, chúng ta sẽ đi với họ. Nếu ở gần con đường mà chúng ta sắp tới, chúng ta thấy các đoàn du mục sắp sửa dừng lại để nghỉ đêm, chúng ta sẽ xin được trú trong lều của họ. Các đoàn du mục sa mạc luôn luôn hiếu khách, và đây là thời kỳ người ta gặp họ dễ dàng. Nếu không ai tiếp nhận chúng ta, chúng ta sẽ nghỉ dưới trời sao đẹp, hợp nhất cả hai dưới áo khoác của chúng ta, và chúng ta sẽ được các thiên thần canh chừng.
- Ôi, vâng. Tất cả những điều đó sẽ luôn luôn tốt hơn cái đêm buồn, đêm sau cùng mà con đã qua ở đó, ở Bétlem.
- Nhưng tại sao con không đến với Thầy ngay?
- Bởi vì con cảm thấy mình có tội. Rồi con cũng nói như vầy: Giêsu rất nhân từ, Người sẽ không quở mắng tôi, trái lại, Người sẽ an ủi tôi - giống như Thầy đã làm - nhưng như vậy thì sự hãm mình mà tôi muốn làm nó sẽ đi đâu?
- Gioan, chúng ta đã làm chung với nhau. Thầy cũng ở trong
726
hang, không ăn uống, không đốt lửa, dù Thầy đã tìm được đồ ăn và củi lúc ban sáng.
- Vâng, nhưng khi người ta ở với Thầy thì chẳng còn vấn đề gì nữa. Khi con ở với Thầy thì con chẳng còn cái gì để khổ. Con nhìn Thầy, con nghe Thầy là con hoàn toàn sung sướng.
- Thầy biết điều đó. Thầy cũng biết rằng tư tưởng của Thầy không ghi khắc vào trong người nào được như trong Gioan của Thầy. Thầy cũng biết rằng con hiểu và biết nín lặng khi cần. Con hiểu Thầy, đúng, bởi vì con yêu Thầy. Gioan, nghe Thầy đây. Từ nay, chỉ còn ít lâu nữa...
- Chúa ơi! Cái gì? - Gioan hỏi ngay khi ngắt lời Người và nắm lấy cánh tay Người, cản Người lại để nhìn thẳng vào mặt Người với đôi mắt sợ hãi, đầy nghi vấn, và khuôn mặt ông trở nên tái mét.
- Từ nay, chỉ còn ít lâu nữa là đúng ba năm Thầy giảng Tin Mừng. Tất cả những điều phải nói với đám đông, Thầy đã nói. Bây giờ tất cả những ai muốn yêu Thầy và theo Thầy thì đã có đủ mọi yếu tố để làm một cách bảo đảm. Những người khác... một số sẽ được thuyết phục bởi các sự kiện, còn phần đông sẽ vẫn như điếc, dù trước những sự kiện đó. Nhưng với những người điếc này, Thầy không có nhiều điều để nói. Và Thầy sẽ nói. Bởi vì sự công bằng cũng phải được bảo vệ, cũng như lòng thương xót. Từ trước tới giờ, lòng thương xót đã tự hủy mình nhiều lần và về nhiều thứ. Nhưng trước khi nín lặng mãi mãi, ông Thầy cũng nói với sự nghiêm khắc của vị thẩm phán. Nhưng Thầy không muốn nói với con về điều đó. Thầy chỉ nói với con rằng sắp sửa, sau khi đã nói với đoàn chiên tất cả những gì phải nói để nó thuộc về Thầy, Thầy sẽ tĩnh tâm rất nhiều để cầu nguyện và chuẩn bị. Khi Thầy không cầu nguyện thì Thầy dành cho các con. Giống như Thầy đã làm lúc khở đầu, Thầy cũng sẽ làm vào giai đoạn chót. Các phụ nữ sẽ đến. Mẹ Thầy sẽ đến. Chúng ta sẽ chuẩn bị lễ Vượt Qua tất cả với nhau. Gioan, ngay từ bây giờ, Thầy xin con hy sinh rất nhiều cho các môn đệ này, đặc biệt là cho mẹ Thầy...
- Chúa ơi, nhưng con có thể dâng hiến cái gì cho mẹ Thầy, trong
727
khi mẹ đã có qúa nhiều tới nỗi có thể cho tất cả chúng con?
- Tình yêu của con. Hãy tưởng tượng như con là con trai mẹ. Mẹ yêu con và con yêu mẹ. Chỉ có một tình yêu duy nhất nối kết hai người, đó là tình yêu đối với Thầy. Thầy là con mẹ theo thể xác và tâm hồn. Thầy sẽ càng lúc càng... vắng mặt, miệt mài trong những... công việc của Thầy. Mẹ sẽ khổ, vì mẹ biết... Mẹ biết điều gì sẽ xảy ra. Con phải an ủi mẹ thay cho Thầy. Hãy hoàn toàn trở nên người bạn của mẹ tới nỗi mẹ có thể khóc trên qủa tim con, và nhờ vậy mẹ được khích lệ. Mẹ Thầy không phải là người lạ đối với con. Con đã sống với mẹ. Nhưng khi sống như một môn đệ yêu mẹ của Thầy mình với một tình yêu trọng kính thì khác với việc sống như một người con. Thầy muốn con sống như một người con, để mẹ được bớt khổ một tí khi mẹ không còn Thầy nữa.
