Maria Valtorta
TIN MỪNG NHƯ ĐÃ MẶC KHẢI CHO TÔI
QUYỂN THỨ HAI
Năm thứ nhất đời sống công khai
7
1* CHÚA GIÊSU TỪ GIÃ MẸ NGƯỜI
LÚC KHỞI HÀNH TỪ NAZARÉT
(Thị kiến bắt đầu trong lúc rước lễ)
Tôi thấy phía bên trong của căn nhà Nazarét. Tôi thấy một phòng giống như phòng để cư ngụ, nơi gia đình dùng bữa và giải lao vào những giờ nghỉ ngơi. Đó là một phòng rất nhỏ, chỉ có một cái bàn hình chữ nhật và một cái rương đặt ở chân tường dùng làm ghế ở bên cạnh bàn. Phía các bức tường kia, có một cái khung cửi và một ghế đẩu, rồi có hai ghế đẩu khác và một cái kệ với một đèn dầu và vài dụng cụ khác. Một cái cửa mở ra phía vườn. Đây hẳn là buổi chiều, vì chỉ còn một tia mặt trời sau cùng trên đỉnh một ngọn cây cao vừa bắt đầu có những lá xanh đầu tiên.
Giêsu ngồi ở bàn, Người ăn và Maria phục vụ, đi ra đi vào qua cái cửa nhỏ, tôi cho là để tới nơi có bếp lửa mà người ta nhận thấy ánh sáng qua cái cửa hé mở.
Hai ba lần Giêsu bảo Maria ngồi và cùng ăn, nhưng Mẹ không muốn nên lắc đầu mỉm cười buồn bã. Rồi Mẹ mang lên rau luộc có cả nước, như để thay vì canh; rồi cá nướng và một cục phó mát mềm có dạng khối cầu, nhắc ta nhớ tới những cục đá lăn xuống từ con suối, rồi thêm ôliu đen. Bánh có dạng tròn, lớn như cái đĩa, hơi dầy, đã để sẵn trên bàn. Nó khá đen, có chứa cám. Trước mặt Giêsu có một bình nước và một cái ly. Người ăn lặng lẽ, nhìn Mẹ với tình yêu đau đớn.
Maria rõ ràng là đau khổ. Mẹ ra vào để giữ vẻ bình tĩnh. Mặc dù vẫn còn hơi ban ngày, nhưng Mẹ thắp đèn, đặt bên Giêsu và giơ tay vuốt ve Người để che giấu khuôn mặt. Mẹ mở cái giỏ giống như bằng len sống, dệt tay, như vậy nó không thấm nước, có mầu hạt dẻ. Mẹ rờ ở bên trong, rồi đi ra vườn, tới tận cuối vườn, một nơi như để chứa đồ lặt vặt, rồi ra khỏi đó với những trái táo nhăn nheo, chắc là bảo trì từ mùa hè, Mẹ bỏ vào giỏ. Rồi Mẹ lấy một cái bánh và một cục phó mát bỏ vào, mặc dù Giêsu không thấy, và Người đã nói là chỗ còn đó đã đủ rồi.
8
Rồi Maria lại tới gần bàn, chỗ gần Giêsu nhất, ở bên trái Người, và nhìn Người ăn. Mẹ nhìn Người với nỗi buồn, với sự thờ lạy, với khuôn mặt tái mét hơn thường lệ, mà sự đau khổ làm cho già đi, với đôi mắt lớn hơn vì nó bị quầng, dấu vết của những nước mắt đã chảy. Đôi mắt như sáng hơn thường, đã được rửa bằng nước mắt và nó lại đầy, sẵn sàng trào ra. Đôi mắt đau đớn và mệt mỏi.
Giêsu ăn nhẩn nha và rõ ràng là bất đắc dĩ, chỉ là để làm vui lòng Mẹ Người. Người trầm tư hơn thường, ngẩng đầu lên nhìn Mẹ, Người gặp đôi mắt đầy nước, Người liền cúi xuống vì kính trọng sự xúc động. Người chỉ giới hạn ở việc cầm bàn tay tế nhị mà Mẹ tì vào mép bàn. Người lấy tay trái cầm lấy và ép vào má Người. Người vuốt tay Mẹ trên má Người để cảm thấy sự âu yếm của bàn tay tội nghiệp đang run run. Rồi Người hôn vào mu bàn tay với bao là tình yêu và trọng kính.
Tôi thấy Maria lấy tay trái Người bịt lên miệng để cản tiếng nấc. Rồi Mẹ lấy ngón tay lau giọt nước mắt tràn ra khỏi mi và chảy trên má. Giêsu bắt đầu ăn nữa, và Maria chạy rất lẹ, rất lẹ, ra ngoài mảnh vườn nhỏ, bây giờ đã hầu tối, và biến mất trong đó.
Giêsu tì khửu tay trái trên bàn, tì trán vào bàn tay, và chìm vào suy tưởng, quên ăn. Người lắng tai nghe và đứng dậy.
Người cũng ra vườn, và sau khi đã nhìn khắp chung quanh, Người đi về bên tay phải và vào hang đá. Ở bên trong, tôi nhận ra xưởng mộc, bây giờ thứ tự, không bàn mộc, không gỗ lạt, không lửa đốt. Có một cái bàn với các dụng cụ, mỗi thứ vào chỗ của nó. Chỉ có thế.
Maria gục đầu trên bàn và khóc, giống như đứa trẻ: đầu gục trên cánh tay trái khoanh lại để trên bàn. Mẹ khóc không gây tiếng động, nhưng cách đau đớn. Giêsu đi vào, êm nhẹ tới nỗi Mẹ chỉ biết khi Người đặt tay trên đầu Mẹ và nói “Má!” với giọng trách móc yêu đương.
Maria ngẩng đầu nhìn Con Mẹ qua màn nước mắt. Mẹ tì vào Người, hai tay chắp lại, tì vào cánh tay phải của Người. Giêsu lau nước mắt Mẹ bằng tay áo rộng của Người và kéo Mẹ vào ngực
9
Người, hôn lên trán Mẹ. Giêsu rất oai phong, Người có vẻ trưởng thành hơn thường, và Maria có vẻ trẻ, ngoại trừ khuôn mặt ghi dấu đau khổ.
- Đi, má! - Giêsu nói, và Người ghì chặt Mẹ vào Người bằng cánh tay phải. Người lại trở ra vườn rồi ngồi trên một cái ghế dài đặt kề vào tường nhà.
Mảnh vườn yên tĩnh bây giờ chìm trong đêm, chỉ có một vầng trăng đẹp và một ánh sáng ló ra khỏi phòng ăn. Đêm thanh vắng. Giêsu nói chuyện với Maria. Lúc đầu tôi không hiểu các lời, vì chỉ xì xèo, những lời mà Maria chấp nhận và cúi đầu.
Rồi tôi nghe thấy: “Má hãy bảo các người bà con tới, đừng ở một mình. Con sẽ an lòng hơn để làm tròn sứ mệnh. Tình yêu của con không được gây khuyết điểm cho má. Con sẽ năng trở về và con sẽ đón má khi con ở Galilê mà không thể về nhà. Lúc đó má sẽ tới gặp con. Má à, giờ này phải đến... Nó đã bắt đầu khi thiên thần hiện ra với má, bây giờ nó điểm chuông, và chúng ta phải sống với nó, phải không má? Sau đó sẽ đến bình an vì thử thách đã vượt qua, rồi sẽ là niềm vui. Trước hết chúng ta phải băng qua sa mạc này như các tổ phụ, để vào đất hứa. Nhưng Chúa sẽ giúp chúng ta như Người đã giúp các vị. Người sẽ ban cho chúng ta sự trợ giúp như man-na thiêng liêng để nuôi thần trí chúng ta trong cơn thử thách lớn lao nhất. Chúng ta hãy thưa Cha chúng ta...”
Giêsu đứng dậy, Maria làm theo. Họ ngửa mặt lên trời, hai Bánh Thánh sống động rạng rỡ trong đêm. Bằng một giọng rõ ràng, ngắt ra từng chữ, Giêsu đọc nhẩn nha lời cầu nguyện cùng Chúa. Người nhấn mạnh các lời: “Nguyện cho nước Cha đến, nguyện cho ý Cha được nên trọn”, tách rời hẳn hai câu đó với các câu khác. Người cầu nguyện với tay giơ ra, không hoàn toàn như hình Thánh Giá, nhưng như linh mục lúc nói: “Chúa ở cùng anh chị em”. Maria vẫn giữ hai tay chắp lại.
Rồi hai người trở vào nhà. Tôi chưa bao giờ thấy Người uống rượu. Người cầm cái vò ở trên kệ, đổ một tí rượu trắng ra cái cốc có chân và mang lại bàn. Người cầm tay Maria, bó buộc Mẹ ngồi bên
10
Người và uống rượu. Người nhúng bánh vào rượu và đưa cho Mẹ ăn, cương quyết đến nỗi Maria phải nhượng bộ. Giêsu uống hết chỗ rượu còn lại.
Rồi Người ôm ghì Mẹ vào lòng. Giêsu và Maria không nằm để ăn, nhưng ngồi giống như chúng ta. Họ không nói nữa. Họ chờ. Maria vuốt ve bàn tay phải của Giêsu và đầu gối Người. Giêsu vuốt ve cánh tay và đầu Maria.
Rồi Giêsu đứng dậy, Maria làm theo. Họ ôm hôn nhau nhiều lần cách âu yếm, rất nhiều lần. Dường như mỗi lần họ tính rời nhau ra, thì Maria lại ôm ghì lấy Con Mẹ. Đó là Bà Chúa, nhưng sau cùng, đó cũng là bà mẹ, một người má phải chia lìa người con và hiểu biết sự chia lìa này sẽ kết thúc thế nào. Mong rằng người ta đừng nói là Maria không khổ. Trước đây tôi nghĩ vậy, nhưng bây giờ thì không vậy nữa.
Giêsu cầm áo khoác mầu xanh lơ đậm của Người. Người khoác nó lên vai và đội cái nón của nó lên đầu. Rồi Người đeo cái giỏ lên vai để nó không cản bước chân. Maria giúp Người bằng cách sửa sang ngay ngắn áo xống và mũ nón, trong khi vẫn còn vuốt ve Người nữa.
Giêsu đi ra cửa sau khi đã vẽ một cử chỉ chúc lành cho căn nhà. Maria theo Người tới ngưỡng cửa. Họ hôn nhau lần chót.
Con đường thanh vắng và đơn độc, có trăng soi chiếu. Giêsu lên đường. Người còn quay lại hai lần để nhìn Má Người vẫn đứng tì vào ngưỡng cửa, trắng hơn là mặt trăng và sáng láng trong nước mắt yên lặng. Giêsu càng lúc càng xa trên đường sáng trắng. Maria vẫn tựa vào cửa và khóc. Rồi Giêsu biến mất tại một khúc đường quành.
Người đã bắt đầu con đường của kẻ rao Tin Mừng và sẽ kết thúc trên Golgota. Maria trở vào nhà trong nước mắt và đóng cửa lại. Đối với Mẹ, con đường tới Golgota cũng đã bắt đầu. Còn với chúng ta...
11
2*“MARIA KHÓC, VÌ MẸ LÀ ĐẤNG
ĐỒNG CÔNG CỨU CHUỘC”
Lời Chúa Giêsu:
Đây là nỗi khổ thứ bốn của Maria, Mẹ Thiên Chúa: Thứ nhất là việc dâng con trong Đền Thờ, thứ hai là trốn sang Ai Cập, thứ ba là Giuse qua đời, thứ bốn là chia lìa với Cha.
Biết ước muốn của cha linh hướng, hôm qua Cha đã nói với con là Cha muốn vội vã mô tả nỗi đau khổ của chúng ta để người ta hiểu biết. Nhưng như con thấy: chúng được phơi ra ánh sáng do nỗi khổ của Mẹ. Cha đã giải thích việc trốn sang Ai-Cập trước sự dâng con trong Đền Thờ, là vì Cha phải làm vào ngày hôm đó. Cha có lý do của Cha, con cũng hiểu, và con sẽ giải thích cho Cha linh hướng của con cách rõ ràng.
Cha có chương trình luân phiên các chiêm niệm của con với các lời giải thích mà Cha cho con sau đó, cùng với những bài đọc chính tả đúng nghĩa, để nâng cao tâm hồn con và cho con hạnh phúc của thị kiến. Cũng vì với cách này, nó tỏ rõ sự khác nhau giữa cách bày tỏ của con và của Cha. Vả lại, trước bao nhiêu sách vở nói về Cha, nói đi nói lại, thay đổi, tô điểm, nó đã trở thành không thực, Cha muốn ban cho những ai tin vào Cha một thị kiến dẫn họ về với sự thật của thời kỳ Cha sống trên trái đất. Từ đó, Cha không bị giảm thiểu, nhưng trái lại, Cha trở nên lớn lao hơn trong sự khiêm nhường của Cha, là điều phải là bánh của các con, để dạy các con khiêm nhường giống như Cha, một người như các con đã mang dưới lớp áo loài người của Cha sự toàn thiện của một Thiên Chúa. Cha phải là mẫu gương cho các con, và mẫu gương thì phải toàn vẹn.
Trong sự chiêm niệm, Cha đã không theo thứ tự thời gian phù hợp với các sách Tin Mừng. Cha lấy những điểm cha thấy hữu ích hơn cho một ngày cố định đối với con và những người khác, bằng cách theo thứ tự các giáo huấn của Cha, và theo lòng nhân từ của Cha.
Giáo huấn rút ra từ sự chiêm niệm về việc khởi hành của Cha liên can đặc biệt tới các cha mẹ và con cái mà ý Thiên Chúa gọi tới một sự từ bỏ hỗ tương vì một tình yêu cao hơn. Thứ đến, nó liên can tới những người phải đương đầu với một sự từ bỏ nặng nề.
Các con gặp biết bao trong đời sống! Đó là những cái gai của đời sống các con trên trái đất, và nó xuyên thấu con tim. Cha biết. Nhưng với những ai đón nhận nó cách nhẫn nhục - cẩn thận, Cha không nói: “với những ai ước ao nó và đón nhận nó với niềm vui”, đó đã là sự toàn thiện. Cha nói: “cách nhẫn nhục”- nó sẽ biến thành các bông hồng tươi nở đời đời. Nhưng số những người đón
12
nhận nó cách nhẫn nhục thì rất ít. Giống như các con lừa nổi chứng, các con xô đẩy và chống đối phản kháng lại ý muốn của Chúa Cha, nếu không là các con xúc phạm tới Người bằng những hung dữ và cắn xé thiêng liêng, tức là các con phản nghịch, nói phạm tới Thiên Chúa.
Các con đừng nói: “Tôi chỉ có cái của này mà Thiên Chúa lấy mất của Tôi! Tôi chỉ có cái tình cảm này mà Thiên Chúa giựt của tôi!” Maria cũng vậy, một phụ nữ dễ thương, rất tình cảm, vì trong sự “Đầy Ơn”, ngay cả các hình thức tâm tình và xúc cảm cũng toàn vẹn, Mẹ chỉ có một của, một tình yêu duy nhất trên trái đất: Con của Mẹ. Mẹ chỉ có một tình cảm này thôi. Cha mẹ Người đã chết từ lâu, và Giuse chết đã mấy năm rồi. Mẹ chỉ còn có Cha để yêu Mẹ và để Mẹ không cảm thấy cô đơn. Các người bà con, không biết gì về nguồn gốc Thiên Chúa của Cha nên hơi hận thù đối với Mẹ. Đối với họ, Mẹ là người mẹ không biết áp đặt cho con cái làm điều tốt theo nghĩa thông thường, từ chối những chương trình hôn nhân có thể làm rạng rỡ gia đình, và cả có lợi về vật chất.
Bà con theo nghĩa thông thường, cũng là nghĩa loài người - các con gọi nó là nghĩa tốt, nhưng đó là nghĩa loài người, tức là ích kỷ - các bà con muốn có những thay đổi thực tiễn trong đời Cha. Thực ra, họ sợ một ngày kia sẽ bị phiền, vì Cha đã dám bầy tỏ những tư tưởng qúa lý tưởng đối với họ, và có thể làm lu mờ giáo đường. Lịch sử dân Hy Bá đầy những giáo huấn về số phận của các tiên tri. Sứ mạng của các tiên tri không phải sứ mạng dễ dàng. Nó thường dẫn tới cái chết cho vị tiên tri và phiền phức cho bà con họ hàng. Thực sự, họ luôn luôn có tư tưởng là một ngày kia sẽ phải bắt Mẹ Cha chịu trách nhiệm.
Vậy họ không sẵn sàng để thấy rằng Mẹ Cha không phản đối điều gì, và vẫn tiếp tục tôn thờ Con Mẹ. Sự phản đối này gia tăng trong ba năm sứ mạng của Cha, và đi tới chỗ khiển trách công khai: khi họ đến tìm Cha giữa đám đông, và xấu hổ vì sự kỳ cục của Cha, theo họ, là đụng độ với giai cấp quyền thế. Sự khiển trách hướng về Cha và Mẹ, người mẹ tội nghiệp.
13
Maria biết thái độ của bà con, vì không phải tất cả đều giống Giacôbê, Juđa và Simon cũng như mẹ họ: Maria Clêopha. Và Mẹ thấy trước là tính tình này sẽ đi tới đâu. Mẹ biết Mẹ sẽ có số phận nào trong vòng ba năm, và số phận nào chờ Mẹ sau đó, cũng như số phận của Cha. Nhưng Mẹ không chống đối như các con. Mẹ khóc. Ai có thể không khóc khi từ biệt người con yêu mẹ như Cha yêu, với tư tưởng những ngày dài không còn Cha ở đó, trong căn nhà đơn côi, trước viễn ảnh là con mình sẽ phải đụng độ với sự độc ác của loài người, những kẻ cảm thấy mình có tội, và tội đẩy họ tới chỗ tấn công kẻ vô tội, tới nỗi muốn giết nó.
Mẹ đã khóc bởi vì Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, và là mẹ loài người khi họ nhận được từ Thiên Chúa một sự sống mới. Mẹ phải khóc cho tất cả những người má không biết làm cho đau khổ người mẹ của họ thành triều thiên vinh quang đời đời.
Trong thế giới có biết bao bà mẹ mà cái chết đã giật người con khỏi tay họ! Bao nhiêu người mẹ mà một ý muốn siêu nhiên đã lấy các người con khỏi họ. Maria đã khóc cho tất cả các con gái của Người như người mẹ của các Kitô hữu; cho tất cả những chị em của Người, trong sự đau khổ làm mẹ cô đơn của họ, và cũng cho tất cả các con cái sinh bởi người nữ, được tiền định trở nên tông đồ của Thiên Chúa, và tử đạo vì tình yêu Thiên Chúa bằng sự trung thành với Thiên Chúa hay bởi sự độc ác của loài người.
Máu Cha và nước mắt Mẹ là một hỗn hợp củng cố cho những kẻ được gọi tới một định mệnh anh hùng, là cái xóa bỏ sự bất toàn của họ, và cả những tội vì yếu đuối của họ, trong khi cho họ, ngoài ơn tử đạo, dù bằng cách nào, sự bình an của Thiên Chúa, và vinh quang trên trời nếu họ chịu đựng vì Thiên Chúa.
Các nhà truyền giáo sẽ thấy nó là ngọn lửa sưởi ấm cho họ trong xứ đầy tuyết giá. Họ tìm thấy nó như sương mát trong xứ đầy mặt trời cháy nóng. Nước mắt của Maria nảy sinh ra từ lòng bác ái của Người, và vọt ra từ trái tim trong trắng của Người. Vậy nó có Đức Ái trinh trong kết hợp với tình yêu. Lửa và sự trinh trong nguyên tuyền là hương thơm tươi mát giống như nước đọng trong vành hoa của một bông huệ sau một đêm mưa sương.
14
Các linh hồn thánh hiến sẽ tìm thấy nó trong sa mạc của đời sống tu viện đúng nghĩa: Sa mạc, vì họ chỉ sống bằng sự kết hợp với Thiên Chúa, và tất cả các tình cảm khác đều tươi nở bằng cách trở nên đức ái siêu nhiên hoàn toàn: đối với cha mẹ, bạn hữu, người trên kẻ dưới.
Họ sẽ tìm thấy cái hỗn hợp thuộc về Thiên Chúa này: những kẻ thánh hiến cho Thiên Chúa ở giữa đời, nơi họ không được hiểu, không được yêu, cũng là sa mạc, nơi họ sống như họ đơn độc, vì họ không được hiểu và bị chế nhạo, vì tình yêu họ mang đến cho Cha.
Họ sẽ tìm thấy nó: các “nạn nhân” yêu dấu của Cha, bởi vì Mẹ Maria là người đầu tiên là nạn nhân vì tình yêu Giêsu và những kẻ theo Người. Bằng bàn tay từ mẫu và thầy thuốc, Mẹ cho những nước mắt củng cố của Mẹ và làm cho say sưa vì một hy sinh cao cả hơn. Nước mắt thánh của Mẹ Cha!
Maria cầu nguyện. Mẹ không từ chối cầu nguyện khi Thiên Chúa để Mẹ đau đớn. Hãy nhớ lấy điều đó. Mẹ cầu nguyện với Giêsu. Mẹ cầu nguyện cùng Cha, Cha chúng ta, Cha các con.
Kinh Lạy Cha được đọc lần đầu tiên trong vườn Nazarét để an ủi nỗi khổ của Maria, để hiến dâng ý muốn của chúng ta cho Thiên Chúa, vào lúc bắt đầu của giai đoạn từ bỏ ý muốn này mỗi lúc một hơn cho tới tột đỉnh của nó: với Cha là sự từ bỏ sự sống, với Maria là cái chết của Con Mẹ.
Chúng ta không có gì để Chúa Cha phải tha thứ, nhưng chúng ta, những kẻ không hề có tội, chúng ta đã xin sự tha thứ của Cha để được tha, được xá giải, dù chỉ một cái thở dài ngược với phẩm giá của sứ mạng của chúng ta, để dạy cho các con rằng người ta càng ân nghĩa với Thiên Chúa thì sứ mạng càng được chúc phúc và sinh hoa trái; để dạy các con sự kính trọng Thiên Chúa và sự khiêm nhường. Trước dung nhan Thiên Chúa Cha, dù chúng ta là người nam và người nữ toàn vẹn, cũng cảm thấy mình là không, nên đã xin ơn tha thứ cũng như xin bánh hàng ngày.
Bánh của chúng ta là gì? Không phải thứ bánh đã được nhào bởi bàn tay trinh khiết của Maria, và được nướng trong chiếc lò nhỏ mà
15
bao lần Cha đã bổ củi và nhóm lửa. Bánh đó cũng cần bao lâu người ta còn ở trên mặt đất. Nhưng bánh hàng ngày của chúng ta là làm trọn từng ngày một, công việc thuộc sứ mệnh của chúng ta. Xin Thiên Chúa ban nó cho chúng ta mỗi ngày, vì làm tròn sứ mệnh Thiên Chúa trao là niềm vui cho ngày giờ của chúng ta, có phải không Gioan nhỏ ? Con đã chẳng nói rằng ngày giờ trống rỗng đối với con, làm như nó không hiện hữu đối với con nếu Thiên Chúa để cho con một ngày không có sứ mệnh chịu đau khổ sao?
Maria cầu nguyện cùng với Giêsu. Các con ơi! Chính Giêsu biện minh cho các con. Chính Cha làm cho lời cầu nguyện của các con có thể chấp nhận và có thể lợi ích trước mặt Chúa Cha. Cha đã nói: “Mọi sự các con xin cùng Chúa Cha nhân danh Cha, Người sẽ nhận lời”. Và Giáo Hội đã làm cho giá trị lời cầu nguyện của mình khi nói: “Vì Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con”.
Khi các con cầu nguyện, hãy luôn luôn, luôn luôn, luôn luôn kết hợp với Cha. Cha sẽ cầu nguyện lớn tiếng cho các con, làm át tiếng nói loài người của các con bằng tiếng nói Người-Thiên-Chúa của Cha. Cha sẽ đặt lời cầu của các con trên bàn tay bị xuyên thâu của Cha và Cha dâng lên Chúa Cha, nó sẽ trở nên Bánh Thánh vô giá. Tiếng nói Cha tan hoà với tiếng nói các con sẽ như cái hôn của con thảo bay lên tới Chúa Cha, và mầu đỏ thẫm của các vết thương Cha sẽ làm cho lời cầu của các con thành qúi báu. Hãy ở trong Cha nếu các con muốn Chúa Cha ở trong các con, với các con, cho các con.
Con đã chấm dứt bài tường thuật bằng cách nói: “Còn với chúng ta...”, là con đã muốn nói: “Còn với chúng ta là những kẻ qúa vô ơn đối với hai đấng đã trèo lên Calvê vì chúng ta!” Con đã làm rất phải khi để những chữ này. Hãy để nó mỗi khi Cha cho con thấy một trong những đau khổ của chúng ta. Cầu cho nó như tiếng chuông kêu gọi chiêm ngắm và sám hối.
Lúc này thì đủ rồi. Con hãy nghỉ ngơi. Bình an cho con.
3* CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
16
TẠI SÔNG GIOĐAN
Lời Chúa Giêsu:
Những điều con đã viết hôm 30 tháng giêng có thể nên dịp cho các kẻ nghi ngờ bày ra những “nhưng” và những “nếu” của họ. Chính Cha sẽ trả lời thay cho con. Con đã viết: “... Khi con thấy như vậy, các sức lực của cơ thể con, đặc biệt là qủa tim, chịu đựng một sự phân tán lớn lao”. Chắc chắn sẽ có những tiến sĩ của những “không thể được” sẽ nói: “Đó là bằng cớ rằng những điều xảy đến cho bà ta là thuộc về con người, vì sự siêu nhiên thì luôn luôn có sức mạnh và không bao giờ yếu đuối”. Vậy họ hãy giải thích cho Cha tại sao những cuộc xuất thần vĩ đại, trong đó có những điều vượt qúa khả năng con người như loại trừ sự đau đớn hay trọng lượng của vật chất, các hậu qủa của các vết thương bên ngoài hay sự xuất huyết trầm trọng... lại được khen như những điều thật đẹp đối với họ. Và dù thể lực vẫn còn, nhưng sau đó, khi sự xuất thần vừa chấm dứt, họ bất tỉnh trên đất, tới nỗi làm cho người ta nghĩ rằng linh hồn họ đã lìa xác? Họ cũng hãy cắt nghĩa cho Cha tại sao sau vài giờ của cơn hấp hối kinh khủng, nhắc lại cơn hấp hối của Cha, như trường hợp tớ nữ Têrêsa của Cha, như cơn hấp hối của tôi tớ Gemma của Cha và của nhiều linh hồn khác, mà tình yêu của Cha và của họ đã làm cho họ đáng được sống cuộc khổ nạn của Cha. Những người này đã phục hồi sức khoẻ và sự cân bằng về thể lực mà cả những người khỏe mạnh nhất cũng không có.
Cha là chủ của sự sống và sự chết, của sức khỏe và bệnh tật. Cha sử dụng các tôi tớ Cha theo ý Cha, giống như sợi chỉ đẹp là một đồ chơi trong tay Cha. Phép lạ ở nơi con là điều này: Trong tình trạng thể lực của con, tình trạng được kéo dài cách lạ lùng, làm con có thể đạt tới phước lộc này mà không chết, bằng chứng của những chuyển vận trong khi con yếu nhược tới nỗi nếu là người khác, thì dù nghĩ tới một tư tưởng thô sơ nhất cũng không thể. Phép lạ ở trong những sinh lực chảy vào trong con cho những giờ này, cũng như nó chảy vào trong con vào những giờ con viết những bài được đọc, hay những lời của Trời mà các thần trí khác mang tới cho con. Phép lạ ở trong việc tái thủ đắc sức mạnh cách thình lình sau khi niềm vui đã tiêu hao trong con chút sức lực còn lại để con viết. Sức lực này chính Cha chuyển vào cho con, giống như máu từ Cha chuyền vào cho các mạch bị cạn kiệt của con như làn sóng đổ vào bờ và tưới cho nó. Bờ bãi được tưới khi làn sóng tắm cho nó, rồi nó lại khô cho tới làn sóng mới. Đó giống như công việc làm con hao mòn dòng máu của Cha cho tới lần chuyển máu khác.
Con, về phần con, con chỉ là không. Con là một thực thể tội nghiệp đang hấp hối. Con làm việc vì Cha muốn, cho mục đích của Cha. Con là tạo vật tội nghiệp, chỉ có giá trị về tình yêu của con. Con không có công trạng nào khác ngoài tình yêu và ước muốn tình yêu cho người khác, vì tình yêu đối với Thiên Chúa của con. Đó là điều biện minh cho thực thể của con, và lòng nhân hậu của Cha đã giữ sự sống cho con, trong khi theo như loài người thì con người của con đã nhượng bộ cái chết từ lâu rồi. Cảm tưởng lại trở thành một “miếng giẻ” như con nói, khi Cha ngừng mang con đi với Cha trong cánh đồng chiêm niệm và nói với con, cho con và cho những người khác, là bằng chứng rằng tất cả những gì xảy ra, là xảy ra duy nhất do ý muốn của Cha. Nếu ai suy nghĩ một cách nhân loại rằng: với cùng một ý muốn và cùng một tình yêu, Cha có thể chữa con, và đó sẽ là
17
cách tốt hơn để chứng tỏ tình yêu và lòng nhân hậu của Cha. Cha trả lời rằng Cha luôn luôn giữ sự sống cho các tôi tớ Cha, bao lâu Cha thấy rằng sứ mạng của họ còn phải tiếp tục, nhưng Cha không bao giờ tạo cho họ một đời sống loài người sung sướng, vì công việc của Cha thực hiện trong và bởi đau khổ. Và ngoài ra, các tôi tớ Cha chỉ có một ước nguyện giống như Cha: Đau khổ để cứu chuộc. Vậy đừng nói là: “phân tán sức lực”, hãy nói là: “sau khi lòng tốt của Giêsu đã làm biến đi tình trạng tật nguyền của tôi vì ý hướng của Người và vì niềm vui của tôi, tôi lại trở về tình trạng của tôi như Người chấp
nhận: bị đóng đinh bởi tình yêu Người và vì tình yêu Người”. Bây giờ hãy tiến lên trước với sự vâng lời đầy tình yêu. Cũng là ngày 3-2-1944, vào buổi chiều:
Tôi thấy một cánh đồng không người ở, không hoa mầu, không có các thửa ruộng trồng cấy, chỉ thấy thấp thoáng đó đây vài bụi cây như thuộc loại rau cỏ tại những chỗ đất thấp và ít khô cằn. Nhận xét rằng những đất đai khô cằn và không trồng cấy này ở bên phải tôi, trong khi phía bắc thì ở sau lưng tôi, và như vậy, tôi nhìn về hướng nam.
Ở bên trái, tôi thấy một dòng sông có bờ thấp, cũng chảy chậm từ bắc xuống nam. Theo sự chuyển động rất chậm của dòng sông, tôi hiểu lòng sông không phải là bờ dốc mạnh, và con sông này chảy qua một chỗ lõm của đồng bằng. Dòng nước chỉ vừa đủ để ngăn cản nước đọng và làm thành đầm lầy. Nước không sâu. Đó là nơi người ta nhìn thấy đáy. Tôi đoán chiều sâu không qúa một mét, tối đa là một mét rưỡi. Rộng như từ Arno tới Saint Miniato-Empoli: tôi nói khoảng hai chục mét. Nhưng sự đo lường bằng mắt của tôi chỉ là phỏng chừng. Nước có mầu xanh lơ, ở gần bờ thì hơi ngả mầu xanh lá cây, vì ở bờ, ẩm độ giữ cho có một giải cỏ xanh, làm vui cho con mắt mỏi mệt vì cảnh bao la của đá và cát trải ra không cùng ở phía trước.
Tiếng nói nội tâm mà tôi đã giải thích cho qúi vị rồi, cho tôi nghe thấy và giải thích cho tôi điều tôi phải nhận xét và phải biết, đã báo cho tôi rằng tôi thấy thung lũng sông Giođan. Tôi gọi nó là thung lũng, vì đó là thói quen gọi nơi có một dòng sông, nhưng ở đây tôi thấy không chính xác để gọi nó bằng cái tên đó, vì một thung lũng thì phải có các đồi, nhưng ở quanh đây tôi không thấy
18
đồi. Tóm tắt, tôi đang ở gần sông Giođan, và cảnh hoang vu tôi thấy ở bên phải tôi là sa mạc xứ Juđa.
Nếu nói sa mạc tức là nơi không có người ở, không dấu vết công việc của loài người, thì nó ít thích hợp đối với tư tưởng của chúng ta về sa mạc. Ở đây không có cồn cát như chúng ta nghĩ, nhưng chỉ là đất trơ trụi, lủng củng đá và đồ gằm, giống như các mảnh đất bồi sau trận lụt. Ở rất xa là các ngọn đồi, rồi ở gần Giođan là hoàn toàn an bình, một sắc thái đặc biệt vượt quá sắc thái của các phong cảnh thông thường, có cái gì nhắc ta nhớ tới điều ta cảm thấy ở bờ hồ Trasimène. Đó là nơi kêu gọi các đường bay thiên thần và các tiếng nói Thiên Quốc. Nhưng tôi có cảm tưởng là tôi đang ở trong một nơi để nói chuyện với thần trí.
Trong khi đang nhận xét như vậy, tôi thấy một cảnh đầy những người ở dọc bờ hữu ngạn của Giođan - so với tôi - Có rất nhiều người ăn mặc khác nhau. Một số giống như người dân thường, một số có vẻ giầu. Khá nhiều người có vẻ giống pharisiêu, vì y phục của họ trang điểm những tua rua và băng giải.
Ở giữa có một người đứng trên tảng đá mà vừa thấy là tôi nhận ra ông Tẩy Giả, dù tôi mới thấy ông lần đầu. Ông nói với đám đông mà tôi bảo đảm với qúi vị là bài giảng của ông thiếu êm dịu. Giêsu đã gọi Giacôbê và Gioan là “con cái sấm sét”. Vậy phải có tên nào để đặt cho nhà hùng biện hung hăng này? Người ta có thể gọi Gioan Tẩy Giả là: tiếng sét, núi lở, động đất, vì ông hách dịch chừng nào trong sự hùng biện và các cử chỉ của ông. Ông nói về việc Đấng Messi đến và cổ võ các thính giả của ông sửa soạn tâm hồn họ, bằng cách loại bỏ những ngổn ngang, và bằng cách dựng dậy tư tưởng của họ. Nhưng đó là cách nói cuồng nhiệt và cứng cỏi. Vị Tiền Hô không có bàn tay êm nhẹ của Giêsu để săn sóc các vết thương lòng. Đó là vị thầy thuốc lột trần ra, khám xét và cắt tỉa không thương hại.
Trong khi tôi nghe - tôi không nhớ được các lời ông, vì đó là những lời của các Phúc Âm thánh sử, nhưng nó trào ra trong một bài thuyết trình thác đổ - tôi thấy Giêsu của tôi tiến đến theo đường
19
mòn có cỏ xanh và bóng mát dọc theo sông Giođan. Con đường miền quê này, lối mòn thì đúng hơn là con đường, được vạch ra bởi các đoàn du mục và các khách du hành, trong hàng bao thế kỷ đã đi để tới nơi khúc sông mà lòng sông trồi lên, có thể lội qua được. Lối mòn tiếp tục ở bờ bên kia và mất đi trong mầu xanh của bờ bãi.
Giêsu có một mình. Người tiến bước từ từ và tới đàng sau Gioan Tẩy Giả. Người đi, không gây tiếng động, trong khi nghe tiếng nói sang sảng của sự Sám Hối nơi sa mạc, tựa như Giêsu cũng là một trong vô số kẻ đến với Gioan để được rửa, chuẩn bị sự thanh tẩy để đón Đấng Messi. Không có gì phân biệt Giêsu với những người khác. Người giống dân thường về y phục, giống ông chúa về sắc đẹp và các nét của Người, nhưng không có dấu hiệu gì về Thiên Chúa phân biệt Người với đám đông.
Chắc hẳn Gioan cảm thấy một thần khí siêu nhiên đặc biệt. Ông quay lại và nhận ngay ra nguồn gốc của thần khí này. Ông chạy xuống khỏi tảng đá dùng làm tòa giảng của ông. Và với vẻ thong dong, ông tiến về phía Giêsu đang đứng tựa vào một gốc cây cách sau đám đông vài mét.
Giêsu và Gioan nhìn nhau một lát. Giêsu với cái nhìn mầu Trời rất êm dịu. Gioan với đôi mắt nghiêm khắc, rất đen, đầy chớp sáng. Hai người lại gần, người nọ đối diện người kia. Cả hai đều cao lớn - điều giống nhau duy nhất - tất cả những gì còn lại đều khác nhau. Giêsu tóc hoe vàng, để dài, chải thứ tự, da trắng ngà, mắt xanh da trời, y phục đơn giản nhưng oai phong. Gioan tóc đen, bù xù, thả rơi xuống vai, cắt bậc thang, với bộ râu đen cắt ngắn, phủ hầu hết khuôn mặt, không để lộ đôi má lõm vì chay tịnh. Đôi mắt đen như lên cơn sốt, da ngăm đen vì mặt trời và mưa gió, bao phủ bằng lớp lông dầy, nửa mình trần với chiếc áo da lạc đà được giữ ở thắt lưng bằng sợi giây da, phủ lấy thân mình, dài xuống vừa qua bộ sườn gầy, để lộ xương sườn phía tay mặt, những xương sườn chỉ được phủ bằng y phục duy nhất là làn da cháy nám. Mặt đối mặt, đúng là một người mọi với một thiên thần.
Gioan, sau khi đã nhìn đăm đăm trên Người bằng cái nhìn xuyên thấu, liền kêu lên: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa. Làm sao lại có
20
thể là Chúa tôi đến cùng tôi?”
Giêsu trả lời điềm đạm: “Để hoàn thành nghi thức sám hối”.
- Lạy Chúa! Không bao giờ đâu. Chính tôi phải đến cùng Ngài để được thánh hóa. Vậy mà Ngài lại đến với tôi.
Giêsu để tay lên đầu ông, vì Gioan cúi mình trước mặt Người, Người trả lời: “Hãy để mọi việc xảy ra như Ta muốn, để làm trọn mọi điều công chính, và để nghi thức của anh dẫn con người tới mầu nhiệm cao cả hơn, để họ được loan báo rằng Nạn Nhân đã ở trong thế giới”.
Gioan quan sát Người với con mắt mà một giọt nước mắt đã làm cho êm dịu cái nhìn của ông, rồi ông đi trước Người tới bờ sông. Giêsu cởi áo khoác và áo dài của Người, chỉ giữ lại chiếc quần đùi và đi xuống nước, nơi Gioan đã đứng. Gioan rửa cho Người bằng cách đổ nước sông trên đầu Người, nhờ một vật giống như cái gáo ông đeo ở thắt lưng, trông như một mảnh vỏ bầu khô.
Giêsu thực là con chiên trắng với làn da của Người, với các đường nét nhũn nhặn, với cái nhìn êm đềm...
Khi Giêsu lên bờ và mặc áo, Người trầm tư cầu nguyện. Gioan chỉ Người cho đám đông và minh chứng rằng đã nhận ra Người nhờ dấu hiệu mà Thánh Thần Thiên Chúa đã chỉ cho ông, và chỉ định cách chắc chắn Đấng Cứu Thế.
Nhưng tôi bị lôi kéo bởi cảnh tượng Giêsu cầu nguyện, và tôi không còn thấy gì khác ngoài khuôn mặt sáng láng nổi bật trên nền xanh của bờ sông.
4* “GIOAN KHÔNG CẦN MỘT DẤU HIỆU NÀO”
Lời Chúa Giêsu:
Gioan không cần dấu hiệu nào cho chính ông. Thần trí ông được tiền thánh hóa từ trong lòng mẹ, đã có cái nhìn siêu nhiên thông minh, là phần số của tất cả những người không mắc tội của Ađam.
Nếu con người vẫn ở trong tình trạng Ân Sủng, trong sự vô tội và sự trung thành với đấng Tạo Hóa của nó, thì nó sẽ thấy Thiên Chúa
21
qua những diện mạo bề ngoài. Sách Sáng Thế nói rằng Chúa là Thiên Chúa nói cách thân mật với con người vô tội, và con người không ngất xỉu khi nghe tiếng nói này, họ phân biệt được nó và không bị lầm. Đó là phần số của con người: Thấy và hiểu Thiên Chúa như người con đối với cha nó. Rồi tội lỗi đã đến và con người không còn dám nhìn Thiên Chúa nữa, không thể biết khám phá và hiểu Thiên Chúa, và nó biết càng ngày càng ít.
Nhưng Gioan, ông anh họ Gioan của Cha, đã được thanh tẩy khỏi tội khi Đấng Đầy Ơn cúi xuống để ôm Êlisabét cách yêu thương, người mà trước đây son sẻ, bây giờ sinh nở. Bào thai đã nhảy mừng trong lòng mẹ nó, khi nó cảm thấy cái vảy của tội lỗi rơi xuống khỏi linh hồn nó, giống như cái vảy rơi khỏi vết thương khi nó lành. Thánh Thần đã làm cho Maria thành Mẹ Đấng Cứu Tinh, đã bắt đầu công cuộc cứu rỗi của Người qua Maria, chiếc Bình Thánh sống của Phần Rỗi nhập thể, cho đứa trẻ sắp sinh này, được tiền định để liên kết với Cha, không phải bởi máu huyết cho bằng bởi sứ mạng, đã làm cho chúng ta thành như môi trường đào tạo lời nói. Gioan là môi miệng và Cha là lời nói. Ông là vị Tiền Hô trong Tin Mừng với định mệnh tử đạo. Cha là đấng ban sự toàn thiện của Thiên Chúa cho Tin Mừng được Gioan khánh thành, và sự tử đạo của ông là để bảo vệ Lề Luật của Thiên Chúa.
Gioan không cần dấu hiệu nào cả, nhưng vì thần trí mờ đặc của những người khác nên một dấu hiệu là cần thiết. Gioan đã đặt nền móng cho sự xác nhận của ông trên cái gì, nếu không phải là trên bằng cớ không thể chối cãi được, mà con mắt loài người chậm chạp nhìn ra, và đôi tai loài người lười biếng nhận biết.
Cha cũng vậy, Cha không cần thanh tẩy, nhưng sự khôn ngoan của Chúa đã xét rằng đây là thời điểm và cách thế để gặp nhau, bằng cách làm cho Gioan ra khỏi hang đá của sa mạc và Cha ra khỏi nhà, để tụ họp chúng ta vào lúc này, để mở trời ra ở trên Cha, và chính Người, chim bồ câu Thiên Chúa, xuống trên đấng sẽ rửa loài người cùng với chim bồ câu này, và làm cho từ trời phát ra lời tuyên bố mạnh mẽ về tư tưởng thần linh của Cha: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta được thỏa lòng vì Người”. Đó chính là để loài người
22
không thể chữa lỗi hay nghi ngờ về việc có nên theo Cha hay không.
Những biểu dương của Đấng Kitô thì rất nhiều: Lần thứ nhất sau kỳ sinh nhật là việc các nhà Đạo Sĩ, lần thứ hai là ở Đền Thờ, thứ ba là ở bờ sông Giođan. Rồi đến những biểu dương vô kể khác mà Cha đã làm cho biết, vì những phép lạ của Cha là những biểu dương về Thiên Tính của Cha, cho tới sự biểu dương sau cùng là việc sống lại và lên trời của Cha. Quê hương của Cha được đầy dẫy những biểu dương của Cha, giống như hạt giống vãi ở bốn phương trời, nó lan tràn tới mọi tầng lớp và mọi nơi của đời sống: với các mục đồng, các kẻ quyền thế, các kẻ thông thái, kẻ cứng lòng tin, kẻ tội lỗi, các thầy cả, các kẻ thống trị, các trẻ nhỏ, lính tráng, Hy Bá, dân ngoại.
Ngày nay nó vẫn còn nhắc lại, nhưng cũng như khi đó, thế giới không chấp nhận chúng, hay đúng hơn, họ không chấp nhận các phép lạ hiện thời, và họ quên các phép lạ qúa khứ. Nhưng Cha không từ bỏ. Cha nhắc lại để cứu các con, để dẫn các con tới đức tin vào Cha.
Maria, con biết điều con làm không, đúng hơn là điều Cha làm trong khi cho con thấy lại Tin Mừng? Đó là một cố gắng lớn lao nhất để dẫn loài người đến với Cha. Con đã ước ao điều đó bằng lời cầu nguyện tha thiết của con. Cha không chỉ giới hạn ở lời nói nữa, Lời đã mệt mỏi và làm cho người ta lánh xa nó. Đó là một tội, nhưng như vậy đó. Cha đã cầu cứu tới các thị kiến, thị kiến về Tin Mừng của Cha, và Cha giải thích nó để làm cho nó sáng tỏ hơn và lôi cuốn hơn.
Với con, Cha ban sự an ủi bằng thị kiến, với mọi người, Cha ban phương tiện để ước ao Cha và hiểu biết Cha. Và nếu nó cũng vô ích, hay nếu họ giống như các trẻ nhỏ, họ vất bỏ ân huệ, không hiểu về giá trị của nó, thì với con, ân huệ vẫn còn, và với họ, sẽ là sự phẫn nộ của Cha. Cha có thể lại một lần nữa, nói lời khiển trách xa xưa: “Chúng ta đã thổi sáo mà các anh không nhảy, chúng ta đã kêu lời than van mà các anh không khóc”.
Nhưng không sao, hãy để cho họ, những người “không thể hoán cải” thu góp than hồng trên đầu họ. Chúng ta hãy quay về với các con chiên đang tìm biết người mục tử. Mục tử là Cha, và con là cái gậy để dẫn chúng về với Cha.
Nhưng qúi vị thấy, tôi đã vội vã viết chi tiết này, vì lẽ nó nhỏ mọn nên tôi dễ quên, và đó là những điều mà qúi vị muốn biết.
Rồi hôm nay, khi đọc lại tập giấy, tôi thấy một câu của Chúa Giêsu có thể dùng làm kỷ cương cho ta. Sáng nay qúi vị đã nói rằng qúi vị không thể phổ biến những lối diễn tả về phong cách riêng của cá nhân tôi, và tôi là một kẻ nhát gan nổi tiếng, nên tôi rất
23
bằng lòng về điều đó. Nhưng qúi vị không thấy rằng điều đó hình như trái ngược với những điều vị Thầy đã nói trong bài đọc ở tập sau cùng sao? “Con càng chú ý và chính xác (trong sự diễn tả về những điều tôi thấy), thì số những kẻ đến với Cha sẽ càng quan trọng”. Điều đó có nghĩa là những diễn tả phải được biết đến. Nếu không, làm sao có thể để cho các linh hồn đến với Giêsu tự nhận lấy ơn phúc cho mình. Tôi chịu nhận qúi vị điểm này, rồi hãy làm những gì qúi vị thích. Cả đến tôi cũng đồng ý với qúi vị về phương diện nhân loại. Nhưng ở đây, chúng ta không ở trong lãnh vực nhân loại, và cả đến nhân tính của các kẻ xướng ngôn phải biến đi. Ngay trong bài đọc hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói: “... bằng cách cho con nhìn thấy Tin Mừng của Cha, Cha đã làm một cố gắng lớn lao nhất để lôi kéo loài người. Cha không chỉ giới hạn ở lời nói nữa... Cha đã cầu cứu đến các thị kiến, và Cha giải thích nó để làm cho nó thành sáng tỏ và hấp dẫn hơn”. Vậy thì sao?
Nhưng vì tôi là một sự hư vô tội nghiệp, và tự mình tôi, tôi xếp ly lại ngay trên tôi, tôi sẽ nói rằng nhận xét của qúi vị làm tôi băn khoăn, và lợi dụng nó để an hưởng, để cho rằng tôi băn khoăn tới nỗi nó làm tôi nghĩ tới sẽ không viết những điều tôi thấy nữa, mà chỉ viết những bài được đọc. Nó thổi vào tim tôi: “Mày thấy không? Những thị kiến nổi tiếng của mày hoàn toàn vô ích, chỉ dùng để cho người ta coi mày như con điên, vì thực sự mày như vậy. Mày nhìn thấy gì? Những con dòi của khối óc đảo lộn của mày. Phải rất cần có những gì khác mới đáng được nhìn thấy trời cao chứ!” Và suốt ngày, tôi phải ở dưới cái tia ăn mòn của sự cám dỗ này. Tôi bảo đảm với qúi vị rằng tôi không phải khổ vì sự đau đớn dữ dằn của cơ thể tôi cho bằng vì điều này. Nó muốn dẫn tôi tới thất vọng. Hôm nay, ngày thứ sáu của tôi là một ngày cám dỗ thiêng liêng. Tôi nghĩ đến Giêsu ở trong sa mạc và ở Gétsêmani.
Nhưng tôi không thú nhận bị thua tên qủi xảo quyệt này để không làm ai cười. Và trong khi chiến đấu với nó và với những gì ít thiêng liêng nơi tôi, tôi viết cho qúi vị niềm vui của tôi hôm nay, đồng thời bảo đảm với qúi vị rằng đối với tôi, tôi sẽ rất thoải mái nếu Giêsu lấy đi ơn được thị kiến là niềm vui lớn lao nhất của tôi, miễn là Người giữ tôi trong tình yêu và lòng thương xót của Người.
5* GIÊSU BỊ MA QỦI CÁM DỖ TRONG SA MẠC
Tôi thấy nơi sỏi đá cô đơn mà tôi đã thấy ở bên trái tôi trong thị kiến về Chúa chịu phép rửa ở sông Giođan, nhưng tôi phải tiến sâu vào đó, vì sự thực, tôi không còn thấy dòng sông đẹp với mầu xanh lững lờ trôi, cũng không thấy những giải mầu xanh lá cây dọc hai bên bờ, được thủy lộ này nuôi dưỡng. Ở đây chỉ có cô tịch, đá sỏi, đất cháy đã biến thành bụi vàng vàng, mà thỉnh thoảng gió bốc lên thành những đám bụi xoáy nhỏ. Có thể nói đó là hơi thở của một cái miệng lên cơn sốt, vì nó khô và nóng cháy. Nó hành hạ mũi và cổ họng vì những cát bụi nó mang theo. Ở đó đây, họa hiếm mới
24
có vài bụi cây gai mà tôi không biết tại sao nó có thể chịu đựng được cảnh buồn thảm này. Nó giống như vài sợi tóc lơ thơ trên đầu người hói. Trên cao là bầu trời xanh khắc nghiệt, bên dưới là mặt đất khô cằn, chung quanh là sỏi đá và sự yên lặng. Đó là tất cả những gì thiên nhiên mà tôi thấy.
Đây, một hang đá khổng lồ có dạng phôi đá, bên trong có một tảng đá nhỏ. Giêsu ngồi ở trên đó và tựa lưng vào vách đá. Người nghỉ ở đó cho khỏi mặt trời thiêu đốt. Đấng nói ở trong nội tâm của tôi chỉ cho tôi biết rằng tảng đá Người đang ngồi ở trên, cũng là bàn qùi và gối đầu của Người khi Người nghỉ ngơi vài giờ, cuộn mình trong áo khoác, dưới ánh sáng của tinh tú và không khí lạnh ban đêm. Thực vậy, ở ngay gần đó là cái giỏ mà tôi đã thấy Người cầm đi lúc khởi hành ở Nazarét. Đó là tất cả những gì Người có. Và vì thấy nó xẹp lép, tôi hiểu là chút ít lương thực mà Maria đã bỏ vào đó không còn nữa.
Giêsu rất gầy và xanh xao. Người ngồi: khửu tay chống trên đầu gối, cánh tay trước giơ ra phía trước, hai tay chụm lại, các ngón đan vào nhau. Người chiêm niệm. Thỉnh thoảng Người ngước mắt nhìn quanh, và nhìn mặt trời hầu như ở trên đỉnh đầu trong bầu trời xanh. Thỉnh thoảng, đặc biệt là sau khi nhìn chung quanh, Người ngước mắt nhìn ánh sáng mặt trời, rồi nhắm mắt lại, gục đầu vào tảng đá của hang nơi Người trú, tựa như Người bị chóng mặt.
Tôi thấy xuất hiện một cái mõm khủng khiếp của Satan. Nó không phơi bày hình dạng của nó như chúng ta thường trình bày: với cặp sừng và cái đuôi dài v.v. Nó giống như một người Ả- Rập, bọc trong y phục của nó. Chiếc áo khoác của nó giống như áo giả hóa trang. Đầu nó cuốn khăn mà mối khăn xõa xuống tới vai, để che đậy cho khuôn mặt mà ở hai bên, người ta chỉ nhìn thấy một hình tam giác hẹp, nâu đen, với cặp môi mỏng và cong. Đôi mắt rất đen và sâu lõm, từ đó phát ra những tia chớp thôi miên. Hai con ngươi nhìn như xuyên thấu tới đáy lòng người, nơi người ta không đọc thấy gì cả, hoặc chỉ thấy hai chữ: “Bí nhiệm”. Trái với con mắt Giêsu, cũng làm người ta say mê bằng những tia sáng thôi miên, xuyên vào tận đáy lòng, nhưng ở đó người ta đọc được rằng: nơi
25
Người chỉ có lòng nhân từ và tình yêu. Con mắt Giêsu là sự vuốt ve cho linh hồn. Con mắt Satan là dao găm hai lưỡi, nó đâm thủng và đốt cháy.
Nó tiến lại gần Giêsu: “Ông ở một mình à?” Giêsu nhìn nó và không trả lời.
- Làm sao ông tới đây? Ông bị lạc à?
Giêsu lại nhìn nó và nín thinh.
- Nếu tôi có nước trong bầu của tôi, tôi sẽ cho ông. Nhưng tôi không có. Ngựa của tôi bị kiệt lực, và tôi đi bộ lại khúc sông cạn. Tôi uống nước ở đó và có người cho tôi một cái bánh. Tôi biết đường, hãy đi với tôi, tôi sẽ dẫn ông.
Giêsu không ngước mắt lên nữa.
- Sao ông không trả lời tôi? Ông có biết rằng nếu ông ở lại đây, ông sẽ chết không? Gió đã nổi lên, sắp có bão. Đi!
Giêsu khoanh tay trong lời cầu nguyện thầm.
- A! Vậy là đúng ông rồi sao? Từ hồi tôi tìm ông! Và bây giờ, tôi đã quan sát ông từ rất lâu, từ lúc ông chịu phép rửa. Ông gọi Đấng Hằng Hữu? Người ở quá xa! Bây giờ ông ở trên trái đất và ở giữa loài người, và nơi loài người thì tôi là vua. Nhưng ông làm tôi thương hại và tôi muốn giúp ông, bởi vì ông tốt và ông đến để hy sinh cách vô ích. Loài người ghét ông vì lòng tốt của ông. Họ chỉ biết có vàng, ăn uống và hưởng thụ. Hy sinh, chịu đựng, vâng lời là những từ ngữ chết đối với họ, chết hơn là vùng đất ở chung quanh ông. Họ còn khô cằn hơn những sỏi cát này. Ở đây chỉ có rắn ẩn nấp để chờ cắn, và chó rừng chờ xé ông ra từng mảnh. Nào, đi! Họ không đáng người ta chịu khổ cho họ đâu. Tôi biết họ rõ hơn ông.
Satan ngồi trước mặt Giêsu. Nó tìm hiểu Người bằng con mắt ghê gớm của nó, và nó mỉm cười bằng cái mõm rắn. Giêsu vẫn luôn luôn nín lặng và cầu nguyện trong tâm trí.
- Ông thách đố tôi? Ông lầm. Tôi là sự khôn ngoan của trái đất. Tôi có thể giúp ông như người thầy, để giúp ông thắng. Ông coi, quan trọng là phải thắng. Rồi khi đã áp đặt được thế giới và lôi kéo được nó, lúc đó người ta dẫn nó tới chỗ nào tùy ý. Nhưng trước tiên phải làm như họ muốn, làm giống như họ, lôi cuốn họ bằng cách
26
làm cho họ tin là chúng ta cảm phục họ và chúng ta theo họ trong tư tưởng của họ.
Ông trẻ và đẹp trai. Hãy bắt đầu bằng đàn bà. Chính đàn bà là thứ người ta phải bắt đầu. Đáng lẽ tôi phải khuyên bà ta (Evà) cách khác, tôi sẽ có thể làm cho bà ta thành một dụng cụ tuyệt nhất, và tôi sẽ có thể thắng Thiên Chúa! Nhưng tôi qúa vội. Còn ông, tôi dạy cho ông, vì đã có một hôm tôi nhìn ông với niềm vui thiên thần, và một chút tình yêu này còn lại trong tôi. Nhưng ông, hãy nghe tôi và lợi dụng kinh nghiệm của tôi. Hãy kiếm một người bạn. Nơi nào ông không thành công thì bà sẽ thành công. Ông là Ađam mới, phải có Evà của ông.
Lại nữa, làm sao ông có thể chữa những bệnh về giác quan nếu ông không biết nó là gì. Ông không biết rằng đàn bà là cái nhân, từ đó sinh ra cây dục vọng và kiêu ngạo sao? Tại sao con người muốn thống trị? Tại sao họ muốn giầu có và uy quyền? Để chiếm hữu đàn bà. Bà như chim sơn ca, bà cần thấy sự hào nhoáng mới lôi kéo được bà. Vàng và sự thống trị là hai mặt của chiếc gương lôi kéo đàn bà, và là nguyên nhân mọi sự dữ trên thế giới. Ông coi: đàng sau một ngàn lỗi phạm với diện mạo khác nhau, thì có ít nhất là chín trăm điều mọc rễ trong cái đói chiếm hữu đàn bà, hay là trong ý muốn của một đàn bà bị thiêu đốt bởi một ước ao mà người đàn ông chưa thỏa mãn hay không thỏa mãn nữa. Hãy đến với các bà, nếu ông muốn biết thế nào là đời sống, rồi sau đó, ông chỉ cần biết chữa những bệnh hoạn của nhân loại.
Ông biết, đàn bà họ đẹp! Thế giới không có gì đẹp hơn. Đàn ông có tư tưởng và sức mạnh, nhưng đàn bà! Tư tưởng của họ là hương thơm, giao tiếp với họ là như cái vuốt ve của bông hoa. Sắc đẹp của họ là thứ rượu làm say sưa. Sự yếu đuối của họ giống như búp tơ hay lọn tóc quăn của trẻ thơ trong tay người đàn ông. Sự vuốt ve của họ là sức mạnh, kết hợp với sự vuốt ve của chúng ta, nó sẽ bốc lửa. Những mệt mỏi, những đau khổ, những lo âu sẽ biến đi khi đặt nó bên cạnh người đàn bà. Họ ở trong tay chúng ta như bó hoa.
Nhưng tôi ngu qúa! Ông đói mà tôi lại nói về đàn bà. Sức lực
27
ông đã cạn kiệt, vì lẽ đó, hương thơm này của trái đất, bông hoa này của sự tạo dựng, trái cây ngon biết cho và kích thích tình yêu này, đối với ông có vẻ vô giá trị. Nhưng ông hãy nhìn những hòn đá này, chúng tròn và nhẵn biết bao, vàng bóng dưới ánh mặt trời đang lặn. Chúng không giống bánh sao? Ôi! Con Thiên Chúa, ông chỉ cần nói: “Ta muốn” để nó trở thành bánh thơm giống như chiếc bánh mà giờ này các bà nội trợ đang lấy ra khỏi cái lò của gia đình. Và những cây keo khô cằn này, nếu ông muốn, nó không thể phủ đầy những trái ngon lành, ngọt như mật ong sao? Hãy ăn cho no, Con Thiên Chúa! Ông là thầy của trái đất. Nó sẽ rũ xuống và đặt mình ở chân ông để hạ cơn đói của ông.
Ông coi, ông tái mét và lảo đảo chỉ vì mới nghe nói tới bánh! Giêsu tội nghiệp! Ông yếu tới nỗi không thể ra lệnh cho phép lạ sao? Ông có muốn tôi làm cho ông không? Tôi không ở ngang mức của ông, nhưng tôi có thể làm được cái gì. Tôi sẽ mất sức mạnh trong vòng một năm, rồi tôi lại thu thập lại được tất cả. Nhưng tôi muốn giúp ông vì ông tốt, và vì tôi luôn luôn nhớ ông là Thiên Chúa của tôi, cho dù bây giờ tôi không đáng cho ông cái tên này. Hãy giúp tôi bằng lời cầu nguyện của ông để tôi có thể...
- Im! Người ta không phải chỉ sống bởi bánh, mà còn bởi mọi lời đến từ Thiên Chúa.
Thằng qủi giật nảy như điên. Nó nghiến răng và nắm tay, nhưng nó trấn tĩnh và nhe răng phác họa một nụ cười.
- Tôi hiểu. Ông ở bên trên mọi nhu cầu của trái đất, và ông ghê tởm việc dùng tôi. Tôi đáng vậy. Nhưng hãy đi và coi những gì đang xảy ra ở trong nhà của Thiên Chúa. Hãy coi các thầy cả cũng không từ chối hòa lẫn thần trí và xác thịt, bởi vì sau cùng, đó là những con người chứ không phải các thiên thần. Hãy hoàn thành một phép lạ thiêng liêng. Tôi sẽ đem ông lên nóc Đền Thờ, và ở trên đó, ông biến hình thành một vẻ đẹp tuyệt vời, rồi gọi đội binh các thiên thần, bảo họ xếp cánh thành một cái bệ cho chân ông, và mang ông như vậy xuống dưới sân chính, để họ thấy ông và nhớ rằng có một Thiên Chúa. Đôi khi những biểu lộ này rất cần, vì con người có trí nhớ rất ngắn, đặc biệt là với các sự thiêng liêng. Ông sẽ thấy các
28
thiên thần vui chừng nào để làm chỗ cho ông đặt chân, và làm cái thang cho ông xuống!
- Có lời đã nói: “Đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi”.
- Ông hiểu rằng sự xuất hiện của ông cũng không thay đổi được gì, và Đền Thờ vẫn tiếp tục là nơi họp chợ và đồi trụy. Sự thông minh Thiên Chúa của ông biết rằng con tim của các người thừa hành trong Đền Thờ là ổ rắn độc cấu xé nhau để giành quyền. Chỉ có quyền hành loài người chế ngự họ.
Nào, hãy thờ lạy tôi. Tôi sẽ cho ông tất cả trái đất: Alexandre, Cyrus, César, tất cả những kẻ chinh phục lớn nhất của qúa khứ hay còn sống, sẽ chỉ là những tên chủ đoàn du mục thô lỗ so với ông là người có hết mọi nước của trái đất dưới phủ việt, và cùng với các nước là của cải, hết mọi vinh quang của trái đất: đàn bà, lừa ngựa, lính tráng, đền đài. Ông có thể dựng cờ của ông khắp nơi khi ông là Vua các vua và là Chúa thế giới. Lúc đó ông sẽ được vâng lời và kính trọng bởi dân chúng và hàng giáo phẩm. Mọi tầng lớp sẽ tôn vinh ông và phục vụ ông, vì ông sẽ là Chúa mạnh mẽ, duy nhất.
