Maria Valtorta
TIN MỪNG NHƯ ĐÃ MẶC KHẢI CHO TÔI
QUYỂN THỨ SÁU
NĂM THỨ BA ĐỜI SỐNG CÔNG KHAI
(Phần thứ hai)
7
76* ĐI VỀ BỜ PHÍA TÂY
SÔNG GIOĐAN
Giêsu lại đi trên đường. Người quay lưng về phía bắc, đi vòng theo các khúc quanh co của con sông để tìm người nào đó chở qua sông. Tất cả các người của Ngài đều ở chung quanh Ngài và họ khơi lại những biến cố của mấy ngày qua trong làng nhỏ của Salômôn và trong nhà ông. Theo như tôi hiểu thì họ đã ở đó cho tới khi các nơi hận thù đã lan tràn tiếng đồn về sự hiện diện của ông Thầy. Khi việc đó đã diễn ra thì họ bỏ đi, để căn nhà nhỏ đã được xếp đặt thứ tự lại cho ông già Anania, để ông coi sóc trong sự yên bình của cảnh nghèo nhưng không còn bi đát nữa.
- Chúng ta hy vọng là các tâm hồn giữ được nguyên tình trạng của họ lúc này - Batôlômêo nói.
- Nếu chúng ta đi đi về về như Thầy đã nói, thì chúng ta sẽ giữ được họ luôn luôn sẵn sàng - Juđa Alphê trả lời.
- Ông ta khóc, ông già tội nghiệp! Ông ta bám vào chúng ta... - Andrê nói với vẻ rất xúc động.
- Và những lời sau cùng của ông ta làm tôi bằng lòng. Có phải là ông ta đã nói cách khôn ngoan không Thầy? - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Tôi thì tôi cho là ông ta đã nói cách thánh thiện - Tôma kêu lên.
- Đúng. Và Thầy sẽ không quên sự ước ao của ông - Giêsu trả lời.
- Nhưng một cách chi tiết thì ông ta đã nói gì? Tôi ở xa cùng với Gioan để bảo bà mẹ của Micael nhớ làm điều Thầy nói, nên tôi không biết gì hết - Iscariot nói.
- Ông ta đã nói: “Lạy Chúa, nếu Thầy tới làng của con dâu con thì xin Thầy nói với nó là con không giữ lòng giận ghét gì với nó, và con hài lòng vì không còn bị bỏ rơi, vì như vậy, sự phán xét của Thiên Chúa sẽ bớt nghiêm khắc đối với nó. Hãy bảo nó nuôi con cái trong niềm tin nơi Đấng Messi, để như vậy con sẽ có chúng ở với con trên Trời. Và khi con được nghỉ ngơi bình an, con sẽ cầu
8
nguyện cho chúng và phần rỗi của chúng”. Và Thầy sẽ nói điều đó. Thầy sẽ tìm người đàn bà để nói với bà điều đó, vì làm vậy là tốt - Giêsu nói.
- Không một lời khiển trách nào! Và cả đến ông ta mừng vì không còn chết vì đói và bị bỏ rơi nữa, và nhờ vậy tội của người đàn bà sẽ được giảm nhẹ. Thật đáng cảm phục - Giacôbê Alphê nhận xét.
- Nhưng trước mắt Thiên Chúa, có thực sự tội của cô con dâu được giảm nhẹ không? Điều đó cần phải biết - Juđa Alphê nói.
Các ý kiến trái ngược nhau. Mathêu trình với Chúa: “Thầy xét thế nào? Các sự sẽ vẫn như trước hay là chúng sẽ thay đổi?”
- Chúng sẽ thay đổi...
- Anh thấy là tôi có lý?... - Tôma nói cách chiến thắng. Nhưng Giêsu làm hiệu để cho Người nói, và Người nói: “Nó thay đổi đối với ông già, nó sẽ thay đổi ở trên Trời cũng như ở dưới đất cho sự khoan dung dịu dàng của ông. Còn đối với người đàn bà, nó không thay đổi. Tội của bà luôn luôn kêu lên trước mắt Thiên Chúa. Chỉ có sự hoán cải mới có thể thay đổi sự phán xét nghiêm nhặt. Và Thầy sẽ nói với bà ta”.
- Bà ta ở đâu?
- Ở Masada, gần bên các anh em bà.
- Và Thầy muốn tới tận đó?
- Những nơi này cũng cần được nghe giảng Tin Mừng...
- Còn ở Kêriot?
- Chúng ta sẽ đi từ Masada trở lên Kêriot, và chúng ta sẽ đi Jutta, Hébron, Bétsur, Béther, để rồi lại ở Jêrusalem vào lễ Ngũ Tuần.
- Masada là nơi thuộc quyền Hêrôđê.
- Quan trọng gì? Đó là một pháo đài, nhưng ông ta không ở đó. Và dù là ông ta ở đó! Sự hiện diện của một người không thể ngăn cản Thầy là Vị Cứu Tinh.
- Nhưng chúng ta sẽ qua sông ở chỗ nào?
- Gần Galgala. Từ đó, chúng ta sẽ đi vòng quanh miền núi. Đêm
9
sẽ mát, và tuần trăng mới tháng Ziv sẽ sáng trên bầu trời quang đãng.
- Nếu chúng ta đi qua các miền đó, tại sao không đến ngọn núi nơi Thầy đã ăn chay? Thật chính đáng là mọi người đều được biết rõ nơi đó - Mathêu nói.
- Chúng ta cũng sẽ tới đó. Nhưng kìa, có một cái đò. Hãy điều đình lộ phí để ta có thể sang bên kia.
77* TẠI GALGALA
Tôi không biết bây giờ Galgala thế nào, nhưng lúc Giêsu vào đó thì nó là một thành phố thông thường của Palestin, khá đông dân, ở trên ngọn đồi không cao lắm, được bao phủ hầu hết bởi các vườn nho và oliu. Nhưng ở đây mặt trời mạnh tới nỗi lúa mì cũng có chỗ, được gieo cách tình cờ dưới vòm cây, giữa các hàng nho, và chúng chín dưới tàn lá che, bởi vì chúng được nướng bởi mặt trời đã như gần gũi với sa mạc.
Bụi cát, ồn ào, dơ bẩn, lộn xộn của ngày họp chợ. Và giống như một định mệnh không thể tránh được: các luật sĩ và pharisiêu quen thuộc, hăng hái và không bị khuất phục, với những cử chỉ mạnh mẽ, bàn cãi về giáo lý trong những góc tốt nhất của công trường. Họ làm như không nhìn thấy Giêsu hoặc không biết Người. Giêsu đi thẳng tới dùng bữa của Người tại một công trường thứ hai hầu như ở ngoại biên, hoàn toàn được che mát bởi cành của nhiều thứ cây. Tôi có cảm tưởng đây là một phần của ngọn núi mới được biến thành nơi cư ngụ, và nó còn giữ được những kỷ niệm về tình trạng thiên nhiên của nó.
Người đầu tiên lại gần Giêsu đang lúc Người ăn bánh và oliu là một người đàn ông rách rưới. Ông ta xin một tí bánh. Giêsu đưa cho ông ta bánh của Người với tất cả những trái oliu người có trong tay.
- Còn Thầy? Chúng con không có tiền, Thầy biết đó. Chúng ta đã để lại cho Anania tất cả - Phêrô nhận xét.
- Không quan trọng. Thầy không đói. Chỉ khát thôi...
10
Người ăn mày nói: “Ở đàng sau chỗ này có một cái giếng. Nhưng sao ông lại cho tôi tất cả? Ông có thể cho tôi một nửa bánh của ông... Nếu ông không ghê tởm lấy lại...
- Ăn đi, ăn đi. Tôi, tôi có thể bỏ qua. Nhưng để ông không nghĩ là tôi ghê tởm, ông hãy đưa lại cho tôi một miếng bẻ ra bằng chính tay ông. Tôi sẽ ăn nó để làm bạn với ông...
Trên khuôn mặt buồn và tối của người đàn ông, sáng lên một nụ cười ngạc nhiên và ông ta nói: “Ôi! Đây là lần đầu tiên từ khi tôi là thằng Ogla khốn nạn, có một người nói với tôi là họ muốn làm bạn với tôi!” Rồi ông đưa một mẩu bánh cho Giêsu và hỏi: “Ông là ai? Ông tên gì?”
- Tôi là Giêsu Nazarét, Rabbi xứ Galilê.
- A! Tôi đã nghe người ta nói về ông... Nhưng... Ông không phải Đức Messi sao?
- Tôi là đấng đó.
- Và ông, Messi, ông qúa tốt với người ăn mày. Ông Thái Thú bảo các đầy tớ của ông đánh chúng tôi nếu ông ta nhìn thấy chúng tôi trên đường...
- Tôi, tôi là Vị Cứu Tinh, tôi không đánh. Tôi yêu.
Người đàn ông nhìn Người đăm đăm. Rồi ông bắt đầu khóc thút thít.
- Tại sao ông khóc?
- Bởi vì... con muốn được cứu... Chúa ơi, Ngài không khát nữa sao? Con có thể dẫn Ngài ra giếng, và con sẽ nói...
Giêsu hiểu là người đàn ông muốn thú nhận điều gì, Người liền đứng dậy và nói: “Đi!”
- Con cũng đi - Phêrô nói cách hăng hái.
- Không. Thầy sẽ trở lại ngay. Lại nữa... phải kính trọng kẻ sám hối.
Người đi với người đàn ông ra phía sau một căn nhà mà từ đó thấy miền quê trải ra.
- Ở đó có một cái giếng... Ngài hãy uống, rồi xin nghe con nói.
- Con ơi, không, trước hết, con hãy trút nỗi khổ của con vào cho Thầy, rồi sau đó Thầy sẽ uống. Và có thể Thầy sẽ có một thứ nước
11
êm dịu hơn cho cái khát của Thầy hơn là nước của đất.
- Thứ nước nào Thầy?
- Sự thống hối của con. Chúng ta hãy lại dưới những cây kia. Ở chỗ này mấy người đàn bà quan sát chúng ta. Đi! - Rồi Người để tay trên vai ông và đẩy ông lại chỗ một đám oliu.
- Làm sao Thầy biết là con có tội và con sám hối?
- Ôi!... Nhưng hãy nói đi và đừng sợ Thầy.
- Lạy Chúa... Chúng con là bảy anh em cùng một cha. Nhưng con là con của người đàn bà mà cha con đã cưới sau khi ông bị góa. Sáu người kia ghét con. Cha con, khi gần chết, đã để lại cho tất cả chúng con phần đều nhau. Nhưng sau khi ông chết, sáu người kia đã bỏ lời thề và chiếm lấy hết phần gia tài của con. Họ đuổi mẹ con và con đi với những lời kết án đê hèn. Bà đã chết khi con được mười sáu tuổi... Và bà chết vì thiếu thốn. Từ lúc đó, con không còn ai để yêu con... - Và ông ta khóc thảm thiết. Sau đó ông bình tĩnh lại để tiếp tục: “Sáu người giầu có, sung sướng và thịnh vượng cũng là nhờ vào của cải của cả con nữa, trong khi con hầu chết vì đói, vì con mắc bệnh do phải giúp đỡ mẹ con qúa kiệt lực... Nhưng Thiên Chúa đã phạt họ, người nọ sau người kia. Con đã nguyền rủa và thù ghét họ biết bao, tới nỗi họ trở thành nạn nhân của bùa ngải. Chắc chắn là con đã làm điều xấu, con biết, và con đã biết. Nhưng làm sao con có thể không ghét và không nguyền rủa họ? Người sau cùng, mà trong thực tế là người thứ ba xét về tuổi tác, anh ta chống lại được với mọi nguyền rủa, cả đến anh ta thịnh vượng nhờ của cải của năm người kia. Anh ta thừa hưởng gia tài cách hợp pháp của ba người em anh ta chết chưa vợ. Anh ta cưới bà vợ góa của người thứ nhất chết không có con. Anh ta gian lận bằng những món mượn và các mưu kế để chiếm một phần lớn những thừa kế của người thứ hai để lại cho vợ góa và con mồ côi. Khi anh ta gặp con tình cờ ở ngoài chợ, lúc con làm đầy tớ cho một người giầu để bán thực phẩm, anh ta đã chửi rủa con và đánh con... Một buổi chiều, con gặp anh ta. Anh ta có một mình, con cũng một mình. Anh ta hơi say rượu, còn con, con say vì những kỷ niệm và thù ghét... Mẹ con đã
12
chết mười năm rồi... Anh ta chửi con và rủa cả người chết... Anh ta gọi mẹ con là “loài chó dơ bẩn”, và anh ta gọi con là “con của loài linh cẩu...” Lạy Chúa, nếu anh ta đừng động đến mẹ con... thì con có thể chịu đựng. Nhưng anh ta rủa xả bà... Con nắm lấy cổ áo anh. Chúng con đánh lộn... Con chỉ muốn đánh anh ta... Nhưng anh ta trượt té xuống đất dốc và đầy cỏ trơn, ở bên dưới là một khe suối... Anh ta lăn, và vì say rượu, anh ta té xuống dưới. Từ bao nhiêu năm rồi, người ta vẫn tìm anh ta. Nhưng anh ta bị vùi lấp bởi đá và cát của một con suối từ Liban chảy xuống. Con, lúc đó con không trở lại nhà ông chủ nữa, còn anh ta thì không trở lại Cêsarê Panêade nữa. Con ra đi, không bình an... A! Sự nguyền rủa của Cain! Sợ sống ... và sợ chết... Con mắc bệnh... Rồi... Con nghe nói về Thầy... Nhưng con sợ... Người ta nói Thầy nhìn thấy trong tim người ta. Và các rabbi của Israel, họ rất độc ác! Họ không biết thương... Thầy, Rabbi của mọi rabbi, Thầy cũng là sự sợ hãi cho con... nên con chạy trốn Thầy. Nhưng con muốn được tha thứ...” Và ông ta khóc, cúi gằm xuống đất.
Giêsu nhìn ông ta và lẩm bẩm: “Và hãy để trên Thầy cái tội này nữa!... Con ơi, hãy nghe đây: Thầy là Tình Thương chứ không phải sự sợ hãi. Thầy đã đến cũng vì con nữa. Đừng xấu hổ với Thầy. Thầy là Đấng Cứu Thế. Con muốn được tha thứ? Về cái gì?”
- Về tội ác của con. Thầy còn hỏi vậy nữa? Con đã giết anh con.
- Con đã nói: con chỉ muốn đánh anh, bởi vì lúc đó con bị xúc phạm và con nổi giận. Nhưng khi con ghét và nguyền rủa, không phải một, mà là sáu người anh, và lúc đó con không bị xúc phạm và không nổi giận. Con đã làm như vậy một cách tự nhiên như con thở. Sự thù ghét và nguyền rủa, nỗi vui thấy họ bị phạt, đã là bánh tinh thần của con phải không?
- Lạy Chúa, vâng. Trong mười năm trời, đó là bánh của con.
- Vậy trong thực tế, cái tội nặng nhất, con đã phạm từ lúc con bắt đầu ghét và nguyền rủa. Con đã sáu lần là kẻ sát nhân của các anh con.
- Nhưng lạy Chúa, họ đã hủy hoại con và ghét con... và mẹ con
13
chết vì đói...
- Con muốn nói là con có lý do để báo thù?
- Vâng, con muốn nói vậy.
- Con không có lý. Đã có Thiên Chúa để phạt. Con, con phải yêu, để Thiên Chúa chúc phúc cho con ở dưới đất cũng như trên Trời.
- Vậy Người sẽ không bao giờ chúc phúc cho con?
- Sự sám hối mang lại sự chúc phúc. Nhưng con đã gây ra cho mình biết bao lo âu và đau đớn. Sự thù ghét đã làm khổ con rất nhiều hơn các anh con...
- Đúng vậy! Đúng vậy! Một sự sợ hãi đã kéo dài hai mươi sáu năm. Ôi! Xin tha cho con nhân danh Chúa. Thầy thấy rằng con đau khổ vì tội con. Con không xin gì cho đời sống con. Con hành khất và bệnh hoạn, nhưng con muốn vẫn vậy để chịu đựng và đền tội. Nhưng xin ban cho con sự bình an của Thiên Chúa. Con chịu đựng đói khát, gom tiền để mua của lễ hy sinh dâng vào Đền Thờ. Nhưng con không thể nói ra tội ác của con, con không biết của lễ của con có được nhận không.
- Không hề, dù là mỗi ngày con dâng một của lễ. Ích lợi gì khi người ta nói dối khi dâng của lễ? Đó là một nghi thức dị đoan và vô ích đối với kẻ không thành thực thú nhận tội lỗi trước khi dâng của lễ. Một tội nữa thêm vào số tội, vậy nó còn tệ hơn là vô ích: một của lễ phạm thánh. Con đã nói gì với Thầy cả?
- Con nói: “Con đã phạm tội vì không biết nên làm những điều Chúa cấm, và con muốn đền tội”. Con nghĩ: Con biết con đã phạm tội thế nào, và Thiên Chúa biết. Nhưng đối với loài người thì con không thể nói rõ ràng. Thiên Chúa thấy tất cả. Người biết rằng con nghĩ tới tội con.
- Những ẩn ý là những lối thoát bất xứng. Đấng Tối Cao ghét nó. Khi người ta phạm tội, người ta phải đền tội. Đừng làm như vậy nữa.
- Lạy Chúa, không. Nhưng con được tha thứ không? Hay con phải đi thú hết để trả sự sống mà con đã lấy đi bằng chính mạng
14
sống con? Con chỉ cần được chết với sự tha thứ của Thiên Chúa.
- Hãy sống để đền tội. Con không thể trả lại người chồng cho bà góa và người cha cho các đứa con... Trước khi giết người, trước khi để cho sự thù ghét chế ngự, phải suy nghĩ! Nhưng hãy đứng dậy và bước đi trên con đường mới. Trong khi đi, con sẽ gặp các môn đệ của Thầy. Nếu con đi từ Têcua tới Bétlem, và bên ngoài đó, về phía Hébron, chắc chắn con sẽ gặp họ luẩn quẩn ở các núi miền Juđê. Hãy nói với họ là Giêsu sai con tới, và nói là trước lễ Ngũ Tuần, Người sẽ đi Jêrusalem qua lối Bétsur và Béther. Hãy hỏi tên Êlie, Giuse, Lêvi, Mathia, Gioan, Benjamin, Daniel, Isaac. Con có nhớ những tên này không? Hãy nói đặc biệt với họ. Bây giờ chúng ta đi...
- Và Thầy không uống nước?
- Thầy đã uống nước mắt của con. Một linh hồn trở về với Thiên Chúa! Không có gì khích lệ Thầy hơn.
- Vậy là con được tha thứ? Thầy nói là “linh hồn trở về với Thiên Chúa”...
- Ừ, con đã được tha thứ. Đừng bao giờ giận ghét nữa.
Người đàn ông lại cúi xuống, vì ông đã đứng thẳng lên, và ông hôn chân Giêsu.
Họ trở lại với các tông đồ, và họ thấy các vị đang tranh luận với các luật sĩ.
- Kìa, Thầy. Người có thể trả lời cho các ông, và nói với các ông rằng các ông có tội.
- Có chuyện gì vậy? - Giêsu hỏi sau khi lời chào của Người nói ra không được trả lời.
- Thưa Thầy, họ làm chúng con bực mình vì những câu hỏi và chế nhạo của họ.
- Chịu đựng những buồn bực là việc của tình thương.
- Nhưng chúng xúc phạm đến Thầy. Chúng đặt Thầy làm đối tượng để chế diễu... Và họ làm người ta ngập ngừng. Thầy thấy không? Chúng con đã thành công tụ họp người ta... bây giờ còn lại gì? Hai ba người đàn bà...
15
- Ồ, không, các ông vẫn còn một người, một ông đầy cáu ghét! Như vậy cũng là qúa nhiều cho các ông rồi. Chỉ có điều, ôi Thầy ơi, Thầy không thấy là mình qúa bị ô nhiễm rồi sao? Thầy luôn luôn nói là Thầy ghê tởm sự dơ bẩn mà! - Một tên luật sĩ trẻ chế nhạo khi chỉ vào người ăn mày ở bên cạnh Giêsu.
- Ông ta không dơ. Không có sự dơ bẩn nào làm tôi ghê tởm. Ông ta là kẻ tội nghiệp. Kẻ tội nghiệp không làm tôi ghê tởm. Sự khốn nạn của ông ta chỉ cần mở tâm hồn ra cho các tình thương huynh đệ. Tôi chỉ ghê tởm những khốn nạn tinh thần, những con tim hôi thối, những linh hồn rách rưới, những thần trí phủ đầy vết thương.
- Và Thầy biết ông ta có vậy không?
- Tôi biết ông ta tin và hy vọng vào Thiên Chúa và vào lòng thương xót của Người, vì bây giờ ông ta đã biết Người.
- Biết? Người ở đâu? Hãy nói để chúng tôi cũng có thể tới đó để coi mặt Người. A! A! Vị Thiên Chúa kinh khủng mà Môise không dám nhìn, chắc chắn phải có khuôn mặt kinh khủng, dù là trong tình thương của Người, mặc dù sau bao thế kỷ, sự nghiêm khắc của Người đã dịu lại - Tên luật sĩ trẻ đối đáp, và anh ta cười với cái cười còn phủ nhận hơn là một phạm thượng.
- Ta, người đang nói với anh, Ta là Tình Thương của Thiên Chúa! - Giêsu kêu lên và Người đứng thẳng, cử chỉ và cái nhìn của Người mạnh mẽ, lóe sáng. Nhưng tôi không hiểu sao tên kia không sợ...
Mặc dù anh ta không trốn đi, nhưng anh ta không biết tiếp tục sự châm biếm của anh ta nữa. Anh ta nín lặng. Một tên khác thay thế: “Ôi! Qúa nhiều lời vô ích. Chúng tôi chỉ muốn tin. Chúng tôi không xin gì hơn. Nhưng để có thể tin thì phải có bằng cớ. Thưa Thầy, Thầy biết Galgala là gì đối với chúng ta không?”
- Và anh cho tôi là thằng ngu? - Giêsu nói, và bằng giọng của người đọc thánh vịnh, nhẩn nha và hơi kéo dài, Người tiếp tục: Và Josuê thức dậy trước hừng đông, nhổ trại, ông và tất cả con cái Israel đi từ Setim tới sông Giođan. Họ dừng lại đó ba ngày. Sau ba ngày, các người có nhiệm vụ loan tin đã đi vòng khắp trại và kêu: “Khi anh em thấy Hòm Bia của Chúa là Thiên Chúa anh em, do
16
các thầy cả dòng Lêvi mang đi, thì anh em cũng đi theo các ngài, nhưng giữa anh em và Hòm Bia, phải luôn luôn giữ một khoảng cách vài ngàn cánh tay, để anh em có thể nhìn từ xa và phân biệt được con đường anh em phải đi, nhưng đừng vượt qua khoảng đó, và...”
- Đủ rồi, đủ rồi! Bài học thì ông biết. Vậy để tin, chúng tôi cũng muốn nơi ông một phép lạ tương tự. Tại Đền Thờ, vào dịp lễ Vượt Qua, người ta đã lặp đi lặp lại cái tin do một người chèo đò ngang mang tới, là ông đã làm ngừng lại dòng sông ngập lụt. Vậy nếu vì một người nào đó mà ông làm đến thế, thì với chúng tôi là những kẻ hơn một người thường biết bao, ông hãy làm cái phép lạ là đi xuống sông và băng qua đó cùng với các người của ông mà chân vẫn khô ráo, giống như Môise đã làm ở Biển Đỏ và Josuê làm ở Galgala. Nào, các trò trù ếm chỉ dùng đối với những kẻ ngu dốt, còn chúng tôi, chúng tôi không bị lôi kéo bởi các phép chiêu hồn, mặc dù ông, người ta biết là ông biết các bí mật của dân Ai Cập và các công thức thần thông.
- Tôi đâu có cần những thứ đó.
- Vậy chúng ta hãy đi xuống sông, và chúng tôi sẽ tin ở ông.
- Có lời chép: đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa Ngươi.
- Ông đâu phải Thiên Chúa! Ông là một thằng điên tội nghiệp. Ông là kẻ chỉ làm ồn ào nơi đám đông ngu dốt. Đối với họ thì dễ, bởi vì ông có Benzêbút ở với ông. Nhưng đối với chúng ta là những kẻ biết các dấu hiệu phù thủy, ông còn ở bên dưới số không nữa - Một luật sĩ nói với giọng gây hấn.
- Đừng xúc phạm tới ông ta! Hãy xin ông ta làm vui lòng chúng ta. Mày đối xử với ông như vậy, ông sẽ bị mất giá trị và mất sức mạnh của ông. Nào, rabbi Nazarét, hãy cho chúng tôi một bằng chứng, và chúng tôi sẽ tôn thờ ông - một luật sĩ già, qủi quyệt như một con rắn nói. Ông ta còn hận thù trong sự nịnh hót quanh co của ông hơn là những người khác trong những công bố hung bạo của họ.
Giêsu nhìn ông ta, rồi Người quay về phía tây nam và mở cánh
17
tay ra giơ về phía trước, Người nói: “Đàng kia là sa mạc Juđa, và ở đó, thần dữ đã bảo tôi thử thách Chúa là Thiên Chúa tôi, tôi đã trả lời: ‘Cút đi Satan! Có lời chép rằng Thiên Chúa phải được thờ lạy chứ không được thử thách, và để theo Người thì phải vượt lên bên trên nhục huyết’. Đó là điều tôi cũng nói với các ông”.
- Chính chúng ta là người ông gọi là Satan? Chúng ta? A! Khốn kiếp! - Và giống như đám vô loại chứ không phải là các tiến sĩ luật, chúng cầm những cục đá rải rắc đó đây để ném Người và la hét: “Cút đi! Cút đi! Mày đáng nguyền rủa đời đời!”
Giêsu nhìn chúng không sợ hãi. Người làm tê liệt cử chỉ phạm thánh của chúng, rồi Người cầm áo khoác và nói: “Chúng ta đi. Ông này, hãy đi đàng trước Thầy”. Và Người trở lại cái giếng và đi vào vườn oliu, nơi người đàn ông thú tội... Bị đè nặng, Người cúi đầu, trong khi hai giọt nước mắt mà Người không thể cầm lại, lăn từ chân mi xuống khuôn mặt xanh xao.
Họ đi tới một con đường. Giêsu dừng lại và nói với người ăn mày: “Thầy không thể cho con tiền, Thầy không có. Thầy chúc lành cho con. Chào. Hãy làm điều Thầy đã bảo con”.
Họ chia tay... Các tông đồ buồn khổ, họ không nói gì, họ nhìn nhau dưới chân.
Giêsu phá sự yên lặng bằng cách tiếp tục cái giọng đọc Thánh Vịnh bị gián đoạn bởi các luật sĩ : “Và Chúa nói với Josuê: Hãy lấy mười hai người, mỗi chi tộc một người, và bảo họ lấy ở giữa lòng sông, tại nơi các thầy cả đã đứng lại, mười hai tảng đá rất cứng mà các ông sẽ dựng tại nơi cắm trại, nơi mà các ông đã dựng lều đêm hôm đó. Và Josuê, sau khi đã gọi lại với ông mười hai người được chọn trong con cái Israel, mỗi chi họ một người, ông nói với họ: ‘Hãy đi trước Hòm Bia của Chúa là Thiên Chúa anh em tới giữa dòng sông, hãy lượm rồi mang trên vai, mỗi người một tảng đá theo số con cái Israel, để xây một đài kỷ niệm ở giữa anh em. Trong tương lai, nếu con cháu anh em có hỏi: những tảng đá này có ý nghĩa gì? Anh em sẽ trả lời chúng: Nước sông Giođan đã biến đi trước hòm bia của Chúa khi Người đi qua, và những tảng đá này
18
được đặt như một đài kỷ niệm đời đời của con cháu Israel’”.
Giêsu ngẩng đầu lên, quay cái nhìn về phía mười hai vị đang nhìn Người, Người nói bằng giọng khác, tiếng nói thường của Người vào những lúc buồn nhất: “Hòm bia đã đi vào lòng sông, và đây không phải là nước, mà là Trời đã mở ra vì kính trọng Ngôi Lời đã ở đó để thánh hóa chúng và làm cho chúng nên thánh hơn, điều mà nước đã không làm khi Hòm Bia dừng lại giữa lòng sông. Và Ngôi Lời đã chọn mười hai tảng đá rất cứng, vì chúng phải tồn tại cho tới tận thế. Chúng phải là nền móng cho ngôi Đền Thờ mới và của Jêrusalem vĩnh cửu. Mười hai, các con hãy nhớ lấy điều đó, con số phải là vậy. Rồi người lại chọn mười hai khác để làm các chứng nhân bậc hai: các môn đệ đầu tiên: các môn đệ mục đồng, rồi tới người cùi Abel, người tàn tật Samuel, những người đầu tiên được chữa lành ... và biết ơn ... cũng rất cứng, vì chúng phải chịu đựng những tàn nhẫn của Israel ghét Thiên Chúa!... Ghét Thiên Chúa!...”
Giêsu có giọng nói tan nát, mệt mỏi, hầu như kiệt lực khi Người khóc trên sự cứng lòng của Israel. Người tiếp: “Trong lòng sông, thời gian và con người đã làm tản mát các tảng đá kỷ niệm... Trên mặt đất, sự thù ghét phân tán nhóm mười hai của Thầy. Tại bờ sông, thời gian và con người đã phá hủy bàn thờ kỷ niệm... Những tảng đá thứ nhất và thứ hai, sau khi đã sử dụng vào mọi nhu cầu, bởi lẽ sự thù ghét của ma qủi, không phải chỉ ở trong hỏa ngục, mà cả ở trong con người, sẽ không nhận ra được nữa. Trong số đó có cả những tảng sẽ dùng để giết người. Và ai có thể nói với Thầy là những tảng đá nổi dậy chống lại Thầy không có vẻ sáng của những tảng đá rất cứng mà Josuê đã chọn? Rất cứng! Các kẻ thù! Ôi! Rất cứng! Ngay cả ở giữa những người của Thầy, cũng có những kẻ tự làm lề đường cho ma qủi đạp lên Thầy... và làm những viên đá để đánh Thầy... Và họ sẽ không còn là những tảng đá được chọn nữa... mà là những Satan... Ôi! Giacôbê anh Thầy ơi! Israel rất cay nghiệt với Chúa của nó!”
Và một điều không bao giờ thấy: Giêsu bị đè nặng bởi một nản lòng nào đó tôi không biết, nó trấn át Người, đến nỗi Người gục
19
trên vai Giacôbê Alphê, ôm lấy ông mà khóc...
78* ĐI VỀ ENGADDI.
CHIA TAY VỚI JUDAS VÀ SIMON
Chắc họ đã tiếp tục đi đường dưới trăng sáng, và đã dừng chân nghỉ ở một cái hang nào đó trong vài giờ, rồi lại lên đường vào lúc bình minh. Họ có vẻ rõ ràng là mệt mỏi vì con đường lởm chởm khó đi, băng qua các cây cối, gai góc, và các cây leo bò rối rít, cản bước chân. Simon Zêlote dẫn đường, hình như ông biết rành vùng này, và ông xin lỗi, làm như sự khó khăn của bước đi là tại ông.
- Khi chúng ta lại ở trên ngọn núi mà các anh nhìn thấy kia, chúng ta sẽ bước dễ dàng hơn. Và tôi hứa với các anh là sẽ có mật ong thiên nhiên cũng như nước mát dư dật...
- Nước à? Tôi sẽ lội xuống đó. Cát đã ăn mòn chân tôi tựa như tôi đi trên muối, và da tôi đỏ như lửa. Cái nơi bị nguyền rủa chừng nào! Ôi! Người ta cảm thấy, đúng, người ta cảm thấy mình đang ở gần những nơi bị phạt bằng lửa từ trời! Lửa ở lại trong gió, trong đất, trong gai góc, trong tất cả! - Phêrô kêu rêu.
- Nhưng, ngày xưa nơi đây rất đẹp, phải không Thầy?
- Rất đẹp. Trong những thế kỷ đầu của thế giới, những nơi này là thiên đàng nhỏ. Đất rất mầu mỡ, nhiều suối nguồn, giúp ích biết bao, vì nó chỉ sẵn sàng để cho điều lành. Sau đó... sự vô trật tự của con người xuất hiện và chụp lấy mọi yếu tố. Và rồi đó là sự hủy hoại. Các nhà thông thái dân ngoại cắt nghĩa hình phạt ghê gớm này bằng nhiều cách, theo cách của loài người, đôi khi với sự sợ hãi dị đoan. Nhưng các con hãy tin: chỉ có ý muốn của Thiên Chúa mới thay đổi được thứ tự của các yếu tố: Những yếu tố trên trời gọi những yếu tố dưới vực sâu, chúng đụng vào nhau, cái nọ kích động cái kia trong một cái vòng hung hãn; các lằn chớp đốt cháy các chất dầu nhựa mà các mạch đất đã mở ra để cho nó chảy tràn lan cách vô trật tự. Rồi lửa ở trong lòng đất, lửa ở trên mặt đất, lửa ở
20
trên trời, hợp lại để, bằng thanh gươm sấm chớp, mở ra những vết thương mới trong giải đất đang co giật, sợ hãi, để thiêu đốt, phá hủy, ăn mòn từng giai đoạn, của một nơi mà trước đó là Thiên Đàng, và biến nó thành hỏa ngục mà các con nhìn thấy không sự sống nào có thể tồn tại.
Các tông đồ nghe cách chăm chú. Batôlômêo hỏi: “Thầy có tin là nếu người ta có thể làm khô lớp nước dầy của biển, chúng ta sẽ tìm thấy ở đáy Biển Lớn những tàn tích của các thành phố bị phạt không?”
- Chắc chắn rồi, và hầu như nguyên vẹn, vì bề dầy nước biển làm một cái quan tài bằng vôi cho các thành phố bị chôn vùi. Nhưng sông Giođan đã phủ trên chúng một lớp cát dầy, như vậy là chúng bị chôn vùi hai lần, để chúng không thể ngóc dậy được nữa: hình ảnh của những kẻ cố chấp trong tội, bị chôn vùi khắt khe bởi sự nguyền rủa của Thiên Chúa và sự thống trị của Satan, kẻ họ đã phục vụ với bao lo lắng trong suốt đời họ.
- Và có phải đây là nơi Mathia con Gioan Simêon người Asmonê đã cư trú, và ông đã cùng với các con ông là vinh quang của toàn thể Israel không?
- Chính ở đây, giữa các rặng núi và sa mạc, là nơi ông đã tái lập trật tự trong dân chúng và quân đội, và Thiên Chúa đã ở với ông.
- Nhưng, ít nhất... đối với ông thì dễ hơn, vì các người Assidien chính trực đối với ông hơn là các pharisiêu đối với Thầy.
- Ôi! Công chính hơn các pharisiêu thì qúa dễ! Còn dễ hơn là các gai này cắm vào chân tôi... Coi này! - Phêrô nói, vì khi chú ý nghe, ông đã không nhìn đất, nên bước trúng vào bụi gai và bắp chân ông bị chảy máu.
- Trên núi thì ít gai hơn. Anh thấy là ở đây đã hơi bớt gai rồi đó - Zêlote nói để khuyến khích ông.
- Hum! Anh rất thông thạo...
- Tôi đã sống ở đây, bị lưu đày và bị bách hại.
- A! Ra thế...
Qủa vậy, ngọn núi nhỏ trở nên xanh, một mầu xanh ít dày vò
21
hơn, dù là nó ít bóng mát. Dù cỏ cây chỉ bao phủ nó cách sơ sài thưa thớt, nhưng đổi lại, nó rất thơm và rải rác hoa như một tấm thảm. Từng đám mây ong kiếm mật, rồi từ đó, chúng bay về các hang rải rác trên sườn núi. Ở đó, dưới tấm màn của các cây trường xuân và cây kim ngân, chúng để mật trong những tổ thiên nhiên. Simon Zêlote vào trong một cái hang, rồi ông đi ra với một tổ mật vàng. Rồi ông vào một hang khác, một hang khác nữa... cho tới khi ông có mật cho mọi người. Ông biếu cho Thầy và cho các bạn. Họ ăn thả cửa những tia mật ngọt dẻo kéo thành sợi.
- Nếu có bánh thì ngon chừng nào! - Tôma nói.
- Ồ! Dù không có bánh cũng ngon. Còn hơn là những bông lúa Philitin. Và... hy vọng rằng không có pharisiêu nào đến bảo chúng ta là không được ăn - Giacôbê Zêbêđê nói.
Mọi người đều vừa đi vừa ăn, và họ tới một cái thùng nghiêng nghiêng mà nước chảy vào rồi chảy đi đâu tôi không biết. Nước tràn ra khỏi thùng rất mát, trong suốt, vì được che khuất mặt trời và bụi bặm nhờ cái vòm đá mà cái thùng được đục vào. Khi chảy xuống, nó làm thành một cái hồ tí hon trong đá silic mầu đen.
Với nỗi vui hiện ra nét mặt, các tông đồ cởi áo và thay nhau lội vào trong cái bể bất ngờ này. Nhưng họ muốn Giêsu làm trước tiên “để các chi thể của họ được thánh hóa” như Mathêu nói.
Họ lại lên đường, đã được bồi dưỡng, mặc dầu vẫn đói. Những người đói hơn thì cùng với mật ong, họ ăn những cộng hồi hương dại và những đọt non của các cây ăn được mà tôi không biết tên.
Quang cảnh thật đẹp khi nhìn từ trên cao nguyên của dẫy núi kỳ lạ này. Nó có những ngọn giống như bị gươm đâm. Có những đường nứt ở các ngọn núi xanh khác nữa, và các đồng bằng phì nhiêu ở phía nam và cả ở sau Biển Chết, trông thấy rõ ở phía đông. Nhưng trái lại, các ngọn ở xa, phía bờ bên kia thì mờ mờ vì sương mù do các đám mây mỏng giăng ra ở phía đông nam. Ở phía bắc, giữa các đỉnh núi là mầu xanh xa xôi của đồng bằng sông Giođan, và ở phía tây là các núi cao của miền Juđê.
Mặt trời bắt đầu thiêu đốt và Phêrô nói cách nghiêm trang rằng
22
“những đám mây trên núi Moab là dấu hiệu báo cho biết trời sẽ rất nóng”.
- Nhưng bây giờ chúng ta sắp đi xuống thung lũng Cédron, nó có nhiều bóng mát - Simon nói.
- Cédron à? Làm sao ta có thể tới Cédron lẹ vậy được?
- Được, Simon Jonas. Đường khó đi, nhưng nó ngắn. Đi theo thung lũng, chúng ta tới Jêrusalem rất lẹ - Zêlote cắt nghĩa.
- Và tới Bêtani... Thầy phải sai vài người trong các con tới Bêtani để nói với các cô dẫn Egla tới nhà Nique. Bà đã năn nỉ Thầy biết bao, và đó là lời cầu xin chính đáng. Bà góa không con cũng có một tình yêu thánh, và đứa bé gái không cha mẹ sẽ được một bà mẹ thực sự Israel. Bà sẽ làm cho nó lớn lên trong đức tin cũ của chúng ta và trong đức tin nơi Thầy. Thầy cũng muốn tới đó... Một sự nghỉ ngơi an bình cho thần trí đau buồn của Thầy. Trong nhà của Lazarô, trái tim của Đức Kitô chỉ tìm thấy có tình yêu... Nhưng cuộc hành trình Thầy phải hoàn tất trước lễ Ngũ Tuần thì rất dài!
- Chúa ơi! Sai con đi đi, và một người nữa bước thật giỏi đi với con. Chúng con sẽ đi Bêtani, và sau đó con sẽ đi Kêriot, và chúng ta sẽ gặp nhau ở đó - Iscariot nói cách nhiệt thành trong khi những người khác chờ đợi bị chọn cho cuộc hành trình phân rẽ với Thầy cách không thiện cảm. Giêsu suy nghĩ. Trong khi suy nghĩ, Người nhìn Judas, Người tự hỏi có nên ưng thuận không. Judas nài nỉ: “Ừ đi Thầy, nói ừ đi! Hãy làm con vui đi!...”
- Ồ, Judas! Con là người ít được chỉ định hơn tất cả để đi Jêrusalem!
- Chúa ơi tại sao? Con biết Jêrusalem hơn tất cả mọi người!
- Chính vì vậy!... Không phải chỉ vì con biết rành nó, mà nó còn thấm nhập vào con hơn tất cả mọi người khác.
- Thưa Thầy, con hứa với Thầy là con sẽ không dừng lại ở Jêrusalem, và con sẽ không tự ý gặp người nào của Israel... Nhưng hãy để con đi. Con sẽ đến Kêriot trước Thầy và...
- Và con sẽ không làm áp lực để cho Thầy những vinh dự trần thế?
23
- Thưa Thầy không. Con hứa điều đó.
Giêsu vẫn còn đắn đo.
- Thưa Thầy, tại sao Thầy ngập ngừng qúa vậy? Thầy qúa nghi ngờ con?
- Judas, con yếu đuối. Và khi con ở xa Sức Mạnh là con sa ngã! Trong ít thời gian vừa qua, con đã rất tốt! Tại sao con muốn tự xáo trộn và làm Thầy buồn?
- Nhưng thưa Thầy, đâu phải vậy. Con đâu muốn những chuyện này. Một ngày kia con sẽ không có Thầy nữa, vậy con làm sao được nếu con không chuẩn bị?
- Judas có lý - nhiều người nói.
- Được... Vậy hãy đi. Hãy đi với Giacôbê anh Thầy.
Những người khác thở ra nhẹ nhõm. Giacôbê buồn. Ông thở dài, nhưng ông nói cách ngoan ngoãn: “Thưa Chúa vâng. Xin chúc lành cho chúng con để chúng con đi”.
Simon Zêlote thương cho nỗi buồn của Giacôbê nên ông nói: “Thầy ơi, các người cha tự nguyện thay thế các người con để cho nó được vui. Anh ta, con đã nhận làm con cùng một lúc với Juđa. Thời gian đã trôi qua, nhưng tư tưởng của con vẫn vậy. Xin Thầy nhận lời con... Hãy sai con đi cùng với Judas Simon. Con già, nhưng con chịu đựng được như những người trẻ. Và Judas sẽ không phải phàn nàn về con”.
- Không. Sẽ không chính đáng khi anh phải hy sinh xa Thầy thay cho tôi. Chắc chắn anh cũng khổ vì không được ở bên Người - Giacôbê Alphê nói.
- Sự đau khổ của tôi sẽ thành êm dịu bởi niềm vui do việc để cho em ở lại với Thầy. Rồi em sẽ kể cho tôi những gì qúi vị đã làm... Lại nữa... Tôi tự nguyện đi về Bêtani... - Zêlote kết thúc như để coi là nhỏ mọn điều ông tự nguyện.
- Tốt. Vậy sẽ đi, cả hai người. Trong khi chờ đợi, hãy tiếp tục con đường cho tới cái làng nhỏ kia. Ai sẽ vào đó kiếm bánh nhân danh Thiên Chúa?
- Con! Con! - mọi người đều muốn đi, nhưng Giêsu giữ Judas
24
Kêriot lại.
Khi họ đã đi xa, Giêsu cầm hai tay ông và nói với ông, thực sự mặt đối mặt. Tựa như Người muốn truyền tư tưởng của Người qua cho ông, gợi cảm cho ông tới nỗi Judas không thể có một tư tưởng nào ngoài những tư tưởng mà Giêsu muốn: “Judas... Đừng làm khổ cho con! Đừng làm khổ cho con! Judas của Thầy ơi! Con không thấy bình thản hơn và sung sướng hơn trong thời gian gần đây sao? Vì con được thoát khỏi những con mực ma của cái tôi xấu nhất của con, cái tôi con người rất dễ dàng trở nên trò chơi cho Satan và thế giới? Đúng, con đã cảm thấy như vậy. Vậy hãy bảo trì sự bình an của con, sự thoải mái của con. Đừng làm thiệt hại cho con, Judas. Thầy đọc được trong con. Con đang có những thời gian rất tốt. Ôi! Nếu Thầy có thể, nếu Thầy có thể với giá tất cả máu huyết của Thầy, giữ con trong tình trạng này, phá hủy cho tới cái thành lũy sau cùng, nơi trú ẩn của một kẻ thù rất lớn của con, và làm cho con nên hoàn toàn tinh thần, thông minh tinh thần, tình yêu tinh thần, tinh thần, tinh thần!”
Judas ngực kề ngực, mặt đối mặt, tay trong tay với Giêsu, hầu như hoảng hốt. Ông thì thầm: “Làm thiệt hại? Thành lũy sau cùng? Cái nào?...”
- Cái nào? Con biết mà. Con biết con làm thiệt hại cho mình bằng cách nào! Bằng cách nuôi dưỡng những tư tưởng được quyền thế trong loài người của con, và những tình bạn mà con cho là ích lợi để cho con cái quyền thế này. Israel, họ không yêu con đâu. Hãy tin điều đó. Họ ghét con cũng như họ ghét Thầy, và cũng như họ ghét những ai có vẻ một kẻ có thể chiến thắng. Và con, chính vì con không dấu diếm tư tưởng của con là con muốn như vậy, nên con bị ghét. Đừng tin vào những lời dối trá của họ, vào những câu hỏi họ giả vờ đặt ra, viện lẽ là lưu ý đến tư tưởng của con để giúp con. Họ dụ dỗ con để làm hại con, để biết và làm hại. Thầy không xin con điều đó vì Thầy, nhưng vì con, vì một mình con mà thôi. Thầy, nếu Thầy phải chịu sự bất công, Thầy vẫn luôn luôn là Chúa. Họ có thể hành hạ thân xác và giết nó, không còn gì hơn. Nhưng con!
25
Nhưng con! Chính linh hồn con là cái họ sẽ giết... Hãy chạy trốn cám dỗ! Bạn của Thầy ơi! Hãy nói với Thầy là con sẽ trốn nó! Hãy cho ông Thầy tội nghiệp, ông Thầy bị hành hạ, bị khổ tâm của con, lời nói này của sự bình an!
Bây giờ Người ôm ông ta trong vòng tay, và Người nói với ông ta, má kề má, ngay bên lỗ tai, và những sợi tóc hoe vàng của Giêsu lẫn lộn với những lọn tóc nặng mầu nâu đậm của Judas:
- Thầy, Thầy biết rằng Thầy phải chịu chết. Thầy biết rằng triều thiên của Thầy sẽ chỉ là triều thiên tử đạo. Thầy biết rằng áo đỏ của Thầy sẽ là áo nhuộm máu. Chính vì vậy mà Thầy đã đến. Chính nhờ sự tử đạo này mà Thầy cứu chuộc loài người, và tình yêu hối thúc Thầy từ đời đời tới việc làm trọn hành động này. Nhưng Thầy muốn rằng không ai trong những người của Thầy bị hư mất. Ôi! Hết mọi người đều thân thiết với Thầy, vì họ mang trong họ hình ảnh và sự tương tự như Cha Thầy, và linh hồn bất tử mà Người đã dựng nên. Nhưng các con, các con thân yêu và biệt ái của Thầy! Các con, máu của máu Thầy, con ngươi của mắt Thầy! Không! Không! Hư mất, không! Ôi! Không có cái hành hạ nào giống cái hành hạ này! Cho dù Satan đâm vào Thầy những ngọn giáo cháy đỏ bằng lưu huỳnh của hỏa ngục, và nó, tên có tội, tên ghê sợ, tên ghê tởm, nó cắn xé Thầy, bao bọc lấy Thầy, thì đối với Thầy, sẽ không có một hành hạ nào giống như cái hành hạ là một trong các kẻ lựa chọn của Thầy hư đi... Judas! Judas! Judas của Thầy! Con có muốn rằng Thầy xin Cha Thầy để chịu đựng ba lần cuộc khổ nạn kinh khủng của Thầy, và trong ba lần này, thì hai lần là để cứu một mình con không? Bạn ơi! Hãy nói điều đó với Thầy và Thầy sẽ làm. Thầy sẽ xin gia tăng tới vô tận những khổ đau của Thầy cho việc này. Thầy yêu con! Judas! Thầy yêu con chừng nào! Và Thầy muốn, Thầy muốn cho con chính mình Thầy, trả cho con chính mình Thầy để cứu cho con khỏi chính mình con...
- Thầy ơi! Đừng khóc, đừng nói vậy. Con, con cũng yêu Thầy. Con sẽ hiến mạng con để được thấy Thầy mạnh mẽ, được kính nể, được sợ, được toàn thắng. Có lẽ con không yêu Thầy cách trọn
26
hảo; có lẽ con không suy nghĩ cách trọn hảo, nhưng con dùng tất cả những gì con là, và có lẽ con lạm dụng nó, tới nỗi con qúa lo âu muốn thấy Thầy được yêu mến. Nhưng con thề với Thầy, con thề với Thầy trên Jêova là con sẽ không tới gần các luật sĩ, các pharisiêu, các người saddu, các người Do Thái, các thầy cả nữa. Họ nói là con điên, nhưng điều đó không quan trọng. Con chỉ cần là Thầy không buồn vì con. Thầy có bằng lòng không? Một cái hôn đi Thầy. Một cái hôn như là phúc lành và sự bảo vệ của Thầy.
Hai người ôm nhau hôn rồi rời ra trong khi các người khác trở lại, từ trên đồi chạy xuống, vẫy tay với những cái bánh tráng nướng và những miếng phó mát tươi.
Họ ngồi trên cỏ xanh và chia nhau những thực phẩm. Họ kể rằng họ đã được đón tiếp nồng hậu, bởi vì trong một số nhà, có những người biết các môn đệ mục đồng, và họ chấp nhận Đức Messi.
- Chúng con không nói là Thầy ở đây, vì nếu không...- Tôma kết thúc.
- Một ngày nào đó, chúng ta sẽ cố gắng đi qua đây. Không nên hờ hững với ai cả - Giêsu trả lời.
Bữa ăn chấm dứt. Giêsu đứng dậy và chúc lành cho hai người về Bêtani. Họ không chờ buổi chiều để đi, vì trong thung lũng có nhiều bóng mát và suối nước.
Giêsu với mười người ở lại nằm trên cỏ để nghỉ, chờ hoàng hôn tới để trở lại con đường về Engaddi và Masada, theo như tôi nghe họ nói.
79* TỚI ENGADDI
Các người hành hương, mặc dầu mệt mỏi vì đoạn đường dài đã qua, có lẽ bằng hai chặng kể từ hoàng hôn tới bình minh, chắc chắn qua những lối đi không dễ dàng, đã không thể không thốt ra những lời cảm phục sau khi đã qua khúc sau cùng ở bờ sông, nơi những hạt sương như kim cương lấp lánh dưới những tia đầu tiên của mặt
27
trời, họ thấy hiện ra trước mắt cái quang cảnh trọn vẹn của hai bên bờ Biển Chết.
Bờ phía tây có một khoảng đồng bằng nhỏ giữa Biển Chết và các ngọn núi nhỏ. Với cao độ yếu của nó, nó giống như làn sóng sau cùng của các ngọn núi miền Juđê, trải ra trên bờ biển buồn và dừng lại đó với những thảo mộc đẹp, sau khi đã để lại sa mạc trơ trụi giữa nó và rặng núi gần nhất xứ Juđê. Trái lại, bờ biển phía đông có những dẫy núi thẳng đứng, sườn dốc đổ thẳng vào lưu vực Biển Chết. Người ta thực tình có cảm tưởng rằng vùng đất này, trong biến cố kinh khủng của đất, đã bị đập bể với một vết cắt gọn gàng, để lại ở gần hồ những vết nứt dọc, mà từ đó các suối ít hay nhiều nước, bị tiền định để bốc hơi, chảy vào làn nước tối mầu và vô phúc của Biển Chết. Ở phía sau, bên kia hồ và đường ven của các ngọn núi đầu tiên, là những ngọn núi khác rực rỡ dưới mặt trời ban mai. Ở phía bắc là cửa sông Giođan mầu da trời; phía nam là các ngọn núi làm thành một đường viền quanh hồ.
Đó là một quang cảnh trang nghiêm, vĩ đại, buồn, đầy bộ điệu chê bai, nơi hòa lẫn bộ mặt núi non tươi cười với hình ảnh tối om của Biển Chết mà bởi dáng vẻ của nó, nó như nhắc lại điều tội lỗi có thể làm và điều cơn thịnh nộ của Thiên Chúa có thể làm. Qủa vậy, cái gương nước khổng lồ này có vẻ mặt kinh khủng: không một cánh buồm, không một chiếc thuyền rẽ sóng, không một con chim bay lượn, không một con vật tới uống nước tại bờ.
Đối chọi với những thứ gợi cảm về sự trừng phạt này của biển, những hậu qủa lạ lùng của mặt trời trên các đồi cát, cho tới tận cát của sa mạc, nơi các tinh thể muối trông như các đá vân thạch qúi rải rác trên cát, trên đá, trên các cộng thân cứng của các cây vùng sa mạc, tất cả, làm thành một vẻ lộng lẫy do các bụi kim cương bao phủ vạn vật. Lạ lùng hơn nữa là quang cảnh một cao nguyên mầu mỡ, chỉ độ một trăm tới một trăm rưởi mét ở bên trên mặt biển, với những cây chà là huy hoàng, những cây nho và các cây khác đủ loại, được dội khắp bởi các làn nước xanh và trải ra một thành phố đẹp, bao quanh bằng những miền quê trù phú. Khi mắt liếc từ cảnh
28
tối sẫm của biển, của những cảnh buồn rầu ở bờ phía đông, những cảnh chỉ phô bày một nỗi buồn bình an trong cái lưỡi đất thấp nhô ra biển ở phía đông nam, của bộ mặt buồn trên sa mạc Juđa, của cảnh khắc nghiệt trên các ngọn núi miền Juđê, tới cảnh rất êm đềm, rất vui tươi, đầy hoa nở này, ta thấy như cơn ác mộng của kẻ lên cơn sốt tan biến, để nhường chỗ cho một quang cảnh ngọt ngào bình an.
- Đây là Engaddi, được ca tụng bởi các thi sĩ của quê hương ta, được kính phục, vì nó đẹp chừng nào! Cả miền được tưới bằng làn nước dồi dào ở giữa một cảnh hoang tàn như vầy. Chúng ta hãy đi xuống, vào trong các vườn, vì ở đây tất cả đều là vườn: đồng cỏ, rừng, ruộng nho. Đây là Asason-Tamar cổ xưa, mà tên gọi gợi lại những vườn thốt nốt đẹp, mà dưới bóng nó, đẹp hơn việc xây cất nhà cửa và khai khẩn ruộng đất, là việc yêu nhau, nuôi nấng con cái và chăn dắt súc vật trong tiếng rì rào êm ái của các chòm lá thốt nốt. Đây là ốc đảo vui, sống sót từ Thiên Đàng bị phạt bởi Thiên Chúa, được bao quanh như một cái khuôn bằng ngọc trai là các đường mòn mà chỉ dê và nai mãng có thể đi, đúng như đã chép trong sách các vua. Trên những con đường này, có nhiều hang hốc mở ra cho các kẻ bị bách hại, mỏi mệt, bị bỏ rơi. Các con hãy nhớ lại Đavít, vua của chúng ta. Hãy nhớ lại lòng tốt của vua đối với Saul, kẻ thù của ông. Chính Asason-Tamar, chính Engaddi, phôngten nước, nơi được chúc phúc, mỹ lệ, là nơi phát xuất ra các kẻ thù chống lại vua Josaphát và các con cái của dân ông. Trong lúc sợ hãi, họ được khích lệ bởi Jahaziel, con trai Zacari, người được Thánh Linh của Thiên Chúa nói với. Và họ đã tạo được chiến thắng vẻ vang, vì họ có lòng tin ở Thiên Chúa, và đáng được sự giúp đỡ của Người nhờ sự thống hối và cầu nguyện mà họ đã làm trước khi giáp trận. Đó là nơi mà Salômôn đã hát để ca tụng như một vẻ đẹp kiểu mẫu của người đẹp nhất trong các người đẹp. Và người đẹp có tên Êzêkiel là một trong những nơi mà nước của Chúa đã chảy tới... Chúng ta hãy xuống, hãy mang nước hàng sống từ Trời xuống cho các chồi mầm của Israel.
29
Và Người bắt đầu xuống dốc, hầu như chạy theo một lối đi hiểm hốc, với nhiều khúc quanh chữ chi trong núi vôi mầu hơi đỏ cho tới chỗ con đường ở gần biển nhất. Thực sự Người đã đi tới tận đầu mút của con đường viền quanh núi, một lối đi làm choáng váng cả dân trèo núi khéo léo nhất. Các tông đồ không sao theo kịp Người. Những người già hơn còn ở xa Thầy một quãng dài khi Người dừng lại tại chỗ những cây thốt nốt và những cây nho đầu tiên của cái cao nguyên mầu mỡ, nơi nước trong róc rách và chim chóc đủ loại ca hát.
Các con cừu trắng gặm cỏ dưới mái che rì rào của các tàn lá thốt nốt, của các cây mimôsa, các loại cây hương dược, các cây hồ trăn tử, và các cây tỏa ra mùi hương nhè nhẹ, nồng nực, hòa lẫn với mùi hoa hồng, hoa cải hương, hoa quế, cây nhục quế, mùi mộc dược, mùi trầm, mùi nghệ, mùi hoa lài, hoa huệ, hoa linh lan. Các bông hoa lô hội ở đây rất lớn. Các mùi bông cẩm chướng và bông cánh kiến hòa lộn với mùi các thứ nhựa khác chảy ra trong các lỗ đục vào thân cây. Đúng là “vườn rào kín, suối của khu vườn”. Và từ mọi phía đều hiện diện các trái, các hoa, các hương thơm, vẻ đẹp! Không có nơi nào trong Palestin đẹp như vầy, với quang cảnh và vẻ đẹp thiên nhiên của nó. Khi nhìn nó, người ta hiểu nhiều thi ca phương đông, những trang ca tụng vẻ đẹp của các ốc đảo như vẻ đẹp do Thiên Đàng đổ xuống trái đất.
Các tông đồ đầy mồ hôi nhưng cũng đầy thán phục, bắt kịp Thầy. Họ cùng nhau đi xuống bởi một con đường tốt hơn về phía bờ biển, và họ tới đó sau khi đã băng qua các mảnh đất bằng nối tiếp nhau, hoàn toàn được trồng tỉa, nơi một con suối đổ xuống những làn nước vui tươi phúc đức, tưới cho tất cả hoa mầu trồng tỉa cho tới tận đồng bằng chấm dứt ở bờ biển.
Ở khoảng giữa bãi, họ vào một thành phố trắng sạch, có tiếng thốt nốt rì rào, thơm mùi hoa hồng và hàng ngàn thứ hoa trong các vườn. Họ tìm một chỗ trọ nhân danh Thiên Chúa ngay tại các căn nhà đầu tiên. Các căn nhà tử tế cũng như thiên nhiên, không ngần ngại mở cửa ra cho các vị ở. Họ hỏi: “Vị tiên tri này là ai mà trông
30
giống như vua Salômôn, mặc đồ vải gai, vẻ đẹp rạng rỡ ?...”
Giêsu cùng với Gioan và Phêrô vào một căn nhà nhỏ, nơi một bà góa sống với con trai bà. Những người khác tản mát đó đây sau phép lành của Thầy, với chương trình sẽ tụ họp tại quảng trường lớn nhất vào lúc hoàng hôn.
80* THUYẾT GIÁO VÀ CÁC
PHÉP LẠ TẠI ENGADDI
Vào lúc hoàng hôn, một hoàng hôn rực lửa nhuộm đỏ những căn nhà hoàn toàn trắng của Engaddi và làm cho Biển Chết phản chiếu như một mặt xà cừ đen, Giêsu đi về phía công trường chính. Chàng thanh niên đã cho người trọ cũng đi với Người. Anh ta hướng dẫn Người qua các khúc quanh co của Thành phố với lối kiến trúc thực sự phương đông.
Chắc mặt trời rất nóng ở đây, vì nó đối diện với mặt nước nặng nề của Biển Mặn. Tôi có cảm tưởng là trong những tháng hè, gió nóng như thiêu ở đây, vì nó nằm một mình giữa sa mạc khô cằn, nơi mặt trời đập xuống không thương hại, làm cho đất nóng bỏng. Để tự vệ, người dân Engaddi xây những đường phố hẹp, nó càng có vẻ hẹp hơn với những máng xối và mái hiên của tất cả các căn nhà đều chìa xa ra đường, tới nỗi khi ngửa mặt lên, người ta chỉ thấy một dải trời hẹp mầu xanh dương đậm ở trên cao.
Nhà cửa kiến trúc cao, hầu hết đều hai tầng với sân thượng ở trên cùng. Và dù cao, các cây nho cũng leo lên tới để làm bóng râm và làm vui lòng người với những chùm, một khi chín dưới mặt trời chủ tể, giữa sự phản chiếu của các bức tường và nền sân thượng, chắc chắn nó phải ngọt như nho khô ở Damas. Các cây nho đua tranh để làm vui lòng người và số lượng rất đông đảo chim chóc ở đây, từ chim sẻ tới chim câu làm tổ ở Engaddi, với những cây thốt nốt cao mọc ở khắp nơi, và những cây ăn trái tươi tốt vươn lên trong sân, trong vườn, chen chúc giữa các căn nhà, nghiêng ra trên các
31
lối đi, ngả trên các bức tường trắng với những cành nặng trĩu trái chín dưới mặt trời vui tươi, vươn qua bên trên các cổng vòm mà nhiều nơi rất liền nhau, tới nỗi tạo thành một hành lang thật sự, bị gián đoạn đó đây do nhu cầu kiến trúc, và vươn lên trời xanh rất đồng nhất, với mầu sắc dịu và mềm, tới nỗi nó cho cảm giác là nếu có thể rờ được thì giống như rờ vào tấm nhung dầy hay tấm da láng mịn, được vẽ và nhuộm mầu bởi một nghệ sĩ đại tài, với mầu sắc tuyệt hảo, đậm hơn mầu xanh dương, lạt hơn mầu lam ngọc, rất đẹp, nhìn rồi là không thể quên.
Và nước... Biết bao là suối và phông-ten vọt ra trong các sân và các vườn của mọi nhà, giữa mầu xanh của hàng ngàn loại cây! Khi đi qua các ngõ nhỏ vắng vẻ, vì người dân còn ở nơi làm việc hay ở trong nhà, người ta nghe tiếng nước chảy róc rách, rơi bì bõm, gây tiếng động như bao nốt nhạc của một chiếc hạc cầm, chơi bởi một nghệ sĩ ẩn diện. Và để làm tăng vẻ dễ thương của nó, các cổng vòm, các chỗ quanh liên tục của đường sá đón nhận tiếng động này của nước, khuyếch đại lên, gia tăng số lượng do sự phản âm, và làm cho tất cả thành một bài hợp âm.
Có biết bao là thốt nốt, thốt nốt và thốt nốt! Dù tại một nơi chỉ nhỏ bằng một gian nhà, thì đây, thốt nốt, rất gầy, rất cao, vươn lên trời, và chỉ ở trên đó mới có sự chuyển động hơi đu đưa của các tàu lá, rì rào, mọc sát vào nhau như một chòm lông ở trên đỉnh cây. Bóng mát, ngay lúc chính ngọ, chiếu thẳng đứng xuống cái quảng trường tí hon và bao phủ nó hoàn toàn. Nhưng lúc này thì bóng nó chiếu trên các bức tường của các sân thượng cao hơn, trông rất kỳ dị.
Thành phố rất sạch sẽ nếu so sánh với các thành phố khác ở Palestin, có lẽ sự kiện là các nhà xây san sát nhau, và mỗi nhà đều có sân và vườn trồng tỉa, đã góp phần để dạy cho dân thành là không nên quăng đồ dơ ra đường, trái lại, nên thu góp nó cùng với phân súc vật để làm một đống phân rác bón cho cây cối và hoa mầu, hoặc là ... bởi sự lo lắng hiếm hoi cho trật tự. Các lối đi đều sạch sẽ, khô ráo nhờ mặt trời. Người ta không thấy ở đó những
32
đống duyên dáng của rau rác phế thải, của dày dép mòn gót, của giẻ rách dơ bẩn, của cứt đái và các thứ khó chịu khác mà người ta thấy ngay cả ở Jêrusalem hay trong các đường phố hơi ở gần ngoại ô.
Đây, người nông dân đầu tiên từ nơi làm việc trở về trên con lừa mầu xám. Để che cho nó khỏi ruồi cắn, ông đã trùm kín con lừa bằng những cành lài. Nó đi nước kiệu nhẹ nhẹ, luôn luôn vẫy tai và những chiếc lục lạc của nó dưới tấm mền dợn sóng của các cành cây thơm. Người đó nhìn và chào. Người thanh niên nói với ông ta: “Hãy đến quảng trường lớn, ông sẽ được nghe vị Rabbi trọ ở nhà tôi”.
Đây, một đàn cừu xâm chiếm hết con đường. Chúng đến từ một công viên nhỏ mà ở đáy công viên, ta nhìn thấy miền quê. Chúng bước trong chật chội, con nọ sát vào con kia. Chúng đặt chân chúng ngay vào chỗ con đi trước đã đặt. Chúng cúi đầu, tựa như cái đầu qúa nặng so với cái cổ lỏng khỏng cắm vào thân mình phì mập . Chúng bước nước kiệu bằng những bước trông kỳ cục, và thân mình qúa mập của chúng giống như chiếc ba-lô cắm vào bốn cái cọc...
Giêsu, Gioan và Phêrô bắt chước người thanh niên, đứng tựa lưng vào bức tường nóng của một căn nhà để cho đoàn vật đi qua. Một người đàn ông và một đứa trẻ đi theo sau đoàn vật. Họ nhìn và chào. Người thanh niên nói: “Hãy nhốt đàn cừu lại rồi tới quảng trường lớn cùng với ba má anh. Vị Rabbi Galilê đang ở giữa chúng ta, Người sẽ nói với chúng ta”.
Đây, một người đàn bà đầu tiên ra khỏi nhà, bao vây bởi một bầy trẻ. Bà ta đi đâu tôi không biết. Người thanh niên nói với bà: “Hãy đến cùng với Gioan và các con để nghe vị Rabbi mà người ta gọi là Đức Messi”.
Từ từ, các căn nhà mở ra cho buổi chiều đang tới, và để cho nhìn thấy hậu cảnh xanh xanh của các khu vườn, hoặc cảnh bình an của cái sân nhỏ, nơi các con bồ câu đang ăn bữa tối. Người thanh niên ló đầu vào mỗi cái cửa mở: “Hãy tới nghe Chúa, vị Rabbi”.
Sau cùng, họ đi vào một con đường thẳng, con đường thẳng duy
33
nhất của thành phố này là thành phố không được xây dựng như họ muốn, mà là do ý muốn của các cây thốt nốt, các cây hồ trăn tử lực lưỡng, chắc chắn đã có hàng trăm tuổi, được kính trọng như các vị kỳ lão bởi các người dân không thể để cho chúng chết buồn thảm. Đây, ở cuối đường, một quảng trường dùng làm nơi hội họp mà các cột đều bằng thân thốt nốt, giống như một trong những phòng có trụ đỡ trần của các đền thờ hay lâu đài rất cổ, làm thành một khoảng rộng mênh mông nhờ rất nhiều cột đặt cách đều nhau giống như một rừng cột đá để nâng đỡ trần nhà. Ở đây thì cột đá được thay bằng thân thốt nốt, vì nó mọc liền nhau, các tàu lá đụng vào nhau, tạo thành chiếc trần mầu ngọc bích bên trên mầu trắng của quảng trường mà ở giữa có một phông-ten cao, hình vuông, đầy nước trong chảy ra từ một cái trụ ở giữa bể, và chảy tràn vào bể thấp hơn, nơi các con vật có thể uống. Lúc này các chim câu nuôi trong nhà đang tấn công. Chúng uống và nhảy trên đôi chân hồng tại cái bờ cao nhất, hoặc giũ lông, làm bắn ra các giọt nước bám trên bộ lông của chúng.
Đã có người ta, và tám tông đồ, trong lúc tản mát đó đây để tìm chỗ trọ, mỗi người tụ họp được một số tín hữu muốn nghe vị mà các ngài gọi là Đấng Messi đã được hứa ban. Các tông đồ từ mọi phía chạy lại với Thầy giống như từng ấy ngôi sao chổi, kéo theo sau họ những đám nhỏ mà họ đã chinh phục.
Giêsu giơ tay chúc lành cho môn đệ và dân thành Engaddi.
Juđa Alphê nhân danh tất cả để nói: “Thưa Thầy và Chúa của chúng con, đây, chúng con đã làm điều Thầy bảo chúng con làm, và hôm nay họ biết rằng ơn phúc của Thiên Chúa đang ở giữa họ. Nhưng họ cũng muốn lời. Nhiều người biết Thầy do chuyền tai, một số đã gặp Thầy ở Jêrusalem. Tất cả, đặc biệt là các bà, ước ao biết Thầy. Và tại đây, trước tiên là có ông trưởng giáo đường, ông ta đây. Tiến lên đi Abraham”.
Người đàn ông thực sự rất già tiến lên. Ông xúc động. Ông muốn nói, nói thực nhiều. Nhưng trong cơn xúc động, ông không tìm thấy một lời nào nữa trong những điều ông đã sửa soạn. Ông cúi xuống
34
để qùi gối, tựa vào cây gậy của ông. Nhưng Giêsu ngăn cản ông qùi, và bắt đầu bằng cách ôm ông và nói: “Bình an cho người tôi tớ già và trung thành của Thiên Chúa”. Và ông ta càng lúc càng xúc động, chỉ biết trả lời: “Ngợi khen Thiên Chúa! Mắt tôi đã thấy đấng đã được hứa! Tôi còn có thể xin cùng Thiên Chúa điều gì hơn nữa?” Và giơ tay lên trong điệu bộ trang nghiêm, ông xướng lên thánh vịnh của Đavít (34): “Tôi đã chờ đợi Chúa cách lo âu, và Người đã quay về cùng tôi”.
Nhưng ông không đọc hết, ông chỉ đọc những chỗ thích hợp với biến cố:
“Người đã nghe tiếng tôi kêu và Người đã kéo tôi ra khỏi vực thẳm khốn nạn của bùn lầy...
Người đã đặt trên môi tôi một bài ca mới.
Phúc cho người đặt hy vọng nơi Chúa.
Chúa đã làm biết bao kỳ diệu, ôi Chúa là Thiên Chúa tôi! Không ai giống như Người trong các chương trình của Người. Tôi muốn liệt kê ra, nhưng số lượng vượt qúa mọi sự liệt kê.
Chúa đã không muốn lễ hy sinh, cũng không muốn của dâng tiến, nhưng Chúa đã mở tai tôi...(ông càng lúc càng cảm động).
Có lời chép rằng con phải làm theo ý Chúa... Luật của Chúa ở trong tim con.
Con đã loan truyền sự công chính của Chúa cho cộng đoàn. Đây, con đã không ngậm miệng, Chúa biết, ôi Chúa!
Con đã không giữ sự công chính giấu kín ở trong con, con đã công bố sự thật của Chúa và sự cứu rỗi đến từ Ngài.
Nhưng Ngài, lạy Chúa, xin đừng lìa tình thương của Ngài xa con...
Những bất hạnh vô số đã đổ trên con... (ông khóc thực sự khi nói những lời này bằng một giọng mà nước mắt làm cho thành già hơn và run hơn).
Con là người hành khất và túng bấn, nhưng Chúa đã săn sóc con. Chúa là sự cứu trợ của con, Người bảo vệ con. Ôi Thiên Chúa, xin đừng chậm trễ!...”
Chúa ơi, đó là thánh vịnh, và con xin thêm vào lời của con: Xin
35
nói với con: “Hãy đến”, và con sẽ nói như thánh vịnh: “Đây, con đến”.
Ông nín lặng và khóc với tất cả đức tin của ông trong đôi mắt mờ vì năm tháng.
Người ta giải thích: “Ông đã mất người con gái. Cô ta để lại cho ông những đứa cháu. Vợ ông trở thành mù và khờ dại vì qúa nhiều đau khổ; và người ta không biết gì về đứa con trai duy nhất của ông. Anh ta mất tích mới đây”.
Giêsu để tay trên vai ông già và nói: “Sự đau khổ của các người ông chính cũng qua đi lẹ như con én khi so sánh nó với phần thưởng đời đời. Nhưng chúng ta sẽ tới trả lại cho Sara của ông đôi mắt của bà khi xưa và sự thông minh thời trẻ tuổi của bà, để bà an ủi cảnh già của ông”.
- Bà ta tên là Colombe - một người trong đám đông báo cáo.
- Bà là công chúa của ông ta. Nhưng hãy nghe dụ ngôn mà Thầy đề nghị cho các con.
- Thầy không đến giải thoát sự tối tăm cho mắt và trí khôn cho vợ con trước, để bà có thể nếm Sự Khôn Ngoan sao? - Ông già trưởng giáo đường hỏi cách lo lắng.
- Ông có tin là Thiên Chúa có thể tất cả, và quyền năng của Người đến từ một thế giới khác không?
- Ôi, lạy Chúa, vâng. Con nhớ vào một buổi chiều trước đây nhiều năm rồi, con sung sướng, nhưng con đã tin cả trong niềm vui, bởi vì thường thường khi người ta sung sướng, người ta có thể quên Thiên Chúa. Con, con tin ở Thiên Chúa dù là lúc sung sướng, như lúc con còn trẻ và vợ con dồi dào sức khoẻ, con Êlise của con lớn lên, một cô gái đẹp như một cây thốt nốt. Nó đã đính hôn, và thằng Êlisê đồng đều với nó về vẻ đẹp, nhưng thắng vượt nó về sức mạnh như thích đáng với một người đàn ông... Con cùng với con trai con ra suối ở gần các vườn nho, đó là của hồi môn của Colombe, để vợ con và con gái con ở nhà với khung cửi mà họ đang dệt các y phục lễ cưới... Nhưng có lẽ con làm phiền Thầy? Kẻ khốn nạn mơ màng nhớ tới kỷ niệm vui của qúa khứ... Nhưng những người khác chả
36
chú ý tới chuyện đó đâu...
- Nói đi! Nói đi!
- Con đi với đứa con... Cái suối... Nếu Thầy tới bằng con đường phía tây, Thầy biết nó ở chỗ nào... Cái suối ở biên giới của nơi được chúc phúc. Khi nhìn, người ta thấy cả tới bên kia sa mạc và con đường mầu trắng bằng đá của Rôma, khi đó còn rất rõ trong sa mạc Juđa... Sau đó cũng hết những dấu hiệu này, và chả là gì ngoài một dấu hiệu mất đi trong cát! Nhưng sẽ xấu khi dấu hiệu của Thiên Chúa, những dấu hiệu được sai đến để xác định Thầy, bị xóa bỏ trong thần trí của Israel, trong qúa nhiều thần trí! Con trai con đã nói với con: “Cha ơi, nhìn kìa, một đoàn du mục dài với ngựa, lạc đà, tôi tớ và các ông chúa... Họ tiến vào Engaddi. Có lẽ họ tới cái suối trước khi đêm xuống...” Con ngước mắt lên bên trên những cành cây mà con đã buộc lên vì nó rũ xuống sau mùa thu hoạch dồi dào, và con thấy... Đúng là đoàn người đi tới suối. Họ xuống khỏi yên và hỏi con xem họ có thể dựng lều ở chỗ này một đêm không.
- Engaddi có những nhà trọ, và nó rất gần đây - con trả lời.
- Không. Chúng tôi canh thức và sẵn sàng để chạy, vì Hêrôđê tìm chúng tôi. Từ chỗ này, các người gác nhìn thấy tất cả con đường, và sẽ dễ dàng để chạy trốn những kẻ tìm chúng tôi.
- Các ông đã phạm tội gì? - Con ngạc nhiên hỏi, và sẵn sàng để chỉ cho họ những cái hang trong núi của chúng con, vì đó là thói tục thánh của chúng con đối với những người bị bách hại. Và con thêm: “Qúi vị là những người ngoại quốc, và thuộc nhiều nơi khác nhau... Tôi không biết làm sao qúi vị lại có thể phạm tội chống lại Hêrôđê...”
- Chúng tôi đã thờ lạy Đức Messi sinh ra ở Bétlem xứ Juđa, và ngôi sao của Chúa đã hướng dẫn chúng tôi đến với Người. Hêrôđê tìm Người, như vậy là ông ta tìm chúng tôi, để chúng tôi chỉ cho ông chỗ Người ở. Ông ta tìm Người để giết. Chúng tôi, có lẽ chúng tôi sẽ tìm thấy cái chết trong sa mạc, trên con đường dài và lạ lẫm này. Nhưng chúng tôi không tố giác Đấng Thánh từ trời xuống.
Đức Messi, giấc mơ của mọi người Israel chân chính! Giấc mơ của con! Và Người đã ở trên trái đất! Và Người ở Bétlem xứ Juđa
37
theo lời tiên báo. Con ôm đứa con trai của con trong lòng và con hỏi họ các tin tức, hết mọi tin tức. Rồi con nói: “Nghe đó Êlisê, con hãy nhớ lấy. Chắc chắn con sẽ được thấy Người”. Con đã năm mươi tuổi, và con không hy vọng được thấy Người nữa... và con hy vọng sống lâu đủ để thấy Người... Nhưng nó, Êlisê... Nó cũng không được thờ lạy Người...
Ông già lại khóc, nhưng ông cầm lại và nói: “Ba nhà chiêm tinh đã nói cách bình tĩnh và dịu dàng. Họ đã tả cho con trẻ nhỏ thánh của Thầy, và người mẹ, và người cha... Con đã qua đêm đó với họ... Êlisê thì ngủ trong lòng con. Con đã chào ba nhà bác học và hứa với họ sẽ nín lặng để không làm hại cho họ bằng một sự tố giác có thể có. Nhưng với Colombe, trong phòng vợ chồng, con đã kể hết. Và điều đó là mặt trời giữa những bất hạnh rơi trên chúng con sau đó. Rồi con nghe về cuộc tàn sát... Trong bao năm trời, con không biết Thầy có an toàn không. Bây giờ con biết, nhưng chỉ có mình con, vì Êlise đã chết, Êlisê cũng không còn, và Colombe không còn nghe được tin mừng nữa... Nhưng niềm tin trong quyền lực của Thiên Chúa vẫn sống, và trở nên hoàn toàn kể từ cái đêm xa xôi đó, cái đêm ba người thuộc các nòi giống khác nhau đã minh chứng về sức mạnh của Thiên Chúa, trong việc đoàn kết linh hồn họ nhờ ngôi sao lạ, trên con đường của Thiên Chúa, để thờ lạy Ngôi Lời của Người”.
- Và niềm tin của ông sẽ được thưởng. Bây giờ hãy nghe đây: Đức Tin là gì? Đôi khi nó giống một hạt thốt nốt cứng, nhỏ bé, được tạo thành bởi một câu vắn tắt: “Có Thiên Chúa”, được xác định bởi một xác định duy nhất: “Tôi đã thấy Người”. Đức tin của Abraham nơi Thầy cũng vậy: nhờ vào các lời của ba nhà bác học phương đông. Đức tin của dân ta cũng vậy, từ những tổ phụ xa xôi, chuyển từ thế hệ nọ tới thế hệ kia. Từ Ađam tới các hậu duệ của ông. Ađam tội lỗi, nhưng người ta tin ông khi ông nói: “Có Thiên Chúa, và có chúng ta bởi vì Người đã dựng nên chúng ta. Và tôi, tôi biết Người”. Lòng tin này cũng vậy, càng ngày càng hoàn hảo, vì càng ngày càng được bộc lộ rõ ràng hơn như một sản nghiệp cho chúng
38
ta. Nó được soi sáng bởi những bộc lộ của Thiên Chúa, các sự xuất hiện của các thiên thần, các ánh sáng soi cho thần trí. Hạt giống vẫn luôn luôn bé tí so với Đấng Vô Tận, hạt giống tí hon, nhưng khi nó mọc rễ bằng cách chẻ ra cái vỏ cứng thuộc về động vật với các nghi ngờ và các khuynh hướng của nó, bằng cách chiến thắng các cỏ nguy hại của đam mê, tội lỗi, các meo mốc của suy đồi, các sâu đục khoét của các thói hư. Toàn thắng tất cả, đức tin vươn dậy trong lòng, lớn lên, lao về phía mặt trời. Nó lên cao, lên cao... cho tới vượt ra ngoài giới hạn của thể xác và tan hòa trong Thiên Chúa, trong sự hiểu biết Người cách trọn vẹn, trong sự chiếm hữu Người cách trọn vẹn, vượt ra ngoài sự sống và sự chết, tới đời sống thật.
Người có đức tin chiếm hữu được con đường sống. Kẻ biết tin không bị lầm lẫn. Nó nhìn thấy, nó nhận biết, nó phục vụ Chúa và nó chiếm hữu hạnh phúc vĩnh cửu. Đối với nó, Thập Giới là một thứ sinh tử, và tất cả những trật tự đến từ đó là những ngọc trai trang điểm cho chiếc triều thiên tương lai của nó. Đối với họ, lời hứa Đấng Cứu Thế là phần rỗi. Những kẻ tin trước khi Thầy đến đã chết rồi ư ? Không quan trọng. Đức tin của họ làm cho họ giống như những kẻ bây giờ tới gần Thầy với đức tin và tình yêu. Những người công chính đã chết sắp sửa được vui mừng, vì đức tin của họ sắp được thưởng. Sau khi Thầy đã làm trọn ý muốn của Thiên Chúa, Thầy sẽ đi và Thầy sẽ nói: “Hãy đến”. Và tất cả những người đã chết trong đức tin sẽ cùng với Thầy đi lên Nước Chúa. Trong đức tin, hãy bắt chước các cây thốt nốt của miền đất các con. Nó được sinh ra từ một cái hạt nhỏ, nhưng với một ý chí mạnh mẽ muốn phát triển, nó vươn thẳng lên, quên mặt đất, say sưa mặt trời và các tinh tú trên trời. Hãy tin ở Thầy. Hãy biết tin vào điều mà qúa ít người Israel biết tin. Và Thầy hứa với các con sự chiếm hữu Nước Trời bằng sự tha thứ tội nguồn gốc, và bằng phần thưởng chính đáng cho tất cả những ai thực hành giáo lý của Thầy, là sự thi hành rất êm đềm Thập Giới trọn hảo của Thiên Chúa.
Thầy sẽ ở lại giữa các con hôm nay và ngày mai, ngày Sabát thánh, và Thầy sẽ đi vào bình minh hôm sau ngày Sabát. Hết những
39
ai đau khổ, hãy đến với Thầy; hết những ai nghi ngờ, hãy đến với Thầy; hết những ai muốn được sống, hãy đến với Thầy. Đừng sợ, vì Thầy là Tình Thương và Tình Yêu.
Giêsu làm cử chỉ chúc phúc rồi cho các thính giả của Người giải tán để họ có thể ăn bữa tối và nghỉ ngơi. Người sắp sửa rời đi thì một bà già nhỏ thó, từ trước vẫn nấp tại góc đường, rẽ ra đám đông vẫn còn muốn ở lại với Thầy, và giữa những tiếng kêu ngạc nhiên của đám đông, bà tới qùi gối tại chân Giêsu và kêu lên: “Chúc tụng Thầy và Đấng Tối Cao đã sai Thầy tới! Và lòng dạ đã cưu mang Thầy không còn phải là lòng dạ đàn bà nữa, vì bà đã có thể mang Thầy”.
Một tiếng kêu đàn ông hòa lộn với tiếng bà: “Colombe! Colombe! Ôi! Bà trông thấy rồi! Bà nghe được rồi! Bà nói cách khôn ngoan với sự biết ơn Chúa! Ôi! Thiên Chúa! Thiên Chúa của cha ông con! Thiên Chúa Abraham, Isaac và Jacob! Thiên Chúa của các tiên tri! Thiên Chúa của Gioan, vị tiên tri! Thiên Chúa! Thiên Chúa của con! Con của Chúa Cha, là Vua giống như Chúa Cha! Là Vị Cứu Tinh vì vâng lời Chúa Cha! Là Thiên Chúa như Chúa Cha! Và Thiên Chúa của con! Thiên Chúa của tôi tớ Người. Nguyện cho Người được chúc tụng, được yêu mến, được theo bước, được tôn thờ đời đời”.
Và ông già trưởng giáo đường qùi gối bên cạnh bà già nhỏ của ông. Bằng tay trái, ông ôm bà ghì vào ngực, cúi xuống và kéo bà cúi xuống hôn chân Vị Cứu Tinh, trong khi tiếng la vui mừng của toàn thể đám đông làm rung động các thân cây, vì nó qúa mạnh, làm sợ hãi cả những con chim câu đã vào tổ, chúng bay ra lượn vòng bên trên Engaddi như để loan báo cho toàn thể thành phố rằng Đấng Cứu Thế đang ở bên trong các tường thành của nó.
81* CHỮA NGƯỜI CÙI ÊLISÊ THÀNH ENGADDI
40
Có lẽ dựa vào lời khuyên của chính các người Engaddi, các vị đã làm sớm hơn cuộc ra đi của họ, vì bây giờ còn hoàn toàn là đêm và mặt trăng hầu như tròn, soi sáng thành phố bằng ánh sáng rất mạnh. Các lối đi giống như những giải bạc ở giữa các căn nhà hình khối vuông và các bức tường bao quanh vườn, chúng đã đổi từ mầu vôi trắng qua mầu đá chạm do hậu qủa ma thuật của ánh trăng. Các cây thốt nốt và các cây khác mang vẻ kỳ quái, bị bao bọc trong ánh sáng huỳnh quang của mặt trăng. Các nguồn nước và các suối nhỏ giống như các giây chuyền bằng kim cương. Trong các chòm lá, các con họa mi ngân những chuỗi nốt, phối hợp tiếng ca huyền diệu của chúng với tiếng ca của nước mà trong đêm thanh, người ta nghe thấy rõ ràng hơn.
Thành phố đang yên giấc, nhưng có mấy người cùng ra đi với Giêsu. Đó là những người thuộc các căn nhà đã cho Giêsu và các tông đồ trọ, và mấy người dân khác nữa kết hợp với họ. Ông trưởng giáo đường bước đi bên cạnh Giêsu. Ôi! Ông ta không muốn từ bỏ việc hộ vệ Người, mặc dầu Giêsu đã bảo ông làm trước khi đi vào miền quê hoàn toàn.
Họ đi theo con đường về hướng Masada chứ không đi con đường thấp ven Biển Chết mà tôi nghe họ nói là dơ và nguy hiểm để đi về đêm. Họ đi con đường về phía nội địa, đục vào sườn đồi, hầu như gần đỉnh của các ngọn đồi bao quanh hồ.
Ốc đảo thật huy hoàng dưới ánh trăng! Người ta có cảm tưởng bước đi trong xứ mộng mơ. Rồi ốc đảo, cái ốc đảo thực sự chấm dứt, và các cây thốt nốt trở nên họa hiếm. Đây thực sự là miền núi với những cây cổ thụ, các đồng cỏ, các sườn núi có đào nhiều hang cũng giống như hầu hết các núi ở Palestin. Nhưng tôi thấy ở đây rất nhiều hang hơn, và các lối vào trông kỳ lạ về bề dài cũng như bề rộng. Có những cửa thẳng và những cửa nghiêng. Một số thì tròn ở lưng chừng núi, một số khác chỉ là một vết nứt. Chúng có vẻ ghê rợn dưới trăng thanh.
- Abraham, con đường ở dưới thấp tốt hơn, tại sao ông cứ tiếp tục lên dốc, kéo dài đường đất khi đi vào con đường khó đi này? - một người Engaddi phiền trách.
41
- Bởi vì tôi phải chỉ cho Đức Messi một cái gì, và xin Người làm thêm một ân huệ nữa, cộng thêm vào những ân huệ lớn lao mà Người đã làm cho chúng ta. Nếu qúi vị mệt thì qúi vị hãy trở về nhà, hoặc chờ tôi ở đây. Tôi sẽ đi một mình - ông già nói. Ông bước cách nặng nề, thở hổn hển trên lối đi khó khăn và dốc đứng.
- Ồ, không. Chúng tôi đi với ông. Nhưng chúng tôi thương cho sự mệt mỏi của ông. Ông hầu đứt hơi rồi...
- Ôi! Không phải tại con đường!... Tại chuyện khác cơ! Đó là lưỡi gươm đâm vào tim tôi... Đó là niềm hy vọng bơm phồng nó lên. Hãy đi, hỡi các con tôi, và các con sẽ biết một sự đau đớn chừng nào cho con tim của kẻ hàng an ủi tất cả những đau khổ của các con! Biết bao... không, thất vọng, điều đó thì không. Nhưng... sự nhẫn nhục khi không còn hy vọng nữa, không trông chờ niềm vui nào nữa, trong qủa tim của kẻ luôn luôn bảo các con trông cậy vào Thiên Chúa là đấng có thể tất cả... Tôi đã dạy qúi vị tin vào Đức Messi. Qúi vị có nhớ không? Tôi đã nói về Người cách bảo đảm chừng nào! Bây giờ tôi có thể nói mà không sợ làm nguy hại cho Người nữa. Qúi vị đã nói: “Nhưng cuộc tàn sát của Hêrôđê?” Đúng, nó như một cái gai lớn trong tim tôi. Nhưng tôi dính chặt toàn thân tôi vào hy vọng... Tôi đã nói: “Nếu với ba người này, dù cả đến họ không phải người Israel, mà Thiên Chúa đã sai ngôi sao để mời gọi họ đến thờ lạy con trẻ Messi; nếu Người đã sai nó chỉ đường cho họ tới nơi căn nhà nghèo mà các rabbi Israel, các hoàng tử, các thầy cả, các luật sĩ không biết tới; nếu bởi một giấc mơ, Người đã báo cho họ đừng trở lại nhà Hêrôđê, thì để cứu đứa trẻ, lẽ nào Người lại không dùng một sức mạnh lớn lao hơn để báo cho cha mẹ Người trốn đi, mang niềm hy vọng của Thiên Chúa và loài người tới nơi an toàn sao?”
Và lòng tin trong sự cứu Người đã lớn lên, dù thực sự bị tấn công bởi những ngờ vực của con người và những lời nói của kẻ khác... Và khi... và khi sự đau đớn lớn lao nhất mà một người cha có thể có đã chụp lấy tôi... khi tôi phải dẫn tới mồ một kẻ sống... và nói với nó: “Hãy ở lại đây bao lâu con còn sống... và hãy nghĩ rằng nếu
42
tình yêu những vuốt ve của người mẹ hay một lý do nào khác thúc đẩy con về nhà, thì cha là người đầu tiên phải nguyền rủa con, đánh con và biệt cư con vào một nơi mà tình yêu đau khổ của cha không còn có thể trợ cứu con”. Khi tôi phải làm điều đó... tôi còn bám chặt hơn vào lòng tin nơi Thiên Chúa, vào Vị Cứu Tinh của Người. Tôi tự bảo mình và bảo con tôi ... bảo đứa con trai cùi của tôi... qúi vị nghe không? Cùi... tôi nói: “Hãy cúi đầu chúng ta trước thánh ý Chúa, và hãy tin vào Đấng Messi của Người! Cha là Abraham, con là Isaac, toàn thiêu bởi sự dữ chứ không bởi lửa. Chúng ta hãy tiến dâng sự đau đớn của chúng ta để được phép lạ...” Và mỗi tháng, mỗi tuần trăng mới... tôi kín đáo đến đây, mang theo thực phẩm, quần áo... tình yêu, mà tôi phải để ở xa con tôi... vì tôi phải trở về sống bên cạnh qúi vị... các con cái của tôi... và bên cạnh bà vợ mù lòa của tôi, bà vợ đần độn của tôi, đã bị mù và khờ dại vì những đau đớn kinh khủng... Tôi trở về căn nhà không còn con cái nữa... cũng không còn sự bình an của một tình yêu hỗ tương ý thức nữa... về với ngôi giáo đường của tôi để nói ở đó về Thiên Chúa, về những cao cả của Người... về những vẻ đẹp Người tung vãi trong sự tạo dựng... Tôi có trong mắt tôi hình ảnh con trai tôi bị gặm mòn bởi bệnh tật... và tôi không thể bảo vệ nó khi tôi nghe những lời dèm pha xúc phạm đến nó, coi nó như đứa vô ơn, như một tội phạm, vì đã bỏ nhà trốn đi... Và mỗi tháng, khi làm cuộc hành hương của người cha tới mồ của đứa con trai sống, tôi đã nói với nó để nâng đỡ qủa tim nó. Tôi nhắc đi nhắc lại: “Đức Messi đã hiện hữu, Người sẽ đến, và Người sẽ chữa con...”
Năm ngoái, vào dịp lễ Vượt Qua tại Jêrusalem, con đã kiếm Thầy trong khoảng thời gian ngắn con có thể để bà vợ mù của con ở một nơi xa. Người ta đã nói với con: “Thực sự Người đang hiện hữu. Người mới ở đây ngày hôm qua. Người đã chữa cho cả những người cùi. Người đi vòng quanh Palestin trong khi chữa bệnh, yên ủi, dạy dỗ”. Ôi! Con trở về nhà lẹ tới nỗi con giống như chàng thanh niên đi dự tiệc cưới! Con cả đến không dừng lại ở Engaddi, nhưng con đến thẳng đây, con gọi con trai con, dòng dõi con đang
43
chờ chết, và con nói với nó: “Người sắp tới”.
Lạy Chúa! Ngài đã làm hết mọi điều lành cho thành phố chúng con. Thầy ra đi, không để lại một ai còn bệnh... Thầy đã chúc phúc cả đến cây cối và súc vật... Và Thầy không muốn... Thầy đã chữa vợ con... mà Thầy không thương cái qủa của lòng bà sao?... Một người con trai đối với một người mẹ! Xin trả người con lại cho bà mẹ. Thầy, người con trai trọn hảo của người mẹ đầy ơn phúc! Nhân danh mẹ Thầy, xin Thầy thương đến con, đến chúng con!...
Mọi người đều khóc với ông già, vì những lời của ông đầy cảm động và tan nát... Giêsu ôm ông trong cánh tay Người trong khi ông ta nức nở, và Người nói với ông: “Đừng khóc nữa! Chúng ta hãy đi tìm Êlisê của ông. Đức tin của ông, sự công chính của ông, lòng trông cậy của ông đáng được điều này và hơn nữa. Hỡi người cha, đừng khóc. Và chúng ta đừng chậm trễ hơn nữa để giải thoát cho một tạo vật khỏi điều kinh khủng này”.
- Trăng đã tà, lối đi khó khăn. Chúng ta không thể chờ tới bình minh sao? - một số người nói.
- Không. Ở chung quanh chúng ta có nhiều cây có nhựa, hãy bẻ cành của chúng để đốt làm đuốc, và chúng ta đi - Giêsu ra lệnh.
Họ còn lên dốc nữa bởi một lối đi hẹp và khó. Người ta nói đây là đáy của một dòng nước nhất thời đã khô. Các ngọn đuốc nổ lốp đốp, tỏa khói và ánh sáng đỏ lạt, làm lan trong không khí một mùi nhựa mạnh.
Một cái hang với lối vào hẹp, hầu như bị che kín bởi cành của nhiều thứ cây mọc lên từ một bờ suối. Bên ngoài đó là một cao nguyên hẹp, bị cắt ở giữa bởi một đường nứt, nơi con suối chảy vào.
- Êlisê ở đó từ mấy năm rồi... chờ đợi cái chết hay hồng ân của Thiên Chúa - ông già chỉ vào cái hang và nói nhỏ.
- Hãy gọi con ông và khích lệ nó, bảo nó đừng sợ, nhưng hãy tin.
Abraham gọi lớn tiếng: “Êlisê! Êlisê! Con trai ba!” Và ông nhắc lại tiếng kêu, run lên vì sợ, bởi lẽ chỉ có sự yên lặng trả lời cho ông.
- Có lẽ anh ta chết rồi! - có mấy người nói.
44
- Chết, không! Bây giờ, không! Lúc kết thúc sự hành hạ của nó! Không một niềm vui, không! Ôi! Con trai tôi! - người cha rên rỉ.
- Đừng khóc. Gọi nữa đi.
- Êlisê! Êlisê! Sao con không trả lời cho...
- Cha ơi! Cha của con! Sao cha đến ngoài giờ thông thường? Có lẽ mẹ con chết rồi? Và cha đến để... - tiếng nói lúc đầu nghe như ở xa, sau nghe tới gần, và một hình hài quái gở rẽ các cành cây che lối ra. Một hình hài khủng khiếp! Một bộ xương nửa trần, bị gặm nhấm bởi bệnh cùi...
Nhìn thấy nhiều người với gậy gộc và đuốc sáng, anh ta tưởng tượng - tôi không biết điều gì - và anh ta giật lùi khi la: “Cha ơi! Tại sao cha phản bội con? Con không bao giờ ra khỏi đây... Tại sao cha dẫn người ta tới ném đá con?”
Tiếng nói xa dần và hình dạng biến mất, chỉ còn lại các cành cây nhúc nhích như một kỷ niệm.
- Hãy khuyến khích nó. Hãy nói với nó là Vị Cứu Tinh đang ở đây - Giêsu hối.
Nhưng người đàn ông không còn sức... Ông ta khóc thảm thiết.
Chính Giêsu nói: “Hỡi con trai của Abraham và của Cha trên Trời, hãy nghe đây: Đã nên trọn điều mà người cha công chính của con đã nói tiên tri. Vị Cứu Tinh đang ở đây, và cùng với Người, có các bạn con ở Engaddi và các tông đồ của Đức Messi. Họ đến để chung vui sự sống lại của con. Hãy tới, đừng sợ. Hãy ra cho tới chỗ đường núi nứt, và Thầy cũng sẽ tới đó, Thầy sẽ đụng vào con và con sẽ được lành sạch. Hãy tới. Đừng sợ Chúa, vì Người yêu con!”
Các cành cây lại rẽ ra và người cùi hoảng sợ nhìn ra bên ngoài. Anh ta nhìn Giêsu, hình dạng trắng, đang bước trên cỏ của cao nguyên, và Người dừng lại trước chỗ nứt. Anh ta nhìn những người khác, đặc biệt là cha già của anh đang như bị thôi miên theo sau Giêsu, hai tay giơ ra, mắt nhìn đăm đăm vào người con cùi. Anh ta tiến lên cách bảo đảm, rất khập khễnh vì các vết thương ở chân... Anh giơ cánh tay ra với đôi bàn tay bị ăn mòn. Anh ta đến trước mặt Giêsu... Anh ta nhìn Người. Giêsu giơ đôi bàn tay rất đẹp, ngước
45
mắt lên trời, tựa như Người thu thập trên Người tất cả ánh sáng của vô vàn vì sao đang chiếu những tia sáng huy hoàng rất trong sạch trên xác thể ô uế, hư nát, tơi bời như giẻ rách mà các cây đuốc vu va để nó cháy mạnh hơn và cho nhiều ánh sáng hơn, làm cho nó càng có vẻ ghê sợ hơn trong ánh sáng đỏ của các cành cây cháy.
Giêsu cúi xuống trên đường đá nứt, Người đụng đầu ngón tay của Người vào đầu ngón tay của người cùi và Người nói: “Ta muốn”. Người nói lời đó với một nụ cười đẹp vô tả. Người lại nhắc lại: “Ta muốn” hai lần nữa. Người cầu nguyện và ra lệnh bằng lời này...
Rồi Người tránh ra, lùi một bước trong khi giang tay ra như hình Thánh Giá và Người nói: “Khi con được sạch, con hãy rao giảng Chúa, vì con thuộc về chính Người. Con hãy nhớ rằng Thiên Chúa yêu con, bởi vì con là một người Israel tốt và là người con trai tốt. Hãy có một người vợ và các con cái, và hãy làm cho chúng lớn lên cho Chúa. Đây là lúc tiêu tan mọi nỗi cay đắng nhất của con. Hãy chúc tụng Chúa và hãy sống hạnh phúc”.
Rồi Người quay lại và nói: “Qúi vị, với đuốc cháy sáng, hãy tiến lên mà coi điều Chúa làm cho kẻ xứng đáng”.
Người hạ tay xuống, vì Người giang tay như vậy thì áo khoác của Người che không cho họ nhìn thấy người cùi. Và Người bước tránh ra.
Tiếng kêu đầu tiên là tiếng kêu của ông già, lúc trước qùi gối ở đàng sau Giêsu: “Con! Con! Con giống như lúc con hai mươi tuổi! Đẹp trai giống như lúc đó! Tráng kiện giống như lúc đó! Đẹp! Ôi! Còn đẹp trai hơn lúc đó!... Ôi! Một cái bảng, một cành cây, một cái gì để lại tận chỗ con!” Và ông lao tới.
Nhưng Giêsu giữ ông lại: “Không, niềm vui không được làm cho ông lỗi luật. Trước tiên phải để nó thanh tẩy! Hãy nhìn nó, hôn nó bằng mắt và trái tim. Lúc này cũng hãy mạnh mẽ như ông đã mạnh mẽ trong bao năm trường. Và hãy sung sướng...”
Thực sự, đây là một phép lạ hoàn toàn, không phải chỉ là một sự chữa bệnh, mà là sự kiến tạo lại những thứ mà bệnh tật đã phá hủy. Và Người đàn ông, khoảng bốn mươi tuổi, toàn vẹn tựa như anh ta
46
không có chuyện gì. Anh ta chỉ còn lại cái dáng gầy làm cho anh ta có vẻ khắc khổ của sắc đẹp siêu nhiên và ít thông thường. Anh ta vẫy tay, qùi gối, chúc tụng... không biết làm gì để nói với Giêsu là anh ta cám ơn Người. Sau cùng, anh ta nhìn thấy các bông hoa trong đám cỏ, anh ta hái lấy, hôn chúng rồi vất qua bên kia vết nứt, tới chân Giêsu, Vị Cứu Tinh.
- Nào, bây giờ qúi vị người Engaddi, hãy ở lại với ông trưởng giáo đường của qúi vị. Còn chúng tôi, chúng tôi tiếp tục về phía Masada.
- Nhưng qúi vị không biết đường, qúi vị không nhìn thấy...
- Thầy biết, Thầy biết đường. Thầy biết tất cả, hết mọi con đường của trái đất, và con đường của các con tim mà qua đó, hoặc Thiên Chúa, hoặc kẻ thù của Thiên Chúa đi qua. Và Thầy thấy ai là người đón nhận người nọ hay người kia. Hãy ở lại, hãy ở lại trong bình an của Thầy! Hơn nữa, trời sẽ mau sáng, với những cành cây đốt cháy, chúng ta sẽ soi đường cho tới rạng đông. Abraham, tới đây để Thầy cho ông cái hôn từ giã. Nguyện Chúa luôn luôn ở với ông như Người đã ở với ông cho tới lúc này, và với các người của ông, và với thành phố đẹp của ông.
- Lạy Chúa, Ngài không trở lại nữa sao? Để coi căn nhà của con trong hạnh phúc.
- Không. Đường đi của Thầy sắp tới đích. Nhưng ông sẽ ở với Thầy trên Trời, và các thân nhân của ông cùng với ông. Hãy yêu nhau và làm cho các trẻ em lớn lên trong đức tin nơi Đức Kitô... Chào tất cả. Bình an và phúc lành cho tất cả những người hiện diện và gia đình của họ. Bình an cho con, Êlisê. Hãy trọn lành vì biết ơn Chúa. Đi, các con, các tông đồ của Thầy...
Và Người đứng trước nhóm nhỏ. Họ giơ cao các cành cây cháy sáng và tiến bước. Người đi vòng một khối đá nhô lồi ra và biến mất với y phục trắng của Người. Các tông đồ cũng biến mất người nọ sau người kia. Tiếng động của bước chân họ xa dần, ánh lửa đỏ của các cành cây bị xóa tan...
Trên cao nguyên còn lại người cha và người con trai ngồi ở hai bên vết nứt của núi để nhìn ngắm nhau... Nhóm các người Engaddi
47
còn lại ngồi ở đàng sau ông với các lời rì rầm cảm phục... Họ chờ bình minh để trở về thành phố với cái tin về sự chữa lành kỳ diệu.
82* TẠI MASADA.
Họ đang lên dốc tại một lối để cho dê đi về phía một ngọn núi trông giống như một tổ chim ưng trên đỉnh núi Alpe. Họ tới đó với rất nhiều khó khăn, bằng cách đi từ tây sang đông, quay lưng về một dẫy không gián đoạn, là một phần thuộc về toàn thể miền núi xứ Juđê. Bởi một con đường dốc ngược, giống như bức tường song song với những bức thành khổng lồ, nó tiến ra Biển Chết ở phía cực đông của nó, tức là về miền giới hạn của Biển Chết ở phía nam. Đây thực sự là miền dốc thẳng, đơn độc, cheo leo, nơi ưa thích của các chim ưng trong mùa làm tình vương giả của chúng, khinh bỉ tất cả mọi chứng kiến của xã hội.
- Lạy Chúa! Thật là con đường!...- Phêrô rên rỉ.
- Còn tệ hơn con đường ở Jiphtael - Mathêu xác nhận.
- Nhưng ở đây không mưa, không ẩm ướt. Chúng ta không bị trượt. Đó đã là một điểm - Thađê nhận xét.
- Hé, đúng! Đó là một điều an ủi... Nhưng đâu phải chỉ có vậy. Không sợ gặp kẻ thù! Nếu không có động đất làm cho anh nhào thì con người không thể làm cho anh té được - Phêrô nói khi chỉ về khu pháo đài ép chặt giữa cái vòng hẹp của hai đồn canh, với những căn nhà chen chúc, cái nọ xây sát vào cái kia như hạt lựu trong cái vỏ dầy của nó.
- Con tin vậy à Phêrô? - Giêsu hỏi.
- Nếu con tin? Con nhìn thấy nó! Và còn hơn nữa!...
Giêsu lắc đầu và không đối đáp gì.
- Có lẽ tốt hơn là nên đi lối bờ bể. Nếu có Simon ở đây... Ông ta biết những vùng này - Batôlômêo rên rỉ. Ông ta hầu không bước nổi nữa.
- Khi các con đã tới thành phố, và các con nhìn thấy con đường
48
kia, các con sẽ cám ơn Thầy vì đã chọn đường này. Ở đây, tuy một cách khó khăn, nhưng người ta còn có thể leo lên được. Ở con đường kia, một con dê cũng đi qua một cách khó khăn - Giêsu trả lời.
- Làm sao Thầy biết? Có ai đã nói với Thầy hay...?
- Thầy biết. Lại nữa, lối này mới là chỗ đứa con dâu của Anania ở. Trước tiên, Thầy muốn nói với bà ta.
- Thưa Thầy... Không có nguy hiểm ở trên kia chứ ? Tại vì... từ đây, người ta không thể thoát ra mau lẹ được. Nếu chúng đuổi bắt chúng ta thì... khỏi có về nhà nữa. Nhìn coi, cái hố sâu chừng nào, và đá nhọn chừng nào! - Tôma nói.
- Đừng sợ. Tuy chúng ta sẽ không tìm được một Engaddi, các Engaddi nữa, vì nó có qúa ít trong Israel. Nhưng sẽ không có sự gì dữ xảy ra cho chúng ta đâu.
- Là vì... Thầy biết, đó là một pháo đài của Hêrôđê?...
- Thì sao? Đừng sợ, Tôma ơi! Bao lâu chưa tới giờ thì sẽ không có gì trầm trọng xảy ra cả.
Họ đi, họ đi, và họ tới gần những bức tường không mấy hấp dẫn, trong khi mặt trời đã lên rất cao, nhưng cao độ điều hòa sức nóng.
Họ đi vào thị trấn qua cái vòm của chiếc cửa hẹp và tối. Các bức tường của pháo đài rất chắc, với những tháp dầy và những cái lỗ sát nhân.
- Đúng là cái bẫy thú! - Mathêu nói.
- Tôi, tôi nghĩ tới những kẻ khốn nạn đã phải mang tới đây những vật liệu này, những khối đá này, những tấm sắt này... - Giacôbê Alphê nói.
- Tình yêu thánh đối với quê hương và sự độc lập đã làm cho gánh nặng trở nên nhẹ nhàng đối với những người của Jonatha Maccabê. Tình yêu đồi trụy với chính mình và sự sợ hãi cơn giận của dân chúng đã đặt một cái ách nặng, không phải trên các thuộc hạ, nhưng trên những kẻ đã trở nên xấu hơn các nô lệ do ý muốn của Hêrôđê cả. Được tắm trong máu và nước mắt, nó sẽ chết trong máu và nước mắt khi tới giờ cho sự trừng phạt của Thiên Chúa.
49
- Nhưng thưa Thầy, những người dân ở đây là gì trong việc đó?
- Là không và là tất cả. Khi họ đua đòi với các thủ lãnh của họ trong tội lỗi hay trong hành động tốt, họ sẽ chia sẻ với chúng phần thưởng hay hình phạt. Nhưng đây, căn nhà thứ ba trong con đường thứ hai, với một cái giếng ở đàng trước. Ta đi...
Giêsu gõ vào chiếc cửa đóng của một căn nhà cao và hẹp. Một đứa trẻ mở cho Người.
- Có phải con là bà con của Anania không?
- Con mang tên của ông, bởi vì đó là cha của ba con.
- Hãy đi gọi mẹ con. Hãy nói với bà là ông đến từ xứ của Anania, và là nơi có ngôi mộ của người chồng qúa cố của bà.
Đứa trẻ đi rồi trở lại: “Bà nói là đối với bà, không quan trọng gì việc có tin tức của ông già. Bà nói ông có thể đi đi”.
Giêsu có khuôn mặt rất nghiêm khắc: “Ông chỉ đi sau khi đã nói với bà. Con hãy đi nói với bà là Giêsu Nazarét, người mà ông chồng của bà tin, đang ở đây, và Người muốn nói với bà. Hãy bảo bà đừng sợ, ông già không ở đây...”
Đứa trẻ lại đi. Sự chờ đợi thật dài. Người qua lại dừng bước để quan sát, một số hỏi han các môn đệ. Nhưng cảnh huống có vẻ khắt khe, hoặc dửng dưng, hoặc đố kỵ. Các tông đồ cố gắng lịch sự, nhưng rõ ràng là họ có ấn tượng, và họ càng vậy hơn khi các kỳ hào và các người võ trang đến. Những người nọ cũng như những người kia, với những khuôn mặt... tù khổ sai, không cho người ta sự tin tưởng.
Giêsu ở tại ngưỡng cửa, tựa lưng vào khung cửa, khoanh tay, kiên nhẫn chờ trong suy tư.
Sau cùng, đây, người đàn bà: cao lớn, tóc đen, con mắt cay nghiệt, diện mạo mạnh mẽ. Bà ta không già, không xấu, nhưng cách bày tỏ của bà làm cho bà thành xấu và già: “Ông muốn gì? Nói nhanh đi, tôi có việc phải làm”. Bà nói cách hách dịch.
- Tôi không muốn gì, không gì cả. Bà hãy vững tâm. Tôi chỉ mang cho bà sự tha thứ của Anania, tình cảm của ông, lời cầu nguyện của ông...
50
- Tôi không lấy những thứ đó. Đừng cầu nguyện vô ích. Tôi không ưa những ông già hay khóc. Giữa chúng tôi, tất cả đều đã chấm dứt. Ngoài ra tôi lại sắp lấy chồng, và tôi không thể để cái ông già nhà quê thô kệch này ở trong nhà một người giầu sang. Tôi đã đủ lầm lẫn để lấy con trai ông ta. Nhưng lúc đó tôi là đứa con gái khờ dại, chỉ nhìn vẻ đẹp của anh ta. Khốn cho tôi! Khốn cho tôi! Thật đáng nguyền rủa cái lý do đã đặt anh ta trên con đường của tôi. Cần khai trừ kể cả những kỷ niệm của... - bà ta giống như cái máy.
- Đủ rồi! Hãy kính trọng những người sống và những người chết mà bà không đáng có. Đàn bà khô cằn hơn là đá lửa! Khốn cho bà! Đúng, khốn nạn! Bởi vì bà không có tình yêu tha nhân, và Satan nó ở trong bà. Nhưng hỡi bà, hãy run sợ! Hãy run sợ là nước mắt của ông già và của chồng bà, mà chắc chắn bà đã làm cho nên nặng nề vì sự thiếu tình yêu của bà, trở nên mưa lửa trên những gì là thân thiết đối với bà. Bà có con cái mà! Ôi! Hỡi bà!...
- Con cái! Ôi! Chớ gì tôi không phải có chúng! Như vậy cả cái giây liên hệ sau cùng cũng đứt. Lại nữa, tôi không muốn nghe gì nữa. Tôi không muốn nghe. Đi đi! Tôi ở trong nhà tôi, trong nhà của anh tôi. Tôi không biết ông. Tôi không muốn nhớ tới ông già. Không...
- bà ta la lên như chim ác bị vặt lông sống. Đúng là một bà chằng...
- Bà hãy coi chừng! - Giêsu nói.
- Ông dọa tôi à?
- Tôi nhắc lại cho bà về Thiên Chúa, về luật của Người, vì thương linh hồn bà. Bà muốn dạy dỗ con bà thế nào với những tình cảm này? Bà không sợ sự phán xét của Thiên Chúa sao?
- Ôi! Đủ rồi! Saul, hãy đi gọi anh tôi, bảo ông tới cùng với Jonatha. Tôi sẽ cho ông coi! Cho ông...
- Ồ, khỏi cần. Linh hồn bà sẽ không bị Thiên Chúa ép buộc. Chào.
Giêsu ra đi giữa đám người. Đường phố hẹp ở giữa những dẫy nhà cao. Thành phố được xây để bảo vệ nên cũng có con tim của cùng sự bảo vệ này trong phần ở phía đông của nó, nơi mà tất cả đều gie ra cả trăm mét, và là nơi lối đi như một sợi băng ngoằn
51
ngoèo. Một con dốc thực sự choáng váng dẫn từ đồng bằng, từ bờ biển, lên tới đỉnh dốc.
Ngay chính đó là chỗ Giêsu tới, nơi có một quảng trường nhỏ để đặt các máy móc chiến tranh. Người bắt đầu nói, nhắc lại một lần nữa lời mời gọi tới Nước Trời mà Người cho những hàng giản lược. Người đang sắp khai triển thì có một số kỳ hào, họ vừa mở đường để đi qua đám đông nhỏ tò mò hơn là tin, vừa cãi cọ với nhau. Khi họ đến gần trước mặt Giêsu, họ vẫn còn nói lộn xộn. Tất cả chỉ đồng ý với nhau một điều là đuổi Giêsu đi. Họ ra lệnh cho Người:
- Đi khỏi đây đi! Ở đây chúng tôi đã có đủ người để dạy dỗ con cái Israel rồi.
- Đi đi! Các phụ nữ của chúng tôi không cần nhận những lời trách móc của ông, tên Galilê!
- Đi đi! Tên xúc phạm! Làm sao mày dám xúc phạm đến bà vợ của một người thuộc về Hêrôđê? Trong một thành phố ưu ái của vị Đại Đế Hêrôđê? Từ lúc mày sinh ra, mày đã là kẻ tiếm vị quyền bá chủ chính đáng của Người! Cút khỏi đây đi!
Giêsu nhìn chúng, nhất là những kẻ sau cùng, và Người chỉ nói với họ một lời duy nhất: “Giả hình”.
- Cút đi! Cút đi!
Đây thực là một huyên náo của đủ thứ tiếng nói bất đồng. Mỗi người lo phần mình, la lối để kết án hoặc bảo vệ giai cấp của mình. Người ta không còn hiểu gì nữa. Tại cái quảng trường nhỏ, các phụ nữ la lối, ngất xỉu, các trẻ em khóc lóc, vì những người mang khí giới từ trên pháo đài chính đi xuống, họ phăng lối đi giữa đám đông. Trong khi làm như vậy, họ gây thương tích cho những người chen chúc trong quảng trường. Những người này phản ứng bằng cách quăng những lời nguyền rủa chống lại Hêrôđê và lính của ông, chống lại Đức Messi và những kẻ theo Người. Một cảnh huyên náo tuyệt đẹp!
Các tông đồ bao vây sát chung quang Giêsu. Họ là những người duy nhất bảo vệ Người với ít hoặc nhiều can đảm. Đến lần họ cũng la lên những lời nguyền rủa cay chua. Vậy là có đủ cho mọi người.
52
Giêsu gọi họ và nói: “Ra khỏi đây đi. Chúng ta đi vòng sau thành phố, và chúng ta sẽ đi lối đó...”
- Và đi luôn. Thầy biết đó? Đi vĩnh viễn! - Phêrô kêu lên, mặt đỏ gay vì giận.
- Đúng, đi vĩnh viễn...
Họ chuồn đi, người nọ sau người kia. Và mặc dầu sự năn nỉ của các tông đồ, người đi sau cùng vẫn là Giêsu. Các lính gác, trong lúc chế diễu “vị tiên tri bị đuổi”, giống như họ vẫn dỡn với mọi thứ chuyện, họ đã có linh cảm tốt để đóng cửa thành lại, đứng tựa lưng vào đó, chỉa khí giới vào quảng trường.
Giêsu đi theo một lối đi hẹp dọc theo tường thành, một lối đi chỉ rộng nửa mét, bên dưới là khoảng không, là chỗ chết. Các tông đồ theo Người, tránh không dám nhìn xuống cái vực thẳm kinh hãi.
Đây, họ lại đến trước cái cổng mà họ đã vào. Giêsu bắt đầu xuống dốc không hề dừng chân. Kinh thành cũng vội vã đóng các cửa lại.
Khi đã xa thành phố nhiều mét, Giêsu dừng lại và để tay trên vai Phêrô. Ông nói trong khi lau mồ hôi: “Chúng ta đã trốn thoát họ an toàn! Thành phố vô phúc! Đàn bà vô phúc! Ôi! Tội nghiệp cho Anania! Bà ta còn tệ hơn bà mẹ vợ con nữa!... Đúng là rắn độc!”
- Đúng. Bà ta có qủa tim lạnh của loài rắn. Simon Jonas, con nói sao? Mặc dầu tất cả những thứ để bảo vệ, thành phố này có an toàn không?
- Chúa ơi không. Nó không có Thiên Chúa ở trong nó. Con nói nó sẽ cùng số phận như Sôđôma và Gomora.
- Con nói đúng, Simon Jonas. Nó đang chồng chất trên mình nó những sấm sét của cơn thịnh nộ Thiên Chúa. Và như vậy không phải vì nó đã đuổi Thầy cho bằng vì ở trong nó, Thập Giới bị lỗi phạm trong tất cả mọi điều. Bây giờ chúng ta hãy đi. Một cái hang đá sẽ đón tiếp chúng ta trong bóng mát của nó vào giờ đầy mặt trời này. Tới hoàng hôn, chúng ta sẽ đi Kêriot bao lâu mặt trăng còn cho phép.
- Thầy của con ơi! - Gioan rên rỉ trong tiếng nấc bất ngờ. Mọi người khác đều hỏi: “Nhưng cậu làm sao vậy?”
53
Gioan không giải thích. Ông hơi cúi, lấy hai bàn tay che mặt và khóc... Ông đã có vẻ một Gioan bị hành hình trong ngày của cuộc tử nạn rồi...
- Đừng khóc! Lại đây... Chúng ta vẫn còn những ngày giờ êm đềm trước mắt chúng ta - Giêsu nói khi kéo ông lại với Người. Điều này làm cho qủa tim ông được an ủi, nhưng làm cho nước mắt ông trào ra dào dạt hơn.
- Ôi! Thầy! Thầy của con! Con sẽ làm thế nào? Con sẽ làm thế nào?
- Nhưng tại sao vậy em?
- Tại sao vậy bạn? - Giacôbê và những người khác hỏi.
Gioan ngập ngừng không muốn nói. Rồi ông ngửa mặt lên, lấy hai tay ôm ghì lấy cổ Giêsu, bó buộc Người phải nghiêng xuống trên khuôn mặt bối rối của ông. Ông khóc và trả lời Giêsu thay vì trả lời những người hỏi ông: “Để thấy Thầy chết!”
- Thiên Chúa sẽ trợ giúp con. Con là đứa con cưng của Người. Con sẽ không thiếu sự trợ giúp của Người. Đừng khóc nữa. Chúng ta đi thôi. Đi...
Và Giêsu bước trong khi cầm tay vị tông đồ bị mù vì nước mắt.
83* TẠI CĂN NHÀ Ở MIỀN QUÊ
CỦA MARIA, MẸ JUDAS
Các đấng tới căn nhà ở miền quê của Judas vào một buổi sáng mát mẻ và thanh quang. Các cây táo ẩm ướt sương đêm, và ở gốc nó, cỏ trông giống như một cái thảm hoa, nơi bầy ong bay vù vù. Các cửa sổ nhà đã mở rộng.
Người điều khiển căn nhà là một người đàn bà khỏe mạnh. Bà điều hòa quyền bính của bà bằng một sự êm đềm đáng phục. Bà đang ra lệnh cho các tôi tớ và các nông dân, và tự tay bà, bà phân phát thực phẩm trước khi sai họ đi, người nào việc nấy. Qua chiếc cửa mở rộng của căn nhà bếp mênh mông, người ta thấy bà đi lại
54
trong y phục đậm mầu, nói với người nọ người kia, làm những phần tùy theo nhu cầu của người làm việc. Một đàn bồ câu chờ bà, gù gù trước cửa. Chúng cũng có phần của chúng.
Giêsu tiến bước, mỉm cười. Khi Người gần tới ngưỡng cửa thì Maria Simon xuất hiện với một bịch hạt trong tay. Bà nói: “Bây giờ đến lần chúng mày, đàn bồ câu. Đây là bữa ăn đầu tiên, rồi hãy sung sướng đi ra dưới mặt trời để ngợi khen Thiên Chúa. Bình tĩnh nào! Có phần cho tất cả, không cần chúng mày phải mổ nhau...” Và bà vãi hạt theo mọi hướng để ngăn cản những ẩu đả dã man giữa các con chim câu tham lam. Bà không nhìn thấy Giêsu, vì bà nhìn xuống, và bà cúi sâu để vuốt ve một con gà đang mổ trên ngón chân bà vì tình cảm. Maria ôm một con trong tay, vuốt ve, rồi lại để nó xuống đất và thở dài.
Giêsu tiến thêm một bước nữa và nói: “Bình an cho bà, Maria, và cho nhà bà!”
- Thầy! - Người đàn bà kêu lên, để rơi bịch hạt bà đang cầm trong tay. Bà chạy tới gặp Giêsu, làm những con bồ câu bay trốn, nhưng rồi chúng lại đậu xuống đất ngay và chúng làm việc kịch liệt với cái giây cột bịch để tháo nó ra, và với lớp vải để xé rách nó cho thỏa mãn tính tham ăn của chúng. “Ôi! Lạy Chúa! Một ngày thánh và sung sướng biết bao!” Và bà sắp sửa qùi gối để hôn chân Giêsu, nhưng Người ngăn cản bà và nói: “Các bà mẹ của các tông đồ Thầy và các bà Israel thánh không cần hạ mình như các nô lệ trước mặt Thầy. Các bà đã cho Thầy tinh thần trung thành và các con trai của họ. Thầy cho lại các bà tình yêu và sự ưu ái”.
Bà mẹ Judas cảm động. Bà hôn tay Giêsu và thì thầm: “Cám ơn Chúa!”
Rồi bà ngước mắt lên nhìn nhóm nhỏ các tông đồ đang đứng lại dưới cái cây sau cùng. Bà ngạc nhiên vì không thấy con trai bà tới gặp bà. Bà quan sát nhóm người cách chăm chú hơn. Sự sợ hãi làm bà tái mét. Với giọng hầu như khóc, bà hỏi: “Con trai con, nó đâu?” Rồi bà nhìn Giêsu, sợ sệt và lo lắng.
- Đừng sợ, Maria. Thầy đã sai nó cùng với Simon Zêlote tới nhà Lazarô làm một sứ mạng. Nếu Thầy đã có thể dừng lại ở Masada
55
một khoảng thời gian như Thầy đã dự định thì Thầy đã gặp nó ở đây. Nhưng Thầy không thể dừng lại ở đó. Thành phố đầy hận thù đã xua đuổi Thầy. Và Thầy vội vã tới đây để tìm sự khích lệ ở bên một bà mẹ mà Thầy đã khích lệ bằng cách cho biết là con bà phục vụ Chúa - Giêsu nói khi nhấn mạnh những tiếng sau cùng để thêm gia trọng cho nó.
Maria như một bông hoa héo lại trở nên tươi, đôi má trở lại hồng hào, ánh sáng trở lại trong cái nhìn của bà. Bà hỏi: “Thật à Chúa? Nó tốt? Nó làm cho Thầy vui? Đúng? Ôi! Vui chừng nào! Niềm vui trong tim của người mẹ. Con đã cầu nguyện biết bao cho nó! Biết bao! Con đã bố thí biết bao! Biết bao! Và sự thống hối... Biết bao... Con có thể không làm gì để làm cho con trai con thành vị thánh? Cám ơn Chúa! Cám ơn vì đã yêu nó biết bao! Bởi vì chính tình yêu của Thầy cứu nó, thằng Judas của con...”
- Đúng, chính tình yêu “của chúng ta”... nâng đỡ nó...
- Tình yêu của chúng ta! Lạy Chúa, Thầy tốt chừng nào! Thầy đặt tình yêu hèn mọn của con ở bên cạnh, kết hợp với tình yêu của Thầy là Thiên Chúa!... Ôi! Thầy đã cho con những lời!... Biết bao an toàn, biết bao an ủi, biết bao bình an Thầy đã cho con cùng với những lời đó! Nếu chỉ có tình yêu hèn mọn của con thì Judas của con rút ra được rất ít lợi ích. Nhưng Thầy, với sự tha thứ của Thầy... Vì Thầy biết các lỗi của nó, Thầy, với tình yêu vô hạn của Thầy, tựa như phát triển hơn lên theo đà nhu cầu của nó sau mỗi lầm lỗi. Ôi Thầy! Sau cùng... Judas của con sẽ thắng được chính mình nó, mãi mãi, phải không Thầy? - Bà nhìn Người đăm đăm bằng đôi mắt sâu đoan chính của bà, tay chắp lại như cầu nguyện.
Giêsu... Ôi! Giêsu không thể nói với bà tiếng “Ừ”, không thể từ chối bà cái giờ bình an này, cái giờ làm tan nỗi lo sợ của bà... Người tìm một lời không phải là nói dối, không phải là một lời hứa, nhưng làm cho người đàn bà có thể đón nhận cách nhẹ nhõm. Người nói: “Thiện chí của nó kết hợp với tình yêu của chúng ta, có thể làm nên phép lạ thực sự, Maria ạ. Hãy bình an trong tâm hồn bà. Hãy luôn luôn nhớ rằng Thiên Chúa yêu bà rất nhiều, rằng Người
56
hiểu bà rất nhiều, và Người sẽ là bạn hữu bà đời đời”.
Maria lại hôn tay Người để cám ơn Người, rồi bà nói: “Vậy mời Thầy vào trong nhà trong khi chờ đợi Judas. Ở đây có tình yêu và bình an, thưa Thầy đáng chúc tụng”.
Sau khi đã gọi các người của Ngài, Giêsu vào trong nhà để nghỉ ngơi và bồi dưỡng.
Bây giờ là buổi chiều. Đêm về từ từ trên đồng quê. Các thứ tiếng động ngưng từng loại một, sau cùng chỉ còn lại gió nhẹ thổi qua các chòm lá để làm nên một tiếng nói trong thinh lặng. Rồi, đây, con dế đầu tiên lên tiếng trong mùa lúa chín của cánh đồng. Một con khác... rồi một con khác nữa, rồi tất cả đồng quê inh ỏi một bài ca đều đều, cho tới khi một con họa mi tung cho các ngôi sao tiếng ca nghi vấn đầu tiên của nó ngừng lại. Nó nghe ngóng, rồi nó lại ca, rồi nó lại ngừng... Nó chờ chi?... Có lẽ nó chờ tia sáng đầu tiên của mặt trăng? Nó xì xèo nhè nhẹ, chắc hẳn nó đậu trên cây hồ đào rậm rạp ở gần nhà, chắc hẳn nó làm tổ ở đó. Hình như nó nói chuyện với bạn tình của nó đang ấp trứng... Một tiếng bê bê tha thiết ở hơi xa. Một hồi lục lạc vang trên con đường dẫn về Kêriot. Rồi yên lặng.
Giêsu ngồi gần Maria trên những chiếc ghế ở trước nhà. Người nghỉ ngơi thoải mái giữa các người của Ngài và các người của căn nhà. Giờ giấc êm ái, bình lặng, làm cho thân xác và tâm hồn được nhẹ nhõm. Giêsu nói ít, cách quãng. Người để các tông đồ nói về Engaddi, về ông già trưởng giáo đường, về phép lạ. Maria và các đầy tớ của bà nghe cách chăm chú.
Có cái gì động đậy ở giữa các cây táo. Nếu chỗ này, tại cái khoảng nhỏ ở trước căn nhà, người ta còn nhìn thấy lờ mờ nhờ ánh sáng của các ngôi sao mọc đầy trời, thì ở đàng đó, dưới những tàn lá rậm, không có chút ánh sáng nào, chỉ có tiếng động của cái gì nhúc nhích đi được tới tai.
- Con vật gì ăn đêm? Một con cừu lạc bầy? - nhiều người hỏi. Và kỷ niệm về con cừu trở lại trong trí nhớ của nhiều người, về con cừu
57
than khóc vì người ta bắt con nó để giết.
- Con vật này, nó không thể nguôi lòng! - người quản lý nói. “Tôi sợ nó mất sữa. Từ sáng đến giờ nó không ăn, và nó kêu bê bê... bê bê... Nghe đó!...”
- Cái đó rồi sẽ qua. Nó đẻ con chiên cho người ta ăn - một người đầy tớ nói triết lý.
- Nhưng chúng nó không giống nhau. Con này nó ít ngu hơn và nó khổ nhiều hơn. Mày nghe không? Giống như nó khóc. Xin Thầy đừng nói là con ngu... Điều đó làm con thấy đau như nghe tiếng khóc của một người đàn bà bị mất con.
- Ôi mẹ ơi! Nhưng trái lại, mẹ tìm được nó, con trai mẹ - Judas nói khi ông xuất hiện ở sau lưng họ cùng với Simon, làm mọi người giật nảy và ngạc nhiên.
- Thầy ơi! Phúc lành của Thầy cho lúc trở về, giống như Thầy đã cho chúng con lúc đi.
- Ừ, Judas - và Giêsu ôm hôn hai tông đồ trở về.
- Và của má nữa, má à... - và Maria cũng hôn con bà.
- Thầy ơi, chúng con không nghĩ là gặp Thầy ở đây. Chúng con đã bước hầu như không ngừng, và thường đi những con đường tắt để khỏi bị giữ lại. Nhưng chúng con đã gặp các môn đệ, và chúng con đã báo cho Jeanne và Êlise là họ sắp gặp chúng ta - Simon giải thích.
- Đúng. Và Simon đã bước như một thanh niên. Thầy ơi, chúng con mang tin: Lazarô rất bệnh. Sức nóng càng làm cho ông đau hơn. Người ta khuyên ông nên trở về nhà ông ngay... Thưa Thầy, ngoại trừ Antonia, nơi con đã tới để làm vui lòng Egla, vì trước khi đi Jêricô, cô muốn cám ơn Claudia, con không đi đâu cả. Có phải không Simon?
Đúng vậy. Và chúng con đã tới Antonia vào lúc chính ngọ của một ngày nồng nực mà mọi người chỉ nên ở trong nhà. Trong khi Judas nói với Claudia mà Albula Domitilla đã gọi ra ngoài vườn, con bị mấy bà khác đặt câu hỏi. Con tin rằng đã không làm sai khi cắt nghĩa, như con có thể, về những điều các bà muốn biết.
- Con đã làm đúng. Các bà có thiện chí muốn biết chân lý.
58
- Và Claudia có thiện chí thực muốn giúp Thầy. Bà đã cho Egla đi. Cô này cũng đã chào Plautina và các bà khác. Bà đã hỏi con nhiều câu. Nếu con hiểu đúng thì bà muốn thuyết phục Ponciô đừng tin vào các lời vu khống của các pharisiêu, các saddu và những người khác. Ponciô tin vào các ông bách binh đội trưởng của ông tới một điểm nào đó thôi, tin nhiều về trận địa, nhưng tin rất ít vào các phúc trình. Và ông dùng nhiều đến vợ ông là người thông minh, mà cả đến ranh mãnh nữa, để có những tin tức chắc chắn. Trong thực tế, Thủ Hiến chính là Claudia, ông ta chỉ là không. Ông giữ địa vị bởi vì có bà ta như sức mạnh và như cố vấn. Các bà đã muốn cho tiền các người nghèo của Thầy, nó đây.
- Các anh tới nơi hồi nào vậy? Các anh không có vẻ mệt, cũng không phủ đầy bụi - Giacôbê Zêbêđê hỏi.
- Giữa giờ thứ ba và giờ ngọ. Chúng tôi đã đi Kêriot để coi má tôi có ở đó không, để báo tin cho bà là Thầy tới. Nhưng con đã ở như Thầy muốn. Con đã không để mình bị cám dỗ bởi những ước muốn nhân loại. Có phải không Simon?
- Đúng vậy.
- Con đã làm đúng. Hãy luôn luôn vâng lời, và con sẽ cứu được mình.
- Thưa Thầy vâng. Ôi! Bây giờ con biết là Claudia vào phe với chúng ta, con không còn những vội vã ngu xuẩn nữa! Nhưng toàn là tình yêu. Thầy phải đồng ý điều đó. Tình yêu lộn xộn... Lộn xộn bởi vì nó cảm thấy không được bảo vệ, không được giúp đỡ để đi tới đích, và làm cho Thầy được yêu, được kính trọng như Thầy đáng được và như phải là. Bây giờ con an tâm hơn. Con không sợ nữa. Cả chờ đợi con cũng thấy êm... - Judas mơ mắt mở.
- Judas, đừng thả mình vào giấc mơ. Hãy luôn luôn ở trong chân lý. Thầy là ánh sáng thế gian. Ánh sáng luôn luôn là ghê tởm đối với tối tăm - Giêsu nói để cảnh cáo ông.
Trăng đã lên. Ánh sáng trắng của nó bao trùm miền quê, làm xanh xao các khuôn mặt; nhà cửa, cây cối như phủ bạc. Cây hồ đào được soi sáng hoàn toàn ở phía đông. Con họa mi tiếp nhận lời mời
59
của vầng trăng, cất cao bài ca dài du dương mà nó đã giữ lại để chào đêm và trăng.
84* TỪ BIỆT TẠI KÊRIOT
Giêsu nói ở bên trong giáo đường Kêriot. Người ta chen chúc một cách khó tưởng tượng. Người đang trả lời cho người nọ người kia hỏi Người lời khuyên về những vấn đề đặc biệt cá nhân. Sau khi đã làm họ thỏa mãn, Người nói lớn:
- Thưa qúi vị xứ Kêriot, hãy nghe dụ ngôn từ biệt của Thầy. Chúng ta hãy cho nó cái tên là: Hai ý muốn.
Một người cha toàn vẹn có hai đứa con trai. Ông yêu cả hai đứa với cùng một tình yêu khôn ngoan. Cả hai đều được khuyến khích để đi vào con đường tốt. Không có một khác biệt nào về cách yêu thương và hướng dẫn chúng. Nhưng có sự khác nhau rõ ràng giữa hai người con: một đứa, người con cả thì khiêm nhường, vâng lời, làm theo ý muốn của cha, không cãi lý, luôn luôn vui vẻ và bằng lòng với công việc.
Đứa kia, tuy nhỏ tuổi hơn, nhưng thường bất bình. Nó thường cãi lý với cha nó cũng như với cái tôi riêng của nó. Nó không ngừng suy nghĩ, làm những việc đắn đo rất loài người về những lời khuyên và những mệnh lệnh nó nhận được. Thay vì thi hành như nó được ban bố, anh ta cho phép mình sửa đổi, hoặc tất cả, hoặc một phần, tựa như người ra lệnh là người ngu đần. Người anh cả nói với anh ta: “Đừng làm như vậy, em làm cho cha buồn”. Nhưng anh ta trả lời: “Anh là thằng ngốc. Anh chỉ to xác và thô kệch. Hơn nữa, vì là con trưởng nên bây giờ anh đã trưởng thành. Ôi! Tôi không muốn ở lại ngang hàng, nơi ba đã đặt anh vào, nhưng tôi muốn làm hơn: áp đặt các đầy tớ để chúng hiểu rằng chính tôi là chủ. Anh thì với sự êm đềm vĩnh đại của anh, anh cũng chỉ giống như người đầy tớ thôi. Tận thâm tâm, anh không thấy rằng khi anh đi qua, chả ai thèm để ý, dù anh là trưởng nam sao? Có một số còn đi tới chỗ chế
60
diễu anh...” Người con thứ bị quyến rũ, và còn hơn là bị quyến rũ, anh ta là đồ đệ của Satan. Anh ta chú tâm thi hành mọi lời xỏ xiên để quyến rũ người con cả, nhưng anh này trung thành với Chúa trong việc vâng giữ lề luật cũng như vẫn trung thành với cha anh, người mà anh tôn kính bằng lối sống hoàn hảo của anh.
Nhiều năm qua đi, người con thứ bứt rứt vì không thể hoành hành như anh ta mơ, sau khi đã nhiều lần anh xin với cha anh: “Hãy ra lệnh cho con hành động nhân danh cha, vì danh dự của cha, thay cho cái anh ngu đần này, hiền còn hơn một con cừu”. Sau khi đã nhiều lần thúc đẩy anh cả của anh làm hơn những điều cha anh truyền để áp đặt các đầy tớ, các đồng hương, các láng giềng, anh ta tự nhủ: “Ôi! Đủ rồi! Sự nổi tiếng của chúng ta đang bị liên lụy, bởi vì không ai muốn hành động. Tôi, tôi sẽ hành động”. Rồi anh ta bắt đầu làm việc chỉ với đầu óc của anh, lao đầu vào kiêu căng, nói dối, bất tuân không e dè.
Người cha nói với anh: “Con ơi, hãy vâng phục anh cả của con, nó biết phải làm gì” ông ta nói: “Người ta nói với cha là con đã làm điều nọ điều kia, có đúng không?” Người con thứ nhún vai trả lời cho câu trước và câu sau của cha anh: “Anh ấy biết! Anh ấy biết! Anh ấy qúa rụt rè, ngập ngừng. Anh ấy thiếu điều kiện để chiến thắng. Con, con không hành động như vậy”. Người cha nói: “Đừng tìm sự giúp đỡ nơi người nọ người kia. Con muốn ai có thể giúp con hơn là chúng ta để làm rạng danh cho chúng ta. Đó là những bạn hữu giả, chúng kích thích con để rồi sau đó chúng cười vào các chi phí của con”. Người con thứ lại nói: “Ba ghen vì con là người đề xướng sao? Lại nữa, con biết là con hành động đúng”.
Lại qua đi một thời gian nữa. Người con trưởng luôn luôn thăng tiến trong sự công chính, người con thứ ôm ấp những ước vọng xấu. Sau cùng người cha nói: “Đã đến lúc phải chấm dứt những chuyện đó. Hoặc con phục tùng những điều cha nói, hoặc con mất tình yêu của cha”. Kẻ phản ngụy đi nói với các bạn xấu của anh, họ trả lời: “Bạn sẽ làm gì với chuyện đó? Ồ, không. Có cách hành động để đặt người cha trong điều kiện không thể thương đứa con nọ hơn đứa
61
con kia chứ! Hãy đặt ông ta trong tay chúng ta, và chúng ta sẽ làm công việc của chúng ta. Bạn sẽ tránh được những thiệt hại về vật chất, và của cải sẽ sinh hoa lợi. Sau khi hủy bỏ những điều khoản qúa khoan dung, anh sẽ có thể cho họ những rạng ngời. Anh không biết rằng thà dùng bạo lực, dù bắt phải chịu khổ, còn hơn là bất động để phí phạm của cải sao?”
Và đứa con thứ từ đó hoàn toàn đồi bại, liên kết với những đồng lõa bất xứng.
Bây giờ hãy nói cho Thầy: người ta có thể trách cứ người cha là đã cho hai đứa con ông hai lối giáo dục khác nhau không? Không. Vậy làm sao một người con là thánh, còn người kia hư hỏng? Ý muốn đã được ban cho con người từ trước, có phải là được ban theo hai phương cách khác nhau không? Không. Nó được ban theo một cách duy nhất. Nhưng con người đã thay đổi nó theo ý thích của họ. Kẻ tốt thì làm cho nó thành tốt, kẻ xấu thì làm cho nó thành xấu.
Thầy, hỡi các con người Kêriot, Thầy thúc giục các con, và đây là lần sau cùng Thầy thúc giục và khuyến khích các con theo con đường của sự khôn ngoan, chỉ theo với ý muốn tốt mà thôi. Thầy đang sắp kết thúc sứ mạng của Thầy. Thầy nói với các con những lời đã được hát lúc Thầy sinh ra: “Bình an cho những người thiện chí”. Bình an tức là sự thành công, tức là chiến thắng ở dưới đất và ở trên trời, vì Thiên Chúa ở với người có thiện chí muốn vâng lời Người. Thiên Chúa không nhìn vào những việc vang lừng mà người ta làm do họ tự đề xướng, cho bằng nhìn sự vâng lời khiêm tốn, mau mắn, trung thành với những việc Người đề nghị.
Thầy nhắc lại cho các con hai giai đoạn trong lịch sử Israel, hai bằng chứng là Thiên Chúa không ở tại nơi mà con người muốn tự ý hành động, dày xéo lên mệnh lệnh mà họ đã nhận. Chúng ta hãy coi, sách Maccabê có chép rằng: Trong khi Juđa Maccabê cùng với Jonatha đi chiến đấu ở Galaad, và trong khi Simon đi giải phóng cho những miền khác ở Galilê, ông đã ra lệnh cho Giuse con của Jacari, và cho Azarias thủ lãnh của dân, là hãy ở lại Juđê để bảo vệ nó. Juđa nói với họ: “Hãy săn sóc dân chúng, đừng lao họ vào
62
chiến tranh với các dân cho tới khi chúng tôi trở về”. Nhưng Giuse và Azarias nghe nói về các chiến thắng của các Maccabê, cũng muốn bắt chước họ nên nói với nhau: “Chúng ta cũng hãy làm nổi danh chúng ta. Hãy đi chiến đấu với các dân ở chung quanh chúng ta”. Họ đã bị bại trận và bị đuổi bắt. Và sự thất bại của dân rất bi thảm, vì họ không vâng lời Juđa và các em ông, tưởng là mình hành động anh hùng, nhưng đó là kiêu căng và bất tuân.
Và ta đọc thấy gì trong sách các vua? Ta đọc: Saul bị khiển trách lần thứ nhất, rồi lần thứ hai. Và ở lần thứ hai, ông bị bài xích vì không vâng lời tới nỗi Đavít đã được chọn để thay thế ông, vì ông bất tuân. Các con hãy nhớ, hãy nhớ: Chúa muốn lễ toàn thiêu, lễ hy sinh, hay Người muốn ta vâng lời tiếng nói của Người? Sự vâng lời có giá hơn lễ hy sinh; sự phục tùng có giá hơn chiên béo hy lễ. Vì sự phản động là một tội phù thủy, sự từ chối vâng lời là tội thờ tà thần: “Vì ông từ bỏ lời Chúa, Chúa cũng từ bỏ ông và cất lấy vương quyền của ông”.
Các con hãy nhớ, hãy nhớ: Khi Samuel vâng lời, đổ đầy dầu vào chiếc sừng của ông và tới nhà Isai ở Bétlem, vì Chúa đã chọn một ông vua khác. Isai ngồi vào bàn tiệc với các con ông sau khi đã làm lễ hy sinh. Lúc đó các con của Isai được giới thiệu với Samuel. Trước tiên là Êliab, con trưởng, cao lớn, đẹp trai. Nhưng Chúa nói với Samuel: “Đừng chú ý tới khuôn mặt và vóc dáng của nó, bởi vì ta đã chừa nó ra. Ta không xét đoán theo cái nhìn của con người. Con người cảm phục những gì mắt họ nhìn thấy, nhưng Chúa nhìn trong qủa tim”. Và Samuel không nhận Êliab làm vua. Ông giới thiệu Abinadab. Nhưng Samuel nói: “Chúa cũng không chọn đứa này”. Và Isai giới thiệu với ông Samma, nhưng Samuel nói: “Nó cũng không được Chúa chọn”. Và tiếp tục như vậy tới hết bảy con trai của Isai hiện diện tại bữa tiệc. Samuel nói: “Có phải đây là tất cả các con trai của ông không?” Isai trả lời: “Không, còn một đứa nữa, còn nhỏ, đang chăn cừu”. “Hãy gọi nó tới, vì chúng ta sẽ không ngồi vào bàn trước khi nó về”. Và Đavít tới, một đứa trẻ tóc vàng, đẹp trai. Chúa nói: “Hãy xức dầu cho nó. Chính nó là vua”.
63
Vì các con hãy luôn luôn biết điều này: Thiên Chúa chọn kẻ nào người muốn, và người cất lấy của kẻ nào không đáng vì đã làm hỏng ý Người bởi kiêu căng và bất tuân. Sau lần này, Thầy sẽ không trở lại giữa các con nữa. Ông Thầy đang kết thúc sứ mạng của Người. Sau đó, Người sẽ hơn là một người Thầy. Các con hãy chuẩn bị tâm hồn cho giờ ấy. Các con hãy nhớ, việc Thầy sinh ra đã được chào đón cho các kẻ có thiện chí, cũng vậy, việc thăng thiên của Thầy sẽ được chào đón cho những người có thiện chí theo Thầy như một người Thầy trong giáo thuyết của Thầy, và cho những kẻ sau đó sẽ theo Thầy như vậy, cả sau khi Thầy lên trời.
Chào các ông, các bà, các trẻ em Kêriot. Chào. Chúng ta hãy nhìn vào mắt nhau. Chúng ta hãy làm sao cho con tim của chúng ta, của Thầy và của các con, tan hòa trong cái ôm ấp của tình yêu giã từ. Và nguyện cho tình yêu luôn luôn sống động, cho dù khi Thầy không còn nữa, không bao giờ còn nữa ở giữa các con...
Tại đây, vào lúc Thầy đến lần thứ nhất, một người công chính đã tắt thở trong cái hôn của Vị Cứu Tinh của ông trong một thị kiến vinh quang... Ở đây, lần này là lần sau cùng Thầy đến, Thầy chúc lành cho các con với tình yêu.
Chào!... Nguyện Thiên Chúa ban cho các con lòng tin, lòng trông cậy và lòng bác ái trong mức độ trọn hảo. Xin Người ban cho các con tình yêu, tình yêu, tình yêu, cho ông ta, cho thầy, cho những người tốt, cho những kẻ khốn nạn, cho kẻ có tội, cho những kẻ phải mang gánh nặng của một tội không phải là tội của họ.
Các con hãy nhớ! Hãy nhân từ. Đừng bất công. Các con hãy nhớ là không những Thầy tha cho kẻ có tội, mà Thầy còn bao bọc tình yêu trên toàn thể Israel. Toàn thể Israel, gồm những kẻ tốt và những kẻ không tốt, cũng như trong một gia đình, có những người tốt và những người không tốt. Vậy khi bảo một gia đình là xấu vì một trong những phần tử của nó xấu, là điều bất công.
Thầy đi... nếu còn ai trong các con cần nói với Thầy thì họ hãy đến nhà Maria Simon ở miền quê vào buổi chiều.
Giêsu giơ tay chúc lành, rồi Người đi ra rất lẹ bởi một cái cửa
64
phụ. Các người của Ngài theo sau. Người ta rì rầm:
- Người không trở lại nữa.
- Người muốn nói gì vậy?
- Người có nước trên mi khi nói lời từ biệt.
- Qúi vị có nghe không? Người nói Người sẽ lên!
- Vậy ra Judas thực sự có lý! Chắc chắn sau này Người sẽ là vua, và người không còn ở giữa chúng ta như bây giờ nữa...
- Nhưng tôi, tôi đã nói chuyện với các anh Người, họ nói Người sẽ không là vua như người ta nghĩ, nhưng là vua Cứu Chuộc như các tiên tri nói. Người sẽ là Đấng Messi, vậy đó!
- Chắc chắn là vua Messi.
- Nhưng không! Vua Cứu Chuộc, con người của đau thương.
- Đúng.
- Không! ...
Nhưng Giêsu đi lẹ về miền quê.
85* ANNA VÀ MARIA KÊRIOT.
TỪ BIỆT BÀ MẸ JUDAS.
- Lạy Chúa, Thầy sẽ không đi với con, với một mình con, tới nhà một bà mẹ khổ sở sao? Đó là điều con ước ao hơn mọi điều khác - Maria Simon nói. Bà đứng cách trọng kính trước mặt Giêsu, trong khi, sau bữa ăn trưa, các tông đồ tản mát đó đây để nghỉ trước khi lại lên đường vào buổi chiều. Còn Giêsu, Người đứng dưới bóng những cây táo đầy trái xanh đã bắt đầu chín. Hình như Maria tiếp tục một câu chuyện đã bắt đầu rồi.
- Ừ, bà ơi, Thầy cũng vậy, Thầy muốn ở với một mình bà trong những giờ sau cùng này, giống như Thầy đã làm vậy trong những giờ đầu tiên. Đi.
Họ vào trong nhà, Giêsu là để lấy áo khoác, Maria là để lấy khăn voan và áo khoác của bà.
Họ ra đi bởi một con đường băng qua cánh đồng, giữa những cây
65
táo và những cây lớn khác. Trời còn nóng. Từ cánh đồng đang mùa trái chín, thổi về những luồng gió nóng. Gió của miền núi thì điều hòa nhiệt độ, nhưng gió ở đồng bằng thì rất khó chịu.
- Con không muốn làm Thầy phải bước trong sức nóng này, nhưng trễ hơn... thì chúng ta không thể nữa. Con đã ước ao điều này biết bao mà chưa bao giờ dám xin Thầy. Vừa nãy Thầy đã bảo con: “Maria, để chứng tỏ rằng Thầy yêu bà tựa như bà là bà mẹ đối với Thầy, Thầy bảo bà hãy xin Thầy điều bà ước ao, Thầy sẽ làm vui lòng bà”. Vì vậy con dám. Chúa ơi, Thầy biết chúng ta đi đâu không?
- Không bà ơi.
- Chúng ta đi tới nhà một bà, đáng lẽ đã là mẹ vợ của Judas... (Maria thở dài đau đớn). Đáng lẽ bà... Bà đã không và sẽ không bao giờ là vậy nữa, vì Judas đã bỏ rơi cô gái. Cô ta đã chết vì buồn... Và bà mẹ thù ghét con và con trai con. Bà không ngừng nguyền rủa chúng con... Judas rất là... rất là... rất là yếu đuối trước sự ác tới nỗi chỉ có điều duy nhất nó cần là phúc lành!... Con mong rằng Thầy nói với bà... Thầy có thể thuyết phục bà... nói với bà rằng không làm đám cưới là có phước... Nói với bà rằng con không là gì về chuyện đó... Nói với bà rằng cô ta chết không oán hận, vì người con gái chết từ từ, tâm hồn bị bóp nghẹt. Con muốn có sự bình an giữa chúng con... vì con, con rất khổ vì chuyện đó. Con xấu hổ vì điều đã xảy ra. Con đau khổ khi thấy tình bạn bị cắt đứt đối với người đàn bà đã là bạn con từ lúc con đến đây làm vợ. Tóm lại là Thầy biết, lạy Chúa!...
- Ờ, đừng lo. Điều bà xin là chính đáng. Thầy lãnh trách nhiệm về việc vận động tốt này.
Sau khi đã băng qua một thung lũng nhỏ, họ đi lên một miền đất cao khác, trên đó có một ngôi làng.
- Anna ở đây từ lúc con gái bà chết, trong cơ nghiệp của bà. Trước đó bà ở Kêriot. Khi bà còn ở đó, và khi chúng con gặp nhau, những lời mắng trách của bà làm con tan nát trái tim.
Họ đi xéo vào một con đường hơi ở đàng trước làng, và đi tới một căn nhà thấp ở giữa cánh đồng.
66
- Đó. Ôi! Qủa tim của con run lên, vì bây giờ con ở đây! Bà không muốn thấy con... Bà sẽ đuổi con... Bà sẽ tức giận... Và qủa tim tội nghiệp của bà sẽ đau đớn... Thầy!...
- Được, Thầy vào một mình. Bà hãy ở lại đây cho tới khi Thầy gọi bà. Và hãy cầu nguyện để giúp Thầy.
Giêsu tiến lên một mình cho tới chiếc cửa mở rộng của căn nhà, nơi lời chào dịu dàng của Người vọng vào.
Một người đàn bà chạy tới: “Ông muốn gì? Ông là ai?”
- Tôi đến mang sự nâng đỡ cho bà chủ của bà. Hãy dẫn tôi lại chỗ bà ấy.
- Thầy thuốc à? Vô ích! Hết hy vọng rồi. Qủa tim của bà đang chết.
- Còn có linh hồn phải săn sóc. Tôi là rabbi.
- Danh hiệu này cũng vô ích. Bà không nghỉ ngơi trên Đấng Hằng Hữu, và bà không muốn nghe các bài giảng. Hãy để cho bà yên.
Chính vì bà đang ở trong tình trạng này nên tôi đã tới. Hãy để tôi vào và bà ấy sẽ bớt khổ trong những ngày sau cùng của bà.
Người đàn bà nhún vai và nói: “Vào đi!”
Hành lang nửa sáng nửa tối và mát. Có nhiều cửa. Ở đáy hành lang, chiếc cửa sau cùng hé mở, từ đó phát ra tiếng rên rỉ. Người đàn bà tới đó, đi vào và nói: “Thưa bà chủ, có vị rabbi nuốn nói với bà”.
- Tại sao? Để nói với tôi là tôi bị nguyền rủa? Là tôi không được bình an cả ở đời sau? - Bà nói hổn hển, bực tức.
- Không, để nói với bà là bình an sẽ trọn vẹn, miễn là bà canh chừng, và bà sẽ được hạnh phúc với Joanne của bà đời đời - Giêsu nói khi Người ở ngưỡng cửa.
Người bệnh vàng khè, sưng phù, thở hổn hển trên giường, nằm tựa trên nhiều chiếc gối, nhìn Người và nói: “Ôi! Những lời!... Lần đầu tiên một vị rabbi không khiển trách tôi... Hy vọng chừng nào!... Joanne của tôi... với tôi... trong hạnh phúc... Không còn đau đớn... đau đớn bởi một kẻ vô phúc... mà kẻ cưu mang nó đã không ngăn
67
cản nó... Bởi kẻ đã phản bội tôi... sau khi đã nịnh hót tôi... Con gái tội nghiệp của tôi...” Và bà thở hổn hển càng lúc càng mạnh.
- Ông thấy không? Ông đã làm cho bà đau. Tôi biết mà! Đi ra đi!
- Không. Bà đi đi. Hãy để tôi một mình...
Người đàn bà lắc đầu đi ra. Giêsu từ từ bước lại gần giường. Người êm ái lau mồ hôi cho người bệnh, vì bà không sao làm được với đôi tay sưng phù của bà. Người quạt cho bà bằng cái quạt lá thốt nốt. Người cho bà uống, vì bà tìm thứ đồ uống để trên bàn nhỏ để giải khát. Người giống như người con bên giường bà mẹ bệnh. Rồi Người ngồi, nhẹ nhàng nhưng cương quyết hoàn thành nhiệm vụ của Người.
Người đàn bà quan sát mọi cử chỉ của Người và bình tĩnh lại. Với một nụ cười đau đớn, bà nói với Người: “Anh đẹp trai và tốt. Anh là ai? Ôi! Rabbi? Anh có sự tế nhị của con gái cưng của tôi, làm cho tôi được an ủi”.
- Tôi là Giêsu Nazarét!
- Ngài?! Ngài?!... Ở nhà tôi... Tại sao?...
- Bởi vì Thầy yêu bà. Thầy cũng có một người mẹ, và Thầy thấy mẹ Thầy trong tất cả các bà mẹ... Và trong nước mắt của mọi bà mẹ, Thầy thấy nước mắt của mẹ Thầy...
- Tại sao? Mẹ Thầy khóc à? Tại sao? Bà đã chết một đứa con khác sao?
- Chưa... Thầy là con duy nhất của bà, và Thầy còn sống. Nhưng bà đã khóc, bởi vì bà biết rằng Thầy phải chết.
- Ôi! Ôi! Tội nghiệp cho bà! Phải biết trước rằng một người con sắp chết! Nhưng làm sao bà biết được điều đó? Thầy lành lặn, khỏe mạnh. Thầy tốt. Tôi, tôi đã mang những ảo mộng cho tới khi nó chết, và nó đã rất bệnh!... Làm sao Mẹ Thầy biết là Thầy phải chết?
- Vì Thầy là con người đã được các tiên tri nói trước. Thầy là con người của đau thương mà Isaie đã nhìn thấy, là Đức Messi mà Đavít đã hát và đã tả trong các cực hình cứu chuộc của Ngài. Thầy là Vị Cứu Tinh, là Đấng Cứu Thế. Ôi! Bà ơi, và cái chết đang chờ Thầy,
68
khủng khiếp!... Mẹ Thầy sẽ tham dự vào đó... Và mẹ Thầy biết từ lúc sinh Thầy ra rằng qủa tim của mẹ sẽ bị mở ra giống như qủa tim của Thầy bởi sự đau đớn... Đừng khóc... Bởi sự chết của Thầy, Thầy sẽ mở cửa Thiên Đàng cho Joanne của bà.
- Cho con nữa! Cho con nữa!
- Ừ, vào lúc của nó. Nhưng trước hết, bà phải học yêu thương và tha thứ. Hãy trở lại với tình yêu, với sự công chính và tha thứ... Nếu không, bà không thể lên Trời với Joanne, với Thầy...
Người đàn bà khóc lo lắng. Bà rên rỉ: “Yêu... yêu trong khi người ta dạy chúng con ghét... Khi Thiên Chúa hết yêu chúng con bằng cách hết thương xót chúng con! Khó quá!... Làm sao yêu được khi người ta hành hạ chúng con, khi bạn bè làm tổn thương và Thiên Chúa bỏ rơi chúng con”.
- Không. Không có vấn đề bỏ rơi. Thầy, Thầy ở đây để nói với bà những lời hứa của Trời Cao, để cho bà sự bảo đảm rằng sự đau đớn của bà sẽ kết thúc trong vui mừng, miễn là bà canh chừng. Anna, hãy nghe Thầy đây... Bà khóc vì đám cưới bị bãi bỏ, bà làm cho nó thành nguyên do của tất cả những đau đớn của bà. Bà kết án một người đàn ông là sát nhân, và vì đó, bà mẹ khốn khổ của ông ta là đồng lõa. Hãy nghe đây Anna: Chỉ còn một ít tháng nữa là bà sẽ thấy rằng: Thật là một ơn phúc của Trời vì Joanne đã không lấy được Judas...
- Đừng nói đến tên nó - người đàn bà kêu.
- Thầy nói đến tên nó để cho bà biết là bà phải cám ơn Chúa, và bà sẽ cám ơn Người trong mấy tháng nữa...
- Con sắp chết...
- Không. Bà sẽ sống, và bà sẽ nhớ đến Thầy, và bà sẽ hiểu rằng có những đau khổ còn lớn lao hơn đau khổ của bà.
- Lớn hơn à? Không thể được.
- Và sẽ là gì cái đau khổ của Mẹ Thầy khi phải nhìn thấy Thầy chết trên thập giá?
Giêsu đứng dậy, rất oai nghiêm: “Và đau khổ của bà mẹ kẻ đã phản bội Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa? Ôi! Bà ơi! Hãy nghĩ đến bà
69
mẹ này... Bà thì... toàn thể Kêriot, tất cả vùng quê và ở bên ngoài đó nữa, đều thương cho sự đau đớn của bà. Bà đã có thể được vinh hiển vì đó như một triều thiên tử đạo. Nhưng người mẹ này! bà giống như mẹ Cain, nhưng bà là Abel: nạn nhân của đứa con phản bội của bà ta, kẻ giết Thiên Chúa, kẻ phạm thượng, bị nguyền rủa. Bà sẽ không chịu nổi cái nhìn của loài người, vì mọi cái nhìn đều như một hòn đá ném vào bà; và trong mọi tiếng nói của loài người, mọi lời nói, bà nghe thấy như sự nguyền rủa, sự chúc dữ. Và bà sẽ không tìm được nơi trú ẩn trên trái đất, không bao giờ, cho tới lúc bà chết, cho tới khi Thiên Chúa công bằng nhận người mẹ tử đạo về với Người, để làm cho bà quên đi rằng bà là mẹ của kẻ giết Thiên Chúa, và cho bà được chiếm hữu Thiên Chúa. Có phải sự đau khổ của bà mẹ này lớn hơn không?”
- Ôi! Đau đớn vô hạn...
- Bà thấy không?... Hãy tốt, Anna. Hãy biết ơn Thiên Chúa đã nhân từ trong mọi cách thế hành động của Người.
- Nhưng con gái con đã chết! Judas đã làm cho nó chết để kiếm một của hồi môn lớn hơn... Mẹ ông đã xác nhận điều đó.
- Không. Điều đó thì không. Chính Thầy nói điều đó với bà. Thầy nhìn thấy trong các con tim. Judas - đó là tông đồ của Thầy, nhưng Thầy nói - nó đã hành động xấu và sẽ bị phạt, nhưng mẹ nó vô tội. Bà ta yêu bà và muốn bà cũng yêu bà ta... Anna, các bà là hai bà mẹ khốn khổ. Nhưng nếu bà được vinh dự vì thấy con gái của bà chết, vô tội, trong trắng, mọi người đều tôn vinh... thì Maria Simon không thể vinh dự vì con trai bà. Các hành động của nó đều bị loài người khiển trách.
- Đúng vậy. Nhưng nếu nó cưới Joanne, nó sẽ không bị khiển trách.
- Bà đã thấy Joanne chết vì buồn, nhưng chỉ ít lâu nữa, bà sẽ thấy Judas chết bằng cái chết tàn khốc.
- Thầy nói sao? Ôi! Tội nghiệp Maria! Khi nào? Thế nào? Ở đâu?
- Sắp sửa rồi, và bằng cái chết kinh khủng. Anna! Anna! Bà tốt,
70
bà là bà mẹ, bà biết thế nào là cái đau của người mẹ! Anna, hãy trở nên bạn của Maria. Chớ gì sự đau đớn cũng kết hợp hai người như đã kết hợp trong niềm vui. Hãy cho phép Thầy ra đi với sự bằng lòng được thấy bà ấy có một người bạn, một người duy nhất, ít nhất là một người...
- Lạy Chúa... Yêu bà ta, điều đó có nghĩa là tha thứ cho bà. Cái đó rất nặng nề... Con thấy như vậy là chôn con gái con một lần nữa, là chính con giết nó nữa...
- Đó là những tư tưởng đến từ Tên Tối Tăm! Đừng nghe nó. Hãy nghe Thầy đây. Thầy là Ánh Sáng thế gian. Ánh Sáng nói với bà rằng: Joanne chết đồng trinh là một số phận ít cay đắng hơn chết khi là bà góa của Judas. Anna, hãy tin ở Thầy, và hãy nghĩ rằng Maria Simon còn khốn khổ hơn bà...
Người đàn bà suy nghĩ, suy nghĩ, chiến đấu, rồi khóc và nói: “Nhưng con, con đã nguyền rủa bà và cái qủa của lòng bà! Con đã phạm tội!...”
- Và Thầy, Thầy miễn xá hết cho bà. Bà càng yêu bà ta thì trên Trời càng đại xá cho bà.
- Nhưng nếu con là bạn của bà ta... Con sẽ gặp lại Judas. Lạy Chúa, điều đó con không thể làm.
- Bà sẽ không gặp nó nữa. Thầy, Thầy sẽ không bao giờ trở lại Kêriot nữa. Judas cũng không. Chúng ta đã chào từ biệt dân thành...
- Ôi! Thầy đã nói...
- Nói rằng Thầy không trở lại nữa. Judas đã nói rằng nó không thể trở lại cho tới sau khi Thầy lên. Nó nghĩ rằng nó sẽ được thấy Thầy lên ngôi vua. Nhưng trái lại, cái đang chờ Thầy là cái chết trên thập giá. Và nó nghĩ rằng nó sẽ là một trong các bộ trưởng của Thầy, nhưng trái lại, chính cái chết đang chờ nó. Nhưng bà, bà sẽ không nói những điều này ra, đừng bao giờ, để mẹ nó không hay biết gì cho tới khi tất cả đều nên trọn. Bà đã nói: “Tội nghiệp cho bà mẹ phải biết trước là con mình sắp chết”. Nhưng nếu những đau đớn của mẹ Thầy, kể cả điều này, đã làm tăng công nghiệp cho lễ hy sinh của Thầy, thì đối với Maria Simon, nín lặng chính là lòng
71
thương xót. Bà sẽ không nói.
- Lạy Chúa, không. Con thề điều đó nhân danh Joanne của con.
- Thầy muốn một lời hứa nữa, lớn lao, thánh thiện! Bà là người tốt, bà đã yêu Thầy rồi mà!
- Vâng. Rất nhiều. Con được bình an từ lúc Thầy ở đây...
- Khi Maria Simon không còn con trai của bà nữa, và thế giới bao phủ bà bằng những... khinh bỉ, thì bà, một mình bà, bà sẽ mở cửa lòng và cửa nhà bà ra cho bà ấy. Bà có hứa điều đó với Thầy nhân danh Thiên Chúa và Joanne không? Joanne thì nó đã làm điều đó, vì Maria luôn luôn là mẹ của người nó yêu.
- ... Vâng - và bà khóc.
- Ôi bà! Nguyện Thiên Chúa chúc phúc cho bà và ban bình an cho bà... Và sức khỏe nữa... Nào! Chúng ta hãy ra gặp Maria để cho bà cái hôn bình an...
- Nhưng... Lạy Chúa... Con không bước được. Chân con sưng phù và cứng đơ. Thầy thấy không? Con ở đây, mặc quần áo, nhưng con chỉ là một khúc gỗ...
- Bà như vậy, nhưng nào! - Giêsu giơ tay ra cho bà để mời gọi bà.
Người đàn bà, mắt nhìn vào mắt Giêsu, di chuyển hai chân, lết nó ra khỏi giường, để xuống đất đôi chân trần của bà. Bà đứng dậy và bước... Bà như bị thôi miên. Bà cả đến không nghĩ tới rằng việc chữa lành đã xảy ra. Bàn tay luôn luôn ở trong tay Giêsu, bà ra ngoài hành lang tối mờ mờ... Bà đi về phía cổng. Bà đi gần tới cổng thì gặp người đàn bà đầy tớ lúc nãy. Bà này thét lên sợ hãi và vui mừng... Những người đầy tớ khác chạy tới. Họ sợ đây là dấu hiệu của sự chết. Họ thấy bà chủ của họ, vừa lúc nãy như chết và thù hận với Maria Simon, đang chạy. Sau khi rời tay Giêsu, bà giơ tay ra, chạy lại với Maria khiêm nhu. Bà gọi tên bà ta, ôm bà ta vào lòng, và cả hai đều khóc.
... Trong khi trở về nhà sau lời chào bình an, Maria Simon cám ơn Chúa và hỏi: “Khi nào Thầy sẽ đến để làm một ơn lành nữa?”
- Ôi! Bà ơi, không bao giờ nữa. Thầy đã nói điều đó với dân chúng rồi. Nhưng con tim Thầy luôn luôn ở với bà. Bà hãy nhớ, bà
72
hãy nhớ luôn luôn rằng Thầy đã yêu bà và vẫn yêu bà. Bà hãy nhớ rằng Thầy biết là bà tốt, và Thiên Chúa yêu bà vì vậy. Bà hãy luôn luôn nhớ điều đó, dù trong những giờ kinh khủng nhất. Đừng bao giờ để vào lòng trí bà cái tư tưởng rằng Thiên Chúa xét xử bà là có tội. Trước mắt Người, linh hồn bà luôn luôn xuất hiện như được trang điểm bằng những đá qúi của các nhân đức, và các viên ngọc trai của đau khổ. Maria Simon, mẹ của Judas, Thầy muốn chúc lành cho bà. Thầy muốn ôm bà và cho bà một cái hôn, để cái hôn mẫu tử chân thành, trung tín của bà là sự đền bù cho Thầy những điều khác... Và để cái hôn của Thầy là sự đền bù cho bà vì tất cả những đau đớn. Nào, mẹ của Judas. Và cám ơn, cám ơn vì tất cả những gì bà đã làm cho Thầy về tình yêu và danh dự - rồi Người ôm bà và hôn lên trán bà như Người thường làm với Maria Alphê.
- Nhưng, chúng ta còn gặp nhau nữa chứ! Con sẽ đi lễ Vượt Qua...
- Không. Đừng đi. Thầy xin bà. Bà có muốn làm vui lòng Thầy không? Đừng đi. Đàn bà tại lễ Vượt Qua sắp tới, không!
- Nhưng tại sao?...
- Bởi vì sẽ có một cuộc nổi dậy kinh khủng ở Jêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua sắp tới. Đó không phải là chỗ của phụ nữ. Và cả đến, Maria ạ, Thầy sẽ ra lệnh cho người bà con của bà đến với bà. Hãy ở lại với nhau. Bà cần như vậy vì... từ nay, Judas không thể giúp bà nữa, cũng không thể về nhà nữa.
- Con sẽ làm như Thầy nói... Vậy là không bao giờ nữa. Con sẽ không bao giờ được thấy dung nhan Thầy, nơi phản chiếu sự bình an của Trời nữa! Ôi! Bình an chừng nào! Sự bình an từ mắt Thầy đã đổ vào con tim đau khổ của con... - Maria khóc.
- Đừng khóc. Đời sống rất ngắn. Sau đó bà sẽ thấy Thầy đời đời trong nước Thầy.
- Vậy Thầy nghĩ rằng nữ tì hèn mọn của Thầy sẽ được vào đó?
- Thầy đã thấy chỗ của bà trong nhóm các tử đạo và những người đồng cứu chuộc. Ôi! Maria, đừng sợ. Chúa sẽ là phần thưởng đời đời cho bà. Thôi. Buổi chiều đã bắt đầu, và đây là giờ phải lên
73
đường...
Và hai người làm lại con đường băng qua các cánh đồng và các vườn táo cho tới nhà, nơi các tông đồ đang chờ. Giêsu làm vội vã các việc từ biệt và chúc lành, rồi đứng trước các người của Người... Người ra đi... Maria qùi gối khóc...
86* TỪ BIỆT TẠI JUTTA
Vào một buổi sáng bình lặng, Giêsu nói với dân thành Jutta. Ôi! Người ta có thể nói chính xác là toàn thể Jutta đều ở chân Người. Kể cả các mục đồng, thường thì tản mát trên các vùng đồi núi, bây giờ cũng ở đây, đàng sau đám đông cùng với đàn cừu của họ. Cả những người thường đi các nơi khác như ra đồng, vào rừng, đi chợ, cũng ở đây. Toàn thể Jutta: Các cụ già lụm khụm, các trẻ nhỏ vui cười, các cô gái trẻ và các cô dâu mới; những người sắp cho ra đời một đứa con và những bà đang mang nó trên lòng... Tất cả đều ở chung quanh Giêsu.
Cái đỉnh núi trải rộng ra về phía nam là cái đại thao trường đón tiếp cuộc tụ họp bình an này. Họ ngồi trên cỏ hay trên ngựa, trên những bức tường đá khô. Chung quanh là chân trời mênh mông, trên đầu là trời xanh vô giới hạn, bên dưới là dòng suối tươi cười, lấp lánh dưới mặt trời ban mai, trong vẻ đẹp của ngọn núi đầy cỏ, đầy cây, họ, dân Jutta, nghe Thầy nói. Người đứng, tựa lưng vào một cây bồ đào rất cao. Y phục trắng của Người nổi bật trước cái thân cây mầu đậm. Vẻ mặt tươi cười, đôi mắt sáng lên niềm vui được yêu. Tóc Người như cháy sáng do sự mơn trớn của các tia mặt trời đến từ phương đông. Trong sự yên lặng kính trọng và chăm chú, chỉ bị phá bởi tiếng chim ca và tiếng suối chảy, các lời Người từ từ rót vào lòng người. Tiếng nói hoàn hảo của Người làm đầy không gian yên tĩnh bằng sự êm đềm của nó.
Trong khi tôi đang viết đây, tiếng đó lại đang nhắc lại một lần
74
nữa sự cần thiết phải tuân theo Thập Giới, hoàn thiện bản thân bằng cách thực thi nó trong tâm hồn, bởi giáo lý tình yêu của Người, “để xây dựng trong tâm hồn một chỗ ở mà Chúa sẽ ngự cho tới ngày mà những kẻ đã sống trung thành với Lề Luật sẽ tới ở trong Người trên Nước Trời”. Đó là những lời của Người. Và Người tiếp tục: “Bởi vì như vậy, sự cư ngụ của Thiên Chúa trong con người, và của con người trong Thiên Chúa, được thiết lập bởi việc vâng theo lề luật của Người, bắt đầu bằng giới răn tình yêu, và tất cả đều là tình yêu, từ điều luật thứ nhất tới điều luật sau cùng của Thập Giới. Đó là nhà ở thực sự mà Thiên Chúa muốn, là nơi Thiên Chúa ở. Và phần thưởng là Nước Trời, chiếm được nhờ vâng lời Lề Luật, là ngôi nhà thực sự mà các con sẽ ở với Thiên Chúa đời đời.
Bởi vì - các con hãy nhớ lại Isaie trong chương 66 - Thiên Chúa không ở trên trái đất, nó là cái bệ, nó chỉ là cái bệ mênh mông. Ngai của Người là Trời, cũng chỉ luôn luôn là bé nhỏ, là như không để mang đấng Vô Tận, nhưng Người ở trong lòng con người. Chỉ có lòng tốt trọn lành của Chúa Cha, hoàn toàn là tình yêu, có thể ban cho con cái Người được tiếp nhận Người. Đó là điều mầu nhiệm vô biên, càng lúc càng được hoàn thành mà Thiên Chúa Duy Nhất Ba Ngôi, Thần Trí Ba Ngôi tinh tuyền có thể ở trong con tim loài người. Ôi! Lạy Cha rất thánh! Khi nào, khi nào Cha mới cho phép con làm cho những kẻ yêu Cha, không phải chỉ là một Đền Thờ cho Thánh Thần của chúng ta, nhưng nhờ vào tình yêu trọn vẹn và sự tha thứ của Cha, thành một Nhà Tạm, làm cho tất cả mọi tâm hồn trung tín thành Hòm Bia, nơi mang Bánh Bởi Trời thực sự, như đã làm trong lòng Đấng Có Phúc hơn mọi người nữ ?
Ôi! Các môn đệ rất yêu qúi ở Jutta, đã được chuẩn bị cho Thầy bởi một người công chính, các con hãy có trong lòng Vị Tiên Tri và điều ông nói. Đó là chính Chúa nói với những kẻ xây cất những đền thờ trống rỗng bằng đá, nơi không có sự công chính, cũng không có tình yêu, mà không biết xây ngai tòa của Thiên Chúa trong chính mình bằng cách tuân theo giới răn của Người. Vị Tiên Tri nói: ‘Ngôi nhà này mà các ngươi xây dựng cho Ta là gì? Chỗ nghỉ
75
ngơi của Ta là gì?’ Và ông muốn nói: ‘Các ngươi tưởng chiếm hữu được Ta bởi vì các ngươi đã xây lên cho Ta những bức tường tội nghiệp này sao? Các ngươi tưởng đã làm cho Ta vui sướng bởi những thi hành dối trá, không phù hợp với sự thánh thiện của đời sống sao?’ Không, người ta không chiếm hữu được Thiên Chúa bằng những thứ bên ngoài, che đậy những vết thương và sự trống rỗng, giống như một chiếc áo bằng vàng phủ lên cơ thể một người cùi, hay trên một bức tượng bằng đất sét mà bên trong rỗng, không có đời sống của tâm hồn.
Và Chúa, chủ tể của thế giới nói, trong khi nhìn nhận tính cách nghèo khó của Người như một ông vua có qúa ít bầy tôi, một người cha có qúa nhiều đứa con bỏ trốn nơi ở của Người: ‘Ta sẽ quay mặt về với ai, nếu không phải là về với những người nghèo, về những kẻ có tâm hồn sám hối đang run sợ trước lời của Ta?’ Tại sao họ sợ? Có phải chỉ vì họ sợ Thiên Chúa không? Không. Họ run sợ do một sự trọng kính sâu xa, một tình yêu thực sự, bởi sự khiêm tốn của một bầy tôi nhận biết và nói rằng Thiên Chúa là tất cả, và họ là không. Họ run vì xúc động khi cảm thấy mình được yêu, được tha thứ, được trợ giúp bởi đấng là tất cả.
Ôi! Đừng tìm Thiên Chúa giữa những kẻ kiêu căng. Người không ở đó. Đừng tìm Người giữa những con tim khắc nghiệt, Người không ở đó. Đừng tìm Người giữa những kẻ chai đá, Người không ở đó. Người ở nơi những kẻ đơn sơ, trong sạch, những kẻ biết xót thương, những kẻ có tinh thần nghèo khó; nơi những kẻ hiền lành, nơi những kẻ khóc mà không nguyền rủa, nơi những kẻ tìm sự công chính, nơi những kẻ bị bách hại, những kẻ yêu hòa bình. Thiên Chúa ở những nơi đó. Người ở nơi những kẻ hối lỗi muốn sự tha thứ và tìm cách đền tội. Họ không làm việc hy sinh bằng con bò hay con cừu, của lễ của những kẻ nọ kẻ kia để được hoan hô, hoặc bởi sự sợ hình phạt cách dị đoan, bởi kiêu ngạo, để tỏ ra mình trọn lành. Nhưng họ làm sự hy sinh bằng con tim sám hối và khiêm nhường nếu họ có tội, hoặc bằng con tim vâng phục tới anh hùng nếu họ là người công chính. Đó là cái làm vui lòng Chúa. Đó là của lễ mà vì đó Người
76
ban chính mình Người, cùng với kho tàng tình yêu khôn tả của Người và những vui thoả thiêng liêng. Còn với những người kia thì Người không ban mình, vì họ đã có cái vui thỏa tội nghiệp của họ trong những điều khả ố, và Thiên Chúa có kêu gọi họ vào đường của Người cũng vô ích, vì họ đã chọn con đường của họ. Đối với họ, Người chỉ gởi sự bỏ rơi, sự sợ hãi và hình phạt, vì họ không trả lời tiếng Chúa, họ không vâng lời, họ làm điều dữ dưới mắt Chúa với sự khinh khi và sự đồi bại mà họ đã chọn.
Nhưng các con, các con thành Jutta thân yêu của Thầy, các con là những kẻ run vì tình yêu trong sự biết ơn Thiên Chúa; các con là những kẻ vì Thầy mà bị những người quyền thế khinh bỉ như những kẻ ngu si, mà các con vẫn tiếp tục yêu Thầy, dù bị khinh dể, xua đuổi. Các con sẽ càng ngày càng bị như vậy vì danh Thầy, bởi vì Thầy cũng bị khước bỏ như đứa con hoang của Israel, như đứa con hoang của Thiên Chúa, trong khi chính nơi các con và những kẻ giống như các con, là nơi được ghép chồi của sự sống đời đời, của đấng được mọc rễ trong Chúa Cha, và vì vậy, các con là một phần của Thiên Chúa, là Thiên Chúa, các con sống bằng chất nhựa của Người. Các con là những kẻ người ta muốn thuyết phục là các con sai lầm; các con là những kẻ có con mắt đơn sơ nhưng được soi sáng bằng Ân Sủng. Họ muốn biện minh trước mắt các con để không lộ vẻ phạm thượng và gian ác. Các con là những kẻ được hưởng lời: ‘Nguyện Chúa tỏ vinh quang của Người ra, và chúng tôi sẽ nhận biết Người trong chính sự vui mừng của qúi vị’. Các con có sự vui mừng, họ sẽ bị bối rối.
Ôi! Thầy đã nghe thấy rồi, sau khi sự hỗn độn dày xéo chúng mà không làm cho chúng tốt hơn, Thầy đã nghe, những con rắn độc chỉ ngừng gây tổn hại khi người ta đã đập nát cái đầu gớm ghiếc của chúng. Chúng cắn giết, dù là người ta đã chặt chúng đứt đôi. Mặc dầu chúng chỉ ló ra được cái đầu đã mang sự dày đạp của Thiên Chúa, Thầy đã nghe chúng la ó: ‘Làm sao Chúa có thể đùng một phát sinh ra dân mới của Người, nếu chúng tôi, được mang trong lòng Người từ biết bao lâu rồi mà chúng tôi chưa được sinh ra trong Ánh Sáng? Nào ai có thể sinh con mà tiếng kêu đau không
77
vang khắp nhà? Chúa có thể sinh ra trước thời gian không? Trái đất đâu có thể được sinh ra trong một ngày, và làm sao tất cả một dân có thể được sinh ra cùng một lúc?’
Thầy, Thầy trả lời, và các con hãy nhớ lấy câu trả lời này để nói cho những kẻ bách hại các con và khinh dể các con: ‘Họ không bao giờ có thể sinh ra trong ánh sáng, những kẻ là cái trái chết trong lòng Thiên Chúa. Họ là cái trái khô vì đã tách ra khỏi tử cung và trở nên trơ trơ, giống như một bệnh hoạn giấu kín trong lòng thay vì là một phôi thai để phát triển. Và để giật ra khỏi lòng Người cái hạt chết, và để có con cái, để cho danh Người không tàn phai, không bị chết trên trái đất, Thiên Chúa đã sinh sản nhiều con mới, được đánh dấu chữ thập của Người trong bí mật, trong yên lặng, để Satan và các satan phục vụ Lucifer không thể làm hại, bằng cách đi trước thời gian, vì sự nồng nàn của tình yêu Người, Người đã sinh Con của Người, và đồng thời Người sinh ra dân mới của Người, bởi vì Chúa có thể tất cả’. Ôi! Người đã nói điều đó bởi miệng tiên tri Isaie: ‘Phải chăng Ta sẽ không thể sinh con? Ta là đấng làm cho những người khác sinh. Ta đã cho những người khác mắn con mà ta son sẻ sao?’
Các con hãy vui mừng với Jêrusalem trên Trời. Hãy vui sướng với nó, tất cả các con, những kẻ yêu Chúa. Hãy vui với nó bằng niềm vui thật, các con, những kẻ chờ đợi, những kẻ hy vọng, những kẻ đau khổ.
Ôi! Các lời, hãy trở về, hãy trở về với Ta! Các lời đến từ Ngôi Lời của Thiên Chúa. Các lời được nói bởi vị xướng ngôn của Thiên Chúa: Isaie, vị tiên tri của Người. Hãy đến, hãy trở về nguồn, ôi Lời Hằng Sống, để tung vãi trên mảnh đất này của Thiên Chúa, trên đoàn chiên này, trên nòi giống này.
Ôi! Hãy đến! Đây là một trong những giờ mà các con được ban, ôi các lời tiên tri, ôi tiếng vang của tình yêu, ôi tiếng nói của chân lý.
Đây, nó đến. Đây, nó trở về với đấng đã soi động nó! Đây Thầy, nhân danh Chúa Cha, nhân danh bản thể của Thầy, nhân danh Thánh
78
Linh, Thầy nói với những kẻ được Thiên Chúa yêu, được chọn giữa bầy của Thiên Chúa, một bầy không phải chỉ kể đến các con chiên, mà còn bị thiệt hại bởi các con dê và các con vật khác dơ bẩn hơn. Các con sẽ được uống và no thỏa tại những cái vú đầy yên ủi của Thiên Chúa, và mút ra được ở đó những ngon lành thỏa thuê của vinh quang muôn hình dạng của Thiên Chúa.
Đó, Chúa nói với các con: Ta sẽ tưới trên các con như một dòng sông bình an và như một con suối ngập lụt, và trên các con sẽ có nhiều vinh quang hơn trên mọi dân. Vinh quang của Trời sẽ dìm ngập các con. Các con sẽ được bú no, được mang trên lòng Người và trên đầu gối Người, và các con sẽ được vuốt ve. Đúng, giống như người mẹ vuốt ve con mình, như Thầy vuốt ve đứa bé này mà Thầy đã cho nó mang tên của Thầy (và Giêsu ẵm lấy thằng bé Giêsai từ tay mẹ nó, vì bà hầu như ở sát chân Người, giữa ba đứa con của bà). Cũng vậy, Thầy sẽ an ủi các con, những kẻ yêu Thầy và tiếp tục yêu Thầy. Và sắp sửa, các con sẽ được an ủi đời đời trong Nước Thầy. Các con sẽ thấy nó và con tim các con sẽ vui mừng, xương cốt các con sẽ hồi xuân như cỏ, vì được giải phóng khỏi mọi sợ hãi nhờ lòng trung thành của các con khi Chúa trở lại trong lửa, trong một chiếc xe giống như một cơn gió lốc, để lôi cuốn vào trong lửa của tình yêu và của sự công bằng, để phạt hay để thưởng, bằng cách phân chia chiên ra khỏi sói, tức là tách rời những kẻ tin và tự thánh hóa, tự thanh tẩy, với những kẻ đã tự biến thành ngẫu tượng.
Bây giờ Chúa ra đi, nhưng Người sẽ trở lại. Phúc cho những ai Người thấy kiên trì tới cùng.
Đây là sự từ biệt của Thầy, và cùng với nó là phúc lành của Thầy. Các con hãy qùi gối để Thầy tăng sức cho các con bằng phúc lành này. Nguyện Chúa chúc lành cho các con và gìn giữ các con. Nguyện Chúa tỏ nhan thánh Người cho các con và thương xót các con. Nguyện Chúa ban bình an cho các con.
Thôi giải tán đi, để Thầy cáo biệt những người tốt trong đám các người tốt xứ Jutta”.
79
Mọi người ra đi với sự luyến tiếc. Nhưng đây, một đứa trẻ nói với Giêsu : “Chúa ơi, xin để cho con hôn tay Thầy”, và vì Giêsu ưng thuận nên mọi người đều muốn dâng một cái hôn cho da thịt thánh của Con Chiên Thiên Chúa. Cả những người đã rời xa vào trong làng cũng trở lại, và đó là một trận mưa hôn: cái hôn của các trẻ em trên mặt, cái hôn của các cụ già trên tay, cái hôn của các bà trên đôi chân trần ngập trong cỏ... cùng với nước mắt và các lời chúc phúc.
Giêsu đón nhận họ cách kiên nhẫn, và cho mỗi người một lời chào đặc biệt.
Sau cùng, Người đã thỏa mãn mọi người, chỉ còn lại gia đình cho Người trọ... Họ quây quần chung quanh Giêsu. Sara nói: “Thực tình Thầy không trở lại nữa sao?”
- Bà ơi, không, không bao giờ nữa. Nhưng chúng ta không chia lìa. Tình yêu của Thầy luôn luôn ở với bà, với các con, và tình yêu của các con ở với Thầy. Các con sẽ không quên Thầy, Thầy biết. Nhưng Thầy bảo các con: ngay cả trong những giờ kinh khủng nhất sẽ tới, đừng tiếp đón các điều dối trá, dù chỉ nhận nó như khách qua đường hay như kẻ xâm lăng bất ngờ... Sara, đưa đứa bé cho Thầy.
Người đàn bà trao Giêsai cho Người, và Giêsu ngồi trên cỏ với Giêsai trong lòng. Người cúi xuống trên tóc đứa nhỏ và nói: “Các con hãy nhớ rằng Thầy là con chiên mà Isaac đã làm cho các con yêu ngay từ trước khi các con biết Thầy. Mà một con chiên thì luôn luôn vô tội, giống đứa bé này, dù người ta bọc cho nó một bộ da sói để làm cho nó giống kẻ bất lương. Các con hãy nhớ rằng Thầy còn vô tội hơn đứa bé này... Nó thì nó sung sướng vì sự thơ ngây trẻ tuổi của nó, chưa hiểu những vu khống của loài người trên Chúa của nó, vì vậy nó không bị xao xuyến... và nó tiếp tục yêu Thầy như vậy... như bây giờ... Hãy có con tim như nó. Hãy có như vậy với Con Chiên, với Người Bạn, với Đấng Vô Tội, với Vị Cứu Tinh, đấng yêu thương các con và chúc lành cho các con một cách rất đặc biệt. Chào Maria, hãy đến hôn Thầy; chào Emmanuel, cả con nữa. Chào Giêsai, con chiên nhỏ của Con Chiên... Hãy luôn luôn tốt... luôn
80
luôn yêu Thầy...”
- Chúa ơi! Thầy khóc à? - Đứa bé gái ngạc nhiên hỏi khi nó thấy những giọt nước mắt lóng lánh trên tóc Giêsai.
- Người khóc à? - ông chồng của Sara hỏi.
- Ôi! Thầy, Thầy khóc! Tại sao? - Người đàn bà hỏi.
- Các con đừng buồn vì nước mắt của Thầy. Nó là tình yêu và phúc lành... Chào Sara, chào ông. Bạn các con ra đi, hãy đến hôn Người như những người khác...
Và sau khi đã nhận cái hôn của hai vợ chồng trên bàn tay, Người đặt đứa bé lại vào tay mẹ nó, Người lại chúc lành nữa. Rồi lẹ làng xuống theo con đường Người đã đi lúc lên.
Tiếng nói từ biệt của những người còn ở lại theo sau Người: sâu xa là tiếng đàn ông, cảm động là tiếng chào của các phụ nữ, the thé là lời của các trẻ, cho tới chân đồi. Rồi chỉ còn suối nước.
Họ lại lên dốc về phía bắc. Dòng suối như chào Thầy nữa, vì biết Người rời bỏ đất Jutta mãi mãi.
87* TỪ BIỆT TẠI HÉBRON
Và đây, Hébron ở giữa các cánh rừng và đồng cỏ của nó. Giêsu đến, được chào đón bởi những tiếng hô vạn tuế của những kẻ thấy Người trước tiên. Rồi họ đi loan tin cho tất cả làng.
Ông trưởng giáo đường chạy tới, các người được phép lạ hồi năm ngoái chạy tới, rồi đến các bậc kỳ hào. Mọi người đều muốn có Giêsu làm khách, nhưng Giêsu nói khi cám ơn mọi người: “Không, Thầy chỉ ở lại trong thời gian nói với các con... Vậy chúng ta hãy lại căn nhà nghèo, căn nhà thánh của ông Tẩy Giả, để Thầy cũng chào nó... Đó là mảnh đất của phép lạ. Các con không biết đâu”.
- Ồ, thưa Thầy chúng con biết. Những người được chữa lành ở đó đều sống giữa chúng con!... - nhiều người nói.
- Rất lâu trước hồi năm ngoái, nó đã là mảnh đất của phép lạ rồi. Nó đã là vậy lần đầu tiên trước đây ba mươi ba năm rồi, khi Chúa hồi xuân cho một lòng dạ khô héo để làm cho nó thành một
81
cây táo ngọt cho vị Tiền Hô của Thầy. Nó đã là vậy trước đây ba mươi hai năm, khi mà, bằng một hành động nhiệm mầu, Thầy đã thánh hóa ông khi chúng ta, ông ấy và Thầy, là hai trái cây chín sâu trong lòng, và khi Thầy trả lại cho cha của Gioan việc sử dụng tiếng nói. Nhưng cùng với những hoạt động kín đáo của Đấng Nhập Thể từ lúc chưa sinh ra, đã nối kết, từ hai năm nay, với một phép lạ cả thể mà tất cả các con không ai biết. Các con có nhớ người đàn bà đã ở trong căn nhà này không?
- Ai? Aglaé à? - nhiều người hỏi.
- Cô ta đó. Thầy đã trả lại sự sống cho cô ta, không phải trong lòng dạ cô, nhưng trong tâm hồn bị khô héo vì ngẫu tượng và tội lỗi của cô. Thầy đã làm cho cô sinh hoa trái trong sự công chính, bằng cách giải thoát cho cô khỏi những gì cầm giữ cô nhờ được thiện chí của cô giúp đỡ. Thầy lấy cô ta làm gương mẫu cho các con. Các con đừng phẫn nộ. Thật vậy, Thầy bảo các con là cô ta đáng được nhắc nhở làm gương mẫu để bắt chước, bởi vì rất ít người trong Israel đã đi được một quãng đường dài như người con gái ngoại giáo và tội lỗi này, để đến cùng mạch suối của Thiên Chúa.
- Chúng con đã nghĩ rằng cô ta trốn đi với những người yêu khác... Có những người nói là cô ta đã thay đổi, đã trở nên tốt... Nhưng chúng con nói: “Đó chỉ là cơn chướng”. Cũng có cả những người nói rằng cô ta đã đến với Thầy để... phạm tội - ông trưởng giáo đường giải thích.
- Cô ta đã đến với Thầy, đúng vậy, nhưng là để được cứu chuộc.
- Chúng con đã phạm tội xét đoán...
- Bởi vậy Thầy đã bảo các con là: Đừng xét đoán.
- Vậy bây giờ cô ta ở đâu?
- Chỉ một mình Thiên Chúa biết điều đó. Chắc chắn là trong một nơi đền tội khắc khổ. Hãy cầu nguyện để nâng đỡ cô ta... Ta chào mi! Ôi, hỡi căn nhà của người bà con và Vị Tiền Hô của Ta! Bình an cho mi, mặc dù bây giờ mi trống rỗng và buồn tẻ, nhưng luôn luôn bình an cho mi. Ôi! Nơi ở thánh của Bình An và Đức Tin!
Trong khi chúc lành, Giêsu đi vào khu vườn không trồng trọt gì
82
nữa, và bước đi giữa đám cỏ mọc tràn lan. Người đi vòng quanh chỗ trước đây là giàn cây xanh và chỗ những cây leo thứ tự, với những cây nguyệt quế và cây hoàng dương, bây giờ là một đám lộn xộn và bù xù những cây trường xuân, cây ông lão và cây bìm bìm làm ngộp những cây trên. Người tới đáy vườn, nơi để những gì còn lại của ngôi mộ, và Người dừng lại đó.
Mọi người làm một vòng tròn yên lặng chung quanh Người.
- Hỡi con cái Thiên Chúa, dân chúng Hébron, hãy nghe! Để cho các con không bối rối và lầm lẫn khi xét đoán Vị Cứu Tinh của các con như các con đã làm với cô gái tội lỗi, Thầy đến để xác định và củng cố cho các con trong niềm tin. Thầy đến để cho các con của ăn đường bằng lời Thầy, để nó luôn luôn sáng sủa trong các con vào giờ của tối tăm, để Satan không làm cho các con lạc mất con đường về Trời.
Sẽ xảy đến những giờ mà qủa tim các con sẽ rên xiết mà nói những lời của Thánh Vịnh Asaph, một thi nhân tiên tri. Các con sẽ nói: “Ôi lạy Thiên Chúa, tại sao Ngài khai trừ chúng con mãi mãi? Tại sao cơn giận của Ngài bừng cháy chống lại các con chiên nhỏ mà Ngài chăn dắt?” Và lúc đó các con sẽ có thể thực sự cao giọng như một quyền lợi để bảo vệ ơn Cứu Chuộc lúc đó đã được hoàn tất và kêu lên: “Đây là dân của Chúa mà Ngài đã cứu chuộc”, để kêu gọi sự bảo vệ, để chống lại các kẻ thù, những kẻ sẽ làm hết mọi điều ác họ có thể trong Cung Thánh thực sự, nơi Thiên Chúa ngự giống như ở trên Trời, trong Đức Kitô của Chúa. Những kẻ thù mà, sau khi đã tàn phá nơi Thánh để bắt đầu, chúng sẽ tìm cách phá các bức tường, tức là các tín hữu. Những kẻ phạm thánh và bách hại Thiên Chúa còn thực sự hơn Nabucodonoso và Antiocho, hơn cả những kẻ sẽ đến sau này. Chúng đã giơ tay để hạ sát Thầy trong sự kiêu căng không giới hạn của chúng. Chúng không muốn hoán cải, không muốn đức tin, đức ái, sự công bình. Chúng như men trong một khối bột, chúng phình lên và tràn ra ngoài nơi thánh, nơi đã trở nên đô thị của các kẻ thù của Thiên Chúa.
Hỡi các con, hãy nghe: Khi các con bị bách hại vì đã yêu Thầy, hãy củng cố tâm hồn các con bằng cách nghĩ rằng chúng đã bách
83
hại Thầy trước. Các con hãy nhớ rằng trong cổ họng chúng đã có những tiếng la ó chiến thắng, và chúng chuẩn bị những cờ hiệu để nó phất phới trong gió vào giờ chiến thắng, và trên mỗi lá cờ có một câu nói dối chống lại Thầy là kẻ coi như thất bại, gian ác, bị nguyền rủa.
Các con lắc đầu sao? Các con không tin sao? Tình yêu của các con ngăn cản các con tin... Tình yêu là cái gì rất lớn lao, một sức mạnh lớn lao... Và một nguy hiểm lớn lao! Đúng, một nguy hiểm. Sự thật phũ phàng của giờ tối tăm sẽ là một siêu nhân dã man ở trong con tim của những kẻ mà tình yêu chưa được chỉnh đốn hoàn toàn, sẽ làm cho họ thành mù quáng. Các con sẽ không thể tin được rằng Thầy, Vị Vua, Đấng Mạnh Mẽ, lại có thể bị giao phó mặc cho các kẻ chả là gì cả. Khi đó các con sẽ không thể tin điều đó, và một nghi ngờ sẽ nảy sinh: “Có phải thực là Người không? Nếu Người đã là vậy, tại sao lại có thể bị bại?”
Các con hãy củng cố tâm hồn cho mạnh mẽ hơn cho giờ này. Hãy biết rằng trong một lúc, các kẻ thù của Đấng Thánh đã phá cửa và quăng tất cả xuống đất. Chúng đã đốt lên ngọn lửa thù ghét đối với Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chúng đã phá hủy và quăng xuống đất chiếc Nhà Tạm của Thánh Danh trong khi chúng nói trong lòng: “Chúng ta hãy dẹp bỏ mọi lễ lạy về Thiên Chúa ở trên mặt đất”, vì có Thiên Chúa ở giữa các con tức là Lễ. Chúng nói: “Mong sao cho không còn những giáo huấn của hắn, không còn tiên tri nào nữa để không ai biết chúng ta là gì”. Nhưng rất mau, rất mau hơn nữa, đấng đã đặt giới hạn cho biển cả, đấng đã đập nát trong làn nước, cái đầu ghê gớm của con cá sấu và những kẻ thờ chúng; đấng đã làm vọt ra nguồn nước, làm suối chảy và làm khô các con sông lâu đời; đấng đã tạo ra ngày và đêm, mùa hè và mùa xuân, sự sống và sự chết; đấng đã làm nên tất cả, sẽ làm cho Đức Kitô của Người sống lại như Người đã được nói, và Người sẽ là Vua, Vua tới muôn đời. Và những kẻ trung thành bền chặt với Người trong đức tin sẽ đồng trị với Người trên Trời.
Các con hãy nhớ điều đó. Và khi các con thấy Thầy bị treo lên,
84
bị khinh chê thì đừng lung lay. Và khi các con bị treo lên và bị khinh chê, cũng đừng lung lay.
Ôi! Cha! Cha của con! Con nguyện xin Cha, nhân danh những người này là những kẻ yêu qúi của Cha và của Con, xin hãy nhận lời Ngôi Lời của Cha, hãy nhận lời kẻ cầu phúc: Xin đừng bỏ rơi cho thú dữ, những linh hồn biết ngợi khen Cha bằng cách yêu Con; đừng bỏ quên mãi mãi, những linh hồn của các con Cha. Ôi Thiên Chúa nhân từ! Xin Cha nhớ đến lời hứa của Cha, bởi vì từ những nơi tối tăm của trái đất là những tổ bất công, phát ra những khủng bố làm các con Cha sợ hãi. Cha ơi! Ôi Cha của con ơi! Chớ gì kẻ khiêm nhường hy vọng ở Cha không phải ra đi trong băn khoăn! Chớ gì kẻ nghèo khó và túng thiếu ca ngợi danh Cha vì sự cứu giúp mà Cha sẽ ban cho họ!
Ôi Thiên Chúa! Xin Người chỗi dậy! Con nguyện xin Cha cho giờ này, cho những giờ này! Ôi Thiên Chúa! Xin Người đứng lên! Xin vì lễ Hy Sinh của Gioan và sự thánh thiện của các tổ phụ và các tiên tri của Cha! Xin vì Lễ Hy Sinh của con, Cha của con ơi! Xin Cha bảo vệ đoàn chiên này của Cha và của con! Xin Cha ban cho chúng ánh sáng trong tối tăm; đức tin và sức mạnh chống lại cám dỗ! Lạy Cha, xin hãy ban Cha, hãy ban chúng ta bây giờ, mai ngày và mãi mãi cho tới khi có sự tiến vào Nước Cha! Chúng ta ở trong lòng chúng cho tới khi chúng được ở nơi chúng ta ở cho đến đời đời. Chớ gì được như vậy.
Vì không có phép lạ để hoàn thành, Giêsu đi qua giữa các hàng người của đám đông ngây ngất, và Người chúc lành cho họ, từng người một, tất cả các thính giả của Người. Rồi Người lên đường dưới mặt trời đã lên cao mà mùa hoa lá của cây cối và gió núi làm cho dễ chịu. Các tông đồ tụ nhóm ở đàng sau, nói chuyện với nhau. Họ nói không ngừng:
- Ôi! Bài thuyết trình!... Nó làm cho run - Batôlômêo nói.
- Nhưng nó buồn chừng nào! Nó làm phát khóc - Andrê thở dài.
- Hé, đó là sự từ giã của Người. Tôi có lý. Thực sự Người sắp lên ngôi - Judas Iscariot hô hoán.
85
- Ngôi à? Hum! Tôi thấy Người nói về sự bách hại chứ không về danh dự - Phêrô nhận xét.
- Không! Thời gian bách hại đã chấm dứt. A! Tôi sung sướng! - Iscariot kêu.
- Càng hay cho anh! Tôi, tôi ước ao còn được ở trong những ngày như khi chúng ta chưa được người ta biết tới của hai năm trước đây... Hoặc như lúc ở Nước Đẹp... Tôi sợ những ngày trong tương lai - Gioan nói.
- Bởi vì chú có qủa tim của con nai con... Nhưng tôi, tôi đã nhìn thấy tương lai... Các đoàn rước!... Các ca viên!... Một dân tộc qùi gối!... Vinh dự của các dân khác!... Ồ! Đã đến giờ! Các lạc đà xứ Madian và các đoàn lũ từ khắp nơi kéo tới... Và đây không phải là ba nhà Đạo Sỹ hèn... Nhưng là vô số... Israel sẽ lớn như Rôma, còn hơn Rôma nữa... Vượt qua vinh quang của các Maccabê, của Salômôn... Hết mọi vinh quang... Người, Vua các vua... Và chúng ta, các bạn của Người!... Ôi Thiên Chúa Tối Cao! Ai sẽ cho tôi sức mạnh vào giờ này?... Nếu mà ba tôi còn sống!... - Judas phấn khích! Mặt mày ông sáng rỡ khi ông khêu gợi cái tương lai mà ông mơ được sống...
Giêsu ở xa đàng trước, nhưng Người dừng lại. Ông vua tương lai của Judas khát nước, Người vụm bàn tay lại, hấng nước chảy ở một cái suối và uống... giống như con chim rừng hay con chiên đang được chăn. Rồi Người quay lại và nói: “Có những trái cây dại ở đây, chúng ta hãy hái ăn cho đỡ đói...”
- Thầy đói à? - Zêlote hỏi.
- Ờ - Giêsu khiêm tốn thú nhận.
- Chắc chắn rồi! Chiều hôm qua Thầy đã cho người nghèo khổ đó hết - Phêrô kêu.
- Nhưng tại sao Thầy không muốn dừng lại ở Hébron? - Philíp hỏi.
- Bởi vì Thiên Chúa gọi Thầy đi nơi khác. Các con thì các con không biết.
Các tông đồ nhún vai và bắt đầu hái những trái còn xanh trên
86
các cây rừng mọc rải rác ở sườn núi. Hình như đó là những trái táo rại nhỏ. Vị Vua các vua ăn nó đồng thời với các bạn Người. Họ nhăn nhó vì vị đắng chát của các trái rại còn xanh. Giêsu suy tư, ăn và mỉm cười.
- Thầy làm con hầu phát điên! - Phêrô la.
- Tại sao?
- Bởi vì Thầy có thể thoải mái và làm vui cho các người Hébron, nhưng trái lại, Thầy lại đi làm hại cái bụng Thầy và làm ghê răng Thầy bằng những chất độc đắng nghét này, còn chua hơn cỏ ngâm dấm nữa!
- Ôi! Thầy đã có các con là những kẻ yêu Thầy. Khi Thầy bị treo lên, Thầy bị đói và khát, Thầy sẽ nghĩ tới và hối tiếc cái giờ này, tới cái đồ ăn này, tới chúng con là những kẻ bây giờ ở với Thầy, nhưng lúc đó...
- Nhưng khi đó Thầy sẽ không còn đói, không còn khát. Ông vua thì có tất cả, và chúng con sẽ ở gần Thầy hơn! - Iscariot kêu lên.
- Đó là con nói vậy...
- Và Thầy nghĩ là điều đó sẽ không có sao? - Batôlômêo hỏi.
- Không, Batôlômêo. Khi Thầy thấy con ở dưới cây sung, các trái của nó còn xanh tới nỗi ai hái nó mà ăn thì lưỡi và họng sẽ bị cháy. Nhưng những trái sung đó, hoặc trái của các cây này, đem so sánh với việc nâng lên cao của Thầy thì chúng còn dịu ngọt hơn tia mật ong... Chúng ta đi thôi - và Người bắt đầu bước trước tiên, ở hẳn đàng trước, chiêm niệm, trong khi ở đàng sau, mười hai ông không ngừng gãu chuyện và nhiều lời.
88* TỪ BIỆT TẠI BÉTSUR
Trời vừa hừng sáng khi các nhà bộ hành không biết mệt nhìn thấy Bétsur ở trong tầm mắt. Rã rời, quần áo nhầu nát, chắc chắn là vì giấc ngủ không thoải mái trong rừng. Họ vui mừng nhìn thấy thành phố đã ở gần, nơi mà họ chắc chắn có chỗ trọ.
Các nông dân đi làm là những người đầu tiên gặp Giêsu, và họ
87
nghĩ tốt hơn là bỏ công việc, trở về thành phố để nghe Thầy. Và các người mục đồng cũng làm vậy, sau khi đã hỏi xem Người có ở lại không. Giêsu trả lời:
- Thầy sẽ rời Bétsur vào chiều nay.
- Thầy sẽ nói chứ?
- Chắc chắn rồi.
- Lúc nào?
- Ngay bây giờ.
- Chúng con có những đoàn vật. Thầy không thể nói tại đây, trong cánh đồng sao? Bầy cừu sẽ ăn cỏ, và chúng con không mất lời Thầy.
- Hãy theo Thầy. Thầy sẽ nói trong các đồng cỏ ở phía bắc. Trước tiên, Thầy phải đi gặp Êlise.
Các người mục đồng lùa đàn cừu lại và đi theo sau các ngài với đoàn vật của họ kêu be be. Họ đi băng qua làng. Nhưng tin tức đã lan tới nhà Êlise, và chính tại cái quảng trường nhỏ ở trước nhà họ, Êlise và Anastasica dâng sự tán tụng của môn đệ lên Thầy, và Người chúc phúc cho họ.
- Xin Chúa vào nhà con. Thầy đã giải thoát cho con khỏi sự đau đớn, và mọi người cũng như mọi đồ đạc ở đây đều muốn là sự thoải mái cho Thầy - Êlise nói.
- Đồng ý, Êlise. Nhưng con coi, một đám đông chừng nào đi theo Thầy. Bây giờ Thầy sẽ nói với mọi người, rồi tới sau giờ thứ ba, Thầy sẽ vào và Thầy sẽ ở lại trong nhà con, để rồi Thầy ra đi vào buổi chiều. Và chúng ta sẽ nói chuyện riêng với nhau...
Giêsu nói để an ủi Êlise, vì bà ước ao một thời gian lâu hơn. Bà tỏ ra thất vọng khi nghe biết ý định của Giêsu. Nhưng Êlise là một môn đệ tốt, bà không phản đối gì cả. Bà chỉ xin phép để được ra lệnh cho các đầy tớ trước khi cùng với những người khác để tới nơi Giêsu hướng về. Bà làm việc đó cách vội vã, khác hẳn với người đàn bà bất động hồi năm ngoái.
Giêsu đã tới trong một đồng cỏ, nơi mặt trời tràn ngập. Những tia của nó chiếu qua những chòm lá mỏng của các cây cổ thụ mà
88
nếu tôi không lầm thì đó là những cây tần bì. Người chữa cho một đứa trẻ và một ông già bệnh. Đứa trẻ thì đau ở bên trong, ông già thì đau mắt. Không có những bệnh nhân khác nên Giêsu chúc lành cho các đứa trẻ mà mẹ chúng giơ ra cho Người, trong khi kiên nhẫn chờ Êlise và Anastasica tới.
Sau cùng, họ đây, và Giêsu bắt đầu nói ngay:
Hỡi dân chúng Betsur, hãy nghe: Năm ngoái Thầy đã nói với các con những điều phải làm để chiếm được Nước Thiên Chúa. Bây giờ Thầy xác định điều đó với các con để các con không bị mất điều các con đã chiếm được. Đây là lần sau cùng Thầy nói với các con như vầy, trong một cuộc xum họp không thiếu ai. Sau cùng, Thầy cũng còn có thể gặp các con cách bất ngờ, với cá nhân hay với những nhóm nhỏ, trên các con đường quê hương trần thế của chúng ta. Rồi sau đó nữa, Thầy có thể gặp các con trong Nước của Thầy. Nhưng những lần đó sẽ không bao giờ như lúc này nữa.
Trong tương lai, biết bao thứ sẽ được nói với các con về Thầy, chống lại Thầy; về các con và chống lại các con. Họ muốn khủng bố các con.
Thầy, Thầy nói với các con như Isaie: “Đừng sợ, vì Thầy đã cứu chuộc các con, Thầy đã gọi tên các con”. Chỉ những ai muốn bỏ rơi Thầy mới có lý do để sợ, chứ không phải những người trung thành và thuộc về Thầy. Các con đừng sợ! Các con là của Thầy, và Thầy là của các con. Không có thứ nước nào của dòng sông, không có lửa nào của dàn thiêu, không có đá nào, kiếm nào có thể chia lìa các con với Thầy, nếu các con ở lại trong Thầy. Trái lại, càng ngày lửa, nước, đá và kiếm càng kết hợp các con lại với Thầy, và các con sẽ là các thứ ngã của Thầy, và các con sẽ được phần thưởng của Thầy. Thầy sẽ ở với các con trong những giờ bão tố, thử thách, cho tới tận cái chết, và sau đó, sẽ không còn gì có thể chia lìa chúng ta nữa.