- Lạy Chúa, Thầy sắp chết sao? Thầy nói như một người sắp chết. Thầy làm con khổ...
- Đã nhiều lần Thầy nói với các con rằng Thầy phải chết, nhưng tựa như Thầy đã nói với các con nít lơ đễnh, hay nói với những người không hiểu gì! Đúng, Thầy đi chết. Thầy cũng sẽ nói điều đó với những người khác, nhưng nói sau. Với con thì Thầy nói bây giờ. Gioan, con hãy nhớ điều đó.
- Con luôn luôn cố gắng để nhớ các lời Thầy... Nhưng điều này nó qúa đau đớn...
- Đến nỗi con làm mọi cái con có thể để quên nó đi! Con muốn nói vậy phải không? Đứa con tội nghiệp! Không phải là con quên, con nhớ. Không phải do ý muốn của con, nhưng do chính bản tính nhân loại của con không thể nhớ cái điều qúa lớn lao này để nó có thể chịu đựng. Một điều qúa lớn lao, và cả đến con không biết hoàn toàn nó sẽ lớn lao kinh khủng chừng nào; một điều qúa lớn, nó làm cho con thành trì độn, giống như một khối nặng từ trên cao rơi xuống đầu con. Tuy nhiên, nó là như vậy. Từ nay, sắp sửa rồi, Thầy sẽ đi tới cái chết, và mẹ Thầy sẽ ở lại một mình. Thầy sẽ chết với một giọt êm dịu trong cái đại dương đau đớn của Thầy, nếu Thầy thấy con là một người “con” cho mẹ Thầy.
728
- Ôi! Lạy Chúa của con, nếu con có khả năng... Nếu không xảy ra cho con như ở Bétlem, vâng, con sẽ làm. Con sẽ canh chừng với qủa tim của đứa con. Nhưng con có thể cho mẹ điều gì để an ủi mẹ, nếu mẹ đã mất Thầy? Con có thể cho mẹ điều gì, nếu con cũng như người đã bị mất tất cả, một người mà sự đau đớn đã làm cho ra đần độn? Con sẽ làm sao? Con là kẻ không biết tỉnh thức và chịu đựng lúc này, trong sự an bình, trong vòng một đêm và với một chút đói bụng? Con sẽ làm sao?
- Đừng xao xuyến. Hãy cầu nguyện rất nhiều trong thời kỳ này. Thầy sẽ giữ con nhiều với Thầy và với mẹ Thầy. Gioan, con là sự bình an của chúng ta, và lúc đó con sẽ là vậy hơn nữa. Gioan, đừng sợ, tình yêu của con sẽ làm tất cả.
- Ôi! Vâng, Chúa ơi, hãy giữ con ở bên Thầy. Con, Thầy biết, con không ham xuất hiện, không ham làm phép lạ. Con muốn và con chỉ biết có yêu...
Giêsu đặt một cái hôn lên trán ông, về phía thái dương, giống như ở trong hang đá.
Họ đã nhìn thấy con đường dẫn ra bờ sông. Ở đây có những người hành hương đang thúc các con vật của họ, hoặc gia bước để tới nơi họ có thể dừng chân trước khi đêm về. Nhưng tất cả đều đi, mặc áo ấm thật kỹ, vì sau khi mặt trời lặn, không khí trở nên buốt gía, và không ai lưu ý tới hai người bộ hành đang bước mau về phía bờ sông.
Một người kỵ mã đi nước kiệu, hầu như phi, bắt kịp họ rồi vượt qua, rồi dừng lại sau vài mét, vì sự kềng càng của các con lừa gần chiếc cầu nhỏ bắc qua một con suối lớn, có vẻ đã như cái thác, vì nó sủi bọt khi chảy ra Giođan hay Biển Chết. Trong khi ông chờ tới phiên để qua cầu, ông quay mặt lại và có một cử chỉ ngạc nhiên. Ông xuống khỏi yên, trong khi giữ giây cương con ngựa, ông trở lại đàng sau, về phía Giêsu và Gioan. Hai người không nhận ra ông.
- Thầy! Làm sao Thầy ở đây? Và một mình với Gioan? - Người kỵ mã hỏi trong khi lật ra sau chiếc mũ mà ông che mặt giống như cái mặt nạ, để tránh gió và bụi. Khuôn mặt da ngăm cương quyết
729
của Manaen hiện ra.
- Bình an cho con, Manaen. Thầy đi về phía sông để băng qua, nhưng Thầy nghi không biết có qua được trước ban đêm không. Còn con, con đi đâu?
- Đi Machéronte, vào cái hang ghê tởm. Thầy có chỗ nào ngủ không? Hãy đi với con, con sẽ đi lẹ tới một cái quán trên con đường của các đoàn du mục. Hay nếu Thầy thích hơn, con sẽ căng lều dưới cây ở bờ sông. Trên yên, con có đủ các thứ cần.
- Thầy thích như vậy. Nhưng con, chắc là con thích cái quán hơn.
- Chúa ơi, chính Thầy là điều con thích hơn. Con thấy như một ơn trọng vì đã gặp Thầy. Vậy chúng ta đi. Con biết các bờ sông giống như đó là các hành lang trong nhà con. Ở chân đồi Galgala có một mảnh rừng khuất gió với rất nhiều cỏ cho con vật của con và củi để đốt lửa. Chúng ta sẽ dễ chịu ở đó.