Hãy thờ lạy tôi một lát thôi. Hãy lấy đi cho tôi cái khát vọng được thờ lạy! Chính nó đã làm tôi hư mất. Nhưng nó ở lại trong tôi và thiêu đốt tôi. Lửa hỏa ngục là khí mát ban mai so với sự hung hăng nó thiêu đốt tôi ở bên trong. Cái khát này là hỏa ngục của tôi. Một lát, chỉ một nháy mắt thôi, ôi Kitô! Ông là người tốt! Một nháy mắt vui của kẻ bị hành hình đời đời! Hãy làm cho tôi cảm thấy thế nào là làm Thiên Chúa, và tôi sẽ tận tụy với ông, vâng lời như một nô lệ suốt đời, trong hết mọi công việc của ông. Một thoáng thôi, chỉ một thoáng thôi, rồi tôi sẽ không quấy quất ông nữa - Và Satan qùi gối xuống năn nỉ.
Giêsu liền đứng lên, gầy gò, sau những ngày chay tịnh. Người tựa như cao lớn hơn. Khuôn mặt Người dễ sợ vì nghiêm khắc và mạnh mẽ. Đôi mắt Người là hai viên lam ngọc nảy lửa. Tiếng Người như tiếng sấm dội vang trong đá trơ trọc, lan ra trên đá và đất khô cằn khi Người nói: “Cút đi! Satan. Có lời chép: ‘Ngươi sẽ chỉ thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và phục vụ một mình Người’”.
Satan, với tiếng kêu xé rách của kẻ bị kết án và của sự thù ghét
29
khôn tả, nhảy dựng lên, ghê sợ trong sự phẫn uất của nó, trong cơ thể bốc khói của nó. Rồi nó biến đi trong tiếng gầm và lời nguyền rủa.
Giêsu ngồi xuống, mệt mỏi, tựa đầu vào vách đá sau lưng. Người có vẻ tới mức, chảy mồ hôi. Nhưng các thiên thần đến, dùng cánh làm mới lại không khí nóng ngột ngạt trong hang, thanh tẩy nó và giải nhiệt cho nó. Giêsu mở mắt và mỉm cười. Tôi không thấy Người ăn. Có lẽ Người bồi dưỡng bằng hương thơm Thiên Đàng. Và Người ra khỏi đó, lại mạnh mẽ.
Mặt trời đã lặn và biến mất. Giêsu cầm cái giỏ rỗng, được các thiên thần bay ở bên trên Người để hộ tống, làm một ánh sáng êm dịu cho Người trong khi đêm về rất mau. Người đi hướng về phía đông, đúng hơn là đông bắc. Người đã hồi phục sự biểu lộ thông thường, bước đi vững vàng. Cuộc chay tịnh lâu dài chỉ còn là kỷ niệm với dáng vẻ khắc khổ hơn, khuôn mặt gầy hơn và xanh xao hơn. Đôi mắt hân hoan trong niềm vui không thuộc về trái đất.
6* “SATAN LUÔN LUÔN HIỆN DIỆN
VỚI VẺ BỀ NGOÀI NHÂN HẬU”
Lời Chúa Giêsu:
Hôm qua con không có cái sức mạnh mà Cha thường cho con, nên con chỉ là một tạo vật sống một nửa. Cha đã cho các chi thể của con nghỉ ngơi, và Cha chỉ để cho con chay tịnh một điều duy nhất mà con thấy bị đè nặng: chay tịnh lời Cha. Maria tội nghiệp! Con đã làm một ngày thứ tư lễ tro. Con đã cảm thấy mùi tro trong mọi sự, vì con không có Thầy con. Con không thấy sự hiện diện của Cha, nhưng Cha vẫn ở đó.
Buổi sáng, vì sự lo âu là hỗ tương, Cha đã thì thầm trong giấc ngủ mơ màng của con: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian, xin ban bình an cho chúng con”. Cha đã làm con nhắc đi nhắc lại nhiều lần, và đồng thời Cha cũng lặp lại. Con đã nghĩ Cha sẽ nói về đề tài này. Không. Trước tiên là đề tài Cha đã chỉ cho con, và Cha sẽ giải thích cho con. Rồi chiều nay Cha sẽ giải thích đề tài khác.
Con đã thấy: Satan luôn luôn hiện diện với vẻ bề ngoài nhân hậu, dưới vẻ thông thường. Nếu các linh hồn chú tâm, và nhất là liên lạc thiêng liêng với Thiên Chúa, họ sẽ nhận ra nó và thận trọng, mau lẹ chống lại các cạm bẫy của ma qủi. Nhưng nếu linh
30
hồn không lưu ý tới Thiên Chúa, chia lìa với Người bằng những khuynh hướng xác thịt, để cho nó xâm chiếm và làm cho họ điếc, không chạy đến lời cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa, nên họ làm cho sức mạnh của linh hồn họ chảy đi mất như bởi một đường ống gắn vào qủa tim loài người của họ, khi đó họ sẽ khó lòng nhận ra các cạm bẫy che giấu dưới vẻ bề ngoài vô hại, họ rơi vào đó và sẽ rất khó lòng thoát ra.
Hai con đường mà Satan thường dùng để đến với các linh hồn là: sự lôi kéo về xác thịt và tính tham ăn. Nó luôn luôn bắt đầu về phía vật chất và tự nhiên. Sau khi đã phá được và chinh phục được họ, nó quay ra tấn công phần thượng: trước hết là phía luân lý: về tư tưởng với những kiêu căng và khát vọng của nó. Rồi đến thần trí, bằng cách lấy đi của nó, chẳng những tình yêu, mà cả sự kính trọng Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã không còn nữa khi họ thay thế nó bằng những tình yêu loài người khác. Khi đó là lúc con người phó thân xác và linh hồn cho Satan để đi tới sự hưởng thụ mà họ theo đuổi, để dính vào nó càng ngày càng chặt.
Cha đã xử sự thế nào, con đã thấy: Yên lặng và cầu nguyện. Sự yên lặng: vì Satan tìm lôi kéo và lung lạc chúng ta, nên ta phải chịu đựng sự hiện diện của nó, không sốt ruột cách ngu dốt, và không sợ suy nhược, nhưng phản ứng cách dứt khoát trước sự hiện diện của nó, và chống cự sự lôi kéo của nó bằng lời cầu nguyện.
Thật vô ích để thảo luận với Satan. Nó sẽ thắng, vì nó rất mạnh trong ngôn ngữ của nó. Chỉ có Thiên Chúa mới nói lại với nó được. Khi đó hãy chạy đến với Thiên Chúa để Người nói thay cho các con, qua các con; hãy chỉ cho Satan danh thánh Người và dấu hiệu của Người, không phải bằng cách viết trên giấy hay khắc trên gỗ, nhưng là viết và khắc trong tim, tên Cha và dấu hiệu của Cha. Chỉ đáp trả Satan khi nó xiên xỏ như nó là Thiên Chúa, bằng cách dùng lời Thiên Chúa, nó sẽ không chịu đựng được.
Rồi sau cuộc chiến sẽ là vinh thắng, và các thiên thần sẽ phục vụ kẻ thắng, bảo vệ họ chống lại sự thù ghét của Satan. Các ngài sẽ củng cố cho họ bằng sương trời, với ân huệ mà các ngài đổ tràn vào trong tim đứa con trung thành, với phúc lành như một vuốt ve
31
trên linh hồn.
Phải có ý muốn thắng Satan, tin ở Thiên Chúa và sự trợ giúp của Người; tin vào sức mạnh của lời cầu nguyện và lòng nhân từ của Thiên Chúa. Lúc đó Satan sẽ không làm gì được các con.
Hãy đi bình an. Chiều nay Cha sẽ cho con hưởng phần còn lại.
7* GẶP GIOAN VÀ GIACÔBÊ
Tôi thấy Giêsu đi dọc bờ sông Giođan tươi xanh. Có vẻ như Người trở về từ nơi tôi đã thấy Người chịu phép rửa, gần khúc sông cạn, nơi rất được người ta biết đến, và đi qua để sang bờ bên kia thuộc vùng Pêrê. Nhưng nơi lúc trước có nhiều người đông đúc, bây giờ vắng tanh, chỉ có vài người qua lại, đi bộ hay đi ngựa hoặc lừa.
Giêsu có vẻ không lưu ý gì tới họ. Người đi lên về phía bắc, như chìm trong tư tưởng của Người. Khi Người tới ngang khúc sông cạn, Người gặp một nhóm người lứa tuổi khác nhau, đang ồn ào tranh luận, rồi họ chia tay, một phần đi về phía bắc, một phần về phía nam. Trong số những người đi về phía bắc, tôi thấy Gioan và Giacôbê.
Gioan nhìn thấy Giêsu trước, ông chỉ Người cho anh ông và các bạn. Họ nói với nhau một lát, rồi Gioan bắt đầu dấn bước để bắt kịp Giêsu. Giacôbê từ từ theo sau em ông. Những người khác không chú ý tới. Họ từ từ bước trong khi thảo luận.
Khi Gioan đã đến gần Giêsu, cách Người độ vài ba mét, ông kêu: “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian!”
Giêsu quay lại nhìn ông, hai người cách nhau vài bước. Họ quan sát nhau. Giêsu với cái nhìn nghiêm trang và xuyên thấu; Gioan với cái nhìn trong sạch, vui tươi, trên khuôn mặt dễ thương, trẻ trung, giống như một cô gái trẻ. Ta thấy ông khoảng hai mươi hơn kém. Trên đôi má hồng chỉ thấy những sợi lông măng như chiếc voan vàng.
32
- Con tìm ai? - Giêsu hỏi.
- Tìm Thầy.
- Làm sao con biết Ta là Thầy?
- Ông Tẩy Giả đã nói điều đó cho con.
- Và tại sao con gọi Thầy là Con Chiên?
- Vì con đã nghe Thầy xưng danh như vậy vào hôm Thầy đi qua, hơn một tháng trước đây.
- Con muốn gì ở Thầy?
- Muốn Thầy nói cho chúng con những lời của sự sống đời đời để an ủi chúng con.
- Nhưng con là ai?
- Con là Gioan, con của Zêbêđê, và ông này là anh Giacôbê của con. Chúng con người Galilê, dân chài, và cũng là môn đệ của Gioan. Ông ấy đã nói với chúng con những lời của sự sống, và chúng con nghe ông, vì chúng con muốn nghe Thiên Chúa, và được Người tha thứ bằng sự sám hối, để chuẩn bị tâm hồn cho đấng Messi tới, chính là Thầy, Gioan đã nói vậy, vì ông đã thấy dấu hiệu con bồ câu đậu trên Thầy và đã bảo chúng con: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Con, con thưa Thầy: Con Chiên Thiên Chúa, đấng gánh tội trần gian, xin ban bình an cho chúng con, vì chúng con không còn người hướng dẫn, linh hồn chúng con xao xuyến.
- Gioan (Tẩy Giả) ở đâu?
- Hêrôđê đã bắt ông, ông đang ở tù tại Machéronte. Những người trung thành nhất trong chúng con đang cố gắng giải thoát cho ông, nhưng không thể được. Chúng con từ đó về đây. Xin Thầy cho chúng con ở với Thầy. Xin Thầy chỉ cho chúng con Thầy ở đâu.
- Hãy tới. Nhưng các con biết các con tìm gì không? Ai theo Thầy thì phải bỏ tất cả: nhà cửa, cha mẹ, lối suy nghĩ, và cả sự sống. Thầy sẽ làm cho các con thành môn đệ và bạn hữu của Thầy, nếu các con muốn. Nhưng Thầy, Thầy không có của cải, người bảo vệ. Thầy như vậy và Thầy sẽ vậy hơn nữa, nghèo tới nỗi không có nơi tựa đầu, và bị bách hại còn hơn một con chiên lạc bị chó sói săn đuổi. Giáo lý của Thầy còn nghiêm khắc hơn của Gioan, vì nó cấm sự oán thù. Nó không hệ ở ngoại diện cho bằng nội tâm. Các con
33
phải tái sinh nếu các con muốn là người của Thầy. Các con có muốn không?
- Thưa Thầy muốn. Chỉ Thầy mới có những lời cho chúng con ánh sáng. Lời Thầy xuống vào nơi tối tăm và buồn rầu vì thiếu kẻ lãnh đạo, nó mang ánh sáng của mặt trời.
- Vậy ta hãy đi dọc bờ sông. Thầy sẽ giáo huấn các con.
8* “CHA YÊU GIOAN VÌ SỰ TRONG SẠCH CỦA ÔNG”
Lời Chúa Giêsu:
Nhóm người gặp Cha khá đông, nhưng chỉ có một người nhận ra Cha: kẻ có linh hồn, tư tưởng và thể xác trong sạch đối với mọi dâm đãng.
Cha nhấn mạnh về giá trị của sự trong trắng: Sự trinh trong luôn luôn là nguồn mạch của sự trong sáng cho tư tưởng. Sự trinh trong luyện lọc và duy trì những cảm xúc của trí tuệ và tình cảm ở mức độ trọn hảo mà chỉ có kẻ đồng trinh mới có kinh nghiệm.
Người ta đồng trinh bằng nhiều cách: Một cách bó buộc. Điều này đặc biệt nơi phụ nữ, khi không có ai chọn để kết hôn. Điều đó cũng vậy đối với nam giới. Nhưng như vậy không phải là đồng trinh. Và điều này còn tệ hại nữa, vì từ một tuổi trẻ sớm bị ô uế bởi các ước muốn, thì chỉ có thể trở thành thủ lãnh của một gia đình bệnh hoạn trong tình cảm, và thường cả trong thân xác.
Có thứ đồng trinh tự nguyện, thứ của các linh hồn thánh hiến cho Chúa trong đà tình yêu trung thành. Một sự đồng trinh thật đẹp! Một hy sinh đẹp lòng Thiên Chúa. Nhưng không phải tất cả đều biết giữ mầu trắng hoa huệ này, luôn luôn đứng thẳng trên công, hướng về trời, không biết tới bùn của trái đất, chỉ mở ra cho mặt trời Thiên Chúa và sương mát của Người.
Có biết bao người chỉ giữ một sự trong sạch thể chất, nhưng bất trung trong tư tưởng. Họ tiếc và ước ao điều họ đã hy sinh. Những người đó chỉ đồng trinh một nửa. Nếu thân xác còn nguyên vẹn, thì con tim lại không được như vậy. Qủa tim này lên men, sôi sục, phát
34
ra làn khói dâm ô càng được luyện lọc và đáng phạt hơn, vì chúng là những sáng tác của tư tưởng cứ âu yếm, chăn nuôi, và làm cho nên đông đúc những tưởng tượng thoả mãn, bất hợp pháp đối với những kẻ tự do, và càng bất hợp pháp đối với những kẻ có lời khấn.
Đó chính là những lời khấn giả hình. Nó có diện mạo, nhưng không có thực tế. Thực vậy, Cha bảo các con rằng: nếu một người đến cùng Cha với bông huệ bị gẫy nát bởi ý muốn của một kẻ thô bạo, và một người khác đến với một bông huệ còn nguyên vẹn về vật chất, nhưng đầy tràn một thứ dâm ô được vuốt ve, vun trồng, để lấp đầy các giờ cô quạnh, thì Cha gọi người thứ nhất là người đồng trinh, và Cha phủ nhận đặc tính này của người thứ hai. Cha còn cho người thứ nhất một triều thiên kép: đồng trinh và tử đạo, vì lẽ thân xác bị thương tích, và con tim phủ đầy vết thương do sự bị cắt cụt mà họ không muốn.
Sự trong sạch có gía trị tới nỗi, như con đã thấy, trước hết, Satan lôi kéo Cha vào sự ô uế. Nó biết rằng tội dâm ô phá hủy linh hồn và làm cho nó thành mồi dễ dàng cho các tội khác. Satan lo áp dụng đích điểm chính để thắng Cha.
Bánh và cái đói là những hình thức vật chất, tượng trưng cho sự thèm ăn, những cái thèm mà Satan khai khẩn để đạt mục đích sau cùng của nó. Lương thực nó hiến cho Cha để làm Cha ngã như bị say dưới chân nó thì khác nhau: Bánh, rồi sẽ đến ham ăn, tiền bạc, uy quyền, ngẫu tượng, phạm thượng, bội ước đối với luật Chúa. Những bước đầu tiên để thắng Cha là thế. Đúng như qui trình nó đã dùng để đánh ngã Ađam.
Thế giới cười nhạo những kẻ trong sạch. Những kẻ dơ bẩn ô uế tấn công những kẻ trong sạch. Gioan Tẩy Giả là nạn nhân do sự dâm ô của hai kẻ đồi trụy. Nhưng nếu thế gian còn một chút ánh sáng, đó là nhờ những kẻ trong sạch còn lại giữa đời. Họ là tôi tớ của Thiên Chúa, hiểu biết Thiên Chúa và nhắc lại lời Thiên Chúa. Cha đã nói: “Phúc cho kẻ có lòng trong sạch, vì họ sẽ thấy Thiên Chúa”. Ngay trên mặt đất, những kẻ mà khói ám của tình dục không làm mờ tối tư tưởng, cũng được thấy Thiên Chúa, nghe Người, theo
35
Người và chỉ Người cho kẻ khác.
Gioan Zêbêđê là kẻ trong sạch. Ông là sự trong sạch giữa các môn đệ Cha. Linh hồn ông là bông hoa trong thân xác thiên thần. Ông gọi Cha bằng những lời của người thầy thứ nhất, và xin Cha cho ông sự bình an. Nhưng bình an, ông đã có trong chính ông do sự trong sạch của đời ông, và Cha yêu ông vì sự trong sạch rạng rỡ trong ông. Chính với sự trong sạch, Cha ký thác những giáo huấn, những bí mật của Cha. Ông là kẻ thân thiết nhất của Cha.
Ông đã là môn đệ đầu tiên của Cha. Ông đã yêu Cha ngay từ lúc đầu ông thấy Cha. Linh hồn ông tan hoà với linh hồn Cha từ ngày ông thấy Cha đi dọc sông Giođan vì ông đã thấy ông Tẩy Giả chỉ trỏ Cha. Nếu sau đó ông không gặp Cha khi Cha từ sa mạc trở về, ông cũng tìm Cha cho tới khi tìm thấy. Qủa vậy, kẻ trong sạch và khiêm nhường ước ao được giáo huấn về khoa học của Thiên Chúa, nó đi như nước chảy ra bể, để đến với vị nó thấy đó là người Thầy của các giáo lý trên trời.
Những lời khác của Chúa Giêsu :
Cha không muốn con nói về những cám dỗ về tình dục mà Giêsu của con đã chịu, mặc dầu tiếng nói nội tâm của con cho con hiểu những chiến thuật của Satan để lôi kéo Cha về cảm giác. Cha muốn rằng chính Cha nói và nghĩ tới đó. Cần phải nói về nó, nhưng bây giờ hãy qua chuyện khác. Bông hoa của Satan, hãy để nó lại trên cát. Hãy đi theo Cha như Gioan. Con sẽ bước đi giữa gai, thay vì hoa hồng, con sẽ tìm thấy những giọt máu của Đấng đã đổ ra cho con, để con cũng thắng được xác thịt trong con.
Cha đã trả lời trước cho một nhận xét. Gioan nói trong Tin Mừng của ông khi ông nói về việc gặp gỡ Cha: “Và ngày hôm sau”, vì vậy giống như ông Tẩy Giả đã chỉ trỏ Cha ngày hôm sau của phép rửa, rồi Gioan và Giacôbê theo Cha ngay. Điều đó ngược với điều các Phúc Âm thánh sử khác nói về việc bốn mươi ngày trong sa mạc. Nhưng hãy đọc lại (Sau khi ông Tẩy Giả bị bắt): “rồi một hôm, hai môn đệ Gioan Tẩy Giả mà ông đã chỉ Cha cho khi nói: ‘Đây là Con Chiên Thiên Chúa’, khi gặp lại Cha, họ gọi Cha và theo Cha”, sau khi Cha từ sa mạc về.
Cùng nhau, chúng ta đã trở lại bờ hồ Galilê, nơi Cha trú để bắt đầu Tin Mừng của Cha từ đó, và hai người nói về Cha cho các dân chài khác. Họ đã đi hết đoạn đường với Cha và ở lại với Cha trong ngày, tại nhà một người bà con của Cha cho Cha trọ. Nhưng sáng kiến của cuộc đàm thoại này đến từ Gioan. Thiện chí sám hối của tâm hồn ông, trong khi nó đã rất thanh quang vì sự trong sạch của mình, đã làm một công trình tuyệt tác về sự trong sạch, nơi đó chân lý phản chiếu cách rõ ràng. Như vậy ông đã có sự táo
36
bạo thánh thiện và quảng đại, không sợ tiến lên phía trước khi ông thấy đó là Thiên Chúa, chân lý, giáo huấn, và con đường của Thiên Chúa. Cha yêu ông chừng nào vì đặc tính cá nhân này, nó đã làm cho ông trở nên rất đơn sơ và anh hùng.
9* GIOAN VÀ GIACÔBÊ NÓI VỚI PHÊRÔ
VỀ ĐỨC MESSI
Một bình minh hoàn toàn trong sáng trên hồ Galilê. Trời và nước phản chiếu mầu hồng rất ít khác nhau của những cái có sự êm đềm, chiếu trên các bức tường quanh vườn của một làng nhỏ cạnh bờ hồ, từ đó vươn lên những cây ăn trái như đang nghiêng mình rũ bộ tóc bù xù mờ mờ của chúng trên các đường hẻm.
Làng nhỏ mới vừa hơi tỉnh giấc, với một phụ nữ đi ra phông-ten hay bể giặt công cộng, hay các dân chài đang chất những rổ cá, bàn cãi lớn tiếng với những lái buôn đến tự các nơi, hoặc mang cá về nhà họ. Tôi nói một làng nhỏ, nhưng nó không qúa nhỏ. Nó chỉ có vẻ khiêm tốn, ít nhất là ở phía tôi thấy, nhưng nó rộng, trải ra một phần lớn phía bờ hồ.
Gioan từ một đường hẻm đi ra vội vã về phía bờ hồ. Giacôbê đi theo ông, nhưng bước đi thanh thản hơn. Gioan nhìn các thuyền đã cặp bờ, nhưng không thấy người ông tìm. Ông nhận ra người này còn ở cách bờ vài trăm mét, đang bận vận hành cập bến. Ông gọi rất lớn, lấy tay làm loa: “Ô! Hé!” kéo dài. Có lẽ đó là tiếng gọi theo thói quen. Rồi khi ông thấy người kia đã nghe, ông lấy tay vẫy mạnh như muốn nói: “Tới đây! Tới đây!”
Những người ở trên thuyền, tôi không biết họ tưởng tượng điều gì mà họ ra công chèo mạnh, chiếc thuyền tiến mau hơn là với cánh buồm mà họ đã hạ xuống, có lẽ là để làm cho lẹ hơn. Khi họ còn cách bờ khoảng chục mét, Gioan không chờ nữa. Ông cởi dép, xắn quần áo, lấy tay giữ ở háng và nhảy xuống nước để tới gặp những người đang vô bờ.
- Tại sao cả hai anh đều không đi? - Andrê hỏi. Phêrô dỗi, không
37
thèm nói gì.
- Còn anh, tại sao anh không đi với tôi và Giacôbê? - Gioan trả lời Andrê.
- Tôi đi chài. Tôi không thể mất thời giờ. Anh đã biến mất với ông đó...
- Tôi đã làm hiệu cho anh là hãy tới. Đúng là Người rồi. Nếu anh được nghe các lời Người!... Chúng tôi ở lại với Người suốt ngày, cho tới đêm khuya. Bây giờ chúng tôi tới bảo các anh: “Hãy đến”.
- Có đúng Người không? Cậu có chắc không? Chúng tôi chỉ hơi thoáng nhìn thấy Người khi ông Tẩy Giả trỏ.
- Đúng Người mà. Người cũng không chối.
- Ai cũng có thể nói những điều họ xếp đặt để khuất phục kẻ dễ tin. Đây đâu phải lần đầu... - Phêrô cằn nhằn, bất mãn.
- Ôi! Simon, đừng nói vậy. Đó là Đấng Messi! Người biết tất cả. Người nghe anh đó! - Gioan buồn, kinh hoàng vì những lời của Simon Phêrô.
- Nào! Đấng Messi! Người tỏ mình ra cho đúng ngay cậu với Giacôbê, và Andrê! Ba kẻ ngu si tội nghiệp. Đấng Messi, Người đến kiểu khác chứ! Và Người nghe thấy tôi! Này, cậu bé tội nghiệp! Mặt trời mùa xuân đã chiếu vào đầu cậu. Thôi, đến làm việc đi là hơn. Hãy để tất cả những khoác lác này tại chỗ đó.
- Đức Messi mà! Tôi bảo anh. Gioan Tẩy Giả đã nói những sự thánh thiện, nhưng ông này nói về Thiên Chúa. Ai không phải là Đức Kitô thì không thể nói những lời như vậy.
- Simon, anh biết, tôi không phải là đứa trẻ. Tôi có tuổi, tôi bình tĩnh và biết suy nghĩ. Tôi nói ít, nhưng tôi đã nghe hàng giờ, suốt thời gian chúng tôi ở lại với Con Chiên Thiên Chúa, và tôi nói rằng đúng thật, Người chỉ có thể là Đấng Messi. Tại sao không tin? Tại sao không muốn tin? Anh có thể không tin vì anh đã không nghe, nhưng tôi, tôi tin. Chúng ta tội nghiệp và ngu si, Người nói Người đến là để loan Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, nước bình an, cho các người nghèo, khiêm nhường, bé nhỏ, trước khi nói với các kẻ lớn. Người đã nói: “Các kẻ lớn đã có niềm vui của họ, nhưng nó không đáng ước ao so với điều mà Thầy mang tới. Các kẻ lớn có
38
thể hiểu nhờ học vấn của họ. Nhưng Thầy đến với những kẻ bé mọn của Israel và của thế giới. Thầy đến với những kẻ khóc lóc và hy vọng, với những kẻ tìm ánh sáng và đói khát man-na thực. Các kẻ lớn không cho họ ánh sáng cũng như lương thực, họ chỉ cho gánh nặng, tối tăm, xích xiềng, khinh dể. Thầy gọi những kẻ bé mọn. Thầy đến đảo lộn thế giới, vì Thầy hạ thấp kẻ cao, và nâng cao những kẻ bị khinh dể. Ai muốn chân lý và bình an, ai muốn sự sống đời đời thì hãy đến với Thầy. Ai yêu ánh sáng thì hãy tới, Thầy là Ánh Sáng thế gian”. Có phải Người đã nói vậy không Gioan? - Giacôbê nói cách bình tĩnh nhưng rất cảm động.
- Đúng, và Người nói: “Thế giới không yêu Thầy, thế giới kẻ mạnh, vì họ đồi trụy bởi thói hư và các liên hệ tà thần. Thế giới không muốn Thầy, vì con cái sự tối tăm không ưa ánh sáng. Nhưng thế giới không phải chỉ toàn kẻ mạnh. Có những người, dù lẫn lộn trong thế giới, nhưng không thuộc về thế giới. Có những người thuộc về thế giới bởi vì họ bị giam giữ ở đó, giống như con cá mắc vào lưới”. Đó là đúng hệt điều Người nói trên bờ hồ khi chỉ vào những cái lưới người ta kéo lên bờ cùng với cá. Người cũng nói: “Không con nào trong số cá này muốn mắc vào lưới. Người ta cũng vậy, họ không muốn cố ý làm mồi của ma qủi, kể cả những người xấu nhất, vì những người này do kiêu ngạo làm mù mắt họ, họ không suy nghĩ rằng họ không có quyền làm điều họ đã làm. Tội thực sự của họ là kiêu ngạo, từ đó nảy sinh ra mọi tội khác. Nhưng những người không hoàn toàn xấu thì còn ít muốn thuộc về ma qủi hơn, nhưng họ sa ngã vì nhẹ dạ, bởi một sức nặng lôi họ xuống đáy, và đó là tại tội Ađam. Thầy đến lấy đi cái tội này, và những ai tin vào Thầy, trong khi chờ giờ cứu chuộc, một sức mạnh có thể giải phóng cho họ khỏi sợi giây ràng buộc họ, và làm cho họ được tự do để theo Thầy, Thầy: Ánh Sáng của thế gian”.
- Nếu đúng Người nói như vậy thì phải đến với Người ngay - Phêrô, với tính xung động rất thẳng thắn của ông, điều làm tôi rất thích ông, đã quyết định đột ngột. Ông thực hiện nó ngay bằng cách vội vã công việc lên cá, vì trong khi đó, thuyền tới bờ và các
39
con trai phụ việc kéo lên bờ đã dỡ lưới, giây nhợ và các cánh buồm. “Còn chú, Andrê ngu si, sao chú không đi theo họ?”
- Nhưng, Simon!... Anh đã trách tôi vì không thuyết phục họ đi với tôi... Anh đã cằn nhằn suốt đêm. Bây giờ anh lại trách tôi sao không đi với họ?!...
- Chú có lý... Nhưng tôi, tôi không gặp Người... chú thì có... đáng lẽ chú đã phải thấy rằng Người không giống chúng ta... Người có cái gì đẹp hơn!...
- Ôi! Đúng - Gioan nói. “Người có dung nhan! Và đôi mắt! Có đúng không Giacôbê?! Và tiếng nói!... Ôi! Tiếng nói! Khi Người nói, ta thấy như đang mơ trên Thiên Đàng”.
- Nhanh lên! Nhanh lên! Chúng ta đi tìm Người. Các chú (ông nói với các người vận hành), mang tất cả tới cho Zêbêđê và bảo ông tự xoay xở. Chúng tôi sẽ trở về tối nay để đi chài.
Tất cả đều mặc y phục vào và đi. Nhưng sau vài mét, Phêrô dừng lại, ông cầm cánh tay Gioan và hỏi: “Cậu nói rằng Người biết cả, và... Người rành hết?...”
- Đúng, anh nghĩ coi: khi chúng tôi thấy trăng lên cao ở chân trời, chúng tôi nói: “Ai biết được Simon đang làm gì!” Người liền nói: “Ông ta đang thả lưới và sốt ruột vì phải làm một mình, vì các con không đi thuyền sánh đôi với ông vào một tối đánh cá qúa tốt... Ông ta không biết rằng trong ít lâu nữa, ông ta sẽ chỉ chài với những cái lưới hoàn toàn khác, và sẽ bắt những con mồi khác”.
- Lạy Thiên Chúa tình thương! Hoàn toàn đúng như vậy! Thế là Người cũng biết... cũng biết... rằng tôi đã hầu như coi Người là kẻ nói dối... Tôi không thể đến với Người!
- Ôi, Người rất tốt. Chắc chắn Người biết rằng anh có tư tưởng này. Người đã biết rồi. Thật vậy, khi chúng tôi từ gĩa Người và nói rằng chúng tôi đi tìm anh, Người đã nói: “Hãy đi, nhưng đừng để mình bị thua bởi những lời khinh bỉ đầu tiên. Ai muốn đến với Thầy, phải biết đương đầu với sự chế nhạo của thế giới, và sự cấm đoán của cha mẹ, vì Thầy ở bên trên máu mủ và xã hội, Thầy sẽ thắng hết, và ai ở với Thầy sẽ thắng đời đời”. Và Người còn nói: “Hãy
40
nói, đừng sợ. Khi nghe các con, ông ta sẽ đến, vì đó là một người có thiện chí”.
- Đúng Người nói thế sao? Vậy tôi tới. Nói nữa đi, nói về Người nữa đi trong khi đi đường. Người ở đâu?
- Trong một căn nhà nghèo, chắc đó là nhà người bạn.
- Nhưng, Người nghèo à?
- Một người thợ ở Nazarét. Người đã nói với chúng tôi vậy.
- Bây giờ Người sống bằng gì, nếu Người không làm việc nữa?
- Chúng tôi không hỏi Người. Có lẽ bà con giúp đỡ.
- Tốt hơn là nên mang theo cá, bánh, trái cây... một cái gì. Chúng ta đến hỏi ý kiến một vị rabbi, vì người hoàn toàn như một rabbi, và còn hơn nữa, vậy mà chúng ta đến tay không!... Đó không phải là điều các rabbi của chúng ta chờ đợi...
- Nhưng Người không có ý tưởng như họ. Chúng tôi chỉ có hai mươi đồng trong mình tôi và Giacôbê, chúng tôi biếu người như thói quen đối với các rabbi, nhưng Người không muốn. Mà vì chúng tôi năn nỉ nên người nói: “Thiên Chúa sẽ trả lại cho các con với sự chúc phúc của người nghèo. Hãy đi với Thầy”. Rồi Người phân phát ngay cho người nghèo mà Người biết nhà. Chúng tôi hỏi Người: “Vậy còn cho Thầy, Thầy không giữ lại gì sao?” Người trả lời: “Giữ niềm vui làm theo ý Thiên Chúa và ích lợi cho vinh quang của Người”. Chúng tôi lại thêm: “Thưa Thầy, Thầy gọi chúng con, nhưng chúng con nghèo, chúng con phải mang gì tới?” Người trả lời chúng tôi với nụ cười làm cho chúng tôi thực sự thưởng thức Thiên Đàng: “Thầy xin các con một kho tàng rất lớn”, và chúng tôi: “Nhưng nếu chúng con không có gì?” Và Người: “Một kho tàng có bảy tên, mà ngay những người khiêm tốn nhất cũng có thể có, và ngay cả ông vua giầu cũng có thể không có. Các con có, và thầy muốn nó. Hãy nghe các tên : bác ái, đức tin, thiện chí, ý hướng ngay thẳng, sự tiết dục, chân thành, tinh thần hy sinh. Những điều đó Thầy muốn ở những ai theo Thầy. Chỉ vậy thôi. Và các con có chúng ở trong các con. Chúng ngủ như hạt giống trong luống về mùa đông. Nhưng mặt trời mùa xuân sẽ làm nó nở ra bảy bông”. Người đã nói vậy
41
đó.
- A! Điều đó làm tôi chắc chắn đó là một rabbi thực sự, Đức Messi đã được hứa. Người không khắt khe với người nghèo, Người không đòi tiền... Vậy là đủ để nói Người là đấng Thánh của Thiên
Chúa. Chúng ta hãy đi cách vững tâm. Và tất cả chấm dứt.
10* CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN
CỦA PHÊRÔ VỚI ĐỨC MESSI
Với tâm hồn nặng nề bởi qúa nhiều thứ, con đã cầu nguyện để được ánh sáng. Và con mở trúng chương 12 thơ gởi cho người Do Thái, và thực sự nó phục hồi sức mạnh cho tâm hồn con, nó cho con nghị lực để “nghe”. Vì dưới áp lực của nhiều thứ, con đã nghĩ: “Con không muốn làm gì nữa. Đời sống bình thường, đời sống bình thường với bất cứ giá nào”. Nhưng “Đấng nói với con”, con biết đó là ai, con thấy Người nhìn con cách thương yêu và khẩn khoản con, nên con không còn có thể nói được là: “con không muốn” nữa. Thực sự Thiên Chúa là ngọn lửa thiêu đốt, ngay cả những khuynh hướng của con người, khi họ biết phó thác cho Người. Với đấng nói với con và bảo con: “Cha sẽ không buông con, Cha sẽ không bỏ rơi con”, con muốn nói lại cách tin tưởng: “Chúa là sự cứu
trợ con, con không sợ loài người. Lạy Thiên Chúa, xin đừng lừa dối hy vọng của con”. Lúc 14 giờ, tôi thấy như sau:
Giêsu đi trên con đường nhỏ, một đường mòn giữa hai cánh đồng. Người có một mình. Gioan đang tiến đến với Người từ một con đường nhỏ băng qua cánh đồng. Sau cùng, ông tới với Người khi băng qua một chỗ trống của hàng rào cây.
Gioan, trong thị kiến hôm qua cũng như hôm nay: rất trẻ. Một khuôn mặt hồng. Một người mà râu ria mới vừa thành lập vài sợi, mà lại là mầu vàng hoe. Chưa có vết râu ria, nhưng chỉ là đôi má nhẵn hồng, đôi môi đỏ và ánh sáng vui tươi trong nụ cười đẹp với cái nhìn trong sạch, không phải do mầu lơ của mắt cho bằng do sự trong sáng của linh hồn trong trắng tỏ lộ ra. Mái tóc dài, mềm, dợn sóng vì lúc này ông bước lẹ, hầu như chạy. Ông kêu lên khi băng
42
qua dậu cây: “Thầy ơi!”
Giêsu dừng bước, quay lại với một nụ cười.
- Thầy ơi, con ước ao Thầy biết bao! Trong nhà Thầy trú, người ta bảo con rằng Thầy đi về đồng quê... Nhưng họ không nói gì hơn. Con đã sợ không gặp được Thầy - Gioan nói, hơi cúi vì kính trọng. Ông đầy sự tin cẩn và yêu thương trong thái độ và cái nhìn. Ông hướng về Giêsu, vẫn hơi cúi đầu.
- Thầy thấy là con tìm Thầy nên Thầy đến với con.
- Thầy nhìn thấy con à? Thầy ở chỗ nào?
- Thầy đã ở đó - và Giêsu chỉ vào một bụi cây ở xa mà mầu lá non nhắc tôi nhớ tới cây oliu: “Thầy đã ở đó, Thầy cầu nguyện và nghĩ tới điều Thầy sẽ nói ở giáo đường chiều nay. Nhưng Thầy gián đoạn khi Thầy nhìn thấy con”.
- Nhưng làm sao Thầy nhìn thấy con được? Nơi đó chỉ hơi thấy, vì nó bị khuất bởi bờ dốc.
- Nhưng con thấy không? Thầy tới gặp con vì Thầy thấy con. Điều mà mắt không làm được thì tình yêu thực hiện.
- Vâng, tình yêu làm. Vậy là Thầy yêu con?
- Và con, con yêu Thầy không, Gioan, con Zêbêđê?
- Yêu chừng nào Thầy! Dường như con vẫn luôn luôn yêu Thầy. Ngay từ trước khi biết Thầy, tâm hồn con đã tìm Thầy, và khi con nhìn thấy Thầy, nó nói với con: “Đây là đấng mày tìm”. Khi con gặp Thầy, chính là tâm hồn con nhận ra Thầy.
- Con nói đúng, Gioan, đúng là vậy. Thầy cũng thế, Thầy tới gặp con vì tâm hồn Thầy cảm thấy con. Con sẽ yêu Thầy trong bao lâu?
- Mãi mãi Thầy. Con không muốn yêu ai khác ngoài Thầy.
- Con có cha, mẹ, anh, chị. Con có đời sống, và cùng với đời sống là vợ con và tình yêu. Con làm cách nào để bỏ tất cả vì Thầy?
- Thưa Thầy... Con không biết... Dường như, nếu không phải là kiêu ngạo để nói, dường như tình biệt ái của Thầy thay thế cha, mẹ, anh, chị, và cả vợ con. Tất cả, vâng, con sẽ no thỏa tất cả, nếu Thầy yêu con.
43
- Và nếu tình yêu của Thầy khiến con phải khổ và bị bách hại?
- Sẽ không là gì cả, nếu Thầy yêu con.
- Và tới ngày Thầy phải chết?...
- Không, Thầy còn trẻ... Tại sao chết?
- Vì Đức Messi đến rao giảng Lề Luật trong sự thật, và để làm trọn sự cứu chuộc. Thế giới sợ Lề Luật và không muốn sự Cứu Chuộc, vì thế họ bách hại những người Thiên Chúa sai tới.
- Ôi! Cầu cho đừng có như vậy. Đừng nói với kẻ yêu Thầy sự phỏng đoán về cái chết!... Nhưng nếu Thầy phải chết, con cũng sẽ vẫn yêu Thầy. Xin Thầy cho phép con yêu Thầy - Gioan có cái nhìn van nài. Ông đi bên cạnh Giêsu, cúi sâu hơn, dường như ăn mày tình yêu của Người.
Giêsu dừng bước. Người xuyên thấu ông bằng cái nhìn sâu xa, rồi đặt tay trên đầu đang cúi của ông: “Thầy muốn con yêu Thầy”.
- Ôi Thầy! - Gioan sung sướng. Mặc dù một giọt nước mắt sáng trên con ngươi, ông mỉm cười, cái miệng trẻ đẹp. Ông cầm bàn tay Thiên Chúa và hôn ở mu bàn tay, rồi ép nó trên qủa tim của ông. Rồi họ đi tiếp.
- Con nói rằng con tìm Thầy...
- Vâng, để nói cho Thầy rằng các bạn con muốn biết Thầy... và bởi vì, ôi! Con ước ao lại được ở với Thầy! Con mới rời Thầy mấy tiếng đồng hồ... Nhưng con không thể thiếu Thầy được nữa.
- Vậy con đã là kẻ loan báo Ngôi Lời?
- Nhưng thưa Thầy, Giacôbê cũng vậy. Anh ấy nói về Thầy theo cách... để chinh phục họ.
- Theo cách, còn nghi ngờ sẽ bị chinh phục. Nhưng đó không phải là có lỗi, vì sự thận trọng là nguyên nhân sự dè giữ của anh ta. Chúng ta hãy đi bảo đảm cho anh ta hoàn toàn.
- Anh ấy hơi sợ.
- Không, không nên sợ Thầy! Thầy đến cho người tốt, nhất là cho các kẻ lầm lạc. Thầy muốn cứu chứ không muốn luận phạt. Với kẻ ngay thật thì Thầy hoàn toàn là Tình Thương.
- Còn với người tội lỗi?
- Cũng vậy. Về những kẻ bất lương, Thầy có ý nói về những người thiếu ngay thật cách thiêng liêng, và những kẻ giả hình, làm
44
như mình tốt, mà thực ra là xấu; những kẻ chỉ tìm lợi ích riêng, dù có thiệt hại cho tha nhân. Với những kẻ đó thì Thầy nghiêm khắc.
- Vậy thì Simon có thể an lòng. Ông ta ngay thẳng hơn ai hết.
- Vì vậy Thầy thích ông ta và Thầy muốn mọi người như vậy.
- Ông ta chuẩn bị bao nhiêu thứ để nói với Thầy.
- Thầy sẽ nghe sau khi đã nói ở giáo đường. Thầy đã cho loan tin cho các người nghèo và các bệnh nhân để thêm vào với các người giầu và mạnh khỏe. Mọi người đều cần Tin Mừng.
Họ tới gần làng. Có các đứa trẻ đang chơi trên đường. Và một đứa, trong khi chạy, nó sẽ ngã vào chân Giêsu nếu Người không chú ý đỡ lấy nó. Nhưng đứa trẻ cũng khóc, làm bộ như bị đau. Giêsu cầm tay nó và nói: “Một con dân Israel mà khóc sao? Hàng ngàn và hàng ngàn đứa trẻ đã phải làm gì khi băng qua sa mạc ở đàng sau Môise, và rồi trở thành người lớn. Nhưng chính vì chúng nó hơn là vì những người khác, mà Đấng Tối Cao đã làm mưa manna ngon lành. Qủa vậy, Người yêu các trẻ thơ và canh chừng trên các thiên thần nhỏ của trái đất, những con chim không cánh này, cũng như Người làm cho các chim sẻ đang bay trong các bụi cây và trên mái nhà. Con thích mật ong không? Có. Vậy nếu con tốt, con sẽ ăn mật ngon hơn mật của các con ong”.
- Vậy nó ở đâu? Và đến khi nào?
- Khi, sau một đời trung thành với Thiên Chúa, con sẽ đến với Người.
- Con biết rằng con sẽ không được tới đó nếu Đức Messi không tới. Má nói với chúng con rằng lúc này chúng ta, những người Israel, chúng ta giống như từng ấy Môise, chết khi nhìn thấy đất hứa. Bà nói rằng chúng ta phải chờ để vào, và chỉ có Đức Messi mới có thể cho phép chúng ta vào.
- Nhưng, ôi! Bé Israel dũng cảm! Thầy bảo con rằng khi con chết, con sẽ vào Thiên Đàng ngay, vì Đức Messi đã sắp sửa mở cửa Trời. Vậy con phải tốt.
- Má ơi! Má ơi! - đứa bé thoát tay Giêsu và chạy tới gặp một người đàn bà trẻ trở về với chiếc vò bằng đồng: “Má ơi! Vị rabbi mới nói với con rằng con sẽ lên trời ngay sau khi chết, và con sẽ ăn
45
rất nhiều mật ong, với điều kiện là phải tốt. Con sẽ tốt!”
- Nguyện Chúa cho như vậy. Xin lỗi Thầy, nếu nó đã làm phiền Thầy. Nó rất lí lắc!
- Bà ơi, trẻ con không làm phiền tôi. Thiên Chúa chúc lành cho bà vì bà là người mẹ biết dạy con cho biết Lề Luật.
Người đàn bà đỏ mặt vì lời khen này và trả lời: “Phúc lành của Thiên Chúa cho cả Thầy nữa” và bà biến mất với con nhỏ của bà.
- Thầy thích con nít?
- Ừ, vì chúng trong sạch, chân thành và yêu thương.
- Thầy có con không?
- Không, Thầy chỉ có một bà mẹ, và nơi Mẹ là sự trong sạch, chân thật, tình yêu như những trẻ nhỏ thánh nhất; và đồng thời là sự khôn ngoan, công chính và sức mạnh của người trưởng thành. Gioan, thầy có tất cả nơi Mẹ Thầy.
- Vậy mà thầy rời xa Mẹ?
- Thiên Chúa ở bên trên ngay cả những bà mẹ thánh nhất.
- Con có sẽ được biết Mẹ không?
- Con sẽ biết Mẹ.
- Và Mẹ sẽ thương con?
- Mẹ sẽ yêu con, vì Mẹ yêu những ai yêu Giêsu của Mẹ.
- Vậy là Thầy không có anh em?
- Thầy có các anh em bà con về phía chồng của Mẹ Thầy. Nhưng mọi người đều là anh em với Thầy. Đây, chúng ta đã tới giáo đường. Thầy vào. Con sẽ đến với Thầy cùng với các bạn con.
Gioan bỏ đi, và Giêsu vào một phòng vuông có các trang trí thông thường: Các ngọn đèn xếp theo hình tam giác, các kệ, các rulô giấy da. Đã có một đám đông chờ và cầu nguyện. Giêsu cũng cầu nguyện. Đàng sau, đám đông bàn tán về Người. Người cúi đầu chào ông trưởng giáo đường, rồi xin một ru-lô tình cờ nào đó.
Giêsu bắt đầu đọc.
Người nói: “Những điều này Thánh Linh đã làm cho tôi đọc vì qúi vị. Ở chương bảy, sách Jêrêmi, người ta đọc thấy: ‘Đây, Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Israel nói: Hãy chỉnh đốn phẩm hạnh
46
và tình cảm của các ngươi, khi đó ta sẽ đến ở giữa các ngươi tại nơi này. Các ngươi đừng ru ngủ bằng những lời vô ích mà các ngươi nhắc đi nhắc lại: Đây là Đền Thờ của Chúa, Đền Thờ của Chúa, Đền Thờ của Chúa. Vì nếu các ngươi canh cải phẩm hạnh và tình cảm, nếu các ngươi công bình với đồng loại, nếu các ngươi không áp bức người ngoại quốc, trẻ mồ côi, kẻ góa bụa; nếu các ngươi không đổ máu người vô tội, nếu các ngươi không đến với các thần ngoại quốc, lúc đó Ta sẽ ở với các ngươi tại đây, trong miền đất mà Ta đã ban cho cha ông các ngươi muôn đời’.
Ôi, hỡi qúi vị Israel, hãy nghe: Đây, tôi đến làm sáng tỏ các lời của ánh sáng mà tâm hồn mù tối của qúi vị không còn thấy, không còn hiểu được nữa. Rất nhiều nước mắt đã chảy ra trên đất của dân Thiên Chúa. Các kỳ lão khóc khi nhớ lại những Thánh Ca oai hùng; các người lớn khóc, cúi gù trên ách nặng, các trẻ em khóc, không hy vọng một tương lai vinh quang. Nhưng vinh quang của trái đất là không so với vinh quang mà không kẻ đàn áp nào, ngoại trừ ma qủi và ý muốn xấu, có thể cướp lấy.
Tại sao qúi vị khóc? Có phải vì Đấng Tối Cao, đấng vẫn nhân từ với dân Người, bây giờ ngoảnh mặt đi nơi khác, và từ chối cho họ nhìn dung nhan Người không? Người không còn là Thiên Chúa đã mở nước biển ra cho Israel đi qua, dẫn họ qua sa mạc cát và nuôi họ, bảo vệ họ chống lại kẻ thù; không phải Người, để tránh cho dân lạc mất đường lên Trời, đã cho tâm hồn họ Lề Luật, cũng như cho thân xác họ cột mây? Người không còn là Thiên Chúa đã làm dịu dòng nước đắng và làm mưa man-na trong khi họ mệt mỏi? Người không phải là Thiên Chúa đã định cư qúi vị trên đất này, và thành lập giao ước với qúi vị sao? Người không còn là Cha, và qúi vị là con Người sao? Vậy tại sao ngoại quốc đàn áp qúi vị? Nhiều người trong qúi vị lẩm bẩm: ‘Tuy nhiên chúng tôi có Đền Thờ ở đây!’ Có một đền thờ để tới đó cầu nguyện với Thiên Chúa thì không đủ.
Đền Thờ thứ nhất là ở trong tâm hồn mỗi người. Chính đó là nơi cầu nguyện thánh. Nhưng lời cầu nguyện không thể thánh nếu con tim không cải thiện, nếu không cải thiện phẩm hạnh, tình cảm, các
47
nguyên tắc công bình với người nghèo, với tôi tớ, cha mẹ, và với Thiên Chúa.
Bây giờ hãy nhìn: Tôi thấy những người giầu với con tim chai đá, dâng vào Đền Thờ những của lễ lớn, nhưng không biết nói với người nghèo: ‘Anh ơi, đây là một tấm bánh và một đồng bạc, hãy nhận lấy, lòng với lòng. Mong sự giúp đỡ của tôi không làm nhục anh, và món qùa mọn mà tôi tặng anh không làm cho tôi kiêu ngạo’. Đó, tôi thấy những người cầu nguyện, và phàn nàn vì Thiên Chúa không nghe lời họ mau lẹ, nhưng rồi sau đó, với người nghèo, có khi cùng dòng máu với họ, nói với họ: ‘Xin anh nghe tôi’, họ đã khắt khe trả lời ‘không’. Đó, tôi thấy qúi vị khóc vì kẻ thống trị dốc hết túi tiền của qúi vị, nhưng rồi qúi vị vắt máu của kẻ qúi vị ghét, và qúi vị không sợ thề thốt trên máu và sự sống.
Ôi, qúi vị Israel! Thời gian Cứu Chuộc đã tới, hãy dọn đường trong qúi vị bằng thiện chí. Hãy ngay thẳng, nhân từ, yêu nhau. Người giầu thì đừng khinh dể; thương gia thì đừng gian lận, người nghèo thì đừng thèm khát. Tất cả qúi vị đều thuộc về cùng một dòng máu, cùng một Thiên Chúa. Tất cả qúi vị đều được gọi tới cùng một định mệnh. Đừng khép lại nước Trời mà Đấng Messi sắp mở ra, bằng tội lỗi của qúi vị. Qúi vị đã sai lầm ư ? Bây giờ đừng vậy nữa. Mong cho mọi lầm lạc đều biến đi. Lề Luật của mười giới răn nguyên thủy thì đơn giản, tốt lành, dễ dàng, và thấm nhuần ánh sáng tình yêu.
Hãy đến, tôi sẽ chỉ nó cho qúi vị đúng như nó là: Tình yêu, Tình yêu, Tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa đối với qúi vị, tình yêu qúi vị đối với Thiên Chúa. Tình yêu với tha nhân. Luôn luôn Tình Yêu, vì Thiên Chúa là Tình Yêu, và các con của Cha là những kẻ biết sống tình yêu. Tôi ở đây cho mọi người, để cho ánh sáng của Thiên Chúa cho mọi người. Đây là Lời của Cha, tự làm của nuôi cho qúi vị. Hãy đến thưởng thức, đổi mới dòng máu của tâm hồn qúi vị bằng lương thực này. Cầu cho mọi chất độc biến đi, và các ước muốn xác thịt đều chết.
Một vinh quang mới được mang đến cho qúi vị: Vinh quang muôn đời. Những ai thực sự học hỏi Lề Luật của Thiên Chúa trong con
48
tim họ, sẽ đến với vinh quang này. Hãy bắt đầu bằng tình yêu, không có gì cao cả hơn. Khi qúi vị biết yêu là qúi vị biết tất cả. Thiên Chúa sẽ yêu qúi vị, và tình yêu của Thiên Chúa tức là sự trợ giúp chống lại mọi cám dỗ.
Nguyện phúc lành của Thiên Chúa đến với những ai quay về với Người bằng con tim đầy thiện chí”.
Giêsu nín lặng. Người ta bàn tán. Cộng đồng giải tán sau khi hát Thánh Vịnh và nhiều thi ca.
Giêsu ra cái công viên nhỏ. Ở ngưỡng cửa, Người gặp Gioan và Giacôbê với Phêrô và Andrê.
- Bình an cho các con - Giêsu nói, và Người thêm: “Đây là con người mà muốn chắc đúng, cần miễn xét đoán trước khi có các tin tức đầy đủ, và là người biết nhìn nhận cách ngay thẳng những sai lầm của mình. Simon, con muốn gặp Thầy? Thầy đây. Và con, Andrê, tại sao con không đến sớm hơn?”
Hai anh em nhìn nhau bối rối. Andrê thì thào: “Con không dám...”
Phêrô đỏ gay, không nói gì. Nhưng khi ông nghe Giêsu nói với em ông: “Đến với Thầy có phải là xấu không? Chỉ có điều xấu là điều người ta phải không dám làm...”, ông liền thẳng thắn ngắt lời: “Anh ta ở lại là tại con. Anh ta đã muốn dẫn con đến với Thầy ngay, nhưng con... Con đã nói... Phải, con nói: ‘Tôi không tin’, và con không muốn tới. Ôi, bây giờ thì khá hơn rồi”.
Giêsu mỉm cười, rồi Người nói: “Và Thầy, Thầy nói với con: Thầy yêu con vì sự ngay thẳng của con”.
- Nhưng con... con không tốt. Con không làm được những điều Thầy nói ở giáo đường. Con dễ cáu nếu có ai xúc phạm đến con... và... Con tham lam. Con thích có tiền... và trong việc bán cá... Ê!... Không phải luôn luôn... Con không phải luôn luôn không gian lận. Và con ngu dốt. Con không có nhiều giờ để đi theo Thầy để được ánh sáng. Làm sao đây? Con muốn trở nên như Thầy nói, nhưng...
- Simon, không khó gì đâu. Con có biết một tí chữ nghĩa không? Có à? Vậy hãy nghĩ tới tiên tri Michée. Thiên Chúa muốn nơi con điều mà Michée nói. Người không đòi con phải rứt bỏ con tim, cũng không đòi phải hy sinh những tình cảm thánh thiện nhất. Không.
49
Lúc này Người không đòi con như vậy. Một ngày kia, dù Người không xin, con cũng sẽ dâng chính mình con cho Người. Nhưng Người chờ một mặt trời và một trận mưa rào để làm cho con mọc lên, không phải một cái mầm yếu đuối, nhưng là một cây thốt nốt mạnh mẽ và oai hùng. Lúc này Người chỉ xin con điều này: thi hành sự công bằng, mến tình thương, hoàn toàn, gắn bó hoàn toàn để theo Thiên Chúa của con. Thi hành những điều đó thì qúa khứ của Simon sẽ được xóa bỏ, và con sẽ trở thành một người mới, bạn của Thiên Chúa và của Đức Kitô Người. Con sẽ không còn là Simon, nhưng là Cépha, tảng đá vững chắc mà Thầy sẽ dựa vào.
- Con thích như vậy. Con hiểu. Lề Luật là như thế... như thế... Đó, con sẽ không còn thi hành luật như các rabbi làm nữa!... Nhưng như Thầy cắt nghĩa. Đúng, có vẻ con làm được... Và Thầy sẽ giúp con. Thầy ở lại trong nhà này à? Con biết ông chủ.
- Thầy ở đây, nhưng Thầy sắp đi Jêrusalem. Rồi sau đó Thầy sẽ đi rao giảng khắp nơi trong Israel. Thầy đến vì điều đó. Nhưng Thầy sẽ hay đến đây.
- Con sẽ đến nghe Thầy. Con muốn làm môn đệ Thầy. Một chút ánh sáng sẽ lọt vào đầu con.
- Vào con tim chứ Simon. Nhất là vào con tim. Còn con, Andrê, con không nói gì hết?
- Thưa Thầy, con nghe.
- Em con nó rụt rè lắm!
- Anh ta sẽ thành con sư tử. Đêm rồi. Nguyện Thiên Chúa chúc lành cho các con, và cho các con mẻ cá tốt. Đi đi.
- Bình an cho Thầy - và họ đi.
Vừa đi ra khỏi, Phêrô nói: “Nhưng Người muốn nói gì lúc đầu, khi Người nói tôi sẽ chài với cái lưới khác, và sẽ chài thứ khác?”
- Sao anh không hỏi Người. Anh đã muốn nói bao nhiêu thứ, rồi kết cục, anh chả nói gì hết.
- Tôi... Tôi xấu hổ. Người rất khác với các rabbi.
- Bây giờ Người sắp đi Jêrusalem... - Gioan nói với bao là ước ao, bao nuối tiếc. “Tôi muốn hỏi Người xem Người có để cho tôi đi
50
với Người không... Nhưng rồi tôi không dám”.
- Cậu đi nói với Người đi - Phêrô nói. “Chúng ta đã từ giã Người như vậy... Không một lời tình nghĩa... Cầu cho ít nhất Người biết rằng chúng ta cảm phục Người. Đi đi, đi đi, tôi sẽ nói với ba cậu”.
- Em có đi không, Giacôbê?
- Đi đi.
Gioan chạy đi, phóng thật nhanh, rồi trở lại hoan hỉ: “Tôi nói với Người: ‘Thầy có muốn có con ở Jêrusalem không?’ Người trả lời: ‘Bạn ơi, hãy tới’. Người gọi tôi là bạn! Ngày mai, vào giờ này, tôi sẽ tới đây. A! Đi Jêrusalem với Người!...”
Chấm dứt thị kiến.
11* “GIOAN CŨNG LỚN TRONG SỰ KHIÊM NHƯỜNG”
Sáng nay Chúa Giêsu nói với tôi những lời này về thị kiến trên:
Cha muốn con cũng như tất cả các con nhận xét thái độ của Gioan, một trong những khía cạnh mà người ta không quan tâm: Các con cảm phục ông vì ông trong sạch, yêu mến, trung thành. Nhưng các con không nhận xét là ông cũng lớn lao trong sự khiêm nhường.
Ông là người mà nhờ ông, Phêrô mới đến với Cha, nhưng ông nín lặng khiêm tốn về sự kiện đặc biệt này. Người tông đồ của Phêrô, tức là của nhân vật số một trong các tông đồ của Cha, là Gioan: người đầu tiên nhận ra Cha, người đầu tiên nói với Cha, người đầu tiên theo Cha, người đầu tiên rao giảng Cha. Nhưng các con coi điều ông nói: “Andrê, em Simon, là một trong hai người đã nghe các lời của Gioan và đã theo Chúa Giêsu. Người đầu tiên ông gặp là anh Simon của ông, ông đã nói với ông ta: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Messi’, và ông dẫn ông ta đến với Chúa Giêsu”.
Với sự chân chính cộng thêm với lòng tốt, ông biết rằng Andrê bị bối rối vì tính e dè rụt rè, rất muốn hành động nhưng không làm được. Ông muốn lưu truyền cho hậu thế về lòng tốt của ông ta: ông muốn rằng Andrê có vẻ như được là tông đồ đầu tiên của Đức Kitô
51
đối với Simon, mặc dầu tính nhút nhát và sự lu mờ của ông trước mặt anh ông sẽ làm cho ông thất bại trong việc tông đồ.
Ai trong số những người đã làm được cái gì cho Cha mà biết bắt chước Gioan để không tự công bố mình là tông đồ vô song? Họ không suy nghĩ rằng sự thành công của họ là nhờ nhiều yếu tố, không phải chỉ nhờ sự thánh thiện, nhưng cũng nhờ sự táo bạo loài người, nhờ dịp may, nhờ được ở bên những người khác ít qủa quyết hơn, ít may hơn, nhưng có lẽ thánh thiện hơn chính họ.
Trong một thành công tốt đẹp, các con đừng tự tôn vinh mình, làm như công trạng là hoàn toàn thuộc về các con. Hãy ngợi khen Thiên Chúa, chủ nhân của những người thợ truyền giáo. Hãy có cái nhìn trong sáng và con tim chân thành để nhận xét và dành cho ai quyền được hoan hô. Một cái nhìn trong sáng để nhận xét những tông đồ đã thi hành sự hy sinh, đã là những đòn bẩy đầu tiên thực sự cho công việc của những người khác. Một mình Thiên Chúa nhìn rõ, những kẻ bẽn lẽn này có vẻ như không làm gì, mà thực sự họ đã ăn cắp được của Trời thứ lửa làm linh hoạt cho các kẻ táo bạo. Một con tim chân thật phải nói: “Tôi làm, nhưng người có nhiều tình yêu hơn tôi, cầu nguyện nhiều hơn tôi, cũng hiến thân như tôi mà tôi không biết, đã làm. Và như Chúa Giêsu nói: ‘... Hãy vào phòng, đóng kín cửa và cầu nguyện kín đáo’. Tôi là người thấy sự khiêm nhường của họ, và các nhân đức thánh của họ, tôi muốn làm cho họ được biết và tôi nói: tôi là dụng cụ hoạt động, họ là sức mạnh kích thích tôi, bởi vì họ được ghép vào Thiên Chúa, nên chính nhờ ống dẫn của họ mà tôi nhận được sức mạnh từ Trời”.
Và phúc lành của Chúa Cha xuống để thưởng công kẻ khiêm nhường, biết hiến mình trong yên lặng để tìm sức mạnh tông đồ. Nó cũng xuống trên vị tông đồ chân thành nhìn nhận sức mạnh siêu nhiên. Sự yên lặng đến từ sự khiêm nhường của họ. Công nghiệp của sự khiêm nhường này thì các người nông cạn không nhìn ra.
Hãy đón nhận hết những giáo huấn này. Gioan là kẻ ưu ái của Cha ư ? Đúng. Ông ta đã chẳng giống Cha sao? Trong sạch, yêu thương, vâng lời và khiêm nhường. Cha soi mình trong ông, và trong ông, Cha thấy các nhân đức của Cha. Vì lý do này, Cha yêu ông
52
như một thứ ngã của Cha: Cha thấy trên ông cái nhìn của Chúa Cha, đấng coi ông như một Kitô nhỏ. Mẹ Cha đã nói với Cha: “Nơi nó, mẹ thấy như mẹ có một đứa con trai thứ hai, mẹ thấy như nhìn thấy con. Con đã tái sinh trong nó, kẻ chỉ là một người”.
Ôi! Hỡi kẻ ưu ái của Cha! Đấng Đầy Khôn Ngoan đã biết con chừng nào! Hai mảnh trời xanh là hai con tim này, hoàn toàn trong sạch, tan hòa vào nhau, làm thành một tấm màn duy nhất để làm cho Cha một sự bảo vệ bằng tình yêu, và đã trở nên một tình yêu duy nhất, ngay từ trước khi Cha ban Mẹ cho Gioan, và ban Gioan cho Mẹ. Hai người đã yêu nhau vì nhận ra sự giống nhau: Là con và anh em của Chúa Cha và Chúa Con.