Ôi! Dân của Thầy! Dân mà Thầy đã kêu gọi và tụ họp, và Thầy sẽ còn kêu gọi và tụ họp hơn nữa khi Thầy bị treo lên, Thầy sẽ kéo tất cả lên với Thầy. Ôi! Hỡi dân được tuyển chọn, dân thánh, đừng sợ, vì Thầy ở, và sẽ ở với các con, và các con sẽ rao giảng Thầy.
89
Dân của Thầy mà các con là thành phần, sẽ được gọi là các thừa tác viên của Thầy. Thầy sẽ cho các con, Thầy cho các con ngay từ lúc này, cái mệnh lệnh đi nói từ phương tây tới phương đông, từ phương bắc tới phương nam, làm sao cho mọi con cái Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, cho tới những người ở tận biên giới trái đất, biết Thầy là vua của họ, và gọi Thầy bằng tên thực của Thầy, và được hưởng vinh quang mà vì đó họ được tạo dựng, và là vinh quang của đấng đã dựng nên và đào tạo họ.
Isaie nói rằng để tin, các chi tộc và các quốc gia sẽ gọi tới các nhân chứng của vinh quang Thầy. Nhưng Thầy sẽ tìm được các nhân chứng này ở đâu nếu Đền Thờ và đền đài vua chúa, nếu hàng ngũ quyền thế ghét Thầy và nói dối, vì họ không muốn nói rằng Thầy là đấng mà Thầy là? Thầy sẽ tìm thấy họ ở đâu? Họ đây, ôi Thiên Chúa, các chứng nhân của Con! Những kẻ mà Con đã giáo huấn trong Lề Luật, những kẻ Con đã chữa lành trong thân xác và linh hồn; những kẻ trước mù mà bây giờ nhìn thấy, trước điếc mà bây giờ nghe được, trước câm mà bây giờ nói được tên Cha; những kẻ bị đàn áp, bây giờ được giải phóng... Tất cả, tất cả những kẻ mà Ngôi Lời của Cha đã là ánh sáng, chân lý, đường đi và sự sống cho họ. Các con là những chứng nhân của Thầy, những tôi tớ mà Thầy đã lựa chọn để các con biết và tin, và hiểu thực sự Thầy là ai: Thầy là Chúa, là Vị Cứu Tinh. Hãy tin điều đó vì hạnh phúc của các con. Ngoài Thầy ra, không còn Vị Cứu Tinh nào khác. Hãy biết điều đó để chống lại mọi xỏ xiên của loài người hay Satan. Hãy quên đi tất cả những điều đã được nói với các con bởi một cái miệng khác không phải là miệng Thầy, và nó khác với lời Thầy. Hãy xua đuổi đi những điều khác biệt mà người ta sẽ nói với các con trong tương lai. Với những kẻ muốn làm cho các con phản bội Đức Kitô, hãy nói với họ: “Các công việc của Người nói với tâm hồn chúng tôi”, và hãy kiên trì trong đức tin.
Thầy đã làm rất nhiều để cho các con một đức tin gan dạ. Thầy đã chữa các bệnh tật của các con và làm nguôi sự đau đớn của các con. Thầy đã giáo huấn các con như một ông thầy tốt. Thầy đã
90
nghe các con như người bạn thân. Thầy đã bẻ bánh với các con, chia sẻ đồ uống với các con. Nhưng những điều này cũng giống như công việc của các thánh và các tiên tri, Thầy sẽ làm những việc khác nữa, những điều có thể lấy đi mọi nghi ngờ mà sự tối tăm có thể xúi dục, giống như cơn gió xoáy cuốn đi những đám mây bão trong bầu trời thanh quang mùa hè. Hãy để cho các đám mây đi qua và gắn bó ở lại trong đức ái vì Giêsu của các con, vì Giêsu này, người đã bỏ Chúa Cha để đến cứu các con, và sẽ bỏ mạng sống để cho các con phần rỗi.
Các con, những kẻ Thầy đã yêu và Thầy còn yêu hơn chính mình Thầy, vì không có tình yêu nào lớn hơn chết vì lợi ích của kẻ mình yêu. Hãy canh chừng để đừng ở dưới những kẻ mà trong sách tiên tri Isaie, họ được gọi là các con vật hoang, các con rồng, các con đà điểu, tức là các dân ngoại, các kẻ thờ ngẫu tượng, các kẻ ngoại giáo ô uế. Họ, khi chính Thầy sẽ cho các tang chứng về sức mạnh của tình yêu Thầy và của bản tính Thầy, bằng cách tự Thầy toàn thắng sự chết - thực vậy, đó là điều người ta có thể nhận ra, và không ai, nếu không phải là kẻ nói dối, có thể phủ nhận - họ sẽ nói: “Đó là Con Thiên Chúa”. Họ sẽ thắng những trở ngại coi như không thể vượt qua của từng bao thế kỷ thờ các ngẫu tượng ô uế, bao đời tối tăm và trụy lạc. Họ sẽ đến với Ánh Sáng, với Suối Nguồn, với Sự Sống. Đừng như qúa nhiều người trong Israel, không dâng cho Thầy của lễ toàn thiêu, không tôn vinh Thầy bằng các lễ hy sinh, mà trái lại, họ làm khổ Thầy bằng sự bất công của họ; họ biến Thầy thành nạn nhân của tâm hồn chai đá của họ. Họ trả lời cho tình yêu và sự tha thứ của Thầy bằng sự thù ghét ngấm ngầm, giống như gài mìn dưới đất để làm Thầy gục ngã để họ có thể nói: “Có thấy không? Ông ta gục ngã vì Thiên Chúa đã giáng sét trên ông”.
Hỡi dân thành Bétsur, hãy vững mạnh. Hãy yêu lời Thầy, vì nó là sự thật. Hãy yêu dấu hiệu của Thầy, vì nó là thánh. Chớ gì Chúa luôn luôn ở với các con và các con luôn luôn cùng với các tôi tớ Chúa, tất cả đều hợp nhất, để mỗi người đều được tới nơi Thầy đi
91
tới, và để họ sắm được một chỗ ở vĩnh viễn trên Trời, cho tất cả những ai, sau khi đã vượt qua được những ưu phiền và thu được thắng lợi, sẽ được chết trong Chúa và được sống lại trong Chúa tới muôn đời.
- Chúa ơi, nhưng Thầy muốn nói gì? Trong bài thuyết trình của Thầy có những tiếng kêu chiến thắng và những tiếng kêu đau thương - một số người hỏi.
- Đúng. Thầy giống như kẻ biết mình bị kẻ thù bao vây - một số khác nói.
- Và có vẻ như Thầy nói chúng con cũng vậy nữa - một số khác nữa nói.
- Ôi! Chúa ơi! Thầy sẽ ra sao trong tương lai? - có vài người nói.
- Vinh quang - Judas Iscariot nói.
- Chết! - Êlise khóc và thở dài.
- Sự Cứu Chuộc, sự hoàn tất sứ mạng của Thầy. Đừng sợ. Đừng khóc. Hãy yêu Thầy. Thầy vui mừng làm Đấng Cứu Chuộc. Đi, Êlise. Chúng ta về nhà con...
Và Người dẫn đầu để đi, rẽ qua đám đông đang hỗn độn vì những cảm xúc trái ngược.
- Nhưng Chúa ơi, tại sao lại cứ luôn luôn những bài thuyết trình kiểu này? - Judas hỏi với giọng phiền trách. Và ông thêm: “Đó không phải là của một ông vua”.
Giêsu không trả lời ông. Trái lại, Người trả lời cho anh họ Giacôbê hỏi Người với nước lóng lánh trong mắt: “Anh ơi, tại sao anh luôn luôn dẫn chứng những đoạn sách, trong những lời từ giã của anh?”
- Để những kẻ kết án Thầy không thể nói được là Thầy mê sảng hay Thầy phạm thượng. Và để cho những kẻ không muốn nhìn nhận sự thật hiểu rằng: những mặc khải luôn luôn chứng tỏ Thầy là Vua của một nước không thuộc về loài người, một nước được miêu tả, được xây dựng, được củng cố bằng sự chết của Nạn Nhân, của Nạn Nhân Duy Nhất có thể tái tạo Nước Trời đã bị Satan và cha mẹ đầu tiên phá hủy. Sự kiêu căng, sự thù ghét, sự dối trá, sự dâm đãng, sự bất tuân đã phá hủy nó. Sự khiêm nhường, sự vâng lời, tình yêu, sự
92
trong trắng, sự hy sinh tái thiết nó. Đừng khóc bà ơi. Những người bà yêu đang chờ Thầy. Họ sẽ hoan lạc sau sự sát tế của Thầy.
Họ vào trong nhà. Trong khi các tông đồ lo nghỉ ngơi và hạ cơn đói, Giêsu đi vào khu vườn thứ tự, đầy hoa, với một mình Êlise. Người nghe bà nói: “Thầy ơi, chỉ có mình con biết rằng Jeanne muốn nói chuyện bí mật với Thầy. Bà đã sai Jonatha đến nhà con, ông ta bảo con là ‘về những điều rất hệ trọng’. Cả đứa con gái mà Thầy đã cho con - nguyện Thầy được chúc tụng - cũng không biết. Jeanne đã gởi đầy tớ đi mọi ngả để tìm Thầy, nhưng họ không tìm thấy Thầy...”
- Thầy đã đi rất xa, và Thầy còn đi xa hơn nếu thần trí không đẩy Thầy trở lại... Êlise, con sẽ đi với Thầy cùng với Zêlote tới nhà Jeanne. Những người khác sẽ ở lại đây trong hai ngày để nghỉ ngơi, rồi họ sẽ tới Béther. Con sẽ trở về với Jonatha.
- Vâng, Chúa của con... - Êlise nhìn Người với tình mẹ. Bà dò xét Người... Bà không thể hãm lời: “Thầy khổ lắm!”
Giêsu lắc đầu, không thực sự nói là không, nhưng với một sự nản lòng rõ ràng.
- Con là một bà mẹ... Thầy là Thiên Chúa của con... Nhưng... Ôi Thiên Chúa của con! Thầy nghĩ là Jeanne muốn gì? Thầy đã nói về cái chết, và con hiểu, vì ở Đền Thờ, các cô gái đọc Sách Thánh rất nhiều. Sách nói về Thầy là Vị Cứu Tinh, và con nhớ những lời này. Trước kia khi nói về sự chết thì khuôn mặt Thầy sáng láng một niềm vui Thiên Quốc... Bây giờ mặt Thầy không sáng nữa... Maria giống như đứa con gái đối với con... Thầy là con nó... nếu không là một tội để nói điều này: Thầy cũng hơi hơi như con của con... Mẹ Thầy ở xa, nhưng là một người mẹ luôn luôn ở bên cạnh Thầy, đấng được chúc phúc của Thiên Chúa. Con không thể làm nhẹ bớt đau khổ của Thầy sao?
- Bà đã làm nó nhẹ bớt, bởi vì bà yêu Thầy. Thầy nghĩ gì về điều Jeanne muốn nói với Thầy à? Đời sống Thầy giống như cây hoa hồng này. Các bông hồng là các con, các môn đệ tốt. Nhưng khi hái các bông hồng đi thì còn lại gì? Gai...
- Nhưng chúng con sẽ trung thành với Thầy đến chết.
93
- Đúng vậy, tới chết. Và Chúa Cha sẽ chúc phúc cho các con vì sự yên ủi các con dành cho Thầy. Chúng ta hãy vào nhà nghỉ. Tới hoàng hôn, chúng ta sẽ đi Béther.
89* TẠI BÉTHER
Giêsu, và theo sau Người là Zêlote, kẻ đã cầm cương con lừa có Êlise ngồi ở trên, gõ vào chiếc cửa của người gác dan khu Béther. Họ không đi cùng một con đường mà lần trước họ đã đi để tới vùng sở hữu của Jeanne trong ngôi làng nhỏ nằm ở sườn phía tây của ngọn núi mà trên đỉnh là lâu đài của bà.
Người gác dan biết Chúa nên vội vã mở rộng cái cổng của hàng rào ở bên cạnh nhà của ông, nơi có lối để đi vào các khu vườn ở trước nhà. Đây là chỗ bắt đầu cái nơi thơ mộng, tức là các vườn hồng của Jeanne. Một mùi thơm ngào ngạt của hoa hồng tươi và tinh dầu hoa hồng bay trong gió nóng của hoàng hôn. Khi gió chiều đến từ phía đông, nó làm dợn sóng những cây hồng đầy hoa, mùi thơm càng ngào ngạt hơn, tươi mát hơn, thực sự hơn, vì nó tới từ các sườn đồi trồng hồng, và nó vượt thắng mùi thơm nặng của tinh dầu bay ra từ một cái chái nhà rộng và thấp, trước bức tường ở phía tây nhà.
Người gác dan giải thích: “Bà chủ con ở đây. Mỗi buổi chiều, bà tới vào giờ các người lo việc hái hoa và chiết tinh dầu tụ họp, để nói với họ, hỏi han và săn sóc họ, khích lệ họ. Ôi! Bà chủ của chúng con, bà tốt chừng nào! Bà luôn luôn vậy, nhưng từ khi bà trở thành môn đệ của Thầy!... Bây giờ con đi gọi bà. Đây là thời kỳ có nhiều công việc nên những người hái hoa thường xuyên không đủ, mặc dầu từ lễ Vượt Qua đã có thêm nhiều đầy tớ trai mới, và những người đầy tớ gái mới cũng phụ làm. Xin Chúa chờ con...”
- Không, Thầy tới đó. Nguyện Chúa chúc phúc cho ông và ban bình an cho ông - Giêsu nói khi giơ tay chúc phúc cho người gác dan già mà cho tới lúc này, Người đã nghe ông ta nói cách kiên nhẫn. Sau khi rời ông ta, Người đi về phía cái chái nhà rộng và thấp.
Nhưng tiếng động của bước chân trên đất cứng của lối đi đã làm
94
Mathia ngóc đầu lên vì hơi tò mò. Rồi với tiếng reo, đứa trẻ chạy vội ra ngoài, hai tay đã giang ra và giơ lên để kêu mời cái ôm mà nó mong ước: “Có Giêsu! Có Giêsu!” Nó vừa chạy vừa reo. Và khi nó đã ở trong vòng tay Chúa và Người hôn nó thì Jeanne tiến ra giữa các đầy tớ của bà.
- Lạy Chúa! - Đến lượt bà kêu. Rồi bà qùi gối để tôn kính Người ngay tại chỗ bà đang ở. Bà cúi sâu, rồi đứng lên với khuôn mặt mà xúc động tô cho một mầu đỏ tía giống như cánh của bông hồng đang nở. Rồi bà đến với Giêsu và lại qùi gối, cúi xuống để hôn chân Người.
- Bình an cho con, Jeanne. Con muốn gặp Thầy? Thầy đã tới.
- Vâng, lạy Chúa... Con muốn gặp Thầy - Jeanne trở nên tái mét và nghiêm trang. Giêsu quan sát bà.
- Đứng dậy đi. Chouza mạnh giỏi chứ ?
- Vâng, thưa Chúa của con!
- Và con bé Maria? Thầy không thấy nó ở đây.
- Thưa Chúa nó cũng khỏe. Nó đi cùng với Esther để mang thuốc cho một người đầy tớ bị bệnh.
- Con đã gọi Thầy vì người đầy tớ này?
- Không... Lạy Chúa... vì... Thầy - Rõ ràng là Jeanne không muốn nói trước mặt những người đang vây quanh họ.
Giêsu hiểu và nói: “Tốt, vậy chúng ta đi coi hoa hồng của con...”
- Chúa ơi! Chắc Thầy mệt. Thầy cần ăn... Thầy khát...
- Không. Chúng ta đã dừng lại trong những giờ qúa nóng tại nhà một người môn đệ mục đồng. Thầy không mệt...
- Vậy chúng ta đi... Jonatha, ông chuẩn bị tất cả cho Chúa và các người theo Ngài... xuống đi Mathia... - Bà ra lệnh cho người quản lý đang đứng cung kính gần bà, và cho đứa bé đang nằm ổ trong tay Giêsu, vuốt ve Người và gục đầu tóc hung đen của nó vào chỗ lõm của cổ Người như con chim cu con dưới cánh cha. Đứa bé thở dài vì tiếc, nhưng nó chuẩn bị để vâng lời.
Nhưng Giêsu nói: “Không, nó sẽ đi với chúng ta, và nó sẽ không làm phiền chúng ta. Nó giống như một thiên thần nhỏ, mà trước
95
mặt nó, người ta không thể có những hành động xấu và những giao tiếp bất chính. Như vậy sẽ ngăn cản mọi nghi ngờ, dù là nhỏ mọn, nảy sinh trong lòng người. Chúng ta đi...”
- Thưa Thầy, Êlise và con, chúng con vào nhà hay Thầy muốn chúng con ở bên Thầy? - Zêlote hỏi.
- Các con cũng hãy đi đi.
Jeanne dẫn Giêsu vào một lối đi rộng băng qua vườn. Họ đi về phía những vườn hồng lên, xuống, đổ về phía những sườn đối diện làm thành lãnh địa đầy hoa của người môn đệ. Và Jeanne tiếp tục. Tựa như bà muốn cô lập tại một nơi chỉ có hoa hồng, cây cối và chim chóc trên cành. Chúng cãi cọ để dành một chỗ ngủ, hoặc chúng bay vòng sau cùng để tới tổ của chúng.
Các bông hồng chiều nay còn là nụ, ngày mai sẽ nở và rơi xuống dưới lưỡi kéo, tỏa ra mùi thơm nức trước khi nghỉ ngơi dưới sương đêm. Họ dừng lại tại một thung lũng nhỏ ở giữa hai mảnh đất cao là hai tràng hoa tươi cười, một bên là hoa hồng đào, một bên là hoa hồng đỏ như máu đang đông. Tại đó có một tảng đá có thể dùng làm ghế ngồi, hoặc làm bệ để thúng của các người hái hoa. Trong cỏ cũng như trên tảng đá, có những cánh hoa hồng bầm dập, bằng chứng của công việc trong ngày.
Jeanne lấy bàn tay trang điểm đầy cà rá của bà để phủi tảng đá cho sạch những hoa lá vấn rác và nói: “Mời Thầy ngồi. Con phải nói với Thầy... lâu”.
Giêsu ngồi, và Mathia bắt đầu chạy nhảy đó đây trên cỏ non, cho tới khi nó mải mê đuổi bắt một con cóc lớn tới vườn để hưởng khí mát của buổi chiều. Nó chạy ra xa, nhảy nhót la ó vì vui, tới lui theo sau con cóc tội nghiệp cho tới khi chỗ ẩn của một con dế làm nó sao lãng, và nó bắt đầu moi dế bằng một cành cây nhỏ.
- Jeanne, Thầy ở đây để nghe con... Con không nói sao? - Giêsu hỏi sau một lúc yên lặng, và Người ngừng quan sát đứa trẻ để nhìn người môn đệ đứng trước mặt Người, nghiêm trang và lặng lẽ.
- Thưa Thầy, có. Nhưng... khó qúa... và con tin rằng cũng nặng nề để nghe nữa...
- Hãy nói cách đơn sơ và tin cẩn...
96
Jeanne sụp xuống trên cỏ, ngồi tì trên gót chân, nửa qùi nửa ngồi ở chỗ đất thấp so với Giêsu, vì Người ngồi trên tảng đá, trong vị thế khắc khổ và cứng ngắc, tựa như là một người bị xa cách nhiều mét và bởi nhiều vật cản, nhưng rất gần như là Thiên Chúa và bạn hữu, nhờ lòng nhân từ của cái nhìn và nụ cười của Người. Jeanne nhìn Người, nhìn Người trong sự êm đềm của một hoàng hôn tháng năm. Sau cùng bà nói: “Chúa của con ơi... trước khi nói... con cần hỏi Thầy... để biết tư tưởng của Thầy... để biết xem con có lầm về các lời Thầy không... Con là một đàn bà, một đàn bà ngu si... Có lẽ con đã mơ... mà bây giờ con mới biết... những điều như Thầy đã nói, như Thầy đã sửa soạn, như Thầy đã muốn cho Nước Thầy... Có lẽ Chouza có lý và con lầm...
- Chouza đã khiển trách con à?
- Chúa ơi, có và không. Ông ta chỉ nói với con, nhân danh quyền làm chồng của ông rằng, nếu đúng như các sự kiện mới đây cho phép nghĩ thì con phải bỏ Thầy, vì một đại thần của Hêrôđê không thể cho phép vợ mình âm mưu chống lại Hêrôđê.
- Vậy con đã là kẻ âm mưu hồi nào? Ai nghĩ đến làm hại Hêrôđê? Cái ngai tội nghiệp của ông ta qúa ghê tởm, không đáng giá bằng cái tảng đá này để ngồi giữa các bông hoa hồng. Thầy đang ngồi ở đây, nhưng Thầy sẽ không ngồi trên cái ghế của ông ta. Mong rằng Chouza yên tâm! Cái ngai của Hêrôđê, và cả cái ngai của César, đều không làm cho Thầy ham. Đó không phải là ngai của Thầy, và đó không phải là Nước của Thầy.
- Vâng, ôi! Lạy Chúa, xin chúc tụng Thầy. Thầy đã cho con bình an chừng nào! Biết bao ngày nay con đã khổ! Thầy của con, Thầy thánh và Thiên Chúa của con! Thầy yêu qúi của con! Thầy muôn đời của con! Đúng như con đã hiểu, đã thấy, đã yêu. Đúng như con đã tin Thầy, rất cao, rất cao bên trên trái đất... Rất... rất Thiên Chúa! Ôi! Chúa của con và vua Trời! - Và Jeanne cầm tay Giêsu, kính cẩn hôn lên mu bàn tay và qùi gối như thờ lạy.
- Nhưng đã xảy ra chuyện gì vậy? Một chuyện mà Thầy không biết, đã có thể làm con xao xuyến đến thế, làm mờ đi trong con sự
97
trong sáng của khuôn mặt tinh thần và siêu nhiên của Thầy? Hãy nói đi!
- Cái gì? Thưa Thầy, những làn khói của sai lầm, của kiêu căng, của tham lam, của ương ngạnh đã trào lên từ cái miệng núi lửa hôi hám, và đã làm mờ hình ảnh của Thầy trong ý nghĩ của một số ông, một số bà... và chúng muốn cũng làm như vậy trong con. Nhưng con, con là Jeanne của Thầy, hồng ân của Thầy, ôi Thiên Chúa, và con sẽ không bị lạc, ít nhất con hy vọng điều đó, vì biết rằng Thiên Chúa nhân từ chừng nào! Những kẻ mà linh hồn mới là một phôi thai đang phấn đấu để thành hình, rất có thể chết vì một thất vọng; những kẻ chỉ là một người trong một biển bùn lầy, bị quay cuồng bởi dòng nước mạnh, cố gắng để ngoi tới bờ, tới cảng, để thanh tẩy, để biết những nơi khác của bình an, của công chính, rất có thể bị đánh bại bởi mệt mỏi, nếu nó mất sự tin cẩn vào bờ bến này, vào những nơi này, và lại để mình bị dòng nước bùn cuốn đi. Con đã bị khổ sở, hành hạ, bởi sự thiệt hại của các linh hồn mà con cầu khẩn ánh sáng cho họ. Các linh hồn mà chúng con đào tạo cho ánh sáng đời đời còn chí thiết với chúng con hơn những kẻ mà chúng con cho ánh sáng trái đất. Bây giờ con hiểu thế nào là làm mẹ một thân xác và làm mẹ một linh hồn. Người ta khóc vì con nhỏ của chúng con chết, nhưng đó chỉ là sự đau đớn cho chúng con. Còn đối với một linh hồn mà chúng con đang cố gắng làm cho lớn lên trong ánh sáng mà bị chết, chúng con đau khổ không phải chỉ cho chúng con, nhưng đau khổ với Thầy, với Thiên Chúa ... Vì sự đau đớn của chúng con do cái chết thiêng liêng của một linh hồn, cũng là sự đau đớn của Thầy, một sự đau đớn vô tận của Thiên Chúa... Con không biết con có trình bày đúng không...
- Ồ, rất đúng. Nhưng hãy làm một tường thuật thứ tự, nếu con muốn Thầy củng cố cho con.
- Vâng, thưa Thầy, Thầy đã sai Simon Zêlote và Judas Kêriot về Bêtani phải không? Cho đứa con gái Hy Bá mà các bà Rôma đã cho Thầy, và Thầy đã gởi về cho Nique...
- Ờ, rồi sao?
98
- Cô ta muốn chào các bà chủ tốt của cô, và Simon với Judas đã dẫn nó về Antonia, Thầy biết không?
- Thầy biết. Sao nữa?
- Thưa Thầy... chắc con phải làm Thầy khổ... Thưa Thầy, đúng thật Thầy chỉ là vua tâm hồn, và Thầy không nghĩ tới các nước trên mặt đất?
- Không, Jeanne. Nhưng tại sao con còn có thể nghĩ tới điều đó?
- Thưa Thầy, để được niềm vui một lần nữa thấy Thầy Thiên Chúa, chỉ hoàn toàn Thiên Chúa. Nhưng một cách chính xác, bởi vì Thầy là vậy, nên con có thể phải làm cho Thầy một đau đớn... Thưa Thầy, cái ông người Kêriot không hiểu Thầy, và ông ta không hiểu cái bà luôn luôn kính trọng Thầy như bậc khôn ngoan, như một đại triết gia, như một người nhân đức trên mặt đất, nhưng chỉ thán phục Thầy vì vậy, và vì vậy bà tự đặt mình làm kẻ bảo vệ cho Thầy. Thật lạ lùng là các người ngoại giáo hiểu cái điều mà một trong các tông đồ của Thầy không hiểu, sau khi đã ở với Thầy lâu như vậy!...
- Ông ta bị mù quáng bởi nhân tính, bởi tình yêu loài người.
- Thầy tha cho ông ta... Nhưng ông ta làm thiệt hại cho Thầy. Trong khi Simon nói chuyện với Plautina, Lidia và Valêria, thì Judas nói với Claudia nhân danh Thầy, như một đặc sứ của Thầy. Ông ta đã muốn giựt của bà ta những lời hứa để cải tổ vương quốc Israel. Claudia đã hỏi han ông ta lâu giờ...Và ông ta đã nói rất nhiều. Chắc chắn ông ta nghĩ rằng ông ta đã đến ngưỡng cửa của giấc mộng điên khùng của ông, nơi mà giấc mộng biến thành thực tế. Thưa Thầy, Claudia rất phẫn nộ vì vậy. Bà ta là con gái Rôma, cái máu đế quốc nó ở trong bà. Làm sao Thầy lại muốn bà, ngay chính bà, một con gái thuộc loại như Claudia, đi chống lại Rôma? Bà ta bất bình sâu xa, đến cỡ bà ta nghi ngờ Thầy và sự thánh thiện trong giáo lý của Thầy. Bà ta không còn thể ôm ấp, không còn thể hiểu được sự thánh thiện của nguồn gốc Thầy... Nhưng rồi bà ta sẽ hiểu, bởi vì bà ta có thiện chí. Bà ta sẽ hiểu khi bà được bảo đảm về con người của Thầy. Lúc này thì đối với bà, Thầy là kẻ phản loạn, kẻ chiếm ngôi, kẻ ham hố, giả trá... Plautina và các bà khác đã cố gắng làm bà yên tâm... Nhưng bà ta muốn từ chính Thầy câu trả lời
99
lập tức.
- Con hãy nói với bà ta là đừng sợ. Thầy là Vua các vua, đấng dựng nên các vua và phán xét họ, nhưng Thầy không có chiếc ngai nào khác ngoài chiếc ngai của Con Chiên: trước tiên bị sát tế, rồi vinh thắng ở trên Trời. Con hãy nói cho bà biết điều đó, đừng chậm trễ.
- Thưa Thầy vâng. Chính cá nhân con sẽ đi trước khi bà rời Jêrusalem. Vì Claudia phẫn uất tới nỗi bà ta không thèm ở lại Antonia lâu hơn... để không nhìn thấy các kẻ thù của Rôma... Bà ta đã nói.
- Ai đã nói với con những điều đó?
- Plautina và Lidia. Các bà đến, và Chouza hiện diện... Thế là từ đó... ông ta đặt con vào hoàn cảnh lưỡng nan: hoặc Thầy là Đức Messi thiêng liêng, hoặc con bỏ Thầy vĩnh viễn.
Giêsu có một nụ cười mệt mỏi trên khuôn mặt xanh xao vì đau đớn bởi sự tường thuật của Jeanne, và Người nói: “Chouza không tới đây à?”
- Ngày mai là ngày Sabat, ông sẽ tới.
- Thầy sẽ làm ông ta yên tâm. Đừng sợ. Mong rằng đừng ai sợ cả: Chouza không phải sợ cho địa vị của ông, Hêrôđê không phải sợ bị chiếm ngôi bất ngờ, Claudia không phải sợ vì tình yêu đối với Rôma, cũng như con, không phải sợ bị lầm, bị ly hôn... Mong rằng đừng ai sợ cả... Chỉ một mình Thầy, Thầy phải sợ... và chịu đựng...
- Thưa Thầy, con không muốn làm cho Thầy cái đau này, nhưng sự yên lặng là một lừa dối... Thưa Thầy, Thầy cư xử thế nào với Judas?... Con sợ những phản ứng của ông ta... cho Thầy... luôn luôn cho Thầy...
- Theo sự thật. Thầy sẽ làm cho ông ta hiểu rằng Thầy biết, và Thầy không chấp nhận hành động của ông, và sự ương ngạnh của ông.
- Ông ta sẽ ghét con, vì ông ta sẽ hiểu là do con mà Thầy biết!...
- Con có khổ vì vậy không?
- Thầy ghét là một đau đớn cho con, nhưng ông ta thì không. Con
100
là một đàn bà, nhưng cương quyết hơn ông ta trong việc phục vụ Thầy. Con phục vụ Thầy vì con yêu Thầy, không phải để được những vinh dự bởi Thầy. Nếu mai ngày vì Thầy, con bị mất mọi của cải, tình yêu của chồng và cả đến sự tự do của đời con, con sẽ yêu Thầy hơn, vì khi ấy con chỉ còn có Thầy để yêu và để yêu con - Jeanne nói cách oai vệ khi bà đứng lên..
Giêsu cũng đứng dậy và Người nói: “Jeanne, hãy được phúc vì những lời này. Hãy bình an. Lòng ghét cũng như lòng yêu của Judas không thể thay đổi những gì đã được viết trên Trời. Sứ mạng của Thầy sẽ được hoàn thành như đã được định. Đừng bao giờ hối tiếc. Hãy bình an như thằng bé Mathia, sau khi đã làm một căn nhà theo như nó là đẹp nhất cho con dế của nó, nó đã nằm ngủ, áp trán trên những cánh hồng và mỉm cười... tưởng rằng vẫn còn con dế trên các cánh hồng. Bởi vì đời sống rất đẹp khi người ta thơ ngây. Thầy cũng vậy, Thầy mỉm cười, dù là đời sống làm người của Thầy không có bông hoa, nhưng là những cánh hoa bị rứt ra, héo úa. Nhưng ở trên Trời, Thầy có tất cả những bông hồng là những kẻ được cứu chuộc... Đi về thôi. Đêm rồi. Sắp sửa chúng ta không còn nhìn thấy lối đi nữa”.
Jeanne tới để ẵm đứa trẻ trong tay.
- Để nó đấy... Thầy ẵm nó. Coi! Nó mỉm cười dễ ghét! Chắc nó mơ về Trời, về má nó. Và con... Thầy cũng vậy, trong tất cả những lúc đau khổ, Thầy mơ về Trời, về má Thầy, và về các môn đệ tốt.
Và họ đi từ từ về nhà.
90* GIÊSU VỚI PHÊRÔ VÀ BATÔLÔMÊO
TẠI BÉTHER
Giêsu đi dạo giữa các bụi hồng mà việc thu hái đang hoạt động, do đó Người có dịp để nói chuyện với người nọ người kia, kể cả với bà góa và các con bà, người mà Jeanne, vì tình yêu đối với Thầy, đã nhận như đầy tớ vào dịp lễ Vượt Qua, sau bữa tiệc cho các người
101
nghèo. Họ không còn là họ như trước nữa: tươi tắn, thanh thản. Họ hoàn tất công việc của họ cách vui vẻ, mỗi người theo khả năng của mình. Những đứa nhỏ chưa biết phân biệt bông hồng nọ khác với bông hồng kia về độ tươi và mầu sắc thế nào để phân loại, chúng chơi với nhau tại những nơi yên tĩnh, và tiếng kêu trẻ như chim non của chúng hòa lẫn với tiếng chim ríu rít trong các chòm lá để chào cha mẹ chúng trở về với miếng mồi.
Giêsu đi về với đám chim non này và Người cúi xuống, lưu ý, vuốt ve, làm tan những cãi lộn nhỏ, nâng dậy những đứa té, khóc nũng nịu, trán bị dính dơ, hoặc các bàn tay nhỏ bị trầy. Và các nước mắt, cãi lộn, ganh tị, chấm dứt ngay dưới sự vuốt ve và những lời của Đấng Vô Tội. Chúng biến thành việc dâng tặng những đề tài của sự tranh chấp: một con cánh qúit vàng, một hòn sỏi nhiều mầu hoặc bóng láng, hoặc một bông hoa... Giêsu có đầy trong tay và quanh thắt lưng những thứ đó. Người không để chúng thấy khi Người để các con cánh qúit hay con bọ rùa trên chòm lá để trả tự do cho chúng. Biết bao lần tôi đã nhận thấy sự khéo léo hoàn hảo của Giêsu, cả với những đứa trẻ rất nhỏ, Người không làm bẽ mặt chúng, không làm chúng thất vọng. Người có cái nghệ thuật dễ thương biết làm cho tốt nhất những điều bề ngoài không là gì, nhưng thực sự là sự toàn vẹn của một tình yêu thích hợp với sự nhỏ bé của trẻ con.
Đây, tôi thấy chạy hỏa tốc đến với Người, lẹ tới nỗi y phục bay như cờ trong gió: Phêrô, theo sau là Batôlômêo, bước hơi chậm hơn.
Họ đến phía sau lưng Thầy trong lúc Người đang cúi xuống để nựng một đứa bé, chắc chắn là con của các người hái hoa. Nó nằm trên chiếc nệm rơm dưới bóng cây: “Thầy ơi!”
- Simon! Làm sao con lại ở đây? Và con, Batôlômêo nữa. Ngày mai các con sẽ phải đi vào sau hoàng hôn của ngày Sabát...
- Thầy ơi, đừng khiển trách chúng con... Trước tiên, hãy nghe chúng con đã.
- Thầy nghe các con, và Thầy không khiển trách các con, vì
102
Thầy nghĩ rằng phải có lý do trầm trọng nên các con mới không vâng lời. Chỉ cần cho Thầy sự bảo đảm là không có ai bệnh hoạn hay bị thương chứ ?
- Không. Không. Chúa ơi, không có bệnh hoạn gì hết - Batôlômêo vội vã nói. Nhưng Phêrô chân thành và luôn luôn hăng hái, nói: “Hum! Con, con nói thà rằng đập gẫy chân chúng con, và ngay cả đập bể đầu nữa, còn hơn là...”
- Nhưng có chuyện gì vậy?
- Thưa Thầy, chúng con nghĩ rằng tốt hơn là đến để chấm dứt... - Batôlômêo đang nói thì Phêrô ngắt lời: “Nhưng anh nói đại đi lẹ lên!” Và ông tiếp: “Judas như một thằng qủi từ lúc Thầy đi. Không ai nói năng thảo luận gì được nữa. Ông ta gây với mọi người... ông ta làm phẫn uất hết các đầy tớ của Êlise và những người khác nữa...”
- Có lẽ ông ta ghen vì Thầy đã mang Simon đi với Thầy - Batôlômêo nói để biện hộ cho Judas khi ông thấy khuôn mặt Giêsu trở nên rất nghiêm nghị.
- Chắc chắn là ghen rồi! Anh biện hộ cho hắn ta xong chưa!... Hay tôi phải cãi nhau với anh cho đã, vì tôi đã không thể cãi nhau với hắn... Vì, thưa Thầy, con đã thành công để nín lặng, để câm miệng, Thầy nghĩ coi, chỉ vì vâng lời và vì tình yêu đối với Thầy... Nhưng khó chừng nào để làm điều đó! Rồi, vào lúc Judas đi ra và đập cửa cái rình, chúng con đã hỏi nhau... Chúng con nghĩ rằng phải đi để chấm dứt gương mù ở Bétsur, và... để tránh... bạt tai hắn... Con đã ra đi ngay với Batôlômêo. Con đã xin những người khác để cho con đi ngay, không chậm trễ, trước khi hắn về... vì... vì con cảm thấy con không thể cầm mình được nữa... Đó. Con đã nói. Bây giờ Thầy hãy khiển trách con, nếu Thầy thấy là con lầm.
- Con đã làm phải. Tất cả các con đã làm đúng.
- Cả Judas sao? A! Không, Chúa con ơi! Đừng nói vậy. Ông ta đã có một màn bất xứng.
- Không. Ông ta đã không hành động đúng. Nhưng con, con đừng xét đoán ông ta.
103
- Thưa Chúa không.
Tiếng “không” phát ra một cách khó khăn. Một yên lặng. Rồi Phêrô hỏi: “Nhưng ít nhất, xin Thầy nói cho con tại sao Judas bỗng dưng trở nên như vậy? Ông ta đã tỏ ra tốt, và mọi người thấy thoải mái. Con đã cầu nguyện và hy sinh để tình trạng đó tồn tại... Vì con không thể nhìn thấy Thầy khổ. Và Thầy khổ khi chúng con hành động sai... Và kể từ Lễ Ánh Sáng, con biết rằng dù hy sinh một muỗm mật ong cũng có giá trị... Điều đó đã được dạy cho con bởi một môn đệ, một môn đệ nhỏ nhất, một đứa trẻ tội nghiệp đã dạy chân lý này cho con, tông đồ ngu si của Thầy. Con không lơ là chuyện đó vì con đã thấy hậu qủa của nó. Dù với đầu óc đặc sệt, con cũng đã hiểu được cái gì nhờ Ánh Sáng Khôn Ngoan đã nhân từ cúi xuống trên con, đã cúi xuống tận con, tên dân chài thô lỗ, kẻ tội lỗi. Con hiểu rằng không phải chỉ yêu Thầy bằng lời nói, nhưng phải cứu các linh hồn cho Thầy bằng sự hy sinh, để cho Thầy niềm vui, để không phải thấy Thầy như lúc này, như Thầy hồi tháng Scébat: đau khổ và xanh xao, vị Thầy và Chúa con mà chúng con không đáng có. Chúng con là những kẻ không hiểu Thầy. Chúng con là những con sâu đất ở bên cạnh Thầy. Thầy, Con Thiên Chúa. Ở bên Thầy, chúng con là bùn, Thầy là tinh tú. Chúng con là sự tối tăm ở bên cạnh Thầy là ánh sáng. Nhưng điều đó chẳng giúp ích gì cho con. Đúng là không ích gì. Các của lễ tội nghiệp của con... qúa tội nghiệp, làm qúa dở... Nó phải được dùng làm gì? Con đã kiêu căng khi nghĩ là nó có thể phục vụ... Con xin Thầy tha. Nhưng con đã dâng Thầy cái con có. Con hiến mình để dâng Thầy tất cả cái con có. Và con tin sẽ được biện minh, bởi vì con yêu Thầy, ôi Thiên Chúa của con, bằng tất cả con người của con, tất cả trái tim con, tất cả linh hồn con, tất cả sức lực con như đã được viết. Bây giờ con hiểu điều đó và con nói ra. Con, cũng giống như Gioan, thiên thần của chúng ta luôn luôn nói, con xin Thầy (ông qùi xuống tại chân Giêsu) tăng thêm tình yêu của Thầy cho Simon tội nghiệp của Thầy, để tình yêu của con đối với Thầy được gia tăng, ôi Thiên Chúa của con!” Và Phêrô gục xuống để hôn chân Giêsu và cúi yên như vậy.
104
Batôlômêo đã nghe, cảm phục ông, tán đồng với ông và bắt chước ông.
- Các con đứng dậy đi, các bạn Thầy. Tình yêu Thầy không ngừng lớn lên trong các con, và nó sẽ càng ngày càng lớn. Các con được phúc vì con tim các con. Khi nào thì những người khác tới?
- Trước hoàng hôn.
- Tốt. Jeanne cũng vậy, cùng với Êlise và Chouza, cũng sẽ trở về trước hoàng hôn. Chúng ta sẽ qua ngày Sabát ở đây, rồi chúng ta khởi hành.
- Thưa Chúa vâng. Nhưng sao Jeanne gọi Thầy gấp qúa vậy? Bà không thể chờ sao? Đã quyết định là chúng ta sẽ tới đây mà! Sự thiếu khôn ngoan của bà đã là nguyên nhân của tất cả những chuyện này...
- Simon Jonas, đừng trách bà. Bà đã hành động khôn ngoan và với tình yêu. Bà đã gọi Thầy vì có những linh hồn cần củng cố cho thiện chí.
- A! Vậy con không nói nữa... Nhưng Chúa ơi, tại sao Judas lại thay đổi vậy?
- Đừng nghĩ tới đó! Đừng nghĩ tới đó! Hãy thưởng thức cái thiên đàng đầy hoa và bình an này. Hãy vui hưởng Chúa của con. Hãy bỏ rơi và quên đi cái nhân tính dưới hình thức xấu, trong những tấn công ồ ạt mà người bạn tội nghiệp của con đã lao thần trí nó vào. Con hãy chỉ nhớ để cầu nguyện cho ông ta, rất nhiều, rất nhiều. Tới đây, chúng ta lại với mấy đứa nhỏ này, chúng nhìn chúng ta cách ngạc nhiên. Vừa nãy Thầy đã nói với chúng về Thiên Chúa, về linh hồn với linh hồn, với tình yêu; và với những đứa lớn hơn, về vẻ đẹp của Thiên Chúa - rồi Người ôm sau thắt lưng hai tông đồ và đi lại với những đứa bé đang chờ Người.
91* TỪ BIỆT TẠI BÉTHER
Tôi thấy Giêsu ở trước lâu đài của Jeanne tại Béther. Ở chỗ này, vườn đàng trước nhà nở rộng ra thành hai cánh bao lấy căn nhà. Như vậy chúng tạo thành hai hoa viên hình bán nguyệt, không
105
có cây ở giữa, nhưng được bao quanh bởi những cây cổ thụ rất cao. Các chòm lá rậm rạp của chúng rung trong làn gió thổi trên đỉnh đồi, và chiếu xuống những bóng mát dễ chịu để bảo vệ cho khỏi mặt trời khi nó chiếu từ phương tây. Bên dưới các cây lớn là một hàng dậu bằng hoa hồng chạy thành hình bán nguyệt, đủ mầu và thơm phức ở quanh sân. Bây giờ là hoàng hôn. Nhờ vị trí cao của lâu đài, người ta thấy rõ ràng mặt trời lặn xuống ở chân trời từ một lộ trình vòng cung quan trọng của nó, và nó sắp khuất sau các ngọn núi ở phía tây. Andrê chỉ nó cho Philíp và nhắc ông nhớ lại sự lo sợ họ đã cảm thấy ở dưới kia, tại Betginna, vì phải rao giảng Chúa. Ta hiểu rằng Betginna được xây trên các núi này, nơi một năm trước đây, Chúa đã chữa con gái của ông chủ quán trọ lúc bắt đầu cuộc du hành của Người về phía bờ Địa Trung Hải, nếu tôi nhớ đúng. Tôi có một mình nên không thể bảo ai đưa cho tôi những tập của các tháng trước để kiểm tra, và đầu tôi nó không nhớ rõ.
Tất cả các tông đồ đều hiện diện. Tôi không biết cuộc gặp gỡ của Giêsu với Judas xảy ra thế nào. Bề ngoài thì Người có vẻ khá hơn. Khuôn mặt Người không bộc lộ sự dè dặt, cũng không ngụy tạo, nên Judas ung dung vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra, tới nỗi ông hoàn toàn dễ thương ngay cả với các đầy tớ thấp bé nhất, điều mà ông không dễ dàng để có, và nó biến mất hoàn toàn khi ông nổi nóng.
Vẫn còn Êlise, chắc chắn đã tới với các tông đồ và người đầy tớ gái của bà. Có cả Anastasica. Cũng có Chouza, rất khúm núm, dắt tay thằng bé Mathia, và Jeanne ở gần Êlise với bé Maria ở bên cạnh bà. Jonatha đứng ở đàng sau bà chủ của ông.
Giêsu được che cho khỏi mặt trời vẫn còn chiếu gay gắt ở mặt nhà phía tây, bởi một tấm bạt căng ra bằng những sợi giây và cột giống như cái tấm chắn. Trước mặt Người là tất cả các đây tớ và các người làm vườn của Béther, không phải chỉ những người phục vụ thường xuyên cho chủ, mà còn cả những người phụ đến từ làng tùy thuộc vào lâu đài. Họ tụ họp thành hình bán nguyệt, được che mặt trời bởi các tàn lá cây. Họ lặng lẽ, thứ tự, chờ phép lành của
106
Giêsu. Người như đã sẵn sàng để khởi hành, chỉ còn chờ hoàng hôn, dấu hiệu chấm dứt ngày Sabát.
Bây giờ Giêsu đang ở hơi riêng ra, nói chuyện với Chouza. Tôi không biết họ nói gì, vì họ nói nhỏ tiếng, nhưng tôi thấy Chouza có cả tình yêu và sự phản kháng. Ông để bàn tay phải lên ngực như muốn nói: “Dựa vào lời tôi, Thầy có thể chắc rằng về phần tôi...” và v.v.
Các tông đồ kín đáo tụ họp tại một góc, nhưng chẳng ai ngăn cản họ quan sát. Trên khuôn mặt Phêrô và Batôlômêo là cái nhìn đơn giản của kẻ đã hơi biết chuyện. Trên mặt của những người khác, trừ Judas, có cái sợ, một bộc lộ nặng nề, nhất là trên khuôn mặt của Giacôbê Alphê, Gioan, Simon và Andrê, trong khi Juđa Alphê tỏ ra lo lắng nghiêm khắc. Judas Kêriot muốn tỏ ra thoải mái, nhìn chăm chú hơn những người khác, và muốn biết câu chuyện tùy vào những cử điệu và những hoạt động của đôi môi Giêsu và Chouza.
Các nữ môn đệ thì lặng lẽ và kính cẩn. Họ cũng quan sát. Jeanne nở một nụ cười vô tình, hơi mỉa mai trong nỗi buồn của bà. Bà có vẻ thương ông chồng bà khi Chouza lớn tiếng vào cuối cuộc nói chuyện, tuyên bố rằng: “Món nợ về sự biết ơn của con là cái mà không bao giờ con có cách nào để làm tròn được. Vì vậy con đã ưng thuận cho Thầy cái gì là thân thiết nhất của con: Jeanne của con... Nhưng Thầy phải hiểu tình yêu tiên liệu của con cho nàng... Sự phẫn nộ của Hêrôđê, sự bảo vệ hợp pháp của ông có thể bùng ra sự báo thù trên của cải của chúng con, trên... trên ảnh hưởng của chúng con... Và Jeanne đã quen với những thứ này, và nàng rất mỏng dòn... Nàng cần nó. Con canh chừng các nguồn lợi của con. Nhưng con thề với Thầy là bây giờ Hêrôđê không còn phẫn nộ với con nữa như một đầy tớ thông đồng với kẻ thù của ông, và con có thể phục vụ Thầy với niềm vui trọn vẹn, bằng cách cho Jeanne được hoàn toàn tự do...”
- Tốt. Nhưng ông hãy nhớ rằng cắt bỏ những của cải đời đời để đổi lấy cái danh dự tạm bợ của con người thì cũng giống như cắt bỏ quyền trưởng nam để đổi lấy bát cháo đậu, và còn tệ hơn nữa...
107
Các nữ môn đệ đã nghe thấy những lời này, và cả các tông đồ nữa. Phần nhiều nó là hậu quả của một bài thuyết trình trang trọng, nhưng Judas lại thấy ở đó một cung giọng đặc biệt, nên ông biến sắc và diện mạo. Ông nhìn Jeanne cách vừa sợ hãi vừa bứt rứt... Tôi hiểu rằng cho tới lúc này, Giêsu vẫn không nói gì với ông về những điều đã xảy ra, và chỉ bây giờ Judas mới bắt đầu nghi ngờ là trò chơi của ông đã bị bại lộ.
Giêsu quay về với Jeanne và nói với bà: “Rồi, bây giờ chúng ta làm vui lòng cho người môn đệ tốt. Như con mong ước, Thầy sẽ nói với các đầy tớ của con trước khi ra đi”.
Người tiến lên tới cái giới hạn của bóng râm mà nó càng lúc càng dài ra theo đà xuống thấp của mặt trời. Nó xuống từ từ, và lúc này nó đã có một mầu cam, bị cắt ở phía dưới, và vết cắt lớn dần khi thiên thể xuống sau ngọn núi của Betginna, để lại một mầu đỏ lửa trên bầu trời trong.
- Hai bạn Chouza và Jeanne thân mến, và các con, những tôi tớ tốt của họ, các con đã biết Chúa nhờ người môn đệ Jonatha của Thầy từ nhiều năm nay, và nhờ Jeanne từ ngày bà là môn đệ trung thành của Thầy, các con hãy nghe đây:
Thầy đã từ biệt tất cả các làng thuộc miền Juđê, nơi Thầy có số môn đệ đông hơn nhờ công việc của các môn đệ đầu tiên, các người mục đồng, bởi cách họ trả lời cho Ngôi Lời, đấng đi qua để giảng dạy và cứu chuộc. Bây giờ Thầy từ biệt các con, vì không bao giờ Thầy trở lại cái vườn Eđen qúa đẹp này nữa. Nhưng vẻ đẹp của nó không phải chỉ là những cây hồng và sự bình an ngự trị ở đây, cũng không phải chỉ là do bà chủ tốt là hoàng hậu ở đây, nhưng nó do tại ở đây người ta tin vào Chúa và người ta sống lời Người. Một Thiên Đàng! Đúng. Thiên Đàng của Ađam Evà là gì? Một khu vườn huy hoàng, nơi người ta sống không phạm tội, nơi tiếng nói của Thiên Chúa vang dội, được yêu mến, được đón nhận với niềm vui bởi hai đứa con đầu tiên của Người.
Vậy Thầy cổ võ các con canh chừng, đừng để xảy ra cái điều đã xảy ra trong vườn Êđen: Đừng để con rắn nhồi nhét vào đó những
108
dối trá, vu khống, tội lỗi, để nó không cắn vào đức tin của các con bằng cách làm cho các con xa lìa Thiên Chúa. Hãy canh chừng, luôn luôn gắn bó với đức tin... Các con đừng xao xuyến, đừng làm những hành động cứng lòng tin. Điều đó có thể xảy ra bởi vì tên bị nguyền rủa sẽ lẻn vào, sẽ cố gắng để vào mọi nơi, như nó đã len vào nhiều nơi để phá hủy công việc của Thiên Chúa. Nó, tên khéo léo, qủi quyệt, không biết mệt mỏi, nếu nó len vào một nơi để dò xét, lắng tai nghe, giương cạm bẫy, nói lời nham hiểm, tìm cách lôi cuốn, thì cũng chưa đến nỗi qúa tệ hại. Không ai có thể ngăn cản nó làm việc đó, nó đã làm trong Thiên Đàng dưới đất rồi... Nhưng điều tệ hại kinh khủng hơn, là người ta để cho nó ở đó mà không xua đuổi. Kẻ thù mà người ta không xua đuổi thì sau cùng nó sẽ trở thành chủ, vì nó cư ngụ ở đó, nó xây các sào huyệt và các thành trì của nó ở đó. Hãy xua đuổi nó ngay. Hãy bắt nó chạy trốn bằng khí giới của đức Tin, đức Ái, đức Cậy nơi Chúa. Nhưng cái khốn nạn lớn lao nhất, cái khốn nạn tuyệt đỉnh, là khi không những người ta để nó sống bình an ở giữa họ, mà họ còn để nó len lỏi từ bên ngoài vào bên trong, và người ta để cho nó làm tổ trong qủa tim họ. Ôi! Khi đó thì!!! Nhưng đã có nhiều người đón nhận nó vào con tim họ để làm cho Đức Kitô phải thất bại.
Họ đã đón nhận Satan với các đam mê xấu của họ và xua đuổi Đức Kitô. Vả nữa, nếu họ còn chưa biết Đức Kitô trong sự thật của Người, nếu sự hiểu biết của họ chỉ nông cạn như những người du hành biết nhau khi tình cờ gặp nhau trên đường, chỉ nhìn thấy nhau một lát, và không biết đây là gặp nhau lần đầu và lần chót, đôi khi chỉ để trao đổi vài lời, để hỏi thăm con đường tốt, để xin một tí muối, để hỏi mượn cây quẹt để nhóm lửa hay con dao để cắt thịt... Nếu sự hiểu biết về Đức Kitô chỉ là như vậy trong tim các người ngày nay, và càng ngày càng nhiều hơn trong tương lai, và vì vậy họ xua đuổi Đức Kitô để dành chỗ cho Satan, thì người ta còn có thể thương hại và đối xử với họ theo tình thương xót, bởi vì họ không biết Đức Kitô. Nhưng khốn cho những kẻ đã biết thực sự Thầy là ai, được nuôi dưỡng bằng lời Thầy và tình yêu Thầy, mà
109
đuổi Thầy để tiếp nhận Satan là đứa dụ dỗ họ bằng những lời hứa lừa bịp về những chiến thắng nhân loại, thì thực sự nó sẽ là sự luận phạt đời đời.
Hỡi các con, các con là những kẻ khiêm nhường, không mơ tới ngai báu cũng như triều thiên; các con, những kẻ không tìm vinh quang loài người, nhưng tìm sự bình an, sự chiến thắng của Thiên Chúa, Nước của Người, tình yêu của Người, đời sống đời đời, chỉ tìm những thứ đó thôi, các con đừng bao giờ bắt chước họ. Hãy tỉnh thức, hãy tỉnh thức. Hãy giữ mình cho khỏi mọi thứ đồi trụy. Hãy mạnh mẽ chống lại những cám dỗ, những đe dọa. Chống lại tất cả”.
Judas đã hiểu rằng Giêsu đã biết việc gì rồi. Ông trở nên như cái mặt nạ bằng đất. Đôi mắt ông quăng những tia nhìn xấu trên Thầy và trên Jeanne... Ông rút lui ra phía sau các bạn ông như để tựa vào tường, nhưng thực ra là để dấu sự nản lòng của ông.
Giêsu tiếp tục sau một lát gián đoạn, tựa như để ngăn cách phần thứ nhất với phần thứ hai trong bài giáo huấn của Người. Người nói:
- Vào thời hoàng hậu Zézabel, ông Naboth có một vườn nho ở gần lâu đài của vua Achab, vua xứ Samari. Đó là vườn nho của tổ tiên, vì thế nó rất qúi trọng đối với con tim ông, hầu như nó là thánh đối với ông, vì đó là của thừa tự mà cha ông đã để lại cho ông sau khi ông nội ông đã để lại cho cha ông, và tiếp tục như vậy. Từ bao thế hệ tổ tiên đã đổ mồ hôi trong vườn nho này để làm cho nó mỗi ngày một sinh hoa trái nhiều và đẹp hơn. Naboth rất qúi vườn nho này. Achab nói với ông: “Hãy nhường cho ta vườn nho của mi, vì nó gần ngay bên nhà ta, vì vậy nó rất ích lợi cho ta để làm cái vườn cho ta và các người ở với ta. Đổi lại, ta sẽ cho mi một vườn nho tốt hơn, hoặc cho tiền, nếu mi thích tiền hơn”. Nhưng Naboth trả lời: “Tôi rất tiếc vì không thể làm vui lòng vua. Tôi không thể làm cho vua điều thỏa lòng này. Vườn nho này là gia tài của tổ tiên tôi và nó là thánh đối với tôi. Thiên Chúa gìn giữ tôi để tôi không nhượng cho vua di sản của tổ tiên tôi”.
110
Các con hãy suy niệm câu trả lời này. Qúa ít người suy nghĩ tới nó, qúa ít trong Israel. Nhiều người, phần đông những người mà Thầy đã nói ở trên, dễ dàng đuổi Đức Kitô đi để đón nhận Satan, không kính trọng di sản của tổ tiên, miễn là họ có nhiều tiền hay nhiều đất đai, tức là nhiều vinh dự và bảo đảm để không bị chiếm đoạt dễ dàng. Họ sẵn sàng từ nhượng di sản của tổ tiên, tức là các ý tưởng thuộc về Đức Messi, thực sự Ngài là thế nào như đã được mặc khải cho các thánh của Israel, và chúng phải là thánh trong mọi chi tiết, không được hờ hững, không được thay đổi, không được hạ thấp nó xuống tới những giới hạn của loài người. Biết bao, biết bao, biết bao người đã đổi những ý tưởng về Đức Messi: thánh thiện, trọn lành, siêu nhiên, để lấy con múa rối của cái vương vị loài người, lay động như thằng bù nhìn, để chống đối, để xúc phạm đến uy quyền và sự thật.
Thầy, Thầy là lòng Thương Xót, Thầy không thể nguyền rủa bằng những lời chúc dữ kinh khủng của Môise đối với những kẻ vi phạm Lề Luật. Nhưng ở đàng sau lòng thương xót có sự công bằng. Mong rằng mọi người hãy nhớ điều đó.
Về phần Thầy, Thầy nhắc nhở cho họ - và nếu có ai trong đám họ, trong số những người hiện diện ở đây, thì mong rằng họ hãy nhận lấy ơn lành của sự cảnh cáo - Thầy nhắc lại những lời khác mà Môise đã nói về những người muốn cho là mình còn hơn những điều Thiên Chúa đã chỉ định cho họ. Môise đã nói với Coré, Dathan và Abiron là những người cho rằng mình ngang hàng với Môise và Aaron, và phản loạn vì họ chỉ được làm con cháu Lêvi trong dân Israel: “Ngày mai Chúa sẽ cho biết ai thuộc về Người. Người sẽ cho các vị thánh lại gần Người, những kẻ Người đã chọn thì tiến lại gần Người. Các ông hãy mồi lửa vào bình hương của các ông và trên lửa của hương thơm trước mặt Thiên Chúa, rồi hãy đến, các ông cùng với các người thuộc về các ông, cùng với Aaron. Các ông sẽ thấy kẻ Thiên Chúa chọn. Các ông, con cháu Lêvi, các ông hơi qúa tự cao!”
Các con, các người Israel tốt, các con đã biết câu trả lời của
111
Thiên Chúa là thế nào cho những kẻ hơi qúa nâng mình lên, và quên rằng Thiên Chúa chọn chỗ cho con cái Người, và chọn với sự công bằng, chọn với sự chính xác. Thầy cũng vậy, Thầy phải nói: “Có những người muốn nâng mình lên hơi qúa, và sẽ bị phạt thế nào để những người tốt hiểu rằng họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa”.
Những người đã đổi tư tưởng về Đức Messi như đã được Đấng Tối Cao mặc khải, để lấy những tư tưởng hèn mọn thuộc về loài người của họ: nặng nề, hạn hẹp, thù hằn, họ chẳng giống những người muốn xét đoán vị thánh là Môise và Aaron sao? Những người, để đạt mục đích và thi hành các tư tưởng hèn mọn của họ, họ muốn tự mình đề xướng, vì kiêu ngạo, khi nói rằng họ chính đáng hơn Thiên Chúa. Các con không thấy rằng họ đã muốn nâng mình lên qúa, và từ dòng dõi Lêvi, họ muốn trở thành dòng dõi Aaron cách bất hợp pháp sao? Các kẻ mơ và thích một ông vua tội nghiệp của Israel hơn là Vua các vua thiêng liêng; những kẻ, vì con mắt bệnh hoạn của họ, sự kiêu căng kín đáo và sự tham lam đã cho họ một hình ảnh biến dạng về những sự thật đời đời đã được viết trong sách thánh. Nơi họ, cơn sốt nhân tính đầy ước ao xác thịt đã làm cho họ không thể hiểu được những lời rõ ràng về những chân lý đã được mặc khải. Họ chẳng phải là những kẻ đổi tất cả di sản của nòi giống họ, một di sản thánh nhất, để lấy một thứ không có giá trị gì sao?
Mặc dù họ làm như vậy, nhưng Thầy, Thầy không đổi chác di sản của Chúa Cha và của cha ông, và Thầy sẽ chết trung thành với lời hứa này, lời hứa đã có từ lúc mà Sự Cứu Chuộc trở nên cần thiết, và với sự vâng lời như từ muôn đời, vì Thầy không bao giờ làm Cha Thầy thất vọng, và Thầy sẽ không bao giờ làm Người thất vọng vì sợ cái chết, dù nó kinh khủng tới đâu. Các kẻ thù của Thầy, chúng cứ việc tìm những kẻ làm chứng gian, chúng cứ giả vờ nhiệt thành với những thực hành trọn hảo. Điều đó chẳng thay đổi gì về tội ác của chúng và về sự thánh thiện của Thầy. Nhưng kẻ nào và những kẻ nào sẽ là đồng lõa của chúng, sau khi đã hạ Thầy, chúng tưởng rằng có thể giơ tay trên những kẻ thuộc về Thầy, chúng sẽ
112
tìm được những con chó và diều hâu chỉ nuôi mình bằng máu họ, bằng thân xác họ trên trái đất, và ma qủi sẽ nuôi mình bằng thần trí phạm thượng của chúng, phạm thượng và giết Chúa của chúng, trong hỏa ngục.
Thầy nói với các con như vậy để các con biết, để mỗi người đều biết, để kẻ nào xấu thì có thể sám hối trong khi họ còn có thể làm, bắt chước như Achab; và để những người tốt không bị xao xuyến trong giờ của tối tăm.
Ôi! Hỡi các con ở Béther! Từ biệt! Nguyện Thiên Chúa của Israel luôn luôn ở với các con, và sự cứu chuộc làm mưa sương của nó xuống trên cánh đồng trong sạch, để làm nẩy ra ở đó tất cả những hạt giống đã được gieo vãi bởi người thầy đã yêu các con tới chết.
Giêsu chúc lành cho họ và nhìn họ từ từ ra đi. Hoàng hôn đã tới. Mầu đỏ duy nhất từ từ biến thành mầu tím đỏ, còn lại như một kỷ niệm đơn giản của mặt trời. Sự nghỉ ngơi ngày Sabát đã chấm dứt, Giêsu có thể lên đường. Người hôn những đứa nhỏ, chào các nữ môn đệ, chào Chouza. Tại ngưỡng cửa, Người còn quay lại nói lớn tiếng để mọi người nghe thấy: “Khi Thầy có thể, Thầy sẽ nói với những người này. Nhưng con, Jeanne, con hãy làm cho họ biết rằng nơi Thầy chỉ có một kẻ thù là tội lỗi, và Thầy là vua các tâm hồn. Con hãy nhớ điều đó. Và cả ông nữa, Chouza. Và đừng sợ. Không ai phải sợ Thầy cả, kể cả các tội nhân, vì Thầy là phần rỗi. Chỉ những người cho tới chết vẫn không sám hối mới phải sợ Thầy là vị thẩm phán, sau khi đã hoàn toàn là tình yêu... Bình an cho các con”. Rồi Người đi ra, dẫn đầu nhóm và bắt đầu xuống dốc.
92* CHIẾN ĐẤU VÀ CHIẾN THẮNG
SIÊU NHIÊN CỦA SIMON JONAS
Lạy Chúa, con có thể nhìn ngắm Chúa khi Chúa xuống dốc bởi một con đường dẫn về thung lũng mầu mỡ, để lại ở đàng sau Chúa cái lâu đài của Béther hãy còn sáng trong ngày đang tắt, tại nơi
113
cao, trên đỉnh ngọn đồi đầy hoa của nó... Để lại trên đó tình yêu của các nữ môn đệ, các trẻ thơ, các người khiêm nhường, để xuống theo những con đường dẫn về Jêrusalem, về thế giới, về phía thấp... Và không những nó chỉ tối hơn đỉnh đồi vì nó là thung lũng nên mặt trời, ánh sáng đã từ giã nó một lúc rồi, nhưng nhất là vì ở dưới thấp, trong thế giới, có những ổ phục kích, có sự thù ghét, có bao tai họa đang chờ Chúa, Chúa của con...
Giêsu hoàn toàn dẫn đầu. Hình bóng trắng lặng lẽ tiến bước, cả đến có vẻ oai phong nữa, xuống dốc qua những con đường mòn gồ ghề mà Người đã chọn để giảm thiểu độ dài. Trong khi xuống, y phục dài của Người, chiếc áo khoác rộng của Người quét trên đường dốc. Giêsu đã có vẻ như được bọc trong chiếc áo khoác vương giả, kéo lết sau bước chân Người.
Đàng sau Người là mười hai tông đồ, ít oai phong hơn, nhưng lặng lẽ giống như vậy... Người sau cùng, ở cách xa một quãng, là Judas trong sự bất mãn của ông, làm cho ông có vẻ xấu trai. Thỉnh thoảng những người đơn sơ hơn như Andrê, Tôma, quay lại nhìn ông. Và Andrê cũng nói: “Tại sao anh lùi lại một mình ở đàng sau xa vậy? Anh khó chịu à?” Câu đó gây ra một câu ứng đối cục cằn: “Hãy lo cho chính anh”, làm Andrê ngạc nhiên hơn nữa, nhất là nó lại được đi kèm bởi một hình dung từ thô lỗ.
Phêrô đi hàng thứ hai trong các tông đồ, ngay đàng sau Giacôbê Alphê, ông này đi ngay sau lưng Thầy. Trong sự yên lặng của đồi núi, Phêrô đã nghe hết. Thình lình ông dừng lại, và thình lình ông đi ngược lại về phía Judas, nhưng rồi ông đứng lại. Ông suy nghĩ một lát, rồi ông chạy lại với Giêsu. Ông nắm chặt cánh tay Người, vừa lắc vừa nói: “Thầy ơi, Thầy bảo đảm với con là đúng như Thầy nói chiều hôm đó rằng các hy sinh và các lời cầu nguyện không bao giờ vô hiệu qủa phải không? Cho dù nó tựa như vô ích”.
Giêsu rất êm đềm, buồn, xanh xao, nhìn Phêrô của Người ướt mồ hôi vì cố gắng ông đã làm để không phản ứng ngay trước lời chửi bới. Ông đỏ gay, kể cả run nữa. Có lẽ ông đã làm cho Giêsu đau, vì ông xiết cánh tay Người. Người trả lời ông bằng một nụ
114
cười buồn và bình an: “Chúng không bao giờ là không có phần thưởng. Hãy chắc chắn điều đó”.
Phêrô rời Người và đi, không phải về chỗ của ông, nhưng đi tới sườn núi, giữa các cây cối. Ông bắt đầu bẻ, bẻ thả cửa các cây lớn cây nhỏ một cách hung hăng như đã bực tức ở đâu đó và xả ra ở đây, trên các cây cối.
- Anh làm gì vậy? Anh điên sao? - nhiều người hỏi.
Phêrô không trả lời. Ông bẻ, bẻ, bẻ. Ông để đi qua tất cả các tông đồ, kể cả Judas ... Ông vẫn bẻ, bẻ, bẻ. Tựa như ông muốn bẻ nát, vì ông làm việc rất hăng hái. Ở chân ông đã có một đống đủ để thui một con bê. Ông vác lên cách nặng nề và bắt đầu chạy để bắt kịp các bạn ông. Tôi không biết làm sao ông có thể đi, vì bị vướng víu áo khoác, mang một gánh nặng cùng với giỏ xách, trên con đường gập ghềnh. Ông tiến bước, cúi gù như ở dưới một cái ách.
Khi ông tới nơi, Judas cười và nói: “Anh giống như tên nô lệ!”
Phêrô khó lòng quay đầu dưới gánh nặng này. Ông định nói với Judas điều gì, nhưng rồi ông nín lặng, cắn răng và tiến bước.
- Để tôi giúp anh - Andrê nói.
- Không.
- Nhưng với một con chiên thì bằng ấy củi là qúa nhiều - Giacôbê Zêbêđê nhận xét.
Phêrô không trả lời. Ông tiến, tựa như qúa nặng, ông bước hết nổi. Nhưng ông vẫn cố.
Sau cùng Giêsu đứng lại gần một cái hang hầu như ở chân dốc, và mọi người cùng với Ngài: “Chúng ta nghỉ lại đây để đi tiếp lúc tinh sương ngày mai. Hãy chuẩn bị bữa tối” Giêsu ra lệnh.
Lúc đó Phêrô quăng gánh nặng của ông xuống đất và ngồi lên trên, không cắt nghĩa cho ai về sự mệt mỏi lớn lao của ông, trong khi có củi ở khắp nơi. Nhưng trong khi họ tản mát, người đi chỗ nọ, người đi chỗ kia để lấy nước, đồ uống, quét sạch đất của hang đá, rửa con chiên để thui, Phêrô ở lại với Thầy. Giêsu đứng, để tay lên đầu tóc muối tiêu của Phêrô, Người xoa cái đầu ngay thẳng... Lúc đó Phêrô cầm tay Người và hôn. Ông áp bàn tay Người vào má ông rồi lại hôn, vuốt ve nó... Một giọt rơi vào bàn tay trắng, nhưng
115
không phải giọt mồ hôi của vị tông đồ thô kệch và thật thà của Người, nhưng là giọt nước mắt của tình yêu lặng lẽ, của đau khổ, của chiến thắng sau cố gắng. Giêsu cúi xuống hôn ông và nói: “Cám ơn Simon”.
Đó: Phêrô chắc chắn không đẹp trai, nhưng khi ông ngửa đầu ra sau để nhìn Giêsu khi Người hôn và cám ơn ông, sự tôn kính, niềm vui làm cho ông ra đẹp, vì Người, chỉ một mình Người đã hiểu ông.
Thị kiến chấm dứt cho tôi trong sự biến dạng này.
93* KHI ĐI VỀ EMMAU
TẠI ĐỒNG BẰNG
Bình minh đặt một ánh sáng mầu sữa xanh trên bầu trời, bên trên thung lũng tươi mát và lặng lẽ. Rồi cái mập mờ này, là và chưa là ánh sáng, dội trên nơi cao của hai sườn dốc. Tựa như nó nhẹ nhàng vuốt ve những đỉnh cao của các ngọn núi miền Juđê và nói với các cây cổ thụ mọc như cái triều thiên của chúng: “Tôi đây. Tôi từ trời xuống, tôi tới từ hướng đông, tôi báo trước rạng đông, xua đuổi bóng tối, mang tới ánh sáng, các sinh hoạt, phúc lành của một ngày mới mà Thiên Chúa ban cho qúi vị”. Và các đỉnh cao thức dậy với tiếng xào xạc của lá, tiếng ríu rít của các con chim đầu tiên bị đánh thức bởi cành lá rung, bởi tia sáng đầu tiên này. Bình minh tiếp tục dội xuống trên các bụi dưới tán cây, rồi tới cỏ, rồi tới các sườn dốc, càng lúc càng soi xuống thấp, và nó được đón chào bởi các tiếng líu lo càng lúc càng nhiều trong các chòm lá, tiếng lặt chặt của thằn lằn thức dậy dưới cỏ. Rồi nó tới tận suối nước ở dưới đáy, biến làn nước tối thành trong mờ, lấp lánh như bạc, không ngừng trở thành trong suốt và sáng bóng. Trên trời cao, nơi mầu chàm của màn đêm vừa chuyển thành mầu xanh lơ sáng của bình minh, dấu báo hiệu đầu tiên của rạng đông được vẽ bằng mầu xanh sáng ngả hồng... Rồi đây, một đám mây nhẹ như tuyết lọn bay tới,
116
đã được nhuộm hồng, xốp như bọt...
Giêsu ra khỏi hang và nhìn... Rồi người rửa ráy ở suối, chải tóc, mặc quần áo, nhìn một thoáng nữa vào trong hang... Người không gọi ai cả... Trái lại, Người trèo lên núi và tới cầu nguyện tại một bờ dốc nhô ra, ở khá cao, đủ để nhìn thấy toàn thể phía đông đã đỏ hồng bởi bình minh, và phía tây còn nhuộm mầu chàm. Người cầu nguyện... Người qùi gối và cầu nguyện thiết tha... khửu tay chống xuống đất, hầu như phục... Người cầu nguyện như vậy cho tới khi từ dưới vọng lên tiếng của mười hai ông đã thức dậy và gọi Người.
Người đứng dậy và trả lời: “Thầy tới!” Tiếng vọng trong thung lũng hẹp dội lại nhiều lần tiếng của giọng nói hoàn hảo. Tựa như thung lũng chuyển lên đồng bằng ở phía tây lời hứa của Chúa: “Thầy tới”, để đồng bằng được hưởng nó trước.
Giêsu bắt đầu đi lại con đường, vừa đi vừa than thở, phát ra một câu tóm tắt giờ cầu nguyện dài của Người: “Còn Cha, Cha ơi, cho con sự nâng đỡ của Cha...”
Người đi mau và xuống tới đáy dốc. Người chào các tông đồ bằng nụ cười rất êm đềm và các lời thường xuyên: “Bình an cho các con trong ngày mới này”. “Và cho Thầy”. Tất cả các tông đồ đều trả lời, kể cả Judas. Tôi không biết, hoặc ông ta yên lòng vì sự yên lặng của Giêsu khi Người không khiển trách gì ông và đối xử với ông như mọi người khác, hoặc là trong đêm, ông đã suy niệm được một chương trình để rút lui khỏi cuộc. Cái nhìn của ông ít láo liên hơn và ông đứng riêng ra ít xa hơn, và cả đến chính ông đã hỏi nhân danh tất cả: “Chúng ta đi Jêrusalem à? Nếu vậy thì phải trở lui lại đàng sau và qua chiếc cầu kia. Phía bên kia cầu có một con đường đi thẳng về Jêrusalem”.
- Không. Chúng ta đi Emmau ở trong đồng bằng.
- Tại sao vậy? Còn lễ Ngũ Tuần?
- Còn giờ mà. Thầy muốn tới nhà Nicôđêmô và Giuse qua các đồng bằng để ra bể...
- Nhưng tại sao?
- Bởi vì Thầy chưa tới đó, và dân chúng chờ Thầy... Và bởi vì người môn đệ tốt ước mong Thầy. Chúng ta có giờ cho tất cả.
117
- Jeanne đã nói vậy với Thầy à? Bà đã gọi Thầy về việc đó à?
- Cái đó không cần. Chính với Thầy, họ đã nói thẳng với Thầy trong dịp lễ Vượt Qua. Và Thầy trung thành với lời hẹn.
- Con, con sẽ không tới đó... Có lẽ họ đã ở Jêrusalem rồi. Lễ đã gần tới... Lại nữa... Thầy có thể gặp các kẻ thù và...
- Các kẻ thù thì Thầy gặp ở khắp nơi. Thầy luôn luôn có họ ở gần Thầy... - Giêsu chiếu cái nhìn trên vị tông đồ là nguyên nhân cho những đau đớn của Người... Judas không nói nữa. Sẽ qúa nguy hiểm nếu đi xa hơn! Chắc ông cảm thấy vậy nên nín lặng.
Gioan và Andrê trở lại với những trái cây nhỏ, chắc là cùng họ hàng với trái phúc bồn tử hay trái dâu tây, nhưng mầu đậm hơn, hầu như giống trái dâu tằm chưa được chín lắm. Họ biếu cho Thầy: “Thầy thích thứ này. Chiều hôm qua chúng con đã nhìn thấy, chúng con trèo lên hái cho Thầy. Mời Thầy dùng. Ngon lắm!”
Giêsu âu yếm hai vị tông đồ trẻ tốt bụng, đã biếu cho Người các trái cây đựng trong một cái lá lớn đã rửa sạch ở dưới suối. Và hơn là trái cây, họ dâng Người tình yêu của họ. Giêsu chọn những trái tốt và cho mỗi tông đồ mấy trái. Họ ăn kẹp với bánh.
- Chúng con đi kiếm sữa cho Thầy, nhưng chưa có các mục đồng - Andrê nói để xin lỗi.
- Không sao. Chúng ta đi mau để tới Emmau trước khi nắng gắt.
Họ lên đường, và những người ăn ngon miệng vẫn còn nhai khi bước. Thung lũng mát mẻ càng lúc càng rộng thêm, và sau cùng đổ vào một đồng bằng mầu mỡ, nơi các thợ gặt đang làm việc.
- Con không biết là Nicôđêmô có nhà ở Emmau đó - Batôlômêo nhận xét.
- Không phải tại Emmau, hơi xa hơn một tí: các cánh đồng của ba ông mà ông được thừa hưởng - Giêsu giải thích.
- Miền quê đẹp thật! - Thađê kêu lên.
Qủa thật, đây là một biển các bông lúa vàng, thỉnh thoảng gián đoạn bằng các vườn cây ăn trái đẹp như mơ. Các vườn nho đã hứa hẹn những chùm vinh quang. Chúng được tưới bằng hàng trăm suối nhỏ từ những ngọn núi rất gần đây chảy tới. Vào mùa cần tưới
118
nhiều thì còn có các mạch nước ngầm. Đây thật là một Êđen nông nghiệp.
- Hum! Chúng đẹp hơn những ruộng hồi năm ngoái. Ít nhất là có nước và trái cây - Phêrô lẩm bẩm.
- Đồng bằng Saron còn đẹp hơn nữa cơ! - Zêlote trả lời ông.
- Chứ cánh đồng này không phải Saron sao?
- Không. Cánh đồng sau cánh đồng này. Nhưng cái này sát vào cái đó.
Hai tông đồ đi hơi cách ra để nói chuyện riêng:
- Chủ là pharisiêu, hen? - Giacôbê Zêbêđê nói khi chỉ vào miền quê đẹp.
- Chắc chắn là của các người Do Thái. Họ có những mảnh đất tốt nhất, chiếm của các chủ đầu tiên bằng hàng ngàn cách thế - Thađê trả lời. Có lẽ ông nghĩ đến tài sản của ông bà ở Juđê, nơi họ đã bị đuổi ra và bị mất một phần lớn gia sản của họ.
Iscariot bị chích buốt: “Nếu các anh đã bị lấy mất là vì các anh, các người Galilê, các anh kém thánh thiện hơn, ở bên dưới...”
- Tôi xin anh nhớ rằng Alphê và Giuse thuộc dòng Đavít, rõ ràng là sắc chỉ đã bó buộc họ phải đi khai sổ nhân đinh tại Bétlem xứ Juđa, và Người sinh ra ở đó vì lý do này - Giacôbê Alphê trả lời bình tĩnh để tránh sự trả đũa cay cú của thằng em hung hăng của ông trong khi ông chỉ vào Giêsu đang nói chuyện với Mathêu và Philíp.
Tôma giải hòa cách công bằng: “Ôi! Tốt thôi. Đối với tôi, tôi nói rằng người tốt cũng như người xấu đều có ở khắp nơi. Trong việc thương mại của chúng tôi, chúng tôi đã tới gần những người thuộc mọi giống nòi, và tôi bảo đảm với các anh là tôi thấy có những người thật thà và những người không thật thà ở mọi nòi giống. Vả nữa... Tại sao lại khoe khoang vì là người Do Thái? Có phải chúng ta đã muốn điều đó không? Khi ở trong bụng mẹ, tôi có biết là tôi thuộc Do Thái hay Galilê không? Tôi đã ở đó và tôi ở lại đó... Khi được sinh ra, tôi nằm trong tã ấm áp, tôi không hề hỏi xem không khí tôi đang thở thuộc về Do Thái hay Galilê... Tôi chỉ biết có vú
119
mẹ... Và chúng ta, tất cả cũng như tôi. Bây giờ tại sao lại bực mình vì người nọ sinh ra ở thấp hơn và người kia cao hơn? Chúng ta đã chẳng là những người Israel giống nhau sao?”
- Tôma, anh có lý - Gioan trả lời, và ông kết luận: “Và bây giờ chúng ta thuộc về nòi giống duy nhất: nòi giống của Giêsu”.
- Đúng, Người - và tôi tin là Đấng Tối Cao đã muốn vậy, để dạy chúng ta rằng: sự chia rẽ là phản lại tình yêu tha nhân. Và Người đã được sai đến để tụ họp tất cả chúng ta như con gà mái yêu thương mà Sách Thánh đã nói - Người có gốc Do Thái, nhưng được thụ thai và sống ở Galilê sau khi đã sinh ra ở Bétlem, tựa như Chúa dùng các biến cố, các sự kiện đó mà nói với chúng ta rằng Người là Chúa Cứu Thế của toàn thể Israel, từ bắc tới nam. Và vì lý do là Người được gọi là người Galilê, người ta không được phép khinh dể người Galilê - Giacôbê Alphê nói cách êm đềm và cương quyết.
Giêsu đi ở đàng trước, tựa như để ý nói chuyện với Mathêu và Philíp, nhưng Người quay lại và nói: “Giacôbê Alphê, con nói đúng. Con đã hiểu đấng là Sự Thật và hiểu các sự thật và sự công chính trong mọi hành động của Thiên Chúa. Qủa vậy, tất cả các con hãy luôn luôn nhớ rằng Thiên Chúa không làm một việc gì không có mục đích, cũng như Người không để một việc gì do những người có con tim ngay thẳng làm mà không có thưởng. Phúc cho ai biết nhìn ra các lý do của Thiên Chúa trong mọi biến cố, cho dù là chuyện vô nghĩa lý nhất, và sự trả lời của Thiên Chúa cho những hy sinh của con người”.
Phêrô quay lại. Ông đang tính nói gì, nhưng rồi ông nín thinh, ông chỉ giới hạn ở việc mỉm cười với Thầy của ông mà bây giờ Người đang đi ở giữa các tông đồ của Người, vì họ đã đi vào một con đường lớn và đông người qua lại, băng qua cánh đồng lúa chín vàng.
Họ đi về Emmau và đã tới gần. Một nhóm căn nhà toàn một mầu trắng toát làm chói mắt ở giữa mầu vàng của các hạt chín và mầu xanh của các vườn cây.
- Thầy ơi! Thầy ơi! Dừng lại đi! Các môn đệ của Thầy đây! -
120
Những tiếng kêu ở xa vọng lại, và một nhóm người bỏ lại các nông dân đang ngồi nghỉ dưới bóng cây táo, để chạy lại với Giêsu bởi một con đường mòn đầy ánh nắng. Đó là Mathia và Gioan, mục đồng xưa kia, rồi sau đó là môn đệ ông Tẩy Giả; và cùng với họ có Nicôlai, Abel người cùi trước kia, Samuel, Hermastê và những người khác nữa.
- Bình an cho các con. Các con ở đây sao?
- Thưa Thầy vâng. Chúng con đã làm việc tại hết phía bờ biển. Bây giờ chúng con đi về phía Jêrusalem. Ở trên kia có Étienne và các người khác; và ở trên nữa thì có Hermas và các người khác. Isaac, vị thầy nhỏ của tất cả chúng con thì ở trên xa hơn nữa, hay ít nhất là ông ta đã ở trên đó. Cũng như Timon ở bên kia sông Giođan. Nhưng bây giờ tất cả sẽ đi về lễ Ngũ Tuần. Chúng con đã phân tán ra thành rất nhiều nhóm nhỏ, nhưng không phải là không hoạt động. Như vậy nếu họ có bách hại chúng con, họ chỉ bắt được vài người chứ không bắt được tất cả - Mathia giải thích.
- Các con làm rất tốt. Thầy đã ngạc nhiên vì không gặp các con ở tất cả các vùng phía nam Juđê...
- Thưa Thầy, Thầy đã tới đó... Còn ai có thể hơn Thầy? Lại nữa... Ôi! Vùng ấy họ có nhiều hơn là những thứ cần thiết để nên thánh!... Nhưng trái lại!... Họ đã tặng những cục đá cho những người mang lời của Trời. Trong khe núi Cédron, Êlie và Giuse đã bị đánh, và họ đã qua bên kia sông Giođan, ở trong căn nhà của Salômôn. Giuse đã xuýt chết vì một cục đá ném vào đầu. Trong tám ngày, ông đã sống tại một hang sâu với một người mà Thầy đã sai tới. Ông ta biết tất cả những bí ẩn của miền núi. Rồi từ từ, về đêm, họ đi qua bờ sông bên đó...
Các môn đệ và các tông đồ đều xúc động về kỷ niệm và các tin tức về sự bách hại. Nhưng Giêsu làm họ bình tĩnh bằng cách nói: “Các kẻ vô tội đã nhuộm đỏ con đường của Đức Kitô bằng máu vô tội của họ. Nhưng con đường này phải luôn luôn bị nhuộm đỏ để tẩy xóa đi dấu vết của tội ác trên đường của Thiên Chúa. Đó là con đường vương giả. Các vị tử đạo nhuộm thắm nó bằng tình yêu đối
121
với Thầy. Hạnh phúc giữa các hạnh phúc cho các kẻ vì Thầy mà bị bách hại”.
- Thưa Thầy, lúc nãy chúng con đang nói với các nông dân kia, bây giờ Thầy sẽ không nói sao?
- Hãy đi nói rằng lúc hoàng hôn, Thầy sẽ nói gần cổng thành Emmau. Bây giờ mặt trời ngăn cản Thầy. Đi đi. Và nguyện Thiên Chúa ở với các con. Thầy sẽ ở đầu con đường này.
Người chúc lành cho họ và lại đi tiếp. Người tìm đi dưới bóng cây, vì mặt trời cháy nóng trên con đường trắng mà nhờ các cây ngô dương đồng ở hai bên lề, nó được một chút bóng mát.
94* THUYẾT GIÁO TẠI GẦN EMMAU
MIỀN ĐỒNG BẰNG
Gần cổng thành Emmau có một căn nhà của nông dân rất lặng lẽ, vì mọi người đều ở ngoài đồng làm việc. Ở trong sân đã có những đống lúa gặt ngày hôm trước, và những bó rơm chất trong cái kho rơm thô sơ. Mặt trời thiêu đốt của buổi trưa làm tỏa ra mùi cỏ và lúa nóng. Không có tiếng động nào ngoài tiếng gù gù của bồ câu và tiếng lích chích của đám chim sẻ luôn luôn ồn ào và tranh chấp. Cả hai loài chim không ngừng bay từ mái nhà hoặc các sân ở bên cạnh tới các đống lúa và đống rơm. Các con bồ câu ở giữa những con được thưởng thức những sản phẩm này, mổ những bông lúa, đập cánh, vùng vẫy để lượm các hạt nhiều hết sức có thể, để chiếm lấy những cộng rơm mềm nhất. Chúng tham lam, tranh chấp không e ngại. Chúng là những tên ăn cắp duy nhất mà người ta thấy trong Israel, nơi tôi nhận thấy là người ta rất trọng kính của cải người khác. Các nhà đều bỏ cửa ngỏ và không có ai canh giữ sân lúa cũng như vườn nho! Ngoài số rất hiếm hoi các tên ăn cắp chuyên nghiệp và các tên trộm cướp tấn công người qua đường tại các khe núi, tôi không thấy các kẻ trộm vặt hay chỉ là các tên tham ăn, giơ tay trên các cây có trái hoặc chuồng bồ câu của người khác. Mỗi
122
người theo đường của mình, và cả khi đi băng qua đất đai người khác, họ cũng như không có mắt và không có tay. Qủa thật họ thi hành rộng rãi việc cho khách đỗ nhờ, đến nỗi khách không cần ăn cắp để có của ăn. Chỉ có với Giêsu, vì sự thù ghét lớn lao nên họ đã chểnh mảng thói quen hiếu khách đã có từ bao thế kỷ đối với người hành hương. Chỉ có đối với Giêsu mới có sự kiện các nhà kiểm tra và từ chối việc cho trọ cũng như lương thực, còn đối với những người khác thì thường thường họ có tình thương, đặc biệt là với tầng lớp khiêm tốn nhất.
Cũng vì vậy nên không phải sợ sệt gì, các tông đồ, sau khi đã gõ cửa của một căn nhà đóng mà thấy không có ai, họ liền vào trong một cái kho, trong đó có các dụng cụ về nông nghiệp và những chiếc bình rỗng. Giống như những người chủ, họ ngồi trên các bó rơm, hoặc lấy các thùng gỗ ra giếng kéo nước, lấy gáo để uống, hoặc để đựng những miếng thịt cừu lạnh mà họ chấm bánh vào và ăn hầu như lặng lẽ, vì bị trì độn và choáng váng bởi mặt trời. Cùng với sự tự do trong việc sử dụng rơm cỏ và các bình, họ nằm trên cỏ thơm và ngay sau đó, nổi lên một ban hợp ca kéo gỗ với cung điệu khác nhau.
Chính Giêsu cũng mệt, buồn hơn là mệt. Người nhìn mười hai người ngủ một lát, rồi Người cầu nguyện, Người suy nghĩ... Người suy nghĩ và đôi mắt Người theo dõi cách máy móc, cuộc tranh chấp của các chim sẻ và chim bồ câu, các đường bay như tên của các chim én trên sân đầy ánh sáng. Tựa như những tiếng kêu inh ỏi của các bà chủ lẹ làng trên không khí này đã mang những câu trả lời chính xác cho các câu hỏi đau đớn mà Giêsu tự đặt cho mình. Rồi Người cũng nằm ra trên cỏ, và mau chóng, đôi mắt lam ngọc êm buồn bị che dưới mu mắt. Khuôn mặt Người bất động trong giấc ngủ, và có lẽ nó bị hư hại trong giấc ngủ vì nỗi buồn của con tim. Dung nhan Người biểu lộ nhiều mệt mỏi, đau đớn như Người sẽ có khi chết.
Rồi các nông dân chủ nhà trở về: đàn ông, đàn bà, trẻ con. Và cùng với họ, có các môn đệ đã gặp lúc trước. Họ thấy Giêsu và các
123
người của Ngài ngủ trên cỏ, họ giảm giọng nói thành tiếng lèo xèo để không đánh thức các ngài. Có bà mẹ tặng một bạt tai cho thằng con bà vì nó không muốn nín lặng, hoặc ít nhất là bà làm ra vẻ như vậy. Một đứa bé bước với những bước chân chim cu của nó, một ngón tay để trên miệng để quan sát Giêsu, “người đẹp nhất”, nó nói, đang ngủ, kê đầu trên cánh tay gấp lại làm gối. Và sau cùng, tất cả đều tháo dép, đi nhón gót bắt chước nó. Người đầu tiên trong tất cả làm vậy là Mathia và Gioan. Các ông đầy thán phục được nhìn thấy Người ở trên cỏ như vậy, và Mathia nhận xét: “Giống như trong giấc ngủ đầu tiên của Người. Bây giờ Người cũng là Thầy chúng ta, nhưng ít sung sướng hơn lúc đó... Người cũng nhớ mẹ Người nữa...”
- Đúng, Người chỉ có những bách hại luôn luôn ở gần. Nhưng chúng ta, chúng ta luôn luôn yêu Người, chúng ta luôn luôn yêu Người giống như cái giờ đó - Gioan trả lời.
- Còn hơn nữa, Mathia, còn hơn nữa. Lúc đó chúng ta yêu Người chỉ bằng đức tin, và bởi vì thật êm đềm để yêu một đứa trẻ. Nhưng bây giờ chúng ta yêu Người còn vì chúng ta hiểu biết nữa.
- Còn bé tí đã bị ghét! Gioan, anh hãy nhớ lại những gì đã xảy ra để hại Người!... - Mathia biến sắc vì kỷ niệm này.
- Đúng vậy... Nhưng sự đau đớn này có phúc! Chúng ta đã mất tất cả, trừ Người. Và chỉ điều đó là đáng kể. Ích lợi gì cho chúng ta nếu còn cha mẹ, nhà cửa, sự thoải mái nhỏ mọn của chúng ta mà Người lại chết?
- Đúng vậy, anh có lý, Mathia. Có ích lợi gì, cho dù có cả thế giới mà Người không còn trên thế giới?
- Đừng nói chuyện đó nữa. Lúc đó chúng ta sẽ hoàn toàn bị bỏ rơi... Qúi vị đi đi. Chúng tôi ở lại bên Thầy - Gioan nói để giải tán các nông dân.
- Chúng tôi hối hận vì đã không đưa chìa khóa cho các ngài. Nếu có, các ngài đã có thể vào nhà và được thoải mái hơn... - ông già nhất trong đám nói.
- Chúng tôi sẽ nói với Người. Nhưng Người sẽ sung sướng chỉ vì
124
tình yêu của qúi vị. Đi đi, đi đi.
Các người nông dân vào trong nhà, và lập tức có khói bốc ra ở ống khói, cho biết họ chuẩn bị đồ ăn. Nhưng họ làm cách lịch sự, coi giữ các trẻ và không làm ồn ào, cũng không gây tiếng động nhiều. Họ mang đồ ăn đến cho các môn đệ và nói nhỏ: “Chúng tôi sẽ để chừa cho họ... khi họ thức dậy”.
Rồi sự yên lặng bao trùm căn nhà. Có lẽ các người thợ gặt đã làm việc từ tinh sương, họ nằm vật xuống giường vào cái giờ này là giờ họ không thể ở lại cánh đồng dưới mặt trời thiêu đốt. Các môn đệ cũng thiếp ngủ... Cả đến các chim câu và chim sẻ cũng ở yên. Chỉ có những con én là không ngừng vụt những đường bay lẹ làng của chúng để viết những lời xanh trong không gian và những lời tối trên sân trắng.
Thằng bé lúc nãy, rất đẹp trai trong chiếc áo sơ mi ngắn. Y phục của nó giảm bớt chỉ còn như vậy vào giờ nung nấu này. Nó ló cái đầu tóc đen của nó vào trong cửa nhà bếp, liếc qua một lượt rồi bước cẩn thận với bàn chân da còn non của nó trên đất mà nó bị rát vì mặt trời nung nóng. Chiếc áo sơ mi của nó tụt cổ, xệ xuống khỏi bờ vai mũm mĩm. Nó lại chỗ các môn đệ, cố gắng bước qua các ông để lại gần nhìn Giêsu nữa. Nhưng cẳng chân của nó qúa ngắn để có thể bước qua cơ thể lực lưỡng của người lớn. Nó chống đỡ, nhưng sau cùng nó ngã xuống trên Mathia. Ông thức dậy và nhìn thấy khuôn mặt nhỏ buồn hầu muốn khóc. Ông hiểu những hành động của con nít nên mỉm cười và nói: “Lại đây, tao để mày ở giữa Giêsu và tao, nhưng phải nín lặng và ngồi yên để cho Người ngủ, vì Người mệt”. Đứa bé sung sướng ngồi xuống và cảm phục trước khuôn mặt đẹp của Giêsu. Nó nhìn Người, nghiên cứu. Nó rất muốn vuốt ve Người, rờ vào mái tóc vàng óng của Người. Nhưng Mathia canh chừng, mỉm cười nhưng không cho phép nó. Lúc đó đứa bé xì xèo hỏi: “Người luôn luôn ngủ như vầy à?”
- Luôn luôn vậy - Mathia trả lời.
- Người mệt à? Tại sao?
- Vì Người đã đi bộ rất nhiều và nói rất nhiều.
- Tại sao Người nói và Người đi bộ?
125
- Để dạy cho các trẻ biết sống tốt, biết yêu Chúa để lên trời với Người.
- Trên kia à? Người ta làm cách nào? Xa qúa!...
- Linh hồn chứ! Mày biết linh hồn là gì không?
- Không.
- Đó là cái tốt đẹp nhất mà mày có ở trong mày và...
- Đẹp hơn con mắt à? Má tôi nói rằng hai con mắt tôi là hai vì sao. Các ngôi sao rất đẹp. Ông biết không?
Người môn đệ mỉm cười và trả lời: “Nó còn đẹp hơn những vì sao nhỏ của mắt mày, vì linh hồn thì đẹp hơn mặt trời”.
- Ồ, nó ở đâu? Cái mà tôi có đó nó ở đâu?
- Ở đây, trong quả tim nhỏ của mày. Và nó thấy hết, nó nghe hết, và nó không bao giờ chết. Khi một người không làm điều gì ác và chết trong sự công chính thì linh hồn nó bay lên trên kia với Chúa.
- Với Người? (và đứa bé chỉ vào Giêsu)
- Với Người.
- Nhưng Người, Người có linh hồn không?
- Người có linh hồn và thần tính, vì Người là Thiên Chúa, vị mà mày đang nhìn đó.
- Làm sao ông biết? Ai nói với ông?
- Các thiên thần.
Đứa bé đang ngồi hoàn toàn trên mình Mathia, nó không thể nào yên ổn để nhận cái tin này, nên nó đứng phắt dậy và nói: “Ông đã thấy các thiên thần?” Và nó giương tròn đôi mắt để nhìn Mathia. Cái tin qúa ngạc nhiên tới nỗi nó quên Giêsu đi một lát, vì thế nó không nhìn thấy Người mở hé mắt vì tiếng kêu nhẹ của trẻ con. Rồi Người mỉm cười, lại nhắm mắt và quay đầu về phía bên kia.
- Nín lặng nào! Mày thấy không? Mày làm Người thức dậy đó. Tao phải đuổi mày đi.
- Tôi sẽ ngồi yên. Nhưng các thiên thần là thế nào? Ông thấy các đấng hồi nào?
Giọng nói nhỏ trở nên xì xèo, và Mathia kiên nhẫn thuật lại đêm Noel cho đứa bé. Nó đã trở lại ngồi trên ngực ông, nghe như xuất
126
thần. Một cách kiên nhẫn, ông trả lời cho hết các “tại sao” của nó: Tại sao Người sinh ra trong chuồng bò? Người không có nhà sao? Nghèo tới nỗi không tìm được một căn nhà à? Và bây giờ Người có nhà không? Người có mẹ không? Mẹ Người ở đâu? Tại sao bà để Người một mình khi bà biết rằng người ta muốn giết Người? Bà không yêu Người sao?... Một cơn mưa các câu hỏi và một cơn mưa các câu trả lời. Và với câu sau cùng, Mathia trả lời: “Người mẹ thánh này rất yêu người con Thiên Chúa của mẹ, nhưng mẹ hy sinh chịu đau đớn để cho Người ra đi, để loài người được cứu vớt. Để tự an ủi, mẹ nghĩ rằng vẫn còn có những người tốt có khả năng yêu Người...” Điều đó đã gợi ra câu hỏi: “Mẹ không biết rằng có những trẻ em tốt yêu Người sao? Mẹ ở đâu? Nói cho tôi để tôi đến nói với mẹ: ‘Đừng khóc. Con, con dâng tình yêu của con cho Con Mẹ’. Ông nói sao? Mẹ có bằng lòng không?”
- Rất bằng lòng, bé ạ - Mathia nói khi ôm nó.
- Và Người có bằng lòng không?
- Rất bằng lòng! Rất bằng lòng! Mày sẽ nói với Người khi Người thức dậy.
- Ôi! Vâng... Nhưng bao giờ Người mới thức dậy? - Đứa bé có vẻ lo lắng.
Giêsu không cầm mình nổi nữa. Người quay lại, mở to mắt, và với nụ cười rạng rỡ, Người nói: “Con đã nói điều đó với Thầy rồi, vì Thầy đã nghe hết. Lại đây con”.
Ôi! Đứa bé chả đợi đến nói hai lần. Nó lăn vào Giêsu, vuốt ve Người, hôn Người, lấy tay rờ vào trán Người, và cả vào lông mày lông mi hoe vàng của Người. Nó nhìn đôi mắt xanh, nó vuốt hàm râu và bộ tóc mềm. Ở mỗi khám phá, nó nói: “Thầy đẹp chừng nào! Đẹp! Đẹp!”
Giêsu mỉm cười. Mathia cũng vậy. Rồi trong khi những người khác thức dậy, vì bây giờ đứa bé không cẩn thận nói nhỏ nữa. Các môn đệ và các tông đồ mỉm cười khi nhìn cuộc xét nghiệm cẩn thận và câu nói lặp đi lặp lại của cái ông tí hon nửa ở truồng, mũm mĩm, sung sướng ngồi trên mình Giêsu để quan sát Người từ đầu
127
tới chân. Sau cùng nó bảo Người: “Quay lưng lại coi”. Và nó giải thích: “Để xem có cánh không”. Rồi thất vọng, nó nói: “Tại sao Thầy không có cánh?”
- Con ơi, Thầy không phải là một thiên thần.
- Nhưng Thầy là Thiên Chúa. Phải làm sao để là Thiên Chúa? Nếu Thầy không có đầy những cánh, Thầy làm sao để lên trời được?
- Thầy là Thiên Chúa, và chính vì Thầy là Thiên Chúa nên Thầy không cần cánh. Thầy làm điều gì Thầy muốn, và Thầy có thể làm tất cả.
- Vậy hãy làm cho con những con mắt như mắt Thầy. Chúng rất đẹp.
- Không. Đôi mắt mà con có, chính Thầy đã cho con, và Thầy thích nó như vậy. Tốt hơn là hãy xin Thầy cho con một linh hồn công chính để con yêu Thầy mỗi ngày một hơn.
- Cả cái đó nữa. Vậy là chính Thầy đã cho con cái đó và Thầy thích nó như nó là vầy - đứa trẻ nói với lý luận trẻ con của nó.
- Đúng. Bây giờ nó làm Thầy vui, vì nó vô tội. Trong khi đôi mắt con vẫn luôn luôn có mầu trái oliu chín như vầy, thì linh hồn đang trắng của con có thể trở thành đen, nếu con trở thành độc ác.
- Độc ác, không. Con yêu Thầy nhiều và con muốn làm như các thiên thần nói lúc Thầy sinh ra: “Bình an cho Thiên Chúa trên trời và vinh quang cho người có thiện chí” - Đứa bé nói lộn, điều đó tạo ra một tràng cười ồn ào của các người lớn, làm cho nó thấy bẽ mặt và nín thinh.
Giêsu an ủi nó trong khi cải chính cho nó: “Con ơi, Thiên Chúa luôn luôn bình an. Nhưng các thiên thần dâng cho Người vinh quang vì sự sinh ra của Đấng Cứu Tinh. Và các đấng cho con người cái qui lệ thứ nhất để được sự bình an đi kèm với việc sinh ra của Thầy là: Có thiện chí, điều mà con muốn”.
- Vâng. Vậy cho con cái đó. Hãy để nó vào chỗ mà ông này nói là con có linh hồn ở đó - và với hai ngón tay trỏ, nó thọc lia lịa vào lồng ngực nhỏ của nó.
128
- Ờ, bạn nhỏ. Con tên gì?
- Micael.
- Tên của một Tổng Thần rất mạnh. Vậy thiện chí cho con nhé, Micael. Và con hãy là kẻ tuyên xưng Thiên Chúa thật khi nói với các kẻ bách hại đàn áp như thiên thần bổn mạng của con: “Nào có ai như Thiên Chúa?” Hãy được phúc bây giờ và mãi mãi - và Người đặt tay trên nó.
Nhưng đứa bé không ưng thuận, nó nói: “Không. Hãy hôn vào chỗ này, trên linh hồn. Phúc lành của Thầy sẽ đi vào bên trong, và nó sẽ bị nhốt ở đó luôn”. Và nó phanh ngực ra để Giêsu hôn, để không một cản trở nào ngăn cách giữa cơ thể nhỏ của nó và đôi môi Thiên Chúa.
Những người ở đó mỉm cười, đồng thời xúc động. Có cái gì! Đức tin tuyệt vời của một kẻ vô tội đến với Giêsu, một số người cho là bởi bản năng, nhưng tôi, tôi cho là bởi sức đẩy của Thánh Linh. Nó thực cảm động. Và Giêsu làm cho nhận thấy khi nói: “A! Nếu tất cả đều có con tim của trẻ thơ!...”
Trong lúc đó, thời gian qua đi, căn nhà nhộn nhịp lại: các giọng nói đàn bà, trẻ con, đàn ông cho nghe thấy rõ. Và một bà mẹ kêu: “Micael! Micael! Con ở đâu?” Và người ta thấy bà sợ hãi nhìn cái giếng sâu với một tư tưởng kinh khủng trong lòng.
- Bà ơi, đừng sợ. Con trai bà nó đang ở với Thầy.
- Ôi! Con sợ!... Nó rất thích nước.
- Qủa vậy, nó đã đến với Nước Hằng Sống từ Trời xuống để ban sự sống cho loài người.
- Nó đã làm phiền Thầy?... Nó đã trốn con rất sẽ sàng tới nỗi con không nhận thấy - người đàn bà nói để xin lỗi.
- Ồ, không. Nó đã không làm phiền Thầy. Nó đã yên ủi Thầy. Các trẻ em không bao giờ làm đau khổ cho Giêsu.
Các người đàn ông tiến lại cùng với các phụ nữ khác. Người chủ gia đình nói: “Xin mời Thầy vào để dùng bữa. Xin Thầy tha cho chúng con vì đã không làm cho Thầy là chủ nhà khi chúng con gặp Thầy”.
129
- Thầy chả có gì để tha thứ cả. Thầy thấy Thầy rất dễ chịu ở đây. Sự kính trọng của ông đã cho Thầy tất cả danh dự. Chúng ta đã có đồ ăn và cái giếng mát của ông, và cỏ rơm mềm của ông. Đó đã là qúa sự cần thiết cho Con Người rồi. Thầy đâu phải ông tổng trấn Ba Tư !
Và Giêsu với các người của Ngài theo sau, vào trong căn nhà bếp mênh mông để dùng bữa. Trong khi đó, các người khác sửa soạn sân và chái để có chỗ cho các người đã bắt đầu tới từ khắp các ngả để nghe Thầy, và những người khác thì vội vã sửa soạn đồ uống, đồ ăn và giết một con chiên để chuẩn bị cho cuộc du hành của các kẻ giảng Tin Mừng. Các phụ nữ thì mang tới trứng và bơ. Bơ thì Phêrô phản đối, vì ông có lý do rằng người ta không thể mang trong giỏ xách những bơ là thứ chảy lỏng dễ dàng trong khí nóng này. Nhưng họ có những cái keo, không phải là nó vô ích. Các bà bỏ đầy bơ vào, bịt miệng lại và thả xuống giếng để nó đặc lại bao nhiêu có thể.
Giêsu cám ơn và muốn giới hạn những lễ vật này. Nhưng đúng! Bỏ mất cũng uổng. Các qùa tặng khác cũng đến từ mọi phía, và ai cũng xin lỗi vì biếu qúa ít...
Phêrô lẩm bẩm: “Người ta thấy rõ là ở đây có các mục đồng. Đây là vùng đất đã được vun bón... đất tốt”.
Sân đập lúa đã đầy người, điềm nhiên, mặc dầu trời chưa dịu, và các tia mặt trời sau cùng còn phớt trên sân.
Giêsu bắt đầu nói:
- Bình an cho các con. Thầy không ở đây, nơi Thầy thấy giáo lý của vị Thầy Israel đã được biết nhờ sự săn sóc của các môn đệ tốt, để nhắc lại các điều mà các con đã biết. Thầy để cho các môn đệ tốt cái vinh dự vì đã săn sóc và giáo huấn các con, và họ sẽ làm việc đó càng ngày càng nhiều hơn cho tới khi các con có sự chắc chắn hoàn toàn được rằng Thầy là Đấng Thiên Chúa đã hứa, và lời Thầy là lời Thiên Chúa.
- Và các phép lạ của Thầy cũng là của Thiên Chúa. Xin chúc tụng Thầy - một giọng nói phụ nữ nổi lên giữa đám đông, và nhiều
130
người quay lại để nhìn về hướng đó. Người đàn bà giơ cao lên trên không một đứa trẻ đang cười toét với bộ điệu rất tươi tắn, và bà kêu: “Thưa Thầy, đây là thằng bé Gioan mà Thầy đã chữa ở Nước Đẹp. Đứa trẻ bị bể xương mông mà không thầy thuốc nào chữa được. Con đã mang nó tới cho Thầy với lòng tin, và Thầy đã chữa cho nó bằng cách cho nó ngồi trong lòng Thầy”.
- Thầy nhớ. Bà ơi, đức tin của bà xứng đáng được phép lạ.
- Nó (đức tin) đã lớn mạnh. Tất cả bà con của con đều tin ở Thầy. Đi đi con. Lại cám ơn Vị Cứu Tinh của con. Qúi vị để cho nó lại với Người tí... - người đàn bà xin. Và đám đông tránh ra cho đứa trẻ đi qua. Nó hùng hổ chạy lại với Giêsu và giơ cánh tay ra để có thể ôm Người. Điều này làm nổi lên những tiếng vạn tuế và bình luận của những người ở thành phố hay các vùng lân cận, vì những người ở
miền quê này đã biết chuyện và không còn ngạc nhiên nữa. Giêsu tiếp tục nói khi ẵm đứa bé trong tay:
- Và đây, một bà mẹ biết ơn đã xác nhận bản tính của Thầy, và xác nhận sức mạnh của đức tin trên con tim Thiên Chúa, đấng không bao giờ làm thất vọng sự tín nhiệm và những cầu xin chính đáng của con cái Người.
Thầy mời các con nhớ lại Juđa Maccabê khi ông hiện diện tại đồng bằng này để nghiên cứu về các doanh trại tuyệt vời của Gorgias, mạnh mẽ với năm ngàn bộ binh và một ngàn kỵ mã, rất được thao luyện để chiến đấu, được trang bị áo giáp đầy đủ với các vũ khí, với các pháo đài. Juđa lại nhìn ba ngàn bộ binh của ông, chẳng có khiên mộc, cũng chẳng gươm giáo, và ông cảm thấy cái sợ len vào tim quân lính của ông. Khi ấy ông nói, mạnh dạn vì quyền bính chính đáng của ông, rằng Thiên Chúa ưng thuận, vì ông không nhắm tới sự bất công, nhưng nhắm tới bảo vệ quê hương bị xâm lăng và bị phàm tục hóa. Ông nói: “Mong rằng con số của họ không làm các ông hoảng sợ. Đừng sợ họ tấn công. Hãy nhớ lại cha ông chúng ta đã được cứu ở Biển Đỏ thế nào khi đạo quân lớn lao của Pharaon theo đuổi họ”. Và khi dẫn họ về với niềm tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, đấng luôn luôn ở với người công chính, ông
131
dạy cho các người của ông các phương tiện để được sự trợ giúp. Ông nói: “Vậy chúng ta hãy hướng tiếng nói lên Trời, và Thiên Chúa sẽ thương chúng ta, và Người sẽ nhớ lại giao ước đã làm với cha ông chúng ta, hôm nay Người sẽ tiêu diệt đạo binh này trước mặt chúng ta, và mọi dân nước sẽ biết rằng có một Đấng Cứu Tinh giải phóng cho Israel”.
Đó, Thầy chỉ cho các con hai yếu tố chính để có Thiên Chúa ở với mình, để giúp chúng ta trong những điều chính đáng. Điều thứ nhất, để có giao ước, phải có tâm hồn ngay chính như cha ông chúng ta. Các con hãy nhớ lại sự thánh thiện, sự mau mắn của các tổ phụ trong việc vâng lời Chúa, dù trong điều rất quan trọng hay rất nhỏ mọn. Hãy nhớ lại các đấng đã trung thành với Chúa chừng nào. Trong Israel ngày nay, các con phàn nàn vì không còn có Chúa ở với chúng ta cách nhân hậu như xưa kia. Nhưng Israel còn có linh hồn như cha ông không? Ai đã làm hư hỏng và không ngừng bất trung với giao ước đã lập với Chúa Cha?
Điều chính yếu thứ hai để có Thiên Chúa ở với mình là: Sự khiêm nhường. Juđa Maccabê là một vĩ nhân Israel và một lính thiện chiến, nhưng ông không nói: “Hôm nay tôi sẽ tiêu diệt đạo binh này, và mọi dân nước sẽ biết rằng tôi là Vị Cứu Tinh của Israel”. Không, ông nói: “Chúa sẽ tiêu diệt đạo binh này trước mắt chúng ta, những kẻ bất lực và yếu đuối, không thể làm”. Vì Thiên Chúa là Cha, và Người săn sóc con cái Người. Để ngăn cản chúng không bị tiêu diệt, Người sai các đạo binh mạnh mẽ của Người với các khí giới siêu nhiên, để chiến đấu với các kẻ thù của con cái Người. Khi Thiên Chúa ở với chúng ta thì ai có thể thắng chúng ta? Các con đừng ngưng nói như vậy, bây giờ và nhất là trong tương lai, khi người ta muốn thắng các con, không phải chỉ về một điều quan trọng tương đối như cuộc chiến đấu quốc gia, nhưng về một việc rất quan trọng hơn, rất lớn lao hơn trong thời gian cũng như trong các hậu qủa của nó, tức là những điều của linh hồn các con. Các con đừng để mình bị cai trị bởi sự sợ hãi và kiêu căng. Hai điều đó rất nguy hiểm. Thiên Chúa sẽ ở với các con nếu các con bị bách hại vì
132
danh Thầy, và Người sẽ ban cho các con sức mạnh trong sự bách hại. Thiên Chúa sẽ ở với các con nếu các con khiêm nhường, nếu các con biết rằng tự mình các con, các con hoàn toàn bất lực, nhưng nếu các con kết hợp với Chúa, các con có thể tất cả.
Juđa đã không đòi quyền lợi bằng cách tự trang điểm cho mình danh hiệu vị cứu tinh của Israel, ông đã dâng danh hiệu này cho Thiên Chúa vĩnh cửu. Thật vậy, con người sẽ quay cuồng vật lộn cách vô ích nếu Thiên Chúa không hiện diện trong cố gắng của họ. Trái lại, kẻ tin cẩn nơi Chúa thì không cần quay cuồng mà vẫn thắng. Người biết khi nào sẽ chính đáng để thưởng bằng các chiến thắng, và khi nào là chính đáng để phạt bằng những thất bại. Thật là ngu xuẩn, một con người muốn xét xử Thiên Chúa, muốn khuyên bảo hay chỉ trích Người. Các con tưởng tượng có một con kiến, khi quan sát công việc của một nhà điêu khắc, nó nói: “Ông không biết làm. Tôi làm hay hơn và lẹ hơn ông!” Con người cũng hoàn toàn giống vậy khi nó muốn ra bài học cho Thiên Chúa, và nó liên kết vào bộ mặt lố bịch của nó một sự vô ơn, một sự tự đắc. Nó quên nó là gì: một tạo vật, và Thiên Chúa là gì: Đấng Tạo Hóa. Vậy nếu Thiên Chúa đã sáng tạo ra một vật, và sáng tạo nó hoàn bị tới nỗi nó tin là nó có khả năng nhủ bảo cho chính Thiên Chúa, thì sự toàn vẹn của tác giả của mọi thụ tạo sẽ thế nào? Chỉ một tư tưởng này đã đủ để hạ cái kiêu căng xuống, để phá hủy cái cây xấu của Satan, cái cây ký sinh, đã len lỏi vào tâm hồn, xâm lấn nó, thay thế nó, bóp nghẹt nó, làm chết hết các cây tốt, hết các nhân đức, những điều làm cho con người ở trên mặt đất thành cao cả, thực sự cao cả, không phải bởi của cải hay triều thiên, nhưng bởi sự công chính và sự khôn ngoan siêu nhiên, để được hạnh phúc trên Nước Trời muôn đời.
Và chúng ta hãy xét một lời khuyên khác mà đại nhân Maccabê đã cho chúng ta, cũng như các biến cố trong ngày đó tại đồng bằng này.
Sau khi vào trận, các nhóm của Juđa với Thiên Chúa ở với đã toàn thắng, quân thù phải tháo chạy, và họ đuổi chúng tới tận
133
Jézeron, Azot, Idumê và Jamnia, lịch sử đã nói, một phần ngã dưới lưỡi kiếm, chúng để lại trên các cánh đồng hơn ba ngàn xác chết. Nhưng Juđa nói với quân lính của ông đang say men chiến thắng: “Đừng lo thu chiến lợi phẩm, vì chiến tranh chưa chấm dứt, Gorgias với binh lính của ông còn ở trên núi rất gần chúng ta. Bây giờ chúng ta còn phải giao tranh với kẻ thù của chúng ta và chiến thắng chúng hoàn toàn, lúc đó chúng ta sẽ an toàn mà thu chiến lợi phẩm”. Và họ đã hành động như vậy. Họ đã có một chiến thắng bảo đảm và những chiến lợi phẩm qúi giá cùng với sự giải phóng. Khi trở về, họ đã hát bài ca chúc tụng Chúa, “vì Người nhân từ, tình thương của Người tồn tại muôn đời”.
Người ta cũng vậy, bất cứ người nào cũng giống như các cánh đồng bao quanh thành thánh của người Do Thái, bị bao quanh bởi các kẻ thù bên trong và bên ngoài, tất cả đều độc ác, tất cả đều muốn gây chiến với thành thánh của mỗi người: tâm hồn của họ, nhằm lúc bất chợt để bắt họ lúc họ không ngờ, bằng hàng ngàn kế xảo quyệt, và tiêu diệt họ. Các đam mê mà Satan vun xới, kích thích, và người ta không canh chừng với tất cả thiện chí để hãm lại, chúng rất nguy hiểm nếu người ta không chế ngự nó, nhưng nó vô hại nếu nó bị canh chừng như những kẻ trộm cướp bị xiềng. Thế giới đồng lõa với những thứ này bằng mọi phương tiện, bằng những quyến rũ của tiền bạc, xác thịt, kiêu căng, giống như các quân đội hùng mạnh của Gorgias, mặc áo giáp, canh chừng trên pháo đài, các xạ thủ ưu hạng với cung tên, các kỵ mã nhanh như tên, luôn luôn sẵn sàng để tấn công theo lệnh của Đứa Ác.
Nhưng Đứa Ác làm gì được nếu Thiên Chúa ở với con người muốn sống công chính? Con người sẽ phải khổ, bị thương, nhưng cứu được tự do và mạng sống, và sau cuộc chiến, họ sẽ có chiến thắng. Nhưng việc này không phải chỉ xảy ra một lần, nó luôn luôn lặp lại bao lâu còn sống, hoặc bao lâu con người chưa loại bỏ nhân tính của mình cho đủ để trở nên thần trí nhiều hơn là xác thịt, một thần trí tan hòa trong Thiên Chúa mà tên đạn, các vết cắn, các thứ lửa của chiến tranh không thể gây thương tích sâu, và chúng sẽ rơi
134
xuống, vì chúng chỉ đụng sớt trên bề mặt, giống như một giọt nước rơi trên tảng đá cứng và nhẵn bóng.
Các con đừng dừng lại để thu chiến lợi phẩm, đừng lo giải lao bao lâu các con chưa tới được ngưỡng cửa của Đời Sống, không phải đời sống trên trái đất này, nhưng là đời sống thực trên Trời. Lúc đó, toàn thắng rồi, các con sẽ thu lượm chiến lợi phẩm và bước vào, tiến tới trước mặt Vua các vua trong vinh quang, và hãy nói: “Con đã thắng. Đây, chiến lợi phẩm của con. Con đã làm được với sự giúp đỡ của Ngài và thiện chí của con. Con chúc tụng Ngài, lạy Chúa con, vì Chúa nhân từ, và lòng Thương Xót Chúa tồn tại muôn đời”.
Đó là tổng quát về cuộc đời cho hết mọi người. Nhưng với các con, những kẻ tin ở Thầy, thì còn những cuộc chiến khác đón đường các con, nhiều cuộc chiến nữa: Chiến đấu chống sự nghi ngờ, chống lại các lời người ta sẽ đến nói với các con, chống lại bách hại.
Thầy, Thầy sắp bị treo lên nơi mà vì nó Thầy đã từ Trời xuống. Nơi đó sẽ làm cho các con sợ. Đối với các con, nó có vẻ như trái với các lời Thầy. Không. Hãy nhìn mọi biến cố với con mắt tâm hồn, và các con sẽ thấy rằng điều xảy ra là sự xác nhận về sự thực của Thầy: Không phải là ông vua của một vương quốc tội nghiệp, nhưng là vị Vua đã được các tiên tri loan báo. Và ở chân ngai báu duy nhất, bất tử của Người, giống như một dòng sông chảy ra đại dương, hết mọi dân tộc trên trái đất sẽ đến và nói: “Chúng con thờ lạy Chúa, ôi Vua các vua, vị Thẩm Phán đời đời, vì do lễ Hy Sinh thánh của Chúa, Chúa đã cứu chuộc thế gian”.
Hãy chống lại sự nghi ngờ. Thầy không hề nói dối. Thầy là đấng mà các tiên tri đã nói. Cũng như bà mẹ của bé Gioan lúc nãy, hãy giơ cao kỷ niệm về những điều Thầy đã làm cho các con, và hãy nói: “Đó là những công việc của Thiên Chúa. Người đã để lại cho chúng ta như một kỷ niệm, một sự xác nhận, một sự giúp đỡ để tin, để tin ngay đúng vào giờ này”. Hãy phấn đấu và các con sẽ toàn thắng sự nghi ngờ nó làm nghẹn tâm hồn các con. Hãy chiến đấu chống lại những lời người ta sẽ nói với các con. Hãy nhớ lại các lời
135
tiên tri và các việc của Thầy. Hãy trả lời cho các lời hận thù bằng các lời tiên tri và các phép lạ mà các con đã thấy Thầy làm. Đừng sợ, và đừng vô ơn vì sợ, bằng cách làm câm đi các phép lạ mà Thầy đã làm cho các con. Hãy chiến đấu chống lại sự bách hại, nhưng đừng chiến đấu bằng cách bách hại lại các kẻ bách hại các con, nhưng bằng cách công bố cách anh hùng cho những kẻ muốn dùng đe dọa và cái chết để thuyết phục các con từ chối Thầy. Hãy chiến đấu không ngừng với kẻ thù, tất cả: chống với nhân tính, chống với sự sợ hãi, chống với những liên lụy bất xứng, những liên minh vụ lợi, những áp bức, những đe dọa, những hành hạ và cái chết.
Cái chết!
Thầy không phải vị thủ lãnh của một dân nói với dân mình rằng: “Hãy chịu khổ cho tôi trong khi tôi vui hưởng”. Không, Thầy chịu khổ trước tiên để làm gương cho các con. Thầy không phải ông tướng nói với binh lính của mình rằng: “Hãy chiến đấu để bảo vệ cho tôi. Hãy chết để tôi được sống”. Không, Thầy chiến đấu trước tiên. Thầy chết trước để dạy các con chết. Bởi vì Thầy luôn luôn làm điều Thầy bảo làm. Thầy rao giảng sự nghèo khó thì thầy vẫn sống nghèo; dạy sự tiết dục thì Thầy sống trong trắng, sự tiết độ thì Thầy tiết độ, sự công chính thì Thầy công chính, sự tha thứ thì Thầy đã tha thứ và Thầy sẽ tha thứ. Thầy đã làm tất cả những điều đó. Thầy sẽ còn làm một điều sau cùng. Thầy sẽ dạy các con: người ta phải làm sao để cứu chuộc. Thầy dạy nó cho các con không phải bằng lời, nhưng bằng việc làm. Thầy sẽ dạy các con vâng lời bằng cách chịu lụy một sự vâng lời gay go nhất: vâng lời cái chết.
Thầy sẽ dạy các con tha thứ bằng cách tha thứ trong những cực hình sau cùng, cũng như Thầy đã tha thứ trên rơm cỏ của chiếc nôi của Thầy: tha cho nhân loại đã giựt Thầy ra khỏi Trời. Thầy sẽ tha thứ như Thầy vẫn luôn luôn tha thứ, cho tất cả, về những gì có liên can tới Thầy, cho tất cả: cho các kẻ thù nho nhỏ, những người thụ động, ơ hờ, lung lay... Và cho các kẻ thù to lớn, những người đã làm Thầy đau đớn vì họ hờ hững với quyền lợi của Thầy và lòng ước ao của Thầy muốn cứu họ. Họ cho Thầy và sẽ còn cho Thầy sự đau
136
đớn bằng cách họ trở nên kẻ giết Chúa. Thầy sẽ tha. Và vì Thầy không thể xá giải cho những kẻ giết Thiên Chúa mà không sám hối, Thầy sẽ cầu nguyện Chúa Cha cho họ vào những lúc đau đớn sau cùng... để Người tha cho họ... vì họ bị say bởi men của Satan... Thầy sẽ tha... Và các con, hãy tha thứ nhân danh Thầy. Và hãy yêu. Hãy yêu như Thầy yêu, như Thầy yêu các con và sẽ còn yêu các con mãi tới đời đời.
Từ biệt các con. Chiều đã rơi. Chúng ta hãy cầu nguyện chung với nhau, rồi mỗi người hãy trở về nhà mình với những lời của Chúa trong tim, và xin cho nó biến thành những bông lúa sai hạt cho cái đói của các con trong tương lai, khi các con sẽ ước ao còn được nghe lời người bạn, người Thầy, Vị Cứu Tinh của các con, mà chỉ bằng cách nâng tâm trí lên Trời, các con mới còn có thể tìm thấy đấng đã yêu thương các con hơn chính mình Người.
“Lạy Cha chúng con ở trên Trời...” Giêsu mở cánh tay, một cây Thánh Gía cao mầu trắng trước bức tường mầu tối ở mặt phía bắc căn nhà. Người đọc nhẩn nha kinh Lạy Cha.
Rồi Người chúc phúc bằng lời chúc của Môise. Người ôm các trẻ em và chúc lành nữa. Người giải tán họ và đi về phía bắc, vòng quanh Emmau mà không vào đó.
Mầu tím đỏ của hoàng hôn từ từ hút mất bóng của người Thầy đã ra đi, và càng lúc càng đi tới gần định mệnh của Người. Trong chiếc sân nửa tối nửa sáng là sự yên lặng đau đớn bình an... Một sự chờ đợi.
Rồi tiếng khóc của thằng Micael: Những tiếng khóc của con chiên cảm thấy mình cô đơn, phá tan sự ngây ngất. Nhiều đôi mắt khác cũng đầy nước, và nhiều cặp môi lặp đi lặp lại các lời thơ ngây của thằng bé: “Ôi! Tại sao Thầy lại đi? Trở lại đi! Trở lại đi!... Kéo Chúa trở lại đi!...” Và khi Giêsu đã thực sự biến mất, nỗi buồn của sự nhận biết này lên tới cực độ: “Giêsu không còn ở đây nữa!” Bà mẹ của Micael tìm cách an ủi nó một cách vô ích. Nó đã khóc tựa như nó bị mất một cái gì còn hơn là mẹ nó. Trong tay bà, nó chỉ dán đôi mắt vào chỗ Giêsu đã biến mất, đôi tay giơ ra và gọi:
137
“Giêsu!... Giêsu!...” Giêsu chờ cho tới lúc ra hơi xa nhà, Người nói: “Chúng ta đi Joppê. Các môn đệ đã làm việc nhiều ở đó, và người ta chờ lời Chúa ở đó”.
Không có mấy thiện cảm đối với chương trình kéo dài thêm đường đất. Nhưng Simon cho điều nhận xét: Từ Joppê đến địa hạt của Nicôđêmô và Giuse, người ta đi lẹ làng, vì đường tốt. Gioan rất bằng lòng đi về phía biển. Những người khác bị lôi kéo bởi sự lưu ý này, sau cùng cũng đồng ý đi con đường ra biển.
95* TẠI JOPPÊ. GIÊSU NÓI VỚI
JUDAS KÊRIOT VÀ CÁC DÂN NGOẠI
Tôi thấy Giêsu ngồi tại sân phía trong của một căn nhà có vẻ kha khá, nhưng không sang trọng. Người có vẻ rất mệt, Người ngồi trên ghế đá ở gần một cái giếng có thành cao, được che bằng một dàn cây xanh. Các trái nho đã bắt đầu thành hình, có lẽ hoa mới rụng, và các trái giống như hạt kê dính vào các cuống mầu xanh. Giêsu tì khửu tay mặt trên đầu gối mặt và tựa cằm lên lòng bàn tay. Thỉnh thoảng, như để tìm vị trí thoải mái hơn, Người khoanh tay và tì lên thành giếng, gục đầu trên cánh tay tựa như Người muốn ngủ. Lúc đó mái tóc Người phủ lên khuôn mặt mệt mỏi, làm cho nó có vẻ tái mét và nghiêm trang dưới những lọn tóc hoe vàng.
Một người đàn bà đi qua đi lại, tay dính đầy bột, từ một phòng trong nhà ra cái chòi ở phía cuối sân, chắc chắn ở đó là lò nướng bánh. Mỗi lần đi qua, bà đều nhìn Giêsu, nhưng bà không làm rộn sự nghỉ ngơi của Người. Trời sắp tối, vì mặt trời chỉ hơi phớt trên sân thượng, càng lúc càng ít cho tới lúc nó bỏ đi hẳn.
Khoảng một tá bồ câu bay xuống sân, kêu gù gù để xin bữa ăn cuối ngày của chúng. Chúng lượn quanh Giêsu như để coi người lạ này là ai. Và vì nghi ngờ, chúng không dám đáp xuống đất. Giêsu ngừng suy nghĩ, Người mỉm cười giơ tay ra, bàn tay ngửa lên trời, Người nói: “Chúng mày đói à? Lại đây”, tựa như Người nói với
138
người ta. Một con táo bạo nhất đậu trên bàn tay Người. Rồi sau đó lại một con khác và một con khác nữa. Giêsu mỉm cười: “Tao chả có gì cả”. Người nói trước những tiếng gù gù nhấn mạnh. Rồi Người gọi lớn tiếng: “Bà ơi, các con bồ câu của bà đói. Bà có các hạt cho chúng không?”
- Thưa Thầy có. Nó ở trong bao ở dưới hành lang. Con tới ngay đây.
- Hãy để tôi làm. Tôi cho chúng nó ăn. Tôi thích vậy.
- Chúng không đến đâu. Chúng không biết Thầy.
- Ồ, chúng đậu trên vai, và cả trên đầu tôi nữa!...
Qủa vậy, Giêsu bước đi với chùm lông kỳ lạ, làm bằng một con bồ câu có lông ngực mầu chì giống như chiếc áo giáp qúi với những ánh phản chiếu thay đổi.
Người đàn bà không tin. Bà bước ra coi và nói: “Ồ!”
- Bà thấy không. Các con bồ câu còn hơn người ta nữa. Chúng biết ai yêu chúng. Người ta... không.
- Thầy ơi, đừng nghĩ tới những gì đã xảy ra. Ở đây rất ít người ghét Thầy. Những người khác, hầu như tất cả đều yêu Thầy, ít là kính trọng Thầy.
- Ôi! Thầy đâu có băn khoăn về chuyện đó. Thầy nói vậy để cho bà nhận thấy rằng rất thường thường các con vật tốt hơn con người.
Giêsu đã mở bao. Người thọc bàn tay dài của Người vào trong và bốc ra những hạt lúa vàng. Người gói vào áo khoác của Người, buộc miệng bao lại rồi trở ra giữa sân, trong khi phải tự vệ để chống lại sự xâm lăng của các con bồ câu muốn được phục vụ ngay. Người mở vạt áo và quăng hạt xuống đất. Người cười khi thấy các con chim háu ăn gây lộn. Bữa ăn được tiêu thụ lẹ làng, và các con bồ câu tới uống ở cái tô nước đặt gần giếng, và chúng còn nhìn Giêsu nữa.
- Bây giờ đi đi. Không còn gì nữa đâu.
Các con vật còn chập chờn một lát nữa trên vai và đầu gối Giêsu, rồi chúng bay vào tổ của chúng. Giêsu lại chìm vào suy niệm.
Có những cú đập mạnh ở cửa. Người đàn bà chạy ra mở. Đó là
139
các môn đệ. Giêsu nói:
- Lại đây. Các con đã phát tiền cho người nghèo chứ ?
- Thưa Thầy vâng.
- Cho tới đồng xu cuối cùng? Các con hãy nhớ rằng của đã cho chúng ta, không phải để dùng cho chúng ta, nhưng để làm việc bác ái. Chúng ta nghèo và chúng ta sống nhờ tình thương của người khác. Khốn cho vị tông đồ nào khai khẩn sứ mạng của mình cho những mục đích loài người!
- Vậy nếu một ngày nào đó chúng ta không có bánh và chúng ta bị kết tội là vi phạm lề luật, bởi vì chúng ta tuốt những bông lúa giống như các con chim sẻ làm?
- Con có bao giờ thiếu cái gì không Judas? Cái cần yếu, từ khi con ở với Thầy? Con có bao giờ bị lả trên đường chưa?
- Thưa Thầy chưa.
- Khi Thầy bảo con: “Hãy đến”, Thầy có hứa với con những tiện nghi và của cải không? Và trong các lời Thầy nói với những ai nghe Thầy, có bao giờ Thầy nói rằng Thầy sẽ cho những người của Thầy các lợi lộc trên trái đất không?
- Không, Thầy.
- Vậy thì Judas, tại sao con lại thay đổi về điểm này? Con không biết, con không cảm thấy rằng sự bất bình của con, sự lạnh lùng của con làm Thầy đau khổ? Con không biết rằng sự bất bình này lây lan tới các anh em con? Judas bạn Thầy, tại sao con đã được gọi vào một định mệnh như vầy, con đã đến với tình yêu của Thầy và ánh sáng của Thầy với bao thiện cảm, mà bây giờ con lại bỏ rơi Thầy?
- Thưa Thầy, con đâu có bỏ rơi Thầy. Con là người lo lắng cho Thầy nhất, về lợi ích của Thầy, về sự thành công của Thầy. Con muốn thấy Thầy được toàn thắng khắp nơi. Thầy hãy tin vậy đi.
- Thầy biết. Con muốn điều đó theo cách nhân loại. Đã qúa nhiều như vậy rồi. Nhưng đó không phải là cái Thầy muốn, Judas bạn Thầy... Thầy đến vì một điều khác rất hơn là một chiến thắng nhân loại và một vương quyền nhân loại... Thầy đến không phải để cho các bạn các cô dâu của một chiến thắng loài người, nhưng để
140
cho các con một phần thưởng lớn hơn, chồng chất hơn, dư dật hơn; một phần thưởng không còn là một phần thưởng nữa, vì nó qúa đầy tràn: Đó là sự tham dự vào triều đại vĩnh cửu của Thầy. Đó là sự hợp nhất trong quyền lợi của các con cái Thiên Chúa... Ôi! Judas! Tại sao cái di sản tuyệt vời này lại không kích thích con? Người ta tới đó bằng sự từ bỏ, nhưng nó không có hoàng hôn. Lại gần đây hơn đi Judas.
Con thấy không? Chỉ có hai chúng ta. Những người khác đã hiểu rằng Thầy muốn nói với con, kẻ phân phát những... của cải của Thầy, những của bố thí mà Con Người, mà Con Thiên Chúa nhận để ban phát nhân danh Thiên Chúa và Con Người cho người ta. Họ đã vào nhà, chỉ có hai ta, Judas, trong cái giờ êm đềm này của buổi chiều, giờ mà con tim chúng ta bay tới những miền xa, về với mẹ chúng ta, chắc chắn giờ này đang sửa soạn bữa tối cô đơn của các bà, trong khi nghĩ tới chúng ta, lấy tay vuốt ve chỗ chúng ta đã ngồi trước cái giờ này của Thiên Chúa, giờ mà Ý Muốn Rất Thánh đã chọn chúng ta để làm cho nó được yêu trong tinh thần và chân lý. Các bà mẹ của chúng ta! Mẹ Thầy, rất thánh, rất trong sạch, rất yêu các con và cầu nguyện nhiều cho các con, các bạn của Giêsu con mẹ... Mẹ Thầy, người mẹ chỉ có một sự bình an trong nỗi lo lắng từ mẫu của người mẹ Đức Kitô: Bình an được biết rằng Thầy được bao bọc bởi tình yêu của các con. Các bạn ơi! Đừng làm thất vọng, đừng đả thương con tim từ mẫu này. Đừng đâm thủng nó dù chỉ bởi một hành động xấu. Mẹ con, Judas, mẹ của con, lần sau cùng chúng ta đi qua Kêriot, bà không những chúc phúc cho Thầy và bà muốn hôn chân Thầy, vì bà sung sướng rằng Judas của bà ở trong ánh sáng của Thiên Chúa. Bà đã nói với Thầy: “Ôi! Thưa Thầy, xin Thầy làm cho Judas của con nên thánh! Con tim của bà mẹ muốn gì, nếu không phải là điều tốt cho con mình? Và còn điều nào tốt hơn sự tốt lành đời đời?” Qủa vậy, Judas, còn điều lành nào lớn hơn điều Thầy muốn dắt các con tới, điều người ta tới được bằng cách đi theo con đường của Thầy. Judas, mẹ con là người đàn bà thánh, một con gái Israel thực sự. Thầy đã không muốn cho bà
141
hôn chân Thầy, vì các con là các bạn Thầy, và vì trong tất cả các bà mẹ, trong tất cả các bà mẹ tốt, Thầy nhìn thấy mẹ Thầy, Judas ạ. Và Thầy muốn rằng các con, trong người mẹ của các con, các con nhìn thấy mẹ Thầy trong định mệnh đáng ngại của vị Đồng Công Cứu Chuộc của Người, và các con không muốn, các con không muốn giết Người, bởi vì... bởi vì các con thấy như là giết mẹ các con.
Judas, đừng khóc. Tại sao lại khóc nếu trên qủa tim của con không có gì phải hối hận đối với mẹ con và mẹ Thầy? Tại sao con đổ nước mắt? Hãy lại đây. Hãy tựa đầu vào vai Thầy, và hãy nói cho bạn con về sự lo âu của con. Con đã thiếu sót ư ? Con cảm thấy con sắp thiếu sót ư ? Ôi! Đừng ở một mình. Hãy toàn thắng Satan với sự giúp đỡ của đấng yêu con. Thầy là Giêsu, Judas, Thầy là vị Giêsu đã chữa các bệnh tật và xua đuổi ma qủi. Thầy là Giêsu, đấng cứu vớt... là người yêu con chừng nào, là người đau khổ bồn chồn khi thấy con yếu đuối như vầy. Thầy là vị Giêsu đã giảng dạy phải tha thứ tới bảy mươi bảy lần bảy. Nhưng Thầy, đối với những gì có liên can tới Thầy, Thầy tha cho các con, không phải là bảy mươi lần bảy lần, mà là bảy trăm lần, bảy ngàn lần bảy lần. Không có tội nào, Judas! Không có tội nào, Judas! Không có tội nào, Judas ơi! mà Thầy không tha, mà Thầy không tha, mà Thầy, Thầy không tha, nếu kẻ có tội thống hối mà nói: “Giêsu, con đã phạm tội”. Hoặc ít hơn nữa, nó chỉ nói: “Giêsu!”, hay còn ít hơn nữa, nó chỉ nhìn Thầy cách năn nỉ. Và các tội đầu tiên mà Thầy tha, bạn Thầy ơi, con biết không? Thầy tha cho ai trước tiên? Cho những kẻ nặng tội nhất, và cho những kẻ thống hối nhất. Và tất cả những tội mà Thầy tha trước tiên, con biết là những tội nào không? Những tội xúc phạm đến chính Thầy.
Judas... Con không tìm thấy lời nào để trả lời cho Thầy con sao?... Nỗi lo âu của con nặng nề tới nỗi nó cắt đứt ngôn ngữ của con sao? Con sợ Thầy tố cáo con sao? Đừng sợ. Đã từ lâu lắm rồi, Thầy muốn nói với con kiểu như vầy, trong khi ôm con trên tim Thầy như hai đứa trẻ sinh đôi trong một cái nôi, được sinh ra với nhau, hầu
142
như chỉ có một xác thịt. Hai đứa trẻ đã thay đổi với nhau đôi vú ấm áp, cảm thấy mùi nước bọt của nhau, cùng một lúc cảm thấy sự dịu ngọt của sữa mẹ. Bây giờ Thầy có con, và Thầy không rời con cho tới khi con nói với Thầy rằng Thầy đã chữa con. Đừng sợ, Judas. Đây là một điều thú nhận mà Thầy muốn. Nhưng các bạn của con, họ nghĩ đây là cuộc hội đàm của tình yêu, vì nó rạng rỡ một sự bình an hỗ tương, một tình yêu hỗ tương trên mặt chúng ta sau cuộc hội đàm này. Và Thầy sẽ làm cho họ càng ngày càng tin hơn, bằng cách Thầy sẽ giữ con tì vào ngực Thầy trong bữa ăn tối nay, bằng cách nhúng bánh riêng của Thầy mà trao cho con như kẻ ưu ái; và chính con sẽ là người đầu tiên mà Thầy trao cho chén rượu, sau khi đã tạ ơn Thiên Chúa. Con sẽ là vua của bữa tiệc, Judas, và con sẽ thực sự là vậy: Hôn thê của hôn phu, con sẽ là vậy, ôi hỡi linh hồn mà Thầy yêu, nếu con làm cho mình nên trắng sạch và tự do, bằng cách đặt những bụi đất của con vào lòng Đấng Thanh Tẩy của Thầy.
Con chưa nói để cho Thầy biết nỗi buồn của con sao?
- Thầy đã nói với con bao là êm đềm... về mẹ Thầy... về nhà cửa... về tình yêu của Thầy... Một lúc yếu đuối... Con qúa mệt mỏi!... Và hình như Thầy yêu con nhiều hơn kể từ ít lâu nay...
- Không. Không phải như vậy. Trong các lời của con chỉ có một sự thật, tức là con mệt mỏi. Không phải vì đường đi, vì bụi đất, vì mặt trời, vì bùn, vì đám đông. Con mệt vì con. Linh hồn con bị mệt bởi xác thịt con và trí khôn con. Mệt mỏi tới nỗi sau cùng, nó sẽ chết vì sự mệt mỏi chí tử. Linh hồn tội nghiệp mà Thầy đã kêu gọi vào sự huy hoàng đời đời. Linh hồn tội nghiệp, nó biết rằng Thầy yêu con, và nó phiền trách con vì đã giật nó ra khỏi tình yêu Thầy! Linh hồn tội nghiệp! Nó phiền trách con vô ích, cũng như Thầy vỗ về con cách vô ích bằng tình yêu của Thầy, vì con hành động một cách nham hiểm đối với Thầy con. Nhưng đó không phải là con hành động, đó là kẻ ghét con và ghét Thầy. Vì vậy mà Thầy đã nói với con: “Đừng ở một mình”. Nào, nghe đây: Các đêm của Thầy, con biết rằng Thầy qua phần lớn các đêm của Thầy trong cầu nguyện. Nếu một ngày nào đó, con cảm thấy trong con cái can đảm
143
để làm một người, và ý muốn làm một người của Thầy, thì con hãy đến với Thầy trong lúc các bạn con ngủ. Các tinh tú, hoa lá, chim chóc, là những nhân chứng khôn ngoan và tốt, lặng lẽ, đầy tình thương. Các tinh tú ghê sợ các tội ác xảy ra dưới ánh sáng của nó, nhưng nó không có tiếng nói để nói với con người: “Người này là Cain của anh em nó”. Con hiểu không Judas?
- Thưa Thầy hiểu. Nhưng hãy tin con: Con không có gì ngoài sự mệt mỏi và cảm động. Con, con yêu Thầy hết lòng và...
- Tốt. Đủ rồi.
- Thầy cho con một cái hôn?
- Ừ, Judas. Thầy sẽ cho con nhiều cái khác nữa...
Giêsu để thoát ra một hơi thở dài, sâu, đau đớn. Nhưng Người hôn lên má Judas và Người cầm đầu ông trong hai bàn tay, giữ chặt như vậy ở trước mặt Người, cách khoảng chừng vài tấc. Người nhìn ông đăm đăm, dò xét ông, xuyên thấu ông bằng cái nhìn thôi miên của Người. Và Judas, cái ông khốn nạn này cũng không rùng mình. Ông giữ vẻ bề ngoài không bối rối trước sự dò xét này. Ông chỉ hơi tái mét và ông nhắm mắt vào một lát.
Và Giêsu hôn lên đôi mu mắt hạ xuống, rồi trên miệng, rồi trên qủa tim bằng cách cúi xuống để tìm qủa tim của người môn đệ... Rồi Người nói: “Đó, để xua đuổi mây đen, để con cảm thấy sự êm đềm của Giêsu, để củng cố cho tâm hồn con”. Rồi Người buông ông ra và đi về nhà. Judas theo sau Người.
- Thầy về đúng lúc! Tất cả đã sẵn sàng, chỉ còn chờ Thầy - Phêrô nói.
- Tốt. Thầy nói chuyện với Judas về biết bao thứ... Phải không Judas? Phải săn sóc ông già tội nghiệp có đứa con bị giết đó.
- A! - Judas lợi dụng cơ hội để tự chỉnh trang và để đổi hướng vấn đề, làm như không hề bao giờ có sự nghi ngờ của những người khác: “A! Thầy biết không? Hôm nay chúng con đã bị chận lại bởi một nhóm dân ngoại sống trà trộn với các người Do Thái ở các thuộc địa của Rôma bên Hy Lạp. Họ muốn biết rất nhiều điều. Chúng con đã trả lời như chúng con có thể. Chắc chắn là chúng con
144
không thuyết phục được họ, nhưng họ tốt và cho chúng con rất nhiều tiền. Đây này Thầy. Chúng ta có thể làm được nhiều điều tốt”. Judas để một cái túi bằng da rất sang trọng lên bàn, trong khi rơi, nó tạo ra những tiếng lách cách của tiền bạc. Nó to như cái đầu đứa trẻ.
- Tốt, Judas. Con sẽ phân phát tiền này cách công bình. Các người dân ngoại đó họ muốn gì?
- Các thứ về đời sống tương lai... Người ta có linh hồn không, nó có bất tử không. Họ cho biết tên các ông chủ của họ. Nhưng chúng con thì chúng con nói gì được?
- Các con phải bảo họ tới.
- Chúng con có nói. Có lẽ họ sẽ tới.
Bữa ăn tiến hành. Giêsu ngồi bên Judas. Người cho ông bánh chấm vào nước xốt ở trong đĩa thịt rô ti. Các đấng đang ăn những trái oliu đen thì nghe gõ ở ngoài cửa. Một lát sau, bà chủ nhà tới và nói: “Thưa Thầy, họ muốn Thầy”.
- Ai vậy?
- Những người dân ngoại.
“Nhưng không thể được”, “Thầy đang mệt”, “Suốt ngày Thầy phải đi bộ và nói”, “Và rồi, các dân ngoại ở trong nhà! Vậy chúng ta khởi hành thôi!” Mười hai ông lo ngại như tổ ong bị người ta phá.
- Xuỵt ! Hãy bình an. Nghe những người tìm Thầy không phải là điều mệt đối với Thầy. Đó là sự nghỉ ngơi của Thầy.
- Đây có thể là một cái bẫy, vào giờ này!...
- Không. Không phải đâu. Hãy yên hàn và nghỉ ngơi. Thầy thì Thầy đã nghỉ lúc Thầy chờ các con. Thầy đi đây. Thầy không bảo các con đi với Thầy... mặc dầu... mặc dầu Thầy đã bảo các con: ngay chính các dân ngoại là những người các con phải mang tới cho họ cái tôn giáo Juđa của các con, và nó sẽ là Kitô giáo. Hãy chờ Thầy ở đây.
- Thầy đi một mình? A! Cái đó là không bao giờ! - Phêrô đứng dậy nói.
- Con hãy ngồi lại chỗ của con. Thầy đi một mình.
145
Người ra, hiện diện trước cái cửa mở ra ngoài đường.
- Bình an cho qúi vị. Qúi vị muốn gặp tôi à?
- Chào Thầy! - một ông già đạo mạo nói. Ông bọc mình trong y phục Rôma với chiếc áo khoác nhỏ cộc, có mũ đội đầu: “Hôm nay chúng tôi đã nói với các môn đệ Thầy, nhưng họ không biết cho chúng tôi các lời giải thích. Chúng tôi muốn nói với Thầy”.
- Các ông là những người đã cho của bố thí lớn? Cám ơn nhân danh những người nghèo của Thiên Chúa.
Giêsu quay lại bà chủ nhà và nói với bà: “Bà ơi, tôi ra ngoài với họ. Hãy nói với những người của tôi là họ sẽ đến tìm tôi gần bờ sông, vì nếu tôi nhìn đúng thì những người này là các thương gia trong các cửa tiệm...”
- Và các thủy thủ nữa. Thầy đã nhìn đúng.
Họ ra tất cả ngoài đường, dưới ánh trăng trong.
- Các ông đến từ xa à? - Giêsu ở giữa nhóm người. Bên cạnh Người là ông già đã nói trước tiên, một ông già đẹp lão với dáng vẻ Latin. Ở phía bên kia là một người trung niên, nét mặt đặc biệt Hy Bá. Ở chung quanh là hai ba người dáng gầy, da mầu trắng xanh, mắt sáng, hơi có vẻ mỉa mai; và những người khác vạm vỡ, lứa tuổi khác nhau. Tất cả khoảng mười người.
- Chúng tôi sống trong các thuộc địa của Rôma tại Hy Lạp và Á châu, một số là Do Thái, một số là dân ngoại... Chúng tôi không dám đến vì lý do đó... Nhưng người ta đã bảo đảm với chúng tôi là Thầy không coi khinh các dân ngoại... như những người khác làm... Các người Do Thái thì e ngại, tôi muốn nói là những người thuộc dân Israel, vì ở các nơi khác cũng có những người Do Thái... ít khắt khe hơn. Vì như tôi, người Rôma, tôi đã cưới một người vợ Do Thái tại Lycaonie, còn ông này thì lại cưới một người vợ Rôma trong khi ông là người Hy Bá sống ở Êphêsô.
- Tôi không khinh dể ai cả. Nhưng phải miễn chấp cho những người chưa biết nghĩ rằng: chỉ có một Đấng Tạo Hóa, và mọi người đều có cùng một dòng máu.
- Chúng tôi biết rằng Thầy rất lớn trong đám các triết gia, và
146
điều Thầy nói đó chứng tỏ Thầy lớn và tốt.
- Người tốt là người làm điều tốt chứ không phải người nói hay.
- Thầy nói hay và Thầy hành động tốt. Vậy Thầy tốt.
- Các ông muốn biết gì nơi tôi?
- Thưa Thầy, hôm nay, xin miễn thứ cho chúng tôi nếu chúng tôi làm mệt Thầy bởi sự tò mò của chúng tôi. Nhưng có một sự tò mò tốt, bởi vì nó tìm chân lý... Hôm nay chúng tôi muốn biết bởi Thầy những sự thật về một giáo lý đã được phác họa bởi các nhà triết học của cổ Hy Lạp mà Thầy, người ta nói với chúng tôi là Thầy trở lại để dạy rộng rãi hơn và đẹp đẽ hơn. Eunique, vợ tôi, nó đã nói chuyện với các người Do Thái đã nghe Thầy, và bà nhắc lại cho tôi những lời này. Thầy biết không? Eunique là người Hy Lạp có học thức, và bà biết các lời của các nhà thông thái nước bà. Bà thấy có sự ăn hợp giữa các lời Thầy và các lời của một đại triết gia Hy Lạp. Và các lời Thầy nói đã lan tới tận Êphêsô. Cũng vậy, đã đến tại cảng này: những người này thì về việc buôn bán, những người khác thì về các lễ nghi. Chúng tôi đã gặp nhau như các bạn hữu và chúng tôi nói chuyện với nhau. Công việc đâu có ngăn cản nghĩ tới những điều cao cả hơn. Sau khi đã nhập hàng vào tiệm và chất hàng lên tàu, chúng tôi có thời giờ để giải quyết sự nghi ngờ này. Thầy nói là linh hồn vĩnh cửu, Socrate nói là nó bất tử. Thầy có biết các lời của vị thầy Hy Lạp không?
- Không. Tôi không bao giờ học trong các trường của Rôma hay Athènes. Nhưng hãy nói, dù sao tôi cũng hiểu ông. Tôi không phải không biết tư tưởng của nhà triết học Hy Lạp.
- Socrate, trái với những điều chúng tôi, các người Rôma tin, và cũng trái với những người phái saddu của dân Thầy tin, ông nhìn nhận và yểm trợ điều rằng: Con người có một linh hồn, và nó bất tử. Ông nói rằng linh hồn là như vậy nên cái chết chỉ là sự giải phóng cho nó, để nó đi từ một nhà tù tới một nơi tự do, nơi nó sẽ gặp những người nó yêu. Ở đó nó sẽ biết những sự khôn ngoan mà nó đã nghe các vĩ nhân, các anh hùng, các thi sĩ nói; và ở đó, nó không còn thấy bất công, đau khổ, nhưng chỉ toàn là hạnh phúc đời
147
đời, trong sự nghỉ ngơi bằng an, nơi được mở ra cho các linh hồn bất tử đã sống cách công chính. Thầy nói sao?
- Thực vậy, tôi bảo ông rằng, người thầy Hy Lạp, dù vẫn ở trong lầm lạc của một tôn giáo không có thực, nhưng ông ở trong chân lý khi nói về linh hồn bất tử. Khi tìm tòi sự thật và thực hành các nhân đức, ông cảm thấy tận đáy lòng ông tiếng nói thì thầm của một Thiên Chúa không được biết: Thiên Chúa thật, Thiên Chúa duy nhất. Người là Cha Tối Cao, từ Người, tôi đã đến để dẫn loài người đến với chân lý. Người ta có một linh hồn, duy nhất, thực sự, vĩnh cửu, là chủ, có khả năng đáng được thưởng hay bị phạt. Tất cả những gì về nó, được tạo dựng bởi Thiên Chúa, được tiền định trong tư tưởng của Đấng Tạo Hóa để trở về với Thiên Chúa. Các ông, dân ngoại, các ông dành cho mình qúa nhiều thờ cúng về thân xác. Thực sự nó là một tác phẩm đáng phục, ở trên nó có dấu vết của ngón tay hằng hữu. Các ông qúa cảm phục sự thông minh, một báu vật dấu kín trong cái hộp là cái đầu các ông, và từ đó, nó để cho chảy ra những tia cao cả của nó. Một ơn cả thể, một ơn siêu việt của Thiên Chúa Tạo Hóa đã kiến tạo các ông theo tư tưởng của Người và phù hợp với tư tưởng ấy. Vậy là một công việc toàn vẹn, những cơ quan và chi thể mà Người đã cho các ông, và cho nó giống với Tư Tưởng và Thần Trí của Người. Nhưng sự trọn vẹn của sự giống nhau này thì ở trong thần trí. Vì Thiên Chúa không có các chi thể và cái bóng tối của xác thịt, cũng như Người không có các giác quan và cái tâm điểm của dâm ô, Người là Thần Trí rất trong sạch, vĩnh cửu, trọn lành, bất biến, không mệt mỏi trong hoạt động, canh tân liên tục các kỳ công của Người mà Người thích nghi nó với đầy tình phụ tử cho con đường tiến lên của các tạo vật của Người. Linh hồn được tạo dựng cho mọi con người từ cùng một nguồn sức mạnh và nhân từ, không có sự khác nhau về sự hoàn thiện nguyên thủy. Chỉ có một Thần Trí không được tạo dựng, toàn thiện và muôn đời tồn tại như vậy. Có ba thần trí được tạo dựng trọn lành.
- Và Thầy là một trong ba đó?
- Không phải tôi. Tôi, trong thân xác của tôi, tôi có thần trí không
148
được tạo dựng, nhưng được cưu mang bởi Chúa Cha do sự qúa sung mãn của tình yêu.
- Vậy thì là ai?
- Hai người cha mẹ đầu tiên, nguồn gốc của nòi giống, được tạo dựng toàn vẹn, rồi sau đó đã tự nguyện sa ngã vào sự bất toàn. Thần trí thứ ba, được tạo dựng cho niềm vui của Thiên Chúa và vũ trụ. Nó qúa cao ở bên trên khả năng của tư tưởng và đức tin của thế giới ngày nay để tôi có thể chỉ nó cho các ông. Các thần trí, như tôi đã nói, được tạo dựng, đến từ cùng một nguồn gốc với cùng một mức độ toàn thiện, sau đó sẽ chịu một sự biến đổi kép, tùy theo công trạng và ý chí của họ.
- Vậy là Thầy nhìn nhận một đời sống thứ hai?
- Chỉ có một đời sống, trong đó linh hồn, đã có một sự giông giống với Thiên Chúa, sẽ nhờ vào sự công chính được thi hành một cách trung thành trong mọi sự, để bước qua một sự giông giống toàn thiện hơn, tôi nói là một sự tạo dựng thứ hai của chính nó, bởi đó nó tiến tới một sự giông giống gấp đôi với Đấng Tạo Hóa của nó, để cho mình có khả năng đạt tới sự thánh thiện là sự trọn lành về công chính, để giống là Con đối với Cha. Điều này xảy ra ở nơi các thánh, tức là những người mà Socrate của các ông nói là họ ở Hadès. Nhưng tôi nói với các ông rằng khi Đấng Khôn Ngoan sẽ nói các lời của Người và xác nhận nó bằng máu, họ sẽ là các thánh của Thiên Đàng, của Vương Quốc, tức là của Thiên Chúa.
- Vậy bây giờ họ ở đâu?
- Trong sự chờ đợi.
- Chờ cái gì?
- Chờ Hy Sinh, chờ ơn tha thứ, chờ sự giải thoát.
- Người ta nói rằng Đấng Messi sẽ là Đấng Cứu Thế, và đó là chính Thầy... Có thật không?
- Đúng vậy, tôi là đấng đó. Tôi, người đang nói với các ông.
- Vậy là Thầy phải chết? Tại sao vậy Thầy? Thế giới đang qúa cần Ánh Sáng mà Thầy lại bỏ nó?
- Chính ông, người Hy Lạp, mà ông lại hỏi tôi điều đó? Ông là
149
người được các lời của Socrate thống trị?
- Thưa Thầy, Socrate là một người công chính, còn Thầy là Đấng Thánh. Thầy coi trái đất cần sự thánh thiện chừng nào.
- Nó sẽ tăng trưởng lên mạnh gấp mười ngàn lần vì mỗi đau đớn, mỗi vết thương, mỗi giọt máu của tôi.
- Lạy Jupiter ! Không bao giờ các người khắc kỷ có thể lớn bằng Thầy. Thầy không chỉ giới hạn ở việc giảng dạy khinh chê đời sống, mà Thầy còn chuẩn bị để loại bỏ nó.
- Tôi không khinh chê đời sống. Tôi yêu nó như một của qúi nhất để mua phần rỗi cho thế giới.
- Nhưng Thầy ơi, Thầy còn qúa trẻ để chết.
- Nhà triết học của ông nói rằng các vị thánh rất qúi trước mặt các thần, mà ông đã gọi tôi là Thánh. Nếu tôi là Thánh, đương nhiên tôi khát khao trở về với Sự Thánh Thiện mà từ đó tôi đã tới. Bởi vậy người ta sẽ không bao giờ qúa trẻ để có nỗi khát mong này. Socrate cũng nói rằng người thánh thì thích làm những điều đẹp ý các thần. Còn gì dễ làm đẹp lòng hơn là trả về cho vòng tay ôm ấp của Cha những đứa con mà tội lỗi đã đem đi xa, và ban cho con người sự bình an với Thiên Chúa, căn nguyên của mọi sự lành.
- Thầy nói rằng Thầy không biết các lời của Socrate, làm sao Thầy lại biết những điều Thầy nói?
- Tôi, tôi biết tất cả. Tư tưởng của con người, khi nó là tư tưởng tốt thì nó chỉ là sự phản chiếu của một trong các tư tưởng của tôi. Tư tưởng không tốt thì không phải từ tôi, nhưng tôi đọc được nó trong sự liên tiếp của thời gian, và tôi đã biết, tôi đang biết và tôi sẽ biết khi những điều đó đã, đang và sẽ được nói. Tôi biết.
- Chúa ơi, xin hãy đến Rôma, đèn pha của thế giới. Ở đây, sự thù ghét bao phủ Thầy, ở đó, sự tôn kính sẽ bao quanh Thầy.
- Nó sẽ bao quanh con người chứ không phải vị Thầy siêu nhiên. Tôi, tôi đến vì những sự siêu nhiên. Tôi phải mang nó cho các con cái của dân Thiên Chúa, mặc dầu họ khắc nghiệt nhất đối với Ngôi Lời.
- Vậy là Rôma và Athènes không được có Thầy.
150
- Họ sẽ có tôi, đừng sợ. Họ sẽ chiếm hữu được tôi. Những ai muốn tôi thì sẽ chiếm hữu được tôi.
- Nhưng nếu chúng giết Thầy...
- Thần trí thì bất tử, thần trí của mọi người. Thần trí tôi, thần trí Con Thiên Chúa, sẽ chẳng như vậy sao? Tôi sẽ đến bằng thần trí của tôi là cái sẽ hành động... Tôi sẽ đến... Tôi thấy các đám đông vô số kể, và các ngôi nhà người ta sẽ xây dựng nhân danh tôi... Tôi ở khắp nơi... Tôi sẽ nói trong các thánh đường và các con tim. Sự rao giảng Tin Mừng của tôi không biết trì hoãn... Tin Mừng sẽ lan ra khắp mặt đất... Mọi người tốt sẽ đến với tôi... Và kìa... Tôi dẫn đầu đạo binh thánh của tôi, tôi dẫn họ về Trời. Hãy đến với Chân Lý.
- Ôi, lạy Chúa! Chúng tôi có tâm hồn bị bao bọc bởi những công thức và những sai lầm. Chúng tôi làm sao để mở được các cửa cho nó?
- Tôi, tôi sẽ làm cho cửa hỏa ngục thành vắng vẻ. Tôi sẽ mở cửa cho Hadès của các ông và cho Lâm Bô của tôi. Chẳng lẽ tôi lại không thể mở các cửa của ông? Hãy nói: “Tôi muốn”, và giống như các ổ khóa làm bằng cánh bươm bướm, nó sẽ thành bụi và rơi xuống khi tia sáng của tôi đi qua.
- Ai sẽ đến nhân danh Thầy?
- Các ông có thấy người kia, lúc này ông đang đến đây với một người khác chỉ lớn hơn một thiếu niên một ít? Họ sẽ tới Rôma và thế giới. Và cùng với họ, còn nhiều người khác nữa. Cũng vội vã như bây giờ, vì tình yêu của tôi thúc đẩy họ và làm cho họ chỉ tìm được sự nghỉ ngơi bên cạnh tôi mà thôi. Họ sẽ đến vì tình yêu đối với những người đã được cứu chuộc bằng hy sinh của tôi. Họ sẽ tìm các ông, tụ họp các ông và dẫn các ông tới Ánh Sáng. Phêrô! Gioan! Lại đây! Thầy xong rồi, Thầy tin vậy, và Thầy thuộc về các con. Các ông còn điều gì muốn nói với tôi nữa không?
- Thưa Thầy, không còn gì khác. Chúng con sẽ ra đi, mang các lời của Thầy theo với chúng con.
- Cầu mong cho chúng nẩy mầm trong các ông và mọc lên với
151
những cái rễ vĩnh cửu. Đi đi. Bình an cho các ông.
- Chào Thầy.
Thị kiến chấm dứt
Nhưng Giêsu còn nói: “Con mệt à? Một bài đọc nặng nề. Một bài chính tả thì đúng hơn là một thị kiến. Nhưng đó là một trình bày mà một số người ước ao. Ai? Con sẽ biết điều đó vào ngày của Cha. Bây giờ con cũng hãy đi bình an”.
Tôi tự ý nói thêm rằng cuộc đàm thoại giữa Giêsu và các người dân ngoại xảy ra dọc bờ cảng của một thành phố ở bờ biển. Dưới ánh trăng sáng, ta nhìn thấy rõ các làn sóng êm đềm đến để chết với những sóng dội lại trên đá ngầm của một bức tường nhô ra từ một cảng lớn đầy thuyền tàu. Tôi không thể nói trước, vì nhóm người nói không ngừng, nên nếu tôi tả nơi chốn thì tôi sẽ bị mất dòng lời nói. Họ nói trong khi đi dạo trên một phần của bờ biển gần cảng. Con đường vắng vẻ vì không có người qua lại, và các người đi biển đã trở về tàu của họ hết, nơi ta thấy các đèn hiệu mầu đỏ sáng trong màn đêm như những ngôi sao bằng hồng ngọc. Tôi không biết đây là thành phố nào. Chắc chắn là nó đẹp và quan trọng.
96* TRONG LÃNH ĐỊA CỦA NICÔĐÊMÔ
Giêsu tới đây vào một bình minh mát mẻ. Thật là đẹp, miền quê mầu mỡ của ông Nicôđêmô vào những tia đầu tiên của mặt trời. Chúng đẹp, mặc dầu nhiều thửa ruộng đã được gặt, phơi bày sự ủ rũ của cánh đồng sau khi lúa miến chết, đã được bó lại hoặc còn nằm như những xác chết trên mặt đất, chờ được mang tới sân đập lúa. Cùng với lúa, các ngôi sao mầu xanh lam ngọc của các cây cúc tím, các bông mõm chó mầu tím lạt, các bông li ti của các cây lưỡi mèo, các cánh mong manh của các bông cát cánh, các bông tươi cười của cây cúc cam, cúc trắng; các bông mỹ nhân thảo với hoa mầu đỏ chói chang và hàng trăm thứ hoa khác hình sao, hình bông lúa, hình chùm, hình giây, trước đây tươi cười, bây giờ chết nằm phơi bên mầu vàng chết của gốc rạ. Nhưng để an ủi cái tang của mặt đất bị mất lúa, có mùa chín của các cây cho trái, càng lúc càng thanh lịch với những trái lớn đang nhuộm nhiều mầu khác nhau, bóng láng một lớp bụi kim cương của sương mai chưa bị mặt trời làm bốc hơi.
152
Các nông dân đã vào việc, sung sướng vì đã tới cuối kỳ gặt hái nặng nề. Họ hát trong khi gặt và cười vui vẻ để đua tranh xem ai lẹ nhất và khéo léo nhất trong việc sử dụng lưỡi hái và bó lúa... Nhiều tiểu đoàn nông dân được ăn uống đầy đủ, sung sướng làm việc cho ông chủ tốt. Tại bờ ruộng hay đàng sau những người bó lúa, các trẻ em, các bà góa, các người già cả chờ đợi để mót lúa, và họ chờ đợi không lo lắng, vì họ biết rằng sẽ có cho mọi người như thường lệ “theo lệnh của Nicôđêmô”, theo như bà góa mà Giêsu hỏi cắt nghĩa. Bà nói: “Ông ấy canh chừng để người ta cố ý bỏ lại nhiều bông lúa bên ngoài bó cho chúng tôi. Và chưa thỏa lòng vì sự bác ái như vậy, sau khi đã thu hoạch một số lượng xứng hợp cân đối với số đã gieo, ông phân phát cho chúng tôi chỗ còn lại. Ôi, ông không chờ để làm như vậy vào năm Sabát, nhưng ông luôn luôn cho người nghèo được lợi dụng lúa của ông; và ông cũng làm vậy đối với vườn oliu và vườn nho. Vì vậy nên Thiên Chúa chúc phúc cho ông bằng những mùa thu hoạch lạ lùng. Các lời chúc phúc của các người nghèo cũng như sương sa trên hạt giống và trên các bông hoa, để làm cho mỗi hạt sinh nhiều bông lúa hơn, và không một bông hoa nào rụng xuống mà không có một trái được thành lập. Rồi năm nay, ông đã cho chúng tôi biết rằng tất cả là cho chúng tôi, bởi vì đây là năm hồng ân. Ông nói về ơn gì tôi không biết, nếu đó là điều chúng tôi nói giữa các người nghèo với nhau, và giữa đám đầy tớ hạnh phúc của ông, thì là ông đã bí mật làm môn đệ của một người xưng mình là Đức Kitô, đấng rao giảng tình yêu đối với người nghèo để minh chứng tình yêu đối với Thiên Chúa... Có lẽ ông, ông biết Người, vì ông là bạn của Nicôđêmô... Vì thông thường các người bạn thì có cùng một tâm tình... Ví dụ Giuse Arimathi là người bạn vĩ đại của Nicôđêmô, và người ta nói ông ta cũng là bạn của vị Rabbi... Ôi! Tôi nói gì vậy! Xin Thiên Chúa tha cho tôi! Tôi đã làm hại người tốt của đồng bằng!...” Người đàn bà hoảng hồn.
Giêsu mỉm cười và hỏi: “Tại sao vậy bà?”
- Bởi vì... Ôi! Xin nói cho tôi: Ông là bạn thật của Nicôđêmô và Giuse hay ông là người của Đại Pháp Đình, một trong những người
153
bạn giả, sẽ làm hại những người tốt nếu họ biết chắc hai ông là bạn của vị Galilê.
- Bà hãy chắc bụng rằng tôi là bạn thật của hai người tốt. Nhưng bà ơi, bà biết nhiều chuyện qúa nhỉ! Làm sao mà bà biết vậy?
- Ôi! Tất cả chúng tôi đều biết. Những người cao cấp với sự thù ghét, những người nhỏ với tình yêu. Bởi vì dù chúng tôi không biết Người, chúng tôi cũng yêu Đức Kitô và chúng tôi bỏ họ, vì chỉ có Người mới biết yêu và dạy yêu. Và chúng tôi run sợ cho Người... Các người Do thái, các pharisiêu, các luật sĩ, các thầy cả!... Chúng rất dối trá phản trắc. Nhưng tôi làm ông phẫn uất... Xin lỗi! Đó là lưỡi đàn bà không biết nín lặng... Nhưng bởi vì tất cả nỗi đau đớn của chúng tôi đều từ họ mà tới. Những kẻ quyền thế đàn áp chúng tôi không thương hại. Họ bó buộc chúng tôi kiêng khem những thứ mà Lề Luật không chép, nhưng bị bó buộc bởi sự cần thiết phải tìm ra tiền để đóng tất cả những thứ thuế thập phân mà họ, những người giầu, đã đặt trên lưng người nghèo. Vì vậy mà hết mọi lòng trí đều ở trong nước của vị Rabbi này. Nếu bây giờ vì Người qúa tốt mà Người bị bách hại, thì sẽ ra thế nào khi Người làm vua.
- Bà ơi, nước của Người không thuộc về thế giới này đâu. Người không có lâu đài, cũng không có quân đội. Người không áp đặt những luật lệ loài người. Người không phát tiền bạc, nhưng Người dạy cho những người tốt làm. Và những người nghèo sẽ tìm thấy, không phải hai, hay mười, hay một trăm người bạn giữa các người giầu, nhưng tất cả những ai tin ở vị Thầy đó sẽ tập hợp của cải họ lại để giúp đỡ những anh em không có của. Bởi vì từ nay, người ta sẽ không gọi nhau là tha nhân nữa, mà là anh em nhân danh Chúa.
- Ôi! - Người đàn bà kinh ngạc khi mơ tới kỷ nguyên tình yêu. Bà vuốt ve các con bà, mỉm cười, rồi bà ngẩng đầu lên và nói: “Ông có bảo đảm với tôi là tôi không làm hại cho Nicôđêmô... khi nói chuyện với ông không? Điều đó xảy ra cho tôi rất tự nhiên... Đôi mắt ông rất dịu dàng, rất trong sáng; và diện mạo của ông! Tôi không biết... Tôi cảm thấy an toàn tựa như tôi ở bên một thiên thần của Chúa... Vì vậy mà tôi nói chuyện với ông...”
154
- Bà không làm hại ông ta đâu. Hãy chắc chắn điều đó. Trái lại, bà đã cho ông bạn tôi những khen ngợi lớn lao và tôi chúc mừng ông ta vì những điều đó, và ông ta sẽ thân thiết với tôi hơn bao giờ hết. Bà ở vùng này à?
- Ôi, Chúa ơi, không. Tôi ở khoảng giữa Lida và Bettegon. Nhưng để được nâng đỡ thì Chúa ơi, người ta chạy, dù là đường dài. Các tháng mùa đông và cái đói còn dài hơn nữa.
- Và vĩnh cửu thì dài hơn đời sống. Phải cho linh hồn sự săn sóc mà người ta lo cho thân xác, và hãy chạy đến những nơi nào có những lời ban sự sống...
- Đó là điều tôi làm với các môn đệ của vị rabbi Giêsu. Vị này rất tốt, ông biết không? Một người tốt duy nhất trong số qúa nhiều rabbi mà chúng ta có.
- Bà làm đúng đó - Giêsu nói khi mỉm cười. Nhưng Người làm hiệu cho Andrê và Giacôbê Zêbêđê đang ở với người, trong khi những người khác tới nhà của Nicôđêmô, đừng làm gì để người đàn bà hiểu được rằng vị rabbi Giêsu chính là người đang nói với bà.
- Chắc chắn là tôi làm đúng. Tôi, tôi muốn tránh cái tội không yêu Người và không tin... Họ nói rằng Người là Đức Kitô... Tôi không biết Người, nhưng tôi muốn tin, vì tôi nghĩ sẽ xảy ra bất hạnh cho những người không muốn nhìn nhận Người như vậy.
- Nhưng nếu các môn đệ lầm? - Giêsu nói để thử bà.
- Chúa ơi, điều đó không thể được. Họ qúa tốt, khiêm tốn, nghèo khó. Đâu có thể nghĩ được rằng họ theo một vị không thánh. Vả nữa... Tôi đã nói truyện với những người đã được chữa bệnh bởi Người. Chúa ơi, đừng phạm tội bởi không tin! Ngài hãy hỏi linh hồn ngài xem... Sau cùng, tôi, tôi nghĩ rằng, dù là tất cả chúng tôi đều lầm, dù Người không phải vị Vua đã được hứa, thì chắc chắn Người cũng thánh và là bạn của Thiên Chúa, vì Người đã nói những lời đó, và chữa bệnh cho linh hồn và thân xác. Qúi chuộng một người tốt, luôn luôn là việc làm tốt.
- Bà nói rất phải. Hãy kiên trì trong đức tin của bà... Kìa,
155
Nicôđêmô.
- Đúng, cùng với các môn đệ của vị rabbi. Qủa vậy, họ đang ở trong miền quê để giảng Tin Mừng cho các thợ gặt. Hôm qua, không trễ hơn, chúng tôi đã ăn bánh của họ.
Nicôđêmô trong y phục ngắn, đang tiến bước. Lúc này ông chưa nhận ra Thầy, và ông ra lệnh cho các nông dân không lấy đi một bông nào trong đám lúa họ đã cắt: “Phần chúng ta, chúng ta đã có đủ bánh... Chúng ta hãy dành ân huệ của Thiên Chúa cho những người không có. Và hãy cho, đừng sợ sệt. Chúng ta đã có thể có một mùa bị phá hoại vì băng giá tới trễ, nhưng chúng ta lại không bị mất một hạt nào. Hãy trả lại cho Thiên Chúa bánh của Người bằng cách phát nó cho các con cái khổ sở của Người. Và tôi bảo đảm với qúi vị là nó sẽ còn sinh hoa trái nhiều hơn nữa, tới cả ngàn phần trăm vào vụ mùa tới, vì Người đã nói: ‘Một đấu tràn đầy sẽ được ban cho những ai đã cho’”.
Các nông dân kính trọng và vui vẻ chấp thuận ông chủ. Nicôđêmô đi từ ruộng nọ qua ruộng kia, từ nhóm này qua nhóm khác để nhắc lại mệnh lệnh của ông.
Giêsu đứng hơi khuất sau bức màn của đám sậy gần cái rãnh ngăn cách với các ruộng khác, Người xác nhận và mỉm cười. Người mỉm cười hơn khi Nicôđêmô tiến lại gần và Người sẵn sàng để ra gặp ông và làm ông ngạc nhiên.
Đây, ông ta nhảy qua cái rãnh nhỏ để đi tới các thửa ruộng khác. Và đây, ông ta đứng chết trân như tượng đá trước mặt Giêsu khi Người giơ cánh tay ra cho ông. Sau cùng ông tìm ra lời :
- Ôi! Thầy chí thánh! Nhưng làm cách nào mà Thầy lại ở nhà con, Thầy phúc đức?
- Để biết ông, nếu còn cần, bởi các lời và các nhân chứng thực sự nhất của ông: Những người mà ông đã đổ đầy ân huệ cho.
Nicôđêmô qùi gối, gục xuống tới sát đất, và các môn đệ do Étienne hướng dẫn cùng với Giuse người Emmau miền núi, cũng qùi gối hết. Các nông dân hiểu ra, các người nghèo cũng hiểu ra, và tất cả đều gục xuống đất, sững sờ và đầy tôn kính.
156
- Các con đứng dậy đi... Vừa nãy Thầy là một khách bộ hành gợi ra sự tin tưởng. Các con cũng hãy cứ coi Thầy như vậy, và hãy yêu Thầy, không sợ sệt. Nicôđêmô, Thầy đã sai tới nhà con mười người không có mặt ở đây...
- Con đã qua đêm ở bên ngoài để canh chừng sự thi hành mệnh lệnh...
- Thiên Chúa chúc phúc cho con vì mệnh lệnh này. Tiếng nói nào đã bảo con rằng năm nay là năm hồng ân chứ không phải năm tới, ví dụ vậy?
- ... Con không biết... và con biết... Con không phải tiên tri, nhưng con không trì độn, và sự thông minh của con kết hợp với ánh sáng của Trời. Thưa Thầy của con... Con muốn rằng những người nghèo được hưởng những hồng ân của Thiên Chúa trong khi Thiên Chúa còn ở giữa các người nghèo... Và con không dám hy vọng có Thầy để Thầy ban hương vị ngon ngọt và sức mạnh thánh hóa cho các đồng lúa này, cho các vườn oliu, vườn nho và vườn trái cây của con, cũng sẽ là của các con cái nghèo khổ của Thiên Chúa, các anh em của con... Nhưng bây giờ vì Thầy đã ở đây, xin Thầy giơ bàn tay thánh đức của Thầy để ban phúc lành của Thầy, để cùng với của ăn nuôi xác, sẽ xuống cho những ai ăn nó, sự thánh thiện từ Thầy tỏa ra.
- Ừ, Nicôđêmô. Đó là ước vọng chính đáng và Trời chấp nhận - và Giêsu mở cánh tay ra để chúc phúc.
- Ôi! Chờ đã, để con gọi các nông dân - và với một cái còi, ông huýt ba lần. Tiếng còi bắc sắc nhọn lan ra trong không khí yên tĩnh, gây ra một cuộc chạy đua của các thợ gặt, các người mót lúa, các người tò mò... chạy tới từ mọi phía, làm thành một đám đông nhỏ...
Giêsu mở cánh tay và nói: “Vì các nhân đức của Chúa, vì sự ước ao của tôi tớ Người, nguyện xin ơn cứu rỗi cho linh hồn và thân xác, xuống trên mỗi hạt lúa, mỗi trái nho, mỗi trái oliu và tất cả các trái cây; nguyện cho nó làm thịnh vượng và thánh hóa những kẻ dùng nó với tinh thần tốt, trong sạch, không dâm đãng, không thù ghét, và ước ao phục vụ Chúa bằng cách vâng theo ý muốn thần
157
linh và trọn hảo của Người”.
- Nguyện được như vậy - Nicôđêmô, Andrê, Giacôbê và các môn đệ khác trả lời... “Nguyện được như vậy”. Đám đông nhỏ lặp lại và đứng dậy, vì họ đã qùi xuống để Giêsu chúc phúc.
- Bạn ơi, hãy tạm ngưng công việc. Thầy muốn nói với họ.
- Ôi! Thầy, một ơn ở giữa một ơn. Con xin cám ơn cho họ.
Họ đi tới bóng mát trong vườn cây rậm rạp và chờ đợi mười người được sai tới nhà đang trở lại. Họ chạy hết hơi và thất vọng vì không tìm thấy Nicôđêmô ở nhà.
Rồi Giêsu nói:
- Bình an cho các con, cho tất cả các con đang vây chung quanh Thầy. Thầy muốn đề nghị một dụ ngôn mà mỗi người sẽ nhận ở trong đó sự giáo huấn phù hợp với mình nhất.
Hãy nghe đây: Một người kia có hai đứa con trai. Ông đến với người thứ nhất và bảo nó: “Con ơi, hôm nay hãy đến làm việc tại vườn nho của cha con”. Đó là một dấu hiệu danh dự lớn của người cha, vì ông luận xét là người con đã có khả năng làm việc tại một nơi mà từ trước tới giờ chỉ có người cha làm. Đó là dấu ông nhìn thấy thiện chí nơi con ông, sự kiên nhẫn, khả năng và kinh nghiệm của nó, và tình yêu của nó đối với cha nó. Nhưng người con, hơi sao lãng về những thứ ở đời, sợ bị thiên hạ tưởng là đầy tớ (Satan dùng cái ảo ảnh này để kéo người ta ra xa điều lành), sợ sự chế nhạo, và có lẽ sợ sự báo thù của các kẻ thù của cha anh, những kẻ không dám giơ tay trên ông, nhưng sẽ ít sợ hơn đối với con ông. Anh ta trả lời: “Con không đi. Con không muốn tới đó”. Người cha liền tìm đứa con kia và nói với anh ta điều ông đã nói với người con thứ nhất. Người thứ hai này trả lời ngay: “Thưa cha vâng. Con sẽ đi ngay”.
Nhưng rồi sao? Đứa con thứ nhất có tâm hồn ngay thẳng, sau một lúc yếu đuối trong cám dỗ để phản động, lại hối hận vì đã làm mất lòng cha, và không nói gì hết, anh ta tới vườn nho, anh ta làm việc suốt ngày cho đến tối. Anh trở về nhà, trong lòng vui mừng vì đã làm tròn bổn phận. Trái lại, người con thứ hai, gian dối và yếu
158
đuối, đúng là anh ta ra khỏi nhà, nhưng rồi anh ta mất thời giờ vào việc đi lang thang trong làng, làm những cuộc thăm viếng vô ích mà anh ta hy vọng lợi dụng được. Anh ta nói trong lòng: “Cha già rồi, ông không ra khỏi nhà, ta sẽ nói với ông là ta đã vâng lời, và ông sẽ tin...”
Nhưng buổi chiều cũng kết thúc cho anh ta nữa. Anh trở về nhà, dáng vẻ mệt mỏi của một người nhàn cư, y phục không mất ly nếp. Nhưng sự thiếu bảo đảm về hạnh phúc của anh ta cho người cha quan sát anh, so sánh anh với đứa con cả, lúc trở về thì mệt mỏi, dơ bẩn, đầu tóc rối, nhưng vui vẻ và chân thành, với cái nhìn ngay thẳng, khiêm tốn và tốt, không muốn khoe khoang vì bổn phận đã hoàn thành. Anh ta chỉ nói với cha: “Con yêu cha thực sự, đến nỗi để làm đẹp lòng cha, con đã thắng cám dỗ”. Anh nói rõ ràng với người cha sáng suốt. Ông ôm đứa con mệt mỏi của ông và nói: “Con được chúc phúc, vì con đã hiểu tình yêu”.
Vậy các con nghĩ sao? Ai trong hai người con đã yêu? Chắc chắn các con nói: “Kẻ đã làm theo ý cha nó”, và các con nói đúng. Vậy ai đã làm theo ý đó: người thứ nhất hay người thứ hai?
- Người thứ nhất - đám đông đồng loạt trả lời.
- Người thứ nhất, đúng. Trong Israel cũng vậy, và các con phàn nàn về điều đó. Không phải kẻ nói: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” và đấm ngực mà không có một con tim thực sự sám hối về tội của họ - và còn rất thật nữa là con tim của họ càng ngày càng trở nên chai đá - không phải kẻ chỉ giữ các nghi thức một cách khoa trương để người ta gọi mình là thánh, nhưng trong đời sống tư thì không có bác ái, không công bằng. Thực sự, không phải họ chỉ phản động chống lại ý muốn của Thiên Chúa, đấng đã sai Thầy mà thôi, mà họ còn tấn công nó, làm như đó là ý muốn của Satan. Điều đó thì không tha được. Họ không thánh trước mắt Thiên Chúa. Nhưng những kẻ nhận biết rằng Thiên Chúa làm tốt mọi việc Người làm, đón nhận đấng Thiên Chúa sai đến và nghe lời Người để biết làm theo ý muốn của Chúa Cha cách tốt hơn, luôn luôn tốt hơn. Đó mới là những người thánh và thân thiết đối với Đấng Tối Cao.
159
Thực vậy, Thầy bảo các con: những kẻ ngu dốt, những người nghèo, các người thu thuế, các gái điếm sẽ tiến lên trước nhiều người mà người ta gọi là các thầy, các kẻ quyền thế, các thánh, để vào Nước Thiên Chúa. Và điều đó là công bằng. Qủa vậy, Gioan đã đến với Israel để dẫn họ vào con đường công chính, nhưng một số qúa đông trong Israel không tin ông, Israel: những kẻ tự cho mình danh hiệu là “thông thái và thánh thiện”, nhưng các người thâu thuế, các gái điếm đã tin vào ông. Và Thầy, Thầy đã đến, mà các nhà thông thái, các thánh ấy không tin vào Thầy, nhưng các người nghèo, kẻ ngu dốt, kẻ tội lỗi lại tin vào Thầy. Thầy đã làm các phép lạ, nhưng họ cũng không tin vào các phép lạ này, và họ không hối lỗi vì đã không tin vào Thầy. Trái lại, sự thù ghét lại đổ trên Thầy và các kẻ yêu Thầy.
Thầy nói: phúc cho những kẻ biết tin vào Thầy và làm theo ý muốn này của Chúa, mà trong đó có phần rỗi đời đời. Hãy làm gia tăng lòng tin của các con và hãy kiên trì. Các con sẽ chiếm hữu được Nước Trời, vì các con biết yêu Chân Lý.
Thôi giải tán đi. Nguyện Thiên Chúa luôn luôn ở với các con.
Người chúc lành cho họ và để họ đi. Rồi ở bên cạnh Nicôđêmô. Người đi vào nhà người môn đệ và nghỉ lại đó trong thời gian nóng nực.
97* TẠI NHÀ GIUSE ARIMATHI
Ở đây cũng vậy, người ta đang ở giữa mùa gặt. Đúng hơn là phải nói: người ta đã... Bây giờ không còn sử dụng tới liềm hái nữa, vì không còn một bông lúa nào ngoài cánh đồng ở gần bờ Địa Trung Hải hơn là cánh đồng của Nicôđêmô. Thực sự thì Giêsu không đi Arimathi, mà là đi tới lãnh địa của Giuse ở đồng bằng về phía biển, nơi mà trước vụ gặt, chắc là một biển bông lúa, vì nó rộng mênh mông.
Một căn nhà rộng, thấp, sơn trắng nằm ở đó, ngay giữa các thửa ruộng đã gặt. Một căn nhà nông thôn, nhưng được chăm sóc tốt.
160
Bốn cái sân đập lúa của nó chứa đầy các bó lúa chất thành từng đụm giống như các người lính dựng súng khi họ nghỉ trong trại. Rất nhiều xe để kéo các của qúi này từ cánh đồng về sân và đông đảo thợ khuân nó xuống và chất thành đống. Giuse đi từ sân nọ tới sân kia, canh chừng để mọi sự được thi hành tốt đẹp.
Một người nông dân từ trên nóc đống lúa chất trên một cái xe loan báo: “Thưa ông chủ, chúng tôi đã làm xong. Tất cả lúa đều ở trong sân rồi. Đây là xe sau cùng của thửa ruộng sau cùng”.
- Tốt, hãy khuân lúa xuống và tháo các con bò ra, dẫn chúng đi uống nước rồi về chuồng. Chúng đã làm việc giỏi và xứng đáng nghỉ ngơi. Các ông cũng vậy, các ông đã làm việc giỏi và đáng nghỉ. Nhưng sự mệt mỏi sau cùng sẽ nhẹ nhàng, vì với những con tim tốt, niềm vui của người khác cũng là một sự nhẹ nhõm cho mình. Bây giờ chúng ta đi gọi các con cái Thiên Chúa đến để phát ơn của Cha cho họ. Abraham, đi gọi họ đi! - ông quay nói câu sau cùng với một vị lão trượng, có lẽ là người đứng đầu các nông dân trong lãnh địa của Giuse. Tôi nghĩ vậy khi nhìn sự kính trọng tỏ tường của các đầy tớ khác đối với ông già. Ông không làm việc, nhưng canh chừng và khuyên bảo để giúp cho ông chủ.
Ông già đi ra... Tôi thấy ông đi về phía một căn nhà mênh mông, rất thấp, giống một cái kho hơn là một căn nhà, với hai cánh cửa khổng lồ cao lên tới tận máng xối. Tôi nghĩ đây là một loại kho, nơi để các xe cộ và tất cả các dụng cụ nông nghiệp. Ông vào trong rồi đi ra, theo sau bởi một đám đông hỗn tạp với mọi lứa tuổi... và mọi thứ khốn cùng... Có những kẻ gầy giơ xương nhưng thể chất không xấu xí. Có những người què quặt, mù lòa, cụt tay, đau mắt... nhiều bà góa với nhiều trẻ mồ côi bao quanh. Cũng có nhiều đàn bà có chồng bệnh hoạn, buồn rầu, thiểu não, hốc hác vì các đêm canh thức và các hy sinh mà các bà đã làm để săn sóc người bệnh.
Họ tiến bước với thái độ của người nghèo đi tới nơi họ sẽ nhận được ân huệ: cái nhìn e lệ, lúng túng của kẻ nghèo thật thà, nhưng có nụ cười phớt trên cái buồn mà những ngày đau khổ đã in trên khuôn mặt tái mét, nhưng có một tia chiến thắng, một thứ câu trả
161
lời cho những tấn công của định mệnh trong những ngày dài buồn tẻ, một thách đố: “Đây là ngày lễ cho cả chúng ta nữa. Hôm nay là ngày lễ, ngày vui mừng và an ủi cho chúng ta!” Những đứa trẻ trợn tròn mắt trước những đống lúa cao hơn mái nhà. Chúng chỉ vào đó mà nói với mẹ chúng: “Để cho chúng ta à? Ôi! Đẹp chừng nào!” Các ông già lẩm bẩm: “Nguyện Đấng Đáng Chúc Tụng chúc phúc cho kẻ có lòng thương”. Những người hành khất, người tàn tật, người mù, cụt tay, đau mắt: “Chúng ta cũng sẽ có bánh mà không phải ngửa tay xin”. Và các người bệnh nói với bà con họ: “Ít nhất chúng tôi cũng có thể tự săn sóc vì biết rằng chúng tôi không làm khổ cho bà con. Bây giờ thuốc men sẽ tốt cho chúng tôi”. Và bà con của các người bệnh: “Qúi vị thấy không? Bây giờ qúi vị không thể nói được nữa rằng chúng tôi phải nhịn ăn để cho qúi vị một miếng bánh. Vậy hiện thời hãy cứ vui đi!” Và các bà góa nói với đàn con mồ côi của họ: “Các con ơi, phải chúc tụng Cha trên Trời thật nhiều, Người đã thay cha các con mà ông Giuse tốt lành này là quản lý của Người. Bây giờ mẹ không còn nghe các con khóc vì đói nữa. Ôi! Các con chỉ có mẹ để giúp đỡ thôi. Các bà mẹ nghèo thì chỉ giầu có qủa tim thôi...”
Đó là một họp đoàn những cảnh vui, nhưng cũng làm chảy nước trong nhiều con mắt...
Giuse ở trước những kẻ khốn khổ này. Ông đi qua các hàng, gọi họ từng người một, hỏi họ gia đình có bao nhiêu người, bị góa hay mắc bệnh từ bao giờ, và các chi tiết khác... Ông ghi chú vào giấy. Và với mỗi trường hợp, ông ra lệnh cho các đầy tớ nông dân: “Hãy cho mười bó”, “Hãy cho ba mươi bó”...
- Hãy cho sáu chục bó - ông nói sau khi nghe một ông già gần mù đến cùng ông với mười bảy đứa cháu, tất cả đều dưới mười hai tuổi, là con của các con ông bị chết, người thì trong vụ gặt năm ngoái, người thì trong lúc sinh... Và ông già nói: “Và chồng nó đã tự an ủi bằng cách tái hôn sau gần một năm, để lại cho tôi năm đứa con trai và nói với tôi là anh ta sẽ lo cho chúng. Nhưng thực tế thì không có một đồng nào!... Bây giờ vợ tôi đã chết. Tôi sống một
162
mình... với chúng”.
- Hãy cho cha già sáu chục bó. Và bố, bố già, hãy ở lại để tôi cho các trẻ quần áo.
Người đầy tớ lưu ý ông rằng nếu mỗi lần cho sáu chục bó thì sẽ không có đủ lúa cho mọi người.
- Đức tin của anh ở đâu? Và đối với tôi, tôi tích chứa lúa thóc hay tôi phân phát? Không, đối với con cái thân yêu của Chúa, chính Chúa sẽ cung cấp để có đủ cho tất cả - Giuse trả lời cho người đầy tớ.
- Thưa ông vâng. Nhưng con số thì vẫn là con số...
- Nhưng đức tin thì vẫn là đức tin. Và tôi, để chứng tỏ cho anh thấy là đức tin làm được tất cả, tôi ra lệnh gấp đôi số lượng đã cho những người đầu tiên: Ai đã có mười bó thì được thêm mười bó nữa, và ai hai chục thì được hai chục nữa, và hãy cho một trăm hai chục cho ông già. Hãy làm đi! Làm đi!
Các người đầy tớ nhún vai và vâng lời.
Sự phân phát tiếp tục giữa sự ngạc nhiên vui mừng của những người được thụ hưởng, thấy mình được cho vượt qúa những hy vọng điên rồ nhất của họ.
Giuse mỉm cười, vuốt ve những đứa nhỏ đang lăng xăng để giúp mẹ chúng, hoặc ông giúp các người tàn tật chất cái đống nhỏ của họ, giúp những ông già run rẩy khi làm, hoặc giúp những đàn bà qúa yếu. Ông cho đứng riêng ra một bên hai người bệnh để cho họ những thứ khác nữa, giống như ông làm đối với ông già có mười bảy đứa cháu. Các đống lúa cao hơn mái nhà bây giờ rất thấp, hầu như tới đất, nhưng mọi người đều có phần và được dư dật. Giuse hỏi: “Còn lại bao nhiêu bó nữa?”
- Thưa ông, một trăm mười hai. - Các người đầy tớ nói sau khi đã đếm các bó còn lại.
- Các anh hãy lấy...- Giuse dượt lại danh sách các tên mà ông đã ghi, rồi ông nói: “Các anh hãy lấy năm mươi bó, các anh mang về để làm hạt giống, vì đây là hạt giống thánh. Và hãy phân phát chỗ còn lại cho các trưởng gia đình, mỗi người một bó. Họ có đúng sáu
163
mươi hai người ở đây”.
Các đầy tớ vâng lời. Họ mang về năm mươi bó và phân phát chỗ còn lại. Bây giờ sân lúa không còn những đống vàng cao ngất nữa, nhưng ở mặt đất có sáu mươi hai đống lớn nhỏ khác nhau. Các chủ của chúng lăng xăng buộc để chất lên những xe bò thô kệch, hoặc trên lưng lừa mà họ đến cởi ra khỏi cái hàng rào sau nhà.
Ông già Abraham đã nói chuyện với các người nông dân đầy tớ chính, họ tiến đến với ông chủ, ông hỏi họ: “Đó, các ông thấy không? Có đủ cho hết mọi người và còn thừa lại nữa”.
- Nhưng thưa ông, có một mầu nhiệm! Các thửa ruộng của chúng ta không thể cho đủ số bó lúa mà ông đã phân phát. Tôi sinh ra ở đây, bây giờ tôi bảy mươi tám tuổi, tôi đã gặt lúa trong sáu mươi năm, và tôi biết. Con trai tôi có lý: Không có một mầu nhiệm thì chúng ta không thể cho từng ấy lúa.
- Nhưng rõ ràng là chúng ta đã cho. Abraham, ông ở bên cạnh tôi, các bó lúa đã được phát bởi các đầy tớ, đâu có bùa ngải gì. Đây không phải chuyện không thực. Ta còn có thể đếm lại các bó, nó hãy còn ở đây, dù đã phân tán làm nhiều phần.
- Thưa ông đúng. Nhưng... Các thửa ruộng không thể cho từng ấy!
- Vậy đức tin, các con ơi! Vậy đức tin, các con làm gì với nó? Chúa có thể cải chính điều tôi tớ Người đã hứa nhân danh Người vì một mục đích thánh không?
- Vậy là ông đã làm một phép lạ! - Các người đầy tớ nói và sẵn sàng để hô vạn tuế!
- Tôi không phải người làm phép lạ. Tôi là một con người tội nghiệp. Chính Chúa đã hành động. Người đã đọc thấy trong tim tôi, và Người đã thấy hai ước vọng: thứ nhất là dẫn các con tới đức tin của chính tôi, thứ hai là được cho rất nhiều, nhiều, nhiều, cho các anh em khổ sở. Thiên Chúa đã làm thỏa ước nguyện của tôi... Và Người đã hành động... Xin chúc tụng Người - Giuse nói, và ông cúi xuống cách kính cẩn như khi ông đứng trước bàn thờ.
- Và tôi tớ Người cùng với Người - Giêsu nói. Cho tới lúc đó,
164
Người vẫn đứng nấp trong góc một căn nhà nhỏ có hàng rào cây bao quanh, một cái lò hay một cái máy ép. Bây giờ Người xuất hiện trên sân lúa, chỗ Giuse đứng.
- Thầy con và Chúa con! - Giuse kêu lên trong khi qùi gối để tôn kính Giêsu.
- Bình an cho con. Thầy đến để chúc lành cho con nhân danh Chúa Cha, để thưởng cho tình bác ái và đức tin của con. Thầy sẽ là khách của con chiều nay. Con có muốn không?
- Ôi, Thầy! Thầy còn hỏi con? Chỉ có điều... chỉ có điều ở đây con không thể tôn vinh Thầy... Vì con ở giữa các đầy tớ và các nông dân... trong căn nhà ở đồng quê của con... Con không có khăn bàn, không có quản gia, không có các đầy tớ chất lượng... Con không có những món ngon, con không có rượu lựa chọn... Con không có bạn... Đây sẽ là một sự tiếp đãi qúa tệ... Nhưng Thầy sẽ miễn chấp... Chúa ơi, tại sao Thầy không cho báo tin cho con trước? Con sẽ cung cấp tất cả... Nhưng trước ngày hôm qua, Hermas với các người của ông đã ở đây... Con đã cả đến xin họ báo tin cho các người con muốn cho, trả lại những gì thuộc về Thiên Chúa... Nhưng ông ta không nói gì cả, ông Hermas! Nếu con đã biết!... Xin Thầy cho phép con ra lệnh, để con cứu vãn tình thế... Tại sao Thầy lại mỉm cười như vậy? - Sau cùng Giuse hỏi. Ông hoàn toàn lúng túng vì niềm vui bất chợt và vì hoàn cảnh mà ông cho là... tai họa.
- Thầy mỉm cười vì những lo lắng vô ích của con. Nhưng Giuse, con tìm cái gì? Cái mà con có?
- Cái con có? Con chả có gì hết!
- Ôi! Bây giờ con loài người chừng nào! Tại sao con không còn là một Giuse siêu nhiên vừa lúc nãy nữa? Khi con nói cách khôn ngoan, khi con hứa cách qủa quyết vì lẽ đức tin của con, và để truyền bá đức tin?
- Ôi! Thầy đã nghe à?
- Giuse, Thầy đã nghe và thấy. Cái hàng dậu cây nguyệt quế này rất thực tiễn để thấy rằng điều Thầy đã gieo vào trong con không chết. Chính vì vậy mà Thầy nói với con rằng con lo lắng vô
165
ích. Con không có quản gia, cũng không có người nhà chất lượng à? Nhưng ở đâu đức bác ái được thi hành thì ở đấy có Thiên Chúa. Và ở đâu có Thiên Chúa là có các thiên thần của Người. Con có thể có người quản gia nào có khả năng hơn các đấng? Con không có món ăn và rượu lựa chọn? Con muốn cho Thầy ăn món gì và đồ uống nào đáng tìm kiếm hơn tình yêu mà con có đối với họ, và tình yêu mà con có đối với Thầy? Con không có bạn bè để tôn vinh Thầy? Và họ? Còn bạn bè nào thân thiết hơn các người nghèo và các người khốn khổ đối với ông thầy có tên là Giêsu? Này, Giuse! Cho dù Hêrôđê có hoán cải và mở các lâu đài của ông ra để đón Thầy và tôn vinh Thầy trong cái lâu đài đã được thanh tẩy; và nếu ông ta có, cùng với ông, các người lãnh đạo mọi cấp để tôn vinh Thầy, thì Thầy sẽ không có một cái sân nào đáng chọn hơn cái sân này, nơi mà Thầy cũng muốn nói vài lời làm tặng phẩm. Con cho phép Thầy không?
- Ôi! Thầy. Nhưng tất cả những gì Thầy muốn, con đều muốn. Xin Thầy ra lệnh.
- Hãy bảo họ tụ họp lại đây, kể cả các đầy tớ nữa. Sẽ luôn luôn có bánh cho chúng ta... Họ hãy nghe lời Thầy thì tốt hơn là chạy đó đây, lăng xăng với những việc tội nghiệp.
Người ta liền chồng chất lại, lật đật, ngạc nhiên...
Giêsu nói: “Ở đây các con đã học được rằng: đức tin có thể tăng gấp lúa thóc lên khi sự ước mong đó là một ước nguyện của tình yêu. Nhưng đừng giới hạn đức tin của các con trong những nhu cầu vật chất. Thiên Chúa đã tạo dựng nên hạt lúa mì đầu tiên, và từ đó, lúa mì đã đâm bông để cung cấp bánh cho loài người. Nhưng Thiên Chúa cũng tạo dựng nên Thiên Đàng và nó đang chờ người tới ở. Người đã tạo dựng nó cho những người sống theo lề luật và kiên trì trung thành, dù là có những thử thách đau thương của cuộc sống. Hãy tin, và các con sẽ thành công giữ mình thánh thiện nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, giống như Giuse đã thành công trong việc phân phát cho các con số lượng lúa gấp đôi, để cho các con được sung sướng gấp đôi, và để củng cố đức tin cho các đầy tớ của ông. Thật vậy, thật vậy, Thầy bảo các con, nếu người ta có đức tin nơi
166
Chúa, và nếu người ta hành động vì lý do chính đáng, thì ngay chính những ngọn núi, dù nó cắm rễ vào đất bằng cái nội tạng đá tảng của nó, nó cũng không thể chống lại mệnh lệnh của kẻ có lòng tin nơi Chúa, và nó sẽ chuyển chỗ. Các con có tin Thiên Chúa không?” Người hỏi tất cả.
- Ôi Chúa ơi, có ạ.
- Thiên Chúa là ai đối với các con?
- Là Cha Rất Thánh, như môn đệ của Đức Kitô đã dạy.
- Và Đức Kitô, Người là ai đối với các con?
- Là Vị Cứu Tinh, là Thầy, là Đấng Thánh.
- Chỉ có vậy thôi sao?
- Là Con Thiên Chúa. Nhưng không được nói điều đó, vì các pharisiêu sẽ bách hại chúng con, nếu chúng con nói như vậy.
- Nhưng các con, các con tin Người là vậy không?
- Thưa Chúa, có.
- Tốt. Hãy tăng trưởng lên trong đức tin của các con. Dù các con có nín lặng, thì các cục đá, các cây cối, các tinh tú, mặt đất, hết mọi thứ, sẽ tuyên xưng rằng Đức Kitô thực là Đấng Cứu Thế và là Vua. Chúng sẽ công bố vào giờ được nâng lên của Người, khi Người mặc chiếc áo đỏ thắm rất thánh với triều thiên Cứu Chuộc. Phúc cho những ai biết tin tự bây giờ, và sẽ tin hơn vào lúc đó, sẽ tin vào Đức Kitô, và bởi vậy có sự sống đời đời. Các con có tin một cách không lay chuyển nơi Đức Kitô không?
- Chúa ơi, có. Hãy chỉ cho chúng con biết Người ở đâu, chúng con sẽ xin Người gia tăng đức tin cho chúng con để được hạnh phúc như vậy - và phần sau cùng của lời cầu xin này thì không phải chỉ có các người nghèo xin, mà cả các đầy tớ, các tông đồ và Giuse cùng xin.
- Nếu các con có đức tin lớn như hạt cải, và nếu đức tin này là một viên ngọc qúi mà các con giữ ở trong tim các con, không để cho nó bị lấy mất bởi bất cứ thứ gì thuộc về con người hay ngoài con người và xấu, các con có thể nói với cây dâu khổng lồ đang che bóng cho cái giếng của Giuse rằng: Hãy nhổ rễ mày lên và đi trồng
167
mày ở trên mặt biển.
- Nhưng Đức Kitô, Người ở đâu ạ? Chúng con chờ Người để được chữa bệnh. Các môn đệ Người đã không chữa cho chúng con. Họ bảo chúng con rằng: “Người có thể chữa”. Chúng con muốn được chữa để làm việc - những người bệnh và tàn tật nói.
- Các con có tin là Đức Kitô có thể không? - Giêsu hỏi khi người làm hiệu cho Giuse đừng nói Đức Kitô chính là Người.
- Có, chúng con tin. Người là Con Thiên Chúa, Người có thể tất cả.
- Đúng, Người có thể tất cả... và Người muốn tất cả - Giêsu kêu lên trong khi giơ tay ra cách uy quyền và đập xuống như để thề. Rồi Người kết thúc bằng tiếng kêu rất mạnh: “Và cho được như vậy vì vinh danh Thiên Chúa”.
Rồi Người sắp đi về nhà, nhưng những người được chữa khỏi, khoảng hai mươi người, la hét, chạy, bao chặt lấy Người trong sự rối ren lộn xộn. Các bàn tay giơ ra để đụng vào Người, chúc phúc cho Người, tìm tay Người, quần áo Người để hôn, để vuốt. Họ tách rời Người khỏi Giuse, khỏi mọi người...
Giêsu mỉm cười, vuốt ve, chúc phúc... Rồi từ từ, Người gỡ ra được, tuy vẫn còn bị theo, nhưng Người biến mất vào trong nhà, trong khi các tiếng vạn tuế vang lên bầu trời đã phớt tím vì bắt đầu hoàng hôn.
98* NGÀY SABÁT TRONG NHÀ
CỦA GIUSE ARIMATHI.
ĐẠI PHÁP ĐÌNH VIÊN GIOAN
Giuse Arimathi nghỉ trong một phòng nửa sáng nửa tối, vì tất cả các màn gió đều buông để cản ánh sáng mặt trời. Một yên lặng tuyệt đối ngự trị trong tất cả căn nhà. Giuse ngủ trên chiếc giường thấp có trải chiếu... Một người đầy tớ đi vào. Anh ta đi về phía ông chủ, đụng vào ông để đánh thức. Giuse mở đôi mắt còn chưa tỉnh và liếc về người đầy tớ một cái nhìn nghi vấn.
- Thưa ông chủ, có ông bạn Gioan của ông.
168
- Bạn Gioan của tôi à? Làm sao ông ta lại ở đây khi ngày Sabát chưa chấm dứt ?
Giuse thức dậy ngay vì sự viếng thăm đầy kinh ngạc của một nhân viên Đại Pháp Đình vào ngày Sabát. Và ông ra lệnh: “Cho ông ta vào ngay”.
Người đầy tớ đi ra. Trong khi chờ, Giuse đi đi lại lại suy nghĩ trong căn phòng lờ mờ và mát mẻ...
- Thiên Chúa ở cùng anh, Giuse! - Đại Pháp Đình viên Gioan nói. Đây chính là người mà chúng ta đã thấy trong bữa tiệc thứ nhất thết đãi Giêsu tại Arimathi, và cả bữa tiệc tại nhà Lazarô vào lễ Vượt Qua năm vừa rồi, luôn luôn vẫn là loại người, nếu không phải môn đệ, ít nhất cũng không thù ghét Giêsu.
- Và với anh, Gioan. Nhưng... Biết anh là người công chính, tôi ngạc nhiên nhìn thấy anh trước hoàng hôn...
- Đúng vậy. Tôi đã vi phạm luật ngày Sabát. Tôi đã phạm tội khi biết rằng tôi phạm tội, vậy tội tôi là nặng... Hy sinh mà tôi sẽ làm để được tha thứ sẽ rất lớn, nhưng lý do đã thúc đẩy tôi tới tội này còn rất lớn lao hơn... Jêova, Đấng Công Minh, sẽ thương người tôi tớ có tội của Người vì lẽ lý do trọng đại đã đẩy tôi vào tội này...
- Trước đây anh đâu có nói như vậy. Đối với anh, Đấng Tối Cao chỉ là người khắt khe, cứng cỏi. Anh sống trọn hảo vì anh sợ Người như một ông Chúa nghiêm khắc...
- Ôi! Trọn hảo!... Giuse, tôi đã không bao giờ thú với anh các tội thầm kín của tôi... Nhưng đúng vậy, tôi luận xét Thiên Chúa là khe khắt cũng như nhiều người trong Israel. Người ta đã dạy cho chúng ta tin rằng: Người là Thiên Chúa ưa báo thù...
- Và anh luôn luôn tin vậy, cả khi vị Rabbi đã đến để làm cho dân Người biết khuôn mặt thật của Người, con tim thực sự của Người... Một khuôn mặt, một con tim của người cha...
- Đúng vậy. Đúng vậy. Nhưng... Tôi chưa nghe Người nói lâu... Nhưng... anh nhớ rằng từ lần đầu tiên tôi gặp Người trong bữa tiệc tại nhà anh, tôi đã có thái độ trọng kính... nếu không yêu mến, đối với vị rabbi.
- Đúng... Nhưng vì sự lành mà tôi muốn cho anh, tôi ước rằng
169
anh đi tới thái độ của tình yêu đối với Người. Chỉ kính trọng thôi thì qúa ít.
- Anh thì anh yêu Người, phải không Giuse?
- Đúng. Và tôi nói rõ với anh rằng tôi biết là các thủ lãnh của các thầy cả ghét những ai yêu vị rabbi. Nhưng anh đâu có khả năng làm kẻ tố giác...
- Không. Tôi không thể... Và tôi cũng muốn như anh. Nhưng tôi có bao giờ đạt được không?
- Tôi sẽ cầu nguyện để anh đạt tới. Đó sẽ là phần rỗi đời đời của anh đó bạn ơi!...
Một yên lặng đầy suy tư. Rồi Giuse hỏi: “Anh đã nói là có một lý do quan trọng thúc đẩy anh vi phạm ngày Sabát, vậy đó là gì? Tôi có thể hỏi anh mà không qúa tò mò không? Tôi tin rằng anh đến đây để được sự giúp đỡ của bạn anh. Vậy để giúp anh, tôi phải biết...”