Họ đi mau lẹ, quay thẳng về hướng đông, rời bỏ con đường dẫn về khúc sông cạn và Jêricô. Sau một lát, họ tới bìa một khu rừng rậm chạy từ sườn đồi xuống và tỏa ra đồng bằng ở bên bờ sông.
- Con đi vào nhà này. Họ biết con. Con sẽ hỏi rơm và sữa cho tất cả - Manaen nói, rồi ra đi với con ngựa của ông và trở lại mau chóng, theo sau ông là hai người mang những bó rơm trên vai, và một cái xô nhỏ bằng đồng đầy sữa.
Họ đi vào khu rừng, không nói gì. Manaen bảo họ trải rơm ra trên đất, rồi cho họ đi. Từ những cái túi ở yên ngựa, ông lấy ra bùi nhùi và diêm quẹt, và ông nhóm lửa với nhiều cành cây ở trên mặt đất. Ngọn lửa làm vui và sưởi ấm. Cái vạc được đặt trên hai cục đá mà Gioan mang lại và đun. Trong khi đó, sau khi đã tháo yên cho con ngựa, Manaen dựng cái lều bằng da lạc đà, buộc nó vào hai cái cọc cắm xuống đất, và tì vào thân của một cây cổ thụ đồ sộ. Ông trải trên cỏ tấm da cừu, cũng được buộc vào cọc, rồi đặt cái yên ngựa lên đó và nói: “Thầy ơi lại đây. Đây là đồ trú ẩn của các kỵ mã trong sa mạc, nhưng nó che cho khỏi sương đêm và đất ẩm. Đối với chúng con thì rơm cỏ cũng đủ. Và con bảo đảm với Thầy rằng những chiếc thảm qúi, những cái kiệu, cái ghế của lâu đài hoàng gia, con thấy còn ít, rất ít đẹp hơn cái ngai của Thầy với cái lều và
730
rơm cỏ này; và các món ăn ngon bổ béo mà con đã nhiều lần thưởng thức, không bao giờ có được cái hương vị của sữa và bánh mà chúng ta sắp sửa ăn cùng với nhau dưới cái lều này. Thầy ơi, con sung sướng!”
- Thầy cũng vậy, Manaen. Và chắc chắn Gioan cũng vậy. Đấng Quan Phòng đã tụ họp chúng ta chiều nay cho một niềm vui chung.
- Chiều nay và ngày mai, Thầy ạ, và cả ngày mốt nữa, cho đến khi con biết được Thầy đã an toàn ở giữa các tông đồ của Thầy. Con nghĩ rằng Thầy đang đến với họ...
- Đúng, Thầy đi tìm họ. Họ chờ Thầy trong nhà của Salômôn.
Manaen nhìn Người rồi nói: “Con đã ghé qua Jêrusalem... và con đã được thông tin. Rồi qua Bêtani, và con hiểu tại sao Thầy không dừng lại ở đó. Thầy làm rất đúng để rút lui. Jêrusalem là một cơ thể đầy chất độc và hôi thối, còn tệ hơn là ông Lazarô tội nghiệp”.
- Con đã gặp ông à ?
- Vâng. Đau đớn vì những đau đớn trong thân xác, và những đau đớn trong tim cho Thầy. Ông chết rất khổ sở, Lazarô... Nhưng con cũng muốn chết còn hơn là nhìn thấy tội lỗi của các kẻ đồng hương.
- Thành phố đang dậy men sao? - Gioan hỏi khi ông đang canh chừng đống lửa.
- Dữ dội, chia làm hai phe. Và điều lạ là Rôma đã sử dụng lòng khoan dung với một số kẻ bị bắt vì phiến động hôm trước. Người ta nói cách kín đáo là để khỏi gia tăng náo động. Người ta cũng nói rằng ông Thủ Hiến sắp tới Jêrusalem, tới sớm hơn dự tính. Điều đó có tốt không, con không biết. Con chỉ biết chắc rằng Hêrôđê sẽ bắt chước ông, và điều đó chắc chắn sẽ tốt cho con, vì con có thể ở gần Thầy. Với một con ngựa tốt - Và chuồng ngựa của Antipa có rất
731
nhiều ngựa Ả Rập rất lẹ- con sẽ có thể mau lẹ đi từ kinh thành tới bờ sông, nếu Thầy dừng lại ở đó...
- Ừ, Thầy sẽ dừng lại ở đó, ít là lúc này...
Gioan mang sữa nóng lại, và mỗi người đều chấm bánh vào đó sau khi Giêsu đã dâng hiến và chúc phúc. Manaen cũng biếu chà là mầu vàng như mật ong.
- Nhưng anh có ở đâu nhiều thứ qúa vậy? - Gioan ngạc nhiên hỏi.
- Cái yên của người kỵ mã cũng giống như cái chợ nhỏ đó Gioan. Có mọi thứ cho người và con vật - Manaen trả lời với nụ cười thẳng thắn trên khuôn mặt ngăm ngăm của ông. Ông suy nghĩ một lát rồi ông hỏi: “Thưa Thầy, có được phép thương những con vật đã phục vụ cho chúng ta, và thường làm với nhiều trung thành hơn con người không?”
- Sao lại hỏi vậy?
- Bởi vì mới đây, con đã bác bỏ sự khinh bỉ và các lời khiển trách của một số người đã nhìn thấy con che cho con vật đầy mồ hôi vì cuộc chạy nó đã làm, bằng cái mền mà bây giờ chúng ta làm lều.