12* GIÊSU GẶP PHILÍP VÀ NATANAEL
TẠI BÉTSAIĐA, TRONG NHÀ PHÊRÔ
Sau đó (lúc 9g30) con phải viết điều này:
Gioan gõ cửa căn nhà đã đón tiếp Giêsu. Một người đàn bà tiến lên coi xem ai, và bà gọi Giêsu.
Họ trao đổi cái chào bình an, rồi Giêsu nói: “Con đến sớm, Gioan ạ”.
- Con đến nói với Thầy là Simon Phêrô xin Thầy ghé qua Bétsaiđa. Ông đã nói về Thầy với nhiều người... Đêm qua chúng con không đánh cá. Chúng con cầu nguyện như chúng con biết, và từ bỏ lợi tức vì ngày Sabat chưa hoàn toàn chấm dứt. Sáng nay chúng con tới các đường phố để nói về Thầy. Có nhiều người muốn nghe Thầy... Thầy đến không?
- Thầy đến, dù Thầy phải đi Nazarét trước khi đi Jêrusalem.
- Phêrô sẽ lấy thuyền của ông để chở Thầy từ Bétsaiđa tới Tibêriat, Thầy sẽ đi mau hơn.
- Vậy chúng ta đi.
Giêsu mặc áo khoác và cầm giỏ của Người, nhưng Gioan cầm lấy cho Người. Họ đi ra sau khi đã chào chủ nhà.
Tôi nhìn thấy chỗ ra khỏi xứ và bắt đầu đi về Bétsaiđa, nhưng
53
tôi không nghe thấy các đàm thoại, và thị kiến bị gián đoạn. Sau đó tôi thấy lại ở chỗ đi vào Bétsaiđa. Tôi biết đó là Bétsaiđa, vì tôi nhìn thấy Phêrô, Andrê và Giacôbê cùng với nhiều phụ nữ ở với họ tại đầu vùng dân chúng cư ngụ.
- Bình an cho các con. Thầy đây.
- Cám ơn Thầy cho chúng con và cho những người chờ. Đây không phải ngày Sabát, nhưng Thầy có nói với những kẻ chờ Thầy không?
- Có, Phêrô. Thầy sẽ nói tại nhà con.
Phêrô hớn hở: “Vậy xin Thầy tới: Đây là vợ con. Bà này là mẹ của Gioan, và các bà này là bạn họ. Nhưng còn nhiều người khác nữa đang chờ Thầy: Bà con và bạn hữu của chúng con”.
- Hãy báo cho họ là chiều nay Thầy đi, và Thầy sẽ nói với họ trước khi đi.
Tôi quên nói là họ khởi hành ở Caphanaum vào lúc mặt trời lặn, và tôi thấy họ vào Bétsaiđa lúc buổi sáng.
- Thưa Thầy, con xin Thầy ở lại nhà con một đêm. Đường đi Jêrusalem rất dài, dù là con cắt ngắn nó bằng cách chở Thầy bằng thuyền tới Tibêriat. Nhà con nghèo nhưng ngay thật và hiếu khách. Hãy ở lại với chúng con đêm nay.
Giêsu nhìn Phêrô và những người đang chờ câu trả lời của Người. Người nhìn nét mặt họ rồi mỉm cười nói: “Ừ”.
Lại một niềm vui mới cho Phêrô.
Có những người nhìn ra cổng và làm dấu hiệu. Một người gọi đích danh Giacôbê, êm đềm nói với ông trong khi chỉ tay vào Giêsu. Giacôbê làm hiệu là đúng. Và người đó ra đi nói với một người khác đang dừng lại ở một ngã tư.
Họ vào trong nhà Phêrô. Một căn bếp lớn đen thui vì khói. Trong một góc là lưới, giây nhợ, thúng rổ để đựng cá. Ở giữa là lò lửa lớn và thấp, lúc này không cháy lửa. Từ hai chiếc cửa ra vào đối diện nhau, người ta thấy đường phố và khu vườn nhỏ có cây sung và cây nho. Bên kia con đường là các sóng xanh của nước hồ; bên kia khu
54
vườn là bức tường của một nhà khác.
- Con biếu thầy cái gì con có và như con biết...
- Tuyệt vời. Con không thể làm hơn, vì con tặng Thầy với tình yêu.
Người ta đem nước cho Giêsu để Người rửa ráy cho mát, rồi đem bánh và oliu. Giêsu ăn vài miếng để chứng tỏ Người nhận, rồi đẩy chỗ còn lại ra và cám ơn.
Các trẻ em tò mò quan sát Người từ ngoài vườn và từ ngoài đường. Nhưng tôi không biết có phải con nít nhà Phêrô không. Tôi chỉ biết, bằng cái nhìn, ông giữ lại các kẻ xâm lăng nhỏ. Giêsu mỉm cười nói: “Để kệ chúng nó”.
- Thưa Thầy, Thầy có muốn nghỉ không? Đây là phòng con, kia là phòng Andrê. Xin Thầy chọn. Chúng con sẽ không làm ồn khi Thầy nghỉ.
- Con có sân thượng không?
- Có, với dàn nho, dù nó còn trụi và chỉ cho ít bóng mát.
- Dẫn Thầy lên đó. Thầy thích nghỉ trên đó. Thầy sẽ suy nghĩ và cầu nguyện.
- Như Thầy muốn. Xin đi.
Từ khu vườn, một cầu thang nhỏ dẫn lên mái. Đó là sân thượng có tường nhỏ bao quanh. Ở đó cũng có lưới và giây nhợ, nhưng ánh sáng đẹp chừng nào đến từ trời, và cảnh xanh biếc của nước hồ!
Giêsu ngồi trên một ghế đẩu và tì vai vào tường. Phêrô lấy một tấm buồm, giăng ra về phía cây nho để che mặt trời. Ở đây chỉ có gió nhẹ và sự yên lặng. Rõ ràng là Giêsu thưởng thức chúng.
- Con đi đây Thầy.
- Đi đi. Con bảo Gioan đi nói với người ta rằng Thầy sẽ nói ở đây lúc mặt trời lặn.
Giêsu ở lại một mình và cầu nguyện lâu giờ. Ngoài hai đôi bồ câu đi đi về về tổ của chúng, và tiếng líu ríu của các chim sẻ, không có tiếng động nào khác, không có con vật sống nào khác chung quanh Giêsu đang cầu nguyện.
Thời giờ qua đi, bình an và thanh quang. Rồi Giêsu đứng dậy, đi vòng quanh sân thượng, nhìn ra hồ và các trẻ em đang chơi trên
55
đường. Người mỉm cười với chúng và các trẻ em trả lời Người bằng nụ cười của chúng. Người nhìn trên đường, về phía công viên nhỏ cách xa nhà chừng trăm mét, rồi Người xuống và vào trong bếp: “Bà ơi, tôi đi ra làm một vòng trên bãi”.
Người ra phía này, âu yếm tới bên các trẻ em và hỏi chúng: “Các con làm gì đó?”
- Chúng con muốn chơi chiến tranh, nhưng nó không muốn, vậy thì chơi đánh cá.
Kẻ không muốn chiến tranh là một thằng nhỏ ốm o, nhưng đôi mắt sáng. Có lẽ vì nó ốm o như vậy, nó biết rằng trong trò chiến tranh, các đứa khác sẽ đẩy nó, và vì vậy nó yêu cầu hòa bình.
Nhưng Giêsu lợi dụng hoàn cảnh để nói với các trẻ: “Anh ta có lý. Chiến tranh là hình phạt của Thiên Chúa để phạt người ta. Nó chứng tỏ rằng con người không còn thực là con Thiên Chúa nữa. Khi Đấng Tối Cao sáng tạo thế giới, Người đã làm hết: mặt trời, biển, tinh tú, sông, cây cối, động vật. Nhưng Người không chế tạo vũ khí. Người tạo dựng con người và cho họ đôi mắt để nhìn với tình yêu, cái miệng để nói các lời của tình yêu, tai để nghe, tay để giúp đỡ và vuốt ve, chân để chạy nhanh tới các anh em đang cần, và một qủa tim để yêu. Người đã cho con người trí khôn thông minh, lời nói, tình cảm, giác quan. Nhưng Người không cho sự thù ghét. Tại sao? Bởi vì con người là tạo vật của Thiên Chúa, họ phải là tình yêu cũng như Thiên Chúa là tình yêu. Nếu con người vẫn là tạo vật của Thiên Chúa, họ sẽ ở lại trong tình yêu, và gia đình nhân loại sẽ không biết đến chiến tranh và cái chết”.
- Nhưng anh ta, anh ta không muốn chiến tranh, vì anh ta luôn luôn thua.(tôi đã đoán mà!)
Giêsu mỉm cười nói: “Không nên từ chối một điều phiền cho chúng ta vì lẽ nó phiền cho chúng ta. Chỉ nên từ chối một điều khi nó phiền cho mọi người. Nếu một người nói: ‘Tôi không muốn trò này vì tôi sẽ thua’, đó là ích kỷ. Trái lại, người con thực của Thiên Chúa thì nói: ‘Anh em ơi, tôi biết là tôi sẽ thắng, nhưng tôi bảo anh em đừng chơi trò này, bởi vì chúng ta sẽ bị thiệt hại’. Ồ, đó là người
56
hiểu giới răn! Ai biết nói cho Thầy giới răn nào?”
Mười một cái miệng đồng thanh nói: “Ngươi sẽ yêu Thiên Chúa của ngươi hết sức mình ngươi, và yêu tha nhân như chính ngươi”.
- Ồ! Các con là những trẻ em giỏi. Tất cả các con đều đi nhà trường?
- Vâng.
- Ai giỏi nhất?
- Anh ta - đó là đứa trẻ ốm o không muốn chiến tranh.
- Con tên gì?
- Joel.
- Đó là đại danh. Chính ông ta đã nói: “... Người yếu hãy nói: ‘tôi khỏe’”. Nhưng khỏe về cái gì? Về lề luật của Thiên Chúa thực, để được Thiên Chúa công bố là thánh tại thung lũng Phán Xét tối hậu. Nhưng sự phán xét đã gần rồi, không phải ở thung lũng Phán Xét, nhưng ở núi Cứu Chuộc. Ở đó, khi mặt trời và mặt trăng ra tối tăm vì ghê sợ cảnh tượng không hề thấy, và các tinh tú run rẩy khóc vì thương, thì sẽ có sự phân chia con cái Ánh Sáng với con cái tối tăm. Toàn thể Israel sẽ biết rằng Thiên Chúa đã đến. Phúc cho những kẻ nhận ra Người. Với họ, mật, sữa và nước trong sẽ chảy vào lòng họ, và các gai nhọn sẽ biến thành hoa hồng đời đời. Ai trong các con muốn được Thiên Chúa công bố là thánh?
- Con! Con! Con!
- Vậy các con sẽ yêu Đấng Messi?
- Vâng! Vâng! Thầy! Thầy! Chúng con yêu Thầy. Chúng con biết Thầy là ai! Phêrô và Giacôbê đã nói. Má chúng con cũng nói. Hãy đem chúng con đi với Thầy.
- Thực vậy, Thầy sẽ mang các con đi nếu các con tốt. Nhưng phải không còn lời thô tục, không còn hung dữ, không còn cãi cọ, không còn trả lời bất kính với cha mẹ. Cầu nguyện, học hành, làm việc, vâng lời. Vậy là Thầy sẽ yêu các con và đến với các con.
Tất cả trẻ em đều quây quần chung quanh Giêsu, giống như chiếc triều thiên bằng những cánh hoa nhiều mầu khác nhau, chung quanh một cái nhụy mầu xanh dương đậm.
Một người già tò mò lại gần. Giêsu quay lại để vuốt ve một đứa
57
nhỏ đã kéo áo Người, và Người thấy ông. Người nhìn ông đăm đăm. Người đàn ông đỏ mặt, chào Người, nhưng không nói gì khác.
- Hãy tới theo Thầy.
- Thưa Thầy vâng.
Giêsu chúc lành cho các trẻ rồi đi bên cạnh Philíp (Người gọi tên ông) để về nhà. Họ ngồi lại trong vườn.
- Con muốn làm môn đệ Thầy?
- Con muốn, nhưng con không dám hy vọng.
- Chính Thầy gọi con.
- Con theo tiếng gọi. Vậy con đây.
- Con biết Thầy là ai không?
- Andrê đã nói với con về Thầy. Ông bảo con: “Đấng mà anh ước mong đã tới”, vì ông biết con mong đấng Messi.
- Sự chờ đợi của con không bị lừa. Người ở trước mặt con.
- Thầy con và Thiên Chúa con!
- Con là người Israel có ý hướng ngay thẳng, vì vậy Thầy tỏ mình ra cho con. Một người khác là bạn con cũng đang chờ. Ông ta cũng là một người Israel chân thành. Hãy đi nói với ông ta: “Chúng tôi đã tìm được Giêsu Nazarét, con Giuse, dòng dõi Đavít, đấng mà Môise và các tiên tri đã nói”. Đi đi!
Giêsu ở lại một mình cho tới khi Philíp trở lại với Natanael.
- Đây là một người Israel, nơi ông không có gì gỉa dối. Bình an con con, Natanael.
- Làm sao Thầy biết con?
- Trước khi Philíp gọi con, Thầy đã thấy con ở dưới gốc cây sung.
- Thưa Thầy, Thầy là con Thiên Chúa, là vua Israel!
- Bởi vì Thầy bảo con rằng Thầy đã thấy con trong khi con suy nghĩ tại gốc cây sung nên con tin? Con sẽ thấy những điều quan trọng hơn nữa. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng Trời sẽ mở ra, và các con, bằng đức tin, các con sẽ thấy các thiên thần lên xuống trên Con Người, là Thầy, kẻ đang nói với các con.
- Thưa Thầy, con không đáng một đặc ân như vậy!
- Hãy tin ở Thầy, và các con sẽ xứng đáng với nước Trời. Các
58
con có muốn tin không?
- Thưa Thầy, con muốn.
Thị kiến dừng... Rồi tiếp tục ở trên sân thượng. Người ta ngồi đầy trong vườn. Giêsu nói từ sân thượng.
- Bình an cho người có thiện chí. Bình an và phúc lành cho nhà cửa họ, vợ con họ. Xin ánh sáng của Thiên Chúa ngự trị ở đó, và ở trong con tim của những người cư ngụ ở đó.
Các con đã ước ao nghe Thầy, vậy Lời nói với các con. Nó nói trong niềm vui với những người ngay lành, trong đau đớn với những người không như vậy. Nó nói cùng các thánh và những người trong sạch với tình yêu, cùng các tội nhân với tình thương. Nó không từ chối. Nó đã đến như một dòng sông tưới cho đất khô mong nước, mang tới sự mát mẻ của nước và lương thực như phù sa. Các con muốn biết những điều cần có để làm môn đệ của Lời Thiên Chúa, của Đức Kitô, Lời của Chúa Cha, đến để tụ họp Israel cho nó nghe lại những lời của Thập Giới thánh và bất biến. Và nếu nó là nguồn thánh hóa vì lẽ nó đã ở trong thế gian rồi, thì nó có sức thánh hóa chừng nào vào giờ của Ơn Cứu Chuộc và của Vương Quốc!
Đây, Thầy nói cho người mù, người điếc, người câm, người phong cùi, liệt bại, người chết: “Hãy đứng dậy, hãy được khỏi, hãy sống lại, hãy bước đi. Đây, các dòng sông ánh sáng mở ra cho các con. Các dòng sông của Lời. Các làn sóng của nó vang dội, để các con có thể thấy, nghe, và nói về Thầy”. Nhưng Thầy nói với tâm hồn các con nhiều hơn là với thân xác. Hỡi người thiện chí, hãy đến với Thầy, đừng sợ. Nếu tâm hồn các con bị thương, Thầy sẽ trả lại sự nguyên vẹn của nó. Nếu nó bệnh, Thầy sẽ chữa nó. Nếu nó chết, Thầy sẽ phục sinh cho nó. Thầy chỉ cần thiện chí của các con.
Điều Thầy xin các con có khó không? Không. Thầy không bó buộc các con hàng trăm và hàng trăm giáo điều của các rabbi. Thầy chỉ bảo các con: Hãy tuân theo Thập Giới. Lề luật là một và bất biến. Bao thế kỷ đã qua từ lúc nó được ban bố cho con người: Nó đẹp đẽ, tinh tuyền, tươi mát như một tạo vật vừa sinh, như một bông hồng vừa hé mở trên cành. Nó đơn sơ, rõ rệt, êm dịu để theo. Qua các thế kỷ, tội lỗi và các khuynh hướng của loài người đã làm
59
cho Lề Luật thành phức tạp bằng những luật, những qui khoản ti tiểu với những gánh nặng, những hạn chế, với qúa nhiều kết thúc nặng nề. Thầy dẫn các con về với Lề Luật giống như khi Đấng Tối Cao ban bố nó. Nhưng Thầy xin các con, vì lợi ích của các con, hãy đón nhận nó với con tim chân thành của các người Israel thời đó. Các con lẩm bẩm trong lòng nhiều hơn là trong lời nói rằng: tội là do những người ở trên cao nhiều hơn là do các con, những kẻ thấp bé. Thầy biết. Trong sách Đệ Nhị Luật đã nói về mọi điều phải làm, không phải thêm vào điều gì nữa. Nhưng các con đừng xét đoán những người chỉ áp dụng nó cho người khác chứ không cho mình. Với các con, hãy làm những gì Thiên Chúa nói. Và trên tất cả, hãy cố gắng thực hành cách trọn vẹn hai giới răn chính yếu. Nếu các con yêu Thiên Chúa bằng tất cả sinh lực của các con, các con sẽ không phạm tội, vì tội làm đau đớn cho Thiên Chúa. Ai yêu thì không muốn làm cho người khác khổ. Nếu các con yêu tha nhân như chính mình, các con sẽ là những con cái kính trọng cha mẹ, vợ chồng trung thành, người ngay thật trong thương mại, không tàn bạo với kẻ thù, không nói dối khi làm chứng, không ham của người khác, không ước muốn dâm ô vợ chồng người khác. Các con sẽ không làm cho người khác điều các con không muốn người khác làm cho các con: trộm cắp, giết người, vu khống, lẻn vào trong tổ của người khác giống như loài chim gáy.
Nhưng Thầy bảo các con: hãy đẩy sự vâng lời của các con đối với hai giới răn tình yêu tới chỗ toàn vẹn, là hãy yêu thương các kẻ thù của các con.
Ôi! Người sẽ yêu các con biết bao, Đấng Tối Cao, đấng yêu con người biết bao trong khi họ đã trở nên kẻ thù bởi tội nguyên tổ và tội riêng. Người đã yêu họ tới nỗi đã gởi đến cho họ Đấng Cứu Thế, Con Chiên là Con của Người, là Thầy, người đang nói với các con, Đấng Messi đã được hứa để chuộc các con khỏi mọi tội, nếu các con biết yêu như Người.
Hãy yêu. Chớ gì tình yêu là cái thang trong thị kiến của Jacob, các con sẽ trở nên các thiên thần, sẽ qua cái thang đó mà lên tới trời, để nghe Chúa Cha nói với tất cả và với mỗi người: “Ta sẽ là
60
kẻ bảo vệ con ở mọi nơi con đi, và Ta sẽ dẫn con tới xứ này: Tới Trời, Nước Vĩnh Cửu”.
Bình an cho các con.
Người ta nói những lời nhìn nhận cảm động và rút lui từ từ, chỉ còn lại Phêrô, Andrê, Giacôbê, Gioan, Philíp và Batôlômêo.
- Ngày mai Thầy đi à?
- Ngày mai, lúc rạng đông, nếu không phiền cho con.
- Con chỉ tiếc vì Thầy đi. Còn về giờ giấc thì không. Trái lại, nó thuận tiện.
- Con sẽ đi chài?
- Đêm nay, lúc trăng lên.
- Simon Phêrô, con đã làm rất phải khi không đi chài đêm hôm qua, vì ngày Sabat chưa chấm dứt. Nêhêmi, trong việc cải tổ của ông, đã muốn rằng ở Juđê, ngày Sabat phải được kính trọng. Ngay bây giờ cũng vậy, qúa nhiều người làm việc tại bàn ép, chở củi, vận chuyển rượu hay trái cây, mua bán cá, chiên cừu. Các con có sáu ngày cho những việc đó. Ngày Sabát thuộc về Chúa. Chỉ có một việc có thể làm trong ngày Sabát là giúp đỡ tha nhân, nhưng mọi lợi tức phải được trừ khử tuyệt đối. Ai vi phạm ngày Sabát trong mục đích kiếm lợi thì chỉ có thể nhận được hình phạt nơi Thiên Chúa. Các con làm việc kiếm lợi ư ? Các con sẽ phải trả bằng sự lỗ vốn trong sáu ngày kia. Các con làm một việc có thù lao? Các con làm thân xác mệt mỏi vô ích vì không cho nó sự nghỉ ngơi mà Trí Tuệ Tối Thượng đã thành lập cho nó, trong khi làm hư tâm hồn bởi sự bất nhẫn gây ra bởi mệt mỏi vô ích, có thể đi tới chỗ nguyền rủa, trong khi đáng lẽ ngày Sabát phải được qua đi với con tim kết hợp cùng Thiên Chúa, trong lời cầu nguyện êm đềm của tình yêu. Phải trung thành trong mọi sự.
- Nhưng... Các luật sĩ và tiến sĩ rất khắc nghiệt với chúng con... Không làm việc ngày Sabát, cả đến không đưa một cái bánh cho tha nhân để tránh sự mệt mỏi phải giơ nó ra... Nhưng cho vay nặng lãi thì họ thi hành cả trong ngày Sabát, vì đó không phải là việc vật chất. Người ta có được áp dụng sự cho vay nặng lãi vào ngày Sabát không?
61
- Không. Không bao giờ. Không được làm trong ngày Sabát cũng như các ngày khác. Ai làm là gian dối và độc ác.
- Vậy các luật sĩ và pharisiêu...
- Simon, đừng xét đoán. Nhưng về phần con, hãy tránh điều đó.
- Nhưng... Con có mắt để coi...
- Chỉ có những điều xấu để nhìn thôi sao Simon?
- Thưa thầy không...
- Vậy tại sao chỉ nhìn điều xấu?
- Thầy có lý.
- Vậy ngày mai, Thầy sẽ đi vào lúc bình minh với Gioan.
- Thưa Thầy...
- Cái gì, Simon?
- Thưa Thầy, Thầy đi Jêrusalem?
- Con biết rõ rồi mà.
- Con cũng vậy, con sẽ đi lễ Vượt Qua... Và cả Andrê, Giacôbê nữa...
- Sao?... Con muốn nói rằng con muốn đi với Thầy. Còn việc đánh cá? Còn lợi tức? Con đã nói với Thầy rằng con thích có tiền. Thầy sẽ ở lại đó nhiều ngày. Trước tiên Thầy về nhà Mẹ Thầy, và Thầy cũng về đó lúc trở về. Thầy sẽ ngừng lại để rao giảng. Con sẽ làm sao?...
Phêrô do dự, bị giằng co giữa hai ước muốn... Nhưng sau cùng ông quyết định: “Đối với con thì... Con đi. Con coi Thầy ở trên tiền bạc!”
- Con cũng vậy, con đi.
- Con cũng vậy.
- Và chúng ta cũng vậy, phải không Philíp?
- Vậy thì hãy tới. Các con sẽ giúp Thầy.
- Ôi!... - Phêrô sửng sốt với ý tưởng giúp cho Giêsu. “Chúng con sẽ làm sao?”
- Thầy sẽ nói. Các con chỉ việc làm điều Thầy bảo các con làm. Sự vâng lời luôn luôn hành động tốt. Bây giờ chúng ta đi cầu nguyện, rồi mỗi người về nhà mình.
62
- Thầy sẽ làm gì?
- Thầy cầu nguyện nữa. Thầy là ánh sáng thế gian, nhưng Thầy cũng là con người, vì vậy Thầy phải luôn luôn thông hiệp với Ánh Sáng để làm người cứu chuộc con người. Chúng ta hãy cầu nguyện.
Giêsu đọc một thánh vịnh bắt đầu bằng những lời: “Ai an nghỉ dưới cánh Đấng Tối Cao sẽ sống dưới sự che chở của Chúa Trời. Họ sẽ nói với Chúa: Chúa là đấng bảo vệ con, là nơi an nghỉ của con, là Thiên Chúa của con. Con đặt hy vọng nơi Người. Người sẽ giải thoát con khỏi lưới người săn và khỏi các lời độc ác v.v.” Tôi thấy nó ở quyển bốn, hình như số 90.
Con mở Kinh Thánh, rơi trúng vào chương 23 sách Giảng Viên, câu 1- 4. Con thích lời cầu nguyện này. Tư tưởng rất dễ bị lạc và con tim dễ phồng lên sự kiêu căng! Không. Thà chết còn hơn. Điều đó có nghĩa là mất Chúa, mà lạy Chúa, con không muốn mất Chúa. Hãy dùng roi và kỷ luật, nhưng hãy giữ bông hoa tím của Chúa nằm dưới đất.
Lúc 12 giờ, con nói với Chúa Giêsu: “Vâng, lạy Chúa, xin cầm tay dẫn dắt con (Con đang đọc một câu Chúa nói với chị Bêninha, và đó là ý tưởng của con trong ngày). Con muốn điều Chúa muốn chứ không điều gì khác. Nhưng con sợ thế giới”. Chúa Giêsu trả lời con, vì Người biết con nói về cái sợ nào: “Khi họ đòi con yên lặng và từ chối nhìn nhận rằng chính nhân danh Cha và do ý muốn của Cha mà con làm việc đó, hãy trả lời như Phêrô và Gioan trả lời cho Đại Pháp Đình sau khi chữa người què: ‘Trước mặt Thiên Chúa, có chính đáng không khi vâng lời các ông thay vì vâng lời Thiên Chúa? Các ông hãy tự xét. Chúng tôi không thể (tôi không thể) không nói về điều chúng tôi đã thấy và nghe (tôi đã thấy và nghe)’ Ngoài ra, con không thể ngăn cản Cha đến với con và ép con phải thấy và nghe. Sẽ là ngu xuẩn nếu con nghe thế giới là những kẻ muốn áp đặt sự yên lặng cho Thiên Chúa, hơn là nghe Thiên Chúa là Đấng muốn ban Ánh Sáng cho thế giới. Nếu Cha muốn thì ai có thể chống đối Cha?”
13* JUĐA THAĐÊ Ở BÉTSAIĐA ĐỂ MỜI
GIÊSU TỚI DỰ TIỆC CƯỚI CANA
63
Tôi thấy nhà bếp của Phêrô. Ngoài Giêsu ra còn có Phêrô và vợ ông, cùng với Giacôbê và Gioan. Dường như họ đã ăn xong bữa tối và đang nói chuyện với nhau. Giêsu lưu ý tới việc đánh cá.
Andrê bước vào và nói: “Thưa Thầy, ở đây có một người ở gần nhà Thầy, với một người khác xưng mình là anh họ của Thầy”.
Giêsu đứng dậy, đi ra cửa trong khi nói: “Bảo họ tới”. Và trong ánh sáng của ngọn đèn dầu và ánh lửa bếp, Người thấy Juđa Thađê vào, Người liền kêu lên: “Anh, Juđa!”
- Anh đây Giêsu - và họ hôn nhau.
Juđa Thađê là người đàn ông đẹp trai, trong sắc đẹp tuyệt đỉnh của tuổi trưởng thành: Cao, dù không cao bằng Giêsu, mạnh mẽ, rất cân đối. Tóc nâu đen giống như Thánh Giuse khi còn trẻ. Nước da trắng xanh, không vàng vọt. Đôi mắt hơi giống mắt Giêsu, vì nó xanh dương, nhưng hầu như xanh phớt hồng. Bộ râu vuông nâu đen, tóc dợn sóng, ít quăn hơn tóc Giêsu, cũng nâu đen như râu.
- Anh từ Caphanaum tới. Anh lấy một cái xuồng và đi tới tận đây cho lẹ. Mẹ em sai anh tới nói với em: “Ngày mai Suzane lấy chồng. Mẹ xin con tới dự đám cưới này”. Maria mời qúi vị, và cùng với cô ấy, có cả mẹ anh và các anh anh. Tất cả bà con đều được mời. Lúc này chỉ có em là vắng mặt, và họ hàng xin em làm vui lòng vợ chồng mới.
Giêsu hơi cúi đầu và hơi mở cánh tay: “Ước muốn của Mẹ tôi là lề luật đối với tôi, nhưng cũng vì Suzane và họ hàng nữa. Em sẽ tới. Chỉ có điều... chuyện đó phiền cho các con...”, và Người nhìn Phêrô và các người khác. “Đây là các bạn em”. Người giải thích với Juđa, và Người giới thiệu tên họ, bắt đầu từ Phêrô. Để kết thúc, Người nói: “Em này là Gioan”. Người nói với giọng rất đặc biệt, lôi kéo cái nhìn chăm chú hơn của Juđa Thađê và làm kẻ ưu ái đỏ mặt. Người chấm dứt màn giới thiệu khi nói: “Các bạn à, anh này là Juđa, con Alphê, là anh họ Thầy theo cách nói của thế giới, vì anh ta là con người anh chồng của mẹ Thầy, anh là bạn Thầy, một người
64
đồng hành tốt trong công việc và trong đời sống”.
- Nhà tôi mở ra cho anh cũng như cho Thầy. Mời anh ngồi - Rồi quay về với Giêsu, Phêrô nói: “Vậy chúng con không đi Jêrusalem với Thầy nữa sao?”
- Chắc chắn là có. Các con sẽ đi. Thầy sẽ đi sau đám cưới. Chỉ có điều Thầy không đi Nazarét nữa.
- Thầy làm đúng đó Giêsu. Bởi vì mẹ Thầy sẽ là khách của tôi trong vài ngày. Thỏa thuận như vậy thì bà cũng sẽ tới vào sau đám cưới - Người đàn ông ở Caphanaum nói như vậy.
- Chúng ta sẽ làm như vầy: bây giờ bằng thuyền của Juđa, Thầy sẽ đi Tibêriát, rồi từ đó đi Cana. Rồi sau đó, cũng với thuyền này, Thầy sẽ trở lại Caphanaum cùng với ông này và Mẹ Thầy. Sau ngày Sabát này, con sẽ tới, Simon, nếu con còn quyết định. Và chúng ta sẽ đi Jêrusalem mừng lễ Vượt Qua.
- Chắc chắn là con sẽ tới. Con cũng sẽ tới vào ngày Sabát để nghe Thầy nói ở giáo đường.
- Em đã rao giảng rồi à Giêsu? - Thađê hỏi.
- Rồi anh ạ.
- Và những lời! A! Người ta không nghe được từ một cái miệng nào khác - Simon giải thích.
Juđa thở dài, đầu tì vào bàn tay, cùi chỏ chống lên đầu gối. Ông nhìn Giêsu và thở dài. Dường như ông muốn nói gì mà không dám.
Giêsu can thiệp: “Anh làm sao vậy Juđa? Tại sao anh nhìn em mà thở dài?”
- Có gì đâu.
- Không, có cái gì. Em không còn là Giêsu mà anh yêu sao? Người mà anh không dấu điều gì?
- Ôi, đúng, điều em là. Và anh nhớ em chừng nào! Em, ông thầy của ông anh họ lớn tuổi hơn...
- Vậy nói đi!
- Anh muốn nói với em... Giêsu... Hãy cẩn thận... Em có một người mẹ... Bà chỉ có mình em... Em muốn là một rabbi, nhưng không như những người khác. Em biết rõ hơn anh rằng... Giai cấp mạnh họ không cho phép những gì trái với thói tục mà họ đã thiết
65
lập. Anh biết lối suy nghĩ của em... Nó thánh... Nhưng thế giới không thánh... Và nó đè bẹp các thánh... Giêsu... Em biết số phận của người bà con Tẩy Giả của em... Ông đang ở trong tù, và nếu ông ta chưa chết thì là tại cái tên Thủ Hiến dơ bẩn còn sợ đám đông và cái sét của Thiên Chúa. Dơ bẩn, dị đoan, đồng thời độc ác và dâm dật... Em... Em sẽ làm gì? Em sẽ đi tới số phận nào?
- Juđa, anh hỏi em như vậy à? Trong khi anh đã biết rõ tư tưởng của em! Những lời này là của anh sao? Không, đừng nói dối. Người ta đã sai anh tới để nói những lời này... Và chắc chắn không phải là mẹ em.
Juđa cúi đầu nín lặng.
- Nói đi anh!
- Ba anh... Và cùng với ông là Giuse và Simon... Em biết... Vì sự lành cho em, vì tình cảm đối với em và Maria... Họ không thấy bằng con mắt tốt, những điều em dự định làm... và... và họ muốn rằng em nghĩ tới mẹ em.
- Còn anh, anh nghĩ sao?
- Anh... Anh...
- Anh vật lộn giữa tiếng nói trên trời và tiếng nói trái đất. Em không nói: “Tiếng nói dưới thấp”, em nói tiếng nói trái đất. Giacôbê cũng vậy, và còn hơn anh. Nhưng em, em nói với qúi vị rằng ở bên trên trái đất có Trời, bên trên lợi ích của thế gian, có nguyên nhân của Thiên Chúa. Qúi vị cần thay đổi lối suy nghĩ. Khi qúi vị biết làm điều đó, qúi vị sẽ toàn thiện.
- Nhưng... và mẹ em?
- Juđa, chỉ có bà là có quyền nhắc nhở em về bổn phận làm con, theo ánh sáng của trái đất: tức là tới bổn phận của em phải làm việc cho bà, để cung cấp cho những nhu cầu về vật chất của bà; tới bổn phận của em phải phụ giúp và củng cố cho bà bằng cách ở lại bên cạnh bà. Thế mà bà không hề đòi hỏi em gì về những điều đó. Từ khi bà có em, bà biết rằng bà sẽ phải mất em, để tìm lại em trong một tầm mức lớn lao hơn khung cảnh gia đình. Và từ lúc đó, bà đã sửa soạn rồi.
Đây không phải một điều mới. Trong máu bà đã có ý muốn
66
tuyệt đối dâng hiến này cho Thiên Chúa rồi. Mẹ bà đã dâng bà vào Đền Thờ ngay từ trước khi bà mỉm cười với ánh sáng. Bà đã nói với em biết bao lần khi bà ôm ghì em vào lòng trong những buổi chiều đông dài, và trong những đêm hè thanh quang đầy sao sáng, về tuổi trẻ thánh thiện của bà. Bà đã hiến thân cho Thiên Chúa ngay từ ánh sáng đầu tiên của rạng đông khi bà sinh vào trong thế giới. Và hơn nữa, bà hiến thân khi bà có em, để ở với em trên đường sứ mệnh từ Thiên Chúa mà đến. Sẽ có một giờ mà mọi người sẽ bỏ em. Điều đó chỉ ít phút, nhưng sự hèn hạ sẽ là thầy tất cả, và qúi vị sẽ nghĩ rằng tốt hơn là đừng biết em, vì sự an toàn của qúi vị. Nhưng bà, bà đã hiểu và biết, bà sẽ luôn luôn ở với em. Và qúi vị sẽ trở lại với em nhờ bà. Với sức mạnh của đức tin vững vàng và yêu mến của bà, bà sẽ lôi kéo qúi vị lại với bà, và như vậy, bà sẽ dẫn qúi vị trở lại với em. Vì em ở trong mẹ em và mẹ em ở trong em, và chúng ta ở trong Thiên Chúa.
Điều đó Thầy muốn tất cả mọi người hiểu: bà con theo thế gian, bạn hữu và con cái theo quan điểm siêu nhiên. Anh, và những người khác cùng với anh, qúi vị không biết Mẹ Thầy là ai. Nếu qúi vị biết thì qúi vị không chỉ trích bà trong lòng vì đã không bắt Thầy tùng phục bà, nhưng qúi vị sẽ tôn kính bà như người bạn thân thiết nhất của Thiên Chúa, là sức mạnh có thể được tất cả trên con tim Cha Hằng Hữu, và trên người Con của qủa tim bà. Chắc chắn em sẽ tới Cana, em muốn làm vui lòng bà. Qúi vị sẽ hiểu hơn sau giờ đó.
Giêsu trấn ngự và đầy nghị lực thuyết phục.
Juđa chăm chú nhìn Người. Ông suy nghĩ rồi nói: “Anh cũng vậy, chắc chắn anh sẽ đến với em để hộ vệ họ. Nếu em muốn có anh... Vì anh nghĩ rằng em đúng. Xin tha cho sự mù quáng của anh cũng như của các anh anh. Em rất thánh thiện hơn chúng ta!...”
- Em không thù ghét đối với những người không biết em. Em cũng không ghét những người ghét em, nhưng em khổ vì điều dữ họ làm cho chính họ. Anh có cái gì trong giỏ đó?
- Quần áo mẹ em gởi cho em đó. Ngày mai là lễ lớn, bà nghĩ rằng Giêsu của bà cần, để không bị lỗi thời ở giữa những khách
67
được mời. Bà đã kéo sợi từ hừng sáng tới đêm khuya mỗi ngày để sửa soạn cho em cái áo này. Nhưng bà chưa làm xong cái áo khoác, nó còn thiếu các tua viền, và bà rất hối tiếc.
- Chả gì phải khổ. Em sẽ đi Cana với cái áo em đã có đây, còn cái kia em giữ để đi Jêrusalem. Đền Thờ còn cao hơn tiệc cưới.
- Bà sẽ vui sướng.
- Nếu qúi vị muốn ở trên đường đi Cana vào lúc rạng đông - Phêrô nói, “thì phải khởi hành ngay. Trăng lên, và việc băng qua hồ sẽ dễ dàng”.
- Vậy chúng ta đi. Đi, Gioan, thầy dắt con đi với Thầy. Chào Simon Phêrô, Giacôbê, Andrê. Thầy chờ các con vào buổi chiều ngày Sabát tại Caphanaum. Chào bà, bình an cho bà và cả nhà.
Giêsu đi ra với Juđa và Gioan. Phêrô theo họ cho tới bờ hồ và giúp cho con thuyền rời bến.
Thị kiến chấm dứt.
Lời Chúa Giêsu:
Khi tới giờ phải làm một việc được ra lệnh, thị kiến về tiệc cưới Cana sẽ được nhét vào chỗ này. Con hãy ghi ngày: 16-01-1944.
Ngày 23 tháng 10: mệnh lệnh nhận được với sự khẩn khoản vào lúc rạng đông, và nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần để con không quên, trong khi chờ lúc có thể viết, điều mà con làm ngay khi con nhìn thấy rõ.
Chúa Giêsu nói: Hãy viết, và hết những gì được nói cho con sẽ ở bên trên những công việc giao tiếp với những người ngay lành, dù là người ấn loát hay đánh máy, theo như Cha đã nói với con: “Đây là tiếng nói của vị thầy, nó gào thét và vuốt ve. Gào thét khi nó nói với những kẻ không muốn hoán cải; vuốt ve khi nó nói với những kẻ, dù bất toàn, nhưng có thiện chí tìm Thiên Chúa và Lời Người, và thấy nó để tự thánh hoá. Với những người đó, Lời trở thành cái vuốt ve của người bạn và phúc lành của Giêsu”. Những lời này ở trên đầu mọi công việc. Rồi để cho công việc được toàn vẹn hơn và được xác nhận, luôn luôn được xác nhận, để nó không bị vô công hiệu bởi ý muốn xấu của các pharisiêu, saddu, luật sĩ, tiến sĩ, thì sẽ rất tốt để đặt lời cầu nguyện vào Lời mà Cha đã cho con hôm 7-12-1943. Bây giờ thì vậy là đủ rồi. Cha sẽ còn trở lại nữa.
14* GIÊSU TẠI TIỆC CƯỚI CANA
68
Tôi thấy một căn nhà, một căn nhà đông phương thực sự: một khối vuông trắng, rộng hơn là cao với rất ít cửa, có sân thượng thay vì mái, với các lan can xây cao khoảng một mét, che bóng bởi một dàn nho leo lên tới đó. Các cành nho lan ra tới cả bên ngoài sân thượng đầy ánh mặt trời.
Một cầu thang nhỏ ở bên ngoài, phía mặt tiền, để lên sân thượng, tại gần một cái cửa ở khoảng giữa mặt tiền. Bên dưới, tầng trệt có rất ít cửa ra vào và thấp, mỗi bên không qúa hai cái, để vào trong các phòng thấp và tối. Nhà xây ở giữa một nơi như cái sân thì đúng hơn là bồn cỏ. Ở giữa sân có một cái giếng, có các cây sung và táo. Nhà quay ra đường, nhưng không ở bờ đường, nó ở hơi sâu trong lối đi băng qua bồn cỏ thì tới đường. Đây có vẻ là con lộ chính.
Ta thấy là căn nhà ở ngoại biên xứ Cana: Nhà của chủ nông dân, sống ở giữa vùng đất sở hữu nhỏ của họ. Miền quê trải ra ở bên ngoài nhà với những mầu xanh yên tĩnh ở xa. Mặt trời đẹp và bầu trời trong xanh. Lúc đầu thì tôi không thấy gì khác, căn nhà đơn độc.
Rồi tôi thấy hai người đàn bà y phục dài với áo khoác trùm mũ lên đầu. Các bà đi trên đường, rồi vào lối đi nhỏ. Người già hơn trạc năm mươi, y phục mầu đậm, nâu hung hung đỏ, tựa như len tự nhiên. Người kia mặc đồ mầu sáng hơn, với áo dài mầu vàng lạt và áo khoác xanh dương. Bà này trạc ba mươi lăm tuổi. Bà rất đẹp, người dong dỏng, dáng điệu đầy phẩm giá, nhưng rất nhã nhặn và khiêm tốn. Khi bà tới gần, tôi nhận ra mầu trắng tái của khuôn mặt, đôi mắt xanh với tóc vàng thấp thoáng trên trán dưới lớp voan. Tôi nhận ra Đức Thánh Trinh Nữ. Bà kia là ai với tóc nâu đen, già hơn, tôi không biết. Họ nói với nhau và Bà Chúa mỉm cười. Khi hai bà đã tới gần bên nhà, có người, chắc là người có nhiệm vụ canh chừng các người tới, loan báo cho các ông các bà khác rằng họ tới. Mọi người đều mặc đồ lễ, ra mừng họ, và nhất là tiếp đón Trinh Nữ.
Lúc này còn là buổi sáng, khoảng chín giờ hay hơi sớm hơn, vì miền quê còn vẻ tươi mát của những giờ đầu ngày, với sương đêm làm cỏ cây xanh hơn, và bồn cỏ không dính bụi. Có vẻ đây là mùa
69
xuân, vì đồng cỏ không bị cháy bởi mặt trời mùa hè. Trong đồng ruộng, lúa miến còn là cỏ, chưa có bông, xanh rờn. Lá sung và lá táo còn xanh mềm. Tôi thấy có hoa trên cây táo, nhưng tôi không thấy có qủa trên cây táo cũng như sung và nho, là vì cây táo mới nở hoa, chưa nhìn thấy các trái nhỏ.
Maria được chào đón trọng thể. Một người đàn ông có tuổi hộ vệ Người, chắc đây là chủ nhà, đi lên chiếc cầu thang bên ngoài và vào một phòng lớn. Dường như phòng này là hết cả tầng lầu, hay một phần lớn.
Tôi tin rằng tầng trệt là chỗ ở thực sự với các phòng để ở, kho lương thực, các đồ vặt và nhà hầm, trong khi trên lầu dành cho các dịp đặc biệt: lễ lạt hay các việc cần nhiều chỗ, hoặc để chứa nông sản. Vào dịp lễ như hôm nay, họ dọn dẹp và trang hoàng bằng các cành cây xanh, thảm, bàn ghế có trải khăn và các đồ trưng bày khác.
Ở giữa phòng là cái bàn qúi và đẹp nhất, bên trên đã đặt một cái bình và các đĩa trái cây. Dọc bờ tường ở bên phải tôi là cái bàn, cũng để các đồ, nhưng kém đẹp hơn. Bên trái tôi là một cái bàn nghi lễ dài, bên trên có các đĩa phó-mát và các đồ ăn khác, trông giống như bánh tráng bằng bột pha mật ong, và các bánh ngọt khác. Dưới đất,vẫn ở bên trái, có các bình khác và sáu khạp bằng đồng lớn hơn kém. Tôi cho đó là những cái chum.
Maria nghe cách nhân hậu những điều mọi người nói với Mẹ. Rồi Mẹ cởi áo khoác để giúp đỡ họ hoàn tất việc chuẩn bị bàn ghế. Tôi thấy Mẹ đi lại, xếp các ghế nằm quanh bàn, buộc các tràng hoa giây, đặt cho khéo léo nhất những đĩa trái cây, xem chừng để các đèn đều đầy dầu. Mẹ mỉm cười, nói rất ít và nói nhỏ tiếng. Trái lại, Mẹ nghe rất nhiều, và với bao là kiên nhẫn.
Tiếng nhạc khí vang lên rầm rầm ngoài đường (thực sự thì không du dương). Mọi người, trừ Maria, đều chạy ra đường. Tôi thấy cô dâu đi vào, trang điểm lộng lẫy và sung sướng, có bà con bạn bè bao quanh, bên cạnh chú rể đã chạy đi đón cô từ trước.
70
Tới đây có sự thay đổi thị kiến: Tôi thấy, thay vì căn nhà, thì lại là một xứ nào đó. Không biết đây là Cana hay một thôn lân cận. Tôi thấy Giêsu, Gioan và một người khác, chắc là Juđa Thađê, với ông thứ hai này thì tôi có thể lầm, còn với Gioan thì tôi không thể lầm. Giêsu mặc áo trắng và áo khoác xanh dương đậm. Khi nghe tiếng nhạc, người đi hộ vệ Giêsu hỏi thăm một người dân rồi báo cáo cho Giêsu. Người mỉm cười nói: “Chúng ta đi làm vui lòng Mẹ Thầy”. Rồi Người đi băng qua các thửa ruộng cùng với hai người bạn về phía căn nhà.
Tôi đã quên nói rằng tôi có cảm tưởng Maria là bà con hay bạn hữu với cha mẹ chú rể, vì tôi thấy họ rất thân tình với Người.
Khi Giêsu tới, người canh chừng thường xuyên báo cho các người khác. Chủ nhà cùng với con ông là chú rể và Maria ra đón Giêsu. Họ chào Người cách trọng kính. Ông ta cũng chào hai người kia. Chú rể cũng làm như vậy. Nhưng điều tôi thích là lời chào đầy tình yêu trọng kính của Maria với con mẹ, và ngược lại cũng vậy. Không bộc lộ ra, nhưng một cái nhìn ý nghĩa chừng nào đi kèm lời chào: “Bình an cho con”, và một thứ nụ cười đáng gía cả trăm cái hôn và trăm cái ôm. Cái hôn run rẩy trên môi Maria, nhưng Mẹ không cho. Mẹ chỉ đặt bàn tay trắng trên vai Giêsu, và vuốt nhẹ những lọn tóc dài. Một cái vuốt ve trong trắng và say mê.
Giêsu đi lên bên cạnh Mẹ Người, hai môn đệ đi theo cùng với chủ nhà. Người vào phòng tiếp tân, nơi các phụ nữ đang lo bày thêm ghế và chén bát cho ba người khách mà họ không chờ, tôi thấy có vẻ vậy. Tôi cho là việc Giêsu đến không chắc chắn, còn hai người bạn của Người thì tuyệt đối là không ngờ.
Tôi nghe rõ ràng tiếng nói đầy đặn, trưởng thành, rất êm dịu của Thầy nói khi bước vào: “Bình an cho nhà này và phúc lành của Thiên Chúa trên tất cả qúi vị”. Lời chào bao gồm mọi người hiện diện và đầy vẻ oai phong. Giêsu trấn ngự mọi người do hình vóc và dáng vẻ của Người. Đó là người khách không được mời, nhưng Người có vẻ như vua của buổi lễ, hơn cả cô dâu chú rể, hơn cả chủ
71
nhà, trong khi Người vẫn khiêm tốn, vị nể. Chính vì nhân cách của Người làm người ta kính phục.
Giêsu vào chỗ ở bàn giữa cùng với cô dâu chú rể, cha mẹ họ và các bạn hữu ảnh hưởng nhất. Vì kính trọng ông Thầy, họ cho hai môn đệ ngồi cùng bàn.
Giêsu quay lưng vào bức tường, nơi có những cái chum, vậy Người không nhìn thấy chúng, cũng không nhìn thấy sự lăng xăng của người quản tiệc chung quanh những đĩa rô-ti mà người ta mang đến chiếc bàn dài qua một cái cửa.
Tôi quan sát thấy một điều: ngoại trừ Maria và mẹ cô dâu chú rể, không phụ nữ nào ngồi ở bàn này. Tất cả các phụ nữ đều ở bàn kê dọc bờ tường, và họ rất ồn ào. Người ta phục vụ họ sau đôi tân hôn và các khách có hạng. Giêsu ở gần ông chủ nhà, đối diện với Mẹ, cô dâu ngồi kế bên Mẹ.
Bữa ăn bắt đầu. Tôi bảo đảm với qúi vị là họ không thiếu khẩu vị, và càng không thiếu cái khát. Hai người ăn và uống ít là Giêsu và Mẹ Người. Hai đấng cũng nói rất ít. Giêsu nói nhiều hơn Mẹ một tí. Và trong một tí đàm thoại của Người, Người không hề cau có hay khinh chê. Đó là một người bặt thiệp, nhưng không nhiều lời. Khi người ta hỏi, Người trả lời, lưu ý đến điều họ nói với Người và bày tỏ ý kiến của Người. Nhưng rồi Người trầm ngâm với chính mình như một người có thói quen chiêm niệm. Người mỉm cười, nhưng không bao giờ cười lớn. Nếu Người nghe thấy một câu nói đùa liều lĩnh, Người làm như không nghe thấy. Maria nuôi mình bằng việc nhìn ngắm Giêsu của Mẹ. Gioan cũng vậy. Ông ngồi ở đầu bàn, và dán mắt vào đôi môi của Thầy ông.
Maria nhận thấy các người đầy tớ xì xèo với người quản tiệc và ông này có vẻ bối rối. Mẹ liền hiểu là có chuyện không ổn. “Con ơi”. Mẹ nói rất êm dịu để lôi kéo sự chú ý của Giêsu vào lời này: “Con ơi, họ hết rượu rồi”.
- Bà ơi, từ rày, có gì giữa tôi và bà? - Trong khi nói câu này, Giêsu mỉm cười êm đềm hơn nữa, và Maria mỉm cười, tựa như hai người biết một sự thật là niềm vui bí mật của họ mà mọi người
72
khác không biết.
Maria ra lệnh cho các đầy tớ: “Hãy làm điều Người bảo qúi vị”. Maria đã đọc được trong đôi mắt mỉm cười của Con Mẹ, sự ưng thuận che phủ một giáo huấn lớn lao cho tất cả những kẻ được gọi.
Và Giêsu ra lệnh cho các đầy tớ: “Hãy đổ nước đầy vào các vò này”.
Tôi thấy các đầy tớ đổ đầy các chum bằng nước kín ở giếng (tôi nghe tiếng cót két của cái ròng rọc lên xuống với những xô nước đầy). Tôi thấy người quản tiệc rót lấy một tí chất lỏng này với cái nhìn ngạc nhiên. Ông nếm nó với điệu bộ hết sức kinh ngạc. Ông ta liền nói với chủ nhà và cô dâu chú rể ở gần bên ông.
Maria lại nhìn con Mẹ và mỉm cười. Rồi Mẹ nhận nụ cười của Người. Mẹ cúi đầu và hơi đỏ mặt. Mẹ sung sướng.
Trong phòng lan ra những tiếng xì xèo. Mọi cái đầu đều quay về phía Giêsu và Maria. Người ta đứng lên để coi cho rõ. Người ta đi tới coi những cái vò. Một yên lặng. Rồi một đồng thanh ca tụng Giêsu.
Người liền đứng lên và nói chỉ một câu: “Hãy cám ơn Maria”. Rồi người bỏ bữa tiệc. Tại ngưỡng cửa, Người nhắc lại: “Bình an cho nhà này và phúc lành của Thiên Chúa ở trên qúi vị”. Rồi Người
thêm: “Mẹ ơi, Con chào Mẹ”. Thị kiến chấm dứt.
15* BÀ ƠI, TỪ RÀY CÓ GÌ GIỮA TÔI VÀ BÀ
Chúa Giêsu giải thích cho tôi ý nghĩa của câu nói:
Tiếng “từ rày” mà nhiều dịch giả bỏ qua, nó là chìa khóa của câu nói, và giải thích câu nói với ý nghĩa thực sự của nó.
Cha đã là người con phục tùng người mẹ cho tới lúc mà ý Chúa Cha chỉ cho Cha rằng đã đến giờ để làm Thầy. Kể từ lúc sứ mạng của Cha bắt đầu, Cha không còn là người con chịu lụy mẹ mình nữa, nhưng là tôi tớ Thiên Chúa. Những sợi giây liên kết Cha với
73
kẻ sinh ra Cha đã bị đứt. Nó đã biến thành sợi giây có đặc tính cao hơn. Nó ẩn tàng hết trong tâm hồn. Tâm hồn luôn luôn gọi là “Má”, Maria, vị thánh của Cha. Tình yêu không ngừng, không phai lạt. Trái lại, nó chỉ toàn vẹn khi bị xa cách với Mẹ bằng một việc sinh ra lần thứ hai: Mẹ ban Cha cho thế giới, vì thế giới, để Cha làm Đấng Messi, Đấng rao giảng Tin Mừng. Việc làm mẹ lần thứ ba của Mẹ: Bí nhiệm và siêu việt, là khi, trong sự xé nát của Golgôta, Mẹ sinh ra Cha trên Thánh Giá, để Cha thành Đấng Cứu Chuộc thế giới.
“Từ rày, có gì giữa tôi và bà?” Trước tiên, tôi là của bà, duy nhất là của bà. Bà ra lệnh, tôi vâng lời. Tôi đã tùng phục. Bây giờ tôi thuộc về sứ mạng của tôi.
Cha đã chẳng nói: “Kẻ đã đặt tay trên cái cày mà còn quay lại chào những người ở lại thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”. Cha đã đặt tay trên cái cày, để với lưỡi cày, Cha mở ra, không phải là đất, nhưng là các con tim, để gieo Lời Thiên Chúa vào đó. Cha chỉ nhấc tay ra khi người ta giật nó ra khỏi đó để đóng đinh vào Thập Giá, để với sự hành hạ của cái đinh này, mở ra con tim của Chúa Cha, để làm chảy ra sự tha thứ cho nhân loại từ vết thương này.
Tiếng “từ rày” bị nhiều người quên, muốn nói điều này: “Ôi Mẹ, Mẹ đã là tất cả cho Con bao lâu Con còn là Giêsu con Maria Nazarét. Bây giờ Mẹ là tất cả cho Con trong tâm hồn. Từ lúc Con là Đấng Messi, Con thuộc về Cha Con. Hãy chờ ít lâu nữa, sứ mệnh của Con chấm dứt, Con lại hoàn toàn là của Mẹ. Mẹ sẽ lại được ôm trong cánh tay Mẹ như khi Con còn nhỏ, và không ai tranh luận với Mẹ nữa, đứa con là Con Mẹ mà người ta đã nhìn như sự xấu hổ của nhân loại, mà người ta đã quăng cho Mẹ cái thi thể, để cũng bao phủ Mẹ bằng những nhục nhã, vì là mẹ của một tội phạm. Rồi sau đó Mẹ lại có Con trong chiến thắng, rồi Mẹ lại có Con mãi mãi, cũng trong chiến thắng, ở trên Trời. Nhưng bây giờ Con thuộc về mọi người, và Con thuộc về Cha Con, Đấng đã sai Con đến với
74
họ.
Đó là điều tiếng “từ rày” đầy ý nghĩa muốn nói.
Chúa Giêsu lại cho tôi chỉ dẫn này:
- Khi Cha nói với các môn đệ: “Chúng ta hãy đi làm vui lòng Mẹ Thầy”, Cha đã cho câu nói đó một ý nghĩa cao hơn nó có vẻ có: Đó không phải nỗi vui được gặp Cha, nhưng để là người khởi đầu cho hoạt động phép lạ của Cha, và là ân nhân thứ nhất của loài người.
Các con hãy luôn luôn nhớ điều này: phép lạ thứ nhất xảy ra bởi Maria. Phép lạ thứ nhất tượng trưng rằng Maria là chìa khóa của phép lạ. Cha không từ chối điều gì cùng Mẹ Cha do lời cầu nguyện của Mẹ. Ngay cả Cha đã đẩy cho thời gian Ân Phúc tới sớm. Cha biết Mẹ Cha, lòng nhân từ thứ hai sau Thiên Chúa. Cha biết rằng làm ơn cho các con là làm cho Mẹ vui, vì Mẹ là đấng “Hoàn Toàn Tình Yêu”. Đó là tại sao Cha là người biết hết mà cha lại nói: “Chúng ta hãy đi làm vui lòng Mẹ Thầy”.
Ngoài ra Cha muốn biểu lộ cho thế giới về sức mạnh của Mẹ đồng thời với sức mạnh của Cha. Được tiền định để liên kết với Cha trong thân xác - chúng ta là một xác thịt: Cha ở trong Mẹ và Mẹ bao trùm Cha, giống như cánh huệ chung quanh cái nhụy thơm đầy sức sống - Mẹ kết hợp với Cha trong đau đớn, vì chúng ta ở trên Thánh Giá: Cha với thân xác Cha, Mẹ với tâm hồn Mẹ, giống như bông huệ tỏa ra hương thơm với vành hoa và tinh chất mà người ta rút ra ở đó. Thật chính đáng là Mẹ kết hợp với Cha trong sức mạnh được bộc lộ ra cho thế giới.
Cha nói với các con điều Cha đã nói với các khách được mời: “Hãy cám ơn Maria, vì nhờ Mẹ mà các con có vị Thầy của phép lạ, và có mọi ơn huệ của Cha, đặc biệt là ơn tha thứ”.
Bây giờ hãy nghỉ bằng an. Chúng ta ở với con.
16* GIÊSU ĐUỔI CÁC LÁI BUÔN KHỎI ĐỀN THỜ
75
Tôi thấy Giêsu đi vào nội khu Đền Thờ cùng với Phêrô và Andrê, Gioan và Giacôbê, Philíp và Batôlômêo. Rất đông người ra vào, khách hành hương đi tới từng nhóm từ mọi ngả của thành phố.
Từ trên đỉnh đồi, nơi Đền Thờ được xây cất, người ta nhìn thấy các đường phố hẹp, quanh co, lúc nhúc người qua lại. Tựa như giữa mầu trắng của các căn nhà, có một giải băng muôn mầu nhúc nhích. Đúng, thành phố có vẻ như một đồ chơi ngộ nghĩnh, làm bằng hàng ngàn giải băng muôn mầu ở giữa các dẫy nhà trắng, tất cả đều quy về một điểm là cái vòm cung sáng rực của Nhà Chúa.
Rồi ở bên trong thì thực là một hội chợ. Không có một chút trầm mặc nào trong nơi thánh. Người ta chạy, gọi nhau ơi ới, mua chiên cừu, kêu la, nguyền rủa vì giá cả qúa mức. Người ta đẩy những con vật tội nghiệp kêu bê bê ở trong các sân. Đó là những khoảng được vây quanh cách thô sơ bằng những giây và cọc, mà các lái buôn hay các chủ bán tình cờ tùy dịp, đứng ở lối vào để chờ người mua. Các cú roi, gậy, tiếng bê bê, thề thốt, đòi hỏi, chửi bới, quát tháo các đầy tớ vì không gấp rút tụ họp hay nhốt các con vật lại, hoặc chửi các khách mua bủn xỉn về giá cả, hoặc bỏ đi, chửi bới mạnh hơn những kẻ đã tiên liệu bằng cách dẫn chiên từ nhà họ tới.
Chung quanh các quầy đổi tiền là những ồn ào khác. Tôi không biết Đền Thờ luôn luôn như vầy hay vì đây là dịp lễ Vượt Qua. Ta nhận thấy rằng Đền Thờ hoạt động như một thị trường chứng khoán hoặc chợ đen. Giá tiền tệ không cố định. Chắc chắn có một hối suất hợp pháp được qui định, nhưng các người đổi tiền áp đặt một gía khác để kiếm cho riêng họ chỗ sai biệt, và tôi đoan chắc với qúi vị là họ bóp cổ khách hàng khi làm như vậy. Khách càng nghèo, càng từ xa tới thì càng bị lột da. Người già bị nặng hơn người trẻ, những kẻ từ bên ngoài Palestin mà về thì bị nặng hơn người già.
Có những người già nhìn đi nhìn lại món tiền để dành với bao là khó khăn suốt năm trời, moi ở trong bụng ra rồi lại đút vào hàng trăm lần, đi vòng quanh các người đổi tiền, sau cùng lại trở về người đầu tiên, thì tên này lại báo thù họ vì đã bỏ đi lúc trước, bằng
76
cách gia tăng hối xuất sai biệt. Thế là giữa những tiếng thở dài, các đồng tiền lớn rời tay chủ của nó để vào trong móng vuốt của các kẻ trục lợi, để đổi lấy những đồng nhỏ hơn. Rồi tới việc lựa chọn, lại một bi kịch mới và các thở dài mới trước các người bán chiên. Với những ông già mắt kèm nhèm thì họ bán cho những con chiên gầy còm nhất.
Tôi thấy một cặp ông bà già nhỏ thó đi tới, đẩy một con chiên con mà các người làm lễ hy sinh từ chối vì họ thấy nó có tì vết. Năn nỉ, than thở, bất lịch sự, thô lỗ giao nhau, không gì có thể làm cho người bán lay chuyển.
- Các tên Galilê, với giá mà các vị trả, tôi cho như vầy cũng là qúa đẹp rồi. Đi đi! hoặc trả thêm năm đồng nữa để đổi lấy con khác đẹp hơn.
- Nhân danh Thiên Chúa, chúng tôi nghèo và già cả! Ông muốn ngăn cản chúng tôi làm lễ Vượt Qua, có lẽ là lần sau cùng của chúng tôi sao? Món tiền mà ông đã lấy không đủ cho một con vật nhỏ sao?
- Tránh chỗ, các tên keo kiệt! Kìa, Kỳ Lão Giuse đang đến với tôi. Tôi vinh hạnh vì sự ưu ái của ông. Chúa ở cùng ông! Xin mời tới lựa.
Người mà người ta gọi là Kỳ Lão Giuse hay Giuse Arimathi liền vào trong chuồng và bắt một con chiên tuyệt vời. Ông đi qua với y phục sang trọng, rất hãnh diện, không ngó gì tới những người nghèo đang than thở ở cửa và ở cả lối vào chuồng. Có thể nói là ông đẩy cả họ khi đi ra với con chiên béo kêu bê bê.
Nhưng bây giờ Giêsu cũng đã tới rất gần. Người cũng mua, và có lẽ Phêrô đã trả cho Người, vì ông lôi ở đàng sau một con chiên có vẻ thích hợp. Phêrô muốn đi ngay tới chỗ người ta giết vật hy sinh, nhưng Giêsu quay về phía tay phải, đến với hai người già đang đầy nước mắt, sợ sệt, do dự, bị đám đông đẩy và người bán chửi rủa.
Giêsu cao lớn, đầu của hai người già mới tới ngang qủa tim Người. Người đặt tay lên vai bà già và hỏi: “Sao bà khóc?”