Gioan đặt tay trên vầng trán rộng của ông, đã hơi biến dạng của người đứng tuổi. Ông bóp trán, vuốt cách máy móc mái tóc vừa bắt đầu đốm trắng, vuốt bộ râu vuông rậm rạp của ông. Rồi ông ngước mắt nhìn Giuse đăm đăm và nói: “Phải, một lý do quan trọng, và một lý do nặng nề, và... một hy vọng lớn lao...”
- Những thứ gì.
- Giuse, anh có nghĩ rằng nhà tôi là cái hỏa ngục, và sắp sửa nó sẽ không còn là nhà nữa, mà là... mà là một thứ hoang tàn, hư hỏng, bị phá hoại, bị chấm dứt không?
- Cái gì? Anh nói sao? Anh nói nhảm nhí vớ vẩn?
- Không. Tôi không sảng đâu. Vợ tôi nó sắp bỏ đi... Điều đó làm anh ngạc nhiên?
- ... Đúng... bởi vì... tôi luôn luôn thấy bà tốt... Và bởi vì gia đình anh, đối với tôi là một gia đình gương mẫu... Anh, hoàn toàn tốt... Còn chị ấy, đầy nhân đức...
Gioan ngồi, hai tay ôm đầu. Giuse tiếp tục: “Bây giờ... quyết định này... tôi... đó... tôi không thể tin là chị ấy thiếu sót... hay là anh thiếu sót... Nhưng điều đó thì tôi tin là tại chị ấy ít hơn... Chị là người chỉ biết có nhà cửa, con cái... Không... Không thể có lỗi nơi
170
chị ấy!...”
- Anh chắc không? Thực sự chắc không?
- Ôi! Ông bạn tội nghiệp! Tôi không có con mắt của Thiên Chúa, nhưng về tất cả những gì mà tôi có thể xét đoán thì tôi xét đoán như vậy...
- Anh không nghĩ rằng Anna có thể... bất trung...?
- Anna?! Nhưng ông bạn tôi ơi! Mặt trời mùa hè đã làm anh quẩn trí? Bất trung với ai? Chị ấy không bao giờ ra khỏi nhà, chị ấy thích đồng quê hơn là thành phố, chị ấy làm việc như người thứ nhất trong các đầy tớ; chị ấy khiêm tốn, thận trọng, siêng năng, thương yêu đối với anh, với con cái. Một người đàn bà nhẹ dạ không thích những thứ đó đâu. Anh hãy tin vậy đi. Ôi! Gioan, nhưng anh đặt nền tảng sự nghi ngờ của anh trên cái gì? Từ hồi nào?
- Vẫn luôn luôn vậy.
- Vẫn luôn luôn vậy sao? Vậy đó là một chứng bệnh.
- Đúng. Và... Giuse này! Tôi, tôi sai lầm rất nhiều. Nhưng tôi không muốn chỉ thú ra với một mình anh thôi. Ngày hôm kia, các môn đệ và các người nghèo đi qua nhà tôi, họ nói rằng vị rabbi đã đến nhà anh. Và hôm qua... Hôm qua là một ngày đại bão tố trong nhà tôi, đến nỗi Anna đã quyết định điều tôi đã nói đó... Trong suốt đêm... thực là một đêm!... Tôi đã suy nghĩ rất nhiều, và tôi kết luận rằng chỉ có Người, vị rabbi toàn vẹn...
- Thiên Chúa, Gioan ạ, Thiên Chúa!
- ... Thì như anh muốn... Chỉ mình Người có thể chữa tôi và sửa lại... xây dựng lại nhà tôi, trả Anna lại cho tôi... các con tôi... tất cả - người đàn ông khóc, và trong nước mắt, ông tiếp tục: “Bởi vì chỉ mình Người thấy và nói sự thật... Và tôi sẽ tin Người... Giuse, bạn tôi, hãy để tôi ở lại đây để chờ Người...”
- Thầy đang ở đây. Người sắp đi, vào sau hoàng hôn. Tôi đi tìm Người - và Giuse đi ra...
Vài phút chờ đợi, rồi tấm màn lại rẽ ra để Giêsu đi qua... Gioan đứng dậy, rồi ông cúi sâu trong một kiểu chào trọng kính.
- Bình an cho ông, Gioan. Ông tìm Thầy vì lý do gì?
171
- Để Thầy giúp tôi thấy... Và để Thầy cứu tôi. Tôi rất khốn khổ. Tôi đã phạm tội chống lại Thiên Chúa và chống lại thân xác song sinh của tôi. Và từ tội nọ tới tội kia, tôi đi tới chỗ lỗi phạm lề luật về ngày Sabát. Xin Thầy xá giải cho tôi.
- Luật về ngày Sabát, luật thánh rất lớn, nên hãy để ra xa Thầy cái tư tưởng là nó ít quan trọng và thất hiệu. Nhưng tại sao ông đặt nó ở trước điều răn thứ nhất? Và gì? Ông xin xá giải vì đã vi phạm ngày Sabát, mà ông không xin xá giải cái tội đã thiếu tình yêu và đã hành hạ một kẻ vô tội, đã dẫn linh hồn của vợ ông tới thất vọng và tới ngưỡng cửa tội lỗi? Ông phải băn khoăn về điều đó hơn tất cả những thứ khác! Về những vu khống mà ông đã phạm đối với bà.
- Chúa ơi! Tôi chỉ vừa nói với Giuse lúc nãy. Tôi không hề nói với một ai, Thầy tin vậy đi. Tôi giữ nỗi đau khổ của tôi kín đến nỗi Giuse, người bạn tốt của tôi, cũng không nhận thấy gì, và ông đã ngạc nhiên. Bây giờ ông ấy đã nói với Thầy, nhưng để giúp tôi thì người công chính Giuse sẽ không nói với ai khác nữa.
- Ông ta đã không nói với Thầy. Ông ta chỉ bảo Thầy rằng ông tìm Thầy.
- Ôi, vậy làm sao Thầy biết?
- Làm sao Thầy biết? Cũng như Thiên Chúa biết các bí mật của con tim. Ông có muốn Thầy nói ra tình trạng của ông không?
Giuse sắp sửa rút lui cách kín đáo, nhưng chính Gioan giữ ông lại và nói: “Ôi! Ở lại đi. Anh là bạn tôi, anh có thể giúp tôi sau vị rabbi. Anh đã là phù rể của tôi trong lễ cưới của tôi!...” Và Giuse ở lại.
- Ông có muốn rằng Thầy nói điều đó cho ông không? Ông có muốn Thầy giúp ông để biết mình ông không? Ôi, đừng sợ! Thầy không có đôi tay độc ác. Thầy biết mở các vết thương ra nhưng không làm nó chảy máu khi săn sóc nó. Thầy biết hiểu và khoan dung, Thầy biết săn sóc và chữa lành, chỉ cần người ta muốn được chữa. Ông đã có ý muốn này, vì vậy ông đã tìm Thầy. Hãy ngồi đây, bên cạnh Thầy, ở giữa Thầy và Giuse. Ông ta đã là phù rể của ông trong tiệc cưới dưới đất, Thầy muốn rằng Thầy sẽ là phù rể
172
của ông trong tiệc cưới thiêng liêng... Ôi! Nếu Thầy muốn điều đó!... Như vậy, bây giờ hãy nghe rõ đây, và trả lời cho tất cả một cách chân thành: Ông, ông nghĩ gì về hành động của Thiên Chúa khi Người tạo dựng nên người nam và người nữ để họ kết hợp với nhau? Một hành động tốt hay xấu?
- Chúa ơi, tốt chứ! Cũng như mọi sự Thiên Chúa làm.
- Ông trả lời đúng. Bây giờ hãy nói cho Thầy: nếu đó là hành động tốt thì hậu qủa của nó phải thế nào?
- Ôi Chúa ơi, cũng tốt như vậy. Và nó đã tốt, mặc dầu Satan đã vào để khuấy trộn nó. Vì Ađam vẫn có sự củng cố của Evà, và Evà có sự củng cố của Ađam. Sự củng cố này rõ ràng hơn khi họ bị lưu đày cô đơn trên mặt đất, người nọ vẫn hỗ trợ cho người kia. Và các hậu quả vật chất cũng tốt, tức là các con cái mà bởi đó con người sinh ra, và sức mạnh cũng như lòng tốt của Thiên Chúa rạng ngời qua họ.
- Tại sao? Sức mạnh nào và lòng tốt nào?
- Nhưng... Những điều đã được thi hành để có lợi cho loài người. Nếu chúng ta nhìn lại đàng sau... Phải... có những hình phạt chính đáng... Nhưng cũng có, và phần nhiều hơn, là lòng tốt... Và lòng tốt vô tận là giao ước thiết lập với Abraham, rồi nhắc lại với Jacob, và rồi, rồi... được nhắc lại cho tới ngày nay, và được nhắc lại bởi các môi miệng không dối trá: các tiên tri... cho tới Gioan...
- Và bởi miệng rabbi, Gioan ạ - Giuse ngắt lời.
- Đó không phải là môi miệng tiên tri... Đó không phải là môi miệng người Thầy... Đó là... Còn hơn nữa cơ.
Giêsu có một nụ cười hơi hé nở trước... sự công bố lòng tin ẩn tàng của Đại Pháp Đình viên chưa đi được tới chỗ nói: “Đó là môi miệng Thiên Chúa”, nhưng đã nghĩ tới điều đó.
- Vậy Thiên Chúa đã làm tốt khi kết hợp người nam với người nữ. Điều đó đã xong. Nhưng Người muốn người nam và người nữ phải thế nào? - Giêsu hỏi.
- Một xác thịt duy nhất.
- Tốt. Vậy xác thịt có thể thù ghét chính nó không?
173
- Không.
- Một chi thể có thể ghét chi thể khác không?
- Không.
- Một chi thể có thể tách rời ra khỏi chi thể khác không?
- Không. Chỉ có chứng hoại thư hay bệnh cùi, hay một bất hạnh, mới có thể cắt rời một chi thể khỏi cơ thể.
- Tốt lắm. Vậy chỉ có một điều duy nhất hoặc đau đớn hoặc xấu xa có thể phân rẽ cái mà theo ý muốn của Thiên Chúa, nó chỉ là một?
- Như vậy đó Thầy.
- Vậy tại sao ông, đã nhìn nhận tất cả những điều đó, mà ông lại không yêu thân xác của ông? Và tại sao ông ghét nó tới nỗi làm nảy sinh ra một chứng hoại thư giữa chi thể nọ với chi thể kia, để vì thế, chi thể bị nhục nhã, chi thể yếu nhất phải tách ra để cho ông ở một mình?
Gioan cúi đầu, lặng lẽ vò gấu áo của ông.
- Thầy sẽ nói cho ông tại sao? Đó là Satan đã len vào. Và vẫn như luôn luôn, nó khuấy động giữa ông với vợ ông. Hay đúng hơn, nó đã để vào trong ông một tình yêu rối loạn đối với vợ ông. Gioan ạ, tình yêu, khi nó rối loạn, nó sẽ trở nên thù ghét. Satan đã làm việc trên tình dục nam tính của ông để đi tới chỗ làm cho ông phạm tội. Tội của ông bắt đầu từ đó. Từ một rối loạn, nó càng ngày càng gây ra những rối loạn khác trầm trọng hơn. Nơi người vợ của ông, không phải ông chỉ nhìn thấy một người bạn tốt và một người mẹ của các con ông, mà ông còn thấy một dụng cụ vui chơi, và điều đó làm cho con ngươi của mắt ông trở nên như con ngươi mắt bò, thấy mọi cái đều biến đổi. Ông đã thấy như ông vẫn thấy. Ông đã thấy vợ ông như vậy: một dụng cụ giải trí cho ông, và ông luận xử rằng bà cũng là vậy cho những người khác. Ở đâu ra những cơn sốt ghen tương của ông? Những cái sợ vô lý của ông? Sự chuyên chế có tội của ông? Nó đã làm cho bà ấy thành kẻ sợ hãi, thành một tù nhân, bị hành hạ, bị vu khống. Chẳng quan trọng gì nếu ông đã không cho bà những cây gậy hay không khiển trách bà cách công khai. Sự
174
hoài nghi của ông là cây gậy! Sự ngờ vực của ông là vu khống! Ông vu khống bà khi nghĩ rằng bà có thể phản bội ông. Đâu có quan trọng gì nếu ông vẫn đối xử với bà như thứ bậc của bà bó buộc ông. Trong thực tế, đối với ông, bà còn kém kẻ nô lệ về sự mật thiết trong nhà, vì sự dâm đãng thú vật của ông đã làm hạ giá bà hơn tất cả, mà bà luôn luôn chịu đựng trong yên lặng và nhu mì, hy vọng làm êm cho ông, khuất phục ông, làm cho ông nên tốt. Nhưng nó chỉ làm cho ông càng ngày càng điên khùng, tới nỗi cái nhà của ông trở nên như hỏa ngục, nơi vọt lên những qủi sứ của dâm ô và ghen tương. Ghen! Ông muốn có điều gì là sự vu khống lớn hơn đối với người đàn bà cho bằng ghen? Và có điều gì tàn ác rõ ràng hơn đối với tình trạng thực sự của một con tim hơn là sự ghen tương? Hãy tin chắc rằng nó ẩn nấp ở đó, rất ngu si, rất vô lý, rất thiếu nền tảng, rất nhục mạ, rất ương ngạnh. Không, ở đó không có tình yêu tha nhân, cũng không có tình yêu Thiên Chúa. Chỉ có sự ích kỷ. Không phải việc này, không phải một tí cuối ngày Sabát bị xâm phạm là cái ông phải quay quất! Để được người ta tha thứ, ông phải cứu vãn lại những tàn phá mà ông đã gây ra...
- Nhưng bây giờ Anna muốn bỏ đi... Xin Thầy đến thuyết phục bà ta. Thầy... Một mình Thầy, khi nghe bà nói, Thầy có thể xét đoán bà ta có thực sự vô tội không và...
- Gioan, ông muốn được chữa trị, nhưng ông không muốn tin vào những điều Thầy nói với ông?
- Chúa ơi, Thầy có lý. Xin thay đổi con tim cho tôi. Đúng vậy, tôi không có lý do cho sự nghi ngờ. Nhưng tôi yêu bà biết bao... một cách dâm đãng, đúng vậy... Thầy đã thấy rõ... và tất cả mang đến cho tôi sự ngờ vực.
- Hãy vào trong ánh sáng. Hãy ra khỏi cơn sốt kịch liệt của giác quan ghê gớm! Điều đó khó khăn cho ông lúc đầu... Nhưng sẽ đắt giá cho ông hơn nhiều khi bị mất một người vợ tốt, và chiếm được hỏa ngục để trả nợ cái tội thiếu tình yêu, vu khống và gian dâm của ông, và của bà. Vì Thầy nhắc lại cho ông rằng kẻ thúc đẩy một người đàn bà tới ly dị, là đặt mình và đặt vợ mình trên con đường
175
gian dâm. Nếu ông biết kháng cự với thằng qủi của ông trong một tuần trăng, ít nhất là một tuần trăng, thì Thầy hứa với ông rằng cơn ác mộng sẽ chấm dứt. Ông có hứa điều đó với Thầy không?
- Ôi! Chúa ơi! Chúa ơi! Tôi muốn... Nhưng đó là ngọn lửa... Hãy tắt nó đi. Thầy, Thầy rất mạnh!... - ông Pháp Đình viên Gioan lết xuống qùi trước mặt Giêsu, hai tay ôm mặt, gục xuống đất và khóc.
- Thầy sẽ hạ nó xuống cho ông, giới hạn nó cho ông. Thầy sẽ đặt một cái thắng và một giới hạn cho thằng qủi này. Nhưng Gioan, ông đã phạm tội rất nhiều, nên chính ông phải tự làm việc để chỗi dậy. Những người mà Thầy đã hoán cải đều đã đến với Thầy với một ý chí hoàn toàn muốn đổi mới và tự do... Chỉ bởi sức lực của họ, họ đã bắt đầu sự cứu chuộc chính mình họ, giống như Mathêu, giống như Maria em Lazarô và những người khác nữa. Còn ông, ông đã đến đây chỉ vì muốn biết xem bà có tội không, và để Thầy giúp ông không bị mất cái suối mà khoái lạc của ông được uống. Thầy sẽ giới hạn quyền lực tên qủi của ông, không phải trong một tuần trăng, mà trong ba tuần trăng. Trong thời gian đó, hãy suy niệm và hãy lên cao. Hãy đề nghị cho mình một đời sống mới của người chồng, một đời sống của con người được phú bẩm một linh hồn, chứ không phải một đời sống thô kệch mà ông đã theo đuổi từ trước tới nay. Hãy củng cố cho mình bằng lời cầu nguyện và chiêm niệm, bằng sự bình an mà Thầy cho ông trong ba tháng. Hãy biết chiến đấu và chinh phục đời sống đời đời, và chinh phục lại tình yêu và sự bình an của vợ ông và gia đình ông. Đi đi.
- Nhưng tôi phải nói gì với Anna? Có lẽ tôi sẽ gặp bà đã sẵn sàng để ra đi... Lời nào được, sau bao năm... xúc phạm, để thuyết phục bà rằng tôi yêu bà và tôi không muốn mất bà? Thầy, xin Thầy tới...
- Thầy không thể. Nhưng đơn giản thôi... Hãy khiêm nhường. Hãy dắt bà ra chỗ riêng biệt và thú với bà nỗi băn khoăn của ông. Hãy nói với bà rằng ông đã đến với Thầy bởi vì ông muốn Thiên Chúa tha cho ông, và hãy xin bà tha cho ông, vì sự tha thứ của Thiên Chúa chỉ được ban nếu bà xin nó cho ông và bà tha cho ông
176
trước... Ôi! Kẻ tội nghiệp, với cơn sốt của ông, ông đã làm mất đi sự lành lớn lao, sự bình an cao cả chừng nào! Các giác quan vô kỷ luật, những tình yêu rối loạn đã tạo ra những đau đớn chừng nào! Bây giờ hãy đứng lên, ra về bình tĩnh. Nhưng ông không hiểu rằng bà, bởi vì bà tốt, và bởi vì bà trung thành với ông, nên bà phải tan nát hơn ông khi nghĩ đến phải lìa bỏ ông, và bà chỉ chờ đợi ở ông một lời để nói: “Tất cả đã được tha”? Rồi, đi đi. Bây giờ đã hết hoàng hôn, ông sẽ không phạm tội khi trở về nhà ông... và vì đã đi để đến với Vị Cứu Tinh của ông. Vị Cứu Tinh của ông xá giải cho ông. Hãy đi bình an và đừng phạm tội nữa.
- Ôi! Thầy! Thầy!... Con không đáng được những lời này!... Thầy!... Con... Con muốn yêu Thầy từ đây...
- Ờ, ờ. Đi đi. Đừng chậm trễ. Và hãy nhớ đến giờ này vào lúc mà con sẽ là kẻ vô tội bị vu khống.
- Thầy muốn nói gì?
- Không gì cả. Đi đi. Chào.
Và Giêsu rút lui, để lại hai nhân viên Đại Pháp Đình đầy cảm động và cháy nóng vì sự xét xử thật sự thánh thiện và khôn ngoan như chỉ Thiên Chúa mới có thể làm.
99* CÁC TÔNG ĐỒ NÓI CHUYỆN
- Tôi vội vã mong lên núi - Phêrô nói. Ông thở hổn hển, lau mồ hôi chảy trên má, trên cổ.
- Thế nào? Anh ghét núi mà bây giờ anh lại mong nó? - Judas Iscariot chua chát hỏi. Khi thấy đã mờ đi cái sợ bị khám phá, ông lại trở nên tự phụ và xấc xược.
- Đúng, thật vậy, bây giờ tôi mong nó. Vào mùa này nó thuận lợi hơn. Chả bao giờ được như biển của tôi... Biển! A!... Nhưng các nơi khác... Tôi không biết tại sao các cánh đồng lại nóng hơn sau vụ gặt. Luôn luôn cùng một mặt trời, nhưng...
- Không phải vì chúng nóng hơn, mà là vì chúng buồn hơn; và vì người ta mệt mỏi khi nhìn chúng như vậy hơn là khi có lúa - Mathêu trả lời theo cảm giác.
177
- Không, Simon có lý. Chúng nóng tới độ không chịu nổi sau mùa gặt. Ta không bao giờ thấy nóng như vầy - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Không bao giờ à? Anh làm gì với sức nóng mà chúng ta đã cảm thấy khi tới nhà Nique - Judas đối đáp.
- Không bao giờ nóng như vầy - Andrê trả lời.
- Dĩ nhiên. Mùa hè đã được bốn mươi ngày, bởi vậy mặt trời chiếu mạnh - Judas nhấn mạnh.
- Sự kiện là các gốc rạ tỏa ra nhiều nhiệt hơn là khi cánh đồng có lúa bao phủ. Điều đó có thể giải thích: mặt trời lúc trước dừng lại trên mặt bông lúa, bây giờ chiếu thẳng xuống mặt đất trơ trụi và nóng, nó dội lại sức nóng lên trên theo chiều ngược lại với các tia mặt trời chiếu xuống, và người ta ở giữa hai ngọn lửa đó - Batôlômêo nói cách trịnh trọng.
Iscariot cười cách mỉa mai, rồi ông trịnh trọng chào bạn ông khi nói: “Rabbi Natanael! Con chào Ngài và con cám ơn Ngài vì bài học uyên bác của Ngài”. Ông ta xấc xược hơn bao giờ hết.
Batôlômêo nhìn ông ta... và nín lặng. Nhưng Philíp bảo vệ ông: “Không có gì phải mỉa mai. Câu cắt nghĩa của anh ấy đúng. Chắc chắn anh không muốn từ chối một sự thật mà hàng bao ngàn đầu óc và lương tri đã luận xét là thực, có lý và dễ dàng để nhận ra”.
- Nhưng phải rồi! Nhưng phải rồi! Tôi biết, tôi biết là các anh thông thái, uyên bác, dầy kinh nghiệm, đầy lương tri, tốt, trọn lành... Các anh là tất cả! Tất cả! Chỉ có mình tôi là con cừu đen giữa một bầy trắng! Chỉ có mình tôi là con chiên đẻ hoang, nhục nhã, đứng lên để mượn cái sừng của con dê... Chỉ có mình tôi tội lỗi, bất toàn, nguyên nhân của mọi điều xấu giữa chúng ta, trong Israel, trong thế giới... có lẽ cả trên các ngôi sao nữa!... Tôi không chịu nổi nữa! Tôi không chịu nổi nữa để thấy tôi là người rốt bét, để thấy những kẻ bất tài như hai tên ngu xuẩn đã nói với Thầy và được thán phục như những lời thánh! Tôi mệt vì ...
- Nghe này cậu bé!...- Phêrô bắt đầu nói. Ông đỏ rần vì nỗ lực ông đã làm để kìm hãm hơn là vì nóng. Nhưng Juđa Thađê ngắt lời
178
ông: “Anh đo người khác bằng cái thước của anh? Anh, hãy tìm cách làm một kẻ bất tài giống như anh Giacôbê của tôi và Gioan Zêbêđê đã làm, như vậy sẽ hết bất toàn trong nhóm tông đồ”.
- Nhưng tôi không có lý sao? Kẻ bất toàn chính là tôi. A! Qúa lắm rồi! Nhưng như vậy đó.
- Đúng! Qủa vậy, tôi tin rằng Giuse đã cho chúng ta uống qúa nhiều rượu... Và với sức nóng này... nó không tốt, nó làm đảo lộn máu... - Tôma nói bình tĩnh, rất bình tĩnh để làm cuộc cãi lộn nảy lửa biến thành trò dỡn chơi.
Nhưng Phêrô đã kiệt quệ hết cái nguồn kiên nhẫn. Ông cắn răng, nắm tay để có thể tiếp tục tự trấn át. Ông nói: “Nghe này cậu bé của tôi. Đối với cậu, chỉ có thể cho một lời khuyên: cậu hãy lánh xa ra một lúc đi...”
- Tôi? Tôi lánh xa ra? Theo lệnh ông? Chỉ có Thầy mới có thể ra lệnh cho tôi, và tôi chỉ vâng lời Người mà thôi. Ông là ai? Một ...
- Dân chài, ngu dốt, thô kệch, vô ích. Anh có lý... Đó là điều tôi còn nói trước anh nữa. Và trước Đấng Jêova của chúng ta hiện diện khắp nơi và thấy mọi sự, tôi xác nhận rằng tôi thích chỗ sau cùng hơn là chỗ thứ nhất. Tôi xác nhận rằng tôi muốn thấy anh, anh hay tất cả những người khác, ở vào chỗ của tôi, nhưng tốt hơn là anh, để anh được giải phóng khỏi con quái vật ghen tị, nó làm cho anh thành bất công. Và tôi chỉ có việc vâng lời, vâng lời anh, cậu bé của tôi... Và hãy tin chắc rằng điều đó làm tôi ít mệt hơn phải nói với anh với tư cách là “người thứ nhất”. Nhưng chính Người, chính Thầy, đã để tôi làm người thứ nhất giữa các anh... Và chính Người là đấng tôi phải vâng lời trước tiên, vâng lời Người hơn tất cả mọi người khác... Và anh, anh phải vâng lời. Với tình cảm tốt của người dân chài, tôi bảo anh, không phải tránh xa ra như anh hiểu khi thấy ngọn lửa trong những lời êm đềm nhất của tôi, nhưng là tách rời anh ra một lát để ở một mình, để suy nghĩ. Anh đã đi được từ Béther tới thung lũng ở sau lưng mọi người. Bây giờ cũng hãy làm vậy đi... Thầy ở đàng đầu, anh ở đàng đuôi, chúng tôi, những người khác ở giữa, những kẻ bất tài... Chỉ cần ở một mình là hiểu và bình tĩnh
179
được... Tin tôi đi. Như vầy sẽ tốt cho mọi người, cho anh trước tiên... - Và ông cầm cánh tay Judas, dắt ra khỏi nhóm và nói: “Hãy đứng lại đây khi chúng tôi lại với Thầy. Rồi sau đó, bước từ từ... Và anh sẽ thấy... cơn bão của anh qua đi”. Rồi ông trồng hắn ở đó và chạy lại với các bạn ông đã tiến xa vài mét.
- Mẹ cóc! Tôi chảy mồ hôi khi nói với lão ta nhiều hơn là khi cuốc bộ... Tính khí kỳ cục! Không bao giờ người ta đạt được điều gì với lão ta!
- Không bao giờ đâu Simon. Em tôi nó cứ khăng khăng giữ hắn ta lại... Nhưng hắn ta sẽ không bao giờ làm được việc gì tốt... - Juđa Thađê trả lời.
- Đó là một tai ách mà chúng ta có ở giữa chúng ta - Andrê lẩm bẩm, và ông nói để kết thúc: “Gioan và tôi, chúng tôi hầu như sợ ông ta, và chúng tôi luôn luôn nín lặng vì sợ các cuộc cãi vã”.
- Đó là cách tốt nhất để làm - Batôlômêo nói.
- Tôi, tôi không thể nín thinh được - Thađê thú nhận.
- Tôi, tôi cũng rất khó. Nhưng tôi đã tìm ra các bí mật để làm - Phêrô nói.
- Cái gì? Cái gì? Dạy cho chúng tôi với - tất cả đều nói.
- Bằng cách làm việc như con bò với cái cày. Chắc chắn là một công việc vô ích... Nhưng nó giúp tôi tháo đổ bớt những gì đang sôi sục trong tôi trên những gì... không phải là Judas.
- A! Tôi hiểu. Chính vì vậy mà anh đã làm việc tàn sát cây cối khi đi xuống thung lũng! Chính vì vậy, hen? - Giacôbê Zêbêđê hỏi.
- Đúng, chính vì vậy... Nhưng hôm nay... ở đây... tôi không có gì để bẻ mà không gây thiệt hại. Chỉ toàn là cây ăn trái và sẽ thiệt hại nếu bẻ nó... Tôi mệt gấp ba lần để bẻ gẫy... chính tôi... để không là ông già Simon ở Caphanaum... Xương tôi đau ê ẩm vì vậy...
Batôlômêo và Zêlote có cùng một cử chỉ và cùng một lời nói: Họ ôm Phêrô và kêu: “Vậy mà anh ngạc nhiên vì Thầy đã đặt anh làm đầu giữa chúng ta. Anh đáng làm thầy của chúng tôi...”
- Tôi? Vì cái đó?... Cái chuyện tầm phào này!... Tôi là một con người tội nghiệp... Nhưng tôi chỉ xin các anh thương tôi bằng cách
180
cho tôi những lời khuyên khôn ngoan, những lời khuyên tình nghĩa và đơn giản của tình yêu và sự đơn sơ, để tôi trở nên giống như các anh, và duy nhất chỉ vì tình yêu đối với Người đã có qúa nhiều đau khổ rồi...
- Anh có lý, ít nhất là chúng ta, đừng làm khổ Người - Mathêu kêu lên.
- Tôi đã rất sợ khi Jeanne gọi Người. Các anh, hai người đã tới đó trước, thực tình các anh không biết gì sao? - Tôma hỏi.
- Không. Chắc chắn là không. Nhưng trong lòng chúng tôi nghĩ rằng chính kẻ đang đi ở đàng sau... đã làm một... - Phêrô nói.
- Nín đi anh ơi! Tôi cũng có cùng một tư tưởng khi nghe Thầy nói hôm ngày Sabát - Juđa Thađê thú nhận.
- Tôi cũng vậy - Giacôbê Zêbêđê thêm.
- Vậy mà!... Tôi đã không nghĩ tới đó... cả khi thấy Judas sa sầm mặt vào chiều hôm đó, và cả thô lỗ nữa, phải nói vậy - Tôma nói.
- Vậy thôi, đừng nói tới nữa. Và chúng ta hãy tìm cách làm cho hắn ta nên tốt hơn bởi nhiều tình yêu, nhiều hy sinh, như Margziam đã dạy chúng ta... - Phêrô nói.
- Margziam đã có thể làm gì hay đó? - Andrê mỉm cười hỏi.
- Nhưng... Chúng ta sắp được gặp nó rồi. Tôi chết vì sốt ruột! Những sự chia cách này thật đắt giá cho tôi.
- Ai biết được tại sao Thầy lại muốn vậy. Bây giờ Margziam có thể đi với chúng ta. Đó không còn là một đứa trẻ nữa, và nó cũng không yếu ớt - Giacôbê Zêbêđê nhận xét.
- Hơn nữa... Nếu năm ngoái nó đã đi bộ biết bao trong khi nó còn lỏng khỏng, thì bây giờ nó có thể với lý do rất mạnh hơn - Philíp nói.
- Tôi, tôi nghĩ rằng vì để tránh cho nó khỏi ở trước một số điều không hay... - Mathêu nói.
- Hay để tránh cho nó một số giao tiếp - Thađê lẩm bẩm, vì thực tình ông không chịu nổi Judas Iscariot.
- Có lẽ cả hai các anh đều có lý - Phêrô nói.
- Không đâu, nó phải ở đó để nó trở nên hoàn toàn vạm vỡ. Năm tới các bạn sẽ thấy là nó đi với chúng ta - Tôma xác định.
181
- Năm tới à? Năm tới biết Thầy còn ở với chúng ta không? Năm tới! - Batôlômêo băn khoăn hỏi. “Các bài thuyết trình của Người, tôi thấy rất... gợi ý”.
- Đừng nói tới đó nữa - những người khác năn nỉ.
- Tôi không muốn nói tới điều đó. Nhưng việc miễn nói tới đâu có đẩy xa đi được những điều đã ghi dấu.
- Vậy thì... điều thích hợp nhất cho chúng ta là trở nên tốt hơn trong những tháng này... Để đừng làm khổ Người, và để sẵn sàng. Tôi muốn nói với Người rằng bây giờ chúng ta sắp nghỉ ngơi ở Galilê, Người sẽ dạy dỗ chúng ta rất nhiều, rất nhiều, đặc biệt là nhóm mười hai chúng ta... Chúng ta sắp tới nơi rồi.
- Ừ, mong rằng nó đừng chậm trễ đến nơi cho tôi. Tôi già mà đi như vầy, với sức nóng này, nó làm cho tôi rất nhiều phiền phức kín đáo - Batôlômêo thú nhận.
- Tôi cũng vậy. Tôi đã là một kẻ trụy lạc, và tôi gìa hơn là người ta nghĩ khi tính năm... Những kẻ trụy lạc... hen! Bây giờ tôi vẫn còn cảm thấy chúng ở trong xương tôi... Hơn nữa chúng tôi, các con trai của Lêvi, chúng tôi khổ rõ ràng là vì bản chất...
- Còn tôi, tôi đã bệnh hoạn bao nhiêu năm trời... Và đời sống này, trong các hang hố, với một chút thực phẩm không đủ và kém cỏi. Tất cả những thứ đó cho gợi cảm... - Zêlote nói.
- Nhưng anh đã nói hoài rằng từ khi anh được khỏi, anh cảm thấy luôn luôn khỏe mạnh. Kết qủa của phép lạ đã chấm dứt cho anh rồi sao? - Judas đã tới nhập bọn và hỏi sau lưng ông.
Zêlote có một cái bĩu môi đặc thù trên khuôn mặt xấu và linh động của ông, tựa như ông muốn nói: “Chúa ơi, hắn ta đây, xin Chúa giúp con kiên nhẫn!” Nhưng ông trả lời cách lịch sự nhất: “Không, hậu qủa của phép lạ không chấm dứt, điều đó được thấy rõ: Tôi không còn bệnh. Tôi khỏe, tôi bền dai. Nhưng năm tháng vẫn là năm tháng, và sự mệt mỏi vẫn là mỏi mệt. Và sức nóng này làm cho chúng ta đổ mồ hôi tựa như rơi xuống hố. Và những đêm như vầy, tôi nói là nó băng giá so với sức nóng ban ngày, nó làm đóng băng mồ hôi trên chúng ta, trong khi sương đêm hoàn tất việc
182
nhúng ướt những y phục đã ướt đẵm mồ hôi. Tất cả những điều đó chắc chắn không làm tôi thoải mái. Tôi mong mau tới chỗ nghỉ để săn sóc cho mình một tí. Buổi sáng, nhất là khi ngủ ngoài trời, tôi ê ẩm cả người. Nếu tôi ngã bệnh hoàn toàn thì tôi phục vụ được gì?”
- Bằng chịu đựng. Người đã nói rằng sự chịu đựng cũng có giá trị như công việc và lời cầu nguyện - Andrê trả lời ông.
- Điều đó tốt. Nhưng tôi thích phục vụ trong việc tông đồ hơn và...
- Anh cũng chán rồi, hãy thú nhận vậy đi. Anh chán việc tiếp tục đời sống này, không một viễn ảnh nào cho những giờ thảnh thơi. Trái lại, chỉ thấy viễn ảnh của bách hại và... thất bại. Anh đã bắt đầu suy nghĩ rằng anh liều mình bị toi công hết - Judas Kêriot nói.
- Tôi chả suy nghĩ gì cả. Tôi chỉ nói rằng tôi cảm thấy như bị bệnh.
- Ôi! Cũng như Người đã chữa anh lần trước! - Judas có cái cười mỉa mai.
Batôlômêo cảm thấy sắp có một cuộc cãi vã nữa nên ông lái nó đi bằng cách gọi Giêsu: “Thầy ơi, không có gì cho chúng con à? Thầy toàn đi ở đàng trước!...”
- Con có lý, Batôlômêo. Nhưng chúng ta sắp dừng chân rồi. Con thấy căn nhà nhỏ kia không? Hãy tới đó, vì nắng gắt qúa. Chiều chúng ta sẽ đi tiếp. Phải làm lẹ để trở lại Jêrusalem, vì lễ Ngũ Tuần đã gần rồi.
- Các anh nói về chuyện gì đó? - Juđa Thađê hỏi anh ông.
- Nhưng em hãy tưởng tượng lấy. Chúng ta đã bắt đầu nói về Giuse Arimathi, rồi chúng ta quay nói về lãnh địa cũ của Joakim ở Nazarét, về thói quen của ông khi ông có thể, là dành một nửa sản phẩm của mùa gặt để phát cho người nghèo, điều mà các người già ở Nazarét còn nhớ rõ. Hai vị công chính Anna và Joakim đã phải nhịn bớt biết bao. Tất nhiên họ đã được phép lạ về cô con gái, về cô con gái đó... Rồi cùng với Giêsu, anh gợi lại những năm thơ bé...
Các câu đàm thoại tiếp tục khi họ tiến về căn nhà ở giữa cánh đồng đầy ánh sáng.
183
100* PHÉP LẠ VỀ VIỆC MÓT LÚA
TẠI VÙNG ĐỒNG BẰNG
Giêsu cùng với các môn đệ Người đi qua một cánh đồng đầy lúa vàng. Trời rất nóng, mặc dầu đây là những giờ đầu tiên trong ngày. Các thợ gặt cắt các luống đầy kín những bông, làm thành những khoảng trống trong đống vàng của các hạt. Các chiếc hái sáng lên một thoáng dưới mặt trời, biến mất dưới các bông, để rồi lại xuất hiện ở phía bên kia một thoáng nữa. Và các nắm lúa xếp lại, nằm nghỉ tựa như nó mệt vì phải đứng trong mấy tháng trời trên nền đất hun nóng bởi mặt trời.
Các phụ nữ đi qua, bó lại các nắm lúa sau lưng thợ gặt. Tất cả đồng bằng đều đang tiến hành việc này. Mùa gặt rất phong phú và thợ gặt rất mừng.
Khi nhóm giảng đạo đi qua đường và nếu ở gần các người đang làm việc, nhiều người dừng tay một lát, họ tì lên hái, lau mồ hôi và nhìn. Cả các phụ nữ bó lúa cũng vậy. Các bà trong y phục mầu sáng, đầu trùm khăn trắng, trông giống như các bông hoa mọc lên từ đất đã mất các bông lúa: các bông mỹ nhân thảo, các bông cúc tím, cúc vàng ... Nam giới thì áo ngắn mầu xám nâu hay vàng lạt, ít lôi kéo cái nhìn hơn. Mầu sáng của họ thì chỉ có mảnh vải trên đầu, buộc bằng sợi giây, để rơi xuống trên má và cổ. Trong mầu trắng này, các khuôn mặt sạm nắng vì mặt trời trông có vẻ đen hơn.
Khi Giêsu thấy người ta lưu ý tới Người thì Người chào họ: “Nguyện phúc lành của Thiên Chúa xuống trên các anh”, và người ta trả lời: “Nguyện phúc lành của Thiên Chúa ở với ông”. Hoặc đơn giản hơn: “Và với ông”.
Một số người lắm lời hơn, lưu ý Giêsu về vụ mùa rằng: “Mùa gặt năm nay rất tốt. Ông coi các bông lúa mẩy hạt và nó dầy trên luống chừng nào! Cắt thì mệt, nhưng đó là bánh đấy!...”
- Hãy biết ơn Thiên Chúa vì vậy. Và qúi vị biết, không phải bằng lời nói, mà bằng hành động, là điều người ta phải tỏ lòng biết ơn.
184
Với mùa gặt này, hãy biết xót thương bằng cách nghĩ rằng Đấng Tối Cao đã thương xót khi cho mưa sa và mặt trời xuống trên đồng ruộng của qúi vị, để qúi vị được lúa dư dật. Hãy nhớ lại các qui luật của Đệ Nhị Luật. Khi gặt hái những của cải mà Thiên Chúa ban cho qúi vị, hãy nghĩ đến kẻ không có gì, hãy để lại cho họ một chút phần của qúi vị. Đó là sự dối trá thánh thiện của kẻ có lòng bác ái với tha nhân, và Thiên Chúa nhìn thấy. Để lại một chút thì có giá trị hơn là lượm hết cách ham hố. Thiên Chúa chúc lành cho kẻ quảng đại. Cho thì tốt hơn là nhận, vì điều đó bó buộc Thiên Chúa là đấng công bằng phải cho một phần thưởng to lớn hơn cho kẻ có tình thương.
Giêsu đi qua chỗ khác và nhắc lại lời khuyên tình thương của Người.
Mặt trời gay gắt hơn. Các thợ gặt ngừng làm việc. Những người ở gần thì về nhà họ, những người khác thì lại gốc cây có bóng mát để nghỉ, ăn uống và ngủ trưa.
Giêsu cũng trú trong một bụi cây rất rậm ở trong cánh đồng. Người ngồi trên cỏ sau khi đã cầu nguyện và dâng hiến của ăn thanh đạm là bánh, phó mát và oliu. Người chia phần và ăn trong khi nói chuyện với các người của Ngài.
Ở đây có bóng râm, sự tươi mát và hoàn toàn yên lặng: sự lặng lẽ của những giờ nóng bức mùa hè, một sự yên lặng mời gọi giấc ngủ. Qủa vậy, phần đông đều nằm ngủ sau bữa ăn.
Giêsu thì không. Người ngồi tựa vai vào một thân cây và quan sát công việc của các côn trùng trên các bông hoa. Có một lúc, Người làm hiệu cho Gioan và Judas Iscariot, và một trong những người lớn tuổi là Batôlômêo. Khi họ đã ở chung quanh Người, Người nói: “Hãy coi con vật bé tí này, nó đang làm gì vậy? Coi này, Thầy quan sát nó một lúc rồi: Nó muốn lấy ra khỏi cái cúp nhỏ tí này một số mật chứa ở đáy cúp, nhưng nó không thể chui vào đó. Coi này: Nó duỗi cái chân nhỏ của nó ra, hết chân nọ tới chân kia, nó nhúng vào trong mật rồi nó mút. Chỉ trong một lát là nó hút hết. Các con coi, thật đáng phục, sự quan phòng của Thiên Chúa! Không
185
phải Người không biết rằng không có một số cơ quan thì các côn trùng được tạo dựng để bay trên đồng cỏ xanh sẽ không thể dinh dưỡng được, nên đây, nó được trang bị những cái chân nhỏ và các lông li ti này. Các con nhìn thấy chúng không? Con, Batôlômêo? Không à? Coi đây, bây giờ Thầy bắt nó và Thầy chỉ cho các con nhìn ngược nó”. Rồi một cách nhẹ nhàng, Người bắt một con bọ rầy giống như cục vàng bóng, Người lật ngược nó trong lòng bàn tay. Con bọ giả chết, và cả ba người quan sát những chân nhỏ của nó. Rồi nó quẫy những cái chân để chạy đi, nhưng đương nhiên là nó không thể. Giêsu giúp nó bằng cách lật cho nó đứng trên chân. Con vật bò khỏi bàn tay và tới đầu ngón tay, nó chúi xuống và mở cánh, nhưng nó nghi ngờ: “Nó không biết rằng Thầy, Thầy chỉ làm điều lành cho hết mọi vật. Nó chỉ có cái bản năng nhỏ của nó, hoàn bị, nếu so sánh với bản thể nó, đủ cho những gì nó cần, nhưng rất thấp hơn tư tưởng con người. Cũng vậy, các côn trùng không trách nhiệm gì nếu chúng làm những hành động xấu. Con người thì không vậy. Con người có trong chính mình họ cái ánh sáng thông minh rất cao, và họ càng có nhiều hơn khi họ được dạy bảo những điều thuộc về Thiên Chúa. Vì vậy họ chịu trách nhiệm về các hành động của họ”.
Batôlômêo nói: “Thưa Thầy, vậy chúng con đã được Thầy dạy bảo, chúng con có trách nhiệm rất lớn?”
- Rất lớn, và trong tương lai, các con sẽ có lớn hơn nữa khi sự hy sinh đã hoàn tất và Ơn Cứu Chuộc đã tới, và cùng với nó là Ân Sủng, chính là sức mạnh và ánh sáng. Tiếp sau đó, đấng làm cho các con còn có khả năng muốn hơn nữa, sẽ đến. Rồi sau đó, kẻ không muốn sẽ chịu trách nhiệm rất nặng nề.
- Vậy rất ít người sẽ được cứu.
- Tại sao vậy Batôlômêo?
- Bởi vì loài người rất yếu đuối.
- Nhưng nếu sự yếu đuối của họ được củng cố bởi sự tin cẩn của
họ nơi Thầy, họ sẽ trở nên mạnh. Các con nghĩ rằng Thầy không hiểu sự chiến đấu của các con sao? Và Thầy không thương sự yếu
186
đuối của các con sao? Các con thấy không? Satan nó giống như con nhện này, nó đang giăng cái bẫy từ cành nhỏ này tới cái cộng cây nhỏ này. Nó rất tinh tế và rất lừa đảo! Coi, cái sợi của nó sáng chừng nào! Nó tựa như những sợi chỉ mướt bằng bạc. Nó sẽ không nhìn thấy được về ban đêm. Và sáng mai, lúc bình minh, nó sẽ được phủ bằng những hạt ngọc chói lọi. Những con ruồi thiếu thận trọng, ban đêm quanh quẩn để tìm những thức ăn hơn kém sạch sẽ, bị vướng vào đó; và cả các con bướm nhẹ dạ, bị lôi kéo bởi cái ánh sáng huy hoàng này...
Các tông đồ khác cũng lại gần, và họ nghe bài học rút ra từ thế giới thảo mộc và côn trùng.
- ...Rồi trước mắt Satan, tình yêu của Thầy làm cái điều mà bàn tay Thầy làm bây giờ đây - và Người phá hủy cái màng nhện. “Các con coi, con nhện chạy trốn. Nó sợ kẻ mạnh hơn. Satan cũng sợ kẻ mạnh hơn. Và kẻ mạnh hơn chính là Tình Yêu”.
- Phá hủy cái màng nhện đi chả tốt hơn sao? - Phêrô nói, rất thực tế trong các kết luận của ông.
- Điều đó tốt hơn. Nhưng cái màng nhện này cũng làm bổn phận của nó. Đúng là nó có giết mất những con bướm đẹp, nhưng nó cũng kết liễu được một số lớn ruồi bọ dơ bẩn, những con mang mầm bệnh và bệnh tật cho những kẻ lành mạnh, mang cái chết cho kẻ sống.
- Nhưng trong trường hợp chúng con thì cái màng nhện làm gì?
- Nó làm gì à Simon? (Simon cũng đã già nên ông cũng phàn nàn vì bị cảm) Nó làm cái điều mà thiện chí trong các con làm: Nó phá hủy sự lãnh đạm, thờ ơ, tính tự phụ tự đắc. Nó bó buộc các con phải canh chừng. Đâu là điều làm cho các con xứng đáng phần thưởng? Chiến đấu và chiến thắng. Các con có thể có chiến thắng nếu các con không chiến đấu không? Sự hiện diện của Satan bó buộc một sự canh chừng liên tục. Rồi Tình Yêu, đấng yêu các con, sẽ làm cho sự hiện diện của nó thành vô hại, nếu các con luôn luôn ở bên Tình Yêu. Satan cám dỗ, nhưng thực sự nó không thể làm hại.
- Luôn luôn vậy?
187
- Luôn luôn vậy, trong điều lớn cũng như điều nhỏ. Ví dụ một điều nhỏ: Nó dụ dỗ con cách vô ích là phải săn sóc sức khỏe của con, đó là sự dụ dỗ qủi quyệt để tìm cách đem con đi khỏi Thầy. Tình Yêu giữ ghì con ở bên cạnh, Simon ạ. Và những đau đớn của con sẽ không quan trọng nữa, dù ngay trước mắt con.
- Ôi! Chúa ơi! Thầy biết ...
- Đúng. Nhưng đừng cho là nặng nề việc đó. Đây, đây! Tình yêu sẽ cho con rất nhiều can đảm đến nỗi bây giờ nó đã là người đầu tiên mỉm cười vì cái nhân tính của con đang run lên vì chứng cảm cúm của nó - Giêsu cười vì sự bối rối của người môn đệ, và Người ôm ông để an ủi ông. Cả khi cười, Người cũng đầy phẩm cách. Những người khác cũng cười.
- Ai đến giúp bà già tội nghiệp kia đây? - Giêsu nói khi chỉ vào một bà già nhỏ đang đương đầu với sức nóng, mót lúa trong những luống đã gặt.
- Con - Gioan nói. Và cùng với ông là Tôma và Giacôbê.
Nhưng Phêrô kéo tay áo của Gioan, dẫn ông hơi ra một bên và nói với ông: “Cậu hãy hỏi Thầy xem cái gì làm cho Người vui vậy. Tôi đã hỏi Người, nhưng Người chỉ bảo tôi: ‘Hạnh phúc của Thầy là được thấy một linh hồn đi tìm ánh sáng’. Nhưng nếu cậu hỏi Người... Với cậu thì Người nói hết”.
Gioan bị chẹt giữa sự dè dặt và sự ước ao muốn biết và muốn làm vui lòng Phêrô. Ông từ từ đi lại với Giêsu lúc Người đã ở trong thửa ruộng và đang mót lúa. Bà già nhỏ, khi nhìn thấy những người trẻ, liền có một cử chỉ buồn và cố gắng làm mau hơn. Giêsu kêu: “Bà ơi! Bà ơi! Tôi mót lúa cho bà đây. Đừng ra nắng nữa mẹ ơi. Tôi tới ngay đó”.
Người đàn bà nhỏ ngây người vì qúa nhiều lòng tốt. Bà nhìn Người đăm đăm, rồi bà vâng lời. Bà hướng cơ thể gầy, gù và hơi run của bà về hàng bóng cây ở bờ dốc giới hạn cánh đồng. Giêsu bước lẹ trong khi lượm những bông lúa. Gioan theo ngay bên Người. Ở hơi xa hơn là Tôma và Giacôbê.
- Thầy ơi! Làm sao Thầy tìm được nhiều bông vậy? Con ở luống
188
ngay bên Thầy mà con thấy rất ít! - Gioan vừa nói vừa thở hổn hển.
Giêsu mỉm cười chứ không nói. Tôi không thể đoán xét, nhưng tôi thấy hình như các bông lúa mà thợ đã cắt nhưng không thu lượm, nó dựng đứng lên trước mắt Thiên Chúa. Giêsu vẫn lượm và mỉm cười. Thực tình Người có một ôm lúa trong tay.
- Này, Gioan, cầm lấy mớ của Thầy đi. Như vậy con cũng sẽ có được một số lượng, và bà mẹ nhỏ sẽ vui.
- Nhưng, thưa Thầy... Thầy làm phép lạ à? Không thể nào mà Thầy lại tìm thấy được bấy nhiêu!
- Xuỵt! Để cho bà mẹ nhỏ mà... Khi nghĩ đến mẹ Thầy và mẹ con. Hãy coi bà gìa nhỏ chính là... Thiên Chúa nhân từ đã nuôi con chim vừa sinh, muốn làm đầy cái kho tí hon của bà nội nhỏ này. Cái này sẽ là bánh của bà trong những tháng còn lại của bà. Bà sẽ không nhìn thấy vụ mùa năm tới nữa. Nhưng Thầy không muốn bà bị đói trong mùa đông sau cùng của bà. Bây giờ con sắp sửa được nghe tiếng reo của bà. Gioan, con hãy chuẩn bị để thủng lỗ tai, cũng như Thầy, Thầy chuẩn bị để được tắm bằng nước mắt và những cái hôn...
- Giêsu, từ mấy ngày nay Thầy vui qúa! Tại sao vậy?
- Chính con muốn biết điều đó hay có ai đã sai con?
Gioan đã đỏ sẵn vì mệt, liền trở thành vải điều. Giêsu hiểu: “Hãy nói với người đã sai con rằng có một người trong các anh em Thầy bị bệnh, và nó tìm cách chữa. Ý muốn được chữa bệnh của nó làm Thầy đầy vui mừng”.
- Ai vậy Thầy?
- Một trong các anh em của con. Một người mà Giêsu yêu. Một tội nhân.
- Vậy là không phải một trong số chúng con.
- Gioan, con tin rằng giữa các con không có người tội lỗi à? Con tin rằng Thầy chỉ có niềm vui với các con thôi sao?
- Thưa Thầy, không. Con biết rằng chúng con cũng là các tội nhân, và Thầy muốn cứu mọi người.
- Vậy thì? Lần trước Thầy đã bảo con: “Đừng tìm cách để biết”,
189
khi đó là một khám phá xấu. Bây giờ Thầy cũng nói với con vậy khi đây mới chỉ là rạng đông của điều tốt... Bình an cho mẹ, mẹ ơi! Lúa của mẹ đây. Các bạn con sẽ tới với bó của họ.
- Thiên Chúa chúc phúc cho con. Nhưng làm sao con tìm thấy nhiều vậy? Đúng thật là mẹ không nhìn rõ. Nhưng đây là hai bó to, to!...” Người đàn bà rờ nó bằng bàn tay run rẩy của bà và vuốt ve nó. Bà muốn nâng nó lên... Nhưng bà không thể.
- Chúng con giúp mẹ. Nhà mẹ đâu?
- Nhà kia kìa - và bà chỉ vào một căn nhà nhỏ ngoài cánh đồng.
- Mẹ ở một mình phải không?
- Ừ, nhưng làm sao con biết? Và con, con là ai?
- Con là người có một bà mẹ.
- Còn đây là em con à?
- Đó là bạn con.
Người bạn, đứng đàng sau Giêsu, múa máy rất mạnh để làm hiệu cho bà, nhưng bà có những con ngươi mắt bị mờ nên bà không nhìn thấy. Hơn nữa, bà mải mê nhìn Giêsu và con tim mẹ già của bà đầy xúc động.
- Con ơi, con đầy mồ hôi. Lại đây, dưới bóng cái cây này đi. Con ngồi xuống đây đi. Coi, mồ hôi chảy nhiều chừng nào! Hãy lau bằng cái khăn của mẹ, nó cũ nhưng sạch sẽ. Cầm lấy đi. Cầm lấy đi con.
- Cám ơn mẹ.
- Phúc đức cho bà nào là mẹ con, và cho con, qúa tốt. Hãy nói cho mẹ tên của bà và tên của con, để mẹ thưa với Thiên Chúa, để Người chúc phúc cho các con.
- Maria và Giêsu.
- Maria và Giêsu... Maria và Giêsu... Chờ tí... Một bữa mẹ đã khóc rất nhiều... Đứa cháu nội của mẹ bị giết vì nó bảo vệ con trai của nó, nên vì đó con trai của mẹ cũng chết vì buồn. Người ta nói rằng đứa trẻ vô tội bị giết vì người ta tìm một đứa tên là Giêsu. Bây giờ mẹ đã ở ngưỡng cửa của cái chết, và cái tên này lại trở về...
- Vậy là mẹ đã khóc vì cái tên này. Vậy bây giờ cái tên này sẽ
190
cho mẹ sự chúc phúc...
- Con là trẻ Giêsu đó à?... Hãy nói điều đó với một người đàn bà sắp chết, và đã sống không hề nguyền rủa, vì người ta đã nói với bà rằng sự đau khổ của bà dùng để cứu Đức Messi cho Israel.
Gioan gia tăng gấp đôi các dấu hiệu của ông, còn Giêsu thì nín thinh.
- Ôi! Nói điều đó cho mẹ đi. Có phải con không? Con là kẻ đã chúc phúc cho mẹ vào cuối đời mẹ. Nhân danh Thiên Chúa, hãy nói đi.
- Chính con đấy!
- A! - Bà già nhỏ qùi phục xuống sát đất. “Vị Cứu Tinh của con! Con đã sống trong chờ đợi. Con đã không trông được thấy Ngài. Con có được thấy chiến thắng của Ngài không?”
- Không mẹ ạ. Cũng như Môise, mẹ sẽ chết mà không biết ngày đó. Nhưng con sẽ cho mẹ sự bình an của Thiên Chúa trước. Con là sự bình an, con là đường, con là sự sống. Mẹ là mẹ và là bà nội của kẻ công chính, mẹ sẽ thấy con trong một chiến thắng khác, chiến thắng đời đời. Chính con sẽ mở cửa cho mẹ, cho con trai mẹ, cho cháu nội mẹ và đứa bé của nó. Đứa bé này là kẻ thánh hiến cho Chúa, vì nó đã chết cho con. Mẹ ơi, đừng khóc.
- Và con, con đã đụng vào Ngài; và Ngài, Ngài đã mót lúa cho con! Ôi, làm sao con xứng đáng được với vinh dự này?
- Vì sự kiên trì thánh thiện của mẹ, mẹ ơi. Thôi đi về nhà mẹ đi. Và nguyện cho những hạt lúa này làm cho mẹ những tấm bánh của tâm hồn hơn là của thân xác. Con, con là bánh từ trời xuống để cho các kẻ có con tim đói khát được no nê. Các con (Tôma và Giacôbê đã đến cùng với lúa của họ) hãy vác các bó lúa này và chúng ta đi.
Ba ông bước đi dưới sức nặng của các bó lúa, Giêsu theo sau họ cùng với bà già. Bà khóc và lẩm bẩm cầu nguyện. Họ đi tới căn nhà nhỏ: hai phòng, một lò bánh tí hon, một cây sung, vài cây nho. Nghèo và sạch sẽ.
- Chỗ trú ẩn của mẹ đây?
- Vâng, lạy Chúa, xin chúc lành cho nó.
191
- Hãy gọi con là con, và hãy cầu nguyện để mẹ con được nâng đỡ trong sự đau đớn của bà. Mẹ đã biết thế nào là sự đau đớn của bà mẹ. Chào mẹ. Con chúc lành cho mẹ nhân danh Thiên Chúa thật.
Và Giêsu giơ tay chúc phúc nơi ở nhỏ mọn. Rồi Người cúi xuống hôn bà già nhỏ, ôm bà vào ngực và hôn lên cái đầu chỉ còn vài sợi tóc trắng. Bà khóc và phớt đôi môi bà trên bàn tay Giêsu, tôn kính và yêu mến.
Giêsu nói:
Có nhiều cái tại sao ở trong quả tim con sau bài đọc này. Một cái tại sao con có trong tim con là: Có phải Cha luôn luôn biết rằng Judas sẽ không được cứu, mặc dầu sự cố gắng lần này để tới phần rỗi?
Cha biết điều đó. Vậy tại sao Cha lại vui mừng?
Bởi vì sự ước ao duy nhất của nó lúc này, một bông hoa trong cái truông của con tim Judas, đã làm cho Chúa Cha nhìn một cách nhân hậu, người môn đệ mà Cha yêu và Cha không thể cứu. Con mắt của Thiên Chúa trên một con tim! Cha muốn gì, nếu không là muốn Chúa Cha nhìn tất cả các con, và nhìn với tình yêu?
Và Cha phải vui mừng để ban cho kẻ khốn nạn này cả tới phương tiện này để chỗi dậy: Sự kích thích do niềm vui của Cha được thấy nó trở về với Cha.
Một hôm, sau cái chết của Cha, Gioan đã biết được sự thật này, và đã nói với Phêrô, Giacôbê, Andrê và các người khác, bởi vì Cha đã ra lệnh cho kẻ ưu ái mà không một bí mật nào của con tim Cha mà ông không biết. Ông biết và ông nói để tất cả có được một kỷ luật sống trên con đường người môn đệ cũng như tín hữu.
Với linh hồn, sau khi sa ngã, đến với người thừa hành của Thiên Chúa, thú nhận những sai lầm của họ đối với bạn bè, con cái, vợ chồng, anh em; và sau khi đã sai lầm, họ đến nói: “Hãy giữ con ở bên Thầy. Con không muốn lầm lạc nữa, để không làm đau cho Thiên Chúa và cho Thầy”, thì chúng ta không được từ chối để cho mình được sung sướng vì thấy sự ước ao của chúng ta được thỏa mãn.
Phải khéo léo vô cùng trong việc săn sóc các con tim. Cha là sự khôn ngoan, Cha luôn luôn biết rằng trong trường hợp của Judas thì hoàn toàn vô ích, nhưng Cha cũng khéo léo vô cùng để dạy cho tất cả cái nghệ thuật cứu chuộc và giúp đỡ những kẻ muốn cứu mình. Bây giờ Cha bảo con, cũng như Cha đã bảo Simon Canane: “Đây, đây, Cha ôm con vào lòng để con cảm thấy có người yêu con”.
Từ bàn tay này đã rơi xuống những hình phạt, nhưng cũng có những vuốt ve. Từ đôi môi này đã có những lời nghiêm khắc, nhưng những lời ân cần thương yêu thì nhiều hơn, và được nói với nhiều niềm vui hơn.
Hãy đi bình an, Maria. Con không làm khổ Giêsu của con, và chớ gì việc đó khích lệ con.
192
101* CÁC TÔNG ĐỒ VỚI NHAU VÀ VỚI GIÊSU.
GIÊSU VÀ PHÊRÔ
Các tông đồ đã quay lưng về phía đồng bằng, và bởi những con đường gập ghềnh qua núi đồi và thung lũng, họ tiến về Jêrusalem. Để giản lược đường đi, họ đã loại bỏ những trục lộ chính để đi những con đường tắt, ít người đi, mệt mỏi nhưng mau lẹ.
Lúc này họ đang ở dưới đáy một thung lũng xanh, nước dồi dào, đầy hoa, cũng không thiếu các loại cỏ thơm. Điều này làm Thađê nhận xét rằng: thật hữu lý để gọi cây linh lan là huệ nơi thung lũng, và ông ca tụng vẻ đẹp mong manh nhưng bền dai của nó, với hương thơm tinh tế của nó.
- Nhưng đó là những bông huệ chổng ngược. Nó nhìn xuống đất chứ không nhìn lên trời - Tôma nhận xét.
- Nhưng chúng nó qúa bé! Chúng ta còn có nhiều thứ hoa khác đẹp hơn. Tôi không biết tại sao người ta ca tụng nó tới cỡ đó! - Judas nói trong khi ông lấy chân đá một khóm linh lan đầy hoa một cách khinh bỉ.
- Không! Tại sao? Chúng rất duyên dáng! - Andrê can thiệp để bênh vực những bông hoa tội nghiệp, và ông cúi xuống để lượm những cộng bị gẫy.
- Người ta nói nó chỉ là rơm rác, không là gì hơn. Hoa dứa rừng còn đẹp hơn, oai hơn, mạnh mẽ hơn, xứng đáng với Thiên Chúa hơn và nở ra cho Thiên Chúa.
- Tôi, tôi thấy Thiên Chúa nhiều hơn trong những chiếc cúp li ti này... Nhưng nhìn coi, duyên dáng chừng nào! Viền đăng ten, hầu như lõm sâu. Chúng giống như bằng ngọc thạch, bằng sáp nguyên chất, được làm bởi những bàn tay tí hon... Nhưng nó đã được làm nhiều chừng nào! Mêng mông. Ôi! Sức mạnh của Thiên Chúa!... - Andrê như xuất thần khi chiêm ngắm các hoa và suy niệm những trọn hảo của sự tạo dựng.
- Anh giống như đàn bà yếu đuối bị bệnh thần kinh - Judas càu nhàu với nụ cười xấu.
193
Tôma nói: “Không. Tôi là thợ bạc và tôi đã nghe. Tôi cũng thấy những hoa này là sự toàn vẹn. Bằng kim loại, nó rất khó làm hơn là làm một bông hoa dứa. Bởi vì bạn ơi, anh hãy biết rằng, chính những cái vô cùng nhỏ mọn là những cái tiết lộ tài năng của người nghệ sĩ. Đưa tôi coi cái hoa đi Andrê... Và anh, với đôi mắt bò của anh, anh chỉ cảm phục những cái to lớn. Hãy lại đây mà quan sát: nghệ sĩ nào có thể làm những chiếc cúp rất nhẹ, rất hoàn toàn, và trang điểm cho nó bằng những viên hoàng ngọc li ti ở đáy cúp như vầy, và gắn nó vào cuống bằng những cái cộng chạm bạc này, cúi xuống, rất nhẹ nhàng... Đó là một kỳ quan!...”
- Ôi! Bao là thi sĩ đã nổi lên giữa chúng ta! Tôma, cả anh cũng vậy nữa.
- Tôi đâu phải thằng ngu, cũng không phải một đàn bà yếu đuối, anh biết ? Nhưng là một nghệ sĩ, một nghệ sĩ nhậy cảm và tôi tự hào vì vậy. Thầy ơi, Thầy thích chúng không? - Tôma hỏi ý Thầy, vì Người đã nghe hết mà không nói gì.
- Thầy thích hết mọi thứ của việc tạo dựng, nhưng những hoa này là một trong những loại ưu ái của Thầy...
- Tại sao? - nhiều người hỏi. Cùng một lúc Judas hỏi: “Thầy thích cả những con rắn độc?” Và ông cười.
- Cả chúng nữa, chúng cũng hữu ích ...
- Để làm gì? - nhiều người hỏi.
- Để cắn! A!A!A! - Judas nói, và ông cười rất xúc phạm.
- Vậy là anh phải thích nó say mê! - Thađê đối đáp với ông trong khi cắt đứt tiếng cười của ông bằng một câu ám chỉ rất rõ ràng. Bây giờ lại đến những người khác cười vì một cú trả đũa đẹp.
Giêsu không cười, trái lại, Người tái mét và buồn. Người nhìn mười hai vị của Người, đặc biệt là hai đối thủ đang nhìn nhau, một thì với vẻ căm tức, một thì với vẻ nghiêm khắc. Và Người trả lời cho tất cả, trong khi trả lời cho Judas Iscariot cách đặc biệt.
- Nếu Thiên Chúa đã tạo dựng nên nó tức là nó ích lợi. Không có cái gì là hoàn toàn gây thiệt hại trong việc tạo dựng. Chỉ có Đứa Ác là rõ ràng chỉ làm thiệt hại, và khốn cho kẻ nào để cho nó cắn.
194
Một trong những hậu qủa do miếng cắn của nó là làm mất cái khả năng để phân biệt điều lành điều dữ. Đó là sự bẻ quặt của lý lẽ và lương tâm hư hỏng về những điều xấu. Đó là chứng mù siêu nhiên mà vì đó, ôi Judas Simon, người ta không nhìn thấy những rạng ngời của quyền năng Thiên Chúa trong mọi sự, dù là nhỏ mọn. Quyền năng này được ghi khắc trong bông hoa nhỏ này bằng vẻ đẹp của nó, hương thơm của nó, hình dạng rất khác của nó so với các hoa khác, bởi giọt sương lung linh, sáng chói, đeo vào cái lông tơ bóng láng của các cánh hoa nhỏ xíu, trông như một giọt nước mắt biết ơn đối với Đấng Tạo Hóa đã làm nên tất cả, đã làm tất cả cách tài tình, hữu ích và rất khác nhau. Đã chép rằng tất cả đều đẹp đối với cha mẹ đầu tiên cho tới lúc họ có cái vảy của tội lỗi trong mắt... Và tất cả đều nói với họ về Thiên Chúa cho tới khi trên mọi vật, đúng hơn là trên con ngươi của mắt họ bị nhỏ thứ chất độc làm biến dạng khả năng để thấy Thiên Chúa của họ... Ngay hiện nay, Thiên Chúa vẫn còn tỏ mình ra hơn theo đà tâm hồn là vua hơn trong một thụ tạo.
- Salômôn đã ca ngợi những kỳ công của Thiên Chúa, Đavít cũng vậy... Nhưng thưa Thầy, lần này con phải nói rằng tâm hồn họ chắc chắn không phải là vua. Con cho là Thầy sai điều đó.
- Nhưng anh thiếu thận trọng qúa! Làm sao anh dám nói vậy? - Batôlômêo nổi khùng.
- Hãy để anh ta nói... Thầy không kể đến đâu. Đó là những lời mà gió sẽ mang đi. Còn các cỏ cây thì nó không bị gương mù đâu. Chúng ta, chỉ có chúng ta là nghe được, chúng ta biết cho nó cái trọng lượng mà nó đáng chứ, phải không? Và chúng ta đừng nhớ tới nó nữa. Tuổi trẻ thường thiếu suy nghĩ, Batôlômêo ạ. Hãy có tình thương... Nhưng đã có ai hỏi Thầy tại sao Thầy thích các bông huệ nơi thung lũng... Đây là điều Thầy trả lời: “Vì sự khiêm tốn của nó”. Mọi cái nơi nó đều nói lên sự khiêm tốn: những nơi nó thích... dáng điệu của bông hoa... Nó làm Thầy nghĩ tới mẹ Thầy... Bông hoa này... rất nhỏ bé! Nhưng các con coi chỉ có một bông thôi, nó cũng tỏa ra bao hương thơm... Mẹ Thầy cũng vậy: khiêm nhường,
195
thận trọng, không ai biết tới và chỉ xin để đừng ai biết tới... Nhưng hương thơm thánh thiện của mẹ mạnh tới nỗi nó thu hút Thiên Đàng.
- Thầy thấy trong cái hoa này một sự tượng trưng của mẹ Thầy?
- Đúng vậy đó Tôma.
- Và Thầy nghĩ rằng tổ tiên chúng ta, khi ca tụng bông huệ nơi thung lũng, đã có linh cảm như vậy à? - Giacôbê Alphê hỏi. “Trong khi họ so sánh nó với các cây khác và hoa khác như hoa hồng, cây oliu, hoặc với con vật dễ thương như chim cu, chim bồ câu...”
- Mỗi người nói đến cái mà họ thấy là đẹp nhất trong sự tạo dựng và về sự tạo dựng, mẹ thực sự là Đấng Hoàn Toàn Đẹp Đẽ. Nhưng Thầy sẽ gọi mẹ là Bông Huệ nơi thung lũng và cây oliu an bình, nếu Thầy phải cất lời để ca tụng mẹ - và Giêsu tươi tỉnh lại, rạng rỡ khi nghĩ tới mẹ Người, và Người bước hơi cách rời ra với họ để được biệt lập.
Hành trình vẫn tiếp tục, mặc dù sức nóng ban trưa, vì ở đáy thung lũng có nhiều cây liên tiếp che khuất mặt trời.
Sau một lúc, Phêrô dồn bước để bắt kịp Thầy. Ông se sẽ gọi: “Thầy của con!”
- Phêrô của Thầy!
- Con có làm phiền Thầy không nếu con đến với Thầy?
- Không bạn ơi. Con muốn nói với Thầy điều gì mà gấp tới nỗi nó thúc đẩy con đến với Thầy của con?
- Một câu hỏi... Thưa Thầy, con là một người tò mò...
- Rồi sao? - Giêsu mỉm cười nhìn vị tông đồ của Người.
- Và con thích biết rất nhiều điều...
- Phêrô của Thầy, đó là một khuyết điểm.
- Con biết. Nhưng con tin rằng lần này không phải là một khuyết điểm. Nếu con muốn biết một điều không nên biết, một sự tinh ranh để có thể chỉ trích người đã làm, ôi, đó sẽ là một khuyết điểm. Nhưng Thầy đã thấy rằng con không hỏi xem có phải Judas đã là một cái gì đó trong việc gọi Thầy về Béther, và tại sao...
- Nhưng con có sự ước ao nồng nhiệt muốn biết điều đó...
- Vâng, đúng vậy. Nhưng trái lại, đó chẳng phải là một công lớn sao?
196
- Đó là một công lớn, công của kẻ biết trấn át chính mình. Điều này chứng tỏ là người đã làm nó có một cải thiện tốt, đúng đắn về những việc thiêng liêng, một sự hiểu biết và đồng hóa thực sự linh hoạt về những giáo huấn của ông thầy.
- Như vậy, hen? Thầy có bằng lòng không?
- Ôi Phêrô, con còn hỏi Thầy điều đó à? Thầy rất sung sướng.
- Thật à? Đúng vậy sao? Ôi Thầy của con! Vậy là tên Phêrô tội nghiệp của Thầy đã làm cho Thầy vui?
- Ừ, mà con chưa biết sao?
- Con đâu dám tin điều đó. Nhưng hôm qua, thấy Thầy qúa vui, con đã đặt câu hỏi, vì con nghĩ rằng cũng có thể là vì Judas đã nên tốt hơn... mặc dầu con không có bằng cớ... Nhưng con đã nhìn sai việc đó. Gioan đã nói với con rằng Thầy bảo cậu ta rằng Thầy vui vì có một người đã trở nên thánh... Rồi vừa nãy Thầy bảo con rằng Thầy bằng lòng với con vì con trở nên tốt hơn. Bây giờ con biết, kẻ làm cho Thầy vui và sung sướng chính là con, tên Simon tội nghiệp... Nhưng bây giờ con muốn rằng các hy sinh của con biến đổi Judas. Con không ghen đâu. Con chỉ muốn rằng tất cả đều toàn vẹn để làm cho Thầy hoàn toàn sung sướng. Con có thành công điều đó không?
- Hãy tin tưởng, Simon. Hãy tin tưởng và kiên trì.
- Con sẽ như vậy. Chắc chắn là con sẽ làm điều đó, vì Thầy... và cũng vì ông ta. Bởi vì chắc chắn là không vui gì nếu cứ như thế này. Tận đáy lòng, ông ta có thể hầu như là con trai của con. Thực tình con muốn làm cha của Margziam hơn. Nhưng... Con sẽ làm cha của ông bằng cách làm việc để cho ông ta nên một tâm hồn xứng đáng với Thầy.
- Và với con, Simon - và Giêsu cúi xuống để hôn tóc ông.
Phêrô hoàn toàn sung sướng. Sau một lúc, ông hỏi: “Thầy không nói với con điều gì khác à? Không có chuyện hay nào khác sao? Một bông hoa nào đó ở giữa những đám gai mà Thầy gặp ở khắp nơi?”
- Có chứ. Một người bạn của Giuse đã trở về với ánh sáng.
197
- Thực sao? Một nhân viên Đại Pháp Đình à?
- Ừ, nhưng đừng nói. Phải cầu nguyện, chịu đau khổ cho ông ta. Con không hỏi Thầy đó là ai? Con không có tò mò, nhỉ?
- Rất... Nhưng con không hỏi. Một hy sinh cho người không biết này.
- Con được phúc, Simon. Hôm nay con thực sự làm Thầy sung sướng. Cứ tiếp tục như vậy, và Thầy sẽ càng ngày càng yêu con, và Thiên Chúa sẽ càng ngày càng yêu con. Bây giờ chúng ta dừng lại để chờ những người khác...
102* LỄ NGŨ TUẦN TẠI JÊRUSALEM
Thành phố đầy người, Đền Thờ chật ních. Giêsu vào đấy ngay khi Người tới Jêrusalem, và Người vào bằng cửa ở gần hồ nước. Nhưng hầu như lập tức, trước khi người ta kịp nhận ra là Người ở trong thành phố, thì tin tức đã lan ra từ căn nhà các đấng để giỏ xách, rửa ráy bụi bặm và mồ hôi để vào Đền Thờ được sạch sẽ.
Đám đông hỗn tạp, khiếm nhã quen thuộc của các người bán buôn và đổi tiền; chiếc kính vạn hoa thông thường của các mầu sắc, các khuôn mặt.
Giêsu có các tông đồ của Người đi theo. Sau khi đã mua những gì cần thiết cho của lễ, Người liền đi thẳng tới nơi cầu nguyện và ở lại đấy hồi lâu. Đương nhiên là Người bị nhiều kẻ quan sát, tốt cũng như xấu. Và tiếng xì xèo lan đi như gió cùng với tiếng động của gió thổi vào cành cây, qua cái sân mênh mông bên ngoài, nơi người ta dừng lại để cầu nguyện.
Sau khi cầu nguyện, Người quay lưng để trở ra thì đám người càng lúc càng nhiều đi theo Người qua các tiền đình, các hành lang, các sân, cho tới khi trở thành một đám đông, họ bao vây lấy Người và xin Người nói.
- Ôi, các con ơi! Để một lúc khác, tại một nơi khác! - Giêsu nói trong khi giơ tay chúc phúc và tìm cách lánh đi.
Các luật sĩ, pharisiêu, tiến sĩ, và các học trò của họ trà trộn vào đám đông, chế nhạo, nói với nhau những câu nhạo báng như: “Sự thận trọng bắt phải suy nghĩ”, hoặc: “Hắn ta đã tới tuổi biết lý
198
luận”, hay: “Ít ngu hơn ta tưởng...” Nhưng phần lớn, hoặc vì họ biết Người và yêu Người, hoặc vì họ chân thành ước ao biết Người, họ không sợ nói mạnh mẽ: “Vậy ông lấy mất của chúng tôi niềm vui này của ngày lễ: Vị Thầy tốt? Ông không được làm vậy. Nhiều người trong chúng tôi đã hy sinh ở lại để nghe Người...” Và một số làm nín lặng những chế nhạo, hoặc trả lời bằng cùng một giọng điệu cho những kẻ nhạo báng.
Rõ ràng là đám đông sẵn sàng để làm phe đối lập với thiểu số ác ý. Những người này, xảo trá và thâm độc, hiểu điều đó, nên không những họ nín lặng, mà còn tìm cách lảng đi. Có nhiều người ở trong nội khu Đền Thờ không ngại chế nhạo những kẻ lảng đi và quăng cho họ những hình dung từ ít vinh dự. Cũng có những người khác, lớn tuổi hơn, do đó chín chắn hơn, hỏi han Giêsu và nói: “Thầy là người biết cái nơi này, thành phố này, và cả cái nước Israel này sẽ ra sao, vì nó không biết quay về với tiếng nói của Chúa?”
Giêsu nhìn cách thương xót những mái đầu hoa râm hoặc đã hoàn toàn trắng xóa này, và Người trả lời:
- Jêrêmi đã nói với các con những điều sẽ xảy đến cho các kẻ, dưới làn chớp của cơn thịnh nộ Thiên Chúa, đã trả lời bằng cách phạm tội nhiều hơn, coi tình thương của Thiên Chúa là sự yếu đuối của Người, vì người ta không thể chế nhạo Thiên Chúa được. Ôi các con! Giống như Đấng Vĩnh Cửu đã nói bởi miệng Jêrêmi, các con giống như đất sét trong tay thợ gốm. Cũng như đất sét, những kẻ tưởng mình uy quyền; cũng như đất sét, những kẻ sống ở nơi này và những kẻ sống trong lâu đài hoàng gia. Không một sức mạnh nhân loại nào có thể chống lại được với Thiên Chúa. Nếu đất sét chống lại người thợ gốm và muốn có những hình dạng kỳ dị ghê tởm, thì người thợ gốm sẽ hạ cấp cái vật ông muốn phác họa xuống tới cỡ nó chỉ còn là một nắm đất, và ông sẽ nặn lại cái bình của ông cho tới khi nó nhìn nhận là người thợ gốm mạnh hơn nó, và nó nép mình theo ý muốn của ông. Cũng còn có thể xảy ra là cái bình bể ra thành mảnh vụn, vì nó khăng khăng không để cho người ta nặn, vì nó từ chối nước mà người ta đổ vào để có thể nặn mà không nứt.
199
Lúc đó người thợ gốm quăng đất sét ương ngạnh vào thùng rác, những mảnh bể vô ích, phản động trong công việc. Và ông ta lấy đất sét mới, nhào nặn nó, cho nó cái hình dáng mà ông thích nhất.
Có phải vị tiên tri đã nói như vậy trong khi kể tượng trưng về hình ảnh người thợ gốm và chiếc bình đất sét không? Như vậy đó. Và khi nhắc lại lời Chúa, ông nói: “Cũng như đất sét ở trong tay thợ gốm, ôi Israel, ngươi cũng ở trong tay Thiên Chúa như vậy”. Và Chúa nói thêm để cảnh cáo những kẻ ương ngạnh rằng chỉ có sự sám hối và chấp nhận sự quở trách của Thiên Chúa mới có thể thay đổi sắc lệnh về sự trừng phạt của Thiên Chúa đối với dân phản ngụy.
Israel đã không sám hối. Bởi vậy những đe dọa của Thiên Chúa đã đổ xuống trên Israel một lần và mười lần. Cả đến bây giờ Israel vẫn không sám hối. Bây giờ không phải là một tiên tri, nhưng một đấng rất cao cả hơn một tiên tri đã đến với Israel. Thiên Chúa đã có với Israel một tình thương tối cao, và đấng đã sai Thầy bây giờ nói với các con: “Vì các ngươi đã không để tai nghe chính Lời của Ta, Ta sẽ hối hận về điều lành Ta đã làm cho các ngươi, và Ta sẽ chuẩn bị những bất hạnh cho các ngươi”. Và Thầy, Thầy là tình thương, mặc dầu Thầy biết rằng tiếng nói Thầy vang lên cách vô ích, Thầy cũng kêu lên với Israel rằng: Mỗi người hãy từ bỏ con đường xấu, mỗi người hãy chỉnh đốn lại cách sống của mình và các khuynh hướng của mình, để ít nhất, khi chương trình của Thiên Chúa hoàn tất trên dân tộc tội lỗi, thì những con dân tốt nhất của nó, trong sự mất mát hoàn toàn về của cải, tự do, sự đoàn tụ, còn duy trì được tâm hồn tự do đối với tội lỗi, kết hợp với Thiên Chúa, và không bị mất những của cải đời đời như đã bị mất những của cải trái đất.
Các thị kiến của các tiên tri không phải là không có mục đích: mục đích là cảnh giác cho người ta về những điều có thể xảy ra. Điều được nói tượng trưng bằng chiếc bình đất nung bị bể nát trước mặt dân chúng, đó là điều đang chờ đợi các thành và các nước không chịu thuần phục Chúa và...”
200
Các kỳ lão, các luật sĩ, tiến sĩ và pharisiêu lúc trước đã lảng đi, đến báo với lính gác Đền Thờ và các viên chức cao cấp. Một trong số họ, được hộ vệ bởi một nhóm lính hài hước, lính bằng giấy bìa, những tên không có vẻ gì là lính chiến, mà chỉ là các khuôn mặt pha lẫn ngu đần với qủi quyệt, với sự thô lỗ loại khá, để khỏi nói là tàn ác. Chúng đến với Giêsu: ông Thầy đang nói, đứng tì vào một chiếc cột ở hành lang dân ngoại. Người được bao vây bởi một đám đông làm thành ở chung quanh Người một vòng tròn bất khả nhập. Vị viên chức la lên với Giêsu: “Ra khỏi đây đi, nếu không, tôi sẽ bảo lính trục xuất ông ra...”
- Hu! Hu! Bọn nhặng xanh! Anh hùng trên các con chiên! Sao các ông không biết bỏ tù những người đã biến Jêrusalem thành nhà điếm, biến Đền Thờ thành cái chợ? Cút đi! Bọn mặt thỏ, hãy đi vào hang chồn... Hu! Hu! - Đám đông phản động chống lại bọn lính bù nhìn, và họ bộc lộ rõ ràng là họ không muốn người ta nói phạm đến vị Thầy.
- Tôi, tôi vâng lời mệnh lệnh mà tôi đã nhận - tên cầm đầu toán lính gác nói để chữa lỗi.
- Ông vâng lời Satan mà ông không nhận ra. Đi đi. Bây giờ hãy đi và kêu xin tình thương vì đã nói hỗn và đe dọa Thầy. Người ta không được đụng đến Thầy, các ông hiểu không? Các ông là những kẻ áp bức chúng tôi, còn Người là bạn của người nghèo. Các ông là những kẻ trụy lạc, Người là Thầy Chí Thánh của chúng tôi. Các ông là sự hư đi cho chúng tôi, Người là phần rỗi của chúng tôi. Các ông đầy phản trắc, Người đầy nhân từ. Đi khỏi đây đi, nếu không, chúng tôi sẽ làm như Mathatias đã làm ở Modin. Chúng tôi sẽ quăng các ông xuống đáy bờ dốc Moriah giống như từng ấy bàn thờ tà thần. Chúng tôi sẽ quét dọn, rửa sạch nơi bị phàm tục hóa bằng máu của các ông. Chân của Đấng Thánh duy nhất của Israel sẽ bước trên máu này để vào nơi cực thánh và ngự ở đó. Người xứng đáng. Cút đi, các ông và thầy các ông. Cút đi! Các cảnh sát phục vụ cho cảnh sát...
Có một xôn xao sợ sệt... Từ đồn Antonia, các lính gác Rôma
201
chạy tới với một sĩ quan già, nghiêm khắc, mau lẹ.
- Tránh chỗ, bọn đê tiện! Có chuyện gì? Các ngươi đang cắn cấu nhau vì một trong các con chiên ghẻ của các ngươi phải không?
- Chúng làm loạn chống lại các vệ quân - ông viên chức muốn giải thích.
- Lạy Mars (thần chiến tranh) vô địch! Chúng... các vệ quân! A!A! Hãy đi gây chiến với các ổ gián ấy! Các chiến binh của quán ăn! Đến lần các ngươi, nói đi... - ông ta ra lệnh cho đám đông.
- Họ muốn áp đặt cho vị Rabbi Galilê phải nín lặng. Họ muốn đuổi Người, có lẽ muốn bắt Người ...
- Với ông Galilê à? Khỏi tranh biện. Chính bằng ngôn ngữ của Rôma mà tôi nói với các người những lời sỗ sàng. A!A! Hãy về cũi của ông đi, ông và các chó nhỏ của ông nữa. Các chó ngao giữ nhà cũng ở lại trong cũi. Chó sói biết cách xé chúng thành trăm mảnh... Hiểu chưa? Chỉ mình Rôma có quyền xét xử. Và ông Galilê, hãy kể các chuyện ngụ ngôn của ông... A!A! - Rồi tất cả đều quay lại và ra đi với áo giáp sáng loáng dưới mặt trời.
- Đúng hệt như trong Jêrêmi...
- Như trong tất cả các tiên tri. Anh phải nói vậy.
- Nhưng dù sao Thiên Chúa cũng thắng.
- Xin Thầy nói nữa đi. Các rắn độc chạy hết rồi.
- Không. Hãy để Người đi, để các tên chó săn không trở lại với lực lượng mạnh hơn để bắt Người.
- Không nguy hiểm đâu. Bao lâu còn tiếng gầm của sư tử thì các linh cẩu sẽ không ló đầu ra ...
Người ta nói và bình luận giữa một sự lộn xộn vui mắt.
- Qúi vị lầm! - một pharisiêu nói, rất ngọt ngào, bao bọc trong áo khoác của ông, theo sau có mấy mạng cùng loại và mấy tiến sĩ luật: “Qúi vị lầm. Qúi vị không nên tin là tất cả một giai cấp đều toàn là những người giống như vài người thuộc giai cấp đó. Hé! Hé! Cây xấu cây tốt đều có trong mọi loài thảo mộc”.
- Đúng. Qủa vậy, trái sung thường ngọt, nhưng nếu nó còn xanh hay qúa chín, nó sẽ chát hay chua. Các ông thì các ông chua giống
202
như những trái trong thúng trái xấu của Jêrêmi - một người mà tôi không biết, nói tại giữa đám đông. Chắc nhiều người biết ông và ông cũng mạnh thế, vì tôi thấy trong đám đông có những cái nháy mắt, và tôi thấy ông pharisiêu chịu trận, không phản ứng.
Trái lại, còn êm đềm hơn nữa, ông quay về với Thầy và nói với Người: “Thật là một đề tài sáng chói cho sự khôn ngoan của Ngài, ôi Rabbi! Xin Ngài nói cho chúng tôi về đề tài này. Các lời giải thích của Ngài nó rất... mới mẻ... rất ... uyên bác... chúng tôi thưởng thức nó, đói khát và ước ao nó”.
Giêsu nhìn ông pharisiêu vô địch này đăm đăm, rồi Người trả lời ông: “Ôi Elchias, ông cũng có một cái đói khác mà ông không thú nhận, và các bạn ông cũng vậy. Nhưng của ăn này cũng sẽ được ban cho các ông... và còn chua hơn trái sung, nó sẽ làm hư nội tâm của các ông, giống như trái sung hóa chua làm hư nội tạng”.
- Không, thưa Thầy, tôi thề với Thầy nhân danh Thiên Chúa hàng sống! Tôi và các bạn tôi không có cái đói nào ngoài việc muốn nghe Thầy nói... Thiên Chúa nhìn thấy chúng tôi nếu...
- Đủ rồi. Người ngay thẳng không cần thề. Hành động của họ là các lời thề và các chứng nhân. Nhưng tôi sẽ không nói về các trái sung ngon và các trái sung thối...
- Tại sao vậy Thầy? Thầy sợ các sự kiện sẽ xảy ra ngược với các lời giải thích của Thầy à?
- Ồ, không. Trái lại là đàng khác...
- Vậy là Thầy thấy trước cho chúng tôi những khổ não, những nhục nhã, gươm giáo, dịch tễ, đói khát?
- Như vậy và còn hơn nữa.
- Hơn nữa? Và cái gì? Vậy là Thiên Chúa không yêu chúng tôi nữa?
- Người yêu các ông tới nỗi Người đã hoàn thành lời hứa.
- Ông hả? Bởi vì ông là lời hứa?
- Tôi là vậy.
- Vậy khi nào ông thiết lập Nước của ông?
- Nền tảng của Nước ấy đã có rồi.
203
- Đâu? Đâu?
- Trong lòng những người tốt.
- Nhưng đó đâu phải là một nước. Đó là sự truyền thụ giáo thuyết.
- Nước của tôi là Nước Thiêng Liêng, dân của nó là các tâm hồn. Các tâm hồn thì đâu có cần lâu đài, nhà cửa, binh lính, các tường thành, nhưng cần biết Lời Chúa và đem ra thi hành. Đó là điều đang diễn ra nơi các người tốt.
- Nhưng ông có thể nói những lời này sao? Ai cho phép ông?
- Sự chiếm hữu.
- Sự chiếm hữu nào?
- Sự chiếm hữu Lời. Tôi, tôi cho điều tôi là. Kẻ có sự sống có thể cho sự sống. Kẻ có tiền có thể cho tiền. Tôi, tôi có bản chất tự nhiên của tôi là Lời, là cái phiên dịch tư tưởng của Thiên Chúa ra, và tôi ban phát Lời này, bởi vì Tình Yêu thúc đẩy tôi tới ân huệ này để làm cho người ta biết Tư Tưởng của Đấng Tối Cao là Cha tôi.
- Hãy cẩn thận về những gì ông nói! Đó là ngôn ngữ táo bạo. Nó có thể làm hại ông.
- Nói dối sẽ thiệt hại hơn cho tôi, vì như vậy sẽ là làm biến đổi bản tính của tôi, và là từ chối Đấng là nguồn gốc, là khởi nguyên của tôi.
- Vậy ông là Thiên Chúa, Ngôi Lời của Thiên Chúa?
- Tôi là vậy.
- Chính như vậy là điều ông nói trước mặt bấy nhiêu nhân chứng có thể tố cáo?
- Chân Lý không nói dối, Chân Lý không tính toán, Chân Lý thì anh hùng.
- Và điều đó là Chân Lý?
- Chân Lý chính là người đang nói với các ông. Bởi vì Ngôi Lời của Thiên Chúa phiên dịch tư tưởng của Thiên Chúa, và Thiên Chúa là Chân Lý.
Mọi người đều yên lặng lắng tai, chăm chú theo dõi cuộc bàn cãi đã xảy ra không chua cay. Những người khác cũng ào đến từ các nơi khác, và chiếc sân đầy chật ních những người. Hàng mấy
204
trăm khuôn mặt quay về một điểm duy nhất, và cả từ các cửa dẫn từ các sân khác đến sân này cũng đông nghẹt các khuôn mặt, nghển cổ lên để nghe và xem...
Đại Pháp Đình viên Elchias và các bạn ông nhìn nhau... Một kỹ thuật điện thoại thực sự bằng cái nhìn. Nhưng họ kìm hãm, cả đến một ông tiến sĩ hỏi cách lịch sự: “Người ta phải làm gì để tránh những hình phạt mà Thầy tiên đoán?”
- Theo tôi, và hơn nữa, tin vào tôi, và nhất là yêu tôi.
- Thầy là cái bùa may?
- Không. Tôi là Vị Cứu Tinh.
- Nhưng Thầy không có quân đội...
- Tôi có chính tôi. Ông hãy nhớ, tất cả các con hãy nhớ, vì sự lành cho các con, vì thương linh hồn các con, các con hãy nhớ những lời Chúa nói với Môise và Aaron khi họ còn ở bên Ai Cập: “Mỗi người của dân Thiên Chúa hãy bắt một con chiên không tì vết, một con đực một tuổi, mỗi nhà một con. Nếu số người trong nhà không đủ để ăn hết con chiên, thì họ hãy chung với người bên cạnh. Các ngươi sẽ giết con chiên vào ngày mười bốn tháng Abid, mà bây giờ người ta gọi là tháng Nisan, và với máu con chiên bị giết, các ngươi bôi lên thanh đứng và thanh ngang của khung cửa nhà các ngươi. Và tới đêm, các ngươi sẽ ăn thịt chiên nướng trên lửa với bánh không men và rau riếp dại. Chỗ có thể còn thừa, các ngươi hãy đốt hết. Các ngươi sẽ ăn: lưng thắt đai, chân đi giầy, tay cầm gậy và ăn vội vã, vì đó là sự đi qua của Chúa. Trong đêm đó, Ta sẽ đi qua và giết hết các con đầu lòng của người và vật ở trong những nhà không có ghi dấu máu của con chiên”. Ngày nay, trong sự đi qua mới của Chúa, sự đi qua thực sự nhất, vì thực sự Thiên Chúa đi qua giữa chúng ta, hữu hình, dễ dàng để nhận ra các dấu hiệu của Người, Sự Cứu Rỗi sẽ xuống trên những ai được ghi dấu máu con chiên bằng dấu hiệu cứu rỗi. Bởi vì thực sự tất cả sẽ được đánh dấu, nhưng chỉ những ai yêu con chiên và dấu hiệu của Người mới có phần rỗi bởi máu. Còn đối với những người khác, đó sẽ là dấu hiệu của Cain. Các con biết rằng Cain không còn đáng thấy mặt Chúa, và nó không
205
còn bao giờ được nghỉ ngơi. Bị đánh bởi sự hối hận theo dõi nó, bởi hình phạt, bởi Satan, ông chủ độc ác của nó, nó ra đi, lang thang trốn tránh trên mặt đất bao lâu nó còn sống. Một khuôn mặt lớn, rất lớn của dân này sẽ đánh vị Abel mới...
- Êzêkiel cũng nói về chữ thập. Thầy tin rằng dấu chữ thập của Êzêkiel sẽ là dấu hiệu của Thầy?
- Phải. Chính nó đó.
- Vậy là Thầy kết án chúng tôi rằng trong thành Jêrusalem sẽ có những điều gớm ghiếc?
- Tôi muốn chớ gì không thể làm điều đó. Nhưng nó là như vậy.
- Và trong số những kẻ được ghi dấu chữ thập, sẽ không có các tội nhân chứ? Thầy có thể thề điều đó không?
- Tôi không thề cái gì cả, nhưng tôi nói rằng nếu trong số những người được ghi dấu, có những người tội lỗi, thì hình phạt của họ sẽ rất đáng sợ hơn, vì những kẻ gian dâm về thần trí, những kẻ từ chối Thiên Chúa, những kẻ giết Thiên Chúa, họ đã là vậy sau khi đã là môn đệ của Người, họ sẽ là những kẻ lớn nhất trong hỏa ngục.
- Nhưng những kẻ không thể tin được rằng Thầy là Thiên Chúa, họ đâu có phạm tội, họ sẽ được biện minh...
- Không. Nếu các ông không biết tôi, nếu các ông không nhận thấy các việc của tôi, nếu các ông không thể kiểm tra các lời của tôi, thì các ông không có tội. Nếu các ông không phải là bậc thầy của Israel thì các ông không có tội. Nhưng các ông biết Thánh Kinh và các ông nhìn thấy các việc của tôi, các ông có thể đối chiếu. Nếu các ông đối chiếu cách ngay thẳng, các ông sẽ nhìn thấy tôi trong các lời của Sách Thánh, và các ông thấy lời của Sách Thánh trong tôi đã được phiên ra các hành động. Vậy các ông không thể biện minh cho việc không biết tôi và ghét tôi. Có qúa nhiều ghê tởm, qúa nhiều tà thần, qúa nhiều tà dâm tại nơi đáng lẽ chỉ có Thiên Chúa, và trong tất cả mọi nơi có các ông. Sự cứu rỗi hệ tại việc từ bỏ những thứ đó và đón nhận Chân Lý đang nói với các ông. Bởi vậy, ngay tại nơi các ông giết Người hay toan tính giết Người, các ông sẽ bị giết. Và vì lý do đó, các ông sẽ bị xét xử tại
206
biên giới Israel, nơi mà mọi quyền hành loài người sẽ sập xuống, nơi mà chỉ mình Thiên Chúa là thẩm phán của những kẻ Người đã tạo dựng.
- Tại sao Thầy lại nói như vậy? Chúa ơi, Thầy qúa nghiêm khắc.
- Tôi là sự xác thực. Tôi là Ánh Sáng. Ánh Sáng đã được sai đến để soi sáng cho bóng tối, nhưng Ánh Sáng phải được tự do chiếu sáng. Sẽ là vô ích nếu Đấng Tối Cao gởi Ánh Sáng của Người tới, rồi sau đó Ánh Sáng này lại bị đặt vào trong cái hộp. Loài người không làm như vậy khi họ đốt đèn sao? Vì nếu để như vậy thì đốt đèn cũng vô ích. Khi họ thắp nó lên là để nó soi sáng, và để những người vào đó có thể nhìn thấy. Tôi, ở trong căn nhà trái đất của Cha tôi, bị làm cho ra tối tăm, tôi đến để đặt ánh sáng vào đó, để những người ở đó thấy rõ. Và Ánh Sáng soi sáng. Các ông hãy chúc phúc cho nó, nếu trong những luồng sáng rất tinh ròng của nó, nó khám phá ra cho các ông những loài bò sát, những bọ cạp, những cạm bẫy, những màng nhện, những vết nứt trong tường. Chính vì tình yêu với các ông mà nó làm, để cho các ông cách thế biết mình, để làm cho mình lại nên sạch; để xua đuổi những con vật có hại là các đam mê, các tội lỗi, để tự tái thiết trước khi qúa trễ; để các ông nhìn thấy nơi các ông để bàn chân: trên một cái bẫy của Satan, trước khi các ông dấn bước. Nhưng để nhìn thấy thì ngoài ánh sáng tỏ, phải có con mắt tỏ. Ánh sáng không thể chiếu qua một con mắt mà bệnh hoạn đã bao phủ bằng những chất dơ. Hãy rửa mắt các ông: Hãy thanh tẩy tâm hồn các ông để ánh sáng có thể vào trong các ông. Tại sao lại tự hủy trong tối tăm, trong khi Đấng Nhân Từ sai Ánh Sáng cho các ông, và các phương dược để chữa các ông? Chưa qúa trễ đâu. Hãy đến trong những giờ còn lại cho các ông. Hãy đến cùng Ánh Sáng, cùng Chân Lý, cùng Sự Sống. Hãy đến với Đấng Cứu Tinh của qúi vị, Người giơ cánh tay ra cho qúi vị, Người mở con tim ra cho qúi vị, Người năn nỉ qúi vị tiếp nhận Người vì hạnh phúc đời đời của qúi vị.
Giêsu thực sự năn nỉ, đầy tình yêu, loại bỏ hết những gì không phải là tình yêu... Ngay cả những thú hoang dữ dằn nhất, say men
207
thù ghét nhất cũng cảm thấy, và các vũ khí của nó phải thú nhận bị thua, các nọc độc của nó không còn sức mạnh để vọt ra chất độc nữa.
Họ nhìn nhau. Rồi Elchias nói thay cho tất cả: “Thầy đã nói rất hay. Tôi xin Thầy chấp nhận bữa tiệc mà tôi dâng để tôn vinh Thầy”.
- Tôi không xin cái vinh dự nào ngoài cái vinh dự chinh phục được linh hồn qúi vị. Hãy để tôi trong sự nghèo nàn của tôi.
- Thầy không muốn cho tôi cái nhục vì bị từ chối chứ ?
- Không có vấn đề xúc phạm đâu. Hãy để tôi ở với các bạn tôi.
- Nhưng cả họ nữa. Ai có thể nghi ngờ điều đó? Họ cũng cùng với Thầy. Một vinh dự lớn cho nhà tôi! Vinh dự lớn!... Thầy cũng đã đến nhà những người lớn khác, tại sao không đến nhà Elchias?
- Vậy thì... Tôi sẽ đến. Nhưng ông hãy tin chắc rằng trong nơi kín đáo của nhà ông, tôi cũng không thể nói với ông những lời khác với những lời tôi đã nói với ông ở đây, ở giữa dân chúng.
- Tôi không, các bạn tôi cũng không. Có lẽ Thầy nghi ngờ...
Giêsu nhìn ông ta đăm đăm, đăm đăm. Rồi Người nói: “Tôi chỉ nghi ngờ những cái tôi không biết. Nhưng tôi đâu phải không biết những tư tưởng của người ta. Hãy đi về nhà ông... Bình an cho những ai đã nghe Thầy”.
Và ở bên cạnh Elchias, Người ra khỏi Đền Thờ. Các tông đồ theo Người, trà trộn một cách không thiện cảm với các bạn của Elchias.
103* GIÊSU TẠI BỮA TIỆC CỦA
ĐẠI PHÁP ĐÌNH VIÊN VÀ PHARISIÊU
Giêsu vào trong nhà của ông chủ nhà đã mời Ngài, ở hơi xa Đền Thờ, về hướng khu phố ở chân vùng Tophet.
Đây là một căn nhà đầy phẩm cách, hơi khổ hạnh, triệt để hành đạo, cả đến hành đạo qúa lố nữa. Tôi tin rằng cả tới những cái đinh cũng được đóng theo con số và theo vị trí như đã được ghi trong vài điều nào đó trong số sáu trăm mười ba qui lệ. Không một bức tranh
208
nào vẽ trên vải, không một trang trí nào trên tường, không một đồ vật tầm thường nào... những vật nhỏ mà cả trong nhà Giuse, Nicôđêmô và các pharisiêu ở Caphanaum cũng có, để tô điểm cho căn nhà. Mọi nơi trong nhà này đều tỏa ra cái tinh thần của ông chủ nó: Băng gía tới nỗi nó bị lột bỏ hết mọi trang trí. Khổ hạnh trong những đồ đạc mầu tối và nặng, được đẽo vuông như các mộ đá. Một căn nhà xua đuổi, không đón tiếp, nhưng bao vây lấy người vào đó một cách thù hận.
Elchias làm cho lưu ý và ông hãnh diện về nó: “Thầy coi đó, tôi kính cẩn chừng nào? Tất cả đều nói lên như vậy. Coi đây, các màn gió không vẽ vời, bàn ghế không trang điểm, không có gì giống như các bình chạm trổ hay các đèn chùm bắt chước bông hoa. Có đủ thứ, nhưng tất cả đều được chỉnh đốn theo qui luật: ‘Ngươi sẽ không điêu khắc những thứ tượng trưng cho những thứ ở trên trời, ở dưới đất cũng như dưới biển và trong đất’. Đã đúng như vậy trong nhà tôi cũng như trong y phục của tôi và những người ở trong nhà tôi. Ví dụ tôi, tôi không chấp nhận môn đệ của Thầy (Iscariot) về những công việc này trên áo dài cũng như áo khoác. Anh sẽ bảo tôi: ‘Rất nhiều người mặc như vậy’, anh sẽ nói: ‘Đó chỉ là cái hình của Hy Lạp’. Được, nhưng với những góc, những kiểu như vậy, nó nhắc lại qúa nhiều dấu hiệu của Ai Cập. Ghê sợ! Những mật mã của ma qủi, những dấu hiệu của phép chiêu hồn, những cổ tự của Benzêbut. Ôi Judas Simon, những cái đó đâu có cho anh vinh dự khi mang, cũng như cho Thầy là người cho phép”.
Judas trả lời bằng cái cười chua nhẹ nhàng. Giêsu trả lời cách khiêm nhường: “Còn hơn là những dấu hiệu trên y phục, tôi canh chừng những thứ không có dấu hiệu làm cho sợ ở trong con tim. Nhưng tôi sẽ xin, và cả ngay bây giờ, tôi xin người môn đệ của tôi mang những y phục ít trang điểm hơn để không làm gương mù cho ai”.
Judas có một cử động tốt: “Qủa thật, nhiều lần Thầy đã bảo tôi là Người thích sự đơn giản hơn trong y phục của tôi. Nhưng tôi... tôi đã làm cái gì tôi muốn, bởi vì tôi thích mặc như vầy”.
- Cái đó xấu. Rất xấu là một người Galilê cho bài học cho một
209
người Do Thái, và rất xấu đối với anh là người thuộc về Đền Thờ... Ôi! - Elchias tỏ ra rất bị tổn thương, và các bạn ông cũng hợp ca.
Judas mỏi mệt vì phải làm bộ tốt, ông đáp trả: “Ôi! Trong khi có biết bao thứ khoa trương cầu kỳ phải dẹp bỏ, kể cả với các ông, thuộc Đại Pháp Đình! Nếu các ông phải bỏ đi hết các bức tranh che phủ diện mạo tâm hồn các ông thì các ông sẽ có bộ mặt rất buồn”.
- Anh nói sao?
- Nói như một người biết các ông.
- Thầy, Thầy nghe ông ta không?
- Tôi nghe và tôi nói rằng người nọ cũng như người kia, phải có sự khiêm nhường và sự thực ở trong cả hai, và một sự thương cảm hỗ tương. Chỉ mình Thiên Chúa là trọn lành.
- Ôi! Rabbi nói rất đúng! - một trong các người bạn nói... Một giọng nói rụt rè, đơn độc trong nhóm pharisiêu và tiến sĩ.
- Trái lại, nói rất dở đó - Elchias đáp trả. “Sách Đệ Nhị Luật rất rõ ràng trong những nguyền rủa này: ‘Khốn cho những kẻ làm những hình ảnh điêu khắc hay nặn đúc, những đồ ghê tởm, công việc của thợ thủ công và...’”
- Nhưng đây là y phục. Đây không phải là điêu khắc - Judas trả lời.
- Con nín đi, hãy để Thầy con nói. Elchias, ông hãy chính đáng và phân biệt: Khốn cho kẻ làm những tượng thần chứ không phải kẻ vẽ những bức tranh , bắt chước những thứ đẹp mà Đấng Tạo Hóa đặt trong việc sáng tạo. Chúng ta cũng hái hoa để chưng bày đó...
- Tôi, tôi không hái, và tôi không thích nhìn những phòng chưng hoa. Khốn cho đàn bà nào ở trong nhà tôi mà nó phạm tội này, dù trong phòng riêng của nó. Người ta chỉ được cảm phục Thiên Chúa mà thôi.
- Tư tưởng đúng. Một mình Thiên Chúa. Nhưng người ta có thể cảm phục Thiên Chúa cả trong bông hoa khi nhận biết rằng Người là thợ thủ công của bông hoa.
- Không! Không! Ngẫu tượng! Ngẫu tượng giáo!
210
- Judith đã trang điểm, Esther cũng vậy, trong mục đích thánh...
- Đàn bà! Và đàn bà luôn luôn là một tạo vật đáng khinh. Nhưng tôi xin Thầy vào trong phòng tiệc, trong khi tôi lui ra một lát với các bạn tôi.
Giêsu chấp nhận, không bàn cãi.
- Thầy ơi!... Con khó thở qúa!... - Phêrô kêu.
- Tại sao? Anh cảm thấy bệnh à? - một số người hỏi.
- Không. Nhưng không được thoải mái... giống như người bị rơi vào bẫy.
- Đừng băn khoăn, và tất cả hãy rất thận trọng - Giêsu khuyên.
Họ đứng túm lại với nhau cho tới khi người pharisiêu trở lại với các đầy tớ ở sau lưng:
- Xin vào bàn, không chậm trễ. Chúng tôi có một cuộc họp, và chúng tôi không thể trễ - Elchias ra lệnh, và ông chỉ định các chỗ, trong khi các đầy tớ đã chặt thịt xong.
Giêsu ở bên cạnh Elchias, và bên Người là Phêrô. Elchias mời các món ăn, và bữa ăn bắt đầu trong sợ sệt...
Nhưng rồi những lời đầu tiên trao đổi cho nhau, đương nhiên là hướng về Giêsu, vì họ bỏ qua nhóm mười hai và các người khác, coi như họ không có mặt ở đó.
Người đầu tiên đặt câu hỏi là một tiến sĩ luật: “Thưa Thầy, vậy chắc chắn Thầy là, như Thầy nói?”
- Không phải tôi nói bởi miệng tôi. Các tiên tri đã nói từ trước khi tôi ở giữa các ông.
- Các tiên tri!... Thầy từ chối điều chúng tôi là thánh. Thầy có thể coi lời của tôi là đúng không nếu tôi nói rằng các tiên tri của chúng ta có thể là những người bị kích xúc?
- Các tiên tri là các thánh.
- Và chúng tôi thì không, phải không? Nhưng hãy nói: Sophonie đã để các tiên tri vào cùng với các thầy cả khi ông kết án thành Jêrusalem: “Các tiên tri của nó là những kẻ bị kích xúc, những kẻ không đức tin; và các thầy cả của nó đã phàm tục hóa những đồ thánh và vi phạm Lề Luật”. Thầy liên tiếp khiển trách chúng tôi về
211
những điều đó. Nhưng nếu Thầy chấp nhận lời tiên tri trên trong phần thứ hai của câu ông nói, thì Thầy cũng phải chấp nhận nó trong phần thứ nhất, và nhìn nhận rằng người ta không dựa vào các lời được nói bởi một kẻ bị kích xúc.
- Hỡi rabbi của Israel, hãy trả lời tôi đây: Ở mấy dòng sau chỗ đó, Sophonie nói: “Hỡi con gái Sion, hãy hát và hãy vui mừng... Chúa đã rút lại sắc lệnh phạt ngươi... Vị Vua của Israel đang ở giữa ngươi”. Trong lòng ông có chấp nhận những lời này không?
- Chính là sự vinh quang của tôi để nhắc tới những lời này và mơ tới cái ngày này.
- Nhưng đó là những lời của một tiên tri, do đó, một người bị kích xúc...
Vị tiến sĩ luật yên lặng một lúc sững sờ. Một ông bạn tới cứu bồ: “Không ai có thể nghi ngờ là Israel sẽ thống trị. Không phải một, mà là tất cả các tiên tri và các vị tiền-tiên-tri, có nghĩa là các tổ phụ, đều nói lời hứa này của Thiên Chúa”.
- Và không một tiên tri hay tiền-tiên-tri nào thiếu sót trong việc chỉ rõ tôi về những điều tôi là.
- Ồ, tốt. Nhưng chúng ta không có bằng cớ. Ông, có lẽ ông cũng là một kẻ bị kích xúc. Ông cho chúng tôi những bằng cớ nào để chỉ rằng ông là Đức Messi, là Con Thiên Chúa? Hãy cho tôi một kỳ hẹn để tôi có thể phán đoán.
- Tôi không nói với ông về cái chết của tôi như đã được Isaie và Đavít mô tả, nhưng tôi nói với ông về sự sống lại của tôi.
- Ông? Ông? Ông sống lại? Vậy ai làm cho ông sống lại?
- Chắc chắn không phải là các ông, cũng không phải vị giáo chủ, cũng không phải quân vương, cũng không phải quần thần hay dân chúng. Tôi sẽ sống lại bởi chính mình tôi.
- Ôi! Ông Galilê! Đừng phạm thượng, đừng nói dối.
- Tôi chỉ tôn vinh Thiên Chúa và nói sự thật. Và cùng với Sophonie, tôi nói với ông rằng: “Hãy chờ tôi vào lúc tôi sống lại”. Từ đây tới đó, các ông còn có thể nghi ngờ, tất cả các ông còn có thể nghi và truyền nhiễm điều đó cho dân chúng. Nhưng các ông sẽ không thể
212
làm nữa khi Thiên Chúa hằng sống, sau khi đã cứu chuộc, sẽ tự mình mà sống lại để không còn chết nữa. Vị Thẩm Phán không gì có thể đụng tới, vị Vua trọn hảo với vương trượng của Người và sự công bằng của Người, Người sẽ cai trị và phán xét cho tới tận cùng của thời gian, và Người sẽ tiếp tục thống trị đời đời.
- Nhưng ông không biết rằng ông đang nói với tiến sĩ và các nhân viên của Đại Pháp Đình sao? - Elchias nói.
- Và vì vậy thì sao? Các ông hỏi tôi và tôi trả lời các ông. Các ông bày tỏ sự ước ao được biết, tôi minh giải sự thật cho các ông. Ông, vì một hình vẽ trên y phục mà ông nhắc lại sự nguyền rủa của Đệ Nhị Luật, mà ông không muốn tôi làm cho nó tới trong trí khôn lời nguyền rủa khác của sách này rằng: “Khốn cho kẻ đánh tha nhân cách ngấm ngầm kín đáo”.
- Tôi, tôi không đánh ông. Tôi cho ông lương thực.
- Không, nhưng những câu hỏi phỉnh gạt là những cú đập sau lưng. Cẩn thận, Elchias, vì những lời nguyền rủa của Thiên Chúa tiếp tục, và lời mà tôi đã nêu ra đó được tiếp theo bởi câu khác này: “Khốn cho kẻ nào nhận qùa tặng để kết án tử hình một kẻ vô tội”,
- Trong trường hợp này, chính ông nhận qùa tặng: Ông là khách của tôi.
- Tôi, tôi không kết án, kể cả kẻ có tội, nếu nó hối cải.
- Vậy ông không công bằng.
- Không, Người công bằng, vì Người xét rằng sự hối cải đáng được sự tha thứ, vì vậy Người không kết án - người đàn ông đã xác nhận Giêsu đúng lúc ở ngoài tiền đường nói.
- Nhưng mày câm đi Daniel! Mày muốn biết nhiều hơn chúng ta sao? Hay mày bị lôi kéo bởi kẻ mà đối với hắn, còn có nhiều điều phải quyết định, mà hắn chẳng làm gì để giúp chúng ta quyết định có lợi cho hắn - một tiến sĩ nói.
- Tôi biết rằng các ông là những nhà thông thái, còn tôi chỉ là một người Do Thái đơn giản đến nỗi tôi cả đến không biết tại sao các ông lại cứ hay muốn có tôi ở giữa các ông.
213
- Nhưng bởi vì mày là người bà con. Điều đó dễ hiểu mà. Tôi muốn những người vào trong mối liên hệ bà con với tôi thì phải thánh và uyên bác. Tôi không cho phép họ vô tri về những điều có liên can tới sách Thánh, Lề Luật, các Halachah, Midrashim và Hagadah. Tôi không chịu được sự ngu si này. Phải biết hết, thi hành hết...
- Tôi biết ơn ông vì bấy nhiêu săn sóc. Nhưng tôi, một nông dân đơn giản, trở thành bà con của ông một cách bất xứng. Tôi chỉ lo biết sách Thánh và các lời tiên tri để có sự nâng đỡ trong đời tôi thôi. Và với sự đơn sơ của một kẻ không uyên bác, tôi thú nhận với ông rằng tôi nhận ra nơi vị rabbi này, đấng Messi đã được vị Tiền Hô của Người đi trước, và đã chỉ Người cho chúng ta... Mà Gioan thì ông không thể chối được rằng ông ta được chiếm hữu bởi Thánh Linh của Thiên Chúa.
Một yên lặng. Từ chối rằng ông Tẩy Giả không thể sai lầm thì họ không muốn, mà họ cũng không muốn nhìn nhận là ông ta không thể sai lầm.
Lúc đó một ông khác nói: “Nào... Vậy chúng ta hãy cho rằng ông Tiền Hô là vị Tiền Hô của thiên thần này, mà Thiên Chúa đã sai đến để dọn đường cho Đức Kitô. Và chúng ta hãy nhìn nhận là trong ông người Galilê này có sự thánh thiện đủ để có thể cho rằng chính ông là vị thiên thần đó. Đức Messi sẽ đến sau ông ta. Các ông có thấy là tư tưởng của tôi có vẻ giải hòa được cho tất cả không? Elchias, ông có chấp nhận vậy không? Và các bạn tôi? Và ông, ông Nazarét?”
- Không.
- Không.
- Không.
Ba cái không chắc nịch.
- Thế nào? Tại sao qúi vị không chấp nhận?
Elchias nín thinh, các bạn ông cũng yên lặng. Chỉ có mình Giêsu chân thành nên trả lời: “Bởi vì tôi không thể chấp nhận một điều sai lầm. Tôi còn hơn là một thiên thần. Thiên thần chính là ông Tẩy
214
Giả, vị Tiền Hô của Đức Kitô. Còn Đức Kitô chính là tôi”.
Một yên lặng băng gía, kéo dài. Elchias tì cùi chỏ xuống mặt bàn, tựa má lên lòng bàn tay, suy nghĩ, cứng cỏi, khép kín, cũng như mọi người trong nhà.
Giêsu quay nhìn ông và nói: “Elchias! Elchias! Đừng làm đảo lộn lề luật và lời tiên tri với những chuyện tầm phào!”
- Tôi thấy rằng ông đã đọc được tư tưởng của tôi. Nhưng ông không thể chối được rằng ông đã phạm tội khi vi phạm qui luật.
- Cũng như ông, do qủi quyệt, bởi đó đã làm một lỗi lớn hơn. Ông đã vi phạm bổn phận tiếp tân, và ông đã làm việc đó với chủ ý muốn làm. Ông đã làm tôi sao lãng, rồi ông bảo tôi vào đây trong khi ông thanh tẩy với các bạn ông. Rồi khi trở lại, ông đã xin chúng tôi mau lẹ vì lẽ ông có phiên họp... Tất cả những điều đó là để có thể nói với tôi: “Ông đã phạm tội”.
- Ông có thể nhắc nhở bổn phận của tôi để cho các ông đồ gì thanh tẩy.
- Có biết bao điều tôi có thể nhắc nhở ông, nhưng điều đó chỉ giúp ông khăng khăng hơn và hận thù hơn.
- Không. Hãy nói những điều đó đi. Hãy nói đi. Chúng tôi muốn nghe ông và...
- Và tố cáo tôi với thủ lãnh các thầy cả. Chính vì vậy mà tôi nhắc nhở ông lời nguyền rủa chót và áp chót. Tôi biết các ông. Tôi ở đây, giữa các ông, không khí giới; tôi ở đây, tách biệt với đám dân chúng yêu tôi, mà ở trước mặt họ thì các ông không dám tấn công tôi. Nhưng tôi không sợ. Tôi không nhượng bộ những điều làm thiệt hại và tôi không làm những việc hèn nhát. Tôi nói thẳng với các ông về tội lỗi của các ông và của tất cả giai cấp các ông, và của các ông, ôi các pharisiêu, những kẻ chỉ thuần túy giả giữ luật; ôi tiến sĩ, thông thái giả, kẻ lẫn lộn và tự ý pha trộn cái tốt thật với cái tốt giả, những kẻ bó buộc và đòi hỏi người khác những sự vẹn toàn cả đến hết những cái bên ngoài, mà với chính mình thì không đòi hỏi gì cả. Các ông phiền trách tôi, thông đồng với chủ nhà của tôi và của các ông để tôi không được rửa tay trước bữa ăn. Các ông biết rằng tôi
215
từ Đền Thờ tới đây, nơi mà người ta chỉ được tới sau khi đã rửa sạch những dơ bẩn và bụi đường. Vậy các ông muốn thú nhận là nơi thánh đã bị ô uế sao?
- Chúng tôi đã rửa trước khi vào bàn.
- Còn chúng tôi, người ta đã áp đặt: “Đi lại đây, hãy chờ”, rồi sau đó: “Xin vào bàn, không chậm trễ”. Giữa các bức tường không đeo các tranh vẽ của ông, có một bức tranh: đánh lừa tôi. Bàn tay nào đã viết điều đó lên các bức tường: một lý do có thể kết án? Thần trí ông hay một thần trí mạnh khác đã hướng dẫn nó và ông nghe theo? Vậy tất cả hãy nghe đây.
Giêsu đứng dậy, tì tay vào mép bàn, Người bắt đầu xỉ vả: “Các ông, các pharisiêu, các ông rửa bên ngoài ly chén, các ông rửa tay chân, làm như ly chén và chân tay có thể đi vào tâm hồn các ông mà các ông muốn công bố là trong sạch và trọn lành. Nhưng không phải các ông, mà là Thiên Chúa là đấng phải công bố điều đó. Hãy biết cho rõ Thiên Chúa nghĩ về tâm hồn các ông thế nào: Người nghĩ rằng nó đầy gian trá, dơ bẩn, tàn nhẫn, độc ác, và không có gì từ bên ngoài vào có thể làm hư hỏng cái đã hư thối rồi”.
Người nhấc bàn tay phải lên khỏi bàn và vô tình làm các cử điệu trong khi tiếp tục: “Nhưng đấng đã tạo tác nên tâm hồn các ông cũng như đã dựng nên thân xác các ông, Người không thể đòi hỏi, ít nhất là với mức độ tương đương, sự kính trọng cho nội tâm như các ông có đối với ngoại diện sao? Ôi! Những kẻ ngu dại, đã thay đổi hai giá trị và đảo ngược tầm quan trọng. Phải chăng Đấng Tối Cao đã không muốn một sự chăm lo ân cần hơn cho tâm hồn, cái mà Người đã tạo dựng nên giông giống như Người, cái mà sự hư hỏng có thể làm mất sự sống vĩnh cửu, hơn là lo cho chân tay, cái mà sự dơ bẩn có thể được rửa đi dễ dàng, cái mà dù nó có dơ, cũng chẳng ảnh hưởng gì tới sự trong sạch nội tâm? Và phải chăng Thiên Chúa bận tâm tới sự sạch sẽ của chén, mâm, là những thứ không có linh hồn và không thể có một ảnh hưởng tới linh hồn sao?
Tôi đọc được tư tưởng của ông, Simon Boetos. Không, nó không quan trọng. Không phải vì lo cho sức khỏe, vì lo bảo vệ cho thân
216
xác và đời sống mà các ông thực hành những việc tẩy rửa này. Các tội lỗi về xác thịt, và cả các tội về tham ăn, về sự qúa độ, về dâm đãng, còn có hại cho thân xác hơn một chút bụi trên tay hay trên đĩa, nhưng các ông thực hành những thứ đó mà không lo bảo vệ mạng sống mình và gìn giữ gia đình của các ông. Các ông phạm tội đủ loại, vì ngoài việc làm ô uế tâm hồn và thân xác, phí phạm bản thể, thiếu kính trọng những người thuộc về các ông, các ông còn xúc phạm đến Chúa bởi việc tục hóa thân xác các ông, đền thờ của tâm hồn, nơi phải có ngai của Thánh Linh. Và các ông cũng xúc phạm đến Chúa bởi tội mà các ông phạm khi nghĩ rằng các ông làm vậy để bảo vệ thân xác cho khỏi những bệnh hoạn gây ra bởi một chút bụi, làm như Thiên Chúa không thể can thiệp để bảo vệ các ông cho khỏi những bệnh nạn về thể xác, nếu các ông chạy đến cùng Người với tâm hồn trong sạch.
Nhưng đấng đã tạo dựng nên nội tâm đã chẳng tạo nên ngoại diện, và đảo lại, sao? Và nội tâm chẳng phải là cái qúi phái hơn, mang dấu vết hình ảnh của Thiên Chúa hơn sao?
Vậy hãy làm các việc sao cho xứng đáng với Thiên Chúa, không phải những cái bủn xỉn, không cao hơn bụi đất mà từ đó nó được làm ra, từ cái bụi đất tội nghiệp là con người, được coi là tạo vật sinh vật, nắm bùn được nhận một hình thể, lại trở về bụi đất mà gió của các thế kỷ thổi bay và phân tán đi. Hãy làm những gì sẽ tồn tại mãi, là những công việc oai phong và thánh thiện, những việc được đội triều thiên bằng phúc lành của Thiên Chúa. Hãy làm các việc bác ái, hãy bố thí, hãy ngay thẳng, trong sạch trong công việc và trong ý hướng. Như vậy, không cần phải có nước thanh tẩy, tất cả cũng sẽ được trong sạch nơi các ông.
Nhưng các ông tin mình là gì? Các ông hợp lệ vì các ông trả thập phân trên các hàng gia vị ư ? Không. Khốn cho các ông, ôi pharisiêu! Các ông trả thuế thập phân về cây bạc hà và cây vân hương, về cải cay và thì là, về cây hồi hương và các thứ cỏ khác, nhưng rồi các ông lơ là sự công bằng và tình yêu Thiên Chúa. Trả thuế thập phân là một bổn phận và phải thi hành, nhưng có những bổn phận cao
217
qúi hơn, cũng phải làm trọn. Khốn cho những kẻ chỉ giữ những cái ở bên ngoài mà chểnh mảng những điều nội tâm dựa trên tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Khốn cho các ông, pharisiêu, các ông thích những chỗ nhất trong giáo đường và trong các hội nghị, thích được tôn kính tại các công trường, mà không nghĩ tới làm những việc có thể tạo cho các ông một chỗ trên trời, và đáng được các thiên thần trọng kính. Các ông giống như các mồ mả đậy kín, kẻ qua lại không nhận ra và không cảm thấy ghê tởm, nhưng ghê tởm chừng nào nếu họ nhìn thấy những gì che giấu ở bên trong. Nhưng Thiên Chúa nhìn thấy mọi sự, dù những thứ kín ẩn nhất, và Người không lầm khi xét xử các ông”.
Người bị gián đoạn bởi một ông tiến sĩ luật. Ông này đứng đậy để phản đối người: “Thưa Thầy, Thầy nói vậy là xúc phạm đến cả chúng tôi nữa. Và điều đó không thuận lợi cho Thầy, vì rồi chúng tôi sẽ phải xét xử Thầy”.
- Không, không phải các ông. Các ông không thể xét xử tôi. Các ông là những kẻ bị xét xử chứ không phải những người xét xử. Và đấng xét xử các ông là Thiên Chúa. Các ông có thể nói, phát ra những âm trên môi. Nhưng dù một tiếng nói mạnh nhất cũng không lên được tới trời, và không thể lan đi khắp trái đất. Sau một chút không gian, sẽ là yên lặng... và sau một chút thời gian, sẽ là sự quên lãng. Nhưng sự phán xét của Thiên Chúa sẽ là tiếng nói tồn tại, không bị quên lãng. Đã từng bao thế kỷ và bao thế kỷ qua đi kể từ khi Thiên Chúa xét xử Lucifer và xét xử Ađam, nhưng tiếng nói của sự tuyên án này không tắt, và hậu qủa của án này tồn tại. Nếu ngày nay tôi đến mang Ân Sủng cho loài người qua trung gian của Sự Hy Sinh toàn vẹn, sự xét xử về hành động của Ađam vẫn tồn tại như vậy, và nó sẽ mãi mãi bị gọi là “Tội Nguyên Tổ”. Loài người sẽ được cứu chuộc, được rửa sạch bởi một sự thanh tẩy cao hơn mọi thứ thanh tẩy khác, nhưng mọi người vẫn sinh ra với dấu vết này, vì Thiên Chúa đã xét xử rằng dấu vết này phải hiện hữu trên mọi người sinh ra bởi phụ nữ, ngoại trừ đấng được thụ thai không bởi công việc của đàn ông, nhưng bởi Thánh Linh; Người Nữ được bảo
218
vệ và Người nam được tiền thánh hóa, các vị đồng trinh trọn đời. Người Nữ là để có thể làm Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, người nam là để có thể làm Tiền Hô cho Đấng Vô Tội, sinh ra đã hoàn toàn trong sạch nhờ hậu qủa được hưởng trước từ công nghiệp vô tận của Vị Cứu Tinh Cứu Thế.
Và tôi, tôi nói với các ông rằng Thiên Chúa xét xử các ông, và Người xử các ông khi nói rằng: “Khốn cho các ngươi, các tiến sĩ luật, vì các ngươi chất trên người khác những gánh nặng họ không thể mang, khi biến mười điều răn đầy tình phụ tử mà Đấng Tối Cao đã ra cho dân Người, thành một hình phạt”. Chính với tình yêu và bởi tình yêu, Người đã ban nó để giúp đỡ bằng một hướng dẫn chính đáng cho con người: các đứa trẻ muôn thuở, kém thận trọng và dốt nát. Và các ông, thay vì cái đai mà nhờ đó, Thiên Chúa nâng đỡ cách yêu thương các tạo vật của Người để giúp nó tiến bước trên đường đi vào lòng Người, thì các ông lại thay nó bằng các trái núi đá sắc nhọn, nặng nề, dễ sợ; một đường dài quanh co khúc khửu của các qui tắc, một cơn ác mộng của các điều nhỏ mọn, nó đè bẹp con người, làm cho họ lạc đường, ngăn chặn họ, làm cho họ sợ Thiên Chúa như một kẻ thù. Các ông đã đặt các trở ngại trên đường về với Thiên Chúa của các tâm hồn. Các ông chia cách người cha với con cái ông. Bằng các gánh nặng chồng chất của các ông, các ông đã chối bỏ tình phụ tử thực sự rất êm đềm, rất có phúc này. Nhưng các ông, về phần các ông, những gánh nặng mà các ông áp đặt cho người khác, các ông lại không đụng đến, dù chỉ với một đầu ngón tay. Các ông tưởng mình được biện minh chỉ vì đã áp đặt nó. Nhưng ôi, ngu muội! Các ông không biết rằng các ông sẽ bị xét xử về những gì các ông xét là cần để được cứu sao? Các ông không biết rằng Thiên Chúa sẽ nói với các ông: “Các ngươi nói rằng lời của các ngươi là thánh, rằng nó chính đáng, vậy Ta cũng vậy, Ta coi nó đúng như thế. Và bởi vì các ngươi đã áp đặt nó cho mọi người, và các ngươi xét xử anh em các ngươi theo cách thế họ tiếp nhận và thi hành nó. Vậy Ta, Ta xét xử dựa theo lời các ngươi. Và vì các ngươi đã không làm các điều các ngươi nói là phải làm,
219
vậy các ngươi bị phạt”.
Khốn cho các ông! Các ông xây cất mồ mả các tiên tri mà tổ tiên các ông đã giết. Sao? Các ông nghĩ rằng nhờ đó các ông giảm bớt được sức nặng của tội lỗi cha ông, hủy bỏ nó trước mắt con cháu ư ? Không. Trái lại, các ông minh chứng rằng cha ông các ông đã làm những việc này. Không những vậy, các ông còn chấp nhận nó, sẵn sàng để bắt chước bằng cách xây cất mồ mả cho vị tiên tri bị giết để có thể nói: chúng tôi đã tôn kính Người. Giả hình chừng nào! Chính vì đó mà Đấng Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã nói: “Ta đã sai đến với chúng các tiên tri và các tông đồ, nhưng chúng đã giết một số, bách hại số còn lại, để người ta có thể đòi ở thế hệ này, máu của tất cả các tiên tri, từ máu Abel tới máu của Zacari, bị giết giữa bàn thờ và chính điện”. Đúng, thật vậy, thật vậy, tôi bảo các ông là tất cả những máu này của các thánh sẽ đòi được tính đến với thế hệ này, những kẻ không biết nhìn nhận Thiên Chúa, bách hại kẻ công chính để đâm thủng trái tim Người, vì kẻ công chính là sự đối kháng sống động với sự bất chính của họ.
Khốn cho các ông, các tiến sĩ luật! Các ông cướp lấy chìa khóa của kiến thức và khóa đền đài của nó lại để không vào đó, để khỏi bị xét xử, mà các ông cũng không cho người khác vào. Quả vậy, các ông biết rằng nếu dân chúng được dạy khoa học thực sự, tức là khoa học thánh, thì họ có thể xét xử các ông. Bởi đó các ông muốn cho họ ngu si để họ không xét đoán các ông. Và các ông ghét tôi, vì tôi là Lời Khôn Ngoan, và các ông muốn nhốt tôi trong tù và trong mồ trước thời hạn, để tôi không nói nữa.
Nhưng tôi sẽ nói bao lâu Cha tôi còn vui lòng vì tôi nói. Rồi sau đó, các việc của tôi sẽ nói nhiều hơn các lời tôi, và các công nghiệp của tôi sẽ nói nhiều hơn các việc làm của tôi, và thế giới sẽ được giáo huấn và họ sẽ biết, và họ sẽ xét xử các ông. Sự xét xử đầu tiên trên các ông xong rồi, sẽ đến sự xét xử thứ hai, sự xét xử riêng cho mỗi người trong các ông vào lúc chết, và sau cùng, sự phán xét chung. Các ông sẽ nhớ lại ngày hôm nay, những ngày này. Và các ông, một mình các ông sẽ biết vị Thiên Chúa kinh khủng mà các
220
ông bị bó buộc phải run sợ như nhìn thấy trong cơn ác mộng, trước mặt các tâm hồn đơn sơ, trong khi các ông, trong ngôi mộ của các ông, các ông đã nhạo báng Người và giới răn thứ nhất và chính yếu: giới răn tình yêu, điều sau cùng được ban trên núi Sinai mà các ông không kính trọng, không vâng lời.
Ôi Elchias, chẳng ích lợi gì khi ông không có những trang hoàng trong nhà ông. Ôi tất cả các ông! Chẳng ích lợi gì khi các ông không có những vật điêu khắc trong nhà các ông. Các ông có nhiều tượng tà thần, rất nhiều tượng tà thần ở trong tim các ông, những thứ mà các ông cho là các thiên chúa, các tượng thần dâm ô của các ông. Nào, những người khác, chúng ta đi.
Rồi để các tông đồ đi trước, Người ra sau cùng.
Một yên lặng...
Rồi những người ở lại phát ra một tiếng kêu lớn và đồng loạt nói: “Phải theo dõi hắn ta, tìm các khuyết điểm, tìm những đối tượng để kết án. Phải giết hắn!”
Một yên lặng nữa.
Rồi với một tràng cười chế diễu, Elchias nói: “Phải cho Judas Simon làm việc”.
- Tốt, ý kiến hay. Nhưng anh đã xúc phạm tới hắn ta...
- Tôi, tôi đã nghĩ tới đó - Người mà Giêsu gọi tên là Simon Buetos , nói. “Tôi với Êlêazar con Anna... chúng tôi sẽ đi thuyết dụ hắn...”
- Có hơi hứa hẹn...
- Có hơi sợ...
- Thật nhiều tiền...
- Không, không nhiều... Các lời hứa, các lời hứa thật nhiều tiền...
- Và rồi?
- Cái gì và rồi?
- Rồi, hé! Tất cả chấm dứt, chúng ta sẽ cho hắn cái gì?
- Nhưng, không gì cả! Cái chết. Như vậy... Hắn sẽ không nói ra nữa - Elchias nói nhẩn nha một cách độc ác.
- Hu! Cái chết...
221
- Anh sợ à? Nhưng này, nếu chúng ta giết tên Nazarét là kẻ... là kẻ công chính, chúng ta cũng có thể giết Judas là kẻ tội lỗi...
Có những ngập ngừng...
Nhưng Elchias đứng dậy và nói: “Chúng ta cũng sẽ hỏi ý kiến Anna... Và các bạn sẽ thấy ông nói... rằng ý kiến hay. Và các bạn cũng sẽ tới... Ôi! Các bạn sẽ tới đó”.
Tất cả đều đi ra sau lưng chủ nhà khi ông đi ra và nói: “Các bạn sẽ tới đó... Các bạn sẽ tới đó”.
104* TẠI BÊTANI
Hoàng hôn nhuộm đỏ bầu trời khi Giêsu tới Bêtani, ướt đẫm mồ hôi, phủ đầy bụi. Các người của Ngài theo sau. Chỉ có Giêsu và các tông đồ là coi thường cái lò lửa của con đường rất ít bóng cây này. Nó tiếp tục núi Oliu, dẫn về tới tận sườn dốc của Bêtani. Mùa hè làm phát điên, nhưng sự thù ghét còn điên hơn. Các cánh đồng trần trụi và cháy nóng là cái lò tỏa ra hơi lửa. Nhưng linh hồn của những kẻ thù hằn với Giêsu còn trần trụi hơn. Tôi không nói chỉ về tình yêu, mà còn về thật thà, về tình cảm luân lý dù là nhân loại. Chúng bị thiêu đốt bởi thù hận... Chỉ có một căn nhà, một nơi trú ngụ cho Giêsu: Bêtani. Ở đó là tình yêu, sự nâng đỡ, bảo vệ, trung thành... Đấng Thánh hành hương bị bách hại tiến về đó trong y phục trắng, khuôn mặt người đau khổ, bước chân mỏi mệt của một kẻ không thể dừng lại vì kẻ thù đâm ở sau lưng; cái nhìn nhẫn nhục của kẻ đã chiêm niệm cái chết đang đến gần qua mỗi giờ, mỗi bước đi mà Người đã chấp nhận vì vâng lời Thiên Chúa...
Ở giữa khu vườn mênh mông, căn nhà hoàn toàn đóng kín, câm lặng trong sự chờ đợi những giờ mát hơn. Khu vườn cũng trống trải và yên lặng, chỉ có mặt trời là chủ ngự trị ở đó.
Tôma gọi một tiếng bằng cái giọng bình của ông.
Tấm màn gió di chuyển, một khuôn mặt liều phí một cái nhìn... Rồi một tiếng kêu: “Thầy!” Các đầy tớ chạy ra ngoài, các cô chủ
222
theo sau, đầy ngạc nhiên. Chắc chắn họ không chờ Giêsu vào cái giờ lửa đốt này.
“Raboni!”, “Chúa của con!” Maria và Matta chào từ xa, đã cúi lưng, sẵn sàng để qùi, điều các cô làm ngay khi cổng mở. Giêsu không còn xa các cô nữa.
- Matta, Maria, bình an cho các con và nhà các con.
- Bình an cho Thầy, Thầy và Chúa... Nhưng làm sao lại vào giờ này? - hai cô hỏi trong khi bảo các đầy tớ đi khỏi để Giêsu được nói tự do.
- Để thân xác và tâm hồn Thầy được nghỉ ngơi tại nơi không có sự thù ghét - Giêsu nói cách rầu rĩ trong khi giơ tay ra như muốn nói: “Các con có muốn Thầy không?” Người cố gắng cười, nhưng đó là nụ cười thật buồn vì bị các con mắt đau đớn cải chính,
- Họ đã làm khổ Thầy? - Maria bồn chồn hỏi.
- Có chuyện gì vậy? - Matta hỏi như người mẹ, và cô thêm: “Vào đây đi. Con sẽ biếu Thầy cái gì để bồi dưỡng, Thầy đã đi bộ từ hồi nào đến nỗi mệt như vầy?”
- Từ bình minh... Và Thầy có thể nói là một cách liên tục, vì quãng dừng chân vắn tại nhà Elchias , nhân viên Đại Pháp Đình, thì còn tệ hơn một con đường dài.
- Họ đã chất vấn Thầy?...
- Ừ, trước hết là ở Đền Thờ...
- Nhưng sao Thầy lại vào nhà con rắn độc này? - Maria hỏi.
- Bởi vì việc không đến có thể dùng để biện minh cho sự thù ghét của ông ta. Ông ta có thể kết án Thầy là khinh dể các nhân viên Đại Pháp Đình. Nhưng từ nay, dù Thầy vào đấy hay không vào đấy thì mức độ thù ghét của các pharisiêu cũng tràn đầy rồi... Không còn ngưng nghỉ nữa...
- Chúng con ở đây. Xin Thầy ở lại với chúng con. Ở đây, chúng sẽ không thể làm hại Thầy được...
- Thầy sẽ thiếu sót đối với sứ mạng của Thầy. Rất nhiều linh hồn chờ Vị Cứu Tinh của họ. Thầy phải đi...
- Nhưng chúng sẽ ngăn cản Thầy đi!
223
- Không. Chúng bách hại Thầy bằng cách làm cho Thầy đi để dò xét từng bước chân Thầy, làm cho Thầy nói để nghiên cứu từng lời của Thầy, bằng cách canh chừng Thầy như con chó săn theo dõi con mồi để... có được điều gì có vẻ như một lỗi... và tất cả sẽ được dùng...
Matta luôn luôn thận trọng, nhưng bà cảm thấy qúa thương hại tới nỗi bà giơ tay như muốn vuốt ve đôi má gầy. Nhưng rồi bà dừng lại, đỏ mặt và nói: “Xin lỗi. Thầy làm con thấy khổ giống như Lazarô của chúng con làm. Xin Thầy tha cho con vì đã yêu Thầy như người anh đau khổ!”
- Thầy là người anh đau khổ. Hãy yêu Thầy với tình yêu tinh ròng của người chị... Nhưng Lazarô, anh ấy làm gì?
- Lạy Chúa, anh ấy hao mòn... - Maria trả lời. Và cô để cho nước mắt được tự do, vì nó đã làm cay mắt cô do sự công nhận này kết hợp với nỗi khổ bởi thấy Thầy cô đau khổ như vậy.
- Đừng khóc, Maria. Đừng khóc cho anh ấy cũng như cho Thầy. Chúng ta làm theo ý muốn Thiên Chúa. Người ta phải khóc cho những kẻ không biết làm theo ý muốn này.
Maria cúi xuống cầm bàn tay Giêsu và hôn lên các đầu ngón tay.
Trong lúc đó, họ đã tới nhà, họ vào và đến với Lazarô ngay, trong khi các tông đồ nghỉ ngơi và giải khát bằng những thứ mà các đầy tớ mang đến cho họ.
Giêsu cúi xuống trên Lazarô. Ông hốc hác, càng ngày càng hốc hác. Người ôm hôn ông để an ủi nỗi buồn của bạn Người.
- Thầy! Thầy yêu con chừng nào! Thầy đã chẳng đợi buổi chiều để đến với con, bất kể cái nóng này...
- Bạn Thầy! Thầy hưởng con và con hưởng Thầy. Mọi thứ khác chỉ là không.
- Thực vậy, chỉ là không, kể cả cái đau đớn cũng chỉ là không đối với con... Bây giờ con biết tại sao con chịu đựng, và những gì con có thể với sự chịu đựng của con - và Lazarô mỉm một nụ cười thân thiết siêu nhiên.
224
- Như vậy đó Thầy. Người ta nói rằng anh Lazarô của con hầu như thấy niềm vui trong bệnh tật và...- một cái nấc bẻ gẫy tiếng nói của Matta và bà nín lặng.
- Đúng rồi. Hãy nói cách đơn giản: và cái chết. Thầy ơi, xin Thầy nói với các em con rằng các em phải giúp con như các người Lêvi làm bên cạnh các thầy cả.
- Làm gì, bạn Thầy?
- Tiêu thụ Lễ Hy Sinh.
- Nhưng mới trước đây ít lâu, cái chết đã làm anh run sợ. Vậy anh không yêu chúng em nữa sao? Anh không yêu Thầy nữa sao? Anh không muốn phục vụ Người nữa sao? - Maria hỏi ông với nhiều sức mạnh, nhưng cô tái mét vì buồn, và cô vuốt ve bàn tay vàng vọt của anh cô.
- Và ngay chính em lại hỏi anh vậy? Em, một tâm hồn hăng hái và quảng đại? Anh chẳng phải anh của em sao? Anh chẳng có cùng dòng máu và cùng một tình yêu như em: Giêsu, các linh hồn, và các em, các em gái yêu của anh sao?... Nhưng từ hôm lễ Vượt Qua, tâm hồn anh đã đón nhận một lời vĩ đại, và anh thích chết. Lạy Chúa, con dâng cái chết của con cho Chúa với ý chỉ của chính Chúa.
- Và con không xin Thầy chữa bệnh cho con nữa?
- Không, Raboni. Con xin Thầy phúc lành để biết chịu đựng và... chết... và, nếu không là xin qúa nhiều thì, và cứu chuộc... Chính Thầy đã nói vậy...
- Thầy đã nói vậy, và Thầy chúc lành cho con để cho con tất cả sức mạnh - và Người đặt tay trên ông, rồi hôn ông.
- Chúng ta ở lại với nhau, và Thầy sẽ dạy bảo con...
- Lazarô, bây giờ thì không. Thầy không ở lại. Thầy chỉ đến trong vài giờ. Thầy sẽ ra đi về đêm.
- Nhưng tại sao? - ba người cùng hỏi, thất vọng.
- Bởi vì Thầy không thể ở lại... Thầy sẽ đến vào mùa thu. Và khi đó, Thầy sẽ ở lại lâu... Thầy sẽ hoạt động nhiều ở đây và các vùng chung quanh...
225
Một yên lặng buồn. Rồi Matta xin: “Vậy ít nhất, xin Thầy hãy nghỉ để lấy lại sức...”
- Không có gì củng cố cho Thầy hơn là tình yêu của các con. Hãy để các tông đồ của Thầy nghỉ, và để Thầy ở lại đây với các con như vầy, trong bình an...
Matta đi ra trong khi khóc, rồi trở lại với một ly sữa lạnh và trái cây mới hái...
- Các tông đồ đã ăn, và vì mệt mỏi, họ đã ngủ. Thầy của con! Thực tình Thầy không muốn nghỉ à?
- Đừng năn nỉ, Matta. Khi bình minh còn chưa tới thì họ sẽ tới tìm Thầy ở đây, ở Gétsêmani, trong nhà Jeanne, trong tất cả các nhà hiếu khách của Thầy. Nhưng tới lúc rạng đông thì Thầy đã ở xa rồi.
- Thầy sẽ đi đâu? - Lazarô hỏi.
- Về Jêricô, nhưng không đi con đường thông thường... Thầy sẽ đi vòng xuống Técua, rồi Thầy trở lên Jêricô.
- Con đường đó rất nặng nề về mùa này - Matta thì thầm.
- Chính vì vậy nên nó vắng vẻ. Chúng ta sẽ đi đêm. Đêm rất sáng, kể cả trước khi trăng lên... Và rạng đông đến sớm...
- Rồi sau đó? - Maria hỏi.
- Rồi qua bên kia sông Giođan. Tới chỗ phía bắc Samari, Thầy sẽ qua sông để đi bờ lối đó.
- Hãy về Nazarét mau đi. Thầy mệt lắm rồi... - Lazarô nói.
- Trước đó, Thầy còn phải ra bờ biển... Rồi... Thầy sẽ đi Galilê. Nhưng cả ở đó, họ cũng bách hại Thầy...
- Thầy sẽ luôn luôn có mẹ Thầy để an ủi Thầy - Matta nói.
- Ừ, người má tội nghiệp của Thầy!
- Thưa Thầy, Magđala thuộc về Thầy. Thầy biết đó - Maria nhắc nhở Người.
- Maria, Thầy biết. Thầy biết tất cả điều xấu và điều tốt...
- Chia tay như vầy... Qúa lâu! Con còn tìm lại được Thầy khi còn sống không?
- Đừng nghi ngờ điều đó. Đừng khóc... Phải làm quen cả với sự
226
chia tay. Nó hữu ích để chứng tỏ sức mạnh của tình yêu. Người ta hiểu các con tim hơn bằng cách nhìn nó với con mắt siêu nhiên, từ xa. Khi không còn được lôi kéo bởi niềm vui con người, bởi sự hiện diện của người yêu, người ta có thể suy niệm về tinh thần của họ, tình yêu của họ... Người ta hiểu hơn cái tôi của kẻ ở xa... Thầy, Thầy chắc chắn rằng khi nghĩ đến Thầy các con, các con hiểu Người hơn khi các con nhìn thấy và chiêm ngắm các việc của Thầy, tình yêu của Thầy trong bình an.
- Ôi! Thưa Thầy, nhưng chúng con, chúng con đâu có nghi ngờ gì về Thầy!
- Thầy cũng không nghi ngờ gì về các con. Thầy biết. Nhưng các con sẽ biết Thầy hơn. Thầy không bảo các con yêu Thầy, vì Thầy biết con tim các con. Thầy chỉ bảo các con: Hãy cầu nguyện cho Thầy.
Cả ba người đều khóc... Giêsu rất buồn!... Làm sao có thể không khóc được?
- Các con muốn gì? Thiên Chúa đã gởi tình yêu vào giữa loài người, nhưng loài người đã thay thế thù ghét vào đó... Và sự thù ghét chia rẽ, không những chỉ các kẻ thù nghịch với nhau, mà nó còn len lỏi vào để phân rẽ các bạn hữu nữa.
Một yên lặng dài. Rồi Lazarô nói:
- Thầy ơi, hãy rời khỏi Palestin một thời gian đi...
- Không. Chỗ của Thầy là ở đây, để sống, để giảng Tin Mừng và để chết.
- Nhưng Thầy cũng đã cung cấp sự an toàn cho Gioan và cô Hy Lạp. Thầy hãy tới đó với họ.
- Không. Họ thì phải cứu họ. Thầy thì Thầy phải cứu. Sự khác nhau đó giải thích tất cả. Bàn thờ là đây, và đây là tòa giảng. Thầy không thể đi nơi khác. Ngoài ra... Các con nghĩ rằng việc đó sẽ thay đổi những gì đã được quyết định sao? Không, không thay đổi gì dưới đất cũng như trên trời. Điều đó chỉ làm tối đen vẻ siêu nhiên tinh tuyền của dung nhan Đấng Messi. Thầy sẽ là kẻ hèn, chạy trốn để thoát thân. Thầy phải làm gương cho những người bây
227
giờ và những người sẽ đến sau này rằng: Trong những việc về Thiên Chúa, những việc thánh, thì không được hèn...
- Thầy có lý - Lazarô thở dài.
Và Matta nói khi hé mở màn gió: “Thầy có lý... Tối rồi. Hết mặt trời rồi...”
Maria bắt đầu khóc cách lo âu, tựa như lời nói này làm tan sức mạnh tinh thần của cô, làm cho tiếng khóc chỉ còn là những nước mắt lặng lẽ. Đó là những nước mắt xé lòng hơn là những giọt tại nhà người pharisiêu khi cô xin sự tha thứ của Vị Cứu Tinh bằng nước mắt của cô...
- Tại sao em khóc như vậy? - Matta hỏi.
- Chị ơi, bởi vì chị đã nói sự thật! Hết mặt trời rồi... Thầy ra đi... Không còn mặt trời cho em, cho chúng ta nữa...
- Hãy tốt. Thầy chúc lành cho các con, và nguyện phúc lành của Thầy ở với các con. Bây giờ hãy để Thầy ở lại với Lazarô đang mệt mỏi và cần nghỉ. Thầy sẽ nghỉ ngơi trong khi canh chừng bạn Thầy. Các con hãy canh chừng các tông đồ và bảo họ sẵn sàng cho giờ của bóng tối...
Hai chị em rút lui. Giêsu ở lại lặng lẽ chiêm niệm, ngồi bên người bạn hốc hác nhưng thỏa lòng vì sự hiện diện của Thầy, thiếp ngủ với nụ cười nhẹ trên khuôn mặt.
105* GIÊSU VỚI NGƯỜI HÀNH KHẤT
TRÊN ĐƯỜNG ĐI JÊRICÔ
Tôi thấy Giêsu ở trên một con đường lớn rất bụi bặm và rất nắng. Không có một tí bóng mát nào, không có một khóm cây xanh nào, chỉ có bụi trên đường cũng như trên đồng quê không cày cấy gì ở hai bên.
Đương nhiên đây không phải là các đồi êm đềm của xứ Galilê, cũng không phải miền núi cây cối um tùm xứ Juđê đầy nước và đồng cỏ. Ở đây là vùng đất không phải là sa mạc tự nhiên, nhưng
228
con người đã làm cho nó thành sa mạc bằng cách bỏ hoang nó. Đây là đồng bằng. Tôi không nhìn thấy đồi núi, dù ở xa. Vì không biết xứ Palestin, tôi không thể nói đây là miền nào. Chắc chắn là một miền mà tôi chưa hề thấy trong những thị kiến trước. Có nhiều đống đá ở vệ đường, có lẽ được đổ ở đó để tu bổ con đường, vì nó ở trong tình trạng thê thảm. Lúc này thì nó được phủ bằng một lớp bụi dầy. Khi mưa, chắc chắn là lầy bùn. Tôi không nhìn thấy nhà cửa, dù ở gần hay xa.
Như thường lệ, Giêsu bước ở đàng trước các tông đồ vài mét. Họ theo sau Người thành nhóm với mồ hôi và mệt mỏi. Để che mặt trời, họ trùm áo khoác lên đầu, trông giống như một đống quần áo đủ mầu. Trái lại, Giêsu đầu trần, làm như mặt trời không gây phiền cho Người. Người mặc chiếc áo dài bằng vải gai trắng, tay chỉ dài đến cùi chỏ. Nó rộng và xộc xệch, cả đến không có sợi giây thông thường theo lệ ở thắt lưng. Đúng là một chiếc áo may cho cái nơi cằn cỗi này. Áo khoác bằng vải gai nhuộm mầu xanh lơ, rất mỏng, nhẹ nhàng, bọc quanh cơ thể rất ít hơn thường lệ. Nó phủ lên vai nhưng không có tay. Tôi không biết họ làm cách nào để giữ nó như vậy.
Có một người ngồi, hầu như nửa nằm, trên một đống đá. Một người nghèo, chắc chắn là hành khất. Ông ta mặc - nếu có thể nói là mặc - một áo dài dơ bẩn và rách rưới, có lẽ trước kia nó trắng, bây giờ mầu bùn. Ông có hai chiếc dép mòn gót thê thảm, chỉ còn một nửa gót, được thắt bằng những đoạn giây. Trong tay là cái gậy bằng cành cây. Trên trán có một cái băng dơ; ở đùi trái, giữa đầu gối và háng, cũng có một mảnh vải dơ và dính máu. Kẻ tội nghiệp gầy gò, chỉ có da bọc xương, thấp hèn, dơ bẩn, xồm xoàm, tóc bù xù.
Ngay trước khi ông xin, Giêsu đã lại với ông. Người tới gần và hỏi: “Ông là ai?”
- Một người nghèo xin bánh.
- Dọc con đường này?
- Tôi đi Jêricô.
229
- Đường dài và vùng này không có người.
- Tôi biết. Nhưng kiếm một miếng bánh hay một đồng bạc nơi các dân ngoại đi qua con đường này thì dễ hơn nơi các người Do Thái mà từ đó tôi đã tới.
- Ông từ Juđê tới đây à?
- Phải. Từ Jêrusalem. Nhưng tôi phải đi vòng xa ra để đi qua các người nhà quê đại độ, họ luôn luôn cho tôi sự giúp đỡ. Trong thành phố thì không. Họ không có tình thương.
- Ông nói đúng. Họ không có tình thương.
- Ông thì ông có tình thương. Ông là Do Thái à?
- Không. Người Nazarét.
- Ngày xưa các người Nazarét nổi tiếng là xấu, bây giờ thì phải nói là họ tốt hơn những người miền Juđa. Ngay ở Jêrusalem, chỉ có người tốt trong số những người theo vị Nazarét mà người ta gọi là tiên tri. Ông biết Người không?
- Còn ông, ông biết Người không?
- Không. Tôi đã tới đó, vì ông thấy không? Tôi có một chân chết và cong queo. Tôi đi cách rất nặng nhọc. Tôi không thể làm việc và tôi hầu chết đói, và bị những cú... Tôi hy vọng gặp Người, vì người ta nói với tôi rằng Người chữa những ai Người đụng tới. Thực sự thì tôi không phải dân được chọn... Nhưng người ta nói rằng Người tốt với hết mọi người. Người ta nói với tôi rằng Người ở Jêrusalem mừng lễ tới mấy tuần. Nhưng tôi, tôi đi qúa chậm... Người ta đã đánh tôi và tôi bị mắc bệnh dọc đường. Khi tôi tới Jêrusalem thì Người đã đi mất rồi, bởi vì, người ta bảo tôi rằng người Do Thái cũng bạc đãi cả Người nữa.
- Còn ông, họ đã ngược đãi ông à?
- Luôn luôn. Chỉ có các người lính Rôma là cho tôi bánh.
- Và tại Jêrusalem, trong đám dân chúng, họ nói gì về vị người Nazarét?
- Rằng đó là Con Thiên Chúa, vị đại tiên tri, đấng thánh, kẻ công chính.
- Còn ông, ông tin Người là ai?
230
- Tôi, tôi là... tôi là kẻ thờ tà thần, nhưng tôi tin Người là Con Thiên Chúa.
- Làm sao ông có thể tin Người nếu ông cả đến không biết Người?
- Tôi biết các việc của Người. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể nhân từ và có những lời như Người có.
- Ai nói cho ông những lời đó?
- Những người nghèo khác, các người bệnh được chữa, các trẻ em mang bánh đến cho tôi... Các trẻ em rất tốt, và chúng chả biết gì về những kẻ tin hay thờ ngẫu tượng.
- Nhưng ông ở đâu?
- ...
- Nói đi. Tôi, tôi cũng như đứa trẻ. Đừng sợ. Chỉ cần là ông thành thật.
- Tôi... tôi người Samari. Đừng đánh tôi...
- Tôi không bao giờ đánh ai. Tôi không khinh ai cả. Tôi thương hết mọi người.
- Vậy là... Vậy là, Ngài là vị rabbi Galilê!
Người hành khất gục xuống, rơi giống như một đống, mặt chìm trong bụi ở chân đống đá, trước mặt Giêsu.
- Chỗi dậy đi. Thầy đây. Đừng sợ. Hãy chỗi dậy và nhìn vào Thầy.
Người hành khất ngửa mặt lên nhưng vẫn qùi, co quắn vì dị dạng.
- Hãy cho ông này bánh ăn và nước uống - Giêsu ra lệnh cho các môn đệ đã tới nơi.
Chính Gioan cho nước và bánh.
- Hãy để ông ngồi để ông ăn cách thoải mái hơn. Ăn đi, người anh em.
Kẻ khốn nạn khóc. Ông ta không ăn. Ông nhìn Giêsu với con mắt của con chó khốn nạn bị lạc, lần đầu tiên thấy mình được vuốt ve, được cho ăn bởi một kẻ có tình thương.
- Ăn đi! - Giêsu ra lệnh khi mỉm cười.
Kẻ khốn nạn ăn giữa những tiếng nấc, và nước mắt thấm vào
231
bánh của ông. Nhưng trong những nước mắt này cũng có cả nụ cười. Từ từ, ông thấy mình được bảo đảm.
- Ai gây cho ông vết thương này? - Giêsu hỏi khi lấy ngón tay đụng vào chiếc băng dơ trên trán.
- Đó là một người pharisiêu giầu, đã cố ý xô xe của ông vào con cho con té. Con ngồi ở một ngã tư để xin bánh, ông ta phóng các con ngựa vào con qúa lẹ, con không kịp tránh. Con gần chết. Con vẫn còn cái lỗ trên đầu và nó chảy ra mủ.
- Còn chỗ này, ai đánh ông?
- Con lại gần nhà một ông Saddu, nơi có đám tiệc, để xin tí gì còn thừa lại trên bàn sau khi các con chó đã ăn những gì tốt hơn. Ông ta nhìn thấy con và ông ta đuổi chó xông vào con. Một con đã xé rách đùi con.
- Còn cái thẹo lớn này? Ai đã làm ông què tay?
- Đó là một cú gậy mà một ông luật sĩ đã đánh con từ ba năm nay rồi. Ông nhận ra con là người Samari, và ông đánh con, làm gẫy các ngón tay con. Bởi vậy con không thể làm việc. Bàn tay phải của con bị què, một chân bị liệt, làm sao con có thể kiếm sống.
- Nhưng tại sao ông bỏ Samari?
- Thưa Thầy, các nhu cầu là điều đê tiện. Chúng con có rất nhiều người khổ sở. Không có đủ bánh ăn cho mọi người. Nếu Thầy giúp con...
- Ông muốn Thầy làm gì cho ông?
- Được khỏi để làm việc.
- Ông có tin là Thầy có thể làm không?
- Có, con tin, vì Thầy là Con Thiên Chúa.
- Ông tin vậy sao?
- Con tin vậy.
- Ông, người Samari mà ông tin. Tại sao vậy?
- Con không biết tại sao. Con chỉ biết rằng con tin ở Thầy và ở
đấng đã sai Thầy. Bây giờ Thầy đã đến thì đâu có còn các sự thờ phượng khác nhau nữa. Chỉ cần thờ Thầy là thờ Cha Thầy, Chúa
232
muôn đời. Thầy ở đâu thì Chúa Cha ở đó.
Giêsu quay lại các đồ đệ: “Các bạn ơi, có nghe thấy không? Người đàn ông này nói bởi hiệu năng của Thánh Linh, đấng đã soi chân lý cho ông. Thực vậy, ông ta còn hơn rất nhiều các người luật sĩ, pharisiêu và saddu độc ác; hơn tất cả những kẻ thờ ngẫu tượng, tự xưng mình là con lề luật. Lề luật nói rằng sau Thiên Chúa là phải yêu tha nhân. Những người đó, đối với tha nhân đau khổ xin bánh, họ đã cho những cú gậy. Với kẻ van xin, họ đã phóng ngựa, đuổi chó vào. Với kẻ đã hạ mình xuống bên dưới con chó, họ đã đuổi chính những con chó tới để làm cho tha nhân còn khốn nạn hơn chính sự tàn tật. Khinh người, độc ác, gian trá, họ không muốn cho Thiên Chúa được nhận biết và yêu mến. Nếu họ muốn, họ có thể làm cho Người được nhận biết qua các việc làm của họ như ông này đã nói. Chính các việc làm chứ không phải các lối hành đạo làm cho người ta thấy Thiên Chúa sống trong lòng và dẫn người ta về với Thiên Chúa.
Và ôi Judas! Con trách Thầy là kém khôn ngoan, con bảo Thầy không nên đập họ bằng các lời quở trách của Thầy; Thầy phải nín lặng, làm giống như Thầy chấp nhận họ, điều đó sẽ là chấp nhận lối sống của họ. Không, vì vinh danh Thiên Chúa, Thầy không thể, Thầy là Con của Người, Thầy không thể cho phép rằng những người khiêm nhường, những người khổ sở, những người tốt, tin rằng Thầy ưng thuận tội lỗi của họ. Thầy đến để làm cho những người dân ngoại trở nên con Thiên Chúa. Nhưng Thầy không thể làm việc đó nếu họ thấy rằng các con cái của lề luật - họ tự coi mình như vậy, nhưng đó là những con hoang - thực hành một thứ đa thần giáo còn đắc tội hơn họ. Qủa vậy, những người Hy Bá này đã biết lề luật của Thiên Chúa, nhưng bây giờ họ khạc nhổ vào đó giống như những con vật dơ bẩn, những thứ nôn mửa của các tham vọng được thỏa mãn của họ. Judas, con trách Thầy về những sự thật mà Thầy nói, Thầy có phải tin rằng con cũng như họ không? Hay Thầy phải nghĩ rằng con lo lắng cho mạng sống con? Kẻ theo Thầy thì không được có những lo âu thuộc về loài người. Thầy đã nói điều đó rồi. Judas,
233
vẫn còn thời giờ để lựa chọn giữa con đường của Thầy và con đường của các người Do Thái mà con chấp nhận. Nhưng hãy đắn đo: Con đường của Thầy dẫn tới Thiên Chúa, con đường kia dẫn tới kẻ thù của Thiên Chúa. Hãy suy nghĩ và quyết định. Nhưng hãy chân thành.
Còn ông, ông bạn, hãy đứng dậy và bước đi. Hãy tháo các băng này ra. Hãy trở về nhà ông. Ông được chữa lành nhờ đức tin của ông”.
Người ăn mày nhìn Người cách ngạc nhiên. Ông không dám giơ tay ra... rồi ông thử. Nó vô sự, lại trở nên giống như tay trái. Ông để cái gậy ra một bên, tì tay lên đống đá và cố gắng. Ông đứng dậy. Ông đứng thẳng lên. Sự tê bại làm biến dạng cẳng chân đã khỏi. Ông nhúc nhích chân, thử co lên... Ông bước một bước, hai, ba bước. Ông đi... Ông nhìn Giêsu, phát ra một tiếng kêu và khóc vì mừng. Ông tháo cái băng ở đầu ra. Ông rờ sau ót, nơi có cái lỗ bị nhiễm trùng. Không còn gì nữa. Tất cả đều được lành. Ông giật chiếc giẻ dính máu ra khỏi đùi: da dẻ nguyên vẹn.
- Thầy, Thầy và Thiên Chúa của con! - Ông kêu lên, giơ tay ra và qùi xuống hôn chân Giêsu.
- Bây giờ hãy về nhà con và hãy luôn luôn tin ở Chúa.
- Con phải làm gì, Thầy con và Thiên Chúa con, nếu không phải là theo Thầy, Thầy: Đấng Thánh và tốt lành? Lạy Thầy, xin đừng xua đuổi con...
- Hãy về Samari và hãy nói về Giêsu Nazarét. Giờ cứu chuộc đã gần rồi. Hãy là môn đệ của Thầy ở bên cạnh các anh em con. Hãy đi bằng an.
Giêsu chúc lành cho ông ta rồi đi. Người đàn ông được lành đi nhanh nhẹn về phía bắc, thỉnh thoảng còn quay lại nhìn.
Giêsu với các tông đồ bỏ con đường và đi vào cánh đồng không cày cấy về hướng đông, bằng một lối mòn cắt ngang con lộ lớn, và nó chỉ rộng ra ở rất xa hơn. Có lẽ đó là con đường Jêricô. Tôi không biết điều này.
234
106* ZAKÊ HOÁN CẢI
Tôi thấy một công trường lớn trông giống như một cái chợ, đầy bóng mát của cây thốt nốt và những cây khác thấp hơn với lá rậm rạp. Các cây thốt nốt mọc ở đó đây không thứ tự, đu đưa chòm lá rậm của nó mà gió nóng ở trên cao làm cho kêu lọc cọc. Gió làm bụi hồng bay tung tựa như nó bay tới từ sa mạc hay ít nhất là vùng đất đỏ hoang vu. Trái lại, những cây khác thì mọc thành những hành lang bóng mát dọc theo các bề của công trường. Kẻ mua người bán trú ngụ dưới các bóng râm trong sự náo nhiệt lộn xộn và rất ồn ào.
Tại một góc công trường, chính xác là nơi con lộ chính đổ vào đó, có một văn phòng thô sơ của người thâu thuế. Có những cái cân, những cái đấu; trên cái ghế dài, một người đàn ông nhỏ thó ngồi quan sát, canh chừng và thâu tiền. Mọi người đều nói với ông tựa như ông là người rất quen thuộc. Tôi nghe rằng đó là Zakê, nhân viên sở thuế, vì nhiều người gọi ông, người thì để hỏi ông về các biến cố trong tỉnh, và đó là những người lạ; những người khác là tới nộp cho ông tiền thuế. Nhiều người ngạc nhiên vì thấy ông lo nghĩ. Qủa vậy, ông có vẻ chia trí và trầm mặc trong một suy tư nào đó. Ông trả lời tiếng một, và nhiều khi chỉ bằng dấu hiệu. Điều đó làm người ta ngạc nhiên và cho ta hiểu rằng thường xuyên thì Zakê rất lắm lời. Có người hỏi ông có phải ông bệnh hay có cha mẹ bà con bị bệnh, nhưng ông nói rằng không. Chỉ có hai lần ông tỏ ra lưu ý đặc biệt: lần thứ nhất là khi ông hỏi han một người từ Jêrusalem về và nói về vị Nazarét, kể lại các phép lạ và các lời giảng thuyết của Người. Lúc đó Zakê đặt nhiều câu hỏi: “Có thật ông ta tốt như người ta nói không? Các lời ông nói có phù hợp với các việc làm của ông không? Tình thương mà ông giảng, sau đó có thực sự được sử dụng không? Với mọi người à? Cả với người thu thuế à? Có đúng là Người không xua đuổi ai không?...” Ông nghe, suy nghĩ và thở dài.
Một lần khác, có một người chỉ cho ông một người đàn ông râu
235
ria xồm xoàm đang đi qua trên lưng con lừa của ông, chất đầy bàn ghế đồ đạc: “Zakê, anh thấy không? Đó là Zacari trước kia bị cùi. Từ mười năm, ông ta sống giữa mồ mả, bây giờ được khỏi, ông mua lại đồ đạc cho căn nhà của ông đã bị thanh tẩy bởi áp dụng lề luật khi ông và gia đình ông bị công bố là bị cùi”.
- Hãy gọi ông ta đi.
Zacari tới.
- Ông đã bị cùi à?
- Tôi đã bị, và cùng với tôi là vợ tôi và hai đứa nhỏ. Trước tiên là vợ tôi bị mà chúng tôi không nhận ra ngay. Các đứa nhỏ bị lây khi ngủ với mẹ nó, và tôi, vì tôi tới gần vợ tôi. Tất cả chúng tôi đều bị cùi. Khi người ta nhận ra, người ta trục xuất chúng tôi khỏi làng... Họ đã có thể để cho chúng tôi ở lại nhà chúng tôi, vì đó là căn nhà sau cùng ở cuối đường, chúng tôi không làm phiền cho họ. Chúng tôi đã để hàng rào cây mọc cao, rất cao, để không bị nhìn thấy. Đó đã là một cái mồ rồi... nhưng là nhà chúng tôi. Người ta đã đuổi chúng tôi. Đi ra! Đi ra! Không một làng nào muốn có chúng tôi. Đương nhiên, vì cả đến làng chúng tôi còn không muốn có chúng tôi. Chúng tôi đã đến một phần mộ trống gần Jêrusalem. Ở đó có rất nhiều người khốn nạn. Nhưng các đứa trẻ đã chết trong hang vì lạnh. Bệnh tật, cái lạnh và cái đói giết chúng mau lẹ... Đó là hai đứa con trai... Chúng rất đẹp trai trước khi mắc bệnh, lực lưỡng và đẹp, đen dòn như hai cây dâu tháng tám, tóc quăn lọn, tươi tắn. Rồi chúng trở thành hai bộ xương phủ đầy vết thương... Không còn tóc, mắt híp lại bởi vảy và màng, các tay chân nhỏ của chúng phủ đầy vảy trắng. Chúng đã biến thành bụi trước mắt tôi! Các con của tôi!... Chúng không còn khuôn mặt con người nữa vào buổi sáng chúng chết, chỉ cách nhau vài giờ... Tôi đã chôn chúng giữa những tiếng kêu của người mẹ, dưới một lớp đất mỏng, với rất nhiều đá, như xác giống vật. Vài tháng sau mẹ chúng cũng chết... Tôi ở lại một mình...
Tôi đã đợi cái chết, và tôi sẽ không có cả đến một cái lỗ đào bằng bàn tay loài người ... Tôi đã hầu như bị mù khi vị Nazarét đi
236
qua. Từ trong ngôi mộ của tôi, tôi kêu lớn: “Giêsu, con vua Đavít, xin thương con!” Một người hành khất thường mang bánh cho tôi bảo tôi rằng vị Nazarét đã chữa cho ông ta khỏi mù khi ông ta gọi Người bằng tiếng kêu này. Và ông ta nói: “Người đã cho tôi được nhìn thấy, không phải chỉ cho con mắt, mà cho cả linh hồn. Tôi thấy rằng Người là Con Thiên Chúa, và tôi nhìn thấy tất cả qua Người. Chính vì vậy nên tôi đã không trốn anh, người anh em, nhưng tôi mang đến cho anh bánh và đức tin. Hãy đến với Đức Kitô. Cầu cho có thêm một người nữa để chúc tụng Người”.
Tôi đã không thể bước. Chân tôi ung loét cho tới xương, không để cho tôi bước... Vả nữa... Tôi sẽ bị ném đá nếu người ta nhìn thấy tôi. Tôi ngồi chăm chú ở lối đi của Người, vì Người hay đi qua đó để về Jêrusalem. Một ngày kia, tôi nhìn thấy, như tôi có thể nhìn, một đám mây bụi trên đường và một đám đông mà tôi nghe thấy la lối. Tôi lết tới đỉnh đồi, nơi có những phần mộ trong hang. Và khi tôi thấy cái gì giống như một đầu tóc trần, tóc hoe vàng, sáng bóng giữa các đầu đội khăn khác. Tôi kêu rất mạnh, bằng tất cả sức lực của tôi. Tôi kêu ba lần cho tới khi Người nghe thấy tiếng kêu của tôi.
Người quay lại, Người dừng chân. Rồi Người tiến lên một mình. Người tới ngay cái chỗ ở bên dưới mà tôi đã ngồi lúc nãy, và Người nhìn tôi. Ôi! Đẹp, nhân từ, với một tiếng nói, một nụ cười!... Người hỏi tôi: “Con muốn Ta làm gì cho con?”
- Con muốn được lành.
- Con có tin rằng Ta có thể không? Tại sao? - Người hỏi tôi.
- Bởi vì Ngài là Con Thiên Chúa.
- Con tin vậy không?
- Con tin - tôi trả lời. “Con thấy Đấng Tối Cao rực rỡ trong tất cả
sự vinh quang của Người trên đầu Ngài. Lạy Con Thiên Chúa, xin thương con!”
Lúc đó, Người giơ tay ra với khuôn mặt sáng như lửa. Đôi mắt Người như hai bầu trời xanh, và Người nói: “Ta muốn, con hãy được sạch”, và Người chúc lành cho tôi bằng một nụ cười!... Tôi
237
cảm thấy một sức mạnh đi vào trong tôi như một lưỡi gươm bằng lửa, nó chạy để tìm trái tim tôi, nó chạy trong các mạch máu tôi. Qủa tim đã qúa bệnh hoạn liền tìm lại được tuổi hai mươi của nó. Dòng máu đã giá băng trong các mạch của tôi lại trở nên nóng và linh hoạt. Không còn đau đớn nữa, không còn yếu mệt nữa. Và một niềm vui! Một niềm vui!... Người nhìn tôi, và bằng nụ cười của Người, Người làm tôi sung sướng. Rồi Người nói: “Con hãy đi trình diện nơi các thầy cả. Đức tin của con đã cứu con”. Lúc đó tôi hiểu rằng tôi đã được chữa lành. Tôi nhìn chân tay tôi, các vết thương không còn nữa. Ở những chỗ xương trặt ra trước kia, bây giờ có một lớp thịt hồng và tươi mới. Tôi chạy tới một cái suối và tôi nhìn tôi: Khuôn mặt cũng nguyên vẹn. Tôi được sạch! Tôi được sạch sau mười năm khủng khiếp!... A! Tại sao Người không đi qua đây trước, trong những năm mà vợ tôi và các con tôi còn sống? Người sẽ chữa cho chúng tôi. Bây giờ, anh thấy không? Tôi đi mua đồ đạc cho căn nhà của tôi, nhưng tôi cô đơn một mình!...
- Anh không gặp Người nữa à?
- Không. Nhưng tôi biết rằng Người đang ở trong vùng này, và tôi cố ý tới đây. Tôi còn muốn chúc tụng Người nữa để xin Người chúc phúc cho tôi, để tôi có sức mạnh trong sự cô đơn của tôi.
Zakê cúi đầu nín lặng, và họ chia tay.
Thời giờ qua đi, đã tới những giờ nóng bức. Chợ búa đã vãn. Nhân viên sở thuế ngồi tại ghế của ông, tựa đầu vào bàn tay, suy nghĩ.
- Kìa! Kìa! Vị Nazarét! - các đứa trẻ la lên và chỉ vào con đường chính.
Đàn bà, đàn ông, bệnh nhân, hành khất, vội vã chạy ra đón Người. Công trường trở thành trống rỗng, chỉ có các con la, lạc đà bị buộc vào gốc thốt nốt là ở lại chỗ của chúng, và Zakê ở lại trên ghế của ông.
Nhưng rồi ông đứng dậy và trèo lên ghế. Ông vẫn không thấy gì, vì có qúa nhiều người đã bẻ cành cây và vẫy trước mặt Giêsu như mừng lễ cho Người, và hình như Người đang cúi xuống trên các
238
người bệnh. Lúc đó Zakê cởi áo dài, chỉ còn mặc một áo cộc. Ông trèo lên một trong các cây. Ông leo không phải không khó, vì thân cây lớn và trơn, ông khó lòng ôm được bằng đôi tay và đôi chân ngắn của ông. Nhưng rồi ông thành công. Ông ngồi dạng hai chân tại chỗ xẻ đôi của một cành cây giống như chỗ đậu, hai chân lòng thòng hai bên cành này và ông cúi xuống kể từ thắt lưng, trông giống như một người đứng nhìn từ một cửa sổ.
Đám đông đã tới công trường. Giêsu ngửa mặt và mỉm cười với khán giả đơn độc đậu trên cành: “Zakê, xuống ngay đi. Hôm nay Thầy muốn dừng lại ở nhà ông”. Người ra lệnh.
Zakê, sau một lúc sững sờ, mặt đỏ gay vì xúc động, liền tụt xuống như một cái bịch. Ông ta rối rít và không sao mặc được áo. Ông dẹp sổ sách và két tiền. Ông muốn làm lẹ, nhưng ông vẫn chậm hơn. Nhưng Giêsu kiên nhẫn, và trong khi chờ, Người vuốt ve các đứa trẻ.
Sau cùng Zakê sẵn sàng. Ông lại gần Thầy và dẫn Người về một căn nhà đẹp, nằm giữa một khu vườn mênh mông tại trung tâm làng. Đây là một làng rất đẹp, có thể coi là thành phố, chỉ hơi kém Jêrusalem, về xây cất chứ không về diện tích.
Giêsu vào, và trong khi chờ người ta sửa soạn bữa ăn, Người chăm lo các bệnh nhân và cả những người khỏe, với một sự kiên nhẫn mà chỉ mình Người có thể.
Zakê tới lui có vẻ ngượng, vì ông không sao giữ được niềm vui, và vì ông muốn nói với Giêsu, nhưng luôn luôn có đông người bao quanh Người.
Sau cùng Giêsu cho tất cả giải tán khi nói: “Các con hãy trở lại sau khi mặt trời lặn. Bây giờ hãy trở về nhà các con. Bình an cho các con”.
Khu vườn hết người và người ta dọn bữa ăn trong một phòng đẹp và mát mở cửa nhìn ra vườn. Zakê làm các việc rất hay. Tôi không nhìn thấy các người trong gia đình ông. Tôi cũng nghĩ có lẽ ông độc thân, chung quanh chỉ có một số đầy tớ.
Sau bữa ăn, trong lúc các tông đồ rải rác vào trong các bụi cây
239
có bóng mát để nghỉ, Zakê ở lại với Giêsu trong căn phòng mát mẻ. Có lúc Giêsu ở một mình, vì Zakê lui ra để Giêsu nghỉ. Nhưng rồi ông trở lại, vén tấm màn gió để nhìn. Ông thấy Giêsu không ngủ, nhưng suy nghĩ. Lúc đó ông lại gần. Ông ôm trong tay một cái hộp nặng. Ông để trên bàn gần chỗ Giêsu và nói: “Thưa Thầy... Người ta đã nói với con về Thầy mới lúc nãy thôi. Có một ngày, trên một ngọn núi, Thầy đã nói biết bao sự thật mà các vị tiến sĩ của chúng ta không biết nói nữa. Những lời ấy ở lại trong con... Từ lúc đó, con nghĩ tới Thầy... Rồi người ta nói với con là Thầy nhân từ và Thầy không xua đuổi người tội lỗi. Con, con tội lỗi, Thầy ạ. Người ta bảo con là Thầy chữa các bệnh. Con có con tim bệnh hoạn, vì con gian lận, vì con cho vay nặng lãi, vì con đồi bại, ăn cắp, khắt khe với người nghèo. Nhưng bây giờ đây con được chữa lành, vì Thầy đã nói với con. Thầy đã đến gần con nên qủi dâm ô, qủi giầu sang đã chạy trốn. Và con, từ hôm nay, con thuộc về Thầy nếu Thầy không từ chối con. Và để chứng tỏ rằng con lại sinh ra trong Thầy, thì đây, con lột bỏ hết những của đã có cách bất chính. Con dâng Thầy một nửa những gì con có để cho người nghèo, nửa còn lại được dùng để bồi hoàn gấp bốn cho những gì con đã lấy cách gian lận. Con biết con đã gian lận của ai. Rồi sau khi đã trả cho mỗi người những gì thuộc về họ, con sẽ đi theo Thầy, nếu Thầy cho phép con...
- Thầy muốn điều đó. Hãy tới. Thầy đến để cứu và kêu gọi tới ánh sáng. Hôm nay Ánh Sáng và Phần Rỗi đã đến trong căn nhà của tâm hồn con. Những người ở bên ngoài cổng kia, họ lẩm bẩm vì Thầy đã cứu chuộc con bằng cách tham dự vào bữa tiệc của con, họ quên rằng con cũng là con cái Abraham như họ. Và Thầy đến để cứu những gì đã hư mất, để ban sự sống cho những người mà tâm hồn đã chết. Hãy tới, Zakê. Con đã hiểu lời Thầy hơn rất nhiều người chỉ theo Thầy để có thể kết án Thầy. Từ nay, con sẽ ở với Thầy.
Thị kiến chấm dứt như vậy.
240
107* “ZAKÊ, NGƯỜI THÂU THUẾ VÀ
TỘI LỖI, NHƯNG KHÔNG VÌ ÁC Ý”
Giêsu nói:
Có men và men. Có men của điều thiện và men của điều ác. Men của điều ác là chất độc của Satan, nó dậy men dễ dàng hơn men của điều thiện, vì nó tìm được những chất thích nghi với hoạt động của nó hơn ở trong qủa tim, trong tư tưởng, trong thể xác loài người. Cả ba đều bị lôi kéo bởi ý muốn ích kỷ, vì vậy nó phản với ý muốn phổ quát là ý muốn Thiên Chúa.
Ý muốn của Thiên Chúa là ý muốn phổ quát, vì nó không bao giờ ngừng lại do một tư tưởng cá nhân, nhưng nó nhắm tới điều lành cho cả vũ trụ. Nơi Thiên Chúa, không gì có thể làm gia tăng sự trọn hảo của Người bằng bất cứ cách nào, vì Người luôn luôn có mọi sự một cách trọn lành. Bởi vậy nơi Người không bao giờ có việc đem ra hành động bất cứ một điều gì vì một tư tưởng lợi ích cá biệt. Khi người ta nói: “Làm điều này vì một vinh quang lớn hơn của Thiên Chúa, vì lợi ích của Thiên Chúa”, thì không phải là vinh quang của Thiên Chúa khả dĩ có thể lớn lên, nhưng vì mọi sự của việc sáng tạo đều mang ấn của điều lành, và bất cứ ai thi hành điều lành thì đáng được điều lành, và được trang điểm bằng dấu hiệu của vinh quang Thiên Chúa, như vậy là hiến dâng vinh quang cho Đấng Vinh Quang đã tác tạo mọi loài cách vinh quang. Tóm lại, đó là bằng cớ rằng không một người nào hay vật nào có thể cho Thiên Chúa, qua các công việc của họ, một minh chứng về cái Nguồn Gốc trọn hảo mà từ đó họ tới.
Vì vậy khi Thiên Chúa truyền lệnh hay khuyên nhủ, hoặc soi sáng cho các con một hành động, thì đừng làm vì một lợi lộc ích kỷ, nhưng hãy làm với tư tưởng vị tha, bác ái, vì hạnh phúc của các con. Đó là lý do tại sao ý muốn của Thiên Chúa không bao giờ ích kỷ, mà là một ý muốn hoàn toàn hướng về vị tha, về cả vũ trụ. Đó là sức mạnh thực sự và duy nhất mà toàn thế giới có được khi nhìn
241
về điều lành phổ quát.
Men của điều thiện, cái mầm siêu nhiên từ Thiên Chúa mà đến, thì trái lại, trong khi tăng trưởng, nó gặp rất nhiều đối kháng và khó khăn. Nó rất khó phát triển, vì bị đối kháng bởi các hành động có lợi cho thứ men kia: xác thịt, con tim và tư tưởng loài người, bị xâm lấn bởi ích kỷ là cái phản nghịch với Sự Thiện mà nguồn gốc của nó chỉ là Tình Yêu. Nơi phần đông, người ta thiếu ý muốn làm điều thiện, vì thế điều thiện trở thành trơ trơ và chết, hoặc nó sống cách khó khăn; nó nằm tại chỗ, không ngóc dậy được: Người ta không phạm những lỗi trầm trọng, nhưng họ không cố gắng để làm điều thiện lớn nhất. Cũng vì vậy thần trí nằm bất động, không chết, nhưng không sinh hoa trái.
Hãy cẩn thận: Đừng tránh làm điều ác để khỏi phải vào hỏa ngục mà thôi. Để được hưởng Thiên Đàng đẹp đẽ, phải làm điều tốt, một cách tuyệt đối trong những điều kiện có thể làm, bằng cách chiến đấu với chính mình và với người khác. Vì vậy mà Cha đã nói là Cha đến để đem chiến tranh chứ không phải đem hòa bình giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em, khi chiến tranh này cần để bảo vệ Ý Muốn của Thiên Chúa và Lề Luật của Người, chống lại những đối kháng của ý muốn loài người là cái muốn quay về hướng đối nghịch với điều Thiên Chúa muốn.
Nơi Zakê, nắm men của điều thiện đã dậy men mạnh mẽ. Con tim của ông chỉ nhận được những mảnh vụn nguồn gốc: người ta kể cho ông về bài thuyết trình của Cha ở trên núi, một cách thiếu sót, chắc chắn là bị cắt cụt nhiều phần, cũng như thường xảy ra khi người ta thuật lại một bài thuyết trình.
Zakê là người thu thuế và tội lỗi, nhưng không vì ác ý. Ông giống như một người nhìn không rõ sự vật, vì con ngươi bị che bởi những màng và vảy. Nhưng ông biết rằng con mắt, nếu được tháo bỏ cái màng này thì sẽ lại nhìn rõ, và bệnh nhân muốn người ta lấy cái màng này đi cho nó. Đối với Zakê cũng vậy: ông không nhìn nhận, cũng không sung sướng. Không nhìn nhận lối hành động của các pharisiêu mà từ nay đã được thay thế bằng lề luật thực sự; ông
242
không sung sướng vì lối sống của ông. Ông tìm ánh sáng, ánh sáng thực, một cách tự nhiên. Ông nhìn thấy một tia trong cái mảnh bài thuyết trình và ông cất giữ nó trong tim như một kho báu. Bởi vì ông yêu nó, Maria ạ, hãy quan sát điều đó: Bởi vì ông yêu nó, nên cái tia đó càng lúc càng trở nên sống động, bao la và mãnh liệt, và nó dẫn ông tới chỗ nhìn thấy rõ điều thiện và điều ác, lựa chọn cách chính xác, quảng đại cắt đứt những tua vòi khi trước trói buộc các sự vật vào con tim và con tim vào sự vật, đã bao bọc ông trong cái lưới phản trắc, đã biến ông thành nô lệ.
“Bởi vì ông yêu nó”. Đó là cái bí mật của sự thành công hay không. Người ta thành công khi người ta yêu. Người ta chỉ thành công một chút thôi khi người ta yêu một cách bủn xỉn. Người ta không thành công tí nào khi người ta không yêu. Trong bất cứ cái gì, và trong những sự thuộc về Thiên Chúa thì lý do là mạnh nhất, mặc dù Thiên Chúa vô hình đối với giác quan của thân xác, phải có tình yêu, Cha dám nói là tình yêu trọn hảo, trong mức độ mà một tạo vật có thể đạt tới, để thành công trong một xí nghiệp, trong trường hợp này, xí nghiệp tức là sự thánh thiện.
Zakê chán ngán thế gian và xác thịt, cũng như ông chán ngán tính cách bủn xỉn của lối hành đạo pharisiêu, quá tỉ mỉ nhỏ mọn, qúa khăng khăng đối với người khác, qúa dễ dãi đối với mình. Ông yêu cái kho báu nhỏ của một trong các lời Cha, đến với ông cách tình cờ, nói theo kiểu nhân loại. Ông yêu nó như một cái gì đẹp nhất mà đời sống bốn mươi năm trường của ông đã chiếm hữu được. Từ lúc đó, ông hướng con tim và tư tưởng của ông về điểm này. Không phải chỉ về của xấu, qủa tim con người mới để ở nơi nó để kho tàng của nó, mà cả về của tốt cũng vậy. Phải chăng các thánh, trong suốt đời họ, đã chẳng để con tim họ tại nơi Thiên Chúa, kho tàng của họ sao? Có chứ. Và chính vì thế mà chỉ nhìn về Thiên Chúa, họ biết đi qua trái đất mà không làm hư linh hồn họ trong bùn của trái đất.
Buổi sáng hôm đó, dù Cha không có mặt ở đó, Cha cũng có một kẻ hoán cải tương tự, vì cuộc đàm thoại với người cùi (Zacari) đã
243
hoàn tất sự đổi lốt của Zakê. Tại phòng thâu thuế, sẽ không còn phải là một con người gian lận và trụy lạc nữa, mà là một con người hối hận về qúa khứ và đã quyết định thay đổi đời sống. Nếu lúc đó Cha không có mặt ở Jêricô thì ông đã đóng cửa quầy thuế, thu lượm tiền bạc và đi tìm Cha, vì ông không thể sống mà không có nước của Chân Lý, không có bánh của Tình Yêu, không có cái hôn của Tha Thứ.
Điều này, các giám sát viên thông thường vẫn quan sát Cha để luôn luôn khiển trách Cha, họ không nhìn thấy, và hiểu thì lại càng ít hơn. Và vì thế họ ngạc nhiên thấy Cha ăn uống với người tội lỗi. Ôi! Nếu các con đừng bao giờ xét đoán và để trách vụ đó cho Thiên Chúa. Ôi! Những kẻ mù tội nghiệp, không có khả năng để xét đoán chính mình.
Cha không bao giờ đến với các người tội lỗi để chấp nhận tội của họ. Cha đến để lấy đi cho họ. Thường thường bởi vì lúc đó, họ chỉ còn tội lỗi theo ngoại diện: linh hồn tội lỗi đã biến thành linh hồn sống động, mới mẻ, quyết tâm đền tội. Vậy thì có phải Cha ở với người tội lỗi không? Không, Cha ở với kẻ được cứu chuộc, chỉ có một nhu cầu duy nhất là được hướng dẫn để biết xử sự trong sự sống lại còn non yếu.
Có biết bao điều các con có thể học trong giai đoạn của Zakê! Sức mạnh của ý hướng ngay thẳng để tạo ra sự ước ao. Sự ước ao chân thành là cái thúc đẩy tìm biết sự thiện luôn luôn mạnh mẽ hơn, và liên tục tìm Thiên Chúa cho tới khi tìm thấy Người. Sự sám hối chân thành sẽ cho sự can đảm để từ bỏ. Zakê có ý hướng chân thành để nghe lời của giáo lý thật. Khi chỉ có được vài lời thì sự ước ao ngay thẳng của ông thúc đẩy ông ước ao nồng nhiệt hơn và liên tục tìm kiếm giáo lý này. Sự tìm kiếm Thiên Chúa che giấu trong giáo lý thật đã tách ông ra khỏi các thần bủn xỉn của tiền bạc, của tình dục, và trở thành một anh hùng trong sự từ bỏ.
“Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về bán hết mọi thứ con có và hãy theo Thầy”. Cha đã nói với người thanh niên giầu có, nhưng anh ta không biết làm điều đó. Nhưng Zakê, mặc dù chai đá hơn
244
trong sự hà tiện và trong tình dục, lại biết làm. Vì qua mấy lời ít ỏi đã được tường thuật cho ông, cũng giống như người ăn mày mù và người cùi mà Cha đã chữa, ông đã nhìn thấy Thiên Chúa.
Một tâm hồn đã nhìn thấy Thiên Chúa, có thể có bao giờ tìm thấy một hấp dẫn nào đó trong những thứ nhỏ mọn của trái đất không? Có bao giờ có thể như vậy không, hiền thê nhỏ của Cha?
108* “PHÚC CHO NHỮNG KẺ
NGHÈO TRONG TÂM HỒN”
Giêsu nói:
Trong các phúc thật khác nhau của Cha, Cha đã kể ra những điều cần thiết phải có để đạt được những phúc này, và những phần thưởng dành cho những kẻ có phúc này. Nhưng nếu các loại Cha đã nêu ra có khác nhau, thì phần thưởng lại giống nhau, nếu các con nhìn kỹ: Vui hưởng cùng một hạnh phúc, đó là vui hưởng Thiên Chúa.
Các loại khác nhau: Cha đã chứng tỏ làm sao Thiên Chúa, bằng tư tưởng của Người, đã tạo dựng các linh hồn với những khuynh hướng khác nhau, để trái đất được hưởng một sự quân bình chính đáng trong mọi nhu cầu hạ đẳng cũng như thượng cấp của nó. Nếu sau đó, sự dấy loạn của con người đã làm hỏng sự quân bình này, bằng cách luôn luôn muốn ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa, đấng luôn luôn hướng dẫn họ cách yêu thương trên đường công chính, thì đó không phải là lỗi của Thiên Chúa.
Con người, trường kỳ bất mãn với hoàn cảnh của họ, hoặc bởi các biểu thị bất chính, hoặc bởi các toan tính bất chính, đã xâm lăng hoặc làm xáo trộn lãnh địa của người khác. Chiến tranh thế giới, chiến tranh gia đình hay nghề nghiệp là gì, nếu không là sự bất công thể hiện ra trong hành động? Các cuộc cánh mạng xã hội là gì? Là gì, các thuyết lý mang tên “xã hội”, nhưng thực tế là những bạo lực đối nghịch với đức bác ái, vì nó không biết muốn và
245
thực hành sự công bằng mà nó cổ võ, nhưng nó đi tới chỗ đầy tràn hung bạo, không nâng đỡ kẻ bị áp bức mà còn gia tăng nó cho sự lợi dụng của thiểu số bạo chúa,
Nhưng Cha, Thiên Chúa, ngự trị ở đâu thì những hư hỏng này không xảy ra ở đó. Trong các tâm hồn thực sự là của Cha và ở trong nước Cha thì không có gì làm đảo lộn trật tự. Vậy đó đã là được sống và được thưởng vì những hình thức thánh thiện khác nhau muôn dạng của Thiên Chúa cho những kẻ công bình, trong sạch, bình an, thương xót, dũ bỏ mọi ham hố giầu sang chóng tàn, vui với niềm vui của tình yêu Người.
Trong số các linh hồn, có kẻ hướng về hình thức này, có kẻ hướng về hình thức khác. Họ hướng một cách tuyệt đỉnh, vì trong một vị thánh thì mọi nhân đức đều hiện diện, nhưng có những nhân đức trổi vượt, làm cho vị thánh đó được nổi tiếng đặc biệt về điểm đó giữa loài người. Nhưng Cha, Cha chúc phúc và thưởng cho các đấng vì tất cả, vì phần thưởng chính là Vui hưởng Thiên Chúa cho vị thánh an bình cũng như thương xót, cho đấng yêu sự công bằng cũng như bị bách hại bởi kẻ bất công, cho người trong sạch cũng như cho kẻ đau khổ, cho kẻ hiền lành cũng như nghèo khó trong tâm hồn.
Những người nghèo trong tâm hồn! Cái ý nghĩa của từ này luôn luôn bị hiểu lầm, ngay cả bởi những người hiểu nó theo nghĩa chính đáng. Nghèo trong tâm hồn đối với loại người nông cạn, với sự mỉa mai ngu si của họ, và với những kẻ dốt nhưng lại tin là mình thông thái, thì nghèo trong tâm hồn có nghĩa là “ngu xuẩn”. Những người khá hơn thì cho rằng tâm hồn tức là sự thông hiểu, là tư tưởng. Đối với những kẻ vật chất thì tâm hồn tức là gian xảo và độc ác.
Không. Tâm hồn rất cao hơn sự thông hiểu. Nó là vua của tất cả những gì ở trong các con. Tất cả khả năng vật chất và tinh thần đều là thuộc hạ, là đầy tớ của ông vua này. Nơi nào có một tạo vật tận tình với Thiên Chúa đúng tình con thảo, thì ở đó mọi sự được giữ đúng vị trí của nó. Trái lại, nơi nào không có sự tận tình con thảo thì sẽ xuất hiện các tà thần, và các đầy tớ sẽ trở thành vua và lật ngai
246
của vua tâm hồn. Sự hỗn loạn sẽ tạo ra những phá hoại như trong tất cả mọi hỗn loạn.
Sự nghèo khó trong tâm hồn hệ tại sự tự do tuyệt hảo đối với tất cả những gì là khoái lạc của con người, mà vì những thứ này, con người có thể đi tới những tội phạm về vật chất hoặc tinh thần mà không bị loài người phạt, vì nó rất thường trốn thoát được các luật của con người, nhưng cũng không phải là nó gây ra ít nạn nhân hơn, và cả đến nó gây ra nhiều nạn nhân hơn, và với những hậu qủa không phải chỉ giới hạn ở chỗ lấy mất mạng sống của nạn nhân, mà nhiều khi còn lấy mất cả sự nể vì hoặc bánh ăn của nạn nhân và những người trong gia đình họ.
Kẻ nghèo khó trong tâm hồn không còn là nô lệ cho của cải. Cho dù không có sự từ bỏ một cách thực chất như từ bỏ những tiện nghi, như gia nhập đời sống tu viện, nhưng biết sử dụng của cải cách tiết kiệm cho chính mình, và trái lại, tiêu pha rộng rãi cho người nghèo. Đó là một hy sinh kép. Họ đã hiểu lời Cha: “Hãy tạo lấy bạn bè bằng những của bất công”. Với tiền của, người ta có thể trở thành kẻ thù của tâm hồn mình, bằng cách dùng nó vào sự dâm ô, vào chè chén, vào phản bác ái. Những người giầu mà nghèo khó trong tâm hồn, họ dùng những hy sinh của họ, những công việc bác ái của họ đối với sự bần cùng của anh em đồng loại, như những đầy tớ để san bằng và trải thảm cho đường lên trời của họ.
Biết bao bất công mà một kẻ nghèo trong tâm hồn không thể sửa chữa được! Những bất công riêng của họ, giống như trường hợp của Zakê: những bất công riêng của ông trong thời kỳ ông còn tham lam và khắc nghiệt, những bất công với đồng loại, còn sống hay đã chết, những bất công với xã hội.
Các con xây các đài kỷ niệm cho những người lớn bởi quyền bính của họ. Tại sao lại không xây đài kỷ niệm cho những người ân nhân kín đáo của nhân loại túng bấn, nghèo nhưng siêng làm việc; cho những người đã dùng của cải của họ, không phải để làm cho đời họ thành những yến tiệc liên tục, nhưng để làm cho đời sống thành sáng sủa hơn, tốt hơn, cao hơn cho những người nghèo, đau
247
khổ, những người mà khả năng sinh hoạt bị giảm thiểu, những người mà các kẻ mạnh để cho ngu dốt, vì sự ngu dốt của họ hữu ích hơn cho những chương trình đáng nguyền rủa của chúng? Có biết bao người trong số những người chẳng được sung túc, chỉ được hơn người nghèo khổ một tí, nhưng biết hy sinh cho cho tới “hai đồng tiền nhỏ” mà họ có, để nâng đỡ một kẻ khốn cùng là kẻ không được có ánh sáng như họ - và người ta nhận ra là họ có ánh sáng dựa vào cách hành động của họ - là kẻ khốn cùng hơn họ.
Cũng đúng là nghèo khó trong tâm hồn, những kẻ bị mất các nguồn lợi, dù to hay nhỏ mà họ có, mà vẫn giữ được bình an và trông cậy, không nguyền rủa, cũng không ghét ai. Không ghét Thiên Chúa cũng như loài người.
Những loại “nghèo trong tâm hồn” lớn mà Cha đã kể ở phần đầu - vì Cha có thể nói rằng nếu không có sự tự do cho tâm hồn để nó vươn lên trên mọi khoái lạc của đời sống, thì người ta không thể có những nhân đức khác mà các mối phúc thật ban cho - có thể phân chia ra nhiều hình thức.
Khiêm nhường trong tư tưởng, không tự hào, không tuyên bố hơn người, chỉ dùng ơn Thiên Chúa với lòng biết ơn, nhìn nhận căn nguyên của điều lành, chỉ vậy thôi.
Quảng đại trong các tình cảm, biết từ bỏ cả những tình cảm này để theo Thiên Chúa, cả đến sự sống là sự giầu có thực sự nhất của mọi sinh vật. Các vị tử đạo của Cha đã hoàn toàn quảng đại theo nghĩa này, vì tâm hồn họ đã biết tự trở thành nghèo, để trở nên giầu bằng của cải duy nhất, đời đời là: Thiên Chúa.
Công chính trong tình yêu đối với các vật dụng cá nhân. Yêu chúng vì chúng là bằng cớ sự quan phòng của Thiên Chúa, đó là một bổn phận - Cha đã nói về điều này trong những bài đọc trước đây - nhưng đừng yêu chúng tới nỗi yêu hơn Thiên Chúa và thánh ý Người. Yêu chúng, nhưng không tới nỗi nguyền rủa Thiên Chúa nếu có bàn tay nào đó của loài người lấy đi.
Sau cùng, Cha nhắc lại, sự tự do, không nô lệ tiền bạc.
Đó là những hình thức khác nhau về cái nghèo tinh thần mà Cha
248
đã nói rằng nó sẽ chiếm được Nước Trời. Hãy đặt dưới chân hết mọi của cải chóng qua của đời sống con người để chiếm lấy những của cải đời đời. Hãy đặt trái đất và các hoa trái ngon lành một cách gạt gẫm của nó: ngon ngọt ở bề mặt, nhưng cay đắng ở trong, vào chỗ sau cùng, và hãy sống và làm việc để chinh phục Nước Trời. Ôi! Ở trên đó không có những trái ngon lừa đảo. Ở trên đó là trái ngon khôn tả của việc tận hưởng Thiên Chúa.
Điều đó Zakê đã hiểu. Câu đó là một mũi tên đã mở con tim cho ông về phía Ánh Sáng và Đức Ái, về với Cha, đấng đến với ông để nói với ông: “Hãy đến”. Và khi Cha đến để gọi ông, ông đã là một kẻ nghèo trong tâm hồn. Bởi vậy ông có khả năng chiếm hữu Nước Trời.
109* TẠI LÀNG CỦA SALÔMÔN
Giêsu đến đây vào giữa đêm. Dựa vào vị trí của mặt trăng, tôi nghĩ lúc này vào khoảng hai giờ sáng. Một vầng trăng đẹp vừa mới bắt đầu tăng trưởng, rạng rỡ giữa bầu trời quang đãng, chiếu giãi bình an xuống cho trái đất. Bình an cùng với sương sa dồi dào, làn sương dư dật của xứ nóng, ân nhân của loài thảo mộc sau sự thiêu đốt của mặt trời trong ngày.
Chắc hẳn các người hành hương đã đi theo bờ sông khô ráo, vì nước sông có dòng hẹp hơn do mực nước thấp của mùa hè. Từ dưới bãi sậy, họ leo lên tới những cây mọc ở bờ sông và bảo vệ bờ sông bằng mạng lưới làm bằng các rễ cây ở dưới đất gần bờ nước.
- Chúng ta hãy dừng lại đây để chờ sáng - Giêsu nói.
- Thưa Thầy, con đau ê ẩm khắp mình... - Mathêu nói.
- Còn con, con sợ bị sốt. Nước sông không được lành... Thầy biết đó - Philíp thêm.
- Nhưng sẽ còn tệ hơn nếu từ dưới sông, chúng ta leo lên các núi xứ Juđê. Điều đó người ta cũng biết - Zêlote nói. Ông thương Giêsu, vì mọi người đều kể những đau khổ lặt vặt của mình với Người, bắt
249
Người nghe những than van của họ mà chẳng ai hiểu tình trạng tâm hồn Người.
- Simon, hãy để họ nói, họ có lý. Nhưng chỉ lát nữa là chúng ta được nghỉ... Thầy xin các con, chỉ còn mấy bước đường nữa... và một lúc chờ đợi ở đây thôi. Các con thấy mặt trăng đã ngả hẳn về tây. Tại sao lại đánh thức ông già dậy, và có lẽ Giuse cũng còn bệnh, trong khi trời sắp sáng rồi?...
- Bởi vì ở đây ướt đẫm sương, không biết phải ngồi vào chỗ nào nữa! - Iscariot càu nhàu.
Tôma luôn luôn vui vẻ, nói:
- Anh sợ hư quần áo của anh à? Này, sau hồi đi bộ của tù khổ sai trong bụi đất và sương đêm, không còn cái gì để làm con công nữa đâu! Lại nữa, như vậy anh sẽ làm vui lòng hơn cho ngài Elchias đáng yêu! Các chữ Hy Lạp của anh, các dấu ở gấu áo và ở cửa tay áo đã tơi bời vì những cây gai của sa mạc Juđa, còn cái hình ở cổ thì mồ hôi đã làm hỏng rồi... Bây giờ anh là một người Do Thái trọn hảo...
- Một sự dơ bẩn trọn hảo chứ! Tôi ghê tởm như vầy - Judas bực bõ đối đáp.
Giêsu bình tĩnh nói: “Judas, chỉ cần là con có qủa tim trong sạch. Chỉ có nó mới có giá trị...”
- Giá trị! Giá trị! Chúng ta kiệt lực vì mệt và đói... Chúng ta bị mất sức khỏe, mà chỉ có sức khỏe mới có giá trị - Judas nói cách bất lịch sự.
- Thầy, Thầy không ép con ở lại. Chính con muốn ở lại.
- Từ nay... đã thích hợp để con làm. Con đã...
- Nhưng hãy nói hết những lời đang đốt cháy môi con đi: “Con đã tự hại trước nhân viên Đại Pháp Đình”. Nhưng con luôn luôn muốn sửa chữa để lại được sự tín nhiệm của ông ta...
- Con không muốn sửa chữa... vì con yêu Thầy và con muốn ở lại với Thầy.
- Anh nói kiểu đó đúng là bộc lộ sự thù ghét hơn là tình yêu - Juđa Thađê nói lúng búng.
250
- Này... mỗi người có cách bộc lộ tình yêu của mình.
- Hé! Đúng. Có những kẻ yêu vợ nhưng cho vợ những cú gia hình. Tôi không thích thứ tình yêu này - Giacôbê Zêbêđê nói, cố gắng cắt đứt chuyện lôi thôi bằng một câu nói đùa, nhưng chả ai cười cả, và nhờ ơn Chúa, cũng không ai đáp trả.
Giêsu khuyên: “Chúng ta hãy tới ngồi tại ngưỡng cửa nhà. Mái hiên rộng che cho khỏi sương và có cái bậc của nền nhà...”
Họ vâng lời, không nói gì. Sau khi đã tới căn nhà, họ ngồi một hàng dọc theo bức tường. Nhưng một nhận xét đơn giản của Tôma: “Tôi đói. Đi bộ về đêm nó cào tôi”, làm dậy lại các thảo luận.
- Đi qúa trời! Từ bao ngày nay chả ăn gì hết! - Iscariot trả lời ông.
- Thật sao? Tại nhà Nique, nhà Zakê, ta đã ăn ngon! Và Nique đã cho chúng ta qúa nhiều tới nỗi chúng ta phải cho người nghèo để khỏi hư. Chúng ta không bao giờ thiếu bánh. Cái ông ở đoàn du mục cũng cho chúng ta bánh và đồ ăn kèm với bánh... - Andrê nhận xét.
Judas không thể cải chính nên nín thinh.
Từ xa, một con gà trống chào ánh đầu tiên của ngày.
- Ồ! Tốt! Sắp rạng đông rồi - Phêrô nói trong khi vươn vai, vì ông hầu như ngủ gục.
Họ lặng lẽ chờ ngày tới.
Một tiếng bê bê trong công viên... Rồi tiếng lục lạc ở xa, trên lộ lớn. Ở ngay trước mặt... rất gần, là tiếng chim câu của Anania kêu gù gù. Một giọng nói khàn khàn trong đám sậy... Đó là một người chài lưới trở về với mẻ cá đánh ban đêm, chửi thề vì kết qủa nhỏ nhoi. Ông ta nhìn thấy Giêsu và ông đứng lại. Ông ngập ngừng, rồi ông nói: “Nếu tôi cho Thầy, Thầy có hứa với tôi kết qủa dồi dào trong tương lai không?”
- Vì lợi lộc hay vì nhu cầu?
- Vì nhu cầu. Tôi có bảy đứa con, vợ tôi và bà mẹ vợ tôi.
- Ông có lý. Hãy quảng đại, và Thầy hứa với ông là ông sẽ không thiếu những gì cần thiết.
251
- Vậy cầm lấy đi. Ở trong nhà đó cũng có cái ông bị thương mà không khỏi, mặc dầu được săn sóc...
- Nguyện Thiên Chúa trả ơn cho ông và cho ông sự bình an - Giêsu nói.
Người đó chào rồi đi, để lại mẻ cá của ông, được xâu qua miệng vào một cành liễu.
Sự yên lặng chấm dứt bởi tiếng rì rào của bờ lau, bởi vài tiếng chim kêu... Rồi một tiếng cọt kẹt vọng tới: chiếc cửa thô kệch mà Anania đã làm kêu ken két, và ông già nhỏ bước ra đường để quan sát bầu trời. Con cừu cái theo sau ông và kêu bê bê...
- Bình an cho ông, Anania!
- Thầy!... Nhưng Thầy ở đây từ lúc nào vậy? Sao Thầy không gọi để mở cửa cho Thầy?
- Mới một lúc thôi. Thầy không muốn phiền ai... Giuse thế nào?
- Thầy biết à?... Ông rất bệnh. Một tai chảy mủ hoài, và ông rất đau đầu. Con nghĩ là ông sắp chết, hay đúng hơn là con đã nghĩ vậy. Nhưng bây giờ Thầy ở đây thì con tin là ông sắp khỏi. Con đi kiếm cỏ để đắp cho ông.
- Các bạn của Giuse có ở đây không?
- Có hai người. Những người khác đã đi. Ở đây có Salômôn và Êlie.
- Các pharisiêu có làm phiền các con không?
- Ngay sau khi Thầy đi. Rồi sau đó nữa. Họ muốn biết Thầy đi đâu. Con đã nói: “Tới nhà con dâu tôi ở Masada”. Con có làm sai không?
- Con làm rất đúng.
- Và... Thầy đã tới đó thực à? - Ông già rất lo âu.
- Ừ, cô ấy khỏe mạnh.
- Nhưng... Nó có nghe Thầy không?
- Không. Phải cầu nguyện rất nhiều cho cô ta.
- Và các đứa nhỏ... Mong cô ta nuôi chúng cho Chúa - ông già nói, và hai giọt nước mắt lớn chảy xuống để nói những gì ông đã nín lại. Sau cùng ông nói: “Thầy có thấy chúng không?”
252
- Có một đứa Thầy có thể nói là Thầy gặp nó... Những đứa khác thì Thầy ức đoán. Tất cả chúng đều khỏe.
- Con dâng cho Thiên Chúa sự mất mát và sự tha thứ của con. Nhưng... thật chua xót phải nói rằng con không gặp chúng nữa.
- Con sắp gặp con trai con, và con sẽ được bình an cùng với nó ở trên trời.
- Cám ơn Chúa. Xin vào.
- Ừ, chúng ta hãy đến bên người bệnh ngay. Ông ta đâu?
- Trên cái giường tốt nhất.
Họ đi vào mảnh vườn được chăm sóc cẩn thận, rồi từ đó vào bếp, rồi vào căn phòng nhỏ. Giêsu cúi xuống trên bệnh nhân đang ngủ trong khi rên rên. Giêsu cúi xuống, cúi xuống. Người thổi vào lỗ tai được băng bằng miếng vải thô đã đầy mủ. Người đứng thẳng lên rồi đi ra, không gây một tiếng động.