- Và họ không nói với con điều gì khác?
Manaen sững sờ nhìn Giêsu ... và nín thinh.
- Hãy nói thẳng thắn. Không phải là xì xèo, cũng không phải là xúc phạm đến Thầy khi nói lại điều họ đã nói với con để quăng thêm một nắm bùn nữa vào Thầy.
- Thưa Thầy, Thầy biết hết, thực sự Thầy biết hết, và muốn giấu Thầy tư tưởng của chúng con và của người khác là điều vô ích. Vâng, họ đã nói với con: “Người ta thấy rõ anh là môn đệ của tên Samari đó. Anh cũng dân ngoại như hắn, kẻ vi phạm cả ngày Sabát để làm cho mình ra ô uế bởi đụng vào các con vật dơ bẩn”.
- A! Chắc chắn đó là Ismael! - Gioan kêu lên.
- Đúng. Và những người khác cùng với ông ta. Con đã đối đáp: “Tôi sẽ hiểu các ông nếu các ông nói với tôi rằng tôi ô uế vì sống bên triều đình của Antipa chứ không phải vì săn sóc con vật mà Thiên Chúa đã dựng nên”. Họ đã trả lời con, vì trong nhóm cũng có
732
những người phe Hêrôđê - điều này từ ít lâu nay rất dễ dàng để nhận ra, vì trước đây có sự bất hòa nghiêm trọng ở giữa họ - Họ đã trả lời con: “Chúng tôi không xét đoán hành vi của Antipa, mà là của anh. Chính ông Tẩy Giả cũng đã ở Machéronte, và ông đã có những liên lạc với nhà vua, nhưng ông vẫn luôn luôn là người công chính. Trái lại anh, anh là kẻ thờ ngẫu tượng...” Người ta liền tụ họp lại, nên con dừng lại để không kích động họ. Từ ít lâu nay, sự kích động này được duy trì bởi một số tín hữu giả của Thầy. Họ xưng mình là môn đệ được thầy sai đi và họ thúc đẩy nổi loạn chống lại các kẻ đối lập với Thầy, hay những kẻ phạm điều bất công.
- Nhưng qúa lắm rồi Thầy ơi! Họ còn đi tới đâu nữa? - Gioan hỏi cách xao xuyến.
- Không quá cái giới hạn mà họ có thể tới. Bên ngoài cái giới hạn này thì chính Thầy sẽ tiến tới, và Ánh Sáng sẽ rực rỡ, rồi không ai có thể nghi ngờ rằng Thầy là Con Thiên Chúa. Nhưng hãy lại đây, gần bên Thầy, và hãy nghe. Trước tiên, hãy đốt lửa thêm lên.
Hai người rất bằng lòng nhảy lên tấm da cừu trải trên đất, dưới chân Giêsu. Người ngồi trên cái yên ngựa đỏ trước vải lều, tựa vào một thân cây. Manaen hầu như nằm, cùi chỏ tì trên đất, đầu tựa vào bàn tay, mắt nhìn vào mắt Giêsu. Gioan ngồi trên gót chân, quàng một cánh tay quanh Giêsu và tựa đầu vào ngực Người như thói quen.
- Khi Đấng Tạo Hóa làm ra các tạo vật và ban cho chúng vị vua là con người, kẻ được tạo dựng theo hình ảnh Người và giông giống như Người. Người chỉ cho con người hết mọi loài đã được tạo dựng, và Người muốn con người cho chúng một cái tên, để phân biệt cái nọ với cái kia. Và người ta đọc thấy trong sách Sáng Thế rằng: “Mọi tên mà Ađam đặt cho các con vật đều hay, đó là tên thực”. Và người ta còn đọc thấy trong sách Sáng Thế rằng khi dựng nên người đàn ông và người đàn bà, Thiên Chúa nói: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh của Ta và giông giống như Ta, để nó làm chủ cá biển, chim trời, mọi con vật, tất cả trái đất và mọi sự trên trái đất”.
733
Và khi Người đã dựng nên một người bạn cho Ađam là người đàn bà, cũng như ông, được làm theo hình ảnh và giông giống như Thiên Chúa, làm như không kể tới là đứa cám dỗ rình rập để làm hư hỏng kinh sợ người đàn ông đã được tạo dựng theo hình ảnh của Người, Thiên Chúa phán với người đàn ông và người đàn bà: “Hãy phát triển, tăng gấp lên và làm đầy mặt đất, và làm sao để nó phục tùng các con; và hãy làm chủ cá biển, chim trời và mọi vật di chuyển trên mặt đất”. Và Người nói: “Đây, ta cho các con mọi thứ thảo mộc có hạt giống tùy loại làm lương thực cho các con và mọi sinh vật của trái đất, cho chim trời và mọi thứ cử động trên trái đất có trong nó một hồn sống, để nó có sự sống”.
Các động vật, thảo mộc và mọi thứ mà tạo hóa đã tạo dựng để con người dùng, đều biểu lộ một ơn của tình yêu, và một di sản mà người cha ban cho đứa con giữ, để nó dùng cho lợi ích của nó với lòng biết ơn đối với đấng đã ban mọi sự đề phòng. Vậy phải yêu chúng và săn sóc chúng cách thích hợp.