77
Bà già quay lại, thấy một người trẻ tuổi cao lớn, trang trọng trong y phục trắng đẹp, với áo khoác cũng trắng như tuyết, sạch sẽ, mới tinh. Chắc bà nghĩ đây là ông tiến sĩ, do y phục và diện mạo của Người. Bà kinh ngạc, vì các tiến sĩ và thầy cả không bao giờ bảo vệ người nghèo chống đối các lái buôn tham lam. Bà nói lý do nỗi buồn của bà.
Giêsu quay lại người bán chiên: “Đổi con chiên này cho các tín hữu này! Nó không xứng đáng với bàn thờ, cũng như ông bất xứng vì lợi dụng hai người nghèo yếu đuối và không có sự bảo vệ”.
- Còn ông, ông là ai?
- Một người công chính.
- Giọng nói của ông và của các bạn ông chứng tỏ ông người Galilê. Có bao giờ có một người công chính ở Galilê không?
- Hãy làm điều tôi nói. Và ông, hãy công chính.
- Các anh ơi! Nghe này, nghe này! Tên Galilê này bảo vệ đồng đảng của hắn! Hắn muốn lên lớp cho chúng ta! Cho chúng ta, những người của Đền Thờ! - Người đàn ông cười nhạo và nói nhái giọng người Galilê, mà thực sự nó hay hơn và êm dịu hơn giọng Juđê. Ít là tôi thấy nó như vậy.
Người ta vây xúm lại, và các lái buôn khác cùng với các người đổi tiền hùa nhau bảo vệ đồng đảng của họ chống lại Giêsu. Trong số những người tham dự có hai ba rabbi đầy mỉa mai. Một ông hỏi Người: “Ông là tiến sĩ à?” với một giọng khiến cho cả ông Gióp cũng mất kiên nhẫn.
- Ông nói đúng.
- Ông giảng dạy cái gì?
- Đây là điều tôi giảng dạy: Hãy trả lại cho nhà Thiên Chúa: là nhà để cầu nguyện, chứ không phải là nơi của các kẻ trục lợi và lái buôn. Đó là giáo huấn của tôi - Giêsu trông dễ sợ, giống như Tổng Thần ở cửa Thiên Đàng đã mất. Trong tay Người không có gươm lửa, nhưng đôi mắt Người phát quang và giáng sét trên những kẻ cười nhạo và phạm thượng.
Trong tay Người không có gì, chỉ có sự phẫn nộ thánh, và với nó, Người bước nhanh lại các quầy, gạt tung tóe các đồng tiền được xếp đặt tỉ mỉ theo từng loại giá trị, lật đổ các bàn ghế lớn nhỏ, và
78
tất cả đều rơi xuống đất, nẩy lung tung, tạo ra những tiếng kêu của kim loại và tiếng đồ gỗ xô vào nhau, cùng với tiếng hét giận dữ, tiếng kêu hốt hoảng và tiếng kêu tán đồng. Rồi Người giật trong tay các người giữ súc vật những sợi giây để cột chiên, cừu, bò, Người làm một sợi giây rất chắc, với các nút liên kết các giây lại. Người đứng lên, quay sợi dây và giáng xuống cách không thương xót. Đúng, tôi bảo đảm với qúi vị là không thương xót.
Trận mưa đá bất thần rơi xuống trên đầu, trên lưng. Các tín hữu tránh ra, cảm phục màn hoạt cảnh. Các kẻ phạm tội bị đuổi ra tận bên ngoài nội khu. Họ chạy vắt giò lên cổ, để lại tiền bạc trên đất, và ở đàng sau là các con vật đủ cỡ đủ loại, trong một sự lộn xộn hết sức của các chân, sừng và cánh. Con thì chạy, con thì bay để thoát thân. Tiếng rống, tiếng bê bê, tiếng gù gù của bồ câu và chim cu, đồng thời với tiếng cười và la lối của các tín hữu theo sau những kẻ trục lợi, vượt lên trên cả ca đoàn than van của các con vật mà người ta đang cắt cổ ở một sân khác.
Các thầy cả chạy tới đồng thời với các luật sĩ và pharisiêu. Giêsu còn ở giữa sân, vừa trở về sau màn xua đuổi, nhưng Người còn cái roi trong tay.
- Ông là ai? Làm sao ông được phép làm như vậy? Làm lộn xộn các nghi thức đã được qui định. Ông xuất thân từ trường nào? Chúng tôi không biết ông. Chúng tôi không biết ông là ai.
- Tôi là người có thể. Tôi có thể tất cả. Hãy phá hủy Đền Thờ đích thực này đi, tôi sẽ cho nó sống lại để dâng lời ngợi khen Thiên Chúa. Tôi không làm lộn xộn sự thánh thiện của nhà Thiên Chúa cũng như các nghi lễ. Chính là các ông làm lộn xộn khi cho phép các kẻ trục lợi và các con buôn thiết đặt trong nơi ở của Người. Trường của tôi là trường của Thiên Chúa, cùng một trường đã dạy mọi người Israel bằng môi miệng Đấng Hằng Hữu đã nói với Môise. Các ông không biết tôi à? Các ông sẽ biết. Các ông không biết tôi từ đâu đến à? Các ông sẽ biết.
Rồi Người quay về với dân chúng, không lưu ý gì tới các thầy cả nữa. Cao hơn hẳn chung quanh về bề cao khổ người, với y phục
79
trắng, áo khoác mở ra phất phơ sau vai, tay giang ra như nhà hùng biện vào lúc xúc động nhất của bài thuyết trình của ông, Người nói:
- Hãy nghe đây, hỡi tất cả qúi vị Israel! Trong sách Đệ Nhị Luật có nói: “Ngươi sẽ thiết lập các quan án và các viên chức ở mọi cửa... Họ sẽ xét xử dân chúng cách công bình, không thiên vị ai. Ngươi sẽ không kiêng nể đặc biệt bất cứ ai. Ngươi sẽ không nhận qùa cáp, vì qùa tặng làm mù mắt kẻ khôn ngoan và làm xáo trộn lời kẻ công chính. Ngươi sẽ theo sự công bằng trong đường ngay chính để sống và chiếm hữu đất mà Chúa là Thiên Chúa ngươi sẽ ban cho ngươi”.
Hãy nghe, hỡi Israel! Sách Đệ Nhị Luật đã nói: “Các thầy cả và các thầy Lêvi, và tất cả những người thuộc chi tộc Lêvi sẽ không chia sẻ một cơ nghiệp nào với các người Israel khác, vì họ phải sống với lễ hy sinh của Chúa và của dâng cúng mà người ta dâng cho họ. Họ sẽ không có phần nào với các anh em họ, vì Chúa là gia nghiệp của họ”.
Hãy nghe, hỡi Israel! Trong sách Đệ Nhị Luật có nói: “Ngươi sẽ không cho vay ăn lời với các anh em ngươi, dù là tiền bạc, ngũ cốc hay bất cứ thứ gì. Ngươi có thể cho người ngoại quốc vay để lấy lời, nhưng với anh em ngươi, ngươi sẽ cho họ mượn những gì họ cần mà không lấy lời”.
Chính Chúa đã nói như vậy.
Bây giờ qúi vị thấy rằng các quan toà thiết đặt trong Israel không công bình với người nghèo, không phải vì lợi ích cho người công chính, nhưng là cho những kẻ mạnh mà người ta cúi đầu. Là người nghèo, là dân đen, tức là bị đàn áp. Làm sao dân chúng có thể nói: “Vị quan án của chúng tôi công minh”, khi họ thấy chỉ có các kẻ mạnh được kính trọng và nghe lời, trong khi người nghèo thì không tìm được ai chịu nghe họ? Làm sao dân chúng có thể kính trọng Chúa nếu họ thấy rằng những kẻ có bổn phận đó hơn mọi kẻ khác cũng không kính trọng Người. Vi phạm mệnh lệnh của Chúa có phải là kính trọng Người không? Vậy tại sao trong Israel, họ có các
80
sở hữu và họ nhận tặng vật của các người thu thuế và các người tội lỗi, là những người làm như vậy để được sự nhân hậu của các thầy cả, và những người này nhận để có cái kho đầy hơn?
Chính Thiên Chúa là gia nghiệp của các thầy cả. Người là Cha của Israel, Người là Cha đối với họ hơn bất cứ người cha nào, người sẽ cung ứng mọi lương thực cho họ như người cha công chính, nhưng không qúa sự chính đáng. Người không hứa với các kẻ phục vụ cung thánh của Người những giầu có và tài sản. Trong cõi đời đời, họ sẽ có Nước Trời làm phần thưởng cho sự công chính của họ, giống như Môise, Êlia, Jacob, Abraham đã có. Nhưng trên trái đất, họ phải chỉ có tấm áo vải gai và chiếc triều thiên không hư nát là sự trong sạch và tình bác ái. Thân xác phải là đầy tớ của tâm hồn, và tâm hồn là đầy tớ của Thiên Chúa thực. Thân xác không được thống trị tâm hồn và đối nghịch với Thiên Chúa.
Người ta đã hỏi Thầy lấy quyền nào mà làm như vậy. Còn họ, họ lấy quyền nào mà phàm tục hóa mệnh lệnh của Thiên Chúa, và cho phép làm việc trục lợi dưới bóng của những bức tường thánh, làm tổn hại cho những anh em Israel đã đến để vâng lời mệnh lệnh của Thiên Chúa. Người ta hỏi Thầy xuất thân từ trường nào, Thầy đã trả lời: “Trường của Thiên Chúa”. Đúng, hỡi Israel! Thầy đến dẫn qúi vị trở về ngôi trường thánh và bất biến này.
Ai muốn biết Ánh Sáng, Chân lý, Sự Sống; ai muốn nghe tiếng Thiên Chúa nói với dân Người, họ hãy đến với Thầy. Ôi hỡi Israel! Qúi vị đã theo Môise băng qua sa mạc, hãy theo Thầy, Thầy sẽ dẫn qúi vị băng qua cái sa mạc rất buồn tẻ hơn để về đất hạnh phúc thực sự hơn; qua cái biển mở ra cho giới răn của Thiên Chúa. Chính về với nó là nơi Thầy sẽ dẫn qúi vị, khi Thầy giơ cao dấu hiệu của Thầy, Thầy sẽ chữa qúi vị khỏi mọi tật nguyền.
Giờ Ân Phúc đã đến. Các tổ phụ đã mong đợi nó, và họ đã chết trong sự chờ đợi. Các tiên tri đã nói trước về nó, và họ đã chết với hy vọng này. Các người công chính đã mơ về nó, và họ đã chết khi được củng cố bởi giấc mơ này. Bây giờ nó đã đến.
Hãy đến: “Chúa sắp xét xử dân Người và thương xót những kẻ
81
phụng sự Người” như đã được nói bởi miệng Môise.
Những người vây quanh Giêsu vẫn ở lại đó, miệng há hốc khi nghe. Rồi họ bình luận về lời của vị rabbi mới và hỏi han các bạn Người.
Giêsu đi về một sân khác biệt lập với sân này bằng một hành lang, các bạn Người theo Người, và thị kiến chấm dứt.
17* GẶP ISCARIOT VÀ TÔMA PHÉP LẠ CHO SIMON ZÊLOTE
Giêsu ở với sáu môn đệ của Người. Tối hôm qua cũng như hôm nay, tôi không thấy Juđa Thađê, dù ông nói ông muốn đi Jêrusalem với Giêsu.
Đây chắc còn là ngày Vượt Qua, vì vẫn có rất đông người trong thành phố.
Vào lúc buổi chiều, nhiều người vội vã trở về nhà, Giêsu cũng hướng về căn nhà mà Người là khách. Đây không phải căn nhà tiệc ly. Nó ở bên trong thành phố, ngay sát biên giới. Căn nhà này thực sự là một căn nhà nông thôn, ở giữa vườn oliu. Từ cái sân nhỏ trước nhà, người ta thấy các hàng cây chạy dài tới tận chân đồi. Chúng dừng lại tại một nơi có một cái suối rất ít nước, chảy giữa hai bờ dốc của hai ngọn đồi thấp. Đền Thờ ở trên đỉnh của một trong hai ngọn đồi này. Trên đồi kia là rừng oliu rộng tới mút mắt. Giêsu đang ở chân ngọn đồi dễ thương này. Nó dốc thoai thoải với những cây oliu bình an thú vị.
- Gioan, có hai người đàn ông đang chờ bạn em - một người đàn ông lớn tuổi, chắc là chủ trại hay chủ vườn oliu nói. Ta thấy là Gioan biết ông ta.
- Họ ở đâu? Họ là ai?
- Tôi không biết. Một người thì chắc chắn là Do Thái. Người kia... Tôi không biết... Tôi không hỏi họ.
- Họ đâu?
- Họ chờ trong bếp. Và... và... đúng, đó, còn một người nữa đầy
82
vết thương... Tôi bảo họ dừng lại ở đó, vì... tôi không muốn, nếu ông ta cùi... Ông ta nói ông ta muốn gặp vị tiên tri đã nói ở Đền Thờ.
Giêsu, tới lúc đó vẫn yên lặng, liền nói: “Trước hết, chúng ta đi tìm người sau cùng. Hãy bảo các người khác đến nếu họ muốn. Thầy sẽ nói với họ ở đây, trong vườn oliu”. Rồi Người đi về nơi mà người đàn ông chỉ.
- Còn chúng con, chúng con làm gì? - Phêrô hỏi.
- Hãy đến, nếu các con muốn.
Một người đàn ông trùm kín mít, tựa lưng vào một bức tường nhỏ thô sơ nâng đỡ một cái cổng vòm, ngay ở chỗ giới hạn vùng đất sở hữu. Chắc ông ta đã tới đó theo con đường vòng quanh đồi, dọc theo bờ suối. Khi ông thấy Giêsu tới gần, ông kêu: “Lùi lại! lùi lại! Nhưng xin thương”. Và ông để rơi chiếc áo khoác, để lộ ra thân mình của ông. Nếu khuôn mặt phủ đầy vảy, thì thân mình chỉ là một bức khảm bằng vết thương. Có những vết đào sâu, có những vết khác như vết phỏng đỏ, có những vết khác trắng mờ đục, tựa như bên trên có lớp kiếng trắng.
- Ông bị cùi! Ông muốn gì ở Thầy?
- Xin đừng nguyền rủa con, đừng ném đá con. Người ta nói với con là hôm qua Thầy đã tỏ mình ra là tiếng nói của Thiên Chúa và đấng mang Ân Phúc. Người ta nói với con rằng Thầy đã xác nhận rằng khi giơ cao dấu hiệu của Thầy, Thầy sẽ chữa mọi tật nguyền... Xin hãy giơ nó trên con. Con từ mồ mả tới... Từ đó, con đã bò như con rắn giữa lau sậy dọc bờ suối để tới đây mà không bị thấy. Con chờ xẩm tối mới làm, vì trong ánh sáng lờ mờ, người ta không thấy rõ con là ai. Con đã dám... Con tìm được ông ở trong nhà này, ông khá tốt, ông không giết con. Ông chỉ nói với con: “Hãy chờ bên bờ tường”. Xin Thầy cũng thương con.
Giêsu tiến lên một mình, vì sáu môn đệ, ông chủ đất và hai người lạ đứng lại ở xa và bộc lộ rõ ràng sự ghê tởm của họ. Người cùi lại nói: “Xin đừng đến gần hơn nữa, con ô uế”.
Giêsu tiến lại. Người nhìn ông với một tình thương đến nỗi làm người cùi phát khóc. Ông qùi phục, mặt hầu sát đất. Ông rên rỉ:
83
“Dấu hiệu của Ngài! Dấu hiệu của Ngài!...”
Nó sẽ dựng lên vào giờ của nó. Nhưng với con, Thầy nói: “Hãy đứng dậy, hãy được khỏi, Thầy muốn vậy. Và hãy là một dấu hiệu cho Thầy trong thành phố phải biết Thầy. Đứng dậy đi, Thầy bảo con. Và đừng phạm tội nữa vì biết ơn Thiên Chúa!”
Người đàn ông đứng dậy, từ từ, từ từ. Ông ta như trồi lên giữa đám cỏ cao đầy hoa, tựa như ông trút bỏ tấm vải liệm... Ông đã được khỏi. Ông nhìn mình trong ánh sáng sau cùng của ngày. Ông kêu lên: “Ôi! Con sạch rồi! Ôi! Con phải làm gì cho Thầy bây giờ?”
- Hãy vâng lời lề luật. Hãy đi tìm thầy cả. Từ nay hãy tốt. Đi đi.
Người đó làm một cử động để qùi xuống tại chân Giêsu, nhưng ông nhớ mình còn ô uế trước mặt lề luật nên ông dừng lại. Ông chỉ hôn tay ông và gởi cái hôn đó cho Giêsu. Ông khóc vì vui.
Những người khác kinh ngạc. Giêsu quay lưng lại người cùi được lành trong khi mỉm cười và lắc đầu: “Các bạn ơi, đây chỉ là bệnh cùi của thân xác, nhưng các bạn sẽ thấy những con tim cùi được lành”. Rồi Người nói với hai người lạ: “Chính các con muốn gặp Thầy đây phải không? Thầy đây, các con là ai?”
- Chúng con đã nghe Thầy chiều hôm đó... trong Đền Thờ. Chúng con đã tìm Thầy trong thành phố. Có người xưng mình là bà con của Thầy đã nói với chúng con rằng Thầy ở đây.
- Tại sao các con tìm Thầy?
- Để theo Thầy, nếu Thầy muốn chúng con. Thầy có các lời của Chân Lý.
- Theo Thầy à? Nhưng các con biết Thầy hướng về đâu không?
- Thưa Thầy không. Nhưng chắc chắn là tới vinh quang.
- Đúng, nhưng tới một vinh quang không phải của trái đất này, tới một vinh quang ở trên trời, là cái chiếm được bằng các nhân đức và sự hy sinh. Tại sao các con muốn theo Thầy? - Người lại hỏi.
- Để có phần với vinh quang của Thầy.
- Theo Nước Trời?
- Vâng, theo Nước Trời.
- Không phải mọi người đều có thể tới đó, vì ma qủi giăng bẫy. Và chỉ những người có ý chí mạnh mẽ, ước mong Nước Trời hơn
84
mọi sự khác mới có thể kiên trì. Tại sao theo Thầy, nếu việc theo Thầy tạo ra những chiến đấu không ngừng với kẻ thù ở trong chúng ta, với thế giới thù nghịch, với kẻ thù Satan?
- Bởi vì tâm hồn chúng con đưa chúng con tới. Thầy đã chinh phục tâm hồn chúng con. Thầy thánh thiện, mạnh mẽ, chúng con muốn là bạn của Thầy.
- Bạn!!! - Giêsu nín lặng và thở dài. Rồi Người nhìn đăm đăm vào người vẫn nói, và bây giờ ông ta lật mũ áo khoác ra khỏi đầu, để lộ khuôn mặt: đó là Judas Kêriot: “Ông là ai? Ông nói hay hơn một người dân thường”.
- Con là Judas con Simon, người Kêriot, nhưng con thuộc về Đền Thờ. Con chờ đợi vua người Do Thái. Đó là giấc mơ của con. Vua! Con nhận ra trong lời Thầy vị Vua đó. Vua! Con nhận ra trong cử chỉ của Thầy. Hãy nhận cho con đi với Thầy.
- Nhận con? Bây giờ? Ngay lập tức? Không.
- Thưa Thầy tại sao?
- Bởi vì tốt hơn là phải đo lường chính mình trước khi bước vào con đường rất cheo leo.
- Thầy không tin ở sự chân thành của con?
- Con nói đúng. Đối với con, Thầy tin là có sự kích động, nhưng Thầy không tin ở sự kiên trì của con. Judas, hãy suy nghĩ. Bây giờ Thầy đi và Thầy sẽ trở lại vào lễ Ngũ Tuần. Nếu con ở trong Đền Thờ, con sẽ thấy Thầy. Hãy xem xét điều con có thể... Còn con, con là ai? - Người lại hỏi người lạ mặt thứ hai.
- Một người khác đã gặp Thầy. Con đã muốn ở với Thầy, nhưng bây giờ con lại sợ.
- Không. Sự tự đắc là một hư hỏng, còn sợ có thể là một cản trở, nhưng nếu nó tới từ sự khiêm nhường thì nó là một trợ giúp. Đừng sợ. Con cũng vậy, hãy suy nghĩ, rồi khi Thầy trở lại...
- Thưa Thầy, Thầy qúa thánh. Con sợ không xứng đáng với Thầy thôi chứ không có điều gì khác. Vì với những gì thuộc về tình yêu của con thì con không sợ gì hết...
85
- Con tên gì?
- Tôma, biệt hiệu Didyme.
- Thầy sẽ nhớ tên con. Hãy đi bằng an.
Giêsu cho họ đi và vào nhà Người trọ để ăn tối. Sáu vị ở với Người muốn đặt cho Người rất nhiều câu hỏi.
- Thưa Thầy, sao Thầy có thái độ khác nhau đối với hai người?... Bởi vì con thấy có sự khác nhau, mà cả hai đều vâng theo cùng một kích động - Gioan hỏi.
- Bạn ơi, bởi vì cùng một kích động có thể không có cùng một hương vị. Chắc chắn là cả hai có cùng một kích động, nhưng họ không hướng về cùng một mục đích. Kẻ có vẻ bất toàn hơn thì lại khá hơn, vì nơi ông không có cơn sốt của sự ước ao vinh quang loài người. Ông ta yêu Thầy vì ông ta yêu Thầy.
- Con cũng vậy.
- Con cũng giống vậy.
- Và con.
- Và con.
- Và con.
- Và con.
- Thầy biết, Thầy biết các con là thế nào.
- Vậy chúng con toàn thiện?
- Ồ, không! Nhưng cũng như Tôma, các con sẽ trở nên, nếu các con kiên trì trong ý chí của tình yêu. Nhưng toàn thiện?! Ôi, các bạn ơi! Có ai toàn thiện ngoài Thiên Chúa?
- Có, Thầy!
- Thực vậy, Thầy bảo các con rằng Thầy không toàn thiện nếu các con chỉ thấy nơi Thầy một tiên tri. Không người nào toàn thiện, nhưng Thầy toàn thiện, vì đấng đang nói với các con đây là Ngôi Lời của Chúa Cha. Sự toàn thiện của Thiên Chúa, tư tưởng của Người, đã trở nên Lời. Thầy có sự toàn thiện nơi Thầy,và đó là điều các con phải tin nếu các con tin rằng Thầy là Ngôi Lời của Chúa Cha. Nhưng các bạn ơi, Thầy muốn người ta gọi Thầy là Con Người, vì Thầy đã hạ mình, mang lấy trên Thầy hết mọi khốn nạn của loài người. Đó là thập giá thứ nhất của Thầy, để rồi sau khi đã
86
mang nó thì Thầy hủy bỏ nó, và không để nó xâm phạm vào Thầy. Các bạn ơi! Một gánh nặng chừng nào! Nhưng Thầy vui lòng vác nó, Thầy vác nó với niềm vui, vì là con loài người, Thầy làm cho loài người lại trở nên Con Thiên Chúa như trong ngày đầu tiên.
Giêsu nói cách êm đềm, ngồi tại cái bàn cục mịch, tay làm những cử chỉ bình tĩnh, mặt hơi cúi, được soi sáng bởi ngọn đèn dầu đặt trên bàn. Người hơi mỉm cười. Đây đã là người Thầy khiến phải suy phục, mà các cử chỉ biểu lộ biết bao tình bạn. Các môn đệ nghe Người cách chăm chú.
- Thưa Thầy, tại sao người anh bà con của Thầy, đã biết là chúng ta ở đâu rồi mà anh ta không đến?
- Phêrô của Thầy, con sẽ là một trong những tảng đá của Thầy, tảng thứ nhất. Nhưng không phải mọi tảng đá đều sẵn sàng để được sử dụng. Con đã thấy các tảng đá của lâu đài Pháp Đình. Nó được đào ra từ sườn núi với bao khó nhọc, bây giờ nó là một phần của Pháp Đình. Trái lại, hãy nhìn những hòn sỏi sáng bóng dưới ánh trăng tại đáy thung lũng Cédron, chúng tự lăn tới đáy thung lũng, và nếu người ta muốn chúng thì chúng sẵn sàng để cho họ lấy ngay. Người bà con của Thầy thuộc loại tảng đá thứ nhất mà Thầy nói... Sườn núi là gia đình, họ tranh luận về Thầy với anh ta.
- Nhưng con, con muốn hoàn toàn là hòn sỏi dưới suối. Vì Thầy, con sẵn sàng từ bỏ tất cả: nhà cửa, vợ, việc đánh cá, các anh em, tất cả, vì Thầy, Thầy của con.
- Phêrô, Thầy biết, vì vậy Thầy yêu con. Nhưng Judas cũng sẽ tới.
- Ai? Judas Kêriot? Con không mong ước. Đó là một ông đẹp trai, nhưng... Con thích hơn... Phải, con thích chính con hơn...
Mọi người đều cười cái lối thoát của Phêrô.
- Đâu có gì để cười! Tôi muốn nói tôi thích một người Galilê giản dị, một dân chài, nhưng ngay thẳng, hơn là những dân thị thành mà... Tôi không biết. Đó, nhưng Thầy hiểu điều tôi muốn nói.
- Ừ, Thầy hiểu, nhưng đừng đoán xét. Chúng ta cần nhau, trên trái đất, người tốt lẫn lộn với người xấu, giống như hoa trong đồng
87
cỏ, cây độc cần mọc ngay bên cây cẩm qùi ngon lành.
- Con muốn hỏi Thầy một điều.
- Cái gì Andrê?
- Gioan đã kể cho con phép lạ Thầy làm ở Cana... Chúng con rất ước mong Thầy làm phép lạ ở Caphanaum... Mà Thầy, Thầy đã nói với chúng con rằng Thầy không làm phép lạ trước khi hoàn tất Lề Luật. Vậy tại sao ở Cana? Tại sao không ở quê Thầy?
- Mọi việc tuân theo Lề Luật đều liên kết với Thiên Chúa, vậy nó tăng trưởng sức mạnh của chúng ta. Phép lạ là bằng cớ sự kết hợp với Thiên Chúa và sự hiện diện nhân hậu của Người, cũng như sự thỏa thuận của Người đối với chúng ta. Vì vậy Thầy muốn hoàn thành bổn phận con dân Israel trước khi khai mào hàng loạt những kỳ công.
- Nhưng Thầy đâu có cần phải giữ luật.
- Tại sao? Là con Thiên Chúa thì không, nhưng là con lề luật thì phải. Lúc này Israel coi Thầy như vậy... Và cả sau này, hầu như tất cả Israel sẽ biết Thầy như vậy, và còn kém hơn nữa. Nhưng Thầy không muốn gây gương mù cho Israel nên Thầy vâng giữ Lề Luật.
- Thầy là Đấng Thánh.
- Sự thánh thiện không miễn bỏ sự vâng lời, nhưng hoàn thiện nó. Phải làm gương sáng. Ngoài ra, các con nói thế nào về một người Cha, người anh cả, người thầy, người thầy cả, không làm gương sáng?
- Vậy ở Cana?
- Cana là niềm vui của Mẹ Thầy. Cana là một khoản liên can tới Mẹ. Chính Mẹ là người đầu tiên mang ân sủng tới. Ở nơi đây, Thầy tôn vinh Thành Thánh và khai trương công khai sức mạnh Đấng Messi của Thầy, nhưng ở đó, ở Cana, Thầy phải tôn vinh Thánh Nữ của Thiên Chúa, đấng hoàn toàn thánh thiện. Chính nhờ Mẹ mà thế giới có Thầy, nên thật chính đáng là kỳ công thứ nhất của Thầy trong thế giới là cho Mẹ.
Có người gõ cửa.
Lại Tôma nữa. Ông vào và qùi phục dưới chân Giêsu: “Thưa
88
Thầy... Con không thể chờ tới khi Thầy trở lại. Xin để con ở với Thầy. Con đầy khuyết điểm, nhưng con có một tình yêu, duy nhất, lớn lao, thực sự, đó là kho báu của con. Nó thuộc về Thầy, vì Thầy. Xin Thầy giữ con ở với Thầy”.
Giêsu để tay trên đầu ông: “Hãy ở lại, Didyme. Hãy theo Thầy. Phúc cho kẻ chân thành và có ý muốn táo bạo. Các con có phúc, các con thân thiết với Thầy hơn là bà con, vì các con là con cái và anh em của Thầy, không phải theo dòng máu hay chết, nhưng theo ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn của tâm hồn các con. Bây giờ Thầy nói với các con rằng không có bà con nào thân thiết hơn tình nghĩa của kẻ làm theo ý Cha Thầy, và các con đã làm, vì các con muốn”.
Thị kiến chấm dứt như vậy.
Mới 16 giờ mà cơn buồn ngủ đã rơi xuống trên con và con cảm thấy nó mê man. Đó là kết qủa tất nhiên của những chịu đựng ngày hôm qua...
Hôm 24-10 cũng vậy, con đã cảm thấy rất đau đớn, tới nỗi lúc kết thúc thị kiến đã được viết trong lúc đau đầu, chắc là cơn đau màng óc, con không còn can đảm để viết thêm rằng con đã thấy Giêsu ăn mặc như lúc Người hiện ra hoàn toàn cho con: áo mỏng bằng len trắng hơi ngả mầu ngà và áo khoác thích hợp, bộ đồ mà Người mặc trong lần đầu tiên biểu lộ đặc tình Đấng Messi của Người tại Jêrusalem.
18* TÔMA TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ
Sáng nay, tỉnh dậy sau giấc ngủ nhiều giờ, trong khi con cầu nguyện để chờ sáng, con lại thấy tiếp thị kiến. Con nói thấy tiếp vì:
Chúng ta vẫn ở cùng một nơi: nhà bếp rộng và thấp với các bức tường ám khói, soi sáng lờ mờ bởi ngọn đèn dầu nhỏ đặt trên cái bàn thô kệch dài và hẹp, tại đó có tám người ngồi: Giêsu và các môn đệ của Người, cộng thêm ông chủ nhà, mỗi bên bốn người.
Giêsu còn đang quay ngang trên ghế đẩu của Người. Qủa vậy, chỉ có các ghế đẩu ba chân, không có lưng tựa, đồ thôn dã. Giêsu còn đang nói với Tôma, nhưng bàn tay đã để xuống trên vai kẻ mới
89
đến. Giêsu nói: “Đứng dậy đi bạn ơi. Con ăn tối chưa?”
- Chưa Thầy. Con đi mấy mét với ông kia, rồi con rời ông ta con quay trở lại. Con nói với ông ta là con muốn nói chuyện với người cùi được khỏi... Con nói vậy vì con nghĩ ông ta sẽ ghê tởm tới gần một người ô uế. Con đã đoán đúng. Nhưng con, chính là con đi tìm Thầy chứ không phải người cùi... Con muốn xin Thầy: “Hãy nhận con”... Con đi vòng vườn oliu cho tới khi một người trẻ tuổi hỏi con làm gì. Chắc anh ta tưởng con là một người có ý xấu... Anh ta ở gần chỗ giới hạn khu đất sở hữu.
Ông chủ nhà mỉm cười: “Con trai tôi đó” ông ta giải thích, rồi nói thêm: “Nó lên phiên để gác máy ép. Chúng tôi để ở trong hầm bên dưới máy ép hầu như hết số sản phẩm thu hoạch của năm nay. Nó tuyệt vời. Nó sẽ cho nhiều dầu. Khi có những đám đông, các tên trộm cắp trà trộn vào để cướp những nơi không canh gác. Cách đây tám năm, ngay đúng vào tối áp lễ Vượt Qua, chúng tôi bị ăn cắp hết. Từ đó chúng tôi thay phiên nhau canh đêm. Mẹ nó đã đi mang bữa tối cho nó”.
- Đúng, anh ta hỏi tôi: “Ông muốn gì?” Anh ta hỏi tôi với giọng như để bảo đảm với tôi là các cây gậy sẵn sàng cho lưng tôi, nên tôi mau lẹ giải thích: “Tôi tìm vị thầy trọ ở đây”. Anh ta trả lời tôi: “Nếu đúng như ông nói thì hãy tới nhà”, và anh ta hộ tống tôi tới tận đây và chính anh ta gõ cửa. Anh ta bỏ đi khi nghe lời nói đầu tiên của tôi.
- Con ở xa không?
- Con ở phía bên kia thành phố, gần cổng phía đông.
- Con độc thân à?
- Con ở với cha mẹ, nhưng các ngài tới nhà các bà con khác trên đường đi Bétlem. Con ở lại để tìm Thầy ngày đêm cho tới khi con tìm thấy Thầy.
Giêsu mỉm cười nói: “Vậy là không ai chờ con?”
- Thưa Thầy không.
- Đường xa, đêm tối, có lính Rôma tuần tiễu trong thành phố. Thầy bảo con: hãy ở lại với chúng ta nếu con muốn.
90
- Ôi! Thầy! - Tôma sung sướng.
- Hãy dọn cho anh ta một chỗ, và mỗi người hãy chia sẻ cho anh một cái gì.
Trên phần của Người, Giêsu lấy ra miếng phó mát trước mặt Người. Người giải thích với Tôma: “Chúng ta nghèo, và bữa ăn đã sắp xong, nhưng với cả tấm lòng mà mọi anh em tặng cho con”. Rồi Người nói với Gioan đang ngồi bên cạnh Người: “Hãy nhường chỗ cho bạn”.
Gioan đứng dậy ngay và tới ngồi ở góc bàn, bên cạnh ông chủ nhà.
- Tôma, ngồi xuống ăn đi - Rồi với tất cả: “Các con hãy luôn luôn làm như vậy để thi hành luật bác ái. Các người hành hương đã được luật Thiên Chúa bảo vệ, nhưng bây giờ nhân danh Thầy, các con phải yêu họ hơn nữa. Khi ai đến xin các con một cái bánh, một chỗ trọ, một ngụm nước nhân danh Thiên Chúa, hãy cho họ, cũng nhân danh Thiên Chúa, và Thiên Chúa sẽ thưởng công cho các con. Điều đó các con phải làm với mọi người, kể cả với kẻ thù. Đó là luật mới. Từ trước tới nay luật bảo các con: ‘Hãy yêu kẻ yêu các con và ghét kẻ thù’, nhưng Thầy bảo các con: ‘Hãy yêu cả những kẻ ghét các con’. Ôi! Nếu các con biết Thiên Chúa sẽ yêu các con chừng nào khi các con yêu như Thầy bảo các con. Khi một người có thể nói: ‘Tôi muốn làm bạn với các anh trong việc phục vụ Chúa là Thiên Chúa thực, và theo Con Chiên của Người’, khi đó họ phải thân thiết với các con hơn là một người anh em cùng dòng máu, vì các con đã liên kết với nhau bằng một sợi giây vĩnh cửu: sợi giây Đấng Kitô”.
- Nhưng nếu sau đó ta thấy rằng người đó không chân thành. Nói: “tôi muốn làm cái nọ cái kia” thì dễ, nhưng lời nói không luôn luôn phù hợp với sự thật - Phêrô có vẻ tức. Ông không vui. Tôi không biết tại sao. Thường thì ông vui tính.
- Phêrô, nghe đây. Con nói với ý tốt và công bằng. Nhưng con coi: Thà phạm tội bởi lòng tốt và tin cẩn còn hơn là bởi nghi ngờ và khắt khe. Nếu con làm sự lành cho một kẻ bất xứng thì có kết qủa gì xấu không? Không. Mà trái lại, phần thưởng Thiên Chúa dành
91
cho con luôn luôn trung thành, trong khi người kia sẽ bị mất phẩm giá vì phản bội sự tín nhiệm của con.
- Không có gì xấu sao? Ê! Đôi khi xảy ra là một kẻ bất xứng không dừng lại ở chỗ vô ơn, họ còn đi xa hơn bằng cách làm hư danh tiếng, gia tài, và cả chính mạng sống!
- Đúng, nhưng việc đó có làm giảm công nghiệp của con không? Không. Cho dù mọi người tin vào sự vu khống, cho dù con bị giảm thiểu tới mức trở thành nghèo hơn ông Gióp, cho dù sự độc ác lấy mất sự sống của con, thì cái gì thay đổi trước mắt Thiên Chúa? Không gì cả. Có một sự thay đổi cho con, nhưng về phía tốt hơn. Công nghiệp của lòng tốt được cộng thêm công nghiệp của tử đạo trong tâm hồn, của sự bị mất của cải, mất mạng sống.
- Được rồi, được rồi, sẽ như vậy - Phêrô phụng phịu, không nói nữa, ngồi tì đầu vào bàn tay.
Giêsu quay lại với Tôma: “Bạn ơi, Thầy đã nói: ‘Khi thầy trở lại sau vòng đi của Thầy, con sẽ là người của Thầy, nếu con muốn’. Bây giờ Thầy bảo con: ‘Con có sẵn sàng để làm vui lòng Giêsu không?’”
- Chắc chắn rồi.
- Nếu sự vui lòng này đòi con một hy sinh?
- Không gì đắt giá đối với con để phục vụ Thầy. Thầy muốn gì?
- Thầy muốn nói với con... Nhưng nếu con có những liên hệ, những tình cảm...
- Không gì hết, không gì hết. Con có Thầy. Xin Thầy nói đi.
- Nghe đây: Ngày mai, từ lúc rạng đông, người cùi sẽ rời mồ mả để tìm kẻ nào đó báo cho thầy cả. Con sẽ bắt đầu bằng cách tới mồ. Đó là bác ái. Rồi con nói lớn tiếng với ông ta: “Anh ngày hôm qua được sạch, hãy ra ngoài. Đấng sai tôi đến với anh là Giêsu Nazarét, Đấng Messi của Israel, Đấng đã chữa cho anh”. Hãy làm cách nào để thế giới các kẻ “chết-sống” biết tên Thầy và run lên niềm hy vọng. Ai hy vọng mà có lòng tin thì hãy đến với Thầy để Thầy chữa cho. Đó là việc biểu lộ đầu tiên về sự trong sạch mà Thầy mang tới từ sự phục sinh mà Thầy có bá quyền. Một ngày kia, Thầy sẽ ban một sự trong sạch sâu xa hơn. Một ngày kia, các mồ
92
mả đậy kín sẽ mửa ra các người chết thực sự của nó. Họ sẽ xuất hiện để cười bằng đôi mắt rỗng của họ, bằng quai hàm không có thịt của họ, vì một niềm vui xa xôi mà các bộ xương cũng cảm thấy, vì tâm hồn họ được giải phóng khỏi sự chờ đợi ở Lâm Bô. Họ sẽ hiện ra để cười vì sự giải phóng này, và để run lên khi biết mình được vậy là nhờ cái gì... Con, hãy đi. Ông ta sẽ tới với con. Con sẽ làm điều ông ta xin con làm. Con sẽ giúp ông ta mọi sự như đó là anh con. Rồi con nói với ông ta: “Khi anh đã hoàn toàn được thanh tẩy, chúng ta sẽ cùng nhau đi theo con đường phía sông ở bên kia Đôcô và Ephraim. Thầy Giêsu chờ anh và Người tới đó để nói cho chúng ta biết chúng ta phải phục vụ Người thế nào”.
- Thưa Thầy con sẽ làm như vậy. Còn ông kia?
- Ai? Iscariot à?
- Thưa Thầy vâng.
- Đối với ông ta, lời khuyên của Thầy kéo dài. Hãy để ông ta
suy nghĩ lâu ngày và tự ý quyết định. Cả đến hãy tránh gặp ông ta. Phêrô lụng bụng cái gì và Giêsu nghe được.
- Phêrô, con làm sao? Con nín lặng hay con xì xèo? Con có vẻ không bằng lòng. Tại sao?
- Con có vậy đó. Chúng con là những người đầu tiên mà Thầy không tặng chúng con một phép lạ nào. Chúng con là những người đầu tiên mà Thầy để cho ngồi bên Thầy như người lạ. Chúng con là những người đầu tiên mà Thầy giao cho ông ta những nhiệm vụ mà không giao cho chúng con gì cả. Chúng con là những người đầu tiên mà... đúng. Đúng hệt như vậy. Con thấy như chúng con là những kẻ sau cùng. Tại sao Thầy chờ họ trên đường bờ sông? Chắc là lại để giao cho họ một sứ mạng. Tại sao cho họ mà không cho chúng con?
Giêsu nhìn ông, Người không tức giận. Cả đến Người mỉm cười với ông như người ta mỉm cười với một đứa trẻ. Người đứng dậy, từ từ đến bên Phêrô, đặt tay trên vai ông và mỉm cười nói với ông: “Phêrô! Phêrô! Con là đứa trẻ nít già”. Và Người nói với Andrê đang ngồi bên cạnh ông: “Hãy lại ngồi vào chỗ Thầy”. Rồi Người
93
ngồi bên cạnh Phêrô, quàng tay quanh vai ông và nói với ông trong khi kéo ông sát vào Người: “Phêrô, con có vẻ như cho là Thầy đã phạm một lỗi bất công. Nhưng điều Thầy làm không phải là bất công. Trái lại, đó là một thử thách để Thầy biết giá trị của các con. Hãy coi, phải thử thách ai? Phải thử kẻ chưa vững vàng. Vậy Thầy biết các con đã chắc chắn về Thầy nên Thầy không cần cho các con bằng cớ về sức mạnh của Thầy. Ở đây, tại Jêrusalem, phải có những bằng cớ, vì đây là nơi mà thói hư, sự vô tôn giáo, chính trị, bao nhiêu thứ của thế gian nó làm tối tăm tâm hồn người ta tới nỗi họ không thể thấy Ánh Sáng đi qua. Không như ngoài đó, trên cái hồ đẹp của chúng ta, trong vắt dưới bầu trời cũng xanh trong; ở đó, những người ngay lành ước ao sự lành không cần bằng cớ. Các con sẽ có những phép lạ. Thầy sẽ đổ ơn phúc xuống trên các con như dòng sông đầy. Nhưng con coi: Thầy đánh giá các con cao chừng nào! Thầy đã nhận các con không đòi hỏi bằng chứng, và không cảm thấy cần phải cho các con bằng chứng, bởi vì Thầy biết các con là gì: Thân yêu! Thân yêu chừng nào và trung thành chừng nào với Thầy!”
Phêrô lại tìm được sự trong sáng của ông: “Xin lỗi Giêsu!”
- Ừ, Thầy tha. Vì sự lụng bụng của con là do tình yêu, nhưng đừng ghen nữa. Simon con Jonas, con biết thế nào là quả tim Giêsu của con không? Con chưa bao giờ thấy biển, biển thực sự? Rồi? Vậy quả tim Thầy còn mênh mông hơn biển. Nó có chỗ cho tất cả, cho cả nhân loại. Và người nhỏ nhất cũng có chỗ như người lớn nhất. Người tội lỗi tìm thấy tình yêu ở đó cũng như kẻ vô tội. Vậy với những người này, Thầy giao sứ mệnh, chắc chắn rồi, con có thể ngăn cản Thầy giao cho họ không? Thầy đã chọn các con chứ không phải các con chọn Thầy. Vậy Thầy được tự do để cứu xét xem Thầy sử dụng các con thế nào. Và nếu Thầy để những người này lại đây với một sứ mạng - nó có thể là thử thách cũng như có thể là tình thương, như thời gian để lại cho Iscariot - con có thể khiển trách Thầy điều đó không? Con có biết nếu Thầy dành cho con một sứ mạng quan trọng hơn không? Và đó có phải là bằng cớ đẹp hơn là
94
nghe con nói: “Con sẽ đến với Thầy” không?
- Đúng vậy, đúng vậy. Con quá bết! Xin lỗi...
- Ừ, Thầy tha cho con tất cả cũng như mỗi điều. Ôi! Phêrô... Nhưng Thầy xin tất cả các con: Đừng bao giờ tranh luận về công trạng cũng như thứ bậc. Thầy đã có thể sinh ra là vua, nhưng Thầy đã sinh ra nghèo khó trong một chuồng bò. Thầy đã có thể giầu, nhưng Thầy sống bằng việc làm của Thầy, và bây giờ thì bằng lòng bác ái. Nhưng các bạn ơi, hãy tin rằng không ai lớn như Thầy trước mắt Thiên Chúa. Tuy vậy, ở đây, Thầy là tôi tớ của loài người bằng chính mình Thầy.
- Thầy, tôi tớ? Không. Không bao giờ.
- Tại sao Phêrô?
- Vì chính con sẽ phục vụ Thầy.
- Dù con có phục vụ Thầy như người mẹ săn sóc con mình, vẫn là Thầy đến để phục vụ loài người. Thầy sẽ là Vị Cứu Tinh cho họ. Có sự phục vụ nào sánh được với việc này không?
- Ôi, Thầy! Thầy giải thích tất cả. Và những điều tối tăm bỗng thành ra sáng sủa.
- Bây giờ con bằng lòng rồi phải không Phêrô? Vậy hãy để Thầy nói cho xong với Tôma. Con có chắc sẽ nhận ra người cùi không? Chỉ có ông ta là được khỏi. Nhưng cũng có thể ông ta đã ra đi dưới ánh sao để tìm một người du hành tử tế, hoặc một người khác muốn vào thành phố thăm bà con, và con có thể lẫn người khác với ông. Vậy đây là hình dạng của ông. Thầy đã ở ngay bên ông trong hoàng hôn và Thầy đã quan sát ông rất kỹ: ông cao và gầy, nước da sậm mầu của những người có máu lai; mắt sâu và rất đen dưới đôi mi trắng như tuyết. Tóc mầu vải gai khá quăn, mũi tẹt ở cuối như người Lybie, môi dầy và lồi, nhất là môi dưới. Ông rất xanh đến nỗi môi thành tím. Ở trán có một cái thẹo cũ còn lại. Đó là dấu vết duy nhất, vì bây giờ ông đã thanh tẩy cho sạch những vảy và cáu ghét.
- Đó là ông già, nếu ông ta toàn là trắng.
- Không đâu Philíp, ông không có vẻ già mấy, vì bệnh cùi đã làm cho ra trắng.
95
- Máu lai là sao?
- Phêrô, có lẽ, trông ông giống như dân Phi châu.
- Vậy ông là người Israel không?
- Chúng ta sẽ biết. Nhưng nếu ông không là?
- Ê! Nếu ông ta không phải Israel, ông ta có thể đi. May mắn được chữa đã là qúa nhiều rồi.
- Không, Phêrô ơi, dù ông ta thờ tà thần, thầy cũng không đuổi ông. Giêsu đến cho hết mọi người. Và thực sự, Thầy bảo con rằng các dân của tối tăm sẽ vượt qua các con cái của dân Ánh Sáng...
Giêsu thở dài. Rồi Người đứng lên, Người tạ ơn Chúa Cha bằng một thi vịnh, rồi Người chúc lành.
Thị kiến chấm dứt như vậy.
Con chú thích là tiếng nói nội tâm báo cho con, ngay từ chiều hôm qua, khi con nhìn thấy người cùi, rằng: “Đó là Tông Đồ Simon. Con sẽ thấy ông đến với Thầy, và cả Thađê nữa”. Sáng nay (thứ sáu), sau khi rước lễ, con mở sách lễ, con thấy ngay trúng hôm nay là ngày áp lễ thánh Simon và Juđa Tông Đồ, và Tin Mừng ngày mai nói đúng ngay về lòng bác ái, và hầu như nhắc lại đúng các lời con đã nghe trong thị kiến đầu. Nhưng lúc này, con chưa nhìn thấy Juđa Thađê đâu.
19* JUĐA ALPHÊ, TÔMA VÀ SIMON
ĐƯỢC NHẬN Ở BỜ SÔNG GIOĐAN
Ôi! Các bờ sông Giođan vào thời của Giêsu! Chúng đẹp chừng nào! Tôi nhìn chúng và tôi khoái cảm về sự bình an oai hùng của các làn sóng xanh biếc, nơi tiếng động của nước và sự tươi mát của cỏ cây ca hát du dương dịu dàng.
Tôi đang ở trên một con đường khá lớn và tình trạng tốt. Chắc đây là con đường giao thông rộng rãi, hay hơn nữa, một con lộ nhà binh mà người Roma đã mở để nối các miền khác nhau với thủ đô. Nó chạy gần dòng sông, nhưng không hẳn ở dọc bên bờ. Nó ngăn cách với sông bởi một giải đất cây cối um tùm mà tôi đoán là để cho bờ sông được vững khi có nước lũ. Ở phía bên kia đường, rừng cây tiếp tục, làm cho con đường giống như một hành lang thiên
96
nhiên, mà ở bên trên, các cành cây rậm rạp vươn ra giao vào nhau: một sự nghỉ ngơi dễ chịu cho những người di chuyển trong xứ đầy mặt trời này.
Dòng sông, và do đó cả con đường chỗ tôi đứng đây là một chỗ cua, làm như hình một vòng cung không quá cong, nên tôi có thể nhìn thấy bờ sông tiếp tục với cây cối bao phủ như một bức tường xanh vây lấy cái lưu vực nước yên lặng, trông giống như cái hồ của công viên các vị Chúa. Nhưng nước không bất động như nước hồ, nó chảy, dù nhẩn nha, cho nghe thấy tiếng kêu lèo xèo của nước chảy qua bờ lau sậy, những cây mạnh nhất, đã mọc dưới bờ thấp, và các lá dài của chúng dợn sóng, rũ xuống mặt nước, và làn nước làm cho chúng lay động. Cũng có một khóm lệ liễu rũ đầu mút bộ tóc xanh của nó trên sông, tựa như chúng chải và vuốt ve dòng sông cách duyên dáng, hơi vươn dài ra để vói theo dòng nước.
Hoàn toàn bình an và yên lặng vào giờ sớm mai này. Chỉ có tiếng chim ca và gọi nhau, tiếng rì rào của nước, và tiếng vỡ của các giọt sương trên cỏ xanh mọc giữa các cây lớn mà mặt trời không làm cho cứng hay vàng ra, nên chúng vẫn mềm và có mầu xanh như mới. Nó mới mọc sau trận mưa xuân đầu tiên đến nuôi trái đất cho tới tận tầng sâu, bằng sự tươi mát và các nền tảng mầu mỡ.
Ba người bộ hành đã dừng lại ở chỗ quặt này của con đường, ngay ở chỗ đỉnh hình cung. Họ nhìn phía trên phía dưới, phía nam là Jêrusalem, phía bắc là Samari. Họ tìm giữa các thân cây xem những người họ chờ có ai tới không. Đó là Tôma, Juđa Thađê và người cùi được lành. Họ nói chuyện:
- Anh không thấy gì sao?
- Tôi, chả thấy gì hết!
- Tôi cũng không.
- Nhưng đây đúng là chỗ đã hẹn.
- Anh có chắc là chỗ này không?
- Chắc mà Simon. Một trong sáu người đã nói với tôi khi Thầy lánh đi giữa những tiếng hoan hô của đám đông sau phép lạ cho người ăn mày bị què ở cửa Cá: “Bây giờ chúng tôi ra khỏi Jêrusalem. Hãy chờ chúng tôi ở chỗ năm dặm giữa Jêricô và Đôcô, ngay chỗ cua của con sông, dọc theo đại lộ”. Đúng là chỗ này. Ông ấy cũng nói: “Trong ba ngày nữa chúng tôi sẽ tới chỗ đó, vào lúc bình minh”.
97
Hôm nay là ngày thứ ba, và là đêm thứ bốn chúng ta ở đây.
- Người có tới không? Có lẽ tốt hơn là nên theo Người từ Jêrusalem.
- Simon, anh không thể đi băng qua đám đông.
- Nếu ông em của tôi đã bảo đến đây thì Người sẽ đến. Người luôn luôn giữ lời hứa. Chỉ phải chờ.
- Trước anh vẫn ở với Người à?
- Luôn luôn. Từ khi Người (từ Ai Cập) trở về Nazarét, Người luôn luôn là bạn tốt của tôi. Chúng tôi luôn luôn cùng nhau. Chúng tôi trạc tuổi nhau, tôi hơi lớn hơn Người. Lại nữa, tôi là đứa ưu ái của ba Người, em của ba tôi. Và cả Mẹ Người nữa, bà rất yêu tôi.
- Bà yêu anh... Bây giờ bà còn yêu anh như vậy không?
- Ồ, có chứ. Nhưng chúng tôi hơi chia rẽ khi Người đi làm Tiên Tri, vì bà con tôi không muốn việc đó.
- Bà con nào?
- Ba tôi với hai ông anh lớn. Còn một ông khác thì ngập ngừng... Ba tôi già lắm rồi, và tôi không có qủa tim có thể làm mất lòng ông. Nhưng bây giờ... Bây giờ, không còn như vậy nữa. Bây giờ tôi đến nơi nào mà con tim và tâm hồn tôi cảm thấy bị lôi cuốn. Tôi đến với Giêsu. Tôi không tin là lỗi luật khi hành động như vậy. Nhưng rồi... Nếu điều tôi muốn làm là không chính đáng thì Giêsu sẽ nói với tôi. Tôi làm như Người bảo tôi. Một người cha có quyền phản đối con mình tìm điều lành không? Nếu tôi ý thức rằng ở đó là phần rỗi của tôi thì tại sao lại ngăn cản tôi tới đó? Tại sao khi đó các người cha lại trở thành kẻ thù cho chúng ta?
Simon thở dài tựa như người ta nhắc lại những kỷ niệm buồn của ông. Ông cúi đầu nhưng không nói gì.
Trái lại, Tôma trả lời: “Tôi đã vượt qua trở ngại. Ba tôi đã nghe tôi và hiểu tôi. Ông đã chúc lành cho tôi và nói: ‘Hãy đi. Cầu cho lễ Vượt Qua này giải thoát cho con sự nô lệ của chờ đợi. Phúc cho con vì có thể tin. Với ba, ba chờ. Nhưng nếu đúng đó là Người thì con sẽ nhận ra trong khi theo Người, và hãy về nói với người cha già của con: Ba ơi, Israel đã có Đấng họ trông chờ’”.
98
- Anh may mắn hơn tôi. Anh coi chúng tôi sống bên cạnh Người... Vậy mà chúng tôi không tin. Chúng tôi thuộc về gia đình của Người!... Vậy mà chúng tôi nói, đúng ra là họ nói: “Anh ta quẩn trí!”
- Kìa! Kìa! một nhóm người - Simon kêu. “Đúng Người rồi! Đúng Người rồi! Tôi nhận ra mái tóc hung vàng. Ôi! Đi! Ta chạy!”
Họ bắt đầu bước nhanh về phía nam. Bây giờ họ tới đỉnh hình cung và cây cối che khuất khoảng đường kế tiếp, khiến cho hai nhóm gặp nhau vào lúc họ không ngờ nhất. Giống như Giêsu từ dưới sông lên, vì Người ở giữa đám cây cối ở bờ sông.
- Thầy!
- Giêsu!
- Chúa con!
Ba tiếng kêu của người môn đệ, người bà con và người được phép lạ vang lên, bộc lộ sự yêu mến và niềm vui.
- Bình an cho các con! - Đó là giọng nói thánh thót, không thể lẫn với giọng nào khác: đầy đặn, âm vang, bình an, bộc lộ, rõ ràng, trưởng thành, êm ái, xuyên thấu: “Cả anh nữa? Juđa! Bà con của Thầy!”
Họ ôm hôn nhau. Juđa khóc.
- Tại sao? Những nước mắt này?
- Ôi! Giêsu! Anh muốn ở với em!
- Em luôn luôn chờ anh mà! Sao anh không đến?
Juđa cúi đầu không nói.
- Họ không muốn! Và bây giờ?
- Giêsu! Anh... Anh không thể vâng lời họ. Anh chỉ muốn vâng lời một mình em.
- Nhưng em, em đâu có ra lệnh cho anh.
- Không. Em, không. Nhưng chính sứ mạng của em ra lệnh. Chính đấng sai em nói ở đây, ở giữa qủa tim anh, Người bảo anh: “Hãy đến với Người”. Chính đấng cưu mang em và là cô giáo dịu hiền của anh đã nói với anh bằng đôi mắt bồ câu của Người mà không cần lời: “Hãy thuộc về Giêsu”. Anh, anh có thể không kể đến tiếng
99
nói này, từ trên cao đã thấm vào tâm hồn anh không? Và lời xin của Nữ Thánh, chắc chắn vậy, năn nỉ anh vì sự lành cho anh? Trong khi anh là anh họ của em bởi chú Giuse, mà anh lại là người không nhận ra em về thân thế của em, trong khi ông Tẩy Giả đã nhận ra em, dù ông chưa bao giờ gặp em, ở đây, tại bờ sông này, và đã chào em là “Con Chiên Thiên Chúa”. Còn anh đã lớn lên với em, em đã làm cho anh nên tốt khi anh đi theo em; anh đã trở nên con trai Lề Luật nhờ mẹ em, bà đã làm thấm vào trong anh, không phải chỉ có 613 giáo điều của các rabbi cùng với Thánh Kinh và các lời cầu nguyện, mà là cả linh hồn của nó. Tất cả. Vậy mà anh lại không có thể cái gì sao?
- Còn ba anh?
- Ba anh. Ông không thiếu bánh cũng như sự hỗ trợ... Lại nữa, em đã làm gương cho anh. Em đã nghĩ đến điều lành cho dân hơn là cho riêng Maria. Cô ấy đơn độc. Em, thầy của anh, hãy nói cho anh: có được phép nói mà không lỗi sự kính trọng, với một người cha rằng: “Cha ơi, con yêu cha, nhưng ở bên trên cha có Thiên Chúa và con theo Người”?
- Juđa, bà con và bạn của Thầy! Thầy nói với con: con đã tiến nhiều trên đường của ánh sáng. Hãy đến. Được phép nói như vậy với cha mẹ khi đúng là Thiên Chúa kêu gọi. Không có gì ở bên trên Thiên Chúa, cả các luật của máu mủ cũng biến đi, đúng hơn là nó thành cao cả, vì với nước mắt của chúng ta, chúng ta cho cha mẹ chúng ta một trợ giúp lớn lao hơn, vì mục đích vĩnh viễn, ở đó không phải đếm các ngày của thế gian. Với chúng ta, chúng ta lôi kéo các ngài lên trời bằng cùng một con đường hy sinh tình cảm, về với Thiên Chúa. Vậy Juđa, hãy ở lại. Thầy đã chờ con và Thầy sung sướng lại có con, người bạn của đời sống Nazarét của Thầy.
Juđa cảm động sâu xa.
Giêsu quay về với Tôma: “Con đã vâng lời cách trung thành, nhân đức đầu tiên của người môn đệ”.
- Con đến để trung thành với Thầy.
- Con sẽ như vậy. Thầy nói điều đó cho con. Nào! lại đây, con,
100
người cứ đứng với vẻ xấu hổ trong bóng cây. Đừng sợ.
- Lạy Chúa con! - Người cùi được lành qùi dưới chân Giêsu.
- Đứng dậy đi. Tên con?
- Simon.
- Gia đình con?
- Lạy Chúa... Xưa kia nó rất mạnh. Con cũng đã là người đáng kể... Nhưng sự thù hằn đảng phái... và... sai lầm của tuổi trẻ đã làm hại sức mạnh của nó... Cha con... Ôi! Con phải nói chống lại ông, vì ông đã là giá nước mắt của con, không phải nước mắt đến từ trời! Thầy thấy, Thầy đã thấy ông đã tặng cho con món qùa nào!
- Ông đã bị cùi?
- Không phải cùi. Con cũng không. Ông bị một chứng bệnh có tên khác. Nhưng chúng ta, Israel, chúng ta xếp nó vào các loại cùi khác nhau. Ông ấy, trong khi gia đình còn mạnh, ông đã sống và chết, được gia đình kính nể. Còn con, nếu Thầy không cứu con thì con sẽ chết ở giữa mồ mả.
- Con có một mình thôi sao?
- Một mình. Con có một người đầy tớ trung thành lo săn sóc những gì còn lại của con. Con đã cho báo tin cho ông.
- Mẹ con?
- Bà... đã chết - ông có vẻ bối rối.
Giêsu quan sát ông chăm chú: “Simon, con đã hỏi Thầy: ‘Con phải làm gì cho Thầy?’. Bây giờ Thầy bảo con: ‘Hãy theo Thầy’”.
- Lạy Chúa! Ngay lập tức! Nhưng... Nhưng con... Xin Thầy để cho con nói với Thầy một điều. Con là, người ta gọi con là Zêlote vì giai cấp của con, và con là người Canane do mẹ con. Thầy thấy con ở trong điều kiện thấp bé. Trong con có máu nô lệ, vì ba con không có con trai với vợ chính, nên ông có con do người nô lệ. Vợ ông là người đàn bà đại độ, đã nuôi con như con bà. Bà săn sóc con giữa nhiều bệnh tật của con cho tới khi bà chết...
- Trước mắt Thiên Chúa không có người nô lệ hay người tự do. Trước mắt Người chỉ có một thứ nô lệ là tội lỗi, và Thầy đến để hủy bỏ nó. Thầy kêu gọi tất cả các con, vì nước Trời thuộc về mọi người. Con có học thức không?
101
- Con có học. Con cũng có địa vị ở giữa những người lớn bao lâu bệnh tật còn che giấu được dưới lớp áo. Nhưng khi nó xuất hiện trước mắt mọi người... Các kẻ thù của con sung sướng dùng nó để nhốt con ở giữa những người chết. Nhưng theo ông thầy thuốc người Rôma ở Cêsarê mà con thăm bệnh, thì bệnh của con không phải cùi thực sự, nhưng nó là chứng lở loét gia truyền, chỉ cần đừng sinh con là không làm lây lan nó. Con có thể không nguyền rủa ba con không?
- Con không được nguyền rủa ông. Ông đã gây ra cho con đủ thứ bệnh...
- Ôi! Đúng, ông đã phung phí gia tài. Ông đồi bại, độc ác, không có qủa tim, không có tình cảm. Ông đã từ chối con sức khỏe, sự âu yếm, sự bình an. Ông đã ghi cho con một cái tên làm con bị khinh bỉ, và truyền cho con một căn bệnh đáng xấu hổ... Ông muốn làm chủ tất cả, kể cả tương lai của con ông. Ông đã lấy tất cả của con, kể cả niềm vui được làm cha.
- Vì lý do đó, Thầy bảo con: “Hãy theo Thầy”. Ở bên cạnh Thầy, đi theo Thầy, con sẽ tìm được một người cha và các con cái. Hãy ngước nhìn lên, Simon: Ở trên kia, người Cha thật mỉm cười với con. Con hãy nhìn trên khắp thế giới, trên mọi lục địa, qua mọi nước... Ở đó có đầy con cái và con cái: Con cái thiêng liêng cho những kẻ không có con. Chúng đang chờ con, chờ rất nhiều người giống như con. Dưới dấu hiệu của Thầy, không ai bị bỏ rơi nữa. Với dấu hiệu của Thầy, không còn cô đơn, không còn khác biệt. Đó là dấu hiệu của tình yêu. Hãy đến, Simon, kẻ không có con. Hãy đến, Juđa, kẻ bị mất cha vì tình yêu Thầy. Thầy kết hợp các con vào cùng một số phận.
Giêsu kéo hai người lại. Người đặt tay trên vai họ như để nhận làm sở hữu, như để đặt cho họ một cái gông chung, rồi người nói: “Thầy kết hợp các con, nhưng lúc này thầy phân chia các con: Con, Simon, con ở lại đây với Tôma. Cùng với ông, con sửa soạn cho việc trở lại của Thầy. Ít bữa nữa Thầy sẽ trở lại. Cần có nhiều người chờ Thầy. Hãy nói với những người bệnh, con là người có thể nói, rằng đấng chữa bệnh sắp đến. Hãy nói với những kẻ đang chờ
102
Đấng Messi rằng người đang ở giữa dân Người. Hãy nói với các tội nhân rằng có đấng tha thứ để có sức mạnh mà chỗi dậy...”