- Thầy không đánh thức anh ấy dậy à? - ông già khẽ hỏi.
- Không. Hãy để anh ngủ, anh hết đau rồi, anh sẽ nghỉ ngơi. Chúng ta đi gặp những người khác. - Rồi không gây một tiếng động, Giêsu lại cái cửa dẫn tới phòng có hai chiếc giường đã mua lần trước. Hai người môn đệ mỏi mệt đang ngủ.
- Họ đã canh chừng cho tới sáng. Con thì canh chừng từ sáng tới tối. Vì vậy họ rất mệt. Họ rất tốt.
Chắc hẳn hai người ngủ nhưng lỗ tai thức, vì vậy họ thức dậy ngay: “Thầy! Thầy của chúng con! Thầy tới đúng lúc. Giuse đã...”
- Được lành rồi. Thầy đã làm. Anh ấy ngủ và không biết, nhưng anh ta không còn bệnh gì nữa. Anh chỉ có việc rửa ráy những dơ bẩn là sẽ được nguyên vẹn như trước.
- Ôi! Vậy xin Thầy cũng thanh tẩy cho chúng con nữa, vì chúng con đã phạm tội.
- Về cái gì?
- Để giúp Giuse, chúng con đã không lên Đền Thờ.
- Đức bác ái dựng đền thờ ở khắp nơi. Và chính ở trong đền thờ của đức bác ái là nơi Thiên Chúa ngự. Nếu các con yêu nhau thì cả trái đất chỉ là một đền thờ. Hãy bình an. Sẽ tới một ngày mà lễ Ngũ
253
Tuần sẽ được gọi là Lễ Tình Yêu, là sự bộc lộ của Tình Yêu. Các con đã làm trước lễ Ngũ Tuần tương lai, vì các con đã yêu thương anh em.
Từ phòng bên, tiếng Giuse vang lên: “Anania, Êlie, Salômôn! Tôi được khỏi rồi!” Và người đàn ông xuất hiện, chỉ mặc một cái áo cộc, gầy, còn xanh, nhưng không đau nữa. Ông nhìn thấy Giêsu và kêu lên: “A! Chính là Thầy, Thầy của con!” Và ông chạy lại hôn chân Người.
- Nguyện Thiên Chúa cho con bình an, Giuse! Và tha cho Thầy, nếu con đã phải đau khổ vì Thầy.
- Con được vinh quang vì đã đổ máu ra vì Thầy, giống như ba con đã đổ ra xưa kia. Con chúc tụng Thầy vì đã cho con đáng được vậy - Khuôn mặt thô kệch của Giuse rạng rỡ trong những lời này, và nó trở thành đẹp cách qúi phái bằng vẻ đẹp đến từ nội tâm của ông.
Giêsu vuốt ve ông và nói với Salômôn: “Căn nhà của con được dùng để làm nhiều điều tốt”.
- Ôi! Bởi vì bây giờ nó thuộc về Thầy. Trước đây nó chỉ được dùng cho giấc ngủ nặng nề của người chèo đò. Nhưng con rất bằng lòng vì nó phục vụ Thầy, và nó phục vụ kẻ công chính này. Bây giờ chúng ta sẽ có vài ngày vui, ở đây với Thầy.
- Không, bạn ơi! Các con sẽ đi ngay. Chúng ta không được phép nghỉ nữa. Thời gian sắp tới sẽ thực sự là thời gian thử thách, và chỉ những ý chí thật vững mạnh mới kiên trì trung thành. Bây giờ chúng ta đi bẻ bánh với nhau, rồi các con sẽ đi ngay dọc theo bờ sông, đi trước Thầy một nửa ngày.
- Thưa Thầy vâng. Cả Giuse cũng đi chứ ?
- Ừ, ít nhất là anh ta không sợ một vết thương mới nữa...
- Ôi Thầy! Chớ gì con được làm vui lòng Thiên Chúa bằng cách đi trước Thầy trong cái chết, bằng cách hiến máu con vì Thầy!
Họ ra ngoài mảnh vườn mà những tia đầu tiên của mặt trời làm lóng lánh sương mai. Anania làm vinh dự cho căn nhà bằng cách hái những trái sung đầu tiên trên những cành phơi ra mặt trời nhiều
254
nhất, và ông xin lỗi vì không thể hiến những con chim câu non, vì hai ổ đã phục vụ cho người bệnh. Nhưng vẫn còn một ít cá. Và lẹ làng, lẹ làng, họ chuẩn bị đồ ăn.
Giêsu đi dạo giữa Giuse và Êlie. Giuse kể cuộc phiêu lưu của ông và sức mạnh của Salômôn đã mang người bị thương trên vai trong những cây số đường dài đi trong đêm.
- Nhưng con, Giuse, con tha cho kẻ đánh con chứ, phải không?
- Con không bao giờ oán giận những kẻ khốn nạn này. Con dâng sự tha thứ và sự đau đớn cho việc cứu chuộc họ.
- Đó chính là điều phải làm đó, môn đệ tốt ạ. Còn Ogla?
- Ogla đi với Timon. Con không biết anh ta có tiếp tục đi với Timon không hay anh ta dừng lại ở Hermon. Anh ta luôn luôn nói là anh ta muốn đi Liban.
- Tốt. Xin Thiên Chúa chỉ dẫn cho anh ta điều nào tốt hơn.
Bây giờ trong các chòm lá, chim chóc đã họp bầy lứu lo; các tiếng bê bê, các giọng nói trẻ em, phụ nữ, tiếng lừa kêu, tiếng kót két của con quay trên các giếng báo hiệu rằng ngôi làng đã thức giấc.
Các vị bẻ bánh ngay ngoài vườn. Họ chia sẻ cá, rồi dùng bữa. Ngay sau đó, được Giêsu chúc lành xong, ba môn đệ rời nhà ngay, lẹ làng ra con đường dọc bờ sông, chìm trong khí tươi mát và bóng râm của bờ lau sậy.
Người ta không nhìn thấy họ nữa...
- Bây giờ chúng ta hãy nghỉ tới chiều, rồi chúng ta cũng đi theo họ - Giêsu ra lệnh.
Có một đống lưới do Anania làm, theo như ông nói, ông không nhàn cư, và ông kiếm được bánh cho ông hàng ngày. Một nửa nằm trên đống lưới, một nửa nằm trên giường, các tông đồ tìm giấc ngủ phục sức.
Trong lúc đó, Anania thu lượm quần áo ướt mồ hôi, ông đi ra, không một tiếng động, ông khép cửa, xuống sông giặt để chúng sạch và khô vào buổi chiều.
Chú thích: Lễ Ngũ Tuần (Pentecôte), là lễ Hiện Xuống ngày nay, vì Chúa Thánh
255
Thần hiện xuống vào ngày lễ Ngũ Tuần.
110* GIÊSU TRONG MỘT LÀNG
THUỘC MIỀN THẬP TỈNH
Tại bờ sông, một ngôi làng với mấy căn nhà nhỏ. Tôi thấy có lẽ đây là nơi Giêsu đã đi ra khi Người đi đò qua sông lúc nước lũ.
Giêsu đã sai Tôma và Iscariot đi trước để dọn đường cho Người. Bây giờ tôi thấy người chèo đò với cha mẹ ông đang tới gặp Người.
Người chèo đò nhìn thấy Giêsu còn ở xa, đã dấn bước. Tới trước mặt Người, ông cúi rất sâu để tôn kính và nói: “Ôi Thầy, Thầy đến, rất tốt cho các bệnh nhân của chúng con. Họ đang chờ Thầy. Con đã nói rất nhiều về Thầy. Tất cả dân làng đều nhờ con làm trung gian để chào Thầy rằng: ‘Chúc tụng Đấng Messi của Thiên Chúa Tối Cao’”.
- Bình an cho ông và làng này. Thầy đến cho các con đây. Các con không phải thất vọng vì đã trông cậy. Chúa thương những kẻ biết tin. Ta đi thôi.
Và Giêsu đi bên cạnh người chèo đò về hướng trung tâm làng.
Đàn bà, con nít, đàn ông ra đứng trước cửa, rồi đi theo. Đám rước nhỏ gia tăng theo đà tiến. Đám đông lớn lên ở mỗi mét, vì luôn luôn có thêm những người mới tới để họp đoàn với những người đã ở đấy. Người ta chào, người ta chúc tụng, người ta gọi.
Một bà mẹ kêu: “Thầy ơi, con con nó bệnh, xin Thầy đến! đấng đáng chúc tụng!”
Giêsu quẹo vô căn nhà nghèo trong khi để tay trên vai người mẹ đầy nước mắt, Người hỏi: “Con bà đâu?”
- Thưa Thầy đây. Xin vào.
Bước vào trong nhà thì chỉ có thể: bà mẹ, Giêsu, người chèo đò, Phêrô, Gioan, Thađê và một ít dân làng. Những người khác chen chúc ngoài cửa, nghển cổ lên để nhìn.
Trong một góc của căn bếp nghèo và tối, có một cái giường nhỏ
256
ở gần một bếp lửa đang cháy, trên giường có cái xác chết của một đứa nhỏ khoảng bảy tuổi. Tôi nói là cái xác chết, vì nó bé tí, vàng khè, không nhúc nhích. Chỉ có hơi thở hắt ra của cái lồng ngực nhỏ bệnh hoạn. Tôi cho là nó bị lao phổi.
- Thầy coi đó. Con đã tiêu pha hết gia tài để cứu nó, ít nhất là nó, vì con không còn chồng. Hai đứa con khác của con đã chết cũng xấp xỉ ở tuổi nó. Con đã mang nó tới tận Cêsarê Maritime để gặp thầy thuốc Rôma, nhưng ông chỉ biết nói với con: “Bà hãy cam chịu, sâu xương đục khoét nó”. Thầy coi này!
Bà mẹ mở chiếc mền để lộ ra một vật nhỏ. Chỗ nào không cuốn băng thì nhìn thấy những xương nhỏ lồi lên dưới lớp da cháy sạm và vàng khè. Nhưng chỉ lộ ra một phần nhỏ của cơ thể, phần còn lại thì bị che dưới lớp băng và khăn. Khi bà mẹ gỡ ra thì thấy những lỗ chảy máu, đặc tính của bệnh mục xương. Một thảm cảnh! Đứa bé kiệt quệ tới nỗi nó không làm một cử chỉ nào. Tựa như nó không còn tự cử động nữa. Nó chỉ hơi hé đôi mắt lõm sâu và khù khờ, ném một cái nhìn dửng dưng, tôi có thể nói là hơi khó chịu, trên đám đông. Rồi nó lại nhắm mắt.
Giêsu vuốt ve nó. Người để bàn tay dài của Người trên cái đầu không còn tự chủ. Đứa trẻ lại mở mắt ra nhìn cách lưu ý hơn vào người lạ đã đụng vào nó cách đầy âu yếm, và mỉm cười với nó cách yêu thương.
- Con muốn khỏi không? - Giêsu nói êm đềm khi cúi xuống trên khuôn mặt nhỏ tái mét. Trước tiên, Người đã đắp lại cho cơ thể nhỏ và nói khi bà mẹ muốn thay khăn vải: “Bà ơi, khỏi cần, cứ để vậy”.
Đứa bé không nói, nhưng nó ra dấu là muốn.
- Tại sao?
- Cho má - nó nói bằng giọng rất yếu. Còn bà mẹ thì khóc mạnh hơn.
- Nếu con được khỏi, con có sống tốt không? Làm một đứa con ngoan? Một công dân tốt? Một tín hữu tốt?
Người hỏi các câu tách rời nhau, và để thời giờ cho đứa nhỏ trả lời cho từng câu. “Con có sẽ nhớ những điều con hứa bây giờ không? Mãi mãi chứ?”
257
Những tiếng “vâng” yếu ớt, nhưng bày tỏ lòng ước ao sâu xa, được phát ra , tiếng nọ sau tiếng kia như từng ấy hơi thở của linh hồn.
- Đưa tay cho Thầy đi con - Đứa trẻ muốn đưa ra tay trái là tay còn lành, nhưng Giêsu nói: “Đưa tay kia. Thầy không làm đau con đâu”.
Bà mẹ của đứa trẻ nói: “Lạy Chúa, nó chỉ còn là một vết thương. Để con bao lấy nó cho Thầy”.
- Không sao đâu bà. Thầy chỉ ghê tởm những dơ bẩn của tâm hồn thôi. Đưa tay con cho Thầy, và hãy nói cùng với Thầy: “Con muốn luôn luôn là đứa con ngoan, một người, một kẻ tin vào Thiên Chúa thật”.
Đứa trẻ nhắc lại trong khi cố gắng làm cho mạnh giọng nói nhỏ của nó. Ôi! Tất cả tâm hồn nó đều ở trong tiếng nói này cùng với hy vọng... Và chắc chắn cũng có tiếng nói của bà mẹ.
Có một sự yên lặng trang nghiêm trong phòng cũng như ngoài đường. Giêsu cầm tay phải của bệnh nhân trong tay trái của Người, Người giơ tay mặt lên - đó là cử chỉ của Người khi loan báo một chân lý hay khi Người áp đặt ý muốn của Người trên bệnh tật hoặc các yếu tố - Người đứng thẳng, trang trọng và nói bằng giọng rất mạnh: “Và Thầy, Thầy muốn con lành bệnh. Con ơi, hãy chỗi dậy và ngợi khen Chúa”. Rồi Người buông bàn tay nhỏ bây giờ hoàn toàn lành mạnh, gầy, nhưng không có một vết trầy nào. Và Người nói với bà mẹ: “Hãy mở ra cho con bà”.
Người đàn bà có khuôn mặt của một người chờ đợi một câu nói truyền cho chết hay ban ơn. Bà ngập ngừng, bà mở mền ra... bà phát ra một tiếng kêu và ôm chầm lấy cơ thể nhỏ, rất gầy, nhưng nguyên vẹn. Bà hôn nó, ôm ghì lấy nó... Bà điên lên vì mừng, đến nỗi bà không thấy là Giêsu đã rời chiếc giường và đi ra cửa.
Nhưng đứa trẻ khỏi bệnh nhìn thấy Người và nói: “Ôi Chúa! Chúc phúc cho con đi, và hãy cho phép con chúc tụng Chúa. Má ơi!... Má không cám ơn à?”
- Ôi! Xin tha! - Người đàn bà ẵm con và qùi xuống tại chân
258
Giêsu.
- Bà ơi, Thầy hiểu. Hãy bình an và sung sướng. Chào con nhỏ. Hãy tốt. Chào tất cả - và Người ra ngoài.
Rất nhiều người đàn bà giơ con nhỏ của họ cho Giêsu để phúc lành của Người tránh cho nó những bệnh hoạn trong tương lai. Các trẻ em len lỏi giữa các người lớn để kiếm cái vuốt ve. Giêsu chúc lành, vuốt ve, nghe. Người cũng dừng lại để chữa ba người đau mắt và một người run như người mắc chứng múa máy. Bây giờ Người đã tới trung tâm làng.
- Ở đây có một người bà con của con, bị câm điếc từ lúc sinh ra. Anh ta có trí khôn tỉnh táo, nhưng anh không thể làm việc gì được. Giêsu, xin Thầy chữa cho anh ta - người chèo đò nói.
- Hãy dắt Thầy đến với anh ta.
Họ đi vào một khu vườn nhỏ. Ở cuối vườn có một người đàn ông trẻ, cỡ ba mươi tuổi, đang kín nước ở giếng để tưới rau. Vì điếc và quay lưng lại nên anh ta không biết ai đang đến. Anh ta tiếp tục công việc của anh, không băn khoăn, mặc dầu đám đông la lối mạnh tới nỗi các con chim câu trên mái nhà sợ hãi bay đi trốn.
Người chèo đò đến bên cạnh anh, ông cầm tay anh và dắt lại với Giêsu.
Giêsu đứng trước mặt kẻ khốn nạn, rất gần, thực sự như kề cơ thể với nhau, đến nỗi lưỡi Người đụng vào lưỡi người câm đang há hốc miệng, và Người đặt hai ngón tay giữa trong lỗ tai của người câm điếc, Người ngước mắt lên trời cầu nguyện một lát, rồi Người nói: “Hãy mở ra”. Rồi Người buông tay và tránh ra.
- Ông là ai mà ông tháo tiếng nói và thính giác cho tôi - người được phép lạ nói.
Giêsu làm một cử chỉ và tìm cách tiếp tục con đường của Người bằng cách ra lối sau nhà. Nhưng người được chữa cũng như người chèo đò giữ Người lại. Một người nói: “Đó là Giêsu Nazarét, Đấng Messi”, người kia thì nói: “Ôi! Xin Thầy ở lại để con tôn thờ Thầy”.
- Hãy tôn thờ Chúa Tối Cao và hãy luôn luôn trung thành với Người. Đi đi, đừng mất thời giờ với các lời vô ích. Đừng làm cho phép lạ trở thành trò giải trí. Hãy dùng lời nói vào việc tốt. Còn hơn
259
là bằng lỗ tai, hãy nghe bằng con tim, tiếng nói của Thánh Linh tác tạo, đấng yêu con và chúc lành cho con.
Nhưng đúng vậy, bảo một người qúa sung sướng đừng nói về hạnh phúc của họ là điều vô ích! Người đàn ông được khỏi bắt đầu nói về bao năm câm điếc với tất cả những người hiện diện.
Người chèo đò năn nỉ để Giêsu vào nhà ông ăn uống và nghỉ ngơi. Ông cho mình là tác giả của tất cả những trọng kính đang bao quanh Giêsu và ông bám vào ý tưởng này. Ông muốn rằng quyền lợi của ông phải được công nhận.
- Nhưng tôi là kỳ hào trong làng - một ông già trấn át.
- Nhưng nếu tôi không ở đó với các con đò thì ông đâu có được thấy Giêsu - người chèo đò trả lời.
Phêrô, luôn luôn thẳng thắn và xung động: “Qủa vậy... nếu tôi đã không ở đấy để nói mấy lời thì ông... các con thuyền...”
Giêsu can thiệp như thiên định để hòa hợp mọi người: “Chúng ta hãy ra gần bờ sông. Tại đó, trong khi chờ đợi đồ ăn - và mong rằng nó tằn tiện và thanh đạm, vì lương thực phải phục vụ cơ thể, nhưng không phải là mục đích của cơ thể - Thầy sẽ giảng Tin Mừng. Những ai muốn nghe Thầy hay hỏi Thầy điều gì thì họ hãy đến với Thầy”.
Tôi có thể nói là tất cả làng đều theo Người.
Giêsu lên một cái ghe đã kéo vào chỗ khô trên bờ, và từ cái diễn đàn ứng biến này, với các thính giả ngồi thành hình bán nguyệt trước mặt trên bờ sông và ở giữa các cây, Người nói với họ.
Người lấy đề tài từ một câu hỏi mà một người đã đặt cho Người: “Thưa Thầy, luật của chúng ta tựa như chỉ rằng những kẻ sinh ra đã bất hạnh là bị Thiên Chúa đánh phạt, tới nỗi cấm họ không được phục vụ tại bàn thờ. Nhưng họ có lỗi gì về sự kiện đó? Phải chăng là không công bằng khi cho là có tội, những cha mẹ đã sinh ra những kẻ tội nghiệp này? đặc biệt là người mẹ? Và chúng con phải có thái độ nào đối với những kẻ bẩm sinh bất hạnh?”
- Hãy nghe đây:
Có một nhà điêu khắc đại tài, một nhà điêu khắc toàn vẹn, một ngày kia, ông đã đẽo một bức tượng, và công việc của ông trọn hảo
260
tới nỗi ông thỏa lòng và nói: “Ta muốn rằng trái đất đầy dẫy những kỳ quan như vầy”. Nhưng ông không thể làm hết bấy nhiêu việc. Vậy ông gọi những người khác đến giúp và nói với họ: “Hãy dựa vào cái mẫu này và hãy làm một ngàn và mười ngàn bức tượng toàn vẹn như vầy. Tôi sẽ làm cho chúng cái nét sau cùng bằng cách ghi khắc sự diễn tả trên diện mạo của chúng”. Nhưng những người giúp ông không có khả năng đạt tới đích đó, vì thực sự tài năng của họ rất thấp hơn tài năng của ông thầy họ. Thêm vào đó, họ lại hơi say, vì đã ăn một thứ trái mà nước cốt của nó gây ra mê sảng và âu sầu. Lúc đó nhà điêu khắc cho họ những cái khuôn và nói: “Hãy cho chảy các nguyên liệu vào đó để đúc, như vậy nó sẽ là một tác phẩm y hệt, rồi sau cùng, tôi sẽ cho nó các nét đặc biệt và tôi sẽ làm cho nó sống động”. Và các người giúp ông vào việc.
Nhưng nhà điêu khắc có một kẻ đại thù: Kẻ thù cá nhân của ông và kẻ thù của các cộng sự viên của ông. Kẻ thù này tìm mọi phương cách để làm cho họ sản xuất ra những khuôn mặt xấu cho nhà điêu khắc, và làm nảy sinh ra những bất đồng ý kiến giữa ông và các cộng sự viên của ông. Vì đó, họ áp dụng những xảo trá của họ vào trong công việc của họ: khi thì ngụy chế ra những nguyên liệu phải đổ vào khuôn, khi thì đốt lửa qúa mạnh, khi thì tán dương một cách qúa mức sự hợp tác của họ. Vậy xảy ra là ông giám đốc của thế giới, để tránh hết sức có thể cho công việc không sản xuất ra những bản sao chép không hoàn toàn, đã định ra những hình phạt trầm trọng cho những tác phẩm ra khuôn dưới hình thức không hoàn hảo, và định rằng những bức tượng như vậy không được trưng bày trong nhà của Thiên Chúa, nơi mà tất cả phải, hay đã phải hoàn hảo. Thầy nói “đã phải”, bởi vì nó đã không được như vậy. Mặc dù bề ngoài tốt, nhưng thực tế là không tốt. Những người được đem trình diện trong nhà Thiên Chúa có vẻ như không khiếm khuyết, nhưng con mắt Thiên Chúa nhìn thấy nơi họ những lỗi trầm trọng: những lỗi về tâm hồn.
Ôi! Tâm hồn! Chính với nó mà người ta phải phục vụ Thiên Chúa. Thực vậy, chính với nó. Không cần và không đủ nếu chỉ có
261
mắt sáng, tai thính, tiếng nói du dương, cơ thể đẹp đẽ, để có thể hát lời ngợi khen đẹp lòng Thiên Chúa. Không cần và không đủ nếu chỉ có quần áo đẹp, sạch sẽ và thơm tho, nhưng phải có sự hòa hợp trong sáng, hoàn hảo của tâm hồn trong cái nhìn, trong thính giác, trong tiếng nói, trong các hình dáng siêu nhiên. Và những thứ này phải được trang điểm bằng sự trong sạch, bằng những y phục sạch sẽ thơm tho của đức bác ái. Đó là dầu bão hòa những tinh chất đẹp lòng Thiên Chúa.
Và một kẻ sung sướng sẽ có đức bác ái nào, nếu khi nhìn thấy một người bất hạnh mà họ lại khinh bỉ và gớm ghét? Trái lại, phải có lòng bác ái gấp đôi, gấp ba đối với kẻ vô tội mà sinh ra đã bất hạnh. Sự bất hạnh là một đau khổ mang công nghiệp cho những ai chịu đựng nó, và cho những người xúc động khi nhìn thấy người khác đau khổ. Và vì tình yêu, họ thương cho những cha mẹ có lẽ đã đấm ngực mà nói: “Tại tôi, tại những trụy lạc của tôi đã gây ra hậu qủa là những đau đớn này”. Và kẻ bất hạnh không bao giờ phải trở nên duyên cớ cho các lỗi siêu nhiên của các kẻ nhìn thấy họ. Sự nhìn thấy sẽ trở thành có lỗi nếu nó gây ra sự lỗi bác ái. Đó là tại sao Thầy bảo các con: “Đừng bao giờ lỗi bác ái với tha nhân”. Họ sinh ra trong bất hạnh ư ? Hãy yêu họ, vì họ mang sự đau khổ lớn lao của họ. Họ trở nên bất hạnh vì tội của họ ư ? Hãy yêu họ, vì tội của họ đã biến thành hình phạt. Họ là cha của một kẻ sinh ra đã bất hạnh hay đã trở thành bất hạnh ư ? Hãy yêu họ, vì không có cái đau nào lớn hơn cái đau của người cha bị đánh trong con mình. Họ là một người mẹ đã cưu mang một quái vật ư ? Hãy yêu bà, vì bà hoàn toàn bị dày đạp bởi cái đau đớn này mà bà cho là vô nhân đạo nhất. Đó là một nỗi khổ tàn nhẫn, nhưng nó còn tàn nhẫn hơn nữa là nỗi đau của bà mẹ đã cưu mang một người mà tâm hồn là con quái vật, bà mẹ nhận ra rằng bà đã cưu mang một thằng qủi, một mối nguy hiểm cho trái đất, cho quê hương, cho gia đình, cho bạn bè. Ôi! Bà mẹ này cả đến không dám ngửa mặt lên, người mẹ khốn khổ của một sinh vật hung bạo, đê tiện, sát nhân, phản bội, trộm cướp, trụy lạc!
262
Vậy Thầy bảo các con: Hãy yêu cả những bà mẹ này nữa: những bà mẹ bất hạnh nhất, những bà mẹ sẽ qua đi trong lịch sử với cái tên: Mẹ của tên sát nhân, phản bội.
Khắp nơi, trái đất đã nghe những tiếng khóc tan nát của các bà mẹ vì cái chết độc ác của con họ. Từ Evà trở đi, biết bao bà mẹ đã cảm thấy lòng dạ bị xé nát còn hơn là cái đau lúc sinh con. Nhưng Thầy nói gì? Bà cảm thấy lòng dạ bị giật ra, và cùng với nó là con tim, bởi một bàn tay hung bạo, trước xác chết của đứa con bị giết, bị hành hình, bị ngược đãi bởi loài người. Các bà đã kêu than nỗi đau khủng khiếp của họ khi họ ném mình vào cơn mê sảng co giật của tình yêu đau khổ, trên thân xác không còn nghe thấy nữa, không còn nóng lên bằng sức nóng của bà nữa, không còn thể làm một cử động nào để nói bằng một cái nhìn, bằng một cử chỉ, nếu nó không còn nói được nữa để nói: “Mẹ ơi, con nghe mẹ”.
Nhưng Thầy nói với các con rằng: Trái đất chưa nghe được tiếng kêu, chưa nhận được nước mắt của một bà mẹ thánh thiện nhất, và của một bà mẹ bất hạnh nhất, những bà mẹ sẽ muôn đời ở lại trong ký ức của loài người: Mẹ của Đấng Cứu Thế bị giết và mẹ của kẻ phản bội Người. Hai bà mẹ này, hai cách tử đạo khác nhau, nghe thấy tiếng nhau từ khoảng cách nhiều dặm. Họ nghe thấy tiếng rên của nhau. Đó là một bà mẹ vô tội và thánh với một bà mẹ vô tội nhất: Bà mẹ vô tội của Đấng Vô Tội sẽ nói với người chị em xa xôi, bị tử thương vì đứa con độc ác hơn mọi sự khác rằng: “Chị ơi, tôi yêu chị”.
Hãy yêu để xứng đáng với đấng sẽ yêu thay cho mọi người và sẽ yêu mọi người. Tình yêu, đó là cái sẽ cứu thế giới.
Giêsu xuống khỏi cái diễn đàn thô kệch của Người và cúi xuống để vuốt ve một đứa bé ở truồng, chỉ mặc một chiếc áo nhỏ, nằm lăn trên cỏ ở bờ sông. Sau bao lời cao siêu, thật êm đềm khi nhìn thấy cảnh này: Vị Thầy lưu ý tới một trẻ nhỏ như một người thông thường. Rồi Người bẻ bánh và phát cho những người ở gần, và Người ngồi để ăn như mọi người, trong khi chắc chắn rằng trong trái tim Người, Người đã nghe tiếng kêu đau thương của mẹ Người, và Người nhìn
263
thấy Judas ở bên cạnh Người.
Đối với tôi, kẻ rất dễ bị xúc động, sự việc Người trấn át tình cảm của Người làm tôi cảm động hơn nhiều điều khác. Đó là một giáo huấn mà tôi nhận được liên tục. Những người hiện diện ở đó như bị thôi miên. Họ ăn, trầm ngâm, kính cẩn và yên lặng nhìn người Thầy của tình yêu êm đềm.
111* NGƯỜI BỊ QỦI ÁM
Giêsu và các người của Ngài băng qua các miền quê. Ở đây mùa gặt lúa mì đã chấm dứt và cánh đồng giơ ra những gốc rạ nóng cháy. Giêsu theo một đường mòn có bóng mát và nói chuyện với những người cùng đi với các tông đồ. Một người nói:
- Đúng, không gì chữa được nó. Nó còn tệ hơn là điên. Và Thầy biết không? Nó là sự sợ hãi cho mọi người, nhất là các phụ nữ, vì nó đi theo các bà với những lời đùa dỡn tục tĩu. Và sẽ khốn nạn nếu nó bắt họ.
- Người ta không bao giờ biết được nó ở đâu - một người khác nói. “Trên núi, trong rừng, trong đồng lúa... Nó xuất hiện bất ngờ như một con rắn... Các phụ nữ sợ vô cùng. Có một bà còn rất trẻ, ở ngoài sông về, thình lình bị nó túm. Bà bị sốt nặng và chết trong vài ngày”.
- Một bữa khác, ông anh rể của con bị chết bố vợ, anh đến mộ của gia đình, nơi anh chuẩn bị phần mộ cho anh và các người nhà anh. Anh tới đó để chuẩn bị cho đám táng, nhưng anh phải chạy trốn, vì tên bị ám ở trong đó, trần truồng, la hét như thường lệ. Nó ném đá để đe dọa anh... Nó chạy theo anh ta gần tới làng, rồi nó trở về ngôi mộ, và anh ta phải chôn người chết của anh trong ngôi mộ của con.
- Và lần này thì nó đã nhớ rằng Tobie và Daniel đã dùng sức mạnh để trói nó và đem nó về nhà nó. Nó nấp trong đám sậy và bùn ở bờ sông để chờ hai ông khi hai ông lên thuyền để đi đánh cá
264
hay qua sông con không biết rõ. Nó đã dùng sức mạnh qủi thần của nó để nâng chiếc thuyền lên rồi lật úp. Hai ông được cứu bởi phép lạ, nhưng bị mất tất cả những gì trong thuyền, và lôi được thuyền lên với cái sống thuyền bị bể và các mái chèo bị gẫy.
- Nhưng các con không dẫn nó tới gặp các thầy cả sao?
- Có. Chúng con đã trói nó như một kiện hàng và mang tới tận Jêrusalem... Ôi! Một cuộc hành trình! Thật là một cuộc hành trình! Con đã ở trong số đó, và con nói với Thầy là khỏi cần phải xuống hỏa ngục để biết ở đó đã xảy ra những gì, và người ta nói với nhau những gì. Nhưng việc đó chẳng được ích lợi gì hết.
- Vẫn như trước?
- Còn tệ hơn nữa.
- Nhưng... Thầy cả!...
- Nhưng anh muốn gì?... Phải có...
- Cái gì? Nói tiếp đi!...
Yên lặng.
- Nói đi chứ ! Đừng sợ. Thầy không kết án các con đâu.
- Đây... Con nói... nhưng con không muốn phạm tội... Con nói rằng... Vâng... Vị thầy cả có thể thành công nếu... nếu...
- Nếu ông ấy thánh. Con muốn nói vậy mà con không dám. Thầy, Thầy bảo con: đừng xét đoán. Nhưng điều con nói là một sự thật, sự thật một cách đau đớn!...
Giêsu nín lặng và thở dài. Một yên lặng nặng nề.
Rồi một người lại dám nói: “Nếu chúng ta gặp nó, Thầy có chữa cho nó không? Thầy có giải phóng cho miền này không?”
- Con hy vọng rằng Thầy có thể làm à? Tại sao?
- Bởi vì Thầy thánh.
- Thiên Chúa là Đấng Thánh.
- Thầy là con của Người.
- Làm sao con biết?
- Hé! Người ta nói. Và rồi, chúng con là người của con sông, và
chúng con biết việc Thầy đã làm hồi ba tuần trăng trước đây. Ai có thể làm ngừng nước lũ, nếu không phải là Con Thiên Chúa?
- Và Môise? Và Josuê?
265
- Các ông đã hành động nhân danh Thiên Chúa và vì vinh quang của Người. Và họ có thể, vì họ thánh. Thầy còn hơn họ nữa.
- Thầy sẽ làm chứ Thầy?
- Thầy sẽ làm, nếu chúng ta gặp nó.
Họ tiếp tục con đường. Sức nóng gia tăng, khiến họ rời bỏ con đường để tìm chỗ nghỉ trong một đám cây ở dọc bờ sông. Nó không bị đảo lộn như khi có nước lũ. Mặc dầu mực nước còn cao, nhưng mặt nước phẳng lặng, xanh ngát, lấp lánh dưới mặt trời.
Con đường mòn nở rộng ra, và người ta nhìn thấy mấy căn nhà mầu trắng, chắc là gần tới một ngôi làng. Thoạt đầu thì có những kiến trúc rất trắng với một cửa duy nhất trên vách. Một số mở, một số khác thì đóng kín mít. Chung quanh không thấy ai cả. Các nhà xây rải rác trên vùng đất cằn cỗi, không canh tác, giống như bỏ hoang. Chỉ thấy toàn cỏ xấu và sỏi đá.
- Cút đi! Cút đi! Hãy trở lui, nếu không, tao giết mày!
- Đó, tên bị ám! Nó đã nhìn thấy chúng ta. Con đi đây.
- Con cũng đi.
- Tôi, tôi đi theo qúi vị.
- Đừng sợ. Hãy ở lại mà coi.
Giêsu tỏ ra bảo đảm tới nỗi các người... can đảm vâng lời, nhưng họ đứng đàng sau Giêsu. Các môn đệ cũng rút ra sau. Giêsu tiến lên một mình cách oai nghiêm, làm như Người không thấy gì và không nghe gì.
- Cút đi! - Tiếng kêu xé tai hợp với tiếng gầm và tiếng rống, không thể nói được là nó thoát ra bởi môi miệng loài người. “Cút đi! Hãy trở lui! Tao giết mày! Tại sao ông theo tôi? Tôi không thể nhìn ông!” Người bị ám nhảy lên, hoàn toàn trần truồng, da ngăm đen, tóc và râu dài, bù xù. Những lọn tóc đen bờm xờm dính đầy lá khô và bụi đất, rơi xuống trước đôi mắt nhìn trừng trừng và đỏ ngầu, đảo lộn trong tròng mắt, rũ xuống tận cái miệng há ra trong tiếng gào thét và những tràng cười điên như trong cơn ác mộng, cái miệng sùi bọt và máu, vì nó đập vào mình bằng những cục đá nhọn và nói: “Tại sao tao không thể giết mày? Ai đã trói buộc sức mạnh
266
của tao? Ông, ông à?” Giêsu nhìn nó và tiến tới.
Kẻ điên lăn lộn trên đất, nó cắn vào mình, sùi bọt nhiều hơn, lấy đá đập vào mình. Rồi nó đứng dậy, chỉ ngón tay trỏ vào Giêsu, nó nhìn Người cách bối rối và nói: “Hãy nghe! Hãy nghe! Đấng đã đến, đó là...”
- Nín ngay! Ma qủi của loài người, ta truyền cho ngươi.
- Không! Không! Không! Tôi không nín. Không. Tôi không nín. Có chuyện gì giữa tôi và ông? Tại sao ông ngược đãi tôi? Nhốt tôi trong nước hỏa ngục còn chưa đủ cho ông sao? Ông đến còn chưa đủ sao mà ông còn giật người ta khỏi tôi? Tại sao ông đuổi tôi ra khỏi đó? Hãy để chúng tôi ở trong các con mồi của chúng tôi. Ông, ông lớn và mạnh. Ông đi qua để chinh phục nếu ông có thể. Nhưng hãy để chúng tôi thưởng thức và phá hoại. Chúng tôi hiện hữu vì điều đó. Ôi! Khốn... Không, tôi không thể nói vậy, không thể nói vậy cho ông, không thể làm cho nó nói vậy cho ông! Tôi không thể nguyền rủa ông! Tôi ghét ông, tôi bách hại ông, tôi chờ để hành hạ ông. Tôi ghét ông, ông và đấng mà ông chiếm hữu. Tôi cũng ghét đấng là Thần Trí của qúi vị: Đấng Tình Yêu. Tôi ghét nó. Tôi là sự thù ghét.Tôi muốn nguyền rủa ông, tôi muốn giết ông, nhưng tôi không thể, tôi không thể! Tôi chưa có thể! Nhưng tôi chờ ông, ôi Đức Kitô! Tôi chờ ông. Tôi sẽ thấy ông chết. Ôi! Giờ vui mừng! Không, không phải vui mừng! Ông, chết ư? Không, không phải chết. Và tôi bị thua! Bị thua! Bị thua đời đời!... A!!!” Sự bộc phát đã tới cực độ.
Giêsu tiến lại gần người bị ám, giữ lấy hắn dưới đôi mắt thôi miên chói ngời của Người. Bây giờ Giêsu có một mình. Các tông đồ cũng như dân chúng dừng lại ở đàng sau: dân chúng ở sau lưng các tông đồ, còn các tông đồ thì ở đàng sau Giêsu một quãng ít là ba chục mét.
Dân làng, tôi thấy rất đông và có vẻ giầu, họ ra ngoài vì bị lôi kéo bởi tiếng kêu, và họ nhìn hoạt cảnh. Họ cũng rất sẵn sàng để bỏ chạy, cũng như nhóm đi theo Giêsu. Màn cảnh bây giờ là: Ở
267
giữa là Giêsu với người bị ám, chỉ cách nhau vài mét. Ở đàng sau Giêsu, về phía trái là các tông đồ và dân làng đã đi theo Người, ở phía phải là dân địa phương.
Sau khi đã truyền cho nó nín lặng, Người không nói nữa, Người chỉ nhìn nó trừng trừng. Nhưng bây giờ Người dừng lại và giơ tay về phía người bị ám, Người đang sắp nói gì thì tiếng gào thét trở nên thực sự ghê hồn. Người bị ám vật vã, nhảy về bên phải, bên trái và trong không khí. Có vẻ như nó rình để chạy trốn hay phóng tới, nhưng nó không thể làm. Nó bị chôn chặt tại đó, và ngoài sự quằn quại liên tục của nó, nó không được phép làm cử động nào khác.
Khi Giêsu giơ tay ra, bàn tay xòe thẳng tựa như Người thề, kẻ điên kêu lớn và sau khi nguyền rủa, cười và nói phạm, nó bắt đầu khóc và năn nỉ: “Vào hỏa ngục! Không! Không! Không vào hỏa ngục! Đừng bắt tôi vào đó. Đời sống tôi ngay ở đây cũng đã kinh khủng rồi, trong cái nhà tù của con người này, vì tôi muốn chạy rảo khắp thế giới và đập nát các tạo vật của ông ra thành trăm mảnh. Nhưng ở đó, ở đó, ở đó... Không! Không! Không! Hãy để tôi ở ngoài!...”
- Hãy ra khỏi người này. Ta truyền cho mi!
- Không!
- Ra đi!
- Không!
- Ra đi!
- Không!
- Nhân danh Thiên Chúa thật, hãy ra ngay!
- Ôi! Tại sao ông thắng tôi? Nhưng tôi không ra, không. Ông là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, nhưng tôi, tôi là...
- Mày là ai?
- Tôi là Benzêbút, tôi là Benzêbút, ông thầy của thế giới, và tôi không tòng phục. Ôi Kitô, tôi thách Ngài đó!
Người bị ám bỗng dưng bất động, cứng đơ, hầu như tôn nghiêm. Nó nhìn Giêsu trừng trừng bằng đôi mắt nảy lửa, chỉ hơi nhúc nhích đôi môi để phát ra những lời khó hiểu, hai tay gấp lại ở cùi chỏ và
268
để lên vai, nó chỉ hơi nhúc nhích.
Giêsu cũng dừng lại. Bây giờ Người khoanh tay trước ngực, nhìn nó đăm đăm. Giêsu cũng hơi mấp máy đôi môi, nhưng tôi không nghe được lời nào.
Những người chứng kiến chờ đợi, nhưng không phải mọi người đều có cùng một ý kiến :
- Người không trừ được nó.
- Có chứ! Bây giờ Đức Kitô sắp làm.
- Không. Tên đó mạnh hơn.
- Nó qủa là mạnh.
- Đúng.
- Không.
Giêsu mở cánh tay ra. Mặt Người là ánh sáng cấp bách, tiếng Người như tiếng sấm: “Ra ngay! Đây là lần chót. Ôi! Hỡi Satan! Hãy ra, Ta truyền cho mi!”
- Aaaaaa! - (đây là tiếng kêu kéo dài của một sự tan nát vô tận, còn ghê hơn tiếng kêu của một người bị người ta từ từ đâm lưỡi gươm vào). Rồi tiếng kêu biến thành lời: “Tôi ra, phải, ông thắng tôi, nhưng tôi sẽ báo thù. Ông đuổi tôi, nhưng ông có một thằng qủi ở bên cạnh ông. Tôi sẽ vào trong nó để chiếm hữu nó, để công hãm nó bằng tất cả quyền lực của tôi. Và đó sẽ không còn là quyền phép của ông để giật mất nó khỏi tay tôi. Luôn luôn và ở mọi nơi, tôi, tác giả của mọi điều ác, tôi sẽ cưu mang các đứa con. Cũng như Thiên Chúa đã đầu thai bởi chính mình, tôi, đây, tôi cũng tự mình đầu thai. Tôi đầu thai trong tâm hồn người ta và họ sinh ra tôi, họ sinh ra một qủi Satan mới là chính nó, và tôi vui thích, tôi vui thích vì có được một dòng dõi như vậy! Ông và người ta, các ông luôn luôn tìm những tạo vật này, những thứ thuộc về tôi, giống như từng ấy thứ ngã của tôi. Ôi! Kitô, tôi sắp chiếm lấy vương quốc mới của tôi. Như ông muốn, tôi nhường cho ông cái giẻ rách này mà tôi bạc đãi. Để đổi lại kẻ mà tôi nhường cho ông: của bố thí của Satan cho ông, Thiên Chúa, tôi sẽ lấy lại cho tôi một ngàn, mười ngàn bây giờ, và ông sẽ thấy họ khi ông là một miếng giẻ bằng thịt ghê sợ,
269
phơi ra trước sự chế nhạo của loài chó. Trong thời gian tiếp theo đây, tôi sẽ chiếm hàng mười ngàn và hàng trăm ngàn mạng để làm dụng cụ hành hạ ông. Ông tưởng ông thắng tôi khi nâng cao dấu hiệu của ông sao? Các dấu hiệu của tôi sẽ hạ nó xuống và thắng nó... A! Không. Tôi không thắng ông được! Nhưng tôi sẽ hành hạ ông, nơi ông và nơi các người của ông...”
Người ta nghe thấy một tiếng đổ vỡ như tiếng sét, nhưng không có chớp sáng, cũng không có tiếng gầm của sấm, chỉ có tiếng nổ khô như xé. Trong khi người bị ám nằm như chết trên mặt đất, thì gần nơi các môn đệ, một thân cây to đổ xuống đất, tựa như nó bị sét cưa đứt ở khoảng cách mặt đất độ một mét. Nhóm các tông đồ vừa có đủ thời giờ để tránh ra. Rồi các người dân chạy trốn tán loạn theo mọi ngả.
Nhưng Giêsu đã cúi xuống trên kẻ bị quăng xuống đất, Người cầm tay ông, và vẫn cúi như vậy với bàn tay kẻ được giải phóng ở trong tay Người, Người quay lại và nói: “Lại đây, đừng sợ”.
Mọi người tiến lại cách sợ sệt: “Anh ta khỏi rồi. Hãy mang quần áo cho anh ta”. Một người chạy đi.
Người đó tỉnh lại từ từ. Anh ta mở mắt và gặp cái nhìn của Giêsu. Anh ta ngồi dậy. Với bàn tay tự do, anh lau mồ hôi, máu và nước dãi; anh vén tóc ra đàng sau. Anh ta nhìn mình, thấy mình trần truồng trước mặt bao nhiêu người, anh ta xấu hổ, ngồi co ro cuộn tròn lại và hỏi: “Có chuyện gì vậy? Ông là ai? Tại sao tôi ở đây, trần truồng?”
- Bạn ơi, không có gì. Bây giờ người ta sẽ mang quần áo cho anh, rồi anh hãy trở về nhà anh.
- Tôi từ đâu tới vậy? Và ông, ông từ đâu tới? - Anh ta nói với giọng mệt mỏi và nhè nhẹ của người bệnh.
- Tôi, tôi đến từ biển Galilê.
- Vậy làm sao ông biết tôi? Tại sao ông trợ giúp tôi? Ông tên gì?
Có những người chạy tới cùng với quần áo và họ đưa cho người được phép lạ. Và có một bà già tội nghiệp chạy tới. Bà khóc và ôm người được khỏi vào lòng.
270
- Con tôi!
- Má! Tại sao má bỏ con lâu vậy?
Bà già tội nghiệp khóc mạnh hơn. Bà ôm anh ta và vuốt ve. Có lẽ bà sắp nói với anh ta những lời khác nữa, nhưng Giêsu trấn át bà bằng cái nhìn của Người, và Người gợi cho bà ta những lời khác tình nghĩa hơn: “Con ơi, con bệnh rất nặng. Hãy ngợi khen Thiên Chúa đã chữa con, và Đức Messi đã thi hành nhân danh Thiên Chúa”.
- Vị này à? Người tên gì?
- Giêsu, người Galilê. Nhưng tên Người là Lòng Nhân Từ. Con ơi, hãy hôn tay Người. Hãy xin Người tha cho con những gì con đã làm, và hãy nói... Chắc chắn con đã nói trong...
- Đúng. Anh ta đã nói trong khi anh ta bị sốt - Giêsu nói để ngăn chặn những lời kém khôn ngoan. “Nhưng không phải anh ta nói. Và Thầy, Thầy không khắt khe với anh. Bây giờ hãy tốt. Hãy tiết dục”. Giêsu nhấn mạnh các tiếng sau cùng, và người đó cúi đầu, vẻ bối rối.
Nhưng điều mà Giêsu tránh cho anh ta thì những người khác không tránh: Đó là các dân giầu trong thành. Bây giờ họ đã tới gần, trong số họ có những pharisiêu qúa khích:
- Ông đã thành công! May mắn cho anh là anh đã gặp ông ta, ông chủ của các qủi.
- Tôi bị ám sao? - Anh ta sợ hãi.
Bà già nhỏ nổi giận: “Quân khốn kiếp! Không có tình thương, cũng không biết kính trọng! Loài rắn độc ghê tởm và độc ác! Ông cũng vậy, tên thừa hành vô ích của giáo đường. Ông chủ của các qủi là Đấng Thánh”.
- Vậy bà muốn ai có quyền hành trên chúng, nếu không phải là vua và cha chúng?
- Ôi! Phạm thánh! Kẻ phạm thượng! Hãy bị...
- Im đi bà ơi! Hãy sung sướng với con bà. Đừng nguyền rủa. Những lời đó chẳng gây cho Thầy buồn rầu hay lo lắng đâu. Tất cả hãy đi bình an. Phúc lành cho những người tốt. Chúng ta đi thôi, các
271
bạn.
- Con có thể theo Ngài không? - người được chữa lành nói.
- Không. Hãy ở lại. Hãy là nhân chứng cho Thầy và là niềm vui cho mẹ con. Đi đi.
Và ở giữa những tiếng hoan hô và những tiếng lẩm bẩm khinh bỉ, Giêsu đi qua một phần của thành phố nhỏ, rồi Người đi vào bóng mát của các cây dọc bời sông. Các tông đồ sát lại với Người. Phêrô hỏi: “Thưa Thầy, tại sao thần ô uế lại có thể kháng cự được tới cỡ đó?”
- Vì đó là một thần trí hoàn toàn.
- Những lời đó có nghĩa là gì?
- Hãy nghe Thầy nói đây: Có những người phó mình cho Satan bằng cách mở ra cho nó một trong các cửa của các mối tội đầu; có những người khác phó mình cho nó hai, ba, bảy lần. Khi một người mở thần trí nó ra cho bảy mối tội đầu, lúc đó một ác thần hoàn toàn sẽ vào trong nó, tức là chính Satan, thủ lãnh đen, đi vào.
- Nhưng người này còn trẻ, làm sao anh ta có thể bị Satan chiếm cứ ?
- Ôi! Các bạn ơi! Các con có biết Satan đến bằng đường lối nào không? Có ba con đường thông thường, trong đó có một đường không bao giờ thiếu. Ba đường là: dâm đãng, tiền bạc và đầu óc kiêu căng. Dâm đãng là con đường không bao giờ thiếu. Là kẻ tiên phong của mọi dâm ô khác, nó đi qua và rắc nọc độc của nó, và thế là cả một mùa hoa qủa thuộc về Satan. Vì vậy Thầy bảo các con: “Hãy làm chủ xác thịt của các con”. Sự chế ngự này là khởi đầu cho những chế ngự khác, cũng như sự nô lệ này là bắt đầu cho những nô lệ khác. Nô lệ tình dục thì sẽ trở thành trộm cắp, lạm dụng chức vụ, độc ác, sát nhân... để phục vụ bà chủ của nó. Chính sự khao khát quyền bính là kẻ kết thân với xác thịt. Các con không thấy vậy sao? Nhưng là vậy đó. Các con hãy suy niệm, và các con sẽ thấy Thầy có lầm không. Chính qua xác thịt mà Satan vào trong con người, và nó sung sướng nếu nó có thể làm. Qua xác thịt, nó vào đó, và nó tăng gấp bảy lên với sự sinh sôi nảy nở của các đạo
272
quân qủi dưới quyền nó.
- Maria Magđala, Thầy đã nói là cô ta có bảy qủi, thầy đã nói vậy, và chắc chắn là các qủi dâm ô. Nhưng Thầy đã giải thoát cho cô ta cách dễ dàng.
- Đúng, Judas, đúng vậy.
- Vậy thì sao?
- Vậy thì con nói là lý thuyết của Thầy không đứng vững? Không, bạn ơi, người đàn bà đó đã muốn được giải phóng khỏi tình trạng bị chiếm cứ của bà. Bà ta muốn. Ý chí, đó là tất cả.
- Thưa Thầy, chúng ta thấy có rất nhiều người đàn bà bị giữ bởi ma qủi. Ta có thể nói là bởi thằng qủi này không?
- Mathêu, con thấy là người đàn bà không giống người đàn ông trong cơ cấu tạo thành của họ, và trong phản ứng của họ đối với nguyên tội. Người đàn ông có những mục đích khác cho những khát vọng tốt ít hay nhiều của họ. Người đàn bà có một mục đích: tình yêu. Người đàn ông có cơ cấu khác. Cơ cấu tạo thành của người đàn bà là: sự nhậy cảm của giác quan, nó hoàn bị hơn, vì họ được tiền định để sinh con. Con biết rằng mọi sự hoàn thiện đều làm gia tăng cảm giác. Một thính giác hoàn bị sẽ nghe được những điều mà thính giác ít hoàn bị hơn không nghe được, và nó thưởng thức điều đó. Cũng giống vậy đối với thị giác, vị giác và khứu giác.
Người đàn bà phải là sự êm đềm của Thiên Chúa trên mặt đất. Bà phải là tình yêu, là sự tái sinh cho ngọn lửa tàn, là sự biểu lộ, là nhân chứng cho tình yêu này. Bởi vậy Thiên Chúa đã phú cho họ một tâm hồn đặc biệt nhậy cảm, để một khi làm mẹ, bà biết, và có thể mở mắt tâm hồn cho con cái bà hướng về Thiên Chúa và tha nhân, cũng giống như người đàn ông mở con mắt thông minh cho con họ để hiểu và hành động. Con hãy suy nghĩ về mệnh lệnh mà Thiên Chúa truyền cho chính mình: “Chúng ta hãy làm cho Ađam một người bạn”. Thiên Chúa nhân từ chỉ có thể muốn làm một người bạn tốt cho Ađam. Một người tốt thì biết yêu. Vậy người bạn của Ađam phải có đủ khả năng để yêu, để làm cho hạnh phúc những ngày của con người ở trong khu vườn hạnh phúc. Bà phải có
273
đủ khả năng để làm một Thiên Chúa thứ hai, một cộng tác viên, một người thay thế Thiên Chúa để yêu người đàn ông, tạo vật của Người, để cả trong những giờ mà thiên tính của Người không bộc lộ ra với tạo vật của Người bằng tiếng nói tình yêu của Người, thì con người cũng không cảm thấy thiếu tình yêu.
Satan biết sự hoàn bị này. Satan biết rất nhiều điều. Chính nó đã nói qua môi của con rắn để nói những điều dối trá lẫn lộn với những sự thật, và nó ghét những sự thật này. Vì nó là tên dối trá, nó chỉ nói thật (các con hãy nhớ kỹ điều này, tất cả các con cũng như những người sẽ đến sau này), nó chỉ nói sự thật để dụ dỗ bằng sự hão huyền rằng không phải Đứa Tối Tăm nói, mà là Ánh Sáng nói. Satan: qủi quyệt, nham hiểm, độc ác, nằm ẩn trong sự toàn vẹn này và cắn vào đó, và để lại nọc độc của nó ở đó. Như vậy sự hoàn hảo về tình yêu của người đàn bà đã trở nên cho Satan, một dụng cụ để thống trị người đàn bà và người đàn ông, để làm lan tràn sự ác...
- Vậy mẹ của chúng ta?
- Gioan, đừng sợ cho các bà. Không phải hết mọi đàn bà đều là dụng cụ của Satan. Vì hoàn bị trong tình cảm, các bà luôn luôn qúa mức trong hành động. Các bà là những thiên thần nếu các bà muốn thuộc về Thiên Chúa, là ma qủi nếu các bà muốn thuộc về Satan. Các đàn bà thánh - mà mẹ con là một trong các bà này - muốn thuộc về Thiên Chúa, và họ là các thiên thần.
- Thưa Thầy, Thầy có thấy là bất công khi phạt người đàn bà không? Đàn ông cũng phạm tội vậy.
- Vậy còn phần thưởng thì sao? Có lời chép rằng: chính bởi người đàn bà mà Sự Lành trở lại trên thế gian, và Satan bị thua. Vậy đừng bao giờ xét đoán công việc của Thiên Chúa, bắt đầu là việc này. Hãy nghĩ rằng: chính vì người đàn bà mà sự dữ đã tới, thì cũng đúng là chính bởi người đàn bà mà Sự Lành đến trong thế gian. Như vậy để triệt tiêu một trang mà Satan đã viết, và rồi chính là nước mắt của một người đàn bà sẽ làm việc đó. Và bởi vì Satan phát ra tiếng kêu đời đời của nó, nên đây, tiếng của một người đàn bà sẽ hát lên để làm át nó đi.
274
- Khi nào?
- Thực sự thì Thầy bảo các con rằng tiếng của bà đã bay xuống từ Trời, nơi bà đã hát lời Alleluia vĩnh cửu của bà.
- Bà sẽ lớn hơn cả Judith?
- Lớn hơn tất cả mọi đàn bà.
- Bà sẽ làm gì? Vậy bà sẽ làm gì?
- Bà sẽ làm ngược lại với Evà, ngược lại với cái tội chắp ba của bà: Vâng lời tuyệt đối, trong sạch tuyệt đối, khiêm nhường tuyệt đối. Chính về những điểm đó mà bà sẽ đứng lên, là hoàng hậu và chiến thắng.
- Nhưng Giêsu ơi, đó là mẹ Thầy phải không? Vì đã cưu mang Thầy.
- Kẻ lớn là kẻ làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Chính vì vậy mà Maria vĩ đại. Mọi ơn phúc khác đều từ Thiên Chúa mà đến, nhưng về điều này thì hoàn toàn là của bà. Và nguyện bà được chúc phúc.
Và tất cả chấm dứt.
Chúa Giêsu nói:
Con đã thấy một kẻ là sở hữu của Satan. Có rất nhiều câu trả lời trong các câu nói của Cha, không phải cho con cho bằng cho những người khác. Họ có sử dụng nó không? Không. Nó sẽ không được sử dụng bởi những kẻ cần tới nó nhất. Hãy nghỉ trong bình an của Cha.
112* MEN PHARISIÊU
Một khi đã qua tuần Thánh, và vì vậy cũng qua sự kiêng khem vì không được thấy, thì sáng nay: (22-4-1946), một thị kiến siêu nhiên về Tin Mừng trở lại, và mọi lo âu của tôi đều tan biến trong niềm vui này, niềm vui luôn luôn được báo hiệu bởi một tâm tình hạnh phúc siêu nhiên không thể tả được.
...Và đây, tôi thấy Giêsu còn đang đi theo các lùm cây dọc bờ sông. Người dừng lại và ra lệnh nghỉ chân, vì vào giờ này qúa nóng để có thể đi bộ. Qủa vậy, các cành cây đan nhau che bớt mặt trời, nhưng nó như một tấm khăn ngăn cách với những phe phẩy chỉ hơi cảm thấy của gió nhẹ, mà ở bên trên là không khí nóng, im lìm,
275
nặng nề, của cái ẩm thoát ra từ lòng đất nơi bờ sông, một sự ẩm thấp không làm thoải mái, nhưng trái lại, nó dính vào người, lẫn lộn với mồ hôi đã sẵn là một khổ hình rồi.
- Chúng ta hãy dừng chân tới chiều, rồi chúng ta đi xuống bờ cát trắng xóa dưới ánh sáng của các tinh tú, và chúng ta tiếp tục con đường về đêm.
- A! Trước khi ăn, tôi đi tắm một mẻ để giải nhiệt. Nước sẽ nóng như thuốc sắc cho người ho, nhưng điều đó sẽ cho tôi sạch được mồ hôi. Có ai đi với tôi không? - Phêrô hỏi.
Tất cả đều đi với ông. Tất cả, kể cả Giêsu, vì cũng như mọi người, Người cũng đầy mồ hôi, và quần áo của Người nặng trịch vì bụi đất và mồ hôi. Mỗi người lấy một bộ đồ sạch ở trong giỏ và đi xuống sông. Trên cỏ, như để ghi dấu chỗ nghỉ của họ, chỉ còn mười ba cái giỏ và các bầu nước mà các cây già coi giữ, cùng với vô số chim chóc nhìn cách tò mò, bằng những con mắt nhỏ như hạt huyền của chúng, mười ba cái xắc căng tròn, đủ mầu, lăn lộn trên đất.
Tiếng nói của các người tắm sông vang ra xa và tan trong tiếng động của nước sông. Chỉ có thỉnh thoảng, một tràng cười của các người trẻ vang lên như những cung bắc, bên trên cái hòa âm trầm và đều đều của dòng sông.
Nhưng sự yên lặng sắp bị bẻ gẫy bởi tiếng động của bước chân. Có mấy cái đầu ló ra ở sau các cành cây chằng chịt. Họ liếc nhìn rồi nói với vẻ bằng lòng: “Họ ở đây. Họ dừng chân. Chúng ta hãy đi nói với những người khác”. Và họ biến mất sau các bụi rậm...
... Trong khi đó, đã mát mẻ, tóc vẫn còn ướt, mặc dầu đã lau sơ, đi chân đất, vì xăng đan của họ đã rửa, còn nhỏ nước tong tong, được treo bằng các giây quai, quần áo ướt vắt vai, một số đã phơi trên đám lau sậy, sau khi đã giặt sạch trong làn nước xanh của sông Giođan, các tông đồ trở lại với Thầy. Rõ ràng là họ có vẻ tươi tắn hơn sau một mẻ tắm lâu.
Không biết rằng mình đã bị khám phá, họ ngồi sau khi Giêsu dâng hiến và phân phát lương thực. Sau bữa ăn, mơ màng buồn ngủ, họ muốn nằm để ngủ. Nhưng đây, có một người tới, rồi sau đó, một người thứ hai, rồi người thứ ba.
276
- Các ông muốn gì? - Giacôbê Zêbêđê hỏi khi thấy họ tới, rồi dừng lại gần một bụi rậm, tự hỏi có nên tiến lại không. Những người khác, kể cả Giêsu, quay lại để xem Giacôbê nói với ai.
- A! Đó là những người trong làng... Họ đã theo chúng ta - Tôma nói cách thiếu thiện cảm, vì ông đã sẵn sàng để ngủ.
Nhưng những người mà Giacôbê hỏi hơi bị đe dọa bởi sự ghê tởm thấy rõ của các tông đồ khi nhìn thấy họ, họ trả lời: “Chúng tôi muốn nói với Thầy... nói rằng... phải không Samuel?...” Và họ dừng lại, không dám nói nữa.
Nhưng Giêsu nhân hậu khuyến khích họ: “Nói đi! Nói đi! Các con có những bệnh nhân khác à?” Và Người đứng dậy để đến với họ.
- Thầy ơi! Thầy cũng mệt, còn mệt hơn chúng con nữa. Thầy nghỉ một lát đi! Hãy để cho họ chờ... - nhiều tông đồ nói.
- Ở đây có những người ước ao gặp Thầy. Vậy là họ cũng có tâm hồn không được bình an. Và sự mệt mỏi của tâm hồn thì nặng nề hơn sự mệt mỏi của thân xác. Hãy để thầy nghe họ.
- Tốt, vậy là từ giã sự nghỉ ngơi! - các tông đồ lẩm bẩm. Bị u mê vì mệt mỏi và sức nóng tới nỗi họ khiển trách cả thầy của họ trước mặt người lạ, tựa như họ muốn nói: “Thầy thiếu khôn ngoan cho tới khi thầy làm cho tất cả chúng con đều bệnh, lúc đó Thầy mới hiểu thì đã qúa trễ rằng Thầy cần chúng con”.
Giêsu nhìn họ với tình thương, không có gì khác trong đôi mắt êm dịu và mệt mỏi ... Nhưng Người trả lời: “Không, các bạn của Thầy ơi, Thầy không đòi hỏi các con phải bắt chước Thầy. Các con coi: các con hãy ở lại yên chỗ này để nghỉ, Thầy lui ra chỗ kia với họ, Thầy nghe họ nói, rồi sau đó Thầy trở lại đây để nghỉ ở giữa các con”.
Câu trả lời của Người qúa êm đềm tới nỗi nó có hậu qủa hơn là một lời khiển trách. Lòng tốt, tình cảm của mười hai ông thức dậy và giữ vị thế ưu thắng: “Ôi, không, Chúa ơi, Thầy cứ ở chỗ đó để nói với họ. Chúng con đi trở quân áo cho nó khô phía kia, như vậy chúng con sẽ hết buồn ngủ. Rồi chúng con sẽ trở lại để nghỉ với
277
nhau”.
Những người buồn ngủ nhất đi xuống bờ sông ... chỉ còn lại Mathêu, Gioan và Batôlômêo. Nhưng lúc này, ba người dân làng đã tăng lên thành hơn mười người, và họ vẫn còn đang tới.
- Nào, vậy hãy tới và nói đi, đừng sợ.
- Thưa Thầy, sau khi Thầy đi, các pharisiêu trở nên hung dữ... Họ đã công hãm người mà Thầy đã chữa, và... nếu anh ta không trở thành điên thì đó là một phép lạ nữa... vì... họ đã nói với anh ta rằng... rằng Thầy đã xua đuổi cho anh ta một tên qủi chỉ xâm chiếm lý trí của anh ta, nhưng Thầy đã giao anh ta cho một thằng qủi mạnh hơn. Thằng qủi thứ hai này mạnh tới nỗi nó thắng thằng qủi thứ nhất, nó mạnh hơn, vì nó kết án và chiếm cứ linh hồn anh ta. Như vậy anh ta không mang tới đời sau những việc làm của lần bị ám thứ nhất, bởi vì các hành động của anh ta không có... họ nói làm sao ấy nhỉ, Abraham?
- Họ nói... Ồ! Một cái từ lạ... Tóm lại là, những hành động này thì Thiên Chúa không kể đến, vì nó được làm khi anh ta không có thần trí tự do. Trái lại, bây giờ, khi thờ phượng dưới ảnh hưởng của tên qủi ở trong qủa tim anh ta, tên qủi mà Thầy đã đặt vào - Ôi! Con xin lỗi vì nói như vậy! - tên qủi mà Thầy đã đặt vào anh ta, vì Thầy là thủ lãnh các qủi, khi thờ Thầy với một thần trí không phải là điên nữa, mà là phạm thánh và bị nguyên rủa, thì anh ta sẽ bị kết án. Vậy là anh chàng khốn nạn lại hối tiếc tình trạng trước đây của anh ta, và đi tới chỗ hầu như... nguyền rủa Thầy... Bởi vậy còn điên hơn trước... Và bà mẹ thất vọng vì con bà thất vọng không mong được rỗi... Và tất cả nỗi vui của họ biến thành băn khoăn lo lắng. Chúng con đi tìm Thầy để Thầy cho anh ta sự bình an. Chắc chắn là một thiên thần đã dắt chúng con tới đây... Lạy Chúa, chúng con tin Thầy là Đấng Messi, và chúng con tin rằng Đấng Messi có thần trí của Thiên Chúa ở trong Người, như vậy Người là Chân Lý và Sự Khôn Ngoan, và chúng con xin Thầy cho chúng con bình an và lời giải thích.
- Các con đang ở trong sự công chính và tình bác ái. Vậy hãy được chúc phúc. Nhưng người khổ sở đó đâu rồi?
278
- Anh ta theo chúng con cùng với bà mẹ, vừa đi vừa khóc vì thất vọng. Thầy thấy không? Cả làng đều tới đây, trừ họ, những người pharisiêu độc ác. Chúng con tới đây, không lo gì về những dọa nạt của họ. Họ đã dọa phạt chúng con vì chúng con tin ở Thầy. Nhưng Thiên Chúa sẽ che chở chúng con.
- Thiên Chúa sẽ che chở các con. Hãy dẫn Thầy đến với người được phép lạ.
- Không, chúng con sẽ dẫn anh ta đến cho Thầy. Xin Thầy chờ.
Nhiều người chạy đi để đến với một đám đông lớn hơn đang đi, vừa đi vừa múa máy tay chân, trong khi hai giọng than van cung bắc mạnh nổi hẳn lên giữa đám đông ồn ào. Những người khác, những người ở lại bên Giêsu, đã đông đảo, bây giờ lại tụ họp thêm nhóm này, với người bị ám được chữa và mẹ anh ta ở giữa. Thật là một đám đông rất lớn chen chúc giữa các cây cối chung quanh Giêsu. Họ trèo cả lên các cây để tìm một vị trí có thể xem và nghe.
Giêsu lại gặp người được phép lạ của Ngài. Khi thấy Người, anh ta giựt tóc và qùi gối: “Xin trả lại cho con thằng qủi thứ nhất, vì thương con, vì thương linh hồn con! Thầy đã làm gì cho con tới nỗi làm hại con như vầy?”
Và bà mẹ, bà cũng qùi gối: “Lạy Chúa, nó nói sảng vì sợ. Xin đừng nghe những lời phạm thượng của nó, nhưng xin giải thoát cho nó khỏi cái sợ mà những kẻ độc ác đó đã đặt vào trong nó, để nó không bị mất đời sống linh hồn. Thầy đã giải thoát cho nó một lần!... Ôi! Vì thương một bà mẹ, hãy giải thoát cho nó lần nữa!”
- Ừ, bà ơi, đừng sợ. Hỡi đứa con của Thiên Chúa, hãy nghe đây - Giêsu để bàn tay của Người trên đầu tóc rối bời của kẻ khốn nạn mà một sự sợ hãi vượt tự nhiên đã làm cho mê sảng: “Hãy nghe và hãy phán đoán, hãy tự mình phán đoán, vì bây giờ trí phán đoán của con được tự do, và con có thể xét đoán cách công bằng. Có một cách chắc chắn để biết xem một kỳ công đến từ Thiên Chúa hay từ ma qủi, và đó là điều tâm hồn cảm thấy. Nếu một sự kiện khác thường đến từ Thiên Chúa, thì nó sẽ đổ vào trong tâm hồn sự bình an, một sự bình an và một niềm vui tràn đầy uy nghi. Nếu nó đến từ
279
ma qủi, thì cùng với kỳ công này, cũng sẽ có sự băn khoăn, lo âu và đau khổ. Cũng vậy, từ những lời của Thiên Chúa, sẽ có sự bình an và niềm vui, trong khi từ những lời của ma qủi, cho dù ma qủi thần trí hay ma qủi loài người, sẽ có sự băn khoăn lo âu và đau khổ. Cũng vậy, từ những nơi kề cận với Thiên Chúa, sẽ đến sự bình an và niềm vui, trong khi từ sự kề cận với những thần trí xấu hay con người xấu, sẽ đến sự băn khoăn, lo âu và đau khổ. Bây giờ, hỡi đứa con của Thiên Chúa, hãy suy nghĩ: Khi con nhượng bộ thằng qủi dâm ô, con đã bắt đầu đón tiếp kẻ đàn áp con vào trong con, con có được hưởng niềm vui và sự bình an không?”
Người đó suy nghĩ, đỏ mặt và trả lời: “Chúa ơi, không”.
- Khi địch thủ trường kỳ của con đã bắt giữ con hoàn toàn, con có sự bình an và niềm vui không?
- Không. Lạy Chúa, không bao giờ. Khi con còn hiểu, khi con còn tự do trong thần trí, con chỉ có lo âu và đau khổ vì sự hung bạo của đối phương. Rồi sau đó... Con không biết... Con không còn trí khôn để có thể hiểu được rằng con đau khổ... Con đã ở bên dưới loài vật... Nhưng ngay ở trong tình trạng mà con ít trí khôn hơn một con vật này... Ôi! Con vẫn còn đau khổ chừng nào! Con không biết nói về cái gì... Hỏa ngục thật là rùng rợn! Chỉ có rùng rợn... Và người ta không thể nói đó là...
Người đàn ông run rẩy với cái kỷ niệm đau đớn lúc sơ khởi về sự bị ám của anh ta. Anh ta run, anh ta tái mét, anh ta đổ mồ hôi... Mẹ anh ôm lấy anh, hôn lên má anh để đem anh ra khỏi cơn ác mộng... Các người khác thì thầm bình luận.
- Và khi con tỉnh lại với bàn tay của con ở trong tay Thầy, con cảm thấy thế nào?
- Ôi! Một sự ngạc nhiên rất êm đềm... Rồi một niềm vui, một sự bình an còn lớn hơn nữa... Con thấy như mình ra khỏi một ngục tối, đầy những tiếng ùng ục của vô vàn vô số rắn độc, và một làn khí hôi thối khủng khiếp. Đồng thời con đi vào một khu vườn đầy hoa, đầy ánh mặt trời và tiếng hát...- Người đó mỉm cười, tựa như hoan hỉ vì cái kỷ niệm của giờ vui vắn tắt mới đây của anh. Rồi anh thở
280
dài, nói để kết thúc: “Nhưng việc đó chấm dứt qúa lẹ!...”
- Con có chắc vậy không? Bây giờ con ở bên Thầy, và con ở xa những kẻ làm cho con lo âu, con hãy nói cho Thầy, con cảm thấy thế nào?
- Vẫn còn bình an. Ở đây, ở bên Thầy, con không thể tin được là con bị kết án, và những lời của họ giống như những lời phạm thượng... Nhưng con, con đã tin họ... Vậy con đã phạm tội chống lại Thầy?
- Không phải con là người đã phạm tội, nhưng là họ. Con hãy đứng dậy, hỡi đứa con của Thiên Chúa. Hãy tin vào sự bình an ở trong con, sự bình an đến từ Thiên Chúa. Đừng phạm tội và đừng sợ - Và Người bỏ bàn tay Người ra khỏi đầu anh ta và đỡ anh ta đứng dậy.
- Đúng thật như vậy sao Chúa? - nhiều người hỏi.
- Hoàn toàn đúng như vậy. Sự nghi ngờ gây ra bởi những lời chủ tâm làm hại là một sự báo thù sau cùng của tên qủi này, bị đuổi ra khỏi anh ta, bị thua, ước mong chiếm lại cái mồi đã bị mất của nó.
Và với rất nhiều lương tri, một người trong dân chúng nói: “Vậy là... các pharisiêu, họ phục vụ Satan!” Và có một tràng pháo tay về nhận xét này.
- Đừng xét đoán. Đã có đấng để xét đoán.
- Nhưng ít nhất, chúng con ngay thẳng trong sự xét đoán của chúng con... Và Thiên Chúa thấy rằng chúng con xét đoán những lỗi hiển nhiên. Họ giả vờ là những điều họ không là. Hành động của họ là sự dối trá và ý hướng của họ không tốt. Nhưng họ thành công hơn chúng con. Chúng con là những người ngay thật và thẳng thắn. Họ là sự sợ hãi của chúng con. Họ giăng uy quyền của họ ra trên cả sự tự do để tin. Người ta phải tin và thi hành như họ thích, và họ đe dọa chúng con vì chúng con yêu Thầy. Họ cố gắng ghép các phép lạ của Thầy vào các bùa ngải, xui nên sự sợ Thầy. Họ âm mưu, đàn áp, làm thiệt hại...
Đám đông nói ồn ào.
Giêsu làm một cử chỉ để áp đặt sự yên lặng, và Người nói: “Đừng đón nhận vào lòng các con những gì đến từ họ, những lời ám chỉ xỏ
281
xiên của họ cũng như những giải thích của họ, kể cả tư tưởng: Họ độc ác nhưng họ thắng. Các con hãy nhớ lời sách Khôn Ngoan: ‘Thật vắn vỏi, các chiến thắng của tội ác’, và lời sách Ngạn Ngữ: ‘Hỡi các con, đừng theo gương những kẻ có tội, đừng nghe lời những kẻ vô luân, vì họ bị xiềng bởi các tội của họ, và lầm lạc bởi sự qúa ngu xuẩn của họ’. Đừng để trong lòng các con những điều đến từ những người mà chính các con, các con cũng xét đoán bất công, vì các con cũng bất toàn, và các con sẽ đặt vào trong các con thứ men đã làm hư hỏng họ. Men của các pharisiêu: sự giả hình. Chớ gì điều đó đừng bao giờ ở trong các con, về những hình thức thờ phượng Thiên Chúa cũng như những giao tiếp với anh em của các con. Các con hãy giữ mình cho khỏi các men pharisiêu. Hãy nghĩ rằng sẽ không một điều kín ẩn nào mà không bị lộ ra, không một sự gì giấu kín mà sau cùng không bị khám phá.
Các con thấy đó: Họ đã để cho Thầy đi, rồi họ gieo cỏ dại vào nơi Chúa đã gieo hạt tốt. Họ tưởng họ đã hành động cách tinh xảo và rút ra được chiến thắng. Chỉ cần là các con không tìm thấy Thầy, chỉ cần là Thầy đã qua sông không để lại dấu vết gì trên làn nước đã lấy lại hình dáng của nó sau khi tay chèo mở nó ra, là các hành động xấu của họ toàn thắng, và sẽ được phơi bày ra vào ngày thuận tiện. Nhưng trò chơi của họ đã bị phát hiện mau lẹ, và hành động xấu của họ bị vô hiệu hóa. Và cũng như vậy đối với hết mọi hành động của loài người. Ít nhất là có một đấng biết nó và biết lột trần nó. Những điều đã được nói trong bóng tối, sau cùng sẽ bị phơi ra giữa ánh sáng. Những điều người ta âm mưu trong nơi kín của một căn phòng, rồi sẽ bị tiết lộ tựa như nó được sửa soạn tại một quảng trường. Mỗi người đều có thể có một người tố cáo nó, là vì mọi người đều được Thiên Chúa nhìn, và Người có thể can thiệp để lột mặt nạ kẻ có tội. Vậy phải luôn luôn hành động thật thà để được sống trong bình an. Và những người sống như vậy thì không phải sợ, ở đời này cũng như đời sau. Không, các bạn ơi, Thầy bảo các con: Những kẻ hành động trong sự công chính thì không phải sợ.
Đừng sợ những kẻ giết người. Đúng, đừng sợ những kẻ chỉ giết
282
được thân xác, nhưng sau đó không làm được điều gì khác. Thầy, Thầy bảo các con điều các con phải sợ: Hãy sợ những gì sau khi đã làm cho các con chết, lại còn có thể quăng các con vào hỏa ngục, tức là các tật xấu, các bạn xấu, các ông thầy xấu, tất cả những cái gây ra tội hay sự nghi ngờ trong lòng, những cái làm hư hỏng linh hồn hơn là thân xác, và dẫn các con tới chỗ xa lìa Thiên Chúa, tới tư tưởng thất vọng về lòng thương xót của Người. Đó là những cái các con phải sợ. Thầy nhắc lại điều đó cho các con, vì nó làm cho các con chết đời đời.
Nhưng còn những thứ khác, những thứ về đời sống hiện tại của các con, các con đừng sợ. Cha các con không thiếu một cái nhìn nào trên một con nào trong số các chim nhỏ làm tổ trong các chòm lá, không một con nào rơi vào lưới mà Đấng Tạo Hóa của nó không biết, mặc dù giá trị vật chất của nó rất nhỏ: năm con chim sẻ mới được hai xu, và chúng không có một giá trị tinh thần nào. Dù vậy, Thiên Chúa cũng săn sóc nó. Vậy lẽ nào Người không săn sóc các con, đời sống các con, của cải các con? Thiên Chúa Cha biết mọi sợi tóc trên đầu các con. Không một bất công nào người ta làm cho các con cái Người mà Người không nhận ra. Bởi vì các con là con Người, vậy các con hơn các chim sẻ làm tổ trên mái nhà hay trong chòm lá rất nhiều. Các con là con của Người bao lâu chính các con không từ bỏ điều đó bằng ý muốn tự do của các con.
Và người ta từ bỏ tình con này khi người ta từ chối Thiên Chúa và Ngôi Lời mà Thiên Chúa sai đến giữa loài người để dẫn người ta về với Thiên Chúa. Vậy khi một người không muốn nhìn nhận Thầy trước mặt loài người, vì sợ rằng sự nhìn nhận này làm thiệt hại cho họ, thì khi đó, Thiên Chúa cũng không nhìn nhận họ là con Người, và vị Con Thiên Chúa và con loài người cũng không nhìn nhận họ trước mặt các thiên thần trên Trời. Ai từ chối Thầy trước mặt loài người thì sẽ bị từ chối là con Thiên Chúa trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa. Kẻ nào nói sai, nói xấu chống lại Con Người thì nó còn được tha, vì Thầy sẽ xin sự tha thứ cho nó nơi Chúa Cha. Nhưng kẻ nào phạm thượng chống lại Thánh Linh thì sẽ
283
không được tha.
Tại sao vậy? Bởi vì tất cả đều nhận ra sự bao la của Tình Yêu, sự trọn hảo vô biên của Người khi thấy Thiên Chúa trong một thân xác giống như mọi thân xác của loài người. Các dân ngoại không thể tin được điều đó, vì tôn giáo của họ không phải là tình yêu. Ngay cả giữa chúng ta, sự trọng kính sợ hãi của Israel đối với Jêova có thể ngăn cản người ta tin rằng Thiên Chúa tự làm người, và làm một người khiêm tốn nhất trong loài người. Đó là một lỗi còn tha được nếu không tin vào Thầy, dựa vào sự sợ hãi Thiên Chúa cách qúa đáng. Nhưng sẽ không thể tha được cho kẻ nào từ chối sự thật được biểu lộ trong các hành động của Thầy, và từ chối rằng Thánh Linh Tình Yêu đã có thể giữ lời hứa để gởi Chúa đến vào thời kỳ ấn định: Vị Cứu Tinh được đi trước, được đi kèm bởi các dấu hiệu đã được nói trước. Họ, những kẻ bách hại Thầy, họ biết các tiên tri. Các lời tiên tri nói đầy dẫy về Thầy. Họ biết các lời tiên tri và biết các việc Thầy làm. Sự thật đã được bộc lộ. Nhưng họ từ chối bởi vì họ muốn từ chối. Họ từ chối một cách có hệ thống sự thật này: Thầy không những là con loài người nhưng còn là Con Thiên Chúa, được các tiên tri loan báo, được sinh ra bởi một trinh nữ, không phải do ý muốn loài người, mà do đấng Tình Yêu Đời Đời, Thánh Linh Đời Đời, đấng đã loan báo Thầy để loài người nhận ra Thầy. Họ, để có thể nói được rằng vẫn còn là đêm chờ đợi Đức Kitô, họ khăng khăng nhắm mắt lại để không nhìn thấy Ánh Sáng đã ở trong thế gian, bởi vậy họ từ chối Thánh Linh, Sự Thật của Người, Ánh Sáng của Người. Đối với họ, sẽ có một sự phán xét khắt khe hơn những kẻ không biết. Và những kẻ gọi Thầy là Satan sẽ không được tha, vì Thánh Linh đã làm bởi Thầy những kỳ công thuộc về Thiên Chúa chứ không thuộc về Satan. Họ phạm tội đem người khác đến thất vọng trong khi Tình Yêu mang người ta tới bình an. Những tội đó sẽ không được tha, vì tất cả những điều đó là xúc phạm đến Thánh Linh.
Thánh Linh này là Tình Yêu, Người ban phát tình yêu và đòi hỏi tình yêu. Đấng đang chờ Lễ Hy Sinh Tình Yêu Toàn Thiêu của
284
Thầy để giãi tỏa mình ra trong tình yêu khôn ngoan, đấng sáng soi các con tim của các tín hữu của Thầy. Khi việc đó xảy ra thì họ sẽ còn bách hại các con bằng cách kết án các con trước các chức quyền, các thủ lãnh, trong giáo đường, trong các tòa án. Lúc đó các con đừng lo đến cách phải biện hộ. Chính Thánh Linh sẽ bảo các con những điều các con phải trả lời để phục vụ Chân Lý và chinh phục Sự Sống, giống như cách Ngôi Lời đang cho các con những gì cần để có thể vào nước của Sự Sống Đời Đời.
Hãy đi bình an trong sự bình an của Thầy, trong sự bình an này là chính Thiên Chúa, và nguyện Thiên Chúa xông tỏa nó ra để bão hòa các con cái Người. Hãy đi và đừng sợ. Thầy không đến để đánh lừa các con, nhưng để giáo huấn các con; không phải để làm mất các con, nhưng để cứu chuộc các con. Phúc cho những ai biết tin vào lời Thầy.
Và con, đứa con trai được cứu hai lần, hãy mạnh mẽ. Hãy nhớ đến bình an của Thầy để nói với những kẻ cám dỗ con: ‘Đừng tìm cách dụ dỗ tôi. Đức tin của tôi là: Người chính là Đức Kitô’. Và bà, ôi, hãy đi. Hãy đi với anh ấy và hãy bình an.
Từ biệt. Hãy trở về nhà các con, và hãy để Con Người tại nơi nghỉ ngơi khiêm tốn của Người ở trên cỏ, trước khi người tiếp tục con đường của kẻ bị bách hại, để tìm những người khác và cứu giúp họ tới tận cùng. Cầu cho bình an của Thầy ở với các con”.
Người chúc lành cho họ, rồi trở lại chỗ họ đã ăn và các tông đồ ở cùng với Người. Khi người ta đã đi hết, họ nằm, gối đầu trên các xắc. Và giấc ngủ đến mau trong sức nóng nặng nề của buổi sau trưa, và sự yên lặng nặng nề của giờ nung nấu này.
113* CÁC CON PHẢI NÓI:
“CHÚNG TÔI LÀ ĐẦY TỚ VÔ ÍCH”
Bờ cát trắng trong đêm không trăng, nhưng được soi sáng bởi muôn ngàn vì sao, những vì sao lớn, lớn như không thực của bầu
285
trời đông. Đây không phải ánh sáng mạnh như ánh trăng, nhưng cũng là những ánh lân tinh êm dịu, cho phép những người mà mắt ở trong bóng tối có thể thấy đường để bước, và thấy những gì ở chung quanh. Ở chỗ này, phía bên phải của các nhà du hành đang tiến theo dọc bờ sông về phía bắc, độ sáng êm của tinh tú cho thấy cái ranh giới thảo mộc tạo ra bởi các cây lau sậy và các cây lớn. Và vì ánh sáng rất nhẹ, nó trông giống như một bức tường cứng, liên tục, không gián đoạn, không thể đi qua, chỉ hơi ngắt ra ở nơi mà một lòng suối hay cái thác đã hoàn toàn khô, vẽ ra một vệt trắng chạy về hướng đông và biến mất ở chỗ quặt đầu tiên của cái chi lưu tí hon lúc này đã khô. Ngược lại, ở bên trái họ, các nhà du hành phân biệt được ánh phản chiếu của dòng nước chạy ra Biển Chết, rì rào than thở, lao xao, bình an và trong trẻo. Giữa lằn sáng của mặt nước mầu chàm về đêm và cái khối đen mờ của cỏ và các cây lớn nhỏ, giải băng sáng của bãi cát lúc rộng lúc hẹp, đôi khi gián đoạn bởi một hồ nước tí hon, chỗ còn lại của kỳ nước lũ, hãy còn một ít nước, và từ từ bị đất thấm. Đó là nơi còn có những cỏ xanh, trong khi ở những chỗ khác thì khô hết, chắc chắn là vì bờ cát nóng như thiêu vào những giờ có mặt trời.
Những vũng nước và những đám cỏ lác đã khô này có thể làm xẻ các bàn chân trần trong xăng đan, bó buộc các tông đồ thỉnh thoảng phải đi rời nhau ra, rồi sau đó lại tụ nhóm lại chung quanh Thầy khi Người tiến bằng những bước dài, luôn luôn oai phong. Người thường thinh lặng, cái nhìn hướng lên các tinh tú trên Trời hơn là cúi nhìn mặt đất.
Các tông đồ thì không, họ không nín lặng. Họ nói với nhau, tổng lược các biến cố trong ngày và rút ra những kết luận hay tiên đoán cho việc khai triển tương lai. Chỉ có vài lời họa hiếm của Giêsu, thường được nói để trả lời một câu hỏi trực tiếp, hoặc sửa sai cho những lý luận thiếu tình cảm hay ít bác ái, làm ngắt các lời rộn rã của nhóm mười hai.
Hành trình tiếp tục trong đêm. Sự yên lặng của đêm thanh nhịp nhàng với yếu tố mới ở bờ sông là tiếng nói loài người và tiếng
286
động của bước chân. Các con họa mi nín lặng trong bụi lá, ngạc nhiên khi nghe thấy những âm thanh chói tai và khó chịu làm nó xao xuyến, hòa lẫn với tiếng ồn ào thường xuyên của nước và gió, thường được hòa âm với giọng đơn ca kỳ tài của nó.
Nhưng một câu hỏi trực tiếp, không liên can tới qúa khứ mà là tương lai, với sự hung bạo của việc dấy loạn ngầm, dù không được nói bằng giọng gay gắt của lời nói sôi động bởi khinh dể hay phẫn nộ, nó cũng đến và bẻ gẫy sự bình an, không những của đêm trường, mà của cả mối tình sâu kín trong tim: Philíp hỏi xem họ có sẽ được về nhà họ không, và trong thời gian bao lâu. Một nhu cầu kín đáo muốn được nghỉ ngơi; một ước ao không nói ra, nhưng hàm ý về những tình cảm gia đình, nó dấu ẩn trong câu hỏi đơn sơ của vị tông đồ đã lớn tuổi, là chồng và là cha thêm vào việc là tông đồ, và là người có những nguồn lợi mà ông phải lo toan...
Giêsu hiểu hết những điều đó. Người quay lại nhìn Philíp, Người dừng lại để nghe ông, vì Philíp đi hơi ở đàng sau với Mathêu và Natanael. Khi ông tới nơi, Người quàng cánh tay qua vai ông và nói: “Sắp sửa rồi, bạn ạ. Nhưng Thầy xin lòng tốt của con một hy sinh nhỏ khác, miễn là con không có ý xa lìa Thầy trước”.
- Con, xa lìa? Không bao giờ.
- Vậy thì... Thầy sẽ còn giữ con ở xa Betsaiđa một thời gian nữa. Thầy muốn đi Cêsarê Maritime, bằng cách đi qua Samari. Lúc trở về, chúng ta sẽ đi Nazarét, và những người không có gia đình ở Galilê sẽ ở lại với Thầy. Rồi sau một thời gian, Thầy sẽ gặp các con ở Caphanaum... Và ở đó, Thầy sẽ giảng dạy các con để các con có nhiều khả năng hơn. Nhưng nếu con thấy rằng sự hiện diện của con ở Betsaiđa là cần thì... con hãy về đó đi, Philíp. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đó.
- Thưa Thầy, không. Ở lại với Thầy là cần thiết hơn! Nhưng Thầy biết đó... Gia đình thật là êm đềm... Và các con gái con... Con nghĩ rằng trong tương lai, con sẽ không có chúng nó ở bên con nhiều, nên con muốn vui hưởng một chút sự êm đềm trong sạch của chúng. Nhưng nếu con phải lựa chọn giữa chúng nó và Thầy thì
287
con sẽ chọn Thầy... Và vì nhiều lý do... - Philíp kết luận trong khi thở dài.
- Con làm đúng đó bạn ạ, vì Thầy sẽ bị đem đi khỏi con trước các con gái của con.
- Ôi! Thầy! - vị tông đồ buồn bã nói.
- Vậy đó Philíp - Giêsu kết thúc trong khi hôn lên thái dương của vị tông đồ.
Judas Iscariot đã cầu nhầu từ lúc Giêsu nói tới Cêsarê, ông liền cất cao giọng, tựa như việc nhìn thấy cái hôn được ban cho Philíp đã làm ông mất tự chủ về các hành động của ông, ông nói: “Toàn những chuyện vô ích. Thực tình tôi không biết là cần thiết cái gì mà phải đi Cêsarê!” Ông nói câu đó cách mạnh mẽ và đầy vẻ chua cay, tựa như ông muốn nói: “Mày tới đó là mày ngu!”
- Không phải anh, mà là Thầy là người phải xét tới sự cần thiết của những điều chúng ta phải làm - Batôlômêo trả lời.
- Đúng vậy, hen? Cũng như Người vẫn để ý tới những điều cần thiết tự nhiên.
- Ô, hé! Anh điên hay anh lành mạnh? Anh không biết anh nói về ai sao? - Phêrô hỏi khi lắc cánh tay Judas.
- Tôi không điên. Tôi là người duy nhất có đầu óc lành mạnh, và tôi biết điều tôi nói.
“Anh nói những điều hay thật!”, “Xin Thiên Chúa đừng kể tới chúng!”, “Sự khiêm tốn đâu phải là điểm mạnh của anh”, “Người ta đã nói rằng anh sợ người ta biết anh là thế nào khi anh đi về Cêsarê” Giacôbê Zêbêđê, Simon Zêlote, Tôma và Juđa Thađê đồng thanh nói cách kính trọng.
Iscariot trả lời cho ông sau cùng: “Tôi không có gì phải sợ, và các anh không có gì phải biết. Nhưng tôi mệt vì tôi thấy người ta đi từ sai lầm nọ tới sai lầm kia, và người ta tự hại mình: từ những va chạm với các nhân viên Đại Pháp Đình, cãi lẫy với các pharisiêu, chỉ còn thiếu đối với các người Rôma...”
- Thế nào? Mới có hai tuần trước đây anh đã vui như điên, anh đầy bảo đảm, anh đã là, anh đã là, anh đã là... anh đã là tất cả, vì
288
anh có Claudia làm bạn! - Batôlômêo nhận xét cách mỉa mai. Ông là người khăng khăng nhất... Là người duy nhất chỉ khi nào vì vâng lời Thầy mới không từ chối giao dịch với các người Rôma.
Judas yên lặng một lát vì câu hỏi mỉa mai hợp lý rõ ràng, và vì đuối lý hơn, ông không thể cải chính điều ông đã nói trước đây. Nhưng rồi ông chữa lời: “Không phải tôi nói vậy về các người Rôma, tôi muốn nói về các người Rôma thù nghịch. Thực sự thì chỉ có bốn bà Rôma, tối đa là năm sáu bà, là đã hứa giúp đỡ, và các bà sẽ trung thành với lời hứa. Nhưng vì điều đó làm gia tăng sự thù ghét của các kẻ thù của Người mà Người không biết, và...”
- Sự thù ghét đã tới mức trọn vẹn rồi Judas ạ. Con cũng biết như Thầy và còn hơn Thầy nữa - Giêsu nói cách bình tĩnh khi nhấn mạnh vào chữ hơn.
- Con? Con? Thầy muốn nói gì? Ai biết các sự việc hơn Thầy?
- Con vừa nói rằng con là người duy nhất biết những điều cần thiết và biết cách xử sự - Giêsu đối đáp.
- Về những điều tự nhiên thì đúng. Con nói rằng Thầy biết những điều siêu nhiên hơn mọi người.
- Đúng vậy, và chính vì vậy nên Thầy nói với con rằng con biết các việc hơn Thầy, các việc xấu, nếu con muốn; các việc đê tiện, nếu con muốn, các điều tự nhiên như là sự thù ghét của các kẻ thù của Thầy, như là các ý đồ của họ...
- Con, con chẳng biết gì cả! Con chẳng biết gì cả. Con thề điều đó trên linh hồn con, trên mẹ con, trên Jêova...
- Đủ rồi! Đã nói rằng không được thề - Giêsu phản đối ông với sự nghiêm khắc làm cho ông cứng đơ cho tới mọi nét của khuôn mặt. Ông trở nên bất động như bức tượng.
- Vậy con sẽ không thề, nhưng con cũng được phép nói, vì con không phải là một nô lệ, rằng không cần thiết, không hữu ích, và cả đến nguy hiểm, việc đi Cêsarê và nói với các người Rôma.
- Vậy ai nói với con là việc đó sẽ xảy ra? - Giêsu hỏi.
- Ai? Nhưng tất cả mà. Thầy cần phải chắc chắn một điều: Thầy ở trên dấu vết của... - ông ta ngừng lại, vì hiểu rằng sự tức giận đã
289
làm ông nói qúa. Rồi ông tiếp: “Nhưng con, con nói với Thầy rằng Thầy cũng phải nghĩ tới lợi ích của chúng con. Thầy đã lấy hết của chúng con: Nhà cửa, lợi lộc, tình cảm, sự an tĩnh. Chúng con là những kẻ bị bách hại vì Thầy, và sau này chúng con cũng bị như vậy. Vì Thầy, Thầy đã nói bằng mọi kiểu rằng một ngày đẹp trời, Thầy sẽ đi. Nhưng chúng con, chúng con ở lại, nhưng chúng con ở lại, hoàn toàn tán gia bại sản, nhưng chúng con...”
- Con sẽ không bị bách hại một khi Thầy không còn ở giữa các con nữa. Thầy nói điều đó cho con. Thầy là sự thật. Và Thầy bảo con rằng Thầy chỉ lấy những gì các con cho Thầy một cách tự nhiên và tha thiết. Vậy con không thể kết án Thầy là đã lấy mất của các con, bằng quyền lực, dù chỉ một sợi tóc của các con đã rơi xuống khi các con chải đầu. Tại sao con kết án Thầy? - Giêsu đã bớt nghiêm nghị. Bây giờ Người nói với vẻ buồn như muốn êm đềm dẫn ông về với lý trí, và tôi tin rằng lòng thương xót mà Người bộc lộ rất đầy tràn, rất thần linh, là một cái thắng cho những người khác để biết đừng qủa quyết kết án kẻ có tội.
Chính Judas cũng biết điều đó, và trong một biến đổi đột ngột của tâm hồn ông, bị lôi kéo bởi hai sức mạnh trái ngược nhau, ông qùi phập xuống đất, đập đầu, đấm ngực và kêu: “Bởi vì con là một thằng qủi, con là một thằng qủi! Cứu con với Thầy ơi! Cũng như Thầy đã cứu bao người bị ám. Cứu con với! Cứu con với!”
- Mong rằng ý chí muốn được cứu của con không trơ trơ.
- Nó có mà! Thầy thấy nó. Con muốn được cứu.
- Cứu bởi Thầy. Con đòi hỏi Thầy phải làm hết. Nhưng Thầy là Thiên Chúa, và Thầy tôn trọng ý chí tự do của con. Thầy cho con sức mạnh để đi đến chỗ “muốn”. Nhưng muốn không phải là nô lệ, nó phải đến từ con.
- Con muốn! Con muốn! Nhưng đừng đi Cêsarê! Đừng tới đó. Hãy nghe con, cũng như Thầy đã nghe Gioan khi Thầy muốn đi Acor. Tất cả chúng con đều có cùng một quyền lợi. Tất cả chúng con đều phục vụ Thầy cùng một cách. Thầy bó buộc phải làm vui lòng chúng con vì những điều chúng con làm... Hãy đối xử với con
290
giống như Gioan. Con muốn vậy. Có gì khác nhau giữa anh ta và con?
- Có tâm hồn. Thằng em tôi nó không bao giờ nói như anh nói. Em tôi nó không...
- Nín đi Giacôbê! Chính Thầy nói, và Thầy nói với tất cả. Còn con, đứng dậy đi, và hãy tự xử sự như một người, như Thầy cư xử với con, đừng như một nô lệ rên rỉ dưới chân chủ. Hãy là một người, bởi vì con rất muốn được cư xử như Gioan, sự thật, nó được đối xử còn hơn một người, vì nó trong sạch và bão hòa tình bác ái.
Đi thôi, trễ rồi, và Thầy muốn qua sông lúc bình minh. Đó là lúc các dân chài trở về sau khi đã đổ đó, nơm, và sẽ dễ dàng tìm thấy ghe thuyền. Mặt trăng cuối tuần càng lúc càng lên cao. Nhờ ánh sáng của nó, chúng ta có thể đi mau hơn.
Hãy nghe đây: Thực sự Thầy bảo các con rằng: không ai có thể tự hào khoe khoang vì bổn phận riêng của họ, và dựa vào bổn phận đó mà đòi hỏi những ân huệ đặc biệt. Judas vừa nhắc lại rằng các con đã cho Thầy tất cả. Anh ta bảo Thầy rằng để đáp lại, Thầy có bổn phận phải làm vừa lòng các con vì những gì các con làm.
Nhưng các con hãy xét coi: trong số các con có những ngư phủ, những chủ đất, mấy người là chủ một cơ xưởng, và Zêlote thì có một người đầy tớ. Vậy khi những đứa con trai phục vụ ở trên thuyền, hoặc một người đầy tớ giúp các con ở trong vườn oliu hay vườn nho hoặc ngoài đồng, hoặc các học viên ở trong cơ xưởng, hoặc chỉ đơn giản là một người đầy tớ săn sóc việc nhà hay dọn bàn, khi họ làm xong, các con có hầu hạ họ không?
Không có như vậy trong mọi nhà và mọi công việc sao? Có ai, khi họ có một người đầy tớ đã cày ruộng, hoặc đã cho đoàn vật ăn cỏ, hoặc người thợ ở trong cơ xưởng ... khi họ làm xong việc, lại nói với họ: “Xin mời ngồi vào bàn ăn ngay đi”? Chả có ai như vậy cả. Nhưng khi họ từ ngoài đồng trở về, và khi họ đã cất các dụng cụ vào chỗ, thì mọi ông chủ đều nói: “Hãy dọn bàn cho ta ăn, cho ta mặc y phục sạch sẽ, hãy hầu hạ ta trong khi ta ăn uống, rồi sau đó mi sẽ ăn uống”. Và người ta không thể nói đó là lòng dạ khắc nghiệt.
291
Qủa vậy, người đầy tớ thì phải phục vụ ông chủ, và ông chủ không bị bó buộc bổn phận nào với anh ta vì lẽ anh ta đã làm các việc ông chủ đã truyền cho anh ta lúc ban mai. Thực sự, nếu người chủ có bổn phận phải nhân đạo đối với đầy tớ riêng của ông, thì người đầy tớ cũng có bổn phận không được lười biếng và phung phí, nhưng phải hợp tác vào lợi ích của kẻ cho anh ta ở và nuôi anh ta. Các con có thể chịu được rằng đứa con trai ở thuyền, các thợ làm ruộng, hoặc những người khác, gia nhân của các con, nói với các con: “Hãy hầu hạ tôi, vì tôi đã làm việc”? Thầy không tin là có như vậy.
Cũng vậy, các con, khi nhìn những cái mà các con đã làm và đang làm cho Thầy - và trong tương lai, khi nhìn những cái mà các con sẽ làm để tiếp tục công việc của Thầy, để tiếp tục phục vụ Thầy các con - các con phải luôn luôn nói, bởi vì các con cũng sẽ thấy rằng các con đã làm rất ít so với những điều phải làm để cân xứng với những điều các con đã nhận được của Thiên Chúa, các con phải luôn luôn nói: “Chúng tôi là đầy tớ vô ích, vì chúng tôi chỉ làm bổn phận của chúng tôi”. Nếu các con lý luận như vậy, các con sẽ không còn cảm thấy những yêu sách, những bất mãn nổi lên trong các con nữa, và các con sẽ hành động chính đáng.
Giêsu nín lặng. Tất cả đều suy nghĩ. Phêrô húc cùi chỏ vào Gioan khi ông đang suy tư, mắt xanh nhìn đăm đăm trên làn nước mầu chàm đang biến thành mầu lam bạc dưới ánh trăng, và nói với ông: “Hỏi Người coi xem thế nào, một kẻ làm nhiều hơn là bổn phận của nó. Tôi, tôi muốn đi tới điểm làm nhiều hơn bổn phận của tôi...”
- Simon, tôi cũng vậy. Tôi đang suy nghĩ chính ngay điều đó - Gioan trả lời với nụ cười đẹp trên môi ông, và ông hỏi lớn tiếng: “Thưa Thầy, xin Thầy nói cho con: một người, một tôi tớ của Thầy, có bao giờ nó có thể làm nhiều hơn bổn phận của nó, để với phần phụ trội này, nó nói được rằng nó đã yêu Thầy trọn vẹn không?”
- Con ơi, Thiên Chúa đã cho con nhiều tới nỗi đối với sự công bằng, thì sự anh hùng của con sẽ luôn luôn là rất ít. Nhưng Chúa rất nhân từ, Người không đo những sự các con dâng cho Người bằng
292
cái thước vô tận của Người, nhưng Người đo nó bằng cái thước giới hạn của khả năng con người. Và khi Người thấy rằng các con đã cho không hà tiện, với cái đấu đầy tràn, quảng đại, khi đó Người nói: “Tên đầy tớ này đã hiến cho Ta nhiều hơn là bổn phận của nó đòi hỏi. Cũng thế, Ta sẽ cho nó các phần thưởng dư dật tràn đầy”.
- Ôi! Con rất bằng lòng. Con sẽ dâng Thầy một đấu đầy tràn để được cái dư dật đầy tràn này - Phêrô kêu lên.
- Ừ, con sẽ cho Thầy, các con sẽ cho Thầy. Tất cả những ai yêu Chân Lý và Ánh Sáng sẽ cho Thầy, và họ sẽ được hạnh phúc siêu nhiên đầy tràn với Thầy.
114* NẾU NÓ HỐI HẬN BẢY LẦN,
HÃY THA CHO NÓ BẢY LẦN
Bây giờ họ đã ở trên bờ phía bên kia sông. Về phía tay phải họ là núi Tabor và núi tiểu Hermon, về phía trái là các núi miền Samari, sau lưng là sông Giođan, trước mặt là miền đồng bằng, và bên ngoài đồng bằng này là các ngọn đồi, trước các ngọn đồi là Mageddo (nếu tôi nhớ không sai, thì đó là cái tên tôi đã nghe trong một thị kiến lâu rồi, thị kiến về việc Giêsu gặp Judas Kêriot và Tôma sau việc từ giã gây ra bởi sự cần thiết phải giữ kín việc ra đi của Sintica và Gioan Enđo).
Chắc hẳn họ đã nghỉ suốt ngày trong một nhà tiếp đón nào đó, vì bây giờ lại là buổi chiều. Rõ ràng là họ đã nghỉ ngơi. Trời còn nóng nhưng sương đã bắt đầu rơi, điều hòa cho sức nóng. Các chiếc bóng phơn phớt tím của hoàng hôn đã đến kế tiếp vào mầu đỏ của một buổi mặt trời lặn nồng nực.
- Ở đây bước chân được thoải mái - Mathêu nhận xét, rất bằng lòng.
- Ừ, bước với nhịp này thì chúng ta sẽ tới Mageddo trước gà gáy - Zêlote trả lời.
- Và lúc bình minh sẽ ra khỏi miền đồi núi và nhìn thấy đồng bằng Saron - Gioan thêm.
293
- Và sẽ thấy biển của em, hen! - Anh ông nói để ghẹo ông.
- Đúng, biển của em... - Gioan mỉm cười trả lời.
- Và tâm hồn cậu sẽ làm một trong các cuộc viễn du thiêng liêng - Phêrô nói trong khi ôm ông với một tình cảm mạnh mẽ và hiền hậu, và ông nói để kết thúc: “Cậu hãy chỉ cho tôi: người ta phải làm sao để rút ra được những ý nghĩ ... của thiên thần khi nhìn các sự vật. Tôi, nước thì tôi đã nhìn biết bao lần... và tôi thích nó... Nhưng... nó chỉ giúp tôi ăn và đánh cá thôi. Cậu thì cậu nhìn thấy gì ở đó?”
- Simon à, tôi thấy nước cũng như ông và như mọi người, cũng như bây giờ tôi thấy các cánh đồng và vườn cây... Nhưng rồi, thêm vào với con mắt của thân xác, ở đây, trong nội tâm, tôi có cái gì giống như các con mắt khác, và không còn phải là tôi thấy cỏ và nước nữa, mà là những lời khôn ngoan phát ra từ các vật chất. Không phải tôi là người nghĩ ra, tôi không có cái khả năng đó, nhưng có người khác nghĩ ra ở trong tôi.
- Có lẽ anh là tiên tri? - Iscariot hỏi, hơi mỉa mai.
- Ồ, không, tôi không phải tiên tri...
- Vậy... sao anh tin được là anh chiếm hữu Thiên Chúa?
- Càng không hơn...
- Vậy là anh mê sảng.
- Điều đó thì có lẽ, vì tôi bé nhỏ và yếu đuối chừng nào! Nhưng nếu vậy thì mê sảng thật là êm đềm, vì nó mang tôi đến với Thiên Chúa. Vậy là cái bệnh của tôi trở thành một ơn phúc, và tôi chúc tụng Thiên Chúa vì điều đó.
- A!A!A! - Judas cười ồn ào và giả dối.
Giêsu đã nghe hết, Người nói: “Nó không bệnh hoạn, cũng không là tiên tri, nhưng tâm hồn trong sạch chiếm hữu sự khôn ngoan. Chính sự khôn ngoan nói trong lòng người công chính”.
- Vậy là con, con không bao giờ tới được điểm đó, vì con không luôn luôn tốt - Phêrô nói cách thất vọng.
- Vậy còn tôi? - Mathêu trả lời ông.
- Các bạn ơi, rất ít người, qúa rất ít người chiếm hữu được sự khôn ngoan vì từ đầu nó vẫn hoàn toàn trong sạch. Nhưng sự thống
294
hối và thiện chí làm cho con người trước kia tội lỗi và bất toàn trở thành công chính. Và khi đó lương tâm họ được thanh tẩy trong cái bể tắm khiêm nhường, thống hối và tình yêu. Và được thanh tẩy như vậy, họ có thể đua tranh với những người trong sạch.
- Cám ơn Chúa - Mathêu nói khi cúi xuống hôn bàn tay Thầy.
Một yên lặng. Rồi Judas Iscariot kêu: “Tôi mệt qúa! Không biết tôi có bước nổi suốt đêm không”.
- Đương nhiên rồi - Giacôbê Zêbêđê trả lời ông. “Hôm nay anh đã muốn loay hoay suốt như một con ruồi vĩ đại trong khi mọi người ngủ”.
- Tôi muốn coi xem có gặp được các môn đệ không.
- Điều đó có ăn nhằm gì tới anh. Thầy đâu có bảo. Vậy...
- Vậy tôi đã làm thế. Và nếu Thầy cho phép thì tôi sẽ ở lại Mageddo. Tôi tin rằng tôi sẽ gặp được một trong các bạn tôi thường đến đó vào thời kỳ này, sau khi gặt lúa xong. Tôi muốn nói với ông ta về mẹ tôi và...
- Vậy hãy làm điều mà con cho là tốt. Khi con xong việc, con hãy về Nazarét. Chúng ta sẽ gặp con ở đó. Như vậy con sẽ báo cho mẹ Thầy và Maria Alphê rằng chúng ta sắp về nhà.
- Con cũng nói với Thầy giống như Mathêu: “Cám ơn Chúa”.
Giêsu không trả lời gì cả, Người nhận một cái hôn trên tay giống như đã nhận của Mathêu. Lúc này không thể nhìn thấy sự bộc lộ trên các khuôn mặt, vì trời bắt đầu tối, ánh sáng ban ngày đã tắt hẳn và chưa có trăng sao. Trời tối đến nỗi người ta tiến bước khó khăn, và để dự phòng mọi bất chợt, Phêrô và Tôma quyết định bẻ các cành chà rào để đốt. Các cành cháy nổ tí tách... Nhưng lúc trước thì tối, bây giờ là ánh sáng chập chờn và khói, tôi vẫn không nhìn được các nét bộc lộ của khuôn mặt.
Lúc này đã tới gần các ngọn đồi, và các ụ tối của nó hiện ra thành một mầu đen đậm hơn mầu của các cánh đồng mà mùa gặt chỉ để lại các gốc rạ hơi trắng trong đêm đen. Họ càng tiến lại gần thì nó càng hiện ra rõ, trong khi các ngôi sao đầu tiên cũng tới soi sáng cho nó...
295
- Con tạm biệt Thầy ở đây, vì bạn con ở hơi bên ngoài Mageddo. Con rất mệt...
- Đi đi, nguyện Thiên Chúa canh chừng bước chân con.
- Cám ơn Thầy. Chào các bạn.
- Chào, chào. - Những người khác nói, cho là không quan trọng gì tiếng chào.
Giêsu nhắc lại: “Nguyện Thiên Chúa canh chừng các hành động của con”.
Judas ra đi với những bước thênh thang.
- Hum! ông ta không có vẻ mệt mỏi nữa - Phêrô nhận xét.
- Đúng, ở đây thì anh ta kéo lết đôi xăng đan, bây giờ anh ta chạy như con linh dương - Natanael nói.
- Ông em của tôi à! Lời chào của em đã là thánh, nhưng ít nhất, Thiên Chúa đâu có ép buộc ý muốn của ông ta. Sự trợ giúp của Thiên Chúa không giúp được cho ông ta làm những hành động tốt và chính đáng.
- Juđa ơi! Không phải vì con là anh Thầy mà con được miễn quở trách đâu. Vì vậy Thầy trách con đã làm khó chịu và không biết thương hại bạn con. Anh ta có các lỗi của anh, nhưng con có lỗi của con, và lỗi đầu tiên là đã không biết giúp Thầy đào tạo tâm hồn này. Con làm nó nổi giận bởi các lời của con. Không phải với sự hung hăng tàn bạo mà người ta chiếm được các linh hồn. Con tưởng mình có quyền kiểm duyệt mọi hàng động của nó sao? Con có cảm thấy mình đủ trọn hảo để làm việc đó không? Thầy nhắc con là Thầy, ông thầy của con, mà Thầy đã không làm, vì Thầy yêu cái linh hồn dị dạng này. Đó là linh hồn Thầy thương hơn hết thảy, chính bởi vì nó dị dạng. Con nghĩ rằng nó thỏa mãn vì tình trạng của nó sao? Và mai ngày, làm sao con có thể làm thầy các linh hồn, nếu con không thực hành đối với bạn con cách sử dụng tình bác ái vô hạn, là cái sẽ cứu chuộc các linh hồn tội lỗi?
Juđa Thađê cúi đầu ngay từ những lời đầu tiên, nhưng vào những lời chót, ông qùi gối xuống đất và nói: “Xin Thầy tha cho con. Con tội lỗi. Và hãy quở trách con khi con làm lỗi, vì sự sửa sai chính là
296
tình yêu. Chỉ những kẻ ngu dại mới không hiểu cái ân huệ được sửa sai bởi người khôn ngoan”.
- Con thấy rằng Thầy làm vậy vì ích lợi của con, nhưng có sự tha thứ dính liền với lời khiển trách, vì Thầy hiểu những lý lẽ của sự nghiêm khắc của con, và vì sự khiêm nhường của kẻ bị khiển trách làm cho kẻ khiển trách cảm động. Juđa, đứng dậy đi và đừng phạm tội nữa - Và Người giữ ông ở bên cạnh Người cùng với Gioan.
Các tông đồ khác bình luận với nhau. Trước tiên thì nói nhỏ, rồi nói lớn, vì thói quen của họ là nói lớn. Vì vậy tôi nghe họ so sánh giữa Juđa Thađê và Judas Kêriot:
- Nếu Judas Kêriot là người phải nghe những lời khiển trách này thì!... Ai biết được sẽ có phản loạn chừng nào. Em của anh rất tốt - Tôma nói với Giacôbê Alphê.
- Nhưng... đó... Người ta không thể nói được là anh ấy đã nói sai. Anh ấy đã nói sự thật về Judas Kêriot. Anh tin là ông ta sẽ tìm được người bạn tới từ Juđê không? Tôi không tin - Mathêu nói thẳng thắn.
- Có lẽ anh ta có những... công việc về vườn nho, cũng như ở chợ Jêricô - Phêrô nói khi nhớ lại màn cảnh mà ông không thể quên. Mọi người đều cười.
- Chắc chắn chỉ có mình Thầy mới có thể có bấy nhiêu tình thương đối với ông... - Philíp nhận xét.
- Bấy nhiêu à? Luôn luôn ấy chứ! Anh phải nói vậy - Giacôbê Zêbêđê đối đáp.
- Nếu là tôi thì tôi không thể kiên nhẫn đến thế - Natanael nói.
- Tôi cũng không thể - Mathêu xác nhận. “Cái màn hôm qua thực là ghê tởm”.
- Ông ta không hoàn toàn ý thức - Zêlote nói kiểu giải hòa.
Phêrô nói: “Nhưng các việc của anh ta, anh ta làm rất tốt, cả đến qúa tốt nữa. Tôi cá rằng anh ta đang tìm đến một pharisiêu nào đó để xin che chở. Tôi cá cái thuyền của tôi, chài lưới của tôi, cả đến nhà cửa của tôi, và tôi bảo đảm là tôi không bị mất gì”.
- Đúng vậy. Ismael! Ismael ở Mageddo! Làm sao chúng ta lại
297
không nghĩ tới đó nhỉ? Nhưng phải nói điều đó với Thầy! - Tôma kêu lên khi ông đập bèn bẹt vào trán.
- Vô ích. Thầy sẽ biện hộ cho ông ta nữa, và sẽ khiển trách chúng ta - Zêlote nói.
- Vậy... ta thử coi. Anh đi đi Giacôbê. Người yêu anh, anh là bà con của Người.
- Đối với Người, tất cả chúng ta đều bình đẳng. Ở đây Người không nhìn thấy bà con, Người chỉ nhìn thấy người tông đồ, và Người không thiên vị. Nhưng tôi sẽ đi để làm vui lòng các anh - Giacôbê Alphê nói, và ông rời các bạn để chạy lẹ đến với Giêsu.
- Các anh nghĩ rằng anh ta đến nhà một Pharisiêu, ông đó hay ông nào khác cũng không quan trọng... Nhưng tôi nghĩ anh ta làm như vậy để khỏi phải đi Cêsarê. Anh ta không muốn tới đó... - Andrê nói.
- Hình như từ ít lâu nay anh ta ghê tởm người Rôma - Tôma nhận xét.
- Nhưng... Khi các anh đi Engaddi, còn tôi đi với anh ta về nhà Lazarô, anh ta rất sung sướng được nói chuyện với Claudia... - Zêlote nhận xét.
- Đúng... nhưng... tôi tin là ở ngay chính việc đó, anh ta đã phạm vài sai lầm nào đó mà tôi tin là Jeanne đã biết, vì vậy bà đã cho gọi Giêsu. Và... tôi nghiền gẫm bao nhiêu là điều ở đây, ở bên trong, từ khi Judas nổi chứng như vậy ở Bétsur... - Phêrô nói lúng búng giữa hai hàm răng.
- Anh nói rằng...? - Mathêu tò mò hỏi.
- Nhưng... tôi không biết... Những ý tưởng... chúng ta sẽ coi...
- Ôi! Chúng ta đừng nghĩ đến điều xấu! Thầy không muốn vậy đâu. Và chúng ta không có bằng cớ là anh ta đã làm điều xấu - Andrê năn nỉ.
- Chú không muốn nói với tôi là anh ta đã làm đúng khi làm khổ Thầy, khi thiếu trọng kính đối với Người, khi làm phật ý Người, khi...
- Này Simon, tôi bảo đảm với anh là anh ta hơi điên - Zêlote nói.
298
- Được, có thể. Nhưng anh ta xúc phạm đến lòng tốt của Chúa chúng ta. Tôi, cho dù anh ta khạc nhổ vào mặt tôi, dù anh ta vả vào mặt tôi, tôi cũng sẽ vui lòng chịu để dâng cho Thiên Chúa, để cứu chuộc anh ta. Tôi xin đứng đầu để làm hết mọi thứ hy sinh để chỉ cho anh ta, và tôi cắn răng, nắm chặt bàn tay khi anh ta lên cơn điên, để tự kiềm chế. Nhưng điều tôi không thể tha thứ là anh ta ở xấu với Thầy chúng ta. Tội anh ta phạm đến Thầy, tôi thấy cũng như phạm đến tôi, tôi không thể tha thứ. Lại nữa, nếu chỉ họa hiếm thì đã đành! Nhưng đây cứ luôn luôn bắt đầu lại. Tôi chưa thành công để bỏ qua những bứt rứt cứ sôi lên ở trong tôi vì cái màn anh ta vừa làm, thì đây, anh ta lại làm một màn khác. Một, hai, ba... Phải có một giới hạn chứ! - Phêrô la lớn, múa may với tất cả sự cuồng nhiệt của ông.
Giêsu đi ở đàng trước độ mươi mét, Người quay lại, một bóng trắng trong đêm, và Người nói: “Không có giới hạn cho tình yêu và sự tha thứ. Không có, nơi Thiên Chúa cũng như nơi các con cái thật của Thiên Chúa. Bao lâu còn đời sống thì không có giới hạn. Cái hàng rào duy nhất ngăn cản sự tha thứ và tình yêu đổ xuống là sự kháng cự không hối cải của tội nhân. Nhưng nếu nó hối cải thì nó luôn luôn được tha, dù nó phạm lại một, hai, ba lần một ngày, và hơn nữa cũng vậy.
Các con cũng vậy, các con phạm tội, và các con muốn Thiên Chúa tha cho các con. Các con đến với Người và nói: ‘Con đã phạm tội! Xin Chúa tha cho con’. Và sự tha thứ sẽ là sự êm đềm cho các con, cũng như thật êm đềm để tha thứ đối với Thiên Chúa. Các con không phải là những Thiên Chúa, bởi vậy sự xúc phạm mà một người đồng loại làm cho các con thì ít trầm trọng hơn là một xúc phạm tới đấng không giống ai trong các con. Các con không thấy như vậy sao? Tuy nhiên, Thiên Chúa tha thứ. Các con cũng thế, hãy làm như vậy. Hãy giữ mình các con! Hãy giữ mình để sự khăng khăng của các con không biến thành tai họa cho các con bằng cách nó gây ra sự khăng khăng của Thiên Chúa đối với các con.
Thầy đã nói rồi, nhưng Thầy nhắc lại: ‘Hãy thương xót để được
299
xót thương’. Không có ai tránh được tội đủ để có thể khắt khe đối với các tội nhân. Hãy nhìn cái sức nặng đè trên tim các con trước khi nhìn cái ở trên tim người khác. Trước hết, hãy lấy cái của con ra khỏi tâm hồn con, rồi sau đó hãy quay về cái của kẻ khác, để chứng tỏ cho họ thấy rằng không phải là sự khắt khe chỉ biết kết án, mà là tình yêu chỉ bảo và giúp đỡ cho thoát khỏi gánh nặng. Để có thể nói mà các tội nhân không yêu cầu các con im đi, để có thể nói: ‘Anh đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân’, thì mình phải không phạm tội, hay ít nhất là đã sửa chữa lại tội đã phạm. Để có thể nói với kẻ cảm thấy nhục nhã vì đã phạm tội: ‘Hãy tin là Thiên Chúa tha cho kẻ sám hối’ như các tôi tớ của Thiên Chúa tha cho kẻ sám hối, các con phải chứng tỏ tình xót thương chừng nào trong sự tha thứ. Khi đó các con có thể nói: ‘Ôi, hỡi tội nhân sám hối, con thấy không? Ta tha tội cho con bảy và bảy lần, vì ta là tôi tớ của đấng tha thứ không kể lần cho kẻ sám hối, dù nó phạm tội đến bao nhiêu lần. Vậy hãy nghĩ tới Đấng Trọn Lành sẽ tha cho con chừng nào, chỉ vì thấy ta là tôi tớ của Người mà ta cũng biết tha thứ. Hãy tin!’
Chính như vậy là điều các con phải làm để có thể nói như thế, và bằng hành động chứ không phải bằng lời. Hãy nói vậy trong khi tha thứ. Vì thế, nếu anh em con phạm tội, hãy đón nhận nó với tình yêu, và nếu nó sám hối, hãy tha cho nó. Nếu nó mới bắt đầu một ngày, nó đã lỗi phạm bảy lần, và bảy lần nó nói với con: ‘Tôi hối lỗi’, hãy tha cho nó hết bấy nhiêu lần. Các con có hiểu không? Các con có hứa với Thầy là sẽ làm như vậy không? Trong khi ông ta còn ở xa, các con có hứa với Thầy là sẽ có tình thương không? Các con có hứa giúp Thầy chữa cho ông ta bằng cách hy sinh để tự chủ khi ông ta sai lầm không? Các con không muốn giúp Thầy cứu ông ta sao? Đó là người anh em trong thần trí, người anh em con cùng một cha duy nhất của các con; người anh em cùng một nòi giống, thuộc về một dân duy nhất; người anh em cùng sứ mạng, bởi vì ông ta cũng là tông đồ như các con. Vì thế các con phải yêu ông ta ba lần. Nếu trong gia đình các con, các con có một người anh em là nguyên
300
nhân đau khổ cho cha các con, làm cho người ta nói ra nói vào, các con không tìm cách chữa lỗi cho anh, để cha các con không phải khổ nữa, và người ngoài không nói ra nói vào về gia đình các con nữa sao? Vậy gia đình này của các con chẳng phải là một gia đình lớn hơn và thánh hơn, mà người cha là Thiên Chúa, và Thầy là trưởng nam sao? Tại sao các con không muốn an ủi Cha và Thầy, và giúp chúng ta làm cho người anh em tội nghiệp trở nên tốt? Và các con hãy tin rằng người đó chẳng sung sướng gì vì anh ta như vậy.
Giêsu lo âu van nài cho vị tông đồ có qúa nhiều khuyết điểm... Và Người nói để kết thúc: “Thầy là người hành khất lớn, và Thầy xin các con một của bố thí qúi báu nhất, đó là các linh hồn. Thầy, Thầy đi tìm họ, nhưng các con phải giúp Thầy... Các con hãy cho con tim đói của Thầy được ăn no. Nó đói tình yêu, và nó chỉ tìm thấy ở trong rất ít người. Bởi vì những người không hướng về sự trọn lành, thì đối với Thầy, họ giống như từng ấy cái bánh bị lấy đi trong cơn đói thiêng liêng của Thầy. Các con hãy tặng các linh hồn cho người thầy đau khổ vì không được yêu và không được hiểu của các con”.
Các tông đồ cảm động... Họ muốn nói với Người rất nhiều, nhưng họ thấy mọi lời nói đều có vẻ nhỏ nhen... Họ áp sát lại với Thầy, tất cả đều muốn vuốt ve Người để Người cảm thấy là họ yêu Người.
Sau cùng, chính người hiền Andrê đã dám nói: “Lạy Chúa, vâng. Bằng sự kiên nhẫn, bằng sự nín lặng và bằng hy sinh, những khí giới cải hóa, chúng con sẽ dâng Thầy các linh hồn. Cả điều này nữa... nếu Thiên Chúa giúp chúng con”.
- Chúa ơi, vâng. Còn Thầy, xin Thầy giúp chúng con bằng lời cầu nguyện của Thầy.
- Ờ, các bạn Thầy, và trong khi chờ đợi, chúng ta hãy cầu nguyện cho người bạn đã đi: “Lạy Cha chúng con ở trên Trời...”
Giọng nói trọn hảo của Giêsu đọc các lời của kinh Lạy Cha bằng cách ngắt câu nhẩn nha. Những người khác đọc theo nhỏ tiếng. Và trong khi cầu nguyện, họ biến mất trong đêm.
301
115* “SỐNG ĐỂ GIÁO HUẤN KẺ KHÁC
TRONG KHI KHÁT MONG VỀ TRỜI,
ĐÓ CHÍNH LÀ TỬ ĐẠO”
Từ trên đỉnh của chỗ cao nhất mà người ta có thể gọi là đồi, vì độ cao yếu, bờ Địa Trung Hải hiện ra trong tia sáng rộng, bị giới hạn ở phía bắc bởi cái mũi của núi Carmel, còn ở phía nam thì trải ra cho tới khoảng cách cực đại của nhãn giới con người. Một bãi bể yên tĩnh, hầu như thẳng. Bên trong là đồng bằng phì nhiêu, hơi bị gián đoạn bởi các đỉnh thấp. Các thành phố dọc bờ biển phơi bày các dãy nhà mầu trắng của chúng, nổi lên giữa mầu xanh ve của đất liền và mầu xanh lơ của nước biển yên lặng, trong sáng; một mầu lơ tươi sáng, phản chiếu mầu lơ thanh trong của bầu trời.
Cêsarê hơi ở về phía bắc nơi các tông đồ đang ở cùng với Giêsu và một số môn đệ, chắc đã gặp được trong các làng đã đi qua vào buổi tối hay lúc rạng đông, vì bây giờ đã qua rạng đông, mặc dầu còn là những giờ đầu tiên của ngày. Trong những giờ rất đẹp của buổi sáng mùa hè này, lúc bầu trời, ngay sau mầu hồng của rạng đông là trở thành xanh lơ, lúc mà không khí trong sạch và mát mẻ, đồng quê tươi tắn, chưa một cánh buồm nào căng trên biển; giờ trinh trong của một ngày, giờ các bông hoa mới nở ra, giờ sương đêm bốc hơi dưới những tia đầu tiên của mặt trời, xông lên cùng với mùi cỏ, hiến sự tươi mát và hương thơm cho hơi thở nhẹ của gió ban mai, chỉ làm hơi rung rinh cây cỏ và hơi lăn tăn gợn sóng trên mặt biển.
Thành phố xuất hiện trải dài trên bãi, đẹp đẽ cũng như mọi nơi có nền văn minh luyện lọc của Rôma. Các nhà tắm hơi và các đền đài bằng đá phơi bày mầu trắng của nó như những khối tuyết đông cứng tại các khu gần bờ biển, được canh giữ bởi một cái tháp vuông, cũng trắng, nổi cao lên ở gần cảng, có lẽ đó là một doanh trại hay một đài quan sát. Rồi đến các nhà khiêm tốn hơn ở vùng bờ, kiểu
302
Hy Bá. Ở khắp nơi là mầu xanh của các dàn cây, vườn treo cao, ít hay nhiều lộng lẫy, trên sân thượng của các căn nhà. Các cây cao mọc ở khắp nơi.
Các tông đồ cảm phục, đứng yên dưới bóng các cây ngô đồng trồng hầu như trên tận đỉnh đồi.
- Người ta thở dễ hơn khi nhìn quang cảnh mênh mông này - Philíp kêu.
- Và tôi thấy như đã cảm nhận được sự tươi mát của làn nước xanh đẹp đẽ này - Phêrô nói.
- Đúng vậy, sau biết bao bụi đất, đá sỏi, gai góc... Các anh coi, trong sáng chừng nào! Mát mẻ chừng nào! Bình an chừng nào! Biển luôn luôn cho sự bình an... - Giacôbê Alphê bình luận.
- Hum! Ngoại trừ khi... nó bạt tai các anh, nó quay các anh và con tàu của các anh giống như con quay trong tay thằng bé - Mathêu trả lời, có lẽ ông nhớ tới màn say sóng.
- Thầy ơi... con nghĩ... con nghĩ tới tất cả những lời của tác giả thánh vịnh trong sách Gióp, tới những lời trong sách đạo đức, nói về sức mạnh của Thiên Chúa, và con không biết tại sao tư tưởng này đến với con khi con nhìn sự vật, và nó làm nảy sinh ra trong con một tư tưởng khác rằng: nếu chúng ta công chính tới cùng, chúng ta sẽ được nâng lên như vậy tới một vẻ đẹp tuyệt hảo, trên một mầu xanh lơ trong sáng, trong cuộc đại tụ họp, trong vinh thắng đời đời của Thầy, trong cái mà Thầy đã mô tả cho chúng con, là cái sẽ chấm dứt mọi điều xấu... Và con như nhìn thấy cảnh Trời mênh mông này, đông nghẹt những cơ thể sáng láng được sống lại; và Thầy, sáng láng hơn muôn ngàn mặt trời, ở giữa những kẻ hạnh phúc tại nơi không còn đau khổ, không còn nước mắt, không còn nguyền rủa, dèm pha như cái màn chiều hôm qua... Và bình an, bình an, bình an... Nhưng khi nào điều ác sẽ hết quấy rầy? Các mũi tên của họ chống lại Thầy có cùn lụt đi không? Họ có nhận ra là họ bị thua không? - Gioan nói, lúc đầu thì vui tươi, sau đó là lo âu .
- Không bao giờ. Họ luôn luôn tin là họ toàn thắng, mặc dầu các kẻ lành cải chính cho họ. Và sự hy sinh của Thầy không làm cùn
303
các mũi tên của họ. Nhưng giờ sau cùng sẽ tới, giờ mà sự ác bị thua. Trong vẻ đẹp còn vô tận hơn là cái mà tâm hồn con hé thấy, các kẻ được chọn sẽ là một dân duy nhất, vĩnh cửu, thánh, một dân thật của Thiên Chúa thật.
- Tất cả chúng con có được ở đó không? - Các tông đồ hỏi.
- Tất cả.
- Còn chúng con? - Nhóm môn đệ đã khá đông hỏi.
- Tất cả các con sẽ được ở đó.
- Tất cả những người đang hiện diện hay tất cả các môn đệ? Vì bây giờ chúng con đã khá đông, mặc dầu có những người đã bỏ hàng ngũ.
- Và các con sẽ càng ngày càng đông. Không phải tất cả sẽ trung thành tới cùng, nhưng rất nhiều người sẽ ở với Thầy trên Thiên Đàng. Một số sẽ được thưởng sau khi đã đền tội, một số khác thì rất mau sau khi chết. Nhưng phần thưởng sẽ là thế nào để các con quên trái đất và những đau khổ của nó đi. Các con cũng sẽ quên luyện ngục với sự sám hối nuối tiếc trong bình an của nó.
- Thưa Thầy, Thầy đã nói là chúng con sẽ chịu bách hại và tử đạo, vậy chúng con có thể bị bắt và bị giết mà không có giờ để sám hối, hay sự yếu đuối của chúng con sẽ làm chúng con thiếu nhẫn nhục ở cái chết đẫm máu... Vậy thì sao? - Nicôlai người Antioche đang ở giữa đám các môn đệ hỏi.
- Đừng tin như vậy. Qủa thật, vì sự yếu đuối nhân loại của các con, các con không thể chịu đựng sự tử đạo cách nhẫn nhục, nhưng với linh hồn to lớn phải làm chứng cho Chúa, Chúa sẽ ban cho một sự trợ giúp siêu nhiên...
- Sự trợ giúp nào? Có lẽ là sự mất cảm giác?
- Không đâu Nicôlai. Tình yêu trọn hảo. Họ sẽ tới được một tình yêu trọn hảo tới nỗi những quay cuồng của tra tấn, của kết án, của sự chia lìa cha mẹ, đời sống, tất cả, sẽ không còn là những cái làm cho suy nhược, trái lại, tất cả sẽ biến thành lợi khí để tung bay lên trời, để đón nhận nó, nhìn xem nó, và vì thế họ giơ tay ra để nhận lấy hành hình, để tới nơi mà con tim họ đã ở đó rồi: Trên Trời.
304
- Ai chết như vậy thì sẽ được tha thứ rất nhiều - một môn đệ già mà tôi không biết tên nói.
- Papias, không phải chỉ là rất nhiều, mà nó sẽ được tha tất cả. Bởi vì tình yêu là sự xá giải, hy sinh là sự xá giải, tuyên xưng đức tin cách anh hùng là sự xá giải. Bởi vậy con thấy rằng các vị tử đạo được một sự thanh tẩy chấp ba.
- Ôi! Vậy thì... Con, con đã phạm tội rất nhiều, Thầy ơi, con sẽ theo lối này để được sự tha thứ. Hôm qua Thầy đã tha cho con, và vì vậy Thầy bị các người có tội và không biết tha thứ chửi rủa. Con tin rằng sự tha thứ của Thầy đã hữu hiệu, nhưng vì những năm dài phạm tội của con, xin Thầy cho con cái tử đạo xá giải.
- Ông ơi, ông xin Thầy nhiều qúa!
- Không bao giờ nhiều bằng những cái con phải dâng để được hưởng cái phước mà Gioan Zêbêđê đã mô tả và Thầy đã xác nhận. Chúa ơi, con năn nỉ Thầy: Hãy làm cho con chết vì Thầy, vì giáo lý của Thầy...
- Con xin Thầy nhiều qúa! Sự sống của người ta ở trong tay Cha Thầy.
- Nhưng mọi lời cầu xin của Thầy đều được nhận, cũng như mọi sự xét đoán của Thầy đều được nhận. Thầy hãy cầu xin Thiên Chúa cho con sự tha thứ này.
Người đàn ông đã qùi gối ở chân Giêsu, Người nhìn vào mắt ông và nói: “Nhưng con không thấy chính là một tử đạo khi sống trên trái đất, nơi không còn gì lôi cuốn nữa, và con tim chỉ khát mong về Trời? Sống để dạy tình yêu cho người khác, để biết nỗi thất vọng của Thầy, để kiên trì không mệt mỏi mà dâng các linh hồn cho Thầy. Hãy luôn luôn làm theo ý Thiên Chúa, dù con thấy rằng ý con có vẻ anh hùng hơn, thì con sẽ là thánh... Nhưng kìa, các bạn đi mua đồ đã về. Chúng ta hãy lên đường để tới thành phố trước những giờ oi bức”.
Và người dẫn đầu đi xuống một cái dốc nhẹ. Họ mau lẹ tới một đồng bằng bị cắt bởi một giải băng trắng của con đường dẫn về Cêsarê Maritime.
305
116* TẠI CÊSARÊ MARITIME
Cêsarê có một khu chợ mênh mông, nơi đổ tới những thực phẩm ngon lành cho bàn ăn luyện lọc của người Rôma. Ở gần các công trường, trong cái kính vạn hoa của các khuôn mặt đủ mầu sắc, nòi giống, cũng có những thực phẩm khiêm tốn hơn. Có những tiệm thực phẩm hảo hạng đến từ khắp các thuộc địa Rôma cũng như từ nước Ý xa xôi để làm nhẹ nỗi sầu xa quê. Có những tiệm rượu hay thực phẩm qúi nhập khẩu từ các nơi khác, được bán dưới các dẫy hành lang dài, vì người Rôma không thích bị cháy nắng bởi mặt trời hay bị ướt vì mưa khi họ kiếm cho cái miệng sành ăn của họ những thực phẩm mà họ ăn trong ngày lễ. Dù có tốt khi theo chủ nghĩa khoái lạc để thỏa mãn quai hàm, nhưng cũng phải canh chừng để bảo vệ các cơ quan khác... Vì vậy mà sự mát mẻ của các hành lang và các lối đi được che mưa nắng, dẫn từ khu của người Rôma, hầu như quây quần tất cả chung quanh dinh Tổng Tài, chen chúc giữa con đường dọc bờ biển và công trường khu trại lính và sở thuế, tới các gian hàng của Rôma gần khu chợ Do Thái.
Có rất đông người ở dưới các hành lang, nếu không đẹp thì cũng thuận lợi, và ở chỗ cuối hành lang, nơi dẫn vào khu chợ. Người thuộc đủ loại: nô lệ, người được giải phóng, có cả một số dân ăn chơi giầu với đám nô lệ vây quanh. Sau khi rời bỏ chiếc kiệu ở ngoài lộ, họ đi một cách thờ ơ từ quầy nọ tới quầy kia, mua sắm những đồ mà các nô lệ sẽ mang về nhà cho họ. Các đàm thoại quen thuộc nhàn nhã khi hai người Rôma giầu có gặp nhau là: thời tiết, buồn phiền vì ở xứ này không có những cái vui của nước Ý xa xôi, nuối tiếc những quang cảnh hùng vĩ, thực đơn của các bữa tiệc, và các câu đàm thoại tục tĩu.
Một người Rôma, với một tá nô lệ đi trước, mang vác đầy giỏ và hộp, gặp hai người khác cùng giai cấp, chào hỏi hỗ tương.
- Ồ, chào Ennius!
306
- Chào Florus Tullius Cornélius! Ồ, chào Marcus Heracleus Flavius!
- Anh tới hồi nào?
- Mệt qúa! Lúc bình minh ngày hôm kia.
- Anh mà mệt? Anh đổ mồ hôi lúc nào? - Người trẻ có tên Florus nói dỡn.
- Đừng dỡn Florus Tullius Cornélius! Ngay lúc này tôi đang chảy mồ hôi vì bạn hữu đây!
- Vì bạn hữu? Chúng tôi đâu có yêu cầu anh phải mệt thân! - Người già có tên Marcus Heracleus Flavius bắt bẻ.
- Nhưng tình yêu của tôi nghĩ tới các anh. Ôi! Độc ác chừng nào vì khinh dể tôi! Các anh thấy cái dẫy nô lệ ôm đồm đầy gói đồ này không? Có những đứa khác đã về trước với những gói khác rồi. Tất cả những thứ đó là vì các anh, để làm vinh dự cho các anh.
- Vậy ra đó là việc của anh? Một yến tiệc?
- Và tại sao? - Hai người bạn la ồn ào.
- Xụyt ! Giữa các nhà qúi tộc với nhau mà ồn ào vầy sao? Qúi vị giống như bọn cùng đinh của cái xứ này, nơi chúng ta tàn tạ trong...
- Trong hành lạc và nhàn cư. Chúng ta chả làm gì khác. Tôi còn tự hỏi tại sao chúng ta ở đây. Chúng ta có nhiệm vụ gì?
- Chết vì buồn là một nhiệm vụ.
- Dạy cho những kẻ tội nghiệp hay khóc này biết sống, đó là một nhiệm vụ nữa.
- Và gieo Rôma vào trong cái bể thánh của đàn bà Hy Bá là một nhiệm vụ nữa.
- Và vui hưởng, ở đây cũng như ở các nơi khác, nguồn lợi của chúng ta, sức mạnh của chúng ta mà vì đó, tất cả đều được phép. Đó là một nhiệm vụ nữa.
Ba người thay phiên nhau nói như đọc kinh cầu, và họ cười. Nhưng người trẻ Flavius dừng lại , nét mặt anh ta sa sầm và anh ta nói: “Nhưng từ ít lâu nay, một đám sương mù rơi xuống trên triều đình vui vẻ của Pilatô. Các đàn bà đẹp nhất đã trở nên như các trinh nữ trong trắng, và các ông chồng cũng tán đồng cơn chướng
307
của các bà. Điều đó làm thiệt hại rất lớn cho các buổi lễ thông thường...”
- Đúng. Có cơn chướng là tại cái tên Galilê thô bỉ đó... nhưng cái đó sẽ qua mau thôi.
- Ồ, Ennius, ông lầm! Tôi biết rằng chính Claudia là một trong các cuộc chinh phục của ông ta, và vì lẽ đó, một sự thận trọng lạ lùng về phẩm hạnh đã nảy sinh trong lâu đài của ông ta, tựa như Rôma cộng hòa khổ hạnh đã sống lại ở đó...
- Hou! Cái đó xông mùi hôi mốc qúa! Nhưng từ bao giờ vậy?
- Từ cái tháng tư êm đềm thuận lợi cho các tình yêu. Anh không biết... Anh đã vắng mặt. Các bà của chúng ta đã trở nên tang tóc như các kẻ khóc mướn trước các bình đựng hài cốt. Và chúng ta, những thằng đàn ông tội nghiệp, chúng ta phải tìm rất nhiều an ủi ở nơi khác. Cả đến các bà không cho phép chúng ta ở trước mặt những người đoan trang nữa!
- Đó là lại thêm một lý do nữa để tôi “cứu bồ” các bạn. Chiều nay sẽ là bữa ăn lớn, và hơn nữa... một cuộc hành lạc lớn trong nhà tôi. Hồi tôi ở Cintium, tôi đã tìm được ở đó những món ngon mà những tên ghê tởm này nói là ô uế: con công, chim đa đa, các con gà nước đủ loại, và những con heo rừng con bị bắt sống khi mẹ chúng bị giết, và được nuôi cho các bữa tiệc của chúng ta. Và các thứ rượu... A! Những hũ rượu êm và qúi của các ngọn đồi Rôma! Của các sườn đồi Litrenum nóng của tôi và các bãi biển đầy mặt trời gần Aciri của anh... Và các thứ rượu thơm của Chio và của hòn đảo mà Cintium là viên ngọc. Rồi các thứ rượu ngây ngất của Ibérie làm bốc lửa các giác quan cho sự hưởng thụ sau cùng. Ôi! Đây phải là một đại lễ để xua đuổi cái ưu phiền của nơi lưu đày này, để chúng ta thấy rằng chúng ta còn nam tính...
- Cả đàn bà nữa chứ ?
- Có chứ... Và đẹp hơn hoa hồng. Có đủ mầu và... đủ loại hương. Tôi đã tậu kho tàng qúi gía này với mọi loại hàng, trong đó có đàn bà... Nhưng tôi rất quảng đại với bạn bè... Tôi chấm dứt ở đây các mua sắm sau cùng, thay cho những cái đã bị hư trong cuộc hành
308
trình. Sau bữa tiệc, tình yêu sẽ thuộc về chúng ta.
- Anh đã làm cuộc hành trình tốt đẹp chứ ?
- Tuyệt vời. Thần biển Vénus đã hậu đãi tôi, vì vậy tôi sẽ dâng hiến các nghi thức của đêm nay cho Ngài.
Ba người cùng cười thoải mái để thưởng thức niềm vui bất chính sắp tới của họ...
Nhưng Florus hỏi: “Tại sao lại có buổi lễ đặc biệt này? Vì lý do gì?”
- Ba lý do: đứa cháu trai cưng của tôi khoác áo trưởng thành vào những ngày này, và tôi phải cử hành biến cố; vâng lệnh một điềm triệu đã nói cho tôi rằng Cêsarê sẽ trở nên nơi cư trú buồn của tôi vào một ngày kia, và tôi phải tới để gặp số phận bằng một nghi thức cho thần Vénus. Lý do thứ ba, tôi nói khẽ với anh: tiệc cưới của tôi...
- Của anh? Dỡn hoài!
- Tiệc cưới của tôi. Là tiệc cưới, mỗi lần người ta thưởng thức ngụm đầu tiên của một bình rượu niêm phong. Đó là điều tôi sẽ làm đêm nay. Phải mất hai mươi ngàn đồng tiền bạc, hay nếu anh thích hơn: hai trăm đồng tiền vàng - mà thực sự tôi đã trả cho các tên môi giới và các thứ khác cùng loại - tôi đã trả món đó. Nhưng cho dù là chính Vénus đã sinh ra nó trong một bình minh của tháng tư, và làm ra nó bằng các bọt và các tia sáng bằng vàng, thì tôi cũng không thấy nó đẹp hơn và trong trắng hơn! Một cái nụ, một cái nụ còn khép... A! Và tôi, tôi là chủ!
- Kẻ phạm thánh! - Marcus Heracleus cười nói dỡn.
- Đừng làm bộ giám sát! Anh cũng chẳng hơn gì... Sau khi Valérien bỏ đi, ở đây người ta chết vì buồn. Nhưng tôi sẽ thay thế ông ta... Phải lợi dụng kinh nghiệm của những kẻ đã đến trước chúng ta. Tôi sẽ không như ông ta, chả ngu gì lại chờ cái em tóc vàng hơn là mật ong mà tôi đặt tên là Galla Ciprina này bị hư hỏng vì buồn, và vì triết học của những kẻ bị thiến, không biết thưởng thức cuộc đời...
- Hoan hô!!! Nhưng... tên nô lệ của Valérien đã được dạy và...
- ... và điên vì những bài đọc triết học... Nhưng thật là một linh
309
hồn! Một đời sống khác chừng nào! Một nhân đức!... Sống là hưởng thụ. Và ở đây người ta sống. Hôm qua tôi đã quăng vào lửa tất cả những ru-lô tai họa đó. Và tôi đã cấm các nô lệ, với hình phạt tử hình, không được nhắc tới những khốn nạn của các triết gia và của các tên Galilê. Và đứa bé gái không biết rằng tôi...
- Nhưng anh đã tìm thấy nó ở đâu vậy?
- Hé! Có một người thông báo, vì ông ta đi tìm mua các nô lệ sau cuộc chiến tranh với người Gaul. Nhưng ông ta chỉ dùng chúng để truyền giống, bằng cách đối xử tốt với chúng. Ông chỉ yêu cầu chúng đẻ để có những bông hoa mới của sắc đẹp... Và Galla là một trong số chúng. Bây giờ cô em tới tuổi dậy thì và chủ cô bán cô đi... Và tôi, tôi đã mua... A!A!A!
- Dâm bôn!
- Nếu không phải tôi thì cũng là một đứa khác... nếu không thì cô ta đừng sinh ra là đàn bà...
- Nếu ông ta mà nghe anh nói thì... Ôi! Ông ta đó!
- Ai?
- Tên Nazarét đã bỏ bùa mê thuốc lú các đàn bà của chúng ta. Ông ta đang ở đàng sau anh.
Ennius quay lại tựa như hắn có một con rắn độc ở sau lưng. Hắn nhìn Giêsu đang tiến bước từ từ giữa đám người chen chúc chung quanh Người, những dân nghèo, và cả các nô lệ của người Rôma, và hắn nói diễu: “Tên ăn mày này à? Các bà hư hỏng hết rồi! Nhưng chúng ta cũng chạy trốn đi kẻo ông ta cũng bỏ bùa chúng ta nữa! Chúng mày!” Sau cùng ông nói với các nô lệ tội nghiệp, vẫn cứ phải đứng chờ với gánh nặng của chúng như những bức tượng dùng làm cột mà hắn không thương hại. “Chúng mày về nhà mau đi, vì chúng mày đã mất thời giờ từ nãy tới giờ, và những người dọn tiệc đang chờ các gia vị và hương thơm. Chạy mau! Và hãy nhớ rằng sẽ có roi nếu tất cả không sẵn sàng vào lúc hoàng hôn”.
Các nô lệ phóng chạy, tên Rôma nhẩn nha đi sau cùng với hai bạn hắn.
Giêsu tiến bước, vẻ buồn, vì Người đã nghe được đoạn cuối của các lời đàm thoại của Ennius. Và từ trên cao của vóc người cao ráo
310
của Người, Người nhìn cách vô cùng thương xót, những người nô lệ đang chạy dưới gánh nặng của họ. Người nhìn khắp chung quanh Người để tìm các khuôn mặt nô lệ khác của người Rôma... Người thấy vài kẻ đang run rẩy, sợ bị các tên quản lý bắt qủa tang, hoặc sợ bị các người Hy Bá xua đuổi. Họ trà trộn với đám đông đang vây quanh Người. Người đứng lại và hỏi: “Trong đám các con có ai thuộc về nhà này không?”
- Thưa Chúa không. Nhưng chúng con biết họ - các nô lệ hiện diện trả lời.
- Mathêu, hãy cho họ thật nhiều của bố thí để họ chia sẻ với các bạn họ, để họ biết rằng vẫn có người yêu họ. Và các con, hãy biết, và hãy nói với những người khác rằng: đau khổ chỉ hết cùng với đời sống cho những ai tốt và ngay thật trong xiềng xích của họ. Và cũng hết cùng với đau khổ là sự khác nhau giữa người giầu và người nghèo, giữa người tự do và nô lệ. Sau đó thì chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và công bằng với mọi người. Người không kể đến giầu có hay xiềng xích, Người sẽ thưởng cho những ai tốt, và phạt những ai không tốt. Hãy nhớ điều đó.
- Thưa Chúa vâng. Nhưng chúng con thuộc về nhà Claudia và nhà Plautina, chúng con khá sung sướng, cũng như những người của nhà Lidia và Valêria, và chúng con chúc tụng Thầy vì Thầy đã làm nhẹ bớt số phận của chúng con. - Một ông già nô lệ mà những người khác nghe lời như ông xếp của họ nói.
- Để chứng tỏ rằng các con biết ơn Thầy, các con hãy luôn luôn tốt hơn, và các con sẽ có Thiên Chúa thật làm bạn muôn đời.
Giêsu giơ tay như để chúc lành cho họ và cho họ đi. Rồi Người tựa lưng vào một cái cột và bắt đầu nói giữa sự im lặng và chú ý của đám đông. Các nô lệ không bỏ đi. Họ ở lại để nghe những lời được nói ra từ miệng Thiên Chúa.
- Hãy nghe đây: Một người cha có nhiều con cái. Khi các con đã trưởng thành, ông cho mỗi người hai đồng tiền có giá trị rất lớn và ông nói với họ: “Cha không có ý định làm việc cho các con nữa. Bây giờ các con đã tới tuổi có thể tự túc. Vậy cha cho mỗi người
311
trong các con cùng một số tiền. Các con hãy sử dụng nó tùy sở thích cho ích lợi của các con. Cha ở lại đây chờ, sẵn sàng để chỉ bảo, cố vấn cho các con, sẵn sàng để giúp đỡ các con nếu vì một không may ngoài ý muốn, các con bị mất hết hay mất một phần số tiền mà cha cho các con bây giờ. Nhưng các con hãy nhớ rằng cha sẽ khắt khe với con nào đã để mất nó vì ý muốn ranh mãnh, cũng như với các con lười biếng đã tiêu phí đi hay để nó không sinh ích lợi gì vì nhàn cư hay thói hư. Cha dạy cho tất cả thấy điều tốt và điều xấu. Vậy các con không thể nói rằng các con vào đời mà không hiểu biết. Với tất cả, cha đã làm gương hành động khôn ngoan, ngay chính và một đời sống ngay thẳng. Bởi vậy các con không thể nói được rằng cha đã làm hư tinh thần các con bởi các gương xấu. Cha đã làm bổ phận của cha, bây giờ các con hãy làm bổn phận của các con, vì các con không ngu dốt, cũng không phải không được chuẩn bị, cũng không phải thất học. Vậy hãy lên đường”. Và ông cho họ đi. Ông ở lại nhà một mình để chờ.
Các con cái ông tản mát trên thế giới. Tất cả họ đều có cùng một của: hai đồng tiền có gía trị lớn mà họ có thể sẵn sàng hành động cách tự do, và một kho tàng lớn hơn là sức khỏe, nghị lực, sự hiểu biết và gương mẫu của người cha. Vậy họ phải thành công tất cả như nhau. Nhưng rồi cái gì đã xảy ra? Trong số các người con, có một số dùng tốt nguồn lợi của họ, và một cách ngay thẳng, họ mau chóng tạo ra một gia tài lớn nhờ sự làm việc không biết mệt, thật thà, cùng với lối sống tốt dựa vào các giáo huấn của cha. Một số khác, lúc đầu cũng tạo được một gia tài chính đáng ngay thẳng, nhưng rồi sau đó họ tiêu pha hết trong sự nhàn rỗi và chè chén. Một số khác kiếm lời bằng cách cho vay nặng lãi và các buôn bán bất xứng. Một số khác không làm gì cả, vì họ lơ là, lười biếng, không quyết định. Sau cùng, họ kết thúc những đồng tiền có giá trị lớn mà không tìm được một sinh hoạt nào nữa.
Sau một thời gian, người cha gia đình sai các đầy tớ đến khắp các nơi ông biết là có các con ông. Ông nói với các đầy tớ: “Chúng mày hãy bảo các con ta về tụ họp ở nhà. Ta muốn chúng tính sổ về những việc chúng đã làm trong thời gian vừa qua, và ta muốn chính
312
ta biết về tình trạng của chúng”. Và các người đầy tớ đi tìm các con chủ, chuyển đạt mệnh lệnh, và mỗi người trở về cùng với người con của chủ mà họ đã tìm thấy.
Người cha gia đình đón tiếp họ cách rất trọng thể, như người cha, nhưng cũng như vị thẩm phán. Và tất cả bà con của gia đình đều hiện diện, và cùng với các bà con, có cả các bạn bè, các người quen biết, các đầy tớ, các người đồng hương và các người lối xóm. Một đại hội đồng. Người cha ngồi trên ghế trưởng gia đình, và ở chung quanh, ngồi theo hình bán nguyệt, là tất cả bà con, bạn bè, người quen, đầy tớ, hàng xóm, làng nước. Trước mặt ông là các con ông đứng dàn hàng.
Ngay dù họ không được hỏi tới, các diện mạo khác nhau cũng nói lên sự thật. Những người đã siêng năng làm việc, ngay thật với lối sống đúng mực, đã tạo được gia tài cách thánh thiện, họ có vẻ hoan hỉ, bình tĩnh và thoải mái của kẻ có các phương tiện rộng rãi, có sức khỏe tốt, có lương tâm bình an. Họ nhìn người cha với nụ cười tươi, biết ơn, khiêm nhường, nhưng đồng thời vinh thắng, rạng rỡ bởi niềm vui đã làm vinh dự cho cha và gia đình vì đã là đứa con ngoan, người công dân tốt, người tín hữu trung thành. Những người đã phân tán nguồn lợi của họ vì lười biếng, đàng điếm, thì bẽ bàng, sượng sùng, dáng vẻ tồi tàn, y phục nhăn nheo, dấu hiệu của sự say sưa hoặc đói khát ghi trên toàn thể con người của họ. Những người đã tạo được gia tài bằng những lối thao diễn phạm pháp thì có nét mặt khắt khe, gây hấn, cái nhìn độc ác và băn khoăn như các thú hoang sợ người dạy thú và sẵn sàng để phản ứng.
Người cha bắt đầu hỏi han từ những loại người sau cùng: “Khi các con ra đi, các con rất bình tĩnh, tại sao bây giờ các con có vẻ như các thú dữ sẵn sàng để cấu xé! Thái độ này bởi đâu mà có?”
- Chính đời sống đã cho chúng con, do sự khắc nghiệt của cha vì đã sai chúng con đi xa nhà. Chính cha đã để chúng con giao tiếp với thế giới.
- Được. Vậy các con đã làm gì trong thế giới?
- Làm cái chúng con có thể để vâng lời Cha và kiếm sống với
313
con số không mà cha đã cho chúng con.
- Rồi. Vậy hãy đứng vào góc này... Và bây giờ, các con gầy yếu, bệnh hoạn, ăn mặc lôi thôi. Các con đã làm gì để hạ giá mình đến cỡ này? Lúc ra đi, các con rất mạnh khỏe, ăn mặc chỉnh tề cơ mà!
- Trong mười năm thì quần áo đã rách - những người lười biếng đối đáp.
- Vậy trong thế giới không còn vải vóc để may đồ cho loài người hay sao?
- Có... Nhưng phải có tiền mới mua được.
- Các con có tiền mà!
- Trong mười năm... Nó đã tệ hơn là hết. Mọi cái có bắt đầu thì phải có kết thúc.
- Đúng. Vậy nếu các con đã lấy thì các con phải trả. Tại sao các con lại chỉ có lấy thôi? Nếu các con đã làm việc thì các con có thể trả và lấy đi cái kết thúc, và hơn nữa, còn làm gia tăng kho tàng của các con. Hay các con đã bị bệnh?
- Thưa cha không.
- Vậy thì sao?
- Chúng con thấy như bị lạc. Chúng con không biết làm gì cho thích hợp... Chúng con sợ làm hư hỏng, và để tránh làm hư hỏng, chúng con không làm gì cả.
- Và các con không có người cha mà các con luôn luôn có thể hỏi han cố vấn sao? Có bao giờ cha là người cha khó tánh, không thể tới gần được không?
- Ôi! Không. Nhưng chúng con xấu hổ khi phải nói với cha: “Chúng con không có khả năng để bắt đầu”. Cha luôn luôn linh hoạt, còn chúng con thì đi trốn vì xấu hổ.
- Được rồi. Vậy hãy lại đứng chỗ giữa phòng. Còn các con kia, các con sẽ nói gì với cha? Sao các con giống như đã bị đói khát và bệnh tật? Có lẽ công việc qúa mức đã làm các con bệnh? Hãy thành thật, và cha sẽ không quở trách các con đâu.
Một số trong những người được hỏi liền qùi phập xuống đất, đấm ngực và nói: “Ôi cha! Xin tha cho chúng con. Thiên Chúa đã
314
phạt chúng con rồi, và chúng con đáng phạt. Nhưng cha là cha của chúng con, xin cha tha cho chúng con!... Chúng con đã bắt đầu rất tốt, nhưng rồi chúng con không kiên trì. Chúng con đã sinh lời dễ dàng nên chúng con nói: ‘Tốt, chúng ta hãy hưởng thụ, theo như các bạn hữu khuyên bảo, rồi sau đó chúng ta lại trở về công việc và chúng ta sẽ lấp đầy lỗ hổng’. Thực sự thì chúng con tính làm như vầy: Trở lại số vốn hai đồng tiền, rồi sau đó lại sinh lời, dễ như trò chơi. Và hai lần (hai người trong nhóm họ nói), và ba lần (một người khác nói) chúng con đã thành công. Nhưng rồi sự may mắn rời bỏ chúng con, và chúng con mất hết tiền”.
- Nhưng sao các con không phục hồi sau lần thứ nhất?
- Bởi vì chiếc bánh qúa gia vị bởi tật xấu đã làm hư vị giác, và người ta không thể bỏ qua nó nữa.
- Các con có cha các con mà!
- Đúng vậy, và chúng con hướng về cha với sự ân hận nuối tiếc. Chúng con đã phạm đến cha... Chúng con đã xin Trời thúc giục cha gọi chúng con về để chúng con nhận sự quở trách và sự tha thứ của cha. Chúng con xin cha điều đó, và chúng con xin điều đó hơn là của cải. Chúng con không muốn của cải nữa, vì nó làm chúng con lầm lạc.
- Được rồi. Hãy đứng bên những người trước, ở giữa phòng. Và các con, bệnh hoạn và bần cùng cũng như họ, nhưng cứ nín thinh, không tỏ ra đau đớn gì. Các con nói sao?
- Giống như những người đầu tiên đã nói, chúng con nói rằng chúng con ghét cha, vì cha làm hại chúng con bởi cách hành động thiếu khôn ngoan của cha. Cha biết chúng con, đáng lẽ cha không được để chúng con vào nơi cám dỗ. Cha đã ghét chúng con và chúng con ghét cha. Cha đã dương bẫy để loại trừ chúng con khỏi nhà cha. Hãy bị nguyền rủa!
- Được. Hãy đến với những người đầu tiên ở góc kia. Và bây giờ đến các con, các con của cha: tươi tốt, lành mạnh, giầu có. Hãy nói: các con đã làm sao để được như vầy?
- Bằng cách thi hành các giáo huấn của cha, gương sáng của
315
cha, các lời khuyên của cha, các mệnh lệnh của cha, tất cả. Bằng cách chống lại các cám dỗ vì tình yêu đối với cha, người cha phúc đức đã cho chúng con đời sống và sự khôn ngoan.
- Tốt lắm. Hãy đứng qua bên phải cha. Và tất cả hãy nghe sự xét xử của cha và sự biện hộ của cha. Cha đã cho tất cả cùng một số tiền, cùng một gương tốt và sự khôn ngoan. Các con cha đã trả lời cha bằng nhiều cách khác nhau. Từ một người cha siêng năng, thật thà, sống tốt, đã sinh ra các đứa con giống như ông, rồi lười biếng, yếu đuối, sa ngã vào cám dỗ dễ dàng; và các đứa con độc ác ghét cha, ghét anh em và người đồng loại, mà cha không biết, vì họ không nói, có thể họ đã cho vay nặng lãi và làm các tội ác. Trong số những kẻ yếu đuối và lười biếng, có những kẻ hối lỗi và những kẻ không sám hối. Bây giờ cha xử: những đứa con hoàn thiện thì đã ở bên phải cha, ngang hàng với cha trong vinh quang cũng như trong công việc. Những kẻ sám hối thì lại trở về như các trẻ con, cần được dạy bảo, chịu thử thách cho tới khi chúng đạt tới mức có khả năng, là cái làm cho chúng trở nên trưởng thành. Những kẻ không sám hối và những kẻ đắc tội, hãy quăng chúng ra khỏi nhà ta, bị theo đuổi bởi sự nguyền rủa của đấng không còn là cha chúng nữa, vì sự thù ghét của chúng đối với ta đã vô hiệu hóa mối giây phụ tử. Tuy nhiên ta nhắc lại rằng mỗi người đã tự làm ra số phận của mình, vì ta đã cho tất cả cùng một thứ, và những người lãnh nhận đã tạo ra bốn số phận khác nhau, và không ai có thể kết án ta là đã muốn điều xấu.
Dụ ngôn đã kết thúc, hỡi các con đã nghe. Bây giờ thầy nói cho các con điều nó tượng trưng:
Cha trên Trời được tượng trưng bằng người cha của gia đình đông con. Hai đồng tiền được ban cho tất cả các đứa con trước khi cho nó vào trong thế giới, đó là thời gian và ý chí tự do mà Thiên Chúa ban cho mọi người để họ sử dụng theo cách mà họ cho là tốt, sau khi đã dạy dỗ và đào tạo họ bằng lề luật và gương sáng của các vị công chính.
Tất cả đều có những ơn bình đẳng, nhưng mỗi người sử dụng nó
316
như họ muốn. Có những người thu tích thời giờ, các phương tiện, sự giáo dục, của cải, tài nguyên, tất cả, cho điều thiện, và họ giữ mình lành mạnh, thánh thiện. Họ giầu bằng những của cải mà họ đã làm tăng gấp lên. Có những người khác đã khởi sự tốt, nhưng rồi chán nản và mất tất cả. Có những người không chịu làm gì cả và đòi hỏi người khác làm. Có những người kết án cha vì những lỗi lầm của họ; có những kẻ hối hận và sẵn sàng sửa chữa, có những kẻ không hối hận, nhưng lại kết án và nguyền rủa cha như sự hư hỏng của họ là do những người khác áp đặt.
Thiên Chúa ban phần thưởng cho kẻ công chính ngay lập tức, Người cho kẻ sám hối tình thương và thời gian để đền tội, để được phần thưởng bởi sự sám hối và đền tội của họ; Người nguyền rủa và phạt kẻ dày đạp tình yêu bằng việc không sám hối sau khi đã phạm tội. Người cho mỗi người cái thuộc về họ.
Vậy đừng làm tiêu tan hai đồng tiền là thời gian và ý chí tự do, nhưng hãy sử dụng nó cách chính đáng để được ở bên phải cha. Nếu các con bị hụt chỗ đó thì hãy sám hối. Hãy tin vào tình yêu thương xót.
Thôi đi đi. Bình an cho các con.
Người chúc lành cho họ và nhìn họ ra đi dưới mặt trời tràn ngập quảng trường và đường phố. Nhưng các nô lệ vẫn đứng tại đó...
- Vẫn còn ở đây à? Các người bạn tội nghiệp? Các con sẽ không bị phạt sao?
- Thưa Chúa, không, nếu chúng con nói là chúng con nghe Thầy. Các bà chủ của chúng con tôn kính Thầy. Chúa ơi, bây giờ Ngài đi đâu? Các bà mong Thầy từ lâu lắm rồi.
- Tới nhà người bán giây thừng ở cảng. Nhưng chiều nay Thầy sẽ đi, và các bà chủ của các con sẽ đi dự buổi lễ...
- Dù sao chúng con cũng nói. Từ bao tháng và bao tháng nay rồi, các bà ra lệnh cho chúng con phải báo cáo mọi lần đi qua đây của Thầy.
- Tốt, vậy đi đi. Và cả các con nữa, hãy dùng tốt thời giờ và tư tưởng vẫn luôn luôn tự do, dù là người ta bị xiềng xích.
Các người nô lệ cúi đầu tới tận đất rồi đi về khu của các người
317
Rôma. Giêsu và các người của Ngài theo con đường nhỏ hơn để đi ra cảng.
117* “SỰ KHÔN NGOAN LÀ MỘT
HÌNH THỨC CỦA SỰ THÁNH THIỆN,
NÓ CHO ÁNH SÁNG ĐỂ PHÁN ĐOÁN”
Giêsu trọ tại một gia đình khiêm tốn của người bán giây thừng: một căn nhà nhỏ, thấp, được bao trùm bằng một mùi mằn mặn, gần giống như mùi nước biển. Ở đàng sau nhà là các gian hàng xông ra mùi khó chịu, nơi người ta xuống hàng để chờ các người mua sỉ đến lấy. Phía trước nhà là con đường bụi bặm, quần quật các xe chở nặng, ồn ào tiếng các phu khuân vác, các thiếu niên, các người đánh xe, các thủy thủ... qua lại không ngừng. Bên kia đường là cái vũng tàu nhỏ mà nước đọng yên lặng trở nên như dầu do những rác rến người ta vất xuống. Từ cái vũng này có một con kinh nhỏ dẫn tới cảng thực sự, một cảng lớn có thể tiếp nhận những tàu thuyền lớn. Ở phía tây là một cái sân cát, nơi người ta sản xuất các giây thừng giữa những trục xe chạy bằng tay kêu ken két. Về phía đông là một công trường nhỏ hơn nhưng ồn ào hơn và rất hỗn độn, nơi các đàn ông đàn bà đang sửa chữa lưới và cánh buồm. Rồi có những chòi thấp hôi mùi mặn, nơi đầy những đứa con trai nhỏ ở trần.
Đương nhiên người ta không thể nói được rằng Giêsu đã chọn những chỗ trọ giầu sang. Ruồi, bụi, tiếng động, mùi nước tù, mùi cây gai ngâm thối... là chủ của nơi này. Vị Vua các vua nằm cùng với các tông đồ của Người trên những đống gai thô, mệt mỏi ngủ thiếp trong nơi tội nghiệp, nửa là kho chứa, nửa là cửa hàng, ở đàng sau căn nhà nhỏ mà người ta vào được qua một cái cửa đen như nhựa đường, để tới một căn nhà bếp cũng đen, rồi qua chiếc cửa mọt, bị ăn mòn bởi bụi và muối, cho nó cái mầu xám trắng của đá bọt, người ta đi qua quảng trường, nơi sản xuất giây, và là nơi xông ra mùi thối của cây gai đã ngâm cho tưa ra.
Mặt trời chiếu gắt xuống trên quảng trường, mặc dầu có bốn
318
cây ngô đồng khổng lồ, được trồng ở mỗi bên hai cây của cái công trường hình chữ nhật. Dưới bóng của chúng có những trục quay để xe đay. Tôi không biết tôi có diễn tả đúng không khi gọi tên các dụng cụ. Các người đàn ông chỉ mặc một áo ngắn gọn, vừa đủ để giữ sự đoan trang, ướt đẫm mồ hôi như tắm, không ngừng quay chiếc trục mà họ truyền cho nó một chuyển động liên tục, tựa như những người tù khổ sai chèo thuyền... Họ chỉ nói khi cần phát biểu những lời cần thiết cho công việc của họ. Ngoài tiếng kót két của bánh xe trong các trục quay và tiếng vỏ đay bị xoắn, thì không còn tiếng động nào khác ở công trường, một sự tương phản với tiếng động tại những nơi khác ở chung quanh nhà người bán thừng.
Cũng vậy, tiếng kêu của một trong những người xe giây càng ngạc nhiên hơn, tựa như không tưởng tượng được: “Các phụ nữ ?! Vào cái giờ ghê gớm này?! Coi kìa, các bà tới tận đây...”
- Chắc các bà cần giây để trói các ông chồng - một người xe giây trẻ nói đùa.
- Có thể các bà cần giây đay cho việc gì đó.
- Ồ, giây đay của chúng ta thô kệch, trong khi có những người khác cung cấp thứ đã chải tơ!
- Thứ của chúng ta rẻ hơn. Anh thấy không? Họ nghèo mà.
- Nhưng họ không phải các phụ nữ của vùng này. Coi các áo khoác của họ khác kiểu.
- Họ không ở đây, nhưng bây giờ Cêsarê có đủ thứ người.
- Có lẽ các bà tìm vị Rabbi. Có lẽ họ bệnh. Coi, các bà che kín mít, dù là cái giờ nóng nảy này...
- Miễn là các bà không cùi... Khốn nạn thì được, nhưng cùi thì miễn. Tôi không muốn người cùi, dù là nhẫn nhục vì Chúa - người chủ tiệm giây thừng nói.
- Nhưng anh đã nghe ông thầy nói: phải chấp nhận mọi thứ Thiên Chúa gởi tới.
- Nhưng cùi thì không do Thiên Chúa gởi tới. Đó là tội lỗi, nhục dục và truyền nhiễm...
Các phụ nữ tiến tới sau lưng, không phải sau các người nói trên là những người ở cuối công trường, nhưng sau các người ở phía căn
319
nhà, tức là những người các bà gặp đầu tiên. Một trong các bà cúi xuống để nói điều gì với một người xe giây. Anh ta quay lại, ngạc nhiên, hầu như thẫn thờ.
- Ta thử tới nghe coi... hở hang như vầy... nhưng tôi chỉ còn thiếu có bệnh cùi trong nhà tôi, với tất cả đàn con của tôi - người chủ đám xe giây nói trong khi ông dừng chiếc trục quay và bước đi. Các bạn ông theo sau...
- Simon ơi, người đàn bà này muốn cái gì đó, nhưng bà ta nói tiếng ngoại quốc. Anh nghe tí coi, anh đã từng là thủy thủ - Người đàn ông đã nghe người đàn bà nói.
- Bà muốn gì? - Người bán giây hỏi vẻ cục cằn trong khi cố nhìn bà ta qua tấm voan tối mầu phủ kín mặt. Bằng một tiếng Hy Lạp toàn vẹn, người đàn bà trả lời: “Vị vua Israel, ông Thầy”.
- A! Tôi hiểu. Nhưng... Các bà có cùi không?
- Không.
- Ai chứng minh cho tôi?
- Chính Người. Hãy hỏi Người điều đó.
Người đàn ông ngập ngừng... Rồi ông nói: “Được, tôi sẽ làm một hành động của đức tin, và Thiên Chúa sẽ bảo vệ tôi... Tôi đi gọi Người. Các bà hãy đứng lại đây”.
Các phụ nữ, bốn bà, không nhúc nhích. Một nhóm mầu xám lạt, câm lặng. Các người xe giây đứng túm lại ở cách xa mấy bước, nhìn với vẻ e dè.
Người đàn ông vào cửa hàng, ông đụng vào Giêsu đang ngủ: “Thầy ơi, ra ngoài coi... Người ta tìm Thầy”.
Giêsu tỉnh thức và đứng dậy ngay trong khi hỏi: “Ai đó?”
- Con không biết. Mấy bà Hy Lạp, trùm kín mít. Các bà nói các bà không cùi. Nhưng Thầy có thể xác nhận cho con...
- Thầy ra ngay - Giêsu nói khi cài xăng đan mà Người đã cởi ra, cài cổ áo và thắt lại giây lưng mà Người đã cởi ra cho thoải mái khi ngủ, và Người đi ra cùng với người bán giây. Các phụ nữ khởi sự tiến lại để gặp Người.
- Đứng yên đó, tôi đã nói! Tôi không muốn các bà bước trên
320
những chỗ các con tôi chơi. Trước hết, tôi muốn Người nói là các bà lành mạnh.
Các phụ nữ dừng lại. Giêsu đến với họ. Bà cao nhất, không phải bà đã nói tiếng Hy Lạp, nói nhỏ lời gì. Giêsu quay lại với người bán thừng: “Simon ơi, ông có thể yên tâm. Các bà này lành mạnh, và Thầy muốn nghe các bà cách an tĩnh. Thầy có thể vào nhà không?”
- Không. Bà già nhiều lời và tò mò hơn là con chim ác. Hãy lại đàng kia, tận đáy đó, có một phòng nhỏ tại cái kho của vũng tàu, ở đó Thầy sẽ yên tĩnh một mình.
- Chúng ta đi... - Giêsu nói với các bà, và Người đi với các bà tới cuối công trường, trong cái nhà kho hôi hám, Người vào một phòng nhỏ giống như một xà lim, nơi để những đồ dùng hư hỏng, giẻ rách, giây gai rối, những con nhện khổng lồ, với mùi đay thối và mùi mốc rất mạnh xông vào cổ họng. Giêsu rất nghiêm trang và tái mét. Người mỉm cười nhẹ và nói: “Đây không phải là nơi hấp dẫn cho khứu giác... nhưng Thầy không có nơi nào khác”.
- Chúng con không nhìn vào nơi chốn, bởi vì chúng con nhìn vào vị đang ở nơi đó bây giờ - Plautina trả lời trong khi dỡ voan và cởi áo khoác ra. Các bà khác là Lidia, Valêria và người nô lệ được giải phóng Albula Domitilla cũng bắt chước.
- Bởi vậy Thầy kết luận rằng các con vẫn còn tin Thầy là người công chính.
- Còn hơn là một người công chính. Và Claudia sai chúng con đi chính bởi vì bà tin Thầy còn hơn là một người công chính, và bà không kể đến những lời bà đã nghe. Nhưng bà muốn là Thầy xác nhận để tăng gấp đôi sự tôn kính mà bà mang đến cho Thầy.
- Hay là lấy nó đi khỏi Thầy nếu Thầy giống như vào ngày họ đã muốn làm cho Thầy thấy. Nhưng hãy bảo đảm với bà rằng: Thầy không nhắm đích loài người. Loài người là cái gì? Thịt và máu. Không, những cái đó, vật chất không vững bền, Thầy để lại cho các chế độ quân chủ không vững bền, cho các đế quốc hay thay đổi. Thầy chỉ muốn qui tụ dưới vương trượng của Thầy những linh
321
hồn loài người, những linh hồn bất tử trong một vương quốc bất tử. Thầy loại trừ khỏi ý muốn của Thầy tất cả mọi ý nghĩa khác với ý nghĩa này, dù nó đến từ đâu. Và Thầy xin các con tin, và nói với người đã sai các con rằng: Sự Thật chỉ có một lời duy nhất.
- Tông đồ của Thầy đã nói với biết bao là qủa quyết...
- Đó là đứa trẻ bị kích thích. Phải chấp nhận ông ta như ông ta là.
- Nhưng ông ta làm thiệt hại cho Thầy. Hãy khiển trách ông ta... đuổi ông ta đi...
- Vậy thì lòng thương xót của Thầy ở đâu? Ông ta làm như vậy bởi một tình yêu lầm lạc, vậy lẽ nào Thầy không thương? Và nếu Thầy đuổi ông ta đi thì cũng đâu thay đổi gì được. Ông ta sẽ làm điều xấu gấp đôi nữa cho ông ta và cho Thầy.
- Vậy là ông ta giống như một hòn sỏi ở trong giầy dưới bàn chân Thầy.
- Đối với Thầy, ông ta là một kẻ khốn nạn cần cứu chuộc...
Plautina qùi phập xuống, giơ tay lên và nói: “A! Thầy thực sự lớn hơn mọi người khác! Thật dễ dàng để tin là Thầy thánh, khi người ta cảm thấy trái tim Thầy trong các lời của Thầy! Thật dễ dàng để yêu Thầy và theo Thầy, vì tình bác ái của Thầy còn lớn hơn sự thông hiểu của Thầy!”
- Không phải lớn hơn, mà là dễ hiểu hơn đối với các con, những người có sự thông hiểu bị trói buộc bởi qúa nhiều sai lầm, mà lại không đủ quảng đại cởi bỏ tất cả để đón nhận cái đúng.
- Thầy có lý. Thầy thần linh cũng như khôn ngoan.
- Sự khôn ngoan là một hình thức của sự thánh thiện, nó luôn luôn cho ánh sáng để phán đoán, dù là về những biến cố qúa khứ hay hiện tại, cũng như sự loan báo về những biến cố tương lai.
- Bởi vậy các tiên tri của qúi vị...
- Đó là những vị thánh, nên Thiên Chúa hiệp thông với họ cách sung mãn.
- Có phải họ thánh bởi vì họ thuộc về Israel không?
- Họ thánh bởi vì họ thuộc về Israel và bởi vì hành động của họ công chính. Không phải toàn thể Israel đều là thánh, dù tất cả đều
322
là Israel. Không phải may mắn thuộc về một dân hay một tôn giáo mà người ta thành thánh. Hai yếu tố này có thể giúp ích rất nhiều để được điều đó, nhưng nó không phải là yếu tố tuyệt đối của sự thánh thiện.
- Vậy yếu tố chính là gì?
- Ý muốn của con người. Ý muốn dẫn các hành động của con người tới sự thánh thiện nếu nó tốt, tới sự đồi trụy nếu nó xấu.
- Vậy là... không được nói rằng không có người công chính ở giữa chúng con.
- Không nói được như vậy. Trái lại, chắc chắn có những người công chính trong số tiền bối của các con, và chắc chắn cũng có trong số những người đang sống. Bởi vì sẽ qúa kinh khủng nếu cả thế giới dân ngoại thuộc về ma qủi. Những người trong các con mà cảm thấy bị lôi kéo về điều thiện, về Chân Lý, ghê tởm thói xấu, chạy trốn các hành động xấu như cái làm hạ thấp nhân phẩm... Các con hãy tin là họ ở trên đường công chính.
- Vậy Claudia...
- Đúng. Và các con. Hãy kiên trì.
- Nhưng nếu người ta chết trước khi... trở lại với Thầy?... Có ích lợi gì vì đã sống nhân đức?
- Thiên Chúa công bằng trong sự phán xét của Người. Nhưng tại sao lại ngập ngừng đến với Thiên Chúa thật?
Ba bà cúi đầu... một lúc yên lặng... Rồi tới cái lời thú nhận lớn, cái sẽ cho những giải thích về bao độc ác và chống cự của Rôma đối với Kitô giáo: “Bởi vì làm như vậy, người ta sẽ coi như phản bội quê hương...”
- Trái lại, các con sẽ phục vụ quê hương bằng cách làm cho nó mạnh mẽ hơn về luân lý và tinh thần bởi sự chiếm hữu Thiên Chúa và được sự che chở của Người, cộng thêm vào với quân đội và của cải của nó. Rôma, Kinh Thành của thế giới, Kinh Thành của tôn giáo phổ quát!... Hãy nghĩ đi...
Một yên lặng...
Rồi Lidia nói trong khi bà đỏ mặt như lửa: “Thưa Thầy, mới đây,
323
chúng con đã tìm Thầy trong các trang của Virgile của xứ chúng con, bởi vì đối với chúng con, lời tiên tri của các kẻ không biết gì về đức tin của Israel thì có giá trị hơn các tiên tri của qúi vị. Nơi các tiên tri của Israel, người ta cảm thấy ảnh hưởng của lòng tin từ bao ngàn năm... Chúng con đã thảo luận với nhau... Trong khi đối chiếu với những người ở mọi thời, trong mọi dân tộc và mọi tôn giáo, để tìm những kẻ đã linh cảm thấy Thầy. Nhưng không ai linh cảm thấy Thầy cả, ngay chính Virgile của chúng con cũng không. Bữa đó chúng con đã thảo luận qúa trời, ngay cả với Diomède, người nô lệ Hy Lạp được giải phóng, nhà chiêm tinh rất thân thiết với Claudia! Ông ta cho rằng chuyện này xảy ra vì thời gian gần đây, các thiên thể đã nói bằng sự giao hội của chúng. Dựa vào luận thuyết của ông, ông đưa ra sự kiện ba nhà chiêm tinh của ba nước phương đông đến thờ Thầy lúc còn thơ, đã tạo ra cuộc tàn sát khiến Rôma rùng rợn. Nhưng chúng con chưa chịu phục, bởi vì trong hơn năm mươi năm nay, không một nhà thông thái hoàn cầu nào nói về Thầy trong khi nhắc đến các thiên thể đó nữa, mặc dầu chúng còn gần gũi với sự biểu lộ hiện nay của Thầy. Claudia đã thét lớn: ‘Chúng ta phải có ông Thầy, Người nói những lời của chân lý, và chúng ta sẽ biết nơi cũng như số phận của thi hào vĩ đại nhất của chúng ta!’ Thầy có muốn cho chúng con... cho Claudia... một món qùa để chứng tỏ rằng bà đã không làm Thầy ghê tởm vì đã nghi ngờ Thầy không?”
- Thầy hiểu cái phản ứng Rôma của bà, và Thầy không giữ lòng giận ghét gì với bà. Hãy chắc chắn điều đó. Và hãy nghe: Virgile đâu phải chỉ là một thi sĩ lớn mà thôi đâu, phải không?
- Ồ, không! Ông vĩ đại như một người nữa. Ở giữa một xã hội hư hỏng và dâm đãng, ông là ánh sáng trong sạch siêu nhiên. Không ai có thể nói là đã thấy ông dâm dật, ham thích hành lạc và hư hốt. Các bản viết của ông đều trong trắng, và tâm hồn ông càng trong trắng hơn, tới nỗi tại những nơi ông đã cư ngụ nhiều nhất, người ta đã gọi ông là “cô gái trẻ”. Những kẻ trụy lạc thì gọi vậy vì khinh bỉ, những người tốt thì vì kính trọng.
324
- Vậy trong linh hồn thanh sạch của một người trong sáng, Thiên Chúa không thể phản chiếu sao, cho dù linh hồn này là dân ngoại? Người nhân đức đã chẳng yêu các nhân đức cách toàn vẹn sao? Vậy nếu ông được ban tình yêu và nhìn thấy Sự Thật nhờ vẻ đẹp tinh ròng của thần trí ông, ông lại không thể có một ánh sáng tiên tri sao? Sự tiên tri đâu có là gì khác ngoài sự thật tiết lộ cho kẻ đáng được biết sự thật, để thưởng công cho họ, và thúc đẩy họ tiến tới nhân đức luôn luôn lớn hơn.
- Vậy là... thực sự ông ta đã nói tiên tri về Thầy à?
- Thần trí ông cháy lửa trong sạch, và tài năng vươn lên tới chỗ hiểu biết một trang có liên can tới Thầy. Người ta có thể gọi ông là thi hào dân ngoại và công chính, một thần trí tiên tri, một tiền Kitô hữu với các nhân đức được thưởng.
- Ôi! Virgile của chúng con! Ông sẽ được trọng thưởng?
- Thầy đã nói: “Thiên Chúa công bằng”. Nhưng các con đừng bắt chước thi sĩ bằng cách dừng lại ở giới hạn của ông. Hãy tiến lên, bởi vì Chân Lý đã tỏ mình ra cho các con bằng trực giác, không phải chỉ là một phần, mà là toàn vẹn. Và Chân Lý đã nói với các con.
- Cám ơn Thầy... Chúng con về. Claudia bảo chúng con hỏi Thầy xem bà có thể ích lợi gì cho Thầy trong các vấn đề luân lý không - Plautina nói, không nói tới nhận xét trên của Giêsu nữa.
- Và bà đã bảo các con nói điều đó với Thầy nếu Thầy không phải là kẻ chiếm ngôi...
- Ôi! Thầy! Làm sao Thầy biết vậy?
- Thầy còn hơn là Virgile và các tiên tri...
- Đúng vậy. Hoàn toàn đúng! Chúng con có thể phục vụ Thầy không?...
- Đối với Thầy, Thầy chỉ cần đức tin và tình yêu. Nhưng có một tạo vật đang ở trong một nguy hiểm lớn lao mà linh hồn nó sẽ bị giết chiều nay. Claudia có thể cứu nó.
- Ở đây? Ai vậy? Một linh hồn bị giết?
- Một người trong đám qúi tộc của các con thết một bữa tiệc
325
và...
- A! Vâng. Ennius Cassius. Chồng con cũng được mời - Lidia nói.
- Cả chồng con nữa... Và cả chúng con nữa, thực vậy. Nhưng bởi vì Claudia không tới, chúng con cũng sẽ không tới. Trong trường hợp nếu chúng con tới, chúng con đã quyết định rút lui ngay sau bữa ăn... vì... bữa ăn tối sẽ kết thúc bằng các cuộc hành lạc... mà chúng con không thể chịu nổi nữa... Và với sự khinh bỉ của các người vợ bị lơ là, chúng con để các ông chồng của chúng con ở lại đó... - Plautina nói.
- Không phải khinh bỉ, mà là thương xót cho cái luân lý khốn cùng của họ - Giêsu sửa sai.
- Thưa Thầy, thật là khó. Chúng con biết những gì sẽ xảy ra ở đó.
- Thầy cũng vậy. Thầy thấu suốt hết những điều diễn ra trong các con tim... Nhưng Thầy tha thứ...
- Thầy thì Thầy thánh...
- Các con phải trở nên thánh. Thầy ước ao điều đó, và ý chí của các con kích thích các con...
- Thầy!...
- Đúng. Bây giờ các con đã biết một tí khôn ngoan, các con có thể nói được rằng các con sung sướng cũng giống như trước khi biết Thầy: sung sướng bằng một cái hạnh phúc tội nghiệp bị làm nhục, dâm ô của dân ngoại, không biết rằng mình còn hơn là xác thịt không?
- Thưa Thầy không. Chúng con thú nhận điều đó. Chúng con đã không thỏa mãn. Chúng con lo lắng như người đi tìm một kho báu mà không tìm thấy.
- Và nó đang ở ngay trước mặt các con. Điều làm cho các con lo lắng chính là khát vọng của tâm hồn các con. Nó muốn tới ánh sáng, nó đau khổ vì sự chậm trễ của các con... mãi các con không cho nó điều nó xin.
Một yên lặng... Rồi Plautina lại nói, không tiếp tục đề tài trên nữa: “Vậy Claudia có thể làm gì?”
326
- Cứu tạo vật đó. Một đứa trẻ bị mua cho sự hưởng thụ của một người Rôma. Một trinh nữ mà ngày mai sẽ không còn là vậy nữa.
- Nếu ông ta đã mua nó thì nó thuộc về ông ta...
- Đó không phải là một đồ dùng: Ở bên trong vật chất, có một linh hồn.
- Thưa Thầy... luật của chúng con...
- Các bà ơi! Luật của Thiên Chúa!...
- Claudia không tới trong buổi lễ...
- Thầy không bảo bà ấy tới đó. Thầy bảo các con hãy nói với bà: “Ông Thầy, để có sự chắc chắn là Claudia không kết án Người, yêu cầu bà giúp cho linh hồn ngây thơ này...”
- Chúng con sẽ nói, nhưng bà chẳng có thể làm gì được... Nô lệ đã mua... Một vật mà người ta được sử dụng...
- Kitô giáo dạy rằng người nô lệ cũng có một linh hồn giống như linh hồn của César, và phần đông là tốt hơn. Linh hồn này thuộc về Thiên Chúa, và kẻ làm hư hỏng nó sẽ bị nguyền rủa - Giêsu rất hách dịch khi nói như vậy.
Các bà cảm thấy uy quyền và sự nghiêm khắc trong đó nên cúi mình, không phản kháng. Các bà mặc lại áo khoác, đội voan lên và nói: “Chúng con sẽ tường trình việc này. Chào Thầy”.
- Chào.
Các bà đi ra cái quảng trường vẫn nóng nực. Nhưng Plautina quay lại nói: “Đối với mọi người, chúng con là các bà Hy Lạp. Đồng ý không?”
- Đồng ý. Hãy đi bình an.
Giêsu ở lại dưới dẫy hành lang thấp, còn các bà làm lại con đường các bà đã đi để đến. Các người làm giây trở lại với công việc của họ...
Giêsu nhẩn nha trở về nhà hàng. Người trầm ngâm, Người không nằm nữa. Người ngồi trên đống giây cuốn tròn, Người cầu nguyện tha thiết... Mười một ông vẫn tiếp tục ngủ nặng nề...
Thời giờ qua đi như vậy khoảng một tiếng đồng hồ... Rồi người bán giây ló đầu vào làm hiệu bảo Giêsu ra cửa: “Đó là một người
327
nô lệ, hắn hỏi Thầy”.
Người nô lệ, một người Phi Châu, đứng ở ngoài quảng trường còn nắng. Ông cúi mình, không nói gì. Ông trao cho Người một tấm bảng tráng sáp. Giêsu đọc rồi nói với ông: “Ông sẽ nói rằng Thầy chờ tới rạng đông. Ông hiểu không?” Người đàn ông gật đầu ưng thuận. Rồi để cho hiểu tại sao ông không nói, ông há miệng để cho thấy là lưỡi ông bị cắt: “Tội nghiệp!” Giêsu nói trong khi vuốt ve ông.
Người nô lệ có hai giọt nước mắt chảy trên đôi má đen. Ông cầm bàn tay trắng của Giêsu trong đôi bàn tay đen thô kệch xấu xí của ông, ông đem lên mặt, hôn, rồi để trên ngực ông. Rồi ông gục xuống đất, cầm bàn chân của Giêsu và để lên đầu ông... Tất cả một ngôn ngữ bằng cử chỉ để nói lên sự biết ơn của ông vì cử chỉ tình yêu đầy xót thương... Giêsu nhắc lại: “Tội nghiệp!” Nhưng Người không chữa ông.
Người nô lệ đứng dậy và xin lại tấm bảng tráng sáp... Claudia không muốn để lại dấu vết của các liên lạc thư từ của bà. Giêsu mỉm cười trả lại tấm bảng.
Người nô lệ đi, Giêsu lại bên người bán giây:
- Thầy phải ở lại tới rạng đông... Ông có cho phép Thầy không?
- Tất cả những gì Thầy muốn. Con chỉ tiếc vì nghèo...
- Thầy rất vui vì con thật thà.
- Các bà đó là ai vậy?
- Những người ngoại quốc cần các lời khuyên.
- Lành lặn chứ?
- Giống như con và Thầy.
- A!... Kìa, các tông đồ của Thầy.
Quả vậy, nhóm mười một dụi mắt, vươn vai, còn ngái ngủ, nhưng họ ra khỏi cửa hàng để đến với Thầy.
- Thưa Thầy... Phải ăn tối nếu Thầy muốn lên đường tối nay - Phêrô nói.
- Không. Thầy chỉ đi vào bình minh.
- Tại sao vậy?
328
- Bởi vì người ta xin Thầy làm như vậy.
- Nhưng tại sao? Ai? Tốt hơn là đi bộ về đêm. Bây giờ là tuần trăng mới.
- Thầy hy vọng cứu một tạo vật... Và điều đó còn sáng hơn là mặt trăng, và mát mẻ đối với Thầy hơn sự tươi mát ban đêm.
Phêrô lôi Người ra chỗ riêng biệt: “Có chuyện gì vậy? Thầy đã gặp các bà Rôma à? Thái độ của họ thế nào? Có phải các bà muốn theo đạo không? Nói cho con đi...”
Giêsu mỉm cười: “Hỡi người qúa tò mò! Nếu con để cho Thầy trả lời thì Thầy đã nói cho con rồi. Thầy đã gặp các bà Rôma. Các bà chỉ đi từ từ lại với Chân Lý, nhưng các bà không đi ngược lại đàng sau. Như vậy đã là nhiều lắm rồi”.
- Và... về những điều Judas đã nói... nó là thế nào?
- Các bà tiếp tục tôn kính Thầy như nhà hiền triết.
- Nhưng... đối với Judas? Ông ta không là nguyên nhân...?
- Các bà đến tìm Thầy chứ không tìm ông ta.
- Nhưng tại sao ông ta lại sợ gặp các bà? Tại sao ông ta không muốn cho Thầy đi Cêsarê?
- Simon, đây đâu phải lần đầu tiên Judas lên cơn chướng kỳ lạ?
- Đúng vậy. Và... đêm nay họ sẽ đến, các bà Rôma đó?
- Các bà đã đến rồi.
- Vậy tại sao đợi tới rạng đông?
- Và tại sao con qúa tò mò như vậy?
- Thầy ơi! Hãy tốt... Nói hết cho con đi.
- Ờ, để con khỏi nghi ngờ... Con cũng đã nghe các lời đàm thoại của ba ông Rôma đó...
- Vâng, các đồ dơ bẩn, mắc dịch, ma qủi! Nhưng chuyện đó mắc mớ gì tới chúng ta?... A! Con hiểu! Các bà Rôma đi ăn tiệc, rồi các bà ghé để xin lỗi vì đã sợ hão như vậy ... Con ngạc nhiên là sao Thầy lại nhận lời.
- Thầy ngạc nhiên vì con xét đoán táo bạo!
- Xin Thầy tha cho con.
- Ờ, nhưng hãy biết rằng các bà Rôma không đến bữa tiệc tối,
329
và Thầy đã xin Claudia can thiệp để cứu đứa bé gái đó...
- Ôi! Nhưng Claudia chẳng làm gì được! Một đứa bé gái đã bị mua bởi người Rôma thì hắn ta có toàn quyền trên nó!
- Nhưng Claudia rất có uy đối với người Rôma, và bà đã sai người xin Thầy chờ tới rạng đông hãy đi. Không còn gì khác nữa. Con đã bằng lòng chưa?
- Thưa Thầy rồi. Nhưng trong khi chờ đợi thì Thầy nghỉ ngơi... Bây giờ lại đây đi... Thầy qúa mệt rồi! Con sẽ canh chừng để người ta để cho Thầy yên... Lại đây, lại đây...” Và với sự chuyên chế yêu thương, ông lôi Người, đẩy Người, bó buộc Người nằm xuống.
Thời giờ qua đi, hoàng hôn xuống, công việc ngừng. Các trẻ em la hét mạnh hơn trong đường phố và ở công trường nhỏ. Chim én lượn trên trời. Rồi bóng tối đầu tiên tới, các chim én bay về tổ, các trẻ em vào giường. Các tiếng động chấm dứt thứ nọ sau thứ kia cho tới khi chỉ còn tiếng vỗ nhẹ lộp độp của nước dọc theo con kinh, và tiếng rào rào của sóng trên bãi biển. Các căn nhà đóng cửa, nhà của những người mệt mỏi, và ánh sáng tắt ở bên trong. Sự nghỉ ngơi tới khép mọi con mắt lại, làm cho con người thành mù và câm... Tận xa, vầng trăng nhô lên, chiếu những tia sáng bạc cao qúi của nó cho tới cả cái mặt gương của miền vũng tàu dơ bẩn mà bây giờ cũng tựa như một tấm bạc.
Các tông đồ lại nghỉ trên các đống đay... Giêsu ngồi trên một trong các máy quay sợi đã ngừng, đôi tay ôm ngực, cầu nguyện, suy nghĩ, chờ đợi... Người không rời mắt khỏi con đường dẫn về thành phố.
Vầng trăng không ngừng lên cao trong bầu trời, nó đã ở trên đầu Người. Tiếng động của biển mạnh hơn và sóng biển tỏa ra mùi mạnh hơn. Các khối chóp của các tia sáng trăng trải ra rộng hơn, bao trùm tất cả cái gương nước ở trước mặt Giêsu, và các tia của nó biến mất càng lúc càng xa. Tựa như đó là một con đường sáng từ biên giới vũ trụ chạy đến với Giêsu, rồi lên con kênh để kết thúc trong vũng tàu.
Trên con đường này có một con thuyền đang tiến, nhỏ bé, trắng
330
toát. Nó tiến, tiến, không để lại dấu vết sự đi qua của nó trên con đường lỏng được tái lập ngay sau khi nó đi qua... Nó đi vào con kênh... Đây, nó đã ở trong cái vũng tàu yên tĩnh. Nó cặp bờ và dừng lại. Ba bóng đen lên bờ: Một người đàn ông vạm vỡ, một người đàn bà, và ở giữa họ là một bóng nhỏ gầy. Họ đi về phía nhà người bán giây. Giêsu ra gặp họ.
- Bình an cho qúi vị. Qúi vị tìm ai?
- Thưa, tìm Thầy - Lidia nói trong khi bà lộ mặt ra và tiến lên một mình. Rồi bà tiếp: “Claudia đã phục vụ Thầy, vì đó là điều chính đáng và luân lý. Đứa bé đây. Trong ít lâu nữa, Valêria sẽ nhận nó làm người giữ con bé Faustina. Nhưng trong khi chờ đợi, bà xin Thầy giữ nó hay ký thác nó cho mẹ Thầy hay mẹ của các anh họ Thầy. Nó hoàn toàn vô đạo, vô đạo hơn là dân ngoại. Ông chủ nó nuôi nó và để vào trong nó một số không tuyệt đối. Nó không biết Olympe hay điều gì khác, nó chỉ có một sự sợ hãi đàn ông hầu phát điên, vì từ mấy giờ qua, đời sống đã bộc lộ tất cả vẻ tàn bạo cho nó.”
- Ôi! Lời buồn thay! Qúa trễ à?
- Không, một cách thực chất... Nhưng ông ta đã sửa soạn nó cho... ta hãy gọi nó là: sự bất kính của ông ta. Đứa bé sợ hãi... Claudia phải ngồi kè với nó ở bên cạnh tên dâm đãng này, luôn luôn chờ cơ hội để hành động khi rượu đã làm cho hắn ta không thể suy nghĩ được nữa. Khỏi cần phải nhắc với Thầy là đàn ông luôn luôn dâm dật trong tình yêu nhục dục của họ, nhưng nó lên tới cực độ khi họ say... Lúc đó họ là một đồ chơi mà một kẻ mạnh có thể ép buộc và chiếm đoạt kho báu của họ. Claudia đã lợi dụng điều này. Ennius ước ao trở về Ý, nơi ông ta bị đẩy đi xa vì bị thất sủng... Claudia đã hứa cho ông ta về để đổi lấy đứa bé này. Ennius đã cắn mồi... Nhưng ngày mai, khi ông ta hết say, ông ta sẽ phản động, ông ta sẽ tìm nó, sẽ gây ồn ào. Thực tình là Claudia đã tìm được phương thế để bịt miệng ông.
- Võ lực à?
- Ồ! Dùng võ lực cho một mục đích tốt là vô ích. Bà không dùng
331
nó... Chỉ có điều là Pilatô, bây giờ còn đang u mê vì số lượng rượu ông đã uống chiều nay, ông sắp ký lệnh cho Ennius đi phúc trình với Rôma... A!A!... Và ông ta sẽ đi ngay vào chuyến tàu quân đội đầu tiên. Nhưng trong khi chờ đợi, cần phải để con bé ở chỗ khác, sợ rằng Pilatô sẽ hối hận và hủy bỏ lệnh của ông... vì ông rất hay thay đổi! Cũng tốt là để cho con bé quên những thứ dơ bẩn của con người đi nếu có thể. Ôi! Thưa Thầy!... Chính vì chuyện này nên chúng con mới đến trong bữa tiệc tối... chứ làm sao chúng con có thể đến trong những cuộc hành lạc như vậy mà không buồn nôn từ mấy tháng nay rồi? Khi chúng con đã đạt mục đích là chúng con chuồn lập tức... Ở đó, các ông chồng của chúng con còn đua tranh với những con thú... Thầy ơi! Thật muốn nôn mửa!... Và sau đó chúng con lại phải nhận lại họ sau những... sau những...
- Hãy chịu khó và kiên nhẫn. Chính bằng gương sáng, các con sẽ làm cho chồng các con nên tốt hơn.
- Ôi! Không thể được!... Con không biết... - người đàn bà khóc vì giận hờn hơn là đau đớn. Giêsu thở dài. Rồi Lidia tiếp: “Claudia bảo con nói với Thầy rằng bà làm điều này để chứng tỏ cho Thầy rằng bà tôn kính Thầy như một người duy nhất đáng được tôn kính. Và bà muốn con nói với Thầy rằng bà đội ơn Thầy vì đã dạy cho bà biết cái giá trị của một linh hồn và sự trong sạch. Thầy có muốn coi đứa bé không?”
- Có. Còn người đàn ông này là ai?
- Đó là tên Phi Châu mà Claudia sử dụng trong những việc bí mật nhất. Sẽ không có nguy hiểm bị tố giác... Nó không có lưỡi...
Giêsu nhắc lại giống như buổi chiều: “Tội nghiệp!” Nhưng bây giờ cũng vậy, Người không làm phép lạ.
Lidia tới cầm tay đứa bé và lôi nó lại với Giêsu (có thể nói như vậy). Bà cắt nghĩa: “Nó biết được vài từ Latin, và càng ít hơn về ngôn ngữ của người Do Thái... Một con vật hoang nhỏ... chỉ là đồ chơi của dục vọng”. Và bà nói với con bé: “Đừng sợ, hãy cám ơn Người, chính Người đã cứu con. Hãy qùi xuống để hôn chân Người. Nào, đừng run!...” Xin lỗi Thầy, nó còn khiếp sợ vì cái mơn trớn sau
332
cùng của Ennius say khướt.
- Con bé tội nghiệp! - Giêsu nói khi để tay trên đầu trùm khăn của con bé: “Đừng sợ. Thầy sẽ dẫn con về nhà mẹ Thầy để ở với mẹ một thời gian. Con hiểu không? Và con sẽ có ở chung quanh con toàn những anh em tốt... Con ơi, đừng sợ!”
Có cái gì ở trong tiếng nói và cái nhìn của Giêsu? Có tất cả: Sự bình an, bảo đảm, trong sạch, tình yêu thánh. Đứa bé cảm thấy thế. Nó lật áo khoác cùng với mũ che đầu ra đàng sau để nhìn cho rõ, và cái hình dáng mảnh dẻ của một cô gái vừa chạm ngưỡng cửa tuổi dậy thì hầu như còn là trẻ con, với vẻ đẹp non nớt của thiếu nhi và dáng vẻ thơ ngây của cô bé lộ ra dưới bộ đồ qúa lớn đối với cô.
- Nó đã nửa ở trần... Con để y phục trong giỏ, và con mặc cho nó cái áo con rờ thấy trước tiên - Lidia cắt nghĩa.
- Một đứa trẻ! - Giêsu nói vẻ rất thương hại. Người cầm tay nó và hỏi: “Con có muốn đi với Ta mà không sợ gì không?”
- Thưa ông chủ, có.
- Không, không phải ông chủ. Hãy gọi Ta là Thầy.
- Thưa Thầy, có - Đứa bé nói cách qủa quyết với nụ cười e lệ thay thế cho vẻ sợ sệt trên khuôn mặt rất trắng của nó.
- Con có thể đi đường trường không?
- Thưa Thầy có.
- Sau đó con sẽ nghỉ ngơi ở nhà mẹ Thầy, trong nhà Thầy, trong khi chờ Faustina, một đứa trẻ mà con sẽ rất yêu... Con có thích vậy không?
- Ôi! Có... - Và đứa bé tin tưởng ngước đôi mắt xám xanh rất đẹp ở giữa hai hàng mi vàng của nó lên và hỏi: “Không còn ông chủ đó nữa à?” Và một nét sợ lại làm băn khoăn cái nhìn của nó.
- Không bao giờ nữa - Giêsu hứa với nó và lại đặt tay trên đầu tóc dầy mầu vàng mật ong của đứa bé.
- Chào Thầy. Trong ít ngày nữa, chúng con cũng sẽ ở trên hồ. Có lẽ chúng ta sẽ gặp nhau. Xin Thầy cầu nguyện cho các phụ nữ Rôma tội nghiệp.
- Chào Lidia. Hãy nói với Claudia rằng đây là những cuộc chinh
333
phục mà Thầy cầu mong chứ không có điều gì khác. Đi, con bé. Chúng ta khởi hành ngay lập tức...
Và cầm tay đứa bé, Người xuất hiện trước cửa gian hàng để gọi các tông đồ, trong khi chiếc xuồng lại trở ra bể, không để lại dấu vết gì về việc nó tới. Giêsu, các tông đồ và đứa bé trùm áo khoác vào. Nó đi ở giữa đám, vào các con đường miền duyên hải, hướng về miền quê.
118* “TÔN GIÁO LÀ TÌNH YÊU VÀ
SỰ ƯỚC MONG ĐẾN VỚI ĐẤNG
MÀ CHÚNG TA TIN”
Các bình minh của mùa hè đến thật sớm, và thời gian trôi rất mau từ lúc trăng lặn tới lúc có những tia đầu tiên của rạng đông. Họ cũng đã nhấn bước rất mau, và khoảng thời gian tối nhất về đêm hãy còn bao phủ họ tại ngoại ô thành phố Cêsarê, và một cành cây đốt lên không đủ ánh sáng, nên họ phải ngừng lại một lát, vì đứa bé ít quen đi bộ ban đêm và thường vấp vào các viên đá chìm một nửa trong bụi đất.
- Tốt hơn là nghỉ một lát. Con bé không thấy đường và nó mệt - Giêsu nói.
- Không, không, con có thể... Hãy đi xa, xa... Ông ta có thể tới. Qua lối này là chúng ta đến căn nhà đó - con bé nói trong khi răng nó đập lốc cốc. Nó pha trộn các từ Latin với Hy Bá để làm thành một câu cho người ta hiểu.
- Chúng ta đi đàng sau những cây này, và sẽ không ai nhìn thấy chúng ta. Đừng sợ - Giêsu trả lời nó.
- Ờ, đừng sợ. Ông Rôma đó lúc này đang say, nằm chết dưới gầm bàn... - Batôlômêo nói để bảo đảm cho nó.
- Vả nữa, con ở với chúng ta, và chúng ta yêu con nhiều, chúng ta sẽ không để cho người ta làm khổ con. Ohé! Chúng ta là mười hai người đàn ông lực lưỡng... - Phêrô nói. Ông chỉ hơi cao hơn nó, nhưng mập, trong khi nó mảnh mai. Ông bị cháy đen bởi mặt trời, trong khi nó mầu tuyết. Bông hoa tội nghiệp bị đặt vào bóng tối để
334
không còn hấp dẫn, không còn qúi nữa.
- Con là đứa em gái nhỏ, và các ông anh bảo vệ em gái của họ...
- Gioan nói.
Con bé, trong ánh sáng sau cùng của cây đuốc tắt bất thần, ngước nhìn những người khích lệ nó, tròng mắt mầu xám sắt hơi xanh, con mắt trong sáng còn ướt nước mắt mà nó đã đổ ra trong những giờ trước đó... Nó nghi ngờ, nhưng nó phó thác cho họ và băng qua con suối khô, sang đường phía bên kia để vào một khu vực tận cùng bằng một vườn cây ăn trái um tùm.
Họ ngồi trong bóng tối và chờ. Có lẽ các tông đồ ngủ, nhưng một tiếng động nhỏ cũng làm con bé rên, và khi nó nghe tiếng vó ngựa chạy qua thì nó ôm cứng lấy cổ Batôlômêo, có lẽ vì ông già hơn, lôi kéo sự tin cậy và tình gia đình của nó. Trong điều kiện như vậy thì không thể ngủ được.
- Nhưng đừng sợ! Khi người ta ở với Giêsu thì không có điều gì dữ xảy ra được - Batôlômêo nói.
- Tại sao vậy? - Con bé hỏi trong khi vẫn run và bám lấy cổ vị tông đồ.
- Bởi vì Giêsu là Thiên Chúa ở dưới đất. Mà Thiên Chúa thì mạnh hơn loài người.
- Thiên Chúa? Thiên Chúa là gì?
- Con gái tội nghiệp! Nhưng họ đã nuôi con thế nào? Họ không dạy con gì hết sao?
- Họ dạy giữ da cho trắng, giữ tóc cho bóng, vâng lời chủ... luôn luôn nói vâng... Nhưng con không thể nói vâng với người Rôma... Họ xấu và làm con sợ... Sợ suốt ngày... luôn luôn ở đó, ở bể tắm, và khi mặc áo vào là... các con mắt đó... các bàn tay đó... Ôi!... Và ai không nói vâng là ăn những cây gậy...
- Người ta sẽ không cho con ăn gậy nữa. Người Rôma không còn ở đây, cũng không còn bàn tay họ... chỉ có bình an... - Giêsu trả lời nó.
Những người khác bình luận: “Sợ thật! Giống như các con vật để ra giá. Không hơn gì con vật! Còn tệ hơn... Vì con vật, ít nhất người
335
ta còn dạy nó cày, mang yên và hàm thiếc, vì đó là công việc của nó. Nhưng đứa trẻ này bị ném ở đó, không biết gì cả!...”
- Nếu con biết trước thì con đã nhảy xuống biển. Ông ta đã nói: “Tao sẽ làm cho mày sung sướng”.
- Qủa thật, Người sẽ làm cho con sung sướng bằng một cách không thể tưởng tượng được. Sung sướng ở trên trái đất và ở trên Trời, vì biết Giêsu chính là hạnh phúc - Zêlote nói với nó.
Một lúc yên lặng trong khi mỗi người suy nghĩ về những sợ hãi của thế giới. Rồi con bé nói nhỏ với Batôlômêo: “Hãy nói cho con: Thiên Chúa là gì? Tại sao Người là Thiên Chúa? Bởi vì Người đẹp trai và tốt à?”
- Thiên Chúa... Làm thế nào để dạy cho mày là đứa hoàn toàn trống rỗng về mọi ý tưởng tôn giáo đây?
- Tôn giáo à? Nghĩa là cái gì?
- Lạy Đấng Khôn Ngoan Chí Cao! Tôi giống như người ngụp lặn trong cái biển mênh mông. Phải làm sao trước cái vực thẳm này đây?
- Batôlômêo, điều con thấy là khó thì nó rất đơn giản. Đó là vực thẳm, đúng. Nhưng nó trống rỗng, và con có thể đổ đầy sự thật vào đó. Điều tệ hại là khi vực thẳm chứa đầy bùn, thuốc độc, rắn rết... Hãy nói cách đơn sơ như con nói với đứa trẻ, và nó sẽ hiểu con còn hơn là người lớn.
- Ôi! Thầy! Nhưng Thầy không thể làm sao?
- Thầy có thể. Nhưng con bé sẽ nhận những lời của một trong những người giống như nó dễ dàng hơn là các lời Thiên Chúa của Thầy. Hơn nữa... trong tương lai, các con sẽ gặp những vực sâu như vầy để đổ đầy Thầy vào đó. Các con cũng phải học để làm.
- Đúng vậy. Con sẽ thử. Nghe này con bé... Con có nhớ mẹ con không?