Các con nói sao về một người con mà người cha đã cho các y phục, đồ đạc, tiền bạc, đồng ruộng, nhà cửa, trong khi nói với nó: “Cha cho con những thứ đó, cho con và con cháu con, để các con có thứ gì sống hạnh phúc. Hãy sử dụng tất cả với tình yêu trong khi nhớ đến tình yêu của cha, người đã cho các con”, nếu sau đó chúng để hư hỏng tất cả, hay phung phí mọi của cải? Các con sẽ nói rằng chúng không làm vinh dự cho cha chúng, chúng không yêu cha chúng và các tặng vật của ông. Cũng vậy, con người phải săn sóc những gì mà Thiên Chúa, với sự săn sóc quan phòng, đã để sẵn sàng cho họ.
Săn sóc không phải là thờ phượng, cũng không phải là tình cảm sai trái đối với các con vật, cây cối hay vật gì khác. Săn sóc tức là tình cảm thương xót và biết ơn đối với những vật ít quan trọng phục vụ chúng ta mà chúng có sự sống, tức là cảm giác của chúng.
Hồn sống của các tạo vật hạ cấp mà sách Sáng Thế nói không phải là linh hồn như linh hồn của con người. Đó là sự sống, chỉ là sự sống, tức là có cảm giác đối với những cái hiện tại, về vật chất
734
cũng như tình cảm. Khi một con vật chết, nó không có cảm giác, vì nó đã chết. Đối với nó, đó là chấm dứt thực sự. Không có tương lai cho nó. Nhưng bao lâu nó còn sống, nó chịu đựng cái đói, cái lạnh, sự mệt mỏi; nó có cảm giác đối với vết thương, sự đau đớn, sự vui thú, tình yêu, tình ghét, bệnh tật và cái chết. Và con người, khi nhớ đến Thiên Chúa đã ban cho họ những phương tiện để làm cho cuộc lưu đày của họ trên trái đất bớt gay go, họ phải nhân đạo đối với các tôi tớ hạ cấp của họ, tức là các động vật. Trong sách của Môise đã chẳng viết rằng phải có sự nhân đạo ngay cả đối với loài động vật, dù là loài có cánh hay loài bốn chân sao?
Thực vậy, Thầy bảo các con rằng phải biết nhìn một cách chính trực mọi công việc của Đấng Tạo Hóa. Nếu người ta nhìn nó cách chính trực, người ta sẽ thấy là chúng tốt, mà một điều tốt thì luôn luôn phải được yêu. Người ta sẽ thấy đó là những cái được ban với mục đích tốt và bởi sự thúc đẩy của tình yêu, vì vậy chúng ta có thể và chúng ta phải yêu chúng, trong khi nhìn qua vật thể hữu hạn để thấy Đấng Vô Hạn đã tạo dựng nên chúng cho chúng ta. Người ta sẽ thấy đó là những thứ hữu ích, và bởi vậy, phải được yêu. Các con hãy nhớ kỹ: không có gì trong vũ trụ mà được tạo dựng không mục đích. Thiên Chúa không thể mất quyền năng trọn lành của Người trong những điều vô ích. Một cộng cỏ cũng không ít hữu ích hơn cái thân cây đồ sộ mà chỗ ẩn náu tạm thời của chúng ta dựa vào. Hạt sương, viên ngọc tí hon của băng gía, cũng không kém hữu ích hơn biển mênh mông. Con ruồi nhỏ cũng không kém hữu ích hơn con voi, và con trùng sống trong bùn cũng không kém hữu ích hơn con cá voi. Không có gì vô ích trong việc tạo dựng cả. Thiên Chúa đã làm tất cả với mục đích tốt, vì tình yêu đối với con người. Con người phải sử dụng tất cả với ý hướng ngay thẳng và với tình yêu đối với Thiên Chúa, Đấng đã ban cho họ mọi thứ hiện hữu trên mặt đất để được làm vua của việc tạo dựng.
Ôi Manaen, con đã nói rằng con vật thường phục vụ con người tốt hơn con người. Thầy nói với con rằng các con vật, các thảo mộc, các khoáng sản, các yếu tố, tất cả đều hơn con người trong sự vâng
735
lời, khi nó làm một cách thụ động theo các luật của Tạo Hóa, hoặc theo một cách tác động các bản năng mà Đấng Tạo Hóa đã đặt ở trong nó, hay trong việc sẵn sàng thuần thục vào mục đích mà vì đó nó được tạo dựng. Con người, đáng lẽ là viên ngọc của việc sáng tạo, thì lại qúa hay là cái xấu xí. Nó phải là cung đàn du dương hơn cả cho các ca đoàn thiên quốc để ca tụng Thiên Chúa, thì nó lại qúa hay là nốt chói tai bởi những nguyền rủa hay lộng ngôn mà nó tung ra, hoặc bởi sự phản động bằng cách dâng tiếng ca của nó cho tạo vật thay vì hướng về Đấng Tạo Hóa, bởi vậy nó thờ ngẫu tượng, bởi vậy nó xúc phạm, bởi vậy nó ô uế, và vì thế nó tội lỗi.
Vậy hãy bình an, Manaen. Tình thương của con đối với con vật ướt đầm mồ hôi vì phục vụ con, không phải là một tội. Tội là những nước mắt mà người ta làm cho đồng loại phải đổ ra, và các tình yêu buông tuồng, là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, đấng đáng được tất cả tình yêu của loài người.
- Nhưng ở lại bên Antipa có phải là một tội không?
- Con ở lại đó với mục đích gì? Thú vui ư ?