- Nhưng chúng con có khả năng không?
- Có, các con chỉ việc nói: “Người đã đến, Người gọi qúi vị, Người chờ qúi vị, Người đến để làm ơn. Hãy sốt sắng tới gặp Người”. Và các con thêm vào những lời này các bài tường thuật mà các con đã biết. Còn con, Juđa, anh họ của Thầy, hãy đi với Thầy và những người này. Nhưng anh, anh sẽ ở lại Nazarét.
- Tại sao vậy Giêsu?
- Bởi vì anh phải dọn đường cho Thầy tại quê hương của chúng ta. Anh nghĩ đó là công tác nhỏ sao? Thực vậy, không có việc nào quan trọng hơn... - Giêsu thở dài.
- Anh có thành công không?
- Có và không. Nhưng tất cả sẽ đủ để chúng ta được biện minh.
- Về cái gì? Trước mặt ai?
- Trước mặt Thiên Chúa, trước mặt quê hương, trước mặt gia đình. Họ không thể trách chúng ta là đã không dành cho họ điều tốt. Nếu quê hương và gia đình khinh dể, chúng ta không phải trách nhiệm về sự hư mất của họ.
- Còn chúng con?
- Các con, Phêrô, các con lại trở về với cái lưới của các con.
- Tại sao?
- Vì Thầy sẽ giáo huấn các con từ từ, và Thầy sẽ giữ các con khi các con đã sẵn sàng.
- Nhưng chúng con sẽ gặp lại Thầy?
- Đương nhiên. Thầy sẽ hay đến tìm các con, và Thầy sẽ cho gọi các con khi Thầy ở Caphanaum. Các bạn, bây giờ chúng ta chào nhau rồi chúng ta đi. Thầy chúc lành cho các con ở lại. Bình an của Thầy ở với các con.
Thị kiến chấm dứt.
20* TRỞ VỀ NAZARÉT SAU LỄ VƯỢT QUA
CÙNG VỚI SÁU MÔN ĐỆ
103
Chúa Giêsu cùng với anh họ và sáu môn đệ đã về tới vùng ngoại biên Nazarét. Từ trên đồi nơi họ đang ở, người ta nhìn thấy thành phố nhỏ trắng giữa mầu cây xanh, lên xuống tùy nơi được xây cất. Vùng đất dợn sóng nhẹ, chỗ thì chỉ hơi nhận ra, chỗ thì rõ ràng hơn.
- Các bạn ơi, chúng ta đã tới nơi. Kia là nhà Thầy. Mẹ Thầy đang ở nhà, vì Thầy thấy có khói bốc lên. Có lẽ mẹ đang làm bánh. Thầy không bảo các con: “Hãy ở lại”, vì Thầy nghĩ các con cũng vội vã về nhà các con. Nhưng nếu các con muốn bẻ bánh với Thầy, và biết vị mà Gioan đã biết rồi, thì Thầy bảo các con: “Hãy đến”.
Sáu vị đã buồn thiu vì sắp phải chia tay, liền vui trở lại và hân hoan chấp nhận.
- Vậy thì đi!
Họ mau mắn xuống dốc ngọn đồi nhỏ và đi vào đường lớn. Đây là lúc gần chiều, trời còn nóng, nhưng bóng tối đã trải ra miền quê, nơi lúa miến bắt đầu chín. Họ vào trong xứ, thấy các phụ nữ đang đi ra phông-ten hoặc từ đó trở về, đàn ông ở cửa xưởng làm hoặc ở trong vườn. Các trẻ em chạy lại đông đúc chung quanh Giêsu:
- Ông đã về?
- Bây giờ ông ở lại đây?
- Con lại làm hỏng bánh của chiếc xe nhỏ của con.
- Giêsu, ông biết không? Con mới có một đứa em gái nhỏ, nó được đặt tên Maria.
- Thầy giáo bảo con rằng con biết tất cả rồi, và con thực sự là đứa con trai của lề luật.
- Sara không ở đây, vì má nó bệnh nặng. Nó khóc, vì nó sợ.
- Anh Isaac của con mới cưới vợ. Lễ lớn lắm!
Giêsu nghe, vuốt ve, chúc mừng, hứa giúp đỡ. Và như vậy, họ tới nhà. Maria đã ở ngưỡng cửa, vì được một thằng bé chạy về báo tin.
- Con!
- Má!
Hai người ở trong vòng tay nhau. Maria thấp hơn Giêsu nhiều nên đầu tựa vào phía trên ngực của con mẹ, thu gọn trong vòng tay
104
Người, Người hôn lên mái tóc vàng của mẹ. Họ vào nhà.
Các môn đệ, kể cả Juđa, ở lại bên ngoài để hai mẹ con được tự do cho những bộc lộ đầu tiên.
- Giêsu, con mẹ! - Giọng của Maria run run tựa như sắp khóc.
- Má ơi, sao cảm động qúa vậy?
- Ôi, con ơi! Họ nói với mẹ... Ở Đền Thờ bữa đó có những người Galilê, người Nazarét. Họ về họ kể... Ôi, con!...
- Nhưng má thấy đó, con mạnh khỏe. Không có gì xấu xảy ra cho con cả, và vinh quang Thiên Chúa đã tới trong nhà Người.
- Ừ, má biết, con của trái tim má! Má biết việc đó như tiếng chuông đánh thức kẻ mê ngủ. Và về vinh quang Thiên Chúa thì má sung sướng... Sung sướng vì dân này là dân của má sẽ tỉnh thức về với Thiên Chúa... Má không trách con đâu... Má không ngăn cản con... má hiểu con... Và... Má sung sướng... Nhưng má đã cho con sự sống, con má!... - Maria vẫn còn ở trong vòng tay Giêsu. Mẹ nói khi để bàn tay xòe ra, áp vào ngực con mẹ, mặt ngửa lên, mắt nhìn vào Người, sáng long lanh vì một giọt nước mắt hầu muốn chảy xuống. Bây giờ mẹ nín lặng, lại gục đầu vào ngực Giêsu, giống như con chim cu xám, vì mẹ mặc đồ mầu xám, ẩn dưới đôi cánh lớn trắng, vì Giêsu vẫn còn áo trong và áo khoác trắng.
- Má! Má tội nghiệp! Má yêu dấu!... - Giêsu lại hôn mẹ, rồi Người nói: “Vậy má thấy là con ở đây, và không phải một mình. Con có các môn đệ đầu tiên ở với con. Con còn có những người khác ở Juđê, và cả anh Juđa nữa, cũng theo con và ở với con...”
- Juđa!
- Vâng, Juđa. Con biết tại sao má ngạc nhiên. Chắc chắn trong số những người kể về sự kiện, có Alphê và các con của bác... Và con không lầm khi nói rằng họ đã chỉ trích con. Nhưng má đừng sợ, hôm nay như vầy, ngày mai sẽ khác. Con người cũng giống như đất, chỗ nào có gai thì có hoa hồng nở ra. Juđa mà má rất yêu đã ở với con.
- Bây giờ nó đâu?
- Ở ngoài kia với những người khác. Má có bánh cho tất cả
105
không?
- Có con ơi! Maria Alphê đang ở ngoài lò, đang lấy bánh ra. Bà rất tốt với má. Đặc biệt là bây giờ.
- Thiên Chúa sẽ cho bà vinh quang - Người liền ra cửa và gọi: “Juđa! Mẹ anh đang ở đây. Các bạn ơi, vào đi!”
Họ vào và chào. Nhưng Juđa hôn Maria rồi chạy đi tìm mẹ ông.
Giêsu xướng danh năm người: Phêrô, Andrê, Giacôbê, Natanael, Philíp. Với Gioan thì Maria biết rồi. Ông đã chào mẹ ngay sau Juđa. Ông cúi đầu và nhận phúc lành của mẹ.
Maria chào họ và mời họ ngồi. Đây là bà chủ nhà, và bà săn sóc khách. Nhưng mẹ cũng có với Giêsu của mẹ một sự thờ phượng sâu xa. Linh hồn mẹ hình như cùng với đôi mắt, tiếp tục đàm thoại trong yên lặng với con mẹ. Mẹ muốn mang nước cho họ rửa ráy, nhưng Phêrô can thiệp: “Không, thưa bà, con không thể cho phép bà làm như vậy. Xin bà ở lại bên con bà, người Mẹ Thánh. Con đi, chúng con đi ra vườn để giải nhiệt”.
Đây, Maria Alphê chạy tới, mặt đỏ gay và dính bột. Bà chào Giêsu. Người chúc lành cho bà, rồi bà dẫn sáu người ra vườn, lại chỗ bồn hứng nước, sau đó bà sung sướng trở về: “Ôi! Maria!”, bà nói với Đức Trinh Nữ. “Juđa đã nói với chị, chị bằng lòng chừng nào! Cho Juđa và cho em, em dâu của chị. Chị biết rằng những người khác sẽ la chị, nhưng không quan trọng. Chị sẽ sung sướng ngày nào mà tất cả chúng nó đều thuộc về Giêsu. Chúng ta, các người má, chúng ta biết... Chúng ta cảm thấy cái gì tốt cho con chúng ta. Và bác, bác cảm thấy điều lành cho các con bác là cháu, Giêsu”.
Giêsu vuốt tóc bà và mỉm cười.
Các môn đệ trở lại. Maria Alphê phục vụ họ bánh nóng hổi, oliu, phó mát. Bà cũng mang tới một bình nước nho đỏ mà Giêsu rót cho các bạn Người. Luôn luôn là Giêsu dâng hiến và phân phát.
Lúc đầu có hơi ngượng, nhưng rồi các môn đệ thấy ổn. Họ nói chuyện về nhà cửa của họ, về cuộc hành trình đi Jêrusalem, về các phép lạ Giêsu làm. Họ nhiệt thành và tình cảm. Phêrô thử làm
106
đồng minh với Maria để được phép ở gần Giêsu ngay, không phải chờ ở Bétsaiđa.
- Hãy làm điều gì Người bảo qúi vị - Maria khuyên ông với nụ cười êm đềm. “ Sự chờ đợi này sẽ hữu ích cho qúi vị hơn là sự họp mặt tức thì. Giêsu của tôi làm tốt tất cả những gì Người làm”.
Hy vọng của Phêrô tan biến. Ông đành vui lòng. Ông chỉ hỏi: “Sự chờ đợi có lâu không?”
Giêsu nhìn với nụ cười, nhưng Người không nói gì khác. Maria diễn giải nụ cười này như một dấu nhân hậu: “Simon Jonas, Người mỉm cười... Vậy tôi cũng nói với anh: sự chờ đợi vì vâng lời sẽ mau như đường bay của chim én trên hồ”.
- Cám ơn bà.
- Cháu không nói gì à Juđa?... và con, Gioan?
- Cháu nhìn cô, Maria!
- Con cũng vậy.
- Tôi cũng vậy, tôi nhìn qúi vị... Và qúi vị biết không? Nó trở lại trí khôn tôi một giờ xa xưa. Khi đó cũng vậy, tôi có ba cặp mắt dán vào mặt tôi một cách yêu thương. Chị nhớ không Maria? Ba cậu học trò của em?
- Ôi! Chị nhớ lắm chứ. Đúng vậy. Bây giờ cũng thế: Họ là ba, gần như ngang tuổi. Họ nhìn em với hết tình yêu. Em này, Gioan, chị tin vậy, chị thấy giống như Giêsu hồi đó: tóc vàng, má hồng, đứa nhỏ nhất.
Những người khác muốn biết chuyện, họ liền kể lại các kỷ niệm và các chuyện vui. Thời giờ qua đi và đêm đến.
- Các bạn ơi, Thầy không có phòng giường chiếu đầy đủ, nhưng ở kia có xưởng mộc, nơi Thầy làm việc, các bạn có thể tới, nếu các bạn muốn thấy ở đó một chỗ trú... Nhưng chỉ có ghế dài thôi.
- Cũng là giường thoải mái cho các dân chài quen ngủ trên những tấm ván hẹp. Cám ơn Thầy. Ngủ dưới mái nhà Thầy là vinh dự và thánh hóa.
Họ rút lui sau nhiều lời chào. Juđa cũng rút lui với mẹ ông. Họ
107
về nhà họ.
Bây giờ chỉ còn Giêsu và Maria trong phòng, ngồi trên chiếc rương, dưới ánh sáng ngọn đèn nhỏ, người nọ quàng tay trên vai người kia. Giêsu kể và Maria nghe, say sưa rung động, sung sướng...
Thị kiến chấm dứt như vậy.
21* CHỮA NGƯỜI MÙ TẠI CAPHANAUM
Giêsu nói, và lập tức sự an nghỉ xâm chiếm con. Nó dìm con trong sự sung sướng, và đặt qủa tim con vào trong niềm vui: “Con hãy nhìn. Các đoạn về các người mù rất làm con thích. Cha sẽ cho con một đoạn khác nữa”. Và con thấy:
Một cảnh mặt trời lặn thật đẹp. Mặt trời đốt cháy tất cả phương tây, và hồ Gênêsarét là một cái gương khổng lồ phản chiếu bầu trời được chiếu sáng.
Các đường phố Caphanaum vừa bắt đầu đông người: Phụ nữ ra phông-ten, nam giới, dân chài sửa soạn buồm lưới, mang đồ lên thuyền cho buổi đánh cá đêm; trẻ em chạy chơi trên đường, lừa ngựa chất đầy thúng rổ đi về miền quê, có lẽ để lấy rau cỏ.
Giêsu đi vào một ngõ để tới cái sân nhỏ, được che rợp bởi cây nho và cây sung. Hơi cách đó là con đường sỏi đá dọc bờ hồ. Đây chắc là nhà Phêrô, vì ông đang ở trên bờ với Andrê, sửa soạn các rổ đựng cá và các lưới, xếp đặt các kệ và giây nhợ. Tóm lại là tất cả các đồ để đánh cá. Andrê phụ với ông, đi đi về về giữa nhà và thuyền.
Giêsu hỏi tông đồ của Người: “Buổi đánh cá sẽ tốt không?”
- Thời giờ thuận lợi, nước yên, sắp có trăng sáng. Cá mú sẽ trồi lê khỏi đáy hồ và lưới của con sẽ lôi lấy chúng.
- Chúng ta đi một mình à?
- Ôi! Làm sao Thầy có thể đi một mình với tất cả những bố trí của chài lưới này?
- Thầy chưa bao giờ đi chài, và Thầy chờ con dạy cho Thầy.
Giêsu từ từ đi ra hồ và dừng lại ở bờ đầy cát và sỏi lớn, gần
108
chiếc thuyền.
- Thầy coi, người ta làm như vầy: Con chèo ra bên cạnh thuyền của Giacôbê Zêbêđê, và cùng nhau tới nơi thuận lợi, rồi thả lưới xuống. Chúng con cầm một đầu, chúng con... Thầy có muốn cầm không? Thầy đã nói với con?...
- Có, nếu con bảo Thầy phải làm gì.
- Ôi, chỉ có việc canh chừng cho nó xuống, sao cho lưới xuống từ từ, không bị quắn. Từ từ, vì chúng ta ở chỗ đánh cá, một cử động thình lình là làm cá chạy đi; không được quắn, để nó không gập lưới lại, vì nó phải mở ra như một cái túi, hay nếu thầy thích, thì như một cánh buồm phùng lên bởi gió. Rồi khi đã thả xong, ta từ từ hướng nó, hoặc tiến đi bằng cánh buồm, tùy lúc cần, để làm thành một hình cung trên hồ. Khi các phao an toàn nhúc nhích, chỉ cho ta biết là có nhiều cá rồi thì ta kéo nó vào bờ. Ở đó, hầu như sát bờ, nhưng không qúa sớm kẻo cá thoát ra, không qúa trễ kẻo làm hư cá và lưới trên sỏi đá, ta kéo lưới lên. Chính lúc đó là lúc phải xem chừng, vì các thuyền rất gần nhau. Ta phải cầm đầu lưới sao cho các thuyền khác đi qua mà không đụng vào chúng ta, và không làm hư cá cũng như lưới trên đá sỏi. Với Thầy, con xin Thầy, vì đó là bánh của chúng ta, để mắt vào lưới để nó không mở ra do cá quậy. Các con cá nó bảo vệ tự do của nó bằng những cú vẫy đuôi rất mạnh, và nếu chúng nhiều... Thầy hiểu... đó là những con vật nhỏ, nhưng mười, một trăm, một ngàn con, chúng trở nên mạnh như Lêviathan!
- Đúng như vậy đối với điều lỗi, Phêrô ạ.Thực sự một lỗi thì không phải là bất trị, nhưng nếu sau đó người ta không dừng lại ở cái một này. Nếu người ta tích tụ, tích tụ, tích tụ, thì sau cùng, từ một lỗi nhỏ, có lẽ chỉ là một thiếu sót đơn giản, một sự yếu đuối, nó càng lúc càng trở nên mạnh, biến thành thói quen, và sau cùng là tội trọng. Đôi khi người ta bắt đầu bằng cái nhìn dâm ô, và người ta kết thúc bằng việc gian dâm thực sự. Đôi khi từ một lời thiếu bác ái với một người bà con, sau cùng là hành hung với tha nhân. Hãy dừng lại từ đầu. Canh chừng để lỗi không gia tăng sức nặng của nó
109
do số đông, nó sẽ trở nên nguy hiểm và mạnh mẽ như chính con rắn hỏa ngục, và chúng lôi kéo ta xuống hỏa ngục.
- Thầy nói rất đúng... Nhưng chúng con yếu đuối.
- Hãy lo cầu nguyện để được sức mạnh và sự trợ giúp cho ý chí cương quyết không phạm tội. Rồi hãy hoàn toàn tin tưởng ở sự công minh yêu thương của Cha.
- Thầy nói Người sẽ không qúa nghiêm khắc với tên Simon tội nghiệp chứ ?
- Với tên Simon cũ, Người còn có thể nghiêm khắc, nhưng với Phêrô của Thầy, con người mới, con người thuộc về đấng Kitô của Người... Phêrô của Thầy, Người yêu con và sẽ yêu con.
- Còn con?
- Con cũng vậy, Andrê, và cùng với con, Gioan và Giacôbê, Philíp và Natanael, các con là những kẻ lựa chọn đầu tiên của Thầy.
- Sẽ có những người khác tới? Có anh họ của Thầy, và ở Juđê...
- Ồ, rất nhiều. Nước Thầy mở ra cho cả nhân loại. Thực vậy, Thầy bảo con rằng mẻ lưới của Thầy sẽ dồi dào hơn các mẻ lưới dồi dào nhất của con trong đêm của các thế kỷ... Mỗi thế kỷ như một đêm, mà ánh sáng soi dẫn không phải là ánh sáng trong của sao bắc đẩu, cũng không phải ánh trăng hướng dẫn các thủy thủ của Thầy, nhưng là Lời của Đấng Kitô và Ân Sủng từ Người phát ra. Đêm này sẽ có một bình minh của một ngày không còn hoàng hôn, của một Ánh Sáng mà mọi tín hữu sẽ sống ở trong, của một mặt trời sẽ mặc mới lại cho các kẻ được chọn, và làm cho họ nên đẹp đẽ, vĩnh cửu, sung sướng như các thần linh, các thần linh ở bên dưới Chúa Cha mà họ là con cái, và họ giông giống như Thầy. Bây giờ các con không thể hiểu, nhưng thật vậy, thầy bảo các con rằng đời sống Kitô hữu của các con sẽ cho các con sự giông giống như Thầy của các con, và đó cũng là dấu hiệu làm cho các con sáng chói trên trời. Vậy mặc dầu sự thù hằn của Satan và sự yếu đuối của con người, Thầy cũng sẽ có những mẻ cá dồi dào hơn của con.
- Nhưng chỉ có chúng con là Tông Đồ của Thầy thôi chứ ?
- Con ghen à Phêrô? Đừng ghen. Sẽ có những người khác nữa.
110
Và con tim Thầy có tình yêu cho hết mọi người. Đừng hà tiện, Phêrô, con chưa biết thế nào là đấng yêu con. Con có bao giờ đếm sao, và đếm các hòn sỏi trải thảm dưới đáy hồ không? Không, con không thể. Vậy con càng không thể đếm những nhịp đập tình yêu mà trái tim Thầy có. Có bao giờ con đếm số lần mà biển hôn bãi bằng những làn sóng của nó trong khoảng thời gian mười hai tuần trăng không? Không, con không thể. Vậy con càng không thể đếm những làn sóng tình yêu trào ra từ trái tim này để tặng những cái hôn cho loài người. Phêrô, hãy vững tâm về tình yêu của Thầy.
Phêrô cầm bàn tay của Giêsu và hôn. Ông rất cảm động. Andrê nhìn và không dám, nhưng Giêsu đặt tay trên đầu tóc ông và nói: “Con cũng vậy, Thầy rất yêu con. Vào lúc bình minh của con, con sẽ thấy trên vòm trời, con sẽ thấy mà không cần ngước mắt lên, Giêsu của con mỉm cười với con và nói: ‘Hãy đến, Thầy yêu con’, và việc đi vào trong bình minh của con sẽ êm đềm hơn đi vào nơi động phòng...”
- Simon! Simon! Andrê! Tôi tới đây... - Gioan chạy lại, thở dốc. “Ôi Thầy! Con đã làm Thầy phải chờ?” Gioan nhìn Giêsu bằng con mắt say mê.
Phêrô trả lời: “Thực sự tôi đã bắt đầu nghĩ rằng cậu không tới nữa. Chuẩn bị thuyền bè của cậu mau đi! Còn Giacôbê?”
- Đây, chúng tôi chậm là tại một người mù. Ông ta nghĩ rằng Giêsu ở trong nhà chúng ta nên ông ta tới. Chúng tôi bảo ông: “Người ở chỗ khác, có lẽ ngày mai Người sẽ chữa cho anh. Hãy chờ”. Nhưng ông ta không muốn chờ. Giacôbê bảo ông: “Anh đã chờ ánh sáng biết bao lâu, chờ thêm một đêm nữa có là gì?” nhưng ông ta không nghe lý lẽ gì hết.
- Gioan, nếu con mù, con có vội vã để nhìn lại má con không?
- Ê! Chắc chắn rồi.
- Vậy thì?... Người mù đâu?
- Ông ta đang tới với Giacôbê. Ông ta bám chặt lấy áo khoác
của anh ấy và không chịu buông ra, nhưng ông ta đi chậm, vì bờ đầy sỏi đá và ông ta trượt... Thầy có tha cho con vì đã khắt khe
111
không?
- Có, nhưng để đền tội, hãy đi giúp người mù và dẫn ông ta lại đây cho Thầy.
Gioan chạy đi.
Phêrô hơi lắc đầu nhưng ông không nói gì. Ông nhìn trời đã trở thành trong sau khi đã tối mù; ông nhìn cái hồ, nhìn những thuyền khác đã ra khơi thả lưới, và ông thở dài.
- Simon!
- Thầy!
- Đừng sợ, con sẽ có mẻ cá dồi dào, dù là con ra khơi sau cùng.
- Kể cả lần này?
- Hết mọi lần mà con có lòng bác ái, Thiên Chúa sẽ làm lợi cho con bằng mẻ cá dồi dào.
- Kìa, người mù.
Kẻ tội nghiệp tiến bước giữa Giacôbê và Gioan. Ông cầm gậy trong tay, nhưng lúc này ông không dùng, ông thấy tốt hơn là tin cẩn vào hai người hướng dẫn.
- Ông ơi, Thầy đây, Người đang ở trước mặt ông.
Người mù liền qùi gối: “Lạy Chúa, xin thương!”
- Đứng dậy đi. Con muốn thấy à? Con bị mù từ bao giờ?
Cả bốn tông đồ đều quây quần lại.
- Lạy Chúa, từ bảy năm. Trước con thấy tỏ và con làm việc. Con là thợ ở Cêsarê Maritime. Con kiếm khá. Hải cảng, nhiều lái buôn luôn luôn cần tới con cho việc của họ. Nhưng khi đập thanh sắt của một cái neo - Chúa có thể nghĩ rằng nó đỏ lòm để có thể uốn - một mảnh sắt đỏ bắn vào mắt con làm cháy một mắt. Con hư mắt bị trúng này, còn mắt kia đã bị bệnh vì sức nóng của lò rèn, nên sau ba tháng nó cũng mù luôn. Con đã tiêu hết số tiền dành dụm, bây giờ con sống bằng tình bác ái.
- Con độc thân à?
- Con có vợ và ba con còn nhỏ. Đứa sau cùng con không thấy mặt... Con có một mẹ già. Bây giờ chính bà với vợ con kiếm được chút bánh, và của bố thí con mang về thêm vào đó, chúng con không chết đói. Nếu Thầy chữa con!... Con lại bắt đầu làm việc,
112
con chỉ xin được làm việc, như một người Israel tốt, để cấp bánh cho những người con yêu.
- Và con đến tìm Thầy. Ai đã bảo con đến?
- Một người cùi Thầy đã chữa ở chân núi Tabor khi Thầy từ hồ về, sau một bài thuyết trình qúa hay.
- Ông ta bảo con sao?
- Rằng Thầy có thể tất cả, rằng Thầy là sự rỗi cho thân xác và linh hồn, rằng Thầy là Ánh Sáng cho linh hồn và thân xác, vì Thầy là Ánh Sáng của Thiên Chúa. Ông ta, người cùi, đã dám trà trộn với đám đông, liều mình bị ném đá, trùm kín bằng áo khoác, vì ông đã thấy Thầy đi qua khi Thầy đi về miền núi, và dung nhan Thầy đã đặt hy vọng vào tim ông. Ông ta bảo con: “Tôi thấy trên khuôn mặt này cái gì bảo đảm cho tôi rằng: ‘chính Người là phần rỗi’. Đi đi!”. Và con đi. Ông ta cũng nhắc lại bài thuyết trình của Thầy cho con và nói Thầy đã chữa ông bằng cách không ghê tởm đụng tay vào ông. Sau khi thanh tẩy nơi các thầy cả, ông trở về nhà. Con biết ông vì ông có một cửa hàng ở Cêsarê. Con đi hỏi thăm về Thầy trong các thành phố và các thôn xóm. Con đã tìm thấy Thầy... Xin Thầy thương con!
- Hãy tới, ánh sáng còn qúa mạnh đối với người ra khỏi bóng tối.
- Vậy Thầy chữa con ?
Giêsu dắt ông vào nhà Phêrô, trong ánh sáng êm nhẹ của khu vườn nhỏ. Người để ông trước mặt Người, nhưng với cách để cho mắt, một khi được khỏi, không nhìn thấy cái hồ trước tiên, vì nó còn sáng choang. Người đàn ông giống như đứa trẻ ngoan, ông để cho Người làm, không hỏi gì cả.
- Cha ơi! Ánh sáng của Cha cho kẻ này là con Cha - người đó đã qùi và Giêsu đặt tay trên đầu ông. Người giữ như vậy một lát, rồi Người thấm nước bọt vào đầu ngón tay Người và cà nhẹ vào con mắt mở mà không thấy.
Một lát qua đi, rồi người đó chợp mắt, ông day mắt như người ngủ dậy mà mắt bị mờ như có sương mù trước mặt.
- Con thấy gì ?
- Ôi! Ôi! Ôi! Thiên Chúa hằng sống! Con thấy như... giống như...
113
Ôi! con thấy y phục của Thầy... nó đỏ phải không? Và một bàn tay trắng... Và một sợi giây lưng bằng len... Ôi! Giêsu nhân từ! Con thấy càng lúc càng rõ, theo đà mắt con làm quen... Đây là cỏ của đất... Và kia chắc là cái giếng, và đó là một cây nho...
- Đứng dậy đi bạn.
Người đó đứng dậy, vừa khóc vừa cười. Sau một lúc lưỡng lự giữa sự kính trọng và sự ước ao, ông ngước mắt lên và gặp cái nhìn của Giêsu, thấy Giêsu mỉm cười với một tình thương đầy âu yếm. Đó hẳn là một sự kỳ diệu khôn tả khi lấy lại được nhãn quan và được thấy dung nhan này như một mặt trời đầu tiên. Người đó liền kêu lên và giơ tay ra. Đó là một cử động bản năng, nhưng ông dừng lại.
Nhưng rồi chính Giêsu giơ tay Người ra và kéo người đàn ông nhỏ thó lại với Người: “Bây giờ hãy về nhà con, hãy sung sướng và công chính. Hãy đi với sự bình an của Thầy”.
- Lạy Thầy! Thầy! Chúa! Giêsu! Đấng Thánh! Chúc tụng! Ánh Sáng!... Tôi đã thấy Người... Tôi thấy tất cả... Đây là cái hồ xanh biếc và bầu trời trong sáng, mặt trời đang lặn và mặt trăng ở phần tư đầu tiên... Nhưng mầu xanh đẹp nhất, trong sáng nhất, con thấy trong mắt Thầy. Trong Thầy, con thấy vẻ đẹp của mặt trời thực sự nhất, và sự trong sáng huy hoàng của mặt trăng thánh thiện nhất: Tinh tú của những kẻ đau khổ, Ánh Sáng của người mù, Tình Thương sống động thực tiễn!...
- Thầy là Ánh Sáng của tâm hồn. Hãy là con cái của Ánh Sáng.
- Lạy Giêsu, luôn luôn! Ở mỗi cái chớp của mu mắt trên con ngươi được trả lại sự sống, con sẽ lặp lại lời thề này. Xin chúc tụng Thầy và Đấng Tối Cao!
- Chúc tụng Đấng Tối Cao, Chúa Cha. Hãy đi!
Người đó ra đi, sung sướng và bình an, trong khi Giêsu cùng với các tông đồ đang kinh ngạc, đi xuống hai chiếc thuyền và bắt đầu
114
khởi hành.
Thị kiến chấm dứt.
Ngày 11-10: Hôm kia và hôm qua là yên lặng và đêm tối, nhưng không thất vọng. Qủa vậy, nếu lòng nhân từ của Thiên Chúa đã tránh cho thân xác con sự kiệt quệ và suy sụp vì những đau đớn mà việc viết lách làm cho nó, thì Người cũng đã củng cố cho tâm hồn con bằng sự hiện diện vô hình của Người, hoàn toàn cho con, trắng tinh và mỉm cười. Và tất cả sự trong sáng của đôi mắt thánh này đều đổ vào tâm hồn con. Ôi! kho báu mà thế giới không biết của con! Dù với cả cái thế giới gần kề con nhất: ngay với những người sống với con, họ chỉ thấy con lo cầu nguyện hoặc làm đăng-ten, ăn một trái cây hay nói một điều thông thường, họ không biết rằng “phần tốt nhất” của con người con chỉ có thờ lạy Thiên Chúa mà con thấy, nghe và nói với Người. Đôi khi con mỉm cười khi nghĩ rằng những người ở với con không biết Ai ở với con. Cũng vậy, con thấy khổ vì ở trước Đấng Thánh, Vô Hình, Trong Sạch, Đáng Thờ Lạy, mà người ta nói chuyện với nhau về những điều không thánh, không trong sạch, không bác ái. Người ta không thể biết, và con không thể nói... Nhưng con thấy buồn khổ chừng nào, và con phải khôn khéo chừng nào để thi hành việc sửa chữa bằng những hành vi của Tình Yêu, của Đức Tin, Đức Cậy, Đức Trong Sạch, để bù vào những buồn rầu mà Giêsu của con phải chịu vì những câu chuyện này. Nỗi buồn này hẳn là lớn lao, vì với con là con sâu tội nghiệp, mà nó đã gây ra từng ấy đau khổ. Đó là do Giêsu của con đã thông cho con một chút về sự Người đã cảm thấy và nghĩ tới.
Sáng nay con lại cảm thấy nỗi vui sống động này trong con. Đó luôn luôn là khúc dạo đầu cho các lời Người. Con giải thích như con có thể: Con có một niềm vui linh hoạt khi, giống như hôm qua và hôm kia, con thưởng thức sự hiện diện của Người, dù nó không gọi con phục vụ. Con có một niềm vui linh hoạt khi một cảm tưởng không tả được nói với con: “Hỡi tớ nữ của Giêsu, Người gọi con, hãy phục vụ Người”. Lúc đó con được chuyển từ sự trong sáng qua niềm vui của tâm hồn, từ sự bình an qua một nhẹ nhõm nó nâng con lên. Dù con không thể di chuyển, nhưng con tin là con đi từ trên xuống dưới của căn nhà, hay hơn nữa, đi ra ngoài, vì sự quá đầy tràn của niềm vui và sức mạnh thấm nhập vào con. Lúc đó con chỉ có thể giải phóng cho mình bằng cách hát... Rồi một nỗi say sưa êm đềm thấm vào trong con, nó biến đổi khuôn mặt của con. Sự say sưa làm con tan ra thành một sự êm ái không thuộc về trái đất. Rồi con bước qua công việc thực sự, được nói rõ ràng là viết chính tả hay mô tả những điều hiện diện ra cho con. Nếu đó là bài chính tả có liên can tới một đoạn Thánh Kinh, Giêsu bắt đầu bằng cách bảo con mở sách vào chỗ Người muốn giải thích; nếu đó là bài chính tả không liên can đặc biệt thì Người không bảo con cầm Kinh Thánh hay sách Thánh nào khác. Nếu đó là một thị kiến xuất hiện, như con đã nói, với một hình ảnh khởi đầu, mà thường là hình ảnh của một điểm cao độ nhất trong thị kiến, rồi sau đó nó diễn ra thứ tự. Khi nó vừa xuất hiện, con liền cảm thấy niềm vui sống động hơn nữa. Khi thị kiến khai triển theo thứ tự thì con bắt đầu từ đầu. Khi nó xuất hiện để bắt đầu từ chỗ cao điểm thì con diễn tả điểm này, rồi khi nó hiện diện điều lúc trước thì con viết, rồi tới các điều tiếp theo (giống như thị kiến về rabbi Gamaliel hồi tháng tám, trong mười ngày đầu của tháng, con nhớ vậy).
Giêsu bảo con nhắc lại một lần nữa để đem ra ánh sáng những gì, và để lại trong bóng
115
đêm những gì về trường hợp của con. Và bây giờ Người bảo con mở sách Thánh, vậy hôm nay là một bài chính tả.
22* NGƯỜI BỊ QỦI ÁM ĐƯỢC CHỮA
TRONG GIÁO ĐƯỜNG CAPHANAUM
Tôi thấy giáo đường Caphanaum đã đầy người đang chờ. Người ta ở cửa để canh chừng cái công viên nhỏ còn đầy mặt trời, dù trời sắp về chiều. Sau cùng có tiếng kêu: “Đó, vị rabbi tới”. Mọi người đều quay ra cửa. Các người thấp đứng kiễng chân lên hay tìm cách lên đàng trước. Có vài cãi lẫy, xô đẩy, dù các người của giáo đường và các kỳ hào trong thành phố khiển trách.
- Bình an cho tất cả những ai tìm chân lý - Giêsu tới ngưỡng cửa, chào và chúc lành, tay giơ ra phía trước. Ánh sáng mạnh từ công viên đầy mặt trời chiếu vào, làm tăng vẻ đẹp của khổ người cao như được phủ hào quang của Người. Người đã cởi áo trắng và mặc áo thường mầu xanh dương đậm. Người tiến qua đám đông, họ mở ra cho Người đi qua rồi khép lại ngay chung quanh Người, giống như nước ở chung quanh một chiếc tàu.
- Con bệnh, xin thầy chữa con - một thanh niên rên rỉ, tôi thấy như anh ta bị lao, theo diện mạo của anh. Anh ta cầm vạt áo của Giêsu.
Giêsu đặt tay trên đầu anh và nói: “Hãy tin cẩn, Thiên Chúa sẽ nghe con. Bây giờ hãy buông ra để Thầy nói với dân, rồi sau đó Thầy sẽ đến với con”.
Người thanh niên buông Người và ở yên.
- Người bảo anh sao? - một người đàn bà ẵm một đứa nhỏ trong tay hỏi.
- Người bảo tôi rằng sau khi nói với dân, Người sẽ đến với tôi.
- Vậy Người sẽ chữa anh?
- Tôi không biết. Người bảo tôi: “Hãy tin cẩn”. Tôi, tôi hy vọng.
- Người bảo anh sao?
- Người bảo anh sao?
116
Đám đông muốn biết. Câu trả lời của Giêsu lan ra trong dân.
- Vậy tôi đi mang con nhỏ của tôi tới.
- Còn tôi, tôi dắt cha già của tôi tới đây.
- Ôi! Nếu Aggée muốn tới!... Tôi thử... Nhưng ông ta sẽ không tới.
Giêsu đã tới chỗ của Người. Người chào ông trưởng giáo đường. Ông ta cũng chào Người cùng với các bộ hạ của ông. Đó là một người đàn ông nhỏ thó, mập, cổ lỗ. Giêsu phải cúi xuống để nói với ông. Người ta thấy như một cây thốt nốt cúi xuống trên một cây nhỏ rộng hơn là cao.
- Thầy muốn tôi đưa gì cho Thầy? - ông trưởng giáo đường hỏi Người.
- Cái gì ông muốn, hoặc lấy tình cờ. Thánh Thần sẽ hướng dẫn ông.
- Nhưng... Thầy có được sửa soạn?
- Được, hãy lấy tình cờ. Tôi nhắc lại: Thánh Thần sẽ hướng dẫn sự lựa chọn, vì lợi ích của dân này.
Ông trưởng giáo đường giơ tay lên đống các ru-lô và cầm lấy một cuốn, mở ra, tìm chỗ ông chọn và nói: “Đây”.
Giêsu cầm lấy ru-lô, đọc nơi được chỉ: “Josuê, hãy đứng dậy, thánh hóa dân và nói với họ: ngày mai, các ngươi sẽ thánh hóa, vì đây là điều Thiên Chúa Israel nói: ‘Ôi! Hỡi Israel, sự nguyền rủa sẽ ở giữa ngươi. Ngươi sẽ không thể đương đầu với kẻ thù của ngươi cho tới khi ngươi lấy ra khỏi ngươi sự ô uế do một sai phạm như vậy’”. Người dừng lại, cuộn ru-lô và trả nó lại.
Đám đông rất chăm chú, chỉ có một người xì xèo: “Chúng ta sẽ nghe những điều thật đẹp chống lại kẻ thù”.
- Chính Vua Israel, đấng đã được hứa, đang tụ họp dân Người.
Giêsu giơ tay theo thói quen của Người trong lúc hùng biện. Có sự yên lặng hoàn toàn.
- Đấng đến để thánh hóa qúi vị đã đứng lên, Người đã ra khỏi sự kín đáo của nhà Người, nơi Người chuẩn bị cho sứ mạng này. Người đã thanh tẩy để làm gương cho qúi vị về sự thanh tẩy. Người đã giữ
117
vị trí trước mặt các kẻ mạnh của Đền Thờ và trước mặt dân. Bây giờ Người ở giữa qúi vị: Chính là Thầy. Không phải như một số người trong qúi vị nghĩ và hy vọng, vì họ có tâm hồn tối tăm và con tim xao xuyến. Nước mà Thầy là Vua và Thầy kêu gọi qúi vị tới thì rất lớn lao và cao sang hơn.
Ôi hỡi Israel! Thầy kêu gọi qúi vị trước mọi dân khác, vì qúi vị là những người có được lời hứa nơi cha ông của cha ông qúi vị, về giờ này của giao ước với Thiên Chúa Tối Cao. Nhưng không phải với những đám đông võ trang, cũng không phải bởi những sự đổ máu dã man mà nước này được thành lập. Không phải những kẻ hung bạo, thống trị, những kẻ kiêu căng, giận dữ, ghen ghét, dâm đãng, tham lam, sẽ được vào đó, nhưng là những người tốt, hiền lành, trong sạch, có tình thương, khiêm nhường, những kẻ yêu Thiên Chúa và đồng loại, những kẻ kiên trì.
Hỡi Israel! Qúi vị được kêu gọi để chiến đấu, không phải với kẻ thù ở bên ngoài, nhưng là với kẻ nội thù, nó ở bên trong, nó ở trong tim qúi vị, ở trong hàng chục và hàng chục ngàn con cái Israel. Hãy lấy đi sự nguyền rủa của tội lỗi, nếu quí vị muốn mai ngày Chúa sẽ tụ họp qúi vị để nói: “Hỡi dân Ta, Nước của Ta thuộc về các con, nước sẽ không bao giờ bị thất bại, bị xâm lăng, bị tấn công bởi kẻ thù nữa”.
Ngày mai? Ngày mai là ngày nào? Trong một năm hay một tháng? Ôi! Đừng tìm với ước muốn không trong sáng, để biết tương lai bằng những phương tiện đắc tội của phù thủy. Hãy để cho dân ngoại cái tinh thần qủi thuật của họ, hãy để cho Thiên Chúa cái bí mật về thời gian của Người. Các con, ngay từ ngày mai, cái ngày mai sẽ đến ngay sau giờ của buổi chiều này, hay sẽ đến từ lúc còn đêm, hay lúc gà gáy, hãy đến thanh tẩy trong sự sám hối đích thực.
Hãy thống hối vì tội lỗi của các con để sẵn sàng cho Vương Quốc. Hãy lấy ra khỏi mình sự nguyền rủa của tội. Mỗi người có tội của mình. Mỗi người có điều phản với mười giới răn cứu rỗi đời đời. Hãy tự xét mình cách chân thành và các con sẽ tìm ra điều các con sai lầm. Hãy thống hối chân thành và khiêm nhường. Hãy sám
118
hối, không phải bằng lời nói. Người ta không chế nhạo, cũng không đánh lừa Thiên Chúa được. Hãy thống hối với ý chí muốn cải thiện, thay đổi lối sống, trở về với lề luật của Thiên Chúa. Nước Trời đang chờ Qúi vị. Ngày mai.
Các con có hỏi ngày mai nào không? Ôi! Giờ của Thiên Chúa, luôn luôn là cái ngày mai vắn vỏi, dù khi người ta đã sống một đời dài như các tổ phụ. Để đo thời gian, Vĩnh Cửu không có cái từ từ của chiếc đồng hồ cát. Những cách đo thời gian mà các con gọi là ngày, tháng, năm, thế kỷ, chỉ là khoảng thời gian như cái mấp máy của Thánh Linh đời đời để giữ các con trong đời sống. Nhưng các con vĩnh cửu trong tâm hồn các con. Và bằng tâm hồn, các con phải giữ cùng một cách đo thời gian như Đấng Tạo Hóa của các con. Vậy hãy nói: “Ngày mai sẽ là ngày chết của tôi”. Hơn nữa, không phải là chết đối với kẻ trung thành, nhưng là sự nghỉ ngơi trong chờ đợi, trong chờ đợi Đấng Messi mở cửa Nước Trời.
Thực vậy, Thầy bảo các con rằng trong số các con hiện diện ở đây, chỉ có hai mươi bảy người phải chờ đợi sau khi chết, những người khác sẽ được xét xử ngay từ trước khi chết, và cái chết chỉ là sự di chuyển về với Thiên Chúa hay ma qủi, không kỳ hạn, vì Đấng Messi đã đến, Người ở giữa các con và Người gọi các con để cho các con Tin Mừng, để dạy dỗ các con về chân lý, để bảo đảm cho các con về phần rỗi và Nước Trời.
Hãy sám hối, cái “Ngày Mai” của Nước Trời nó khẩn cấp. Chớ gì nó gặp thấy các con trong sạch để trở nên kẻ chiếm hữu ngày bất tận.
Bình an cho các con.
Một người liền đứng lên phản đối. Đó là một người Israel râu xồm xoàm, ăn mặc lộng lẫy. Ông nói: “Thưa Thầy, tôi thấy như điều Thầy nói nó ngược với điều trong sách Maccabê, vinh quanh của Israel, nói. Sách viết : ‘Đúng là một dấu hiệu đại từ bi khi không để mặc cho kẻ tội lỗi lâu năm không sám hối và không từ bỏ thói hư của họ, nhưng phạt họ ngay. Chúa không làm với chúng ta như với các dân khác. Với họ, Người kiên nhẫn chờ, chỉ phạt họ
119
vào ngày phán xét, khi tội lỗi họ đã đầy tràn’. Còn Thầy, trái lại, Thầy nói có vẻ như Đấng Tối Cao có thể rất chậm chạp để phạt chúng ta, Người chờ chúng ta như với các dân khác, cho tới ngày phán xét. Các sự kiện thực tiễn đã đính chính lời Thầy, vì Israel đã bị phạt như sách Maccabê nói. Nhưng nếu như Thầy nói thì chẳng có sự trái ngược giữa giáo thuyết của Thầy và giáo thuyết gói ghém trong câu mà tôi vừa trích dẫn sao?”
- Ông là ai, tôi không biết, nhưng dù ông là ai, tôi cũng trả lời ông: không có sự trái ngược trong giáo lý, nhưng trong việc giải thích các lời. Lối giải thích của ông là theo loài người, lối của tôi là theo Thánh Linh. Ông là đại diện cho phần đông loài người. Ông thấy tất cả trong sự tham chiếu với hiện tại và về những gì mau qua. Tôi là đại diện của Thiên Chúa, tôi giải thích tất cả và áp dụng nó vào siêu nhiên, vào vĩnh cửu. Phải, Jêova đã phạt qúi vị trong hiện tại, trong sự kiêu căng của qúi vị, và trong thành kiến của qúi vị vì là “Một Dân” theo các tư tưởng của trái đất. Nhưng Người đã yêu qúi vị biết bao, đã kiên nhẫn với qúi vị hơn với bất cứ dân nào khác, bằng cách ban cho qúi vị Đấng Cứu Tinh, Đấng Messi của Người, để qúi vị nghe Người mà cứu lấy mình trước giờ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đến. Người không muốn qúi vị tội lỗi nữa. Nhưng nếu Người đã phạt qúi vị ở đời chóng qua này, mà thấy qúi vị không chừa tội, trái lại, tâm hồn qúi vị cứ lu mờ thêm, thì đây, Người gởi đến cho qúi vị, không phải là hình phạt, mà là phần rỗi: Người sai đến cho qúi vị đấng chữa cho qúi vị và cứu qúi vị, đó là Tôi, người đang nói với qúi vị.
- Ông không thấy là ông qúa táo bạo khi đặt mình làm đại diện cho Thiên Chúa sao? Không một tiên tri nào táo bạo như vậy. Và ông... Ông là ai, ông nói theo lệnh của ai?
- Các tiên tri không thể nói về họ điều mà tôi nói về tôi. Tôi là ai? Đấng được trông chờ, đấng đã được hứa ban, Đấng Cứu Thế. Qúi vị đã nghe kẻ đi trước tôi nói: “Hãy dọn đường cho Chúa... Đây, Thiên Chúa đến... Như người mục tử, Người chăn dắt đoàn chiên, trong khi Người vẫn là con chiên Vượt Qua thực sự !” Trong
120
số qúi vị đây, có nhiều người đã nghe những lời này từ miệng vị Tiền Hô, và họ đã thấy trời rực sáng bởi một ánh sáng xuống dưới hình chim bồ câu, họ đã nghe một tiếng nói đã nói lên Tôi là ai. Tôi nói theo lệnh ai? Theo lệnh Đấng Tự Hữu, đấng đã sai tôi.
- Ông có thể nói như vậy, nhưng ông cũng có thể là kẻ nói dối hay có ảo tưởng. Các lời của ông thánh, nhưng Satan cũng có những lời dối trá lừa đảo nhuộm mầu thánh, để lôi kéo người ta vào sai lầm. Chúng tôi, chúng tôi không biết ông.
- Tôi là Giêsu, con của Giuse, thuộc dòng tộc Đavít, sinh ở Betlem Ephrata theo như lời hứa, được gọi là người Nazarét, vì tôi có nhà ở Nazarét. Đó là theo nhãn quan thế giới. Theo Thiên Chúa, tôi là Đấng Messi. Các môn đệ của tôi biết điều đó.
- Ôi, họ thì họ nói điều họ muốn, và họ nói điều ông bảo họ nói.
- Có một người khác cũng nói. Người này không yêu tôi. Hắn ta sẽ nói tôi là ai. Hãy chờ để tôi gọi một trong số những người hiện diện ở đây.
Giêsu nhìn đám đông đang ngạc nhiên và bàn cãi, bị kích động và chia thành hai luồng tư tưởng đối nghịch nhau. Người nhìn để tìm một người nào đó với đôi mắt lam ngọc của Người. Rồi người gọi lớn tiếng: “Aggée! Hãy lại đây! Tôi truyền cho ông”.
Đám đông trở nên rất ồn ào. Họ mở lối để cho đi qua một người bị lay lắc vì run rẩy, được một người đàn bà nâng đỡ.
- Ông biết người này không?
- Có, đó là Aggée con Malachie, người ở đây, tại Caphanaum. Ông bị một thần qủi quái ám, nó đưa ông ta vào những cơn giận dữ điên cuồng và thình lình.
- Mọi người có biết ông ta không?
Đám đông kêu: “Có, có”.
- Có ai có thể nói được rằng ông ta đã nói với Thầy, dù chỉ vài phút không?
Đám đông kêu: “Không, không. Ông ta như đần độn và không bao giờ ra khỏi nhà, và không ai thấy Thầy đã ở đó”.
- Bà ơi, dắt ông ta lại cho Thầy.
Người đàn bà vừa đẩy vừa kéo ông, trong khi kẻ khốn nạn run
121
giật mạnh hơn. Ông trưởng giáo đường cảnh giác Giêsu: “Cẩn thận, ma qủi sắp vật vã nó... Và khi đó là nó bị khích động, nó cào, nó cắn”. Đám đông tránh ra, ép sát vào các bức tường. Bây giờ hai người ở trước mặt nhau.
Ông ta chống chọi một lúc, có vẻ như ông thường quen câm lặng, nên ông ngập ngừng, rên rỉ vì phải nói. Rồi với một giọng rõ ràng: “Giêsu Nazarét! Có chuyện gì giữa chúng ta mà tại sao ông đến để hành hạ chúng tôi và tiêu diệt chúng tôi? Ông, ông là Chúa của Trời và đất, tôi biết ông là ai: Là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Trong xác thịt, không ai cao trọng hơn ông, vì trong thân xác loài người của ông, ông có chứa Thánh Linh, Đấng Chiến Thắng muôn đời. Ông đã thắng tôi trong...”
- Nín đi! Và hãy ra khỏi người này. Ta truyền cho mi!
Người đàn ông co giật cách kỳ lạ, ông giật từng phát một, tựa như có ai ngược đãi ông bằng cách đẩy và lắc ông. Ông rống lên một tiếng không phải tiếng của loài người, rồi nằm xoài trên đất. Sau đó ông bò dậy, ngạc nhiên và được khỏi.
- Ông có nghe không? Bây giờ ông trả lời thế nào? - Giêsu hỏi đối thủ của Người.
Người đàn ông râu ria ăn mặc sang trọng nhún vai, bị thua, bỏ đi không trả lời. Đám đông chế diễu ông ta và hoan hô Giêsu.
- Yên lặng! Đây là nơi thánh - Giêsu nói, và Người ra lệnh: “Hãy dẫn người thanh niên đến cho Thầy, người mà Thầy đã hứa sự trợ giúp của Thiên Chúa”.
Bệnh nhân trình diện. Giêsu vuốt ve anh ta: “Con có đức tin. Hãy được khỏi. Hãy đi bình an và sống công chính”.
Người thanh niên thét lên một tiếng. Nào ai biết anh ta cảm thấy gì? Rồi anh ta qùi phục dưới chân Giêsu, hôn chân Người và cám ơn: “Cám ơn Thầy cho con và cho mẹ con”.
Các bệnh nhân khác tới: Một đứa trẻ hai chân bị liệt. Giêsu ẵm nó trong tay, vuốt ve nó rồi để nó xuống đất... và buông nó ra. Thằng bé không ngã, trái lại, nó chạy lại với mẹ nó, bà ôm nó vào lòng và khóc trong khi chúc tụng “Đấng Thánh của Israel”. Rồi
122
một người già nhỏ thó bị mù tiến lên, do một cô con gái dắt. Ông ta cũng được khỏi bằng một cái vuốt nhẹ trên các con mắt bệnh.
Còn đám đông thì là một cơn chúc tụng say sưa. Giêsu mỉm cười và rẽ đường để ra. Mặc dù người cao lớn, nhưng Người cũng không ra khỏi đám đông được nếu Phêrô, Giacôbê, Andrê và Gioan không làm việc mạnh mẽ với khửu tay, để mở một lối đi từ chỗ họ tới chỗ Giêsu, và bảo vệ Người cho tới cửa ra để tới cái công viên nhỏ mà mặt trời đã biến mất.
Thị kiến chấm dứt như vậy.
23* CHỮA MẸ VỢ CỦA SIMON PHÊRÔ
Phêrô nói chuyện với Chúa Giêsu. Ông nói: “Thưa Thầy, con muốn xin thầy tới nhà con. Hôm Sabát vừa qua con không dám nói với Thầy, nhưng... con muốn Thầy tới”.
- Ở Bétsaiđa?
- Không, ở đây... trong nhà vợ con. Con muốn nói là căn nhà sinh trưởng của bà.
- Tại sao có ước muốn này, Phêrô?
- Ê... Vì nhiều lý do. Hơn nữa, hôm nay người ta bảo con là mẹ vợ con bị bệnh. Nếu Thầy muốn chữa bà, có lẽ Thầy...
- Nói hết câu đi Simon!
- Con muốn nói: nếu Thầy tới gần bà ta, sau cùng bà ta sẽ... Phải, tóm lại, Thầy biết. Nghe người ta nói về một người thì khác, nhưng nghe và thấy chính người đó là chuyện khác. Và nếu người này lại chữa bà, khi đó...
- Con muốn nói là khi đó thù ghét sẽ tan?
- Không, không phải thù ghét, nhưng Thầy biết: xứ này phân chia làm nhiều ý kiến khác nhau. Và bà... Bà không biết ai có lý. Tới đi Giêsu!
- Thầy tới. Chúng ta đi. Hãy báo cho những người chờ rằng chiều nay Thầy sẽ nói tại nhà con.
123
Họ đi tới một căn nhà thấp, còn thấp hơn nhà của Phêrô ở Bétsaiđa, và còn ở gần hồ hơn. Nó cách hồ bằng một bãi sỏi, và tôi tin là lúc biển động thì các sóng đập tới chân tường của căn nhà. Căn nhà thấp nhưng rất rộng, tựa như để cho nhiều người ở.
Trong vườn ở trước nhà, về phía hồ, chỉ có một cây nho già nhiều mấu, bao phủ cho một cái dàn thô sơ, và một cây sung mà gió hồ đã làm cho nghiêng hẳn về phía nhà. Cành lá lộn xộn của cây cà vào tường và đập vào khung cửa sổ đang đóng để cản mặt trời gay gắt đập xuống căn nhà. Chỉ có cây nho và cây sung này thôi, với một cái giếng có thành xây thấp, phủ rêu xanh.
- Mời Thầy vào.
Các phụ nữ đang bận trong bếp, người thì vá lưới, người thì nấu ăn. Các bà chào Phêrô rồi bối rối cúi đầu trước Giêsu, tò mò nhìn mặt Người.
- Bình an cho nhà này. Bệnh nhân thế nào?
- Chị nói đi. Chị là dâu cả - ba người đàn bà nói với một bà khác đang lau tay vào vạt áo.
- Bà bị sốt. Sốt rất nặng. Chúng con đã mời thầy thuốc, nhưng ông nói bà già rồi nên khó khỏi. Và khi bệnh chạy từ xương vào tim thì nó làm cho bà sốt, nhất là ở tuổi này thì người ta chết. Bà không ăn nữa... Con tìm cách nấu cho bà một món rất ngon, kể cả lúc này, anh thấy không Simon? Tôi nấu thứ cháo này bà thường rất thích. Tôi đã lựa thứ cá tốt nhất trong số cá của các em rể anh, nhưng tôi không tin là bà có thể ăn. Lại nữa... Bà vật vã, bà than van, kêu ca, khóc, bẳn gắt...
- Hãy kiên nhẫn. Hãy làm như các con là mẹ bà, và các con sẽ có công trước mặt Thiên Chúa. Hãy dẫn Thầy đến với bà.
- Rabbi... Rabbi... Con không biết bà có muốn gặp Thầy không. Bà không muốn gặp ai cả. Con đâu dám nói với bà là con dẫn vị rabbi đến cho bà.
Giêsu mỉm cười và không mất bình tĩnh. Người quay lại với Phêrô: “Phêrô, phần con việc hành động. Con là đàn ông và là rể cả. Con đã nói với Thầy mà! Đi đi!”
124
Phêrô nhăn mặt đầy ý nghĩa, rồi vâng lời. Ông băng qua nhà bếp, vào trong một phòng, đi qua cửa rồi khép lại sau lưng. Tôi nghe ông nói với một người đàn bà. Rồi ông ló đầu và một bàn tay ra ngoài và nói: “Thầy ơi, tới lẹ lên”. Và ông nói thêm rất nhỏ, chỉ hơi hiểu được: “Trước khi bà thay đổi ý kiến”.
Giêsu mau lẹ băng qua nhà bếp và mở cửa ra hết cỡ. Người đứng tại ngưỡng cửa và nói lời chào êm dịu nhưng trọng thể của Người: “Bình an cho bà”, rồi Người vào, dù không ai trả lời. Người tới bên chiếc giường thấp, trên đó có một bà già nhỏ nằm: bà xám xịt, gầy gò, thở dốc vì sốt cao độ làm mặt bà đỏ như cháy lửa.
Giêsu cúi xuống trên giường, mỉm cười với bà già nhỏ: “Bà bệnh?”
- Tôi sắp chết.
- Không, bà sẽ không chết. Bà có thể tin là Thầy có thể chữa cho bà không?
- Tại sao Thầy làm. Thầy đâu có biết tôi?
- Vì Simon xin Thầy... Và cũng vì bà, để cho tâm hồn bà có giờ để nhìn thấy và yêu Ánh Sáng.
- Simon à? Tốt hơn là ông ta...Vậy làm sao ông ta lại nghĩ tới tôi?
- Là vì ông ấy tốt hơn bà tưởng. Thầy biết ông ta, Thầy biết rõ ông ta. Thầy biết ông ta và Thầy vui lòng nhận lời ông ta.
- Vậy Thầy sẽ chữa cho tôi? Tôi sẽ không chết nữa?
- Không, lúc này bà sẽ không chết. Bà có thể tin Thầy không?
- Tôi tin, tôi tin, chỉ cần là tôi không chết.
Giêsu lại mỉm cười. Người cầm tay bà. Bàn tay sần sùi với các gân máu căng phồng biến đi trong bàn tay trai tráng của Giêsu. Người đứng thẳng lên và lấy thái độ như Người thường có khi ra lệnh một phép lạ. Người kêu lên: “Hãy khỏi, Ta muốn. Hãy chỗi dậy”. Và Người buông tay người đàn bà. Bàn tay rơi xuống mà không làm bà rên, trong khi trước đó, lúc Người cầm lấy tay bà, dù rất nương nhẹ, bà cũng than van.
Một lát yên lặng. Rồi người đàn bà kêu lớn: “Ôi! Thiên Chúa của cha ông! Tôi hết đau rồi! Tôi khỏi rồi! Hãy tới đây, tới đây!” Các cô con dâu liền tới: “Nhưng coi này!” bà già nói: “Tôi cử động
125
và tôi không thấy đau nữa; và tôi hết sốt. Coi! Tôi tươi mát chừng nào! Qủa tim không còn như cái búa của thợ rèn nữa. A! Tôi không chết nữa!” Không có một lời nào cho Chúa cả.
Nhưng Giêsu không bất bình, Người nói với cô con dâu lớn: “Hãy mặc đồ cho bà để bà dậy. Bà đã có thể”. Và Người lùi để tính đi ra.
Simon thấy nhục, liền quay về mẹ vợ ông: “Thầy đã chữa cho mẹ mà mẹ không nói gì với Người!”
- Chết thật! Tôi không nghĩ tới! Cám ơn. Tôi có thể làm gì để cám ơn Thầy?
- Hãy tốt, rất tốt, vì Đấng Hằng Hữu đã nhân từ với bà. Và nếu không phiền cho bà thì hãy cho phép Thầy nghỉ hôm nay trong nhà bà. Thầy đã đi khắp miền trong suốt tuần lễ, Thầy mới về sáng nay, và Thầy mệt.
- Chắc chắn rồi! Chắc chắn rồi. Hãy ở lại nếu việc đó tiện cho Thầy - nhưng có rất ít thiện cảm trong những lời này.
Giêsu cùng với Phêrô, Andrê, Giacôbê và Gioan ra ngồi ngoài vườn.
- Thầy!...
- Phêrô của Thầy?
- Con thấy ngượng.
Giêsu làm một cử chỉ như muốn nói: “Hãy để cho qua chuyện”. Rồi Người nói: “Đây không phải lần đầu, cũng không phải lần sau cùng mà người ta không cám ơn thầy ngay. Nhưng Thầy không tìm sự biết ơn. Chỉ cần Thầy cho các linh hồn các phương tiện để tự cứu lấy mình. Thầy làm bổn phận của Thầy, bổn phận của họ thì họ phải làm”.
- A! Vẫn còn những người khác như bà này sao? Ở đâu Thầy?
- Simon tò mò! Nhưng Thầy muốn làm vui lòng con, mặc dù Thầy không ưa những cái tò mò vô ích. Đó là ở Nazarét. Con có nhớ bà mẹ của Sara không? Bà bệnh nặng, và khi chúng ta về tới Nazarét thì người ta đã bảo chúng ta là con bé khóc. Nó là đứa bé tốt và êm đềm. Để cho nó không bị mồ côi, rồi sau này lại thành
126
đứa con riêng, Thầy đã đến tìm bà... Thầy muốn chữa bà... Nhưng Thầy chưa đặt chân tới ngưỡng cửa thì chồng bà và một người em ông đã đuổi Thầy và nói: “Đi đi, đi khỏi đây đi! Chúng tôi không muốn phiền phức với giáo đường”. Đối với họ cũng như đối với qúa nhiều người, Thầy đã là kẻ phản loạn rồi... Nhưng dù sao Thầy cũng chữa cho bà... vì thương các con bà. Và với Sara, lúc nó đang ở ngoài vườn, Thầy đã vuốt ve nó và nói: “Thầy chữa cho mẹ con. Hãy về nhà, đừng khóc nữa”. Và người đàn bà được khỏi ngay khi con bé nói vậy với bà, và cả với bố nó và chú nó nữa... Rồi nó bị phạt vì đã nói với Thầy. Thầy biết, vì con bé chạy theo Thầy lúc Thầy ra khỏi xứ... Nhưng không sao.
- Nếu con thì con làm cho bà bệnh trở lại!
- Phêrô! - Giêsu rất nghiêm khắc. “Đó có phải là điều Thầy dạy con và những người khác không? Con đã nghe gì trên môi Thầy? Thầy đã nói điều kiện để làm môn đệ Thầy là gì?”
- Đúng vậy Thầy. Con thực tệ! Thầy tha cho con. Nhưng con không thể chịu được khi thấy người ta không yêu Thầy.
- Ôi! Phêrô, con sẽ còn thấy rất nhiều lãnh đạm khác nữa. Con sẽ rất ngạc nhiên, Phêrô ạ! Có những người bị những kẻ tự xưng mình là “thánh” khinh bỉ, coi họ như bọn thâu thuế, mà thực ra họ là mẫu gương của thế giới, một mẫu gương mà những kẻ khinh bỉ họ không thèm theo. Các dân ngoại sẽ ở trong số những kẻ trung thành nhất, các gái điếm sẽ trở nên trong sạch nhờ sức mạnh của ý chí và sự sám hối, các kẻ tội lỗi sẽ hoán cải...