- Chúa ơi, có. Đã bảy mùa xuân hoa nở, con không có bà ở bên cạnh con. Nhưng trước đó con ở với bà.
- Tốt. Vậy là con nhớ ? Con có yêu bà nhiều không?
- Ôi! - một tiếng nấc đi theo tiếng than đã nói tất cả.
336
- Đừng khóc, đứa con tội nghiệp... Hãy nghe đây... Tình yêu mà con có với mẹ con...
- Và với cha, với các em trai... - Đứa bé nói và nức nở.
- Ờ, với gia đình con, tình yêu gia đình. Tư tưởng của con hướng về nó, ước ao trở về với nó...
- Không bao giờ nữa!!!...
- Tất cả những thứ đó, người ta có thể gọi là tôn giáo gia đình. Bởi vậy, các tôn giáo, các ý tưởng về tôn giáo tức là tình yêu, tư tưởng và ước mong đến nơi có người hay những người mà chúng ta tin, chúng ta yêu và ước ao.
- A! Vậy ra nếu con tin vào vị Thiên Chúa đó là con có tôn giáo... Dễ thôi.
- Tốt! Nhưng cái gì dễ? Có một tôn giáo hay tin vào vị Thiên Chúa đó?
- Điều nọ và điều kia. Vì người ta tin dễ dàng vào vị Thiên Chúa tốt như Người. Người Rôma, khi họ thề, họ xưng ra nhiều tên... Họ nói: “Nhân danh nữ thần Vénus!”, “Nhân danh thần Cupidon”. Nhưng chắc đó là các thần không tốt, vì ông ta, khi xướng danh ra như vậy, ông ta làm những điều không tốt.
- Con bé đâu có ngu! - Phêrô phê bình nhỏ tiếng.
- Nhưng con, con chưa thấy Thiên Chúa là gì. Con thấy Người, loài người như ông... Đó là một người, và là Thiên Chúa sao? Làm sao người ta hiểu được? Người mạnh hơn tất cả về cái gì? Người không có gươm giáo, cũng không có đầy tớ...
- Thầy ơi! Giúp con với...
- Không, Natanael, con dạy rất đúng...
- Thầy nói vậy vì lòng tốt... Dầu sao, chúng ta cũng phải tiến tới. Nghe này con bé... Thiên Chúa không như một người. Người giống như một ánh sáng, một cái nhìn, một âm thanh, nhưng lớn tới nỗi nó làm đầy Trời và đất, và Người soi sáng tất cả, thấy tất cả, dạy dỗ tất cả, và truyền lệnh tất cả...
- Cả người Rôma à? Vậy đó không phải là một Thiên Chúa tốt. Con sợ!
337
- Thiên Chúa tốt và Người truyền những mệnh lệnh tốt. Người đã ra lệnh cho con người không được gây chiến tranh, không được bắt làm nô lệ, phải để các trẻ em ở với mẹ chúng, không được làm cho các cô bé sợ... Nhưng con người không luôn luôn tuân lệnh Thiên Chúa.
- Ông, có, nhưng...
- Ông, có.
- Nhưng nếu Người mạnh hơn tất cả, tại sao Người không bắt phải vâng lời? Và làm sao Người nói được, nếu Người không phải là một người?
- Thiên Chúa... Ôi! Thầy ơi!...
- Tiến lên đi Batôlômêo. Con là ông thầy giáo rất khôn ngoan. Con biết cách bộc lộ cách đơn sơ những tư tưởng cao siêu nhất mà con còn sợ à? Con không biết rằng Thánh Thần ở trên môi những kẻ giảng dạy điều công chính sao?
- Điều này có vẻ qúa dễ khi người ta nghe Thầy... Và hết mọi lời Thầy đều ở đây, ở trong này... Nhưng để làm cho nó ra khi người ta phải làm điều Thầy làm thì!...Ôi! Khốn nạn chúng con, những con người tội nghiệp! Những ông thầy của số không!
- Nhận biết cái số không của các con tức là sẵn sàng để Thánh Linh giáo huấn.
- Tốt. Nghe đây con: Thiên Chúa mạnh mẽ, còn hơn César, hơn tất cả mọi người hợp lại cùng với các vũ khí và bộ máy chiến tranh của họ, nhưng Người không phải là ông chủ không biết thương, luôn luôn đòi nói “vâng” dưới ngọn roi. Thiên Chúa là người cha. Cha con có yêu con không?
- Yêu chừng nào! Ông đã gọi con là Auréa Galla, bởi vì vàng thì qúi giá và Gaule là quê hương ông. Và ông nói rằng đối với ông, con còn qúi hơn vàng mà ông có hồi trước, và quê hương...
- Ba con có cho con ăn roi không?
- Không bao giờ. Cả khi con dữ tợn, ông chỉ nói: “Con gái tội nghiệp của tôi!” Và ông khóc.
- Đó, Thiên Chúa cũng vậy, Người là cha, Người yêu chúng ta,
338
và Người khóc khi chúng ta xấu, nhưng Người không ép buộc chúng ta vâng lời. Nhưng những kẻ xấu một ngày kia sẽ bị phạt những cực hình ghê gớm...
- Ồ! Tốt lắm! Ông chủ đã bắt con đem đi khỏi mẹ con lên hòn đảo, và ông Rôma, sẽ tới chỗ cực hình! Con có nhìn thấy họ không?
- Con sẽ thấy họ từ bên cạnh Thiên Chúa nếu con tin ở Người và nếu con sống tốt. Và để là tốt thì không được ghét, kể cả người Rôma.
- Không à? Làm sao được?!...
- Cầu nguyện cho ông ta hay...
- Cầu nguyện là cái gì?
- Là nói với Thiên Chúa điều chúng ta muốn...
- Nhưng con, con muốn các ông chủ phải chết khốn nạn! - Con bé nói với sự hung hăng điên dại.
- Không. Con không được vậy. Giêsu không yêu con nếu con nói như vậy...
- Tại sao?
- Bởi vì chúng ta không được ghét kẻ đã làm khổ chúng ta.
- Nhưng con không thể yêu họ.
- Lúc này thì hãy quên họ đi... Hãy cố để quên họ đi. Rồi khi con được giáo huấn hơn về Thiên Chúa, con sẽ cầu nguyện cho họ... Vậy chúng ta đã nói rằng Thiên Chúa mạnh mẽ, nhưng Người để các con cái Người được tự do.
- Con là con gái Thiên Chúa à? Con có hai người cha sao? Người có bao nhiêu đứa con?
- Hết mọi người đều là con Thiên Chúa, bởi vì chính Người đã tạo ra họ. Con thấy các ngôi sao trên trời không? Chính Người đã làm ra. Và các cây cối? Người đã làm ra. Và trái đất mà chúng ta đang ngồi, con chim này đang hót, và biển cả bao la, Người đã làm tất cả, và mọi con người. Và con người là con của Người hơn tất cả mọi loài khác, vì họ là con Người bởi cái mà ta gọi là linh hồn, là cái ánh sáng, âm thanh, cái nhìn, không lớn như của Thiên Chúa để làm đầy vũ trụ, nhưng nó đẹp và không bao giờ chết, cũng như
339
chính Người không chết.
- Linh hồn ở đâu? Con có nó không?
- Có. Ở trong qủa tim của con. Chính nó làm cho con hiểu rằng người Rôma đó xấu, và chắc chắn là nó không làm cho con ước ao trở nên giống như ông ta, phải không?
- Vâng... - Con bé suy nghĩ sau tiếng “vâng” không chắc chắn... Rồi nó nói qủa quyết: “Đúng! Giống như một tiếng nói ở bên trong, và một nhu cầu cần sự cứu giúp... Và với một tiếng nói khác ở bên trong, nhưng đó là tiếng của con, con gọi má con... Vì con không biết rằng có một Thiên Chúa, rằng có Giêsu... Nếu con đã biết Người thì con đã gọi Người bằng cái tiếng nói mà con có ở bên trong này...”
- Con ơi, con đã rất hiểu, và con sẽ lớn lên trong ánh sáng. Thầy nói điều đó cho con. Hãy tin ở Thiên Chúa thật. Hãy nghe tiếng nói của linh hồn con. Nó chưa có được sự khôn ngoan, nhưng nó cũng không có ý muốn xấu, và con sẽ được Thiên Chúa làm Cha. Trong cái chết, sự đi qua từ đất lên trời của những kẻ tin ở Thiên Chúa và sống tốt, con sẽ được một chỗ trên Trời, ở bên Thiên Chúa của con - Giêsu nói khi để một bàn tay trên đầu con bé. Nó thay đổi vị trí, qùi lên và nói:
- Ở bên Thầy. Thật tốt đẹp được ở với Thầy. Giêsu, xin đừng rời xa con. Bây giờ con biết Thầy là ai và con qùi phục. Ở Cêsarê con đã sợ hãi để làm... Lúc đó Thầy đối với con như một người, bây giờ con biết Thầy là Thiên Chúa giấu ẩn trong một người, và Thầy là Cha, là đấng bảo vệ con.
- Và Vị Cứu Tinh nữa, Auréa Galla.
- Và Vị Cứu Tinh. Thầy đã cứu con.
- Thầy sẽ còn cứu con hơn nữa. Con sẽ có một cái tên mới...
- Thầy sẽ bỏ cái tên mà ba con đã cho con sao? Ông chủ ở trên đảo gọi con là Auréa Quintillia, bởi vì ông phân chia chúng con theo mầu và theo số, và con là đứa tóc vàng thứ năm... Nhưng tại sao Thầy không để cho con cái tên ba con đã cho con?
- Thầy không hủy bỏ nó của con. Nhưng con sẽ mang thêm vào
340
tên cũ, một tên mới, vĩnh cửu.
- Tên nào?
- Christiane, bởi vì Đức Kitô (Christ) đã cứu con. Nhưng kìa, trời sáng rồi, chúng ta đi thôi... Con thấy không Natanael? Thật dễ dàng để nói về Thiên Chúa với những vực thẳm trống rỗng... Con đã nói rất hay. Đứa bé sẽ được đào tạo mau chóng trong chân lý... Con hãy chạy lên phía trước với các anh Thầy đi Auréa...
Đứa bé vâng lời, nhưng nó sợ. Nó thích ở bên cạnh Batôlômêo. Ông hiểu và hứa với nó: “Ông cũng sẽ đến ngay. Hãy vâng lời...” Ông ở lại bên Giêsu với Phêrô, Simon và Mathêu. Ông nhận xét: “Đáng tiếc là Valêria lại giữ nó! Nó sẽ mãi mãi là dân ngoại...”
- Thầy không thể giao nó cho Lazarô...
- Có Nique nữa Thầy! - Mathêu đề nghị.
- Và Êlise... - Phêrô nói.
- Và Jeanne, bà là bạn của Valêria, và Valêria sẽ sẵn sàng nhường nó cho bà, nó sẽ ở trong một gia đình tốt - Zêlote nói.
Giêsu suy nghĩ và nín lặng.
- Thầy suy nghĩ điều đó đi. Con đi lên với con bé kẻo nó cứ ngoái cổ lại nhìn hoài. Nó tín nhiệm con, có lẽ vì con già... Con có thể giữ nó... thêm một đứa con gái nữa... Nhưng nó không phải Israel... - Rồi ông bỏ đi, ông Natanael tốt nhưng qúa Israel!
Giêsu nhìn ông đi và lắc đầu.
- Tại sao Thầy lắc đầu? - Zêlote hỏi.
- Bởi vì... Điều đó làm Thầy khổ, khi thấy ngay những hiền nhân cũng là nô lệ của thành kiến.
- Nhưng... Hãy nói giữa chúng ta thôi... Batôlômêo có lý... và cả đến... Thầy cũng phải nghĩ tới đó. Hãy nhớ lại Sintica và Gioan. Cầu cho đừng xảy ra điều như vậy nữa... Hãy gởi nó cho Sintica...- Phêrô nói. Ông hơi phiền vì sự hiện diện của con bé dân ngoại ở giữa họ.
- Gioan sắp chết rồi... Sintica mới được đào tạo qúa ít để làm cô giáo cho một đứa giống như nó. Ngoại cảnh không thích hợp cho nó...
- Nhưng Thầy không thể giữ nó. Hãy nghĩ tới Judas sắp ở với
341
chúng ta. Và Judas, xin Thầy để cho con nói: là kẻ dâm bôn và là một... một người dễ dàng nói để lợi dụng... và là người có qúa nhiều bạn bè trong số các pharisiêu... - Zêlote nhấn mạnh.
- Đúng, Simon có lý! Đó chính là điều con cũng nghĩ tới! Thầy nghe ông ta đi! - Phêrô kêu lên.
Giêsu suy nghĩ, nín lặng... Rồi Người nói: “Chúng ta hãy cầu nguyện, rồi Chúa Cha sẽ giúp chúng ta...” Và đi lùi lại ở sau mọi người, Người cầu nguyện tha thiết...
Rạng đông biến thành bình minh... Họ băng qua một làng nhỏ để lại đi vào con đường giữa miền quê... Mặt trời càng lúc càng mạnh, họ dừng lại để ăn dưới bóng một cây hồ đào khổng lồ.
- Con có mệt không? Hãy nói và chúng ta sẽ dừng lại - Giêsu hỏi đứa bé khi nó đang ăn cách miễn cưỡng.
- Không, không. Hãy đi...
- Chúng con đã hỏi nó nhiều lần, nhưng nó cứ nói là không - Giacôbê Alphê nói.
- Con đi được! Con đi được! Chúng ta hãy đi xa...
Họ lại lên đường, nhưng Auréa nhớ ra: “Con có một túi tiền. Các bà đã nói với con: mày sẽ đưa khi bắt đầu lên núi. Đây là núi rồi, và con đưa”. Rồi nó lục trong giỏ của nó, nơi Lidia đã để vài quần áo... Nó lấy ra và đưa cho Giêsu.
- Của bố thí... Các bà không muốn cho ta cám ơn họ. Họ tốt hơn nhiều người trong chúng ta... Cầm lấy đi Mathêu. Hãy giữ lấy tiền này, nó sẽ được dùng vào các việc bố thí kín đáo.
- Con không phải nói với Judas Kêriot à?
- Không.
- Ông ta sắp gặp con bé ...
Giêsu không trả lời... Họ tiếp tục con đường, mệt mỏi vì sức nóng, vì bụi bặm, vì ánh sáng chói mắt. Rồi họ bắt đầu leo lên những núi nằm ngang với dẫy Carmel, tôi tin vậy. Mặc dầu có nhiều bóng râm và mát hơn, Aurêa cũng bước chậm chạp và vấp luôn.
Batôlômêo trở lại đàng sau, tới bên Thầy: “Thưa Thầy, con bé bị sốt và kiệt lực. Chúng ta phải làm sao?”
342
Họ hỏi nhau: Nghỉ lại? Ẵm nó lên và tiếp tục đi? Được. Không được. Sau cùng họ quyết định là ít nhất phải tới được con đường dẫn về Sicaminon để xin các người du hành có con vật hoặc có xe giúp đỡ. Họ rất muốn ẵm đứa bé trong tay, nhưng nó, anh hùng trong ý muốn đi xa của nó, cứ nhắc lại: “Con đi được! Con đi được!” và muốn tự mình bước đi. Nó đỏ bừng, đôi mắt của người sốt, rõ ràng là kiệt lực. Nhưng nó không nhượng bộ... Nó tiến từ từ, chấp nhận được Batôlômêo và Philíp dắt... Nhưng nó bước... Tất cả họ đều mệt mỏi, nhưng họ hiểu là cần phải đi, và họ bước.
Đã băng qua ngọn đồi, đây là bờ phía bên kia... Đồng bằng Esdrelon ở tận dưới đáy, và ở bên ngoài là dẫy đồi có mang Nazarét. Giêsu nói: “Nếu chúng ta không tìm được, chúng ta sẽ dừng lại tại nhà các nông dân...”
Họ đi, họ đi... Khi hầu như đã tới đồng bằng, họ thấy một nhóm môn đệ. Có Isaac, Gioan người Êphêsô với mẹ ông, và Abel người Bétlem với các người của ông ở giữa những người khác mà tôi không biết tên. Các người đàn bà có một chiếc xe mộc mạc, được kéo bởi một con la lực lưỡng. Cũng có các mục đồng Daniel, Benjamin, người đưa đò Giuse và những người khác nữa.
- Chính Đấng Quan Phòng đã cứu chúng ta - Giêsu kêu lên và Người ra lệnh dừng lại trong khi Người tới nói chuyện với các môn đệ, đặc biệt là các nữ môn đệ.
Người đem họ riêng ra cùng với Isaac và kể cho họ một phần những thử thách của Auréa: “Chúng ta đã lấy cắp nó khỏi tay một ông chủ dơ bẩn... Thầy muốn dẫn nó về Nazarét để săn sóc nó, vì nó bệnh do sợ và mệt. Nhưng chúng ta không có xe. Các con đi đâu bây giờ ?”
- Về Bétlem thuộc Galilê, tới nhà Myrta. Không thể nào chịu nổi cái nóng ở đồng bằng nữa - Isaac trả lời.
- Vậy trước hết hãy về Nazarét, Thầy xin các con vì tình bác ái, hãy dẫn con bé về cho mẹ Thầy và thưa với mẹ rằng trong hai ba ngày nữa Thầy sẽ ở nhà mẹ. Đứa bé bị sốt. Đừng chú ý tới những mê sảng của nó. Thầy sẽ kể cho các con sau này...
343
- Thưa Thầy vâng. Như Thầy muốn. Chúng con đi lập tức. Đứa con gái tội nghiệp! Hắn đã đánh nó? - Ba người hỏi.
- Hắn muốn tục hóa nó.
- Ôi!... Nó mấy tuổi rồi?
- Chừng mười ba...
- Quân hèn! Quân dơ bẩn! Nhưng chúng con sẽ yêu nó. Chúng con là những bà mẹ, phải không Noêmi?
- Chắc chắn rồi Myrta. Chúa ơi, Thầy sẽ giữ nó như môn đệ chứ?
- Thầy chưa biết...
- Nếu Thầy giữ nó, có chúng con ở đây. Con, con không trở về Êphêsô nữa. Con đã sai các bạn đi để thanh toán hết. Con ở lại với Myrta... Xin Thầy nhớ đến chúng con, cho đứa bé. Thầy đã cứu con chúng con, chúng con muốn cứu nó.
- Sau này chúng ta sẽ tính.
- Thưa Thầy, hai bà môn đệ hoàn toàn bảo đảm về sự thánh thiện...- Isaac biện hộ.
- Điều đó không tùy thuộc ở Thầy... Hãy cầu nguyện nhiều và hãy nín lặng với mọi người. Các con nghe chưa? Với hết mọi người.
- Chúng con sẽ nín lặng.
- Hãy đánh xe tới - và Giêsu trở lại đàng sau. Isaac đánh xe theo sau cùng với hai bà.
Con bé đang nằm trên cỏ để tìm một chút khí mát cho cơn sốt nặng của nó...
- Con bé tội nghiệp! Nhưng nó không sắp chết chứ phải không?
- Đứa trẻ đẹp chừng nào!
- Cưng ơi, đừng sợ. Bà là một bà mẹ, con biết không?... Đỡ nó lên, Myrta... Nó không đứng vững... Giúp chúng tôi với Isaac... Ở chỗ này nó sẽ ít dằn hơn... để cái túi dưới gối đầu... Lót áo khoác của chúng ta ở bên dưới... Isaac, nhúng nước miếng vải này để chườm trán cho nó... Sốt qúa trời! Con bé tội nghiệp!...
Hai bà ân cần với đầy tình mẫu tử. Auréa chếnh choáng vì sốt, hầu như xỉu.
Mọi sự vào chỗ rồi... Xe có thể chạy... Trước khi quất con la,
344
Isaac nhắc Thầy: “Thầy ơi, Thầy đi lại chiếc cầu, Thầy sẽ gặp thấy Judas Kêriot. Ông ta chờ Thầy ở đó như người hành khất... Chính ông ta đã bảo chúng con rằng Thầy sẽ đi qua đây. Bình an cho Thầy. Chúng con sẽ tới Nazarét đêm nay”.
- Bình an cho Thầy - Hai bà môn đệ nói.
- Bình an cho các con!
Chiếc xe chạy nước kiệu...
- Xin tạ ơn Chúa!... - Giêsu nói.
- Vâng. Thật mừng cho con bé, và thật tốt vì lẽ Judas... Tốt nhất là ông ta không biết gì cả...
- Đúng. Vậy là nhất. Rất tốt hơn là Thầy phải xin qủa tim các con một hy sinh. Chúng ta sẽ chia tay nhau trước khi tới Nazarét: Các con, các người ở hồ, các con sẽ đi Caphanaum với Judas, trong khi các anh Thầy cùng với Tôma và Simon, Thầy sẽ đi Nazarét.
- Thưa Thầy, chúng con sẽ làm như vậy. Và Thầy sẽ nói gì với những người đang chờ Thầy?
- Nói rằng phải gấp báo cho mẹ Thầy rằng chúng ta về... Đi thôi... - Và Người lại với các môn đệ. Họ qúa vui vì có Thầy ở với họ nên họ không hỏi gì cả.
119* DỤ NGÔN VƯỜN NHO
VÀ Ý MUỐN TỰ DO
- Bình an cho các con, các bạn Thầy. Thiên Chúa nhân từ, Người cho chúng ta tụ họp trong bữa ăn huynh đệ. Các con đi đâu?
- Người thì đi ra biển, người thì lên núi. Cho tới lúc này thì chúng con ở cùng nhau với con số luôn luôn gia tăng vì những nhóm khác mà chúng con gặp trên đường - Daniel, người trước kia là mục đồng ở Liban nói.
- Vâng, và hai người chúng con, chúng con muốn đẩy mạnh cho tới núi Hermon lớn, nơi chúng con sẽ chăn đoàn vật và chăn các tâm hồn - Benjamin, bạn của ông nói.
345
- Ý tưởng hay đó. Thầy sẽ đi Nazarét một thời gian, rồi Thầy sẽ ở giữa Caphanaum và Betsaiđa cho tới trăng mới của tháng Elul. Thầy nói điều đó với các con để khi cần, các con có thể tìm thấy Thầy. Các con hãy ngồi, và chúng ta để chung thực phẩm với nhau để có thể phân phối đều.
Họ làm như vậy khi dàn ra trên một chiếc khăn các... của cải của họ: bánh tráng nướng, phó mát, cá ướp mặn, oliu, vài quả trứng, vài trái táo đầu mùa... Họ góp chung như vậy tất cả thực đơn của họ, rồi họ phân phối vui vẻ sau khi Giêsu đã dâng hiến và chúc phúc.
Họ sung sướng chừng nào với bữa tiệc tình yêu bất ngờ! Họ mau lẹ quên đi những mệt mỏi và sức nóng, chúng biến đi trong nỗi vui được nghe Giêsu nói. Người hỏi họ những việc họ đã làm và cho họ những lời khuyên, hoặc Người kể cho họ những điều Người đã làm. Mặc dầu đây là giờ rất nóng của một ngày nặng nề và bần thần, nhưng nỗi vui lớn tới nỗi không ai buồn ngủ nữa. Khi bữa ăn chấm dứt và các đồ còn lại cũng được chia đều cho mỗi người để bỏ vào giỏ, họ đi sâu vào trong rừng của ngọn đồi, dưới bóng những cây lớn, họ ngồi vòng tròn chung quanh Giêsu và xin Người kể cho họ một dụ ngôn hay, có thể ích lợi cho đời họ cũng như cho việc giảng dạy.
Giêsu ngồi, trước mặt Người là đồng bằng Esdrelon, mùa gặt lúa đã xong, nhưng còn phong phú về nho và cây ăn trái. Cái nhìn của Người lướt qua toàn cảnh như để tìm một đề tài nơi những cái ở trong tầm mắt Người. Người mỉm cười. Người đã tìm thấy. Người bắt đầu bằng một câu hỏi tổng quát: “Các vườn nho của đồng bằng này thật là đẹp, phải không?”
- Rất đẹp. Nó đeo nặng những chùm nho, như không thực. Các trái đang chín. Và chúng được chăm bón rất cẩn thận, vì vậy chúng mới có lợi xuất cao như vậy.
- Đó chắc phải là các cây được lựa chọn... - Giêsu nói ám chỉ, và Người kết thúc: “Vì hầu như hết đồng bằng đều là lãnh địa của các pharisiêu giầu, nên họ đã trồng những cây tuyệt hảo và không tiếc
346
việc chi tiêu để đầu tư”.
- Ôi! Mua những cây tốt tới đâu cũng chẳng ích lợi gì nếu sau đó người ta không tiếp tục chăm sóc. Con, con biết điều đó, vì gia sản của con toàn là vườn nho. Nếu con không đổ mồ hôi vào đó, hay đúng hơn là nếu con đã không đổ mồ hôi vào đó, cũng như bây giờ các anh em con đang tiếp tục đổ mồ hôi vào đó, thì Thầy hãy tin chắc rằng con không thể dâng cho Thầy những chùm nho vào mùa hái nho như những chùm của năm vừa qua - một người đàn ông vạm vỡ độ bốn mươi tuổi nói. Hình như tôi đã thấy ông ta, nhưng tôi không nhớ tên.
- Anh có lý, Clêopha. Tất cả cái bí mật để có những trái cây tốt đều ở trong sự chăm sóc mà người ta hiến cho đất đai - một người khác nói.
- Trái cây tốt và lợi tức lớn. Vì nếu đất đai chỉ cho lại số tiền mà người ta đã tiêu cho nó, thì đó là nơi không tốt để cất tiền. Đất đai phải cho lời của số vốn đã bỏ ra, và hơn nữa, phải là một số lời có thể giúp chúng ta phát triển cơ nghiệp của chúng ta. Qủa vậy, hãy nghĩ tới một người cha phải phân chia gia tài cho các con, và dù có đất đai hay tiền bạc, ông cũng phải chia làm nhiều phần theo số con cái, để cho tất cả, mỗi đứa đều có cái gì để sống. Tôi không tin là việc làm gia tăng cơ nghiệp để tất cả các con đều có lợi lại là điều đáng trách - Clêopha nhấn mạnh.
- Nó sẽ không đáng trách nếu nó đạt được bằng các công việc ngay thẳng , bằng các phương tiện ngay thẳng. Vậy con nói rằng dầu có những cây tốt nhất đã được trồng, muốn rút được mối lợi thì còn phải làm việc nhiều phải không?
- Thế nào? Trước khi nó cho một trái nho đầu tiên... Vì phải có thời gian, hen! Vậy phải kiên nhẫn, và phải làm việc kể cả lúc cây chỉ mới có lá. Rồi sau đó, khi nó đã có trái và mạnh, phải coi để nó không có những cành vô ích, các côn trùng phá hoại. Phải giữ để cỏ rả không ăn hại đất, không làm ngộp các cành vì những lá cỏ gai hay những cây bìm bìm leo. Phải xới đất chung quanh gốc để sương thấm vào và nước đọng được lâu hơn các chỗ khác để nuôi cây; và
347
phải bón phân... Một công việc khó nhọc! Nhưng phải làm, dù mệt mỏi, vì mỗi trái nho rất đẹp, rất ngọt, mỗi chùm là các viên đá qúi được tạo thành chính bởi việc hút lấy cái phân bón đen và hôi thối này. Điều đó tưởng như không thể được, nhưng là vậy đó. Rồi phải tỉa lá để mặt trời chiếu vào các chùm. Rồi sau mùa thu hoạch, phải xếp đặt cho cây bằng cách buộc, tỉa, phủ rễ bằng rơm rác và phân chuồng để bảo vệ nó khỏi băng giá. Và ngay cả trong mùa đông cũng phải tới coi xem gió hay trộm cắp có làm đổ vài cây cọc chống không, hay thời gian có làm hư các giây lác buộc các cành vào cọc không... Ôi! Luôn luôn có việc làm cho tới khi cây nho chết hoàn toàn... Và sau đó vẫn còn phải làm là đào bỏ cây chết và các rễ của nó, và chuẩn bị để trồng cây mới vào đó. Và Thầy biết phải có bàn tay nương nhẹ chừng nào! Phải kiên nhẫn, con mắt phải canh chừng để loại bỏ cành của các cây chết còn đan vào cành của các cây sống. Nếu người ta làm cách vụng về với bàn tay thô bạo, người ta sẽ làm những thiệt hại! Phải là nhà nghề mới biết được!... Các vườn nho à? Chúng giống như các đứa trẻ. Trước khi đứa trẻ trở thành một người, phải đổ biết bao mồ hôi để giữ cho nó lành mạnh về thân xác và linh hồn!... Nhưng con nói và con nói!... Con không để cho ai nói!... Thầy đã hứa với chúng con một dụ ngôn ...
- Đúng vậy. Nhưng con đã nói rồi, chỉ cần áp dụng những kết luận của con và nói rằng linh hồn cũng như cây nho.
- Không, thưa Thầy, xin Thầy nói... Con đã nói quàng xiên, và chúng con không thể tự chúng con làm điều áp dụng...
- Được. Vậy hãy nghe: Khi chúng ta có xác thịt của một sinh vật trong lòng của mẹ chúng ta, Thiên Chúa ở trên Trời đã tạo ra một linh hồn để làm cho con người tương lai giông giống như Người, và Người đã phú nó vào trong thân xác được tạo hình trong bụng. Và con người, khi tới thời gian để sinh ra thì được sinh ra cùng với linh hồn của nó, mà trước khi tới tuổi có trí khôn thì giống như đất bị bỏ hoang. Nhưng đến tuổi khôn, con người bắt đầu lý luận và phân biệt điều thiện với điều ác. Chính khi đó nó nhận ra rằng nó có một
348
vườn nho để trồng cấy như ý nó, và nó nhận ra rằng nó có một người trồng nho chịu trách nhiệm về vườn nho này, đó là ý muốn tự do của nó.
Qủa vậy, cái tự do để hướng dẫn đời sống mà Thiên Chúa ban cho con người, con cái của Người, giống như một người đầy tớ có khả năng mà Thiên Chúa ban cho người ta, con của Người, để giúp nó làm cho thành mầu mỡ cái vườn nho của nó, tức là linh hồn nó.
Nếu con người không phải chính mình mệt mỏi để trở nên giầu có, để tạo một tương lai vĩnh cửu bằng những thịnh vượng siêu nhiên, nếu nó nhận tất cả nơi Thiên Chúa, thì nó sẽ có công nghiệp gì trong việc tác tạo lại sự thánh thiện mà Lucifer đã làm hư hỏng, sau khi Thiên Chúa đã ban một cách nhưng không cho các người đầu tiên? Đã là rất nhiều rồi đối với tạo vật sa ngã và là kẻ thừa kế tội lỗi, mà Thiên Chúa còn chấp nhận cho nó được phần thưởng, được nên thánh, được tái sinh bởi ý muốn riêng của nó, cho cái bản tính lúc khởi đầu đã là một tạo vật toàn vẹn mà Thiên Chúa đã ban cho Ađam Evà, và cho con cháu họ, nếu các cha mẹ này đã giữ được tình trạng không phạm tội nguyên thủy.
Con người sa ngã phải trở lại thành con người được kén chọn bởi ý muốn tự do của chính nó. Và, chuyện gì đã xảy ra trong các linh hồn? Đó là: con người ký thác linh hồn mình cho ý muốn của nó, cho ý muốn tự do của nó. Nó bắt đầu canh tác vườn nho mà từ trước cho tới lúc này là một khu đất không cây cối, đất tốt, nhưng không có những cây có thể trường tồn. Trong những năm đầu của sự hiện hữu của nó, nó chỉ có những cỏ lỏng chỏng và những bông hoa nhỏ mau tàn mọc đó đây: đó là lòng tốt do bản năng của đứa bé. Nó tốt vì nó còn là một thiên thần, chưa biết đâu là xấu là tốt. Các con hỏi: “Thời gian như vậy là bao lâu?” Người ta nói thông thường là sáu năm đầu tiên. Nhưng thực sự, có những đứa trẻ khôn sớm thì trước sáu tuổi, nó đã trách nhiệm về các hành động của nó. Có những trẻ phải chịu trách nhiệm về hành vi của nó ngay từ ba bốn tuổi, vì nó đã biết điều gì tốt điều gì xấu, và nó hoàn toàn tự do để muốn điều nọ hay điều kia. Từ lúc đứa trẻ biết phân biệt hành
349
động xấu với hành động tốt, nó bắt đầu chịu trách nhiệm. Trước đó thì không. Vậy một người ngốc thì dù đã trăm tuổi, họ vẫn là kẻ vô trách nhiệm, nhưng kẻ chịu trách nhiệm thay cho nó là các người giám hộ, họ phải canh chừng nó với tình yêu, và canh cho những kẻ mà đứa ngu hay điên có thể làm thiệt hại, để kẻ không ý thức không làm thiệt hại cho chính nó cũng như cho người khác. Vì vậy Thiên Chúa không qui trách nhiệm về tội lỗi cho kẻ ngu ngốc hay điên, vì sự khốn nạn của nó đã làm mất lý trí của nó.
Nhưng đây chúng ta nói về những kẻ khôn ngoan và lành mạnh về tinh thần cũng như thân xác.
Vậy con người ký thác mảnh vườn không trồng cấy của nó cho người làm việc, tức là ý muốn tự do của nó, và kẻ này bắt đầu canh tác. Linh hồn chính là cây nho, tuy nhiên nó có tiếng nói, và nó làm cho ý muốn tự do nghe thấy tiếng nó, một tiếng nói siêu nhiên, được nuôi dưỡng bởi các tiếng nói siêu nhiên mà Thiên Chúa không bao giờ từ chối linh hồn: tiếng nói của thiên thần bản mệnh, tiếng nói của linh hồn mà Thiên Chúa sai đến, tiếng nói của Đấng Khôn Ngoan, tiếng nói của các ký ức siêu nhiên mà mọi linh hồn đều nhớ, cho dù linh hồn không ý thức rõ ràng về nó. Và nó nói với ý muốn tự do bằng một giọng ngọt ngào, cả đến năn nỉ, để xin nó trang điểm mảnh vườn bằng những cây tốt, tích cực làm việc cách khôn ngoan để khu vườn không biến thành một đám cây mâm xôi gai góc hoang dại, xấu xa, nguy hiểm, nơi trú ẩn của rắn rết, bọ cạp; nơi chồn, cáo và các con vật bốn chân khác làm nơi trú ẩn.
Ý muốn tự do không luôn luôn là người canh tác tốt. Nó không luôn luôn canh giữ vườn nho, nó không bảo vệ khu vườn bằng những hàng rào không thể băng qua được, tức là một ý muốn tốt và cương quyết, sẵn sàng bảo vệ linh hồn trước các kẻ trộm, các loài ký sinh, tất cả những thứ nguy hại; gió mạnh có thể làm rụng hoa của các quyết định tốt vừa thành hình trong ước muốn. Ôi! Cần phải dựng một hàng rào cao chừng nào chung quanh linh hồn để cứu nó khỏi điều xấu! Phải cẩn mật chừng nào để nó không bị áp bức, để nó không bị hở, cũng không có những cửa qúa rộng để cho các phung
350
phí có thể đi qua, cũng không có những khe hở nhỏ là các gian lận, hèn hạ, mà qua đó, các rắn độc lẻn vào, tức là bảy mối tội đầu. Phải nhổ, phải đốt các cỏ có hại đi; phải tỉa cành, xới đất, bón phân hy sinh; phải săn sóc linh hồn mình bằng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Phải canh chừng với con mắt mở rộng và sáng tỏ, với thần trí tỉnh thức, để các cây đang có vẻ tốt đừng xuất hiện những dấu hiệu xấu sau đó. Và nếu sự việc đó xảy ra thì phải nhổ bỏ nó không thương tiếc. Thà rằng có một cây duy nhất mà trọn hảo, còn hơn là có nhiều cây mà vô ích và độc hại.
Trong chúng ta, có những linh hồn, tức là các khu vườn đã bị trồng, bị trang hoàng bởi những nông dân vô trật tự, luôn luôn trồng chen chúc các cây mới, là các công việc, các tư tưởng, các ý muốn, cho dù khởi thủy không xấu, nhưng sau đó, nếu người ta không chăm sóc, nó sẽ trở nên xấu, rụng xuống đất, suy nhược và chết... Biết bao nhân đức bị chết, vì nó bị lẫn lộn với tình dục, vì nó không được chăm bón... tóm tắt, bởi vì ý muốn tự do không nâng đỡ nó bằng tình yêu. Biết bao kẻ trộm đã vào để đánh cắp, để làm đảo lộn trật tự, để nhổ phá, bởi vì lương tâm mải ngủ thay vì tỉnh thức, bởi vì ý muốn yếu đuối và hư hỏng, bởi vì ý muốn tự do bị điều xấu lôi kéo, và nó, một thứ tự do, lại trở thành nô lệ.
Các con nghĩ coi: Thiên Chúa để cho ý muốn được tự do, nó lại trở nên nô lệ của các đam mê, của tội lỗi, của dâm đãng, tóm lại là của điều xấu. Kiêu căng, nóng giận, keo kiệt, dâm đãng, lúc đầu thì trà trộn vào đám cây tốt, nhưng sau đó thì toàn thắng và làm tổn hại cho cây!... Một thảm họa! Đó là lửa làm khô cây, bởi vì không còn kinh nguyện liên kết với Thiên Chúa, tức là không còn sương mát của các ân huệ xuống trên linh hồn! Nó là băng giá làm đóng băng các rễ vì thiếu tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Đất đai bị kiệt quệ vì người ta từ chối bón phân hy sinh, khiêm nhường cho nó. Đó là sự đan kết rối bời chằng chịt của các cành tốt và các cành xấu vì người ta không can đảm chịu khó để cắt bỏ những cành có hại. Đó là tình trạng của một linh hồn bị coi giữ bởi một ý muốn tự do vô trật tự, sau cùng, ý muốn này làm cho nó quay về với Đứa
351
Ác.
Trái lại, linh hồn có một ý muốn sống trong trật tự, trong sự vâng lời lề luật, những luật đã được ban để con người biết cái gì là trật tự và nó hệ tại điều gì, làm sao để duy trì nó; để họ biết anh hùng trung thành với điều tốt, vì điều tốt nâng cao con người, làm cho nó giống Thiên Chúa, còn điều xấu làm hạ giá nó, làm cho nó giống ma qủi. Kẻ trung thành với điều tốt thì giống như một vườn nho được tưới bón bằng nước trong sạch, dồi dào, bổ ích của Đức Tin, được rợp mát bởi các cây Đức Cậy, được soi sáng bởi mặt trời của Đức Mến, được chỉnh đốn bởi ý chí, được bón phân hy sinh, được tỉa cành bởi sức mạnh, được hướng dẫn bởi sự công bằng, được canh chừng bởi sự khôn ngoan và lương tâm. Và Ân Sủng tăng trưởng vì được bao thứ trợ giúp; sự thánh thiện tăng trưởng, và vườn nho trở thành khu vườn tuyệt diệu, nơi Thiên Chúa xuống để thưởng thức những ngon ngọt của Người, để giữ vườn nho luôn luôn là khu vườn trọn hảo cho tới cái chết của thụ tạo, Thiên Chúa sẽ cho các thiên thần của Người mang các công việc của một ý muốn tự do đầy thiện chí và tốt lành này về khu vườn vĩ đại và vĩnh cửu trên trời.
Đó chắc chắn là số phận mà các con muốn. Vậy hãy tỉnh thức để ma qủi, thế gian, xác thịt không lôi kéo ý muốn của các con và không phá hoại linh hồn các con. Hãy canh chừng để trong các con luôn luôn có tình yêu thật, không phải tình yêu riêng mình là cái dập tắt tình yêu và ném linh hồn vào sự ngông cuồng của đủ thứ tình cảm và vào sự hỗn độn. Hãy tỉnh thức tới cùng. Bão tố có thể làm các con ướt át, nhưng không làm hại được các con, các con sẽ đi về với Chúa, mang đầy hoa trái của các con để lãnh phần thưởng đời đời.
Thầy chấm dứt. Bây giờ các con hãy suy niệm và nghỉ ngơi tới hoàng hôn, trong khi Thầy lui ra để cầu nguyện.
- Thưa Thầy, không. Chúng ta không được chậm lên đường để tới nơi có nhà ở - Phêrô nói.
- Nhưng tại sao? Vẫn còn giờ trước hoàng hôn mà! - Nhiều người
352
nói.
- Tôi, tôi không nghĩ tới hoàng hôn, cũng không nghĩ tới ngày Sabát. Tôi nghĩ chỉ không tới một giờ nữa là sẽ có bão lớn. Các anh thấy những cái lưỡi đen từ từ nhô lên bên trên các dẫy núi xứ Samari không? Và các đám mây trắng bay lẹ từ trời tây tới không? Một luồng gió cao thổi những đám này, một luồng gió thấp đẩy những đám kia. Nhưng khi chúng bay tới bên trên chỗ này thì luồng gió cao sẽ nhượng bộ luồng gió thấp của Địa Trung Hải, và các đám mây đen chứa đầy hạt mưa đá sẽ rơi xuống và đụng vào các đám mây trắng chứa đầy sấm sét. Và qúi vị sẽ nghe một dàn nhạc đã tai! Đi mau đi. Tôi là ngư phủ và tôi đọc được bầu trời.
Giêsu vâng lời trước tiên, và tất cả bắt đầu rảo bước rất lẹ về nông trại dưới đồng bằng... Đi tới cầu, họ gặp Judas, ông kêu: “Ôi! Thầy của con! Con khổ biết bao vì xa Thầy! Ngợi khen Thiên Chúa đã thưởng cho con vì kiên trì chờ Thầy ở đây. Cuộc hành trình đi Cêsarê đã xảy ra thế nào?”
- Bình an cho con, Judas - Giêsu trả lời vắn tắt, và Người thêm: “Vào trong nhà chúng ta sẽ nói. Đi đi, giông bão đang đe dọa”.
Qủa vậy, các cơn gió bắt đầu thổi tung lên các đám mây bụi trên con đường nóng bỏng vì mặt trời. Bầu trời được bao phủ bằng các đám mây đủ kiểu, đủ mầu. Không khí trở nên vàng lạt và tai tái... Các giọt đầu tiên rất lớn, nóng, thưa thớt, bắt đầu rơi, và các tia chớp bắt đầu vẽ trên bầu trời hầu như đen.
Họ bắt đầu chạy hết tốc lực vì họ rất ước ao tránh mưa. Và như vậy, họ tới được các căn nhà đầu tiên khi sấm sét rơi ồn ào ở gần đó, làm xông lên rất mạnh mùi đất do bụi hòa với nước, và mùi hôi của dưỡng khí do các tia chớp liên tục sản xuất.
Họ vào nhà, may mắn là căn nhà có hành lang, và là nhà của các nông dân có lòng tin vào Đức Messi. Một cách kính cẩn, nông dân mời Thầy vào cùng với các bạn Người: “Cứ coi như nhà Thầy. Nhưng xin Thầy giơ tay để đuổi mưa đá đi vì thương cho công việc của chúng con”. Họ nói khi bao quanh Giêsu.
Giêsu giơ tay khi quay quanh bốn phương trời, rồi chỉ thấy có nước rơi xuống để giải khát cho các vườn cây ăn trái, vườn nho, các
353
đồng cỏ, và để thanh tẩy bầu khí nặng nề.
- Xin chúc tụng Chúa - ông chủ gia đình nói. “Xin mời Chúa vào!”
Và trong khi mưa kéo dài, Giêsu vào trong một căn phòng rất rộng, chắc là một cửa hàng. Người ngồi, mệt mỏi. Các người của Ngài vây quanh.
120* KHI ĐI QUA ĐỒNG BẰNG ESDRELON
Chắc trời đã mưa hết ngày hôm qua và suốt đêm, vì mặt đất ẩm ướt và đường lầy lội. Nhưng đổi lại, khí quyển thanh quang, không còn bụi bặm ở mọi cao độ. Trên cao, bầu trời tươi cười như hồi xuân sau khi cơn giông thanh tẩy nó. Trái đất cũng vui cười, trở nên mát mẻ, sạch sẽ nhờ mưa, nó cũng như nhớ tới mùa xuân trong sự tươi mát của một rạng đông quang đãng tiếp sau mưa bão. Những giọt sau cùng còn đọng lại trên các chòm lá đan vào nhau hay đeo vào các tua xoắn, sáng như kim cương dưới ánh mặt trời, trong khi các trái cây được nước mưa rửa sạch, phơi bày mầu sắc của lớp vỏ, từ mầu sáng dịu, ngày qua ngày đã nhuộm vẻ trái chín. Chỉ có nho và oliu là còn xanh, cứng, lẫn lộn với mầu xanh của lá. Nhưng mỗi trái ôliu có một giọt nước đọng ở đuôi, và các trái mọc liền nhau tạo thành một cái lưới bằng giọt nước treo bám vào cuống.
- Hôm nay đi bộ sẽ dễ chịu chừng nào! - Phêrô nói trong khi dẵm chân lên đất, thỏa mãn vì thấy nó không còn bụi, không nóng, và không trơn trượt vì bùn.
- Tựa như ta hít thở sự trong sạch - Juđa Thađê trả lời ông. “Nhưng hãy nhìn mầu sắc của nền trời!”
- Và những cây táo này! - Zêlote nói - “nhóm trái này mọc kín chung quanh cành. Tôi không biết làm sao nó có thể mang một trọng lượng như vậy! Một đống táo với một túm lá lòi ra! Bao nhiêu là mầu! Những trái này hơi bị khuất, mầu xanh vừa mới bắt đầu ửng vàng. Những trái khác thì đã có mầu tía. Hai trái này lộ ra trước mặt trời thì đã đỏ hoàn toàn ở phía quay về mặt trời, trông giống như chúng được bọc sáp để niêm phong”.
354
Và họ ra đi, vừa đi vừa vui vẻ ngắm vẻ đẹp của việc tạo dựng, cho tới lúc Thađê, rồi được bắt chước bởi Tôma, rồi các người khác, xướng lên bài thánh vịnh ca ngợi vinh quang Thiên Chúa trong tạo vật.
Giêsu mỉm cười khi nghe họ hát vui vẻ, và Người hợp ca bằng cái giọng tuyệt vời của Người. Nhưng Người không thể hát hết, vì Iscariot, trong khi những người khác tiếp tục hát, ông lại bên Người và nói: “Thưa Thầy, trong khi họ giải khuây bằng những bài hát, xin Thầy nói cho con: cuộc hành trình đi Cêsarê đã thế nào và Thầy đã làm gì ở đó. Thầy chưa nói cho con... Chỉ bây giờ mới có thể nói... Trước tiên thì có các bạn, các môn đệ và các nông dân đã tiếp đón chúng ta, rồi còn lại các bạn và các môn đệ. Bây giờ thì còn các bạn kể từ lúc các môn đệ rời chúng ta để đi trước... Con chưa có lúc nào để hỏi Thầy...”
- Con qúa lưu ý tới việc đó... Nhưng ở Cêsarê, Thầy chỉ làm như Thầy sắp làm trong lãnh địa của Giocana. Thầy đã nói về Lề Luật và về Nước Trời.
- Nói với ai?
- Với dân chúng, ở gần chợ.
- A! Không nói với người Rôma à? Thầy không gặp họ sao?
- Làm sao tới Cêsarê, nơi tọa lạc của dinh Tổng Tài mà lại không gặp các người Rôma?
- Con biết, nhưng con nói... đây... Thầy không nói với họ với tính cách cá nhân sao?
- Thầy nhắc lại: con qúa quan tâm tới việc đó!
- Không, thưa Thầy, chỉ là tò mò thôi.
- Vậy thì Thầy đã nói chuyện với các bà Rôma.
- Với cả Claudia nữa? Bà ta đã nói gì?
- Không nói gì cả, vì Claudia không ra mặt, và cả đến bà đã cho Thầy hiểu rằng bà không muốn cho người ta biết những liên lạc của bà với chúng ta - Giêsu nhấn mạnh câu nói và quan sát Judas. Mặc dầu trơ trẽn, ông cũng biến sắc. Mặt ông thành tái vàng như mầu đất sau khi đã hơi đỏ.
355
Nhưng ông lẹ làng lấy lại bình tĩnh và nói: “Bà ta không muốn à? Bà ta không còn tôn kính Thầy nữa? Đó là bà điên”.
- Không. Bà ta không điên. Bà rất quân bình. Bà biết phân biệt và tách rời bổn phận là dân Rôma của bà với bổn phận đối với chính mình. Với chính mình bà, với thần trí của bà thì bà tìm ánh sáng và hơi thở bằng cách đến với Ánh Sáng và sự Trong Sạch, vì đó là một tạo vật mà bản năng nó là tìm Chân Lý, và bà không thỏa mãn vì những dối trá của các thuyết ngoại giáo. Nhưng bà không muốn làm tổn thương cho quê hương bà, dù là một cách lý thuyết, điều có thể làm cho người ta nghĩ rằng bà về phe với một kẻ tranh giành có thể có đối với Rôma...
- Ôi! nhưng... Thầy là vua thần trí.
- Nhưng chính các con là những người biết điều đó mà các con còn chưa nhìn nhận. Con có thể chối vậy không?
Judas đỏ mặt, rồi lại tái mét. Ông không thể nói dối, nên ông nói: “Không! Nhưng vậy là qúa nhiều tình yêu là...”
- Nói cho đúng, một người không biết Thầy, tức là Rôma, có thể sợ Thầy là một kẻ tranh quyền. Claudia hành động ngay thẳng đối với Thiên Chúa cũng như đối với quê hương bà, bằng cách dành cho Thầy danh dự, nếu không được như một Thiên Chúa, thì cũng được như ông Vua và ông Thầy siêu nhiên, và bằng cách dành cho quê hương bà sự trung thành. Thầy, Thầy cảm phục những tâm hồn trung thành và công chính, không lỳ lợm. Và Thầy muốn rằng tông đồ của Thầy đáng được hưởng lời khen mà Thầy dành cho dân ngoại.
Judas không biết nói sao. Ông tính cáo từ Thầy, nhưng sự tò mò lại châm chích ông. Nhưng còn hơn tò mò, đó là sự ước ao muốn biết Thầy đã biết câu chuyện tới mức nào ... Ông hỏi: “Các bà có hỏi con không?”
- Không hỏi con, cũng không hỏi tông đồ nào khác.
- Nhưng... Vậy qúi vị nói về chuyện gì?
- Về đời sống trong trắng, về thi hào Virgile của họ. Con thấy đó là đề tài không hấp dẫn gì với Phêrô, Gioan cũng như những người khác.
356
- Nhưng... có lợi gì?... những đàm thoại vô ích...
- Không. Thầy đã dùng nó để làm cho họ hiểu rằng người trong sạch thì có một tinh thần sáng suốt và một con tim ngay thẳng. Điều đó rất hay đối với dân ngoại... Và không phải chỉ với các bà mà thôi đâu.
- Thầy có lý. Con không giữ Thầy lâu hơn nữa đâu - và ông bỏ đi, hầu như chạy, đến với những người khác đã nghỉ hát, và đang đứng chờ hai người đi lùi ở đàng sau...
Giêsu từ từ đến với họ, Người họp mặt với họ và nói: “Chúng ta hãy đi con đường có cây cối này, chúng ta sẽ rút ngắn đường đất và được che mặt trời, vì đã nắng gắt rồi. Chúng ta cũng có thể dừng lại dưới bóng cây để ăn uống yên tĩnh với nhau”.
Và họ làm như vậy trước khi đi hướng về phía tây bắc, chắc là về vùng đất của Giocana, vì tôi nghe họ nói tới các nông dân và các pharisiêu.
121* GIÊSU VÀ TỔ CHIM BỊ RƠI
Tôi thấy Giêsu mặc áo trắng với áo khoác mầu xanh dương đậm lật ra trên vai, đang đi trên con đường nhỏ có nhiều cây cối, hai bên đường có nhiều cây lớn và cây trung bình. Con đường nằm giữa mầu xanh lá cây, nhưng đây không phải là nơi thanh vắng và xa dân chúng, vì người ta hay gặp trên đường này những người khác nữa. Có thể nói đây là con đường nối liền hai làng kề nhau, bằng cách băng qua vùng trồng trọt của người dân. Đây là vùng đồng bằng, ta nhìn thấy núi ở xa. Tôi không biết đây là miền nào. Giêsu đang nói chuyện với các đồ đệ thì Người dừng lại, nghe ngóng và nhìn hết chung quanh Người. Rồi Người đi vào một con đường rừng, hướng về một khóm cây cao và cây trung bình. Người cúi xuống để tìm. Người tìm thấy ở trong đám cỏ một tổ chim. Tôi không biết nó bị rơi vì cơn bão, có thể nghĩ vậy, vì mặt đất ướt, và các cành còn nhỏ nước như sau cơn mưa, hay nó đã bị người nào
357
lấy rồi lại để vào chỗ đó để tránh kẻ khác bắt cả ổ. Điều đó tôi không biết, tôi chỉ thấy một tổ chim đan kết bằng những cộng rác, ở trong để đầy lá khô, lông măng và len, trong đó có năm con chim nhỏ rộn ràng kêu liếp chiếp. Chúng mới nở độ vài ngày, đỏ hoe, không lông lá, xấu xí với những cái mỏ mở rộng và những con mắt lồi. Bên trên, trên những cành cây cao, cha mẹ chim phát ra những tiếng kêu tuyệt vọng.
Một cách nhẹ nhàng cẩn thận, Giêsu lượm tổ chim lên, Người giữ nó trong lòng bàn tay và đảo mắt tìm chỗ nó đã ở trước, hoặc tìm nơi nào đó để có thể đặt tổ chim một cách an toàn. Người tìm thấy một chỗ có các cành của cây mâm xôi đan vào nhau rất tốt, giống như nó tạo thành một cái rổ, ở sâu trong một bụi rậm mà tổ chim ở đó sẽ rất an toàn. Người liền trao tổ chim cho Phêrô. Thật tức cười khi nhìn ông Phêrô lùn tè với tổ chim trong bàn tay ngắn đầy cục chai. Không lưu ý tới những mũi gai có thể đâm vào tay, Giêsu thắn tay áo dài và rộng của Người lên và làm cho chỗ lá mâm xôi đan vào nhau thành sâu hơn, che kín hơn. Khi xong, Người lấy lại tổ chim và đặt vào giữa, rồi buộc chặt nó bằng những cộng cỏ dài hình trụ, giống như cây lác rất nhỏ.
Tổ chim đã an toàn, Giêsu tránh ra và mỉm cười. Rồi Người hỏi xin một mẩu bánh ở một đồ đệ có cái túi đeo ở vai, Người bẻ vụn ra, rắc một ít trên đất và trên tảng đá lớn. Bây giờ Người bằng lòng, Người quay lại để trở ra con đường lớn trong khi các con chim lao xuống trên chiếc tổ được cứu với những tiếng kêu vui mừng.
Một nhóm mấy người đi đường dừng lại ở bờ đường. Giêsu thấy họ ở trước mặt Người và Người nhìn họ. Nụ cười liền biến mất trên khuôn mặt Người. Người trở thành nghiêm nghị, tôi nói là tối sầm, trong khi Người vừa đầy tình thương để lượm tổ chim và rất vui tươi khi thấy nó được yên vị.
Giêsu dừng lại và nhìn những chứng nhân bất chợt của Người, tựa như Người nhìn thấy con tim họ và những tư tưởng sâu kín của họ. Người không thể đi qua, vì nhóm người đứng chắn đường, nhưng Người nín lặng.
358
Phêrô không thể nín lặng, ông nói: “Tránh ra cho Thầy đi nào!”.
- Im đi! Tên Nazarét! - một người trong nhóm trả lời. “Làm sao Thầy ông lại được phép vào rừng của tôi và hoàn tất ở đó một công việc chân tay trong ngày Sabát?”
Giêsu nhìn ông ta ngay vào mặt với một biểu lộ kỳ lạ: đó là, và đó không phải là một nụ cười. Dẫu sao, đó không phải là nụ cười ưng thuận. Phêrô sắp đối đáp, nhưng Giêsu lên tiếng: “Ông là ai?”
- Là chủ của nơi này: Giocana Ben Zacchai.
- Luật sĩ nổi danh. Vậy ông trách tôi điều gì?
- Đã vi phạm ngày Sabát.
- Giocana Ben Zacchai, ông biết sách Đệ Nhị Luật không?
- Ông hỏi ngay tôi điều đó à? Ngay tôi, vị rabbi thực sự của Israel?
- Tôi biết ông muốn nói với tôi rằng tôi, không phải luật sĩ, mà chỉ là tên Galilê tội nghiệp, không thể như rabbi. Nhưng tôi hỏi lại ông: “Ông biết sách Đệ Nhị Luật không?”
- Chắc chắn là biết hơn ông.
- Biết từng chữ... chắc chắn, nếu đó là điều ông muốn nói. Nhưng ý nghĩa thực sự của nó, ông biết không?
- Điều đã nói là nói, nó chỉ có một ý nghĩa.
- Thực sự nó chỉ có một ý nghĩa, và đó là ý nghĩa của tình yêu, hay là lòng thương xót nếu ông không muốn gọi nó là tình yêu; hoặc nữa, nếu gọi như vậy làm ông chướng tai, thì hãy gọi nó là tình người đi.
Và sách Đệ Nhị Luật nói: “Nếu ngươi thấy một con cừu hay một con bò của anh em ngươi đi lạc, dù anh ta không ở gần nhà ngươi, thì ngươi cũng không được bỏ qua, nhưng ngươi dắt nó về cho anh ta, hay ngươi giữ lấy nó cho tới khi anh ta đến lấy”. Sách nói: “Nếu ngươi thấy một con bò hay con lừa của anh em ngươi ngã qụi, ngươi đừng làm như ngươi không nhìn thấy, nhưng hãy giúp cho nó đứng dậy”. Sách nói: “Nếu ngươi tìm thấy ở dưới đất hay ở trên cây một tổ chim với con mẹ đang ấp trứng hay ủ con nó, ngươi sẽ không bắt con mẹ, vì nó được thánh hiến để đồng sáng tạo, nhưng ngươi chỉ
359
bắt các con nhỏ thôi”.
Tôi đã nhìn thấy một tổ chim rơi xuống đất, và một con mẹ khóc ở trên, tôi thương nó, bởi vì đó là một con mẹ, và tôi trả các con nó cho nó. Tôi cho là không vi phạm ngày Sabát vì đã an ủi một bà mẹ. Người ta không được để cho lạc con cừu của người anh em. Lề Luật không nói rằng sẽ là một tội khi nâng dậy một con lừa vào ngày Sabát, Luật chỉ nói rằng phải dùng tình thương đối với người anh em và tình người đối với con lừa, tạo vật của Thiên Chúa. Tôi cho rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên con mẹ này để nó đồng tạo dựng, và nó đã vâng lệnh Thiên Chúa, và việc ngăn cản nó nuôi con nó tức là đặt trở ngại cho việc vâng lệnh Thiên Chúa của nó. Ông và các người của ông, các ông nhìn vào các chữ mà không nhìn vào tinh thần. Ông và các người của ông, các ông không nghĩ rằng các ông đã vi phạm ngày Sabát hai lần, cả đến ba lần khi hạ thấp lời Thiên Chúa tới cấp nhỏ nhen của tâm tính con người, khi làm trở ngại mệnh lệnh của Thiên Chúa, khi thiếu tình thương đối với tha nhân. Để làm thương tổn bởi một lời khiển trách, các ông không nghĩ rằng nói lời đó là xấu khi không cần. Tuy nhiên đó là một việc làm, một điều vô ích, không cần và không tốt, mà các ông lại không thấy đó là việc vi phạm ngày Sabat!
Giocana Ben Zacchai, nghe tôi đây: Hôm nay ông đã không thương một con chim bông lau đầu đen, và nhân danh những thực hành pharisiêu, ông để nó chết vì đau khổ, và ông sẽ làm các con nhỏ của nó chết bởi rắn độc hay người tàn ác. Ngày mai, cũng bằng cách như vậy, ông sẽ không thương xót một bà mẹ, ông sẽ làm cho bà chết vì đau khổ khi ông cho giết hậu duệ của bà và nói rằng như vậy là tốt, là kính trọng luật của ông, của ông chứ không phải của Thiên Chúa, những luật mà ông và các người giống như ông, những kẻ mạnh, đã làm ra để đàn áp kẻ yếu và thắng họ. Nhưng các ông thấy gì? Những kẻ yếu luôn luôn tìm được một vị cứu tinh, trong khi những kẻ kiêu căng, những kẻ mạnh theo luật của thế giới, sẽ bị nghiền nát dưới sức nặng, ngay cả dưới trọng lượng của các luật nặng nề của họ. Chào Giocana Ben Zacchai. Hãy nhớ lấy giờ này
360
và coi chừng để đừng vi phạm một ngày Sabát nữa bởi sự vui mừng vì tội ác đã hoàn thành.
Và Giêsu ném một cái nhìn như sét trên mặt của ông già đang cháy bừng lửa giận. Người nhìn ông ta từ đầu tới chân, vì ông luật sĩ là người lùn và phì nộn, còn Giêsu ở trước mặt ông, vươn lên như cây thốt nốt. Người đi qua ở bên cạnh ông, đạp lên cỏ, vì ông luật sĩ không tránh chỗ.
122* “PHÚC CHO KẺ BIẾT NHÌN THẤY
THIÊN CHÚA TRONG MỌI SỰ”
Chúa Giêsu nói:
Cha muốn nâng cao tâm hồn con lên bằng một thị kiến thực sự, chưa được các sách Tin Mừng ban tặng để chiêm niệm.
Đối với con, điều giáo huấn chính là: Cha rất thương xót các con chim không có tổ, dù thay vì gọi tên nó là con chim bông lau, nó sẽ là Maria hay Gioan... Và Cha lo lắng để lại ban cho nó một cái tổ khi có một biến cố nào đó đã lấy mất của nó.
Đây là giáo huấn cho mọi người: Qúa nhiều người biết các chữ của Lề Luật. Nói qúa tức là còn tử tế, vì số người biết luật không nhiều, trong khi đáng lẽ mọi người phải biết. Nhưng họ chỉ biết các “từ”, họ không sống nó. Đó là sự sai lầm.
Sách Đệ Nhị Luật mô tả các luật của tình người, vì khi đó loài người có một tinh thần ngây ngô, họ thô thiển, hầu như nửa mọi rợ. Phải cầm tay dắt họ bởi những con đường đầy hoa của tình thương, của sự kính trọng, của tình yêu đối với anh em bị mất một con vật, đối với con vật bị té, đối với con chim đang ấp ổ, để dạy họ nâng lòng lên tới một tình thương, một sự kính trọng, một tình yêu cao hơn.
Nhưng khi Cha đến, Cha đã hoàn thiện hóa các giáo điều của Môise, và Cha mở ra một chân trời bao la hơn. Các chữ không còn là “tất cả” nữa, chính tinh thần đã trở nên cái “tất cả”. Bên ngoài những hành vi nhỏ mọn của tình người đối với tổ chim và đối với
361
tha nhân, phải nhìn vào câu trả lời mà cử chỉ của Cha có ý chỉ: Cha cúi xuống, Cha, Con Đấng Tạo Hóa, trước công trình sáng tạo, vì kể cả cái tổ chim này cũng là công trình của Người.
Ôi! Phúc cho những kẻ biết nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi sự và phục vụ Người với tình yêu trọng kính! Khốn cho những kẻ giống như loài rắn, không biết cất đầu cao lên khỏi bùn của họ, và không thể có lời ca tụng Thiên Chúa, đấng tỏ mình ra trong các công việc của anh em. Chúng cắn, vì chúng bị ứ chất độc, và chúng bị ngộp vì chất độc này. Có rất nhiều kẻ hành hạ các người tốt. Và để biện minh cho sự độc ác của họ, họ nói rằng cần phải làm như vậy vì kính trọng lề luật, các luật của họ chứ không phải của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa không thể ngăn cản các việc ác của họ, Người cũng biết báo thù cho các con cái của Người.
Chớ gì điều này đến được với những kẻ cần phải được cho.
Nguyện sự bình an chu đáo cẩn mật của Cha luôn ở trên con.
123* KHI ĐI TIẾP TRONG
ĐỒNG BẰNG ESDRELON
Sau chuyện lôi thôi bất ngờ, họ yên lặng tiến bước một thời gian cho tới khi con đường tách đôi ra trong cánh đồng. Lúc đó Giacôbê Zêbêđê nói: “Đó, từ đây là đường để đi tới nhà Michée... Nhưng... chúng ta còn tới đó nữa không? Chắc chắn người đó chờ chúng ta trong lãnh địa của ông để ngược đãi chúng ta...”
- Và để ngăn cản Thầy nói với các nông dân. Giacôbê có lý. Đừng tới đó nữa - Iscariot khuyên.
- Họ đang chờ Thầy. Thầy đã cho người nói với họ là Thầy tới. Con tim của họ đang mừng lễ. Thầy là người bạn tới để an ủi họ...
- Lần khác Thầy sẽ tới. Họ sẽ cam chịu - Judas nói trong khi nhún vai.
- Con, con không cam chịu dễ dàng khi người ta lấy mất của con
362
một điều mà con trông đợi.
- Của con là những điều quan trọng, của họ thì...
- Vậy còn gì quan trọng hơn, lớn lao hơn việc đào tạo, củng cố cho các tâm hồn? Họ là những tâm hồn mà mọi âm mưu đều nhắm làm cho họ ra xa sự bình an và hy vọng... Và họ chỉ có một hy vọng: Hy vọng vào đời tương lai. Và họ chỉ có một phương tiện để đạt tới, đó là sự giúp đỡ của Thầy. Đúng, Thầy sẽ đến với họ, dù có liều mình bị ném đá.
- Không anh ơi! Không Chúa ơi! - Giacôbê Alphê và Zêlote cùng nói. “Điều đó chỉ làm cho những người đầy tớ khổ sở này bị phạt thêm. Thầy không nghe thấy, nhưng Giocana đã nói: ‘Từ trước tới giờ tôi đã chịu đựng, nhưng bây giờ tôi sẽ không chịu đựng nữa. Khốn cho tên đầy tớ nào đến với hắn và kẻ nào đón nhận hắn. Đó là tên bị đày hỏa ngục, một thằng qủi. Tôi không muốn có sự đồi bại trong nhà tôi’. Và ông nói với một người bạn ông : ‘Cho dù có phải giết chúng, tôi cũng sẽ chữa chúng cho khỏi cái bệnh bị Satan hóa bởi cái tên đáng nguyền rủa này’”.
Giêsu cúi đầu suy nghĩ... Người đau khổ. Sự đau đớn của Người rất tỏ tường... Những người khác cũng khổ, nhưng làm sao đây? Rồi chính sự thực tế trong sáng của Tôma đã giải quyết cho hoàn cảnh: “Chúng ta hãy làm như vầy: chúng ta sẽ ở lại đây cho tới hoàng hôn để không vi phạm ngày Sabát. Trong khi đó, một người trong chúng ta sẽ tới nhà họ để nói: ‘Vào giữa đêm, gần hồ nước ở bên ngoài Séphoris’. Và chúng ta, sau hoàng hôn, chúng ta đến đấy và chờ tại những bụi cây ở chân ngọn núi mà Séphoris được xây ở trên. Thầy sẽ nói với những kẻ khốn nạn đó, an ủi họ. Rồi vào tia sáng đầu tiên của ngày, họ sẽ trở về nhà họ, còn chúng ta, chúng ta băng qua đồi để về Nazarét”.
- Tôma có lý. Hoan hô Tôma! - nhiều người nói. Nhưng Philíp lưu ý họ: “Vậy ai sẽ đi báo tin? Ông ta biết tất cả chúng ta, và ông ta có thể nhìn thấy chúng ta...”
- Judas Simon có thể tới đó. Anh ta rất quen thuộc với các pharisiêu... - Andrê nói cách ngây thơ.
363
- Anh muốn xỏ xiên điều gì? - Judas hỏi cách gây gổ.
- Tôi à? Đâu có gì. Tôi nói rằng anh biết họ, vì anh đã ở lâu năm trong Đền Thờ, và anh có nhiều bạn bè. Anh luôn luôn tự hào điều đó. Người ta đâu có làm hại gì cho bạn bè... - người hiền Andrê nói.
- Đừng nghĩ như vậy. Anh biết không? Đừng ai nghĩ như vậy cả. Nếu chúng ta còn một tí sự che chở của Claudia thì có lẽ... tôi có thể. Nhưng bây giờ là hết rồi. Tóm lại là bây giờ bà ta hết tha thiết với chúng ta rồi. Phải không Thầy?
- Claudia tiếp tục ngưỡng mộ Nhà Hiền Triết. Bà chưa bao giờ làm gì hơn điều đó. Có lẽ từ sự ngưỡng mộ này, bà sẽ đi tới đức tin vào Thiên Chúa thật. Nhưng chỉ cái ảo ảnh của một thần trí bị kích thích mới có thể tin là bà có những tình cảm khác đối với Thầy. Nhưng giả sử như bà ta có những tình cảm khác đó thì Thầy lại không muốn. Thầy còn có thể chấp nhận cái tôn giáo dân ngoại của bà, vì Thầy hy vọng biến đổi nó thành Kitô giáo. Nhưng Thầy không thể chấp nhận cái phần ngẫu tượng của họ: việc thờ một người, một tà thần tội nghiệp, ở trên một cái ngai tội nghiệp của loài người.
Giêsu nói những lời đó cách bình tĩnh, tựa như Người giáo huấn cho tất cả. Nhưng giọng nói rất sắc bén tới nỗi nó không để cho có một nghi ngờ nào về ý hướng và ý muốn của Người, là ngăn cản mọi chuyển hướng của ý nghĩa này nơi các tông đồ. Không ai đối đáp gì về chuyện có liên can tới vương quốc loài người, họ chỉ hỏi: “Chúng ta sẽ làm gì cho các nông dân?”
- Tôi sẽ đi tới đó. Chính tôi đã đề nghị điều đó thì tôi sẽ đi nếu Thầy cho phép. Chắc chắn là các pharisiêu chả ăn thịt tôi đâu - Tôma nói.
- Đi đi. Lòng bác ái của con được chúc phúc.
- Ôi! Thầy, chuyện nhỏ nhặt mà!
- Đó là chuyện lớn đó Tôma. Con đã cảm được nỗi ước ao của các anh em con, tức là của Giêsu và các nông dân, và con thương xót. Người anh của con theo xác thể cũng chúc phúc cho con nhân danh họ - Giêsu nói khi đặt tay trên đầu Tôma đang cúi xuống trước
364
mặt Người. Ông cảm động, thì thầm: “Con... anh em của Thầy sao?! Qúa vinh dự, Chúa của con. Con, đầy tớ của Thầy. Thầy, Thiên Chúa của con... Như vậy thì được... Con đi”.
- Anh đi một mình à? Tôi cũng đi! - Thađê và Phêrô nói.
- Không. Các anh qúa hung hăng. Tôi, tôi biết biến tất cả thành trò cười... Đó là phương tiện tốt nhất để giải giới một số... tính nết. Các anh sẽ bắt lửa ngay... Tôi đi một mình.
- Tôi đi với! - Gioan và Andrê nói.
- A! Được, một trong hai anh, được, kể cả một người như Simon Zêlote và Giacôbê Alphê cũng được.
- Không, không. Tôi thì tôi không bao giờ phản ứng. Tôi nín thinh và tôi hành động - Andrê nhấn mạnh.
- Vậy đi - và họ đi về một phía, trong khi Giêsu với những người ở lại theo con đường khác.
124* VỚI CÁC NÔNG DÂN CỦA GIOCANA
- Họ sắp tới chưa? - Mathêu hỏi các bạn ông khi họ đang ngồi dưới rừng sồi xanh ngát, tại bờ dốc đầu tiên của ngọn đồi, dưới chân thành Séphoris. Người ta không nhìn thấy đồng bằng Esdrelon nữa, vì nó ở phía bên kia ngọn đồi nơi họ đang ở, nhưng có một đồng bằng rất nhỏ hơn nằm giữa ngọn đồi này và các đồi của vùng Nazarét mà người ta nhìn thấy rõ dưới ánh trăng thanh.
- Họ đã hứa, họ sắp đến - Andrê trả lời.
- Ít nhất là vài người trong đám họ. Họ đã ra đi vào giữa vọng canh thứ nhất, và họ sẽ tới nơi vào đầu vọng canh thứ hai - Tôma nói.
- Có lẽ trễ hơn - Thađê nói.
- Chúng tôi đã đi trong gần ba tiếng - Andrê đối đáp.
- Chúng ta là đàn ông và khỏe mạnh, họ thì mệt mỏi và có cả phụ nữ - Thađê lại nói.
- Miễn là ông chủ không nhận ra! - Mathêu xít xoa.
365
- Không nguy hiểm, vì ông ta đã tới nhà một người bạn ở Zezrael. Cũng có tên quản lý. Anh ta cũng tới, vì anh ta không ghét Thầy - Tôma nói.
- Người đó có chân thành không? - Philíp hỏi.
- Có, vì anh ta không có lý nào để không chân thành.
- Hé! Được ân huệ của ông chủ và...
- Không đâu Philíp. Sau vụ mùa này, Giocana sẽ đuổi anh, một cách chính xác là vì anh ta không ghét Thầy - Andrê trả lời.
- Ai nói vậy? - nhiều người hỏi.
- Anh ta và các nông dân... mỗi người về phía họ. Khi hai người thuộc loại khác nhau đồng ý với nhau để nói một điều gì, thì đó là dấu chỉ điều họ nói là thật. Các nông dân khóc vì viên quản lý ra đi. Ông ta đã trở nên rất nhân đạo. Ông ta đã nói với chúng tôi: “Tôi là một người chứ đâu phải một con múa rối. Năm ngoái ông ta bảo tôi: ‘Hãy tôn kính ông Thầy, hãy lại gần ông ta, hãy là tín hữu của ông ta’. Tôi đã vâng lời. Bây giờ ông lại nói: ‘Khốn cho mày nếu mày yêu kẻ thù của tao và mày cho phép chúng yêu hắn. Tao không muốn đất đai của tao bị nguyền rủa vì tiếp đón tên bị nguyền rủa này’. Nhưng bây giờ tôi đã biết Người, làm sao tôi có thể coi mệnh lệnh này là chính đáng? Tôi đã nói với ông chủ tôi: ‘Ông nói khác với năm ngoái, mà Người thì vẫn là vậy’. Ông ta đã đánh tôi lần thứ nhất. Tôi đã nói: ‘Tôi không phải là một nô lệ, mà dù tôi có là nô lệ thì ông cũng không thể chiếm đoạt được tư tưởng của tôi. Tư tưởng của tôi phán đoán là thánh, người mà ông gọi là kẻ bị nguyền rủa’. Ông ta lại đánh tôi. Sáng nay ông ta nói với tôi: ‘Kẻ bị khai trừ của Israel đang ở trong lãnh địa của tao. Khốn cho mày nếu mày vi phạm mệnh lệnh của tao, mày sẽ không được làm đầy tớ của tao nữa’. Tôi đã trả lời ông: ‘Ông nói đúng, tôi sẽ không là đầy tớ của ông nữa. Hãy tìm một người khác có con tim như ông, một kẻ tham lam cho của cải của ông cũng như ông tham lam linh hồn người khác’. Ông ta đã quăng tôi xuống đất và đánh tôi... Nhưng công việc của năm nay sắp hết, và đến tuần trăng tháng Tisri là tôi sẽ tự do. Tôi chỉ ân hận cho họ - và ông ta chỉ vào các nông dân.
366
Tôma kể.
- Các anh đã gặp ông ta ở đâu?
- Trong rừng cây, tựa như chúng tôi là kẻ trộm. Chúng tôi đã nói chuyện với Michée, và Michée đã báo tin cho ông ta, ông ta đến, vẫn còn đầy vết máu. Còn các đầy tới nam nữ thì tới từng nhóm nhỏ... - Andrê nói.
- Hum! Vậy là Judas có lý. Anh ta biết tính tình của các pharisiêu - Batôlômêo lưu ý.
- Judas biết qúa nhiều chuyện!... - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Nín đi, anh ta có thể nghe thấy - Mathêu khuyên.
- Không, anh ta đã lỉnh đi xa, lấy cớ là buồn ngủ và đau đầu - Giacôbê trả lời.
- Cung trăng! Cung trăng trên trời và cung trăng trong đầu anh ta. Anh ta như vậy đó! Hay thay đổi còn hơn là gió nữa - Phêrô nói rì rầm. Từ nãy tới giờ thì ông nín thinh.
- Hé! Đúng. Một bất hạnh thực sự giữa chúng ta! - Batôlômêo thở dài.
- Không. Đừng nói vậy. Đừng nói là bất hạnh. Tốt hơn, hãy nói: một phương tiện để tự thánh hóa... - Zêlote nói.
- Hay để tự kết án, vì anh ta làm mất các nhân đức... - Thađê nói bằng giọng sắc nhọn.
- Đó là một kẻ khốn nạn! - Andrê buồn rầu bình luận.
Một lúc yên lặng. Rồi Phêrô hỏi: “Thầy vẫn còn cầu nguyện à?”
- Không. Đang lúc anh ngủ, Người đã đi qua để đến với Gioan và anh Giacôbê của Người, được đặt làm lính gác trên đường. Người muốn ở gần các người nông dân ngay lập tức. Có lẽ đây là lần sau cùng Người gặp họ - Zêlote trả lời.
- Tại sao lại là lần sau cùng? Tại sao? Đừng nói vậy, giống như anh mang xui xẻo! - Thađê nói, hoàn toàn lo âu bồn chồn.
- Bởi vì... anh thấy đó. Chúng ta càng lúc càng bị bách hại... Tôi không biết trong tương lai chúng ta sẽ làm sao...
- Simon có lý... Hé! Hoàn toàn siêu nhiên, quả là điều rất đẹp.
367
Nhưng... Nếu được phép có một tí... nhân loại... Một tí sự bảo vệ của Claudia, đâu có thiệt hại gì cho chúng ta - Mathêu nói.
- Không. Tốt hơn là tự túc... Nhất là đừng tiếp xúc với dân ngoại. Tôi... Tôi không đồng ý vậy - Batôlômêo nói qủa quyết.
- Một tí thôi, tôi cũng vậy - Thađê nói. “Nhưng Thầy đã nói là giáo thuyết của Người sẽ lan tràn ra khắp thế giới, và chính chúng ta phải làm việc đó... Gieo rắc lời Người ở khắp nơi... Vậy chúng ta phải tập quen tới gần dân ngoại và các kẻ thờ ngẫu tượng”.
- Những kẻ dơ bẩn. Tôi thấy như làm điều phạm thánh. Quăng sự Khôn Ngoan cho loài heo!...
- Natanael! Họ cũng có một linh hồn. Anh đã thương hại con bé hôm qua mà...
- Bởi vì... đó là... đó là cái số không phải đào tạo. Nó giống như đứa mới sinh... Nhưng những người khác... Hơn nữa, nó không phải người Rôma.
- Anh nghĩ là dân Gaule ít tà thần hơn sao? Họ cũng có những ông thần độc ác. Anh sẽ nhận ra nếu anh phải đi hoán cải họ - Zêlote nói. Ông là người học thức hơn những người khác, tôi nói là người theo chủ nghĩa thế giới đại đồng hơn.
- Nhưng con bé không phải là nòi giống phạm thánh đối với Israel. Tôi, tôi sẽ không giảng đạo cho kẻ thù của Israel, dù kẻ thù hiện tại hay qúa khứ.
- Vậy là... Anh phải đi rất xa, tới tận bắc cực, bởi vì... hình như không... Nhưng Israel đã thưởng thức hết các dân lân bang - Tôma nói.
- Tôi sẽ đi xa... Nhưng Thầy kìa! Tới gặp Người đi. Đông người qúa trời! Ôi! Họ đến tất cả, cả đến con nít...
- Thầy hẳn mừng lắm...
Họ đến với Thầy khi Người tiến bước khó lòng trong đồng cỏ, vì bao nhiêu người vây quanh quấn lấy chân Người.
- Judas còn vắng mặt à? - Giêsu hỏi.
- Thưa Thầy vâng. Nhưng nếu Thầy muốn, chúng con sẽ đi gọi anh.
368
- Không cần. Tiếng Thầy sẽ vang tới nơi anh ta ở, và lương tâm tự do của anh ta sẽ nói với anh ta bằng ngôn ngữ riêng của nó. Không nên thêm tiếng nói của các con vào đó để ép buộc một ý muốn. Lại đây, chúng ta ngồi chỗ này với họ là anh em của chúng ta. Và xin tha cho Thầy vì Thầy không thể bẻ bánh với các con trong bữa ăn tình yêu.
Họ ngồi vòng tròn với Giêsu ở giữa. Giêsu muốn cho các trẻ em ở chung quanh Người. Chúng ép sát vào Người, đầy tin tưởng, và Người vuốt ve chúng.
- Xin Chúa chúc lành cho chúng, để chúng được thấy điều mà chúng con ước ao thấy: Sự tự do để yêu Thầy - một phụ nữ kêu lên.
- Vâng. Họ đã lấy mất của chúng con cả điều đó. Họ không muốn cho lời Thầy ghi khắc trong tim chúng con. Và bây giờ họ lại ngăn cản chúng ta gặp nhau bằng cách cấm chúng con đến với Thầy... Chúng con sẽ không được các lời thánh nữa! - một ông già rên rỉ.
- Bị bỏ rơi thế này, chúng con lại trở thành tội nhân. Thầy đã dạy chúng con tha thứ... Thầy đã cho chúng con biết bao tình yêu để chúng con có thể chịu đựng ông chủ và sự độc ác của ông... Nhưng bây giờ... - một thanh niên nói. Tôi không phân biệt được các khuôn mặt và tôi không biết chắc là ai nói, tôi chỉ căn cứ vào giọng nói.
- Đừng khóc. Thầy không để các con thiếu lời Thầy đâu. Thầy sẽ còn trở lại, bao lâu Thầy có thể...
- Không. Lạy Thầy và Chúa. Ông ta độc ác, và các bạn ông cũng vậy. Ông ta có thể làm khổ cho Thầy, và đó sẽ là tại chúng con. Chúng con hy sinh bị mất Thầy, nhưng đừng để chúng con phải khổ mà nói: “Tại chúng ta mà Người bị bắt”.
- Vâng. Thầy hãy giữ mình.
- Đừng sợ. Hãy đọc Jêrêmi, ông bảo người thơ ký Baruch của ông viết những điều Thiên Chúa nói với ông, và đi đọc bản viết này cho những người tụ họp trong nhà Chúa, đọc nó thay cho vị tiên tri đang bị cầm tù nên không thể tới được. Thầy cũng làm như vậy. Thầy có nhiều Baruch trung thành trong số các tông đồ và môn đệ của Thầy. Họ sẽ tới để nói lời Chúa cho các con, và tâm
369
hồn các con sẽ không hư mất. Và Thầy, Thầy sẽ không bị bắt do tại các con, vì Thiên Chúa Tối Cao sẽ che Thầy khỏi mắt họ bao lâu chưa tới giờ Vua Israel phải được tỏ ra cho đám đông, để cả thế giới được biết.
Cũng đừng sợ bị mất các lời Thầy đã ở trong các con. Người ta đọc, vẫn là trong Jêrêmi, rằng cả sau khi tác phẩm bị phá hủy bởi Joakim, vua Juđa, ông đã đốt các ru-lô, hy vọng phá hủy lời hằng sống và chân thực, những lời đã được Thiên Chúa đọc cho chép sẽ tồn tại, bởi vì Chúa truyền cho vị tiên tri: “Hãy lấy một ru-lô khác và viết vào đó tất cả những gì ở trong ru-lô đã bị ông vua đốt”. Và Jêrêmi đưa cho Baruch một ru-lô chưa dùng, và ông lại đọc cho thơ ký của ông những lời hằng sống và các lời khác nữa để bổ túc cho các ru-lô đầu, vì Chúa sửa lại những thiệt hại do loài người làm nếu đó là những điều tốt cho các linh hồn, và Người không cho phép sự oán ghét làm vô hiệu những công việc của tình yêu.
Vậy Thầy cũng thế, khi so sánh Thầy với một tác phẩm chứa đầy chân lý thánh, nếu Thầy bị phá hủy, các con lại nghĩ rằng Chúa để cho các con hư mất, mà không giúp các con bằng những tác phẩm khác, có chứa các lời Thầy và lời của các chứng nhân của Thầy, kể lại những điều Thầy không thể nói vì bị nhốt tù bởi sự hung bạo và bị chúng phá hủy sao? Và các con lại nghĩ rằng những điều đã được in trong tác phẩm của qủa tim các con có thể bị hủy hoại khi thời gian qua đi trên lời Thầy sao? Không. Thiên thần Chúa sẽ nhắc lại cho các con những lời này, và giữ cho nó luôn luôn tươi mới trong tâm hồn các con là cái muốn Sự Khôn Ngoan. Không phải chỉ vậy mà thôi, nhưng Người còn cắt nghĩa nó cho các con, và các con sẽ khôn ngoan trong lời Thầy của các con. Các con sẽ đóng ấn tình yêu của các con đối với Thầy bằng đau khổ. Có bao giờ một người kháng cự được ngay cả trong bách hại mà lại hư mất không? Người đó không thể hư. Chính Thầy nói điều đó với các con.
Ơn của Thiên Chúa sẽ không bị xóa bỏ. Chỉ có tội lỗi mới hủy diệt nó thôi. Nhưng các con, chắc chắn các con không muốn phạm
370
tội phải không, các bạn Thầy?
- Lạy Chúa, không. Như vậy sẽ bị mất Thầy, kể cả đời sau - nhiều người nói.
- Nhưng họ làm cho chúng con phạm tội. Ông ta không cho chúng con ra khỏi lãnh địa ngày Sabát... và sẽ không còn lễ Vượt Qua cho chúng con nữa. Vậy chúng con sẽ phạm tội... - những người khác nói.
- Không, các con sẽ không phạm tội. Chính ông ta phạm. Chỉ mình ông ta. Ông ta làm cho người ta vi phạm quyền lợi của Thiên Chúa và quyền lợi của con cái Thiên Chúa, quyền được ôm ấp yêu thương trong cuộc đàm thoại êm đềm của tình yêu và giáo huấn trong ngày của Chúa.
- Nhưng ông ta, ông ta sửa chữa lại bằng nhiều chay tịnh và của lễ, còn chúng con, chúng con không thể, vì lương thực của chúng con qúa ít cho sự mệt mỏi do công việc của chúng con, và chúng con chả có gì để dâng cúng... Chúng con nghèo...
- Các con dâng hiến của mà Thiên Chúa thưởng thức, đó là qủa tim các con. Isaie đã nhân danh Thiên Chúa mà nói với những người giả sám hối rằng: “Đó, trong ngày các ngươi ăn chay, ý định của các ngươi đã tỏ bày: các ngươi làm nặng nề cho các người thiếu nợ các ngươi. Đó, các ngươi ăn chay mà còn cãi lộn, nói bướng, đánh nhau, đấm đá cách vô luân thường đạo lý. Đừng ăn chay như từ trước tới nay để kêu gào cho lớn tiếng nữa. Đó có phải là sự chay tịnh mà Ta muốn không? Có phải Ta muốn rằng con người, trong một ngày, giới hạn việc hủy hoại linh hồn mình bằng cách hành hạ thân xác và ngủ trên tro không? Phải chăng đó là điều các ngươi gọi là một ngày ăn chay, một ngày đẹp lòng Thiên Chúa? Việc chay tịnh mà ta thích là điều khác hẳn: Bẻ gẫy xiềng xích của tội lỗi, tháo gỡ những bó buộc đàn áp, trả tự do cho tù nhân, lấy đi các gánh nặng, chia sẻ bánh của ngươi với kẻ đói, tiếp đón người nghèo và khách hành hương, mặc cho kẻ trần truồng và đừng khinh dể tha nhân”.
Nhưng đó không phải là những điều mà Giocana làm. Các con,
371
vì lẽ các việc mà các con làm cho ông, ông trở nên giầu có, các con là những chủ nợ của ông ta, mà ông ta đối xử với các con còn tệ hơn đối với các con nợ trả trễ kỳ. Ông cao giọng để dọa nạt các con và giơ cao tay để đập đánh các con. Ông không thương xót các con, ông khinh dể các con vì các con là đầy tớ của ông. Nhưng đầy tớ cũng là một người như ông chủ. Nếu họ có nhiệm vụ phải hầu hạ, thì họ cũng có quyền lãnh nhận hết những gì cần thiết cho một người, về vật chất cũng như tinh thần. Người ta đâu có tôn trọng ngày Sabát, dù họ có đến giáo đường, nếu cùng ngày đó, kẻ hành đạo lại trói buộc anh em, cho họ uống bồ hòn. Các con, hãy thi hành ngày Sabát của các con bằng cách nói về Chúa với nhau, và Chúa sẽ ở giữa các con. Các con hãy tha thứ, và Chúa sẽ làm vinh dự cho các con.
Thầy là mục tử tốt, Thầy thương hết mọi con chiên. Nhưng chắc chắn là Thầy thương bằng một tình yêu đặc biệt, những con mà mục tử thờ tà thần đã đánh nó để nó bỏ xa con đường của Thầy. Chính vì chúng hơn là vì mọi người khác mà Thầy đến. Bởi vì Cha Thầy cũng là Cha các con, đã ra lệnh cho Thầy rằng: “Hãy chăn dắt các con chiên này của lò sát sinh, bị giết không thương xót bởi chủ của chúng, những kẻ đã bán chúng và nói: Chúng ta sẽ làm giầu. Và các mục tử của chúng cũng không thương chúng”.
Vậy Thầy sẽ chăn dắt đoàn của lò sát sinh, ôi hỡi những con tội nghiệp của đoàn bị bỏ mặc cho sự độc ác, những kẻ làm khổ các con thì cũng làm khổ cho Chúa Cha là đấng đau khổ ở trong con cái Người. Thầy sẽ giơ tay ra cho các kẻ bé mọn để kéo họ về với Thầy, để họ được hưởng vinh quang với Thầy.
Chúa đã hứa điều đó bởi miệng các tiên tri là những vị hàng ca tụng tình thương và sức mạnh Mục Tử của Thầy. Và Thầy, Thầy hứa điều đó trực tiếp với các con là những kẻ yêu Thầy. Thầy sẽ canh chừng trên đoàn chiên của Thầy. Với những kẻ kết án các con chiên tốt là đã làm đục nước, làm hư đồng cỏ để đến với Thầy, Thầy sẽ nói: “Các ngươi hãy rút lui. Chính các ngươi đã làm khô cạn dòng suối và làm khô héo đồng cỏ của con cái Ta. Nhưng Ta sẽ
372
chăn dắt chúng và dẫn chúng tới những đồng cỏ khác, tới những đồng cỏ làm no thỏa tâm hồn. Ta để lại đồng cỏ này cho cái bụng chương phình của các ngươi; Ta để lại cho các ngươi dòng suối đắng chát mà các ngươi đã khơi ra. Còn Ta, Ta ra đi với chúng, tách rời các con chiên thật của Thiên Chúa ra khỏi các con giả, và các chiên của Ta sẽ không bị hành hạ vì điều gì nữa. Chúng sẽ vui hưởng đời đời trong đồng cỏ trên Trời”.
Hỡi các con yêu! Hãy kiên trì. Chỉ còn phải kiên nhẫn một ít thời gian nữa thôi, cũng như Thầy vậy. Hãy trung thành làm những gì ông chủ bất công của các con cho phép. Và Thiên Chúa sẽ luận xét rằng các con đã làm trọn tất cả. Đừng ghét, cho dù tất cả đều âm mưu để dạy cho các con ghét. Hãy tin nơi Thiên Chúa. Các con thấy đó: Jonas đã thoát khỏi đau khổ và Jabê đã được dẫn tới tình yêu. Chúa cũng sẽ hành động như vậy đối với các con, giống như với ông già và đứa trẻ đó, một phần ở đời này, và trọn vẹn ở đời sau.
Thầy chỉ có các đồng tiền cắc để cho các con, để làm giảm bớt một chút tình trạng bi đát của các con về vật chất. Thầy tặng chúng cho các con. Mathêu, hãy đưa cho họ để họ chia nhau. Có rất nhiều, nhưng luôn luôn là ít đối với các con, số người qúa đông và qúa rách rưới. Nhưng Thầy không còn gì nữa... về vật chất. Nhưng Thầy có tình yêu, có sức mạnh mà Thầy nắm giữ với tư cách là Con Chúa Cha, để xin cho các con kho tàng siêu nhiên vô tận, để yên ủi nước mắt của các con và soi sáng vào nơi sương mù của các con. Ôi! Cuộc đời buồn thảm mà chỉ mình Thiên Chúa có thể làm cho nên tươi sáng. Chỉ mình Người! Chỉ mình Người!
Và Thầy, Thầy nói: “Lạy Cha, chính cho họ mà con cầu xin Cha. Con không cầu xin Cha cho những kẻ sung sướng và giầu có trong thế gian, nhưng cho họ, là những kẻ chỉ có Cha và Con. Xin Cha làm cho họ lên rất cao trên con đường thiêng liêng, cho họ tìm thấy tất cả sự khích lệ trong tình yêu của chúng ta, và hãy ban chính mình chúng ta cho họ với tình yêu, với tất cả tình yêu vô tận của chúng ta, để bao phủ ngày giờ của họ, các công việc của họ bằng
373
sự bình an, sự trong sáng, sự can đảm, sức mạnh siêu nhiên, để một khi đã xa lánh thế giới vì tình yêu đối với chúng ta, họ có thể chịu đựng núi Calvê của họ, và sau giờ chết, họ được chiếm hữu Cha, chiếm hữu chúng ta, trong hạnh phúc vô tận”.
Giêsu đứng để cầu nguyện sau khi đã nhẹ nhàng tách rời những trẻ nhỏ gục vào Người để ngủ. Người êm dịu và oai phong trong lời cầu nguyện của Người.
Bây giờ Người nhìn xuống và nói: “Thầy đi, và cũng là giờ các con phải trở về nhà cho kịp giờ. Chúng ta sẽ còn gặp lại nhau. Thầy sẽ dẫn Margziam tới cho các con. Nhưng cả khi Thầy không thể đến, thì tâm hồn Thầy cũng luôn luôn ở với các con, và các tông đồ của Thầy sẽ yêu các con như Thầy đã yêu các con. Nguyện Chúa cho phúc lành của Người an nghỉ trong các con. Thôi, các con đi đi!” Người cúi xuống để vuốt ve những đứa trẻ đang ngủ, và Người để mặc cho sự bộc lộ của đám người tội nghiệp, không muốn xa rời Người.
Nhưng rồi sau cùng mỗi người cũng phải đi theo hướng của mình, và hai nhóm chia tay nhau khi mặt trăng xuống thấp. Người ta đốt cành cây để soi đường.
Làn khói chát của các cành cây còn ẩm là sự bào chữa rất tốt cho các dòng nước mắt tuôn ra...
Judas chờ họ, dựa lưng vào một thân cây. Giêsu nhìn ông và không nói gì, ngay cả khi Judas nói: “Con đã khá rồi”.
Họ tiến bước như vậy, như họ có thể lúc ban đêm, và thoải mái hơn lúc rạng đông.
Khi thấy một ngã tư, Giêsu dừng lại và nói: “Chúng ta chia tay. Đi với Thầy là Tôma, Simon Zêlote và các anh Thầy. Các người khác thì tới hồ để chờ Thầy ở đó”.
- Cám ơn Thầy... Con không dám xin Thầy, nhưng Thầy đã đi trước những ước muốn của con. Con thực sự mệt mỏi, và nếu Thầy cho phép, con sẽ dừng lại ở Tibêriat...
- Tại nhà một người bạn - Giacôbê Zêbêđê không thể kìm hãm được câu nói đó.
374
Judas trợn trừng con mắt. Nhưng ông chỉ giới hạn ở đó.
Giêsu vội vã nói: “Chỉ cần là ngày Sabát, con tới Caphanaum với các bạn con. Những con từ giã Thầy thì hãy đến hôn Thầy đi”. Và Người ôm hôn một cách tình nghĩa những người đi riêng và cho mỗi người một lời khuyên nói nhỏ tiếng.
Không ai phản đối gì cả. Chỉ có Phêrô nói khi đi: “Đến mau nhe Thầy!”
- Vâng, xin Thầy đến mau - những người khác nói. Và Gioan kết thúc: “Không có Thầy thì cái hồ sẽ buồn thiu!”
Giêsu chúc lành cho họ và hứa: “Sẽ mau thôi!” Và mỗi người đi theo đường mình.
125* TẠI NAZARÉT
Khi đi từ Séphoris, họ tới Nazarét theo hướng tây bắc, tức là bằng lối cao nhất và nhiều sỏi đá nhất. Cái đại thao trường mà Nazarét nằm ở trên hiện ra hoàn toàn rõ ràng khi họ lên tới đỉnh của ngọn đồi sau cùng. Khi đi từ Séphoris tới, nó xuống dốc nhanh về phía thành phố nhỏ bằng những khe trũng. Nếu tôi nhớ đúng - vì thời gian đã qua lâu và vì có nhiều quang cảnh miền núi giống nhau - thì chỗ Giêsu đang ở bây giờ chính là chỗ mà các người đồng hương của Người đã tính ném đá Người, và Người đã làm cho họ dừng lại bằng sức mạnh của Người, rồi Người đi qua giữa họ. (Luc. 4).
Giêsu đứng lại để nhìn thành phố thân yêu nhưng lại hận thù với Người, và một nụ cười hài lòng soi sáng khuôn mặt Người. Bao phúc lành mà các người Nazarét không biết và không đáng. Nụ cười Thiên Chúa này nở ra, trải thành ân phúc xuống trên dải đất đã tiếp đón Người lúc tuổi thơ, đã thấy Người lớn lên; nơi mẹ Người đã sinh ra, nơi mẹ đã trở thành Hiền Thê của Thiên Chúa và Mẹ Thiên Chúa.
Hai người bà con cũng nhìn thành phố của họ với niềm vui thấy
375
rõ, mặc dầu niềm vui của Thađê thì nhẹ nhàng vì cái khắc khổ nghiêm nghị hãm nó lại, trong khi cái vui của Giacôbê thì cởi mở hơn, êm dịu hơn, giống của Giêsu hơn.
Mặc dầu không phải là thành phố của ông, Tôma cũng có khuôn mặt rạng rỡ vui, và ông chỉ vào căn nhà nhỏ của Maria, nơi ống khói lò đang nhả ra những lớp khói xoắn ốc, ông nói: “Mẹ ở nhà, bà đang làm bánh...” Dường như ông nói về mẹ ông với tất cả tình cảm của một đứa con. Cái đà tình yêu của ông lớn biết bao khi ông nói những lời này!
Zêlote thì bình tĩnh hơn do tuổi tác và nền giáo dục của ông. Ông mỉm cười nói: “Đúng, và bình an của mẹ đã đến tận con tim chúng ta”.
- Ta đi lẹ lên - Giacôbê nói, “và chúng ta hãy đi bằng các ngõ hẻm để tới nhà mà không bị người Nazarét nhìn thấy, vì họ sẽ giữ chúng ta lại...”
- Nhưng các anh sẽ đi xa nhà của các anh. Mẹ các anh cũng muốn gặp các anh.
- Ôi! Simon, anh có thể chắc chắn rằng mẹ chúng tôi ở nhà Maria. Hầu như bà luôn luôn ở đó... Bà đang ở đó vì bà làm bánh và vì con bé bệnh.
- Đúng. Ta hãy đi lối này. Chúng ta sẽ đi qua phía sau vườn của Alphê để tới hàng rào của vườn nhà chúng ta - Giêsu nói.
Họ xuống dốc bởi con đường lúc đầu thì dốc mạnh, nhưng rồi thoai thoải khi đến gần thành phố. Họ đi qua các vườn oliu, rồi các mảnh ruộng trơ trụi, rồi lướt qua các mảnh vườn đầu tiên thuộc thành phố, tất cả đều được bao quanh bằng hàng rào cây cao, rậm rạp, trên đó các cành cây ăn trái mang nặng quả đã tới mùa hái, hoặc các bức tường thấp bằng đá khô ráo, ở phía ngoài phủ đầy cành cây của các vườn. Họ đi qua, không bị phát hiện bởi các bà nội trợ ra vào trong vườn hay giặt giũ và phơi đồ trên đám cỏ gần nhà...
Hàng rào cây giới hạn khu vườn của Maria ở một phía, mùa đông thì toàn là cành gai đan vào nhau, mùa xuân thì nở rộ hoa sơn
376
tra, mùa hè thì là mớ đầy lá mọc lộn xộn trước khi xuất hiện mầu nâu đỏ của mùa thu. Bây giờ nó được trang điểm bởi một cây hoa lài to lớn, và dợn sóng bởi một lớp hoa mà tôi không biết tên, từ bên trong hàng rào, các cành của nó vươn lên bên trên để tô điểm thêm cho vẻ đẹp của nó. Một con chim bông lau hát trong hàng dậu, và từ bên trong phát ra những tiếng gù gù của chim câu.
- Chiếc cổng song sắt cũng đã được sửa chữa và phủ đầy những cành có bông - Giacôbê nói. Ông chạy lên trước và nhìn qua hàng song sắt ở phía sau vườn, đã nhiều năm không dùng tới, và đã mở để cho vào và ra chiếc xe của Phêrô dùng cho Gioan Enđo và Sintica.
- Chúng ta đi qua ngõ hẻm và gõ vào cửa. Mẹ Thầy sẽ khổ khi thấy chỗ ẩn này bị phá - Giêsu trả lời ông.
- Khu vườn rào kín của bà! - Juđa Alphê kêu lên.
- Đúng. Và bà là bông hồng - Tôma nói.
- Bông huệ giữa bụi gai - Giacôbê nói.
- Bể nước niêm phong - Zêlote nói.
- Hơn nữa là: Suối nước của sự sống vọt ra mạnh mẽ từ ngọn núi cao, ban Nước của Sự Sống cho trái đất, và lao về trời với vẻ đẹp thơm ngát của Người - Giêsu nói.
- Chỉ lát nữa là mẹ sẽ sung sướng được gặp Thầy - Giacôbê nói.
- Ông anh của tôi ơi! Làm ơn nói cho tôi một điều mà tôi muốn biết từ lâu rồi: Anh coi Maria là thế nào? Như mẹ hay như bầy tôi? Đó là mẹ anh, nhưng đó là một người đàn bà, mà anh là Thiên Chúa... - Thađê nói.
- Như người chị và như Hiền Thê; như nguồn vui và sự nghỉ ngơi cho Thiên Chúa; như sự an ủi khích lệ cho Con Người. Với tư cách là Thiên Chúa cũng như là người, Thầy thấy và có được tất cả nơi Maria, một đấng là Nguồn Vui cho Ngôi Hai của Thiên Chúa Ba Ngôi trên Trời, Nguồn Vui của Ngôi Lời cũng như của Ngôi Cha và Ngôi Thánh Linh; là Nguồn Vui cho Thiên Chúa nhập thể, và mẹ sẽ là vậy cho Đấng Người-Thiên-Chúa vinh quang.
- Mầu nhiệm quá! Vậy là Thiên Chúa đã hai lần không có Niềm Vui của Người: nơi Thầy và nơi Maria, vì Người đã ban hai vị cho trái đất... - Zêlote suy niệm.
377
- Tình yêu qúa! Anh phải nói vậy. Chính tình yêu đã thúc đẩy Ba Ngôi ban Maria và Giêsu cho trái đất - Giacôbê nói.
- Và không phải cho Thầy là Thiên Chúa, mà là cho bông hồng của Người, Người không sợ giao phó bông hồng cho loài người là những kẻ hoàn toàn bất xứng để bảo vệ sao? - Tôma hỏi.
- Tôma ơi, chính Thánh Vịnh trả lời cho con: “Đấng Bình An có một vườn nho, Người giao phó nó cho các người trồng nho, các kẻ nhơ uế, bị thúc đẩy bởi tên Đại Nhơ Uế. Chúng đã hiến những món rất lớn để chiếm hữu vườn nho, tức là dùng mọi mánh khóe để lôi kéo nó. Nhưng Vườn Nho Đẹp của Chúa đã tự giữ mình. Nó chỉ muốn hiến trái của nó cho mình Chúa, và chỉ mở ra cho một mình Người, để cưu mang kho báu vô giá là: Vị Cứu Tinh”.
Họ đã tới cửa nhà. Trong khi Giêsu gõ trên khung cửa đóng, Juđa Alphê bình luận: “Bây giờ là lúc để nói: Hãy mở cho tôi, hỡi chị tôi, hiền thê tôi, người yêu, bồ câu, đấng vô nhiễm của tôi...”
Nhưng khi chiếc cửa hé mở và khuôn mặt êm dịu của Đấng Đồng Trinh xuất hiện, thì Giêsu chỉ nói một từ êm đềm khi mở cánh tay ra để nhận lấy bà: “Má!”
- Ôi! Con tôi! Chúc tụng! Hãy vào, và nguyện cho bình an và tình yêu ở với con.
- Và với mẹ của con, với nhà cửa, với những ai ở trong đó - Giêsu nói khi bước vào. Các người khác theo sau.
- Mẹ các cháu đang ở bên cạnh. Còn hai môn đệ thì đang ở lò bánh và nhà giặt... - Maria giải thích sau những lời chào kính cẩn với các tông đồ và các đứa cháu. Rồi một cách kín đáo, họ rút lui để mẹ được ở một mình với con mẹ.
- Mẹ của con! Đây, con thuộc về mẹ. Chúng ta sẽ ở với nhau ít lâu... Thật êm đềm được trở về... nhà và nhất là mẹ, ôi mẹ, sau biết bao hành trình giữa loài người...
- Họ càng ngày càng biết con, và vì sự hiểu biết này, họ chia làm hai phe: những kẻ yêu con... và những kẻ ghét con. Và nhóm đông hơn là nhóm thứ hai...
- Đứa Ác cảm thấy nó sắp bị thua nên nó nổi giận... và nó làm
378
cho người ta nổi giận. Con bé thế nào?
- Hơi đỡ một chút. Nhưng nó đã xuýt chết. Bây giờ nó không mê sảng nữa, nhưng các lời của nó, mặc dù thận trọng, vẫn phù hợp với các điều nó nói ra trong cơn mê sảng. Nếu nói rằng chúng ta đã không xây dựng lại câu chuyện của nó thì là nói dối... Con bé tội nghiệp!...
- Vâng. Nhưng Đấng Quan Phòng sẽ canh chừng trên nó.
- Bây giờ thì sao?
- Bây giờ... Con không biết. Auréa không thuộc về con. Linh hồn của nó là của con, thân xác nó thuộc về Valêria. Lúc này thì nó hãy ở đây để quên đi...
- Myrta rất muốn được nó.
- Con biết... Nhưng con không được phép hành động nếu con không có phép của bà Rôma. Con cũng không biết các bà đã chiếm được nó với giá tiền bạc hay chỉ dùng khí giới của lời hứa... Khi bà Rôma đòi nó...
- Con ơi, mẹ sẽ đi thay cho con. Con đi thì không tốt đâu... Hãy để má con làm. Chúng ta, các phụ nữ... thứ hạ cấp đối với Israel, người ta không quan sát chúng ta dù chúng ta nói chuyện với dân ngoại. Và thế giới đâu có biết gì về má của con! Chả ai chú ý đến việc một người đàn bà thuộc dân Hy Bá, bao trùm trong áo khoác, đi trên các con đường của Tibêriat và gõ vào cửa nhà một phụ nữ Rôma...
- Mẹ có thể đến nhà Jeanne... và nói chuyện với bà ta ở đó...
- Con ơi, mẹ sẽ làm như vậy. Cầu cho tim con được nhẹ nhõm, ôi, Giêsu của mẹ! Con qúa đau khổ... Mẹ hiểu... Và mẹ muốn làm biết bao cho con...
- Má của con! Má đã làm biết bao rồi. Con cám ơn má vì tất cả những gì má đã làm...
- Ôi! Con ơi! Má chỉ là sự giúp đỡ tội nghiệp, bởi vì má không thành công trong việc làm cho con được yêu mến, cho con niềm vui... Chỉ họa hiếm con mới được một tí... Vậy má là gì? Một môn đệ thật tội nghiệp...
- Má ơi! Má ơi! Đừng nói vậy! Sức mạnh của con đến từ lời cầu
379
nguyện của má. Tâm hồn con tìm được sự nghỉ ngơi khi nghĩ đến má, và bây giờ, đây, qủa tim con tìm được sự khích lệ khi nghỉ ở đây, đầu tựa trên trái tim phúc đức của má... Má của con!...” Giêsu kéo mẹ Người lại bên Người khi mẹ đang đứng, còn Người thì ngồi trên một cái rương đặt bên bờ tường. Người gục trán Người vào ngực Maria, và mẹ dịu dàng vuốt tóc Người...
Một sự nghỉ ngơi đầy tình yêu.
Rồi Giêsu ngẩng đầu lên và đứng dậy, Người nói: “Chúng ta đi tìm con bé và những người khác”. Và Người ra vườn cùng với mẹ Người.
- Bình an cho bà, Maria Alphê, và cho các bà, Myrta và Noêmi. Con bé ngủ à?
- Vâng, nó sốt hoài, nó mê man và hao mòn. Nếu tình trạng cứ tiếp tục như vầy thì nó sẽ chết. Cơ thể mềm yếu của nó không kháng cự lại được với bệnh tật, và tâm trí nó bị xao xuyến vì các kỷ niệm - Maria Alphê nói.
- Vâng... Nó không phản ứng nữa, vì nó nói nó muốn chết để không gặp người Rôma nữa - Myrta xác nhận.
- Chúng con đã yêu nó, và đó là một nỗi đau cho chúng con... - Noêmi nói.
- Đừng sợ - Giêsu nói, rồi Người bước tới cửa phòng và mở màn gió ra...
Trên cái giường nhỏ kê sát vào tường ngay đối diện với cửa, một khuôn mặt gầy gò xuất hiện, hai gò má đỏ như lửa, các chỗ khác thì trắng như tuyết, vùi dưới mái tóc dài óng vàng. Cô bé ngủ trong cơn sốt, thì thầm giữa hai hàm răng những lời không hiểu được, với bàn tay để trên tấm mền, thỉnh thoảng nó làm một cử chỉ như xua đuổi cái gì.
Giêsu không vào. Người nhìn nó với vẻ thương xót. Rồi Người gọi lớn tiếng: “Auréa, hãy tới! Có Vị Cứu Tinh của con đây này!”
Đứa bé bò rột dậy trên giường. Nó nhìn thấy Người, nó kêu lớn, rồi nhảy xuống đất, chạy lại với Người trong chiếc áo vừa dài vừa rộng thùng thình, chân trần. Nó qùi bên chân Giêsu và nói: “Lạy Chúa, vâng. Bây giờ thì thực sự là Thầy đã giải thoát cho con!”
380
- Nó khỏi rồi. Qúi vị thấy không? Nó không thể chết, vì trước khi chết, nó phải được biết Chân Lý đã - Rồi Người nói với con bé đang hôn chân Người: “Con hãy đứng dậy và sống trong bình an” - Và Người đặt tay trên cái đầu đã khỏi sốt của nó.
Auréa trong chiếc áo vải gai dài, có lẽ là áo của Đức Trinh Nữ, qúa dài đến nỗi nó kéo lê trên đất, tóc rối, xõa xuống như áo khoác trên cơ thể nhỏ nhắn, đôi mắt xám xanh còn sáng bởi cơn sốt vừa khỏi, cộng thêm với niềm vui lúc này, trông giống như một thiên thần.
- Chào. Chúng ta hãy rút vào xưởng mộc trong khi các bà săn sóc cho con bé và nhà cửa - Giêsu nói, rồi với bốn tông đồ theo sau, Người vào xưởng mộc cũ của Giuse, ngồi cùng với các vị quanh chiếc bàn thợ mộc không còn dùng nữa.
126* GIÊSU NÓI DỤ NGÔN VỀ VIỆC
SƠN GỖ TRONG KHI NGƯỜI LÀM VIỆC
Cái lò lửa thô kệch của xưởng mộc được đốt lên sau một thời gian dài không dùng tới. Mùi chất keo sôi trong bát hòa lẫn với mùi đặc biệt của mạt cưa và dăm bào mới còn rơi ở chân bàn.
Giêsu làm việc với cái cưa và cái bào. Người đang biến các mảnh gỗ thành các chân ghế hay ngăn kéo hoặc các vật dụng khác. Các đồ gỗ tầm thường của căn nhà nhỏ Nazarét đã được mang tới xưởng mộc: cái thùng nhồi bột cần sửa, một trong các khung cửi của Maria, hai cái ghế đẩu, một cái thang dùng ngoài vườn, một cái rương nhỏ, một cái cửa lò, tôi đoán vậy, bị gặm ở phía dưới, có lẽ bởi chuột.
Giêsu làm việc để sửa những cái đã hư vì sử dụng hay vì thời gian.
Tôma thì với tất cả dụng cụ nhỏ của nghề thợ bạc, chắc ông đã lấy ở giỏ của ông ra, cái giỏ mà ông để trên giường kê ở sát tường, cũng như giường của Zêlote. Ông làm việc với bàn tay nhẹ nhàng trên những lá bạc. Những lát của cái búa nhỏ mà ông đập trên cái
381
đục, tạo ra những tiếng bạc tan biến mất trong tiếng động mạnh hơn của những dụng cụ làm việc mà Giêsu sử dụng.
Thỉnh thoảng họ trao đổi vài lời. Tôma rất sung sướng được ở đó với Thầy và làm nghề thợ bạc của ông - qủa vậy, ông đã nói điều đó - Khi nghỉ đàm thoại, ông huýt sáo nho nhỏ. Thỉnh thoảng ông ngước mắt lên và suy nghĩ. Với vẻ trầm tư, ông nhìn đăm đăm vào bức tường ám khói của căn nhà.
Giêsu quan sát ông và nói: “Tôma, con tìm hứng ở trên các bức tường đen này à? Đúng thực, cái đã làm cho nó có bộ mặt này là công việc lâu dài của một vị công chính. Nhưng Thầy không thấy rằng điều đó có thể cho người thợ kim hoàn một đề tài...”
- Thưa Thầy, không. Thực sự, với các kim qúi, người thợ kim hoàn không thể làm cho sự nghèo khó thánh thiện trở nên thi vị... Nhưng với các kim loại, họ có thể bắt chước những thứ đẹp đẽ của thiên nhiên, làm cho vàng bạc trở thành cao qúi bằng cách dùng nó để làm ra các hoa lá có trong các thụ tạo. Con, con nghĩ tới những bông hoa, những chiếc lá này, và để nhớ lại hình dáng của nó, con ngồi bất động như vậy, mắt cắm vào các bức tường. Nhưng trong thực tế, điều con nhìn thấy là các khóm cây, các đồng cỏ của quê hương chúng ta, những cái lá nhẹ nhàng, những bông hoa giống như chiếc cúp hay các ngôi sao, hình dáng của các cộng và các lá...
- Vậy con là thi sĩ, một thi sĩ hát với kim loại, những điều mà các nhà văn hát với tấm giấy da.
- Đúng. Qủa vậy, thợ kim hoàn là một thi sĩ viết trên kim loại những vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhưng công việc của chúng con, tuy đẹp và nghệ thuật, nhưng không có giá trị như công việc khiêm tốn và thánh thiện của Thầy. Vì việc của chúng con phục vụ cho sự phù vân của người giầu, còn việc của Thầy phục vụ cho sự thánh thiện, cho nhà cửa, cho nhu cầu của người nghèo.
- Tôma, anh nói rất hay - Zêlote nói khi xuất hiện trước cửa ăn thông ra vườn, trong bộ đồ ngắn, tay áo xắn cao, ở đàng trước có đeo một tấm tạp dề cũ, tay mang một hộp sơn.
Giêsu và Tôma quay lại nhìn ông và mỉm cười. Tôma trả lời: “Đúng, tôi nói hay. Nhưng tôi muốn rằng có lần công việc của thợ
382
bạc sẽ dùng để trang hoàng một... một cái gì tốt và thánh...”
- Cái gì?
- Một bí mật. Tôi nghĩ tới nó lâu rồi, từ hồi chúng ta ở Rama, và tôi đem theo mình những dụng cụ thợ bạc nhỏ của tôi và tôi chờ đợi cái giờ này... Còn công việc của anh, Simon?
- Ôi! Tôi, tôi không phải là nghệ sĩ có tài như anh. Tôma ơi, đây là lần đầu tiên tôi cầm một cái cọ trong tay, và cái vật tôi sơn không được đẹp, mặc dầu tôi để hết thiện chí vào đó. Tôi cũng đã bắt đầu bằng những chỗ khiêm tốn nhất... để cho quen tay... và tôi bảo đảm với anh là sự vụng về của tôi sẽ làm con bé cười thoải mái. Tôi rất bằng lòng vì giờ qua giờ, nó đã sinh lại trong một đời sống trong sáng, và phải như vậy để xóa bỏ đi cái qúa khứ và làm lại nó hoàn toàn mới cho Thầy, Thầy nhỉ.
- Hé! Nhưng có lẽ Valêria không chịu nhường - Tôma nói.
- Ôi! Nhưng anh muốn sao? Việc có nó hay không có nó có gì quan trọng đối với bà. Bà ta giữ nó là để nó không lạc lõng trong thế giới. Và chắc chắn sẽ rất tốt là con bé được cứu vĩnh viễn, và trong tất cả, nhất là về tâm hồn, phải không Thầy?
- Đúng vậy. Phải cầu nguyện rất nhiều cho việc này. Tạo vật này đơn sơ và thực sự tốt. Nếu được nuôi dưỡng trong chân lý, nó có thể cho rất nhiều. Nó nghiêng chiều theo bản năng tự nhiên về với Ánh Sáng.
- Chắc chắn rồi. Nó chả có sự an ủi nào ở dưới đất... và nó tìm ở trên Trời. Tội nghiệp! Con, con tin rằng khi Tin Mừng của Thầy được rao giảng cho khắp thế giới, thì những kẻ đầu tiên đón nhận nó, và là số đông đảo nhất, sẽ là các nô lệ, những kẻ không có một an ủi loài người nào, họ sẽ dựa vào lời hứa của Thầy để tìm thấy... Và con nói, nếu chính con được cái vinh dự loan báo nó, con sẽ có tình yêu đặc biệt đối với những kẻ khốn nạn này...
- Và con sẽ làm rất tốt, Tôma ạ - Giêsu nói.
- Đúng. Nhưng anh làm sao để tới gần họ?
- Ồ, Tôi sẽ làm thợ bạc cho các bà và... là thầy của các nô lệ của họ. Một thợ bạc có thể vào trong nhà một người giầu, hoặc các đầy
383
tớ của họ tới nhà ông ta... và tôi sẽ làm việc... Hai kim loại: Kim loại dưới đất cho người giầu, kim loại tâm hồn cho các nô lệ.
- Nguyện Thiên Chúa chúc lành cho chương trình của con, Tôma. Hãy kiên trì trong ý hướng này.
- Thưa Thầy vâng.
- Tốt. Thầy đã trả lời cho Tôma rồi, xin Thầy đi với con... để coi công việc của con, và để bảo con cái con phải sơn bây giờ. Những cái tầm thường đã, vì con là đứa rất ít khả năng.
- Chúng ta đi, Simon - và Người bỏ các dụng cụ lại để ra ngoài với Zêlote. Một lúc sau, họ trở lại, Giêsu chỉ cho ông chiếc cầu thang trong vườn: “Hãy sơn cái này. Sơn làm cho gỗ không thấm nước và bảo trì nó lâu hơn, lại nữa, nó làm cho đẹp hơn. Cũng giống như nhân đức bảo trì và tô điểm tâm hồn con người. Tâm hồn có thể thô kệch... nhưng khi được phủ bằng nhân đức, nó trở nên đẹp, dễ coi. Con thấy, muốn sơn cho đẹp và có hiệu qủa thực sự thì phải cẩn thận biết bao. Để bắt đầu, phải ý tứ lấy những gì cần để tạo thành nó. Phải biết cái đồ đựng không còn dính đất hay sơn cũ; phải có dầu tốt và chất mầu tốt, và quậy đều chúng cách kiên nhẫn, làm cho nó thành một hợp chất không qúa đặc, không qúa lỏng. Không được chán nản làm cho tới khi hòa tan hết những cục nhỏ bé nhất. Điều đó xong rồi thì phải lấy một cái cọ. Cái cọ phải không rụng lông. Nó phải không cứng qúa, không mềm qúa, phải sạch sẽ mọi chất mầu cũ. Trước khi sơn, phải cọ gỗ cho khỏi những chỗ sù sì, những vảy sơn cũ, bùn đất, tất cả. Rồi với bàn tay vững vàng, một cách thứ tự, luôn luôn theo cùng một hướng, trét sơn ra một cách kiên nhẫn, với rất nhiều kiên nhẫn. Thực vậy, trên cùng một tấm gỗ, có nhiều loại phản ứng khác nhau. Ví dụ chỗ mắt gỗ thì sơn sẽ bóng hơn, nhưng sơn không dính tốt ở đó, vì gỗ ở chỗ mắt đẩy sơn ra. Trái lại, trên các chỗ gỗ mềm thì sơn dính ngay, nhưng thường ít bóng, và vì vậy có thể tạo ra những vết phồng hay những khe nhỏ... Vậy người ta phải sửa lại bằng cách sử dụng bàn tay một cách cẩn thận để trét sơn. Rồi trong những đồ gỗ cũ thì có những phần mới giống như cái bậc này, ví dụ vậy. Để cho người ta không
384
nhìn thấy cái cầu thang tội nghiệp bị chắp vá, nhưng chỉ rất cũ, thì phải làm sao cho cái bậc mới cũng giống như các bậc cũ. Đó, vậy đó”.
Giêsu cúi trên chân cầu thang, vừa sơn vừa nói những lời đó...
Tôma đã bỏ cái đục của ông xuống để lại gần coi. Ông hỏi: “Tại sao Thầy lại bắt đầu sơn bậc dưới thay vì bậc trên? Làm ngược lại không hay hơn sao?”
- Điều đó có vẻ thuận lợi hơn, nhưng lại không vậy. Vì thực sự bậc dưới hư nhiều hơn, và bị hư vì nằm trên đất, vậy phải sơn nhiều lần: nước thứ nhất, rồi nước thứ hai và nước thứ ba nếu cần... Và để không phải ở không thì trong khi chờ bậc dưới khô, vì nó còn phải sơn một nước nữa, ta sẽ sơn phần đầu, rồi phần giữa cầu thang.
- Nhưng làm như vậy có thể bị dính quần áo vào và làm hư các phần đã sơn.
- Làm một cách khéo léo thì ta không làm dính, cũng không làm hư cái gì cả. Con thấy không? Ta làm như vầy này: Ta vơ gọn quần áo lại và đứng hơi xa ra, không phải vì ghê tởm cái sơn, mà là để không làm hư sơn là thứ tế nhị, bởi vì mới sơn - và bây giờ Giêsu giơ cao tay để sơn đầu cầu thang.
Người tiếp tục nói: “Người ta cũng hành động như vậy với các tâm hồn. Thầy đã nói lúc đầu rằng sơn cũng giống như các nhân đức làm đẹp cho tâm hồn con người. Nó làm đẹp và bảo trì gỗ khỏi mọt, khỏi mưa nắng. Khốn cho ông chủ nhà nào không săn sóc các đồ được sơn và để nó hư hại! Khi nhìn thấy đồ gỗ đã bong sơn thì không được mất thời giờ, phải làm mới lại nước sơn... Các nhân đức cũng vậy: một cái đà hướng về sự công chính có thể hư hại hay biến mất hoàn toàn, nếu chủ nhà không canh chừng. Thể xác và tâm hồn bị trần trụi, phơi bày ra ngoài mưa gió và các ký sinh vật, tức là các đam mê và phóng đãng, có thể bị tấn công và mất lớp che chở làm cho nó đẹp, sau cùng sẽ chỉ còn tốt cho lò lửa...
Dù là ở nơi chúng ta hay nơi những người chúng ta yêu, như các môn đệ của chúng ta chẳng hạn. Khi thấy họ thoái hóa, lơ là với các nhân đức giúp chúng ta chống lại cái tôi của chúng ta, thì phải
385
lập tức gò cương lại bằng một công việc cần cù, nhẫn nại tới cùng của cuộc đời, để có thể yên nghỉ trong cái chết với một thân xác và một tâm hồn xứng đáng với sự phục sinh vinh hiển.
Để cho các nhân đức là thực sự và tốt lành, phải bắt đầu bằng một ý hướng trong sạch, can đảm, dẹp bỏ mọi vấn rác, mọi nhơ uế và áp dụng nhân đức, không để sự bất toàn trong việc đào tạo nhân đức. Rồi sau đó giữ thái độ không qúa khắt khe, không qúa dễ dãi, vì sự khăng khăng và sự dễ dãi qúa mức đều có hại. Và cái cọ là ý chí, nó phải sạch sẽ mọi hướng chiều về con người khi trước, có thể làm ra những vết lằn trong lớp sơn siêu nhiên bởi những đường khứa của vật chất, và sửa soạn cho chính mình hay cho các người khác những thực hành kịp thời, tuy mệt mỏi nhưng cần thiết để thanh lọc cái tôi cũ cho khỏi mọi bệnh phong cùi cũ, để nó được trong sạch mà đón nhận các nhân đức. Qủa vậy, người ta không thể pha trộn sơn cũ với sơn mới.
Rồi bắt đầu công việc một cách thứ tự, với suy xét chín chắn. Không nhảy từ chỗ nọ qua chỗ kia mà không có lý do chính đáng. Đừng làm một tí theo chiều nọ rồi một tí theo chiều kia. Thực sự người ta có thể bớt mệt một tí, nhưng nước sơn không đều. Đó là điều xảy ra nơi những tâm hồn vô trật tự. Họ bày ra những chỗ hoàn hảo, nhưng ở bên cạnh thì đây, những chỗ biến dạng, những mầu khác nhau... Những chỗ ăn sơn không đều, những chỗ mắt gỗ là những khuyết điểm về chất liệu: những đam mê đồi trụy, có được kìm hãm bởi ý chí, nhưng giống như cái bào khó lòng làm cho nó mướt trơn, nó tồn tại để chống cự, giống như cái mắt gỗ bị cắt ngang nhưng không bị phá hủy. Đôi khi nó lừa dối, vì nó có vẻ như được phủ bằng nhân đức, mà thật ra chỉ có một lớp sơn mỏng, sẽ rơi đi mau lẹ. Hãy chú ý tới những cái mắt của dâm đãng. Hãy làm sao cho nó được phủ kín bằng nhiều lớp của các nhân đức, để nó đừng chui ra và làm hư hỏng cái tôi mới. Và trên các phần mềm, những phần dính sơn dễ dàng, nhưng thất thường với những chỗ phồng và những khe, hãy dùng nhiều giấy nhám để mài nhẵn, mài nhẵn, mài nhẵn, rồi sơn một hay nhiều lớp sơn, để những chỗ này cũng nhẵn
386
bóng như men cứng. Và cẩn thận, đừng thái qúa. Một sự hăng say thái qúa về nhân đức cũng có thể làm cho tạo vật phản loạn, sôi sục lên, tróc sơn khi vừa bị va chạm lần thứ nhất. Không, đừng qúa, đừng quắt. Một mức độ vừa phải của công việc trên bản thân và trên mọi vật, phải được làm với thể xác và tâm hồn.
Trong phần đông các trường hợp - vì Auréa là trường hợp đặc biệt ngoại lệ - có những phần mới lẫn lộn với các phần cũ, giống như nơi các người Israel chuyển từ Môise qua Đức Kitô, và cũng như dân ngoại với niềm tin cố cựu của họ, không thể đùng một phát có thể làm biến mất, nó sẽ khơi dậy những nuối tiếc và các kỷ niệm, ít nhất là trong những điều trong sạch nhất. Khi đó lại phải lưu ý hơn và khéo léo kiên trì, để những cái cũ tan đều hòa hợp với những cái mới, bằng cách dùng những thứ cũ đã có sẵn để hoàn tất các nhân đức mới. Như vậy, nơi các người Rôma thì lòng yêu quê hương và sự can đảm cương quyết là những yếu tố quan trọng, hai điều này có thể nói là cuồng tín. Vậy không được phá hủy nó, nhưng phải ghi khắc cho lòng ái quốc một tinh thần mới, tức là ý hướng làm cho Rôma một sự vĩ đại siêu nhiên, bằng cách làm cho nó thành trung tâm của Kitô giáo. Các con hãy sử dụng sự cương quyết trưởng thành của người Rôma, những người can đảm trong chiến đấu, để làm cho họ can đảm trong đức tin. Một ví dụ khác: Auréa. Sự ghê tởm của một khám phá độc ác đã đẩy nó tới chỗ yêu thích những gì trong sạch và ghét những cái dơ bẩn. Vậy hãy lợi dụng hai tình cảm này để dẫn nó tới một sự trong sạch toàn vẹn và ghét sự dâm đãng tựa như nó là tên Rôma độc ác.
Các con hiểu Thầy không? Hãy lợi dụng các phong tục làm phương tiện để xâm nhập vào. Đừng phá hủy nó cách tàn bạo. Các con sẽ không có ngay đủ các thứ cần để tái thiết. Nhưng hãy rất từ từ thay thế những cái không thể để lại trong kẻ hoán cải, với tình bác ái, nhẫn nại bền bỉ. Và bởi vì vật chất ngự trị, nhất là nơi dân ngoại, dù đã trở lại, và nó luôn luôn tồn tại vì những giao tiếp với môi trường mà họ phải sống, các con hãy nhấn mạnh rất nhiều về sự mau qua của các thú vui giác quan. Chính bởi giác quan mà các thứ khác xâm nhập. Các con hãy canh chừng những cảm giác qúa
387
mức nơi dân ngoại, và chúng ta cũng phải thú rằng nó cũng rất mạnh nơi chúng ta. Khi các con thấy rằng những giao tiếp với thế giới làm hư hỏng lớp sơn bảo vệ thì đừng tiếp tục sơn chỗ trên cao nữa, nhưng hãy trở lại chỗ thấp để giữ cho quân bình giữa thể xác và tinh thần, giữa chỗ cao và chỗ thấp. Nhưng phải luôn luôn bắt đầu bằng thân xác, bằng các tật xấu về vật chất, để sửa soạn đón tiếp Vị Khách không chịu ở trong những thể xác ô uế cũng như những tâm hồn xông ra mùi hôi thối của dâm ô xác thịt ... Các con hiểu Thầy không?
Đừng sợ bị nhơ khi y phục của các con đụng vào những phần hạ cấp, vật chất, của những kẻ mà các con săn sóc tâm hồn. Hãy cẩn thận để đừng làm hư hại thay vì xây dựng. Hãy sống trong cái tôi được nuôi dưỡng bằng Thiên Chúa, được bao bọc bằng các nhân đức của các con. Hãy đến với họ cách tế nhị, nhất là khi các con phải săn sóc cái tôi siêu nhiên rất nhậy cảm của người khác. Và chắc chắn các con sẽ thành công làm cho những kẻ, dù đáng khinh nhất, thành những người xứng đáng cho nước Trời”.
- Thầy đã nói một dụ ngôn thật đẹp! Con muốn viết cho Margziam - Zêlote nói.
- Và với con thì phải làm hoàn toàn đẹp đẽ cho Chúa - Auréa nói nhẩn nha từng tiếng, vừa nói vừa tìm chữ. Nó đi chân đất và đứng ở cửa vườn đã từ một lúc.
- Ồ, Auréa, con đã nghe chúng ta nói à? - Giêsu hỏi.
- Con đã nghe Thầy. Thật là đẹp! Con có làm bậy không?
- Con ơi, không. Con ở đây lâu chưa?
- Chưa. Và con tiếc, vì con không biết rằng Thầy đã nói từ trước. Mẹ Thầy sai con đến nói với Thầy là sắp đến giờ ăn. Sắp sửa lấy bánh ra khỏi lò. Con đã học làm bánh... Thật là đẹp! Và con tẩy trắng vải. Về bánh và về vải, mẹ Thầy đã nói cho con hai dụ ngôn.
- A! Thế à? Mẹ đã nói gì?
- Nói rằng con giống như bột còn ở trên rây. Nhưng lòng nhân từ của Thầy đã làm sạch cho con, ơn sủng của Thầy đã làm việc nơi con, sự giảng dạy của Thầy đã tạo hình cho con, tình yêu của Thầy nướng chín con, và từ nắm bột thô kệch, được nhào lộn với biết bao
388
cái của Thầy, sau cùng, nếu con để cho mình được làm việc bởi Thầy, con sẽ trở nên thứ bột của bánh thánh, bột và bánh hy sinh để dâng trên bàn thờ. Và về những tấm vải mầu tối, dính dầu, thô nhám, mà sau khi nhào với biết bao bồ hòn, và bao cú đập của hy sinh, nó trở nên sạch sẽ, mềm mại, và bây giờ mặt trời sẽ gởi các tia sáng của nó xuống cho nó, và nó sẽ trở nên trắng... Mẹ nói rằng mặt trời Thiên Chúa sẽ làm như vậy cho con, nếu con luôn luôn ở lại dưới mặt trời, và nếu con chấp nhận sự giặt giũ và cả hy sinh, để trở nên xứng đáng với Vua các vua, với Thầy, Chúa của con. Con đã học được biết bao điều đẹp đẽ... Con thấy như mơ... Đẹp! Đẹp! Đẹp! Tất cả đều đẹp ở đây... Chúa ơi! Đừng đem con đi nơi nào khác.
- Con sẽ không tự nguyện đi với Myrta và Noêmi?
- Con thích ở đây hơn... nhưng... dù với các bà, nhưng không với các người Rôma. Không, Chúa ơi, không...
- Con ơi, hãy cầu nguyện! - Giêsu nói khi đặt tay Người trên mái tóc mầu mật ong. “Con đã học cầu nguyện chưa?”
- Ôi! Có. Thật là đẹp để nói: “Cha của con”, và nghĩ về Trời... Nhưng... Ý muốn của Thiên Chúa làm con hơi sợ... vì con không biết Thiên Chúa có muốn điều con muốn không...
- Thiên Chúa muốn điều tốt cho con.
- Thật à? Thầy đã nói vậy? Vậy con không sợ nữa... Con nghĩ con sẽ ở lại Israel... để càng ngày càng biết người Cha này là cha của con... Và lạy Chúa con! Để con làm môn đệ đầu tiên của nước Gaule.
- Đức tin của con sẽ được chấp nhận, vì nó tốt. Ta đi thôi.
Và tất cả đều ra để rửa ráy ở cái bể dưới dòng suối, còn Auréa thì chạy về với Maria, và người ta nghe thấy hai giọng nói của phụ nữ: giọng của Maria bộc lộ cách dễ dàng trọn vẹn, còn giọng kia thì không chắc chắn, còn ngập ngừng để tìm từ, rồi những tiếng cười dòn vì vài từ dùng sai mà Maria sửa chữa cách êm đềm...
- Con bé học lẹ và biết rành - Tôma nhận xét.
- Nó có thiện chí đầy tràn và tốt.
389
- Lại nữa, nó có mẹ Thầy làm cô giáo. Cả Satan cũng không thể
kháng cự lại mẹ!... - Zêlote nói. Giêsu thở dài, không nói.
- Tại sao Thầy thở dài vậy? Con nói sai à?
- Không. Rất đúng. Nhưng người ta kháng cự hơn là Satan. Nó, ít
nhất, chỉ tránh cái nhìn của Maria thôi, còn có những người ở chung quanh mẹ, được mẹ dạy bảo, nhưng không cải thiện...
- Nhưng không phải chúng con, hen? - Tôma nói.
- Không phải các con... Đi.
Họ vào trong nhà, và thị kiến chấm dứt.
127* CÁC NGÀY SABÁT TRONG SỰ
BÌNH AN CỦA NAZARÉT
Ngày Sabát tức là sự nghỉ ngơi. Phải, người ta biết điều đó. Loài người nghỉ ngơi, và cũng thế, các dụng cụ để làm việc được người ta đậy lại hoặc xếp cẩn thận vào chỗ.
Bây giờ hoàng hôn đỏ ối của một ngày thứ sáu mùa hè sắp kết thúc. Đây, Maria ngồi dưới bóng một cây táo lớn với chiếc khung cửi nhỏ nhất của Người, cũng đứng dậy và đậy nó lại. Rồi với sự giúp đỡ của Tôma, mẹ đem nó về chỗ của nó ở trong nhà. Auréa đang làm việc, ngồi trên cái ghế con ở chân mẹ, may tay một cách vụng về, những quần áo mà bà Rôma cho nó, được Maria cắt lại cho vừa vặn. Maria bảo nó gấp các đồ của nó lại cẩn thận và đặt trên cái kệ ở trong phòng nhỏ của nó. Trong khi con bé làm việc đó thì mẹ cùng với Tôma vào trong xưởng mộc, nơi Giêsu cùng với Zêlote cũng đang vội vã đặt vào chỗ những cái cưa, bào, búa, những cái vặn đinh ốc, các bình sơn và keo; lau bàn, quét nhà, hốt mạt cưa, dăm bào. Công việc chỉ còn lại hai mảnh gỗ đặt chéo nhau, kẹp trong cái ê-tô để chất keo khô cứng lại trong một cái khung (có lẽ nó sẽ là cái ngăn kéo), và một cái ghế đẩu mới sơn được một nửa, sơn còn ướt, xông ra mùi chua.
390
Auréa cũng vào, nó cúi xuống nhìn vào chỗ cái đục của Tôma và nó cảm phục, hỏi với vẻ hơi tò mò, và cũng với bản năng làm dáng, xem cái đó để làm gì, và có đẹp cho nó không.
- Cái này đẹp cho mày. Nhưng cái đẹp hơn cho mày là: trở nên tốt. Đây là những đồ trang sức làm đẹp cho thân xác, nhưng vô ích cho tâm hồn. Hơn nữa, khi phát triển sự đỏm dáng, nó làm hại cho tâm hồn.
- Vậy tại sao ông làm? - Con bé hỏi cách lý sự “ông muốn làm hại cho một tâm hồn sao?”
Tôma luôn luôn hiền lành, mỉm cười với nhận xét của nó, và ông nói: “Sự thừa thãi làm thiệt hại cho tâm hồn yếu đuối, nhưng với một tâm hồn mạnh mẽ, thì đồ trang điểm chỉ luôn luôn là cái nó là, không hơn không kém, ví dụ một cái khóa cần để gài áo vào đúng chỗ của nó”.
- Ông làm cái này cho ai đó? Cho vợ ông à?
- Tao không có vợ, và tao sẽ không bao giờ có.
- Vậy là cho chị ông?
- Bà ấy đã có qúa sự cần thiết rồi.
- Vậy là cho mẹ ông?
- Bà già tội nghiệp! Mày muốn bà ấy làm gì với cái này?
- Nhưng nó là để cho một người đàn bà...
- Đúng, nhưng không phải để cho mày.
- Ôi! Tôi cả đến chả nghĩ tới... Vả nữa, bây giờ ông đã nói rằng những thứ này làm thiệt hại cho tâm hồn yếu đuối, tôi cũng không muốn nó. Tôi sẽ tháo cả những tua viền ở áo ra. Tôi không muốn làm thiệt hại cho cái thuộc về Vị Cứu Tinh của tôi.
- Cô bé dũng cảm! Mày thấy, với thiện chí của mày, mày đã làm một việc còn đẹp hơn việc của tao nữa.
- Ôi! Ông nói vậy bởi vì ông tốt!...
- Tao nói vậy bởi vì đó là sự thật. Mày thấy không? Tao lấy thỏi bạc này, tao tán thành lá mỏng tùy mức tao cần, rồi với cái dụng cụ, đúng hơn là với nhiều dụng cụ, tao cho nó cái hình dáng này. Nhưng tao còn lại công việc quan trọng nhất phải làm, đó là kết
391
hợp những phần tử khác nhau lại một cách như thiên nhiên. Lúc này tao mới làm xong hai cái lá nhỏ và bông hoa nhỏ đi kèm với nó - Và Tôma giơ lên, cầm giữa hai ngón tay mập của ông, một cộng nhỏ của bông linh lan, nằm ép giữa hai cái lá, bắt chước rất đúng kiểu mẫu của thiên nhiên. Điều đó cho nhìn thấy rõ bông hoa giả này trong sự phản chiếu của bạc ròng ở giữa các ngón tay vàng khè và mạnh mẽ của thợ bạc.
- Ôi! Đẹp thật! Có biết bao ở trên hòn đảo mà người ta để cho chúng tôi hái trước khi mặt trời mọc. Vì chúng tôi, những đứa da trắng tóc vàng, chúng tôi không bao giờ được phơi nắng để có giá hơn. Trái lại, những đứa da ngăm, người ta bắt chúng nó ở ngoài, dưới mặt trời, để chúng nó trở nên ngăm đen hơn, tới nỗi chúng nó cảm thấy đau. Họ... nói thế nào khi người ta bán một vật mà nói một vật khác?
- Nhưng... lừa bịp... ăn cắp... Tao đâu biết!
- Đó, họ đánh lừa khi nói các cô sinh ra bên Ả Rập hay ở thượng lưu sông Nil. Họ đã bán một cô với tư cách là dòng dõi của hoàng hậu Saba.
- Không còn gì tệ hơn! Nhưng không phải các cô bị lừa, mà là các người mua. Cái đó người ta gọi là ăn cắp! Nòi giống khốn kiếp! Kẻ mua sẽ thật ngạc nhiên khi thấy mầu da của cô Éthiopie giả sáng ra! Nhưng, Thầy nghe thấy không? Biết bao điều mà chúng ta không biết!...
- Thầy nghe thấy. Nhưng kẻ buồn hơn không phải là kẻ bị ăn cắp, mà là số phận của các cô gái này...
- Đúng vậy: Các linh hồn bị tục hóa mãi mãi, hư mất...
- Không. Thiên Chúa luôn luôn có thể can thiệp...
- Người đã làm việc đó cho con. Thầy đã cứu con!... - Auréa nói khi quay về phía Chúa cái nhìn trong sạch và thanh quang của nó, và nó thêm: “Con rất sung sướng!” Và vì không thể ôm Giêsu, nó đến và quàng cánh tay quanh cổ Maria, nghiêng cái đầu tóc vàng của nó trên vai Đức Trinh Nữ trong cử chỉ của tình yêu tin cẩn.
Hai đầu tóc vàng nổi bật, với hình thái khác nhau, trên bức tường tối. Một nhóm người rất êm đềm. Nhưng Maria nghĩ đến bữa tối
392
nên mẹ tách rời và đi ra.
- Vào được không? - Giọng nói hơi khàn của Phêrô vang lên ở ngoài cái cửa mở ra đường phố của căn phòng.
- Simon! Mở đi!
- Simon! Ông ta không thể ở xa đây - Tôma nói khi ông cười và chạy ra mở cửa.
- Simon! Đã đoán mà!... - Zêlote mỉm cười nói.
Nhưng ở trước khung cửa, không phải chỉ có khuôn mặt của Phêrô, mà có tất cả các tông đồ ở trên hồ. Tất cả, trừ Batôlômêo và Iscariot. Và cùng với họ, cũng có Juđa và Giacôbê Alphê.
- Bình an cho các con. Nhưng tại sao các con đến vào giờ nóng bức này?
- Bởi vì... Chúng con không thể ở xa. Đã hai tuần rưỡi rồi, Thầy biết không? Thầy hiểu không? Hai tuần rưỡi chúng con không thấy Thầy! - Phêrô nói, tựa như ông muốn nói: “Hai thế kỷ! Qúa mức rồi!”
- Nhưng Thầy đã bảo các con rằng đợi Judas vào mỗi ngày Sabát.
- Vâng. Nhưng hai Sabát trước thì ông ta không đến... Sabát thứ ba thì chúng con đi. Natanael không được khỏe lắm nên ở lại đó để đón Judas nếu ông ta đến... Nhưng chắc chắn là ông ta không đến... Khi đi qua Tibêriat để đi về phía núi Hermon lớn, Benjamin và Daniel đã gặp chúng con và nói với chúng con rằng họ đã gặp ông ta ở Tibêriat, và... thôi, con sẽ thưa Thầy chuyện này sau... - Phêrô nói, và ông dừng lại vì em ông kéo áo ông.
- Tốt, con sẽ nói sau... Nhưng các con đã ước ao nghỉ ngơi biết bao, bây giờ các con có thể thì các con lại chạy đường trường này! Các con khởi hành lúc nào?
- Chiều hôm qua, với mặt nước hồ như một tấm gương, chúng con lên đất tại Tarichée. Chúng con tránh Tibêriat để... để không gặp Judas...
- Tại sao vậy?
- Thầy ơi, tại vì chúng con muốn được hưởng Thầy trong bình an.
- Các con ích kỷ!
- Không. Ông ta đã có cái vui của ông ta... Nhưng! Con không
393
biết ai đã cho ông ta rất nhiều tiền để chơi với... ờ, tôi hiểu mà Andrê! Đừng kéo áo tôi mạnh như vậy. Tôi chỉ có một cái áo này thôi, chú biết mà. Chú muốn tôi trở về trong rách rưới à?...
Andrê đỏ mặt. Những người khác cười. Giêsu mỉm cười.
- Vâng. Vậy rồi chúng con lên đất ở Tarichée... Đó, đừng trách con... Đó là vì sức nóng, đó là vì ở xa Thầy nên con trở thành xấu, đó là vì nghĩ rằng ông ta rời xa Thầy để họp bầy với... Tóm tắt, đừng kéo tay áo tôi nữa! Chú thấy rằng tôi biết dừng lại đúng lúc!... Vậy Thầy ơi, đó là vì biết bao thứ... Con, con không muốn phạm tội. Nếu con gặp Judas, con sẽ phạm tội. Vậy lúc đó con cặp bến ở Tarichée, và lúc rạng đông, chúng con lên đường.
- Các con có ghé qua Cana không?
- Không. Chúng con không muốn kéo dài đường đất. Tuy vậy, đường cũng rất dài và mớ cá đã bơi đi mất, vì chúng con đã tặng cho một nhà kia để nghỉ chân trong vài giờ nóng nhất. Chúng con lại đi vào khoảng sau giờ thứ chín đến giữa giờ thứ mười... Một cái lò thực sự!...
- Các con có thể tránh được tất cả những cái đó, vì Thầy sẽ tới, không chậm trễ nữa.
- Khi nào?
- Sau khi mặt trời ra khỏi Lion.
- Thầy cho là chúng con có thể không có Thầy lâu như vậy sao? Nhưng chúng con đã thách đố cả ngàn sức nóng như vầy để đến với Thầy và gặp Thầy, Thầy của chúng con! Thầy yêu dấu của chúng con! - Và Phêrô ôm lấy kho tàng đã tìm thấy của ông.
- Hãy nghĩ đến rằng khi chúng ta ở với nhau thì các con chỉ có phàn nàn về thời tiết, về đường đất!...
- Bởi vì chúng con ngu đần. Bởi vì khi người ta ở với nhau thì chúng con không nghĩ tới điều Thầy là đối với chúng con... Nhưng đây, chúng con đã có chỗ ở đây: người thì ở nhà Maria Alphê, người thì tại nhà Simon Alphê, người thì ở nhà Ismael hay nhà Aser, nhà Alphê Sara, toàn ở gần đây. Bây giờ chúng ta nghỉ ngơi rồi chiều mai chúng ta lại lên đường, thỏa mãn hơn rồi.
394
- Hôm Sabát tuần qua, chúng ta đã có Myrta và Noêmi đến để coi con bé - Tôma nói.
- Thầy thấy là người ta đến đây ngay khi người ta có thể.
- Đúng đó Phêrô. Còn các con, các con đã làm gì trong thời gian này?
- Đánh cá... sơn thuyền... vá lưới. Lúc này Margziam hay ra ngoài với các cậu trai, điều đó làm cho mẹ vợ con bớt la rầy: “Tên lười biếng đã để vợ nó chết đói, cả sau khi đã dẫn về cho nó một đứa con hoang”. Và hãy nghĩ rằng chưa bao giờ Porphyrê tốt như bây giờ là lúc bà có Margziam cho con tim của bà và... cho mọi thứ khác. Ba con cừu đã trở thành năm, và sắp sửa sẽ thành nhiều hơn... đâu phải ít hữu ích cho một gia đình nhỏ như gia đình con! Và Margziam, với mẻ lưới, cũng bù vào công việc mà con chỉ còn làm rất họa hiếm. Nhưng người đàn bà này có miệng lưỡi rắn độc, mặc dầu con gái bà là con bồ câu... Nhưng Thầy, Thầy đã làm việc, con thấy...
- Ờ, Simon. Tất cả chúng ta đã làm việc. Các anh Thầy thì tại nhà họ, Thầy với họ thì tại nhà Thầy, để làm vui cho mẹ chúng ta, và để các bà nghỉ ngơi.
- Tốt, chúng con cũng vậy - hai người con ông Zêbêđê nói.
- Còn con với bà xã con thì làm việc với bầy ong và vườn nho - Philíp nói.
- Còn con, Mathêu?
- Con, con không có ai để làm vui lòng... vì vậy con làm vui lòng chính con bằng cách ghi chép những điều mà con muốn nhớ hơn...
- Ôi! Tôi sẽ kể cho các anh dụ ngôn về việc sơn gỗ. Chính tôi đã gây ra chuyện đó. Tôi là người rất thiếu kinh nghiệm về việc sơn phết... - Zêlote nói.
- Nhưng anh đã học được nghề mau lẹ... Coi, cái ghế này nó láng chừng nào! - Thađê nói.
Sự hòa hợp giữa họ rất hoàn toàn. Giêsu, với khuôn mặt yên hàn hơn từ khi Người ở trong nhà Người, ánh lên một nét vui vì có các tông đồ thân yêu ở chung quanh Người. Auréa tới và nó đứng chết trân vì ngạc nhiên tại ngưỡng cửa.
395
- Ôi! Cô bé đây rồi! Nhưng coi này, cô ta khỏe mạnh chừng nào. Rõ đúng là Israel với y phục này!
Auréa trở nên đỏ tía và không biết nói gì. Nhưng Phêrô rất tốt, đầy tình cha, khiến nó bình tĩnh lại và nói: “Con cố gắng để trở nên như vậy... và với cô giáo của con, con hy vọng sắp đạt tới... Thưa Thầy, con đi nói với mẹ Thầy là họ ở đây...” Và nó đi ngay.
- Đó là đứa bé ngoan - Zêlote tuyên bố.
- Đúng. Tôi muốn nó là một Israel đối với chúng ta. Batôlômêo đã mất một dịp may và một niềm vui khi từ chối nó - Tôma nói.
- Batôlômêo rất dính bén vào các... công thức - Philíp nói để biện hộ cho ông.
- Đó là khuyết điểm duy nhất của ông ta - Giêsu nhận xét.
Maria vào.
- Bình an cho mẹ, Maria - những người ở Caphanaum nói.
- Bình an cho các con. Mẹ không biết là các con ở đây. Bây giờ mẹ sẽ lo toan ngay... Trong khi chờ đợi, hãy tới...
- Mẹ chúng con từ bên nhà sắp qua với các đồ ăn, và cả Salômê nữa. Maria, mẹ đừng bận rộn - Giacôbê Alphê nói.
- Chúng ta hãy ra vườn... Gió chiều nổi lên, sẽ dễ chịu... - Giêsu nói.
Họ vào trong vườn, ngồi đó đây, chuyện vãn một cách thân tình trong khi các con bồ câu kêu gù gù, cãi lộn vì bữa ăn sau cùng mà Auréa vãi trên đất... Rồi họ tưới những luống nhỏ trồng hoa hay những rau cỏ cần thiết cho con người, và đó là các tông đồ muốn làm một cách vui vẻ, trong khi Maria Alphê đã tới, cùng với Auréa và Maria chuẩn bị bữa ăn cho quan khách. Mùi các món ăn kêu lèo xèo pha lộn với mùi đất mới tưới, và tiếng chim chóc cãi lộn cách hung hăng để dành một chỗ trong chòm lá pha lẫn với tiếng nói trầm bổng của các tông đồ.
128* “TRƯỚC KHI LÀM MẸ,
MẸ ĐÃ LÀ CON GÁI VÀ LÀ
396
NỮ TÌ CỦA THIÊN CHÚA”
Và ngày Sabat diễn ra, một ngày Sabát thực sự.
Trong ánh ban mai huy hoàng trước khi sức nóng nặng nề của ban ngày tới, thật dễ chịu được ngồi hội họp huynh đệ dưới bóng cây xanh, chính xác là tại chỗ cây táo, ở gần cây sung và cây hạnh đào, chúng tạo thành một dẫy bóng, kéo dài cái bóng của dàn cây mà trên đó các chùm nho đã chín. Thực dễ chịu để đi vòng quanh các mảnh đất, từ tổ ong đến chuồng bồ câu, từ đó đến hang đá nhỏ, rồi đi qua phía sau nhóm phụ nữ của: Maria, Maria Clêopha với cô con dâu Salômê vợ Simon, Auréa, để đi tới vài cây oliu ở bờ dốc, nghiêng trên mảnh vườn yên tịnh.
Đó là điều Giêsu và các người của Ngài làm cùng với Maria và các bà khác. Và Giêsu đã giáo huấn, dù không cố ý; Maria cũng giáo huấn mà không có ý. Các môn đệ của vị thứ nhất cũng như các bà môn đệ của vị thứ hai đều chăm chú vào lời của hai vị Thầy.
Auréa theo thói quen, ngồi trên cái ghế con ở chân Maria, hầu như ngồi chồm hổm, hai tay ôm đầu gối, ngửa mặt, mắt mở to, nhìn đăm đăm vào mặt Maria. Nó giống như đứa trẻ nghe một câu chuyện thần thoại lý thú. Nhưng đây không phải là thần thoại, mà là những chân lý thật đẹp. Maria kể lịch sử cổ Israel cho cô bé ngoại giáo hôm qua, và các người khác, dù đã biết lịch sử của quê hương, họ cũng chăm chú nghe. Thật êm đềm được nghe chuyện Rakel, chuyện con gái của Jephté, chuyện Anna Elqana... tuôn ra từ cặp môi này!
Juđa Thađê từ từ lại gần nghe và mỉm cười. Ông ở phía sau Maria nên Người không thấy, nhưng nụ cười với cái nhìn của Maria Clêopha trên Juđa của bà báo cho Maria rằng có người ở sau lưng. Mẹ quay lại: “Ôi Juđa! Con bỏ Giêsu để nghe mẹ, một đàn bà tội nghiệp sao?”
- Vâng, con đã bỏ mẹ để đi với Giêsu, vì mẹ đã là cô giáo đầu tiên của con. Nhưng đôi khi con thấy thật êm đềm khi bỏ Người để đến với mẹ, lại trở nên trẻ con như khi con là học trò của mẹ. Tiếp tục đi, con xin mẹ...
397
- Mỗi ngày Sabát, Auréa muốn một phần thưởng, tức là kể cho nó những điều xúc động nhất trong lịch sử của chúng ta mà mẹ đã giải thích cho nó mỗi ngày một tí trong khi chúng ta làm việc.
Những người khác cũng lại gần... Thađê nói: “Vậy mày thích chuyện nào nhất, cô bé?”
- Biết bao là chuyện! Tôi có thể nói là tất cả. Nhưng thích biết bao Rakel, Anna Elqana, rồi Ruth... và rồi...A! Rất đẹp! Tobít và Tobie với thiên thần, rồi người vợ cầu nguyện để được giải thoát...
- Và Môise?
- Ông ấy làm tôi sợ... Qúa vĩ đại... Và trong số các tiên tri, tôi thích nhất Daniel bênh vực Suzane - Rồi nó nhìn chung quanh và nó thì thầm: “Con cũng vậy, con đã được bảo vệ bởi Daniel của con”. Và nó nhìn Giêsu.
- Nhưng cả những sách của Môise cũng hay chứ!
- Đúng. Chúng dạy đừng làm điều xấu, và chúng nói về ngôi sao này, sinh ra từ nhà Jacob. Con, bây giờ con biết tên của nó. Trước kia thì con chả biết gì hết. Con hạnh phúc hơn vị tiên tri này, vì con nhìn thấy nó tận mắt. Nó đã nói tất cả với con. Và con cũng vậy, con biết - Nó chấm dứt với vẻ chiến thắng.
- Còn lễ Vượt Qua, mày không thích sao?
- Có... nhưng... con trai của những người khác cũng là con trai của các bà mẹ. Tại sao lại giết chúng. Tôi thích vị Thiên Chúa cứu chữa hơn là vị Thiên Chúa giết...
- Mày có lý... Maria, mẹ chưa kể cho nó sự sinh ra của Người sao? - Giacôbê nói khi ông chỉ vào Giêsu. Người đã nghe nhưng nín thinh.
- Chưa. Mẹ muốn nó biết rành qúa khứ trước khi biết cái hiện tại, để hiểu rằng hiện tại đã có căn nguyên từ trong qúa khứ. Khi nó biết, nó sẽ thấy rằng vị Thiên Chúa làm cho nó sợ, Thiên Chúa của núi Sinai, cũng chỉ là Thiên Chúa của tình yêu nghiêm khắc, nhưng luôn luôn là Thiên Chúa của tình yêu.
- Ôi! Mẹ ơi, kể cho con bây giờ đi. Trái lại, như vậy con sẽ dễ dàng hơn để hiểu qúa khứ khi con biết hiện tại là điều, theo như
398
con biết, thì thật là đẹp đẽ, và nó làm con yêu Thiên Chúa không sợ hãi. Con cần phải không bị sợ.
- Con bé có lý. Tất cả các con hãy nhớ lấy, và nhớ luôn luôn cái chân lý này khi các con giảng Tin Mừng. Các linh hồn cần cái không phải sợ, để đến với Thiên Chúa với tất cả lòng tin cẩn. Đó là điều Thầy cố gắng làm, và làm nhiều hơn mức người ta sợ Thiên Chúa, do không biết hay do tội của họ. Nhưng Thiên Chúa, dù là vị Thiên Chúa đã đánh phạt người Ai-Cập và làm con sợ, Auréa, Người luôn luôn nhân từ. Con thấy không: khi Người phạt các con của các người Ai-Cập độc ác, Người đã dùng tình thương đối với những người con này, vì không lớn lên thì chúng không phạm tội như cha chúng, và Người đã cho cha mẹ chúng thời giờ để sám hối về điều xấu họ đã làm. Vậy đó là lòng tốt nghiêm khắc. Phải phân biệt lòng tốt thật với lòng tốt chỉ là sự giáo dục mềm yếu. Điều đó cũng giống như khi Thầy còn bé, mà một số rất đông trẻ em bị giết trong tay mẹ chúng, và thế giới thét lên những tiếng kêu sợ hãi. Nhưng khi thời gian không còn nữa đối với mỗi người cũng như đối với toàn thế giới, một lần thứ nhất, rồi một lần thứ hai, các con sẽ hiểu rằng hạnh phúc cho những kẻ trong Israel vào thời Đức Kitô mà đã bị giết từ tuổi thơ, vì chúng tránh được cái tội nặng nề nhất: tội đồng lõa trong cái chết của Vị Cứu Tinh.
- Giêsu! - Maria Alphê kêu lên và đứng phắt dậy, sợ hãi nhìn khắp chung quanh bà, tựa như bà sợ vì thấy các kẻ giết Chúa xuất hiện sau hàng rào, sau các thân cây trong vườn. “Giêsu!” Bà nhắc lại khi nhìn Người cách đau đớn.
- Cái gì? Có lẽ bà không biết Kinh Thánh nên mới qúa kinh ngạc như vậy về điều Thầy nói? - Giêsu hỏi bà.
- Nhưng... Nhưng... Không thể được. Thầy không thể cho phép điều đó... Mẹ Thầy...
- Bà là Nữ Cứu Tinh, cũng như Thầy, và bà biết. Hãy nhìn bà và bắt chước bà.
Qủa vậy, Maria, vẻ khổ hạnh, huy hoàng trong nỗi tê tái sâu xa. Mẹ bất động, khoanh tay trước ngực như cầu nguyện, đầu thẳng,
399
cái nhìn lạc lõng trong không...
Maria Alphê nhìn mẹ, rồi lại quay về với Giêsu: “Nhưng Thầy đừng nói về cái tương lai kinh khủng này, Thầy đâm ngọn giáo vào tim mẹ”.
- Mẹ có ngọn giáo này trong tim từ ba mươi hai năm nay rồi.
- Không! Không thể được! Maria... luôn luôn trong sáng... Maria...
- Hãy hỏi mẹ, nếu bà không tin vào lời Thầy.
- Vâng, con sẽ hỏi. Có thật không Maria? Em biết không...?
Và Maria, với giọng mệt mỏi nhưng qủa quyết: “Đúng vậy. Lúc Người được bốn mươi ngày, điều này đã được nói cho em bởi một vị thánh. Và cả trước đó... Ôi! Khi thiên thần nói với em là vẫn luôn luôn đồng trinh, em sẽ thụ thai một con trai, đấng mà vì sự đầu thai thần linh của Người, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Và đã thực sự như vậy. Và khi trong lòng son sẻ của Êlisabét, một cái qủa được thành lập bởi phép Đấng Hằng Hữu, em đã chẳng ngại tự nhắc lại lời tiên tri của Isaie: ‘Đây, một trinh nữ sẽ thụ thai một con trai, đấng sẽ được gọi là Emmanuel’... Toàn bộ Isaie, tất cả Isaie! Và chỗ ông nói về vị Tiền Hô... Và chỗ ông nói về con người của đau thương, đỏ thắm, đỏ thắm bằng máu, không nhận ra được, một người cùi... vì tội chúng ta... Lưỡi gươm đã ở trong em từ lúc đó, và mọi sự đều làm cho nó cắm vào sâu hơn: từ thánh ca của các thiên thần đến lời của Simêon, việc đến của ba vua phương đông, và tất cả... tất cả...”
- Nhưng những cái tất cả khác nữa, Maria của chị? Giêsu toàn thắng, Giêsu làm những kỳ công, đám đông theo Giêsu càng ngày càng nhiều... Những điều đó có lẽ không thật sao? - Maria Alphê nói.
Và Maria vẫn luôn luôn cùng một dáng điệu, nói theo sau mỗi câu hỏi: “Đúng, đúng, đúng” không lo âu, không vui mừng, chỉ có một sự ưng thuận bình an, vì sự thể là như vậy...
- Vậy những cái tất cả nào khác đã cắm sâu lưỡi gươm vào tim em?
- Ôi!... Tất cả...
400
- Và em vẫn luôn luôn bình tĩnh, trong sáng? Luôn luôn giống như lúc trở nên người vợ, em đến đây ba mươi ba năm trước, mà chị còn nhớ như ngày hôm qua... Làm sao em có thể như vậy?... Chị thì chị sẽ như điên... Chị sẽ làm... Chị không biết chị sẽ làm gì!... Chị... Không... Không thể nào một bà mẹ biết như vậy mà lại bình tĩnh được!
- Trước khi là mẹ, em đã là con gái và là nữ tì của Thiên Chúa... Em tìm thấy sự bình tĩnh ở đâu? Ở việc làm theo ý Thiên Chúa. Sự trong sáng của em từ đâu mà đến? Từ việc làm theo ý muốn này. Nếu em phải làm theo ý một người đời, em có thể xao xuyến, vì một người, dù khôn ngoan nhất, vẫn luôn luôn có thể áp đặt những ý muốn sai lầm. Nhưng ý Thiên Chúa! Nếu Người đã muốn em làm mẹ cho Đức Kitô của Người, em có thể nghĩ rằng đó là điều độc ác, và vì vậy em làm mất đi sự trong sáng của em không? Và ý tưởng về những gì sẽ là Sự Cứu Chuộc, cho Người và cho em, có thể làm em xao xuyến khi nghĩ tới em sẽ làm sao để vượt qua được giờ đó không? Ôi! Nó sẽ khủng khiếp!...” Và Maria có một cái giật nảy bất thình lình ngoài ý muốn, một cơn rùng mình bất ngờ. Mẹ nắm chặt tay vào nhau để khỏi run, như để cầu nguyện tha thiết hơn, trong khi khuôn mặt của Người trắng bạch hơn, mu mắt hạ xuống, nhấp nháy vì lo âu trên đôi mắt xanh trong. Nhưng giọng nói của mẹ lại vững vàng sau cái thở dài lo lắng thật sâu, và mẹ kết thúc: “Nhưng Người, đấng đã tỏ ý Người cho em, đấng mà em phụng sự với tình yêu tin cẩn, sẽ giúp đỡ em trong giờ này. Giúp cho Người và cho em... Vì Chúa Cha không thể áp đặt một ý muốn qúa mạnh đối với sức lực của con người... Và Người sẽ trợ giúp... luôn luôn... Và Người sẽ trợ giúp chúng ta, con nhỉ... Người sẽ trợ giúp chúng ta... Và chỉ có Người, đấng vô tận trong các phương tiện của Người, sẽ giúp chúng ta...”
- Đúng đó mẹ ạ. Tình Yêu sẽ cứu giúp chúng ta, và chúng ta sẽ trợ giúp nhau, người nọ giúp người kia trong tình yêu. Và chúng ta sẽ cứu chuộc trong tình yêu...- Rồi Giêsu tới ngồi bên cạnh mẹ Người, quàng tay trên vai mẹ. Mẹ ngửa mặt lên để nhìn Giêsu của
401
mẹ, đẹp đẽ, lành lặn, bị tiền định để biến dạng vì hành hạ, bị giết với hàng ngàn vết thương, và mẹ nói: “Trong tình yêu và trong đau thương... Đúng, và cùng nhau...”
Không ai nói nữa... Cái vòng tròn chung quanh hai nhân vật chính của bi kịch Golgôta tương lai, các tông đồ cũng như các bà môn đệ đều giống như các bức tượng trầm ngâm...
Auréa ngồi trên cái ghế nhỏ, như hóa đá... Nhưng nó là người đầu tiên nhúc nhích. Không đứng dậy, nó lết bằng đầu gối đến ngay trước mặt Maria, nó ôm đầu gối mẹ, cúi đầu chui vào lòng mẹ và nói: “Tất cả những thứ đó vì con... Con đã đắt giá chừng nào! Con yêu Chúa và Mẹ chừng nào vì cái giá đắt mà Chúa và Mẹ trả cho con. Ôi! Mẹ của Thiên Chúa con! Hãy chúc lành cho con, để cái giá mà Chúa và Mẹ trả cho con không thành trơ trơ, không cho hoa trái”.
- Ờ, con gái cưng, đừng sợ. Thiên Chúa cũng sẽ giúp con nếu con thuận theo ý người luôn luôn - Rồi mẹ vuốt mái tóc và đôi má mà mẹ cảm thấy ướt nước mắt: “Đừng khóc. Về Đức Kitô, con đã bắt đầu bằng cách biết số phận đau thương ở cuối sứ mạng trần thế của Người. Sẽ không chính đáng nếu sau khi đã biết những điều đó mà con lại không biết những giờ đầu tiên của Người trong thế giới. Hãy nghe đây... Mọi người sẽ vui lòng ra khỏi những suy niệm cay đắng, tối tăm, để gợi lại những giờ hoàn toàn ánh sáng, tràn đầy tiếng hát, toàn là Hosanna của giờ Người sinh ra... Hãy nghe...” Và Maria, khi cắt nghĩa lý do của cuộc hành trình đi Bétlem đất Juđa, thành phố đã được loan báo là thành mà Vị Cứu Tinh sẽ sinh ra, mẹ êm đềm kể lại đêm giáng sinh của Đức Kitô.
129* GIÊSU VÀ MARIA ĐÀM THOẠI
Tôi không biết đây có phải là cùng một ngày Sabát không. Tôi chỉ biết rằng tôi thấy Giêsu và Maria ngồi trên ghế đá ở trước nhà, gần cửa phòng ăn, mà từ đó chiếu ra ánh sáng yếu của ngọn đèn dầu đặt gần cửa. Ánh sáng nhấp nháy trong không khí với cái bóng
402
lúc cao lúc thấp, tựa như nó được tác động bởi chuyển động của hơi thở. Ánh sáng duy nhất trong đêm không trăng, một luồng sáng rất nhỏ chiếu ra ngoài vườn, soi sáng một giải đất nhỏ trước cửa và tắt đi ở cây hồng đầu tiên của dải đất. Nhưng chút ánh sáng này cũng đủ để soi sáng hai bóng người đang hợp nhất trong một cuộc đàm thoại thân mật, trong một đêm thanh quang, đầy hương thơm hoa lài và các hoa mùa hè khác.
Họ nói chuyện với nhau về các người bà con... về Giuse Alphê luôn luôn cứng đầu, về Simon không mấy can đảm trong việc tuyên xưng đức tin, bị áp đảo bởi ông anh cả độc đoán và lì lợm trong ý kiến của ông cũng giống như bố ông. Đó là sự đau đớn lớn lao của Maria, vì mẹ muốn hết mọi đứa cháu đều là môn đệ của Giêsu...
Giêsu khích lệ mẹ, và để biện hộ cho ông anh họ, Người đem ra ánh sáng lòng tin qúa mạnh thuộc Israel của ông: “Một trở ngại, mẹ thấy không? Một trở ngại thực sự. Qủa vậy, tất cả những công thức và qui tắc đều làm trở ngại cho việc đón nhận tư tưởng về Đức Messi trong sự thật của Người. Sẽ dễ dàng hơn để hoán cải một người ngoại giáo, miễn là họ không phải là tâm hồn hoàn toàn hư hỏng. Người ngoại giáo suy nghĩ và thấy ngay sự rất khác nhau giữa Olympe của họ và Nước của con. Nhưng Israel... Israel trong phần lớn các người học thức của nó... rất khó lòng để theo tư tưởng mới”.
- Nhưng đó vẫn luôn luôn là cùng một tư tưởng.
- Vâng. Luôn luôn vẫn là Thập Giới, luôn luôn các lời tiên tri. Nhưng con người đã làm biến chất nó, và họ đã đặt phạm vi siêu nhiên của nó vào mức độ của trái đất, trong bầu khí của thế gian. Nhân tính của họ chế hóa tất cả... Đức Messi, vị Vua siêu nhiên của Đại Vương Quốc được gọi là Israel, vì Đức Messi sinh ra từ cái ngai Israel, nhưng đúng hơn thì phải gọi nó là Nước của Đức Kitô, vì Đức Kitô đã tập trung những gì tốt nhất đã có và đang có trong Israel, và nâng nó lên tới sự trọn lành của Người-Thiên-Chúa. Đối với họ, Đức Messi không thể là một người hiền lành, nghèo khó, không tham vọng uy quyền và giầu sang; Người không thể là kẻ
403
vâng lời những kẻ cai trị chúng ta do Thiên Chúa phạt chúng ta, vì vâng lời chỉ là thánh khi nó không làm hạ giá Đại Luật. Bởi vậy có thể nói là đức tin của họ hành động trái ngược với đức tin thực sự. Những người cứng đầu này, luôn luôn cho mình là đúng, có rất nhiều... và ở mọi tầng lớp... có ngay trong số bà con và các tông đồ. Ôi mẹ ơi! Mẹ hãy tin rằng sự mù quáng của họ, không chịu tin vào cuộc tử nạn của con, đến từ tư tưởng này. Đó là nguyên nhân sự xét định gía trị cách sai lầm của họ... và tất cả sự ghê tởm bướng bỉnh của họ khi họ xét định và phê phán các dân ngoại, các kẻ thờ ngẫu tượng. Phải nhìn họ không phải chỉ là con người, mà còn là một thần trí của con người. Thần trí này chỉ có một nguồn gốc duy nhất, và Thiên Chúa muốn ban cho một số phận duy nhất: Nước Trời. Mẹ thấy Batôlômêo không? Đó là một ví dụ. Ông ta rất tốt, khôn ngoan, luôn luôn sẵn sàng để cho con vinh dự và khích lệ... Nhưng ở trước, con không nói là một Aglaé, cũng không trước một Sintica đã là một bông hoa khi so sánh với Aglaé tội nghiệp, mà chỉ sự sám hối đã làm nảy ra bông hoa giữa bùn lầy, mà ngay cả ở trước con bé, một con bé tội nghiệp mà số phận của nó làm cho người ta thấy thương, mà sự trong trắng tự bản tính của nó đã lôi kéo sự cảm phục, ngay trước một con bé như vậy mà sự ghê tởm của ông đối với dân ngoại cũng không sụp đổ, và cả gương mẫu của con cũng không khuất phục được ông, và việc con xác nhận là con đến vì tất cả cũng không thành công.
- Con có lý. Ngay chính Batôlômêo và Judas Kêriot, những kẻ học thức nhất, hay ít là các nhà khôn ngoan Batôlômêo và Judas Kêriot mà mẹ không biết rõ họ thuộc về tầng lớp nào, nhưng có thể nói là họ thấm nhuần, họ bão hòa không khí Đền Thờ. Đó là những người đề kháng mạnh nhất... Nhưng Batôlômêo thì tốt, và sự kháng cự của ông còn có thể tha thứ được. Còn Judas... Không. Con đã nghe Mathêu nói là Judas đã cố ý đi Tibêriat... Mathêu là người biết đời, nhất là đời sống ở đó... Và Giacôbê Zêbêđê đã nhận xét rất đúng: “Ai đã cho Judas nhiều tiền như vậy?”, vì đời sống đó đắt... Tội nghiệp cho Maria Simon!
Giêsu làm một cử chỉ bằng tay Người như để nói: “Như vậy
404
đó...”, và Người thở dài. Sau đó Người nói: “Má có nghe không? Các bà Rôma ở Tibêriat... Valêria chả cho con biết gì cả. Nhưng con phải biết trước khi lại lên đường. Má ơi! Con muốn có má ở với con một thời gian tại Caphanaum... Rồi má sẽ trở về đây. Còn con, con sẽ đi tới biên giới vùng Syro-Phênici. Sau đó con sẽ trở lại để chào má trước khi đi xuống Juđê, con cừu cứng đầu của Israel...”
- Con ơi, chiều mai má sẽ đi... Má sẽ mang theo Maria Alphê với má. Auréa sẽ tới nhà Simon Alphê, bởi vì người ta sẽ không miễn chỉ trích vì nó ở đây với chúng ta nhiều ngày... Thế gian là vậy... Má sẽ đi... Giai đoạn đầu là tới Cana. Rồi lúc rạng đông, má sẽ khởi hành để rồi dừng chân tại nhà bà mẹ của Salômê vợ Simon. Rồi lúc hoàng hôn, má lại lên đường, và chúng ta sẽ tới Tibêriat lúc vẫn còn ban ngày. Má sẽ tới nhà môn đệ Giuse, vì má muốn tới nhà Valêria với tư cách hoàn toàn cá nhân. Còn nếu má tới nhà Jeanne thì bà có thể theo má tới đó... Không, má, mẹ của Vị Cứu Tinh, và trước mắt bà ta, má sẽ khác với người môn đệ của Vị Cứu Tinh... Bà ta sẽ không nói “không” với má. Con ơi, đừng sợ!
- Con không sợ, nhưng điều đó làm con buồn vì má mệt.
- Ôi! Để cứu một linh hồn! Có là gì việc đi vài chục dặm vào mùa đẹp trời này?
- Đó cũng là việc mệt mỏi tinh thần. Xin xỏ... hạ mình... có lẽ vậy.
- Điều nhỏ mọn và nó sẽ qua đi. Nhưng một linh hồn thì tồn tại!
- Má sẽ như một con chim én bị lạc ở Tibêriat đồi bại... Hãy mang Simon đi với má.
- Con ơi, không. Chỉ hai người chúng ta, hai đàn bà hèn mọn... nhưng là hai bà mẹ và môn đệ. Vậy là hai sức mạnh tinh thần lớn lao... Má sẽ làm rất mau... Hãy để má đi... Chỉ cần chúc phúc cho má.
- Má ơi, vâng, với tất cả trái tim người con của con, và với tất cả sức mạnh của Thiên Chúa. Má hãy đi, và nguyện các thiên thần hộ
405
vệ má suốt dọc đường.
- Cám ơn Giêsu. Vậy chúng ta vào nhà. Má phải thức dậy lúc rạng đông để chuẩn bị các thứ cần cho cuộc hành trình và cho các chuyện khác nữa. Con ơi, đọc lời nguyện đi...
Giêsu và Maria cùng đứng dậy và cùng đọc kinh Lạy Cha... Rồi họ vào nhà và đóng cửa... Ánh sáng biến mất và không nghe thấy một tiếng nói loài người nào nữa. Chỉ còn tiếng gió rì rào trong chòm lá, và tiếng róc rách nhẹ của tia nước rơi vào bể.
130* MARIA TẠI TIBÊRIAT
Tibêriat đã ở trong tầm mắt khi hai người bộ hành mệt mỏi tiến bước trong hoàng hôn đang xuống.
- Sắp đêm rồi... mà chúng ta vẫn còn ở miền quê... Hai phụ nữ đơn độc... Và ở gần một thành phố đầy những... Ôi! Những loại người! Benzêbút! Phần lớn là Benzêbút - Maria Alphê nói khi sợ hãi nhìn chung quanh bà.
- Maria, đừng sợ. Benzêbút không làm hại chúng ta đâu. Nó chỉ làm hại những người đón nhận nó vào trong lòng họ...
- Nhưng những người ngoại giáo này có nó...
- Tại Tibêriat đâu phải chỉ toàn là dân ngoại, và trong số họ có những người công chính.
- Cái gì! Cái gì! Họ đâu có Thiên Chúa của chúng ta!...
Maria không đáp trả, vì mẹ hiểu rằng vô ích. Bà chị dâu đại độ của mẹ chỉ là một trong số rất đông người Israel tin rằng chỉ có mình họ có các nhân đức... bởi vì họ là người Israel.
Một yên lặng, chỉ còn nghe thấy tiếng bước của xăng đan ở những bàn chân mệt mỏi và đầy bụi.
- Tốt hơn là nên đi con đường quen... Con đường đó chúng ta biết... và nó đông người qua lại... Đường này thì... ở giữa vườn cây, đơn độc... không quen... chị sợ, vậy đó!
- Nhưng không, Maria, coi kìa, thành phố đây rồi, chỉ còn vài
406
bước nữa. Đây là những khu vườn yên tĩnh của các nông dân Tibêriát. Và kia là bờ sông, cũng chỉ vài bước. Chị muốn chúng ta đi theo bờ sông à? Chúng ta sẽ gặp các ngư phủ... Chỉ có việc băng qua các khu vườn này.
- Không, không! Chúng ta lại ra xa thành phố. Hơn nữa... các lái đò hầu như toàn là Hy Lạp, Crète, Ả Rập, Ai Cập, Rôma... - Và tựa như bà điểm danh từng ấy tầng lớp hỏa ngục. Maria Rất Thánh không thể nín cười dưới lớp voan của mẹ.
Họ tiến tới. Con đường trở thành một đại lộ, và cũng nhiều bóng cây hơn bao giờ hết... và đáng sợ hơn bao giờ hết đối với Maria Alphê. Bà kêu cầu Jêova ở mỗi bước đi mà bà lết càng lúc càng chậm.
- Nào, can đảm lên! Mau đi, nếu chị sợ! - Maria nói để khuyến khích bà. Ở mỗi lời yêu cầu, bà trả lời: “Cầu được như vậy!”
Nhưng rồi Maria Alphê dừng hẳn lại và bà hỏi: “Tại sao em muốn chị tới đây? Có lẽ để nói chuyện với Iscariot?”
- Không đâu Maria. Hay một cách chính xác là không phải việc đó. Em đến để nói chuyện với bà Rôma Valêria...
- Lạy Tình Thương! Chúng ta tới nhà bà ta sao? A! Không, Maria ơi, đừng làm việc đó! Chị... Chị sẽ không đi với em tới đó đâu! Nhưng em làm gì tại nhà... tại nhà những... tại nhà những kẻ bị nguyền rủa này?...
Maria Rất Thánh không còn nụ cười êm đềm nữa. Mẹ bộc lộ thái độ rất nghiêm trang và hỏi: “Chị không nhớ rằng phải cứu Auréa sao? Con em đã bắt đầu việc giải phóng cho nó, em sẽ chuộc nó. Đó chính là điều chị phải thi hành đối với các linh hồn”.
- Nhưng nó không phải Israel...
- Thực sự chị chưa hiểu một lời nào của Tin Mừng! Chị là một môn đệ rất bất toàn... Chị không làm việc cho Thầy chị, và chị làm cho em bao là đau đớn.
Maria Alphê cúi đầu... Nhưng qủa tim bà, tuy đầy thành kiến của Israel, nhưng tốt một cách tự nhiên, nó liền vượt lên. Trong một tiếng nấc, bà ôm lấy Maria và nói: “Tha cho chị đi! Tha cho chị đi!
407
Đừng nói rằng chị làm khổ em, và rằng chị không phục vụ Giêsu của chị! Đúng, đúng! Chị rất bất toàn, chị đáng bị khiển trách, nhưng chị không làm vậy nữa... Chị đi, chị đi, dù là đi tới hỏa ngục, nếu em tới đó để giật lấy một linh hồn để đem về cho Giêsu... Cho chị cái hôn đi, Maria, để nói rằng em tha cho chị...”
Maria ôm bà để hôn, và các bà lại lên đường, lanh lẹ, được linh động lại bởi tình yêu.
Đây, họ đã ở Tibêriat, phía cảng nhỏ của các người đánh cá. Họ tìm căn nhà nhỏ của Giuse, người môn đệ chèo đò... Họ tìm thấy và họ gõ cửa.
- Mẹ của Thầy con! Ôi mẹ! Xin mời vào. Và nguyện Thiên Chúa ở với mẹ và với con là kẻ tiếp đón mẹ. Xin cũng mời bà vào, và nguyện bình an cho bà, mẹ của các tông đồ.
Họ vào. Trong khi bà vợ và con gái của người lái đò chạy tới để chào, theo sau bởi một đàn các đứa nhỏ hơn...
Thực phẩm thanh đạm được tiêu thụ mau lẹ, và Maria Clêopha, mệt mỏi, liền rút lui cùng với các con của gia đình. Còn lại trên sân thượng cao, từ đó nhìn thấy cái hồ - người ta nghe thấy nó thì đúng hơn là nhìn thấy, vì chưa có trăng - sóng đập vào bãi, còn lại Đức Thánh Trinh Nữ, người lái đò và vợ ông ta. Bà cố gắng để tiếp khách, nhưng bà buồn ngủ, thực sự thì bị váng đầu.
- Bà ấy mệt - Giuse nói để biện hộ cho bà.
- Tội nghiệp! Các bà chủ nhà luôn luôn mệt về buổi chiều.
- Đúng, các bà làm việc. Các bà không giống như những bà chỉ lợi dụng thời giờ để hưởng thụ- Người lái đò nói cách khinh bỉ khi chỉ vào các con thuyền sáng trưng đang tách khỏi bờ giữa tiếng ca tiếng nhạc. “Bây giờ là lúc các bà ra ngoài, các bà đó! Bây giờ là lúc các bà bắt đầu mệt mỏi, trong khi các người đàng hoàng lo ngủ. Các bà làm thiệt hại cho các người làm việc, vì các bà tới phạm tội ở những nơi tốt nhất, làm cho chúng con phải trốn những nơi đó, chúng con, những người rút từ hồ ra tấm bánh cho gia đình...”
- Họ là ai?
- Các bà Rôma và những người giống như các bà. Trong số đó
408
phải kể đến Hêrôđiađê và đứa con gái lẳng lơ của bà, và cũng có các bà khác của Israel... Vì chúng ta có rất nhiều Maria Magđala... Con nói về Maria trước khi hoán cải...
- Đó là những đàn bà bất hạnh.
- Bất hạnh à? Chính chúng ta là những kẻ bất hạnh, vì chúng ta không ném đá họ để thanh tẩy Israel cho khỏi những kẻ làm hư nó, và là những kẻ mang đến cho chúng ta sự nguyền rủa của Thiên Chúa.
Trong lúc này có nhiều thuyền khác rời bờ, và chiếc hồ đỏ ối vì ánh sáng của các người chơi bời.
- Mẹ ngửi thấy mùi nhựa thơm không? Họ bắt đầu bằng cách tự làm say bằng cái khói của nó, rồi họ làm những chuyện còn lại trong qúa trình một bữa tiệc. Họ có thể đi tới tận suối nước nóng ở bờ bên kia... trong những nhà tắm hơi... Đó là những trò của hỏa ngục đang diễn ra!... Họ sẽ trở về vào rạng đông, vào bình minh , hay có thể trễ hơn... say mèn, chồng chất lên nhau như những cái bao, đàn ông, đàn bà, và các nô lệ khênh họ vào trong nhà họ để bắt đầu cuộc hành lạc... Chiều nay toàn là các thuyền đẹp rời bến!... Coi kìa! Coi kìa!... Nhưng con bực với những người Do-Thái ở giữa họ hơn là với họ. Họ... thì người ta biết rồi! Các con vật không biết xấu hổ. Nhưng chúng ta!... Mẹ ơi, mẹ có biết là tông đồ Judas đang ở đây không?
- Mẹ biết.
- Ông ta không làm gương sáng, mẹ biết không?
- Tại sao? Ông ta đi với những người này à?...
- Không... Nhưng... với các bạn xấu... và một người đàn bà. Con thì con không nhìn thấy... Không ai trong chúng con nhìn thấy cặp đó. Nhưng các pharisiêu đã diễu chúng con mà nói rằng: “Tông đồ của các ông đã đổi thầy. Bây giờ ông ta có một bà, và ông ta là bạn tốt của các người thâu thuế”.
- Giuse! Đừng xét đoán theo các điều con chỉ nghe nói. Con biết rằng các pharisiêu không ưa các con, và họ cũng chẳng ca tụng Thầy.
- Đúng vậy... Nhưng tiếng đồn lan đi... Và điều đó làm thiệt hại...
409
- Nó đã sinh ra, nó cũng sẽ biến đi. Con thì con đừng phạm tội chống lại anh em con. Ông ta ở đâu, con biết không?
- Có, tại nhà một người bạn, con tin vậy. Một người có cửa tiệm rượu và đồ gia vị. Gian hàng thứ ba ở phía đông chợ, sau phông-ten nước...
- Tất cả các bà Rôma có giống nhau không?
- Ôi! Gần như vậy cả... Cho dù các bà không để cho người ta thấy, các bà cũng làm chuyện xấu.
- Những bà nào không để cho nhìn thấy?
- Những bà đã đến nhà Lazarô vào lễ Vượt Qua. Các bà ở tách riêng ra hơn... Con muốn nói là các bà không luôn luôn đến trong các bữa tiệc. Nhưng các bà cũng đến đây luôn luôn đủ để cho người ta có thể nói rằng các bà ô uế.
- Nhưng con nói vậy bởi vì con chắc chắn như vậy, hay đó là thành kiến Israel của con làm cho con nói? Hãy xét mình thực tình xem.
- Đây... Nói đúng ra... con không biết ... con không thấy họ nữa trong các thuyền của những tên ghê tởm đó... Nhưng các bà cũng lên thuyền ở trên hồ về ban đêm.
- Con cũng tới đó à?
- Chắc chắn rồi! Khi con muốn đánh cá!
- Trời qúa nóng, chỉ có mặt hồ về đêm là mát. Đó là các lời của con trong bữa tối.
- Đúng vậy.
- Vậy tại sao không nghĩ rằng các bà tới đó vì lý do này?
Người đàn ông nín lặng... Rồi ông nói: “Trễ rồi. Các vì sao cho biết đây là vọng canh thứ hai rồi. Thưa mẹ, con rút lui. Mẹ không nghỉ sao?”
- Không. Mẹ ở lại đây để cầu nguyện. Mẹ sẽ đi sớm. Đừng ngạc nhiên nếu con không thấy mẹ vào lúc rạng đông.
- Mẹ có thể làm như mẹ muốn. Anna, vào giường đi! - Và ông lay bà vợ ông đang ngủ say. Họ bỏ đi.
Maria ở lại một mình. Mẹ qùi gối và cầu nguyện, cầu nguyện... Nhưng mẹ không rời mắt khỏi các con thuyền đang bơi, các thuyền
410
của người giầu, chúng bơi đi, sáng rực, giữa làn hoa, tiếng hát và khói hương... Có rất nhiều. Chúng ra đi, ra đi, ra đi về hướng đông. Các khoảng cách giữa các thuyền trở nên rất nhỏ, tiếng ca không còn vọng lại nữa. Chỉ còn lại một chiếc thuyền đơn độc, lộng lẫy trên tấm gương nước, được soi sáng bởi vầng trăng đang lặn ở đàng trước Tibêriat. Nó đi đi lại lại từ từ. Maria quan sát nó cho tới khi mẹ thấy nó quay mũi vào bờ.
Lúc đó Maria đứng dậy và nói: “Lạy Chúa, xin giúp con! Xin làm cho nó là...” Rồi mẹ nhẹ nhàng bước xuống cái cầu thang nhỏ, rón rén đi vào một phòng mà cửa hé mở. Dưới ánh sáng trăng, có thể nhìn thấy một cái giường nhỏ. Maria cúi xuống trên đó và gọi: “Maria! Maria! Thức dậy thôi. Chúng ta đi!”
Maria Alphê tỉnh thức, còn đờ đẫn vì giấc ngủ. Bà dụi mắt và hỏi: “Đến giờ rồi à? Trời sáng lẹ qúa!” Bà bàng hoàng tới nỗi bà không nhận ra đó không phải là ánh sáng rạng đông, mà là ánh lân tinh yếu ớt của mặt trăng đi vào qua chiếc cửa mở. Nhưng bà nhận ra được khi bà đã ra ngoài mảnh đất có trồng cấy ở trước nhà người lái đò.
- Nhưng còn đêm mà! - Bà kêu.
- Ờ, nhưng chúng ta phải làm lẹ, và chúng ta ra lẹ khỏi thành phố này... Ít nhất, em hy vọng vậy. Đi, ra lối này, theo bờ hồ, nhanh lên, trước khi chiếc thuyền tới bờ...
- Thuyền à? Thuyền nào? - Maria hỏi, nhưng bà chạy theo sau Đức Trinh Nữ, và lẹ, lẹ, ra ngoài bãi vắng, đi tới cái đập nhỏ mà chiếc thuyền hướng về.
Hai bà tới nơi một lát trước chiếc thuyền, thở hổn hển... Maria nhìn chăm chú và kêu lên: “Ngợi khen Thiên Chúa! Đó là các bà. Bây giờ hãy theo em... vì em phải tới nơi các bà tới... Em không biết các bà ở đâu...”
- Nhưng Maria!... Xin thương!... Người ta sẽ cho chúng ta là hai gái điếm!...
Đấng Trong Sạch lắc đầu, lẩm bẩm: “Chỉ cần là ta không vậy. Đi!” Và mẹ kéo bà đi dưới bóng một căn nhà.
Chiếc thuyền vào bờ. Trong lúc đó, một cái kiệu dừng lại ngay ở
411
bên để chờ được mang đi. Hai người đàn bà lên kiệu, còn hai người ở lại dưới đất và đi bộ bên cạnh chiếc kiệu. Chiếc kiệu tiến theo bước nhịp nhàng của bốn người đàn ông Bắc Phi mặc áo rất ngắn, không có tay, chỉ hơi bọc lấy thân...
Maria đi theo họ, như điếc với những phản kháng của Maria Alphê: “Hai đàn bà đơn độc... theo sau họ! Họ nửa mình trần... Ôi!”
Qua mấy mét đường thì cái kiệu dừng lại. Một người đàn bà xuống khỏi đó, trong khi người đàn ông đi ở phía trước gõ vào một cái cổng.
- Chào Lidia!
- Chào Valêria! Nựng Faustina một cái cho tao với! Chiều mai chúng mình còn được yên hàn để đọc sách trong khi những người khác mừng lễ lạy...
Cánh cửa mở ra và Valêria với người nô lệ, hoặc nô lệ được giải phóng của bà sắp bước vào.
Maria tiến lên và nói: “Thưa bà, xin một lời!”
Valêria nhìn hai người đàn bà bao bọc trong áo khoác kiểu Hy Bá rất tầm thường, bà tưởng là các người hành khất, bà ra lệnh: “Barbara, hãy cho của bố thí!”
- Thưa bà không. Tôi không xin tiền. Tôi là mẹ của Giêsu Nazarét, còn bà này là bà con của tôi. Tôi đến nhân danh Người để xin bà một điều.
- Thưa bà! Có lẽ con bà bị... bách hại...
- Không hơn thường lệ... Nhưng người muốn...
- Xin mời bà vào. Không thích hợp để bà đứng ngoài đường như người hành khất.
- Không. Điều này sẽ nói mau, nếu bà nghe tôi cách kín đáo...
- Tất cả các người đi đi! - Valêria ra lệnh cho người nô lệ được giải phóng và các người khênh kiệu. “Chúng ta đã ở riêng. Ông Thầy muốn gì? Tôi đã không đến để khỏi làm phiền Người trong thành phố của Người. Người đã không đến, có lẽ để khỏi làm phiền tôi ở bên cạnh chồng tôi?”
412
- Không, theo lời tôi khuyên, vì thưa bà, con tôi bị ghét.
- Tôi biết.
- Và Người chỉ được an ủi trong sứ mạng của Người.
- Tôi biết.
- Người không đòi hỏi vinh dự, quân đội. Người không ước ao cai trị hay của cải, nhưng Người đòi quyền lợi của Người trên các tâm hồn.
- Tôi biết.
- Thưa bà... Người phải trả lại con bé cho bà... Nhưng, xin bà đừng phẫn uất nếu tôi nói với bà, ở đây nó không thể làm sao để tâm hồn nó thuộc về Giêsu. Bà tốt hơn những người khác... Nhưng ở chung quanh bà... có qúa nhiều cái là bùn lầy của thế gian.
- Đúng vậy. Thì sao?
- Bà là người mẹ. Con tôi có những tình cảm của người cha đối với mọi linh hồn. Bà có cho phép con bé của bà lớn lên giữa những người có thể làm hư hỏng nó không?
- Không. Và tôi đã hiểu... Vậy... Hãy nói với con bà những lời này: “Để ghi nhớ Faustina mà Ngài đã cứu thân xác, Valêria để lại cho Ngài Auréa để Ngài cứu linh hồn nó”. Đúng vậy! Chúng tôi qúa đồi trụy để một vị thánh có thể tin tưởng... Thưa bà, xin cầu nguyện cho tôi - Và bà rút lui rất lẹ, không để cho Maria kịp cám ơn. Tôi nói là bà rút lui để khóc...
Maria Alphê sửng sốt.
- Đi thôi Maria. Chúng ta khởi hành vào ban đêm, chiều mai chúng ta sẽ ở Nazarét...
- Đi!... Bà ta đã nhường nó... giống như một đồ vật...
- Đối với họ thì chỉ là một đồ vật. Đối với chúng ta thì đó là một linh hồn. Đi, coi kìa, trời đã hơi hơi sáng ở chân trời. Người ta có thể nói là không có đêm vào tháng này...
Các bà ra đi bởi con đường không còn tối mò nữa, và nó mở ra trước mắt họ, không phải con đường bờ hồ, mà là con đường ở phía sau một dẫy nhà tầm thường. Khi các bà đang ở khoảng giữa đường thì từ một góc, Judas bước ra, một Judas rõ ràng là say khướt. Ông trở về từ một yến tiệc nào đó ai mà biết được, với râu tóc rối bời, y
413
phục nhầu nát, mặt mũi lem luốc.
- Judas! Con? Trong tình trạng này?
Judas không có giờ để giả bộ không nhận ra mẹ, và ông không thể chạy trốn... Sự bất ngờ làm ông ý thức được sự kiện và cắm chặt ông tại chỗ, không phản ứng.
Maria lại gần ông trong khi thắng vượt sự ghê tởm mà bộ dạng vị tông đồ gây nên, và mẹ nói với ông: “Judas, đứa con khốn khổ, con làm gì? Con không nghĩ tới Thiên Chúa? Tới linh hồn con? Tới mẹ con? Con đã làm gì, Judas? Tại sao con muốn làm người tội lỗi? Hãy nhìn vào mẹ đây, Judas! Con không có quyền giết linh hồn con...” Và mẹ tìm cách cầm tay ông.
- Hãy để tôi yên. Sau cùng, tôi là một người, và... tôi tự do để làm điều mà mọi người đều làm. Hãy nói với người đã sai bà đi do thám tôi rằng tôi chưa hoàn toàn là thần trí, và tôi còn trẻ.
- Con không được tự do để hủy hoại mình. Judas! Hãy thương lấy chính mình con... Hành động như vậy thì con sẽ không bao giờ là một tâm hồn hạnh phúc được... Judas... Người không có sai mẹ đi để dò thám con đâu. Người cầu nguyện cho con, chỉ có vậy thôi, và mẹ cùng với Người, nhân danh mẹ của con...
- Hãy để tôi yên - Judas nói cách vô lễ. Rồi nhận ra sự thô lỗ của mình, hắn sửa chữa: “Tôi không đáng tình thương... Chào...” Và hắn bỏ đi.
- Thật là thằng qủi!... Chị sẽ nói chuyện này với Giêsu - Maria Alphê kêu lên. “Thằng Juđa của chị nó có lý”.
- Chị sẽ không nói với ai cả. Chị sẽ cầu nguyện cho ông ta, điều đó thì được...
- Em khóc sao? Em khóc vì hắn ta? Ôi!...
- Em khóc... Em đã vui mừng vì cứu được Auréa, bây giờ em khóc vì Judas là một tội nhân. Nhưng với Giêsu đã qúa đau khổ, chúng ta chỉ mang cho Người tin vui mà thôi. Với sự nhẫn nại và lời cầu nguyện, chúng ta sẽ giật tội nhân khỏi tay Satan... tựa như nó là con chúng ta, Maria ạ, tựa như nó là con chúng ta. Chị cũng là mẹ, và chị biết... Vì người mẹ khốn khổ đó, vì linh hồn tội lỗi này,
414
vì Giêsu của chúng ta...
- Ờ, chị sẽ cầu nguyện... Nhưng chị không nghĩ rằng hắn ta xứng đáng...
- Maria, đừng nói vậy.
- Chị không nói vậy, nhưng là vậy đó... Chúng ta không tới nhà Jeanne à?
- Không. Sắp sửa chúng ta sẽ tới đó với Giêsu...
131* PHẢI CÁM ƠN ÂN NHÂN CỦA
CHÚNG TA VỚI LÒNG BIẾT ƠN
Đức Trinh Nữ rất mệt khi Người bước chân vào nhà Người. Nhưng mẹ sung sướng và mẹ đi tìm Giêsu của mẹ ngay. Người còn đang làm việc trong những tia sáng sau cùng của một ngày đang tắt, với cái cửa lò mà Người đang ráp vào chỗ. Chính Simon mở cửa cho mẹ. Sau khi đã chào mẹ, ông khôn khéo rút lui vào xưởng mộc. Tôi không thấy Tôma, có lẽ ông ra ngoài.
Giêsu để các vật dụng xuống ngay khi Người nhìn thấy mẹ, và Người đi lại với mẹ, vừa đi vừa lau tay dính dầu vào chiếc tạp dề để làm việc (Người vừa tra dầu vào bản lề và các khóa). Nụ cười hỗ tương của hai đấng như soi sáng cho mảnh vườn mà ánh trăng đã chiếu xuống.
- Bình an cho má!
- Bình an cho con!
- Má qúa mệt rồi! Má đã không nghỉ à?...
- Nghỉ từ sáng tới chiều trong nhà Giuse... Nếu không có sức
nóng thiêu đốt này thì má đã đi ngay lập tức để nói với con rằng Auréa thuộc về con.
- Được rồi à?! - Khuôn mặt Giêsu trẻ lại trong niềm vui bất chợt. Có thể nói là diện mạo của Người chỉ ngoài hai mươi. Trong niềm vui của Người, nó đã mất đi sự nghiêm trang mà khuôn mặt cũng như cử chỉ của Người thường ghi dấu. Người càng giống mẹ Người
415
hơn, một người mẹ luôn luôn trẻ trung một cách trong sáng trong các cử chỉ và thái độ của Người.
- Ờ, Giêsu. Và mẹ đạt được không khó khăn gì. Bà ta bằng lòng ngay. Bà ta cảm động khi nhìn nhận rằng bà, và cùng với bà là các bạn bà, đều qúa trụy lạc để có thể nuôi một thụ tạo cho Thiên Chúa. Một sự thú nhận rất khiêm nhường, rất thẳng thắn, rất thực sự! Người ta không dễ dàng tìm thấy những người biết nhìn nhận khuyết điểm của mình khi không có ai ép buộc.
- Vâng. Không dễ đâu. Nhiều người trong Israel không biết làm điều đó. Đó là những linh hồn đẹp đẽ, bị vùi dưới một lớp rác. Nhưng khi lớp rác bay đi...
- Điều đó có xảy ra không con?
- Con chắc chắn có. Các bà tự nhiên hướng chiều về điều thiện, sau cùng các bà sẽ liên kết với nó. Bà ta nói gì với má?
- Ôi! Chỉ có vài lời... Chúng ta đã hiểu nhau ngay. Nhưng nếu có Auréa bây giờ thì tốt biết bao! Má muốn nói với nó, với tính cách cá nhân, nếu con muốn, con à.
- Thưa má vâng. Chúng ta sai Simon đi - Và Người lớn tiếng gọi Zêlote. Ông đến ngay lập tức.
- Simon, hãy đến nhà Simon Alphê và nói rằng mẹ Thầy đã về, rồi trở về với con bé và Tôma. Chắc chắn ông đã làm xong các việc nhỏ mà Salômê nhờ ông ta.
Simon cúi mình và đi ngay.
- Má ơi, kể cho con đi... Cuộc hành trình của má... cuộc tiếp xúc của má... Má tội nghiệp của con! Má mệt chừng nào vì con!
- Ôi! Không đâu Giêsu. Không có gì là mệt cả khi con sung sướng... - Và Maria kể lại cuộc hành trình của Người, sự sợ hãi của Maria Alphê, thời gian nghỉ trong nhà người chèo đò, cuộc tiếp xúc với Valêria. Và mẹ kết thúc khi nói: “Má thích gặp bà vào giờ này, vì bầu trời cho phép. Bà được tự do hơn. Má cũng vậy. Và Maria Alphê sẽ mau chóng được an ủi. Bởi vì là hai người đàn bà lạc lõng ở Tibêriat khiến cho bà sợ, mà chỉ có tình yêu đối với con và ý tưởng phục vụ con mới có thể thắng vượt - Và Maria mỉm cười khi nhớ lại nỗi lo âu của chị dâu Người...
416
Giêsu mỉm cười nói: “Tội nghiệp! Đó là người đàn bà Israel thực sự, người đàn bà xưa, hoàn toàn dành cho gia đình; người đàn bà theo ngạn ngữ. Nhưng trong tôn giáo mới, người đàn bà không phải chỉ mạnh ở trong nhà... Sẽ có nhiều người vượt cả Judith, Jahel. Bởi vì chính các bà là những anh hùng, với sự anh hùng của bà mẹ các Maccabê... Bà Maria của chúng ta rồi cũng sẽ như vậy... Nhưng bây giờ thì bà còn như thế... Má có gặp Jeanne không?”
Maria không mỉm cười nữa, có lẽ vì sợ một câu hỏi có liên can tới Judas nên mẹ trả lời mau: “Má không muốn áp đặt một lo âu nữa cho Maria. Chúng ta đã ở luôn trong nhà để nghỉ cho tới giữa buổi chiều, rồi chúng ta đi... Má nghĩ là chúng ta sắp gặp bà ở trên hồ...”
- Má làm rất đúng. Má đã cho con bằng cớ về cảm tình của các bà Rôma đối với con. Nếu Jeanne đã can thiệp thì người ta có thể nghĩ rằng bà ta đã nhường nó cho người bạn. Bây giờ chúng ta chờ cho tới ngày Sabát, nếu Myrta không đến, chúng ta sẽ tới đó cùng với Aurêa.
- Con ơi, má muốn ở lại...
- Má rất mệt, con thấy.
- Không. Không phải vì vậy... Má nghĩ rằng Judas có thể đến đây... Cũng như rất tốt là ở Caphanaum luôn luôn có người để chờ ông ta và đón tiếp ông ta như người bạn, thì cũng tốt là ở đây có người chờ để đón nhận ông ta với tình yêu.
- Cám ơn má. Chỉ có một mình má hiểu cái gì còn có thể cứu vãn...
Cả hai đấng đều thở dài vì người môn đệ làm cho họ đau đớn...
Simon và Tôma về cùng với Auréa. Nó chạy lại với Maria. Giêsu để nó lại với mẹ và vào nhà với các tông đồ.
- Con gái, con đã cầu nguyện rất nhiều, và Thiên Chúa nhân từ đã nghe con... - Maria nói để bắt đầu.
Nhưng con bé gián đoạn mẹ bởi một tiếng kêu vui mừng: “Con ở lại với mẹ!” Rồi nó quàng tay quanh cổ Maria và hôn Người.
Maria hôn đáp trả nó, và vẫn ôm nó trong tay, mẹ nói với nó:
417
“Khi ai cho một ơn lớn thì phải trả ơn, phải không?”
- Ôi! Con sẽ trả ơn mẹ bằng bao là tình yêu.
- Ờ, con ơi, nhưng ở bên trên mẹ còn có Thiên Chúa. Chính Người đã ban cho con ơn này, ơn khôn tả, là đón nhận con vào giữa các phần tử của dân Người, làm cho con nên một môn đệ của Thầy và Vị Cứu Tinh. Mẹ, mẹ chỉ là dụng cụ của ơn huệ này, còn ơn huệ là chính Người, Đấng Tối Cao, đã chấp thuận cho con. Vậy con sẽ dâng cho Người cái gì để thưa với Người rằng con cám ơn Người?
- Nhưng... Con không biết... Bảo con đi, ôi mẹ!...
- Tình yêu. Điều đó là chắc chắn. Nhưng tình yêu, để thực sự là thế, phải kết hợp với hy sinh. Vì cái gì càng đắt thì càng có giá trị, phải không?
- Thưa mẹ vâng.
- Đó. Vậy mẹ nói rằng con, với cùng một niềm vui đã làm con kêu lên: “Con ở lại với mẹ!”, con cũng phải kêu: “Ôi! Lạy Chúa, vâng”, khi mẹ, một nữ tì hèn mọn của Người, mẹ nói cho con ý muốn của Chúa về con.
- Nói nó cho con đi mẹ! - Auréa nói, và vẻ mặt của nó trở nên nghiêm trang.
- Ý của Thiên Chúa muốn ký thác con cho hai người mẹ tốt: cho Noêmi và Myrta...
Con bé có vài giọt nước mắt to lóng lánh trong đôi mắt xanh lạt của nó, rồi nó chảy xuống trên khuôn mặt hồng.
- Các bà rất tốt, và các bà rất thân thiết với Giêsu và mẹ. Với một bà, Giêsu đã cứu con bà, với bà kia, mẹ đã cho con bà bú sữa. Và con đã thấy là các bà tốt...
- Vâng... Nhưng con, con hy vọng ở lại với mẹ...
- Con ơi! Người ta không thể được tất cả đâu. Con thấy rằng mẹ cũng vậy, mẹ không thể luôn luôn ở với Giêsu. Mẹ ban Người cho các con, và mẹ ở lại xa Người, qúa xa Người, trong khi Người đi quanh xứ Palestin để giảng dạy, để chữa lành và cứu các cô bé.
- Đúng vậy.
- Nếu mẹ chỉ muốn Người cho một mình mẹ thì con đã không được cứu. Nếu mẹ chỉ muốn Người cho một mình mẹ thì linh hồn
418
các con sẽ không được cứu. Hãy suy nghĩ coi hy sinh của mẹ lớn chừng nào. Mẹ cho các con người con của mẹ, để Người bị giết vì tội các con. Đàng khác, con và mẹ, chúng ta sẽ luôn luôn hợp nhất, vì các môn đệ tồn tại, và sẽ luôn luôn tồn tại hợp nhất chung quanh Đức Kitô, làm thành một đại gia đình, hợp nhất với nhau bởi tình yêu đối với Người.
- Đúng vậy. Và rồi... Con cũng còn đến đây, phải không? Và chúng ta sẽ còn gặp nhau?
- Chắc chắn rồi. Bao lâu Thiên Chúa còn muốn.
- Và mẹ sẽ vẫn luôn luôn cầu nguyện cho con?
- Và mẹ sẽ luôn luôn cầu nguyện cho con.
- Và khi chúng ta ở với nhau, mẹ sẽ dạy dỗ con nữa?
- Ờ, con gái mẹ...
- A! Con, con muốn trở nên như mẹ! Có bao giờ con có thể không? Biết, để sống tốt...
- Noêmi là mẹ của một vị trưởng giáo đường và là môn đệ của Chúa. Myrta là mẹ của một người con tốt, đã đáng được ơn phép lạ, và là một môn đệ tốt. Hai bà là người tốt, khôn ngoan, hơn nữa, lại đầy tình yêu.
- Mẹ bảo đảm điều đó với con?
- Đúng, con à.
- Vậy... Chúc lành cho con đi. Và nguyện cho ý Chúa được nên trọn... như lời cầu nguyện của Giêsu nói. Con đã đọc biết bao lần... nên thật chính đáng là bây giờ con làm điều con đọc để được ơn không phải trở về nhà người Rôma nữa...
- Con là con gái ngoan, và Thiên Chúa sẽ giúp con càng ngày càng nhiều hơn. Đi. Chúng ta hãy đến nói với Giêsu là nữ môn đệ trẻ nhất biết làm theo ý Thiên Chúa...
Và cầm tay nó, Maria đi vào nhà với cô gái.
132* MỘT NGÀY SABÁT NỮA
TẠI NAZARÉT
Hay đúng hơn là lúc lại bắt đầu một ngày Sabát. Vì lúc mặt trời
419
lặn của một ngày thứ sáu bắt đầu khi mà, nhễ nhãi mồ hôi, nhưng vui sướng, Myrta và Noêmi đến với thanh niên Abel. Các bà xuống khỏi con la mà Abel dắt đi nơi khác, chắc tới chuồng ngựa của bạn bè, có lẽ là hai người đánh xe lừa của Nazarét đã trở nên môn đệ, và các bà vào qua cửa của xưởng mộc đang mở rộng cho căn phòng được thoáng khí, vì mới đây sức nóng của chiếc lò mộc mạc đã đồng lõa với sức nóng của mùa hè.
Tôma đang xếp đặt dụng cụ và Simon hốt mạt cưa, trong khi Giêsu lau các hộp nhỏ chứa keo và sơn.
- Bình an cho Thầy và cho các anh em môn đệ - các bà chào, cúi sâu ngay từ cửa, để sau cùng qùi phục ngay ở chân Giêsu sau khi đi băng qua xưởng mộc.
- Bình an cho các bà. Các bà đã rất trung thành! Đến dưới sức nóng này!
- Ôi! Chả là gì cả. Ở đây người ta dễ chịu đến nỗi người ta quên tất cả. Mẹ Thầy đâu?
- Ở phòng bên. Đang khâu cho xong chiếc áo của Auréa. Qua đấy đi.