- Thưa Thầy không. Để canh chừng cho Thầy. Thầy biết. Bây giờ con cũng đang đi về đó vì mục đích này, vì con biết họ đã sai các thừa tác viên đến với Hêrôđê để kích thích ông chống lại Thầy.
- Vậy thì không có tội. Con có sẽ yêu Thầy nhiều hơn khi ở lại bên Thầy, trong cuộc đời nghèo khó của Thầy không?
- Thầy lại còn hỏi con điều đó? Con đã nói lúc khởi đầu rồi. Đêm nay, dưới lều, đồ ăn nghèo nàn mà chúng ta đã ăn là khôn sánh đối với con. Ôi! Nếu chỉ là để nghe tiếng rít của rắn độc mà phải ở lại gần hang của chúng, thì con sẽ ở lại với Thầy! Con đã hiểu sự thật của sứ mạng Thầy. Con đã có một bữa lầm, nhưng việc đó giúp con hiểu, và con sẽ không ra khỏi sự công chính nữa.
- Con thấy đó, không có gì vô ích hết. Ngay cả những sai lầm, đối với kẻ hướng về điều thiện, cũng là một phương tiện cho điều lành. Sự sai lầm, khi nó rơi xuống như cái bao của con nhộng, thế là con bướm ra, không còn xấu xí, không hôi hám, không bò, nhưng bay để tìm các bông hoa và các tia sáng. Các linh hồi tốt cũng vậy.
736
Có thể, trong một thời gian, nó để mình bị bao bọc bằng những khốn nạn và những khó khăn nhục nhã, nhưng rồi nó thoát ra và bay từ hoa nọ qua hoa kia, từ nhân đức nọ qua nhân đức kia về phía ánh sáng, về sự trọn lành. Chúng ta hãy ca ngợi Chúa vì những công việc của lòng thương xót liên tục của Người hành động trong con tim và chung quanh con người, cho dù họ không biết.
Và Giêsu cầu nguyện, qùi gối, vì cái lều thấp và hẹp, không thể làm cách nào khác. Rồi sau khi đã đốt lửa thêm trước lều và cột con ngựa, họ chuẩn bị nghỉ, chia nhau thức để canh chừng lửa và con vật mà Manaen đã phủ cho nó một tấm da cừu nặng để bảo vệ cho nó khỏi bị lạnh ban đêm.
Giêsu và Manaen nằm trên ổ rơm và cuộn mình trong áo khoác để ngủ. Gioan sợ bị bắt bởi cơn buồn ngủ nên đi đi lại lại ở bên ngoài lều để giữ lửa và canh chừng con ngựa. Nó nhìn ông với đôi mắt đen thông minh của nó và đập móng của nó trên đất, lắc đầu, làm kêu leng keng cái xích bằng bạc của giây thắng, trong khi gặm những cây hồi hương rừng thơm mọc ở gốc cây mà nó bị cột vào. Và vì Gioan cho nó những cây càng lúc càng đẹp mọc ở hơi xa hơn, nó kêu hi hí thỏa mãn, và nó tìm cách cà cái mũi mềm mầu hồng của nó vào cổ vị tông đồ. Từ xa, trong sự yên lặng của đêm thanh, người ta nghe vọng tới tiếng rì rào an bình của dòng sông.
Chúa Giêsu nói:
Và năm thứ ba của đời sống công khai kết thúc. Bây giờ là thời kỳ chuẩn bị cho cuộc tử nạn. Thời gian này, bề ngoài như tất cả chỉ giới hạn ở một số ít hành động, với một số ít người, tựa như dung nhan của Cha và sứ mệnh của Cha đã phai lạt. Trong thực tế, đấng coi như bị thua, bị chà đạp, lại là vị anh hùng tự chuẩn bị cho việc phong thần, và ở chung quang Người, không còn là các con người, mà là các sự cuồng nhiệt của con người tập trung lại để đi tới giới hạn tột đỉnh của nó.
Tất cả những gì đã xảy ra trước, có lẽ có một số giai đoạn tựa như không mục đích đối với những độc gỉa không sẵn sàng hay nông cạn, sẽ được soi sáng ở đây bằng một ánh sáng lờ mờ hoặc chói lọi. Và nhất là các khuôn mặt quan trọng nhất, những khuôn mặt mà nhiều người không muốn nhìn nhận là ích lợi để biết, chỉ vì ở đó có những bài học cho các vị thầy ngày nay, những người, hơn ai hết, cần được giáo huấn để trở nên người thầy thực sự của các linh hồn. Cũng như Cha đã nói với Gioan và Manaen: không
737
có gì là vô ích trong những cái Thiên Chúa làm, dù là một cộng cỏ nhỏ. Cũng vậy, không có gì là dư thừa trong công việc này: các khuôn mặt rực rỡ cũng như các khuôn mặt yếu đuối và tối ám. Trái lại, đối với người thầy của các linh hồn, các khuôn mặt yếu đuối và tối ám lại rất hữu ích hơn các khuôn mặt được miêu tả rõ ràng và anh hùng. Cũng như trên nơi cao của một ngọn núi, chỗ gần đỉnh, người ta có thể nhìn bao quát tất cả hình thể của ngọn núi, và biết lý do của những chỗ có rừng, suối, đồng cỏ, và các bờ dốc, để có thể đi từ đồng bằng lên đỉnh núi, nơi người ta thấy hết vẻ đẹp của phong cảnh, và người ta nhận thức rõ ràng hơn rằng: tất cả công việc của Thiên Chúa đều hữu ích và huy hoàng, cái nọ phụ giúp và kiện toàn cái kia, tất cả đều góp phần để làm thành vẻ đẹp của việc sáng tạo. Cũng vậy, với kẻ có tâm hồn ngay thẳng, sự khác nhau của các khuôn mặt, các giai đoạn, các bài học của ba năm đời sống rao giảng Tin Mừng, được chiêm ngắm như nhìn từ đỉnh núi, các công trình người Thầy của Cha, được dùng để cho một nhãn quan chính xác về sự phức tạp chính trị, tôn giáo, xã hội, tập thể, tinh thần, ích kỷ cho tới tội ác, hoặc vị tha cho tới hy sinh, tại nơi Cha đã là Thầy, và là nơi Cha đã trở nên Đấng Cứu Thế. Tính chất vĩ đại của tấn kịch không phải chỉ biểu lộ trong một màn, nhưng trong tất cả các phần của tấn kịch. Khuôn mặt chủ chốt nổi lên giữa những ánh sáng khác nhau mà các phần phụ thuộc soi sáng cho nó.