- Một người tội lỗi hoán cải thì còn nghe được... Nhưng một gái điếm và một người thâu thuế...
- Con không tin à?
- Con, không.
- Con lầm rồi Simon à. Nhưng kìa, mẹ vợ con đang đến với chúng ta.
- Thưa Thầy... Tôi mời Thầy dùng bữa với chúng tôi.
- Cám ơn bà. Thiên Chúa sẽ thưởng công cho bà.
Họ vào nhà bếp và ngồi vào bàn. Bà già phục vụ họ bằng cách
127
phân phối dồi dào món canh thập cẩm và cá nướng: “Tôi không có gì khác” bà già nói để xin lỗi. Và để không mất thói quen, bà nói với Phêrô: “Các em rể của anh, họ làm việc qúa! Từ lúc anh dọn về ở Bétsaiđa, họ ở lại đây một mình. Chớ gì việc đó giúp làm giầu cho con gái tôi! Nhưng tôi thấy anh thường đi vắng, và anh không đi đánh cá”.
- Con đi theo Thầy. Con đã ở với Người tại Jêrusalem và các ngày Sabát. Con ở lại với Người. Con đâu có mất thời giờ vì chơi bời.
- Nhưng như vậy anh chẳng kiếm được gì. Bởi vì anh muốn làm gia nhân của vị Tiên Tri, giá tốt hơn là anh lại dọn về ở đây, như vậy trong khi anh lo làm thánh, ít nhất con gái tôi cũng có bà con để nuôi nó.
- Mẹ không xấu hổ khi nói vậy trước mặt Người là đấng đã chữa cho mẹ sao?
- Tôi, tôi không chỉ trích Người, Người làm nghề của Người, tôi chỉ trích anh, vì anh làm trò lười, mà anh sẽ chẳng bao giờ làm được Tiên Tri hay Thầy Cả. Anh là kẻ ngu ngốc và tội lỗi, chẳng được việc gì cả.
- May mắn là Người ở đây... Nếu không...
- Simon, mẹ vợ con đã cho con một lời khuyên tuyệt vời. Con có thể đi đánh cá ở đây. Hình như trước kia con cũng đã đánh cá ở Caphanaum mà! Bây giờ con cũng có thể trở lại.
- Và lại ở đây à? Nhưng, Thưa Thầy, Thầy không...
- Được, Phêrô của Thầy, nếu con ở đây thì hoặc con ở trên hồ, hoặc con ở với Thầy. Bởi vậy có gì hệ trọng việc con cư ngụ trong căn nhà này đâu? - Giêsu đặt tay trên vai Phêrô, và hình như sự bình tĩnh của Người chảy qua cho vị tông đồ sôi sục.
- Thầy có lý. Thầy luôn luôn có lý. Con sẽ làm như vậy. Nhưng... còn những người này? - và ông chỉ vào Giacôbê và Gioan, các hợp tác viên của ông.
- Họ không thể cũng đến sao?
- Ôi! ba con, nhất là má con, sẽ luôn luôn sung sướng khi biết rằng chúng con ở với Thầy hơn là với họ. Các ngài sẽ không phản
128
đối.
- Có lẽ Zêbêđê cũng sẽ tới - Phêrô nói.
- Còn hơn là có lẽ nữa, và những người khác cùng với ông. Thưa Thầy, chúng con sẽ tới. Chắc chắn là chúng con sẽ tới.
- Giêsu Nazarét, Người có ở đây không? - một thằng bé tới trước cửa và hỏi.
- Người ở đây. Vào đi.
Đứa trẻ bước vào. Tôi nhận ra nó là một trong những đứa trẻ mà tôi đã nhìn thấy trong thị kiến đầu tiên về Caphanaum. Đúng là đứa đã té ở chân Giêsu và đã hứa sẽ tốt... để ăn mật ong của Thiên Đàng.
- Bạn nhỏ ơi, lại đây - Giêsu nói với nó.
Thằng bé lúc đầu hơi khớp vì bao nhiêu người nhìn nó, nhưng rồi nó an lòng và chạy đến với Giêsu. Người ôm nó, ẵm nó lên đầu gối và cho nó một miếng cá để trên một miếng bánh.
- Đây, Giêsu, cái này cho Thầy. Hôm nay cũng vậy, ông đó bảo con: “Nay ngày Sabát, hãy mang cái này tới cho vị rabbi Nazarét, và hãy bảo người bạn của con cầu nguyện cho ông”. Ông ta biết Thầy là bạn con... - Đứa bé cười, sung sướng, ăn miếng bánh với cá của nó.
- Hoan hô bé Giacôbê! Con sẽ nói với ông đó là lời cầu nguyện của Thầy bay lên cùng Chúa Cha cho ông.
- Để cho người nghèo à? - Phêrô hỏi.
- Ừ.
- Vẫn là của dâng cúng thông thường. Ta thử coi xem.
Giêsu đưa túi tiền cho ông. Phêrô đổ ra và đếm: “Vẫn luôn luôn là món tiền lớn! Nhưng người đó là ai vậy? Bé, hãy nói: Ai vậy?”
- Tôi, tôi không được nói, và tôi sẽ không nói.
- Hách chừng nào! Này, hãy tốt, rồi ông sẽ cho con trái cây.
- Tôi không nói, dù ông chửi bới tôi hay vuốt ve tôi.
129
- Nhưng coi! Cái lưỡi của nó!
- Phêrô, Giacôbê có lý. Nó giữ lời đã được bảo. Hãy để nó yên.
- Thưa Thầy, Thầy biết người đó là ai không?
Giêsu không trả lời. Người lo săn sóc đứa nhỏ mà Người cho một miếng cá nướng khác, sau khi đã lặt sạch xương, nhưng Phêrô nài nỉ nên Người phải trả lời ông:
- Thầy, Thầy biết hết, Simon.
- Vậy chúng con không thể biết sao?
- Con không bao giờ bỏ được cái tật của con! - Giêsu khiển trách ông trong khi mỉm cười, và người thêm: “Không bao lâu nữa, con sẽ biết. Việc xấu thì người ta muốn giữ kín, nhưng không luôn luôn thành công, nhưng việc tốt, khi người ta muốn giữ kín, tức là để được công, nhưng một ngày kia, nó sẽ được biết vì vinh quang của Thiên Chúa. Vì bản tính Người sẽ được rạng sáng nơi một trong các con cái của Người. Bản tính của Thiên Chúa là: Tình Yêu. Người này đã hiểu điều đó, vì ông yêu đồng loại. Nào Giacôbê, hãy mang phúc lành của Thầy đến cho ông đó”.
Thị kiến chấm dứt.
Rồi Chúa Giêsu nói riêng cho một mình con: “Lời chào mà con rất thích là lời chào của Cha: ‘Bình an cho con’. Đó phải là lời chào của con cho mọi người, dù là với Linh Mục phó của Cha. Chào như Cha chào và dạy chào. Bình an chẳng phải là chính Thiên Chúa sao? Bình an mà trong đó chúng ta nhận biết một điều tốt đẹp nhất: Ca tụng bình an chẳng phải là ca tụng chính Thiên Chúa sao? Vậy hãy nói: ‘bình an cho anh...’, không phải cho các anh, mà là cho anh, như Cha nói. Khi phải vào trong một nhà nào đó, hãy nói: ‘bình an cho nhà này’. Không có lời chào nào rộng rãi hơn, êm đềm hơn, thánh thiện hơn, nhắc lại kỷ niệm về Cha hơn là lời chào đó.
Chào. Bình an cho con”.
130
24* GIÊSU THUYẾT GIÁO VÀ LÀM CÁC
PHÉP LẠ TRONG NHÀ PHÊRÔ
Giêsu trèo lên đống những thúng rổ và giây nhợ ở lối vào vườn trong nhà Phêrô. Người ta ngồi chen chúc trong vườn. Có những người ở bãi hồ, ngồi trên bờ hay trong những chiếc thuyền đã kéo lên bờ. Dường như Người đã nói từ lúc nào rồi đó, vì bài thuyết trình đang dở dang. Tôi nghe: “...Chắc chắn nhiều lần các con đã nói như vậy trong lòng. Nhưng không phải như vậy. Chúa không thiếu lòng nhân từ với dân Người, mặc dù dân Người thiếu trung thành hàng ngàn và hàng chục ngàn lần.
Hãy nghe dụ ngôn này, nó sẽ giúp các con hiểu: Một ông vua có những chuồng ngựa cao giá vì có những con ngựa tuyệt vời, nhưng ông còn yêu cách đặc biệt một con khác nữa. Ông ước ao nó và muốn có nó. Rồi một khi đã tậu được, ông để nó tại một nơi đẹp đẽ thích thú. Ông tới xem nó, nhìn nó với con tim của ông, ngắm nghía kẻ ưu ái của ông, mơ ước làm cho nó thành một kỳ quan trong Vương Quốc của ông. Nhưng con ngựa phản ứng, chống lại mệnh lệnh của ông và không vâng lời, rồi nó trốn đi tới nhà một ông chủ khác. Mặc dầu sự đau khổ và công lý, ông vua hứa với kẻ phản loạn sự tha thứ sau hình phạt. Trung thành với lời hứa, ông canh chừng xa xa kẻ ưu ái của ông, gởi cho nó những món qùa và sai các người chăn đến nhắc nhở cho nó nhớ tới ông. Nhưng con ngựa, dù khổ sở vì bị lưu đày bên ngoài Vương Quốc, nó không bền gan như ông vua, để yêu và muốn sự tha thứ hoàn toàn. Lúc thì nó tốt, lúc thì nó xấu, nhưng cái tốt không thắng được cái xấu, mà đúng ra là trái lại. Nhưng ông vua kiên nhẫn, vừa khiển trách vừa vuốt ve, để làm cho con ngựa qúi nhất của ông nên hiền lành.
Thời gian càng qua, con ngựa càng chứng. Nó đã gọi ông vua khi phải khóc dưới làn roi của các ông chủ khác, nhưng nó không thực sự muốn thuộc về ông vua, nó không có ý muốn đó. Bị kiệt lực, bị đè nặng, nó rên rỉ nhưng nó không nói: ‘Tôi bị như vầy là tại lỗi tôi’, nhưng nó cho là tại ông vua của nó. Ông vua, sau khi đã thử tất cả, ông chạy tới phương cách sau cùng. Ông nói: ‘Từ trước tới giờ, ta đã sai các sứ giả và các bạn hữu tới. Bây giờ ta sai chính con
131
ta đến với nó. Con ta có con tim giống như ta, và nó sẽ nói bằng chính tình yêu của nó. Nó sẽ cho con ngựa những vuốt ve, những qùa tặng giống như ta đã cho, và cả đến còn êm đềm hơn, vì con ta tức là chính ta, mà còn được cao siêu hóa bởi tình yêu’. Và ông sai con ông tới.
Đó là dụ ngôn. Bây giờ đến lần các con nói. Các con có thấy rằng ông vua yêu con vật ưu ái của ông không?”
Người ta đồng thanh tuyên bố: “Ông yêu nó vô cùng”.
- Con vật có thể phiền trách ông vua vì tất cả những đau khổ nó phải chịu sau khi đã bỏ rơi ông không?
- Không, nó không thể - đám đông trả lời.
- Hãy trả lời câu hỏi này nữa: “Các con nghĩ con vật sẽ tiếp đón thế nào, người con vua đến để chuộc nó, chữa nó, và lại dẫn nó về chỗ ở đẹp đẽ?”
- Đương nhiên là với niềm vui, với sự biết ơn và tình yêu.
- Nhưng nếu người con vua nói với nó: “Ta đến với mục đích này, để tạo cho con những điều tốt này, nhưng bây giờ con phải tốt, vâng lời, đầy thiện chí, trung thành với Ta”. Các con nghĩ con vật sẽ nói sao?
- Ôi, vô ích để hỏi. Bây giờ nó biết nó đã phải trả giá đắt chừng nào khi bị đày ở ngoài Vương Quốc, nó sẽ nói rằng nó muốn như con ông vua nói với nó.
- Vậy theo các con, bổn phận của con ngựa là phải thế nào?
- Phải tốt hơn là người ta đòi hỏi: yêu kính hơn, ngoan ngùy hơn, để được tha thứ những tội đã qua, và để nhận biết điều lành người ta làm cho nó.
- Nhưng nếu nó không như vậy?
- Nó sẽ đáng chết, vì nó còn xấu hơn một con vật hoang.
- Các bạn ơi! Các bạn đã xét đoán rất đúng. Các bạn cũng hãy hành động như vậy, giống như các bạn muốn con ngựa này làm.
Các con, loài người, tạo vật biệt ái của Vua Trời: Thiên Chúa, Cha Thầy và Cha các con. Sau khi đã sai các tiên tri đến cho các con, Thiên Chúa đã sai chính con Người. Vậy, ôi! Thầy van nài các con, vì sự lành cho các con, và vì Thầy yêu các con như một mình
132
Thiên Chúa có thể yêu, vị Thiên Chúa này ở trong Thầy để thi hành kỳ công Cứu Chuộc, ít nhất, hãy như các con đã đoán xét về con vật này phải làm. Khốn cho kẻ nào, là người, mà lại hạ thấp mình tới mức độ thấp hơn con vật này! Nhưng nếu họ còn có thể biện hộ một chút vì từ trước tới giờ đã phạm tội, thì bây giờ họ không có thể nữa. Trước đây, phải, vì thời gian đã qua đi qúa lâu kể từ lúc lề luật được ban bố, thế giới đã tích tụ qúa nhiều bụi trên nó. Thầy đến để trình bày lại lời của Thiên Chúa. Con Người đã ở giữa loài người để dẫn họ về với Thiên Chúa. Hãy theo Thầy. Thầy là
Đường, là Sự Thật, là Sự Sống. Đám đông xì xèo như thường lệ.
Giêsu ra lệnh cho các môn đệ: “Hãy cho các người nghèo tiến lên. Có của dâng cúng lớn của một người dành cho họ để xin ơn tha thứ của Thiên Chúa”.
Có ba người rách rưới trình diện cùng với hai người mù, một người bướu lưng và một bà góa với bảy đứa con nhỏ hốc hác.
Giêsu nhìn họ chăm chú, hết người nọ tới người kia. Người mỉm cười với bà góa, nhất là với các trẻ mồ côi. Người còn ra lệnh cho Gioan: “Những người này, hãy để họ ở đó, trong vườn. Thầy muốn nói với họ”. Nhưng Người trở nên nghiêm khắc khi có một ông già nhỏ con trình diện với Người. Nhưng lúc này Người không nói gì.
Người gọi Phêrô, bảo ông đưa túi tiền mới nhận được lúc trước cho Người, và một cái túi khác đầy những đồng tiền nhỏ, của bố thí của những người đại độ. Người đổ tất cả ra trên một cái bục ở gần giếng. Người đếm và chia thành sáu phần. Có một phần rất hậu với toàn những đồng tiền lớn bằng bạc, và năm phần khác nhỏ hơn với nhiều đồng cắc bằng đồng, chỉ có vài đồng là lớn. Rồi Người gọi những người nghèo và bệnh tới và nói với họ: “Các con không có gì để nói với Thầy sao?”
Các người mù nín lặng. Người bướu lưng nói: “Xin Đấng đã sai Thầy bảo vệ Thầy”. Ông không nói gì hơn.
Giêsu đặt của bố thí vào bàn tay mạnh khỏe của ông. Người đó nói: “Xin Thiên Chúa trả ơn cho Thầy. Nhưng còn hơn cái này, là con muốn Thầy chữa cho con”.
133
- Con đã không xin.
- Con là một con sâu đất tội nghiệp mà các kẻ quyền thế chà đạp lên. Con không dám hy vọng là Thầy thương một kẻ hành khất.
- Thầy là tình thương. Thầy cúi xuống trên mọi kẻ khốn cùng gọi tới Thầy. Thầy không từ chối ai. Thầy chỉ đòi Tình Yêu và lòng tin để trả lời: “Thầy nghe con”.
- Ôi! Lạy Chúa con! Con tin và con yêu Thầy! Vậy xin cứu con! Xin chữa cho tôi tớ của Thầy!
Giêsu đặt tay trên cái lưng gù, cà nhẹ như vuốt ve và nói: “Thầy muốn con được khỏi”.
Người đó đứng thẳng lên, nhanh nhẹn và toàn vẹn với những lời chúc tụng không ngừng.
Giêsu cho của bố thí cho hai người mù và chờ đợi một lát... Rồi Người để cho họ đi. Người gọi các người già tới. Người bố thí cho người thứ nhất và giúp ông bỏ tiền vào thắt lưng. Người lưu ý với đầy tình thương vì sự lúng túng của người thứ hai. Ông này nói với Người về bệnh hoạn của một người con gái:
- Con chỉ có mình nó mà bây giờ nó sắp chết. Con sẽ ra sao đây? Ôi! Nếu Thầy tới! Nó không thể đứng dậy. Nó rất muốn nhưng nó không thể. Lạy Thầy! Lạy Chúa Giêsu! Xin thương chúng con!
- Bố ở đâu?
- Ở Corozain. Cứ hỏi ông Isaac con Jonas, biệt hiệu Trưởng Thành. Thầy có tới thực không? Thầy có quên nỗi bất hạnh của con không? Và Thầy có chữa đứa con gái cho con không?
- Bố tin là Thầy có thể chữa nó không?
- Ôi! Có chứ! Vì vậy con nói về nó với Thầy.
- Bố ơi, hãy về nhà. Con gái bố sẽ đi ra cửa để chào bố.
- Nhưng nó nằm trên giường. Nó không thể dậy được từ ba... A! Con hiểu! Ôi! Cám ơn! Thầy nhân từ! xin chúc tụng! Thầy và đấng đã sai Thầy! Ngợi khen Thiên Chúa và Đấng Messi của Người. - Ông già ra đi, vừa khóc vừa đi mau lẹ. Nhưng khi ông sắp ra khỏi vườn, ông nói: “Nhưng dù sao Thầy cũng tới căn nhà nghèo của con chứ ? Isaac chờ Thầy để hôn chân Thầy, rửa nó bằng nước mắt và dâng Thầy tấm bánh Tình Yêu. Giêsu, xin hãy tới. Con sẽ nói về
134
Thầy với các người đồng hương”.
- Thầy sẽ tới. Hãy đi bình an và hãy sung sướng.
Tiếp đó người già thứ ba tiến lên. Ông ta có vẻ rách rưới hơn tất cả. Nhưng Giêsu chỉ còn một đống lớn các đồng tiền bằng bạc. Người gọi lớn tiếng: “Bà ơi! hãy tới cùng với các con bà”.
Người đàn bà còn trẻ, hốc hác, đầu cúi, đến trình diện. Bà giống như gà mẹ tội nghiệp giữa bầy gà con nghèo.
- Bà bị góa từ hồi nào?
- Ba năm, kể từ tuần trăng Tisri.
- Bà bao nhiêu tuổi rồi?
- Hai mươi bảy.
- Tất cả đây là con bà?
- Thưa Thầy vâng. Và con chẳng còn gì nữa. Con đã tiêu hết. Làm sao con có thể làm việc, vì không ai muốn con với tất cả bầy nhỏ này?
- Thiên Chúa không bỏ rơi cả đến con sâu mà Người đã tạo dựng. Người sẽ không bỏ rơi bà. Bà ở đâu?
- Trên hồ, cách Bétsaiđa dăm trăm mét. Chính ông ta bảo con đến. Chồng con là ngư phủ và đã chết trên hồ... - Và cái “ông ta” đó là Andrê, đang đỏ mặt và muốn biến đi.
- Con đã làm rất phải, Andrê, khi bảo người đàn bà này đến tìm Thầy.
Andrê thấy vững bụng, liền xì xèo: “Ông ấy là bạn con. Ông ta tốt. Ông chết trên hồ trong trận bão, và bị mất cả thuyền”.
- Đây, bà. Số này giúp bà được một thời gian khá, rồi một mặt trời khác sẽ mọc lên cho ngày của bà. Hãy tốt. Hãy dạy con cái cho biết giữ luật, rồi bà sẽ không thiếu sự trợ giúp của Thiên Chúa. Thầy chúc lành cho bà, bà và các con nhỏ của bà - và Người vuốt ve chúng, hết đứa nọ tới đứa kia với đầy tình thương.
Người đàn bà ra đi, ôm ghì kho báu của bà vào lòng.
- Còn cho tôi? - ông già nhỏ còn lại sau cùng hỏi.
Giêsu nhìn ông và không nói gì.
- Không có gì cho tôi sao? Ông không công bằng. Ông cho bà ta gấp sáu lần những người khác, còn tôi thì không cho gì cả! Nhưng,
135
đó... Vì là một đàn bà!
Giêsu nhìn ông và nín thinh.
- Tất cả qúi vị hãy nhìn coi có công bằng không! Tôi từ xa đến, vì người ta nói với tôi rằng ở đây người ta cho tiền. Nhưng rồi, đó! Tôi thấy người ta cho người thì qúa nhiều, còn tôi thì không cho gì... Tôi, một ông già nghèo bệnh hoạn. Vậy mà ông ta muốn người ta tin ở ông ta!...
- Ông già! Ông không xấu hổ vì nói dối như vậy sao? Ông gần chết rồi mà còn nói dối! Ông tìm cách ăn cắp của kẻ đói. Tại sao ông muốn ăn cắp của bố thí mà tôi đã nhận để phân phát cho các anh em nghèo với sự công bằng?
- Nhưng tôi...
- Nín đi! Sự im lặng của tôi và cách hành động của tôi phải làm cho ông hiểu rằng tôi biết tôi làm như vậy với ai, và ông phải nín lặng như tôi. Tại sao ông lại muốn tôi tiết lộ sự xấu hổ của ông?
- Tôi nghèo.
- Không đâu. Ông là người hà tiện và ăn cắp. Ông sống vì tiền bằng cách cho vay nặng lãi.
- Tôi không bao giờ cho vay nặng lãi. Thiên Chúa làm chứng cho tôi.
- Cái đó chẳng phải là việc cho vay nặng lãi độc ác nhất, tức là ăn cắp của những kẻ thực sự có nhu cầu sao? Hãy đi đi. Hãy thống hối để Thiên Chúa tha cho ông.
- Tôi thề...
- Nín đi. Tôi truyền cho ông. Có lời rằng: “Không được thề gian”. Nếu tôi không kính trọng tóc trắng của ông, tôi sẽ lục trong bụng ông, và tôi sẽ tìm thấy ở đó một cái túi đầy vàng, con tim thực sự của ông. Đi đi!
Với giọng nói của Giêsu, ông già bỏ đi, không nằng nặc nữa. Đám đông đe dọa ông, chế nhạo ông, gọi ông là ăn cắp.
- Các con nín đi! Nếu thấy ông ta đã ra ngoài chính lộ thì đừng làm như ông ta. Ông ta thiếu chân thành, đó là gian dối. Còn các con, khi chửi bới ông ta là các con thiếu bác ái. Không được chửi bới người anh em vì họ phạm tội. Mỗi người có tội của mình. Không
136
ai trọn lành, ngoại trừ Thiên Chúa. Thầy phải làm cho ông xấu hổ, vì không được phép ăn cắp, không bao giờ, nhất là của người nghèo. Nhưng chỉ có Chúa Cha biết Thầy khổ chừng nào khi phải làm như vậy. Các con cũng phải cảm thấy khổ khi thấy một người Israel thiếu sót với Lề Luật, tìm cách làm thiệt hại cho người nghèo và kẻ góa bụa. Đừng gian tham. Chớ gì kho báu của các con là linh hồn các con chứ không phải tiền bạc. Đừng thề gian. Chớ gì lưỡi các con trong trắng và ngay thẳng cũng như các hành động của các con. Cuộc sống không vĩnh cửu và giờ chết tới gần, hãy sống sao cho vào giờ chết, tâm hồn các con có thể bình an trong sự bình an của kẻ đã sống công chính. Hãy về nhà các con...
- Lạy Chúa! Xin thương đứa con trai con đây, nó bị câm vì một thằng qủi hành hạ nó.
- Và anh con, ông giống như một con vật ô uế. Ông lăn vào bùn và ăn cứt. Đó là một thần qủi quyệt, làm cho anh những hành động dơ bẩn này, bất chấp ý muốn của anh.
Giêsu đi lại với nhóm người cầu khẩn. Người giơ tay và ra lệnh: “Hãy ra khỏi những người này! Hãy để cho Thiên Chúa các tạo vật của Người”.
Giữa những tiếng kêu thét và la ó, hai kẻ khốn nạn được khỏi. Các người đàn bà dắt họ lại qùi lạy và chúc tụng.
- Hãy về nhà các con và hãy biết ơn Thiên Chúa. Bình an cho tất cả. Đi đi.
Đám đông giải tán trong khi bàn tán các sự kiện. Bốn môn đệ liền vây quanh lấy Thầy.
- Các bạn ơi! Thực sự thầy bảo các con rằng Israel có đủ thứ tội, và ma qủi thiết lập chỗ ở của nó ở đây. Không phải chỉ có chuyện qủi ám làm môi miệng câm nín, hoặc đẩy người ta tới chỗ sống như các thú vật và ăn rác rến. Nhưng việc bị ám thực sự nhất và nhiều nhất, là đóng qủa tim lại với sự ngay thật và làm cho nó thành nơi ô trọc của những thói xấu ghê tởm. Ôi! Cha ơi! - Giêsu ngồi xuống như bị đè nặng.
- Thầy mệt à Thầy?
- Gioan của Thầy, mệt thì không, nhưng buồn khổ vì tình trạng
137
các tâm hồn, và qúa ít thiện chí muốn sửa đổi. Thầy đã đến... Nhưng người ta... Người ta... Ôi! Cha của con!...
- Thầy ơi! Con yêu Thầy! Tất cả chúng con đều yêu Thầy...
- Thầy biết. Nhưng số các con qúa ít... Và ước ao cứu vớt của Thầy qúa lớn lao.
Giêsu ôm Gioan trong vòng tay Người và tựa đầu lên đầu ông. Người rất buồn. Phêrô, Andrê, Giacôbê ở chung quanh Người, nhìn Người với tình yêu và nỗi buồn.
Thị kiến chấm dứt như vậy.
25* GIÊSU CẦU NGUYỆN BAN ĐÊM
Tôi thấy Giêsu ra khỏi căn nhà của Phêrô ở Caphanaum. Người đi êm nhẹ hết sức. Ta hiểu rằng Người đã qua đêm ở đây để làm vui lòng Phêrô.
Vẫn còn là đêm khuya. Bầu trời đầy sao, cái hồ hơi phản chiếu ánh sáng của chúng. Người ta đoán thì đúng hơn là người ta nhìn thấy cái hồ yên lặng ngủ dưới ánh sáng tinh tú, chỉ nhờ vào tiếng lào xào nhẹ của nước đập vào bãi.
Giêsu đẩy cửa ra, nhìn trời, nhìn hồ, nhìn đường. Người suy nghĩ, rồi bước đi, không theo dọc bờ hồ, nhưng về phía trung tâm miền. Người đi theo hướng này một lúc, rồi quay về miền quê. Người vào đó, đi sâu vào trong, theo một lối đi dẫn tới chỗ dợn sóng đầu tiên của một vùng đất trồng oliu. Người đi vào giữa mầu xanh an bình và lặng lẽ này, và ở đó, Người qùi phục xuống để cầu nguyện.
Lời cầu nguyện thật tha thiết! Người qùi gối một lúc, rồi như được mạnh sức, Người đứng dậy và cầu nguyện nữa, mặt hướng về trời, khuôn mặt có vẻ linh thiêng hơn bởi ánh sáng vừa phát sinh do rạng đông mùa hè vừa chớm nở.
Bây giờ Người cầu nguyện và mỉm cười, trong khi lúc trước đó người thở dài như bị ảnh hưởng một nỗi buồn tinh thần. Người giang tay cầu nguyện. Người giống một Thánh Giá sống động, cao, thần
138
linh, tỏa ra bao ngọt ngào. Người như đang chúc lành cho cả miền quê, cho ngày đang hé rạng, cho các vì sao đang biến đi, cho cái hồ đang lộ ra.
- Thưa Thầy, chúng con tìm Thầy khắp nơi. Chúng con thấy cửa mở khi chúng con đem cá về, nên chúng con nghĩ Thầy đã ra ngoài, nhưng chúng con không tìm thấy Thầy. Sau cùng có một người dân đang chất các thúng để đem vào thành phố đã cho chúng con tin tức. Chúng con đang gọi Thầy: “Giêsu! Giêsu!”, ông ta hỏi chúng con: “Qúi vị tìm vị Rabbi đã nói với đám đông? Người đi theo lối mòn này, lên đó, về phía ngọn đồi. Chắc Người ở trong vườn oliu của Michée, vì Người hay tới đó. Lần trước tôi đã thấy Người ở đó”. Ông ta có lý. Sao Thầy ra ngoài sớm qúa vậy? Sao Thầy không nghỉ ngơi? Có lẽ cái giường không thoải mái?...
- Không đâu Phêrô. Cái giường rất tốt và căn phòng vui tươi. Nhưng Thầy có thói quen ra ngoài sớm để nâng tâm hồn Thầy lên kết hợp với Cha. Cầu nguyện là sức mạnh cho mình và cho người khác. Ta được tất cả bởi lời cầu nguyện. Chúa Cha không luôn luôn nhận điều người ta xin Người, đừng nghĩ như vậy là Người thiếu tình yêu. Phải tin rằng sự từ chối này phù hợp với một chương trình xếp đặt tốt hơn cho định mệnh mỗi người. Nhưng chắc chắn là lời cầu nguyện mang lại bình an và sự quân bình, giúp ta chịu đựng bao nhiêu thứ nó đụng vào chúng ta mà không lìa bỏ con đường thánh thiện. Phêrô, con biết: tất cả những gì bao quanh chúng ta nó dễ dàng làm tối tăm thần trí chúng ta, và làm xao xuyến con tim chúng ta. Mà trong sự tối tăm của thần trí và sự xao xuyến của con tim thì làm sao ta có thể nghe tiếng Thiên Chúa?
- Đúng vậy, nhưng chúng con, chúng con không biết cầu nguyện. Chúng con không biết nói những lời hay như Thầy.
- Hãy nói điều các con biết, như các con biết. Không phải là các lời, nhưng là tâm tình đi kèm theo làm cho lời cầu nguyện đẹp lòng Cha.
- Chúng con muốn cầu nguyện giống như Thầy.
- Thầy cũng sẽ dạy các con cầu nguyện. Thầy sẽ dạy các con lời cầu nguyện thánh nhất. Nhưng để cho nó không trở thành một công
139
thức vô ích trên môi, Thầy muốn rằng qủa tim của các con đã có một số tối thiểu về thánh thiện, ánh sáng và khôn ngoan... Chính trong mục đích này, Thầy giáo huấn các con. Sau này Thầy sẽ dạy các con lời cầu nguyện thánh. Các con có muốn gì ở Thầy không mà các con tìm Thầy?
- Thưa Thầy không, nhưng có biết bao người chờ đợi ở Thầy rất nhiều điều. Đã có những người tới Caphanaum, đó là những người nghèo, bệnh tật, những người đau khổ, những người thiện chí muốn được giáo huấn. Vì họ hỏi Thầy nên chúng con nói: “Thầy mệt và ngủ. Đi đi rồi ngày Sabát tới hãy trở lại”.
- Không, Simon. Đừng nói như vậy. Không phải chỉ có một ngày để có tình thương. Thầy là Tình Yêu, Ánh Sáng, Sự Cứu Rỗi trong hết mọi ngày của tuần lễ.
- Nhưng... Từ trước tới giờ Thầy chỉ nói vào ngày Sabát.
- Bởi vì Thầy chưa được biết. Nhưng từ từ, theo đà người ta biết Thầy, mỗi ngày đều sẽ tuôn ra các ơn huệ và Ân Sủng. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng sẽ tới một thời mà khoảng thời gian đủ cho con chim sẻ đậu trên cành và ăn no các hạt, Con Người cũng không có để nghỉ ngơi và dùng bữa.
- Như vậy Thầy sẽ ngã bệnh. Chúng con không cho phép như vậy. Lòng tốt của Thầy không được làm cho Thầy khổ sở.
- Con nghĩ rằng việc đó có thể làm cho Thầy khổ sở sao? Ôi! Nếu cả thế giới đến để nghe Thầy, để khóc tội của họ, để đặt các đau khổ của họ trên con tim Thầy, để được chữa lành trong tâm hồn và trong thân xác; nếu Thầy kiệt lực để nói với họ, để tha thứ, để tung vãi sức mạnh ơn lành của Thầy, chính lúc đó Thầy sẽ sung sướng tới nỗi cả đến Thầy không tiếc Thiên Đàng, nơi Thầy đã ở trong Chúa Cha. Các người đến với Thầy, họ từ đâu tới?
- Từ Corôzain, Bétsaiđa, Caphanaum. Cũng có những người đến từ Tibêriát, Gerghesa, và từ hàng trăm và hàng trăm xứ nhỏ phân tán ở giữa thành phố nọ và thành phố kia.
- Hãy đi nói với họ là Thầy sẽ tới Corôzain, Bétsaiđa và những
140
thôn nọ thôn kia.
- Tại sao không ở Caphanaum?
- Vì Thầy cho mọi người, và mọi người phải được có Thầy. Vả nữa... Có ông già Isaac đang chờ Thầy... Không nên để ông thất vọng trong ước nguyện của ông.
- Vậy Thầy chờ chúng con ở đâu?
- Không, Thầy đi, còn các con, các con ở lại Caphanaum để gởi các đám đông đến cho Thầy, rồi Thầy sẽ trở lại.
- Chúng con sẽ ở lại một mình!... - Phêrô buồn thiu.
- Không nên buồn. Vâng lời làm cho con vui, và cùng với nó, con sẽ thấy mình là một môn đệ hữu ích. Những người khác cũng sẽ ở lại với con và như con.
Phêrô và Andrê cũng như Giacôbê và Gioan tươi tỉnh lại. Giêsu chúc lành cho họ và họ chia tay.
Thị kiến chấm dứt.
26* NGƯỜI CÙI ĐƯỢC CHỮA GẦN COROZAIN
Hình ảnh chi tiết rõ ràng của một người cùi khốn nạn xuất hiện trong nhãn giới siêu nhiên của tôi sáng nay, ngay từ trước rạng đông.
Đúng là một sự tàn phá. Tôi không thể nói ông ta trạc bao nhiêu tuổi, vì bệnh đã hủy hoại ông. Toàn là xương xẩu, nửa mình trần. Ông phơi ra cơ thể giống như một xác ướp đã khô hết thịt. Chân tay cong queo, bị thiếu nhiều phần, hầu như các đầu mút của các chi thể này không còn thuộc về con người nữa. Bàn tay rơi các khớp, cong vòng như chân loài vật có cánh. Bàn chân giống như móng bò, vì bị cụt và biến dạng.
Rồi cái đầu!... Tôi nghĩ chỉ có cái thây ma không mồ, bị ướp bởi mặt trời và gió mới có cái đầu như cái đầu này. Đây đó còn vài nhúm tóc, dính vào lớp da vàng, đầy vảy, tựa như bụi đã làm cho nó khô cứng trên sọ. Đôi mắt hơi hé mở và sâu. Môi và mũi bị bệnh ăn hết, để trật ra những sụn và răng. Hai lỗ tai chỉ còn một tí vành tai dị dạng. Tất cả những thứ này được bọc trong một lớp giống như da,
141
vàng như đất sét mà xương chìa ra ở bên dưới. Lớp da này hẳn để giữ cho các xương dính lại với nhau như trong một cái túi thê thảm. Khắp nơi đều có thẹo, các vết thương rách ra hôi thối. Một sự hủy hoại!
Điều này làm tôi suy nghĩ chính xác tới thần chết chạy rảo khắp trái đất, mà bộ xương được bọc trong lớp da khô, được trùm bằng chiếc áo khoác ghê tởm. Hoàn toàn rách rưới, nhưng ông không có trong tay cái lưỡi hái, chỉ có một cây gậy nhiều mấu, chắc chắn là bẻ được ở một cây nào đó.
Ông ta đứng ở cửa một cái hang xa mọi nơi dân cư, một cái hang thực sự, vì nó đổ nát mà tôi không biết trước kia nó là ngôi mộ hay là cái chòi của tiều phu, hoặc một căn nhà đổ nát còn lại. Ông nhìn về con đường ở cách hang của ông khoảng trăm mét, một con đường lưu thông lớn, bụi bặm và còn đầy mặt trời. Không có ai trên đường. Nhìn mút mắt cũng chỉ thấy mặt trời, bụi và cô tịch. Ở rất xa hơn về phía tây bắc, tôi thấy những căn nhà đầu tiên, cách đó ít là một cây số, chắc đó là một làng hay một thị trấn.
Người cùi nhìn và thở dài. Rồi ông lấy một cái tô nhỏ, múc nước ở cái suối nhỏ và uống. Ông vào đám cây chằng chịt ở sau hang, cúi xuống nhổ những cây cải dại, ông trở lại suối, rửa đi những cục đất và nhẩn nha ăn. Ông mang lên miệng cách khó khăn với bàn tay cụt ngón. Cây cải chắc cứng như gỗ, khó lòng nhai nổi. Ông nhai cho thấm nước bọt, nhưng không sao nuốt được, dù ông uống nước cho dễ trôi.
- Anh ở đâu Abel? - một tiếng nói kêu lên.
Người cùi giật mình. Ông có cái gì trên môi tựa như một nụ cười. Nhưng các môi đã bị gậm nhấm hết nên cái cố gắng mỉm cười này không có hình dạng. Ông trả lời bằng tiếng nói lạ, reo réo, làm tôi nghĩ đến tiếng kêu của một số loại chim mà tôi không biết tên đích xác: “Tôi đây. Tôi đã nghĩ anh không đến nữa. Tôi nghĩ anh gặp cái gì rủi và tôi buồn... Nếu tôi mất anh thì còn gì lại cho thằng Abel khốn nạn?” Trong khi nói như vậy, ông đi về phía con đường cho tới khoảng cách luật định. Ta biết nó, vì ông dừng lại ở giữa khoảng
142
cách.
Trên đường có một người đang tới. Dường như ông chạy, vì ông đi rất nhanh.
- Nhưng có phải anh không Samuel? Ôi, nếu không phải anh, kẻ tôi chờ, thì dù ông là ai, cũng đừng làm khổ tôi.
- Tôi đây Abel! Chính tôi đây, và hoàn toàn mạnh khỏe lành lặn. Anh coi tôi chạy nhanh chừng nào! Tôi tới trễ, tôi biết, và tôi khổ cho anh... Nhưng khi anh biết, ôi! Anh sẽ sung sướng. Và ở đây, không phải tôi chỉ có những mẩu bánh thông thường, nhưng có một ổ hoàn toàn, mới và ngon. Tất cả cho anh. Tôi cũng có một con cá ngon và một cục phó mát. Tất cả cho anh. Tôi muốn anh mừng lễ, người bạn tội nghiệp, để chuẩn bị cho một lễ còn lớn hơn nữa.
- Nhưng làm sao mà anh giầu qúa vậy? Tôi chẳng hiểu gì cả...
- Tí nữa tôi sẽ nói cho anh.
- Lại còn khỏe mạnh lành lặn! Dường như không còn phải là anh nữa!
- Anh nghĩ coi: Tôi biết rằng ở Caphanaum có một vị rabbi thánh, và tôi tới đó...
- Dừng lại đi! Dừng lại đi! Tôi ô nhiễm!
- Ồ! Không quan trọng. Tôi không còn sợ gì nữa.
Người này không là ai khác ngoài ông có bướu lưng tội nghiệp đã được Giêsu chữa và cho tiền. Với bước chân lanh lẹ của ông, ông tới chỗ còn cách người cùi vài bước. Ông ta nói trong khi vừa đi vừa cười sung sướng.
Người cùi lại nói: “Anh dừng lại đi, nhân danh Thiên Chúa. Nếu ai thấy anh...”
- Tôi đứng lại. Anh coi đây: Tôi để các lương thực ở đây. Hãy ăn trong khi tôi nói - và ông ta đặt cái gói trên tảng đá lớn và mở nó ra. Rồi ông ta tránh ra mấy mét trong khi người cùi tiến lại vồ lấy bữa tiệc khác thường.
- Ôi! qúa lâu tôi không được thưởng thức! Ngon qúa chừng! Anh nghĩ coi: Tôi đã sắp đi nghỉ với bao tử rỗng. Hôm nay không có người nào thương... Và anh cũng không... Tôi đã nhai các cây cải
143
dại...
- Abel tội nghiệp! Tôi đã nghĩ tới đó, nhưng tôi nói: “Không sao, bây giờ anh buồn, nhưng rồi anh sẽ sung sướng!”
- Sung sướng, đúng, với đồ ăn này. Nhưng sau đó...
- Không, anh sẽ sung sướng mãi mãi!
Người cùi lắc đầu.
- Anh nghĩ coi Abel: Nếu anh có đức tin, anh sẽ sung sướng!
- Nhưng tin vào ai?
- Vào vị rabbi, vào vị rabbi đã chữa tôi!
- Nhưng tôi cùi tới giai đoạn sau cùng. Làm sao Người có thể chữa tôi?
- Ôi! Người có thể. Người là Thánh.
- Đúng. Êlisê cũng đã chữa người cùi Naaman... tôi biết... Nhưng tôi, tôi không thể đi tới Giođan.
- Anh sẽ được khỏi mà không cần tới nước. Nghe đây: Vị rabbi này là Đấng Messi. Anh hiểu không? Đấng Messi! Đó là Con Thiên Chúa. Người chữa tất cả những ai có lòng tin. Người nói: “Ta muốn”, là ma qủi chạy trốn, các chi thể phục hồi, người mù nhìn thấy.
- Ôi! Nếu tôi có đức tin, tôi! Nhưng làm sao tôi gặp được đấng Messi?
- Đây, tôi tới về việc này. Người ở đó, trong xứ đó. Tôi biết chiều nay Người ở đâu. Nếu anh muốn... Tôi, tôi đã tự bảo mình: “Tôi sẽ nói với Abel, nếu Abel có đức tin, tôi sẽ dẫn anh ta đến với Thầy”.
- Anh điên à Samuel? Nếu tôi lại gần các căn nhà, người ta sẽ ném đá tôi.
- Không. Không đi tới gần các căn nhà. Trời sắp đêm. Tôi sẽ dẫn anh tới chỗ rừng nhỏ kia, rồi tôi đi gọi Thầy, tôi sẽ dẫn Thầy đến với anh...
- Đi đi! Đi ngay lập tức đi! Tôi sẽ đi tới điểm đó bằng cách riêng của tôi. Tôi sẽ đi dưới hố, đàng sau hàng dậu cây. Còn anh, đi đi... Đi đi...Ôi ! Đi tìm Người đi, bạn thân mến! Nếu anh biết bị cái bệnh này là thế nào! Và thế nào là ước ao được khỏi!...
Người cùi không còn lo tới ăn nữa. Anh ta khóc và van lạy bạn
144
anh.
- Tôi đi. Còn anh, hãy tới - người trước có bướu lưng liền chạy đi.
Một cách khó khăn, Abel tụt xuống cái rãnh dọc theo con đường, nơi đầy những bụi cây cỏ mọc ở đáy rãnh khô, chỉ có một tia nước nhỏ chảy ở giữa rãnh. Đêm xuống trong khi kẻ khốn nạn lết giữa các bụi rậm, luôn luôn rình các người qua lại. Hai lần anh nằm sát xuống đáy rãnh: Lần thứ nhất là một người cỡi ngựa đi nước kiệu trên con vật, lần thứ hai là ba người chở cỏ về trong xứ. Rồi anh tiếp tục.
Nhưng Giêsu và Samuel đã đến khu rừng nhỏ trước anh ta: “Anh ta sắp đến. Anh đi rất chậm, vì vết thương. Xin Thầy kiên nhẫn!”
- Thầy đâu có gấp.
- Thầy sẽ chữa anh ta?
- Anh ta có tin không?
- Ôi! Anh hầu chết đói. Anh thấy các đồ ăn này sau bao năm không có, nhưng anh để lại đó hết sau khi mới ăn vài miếng, để chạy tới đây.
- Làm sao con biết anh ta?
- Thầy biết... Con sống bằng của bố thí từ khi con bệnh. Con đi khắp các đường để di chuyển từ nơi nọ tới nơi kia. Mỗi tuần con đi qua đây một lần và con gặp gỡ kẻ khốn nạn này... Một bữa vì qúa đói, anh đi dưới cơn giông mạnh đến cỡ làm cho chó sói cũng phải chạy, cho tới con đường dẫn về khu dân cư, mong kiếm được cái gì. Anh bới các đống rác giống như con chó. Con có trong bị của con một ít bánh khô mà vài người đã thương cho con, con chia sẻ với anh. Từ đó chúng con trở nên bạn. Và mỗi tuần con đến để cho lương thực anh với những gì con có. Nếu con có nhiều thì con cho nhiều, có ít thì cho ít. Con làm tựa như con là anh em với anh ta. Từ buổi chiều mà Thầy chữa con, xin chúc tụng Thầy, là con nghĩ tới anh ta... và tới Thầy.
- Con tốt, Samuel. Vì vậy ơn phúc đã viếng thăm con. Ai yêu thì
145
được tất cả nơi Thiên Chúa. Nhưng kìa, có cái gì ở trong bụi rậm...
- Có phải anh không Abel?
- Đúng tôi đây.
- Tới đi. Thầy chờ ở đây, dưới cây hồ đào.
Người cùi ra khỏi rãnh và lên bờ, tiến vào một đồng cỏ. Giêsu tựa vào một cây hồ đào rất cao để chờ anh.
- Lạy Thầy! Lạy Đấng Messi! Lạy đấng Thánh! Xin thương con! - Và anh ta nằm rạp trong cỏ, tại chân Giêsu. Mặt áp xuống đất, anh còn nói: “Ôi! Lạy Chúa con, nếu Ngài muốn, Ngài có thể thanh tẩy con!” Rồi anh ta dám qùi lên, giơ đôi tay xương xẩu, bàn tay cong queo, và giơ ra khuôn mặt lòi xương, hoàn toàn bị hủy hoại... Các giọt nước mắt chảy ra từ tròng mắt bệnh hoạn mà bệnh cùi đã ăn mòn.
Giêsu nhìn anh với bao tình thương. Người nhìn con ma mà căn bệnh khủng khiếp đã rúc rỉa. Chỉ có một tình thương thực sự mới có thể chịu đựng sự gần gũi, vì nó ghê tởm và hôi thối.
Đây, Giêsu giơ tay, bàn tay phải xinh đẹp và lành mạnh như để vuốt ve kẻ khốn nạn. Anh này không đứng lên, nhưng anh giật ra phía sau, ngồi trên gót chân và kêu: “Đừng động tới con, nhưng xin thương con!”
Nhưng Giêsu bước tới một bước, trịnh trọng, như thở ra lòng tốt êm đềm. Người đặt các ngón tay trên cái đầu bị bệnh cùi rúc rỉa và nói lớn bằng giọng nói chỉ là Tình Yêu, nhưng đầy uy quyền: “Ta muốn. Hãy nên sạch”. Bàn tay còn để trên cái đầu khốn khổ vài phút nữa. Rồi: “Hãy đứng dậy. Hãy đi tìm thầy cả, làm tròn những điều Luật qui định. Đừng nói ra những điều Thầy đã làm cho con. Hãy chỉ sống tốt và đừng bao giờ phạm tội nữa. Thầy chúc lành cho con”.
- Ôi! Chúa ơi! Nhưng Abel! Anh hoàn toàn khỏi rồi! - Samuel thấy bạn anh biến dạng và kêu lên vui mừng.
- Ừ, anh ta lành mạnh rồi. Đức tin của anh đã cho anh đáng được. Chào. Bình an cho con.
- Thầy! Thầy! Thầy! Con không thể rời Thầy! Con không thể rời
146
xa Thầy nữa!
- Hãy làm điều luật dạy, rồi chúng ta sẽ còn gặp nhau, để phúc lành của Thầy ở trên con lần thứ hai.
Giêsu bỏ đi khi làm hiệu cho Samuel ở lại. Hai người bạn khóc vì vui trong khi họ trở về hang dưới ánh sáng của mặt trăng mới chỉ có một góc, để nghỉ một lần chót trong cái hang bất hạnh.
Chấm dứt thị kiến.
27* NGƯỜI BẠI LIỆT ĐƯỢC CHỮA TRONG
NHÀ PHÊRÔ TẠI CAPHANAUM
Cùng là ngày 9-11-1944, ngay sau đó:
Tôi thấy bờ hồ Gênêsarét, và tôi thấy các thuyền đánh cá đã kéo lên bờ. Phêrô và Andrê ngồi tựa vào thuyền, đang lo sửa sang các lưới mà các người làm phụ mang tới cho họ, còn rối rít, sau khi họ đã rũ sạch dưới hồ những thứ dính vào đó. Cách đó khoảng chục mét, Gioan và Giacôbê đang cúi xuống trên thuyền của họ, lo xếp đặt mọi thứ cho ngăn nắp, được giúp đỡ bởi một cậu con trai và một người đàn ông trạc năm mươi hay năm lăm mà tôi nghĩ đó là Zêbêđê, vì đứa con trai gọi ông là “ông chủ”, và ông ta rất giống Giacôbê.
Phêrô và Andrê tựa vai vào thuyền, làm việc lặng lẽ, sửa lại các mắt lưới và buộc lại các phao cho đúng chỗ. Thỉnh thoảng họ mới trao đổi vài lời về công việc của họ mà tôi hiểu là không có kết qủa.
Phêrô không phàn nàn vì túi tiền bị rỗng cũng như sự mệt mỏi vô ích, nhưng ông nói: “Tôi không thích như vầy... vì làm sao chúng ta có đồ ăn cho những kẻ tội nghiệp này? Chúng ta chỉ nhận được rất hiếm các của dâng cúng. Mười đồng đó cùng với bảy đồng chúng ta nhận được trong bốn ngày qua, tôi không đụng tới. Chỉ có Thầy mới có thể bảo chúng ta phải cho ai tiền này. Nhưng Người, Người không trở lại trước ngày Sabát. Nếu chúng ta bắt được nhiều cá... Những cá nhỏ, tôi sẽ nấu cho những người nghèo này ăn. Nếu có ai trong nhà cằn nhằn thì chẳng ăn thua gì đối với tôi. Những
147
người khỏe có thể đi kiếm đồ ăn, nhưng những người bệnh!...”
- Người bại liệt đó... Với lại họ đã đi đường từ rất xa để đem ông ta tới đây... - Andrê nói.
- Nghe này chú: Tôi, tôi nghĩ... Người ta có thể xa nhau, nhưng tôi không hiểu tại sao Thầy không muốn có chúng ta luôn luôn ở với Người. Ít nhất như vậy... tôi sẽ không còn phải thấy những kẻ khổ sở mà tôi không thể cứu giúp. Và nếu tôi thấy họ thì tôi có thể nói với họ: “Người ở đây”.
- Thầy đây! - Giêsu lại gần, đi rất êm nhẹ trên cát ẩm.
Phêrô và Andrê giật nảy. Họ bật ra tiếng kêu: “Ôi! Thầy!” Và họ gọi: “Giacôbê! Gioan! Thầy đây này! Tới mau!”
Hai người liền chạy lại, và tất cả đều vây lấy Giêsu. Kẻ thì hôn áo, người thì hôn tay. Gioan thì tới cỡ quàng tay quanh thắt lưng Người, tựa đầu vào ngực Người. Giêsu hôn lên tóc ông.
- Các con nói chuyện gì vậy?
- Thưa Thầy... Chúng con nói rằng chúng con rất muốn có Thầy ở đây.
- Tại sao vậy các bạn?
- Để thấy Thầy và thưởng thức niềm vui được thấy Thầy. Rồi cũng vì những người nghèo và bệnh. Họ chờ Thầy từ hai ngày rồi và còn hơn nữa... Con đã làm những gì con có thể. Con để họ ở kia, Thầy thấy, trong cái lều, ở chỗ ruộng hoang. Ở đó các người thợ sửa chữa thuyền bè. Con để ở trong đó một người bại liệt, một người bị sốt nặng, một đứa trẻ sắp chết trong lòng mẹ. Con không thể bảo họ đi tìm Thầy.
- Con đã làm rất đúng. Nhưng làm sao con có thể trợ giúp họ và những người mang họ tới? Con đã bảo Thầy là họ nghèo!
- Chắc chắn rồi Thầy. Người giầu thì có xe cộ lừa ngựa, người nghèo thì chỉ có đôi chân, mà chúng lại ở trong tình trạng qúa xấu nên làm sao có thể đi kiếm Thầy! Con đã làm như con có thể. Thầy coi: Đây là của bố thí mà con nhận được. Con không hề đụng tới. Bây giờ Thầy lo về nó.
- Phêrô, con có thể tự ý để cho đi. Chắc chắn rồi... Phêrô của
148
Thầy. Thầy thấy đau lòng vì tại Thầy mà con bị rầy và mệt mỏi.
- Chúa ơi, không, Thầy đừng đau lòng vì vậy. Con, con không khổ vì việc đó. Con chỉ khổ vì không thể có nhiều bác ái hơn. Nhưng Thầy hãy tin con, con đã làm, tất cả chúng con đã làm hết những gì chúng con có thể.
- Thầy biết. Thầy biết con đã làm việc mà không kiếm được gì. Nhưng dù thiếu đồ ăn, đức bác ái của con vẫn còn: Sống động, linh hoạt, thánh thiện trước mắt Thiên Chúa.
Các trẻ em liền chạy tới kêu: “Thầy! Thầy! Giêsu đây rồi! Giêsu đây rồi!” Và chúng bám vào Người. Người vuốt ve chúng trong khi nói chuyện với các môn đệ.
- Simon, Thầy vào nhà con. Con và các con khác, hãy đi nói rằng Thầy đã tới, rồi dẫn các bệnh nhân tới cho Thầy.
Các môn đệ mau lẹ chạy đi nhiều ngả. Nhưng từ lúc Giêsu tới, cả Caphanaum đều biết, nhờ những đứa trẻ giống như bầy ong từ tổ bay ra để tới các bông hoa, là các nhà, các phố, công trường. Chúng đi về, vui vẻ hí hửng, mang tin cho các bà mẹ, cho kẻ qua đường, các người già đang ngồi dưới mặt trời, rồi chúng trở lại để được vuốt ve nữa bởi đấng yêu chúng. Một đứa trong bọn chúng táo bạo nói: “Giêsu, hôm nay nói với chúng con, nói cho chúng con. Chúng con rất yêu Thầy. Thầy biết, chúng con tốt hơn người lớn”.
Giêsu mỉm cười với nhà tâm lý học tí hon và hứa: “Thầy sẽ nói hoàn toàn cho các con”. Và được bám sát bởi các trẻ, người bước vào nhà và chào với lời chào bình an của Người: “Bình an cho nhà này”.
Người ta chạy tới căn nhà ở phía sau, nơi để lưới, giây nhợ, thúng rổ, mái chèo, cánh buồm, mọi đồ nhật dụng. Ta thấy là Phêrô đã chuẩn bị nó sẵn sàng cho Giêsu. Ông đã chất hết vào một góc để có chỗ. Từ đây người ta không nhìn thấy cái hồ, chỉ nghe thấy tiếng vỗ nhẹ của sóng. Nhưng trái lại, người ta thấy bức tường nhỏ xanh của khu vườn với cây nho già và cây sung rậm lá. Có người đứng tới tận ngoài đường, đầy tràn căn nhà ra tới vườn, và cả ở bên kia đường.
149
Giêsu bắt đầu nói. Ở hàng đầu là những kẻ đã đòi chỗ với vẻ hách dịch, nhờ sự sợ sệt họ gây ra cho dân: Năm vị tai to mặt lớn. Áo khoác rộng thùng thình của họ, y phục sang trọng và sự kiêu hãnh của họ, tất cả đều chứng tỏ họ là các pharisiêu và tiến sỹ. Nhưng Giêsu giữ chung quanh Người các trẻ em: Một chiếc triều thiên các khuôn mặt thơ ngây, mắt sáng, nụ cười thiên thần, ngửa lên để chiêm ngắm Người. Giêsu nói, trong khi vẫn thỉnh thoảng vuốt ve cái đầu tóc quăn của một đứa bé ngồi ở chân Người, tay khoanh, tựa đầu vào đầu gối Người. Người ngồi trên đống lớn của lưới và đồ đạc để nói:
- Người yêu của ta đã vào trong vườn của Người, vùng đất thơm tho, để no thỏa giữa vườn và hái các bông huệ... Người no thỏa giữa các bông huệ - Đó là lời của Salômôn, con của Đavít mà thầy là hậu duệ. Thầy: Đấng Messi của Israel.
Khu vườn của Thầy! Còn khu vười nào đẹp hơn và xứng đáng hơn với Chúa Trời bằng khu vườn mà các bông hoa là các thiên thần mà Người đã tạo dựng? Nhưng không, người con duy nhất của Chúa Cha, cũng là người con của loài người tìm một khu vườn khác, bởi chính vì loài người mà Thầy mặc lấy xác thịt, không có nó thì Thầy không thể chuộc các tội của xác thịt loài người. Khu vườn này có thể chỉ hơi ở bên dưới khu vườn trên Trời, nếu từ Thiên Đàng dưới đất, chỉ lan tràn ra như các con ong êm đềm ra khỏi tổ, các con cái của Ađam: con cái của Thiên Chúa, để làm đầy mặt đất bằng một dân Thánh, tất cả đều được tiền định để về Trời. Nhưng kẻ thù đã gieo gai góc vào con tim Ađam, và từ đó, gai góc lan tràn ra trên trái đất. Nó không còn là khu vườn, nhưng là cánh rừng hoang và độc ác, đầy nóng sốt và là nơi trú ẩn của rắn rết.
Nhưng Người Yêu của Chúa Cha còn có một khu vườn khác tại nơi mà ma qủi hoành hành là trái đất, khu vườn mà Người đến để no thỏa bằng lương thực Thiên Quốc của Người: Tình Yêu và sự Trong Trắng; mảnh đất mà Người đến hái các bông hoa qúi báu nhất của Người, những bông hoa không có dấu vết dâm ô, thèm khát, kiêu căng: những đứa trẻ này (và Giêsu vuốt ve bao nhiêu
150
đứa bé mà người có thể, đưa bàn tay trên cái triều thiên của những cái đầu nhỏ chăm chú, mỗi đầu chỉ một cái vuốt là làm chúng mỉm cười sung sướng), đây là các bông huệ của Thầy.
Salômôn, giữa những giầu sang của ông, cũng không có một cái áo đẹp hơn bông huệ tỏa hương thơm nơi thung lũng, cũng không có vương miện nào đẹp hơn, siêu vật chất hơn và tươi sáng hơn bông huệ với cái vành hoa mầu ngọc trai của chúng. Nhưng đối với qủa tim Thầy, không có bông huệ nào giá trị bằng một trong những trẻ nhỏ này. Không có mảnh đất nào, khu vườn nào, dù trồng toàn là huệ mà đáng giá như dù chỉ một trong những đứa bé trong sạch, thơ ngây, chân thành này.
Ôi! hỡi qúi ông qúi bà của Israel! Ôi! hỡi các con, lớn tuổi và khiêm tốn về gia sản và địa vị, hãy nghe: Các con tới đây để biết Thầy và yêu Thầy, vậy hãy biết đến điều tiên quyết để thuộc về Thầy. Thầy không nói với các con những lời khó hiểu, Thầy càng không cho các con những gương mẫu khó theo. Thầy bảo các con: “Hãy noi gương những đứa bé này”.
Ai trong các con không có một đứa con, một đứa cháu, một đứa em còn nhỏ, còn bé tí trong nhà. Nó chẳng phải là sự nghỉ ngơi, bồi dưỡng, là sợi giây liên kết vợ chồng, cha mẹ, bạn bè; một trong những trẻ thơ mà linh hồn trong trắng như một bình minh rạng rỡ, khuôn mặt làm tan mây mù và làm phát sinh hy vọng, mà sự vuốt ve làm khô nước mắt và tràn ra sinh lực sao? Tại sao trong chúng có một uy quyền như vậy? Trong chúng, yếu đuối, không khí giới, còn vô tri? Bởi vì trong chúng có Thiên Chúa, chúng có sức mạnh của sự khôn ngoan Thiên Chúa, sự khôn ngoan thực: Chúng biết Yêu và Tin; chúng biết Tin và Muốn, chúng biết sống trong Tình Yêu này và Đức Tin này. Hãy bắt chước chúng: đơn sơ, trong sạch, yêu mến, chân thành, tin tưởng.
Trong Israel không có sự khôn ngoan nào lớn hơn đứa bé nhất trong những đứa này. Tâm hồn nó thuộc về Thiên Chúa, và Nước của Người thuộc về nó. Chúng được Chúa Cha chúc phúc, được Chúa Con yêu thương, là hoa trong vườn của Thầy. Nguyện bình an
151
của Thầy ở trên các con và trên những người bắt chước các con vì tình yêu Thầy.
Giêsu đã chấm dứt.
- Thưa Thầy - Phêrô kêu lên ở giữa đám đông, “ở đây có những người bệnh. Hai người có thể chờ Thầy ra, nhưng ông này bị đám đông cản... mà ông ta lại không thể đứng lên, và chúng con thì không thể đi qua. Con có phải cho họ về không?”
- Không, hãy thả ông xuống từ trên mái.
- Được, chúng con sẽ làm vậy ngay.
Người ta nghe thấy những bước chân trên mái của căn nhà không thuộc về căn nhà chính, không có sân thượng bằng xi- măng, nhưng được làm bằng gỗ, và trên đó lợp bằng những phiến giống như các miếng ngói bằng đá đen, tôi không biết cái này là đá gì. Họ mở ra một lỗ, và với các sợi giây, họ thả cái chõng có người tê bại xuống, họ thả ngay được trước mặt Giêsu. Đám đông càng chen chúc lại hơn để coi cho rõ.
- Con có đức tin cũng lớn như các kẻ mang con.
- Ôi! Lạy Chúa! Sao lại không tin vào Thầy?
- Tốt. Vậy Thầy bảo con (người đó còn rất trẻ): “Mọi tội con đều được tha”.
Người bại liệt nhìn Người và khóc. Có lẽ anh ta không hài lòng, vì anh ta hy vọng được chữa lành thân xác. Các pharisiêu và tiến sỹ xì xèo với nhau. Họ làm những dấu hiệu khinh bỉ bằng mũi, trán, miệng.
- Tại sao các ông lẩm bẩm trong lòng, và hơn nữa, cả trên môi. Theo các ông thì đàng nào dễ hơn để nói với người bại liệt: “Các tội con đã được tha”, hay “hãy chỗi dậy, vác chõng mà đi”. Các ông nghĩ rằng chỉ mình Thiên Chúa có thể tha tội, nhưng các ông không biết trả lời cho điều lớn hơn, vì người này đã mất khả năng sử dụng các chi thể của thân xác, đã tiêu hết gia tài mà không ai có thể chữa cho anh, vì chỉ có mình Thiên Chúa có quyền này. Vậy để các ông biết rằng tôi có thể tất cả, để các ông biết rằng Con Người có quyền trên thân xác cũng như tâm hồn, tôi nói với người này: “Hãy
152
chỗi dậy, mang chõng của con và hãy đi. Hãy về nhà con và hãy thánh”.