Hai bà đi lẹ cùng với giỏ xách của họ, và người ta nghe thấy các giọng nói rõ ràng của họ, đúng hơn là giọng trầm, pha lẫn với giọng còn hơi chua của Auréa và giọng thanh bạc của Maria.
- Bây giờ các bà sẽ sung sướng nhé! - Tôma nói.
- Đúng. Đó là hai bà dũng cảm - Giêsu trả lời.
- Thưa Thầy, Myrta vừa duy trì được đứa con trai của bà, vừa được thêm một đứa con mới, và mới chỉ trong hơn một năm... - Zêlote nói.
- Ờ, mới hơn một năm một tí thôi. Và đã hơn một năm Maria Lazarô hoán cải. Thời gian qua lẹ! Con thấy như mới hôm qua!... Cái năm vừa qua có bao nhiêu là chuyện. Kỳ tĩnh tâm đẹp chừng nào trước sự tuyển chọn! Rồi Gioan Enđo, rồi Margziam, rồi Daniel thành Naim, rồi Maria Lazarô, rồi Sintica... Nhưng Sintica ở đâu vậy? Con hay nghĩ tới cô ta và con không hiểu tại sao... - Sau cùng Tôma nói một mình , vì Giêsu và Simon không trả lời ông. Hơn
420
nữa, họ đã bỏ ra ngoài để rửa ráy ngoài vườn rồi đến với các bà môn đệ.
Abel người Bétlem thuộc Galilê trở lại, anh ta thấy Tôma còn đang suy nghĩ tại nơi ông thường làm việc, lạc lõng trong tư tưởng khi ông xếp đặt các dụng cụ thợ bạc của ông.
- Anh đã tìm được việc làm? - Người môn đệ hỏi khi cúi xuống trên các dụng cụ bé tí của ông.
- Ôi! Tôi làm vui lòng tất cả các bà ở Nazarét. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng có tới bấy nhiêu trâm, bấy nhiêu xuyến, bấy nhiêu giây chuyền và bông tai để sửa. Cả đến tôi phải xin Mathêu mang tới cho tôi một số kim loại từ Tibêriat. Tôi đã tạo được một số khách hàng... A!A! (và ông cười rất vui) đến cỡ ba tôi cũng không có. Thực sự thì vì tôi không lấy tiền...
- Anh mất tất cả à?
- Không, tôi chỉ lấy giá mua kim loại. Tiền công thì tôi tặng không.
- Anh rất quảng đại.
- Không. Tôi khôn. Tôi không ở không. Tôi làm gương về sự làm việc, sự dứt bỏ tiền bạc và... tôi rao giảng... Anh nín đi nhé! Tôi tin là tôi đã rao giảng nhiều khi hành động như vậy. Không nói lời nào, không nói một lời nào trong giáo đường, nhưng tôi đã giảng nhiều hơn là nếu tôi đã nói không ngừng. Vả nữa... Tôi học nghề... Tôi đã hứa là tôi sẽ dùng công việc nghề nghiệp của tôi để tuyên truyền khi tôi phải rao giảng Giêsu giữa những người không tin. Việc này huấn luyện cho tôi.
- Anh khôn với tư cách là thợ bạc cũng như tông đồ.
- Tôi cố gắng là vậy vì tình yêu đối với Giêsu. Vậy là anh có một cô em gái rồi? Hãy xử tốt với cô ta. Anh biết không? Nó giống như một con bồ câu nhỏ ở trong tổ. Tôi nói điều đó với anh, tôi, bởi cái nghề của tôi, tôi có thói quen tiếp xúc với phụ nữ: một con bồ câu ngây thơ, rất sợ diều hâu, chỉ biết tìm sự bảo vệ dưới cánh mẹ và đàn anh. Nếu mẹ anh không xin nó thì tôi, tôi sẽ xin nó cho bà chị sinh đôi của tôi. Thêm một đứa con hay kém một đứa! Bà ấy rất tốt, bà chị tôi, anh biết chứ ?
421
- Mẹ tôi cũng vậy. Bà đã mất một đứa khi bà vừa bị góa. Có lẽ vì sữa của bà đã cạn đi trong sự đau đớn do cái chết của chồng bà... Tôi chỉ hơi nhớ đứa em gái này... Và có lẽ tôi sẽ không nhớ tới nữa nếu mẹ tôi không khóc hoài, và nếu các đứa bé nghèo ở Bétlem không được hưởng đồ ăn và quần áo của gia đình tôi để tưởng nhớ tới cô bé đã chết... Nhưng vì lớn lên ở bên cạnh chỉ có một mình mẹ tôi nên tôi có một tình yêu rất lớn lao đối với các trẻ nhỏ. Cô bé này, tôi thấy cô ta không phải là rất bé, nhưng tôi cũng coi cô ta như vậy, nếu cô ta đúng như mẹ tôi, Noêmi và anh nói.
- Hãy chắc chắn điều đó. Chúng ta qua phòng bên đi...
Trong phòng bên, tức là trong phòng ăn nhỏ, có các bà, Giêsu và Zêlote. Myrta đã đến với hy vọng lớn lao. Bà đang chinh phục Auréa bằng cách thử cho nó chiếc áo vải gai mà bà đã dự liệu cho cô bé.
- Nó rất vừa vặn cho con - Bà nói trong khi cởi ra và vuốt ve cô bé trong khi bà vuốt lại chiếc áo của cô bị nhàu vì mặc cái mới vào - Nó rất vừa, và tất cả sẽ đều tốt, con sẽ thấy, con gái má... Ôi! Đây, Abel của tôi! Lại đây đi con trai. Đây là Auréa. Từ nay em nó sẽ ở với chúng ta. Con biết không?
- Thưa mẹ con biết, và con vui mừng với mẹ - anh ta nhìn cô bé... Anh ta xem xét. Đôi mắt đen huyền của anh ta cắm chặt và lạc mất trong con ngươi to mầu trời lạt. Sự khám nghiệm làm anh ta ưng ý. Anh ta mỉm cười với nó và nói với nó: “Chúng ta sẽ yêu nhau trong Chúa, đấng đã cứu chúng ta. Chúng ta sẽ yêu Người và làm cho người ta yêu Người. Anh sẽ là người anh thiêng liêng và thân yêu của em. Anh hứa điều đó trước mặt Thầy và trước mặt mẹ anh”. Và với nụ cười đẹp trong sáng của người thanh niên trong trắng, đã ở trên đường hướng về đỉnh cao thiêng liêng, anh giơ bàn tay mầu nâu mạnh mẽ của anh cho nó.
Auréa ngập ngừng một giây, rồi đỏ mặt, nó để bàn tay trái của nó vào bàn tay mặt mà người ta đưa ra cho nó và nó nói: “Chúng ta sẽ hành động như vậy, trong Chúa”.
Các người lớn cũng mỉm cười với nhau.
- Người ta có thể vào đây mà không phải gõ cửa không?
422
- Đó, Simon Jonas. Lần này thì ông ta không thể kháng cự được với cám dỗ - Tôma nói trong khi cười và chạy ra ngoài.
- Đúng, tôi không thể kháng cự... Bình an cho Thầy! - Ông ôm hôn Giêsu và Người hôn trả lại ông. “Ai có thể kháng cự được”. Ông nhìn thấy Maria và ông cúi mình để chào Người, rồi ông tiếp: “Nhưng lúc hoàng hôn, chúng con đã ghé Tibêriat tìm Judas để tất cả chúng ta đều ở cùng nhau... hen? Những người khác đang tới, cả Margziam nữa. Vậy con đã nói rằng chúng con ghé Tibêriat. Hum! Đúng! Để tìm Judas, vì lẽ ông đã qua ít nhất là bốn ngày Sabat ở đó, để tìm ông về Caphanaum kẻo ông sẽ phiền vì tất cả chúng con đều bỏ đi... Và chúng con đã tìm thấy ông... Phải... Đúng hơn là chính Isaac đã tìm thấy ông khi đi chào Jonatha... Qủa vậy, sau cùng Isaac đã tới Caphanaum để chờ Thầy với, con không biết rõ bao nhiêu môn đệ đã ở lại đó để trở nên khôn ngoan hơn dưới sự hướng dẫn của Hermas, Étienne, và con trai của Noêmi, của thầy cả Gioan... Nhưng Isaac đã đi với chúng con , bởi ông cũng chết vì mong gặp Thầy... Và, ông Isaac tội nghiệp! Ông đã không được Judas đón tiếp tử tế. Nhưng Isaac hẳn đã phá hủy tất cả sự thiếu nhẫn nại, tất cả sự oán giận, tất cả sự kích động trong cơn bệnh lâu dài của ông... ông không bao giờ phản ứng! Dù người ta vả mặt ông, ông cũng mỉm cười... Một người bình tĩnh chừng nào! Vậy ông đã nói với chúng con: “Tôi đã gặp Judas, ông ta không tới đâu. Đừng năn nỉ”. Con đã hiểu, con nói: “Ông ta đã trả lời hỗn với anh phải không? Hãy nói đi. Tôi là đầu đàn và tôi phải biết...” Isaac lại trả lời con: “Ồ, không. Ông ta không trả lời hỗn với tôi, nhưng việc xấu của ông ta thì phải khiển trách ông ta...” ...và hãy khiển trách ông ta... tất cả chúng ta ở đây. Và phúc cho... Kìa, những người khác tới...
Và cùng với những người khác, có cả Juđa và Giacôbê Alphê với mẹ họ và các môn đệ người Nazarét, đó là Aser, Ismael, Simon Alphê, và cả một điều họa hiếm là Giuse Alphê.
Họ bỏ các giỏ xách xuống: Natanael mang theo mật ong. Philíp thì một rổ nho vàng như tóc của Auréa. Phêrô thì cá ướp muối, các
423
con ông Zêbêđê cũng vậy. Mathêu không có nhà cửa do đàn bà chăm sóc nên chả có gì tốt, đã mang một cái chậu đầy đất, trong đó có một cây nhỏ, dựa vào lá của nó, tôi cho đó là cây chanh hay cây cam hoặc cây họ bưởi nào đó. Ông giải thích: “Nó cho trái đầu mùa. Phải tới tận Cyrène để kiếm nó đó. Con biết một người tới đó, một nhân viên sở thuế như con hồi đó, bây giờ ông ta về hưu ở Ippo. Con đã tới đó để xin ông ta cây này, vì phải trồng nó vào tuần trăng mới. Nó sẽ cho trái đẹp và ngon. Bông nó có mùi thơm ngọt và trông giống như ngôi sao bằng sáp, một ngôi sao giống như tên mẹ... Đây”. Và ông biếu nó cho Maria.
- Nhưng con đã mệt chừng nào để mang cái sức nặng này, Mathêu! Mẹ biết ơn con. Vườn của mẹ càng ngày càng đẹp là nhờ các con: cây long não của Porphyrê, các cây hồng của Jeanne, cây hiếm của con, Mathêu, những cây bông khác do Judas mang từ Kêriot tới... Bao nhiêu thứ đẹp. Tất cả các con đều tốt chừng nào đối với mẹ của Giêsu!
Tất cả các tông đồ đều cảm động, nhưng họ nhìn nhau khi Maria nhắc tới Judas.
- Đúng. Họ yêu cô, nhưng chúng cháu cũng yêu cô lắm chứ! - Giuse Alphê nói cách nghiêm trang và tự hào.
- Chắc chắn rồi! Các cháu là những con trai yêu qúi của Alphê, anh chồng của cô, và của Maria qúa tốt. Và các cháu yêu cô nhiều, điều đó là tự nhiên. Chúng ta là bà con với nhau... Trái lại, họ không có cùng dòng máu với chúng ta, nhưng họ cũng như các con đối với cô, như các anh em của Giêsu, vì họ yêu Người và theo Người...
Giuse hiểu được sự ám chỉ. Ông hắng giọng trong khi tìm lời... Và ông tìm thấy... Ông nói: “Đương nhiên! Nhưng nếu cháu chưa ở với họ, là vì cháu nghĩ tới các hậu qủa cho em nó, cho cô... và... và... tóm lại là vì tình yêu, cháu cũng vì tình yêu, đặc biệt là với cô, một đàn bà tội nghiệp, ở một mình từ qúa lâu rồi... Cháu đến để nói với Giêsu là cháu rất bằng lòng vì em cũng nhớ đến những nhu cầu của mẹ em, và em đã làm những gì hữu ích ở đây...” và, thỏa lòng
424
vì được làm thủ lãnh trong đám bà con, có quyền ca ngợi hay khiển trách, ông ta bằng lòng khen Giêsu về những công việc thợ mộc, thợ sơn, cũng như các việc khác mà Người đã làm trong tháng vừa qua: “Đó là những điều phải làm! Bây giờ người ta mới thấy rằng người đàn bà này có một đứa con trai! Tôi rất sung sướng vì có thể nói được rằng tôi lại tìm thấy hiền nhân Giêsu con Giuse của tôi. Hoan hô! Hoan hô!”
Nhưng hiền nhân Giêsu con Giuse, Ngôi Lời của Thiên Chúa, vô cùng khôn ngoan, hạ mình trong một thân xác, hiền lành và khiêm nhường đón nhận những lời khen pha lẫn với... những lời khuyên độc đoán của ông anh họ Giuse với một nụ cười rất êm dịu mà Người dùng để hãm lại tất cả những phản ứng không đúng lúc của các tông đồ để bênh vực Người.
Và Giuse, như diều gặp gió, thấy người ta nghe lời ông như vậy, nên ông không giới hạn ở chỗ đó. Ông tiếp tục: “Tôi có thể hy vọng là từ nay Nazarét sẽ hết dịp để thấy một bà mẹ tội nghiệp, bị đứa con trai thiếu khôn ngoan bỏ rơi mẹ để đi vào các con đường đông đúc, để theo những con đường không an toàn trong mục đích cũng như hậu qủa. Tôi sẽ nói về điều này với các bạn tôi, với ông trưởng giáo đường... Chúng ta sẽ tha cho em... Ôi! Nazarét sẽ rất bằng lòng lại mở cánh tay ra cho em như cho một người con trở về, và cũng lại trở về với gương mẫu về nhân đức cho toàn dân. Ngay ngày mai, chính anh, anh sẽ dắt em tới giáo đường và...”
Giêsu giơ tay để áp đặt sự yên lặng và bình tĩnh, và một cách cương quyết, Người nói: “Vào trong giáo đường như một tín hữu thì chắc chắn tôi sẽ tới, cũng như tôi đã tới trong các ngày Sabát khác. Nhưng anh không được biện hộ gì cho tôi, vì chỉ một giờ sau khi mặt trời lặn là tôi lại đi, trở lại việc rao giảng Tin Mừng đúng như bổn phận của tôi phải vâng lời Đấng Tối Cao”.
Thật là bẽ bàng cho Giuse!... Qúa bẽ bàng!... Tất cả sự hiền lành của ông đều bay vụt đi như chớp, và sự hận thù khăng khăng của ông lại bùng lên: “Được rồi! Vậy vào lúc cần thì đừng đến mà tìm tôi. Tôi làm bổn phận của tôi để điều bất hạnh không thể tránh được của em không rơi xuống trên tôi. Chào. Ở đây tôi là thừa, vì
425
tôi không thể hiểu qúi vị và qúi vị không thể hiểu tôi. Tôi rút lui, không thù ghét, nhưng rất đau lòng... Cầu Chúa bảo vệ em như người bảo vệ những kẻ... trí khôn ngây thơ, và thiếu một cái gì... Chào Maria! Can đảm lên! Bà mẹ tội nghiệp!”
- Chào Giuse. Nhưng không phải vì Người, mà chính vì cháu mà cô cần có can đảm. Bởi vì cháu là người ở bên ngoài con đường của Thiên Chúa và cháu làm cô đau khổ - Maria nói, bình tĩnh và chắc chắn.
- Mày là thằng ngu, vậy đó! Và nếu bây giờ mày không phải là trưởng gia đình thì tao sẽ đập mày! Thằng con mang dòng máu của tao nhưng không mang tinh thần của tao!... - Maria Alphê kêu lên, và bà sẽ tiếp tục nếu Maria không năn nỉ: “Chị ơi! Nín đi, vì thương em”.
- Chị nín. Đúng. Nhưng... em coi, làm sao chị có thể chịu được khi thấy ở giữa các con của chị có một đứa con hoang như vầy!...
Trong khi đó, đứa con hoang bỏ đi, còn bà Maria Alphê tốt bụng xổ ra tất cả những gì bà giữ trong tim về thằng con cứng đầu này. Và nỗi buồn của bà tan thành suối nước mắt và tiếng nấc. Bà nói điều làm cho bà đau khổ hơn tất cả: “Và tôi sẽ không có nó ở với tôi trên Trời! Nó, tôi sẽ không có! Tôi sẽ nhìn thấy nó ở giữa những cực hình! Ôi! Giêsu! Làm một phép lạ đi!”
- Nhưng, có mà! Maria! Nhưng có mà! Đừng khóc! Giờ của nó sẽ đến, có lẽ là giờ thứ mười một, nhưng nó sẽ đến. Thầy bảo đảm với bà. Đừng khóc... - Giêsu nói để an ủi bà... Và khi nước mắt đã ngừng, Người nói với các môn đệ: “Chúng ta ra vườn oliu trong khi các bà sửa soạn công việc của các bà. Chúng ta sẽ nói chuyện với nhau”.
133* VIỆC KHỞI HÀNH VÀ CUỘC
HÀNH TRÌNH ĐI BÉTLEM
THUỘC GALILÊ
Đây là buổi chiều ngày Sabát thực sự. Cuộc sống lại bắt đầu sau
426
sự nghỉ ngơi của ngày Sabát. Ở đây, trong căn nhà nhỏ Nazarét, nó bắt đầu với những chuẩn bị cho việc khởi hành: Người ta xếp các lương thực, nhét quần áo vào giỏ, buộc chắc các túi bằng những sợi giây, coi lại xăng đan, kiểm tra xem các giây trân và các khóa có ở trong tình trạng tốt không, việc ăn uống của các con lừa ở bên hàng rào trong vườn... Các lời chào với vài giọt nước mắt ở giữa các nụ cười và các lời chúc phúc, những lời hứa sẽ sớm gặp nhau... Và một bất ngờ: Qùa tặng của Tôma cho Maria: một cái khóa, ta gọi là cái hoa trâm cài áo, để giữ áo cài lại ở cổ. Nó được tạo thành bởi ba cộng linh lan nhỏ xíu, rất toàn vẹn, nằm ép giữa hai chiếc lá bằng kim loại, bắt chước thiên nhiên một cách y hệt, biểu lộ công việc của bàn tay bậc thầy.
- Maria! Con biết là mẹ không dùng, nhưng dù sao cũng nhận lấy đi. Sự ước mong đã đến với con, con muốn làm nó vào một bữa kia, khi Thầy nói về mẹ, và so sánh mẹ với bông huệ nơi thung lũng... Con, con chả làm gì cho nhà mẹ cả... Nhưng con làm cái này cho mẹ, để nói ra trong sự tượng trưng, lời ca tụng của con mẹ mà mẹ xứng đáng hơn mọi phụ nữ khác. Tuy con không thể làm cho kim loại sự tươi mát của một cây sống và hương thơm của bông hoa, nhưng tình yêu chân thành, trọng kính của con đã tô điểm nó như một vuốt ve, một hương thơm của sự kính cẩn con đối với mẹ, mẹ của Chúa con.
- Ôi! Tôma, đúng vậy. Mẹ thì mẹ không mang nữ trang, vì mẹ thấy nó vô ích. Nhưng cái này thì không giống vậy. Đây là tình yêu của Giêsu và tông đồ của Người, và nó thân thiết đối với mẹ. Mẹ sẽ nhìn nó mỗi ngày khi nghĩ đến Tôma tốt lành, biết yêu Thầy tới nỗi không những gìn giữ giáo lý của Người, mà cả những lời nhỏ nhặt nhất của Người về những vật nhỏ mọn nhất, và về những người không đáng kể nhất. Cám ơn Tôma, không phải vì giá trị, mà vì tình yêu của con. Cám ơn!
Mọi người đều thán phục sự toàn vẹn của công việc, và Tôma rất sung sướng rút ra một vật nhỏ hơn: ba ngôi sao hoa lài ở trong một đám lá li ti, bao quanh bằng một vòng tròn rất mảnh mai. Ông
427
đưa cái này cho Auréa: “Bởi vì con không có sự đỏm dáng để muốn nó, bởi vì con đã ở đây khi các cây lài đầy hoa, và để cho những ngôi sao nhỏ này nhắc con nhớ tới Vì Sao của chúng ta. Nhưng con hãy chú ý: chính bởi các nhân đức là cái con phải ướp thơm cho các bông hoa, và để con cũng là một bông hoa trong trắng, đẹp, thanh sạch, tỏa ra mùi thơm bay lên Trời. Nếu con không hành động như vậy thì con phải trả lại cái hoa trâm. Nào! Đừng khóc! Tất cả sẽ qua đi... và... và... chúng ta sẽ sớm muộn trở lại nhà Maria, hay mẹ sẽ đến với chúng ta... và...” Nhưng Tôma, trước những nước mắt càng lúc càng tràn trề của Auréa, ông cảm nhận rằng không nên tiếp tục nữa. Ông bỏ ra ngoài, đau khổ, ông nói với Phêrô: “Nếu tôi biết rằng nó sẽ khóc nhiều hơn thì tôi không cho nó cái gì cả... Tôi làm cái hoa trâm này chính là để an ủi nó vào giờ này. Điều đó tôi đã không thành công...”
Và Phêrô, trong sự ngổn ngang của giây phút này, cũng không còn kiểm tra được mình. Ông nói: “Luôn luôn như vậy trong các lúc từ giã... Nếu anh đã nhìn thấy Sintica lúc đó...” Ông sực nhận ra là mình đã nói. Ông đỏ mặt, ông muốn rút lời... Nhưng bây giờ đã lỡ nói rồi...
Tôma hiểu, và một cách rất hiền lành, ông quàng tay quanh cổ Phêrô và nói: “Simon, đừng buồn! Tôi biết nín lặng. Tôi hiểu tại sao các anh không nói gì với tôi... Tại vì Judas Simon. Tôi, nhân danh Thiên Chúa của cha ông chúng ta, tôi thề với anh rằng điều tôi vô tình mà biết được thì sẽ bị quên đi. Đừng khổ, Simon!...”
- Nhưng tại vì Thầy không muốn...
- Chắc chắn Người có những lý do tốt nhất cho việc đó. Tôi không bất bình vì vậy đâu.
- Tôi biết. Nhưng Người sẽ nói sao?...
- Đâu có nói gì, vì Người đâu có biết. Nói cho tôi đi!
- A! Không. Không có gì bí mật đối với Thầy cả. Tôi đã lầm, tôi đáng bị quở trách, và ngay lập tức. Tôi sẽ không được bình an nếu tôi không thú với Người sự lầm lỡ của tôi. Tôma, hãy tốt, làm ơn đi gọi Người đi... Tôi đi vào xưởng mộc. Hãy đi, rồi trở lại cùng với Người. Tôi qúa xao xuyến, những người khác sẽ nhận ra.
428
Tôma nhìn ông với vẻ thương hại và đầy cảm phục. Ông trở lại trong nhà để gọi Giêsu: “Thầy ơi, lại đây một lát đi. Con phải nói với Thầy một điều”.
Giêsu đang chào Maria Alphê, đi theo ông ngay lập tức: “Con muốn gì?” Người hỏi khi đi ở bên cạnh ông.
- Con thì không có gì. Chính là Simon phải nói với Thầy. Ông ta đây này...
- Simon! Con làm sao mà xao xuyến vậy?
- Phêrô phục xuống chân Giêsu và rên rỉ: “Con đã phạm tội. Xin Thầy miễn giải cho con”.
- Phạm tội? Về cái gì? Con vừa ở đây với chúng ta, vui vẻ bình tĩnh mà!
- A! Thưa Thầy, con đã không vâng lời Thầy. Con đã nói với Tôma về Sintica... Con xao xuyến vì những nước mắt, và anh ta còn xao xuyến hơn con, vì anh nghĩ rằng chính anh đã làm gia tăng nó... Để an ủi anh ta, con đã nói với anh: “Luôn luôn như vậy trong các cuộc từ giã... Nếu anh đã nhìn thấy Sintica lúc đó...” Và anh đã hiểu...
Phêrô ngửa khuôn mặt bối rối lên. Cái nhìn của ông thực sự khiêm nhường và hối tiếc.
- Ngợi khen Chúa, Simon của Thầy. Thầy nghĩ rằng con đã làm điều gì rất nghiêm trọng hơn. Sự chân thành của con hủy bỏ được điều này. Con đã nói không vì ác ý. Con đã nói với bạn con, Tôma cũng tốt. Ông sẽ không nói về chuyện đó...
- Thực sự, anh ta đã thề với con... Nhưng Thầy thấy không? Bây giờ con sợ mình sẽ qúa ngu để không biết giữ kín một điều bí mật.
- Con đã giữ kín được tới giờ này.
- Vâng. Thầy coi: Không bao giờ có một lời với Philíp cũng như Natanael! Vậy mà bây giờ...
- Nào, con đứng dậy đi. Con người luôn luôn bất toàn. Nhưng khi nó như vậy không vì ác ý thì họ không phạm tội. Con hãy canh chừng chính mình, nhưng đừng đau khổ nữa. Giêsu của con chỉ cho con một cái hôn thôi. Tôma, lại đây đi.
429
Tôma chạy lại: “Chắc chắn con đã hiểu lý do của sự yên lặng”.
- Thưa Thầy vâng. Con đã thề kính trọng điều đó, về tất cả những gì có liên can tới con, và trong tầm khả năng của con. Con đã nói với Simon như vậy.
- Với Simon ngu ngốc! - Phêrô xít xoa.
- Không, bạn ơi. Anh đã xây dựng cho tôi bằng sự khiêm nhường và chân thành trọn vẹn của anh. Anh đã cho tôi một bài học rất hay, và tôi sẽ ghi nhớ nó. Bởi vì rất ít người trong chúng ta có sự công chính như anh... Nhưng họ gọi chúng ta kìa. Đi thôi.
Qủa vậy, nhiều người đã ra ngoài đường. Ba người đàn bà: Noêmi, Myrta và Auréa đã ở trên lưng con vật. Maria và chị dâu Người ở bên Auréa, họ còn hôn nó nữa. Và khi hai bà Maria thấy Giêsu tới thì họ hôn hai bà đồng môn đệ, và sau cùng họ chào Giêsu. Người chúc lành cho họ trước khi lên đường...
Maria và Maria Clêopha trở vào trong nhà... trong căn nhà mà họ ở lại với kỷ niệm về những gì mới xảy ra trước lúc đó, với các ghế gổng lung tung, chén bát phân tán, sự lộn xộn tiếp sau cuộc khở hành.
Maria đắm chìm trong tư tưởng, vuốt ve cái khung cửi nhỏ mà mẹ đã dạy Auréa làm việc... Đôi mắt mẹ ướt và long lanh những nước mắt mà mẹ cầm lại.
- Maria, em khổ lắm nhỉ! - Maria Clêopha nói. Bà khóc không cần cố gắng để cầm nước mắt. “Em rất tình cảm... Họ đến đây... Rồi họ đi... và chúng ta, chúng ta khổ”.
- Đó là đời sống nữ môn đệ của chúng ta. Hôm nay chị đã nghe Giêsu nói: “Trong tương lai, các con sẽ làm như vậy, bằng cách nhìn thấy trong mọi người một tâm hồn anh em. Các con sẽ cho họ đỗ nhờ, cho họ đỗ nhờ một cách siêu nhiên khi nghĩ đến các con cũng là người hành hương, và hãy coi những người mà các con đón tiếp như kẻ hành hương. Các con sẽ giúp đỡ họ, cho họ ăn uống, cho họ lời khuyên, rồi các con để cho anh em các con ra đi tới định mệnh của họ, không giữ họ lại bởi một tình yêu ghen tị, với sự chắc chắn là ở bên kia cái chết, các con sẽ gặp nhau cùng với họ. Sự
430
bách hại sẽ xảy ra, và rất nhiều người sẽ bỏ các con để đi tới tử đạo. Đừng hèn nhát và đừng khuyên người ta hèn nhát. Hãy ở lại để cầu nguyện trong những căn nhà trống vắng để nâng đỡ sự can đảm của các kẻ tử đạo. Hãy trong sáng để củng cố cho những kẻ yếu đuối hơn, hãy mạnh mẽ để sẵn sàng bắt chước các anh hùng. Hãy làm quen với thoát ly. Hãy anh hùng làm tông đồ bằng tình bác ái huynh đệ ngay từ bây giờ...” Và chúng ta, chúng ta làm việc đó khi chịu đựng... Chắc chắn chúng ta là những người có xác thịt... Nhưng tâm hồn được hưởng một niềm vui siêu nhiên bởi vâng theo ý Chúa và hợp tác vào vinh quang của Người. Lại nữa... Em là mẹ của tất cả... và em không thể chỉ là mẹ một người. Cả đến em không độc chiếm Giêsu... Chị thấy, em để cho Người đi, không hề giữ Người lại... Em muốn đi với Người, điều đó thì có. Nhưng Người xét là em phải ở lại đây cho tới khi Người nói: “Hãy tới”. Và em ở lại. Các ngày Người ở lại đây? Đó là niềm vui mẫu tử của em. Các cuộc viễn du của em với Người? Đó là niềm vui môn đệ của em. Sự cô đơn của em ở đây? Đó là niềm vui trung thành vì làm theo ý Chúa của em.
- Maria, nhưng vị Chúa này là con em...
- Đúng. Nhưng Người luôn luôn là Chúa em... Chị ở lại với em không Maria?
- Ờ, nếu em để chị ở lại... Cái nhà của chị nó qúa buồn trong những giờ đầu các con chị nó mới bỏ đi!... Ngày mai thì lại là chuyện khác... Lại nữa, lần này chị sẽ khóc nhiều hơn...
- Tại sao vậy Maria?
- Bởi vì kể từ hôm qua, chị tan thành nước mắt... Chị là một cái xì-tẹc... một cái xì-tẹc vào mùa mưa.
- Nhưng tại sao vậy cưng?
- Tại vì Giuse... Hôm qua... Ôi! Chị không biết chị có nên tới trách mắng nó cách chua cay không, vì sau cùng, đó cũng là con của chị, vì cái dạ này đã mang nó, và những cái vú này đã cho nó bú. Không một đứa con nào có thể hơn người mẹ; hay là chị không bao giờ nên nói với nó nữa, không bao giờ nữa, với đứa con hoang,
431
đã sinh ra bởi chị, mà xúc phạm đến Giêsu, đến em và...
- Chị sẽ không làm điều nào trong những điều đó cả. Chị sẽ luôn luôn là một bà mẹ đối với nó, người mẹ thương xót cho đứa con lì lợm, bệnh hoạn, lầm lạc. Hãy thuần thục nó bằng lòng tốt, và dẫn dắt nó về với Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện và sự nhẫn nại...
Nào, đừng khóc!... tốt hơn là hãy đi với em. Chúng ta sẽ cầu nguyện trong lời cầu nguyện của em cho nó, cho những người đã ra đi, cho con bé để nó không qúa khổ và lớn lên trong sự thánh thiện... Đi, đi! Maria của em - Và mẹ lôi bà đi với mẹ.
Trong khi đó, những người hành hương đi theo con đường của họ về phía tây nam. Các bà đi trước trên lưng lừa, chúng đã ăn no và được nghỉ ngơi nên chạy nước kiệu nhẹ nhàng, bó buộc Margziam và Abel hầu như phải chạy, vì thận trọng, họ đi kèm hai bên Auréa, vì nó cỡi lừa lần đầu tiên. Nếu việc đó làm họ mệt, thì lại làm con bé giải khuây nỗi đau gây ra bởi sự từ giã Maria của nó.
Thỉnh thoảng, để cho hai thanh niên kịp thở, Myrta cho con vật của bà nghỉ. Bà chỉ lại đi khi nhóm các tông đồ đã tới nơi. Trong lúc nghỉ, không còn giải trí được bằng những biến chuyển của thuật cỡi lừa, Auréa lại trở nên buồn... Margziam yên ủi nó, vì cậu đã được đào luyện bởi các qúa trình: mồ côi, được đón nhận do lòng bác ái của một bà mẹ nuôi sau khi đã biết Maria. Cậu kể cho nó làm sao sau đó cậu đã tình nghĩa với bà mẹ nuôi “một cách tuyệt đối, giống như bà là má thật của chúng ta”. Cậu kể các cảm tưởng của cậu; cậu kể Maria và Mathia đã sung sướng thế nào trong nhà Jeanne, và Anastasica trong nhà Êlise.
Auréa nghe những bài tường thuật này, và Margziam kết thúc bằng cách nói: “Hãy tin đi, tất cả các môn đệ đều tốt, và Giêsu biết phải giao phó những kẻ khốn nạn là chúng ta cho ai”. Và Abel phụ lực: “Và em không phải nghi ngờ gì mẹ anh. Bà rất mừng vì có em. Bà đã cầu nguyện biết bao trong những ngày này để Thiên Chúa ban em cho bà”. Auréa nói: “Em tin điều đó, và em rất yêu bà...
432
Nhưng Maria, chính Maria... Và các anh phải thương hại...”
- Đúng. Nhưng chúng ta không vui khi thấy em buồn...
- Ôi! Em đâu có buồn như ở trong nhà người Rôma và trong những giờ đầu tiên sau sự giải phóng của em... Em chỉ hơi... mất. Từ bao năm rồi, em không bao giờ được một cái vuốt ve... Chỉ có Maria đã trả nó lại cho em sau bao năm em chỉ có các ông chủ.
- Cưng ơi! Nhưng má ở đây để cho con đây. Má sẽ là một Maria thứ hai cho con. Lại đây, rất gần đây... Nếu con còn nhỏ hơn thì má đã cho con ngồi cùng yên với má như má đã làm khi Abel còn nhỏ... Nhưng con đã là một người đàn bà - Myrta nói khi bà lại gần và cầm tay nó. “Con là một đàn bà nhỏ, và má sẽ dạy con biết bao điều. Rồi khi Abel đi xa để giảng Tin Mừng, má với con, chúng ta sẽ đón tiếp các khách hành hương như Chúa đã nói. Chúng ta sẽ làm rất nhiều điều tốt nhân danh Người. Con còn trẻ, và con sẽ giúp má...”
- Nhưng nhìn coi, ánh sáng nào ở đàng kia vậy? Ở bên ngoài ngọn đồi này - Giacôbê Zêbêđê chạy lại với họ và kêu.
- Đó là cái rừng cháy.
- Hay một cái làng?
- Chúng ta chạy tới coi.
Không ai mệt nữa, vì sự tò mò đã làm biến mất mọi cảm tình khác. Giêsu theo họ một cách nhân hậu, và Người rời con đường để leo lên ngọn đồi bằng một lối mòn, và lẹ làng, Người lên tới đỉnh đồi.
Không phải một cái rừng, cũng không phải một làng bị cháy, mà là một lòng chảo mênh mông giữa hai ngọn đồi, toàn là cỏ bị khô vì nắng hè, đã bắt lửa do vài tàn lửa thoát ra khỏi tay những người đốn củi làm việc ở trên cao để đốn cây, và bây giờ nó cháy lên: một cái thảm lửa thấp nhưng rất mạnh. Nó di chuyển đi sau khi đã tiêu hủy nơi nó tới, để tìm những cây cỏ khác để đốt. Các người tiều phu cố gắng chống lửa, đập vào ngọn lửa, nhưng vô ích. Họ qúa ít người, và khi họ tắt được chỗ nọ thì lửa lại lan ra ở chỗ kia.
- Nếu lửa lan tới rừng thì là đại họa, vì có nhựa thông - Philíp thì
433
thầm.
Giêsu đứng trên đỉnh đồi, khoanh tay nhìn, suy nghĩ và mỉm cười.
Ánh sáng trắng của mặt trăng ở phía đông tương phản mạnh mẽ với ánh lửa đỏ ở phía tây. Mặt trăng làm cho quang cảnh thành trắng hết ở phía sau họ, trong khi ánh lửa rọi tới làm cho họ đỏ mặt hết thảy.
Ngọn lửa lan ra, lan ra giống như nước tràn bờ, bay lên và trải ra...
Đám cháy chỉ còn cách rừng vài mét, và nó đã soi sáng các đống gỗ ở bờ rừng. Ánh sáng của nó càng lúc càng mạnh, soi cho thấy những căn nhà nhỏ của một làng ở trên đỉnh ngọn đồi mà lửa đang leo lên.
- Các người tội nghiệp! Họ sắp sửa mất hết! - Nhiều người nói, và họ nhìn Giêsu. Người không nói gì, chỉ mỉm cười...
Nhưng rồi, đây... Người mở tay ra và kêu lớn: “Dừng lại! Tắt đi! Ta muốn vậy”.
Và giống như một cái đấu khổng lồ chụp xuống để làm ngộp ngọn lửa, đây, do một sự huyền diệu, ngọn lửa ngừng cháy. Cái lưỡi lửa đang lẹ làng nhảy múa, sống động, liền biến thành mầu than đỏ, rồi mầu đỏ thành tím, rồi xám đỏ... Còn vài ánh đỏ lướt trên tro tàn... Rồi sau cùng chỉ còn lại ánh trăng với ánh sáng bạc soi trên khu rừng.
Trong ánh sáng trắng của nó, người ta thấy các người tiều phu tụ họp lại, khua chân múa tay nhìn chung quanh họ và nhìn lên cao để khám phá ra vị thiên thần của phép lạ...
- Chúng ta xuống. Thầy sẽ làm việc với các tâm hồn dựa vào lý do bất chợt đã được ban cho Thầy. Và chúng ta sẽ nghỉ ở trong làng thay vì dừng lại ở thành phố. Chúng ta sẽ đi tiếp vào rạng đông. Sẽ có chỗ cho phụ nữ. Còn chúng ta, cái rừng cũng được - Giêsu nói khi đi xuống dốc. Các người khác theo sau.
- Nhưng tại sao Thầy mỉm cười như vậy? Thầy có vẻ sung sướng!
- Phêrô hỏi.
434
- Con sẽ biết dựa vào các lời Thầy.
Họ đã tới chỗ đám cỏ hoang biến thành tro vẫn còn nóng, kêu răng rắc dưới xăng đan. Họ đi băng qua. Khi họ tới khoảng giữa, ánh trăng soi rất tỏ, các người tiều phu nhìn thấy họ.
- Ôi! Tôi, tôi đã nói: chỉ có mình Người mới có thể làm việc này! Chúng ta chạy đến để tôn kính Người - một người tiều phu nói, và ông chạy đến qùi phục trong tro tại chân Giêsu.
- Tại sao con tin là Thầy có thể làm?
- Bởi vì chỉ có Đức Messi có thể làm việc này.
- Vậy làm sao con biết rằng Thầy là Đức Messi? Có lẽ con đã biết Thầy?
- Không. Nhưng chỉ có đấng tốt lành, đấng thương người nghèo mới có tình thương, và chỉ mình đấng Thánh của Thiên Chúa mới có thể truyền cho lửa phải vâng lời. Chúc tụng Đấng Tối Cao đã sai Đức Messi của Người cho chúng con! Và Đức Messi đã tới đúng lúc để cứu nhà cửa chúng con!
- Các con phải vội vã hơn nữa để cứu linh hồn các con.
- Nó được cứu nhờ lòng tin nơi Thầy, và vào việc thi hành những điều Thầy dạy. Nhưng Chúa ơi! Thầy biết rằng nỗi buồn vì bị mất tất cả sẽ làm cho tâm hồn chúng con thành yếu nhược... và đưa nó tới chỗ nghi ngờ về Đấng Quan Phòng.
- Ai đã dạy các con về Thầy?
- Chắc chắn là các môn đệ Thầy... Đây, gia đình chúng con... Chúng con đã cho người đến đánh thức họ vì sợ rằng tất cả ngọn đồi sẽ bị cháy... Xin tiến lên... Rồi chúng con lại sai một người khác đến nói rằng có một phép lạ, và hãy đến để coi. Lạy Chúa, đây là gia đình chúng con: của con, của Jacob, của Jonatha, của anh Tobie con, của anh rể Melchias con, của Philíp và của Êlêazar, và các gia đình khác của các người mục đồng mà bây giờ họ đang ở trong các đồng cỏ...
Một nhóm khoảng tối đa là hai trăm năm mươi người, kể cả nhiều trẻ nhỏ, còn bú hay mới thôi bú, khóc nhõng nhẽo, mới hơi tỉnh hoặc còn ngủ, đã ý thức được mối nguy hiểm mà họ đã thoát.
- Bình an cho tất cả các con. Thiên thần của Chúa đã cứu các
435
con. Hãy cùng nhau chúc tụng Chúa.
- Thầy đã cứu chúng con! Thầy luôn luôn hiện diện ở những nơi có các tín hữu tin vào Thầy... - Nhiều phụ nữ nói, và nam giới nhất loạt đồng lòng.
- Đúng. Ở đâu có lòng tin nơi Thầy thì Đấng Quan Phòng hiện diện nơi đó. Nhưng trong những điều về tâm hồn cũng như những điều về vật chất, phải hành động với sự cẩn phòng liên tục. Ai đã châm lửa vào cành cây vụn? Có lẽ một tia lửa đã xẹt ra khỏi lò của các con, hoặc một cành cây mà một trẻ em đã muốn đốt để chơi bằng cách quay hay ném nó dưới kia một cách vô tư lự vì tuổi nhỏ. Qủa vậy, thật đẹp khi thấy ngọn lửa xẹt trong không khí tối. Nhưng các con thấy một sự bất cẩn có thể làm gì? Nó có thể gây ra những thiệt hại trầm trọng. Một tia lửa, một cành cây nhỏ cháy rơi vào đám cỏ khô là đủ để đốt cháy hết cả thung lũng. Nếu Thiên Chúa không sai Thầy tới thì khu rừng sẽ trở nên một lò lửa, có thể tiêu hủy trong cái kẹp bằng lửa, gia tài của các con và mạng sống các con.
Các điều thuộc về tâm hồn cũng thế: phải liên tục cẩn phòng, canh chừng kẻo một tia lửa, một cục than vướng mắc vào đức tin của các con và tiêu hủy nó, sau khi nó đã ủ trong lòng mà không bị lưu ý, nó sẽ bùng lên thành đám cháy do những kẻ ghét Thầy thổi vào để giật các tín hữu của Thầy. Ở đây, lửa được dập tắt kịp thời đã làm điều tốt cho những người vừa thoát tai họa, do nó đã tiêu hủy những cành vô ích mà các con đã để ngổn ngang trong thung lũng. Nhờ sự phá hủy này và nhờ các lớp tro làm phân bón, nó đã chuẩn bị cho các con một mảnh đất mà nếu các con muốn, các con có thể làm những canh tác mầu mỡ và hữu ích. Nhưng trong các tâm hồn thì khác hẳn: khi mọi điều tốt đã biến mất trong lòng các con thì không gì có thể mọc lên được, ngoại trừ các cây gai dùng làm ổ cho ma qủi.
Các con hãy nhớ điều đó, và canh chừng để phản kháng lại hết những lời xỉa xói của các kẻ thù của Thầy. Chúng ném vào lòng các con những tia lửa của hoả ngục. Vậy hãy sẵn sàng để dập tắt
436
lửa này. Cái gì có thể dập tắt nó? Đó là một đức tin càng ngày càng vững mạnh, một ý chí muốn thuộc về Thiên Chúa cách không lay chuyển. Đó là những điều thuộc về ngọn lửa thánh, ngọn lửa không bị các lửa khác tiêu diệt. Tức là nếu các con là lửa của tình yêu đối với Thiên Chúa, thì lửa thù ghét chống lại Thiên Chúa không làm hại các con được. Lửa tình yêu toàn thắng hết mọi lửa khác. Giáo lý của Thầy là tình yêu, ai đón nhận nó sẽ được vào trong ngọn lửa bác ái, và họ sẽ không còn bị hành hạ bởi lửa của ma qủi nữa.
Từ trên đỉnh của ngọn đồi này, khi Thầy nhìn thấy cỏ cháy, Thầy nghe thấy những lời của tâm hồn các con hướng về Chúa là Thiên Chúa của nó, còn hơn là Thầy thấy những cử chỉ của các con giơ ra để dập tắt lửa. Thầy đã mỉm cười, và một trong các tông đồ của Thầy đã hỏi: “Tại sao Thầy mỉm cười?” Thầy đã hứa với ông ta: “Thầy sẽ nói cho con khi Thầy nói với những người được cứu”. Và Thầy làm. Thầy mỉm cười khi Thầy nghĩ tới: giống như lửa cháy lan ra trong cỏ ở thung lũng mà các con cố gắng để dập tắt một cách vô ích, cũng vậy, giáo lý của Thầy sẽ lan tràn ra trong thế giới, và các kẻ không muốn Ánh Sáng sẽ bách hại một cách vô ích. Và nó sẽ là ánh sáng, nó sẽ là sự thanh tẩy, nó sẽ là mối lợi. Bao nhiêu rắn độc đã chết trong đám tro này, và bao nhiêu con vật có hại khác cùng với chúng! Các con đã sợ cái thung lũng này vì nó có qúa nhiều rắn độc. Đó, không còn con nào sống sót nữa. Cũng vậy, thế giới sẽ được giải thoát cho khỏi biết bao tà thuyết, biết bao tội lỗi, biết bao đau đớn khi họ biết Thầy và được thanh tẩy bởi giáo lý của Thầy: được thanh tẩy và giải phóng khỏi mọi thứ cây cỏ vô ích, có khả năng đón nhận hạt giống, trở nên giầu có các hoa trái thánh thiện.
Đó là tại sao Thầy mỉm cười... Trong đám lửa lan ra, Thầy thấy sự tượng trưng của việc lan truyền giáo lý của Thầy. Rồi đức Ái đối với tha nhân không được tách rời với lòng mến Thiên Chúa. Chúa đã dẫn tư tưởng của Thầy về với nhu cầu của các con. Thầy đã hạ cái nhìn tinh thần của sự chiêm ngắm những lợi ích của Thiên Chúa tới sự nhìn xem những lợi ích của anh em, và Thầy đã dẹp lửa đi, để
437
trong nỗi vui mừng của các con, các con ngợi khen Thiên Chúa. Các con thấy tư tưởng của Thầy bay lên với Thiên Chúa và từ Thiên Chúa mà xuống. Và khi nó xuống, nó trở nên mạnh hơn, vì sự hợp nhất với Thiên Chúa luôn luôn gia tăng sức mạnh của chúng ta để hành động, rồi nó lại trở lên với Thiên Chúa cùng với tư tưởng của các con. Theo cách này, cùng một trật, Thầy đã phục vụ lợi ích của Thiên Chúa và của anh em. Trong tương lai, các con cũng hãy làm như vậy.
Bây giờ Thầy xin các con cho các phụ nữ này một chỗ qua đêm. Trăng lặn và đám cháy đã làm chậm trễ bước đường của chúng ta nên chúng ta không thể tiếp tục đi tới thành phố ở bên cạnh.
- Xin mời tới. Mời tới. Sẽ có chỗ cho mọi người. Nhà chúng con là nhà qúi vị. Nhà nghèo nhưng sạch sẽ. Xin mời vào và chúng sẽ được chúc phúc - tất cả đều kêu lên.
Và từ từ, họ lên cái dốc khá đứng cho tới làng đã được cứu khỏi bị phá hủy một cách lạ lùng bởi phép lạ. Rồi mỗi người du hành biến vào trong nhà chủ của họ.
134* JUDAS KÊRIOT TẠI NHÀ
MARIA Ở NAZARÉT
Chính lúc vừa mới hơi đỏ ở phương đông một dấu hiệu đầu tiên của rạng đông, thì Judas Kêriot gõ vào cửa của căn nhà nhỏ Nazarét.
Trên đường chỉ có các nông dân, hay đúng hơn là các sở hữu chủ nhỏ của Nazarét, đi ra vườn nho hay vườn oliu của họ với các dụng cụ để làm việc. Họ ngạc nhiên nhìn kẻ gõ cửa vào giờ tinh sương như vậy tại căn nhà của Maria. Họ xì xèo với nhau:
- Đó là một môn đệ - một người trả lời cho sự suy tư của một người khác. “Chắc chắn ông ta tìm Giêsu con Giuse”.
- Dẹp đi! Đó là Judas Kêriot. Tôi không ưa cái ông này. Có lẽ chúng ta đã sai lầm rất nhiều đối với Giêsu và chúng ta đã hành
438
động sai. Nhưng hắn ta, hồi năm ngoái, đã làm rất nhiều điều xấu ở giữa chúng ta... Có lẽ chúng ta sẽ hối cải, nhưng hắn ta...
- Cái gì? Cái gì? Sao anh biết?
- Một buổi chiều kia, tôi đã có mặt trong nhà ông trưởng giáo
đường. Ngu qúa! Tôi đã tin ngay vào tất cả... Bây giờ... đủ rồi! Tôi tin là tôi đã phạm tội.
- Có lẽ hắn ta cũng nhận ra rằng hắn ta đã phạm tội và...
Họ đi xa và tôi không nghe thấy gì nữa.
Judas đến gõ vào cái cửa nhỏ mà ông đứng sát vào, dí mũi vào tấm gỗ như để tránh cho khỏi bị nhìn thấy và nhận diện. Nhưng cái cửa nhỏ vẫn đóng. Judas làm một cử chỉ thất vọng, rồi ông bỏ đi, vào con đường vòng quanh vườn và ông ra phía sau nhà. Ông nhìn qua bên trên hàng rào vào khu vườn yên lặng. Chỉ có các con bồ câu sinh hoạt ở đó.
Judas tự hỏi sẽ làm gì. Ông tự đàm thoại: “Hay là bà ta cũng bỏ đi rồi? Nhưng ta đã nhìn thấy bà mà... Vả nữa! Không... Chiều hôm qua ta đã nghe thấy tiếng bà... Có lẽ bà đi ngủ ở nhà bà chị dâu?... Ôi! Chuyện này khó chịu giống như có con ong đậu trên mặt, vì các bà sẽ trở lại với nhau, mà ta, ta chỉ muốn nói chuyện với một mình bà, ta không muốn có bà già kia chứng giám. Bà ta nhiều lời và bà ta sẽ quan sát ta, và bà ta qủi quái cũng như tất cả các bà già trong xứ, bà sẽ không nhận sự biện hộ của ta, và bà sẽ lưu ý con bồ câu khờ dại em dâu bà... Bà trẻ thì ta có thể chắc... sẽ dỗ ngọt được như ý. Bà chậm hiểu như một con cừu... Và ta, ta phải sửa lại câu chuyện đã xảy ra ở Tibêriat. Vì nếu bà ta nói... Không biết bà ta đã nói hay bà ta vẫn giữ yên lặng nhỉ? Nếu bà ta đã nói thì sẽ khó hơn để dàn xếp câu chuyện... Nhưng nếu bà ta không nói... là bà ta lẫn lộn nhân đức với sự ngu đần. Mẹ nào con nấy... Và những người khác làm việc khi họ ngủ. Ngoài ra, họ có lý. Tại sao lại để chúng ra một bên khi họ cũng có vẻ muốn... Nhưng họ muốn gì?... Đầu óc ta rối rít qúa... Ta phải thôi uống rượu và... Tốt! Nhưng tiền bạc nó cám dỗ. Ta giống như con ngựa tơ bị nhốt trong chuồng qúa lâu. Hai năm rồi! Ta nói là còn hơn hai năm nữa! Hai năm phải nhịn đủ thứ.
439
Nhưng... Bữa hôm kia, Elchias đã nói gì nhỉ? Hé! Ông ta đâu có cho mình lời khuyên xấu! Đương nhiên tất cả đều được phép, miễn là người ta đặt được Giêsu lên ngai. Nhưng nếu chàng ta không muốn? Ông ta phải nghĩ rằng nếu người ta không toàn thắng thì tất cả sẽ chấm dứt cho chúng ta giống như cho các thân binh của Théodas và Juđa ở Galilê... Có lẽ ta nên tách ra thì tốt hơn, bởi vì... đó, ta không biết điều họ muốn có tốt không. Ta không tin tưởng họ mấy... Từ ít lâu nay họ qúa thay đổi... Ta đã không muốn... Dễ sợ! Ta làm hại Giêsu sao? Không. Ta tách rời ra. Nhưng thật chua cay vì đã mơ thống trị mà lại trở nên... cái gì? Số không... Nhưng thà số không còn hơn... Anh ta không ngừng nói: ‘kẻ sẽ phạm cái tội lớn nhất’. Ohé! Chả phải là ta đâu, hen? Ta à? Ta à? Thà chết chìm trong hồ... Ta sẽ đi. Tốt hơn là ta nên đi. Ta sẽ về nhà mẹ ta, ta sẽ lấy tiền, vì chắc chắn ta không thể hỏi tiền mấy tên Pháp Đình Viên để đi. Họ giúp ta vì họ hy vọng ta giúp họ ra khỏi sự ngờ vực. Một khi Giêsu là vua thì chúng ta sẽ yên hàn. Đám đông về phe với chúng ta... Hêrôđê... Ai sẽ lo cho ông ta? Các người Rôma là không, dân chúng cũng không. Tất cả đều ghét hắn! Và... và... Nhưng Giêsu có thể từ khước ngay khi được tuyên bố là vua. Ôi! Được! Khi Êlêazar con Anna bảo đảm với ta rằng ba ông ta sẵn sàng phong vương cho anh ta!... Sau đó, anh ta sẽ không thể thoát khỏi chức vụ thánh... Ta, thực ra... Ta làm như anh quản lý bất trung trong dụ ngôn của anh ta... Ta cầu cứu bạn bè cho ta, đúng, nhưng cũng cho anh ta nữa. Vậy là ta sử dụng những phương tiện bất chính để... Nhưng không! Ta còn phải thuyết phục anh ta. Ta không biết chắc có hành động đúng không khi dùng mánh lới này... và... Ôi! Nếu ta có thể thuyết phục anh ta! Vì như vậy sẽ thật là đẹp! Đẹp chừng nào!... Đúng! Đó là điều có giá trị nhất. Nói tất cả với Thầy một cách thẳng thắn, năn nỉ Người... Miễn là Maria đừng nói gì tới cái màn ở Tibêriat... Ta đã bảo Maria nói với Thầy thế nào nhỉ? ... à, đây! Sự từ chối của các bà Rôma. Mụ đàn bà khốn kiếp! Nếu tối hôm đó ta không đến nhà mụ ta thì ta đã không gặp Maria! Nhưng ai có thể nghĩ được rằng Maria ở Tibêriat? Và hãy nghĩ rằng buổi
440
tối áp ngày Sabát, trong ngày Sabát và cả ngày hôm sau, ta không hề ra khỏi nhà để tránh gặp các tông đồ... Ngu qúa! Ngu qúa! Ta đã có thể đến Ippo hay Gerghesa để kiếm các em gái chứ? Chính ở đó, Tibêriat, là nơi các người ở Caphanaum phải đi qua để đến đây... Nhưng tất cả chuyện đó là vì các mụ Rôma... Ta đã hy vọng... Không, đó là điều ta phải nói để biện hộ, nhưng không đúng. Thật vô ích để tự nói điều đó với mình, vì ta biết tại sao ta tới đó: vì ta có cuộc hẹn hò với các tay tổ của Israel, và để vui hưởng, vì ta có khá nhiều tiền... Nhưng... tiền nó ra đi qúa lẹ! Chút nữa là ta không còn tiền... A!A! Ta sẽ kể vài chuyện cho Elchias và đồng đội nghe, và họ sẽ cho ta tiền nữa...”
- Judas! Anh điên sao? Đã từ một lúc rồi, tôi nhìn anh từ trên cây oliu. Anh múa may, nói một mình...Mặt trời tháng Tamuz làm anh đau hả? - Alphê Sara kêu lên khi ra mặt từ chỗ giao nhau của hai cành trên một cây oliu vĩ đại, ở cách xa chỗ Judas đứng chừng ba chục mét.
Judas giật nẩy, nhìn về phía đó. Ông chửi lắp bắp khi nhìn thấy Alphê: “Chết đi! Cái xứ do thám đáng nguyền rủa!” Nhưng rồi với nụ cười dễ thương, ông nói: “Không. Tôi lo rằng Maria không chịu mở. Bà có bệnh không? Tôi đã gõ và gõ!...”
- Maria à? Anh luôn luôn có thể gõ! Bà ta đang ở nhà một bà già tội nghiệp mới chết. Người ta tới gọi bà từ vọng canh thứ ba...
- Nhưng tôi phải nói chuyện với bà.
- Chờ nhé. Tôi xuống rồi tôi đi báo cho. Nhưng anh có thực cần không?
- Hé! Có mà. Tôi tới đây từ tia mặt trời đầu tiên.
Alphê vội vã xuống khỏi cây và ra đi lẹ làng.
- Ông ta cũng đã nhìn thấy ta! Và bây giờ chắc chắn bà ta sẽ trở về cùng với bà kia! Ta chả thành công việc gì cả! - Và ông ta xổ ra
441
cái kinh cầu các lời chê trách xứ Nazarét, dân Nazarét, Maria Alphê, cho tới cả lòng bác ái của Đức Thánh Maria đối với người chết, và cả chính người chết nữa.
Ông ta chưa chấm dứt thì cửa mở ra, chiếc cửa để đi từ phòng ăn ra vườn, và Maria xuất hiện trước cửa, rất xanh xao và rất buồn: “Judas!”. “Maria!” Hai người nói cùng một lúc.
- Mẹ về mở cửa cho con. Alphê chỉ nói với mẹ: “Về nhà đi. Có người tìm bà đó”. Và mẹ chạy, vì bà già tội nghiệp không cần tới mẹ nữa. Bà đã hết phải khổ vì đứa con trai xấu...
Trong khi Maria nói, Judas chạy theo ngõ hẻm để trở về phía trước nhà... Maria mở cửa cho ông.
- Bình an cho con, Judas Kêriot. Vào đi.
- Bình an cho mẹ, Maria.
Judas hơi ngập ngừng. Maria êm đềm nhưng nghiêm trang.
- Con đã gõ rất lâu lúc bình minh.
- Chiều hôm qua, một đứa con trai đã làm vỡ trái tim của một bà
mẹ... Và họ đã đến tìm Giêsu, nhưng Giêsu không còn ở đây. Cả con nữa, mẹ nói với con: Giêsu không ở đây. Con đến qúa trễ.
- Con biết là Người không ở đây.
- Làm sao con biết? Con vừa tới mà!
- Thưa mẹ, con muốn thẳng thắn với mẹ, vì mẹ tốt: Con đã ở đây từ chiều hôm qua...
- Vậy tại sao con không tới? Các bạn con, trong những ngày Sabát vừa qua, chỉ vắng mặt có một lần...
- Hé! Con biết! Con đã đi Caphanaum, nhưng con không tìm thấy họ.
- Đừng nói dối, Judas! Con không hề tới Caphanaum. Batôlômêo luôn luôn ở lại đó, và ông không hề thấy con. Batôlômêo mới tới ngày hôm qua, mà con đã ở đây rồi. Vậy tại sao con nói dối, Judas? Con không biết rằng nói dối là bước đầu để đi đến trộm cắp và sát nhân sao?... Bà Esther tội nghiệp đã chết, bị giết bởi sự đau đớn do cách ăn ở của con trai bà gây nên. Và Samuel, con trai bà, đã bắt đầu trở nên sự xấu hổ cho Nazarét bằng những nói dối nhỏ nhặt,
442
rồi sau đó càng ngày càng trở nên lớn... Rồi từ đó xảy ra tất cả những chuyện khác. Con, tông đồ của Chúa, con muốn bắt chước anh ta sao? Con muốn làm cho mẹ con chết vì đau đớn sao?
Lời khiển trách được nói nhỏ nhẹ, nhưng nó rơi xuống đúng lúc. Judas không biết đối đáp ra sao. Thình lình ông ngồi xuống và lấy hai tay ôm đầu.
Maria quan sát ông, rồi mẹ nói: “Tại sao con muốn gặp mẹ? Trong khi trợ giúp cho bà Esther tội nghiệp, mẹ đã cầu nguyện cho mẹ con... và cho con... Vì hai người làm mẹ thương, người nọ cũng như người kia, vì hai lý do khác nhau”.
- Vậy nếu mẹ đã thương thì hãy tha cho con.
- Mẹ không bao giờ oán giận.
- Thế nào?... Kể cả... buổi sáng hôm đó ở Tibêriat?... Mẹ biết không? Con như vậy bởi vì buổi chiều hôm trước, các bà Rôma đã không tiếp đón con tử tế, làm như con là thằng điên... và làm như con phản bội Thầy. Vâng. Con thú nhận, con đã sai lầm khi nói với Claudia, con lầm về bà ta. Nhưng con ngỡ là đã làm đúng, vì con thương Thầy. Người không bảo con, nhưng con biết rằng Người đã biết việc con nói. Chắc chắn Jeanne đã báo cho Người, và Jeanne không bao giờ gặp con, và các bà Rôma đã làm con buồn... Để cho quên... Con đã uống rượu...
Maria có sự bộc lộ lòng trắc ẩn một cách mỉa mai ngoài ý muốn, mẹ nói: “Vậy Giêsu, với tất cả những chua cay Người phải nếm mỗi ngày, Người phải say mỗi đêm sao?...”
- Mẹ có nói với Người chuyện đó không?
- Mẹ, mẹ không làm gia tăng chén cay đắng của con mẹ bằng cách cho Người biết những tin tức bội ước, sa ngã, tội lỗi, trụy lạc... Mẹ hãm mình và mẹ nín lặng.
Judas lết qùi xuống và ông tính để một cái hôn trên bàn tay Maria, nhưng mẹ lùi, không bất lịch sự, nhưng qủa quyết không để cho tiếp xúc.
- Cám ơn mẹ! Mẹ cứu con. Chính vì thế mà con tới đây... Và để mẹ làm cho con dễ dàng hơn để lại gần Thầy mà không bị khiển
443
trách, không xấu hổ.
- Để tránh việc đó, chỉ cần con tới Caphanaum rồi tới đây với những người khác là đơn giản.
- Đúng vậy... Nhưng những người khác không tốt. Họ đã do thám con để rồi sau đó làm con bị rầy và kết án con.
- Judas, đừng xúc phạm đến anh em con. Phạm tội đã đủ rồi! Chính con, con đã do thám ở đây, tại Nazarét, quê hương của Đức Kitô...
Judas ngắt lời mẹ: “Hồi nào? Năm ngoái à? Đó, họ đã bóp méo các lời của con! Nhưng hãy tin rằng con...”
- Mẹ không biết năm ngoái con đã nói và làm gì. Nhưng mẹ nói về ngày hôm qua đây này! Con đã ở đây từ hôm qua. Con biết rằng Giêsu đã đi. Vậy là con đã điều tra, và không phải nơi những người bạn: Aser, Ismael, Alphê, hay các anh Juđa và Giacôbê, cũng không phải nơi Maria Alphê hoặc trong nhóm nhỏ bé những người yêu Giêsu, vì nếu con đã làm thì họ sẽ đến để nói với mẹ. Nhà bà Esther đầy những phụ nữ vào lúc rạng đông, khi bà chết, nhưng không ai biết gì về con. Đó là những người tốt nhất trong đám phụ nữ Nazarét, những người yêu mẹ và yêu Giêsu, và cố gắng thực hành giáo lý của Người, mặc dầu sự hận thù của các ông chồng, của cha, của con trai họ. Vậy là con đã điều tra nơi những kẻ thù của Giêsu. Con gọi việc đó là gì? Mẹ, mẹ không nói. Chính con phải tự nói với chính mình con. Tại sao con làm như vậy, mẹ không muốn biết... Mẹ chỉ nói với con điều này: Có rất nhiều lưỡi gươm sẽ đâm vào tim mẹ, đâm vào và đâm vào nhiều lần, không thương hại, bởi những người làm khổ Giêsu của mẹ và ghét Người. Nhưng có một lưỡi gươm sẽ là của con, và nó sẽ không bao giờ được rút ra. Vì cái kỷ niệm về con, Judas, một người không muốn được cứu, một người tự hủy hoại mình, một người làm cho mẹ sợ, không phải sợ cho chính mẹ, nhưng sợ cho linh hồn con, nó sẽ không ra khỏi tim mẹ nữa. Một lưỡi thì do người công chính Simêon đã cắm vào đó khi mẹ mang bé sơ sinh của mẹ trong lòng, con chiên nhỏ thánh của mẹ... Và một lưỡi khác... lưỡi khác chính là con. Mũi nhọn của thanh gươm của con đã hành hạ trái tim mẹ rồi. Nhưng con chưa
444
thỏa việc làm đau đớn như vậy cho một người đàn bà tội nghiệp... và con chờ để cắm hết thanh gươm của con vào hoàn toàn, lưỡi gươm lý hình của con, vào trong trái tim của kẻ chỉ cho con toàn là tình yêu... Nhưng mẹ ngu ngốc để đòi hỏi tình thương của con là kẻ không có nó để cho mẹ con!... Trái lại, đó, lời đã nói: bằng một phát duy nhất, con xuyên thấu chúng ta: mẹ con và mẹ. Ôi! Đứa con khốn nạn mà lời cầu nguyện của hai bà mẹ cũng không cứu được!...
Maria khóc trong khi nói, và các giọt nước mắt không rơi trên đầu tóc nâu của Judas, vì ông ở yên tại nơi ông đã qùi gối, cách Maria một quãng. Chính gạch của nền nhà đã hút lấy những giọt nước mắt thánh... Màn cảnh nhắc tôi nhớ đến kỷ niệm về Aglaé, nhưng trái lại, lúc đó, nàng qùi sát vào Maria trong sự ước ao được cứu rỗi, nên các giọt nước mắt của Maria đã rơi xuống trên nàng.
- Con không tìm được một lời nào sao Judas? Con không tìm được trong con sức mạnh cho một quyết định tốt à? Ôi! Judas! Judas! Hãy nói cho mẹ: Con có thỏa lòng về cuộc sống của con không? Hãy kiểm điểm mình con. Judas, hãy khiêm tốn, thành thật với chính con để bắt đầu, và rồi với Thiên Chúa, để đến với Người với gánh nặng bằng đá đã lấy ra khỏi tim con và nói với Người: “Đây, con đã dỡ ra những tảng đá này vì tình yêu đối với Chúa”.
- Con không có... can đảm để thú nhận với Giêsu.
- Con không có sự khiêm nhường để làm.
- Đúng vậy. Mẹ giúp con đi...
- Hãy đi Caphanaum và chờ Người ở đó với lòng khiêm nhường.
- Nhưng mẹ có thể...
- Mẹ, mẹ chỉ có thể xin làm điều mà con mẹ luôn luôn làm: có tình thương. Không phải mẹ là kẻ cho Giêsu bài học. Chính Giêsu là vị giáo huấn môn đệ của Người.
- Mẹ là mẹ Người.
- Điều đó đối với con tim của mẹ thôi, nhưng xét hiệu năng về quyền của Người thì Người là Thầy của mẹ. Mẹ không hơn không kém một nữ môn đệ, cũng như đối với mọi nữ môn đệ khác.
445
- Mẹ, mẹ toàn thiện.
- Người là tất cả sự trọn lành.
Judas nín lặng suy nghĩ, rồi ông hỏi: “Thầy đi đâu?”
- Đi Bétlem thuộc Galilê.
- Rồi sau đó?
- Mẹ không biết.
- Nhưng Người sẽ trở lại đây?
- Ờ.
- Khi nào?
- Mẹ không biết.
- Mẹ không muốn nói điều đó cho con!
- Mẹ không thể nói điều mà mẹ không biết. Con theo Người từ hai năm nay, con có thể nói rằng Người luôn luôn có một lộ trình cố định không? Biết bao lần ý muốn loài người đã bó buộc Người phải thay đổi?
- Đúng vậy. Con sẽ đi... Caphanaum.
- Mặt trời qúa nóng để đi đường. Hãy ở lại. Con là một khách hành hương như mọi người khác, và Người đã nói rằng các nữ môn đệ phải săn sóc họ.
- Đời con đáng trách đối với mẹ...
- Việc con từ chối chữa trị làm mẹ đau khổ! Chỉ có vậy thôi... Cởi áo khoác ra đi... Con đã ngủ ở đâu?
- Con đã không ngủ. Con chờ rạng đông để gặp mẹ một mình.
- Vậy là con mệt. Trong phòng có hai giường đã dành cho Simon và Tôma. Trời còn yên lặng và mát, hãy đi ngủ trong khi mẹ sửa soạn bữa ăn.
Judas đi, không nói một lời. Maria không nghỉ ngơi sau một đêm canh thức, vào bếp đốt lửa và ra vườn hái rau. Và bao là nước mắt, nước mắt, nước mắt âm thầm nhỏ xuống trong khi mẹ cúi trên chiếc lò để châm củi, hoặc trên luống đất để hái rau, trong khi mẹ rửa trong chậu và gọt vỏ... Nước mắt rơi cùng với các hạt lúa vàng khi mẹ cho các chim câu ăn, trên khăn vải mẹ lấy ra từ cái thau để phơi dưới mặt trời... Các giọt nước mắt của Mẹ Thiên Chúa... của đấng không hề vương tội mà không được miễn đau đớn, và đã chịu đựng
446
hơn tất cả mọi phụ nữ khác để trở nên đấng Đồng Công Cứu Chuộc.
135* ÔNG NGOẠI MARGZIAM QUA ĐỜI
Giêsu đã rời các phụ nữ, vì Người đang ở với các tông đồ, Isaac và Margziam. Họ đang xuống cái dốc sau cùng để vào đồng bằng Esdrelon trong khi đêm từ từ xuống.
Margziam rất bằng lòng được Chúa dắt đến nhà ông ngoại nó. Các tông đồ thì ít bằng lòng hơn, vì họ nhớ tới việc rắc rối mới đây với Ismael, nhưng họ nín lặng, nghiêm trang để không làm buồn người thanh niên đang vui vì đã không đụng gì tới hũ mật ong mà Porphyrê đã cho cậu, “vì con hy vọng Chúa sẽ làm cho qủa tim con được vui mừng, bằng cách cho con được gặp cha già của con. Con không biết tại sao... nhưng từ ít lâu nay, con thấy ông hiện diện trong trí khôn con giống như ông hiện ra với con. Con nói vậy với Porphyrê thì bà bảo con: ‘Má cũng cảm thấy như vậy khi Simon ở xa’. Nhưng hẳn là không như bà nói, vì trước đây con không thấy như vậy”.
- Bởi vì trước đây con là con nít, bây giờ con là một thanh niên nên tư tưởng suy nghĩ nhiều hơn - Phêrô nói với nó.
- Con còn hai miếng phó mát nhỏ và một ít oliu, những cái con có thể mang trong số những cái thuộc về con cho cha già yêu dấu của con. Và nữa, con có một áo dài bằng vải gai và một áo cộc cũng bằng vải gai. Porphyrê đã muốn làm cho con, nhưng con nói với bà: “Nếu mẹ yêu con thì mẹ hãy làm cho cha già con. Ông luôn luôn rách rưới, đầy những mồ hôi trong y phục bằng len xấu... Ông sẽ được mát hơn”.
- Trong khi chờ đợi thì con không có quần áo mát, và con ướt, thấm đầy mồ hôi như miếng bọt bể trong những y phục bằng len này - Phêrô nói.
- Ôi! Không quan trọng. Cha già đã bao nhiêu lần nhịn ăn để cho con khi con ở trong rừng... Rồi, sau cùng, con cũng cho ông
447
được chút gì. Nếu con có thể dành dụm để giải phóng cho ông.
- Bây giờ con có bao nhiêu rồi? - Andrê hỏi.
- Ít xịt! Bán cá, con để dành được một trăm mười đồng. Nhưng sắp sửa con sẽ bán các con chiên, và lúc đó... Chớ gì con có thể làm trước lúc cực lạnh!...
- Chính các anh sẽ nhận ông ta à? - Natanael hỏi Phêrô.
- Phải. Chúng tôi sẽ chẳng chết nếu ông già tội nghiệp ăn một miếng trong đĩa của chúng tôi...
- Lại nữa... ông ta có thể làm vài việc vặt... tại nhà chúng tôi ở Bétsaida, phải không Philíp?
- Chắc chắn, chắc chắn mà... Simon, chúng tôi sẽ giúp anh để làm vui lòng Margziam đáng yêu của chúng ta và cho ông già...
- Tôi hy vọng Giocana không có ở đó - Thađê nói.
- Tôi, tôi đi trước để báo tin - Isaac nói.
Họ bước nhanh dưới ánh trăng thanh. Rồi Isaac tách rời ra, đi lẹ hơn nữa, trong khi những người khác nhẩn nha theo sau ông. Đồng bằng hoàn toàn yên lặng, cả các chim họa mi cũng nín thinh.
Họ bước hoài cho tới khi họ thấy hai bóng đen chạy về phía họ. Gioan nói: “Một người chắc chắn là Isaac, người kia có lẽ là Michée hay viên quản lý, họ cao như nhau...”
Bây giờ họ đã tới gần, rất gần. Chính xác là viên quản lý đi theo Isaac, không có vẻ gì hoảng hốt cả.
- Thưa Thầy... Margziam... thằng con tội nghiệp!... Tới mau lên... Margziam, cha con bệnh nặng... rất nặng...
- A! Lạy Chúa!... - Người thanh niên kêu lên, vẻ đau khổ.
- Nào! Nào! ... Can đảm lên, Margziam - Giêsu cầm tay nó và bắt đầu đi hầu như chạy khi Người nói với các tông đồ: “Các con, hãy theo chúng ta”.
- Được, nhưng từ từ... Vì lẽ Giocana - Viên quản lý kêu khi ông ta đã đi xa.
Ông già tội nghiệp đang ở trong nhà Michée. Kẻ khờ khạo nhất thì khi thoạt vào cũng có thể hiểu là ông ta đang hấp hối. Ông nằm xõng xoài, mắt nhắm, các nét đã buông xuôi như người sắp chết,
448
nước da như sáp, trừ hai lưỡng quyền, nơi sự ứ huyết còn để lại hai vết đỏ.
Margziam cúi xuống trên chiếc ghế bố và gọi: “Cha ơi! Cha của con ơi! Con đây, Margziam, cha hiểu không? Margziam! Jabê! Jabê của cha đây!... Ôi! Chúa ơi! Ông không nghe được nữa... Chúa ơi, lại đây đi... Lại đây... Chúa thử đi... Chữa ông đi... Hãy làm cho ông nhìn thấy con, nói với con... Không lẽ con phải thấy hết mọi người thân của con chết như vầy sao? Chết không nói lời từ giã với con?...”
Giêsu lại gần, cúi xuống trên người hấp hối, đặt một tay trên đầu ông và nói: “Hỡi đứa con của Cha Ta, hãy nghe đây”.
Giống như người thức dậy từ giấc ngủ say, ông già thở một hơi dài, mở đôi mắt đã lờ đờ, và ông nhìn cách mơ hồ hai khuôn mặt đang cúi xuống trên ông. Ông thử nói, nhưng lưỡi ông từ chối. Trong một lát, chắc ông nhận ra họ, vì ông mỉm cười và tìm cầm bàn tay của hai người để đưa lên môi.
- Cha ơi... Con đã tới... Con đã cầu nguyện biết bao để được tới!... Con muốn nói với cha rằng... sắp sửa... chúng ta sẽ có đủ... để cho cha cái gì để giải phóng cho cha... và đi với con tới nhà Simon và Porphyrê, họ rất tốt với Jabê của cha... với mọi người...
Ông già thành công nhúc nhích lưỡi ông và nói cách khó lòng: “Nguyện Thiên Chúa trả ơn cho họ... Xin Người trả ơn cho con... Nhưng trễ rồi... Cha về với Abraham... để không còn khổ nữa...” Rồi ông quay về với Giêsu và hỏi cách lo lắng: “Đúng, phải không?”
- Đúng. Hãy bình an! - Và Giêsu đứng thẳng lên, oai vệ, Người nói: “Ta, với quyền Vị Thẩm Phán và Vị Cứu Tinh, Ta tha cho ông những gì mà trong đời ông, có thể ông đã phạm những lầm lỗi, những thiếu sót, và những cảm tình của linh hồn phản lại đức bác ái đối với kẻ đã ghét ông. Ta tha cho ông tất cả. Ôi! Hỡi đứa con, hãy đi bình an”. Giêsu giơ tay trên ông, giống như vị linh mục trên bàn thờ, để dâng lễ hy sinh.
Margziam khóc trong khi ông già mỉm cười êm dịu và thì thầm: “Con được nghỉ bằng an là nhờ ơn Chúa... Cám ơn Chúa...” Và ông
449
lịm đi...
- Cha ơi! Cha ơi! Ôi! Ông chết! Ông chết! Chúng ta cho ông một tí mật ong đi... Lưỡi ông bị khô... Ông lạnh... mật ong làm cho ông ấm... - Margziam kêu lên. Và với một tay, nó cố gắng lục lọi giỏ của nó, còn tay kia nó đỡ đầu ông già đã trở nên nặng.
Các tông đồ đứng ở cửa... và họ lặng lẽ quan sát...
- Vậy làm đi Margziam. Để Thầy đỡ cha già cho - Giêsu nói, rồi Người gọi Simon: “Simon, lại đây...”
Simon tiến lên, rất cảm động.
Margziam cố gắng cho ông già ăn một tí mật ong. Nó thọc ngón tay vào trong chiếc hũ và lôi ra một tí mật ong dẻo kéo giây, và nó để trên môi ông già. Ông mở mắt, nhìn nó, mỉm cười và nói: “Ngon”.
- Con làm nó cho cha đó... Và cả quần áo mát bằng gai...
Ông già giơ bàn tay run run, cố gắng để trên đầu tóc nâu đen và nói: “Con tốt... hơn là mật ong... Chính... chính lòng tốt của con làm ông dễ chịu... Nhưng mật ong của con... không xài nữa... Quần áo mát cũng vậy... Hãy giữ lấy nó... hãy giữ lấy nó cùng với phúc lành của cha”.
Margziam qùi gối, gục đầu xuống cạnh giường và rên rỉ: “Một mình! Con ở lại một mình!”
Simon đi quanh giường, tới bên nó, bằng một giọng khàn hơn bao giờ hết vì xúc động, ông vuốt tóc Margziam và nói: “Không... không một mình đâu... Bố, bố yêu con nhiều, Porphyrê yêu con nhiều... Các môn đệ như từng ấy người anh... Lại nữa, Giêsu... Giêsu yêu con nhiều... Đừng khóc, con bố!”
- Con... của... anh... Đúng. Tôi... sung sướng... Chúa!... Chúa!... - Ông già thì thầm, bối rối... cảm thấy sự tận cùng.
Giêsu đỡ ông, ôm ông trong cánh tay Người và xướng đọc nhẩn nha: “Tôi ngước mắt trông về núi cao, nơi sự cứu giúp của tôi đến...” Người tiếp tục thánh vịnh 120. Rồi Người ngừng, quan sát ông già đang chết trong tay Người cách bình tĩnh nhờ vào các lời của Người... Người lại xướng thánh vịnh 121, nhưng Người đọc chỉ một ít, vì Người vừa đọc câu thứ bốn thì Người ngừng và nói: “Hãy đi bình
450
an, hỡi linh hồn công chính!” Rồi Người nhẹ nhàng đặt ông xuống, lấy tay vuốt mắt cho ông.
Một cái chết qúa yên hàn tới nỗi ngoài Giêsu, không ai nhận thấy, nhưng họ hiểu nhờ vào cử chỉ của Thầy, và họ xì xèo.
Giêsu làm hiệu yên lặng. Người quay về với Margziam đang khóc, gục đầu trên giường, không nhận ra gì cả. Người cúi xuống ôm nó, tìm cách nâng nó dậy và nói với nó: “Ông đã bình an, Margziam! Ông không đau khổ nữa. Ơn cao trọng nhất Thiên Chúa ban cho ông là: chết trong tay Chúa. Con yêu, đừng khóc. Hãy nhìn ông đó, ông bình an chừng nào!... Bình an... Rất ít người trong Israel được đặc ân như người công chính này: được chết trên ngực Đấng Cứu Tinh. Lại đây, trong cánh tay Thầy... Con không cô đơn. Lại nữa, có Thiên Chúa, đó là tất cả, Người yêu con thay cho mọi người”.
Thằng Margziam tội nghiệp, nó làm cho người ta thấy thương khi nhìn nó. Nhưng nó còn tìm được sức mạnh để nói: “Cám ơn Chúa vì đã đến... Cám ơn bố Simon vì đã dắt con đi... và cám ơn tất cả mọi người... vì những gì qúi vị đã cho con để dành cho ông... nhưng không dùng nữa... Nhưng ... quần áo... có chứ... chúng ta nghèo... chúng ta không thể ướp xác với nó... Ôi! Cha già! Cả đến con không thể cho cha một nấm mồ!... Nhưng nếu qúi vị tin con, và nếu qúi vị có thể... hãy bỏ tiền ra, và con sẽ hoàn lại cho qúi vị vào tháng mười, nhờ vào giá bán chiên và cá...”
- Ohé! Con vẫn còn một ông bố mà! Bố sẽ lo tất cả! Cho dù có phải bán đi một cái thuyền. Chúng ta sẽ cho ông già hết mọi vinh dự. Điều chính yếu là phải vay một khoản... Và rồi ai sẽ nhường cho ngôi mộ...
Viên quản lý nói: “Ở Jezrael có các môn đệ trong đám dân địa phương. Họ sẽ không từ chối. Tôi sẽ đi ngay, và tôi sẽ trở về vào giờ thứ ba...”
- Tốt, nhưng... người pharisiêu?
- Đừng sợ. Tôi sẽ cho ông biết là có một người chết, và để không bị ô nhiễm, ông sẽ không ra khỏi nhà nữa. Tôi đi đây...
Và trong khi Margziam cúi xuống trên ông ngoại nó, khóc và vuốt ve ông, thì Giêsu nói nhỏ nhẹ với các tông đồ của Người và
451
với Isaac. Michée và những người khác tới lui để sửa soạn những vinh dự sau cùng cho người bạn qúa cố của họ.
Ở đây tôi có một nhận xét cá nhân như sau: Đã nhiều lần tôi ở trong một hoàn cảnh tương tự, và tôi thường nhận thấy những người hiện diện, với ý định tốt, hoặc với sự khăng khăng không tốt, yêu cầu những người đau khổ vì mất một người thân phải nín lặng. Tôi so sánh thái độ này với sự êm dịu của Giêsu, người thương sự đau đớn của đứa trẻ mồ côi, và người không chờ đợi ở nó một sự anh hùng vượt tự nhiên... Biết bao điều có thể học được trong những hành động nhỏ mọn của Giêsu!...
136* GIÊSU NÓI VỀ ĐỨC ÁI
VỚI CÁC TÔNG ĐỒ
- Simon, lúc con tới Nazarét, con để thuyền ở đâu? - Giêsu hỏi khi Người đang đi về hướng đông bắc, quay lưng về đồng bằng Esdrelon và đang tiến về phía Tabor.
- Con đã cho nó về để đánh cá, nhưng con bảo chúng nó cứ ba ngày thì lại ghé vào Tarichée, vì con không biết con sẽ ở với Thầy trong bao lâu.
- Tốt lắm. Ai trong các con muốn về báo cho mẹ Thầy và Maria Alphê đến với chúng ta ở Tibêriat? Hẹn nhau ở nhà Giuse.
- Thưa Thầy... tất cả chúng con đều muốn. Nhưng Thầy, Thầy chỉ định ai đi, như vậy hay hơn..
- Vậy thì Mathêu, Philíp, Andrê và Giacôbê Zêbêđê. Những người khác thì đi với Thầy tới Tarichée. Các con sẽ nói với các bà về lý do chậm trễ, và bảo họ đóng cửa để đi. Chúng ta sẽ ở lại với nhau một tuần trăng. Đi, ngã ba đây rồi. Bình an cho các con - Người hôn bốn người đi tách rời, và tiếp tục con đường với những người khác.
Nhưng sau vài bước, Người dừng lại và nhận thấy Margziam đi hơi ở đàng sau, cúi đầu. Khi người thiếu niên đi tới chỗ Người, Người để tay ở dưới cằm nó và nâng mặt nó lên, Người thấy hai hàng nước mắt ở trên khuôn mặt ngăm đen.
- Con có tình nguyện cũng đi Nazarét không?
452
- Thưa Thầy, có... Nhưng hãy làm như Thầy muốn.
- Con ơi, Thầy muốn cho con được củng cố... Hãy đi, chạy theo họ. Mẹ sẽ an ủi con - Người ôm hôn nó rồi để cho nó đi. Margziam bắt đầu chạy và mau chóng đến với bốn người kia.
- Nó còn là một đứa trẻ... - Phêrô nhận xét.
Gioan nói: “Nó khổ lắm... Chiều hôm qua, khi tôi thấy nó ngồi trong góc nhà, đầy nước mắt, nó bảo tôi: ‘Giống như ba má tôi mới chết hôm qua vậy... Cái chết của cha già lại mở con tim của tôi ra...’”
- Đứa trẻ tội nghiệp! Nhưng thật may là nó có mặt khi ông chết - Zêlote nói.
- Nó luôn luôn ôm ấp tư tưởng có thể giúp ông già!... - Phêrô nói. “Porphyrê nói với tôi rằng nó làm đủ mọi thứ hy sinh để có thể dành dụm tiền. Nó làm việc trong cánh đồng, nó đốn củi để nhóm lò, nó đánh cá, nó nhịn ăn phó mát để bán, nhịn mật ong để bán... Nó có cái đinh này ở trong tim, là nó muốn có ông cha già ở với nó... Than ôi!”
- Đó là con người qủa quyết. Nó không lùi bước trước hy sinh và việc làm. Đức tính rất tốt - Batôlômêo nói.
- Đúng. Đó là đứa con tốt, và sẽ là một trong số môn đệ tốt nhất. Các con coi, nó trấn át hay chừng nào để tự chủ ngay cả trong những lúc xao xuyến nhất. Nó đau lòng vì mong gặp Maria, nhưng nó không xin. Nó đã rất hiểu sức mạnh của lời cầu nguyện, và nó đã vượt qua nhiều người lớn - Giêsu nói.
- Thầy có tin là nó làm các việc hy sinh vì một mục đích xác định trước không? - Tôma hỏi.
- Thầy chắc chắn điều đó.
- Đúng vậy - Giacôbê Alphê nói. “Hôm qua nó cho một ông già mấy trái cây và nói: ‘Hãy cầu nguyện cho ông ngoại tôi mà tôi mới bị mất’. Và con, con đã lưu ý nó rằng: ‘Margziam, ông đang ở trong bình an rồi. Cháu không tin vào sự xá giải của Giêsu sao?’ Nó trả lời con: ‘Cháu tin là nó hiệu lực. Nhưng cháu nghĩ khi dâng sự hy sinh cho các linh hồn mà chả có ai cầu nguyện cho, cháu nói: nếu
453
cha cháu không cần tới thì cháu dâng hy sinh này cho những người không ai nghĩ tới’. Và con cảm phục những lời đó”.
- Đúng - Phêrô nói. “Hôm qua nó đến với tôi, nó quàng tay chung quanh cổ tôi, vì nó cũng còn là đứa trẻ, nó bảo tôi: ‘Bây giờ bố thực sự là bố con... và con trả lại cho bố cái số mà lòng tốt của bố đã cho con dành dụm được. Tiền này không dùng cho cha già được nữa... mà bố với Porphyrê đã làm biết bao cho con... ’ Tôi, tôi đã không sao cầm được nước mắt, tôi trả lời nó: ‘Con ơi, không. Chúng ta sẽ bố thí tiền này cho các người già nghèo hay các trẻ mồ côi nghèo. Và Thiên Chúa sẽ dùng của bố thí của con để gia tăng bình an cho các người già tội nghiệp’. Và Margziam hôn tôi hai cái mạnh tới nỗi... Đó, tôi không cầm được nước mắt. Và anh Batôlômêo, nó biết ơn anh chừng nào vì anh đã trả các chi phí. Nó bảo tôi: ‘Đối với con, các vinh dự đã dành cho cha già là vô giá. Con sẽ xin Batôlômêo nhận con làm đầy tớ’”.
- Ôi! Đứa trẻ tội nghiệp! Dù một giờ cũng không nữa! Nó phục vụ Chúa và xây dựng cho tất cả chúng ta. Tôi đã tôn kính một vị công chính. Tôi có thể làm việc đó, vì người ta biết tôi và tôi dễ dàng tìm được người có thể ứng tiền trước cho tôi. Về Bétsaida, tôi sẽ lo việc hoàn trả món nợ nhỏ đó, thực ra thì chẳng nghĩa lý gì. - Batôlômêo trả lời.
- Phải. Tiền thì không nhiều, bởi vì những người ở Jezrael đã quảng đại. Nhưng tình yêu của con đối với một người đồng môn đệ đâu phải là vô nghĩa lý, vì hết mọi hành động của tình yêu đều có giá trị cao cả - Giêsu nói, và Người tiếp: “Các con đang tự đào tạo trong tình yêu tha nhân này, nó là phần thứ hai trong giới răn căn bản của lề luật Thiên Chúa, nhưng là điều thực sự đã bị bỏ rơi, không thực hành trong Israel. Những qui luật thật nhiều, những điều vụn vặt tiếp theo vào luật trên núi Sinai là luật thẳng thắn và toàn vẹn trong sự vắn tắt của nó, đã làm biến dạng phần đầu trong giới răn căn bản, hạ thấp nó xuống thành một mớ nghi thức bên ngoài mà thiếu cái động lực, cái thực sự cho nó có giá trị, tức là các hình thức thờ phượng ở bên ngoài này thiếu sự liên kết linh hoạt ở bên trong với các công việc nó hoàn thành, với các cám dỗ nó vượt
454
qua.
Một cuộc trình diễn tế tự có giá trị gì trước mắt Thiên Chúa, nếu sau đó, ở trong nội tâm, con tim không yêu mến Thiên Chúa, không tự hạ trong tình yêu trọng kính đối với Thiên Chúa; khi trong lòng không ca tụng Người, không cảm phục Người, bằng cách không yêu những cái Người làm, mà trước tiên là con người, tuyệt tác phẩm của việc tạo dựng trên trái đất. Các con thấy sự sai lầm của Israel đến từ đâu? Từ chỗ: trước tiên là đã cắt giới răn duy nhất thành hai giới răn, rồi sau đó, với sự thoái hóa của tâm hồn, đã cắt bỏ gọn ghẽ phần thứ hai đi, giống như đó là một cái cành vô ích.
Đó không phải là cái cành vô ích, cả đến đó không phải là hai cành, mà là một cái thân duy nhất, từ gốc, được trang điểm bằng những nhân đức đặc biệt của hai tình yêu. Các con hãy nhìn cây sung đồ sộ mọc trên đỉnh đồi này: Nó mọc lên một cách tự nhiên, và hầu như ngay từ rễ, tức là từ chỗ lú ra khỏi đất, nó đã chia làm hai cành hợp nhất tới nỗi hai lớp vỏ hàn lại với nhau, nhưng mỗi cành nẩy nở ở một bên, một cách kỳ lạ tới nỗi người ta gọi cái làng nhỏ ở trên ngọn đồi nhỏ này là ‘nhà của cây sung sinh đôi’. Nếu bây giờ người ta muốn tách rời hai thân mà ở dưới gốc chỉ là một, thì phải dùng cái rìu hay cái cưa. Nhưng người ta sẽ làm gì? Người ta làm chết thân, hoặc nếu người ta đủ khéo léo để bổ hay cưa cách nào để chỉ làm hại cho một trong hai thân, người ta sẽ cứu một thân, còn thân kia sẽ bị kết án tử cách cay nghiệt. Và thân còn lại, mặc dù có sống, nhưng gầy yếu, bị úa vàng, không cho trái nữa hay cho rất ít.
Cùng một tình trạng như vậy đã xảy ra trong Israel. Họ đã muốn phân chia, tách rời hai phần hợp nhất tới nỗi chỉ là một. Họ đã muốn cải tổ một điều đã sẵn toàn vẹn rồi, vì mọi công việc của Thiên Chúa đều toàn vẹn, cũng như mọi tư tưởng, mọi lời của Người. Quả vậy, nếu trên núi Sinai, Thiên Chúa đã truyền giới răn yêu Thiên Chúa rất thánh và tha nhân như một giới răn duy nhất, thì rõ ràng là không có hai giới răn mà người ta có thể thi hành độc lập với nhau, nhưng chúng là một giới răn duy nhất.
455
Nhưng vì Thầy không bao giờ có thể đào tạo các con đủ trong nhân đức cao cả này, nhân đức lớn lao hơn tất cả, nhân đức nâng tâm hồn lên tới Trời, vì nó là nhân đức duy nhất còn tồn tại trên Trời, thầy chỉ nhấn mạnh về nhân đức này. Linh hồn sẽ mất tất cả đời sống siêu nhiên đời đời, nếu nó mất Đức Ai, vì nó mất Thiên Chúa.
Các con hãy hiểu Thầy. Giả sử một ngày kia có một cặp vợ chồng rất giầu tới gõ cửa nhà các con để xin ở trọ suốt đời, các con có thể nói: ‘chúng tôi chấp nhận người chồng, nhưng chúng tôi không muốn người vợ’ không? Các con sẽ nghe người chồng trả lời: ‘Điều đó không thể được, vì tôi không thể chia lìa thịt của thịt tôi. Nếu qúi vị không chấp nhận bà ấy tức là không chấp nhận tôi, tôi không thể ở lại nhà qúi vị được. Tôi ra đi với tất cả kho tàng mà đáng lẽ tôi sẽ chia sẻ với qúi vị’.
Thiên Chúa kết hợp với Đức Ái. Điều này rất thật, và còn thân thiết hơn, thực sự hơn hai vợ chồng yêu nhau tha thiết. Nó là Thần Trí của Thánh Linh Người. Thiên Chúa chính là Đức Ái. Đức Ái chỉ là bộ mặt bộc lộ ra rõ ràng của Thiên Chúa, bộ mặt Người đặt ra trong ánh sáng nhiều hơn. Ở giữa tất cả các đặc tính của Người, thì Đức Ái là đặc tính quân vương và là đặc tính căn bản, vì tất cả mọi đặc tính khác của Thiên Chúa đều nảy sinh ra từ Đức Ái. Quyền năng là gì, nếu không phải là Đức Ái làm việc? Sự khôn ngoan là gì, nếu không phải là Đức Ái dạy dỗ ? Tình thương là gì, nếu không phải là Đức Ái tha thứ ? Sự công bằng là gì, nếu không phải là Đức Ái cai trị? Thầy không thể tiếp tục như vậy với con số vô vàn đặc tính của Thiên Chúa.
Bây giờ theo như Thầy nói, các con có thể nghĩ rằng kẻ không có Đức Ái mà có Thiên Chúa không? Không, nó không có Người. Các con có thể nghĩ rằng nó có thể tiếp nhận Thiên Chúa mà không cần có Đức Ái không? Đức Ái là duy nhất, là cái ôm ấp Tạo Hóa cùng với tạo vật. Và người ta không thể nào chỉ có một nửa: nửa dành cho Thiên Chúa, mà không có nửa kia: nửa dành cho tha nhân. Thiên Chúa ở trong tạo vật của Người. Người ở đó với dấu hiệu
456
không thể xóa bỏ của Người, với các quyền là Cha, là Chồng, là Vua của Người. Linh hồn là ngai tòa của Người, thân xác là Đền Thờ của Người. Vậy kẻ không yêu anh em mình, khinh dể họ, tức là khinh dể, làm khổ, không nhận biết ông chủ ngôi nhà của anh em nó, vị Vua, người Cha, người Chồng của anh em nó. Và đương nhiên là Thực Thể Vĩ Đại này, đấng là tất cả, đấng hiện diện trong người anh em, trong tất cả mọi người anh em, sẽ coi những xúc phạm đến thực thể nhỏ bé, đến một phần tử của Đấng Tất Cả, tức là mỗi cá nhân riêng biệt, là xúc phạm đến chính Người. Vì vậy Thầy đã dạy các con những việc vật chất cũng như tinh thần của tình thương. Vì vậy mà Thầy dạy các con đừng tức giận anh em. Vì vậy mà Thầy dạy các con đừng xét đoán, đừng khinh dể, đừng xua đuổi anh em, cho dù họ tốt hay không, là tín hữu hay dân ngoại, bạn hay thù, giầu hay nghèo. Khi sự sinh nở hoàn tất việc cưu mang, nó xảy ra theo cùng một cách, dù nó xảy ra trên chiếc giường bằng vàng hay trên ổ rơm của một cái kho rơm. Và tạo vật được tạo ra trong bụng một bà hoàng cũng không khác gì vật thể tạo ra trong bụng người hành khất. Sự thụ thai, sự tạo thành một thực thể mới thì giống nhau ở mọi điểm trên trái đất, dù là dân cư theo bất cứ tôn giáo nào. Hết mọi người đều sinh ra giống như Abel và Cain được sinh ra từ lòng dạ Evà.
Và sự giống nhau trong việc thụ thai, tạo hình và cách sinh ra của đứa con của một người đàn ông và một người đàn bà trên trái đất, phù hợp với một sự giống nhau khác ở trên Trời: sự tạo dựng một linh hồn và phú vào cái phôi thai để nó là một người chứ không là một động vật, và để linh hồn này theo nó từ lúc nó được tạo dựng tới khi nó chết, và tồn tại trong khi chờ đợi sự sống lại toàn thể, để lại kết hợp với thân xác sống lại, để cùng với nó có phần thưởng hay hình phạt. Phần thưởng hay hình phạt là tùy các hành động đã hoàn thành trong đời sống trên trái đất. Thực vậy, các con đừng tưởng là Đức Ái có thể bất công, hay tưởng rằng nhiều người, chỉ vì không thuộc về Israel hay không thuộc về Đức Kitô, thì dù có luôn luôn thi hành các nhân đức của tôn giáo họ theo và họ cho đó là tôn giáo thực, cũng sẽ đời đời không có phần thưởng đâu. Sau ngày tận
457
thế, sẽ không còn nhân đức nào tồn tại ngoài Đức Ái, tức là việc kết hợp với Đấng Tạo Hóa của mọi tạo vật đã sống công chính. Sẽ không có nhiều Nước Trời riêng, như Nước Trời của Israel, của người Kitô hữu, của người công giáo, của người ngoại giáo, của dân ngoại... Sẽ không có bấy nhiêu Nước Trời, mà chỉ có một Nước Trời duy nhất. Cũng vậy, chỉ có một phần thưởng duy nhất: Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, đấng kết hợp với các tạo vật đã sống trong sự công chính, trong đó, vì vẻ đẹp của tâm hồn và thân xác các thánh, Người sẽ ngưỡng mộ chính mình Người với niềm vui người Cha và Thiên Chúa của Người. Chỉ có một Chúa duy nhất chứ không phải có Chúa cho Israel, rồi Chúa cho người công giáo, mỗi người một Chúa tùy các tôn giáo khác nhau đâu.
Bây giờ Thầy mặc khải cho các con một chân lý lớn lao. Các con hãy nhớ lấy. Hãy loan truyền cho các người kế vị các con. Đừng luôn luôn đợi Thánh Linh sẽ lại soi sáng cho các chân lý sau bao năm và bao thế kỷ tăm tối. Các con hãy nghe đây: Có lẽ các con sẽ nói: ‘Vậy có sự công bằng nào để thuộc về một tôn giáo thánh, nếu vào lúc tận thế, chúng con cũng được đối xử như các dân ngoại?’ Thầy trả lời các con: Có cùng một sự công bằng, và đó là công bằng thực sự, cho những người luôn luôn thuộc về tôn giáo thánh, nhưng không được hạnh phúc, vì họ không sống thánh. Một người dân ngoại nhân đức, chỉ vì lý do là họ đã thực hành nhân đức thực sự trong khi tin rằng tôn giáo của họ tốt, thì sau cùng họ sẽ được Nước Trời. Nhưng khi nào? Vào lúc tận thế, khi bốn miền cư trú (trái đất, luyện ngục, Thiên Đàng, hỏa ngục) rút lại chỉ còn có hai, tức là chỉ còn Thiên Đàng và hỏa ngục, vì lúc đó, Đấng Công Bằng chỉ còn giữ lại hai vương quốc vĩnh cửu để ban cho những người đã chọn trái tốt hay trái xấu của cây ý muốn tự do của họ. Nhưng một người dân ngoại nhân đức phải chờ lâu chừng nào mới được thưởng!... Các con không nghĩ tới đó sao? Sự chờ đợi này, đặc biệt là vào lúc mà Ơn Cứu Chuộc với tất cả những kỳ công nối tiếp xảy ra, và Tin Mừng đã được rao giảng cho khắp thế giới, thì những kẻ đã sống công chính trong những tôn giáo khác, nhưng không vào trong Đức
458
Tin thật, dù đã biết sự hiện hữu của nó và các chứng cớ thực tại của nó, đối với họ thì là Lâm Bô hàng thế kỷ và hàng thế kỷ cho tới tận thế. Đối với những người đã tin vào Thiên Chúa thật nhưng không biết sống thánh một cách anh hùng thì sẽ là luyện ngục lâu dài, đối với một số người, nó có thể chỉ chấm dứt vào ngày tận thế.
Nhưng sau sự đền tội và sự chờ đợi thì những người tốt, dù họ có nguồn gốc nào mặc lòng, cũng ở tất cả bên hữu Thiên Chúa. Những người xấu, dù có nguồn gốc nào mặc lòng, cũng ở bên trái, rồi vào hỏa ngục ghê sợ, trong khi Vị Cứu Tinh cùng với những người tốt đi vào Nước Người đời đời”.
- Chúa ơi, xin tha cho con nếu con không hiểu Thầy. Điều Thầy nói đó khó qúa!... ít nhất là đối với con... Thầy luôn luôn nói rằng Thầy là Vị Cứu Tinh, và Thầy cứu những kẻ tin vào Thầy. Vậy những người không tin, bởi vì họ không biết Thầy vì đã sống trước Thầy, hay bởi vì thế giới qúa lớn, họ không biết Thầy, thì làm sao họ được cứu? - Batôlômêo hỏi.
- Thầy đã nói với con rồi: nhờ vào đời sống công chính của họ, nhờ vào các việc lành của họ, nhờ vào đức tin mà họ cho là thật.
- Nhưng họ không cầu cứu Vị Cứu Tinh...
- Nhưng Vị Cứu Tinh sẽ chịu đau khổ cho họ, cho cả họ nữa. Batôlômêo, con có thể tưởng tượng được công nghiệp Người-ThiênChúa của Thầy lớn lao chừng nào không?
- Lạy Chúa, nhưng nó luôn luôn ở bên dưới công nghiệp của Thiên Chúa, tức là công nghiệp mà Thầy vẫn có từ đời đời.
- Câu trả lời của con đúng và không đúng. Con nói: công nghiệp của Thiên Chúa thì vô tận. Tất cả đều vô tận nơi Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa không có công nghiệp, theo nghĩa này thì Người không có. Người có những đặc tính, những nhân đức thuộc về của riêng Người. Người là Đấng: Toàn thiện, vô biên, toàn năng. Nhưng để gọi là có công nghiệp thì phải có sự gắng sức để hoàn thành một cái gì ở bên trên bản tính tự nhiên của chúng ta. Ví dụ ăn không phải là một công nghiệp, nhưng việc đó có thể trở nên một công nghiệp khi ăn cách tằn tiện, làm một hy sinh để giúp cho những
459
người nghèo những cái chúng ta đã tiết kiệm được; ở lặng không phải là một công nghiệp, nhưng nó trở nên một công nghiệp khi người ta ở lặng để không đáp trả một lời xúc phạm, v.v.
Bây giờ con hiểu là Thiên Chúa không thể ép buộc chính mình Người vì Người vẫn toàn thiện, vô biên rồi. Nhưng Người-ThiênChúa có thể tự ép buộc chính mình bằng cách hạ bản tính Thiên Chúa vô biên của Người tới cái giới hạn của loài người, trong khi toàn thắng bản tính loài người ở nơi Người, một bản tính không phải là vắng bóng xa xôi hay chỉ tượng trưng, mà là thực sự với tất cả các giác quan và tình cảm, với tất cả những khả năng để chịu đau khổ và chết với ý muốn tự do của Người.
Chả ai thích chết cả, nhất là khi nó đau đớn, ở tuổi trẻ, và chết cách oan uổng. Không ai thích nó, nhưng mọi người đều phải chết. Vậy người ta phải nhìn cái chết với sự bình tĩnh như khi thấy sự kết thúc của tất cả những gì có sự sống. Vậy Thầy ép buộc nhân tính của Thầy yêu cái chết, và Thầy đã chọn đời sống để có thể chết cho nhân loại. Qủa vậy, với tư cách là Người-Thiên-Chúa, Thầy tạo được những công nghiệp này, mà nếu chỉ là Thiên Chúa thì Thầy không tạo được. Và với công nghiệp này là cái vô tận, dưới hình thức mà Thầy tạo được nhờ bản tính Thiên Chúa kết hợp với bản tính nhân loại, vì những nhân đức Bác Ái, Vâng Lời, mà bởi đó, Thầy đặt mình vào các điều kiện để đáng công; nhờ vào sự mạnh mẽ, sự công chính, sự tiết độ, sự khôn ngoan và tất cả những nhân đức mà Thầy đã đặt vào trong trái tim Thầy để nó được Thiên Chúa là Cha Thầy đón nhận. Nhờ vậy Thầy có một quyền năng vô hạn, không phải chỉ như Thiên Chúa, mà còn như một người tự sát tế vì tất cả, tức là đạt tới cực điểm của Đức Ái. Chính sự hy sinh tạo ra công nghiệp. Hy sinh càng lớn thì công nghiệp càng lớn; một hy sinh hoàn toàn sẽ được một công nghiệp hoàn toàn; một hy sinh trọn vẹn sẽ được một công nghiệp trọn vẹn. Và nó được sử dụng tùy theo ý muốn thánh của kẻ hy sinh, và Chúa Cha sẽ nói với kẻ ấy: “Được như con muốn”, vì nó đã yêu Người vô hạn và yêu tha nhân vô hạn.
460
Đây, chính Thầy nói điều này với các con: một người nghèo nhất thế giới có thể trở nên giầu nhất và làm ích lợi cho một số vô kể các anh em nếu nó biết yêu đến hy sinh. Thầy nói với các con: cho dù các con không có lấy một miếng bánh, một ly nước, một manh áo, các con cũng luôn luôn có thể làm việc lành. Bằng cách nào? Bằng cách cầu nguyện và chịu đau khổ cho anh em. Làm việc lành cho ai? Cho hết mọi người. Theo phương cách nào? Bằng hàng ngàn phương cách hoàn toàn thánh thiện, vì nếu các con biết yêu, các con sẽ biết làm giống như Thiên Chúa làm: hành động, giảng dạy, tha thứ, cai trị, và nữa: cứu chuộc, giống như Người-ThiênChúa.
- Ôi! Chúa ơi, xin ban cho chúng con tình bác ái này! - Gioan năn nỉ.
- Thiên Chúa ban nó cho các con, vì Người đã ban chính mình Người cho các con. Nhưng các con phải nhận lấy nó và thực hành nó càng lúc càng trọn vẹn hơn. Không một biến cố nào được chia lìa các con khỏi Đức Ái. Từ các biến cố vật chất tới tinh thần, tất cả phải được làm với Đức Ái và vì Đức Ái. Hãy thánh hóa các hành động của các con, ngày giờ của các con. Hãy nêm muối vào các kinh nguyện của các con, hãy để ánh sáng vào các sinh hoạt của các con. Ánh sáng, hương vị, sự thánh hóa, chính là Đức Ái. Không có nó, mọi nghi thức sẽ không có giá trị, các lời cầu nguyện sẽ vô ích, các của lễ thành giả dối. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng một nụ cười mà một người nghèo làm để chào các con như anh em thì có giá trị hơn một túi tiền mà một người nào đó có thể quăng vào chân các con với mục đích cho người ta thấy. Hãy biết yêu, và Thiên Chúa sẽ luôn luôn ở với các con.
- Lạy Chúa, xin dạy chúng con yêu như vậy.
- Thầy đã dạy các con suốt hai năm nay rồi. Hãy làm những điều các con thấy Thầy làm, và các con sẽ ở trong Đức Ái và Đức Ái ở trong các con. Ở bên trên các con sẽ có con dấu, có dầu thánh, có triều thiên, để làm cho người ta nhận ra các con là thừa tác viên của Thiên-Chúa-Đức-Ái.
461
Bây giờ các con hãy nghỉ ngơi tại nơi có bóng mát này. Nó có cỏ rậm và cao, cũng có các cây to làm dịu sức nóng. Chúng ta sẽ tiếp tục đi vào buổi chiều...
137* GIÊSU TẠI TIBÊRIAT
Giêsu với các người của Ngài tới Tibêriat vào một buổi sáng đang chuyển bão. Người tới đó theo một lộ trình ngắn bằng thuyền từ Tarichée tới Tibêriat. Các chiếc thuyền nhào lộn rất mạnh trên mặt hồ nước động mầu xám. Bầu trời cũng xám đầy mây trôi, không báo tin một điềm tốt nào cả.
Phêrô nghiên cứu bầu trời và cái hồ, rồi ông ra lệnh cho các cậu thủy thủ nhỏ để thuyền vào nơi an toàn: “Một lát nữa là các cậu sẽ được nghe nhạc. Tôi sẽ không còn là Simon dân chài nếu một lúc nữa mưa và sóng trên hồ không gây thiệt hại nào. Không còn ai trên hồ nhỉ ?” Ông tự hỏi khi quan sát mặt nước dao động của biển Galilê. Ông thấy nó vắng tanh, chỉ có sóng tới lui càng lúc càng mạnh dưới tấm màn trời càng lúc càng đe dọa. Ông tự yên ủi khi thấy nó trống không, khi nghĩ đến nó sẽ không gây thiệt hại nhân mạng, và ông hài lòng chạy theo Thầy. Người tiến bước dưới những cơn gió mạnh tới nỗi họ không sao bước được trong những đám mây bụi, với các y phục đập phành phạch bởi gió lốc.
Tại Tibêriat, trong phần này của Tibêriat, dân chúng là đám bình dân, các gia đình chài lưới hay thủ công nghiệp, làm những việc thuộc về chài lưới. Có rất nhiều người qua lại để đem vào trong nhà những thứ mà mưa bão có thể làm hư hỏng. Nhiều người chạy, khuôn vác lưới, mái chèo, của những chiếc thuyền đã được đặt vào nơi khuất. Những người khác thì đang lôi vào trong nhà những đồ dùng để làm việc, trong khi gió rít, từng đám mây bụi tung lên, cửa rả đập rình rình. Tại miền Tibêriat khác, miền phía bắc, khu vực của các lâu đài trải ra dọc theo bờ hồ, các vườn cây bồn cỏ đẹp đẽ mà người ta nhìn thấy từ trên mặt hồ, còn đang ngủ cách biếng
462
nhác. Chỉ có các đầy tớ hay nô lệ, tùy theo căn nhà thuộc về người Israel hay người Rôma, lăng xăng tháo các màn gió trên sân thượng, hoặc kéo vào nhà các du thuyền hay các bàn ghế rải rác trong vườn.
Giêsu đi về phía này. Người bảo Simon Zêlote và anh họ Juđa: “Hãy đến hỏi người gác cổng của Jeanne Chouza xem có ai trong chúng ta tới hỏi về chúng ta không. Thầy chờ ở đây”.
- Vậy còn Jeanne?
- Sau đó chúng ta sẽ gặp bà. Hãy đi làm như Thầy nói.
Hai người đi lẹ, và trong khi những người khác cũng chờ, thì Giêsu sai họ đi chỗ nọ chỗ kia để kiếm lương thực cho họ và cho các phụ nữ, “vì không chính đáng khi để cho gia đình người môn đệ phải chịu phí tổn”, Giêsu nói, và Người ở lại một mình, đứng tựa lưng vào tường của một khu vườn mà từ đó vang ra những tiếng động như phong ba, vì gió đập rất mạnh vào cây cối.
Giêsu thu mình lại, Người vơ gọn và kẹp chặt y phục bên trong, còn áo khoác thì Người đội lên đầu làm nón giữ cho tóc khỏi bay vào mắt. Như vậy, một nửa khuôn mặt được che cho khỏi bụi bởi áo khoác. Tựa lưng vào tường tại chỗ hầu như ở góc con phố chính rất đẹp, dẫn từ bờ hồ về trung tâm thành phố, Người có vẻ như một người hành khất chờ của bố thí. Có vài người qua lại nhìn Người, nhưng vì Người không nói gì, không xin gì, chỉ đứng cúi đầu như vậy, nên không ai dừng lại để cho hay hỏi Người điều gì. Trong lúc đó, cơn bão đáng ngại và tiếng động từ hồ nghe mạnh hơn, làm đầy cả thành phố bằng tiếng gào thét của nó.
Một người đàn ông cao lớn tiến tới, cúi gù xuống để chống lại gió, hoàn toàn bao bọc trong áo khoác mà tay ông giữ chặt lấy ở cổ. Ông đến trên con đường từ đất liền dẫn ra bờ hồ. Để tránh một đám lừa của các người trồng rau, sau khi đã bỏ rau tại các chợ, đang trở về nhà họ, ông ngẩng đầu lên và nhìn thấy Giêsu (tôi không nhìn ra rằng người này là Judas Kêriot).
- Ôi! Thầy! - Ông nói từ bên kia hàng lừa. “Con đến ngay nhà Jeanne để tìm Thầy. Con đã đi Caphanaum để kiếm Thầy, nhưng...”
463
Con lừa sau cùng đã đi qua, Judas vội vã đến với Thầy trong khi tiếp tục bài hùng biện của ông: “Nhưng không có ai ở Caphanaum cả. Con đã chờ Thầy nhiều ngày, rồi con đến đây, và mỗi ngày con đều tới nhà Giuse và nhà Jeanne để tìm Thầy...”
Giêsu nhìn ông bằng cái nhìn xuyên thấu của Người, và ông ta ngừng lời. Người chỉ nói: “Bình an cho con”.
- Đúng vậy, con cả đến không chào Thầy! Bình an cho Thầy. Nhưng Thầy thì Thầy luôn luôn có bình an.
- Còn con thì không?
- Thưa Thầy, con là một người.
- Người ngay chính thì có bình an. Chỉ kẻ có tội mới bị xao xuyến. Con có vậy không?
- Con?... Không, không, thưa Thầy. Ít nhất... chắc chắn, để nói sự thật, ở xa Thầy không làm con sung sướng... Nhưng chưa phải là không có bình an. Chính là sự nuối tiếc Thầy, vì những cảm tình mà con có đối với Thầy... Nhưng bình an là chuyện khác, phải không?...
- Đúng. Đó là chuyện khác. Những sự xa cách không thể đụng tới bình an của tâm hồn, nếu con tim của kẻ bị xa cách không làm những điều mà lương tâm của nó chỉ cho nó là làm điều đó có thể gây đau lòng cho người nó yêu, nếu người đó biết.
- Nhưng những người vắng mặt thì đâu có biết... Ít nhất phải có ai loan báo.
Giêsu nhìn ông và nín lặng.
- Thầy có một mình à? - Judas hỏi để tìm cách xoay câu chuyện qua đề tài tầm thường hơn.
- Thầy chờ những người mà Thầy đã sai đến nhà Jeanne để hỏi xem mẹ Thầy từ Nazarét có đến không.
- Mẹ Thầy à? Thầy bảo mẹ Thầy đến đây à?
- Ờ. Thầy sẽ ở lại với bà tại Caphanaum trong suốt tuần trăng, để đi thuyền tới các làng ở ven hồ, nhưng mỗi ngày đều trở về Caphanaum. Chắc chắn ở đó có rất nhiều môn đệ.
- Vâng... rất nhiều... - Judas đã hết lẻo mép, và ông suy nghĩ.
- Con không có gì để nói với Thầy à Judas? Chúng ta chỉ có hai
464
người với nhau... Trong thời gian xa cách, không có gì xảy đến cho con sao? Không có sự kiện nào mà trong đó con cảm thấy cần lời Giêsu của con sao? - Giêsu nói rất êm đềm, như để giúp cho người môn đệ thú tội, bằng cách làm cho ông cảm thấy tình yêu thương xót của Người.
- Còn Thầy, Thầy không biết cái gì ở trong con nó hỏi tới lời Thầy sao? Nếu Thầy biết thì hãy nói. Thực sự con không biết cái gì ở trong con đáng được lời này. Thật là nặng nề cho người phải nhớ lại các tội lỗi và khuyết điểm của nó và phải thú với một người khác.
- Thầy, người đang nói với con, Thầy không phải là một người khác, nhưng...
- Không. Thầy là Thiên Chúa, con biết. Nhưng chính vì vậy nên chả cần con phải nói. Thầy, Thầy biết mà!...
- Thầy không phải là một người khác, Thầy đã nói. Nhưng Thầy là người bạn tình nghĩa nhất của con. Thầy không nói với con rằng Thầy là Thầy con, một người bậc trên, nhưng Thầy nói với con: Người Bạn.
- Thì vẫn luôn luôn vậy thôi. Vẫn là phiền hà khi phải tìm những điều đã làm trong qúa khứ mà sự thú nhận nó có thể gây ra sự khiển trách. Nhưng còn hơn là sự khiển trách, chính sự giảm sút kính trọng của người bạn là cái làm con buồn...
- Ở Nazarét, vào ngày Sabát cuối cùng mà Thầy ở đó, Simon Phêrô, do vô ý, đã nói với một người bạn một điều mà ông phải nín lặng. Đó không phải là cố ý không vâng lời, đó không phải là một lời dèm pha, đó không phải là điều khả dĩ có thể làm hại cho tha nhân. Simon Phêrô đã nói ra điều đó với một con tim ngay thẳng, và nói với một người đứng đắn. Người sau cùng này thấy mình biết được một điều bí mật mà cả ông, cả Phêrô đều không muốn, đã thề rằng ông sẽ không nhắc lại điều bí mật với người khác. Như vậy Phêrô có thể an lòng... Nhưng ông chỉ có thể an lòng sau khi ông đã thú với Thầy lầm lỗi của ông, và phải thú ngay lập tức... Simon tội nghiệp! Ông gọi đó là một tội! Nhưng nếu trong con tim của các
465
môn đệ Thầy chỉ có những tội như vậy, và có từng ấy, từng ấy khiêm nhường, từng ấy tin tưởng, từng ấy tình yêu như Phêrô, thì ôi! Thầy phải công bố Thầy là thầy của một nhóm thánh!...
- Và như vậy Thầy muốn nói với con rằng Phêrô thánh, còn con thì không. Thực sự thì con không phải ông thánh. Vậy hãy đuổi con đi...
- Con không khiêm nhường, Judas ạ. Sự kiêu căng làm con hư hỏng. Và con chưa biết Thầy... - Giêsu kết thúc với nỗi buồn mênh mông.
Judas cảm nhận được sự đau đớn này, và ông thì thầm: “Thầy tha cho con!...”
- Luôn luôn. Nhưng hãy tốt. Con ơi! Hãy tốt! Tại sao con muốn làm hại cho chính mình con?
Judas có nước mắt trên mi, tôi không biết nước mắt thật hay giả, và ông nép vào cánh tay Giêsu và khóc trên vai Người. Giêsu vuốt tóc ông và thì thầm: “Judas tội nghiệp! Tội nghiệp! Judas tội nghiệp! Nó đi tìm bình an của nó và tìm một người có thể hiểu nó tại những nơi nó không thể tìm thấy...”
- Vâng. Đúng vậy. Thầy có lý. Bình an là ở đây, trong cánh tay Thầy... Con là kẻ khốn nạn... Chỉ mình Thầy hiểu con và yêu con... Một mình Thầy... Con là thằng ngu... Xin Thầy tha cho con.
- Ờ. Hãy tốt. Hãy khiêm nhường. Nếu con ngã, hãy đến với Thầy và Thầy sẽ nâng con dậy. Nếu con bị cám dỗ, hãy chạy đến với Thầy, Thầy sẽ bảo vệ con khỏi chính mình con, khỏi những người ghét con, khỏi tất cả. Nhưng con đứng thẳng lên đi. Những người khác đang tới...
- Một cái hôn, Thầy ơi!... Một cái hôn...
Giêsu hôn ông và Judas ngay ngắn lại... Đúng. Nhưng tôi thấy ông không hề thú lỗi của ông.
- Chúng con đã hơi chậm vì Jeanne đã thức dậy nên người gác cổng muốn báo cho bà. Nội trong ngày, bà sẽ tới nhà Giuse để tôn kính Thầy - Thađê nói.
- Nhà Giuse à? Nếu lượng nước mà bầu trời hứa hẹn tới thì
466
những con đường này sẽ trở thành đầm lầy. Chắc chắn Jeanne sẽ không tới cái ổ chuột đó, và bằng những con đường này. Tốt hơn là chúng ta tới nhà bà - Judas nói. Ông đã lấy lại được sự chắc chắn của ông.
Giêsu không trả lời ông, nhưng Người hỏi ông anh họ: “Có ai trong chúng ta tới nhà Jeanne tìm chúng ta không?”
- Chưa có ai cả.
- Tốt. Chúng ta tới nhà Giuse. Những người khác sẽ đến với chúng ta ở đó...
- Nếu con chắc chắn là mẹ chúng ta đang ở trên đường thì con sẽ đi gặp họ - Juđa Alphê nói.
- Điều đó tốt. Nhưng có rất nhiều đường để tới Tibêriat, và có lẽ các bà không đi con đường chính.
- Đúng đó Giêsu... Chúng ta đi...
Họ đi mau lẹ giữa những lằn chớp vạch trên bầu trời tái xám và những tiếng gầm đầu tiên của sấm vang lên ầm ỹ trong khe lũng của các ngọn đồi hầu như bao quanh hồ hoàn toàn. Họ vào căn nhà nghèo của Giuse mà trong bão gió, nó càng có vẻ nghèo nàn và tối tăm hơn. Về ánh sáng, chỉ có khuôn mặt của người môn đệ và các người nhà ông là rạng rỡ vì có Thầy ở trong nhà họ.
- Nhưng Chúa ơi! Thầy không may rồi - Người chèo đò xin lỗi - con không thể đi đánh cá trên hồ nên... Con chỉ có rau cỏ...
- Và qủa tim tốt của con... Nhưng Thầy đã nghĩ tới đó rồi. Các bạn sắp tới với tất cả những thứ cần. Đừng mệt thân bà ơi... Chúng ta có thể ngồi ngay dưới đất. Nó qúa sạch. Bà là một phụ nữ qủa cảm, Thầy biết. Những thứ tự lớp lang Thầy thấy ở đây chứng tỏ điều đó.
- Ôi! Bà xã của con! Thực là một người đàn bà mạnh! Niềm vui của con, niềm vui của chúng con - người chèo đò tuyên bố, ngây ngất vì lời khen của Chúa khi Người ngồi bên cạnh cái lò lửa đã tắt, hầu như ngồi trên đất, ẵm trên đầu gối Người một đứa nhỏ, nó cứ bỡ ngỡ nhìn Người.
Ngay vào lúc có những giọt mưa đầu tiên thì những người đi
467
mua sắm về. Họ giũ áo khoác và và xăng đan của họ tại ngưỡng cửa để không mang nước và bùn vào.
Thật là một tận thế của các sấm, chớp, mưa và gió. Tiếng gầm của cái hồ được phụ họa bởi ánh chớp và tiếng gió rít.
- Chào! Mùa hè rửa lông và tắt lò... Sau màn này thì sẽ dễ chịu hơn... miễn là nó không làm hại các vườn nho. Tôi có thể lên trên kia để nhìn cái hồ không? Tôi muốn coi nó có thái độ nào...
- Lên đi! Lên đi! Nhà cửa thuộc về qúi vị - Người môn đệ trả lời cho Phêrô.
Và Phêrô, với chỉ một cái áo, sung sướng đi ra để tận hưởng mưa bão. Ông leo lên cái cầu thang ở bên ngoài và ở lại trên sân thượng để giải nhiệt, và ông nói ý kiến của ông cho những người trong nhà, làm như ông đang ở trên mui thuyền để điều khiển cách vận hành.
Những người khác ngồi đó đây trong nhà bếp, chỉ hơi nhìn thấy ông, vì cửa khép hờ để tránh mưa, và do khe mở, những luồng sáng xanh chói mắt gián đoạn và ngắn ngủi của các tia chớp đi vào...
Phêrô vào, ướt như bị té xuống hồ, ông tuyên bố: “Bây giờ nó đang ở trên đầu chúng ta. Nó đang di chuyển về phía Samari. Nó sẽ thấm nước ở đó”.
- Nó đã thấm nước anh rồi! Anh chảy như cái phông-ten - Tôma nhận xét.
- Đúng. Nhưng tôi rất dễ chịu sau sức nóng như vầy.
- Vào đi. Anh ướt sũng. Anh sẽ đau nếu cứ đứng ngoài cửa - Batôlômêo khuyên.
- Không! Tôi giống như gỗ được thử dưới nước... Tôi đã bắt đầu dìm nước từ trước khi tôi biết gọi “ba”. A! Thật là dễ thở!... Nhưng... đường phố... là một con sông... Nếu các anh nhìn thấy cái hồ! Nó có đủ mầu và nó sôi như nồi cháo hầm. Người ta cả đến không biết các ngọn sóng đi về hướng nào. Chúng sôi tại chỗ... Phải có như vậy, nhưng...
- Đúng, phải có như vậy, nếu không thì các bức tường không nguội được nữa, vì chúng bị mặt trời đốt. Vườn nho của tôi, các lá
468
đã quăn lại và đầy bụi... Tôi đã tưới nó ở gốc... nhưng... một tí nước thì là gì trong khi các chỗ khác đều ở trong lửa?- Giuse nói.
- Như vậy sẽ xấu nhiều hơn là tốt đó bạn - Batôlômêo tuyên bố. “Cây cối cần nước của Trời, vì nó uống cả bằng lá nữa, hen? Có vẻ như không đúng, nhưng là vậy đó. Rễ! Rễ! Đúng rồi. Nhưng lá cũng là một cái gì, và nó có các quyền lợi của nó...”
- Thầy có thấy tựa như Batôlômêo đề nghị đề tài cho một dụ ngôn thật đẹp không? - Zêlote nói để khuyến khích ông nói.
Nhưng Giêsu đang ru đứa bé vì nó sợ chớp, không nói dụ ngôn, nhưng Người đồng ý khi nói: “Còn con, con sẽ đề nghị nó thế nào?”
- Không bảo đảm đâu Thầy. Con đâu phải là Thầy...
- Hãy nói như con biết. Sẽ rất ích lợi cho các con khi giảng dạy bằng dụ ngôn. Các con hãy tập cho quen. Thầy nghe con đây Simon...
- Ôi! Thưa Thầy... con... dốt đặc... nhưng con vâng lời. Con sẽ nói như vầy: “Một người có một cây nho đẹp, nhưng vì ông không phải là chủ một vườn nho, nên ông trồng nó trong mảnh vườn nhỏ của ông và cho nó leo lên sân thượng, để nó cho bóng mát và các chùm trái, và ông săn sóc cây nho rất chu đáo. Nhưng vì mọc lên giữa các căn nhà, gần bờ đường, và do đó khói nhà bếp và khói lò cùng với bụi đường bay lên làm hư cây nho. Nhưng bao lâu các trận mưa của tháng Nisan còn rơi thì các lá nho được rửa sạch bụi, và nó được hưởng mặt trời cũng như không khí, vì không còn lớp dơ ở trên mặt ngăn cản nó nữa. Nhưng khi mùa hè đến, nước từ trời không rơi xuống nữa, mà khói, bụi, cứt chim bám thành một lớp dầy trên lá, trong khi mặt trời qúa nóng làm nó khô. Ông chủ cây nho tưới ở gốc, xới đất, nhờ đó cây nho không chết, nhưng tăng trưởng cách khó khăn, vì nước do rễ hấp thu chỉ lên được ở bên trong, nên các lá tội nghiệp không lợi dụng được. Trái lại, đất khô được tưới qúa ít, chỉ hơi ướt, nó làm cho men và mốc bốc lên làm hư lá, làm cho nó có những đốm độc hại. Sau cùng, có một trận mưa rất lớn. Nước từ trời trút xuống lá, chảy theo cành, theo chùm, theo thân, làm tắt sức nóng của các bức tường, của đất. Một khi trận mưa bão qua đi, ông chủ thấy cây nho được rửa sạch, sống vui tươi,
469
hoàn toàn sung sướng dưới bầu trời quang đãng”. Đó là dụ ngôn.
- Hay. Nhưng áp dụng vào người ta?...
- Thưa Thầy, Thầy làm điều đó.
- Không. Con làm. Chúng ta giữa đám anh em với nhau, con đừng sợ bỉ mặt.
- Sự kiện bỉ mặt thì con không sợ như một cái gì nặng nề. Trái lại, con thích nó, vì nó giữ con ở khiêm nhường. Nhưng vì con không muốn nói những điều không chính xác...
- Thầy sẽ sửa nó cho con.
- Ôi, vậy đây, con sẽ nói: Đó là điều xảy đến cho người không sống biệt lập trong khu vườn của Thiên Chúa, nhưng lại sống ở giữa khói và bụi của những thứ thế gian. Chúng sẽ từ từ phủ lên họ một lớp cáu hầu như họ không nhận thấy, nhưng nó làm cho thần trí họ trở nên trơ trơ dưới lớp nhân tính dầy mà gió nhẹ của Thiên Chúa và mặt trời của sự khôn ngoan không làm ích lợi gì cho họ, và họ tìm cách hủy bỏ nó đi một cách vô vọng với một chút nước họ kín trong những việc thực hành mà họ đặt vào đấy bao nhiêu nhân tính tại phần thấp, nên phần cao không được hưởng gì. Khốn cho người không tự thanh tẩy bằng nước của Trời là thứ nước làm sạch sự dơ bẩn, dập tắt tính hăng nồng của các đam mê là cái nuôi toàn bộ cái tôi. Con nói rồi đó.
- Con nói đúng. Nhưng Thầy cũng nói về sự khác nhau: một cái cây là một vật không có ý muốn tự do, nó cắm vào trong đất, bởi vậy không được tự do để đi tìm cái gì hữu ích, và chạy trốn những gì có hại cho nó. Còn con người thì có thể đi tìm nước của Trời, chạy trốn những bụi bặm, khói, và những sức nóng của xác thịt, thế gian, ma qủi. Như vậy điều giảng dạy sẽ hoàn bị hơn.
- Cám ơn Thầy. Con sẽ nhớ điều đó - Zêlote nói.
- Người ta không thể đơn độc... Chúng ta sống trong thế giới... bởi vậy... - Judas Kêriot nói.
- Tại sao lại có cái bởi vậy này? Anh muốn nói là Simon đã nói như thằng ngu à? - Juđa Alphê hỏi.
- Tôi không nói vậy. Tôi nói rằng chúng ta không thể sống đơn
470
độc... chúng ta bị bó buộc bao phủ bằng những thứ của thế gian.
- Thầy và Simon đã nói là chúng ta phải tìm nước của Trời để giữ mình cho sạch, mặc dầu thế gian bao quanh chúng ta - Giacôbê Alphê nói.
- Được, nhưng nước của Trời có luôn luôn sẵn sàng cho chúng ta để chúng ta rửa sạch không?
- Có chứ! - Gioan nói qủa quyết.
- Có? Vậy tìm nó ở đâu?
- Trong tình yêu.
- Tình yêu, đó là lửa, nó sẽ đốt cháy anh hơn.
- Đó là lửa, đúng. Nhưng đó cũng là nước thanh tẩy, vì nó lấy đi những gì thuộc về trái đất, và nó cho tất cả những thứ thuộc về Trời.
- ... Hành động mà tôi không hiểu: nó lấy đi, nó mang tới...
- Đúng. Tôi đâu có điên. Tôi nói là nó lấy đi cho anh những gì là nhân tính, và nó cho anh những gì đến từ Thiên Chúa, và bởi vậy nó thuộc về Thiên Chúa. Và một sự thuộc về Thiên Chúa thì chỉ có thể nuôi dưỡng và thánh hóa. Ngày qua ngày, tình yêu sẽ tẩy rửa anh khỏi những gì mà thế gian đã làm cho anh.
Judas sắp sửa đáp trả thì đứa bé ngồi trong lòng Giêsu nói: “Một dụ ngôn nữa đi, dụ ngôn đẹp, đẹp... cho con...”
- Về cái gì con? - Giêsu hỏi cách chiều chuộng.
Đứa bé nhìn chung quanh nó, rồi nó tìm ra, nó chỉ ngón tay vào mẹ nó và nói: “Về bà mẹ”.
- Bà mẹ là cái gì giống như Thiên Chúa là cho tâm hồn và thân xác chúng ta. Mẹ làm gì cho con? Mẹ canh chừng con, mẹ săn sóc con, mẹ giáo dục con, mẹ yêu con, mẹ chú ý để con không bị đau, mẹ bảo vệ con giống như các con bồ câu làm cho con nhỏ của nó dưới cánh tình yêu của nó. Và bà mẹ phải được con vâng lời, yêu mến, vì tất cả những gì bà làm, bà đều làm vì sự lành cho chúng ta. Thiên Chúa nhân từ cũng vậy, và còn rất hoàn thiện hơn một bà mẹ hoàn hảo nhất. Người giữ các con cái Người dưới cánh tình yêu của Người, bảo vệ chúng, giáo dục chúng, giúp chúng, nghĩ tới chúng
471
ngày đêm. Thiên Chúa nhân từ như vậy và còn hơn bà mẹ rất nhiều. Qủa vậy, bà mẹ là tình yêu lớn nhất của trái đất, nhưng Thiên Chúa là tình yêu lớn nhất và vĩnh cửu của Trời và đất. Người phải được vâng lời và yêu mến, vì tất cả những gì Người làm đều là làm vì hạnh phúc cho chúng ta...
- Kể cả chớp? - Đứa bé ngắt lời, vì nó rất sợ chớp.
- Cả chúng nữa.
- Tại sao?
- Vì nó làm sạch trời, không khí và...
- Và sau đó sẽ có cầu vồng!... - Phêrô kêu lên. Ông đang đứng nửa trong nửa ngoài để nghe và nín lặng. Rồi ông thêm: “Lại đây đi con chim cu, ông sẽ chỉ cho con, coi kìa, đẹp chừng nào!...”
Qủa vậy, mặt trăng đã sáng trên trời, giông bão đã qua, và một cái cầu vồng lú lên ở bờ phía Ippo, quàng cái băng hình cung của nó bên trên hồ để biến mất ở phía bên kia các ngọn núi đàng sau Magđala.
Mọi người đều chạy ra cửa. Nhưng để nhìn thấy hồ thì phải cởi dép, vì cái sân giống như một hồ nước đục vàng, chảy chậm chạp. Như để ghi nhớ cơn bão thì chỉ còn lại làn nước đục vàng trên hồ với các con sóng đang dịu lại. Nhưng bầu trời thanh quang, không khí nhẹ nhàng, các lá cây đã lấy lại mầu của nó.
Tibêriat lại sinh hoạt... Một lát sau, người ta thấy Jeanne và Jonatha tới từ một con đường còn nước và bùn. Bà ngửa mặt lên chào Thầy vì Người ở trên sân thượng, và bà chạy vội lên để phủ phục, sung sướng... Các tông đồ nói chuyện với nhau. Judas ở một mình tại giữa đoạn đường, một bên là Giêsu và Jeanne, một bên là các tông đồ khác. Ông đứng một mình ở đó, rất suy tư. Tôi cá là ông hết sức chăm chú nghe các lời của Jeanne, người mà tư tưởng về những gì có liên can tới Judas còn là một bí mật, vì bà chỉ chào chung các tông đồ bằng một lời duy nhất: “Bình an cho các anh”.
Nhưng Jeanne chỉ nói về các đứa trẻ và về việc Chouza cho phép bà đi Caphanaum bằng thuyền trong khi Thầy ở đó. Vậy là sự nghi ngờ của Judas được dẹp yên, và ông lại với các bạn ông...
472
Với bùn dính ở gấu áo, nhưng khô ráo ở những chỗ còn lại, đây, đang tiến tới: Đức Thánh Trinh Nữ Maria cùng với Maria Alphê và năm người đã đến tìm họ. Nụ cười của Maria khi mẹ đi lên chiếc cầu thang ngắn còn tuyệt diệu hơn cái cầu vồng được vẽ trên trời.
- Mẹ Thầy! - Tôma loan báo.
Giêsu ra gặp mẹ và mọi người khác cũng cùng với Người. Họ mừng vì các bà không bị cái phiền phức nào hơn là một tí bùn dính ở gấu áo.
- Chúng tôi đã dừng lại ngay từ những giọt mưa đầu tiên tại nhà một người trồng rau - Mathêu giải thích, và ông hỏi: “Các anh chờ lâu chưa?”
- Chưa. Chúng tôi đến vào lúc rạng đông.
- Chúng tôi đã chậm lại do vì một người khổ sở... - Andrê nói.
- Tốt. Bây giờ vì các anh đã ở đây, và trời đã đẹp trở lại, tôi có ý kiến là nên đi Caphanaum chiều nay - Phêrô nói.
Maria là người luôn luôn ưng thuận, nhưng lần này lại nói: “Không được Simon ơi! Chúng ta không thể đi nếu trước tiên... Con ơi, một người mẹ đã cậy nhờ mẹ xin để con, một mình con là người có thể làm: Con hoán cải tâm hồn của đứa con duy nhất của bà. Mẹ xin con nghe mẹ, bởi vì mẹ đã hứa... Hãy tha cho nó... Sự tha thứ của con...”
- Người đã tha rồi, Maria ạ. Con đã nói chuyện với Thầy - Iscariot ngắt lời, vì nghĩ rằng Maria nói về ông.
- Judas Simon, mẹ không nói về con. Mẹ nói về Esther Lêvi người Nazarét. Một người mẹ bị giết bởi thái độ của con bà. Giêsu ơi, bà chết trong đêm con ra đi. Những tiếng bà kêu lên tới con, không phải là cho bà - bà mẹ khốn khổ, tử đạo vì một đứa con đê hèn - mà là cho con trai bà... Vì chúng ta, những người mẹ của các con là những đứa con, không phải chúng ta lo lắng cho chúng ta... Bà muốn cứu nó, thằng Samuel của bà... Nhưng bây giờ, bây giờ bà đã chết, Samuel chìm trong ân hận, nó như điên và tuyệt đối không nghe lý lẽ gì cả...Nhưng con, con ơi, con có thể cứu trí khôn nó và tâm hồn nó...
473
- Nó có sám hối không?
- Nó sám hối thế nào được nếu nó thất vọng?
- Qủa thật: Sự kiện đã giết mẹ bằng cách làm cho bà đau đớn liên tục, có thể làm cho nó thất vọng. Người ta không thể vi phạm điều thứ nhất trong các giới răn tình yêu đối với tha nhân mà không bị phạt. Mẹ ơi, làm sao mẹ lại muốn con tha thứ, và muốn Thiên Chúa ban bình an cho kẻ giết mẹ mình mà không sám hối ?
- Con mẹ ơi! Người mẹ này xin bình an cho đời sau... Bà rất tốt... Và bà đã đau khổ biết bao...
- Bà sẽ có bình an cho bà.
- Không, Giêsu ơi! Tâm hồn một bà mẹ không thể bình an nếu bà thấy con bà bị mất Thiên Chúa.
- Nó bị mất là chính đáng.
- Đúng, con ơi, đúng. Nhưng Esther đáng thương... Lời sau cùng của bà là lời cầu nguyện cho con bà... và bà xin mẹ nói vậy với con. Giêsu ơi! Esther, trong suốt đời bà, không bao giờ được vui, con biết đó. Hãy cho bà cái vui này. Bây giờ bà đã chết, hãy ban nó cho linh hồn bà, linh hồn đau khổ vì con của bà.
- Mẹ ơi, con đã cố gắng hoán cải Samuel trong thời gian con lưu lại Nazarét, nhưng vô ích. Tình yêu đã tắt hẳn trong nó...
- Mẹ biết. Nhưng Esther dâng hiến sự tha thứ của bà, những đau khổ của bà, để tình yêu tái sinh nơi Samuel. Và ai biết? Sự dằn vặt nó đang chịu bây giờ chả có thể là một tình yêu tái sinh sao? Một tình yêu đau đớn, và ai có thể nói là một tình yêu vô ích, vì người mẹ không hưởng nó. Nhưng Con, nhưng mẹ, chúng ta biết rằng đức bác ái của những người chết rất lưu ý và rất gần gũi. Chúng ta biết điều đó, mẹ thì bởi đức tin, Con thì một cách trực tiếp. Những người chết đâu có hết tha thiết với chúng ta, và đâu phải họ không biết những gì xảy đến cho những người thân yêu mà họ đã rời bỏ... Và Esther còn muốn được hưởng tình yêu chậm trễ này của đứa con bất hiếu, bây giờ đang điên đảo vì hối hận. Ôi! Giêsu của mẹ! Mẹ biết người đàn ông này gây ra cho con sự ghê tởm vì những tội tầy đình của nó. Một đứa con ghét mẹ! Một quái vật đối với con là kẻ chỉ có toàn là tình yêu đối với mẹ của con. Nhưng chính vì con chỉ
474
hoàn toàn là tình yêu đối với mẹ, thì con hãy nghe mẹ: Chúng ta hãy cùng nhau trở về Nazarét ngay. Đường dài không nặng nhọc gì đối với mẹ. Không có gì là nặng nhọc đối với mẹ, nếu điều đó dùng để cứu một linh hồn...
- Được rồi, mẹ ơi, mẹ đã thắng... Judas Simon, con hãy đi cùng với Giuse tới Nazarét, và con sẽ dẫn Samuel tới Caphanaum cho Thầy.
- Con à? Tại sao lại con?
- Bởi vì con không bị mệt. Những người khác thì mệt, vì họ đã đi bộ biết bao trong khi con nghỉ ngơi...
- Con cũng đã đi bộ. Con đã đi Nazarét để tìm Thầy. Mẹ Thầy có thể nói điều đó.
- Các bạn con đã đi Nazarét hết mọi ngày Sabát, và bây giờ họ vừa trở về sau một cuộc hành trình dài. Hãy đi và đừng tranh luận...
- Tại vì... Ở Nazarét họ không yêu con... Tại sao Thầy lại sai ngay chính con?
- Thầy cũng vậy, họ không yêu Thầy, nhưng Thầy vẫn đi Nazarét. Không cần thiết phải được yêu ở một nơi mới tới đó. Hãy đi, và đừng tranh luận. Thầy nhắc lại.
- Thưa Thầy... con, con sợ người điên...
- Người đó bị xao xuyến vì hối hận, nhưng không điên.
- Mẹ Thầy đã nói vậy mà...
- Và Thầy, Thầy bảo con một lần thứ ba: hãy đi và đừng tranh luận. Điều đó chỉ có thể làm ích cho con, để suy niệm về những gì có thể dẫn tới đau khổ cho một người mẹ...
- Thầy so sánh con với Samuel sao? Mẹ con là bà hoàng ở trong nhà. Con, cả đến con chả ở bên cạnh để canh chừng bà và trở nên gánh nặng cho bà vì sự can thiệp của con...
- Đó không phải là những cái làm nặng lòng cho các bà mẹ. Nhưng sức nặng kinh khủng nghiền nát các bà chính là sự thiếu tình yêu của các con họ, về cách sống bất toàn của chúng trước mặt Thiên Chúa và loài người. Đi đi. Thầy bảo con.
- Con đi. Nhưng con sẽ nói gì với người đó?
475
- Bảo nó tới Caphanaum, tại nhà Thầy.
- Nếu nó không bao giờ vâng lời, kể cả với mẹ nó, mà Thầy muốn là nó vâng lời con bây giờ là lúc nó đang thất vọng như vậy sao?
- Con chưa hiểu rằng nếu Thầy sai con đi, thì đó là dấu Thầy đã làm việc trong thần trí của Samuel, bằng cách làm cho nó ra khỏi cơn mê sảng của sự hối hận tuyệt vọng của nó sao?
- Vậy con đi. Chào Thầy, chào mẹ, chào các bạn - Và ông đi, không một tí thiện cảm nào. Trái lại, Giuse đi theo, hoàn toàn sung sướng vì được chọn vào nhiệm vụ này.
Phêrô hát lâm râm cái gì... Giêsu hỏi ông:
- Con nói gì đó Simon Jonas?
- Con hát một bài hát cổ của cái hồ.
- Bài nào?
- Đó là: “Luôn luôn như vậy: mẻ cá làm vui lòng các nông dân, nhưng dân chài không thích đi đánh cá”. Ở đây thực sự người ta thấy rằng các môn đệ ước ao chài lưới hơn là các tông đồ...
Nhiều người cười, nhưng Giêsu không cười. Người thở dài.
- Con làm Thầy buồn à? - Phêrô hỏi.
- Không. Nhưng đừng luôn luôn chỉ trích.
- Em tôi buồn vì Judas đó - Juđa Alphê nói.
- Cả anh nữa, hãy im đi, nhất là trong đáy lòng anh - Giêsu nói.
- Nhưng có thực là Samuel được phép lạ không? - Tôma hỏi vẻ tò mò và nghi ngờ.
- Thực chứ.
- Vậy đâu có cần anh ta tới Caphanaum.
- Cần chứ! Thầy không chữa tâm hồn ông hoàn toàn. Về phần ông, chính ông phải tìm sự chữa lành, tức là sự tha thứ bởi một sự thống hối thánh thiện. Nhưng Thầy làm cho ông lại biết lý luận. Bây giờ chính ông ta phải làm công việc còn lại với ý chí tự do của ông. Chúng ta xuống thôi. Chúng ta sẽ đi giữa các kẻ khiêm nhường...
- Thầy không tới nhà con sao?
- Không Jeanne ơi. Con có thể tới nhà Thầy khi con muốn. Nhưng
476
họ thì họ bị giữ lại bởi công việc của họ, nên Thầy, Thầy sẽ đến với họ.
Giêsu xuống khỏi sân thượng và ra đường, những người khác theo sau, kể cả Jeanne. Bà đã cho Jonatha trở về nhà và bà quyết định không rời Giêsu, vì Người không sẵn sàng để đến nhà bà.
Họ đi về phía những mái nhà nghèo, về vùng càng lúc càng nghèo ở ngoại ô... Và thị kiến chấm dứt như vậy.
138* GIÊSU TỚI CAPHANAUM
Tôi không biết do tình cờ hay có người báo mà Porphyrê đã ở trên cái bãi nhỏ của Caphanaum khi các chiếc ghe tới đó. Có ba ghe thay vì hai, điều đó làm tôi nghĩ rằng đã có người đi trước về Caphanaum để báo rằng ông thầy đến, và kiếm thêm một chiếc ghe cho các phụ nữ và Margziam. Và cùng với Porphyrê, có cả các con gái của Philíp và Miryam, con gái Jairô; lại cũng có bà mẹ của Gioan và Giacôbê.
Tôi quan sát Porphyrê cách riêng: bà không nghĩ gì tới những con sóng nhỏ của chiếc hồ hãy còn hơi dao động, đang đổ vào bờ trong lộ trình lộn xộn, bà lội xuống nước tới nửa ống chân, bà cúi vào trong chiếc thuyền có Margziam, bà ôm nó và nói: “Má yêu con nhiều thay cho cả ông ấy; má sẽ yêu con nhiều thay cho cả mọi người, con trai cưng!” Bà nói với vẻ rất cảm động. Và khi chiếc thuyền vừa dừng lại và những người ở trong đó đi lên đất, bà ôm ghì Margziam vào lòng, không nhường cho ai cái quyền được làm cho người thanh niên cảm thấy là cậu rất được yêu.
Rồi bà đến hợp với nhóm ở thuyền kia để tôn kính Thầy, và để có thể làm việc đó trước khi dân Caphanaum và số đông đảo môn đệ đã chờ Giêsu từ lâu ngày, tới chiếm mất Thầy và lấy mất của các nữ môn đệ niềm vui được có Người ở với họ.
Các phụ nữ vây kín chung quanh Thầy. Chỉ có các trẻ nhỏ ở
477
Caphanaum mới có thể bẻ gẫy cái vòng tròn này của các nữ môn đệ, bằng cách len mạnh cơ thể nhỏ của chúng giữa hai người đàn bà để đến gần Giêsu khi Người từ từ về nhà.
Vào giờ sáng tinh sương này, có ít người ngoài đường, phần đông các bà ra phông-ten hay ra chợ, với bầy con vây quanh, hoặc vài dân chài đang trở về, mang vác mái chèo và lưới từ thuyền lên để chuẩn bị cho buổi đánh cá chiều. Về phía các kỳ hào thì không có ai, trừ Jairô, ông chạy đến kính cẩn tôn bái Thầy. Ông mừng khi được nghe rằng Người tính ở lại vài tuần lễ để đi đến các làng lân cận quanh hồ để nói ở đó, rồi ban sáng lại trở về nghỉ ban ngày ở Caphanaum. Và chính Jairô, vì lẽ sự nể vì của dân trong vùng đối với ông, ông thành công được đi bên Giêsu trước tiên. Ông thành công nhờ việc ông kéo con gái ông ra với uy quyền của người cha. Sau ông, những người thành công lại gần Giêsu là các môn đệ có ảnh hưởng nhất, những người mà bởi những cử động tự nhiên và chính đáng, được những người khác nhường cho những chỗ đầu tiên sau các tông đồ, tức là thầy cả Gioan (trước bị cùi), Étienne, Hermas, Gioan con trai Noêmi, Nicôlai, các môn đệ mục đồng trước kia, tất cả đều hiện diện, ngoại trừ hai người đã đi Liban.
Giêsu lưu tâm tới những người khác, những người vắng mặt, và Người hỏi họ về tin tức của các bạn họ: Họ còn hăng hái không? Ôi! Rất hăng say. Họ có đang nghỉ ở trong nhà không? Không. Họ làm việc ở trong thành phố của họ và trong các làng phụ cận để có các môn đệ mới. Còn Hermastê? Hermastê đã đi dọc theo bờ biển và đang đi về thành phố của anh. Anh ta đi cùng với Giuse người Emmau. Họ muốn nói về Đấng Cứu Tinh suốt dọc bờ biển. Hai người bạn Abel và Samuel cũng kết hợp với họ để chứng tỏ điều Chúa có thể làm, vì họ, trước đây một người thì tàn tật, một người thì bị cùi.
Các câu hỏi và câu trả lời, và con đường không đủ làm cho họ mệt, và căn nhà của Tôma người Caphanaum không đủ chỗ để đón bấy nhiêu người bây giờ chèn ép nhau chung quanh Giêsu vừa trở về sau một kỳ vắng mặt qúa lâu.
Giêsu quyết định đi về miền quê để có thể ở giữa mọi người,
478
không có sự ưu tiên.
139* GIẢNG THUYẾT TẠI MIỀN
BỜ HỒ Ở CAPHANAUM
Đây là ngày Sabat, tôi nghĩ vậy, vì người ta tụ họp trong giáo đường. Nhưng cũng có thể là họ ở đây để tránh mặt trời, hoặc để được yên ổn trong nhà của Jairô. Những người hiện diện rất chú ý, mặc dầu sức nóng mà các cửa ra vào và các cửa sổ đều mở để tạo ra luồng gió cũng không làm dịu được.
Những người không thể vào trong giáo đường, để khỏi bị nướng ngoài phố bởi mặt trời, đã vào trú trong mảnh vườn nhiều bóng mát ở đàng sau giáo đường, mảnh vườn của Jairô với những chòm lá dầy của các cây ăn trái đang ở chính giữa mùa. Giêsu nói tại gần cái cửa mở ra ngoài vườn để những người ở ngoài vườn cũng như ở trong giáo đường đều nghe thấy.
Jairô ở bên cạnh Người, rất chăm chú. Các tông đồ tụ họp tại gần cửa thông ra vườn. Các nữ môn đệ, với Maria ở giữa, ngồi dưới dàn cây hầu như chạm tới mái nhà. Miryam, con gái Jairô và hai cô con gái của Philíp thì ngồi chỗ chân Maria.
Dựa vào những lời mà tôi nghe thấy, thì chắc đã có chuyện rắc rối giữa các pharisiêu quen thuộc và Giêsu, vì vậy dân tình hơi dao động. Giêsu cổ võ họ về sự bình an và tha thứ khi Người nói rằng lời của Thiên Chúa không thể thấm nhập một cách có hiệu qủa vào trong các con tim xao xuyến.
- Chúng con không thể dung thứ việc người ta phỉ báng Thầy - một người trong đám đông kêu lên.
- Hãy để Chúa Cha là Cha Thầy và Cha các con làm. Các con hãy bắt chước Thầy: khoan dung, tha thứ. Không phải do lấy phỉ báng trả lời cho phỉ báng mà người ta chinh phục được kẻ thù đâu.
- Nhưng cũng không phải bởi sự êm dịu liên tục. Thầy sẽ bị dày đạp - Iscariot kêu.
479
- Con, tông đồ của Thầy, đừng làm dịp vấp phạm do làm gương mù về sự tức giận và chỉ trích.
- Nhưng môn đệ của Thầy, ông ta có lý. Các lời của ông là đúng.
- Qủa tim đã tạo ra nó và kẻ nghe theo nó đều là không đúng. Ai muốn làm môn đệ Thầy thì phải bắt chước Thầy. Thầy khoan dung và tha thứ. Thầy khiêm nhường, êm đềm và hiếu hòa. Con cái của sự giận dữ không thể ở với Thầy, vì họ là con cái của thế gian và các đam mê của họ.
Các con không nhớ quyển thứ bốn sách các Vua sao? Trong một bài tường thuật có kể rằng Isaie nói chống lại Sennachérib là kẻ tin rằng có thể đương đầu với tất cả, và Isaie nói tiên tri rằng không gì có thể cứu ông này khỏi hình phạt của Thiên Chúa. Tiên tri so sánh ông ta với con vật mà người ta xỏ mũi và kẹp môi để chế ngự sự giận dữ của nó. Các con biết Sennachérib đã chết thế nào bởi chính tay con ông. Vì thực sự, kẻ hung dữ bị tiêu diệt bởi chính sự độc ác của nó. Nó phải chết cả thân xác và tâm hồn.
Thầy không thích sự độc ác, Thầy không thích sự kiêu căng, Thầy không thích tính hay cáu, tính tham lam, tính dâm đãng. Thầy không bao giờ nói với các con một lời hay làm một gương mẫu về các điều này. Trái lại, Thầy luôn luôn dạy các con các nhân đức đối nghịch với các đam mê xấu.
Đẹp chừng nào, lời cầu nguyện của Đavít, vua của chúng ta, khi ông trở lại sự thánh thiện bằng lòng sám hối chân thành về các lỗi lầm qúa khứ. Và sau những năm sống khôn ngoan, ông ca tụng Chúa, đầy êm đềm và nhẫn nhục vì sắc lệnh ngăn cản ông không được là kẻ xây dựng Đền Thờ mới. Chúng ta hãy cùng nhau đọc lời cầu nguyện này để ca tụng Chúa Tối Cao...
Trong khi những người đang ngồi thì đứng dậy, những người đang dựa vào tường thì bỏ chỗ tì để có thái độ trọng kính hơn, Giêsu xướng lời cầu nguyện của Đavít (I, Vua, 29, 10-19)
Rồi Giêsu lấy giọng bình thường: “Phải luôn luôn nhớ rằng mọi sự đều ở trong tay Thiên Chúa: mọi công việc, mọi chiến thắng,
480
mọi báu vật, mọi quyền bính, mọi vinh quang đều thuộc về Chúa. Chính Người chấp ban cho con người điều nọ điều kia nếu Người thấy rằng đã đến giờ để cho vì một sự lành chắc chắn. Nhưng con người không thể đòi hỏi. Đối với Đavít, đã được tha thứ, nhưng còn cần phải toàn thắng chính mình sau những lầm lỗi qúa khứ, Thiên Chúa không chấp nhận cho ông xây Đền Thờ: ‘Ngươi đã đổ máu qúa nhiều và đã làm bao chiến tranh, vậy ngươi không được xây dựng căn nhà mang danh Ta sau khi đã làm đổ biết bao máu trước mặt Ta. Ngươi sẽ sinh được một đứa con, nó sẽ là người bình an... vì vậy người ta sẽ gọi nó là người hiếu hòa... và chính nó sẽ xây dựng một ngôi nhà cho danh Ta’. Đấng Tối Cao đã phán như vậy với Đavít, tôi tớ của Người.
Cũng vậy, Thầy nói với các con, các con có muốn tại vì sự nóng giận của các con mà các con không được xây dựng trong tâm hồn các con một ngôi nhà cho Chúa là Thiên Chúa các con không? Vậy hãy để ra xa các con tất cả những tình cảm nào không phải là tình yêu. Hãy có một con tim trọn hảo như Đavít đã xin cho con ông, kẻ xây dựng Đền Thờ, để khi giữ các mệnh lệnh của Thầy và thi hành những điều Thầy dạy, các con đạt tới việc dựng lên trong các con một ngôi nhà cho Thiên Chúa các con, trong khi chờ đợi lúc các con được vào trong nhà Thầy đời đời và đầy hoan lạc.
Đưa cho Thầy một ru-lô đi Jairô. Thầy sẽ cắt nghĩa cho họ điều Thiên Chúa muốn”.
Jairô lại chỗ ông xếp các ru-lô và cầm đại một cuộn trong đống. Ông phủi bụi rồi đem cho Giêsu. Người dở ra và đọc: “Jêrêmi chương 5: Hãy ra các đường phố của Jêrusalem, hãy nhìn, hãy quan sát, hãy tìm tại các công trường một người biết thi hành sự công chính và biết tìm cách ở trung thành, và Ta, Ta sẽ dùng Tình Thương đối với nó...” (Chúa bảo tôi: “Đừng viết, Cha đọc hết chương”)
Sau khi đã đọc hết , Giêsu trả ru-lô lại cho Jairô và Người nói: - Các con ơi, các con đã nghe những hình phạt ghê sợ chừng nào đã dành cho Jêrusalem, cho Israel không công chính. Nhưng các con đừng mừng. Đó là quê hương của chúng ta. Các con đừng mừng
481
mà nghĩ rằng: “Có lẽ lúc đó chúng ta không còn ở đó”. Nó vẫn còn đầy các anh em của chúng ta. Các con đừng nói: “Làm vậy là rất tốt, vì họ đã độc ác với Chúa”. Sự bất hạnh của quê hương, sự đau khổ của người đồng hương luôn luôn là niềm đau cho người công chính. Đừng đoán xét như những người khác xét đoán, nhưng như Thiên Chúa xét xử, tức là với lòng thương xót.
Lúc đó các con phải làm gì cho quê hương này, với những người đồng hương này, dù là dưới danh hiệu liên can tới quê hương lớn và toàn dân, tức là toàn thể Palestin, hoặc liên hệ tới cái phần nhỏ của quê hương, tức là Caphanaum, thành phố của các con; hoặc liên hệ tới hết mọi người Hy Bá hay chỉ liên can tới mấy người hận thù đối với Thầy trong thành phố nhỏ này của miền Galilê? Các con phải làm các công việc của tình yêu. Hãy cố gắng cứu quê hương và người đồng hương. Bằng cách nào? Có lẽ bằng bạo lực? Bằng sự khinh dể? Không. Bằng tình yêu. Bằng một tình yêu kiên nhẫn để hoán cải họ cho Thiên Chúa.
Các con đã nghe: “Nếu ta tìm được một người biết thi hành công chính thì ta sẽ dùng tình thương đối với nó”. Vậy hãy làm việc để các tâm hồn đến với sự công chính và tự làm cho mình nên công chính. Thực vậy, trong sự bất chính của họ, họ nói về Thầy: “Không phải ông ta”, và vì lý do đó, họ cho rằng dù họ bách hại Thầy cũng chẳng có tai hại gì xảy ra cho họ cả. Thực vậy, họ đã nói: “Những điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Các tiên tri đã nói cách tình cờ”.
Và họ tìm cách lôi kéo các con tới chỗ các con cũng nói như họ. Các con, những người hiện diện ở đây, các con trung thành. Nhưng Caphnaum đâu? Có phải đây là tất cả Caphanaum không? Những người lần trước Thầy đã thấy chen chúc chung quanh Thầy, họ đâu rồi? Vậy là trong thời gian từ lúc Thầy ở đây lần trước tới nay, đã có cái men bốc lên và làm những hư hại trong nhiều con tim? Họ đâu rồi: Alphê? Josuê với ba con trai của ông? Aggée Malachie? Giuse và Noêmi? Lêvi, Abel, Saul và Zacari? Họ đã quên những ân huệ tỏ tường đã nhận được bởi vì những lời dối trá đã đánh lừa họ? Nhưng các lời nói có phá hủy được các sự kiện không?
482
Các con thấy đó! Chỉ trong một xóm nhỏ, tại nơi này, nơi mà những người được hưởng ơn đông đảo hơn tất cả, mà sự thù ghét cũng có thể phá hủy lòng tin vào Thầy. Vậy mà các con lại có thể cho rằng những sự kiện xa xưa, những lời nói xa xưa có thể duy trì toàn thể Israel cho trung thành với Thiên Chúa sao? Đáng lẽ phải như vậy, vì đức tin thì phải luôn luôn là thế, cho dù không có các sự kiện nâng đỡ. Nhưng thực tế lại không được vậy. Và khoa học càng lớn thì đức tin càng nhỏ, vì các nhà thông thái cho rằng họ khỏi cần đức tin là cái đơn sơ và thẳng thắn tin vào sức mạnh của tình yêu chứ không cậy vào sự giúp đỡ của khoa học.
Chính tình yêu là cái cần phải chuyển đạt và thắp sáng. Để làm việc đó thì phải khao khát. Phải xác tín, xác tín một cách anh hùng để khuất phục. Hãy trả lời cho những nguyền rủa bằng sự khiêm tốn và tình yêu thay vì những thô lỗ cục cằn. Hãy đi với họ để nhắc nhở lời Chúa cho những kẻ không còn nhớ nữa: “Hãy kính sợ Thiên Chúa là đấng ban mưa cho chúng ta trong mùa đầu tiên cũng như mùa sau cùng”.
- Họ không hiểu chúng con. Trái lại, họ xúc phạm đến chúng con khi nói rằng chúng con phạm thánh, vì chúng con rao giảng mà không có phép. Thầy không biết các luật sĩ và pharisiêu là gì đâu.
- Thầy đâu phải không biết. Cho dù trước đây Thầy không biết thì bây giờ Thầy cũng biết. Nhưng họ là gì, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta là gì. Họ và các thầy cả có thể hoan hô các tiên tri giả, những kẻ nói tiên tri về những cái có lợi cho họ, mà quên rằng chỉ những việc tốt do lề luật truyền mới là điều phải hoan hô. Đó không phải là lý do để các tín hữu của Thầy bắt chước họ, hoặc thất vọng và cho rằng mình bị thua. Các con phải làm việc cũng nhiều như các kẻ xấu làm...
- Chúng tôi đâu phải những kẻ xấu - Từ ngoài đường, tới ngưỡng cửa, giọng ồ ồ của pharisiêu Êli kêu lên. Ông tìm cách đi vào và không ngừng kêu: “Chúng tôi đâu phải kẻ xấu. Ôi, kẻ gây loạn”.
- Ông này! Chính ông là kẻ nhiễu loạn. Hãy ra khỏi đây! - Viên bách binh đội trưởng nói ngay. Chắc anh ta canh chừng gần giáo
483
đường nên anh ta can thiệp thật mau.
- Anh, anh, dân ngoại, anh dám áp đặt tôi?...
- Tôi, người Rôma, đúng. Ra ngay! Vị Rabbi không quấy rối ông. Chính ông quấy rối Người. Ông không có quyền làm vậy.
- Chính chúng tôi là những rabbi chứ không phải tên thợ mộc Galilê - ông già la lối giống như người bán rau chứ không phải vị thầy.
- Thêm một ông, bớt một ông... Các ông có cả mấy trăm mạng mà toàn dạy những điều xấu. Chỉ có một người nhân đức là ông ta. Tôi ra lệnh cho ông phải ra.
- Nhân đức, hen?! Nhân đức, kẻ mua chuộc Rôma để giữ mình! Phạm thánh! Đồ dơ bẩn!
Viên bách binh đội trưởng kêu lên một tiếng, và có tiếng bước chân nặng nề của mấy tên lính khác pha lẫn với tiếng kêu chửi rủa của Êli.
- Túm lấy ông này và đuổi ông ta đi! - Anh ta ra lệnh.
- Tôi? Bàn tay của dân ngoại ở trên tôi? Bàn chân của dân ngoại ở trong một trong các giáo đường của chúng ta! Khốn kiếp! Cứu tôi với! Chúng phàm tục hóa tôi! Chúng...
Từ chỗ Người, Giêsu nói: “Tôi xin các anh lính, hãy để kệ ông ta! Đừng vào. Hãy kính trọng nơi này và tóc trắng của ông ta”.
- Ôi Rabbi, xin như Ngài muốn.
- A!A! Mưu mô! Nhưng Đại Pháp Đình sẽ biết. Tôi có bằng cớ! Tôi có bằng cớ! Bây giờ tôi tin vào các lời người ta nói với tôi. Tôi có bằng cớ, và sự nguyền rủa sẽ ở trên ông.
- Và lưỡi kiếm sẽ ở trên ông nếu ông nói thêm một lời nữa. Rôma bảo vệ quyền hành, hỡi con linh cẩu già! Rôma không mưu mô với ai cả. Đại Pháp Đình sẽ biết những lời dối trá của ông, Vị Tổng Tài sẽ có những tường trình của tôi, tôi sẽ viết cho Ngài. Hãy về nhà ông và chuẩn bị sẵn sàng để chờ lệnh Rôma - Và viên đội trưởng đi quanh một nửa vòng, rồi ra đi, bốn người lính theo sau, để lại Êli, sửng sốt và run cầm cập, run một cách hèn hạ...
Giêsu tiếp tục bài thuyết trình của Người tựa như không có gì
484
làm cho Người gián đoạn: “Các con phải làm việc bao lâu kẻ xấu còn làm, để xây dựng ở trong các con và ở chung quanh các con, căn nhà của Chúa như Thầy đã nói lúc đầu. Hãy hành động với sự thánh thiện hoàn toàn để Thiên Chúa còn có thể xuống trong tâm hồn các con và trên quê hương yêu dấu, nơi chúng ta đã sinh ra, nơi đã chịu biết bao hình phạt, và không biết những đám mây bất hạnh nào đang thành lập cho nó ở phương bắc, trong cái nước mạnh đã thống trị chúng ta và sẽ thống trị chúng ta càng ngày càng hơn, vì các hành động của dân ta làm Đấng Cực Tốt ghê tởm và kích thích kẻ mạnh. Với cơn giận của Thiên Chúa và của kẻ thống trị mà các con muốn có hòa bình và thịnh vượng sao? Vậy hỡi con cái Thiên Chúa! Hãy tốt, hãy tốt, hãy làn sao để không phải chỉ có một người, mà là hàng trăm và hàng trăm người tốt trong Israel, để làm quay đi hình phạt đáng ngại của Trời. Thầy đã nói với các con lúc đầu rằng ở đâu không có sự bình an thì ở đó không thể có lời Thiên Chúa được nghe một cách an bình và sinh hoa trái trong các tâm hồn. Và các con thấy rằng buổi tụ họp này không được yên tĩnh, và nó sẽ không cho hoa trái. Có qúa nhiều giao động trong các tâm hồn... Thôi, đi. Chúng ta sẽ còn những giờ khác nữa để tụ họp. Hãy cầu nguyện như Thầy cầu nguyện để cho kẻ quấy rối chúng ta thay đổi ý kiến... Mẹ ơi, chúng ta đi thôi”. Và phăng qua đám đông, Người ra đường.
Êli vẫn còn ở đó, mặt mũi tái mét như người chết. Ông phục xuống chân Giêsu: “Xin thương! Đã một lần Ngài cứu đứa cháu của tôi. Xin cứu tôi để tôi có giờ sám hối! Tôi đã phạm tội, tôi thú nhận điều đó. Nhưng Ngài nhân từ. Rôma... Ôi! Rôma sắp làm gì tôi đây?”
- Nó sẽ phủi cho ông các lớp bụi mùa hè bằng những cái roi - một người la lên và những người khác cười, trong khi Êli phát ra tiếng kêu đau đớn, tựa như ông đã cảm thấy những phát roi, và ông rên rỉ: “Tôi già rồi... bại liệt vì đau... Trời ơi!”
- Sói già ơi, thuốc men sẽ làm cho ông vượt qua!
- Ông sẽ trở lại trẻ trung và khiêu vũ...
485
- Yên lặng! - Giêsu trấn át những người chế nhạo, và Người nói với ông pharisiêu: “Đứng dậy di! Hãy có phẩm giá. Ông biết rõ là tôi không đồng lõa với người Rôma. Vậy ông muốn tôi làm gì cho ông?”
- Đúng vậy. Vâng, đúng vậy. Thầy không đồng lõa, trái lại, Thầy khinh bỉ người Rôma, Thầy ghét họ, Thầy...
- Không có điều nào trong những điều đó cả. Đừng nói dối khi ca tụng tôi cũng như lúc trước ông đã nói dối để kết án tôi. Hãy biết rằng khi ông nói tôi ghét người nọ người kia hay tôi nguyền rủa người nọ người kia, đó không phải là lời ca tụng. Tôi là Vị Cứu Tinh của hết mọi tâm hồn, và trước mắt tôi, không có vấn đề chủng tộc hay diện mạo, chỉ có các tâm hồn.
- Đúng vậy! Đúng vậy. Nhưng Thầy chính đáng và Rôma họ biết, vì vậy họ bảo vệ Thầy. Thầy làm yên tĩnh đám đông, Thầy giảng dạy tôn trọng lề luật và...
- Có lẽ đó là một tội trước mắt ông?
- Ồ, không, không. Điều đó chính đáng. Thầy biết làm những điều mà tất cả chúng tôi phải làm, bởi vì Thầy chính trực, bởi vì...
Người ta chế nhạo và xì xèo. Nhiều người có những hình dung từ: “Điêu ngoa, hèn! Mới sáng nay ông đã nói ngược lại”. Họ nói để cho ông nghe thấy, dù họ chỉ nói nhỏ.
- Vậy tôi phải làm gì?
- Đi, đi tìm viên bách binh đội trưởng. Mau đi, trước khi người đưa thư khởi hành. Thầy biết anh ta đã chuẩn bị ngựa. Ôi! Xin thương!
Giêsu nhìn ông ta: nhỏ thó, run rẩy, tái mét vì sợ, có vẻ khổ sở... Người dò xét ông với tình thương. Chỉ có bốn con mắt nhìn với tình thương: đôi mắt người Con và đôi mắt người Mẹ. Tất cả những người khác đều mỉa mai, nghiêm khắc hay bực tức... kể cả Gioan, kể cả Andrê... đều có cái nhìn khinh bỉ nghiêm khắc.
- Tôi thương. Nhưng không thể tôi là người đi tìm viên bách binh...
- Anh ta là bạn đối với Thầy...
486
- Không.
- Tôi muốn nói là anh ta biết ơn Thầy vì...vì người đầy tớ mà Thầy đã chữa.
- Ông cũng vậy, ông có đứa cháu được chữa mà ông không biết ơn, mặc dầu ông là người Israel cũng như tôi. Một ơn lành không tạo ra sự ép buộc.
- Có chứ, nó tạo ra. Khốn cho kẻ không biết ơn đối với... - Êli hiểu là ông kết án chính mình, nên rối trí, ông nín lặng, và đám đông lại nhạo.
- Mau đi! Ôi Rabbi! Ôi Đại Rabbi! Rabbi Thánh! Xin ra lệnh. Ngài thấy không? Họ sắp khởi hành rồi! Ngài muốn người ta khinh dể tôi? Ngài muốn tôi chết sao?
- Không. Tôi, tôi sẽ không nhắc lại một ơn lành. Ông hãy đi đi và nói với anh ta: “Ông Thầy bảo anh hãy dùng tình thương”. Đi đi.
Êli chạy đi, còn Giêsu đi theo chiều ngược lại để về nhà Người.
Chắc viên bách binh đội trưởng đã nhận lời, vì các người lính xuống khỏi yên ngựa, trả tấm bảng tráng sáp cho viên đội trưởng và dắt ngựa vào.
- Uổng qúa! Lại ơn lành cho lão ta! - Phêrô kêu lên, và Mathêu trả lời ông: “Ờ, đáng lẽ Thầy phải để ông ta bị phạt, đủ số roi bằng số lời ông ta đã chửi rủa chúng ta. Lão già ghê tởm!”
- Vậy là ông ta lại sẵn sàng để bắt đầu lại - Tôma kêu lên.
Giêsu quay lại, nghiêm nghị: “Tôi có các môn đệ hay các ma qủi? Đi khỏi đi! Các kẻ có con tim không tình thương! Sự hiện diện của các người làm nặng nề cho tôi!”
Ba người đứng chết trân tại chỗ, kinh hoàng vì lời khiển trách.
Maria năn nỉ: “Con ơi! Con đã qúa nhiều đau đớn, và mẹ, mẹ cũng đã qúa khổ. Con đừng thêm cái khổ này vào nữa... Con nhìn họ coi!...”
Giêsu quay lại nhìn ba ông: Ba khuôn mặt thực buồn. Trong các con mắt là tất cả hy vọng và đau khổ.
- Tới đi! - Giêsu ra lệnh.
Ôi! Chim én cũng chưa lẹ bằng ba ông!
487
- Mong rằng đây là lần chót Thầy nghe các con nói những lời tương tự. Con, Mathêu, con không có quyền để nói. Con, Tôma, con chưa chết để xét ai là bất toàn và tin rằng con đã thoát rồi. Còn con, Simon Jonas, con giống như một tảng đá to thô kệch mà người ta đã khó nhọc biết bao để mang lên đỉnh núi, nhưng nó lại lăn xuống đáy thung lũng. Hãy hiểu điều Thầy muốn nói với con... Rồi bây giờ hãy nghe đây: Ở đây, trong giáo đường hay trong thành phố, có nói cũng vô ích. Thầy sẽ nói từ các thuyền ở trên hồ, khi chỗ nọ, khi chỗ kia. Các con hãy sửa soạn ghe thuyền tùy số cần thiết. Chúng ta sẽ đi vào những buổi chiều êm đềm hay những rạng đông mát mẻ.
140* TẠI MAGĐALA
- Đi đâu Thầy? - Phêrô hỏi khi ông đã chấm dứt việc điều động nhân viên và các thứ chuẩn bị để rời bến. Ông ở trong thuyền của ông, dẫn đầu một tiểu đội thuyền chở đầy người, sẵn sàng để đi theo Thầy.
- Đi Magđala. Thầy đã hứa với Maria Lazarô.
- Tốt! - Phêrô trả lời, và ông vận hành tay lái theo cách chạy vát để đi vào hướng tốt nhất.
Jeanne ở trong thuyền với Thầy và Maria Rất Thánh, Maria Clêopha, Margziam, Mathêu, Giacôbê Alphê và một người nữa tôi không biết. Bà chỉ vào số đông đảo các thuyền ở trên hồ trong buổi chiều hè yên tĩnh, làm dịu ngọn lửa của mặt trời đang lặn bởi các cánh buồm phớt tím tuôn đi tựa như từ trời rơi xuống các dòng suối bằng ngọc tím hay các chùm hoa đậu tím. Bà nói: “Có lẽ trong số này cũng có thuyền của các bà Rôma. Đây là giờ các bà thích giải khuây bằng cách giả vờ đánh cá, vào những buổi chiều yên tĩnh như vầy”.
- Nhưng về phía nam có nhiều thuyền hơn - người mà tôi không biết nhận xét.
- Ồ, không, Benjamin. Họ có những thuyền rất lẹ và những tay
488
chèo khéo léo. Họ đến mãi trên kia.
- Những chuyện họ làm... - Phêrô càu nhàu, và ông tiếp tục nói trong hàm râu với vẻ khăng khăng dân chài của ông, luôn luôn coi việc chèo thuyền và việc đánh cá như một nghề chứ không phải việc làm cho qua giờ, nó hầu như là một tôn giáo, được điều hành bằng những kỷ luật nghiêm khắc và hữu ích. Ông thấy như một sự phàm tục hóa khi sử dụng nó cách vụng về: “Với những hương nhang của họ, những hoa lá của họ, những thuốc thơm của họ, và những thứ qủi thần khác làm hư dòng nước; với những tiếng nhạc của họ, những tiếng kêu inh ỏi của họ, những đối đáp của họ làm cá sợ; với những cái đuốc đầy khói của họ, họ làm cá chết khiếp; với những cái lưới khốn kiếp của họ được quăng xuống cách tình cờ, làm hư đáy hồ và sự sinh sản của cá. Đáng lẽ phải cấm tất cả những thứ đó. Biển Galilê thuộc về dân Galilê, thuộc về dân chài trong xứ, không phải thuộc về gái điếm và các tên đồng lõa với chúng... Nếu tôi mà là chủ! Tôi sẽ cho qúi vị coi, các thuyền hôi thối của dân ngoại, các thứ ô trọc nổi trên nước, các phòng the biết bơi, để mang tới tận đây, trên làn nước của Thiên Chúa, của Thiên Chúa chúng ta ban cho con cái Người, những... Ô! Nhưng coi kìa! Chúng đâm thẳng vào chúng ta! Nhưng coi có được không!... Người ta có thể cho phép không... Nhưng...”
Giêsu ngăn lại những lời đả kích mà trong đó Phêrô tuôn ra tất cả tinh thần Israel và dân chài của ông, đỏ mặt, hầu như bị ngộp bởi sự khinh bỉ, thở hổn hển tựa như ông chiến đấu chống lại các sức mạnh hỏa ngục, Người nói với một nụ cười an bình: “May thay con không phải là chủ! Phước đức, chủ không phải là con! May cho họ và cả cho con. Qủa vậy, con sẽ ngăn cản họ làm theo một động lực tốt, một động lực đã được ghi khắc trong thần trí họ - dân ngoại, Thầy đồng ý vậy, nhưng tốt cách tự nhiên - được ghi khắc trong thần trí họ bởi Đấng Xót Thương đời đời, đấng hướng dẫn các tạo vật này, không có lỗi gì khi được sinh ra trong dân Rôma thay vì Hy Bá. Thiên Chúa nhìn họ với tình thương, chính xác là vì Người thấy họ hướng chiều về điều tốt. Con sẽ làm hại cho chính con vì
489
con sẽ phạm những hành động phản đức Bác Ái và sự khiêm nhường...”
- Khiêm nhường à?... Con không thấy vậy... Nếu con là chủ của cái hồ thì con sẽ được phép xếp đặt nó theo ý con.
- Không, Simon Jonas, không, con lầm. Dù là những thứ thuộc về chúng ta, nó thuộc về chúng ta bởi vì Thiên Chúa ban cho. Vậy vì chỉ được chiếm hữu nó trong một thời gian giới hạn nên phải luôn luôn nghĩ rằng chỉ có một đấng chiếm hữu tất cả, không giới hạn trong thời gian cũng như không gian. Chỉ có một đấng là chủ. Con người... Ôi, họ chỉ là các viên quản lý những mảnh nhỏ xíu trong sự tạo dựng vĩ đại. Ông chủ chính là Người, Cha Thầy và Cha các con, và Cha của mọi kẻ sống. Hơn nữa, Người là Thiên Chúa, bởi vậy Người rất trọn hảo trong tư tưởng của Người và trong mọi hành động của Người. Vậy nếu Thiên Chúa nhìn các hướng chiều về với Chân Lý của con tim dân ngoại cách nhân hậu, và không phải chỉ nhìn, mà Người còn giúp cho những hướng chiều này, còn truyền cho nó một gia tốc càng ngày càng mạnh hơn về điều tốt, thì con, một người, con không thấy rằng trong khi muốn ngăn cản họ, thực ra con đã muốn ngăn cản hành động của Thiên Chúa? Khi nào thì người ta ngăn cản một điều? Khi người ta cho là nó không tốt. Vậy con sẽ nghĩ về Thiên Chúa của con rằng Người đã làm một điều không tốt. Nếu xét đoán anh em là một điều không tốt, vì mọi người đều có khuyết điểm và có một tầm khả năng hiểu biết, và sự xét đoán giới hạn tới nỗi bảy phần mười là người ta xét đoán sai, và sẽ tuyệt đối xấu khi xét đoán Thiên Chúa trong các hành động của Người. Simon, Simon! Lucifer đã muốn xét đoán Thiên Chúa về một trong các tư tưởng của Người, hắn đánh giá sai và muốn thay thế Thiên Chúa, vì hắn tin là hắn đúng hơn Người. Simon, con biết Lucifer đã thành công thế nào. Và con biết rằng tất cả những đau đớn chúng ta chịu đều tới từ sự kiêu căng này...
- Thầy có lý! Con là kẻ đại khốn nạn! Xin Thầy tha cho con!
Và Phêrô, vẫn hoàn toàn bị kích thích, liền buông cần lái để chạy lại chân Giêsu. Vậy là thình lình chiếc thuyền bị thả trôi, lại
490
trúng ngay chỗ có dòng nước, nó quay vòng, quẹo đi giữa tiếng kêu kinh hoàng của Maria Clêopha, Jeanne và những người ở trong chiếc thuyền nhẹ bơi bên cạnh, khi họ thấy chiếc thuyền nặng của Phêrô lao vào họ. May mắn là Mathêu mau lẹ cầm lấy tay lái, và con thuyền lấy lại lộ trình sau khi đã tròng trành kinh sợ; và cũng nhờ các người khác đã lấy mái chèo đẩy nó ra và giữ cho nó khỏi tròng trành và quay vòng.
- Ohé! Simon. Có lần anh đã chửi các người Rôma rằng họ là những tay chèo dở, vì họ muốn xô vào chúng ta. Nhưng hôm nay chính anh đã làm bộ mặt tồi... và ngay ở trước mắt họ. Kìa, tất cả họ đều đứng lên ở trên thuyền để coi... - Iscariot nói để chọc ông trong khi hắn chỉ vào các thuyền của người Rôma, bây giờ ở rất gần trong làn gương nước trước mặt Magđala. Người ta có thể nhìn thấy họ, mặc dầu các cánh buồm phớt tím vì buổi chiều đã trở nên tối hơn và làm giảm bớt ánh sáng.
- Simon, anh cũng bị mất một cái rổ và một cái sô. Anh có muốn chúng tôi chài để kiếm lại nó cùng với mấy cái neo nhỏ không? - Giacôbê Zêbêđê nói từ một thuyền khác bây giờ ở ngay kề bên, vì bây giờ, sau chuyện bất ngờ, tất cả đều quây quần lại chung quanh thuyền của Phêrô.
- Nhưng anh làm sao vậy? Chuyện đó chưa bao giờ xảy ra! - Andrê kêu lên từ một chiếc thuyền khác nữa.
Phêrô trả lời cho tất cả, hết người nọ tới người kia, vì họ nói với ông đồng loạt. “Họ đã thấy tôi à? Chả quan trọng đâu! Nếu họ thấy qủa tim của tôi, và... Thôi, đừng nói cái đó Phêrô... Nhưng anh, hãy biết rằng anh không làm tôi tức đâu. Đó không phải là một vận hành sai, nó xảy ra vì một lý do tốt, có thể làm tôi khiêm nhường... Đừng lo, Giacôbê! Các đồ cũ rích chìm xuống đáy... Nếu tôi có thể quăng theo nó con người cũ cứ lì lợm trong tôi! Tôi muốn mất tất cả, kể cả thuyền bè, nhưng thực sự trở nên như Thầy muốn... Tôi đã làm sao à? Hé! Tôi đã minh chứng cho chính tôi, cho cái kiêu căng của tôi - nó muốn giảng bài học cho cả Thiên Chúa trong những điều thuộc về thần trí - rằng tôi là con vật thô kệch, ngay cả đối với
491
cái thuyền... Rất tốt cho tôi. Tôi đã làm một dụ ngôn về chính tôi và cho chính tôi... Có đúng không Thầy?”
Giêsu mỉm cười để biểu lộ sự đồng ý. Người ngồi ở đàng lái, chỗ theo thói quen của Người, y phục trắng trong không khí đã mờ tối, yên tĩnh, tóc hơi gợn sóng trong gió chiều, Người nổi bật lên trong hoàng hôn như một thiên thần ánh sáng và bình an.
Các thuyền của các bà Rôma đã tới bên họ.
- Các bà có vỏ thuyền tốt và các cánh buồm toàn vẹn... Hơn nữa, các người chèo! Họ nhanh như chim bói cá. Họ biết dùng mọi luồng gió, mọi mạch nước...
- Các người cầm mái chèo hầu hết là nô lệ người Crète hay vùng sông Nil - Jeanne giải thích.
- Các thủy thủ miền đồng bằng rất khéo tay, các người Crète cũng thế. Nhưng người Ý cũng rất giỏi... Họ đã băng qua Scylla và Charybde... Chỉ điều đó cũng đủ để nói là họ tuyệt vời - người không quen, có tên là Benjamin thú nhận.
- Chúa ơi! Chúng ta đi đâu? Tới Magđala hay... Coi kìa, các người Magđala đang chèo về phía chúng ta...
Quả vậy, tất cả các thuyền nhỏ của nơi này đều vội vã rời bãi hay cảng nhỏ, chất đầy người, qúa tải một cách dễ sợ, tới nỗi bờ mép thuyền hầu như ngang với mặt nước, và họ hướng về các thuyền của Caphanaum.
- Không, chúng ta hãy ở lại bên ngoài, chỗ trước thành phố. Thầy sẽ nói từ trên thuyền...
- Là vì... những người thiếu khôn ngoan này muốn chết chìm. Thầy coi, cái hồ yên lặng, đúng như một tấm bạc... Nhưng nước thì luôn luôn là nước... và trọng tải thì vẫn là trọng tải... Và, kìa... họ nghĩ là họ đang ở trên đất cứng chứ không phải ở trên nước... Xin Thầy ra lệnh cho họ trở về... Họ sắp chết chìm...
- Hỡi người ít đức tin! Con không nhớ rằng lúc con có đức tin, con đã bước trên mặt nước theo lời gọi của Thầy, giống như trên đất cứng sao? Họ có đức tin, vậy trái với định luật về sự cân bằng giữa trọng tải và sự chìm xuồng, nước sẽ nâng đỡ những chiếc xuồng
492
qúa tải này.
- Nếu chuyện đó xảy ra... thì đây chính là buổi chiều của phép lạ cả thể... - Phêrô lẩm bẩm trong khi ông nhún vai và thả chiếc neo nhỏ xuống để chiếc ghe dừng lại. Nó dừng lại như vậy, chung quanh nó là một vòng tròn các thuyền, một phần là của Caphanaum, một phần của Magđala, một phần của Tibêriat. Và các thuyền Tibêriat là của các bà Rôma, vì khôn ngoan, các bà đậu ở đàng sau các thuyền Caphanaum, về phía giữa hồ.
Giêsu quay lưng về phía các bà. Người nhìn về phía các thuyền của Magđala, về phía khu vườn mênh mông đầy bóng mát của Maria Lazarô, về phía những căn nhà nhỏ ở dọc bờ hồ mà mầu trắng nổi lên trong đêm.
Chiếc hồ chỉ nhúc nhích bởi các mũi thuyền và các mái chèo, bây giờ trở nên bình lặng, đúng là một tấm pha lê vĩ đại lóng lánh ánh bạc bởi ánh trăng đầu tiên, và rải rác những cái vảy hoàng ngọc hay hồng ngọc tại những nơi có ngọn lửa của đèn hiệu và lửa của các ngọn đèn bão treo ở hết các mũi thuyền phản chiếu trên mặt hồ.
Các khuôn mặt có vẻ kỳ lạ do sự tương phản của các ánh sáng đỏ, vàng, và ánh trăng. Chúng hiện ra, phần thì rất rõ, phần thì chỉ hơi thấy, phần thì bị cắt làm đôi theo chiều dọc hay chiều ngang, với chỉ có trán hoặc cằm được soi sáng, hay chỉ có một má, một nửa khuôn mặt hiện ra trong bán ảnh rất rõ, phần kia thì hầu như bị che. Một số có những con mắt sáng quắc, trong khi một số khác thì giống như tròng mắt rỗng. Cũng vậy, miệng của một số có những cái răng sáng bóng bởi nụ cười, trong khi một số khác thì biến mất trong bóng tối.
Nhưng để cho mọi người nhìn thấy Giêsu thì đây, từ các thuyền của Caphanaum và của Magđala, người ta trao tới một số đèn hiệu mà người ta đặt tại chân Giêsu, móc vào các mái chèo không sử dụng, đặt trên bờ ở đàng mũi hay đàng lái, và móc cả vào cột buồm mà cánh buồm đã cuộn lại. Do đó chiếc thuyền có Giêsu sáng rực giữa vòng tròn các thuyền không có ánh sáng, và bây giờ người ta
493
nhìn rõ Giêsu mặc ánh sáng ở mọi phía. Chỉ có các thuyền của các bà Rôma là được soi bằng ánh sáng đỏ của các đèn hiệu mà gió làm ngọn lửa lay nhẹ.
- Bình an cho các con - Giêsu bắt đầu. Người đứng lên, mặc dầu thuyền hơi tròng trành. Người nói trong khi mở cánh tay ra để chúc phúc. Rồi Người tiếp, nói chậm rãi để mọi người nghe rõ. Trên hồ lặng lẽ, tiếng nói vang lên mạnh mẽ và dịu dàng.
- Vừa lúc nãy, một trong các tông đồ của Thầy đã đề nghị với Thầy một dụ ngôn, và bây giờ Thầy giới thiệu nó với các con, vì nó ích lợi cho tất cả. Nó được cho, và tất cả các con đều có thể hiểu. Hãy nghe đây:
Một người kia bơi thuyền trên hồ trong một buổi chiều êm đềm như chiều hôm nay. Ông cảm thấy chắc chắn và tự đắc là không có điều gì sơ sót. Đó là một người giầu kinh nghiệm trong việc vận hành, vì vậy ông cảm thấy mình hơn các người khác mà ông gặp thấy ở trên hồ. Trong số họ, nhiều người bơi thuyền để giải trí, do đó không có kinh nghiệm của công việc và của người bơi thuyền để kiếm sống. Ngoài ra, đó còn là một người Israel tốt, và bởi đó, ông tin mình có mọi nhân đức. Sau cùng, đó còn là một người thực sự qủa cảm.
Vậy một buổi chiều ông đi bơi thuyền với đầy bảo đảm, nên ông cho phép mình bộc lộ những xét đoán trên tha nhân. Theo ông ta, tha nhân này là một người xa xôi đến nỗi ông không còn cho họ là người đồng loại nữa: Không có một liên hệ nào về quốc tịch, về nghề nghiệp, về đức tin nối kết ông với người này. Vì không bị giữ bởi sợi giây liên đới quốc gia, tôn giáo hay nghề nghiệp, ông ta chế diễu người đó cách bình tĩnh, và cả đến khắt khe nữa. Ông ta phàn nàn vì không được làm chủ nơi đó, vì nếu ông là chủ, ông sẽ đuổi người đó ra khỏi nơi này. Trong đức tin khăng khăng, ông ta hầu như khiển trách cả Đấng Tối Cao vì đã cho phép những người khác với ông được làm công việc mà ông làm, và được sống ở nơi ông sống.
Trong thuyền của ông có một người bạn, một người bạn tốt, yêu
494
ông với một tình yêu chính đáng, vì vậy người bạn muốn cho ông nên khôn ngoan, và khi cần, sửa bảo cho ông những ý tưởng sai lầm. Vậy chiều hôm đó, người bạn nói với người bơi thuyền: “Tại sao lại có những tư tưởng này? Thiên Chúa chẳng phải là Cha duy nhất của cả loài người sao? Chẳng phải chính Người là Chúa cả vũ trụ sao? Phải chăng mặt trời của Người đã chẳng chiếu trên hết mọi người để sưởi ấm cho họ sao? Phải chăng các tầng mây của Người đã không tưới cho các cánh đồng của dân ngoại cũng như của người Hy Bá sao? Và nếu Người làm vậy vì nhu cầu vật chất của loài người, Người lại không có cùng một dự phòng cho các nhu cầu tinh thần của họ sao? Anh muốn đề nghị với Thiên Chúa những điều phải làm ư ? Ai có thể như Thiên Chúa?”
Người đó là người tốt. Trong sự khăng khăng của ông, ông có nhiều điều không biết và nhiều tư tưởng sai lầm, nhưng ông không có ý xấu. Ông không cố ý xúc phạm đến Thiên Chúa, trái lại, ý của ông là muốn bảo vệ các điều lợi của Người. Khi nghe những điều đó, ông gục xuống chân người bạn khôn ngoan và xin tha lỗi vì đã nói như một tên ngu ngốc. Ông xin điều đó cách mạnh mẽ tới nỗi suýt nữa ông gây ra tai họa làm bể thuyền và làm chìm các người trong đó. Vì khi ông vội vã để tới xin lỗi, ông không còn lưu ý gì tới tay lái, cánh buồm cũng như dòng nước. Như vậy, sau lỗi lầm thứ nhất về việc xét đoán sai lầm, ông phạm cái lầm lỗi thứ hai về việc vận hành, và ông chứng tỏ cho chính mình rằng: chẳng những ông là một thẩm phán dở thảm hại, mà còn là một thủy thủ vụng về.
Đó là dụ ngôn.
Bây giờ hãy nghe đây: theo các con thì người đó được hay không được sự tha thứ của Thiên Chúa? Các con hãy nhớ rằng ông ta đã phạm tội chống lại Thiên Chúa và đồng loại, bằng cách xét đoán hành vi của người trước cũng như người sau, và chỉ xuýt nữa là ông ta trở thành kẻ sát nhân của các bạn ông. Các con hãy suy nghĩ, rồi trả lời...
Giêsu khoanh tay và quay cái nhìn trên tất cả các thuyền, cho tới những cái xa nhất, tới các thuyền của các bà Rôma, trên đó có
495
một dẫy khuôn mặt chăm chú của các bà qúi phái và của các người chèo thuyền nhô lên khỏi bờ thuyền...
Người ta xì xèo hỏi nhau... Một tiếng ào ào hơi nhận ra hoà lẫn với tiếng đập nhẹ của nước vào mạn thuyền. Thật khó để xét đoán. Phần đông cho là ông ta không được tha vì đã phạm tội. Không, ít nhất là ông ta không được tha tội thứ nhất...
Giêsu nghe các lời xì xèo gia tăng theo ý kiến này. Người mỉm cười với cái nhìn của đôi mắt tuyệt vời sáng trong màn đêm. Đôi mắt như hai viên lam ngọc dưới ánh trăng càng lúc càng đẹp, rạng tỏ tới nỗi nhiều người cho là nên tắt các đèn hiệu và các đèn bão, để chỉ ở lại dưới ánh sáng lân tinh của vầng trăng.
Giêsu bảo Phêrô: “Hãy tắt cả những đèn này đi, chúng tội nghiệp như những tia le lói so sánh với các vì sao dưới bầu trời đầy thiên thể và hành tinh này”. Phêrô rất căng thẳng nghe sự xét đoán của đám đông. Giêsu vuốt vai âu yếm tông đồ của Người trong khi ông giơ tay ra để lấy cây đèn, và Người hỏi nhỏ ông: “Tại sao lại nhìn cách bối rối như vậy?”
- Bởi vì lần này Thầy để cho dân chúng xét xử con.
- Ôi! Tại sao con lại sợ họ?
- Bởi vì... họ cũng như con... bất công.
- Simon, nhưng chính Thiên Chúa xét xử.
- Đúng. Nhưng Thầy, Thầy chưa cho con sự tha thứ, và bây giờ Thầy chờ sự xét xử của họ để làm. Thầy có lý... Con là kẻ bất khả sửa trị... Nhưng tại sao lại dành cho Simon tội nghiệp sự xét xử này của Thiên Chúa?...
Giêsu đặt bàn tay Người trên vai ông. Người đặt dễ dàng, vì Phêrô đứng dưới lòng thuyền, còn Giêsu đứng trên bục ở chỗ tay lái, vì vậy Người ở trên cao hơn Phêrô nhiều. Người mỉm cười nhưng không trả lời ông. Trái lại, Người hỏi họ: “Nào, nói to lên, từng thuyền một”.
Than ôi! Ông Phêrô tội nghiệp! Nếu Thiên Chúa xét xử theo ý kiến những người ở đây thì ông ta bị kết án rồi. Chỉ trừ có ba thuyền, còn tất cả các thuyền khác, kể cả thuyền của các tông đồ, đều kết
496
án. Các bà Rôma không tuyên bố mà cũng không được hỏi, nhưng rõ ràng các bà cũng xét rằng người đó bị kết án, vì từ thuyền nọ qua thuyền kia (các bà có ba thuyền), các bà làm hiệu cho nhau bằng ngón tay cái quay xuống dưới.
Phêrô ngước đôi mắt bò sợ hãi nhìn Giêsu, ông bắt gặp một khuôn mặt rất dịu dàng, và từ đôi mắt lam ngọc của Người chảy ra một thứ bình an. Ông thấy một khuôn mặt mà tình yêu làm cho rạng rỡ đang cúi xuống trên ông, ông cảm thấy bị lôi về phía Giêsu tới nỗi cái đầu muối tiêu của ông tì vào cạnh sườn Giêsu trong khi cánh tay của Thầy ôm chặt hai vai ông.
- Các con ơi! Con người xét đoán như vậy đó, nhưng Thiên Chúa không xét xử như vậy. Các con nói: “Ông ta không được tha”. Thầy thì Thầy nói: “Cả đến Thiên Chúa không tìm thấy nơi ông có cái gì để tha”. Qủa vậy, sự tha thứ cần thiết khi có một tội, nhưng ở đây không có tội. Không, đừng lẩm bẩm và lắc đầu. Thầy nhắc lại: ở đây không có tội.
Khi nào thì có tội? Khi có ý muốn phạm tội, ý thức là mình sẽ phạm tội mà cương quyết muốn phạm tội, cả sau khi đã ý thức rằng hành động đó là một tội. Tất cả đều tùy vào ý muốn mà với nó, người ta hoàn tất hành động, dù là hành động nhân đức hay tội lỗi cũng vậy. Cả khi một người làm một hành động, thực tình thì là việc tốt, nhưng nó không ý thức đó là việc tốt, trái lại, nó tin đó là việc xấu, nhưng nó cứ làm. Lúc đó nó phạm một tội giống như nó đã làm một việc xấu thật. Và một cách ngược lại cũng vậy.
Các con hãy suy nghĩ: ví dụ một người kia có một kẻ thù và ông ta biết rằng nó bệnh, ông ta biết rằng theo lệnh bác sĩ thì nó không được uống nước lạnh, và cả đến không được uống bất cứ chất lỏng nào. Ông ta đến thăm nó, nói rằng vì tình yêu. Ông nghe nó rên rỉ: “Tôi khát, tôi khát!” Và giả bộ thương xót, ông vội vã cho nó uống nước giếng lạnh buốt và nói: “Bạn ơi, uống đi, tôi thương bạn, tôi không thể nhìn bạn chịu đựng cái khát kinh khủng này. Coi, tôi đã cố ý mang cho bạn thứ nước mát này. Uống đi, uống đi! Vì một phần thưởng lớn sẽ được ban cho kẻ trợ giúp người bệnh và cho kẻ
497
khát uống”. Và trong khi cho nó uống, ông ta cho nó cái chết. Hành động này, bởi chính nó là tốt, vì nó là việc của hai tình thương. Nhưng các con có tin là nó tốt, trong khi nó được làm với mục đích xấu không? Không, nó không tốt.
Một ví dụ khác: Một người có một người cha say sưa. Để cứu ông khỏi chết vì sự thái qúa của ông, anh đã khóa hầm rượu lại, cất tiền của cha anh đi, ép buộc ông, cả đến một cách khắt khe, không được vào trong làng để uống và phá hoại sức khỏe. Các con có cho là anh ta lỗi điều răn thứ bốn, vì anh ta đã khiển trách cha anh, và anh làm việc đó tựa như anh là gia trưởng đối với chính cha anh không? Vẻ bề ngoài thì anh ta làm khổ cha anh và tựa như anh có tội, nhưng trong thực tế thì đó là người con tốt, vì ý muốn của anh ta tốt, vì anh muốn cứu cha anh cho khỏi chết. Luôn luôn chính là ý muốn làm cho hành động có giá trị.
Hoặc nữa: Một người lính giết người trong chiến tranh, anh ta có phạm tội sát nhân không? Không, nếu thần trí anh ta không thuận tình việc tàn sát, nếu anh ta chiến đấu chỉ vì bất đắc dĩ, và anh ta làm với sự nhân đạo tối thiểu mà kỷ luật khắt khe của chiến tranh và các hoàn cảnh phụ thuộc cho phép anh.
Vì vậy người đàn ông ở trên thuyền đó, với ý muốn tốt của người tín hữu, người yêu quê hương và người dân chài, ông không chịu đựng được những người mà theo ông, là những kẻ phạm thánh, thì ông không phạm tội chống lại tình yêu tha nhân, mà ông chỉ có một tư tưởng sai lầm về tình yêu tha nhân. Ông ta cũng không phạm tội bất kính đối với Thiên Chúa, vì tình cảm của ông đối với Thiên Chúa là do tinh thần người tín hữu của ông, nó tốt, nhưng nó không được cân bằng, cũng không được soi sáng. Ông cũng không phạm tội sát nhân, vì ông gây ra sự xiêu vẹo chỉ vì lòng ước ao tốt muốn xin ơn tha thứ.
Vậy các con hãy biết phân biệt. Thiên Chúa xót thương hơn là khăng khăng. Thiên Chúa nhân từ, Thiên Chúa là cha, Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa thực là như vậy. Thiên Chúa mở trái tim Người ra cho mọi người, cho tất cả, và Người bảo mọi người: “Hãy
498
đến”, trong khi Người chỉ vào Nước của Người. Người tự do để làm như vậy, vì Người là Chúa duy nhất, toàn cầu, đấng Tạo Hóa, Vĩnh Cửu.
Thầy xin các con, các con Israel, hãy chính đáng. Hãy nhớ lấy những điều này: Đừng làm theo kiểu mà những người các con cho là ô uế lại hiểu, trong khi chính các con, các con không hiểu. Cả tình yêu thái qúa và vô trật tự về tôn giáo và tổ quốc cũng là một tội, vì nó đến từ sự ích kỷ. Ích kỷ luôn luôn là lý do và căn nguyên của tội lỗi.
Đúng. Ích kỷ là một tội, vì nó gieo ý muốn xấu trong lòng người, làm cho họ khởi ngụy chống lại Thiên Chúa và giới răn của Người. Thần trí ích kỷ không nhìn thấy rõ Thiên Chúa cũng như chân lý của Người. Sự kiêu căng bốc khói nơi kẻ ích kỷ và phủ mờ chân lý. Trong làn sương mù của thần trí, họ không nhìn thấy ánh sáng rõ ràng của chân lý như họ thấy trước khi trở nên kiêu căng nữa. Bắt đầu, họ đặt một dẫy những tại sao, rồi như một diễn tiến, từ cái tại sao, họ chuyển qua nghi ngờ, từ nghi ngờ tới chỗ bỏ rơi, không phải chỉ bỏ tình yêu và sự tin cậy nơi Thiên Chúa cũng như sự công chính của Người, mà cả sự kính sợ Thiên Chúa và hình phạt của Người. Vì vậy, đây, họ phạm tội dễ dàng. Từ chỗ phạm tội dễ dàng sẽ đến tình trạng cô quạnh của linh hồn lìa xa Thiên Chúa, không còn ý muốn của Thiên Chúa để hướng dẫn nó, nó ngã qụi dưới qui luật của ý muốn phạm tội của nó. Ôi! Cái ý muốn của kẻ phạm tội, thật là một sợi giây xích khắc nghiệt! Satan đã cầm trong tay nó một đầu, còn đầu kia thì nó cột chân người đó vào một chiếc xe tải đạn để giữ họ ở đó, làm nô lệ, trong bùn lầy, cúi gù, trong tăm tối.
Vậy khi đó người này có thể không phạm những tội chí tử không? Nó có thể không phạm trong khi nó chỉ có toàn là ý muốn xấu không? Khi đó, và chỉ khi đó, Thiên Chúa mới không tha. Nhưng khi người ta có ý muốn tốt và họ hoàn thành dù chỉ những hành động tự nhiên về nhân đức, thì chắc chắn sau cùng họ sẽ chiếm hữu được Chân Lý. Vì thiện chí dẫn tới Thiên Chúa, và Thiên Chúa, người Cha rất thánh, đầy tình yêu, lòng thương xót, sự khoan dung,
499
sẽ cúi xuống để giúp đỡ, chúc phúc, tha thứ cho đứa con có thiện chí.
Chính vì vậy mà người đàn ông của chiếc thuyền đó được đầy tình yêu, vì ông ta không có ý muốn phạm tội, và ông không phạm tội.
Bây giờ hãy về nhà các con trong bình an. Các tinh tú đã bao phủ bầu trời và vầng trăng mặc sự trong trắng cho thế giới. Hãy đi, vâng lời như các tinh tú và hãy làm cho các con nên trong sạch như vầng trăng. Vì Thiên Chúa yêu những kẻ vâng lời và có tâm hồn trong sạch. Người chúc phúc cho những kẻ biết đặt vào mỗi hành động của họ một ý muốn tốt vì yêu Thiên Chúa và tha nhân, làm việc vì vinh danh Người và lợi ích cho anh em.
Bình an cho các con.
Giêsu giang tay ra để chúc phúc trong khi các thuyền vây quanh Người tản mát đi, mỗi thuyền rời đi theo đường của mình.
Phêrô qúa sung sướng tới nỗi ông không nghĩ tới khởi hành. Mathêu lay ông: “Anh không chú ý à Simon? Tôi, tôi không biết chuyện...”
- Đúng vậy... Ôi! Thầy của con! Trong khi Thầy không kết án con mà con lại sợ như vậy...
- Đừng sợ, Simon Jonas. Thầy giữ con để cứu con chứ không phải để con hư mất. Thầy giữ con vì thiện chí của con... Nào, hãy cầm tay lái và nhìn về phương bắc với tất cả sự bảo đảm, Simon Jonas, luôn luôn với sự bảo đảm... trong hết mọi cuộc vượt biển... Thiên Chúa, Giêsu của con, sẽ luôn luôn đứng bên cạnh con, trên bục đàng lái của con thuyền thiêng liêng. Và Người luôn luôn hiểu con, Simon Jonas, con hiểu không? Luôn luôn. Người không có gì tha cho con, vì con có thể ngã giống như một đứa trẻ yếu, nhưng không bao giờ con có ý muốn xấu để ngã... Hãy bằng lòng, Simon Jonas.
Và Phêrô ưng thuận, ưng thuận, qúa cảm động để có thể nói. Bị ngộp vì tình yêu, bàn tay ông hơi run ở tay lái, nhưng khuôn mặt ông rạng rỡ bình an, bảo đảm, tình yêu, trong khi ông nhìn vị Thầy
500
của ông đứng gần ông, trên bục thuyền, trắng toát như một Tổng Thần đầy ánh sáng.
141* GIAI ĐOẠN Ở CAPHANAUM.
GIÊSU, NGƯỜI BẢO VỆ CÁC TRẺ NHỎ
- Hãy lấy lương thực và quần áo theo cho nhiều ngày. Chúng ta sẽ đi Ippo, rồi từ đó đi Gamala và Afêca, để rồi xuống Gerghesa, rồi trở về trước ngày Sabát - Giêsu ra lệnh khi Người đứng trước ngưỡng cửa, vuốt ve cách máy móc các trẻ nhỏ Caphanaum đã đến để chào người bạn vĩ đại của chúng ngay từ lúc mặt trời xuống thấp, không còn qúa nồng nực đến nỗi bị chết thiêu, và được phép ra khỏi nhà. Giêsu là một trong những người đầu tiên trong thành phố làm việc đó để ra khỏi sự ngột ngạt u mê của các giờ mặt trời soi.
Các tông đồ không có vẻ cảm tình gì mấy với mệnh lệnh mà họ nhận được. Họ nhìn nhau và họ nhìn mặt trời vẫn còn không thể thương được. Họ rờ vào các bức tường của căn nhà vẫn còn nóng, và với bàn chân trần, họ thử trên đất và nói: “Nó nóng như viên gạch nung trong lò...” Và bởi tất cả những màn kịch câm này, họ có ý ám chỉ rằng: “Có điên mới lên đường...”
Giêsu hơi tách rời ra khỏi chiếc khung cửa mà Người đã hơi tì vào và nói: “Ai không muốn đi thì chỉ có việc đơn giản là ở lại. Thầy không bó buộc ai cả, nhưng Thầy không muốn rời bỏ miền này mà không nói”.
- Thưa Thầy... hình như Thầy?! Chúng con đi tất cả... Chỉ có điều... chúng con thấy còn quá sớm để đi đường...
- Trước lễ Lều, Thầy muốn đi về phía bắc, bởi vậy đường rất xa hơn, và là những con đường không thể dùng ghe thuyền. Bởi vậy bây giờ chúng ta phải bỏ miền này, nơi mà chiếc hồ giảm bớt cho chúng ta nhiều đường đất.
- Thầy có lý. Con đi sửa soạn thuyền bè... - Simon nói, và ông ra đi cùng với em ông và hai người con ông Zêbêđê, với cả vài môn đệ nữa để chuẩn bị cho việc khởi hành.
501
Giêsu ở lại với Zêlote, hai anh họ của Người, Mathêu, Iscariot, Tôma, và hai người bất khả phân ly Philíp và Batôlômêo. Họ sửa soạn giỏ xách, đổ đầy nước vào bình, mang theo bánh, trái cây, tất cả những thứ cần.
Một thằng bé gục vào đầu gối Giêsu và khóc. Người hỏi nó: “Alphê, tại sao con khóc?” Và Người cúi xuống để hôn nó...
Nó không nói gì, chỉ khóc to hơn. Iscariot khó chịu nói: “Nó đã nhìn thấy các trái cây, và nó muốn”.
- Ôi! Thằng bé tội nghiệp! Nó có lý. Có những điều không nên làm trước mắt trẻ con mà không cho nó một tí. Cầm lấy đi con, đừng khóc - Maria Alphê nói khi bà bẻ một chùm nho vàng ở một cành nho để trong rổ với cả lá và chùm còn dính lại với nhau.
- Con không muốn nho... - Và nó khóc to hơn.
- Vậy chắc chắn là nó muốn nước pha mật ong - Tôma nói trong khi giơ chiếc bình cho nó và nói: “Con nít thích thứ này và cũng bổ cho chúng. Mấy đứa cháu tôi cũng vậy”.
- Con không muốn nước của ông đâu... - Và nó rống lên the thé và mạnh hơn.
- Vậy mày muốn gì? - Juđa Alphê nói, nửa thương nửa giận.
- Hai cái bạt tai, đó là cái nó muốn! - Iscariot nói.