Bây giờ đã tới gần đỉnh, và đỉnh chính là hy sinh mà vì đó Cha đã nhập thể. Sau khi đã bộc lộ mọi chỗ uẩn khúc của lòng người và mọi mưu kế của các phe phái, chỉ còn phải làm như người du hành khi lên gần tới đỉnh núi, là nhìn, nhìn, nhìn mọi vật và mọi người: Hiểu biết cái thế giới Hy Bá. Hiểu biết Cha là gì: người ở bên trên dục vọng, ích kỷ, thù hận; người đã bị cám dỗ bởi cả một thế giới về sự báo thù, về quyền bính, về cả những niềm vui ngay thẳng như sự kết hôn và niềm vui gia đình; người đã phải chịu đựng tất cả để sống giao tiếp với thế giới và chịu đựng nó, vì khoảng cách giữa sự bất toàn và tội lỗi của thế giới và sự toàn vẹn của Cha là vô biên; người mà với mọi tiếng nói, mọi lôi cuốn, mọi phản ứng của thế giới, của Satan và của cái tôi, đã biết trả lời “không”để giữ mình trong sạch, hiền lành, trung thành, thương yêu, khiêm nhường, vâng lời cho tới cái chết trên Thập Gía.
Cái xã hội thời nay mà Cha đã cho sự hiểu biết này về chính Cha, để làm cho nó được mạnh mẽ mà chống lại những tấn công càng lúc càng tàn bạo của Satan và thế gian, họ có hiểu tất cả những điều này không?
Ngày nay cũng vậy, giống như hai mươi thế kỷ trước, có sự mâu thuẫn giữa những người mà vì họ, Cha đã tự mặc khải. Lại một lần nữa, Cha là dấu hiệu của sự mâu thuẫn. Nhưng không phải Cha, về chính Cha, mà về những điều đã sinh ra ở trong họ về Cha. Những người tốt, những người có thiện chí, sẽ có những phản ứng tốt của các mục đồng và những người khiêm nhường. Những người khác sẽ có những phản ứng xấu như các luật sĩ, các pharisiêu, các saddu, các thầy cả của thời đó. Mỗi người cho cái họ có. Kẻ tốt đến giao tiếp với các kẻ xấu sẽ làm nổi dậy trong kẻ xấu một sự cuồng nhiệt tàn ác hơn. Và sự phán xét được làm cho con người giống như nó đã được làm ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, theo cách họ đã xét đoán, đã nhìn nhận, đã theo vị Thầy, Đấng đã tỏ mình ra một lần nữa, trong một cố gắng mới của lòng thương xót vô biên.
Với những kẻ sẽ mở mắt ra và nhận ra Cha, và sẽ nói: “Chính là Người! Phải chăng con tim chúng ta đã không thiêu đốt trong lồng ngực của chúng ta, khi Người nói với
738
chúng ta và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta sao?”, thì bình an của Cha cho họ, và cho con, Gioan nhỏ trung thành và yêu thương.
Hết quyển bảy
MỤC LỤC
156* Tại căn nhà của Chouza ở miền quê,
bên kia sông Giođan ............................................................ 7
157* Giêsu nói về kẻ biệt ái ...................................................... 27
158* Tại Bétsaiđa và Caphanaum.