Người đó có một co giật, phát ra một tiếng kêu, đứng dậy, qùi dưới chân Giêsu, hôn và vuốt ve chân Người, vừa khóc vừa cười, và cùng với anh là cha mẹ anh và đám đông. Rồi họ tránh chỗ cho anh đi qua như kẻ chiến thắng, họ đi theo anh để chúc mừng anh.
Đám đông thì vậy, nhưng năm kẻ kiêu căng thì không. Họ ngạo nghễ ra đi, cứng ngắc như cây cột.
Với cách này, bà mẹ với đứa con nhỏ còn bú có thể tới. Đứa bé tuyệt đối chỉ có xương. Bà giơ nó ra cho Giêsu và chỉ nói: “Giêsu, Thầy yêu những đứa trẻ này, Thầy đã nói vậy. Nhân danh Tình Yêu của Thầy và của Mẹ Thầy...” và bà khóc.
Giêsu ẵm lấy đứa bé thực tình sắp chết, ôm ghì vào ngực Người, Người giữ nó một lát, ép miệng Người vào khuôn mặt nhỏ có đôi môi tím, mu mắt đã nhắm. Người giữ như vậy một lát... và khi Người rời nó ra khỏi bộ râu hoe vàng của Người, thì khuôn mặt nhỏ trở nên hồng hào, cái miệng nhỏ nhoẻn một nụ cười trẻ thơ, đôi mắt nhìn khắp chung quanh, sống động và tò mò. Đôi bàn tay lúc trước co rụt, giơ ra chơi với tóc và râu của Giêsu trong khi cười.
- Ôi! Con trai tôi! - bà mẹ kêu lên sung sướng.
- Bà ẵm lấy nó đi. Hãy sung sướng và tốt.
Người đàn bà ẵm lấy đứa bé đã trở về với sự sống, ôm ghì nó vào lòng. Và đứa bé lập tức đòi quyền được của ăn. Nó moi móc, mở vú mẹ ra và mút cách sung sướng.
Giêsu chúc lành và đi qua. Người ra tới cửa thì gặp người bị bệnh sốt.
- Lạy Thầy! Xin nhân từ!
- Con cũng vậy, hãy sống công chính với sức mạnh tìm lại được. Người vuốt ve ông và đi ra.
Người ra ngoài bãi. Rất nhiều người đi trước và theo sau Người, chúc tụng và năn nỉ: “Chúng con không được nghe Thầy, chúng con không thể vào. Xin Thầy cũng nói với chúng con”.
Giêsu làm dấu hiệu ưng thuận, nhưng vì đám đông chèn ép Người,
153
Người liền bước lên thuyền của Phêrô. Nhưng không được, người ta theo tới sát mạn thuyền: “Hãy chèo ra hơi xa một chút”.
Thị kiến chấm dứt.
28* MẺ CÁ LẠ LÙNG
Thị kiến trên tiếp tục bằng những lời của Chúa Giêsu:
- Khi mùa xuân đến với muôn hoa, người nông dân thỏa lòng và nói: “Sẽ có nhiều trái cây”. Hy vọng này làm cho con tim họ hoan hỉ. Nhưng từ mùa xuân tới mùa thu, từ tháng hoa nở đến khi trái chín, còn bao nhiêu ngày, bao nhiêu gió, mưa, mặt trời cũng như gió lốc sẽ đi qua. Rồi chiến tranh, sự độc ác của các kẻ mạnh, và bệnh tật của cây cối. Rồi nếu người nông dân cũng bị bệnh, vậy là lúc đó cây cối không còn được đánh luống, vun gốc, tưới bón, chống cọc, dẫy cỏ nữa, và chúng hoặc chết, hoặc mất mùa.
Các con theo Thầy, các con yêu Thầy, các con giống như các cây trong mùa xuân, các con được trang điểm bằng những ý hướng tốt, những tình cảm yêu thương. Thực sự Israel đang ở trong bình minh của việc tông đồ của Thầy, giống như đồng quê êm đẹp của chúng ta dưới ánh sáng của tháng Nisan. Nhưng hãy nghe: Giống như cây bị khô héo, các con sẽ thấy Satan đến làm khô héo các con bằng hơi thở thù ghét của nó. Rồi thế giới với gió băng giá của nó sẽ làm băng giá các bông hoa của các con. Sẽ xảy tới những cơn lốc của đam mê, và sự chán ngán như những cơn mưa giai giẳng. Tất cả các kẻ thù của Thầy và của các con sẽ đến làm hư hết những trái của những ước muốn đã nở hoa trong Thiên Chúa.
Thầy báo trước những điều đó cho các con, vì Thầy biết. Nhưng có phải như vậy là mất hết, khi Thầy giống như người nông dân bị bệnh, và còn hơn nữa, là chết, thầy không còn có thể cho các con các lời và các phép lạ không? Không. Thầy gieo và Thầy vun bón bao lâu còn là giờ của Thầy, rồi đến các con sẽ là sự tăng trưởng và
154
chín, nếu các con canh chừng.
Hãy nhìn cây sung của nhà Simon Jonas. Người trồng nó đã không tìm được nơi thuận lợi. Bị trồng ở gần một bức tường ẩm ở phía bắc, nó đã chết nếu nó không biết tự vệ, nếu nó không muốn tự vệ để sống. Nó đã tìm mặt trời và ánh sáng. Các con coi: nó gù xuống, nhưng vững chắc và hiên ngang, uống ánh mặt trời từ buổi sáng sớm để kiến tạo tinh chất cho hàng trăm, hàng trăm và hàng trăm trái ngon ngọt của nó. Nó đã tự vệ một mình. Nó đã nói: “Tạo Hóa muốn tôi tặng cho con người niềm vui và lương thực, tôi muốn kết hợp ước muốn của tôi với của Người!” Một cây sung! Một cây câm lặng! Không linh hồn! Còn các con! Con Thiên Chúa, con loài người, mà các con lại ở bên dưới cái cây này sao?
Hãy canh chừng để sinh các trái cho sự sống đời đời. Thầy chăm bón các con, và sau cùng, Thầy sẽ cho các con một thứ nước cốt mà một uy quyền mạnh mẽ nhất cũng không thể có. Không. Đừng để cho Satan cười nhạo trên sự đổ nát của công việc của Thầy và Hy Sinh của Thầy, cũng như trên tâm hồn các con. Hãy tìm Ánh Sáng. Hãy tìm Mặt Trời. Hãy tìm Sức mạnh. Hãy tìm Sự Sống. Thầy là Sự Sống, Sức Mạnh, Mặt Trời, Ánh Sáng của kẻ biết yêu. Thầy ở đây để dẫn các con tới nơi mà từ đó Thầy đã tới. Thầy nói ở đây để kêu gọi tất cả các con và chỉ cho các con Lề Luật của Thập Giới là luật ban sự sống đời đời. Thầy cho các con huấn lệnh này của Tình Yêu: Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân. Đó là điều kiện tiên quyết để làm tròn mọi sự lành khác. Giới răn thánh thiện nhất của Thập Giới là Hãy Yêu. Những kẻ yêu trong Thiên Chúa, những kẻ yêu Thiên Chúa thì Thiên Chúa là Chúa của họ. Ở dưới đất cũng như trên Trời, họ sẽ có Bình An làm lều trú và triều thiên của họ.
Người ta tiếc xót bỏ đi sau phép lành của Giêsu. Không có người bệnh cũng như người nghèo.
Giêsu nói với Phêrô: “Hãy gọi hai người kia. Chúng ta ra hồ thả lưới”.
- Thưa Thầy, con hầu gẫy tay vì thả và kéo lưới suốt đêm mà chẳng được gì. Cá nó lặn xuống đáy sâu hay ở đâu chẳng biết.
- Phêrô, hãy làm điều Thầy nói. Hãy luôn luôn nghe đấng yêu
155
con.
- Con sẽ làm điều Thầy nói vì kính trọng lời Thầy - Rồi ông lớn tiếng gọi các người phụ việc và cả Giacôbê và Gioan: “Chúng ta đi đánh cá. Thầy muốn”. Trong khi họ chèo ra, ông nói với Giêsu: “Nhưng con bảo đảm với Thầy rằng đây không phải là giờ thuận lợi. Vào lúc này không ai biết cá nó ngủ ở đâu”.
Giêsu ngồi ở mũi thuyền, mỉm cười và nín thinh.
Họ bơi một vòng cung trên hồ, rồi thả lưới. Họ chờ ít phút, rồi chiếc thuyền nhúc nhích cách kỳ lạ, dù là mặt trời đã lên cao trên chân trời, và mặt hồ láng như tấm gương lỏng.
- Nhưng Thầy ơi! Đây là cá! - Phêrô nói, trợn tròn đôi mắt.
Giêsu lại mỉm cười và nín thinh.
- Kéo lên! Kéo lên! - Phêrô ra lệnh cho các người phụ việc. Nhưng chiếc thuyền nghiêng về phía có lưới: “Ôhé! Giacôbê! Gioan! Mau tới đây! Chèo đi! Lẹ lên!”
Họ sát tới. Và sự cố gắng của mọi người đã thành công kéo được lưới lên mà không làm hư cá. Các thuyền hướng về bãi. Chiếc nọ kề sát chiếc kia. Được một, hai, năm, mười rổ rồi, tất cả đều đầy kinh ngạc, mà vẫn còn ứa cá giẫy tê tê trong lưới: cá bạc, cá vàng sống, vùng vẫy để thoát chết. Lúc đó chỉ còn cách bỏ vào đáy thuyền số cá còn lại trong lưới. Họ làm như vậy, và tất cả là một sự lao xao của các đời sống đang hấp hối. Các ngư phủ ngụp chân trong sự đầy tràn này lên tới bên trên mắt cá, và các chiếc thuyền bị nhận chìm xuống tới bên dưới lằn nổi vì qúa tải.
- Vô bờ! Bẻ quẹo đi! Kéo buồm phụ! Cẩn thận chạm đáy! Chuẩn bị cây sào kẻo bị đụng mạnh! Qúa nặng!
Bao lâu còn bận việc vận hành, Phêrô không suy nghĩ. Nhưng khi đã lên bờ, ông mở mắt ra và hiểu. Ông hoàn toàn sợ hãi: “Lạy Thầy! Lạy Chúa! Xin tránh xa con! Con là kẻ tội lỗi. Con không đáng ở bên cạnh Ngài!” Ông qùi gối trên bãi ướt.
Giêsu nhìn ông và mỉm cười: “Đứng dậy đi, và hãy theo Thầy. Thầy sẽ không buông con nữa. Từ nay con sẽ là kẻ chài người, và các bạn con đây cùng với con. Đừng sợ gì nữa. Thầy gọi các con.
156
Hãy tới”.
- Lạy Chúa! Ngay lập tức. Qúi vị, những người khác, hãy lo việc thuyền bè, và mang cá về cho Zêbêđê và em rể tôi. Chúng ta đi! Tất cả cho Thầy, Giêsu. Nguyện Đấng Hằng Hữu được chúc tụng vì sự lựa chọn này.
Thị kiến chấm dứt.
29* ISCARIOT TÌM THẤY GIÊSU TẠI GÉTSÊMANI.
NGƯỜI NHẬN ÔNG LÀM MÔN ĐỆ
Tôi thấy Giêsu trong buổi sau trưa... dưới những cây oliu... Người ngồi ở một bờ dốc trong kiểu cách thông thường: khửu tay chống vào đầu gối, hai cánh tay trước đưa ra đàng trước và nắm vào nhau. Đêm sắp về, ánh sáng càng lúc càng giảm dưới những tàn lá oliu. Giêsu có một mình. Người đã cởi áo khoác, tựa như Người nóng nực, và áo trắng của người nổi lên trên mầu xanh mà hoàng hôn làm cho thành tối.
Một người đang xuống dốc giữa các cây oliu, tựa như ông ta tìm ai hay vật gì. Ông ta cao lớn, y phục mầu tươi: một mầu vàng hơi hồng ló ra khỏi cái áo khoác trang điểm đầy những tua rua phất phới. Tôi không nhìn rõ mặt ông, vì ánh sáng mờ và khoảng cách khá xa, và cũng vì ông đội nón áo khoác thấp xuống dưới trán. Khi ông thấy Giêsu, ông làm một cử chỉ như muốn nói: “Người đây rồi”, và ông nhấn bước. Tới chỗ còn cách Người vài mét nữa, ông chào: “Chào Thầy”.
Giêsu thình lình ngẩng đầu lên, vì người đó đến gần Người ở phía trên sườn dốc. Giêsu nhìn ông cách nghiêm trang, tôi có thể nói là buồn. Ông kia nhắc lại: “Con chào Thầy. Con là Judas Kêriot, Thầy không nhận ra con à? Thầy không nhớ à?”
- Thầy nhớ và Thầy nhận ra con. Con là người đã nói với Thầy cùng với Tôma dịp lễ Vượt Qua vừa rồi.
- Và là người Thầy đã bảo: “Hãy suy nghĩ và quyết định trước
157
khi Thầy trở lại”. Điều đó đã được quyết định. Con đến.
- Judas, tại sao con đến? - Giêsu thực sự buồn.
- Bởi vì... Con đã nói lý do với Thầy lần trước. Bởi vì con mơ Vương Quốc Israel, và con thấy Thầy là ông Vua của nó!
- Vì vậy mà con tới?
- Vì vậy. Con tự đặt mình và tất cả những gì con có thể: khả năng, sự hiểu biết, tình bạn, sự mệt mỏi, để phục vụ Thầy và phục vụ sứ mạng của Thầy, để tái thiết Israel.
Bây giờ hai người đối diện, người nọ gần người kia, đứng, và nhìn nhau đăm đăm. Giêsu nghiêm trang tới nỗi có vẻ buồn. Ông kia lạc hồn vào giấc mộng, mỉm cười, đẹp trai, trưởng thành, nhẹ nhõm và đầy tham vọng.
- Thầy, Thầy không tìm con đâu Judas.
- Con nhận thấy. Nhưng con, con tìm Thầy. Từ bao nhiêu ngày rồi, con cho người tới các cổng để báo cho con khi Thầy tới. Con nghĩ Thầy sẽ đến với các môn đệ, và bởi vậy họ sẽ dễ dàng nhận ra Thầy. Nhưng... Con hiểu rằng Thầy ở vùng này, vì có một nhóm người hành hương chúc phúc Thầy vì đã chữa một người bệnh, nhưng không ai biết rõ Thầy ở đâu. Rồi con nhớ tới chỗ này, và con tới. Nếu con không tìm thấy Thầy ở đây, con sẽ bỏ cuộc, không tìm Thầy nữa.
- Con nghĩ đây là điều tốt cho con vì đã tìm thấy Thầy?
- Vâng. Vì con tìm Thầy, con mong ước Thầy, con muốn Thầy.
- Tại sao? Tại sao con lại tìm Thầy?
- Nhưng... Con nói với Thầy rồi mà! Thầy không hiểu con à?
- Thầy hiểu con. Phải, Thầy hiểu con. Nhưng Thầy cũng muốn rằng con hiểu Thầy trước khi theo Thầy. Nào, chúng ta sẽ nói với nhau trong khi bách bộ - và Người bắt đầu bước, người nọ bên cạnh người kia, đi xuống lối băng qua vườn oliu: “Con theo Thầy vì một ý tưởng thuộc về loài người. Judas, Thầy phải khuyên can con. Thầy không đến vì điều đó”.
- Nhưng Thầy không phải là đấng được ghi dấu để làm Vua người Do Thái sao? Đấng mà các Tiên Tri đã nói. Cũng đã nổi lên những người khác, nhưng họ thiếu qúa nhiều điều, và họ đã rơi như
158
lá bay mà gió không nâng đỡ nữa. Thầy có Thiên Chúa ở với Thầy tới điểm làm được phép lạ. Thiên Chúa ở đâu thì ở đó sứ mạng được bảo đảm thành công.
- Con nói đúng. Thiên Chúa ở với Thầy. Thầy là Ngôi Lời của Người. Thầy là đấng mà các tiên tri đã nói trước, đấng đã được hứa với các tổ phụ, đấng mà muôn người trông đợi. Nhưng... Ôi! Israel! Tại sao mi mù và điếc tới nỗi không biết đọc và xem nữa; không còn biết nghe và hiểu ý nghĩa thực sự của các sự kiện. Judas ơi! Nước Thầy không thuộc về thế giới này. Hãy từ bỏ ý tưởng của con. Thầy tới đem ánh sáng và vinh quang cho Israel, nhưng không phải ánh sáng và vinh quang của trái đất. Thầy đến kêu gọi các người công chính của Israel tới Vương Quốc, vì chính bởi Israel và với Israel là nơi Thầy phải tạo nên và làm lớn mạnh Cây Sự Sống Đời Đời, mà nhựa sống sẽ là máu Chúa; một cây mà các cành sẽ vươn ra khắp trái đất cho tới tận cùng thời gian. Các môn đệ đầu tiên của Thầy sẽ là người Israel, những người đầu tiên công bố Thầy sẽ là Israel. Nhưng cả những kẻ bách hại Thầy cũng là Israel, các lý hình của Thầy cũng Israel, và kẻ phản bội Thầy cũng Israel!
- Thầy ơi! Không. Không bao giờ như vậy. Nếu mọi người đều phản bội Thầy, con vẫn ở lại với Thầy và con sẽ bảo vệ Thầy.
- Con, Judas! Con dựa vào cái gì để bảo đảm điều đó?
- Vào danh dự của con.
- Đó là cái gì mong manh hơn cái màng nhện. Judas ơi! Chính nơi Thiên Chúa là đấng ta phải cầu xin sức mạnh để thật thà và trung thành. Con người... con người làm công việc của loài người. Muốn hoàn thành công việc của thần trí - Vì theo Đấng Messi trong sự thật của Người và sự công chính của Người là công việc của thần trí - phải giết con người đi và sinh lại nó. Con có khả năng làm như vậy không?
- Được Thầy... Vả lại... Không phải tất cả Israel đều sẽ yêu Thầy, nhưng các lý hình và các kẻ phản bội Đấng Messi của nó thì sẽ không phải là người Israel. Nó đã chờ Thầy từ bao thế kỷ rồi!
- Sẽ như vậy. Con hãy nhớ lại các tiên tri, lời của các đấng và kết cục đời của các đấng. Thầy được tiền định để làm thất vọng rất
159
nhiều người, và con là một trong số những người đó. Judas, trước mặt con là một người hiền lành, hòa bình, nghèo khó và chỉ muốn sống nghèo. Thầy không đến để gây chiến và khuất phục, thầy không tranh giành với các người mạnh, các kẻ quyền bính hay bất cứ nước nào, uy quyền nào. Chính Satan là kẻ Thầy đến tranh dành các linh hồn với nó. Thầy đến bẻ gẫy xích xiềng của Satan bằng lửa tình yêu của Thầy. Thầy đến để giảng dạy Tình Thương, sự công chính, khiêm nhường, nhẫn nhục. Thầy nói với con và Thầy nói với mọi người: “Đừng thèm khát sự giầu sang loài người, nhưng hãy làm việc cho sự giầu sang vĩnh cửu”. Judas, hãy tỉnh ngộ, nếu con nghĩ rằng Thầy đến để toàn thắng Rôma và giới cai trị. Các Hêrôđê và các Cêsar có thể ngủ yên trong khi Thầy nói với đám đông. Thầy không đến để giật phủ việt của bất cứ ai... Và phủ việt của Thầy, phủ việt vĩnh cửu, nó đã sẵn sàng, và không có ai, ngoại trừ kẻ là tình yêu như chính Thầy, là muốn bảo vệ nó. Đi đi Judas. Và hãy suy niệm...
- Thầy xua đuổi con à?
- Thầy không xua đuổi ai, vì kẻ xua đuổi là không yêu. Nhưng Judas, hãy nói cho Thầy: Con nghĩ thế nào về tính tình của một kẻ biết rằng mình mắc bệnh hay lây, bảo một người khác không biết bệnh của mình, khi họ tới uống vào cái ly của mình rằng: “Hãy nghĩ tới điều anh làm”. Con nói ông ta ghét hay yêu?
- Con nói là ông ta yêu, vì ông ta không muốn cho kẻ kia vô tình bị hư hại sức khỏe.
- Hành động của Thầy cũng giải thích như vậy.
- Con có thể bị hư hại sức khỏe khi đến với Thầy không? Không. Không bao giờ.
- Con có thể hư hại cái còn hơn là sức khỏe nữa, vì... Hãy suy nghĩ kỹ, Judas: Kẻ sát nhân mà tưởng là mình làm đúng thì bị tội nhẹ. Nó tưởng vậy vì nó không biết sự thật. Nhưng sẽ bị xử tội cách ghê sợ, kẻ nào đã biết sự thật mà còn, chẳng những không theo, lại làm kẻ thù của sự thật.
- Con, con không như vậy. Hãy nhận con đi Thầy. Thầy không
160
thể từ chối con. Nếu Thầy là Vị Cứu Tinh, và nếu Thầy thấy rằng con tội lỗi, là con chiên lạc, một kẻ đui mù lạc xa đường công chính, thì tại sao Thầy lại từ chối cứu con? Hãy nhận con. Con sẽ theo Thầy tới chết...
- Tới chết! Đúng vậy. Điều này thì đúng. Rồi...
- Rồi sao Thầy?
- Tương lai ở trong lòng Thiên Chúa. Đi đi. Ngày mai chúng ta sẽ gặp nhau ở Cửa Cá.
- Cám ơn Thầy. Chúa ở cùng Thầy.
- Nguyện tình thương của Người cứu con.
Tất cả chấm dứt ở đây.
30* GIÊSU LÀM PHÉP LẠ CHO CÁC
LƯỠI DAO BỂ TAN TẠI CỬA CÁ
Tôi thấy Giêsu đi một mình trên con đường rợp bóng, đúng là một thung lũng nhỏ tươi mát, được tưới bón. Tôi gọi nó là thung lũng nhỏ, vì nó nằm ép giữa hai khu đất cao, và ở giữa có một dòng nước.
Nơi này thanh vắng vào giờ sớm mai. Ngày vừa chớm, một ngày đẹp và an bình của đầu mùa hè. Chỉ nghe tiếng chim ca trên cây, hầu hết là cây oliu trên đồi phía trái, trong khi đồi kia trần trụi, chỉ có những cây nhũ hương, cây xiêm gai hay dứa gai v.v. Ngoài tiếng chim ca này và tiếng gù gù buồn tẻ của chim cu rừng đang làm tổ trong các lỗ của ngọn đồi trơ trụi, ta không nghe thấy gì khác. Ngay con suối nhỏ mà nước không nhiều chảy giữa lòng suối cũng không gây tiếng động khi chảy qua. Nó phản chiếu trong dòng nước của nó các mầu xanh ở chung quanh, làm cho nó có mầu xanh đậm.
Giêsu đi qua chiếc cầu nhỏ cổ sơ: một thân cây đẽo hơi vuông đặt ngang trên dòng nước, không có lan can, không có gì để bảo vệ. Rồi Người tiếp tục con đường ở bờ bên kia.
Bây giờ người ta đã thấy các bức tường và các cổng, với những
161
người bán rau cỏ và lương thực chen chúc ở cổng còn đóng, để chờ vào thành phố. Tiếng lừa kêu, tiếng cãi cọ. Các chủ nhân cũng chẳng đùa: chửi rủa và những cái roi, không phải chỉ vụt trên lưng lừa, mà cả trên đầu người.
Hai người đàn ông hung hăng ra tay, vì con lừa của người nọ đã ăn rau xà-lát trong rổ của người kia, và nó ăn mất nhiều! Có lẽ đó chỉ là cớ để hâm lại một cuộc cãi lộn cũ. Họ liền rút ra từ trong áo những con dao ngắn và rộng như bàn tay, giống dao găm nhưng rất sắc, chúng sáng loáng dưới mặt trời. Các phụ nữ la hét, đàn ông hô hoán... Nhưng không ai can thiệp để phân rẽ hai người ra trong khi họ đang chuẩn bị một cuộc quyết đấu dã man. Giêsu đang trầm tư tiến tới. Người ngẩng đầu lên, thấy cảnh tượng, người liền bước lẹ lại giữa hai người. Người ra lệnh: “Hãy dừng lại, nhân danh Thiên Chúa”.
- Không. Tao muốn chấm dứt với con chó vô loại này.
- Tao cũng vậy. Mày cản chúng ta bằng tua áo à? Tao sẽ làm cho mày một cái tua bằng ruột của mày.
Hai người chạy vòng quanh Giêsu, đẩy Người, chửi rủa Người để Người đừng cản họ nữa. Họ tìm cách sáp lại nhau mà không được, vì Giêsu, với những cử động của áo khoác của Người, Người làm lạc hướng các nhát dao của họ và che mắt họ. Áo khoác của Người cũng bị rách. Đám đông la lên: “Tránh ra đi ông Nazarét! Hãy ra khỏi đó!” Nhưng Người không nghe, vẫn cố gắng làm cho họ bình tĩnh lại và nhắc nhở tâm trí họ nhớ tới Thiên Chúa. Vô ích! Sự giận dữ đã làm cho hai kẻ chiến đấu thành điên.
Giêsu sắp làm một phép lạ. Người ra lệnh một lần chót: “Dừng lại! Tôi truyền cho các ông”.
- Không. Hãy đi đường của mày! Con chó Nazarét!
Lúc đó Giêsu giơ tay, với diện mạo của quyền phép như lóe chớp. Người không nói lời nào, nhưng các lưỡi dao đều rơi xuống đất, bể thành từng miếng giống như mảnh kính người ta đập vào đá.
Hai người nhìn cái nắm dao ngắn còn lại trong tay họ. Sự kinh ngạc làm cho cơn giận hạ xuống. Đám đông cũng kêu lên kinh
162
ngạc.
- Bây giờ thì sao? - Giêsu hỏi cách nghiêm nghị. “Sức mạnh của các ông đâu?”
Các lính gác ở cổng chạy tới vào lúc có tiếng kêu kinh ngạc sau cùng. Họ cũng nhìn và kinh ngạc. Một người trong đám lính cúi xuống lượm các mảnh dao và thử vào móng tay, tựa như anh ta không tin là nó bằng thép.
- Bây giờ thì sao? - Giêsu nhắc lại “Sức mạnh của các ông đâu? Ở trên những mảnh kim loại này? Bây giờ nó chỉ còn là các mảnh vụn trên cát bụi. Trên những mảnh kim loại này không có sức mạnh nào khác ngoài sức mạnh của tội giận dữ chống lại anh em, nó làm cho các ông mất mọi phúc lành của Thiên Chúa, và do đó, mất hết sức mạnh. Ôi! Khốn cho những kẻ dựa vào những phương tiện của loài người để thắng. Họ không biết rằng không phải sự tàn bạo, nhưng là sự thánh thiện là cái chiến thắng trên trái đất cũng như ở đời sau, vì Thiên Chúa ở với kẻ công chính.
Tất cả, qúi vị Israel và các anh lính Rôma, hãy nghe đây. Lời Thiên Chúa nói cho hết mọi con cái loài người, vậy Con Người cũng không từ chối với dân ngoại.
Giới răn thứ hai của Chúa là giới răn Tình Yêu tha nhân. Thiên Chúa nhân từ và Người muốn có sự nhân hậu ở giữa các con cái của Người. Kẻ thiếu nhân hậu với tha nhân không thể xưng mình là con Thiên Chúa và không thể có Thiên Chúa ở với họ. Loài người không phải là con vật không biết lý lẽ, tấn công kẻ khác như mình có quyền trên con mồi. Con người có trí tuệ biết lý lẽ và có một linh hồn. Với lý lẽ, họ phải biết sống như một người, với linh hồn, họ phải biết sống thánh thiện. Kẻ không hành động như vậy là tự đặt mình ở bên dưới loài vật, và tự hạ thấp tới nỗi ôm ấp ma qủi, vì họ phó linh hồn họ cho ma qủi bởi tội thù ghét.
Hãy yêu. Thầy không nói với qúi vị điều gì khác. Hãy yêu tha nhân như Chúa là Thiên Chúa Israel muốn. Đừng có máu Cain. Tại sao qúi vị có vậy? Vì một chút tiền mà qúi vị có thể sát nhân. Những người khác thì vì một miếng đất, một địa vị tốt hơn, vì một
163
người đàn bà... Tất cả những thứ này là gì? Nó có vĩnh cửu không? Không. Nó kéo dài ít hơn đời sống, mà đời sống chỉ là giây lát của vĩnh cửu. Khi lo tìm chúng, qúi vị bị mất cái gì? Sự bình an đời đời đã được hứa cho kẻ công chính, và mất nơi mà đức Messi sẽ dẫn qúi vị cùng nhau về: Nước của Người. Hãy đến trên đường chân lý. Hãy nghe theo tiếng gọi của Thiên Chúa. Hãy yêu nhau. Hãy thật thà. Hãy kiên trì. Hãy khiêm nhường và công chính. Hãy đi và hãy suy niệm”.
- Ngài là ai mà nói những lời như vậy? Và với ý muốn là bẻ gẫy được dao kiếm? Một người duy nhất có thể làm được những điều này là Đức Messi. Ngay Gioan cũng không hơn Ngài. Có lẽ Ngài là Đức Messi? - hai ba người ở đó hỏi.
- Tôi là đấng đó.
- Ngài! Có phải Ngài là vị Thầy đã chữa các bệnh nhân và rao giảng Thiên Chúa ở Galilê không?
- Phải, chính Thầy.
- Con có bà mẹ sắp chết. Xin Thầy cứu bà!
- Còn con, Thầy thấy không? Con đang mất hết sức lực vì đau đớn. Con có con cái còn nhỏ lắm. Xin Thầy chữa con!
- Hãy về nhà con. Chiều nay mẹ con sẽ dọn bữa cho con. Và con, hãy khỏi bệnh, Thầy muốn.
Đám đông kêu lên và hỏi: “Tên Thầy? Tên Thầy?”
- Giêsu Nazarét.
- Giêsu! Giêsu! Vạn tuế! Vạn tuế!
Đám đông náo nức hoan hỉ. Các con lừa có thể làm gì chúng muốn, không ai chú ý tới chúng nữa. Có các bà mẹ từ trong thành phố chạy tới. Ta biết rằng tiếng vang về phép lạ đã lan ra. Các bà giơ các con nhỏ của họ lên, Giêsu chúc lành cho chúng và mỉm cười. Người tìm cách đi qua đám đông, vòng vây của những kẻ hoan hô Người, để vào thành phố và tới nơi Người muốn. Nhưng đám đông không muốn biết điều đó. Họ kêu lên: “Hãy ở lại với chúng con! Tại Juđê, ở Juđê! Chúng con cũng là con cháu Abraham”.
- Thưa Thầy! - đó là Judas. Ông đã tới sau lưng Người. “Thầy ơi!
164
Thầy đã tới trước con. Nhưng có chuyện gì vậy?”
- Vị rabbi đã làm một phép lạ! Không phải ở Galilê. Ở đây. Chúng ta muốn Người ở đây với chúng ta.
- Thầy thấy không? Tất cả Israel đều yêu Thầy, nên thật chính đáng là Thầy cũng ở lại đây. Tại sao Thầy lại bỏ đi?
- Judas, Thầy không lẩn tránh. Thầy đến chỉ có ý cho sự thô thiển của các môn đệ người Galilê không vấp phải sự dễ hờn dỗi của người Do Thái. Thầy muốn tụ họp tất cả các con chiên của Israel dưới phủ việt của Thiên Chúa.
- Chính vì vậy nên con đã thưa Thầy: “Hãy nhận con, con là Do Thái, và con biết phải làm sao để được lòng người đồng hương. Vậy Thầy sẽ ở lại Jêrusalem?”
- Chỉ một ít ngày, để chờ một người môn đệ, cũng là Do Thái. Rồi Thầy sẽ đi khắp xứ Juđê...
- Ôi! con sẽ đi với Thầy. Con sẽ hộ vệ Thầy. Thầy sẽ tới quê con. Con sẽ dẫn Thầy về nhà con. Thầy tới không Thầy?
- Thầy sẽ tới... Con là người Do Thái và con sống gần những người thế lực, con có biết gì về ông Tẩy Giả không?
- Con biết ông còn ở trong tù. Nhưng họ muốn giải phóng cho ông, vì đám đông đe dọa sẽ làm loạn nếu người ta không trả vị tiên tri lại cho họ. Thầy biết ông ta không?
- Thầy biết ông.
- Thầy yêu ông ta? Thầy nghĩ gì về ông?
- Thầy nghĩ không ai lớn hơn ông, là người giống như Êlia.
- Thầy coi ông đúng thực là vị Tiền Hô?
- Đúng. Ông đúng là vậy. Ông là Sao Mai loan báo Mặt Trời. Phúc cho những ai biết tự chuẩn bị cho Mặt Trời đến nhờ sự loan báo của ông.
- Gioan, ông rất nghiêm khắc.
- Không nghiêm khắc với người khác cho bằng với chính ông.
- Đúng vậy. Nhưng rất khó để theo sự sám hối của ông. Thầy, Thầy nhân từ hơn, và dễ dàng hơn để yêu Thầy.
165
- Thế nhưng...
- Thế nhưng sao Thầy?
- Thế nhưng, cũng giống như người ta ghét ông vì sự khắc khổ của ông, người ta sẽ ghét Thầy vì lòng nhân từ của Thầy. Vì người nọ cũng như người kia đều rao giảng Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì bị các kẻ ác ghét. Nhưng lời đã chép là như vậy. Cũng như ông đã đi trước Thầy trong việc thuyết giáo, ông cũng sẽ đi trước Thầy trong cái chết. Khốn cho những kẻ sát nhân của Đấng Sám Hối và của Đấng Nhân Từ.
- Thưa Thầy, sao Thầy lại có những linh cảm buồn này? Đám đông yêu Thầy, Thầy thấy đó.
- Bởi vì sự việc đó là chắc chắn. Đám đông khiêm tốn, họ yêu Thầy, đúng. Nhưng không phải mọi đám đông đều khiêm nhường, cũng không phải đám đông gồm toàn những người khiêm nhường. Nhưng sự linh cảm của Thầy không phải là nỗi buồn. Đó là cái nhìn yên hàn về tương lai và sự liên kết với ý muốn của Thiên Chúa, đấng đã sai Thầy đến về điều đó, và vì thế mà Thầy đến. Đây, ta đã tới Đền Thờ. Thầy tới chỗ Bel Midrash để giảng dạy đám đông. Hãy ở lại, nếu con muốn.
- Con sẽ ở bên cạnh Thầy. Con chỉ có một mục đích: Phục vụ Thầy và làm cho Thầy chiến thắng.
Họ vào Đền Thờ và tất cả đều chấm dứt.
31* GIÊSU Ở ĐỀN THỜ VỚI ISCARIOT
NGƯỜI GIẢNG THUYẾT Ở ĐÓ
Tôi thấy Giêsu có Judas hộ vệ vào nội khu Đền Thờ. Sau khi băng qua khu đất bằng thứ nhất, Người dừng lại tại một nơi có hành lang bao quanh, ở gần một cái sân được lát bằng các đá có nhiều mầu khác nhau. Nơi này rất đẹp và đông người qua lại.
Giêsu nhìn chung quanh Người và thấy một chỗ làm Người ưng ý. Nhưng trước khi tới đó, người bảo Judas: “Hãy đi gọi các viên chức có trách nhiệm cho Thầy. Thầy phải cho họ biết Thầy, để họ
166
không nói rằng Thầy thiếu sót đối với thói lệ và sự kính trọng”.
- Thưa Thầy, Thầy ở bên trên thói lệ. Không ai hơn Thầy có quyền nói trong nhà Thiên Chúa, vì Thầy là đấng Messi của Người.
- Thầy biết, con biết, nhưng họ không biết. Thầy không đến để gây gương mù, cũng không dạy vi phạm, không phải chỉ Lề Luật, mà cả thói lệ nữa. Trái lại, Thầy đến chính là để dạy sự kính trọng, khiêm nhường, vâng lời, và hủy bỏ gương mù. Cũng vậy, Thầy muốn xin quyền được nói nhân danh Thiên Chúa, bằng cách cho các viên chức có trách nhiệm biết rằng Thầy xứng đáng nói.
- Lần trước Thầy đã không làm.
- Lần trước Thầy bị thiêu đốt vì sự nhiệt thành với nhà Thiên Chúa bị tục hóa qúa nhiều. Lần trước Thầy là con Chúa Cha, là người Thừa Tự, nên nhân danh Cha và vì tình yêu nhà Người, Thầy hành động với uy quyền của Người, thì các viên chức và các thầy cả phải ở bên dưới. Bây giờ Thầy là Thầy của Israel, và Thầy dạy Israel những điều này. Lại nữa, Judas, con có nghĩ rằng môn đệ ở bên trên ông thầy không?
- Không đâu Giêsu.
- Và con, con là ai? Và Thầy là ai?
- Thầy là ông thầy, con là môn đệ.
- Con nhìn nhận như vậy, tại sao con lại muốn lên lớp cho Thầy? Hãy đi và hãy vâng lời. Thầy, Thầy vâng lời Cha Thầy; còn con, hãy vâng lời Thầy của con. Đó là điều kiện đầu tiên để làm con Thiên Chúa: Vâng lời không bàn cãi, trong khi nghĩ rằng Cha chỉ có thể truyền những mệnh lệnh thánh. Đó là điều kiện đầu tiên của người môn đệ: vâng lời ông thầy trong khi nghĩ rằng vị thầy biết và chỉ truyền những mệnh lệnh chính đáng.
- Đúng vậy. Xin lỗi. Con vâng lời.
- Thầy tha cho con. Đi đi. Và Judas, hãy ý thức điều này nữa, hãy nhớ lấy điều này. Hãy luôn luôn nhớ lấy trong tương lai.
- Vâng lời? Vâng.
- Không. Con hãy nhớ rằng Thầy, đối với Đền Thờ, Thầy luôn luôn kính trọng và khiêm nhường. Đối với Đền Thờ, tức là với giới
167
cầm quyền. Đi đi.
Judas có cái nhìn suy tư nghi vấn... Nhưng ông không dám hỏi gì hơn. Ông đi, trầm ngâm...
Ông trở lại với một nhân vật nghênh ngang trong áo khoác của ông: “Thưa Thầy, vị Viên Chức”.
- Bình an cho ngài. Tôi xin phép được quyền giảng dạy Israel giữa các rabbi của Israel.
- Ông là rabbi?
- Phải.
- Ai là Thầy của ông?
- Thánh Linh của Thiên Chúa, đấng nói với tôi với sự khôn ngoan và soi sáng mọi lời trong Sách Thánh.
- Ông hơn cả Hillel? Ông không có thầy mà nói là biết hết giáo lý? Làm sao một người có thể tự đào tạo nếu không có ai đào tạo cho họ?
- Cũng như Đavít đã tự đào tạo. Một người mục đồng không ai biết tới mà trở thành vị vua mạnh mẽ khôn ngoan do ý muốn của Thiên Chúa.
- Tên ông?
- Giêsu con Giuse Nazarét, con Jacob thuộc dòng Đavít; và Maria con Joakim dòng Đavít, và Anna dòng Aaron. Maria là người Trinh Nữ mà hôn lễ đã được cử hành tại Đền Thờ, vì cô mồ côi, bởi vị Đại Thượng Tế theo luật của Israel.
- Bằng cớ nào chứng tỏ điều đó?
- Chắc chắn có những vị Lêvi còn nhớ các sự kiện, những người đồng thời với Jacari thuộc tầng lớp Abia, bà con của tôi. Hãy hỏi họ, nếu ngài nghi ngờ sự chân thành của tôi.
- Tôi tin ông. Nhưng có gì chứng tỏ cho tôi là ông có khả năng giảng dạy?
- Hãy nghe tôi, và ngài sẽ tự xét đoán.
- Ông được tự do để làm, nhưng... ông không phải người Nazarét sao?
- Tôi sinh tại Bétlem thuộc Juđa vào thời kỳ kiểm kê theo lệnh
168
César. Bị phóng lưu bởi những mệnh lệnh bất công đối với dòng dõi Đavít ở khắp nơi, nhưng dòng tộc thuộc Juđa.
- Ông biết... các pharisiêu... toàn thể Juđê... đối với người Galilê...
- Tôi biết. Nhưng xin ngài an lòng. Tôi chào đời ở Bétlem, ở Bétlem Ephrata, đất thuộc về dòng dõi của tôi. Nếu bây giờ tôi sống ở Galilê thì cũng chỉ là để làm tròn điều đã được loan báo.
Vị Viên Chức lùi ra mấy mét, rồi chạy về chỗ người ta gọi ông.
Judas hỏi: “Sao Thầy không nói với ông ta rằng Thầy là Đấng Messi?”
- Các lời Thầy sẽ nói.
- Lời loan báo nào phải được hoàn thành?
- Sự qui tụ toàn thể Israel dưới sự giáo huấn bởi các lời của Đức Kitô. Thầy là mục tử mà các tiên tri đã nói, và Thầy đến qui tụ các con chiên trong cả nước. Thầy đến chữa các con bệnh, dẫn về đồng cỏ các con bị lạc. Đối với Thầy, không có vấn đế Juđê hay Galilê; thập tỉnh hay Iđumê. Chỉ có một điều duy nhất: Tình Yêu ôm ấp bằng một cái nhìn duy nhất, và qui tụ hết thảy trong sự ôm ấp duy nhất này để cứu vớt... - Giêsu được linh ứng. Người như phát ra những tia sáng, và Người mỉm cười với giấc mộng của Người. Judas nhìn Người với vẻ thán phục.
Những người tò mò tiến lại bên hai người lôi kéo họ và đập vào mắt họ bằng bộ dạng thật khác nhau.
Giêsu hạ cái nhìn xuống đám đông nhỏ này và mỉm cười, một nụ cười mà không bao giờ một họa sĩ có thể diễn tả vẻ dịu dàng, và không một tín hữu nào có thể tưởng tượng, nếu họ không nhìn thấy. Và Người nói: “Hãy đến, nếu sự ước ao Lời Hằng Hữu thúc đẩy các con”.
Người đi tới dưới vòm cung của một hành lang, dựa lưng vào một cái cột và bắt đầu nói. Người lấy đề tài là biến cố xảy ra ban sáng.
- Sáng nay, khi vào thành Sion, Thầy thấy, vì vài đồng bạc mà hai người con cái Abraham sẵn sàng để giết nhau. Thầy đã có thể nguyền rủa họ nhân danh Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã nói: “Đừng
169
giết người”, và Người cũng nói rằng ai không vâng lời Lề Luật sẽ bị nguyền rủa. Nhưng Thầy thương sự vô tri của họ đối với tinh thần Lề Luật, nên Thầy chỉ ngăn cản việc sát nhân để cho họ có cơ hội sám hối và biết Thiên Chúa, phụng sự Người trong sự vâng lời và yêu thương, không phải chỉ yêu thương người yêu họ, nhưng yêu cả những kẻ thù.
Phải, hỡi Israel! Một ngày mới đã đến cho các con, và giới răn yêu thương trở nên còn trong sáng hơn nữa. Phải chăng một năm bắt đầu bằng những trận mưa của tháng Etanim, hoặc với cái buồn của tháng Casleu mà ngày ngắn như một giấc mơ, đêm dài như một ngày không có bánh ăn? Không. Nó bắt đầu bằng tháng Nisan đầy hoa, mặt trời vui vẻ và khắp nơi đều tươi cười; mà con tim con người, kể cả những người nghèo nhất và buồn nhất, cũng mở ra cho hy vọng, vì mùa hè sắp tới. Đó là mùa gặt hái, những ngày của mặt trời, của hoa trái, của giấc ngủ êm đềm, dù là ngủ trên đồng cỏ đầy hoa, dưới ánh sao. Sẽ dễ dàng có của ăn, vì mọi mảnh đất đều mọc rau cỏ và trái cây để làm dịu cơn đói của con người.
Đây! Hỡi Israel! Mùa đông, thời gian chờ đợi đã chấm dứt. Bây giờ là niềm vui, vì lời hứa nên trọn. Bánh và rượu đây, sẵn sàng để hạ cơn đói. Mặt Trời đang ở giữa các con. Dưới Mặt Trời này, hơi thở sẽ sâu và êm đềm hơn cho cả những giáo điều trong lề luật của chúng ta. Điều thứ nhất, thánh thiện nhất trong các Lề Luật thánh: “Hãy yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân”.
Trong ánh sáng tương đối ban cho các con từ trước tới nay, luật nói - các con không thể làm hơn, vì cơn giận của Thiên Chúa do tội thiếu tình yêu của Ađam vẫn còn đè trên các con - luật nói: “Hãy yêu kẻ yêu ngươi và ghét kẻ thù”. Với các con, kẻ thù không phải chỉ là những kẻ vi phạm biên giới, mà cả những người đã thiếu sót, hay có vẻ như thiếu sót đối với các con trong đời sống tư. Kết qủa là sự thù ghét bao trùm mọi con tim, vì có bao giờ ta tìm thấy một người, dù muốn dù không, mà không bao giờ xúc phạm đến anh em, hoặc một người đã sống đến tuổi già mà không hề bị xúc phạm?
Thầy, Thầy bảo các con: “Hãy yêu cả những kẻ xúc phạm đến các con”. Hãy yêu họ khi nghĩ tới Ađam và mọi người con cháu ông
170
đều thiếu sót đối với Thiên Chúa. Và không ai có thể nói: “Tôi không bao giờ xúc phạm đến Thiên Chúa”. Nhưng Thiên Chúa tha thứ, không phải một lần, không phải mười lần, nhưng hàng ngàn và hàng chục ngàn lần, Người hằng tha thứ. Bằng cớ là vẫn còn người sống trên trái đất. Vậy hãy tha thứ như Thiên Chúa tha thứ. Và nếu các con không thể tha vì tình yêu đối với tha nhân đã làm thiệt hại cho các con, thì hãy tha vì tình yêu đối với Thiên Chúa, đấng đã cho các con bánh ăn và sự sống, đã bảo vệ các con trong những nhu cầu mà các con có trên trái đất, và sẵn sàng mọi biến cố để tạo cho các con sự bình an đời đời trong lòng Người. Đó là luật mới, luật của Mùa Xuân Thiên Chúa, của thời đại nở hoa Ân Sủng đến với loài người, thời kỳ ban cho các con hoa trái vô song, và mở cửa Trời cho các con.
Người ta không còn nghe tiếng nói trong sa mạc nữa, nhưng nó không câm nín. Nó còn nói với Thiên Chúa cho Israel, nó còn nói trong tim mọi con dân Israel có lương tâm ngay thẳng. Nó nói - sau khi đã dạy sám hối để dọn đường cho Chúa tới, và dạy tình bác ái, tặng cái dư thừa cho kẻ không có cả những thứ cần, dạy ngay thật, không cưỡng bức, không làm tổn thương - Nó nói với các con: “Con Chiên Thiên Chúa, đấng gánh tội thế gian, đấng sẽ rửa các con trong lửa của Thánh Linh, đang ở giữa các con. Người quét sạch sân lúa của Người và thu góp lúa thóc lại”.
Hãy biết nhận ra đấng mà vị Tiền Hô đã chỉ. Các sự đau khổ của ông dâng lên Thiên Chúa để cho các con ánh sáng. Nếu con mắt tâm hồn các con mở ra, các con sẽ nhận ra Ánh Sáng đã đến. Thầy nối tiếp tiếng nói của vị tiên tri loan báo Đấng Messi, với sức mạnh từ Thiên Chúa đến với Thầy, Thầy khuếch đại nó, kết hợp nó với sức mạnh của riêng Thầy, và Thầy kêu gọi các con về với sự thật của Lề Luật. Hãy chuẩn bị tâm hồn các con cho Ơn Cứu Chuộc đã gần. Đấng Cứu Thế đã ở giữa các con. Phúc cho những ai xứng đáng được cứu chuộc vì họ có thiện chí.
Bình an cho các con.
Một thính giả hỏi: “Có phải Thầy là môn đệ của ông Tẩy Giả
171
không mà Thầy nói về ông với bao là kính trọng?”
- Thầy đã nhận phép rửa của ông ở bờ sông Giođan trước khi ông bị tù. Thầy tôn kính ông vì ông thánh trước mắt Thiên Chúa. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng: trong số con cháu Abraham, không ai cao trọng hơn ông. Từ khi ông sinh ra tới chết, con mắt Thiên Chúa ở trên ông và không hề thấy khinh thị con người được chúc phúc này.
- Ông ta bảo đảm với Thầy là Đấng Messi đã tới à?
- Lời nói không hề dối trá của ông đã chỉ Đấng Messi sống động cho những người ở bên cạnh ông.
- Ở đâu? Hồi nào?
- Khi đó là giờ để chỉ trỏ Người.
Nhưng Judas cảm thấy nhu cầu phải nói với những người chung quanh ông: “Đấng Messi là đấng đang nói với qúi vị. Tôi làm chứng. Tôi biết Người và tôi là môn đệ đầu tiên của Người”.
- Người!... Ôi!... - người ta tránh ra vì sợ. Nhưng Giêsu rất êm dịu nên họ lại trở về với Người.
- Hãy xin Người làm vài phép lạ. Người mạnh mẽ. Người chữa bệnh. Người đọc được trong qủa tim. Người trả lời cho mọi cái tại sao.
- Ông, ông hãy nói với Người cho tôi là tôi bị bệnh: Mắt phải đã mù, mắt trái đang khô đi.
- Thưa Thầy!
- Judas - Giêsu đang vuốt ve một đứa nhỏ, liền quay lại.
- Thưa Thầy, người này hầu như mù và muốn nhìn thấy. Con đã nói với ông ta là Thầy có thể.
- Thầy có thể với những ai có lòng tin. Ông có tin không?
- Con tin vào Thiên Chúa Israel. Con đến đây để nhảy xuống hồ Bêzata, nhưng luôn luôn có người xuống trước con.
- Con có tin Thầy không?
- Con tin vào thiên thần ở hồ thì làm sao con lại không tin vào Thầy mà người môn đệ đã xác nhận là Đấng Messi?
Giêsu mỉm cười. Người thấm nước bọt vào đầu ngón tay và cà
172
nhẹ lên mắt người bệnh. “Con thấy gì?”
- Con thấy các vật không còn sương mù bao phủ như trước. Còn mắt kia Thầy không chữa à?
Giêsu lại mỉm cười. Người làm lại cử chỉ với con mắt mù: “Bây giờ con thấy gì?” Người nói khi nhấc tay ra khỏi mu mắt nhắm.
- A! Chúa! Thiên Chúa Israel! Con thấy như khi con chạy trong đồng cỏ lúc còn nhỏ. Nguyện Thầy được chúc tụng muôn đời! - người đó khóc, qùi phục tại chân Giêsu.
- Đi đi. Bây giờ hãy sống tốt vì biết ơn Thiên Chúa.
Một thầy Lêvi tới vào lúc kết thúc phép lạ: “Nhờ quyền lực nào mà ông làm những điều này?”
- Ông hỏi tôi vậy à? Tôi sẽ nói cho ông nếu ông trả lời câu hỏi của tôi: “Theo ông, ai cao trọng hơn: Vị tiên tri loan báo Đấng Messi hay chính Đấng Messi?”
- Hỏi dở qúa! Đấng Messi cao trọng hơn: Đó là Đấng Cứu Thế Chúa Tối Cao đã hứa.
- Vậy tại sao các tiên tri làm phép lạ? Do quyền phép của ai?
- Do quyền phép của Thiên Chúa đã cho các ngài để chứng tỏ với đám đông rằng Thiên Chúa ở với họ.
- Đúng rồi. Vậy do cùng một quyền phép mà tôi hoàn thành các phép lạ. Thiên Chúa ở với tôi. Tôi ở với Người. Tôi chứng tỏ cho đám đông rằng như vậy, và rằng Đấng Messi có thể hơn, với lý do mạnh hơn, ở mức độ rộng rãi hơn là các tiên tri có thể làm.
Vị Lêvi ra đi, vẻ suy tư. Và tất cả đều chấm dứt.
32* GIÊSU GIÁO HUẤN JUDAS
Vẫn còn là Giêsu và Judas. Sau khi đã cầu nguyện ở chỗ gần nơi Thánh nhất mà các người Israel được phép, họ ra khỏi Đền Thờ.
Judas muốn ở lại với Giêsu, nhưng ước muốn này trái với ý Thầy: “Judas, Thầy muốn ở một mình về ban đêm. Trong đêm thanh vắng, tâm hồn Thầy rút được lương thực nơi Cha. Kinh nguyện, suy ngắm và cô tịch cần thiết cho Thầy hơn của ăn vật chất. Kẻ muốn sống bằng tâm hồn và mang những người khác tới cùng một đời sống, thì phải để thân xác ở đàng sau - Thầy nói, hầu như phải giết nó - để
173
dành mọi săn sóc cho tâm hồn. Judas, điều đó đúng cho hết mọi người, cho cả con nữa, nếu con thực tình muốn thuộc về Thiên Chúa, tức là về siêu nhiên”.
- Nhưng Thầy ơi, chúng ta còn ở trên trái đất, làm sao chúng ta có thể bỏ rơi thân xác để hoàn toàn săn sóc tâm hồn? Điều mà Thầy nói chẳng ngược với giới răn của Thiên Chúa: “Đừng giết người” sao? Giới răn này có cấm giết mình không? Nếu sự sống là một ơn của Thiên Chúa, chúng ta có phải yêu nó hay không?
- Với con, Thầy sẽ không trả lời như Thầy trả lời cho một tâm hồn đơn sơ. Với kẻ đơn sơ, chỉ cần ngước mắt tâm hồn lên tới phạm vi siêu nhiên là làm cho nó bay cao lên cùng với chúng ta tới lãnh vực của thần trí. Con, con không phải một người đơn sơ. Con được đào tạo trong một khung cảnh nó đã chế luyện con... nhưng nó cũng làm ô nhơ con bằng những sự tinh tế của nó và các nguyên tắc của nó. Judas, con có nhớ Salômôn không? Ông là kẻ khôn ngoan, kẻ khôn ngoan nhất thời ấy. Con có nhớ điều ông nói, sau khi đã khám phá tất cả những hiểu biết của thời đó: “Phù vân của mọi phù vân. Tất cả đều là phù vân. Kính sợ Thiên Chúa và tuân giữ các giới răn của Người, đó là tất cả con người”. Bây giờ Thầy bảo con rằng trong các món ăn, phải biết ăn những gì có sức nuôi dưỡng chứ đừng ăn chất độc. Nếu chúng ta biết rằng một món ăn độc hại, vì nó tạo ra trong chúng ta những phản ứng xấu mạnh mà bản chất tự nhiên của chúng ta không thể trung hòa được, thì phải từ bỏ món ăn này, dù là nó hấp dẫn vị giác. Bánh thông thường với nước suối có giá trị hơn là các món ăn phức tạp ở bàn ăn hoàng gia, xông mạnh lên vì gia vị làm độc hại.
- Con phải tránh cái gì Thầy?
- Tất cả những gì nó làm cho con xao xuyến. Vì Thiên Chúa là bình an. Nếu con muốn đi trên đường của Thiên Chúa, con phải loại bỏ khỏi tâm hồn con, qủa tim con và thân xác con tất cả những gì không phải là bình an, những gì mang sự xao xuyến theo với nó. Thầy biết là rất khó để đào tạo lại mình, nhưng Thầy ở đây để giúp con thực hành nó. Thầy ở đây để giúp con người lại trở thành con Thiên Chúa, tái tạo lại như sự tạo dựng thứ hai, một sự tự tái sinh
174
mà người ta tự ý muốn. Nhưng hãy để Thầy trả lời con về điều con hỏi Thầy, để con không nói rằng con ở lại trong lầm lạc là tại lỗi Thầy. Thực tình việc tự tử là sát nhân thực sự, dù là về đời sống của ta hay của người khác. Sự sống là ơn của Thiên Chúa, và chỉ mình Thiên Chúa có quyền cất lấy. Ai tự tử là thú nhận sự kiêu căng của họ. Và Thiên Chúa ghét sự kiêu căng.
- Thú nhận kiêu căng à? Con nói đúng ra là thất vọng.
- Thất vọng là gì, nếu không phải là kiêu căng? Judas, hãy suy nghĩ: Tại sao một người thất vọng? Bởi vì bất hạnh đè nặng trên nó, mà nó, với các phương tiện riêng của nó, nó không thể tiếp tục tới cùng; hoặc vì nó có tội mà nó xét rằng Thiên Chúa không thể tha cho nó. Trong trường hợp nọ cũng như trường hợp kia, chẳng phải là kiêu căng cai trị nó sao? Con người chỉ muốn kiêu hãnh với chính mình thì không còn khiêm nhường để giơ tay ra cho Cha và nói với Người: “Con không thể, nhưng Cha có thể. Xin giúp con, vì chính Cha là người ban tất cả những gì con hy vọng và chờ đợi”. Còn người kia thì nói: “Thiên Chúa không thể tha cho tôi”. Nó nói vậy vì nó đo Thiên Chúa bằng cái đấu của nó. Nó biết rằng một kẻ bị xúc phạm như nó đã xúc phạm tới Người thì họ không thể tha. Đó cũng là kiêu căng. Người khiêm nhường thì thương xót và tha thứ, dù nó phải khổ vì sự xúc phạm nó đã chịu. Kẻ kiêu căng không tha thứ. Nó cũng kiêu căng vì nó không thể cúi mặt để nói: “Lạy Cha, con đã phạm tội, xin Cha tha cho đứa con khốn nạn đắc tội”. Nhưng Judas, con không biết rằng tất cả sẽ được Chúa Cha tha thứ, nếu sự tha thứ được van nài với con tim chân thành và thống hối, khiêm nhường, ước ao phục sinh trong điều thiện.
- Nhưng có những tội không thể tha được. Nó không thể được tha.
- Tại con nói như vậy. Điều đó sẽ thực khi con người muốn như vậy. Nhưng sự thực, ôi! Sự thực Thầy bảo con rằng cả sau bao nhiêu và bao nhiêu lỗi phạm, nếu kẻ có tội chạy đến chân Cha - Người được gọi là Cha là vì vậy. Ôi! Judas, đó là người Cha trọn hảo vô cùng - nếu nó khóc lóc van nài người tha cho nó, tự nguyện đền tội, không thất vọng, thì Cha sẽ cho nó các phương tiện để đền
175
tội, để đáng được ơn tha thứ và cứu linh hồn nó.
- Vậy Thầy nói rằng những người mà sách Thánh nói tới là đã tự tử, họ đã hành động xấu?
- Không được phép tàn bạo với ai, cũng không được với chính mình. Họ đã hành động xấu. Trong sự không hiểu biết rõ của họ, có một số trường hợp còn có thể hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhưng khi Ngôi Lời đã soi sáng mọi sự thật và đã cho các tâm hồn sức mạnh của Thánh Linh Người, thì từ lúc đó, những kẻ chết trong thất vọng sẽ không được tha nữa, trong lúc phán xét riêng cũng như sau bao thế kỷ ở trong hỏa ngục, cũng như khi phán xét chung, không bao giờ nữa. Điều này là Thiên Chúa khắc nghiệt ư? Không. Đó là công bằng. Thiên Chúa sẽ nói: “Mi đã xét xử. Mi là tạo vật được phú bẩm lý lẽ và khoa học siêu nhiên, được tạo dựng tự do để theo con đường mà mi chọn. Mi đã nói: ‘Thiên Chúa không tha cho tôi, tôi xa cách Người muôn đời. Tôi xét rằng tôi bị luận phạt vì tội tôi. Tôi tự tử để khỏi phải hối hận’, mà mi không nghĩ rằng sự hối hận sẽ không hành hạ mi, nếu mi chạy vào lòng hiền phụ của Ta. Vậy cho xảy ra cho mi như mi xét đoán. Ta không xâm phạm tự do mà Ta đã cho mi”.
Đấng Hằng Hữu sẽ nói như vậy với kẻ tự tử. Hãy nghĩ tới đó Judas. Sự sống là một ơn mà ta phải yêu. Nhưng nó là ơn thế nào? Một ơn thánh. Vậy phải yêu nó cách thánh thiện. Sự sống tồn tại bao lâu thể xác còn chịu đựng được. Rồi bắt đầu đời sống lớn: Đời sống đời đời, hạnh phúc cho kẻ công chính, khốn nạn cho kẻ không như vậy. Sự sống là mục đích hay phương tiện? Đó là phương tiện. Vậy hãy cho sự sống những gì nó cần để nó tồn tại mà phục vụ tâm hồn trong cuộc chinh phục của nó. Hãy tiết chế xác thịt trong mọi ước muốn của nó, trong tất cả. Tiết chế con tim trong những đam mê loài người, trái lại, dành không giới hạn cho các đam mê đến từ Trời: Tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Ý chí phụng sự Thiên Chúa và tha nhân. Vâng lời Thiên Chúa. Anh hùng trong điều thiện và các nhân đức.
Thầy đã trả lời con tất cả rồi đó Judas. Con có nhìn nhận không?
176
Sự giải thích có đủ cho con không? Hãy luôn luôn chân thành và hỏi, nếu con chưa biết đầy đủ. Thầy ở đây để làm Thầy dạy dỗ.
- Con hiểu và như vậy là đủ. Nhưng... Thật khó để làm những điều con hiểu. Thầy thì Thầy có thể vì Thầy thánh. Nhưng con, con là một người còn trẻ, đầy sức sống...
- Judas, Thầy đến là cho loài người chứ không phải cho các thiên thần. Các đấng không cần thầy giáo. Các đấng thấy Thiên Chúa, sống trong Thiên Đàng của Người. Các đấng không phải không biết những đam mê loài người, vì Trí Tuệ là đời sống của các đấng cho các đấng biết tất cả, kể cả những đấng không làm kẻ hộ mệnh cho con người. Các đấng thiêng liêng, các vị chỉ có thể phạm một tội giống như một trong các đấng đã phạm, và đã lôi kéo những kẻ không vững vàng trong đức mến: tội kiêu căng, cái mũi tên đã làm biến dạng Lucifer, từ vị đẹp nhất trong các Tổng Thần, nó thành quái vật ghê tởm của địa ngục. Thầy không đến cho các thiên thần mà sau sự sa ngã của Lucifer, đã run sợ đối với mỗi dấu vết nhỏ mọn nhất của một tư tưởng kiêu căng. Nhưng Thầy đến cho loài người, để làm cho họ thành thiên thần.
Con người là sự trọn hảo của việc tạo dựng. Họ có thần tính của các thiên thần, và sắc đẹp trọn hảo của loài vật trong tất cả thực thể sinh vật và luân lý của họ. Không một tạo vật nào sánh bằng với họ. Họ là vua trái đất cũng như Thiên Chúa là Vua Trời. Và một ngày, cái ngày mà họ ngủ giấc ngủ sau cùng trên trái đất, họ sẽ trở nên vua cùng với Cha trên Trời. Satan đã cắt đứt đôi cánh của thần-nhân, nó đã ghép cho họ những móng vuốt của thú dữ và cho họ cái khát dơ bẩn. Nó đã làm cho họ thành một qủi-nhân hơn là một người thô sơ. Thầy muốn xóa bỏ điều xấu mà Satan đã làm, triệt tiêu cái đói của thể xác đồi trụy và dơ bẩn, trả lại đôi cánh cho con người và dẫn họ về nước Thầy, để họ chia phần gia tài của Cha trên Thiên Quốc. Thầy biết rằng con người, nếu họ muốn, họ có thể làm tất cả những gì Thầy nói để lại trở thành vua và thiên thần. Thầy không nói với các con điều các con không thể làm. Thầy không phải nhà hùng biện rao giảng những giáo thuyết bất khả thi.