- Tại sao? Đứa bé tội nghiệp mà! - Mathêu hỏi.
- Bởi vì nó quấy rầy.
- Ôi! Nếu phải bạt tai tất cả những kẻ quấy rầy thì người ta phải bỏ cả đời ra để làm - Tôma nói cách rất bình tĩnh.
- Có lẽ nó không được khoẻ - Maria Salômê đang ở trong đám các môn đệ tuyên bố. “Từ trái cây đến nước, từ nước đến trái cây... Có thể nó khó chịu”.
- Và nó, sẽ là qúa nhiều nếu nó ăn bánh, uống nước, ăn trái cây... chúng rất nghèo! - Mathêu nói, vì với kinh nghiệm của nhân viên sở thuế, ông biết hết tình trạng tài chánh của Caphanaum.
- Bé, con làm sao? Con đau ở đây à?... Nhưng con đâu có sốt... - Maria Clêopha nói, bà qùi gối để gần với đứa trẻ.
- Ôi! Má ơi! Đó chỉ là cơn chướng!... Má không thấy sao? Má
502
làm hư tất cả chúng nó.
- Má đã không làm hư con, Juđa của má, nhưng má đã yêu con. Và con không thấy rằng má đã yêu con tới nỗi bảo vệ con chống lại sự khắt khe của ông Alphê sao?
- Đúng vậy đó má... Con lầm vì đã trách má.
- Con ơi, má không buồn gì. Nhưng nếu con muốn làm tông đồ thì hãy có tấm lòng người mẹ với các tín hữu. Con biết... họ giống như những đứa trẻ... Phải có sự kiên nhẫn và yêu thương đối với họ.
- Maria nói rất đúng - Giêsu xác nhận.
Judas Iscariot càu nhàu: “Sau cùng, chúng ta được giáo huấn bởi các bà, và có lẽ bởi cả dân ngoại...”
- Chắc chắn rồi. Các bà sẽ vượt xa các con nếu các con cứ ở lì tại chỗ các con đang ở. Và Judas, con thì còn hơn mọi người. Chắc chắn mọi người đều vượt xa con: các trẻ em, các người hành khất, các người ngu dốt, các phụ nữ, các dân ngoại...
- Thầy có thể nói rằng con là đứa con hư của thế giới. Nói như vậy lẹ hơn - Judas trả lời, và ông cười gượng.
- Những người khác đang trở về... và đây sẽ là giờ khởi hành phải không? - Batôlômêo nói để cắt đứt cái màn mà nhiều người khổ, mỗi người theo cách của mình.
Tiếng khóc của đứa bé đạt tới mức tối đa.
- Nhưng tóm lại là mày muốn gì? Mày làm sao? - Iscariot nói trong khi ông lắc đứa bé rất mạnh để lôi nó ra khỏi đầu gối Giêsu mà nó bám chặt vào, và nhất là để đổ cơn giận của ông trên đứa trẻ vô tội.
- Ở với Thầy! Ở với Thầy!... Thầy đi... thì các roi đòn sẽ mưa cách tàn nhẫn...
- A!... Ôi! Đứa trẻ tội nghiệp! Đúng vậy! Từ ngày bà tái kết hôn thì những đứa con với chồng trước của bà... giống như những ăn mày... tựa như chúng không được sinh ra bởi bà... Bà sai chúng nó đi hành khất... Ôi! Không cho bánh chúng nó... - Bà chủ nhà nói. Có vẻ bà hiểu hoàn cảnh và những người chịu trách nhiệm. Và bà nói để kết thúc: “Ba đứa trẻ này, phải có ai nhận chúng nó...”
503
- Bà ơi! Bà đừng nói với Simon Jonas nhé. Bà sẽ bị mẹ vợ ông ta ghét tới chết đó. Bà ta đụng chạm hơn bao giờ hết với ông ta và với tất cả chúng tôi. Mới ngay sáng nay, bà ta đã xổ ra từng tràng những ngạo mạn xấc xược với Phêrô và Margziam, và tôi cùng với họ... - Mathêu nói.
- Tôi sẽ không nói với Simon... nhưng như vậy đó...
- Và bà, sao bà không nhận chúng? Bà đâu có con... - Giêsu nói trong khi nhìn bà đăm đăm.
- Tôi... Ôi! Tôi cũng thích... Nhưng chúng tôi nghèo... Lại nữa... Tôma... ông có các cháu... tôi cũng vậy... và... và...
- Và nhất là bà không sẵn sàng làm ơn lành cho người đồng loại của bà... Bà ơi, hôm qua bà đã chỉ trích các pharisiêu ở đây là những người có con tim cay nghiệt, và các người thành phố thì như khó chịu vì lời Thầy... Nhưng bà, bà đã làm được điều gì khác, mà bà là người đã biết Thầy từ hơn hai năm nay rồi?...
Người đàn bà cúi đầu, vò quần áo, nhưng bà không nói lời nào để giúp cho đứa trẻ vẫn khóc.
Phêrô vào và nói: “Thưa Thầy, chúng con đã sẵn sàng. Có chuyện gì vậy?”
- Ôi! Một kẻ khốn khổ... và bị bách hại... - Giêsu thở dài, giơ tay lên làm một cử chỉ như nản lòng...
- Con ơi! - Maria nói để cổ võ cho Giêsu. Từ nãy tới giờ mẹ vẫn nín lặng. Bây giờ chỉ một lời này đã đủ để an ủi Giêsu.
- Các con hãy đi trước đi với các vật dụng. Thầy tới nhà đứa trẻ cùng với mẹ Thầy - Giêsu ra lệnh cho những người mới tới cũng như những người đã ở với Người, rồi Người đi với mẹ Người. Mẹ ẵm đứa bé trên cổ mẹ.
- Con ơi, con sẽ nói gì với bà ta?
- Má ơi, má muốn con nói gì với một người đàn bà không có tình yêu trong lòng dạ người mẹ của bà, cả với những kẻ đã sinh ra từ lòng bà?
- Con có lý... Vậy thì sao?
504
- Làm sao?... Má ơi, chúng ta hãy cầu nguyện.
Và họ vừa đi vừa cầu nguyện.
Một bà già hỏi họ: “Qúi vị đem Alphê về cho Méroba đấy à? Hãy nói với bà rằng đã tới lúc bà phải săn sóc chúng. Chắc chắn chúng sẽ trở thành các tên trộm cắp. Chúng tới đâu là chúng như cào cào ở đó... Nhưng tôi đòi hỏi điều đó ở chính bà chứ không phải ở nơi ba đứa trẻ tội nghiệp... Ôi! Cái chết nó bất công chừng nào! Jacob đã không thể sống, và bà ta có chết không? Thầy phải làm cho bà ta chết giống như vậy”.
- Bà ơi! Bà già thế mà bà còn chưa khôn ngoan sao? Bà nói những lời này trong khi bà có thể chết vào bất cứ giây phút nào. Thực vậy, bà cũng bất công như Méroba. Bà hãy thống hối và đừng phạm tội nữa.
- Xin Thầy tha... Tại lỗi của bà ta làm tôi nói bậy...
- Được, Thầy tha cho bà. Nhưng đừng bao giờ nói những lời này nữa, dù với chính bà. Không phải do sự nguyền rủa mà người ta sửa được những sai lầm, nhưng do tình yêu. Nếu Méroba chết thì số phận của các đứa trẻ có thay đổi không? Có lẽ người đàn ông góa sẽ lấy vợ nữa, và ông ta sẽ có những đứa con của chiếc giường thứ ba, và chúng thì có một mẹ ghẻ... Bởi vậy số phận của chúng sẽ nặng nề hơn nữa.
- Đúng vậy. Con là bà già ngu ngốc. Kìa, Méroba. Bà ta đã đang chửi rủa rồi... Con từ giã Thầy. Con không muốn cho bà ta nghĩ rằng con đã nói với Thầy về bà ta. Đó là con rắn độc.
Nhưng sự tò mò mạnh hơn sự sợ hãi “con rắn độc”, nên bà già nhỏ đứng cách Giêsu và Maria một quãng không xa lắm, bà cúi xuống để nhổ vài cây cỏ mọc ở vệ đường, bị ướt vì cái phông-ten ở gần đó. Bà cố ý nghe ngóng mà không để mình bị quan sát.
- Mày đấy à? Mày đã làm gì? Vào nhà ngay! Lúc nào cũng ở ngoài đường như những con vật hoang, như con chó không chủ, như...
- Như đứa trẻ không mẹ! Bà ơi! Bà biết rằng một bằng cớ xấu đối với một bà mẹ, là các con bà không ở bên áo bà.
505
- Bởi vì chúng dữ tợn...
- Không. Thầy đã đến đây từ ba mươi tháng. Trước đây, khi Jacob còn sống, và khi bà mới góa được ít tháng thì đâu có như vầy. Rồi bà tái hôn... và cùng với kỷ niệm về hôn nhân thứ nhất, bà mất cả kỷ niệm về các con bà. Nhưng có gì khác nhau giữa chúng và đứa đang chín trong bụng bà? Bà đã chẳng mang những đứa này giống như vậy sao? Hay có lẽ bà đã không cho chúng bú sữa? Hãy nhìn con bồ câu kia... nó săn sóc con nó chừng nào, dù nó đang ấp đợt trứng khác... Hãy nhìn con cừu này: nó không còn cho các con chiên nó đã mang lứa trước bú, vì nó đã mang một lứa khác, nhưng coi, nó liếm mũi chúng, và nó để cho các con chiên đầy sức sống húc vào sườn nó. Bà không trả lời Thầy sao? Bà có cầu nguyện với Chúa không?
- Chắc chắn là có. Tôi đâu phải dân ngoại...
- Vậy làm sao bà có thể nói với Chúa là Đấng Công Chính nếu bà bất công? Làm sao bà có thể tới giáo đường để nghe đọc các rulô là những cái nói về tình yêu Thiên Chúa đối với con cái Người mà không cảm thấy hối hận trong lòng? Tại sao bà yên lặng trong thái độ ngạo mạn như vậy?
- Bởi vì tôi đâu có xin lời ông... Tôi không biết tại sao ông đến làm rộn tôi... và tình trạng của tôi đáng được sự kính trọng...
- Còn tình trạng của tâm hồn bà thì không? Tại sao bà không kính trọng các quyền lợi của tâm hồn bà? Thầy biết điều bà muốn nói với Thầy là: sự tức giận có thể làm nguy hiểm cho mạng sống của đứa trẻ sắp sinh... Nhưng về mạng sống của linh hồn bà thì bà không lo lắng gì sao? Nó rất cao qúi hơn mạng sống đứa sắp sinh ra... Bà biết... Tình trạng của bà có thể kết thúc bằng cái chết. Chẳng lẽ bà muốn đương đầu với giờ này với một tâm hồn lo âu, bệnh hoạn, bất chính?
- Chồng tôi nói rằng ông là người không nên nghe. Tôi không nghe ông đâu. Lại đây Alphê... - Và bà làm dấu hiệu trở vào nhà giữa tiếng kêu của đứa trẻ, vì nó biết rằng nó sẽ đi gặp những cái roi, và nó không muốn rời cánh tay của Maria. Maria thở dài, mẹ
506
tìm cách thuyết phục bà, mẹ nói: “Tôi cũng là người mẹ, tôi có thể hiểu nhiều điều. Và tôi là đàn bà... Vì vậy tôi hiểu các bà. Bà đã có một thời kỳ không tốt phải không? Bà đau khổ và bà không biết chịu đựng... và bà trở nên chua chát... Bà chị của tôi này! Bà nghe tôi nhé: Nếu bây giờ tôi để thằng bé Alphê lại đây cho bà, bà sẽ bất công với nó và với chính mình bà. Vậy hãy để nó ở với tôi vài ngày. Ôi! Chỉ vài ngày thôi. Bà sẽ thấy khi bà không còn nó nữa, bà sẽ mong ước nó... bởi vì một đứa con là một cái gì rất êm đềm, và khi nó xa lìa chúng ta, chúng ta sẽ cảm thấy khổ sở, giá lạnh, không ánh sáng...”
- Nhưng hãy giữ lấy nó đi! Hãy giữ lấy nó. Chớ gì bà có thể lấy cả hai đứa kia! Nhưng tôi không biết chúng đang ở đâu...
- Ờ, tôi giữ nó. Chào bà. Đi, Giêsu - Và Maria quay lưng, ra đi mau lẹ trong tiếng nấc.
- Má ơi! Đừng khóc.
- Con ơi! Đừng xét xử bà...
Hai câu nói giao nhau, cả hai đều đầy tình thương. Rồi trong một tư tưởng duy nhất, các cặp môi mở ra với cùng một lời: “Nếu họ không hiểu tình yêu tự nhiên, thì có bao giờ họ hiểu được tình yêu trong Tin Mừng không?” Và họ nhìn nhau. Người con này và người mẹ này nhìn nhau qua bên trên cái đầu nhỏ của kẻ vô tội, bây giờ sung sướng nép mình trong cánh tay Maria...
- Má à, chúng ta sắp có một môn đệ nữa ngoài sự tiên đoán.
- Và nó sẽ được những ngày bình an...
- Qúi vị đã thấy, hen? - bà già nhỏ nói với họ: “Bà ta điếc, điếc như cái chũm chọe thủng... Tôi đã nói mà! Rồi bây giờ? Và sau này?”
- Rồi bây giờ thì bình an. Và sau này thì xin Thiên Chúa lo cho có con tim nào biết thương. Tại sao không phải là con tim bà? Một ly nước cho vì tình yêu cũng được tính tới ở trên Trời. Nhưng kẻ nào giúp đỡ một trẻ vô tội vì tình yêu đối với Thầy... Ôi! Phúc chừng nào cho kẻ yêu các trẻ nhỏ và cứu nó khỏi điều xấu!...
Bà già nhỏ trầm ngâm... Giêsu tiến bước theo một con đường tắt
507
dẫn ra bờ hồ. Khi tới nơi, Người ẵm lấy đứa nhỏ trong tay Maria để mẹ lên ghe dễ dàng. Người giơ cao đứa nhỏ lên hết sức Người để trưng bày nó, và với nụ cười sáng sủa, Người bảo những người đã ở trên thuyền: “Coi đây. Chắc chắn lần này chúng ta sẽ có một kỳ thuyết giáo kết qủa, vì chúng ta có một kẻ vô tội ở với chúng ta”. Rồi một cách vững vàng, Người bước lên chiếc cầu làm nó hơi nhún, Người vào trong thuyền và ngồi bên mẹ Người trong khi chiếc thuyền rời bến và quay mũi về hướng đông nam, hướng của Ippo.
142* TẠI THỊ TRẤN NHỎ
Ở TRƯỚC IPPO
Ippo không ở bờ hồ như tôi nghĩ khi tôi nhìn thấy những ngôi nhà ở trên bờ tại chỗ hầu như giới hạn phía đông nam của chiếc hồ. Các câu nói của các môn đệ làm tôi lưu ý tới nó. Nhóm các căn nhà này, tôi cho là “tiền phong” của Ippo. Thành phố ở vào sâu hơn trong đất liền. Cũng giống như Ostie đối với Rôma hay Lido đối với Venise, nhóm những căn nhà này tượng trưng cho việc tuôn ra hồ của một thành phố ở bên trong. Nó được dùng như con đường ở bờ hồ cho việc xuất nhập hàng hóa, và cũng để rút ngắn các cuộc hành trình từ miền này tới bờ đối diện của biển Galilê. Sau cùng, nó là nơi dạo mát của các kẻ nhàn cư trong thành phố, và là nơi cung cấp cá do một số lớn dân chài của thị trấn bắt được.
Trong buổi chiều yên tĩnh, họ lên bờ gần chiếc cảng thiên nhiên tạo thành bởi lòng một con suối đã khô vào lúc này, và là chỗ, cách đó mấy mét, làn nước xanh biếc của hồ chảy tới mà nước suối không đẩy lui được nữa. Ở đó có những căn nhà và các chòi của các ngư phủ khai khẩn miền nước nhiều cá này, và những người trồng rau chăm bón một dải đất mầu mỡ và ẩm ướt. Được tưới bởi dòng nước ở ngay bên, dải đất chạy từ trong ra phía bờ hồ, trải ra về phía bắc hơn là phía nam. Nó chấm dứt gọn tại đỉnh cao, chỗ nó bắt đầu xuống dốc hầu như thẳng đứng để đổ vào hồ, tại ngay nơi mà đàn heo trong phép lạ của hai người Gérasa đã nhào xuống.
508
Vào giờ này, người dân đang ở trên sân thượng hay ngoài vườn để ăn bữa chiều. Nhưng các khu vườn thường có hàng rào cây thấp, các sân thượng cũng chỉ có bức tường nhỏ bao quanh, nên người ta nhìn thấy đoàn thuyền nhỏ ghé vào cảng. Người thì vì tò mò, người thì vì họ đã biết các đấng, họ liền đứng dậy và ra gặp các người mới tới.
Một người dân chài tuyên bố: “Đó là thuyền của Simon Jonas và thuyền của Zêbêđê. Vậy có lẽ là vị Rabbi tới đây với các môn đệ của Người”.
- Bà ơi! Ẵm con và đi theo tôi ngay. Chắc là Người, Người sẽ chữa cho nó. Đó là thiên thần của Thiên Chúa đã dẫn Người tới cho chúng ta. - Một người trồng rau ra lệnh cho vợ ông. Mặt bà đỏ gay vì nước mắt.
- Tôi, đối với tôi thì tôi tin. Tôi còn nhớ phép lạ đó: tất cả đàn heo! Các con heo xuống nước để dập tắt lửa của ma qủi đã vào trong chúng... Chắc chắn chúng bị hành hạ bứt rứt lắm nên các con vật này, vốn tính ghét sự sạch sẽ, mà cũng nhảy xuống nước hết... - Một người đàn ông vừa chạy vừa nói để tuyên truyền cho ông thầy.
- Ôi! Anh đã nói đúng! Chắc chắn là bứt rứt lắm. Tôi cũng đã ở đó và tôi nhớ: các thây sủi bọt, các dòng nước sủi bọt. Chiếc hồ trở nên nóng hơn là nước ở Hamatha. Và ở những chỗ chúng chạy qua thì cây và cỏ vẫn còn bị cháy rụi.
- Tôi, tôi đã tới đó, nhưng tôi chả thấy có gì thay đổi... - Một người thứ ba nói.
- Không gì sao? Vậy là anh có vảy ở trong mắt rồi! Nhìn kìa! Ngay từ đây cũng thấy rõ. Anh thấy chỗ đó, chỗ suối nước đã khô. Hãy lại gần đó mà coi, và hãy biết rằng nếu...
- Nhưng không phải đâu. Đó là do người ta phá. Đó là do các lính Rôma đã làm khi họ đi tìm tên dâm đãng đó trong những đêm lạnh của tháng Tébeth. Họ đã dựng lều ở đó và đốt lửa.
- Họ đốt tất cả một cái rừng để sưởi à? Anh coi, chỗ đó bị mất bao nhiêu là cây!
509
- Một cái rừng! Chỉ có hai ba cây sồi!
- Và anh thấy vậy là ít sao?
- Không. Nhưng người ta biết! Chúng làm những cái kiệu bằng những thứ thuộc về chúng ta. Chúng là chủ, chúng ta là những người bị áp bức. A! Cho tới bao giờ... - Và cuộc tranh luận chuyển từ lãnh vực tôn giáo qua lãnh vực chính trị.
- Ai làm ơn dắt tôi đến với vị Rabbi với! Xin thương một người mù! Xin chỉ cho tôi Người ở chỗ nào. Tôi đã đi tìm Người ở Jêrusalem, ở Nazarét, ở Caphanaum. Người luôn luôn đi khỏi đó trước khi tôi tới... Người ở đâu? Ôi! Xin thương tôi! - Đó là một người đàn ông độ bốn mươi tuổi, ông vừa than vừa rờ rẫm chung quanh ông bằng một cái gậy.
Ông ta nhận được lời nguyền rủa của những kẻ bị chiếc gậy của ông thọc vào chân hay đụng vào vai, nhưng không ai thương xót. Tất cả đều xô ông ra để đi qua. Không một bàn tay nào giơ ra để dắt ông. Người mù tội nghiệp dừng lại, sợ hãi và thất vọng.
- Vị Rabbi! Vị Rabbi! Ah- Ah, Người lê ê ê!... (Tôi cố gắng để lời vào cho tiếng kêu này của một người đàn bà, nó re ré và uốn éo. Đó là tiếng kêu chứ không phải tiếng nói! Nó nhắc tôi nhớ tới tiếng kêu của một số loại chim).
- Người sẽ chúc phúc cho con cái chúng ta!
- Lời Người sẽ làm cho cái qủa tôi đang mang trong bụng nhảy mừng. Con ơi! Vui lên! Vị Cứu Tinh nói với con! - một bà vợ bộ dạng hớn hở nói trong khi vuốt ve cái bụng của bà, căng tròn dưới chiếc áo rộng.
- Ôi! Có lẽ Người sẽ làm cho cái bụng tôi sinh trái. Điều đó sẽ là niềm vui và bình an giữa tôi và Êlisê. Tôi đã đến hết mọi nơi mà người ta nói có một người đàn bà được ơn mang thai. Tôi đã uống nước giếng ở gần mộ của Rakel và tại cái suối nơi mẹ bà đã sinh bà... Tôi đã đi Hébron để ở tại nơi ông Tẩy Giả sinh ra trong ba ngày... Tôi đã ăn trái cây sồi của Abraham. Tôi đã khóc lóc để khẩn nài Abel tại nơi ông sinh ra và bị giết... Tất cả mọi đồ thánh, tất cả mọi thứ lạ lùng ở dưới đất và ở trên trời, tôi đều đã thử. Và cả thầy
510
thuốc và các phương dược, các lời khấn, các lời cầu nguyện, các của lễ... Nhưng bụng tôi không mở ra cho hạt giống. Thật là tội cho Êlisê phải chịu đựng tôi! Chỉ được cái ông không ghét tôi!!! Than ôi! - người đàn bà đã có vẻ tàn tạ than thở.
- Sella ơi! Bà già qúa rồi, rán chịu vậy thôi - Một người đàn bà nói với một chút thương hại pha lẫn khinh bỉ, và với bộ điệu chiến thắng rõ rệt vì cặp vú căng tròn của bà do chức làm mẹ, hay vì những đứa trẻ mà bà cho bú tại cặp vú tươi mát của bà.
- Không. Đừng nói vậy. Người đã làm cho kẻ chết sống lại! Người lại không thể ban đời sống cho lòng dạ tôi sao?
- Tránh chỗ! Tránh chỗ! Hãy nhường chỗ cho một bà mẹ bệnh tật - một người thanh niên kêu. Anh ta khênh ở một đầu của chiếc băng ca, đầu kia được đỡ bởi một người con gái có vẻ rất khổ sở. Trên băng ca có một đàn bà còn trẻ, nhưng chỉ còn có xương được bọc bằng lớp da vàng khè.
- Phải nói với Người về ông Gioan tội nghiệp nữa. Chỉ cho Người chỗ ẩn của ông. Đó là kẻ khốn nạn hơn tất cả, vì ông cùi, ông không thể đến tìm Người được - một ông già có vẻ có ảnh hưởng nói.
- Chúng ta trước tiên! Chúng ta trước tiên! Nếu Người đi Ippo là hết. Các người thành phố sẽ độc chiếm lấy Người, thế là chúng ta, cũng như mọi lần, chúng ta chỉ còn cách theo đuôi họ.
- Nhưng có chuyện gì ở đàng kia? Tại sao các bà la hét dữ vậy, ở trên bờ hồ?
- Bởi vì các bà điên!
- Không. Đó là tiếng kêu vui. Ta chạy tới coi...
Con đường trở thành một dòng sông người chảy về phía bờ hồ và miệng suối, nơi Giêsu và các người của Ngài bị chận lại bởi những người chạy tới trước tiên.
- Phép lạ! Phép lạ! Con trai của Êlise, các thầy thuốc đã chê, nó đó, nó được khỏi rồi. Vị Rabbi đã chữa nó bằng cách bôi nước miếng Người vào cổ họng nó.
Các tiếng kêu của phụ nữ càng trở nên bắc và inh ỏi hơn, pha
511
lẫn với tiếng kêu Hosanna rất mạnh của nam giới.
Giêsu hoàn toàn bị chèn ép, mặc dầu khổ người cao lớn của Người. Các tông đồ cố gắng bằng mọi cách để giải thoát cho Người. A! Đúng lắm! Các bà môn đệ với Maria ở giữa đã bị tách rời với nhóm các tông đồ. Đứa trẻ ở trong tay Maria Alphê khóc vì sợ. Tiếng khóc của nó lôi kéo nhiều người chú ý tới các bà, và một người được thông tin chính xác nói: “Ôi! Có cả bà mẹ vị Rabbi và mẹ của các môn đệ!...”
- Các bà nào? Bà nào?
- Bà mẹ là bà tái mét và tóc vàng, mặc áo vải gai. Những bà khác thì già hơn, trong đó có một bà ẵm một đứa bé trong tay, và một bà đội một cái thúng trên đầu.
- Còn đứa bé là đứa nào vậy?
- Một đứa con trai, hen! Qúi vị không nghe nó gọi bà ta là má sao?
- Con trai của ai? Của bà già hơn sao? Không thể được.
- Của bà trẻ hơn chứ! Anh thấy là nó muốn lại với bà đó!
- Không. Vị Rabbi không có em trai. Tôi biết điều đó từ một nguồn tin chắc chắn.
Các phụ nữ đã nghe được các đàm thoại, nên trong khi Giêsu, sau bao vất vả mới thoát ra được, và thành công đi lại chiếc băng ca được khênh bởi hai người con để chữa cho người bệnh, họ tò mò đi lại với Maria.
Nhưng một người trong số các bà thì không phải vì tò mò. Bà qùi phục dưới chân Maria và nói: “Nhân danh chức làm mẹ của mẹ, xin thương con!” Đó là người đàn bà son sẻ.
Maria cúi xuống nói với bà: “Bà chị ơi, bà muốn gì?”
- Làm mẹ... một đứa con!... chỉ một đứa thôi!... Con bị ghét vì son sẻ. Con tin rằng con mẹ có thể tất cả. Nhưng đức tin của con lớn tới nỗi con nghĩ rằng vì Người đã sinh ra bởi mẹ, thì Người cũng làm cho mẹ thánh và mạnh mẽ như Người. Bây giờ con xin mẹ... Vì hạnh phúc được làm mẹ của mẹ, xin mẹ làm cho con sinh sản. Xin hãy lấy tay mẹ đụng vào con, và con sẽ được sung sướng...
512
- Bà ơi! Đức tin của bà lớn lao. Nhưng phải để việc đó cho đấng có quyền: cho Thiên Chúa. Vậy hãy đến với Giêsu của tôi... - Và mẹ cầm tay bà và khẩn nài người ta để cho mẹ đến với Giêsu.
Các môn đệ khác cũng đi theo mẹ trong cái dòng người mở ra, các phụ nữ đã đến với Maria cũng vậy. Trong khi bước, các bà hỏi Maria Alphê về đứa trẻ mà bà giơ cao lên bên trên đám đông, cho biết nó là ai.
- Một đứa trẻ mà mẹ nó không yêu nó nữa. Nó đến tìm tình yêu nơi vị Rabbi.
- Một đứa trẻ mà mẹ nó không yêu nữa!?!
- Chị có nghe không Suzane?
- Ai là con linh cẩu đó vậy?
- Trời! Tôi, tôi nôn nóng đến bốc cháy muốn có một đứa. Cho đi, cho tôi đi, để có một đứa trẻ hôn tôi, ít nhất là một lần! - Và Sella, người đàn bà son, có thể nói là bà giật lấy đứa trẻ trong tay Maria Alphê, ghì nó vào ngực trong khi tìm cách đi theo Maria. Vì khi bà giơ tay ẵm đứa trẻ thì bà bị rời khỏi Maria.
- Nghe này Giêsu! Có một người đàn bà xin một ơn. Bà ta son sẻ...
- Bà ơi! Bà đừng làm phiền Thầy cho bà ta. Bụng dạ bà ta đã chết rồi - một người đàn ông nói mà ông không biết rằng ông nói với Mẹ Thiên Chúa. Một người cảnh cáo ông, ông liền bối rối vì sự sai lầm của ông và ông thụt xuống, tự làm cho mình trở nên bé nhỏ để biến đi trong khi Giêsu trả lời cho ông và cho người đàn bà năn nỉ. Người nói: “Thầy là Sự Sống. Bà ơi! Cho bà được điều bà xin”.
- Giêsu, con vua Đavít, xin thương con! - người mù lúc nãy kêu lên. Ông ta đã từ từ tới gần đám đông, ở sau lưng họ và phóng ra lời kêu.
Lúc đó Giêsu đang cúi xuống nghe lời năn nỉ của Sella, Người liền ngẩng đầu lên, nhìn về phía vang ra tiếng nói của người mù, giật ngắt như tiếng người đang chết chìm. Người kêu lên:
- Con muốn ta làm gì cho con?
- Cho con thấy. Con ở trong tối tăm.
513
- Ta là Ánh Sáng. Ta muốn điều đó.
- A! Tôi thấy! Tôi thấy! Tôi lại thấy. Xin để cho tôi đi qua để tôi hôn chân Chúa của tôi!
- Thưa Thầy, Thầy đã chữa hết mọi người ở đây. Nhưng có một người cùi ở trong một cái lều ở trong rừng. Anh ta không ngừng xin dẫn Thầy đến cho anh ta...
- Chúng ta đi! Chúng ta đi! Xin để cho Thầy đi! Đừng làm đau cho nhau. Thầy ở đây cho hết mọi người. Nào! Tránh chỗ đi. Các con làm đau cho phụ nữ và trẻ em... Thầy chưa đi ngay đâu. Thầy ở lại tới ngày mai. Rồi sau đó Thầy ở lại trong miền này năm ngày. Các con có thể theo Thầy, nếu các con muốn...
Giêsu tìm cách làm cho sự ồn ào vào kỷ luật, để những người dân được hưởng sự hiện diện của Người không làm đau cho nhau. Nhưng đám đông giống như một chất nhão, nó di chuyển, nhưng nó trở lại ngay và vây chặt lấy Người. Giống như tuyết lở, bởi định luật tự nhiên, càng di chuyển thì càng lớn phình ra; giống như vụn sắt bị nam châm hút. Bước đi rất chậm chạp, vướng víu và mệt... Mọi người đều chảy mồ hôi. Các tông đồ la hét, húc cùi chỏ vào các lồng ngực, đá vào các cẳng chân để mở đường... Những cố gắng vô ích! Để đi được mười mét thì phải mất một khắc đồng hồ.
Một người đàn bà khoảng bốn mươi tuổi, nhờ vào sức mạnh kiên gan, đã thành công len lỏi tới tận Giêsu và đụng vào cùi chỏ Người:
- Bà muốn gì?
- Đứa trẻ này... Con đã nghe biết... Con góa và không có con... Xin Thầy nhớ đến con. Con là Sara người Afêca, góa phụ của người bán chén bát. Xin Thầy nhớ nhé. Con có nhà ở gần công viên phôngten đỏ, nhưng con cũng có các vườn nho và một cái rừng. Con có cái gì để biếu cho ai cô đơn... Và con sẽ sung sướng.
- Bà ơi, Thầy sẽ nhớ. Nguyện cho tình thương của bà được chúc phúc.
Ngôi làng ở song song thì đúng hơn là thẳng góc với bờ hồ, nên người ta băng qua mau chóng để vào miền quê. Nó đón nhận họ
514
vào lúc mặt trời lặn nhưng không tối, vì ánh trăng thanh nối tiếp vào ánh sáng hoàng hôn hầu như không nhận ra.
Họ đi về phía dẫy núi nằm ngang, nơi bờ hồ dốc đứng về phía nam của hồ. Trong chỗ vách cheo leo có một hang đá. Tôi không biết đó là hang tự nhiên hay do người ta đào vào trong đá. Ở bên ngoài có nhiều mảnh tường trắng, chắc đó là các nấm mộ.
- Chúng ta đã ở đây rồi. Hãy dừng lại để khỏi bị nhiễm uế. Chúng ta ở gần nấm mộ của người sống, và đây là giờ ông ra tảng đá này để lấy những gì người ta cho ông. Thầy biết không? Ông rất giầu. Chúng con nhớ lắm. Ông cũng rất tốt. Nhưng bây giờ ông là một vị thánh. Sự đau đớn càng dằn vặt, ông càng trở nên công chính. Chúng con không biết ông ta bị cùi như thế nào. Người ta nói rằng tại các người hành hương mà ông ta cho trọ. Họ nói họ đi Jêrusalem và họ có vẻ lành lặn, nhưng chắc chắn là họ đã bị cùi, sự kiện là sau khi họ đi thì gia đình ông bị nhiễm cùi: Trước tiên là bà vợ và các đầy tớ, rồi đến các đứa con, sau cùng là ông. Tất cả. Bắt đầu là bị ở tay vì đã rửa chân và giặt quần áo cho người hành hương. Vì vậy chúng con nói họ là nguyên nhân của tất cả. Các đứa trẻ, ba đứa, chết sau một thời gian ngắn, rồi đến bà mẹ, chết vì đau đớn hơn là vì bệnh... Ông ta... Khi thầy cả tuyên bố là tất cả đều bị cùi, ông đã mua cái góc quả đồi này bằng những của cải đã trở thành vô ích, ông cho để ở đó những thứ cần thiết cho ông và các người của ông, kể cả các đầy tớ... Rồi với búa chim, ông bắt đầu đào các nấm mộ... Và người nọ sau người kia, ông đặt tất cả họ ở đó: con cái, vợ và các đầy tớ... Chỉ còn lại ông, một mình và nghèo, vì với thời gian, tất cả đều cạn kiệt... Và đó, việc đã kéo dài mười lăm năm rồi, nhưng... không bao giờ phàn nàn. Và ông thông thái: ông đọc kinh thánh thuộc lòng. Ông đọc kinh thánh cho tinh tú, cây, cỏ, chim chóc. Ông đọc với chúng con là những kẻ đã học được biết bao nơi ông. Và ông yên ủi sự đau khổ của chúng con... Thầy hiểu không? Ông an ủi sự đau khổ của chúng con. Có những người từ Ippo, từ Gamala, và cả tận Gerghesa và Afêca đến để nghe ông nói. Khi ông nghe nói về phép lạ cho hai người bị ám... Ôi! Ông bắt đầu rao giảng đức tin vào Thầy. Chúa ơi, nếu người ta chào Thầy là
515
Đức Messi, nếu các phụ nữ chào Thầy như Đấng Toàn Thắng và là Vua; nếu bầy trẻ của chúng con biết tên Thầy và biết Thầy là Đấng Thánh của Israel... thì chính là nhờ người cùi tội nghiệp này - người già trước đó đã nói về Gioan kể những điều này nhân danh tất cả.
- Thầy có chữa cho ông ta không? - nhiều người hỏi.
- Các con còn hỏi? Thầy thương người tội lỗi thì Thầy sẽ thế nào
với kẻ công chính? Nhưng có lẽ ông ta đang tới, ở đàng kia, giữa các bụi rậm...
- Chắc chắn là ông ta. Nhưng Chúa ơi, Thầy sáng mắt qúa! Chúng con nghe tiếng động, nhưng chả nhìn thấy gì cả...
Mọi tiếng động đều ngừng. Tất cả đều nín lặng và chờ đợi...
Giêsu rất dễ được nhìn thấy, vì Người một mình, hơi ở đàng trước, và Người đã đi tới chỗ tảng đá để đồ ăn. Những người khác ở dưới bóng của các cây, khuất sau các thân cây và các bụi rậm. Cả các trẻ em cũng yên lặng, hoặc chúng đã ngủ trong tay mẹ, hoặc chúng sợ vì cảnh tĩnh mịch, vì các nấm mồ, vì các bóng kỳ dị tạo ra bởi ánh trăng soi trên cây cối và núi đá.
Nhưng từ chỗ ẩn, chắc chắn người cùi đã nhìn thấy rõ ràng thân mình cao, oai nghiêm của Chúa, rất đẹp, toàn trắng dưới ánh trăng. Chắc chắn cái nhìn mệt mỏi của người cùi đã gặp cái nhìn rạng rỡ của Giêsu. Ngôn ngữ nào đã phát ra rừ đôi mắt Thiên Chúa, mở tròn, sáng rực như các vì sao? Tiếng nói nào đã phát ra từ cặp môi hé mở trong nụ cười tình yêu? Tiếng nói nào là của trái tim, nhất là trái tim Đức Kitô? Bí nhiệm. Một trong vô số bí nhiệm giữa Thiên Chúa và linh hồn trong những liên lạc thiêng liêng. Chắc chắn là người cùi đã hiểu, vì ông kêu lên: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa! Đây là đấng đến để chữa lành mọi đau khổ của trần gian! Giêsu, Đấng Messi đáng chúc tụng, Vua của chúng con, Vị Cứu Tinh của chúng con! Xin thương con!”
- Ông muốn gì? Làm sao ông có thể tin vào một người không biết và nhìn thấy người đó là Đấng Thiên Hạ Đợi Trông? Ta là ai đối với ông? Người không quen biết...
- Không. Ngài là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Làm sao con biết
516
Ngài và thấy Ngài? Con không biết. Ở đây, trong nội tâm của con, có một tiếng kêu: “Đây là Đấng Trông Đợi! Người đến để thưởng cho lòng tin của ngươi”. Người không quen biết ư ? Đúng, không ai biết dung nhan Thiên Chúa. Vậy Ngài là “Người không quen biết” dưới diện mạo bề ngoài. Nhưng Ngài là người quen biết bởi bản tính của Ngài và sự thực của Ngài: Giêsu, Con Chúa Cha, Ngôi Lời Nhập Thể và là Thiên Chúa như Chúa Cha. Đó, Ngài là vậy, và con chào Ngài, con cầu xin Ngài, con tin Ngài.
- Nhưng nếu Ta không thể làm gì được, nếu lòng tin của ông bị thất vọng?
- Con sẽ nói rằng đó là ý muốn của Đấng Tối Cao, và con tiếp tục tin, yêu và luôn luôn hy vọng nơi Chúa.
Giêsu quay lại đám đông đang chăm chú nghe cuộc đối thoại, và Người nói: “Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng người này có một đức tin có thể rời núi. Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng Đức Ái thực, Đức Tin thực và Sự Trông Cậy thực, được chứng tỏ trong đau thương hơn là trong niềm vui. Vì sự vui mừng qúa mức đôi khi là sự hư hỏng đối với một tâm hồn chưa được đào tạo. Thật dễ dàng để tin và để sống tốt nếu đời sống là một chuỗi những ngày, nếu không được vui tươi thì cũng đều hòa, bình an. Nhưng kẻ biết kiên trì trong Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến cả khi bệnh hoạn, nghèo nàn, chết chóc, với những bất hạnh đưa tới cô đơn, bị bỏ rơi, bị đẩy xa mọi người, mà vẫn chỉ biết nói: “Nguyện cho nên trọn mọi sự Đấng Tối Cao cho là tốt cho tôi”. Thực vậy, người như vậy, chẳng những xứng đáng sự cứu giúp của Thiên Chúa, nhưng Thầy còn bảo các con rằng chỗ của họ đã hoàn toàn sẵn sàng trên Nước Trời, và họ sẽ không biết tới sự chờ đợi trong luyện ngục, vì sự công chính của họ đã hủy bỏ mọi nợ nần của cuộc đời qúa khứ. Ông ơi, Thầy bảo ông: “Hãy đi bình an, vì Thiên Chúa ở với ông”. Khi nói như vậy, Người quay lại, giơ tay về phía người cùi, có thể nói Người lôi kéo ông bằng cử chỉ của Người. Khi ông đã tiến lại gần, nhìn thấy rõ, Người ra lệnh: “Ta muốn, hãy nên sạch”. Và tựa như vầng trăng đã dùng các tia sáng bạc của nó để
517
lau quét đi hết các ung nhọt, các vết thương, các cục u, các lớp vảy của chứng bệnh ghê rợn.
Cơ thể được xây dựng lại, trở nên lành lặn. Đó là một ông già khả kính, dáng điệu khổ hạnh trong vẻ gầy. Vừa biết được phép lạ, đám đông hô lên những Hosanna trong lúc ông già cúi xuống hôn đất, vì chưa được động tới Giêsu hay bất kỳ ai trước lúc lề luật ấn định.
- Đứng dậy đi. Người ta sẽ mang tới cho ông bộ đồ sạch sẽ để ông có thể đến trước mặt thầy cả. Hãy luôn luôn biết bước đi trong sự trong sạch của tâm hồn trước mặt Thiên Chúa của ông. Chào ông. Bình an cho ông.
Giêsu trở lại hợp với đám đông, từ từ trở về làng để nghỉ ngơi.
143* THUYẾT GIÁO LÚC SỚM MAI
TẠI THỊ TRẤN NHỎ TRÊN BỜ HỒ
Đây là buổi sáng mát mẻ khi người ta chờ Giêsu ra khỏi một căn nhà của thị trấn tại bờ hồ để bắt đầu thuyết giáo.
Tôi tin rằng dân chúng đã ngủ rất ít trong đêm vừa qua: cảm động về những phép lạ chiều hôm qua, niềm vui có Đức Messi ở giữa họ, và cái ý muốn không để mất một phút nào về sự hiện diện của Người. Giấc ngủ tới thật muộn vì những đàm thoại kéo dài ở bên trong các nhà để tổng lược các biến cố, để nghiệm xét xem thần trí của ai có thiên tư về đức tin này, về đức cậy này, về đức mến này, để kiên trì trong mọi biến cố nặng nề mà ông thầy đã ca ngợi và chỉ cho như một phương tiện chắc chắn để được ơn huệ của Thiên Chúa ở đời này và đời sau. Các người dân mau mắn ra khỏi nhà họ, sợ rằng Thầy có thể ra đường và đi khỏi từ sáng sớm mà mình không được tham dự vào lúc khởi hành của Người. Chính vì vậy mà các căn nhà mở ra mau lẹ để đổ ra đường các người dân, ngạc nhiên vì gặp nhau đông đảo như vậy. Tất cả đều hiện diện, bị kích thích bởi cùng một tư tưởng, nói với nhau: “Qủa đây là lần đầu
518
tiên mà cùng một tư tưởng kích thích con tim chúng ta và liên kết chúng lại”. Và với một tình bạn mới, tốt lành, huynh đệ, tất cả họ đều cùng một lòng hướng về căn nhà nơi Giêsu ở trọ và họ ngồi chờ Người ở đó, không ồn ào, không bất nhẫn, nhưng không mệt mỏi, nhất quyết đi theo Thầy ngay khi Người bước ra đường.
Nhiều người trồng rau đã hái trong vườn của họ những trái cây còn phủ đầy sương. Họ để ở nơi khuất mặt trời đang mọc, nơi không có bụi bặm, ruồi bọ, dưới lớp lá nho tươi hay những lá sung lớn mà các khe hở còn để cho thấy những trái táo mầu hồng như được vẽ bởi một họa sĩ tỉ mỉ; những trái nho mầu hổ phách hay mầu mã não, hay những cái bụng tế nhị của các trái sung đủ loại. Có thứ thì ẩn trong lớp da mềm mỏng hơi nhăn, bao bọc lớp cơm ngọt như mật. Có thứ thì căng tròn, bóng như vải lụa được ủi kỹ; có thứ thì mỉm cười lộ ra những thớ thịt mầu vàng, hồng, hay đỏ thẫm, tùy loại. Các dân chài thì mang theo cá trong những giỏ nhỏ, chắc chắn họ vừa chài được trong đêm, vì một số còn sống, hổn hển trong những hơi thở sau cùng và những co giật của cơn hấp hối, làm sáng lên trong những dẫy dụa yếu ớt của hơi thở sau cùng, các mầu bạc hay phớt xanh của bụng và lưng, được đặt nằm trên lớp lá liễu hay lá bạch dương xanh.
Cái hồ có mầu sữa tế nhị về đêm đã bị rạng đông biến đổi khi đêm rút lui, rất trong, tôi nói là thần linh, tựa như trầm ngâm, vì các dợn sóng đi vào bãi rất nhẩn nha với tiếng rì rào êm nhẹ khi nó len vào giữa các tảng đá. Bây giờ nó có mầu vui tươi, nhân loại hơn, mầu thịt hồng của bình minh, nhuộm đỏ nước bằng những tia phản chiếu đầu tiên của các đám mây hồng trên mặt hồ. Nó trở nên xanh biếc dưới ánh sáng trực tiếp của bình minh. Nó bắt đầu sống, phập phồng với những con sóng nhỏ, chạy vui vẻ, sủi bọt trên bãi, hoặc trở ra, đụng vào các sóng khác, trang điểm cho mặt gương của chiếc hồ một lớp lăn tăn trắng bạc, trải ra trên tấm lụa xanh lam nhạt của làn nước với cơn gió nhẹ ban mai phớt qua. Rồi đến những tia đầu tiên của mặt trời chém xuống nước ở đàng kia, về phía Tarichée, nơi nó có mầu xanh ve vì các khóm cây phản chiếu xuống
519
nước, bây giờ bóng vàng và chói lọi như chiếc gương bị mặt trời đập vỡ. Chiếc gương này càng lúc càng lớn lên và phủ mầu vàng hay hoàng ngọc cho tấm thảm mới còn xanh biếc, tắt đi mầu hồng của các đám mây phản chiếu trên sóng, che phủ sống thuyền của những chiếc sau cùng trở về sau đêm chài và các chiếc đầu tiên đang ra đi, trong khi các cánh buồm, trong ánh sáng khải hoàn của mặt trời bây giờ đã khá cao, trắng như cánh thiên thần trên nền xanh lơ của bầu trời và mầu xanh ve của các dẫy đồi. Cái hồ tuyệt vời của xứ Galilê, vì sự mầu mỡ của bờ bãi chung quanh nó, nhắc tôi nhớ đến hồ Garde của chúng ta, còn sự bình an huyền bí của nó thì như hồ Trasimène của chúng ta. Viên ngọc này của Palestin xứng đáng đóng khung một phần rất lớn đời sống công khai của Chúa Giêau.
Đây, Giêsu xuất hiện tại ngưỡng cửa của căn nhà ở trọ. Người mỉm cười, giơ tay chúc phúc cho các người dân đang kiên nhẫn chờ Người.
- Nguyện bình an ở cùng các con.
Các con chờ Thầy à? Các con sợ Thầy trốn đi mà không chào các con? Các lời hứa của Thầy không bao giờ bị bỏ qua. Hôm nay Thầy ở với các con để giảng Tin Mừng cho các con và ở lại với các con như Thầy đã hứa, để chúc lành cho nhà cửa các con, vườn tược các con, ghe thuyền các con, để mỗi gia đình được thánh hóa, mỗi công việc cũng được thánh hóa. Nhưng các con phải nhớ rằng phúc lành của Thầy, muốn cho có kết qủa thì nó phải được thiện chí của các con trợ giúp. Các con biết, có thiện chí tức là phải cổ võ cho gia đình của mình thành một gia đình thánh. Người đàn ông phải là người chủ, nhưng không phải là một bạo chúa đối với vợ con hay tôi tớ. Ông phải là vua, ông vua thực sự theo ý nghĩa của từ trong kinh thánh. Các con hãy nhớ lại chương 8, quyển thứ nhất sách Các Vua: Các bậc kỳ lão của Israel tụ họp nhau để đi Rama, nơi Samuel ở, và họ nói với ông: “Bây giờ ông già rồi, và các con trai của ông không đi theo đường lối của ông. Hãy đặt một ông vua ở bên trên chúng tôi để xét xử chúng tôi như mọi dân đều có”.
Vậy ông vua có nghĩa là quan xét, và ông vua phải là vị thẩm
520
phán công minh, để không làm khổ cho người của mình ở đời này bởi những chiến tranh, những bất công, những áp bức, cũng như trong đời vô tận với vương quốc của sự buông xuôi và trụy lạc. Khốn cho những ông vua thiếu sót trong bổn phận, bịt tai trước tiếng nói của thuộc hạ, nhắm mắt trước các vết thương của dân, đồng lõa để làm khổ dân bằng những liên minh bất chính để củng cố địa vị nhờ sự giúp đỡ của đồng minh! Khốn cho những người cha thiếu sót bổn phận, mù điếc trước những nhu cầu và các khuyết điểm của các người trong gia đình, là nguyên nhân gây ra tức giận hay đau đớn, hạ mình xuống để có những cuộc hôn nhân và các cuộc điều đình bất xứng, để liên minh với các gia đình giầu có và mạnh thế, không nghĩ rằng hôn phối là sự liên kết nhằm nâng cao sự khích lệ cho người đàn ông và người đàn bà, cùng với việc đồng sáng tạo. Đó là một bổn phận, một thiên chức chứ không phải một thị trường; đó không phải là sự đau khổ hay hạ thấp giá trị của người vợ hay người chồng; đó là tình yêu chứ không phải ghét bỏ. Vậy người gia trưởng phải công chính, không khắt khe hay đòi hỏi qúa mức; không chiều chuộng hay yếu nhược qúa mức. Nhưng nếu các con phải lựa chọn giữa hai cái qúa mức thì tốt hơn là chọn cái thứ hai, vì với cái đó, ít nhất Thiên Chúa còn có thể nói với các con: “Tại sao con tốt qúa mức như vậy?”, và Người không kết án các con, vì kẻ qúa tốt thì đã bị loài người phạt bằng cách làm phiền nhiễu họ, trong khi Thiên Chúa luôn luôn quở trách các con về sự khắt khe, vì đó là thiếu tình yêu đối với tha nhân gần gũi nhất. Và chớ gì người đàn bà công chính trong nhà đối với chồng con và đầy
tớ. Bà phải dành cho chồng sự vâng lời, kính trọng, khích lệ và giúp đỡ.
Hãy vâng lời bao lâu việc này không đưa đến ưng thuận với tội lỗi. Người vợ phải phục tùng nhưng không hèn hạ. Các bà vợ, hãy chú ý rằng người đầu tiên kết án các bà sau Thiên Chúa, về một số chiều chuộng có lỗi, là chính các ông chồng của các bà, kẻ đã đẩy các bà vào đó. Đó không luôn luôn là sự ước ao của tình yêu, mà là một thử thách cho nhân đức của các con. Có thể ngay lúc đó ông
521
chồng không nghĩ tới, nhưng có lẽ một ngày nào đó, chồng các con sẽ tự nhủ: “Vợ ta qúa mạnh về tình dục”, và ông có thể nghi ngờ về sự trung thành của các con. Vậy hãy trong trắng trong hôn nhân. Hãy làm sao để chồng các con phải có một cái gì mà người ta phải có đối với một người trong sạch, để ông nhìn các con như một người giống ông chứ không phải một nô lệ, hay như người hầu mà ông giữ để “vui chơi”, và ông vất bỏ khi ông không thích nữa. Người vợ nhân đức, Thầy muốn nói là người vợ mà ngay cả sau khi kết hôn, vẫn giữ được cái gì là trinh trong nơi mọi cử chỉ, lời nói của bà, các tình cảm âu yếm của bà, có thể dẫn người chồng tới chỗ nâng mình lên từ tình dục tới tình cảm, để ông dứt bỏ những dâm đãng, và trở nên một cái gì thực sự duy nhất đối với bà, và ông đối xử với bà như một phần của chính thân ông. Chính thực là phải như vậy, vì người đàn bà là “xương của xương ông và thịt của thịt ông”, mà đâu có ai ngược đãi xương thịt mình, trái lại, họ yêu chúng, để người vợ và người chồng giống như cặp vợ chồng đầu tiên, nhìn nhau mà không thấy nhau trong sự trần truồng tính dục, nhưng yêu nhau bằng thần trí mà không có sự xấu hổ hèn hạ.
Người vợ phải kiên nhẫn, đầy tình mẹ đối với chồng. Bà phải coi ông như đứa thứ nhất trong các con bà, vì người đàn bà luôn luôn là bà mẹ, và người đàn ông luôn luôn cần một bà mẹ kiên nhẫn, khôn ngoan, âu yếm, và khích lệ ông. Phúc cho người đàn bà biết làm bạn của chính chồng mình, đồng thời là mẹ để nâng đỡ ông, và là con gái để ông hướng dẫn. Người vợ cũng phải siêng năng. Công việc ngăn cản cho khỏi mơ màng, hữu ích cho sự ngay thẳng, và hơn nữa, có lợi cho ngân qũi. Bà đừng dằn vặt chồng bằng những ghen tương ngu xuẩn chẳng dàn xếp được gì. Người chồng có ngay thật không? Một sự ghen tương ngu muội có thể đẩy ông trốn bỏ nhà, đặt ông vào nguy hiểm bị sa lưới gái điếm. Ông không ngay thật và không trung thành ư ? Không phải những cơn giận ghen tương có thể sửa đổi được ông, mà là thái độ đứng đắn, không hờn dỗi, không thô lỗ, luôn luôn giữ phẩm giá và yêu thương, luôn luôn yêu thương, là những cái làm cho ông suy nghĩ và lại trở
522
nên khôn ngoan. Khi đam mê đẩy người chồng ra xa các con thì hãy biết chinh phục ông bằng các nhân đức của các con, giống như khi còn trẻ, các con đã chinh phục ông bằng vẻ đẹp của các con. Và để rút ra được sức mạnh trong nhiệm vụ này và chịu được sự đau đớn có thể làm cho các con thành bất công, thì hãy yêu thương con cái các con, và hãy nhìn vào lợi ích của chúng.
Người đàn bà có thể được tất cả nơi các con bà: niềm vui, chiếc triều thiên vương giả của những giờ sung sướng mà bà thực sự là hoàng hậu trong nhà và của chồng bà; chúng là dầu thoa bóp cho bà trong những giờ đau đớn mà sự phản bội hay những biến cố nặng nề khác của cuộc đời vợ chồng quất những roi đau trên trán bà, nhất là trên qủa tim bà bằng những cái gai, là sự lo buồn qúi phái của người vợ tử đạo.
Thật là mất phẩm giá nếu các con ước ao trở về gia đình các con hoặc nghĩ tới ly dị, hoặc tìm sự đền bù nơi một bạn bè giả tạo, kẻ muốn chơi người đàn bà và giả vờ thương xót con tim bị phản bội. Không, các bà ơi, không! Các đứa trẻ này, các đứa trẻ vô tội này đã xao xuyến, buồn rầu qúa sớm vì khung cảnh gia đình không còn trong sáng, đã mất sự ngay chính, chúng có quyền của chúng trên người mẹ, trên người cha, trên sự củng cố của gia đình mà nếu một người đã đen tối trong tình yêu, thì người kia phải tỉnh táo để canh chừng chúng. Các con mắt thơ ngây của chúng nhìn các con, thăm dò các con và hiểu các con hơn các con tưởng, và chúng đào tạo tâm trí chúng bằng những gì chúng thấy và hiểu. Đừng bao giờ làm gương mù cho các đứa con vô tội của các con, nhưng hãy ẩn náu nơi chúng như một pháo đài bằng kim cương để chống lại những yếu đuối của xác thịt và những cạm bẫy của rắn độc.
Người đàn bà phải là mẹ. Một bà mẹ chính đáng thì đồng thời vừa là mẹ vừa là chị, vừa là bạn của con trai con gái mình, và bà là gương mẫu trên tất cả và trong tất cả. Hãy canh chừng trên con cái, sửa bảo chúng cách yêu thương, nâng đỡ chúng, chỉ cho chúng suy nghĩ, và làm tất cả không thiên vị, vì tất cả các con đều sinh ra bởi cùng một hạt giống và từ cùng một dạ. Nếu tự nhiên là chúng được
523
yêu vì niềm vui chúng cho đối với những trẻ em tốt, thì cũng là một bổn phận phải yêu chúng đối với những trẻ em không tốt, dù phải có một tình yêu đau đớn. Hãy nhớ rằng loài người không được khắt khe hơn Thiên Chúa, đấng không phải chỉ yêu kẻ tốt, mà cả kẻ không tốt; đấng yêu họ và cố gắng làm cho họ nên tốt, cho họ các phương tiện và thời giờ để trở nên tốt, và chịu đựng họ cho tới khi họ chết, và tự dành cho mình quyền là thẩm phán chí công đối với kẻ không còn sửa chữa được nữa.
Ở đây, hãy cho phép Thầy nói một điều không thuộc về đề tài, nhưng rất tốt là nó hiện diện trong thần trí các con. Thường, qúa thường, người ta nghe nói rằng những người xấu được nhiều cái vui hơn những người tốt, và điều đó là bất công. Thầy bắt đầu bằng cách nói với các con: “Đừng xét đoán theo vẻ bề ngoài và về những điều các con không biết”. Cái vẻ bề ngoài nó thường lừa dối, và ở trên trái đất thì sự xét xử của Thiên Chúa rất kín đáo. Qua đời bên kia, các con sẽ biết và sẽ thấy rằng sự thoải mái mau qua của kẻ xấu là điều được ban cho nó như một phương tiện để lôi kéo nó về điều lành, và như một sự trả công cho nó về một chút điều tốt mà dù một kẻ xấu nhất cũng có thể làm. Nhưng khi các con thấy mọi sự trong ánh sáng thực của đời sau, các con sẽ thấy rằng thời gian được vui của kẻ tội lỗi còn ngắn hơn đời sống của một ngọn cỏ mọc bên bờ suối vào mùa xuân mà tới mùa hè là héo, trong khi chỉ một lát của vinh quang trên trời bởi niềm vui nó thông cho tâm hồn được hưởng nó, còn bao la hơn cả một cuộc đời mà một người toàn thắng vẻ vang nhất cũng không hề có. Vậy đừng ham muốn sự thịnh vượng của kẻ dữ, nhưng hãy tìm cách chiếm lấy cái kho tàng vô tận của kẻ công chính bằng thiện chí của các con.
Bây giờ trở lại vấn đề: các phần tử trong một gia đình, các người sống dưới một mái nhà, phải làm sao để duy trì phúc lành của Thầy một cách có hiệu qủa.Thầy bảo các con, các trẻ em: hãy vâng lời cha mẹ các con một cách trọng kính, vâng lời cha mẹ để có thể vâng lời đối với Chúa là Thiên Chúa các con. Nếu các con không học vâng lời những mệnh lệnh nhỏ của cha mẹ là người các con
524
nhìn thấy, làm sao các con có thể vâng lời các mệnh lệnh của Thiên Chúa, những mệnh lệnh đã được truyền nhân danh Người, nhưng các con không nhìn thấy, cũng không nghe thấy Người? Nếu các con không học để tin rằng đấng yêu các con giống như cha mẹ yêu các con, chỉ có thể truyền làm những điều tốt, thì làm sao các con có thể tin rằng những điều dạy cho các con như những mệnh lệnh của Thiên Chúa là tốt. Thiên Chúa yêu, Người là cha, các con biết không? Nhưng chính vì Người yêu các con và muốn các con ở với Người, ôi, các con nhỏ yêu qúi, nên Người muốn các con tốt. Vậy ngôi trường thứ nhất các con học để trở nên tốt là gia đình. Chính đó là nơi các con học yêu và vâng lời, và chính từ đó phát xuất ra con đường về trời cho các con. Vậy hãy tốt, kính trọng, ngoan ngoãn. Hãy yêu cha các con, cho dù ông có sửa dạy các con, ông làm vậy chỉ vì sự lành cho các con. Hãy yêu mẹ các con, cho dù bà đẩy xa đi cho các con những hành động mà theo kinh nghiệm của bà, bà biết là nó không tốt. Hãy tôn kính các ngài, đừng làm xấu hổ cho các ngài vì hành động xấu của các con. Kiêu hãnh không phải là điều tốt, nhưng có một sự kiêu hãnh thánh, kiêu hãnh để nói: “Tôi không làm đau khổ cho cha mẹ tôi”. Điều đó sẽ cho các con niềm vui gần gũi với các ngài khi các ngài còn sống, và là sự bình an cho các con trên vết thương vì cái chết của các ngài, trong khi nước mắt của đứa con xấu đổ ra cho cha mẹ lại đục khoét qủa tim nó, và mặc dầu tất cả cố gắng của nó để làm lành vết thương, nhưng nó chỉ làm cho đau, nó không ngừng làm cho càng ngày càng đau khi cái chết của cha mẹ ngăn cản đứa con báo hiếu... Ôi! Các con nhỏ, hãy tốt, luôn luôn tốt, nếu các con muốn Thiên Chúa yêu các con.
Sau cùng, một căn nhà thánh là căn nhà mà ở đó, nhờ vào sự công chính của các người chủ, mà các đầy tớ, các nô bộc cũng được nên công chính. Chớ gì các chủ nhà nhớ rằng cách cư xử xấu sẽ làm chua xót và làm hư hỏng người đầy tớ. Người đầy tớ cũng đừng quên rằng cách cư xử xấu của họ sẽ làm ông chủ tức giận. Mỗi người hãy giữ địa vị của mình, nhưng liên kết bằng tình yêu tha nhân, để lấp đầy hố ngăn cách giữa chủ và đầy tớ.
525
Như vậy căn nhà được Thầy chúc phúc sẽ giữ được phúc lành của nó, và Thiên Chúa sẽ ngự ở đó. Cũng vậy, các thuyền bè, vườn tược, dụng cụ làm việc, máy móc để đánh cá... sẽ duy trì được phúc lành và sự bảo vệ, khi nó được dùng một cách thánh thiện để làm việc trong những ngày được phép, và được dâng hiến một cách thánh thiện cho Chúa trong ngày Sabát thánh, các con sẽ trải qua cuộc đời các con, chài lưới hay trồng trọt, không gian lận về giá cả cũng như trọng lượng; các con sẽ không nguyền rủa công việc, cũng đừng làm cho nó thành vua của đời sống, tới nỗi làm cho nó vượt qua Thiên Chúa. Vì nếu công việc cho các con lợi tức, thì Thiên Chúa cho các con Nước Trời.
Vậy bây giờ chúng ta hãy đi chúc lành cho nhà cửa, thuyền bè, mái chèo, vườn tược, cuốc xẻng... Rồi chúng ta sẽ tới nói tại gần nơi cư ngụ của Gioan trước khi ông đi gặp Thầy cả, vì Thầy sẽ không trở lại nữa, nên thật chính đáng là để ông ta được nghe Thầy ít là một lần. Các con hãy giữ lấy bánh, cá và trái cây, chúng ta sẽ mang tới đó, trong rừng, chúng ta sẽ ăn trước mặt người cùi đã được lành, và cho ông ta những phần tốt nhất, để thân xác ông cũng được mừng lễ, và để ông cảm thấy ông cũng đã là anh em giữa những người tin vào Chúa.
Và Giêsu lên đường, theo sau là các người thuộc thị trấn này và các vùng lân cận, vì có lẽ trong đêm, một số dân ở đây đã đi loan báo rằng Chúa đang ở miền bờ hồ này.
144* GIẢNG THUYẾT GẦN CHỖ
CƯ TRÚ CỦA NGƯỜI CÙI
- Chúa của con! - người bị cùi trước kia kêu lên, và ông qùi phục khi ông vừa thấy Giêsu xuất hiện trong đám cây hoang ở trước khu núi đá mà ông đã sống trong bao năm. Rồi đứng dậy, ông lại kêu: “Tại sao Thầy trở lại với con?”
- Để cho con cái lộ phí của Lời sau cái lộ phí của sức khỏe.
- Lộ phí thì người ta cho kẻ ra đi, và con, qủa vậy, chiều nay con
526
sẽ đi lo việc thanh tẩy. Nhưng con đi để rồi trở lại họp bầy với các môn đệ, nếu thầy muốn nhận con. Chúa ơi, con không còn nhà cửa, cha mẹ. Con già cả và không thể lấy lại các sinh hoạt của đời sống. Người ta sẽ đưa con trở về cơ nghiệp của con, nhưng một căn nhà sẽ thế nào khi không có ai ở từ mười lăm năm nay? Con sẽ thấy gì ở đó? Có lẽ những bức tường hư hỏng... Con là con chim không có tổ. Xin thầy cho con kết hợp với nhóm những người theo Thầy. Ngoài ra con... con không thuộc về chính con nữa, vì lẽ điều Thầy đã cho con, con thuộc về Thầy. Con không còn thuộc về thế giới nữa, nó đã tách rời con ra khỏi nó trong thời gian qúa lâu chỉ vì danh nghĩa ô uế. Bây giờ chính con thấy đời là ô uế sau khi biết Thầy. Con trốn thế gian để đến với Thầy.
- Và Thầy, Thầy không từ chối con. Nhưng Thầy bảo con rằng Thầy muốn con chấp nhận cư ngụ trong vùng này. Aêra và Arbêla đã có con cái của nó làm môn đệ để giảng Tin Mừng cho nó. Con, con hãy làm vậy cho Ippo, Gamala, Afêca và các thành lân cận. Thầy, ít lâu nữa Thầy sẽ xuống Juđê và Thầy không trở lại phía này nữa. Thầy muốn có những người giảng Tin Mừng ở đây.
Ý muốn của Thầy làm cho mọi từ khước trở nên đắt giá đối với con. Con sẽ làm điều Thầy muốn. Con sẽ mau chóng hoàn tất việc thanh tẩy. Con đã nghĩ tới không săn sóc gì tới căn nhà nữa, nhưng bây giờ, trái lại, con sẽ tu bổ nó để có thể ở đó, và tiếp nhận tại đó trong mùa đông, những tâm hồn ước ao biết Thầy. Con sẽ xin vài môn đệ đã theo Thầy từ mấy năm nay đến với con, vì nếu Thầy muốn con là một ông thầy nhỏ, thì con cần được dạy dỗ bởi người nào hơn con. Và tới mùa xuân, con sẽ đi với những người khác để rao giảng danh Thầy.
- Đó là tư tưởng hay. Thiên Chúa sẽ giúp con thực hiện.
- Con đã bắt đầu đốt bỏ tất cả những gì thuộc về con: cái giường tội nghiệp của con và tất cả những gì con đã dùng, các y phục mà con đã mặc cho tới ngày hôm qua, tất cả những gì đã chạm tới cơ thể bệnh tật của con. Cái hang mà con đã sống, nó trở thành đen thui vì lửa con đã đốt để phá hủy và làm sạch. Sẽ không ai bị ô
527
nhiễm khi họ vào đây để trú qua đêm mưa bão. Rồi...(giọng người đàn ông trở nên yếu, tựa như nó bị rạn nứt, và ông nói nhẩn nha...) và rồi... con đã có một cái rương cũ đã bể thành những mảnh... mục nát... tựa như bệnh cùi cũng rúc rỉa nó... Nhưng đối với con... nó qúi hơn mọi của cải trần gian... Ở bên trong có những vật thân yêu... những kỷ niệm của má con... chiếc voan ngày cưới của Anna vợ con... A! Vào buổi chiều của ngày lễ cưới, khi con lật nó lên, hoàn toàn sung sướng khi con ngắm nghía khuôn mặt thơ ngây trong trắng, qúa đẹp, qúa trinh trong... Nào ngờ nó đã nói với con rằng chỉ vài năm sau đó, con sẽ thấy nó chỉ còn là một vết thương! Và... quần áo của các con con... đồ chơi của chúng mà chúng đã cầm trong bàn tay nhỏ của chúng bao lâu chúng còn có thể cầm... Một cái gì... và... ôi! Đau đớn chừng nào!... Xin Thầy tha cho những nước mắt của con... Vết thương làm con qúa đau khi con thiêu đốt nó, cũng như lúc này, không còn có thể hôn nó... vì phải đốt, bởi đó là những đồ của người cùi... Lạy Chúa! Con bất công... Con đã phơi ra cho Thầy những nước mắt của con... Nhưng xin Thầy thương... Con đã thiêu hủy những kỷ niệm sau cùng con có về họ...Bây giờ con như Người bị lạc trong sa mạc... - Người đó sụp xuống khóc bên đống tro, kỷ niệm đời dĩ vãng của ông...
- Gioan, con không lạc lõng, con không cô đơn. Thầy ở với con. Và các người thân của con sắp sửa ở với Thầy trên Trời để chờ con. Những thứ còn lại này nhắc nhở cho con về họ, hoặc bị biến dạng vì bệnh tật, hoặc một sức khỏe rực rỡ trước khi bất hạnh, tất cả những thứ đó, những kỷ niệm đau thương, hãy để nó lại trong đống tro. Hãy tiêu diệt nó, trong sự xác tín mà Thầy cho con về sự tìm lại những kẻ hạnh phúc, được tô điểm bằng niềm vui trên Trời. Gioan ơi, qúa khứ đã chết, đừng khóc cho nó nữa. Ánh sáng không chậm lại để nhìn sự tối tăm của đêm trường, nhưng nó vui sướng tách rời ra để rực rỡ bay lên trong bầu trời, chạy theo mặt trời vào mỗi buổi sáng. Mặt trời cũng không chậm lại ở phương đông, nhưng nó lên, chạy nhảy cho tới khi nó lên tới đỉnh của bầu trời để chói lọi ở đó. Đêm trường của con đã chấm dứt, đừng nghĩ tới nó nữa. Bằng thần
528
trí, hãy lên tới nơi mà Thầy là Ánh Sáng, Thầy mang con tới. Ở đó, nhờ lòng trông cậy êm đềm và đức tin đẹp đẽ, con sẽ tìm được niềm vui, vì đức ái của con sẽ có thể chan hòa vào trong Thiên Chúa và trong những người thân yêu đang chờ con. Đó chỉ là một cuộc đi lên mau chóng. Cuộc đời là một hơi thở... Vĩnh cửu là một hiện tại đời đời.
- Chúa ơi, Thầy có lý. Thầy củng cố cho con và Thầy dạy con làm sao để thắng vượt giờ này cách công chính... Nhưng Thầy đứng ở ngoài nắng để ở gần con như vầy, qúa sự được phép rồi. Xin Thầy lánh ra. Thầy đã cho con đủ rồi. Mặt trời có thể làm Thầy đau, vì nắng gắt rồi.
- Thầy đến để ở lại với con. Tất cả chúng ta đều đến vì vậy. Nhưng con cũng hãy di chuyển đến bên các cây to, như vậy chúng ta sẽ ở bên nhau mà không có gì nguy hiểm.
Người đó vâng lời, rời bỏ tảng đá mà ở dưới chân có đống tro: qúa khứ của ông. Ông tới chỗ Giêsu cũng tới, nơi có các tông đồ, các phụ nữ, các dân của thị trấn và các người từ thành phố đến để nghe lời Thầy. Tất cả đều rất cảm động.
- Các con hãy đốt lửa để nướng cá. Chúng ta sẽ chia sẻ thực phẩm của bữa tiệc tình yêu - Giêsu ra lệnh.
Trong khi các tông đồ thi hành mệnh lệnh, Người đi một vòng các cây cối mọc lộn xộn ở đây, nơi mọi người đã xa lánh, vì ở gần các người cùi, một đám cây rừng lộn xộn mà từ ngày chúng mọc, chưa hề biết tới cái rựa hay cái rìu. Những người đang đau khổ hay đã đau khổ, trú dưới bóng mát dễ chịu của rừng rậm, kể cho Giêsu những lo âu của họ. Giêsu chữa lành, khuyên nhủ hay khích lệ kiên nhẫn và mạnh mẽ. Trong đồng cỏ nhỏ ở hơi xa, đứa bé của Caphanaum chơi đùa vui vẻ với các trẻ em trong làng. Tiếng kêu vui của chúng thi đua với tiếng hót của nhiều loại chim trong các chòm lá. Y phục đủ mầu của chúng phất phơ khi chúng chạy trên cỏ xanh, trông như các con bươm bướm khổng lồ bay từ hoa nọ tới hoa kia.
Thực phẩm đã sẵn, người ta gọi Giêsu. Người hỏi xin một cái rổ
529
như xin một ơn với một nông dân đã mang theo các trái sung và nho. Người bỏ vào đó bánh, cá, những con đẹp nhất, các trái cây ngon. Người thêm vào đó bầu nước pha mật ong của Người và Người đi về phía người cùi trước kia.
Batôlômêo lưu ý Người: “Thưa Thầy, Thầy sẽ không còn bầu. Ông ta không thể trả lại cho Thầy nữa”.
Giêsu mỉm cười nói: “Vẫn còn biết bao nước để giải khát cho Con Người! Có nước mà Chúa Cha đã để trong giếng sâu,và Con Người còn đôi tay tự do để lấy... Sẽ có ngày Thầy chẳng có cái nọ cũng như cái kia... Và Thầy cũng sẽ không có nước tình yêu để giải khát cho Đấng Bị Khát ... Bây giờ Thầy có biết bao tình yêu ở chung quanh Thầy...” Và Người tiếp tục bước, hai tay mang cái rổ rộng, tròn và nông. Người đặt nó trên cỏ cách chỗ Gioan vài mét và nói: “Lấy ăn đi. Đây là bữa tiệc của Thiên Chúa”. Rồi Người trở về chỗ của Người, dâng hiến và chúc phúc cho của ăn, rồi cho phân phát cho mọi người, vì họ đã để mọi thứ họ có lại với nhau.
Mọi người đều ăn vui vẻ cách an bình. Maria lo cho thằng bé Alphê với tình mẹ hiền. Rồi bữa ăn kết thúc. Giêsu ở khoảng giữa người đã cùi và đám dân để bắt đầu nói, trong khi các bà mẹ ẵm các con nhỏ của họ trong tay, chúng đã no lương thực và trò vui, các bà ru chúng ngủ để chúng không làm ngăn trở bài thuyết trình.
- Tất cả các con hãy nghe đây:
Trong một thánh vịnh của Đavít, tác giả thánh vịnh tự hỏi: “Ai sẽ được ở trong lều của Thiên Chúa? Ai sẽ được nghỉ ngơi trên núi của Thiên Chúa?” Và ông bắt đầu liệt kê ai là những người có phước này, và vì lý do nào mà họ được. Ông nói: “Người sống không tội lỗi và thi hành sự công chính, người mà con tim nói lời chân thực và lưỡi không mưu mô lừa đảo; người không làm thiệt hại cho tha nhân, không chấp nhận những lời làm mất danh giá người đồng loại”. Và trong vài hàng, sau khi đã nói ai sẽ được vào trong lãnh địa của Thiên Chúa, ông nói những điều tốt các vị thánh này đã làm, sau khi đã không làm điều xấu. Đây: “Trước mắt họ, kẻ độc ác không là gì cả. Họ tôn kính những người kính sợ Thiên Chúa. Họ không lừa dối tha nhân bằng những lời thề gian. Họ không bao giờ
530
cho vay nặng lãi. Họ không nhận qùa tặng để làm thiệt hại cho kẻ vô tội”. Và để chấm dứt, ông nói: “Người làm những việc đó không bao giờ phải nao núng”.
Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng tác giả thánh vịnh đã nói sự thật, và với sự khôn ngoan của Thầy, Thầy xác nhận rằng những kẻ làm những điều này sẽ không bao giờ phải nao núng. Điều kiện đầu tiên để vào Nước Trời là “sống không tội lỗi”.
Nhưng con người là một tạo vật yếu đuối, họ có thể sống không tội không? Xác thịt, thế gian, Satan, sự sôi sục liên tiếp của các đam mê, các xu hướng và thù ghét, khạc nhổ chất ô uế của chúng để bôi nhọ tâm hồn, và nếu Trời chỉ mở ra cho những kẻ sống không tì vết sau khi đã đến tuổi khôn, thì trong tất cả nhân loại, rất ít người sẽ được vào Nước Trời, giống như rất ít người cho tới khi chết mà không bao giờ bệnh hoạn ít hay nhiều trầm trọng trong suốt đời.
Vậy thì sao? Nước Trời sẽ khép kín đối với con cái Thiên Chúa ư ? Họ có phải tự nói: “Tôi đã mất Nước Trời” khi một cuộc tấn công của Satan hay một cơn bão của xác thịt làm cho họ ngã, và họ nhìn thấy linh hồn họ bị vấy bùn không? Sẽ không còn sự tha thứ cho kẻ đã phạm tội ư ? Không gì có thể tẩy xóa vết nhơ làm dơ bẩn tâm hồn họ sao?
Các con đừng sợ Thiên Chúa của các con bằng cái sợ bất công. Người là Cha, và một người cha luôn luôn đưa tay ra cho đứa con xiêu vẹo, giúp đỡ nó để nó đứng dậy, khích lệ nó bằng những phương tiện ngọt ngào để sự hèn kém của nó không thoái hóa thành sự thất vọng, nhưng trở thành bông hoa khiêm nhường, ước ao sửa chữa để lại trở về với lòng nhân ái của Cha.
Đó: Sự sám hối của tội nhân, ý muốn thực tình sửa chữa, điều trước cũng như điều sau đều sinh ra bởi một tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa, chúng rửa vết nhơ của tội lỗi và làm cho xứng đáng ơn tha thứ của Thiên Chúa. Và khi đấng đang nói với các con sẽ làm trọn sứ mạng của Người trên trái đất, thì sự xá giải của tình yêu, của sự sám hối và của thiện chí, sẽ kết hợp với sự xá giải rất
531
mạnh mẽ mà Đức Kitô sẽ chiếm được cho các con bằng giá hy sinh của Người. Tâm hồn được trở nên trong trắng hơn tâm hồn trẻ thơ mới sinh, rất trong trắng hơn, vì với những kẻ tin vào Thầy, thì từ lòng họ sẽ vọt ra một dòng sông của nước sự sống, nó sẽ tẩy rửa cả tội nguyên thủy, nguyên nhân đầu tiên của mọi yếu đuối nhân loại, các con có thể ngưỡng vọng về Trời, về Nước của Thiên Chúa, về Nhà Tạm của Người. Qủa vậy, Ân Sủng mà Thầy sắp trả lại cho các con sẽ giúp các con thi hành sự công chính. Và tùy vào mức độ nó được thi hành, nó sẽ làm lớn lên cái quyền cho các con một tâm hồn không vết nhơ vào trong niềm vui của Nước Trời.
Các trẻ nhỏ sẽ được vào đó, và chúng sẽ hoan lạc trong đó vì hạnh phúc được ban cho chúng cách nhưng không. Chúng sẽ hoan lạc trong đó, vì Nước Trời là niềm vui. Nhưng cũng sẽ được vào đó: những người lớn, những người già, những người đã sống, đã chiến đấu, đã toàn thắng, và những người đã biết kết hợp chiếc triều thiên trong trắng của Ân Sủng với chiếc triều thiên muôn mầu của các công việc thánh của họ, các chiến thắng của họ trên Satan, thế gian và xác thịt. Hạnh phúc của các kẻ chiến thắng sẽ rất lớn, lớn tới nỗi loài người không thể tưởng tượng được.
Làm sao để thi hành sự công chính? Làm sao để thu được chiến thắng? Bởi sự ngay thật trong lời nói và hành động; bởi đức bác ái với tha nhân, bằng cách chỉ nhìn nhận Thiên Chúa và không đặt các tạo vật, tiền bạc, quyền hành làm thần tượng thay vì Thiên Chúa chí thánh; bằng cách cho mỗi thứ đúng chỗ của nó, không cho hơn hay kém điều phải cho. Thật không chính đáng, một kẻ mà vì một bạn hữu hay bà con mạnh thế mà tôn kính họ và phục vụ họ cả trong những điều không tốt. Trái lại, kẻ làm thiệt hại cho tha nhân vì không rút ra được mối lợi từ nó, kẻ thề gian hay để mình bị mua chuộc bởi các qùa tặng để nói những điều chống lại kẻ vô tội, hoặc xét xử bất công, không theo sự công bằng, mà theo sự tính toán về cái họ có thể kiếm được của một trong các kẻ đối lập mạnh nhất, nhờ vào một sự xét xử bất công. Kẻ như vậy là bất chính, và các lời cầu nguyện, các của lễ của nó sẽ vô ích, vì chúng bị dính vết nhơ
532
bất công trước mặt Thiên Chúa.
Các con thấy rằng điều Thầy nói với các con là thuộc về Thập Giới. Lời của vị Rabbi luôn luôn là Thập Giới. Qủa vậy, điều lành, sự công chính, sự vinh quang, đều do tại việc hoàn thành những điều Thập Giới dạy và truyền phải làm. Không có giáo lý nào khác. Ngày xưa nó đã được ban bố giữa những sấm sét trên núi Sinai, bây giờ nó được ban giữa sự sáng ngời của tình thương, nhưng luôn luôn là cùng một giáo lý. Nó không thay đổi và nó không thể thay đổi. Nhiều người trong Israel, để tự bào chữa, sẽ nói để tự biện minh vì đã không nên thánh kể cả sau khi Đấng Cứu Tinh đã đi qua trên trái đất: “Tôi đã không tìm được cách thế để theo Người và nghe Người”. Nhưng sự biện minh của họ vô giá trị, vì Đấng Cứu Tinh không đến để mang tới một luật mới, nhưng để xác nhận lề luật thứ nhất, lề luật duy nhất, hay đúng hơn, để tái xác nhận nó trong sự rõ ràng của nó, trong sự đơn giản toàn vẹn của nó. Để xác nhận bằng tình yêu và bằng các lời hứa của một tình yêu bảo đảm của Thiên Chúa, điều mà trước tiên đã được nói cách nghiêm khắc bởi một bên, và được nghe với sự sợ hãi bởi bên kia.
Để làm cho các con hiểu rõ mười điều răn là gì và việc tuân giữ nó quan trọng chừng nào, Thầy nói cho các con dụ ngôn này:
Một người cha của một gia đình kia có hai người con trai, ông yêu hai người như nhau, và ông muốn trở nên ân nhân của hai người theo cùng một cách. Người cha này, ngoài nơi mà ông ở với các con ông, ông còn là chủ những sở hữu khác, nơi ông dấu những kho tàng lớn lao. Hai người con biết là có kho tàng này, nhưng họ không biết con đường nào để tới đó. Qủa vậy, vì những lý do đặc biệt, người cha không tiết lộ với các con ông con đường để tới đó, và như vậy đã từ nhiều năm rồi. Nhưng vào một lúc kia, ông gọi hai con trai lại và nói với họ: “Bây giờ đã đến lúc thuận tiện để các con biết kho tàng mà cha các con để dành cho các con nó ở đâu, để các con tới đó khi cha bảo các con. Trong khi chờ đợi, các con hãy nghe cho biết con đường và các dấu hiệu mà cha đã đặt ở đó, để các con không bị lạc mất con đường trúng. Vậy hãy nghe cha đây: Các kho
533
tàng không ở trong đồng bằng, nơi nước đọng, nơi đại nhiệt thiêu đốt, nơi bụi bặm làm hư tất cả, nơi gai góc và các cây mâm xôi làm ngộp rau cỏ thảo mộc, và là nơi kẻ trộm có thể tới ăn cắp cách dễ dàng. Các kho tàng ở trên đỉnh ngọn núi cao kia, cao và gập ghềnh. Cha đã để nó ở đó, tận trên đỉnh, và chúng đang chờ các con. Ngọn núi có nhiều lối đi, cả đến có rất nhiều, nhưng chỉ có một đường là tốt. Các đường khác, một số thì tận cùng ở một vực thẳm, số khác thì dẫn vào một cái hang không có lối ra, số khác nữa thì tới những hố sâu nước bùn, số thì tới các hang rắn độc, số thì tới miệng núi lửa đầy lưu huỳnh cháy nóng, số thì tới những thành lũy không thể vượt qua được. Trái lại, con đường trúng thì mệt nhọc, nhưng dẫn tới đỉnh, không bị gián đoạn bởi các vực thẳm hay các chướng ngại khác. Để các con có thể nhận ra nó, cha đã để suốt dọc đường, tại những khoảng cách đều nhau, mười cái bia đá trên đó có khắc các chữ này: ‘Tình yêu, Vâng phục, Chiến thắng’, để hướng dẫn các con. Hãy đi theo đường đó và các con sẽ tới chỗ kho tàng. Rồi cha, bởi một con đường khác mà chỉ một mình cha biết, cha sẽ đến để mở các cửa cho các con để các con được sung sướng”.
Hai người con chào cha. Ông nhắc lại bao lâu hai con trai ông còn nghe thấy: “Hãy theo con đường mà cha chỉ cho các con, vì sự lành của các con. Đừng để mình bị lôi kéo bởi các con đường khác, dù nó có vẻ như tốt hơn. Các con sẽ mất kho tàng và mất cha cùng với nó...”
Đây, họ ở chân núi. Một bia đá đầu tiên được dựng ở dưới thấp, đúng vào chỗ bắt đầu con đường, ở giữa một loạt những con đường để lên núi theo đủ mọi hướng. Hai anh em bắt đầu leo lên trên con đường tốt. Nó vẫn còn rất tốt lúc bắt đầu, mặc dầu không một chút bóng mát. Từ trên trời, mặt trời chiếu thẳng xuống và dìm ngập nó trong ánh sáng và sức nóng. Đá có mầu trắng ở nơi nó được đục vào. Bầu trời trong ở bên trên đầu họ. Sức nóng của bầu trời bao phủ các chi thể họ. Đó là những điều hai anh em nhìn thấy và cảm thấy. Nhưng vẫn còn được kích thích bởi thiện chí, bởi các kỷ niệm về người cha và về các lời dặn dò của ông, hai người vui vẻ đi lên
534
phía đỉnh. Đây, cái bia đá thứ hai... rồi cái thứ ba. Con đường càng lúc càng mệt, đơn độc, cháy nóng. Họ cũng không nhìn thấy các con đường khác là những đường có cỏ, có cây, có nước trong, nhất là nó ít dốc, vì nó thoai thoải từ từ, và được làm trên nền đất không có đá.
- Cha chúng ta muốn cho chúng ta đi tới chỗ chết! - một người con nói khi tới cái bia đá thứ bốn, và anh ta bắt đầu bước chậm lại. Người con kia khuyến khích anh ta tiếp tục cuộc hành trình bằng cách nói: “Người yêu chúng ta như các thứ ngã của người và còn hơn nữa, vì người đã bảo toàn cho chúng ta một kho báu tuyệt vời như vầy. Con đường ở trong đá, không có quẹo ngang, đi thẳng từ dưới lên tới đỉnh, là chính ông đã đẽo. Những bia đá này, chính ông đã làm để hướng dẫn chúng ta. Anh ơi, hãy suy nghĩ: chính ông, một mình ông đã làm tất cả những điều này vì tình yêu, để tặng cho chúng ta, để làm cho chúng ta tới nơi không thể sai lầm và không nguy hiểm”.
Họ lại đi. Nhưng các con đường đã bị loại bỏ ở phía dưới tiến lại gần con đường đục vào đá, và chúng càng hay lại gần hơn khi con đường dẫn tới đỉnh núi trở nên hẹp hơn. Và ôi, chúng đẹp đẽ, mát mẻ, có vẻ mời mọc chừng nào!...
- Tôi rất muốn đi một trong các con đường kia. Có bao nhiêu con đường khác với con đường này để lên đỉnh núi - người anh trai không hài lòng nói khi tới bia đá thứ sáu.
- Anh không thể nói vậy... Anh đâu có nhìn thấy là nó lên hay xuống.
- Kia kìa, nó ở trên đó mà!
- Anh dâu có chắc chỗ đó có phải là con đường này không. Hơn nữa, cha đã bảo là đừng bỏ con đường đúng.
Kẻ uể oải tiếp tục một cách miễn cưỡng. Đây, bia đá thứ bảy.
- Ôi! Với tôi, tôi bỏ đi thực sự đây!
- Anh ơi, đừng làm vậy!
Họ đi lên. Từ đây con đường thực sự rất khó. Nhưng đỉnh núi đã gần rồi...
535
Đây, bia đá thứ tám, và một con đường đầy hoa chạy quanh ngay bên cạnh nó.
- Ôi! Em thấy không? Con đường đó có lẽ không phải là con đường thẳng, nhưng rõ ràng là nó đi lên.
- Anh đâu biết đây có phải con đường đó không.
- Có chứ! Anh nhận ra nó mà!
- Anh lầm đó.
- Không, tôi đi đây.
- Đừng làm vậy. Hãy nghĩ tới Cha, tới các nguy hiểm, tới kho tàng.
- Nhưng cầu cho chúng tiêu ma hết đi! Kho tàng mà làm gì nếu tôi chết khi lên tới đỉnh? Đâu có nguy hiểm nào lớn hơn con đường này? Và đâu có sự thù ghét nào lớn hơn sự thù ghét của người cha đã chế diễu chúng ta bằng con đường này để làm cho chúng ta chết? Chào! Tôi sẽ tới nơi trước em mà vẫn còn sống... - Và anh ta nhảy vào con đường kế bên, rồi biến mất trong lúc phát ra những tiếng kêu vui mừng sau các cây cho bóng mát.
Người em tiếp tục cách buồn rầu... Ôi! Con đường ở đoạn cuối thực là dễ sợ! Người bộ hành hầu không kham nổi nữa. Anh ta tựa như người say vì mệt mỏi, vì mặt trời! Tại bia đá thứ chín, anh ta đứng lại, thở hổn hển, tựa vào bia đá, đọc một cách máy móc các chữ được khắc ở trên. Rất gần đó có một con đường với bóng mát, nước và hoa đẹp... “Tôi sẽ đi vào đường đó chăng?... Nhưng không! Không. Ở đây đã viết, và chính cha tôi đã viết: ‘Tình yêu, Vâng lời, Chiến thắng’. Tôi phải tin vào tình yêu của Người, vào sự thật của Người, và tôi phải vâng lời để chứng tỏ tình yêu của tôi... Nào!... Cầu cho tình yêu nâng đỡ tôi...” Đây, bia đá thứ mười... Người bộ hành kiệt quệ, bị cháy bởi mặt trời, gù xuống để bước như ở dưới một cái ách... Đó là cái ách yêu thương và thánh thiện của sự trung thành, là tình yêu, sự vâng lời, mạnh mẽ, cậy trông, chính trực, khôn ngoan, tất cả... Thay vì dựa vào bia đá, anh ta ngồi bệt bên một chút bóng mát của tảng đá dựng trên mặt đất. Anh cảm thấy như hầu chết. Từ con đường bên cạnh bay tới tiếng động của dòng
536
suối và mùi cây rừng... “Cha ơi! Cha ơi! Hãy giúp con trong cơn cám dỗ này bằng thần trí của cha... Hãy giúp con trung thành tới cùng!”
Từ xa, giọng nói vui vẻ của người anh: “Tới đây đi, tôi chờ em. Ở đây là Thiên Đàng... Tới đi...”
- Nếu tôi tới đó?... - Và anh ta kêu rất lớn: “Có đúng là người ta lên đỉnh được không?”
- Đúng mà. Tới đi. Có một cái hành lang mát mẻ dẫn lên đó. Tới đi! Tôi đã nhìn thấy đỉnh núi ở bên kia hành lang, ở trong đá.
- Tôi tới? Tôi không tới?... Ai đến cứu tôi?... Tôi tới... - Anh chống tay để đứng dậy, và khi làm như vậy, anh quan sát thấy rằng các chữ được khắc không còn rõ nét như ở các bia đá đầu tiên: “Ở mỗi bia đá, các nét chữ trở nên mờ hơn... Tựa như cha tôi mệt mỏi, phải khó khăn để khắc... Và... Coi này!... Ở đây cũng vậy, có cái dấu mầu nâu đỏ này, tôi bắt đầu nhìn thấy rõ từ bia đá thứ năm... Nhưng ở đây nó làm đầy trong các khe của các chữ, và nó chảy xuống, để lại vết trên đá như dòng nước mắt đậm, giống như... máu...” Và với ngón tay, anh ta cào vào chỗ có một vết lớn như hai bàn tay. Và cái vết biến đi, để lộ ra những lời này, rõ như mới viết: “Cha yêu các con như vậy đó, cho tới đổ máu ra để dẫn các con tới kho tàng”.
- Ôi! Ôi! Cha tôi! Và tôi, tôi đã có thể nghĩ tới không tuân theo mệnh lệnh của Cha sao? Xin tha, cha của con ơi, xin tha! - Người con gục vào bia đá để khóc, và lằn máu ở đầy trong các khe chữ tự mới lại, tươi bóng như hồng ngọc, và nước mắt trở thành đồ ăn đồ uống cho người con tốt, và sức mạnh... Anh đứng dậy... Vì tình yêu, anh gọi người anh rất mạnh, rất mạnh... Anh ta muốn kể điều khám phá của anh cho ông anh... tình yêu của cha, để nói với anh: “Hãy trở lại”. Nhưng không ai trả lời cả.
Người thanh niên lại lên đường, hầu như lết bằng đầu gối trên đá nóng. Vì kiệt sức, thân xác anh thực sự tới mức, nhưng tâm hồn anh trong sáng. Đây, đỉnh núi... Và kìa, Cha!
- Cha của con!
- Con cưng!
537
Người thanh niên lao mình vào lòng thân phụ. Người cha đón nhận anh và bao phủ anh bằng những cái hôn.
- Con có một mình?
- Vâng... Nhưng anh con sắp tới...
- Không. Anh ấy không tới nữa. Anh ta đã bỏ con đường của mười bia đá. Anh ta đã không trở lại sau những tỉnh ngộ đầu tiên đã loan báo cho anh. Con muốn nhìn thấy anh không? Anh kia kìa, trong hố lửa... Anh ta cứng đầu trong tội. Cha sẽ còn tha thứ và còn chờ anh nếu sau khi nhận ra lỗi lầm, anh biết quay trở lại, và nếu dù có chậm trễ, anh ta cũng đi qua nơi mà tình yêu đã đi qua trước, trong khi chịu đựng tới nỗi đổ ra cho các con những thứ tốt nhất của máu người, cái đắt gía nhất ở nơi Người.
- Anh đã không biết.
- Nếu anh ta đã nhìn với tình yêu những lời được khắc trên mười bia đá, thì anh đã đọc được ý nghĩa thực sự của nó. Con đã đọc được từ bia đá thứ năm, và con đã lưu ý anh ta khi nói: “Chỗ này chắc cha bị thương!” Và con đã đọc được nó ở bia đá thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thứ chín... luôn luôn rõ hơn, cho tới lúc con có cái trực giác muốn khám phá điều gì ở dưới lớp máu của cha. Con biết tên của cái trực giác này không? Sự kết hợp thực sự của con với cha. Các thớ thịt của qủa tim con hòa lẫn với các thớ thịt của qủa tim cha đã nhảy mừng và nói với con: “Ở đây mày sẽ có sự đo lường về cách thế người cha yêu mày”. Bây giờ con, kẻ có Tình Yêu, Vâng Lời, Chiến Thắng, hãy vào chiếm lấy kho báu và chính Cha tới muôn đời.
Đó là dụ ngôn.
Mười bia đá là mười giới răn. Thiên Chúa của các con đã khắc nó và đặt nó trên con đường dẫn tới kho báu đời đời, và Người đã khổ cực để dẫn các con vào con đường này. Các con đau khổ ư ? Thiên Chúa cũng vậy. Các con phải gắng sức với chính mình ư ? Thiên Chúa cũng vậy, và các con biết tới điểm nào không? Tới mức chịu đựng sự chia lìa chính mình Người và tự cố gắng để biết thực thể của loài người với tất cả những khốn nạn mà nhân tính
538
mang theo với nó: sinh ra, chịu giá lạnh, đói khát, mệt nhọc và những chua cay, những xúc phạm, những thù ghét, những cạm bẫy, và sau cùng là cái chết bằng cách đổ hết máu Thầy ra để cho các con kho báu. Đó là điều Thiên Chúa chịu đựng khi xuống trần để cứu các con. Đó là điều Thiên Chúa trên Trời chịu đựng khi tự cho phép mình chịu đau khổ như vầy.
Thực vậy, Thầy bảo các con rằng không một người nào, dù con đường về trời của họ lao nhọc tới đâu, có thể là con đường lao khổ hơn, đau thương hơn con đường mà Con Người đi từ Trời xuống đất, từ đất tới Lễ Hy Sinh, để mở các cửa của kho báu cho các con.
Máu Thầy đã ở trong các bản của Lề Luật. Máu Thầy đã ở trên con đường mà Thầy vạch ra cho các con. Chính dưới làn sóng của máu Thầy mà cửa của các kho tàng mở ra. Chính bởi máu Thầy mà tâm hồn các con được tẩy rửa, được nuôi dưỡng, và được trở nên trong sạch và mạnh mẽ. Nhưng để cho nó không đổ ra cách vô ích, thì các con phải theo Lề Luật bất di bất dịch của mười giới răn.
Bây giờ chúng ta nghỉ. Tới lúc mặt trời lặn, Thầy sẽ đi Ippo, Gioan đi lo việc thanh tẩy, các con về nhà các con. Nguyện bình an của Chúa ở cùng các con.
145* GIÊSU TẠI IPPO
Con xin cha miễn thứ cho con nếu cuốn tập này viết xấu cách đặc biệt. Đây là giai đoạn con nhìn thấy trong khi con nửa sống nửa chết sau tai họa ngày 2-7-1946... Con đã viết nó trong khi nằm dài với cơn sốt nặng, lại thêm vào... những đau đớn sắc nhọn...
Giêsu tới thành Ippo vào một buổi sáng thanh quang. Chắc hẳn Người đã qua đêm tại căn nhà ở miền quê của một người thành phố đã đến nghe Người, để rồi vào thành phố trong những giờ đầu tiên của buổi sáng một ngày họp chợ ồn ào. Nhiều người Ippo đang ở với Người và nhiều người khác đang chạy tới để gặp Người, vì họ được báo cho biết là vị Rabbi tới. Nhưng ở chung quanh Giêsu không phải chỉ toàn là dân Ippo, các người thuộc thị trấn ở bờ hồ cũng ở đó, chỉ thiếu mấy người đàn bà mà hoặc vì tình trạng thể chất của họ, hoặc vì họ có các con còn qúa nhỏ nên không thể ở xa
539
nhà nhiều.
Thành phố hơi ở cao hơn mặt nước hồ, trải ra trên cái dợn sóng đầu tiên của miền cao nguyên bên ngoài bờ hồ. Nó lên cao về phía đông để tới gặp các núi Auraniti ở phía đông nam, và phía đông bắc thì gặp các núi mà ngọn Đại Hermon là vua. Thành phố có bộ dạng khá giả với các tiệm buôn cùng với sở hữu chủ của nó. Nó quan trọng vì là trục giao thông, là trung tâm của nhiều vùng ở bên ngoài bờ hồ như các bảng chỉ đường ở bờ đường ghi: Gamala, Gadara, Pella, Arbêla, Bosra, Gerghésa, và các tên khác nữa.
Thành phố rất đông dân, nhiều người ngoại quốc qua lại. Họ đến từ các tỉnh lân cận để mua bán hay vì các lý do làm ăn khác. Tôi thấy có nhiều người Rôma, dân sự cũng như quân nhân trong đám đông. Tôi không biết đây là đặc biệt cho tỉnh này hay cho cả miền, mà người ta không có vẻ hận thù hay đụng chạm gì với người Rôma. Có thể là công việc đã tạo ra những sợi giây liên lạc, nếu không thân hữu thì ít ra cũng tốt hơn trong những vùng ở bờ bên kia.
Đám đông lớn dần theo đà Giêsu tiến vào trung tâm thành phố, cho tới khi Người dừng lại tại một quảng trường mênh mông, trồng đầy cây có bóng mát mà dưới đó người ta họp chợ, tức là nơi diễn ra những dịch vụ quan trọng nhất, còn những dịch vụ bán lẻ thực phẩm cũng như đồ dùng thì diễn ra ở bên ngoài quảng trường, trên mảnh đất bằng mà mặt trời đã đập mạnh. Các người mua bán tự vệ bằng cách căng những tấm vải trên những cái cọc để có một chút bóng rợp cho hàng hoá bày ngay trên đất. Do đó nơi này được che bằng những miếng vải đủ mầu căng chỉ hơi cao hơn mặt đất, chen chúc những người với y phục muôn mầu, trông nó giống như một đồng cỏ được tô điểm bằng những bông hoa vĩ đại, bông thì đứng bất động, bông thì len lỏi giữa các đồ được trưng bày. Điều đó làm cho mảnh đất có bộ mặt dễ chịu mà chắc chắn nó không còn khi các... cửa hàng tiền sử của nó được dẹp đi, lúc đó nó chỉ còn là một mảnh đất trơ trụi, mầu vàng khè và buồn tẻ.
Bây giờ nó đang nhộn nhịp những ồn ào huyên náo. Các người
540
thuộc lớp bình dân la lối, vừa nói vừa la để mặc cả một cái tô bằng gỗ, một cái rây hay cả đến một mớ hạt! Sự huyên náo của kẻ bán người mua được đồng thanh với ca đoàn các hành khất. Họ cố gắng rống lên mạnh hơn tiếng ồn ào của chợ để được người ta nghe thấy.
Batôlômêo kêu lên: “Nhưng thưa Thầy, Thầy không thể nói ở đây được! Tiếng Thầy mạnh, nhưng nó không thể át nổi tất cả những ồn ào này”.
Giêsu trả lời: “Chúng ta sẽ chờ. Các con thấy không? Chợ sắp tan. Một số người đã dẹp hàng của họ. Trong khi chờ, các con hãy đi phát của bố thí cho các hành khất bằng những của cúng của các người giầu ở đây. Điều đó sẽ là sự khai mào và là phúc lành cho bài thuyết giáo, vì của bố thí làm với tình yêu sẽ vượt từ mức độ trợ giúp vật chất tới mức độ tình yêu tha nhân và lôi kéo ân phúc”.
Các tông đồ đi để hoàn tất mệnh lệnh.
Giêsu bắt đầu nói ở giữa đám đông đang chăm chú: “Thành phố này giầu và thịnh vượng, ít là ở phía này. Thầy thấy các con ăn vận sạch sẽ và thanh nhã. Diện mạo các con có vẻ phát đạt. Tất cả đều nói với Thầy rằng các con không nghèo khó. Bây giờ Thầy hỏi các con: những người đang than van ở đàng kia là dân Ippo hay là các hành khất ngẫu nhiên từ các nơi khác đến đây để xin cứu trợ? Hãy thành thật...”
- Đây, chúng con nói cho Thầy, mặc dầu lời Thầy đã là một sự khiển trách: Có một số từ nơi khác đến, nhưng phần đông là dân Ippo.
- Không có việc gì cho họ sao? Thầy thấy ở đây người ta đang xây cất rất nhiều, và hẳn phải có việc làm cho mọi người...
- Hầu như luôn luôn là người Rôma mướn người làm.
- Hầu như luôn luôn. Con nói đúng, vì Thầy cũng thấy những người dân ở đây điều khiển công việc. Và trong số họ, Thầy thấy họ trông coi nhiều người không phải dân ở đây. Tại sao trước tiên không lo giúp những người trong tỉnh nhà?
- Bởi vì... rất khó làm việc ở đây. Nhất là mấy năm trước đây, trước khi người Rôma làm những con lộ đẹp thì rất khó lòng mang vật liệu tới đây để mở đường... Và nhiều người mắc bệnh hay trở
541
thành tàn tật... và bây giờ là những hành khất, vì họ không thể làm việc nữa.
- Nhưng các con được hưởng công việc họ đã làm.
- Thưa Thầy, chắc chắn rồi. Thầy coi thành phố đẹp biết bao! Thực dụng với lượng nước dồi dào trong các bồn chứa sâu, với những con đường đẹp đẽ nối liền với các thành phố giầu khác. Thầy coi cách kiến trúc vững vàng chừng nào! Thầy coi bao nhiêu là công việc. Thầy coi...
- Thầy thấy tất cả. Và điều này: Những kẻ đã giúp các con xây dựng là những kẻ bây giờ khóc lóc để xin các con một tấm bánh. Đúng, các con đã nói? Vậy tại sao được vui hưởng những cái mà họ đã giúp các con được, mà lại không cho họ một chút vui? Một tấm bánh, dù họ không xin; một cái ghế bố để họ không phải bất đắc dĩ chung chuồng với súc vật hoang. Một trợ giúp trong bệnh tật của họ, vì nếu họ được săn sóc, họ còn làm được cái gì thay vì tự làm mất phẩm giá trong sự nhàn cư bó buộc và thoái hóa. Làm sao các con có thể thỏa mãn ngồi bàn để vui vẻ chia sẻ những thực phẩm dồi dào với các con cái sung sướng của các con, khi các con biết rằng ở gần đó có những người anh em đang đói? Làm sao các con có thể đi nghỉ trên một chiếc giường thoải mái khi các con biết rằng ở bên ngoài, trong đêm tối, có những người không có giường, không có chỗ nghỉ ? Những đồng tiền mà các con cất trong hòm sắt, chúng không đốt cháy lương tâm các con khi các con biết rằng nhiều người không có lấy một xu nhỏ để mua một cái bánh sao?
Các con đã nói với Thầy rằng các con tin ở Chúa tối cao, các con giữ luật, các con biết lời tiên tri và các sách khôn ngoan. Các con đã nói với Thầy rằng các con tin ở Thầy và các con ước ao giáo lý của Thầy. Vậy các con phải tạo cho mình một qủa tim tốt, vì Thiên Chúa là tình yêu và dạy tình yêu. Bởi vì các tiên tri và các sách khôn ngoan dạy tình yêu, và giáo lý của Thầy là giáo lý của tình yêu. Các lễ hy sinh cũng như các lời cầu nguyện sẽ vô ích nếu nó không có cái nền tảng, cái bàn thờ là tình yêu tha nhân, nhất là những người nghèo tội nghiệp, với họ, ta có thể cho hết mọi hình
542
thức của tình yêu: một tấm bánh, một cái giường, cái áo, sự an ủi, dạy dỗ, và dẫn họ đến với Thiên Chúa. Sự nghèo túng, vì vẻ hèn hạ của nó, nó dẫn tâm hồn đến chỗ mất lòng tin nơi Đấng Quan Phòng là điều thiết yếu để kiên trì trong những thử thách của đời sống. Làm sao các con có thể đòi hỏi các kẻ khổ sở phải luôn luôn tốt, kiên nhẫn, đạo đức, khi họ thấy những kẻ nhận được mọi sự lành của đời sống theo những ý nghĩ thông thường về sự quan phòng, mà lại có con tim khắt khe, không có tôn giáo thực - vì trong tôn giáo của họ thiếu phần thứ nhất và căn bản nhất, đó là tình yêu - họ không biết kiên nhẫn, họ là những người có tất cả, mà họ không biết cả việc chịu đựng sự van nài của kẻ đói. Đôi khi các người nghèo buông lời lăng mạ Thiên Chúa và các con ư ? Nhưng ai đã dẫn họ tới cái tội này? Các con, những công dân giầu của một thành phố giầu, các con không bao giờ suy nghĩ rằng các con có một nhiệm vụ lớn lao: Dẫn tới sự khôn ngoan, những kẻ mà các con đã bỏ rơi bằng lối hành động của các con?
Thầy đã nghe người ta nói với Thầy: “Tất cả chúng con đều muốn làm môn đệ Thầy để rao giảng Thầy”. Vậy Thầy nói với tất cả: đây, các con có thể làm điều đó: những người kia, đang đến cách sợ sệt, xấu hổ vì quần áo rách rưới, mặt mũi hốc hác, là những kẻ đang chờ Tin Mừng, tin được ban nhất là cho người nghèo, để họ có sự an ủi siêu nhiên trong sự hy vọng một cuộc đời vinh hiển sau cuộc đời hiện tại buồn tẻ của họ. Các con có thể đem giáo lý của Thầy ra thực hành với một chút cố gắng vật chất, nhưng với nhiều cố gắng tinh thần hơn - vì sự giầu có nguy hiểm cho sự thánh thiện và sự công bằng - Họ có thể theo nó với những khổ sở đủ loại của họ: thiếu bánh ăn, quần áo không đủ mặc, không nhà cửa. Tất cả những cái đó dẫn họ tới chỗ tự hỏi: “Làm sao tôi có thể tin Thiên Chúa là cha tôi, nếu tôi không có được những cái mà chim trời cũng có?” Làm sao sự khắt khe của đồng loại có thể dẫn họ tới chỗ tin được rằng phải yêu nhau như anh em? Vậy các con có bổn phận bó buộc phải thuyết phục họ bằng tình yêu linh hoạt của các con. Có Đấng Quan Phòng, và các con, những người giầu trong thế giới,
543
các con là tôi tớ của Người. Hãy biết rằng làm các kẻ trung gian của Người là vinh dự lớn lao Thiên Chúa ban cho các con, và là phương tiện duy nhất để làm cho sự giầu có nguy hiểm thành thánh thiện.
Các con hãy hành động như các con nhìn thấy chính Thầy ở trong mỗi người của họ, vì Thầy, Thầy ở trong họ. Thầy đã muốn nghèo khó và bị bách hại để giống như họ, để cái kỷ niệm về Đức Kitô nghèo khó và bị bách hại trường tồn qua các thế kỷ, và tỏa ánh sáng siêu nhiên trên các người nghèo và bị bách hại như Đức Kitô, một ánh sáng làm cho các con yêu họ như các chính Thầy khác. Vì Thầy, thực sự Thầy ở trong người hành khất mà người ta cho ăn, người ta giải khát, người ta cho mặc, người ta cho trọ. Thầy ở trong các trẻ mồ côi được tiếp đón với tình yêu, ở trong người già mà người ta cứu giúp, ở trong bà góa mà người ta phụ trợ, ở trong người hành hương mà người ta cho trọ, ở trong người bệnh mà người ta săn sóc; và Thầy ở trong người đau khổ mà người ta an ủi, ở trong kẻ nghi ngờ mà người ta làm cho vững chắc, ở trong kẻ ngu muội mà người ta dạy dỗ. Thầy ở những nơi mà người ta nhận được tình yêu. Và tất cả những gì được làm cho một người anh em, dù là về vật chất hay tinh thần, là nó được làm cho chính Thầy. Vì Thầy là người nghèo, người đau khổ, là Con Người Của Đau Thương. Và Thầy là vậy để ban sự giầu có, niềm vui, đời sống siêu nhiên cho mọi người, những người mà nhiều khi - họ không biết, nhưng là như vậy - nhiều khi họ chỉ giầu ở bề ngoài, chỉ vui một cái vui biểu kiến, nhưng thực sự nghèo nàn về của cải thực và niềm vui thực, vì họ không có Ân Sủng, vì tội nguyên tổ đã làm mất của họ. Các con biết: Không có Sự Cứu Chuộc thì không có Ân Sủng, mà không có Ân Sủng thì cũng không có niềm vui và Sự Sống.
Và Thầy, để ban Ân Sủng và Sự Sống, Thầy đã không muốn sinh ra là vua hay người quyền thế, nhưng là người nghèo, một con dân khiêm tốn. Qủa vậy, triều thiên là không, ngai vàng là không, quyền thế là không đối với đấng từ Trời xuống để dẫn người ta về Trời, bằng cách Thầy làm gương về tất cả những gì mà một ông thầy
544
thực sự phải làm để cho giáo lý của ông nên mạnh mẽ. Quả vậy, đại đa số thế giới là những người nghèo và thấp bé, còn người quyền thế và sung sướng là thiểu số. Bởi vì lòng tốt thì thương xót.
Chính vì vậy mà Thầy đã đến, và Chúa đã xức dầu cho Đấng Kitô của Người: Để Thầy loan báo Tin Mừng cho người hiền lành, để Thầy chữa cho những kẻ có con tim tan nát, để Thầy loan báo tự do cho các nô lệ, sự giải phóng cho các tù nhân; để Thầy an ủi những kẻ khóc lóc, để ban lại cho các con cái Thiên Chúa, cho các con cái biết kiên trì trong niềm vui cũng như niềm đau, chiếc triều thiên của chúng, chiếc áo công chính của chúng, và để biến đổi chúng từ những cây hoang dại thành những cây của Thiên Chúa, thành những vô địch của Người, những vinh quang của Người. Thầy là tất cả cho tất cả, và Thầy muốn có họ ở với Thầy trong Nước Trời là nước mở cửa ra cho mọi người, miễn là họ biết sống công chính. Sự công chính ở trong việc tuân giữ lề luật và thực hành tình yêu. Người ta không đến nước này được bằng những luật của may rủi, nhưng bằng sự anh hùng thánh. Mong rằng những ai muốn vào đó hãy theo Thầy và làm những điều Thầy làm: Họ hãy yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như Thầy yêu họ; họ không xúc phạm danh Chúa, họ hãy thánh hóa các ngày lễ của Người, họ hãy tôn kính cha mẹ, họ không giơ bàn tay hung bạo trên tha nhân, họ không gian dâm, họ không trộm cắp của tha nhân bất cứ cách nào, họ không làm chứng gian, họ không ước ao cái họ không có mà người khác có, nhưng họ hãy luôn luôn bằng lòng với số phận của mình bằng cách nhìn nó như sự chuyển tiếp, như một con đường, một phương tiện để chinh phục một số phận tốt đẹp và vĩnh cửu. Họ hãy yêu các người nghèo, người đau khổ, người bé mọn của trái đất, các trẻ mồ côi, các kẻ góa bụa; họ không cho vay nặng lãi. Kẻ làm như vậy thì dù nó là dân tộc nào, ngôn ngữ nào, ở trong điều kiện nào, với tài sản nào, nó cũng có thể vào Nước của Thiên Chúa mà Thầy sẽ mở các cửa cho.
Hãy đến với Thầy, tất cả những ai có ý muốn ngay thẳng. Đừng sợ, dù các con là gì hay đã là gì. Thầy là Nước tẩy rửa cho qúa khứ
545
và củng cố cho tương lai. Hãy đến với Thầy, các con, những kẻ nghèo sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan ở trong lời Thầy. Hãy đến với Thầy. Hãy làm lại cho các con một đời sống mới về những ý tưởng khác. Đừng sợ rằng không biết hay không thể làm. Giáo lý của Thầy dễ dàng, ách của Thầy nhẹ nhàng. Thầy là vị Rabbi cho mà không đòi đền bù, không đòi một đền bù nào khác ngoài tình yêu của các con. Nếu các con yêu Thầy, các con sẽ yêu giáo lý của Thầy, và vì vậy, các con cũng yêu tha nhân, và các con sẽ có Sự Sống và Nước Trời.
Là người giầu, các con hãy cởi bỏ sự dính bén vào của cải, và hãy dùng nó để mua Nước Trời bằng tất cả những công việc của tình yêu thương xót đối với tha nhân. Là người nghèo, các con hãy cởi bỏ sự đê hèn, hãy đi trên con đường của Vua các con. Cũng như Isaie, Thầy bảo các con: “Các con khát, hãy đến nguồn nước; các con không tiền, hãy đến mua”. Với tình yêu, các con sẽ mua được những gì là tình yêu, những gì là lương thực không hư nát, của ăn thực sự làm no nê và bổ dưỡng.
Thầy, Thầy ra đi, ôi hỡi các nam giới, hỡi các phụ nữ, hỡi các người giầu, hỡi các người nghèo của Ippo. Thầy đi vì vâng theo ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng Thầy muốn ra đi bên cạnh các con, đã được bớt khổ hơn lúc Thầy tới. Chính lời hứa của các con làm nhẹ nỗi đau khổ của Thầy. Ôi hỡi các người giầu, vì sự lành cho các con, vì sự lành cho thành phố các con, hãy hứa với Thầy là từ nay trở đi các con sẽ thương xót đối với những người bé mọn nhất trong các con. Ở đây tất cả đều đẹp, nhưng sự nhẫn tâm của các con nó giống như đám mây đen của một cơn giông, nó làm cho thành phố đẹp nhất có dáng vẻ dễ sợ, nó bay là đà ở đây như một bóng đen làm vẻ đẹp biến mất. Các con hãy loại bỏ nó đi, và các con sẽ được chúc phúc. Các con hãy nhớ lại: Thiên Chúa đã hứa sẽ không phá hủy thành Sôđôma nếu ở đó có mười người công chính. Các con không biết tương lai, nhưng Thầy biết. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng hình phạt sẽ rất nặng, nặng hơn một đám mây mang mưa đá trong mùa hè. Hãy cứu lấy thành phố của các con bằng sự
546
công chính của các con, bằng tình thương của các con. Các con có làm không?
- Chúa ơi, chúng con sẽ làm, nhân danh Thầy. Hãy nói với chúng con đi. Hãy nói với chúng con nữa đi! Chúng con đã nhẫn tâm và tội lỗi, nhưng Thầy cứu chúng con. Thầy là Vị Cứu Tinh. Hãy nói với chúng con...
- Thầy sẽ ở với các con tới chiều, nhưng Thầy sẽ nói bằng công việc của Thầy. Bây giờ mặt trời nóng, mỗi người hãy về nhà mình và suy gẫm lời Thầy.
- Chúa ơi! Còn Thầy, Thầy đi đâu? Về nhà con đi! Nhà con! - hết các người giầu của Ippo đều muốn có Người, và hầu như họ cãi nhau để đòi quyền lợi cho những lý do mà vì đó, Giêsu phải đến nhà người nọ hay người kia.
Người giơ tay áp đặt sự yên lặng. Người có được không phải không khó. Người nói: “Thầy ở lại với họ”, và Người chỉ vào các người nghèo chen chúc ở vòng ngoài đám đông, đang nhìn Người với cặp mắt của kẻ luôn luôn bị khinh bỉ mà lại cảm thấy được yêu. Người nhắc lại: “Thầy, Thầy ở lại với họ để an ủi họ và chia sẻ bánh với họ, để cho họ nếm trước mùi vị niềm vui Nước Trời, nơi mà Vị Vua sẽ ngồi giữa các người của Ngài trong cùng một bữa tiệc tình yêu. Và trong khi chờ đợi, bởi vì đức tin của họ được vẽ trên khuôn mặt họ và trong con tim của họ, nên Thầy nói với họ: “Cho các con được những điều mà các con xin ở trong lòng, để cho tâm hồn và thân xác các con hoan hỉ trong tiếng chào đầu tiên mà các con dành cho Vị Cứu Tinh’”.
Những người nghèo, ít là cả trăm người, mà khoảng hai phần ba trong số họ tàn tật hoặc mù, hoặc bệnh hoạn rõ ràng; phần ba còn lại là các trẻ em đi ăn xin cho bà mẹ góa của chúng, hay cho ông bà chúng... Rồi, đây, quang cảnh kỳ diệu: các cánh tay què, những xương hông bị trật, những xương sống biến dạng, những con mắt đã tắt, những người kiệt quệ lết đi, tất cả một rừng đau thương của các bệnh tật hay các bất hạnh gây ra bởi các tai nạn lao động, hoặc sự mệt mỏi qúa mức, hoặc thiếu thốn qúa mức... Tất cả đều biến đi và
547
lấy lại trạng thái thông thường. Tất cả những kẻ bất hạnh này lại trở về cuộc sống và cảm thấy tự mình có thể tự túc. Tiếng kêu của họ làm đầy cái công viên mênh mông và vang dội lên.
Một người Rôma vất vả để rẽ ra một lối đi giữa đám đông đang ngây ngất, để đến bên Giêsu, Người cũng đang đi cách khó khăn để đến với các kẻ nghèo mà Người đã chữa. Họ đứng tại chỗ họ để chúc tụng Người, vì họ không thể rẽ đám đông chật cứng ra được.
- Chào Ngài, ôi Rabbi Israel. Điều Ngài đã làm là chỉ dành cho những người thuộc dân Ngài thôi sao?
- Ông ơi, không đâu, về điều tôi đã làm cũng như tôi đã nói. Uy quyền của tôi là phổ quát, bởi vì tình yêu của tôi phổ quát. Và giáo lý của tôi cũng phổ quát, bởi vì đối với nó, không có giai cấp, không có tôn giáo, không có dân tộc nào giới hạn nó. Nước Trời là cho tất cả nhân loại biết tin vào Thiên Chúa thực, và tôi là cho hết mọi người biết tin vào quyền năng của Thiên Chúa thực.
- Tôi là dân ngoại, nhưng tôi tin Ngài là vị thần. Tôi có tên nô lệ rất thân yêu đối với tôi, một tên nô lệ già đã theo tôi từ lúc tôi còn nhỏ. Bây giờ ông ta bất toại và phải chết từ từ trong khi chịu đau đớn rất nhiều. Nhưng đó là một tên nô lệ, và có lẽ Ngài...
- Thực vậy, tôi nói với anh rằng tôi chỉ biết một thứ nô lệ làm tôi ghê tởm: nô lệ tội lỗi, tội lỗi cố chấp. Qủa vậy, kẻ tội lỗi mà sám hối sẽ gặp được lòng thương xót của tôi. Người nô lệ của anh sắp khỏi. Hãy đi và hãy chữa mình cho khỏi sai lạc bằng cách đi vào đức tin thực.
- Thầy không đến nhà tôi sao?
- Không đâu ông ơi.
- Thực tình... tôi xin qúa đáng. Một vị thần đâu có vào nhà các kẻ hay chết. Điều đó chỉ có trong các chuyện thần thoại... Nhưng chưa bao giờ có ai cho Jupiter hay Apollon cư ngụ cả.
- Bởi vì chúng không hiện hữu. Nhưng Thiên Chúa, Thiên Chúa thực, Người vào nhà những kẻ tin ở Người, và Người đem sự chữa lành và bình an vào đó.
- Ai là Thiên Chúa thực?
548
- Đấng Tự Hữu.
- Không phải Ngài sao? Đừng nói dối! Tôi cảm thấy Ngài là Thiên Chúa...
- Ta đâu có nói dối... Anh đã nói đúng, Ta là thế. Ta là Con Thiên Chúa đến để cứu cả linh hồn anh nữa, cũng như Ta đã cứu tên nô lệ thân yêu của anh. Có phải ông ta đang tới và lớn tiếng gọi anh không?
Người Rôma quay lại, anh ta thấy một ông gìa có các người khác theo sau. Ông ta bọc mình trong chiếc mền, vừa chạy vừa la: “Marius! Marius! Ông chủ của tôi!”
- Lạy Jupiter! Tên nô lệ của tôi! Thế nào!... Tôi... Tôi đã nói: Jupiter... Không, tôi nói: Lạy Rabbi Israel. Tôi... Tôi... - anh ta không còn biết nói gì nữa.
Đám người liền tự nguyện mở đường ra cho ông già được khỏi đi qua.
- Ông chủ ơi! Tôi được khỏi. Tôi cảm thấy một ngọn lửa trong các chi thể của tôi và tôi nghe một mệnh lệnh: “Hãy chỗi dậy”. Tôi thấy hình như đó là tiếng ông. Tôi chỗi dậy, tôi đứng lên, tôi thử bước đi... Tôi thành công... Tôi rờ vào các chỗ đóng vảy... Không còn vết thương nữa. Tôi la lên, Nérée và Quintus chạy tới. Họ đã nói cho tôi chỗ ông đang ở. Tôi không đợi mặc quần áo. Bây giờ tôi lại có thể phục vụ ông... - ông già qùi gối khóc và hôn áo của tên Rôma.
- Không phải tôi. Chính Người, vị Rabbi đã chữa ông. Phải tin, Aquila. Người chính là Thiên Chúa thực. Người đã chữa những người này bằng tiếng nói của Người, còn ông... bằng... bằng cái gì tôi không biết... người ta phải tin... Chúa... Tôi là dân ngoại nhưng... Đây... Không, ít qúa. Hãy nói cho tôi Ngài ở đâu, tôi sẽ tôn vinh Ngài - anh ta đã giơ ra một cái túi tiền, nhưng rồi anh ta lại giữ lại.
- Ta tới cái hành lang bóng mát kia với họ.
- Tôi sẽ biếu Ngài để cho họ. Chào! Ôi Rabbi. Tôi sẽ kể lại cho những người không tin...
- Chào. Ta chờ anh trên con đường của Thiên Chúa.
549
Tên Rôma ra đi với các nô lệ của hắn. Giêsu đi với các người nghèo của Ngài, cùng với các tông đồ và các nữ môn đệ.
Chiếc hành lang - đó là con đường có mái che thì đúng hơn là cái hành lang - rợp và mát mẻ. Nhưng niềm vui lớn lao tới nỗi nó làm cho nơi này nên đẹp, mặc dầu thực ra thì nó rất bình thường. Thỉnh thoảng có một người dân đến cho của bố thí. Người nô lệ của tên Rôma trở lại với một túi tiền nặng. Giêsu ban các lời của ánh sáng và sự yên ủi của tiền bạc. Các tông đồ trở về với các lương thực đủ loại. Giêsu bẻ bánh và chúc phúc của ăn để phát cho người nghèo, các người nghèo của Ngài...
146* ĐI VỀ GAMALA
Chiều xuống dẫn về một làn gió nhẹ thổi mát sau bao là sức nóng, và bóng rợp làm nhẹ nhõm sau bao là mặt trời.
Giêsu giải tán dân Ippo, quyết định dứt khoát không chậm trễ việc khởi hành, vì Người muốn có mặt tại Caphanaum vào ngày Sabát.
Người ta tiếc xót để bỏ đi, nhưng một số khăng khăng theo Người ra bên ngoài thành. Trong đám họ có người đàn bà ở Afêca, một bà góa mà tại thị trấn ở bờ hồ đã xin Chúa chọn bà làm bảo mẫu cho thằng bé Alphê mà mẹ nó không muốn nó nữa. Bà đi với các nữ môn đệ tựa như bà cũng thuộc nhóm họ, và bây giờ bà rất thân mật với các bà, đến nỗi các bà coi bà như người trong gia đình. Bây giờ bà đang ở bên Salômê và không ngừng thảo luận nhỏ tiếng với bà. Ở hơi phía sau hơn là Maria và chị dâu Người, hai vị điều chỉnh bước đi cho hợp với nhịp bước của đứa bé. Nó đưa cả hai tay cho hai bà dắt, và vừa đi vừa dỡn, nhảy trên mép của mỗi viên đá lát đường, chắc chắn đã được làm bởi người Rôma để mặt đường được bằng phẳng.
Và mỗi lần như vậy, nó lại cười và nói: “Coi, con rất dũng cảm? Coi này, coi nữa này!” Một trò chơi mà tôi nghĩ hết mọi đứa trẻ
550
trên thế giới đều làm khi nó cầm tay những người mà nó cảm thấy có tình cảm đối với nó. Và hai vị thánh cầm tay nó tỏ ra rất thú vị với trò chơi của nó, và khen nó về sự dũng cảm mà nó bộc lộ khi nhảy. Đứa bé tội nghiệp, trong vài ngày đã nở tươi vào một đời sống an bình và yêu thương. Nó có con mắt vui vẻ của đứa trẻ hạnh phúc, và giọng cười nắc nẻ của nó làm cho nó như đẹp hơn, nhất là trẻ thơ hơn. Nó đã mất đi những bộc lộ của một ông nhỏ phải trưởng thành sớm và buồn tẻ của nó vào buổi chiều khởi hành tại Caphanaum.
Maria Alphê nghe được một câu của bà góa Sara, bà lưu ý tới đó và nói với em dâu bà: “Như vậy sẽ rất tốt. Ở vào địa vị của Giêsu thì chị sẽ cho nó cho bà”.
- Maria, nó có một người mẹ.
- Một người mẹ à? Đừng nói tới đó. Một con chó sói cái còn có tình mẹ hơn cái bà khốn nạn này.
- Đúng vậy. Nhưng cho dù bà ta không kể đến bổn phận của bà đối với con bà, bà ta vẫn luôn luôn có quyền trên nó.
- Hum! Để làm khổ nó. Coi đó, nó khá hơn chừng nào!
- Em thấy. Nhưng... Giêsu không có quyền lấy đứa con đi khỏi mẹ nó, kể cả để cho kẻ yêu nó.
- Người ta cũng không có quyền để... đủ rồi. Chị biết.
- Ôi! Em hiểu chị. Chị muốn nói: Người ta không có quyền lấy người con của em đi khỏi em. Nhưng họ sẽ làm điều đó... Tuy nhiên khi làm như vậy, một hành động độc ác một cách nhân loại, họ gây ra một điều lành vô tận. Trái lại ở đây, em không biết nó có là điều tốt cho người đàn bà này không...
- Nhưng cho đứa trẻ thì có chứ... Tại sao... Người nói với chúng ta về chuyện ghê gớm đó? Chị không còn bình an từ khi chị biết...
- Và cả trước đó, chị không biết rằng Đấng Cứu Chuộc phải chịu đau đớn và chịu chết sao?
- Chắc chắn chị đã biết! Nhưng chị không biết rằng chính là Giêsu. Chị rất yêu Người, em biết đó? Còn yêu hơn là chính con chị. Người qúa đẹp, qúa tốt... Ôi! Chị đã ghen với em, Maria của
551
chị, khi Người còn bé tí, rồi sau đó luôn luôn... luôn luôn... Chị lưu ý tới cả một luồng gió cho Người, và... Chị không thể nghĩ rằng Người sẽ bị hành hạ... - Maria Clêopha khóc dưới khăn voan của bà.
Và mẹ Maria ủy lạo bà: “Maria của em ơi! Đừng nhìn khía cạnh nhân loại. Hãy nghĩ tới các kết qủa của nó... Em, chị có thể nghĩ em thấy thế nào khi ánh sáng tàn mỗi ngày?... Khi nó tắt, em tự bảo: bớt đi mất một ngày có Giêsu... Ôi! Maria! Đây là điều em phải tạ ơn Đấng Tối Cao hơn tất cả: Đã cho em đạt tới tình yêu trọn hảo, trọn hảo tuyệt mức mà một tạo vật có thể có. Nó cho phép em chữa lành và củng cố con tim em khi nói: ‘Nỗi đau của Người và của em sẽ hữu ích cho các anh em. Vì vậy, xin chúc tụng đau khổ’. Nếu em không yêu tha nhân như vậy... thì em không thể, không, em không thể nghĩ rằng họ sẽ giết Giêsu...”
- Vậy tình yêu của em là thứ tình yêu nào? Người ta phải có thứ tình yêu nào để có thể nói những lời này? Để... để... để không đi trốn cùng với con mình, để bảo vệ nó và nói với tha nhân: “Tha nhân thứ nhất của tôi là con tôi, và tôi yêu nó hơn tất cả mọi thứ”?
- Đấng phải được yêu hơn tất cả mọi thứ là Thiên Chúa.
- Nhưng Người là Thiên Chúa.
- Người làm theo ý muốn của Thiên Chúa, và em cùng với Người. Tình yêu của em là tình yêu nào? Người ta phải có thứ tình yêu nào để có thể nói những lời này? Tình yêu tan hòa trong Thiên Chúa, hợp nhất hoàn toàn, phó thác hoàn toàn, tan biến đi trong Người, chỉ còn là một phần của Người, cũng như bàn tay chị là một phần của chính chị, và nó làm cái mà đầu chị ra lệnh. Đó là tình yêu của em và là tình yêu người ta phải có để luôn luôn làm theo ý muốn của Thiên Chúa với thiện chí.
- Nhưng em là em. Em là người có phúc hơn mọi tạo vật. Chắc chắn em đã như vậy ngay từ trước khi em có Giêsu, vì Thiên Chúa đã chọn em để em có Người, nên nó dễ dàng cho em.
- Không đâu Maria. Em là một phụ nữ và là bà mẹ như mọi phụ nữ và mọi bà mẹ. Ơn của Thiên Chúa không hủy bỏ tạo vật. Nó có
552
cái nhân tính của nó như mọi người, mặc dầu Thiên Chúa ban cho nó một thần tính cao vượt. Bây giờ chị đã biết rằng em phải nhận ơn huệ tùy ý em cùng với tất cả kết qủa nó bao gồm. Thật vậy, mọi ơn huệ của Thiên Chúa đều là hồng phúc lớn lao, nhưng cũng là một cam kết lớn lao. Thiên Chúa không áp bức ai để họ nhận các ơn của Người, nhưng Người hỏi ý tạo vật của Người. Nếu tạo vật trả lời “không” với tiếng nói thiêng liêng đã nói với nó, thì Thiên Chúa không bó buộc nó. Hết mọi linh hồn, ít nhất là một lần trong cuộc đời, đã được Thiên Chúa thẩm vấn nếu...
- Ồ,với chị thì không! Người không bao giờ hỏi chị cái gì cả - Maria Alphê kêu lên, đầy tự tin.
Đức Thánh Trinh Nữ mỉm cười êm đềm và trả lời: “Chị không nhận ra đó. Và tâm hồn chị đã trả lời mà chị không nhận ra. Sở dĩ như vậy là vì chị rất yêu Chúa”.
- Chị nói với em là Người không bao giờ nói với chị!...
- Vậy tại sao chị là môn đệ đi theo Giêsu? Tại sao chị ước ao mãnh liệt là tất cả các con chị đều là môn đệ của Giêsu? Chị biết theo Người nghĩa là gì, nhưng chị muốn là các con chị theo Người.
- Chắc chắn rồi. Chị muốn hiến tất cả chúng nó cho Người. Khi đó chị mới thực sự nói được rằng chị đã hiến tất cả các con chị cho ánh sáng. Và chị cầu nguyện, chị cầu nguyện để có thể sinh chúng ra cho ánh sáng, cho Giêsu, bởi một tình mẫu tử thực sự và đời đời.
- Chị thấy đó! Và tại sao lại như vậy? Bởi vì có một ngày Thiên Chúa đã hỏi chị, Người đã nói với chị: “Maria, con có chấp nhận cho các con trai của con là kẻ thừa hành của Ta trong Jêrusalem mới không?” Và chị đã trả lời: “Lạy Chúa, vâng”. Và ngay cả bây giờ, chị đã biết rằng môn đệ không hơn Thầy, và với Thiên Chúa là đấng hỏi chị, để chứng tỏ tình yêu của chị, chị vẫn trả lời: “Lạy Chúa, vâng. Con muốn từ rày chúng là của Chúa”. Có phải vậy không?
- Ờ, Maria, như thế đó. Đúng vậy. Chị ngu si tới nỗi chị không hiểu những gì xảy ra trong tâm hồn chị. Nhưng khi Giêsu hay em làm cho chị suy nghĩ, thì chị nói rằng đúng vậy, rằng chắc chắn vậy.
553
Chị nói rằng... Chị đã muốn rằng thà chúng bị giết bởi loài người còn hơn chúng là kẻ thù của Thiên Chúa... Chắc chắn... Nếu chị nhìn thấy chúng chết... nếu... ôi! Nhưng Chúa... Người sẽ giúp chị, hen? Chúa, vào giờ đó... Hay Người chỉ giúp có em thôi?
- Người sẽ giúp hết các con gái trung thành của Người, là những kẻ tử đạo trong tâm hồn, hoặc trong tâm hồn và trong thể xác, vì vinh quang của Người.
- Nhưng ai phải bị giết vậy? - Đứa trẻ hỏi. Nó đã nghe cuộc đàm thoại, nó không nhảy nữa. Nó chú ý lắng tai. Rồi nó lại hỏi, vừa hơi tò mò, vừa hơi sợ sệt trong khi nó nhìn từ bên nọ qua bên kia của miền quê cô quạnh đã trở nên tối: “Có các kẻ trộm à? Chúng ở đâu?”
- Con ơi, không có kẻ trộm nào đâu. Vào lúc này cũng không có ai phải bị giết cả. Nhảy đi, nhảy nữa đi!... - Maria rất thánh trả lời.
Giêsu đi xa ở đàng trước. Người đứng lại để chờ các phụ nữ. Những người đã theo Ngài từ Ippo thì còn ba người đàn ông và bà góa. Những người khác thì người nọ sau người kia, đã quyết định từ giã Người để trở về thành phố của họ.
Hai nhóm người tụ lại. Giêsu nói: “Chúng ta hãy nghỉ lại đây để chờ trăng lên. Rồi chúng ta lại khởi hành để có thể vào thành Gamala vào lúc rạng đông”.
- Nhưng Chúa ơi! Thầy không nhớ ở đó họ đã đuổi Thầy thế nào sao? Họ đã năn nỉ Thầy đi khỏi đó.
- Và lúc đó Thầy đã đi. Bây giờ Thầy trở lại. Thiên Chúa rất kiên nhẫn và khôn ngoan. Vào lúc đó, trong sự xao động của họ, họ không thể tiếp nhận Lời mà người ta phải nghe với một tâm hồn bình an để nó sinh hoa trái. Các con có nhớ cuộc gặp gỡ của Êlia với Chúa trên núi Horeb không. Hãy nghĩ rằng Êlia đã là một tâm hồn rất được Chúa yêu và có thói quen nghe Người. Chỉ trong sự bình an của cơn gió nhẹ, khi tâm hồn ông đã nghỉ ngơi sau những dao động, trong sự bình an của tạo vật và trong cái tôi ngay thẳng, Thiên Chúa mới nói với ông. Vậy Chúa đã chờ cho sự xao động do sự đi qua của đạo quân ma qủi yên tĩnh trở lại trong vùng này - vì
554
nếu sự đi qua của Thiên Chúa là bình an, thì việc Satan đi qua sẽ là xao động - Và Chúa đã chờ cho sự lộn xộn lắng xuống, và sự thanh quang của con tim và tâm trí được tái lập, Người mới trở lại với dân Gamala, vì họ vẫn còn là con cái Người. Đừng sợ, họ sẽ không làm hại chúng ta đâu.
Bà góa thành Afêca tiến lên và phủ phục: “Lạy Chúa, Ngài sẽ không tới nhà con sao? Afêca cũng đầy những con cái Thiên Chúa...”
- Đường đi khó khăn và thời gian ngắn ngủi. Chúng tôi có các phụ nữ, và chúng tôi phải trở về Caphanaum cho ngày Sabát. Bà đừng năn nỉ - Iscariot nói vẻ qủa quyết như để từ chối bà.
- Bởi vì... Tôi muốn Người thấy rằng tôi rất có thể lo cho đứa bé.
- Nhưng còn mẹ nó, bà hiểu không? - Iscariot lại nói, và ông nói vẻ bất lịch sự.
- Con có biết con đường tắt để đi từ Gamala tới Afêca không? - Giêsu hỏi người đàn bà bị hạ nhục.
- Ôi! Có con đường núi, nhưng tốt; nó mát mẻ vì nó ở dưới bóng cây. Vả nữa, cho các phụ nữ, ta có thể đi lừa. Con sẽ trả.
Thầy sẽ đến nhà con để an ủi con, dù là Thầy không thể cho con đứa trẻ, bởi vì nó còn mẹ. Nhưng Thầy hứa với con rằng nếu Thiên Chúa xét là tốt để cho đứa trẻ không được yêu lại tìm được tình yêu, thì Thầy sẽ nghĩ tới con.
- Cám ơn Thầy. Thầy tốt - và người đàn bà góa liếc Judas như muốn nói: “Còn ông, ông xấu”.
Đứa trẻ đã nghe và hiểu, ít là một phần. Nó cũng quyến luyến bà góa, vì bà đã chinh phục nó bằng những vuốt ve và bằng những miếng ngon. Một phần bởi cử động tự nhiên về sự phản xạ, một phần bởi tính hay bắt chước đặc biệt của các trẻ em, nó lặp lại y hệt điều bà góa đã làm, nhưng thay vì phủ phục dưới chân Giêsu, nó bám vào hai đầu gối Người, khuôn mặt nhỏ của nó ngửa lên, trắng toát dưới ánh trăng, và nó nói: “Cám ơn Thầy. Thầy tốt”. Và nó không chỉ giới hạn ở chỗ đó, nó nói rõ ràng điều nó nghĩ, nên nó kết thúc bằng cách nói: “Còn ông, ông độc ác”, và nó lấy chân đá vào Iscariot để không ai có thể lầm lẫn về nhân vật mà nó muốn nói.
555
Tôma cười cách ồn ào và lôi kéo những người khác khi ông nói: “Judas tội nghiệp! Đã nói mà, đúng là con nít nó không ưa anh. Mỗi lần có đứa nào nó đoán xét anh là y như rất xấu!...”
Judas có rất ít tinh thần đến nỗi ông bộc lộ sự giận dữ, một sự giận dữ bất công, không cân xứng với các nguyên nhân và đối tượng đã gây ra nó. Ông trút giận bằng cách giật đứa bé một cách đê tiện ra khỏi đầu gối Giêsu và quăng nó ra đàng sau khi ông thét lên: “Đó là điều xảy ra khi người ta chơi trò khôi hài trong những chuyện đứng đắn. Không đẹp gì, cũng không ích lợi gì khi dẫn theo sau lưng một đám đàn bà và con hoang...”
- Điều đó là không đúng. Cha nó, anh cũng biết ông ta mà! Ông là người chồng hợp pháp và công chính - Batôlômêo lưu ý ông cách nghiêm nghị.
- Vậy?... Bây giờ nó chả là đứa lang thang, một tên trộm cắp tương lai sao? Nó đã chẳng là nguyên nhân của các lời đàm tiếu bất lợi cho chúng ta sao? Người ta đã tưởng nó là con của mẹ Thầy... Và ông chồng của mẹ Thầy ở đâu để biện minh cho một đứa trẻ ở tuổi này? Hay người ta tin nó là con của một trong chúng ta, và...
- Đủ rồi! Con nói cái ngôn ngữ của thế gian. Nhưng thế gian nói ở trong bùn, nói với cóc nhái, với rắn lục, với thằn lằn, với tất cả các con vật dơ bẩn... Lại đây Alphê. Đừng khóc, hãy lại với Thầy. Thầy sẽ ẵm con trong tay Thầy.
Nỗi đau của đứa trẻ thật lớn lao! Tất cả nỗi đau của trẻ mồ côi, của đứa trẻ bị mẹ đuổi, mấy bữa nay được ngủ trong bình an, bây giờ lại nổi lên, sôi sục, tràn bờ. Nó khóc nỗi đau của đứa trẻ không được yêu hơn là nó khóc vì vết trầy nó đã bị ở trán và ở bàn tay khi ngã té trên đất đá, vết trầy mà các bà lau chùi và hôn để an ủi nó. Những tiếng khóc dài, tan nát, với những tiếng gọi về người cha đã chết, về mẹ nó... Ôi! Đứa trẻ tội nghiệp!
Tôi khóc với nó. Tôi là người mà loài người chưa bao giờ biết yêu. Và cũng như nó, tôi ẩn mình trong cánh tay Thiên Chúa. Hôm nay, kỷ niệm đám táng của ba tôi; hôm nay là ngày mà một quyết định bất công đã không cho phép tôi được rước lễ thường xuyên.
556
Giêsu ẵm nó, hôn nó, ru nó và an ủi nó trong khi Người đi ở phía trước mọi người, với trẻ vô tội ở trong tay, dưới ánh trăng sáng. Tiếng khóc dịu đi từ từ và cách quãng. Trong đêm thinh lặng, người ta có thể nghe thấy tiếng Giêsu nói: “Thầy đây, Alphê, Thầy ở đây cho mọi người, để làm người cha và người mẹ cho con. Đừng khóc. Ba con ở gần Thầy, và ông hôn con cùng với Thầy. Các thiên thần săn sóc con tựa như các ngài là những người mẹ. Tất cả tình yêu, tất cả tình yêu cho con, nếu con tốt và vô tội...”
Bây giờ là tiếng nói của một trong ba người đi theo từ Ippo: “Ông Thầy tốt, và Người lôi cuốn, nhưng các môn đệ của Người thì không. Tôi, tôi đi đây...”
Rồi giọng nói nghiêm nghị của Zêlote với Judas: “Anh thấy điều anh làm không?”
Bây giờ chỉ còn bà góa thành Afêca ở lại trong đám các nữ môn đệ và thở dài với họ. Người ta chỉ còn nghe tiếng bước chân đã giảm, vì ba người Ippo đã bỏ đi. Rồi nhóm các nhà truyền giáo dừng lại gần một cái hang mênh mông, có lẽ là nơi trú ngụ của các mục đồng, vì mặt đất có phủ một lớp cỏ và cây đuôi chồn để ngăn cách với đất ẩm.
- Chúng ta dừng lại đây. Hãy thu dọn cho các phụ nữ cái giường này của Đấng Quan Phòng. Còn chúng ta có thể nằm trên cỏ ở ngoài - Giêsu nói. Đó là điều họ làm khi trăng tròn đi qua trên bầu trời.
147* TẠI GAMALA
Rạng đông vừa hơi lú lên khi Giêsu thức giấc và ngẩng đầu để ngồi dậy trên chiếc giường hoang dã bằng đất và cỏ của Người. Rồi Người đứng dậy, cầm xăng đan, và áo khoác mà Người đã đắp trên mình để che cho khỏi sương và giá lạnh ban đêm. Một cách cẩn thận, Người len qua cái đám chằng chịt những chân, tay, thân mình và đầu của các tông đồ ngủ ở chung quanh Người. Người đi xa vài mét trong khi cúi gù xuống để tìm chỗ có thể đặt chân, vì rạng đông mới mờ mờ, và dưới bóng cây, chỉ thấy hơi giống như
557
ánh sáng. Người tới một đồng cỏ trống. Qua khe hở giữa các cây, người ta nhìn thấy một góc của chiếc hồ đang thức giấc, và một khoảng lớn của bầu trời đang sáng, chuyển từ mầu lơ xám đặc biệt của bầu trời đang ra khỏi đêm, qua mầu lơ sáng, trong khi ở phương đông, mầu lơ xám đã trở thành vàng lạt. Rồi càng lúc càng mạnh, nó chuyển từ vàng lạt qua vàng hồng, rồi tới mầu xanh sáng vô cùng huy hoàng.
Rạng đông hứa hẹn một ngày đẹp, làn sương nhẹ không ngừng nhường chỗ cho ánh sáng tại trời đông. Nó hiện diện như một tấm màn rất nhẹ tới nỗi trời xanh không phiền hà gì. Trái lại, nó thấy được tô điểm như một tấm tơ lụa rất trắng, viền đăng ten vàng và đỏ chói, không ngừng thay đổi, luôn luôn đẹp hơn, tựa như nó cố gắng đạt tới sự toàn thiện về vẻ đẹp phù du của nó trước khi ban ngày phá hủy nó bằng chiến thắng của mặt trời. Trái lại, ở phương tây, vài tinh tú còn kiên trì, mặc dù đã mất vẻ rực rỡ về đêm của nó trước sự bành trướng của ánh sáng. Mặt trăng sắp lặn sau đỉnh núi, lộ trình đã băng qua bầu trời, bây giờ mờ lạt, không sáng nữa, tựa như hành tinh đang chết.
Giêsu đứng thẳng, chân trần chìm trong cỏ ẩm sương, tay khoanh trước ngực, ngẩng đầu để nhìn ngày đang lên, và suy nghĩ... hoặc nói với Chúa Cha trong cuộc đàm thoại của tâm hồn.
Sự yên lặng tuyệt đối tới nỗi người ta nghe thấy những giọt sương qúa dồi dào rơi trên đất.
Giêsu cúi mặt xuống, vẫn đứng khoanh tay, và đắm chìm trong sự chiêm niệm còn say sưa hơn. Người hoàn toàn thu tâm. Đôi mắt tuyệt vời của Người mở to, đăm đăm nhìn xuống đất như để giật lấy từ các cây cỏ một câu trả lời. Nhưng tôi tin là Người cả đến không nhìn thấy những rung rinh nhè nhẹ của cỏ cây hơi xào xạc dưới gió mát của rạng đông, một sự lung lay giống như của một người vừa tỉnh giấc, vươn vai, vặn mình, nhúc nhích để tỉnh hẳn, để làm dẻo dai gân cốt và bắp thịt. Người nhìn mà không thấy sự thức giấc của cỏ lá và hoa rừng, giữa các cành và lá, mọc ra những hoa hình dù, hình chùm, hình bông lúa, hình chuông. Một số hoa biệt
558
lập có dạng chiếc cúp, một số khác thì kết hình quạt hay hình như hoa mõm chó, hoặc hình lẵng hoa, hình mũ hoa hay qủa hoa. Một số thì mọc thẳng trên cuống, một số khác thì mềm, rũ xuống, đeo vào một cành mà nó cuốn vào chứ không phải cành của nó; một số khác thì buông xuôi, bò trên đất. Một số quây quần thành một gia đình cây nhỏ khiêm tốn, một số khác thì đứng riêng biệt, xòe ra, với mầu sắc và thái độ mạnh mẽ. Tất cả đều bận rộn để lắc rơi những giọt sương trên cánh tràng. Bây giờ chúng không mong ước sương nữa, nhưng muốn mặt trời, các cơn chướng trong những ước ao của chúng cũng như bẩm tính của chúng... Và điều đó, chúng rất giống con người, không bao giờ thỏa mãn về những gì họ có.
Giêsu có vẻ nghe ngóng. Nhưng chắc chắn Người không nghe tiếng rì rào của gió đang gia tăng để giải trí bằng cách rung các cành để làm nhỏ sương, cũng không nghe tiếng thì thầm càng lúc càng mạnh của muôn chim đang tỉnh thức và kể lể các giấc mơ trong đêm, hoặc trao đổi cảm tưởng về cái tổ êm ái và hòa hợp, nơi mà, ở giữa các sợi len và cỏ, các con chim non hôm qua còn trần trụi, bữa nay đã có những cái lông đầu tiên, và đang mở ra hết cỡ cái mỏ của nó, để lộ cái họng đỏ tham lam, bày tỏ sự đòi hỏi về lương thực đầu tiên của nó một cách ồn ào. Giêsu tựa như nghe ngóng, nhưng chắc chắn Người không nghe thấy tiếng gọi chế nhạo đầu tiên của con sáo, cũng như tiếng hát êm đềm của con chim bông lau đầu đen, hoặc tiếng láy cung vàng của con sơn ca khi nó sung sướng vọt lên để gặp mặt trời đang dậy, hoặc tiếng hót xé tan làn khí yên tĩnh của một bầy én đã rời những tảng đá, nơi chúng làm tổ, và bắt đầu dệt tấm màn đường bay không biết mệt của chúng trong các vùng trời. Và Người cũng không nghe sự huyên náo của một con chim ác đang cúi xuống từ một cành sồi nhỏ gần chỗ Giêsu, tựa như nó hỏi Người: “Ông là ai? Ông suy nghĩ gì?” Bất chấp! Cả trò này nữa cũng không gián đoạn được sự chiêm niệm của Người.
Nhưng ai chả biết rằng loài chim ác hay chọc ghẹo? Con ác này mệt để nhìn kẻ xâm nhập đồng cỏ nhỏ, có lẽ là nơi ưa thích của nó,
559
nó giật ở cây sồi hai trái sinh đôi rất đẹp, và với sự chính xác của tay xạ thủ vô địch, nó để rơi trên đầu Giêsu. Đó không phải là một tạc đạn nặng có thể gây thương tích, nhưng với độ cao nơi nó bắt đầu rơi, nó có đủ sức mạnh để lôi kéo sự chú ý của kẻ trầm tư. Người ngẩng mặt lên, Người thấy con chim đang giang cánh, nghiêng mình với vẻ chế nhạo để vui hưởng phát bắn của nó. Giêsu hơi mỉm cười lắc đầu, thở dài như để kết luận những chiêm niệm của Người và Người dời chỗ, bước xiên ra một bên.
Con ác là, với một tràng cười và một tràng re ré nhạo nhĩnh, nó bay xuống để xào xáo, lục lọi, bới lớp cỏ đã được giải phóng khỏi bàn chân kẻ xâm lăng.
Giêsu đi tìm nước, nhưng Người không tìm thấy, Người đành chịu trở về với các tông đồ. Nhưng các con chim đã chỉ cho Người phải tìm nước ở đâu. Từng đàn, chúng sà xuống trên những bông hoa có cánh lớn, giống như từng ấy chiếc ly nhỏ chứa nước; hoặc chúng đậu trên các lá rất lớn mềm, mà mỗi cái lông của nó giữ được một giọt sương. Ở đó, chúng giải khát hay rửa ráy. Giêsu bắt chước chúng. Người hấng nước trong các tràng hoa vào lòng bàn tay và rửa mặt. Người hái những tàu lá lớn có lông như nhung để lau bụi cho bàn chân trần của Người. Người cũng lau xăng đan và mang vào chân. Với những lá khác, Người rửa tay cho tới khi Người thấy sạch. Người mỉm cười và nói: “Sự trọn hảo của Thiên Chúa Tạo Hóa”.
Bây giờ Người đã mát mẻ, thứ tự, vì với đôi bàn tay ướt, Người đã chải tóc và râu. Trong khi những tia mặt trời đầu tiên biến đồng cỏ thành chiếc thảm nạm kim cương, Người đi đánh thức các tông đồ và các phụ nữ.
Nhóm nọ cũng như nhóm kia không sao dậy được, vì họ qúa mệt mỏi. Maria đã dậy, nhưng ngồi bất động, vì đứa trẻ ngủ cuộn tròn trong lòng mẹ, chiếc đầu nhỏ của nó ở ngay dưới cằm Maria. Nhìn thấy Giêsu xuất hiện ở cửa hang, mẹ mỉm cười với Người bằng đôi mắt trong xanh dịu dàng của mẹ, và đôi má mẹ điểm hồng vì niềm vui được nhìn thấy Người. Mẹ để đứa trẻ xuống, nó hơi rên làm
560
nũng vì bị nhúc nhích. Rồi mẹ đứng lên để lại với Giêsu bằng những bước êm nhẹ của con bồ câu trong trắng.
- Con của mẹ! Nguyện Thiên Chúa chúc phúc cho con trong ngày hôm nay.
- Má! Nguyện Thiên Chúa ở cùng má. Đêm có khó chịu lắm đối với má không?
- Không hề. Trái lại, còn sung sướng nữa. Mẹ thấy như có con còn nhỏ xíu trong tay mẹ... Và mẹ mơ từ miệng con phát ra lời như một dòng sông vàng, vang lên với sự êm đềm khôn tả, và một tiếng nói nói rằng... Ôi! Một giọng nói tuyệt vời: “Đó là Lời làm giầu cho thế giới. Hạnh phúc cho ai nghe và giữ lời đó. Nó không giới hạn trong sức mạnh, trong thời gian, trong không gian, và nó sẽ cứu”. Ôi! Con má! Lời này chính là con! Con má! Làm sao có thể sống biết bao và làm biết bao để tạ ơn Thiên Chúa vì đã cho má làm má con?
- Má ơi, đừng khổ vì điều đó. Mỗi nhịp đập của qủa tim má đã là một lời tạ ơn đối với Thiên Chúa rồi. Má là lời ca ngợi sống động đối với Thiên Chúa, và má sẽ mãi mãi là thế. Má đã cám ơn Người ngay từ lúc má hiện hữu rồi.
- Giêsu ơi! Má thấy là chưa làm đủ. Điều Thiên Chúa đã làm cho má thì qúa lớn! Qúa lớn! Sau cùng, má đã làm được gì hơn là các phụ nữ tốt này, là những môn đệ của con như má? Con hãy thưa với Người điều đó đi. Con, con của má! Con hãy thưa với Cha chúng ta, để Người cho phép má cám ơn Người như ơn huệ xứng đáng.
- Má của con ơi! Má nghĩ rằng Chúa Cha cần con phải xin điều đó cho má sao? Người đã sửa soạn cho má một lễ hy sinh mà má phải hoàn tất cho lời ca ngợi trọn vẹn này. Và má sẽ trọn lành khi má hoàn tất nó...
- Giêsu của má!... Má hiểu điều con muốn nói... Nhưng má có đủ sức để nghĩ tới giờ này không?... Người má tội nghiệp của con...
- Hiền Thê Vinh Phúc của Tình Yêu Muôn Thuở! Má ơi! Má là thế, và Tình Yêu sẽ nghĩ tới nó ở trong má.
- Con ơi! Con đã nói vậy thì má an nghỉ trên Lời của con. Nhưng
561
con... hãy cầu nguyện cho má vào giờ đó, giờ mà không ai trong họ hiểu... Và nó rất gần rồi... Có đúng vậy không? Có thể đúng vậy không?
Mô tả những bộc lộ của khuôn mặt Maria trong cuộc đàm thoại này là điều không thể làm. Không một văn sĩ nào có thể phiên dịch nó ra trong ngôn ngữ loài người mà không làm hư hỏng nó bởi những khách sáo hay những nét không chính xác. Chỉ người có một con tim, một con tim tốt, hoàn toàn trưởng thành cường tráng mới có thể, một cách thầm lặng, cho khuôn mặt của Maria một diễn tả về những nét thực sự có trong giờ này.
Giêsu nhìn mẹ... Một biểu lộ khác bất khả mô tả trong ngôn ngữ tội nghiệp của chúng ta, và Người trả lời mẹ: “Và má, xin má cầu nguyện cho con vào giờ chết... Đúng, không một ai trong đám họ hiểu... Đó không phải lỗi họ. Chính Satan đã tạo ra các làn khói để họ không nhìn thấy, và để họ như bị say và bị điếc, và vì vậy họ không sửa soạn... và dễ dàng hơn để nao núng... Nhưng má và con, chúng ta biết, mặc dầu những cạm bẫy của Satan. Má của con ơi! Ngay từ giờ này, con ký thác họ cho má. Con cho má cái di sản của con. Con không có gì trên trái đất ngoài một người mẹ, và con dâng người mẹ này cho Thiên Chúa: Bánh Thánh cùng với Bánh Thánh. Và Giáo Hội của con, con cũng ký thác cho má. Má hãy là nhũ mẫu cho nó. Vừa mới đây, con đã nghĩ tới một số đông người, trải qua các thế kỷ, sẽ lại sống con người của Kêriot với tất cả những tật của họ. Và con đã nghĩ rằng ai không là Giêsu thì sẽ xua đuổi họ, cái thực thể tì ố này. Nhưng con, con sẽ không xua đuổi nó. Con là Giêsu. Má, trong thời gian má còn ở lại trên mặt đất, hãy đi ở đàng sau Phêrô trong cái giai trật của Giáo Hội. Ông ta là thủ lãnh, má là tín hữu, nhưng là người thứ nhất trước mọi người, má giống như Mẹ của Giáo Hội, vì má đã sinh ra con, thủ lãnh của thân thể mầu nhiệm. Má sẽ không xua đuổi con số đông đảo các Judas, nhưng má cứu giúp chúng. Má hãy dạy cho Phêrô, cho các anh con, cho Gioan, Giacôbê, Simon, Philíp, Batôlômêo, Andrê, Tôma và Mathêu biết không xua đuổi họ, nhưng cứu giúp họ. Má hãy bảo vệ con
562
trong những người theo con, và hãy bảo vệ con chống lại những người muốn phân tán và cắt đứt các chi thể của Giáo Hội đang sinh ra. Má ơi! Qua dòng thời gian, má hãy luôn luôn là đấng cầu bầu, che chở, bảo vệ, giúp đỡ Giáo Hội của con, các linh mục của con, các tín hữu của con cho khỏi sự dữ, các hình phạt và chính họ... Ôi má ơi! Có biết bao Judas qua dòng thời gian! Và bao nhiêu người sẽ giống như kẻ khuyết phạp, không thể hiểu, hay như những kẻ mù, không biết nhìn, như những kẻ điếc, không biết nghe, hay như những người què quặt và bất toại không biết chạy tới... Má ơi, tất cả đều ở dưới áo khoác của má. Một mình má có thể và sẽ có thể thay đổi sắc lệnh trừng phạt của Thiên Chúa cho một hay nhiều người. Vì sẽ không có điều gì mà Ba Ngôi có thể từ chối với Bông Hoa của Người”.
- Con ơi, má sẽ hành động như vậy về tất cả những gì tùy thuộc vào má. Con hãy đi bình an tới cùng đích của con. Má của con ở đây để bảo vệ con trong Giáo Hội của con, luôn luôn.
- Nguyện Thiên Chúa chúc lành cho má, má của con... Lại đây đi! Con sẽ hái những bông hoa đầy sương thơm tho, má sẽ rửa mặt cho mát giống như con đã làm. Chúng đã được chuẩn bị cho chúng ta bởi Chúa Cha rất thánh, và các con chim đã chỉ nó cho con. Má coi, tất cả đều hữu ích trong việc tạo dựng được xếp đặt bởi Thiên Chúa! Cao nguyên này cao vượt lên và gần bờ hồ, rất mầu mỡ nhờ những đám mây đến từ biển Galilê, và những cây cối lôi kéo sương trời, làm cho cỏ hoa tươi tốt ngay cả trong mùa hè khô. Làn mưa sương dồi dào này làm đầy các tràng hoa để các con cưng của Người có thể rửa mặt... Đó là điều Chúa Cha đã sửa soạn cho những kẻ yêu Người. Đây, nước của Thiên Chúa trong chiếc cốc của Thiên Chúa để giải nhiệt cho Evà của Thiên Đàng mới. - Và Giêsu hái những bông hoa rất to mà tôi không biết tên. Người đổ chất nước đọng ở dưới đáy vào bàn tay Maria.
Trong lúc đó, những người khác đã lo việc vệ sinh của họ và họ đến tìm Giêsu. Người chỉ ở cách xa chỗ nghỉ mấy mét.
- Thưa Thầy, chúng con đã sẵn sàng.
563
- Tốt. Chúng ta đi lối này.
- Nhưng đây có phải con đường tốt không? Khu rừng chấm dứt ở đây, và chúng ta đã ở trong khu rừng lần trước... - Giacôbê Zêbêđê biện bác.
- Bởi vì lúc đó chúng ta từ dưới hồ lên. Bây giờ chúng ta có thể đi con đường thẳng. Các con nhìn thấy không? Gamala kia, ở giữa phía đông và phía nam. Không còn con đường nào khác, vì ba phía kia không thực dụng cho ai không phải là con dê rừng.
- Thầy có lý. Chúng ta sẽ tránh được cái thung lũng nhỏ khô cằn, nơi chúng ta đã thấy các người bị ám chạy ra - Philíp nói.
Họ bước mau lẹ, rời bỏ khu rừng mà họ đã ngủ để vào một con đường sỏi đá phía bên ngoài thung lũng nhỏ mà càng lúc càng nhìn thấy rõ, nó dẫn tới một ngọn núi ngộ nghĩnh mà Gamala bám vào, từ đó đổ xuống ở ba phía đông, bắc và tây những sườn dốc thẳng, được nối với phần còn lại của miền bởi một con đường trực tiếp duy nhất, chạy từ nam tới bắc, được làm giữa hai thung lũng sỏi đá và hoang vu, phân chia các miền quê ở phía đông với các rừng sồi ở phía tây.
Nhiều người chăn heo đi ở giữa đoàn vật của họ đang tiến về phía rừng sồi. Những chiếc xe chở các tảng đá đẽo vuông đi qua, kêu ken két, được kéo bởi các con bò bước chậm rề rề. Vài kỵ mã đi qua với nước kiệu, làm bụi tung lên như mây. Những toán phu đào đất đi qua, tôi cho là nô lệ hay bị phạt, rách rưới, ốm teo, di chuyển tới nơi làm việc dưới sự canh chừng khắt khe của các lính gác.
Càng tới gần ngọn núi thì con đường càng lên dốc. Người ta thấy những hào hố kiên cố bao quanh núi như từng ấy chiếc đai để bảo vệ sườn núi. Chắc chắn không dễ dàng gì để đào những hố này, nhất là ở những nơi đá nhô ra. Nhưng rất đông người đang làm việc để tu bổ tình trạng của các thành lũy đã có sẵn, và chuẩn bị những cái khác. Họ mang trên vai trần của họ những tảng đá vuông nặng làm họ cúi gù xuống và để lại những vết máu trên đôi vai trần của họ.
- Nhưng họ làm gì vậy? Đây có phải là thời chiến không mà làm
564
việc như vậy? Họ điên rồi! - Các môn đệ nói với nhau trong khi các bà thì ái ngại cho các người khổ sở, nửa mình trần, ăn không đủ, bị bó buộc chịu đựng những cực nhọc vượt qúa sức của họ.
- Nhưng ai bắt họ làm việc vậy? Thái Thú hay người Rôma? - Các tông đồ lại hỏi. Họ thảo luận với nhau, vì tôi thấy hình như Gamala độc lập với tứ phân quận của Philíp cũng như tứ phân quận của Antipa, và vì đối với nhiều tông đồ, không thể nào người Rôma lại xây dựng nơi nhà người khác những pháo đài mà mai ngày có thể dùng để chống lại họ. Và tư tưởng vĩnh cửu, một định kiến giống như tư tưởng của một người mắc chứng si mê, về một nước tạm thời của Đức Messi, lại bùng lên như dấu hiệu của một chiến thắng đã bảo đảm về một vinh quang, một quốc gia độc lập.
Họ nói lớn tới nỗi các viên giám thị tới gần để nghe. Đó là những người cục cằn thô lỗ, rõ ràng không phải là nòi giống Hy Bá. Nhiều người đã già, một số có những vết thẹo trên cơ thể. Nhưng họ là gì thì sự bộc lộ khinh bỉ của một trong nhóm họ nói lên điều đó: “‘Nước của chúng ta’! Mày nghe thấy không Titus? Ô! Phổng mũi! Nước của các ông đã bị nghiền nát dưới những tảng đá này rồi. Người dùng kẻ thù để xây cất chống lại kẻ thù là phục vụ kẻ thù. Lời của Publius Corfinius. Nếu các ông không hiểu thì hãy sống, và các tảng đá này sẽ giải thích câu đố cho các ông”, và hắn cười trong khi giơ roi, vì hắn thấy một người phu kiệt lực, lảo đảo và ngồi xuống. Hắn sẽ đánh ông ta nếu Giêsu không hãm hắn lại bằng cách tiến lên nói với hắn: “Anh không được phép. Đó là một người, cũng như anh”.
- Ông là ai mà trà trộn vào đây để bảo vệ một tên nô lệ?
- Ta là Tình Thương. Cái tên loài người của Ta sẽ chẳng nói cho anh được gì. Nhưng đặc tính của Ta nhắc cho anh phải thương xót. Anh đã nói: Kẻ dùng kẻ thù để xây cất chống lại kẻ thù là phục vụ kẻ thù. Anh đã nói một sự thật đau thương. Nhưng Ta, Ta nói cho anh một sự thật tươi sáng: “Kẻ không sử dụng tình thương sẽ không tìm được tình thương”.
- Ông là nhà hùng biện sao?
565
- Ta là Tình Thương. Ta đã nói với anh rồi.
Những người ở Gamala, hoặc họ là những người ở nơi khác tới đó, nói: “Đó là vị Rabbi Galilê, đấng ra lệnh cho bệnh tật, gió, nước và cả ma qủi, và biến đá thành bánh. Không gì có thể chống lại Người. Chúng ta hãy chạy về nói trong thành phố, bảo các bệnh nhân tới, và để người ta nghe lời Người! Chúng ta cũng là dân Israel”. Và trong khi một đám người chạy đi thì những người khác bao vây chung quanh vị Thầy.
Viên giám thị lúc nãy nói: “Có phải những người đó nói về ông không?”
- Đúng vậy.
- Hãy làm một phép lạ, và tôi sẽ tin.
- Người ta không được đòi hỏi phép lạ để tin. Người ta phải xin Đức Tin để tin, và nhờ đó được hưởng phép lạ. Đức tin và tình thương đối với tha nhân.
- Tôi là dân ngoại mà!...
- Đó không phải là lý do có giá trị. Anh sống trong Israel, và nó trả tiền cho anh...
- Bởi vì tôi làm việc.
- Không. Bởi vì anh bắt người ta làm việc.
- Tôi, tôi biết bắt người ta làm việc.
- Đúng, và không thương xót. Nhưng anh không bao giờ suy nghĩ rằng nếu thay vì là dân Rôma, anh thuộc về Israel, anh cũng có thể ở vào địa vị của một trong số họ?
- Hé... Đương nhiên... Nhưng tôi không là thế, nhờ sự che chở của các thần.
- Các tà thần vô ích của anh, chúng không thể bảo vệ anh nếu Thiên Chúa thật muốn đánh anh. Anh chưa chết. Vậy hãy thương xót để được xót thương...
Người đó muốn đối đáp, thảo luận, nhưng rồi anh ta nhún vai, khinh bỉ quay lưng và tới quất một người đã ngừng làm việc tại bờ dốc của một mạch đá đầy đe dọa.
Giêsu nhìn kẻ khốn nạn đã bị đánh và kẻ đã đánh. Hai cái nhìn
566
giống nhau nhưng tình thương khác nhau. Và với nỗi buồn rất sâu xa, nó nhắc tôi nhớ lại vài cái nhìn của Đức Kitô trong cuộc tử nạn. Nhưng Người có thể làm gì? Bất lực để can thiệp, Người lại lên đường với gánh nặng của các kẻ khốn khổ mà Người đã nhìn thấy, để làm nặng nề cho con tim của Người.
Nhưng dân chúng Gamala đang đổ xuống ào ào, chắc là các kỳ hào. Họ đến với Giêsu và cúi sâu để chào. Họ mời Người vào thành phố để nói với dân chúng mà vì lợi ích của họ, họ đang đổ tới từng đoàn.
- Các con thì các con có thể tới bất cứ đâu các con muốn, nhưng họ (Người chỉ vào các kẻ đang làm việc), họ không thể. Thời giờ hãy còn mát và địa thế che mặt trời cho chúng ta. Vậy hãy lại gần những kẻ tội nghiệp này để họ cũng được nghe lời của Sự Sống - Giêsu trả lời, và Người tới đó trước tiên bằng cách trở lại phía sau, rồi Người vào một lối đi tình cờ dẫn thẳng xuống chân núi, nơi công việc nặng nhọc nhất. Người quay lại với các kỳ hào và nói với họ: “Nếu qúi vị có quyền để làm thì hãy ra lệnh tạm ngưng công việc”.
- Chắc chắn chúng con có thể! Chính chúng con trả tiền. Nếu chúng con cũng trả những giờ nghỉ thì chẳng ai có thể phàn nàn - Các người Gamala nói, và họ đi điều đình với các người điều khiển công việc. Tôi thấy sau một lát, đám cai phu nhún vai như muốn nói: “Nếu các ông muốn vậy. Đối với chúng tôi, nó chả quan trọng gì cả”. Và họ huýt sáo để ra dấu hiệu cho cả toán tạm nghỉ.
Trong lúc đó, Giêsu nói với các người Gamala khác. Tôi thấy họ ra dấu hiệu ưng thuận và lẹ làng trở về thành phố.
Các phu làm việc sợ hãi chạy lại chung quanh viên giám thị: “Hãy ngừng công việc. Tiếng động làm phiền vị triết gia”. Một người trong đám họ ra lệnh, có lẽ đó là ông xếp.
Với con mắt mỏi mệt, các người làm việc nhìn nhân vật mà người ta gọi là triết gia, người đã cho họ qùa tặng là một lúc nghỉ việc. Và vị triết gia này nhìn họ cách thương xót để trả lời cho cái nhìn của họ. Người nói với viên giám thị: “Tiếng động không làm phiền tôi đâu, nhưng tôi khổ khi thấy sự khốn nạn của họ. Lại đây,
567
các con! Hãy nghỉ ngơi các chi thể của các con, nhất là con tim các con bên Đức Kitô của Thiên Chúa”.
Dân chúng, nô lệ, các người bị kết án, các tông đồ, các môn đệ, chen chúc nhau trong khoảng trống giữa ngọn núi và các chiến hào. Những người không tìm được chỗ thì trèo lên cao, trên các chiến hào cao nhất, hoặc ngồi trên các tảng đá rải rác trên mặt đất. Những người ít may mắn nhất thì đành đứng ngoài đường, nơi mặt trời đã chiếu. Và luôn luôn còn những người khác từ Gamala tới, và những người ở các nơi khác tới Gamala cũng dừng lại.
Một đám khá đông. Họ rẽ ra ở giữa đám một lối đi cho những người đã ra đi lúc nãy. Những người này mang các thúng và các đồ chứa nặng. Họ rẽ con đường ra cho tới chỗ Giêsu. Người đã ra lệnh cho các tông đồ dẫn những người làm việc tới hàng đầu tiên. Họ để các thúng, các vò tại chân Giêsu.
- Hãy cho họ của dâng cúng vì lòng bác ái - Giêsu ra lệnh.
- Họ đã có đồ ăn rồi, và cũng còn lại bánh và nước pha dấm. Nếu họ ăn nhiều qúa, họ sẽ nặng nề, không làm việc được - Một người giám thị kêu lên.
Giêsu nhìn ông ta và nhắc lại mệnh lệnh: “Hãy cho họ lương thực của con người, và hãy mang lại cho Thầy lương thực của họ”.
Các tông đồ, với sự phụ giúp của các người tình nguyện, liền thi hành mệnh lệnh.
Lương thực của họ! Một thứ bánh khô đen, cứng ngắc mà loài vật cũng không muốn ăn, và một chút nước pha dấm. Đó là lương thực của các người lao khổ. Giêsu nhìn những đồ ăn khốn nạn này và Người truyền để ra một bên trước ngọn núi. Người nhìn những người phải ăn nó: những cơ thể thiếu ăn, trong đó chỉ những bắp thịt bị phát triển qúa mức vì những nặng nhọc khác thường là còn tồn tại với các chùm thớ thịt của nó nhô lên dưới lớp da mềm nhão; những con mắt nóng nảy và sợ sệt, những cái miệng thèm khát tới nỗi bộc lộ một khẩu vị như loài vật khi họ cắn vào đồ ăn tuyệt vời, dồi dào, bất ngờ; và khi họ uống rượu, rượu thực sự, bồi bổ và mát...
568
Giêsu kiên nhẫn chờ họ ăn xong bữa, và Người không phải chờ lâu, vì sự thèm khát cao độ làm cho tất cả chấm dứt mau lẹ.
Giêsu mở cánh tay với cử chỉ thông thường, loan báo là Người sắp nói, để lôi kéo sự chú ý và áp đặt sự yên lặng. Người nói:
- Tại nơi này có một cái gì làm cảm phục các con mắt loài người? Các thung lũng được đào sâu hơn thiên nhiên đã làm. Các ngọn đồi được tạo ra với những khối cao và đất bằng nhân tạo, các đường quanh co ăn sâu vào núi như các hang thú. Tất cả những thứ đó là tại sao? Để ngăn chặn một mối nguy mà người ta không biết nó có thể đến từ đâu, nhưng người ta cảm thấy bị đe dọa như một đám mây mang mưa đá trong bầu trời giông bão.
Thực vậy, ở đây người ta chuẩn bị một cách nhân loại, với những sức mạnh nhân loại, các phương tiện nhân loại, và cả đến vô nhân đạo, để tự vệ và chuẩn bị các phương tiện tấn công, quên đi các lời của tiên tri đã dạy dân người phải làm sao để có thể tự vệ cho khỏi những bất hạnh của con người, nhờ vào những phương tiện siêu nhân loại, phương tiện hiệu qủa nhất. Ông kêu lên: “Hãy tự an ủi... Hãy an ủi Jêrusalem, vì sự nô lệ của nó đã chấm dứt, hành vi bất công của nó đã được đền chuộc, vì nó đã nhận được từ tay Thiên Chúa gấp đôi tội lỗi của nó”. Và sau lời hứa, ông nói phải theo con đường nào để biến nó thành thực tại: “Hãy dọn đường cho Chúa. Hãy làm đường nẻo của Chúa trong nơi cô quạnh. Mọi thung lũng phải được lấp đầy, mọi núi cao phải bạt xuống, đường lối quanh co phải uốn cho thẳng, lối đi gồ ghề phải san cho bằng. Lúc đó vinh quang của Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người, không trừ ai, sẽ nhìn thấy, bởi vì miệng Chúa đã nói”. Những lời đã được lặp lại bởi người của Thiên Chúa: Gioan Tẩy Giả, mà chỉ cái chết mới dập tắt được trên môi ông.
Đó, ôi loài người! Đó là sự bảo vệ thực sự để chống lại những tai biến do loài người. Không phải khí giới chống lại khí giới, tự vệ chống với tấn công; không phải sự kiêu căng, không phải sự tàn bạo, nhưng là các khí giới siêu nhiên, các nhân đức chinh phục được trong cô quạnh, tức là trong nội tâm mỗi cá nhân, một mình
569
với chính mình, làm việc để thánh hóa bằng cách nâng cao các núi bác ái, bạt những đỉnh kiêu căng, nắn ngay những con đường quanh co của tình dục, lấy ra khỏi đường những trở ngại của dâm ô. Lúc đó vinh quang của Chúa sẽ hiện ra, và con người sẽ được Thiên Chúa bảo vệ chống lại những cạm bẫy của kẻ thù tinh thần và vật chất. Các con muốn nó là gì vài cái hầm hố, vài cái bờ dốc, vài cái thành lũy, để chống lại sự trừng phạt của Thiên Chúa, bị lôi kéo tới bởi sự bất công, hay dù chỉ bởi sự thờ ơ nguội lạnh của con người? Là gì để chống lại những hình phạt có tên là Rôma, cũng như ngày xưa thì nó được gọi là Babylon, Philitin, Ai-Cập, mà thực sự chỉ là hình phạt của Thiên Chúa, và chỉ là vậy thôi. Mà hình phạt thì bị lôi kéo bởi qúa nhiều kiêu căng, dâm đãng, tham lam, dối trá, ích kỷ, bất tuân Lề Luật thánh của Thập Giới. Một người dù mạnh nhất cũng có thể bị giết bởi một con ruồi. Một thành phố, cho dù được bố phòng kỹ nhất, cũng có thể bị chiếm, nếu người cũng như thành không còn được sự bảo vệ của Thiên Chúa, khi sự bảo vệ này chạy đi, vì bị xua đuổi bởi tội lỗi của dân thành.
Tiên Tri còn nói: “Mọi người đều giống như cỏ, và tất cả vinh quang của họ giống như hoa ngoài đồng. Cỏ khô, hoa tàn khi hơi thở của Chúa chạm tới”.
Vì ý muốn của Thầy, hôm nay các con đã nhìn với tình thương, những người mà cho tới ngày hôm qua, các con đã nhìn như những chiếc máy, bị bó buộc làm việc cho các con. Bởi vì hôm nay Thầy đã đặt họ như anh em giữa các anh em. Họ là những người nghèo ở giữa các con là những người giầu có và sung sướng, hôm nay các con đã thấy họ đúng như họ là: các con người. Sự khinh bỉ và dửng dưng đã biến đi khỏi nhiều con tim và tình thương đã vào trong đó. Nhưng các con hãy đi sâu hơn qua cái thể xác nặng nề. Ở bên trong của họ, trong nội tâm của họ có một linh hồn, một tư tưởng, những cảm giác như trong các con. Ngày trước họ đã như các con: lành lặn, tự do, sung sướng. Rồi sau đó họ không được như vậy nữa. Nếu đời sống của con người giống như cây cỏ khô đi, thì sự thoải mái của họ còn mỏng dòn hơn nữa. Những người bữa nay khỏe mạnh,
570
ngày mai có thể đau ốm. Những người bữa nay tự do, ngày mai có thể là nô lệ. Những người hôm nay sung sướng, ngày mai có thể khổ sở.
Chắc chắn trong đám họ có những tội phạm, nhưng các con đừng xét đoán lỗi của họ, cũng đừng vui vì hình phạt của họ. Ngày mai, vì vô số lý do, các con cũng có thể là tội phạm và bị bó buộc đền tội nặng nề. Vậy hãy biết thương xót, vì các con không biết ngày mai của các con là ngày có thể cần tới tất cả tình thương của Thiên Chúa và của loài người, vì nó có thể hoàn toàn khác với ngày hiện tại. Hãy là người mang tình yêu và tha thứ. Không ai trên trái đất không cần tới sự tha thứ của Thiên Chúa và của ai đó trong số tha nhân. Vậy hãy tha thứ để người ta tha cho các con.
Vị Tiên Tri còn nói: “Cỏ khô, hoa tàn, nhưng lời Chúa tồn tại muôn đời”. Đây là khí giới để bảo vệ: Lời vĩnh cửu trở thành luật cho mọi hành động của các con.
Hãy xây dựng những thành lũy thực sự để chống lại các nguy hiểm đe dọa các con, và các con sẽ được cứu. Bởi vậy, hãy đón nhận Lời, đấng đang nói với các con, nhưng đừng đón nhận nó một cách vật chất, trong vòng một giờ, ở bên trong các bức tường của thành phố, nhưng hãy đón nhận vào tâm hồn các con mãi mãi, vì Thầy là đấng biết và hành động cũng như lãnh đạo cách mạnh mẽ. Thầy là mục tử tốt, chăn dắt bầy đã được giao phó và không ơ hờ với một ai: Kẻ bé mọn hay mệt mỏi, kẻ bị thương hay bị đánh bởi số phận, kẻ khóc vì lầm lỗi cũng như kẻ giầu có sung sướng mà biết coi thường tất cả vì sự giầu có thực: Hạnh phúc được phục vụ Thiên Chúa tới chết.
Thần trí Chúa ở trên Thầy, vì Chúa đã sai Thầy đi loan báo Tin Mừng cho người hiền lành, chữa các con tim tan nát, rao giảng tự do cho kẻ nô lệ, sự giải phóng cho tù nhân. Người ta không thể nói rằng Thầy là kẻ gây rối, vì Thầy không thúc đẩy sự dấy loạn, không khuyên nô lệ chạy trốn hay khuyên tù nhân vượt ngục. Nhưng với những kẻ bị xiềng xích, bị áp bức, Thầy dạy sự tự do thật, sự giải phóng thật, sự tự do và giải phóng không bị lấy mất, cả đến không
571
bị giới hạn, và nó càng lới lên khi người ta càng miệt mài với nó: Sự tự do thiêng liêng, sự giải phóng khỏi tội lỗi, sự an bình trong đau khổ, biết nhận ra Thiên Chúa qua những kẻ xiềng xích, biết rằng Thiên Chúa yêu kẻ yêu Người và tha thứ tại nơi mà loài người không tha; biết hy vọng vào một nơi có phần thưởng vĩnh cửu cho kẻ biết tốt trong bất hạnh, biết sám hối tội lỗi và trung thành với Chúa.
Các con mà Thầy nói với cách đặc biệt, đừng khóc. Thầy đến để an ủi, để thu thập những kẻ bị vất bỏ, để mang ánh sáng cho sự tối tăm của họ, mang bình an cho tâm hồn họ, để hứa một chỗ ở vui sướng cho kẻ sám hối cũng như cho kẻ vô tội. Không có qúa khứ nào có thể ngăn chặn cái hiện tại đang ở trên Trời chờ đợi những kẻ biết phục vụ Chúa trong hoàn cảnh họ đang sống.
Ôi! Hỡi các con tội nghiệp, không khó gì để phục vụ Thiên Chúa cả. Người đã cho các con một cách thế dễ dàng để phục vụ Người, vì Người muốn cho các con được sung sướng ở trên Trời: Phục vụ Chúa tức là yêu, yêu ý muốn của Thiên Chúa, bởi vì các con yêu Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa dấu ẩn ngay cả dưới những vẻ bề ngoài rất nhân loại, vì - Thầy nói với các con là những kẻ có lẽ đã đổ máu anh em - vì nếu rõ ràng không phải Thiên Chúa muốn các con hung bạo, thì bây giờ ý Người muốn rằng chính trong việc đền tội, các con trả món nợ của các con đối với Tình Yêu. Không phải ý Thiên Chúa muốn cho các con dấy loạn chống lại kẻ thù, nhưng bây giờ ý Người là muốn các con khiêm nhường giống như trước đây các con đã kiêu căng vì hạnh phúc của các con. Không phải Thiên Chúa muốn rằng bằng cách gian lận lớn hoặc nhỏ, các con tự chiếm lấy các thứ không thuộc về các con, nhưng bây giờ ý Người là muốn các con bị phạt, để các con không đến cùng Người với tâm hồn tội lỗi.
Và cũng đừng quên điều đó, hỡi những kẻ bây giờ đang sung sướng, những kẻ tin là mình được an toàn, những kẻ vì sự bảo đảm dại dột này mà không chuẩn bị Nước Thiên Chúa trong lòng, vào giờ thử thách, họ sẽ giống như các trẻ nhỏ ở xa nhà Cha, bị giông tố
572
quay cuồng, dưới làn roi của đau thương.
Tất cả, hãy hành động cách công chính và ngước mắt hướng về nhà Cha, về Nước Trời. Khi các cửa của nó được mở rộng bởi đấng đã đến để mở, nó sẽ không từ chối tiếp nhận bất cứ ai đã đạt tới sự công chính.
Các con bị cưa cụt trong thân xác: các người què quặt, các kẻ bị thiến, hay bị cưa cụt trong tâm hồn, què quặt về sức mạnh thiêng liêng; bị khai trừ khỏi Israel... đừng sợ là không có chỗ trên Nước Trời. Các thứ cưa cụt, bị biến dạng, các tật nguyền của thân xác sẽ chấm dứt với thân xác. Những gì đụng tới tinh thần như cảnh tù đày hoặc nô lệ, cũng sẽ chấm dứt một ngày kia. Những gì đụng tới tâm hồn, hoa trái của tội lỗi qúa khứ mà được sửa chữa bởi thiện chí, những hư hỏng về thiêng liêng sẽ được bãi bỏ trước mắt Người khi nó được bao trùm bằng sự thống hối đầy tình yêu.. Những hư hỏng về vật chất không là gì trước mắt Thiên Chúa.
Sự kiện là người ngoại quốc đối với dân thánh không còn là một trở ngại để phục vụ Chúa nữa, vì sẽ đến một thời mà mọi biên giới trái đất đều biến mất trước Vị Vua duy nhất, vị Vua của mọi vua và mọi dân nước. Người sẽ qui tụ hết mọi dân thành một để làm dân mới của Người. Với dân này, chỉ bị khai trừ những kẻ tìm cách đánh lừa Thiên Chúa bằng cách giả vờ vâng theo Thập Giới của Người, điều mà mọi người có thiện chí đều có thể theo, dù họ là Hy Bá, dân ngoại hay thờ ngẫu tượng. Vì ở đâu có thiện chí thì có sự nghiêng chiều tự nhiên về sự công chính. Mà kẻ nghiêng chiều về sự công chính thì không khó khăn gì để thờ phượng Thiên Chúa thực khi họ nhận ra Người. Họ không khó gì để kính trọng Danh Người, thánh hóa các ngày lễ của Người, tôn kính cha mẹ họ, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không gian dâm hay tà dâm, không ước ao những của không thuộc về mình. Nếu cho tới lúc này họ chưa làm như vậy thì từ nay trở đi họ hãy làm, để họ cứu linh hồn họ và chinh phục chỗ của họ ở trên Trời. Đã có lời rằng: “Ta sẽ cho chúng một chỗ trong nhà Ta nếu chúng kính trọng giao ước với Ta, và Ta sẽ làm cho chúng sung sướng”. Điều đó được nói
573
với hết mọi người có ý muốn thánh, bởi vì Đấng Cực Thánh là Cha chung của mọi người.
Thầy nói rồi. Thầy không có tiền cho họ, mà cũng vô ích cho họ. Nhưng Thầy nói với các con, các người Gamala, các con đã tấn tới rất nhiều trên đường của Chúa kể từ lần đầu chúng ta gặp nhau. Hãy dựng lên sự phòng thủ có giá trị nhất cho thành phố các con: phòng thủ tình yêu giữa các con và với họ, bằng cách cứu giúp họ nhân danh Thầy, trong khi họ chịu cực cho các con. Các con có làm điều đó không?
- Ôi! Chúa ơi, có - đám đông kêu lên.
- Tốt. Vậy chúng ta đi. Thầy sẽ không vào bên trong các bức tường của các con nếu qủa tim các con đã khắt khe trả lời “không” cho lời xin của Thầy. Các con ở lại, hãy được chúc phúc... Ta đi...
Người trở lại con đường bây giờ đã đầy mặt trời, và Người lên thành phố có thể nói được là xây ngay trên đá như một thành phố ở trong hang động thiên nhiên. Nhà cửa rất được săn sóc và một quang cảnh huy hoàng hiện ra, thay đổi tùy theo hướng nhìn: hoặc về phía núi Auraniti, hoặc phía biển Galilê, hoặc xa hơn về phía đại Hermon hay về thung lũng xanh của Giođan. Thành phố mát mẻ nhờ cách thế nó được xây và nhờ cao độ, với các đường phố khuất mặt trời. Nó giống một thành trì vĩ đại với các dẫy pháo đài, vì các nhà cửa một nửa có tường, một nửa được khoét vào núi, cho ta thấy như vậy.
Tại cái quảng trường lớn nhất, cao hơn tất cả, điểm chót đỉnh của thành phố - nơi nhãn quan thưởng thức một chân trời mênh mông của núi, rừng, hồ, sông - ở đó có các bệnh nhân của thành phố Gamala. Giêsu đi qua và chữa cho họ.
148* TỪ GAMALA TỚI AFÊCA
Chắc các ngài đã qua đêm tại Gamala, vì bây giờ là buổi sáng, một buổi sáng có gió. Có lẽ nhờ cách kiến trúc của nó, và nhờ cách bố trí những mô cao từ trên đỉnh thành phố xuống tới chỗ giới hạn
574
của các chiến hào đồ sộ, có các cổng sắt cũng đồ sộ nặng nề, đúng là cổng của pháo đài, mà thành phố được hưởng làn gió này, rất dễ chịu trong miền đất phía đông. Hôm qua tôi đã thấy nó đẹp vào giờ đầy mặt trời, bây giờ tôi thấy nó có vẻ lộng lẫy. Nhà cửa, nhờ vị trí của chúng, không ngăn cản nhãn quan nhìn một quang cảnh hoàn toàn. Qủa vậy, sân thượng của căn nhà ở bên dưới ngang với nền nhà của căn ở bên trên, trông như mỗi phố là một cái sân thượng dài, nơi người ta có thể nhìn thấy chân trời. Đó là một chân trời mà ở trên đỉnh núi thì nó hiện ra một quang cảnh hoàn toàn, nhưng ở dưới thấp hơn thì nó rút lại thành hình bán nguyệt, nhưng luôn luôn mênh mông và rất đẹp. Tại chân núi là mầu xanh của các rừng sồi và vùng quê có hình đuôi sóc mầu ngọc bích nằm bên ngoài thung lũng nhỏ khô cằn bao quanh ngọn núi của Gamala. Rồi ở phía đông là các vùng canh tác trên cao nguyên bát ngát tới mút mắt.
Ở bên ngoài vùng cao nguyên là các núi thuộc Auraniti, và xa hơn nữa là các đỉnh cao nhất của dẫy Basan. Ở phía nam là dải đất mầu mỡ ở giữa sông Giođan và vùng đất cao liên tiếp ở bờ phía đông con sông, trông như con sông băng qua cao nguyên. Ở phía bắc là các núi ở xa thuộc dẫy Liban, trên đó ngọn đại Hermon ngự trị, được tô điểm muôn mầu vào giờ sáng sớm này. Ở dưới thấp, ngay ở phía tây là viên ngọc của biển Galilê. Đúng là một viên ngọc đeo vào sợi giây chuyền xanh lơ, một mầu lơ khác với mầu lơ của nó, là sông Giođan, tại điểm nó đi vào hồ và chỗ nó ra. Lạt hơn ở chỗ nó vào và đậm hơn khi nó lấy lại lộ trình của nó ở phía nam, sáng rực dưới mặt trời, yên tĩnh giữa hai bờ xanh của nó, thực sự Thánh Kinh! Trái lại, tôi không nhìn thấy chiếc hồ nhỏ Méron, nó bị khuất sau các dẫy đồi ở phía bắc Bétsaida, nhưng ta có thể đoán được vị trí của nó dựa vào mầu xanh ve của miền quê ở chung quanh nó mà sau đó trải ra về phía bắc, giữa biển Galilê và hồ Méron, trong đồng bằng thuộc Corozain. Hình như trước đây tôi có nghe các tông đồ gọi nó là đồng bằng Gênêsarét.
Giêsu giải tán dân chúng. Với sự kiêu căng của dân thành phố, họ vội vã chỉ cho Người những vẻ đẹp của chân trời và của thành
575
phố họ, được trang bị bằng những thủy lộ, các nhà tắm hơi, các lâu đài đẹp: “Tất cả những thứ đó là kết qủa sự khó nhọc của chúng con và tiền bạc của chúng con. Chúng con có đi học trong các trường của người Rôma, và chúng con muốn bắt chước những thứ thực dụng của họ. Nhưng chúng con không như những người khác ở miền Thập Tỉnh. Chúng con, chúng con trả tiền, và họ, các người Rôma, họ phục vụ chúng con. Nhưng sau đó! Chả có gì khác. Chúng con trung thành, ngay cả sự cô lập này cũng là để trung thành”.
- Hãy làm sao để sự trung thành của các con không phải chỉ toàn hình thức, nhưng thực sự, thân mật, chính đáng. Ngoài ra, các công việc để bảo vệ của các con chỉ là vô ích. Thầy nhắc lại với các con điều đó. Các con thấy không? Các con đã xây cái thủy lộ này vững chắc, hữu dụng. Nhưng nếu nó không được tiếp nước bởi một dòng suối ở xa thì nó có cho nước vào cái phông-ten và các nhà tắm hơi không?
- Không. Nó sẽ chẳng cho gì. Đó sẽ là một xây dựng vô ích.
- Các con đã nói đúng: Vô ích. Cũng giống vậy, các sự bảo vệ thiên nhiên hay vật liệu sẽ vô ích, nếu kẻ xây dựng nó không làm cho nó nên mạnh mẽ bằng sự trợ giúp của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa sẽ không giúp khi người ta không là bạn của Người.
- Thưa Thầy, Thầy nói tựa như Thầy biết rằng chúng con rất cần Thiên Chúa...
- Tất cả mọi người đều cần Thiên Chúa, và trong tất cả mọi sự.
- Vâng, thưa Thầy, nhưng... dường như chúng con cần hơn tất cả những thành phố khác trong Palestin và...
- Ôi!... - Một tiếng “ôi” rất đau đớn.
Các người Gamala nhìn Người, sững sờ. Kẻ sửng sốt nhất hỏi: “Thầy nghĩ tới điều gì? Nghĩ rằng chúng con sẽ còn biết những kinh hãi xưa kia nữa sao?”
- Đúng. Và còn trầm trọng hơn, lâu dài hơn... lâu dài... Ôi! Quê hương của tôi! Rất lâu... Và như vậy, nếu nó không tiếp nhận Chúa!
- Chúng con đã tiếp nhận Thầy, vậy chúng con được cứu! Lần trước chúng con qúa ngu, nhưng Thầy đã tha thứ...
576
- Hãy làm sao để bền vững trong sự công chính của ngày hôm nay đối với Thầy, và trong việc lớn lên trong sự công chính theo lề luật.
- Chúa ơi, chúng con sẽ làm.
Họ còn muốn theo Người và giữ Người lại, nhưng Giêsu muốn đi với các bà, vì họ đã đi trước trên lưng lừa. Người giựt ra khỏi sự nài nỉ của họ để mau lẹ đi xuống con đường hôm qua đã đi để lên. Người chỉ chậm lại khi Người tới con đường của các người làm việc để giơ tay chúc lành cho những người khổ sở khi họ nhìn Người như nhìn Thiên Chúa.
Con đường đi tới chân núi thì rẽ đôi, một đi về hướng bờ hồ, một đi về phía đất liền. Chính trên con đường thứ hai này, bốn con lừa đi nước kiệu, làm tung bụi lên từ mặt đường nóng cháy vì mùa hè, trong khi chúng vẫy vẫy đôi tai. Thỉnh thoảng một trong các bà quay lại để coi Giêsu đã đến chưa, và các bà muốn dừng lại để ở bên Người, nhưng Giêsu lấy tay làm hiệu là cứ tiếp tục đi, để tránh sự nặng nề của con đường trống trải đã đầy tràn ánh nắng, và để tới khu rừng đi lên về phía Afêca.
Khu rừng mát mẻ, cành cây đan thành vòm ở bên trên con đường dành cho các đoàn du mục. Họ đi vào đó, vui mừng phát ra những tiếng kêu nhẹ nhõm. Afêca ở sâu trong đất liền rất nhiều hơn Gamala, trong miền núi, và người ta không nhìn thấy hồ Galilê nữa. Họ cũng không nhìn thấy gì, vì con đường lên dốc giữa hai cái gò che tầm mắt họ.
Bà góa đi ở phía trước để chỉ cho con đường ngắn nhất. Đúng hơn là bà đã bỏ con đường của đoàn du mục để vào lối đi trèo qua ngọn núi, mát hơn và rợp hơn nữa. Nhưng tôi hiểu lý do của việc đổi đường khi Sara quay lại trên yên của bà và nói: “Đó, cái rừng này thuộc về tôi. Các cây có giá trị. Từ Jêrusalem, người ta cũng đến đây mua về làm rương cho các người giầu. Và đây là những cây già. Nhưng tôi luôn luôn trồng những cây mới. Qúi vị lại đây coi...” Và bà thúc con lừa đi xuống dốc, băng qua một cái rãnh, lên một cái cồn, rồi lại xuống theo một lối đi băng qua rừng, nơi thực tế
577
là khu của các cây già đã tốt để hạ, và khu vực của các cây non, nhiều chỗ chỉ mọc cao hơn mặt đất vài mét, ở giữa đám cỏ xanh xông ra mùi thơm của rừng núi.
- Nơi này rất đẹp và được chăm sóc cẩn thận. Con rất khôn ngoan - Giêsu nói để khen.
- Ôi!... Nhưng để cho một mình con... Con tình nguyện săn sóc cho một đứa trẻ còn hơn nữa...
Giêsu không trả lời.
Họ tiếp tục con đường. Người ta đã nhìn thấy Afêca được bao quanh bằng những vườn táo và các cây ăn trái khác.
- Vườn cây này cũng thuộc về con. Con có qúa nhiều cho một mình con!... Khi chồng con còn sống thì đã qúa nhiều rồi. Khi chiều đến, chúng con nhìn nhau trong căn nhà qúa trống trải, qúa lớn, trước qúa nhiều tiền mà chúng con thu được từ nhiều thứ sản phẩm và chúng con nói: “Để cho ai?” Và bây giờ con còn nói vậy nhiều hơn nữa... - Tất cả nỗi buồn của một cuộc hôn nhân son sẻ đều thoát ra trong lời của người đàn bà.
- Luôn luôn có những người nghèo - Giêsu nói.
- Ôi! Vâng. Và nhà con vẫn mở ra cho họ mỗi ngày. Nhưng sau đó?...
- Con muốn nói là sau khi con chết?
- Lạy Chúa, vâng. Con khổ sẽ phải để lại, cho ai?... Những thứ mà con đã săn sóc biết bao...
Giêsu có một bóng nụ cười thương hại, nhưng Người trả lời cách nhân từ: “Con là người đàn bà khôn ngoan đối với những thứ của trái đất hơn là những thứ ở trên trời. Con chăm sóc để cây cối mọc tốt, để đừng có những khoảng trống trong rừng của con. Con khổ khi nghĩ rằng sau này người ta sẽ không săn sóc nó như bây giờ nữa. Nhưng những ý nghĩ này ít khôn ngoan, và cả đến hoàn toàn khờ dại. Con nghĩ rằng ở đời bên kia nó cũng có giá trị, những thứ tội nghiệp mà người ta gọi là cây, là trái, là tiền bạc, nhà cửa? Và sẽ là khổ khi thấy chúng bị lơ là? Bà ơi, hãy nâng các tư tưởng của bà lên. Ở đó, các tư tưởng không phải như ở đây, trong cả ba vương
578
quốc: Trong hỏa ngục thì sự thù ghét và hình phạt gây ra sự hung bạo mù quáng. Trong luyện tội, cái khát của việc đền tội hư vô hóa hết mọi tư tưởng khác. Trong Lâm Bô, hạnh phúc chờ đợi các người công chính không bị tục hóa bởi bất cứ tình cảm nào. Trái đất ở rất xa cùng với các khốn nạn của nó. Nó chỉ ở gần cho những nhu cầu siêu nhiên, các nhu cầu của linh hồn chứ không phải nhu cầu về đồ đạc. Những người chết mà không bị luận phạt thì chỉ vì tình yêu siêu nhiên, họ hướng tâm hồn họ về trái đất, và hướng lời cầu nguyện của họ về Thiên Chúa cho những kẻ ở trên trái đất, không vì chuyện gì khác. Rồi khi các người công chính vào trong nước của Thiên Chúa thì với những kẻ được chiêm ngắm Thiên Chúa, con muốn nó là gì cái nhà tù khốn khổ này, nơi lưu đày có cái tên là trái đất? Những của mà họ đã bỏ lại, chúng có thể là gì cho họ? Ngày rạng rỡ có thể tiếc xót một ngọn đèn khói khi mặt trời soi sáng cho nó không?”
- Ôi, không!
- Vậy tại sao con tiếc xót những thứ con sẽ để lại?
- Nhưng con muốn có ai thừa kế tiếp tục để...
- Để vui hưởng của cải trái đất, để tìm được ở đó một trở ngại cho việc trở nên trọn lành, trong khi sự dứt bỏ của cải là cái thang để chiếm được của cải đời đời? Ôi bà ơi! Con thấy không? Trở ngại lớn nhất để được đứa trẻ vô tội này, không phải vì mẹ nó có quyền trên nó, mà là qủa tim của con. Nó là một trẻ thơ ngây vô tội, một trẻ thơ buồn, nhưng luôn luôn là một trẻ thơ vô tội, mà vì nỗi khổ của nó, nó thân yêu đối với Thiên Chúa. Nhưng nếu con làm cho nó trở nên một kẻ keo kiệt, một kẻ tham lam, hoặc có lẽ một kẻ trụy lạc vì những phương tiện mà con có, con có lấy mất của nó sự ưu ái của Thiên Chúa không? Và Thầy là người săn sóc những trẻ thơ này, có thể Thầy sẽ là một ông thầy khinh xuất, vì thiếu suy nghĩ, đã để cho một môn đệ vô tội bị lầm. Trước hết, hãy chữa cho chính con. Hãy cởi bỏ khỏi chính con một nhân tính còn qúa linh hoạt. Hãy giải phóng sự công chính của con cho khỏi cái vỏ nhân tính cứng đang đè bẹp nó, rồi lúc đó con sẽ xứng đáng làm mẹ.
579
Thực vậy, không phải chỉ có kẻ cưu mang hay yêu thương một đứa con thừa nhận, săn sóc nó, theo dõi nó trong các nhu cầu thuộc về sinh vật của nó mới là mẹ. Mẹ nó cũng đã cưu mang nó, nhưng không phải là mẹ, vì bà ta không săn sóc thân xác cũng như tâm hồn nó. Người ta là mẹ nhất là khi người ta lo lắng cho những gì không chết nữa, tức là tâm hồn, chứ không phải chỉ lo cho những cái hay chết tức là về vật chất. Và, ôi bà ơi! Hãy tin rằng kẻ yêu tâm hồn thì cũng yêu thân xác, bởi vì nó có một tình yêu chân chính, và vì vậy nó chân chính.
- Con đã mất đứa con trai, con hiểu điều đó...
- Không phải nói vậy. Mong rằng sự ước ao của con thúc đẩy con tới sự thánh thiện, và Thiên Chúa sẽ nhận lời con. Luôn luôn sẽ có những trẻ mồ côi trên thế giới.
Họ đã tới những căn nhà đầu tiên. Afêca không phải là một thành phố có thể đua tranh với Gamala hay Ippo. Đúng ra, nó là nông thôn, nhưng có lẽ vì nó ở trên một trục lộ giao thông quan trọng nên nó không nghèo. Là nơi qua lại của các đoàn du mục từ nội địa đi ra hồ, hoặc từ bắc xuống nam, nên nó bó buộc phải trang bị để cung cấp cho các khách du hành: chỗ trọ, y phục, giầy dép, lương thực... và vì vậy nó có nhiều cửa hàng và nhiều quán trọ.
Nhà của bà góa ở gần một trong những nhà này, tại một quảng trường. Tầng trệt là một cửa hàng mênh mông có bán đủ thứ, quản lý bởi một ông già to mũi, râu ria rậm rạp, tranh chấp như kẻ bị ám với các khách hàng keo kiệt.
- Samuel! - người đàn bà gọi.
- Bà chủ! - ông già trả lời, và ông cúi sâu hết sức có thể, vì các kiện hàng chất đống trước mặt ông.
- Hãy gọi Êlie hay Philíp, rồi tới gặp tôi tại nhà - bà góa ra lệnh, rồi bà nói với Thầy: “Xin Thầy vào nhà con, và hãy là khách qúi của con ở đó”.
Mọi người đều vào bằng cách đi qua cửa hàng, trong khi một cậu con trai tới dắt các con lừa đi đâu tôi không biết. Sau cửa tiệm, nơi làm cho căn nhà mất vẻ mỹ thuật, là một cái sân đẹp với hai
580
dẫy hành lang ở hai phía. Ở giữa là phông-ten, hay ít ra cũng là bể nước, vì không thấy có nước chảy. Chung quanh có những cây ngô đồng đồ sộ soi bóng mát trên các bức tường quét vôi trắng. Một cái cầu thang để lên sân thượng, các phòng mở ra ở các phía không có hành lang: các phía xa cửa hàng hơn.
- Ngày trước, vào thời của chồng con, chỗ này đầy hết: chỗ trọ cho các lái buôn tới bất thần vào ban đêm, các hành lang thì chất hàng, các chuồng cho súc vật, và kia là cái bể cho chúng uống nước. Xin mời vào phòng - và bà băng chéo qua sân để tới phần đẹp nhất của căn nhà. Bà gọi: “Maria! Jeanne!”
Hai cô đầy tớ chạy tới, một cô tay dính đầy bột, cô kia cầm trong tay một cái chổi.
- Thưa bà chủ! Nguyện bình an ở với bà và với chúng con, vì bây giờ bà đã về.
- Và với các con. Những ngày vừa qua có gì phiền phức không?
- Giuse đã lơ đễnh làm gẫy cây hồng mà bà rất qúi. Con đã khiển trách nó xứng đáng. Xin bà phạt con, vì con đã qúa ngu để cho nó lại gần.
- Không quan trọng... - tuy nói vậy nhưng nước ứa ra trong mắt Sara nên bà giải thích: “Chính chồng con đã mang tới cho con vào mùa xuân sau cùng mà ông còn khỏe mạnh”.
- Êlie bị gẫy một chân, điều đó làm Samuel bực mình, vì ông thiếu sự giúp đỡ của nó vào thời kỳ hàng quán đông khách này... Nó bị rớt từ trên thang xuống ở phía bên kia khi nó nghiêng người để lau, để bà thấy là các bức tường trắng sạch - người đàn bà kia nói, và bà kết thúc: “Nó đau lắm, và nó sẽ bị thọt. Còn bà, thưa bà chủ, bà có được sung sướng trong cuộc hành trình của bà không?”
- Như chưa bao giờ tôi hy vọng. Tôi trở về với vị Rabbi Galilê. Mau đi, hãy chuẩn bị cho những người ở cùng với tôi. Xin mời Thầy vào!
Họ vào nhà trước mặt các cô đầy tớ đầy kinh ngạc.
Một căn phòng mênh mông, mát mẻ, ở trong ánh sáng mờ, các chiếc ghế và rương tiếp đón họ. Bà góa đi ra để truyền lệnh. Giêsu
581
gọi các tông đồ để sai họ vào thành phố sửa soạn các tâm hồn cho cuộc viếng thăm của Người. Samuel vào, đã chuyển từ địa vị người bán hàng qua địa vị chủ nhà. Các cô đầy tớ theo sau ông với các vò và các thau cho việc thanh tẩy trước bữa ăn. Người ta mang tới trên những cái mâm lớn: bánh, trái cây và sữa.
Bà chủ nhà trở lại: “Con đã nói với người đầy tớ là Thầy ở đây. Anh ta xin Thầy thương anh ta. Và con cũng xin Thầy nữa. Vào dịp Lễ Lều có rất nhiều người đi qua đây, và cuộc di chuyển chính thức bắt đầu ngay sau tuần trăng mới tháng Tisri. Con không biết chúng con sẽ làm sao nếu nó bệnh...”
- Bảo nó đến đây.
- Không thể được. Nó không thể đứng lên.
- Hãy bảo nó là vị Rabbi không tới tìm nó, nhưng Người muốn gặp nó.
- Con sẽ bảo Samuel và Giuse mang nó tới.
- Chỉ còn thiếu có chuyện đó. Tôi già rồi và tôi mệt - Samuel càu nhàu.
- Hãy bảo Êlie đến bằng chân của nó. Chính Thầy muốn điều đó.
- Một ông rabbi tội nghiệp! Chính Gamaliel còn chưa thể làm được - ông đầy tớ già lại càu nhàu.
- Nín đi Samuel!... Xin Thầy tha cho ông ta. Đó là người đầy tớ trung thành. Ông ta được sinh ra ở đây bởi các người đầy tớ trong nhà của chồng con, siêng năng, thật thà... Nhưng cứng đầu trong những tư tưởng của ông già Israel nơi ông... - người đàn bà nói nhỏ để xin lỗi cho ông.
- Thầy hiểu tinh thần của ông, nhưng phép lạ sẽ thay đổi ông. Hãy đi bảo Êlie tới, và nó sẽ tới.
Bà góa đi rồi trở lại: “Con đã nói với nó. Nhưng con chạy trốn để khỏi thấy nó để xuống đất cái cẳng chân đen thui và sưng phồng”.
- Con không tin vào phép lạ sao?
- Con, có chứ. Nhưng cái cẳng chân này dễ sợ... Con sợ chứng hoại thư sẽ tiêu hủy nó hoàn toàn. Nó bóng láng! Bóng láng... dễ
582
sợ và...Ôi! - Bà ngưng bặt, cảm kích khi thấy người đầy tớ Êlie chạy lẹ hơn người khỏe. Anh ta tới phục dưới chân Giêsu và nói: “Ngợi khen Vua Israel!”
- Ngợi khen một mình Thiên Chúa. Làm sao con tới được? Làm sao con dám?
- Con đã vâng lời. Con nghĩ: “Đấng Thánh không thể nói dối. Người không thể truyền những điều ngu xuẩn. Tôi có đức tin. Tôi tin”. Và con nhúc nhích cái chân, nó không làm con đau nữa, nó nhúc nhích. Con để nó xuống đất. Con đứng lên được. Con đi một bước, con có thể đi. Rồi con chạy. Thiên Chúa không đánh lừa kẻ tin ở Người.
- Con đứng dậy đi. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng ít người có đức tin như anh ta. Đức tin này từ đâu mà đến với con?
- Từ các môn đệ của Thầy đã đi qua đây và rao giảng Thầy.
- Chỉ có mình con nghe họ thôi sao?
- Không. Tất cả. Vì chúng con đã tiếp nhận họ ở đây sau Lễ Ngũ Tuần.
- Và chỉ có mình con tin... Tâm hồn con đã tiến xa trên đường của Chúa. Hãy tiếp tục...
Ông già Samuel tự chiến đấu mãnh liệt giữa những tình cảm trái ngược... Nhưng cũng như nhiều người trong Israel, ông không biết cởi bỏ cái cũ để đón nhận cái mới. Ông đanh thép lại và nói: “Ma thuật! Ma thuật! Lời đã nói: ‘Chớ gì dân ta không bị nhiễm bởi các đạo sĩ và các thầy bói. Nếu ai làm điều đó, Ta sẽ quay mặt đi khỏi nó và diệt trừ nó’. Ôi! Bà chủ, hãy run sợ sự bất trung với Lề Luật!” Và ông bỏ đi, nghiêm nghị, phẫn nộ như ông nhìn thấy ma qủi ở trong nhà.
- Xin Thầy đừng phạt ông ta! Ông ta già rồi! Ông ta luôn luôn tin như vậy...