Khởi hành một cuộc hành trình truyền giáo mới .............. 33
159* Tại nhà Juđa và Anna gần hồ Mêron ................................ 44
160* Giêsu nói dụ ngôn về việc phân phối nước ...................... 50
161* Thầy không có sự nghỉ ngơi nào tốt hơn là nói
được rằng Thầy đã cứu một kẻ đã hư mất. ........................ 63
162* Mọi sa ngã đều có sự chuẩn bị trong thời gian................. 70
163* Từ biệt số tín hữu ít ỏi của Corozain ................................ 71
164* Giêsu nói về bổn phận giữa mẹ chồng và con dâu .......... 74
165* Giêsu nói về Nước của Người và Luật của Người. .......... 81
166* Một sự xét xử của Giêsu ................................................... 91
167* Giêsu chữa đứa trẻ bẩm sinh mù người Sidon................ 102
168* Giáo huấn trong thị kiến trên về sự
trung thành với chồng ....................................................... 107
169* Khi từ biên giới Syro-Phênici trở về ............................... 110
170* Khi đi về Sêphoris ........................................................... 113
171* Giêsu tại nơi trú của các người tội lỗi bị cùi của
Bétlem thuộc Galilê ......................................................... 120
172* Giêsu và Mẹ Người ở trong rừng của Mathatia ............. 132
173* Giêsu đàm thoại với Giuse Alphê ................................... 143
174* Trong khi chờ các nông dân của Giocana
gần cây tháp tại Jezrael................................................... 155
175* Trong khi đi về Engannim ............................................... 160
176* Giêsu và Gioan tới Engannim ......................................... 162
177* Giêsu và người mục đồng xứ Samari .............................. 169
178* Mười người cùi ở gần Ephraim ....................................... 177
746
179* Giêsu tại Ephraim. Dụ ngôn về trái lựu ......................... 189
180* Giêsu tại Bêtani dịp Lễ Lều............................................ 196
181* Giêsu tại Đền Thờ vào ngày Lễ Lều: “Nước Thiên
Chúa không đến với vẻ huy hoàng lộng lẫy” ................ 204
182* Tại Đền Thờ. “Qúi vị biết tôi là ai và tôi từ đâu tới” ..... 215
183* “Thầy chỉ còn ở với các con một ít thời gian nữa” ......... 228
184* Tại Nobê. Phép lạ trên gió .............................................. 234
185* Giêsu tại cánh đồng của các người Galilê cùng với
các tông đồ anh họ của Người......................................... 243
186* Ngày trọng đại sau cùng của Lễ Lều ............................. 253
187* Tại Bêtani: “Người ta có thểgiết người
bằng nhiều cách”. ............................................................ 263
188* Gần phông-ten của En Rogel ......................................... 266
189* Giêsu, các pharisiêu, người đàn bà ngoại tình ............... 273
190* Với kẻ có tội, Cha chỉ cho con đường
phải theo để chuộc tội ..................................................... 277
191* Giáo huấn các tông đồ và các môn đệ ........................... 281
192* Trong làng và trong nhà của Salômôn ............................ 287
193* Giêsu và Simon Jonas ..................................................... 293
194* Giêsu với Thađê và Giacôbê Zêbêđê ............................ 299
195* Giêsu và người đàn ông xứ Pétra (gần Hesbon) ............ 306
196* Khi từ Nêbo đi xuống ...................................................... 311
197* Bóng tối không muốn ánh sáng ...................................... 316
198* Giêsu củng cố cho các tông đồ của Người ..................... 326
199* Bà vợ của người phái Saddu, pháp sư chiêu hồn ........... 331
200* Một lời cầu nguyện có thể kết hợp các con với
Thiên Chúa, chứ không phải một công thức kỳ diệu ..... 345
201* Những kẻ yêu con ra đi ................................................... 347
202* Dụ ngôn vị thẩm phán bất công ...................................... 355
203* Ta là ánh sáng thế gian ................................................... 363
204* Chúng tôi là con cháu Abraham ...................................... 370
205* Trong nhà của Giuse Sêphoris ....................................... 387
206* Thầy cả gìa Matan (hay Natan) ...................................... 396
747
207* Chữa người mù từ bẩm sinh ............................................ 405
208* Giêsu tại Nobê. Judas Kêriot nói dối.............................. 423
209* Giêsu ở giữa những đổ nát của một
ngôi làng bị phá hủy ........................................................ 432
210* Giêsu nói tại Emmau thuộc miền núi ............................. 436
211* Tại Beteron....................................................................... 446
212* Đi về Gabaon .................................................................. 461
213* Tại Gabaon ....................................................................... 470
214* Khi trở lại Jêrusalem ...................................................... 476
215* Ta là mục tử tốt. ............................................................... 482
216* Khi đi về Bêtani và tại nhà Lazarô................................. 495
217* Khi đi về Técua. Ông già Êli-Anna ............................... 503
218* Giêsu nói tại Têcua.......................................................... 515
219* Tại Jêricô.......................................................................... 522
220* Giảng thuyết tại Jêricô ................................................... 531
221* Trong nhà Zakê với các người hoán cải ........................ 542
222* Giêsu tuyên bố về bà Sabêa, người làng Betlechi ........ 555
223* Tại Bétabara..................................................................... 578
224* Trên đường trở lại Nobê ................................................. 582
225* Tại Nobê. Judas Kêriot không tùng phục nữa ............... 589
226* Tại Nobê những ngày tiếp theo ....................................... 595
227* Giêsu chờ Judas Keriot, kẻ dâm đãng ............................ 604
228* Giêsu và Valêria. Phép lạ cho thằng bé Lêvi ở Nobe.... 610
229* Giêsu và người đàn bà tội lỗi được sai đến
để thử Người ................................................................... 635
230* Giêsu và Judas Kêriot đi Jêrusalem............................... 652
231* Giêsu tại giáo đường của các nô lệ được giải phóng
của người Rôma ............................................................... 656
232* Judas và các kẻ thù của Giêsu ........................................ 668
233* Bảy người cùi được khỏi. Giêsu với các tông đồ.
Với Matta và Maria ........................................................ 682
234* Giêsu trong ngày lễcung hiến Đền Thờ......................... 695
235* Giêsu tới hang đá sinh nhật để tự cô lập ....................... 711
748
236* Giêsu và Gioan Zêbêđê ................................................. 722
237* Giêsu, Gioan và Manaen ................................................ 731
_________________________________