- Đừng sợ. Nếu Thầy phải phạt tất cả những ai gọi Thầy là qủi thì có rất nhiều ngôi mộ sẽ mở ra để nuốt lấy cái mồi của chúng. Thầy biết chờ... Thầy sẽ nói vào lúc mặt trời lặn... Rồi Thầy sẽ rời Afêca. Bây giờ Thầy chấp nhận dừng chân dưới mái nhà của con.
583
149* THUYẾT GIÁO TẠI AFÊCA
Giêsu nói với dân Afêca tại cửa gian hàng của Sara. Người nói với một đám đông rất khác nhau, tò mò hơn là lưu tâm. Các người Hy Bá ở đây không đông, vì phần đông là khách qua đường, các lái buôn, các người hành hương, người thì đi về bờ hồ, người thì chuẩn bị xuống khúc sông cạn ở Jêricô, người khác nữa thì đi từ các tỉnh ở phía đông tới các tỉnh ở bờ bể.
Lúc này thì không thực sự là một bài thuyết trình, mà là câu trả lời của Giêsu cho người nọ người kia, nhưng là những đàm thoại mà mọi người đều nghe, mặc dầu với các cảm tình khác nhau, các bộc lộ trên khuôn mặt và các nhận xét của những người ở đó cho thấy rõ, và theo đó, tôi hiểu được họ là ai và họ đi đâu. Các đàm thoại đôi khi đổi giọng và đổi nhân vật, vì nhiều khi họ để Giêsu qua một bên để thảo luận với nhau về những đề tài chủng tộc hay tư tưởng khác nhau.
Chính vì vậy mà một ông già người Joppê nói với một lái buôn người Sidon. Người Sidon bảo vệ ông Thầy chống lại sự cứng lòng tin của người Do Thái không muốn nhìn nhận Giêsu là đấng muôn dân trông đợi. Thế là một tràng trích dẫn các lời Sách Thánh được áp dụng quàng xiên bậy bạ, nhưng bị đánh đổ bởi lời xác nhận đơn giản của dân Syro-Phênici: “Tôi, tôi không biết những lời ấy, nhưng tôi nói rằng chính Người, vì tôi đã thấy các phép lạ của Người và đã nghe các lời Người”. Cuộc tranh cãi lan rộng, vì nhiều người xía vô. Các đối thủ của Đức Kitô la lối: “Chính Benzêbút giúp ông ta, vì vậy ông ta không phải là đấng thánh của Thiên Chúa. Đấng Thánh của Thiên Chúa là vua chứ không phải một rabbi giả, cũng không phải một người ăn xin”. Những người có tư tưởng giống như người Sidon nói: “Những bậc hiền nhân thì nghèo, vì họ thật thà. Họ không giầu và hống hách như các rabbi và các thầy cả giả của các ông”. Ta hiểu rằng họ nói vậy vì họ không phải dân Hy Bá,
584
nhưng là người ngoại thuộc nhiều dân khác nhau, tình cờ gặp nhau ở Palestin hay đã nhập tịch ở đó, nhưng vẫn giữ tinh thần dân ngoại.
- Phạm thánh!
- Chính các ông phạm thánh, vì các ông không nhìn thấy tính cách Thiên Chúa trong tư tưởng của Người - một số người trả lời.
- Các ông không xứng đáng có Người. Lạy Zéus! Chúng tôi đã khinh dể Socrate, và điều đó đã làm chúng tôi không thành công. Tôi bảo các ông: Hãy cẩn thận! Hãy cẩn thận để các thần không đập các ông như chúng tôi đã bị nhiều lần! - một người kêu lên, chắc là dân Hy Lạp.
- Hou! Các kẻ bảo vệ Vua Israel: các dân ngoại!
- Và các người Samari! Chúng tôi tự hào vì vậy. Chúng tôi biết giữ vị Rabbi tốt hơn các ông nếu Người tới Samari. Nhưng các ông... Các ông làm Đền Thờ: rất đẹp, nhưng đó là cái mồ đầy phân, mặc dầu các ông đã che phủ nó bằng vàng và cẩm thạch qúi giá - một tiếng kêu lên từ sau chót đám đông bởi một nhân vật cao lớn, y phục vải gai với những tua, những đường thêu, những giải băng ở thắt lưng, các vòng và lắc ở tay.
- Hou! Tên Samari! - Tựa như họ muốn nói: “Thằng qủi!” Các người Hy Bá cố chấp kêu lên với vẻ sợ hãi và tránh ra tựa như đó là người cùi, và trong khi trốn tránh, họ kêu với Giêsu: “Đuổi nó đi! Thứ ô uế!...”
Nhưng Giêsu không đuổi ai cả, Người tìm cách áp đặt trật tự và sự yên lặng. Các tông đồ giúp Người nhưng không mấy thành công. Vì vậy để chấm dứt các thảo luận, Người bắt đầu thuyết giáo:
- Dân Thiên Chúa, sau cái chết của Maria ở Cadès, đã nổi loạn trong sa mạc vì thiếu nước, và họ kêu rêu chống lại Môise, vị cứu tinh của họ, và là người dẫn dắt họ từ đất của tội lỗi về đất hứa. Họ làm như ông là người điên, kẻ phá hoại, và họ chửi rủa Aaron như một thầy cả vô ích. Môise cùng với anh ông vào nhà tạm và họ nói với Chúa, họ xin một phép lạ để chấm dứt sự dèm pha. Chúa đâu có bị bó buộc phải nhượng bộ hết mọi lời yêu cầu, nhất là khi nó hung bạo và đến từ những tâm hồ đã mất sự tin cẩn thánh vào sự
585
quan phòng của Cha, nhưng Người nói với Môise và Aaron, Người đã có thể chỉ nói với một mình Môise, bởi vì Aaron, mặc dầu ông là vị Đại Thượng Tế, cũng đã có ngày ông bất xứng với lòng tốt của Thiên Chúa trong khi thờ tà thần. Nhưng Thiên Chúa còn muốn chứng tỏ cho ông và ban cho ông một cách thế để tăng trưởng trong ân nghĩa trước mắt Thiên Chúa. Vậy Người ra lệnh lấy cây gậy của Aaron, đã được để trong Nhà Tạm sau khi nó đã nở bông và đã cho những trái hạnh đào, Người ra lệnh cầm cây gậy ấy theo và nói với đá, để nó chảy nước ra cho người và vật. Vậy Môise và Aaron làm điều Thiên Chúa truyền, nhưng cả hai không biết tin hoàn toàn nơi Chúa, và người tin ít hơn là Thầy Cả Thượng Phẩm của Israel: Aaron. Tảng đá bị đập bởi cây gậy, liền mở ra và vọt nước ra đủ để giải khát cho người và vật, và nước này được gọi là nước kháng cự , vì tại đó, con cái Israel đã cãi lẫy với Chúa, chỉ trích các hành động và các mệnh lệnh của Người. Tất cả đã không trung thành theo cùng một cách, nhưng bắt đầu là Thầy Cả Thượng Phẩm đã tỏ lộ và bắt đầu nghi ngờ về sự thật của lời Thiên Chúa. Và Aaron đã bị lấy đi khỏi thế giới kẻ sống mà không được tới Đất Hứa.
Bây giờ cũng vậy, dân chúng bộc lộ sự chống đối Chúa khi nói: “Ngài dẫn chúng tôi tới chỗ chết như một dân và như một kẻ ở dưới sự thống trị của kẻ áp bức”. Và họ kêu với Thầy: “Hãy làm vua và hãy giải thoát cho chúng tôi”. Nhưng các con nói về sự giải phóng nào? về hình phạt nào? Những thứ vật chất ư ? Nhưng không có sự cứu rỗi, cũng không có hình phạt trong những thứ về vật chất. Một hình phạt rất nặng hơn, một sự giải phóng rất lớn lao hơn nó ở trong tầm tay của ý muốn tự do của các con. Các con có thể lựa chọn. Thiên Chúa chấp nhận sự lựa chọn của các con.
Điều đó Thầy nói cho những người Israel đang hiện diện. Họ là những người phải biết đọc ra các diện mạo của Kinh Thánh và phải hiểu nó. Nhưng bởi vì Thầy thương dân Thầy mà Thầy là Vua Thiêng Liêng, Thầy muốn giúp các con hiểu ít nhất là một khuôn mặt, để giúp các con hiểu Thầy là ai.
Đấng Tối Cao phán với Môise và Aaron: “Hãy cầm gậy và hãy nói với đá, và một dòng sông sẽ vọt ra để giải khát cho dân, để
586
chúng không cằn nhằn nữa”. Đấng Tối Cao lại phán một lần nữa với vị Linh Mục đời đời để chấm dứt những cằn nhằn của dân Người: “Hãy cầm chiếc gậy có đâm chồi của dòng Jessê, nó sẽ nở ra một bông hoa mà bùn của loài người sẽ không chạm tới. Nó sẽ trở nên một trái hạnh đào êm đềm và đầy dầu. Và với nó, hạnh đào của gốc Jessê, với cái chồi đáng cảm phục của nó, trên đó Thánh Linh của Thiên Chúa với bảy ơn của Người sẽ ngự trị, hãy đập vào tảng đá Israel để nó chảy ra dồi dào dòng nước cứu rỗi cho họ”.
Vị Linh Mục của Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Và Tình Yêu đã làm ra một thân xác, cho sinh ra từ cái chồi của gốc Jessê mà bùn không chạm tới. Thân xác đó là thân xác của Ngôi Lời nhập thể, của Đấng Messi thiên hạ đợi trông, được sai đến để nói với tảng đá, bảo nó nứt ra, chẻ ra cái vỏ cứng kiêu căng của nó, lòng tham lam của nó, và nhận lấy nước mà Thiên Chúa gởi tới, nước vọt ra từ Đức Kitô của Người, dầu ngon ngọt của tình yêu Người, để trở nên mềm mại và tốt, để tự thánh hóa bằng cách đón nhận vào tâm hồn ân huệ của Đấng Tối Cao ban cho dân Người.
Nhưng Israel không muốn có Nước Hàng Sống ở trong lòng nó. Nó tiếp tục khép kín, chai đá, và nhất là nó như vậy nơi các nhân vật lớn của nó, mà trên đó, chiếc gậy đã nở bông và sinh trái bởi quyền năng của Thiên Chúa, đã đập và nói một cách vô ích. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng nhiều người thuộc về dân này sẽ không được vào Nước Trời, trong khi nhiều người không thuộc về dân này sẽ được vào đó, bởi vì họ đã biết tin điều mà các thầy cả Israel không muốn tin. Chính vì vậy, Thầy ở giữa các con như một dấu hiệu của sự đối kháng, và các con sẽ bị xét xử theo cách các con biết hiểu Thầy.
Nhưng với những người khác không phải là Israel, Thầy nói: Nhà của Thiên Chúa mà con cái của dân Người xa lánh, đã mở cửa ra cho những kẻ tìm ánh sáng. Hãy đến, hãy theo Thầy. Nếu Thầy đã được đặt làm dấu hiệu của sự đối kháng, thì Thầy cũng được đặt làm dấu hiệu cho hết mọi dân. Ai yêu Thầy sẽ được cứu.
- Thầy yêu các người ngoại quốc hơn chúng con. Nếu chúng con
587
được giảng Tin Mừng, sau cùng chúng con cũng sẽ yêu Thầy. Nhưng Thầy ở khắp nơi, ngoại trừ ở Juđê - một người Do Thái nói vì cảm động bởi các lời của Giêsu.
- Thầy cũng sẽ xuống Juđê và Thầy sẽ ở lại đó một thời gian lâu. Nhưng điều đó chẳng thay đổi được tảng đá ở trong lòng nhiều người. Nó cũng sẽ chẳng đổi cả khi máu đã đổ xuống trên đá. Ông là trưởng giáo đường phải không?
- Vâng. Sao Thầy biết?
- Thầy biết. Vậy ông có thể hiểu điều Thầy nói.
- Không được để máu đổ ra trên đá. Đó là phạm tội.
- Máu, các ông sẽ đổ nó ra trên đá một cách hân hoan để nó đọng lại đó. Tảng đá mà trên đó người ta sẽ đổ máu của Con Chiên Thực, đối với các ông, nó giống như một chiến tích của toàn thắng. Nhưng sau đó, sẽ đến cái ngày mà các ông hiểu... Các ông sẽ hiểu sự trừng phạt thực sự, và thế nào là sự cứu rỗi đã được ban tặng cho các ông. Thôi đi...
Một người đàn ông chen lấn để tiến lên và nói: “Con là người Syro-Phênici. Có nhiều người trong chúng con tin vào Thầy, dù họ không có Thầy... Chúng con có nhiều bệnh nhân... Thầy không đến nhà chúng con sao?”
- Tới nhà các con thì không. Thầy không có giờ. Nhưng bây giờ, sau ngày Sabát, Thầy sẽ tới biên giới của các con. Những ai cần ơn huệ thì hãy ở quanh đó.
- Con sẽ nói vậy với các người đồng hương. Nguyện Thiên Chúa ở cùng Thầy.
- Bình an cho con.
Giêsu từ giã bà góa, đúng hơn là Người muốn từ giã, nhưng bà qùi gối và nói cho Người biết điều bà đã quyết định: “Con đã quyết định để Samuel ở lại đây, ông ta là người tốt nhất như một đầy tớ cũng như một tín hữu, và con sẽ tới Caphanaum để ở gần Thầy”.
- Thầy sắp sửa rời Caphanaum, và Thầy sẽ đi luôn.
- Nhưng ở đó có nhiều môn đệ tốt.
- Đúng vậy.
588
- Con quyết định điều này... Bằng cách này, con chứng tỏ với Thầy là con biết rũ bỏ sự giầu sang và yêu sự công chính. Con sẽ dùng tiền thu góp được ở đây cho các người nghèo của Thầy, và con coi đứa trẻ như người nghèo đầu tiên nếu thực sự mẹ nó muốn giữ nó mà vẫn không yêu nó. Trong khi chờ đợi, đây - và bà dâng cúng một túi tiền nặng.
- Nguyện Thiên Chúa chúc phúc cho con bằng mọi phúc lành của Người và của những người được hưởng của dâng cúng của con. Con đã tấn tới nhiều trong một ít giờ.
Người đàn bà đỏ mặt. Bà nhìn chung quanh bà rồi bà thú nhận: “Không phải con đã làm được gì tiến bộ, nhưng là tông đồ của Thầy đã dạy cho con. Ông kia kìa, ông nấp sau ông trẻ tóc nâu đen đó”.
- Simon Phêrô, thủ lãnh của các tông đồ đó. Vậy ông ta đã nói gì với con?
- Ôi! Ông ta đã nói với con rất đơn sơ và rất hay! Ông là tông đồ mà ông hạ mình thú với con rằng trước ông ta cũng như con: không chính đáng trong những ước muốn. Ôi! Con không thể tin điều đó! Nhưng ông đã cố gắng để trở nên tốt, để xứng đáng được điều ông ước mong. Và ông cố gắng để càng ngày càng tốt hơn, để không làm hư hỏng điều tốt ông đã nhận được. Thầy biết không? những điều mà chúng con, những con người tội nghiệp, chúng con nói với nhau, chúng con hiểu nhau hơn... Lạy Chúa, con có xúc phạm đến Thầy không?
- Không. Con làm vinh danh Thiên Chúa bởi sự chân thành của con và lời khen mà con dành cho tông đồ của Thầy. Hãy làm như ông khuyên con, và nguyện Thiên Chúa luôn luôn ở với con là kẻ hướng về sự công chính.
Người chúc lành cho bà rồi dẫn đầu đàn đi về phía tây bắc, dưới các vườn cây ăn trái xanh tươi, rung động bởi cơn gió thình lình.
150* TẠI GERGHESA VÀ
589
TRỞ VỀ CAPHANAUM
Các đấng đến bờ hồ ngay tại vùng kế cận Gerghesa khi mặt trời đỏ đang lặn, nhường chỗ cho một hoàng hôn tím và bình an. Bờ hồ đầy người, hoặc đang sửa soạn thuyền bè cho buổi chài đêm, hoặc đang tắm thoải mái dưới nước hồ hơi động bởi làn gió nhẹ lướt qua.
Người ta thấy Giêsu ngay và nhận ra Người, đến nỗi trước khi Người có thể vào thành phố thì thành phố đã biết là Người đến, và cái thác quen thuộc của dòng người chạy đến để nghe Người.
Một người đàn ông phăng một lối đi vào giữa đám đông để nói rằng lúc ban sáng người ta đã từ Caphanaum tới tìm Người về đó sớm hết sức.
- Ngay đêm nay. Thầy cũng không ở lại đây. Nhưng vì thuyền của chúng ta không ở đây, Thầy xin các con cho chúng ta mượn thuyền của các con.
- Chúa ơi, như Thầy muốn. Nhưng Thầy sẽ nói với chúng con trước khi đi chứ?
- Ờ, cũng để chào các con. Thầy sắp rời Galilê...
Một người đàn bà vừa khóc vừa gọi Người ở giữa đám đông. Bà năn nỉ để người ta cho bà đi qua để đến với Thầy.
- Đó là Arria, một đàn bà ngoại giáo đã trở lại Israel vì tình yêu. Một lần Thầy đã chữa cho ông chồng của bà, nhưng...
- Thầy nhớ. Hãy để cho bà đi qua!
Người đàn bà tiến tới, qùi phục dưới chân Giêsu và khóc.
- Bà muốn gì?
- Rabbi! Rabbi! Xin thương con! Simêon...
Một người Gerghesa nói phụ cho bà: “Thưa Thầy, sức khỏe mà Thầy đã ban cho ông ta, ông không biết sử dụng. Con tim ông trở nên chai đá và tham lam. Ông như không còn là Israel nữa. Thực vậy, bà vợ còn hơn ông ta nhiều, mặc dầu bà sinh ra trong đất dân ngoại. Và sự hà khắc tham lam của ông đã gây ra các cuộc ẩu đả và thù ghét. Trong một cuộc ẩu đả, ông đã bị thương ở đầu. Bác sĩ nói
590
hầu như chắc rằng ông sẽ bị mù”.
- Và Thầy, Thầy có thể làm được gì trong trường hợp như vầy?
- Thầy... chữa cho ông ta... Bà ta, Thầy thấy đó... ở trong thất vọng. Bà đông con và chúng còn nhỏ. Sự mù loà của người chồng sẽ là sự khốn cùng trong nhà... Đúng là tại tiền bạc kiếm cách bất chính... Nhưng cái chết sẽ là một bất hạnh, vì một người chồng thì luôn luôn là người chồng, và một người cha thì luôn luôn là người cha, mặc dù thay vì tình yêu và bánh, ông chỉ cho phản bội và roi vọt...
- Thầy đã chữa cho ông ta một lần và Thầy đã bảo ông rằng “đừng phạm tội nữa”, ông ta đã phạm tội nhiều hơn. Ông ta đã chẳng hứa sẽ không phạm tội nữa sao? Ông ta đã chẳng thề sẽ không trục lợi, không ăn cắp nếu Thầy chữa ông, và thề trả lại những của đã chiếm cách bất chính cho người nào ông có thể, khi ông không có thể thì ông dùng nó cho người nghèo?
- Thưa Thầy, đúng vậy. Lúc đó con cũng có mặt. Nhưng... Người đó thiếu cương quyết trong những điều ông ta đoan hứa.
- Con nói đúng. Và không phải chỉ có Simêon. Rất đông người, giống như Salômôn nói: Họ có hai qủa cân và một cái cân gian, không phải chỉ trong nghĩa về vật chất, mà cả trong sự xét đoán của họ, trong hành động của họ, trong thái độ của họ đối với Thiên Chúa. Salômôn còn nói: “Sẽ là sự tiêu diệt cho kẻ nuốt của thánh, sau khi đã thề nguyền rồi lại hối hận”. Nhưng có qúa nhiều người làm như vậy... Bà ơi, đừng khóc, nhưng hãy nghe và hãy công chính, vì bà đã chọn một tôn giáo công chính: Bà sẽ chọn điều nào nếu Thầy đề nghị với bà hai điều? Hai điều này: Chữa cho chồng bà để ông ta sống, để ông ta tiếp tục cười nhạo Thiên Chúa và tích góp thêm tội lỗi trên linh hồn ông, hay là hoán cải ông, tha thứ cho ông và để cho ông ta chết? Hãy chọn. Thầy sẽ làm điều bà chọn.
Người đàn bà tội nghiệp trải qua một cuộc chiến đấu gay go. Tình yêu tự nhiên, nhu cầu cần một người đàn ông để kiếm sống bằng cách tốt hay xấu cho con cái, thúc đẩy bà xin “sống”; tình yêu siêu nhiên của bà đối với người chồng thúc đẩy bà xin “tha thứ và chết”. Mọi người đều nín lặng, chú ý, cảm động chờ đợi quyết định
591
của bà.
Sau cùng, người đàn bà tội nghiệp lại gục xuống đất, bám vào áo Giêsu như để kín lấy sức mạnh ở đó, bà rên rỉ: “Sự sống đời đời... Nhưng xin giúp con, ôi lạy Chúa...” Và bà tựa như chết, vì bà gục mặt trên đất.
- Bà đã chọn phần tốt nhất. Cầu cho bà được chúc phúc. Có ít người Israel giống như bà trong sự kính sợ Thiên Chúa và trong sự công chính. Bà hãy đứng dậy. Chúng ta đi tìm ông ta.
- Nhưng lạy Chúa, có thực là Thầy sắp làm cho ông ta chết không? Và con sẽ làm sao? - Tạo vật nhân loại lại ra khỏi ngọn lửa của thần trí như chim phượng hoàng trong truyện thần thoại, bà khổ sở và hoảng hốt một cách rất phàm trần...
- Bà ơi, đừng sợ. Bà, Thầy, tất cả chúng ta, chúng ta ký thác tất cả cho Cha trên Trời, và Người sẽ hành động theo tình yêu. Bà có thể tin không?
- Có, lạy Chúa con...
- Vậy chúng ta vừa đi vừa đọc lời cầu nguyện của hết mọi lời xin và mọi sự yên ủi.
Và trong khi bước, bị bao vây và theo sau bởi đám đông, Người đọc nhẩn nha kinh Lạy Cha. Các tông đồ họa theo, và trong một đồng thanh trật tự, các câu của lời kinh vang lên bên trên tiếng động của đám đông. Họ từ từ nín lặng vì ước ao được nghe lời cầu nguyện của Thầy. Nhờ vậy người ta nghe rõ ràng các lời xin sau cùng trong sự yên lặng nghiêm trang.
- Bánh hàng ngày thì Cha sẽ ban cho bà. Thầy bảo đảm với bà điều đó nhân danh Người - Giêsu nói với người đàn bà. Và Người tiếp tục, không phải nói với một mình bà, nhưng với tất cả: “Và tội của các con sẽ được tha nếu các con tha cho kẻ xúc phạm đến các con và các kẻ làm thiệt hại cho các con. Ông ta cần sự tha thứ của các con để được sự tha thứ của Thiên Chúa. Và mọi người đều cần sự bảo vệ của Thiên Chúa để không sa ngã vào tội lỗi như Simêon. Các con hãy nhớ điều đó”.
Họ tới nhà và Giêsu vào trong cùng với người đàn bà và Phêrô,
592
Batôlômêo, Zêlote.
Người đàn ông nằm trên giường, mặt phủ đầy băng và vải ướt, lắc lư và mê sảng. Nhưng có lẽ tiếng nói hay ý muốn của Giêsu đã làm ông tỉnh lại và ông kêu: “Xin tha! Xin tha! Con sẽ không ngã vào tội nữa. Cho con sự tha thứ của Thầy như lần trước. Nhưng cả sự chữa lành nữa, như lần trước. Arria! Arria! Tôi thề với bà là tôi sẽ tốt. Tôi sẽ không vũ phu nữa, tôi sẽ không gian lận, tôi sẽ không...” Người đàn ông sẵn sàng để hứa tất cả vì sợ chết...
- Tại sao ông muốn như vậy? - Giêsu hỏi. “Để đền tội hay vì ông sợ sự phán xét của Thiên Chúa?”
- Cái đó! Cái đó! Chết bây giờ, không! Hỏa ngục!... Con đã ăn cắp, con đã ăn cắp tiền của người nghèo! Con đã gian dối. Con đã đánh người ta và làm khổ các người của con. Ôi!...
- Sự sợ hãi không tốt. Phải sám hối, một sự sám hối chân thành, cương quyết.
- Chết hay mù! Ôi! Hình phạt! Không thấy gì nữa! Tối tăm! Tối tăm! Không!...
- Nếu sự tối tăm của con mắt là ghê gớm thì sự tối tăm của tâm hồn không ghê gớm hơn đối với ông sao? Ông không sợ sự tối tăm của hỏa ngục đời đời, khủng khiếp? Bị mất Thiên Chúa mãi mãi, hối tiếc liên tục? Sự đau đớn vì đã tự ý giết linh hồn mình mãi mãi? Ông không yêu vợ ông nữa sao? Ông không yêu các con ông nữa sao? Và cha ông, mẹ ông, các anh em ông, ông không yêu họ sao? Ông không nghĩ rằng ông sẽ không có họ ở với ông nếu ông chết mà bị kết án?
- Không! Không! Xin tha! Xin tha! Đền tội ở đây, được, ở đây... Kể cả mù, lạy Chúa... Nhưng hỏa ngục, không... Xin Thiên Chúa đừng nguyền rủa con! Lạy Chúa! Lạy Chúa! Chúa xua đuổi ma qủi và Chúa tha thứ tội lỗi, xin đừng giơ tay để chữa con, nhưng để tha cho con và giải phóng con khỏi ma qủi nó cầm giữ con... Xin đặt tay Chúa trên qủa tim con, trên đầu con... Lạy Chúa, xin giải thoát cho con...
- Thầy không thể làm hai phép lạ. Hãy suy nghĩ: Nếu Thầy giải
593
phóng cho con khỏi ma qủi, thì Thầy để lại bệnh tật cho con...
- Không quan trọng. Xin Chúa hãy là Đấng Cứu Tinh.
- Hãy được như con muốn. Hãy biết lợi dụng hồng ân này là điều sau cùng Thầy làm cho con. Chào!
- Thầy không đụng vào con sao? Tay Thầy! Tay Thầy!
Giêsu làm vui lòng ông bằng cách đặt tay Người trên đầu và trên ngực ông đầy vải băng, bị mù vì vải băng và vì vết thương, ông sờ soạng, co quắp để tìm tay Giêsu, và sau khi nắm được, ông khóc trên đó, không để cho Người ra đi cho tới khi giống như đứa trẻ mệt mỏi, ông lịm dần, vẫn còn cầm bàn tay Giêsu mà ông ép vào má sốt nóng.
Giêsu gỡ tay ông ra cách nhẹ nhàng và ra khỏi phòng, không một tiếng động. Bà vợ và ba tông đồ ra theo.
- Chúa ơi! Thiên Chúa trả ơn cho Thầy. Xin cầu nguyện cho tôi tớ Thầy.
- Hãy tiếp tục lớn lên trong sự công chính, và Thiên Chúa sẽ luôn luôn ở với bà - Người giơ tay chúc lành cho căn nhà và cho người đàn bà, rồi ra đường.
Các tiếng nói nổi dậy trong đám đông vì hàng ngàn câu hỏi tò mò, nhưng Giêsu làm hiệu bảo yên lặng và đi theo Người. Giêsu tới đường, đêm đã từ từ xuống. Người trèo lên một chiếc thuyền đang lắc lư gần bãi, và từ đó Người nói.
- Không, ông ta không chết, nhưng ông không được chữa về thể xác. Thần trí ông đã suy nghĩ về các tội của ông, ông đã đặt một hướng chính đáng cho tư tưởng của ông. Ông đã được tha thứ, vì ông đã xin đền tội để được tha thứ.
Tất cả các con, hãy giúp ông trên con đường của ông về với Thiên Chúa. Hãy nghĩ rằng tất cả chúng ta đều có một phần trách nhiệm về linh hồn người đồng loại của chúng ta. Khốn cho kẻ làm gương mù, nhưng cũng khốn cho kẻ làm cho kẻ mới sinh ra trong điều lành sợ hãi bởi thái độ cố chấp của họ, bằng cách họ khăng khăng đẩy nó ra khỏi con đường lành mà nó đã đi vào. Mọi người đều có thể hơi hơi là một ông thầy, và là ông thầy tốt cho tha nhân,
594
và càng là thầy hơn khi tha nhân yếu đuối và không biết sự khôn ngoan của điều thiện. Thầy cổ võ các con hãy kiên nhẫn, đầy êm dịu và nhẫn nại đối với Simêon. Đừng bày tỏ với ông sự thù hằn, giận ghét, khinh bỉ, chỉ trích. Đừng nhắc lại qúa khứ giữa các con cũng như với ông ta. Người đó đang chỗi dậy sau sự tha thứ, sự sám hối, sau những lời nói tốt chân thành, có thiện chí nhưng cũng có gánh nặng, di sản của các đam mê, các thói quen qúa khứ. Phải biết giúp ông ta giải thoát khỏi những thứ đó bằng nhiều cách kín đáo, không ám chỉ gì tới qúa khứ, vì đó sẽ là bất cẩn về đức bác ái đối với tha nhân.
Nhắc lại tội lỗi của kẻ có tội sám hối là hạ thấp họ. Chỉ cần làm cho lương tri của họ tỉnh dậy. Nhắc lại qúa khứ cho một người là làm thức dậy các đam mê, đôi khi làm cho các đam mê chủ chốt trở lại cùng với sự ưng thuận. Dù trong những trường hợp tốt nhất, cũng vẫn là gây nên thử thách. Đừng thử thách tha nhân. Hãy khôn ngoan và bác ái. Nếu Thiên Chúa đã tránh cho các con được một số tội thì hãy ngợi khen Người. Nhưng đừng phô bày sự công chính của các con để hạ nhục kẻ không công chính. Hãy biết hiểu cái nhìn van nài của kẻ sám hối. Họ muốn các con quên, và nếu họ biết rằng các con không quên thì họ van nài các con, ít nhất là đừng hạ nhục họ bằng cách nhắc lại qúa khứ.
Các con đừng nói: “Hắn ta có tâm hồn phong cùi” để biện minh cho sự bỏ rơi của các con. Kẻ phong cùi, sau khi thanh tẩy tiếp theo sự chữa lành, được tái nhận vào dân chúng. Mong rằng một điều giống như vậy xẩy ra cho các kẻ được chữa lành tội lỗi. Đừng làm như kẻ cho mình là trọn lành mà thực sự không vậy, vì họ không có đức bác ái với anh em. Hãy bao bọc các anh em đã trở lại với ơn sủng bằng tình yêu của các con, để cái khung cảnh chung quanh tốt lành ngăn cản họ tái sa ngã.
Đừng cố gắng làm hay hơn Thiên Chúa, đấng không xua đuổi kẻ tội lỗi sám hối, nhưng tha cho họ và tái nhận họ vào đoàn của Người. Và cả nếu kẻ tội lỗi này đã làm cho các con một thiệt hại không thể sửa chữa, thì bây giờ là lúc họ không còn mạnh mẽ để người ta sợ, các con cũng đừng báo thù, nhưng hãy tha thứ, hãy có
595
tình thương rất lớn, vì họ nghèo nàn về cái kho tàng mà mọi người có thể có, chỉ cần họ muốn, đó là lòng tốt. Hãy yêu họ, vì với sự đau đớn mà họ đã gây ra cho các con, họ đã cho các con một phương tiện để đáng được một phần thưởng lớn trên Trời. Hãy kết hợp phương tiện của họ với phương tiện của các con: sự tha thứ của các con, và phần thưởng của các con sẽ còn lớn hơn nữa trên Trời.
Đừng khinh dể ai cả, dù là người thuộc nòi giống khác. Các con thấy rằng khi Thiên Chúa lôi kéo một tâm hồn, dù là tâm hồn dân ngoại, Người biến đổi nó đến mức nó vượt qua nhiều người trong dân được chọn về sự công chính.
Thầy đi. Các con hãy nhớ bây giờ và mãi mãi những lời này, cũng như những lời khác mà Thầy đã nói với các con.
Phêrô đã sẵn sàng. Ông nhấn mái chèo vào bờ để đẩy chiếc thuyền ra và bắt đầu cuộc hành trình cùng với hai thuyền khác theo sau.
Mặt hồ hơi dao động, gây ra những lắc lư cho con thuyền, nhưng không ai sợ gì, vì khoảng đường ngắn. Các đèn hiệu đỏ in trên làn nước tối những dấu như hồng ngọc, và nhuộm đỏ như máu những làn bọt trắng.
- Nhưng thưa Thầy, người đó có sẽ được khỏi không? Con chả hiểu gì cả - Sau một lát, Phêrô hỏi khi ông không rời tay lái.
Giêsu không trả lời. Phêrô làm hiệu cho Gioan đang ngồi ở bục thuyền, tựa đầu vào đầu gối Giêsu. Gioan nhỏ tiếng nhắc lại câu hỏi.
- Ông không khỏi.
- Lạy Chúa, tại sao? Con, theo như những lời con đã nghe thì ông ta phải được khỏi để đền tội.
- Không, Gioan, ông ta lại phạm tội, vì đó là tâm hồn yếu đuối.
Gioan lại tựa đầu vào gối Giêsu và nói: “Nhưng Thầy, Thầy có thể làm cho ông nên mạnh”, tựa như ông trách nhẹ.
Giêsu mỉm cười khi Người luồn ngón tay Người vào trong tóc Gioan của Người, rồi Người cao giọng như để mọi người nghe được, Người ban các giáo huấn chót trong ngày: “Thực thế, Thầy bảo các
596
con, để chấp nhận ban một ơn, phải biết kể đến sự thức thời của nó. Không phải luôn luôn sự sống là một ơn, sự thịnh vượng không luôn luôn là một ơn, một đứa con không luôn luôn là một ơn, đúng, cả sự tuyển chọn cũng không luôn luôn là một ơn. Tất cả những thứ đó là ơn và nó tồn tại như một ơn nếu người đã nhận nó biết sử dụng tốt nó cho các cùng đích siêu nhiên về sự thánh hóa. Nhưng khi với sức khỏe, với sự thịnh vượng, với tình cảm, với sứ mạng, người ta làm hư hỏng chính tâm hồn mình, thì tốt hơn là họ đừng bao giờ có. Đôi khi Thiên Chúa làm một ơn huệ lớn lao nhất Người có thể làm, là không cho điều người ta muốn hay nghĩ rằng chính đáng để có như một sự lành. Người cha trong gia đình hay thầy thuốc khôn ngoan biết phải cho con cái hay bệnh nhân cái gì để không làm cho nó bệnh hay làm cho nó hết bệnh. Thiên Chúa cũng vậy, Người biết phải cho một tâm hồn cái gì là tốt cho nó”.
- Vậy người đó sẽ chết? Căn nhà tội nghiệp!
- Nó có sung sướng hơn không nếu một người bị án hỏa ngục cư ngụ ở đó? Và ông ta, ông ta có sung sướng hơn không nếu ông ta sống và tiếp tục phạm tội? Thực sự Thầy bảo các con rằng chết là một ơn, nếu nó ngăn cản những tội mới, và nó bắt lấy người ta khi họ đã làm hòa với Chúa của họ.
Sống thuyền đã cà vào đáy cạn của Caphanaum.
- Vừa kịp giờ. Đêm nay là cơn lốc. Chiếc hồ sôi, trời không sao đen mầu nhựa thông. Nhưng qúi vị có nghe gì ở đàng sau núi không? Qúi vị thấy sáng chừng nào! Sấm và chớp, sắp sửa sẽ là nước. Mau đi! Để các thuyền không thuộc về chúng ta vào nơi an toàn! Các bà với đứa trẻ lên đường đi, trước khi trời mưa. Ôi! Giúp chúng tôi một tay đi! - Phêrô kêu với các dân chài khác đang dỡ lưới và thúng rổ của họ.
Bằng sức của cánh tay, họ khênh chiếc thuyền lên chỗ cao trên bờ, trong khi các đợt sóng đầu tiên tới đập vào các chi thể nửa trần và xô vào các cục đá ở bãi.
Rồi họ phóng lên đường để về nhà trong khi các hạt mưa lớn đầu tiên làm tung bụi lên khỏi đất nóng, tỏa ra mùi nồng nực. Chớp đã ở bên trên hồ, trong khi sấm sét làm đầy chiếc cúp của các ngọn
597
đồi chung quanh hồ bằng những tiếng kêu gẫy vỡ.
151* “HÃY KHÔN NHƯ CON RẮN
VÀ ĐƠN SƠ NHƯ CHIM CÂU”
- Trong phòng ở trên lầu có mấy người Nazarét. Và hôm qua các anh Thầy có đến tìm Thầy; rồi có mấy pharisiêu và nhiều bệnh nhân, và một người Antioche nữa - Iscariot loan tin ngay khi ông thấy Giêsu bước vào nhà.
- Có lẽ họ đã trở gót?
- Không. Người Antioche thì đi Tibêriat, nhưng ông sẽ trở lại sau ngày Sabát. Các người bệnh trở về các nhà, nhưng các pharisiêu muốn có các anh Thầy ở với họ, và họ đã dành cho các ông rất nhiều danh dự. Tất cả đã là khách của phrisiêu Simon.
- Hum!... - Phêrô rên rỉ.
- Anh làm sao vậy? Anh không bằng lòng vì người ta tôn kính Thầy nơi các nhân vật thuộc bà con của Người sao? - Iscariot hỏi.
- Ôi! Nếu là vinh dự và là các cuộc gặp gỡ hữu ích... thì tôi rất sung sướng.
- Nghi ngờ tức là xét đoán. Thầy không muốn người ta xét đoán.
- Nhưng đúng! Nhưng đúng! Nhưng để cho chắc ăn, tôi sẽ nghe để xét đoán. Như vậy tôi sẽ không ngu, cũng không phạm tội.
- Chúng ta hãy lên lầu để tìm các người Nazarét. Ngày mai chúng ta sẽ đi tìm các người bệnh - Giêsu nói.
Iscariot quay về với Giêsu: “Thầy không thể, mai là ngày Sabát. Thầy muốn các pharisiêu khiển trách Thầy sao? Nếu Thầy không nghĩ tới danh dự của Thầy thì con, con nghĩ tới”. Judas nói với vẻ rất phường chèo, và ông kết thúc: “Đúng hơn, vì con hiểu là Thầy ước ao chữa ngay cho các kẻ tìm đến với Thầy, thì đây, chúng con sẽ tới đó, rồi chúng con sẽ đặt tay trên họ nhân danh Thầy, và...”
- Không - một tiếng không thật khô tới nỗi nó không chấp nhận thảo luận.
- Thầy không muốn chúng con làm phép lạ à? Thầy muốn phải
598
là Thầy làm? Vậy... chúng con sẽ đi nói rằng Thầy ở đây, và Thầy hứa sẽ chữa cho họ. Như vậy họ cũng sung sướng rồi...
- Điều đó không cần. Các ngư phủ đã thấy chúng ta, vậy người ta sẽ biết rằng Thầy ở đây. Và khi đến tìm Thầy, họ biết rằng Thầy sẽ chữa những ai tin vào Thầy.
Judas nín lặng, bất bình, với khuôn mặt như những lúc xấu nhất của ông.
Giêsu ra ngoài, không lo gì tới cơn mưa mà giông tố đổ xuống trái đất, Người lên căn phòng ở trên sân thượng. Người mở cửa và bước vào. Các tông đồ theo sau. Các phụ nữ đã ở trên đó và họ nói chuyện với các người Nazarét. Ở trong góc có một người tôi không biết.
- Bình an cho các con.
- Thầy! - các người Nazarét cúi mình, rồi họ nói: “Ông ta đây!” Và họ chỉ ngón tay vào người lạ.
- Lại đây! - Giêsu ra lệnh.
- Đừng nguyền rủa con!
- Để làm điều đó thì Thầy không cần gọi con tới đây. Con chỉ có lời đó để nói với Vị Cứu Tinh thôi sao? - Giêsu rất nghiêm khắc, nhưng đồng thời đầy khích lệ.
Người đó nhìn Người... Rồi ông ta bật khóc, nức nở qùi xuống đất: “Nếu Thầy không tha cho con, con sẽ không có bình an...”
- Khi Thầy muốn làm cho con nên tốt, tại sao con không muốn? Bây giờ thì qúa muộn để sửa chữa, mẹ con chết rồi.
- A! Đừng nói điều đó với con! Thầy qúa ác!
- Không. Thầy là sự thật. Thầy đã là sự thật khi Thầy nói với con rằng con sẽ giết mẹ con. Thầy vẫn còn là vậy. Và con, lúc đó con đã chế nhạo Thầy. Tại sao bây giờ con tìm Thầy? Mẹ con đã chết. Con đã phạm tội. Con đã tiếp tục phạm tội khi con biết rằng con phạm tội. Thầy đã nói điều đó với con rồi. Đó là một tội lớn: Con đã muốn phạm tội khi từ chối Lời và Tình Yêu. Tại sao bây giờ con than vì con không được bình an?
- Lạy Chúa! Lạy Chúa! Xin thương! Con đã phát điên và Thầy
599
đã chữa con. Con hy vọng ở Thầy. Trước đây con thất vọng với tất cả. Xin đừng làm tuyệt vọng sự trông cậy của con.
- Vậy tại sao con thất vọng?
- Bởi vì... con đã làm mẹ con chết vì đau đớn... Ngay cả trong buổi chiều sau cùng... bà đã tới mức... mà con không thương... Con đã đánh bà, lạy Chúa!!! - Và một tiếng kêu thực tình thất vọng vang đầy căn phòng. “Con đã đánh bà!... Bà đã chết trong đêm đó... Và bà chỉ bảo con rằng hãy tốt... Mẹ con... Con đã giết bà...”
- Samuel! Con đã giết bà từ bao năm rồi! Từ lúc con không còn công chính nữa, Esther tội nghiệp! Bao nhiêu lần Thầy đã thấy bà khóc! Và bà xin Thầy một cái vuốt ve của người con thay vì con... Và con biết rằng không phải vì tình bạn bè đối với con là kẻ cùng tuổi với Thầy mà Thầy đến nhà con, nhưng là vì thương cho bà. Đáng lẽ Thầy không tha cho con, nhưng vì hai bà mẹ đã xin cho con, và sự thống hối của con chân thành. Vậy Thầy tha cho con. Hãy bằng một đời sống chân thành, xóa bỏ khỏi con tim các người đồng hương của con các kỷ niệm về một Samuel tội lỗi, và hãy kiếm lại mẹ của con. Con sẽ làm được điều đó nếu con sống một đời sống công chính, con sẽ chiếm được Nước Trời và mẹ con cùng với nó. Nhưng con hãy nhớ, con hãy nhớ rằng tội của con rất lớn, và bởi vậy, sự công chính của con cũng phải lớn tương đương để xóa bỏ các nợ của con.
- Ôi! Thầy nhân từ, không như cái ông trong đám của Thầy, cái ông vừa đi ra sau khi đã vào, cái ông đã đến Nazarét chỉ để chộ con cho con sợ! Họ có thể nói điều đó...
Giêsu quay lại. Số các tông đồ chỉ thiếu có Iscariot. Vậy là ông ta đã bạc đãi Samuel. Giêsu phải làm gì? Để tránh cho người ta khỏi chỉ trích vị tông đồ trong tư cách là tông đồ chứ không trong tư cách là một con người, Người nói: “Mọi người chỉ có thể nghiêm khắc với con vì tội của con. Khi người ta làm điều xấu, người ta phải nghĩ rằng loài người sẽ xét đoán... Nhưng đừng thù ghét. Sự hạ nhục mà con đã phải chịu, hãy đặt nó như một việc đền tội trên bàn cân của Thiên Chúa. Nào, ở đây, giữa các người công chính,
600
chỉ có niềm vui vì sự cứu chuộc của con. Con ở giữa các anh em không hề khinh dể con. Vì mọi người đều có thể phạm tội, nhưng họ chỉ đáng khinh khi họ lì lợm trong tội”.
- Chúa ơi! Con chúc tụng Thầy. Con cũng xin Thầy tha thứ cho tất cả những lần con đã khinh dể Thầy... Con không biết cám ơn thế nào được... Đó là bình an, Thầy biết? Bình an trở lại trong con - và bây giờ ông khóc cách bình tĩnh...
- Hãy cám ơn mẹ Thầy. Nếu con được tha thứ, nếu Thầy đã chữa con cho khỏi mê sảng và cho con có khả năng để sám hối, chính là nhờ mẹ. Chúng ta hãy xuống dưới nhà, bữa tối đã sẵn. Chúng ta sẽ chia sẻ lương thực.
Và Người đi xuống trong khi cầm tay người đó.
Qủa vậy, bữa ăn đã sẵn, nhưng Judas không ở dưới nhà. Ông ta cũng không ở chỗ nào trong nhà. Bà chủ nhà giải thích: “Ông ta ra ngoài và ông ta nói: ‘Tôi sẽ về ngay’”.
- Được. Chúng ta hãy ngồi và ăn.
Giêsu dâng tiến của ăn, chúc phúc và phân phát. Nhưng một bóng đen lạnh lùng đi vào căn phòng được soi sáng bằng hai ngọn đèn và một bếp lửa. Ở bên ngoài trời vẫn tiếp tục mưa gió.
Judas trở về, thở dốc, ướt tựa như ông ta bị té xuống hồ, mặc dầu ông đã đội áo khoác lên đầu, khi ông cởi ra, nó nhỏ nước cả vũng trên đất. Tóc ông như cứng và ướt như dội nước, dính vào má và cổ. Mọi người đều nhìn ông nhưng không ai nói gì.
Ông ta muốn xin lỗi mặc dầu không ai hỏi gì: “Con chạy tới nhà các anh Thầy để nói là Thầy ở đây. Nhưng con đã vâng lời Thầy, con không đi tìm các bệnh nhân. Lại nữa, không thể được. Toàn là nước! Đại hồng thủy!... Nhưng con không muốn chậm để tôn kính bà con của Thầy... Thầy không bằng lòng sao? Thầy không nói!...”
- Thầy nghe con. Cầm lấy ăn đi. Trong khi chờ đợi giờ đi ngủ, chúng ta hãy nói chuyện với nhau. Hãy nghe đây:
Có lời rằng: “Đừng thổ lộ con tim cho người lạ, vì chúng ta không biết thói quen của họ”. Nhưng chúng ta có thể nói được rằng chúng ta biết con tim của các người đồng hương, các bạn bè, các bà con
601
của chúng ta không? Chỉ có Thiên Chúa biết rõ con tim của con người, còn con người chỉ có một phương tiện để biết con tim của tha nhân và hiểu xem nó có là người đồng hương thực, người bạn thực, người bà con thực không. Phương tiện đó là gì? Nó ở đâu? Ở trong chính tha nhân và trong chúng ta: trong các hành động của họ, các lời nói của họ, hay trong sự xét đoán ngay thẳng của chúng ta. Khi dựa vào lời nói hay hành động của tha nhân, hoặc dựa vào những điều họ muốn cho chúng ta làm, và với sự xét đoán ngay thẳng của chúng ta, chúng ta thấy rằng họ không tốt, lúc đó chúng ta có thể nói: “Đó không phải tâm hồn tốt, tôi phải nghi ngờ”. Phải đối xử với họ đầy tình bác ái, vì họ phải chịu một khốn nạn trầm trọng: có một tâm hồn bệnh hoạn. Nhưng đừng làm theo những hành động của họ, cũng đừng coi các lời của họ là thật và khôn ngoan, và nhất là đừng nghe theo các lời khuyên của họ.
Các con đừng để mình bị hư hỏng bởi ý tưởng kiêu căng: “Tôi mạnh, và điều xấu của kẻ khác không thể vào trong tôi. Tôi công chính, nên dù tôi nghe kẻ không công chính nói, tôi vẫn giữ mình công chính”. Con người là cái vực sâu, trong đó có tất cả mọi yếu tố tốt và xấu. Những cái tốt giúp chúng ta lớn lên và trở thành vua, cùng với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Các yếu tố xấu giúp phát triển và làm cho các sự độc hại, các đam mê, các tình bạn xấu ngự trị. Tất cả các hạt giống xấu và các ước vọng về sự thiện đều ngủ ở trong con người bởi ý muốn yêu thương của Thiên Chúa, và bởi ý muốn xấu của Satan là kẻ khêu gợi, quyến rũ, kích thích, trong khi Thiên Chúa lôi kéo, khích lệ, yêu thương. Satan quyến rũ để lôi kéo, Thiên Chúa làm việc để chinh phục. Và không phải luôn luôn Thiên Chúa là người thắng, vì tạo vật nặng nề bao lâu nó không coi luật của Người là tình yêu. Và vì sự nặng nề của nó, nó đi xuống và để mình bị lôi kéo dễ dàng về những cái thỏa mãn tức thời, và về những cái thấp hèn nhất nơi con người.
Điều Thầy nói về sự yếu đuối của con người, các con có thể hiểu: cần thiết biết bao phải nghi ngờ chính mình và phải rất chú ý tới người khác, để không kết hợp những nọc độc của một lương tâm
602
nhơ bẩn với những gì đã dậy men trong chúng ta. Khi ta hiểu rằng một người bạn là sự hư hỏng cho tâm hồn chúng ta, khi các lời của họ làm xao xuyến lương tâm chúng ta, khi các lời khuyên của họ mang theo vấp phạm, thì phải biết lìa bỏ tình bạn nguy hiểm này. Nếu ở lại đó, sau cùng người ta sẽ thấy linh hồn mình hư hỏng, vì họ sẽ chuyển qua các hành động làm xa lìa Thiên Chúa và ngăn cản những lương tâm đã bị chai đá hiểu những soi sáng của Thiên Chúa.
Nếu có một người đã phạm những tội lỗi nặng nề, và nếu họ muốn nói và có thể nói làm sao họ lại đi tới những tội này, người ta sẽ thấy rằng lúc khởi đầu họ đã có một tình bạn xấu.
- Đúng vậy! - Samuel Nazarét xác nhận nhỏ tiếng.
- Các con hãy nghi ngờ những kẻ, sau khi đã chống đối các con cách vô lý, bỗng dưng đổ đầy cho các con những vinh dự và qùa cáp.
Các con hãy nghi ngờ những kẻ khen hết mọi hành động của các con, những kẻ sẵn sàng cho mọi lời ca tụng: tức là nó khen kẻ lười biếng là siêng năng, kẻ gian dâm là ông chồng trung thành, kẻ ăn cắp là người thật thà, kẻ hung dữ là người hiền lành, kẻ gian dối là người chân thành, kẻ tín hữu xấu và người môn đệ tệ hại nhất là những nhà mô phạm. Chúng làm vậy để hủy diệt các con và dùng sự hư hỏng của các con vào những chương trình qủi quyệt của chúng.
Hãy chạy trốn những kẻ muốn làm cho các con say bởi những lời khen và hứa hẹn, để bảo các con làm những hành động mà các con sẽ không chấp nhận nếu các con không say.
Khi các con đã thề trung thành với ai thì hãy xa lánh giao thiệp với các kẻ thù của họ. Chúng chỉ có thể lui tới với các con là để làm hại cho người mà chúng ghét, và làm hại cho họ nhờ sự giúp đỡ của các con.
Các con hãy mở to con mắt. Thầy đã nói: Hãy khôn như con rắn, đồng thời đơn sơ như chim câu. Vì để luận xét những sự về tâm hồn thì sự đơn sơ là thánh, nhưng để sống giữa đời mà không làm thiệt hại cho chính mình và bạn hữu mình thì phải khôn khéo để biết
603
khám phá những qủi quyệt của các kẻ ghét sự thánh. Thế gian là một cái tổ rắn. Hãy biết nhận ra thế giới và các mưu mô của nó. Rồi trong khi vẫn là bồ câu, nhưng đừng ở trong bùn, nơi rắn cư ngụ, nhưng hãy ở nơi trú ẩn trên núi đá cao. Hãy có con tim đơn sơ của người con Thiên Chúa. Và hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện, vì thực vậy, Thầy bảo các con: Con Đại Mãng Xà đang rít ở chung quanh các con. Và bởi vì các con đang ở trong nguy hiểm lớn lao, kẻ nào không canh chừng thì sẽ hư mất. Đúng, trong đám các môn đệ, sẽ có những kẻ hư đi. Satan sẽ vui sướng hả hê, và Đức Kitô thì đau đớn vô hạn.
- Lạy Chúa, ai vậy? Có lẽ một người không phải trong đám chúng con, một tín đồ mới, một kẻ... không phải người Palestin, một kẻ...
- Đừng tìm biết. Đã chẳng có lời rằng: những sự gớm ghiếc sẽ vào, như nó đã vào rồi, trong nơi thánh sao? Vậy nếu người ta có thể phạm tội ngay gần nơi thánh, thì một người nào đó trong những kẻ theo Thầy lại không thể phạm tội, dù nó là người Galilê hay Do Thái sao? Hãy canh chừng! Hãy canh chừng! Các bạn ơi! Hãy canh chừng trên chính mình và trên người khác. Hãy canh chừng về những gì người khác nói cho các con. Và nếu tự mình các con không có ánh sáng để thấy rõ, thì hãy đến với Thầy. Thầy là Ánh Sáng.
Phêrô hí hoáy và lẩm bẩm sau lưng Gioan, ông này ra dấu phủ nhận. Giêsu quay về phía ông, Người nhìn thấy. Phêrô giữ vẻ bình tĩnh và làm như ông đang tính đi khỏi. Giêsu đứng dậy, mỉm cười nhẹ nhàng... Rồi Người xướng lời cầu nguyện, chúc lành và giải tán. Người ở lại một mình để cầu nguyện nữa.
152* NGÀY SABÁT TẠI CAPHANAUM
- Thầy không dẫn đứa trẻ về cho mẹ nó sao? - Batôlômêo hỏi Giêsu khi Người đang ở trên sân thượng, trầm mặc sâu xa trong sự cầu nguyện.
- Không. Thầy chờ bà ta đến giáo đường.
604
- Thầy hy vọng rằng ở đó, Chúa sẽ nói với bà ta... và bà ta... sẽ hiểu bổn phận của bà? Thầy nghĩ như người hiền đức, nhưng bà ta không hiền đức. Một bà mẹ khác thì đã vội chạy đến ngay từ chiều hôm qua để đón con. Nhưng có lẽ... vì chúng ta đã bơi thuyền trên mặt bể giông bão... bà đâu có biết chúng ta từ đâu tới... Bà ta có nghĩ gì tới đi coi xem con bà có khổ sở gì không? Có lẽ sáng nay bà sẽ tới? Coi, bao nhiêu bà mẹ đã thức dậy, dù vừa hừng sáng, vội vã phơi quần áo ngày lễ để nó khô kịp, để con cái mặc cho sạch sẽ trong ngày của Chúa. Một người pharisiêu đã nói rằng các bà làm công việc nô dịch, bởi vì các bà phơi những quần áo nhỏ này. Con thì con nói rằng các bà đã làm một công việc của tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với con cái họ. Đây phần đông là các phụ nữ nghèo. Thầy coi: đàng kia là Maria Benjamin và Rêbecca Michée; trên cái sân thượng tội nghiệp kia là Jeanne, bà đang kiên nhẫn dũ các tua cho bộ y phục tội nghiệp của đứa con trai bà, để nó có vẻ bớt nghèo hơn khi đi làm nghĩa vụ thánh. Ở đàng kia nữa, trên bờ sông sắp sửa nắng chang, Sélida phơi tấm vải còn sống để nó có vẻ mịn hơn, vì nó là vải xô, nó chỉ đẹp vì sự hy sinh, nó đã đáng giá của bà bao nhiêu là bánh phải nhịn, nó đã kềm bà lại để bà biến các vỏ đay thành sợi tơ. Và ở đàng kia, có phải là Adina đang cầm cỏ lá để chà chiếc áo nhỏ bạc mầu cho con gái nhỏ của bà, để nó có vẻ xanh hơn không? Nhưng bà thì ta không thấy rõ...
- Xin Chúa thay đổi tâm hồn bà! Không còn gì khác để nói nữa...
Họ đứng tựa vào bức tường nhỏ lan can của sân thượng để nhìn thiên nhiên được tươi mát lại bởi cơn mưa bão đã làm trong sáng bầu khí quyển và lau sạch cỏ cây. Mặt hồ còn hơi động và ít xanh hơn thường lệ. Những làn nước chảy xuống từ các suối cạn trong mấy tiềng đồng hồ, mang theo bụi đất của lòng suối khô. Nhưng cái hồ vẫn đẹp, mặc dầu sự pha lộn hoàng thổ này. Nó giống như viên ngọc lưu ly vĩ đại có các sọc bạch ngọc, và nó cười dưới mặt trời trong sáng bây giờ đã chiếu tới các núi ở phía tây, và thắp sáng lên tất cả các giọt mà các nhánh cây còn giữ được. Chim én, bồ câu vui vẻ xẻ làn khí trong sạch. Trong các chòm lá, chim chóc đủ loại
605
cho nghe tiếng líu lo của chúng.
- Sức nóng ra đi. Thật là một mùa đẹp! Dồi dào và đẹp. Đẹp như tuổi chín chắn, phải không Thầy?
- Đẹp... ờ... - nhưng người ta thấy rằng Giêsu nghĩ về điều gì hoàn toàn khác.
Batôlômêo nhìn Người... rồi ông hỏi: “Thầy nghĩ về cái gì vậy? Về điều Thầy sắp nói ở giáo đường à?”
- Không. Thầy nghĩ đến các bệnh nhân đang chờ. Ta hãy đi, cả hai người, để chữa họ.
- Một mình chúng ta à?
- Simon, Andrê, Giacôbê và Gioan đã đi kéo những cái đó do Tôma đặt khi ông tiên liệu là chúng ta đến. Những người khác còn ngủ. Chúng ta đi cả hai.
Họ xuống và hướng về phía miền quê, nơi có những căn nhà rải rác giữa các khu vườn, hoặc ngay cả trong cánh đồng, để tìm các bệnh nhân trú trong các nhà nghèo luôn luôn hiếu khách. Nhưng có những người đã chạy đi trước, vì họ đoán biết là Thầy đi đâu. Và có một người nói với Người: “Thầy chờ ở đây, trong vườn của con, chúng con sẽ đi mang họ tới cho Thầy...”
Và rất lẹ, từ nhiều lối khác nhau, giống như chim chóc từ các khe suối nhỏ tụ lại tại một cái ao duy nhất, các bệnh nhân đến, hay được mang đến cho Đấng Chữa Lành.
Hoàn thành các phép lạ xong, Giêsu cho các người đã được lành đi khi nói với họ: “Đừng nói cho các người hỏi các con rằng Thầy đã chữa các con. Hãy trở về các căn nhà các con đã ở. Môn đệ của Thầy sẽ mang đồ cứu trợ cho những người nghèo nhất trước khi mặt trời lặn”.
- Đúng. Đừng nói, qúi vị sẽ làm khổ cho Người. Qúi vị nhớ rằng nay là ngày Sabát, và nhiều kẻ ghét Người - Batôlômêo nói thêm.
- Chúng con sẽ không làm khổ cho đấng đã làm ơn lành cho chúng con. Chúng con chỉ nói tới ở trong xứ của chúng con, và không nói chúng con được chữa vào ngày nào - một người lúc trước bị tê liệt nói.
606
Một người lúc trước bị đau mắt nói: “Và nữa, con đã nói là chúng con tản mát ra trong miền quê trong khi chờ mặt trời lặn. Các pharisiêu biết chúng con trọ ở đây, và họ có thể đến coi...”
- Anh có lý, Isaac. Hôm qua họ đã hỏi qúa nhiều, qúa nhiều điều... Họ sẽ nghĩ rằng vì qúa mệt mỏi để chờ, chúng ta đã ra đi trước khi mặt trời lặn.
- Nhưng hôm qua vị tông đồ đã thấy chúng ta mà! Có phải chính ông ta đã nói không? - một người trước bị mù hỏi.
- Không. Đó là anh của Chúa. Ông ta sẽ không phản bội chúng ta.
- Hãy nói cho biết qúi vị đi đâu để tôi có thể tìm thấy qúi vị khi tôi tới - Batôlômêo nói.
Các người bệnh hỏi ý kiến nhau. Một số muốn đi Corozain, một số muốn đi Magđala. Họ trình vấn đề với Giêsu, Người trả lời họ: “Trong các cánh đồng trên con đường đi về Magđala có một căn nhà, hãy theo con suối thứ hai, qua khỏi đó một tí, các con sẽ tìm thấy nó. Hãy tới đó và nói: ‘Chính Giêsu gởi chúng tôi tới’. Họ sẽ đón nhận các con như các anh em. Đi đi. Nguyện Thiên Chúa ở với các con và các con ở với Thiên Chúa, bằng cách lánh tội trong tương lai”.
Giêsu lại lên đường, không trở về làng ngay theo con đường đã đi để tới. Người đi giữa các khu vườn và quẹo vào đường dẫn tới con suối ở gần hồ. Con suối bị tấn công bởi các phụ nữ muốn có nước dự trữ khi còn mát và mặt trời chưa lên qúa cao.
- Vị rabbi! Vị rabbi!
Một đám quây quần gồm các phụ nữ, các trẻ em, và cả các đàn ông thuộc dân thường, phần đông là già và rảnh rỗi, vì lẽ ngày Sabát.
- Thầy ơi! Một lời đi, để cho ngày hôm nay được vui vẻ - một ông già nói. Ông ẵm trong tay một đứa nhỏ, có lẽ là chắt của ông, vì ông già chắc có cả trăm tuổi, mà đứa nhỏ chưa qúa sáu tuổi.
- Vâng. Xin Thầy làm vui lòng ông già Lêvi, và chúng con cùng với ông.
607
- Hôm nay các con sẽ có lời giải thích của Jairô. Thầy ở đây để nghe ông. Các con có một ông trưởng giáo đường khôn ngoan.
- Tại sao Thầy nói vậy? Thầy là thủ lãnh của tất cả họ, vị Thầy của Israel. Chúng con, chúng con chỉ biết có Thầy.
- Đừng nói vậy. Các vị trưởng giáo đường được thiết lập để làm thầy các con, để thi hành việc thờ phượng giữa các con trong khi làm gương mẫu cho các con để làm cho các con nên những con dân Israel trung thành. Họ sẽ còn ở đó khi Thầy không còn nữa. Họ sẽ có một tên khác, một nghi lễ khác, nhưng họ vẫn luôn luôn là sứ giả trong việc thờ phượng. Các con phải yêu mến họ và phải cầu nguyện cho họ, vì ở đâu có một vị thủ lãnh tốt thì sẽ có các tín hữu tốt, và bởi vậy, Thiên Chúa ở đó.
- Chúng con sẽ làm vậy. Nhưng bây giờ Thầy nói với chúng con đi. Người ta nói với chúng con rằng Thầy sắp rời bỏ chúng con...
- Thầy có biết bao con chiên rải rác trong khắp Palestin. Tất cả đều chờ mục tử của họ. Nhưng các con có các môn đệ càng ngày càng đông và khôn ngoan...
- Vâng. Nhưng những điều Thầy nói luôn luôn tốt và dễ hiểu đối với trí khôn ngu si của chúng con.
- Thầy sẽ nói gì với các con đây?...
- Giêsu! Chúng ta tìm em khắp nơi! - Giuse Alphê kêu lên. Ông đến thình lình cùng với em Simon của ông và một nhóm pharisiêu.
- Con Người ở đâu, nếu không là ở giữa những kẻ bé nhỏ và đơn sơ trong lòng? Các anh muốn tôi? Tôi đây. Nhưng trước hết hãy để tôi nói một lời...
Hãy nghe đây: Người ta đã nói với các con là Thầy sắp rời bỏ các con. Đúng vậy. Thầy không chối điều đó. Nhưng trước khi rời các con, Thầy cho các con một mệnh lệnh: Hãy canh chừng cẩn thận chính mình để biết mình cho rõ, để càng ngày càng lại gần Ánh Sáng để nhìn cho rõ. Lời Thầy là Ánh Sáng. Hãy giữ lấy nó trong các con, và khi nhờ ánh sáng của nó, các con khám phá ra các vết nhơ, các bóng tối, hãy chú ý để xua đuổi nó ra khỏi lòng các con. Điều mà các con là trước khi Thầy biết các con, các con không
608
được như vậy nữa. Các con phải rất tốt hơn, vì bây giờ các con đã biết rất nhiều hơn.
Trước kia các con giống như ở trong hoàng hôn, bây giờ các con có ánh sáng ở trong các con. Các con phải là con cái của Ánh Sáng. Hãy nhìn bầu trời buổi sáng, khi rạng đông soi cho nó, nó có thể có vẻ trong trẻo chỉ vì không có mây bao phủ nó. Nhưng ánh sáng càng tăng lên, và khi luồng sáng mạnh của mặt trời bao trùm phương đông, thì đây, con mắt ngạc nhiên nhìn thấy những đốm đỏ hồng trên nền xanh. Cái gì vậy? Ồ! Đó là những lọn mây nhẹ, rất nhẹ tới nỗi như nó không hiện hữu khi ánh sáng còn chưa tỏ. Nhưng bây giờ mặt trời chiếu vào nó, nó hiện ra như những đám bọt nhẹ trên bầu trời, và nó ở lại đó tới khi mặt trời làm tan nó, phân tán nó bằng ánh sáng huy hoàng của nó.
Các con hãy làm như vậy cho tâm hồn các con. Hãy dẫn nó càng ngày càng tới gần ánh sáng, để nó lộ ra hết mọi tí sương mù, dù là nhẹ nhàng nhất. Rồi hãy phơi nó ra dưới mặt trời của đức Bác Ái, nó sẽ làm tiêu tan các bất toàn của các con như mặt trời làm bốc hơi các hạt nước nhẹ ngưng tụ trong các chòm mây này. Nó nhẹ tới nỗi mặt trời làm nó biến đi ngay từ rạng đông. Nếu các con ở lại trong đức Bác Ái, đức Bác Ái sẽ thực hiện trong các con những kỳ công liên tiếp. Bây giờ đi đi, và hãy tốt.
Người cho họ đi và đến tìm hai anh họ của Người. Người hôn họ sau khi đã cúi sâu để chào các pharisiêu, trong số đó có Simon, người pharisiêu Caphanaum. Những người khác là các khuôn mặt mới.
- Chúng ta tìm em cho họ hơn là cho chúng ta. Họ đã đến Nazarét để tìm em, vậy...
- Bình an cho các ngài. Các ngài cần điều gì?
- Ôi! Chả cần gì hết. Để gặp ông, chỉ để gặp ông và nghe ông, nghe sự khôn ngoan của các lời ông...
- Chỉ vì điều đó thôi?
- Và cũng để khuyên ông. Thực sự... ông qúa tốt, và dân chúng lạm dụng. Đám dân này họ không tốt, ông biết rõ họ. Tại sao ông
609
không nguyền rủa kẻ có tội?
- Bởi vì Chúa Cha ra lệnh cho tôi cứu chứ không phải làm mất.
- Ông sẽ gặp những bất hạnh...
- Không quan trọng. Tôi không thể vi phạm mệnh lệnh của Đấng Tối Cao vì bất cứ lợi ích nhân loại nào.
- Và nếu... ông biết... người ta nói nhỏ là ông nịnh bợ đám dân để dùng họ mà nổi loạn. Chúng tôi đến để hỏi ông xem điều đó có thực không.
- Các ông đến hay người ta sai các ông đến?
- Cũng vậy thôi.
- Không. Nhưng tôi trả lời cho các ông và cho những người sai các ông rằng: nước tràn ra từ cái thùng của tôi là nước của bình an, và hạt giống mà tôi gieo là hạt giống của từ bỏ. Tôi cắt tỉa các cành kiêu căng, tôi sẵn sàng nhổ bỏ những cây xấu để nó không gây thiệt hại cho cây tốt nếu nó không thể dùng được để ghép. Nhưng những cái mà tôi nói là “tốt” không phải là những cái các ông nói là tốt. Qủa vậy, tôi dùng cái từ tốt cho sự vâng lời, sự nghèo khó, sự từ bỏ, sự khiêm nhường, tình bác ái sẵn sàng để tự hạ và xót thương. Đừng sợ ai cả. Con Người không dương cạm bẫy cho các kẻ quyền thế của loài người, nhưng Người đến để khắc ghi sức mạnh cho các tâm hồn. Hãy đi và tường trình rằng Con Chiên sẽ không bao giờ là con chó sói.
- Ông muốn nói gì? Ông hiểu sai chúng tôi và chúng tôi hiểu sai ông.
- Không. Các ông và tôi, chúng ta hiểu nhau rất đúng...
- Vậy ông biết là tại sao chúng tôi đến.
- Đúng. Để nói với tôi rằng tôi không được nói với đám đông. Và các ông không suy nghĩ rằng các ông không được phép cấm tôi cũng như mọi người Israel khác, vào nơi người ta đọc và giải nghĩa Thánh Kinh, và là nơi mọi người đã cắt bì đều có quyền nói.
- Ai đã nói điều đó với ông? Jairô có phải không? Chúng tôi sẽ tường trình việc đó.
- Tôi còn chưa gặp Jairô nữa!
- Ông nói dối!
610
- Tôi là sự thật.
Giữa những người đã tụ họp lại đây, có một người nói: “Người không nói dối. Jairô đã đi từ hôm qua trước lúc mặt trời lặn cùng với vợ ông và con gái ông. Ông ta đi với họ, để lại đây một người phụ tá. Ông ta đi với họ tới nhà mẹ ông sắp chết, và ông chỉ trở về sau việc thanh tẩy”.
Các pharisiêu không được cái vui có thể chứng tỏ rằng Giêsu nói dối, nhưng họ được cái vui là biết rằng Người không có ông bạn mạnh thế nhất của Người ở Caphanaum. Họ nhìn nhau, những cái nhìn đầy diễn tả.
Giuse Alphê, trưởng nam của gia đình, cảm thấy có bổn phận phải bảo vệ Giêsu, ông quay lại với pharisiêu Simon: “Ông đã làm vinh dự cho tôi khi muốn chia sẻ bánh và muối với tôi, và Đấng Tối Cao sẽ kể đến cái vinh dự này đã được dành cho con cháu Đavít. Ông đã tỏ ra chính đáng với tôi. Em tôi bị các pharisiêu kết án. Hôm qua họ đã nói với tôi, chủ gia đình, rằng sự đau đớn duy nhất của họ là Giêsu bỏ rơi Juđê. Là Đấng Messi của Israel, nó có bổn phận phải yêu thương và giảng Tin Mừng cho toàn thể Israel đồng đều. Tôi thấy rằng lý luận của họ là chính đáng, và tôi sẽ nói với em tôi. Vậy tại sao hôm nay họ lại nói thế? Ít nhất họ phải nói tại sao nó không được nói. Tôi thấy là nó không nói điều gì trái với Lề Luật và Sách Thánh. Hãy cho tôi lý do, và tôi sẽ thuyết phục Giêsu nói cách khác”.
- Các lời của anh chính đáng. Các ông hãy trả lời cho người này đi... Ông ta có nói những điều... phạm thánh không? - Pharisiêu Simon nói.
- Không. Nhưng Đại Pháp Đình kết án ông ta là chia rẽ, là cố gắng chia rẽ quốc gia. Vị Vua phải thuộc về Israel chứ không phải chỉ thuộc về Galilê.
- Tổ quốc là thân yêu, và trong tổ quốc, miền sinh trưởng là rất thân yêu. Vậy cái tình yêu mà nó có đối với Galilê không phải là lý do đủ trầm trọng để xứng đáng một hình phạt. Ngoài ra, chúng tôi là dòng dõi Đavít, bởi vậy...
611
- Ông ta hãy đến Juđê và ông ta đừng khinh dể chúng tôi.
- Em nghe không? Đó là vinh dự cho em và cho gia đình! - Giuse nói hơi có vẻ chế diễu.
- Tôi nghe.
- Anh khuyên em nhượng bộ ước muốn của họ. Nó tốt và đáng tôn trọng. Em nói rằng em muốn bình an. Vậy hãy chấm dứt những bất đồng ý kiến đối lập với họ, và người ta sẽ yêu em trong cả hai miền. Chắc chắn em sẽ làm việc đó. Ôi! Đương nhiên là em tôi sẽ làm. Tôi bảo đảm điều đó cho nó là kẻ vâng lời trưởng nam.
- Có lời rằng: “Không ai lớn hơn Ta, không có thần thánh nào vượt qua Ta”. Tôi, tôi sẽ luôn luôn vâng lời điều Thiên Chúa muốn.
- Các ông nghe chưa? Vậy hãy đi bình an.
- Chúng tôi đã nghe. Nhưng ôi Giuse, trước khi đi, chúng tôi muốn biết thế nào là điều Thiên Chúa muốn đối với ông ta.
- Điều Thiên Chúa muốn là tôi làm theo ý muốn của Người.
- Và đó sẽ là gì. Hãy nói điều đó.
- Là muốn tôi tụ họp các bầy chiên của Israel, và muốn tôi đoàn tụ chúng lại thành một bầy duy nhất. Và tôi sẽ làm điều đó.
- Chúng tôi ghi chép các lời của ông.
- Điều đó tốt. Thiên Chúa ở cùng các ông - Và Giêsu quay lưng lại nhóm pharisiêu để về nhà.
Ông anh họ Giuse của Người đi bên cạnh Người, vẻ bằng lòng một nửa, và với vẻ kẻ bảo vệ, lưu ý Người là khi biết cư xử với họ (như ông ta), biết dựa cậy vào dòng dõi (như may mắn hôm nay), biết nhắc nhở là mình có quyền trên ngai báu (như hậu duệ của Đavít), và vân vân, thì các pharisiêu cũng trở thành các bạn tốt.
Giêsu ngắt lời ông để nói: “Vậy anh tin họ à? Anh tin vào các lời của họ sao? Thực vậy, sự kiêu căng và lời khen giả dối đủ sức để buộc một tấm băng trên những con mắt tinh nhất”.
- Nhưng anh... Anh làm vui lòng họ. Em không thể đòi hỏi họ đùng một phát mang em tới chiến thắng giữa các tiếng Hosanna... Em phải chinh phục nó. Giêsu, một tí khiêm tốn, một tí nhẫn nại. Danh dự xứng đáng đủ mọi hy sinh...
612
- Đủ rồi! Đó là những giọng nói loài người và còn tệ hại hơn nữa. Nguyện Thiên Chúa tha cho anh và ban ánh sáng cho anh. Nhưng hãy đi xa tôi, vì anh làm tôi khổ. Và hãy nín lặng, đừng nói những lời khuyên ngu xuẩn này với mẹ anh, với các em anh, với mẹ tôi.
- Em muốn tiêu đời! Em là nguyên nhân sự đổ nát của chúng ta và của em!
- Tại sao anh lại đến với tôi nếu anh vẫn như vậy? Tôi chưa chịu đau đớn cho anh, nhưng tôi sẽ chịu. Vậy thì...
Giuse bực mình bỏ đi.
- Em làm anh ấy thất vọng... Anh ấy cũng như cha chúng ta. Em biết, đó là người Israel xưa... - Simon lẩm bẩm.
- Khi nào anh ta hiểu, anh ta sẽ thấy lối cư xử làm cho anh ta ngạc nhiên của tôi bây giờ là thánh.
Họ đã đến cửa nhà, họ vào. Giêsu truyền cho Phêrô: “Hãy lo cho thuyền bè sẵn sàng vào lúc mặt trời lặn. Chúng ta sẽ hộ vệ hai bà Maria tới Tibêriat, rồi Simon sẽ hộ vệ họ về nhà. Mathêu sẽ đi với con cùng với các bạn chài của con. Những người khác ở lại đây để chờ chúng ta”.
Phêrô kéo Giêsu ra chỗ riêng: “Vậy nếu cái người ở Antioche đến? Chính tại vì Judas nên con nói điều đó với Thầy...”
- Thầy của con nói với con rằng chúng ta sẽ gặp ông ta tại đập ở hải cảng Tibêriat.
- A! Ra vậy! - Rồi ông nói lớn: “Thuyền bè sẽ sẵn sàng”.
- Mẹ ơi, lên đây với con. Chúng ta sẽ ở với nhau trong những giờ này.
Maria theo Người, không nói gì. Họ vào căn phòng ở trên sân thượng, mát và rợp bởi cây nho bao trùm và bởi các màn gió để che nắng.
- Con đi à, Giêsu của mẹ?! - Maria rất xanh xao.
- Vâng. Đã đến giờ.
- Và mẹ, mẹ không được đi Lễ Lều sao? Con của mẹ!... - Maria nức nở khóc.
613
- Má ơi! Tại sao? Đây đâu phải lần đầu tiên chúng ta chia tay!
- Không. Đúng vậy. Nhưng... Ôi! Má nhớ lại những điều con đã nói với má ở trong rừng gần Gamala... Con của má! Xin con tha cho một người đàn bà tội nghiệp. Má sẽ vâng lời con... Má, với sự phù trợ của Thiên Chúa, má sẽ mạnh mẽ... Nhưng má muốn ở con một lời hứa...
- Điều gì má?
- Là con sẽ không giấu má cái giờ đáng ngại đó. Không vì thương hại, không vì nghi ngờ má... Sẽ qúa đau đớn... và qúa nhiều hành hạ... Đau đớn bởi vì... có lẽ má sẽ biết được cách hoàn toàn bất ngờ, và bởi những người không yêu má như con yêu người má tội nghiệp này... Và sẽ là một hành hình nếu má nghĩ rằng có lẽ vào lúc má đang kéo sợi hay đang dệt, hay đang săn sóc các con bồ câu, thì con, con của má, con bị giết...
- Má ơi đừng sợ. Má sẽ biết... Nhưng đây chưa phải là lần từ giã sau cùng. Chúng ta sẽ còn gặp nhau nữa...
- Thật à?
- Vâng. Chúng ta sẽ còn gặp nhau.
- Và con sẽ nói với má: “Con đi làm trọn Lễ Hy Sinh”? Ôi!...
- Con sẽ không nói như vậy, nhưng má sẽ hiểu... Rồi sẽ là bình an. Một bình an vô hạn... Má hãy nghĩ: Đã làm trọn tất cả những gì Thiên Chúa muốn nơi chúng ta, các con của Người, vì sự lành cho tất cả các con khác. Một bình an lớn lao... Bình an của tình yêu trọn vẹn...
Người ôm mẹ vào lòng Người, ghì chặt mẹ như vậy trong sự ôm ấp của người con. Người rất cao lớn, rất mạnh hơn. Mẹ thì nhỏ nhắn, trẻ trung với tuổi trẻ nguyên vẹn trong thân xác, trong sự bộc lộ, nó bao bọc lấy sự trẻ trung đời đời của tâm hồn vô nhiễm của mẹ. Mẹ nhắc lại cách anh hùng, biết bao anh hùng: “Đúng, Đúng. Điều Thiên Chúa muốn...”
Không còn lời nào khác nữa. Hai đấng trọn lành đã tiêu thụ lễ Hy Sinh bằng sự vâng lời sắt son nhất của họ. Cả đến không còn nước mắt, không còn những cái hôn. Chỉ còn hai kẻ yêu nhau trọn
614
vẹn và đặt tình yêu của họ nơi chân Thiên Chúa.
153* TẠI NHÀ JEANNE CHOUZA.
LÁ THƠ TỪ ANTIOCHE
Tibêriat đã đổ tất cả dân thành của nó trên bờ hồ hay ngay trên hồ, để họ tìm giải mát trong làn gió chạy trên mặt nước, làm rung động cây cối trong các khu vườn ở dọc bờ hồ. Thành phố có sự pha trộn của nhiều chủng tộc, tụ họp ở đó vì các lý do khác nhau. Các người giầu giải trí trên những du thuyền tiện nghi thoải mái, hoặc dưới bóng xanh trong vườn. Họ nhìn các con thuyền thao diễn trên làn nước xanh, đã trong lại từ mầu vàng mà cơn mưa bão chiều hôm trước đã mang tới cho nó. Các người nghèo, nhất là các trẻ em, nô đùa trên bãi, tại nơi mà các làn sóng nhỏ vừa tắt. Nước mát tràn lên tới nơi cao nhất mà chúng muốn, làm chúng phát ra những tiếng kêu nhắc nhớ tới tiếng chim én.
Các chiếc thuyền của Phêrô và Giacôbê lại gần bờ và hướng về cái đập nhỏ.
- Không. Tới khu vườn của Jeanne - Giêsu ra lệnh.
Phêrô vâng lời, không nói gì. Chiếc thuyền sóng đôi với nó cũng đi theo, thực hành một cái cua tuyệt hảo, để lại một làn sóng bọt có hình dấu hỏi, để khép lại trên mô đất doi ra của khu vườn nhà Chouza, nơi họ ghé vào và ngừng lại. Giêsu xuống trước tiên, và Người đưa tay ra cho hai bà Maria để dắt họ lên bờ cái cảng nhỏ.
- Bây giờ các con hãy tới cái đập lớn để rao giảng Chúa. Các con sẽ gặp một người tới gần các con để hỏi xem Thầy ở đâu. Đó là người Antioche. Hãy dắt ông ta về cho Thầy sau khi đã giải tán đám đông.
- Vâng... Nhưng... Chúng con sẽ nói gì với người ta? Nói thầy sẽ tới hay rao giảng giáo lý của Thầy?
- Nói thầy sẽ tới. Hãy nói rằng vào lúc rạng đông, Thầy sẽ nói tại Tarichée và sẽ chữa các bệnh nhân. Hãy để một người trong các
615
con canh chừng các thuyền, hay để một môn đệ nào đó canh để nó sẵn sàng vào lúc khởi hành. Đi đi. Và bình an cho các con - Rồi Người đi về phía cái hàng rào khép lại ở chỗ lên bờ. Hai bà Maria lặng lẽ theo Người.
Trong khu vườn lớn, có những bông hồng còn nở cuối mùa, dù không nhiều lắm, người ta không thấy ai cả. Nhưng người ta nghe thấy tiếng kêu vui vẻ của hai đứa bé đang chơi. Giêsu luồn tay qua cái cột của hàng rào và tìm cách mở khóa, nhưng người không thành công. Người tìm một vật gì có thể gây ra tiếng động để lôi kéo sự chú ý, nhưng không có gì cả.
Lúc Người nghe thấy tiếng của hai đứa bé lại gần nhất, Người gọi lớn tiếng: “Maria!” Thình lình hai tiếng kêu im bặt... Giêsu nhắc lại: “Maria!”
Đó, ở đàng kia, giữa bồn cỏ được cắt bằng như cái thảm, từ đó nhô lên các bụi hồng được chăm sóc cẩn thận, Người nhận thấy đứa bé gái bước những bước nhỏ dè dặt, một ngón tay để trên môi, các con mắt tìm tòi dò la theo mọi hướng. Sau nó vài bước là Mathia, được theo sau bởi một con chiên nhỏ trắng như bọt. Giêsu gọi lớn: “Maria! Mathia!”
Tiếng kêu hướng dẫn những cái nhìn ngây thơ. Hai đứa trẻ quay cái nhìn về phía hàng rào và thấy Giêsu, mặt ở sau các song sắt, đang mỉm cười với chúng.
- Chúa, Mathia! Chạy về má đi... Gọi Êlie hay Michée... để họ mở...
- Chị đi đi. Em, em đến với Chúa... - Và cả hai đều chạy, tay giơ ra: hai con bướm, một trắng, một hồng, với hai cái đầu nâu đen. Nhưng khi chạy một cách sung sướng, chúng gọi các người đầy tớ. Các người này chạy, tay cầm bình tưới hay cào. Sau cùng cửa mở ra và hai đứa bé lăn vào vòng tay Giêsu. Người hôn chúng và dắt tay chúng qua cửa.
- Má ở nhà với các bạn của bà. Người ta đuổi chúng con ra vì người ta không muốn chúng con - Mathia giải thích mau lẹ.
- Đừng nói xấu như vậy. Má bảo chúng con ra vì các bà này
616
người Rôma, và các bà còn nói về các thần của họ, mà chúng ta là kẻ Giêsu đã cứu, chúng ta chỉ được biết một mình Người thôi. Chúa ơi, như vậy đó. Mathia còn bé qúa nên nó không hiểu - nó nói một cách duyên dáng, với lương tri của đứa trẻ đã đau khổ, vì đó chín chắn hơn, trưởng thành hơn tuổi của nó.
- Ba cũng đuổi chúng con đi khi các người ở triều đình tới, và con thích họ, vì hầu như họ là lính... các lính chiến... Chiến tranh! Thật là đẹp, chiến tranh! Nó cho chiến thắng! Nó đuổi các người Rôma. Mạt vận cho Rôma! Vạn tuế nước Israel! - thằng bé kêu lên cách kiêu hãnh.
- Mathia, chiến tranh không đẹp đâu, và khi người ta không thắng thì từ một người, họ trở thành nô lệ.
- Nhưng nước của Thầy phải đến. Và để cho nó đến thì người ta gây chiến, và họ sẽ đuổi đi hết, kể cả Hêrôđê, và Thầy sẽ là vua.
- Nhưng mày im đi thằng ngu! Mày biết rằng mày không được nhắc lại những điều mày đã nghe. Họ làm rất đúng khi đuổi mày. Mày không biết rằng mày có thể làm khổ cho ba, cho má và cho cả Giêsu khi mày nói như vậy? - Maria nói, rồi nó giải thích: “Có một bữa, một ông giống như một hoàng tử và là một bà con của Hêrôđê, và là môn đệ của Thầy, đến để nói chuyện với ba. Họ la qúa lớn, họ đâu phải một mình, nhưng với nhiều người khác...”
- Tất cả đều đẹp, với những thanh gươm sáng loáng, và họ nói về chiến tranh... - Mathia ngắt lời.
- Im đi! Tao đã nói. Và họ la lớn qúa tới nỗi người ta nghe thấy, và từ đó, thằng ngu này chỉ có nói về đó. Xin Thầy bảo nó là không được nói... Má đã bảo. Còn ba thì dọa sẽ đem nó lên đỉnh núi đại Hermon, ở trong hang với các nô lệ câm và điếc cho tới khi nó biết nín lặng. Và ở đó nó phải nín lặng, vì nếu nó nói với các nô lệ thì các người này đâu có nghe thấy, và họ không trả lời. Nếu nó la lên thì chim ưng và sói rừng sẽ đến ăn thịt nó...
- Một hình phạt dễ sợ! - Giêsu nói trong khi mỉm cười, và Người vuốt ve đứa bé. Nó đã mất đi sự cứng cỏi và bám lấy Giêsu, tựa như nó đã thấy các chim ưng và chó sói sẵn sàng nhai ngấu nghiến
617
nó toàn bộ, kể cả cái lưỡi nhỏ thiếu khôn ngoan. “Thật là một hình phạt dễ sợ!” Người nhắc lại.
- Hé! Đúng. Và con, con sợ việc đó sẽ xảy ra thì con sẽ ở lại, không còn Mathia, và con khóc... Nhưng nó không thương má, cũng không thương con, và nó sẽ làm cho chúng con chết vì đau đớn...
- Con đâu có chú tâm làm vậy... Con nghe... và con nói... Thật là đẹp... khi nghĩ rằng các người Rôma bị thua trận, Hêrôđê và Philíp bị đuổi đi, và Giêsu sẽ là vua Israel - nó kết thúc khi giảm tông, và nó gục mặt vào áo Giêsu để làm giảm bớt giọng nói của nó hơn nữa.
- Mathia sẽ không bao giờ nói những điều như vậy nữa. Nó hứa với Thầy và nó sẽ giữ lời hứa, phải không? Như vậy nó sẽ không bị ăn thịt, Jeanne và Maria không phải chết vì đau khổ, Chouza sẽ không bực mình, và Thầy, Thầy sẽ không bị ghét. Bởi vì con thấy không Mathia? Con làm cho người ta ghét Thầy khi nói những điều này. Con có vui vì Giêsu bị bách hại không? Hãy nghĩ tới con sẽ hối hận chừng nào nếu một ngày kia con phải tự nói với chính mình: “Tôi đã làm cho Giêsu, người đã cứu tôi, bị bách hại, và tất cả chỉ vì tôi đã nhắc lại những điều mà tôi tình cờ nghe thấy”. Các người đó là những con người, và người ta thường bị mất thấy Thiên Chúa, vì họ tội lỗi. Không thấy Thiên Chúa thì họ không thấy sự khôn ngoan, và họ làm những điều sai lầm, dù với mục đích tốt hay với mục đích họ cho là tốt. Nhưng những đứa trẻ tốt, thần trí của chúng thấy Thiên Chúa, và Thiên Chúa ngự trong tâm hồn chúng. Bởi vậy chúng phải hiểu mọi điều cách khôn ngoan và nói rằng nước của Thầy không được tạo thành bởi những hung bạo của trái đất, nhưng bởi tình yêu trong các con tim. Và chúng phải cầu nguyện để người ta hiểu cái nước này như các trẻ em hiểu. Lời cầu nguyện của các trẻ được các thiên thần của chúng mang lên trời, và Đấng Tối Cao sẽ biến chúng thành ân phúc. Và Giêsu cần những ân phúc này để biến những người chỉ nghĩ đến chiến tranh và một nước tạm thời thành tông đồ, hiểu rằng Giêsu là sự bình an, và Nước Người là thiêng liêng, ở trên Trời. Con thấy con chiên nhỏ này không? Nó có
618
thể ăn thịt một con khác không?
- Hé, không. Nếu nó có thể ăn thì ba đã không tặng cho chúng con để nó xé chúng con ra thành trăm mảnh.
- Đó, con nói đúng. Cha trên Trời cũng sẽ không sai Thầy nếu Thầy có sức mạnh và ý muốn xé người ta thành từng mảnh. Thầy là con chiên, Thầy là mục tử. Thầy hiền lành và đầy nhân ái như con chiên. Thầy là đấng tụ họp bằng tình yêu, với cái gậy của người mục tử chứ không phải bằng ngọn giáo và gươm của các chiến binh. Con hiểu không? Và con có hứa với Thầy, một cách chính xác là với Thầy, rằng con sẽ không nói những thứ đó nữa không?
- Vâng, Giêsu. Nhưng... Thầy giúp con... bởi vì một mình con...
- Thầy sẽ giúp con. Coi này, Thầy vuốt cái môi con, và như vậy nó sẽ không mở ra.
- Thầy của con! Chiều nay là thánh, vì nó cho phép con được gặp Thầy - Jonatha nói khi từ trong nhà chạy ra và phục xuống chân Giêsu.
- Bình an cho con, Jonatha. Thầy có thể gặp Jeanne không?
- Bà sắp ra. Bà đang chờ các bà Rôma đi để đến tìm Thầy.
Giêsu nhìn ông với vẻ nghi vấn, nhưng Người không hỏi ông gì cả. Người bước về hướng nhà trong khi nghe Jonatha nói về Chouza “tuyệt đối chống Hêrôđê”, và ông nói: “Vì tình yêu đối với bà chủ con, xin Thầy làm cho ông ta dịu lại, vì ông muốn làm những điều... chẳng hay gì cho Thầy cũng như cho ông ta, nhất là cho Thầy”.
Jeanne trong y phục lộng lẫy: từ trên đầu rủ xuống chiếc voan giống như một tấm bạc có lỗ, vì nó được thêu bằng chỉ bạc - tôi không biết làm sao thứ vải mỏng nhẹ như vậy có thể chịu đựng một mớ chỉ thêu bằng bạc - Nó được giữ bằng một chiếc vương miện rất mảnh mai, hơi nhọn ở đàng trước, giống như chiếc mão cẩn ngọc trai; những bông tai nặng cẩn ngọc trai, một sợi giây chuyền bằng ngọc trai bao quanh cổ, những cà rá cẩn cùng thứ ngọc - một diện mạo đẹp đẽ, trong sạch và duyên dáng - Bà vội vã đi lại với Chúa, và không lo gì tới những y phục đẹp đẽ, bà qùi phục trong bụi đất của lối đi và để một cái hôn trên chân Giêsu.
619
- Bình an cho con. Jeanne.
- Khi Thầy ở với con thì luôn luôn có bình an ở trong con và trong nhà con... Mẹ!... - Bà sắp sửa hôn chân Maria, nhưng mẹ đỡ lấy bà, mở đôi tay để ôm hôn bà. Bà cũng trao đổi cái hôn với Maria Alphê.
Sau những chào hỏi, Giêsu nói: “Thầy cần nói chuyện với con, Jeanne ạ”.
- Thưa Thầy con đây. Maria, nhà con thuộc về mẹ. Mẹ hãy ra lệnh những gì cần. Con đi với Thầy...
Giêsu đã bắt đầu bước vào trong thảm cỏ ở trước mắt mọi người, nhưng khá biệt lập để không ai nghe thấy. Jeanne đến với Người.
- Jeanne à, Thầy phải tiếp đón một người từ Antioche tới, chắc chắn là do Sintica gởi tới. Thầy nghĩ tới làm việc đó trong nhà con, ở đây, trong vườn của con.
- Thầy là chủ của tất cả những gì thuộc về Jeanne.
- Kể cả con tim của con? - Giêsu nhìn bà đăm đăm.
- Thầy biết rồi mà! Lúc trước con hầu như chắc chắn điều đó. Bây giờ thì con hoàn toàn chắc chắn. Chouza... Sự bất nhất của người ta thật là lớn! Những cảm nghĩ của họ về các lợi lộc thật là mạnh! Và sự thương xót của họ đối với các bà vợ thì rất nhỏ mọn! Chúng con là... Vậy chúng con là gì? Chúng con, những đàn bà tốt nhất? Một của qúi mà người ta bày ra hay cất đi tùy theo ích lợi của việc đó... Một phường chèo phải cười hay khóc, lôi kéo hay xua đuổi, nói hay nín lặng, ra mặt hay ẩn núp, tùy theo ước muốn của các ông... luôn luôn vì lợi ích của họ... Chúa ơi! Số phận của chúng con thật là buồn! Và nhục nhã nữa!
- Để bù lại, nó cho các con biết nâng tâm hồn các con lên cao hơn.
- Đúng vậy. Thầy đã biết bởi chính Thầy hay có ai đã nói với Thầy? Thầy đã gặp Manaen chưa? Ông ta tìm Thầy...
- Không. Thầy không gặp ai cả. Ông ta ở đây à?
- Vâng. Tất cả chúng con đều ở đây... Con muốn nói: tất cả quần thần của Hêrôđê... và nhiều người, bởi vì họ ghét ông ta, trong số
620
đó có Chouza. Từ khi, bởi ý muốn của Hêrôđiađê, Hêrôđê thích hạ nhục người quản lý của ông... Chúa ơi, Thầy có nhớ rằng ở Béther, ông đã muốn con cắt đứt với Thầy, vì ông sợ bị thất sủng với Hêrôđê? Mà mới qua đi có mấy tháng... Bây giờ ông lại muốn rằng con... vâng, lạy Chúa, ông lại muốn con thuyết phục Thầy chấp nhận sự giúp đỡ của ông để trở thành vua thay vì ông Thủ Hiến... Con, con phải nói, vì con là vợ, và do đó phải vâng phục chồng, và hơn nữa, lại là phụ nữ Israel, bởi vậy hơn bao giờ hết, phải vâng phục ý muốn của chồng. Vậy con nói... Nhưng con không cho Thầy lời khuyên... Bởi vì con hy vọng đã biết rồi rằng Thầy... ôi! Thầy chẳng làm vua với sự giúp đỡ của các tên cầm giáo mướn. Ôi!... Con đã nói gì! Đáng lẽ con không được nói như vậy... Trước hết, con phải để Thầy nghe Chouza, Manaen và những người khác... Và nếu con yên lặng, con có làm thiệt hại gì không?... Chúa ơi, xin giúp con nhìn tỏ vấn đề...
- Jeanne, con thấy tỏ vấn đề rồi. Không phải với các đội quân của Rôma, cũng không phải với các giáo mác của Israel mà Thầy làm vua, dù là cả Rôma, cả Israel muốn bình định miền này bằng cách dùng Thầy. Thầy đã hiểu đủ để biết chuyện. Mathia đã có những lời thiếu khôn ngoan, Jonatha đã có những ám chỉ bất bình, con nói chỗ còn lại. Thầy, Thầy hoàn tất như vầy: Một quan niệm điên rồ về Nước của Thầy đã thúc đẩy những người tốt, tuy chưa công chính, như Manaen, tạo ra những vận động có khuynh hướng thiết lập một nước Israel theo định kiến của phần đông. Một nhu cầu bức sốt, nóng cháy, muốn báo thù một sự sỉ nhục, đã thúc đẩy nhiều người, trong đó có chồng con, tới cùng một chuyện. Chính trên hai lý do này mà các pharisiêu, các saddu, các luật sĩ, và các người của Hêrôđê đã dùng làm lợi khí xảo quyệt để loại trừ Thầy, bằng cách làm cho Thầy không còn như sự thực về Thầy trước mắt những người thống trị chúng ta. Con đã cho các bà Rôma đi để nói điều này với Thầy, để không phản bội Chouza cũng như Manaen, cũng như những người khác. Nhưng Thầy bảo con: Thực sự những người hiểu Thầy hơn là những dân ngoại. Họ gọi Thầy là triết gia, có lẽ họ xét đoán rằng Thầy là một người mơ mộng, một người
621
không thực tế, một kẻ tội nghiệp, vì họ cho rằng tất cả phải dựa trên võ lực. Nhưng họ đã hiểu, ít nhất, họ đã hiểu rằng Thầy không thuộc về trái đất, rằng nước Thầy không thuộc về trái đất. Họ không sợ Thầy, nhưng họ sợ những người theo Thầy. Họ có lý. Những người theo Thầy, người thì bởi tình yêu, người thì bởi kiêu căng. Họ có thể làm bất cứ điều gì để thi hành ý tưởng của họ, tức là đặt Thầy làm Vua các vua, Vua phổ quát, một ông vua tội nghiệp của một nước tí hon... Và thực vậy, Thầy phải xa lánh những cuộc âm mưu này, nó phát triển trong bóng tối, được khích lệ bởi các kẻ thù thực sự của Thầy, những người không ở trong dinh Tổng Tài ở Cêsarê hay trong dinh Khâm Sai ở Antioche, cũng không ở trong Antônia, nhưng nó ở dưới những qui lệ về y phục, những tua rua, những giây đeo hộp đựng lời Chúa của dân Hy Bá; và đặc biệt là nó ở dưới những tua rua, những giây, những hộp rất lớn trang trí những bộ y phục thùng thình của các pharisiêu, các luật sĩ, để bộc lộ một sự gắn bó rộng rãi hơn với Lề Luật. Nhưng Lề Luật ở trong con tim chứ không phải trên y phục. Nếu Lề Luật đã ở trong tim, thì những kẻ đã ghét nhau trong đám họ mà bây giờ đoàn kết lại, quên đi sự thù ghét để làm hại Thầy - sự thù ghét đã đào những hố sâu giữa các giai cấp Israel, nhưng bây giờ không còn bị phân rẽ nữa, mà được san bằng, vì các hố đã đầy những thù ghét họ có đối với Thầy - nếu Lề Luật đã ở trong các con tim, thì thay vì được treo, được kết vào y phục, được đội trên trán, đeo vào tay giống như người mọi đeo bùa mê, các vỏ ốc, các xương, các mỏ diều hâu, do mê tín hay để trang điểm; nếu Lề Luật này đã ở trong tim, nếu sự khôn ngoan được ghi chép, không phải bằng các chữ trên áo, mà là trên các thớ thịt của con tim họ, thì họ đã hiểu Thầy là ai, và họ không thể chống lại Thầy để tiêu diệt Thầy với tư cách là Ngôi Lời cũng như là người. Vậy Thầy phải tự vệ cho khỏi các bạn cũng như thù có sự bất chính như nhau trong sự thù ghét cũng như tình yêu của họ. Thầy phải tìm cách hướng dẫn tình yêu và dẹp bỏ thù ghét. Thầy làm vậy để hoàn thành nhiệm vụ của Thầy, và Thầy sẽ làm cho tới khi Thầy thiết lập được Nước của Thầy, bằng cách tưới máu Thầy
622
trên đá để làm cho nó vững chắc. Khi Thầy đã tưới cho các con bằng máu Thầy thì tâm hồn các con sẽ không nao núng nữa. Thầy nói vậy về các con tim trung thành với Thầy, về con tim của con, Jeanne, bị phân chia giữa hai sức mạnh và hai tình yêu ở trên con và ở trong con: Chouza và Thầy.
- Nhưng Chúa ơi, Thầy sẽ thắng.
- Thầy sẽ thắng, đúng.
- Nhưng xin Thầy cũng tìm cách cứu Chouza với... Hãy yêu người con yêu.
- Thầy yêu kẻ con yêu.
- Hãy yêu Chouza là người yêu Thầy.
- Lời nói dối không thích hợp cho cái trán này, cái trán trong trắng như ngọc trai đang bao quanh nó, cái trán bây giờ ửng đỏ trong cố gắng để tin và thuyết phục Thầy rằng Chouza yêu Thầy.
- Tuy nhiên, ông ta yêu Thầy...
- Đúng, vì lợi. Cũng như vì lợi, ông đã không yêu Thầy ở Zio và ở Siram... Nhưng kìa, Simon Jonas với người lạ. Chúng ta hãy ra đón họ.
Họ đi ra tới cái tiền đường mênh mông ở lối sau nhà. Nó là cái hành lang thì đúng hơn là tiền đường, có hình bán nguyệt, mở ra về phía hoa viên. Như vậy hoa viên nối vào với nhà bằng cái hành lang hình bán nguyệt này, trông ra vườn, được trang hoàng bằng những chiếc cột với những cây hồng bây giờ không còn hoa, và các cây hoa lài dễ thương lốm đốm những hoa, và các cây leo khác mầu đỏ thẫm mà tôi không biết tên.
- Bình an cho ông, người lạ. Ông muốn gặp tôi à?
- Chào và vinh quang cho Chúa. Tôi muốn gặp Ngài. Tôi có một cái thơ cho Ngài. Đó là một bà người Hy Lạp đã đưa cho tôi ở Antioche. Tôi là... Không, tôi không còn là Hy Lạp. Tôi đã lấy quốc tịch Rôma để tiếp tục công việc của tôi. Tôi là người cung cấp hàng hóa cho các đoàn quân Rôma. Tôi ghét chúng, nhưng cung cấp đồ cho chúng thì có lời. Vì những chuyện chúng làm, đáng lẽ tôi phải pha độc cần vào bột mì của chúng. Nhưng phải đánh thuốc độc tất
623
cả, nếu chỉ đánh bả mấy đứa thì vô ích và sẽ còn tệ hơn... Chúng tin là chúng được phép tất cả, bởi vì chúng mạnh. Đó là những tên man rợ so với người Hy Lạp. Chúng đã ăn cắp hết của chúng tôi để tự trang điểm bằng những thứ của chúng tôi, và cố gắng tỏ ra là mình văn minh. Nhưng một khi cạo đi lớp sơn do nền văn minh của chúng tôi, người ta luôn luôn thấy một Amulius, một Rômulus, một Tarquin...Người ta luôn luôn khám phá ra một Brutus, kẻ giết vị ân nhân của nó. Bây giờ chúng có Tibère! Điều đó còn ít đối với chúng! Chúng có Séjan, chúng có cái chúng đáng được. Những tội ác mà chúng đã phạm, roi sắt, xiềng xích sẽ quay chống lại chính chúng, và cắn vào thân xác của các tên Rôma thô lỗ này. Qúa ít, còn qúa ít. Nhưng chúng sẽ không thoát nổi định luật: khi một con quái vật trở nên qúa lớn, nó sẽ ngã qụi bởi sức nặng của chính nó và nó chết, và những kẻ bị thua sẽ cười trước cái thây ma khổng lồ, và họ trở thành kẻ chiến thắng. Cầu cho nó xảy ra như vậy! Mọi bàn chân của kẻ xâm lăng đã đè nặng và dày xéo chúng tôi bằng sự bành trướng dã man của chúng... Nhưng Chúa ơi, xin tha cho tôi. Nỗi đau trường tồn lại làm cho tôi xao động một lần nữa... Tôi đã nói là một người phụ nữ Hy Lạp đã đưa cho tôi một lá thơ gởi cho Ngài, và bà đã nói với tôi rằng Ngài là đấng nhân đức trọn lành... Nhân đức... Ngài còn qúa trẻ để được vậy... Các thần vĩ đại của Hellade đã bỏ ra suốt cuộc đời để trở nên nhân đức một chút... Nhưng người đàn bà đã nói với tôi về tư tưởng của Ngài. Nếu đúng thực là Ngài tin vào những điều Ngài giảng dạy thì Ngài thực vĩ đại... Có đúng là Ngài sống để sửa soạn chết, để ban cho thế giới sự khôn ngoan để sống như thần thánh chứ không man di như loài người hiện nay? Có đúng rằng Ngài xác nhận có một sự giầu sang đáng cho người ta vươn tới: Giầu về nhân đức? Có đúng là Ngài đến để cứu chuộc, nhưng sự cứu chuộc phải bắt đầu trong chính chúng ta, khi người ta đi theo các giáo huấn của Ngài? Có đúng là chúng ta có một linh hồn mà chúng ta phải săn sóc, vì đó là một cái thuộc về Thiên Chúa, bất tử, không hư nát bởi bản tính, nhưng nếu sống cách thô bạo, chúng ta có thể làm mất đặc tính Thiên Chúa của nó mà không
624
thể phá hủy nó? Xin trả lời, ôi Đại Nhân!
- Đúng vậy. Tất cả đều đúng.
- Lạy Zéus! Đó chính là điều đại nhân của chúng tôi nói. Nhưng điều đó giống như một bản nhạc thiếu một nốt, một chiếc huyền ly cầm thiếu một giây. Thỉnh thoảng người ta cảm thấy những khoảng trống mà các triết gia không băng qua được. Ngài đã lấp đầy khoảng trống đó nếu thực sự Ngài đến, không phải chỉ để dạy, mà còn để chết, không bị ai ép buộc, mà chỉ vì ý muốn cá nhân muốn vâng lời Thiên Chúa, điều đó biến cái chết của Ngài từ việc tự tử thành việc hy sinh. Lạy Pellas thần linh! Không bao giờ có một vị thần nào trong số các thần của chúng ta đã làm như vậy. Tôi đã giảm thiểu Ngài khi nói Ngài ở bên trên họ. Nhưng cô Hy Lạp nói là các thần đó không hiện hữu, mà chỉ có mình Ngài hiện hữu... Vậy là tôi đang nói với một Thiên Chúa sao? Và một Thiên Chúa có thể nghe một tên cung cấp lương thực trộm cắp, ghét kẻ thù của nó, một con người tội nghiệp không? Tại sao Ngài nghe tôi?
- Vì Ta nhìn thấy tâm hồn ông.
- Ngài thấy nó?!!! Nó thế nào?
- Dị dạng, dơ bẩn, ngoằn nghoèo, chua chát, ngu muội, mặc dầu trí thông minh của ông rất khác với kẻ man rợ. Nhưng ở bên trong cái đền thờ dơ bẩn này có một bàn thờ đang chờ đợi, giống như vị ở bàn thờ tại Tối Cao Pháp Đình Athènes chờ cùng một điều: Nó chờ Thiên Chúa Thật.
- Vậy là Ngài. Vì cô Hy Lạp nói rằng Ngài là Thiên Chúa. Nhưng , lạy Zéus! Điều Ngài nói về linh hồn tôi rất đúng. Ngài rõ ràng hơn và chắc chắn hơn các sấm của Delphes. Nhưng Ngài rao giảng sự bình an, tình yêu và sự tha thứ: những nhân đức khó. Và Ngài rao giảng sự tiết chế và thật thà trong mọi sự... Được như vậy thì là thần rồi, còn lớn hơn các thần, vì họ... ôi, họ không an bình, ngay thật, quân tử!... Họ toàn vẹn trong những dục vọng xấu của con người, ngoại trừ có Minerve, ít ra là hiền nhân... Diane, chính nàng!... trong sạch nhưng độc ác... Đúng. Được như Ngài dạy thì đúng là còn hơn các thần. Nếu tôi được trở nên như vậy... Lạy Ganymède
625
đáng yêu! Ông ta, còn rất trẻ đã được chim phượng hoàng của Olympe mang lên và trở thành nhân viên hầu rượu của các thần. Nhưng Zénon đã vượt từ tên cung cấp thực phẩm cho các tên chủ dã man tới tình trạng của thần thánh... Nhưng xin Ngài cho phép tôi được ẩn mình trong tư tưởng này, trong lúc đó, xin Ngài đọc lá thơ của người đàn bà... - và ông ta bắt đầu bước như người phái tiêu dao.
Phêrô thấy rằng cuộc đàm thoại kéo dài, ông mệt nên đã thoải mái nằm trên một chiếc ghế ở tiền đường, và trong bầu khí mát mẻ, trong sự êm đềm của các chiếc gối nhỏ để trên ghế, ông yên tĩnh đi vào giấc ngủ... Nhưng chắc hẳn ông luôn luôn chú ý ở lỗ tai, vì ông thức dậy ngay khi có tiếng động của con niêm được bẻ gẫy và tấm giấy da được mở ra. Ông đứng dậy và dụi đôi mắt mà giấc ngủ còn khép lại. Ông lại gần Thầy. Người đang đứng để đọc dưới chiếc đèn treo có bóng bằng mi-ca tím leo lét. Ánh sáng yếu, chỉ đủ soi sáng chỗ đó, và không đủ để lấy đi sự huyền ảo của ánh trăng trong đêm thanh quang. Giêsu cũng giơ tấm giấy lên cao để đọc các chữ. Còn Phêrô, vì rất thấp hơn, đứng sát vào Người, cố nghển cổ, kiễng chân để coi, nhưng ông không đọc được.
- Của Sintica, hen? Cô nói gì đó? - ông nhắc lại câu hỏi và năn nỉ: “Đọc to lên Thầy!”
Nhưng Giêsu trả lời: “Ờ, của cô ta... Sau đó...” Và Người tiếp tục đọc. Sau khi đọc xong tờ thứ nhất, Người gấp lại, nhét vào giây lưng và bắt đầu đọc tờ thứ hai.
- Cô ta viết dài qúa, hen? Gioan ra sao? Và người đó là ai vậy? - Phêrô nài nỉ như một đứa trẻ. Giêsu chú tâm đến nỗi Người không nghe thấy. Tờ thứ hai chấm dứt, và nó chịu cùng một số phận như tờ thứ nhất.
- Để như vậy nó hư mất! Đưa mấy tờ đó cho con để con giữ cho... - Và chắc chắn ông nghĩ: “Để con liếc trộm”. Nhưng khi ngước mắt lên để theo dõi bàn tay Thầy từ từ dở ra tờ thứ ba và là tờ chót, ông thấy những giọt nước mắt óng ánh trên các chiếc lông mi vàng hoe của Giêsu.
626
- Thầy?! Thầy khóc à?! Tại sao vậy, Thầy của con? - Và ông ôm ghì quanh thắt lưng Người bằng đôi cánh tay vạm vỡ và cụt ngủn của ông.
- Gioan chết rồi...
- Ôi! Tội nghiệp! Hồi nào?
- Vào lúc bắt đầu nóng... trong khi ông ước ao gặp chúng ta hết sức...
- Ôi! Gioan tội nghiệp... Nhưng đã... Ông ta đã tới mức! Và sự đau đớn phân ly... Tất cả những chuyện đó là tại các rắn độc! Nếu con biết tên chúng!... Đọc hết lớn tiếng lên Thầy. Gioan, con rất yêu ông ta!
- Lát nữa đã! Lát nữa đã! Thầy sẽ đọc. Bây giờ nín lặng đi!
Giêsu chăm chú đọc tiếp, Phêrô vẫn đứng để nhìn... Việc đọc kết thúc, Giêsu gấp các tờ lại và nói: “Hãy đi gọi mẹ Thầy”.
- Thầy không đọc à?
- Thầy chờ những người khác... Trong khi Thầy cho ông kia đi.
Và trong khi Phêrô đi vào nhà, nơi các nữ môn đệ đang ở với Jeanne, Giêsu lại với người Hy Lạp: “Bao giờ ông đi?”
- Ôi! Tôi phải đi Cêsarê, tới dinh Tổng Tài, rồi tôi đi Joppê sau khi đã mua hàng. Kể từ hôm nay, khoảng một tháng nữa là tôi sẽ đi. Tôi đi sớm để tránh các cơn bão của tháng mười một. Tôi sẽ đi đường biển. Ngài có cần tôi không?
- Có, để trả lời. Cô Hy Lạp nói rằng tôi có thể tin cậy ở ông.
- Người ta nói rằng chúng tôi gian, nhưng chúng tôi cũng có khả năng để không như vậy. Hãy tín nhiệm tôi. Ngài có thể chuẩn bị viết rồi tìm tôi vào dịp Lễ Lều tại nhà Cléante. Chính ông này cung cấp cho tôi các thứ phó mát của Juđê cho bàn ăn của người Rôma. Nó là căn nhà thứ ba sau phông-ten của làng Bethphagé. Ngài không lộn được đâu.
- Ông cũng không thể lộn nếu ông đi theo con đường mà ông đã đặt chân vào. Chào ông. Văn minh Hy Lạp sẽ dẫn ông tới Kitô giáo.
- Ngài không trách tôi vì đã thù ghét?
627
- Ông nghĩ rằng tôi phải làm việc đó sao?
- Đúng. Bởi vì Ngài nhìn nhận sự thù ghét như một khát vọng bất xứng, và Ngài ghê tởm sự báo thù.
- Còn ông, ông nghĩ gì về những thứ đó?
- Tôi nghĩ người không thù ghét và tha thứ thì còn lớn hơn Zéus.
- Vậy ông hãy đạt tới sự cao cả này... Chào ông. Mong rằng gia đình ông yêu mến Sintica. Và trong hoàn cảnh lưu đày của qúi vị, hãy đi vào con đường của quê hương bất diệt: Nước Trời. Kẻ nào tin ở tôi và thực hành các lời tôi thì sẽ có quê hương này. Nguyện Ánh Sáng soi dẫn cho ông. Hãy đi bình an.
Người đàn ông chào và ra đi. Nhưng rồi ông dừng bước, quay trở lại và hỏi: “Tôi sẽ không nghe Ngài nói sao?”
- Tôi sẽ nói tại Tarichée vào lúc rạng đông. Sau đó tôi đi miền Syrô-Phênici, rồi sau đó tôi chưa biết bằng con đường nào để tới Jêrusalem.
- Tôi sẽ tìm Ngài. Và ngày mai tôi sẽ ở Tarichée để luận xét coi Ngài có lợi khẩu cũng như khôn ngoan không - Và ông ta dứt khoát ra đi.
Các phụ nữ đang ở tiền đình, cùng với Phêrô bình luận về cái chết của Gioan. Nhưng những người đã ở lại trong thành phố để loan báo là ngày mai vị Rabbi sẽ ở Tarichée cũng đã đến, tất cả đều nói về Gioan tội nghiệp và lo lắng để biết tin thêm.
- Ông ta chết rồi à con?
- Vâng, ông ta đã nghỉ trong bình an.
- Ông ta đã thực tình chấm dứt đau khổ.
- Ông đã vĩnh viễn ra khỏi nhà tù.
- Ông đã công chính đến nỗi ông không phải chịu đựng những đau khổ sau cùng của cuộc lưu đày.
- Thêm một việc thanh tẩy nữa.
- Ôi! Tôi không muốn việc thanh tẩy này cho tôi. Bất cứ việc thanh tẩy nào khác, nhưng phải chết ở xa Thầy thì không.
- Nhưng... Tất cả chúng ta sẽ chết như vậy... Thầy ơi!... Thầy mang con đi với Thầy đi! - Andrê nói sau những người khác.
628
- Andrê, con không biết rõ điều con xin. Chỗ của các con là ở đây cho tới khi Thầy gọi các con. Nhưng hãy nghe điều Sintica viết đây:
“Sintica của Đức Kitô xin gởi Đức Kitô lời chào.
Người mang tới cho Thầy những tờ này là người đồng hương của con. Ông đã hứa với con là ông sẽ tìm Thầy cho tới khi ông tìm thấy, và đề phòng một nơi sau cùng là Bêtani, nơi ông sẽ để lại lá thơ tại nhà Lazarô, nếu ông không thể tìm thấy Thầy ở bất cứ nơi nào. Đó là một người đang phục hồi lại, như ông có thể, từ tất cả những khốn nạn ông cũng như tổ tiên ông đã phải chịu do người Rôma. Ba lần Rôma đã đánh phá họ, bằng nhiều cách, luôn luôn với các phương pháp của họ. Ông ta, với sự tinh tế của người Hy Lạp, nói rằng ông ta vắt sữa bò của Tibère để làm cho chúng khạc ra những con dê của Hy Lạp. Ông ta là người cung cấp hàng hóa cho nhà của Légat và nhiều nhà Rôma khác trong cái Tiểu Rôma là thành phố rộng lớn này, được coi là Hoàng Hậu phương đông. Ngoài những thực phẩm ngon lành cho dân giầu, ông cũng thành công trong việc bảo đảm cung cấp cho các đoàn binh Rôma ở phương đông, theo lối qủi quyệt được làm như một sự tôn kính đê tiện, nhưng dấu ẩn một sự thù ghét không thể thay thế được. Con không ưng thuận lối hành động của ông ta, nhưng mỗi người có phương pháp của mình. Con thì con thích mẩu bánh ăn mày được ở dọc đường hơn là các báu vật do kẻ đàn áp cho. Con luôn luôn hành động như vậy, nếu không có một lý do khác thúc đẩy con bắt chước ông Hy Lạp này, để đạt mục đích của con.
Nhưng thực ra đây là một người dũng cảm. Vợ ông với ba đứa con gái và một đứa con trai cũng là những người dũng cảm. Con biết họ trong ngôi trường nhỏ của Antigonéa, và vì bà mẹ bị bệnh hồi đầu mùa xuân, con đã săn sóc cho bà với dầu thoa bóp, và vì đó con vào nhà họ. Có nhiều nhà đã tiếp đón con với tư cách là cô giáo dạy thêu, các nhà qúi phái và các thương gia. Con thích việc này, không phải chính xác vì họ là Hy Lạp. Con sẽ giải thích cho Thầy.
629
Con xin Thầy dung thứ cho Zénon, cho dù Thầy không thể chấp nhận quan điểm của ông. Ông ta giống như các mảnh đất khô cằn, sỏi đá ở trên mặt, nhưng bên dưới một lớp cứng thì rất mầu mỡ. Con hy vọng có thể lấy đi cái lớp cứng này, bị tạo thành bởi bao đau thương, để làm lộ đất ra. Ông ta sẽ là sự giúp đỡ lớn lao cho Giáo Hội của Thầy, vì Zénon rất được biết tới, và ông có sự liên hệ với một số đông đảo các người ở Tiểu Á và Hy Lạp, chưa kể ở Chypre, Malte và cho tới Ibérie. Hầu như ông có bà con bạn bè ở khắp các nơi đó, những người Hy Lạp bị bách hại như ông ta đã vậy, lại cũng có những người Rôma trong đoàn vệ binh hay các viên chức, sẽ rất hữu ích cho mục đích của Thầy.
Chúa ơi, lúc này con đang ngồi viết trên một trong các sân thượng của khu nhà, con nhìn thấy Antioche với các cảng trên sông của nó, lâu đài của Légat ở trên đảo, các đường phố đẹp đẽ, tường thành với hàng trăm tháp hùng vĩ. Nếu con quay lưng thì con thấy đỉnh Silpius ở trên cao với các trại lính và lâu đài thứ hai của Légat. Như vậy con thấy mình ở giữa hai biểu dương sức mạnh của Rôma, con, một phụ nữ tôi đòi tội nghiệp, đơn độc, nhưng chúng không làm con sợ, trái lại, con nghĩ rằng những điều không thể được đối với các sức mạnh thiên nhiên, đối với sức lực của cả một dân tộc nổi loạn, thì sẽ được làm bởi các kẻ yếu đuối không mang bóng tối, bởi các sự yếu đuối bề ngoài mà các kẻ quyền thế khinh bỉ, bởi những kẻ đầy sức mạnh vì họ chiếm hữu Thiên Chúa: Thầy.
Con nghĩ và con nói với Thầy rằng sức mạnh của Rôma này sẽ là sức mạnh của Kitô giáo khi nó được biết Thầy, và chính từ các thị trấn Rôma ngoại giáo này mà ta phải bắt đầu làm việc, vì họ luôn luôn là bà chủ thế giới, và một Rôma Kitô giáo có nghĩa là một Kitô Giáo toàn cầu. Khi nào điều đó sẽ đến, con không biết, nhưng con cảm thấy nó sẽ đến. Vì vậy con mỉm cười khi nhìn những chứng cớ sức mạnh Rôma này, và nghĩ đến cái ngày nó sẽ đặt các giáo huấn của nó, sức mạnh của nó để phục vụ Vua các vua. Con nhìn họ như người ta nhìn những người bạn chưa biết mình là bạn, những người gây đau khổ trước khi bị chinh phục, nhưng một khi bị
630
chinh phục, họ sẽ mang Thầy, mang sự hiểu biết về Thầy tới tận cùng thế giới.
Con, một phụ nữ tội nghiệp, đó là điều con dám nói với các vị là những huynh trưởng của con trong Thầy: Khi đến giờ để chinh phục thế giới cho nước Thầy thì không nên bắt đầu ở Israel qúa khép kín trong sự gắt gao của lề luật Môise, bị trở thành chua chát bởi các pharisiêu và các giai cấp khác, nhưng phải bắt đầu ở đây, trong thế giới Rôma, từ các chi nhánh của nó - những tua vòi mà bởi đó, Rôma bóp nghẹt mọi lòng tin, mọi tình yêu, mọi tự do khác với điều nó muốn, để phục vụ cho lợi ích của nó - chính ở đây là nơi phải bắt đầu cuộc chinh phục các linh hồn cho Chân Lý.
Lạy Chúa, Thầy biết điều đó rồi, nhưng con nói với những anh em không tin rằng chúng con, các dân ngoại, chúng con cũng khát vọng điều thiện. Con nói với các anh rằng: dưới chiếc áo giáp dân ngoại, có những con tim thất vọng vì sự trống rỗng của ngẫu tượng giáo; những con tim buồn nôn vì đời sống họ kéo lê, bị đặt định bởi các phong tục, mệt mỏi vì sự thù ghét, vì thói hư, vì sự nhẫn tâm vô tình. Có những tâm hồn ngay lành, nhưng họ không biết dựa vào đâu để tìm sự thỏa mãn cho ước vọng điều thiện của họ. Hãy cho họ một đức tin làm cho họ thèm, họ sẽ chết vì nó trong khi mang nó đi càng ngày càng xa hơn, giống như ngọn đuốc trong đêm tối, giống như các lực sĩ trong các trò chơi Hy Lạp”.
Giêsu gấp tờ thứ nhất lại. Những người đã nghe bình luận về văn từ, về sức mạnh, về các tư tưởng của Sintica, và họ tự hỏi tại sao cô không ở Antigonéa nữa. Trong lúc đó, Giêsu giở tờ thứ hai.
Phêrô từ nãy tới giờ vẫn ngồi, bây giờ đứng lên tiến lại gần Thầy như để nghe rõ hơn, và ông lại bắt đầu đứng nhón gót để nhìn. Ông đứng sát vào Giêsu.
- Simon, trời nóng qúa mà con chen sát vào Thầy! - Giêsu mỉm cười nói. “Trở về chỗ của con đi! Từ nãy tới giờ con không nghe rõ sao?”
- Nghe thì có, nhưng con không thấy, và bây giờ con muốn thấy. Vì bắt đầu từ chỗ này Thầy biến sắc và Thầy khóc... Và đâu phải
631
chỉ vì Gioan... Trước người ta cũng đã biết rằng ông sắp chết....
Giêsu mỉm cười. Nhưng để ngăn cản Phêrô nhìn vào bản viết từ phía sau lưng Người, Người liền đứng tựa lưng vào cái cột ở gần đó, không lo gì tới việc rời xa ánh sáng của chiếc đèn. Bây giờ ngược lại, nó không soi vào các tờ, nhưng nó soi rất rõ khuôn mặt Giêsu.
Phêrô rất quyết định để coi, để hiểu. Ông lôi một chiếc ghế đẩu lại trước mặt Giêsu và ngồi trên đó, mắt nhìn đăm đăm vào khuôn mặt Thầy.
“Con tin chắc vào điều đó đến nỗi bây giờ bị ở lại một mình, con đã quyết định rời bỏ Antigonéa để đi Antioche, chắc chắn là để làm việc nhiều hơn trên mảnh đất mà, cũng như ở Rôma, hết mọi giống nòi hòa tan và pha lộn vào nhau, hơn là làm việc tại nơi mà Israel là chủ... Con, một phụ nữ, con không thể đi chinh phục Rôma, nhưng nếu con không thể tới Kinh Thành, thì tại nhà của đứa con gái đẹp nhất của Kinh Thành, đứa con gái giống mẹ nó nhất trong toàn thể vũ trụ, con gieo hạt giống... Nó sẽ rơi được vào trong bao nhiêu con tim, và bao nhiêu hạt sẽ được mang đi nơi khác, chờ đợi các tông đồ để nẩy mầm? Con không biết, con không tìm để biết. Con chỉ hành động. Con hiến công việc của con cho vị Thiên Chúa mà con biết, đấng làm thỏa mãn tâm hồn và trí khôn con. Chính Thiên Chúa này là đấng con tin là Thiên Chúa độc nhất và toàn năng. Con biết Người không làm thất vọng kẻ có thiện chí. Điều đó đủ để nâng đỡ sự cố gắng của con.
Thưa Thầy, Gioan chết vào ngày thứ sáu, trước giờ thứ chín, tháng sáu theo người Rôma, hơi gần tuần trăng mới của tháng Tamuz theo người Hy Bá.
Lạy Chúa, có tốt gì để nói với Thầy điều Thầy đã biết? Nhưng con nói vì lẽ có các anh em. Gioan chết trong công chính, và để nói sự thật thì là chết trong đau đớn, con phải nói là tử đạo.
Con đã giúp ông với tất cả tình thương mà một phụ nữ có thể có, với tất cả sự kính trọng mà người ta có đối với vị anh hùng, với tất cả tình yêu mà người ta có đối với người anh em. Nhưng điều đó cũng không ngăn cản được một đau đớn đến nỗi con, không phải vì phiền phức hay mệt mỏi, mà vì thương, con đã cầu xin Thiên Chúa
632
gọi ông về trong bình an, ông đã nói là: ‘trong tự do’.
Những lời đã thoát ra từ miệng ông! Làm sao một người đã xuống tới đáy vực sâu, như ông thường nói, có thể vươn lên tới một khôn ngoan sáng ngời dường ấy? Ôi! Cái chết thực là một mầu nhiệm, nó bộc lộ nguồn gốc của chúng ta, và sự sống là đồ trang hoàng che giấu mầu nhiệm này. Một đồ trang hoàng đã được ban cho chúng ta không có nét vẽ nào, và trên đó chúng ta có thể vẽ những gì chúng ta muốn. Ông đã vẽ rất nhiều thứ, không phải tất cả đều đẹp, nhưng những nét sau cùng thì thật là cao siêu. Từ bầu trời tối tăm ở đời, trên đó ông đã vẽ những nét đau thương nhân loại, một nhân loại tàn bạo. Như một nghệ sĩ khôn khéo, ông đã chuyển qua những nét tươi sáng, trang hoàng bằng các nhân đức trong quãng đời sống Kitô hữu, để kết thúc trong ánh sáng huy hoàng của một tâm hồn biến mất trong Thiên Chúa.
Con, con thưa với Thầy rằng ông đã không đọc, mà là hát thi khúc sau cùng của ông. Ông đã không chết, nhưng đã bay lên. Và con không thể phân biệt rõ ràng khi nào là con người nói, khi nào là thần trí của người con Thiên Chúa nói.
Chúa: con đã đọc, Thầy biết, tất cả các tác phẩm triết học để tìm ở đó một đồng cỏ cho tâm hồn bị xiềng xích bởi sợi xích kép của nô lệ và ngẫu tượng giáo. Nhưng đó là những công trình của con người. Ở đây không phải là những lời nói loài người, mà là những lời của một siêu nhân, một thần trí qúi phái, đúng hơn là một thần trí Á-Thiên-Chúa.
Con đã canh thức trên mầu nhiệm, nhưng đó lại là điều không được hiểu bởi những người cho chúng con trọ: điều tốt đối với loài người, những người Israel theo ý nghĩa rộng rãi nhất và hoàn toàn nhất của từ ngữ... Và trong những tiếp xúc sau cùng của tình yêu, khi Gioan chỉ còn là sự bộc lộ của tình yêu, con đã xin mọi người lui ra, để một mình con, con đã tiếp nhận điều mà chắc chắn Thầy đã biết...
Chúa ơi... Người đó đã chết. Sau cùng ông đã ‘ra khỏi nhà tù và vào trong tự do’ như ông đã nói bằng giọng yếu ớt của ông trong
633
những ngày sau cùng. Và với cái nhìn cháy lửa bởi xuất thần, trong khi nắm chặt bàn tay con để tiết lộ cho con những lời của Thiên Đàng, người đó đã chết để dạy cho con sống, tha thứ, tin, yêu. Ông đã chết để chuẩn bị cho con thời kỳ sau cùng của đời Thầy.
Chúa ơi, con biết hết: trong những buổi chiều mùa đông, ông đã dạy cho con về các tiên tri. Con thuộc sách như một người Israel thực sự, nhưng con biết cả những điều mà sách không xác định riêng biệt...
Thưa Thầy của con và Chúa của con... Con sẽ bắt chước ông! Con muốn được cùng một ơn, nhưng con nghĩ rằng không xin điều đó, mà chỉ làm theo ý Thầy thì anh hùng hơn...”
Giêsu gấp tờ giấy lại và sắp lấy ra tờ thứ ba, nhưng Phêrô kêu lên:
- Không, không, thưa Thầy, không thể... Còn có những điều khác. Tờ giấy không thể chấm dứt lẹ như vậy. Thầy không đọc hết! Chúa ơi! Tại sao? Các anh, phản đối đi! Sintica đã viết cho chúng ta hơn là cho Thầy mà Thầy không đọc hết!
- Đừng năn nỉ Phêrô!
- Có chứ! Con nài nỉ. Đúng, con năn nỉ. Con thấy mắt Thầy bỗng dưng nhìn xuống cuối trang, rồi con thấy rõ ràng là Thầy không đọc những dòng sau cùng. Con sẽ không yên ổn bao lâu Thầy không đọc đoạn cuối của tờ giấy. Lúc trước Thầy đã khóc!... Vậy cái gì? Có phải tình cờ có cái gì để khóc trong những điều Thầy vừa đọc? Đó là một cái đau, đúng, khi biết rằng ông ta chết... Nhưng một cái chết như vậy không làm cho khóc! Con, con đã nghĩ rằng ông ta có một cái chết xấu, bị mất linh hồn... Nhưng trái lại... Nào, đọc đi! Mẹ, Gioan! Tất cả qúi vị đều nghe...
- Con ơi! Nghe lời ông ta đi, cho dù đó là cái gì nặng nề để biết. Tất cả chúng ta sẽ uống chén đắng...
- Xin như qúi vị muốn...
“Con thuộc sách như một người Israel thực, nhưng con biết cả những điều mà sách không xác định riêng biệt: tức là từ nay, cuộc tử nạn của Thầy sẽ không còn lâu nữa, vì Gioan đã chết, và vì Thầy đã hứa với ông một thời gian ngắn ở Lâm Bô. Ông đã nói điều đó
634
với con. Và ông cũng nói với con là Thầy đã hứa đem ông đi trước khi ông có thể biết sự thù ghét của Israel đối với Thầy lên tới mức nào và tới chỗ nào. Điều đó là để ngăn cản ông vì tình yêu đối với Thầy mà sinh ra thù ghét những kẻ hành hạ Thầy. Bây giờ ông đã chết... Vậy Thầy cũng gần cái chết... Không, gần sống, thực sự sống với giáo lý của Thầy, với chính Thầy ở trong chúng con, với Thiên Tính của Thầy ở trong chúng con sau khi sự Hy Sinh đã trả lại cho chúng con đời sống của linh hồn, Ân Sủng, sự kết hợp với Chúa Cha, với Chúa Con và Chúa Thánh Linh.
Thầy, Vị Cứu Tinh của con, Vua của con, Thiên Chúa của con... Cám dỗ của con thật là mạnh, hay đúng hơn là nó đã mạnh: mong được đến với Thầy. Vì Gioan đã nghỉ với thân xác của ông trong mồ, và linh hồn của ông nghỉ ngơi trong chờ đợi, con khát được đến với Thầy để cùng với các chị em môn đệ ở gần bàn thờ của Thầy. Nhưng các bàn thờ không phải chỉ có của lễ, mà còn được trang điểm bằng các tràng hoa cho vinh dự Thiên Chúa và vinh dự của kẻ đã dâng lễ Hy Sinh. Con xin đặt tràng hoa tím của người môn đệ xa xôi tại chân bàn thờ của Thầy. Con đặt ở đó sự vâng lời, công việc, hy sinh không được thấy Thầy, không được nghe Thầy... A! Việc đó thực là gay go! Thật là gay go vì bây giờ đã chấm dứt các cuộc đàm thoại siêu nhiên của Thầy với Gioan, và con không còn được vui hưởng nữa!... Chúa ơi! Xin giơ tay Chúa trên nữ tì của Chúa để nó chỉ biết làm theo ý Chúa để nó phục vụ Chúa”.
Giêsu gấp tờ giấy lại và nhìn vào mặt các kẻ nghe Người. Họ xanh xao, nhưng Phêrô lẩm bẩm: “Con không hiểu tại sao Thầy khóc... Con tin là có cái gì khác...”
- Thầy khóc vì Thầy so sánh người cựu tù khổ sai và người nô lệ dân ngoại với một số qúa đông người Israel.
- Con hiểu! Thầy lo vì thấy người Hy Bá ở dưới dân ngoại, và các thầy cả, các thủ lãnh, ở dưới tên tù khổ sai. Thầy có lý. Con ngu qúa! Nhưng cái bà này thật là một đàn bà!... Uổng qúa! Bà ta phải ở xa!...
Giêsu giở ra tờ giấy thứ ba.
635
“... và biết bắt chước hoàn toàn người môn đệ của Thầy, cũng là anh em, người đã ở trong bình an, đã đi tới đó sau khi đã hoàn tất hết mọi thanh lọc, để tôn vinh Thầy, để làm nhẹ bớt đau đớn của Thầy”.
- A! Không, sau đó! - Phêrô từ ghế của ông đứng phắt dậy lẹ làng trước mặt Giêsu trước khi Người có thể tránh ra. Và Ông thấy không thể được là Giêsu đọc ở nơi mà mắt Người nhìn. Phải nhận xét là tấm giấy da cuốn lại ngay khi người ta buông cho nó tự do. Vì vậy nhiều hàng ở trên đã bị che khi nó cuốn lại.
Giêsu ngẩng đầu lên với khuôn mặt êm dịu hơn là buồn; êm dịu nhưng đầy cương quyết, Người đẩy vị tông đồ của Người ra và nói: “Phêrô! Thầy của con biết cái gì tốt cho con. Hãy để Thầy cho con cái gì tốt cho con...”
Phêrô cảm động vì những lời này, và hơn nữa, bởi cái nhìn của Giêsu rất van lơn, và trong mắt Người long lanh một giọt nước mắt sắp rơi xuống. Ông tụt xuống khỏi chiếc ghế của ông và nói: “Con vâng lời... Nhưng có thể có cái gì tốt ở chỗ này?!”
Giêsu tiếp tục đọc: “Con đã nói về những người khác, bây giờ con nói về con: Con đã bỏ Antigonéa sau đám táng của Gioan, không phải vì con bị bạc đãi ở đó, nhưng vì con nhận thấy rằng chỗ của con không phải ở đó. Đúng hơn, đó là một cảm tưởng: Con cảm thấy con cần phải làm. Như con đã thưa Thầy: Con quen biết nhiều gia đình, vì nhiều người tới tìm con. Con thích ở gần bên các người của Zénon, chi tiết là vì con tính làm việc ở nơi này.
Một bà người Rôma muốn nhận con vào trong ngôi nhà lộng lẫy của bà ở gần các hành lang của Hêrôđê. Một bà người Syrie rất giầu đề nghị con làm giám đốc cho xưởng dệt vải mà chồng bà từ Tyr đã đến thiết lập ở Séleucie. Một bà tân tòng góa, mẹ của bảy đứa con, nhà ở gần chiếc cầu của Séleucie muốn có con để ghi nhớ Gioan đã là thầy của các con trai bà. Một gia đình lai Hy LạpAssyrie có nhiều cửa hàng trong dẫy phố gần rạp xiếc xin con tới nhà họ, vì vào kỳ biểu diễn các trò, con có thể hữu ích. Sau cùng, một người Rôma đã làm tới bách binh đội trưởng, con tin vậy, chắc
636
chắn là lính, con không biết ông ta ở đây đích xác về nhiệm vụ gì, được chữa bệnh bằng tinh dầu, năn nỉ để có con.
Không, con không muốn những người giầu cũng như thương gia. Con muốn các linh hồn, và là các linh hồn Hy Lạp và Rôma, vì con cảm thấy chính bởi họ mà ta phải bắt đầu quảng bá giáo lý của Thầy trên thế giới. Và đây, con ở trong nhà của Zénon, trên sườn của Sulpius, gần trại lính. Đô thị nghiêng xuống với vẻ đe dọa vì các đỉnh cao của nó. Tuy với cái mã bề ngoài rất ít hấp dẫn, nhưng nó đáng giá hơn các lâu đài giầu có nhất ở Onpholus và Nimpheus, và con có các bạn bè ở đó. Có một người lính biết Thầy tên là Alexandre, một con tim đơn sơ của trẻ con ẩn dấu trong cơ thể lực lưỡng của người lính, và chính vị chấp chính quan mới từ Cêsarê tới, dưới chiếc áo choàng của ông có một con tim ngay thẳng. Alexandre, trong sự đơn sơ mộc mạc của anh, anh ta gần chân lý hơn. Nhưng quan chấp chính cũng cảm phục Thầy như một nhà hùng biện toàn vẹn, một triết gia ‘thần linh’, như ông ta nói, ông không hận thù với sự khôn ngoan, dù ông chưa thể tiếp nhận chân lý. Nhưng chinh phục họ, họ và gia đình họ, bằng cách làm cho họ biết Thầy một chút, điều đó có nghĩa là quăng hạt giống hiểu biết này từ bắc tới nam, từ đông tới tây. Bởi vì các toán quân giống như các hạt bị lắc trên sàng, hay đúng hơn là trái banh trong cơi lốc, trong trường hợp của chúng ta, là ý muốn của các César và các nhu cầu của đế quốc, để lan tràn ra theo mọi hướng.
Sẽ tới ngày mà các tông đồ của Thầy giống như đàn chim tung cánh bay đi khắp thế giới, việc tìm thấy tại nơi truyền giáo của họ một người, một người duy nhất, dù chỉ là một người duy nhất biết rằng Thầy đã hiện hữu, cũng sẽ là sự trợ giúp lớn cho họ. Chính trong cả tư tưởng này nữa mà con săn sóc các chi thể đau đớn của các cựu võ sĩ cũng như các vết thương của các võ sĩ trẻ; cũng vì đó mà con không xa lánh các phụ nữ Rôma nữa; cũng vì đó mà con chịu đựng các người làm cho con phải chịu đựng... Tất cả vì Thầy.
Nếu con lầm thì xin Thầy cho con lời khuyên khôn ngoan của Thầy. Chỉ xin Thầy biết rằng, nhưng điều này Thầy biết rồi, là các
637
sai lầm của con do sự thiếu khả năng chứ không phải do độc ác.
Lạy Chúa, nữ tì của Chúa đã nói biết bao... nhưng vẫn chỉ là không so với những sự nó có trong lòng. Nhưng Chúa ơi, Thầy thấy tâm hồn con, Chúa ơi... Khi nào con mới được thấy dung nhan Thầy? Khi nào con mới được thấy mẹ Thầy và các anh em?... Đời sống là một giấc mơ đi qua. Sự chia cách sẽ qua đi, con sẽ ở trong Thầy cùng với họ, và đó sẽ là niềm vui tự do cho con, cũng cho con như đã cho Gioan.
Con qùi phục dưới chân Thầy, Vị Cứu Tinh của con. Xin Thầy chúc lành cho con và ban cho con sự bình an của Thầy. Cầu bình an và phúc lành cho Maria Nazarét và các môn đệ bạn con. Bình an và phúc lành cho các tông đồ và các môn đệ. Vinh quang và tình yêu cho Thầy, Chúa của con”.
Thầy đọc rồi. Mẹ ơi đi với con. Các con, hãy chờ Thầy. Nhưng tốt hơn là đi nghỉ đi. Thầy không trở lại đâu. Thầy ở lại cầu nguyện với mẹ Thầy. Jeanne, nếu người ta tìm Thầy thì Thầy ở biệt trang gần hồ.
Phêrô lôi Maria ra chỗ riêng và nói với mẹ có vẻ rất kích động, nhưng nhỏ tiếng. Maria mỉm cười với ông và thì thầm điều gì, rồi mẹ lại với con mẹ. Hai người đi theo đường mòn chỉ hơi nhìn thấy trong đêm.
- Simon Jonas muốn gì đó?
- Muốn biết, con ạ. Đó là một đứa trẻ, một đứa trẻ già... nhưng ông ta tốt.
- Vâng, ông ta rất tốt. Ông ta đã xin mẹ, một người hoàn toàn tốt để biết... Ông ta đã tìm được yếu điểm: Mẹ và Gioan. Con biết. Con làm như con không biết, nhưng con biết. Tuy nhiên con không thể luôn luôn nhượng bộ để làm vui lòng ông ta... Không cần đâu Jonatha. Chúng ta có thể ở trong bóng tối - Người nói khi Thấy Jonatha chạy tới với một cái đèn bằng bạc mà ông để trên bàn, và những cái gối nhỏ mà ông để trên các ghế của biệt trang.
- Chính Jeanne ra lệnh. Bình an cho Thầy.
- Và cho con.
638
Hai người ở lại một mình.
- Con đã nói rằng con không thể luôn luôn làm vui lòng ông ta. Tối nay con đã không thể. Chỉ một mình mẹ có thể biết những điểm mà con đã nín lặng. Chính vì vậy mà con muốn có mẹ ở với con, và cũng để được ở bên mẹ, má của con... Ở lại với mẹ trong những giờ sau cùng trước cuộc chia ly, là tập trung một sức mạnh rất lớn và rất êm đềm để được dồi dào nó trong giờ cô đơn giữa thế giới không hiểu con hay hiểu lầm con; và ở với mẹ trong những giờ đầu tiên khi trở lại, là tìm lại ngay được sức mạnh trong sự êm dịu của mẹ, sau khi con đã phải uống tất cả những chén đắng trong thế giới... và là những chén rất chán ngán, rất chua cay.
Maria vuốt ve Người, không nói gì. Đứng ở bên cạnh Giêsu đang ngồi, đó là người mẹ khích lệ người con. Nhưng Người cũng kéo mẹ ngồi xuống và thưa mẹ: “Mẹ nghe nhé...” Và lúc đó Maria chăm chú, ngồi đối diện với Người, trở nên người môn đệ bám chặt vào cặp môi Giêsu, Thầy của mẹ.
- Sintica viết khi nói về Antioche: “Con không luôn luôn biết phân biệt ý muốn của con người ngừng lại ở chỗ nào và ý muốn của Thiên Chúa bắt đầu từ chỗ nào, vì con không khôn ngoan. Nhưng điều đã dẫn con tới đây là một ý muốn mạnh hơn sự ước ao của con, và có lẽ đó là ý muốn của Thiên Chúa. Điều chắc chắn là, có lẽ nhờ ơn trên, bây giờ con thích cái thành phố này: với các đỉnh cao của Casios và Aman canh chừng trên nó ở hai mặt, và cái chóp xanh của những ngọn núi ở xa hơn, nó nhắc nhở con nhiều tới quê hương đã mất. Và con thấy như đây là bước đầu tiên để trở về đất của con, và không phải là bước đầu tiên của một người hành hương trở về đó để chết ở đó, nhưng là một nữ sứ giả của sự sống đến để đem sự sống cho kẻ đã là mẹ nó. Con thấy chính từ đây, sau khi đã được nghỉ ngơi và được nuôi mình bằng khôn ngoan, con giống như chim én lại tung bay, con phải bay tới đó, tới thành phố mà con đã thấy ánh sáng, và từ đó con muốn vươn tới Ánh Sáng trong khi cho nó Ánh Sáng mà con đã nhận được.
Con biết, những người là anh em của con trong Thầy, họ không chấp nhận cách nhìn này, vì họ muốn sự khôn ngoan của Thầy là
639
chỉ để cho họ. Nhưng họ lầm. Một ngày kia họ sẽ hiểu rằng thế giới đang chờ đợi, và cái thế giới mà họ khinh dể sẽ là cái tốt hơn. Có nhiều người tới cư ngụ ở đây rồi trở về những xứ khác, và con không bận rộn gì để tìm biết đó là dân ngoại, dân tân tòng, Hy Lạp hay Rôma hay các miền khác của đế quốc, hoặc người thuộc miền Diaspora. Con nói, con đánh thức cái ước ao được biết Thầy... Biển đâu phải chỉ được làm bởi một đám mây đã đổ nước xuống cho nó. Nó được làm bởi nhiều đám mây, một số vô kể các đám mây đã đổ nước xuống đất và chảy ra bể. Con sẽ là một đám mây, biển là Kitô giáo. Con muốn gia tăng gấp bội sự hiểu biết về Thầy để góp phần tạo thành cái biển Kitô giáo. Con, là Hy Lạp, con biết nói với người Hy Lạp, không phải vì lý do ngôn ngữ cho bằng vì quan điểm chung... Con, trước là nô lệ người Rôma, con biết làm việc với thần trí của họ mà con biết những điểm nhậy cảm. Và sau khi đã sống giữa các người Hy Bá, con cũng biết làm sao để thân hữu với họ trong vấn đề này, đặc biệt là ở đây, nơi đông đảo dân tân tòng. Gioan đã chết cho vinh quang Thầy, con sẽ sống cho vinh quang Thầy. Xin Thầy chúc phúc cho tâm hồn chúng con”.
Và ở chỗ xa hơn, khi cô nói về cái chết của Gioan, nơi con không để cho Simon đọc, cô đã viết: “Gioan đã chết sau khi hoàn thành tất cả mọi sự thanh tẩy, cả đến việc sau cùng là tha cho những kẻ mà bằng lối hành động của họ, đã giết ông và bó buộc Thầy phải cho ông đi xa. Con biết tên của họ, ít là nhân vật chính trong nhóm họ. Gioan đã tiết lộ cho con khi nói: ‘Hãy luôn luôn nghi ngờ ông ta. Đó là tên phản bội. Ông ta đã phản bội tôi, ông ta đã phản bội Người, Người và các bạn của Người. Nhưng tôi tha cho Iscariot như Người cũng sẽ tha. Cái vực sâu mà ông ta đang ở nó đã qúa to lớn, tới nỗi tôi không muốn đào sâu hơn nữa bằng cách từ chối tha cho ông cái tội đã giết tôi bằng cách chia lìa tôi với Giêsu. Sự tha thứ của tôi cũng không cứu được ông, không gì cứu được ông, bởi vì đó là một thằng qủi. Tôi không nên nói vậy, vì tôi đã là kẻ sát nhân, nhưng ít nhất, tại vì tôi đã bị một xúc phạm làm tôi hóa điên. Còn ông ta, ông ta tấn công một kẻ không làm thiệt hại gì cho ông, và
640
sau cùng, ông ta sẽ phản bội Vị Cứu Tinh của ông ta. Nhưng tôi tha cho ông vì lòng nhân từ của Thiên Chúa đã làm nảy sinh ra điều lành cho tôi từ sự thù ghét của ông ta. Em thấy không? Tôi đã đền tội tất cả. Chiều hôm qua Thầy đã nói với tôi như vậy. Tôi đã đền tội hết. Bây giờ tôi ra khỏi nhà tù, bây giờ tôi vào trong tự do, cũng như được tự do cả với cái kỷ niệm nặng nề về tội của Judas Kêriot đối với một kẻ khốn nạn đã tìm thấy bình an ở bên Chúa của nó’. Con cũng vậy, noi gương ông, con cũng tha cho ông ta vì đã giật con ra khỏi Thầy, ra khỏi người mẹ phúc đức, ra khỏi các chị em đồng môn đệ; vì đã ngăn cản con nghe Thầy, theo Thầy tới cái chết, để được hiện diện tại chiến thắng Đấng Cứu Thế của Thầy. Và con làm vậy vì Thầy, để tôn vinh Thầy, và để làm nhẹ bớt đau đớn của Thầy. Lạy Chúa của con, hãy bình an. Tên của kẻ bỉ ổi ở trong hàng ngũ những kẻ theo Thầy sẽ không bao giờ ra khỏi môi con, và vì vậy, sẽ không có gì phát ra về những điều con đã nghe nơi Gioan, khi cái tôi của ông nói với sự hiện diện vô hình và hồng phúc của Thầy. Con đã ngập ngừng tự hỏi có nên tới gặp Thầy trước khi cư ngụ tại chỗ ở mới của con không. Nhưng con cảm thấy con sẽ bị phản bội bởi sự ghê tởm mà con có đối với Iscariot, và con sẽ làm thiệt hại cho Thầy bên các kẻ thù của Thầy. Vì vậy con đã
hy sinh sự an ủi này... Chắc chắn rằng sự hy sinh sẽ có hoa trái và phần thưởng”.
Đó, mẹ coi, con có thể đọc chỗ này cho Simon được không?
- Không. Không đọc cho ông ta cũng như không đọc cho những người khác được. Trong sự đau khổ của mẹ, mẹ được niềm vui vì cái chết thánh thiện của Gioan... Con ơi, chúng ta hãy cầu nguyện để ông cảm thấy tình yêu của chúng ta, và... để Judas đừng có bỉ ổi... Ôi! Thật là ghê sợ!... Nhưng... Chúng ta sẽ tha thứ...
- Chúng ta hãy cầu nguyện... - Và họ đứng lên để cầu nguyện trong ánh sáng chập chờn của ngọn đèn, giữa các tấm màn là các cành cây rũ, trong khi các con sóng cho nghe thấy hơi thở của nó tắt lịm đi ở ngoài bãi.
641
154* TẠI NHÀ TẮM HƠI EMMAU
THUỘC TIBÊRIAT
Cái hồ chỉ còn là một tấm mã não khổng lồ cẩn trên mặt của các đồi mà các tinh tú soi sáng yếu ớt, vì mặt trăng đã lặn. Giêsu ở một mình trong biệt trang xanh, gục đầu trên cánh tay khoanh lại tì trên bàn gần cái đèn mà ánh sáng gần tắt. Nhưng Người không ngủ. Thỉnh thoảng Người ngẩng đầu lên nhìn lại những tờ đã dở ra trên bàn mà ở đầu trên được đè bởi cái đèn, còn đầu dưới thì tay Người tì lên, rồi Người lại gục đầu xuống.
Tất cả đều yên lặng. Ngay cả cái hồ cũng như ngủ yên trong sự bình lặng nặng nề của đêm trường. Rồi đây, cùng một lúc, có tiếng rì rào của gió trong các khóm lá và tiếng vỗ đơn độc của một con sóng vào bờ. Thiên nhiên biến đổi, tựa như mọi yếu tố đều thức giấc. Ánh sáng xanh của hừng đông vừa lú ra, đã trở thành một ánh sáng, mặc dù con mắt chưa nhận ra được khi nhìn vào khu vườn vắng vẻ. Chính chiếc gương mặt hồ đã cho các tia phản chiếu của ánh sáng vừa trở lại này, bởi vì chiếc mã não đậm mầu chì trở thành sáng hơn, và từ từ, bởi sự phản chiếu của bầu trời, nơi rạng đông đang bắt đầu, nó chuyển từ mầu chì qua xám đá đen, rồi qua mầu xám sắt để rồi trở thành mầu ngọc mắt mèo, và sau cùng, đây, nó phản chiếu trong làn nước của nó một bầu trời xanh thần tiên.
Giêsu đứng lên, lượm các tờ thư, cầm đèn, nó tắt ngay khi cơn gió nhẹ đầu tiên thổi, và Người đi về nhà. Người gặp một bà đầy tớ, bà cúi chào, rồi gặp một người làm vườn đi về khu đất, Người trao đổi lời chào với ông ta. Người vào tiền đường, nơi các đầy tớ khác đã bắt đầu những công việc đầu tiên của họ.
- Bình an cho các con. Các con có thể đi gọi các người của Thầy không?
- Thưa Chúa, họ đã dậy rồi. Và chiếc xe cho các phụ nữ đã sẵn sàng. Jeanne cũng dậy rồi, bà đang ở tiền đường phía trong.
Giêsu băng qua nhà để tới tiền đường ở phía đường phố. Qủa
642
thực, tất cả đã tụ họp ở đó.
- Chúng ta đi. Mẹ ơi, nguyện Chúa ở cùng mẹ. Và ở cùng bác nữa, Maria. Nguyện bình an của Thầy đồng hành với qúi vị. Chào Simon. Hãy mang bình an của em đến cho Salômê và các đứa nhỏ.
Jonatha mở chiếc cổng nặng. Chiếc xe có mui đã ở ngoài lộ. Đường phố nằm giữa các dẫy nhà nên chưa được soi sáng và hoàn toàn vắng tanh. Các phụ nữ cùng với thân quyến của họ lên xe và xa dần.
- Chúng ta cũng đi ngay thôi. Andrê, hãy chạy ra trước tới chỗ thuyền đậu và bảo các cậu con trai tới đón chúng ta tại Tarichée.
- Thế nào? Chúng ta đi bộ sao? Chúng ta sẽ tới trễ...
- Không quan trọng. Các con hãy đi trước đi, trong khi Thầy từ giã Jeanne.
Các tông đồ đi khỏi.
- Chúa ơi, con theo Thầy, hay đúng hơn, con tới trước Thầy, vì con đi bằng thuyền.
- Con sẽ phải chờ lâu...
- Không ăn nhằm chi. Hãy để con tới.
- Như con muốn. Chouza vắng nhà à?
- Thưa Chúa, ông ta không về.
- Con sẽ nói với ông là Thầy chào ông và Thầy cổ võ ông nên công chính. Nựng các đứa bé cho Thầy. Và... Con là kẻ đã hiểu Thầy, hãy làm cho Chouza hiểu là ông ta sai lầm, và cùng với ông là tất cả những ai muốn Đức Kitô trở nên ông vua tạm thời.
Giêsu cũng đi ra đường và mau lẹ bắt kịp các tông đồ: “Chúng ta hãy đi bằng con đường Emmau. Có nhiều người khốn khổ đến suối, người thì để được chữa bệnh, người thì để được cứu giúp”.
- Nhưng chúng ta chả có đồng xu nào cả - Giacôbê Zêbêđê nhận xét.
Giêsu không trả lời.
Các đường phố thêm đông đúc qua từng phút một, với hai loại người rất khác nhau. Có những người trồng rau, các lái buôn, các đầy tớ, các nô lệ, những người trong dân chúng, vội vã đến chợ; và
643
những người ăn chơi giầu có, đi kiệu hoặc đi ngựa, họ cũng đến suối, tôi tin là suối nước nóng, nếu nó chữa được bệnh.
Tibêriat có tính cách hơi quốc tế, vì trong số dân cư ngụ ở đó, người ta thấy những người thuộc nhiều dân tộc khác nhau: Các người Rôma nặng nề vì đời sống nhàn cư và các thói hư của họ. Các người Hy Lạp đỏm dáng và chắc chắn phóng túng không kém gì các người Rôma, nhưng cái mặt nạ mà các thói hư để lại trên họ không bộc lộ ra giống như các người vùng Latin; những người khác thuộc vùng Phênici, các người Hy Bá phần đông có tuổi. Giọng nói, ngôn ngữ, y phục khác nhau, và có vài khuôn mặt xanh mét của các bệnh nhân, đàn ông hay đàn bà, hoặc khuôn mặt mệt mỏi của vài bà qúi tộc... Nhưng cũng có những khuôn mặt linh hoạt của cả hai phái đi thành nhóm với nhau, người thì trên lưng ngựa đi bên các chiếc kiệu, người thì ở trong kiệu, cùng nhau chế diễu, thảo luận về những chuyện tầm phào và cá độ với nhau...
Đường phố đẹp, rợp mát nhờ có nhiều cây lớn. Qua khoảng trống ở giữa các cây, ta thấy một bên là cái hồ, một bên là miền quê. Mặt trời bây giờ đã lên cao, làm linh động hơn mầu của nước và cỏ cây.
Nhiều người quay nhìn Giêsu và tiếng xì xèo đi theo đường Người đi: các lời cảm phục của các bà, lời bông đùa, đôi khi pha lẫn khinh bỉ và càu nhàu của các ông, và vài lời than van mà Giêsu nhận, đó là những lời duy nhất mà Người lưu ý và chuẩn nhận.
Khi Người trả lại sự lanh lẹ cho các chi thể của một thanh niên thành Tyr, bị tê bại bởi chứng liệt khớp xương, thì sự dửng dưng mỉa mai của nhiều người dân ngoại bị lay động.
- Ôi! - một ông già Rôma với khuôn mặt sưng phù vì chơi bời lâu năm kêu lên. “Ôi! Thật là đẹp được khỏi như vầy. Tôi đi gọi ông ta”.
- Người sẽ không chữa cho ông đâu ông già Silène. Ông sẽ làm gì nếu ông được khỏi?
- Trở lại chơi bời.
- Vậy thì vô ích để đi tìm ông Nazarét buồn thiu này.
644
- Tôi đi, và tôi cá tất cả những gì tôi có rằng...
- Đừng cá. Ông sẽ thua.
- Hãy để ông ta cá. Ông ta còn say. Chúng ta sẽ lợi dụng tiền của ông.
Ông già xuống khỏi kiệu, lảo đảo. Ông đến với Giêsu khi Người đang nghe một bà mẹ Israel nói với Người về con gái bà, một cô bé bạc nhược mà bà dắt tay.
- Bà đừng sợ. Con gái bà sẽ không chết. Hãy trở về nhà bà, đừng dẫn nó tới suối. Nó sẽ không tìm được ở đó sức khỏe cho thân xác, mà sẽ mất sự trong sạch của linh hồn nó. Đó là những nơi sỗ sàng đê tiện - Người nói những lời này lớn tiếng để mọi người đều nghe thấy.
- Thưa Rabbi, con có đức tin. Con trở về nhà con. Xin Thầy chúc lành cho tôi tớ Thầy.
Giêsu chúc lành cho bà rồi bỏ đi.
Người Rôma liền kéo áo Người: “Chữa cho tôi đi”. Ông ta ra lệnh.
Giêsu nhìn ông và hỏi: “Ở chỗ nào?”
Các người Rôma, các người Hy Lạp và các người Phênici đã tụ họp lại để cười diễu và cá độ. Các người Israel tránh ra trong khi lẩm bẩm: “Phàm tục! Khốn kiếp!” Nhưng rồi họ dừng lại vì tò mò...
- Chỗ nào? - Giêsu hỏi.
- Khắp nơi. Tôi bệnh... Hi hi hi! - Tôi không biết ông ta cười hay khóc, vì tiếng kêu thoát ra khỏi miệng ông rất lạ. Tựa như những lớp mỡ mềm mà bao năm trụy lạc đã để lại cho ông gây ảnh hưởng tai hại cho cả các giây âm thanh. Người đó liệt kê những tàn tật của ông và nói sự sợ chết của ông.
Giêsu nhìn ông với vẻ nghiêm khắc và trả lời: “Qủa thật ông phải sợ chết, vì ông đã giết chính mình”, và Người quay lưng. Người đó tìm cách giữ Người lại bằng cách nắm lấy áo Người trong khi những người ở đó chế nhạo. Nhưng Giêsu gỡ ra và bước đi.
- Trở lại đi, Appius Fabius, trở lại đi! Cái người mà người ta gọi
645
là vua dân Hy Bá không làm ơn cho ông. Đưa túi tiền của ông cho chúng ta. Ông thua cuộc rồi - Hy Lạp, Rôma ồn ào vây quanh người đàn ông thất vọng. Ông ta đẩy họ ra và bắt đầu chạy hết sức có thể, xắn quần áo, lảo đảo với tất cả khối mỡ của ông. Nhưng ông trượt chân và té trên bụi đất giữa tiếng cười vang của các bạn ông. Họ kéo ông lại một gốc cây. Người đàn ông say mèn, ôm lấy thân cây và khóc với nước mắt ngu muội của người say.
Chắc là gần tới suối nước nóng, vì người ta càng lúc càng đông, từ nhiều con đường đổ về cùng một nơi. Không khí sặc mùi lưu huỳnh.
- Chúng ta hãy đi dưới bờ hồ để tránh đám người ô uế này - Phêrô nói.
- Không phải tất cả họ đều ô uế. Trong số họ có nhiều người Israel - Giêsu nói.
Người ta đã tới nhà tắm: một dẫy nhà bằng đá trắng đối diện với hồ, phân chia nhau bởi các thông lộ, và phân cách với hồ bằng một quảng trường mênh mông có trồng nhiều cây to. Các người đã tới quẩn quanh ở đó trong khi chờ phiên vào tắm, hoặc để sinh hoạt lại sau khi tắm. Những cái đầu sứa bằng đồng lồi ra ở bức tường của một toà nhà, phun những tia nước bốc hơi vào một cái bể bằng đá, có mầu trắng ở bên ngoài, hơi đỏ ở bên trong, tựa như nó bị phủ một lớp rỉ sét. Nhiều người Israel tới suối và uống nước muối khoáng bằng những cái ly. Tại tòa nhà này, tôi chỉ thấy toàn người Hy Bá làm như vậy. Tôi đoán rằng những người Israel trung thành đã muốn tòa nhà này dành riêng cho họ để họ tránh những tiếp xúc với dân ngoại.
Nhiều bệnh nhân nằm trên băng ca để chờ được săn sóc. Khi thấy Giêsu, nhiều người kêu: “Lạy Giêsu, con vua Đavít, xin thương con”.
Giêsu lại với họ: bất toại, sưng khớp, liệt khớp, gẫy xương mà không lành, thiếu máu, bệnh về các tuyến, đàn bà tàn tạ trước tuổi, trẻ con già qúa non... Rồi ở dưới gốc cây là các người ăn mày than van xin của bố thí.
646
Giêsu dừng lại gần các người bệnh. Tiếng đồn ra là vị Rabbi sắp nói và chữa bệnh, người ta, cả những người thuộc nòi giống khác cũng lại gần để coi.
Giêsu nhìn khắp chung quanh Người. Người mỉm cười khi thấy người Hy Lạp mà Sintica gởi tới vừa ra khỏi nhà tắm, tóc hãy còn ướt đẫm. Bỗng dưng Người lớn tiếng để mọi người đều nghe: “Tình Thương mở các cửa của ân phúc. Hãy xót thương để được thương xót. Mọi người đều bị nghèo về một vài điều gì đó: người thì thiếu tiền, người khác thì thiếu tình cảm, tự do, sức khỏe, và mọi người đều cần sự trợ giúp của Thiên Chúa là đấng đã tạo dựng nên vũ trụ. Người là Cha duy nhất và Người có thể cứu giúp con cái Người”.
Người nghỉ một lát như để người ta có thời giờ lựa chọn: hoặc nghe Người, hoặc vào nhà tắm. Nhưng phần đông bỏ rơi nhà tắm. Israel và dân ngoại đều chen chúc để nghe Người. Các người Rôma đa nghi che dấu sự tò mò dưới những kiểu đùa dỡn. Họ nói: “Hôm nay không bị thiếu nhà hùng biện để nơi này trở nên giống như nhà tắm hơi của Rôma”.
Ông Hy Lạp liền phăng đám đông ra và kêu: “Lạy Zéus! Tôi đang tính đi Tarichée thì tôi gặp Ngài ngay ở đây!”
Giêsu tiếp tục:
- Hôm qua người ta nói với Thầy: “Thật là khó để theo những điều Thầy làm”. Không, không khó gì cả. Giáo lý của Thầy dựa trên tình yêu, và không bao giờ khó để đi theo tình yêu. Giáo lý của Thầy dạy gì? Thờ phượng một Thiên Chúa thực, yêu tha nhân. Con người, đứa trẻ vĩnh viễn, hay sợ bóng tối, nó theo các quái vật thần thoại, vì nó không biết Tình Yêu. Tình Yêu là sự khôn ngoan và ánh sáng. Người là sự khôn ngoan vì Người hạ mình để giáo huấn; Người là ánh sáng vì Người đến để soi sáng. Ở đâu có ánh sáng thì bóng tối biến tan ở đó. Ở đâu có sự khôn ngoan thì các quái vật thần thoại tiêu ma ở đó. Trong số những người đang nghe Thầy có những dân ngoại, họ hỏi: “Thiên Chúa ở đâu?” Họ nói: “Ai chứng minh cho chúng tôi được rằng Thiên Chúa của Ngài là Thiên Chúa thực?” Họ nói: “Bằng cách nào Thầy bảo đảm cho chúng tôi rằng lời Thầy
647
là đích thực?” Không phải chỉ có dân ngoại mới nói vậy. Cũng có những người khác hỏi Thầy: “Thầy lấy quyền nào mà làm những việc này?” Lấy quyền từ Chúa Cha mà đến với Thầy, từ Chúa Cha là đấng đã đặt mọi sự để phục vụ con người, tạo vật ưu ái của Người, đấng đã sai Thầy đến để giáo huấn loài người là anh em của Thầy. Chúa Cha là đấng đã làm cho lòng đất chảy ra nước suối có tính cách trị liệu, Người có thể giới hạn quyền năng của Đức Kitô của Người không? Và ai, Thiên Chúa nào, nếu không phải là Thiên Chúa thực, có thể ưng thuận cho Con Người làm những điều kỳ diệu là tái tạo lại các chi thể bị phá hủy? Tại đền thờ nào của tà thần, người ta thấy người mù lại xem thấy, người tê liệt lại cử động? Trong đền thờ nào, những kẻ sắp chết mà chỉ vì một tiếng “Ta muốn” của một người mà lại đứng dậy, lành lặn hơn những người khỏe mạnh? Vậy Thầy, để ngợi khen Thiên Chúa thực và để làm cho Người được biết tới và được ca tụng bởi các con, Thầy nói với tất cả những ai đang tụ họp ở đây, dù họ thuộc về chủng tộc nào hay tôn giáo nào, Thầy cho họ được sức khỏe mà họ xin ở dòng nước. Thầy cho họ được nó bởi Thầy. Thầy là Nước Hàng Sống. Thầy ban sự sống của thân xác và của tâm hồn cho những ai tin vào Thầy, và những kẻ thi hành tình thương với một con tim ngay thẳng. Thầy không đòi hỏi những điều khó khăn. Thầy đòi một chuyển động của Đức Tin và một chuyển động của tình yêu. Hãy mở con tim các con ra cho Đức Tin. Hãy mở con tim các con ra cho tình yêu. Hãy cho để có. Hãy cho những đồng tiền hèn mọn để có sự trợ giúp của Thiên Chúa. Hãy bắt đầu bằng cách yêu anh em của các con. Hãy có tình thương. Hai phần ba trong các con bệnh tật là do sự ích kỷ của họ và dục vọng của họ. Hãy triệt hạ ích kỷ, hãm phanh đam mê, các con sẽ chiếm được sức khỏe về thân xác và về sự khôn ngoan. Hãy triệt hạ sự kiêu căng, và các con sẽ nhận được ơn lành của Thiên Chúa thực. Thầy xin các con của bố thí cho những người nghèo, rồi Thầy sẽ tặng cho các con món qùa sức khỏe.
Giêsu cầm lên một vạt áo khoác của Người và căng ra để nhận
648
các đồng tiền. Các dân ngoại và các người Israel quăng vào đó khá nhiều. Và không phải chỉ có các đồng bạc, mà còn có cả cà rá và những nữ trang khác mà các bà Rôma quăng vào đó, không băn khoăn, khi các bà tới gần Giêsu, nhìn Người và thì thầm với Người điều gì mà Giêsu ưng thuận hoặc trả lời vắn tắt.
Việc dâng cúng chấm dứt. Giêsu gọi các tông đồ để họ dẫn các người hành khất lại cho Người. Và đây, kho tàng phân tán đi cho tới đồng xu cuối cùng cũng lẹ như nó được tạo thành. Chỉ còn lại các nữ trang mà Giêsu trả lại cho kẻ đã bố thí, vì không ai có khả năng mua nó để đổi nó thành tiền. Để an ủi kẻ cho, Người nói: “Sự ước ao cũng đáng giá như hành động, của dâng cúng cũng qúi như nó đã được phân phát, vì Thiên Chúa nhìn ý định của con người”.
Rồi Người đứng thẳng dậy và kêu lên: “Sức mạnh của Thầy từ đâu mà đến? Từ Thiên Chúa thực. Lạy Cha, xin hãy làm rạng rỡ danh Cha trong Con Cha, chính với danh Cha mà con ra lệnh cho các bệnh nhân: Hãy đi!”
Và đây, bây giờ là quang cảnh thường hay thấy: Các bệnh nhân đứng lên, các người què quặt chỗi dậy, các người tê liệt di chuyển, các khuôn mặt hồng hào lên, các đôi mắt sáng lên, các tiếng hô vạn tuế, các lời mừng khen của các người Rôma, trong số họ có hai người đàn bà và một người đàn ông được khỏi. Họ muốn bắt chước các người Israel, nhưng họ không thể tự hạ như Israel để hôn chân Giêsu, họ chỉ cúi mình, cầm một vạt áo của Người và hôn.
Rồi Giêsu đi khỏi để tránh đám đông, nhưng Người không thành công. Ngoại trừ vài người dân ngoại ương ngạnh và vài người Hy Bá còn cố chấp trong tội của họ, còn thì mọi người đều theo Người trên con đường đi về Tarichée.
155* TẠI TARICHÉE
Bán đảo nhỏ Tarichée lồi ra ngoài hồ, tạo thành một vũng sâu ở phía tây nam. Như vậy đâu phải không đúng để nói rằng đó là một eo đất hơn là một bán đảo, có nước bao vây hầu hết chung
649
quanh. Nó chỉ nối với đất liền bằng một cái như hành lang. Ít nhất là nó đã như vậy vào thời của Giêsu, thời kỳ mà tôi nhìn thấy. Tôi không biết sau đó, trải qua hai mươi thế kỷ, cát và đá sỏi bị lôi cuốn bởi dòng suối nhỏ đổ ngay vào cái vũng ở tây nam, đã có thể thay đổi diện mạo của nơi này, bằng cách lấp cát đầy vào cái vịnh nhỏ này, và vì vậy, bồi lớn cái lưỡi đất của eo này hay không.
Cái vịnh rất yên tĩnh, xanh biếc mầu ngọc thạch, nơi phản chiếu bởi các lá xanh của các cây từ bờ mọc đua ra trên hồ. Nhiều con thuyền nhẹ nhàng lênh đênh trên làn nước hầu như yên lặng.
Cái làm tôi ngạc nhiên là một cái bờ đê kỳ dị với những nhịp cắm trên đá sỏi của bờ hồ, làm thành một nơi dạo mát, một cái đập chạy về hướng tây. Tôi không biết người ta làm nó để trang hoàng hay vì một mục đích hữu dụng nào khác mà tôi không biết. Cái lối đi này, một bờ đê hay một cái đập, có phủ một lớp đất dầy, trên đó trồng các cây không lớn lắm, nhưng trồng liền lại với nhau, tạo thành một hành lang có phủ lá xanh ở bên trên đường. Nhiều người tiêu hao thời giờ ở dưới cái hành lang này, luôn luôn rì rào với gió, với nước, với hoa lá, mang tới một vẻ thú vị mát mẻ đáng kể.
Người ta nhìn thấy rõ cửa sông Giođan và dòng nước từ lòng sông đổ vào hồ, tạo ra những dòng nước xoáy với vài chỗ nghẽn gần các chân cầu. Tôi cho rằng người Rôma, vì các kiến trúc của họ được đặt trên những cây cột vững chắc trên biển, mà dòng nước tới đập vào và vỡ ra, tạo thành một dòng nước sáng như xà cừ, bởi ánh sáng dưới ánh mặt trời chiếu vào dòng nước vỡ tràn ra và đổ vào cửa sông, rồi trải ra thành dòng nước thoải mái trong hồ. Hầu như ở sát đầu cầu phía bờ bên kia là thành phố nhỏ toàn trắng với các mái nhà rải rác trong mầu xanh của miền quê mầu mỡ. Cao hơn về phía bắc, ở bờ hồ phía đông, là thôn xóm ở trước Ippo và các cánh rừng mọc trên sườn dốc. Bên ngoài đó là Gamala, nhìn thấy rất rõ từ trên đỉnh đồi.
Một đám đông đã theo Giêsu từ Emmau, nó tăng thêm bởi những người đã tới Tarichée, trong số đó có Jeanne đã tới bằng thuyền của bà. Giêsu đi thẳng về cái đập có trồng cây và Người dừng lại ở
650
giữa. Bên phải là nước hồ, bên trái là bãi. Những người có thể thì họ đứng trên đường có bóng mát, ai không có chỗ trên đường thì xuống bãi, vẫn còn hơi ướt vì thủy triều cao lúc ban đêm hay vì lý do nào đó. Một phần của bãi cũng được che mát bởi các cây trên đập. Một số khác nữa thì ghé thuyền vào bờ nước và nấp dưới bóng của các cánh buồm.
Giêsu làm hiệu là Người sắp nói và tất cả đều im lặng:
- Có lời rằng: “Chúa đã hành động để cứu dân Người, để cứu nó nhờ Đấng Kitô của Người”. Có lời rằng: “Tôi vui mừng trong Chúa và tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc tôi”.
Dân Israel đã coi như lời này dành cho họ, và họ cho nó một ý nghĩa quốc gia, cá nhân, ích kỷ, không phù hợp với sự thật về thân thế Đấng Messi. Họ đã cho nó một ý nghĩa hẹp hòi, hạ thấp sự cao cả của tư tưởng về Đấng Messi xuống tới mức độ của một bộc lộ quyền hành con người và sự dẹp tan kẻ xâm lăng Israel bởi Đức Kitô.
Nhưng sự thật thì khác. Nó cao cả, vô giới hạn. Nó đến từ Thiên Chúa thực, Đấng Tạo Hóa và là Chúa Trời Đất. Nó đến từ Đấng Tạo Hóa của loài người, đấng đã làm tăng số gấp bội các tinh tú trên bầu trời và bao phủ trái đất bằng cây cối đủ loại, và cho nó vô số sinh vật cũng như Người đã đặt cá trong nước và chim trên trời. Cũng vậy, Người gia tăng số con cái loài người, loài người do Người tạo dựng, để làm vua các vật và là tạo vật ưu ái của Người. Bây giờ làm sao Chúa, Cha của toàn thể giống người, lại có thể bất công với con cái Người, con cái của những kẻ đã sinh ra bởi người đàn ông và người đàn bà được tạo ra bởi Người, về vật chất là bụi đất, với linh hồn là hơi thở Thiên Chúa của Người? Làm sao Người có thể đối xử người nọ khác với người kia, làm như họ không đến từ một nguồn duy nhất, làm như không phải từ Người, mà từ một vật thể khác, siêu nhân và là đối thủ, được tạo dựng bởi một ngành khác, và bởi đó, họ là người lạ, là con hoang, là đáng khinh?
Thiên Chúa thực không phải là ông thần tội nghiệp của dân nọ dân kia, một ngẫu tượng, một bộ mặt không thực. Người là một
651
Thực Tại Tối Cao; Người là một Thực Tại Phổ Quát; Người là một Thực Thể Duy Nhất, Tối Cao, Đấng Tạo Hóa của mọi sự và mọi người. Người biết họ, cho dù họ không biết Người. Người yêu họ, cho dù họ, vì không biết nên không yêu Người, hoặc vì họ biết sai về Người nên họ yêu Người không đúng, hoặc vì họ biết Người, nhưng họ không biết yêu Người.
Tình phụ tử không ngừng lại khi một đứa con không biết, ngu si hay xấu tính. Người cha cố gắng để giáo huấn con ông, vì giáo huấn chính là tình yêu. Người cha chịu khổ để làm cho đứa con yếu kém của ông bớt ngu. Người cha, bằng nước mắt của ông, bằng sự khoan dung của ông, bằng những trừng phạt cứu rỗi của ông, bằng sự tha thứ xót thương của ông, cố gắng để chỉnh đốn đứa con xấu và làm cho nó nên tốt. Đó là điều người cha-loài-người làm. Vậy người Cha-Thiên-Chúa có thể ở dưới người cha-loài-người không? Vì vậy Cha-Thiên-Chúa yêu hết mọi người và muốn cho họ được rỗi. Người: Vua của một nước vô tận, Vua Vĩnh Cửu, Người nhìn dân của Người, hợp thành bởi hết mọi dân trên trái đất, và Người nói: “Đây là dân của hết những kẻ Ta đã tạo dựng, dân phải được cứu bởi Đức Kitô của Ta. Đây là dân mà Nước Trời đã được tạo dựng cho nó. Và đây là giờ để Vị Cứu Tinh cứu nó”.
Đức Kitô là ai? Vị Cứu Tinh là ai? Đức Messi là ai? Có nhiều người Hy Lạp hiện diện ở đây, và có nhiều người, dù không phải Hy Lạp, cũng biết được từ “Kitô” có ý nghĩa gì. Kitô là đấng được thánh hiến, đấng được xức dầu vương giả để làm trọn sứ mạng của Người. Thánh hiến cho cái gì? Có phải cho vinh quang hèn mọn của một cái ngai không? Có phải cho một vinh quang lớn hơn của chức tư tế không? Không. Được thánh hiến để qui tụ hết mọi người dưới một vương trượng duy nhất, để họ trở nên anh em với nhau, và là con của một người cha duy nhất, các đứa con biết cha, tuân theo lề luật của Người để được dự phần vào Nước của Người.
Đức Kitô là vua, nhân danh Chúa Cha là đấng đã sai Người, Người trị vì theo cách phù hợp với bản tính của Người, tức là trị vì như Thiên Chúa, vì Người đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã đặt
652
hết mọi sự làm bệ dưới chân Đấng Kitô của Người, không phải để làm cho nặng nề, nhưng để cứu hết mọi người. Thực tại thì tên Người là Giêsu, một tên mà theo tiếng Hy Bá, có nghĩa là Người Cứu. Khi Người Cứu đã cứu bằng những gian lao và những đau đớn dữ dằn nhất, Người sẽ có dưới chân Người một ngọn núi và một dân vô số kể thuộc mọi chủng tộc bao phủ lấy ngọn núi, để chỉ rằng Người cai trị ở bên trên toàn thể trái đất và ở trên mọi dân tộc. Nhưng vị Vua sẽ trần trụi, không có một của cải nào khác ngoài Sự Hy Sinh của Người, để tượng trưng rằng Người chỉ hướng về những điều thuộc về thần trí, mà những điều thuộc về thần trí thì chỉ thu phục và cứu chuộc được bằng những giá trị tinh thần và sự hy sinh anh hùng, chứ không phải bằng bạo lực và vàng bạc. Sẽ là như vậy để trả lời - cho những ai sợ Người, cũng như cho những kẻ bởi tình yêu giả tạo, tán dương Người hay hạ thấp Người bằng cách muốn tôn người làm vua theo kiểu thế giới, cũng như cho những kẻ ghét Người, không vì lý do nào khác ngoài cái sợ bị mất những cái là chí thiết đối với họ - rằng Người là Vua Tinh Thần, chỉ có vậy thôi; rằng Người được sai tới để dạy cho các tâm hồn cái phương thế để chinh phục Nước Trời, một Nước Trời Duy Nhất mà Thầy đến để thiết lập.
Thầy, Thầy không ban bố những luật mới. Đối với người Israel, Thầy xác nhận lề luật của núi Sinai. Với dân ngoại thì Thầy nói: Luật để chiếm được Nước Trời không là gì khác ngoài luật về nhân đức mà mọi tạo vật có tinh thần đều nhìn nhận để tự nâng mình lên cao, và nhờ vào lòng tin nơi Thiên Chúa thực, nó trở nên, từ luật về tinh thần và về nhân đức của nhân loại, thành một luật về tinh thần và siêu nhiên.
Ôi hỡi dân ngoại! Qúi vị có thói quen công bố những vĩ nhân trong dân của qúi vị là thần, và xếp họ vào số những thần đông đảo, không có thực, mà qúi vị cho cư ngụ trong Olympe. Qúi vị đã chế tạo ra tất cả những thần này để có cái gì mà tin, vì tôn giáo, một tôn giáo là cái gì cần cho con người, cũng như đức tin là cần thiết. Tin là tình trạng thường xuyên của con người, và không tin là
653
tai họa bất thường. Và không phải luôn luôn những người được tôn lên hàng thần đều có một giá trị nhân bản, dù là đơn giản, bởi vì sự lớn lao của họ đến, hoặc từ một sức mạnh độc ác, hoặc từ các mánh lới qủy quyệt của họ, đến nỗi những khốn nạn mà các hiền nhân nhìn thấy đúng như nó là: Sự hư đốn của các dục vọng thả lỏng của họ, họ mang theo như những phẩm hạnh của siêu nhân. Thầy nói sự thực: điều đó chứng tỏ rằng trong cái Olympe hão huyền của các con, các con đã không biết đặt vào đó một người nào trong số những thần trí lớn lao đã thành công có được cái trực giác về một Đấng Cao Cả; những vị đã là trung gian linh hoạt giữa con-người-động-vật và Thần Tính, mà theo bản năng tự nhiên, họ cảm thấy nhờ thần trí hay chiêm ngắm và nhân đức của họ. Từ thần trí hay lý luận của triết gia, của người triết gia thực sự, tới thần trí của người tin thực sự và thờ phượng Thiên Chúa thực, chỉ cách nhau một bước, trong khi từ thần trí tin vào Thầy của kẻ xảo quyệt, bạo chúa, hay kẻ mà sự anh hùng chỉ là vật chất, tới thần trí tin và thờ phượng Thiên Chúa thực, có cả một vực thẳm. Nhưng trong Olympe của qúi vị, qúi vị không đặt những người mà vì nhân đức của đời sống, họ đã vượt xa bên trên khối người còn lại, và họ đã tới gần nước của các thần trí, mà chỉ đặt những người mà qúi vị sợ như những ông chủ độc ác, hoặc qúi vị xua nịnh với sự nô lệ đê tiện, hoặc qúi vị cảm phục như những gương mẫu sống động của sự tự do theo bản năng thú vật, mà theo khẩu vị bất thường của qúi vị, nó có vẻ như mục đích và tận cùng của đời sống.
Và các con thèm muốn những người được nhìn nhận vào số các thần, mà bỏ qua một bên những người đã tới gần Thiên Tính hơn bằng cách thi hành những giáo lý được chỉ dạy, và sống một đời đạo đức. Bây giờ, thực vậy, Thầy cho các con một phương thế để trở nên các thần: Kẻ nào làm những điều Thầy nói, tin vào những điều Thầy dạy, sẽ được lên Olympe thực sự và sẽ là thần. Thần: con Thiên Chúa trong một Trời không có đồi trụy bất cứ loại nào; nơi mà tình yêu là lề luật duy nhất. Trong một Trời mà người ta yêu nhau cách thiêng liêng, không bị trì độn, không có những cạm bẫy
654
của giác quan để các người dân trở thành thù địch với nhau như nó xảy ra trong tôn giáo của các con.
Thầy không đến để đòi các con những việc anh hùng ồn ào. Thầy đến để bảo các con: Hãy sống như một tạo vật được phú bẩm một linh hồn và một trí tuệ, chứ đừng như các vật thô lỗ. Hãy sống làm sao cho đáng sống, sống thực sự, bằng phần bất tử ở trong các con, trong Nước của đấng đã tạo dựng nên các con.
Thầy là Sự Sống. Thầy đến dạy cho các con con đường để đến với Sự Sống. Thầy đến để ban Sự Sống cho tất cả các con. Thầy ban nó cho các con để làm cho các con sống lại từ cõi chết của các con, từ nấm mồ của tội lỗi và ngẫu tượng của các con. Thầy là Tình Thương. Thầy đến để kêu gọi các con. Thầy đến để tụ họp tất cả các con. Thầy là Đấng Kitô, Vị Cứu Tinh. Nước Thầy không ở trong thế giới này, nhưng đối với những kẻ tin vào Thầy và tin vào lời Thầy, thì một vương quốc sẽ nảy sinh ra trong lòng nó ngay từ những ngày ở trên thế giới này, và đó là Nước của Thiên Chúa: nước của Thiên Chúa ở trong các con.
Có lời nói về Thầy rằng Thầy là đấng đem sự công chính đến cho các dân. Đúng vậy. Nếu hết mọi người dân của mọi dân tộc làm những điều Thầy dạy, thì sự thù ghét, chiến tranh, nhiễu hại sẽ chấm dứt. Có lời nói về Thầy rằng Thầy sẽ không cao giọng để nguyền rủa tội nhân, cũng không giơ tay tiêu diệt những kẻ như cây sậy bị gẫy, như các bấc đèn chỉ còn chút khói vì cách sống bất xứng của họ. Thật vậy, Thầy là Vị Cứu Tinh, Thầy đến để củng cố cho những kẻ bị suy sụp, để ban dầu cho những kẻ mà bấc đèn chỉ có khói vì thiếu nhiên liệu đốt. Có lời nói về Thầy rằng Thầy là đấng mở mắt cho người mù, kéo tù binh ra khỏi đề lao, dẫn những kẻ ở trong nhà tù của tối tăm về với ánh sáng. Đúng vậy, những kẻ mù mù nhiều nhất là những kẻ, dù có con mắt linh hồn, nhưng không nhìn thấy ánh sáng, tức là Thiên Chúa thực. Thầy là Ánh Sáng thế gian, Thầy đến để họ được thấy. Những tù nhân bị giam hãm nhất là những kẻ bị tù trong những đam mê xấu của họ. Tất cả mọi xiềng xích khác sẽ biến mất với cái chết của tù nhân, nhưng cái xích thói hư sẽ tồn tại, và nó xích cả sau cái chết của thân xác.
655
Thầy đến để tháo cởi nó.
Thầy đến để đem ra khỏi nơi tối tăm của cái nhà tù ở sâu dưới hầm đất, là sự vô tri về Thiên Chúa. Tất cả những kẻ mà ngẫu tượng giáo bóp nghẹt dưới đống các tà thần, hãy đến với Ánh Sáng và sự cứu rỗi. Hãy đến với Thầy, vì Nước Thầy là một nước thực sự và luật của Thầy tốt lành, nó chỉ đòi hỏi các con yêu Thiên Chúa độc nhất và yêu tha nhân, và bởi đó, từ bỏ các tà thần và các tham vọng làm cho các con chai đá trong tim, khô cằn, dâm ô, trộm cắp, sát nhân.
Thế gian nói: “Hãy đàn áp người nghèo, kẻ yếu đuối, kẻ cô đơn. Sức mạnh là lề luật của chúng ta. Sự hà khắc, sự ngoan cố, thù ghét, độc ác là vũ khí của chúng ta. Hãy dày đạp kẻ công chính dưới gót chân chúng ta, vì họ không phản ứng. Hãy áp bức bà góa và trẻ mồ côi, vì tiếng nói của họ yếu...” Còn Thầy, Thầy nói: Hãy đầy êm dịu và nhân ái. Hãy tha cho kẻ thù của các con. Hãy cứu giúp kẻ yếu đuối. Hãy công chính trong việc mua bán. Hãy hào hiệp, ngay cả khi các con có quyền. Đừng lạm dụng quyền hành của các con để làm nặng nề cho những người đã khổ sở rồi. Đừng báo thù. Hãy để cho Thiên Chúa lo việc bênh vực cho các con. Hãy điều độ trong hết mọi xu hướng, vì sự điều độ là bằng cớ của một tinh thần khỏe mạnh, còn sự dâm đãng là bằng cớ của tâm hồn yếu đuối. Hãy là các con người chứ đừng là các con vật thô thiển, và đừng sợ là đã bị hạ xuống qúa thấp, không thể trở lên được.
Thực vậy, Thầy bảo các con: một vũng nước bùn có thể trở nên trong bằng cách bốc hơi dưới mặt trời. Nó tự nên sạch bằng cách để cho mình được sưởi nóng và bay lên trời, để rồi rơi xuống trong làn mưa trong sạch và sương sa cứu rỗi, miễn là nó tự để cho mặt trời soi. Cũng vậy, các tâm hồn lại gần Ánh Sáng Vĩ Đại là Thiên Chúa và kêu lên với Người: “Con đã phạm tội. Con là bùn, nhưng con khát vọng về Chúa là Ánh Sáng”, thì nó sẽ trở nên tâm hồn được thanh tẩy, bay về với Đấng Tạo Hóa của nó. Hãy bỏ đi cái sợ chết bằng cách làm cho đời các con thành tiền bạc để mua lấy Sự Sống. Hãy cởi bỏ qúa khứ như cái áo dơ bẩn, và hãy mặc lại bằng cái áo
656
nhân đức.
Thầy là Lời của Thiên Chúa và Thầy nói với các con nhân danh Người rằng: Kẻ tin vào Người và có thiện chí; kẻ hối hận về qúa khứ và có ý hướng ngay lành cho tương lai, dầu họ là Hy Bá hay dân ngoại, cũng trở nên con Thiên Chúa và chiếm được Nước Trời. Lúc đầu Thầy đã nói với các con: “Đức Messi là ai?” Bây giờ Thầy nói với các con: Đức Messi chính là Thầy, người đang nói với các con, và Nước của Thầy ở trong lòng các con, nếu các con tiếp nhận nó. Rồi sau đó nó sẽ ở trên Trời mà Thầy sẽ mở ra cho các con, nếu các con kiên trì trong giáo lý của Thầy. Đức Messi là vậy, và không còn gì hơn. Đó là vị Vua của một nước thiêng liêng mà bằng Sự Hy Sinh của Người, Người sẽ mở cửa ra cho hết mọi người có thiện chí.
Giêsu đã nói xong và Người sắp sửa đi bằng cách bước vào các bậc dẫn từ trên đập xuống bờ hồ. Có lẽ Người muốn lên chiếc thuyền của Phêrô đang tròng trành ở cái cảng thô sơ, nhưng bỗng dưng Người quay lại nhìn đám đông và kêu lên: “Ai đã gọi Thầy cho tâm hồn và thân xác của nó?”
Không ai trả lời cả.
Người nhắc lại câu hỏi và liếc đôi mắt tuyệt vời của Người trên đám đông bao quanh Người ở phía sau, không phải chỉ ở trên đường, mà cả ở dưới bãi thấp. Vẫn yên lặng.
Mathêu lưu ý: “Thưa Thầy, ai biết được lúc này có bao nhiêu người ngưỡng vọng về Thầy vì xúc động bởi các lời Thầy...”
- Không. Một linh hồn đã kêu lên: “Xin thương”. Và Thầy nghe thấy nó. Và để nói với các con rằng đó là sự thật, Thầy trả lời nó: “Cho con được như con xin, vì chuyển động của tâm hồn con là chính đáng” - Và Người: Cao lớn, đẹp tuyệt vời một cách oai phong, Người giơ tay về phía bờ hồ.
Người còn đang cố để tới các bậc thềm nhỏ thì Người thấy Chouza ở ngay trước mặt Người. Ta hiểu rằng ông đã lên bờ từ một chiếc thuyền nào đó. Ông cúi sâu để chào Người: “Con đã tìm Thầy từ nhiều ngày qua. Con đã đi vòng quanh hồ, luôn luôn đuổi theo
657
Thầy. Thật khẩn thiết là con phải nói với Thầy. Xin hãy là khách của con. Con có nhiều bạn bè ở với con”.
- Hôm qua Thầy đã ở Tibêriat.
- Người ta đã nói điều đó với con. Nhưng con không phải một mình. Thầy thấy các chiếc thuyền này đi về phía bờ bên kia. Ở đó có rất nhiều người muốn gặp Thầy, trong số đó có cả các môn đệ Thầy. Con xin Thầy tới nhà con, ở bên kia sông Giođan.
- Vô ích, Chouza ạ. Thầy biết điều con muốn nói với Thầy.
- Chúa ơi! Xin đến!
- Các người bệnh và các kẻ tội lỗi chờ Thầy. Hãy để Thầy...
- Chúng con cũng chờ Thầy. Phát bệnh vì lo lắng cho lợi ích của Thầy. Cũng có những người đau đớn trong thân xác, ngay cả...
- Con đã nghe các lời Thầy, tại sao con còn năn nỉ?
- Chúa ơi! Đừng từ chối chúng con, chúng con...
Một người đàn bà phăng ra một lối đi giữa đám đông. Bây giờ tôi đã đủ quen với y phục dân Hy Bá để tôi hiểu rằng bà không phải Hy Bá, và y phục của bà không phải là của phụ nữ ngay lành. Nhưng để che dấu các nét có vẻ duyên dáng hay có lẽ là qúa khêu gợi của bà, bà đã trùm một tấm voan dài che phủ toàn thân, giống như một chiếc áo thùng thình mầu xanh lạt, nhưng bà vẫn khêu gợi vì vóc dáng của bà và đôi cánh tay rất đẹp của bà thò ra. Bà phục xuống và bò trong bụi đất cho tới khi bà tới nơi có thể đụng vào áo Giêsu, bà cầm lấy nó và hôn lên gấu. Bà khóc bật ra tiếng nấc.
Giêsu đang trả lời cho Chouza: “Các con sai lầm và...” Người liền nhìn xuống và nói: “Có phải con đã gọi Thầy không?”
- Vâng... Con không xứng đáng được ơn huệ mà Thầy đã ban cho con. Con cả đến không đáng gọi Thầy trong tâm hồn con. Nhưng lạy Chúa! Lời Ngài... Con là người đàn bà tội lỗi. Nếu con để lộ mặt ra, nhiều người sẽ nói tên con cho Thầy. Con là... một gái điếm... một kẻ giết con... Và thói hư đã làm con bệnh hoạn... Con đã ở Emmau. Con đã dâng Thầy nữ trang... Thầy đã trả lại con... và một trong những cái nhìn của Thầy... đã rơi vào tim con... Con đi theo Thầy... Thầy đã nói. Con có lời Thầy ở trong con: “Con là bùn,
658
nhưng con khát vọng về Thầy là Ánh Sáng”. Con đã nói: “Xin Thầy chữa cho linh hồn con, rồi sau đó, nếu Thầy muốn thì chữa cho thân xác con”. Lạy Chúa! Thầy đã chữa cho thân xác con... Còn linh hồn con?...
- Linh hồn con đã được chữa vì sự thống hối của con. Hãy đi và đừng bao giờ phạm tội nữa. Tội con đã được tha.
Người đàn bà lại cúi xuống hôn gấu áo của Giêsu, rồi bà đứng dậy. Trong khi làm như vậy, chiếc voan của bà tụt ra.
- Bà Galazia! Bà Galazia! - Nhiều người kêu lên. Họ chửi rủa bà và bốc sỏi cát ném lên người đàn bà trong lúc bà còn cúi khom, hoảng sợ.
Giêsu, với cái nhìn nghiêm khắc, Người giơ tay áp đặt sự yên lặng: “Tại sao các con chửi rủa bà? Các con đã không làm vậy khi bà còn là tội nhân. Bây giờ bà đã được cứu chuộc, tại sao các con làm?”
- Bà ta hối cải vì bà ta già và bệnh hoạn - nhiều người kêu lên cách khinh bỉ.
Thực tế thì người đàn bà, dù không còn rất trẻ, nhưng cũng còn xa cỡ gái già và xấu như họ nói. Nhưng đám đông thì là vậy.
- Hãy đi trước Thầy và hãy xuống thuyền. Thầy sẽ hộ tống con về nhà bằng một con đường khác - Giêsu ra lệnh và Người nói với các người của Ngài: “Hãy để bà đi ở giữa các con và hộ vệ bà”.
Nhưng cơn giận của đám đông, bị kích thích bởi một người Israel cố chấp, trở mặt hoàn toàn để chống đối Giêsu. Họ la lối: “Đáng nguyền rủa! Kitô giả! Kẻ bảo vệ gái điếm! Ai bảo vệ chúng tức là ưng thuận chúng. Tệ hơn nữa, ông ta ưng thuận chúng bởi vì ông ta vui hưởng chúng!” và các câu khác cùng loại mà người ta la lối, đúng hơn là họ lải nhải. Nó phát ra nhiều nhất từ một đám nhỏ người Israel hung dữ, tôi không biết họ thuộc tầng lớp nào. Trong khi la lối như vậy, họ ném những nắm cát ướt đập mạnh vào mặt Giêsu. Người giơ tay lên để lau má, không phản đối. Và không phải chỉ vậy, mà còn bằng cử chỉ, Người ngăn cản Chouza và mấy người khác muốn phản ứng để bênh Người. Người nói: “Hãy để cho họ
659
làm. Để cứu một linh hồn, Thầy còn chịu đựng hơn nữa! Thầy tha thứ”.
Zénon, người đàn ông đến từ Antioche, ông không lúc nào rời xa Giêsu, ông kêu lên: “Thực sự bây giờ con biết Thầy là ai: một Thiên Chúa thực chứ không phải nhà hùng biện giả mạo! Cái cô Hy Lạp đã nói sự thực. Các lời Thầy ở nhà tắm hơi đã làm con thất vọng, nhưng những lời ở đây đã chinh phục con. Phép lạ đã làm con ngạc nhiên. Việc tha thứ của Thầy đối với kẻ xúc phạm đã chinh phục con. Con sẽ nghĩ đến Thầy và con sẽ nghiền gẫm các lời Thầy”.
- Chào ông. Nguyện Ánh Sáng soi chiếu con tim của ông.
Chouza lại năn nỉ khi họ đi về cảng, trong khi ở trên đập xảy ra những cãi cọ giữa hai phe: một phe là người Rôma và Hy Lạp, một phe là người Israel và các người khác.
- Đi! Thầy! Vài tiếng đồng hồ thôi mà! Rất cần. Chính con sẽ dẫn Thầy về. Thầy đã nhân hậu với các gái điếm mà Thầy lại muốn khắt khe với chúng con sao?
- Được. Thầy sẽ đến. Thực tế thì cần... - Và Người quay về với các tông đồ đã ở trên thuyền hết: “Hãy đi trước đi. Thầy sẽ đến với các con...”
- Thầy đi một mình sao? - Phêrô hỏi, không mấy bằng lòng.
- Thầy đi với Chouza...
- Hum! Và chúng con không thể đi sao? Tại sao ông lại muốn có Thầy với các bạn ông? Tại sao ông ta không đến Caphanaum?
- Chúng tôi đã đến đó, nhưng qúi vị không có ở đó.
- Các ông chỉ có việc chờ chúng tôi. Đó là tất cả!
- Trái lại, chúng tôi đã đi theo dấu vết của qúi vị.
- Bây giờ hãy đến Caphanaum. Chẳng lẽ Thầy lại phải đến nhà qúi vị?
- Simon có lý - các tông đồ khác nói.
- Nhưng tại sao qúi vị lại không muốn Người đến nhà tôi? Đây đâu phải lần đầu Người đến nhà tôi? Phải chăng qúi vị không biết tôi?
660
- Đương nhiên là chúng tôi biết ông, nhưng chúng tôi không biết những người khác. Vậy đó.
- Nhưng qúi vị sợ cái gì? Sợ rằng tôi là bạn của các kẻ thù nghịch với Thầy sao?
- Tôi không biết gì hết! Tôi chỉ nhớ đến cái chung kết của tiên tri Gioan!...
- Simon! Ông xúc phạm đến tôi. Tôi là con người có danh dự. Tôi thề với ông rằng trước khi người ta lấy đi một sợi tóc của Thầy thì họ phải đâm chết tôi. Ông phải tin tôi. Thanh gươm của tôi, xin dành cho ông.
- Hé!... Nếu họ giết ông, ông... cái đó có ích lợi gì? Sau đó... đúng, tôi tin vậy, tôi tin ông... Nhưng một khi ông chết rồi thì sẽ đến lần Người. Tôi thích cái mái chèo của tôi hơn là thanh gươm của ông, cái thuyền tội nghiệp của tôi, và nhất là con tim đơn sơ của chúng tôi để phục vụ Người.
- Nhưng tôi có Manaen ở với tôi. Ông có tin Manaen không? Và ông pharisiêu Êlêazar mà ông biết, ông trưởng giáo đường Timon và Natanael Ben Fada. Ông không biết ông ta, nhưng đó là một thủ lãnh quan trọng, và ông ta muốn nói chuyện với Thầy. Và có cả Gioan biệt danh Antipa Antipatride, cận thần ưu ái của Hêrôđê cả, bây giờ già nhưng mạnh thế, sở hữu chủ của tất cả thung lũng Gahas và...
- Đủ rồi! Đủ rồi! Ông kể cho tôi những tên lớn, nhưng nó chả nói gì với tôi cả, trừ hai tên... và tôi, tôi cũng đến.
- Không. Họ chỉ muốn nói chuyện với Thầy thôi.
- Họ muốn! Và họ là ai mà họ muốn?! Nhưng tôi, tôi không muốn. Lên thuyền ở đây đi Thầy, và chúng ta dông! Con, con không muốn nghe nói về ai cả. Con chỉ tin được chính mình con thôi. Đi, Thầy. Còn ông, hãy đi bình an và nói với những người khác rằng chúng tôi đâu phải những tên lông bông. Họ biết chúng tôi ở đâu mà! - Và ông đẩy Giêsu với vẻ hơi thiếu nể nang trong khi Chouza lớn tiếng phản đối.
Giêsu quyết định dứt khoát: “Đừng sợ, Simon. Không có gì thiệt
661
hại cho Thầy đâu. Thầy biết, và Thầy đến là tốt. Điều đó tốt cho Thầy. Con hãy hiểu Thầy...” Và đôi mắt tuyệt vời của Người nhìn ông đăm đăm như muốn nói: “Đừng khăng khăng. Hãy hiểu Thầy. Có những lý do khuyên Thầy nên tới đó”.
Phêrô miễn cưỡng nhượng bộ. Ông nhượng bộ như bị khuất phục... nhưng ông lẩm bẩm giữa hai hàm răng, bất bình.
- Hãy đi yên lòng, Simon. Chính tôi sẽ dẫn Chúa tôi và Chúa của ông trở về - Chouza hứa.
- Khi nào?
- Ngày mai.
- Ngày mai! Phải từng ấy giờ để nói hai từ ngữ? Chúng ta đang ở giữa giờ thứ ba và chính ngọ... Trước buổi chiều, nếu Người chưa ở với chúng tôi thì chúng tôi sẽ đến nhà ông. Đừng quên điều đó. Và không phải chỉ có mình chúng tôi... - ông nói điều đó với một giọng không để cho người ta nghi ngờ được về ý định của ông.
Giêsu để tay trên vai Phêrô: “Simon, Thầy đã nói với con là họ sẽ không làm hại gì cho Thầy. Hãy tỏ ra rằng con tin vào bản tính thực sự của Thầy. Chính Thầy nói với con: Thầy biết, họ sẽ không làm gì Thầy cả. Họ chỉ muốn giải thích với Thầy... Đi đi... Hãy dẫn các phụ nữ về Tibêriat. Con cũng hãy dừng lại tại nhà Jeanne. Con sẽ có thể thấy rằng họ không bắt cóc Thầy với thuyền bè và lính tráng”.
- Được. Nhưng nhà ông ta (và ông chỉ vào Chouza), con biết. Con biết rằng ở phía sau có khoảng đất, đó không phải là cái đảo. Đàng sau nó là Galgala, Gamala, Aêra, Arbêla, Gêrasa, Bozra và Pella, và Ramot, và bao thành phố khác nữa!...
- Nhưng đừng sợ, Thầy đã bảo con! Hãy vâng lời. Cho Thầy cái hôn đi, Simon. Hãy đi! Và cả các con nữa - Người hôn họ và chúc lành cho họ. Khi Người thấy các thuyền rời xa ra, Người nói lớn: “Chưa phải giờ của Thầy. Và bao lâu chưa phải giờ của Thầy thì không cái gì, không người nào có thể giơ tay trên Thầy. Chào các bạn”.
Và Người quay về với Jeanne. Bà rõ ràng là xao xuyến và suy
662
tư. Người nói với bà: “Đừng sợ. Điều đó xảy ra là tốt. Hãy đi bình an”. Và với Chouza: “Ta đi, để chứng tỏ với ông rằng Thầy không sợ, và để chữa cho ông”.
- Chúa ơi, con đâu có bệnh...
- Ông bệnh. Chính Thầy nói với ông. Thôi đi.
Người đi lên chiếc thuyền nhẹ sang trọng và ngồi vào đó. Các tay chèo bắt đầu hành trình trên làn nước yên lặng, đi vòng để tránh luồng nước mạnh ở chỗ đó, chỗ đầu hồ, nơi nước hồ đổ vào con sông.
Hết quyển sáu.
MỤC LỤC
76* Đi về bờ phía tây sông Giođan.............................................. 7
77* Tại Galgala ............................................................................ 9
78* Đi về Engaddi. Chia tay với Judas và Simon..................... 19
79* Tới Engaddi .......................................................................... 27
80* Thuyết giáo và các phép lạ tại Engaddi ............................. 30
81* Chữa người cùi Êlisê thành Engaddi .................................. 40
82* Tại Masada. .......................................................................... 47
83* Tại căn nhà ở miền quê của Maria, mẹ Judas.................... 54
84* Từ biệt tại Kêriot ................................................................. 59
85* Anna và Maria Kêriot. Từ biệt bà mẹ Judas. ..................... 65
86* Từ biệt tại Jutta .................................................................... 74
87* Từ biệt tại Hébron ............................................................... 81
88* Từ biệt tại Bétsur ................................................................. 87
89* Tại Béther............................................................................. 94
90* Giêsu với Phêrô và Batôlômêo tại Béther ....................... 101
91* Từ biệt tại Béther .............................................................. 105
92* Chiến đấu và chiến thắng siêu nhiên của Simon Jonas ... 113
93* Khi đi về Emmau tại đồng bằng ....................................... 116
94* Thuyết giáo tại gần Emmau miền đồng bằng .................. 122
95* Tại Joppê. Giêsu nói với Judas Kêriot và các dân ngoại . 138
96* Trong lãnh địa của Nicôđêmô ........................................... 152
97* Tại nhà Giuse Arimathi...................................................... 161
98* Ngày Sabát trong nhà của Giuse Arimathi.
Đại Pháp Đình viên Gioan ................................................ 169
99* Các tông đồ nói chuyện .................................................... 178
100* Phép lạ về việc mót lúa tại vùng đồng bằng.................. 184
101* Các tông đồ với nhau và với Giêsu. Giêsu và Phêrô ..... 193
102* Lễ Ngũ Tuần tại Jêrusalem ............................................. 199
670
103* Giêsu tại bữa tiệc của Đại Pháp Đình viên
và pharisiêu ..................................................................... 209
104* Tại Bêtani ....................................................................... 223
105* Giêsu với người hành khất trên đường đi Jêricô ........... 229
106* Zakê hoán cải ................................................................. 236
107* “Zakê, người thâu thuế và tội lỗi, nhưng không
vì ác ý” ............................................................................ 242
108* “Phúc cho những kẻ nghèo trong tâm hồn” .................... 246
109* Tại làng của Salômôn ...................................................... 250
110* Giêsu trong một làng thuộc miền Thập Tỉnh.................. 257
111* Người bị qủi ám ............................................................... 265
112* Men pharisiêu .................................................................. 277
113* Các con phải nói: “Chúng tôi là đầy tớ vô ích” ............. 287
114* Nếu nó hối hận bảy lần, hãy tha cho nó bảy lần .......... 294
115* “Sống để giáo huấn kẻ khác trong khi khát mong
về trời, đó chính là tử đạo”.............................................. 303
116* Tại Cêsarê Maritime........................................................ 307
117* “Sự khôn ngoan là một hình thức của sự thánh thiện,
nó cho ánh sáng để phán đoán” ..................................... 319
118* “Tôn giáo là tình yêu và sự ước mong đến với đấng
mà chúng ta tin” ............................................................... 336
119* Dụ ngôn vườn nho và ý muốn tự do ............................... 347
120* Khi đi qua đồng bằng Esdrelon ....................................... 356
121* Giêsu và tổ chim bị rơi .................................................... 359
122* Phúc cho kẻ biết nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi sự .... 363
123* Khi đi tiếp trong đồng bằng Esdrelon ............................. 364
124* Với các nông dân của Giocana ....................................... 367
125* Tại Nazarét..................................................................... 377
126* Giêsu nói dụ ngôn về việc sơn gỗ trong khi
Người làm việc ................................................................ 383
127* Các ngày Sabát trong sự bình an của Nazarét ............... 392
128* “Trước khi làm mẹ, mẹ đã là con gái và là
Nữ tì của Thiên Chúa”.................................................... 399
671
129* Giêsu và Maria đàm thoại ............................................... 405
130* Maria tại Tibêriat ............................................................. 408
131* Phải cám ơn ân nhân của chúng ta với lòng biết ơn ...... 417
132* Một ngày Sabát nữa tại Nazarét ..................................... 422
133* Việc khởi hành và cuộc hành trình đi Bétlem
thuộc Galilê...................................................................... 429
134* Judas Kêriot tại nhà Maria ở Nazarét............................ 441
135* Ông ngoại Margziam qua đời ......................................... 449
136* Giêsu nói về đức ái với các tông đồ .............................. 454
137* Giêsu tại Tibêriat ............................................................ 464
138* Giêsu tới Caphanaum ..................................................... 480
139* Giảng thuyết tại miền bờ hồ ở Caphanaum .................. 481
140* Tại Magđala .................................................................... 491
141* Giai đoạn ở Caphanaum. ................................................ 504
Giêsu, người bảo vệ các trẻ nhỏ ................................... 504
142* Tại thị trấn nhỏ ở trước Ippo ........................................... 511
143* Thuyết giáo lúc sớm mai tại thị trấn nhỏ trên bờ hồ..... 521
144* Giảng thuyết gần chỗ cư trú của người cùi.................... 529
145* Giêsu tại Ippo................................................................. 542
146* Đi về Gamala .................................................................. 553
147* Tại Gamala ..................................................................... 561
148* Từ Gamala tới Afêca ...................................................... 578
149* Thuyết giáo tại Afêca ..................................................... 587
150* Tại Gerghesa và trở về Caphanaum............................... 593
151* “Hãy khôn như con rắn và đơn sơ như chim câu” .......... 601
152* Ngày Sabát tại Caphanaum............................................ 608
153* Tại nhà Jeanne Chouza. Lá thơ từ Antioche .................. 618
154* Tại nhà tắm hơi Emmau thuộc Tibêriat ......................... 645
155* Tại Tarichée .................................................................... 653
____________________