177
Thầy đã mặc một thân xác thực sự, để bởi kinh nghiệm của một bản tính xác thể, Thầy biết thế nào là những cám dỗ của con người.
- Còn tội lỗi?
- Cám dỗ thì mọi người có thể bị, còn phạm tội thì chỉ những người muốn.
- Thầy không bao giờ phạm tội à Giêsu?
- Thầy không bao giờ ưng thuận với tội lỗi. Và như vậy không phải vì Thầy là con Chúa Cha, nhưng vì Thầy muốn điều đó để chứng tỏ với loài người rằng Con Người không phạm tội vì Người không muốn phạm tội. Vậy nếu họ không muốn phạm tội thì họ có thể không phạm tội.
- Thầy không bao giờ bị cám dỗ sao?
- Thầy ba chục tuổi rồi Judas! Đâu phải Thầy sống trong hang trên núi, nhưng sống giữa loài người. Cho dù Thầy sống ở một nơi cô tịch nhất trên trái đất, con nghĩ rằng cám dỗ không thể tới sao? Chúng ta có tất cả ở ngay trong chúng ta: Điều tốt và điều xấu. Chúng ta mang tất cả đi theo với chúng ta. Thiên Chúa thổi trên điều tốt để cho nó hừng lên như một bình hương thơm tho ngọt ngào và thánh thiện. Satan thổi trên điều xấu để làm cho nó thành một dàn hỏa thiêu bằng lửa hỏa ngục của nó. Nhưng ý muốn chăm chú và lời cầu nguyện không ngừng giống như cát ướt trên lửa hỏa ngục, nó dập tắt lửa và toàn thắng.
- Nhưng nếu Thầy không bao giờ phạm tội thì làm sao Thầy có thể phán đoán tội nhân?
- Thầy là một người và là Con Thiên Chúa. Điều mà Thầy có thể không biết và xét đoán sai với tư cách là một người, thì thầy biết và xét đoán đúng với tư cách là Thiên Chúa. Ngoài ra... Judas, hãy trả lời câu hỏi này: khi một người đói thì họ khổ hơn khi nói: “Bây giờ tôi đi ngồi vào bàn ăn”, hay là khi nói: “Không có đồ ăn cho tôi”?
- Họ khổ hơn trong trường hợp thứ hai, vì nguyên việc biết rằng mình không có đồ ăn đã đem tới cho họ mùi vị của món ăn, và làm cho tạng phủ của họ quắn lạ vì thèm.
- Đó, Judas. Cám dỗ cắn vào các con như cái thèm này. Satan
178
làm cho nó thành sắc nhọn hơn, chính xác hơn, hấp dẫn hơn hết mọi thoả mãn. Ngoài ra, hành động đem lại sự thoả mãn đôi khi đưa đến sự chán ngán ghê tởm, trong khi cám dỗ không làm cho người ta yếu nhược, nhưng giống như một cây mà ngưới ta cắt tỉa, nó phát triển tốt hơn.
- Thầy không bao giờ nhượng bộ à?
- Thầy không bao giờ nhượng bộ.
- Làm sao Thầy có thể?
- Thầy nói: lạy Cha, xin đừng để con vào cơn cám dỗ.
- Thế nào? Thầy, Đấng Messi, Thầy làm phép lạ mà thầy phải xin Cha giúp?
- Không phải chỉ xin giúp, mà Thầy xin Người đừng đặt Thầy vào trong cơn cám dỗ. Con nghĩ rằng vì Thầy là như Thầy là, Thầy có thể vượt qua Cha sao? Ôi! Không. Thực vậy, Thầy bảo con rằng: Cha ưng thuận cho Con tất cả, nhưng Con cũng nhận tất cả từ Cha. Và Thầy bảo con rằng tất cả những gì người ta xin Cha nhân danh Thầy thì sẽ được nhận lời. Nhưng đây, chúng ta đã đến Gétsêmani, nơi Thầy ở. Ta đã nhìn thấy những cây oliu đầu tiên bên kia bức tường. Con, con ở bên ngoài Tofet. Tối rồi, con không nên đi lên mãi trên kia. Chúng ta sẽ gặp lại nhau ngày mai tại cùng một nơi. Chào. Bình an cho con.
- Cũng bình an cho Thầy... Nhưng con muốn nói với Thầy một điều khác. Con sẽ hộ vệ Thầy tới Cédron, rồi con trở lại. Tại sao Thầy cư ngụ ở nơi ẩm ướt này? Thầy biết người ta nhìn vào nhiều thứ. Thầy không biết ai trong thành phố có căn nhà đẹp sao? Con, nếu Thầy muốn, con có thể dẫn Thầy tới nhà bạn bè. Họ sẽ cho Thầy ở vì tình bạn đối với con, và đó sẽ là chỗ ở xứng đáng hơn đối với Thầy.
- Con tin vậy sao? Thầy, Thầy không tin. Xứng hay bất xứng đều có trong mọi tầng lớp xã hội. Và không thiếu bác ái, cũng không để lỗi sự công bằng, Thầy nói với con rằng: Bất xứng, những cái bất xứng qủi quyệt, thường có nơi các kẻ tai to mặt lớn. Không cần, cũng không ích lợi gì phải mạnh thế mới là tốt, hoặc để che đậy
179
những điều tội lỗi trước mặt Thiên Chúa. Tất cả đều đảo lộn dưới dấu hiệu của Thầy, và không phải kẻ quyền hành, nhưng là kẻ khiêm nhường và thánh thiện sẽ là những kẻ lớn.
- Nhưng để được kính trọng, để áp đặt...
- Hêrôđê có được kính trọng không? César có được kính trọng không? Không. Người ta rán chịu. Nhưng trên môi cũng như trong lòng, người ta nguyền rủa họ. Với những người tốt, và ngay cả với những người ước ao nên tốt, Judas, hãy tin chắc rằng Thầy sẽ được tín nhiệm bởi các kẻ khiêm tốn hơn là bởi bộ tịch của các kẻ mạnh.
- Vậy là... Thầy khinh bỉ tất cả các kẻ mạnh. Thầy sẽ làm cho họ thành kẻ thù. Con, con tính nói về Thầy với những người danh giá mà con biết...
- Thầy không khinh ai. Thầy tới với người nghèo cũng như người giầu, với kẻ nô lệ cũng như ông vua, với kẻ trong sạch cũng như người tội lỗi. Nhưng nếu Thầy biết ơn những người đã cho Thầy một tấm bánh và một mái nhà khi Thầy mệt, dù là mái nhà nào và lương thực nào, thì Thầy sẽ luôn luôn thích những kẻ khiêm tốn hơn. Những kẻ lớn họ đã có bao nhiêu thứ để vui, người nghèo thì chỉ có sự ngay thẳng của lương tâm họ, với một tình yêu trung thành, các con cái, và nỗi vui khi được nghe bởi những người ở trên họ. Thầy, Thầy sẽ luôn luôn cúi xuống trên người nghèo, đau khổ, tội lỗi. Thầy cám ơn con vì sự ân cần của con, nhưng hãy để Thầy ở đây là nơi cầu nguyện và bình an. Đi đi. Nguyện Thiên Chúa soi cho con những gì là tốt.
Giêsu rời người môn đệ và đi vào giữa các cây oliu. Và tất cả đều chấm dứt.
33* GIÊSU GẶP GIOAN ZÊBÊĐÊ TẠI GÉTSÊMANI
Tôi thấy Giêsu đi về phía một căn nhà nhỏ thấp, mầu trắng, ở giữa vườn oliu. Một cậu con trai ra khỏi đó và chào Người. Dường
180
như anh ta cư ngụ ở đây, vì trong tay anh ta có dụng cụ để tưới cây và dẫy cỏ.
- Thiên Chúa ở cùng Thầy, rabbi. Người môn đệ Gioan của Thầy đã tới, và bây giờ anh ta lại ra đi để gặp Thầy.
- Anh ấy đi lâu chưa?
- Chưa. Anh vừa đi vào ngả này. Chúng con tưởng rằng Thầy sẽ tới từ lối Bêtani...
Giêsu bước vội, nhảy vào ngả đó. Người nhận thấy Gioan đang xuống dốc, hầu như chạy, về phía thành phố, và Người gọi ông.
Người môn đệ quay lại, mặt rạng rỡ vui. Ông kêu lên: “Ôi! Thầy của con!”, và ông trở lại phía sau, cũng chạy.
Giêsu mở cánh tay ra cho ông, và cả hai ôm hôn nhau cách tình nghĩa.
- Con đi tìm Thầy. Con nghĩ rằng Thầy đã ở Bêtani như Thầy đã nói.
- Ừ, Thầy đã muốn làm vậy. Thầy cũng phải bắt đầu rao giảng quanh vùng Jêrusalem, nhưng rồi thầy bị giữ lại trong thành... để giáo huấn một người môn đệ mới.
- Mọi điều Thầy làm đều tốt và thành công. Thầy thấy không? Vừa lúc nãy, chúng ta đã được gặp nhau ngay.
Hai người bước đi. Giêsu đặt tay trên vai Gioan. Ông nhỏ con hơn, nhìn Người từ phía dưới, sung sướng vì sự thân mật này. Và như vậy, họ trở về nhà.
- Con tới lâu chưa?
- Chưa Thầy. Con từ Đôcô ra đi lúc bình minh với Simon mà con đã nói điều Thầy muốn. Rồi chúng con nghỉ ở miền quê Bêtani, chia sẻ đồ ăn và nói về Thầy với các nông dân mà chúng con gặp trong cánh đồng. Khi mặt trời thành qúa nóng, chúng con chia tay. Simon tới nhà người bạn mà ông ta muốn nói về Thầy. Đó là người chủ hầu như của hết vùng Bêtani. Ông biết ông ta vào thời cha mẹ hai người còn sống. Nhưng ngày mai Simon sẽ tới đây. Ông ta bảo con thưa Thầy là ông ta sung sướng được phục vụ Thầy. Simon là người rất có khả năng. Con cũng muốn được như ông. Nhưng con là một thằng con trai ngu!
181
- Không. Gioan, con cũng rất tốt.
- Có phải thực sự là Thầy bằng lòng với thằng Gioan tội nghiệp của Thầy không?
- Rất bằng lòng, Gioan của Thầy! Rất.
- Ôi! Thầy của con! - Gioan cúi xuống âu yếm cầm bàn tay của Giêsu. Ông hôn nó và cà lên mặt như để vuốt ve.
Họ tới căn nhà nhỏ. Họ vào cái nhà bếp thấp và ám khói. Ông chủ nhà chào: “Bình an cho Thầy”.
Giêsu trả lời: “Bình an cho nhà này, cho ông và những người ở với ông. Thầy có một môn đệ ở với Thầy”.
- Cũng có bánh và dầu cho ông ta nữa mà!
- Con có mang theo cá khô mà Phêrô và Giacôbê cho con. Khi đi qua Nazarét, mẹ Thầy gởi con bánh và mật ong cho Thầy. Con đã đi không nghỉ, nhưng bây giờ bánh bị cứng rồi.
- Không quan trọng, Gioan. Nó luôn luôn có hương vị bàn tay người má.
Gioan kéo kho tàng của ông ra khỏi giỏ mà ông để trong một góc. Tôi thấy cá khô được chuẩn bị kiểu khác thường: Họ bỏ nó vào nước sôi một lát, rồi trét bơ và dầu lên và hơ trên lửa.
Giêsu chúc phúc cho của ăn và ngồi ăn với người môn đệ, cùng bàn với ông chủ nhà mà tôi nghe gọi tên là Jonas, và con trai ông. Bà mẹ ra vào, mang cá và oliu đen, rau nấu chín với nước có gia vị và nêm dầu. Giêsu cũng dâng hiến mật ong. Người tặng cho người mẹ bằng cách trét trên bánh: “Đây là tổ ong của tôi” Người nói. “Mẹ tôi săn sóc bầy ong. Ăn đi, nó ngon lắm. Bà qúa tốt với tôi, Maria, bà đáng được như vầy và hơn nữa”. Người nói vậy vì người đàn bà không muốn ăn mất phần mật ong ngon lành của Người.
Bữa ăn kết thúc mau chóng giữa những đàm thoại. Vừa ăn xong thì họ tạ ơn vì lương thực đã ăn. Giêsu nói với Gioan: “Đi ra ngoài vườn oliu một lát. Đêm ấm và sáng, ở bên ngoài một lát rất tốt”.
Ông chủ nhà nói: “Thưa Thầy, tôi chào Thầy. Tôi mệt. Con trai tôi cũng vậy. Chúng tôi đi nghỉ. Tôi mở cửa và để đèn trên bàn. Thầy biết phải làm thế nào”.
- Được, Jonas. Đi ngủ đi, và tắt cả đèn đi nữa. Trời đẹp, trăng
182
sáng, chúng tôi nhìn thấy, không cần đèn.
- Nhưng môn đệ của Thầy, anh ta ngủ ở đâu?
- Với tôi, trên chiếu của tôi. Vẫn còn chỗ cho anh ta. Phải không Gioan?
Gioan như xuất thần với ý tưởng được ngủ bên Giêsu.
Họ ra ngoài vườn oliu. Nhưng trước đó, Gioan đã lấy cái gì ở trong giỏ của ông để trong góc. Họ đi mấy bước và tới một chỗ dốc, từ đó nhìn thấy hết thành Jêrusalem.
Giêsu nói: “Chúng ta ngồi đây nói chuyện với nhau”.
Nhưng Gioan thích ngồi trên cỏ ngắn chỗ chân Giêsu, và ông ngồi đó, tì tay lên đầu gối Giêsu và tựa đầu lên tay ông. Thỉnh thoảng lại ngước nhìn lên Giêsu của ông, giống như đứa trẻ ở gần người thân yêu của nó: “Thầy ơi! Ở đây cũng đẹp. Thầy coi kinh thành về đêm có vẻ như lớn hơn ban ngày”.
- Là vì ánh trăng làm mờ đi các đường vòng chung quanh. Con coi, tựa như ánh sáng bạc đã làm lùi các mốc giới hạn. Nhìn cái đỉnh của Đền Thờ, giống như nó treo trên không.
- Tựa như các thiên thần mang nó trên những chiếc cánh bạc của các Ngài”.
Giêsu thở dài.
- Sao Thầy thở dài?
- Vì các thiên thần đã bỏ rơi Đền Thờ. Bộ dạng trong trắng và thánh thiện của nó chỉ giới hạn ở các bức tường. Những người phải cho nó một linh hồn - vì mỗi nơi đều có linh hồn của nó, tức là cái tinh thần mà bởi đó nó được xây dựng. Đền Thờ phải có linh hồn cầu nguyện và thánh thiện - những người đó, Thầy nói họ là những người đầu tiên đã lấy mất linh hồn của nó. Gioan, người ta không thể cho cái mà họ không có. Và nếu có rất nhiều thầy cả và Lêvi sống ở đó, thì không có tới một phần mười trong số họ có tình trạng để cho nơi Thánh sự sống. Họ chỉ cho sự chết. Họ thông thương cái chết trong linh hồn họ cho nơi Thánh. Họ có những công thức, nhưng chúng không có sự sống để làm cho chúng sinh động. Đó là những xác chết, chỉ còn có sức nóng đến từ sự thối rữa làm cho chúng
183
chương phình lên.
- Họ đã làm khổ Thầy sao? - Gioan rất buồn.
- Không. Cả đến họ đã để cho Thầy nói khi Thầy xin phép họ.
- Thầy đã xin à? Tại sao?
- Vì thầy không muốn rằng Thầy là kẻ khai chiến. Nhưng chiến tranh cũng sẽ đến, vì một số sẽ sợ Thầy cách ngu xuẩn theo loài người, và Thầy sẽ là sự khiển trách đối với một số khác. Nhưng điều đó sẽ viết trên cuốn sách của họ chứ không phải của Thầy.
Yên lặng một lát, rồi Gioan bắt đầu nói: “Thưa Thầy... Con, con biết Anna và Caipha. Gia đình con giao tiếp với họ trong việc làm ăn. Và khi con ở Juđê, vì lẽ ông Gioan Tẩy Giả, con cũng tới Đền Thờ, và họ tử tế với các con trai của Zêbêđê. Ba con luôn luôn dành cho họ những cá tốt nhất. Đó là thói quen, Thầy biết, khi người ta muốn có họ làm bạn và giữ tình bạn của họ thì phải làm vậy...”
- Thầy biết - Khuôn mặt của Giêsu tối sầm lại.
- Vậy nếu Thầy đồng ý, con sẽ nói với vị Đại Thượng Tế. Rồi... nếu Thầy muốn, con biết một người có liên lạc làm ăn với ba con. Đó là một thương gia buôn cá giầu, ông có một căn nhà đẹp và lớn ở gần trường đua, vì đó là những người giầu, nhưng họ cũng tốt. Thầy sẽ thoải mái ở đó hơn và Thầy sẽ bớt mệt hơn. Để tới tận đây, phải đi qua khu Ophel rất ồn ào và luôn luôn ngổn ngang lừa ngựa và con nít cãi lẫy.
- Không, Gioan, Thầy cám ơn con. Nhưng Thầy rất dễ chịu ở đây. Con thấy, bình an chừng nào! Thầy cũng đã nói vậy với người môn đệ khác đã đề nghị với Thầy cùng một điều. Ông ta nói: “Để được kính nể hơn”.
- Con, con nói để Thầy bớt mệt.
- Thầy không mệt. Thầy đi bộ rất nhiều mà không bao giờ mệt. Con biết cái gì làm cho Thầy mệt không? Sự dửng dưng. Ôi! Đó là gánh nặng, tựa như Thầy có qủa tạ đè trên tim.
- Con, con yêu Thầy, Giêsu!
- Ừ, con làm nhẹ nhõm cho Thầy. Thầy rất yêu con, Gioan, và
184
Thầy sẽ yêu con mãi mãi, vì con, con không bao giờ phản bội Thầy.
- Phản bội Thầy! Ôi!
- Nhưng có rất nhiều người sẽ phản bội Thầy... Gioan, nghe đây: Thầy đã bảo con rằng Thầy chậm lại để giáo huấn một môn đệ mới. Đó là một người Do Thái, học thức và có tiếng.
- Vậy sẽ bớt mệt cho Thầy rất nhiều hơn là với chúng con. Thầy ơi, con rất bằng lòng vì Thầy có người có khả năng hơn chúng con.
- Con tưởng rằng Thầy sẽ bớt mệt hơn?
- Nếu ông ta bớt ngu hơn chúng con, ông ta sẽ hiểu Thầy hơn và phục vụ Thầy tốt hơn. Nhất là nếu ông ta yêu Thầy hơn.
- Đó, con nói đúng. Nhưng tình yêu không đi đôi với học vấn và giáo dục. Một con tim trinh trong yêu với hết sức lực của tình yêu đầu tiên nơi nó. Điều đó cũng đúng với sự trinh trong của tư tưởng. Tình yêu in lên trên con tim và tư tưởng trong trắng dễ hơn là in lên một nơi đã có những tình yêu khác. Nhưng nếu Thiên Chúa muốn... Gioan, nghe đây: Thầy xin con làm bạn với ông ta. Trái tim Thầy run lên khi đặt con, một con chiên chưa bao giờ bị xén lông, ở gần một kẻ đã biết đời sống. Nhưng ông ta cũng phải dè, vì ông ta biết con là con chiên, nhưng cũng là con ó. Và nếu vì chán chường, ông ta muốn làm cho con chạm đất, đất bùn, đất của tình cảm tốt theo loài người, thì con, với một cú đập cánh, con biết giải phóng cho mình và chỉ biết trời xanh với mặt trời. Trong mục đích này, Thầy xin con - trong khi vẫn giữ mình như con là - làm bạn với người môn đệ mới mà Simon Phêrô sẽ không yêu, những người khác cũng vậy, để chuyển con tim của con sang cho ông ta...
- Ôi! Thầy. Có Thầy rồi, không đủ sao?
- Thầy là vị Thầy, ông ta sẽ không nói hết. Con là đồng môn đệ, trẻ hơn ông ta nhiều. Ông ta sẽ dễ dàng cởi mở ra với con. Thầy không bảo con nhắc lại cho Thầy những điều ông ta nói với con. Thầy ghét thói do thám và những kẻ tố giác. Nhưng Thầy xin con giảng Tin Mừng cho ông bằng đức tin và lòng bác ái của con, bằng sự trong trắng của con, Gioan. Đó là mảnh đất mà nước đọng đã làm cho ra dơ bẩn. Mặt trời tình yêu phải tẩy uế cho nó; sự ngay
185
thẳng trong tư tưởng, trong ước muốn, trong việc làm phải thanh tẩy cho nó. Đức Tin phải vun trồng cho nó. Con có thể làm việc đó.
- Nếu Thầy tin là con có thể... Ôi! Vâng. Nếu Thầy nói rằng con có thể làm việc đó thì con sẽ làm, vì tình yêu đối với Thầy.
- Cám ơn Gioan.
- Thưa Thầy, Thầy đã nói về Simon Phêrô, con liền nhớ lại điều con phải thưa Thầy trước tiên, nhưng niềm vui được nghe Thầy làm con quên đi. Khi trở về Caphanaum từ hôm lễ Ngũ Tuần, chúng con nhận được món tiền thường lệ của nhân vật vô danh đó. Đứa trẻ đã mang đến cho má con. Con đã đưa cho Phêrô, ông lại trả về cho con và bảo con lấy trong đó một chút cho kỳ lưu lại ở Đôcô và để trở về. Ông bảo con mang cho Thầy chỗ còn lại cho các nhu cầu có thể của Thầy, vì Phêrô nghĩ rằng ở đây không phải tất cả đều dễ chịu... Nhưng Thầy, Thầy nói trái lại... Con chỉ lấy có hai đồng cho hai người nghèo gặp ở gần Ephraim. Ngoài ra con sống bằng số tiền mẹ con cho con, và của mấy người đại độ mà con loan tên Thầy cho họ đã cho con. Túi tiền đây Thầy.
- Ngày mai Thầy sẽ phát cho người nghèo, như vậy Judas sẽ học thói quen.
- Anh họ Juđa của Thầy đã tới rồi à? Làm sao ông ta có thể lẹ như vậy? Ông ta ở Nazarét, và ông không bảo con là sẽ đi.
- Không. Judas là người môn đệ mới. Ông ta người Kêriot. Con đã thấy ông ta hôm lễ Vượt Qua, tại đây, vào buổi chiều Thầy chữa cho Simon. Ông ta đi với Tôma.
- A! Ra ông đó! - Gioan hơi sững sờ.
- Chính ông ta. Còn Tôma, ông làm gì?
- Ông đã vâng lệnh Thầy, chia tay với Simon người Canane, rồi đi dọc bờ biển để gặp Philíp và Batôlômêo.
- Ừ, Thầy muốn các con yêu nhau, không biệt đãi. Giúp nhau hỗ tương, vui vẻ với nhau. Gioan, không ai toàn thiện cả, người già cũng như trẻ. Nhưng với thiện chí, các con sẽ đạt tới sự trọn lành, còn những gì các con thiếu thì Thầy sẽ đặt vào trong các con. Các con giống như con cái của một gia đình thánh. Trong gia đình có
186
nhiều tính tình khác nhau: Người thì cứng rắn, người thì êm đềm, người thì can đảm, người thì rụt rè, người thì xung động, người thì dè dặt. Nếu tất cả các con đều giống nhau thì sẽ có một người trấn át bằng sức mạnh, và những người khác sẽ bị giảm thiểu. Trái lại, như vầy là các con làm thành một liên hiệp toàn vẹn, vì các con bổ túc cho nhau. Tình yêu liên kết các con, phải liên kết các con vì Thiên Chúa.
- Và vì Thầy, Giêsu.
- Trước tiên, vì Thiên Chúa, rồi vì tình yêu đối với đấng Kitô của Người.
- Con, con là gì trong gia đình của chúng ta?
- Con là sự bình an yêu thương của đấng Kitô của Thiên Chúa.
Con có mệt không Gioan? Con có muốn vào nhà không? Thầy, Thầy ở lại để cầu nguyện.
- Con cũng ở lại để cầu nguyện với Thầy.
- Tốt, vậy ở lại.
Giêsu đọc Thánh Vịnh và Gioan tham dự. Nhưng rồi tiếng ông tắt đi và vị tông đồ ngủ, đầu tựa vào lòng Giêsu. Người mỉm cười và trùm áo khoác của Người lên vai kẻ ngủ. Rồi Người tiếp tục, chắc là cầu nguyện thầm.
Thị kiến chấm dứt trong cảnh này.
34* “GIOAN LÀ MẪU NGƯỜI HOÀN TOÀN CỦA
NHỮNG KẺ HIẾN THÂN HY SINH
CHO TÌNH YÊU CHA”
Rồi Chúa Giêsu nói:
Một đường song song nữa giữa Gioan và môn đệ kia. Đường song song mà từ đó diện mạo kẻ biệt ái của Cha nổi lên rõ ràng hơn. Gioan là kẻ từ bỏ cả đến cách suy nghĩ và phán đoán của ông để làm người môn đệ. Ông tự hiến, không muốn giữ lại gì của cá tính mà ông có trước khi được chọn, không giữ lại một phân tử nào. Judas là kẻ không muốn lột bỏ mình, vì vậy sự hiến tặng của ông
187
không có thực. Ông mang với mình cái tôi bệnh hoạn vì kiêu căng, dâm đãng, tham lam. Ông giữ lối suy nghĩ của ông, vì vậy ông vô hiệu hóa hiệu qủa của việc dâng tặng cũng như của ơn huệ.
Judas là loại điển hình cho các tông đồ thiếu sót, và có biết bao người loại này! Gioan là điển hình cho những kẻ hiến thân làm lễ hy sinh cho tình yêu Cha. Đó là gương mẫu của con.
Cha và Mẹ Cha là những mẫu gương tuyệt vời. Đạt tới như chúng ta là khó, cả đến không thể, vì sự hy sinh của chúng ta là một sự cay đắng hoàn toàn. Nhưng Gioan của Cha! Đó là lễ hy sinh có thể bắt chước của tất cả những kẻ yêu Cha: đồng trinh, tử đạo, linh mục, kẻ rao giảng, tôi tớ của Thiên Chúa và của Mẹ Thiên Chúa, hoạt động cũng như chiêm niệm. Đó là gương mẫu của tất cả. Đó là kẻ yêu.
Con hãy quan sát hai kiểu lý luận khác nhau: Judas tra xét, bàn cãi, ngoan cố. Và khi ông có vẻ như nhượng bộ, ông vẫn giữ trong thực tế cái tâm tính của ông. Gioan coi mình như không, ông chấp nhận tất cả, không hỏi lý do, và thỏa lòng vì làm vui lòng Cha. Đó là gương mẫu.
Và con không cảm thấy hoàn toàn an bình trước cách yêu của ông sao? Ôi! Gioan của Cha! Và Gioan nhỏ của Cha mà Cha muốn càng ngày càng giống kẻ biệt ái của Cha hơn. Hãy đón nhận tất cả và luôn luôn nói như vị tông đồ: “Mọi điều Thầy làm đều tốt”, để đáng được nghe luôn luôn: “Con là sự bình an yêu thương của Cha”. Cha cũng cần sự khuây khỏa, Maria, hãy dâng nó cho Cha, và trái tim Cha sẽ là chỗ nghỉ ngơi của con.
35* GIÊSU VÀ ISCARIOT GẶP
SIMON ZÊLOTE VÀ GIOAN
Tôi thấy Giêsu và Judas Iscariot đi lại gần một trong các cổng của nội khu Đền Thờ.
- Thầy có chắc là ông ta sẽ đến không? - Judas hỏi.
- Thầy chắc. Ông ra đi lúc rạng đông từ Bêtani, và ông sẽ gặp
188
môn đệ đầu tiên của Thầy tại Gétsêmani.
Một yên lặng. Rồi Giêsu dừng lại nhìn tận mặt Judas, Người dò xét ông, rồi Người đặt một tay lên vai ông và hỏi: “Judas, tại sao con không nói cho Thầy điều con nghĩ?”
- Điều con nghĩ à? Con chả nghĩ gì đặc biệt lúc này cả Thầy. Các câu hỏi thì con đã hỏi Thầy qúa nhiều. Chắc chắn Thầy không thể phàn nàn về sự yên lặng của con.
- Con đã hỏi Thầy nhiều câu và cho Thầy nhiều chỉ dẫn về thành phố và dân chúng. Nhưng con không mở tâm hồn con ra cho Thầy. Con thấy có gì là quan trọng đối với Thầy về những chỉ dẫn liên can tới tài sản và các thành phần của gia đình nọ gia đình kia? Thầy đâu phải một kẻ nhàn cư tới đây cho qua giờ. Con biết tại sao Thầy đến, và con có thể hiểu rõ rằng Thầy lưu tâm trước hết để làm thầy cho các môn đệ của Thầy. Chính vì thế Thầy muốn họ phải chân thành và tin cẩn. Ba con có yêu con không Judas?
- Ông rất yêu con. Con là sự hãnh diện của ông. Khi con đi học về, và cả sau này, khi con từ Jêrusalem trở về Kêriot, ông muốn con kể hết cho ông. Ông lưu tâm tới hết những gì con làm. Ông vui nếu con tốt. Nếu - đôi khi, lẽ tự nhiên, mọi người đều có thể lầm - nếu đôi khi con sai và bị rầy, ông chỉ cho con thấy điều tốt trong lời khiển trách mà người ta nói với con, hoặc sự sai lầm trong cách hành động của con. Nhưng ông làm rất êm đềm, giống như người anh. Để kết thúc, ông luôn luôn nói: “Ba nói với con như vậy, vì ba muốn Judas của ba là người công chính. Ba muốn được chúc phúc qua đứa con của ba”. Ba con như vậy đó.
Giêsu không ngừng chăm chú nhìn người môn đệ thành thực cảm động khi nhớ lại ba ông. Người nói: “Đó, Judas. Hãy chắc chắn về điều Thầy sắp nói với con đây: không có điều gì làm cho ba con sung sướng bằng con làm môn đệ trung thành của Thầy. Thần trí ba con sẽ nhảy mừng tại nơi ông đang chờ đợi Ánh Sáng - Vì nếu ông đã dạy con như vậy thì chắc ông là người công chính - khi thấy con là môn đệ Thầy. Nhưng để được như vậy, con phải tự bảo mình: ‘Tôi sẽ tìm lại được người Cha mà tôi đã mất, người cha
189
giống như anh cả đối với tôi. Tôi sẽ tìm thấy ông trong Giêsu của tôi, và với Người, cũng như với người cha yêu dấu mà tôi còn khóc thương, tôi sẽ nói hết, để Người hướng dẫn tôi, chúc lành cho tôi, hoặc khiển trách tôi êm đềm’. Xin Đấng Hằng Hữu và con, nhất là con, làm sao để Giêsu chỉ nói với con một lời: Hãy tốt. Thầy chúc lành cho con”.
- Ôi! Vâng! Giêsu! Vâng! Nếu Thầy yêu con như vậy, con sẽ tốt như Thầy muốn và như ba con muốn, và má con sẽ không còn cái gai trong tim của bà. Bà luôn luôn nói: “Con ơi, con không còn ai hướng dẫn, mà con còn cần biết bao!” Khi bà biết rằng con được Thầy hướng dẫn!...
- Thầy sẽ yêu con như không một ai khác có thể yêu. Thầy yêu và sẽ yêu con chừng nào! Đừng làm Thầy thất vọng.
- Không. Thầy ơi! Không. Con đầy thói hư: tham lam, ghen tị, ham chức quyền, thích thú vui... Tất cả trong con đều đụng phải sự kích thích tốt của Thầy. Thầy coi, vừa lúc nãy đây, Thầy đã làm con khổ. Đúng ra không phải Thầy làm, mà tại tính xấu của con... Con tưởng mình là môn đệ đầu tiên của Thầy... mà Thầy, Thầy bảo con rằng Thầy đã có một người khác.
- Chính con đã thấy. Con không nhớ rằng hôm lễ Vượt Qua, Thầy đã ở Đền Thờ với nhiều người Galilê?
- Con nghĩ đó là những người bạn. Con tưởng mình được chọn đầu tiên vào một số phận như vầy, và do đó, là kẻ biệt ái.
- Trong trái tim Thầy, Thầy không phân biệt người sau cùng với người thứ nhất. Nếu người thứ nhất thiếu sót, trong khi người sau cùng thánh, thì khi đó, trước mặt Thiên Chúa, Thầy phải có sự phân biệt. Nhưng Thầy, Thầy yêu họ như nhau. Thầy yêu người Thánh với tình yêu sung sướng, người tội lỗi với tình yêu đau khổ. Nhưng kìa, Gioan đang đến với Simon. Gioan là người đầu tiên. Simon là người Thầy đã nói với con hai bữa trước đây. Simon và Gioan, con
190
đều đã gặp. Một người là bệnh nhân trước kia...
- A! Người cùi! Con nhớ. Đã là môn đệ Thầy rồi!
- Từ ngay hôm sau.
- Còn con, tại sao con phải chờ lâu vậy?
- Judas!
- Đúng vậy. Xin lỗi!
Gioan đã nhận ra Thầy và chỉ cho Simon. Họ nhấn bước. Lời chào của Gioan là cái hôn trao đổi với Thầy. Trái lại, Simon qùi xuống hôn chân Giêsu và kêu lên: “Vinh quang cho Vị Cứu Tinh của con! Xin Thầy chúc lành cho tôi tớ Thầy, để các hành động của nó là thánh trước mặt Thiên Chúa. Và con, con chúc phúc cho nó, vì nó đã cho con được có Thầy”.
Giêsu đặt tay trên đầu ông: “Ừ, Thầy chúc lành cho con, để cám ơn con vì công việc của con. Đứng dậy đi Simon. Đây là Gioan, đây là Simon, còn ông này là môn đệ mới nhất của Thầy. Ông cũng muốn theo Chân Lý, vì vậy, ông là người anh em với tất cả các con”.
Họ chào nhau. Hai người Do Thái với sự dè dặt. Gioan có vẻ tìm hiểu.
- Con mệt à Simon? - Giêsu hỏi.
- Thưa Thầy không. Cùng với sức khỏe, một sự cường tráng đã đến với con như con chưa hề có.
- Và Thầy biết rằng con đã sử dụng nó cách tuyệt vời. Thầy đã nói với nhiều người, và mọi người đều nói với Thầy về con như một kẻ đã được huấn luyện về Đấng Messi.
Simon mỉm cười bằng lòng: “Mới hôm qua con nói về Thầy với một người Israel ngay chính. Con hy vọng một ngày kia Thầy sẽ biết ông. Và con muốn rằng chính con là kẻ dẫn Thầy đến với ông ta”.
- Không thể được - Judas ngắt lời: “Thưa Thầy, Thầy đã hứa với con là sẽ đi với con tại Juđê”.
- Thì Thầy sẽ đi. Simon sẽ tiếp tục dạy cho người ta về việc Thầy đến. Thời gian vắn lắm các bạn ơi! Mà dân chúng thì qúa
191
đông đúc. Bây giờ Thầy đi với Simon. Chiều nay các con sẽ tới gặp Thầy trên đường núi oliu, và chúng ta sẽ phát tiền cho người nghèo. Đi đi!
Giêsu ở lại một mình với Simon, Người hỏi ông: “Người ở Bêtani đó là một người Israel đích thực?”
- Một người Israel đích thực. Nơi ông có tất cả những ý tưởng theo thời, nhưng cũng có một sự chờ mong Đấng Messi. Khi con nói với ông: “Người đang ở giữa chúng ta”. Ông trả lời con ngay: “Hạnh phúc chừng nào được sống giờ này”.
- Một ngày kia chúng ta sẽ tới nhà ông để mang phúc lành cho nơi ở của ông. Con đã thấy người môn đệ mới?
- Con đã thấy. Ông ta trẻ và có vẻ thông minh.
- Đúng, ông ta như vậy. Con là Do Thái, con sẽ khoan dung với ông ta hơn những người khác về các tư tưởng của ông ta.
- Đó là một ước mong hay một mệnh lệnh?
- Đó là một mệnh lệnh êm nhẹ. Con đã đau khổ nhiều, con có thể có nhiều khoan dung hơn. Sự đau khổ là thầy của nhiều thứ.
- Nếu Thầy ra lệnh đó cho con, con sẽ hoàn toàn đại lượng đối với ông.
- Ừ, như vậy nhé. Có lẽ Phêrô của Thầy, và không phải chỉ có mình ông, sẽ hơi bực mình vì Thầy lo săn sóc người môn đệ này tới thế. Nhưng một ngày kia họ sẽ hiểu... Một người càng bệnh hoạn thì càng cần được săn sóc. Những người khác... Ôi! Những người khác cũng sẽ tự đào tạo cho họ, chỉ bằng sự tiếp xúc. Thầy không muốn tự mình làm hết. Thầy xin thiện chí của người ta và sự giúp đỡ của những người khác để đào tạo một người. Thầy xin các con giúp Thầy và Thầy biết ơn các con vì sự giúp đỡ của các con.
- Thưa Thầy, Thầy nghĩ rằng ông ta sẽ làm Thầy thất vọng?
- Không. Ông ta trẻ, và ông ta lớn lên ở Jêrusalem...
- Ôi! Ở bên cạnh Thầy, ông ta sẽ sửa chữa hết những tật xấu của thành phố này... Con chắc vậy. Con, con đã già, đã khô héo trong sự thù ghét, mà con đã hoàn toàn canh tân từ lúc con nhìn thấy
192
Thầy...
Giêsu thì thầm: “Chớ gì được như vậy”. Rồi người nói lớn: “Hãy lên Đền Thờ với Thầy. Thầy sẽ giảng Tin Mừng cho dân”.
Thị kiến chấm dứt.
36* GIÊSU, GIOAN, SIMON VÀ JUDAS ĐI BÉTLEM
Tôi thấy trời mới sáng tinh sương, vẫn ở cùng một cái cổng, Giêsu đã ở đó với Gioan, rồi có Simon và Judas tới họp đoàn với Người. Tôi nghe Người nói: “Các bạn ơi, Thầy xin các con đi với Thầy khắp xứ Juđê, nếu việc đó không qúa nặng nề cho các con, đặc biệt là với con, Simon”.
- Tại sao Thầy?
- Vì rất nặng nhọc để đi trong miền núi xứ Juđê... Và có lẽ với con, nó sẽ nặng nề hơn khi gặp những người đã làm hại con.
- Về việc đi bộ, con bảo đảm với Thầy một lần nữa là từ khi Thầy chữa con, con bền sức hơn một người trẻ, và không có mệt nhọc nào làm nặng nề cho con, nhất là khi vì Thầy, và bây giờ là với Thầy. Còn việc gặp những người đã làm hại con thì con không còn thấy nặng nề nữa, không còn tí oán ghét nào đối với họ trong qủa tim Simon từ khi nó thuộc về Thầy. Sự hận thù đã rơi xuống. Xin Thầy tin chắc, nếu con phải nói với Thầy xem Thầy đã làm phép lạ nào lớn hơn: chữa cho thân xác bị gặm mòn bởi bệnh tật của con, hay chữa cho tâm hồn bị thiêu đốt bởi oán ghét của con. Con nghĩ con không lầm khi nói rằng phép lạ thứ hai là lớn hơn. Chữa các vết thương cho một tâm hồn thì khó hơn... Mà chỉ một phát, Thầy đã chữa cho con. Đó là một phép lạ. Một người không thể khỏi ngay một phát, dù họ dùng mọi sức lực của họ. Họ không thể chữa cái diện mạo tâm hồn như vậy nếu Thầy không tiêu hủy nó bằng ý muốn thánh của Thầy.
- Con không lầm trong sự phán đoán của con.
- Tại sao Thầy không làm vậy với mọi người? - Judas hỏi với vẻ bực bội.
- Nhưng Người làm. Judas, sao anh lại nói với Thầy như vậy?
193
Anh không cảm thấy anh ra khác từ ngày anh tới gần Người sao? Tôi, tôi đã là môn đệ Gioan Tẩy Giả, nhưng tôi cảm thấy tôi thay đổi hẳn từ khi Người bảo tôi: “Hãy đến” - Gioan, thường thì không bao giờ can thiệp, đặc biệt là những điều xảy ra trước mặt Thầy thì ông không bao giờ làm. Nhưng lần này ông không thể nín lặng. Một cách êm dịu và tình nghĩa, ông đặt một bàn tay trên cánh tay của Judas như để làm ông bình tĩnh, và ông nói với ông ta bằng một giọng thở dốc đầy vẻ chinh phục. Rồi nhận ra mình đã nói trước mặt Giêsu, ông đỏ mặt và nói: “Con xin lỗi Thầy, con đã nói thay vì Thầy. Nhưng con muốn... Con muốn rằng Judas không làm Thầy buồn”.
- Ừ, Gioan, nhưng ông ta không làm thầy buồn với tư cách là môn đệ. Ông ta sẽ làm như vậy nếu ông ta khăng khăng với lối suy nghĩ của ông ta, lúc đó thì thực sự ông ta sẽ làm Thầy buồn. Điều duy nhất khiến Thầy buồn là nhận thấy Satan đã làm hư hỏng con người chừng nào! Nó đã làm lạc tư tưởng của họ. Tất cả các con hãy biết điều đó. Tất cả các con đều có tư tưởng bị xáo trộn bởi nó. Nhưng sẽ tới, ôi! sẽ tới ngày các con có sức mạnh của Thiên Chúa, có Ân Sủng trong mình các con. Các con sẽ được Khôn Ngoan với Thánh Linh của Người... Lúc đó các con sẽ phán đoán tất cả cách công bằng.
- Tất cả chúng con sẽ phán đoán cách công bằng?
- Không, Judas.
- Nhưng Thầy nói cho chúng con, các môn đệ của Thầy, hay cho hết mọi người?
- Thầy nói trước tiên là cho các con, rồi cho mọi người khác, khi tới giờ vị Thầy thiết lập các thợ của Người và sai họ đi khắp thế giới...
- Thầy đã không làm rồi sao?
- Lúc này Thầy mới chỉ dùng các con để nói: “Có Đấng Messi, hãy đến với Người”. Lúc đó thì Thầy sẽ làm cho các con có khả
194
năng rao giảng tên Thầy và làm các phép lạ nhân danh Thầy...
- Ôi! Cả phép lạ!
- Ừ, trên thân xác và trên tâm hồn.
- Ồ! Lúc đó người ta sẽ phục chúng con dường nào! - Judas hoan hỷ với tư tưởng này.
- Lúc đó chúng ta sẽ không còn được ở với Thầy. Nhưng, với tôi, tôi luôn luôn sợ thi hành những sự thuộc về Thiên Chúa bằng những phương tiện loài người - Gioan nói. Ông nhìn Giêsu với vẻ suy tư và cả đến hơi buồn.
- Gioan, nếu Thầy cho phép, tôi muốn nói với anh tư tưởng của tôi.
- Hãy nói nó cho Gioan đi. Thầy muốn các con khuyên bảo lẫn nhau.
- Thầy đã biết đó là một lời khuyên?
Giêsu mỉm cười nín lặng.
- Vậy tôi bảo anh, Gioan, rằng anh không nên sợ, và chúng ta không nên sợ. Hãy dựa vào sự khôn ngoan của Thầy chí thánh, và vào lời hứa của Người. Nếu Người bảo chúng ta: “Thầy sẽ sai các con”, điều đó có nghĩa là Người biết có thể sai chúng ta mà không thiệt hại gì cho Người và cho chúng ta, tức là vì Thiên Chúa, Đấng chí thiết với chúng ta giống như một người vợ mới cưới. Nếu Người đã hứa mặc cho trí khôn và thần trí khốn nạn của chúng ta bằng sức mạnh mà Chúa Cha đã cho Người để cho chúng ta, thì chúng ta phải chắc chắn rằng Người sẽ làm điều đó, và chúng ta sẽ được có khả năng, không phải bởi chúng ta, nhưng bởi tình thương của Người. Vậy chắc chắn mọi điều đó sẽ xảy ra, nếu chúng ta không để sự kiêu căng và các ước muốn loài người vào trong các hành động của chúng ta. Tôi nghĩ nếu chúng ta làm hư hỏng sứ mạng của chúng ta là sứ mạng hoàn toàn siêu nhiên, bằng những yếu tố trái đất, thì lúc đó cả những lời hứa của đấng Kitô cũng không hoàn thành, và đó không phải tại Người bất lực, nhưng là vì chúng ta đã bóp nghẹt sức mạnh của Người bằng sợi giây kiêu căng. Tôi không biết tôi có giải thích đúng không.
- Anh giải thích rất đúng. Chính là tôi sai. Nhưng, anh biết...
195
Thật ra, tôi nghĩ rằng sự ước ao được cảm phục vì là môn đệ của Đấng Messi, trở nên hoàn toàn của Người để đáng được làm những điều người làm, đó là ước ao làm sáng chói hơn nữa hình ảnh mạnh mẽ của Đấng Kitô trong thế giới, là lời ca tụng cho Thầy vì có những môn đệ như vậy. Đó là điều tôi muốn nói - Judas trả lời ông.
- Judas, anh không sai trong điều anh nói. Nhưng... Anh thấy, tôi thuộc về một giai cấp bị bách hại vì bị hiểu lầm, thì Đức Messi phải bị thế nào? Đúng, nếu chúng ta đã chờ đợi Người với nhãn quan đúng như thực thể của Người, thì chúng ta không thể rơi vào sai lầm, là sự phạm thượng chống lại Sự Thật, và là sự phản loạn chống lại Rôma. Vì vậy về phía Thiên Chúa và về phía Rôma, chúng ta đều bị phạt. Chúng ta muốn thấy nơi Đấng Kitô một người chinh phạt, một người giải phóng cho Israel, một Maccabê mới, và còn lớn hơn Juđa Maccabê nữa. Chỉ có vậy thôi. Và tại sao? Vì chúng ta lo tới lợi ích của chúng ta hơn lợi ích của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ lo tới lợi ích của quê hương và của dân tộc. Ôi! Lợi ích của quê hương cũng thánh, nhưng nó là gì trước Nước Trời đời đời?
Bao nhiêu ngày giờ dài. Trước tiên là bị bách hại, rồi kỳ thị, rồi lưu vong. Tôi đã ẩn náu trong các hang của muông thú, chia sẻ chỗ ở và lương thực với chúng để trốn tránh cảnh binh Rôma, và nhất là sự tố giác của các bạn hữu giả. Rồi nhất là khi tôi chờ đợi cái chết, trong khi thưởng thức trước mùi vị của nấm mồ trong hang hốc của người cùi... tôi đã suy nghĩ biết bao: tôi đã thấy diện mạo thực sự của Đấng Kitô... của Thầy: vị Thầy khiêm tốn và nhân từ, của Thầy: Vua các tâm hồn, của Thầy: Ôi Đấng Kitô, Con Chúa Cha, đấng dẫn chúng ta tới Cha chứ không phải tới những hoàng triều cát bụi, cũng không phải tới một thần tính cát bụi... Thầy... Ôi! con thấy dễ dàng để theo Thầy... Vì, xin Thầy tha cho sự táo bạo của con, dám tự xưng là đúng, vì con thấy Thầy đúng như con nghĩ về Thầy. Con nhận ra Thầy. Con nhận ra Thầy ngay lập tức. Điều đó không phải là biết Thầy, nhưng là nhận ra một người mà linh hồn con đã biết...
- Vì vậy Thầy đã gọi con... Và vì vậy Thầy dẫn con đi với Thầy bây giờ, trong cuộc hành trình đầu tiên của Thầy tại Juđê. Thầy
196
muốn con hoàn tất việc hiểu biết Thầy. Và Thầy muốn những người này, mà vì tuổi trẻ, ít có khả năng hơn để đạt tới sự thật bằng sự chiêm ngắm nghiêm khắc, biết Thầy của họ đã tới vào giờ này thế nào... Rồi sau đó các con sẽ hiểu tiếp. Đây, chúng ta không còn xa tháp Đavít. Cổng phía đông đã gần.
- Chúng ta ra lối này à?
- Ừ, Judas. Trước tiên, chúng ta tới Bétlem, nơi Thầy đã sinh ra... Rất tốt để các con biết... để nói cho những người khác. Đó cũng là một phần để hiểu biết Đấng Messi và Kinh Thánh. Các con sẽ thấy các lời tiên tri được viết trên các vật. Chúng sẽ nói với các con, không phải bằng tiếng nói của tiên tri, nhưng bằng tiếng nói của lịch sử. Chúng ta hãy đi vòng lâu đài của Hêrôđê...
- Tên cáo già độc ác và dâm đãng!
- Đừng xét đoán. Chính Thiên Chúa là đấng xét đoán. Chúng ta đi con đường băng qua các khu vườn. Chúng ta sẽ dừng dưới bóng một cây nào đó, gần nhà nào cho trú, khi mặt trời qúa nóng. Rồi chúng ta tiếp tục con đường của chúng ta.
Thị kiến chấm dứt.
37* GIÊSU TẠI BÉTLEM, TRONG NHÀ
NGƯỜI NÔNG DÂN VÀ TRONG HANG ĐÁ
Một con đường miền đồng bằng, đầy đá sỏi, bụi bặm, khô ran vì mặt trời mùa hè. Họ tiến bước, băng qua những cây oliu tươi tốt đầy những trái nhỏ vừa kết. Mặt đất, chỗ nào người ta không dẵm lên thì còn phủ một lớp hoa oliu mỏng đã rơi xuống sau khi thụ tinh.
Giêsu bước đi với ba người, xếp hàng nối đuôi dọc bờ đường, nơi bóng các cây oliu giữ cho cỏ còn xanh và ít bụi.
Con đường vòng về bên phải, rồi lên dốc nhẹ về phía một đường mương có hình móng ngựa, trên đó có khá nhiều nhà to nhỏ rải rác, họp thành một làng. Ngay tại nơi con đường bẻ vòng, có một căn nhà hình khối vuông, ở trên nóc là một cái vòm bán cầu thấp. Căn
197
nhà đóng kín cửa, tựa như bỏ hoang.
- Đó, nơi này là mộ Rakel - Simon nói.
- Vậy chúng ta đã gần tới nơi. Chúng ta có vào tỉnh ngay không?
- Không, Judas. Trước tiên Thầy chỉ cho các con một nơi... Rồi chúng ta vào tỉnh, vì trời còn sáng và sẽ có trăng, chúng ta có thể nói với dân, nếu họ muốn nghe.
- Thầy muốn họ không nghe Thầy à?
Họ tới ngôi mộ cổ nhưng được bảo trì cẩn thận, quét vôi trắng.
Giêsu dừng lại để uống ở cái giếng thô sơ rất gần đó. Một người đàn bà cho người nước bà mới kín. Giêsu hỏi: “Bà người Bétlem?”
- Phải, nhưng bây giờ, vào kỳ gặt hái thì tôi ở đây với chồng tôi trong miền quê này để săn sóc vườn rau và vườn trái cây. Còn ông, ông người Galilê?
- Tôi sinh ở Bétlem, nhưng tôi sống ở Nazarét thuộc Galilê.
- Ông cũng bị bách hại?
- Gia đình. Nhưng tại sao bà nói là “ông cũng”? Trong số dân Bétlem, có nhiều người bị bách hại sao?
- Ông không biết à? Ông bao nhiêu tuổi rồi?
- Ba mươi.
- Vậy là ông sinh ngay vào khi... Ôi! Khốn nạn chừng nào! Nhưng tại sao ông ta lại sinh ra ở đây, cái ông đó?
- Ai?
- Nhưng người mà người ta gọi là Vị Cứu Tinh! Đáng nguyền rủa cho những kẻ ngu. Trong cơn say sưa, chúng thấy trong đám mây các thiên thần, chúng nghe tiếng từ trời giữa tiếng bê bê của chiên cừu và lừa ngựa, và trong cơn say, chúng cho ba kẻ khốn nạn là những người thánh nhất trái đất. Khốn cho chúng và những kẻ tin chúng!
- Nhưng với toàn là nguyền rủa, bà đã không giải thích cho tôi cái gì đã xảy ra. Tại sao lại nguyền rủa?
- Bởi vì... Nhưng hãy nói cho tôi: Ông muốn đi đâu?
- Đi Bétlem với các bạn tôi. Tôi có cảm tình với nơi này. Tôi phải chào các bạn cũ và mang cho họ lời chào của mẹ tôi. Nhưng trước tiên tôi muốn biết nhiều điều. Bởi vì chúng tôi vắng mặt với
198
gia đình từ nhiều năm. Tôi bỏ thành phố từ khi tôi được mấy tháng.
- Vậy là trước tai họa này. Nghe đây: Nếu ông không chê căn nhà nông dân thì hãy tới chia sẻ bánh và muối với chúng tôi, ông và cả các bạn ông. Chúng ta sẽ nói trong khi ăn tối. Tôi sẽ cho ông ở tới sáng. Nhà nhỏ, nhưng ở nền kho có lớp cỏ dầy. Đêm nóng và trời sáng, nếu ông muốn, ông có thể ngủ ở đó.
- Nguyện Thiên Chúa Israel thưởng công cho bà vì lòng hiếu khách của bà. Tôi sẽ vui mừng tới nhà bà.
- Khách hành hương mang phúc lành theo với họ. Đi đi. Tôi phải kín sáu vò nước nữa cho các cây rau mới trồng.
- Tôi sẽ giúp bà.
- Không. Ông là ông Chúa. Lối hành động của ông nói điều đó cho tôi.
- Bà ơi, tôi là thợ thủ công, còn em này là dân chài. Hai người này là Do Thái, giầu và có địa vị, chứ không phải tôi.
Và Người cầm chiếc vò lăn bên thành giếng thấp, Người buộc vào giây và thả xuống. Gioan giúp Người. Những người khác cũng không muốn làm ít hơn. Họ nói với người đàn bà: “Vườn ở đâu, chỉ cho chúng tôi để chúng tôi mang vò tới”.
- Xin Thiên Chúa chúc lành cho các ông. Tôi hầu như gẫy lưng vì mệt... đi - và trong khi Giêsu kéo nước lên, ba bạn của Người đi vào một lối đi nhỏ... Rồi họ trở lại với hai chiếc vò rỗng, ruôn đầy rồi lại đi. Họ làm như vậy không phải ba lần, nhưng cả chục lần. Judas cười nói: “Bà ta đang gào phúc lành. Chúng ta tưới cho sà-lát ướt sũng. Có thể hai ngày nữa đất cũng còn ẩm, và người đàn bà không phải đau lưng”. Khi ông trở lại lần chót ông nói: “Thưa Thầy, nhưng con tin là chúng ta gặp xui”.
- Tại sao Judas?
- Vì bà ta không muốn đấng Messi. Con bảo bà: “Đừng nguyền rủa. Bà không biết rằng ơn huệ lớn nhất của dân Thiên Chúa là Đấng Messi sao? Jêova đã hứa với Jacob, và sau ông là tất cả các tiên tri và các người công chính của Israel. Vậy mà bà ghét Người!” Bà trả lời con: “Không phải Người, nhưng cái ông mà các tên mục
199
đồng say sưa và các thầy bói khốn kiếp ở phương đông đã đặt tên như vậy”. Và tại vì chính Thầy...
- Không quan trọng. Thầy biết Thầy được sinh ra để làm dấu hiệu thử thách và mâu thuẫn với nhiều người. Con có nói với bà Thầy là ai không?
- Không. Con đâu có ngu. Con cũng muốn giữ lưng Thầy và lưng chúng con chứ!
- Con làm đúng. Không phải vì lưng, nhưng vì Thầy chỉ tỏ mình ra khi Thầy thấy là thuận tiện. Đi!
Judas dẫn Người vào vườn. Người đàn bà tưới ba vò sau cùng rồi dẫn họ tới một căn nhà thôn dã ở giữa vườn cây ăn trái. Bà nói: “Vào đi. Chồng tôi đã ở trong nhà”.
Họ đi về một căn nhà bếp rộng và ám khói: “Bình an cho nhà này”. Giêsu chào.
- Dù ông là ai, cũng xin phúc lành xuống cho ông và các người của ông. Xin vào - người đàn ông trả lời. Rồi trước tiên, ông mang tới một thau nước đầy để bốn người rửa ráy. Rồi họ vào và ngồi quanh chiếc bàn cục mịch.
- Tôi cám ơn các ông cho vợ tôi. Bà đã nói với tôi. Tôi không bao giờ lại gần các người Galilê. Người ta bảo tôi rằng họ thô kệch và hay cãi lẫy. Nhưng các ông, các ông tử tế và tốt. Đã mệt... mà còn làm bao là việc. Các ông từ xa tới?
- Từ Jêrusalem. Hai ông này là Do Thái. Tôi với em kia người Galilê. Nhưng ông ơi, hãy tin tôi: có người tốt người xấu ở khắp nơi.
- Đúng vậy, nhưng tôi, đây là lần đầu tiên tôi gặp những người Galilê tốt. Tôi gặp may. Bà ơi! Mang gì lên ăn đi. Tôi chỉ có bánh, rau cỏ, oliu và phó mát. Tôi là nông dân.
- Tôi cũng đâu phải ông chúa. Tôi là thợ mộc.
- Ông? Với lối cư xử này?
Người đàn bà can thiệp: “Ông khách sinh ở Bétlem, tôi đã nói với ông. Và gia đình ông cũng bị bách hại. Có lẽ xưa kia họ cũng giầu, được giáo dục như Josuê con Ur, Mathia con Isaac, Lêvi con
200
Abraham... Những kẻ tội nghiệp!...”
- Người ta đâu có hỏi bà! Xin tha cho bà. Đàn bà họ luôn luôn lắm mồm. Còn hơn là chim sẻ lúc ban chiều.
- Đó là những gia đình ở Bétlem à?
- Sao? Ông không biết họ là ai à? Nếu ông người Bétlem?
- Chúng tôi đã trốn đi khi tôi mới được mấy tháng.
Người đàn bà chắc là nhiều lời, lại bắt đầu nói: “Ông ta đi trước vụ tàn sát”.
- Ê! Tôi thấy đúng: nếu không thì ông đâu có còn trên đời. Ông không bao giờ trở lại?
- Không.
- Khốn nạn cả thể! Ông sẽ tìm được rất ít người mà Sara bảo tôi là ông muốn biết và chào. Chết rất nhiều. Lưu vong rất nhiều... Rất nhiều! Than ôi! Bị phân tán... Người ta không bao giờ biết họ chết trong sa mạc hay trong tù vì phản loạn. Nhưng có phải là phản loạn không? Ai có thể thản nhiên khi thấy từng ấy trẻ bị cắt cổ. Không. Không công bằng nếu để cho Lêvi và Êlie sống trong khi từng ấy trẻ bị chết!
- Hai người này là ai và họ đã làm gì?
- Nhưng... Ít nhất ông cũng nghe về cuộc tàn sát của Hêrôđê chứ? Hơn một ngàn đứa trẻ ở trong thành phố và một ngàn đứa nữa ở miền quê. Và tất cả, hầu như tất cả con trai, bởi vì trong cơn điên của họ, ban đêm, trong sự lộn xộn, các kẻ giết bắt, giật lấy chúng ở trong nôi, trong giường của mẹ chúng. Các nhà bị bao vây, cả các bé gái cũng bị giật, bị đâm thâu như con linh dương đang uống nước bị bắn bởi một xạ thủ. Và tất cả chuyện đó là tại sao? Tại một nhóm mục đồng, ban đêm, để khỏi bị lạnh, chúng đã uống nhiều một thứ đồ uống nào đó làm chúng mê sảng, kể lể rằng chúng đã thấy các thiên thần, nghe các bài ca, nhận mệnh lệnh để nói với chúng tôi, dân Bétlem: “Hãy đến thờ lạy. Đấng Messi đã sinh ra!” Ôi! Ông nghĩ coi: Đấng Messi ở trong một cái hang!
Thực sự, tôi phải nói là tất cả chúng tôi đều say, kể cả tôi, khi đó còn trẻ, kể cả vợ tôi khi đó mới được mấy tuổi... Vì tất cả chúng tôi đều tin. Và chúng tôi nhìn thấy trong một người đàn bà Galilê tội
201
nghiệp, người trinh nữ sinh con mà các tiên tri đã nói. Nhưng bà ta là một phụ nữ Galilê thô lỗ. Chồng bà, chắc chắn rồi, nếu bà ta là vợ thì làm sao bà ta có thể đồng trinh? Tóm lại, chúng tôi tin. Ôi! Qùa cáp, thờ lạy, mở cửa ra đón... Thực sự người ta đã biết làm rất khéo các chuyện. Bà Anna tội nghiệp! Bà đã mất của cải, sự sống, và các cháu ngoại của bà nữa. Đứa đầu tiên, đứa duy nhất sống sót, vì nó lấy chồng là thương gia ở Jêrusalem, bị mất gia tài vì nhà bị đốt, và cả lãnh địa của bà bị phá do lệnh Hêrôđê. Bây giờ nó là cánh đồng không cày cấy, nơi người ta chăn súc vật.
- Tất cả chuyện đó là lỗi của các mục đồng à?
- Không. Cũng tại ba tên phù thủy đến từ vương quốc của Satan. Có lẽ chúng là đồng lõa với ba tên này. Và chúng tôi, ngu xuẩn, đã làm cho chúng bao là danh dự. Ôi! Ông trưởng giáo đường khốn khổ, chúng tôi đã giết ông vì ông đã phán đoán rằng các lời tiên tri đóng dấu sự thật cho các lời của các mục đồng và các nhà Đạo Sĩ...
- Tất cả là do lỗi của các mục đồng và các nhà Đạo Sĩ?
- Không, ông Galilê, cũng tại lỗi chúng tôi nữa. Do sự dễ tin của chúng tôi. Người ta chờ đấng Messi qúa lâu rồi! Bao thế kỷ chờ mong. Thời gian sau cùng đã bao thất vọng vì các Messi giả. Một tên cũng Galilê như ông; một tên khác có tên là Thêođa! Các tên dối trá! Chúng nó mà Messi! Đó chỉ toàn là các tên phiêu lưu tìm của. Đáng lẽ đó phải là bài học cho chúng tôi. Nhưng trái lại...
- Vậy tại sao qúi vị nguyền rủa tất cả các mục đồng và các Đạo Sĩ? Nếu qúi vị cho là qúi vị cũng ngu, thì qúi vị phải nguyền rủa mình tương đương như vậy. Nhưng sự nguyền rủa bị cấm bởi giới răn Tình Yêu. Sự nguyền rủa lôi kéo nguyền rủa. Qúi vị có chắc là qúi vị phán đoán đúng không? Có thể là các mục đồng và các Đạo Sĩ đã nói sự thật mà họ được Thiên Chúa mặc khải? Tại sao lại cứ muốn tin là họ nói dối?
- Bởi vì các năm tiên tri chưa hoàn tất. Từ đó chúng tôi mới suy nghĩ... sau khi máu đã nhuộm đỏ các bể và các suối mở mắt cho trí khôn chúng tôi.
- Có thể Đấng Tối Cao, vì qúa yêu dân Người, đã cho Vị Cứu Tinh đến sớm? Các nhà Đạo Sĩ đã dựa vào đâu để xác định? Ông
202
đã nói với tôi là họ đến từ phương đông?...
- Trên sự tính toán của họ dựa vào một ngôi sao mới.
- Đã chẳng có lời rằng: “Một ngôi sao sẽ sinh ra từ Jacob, và một vương trượng sẽ bừng lên trong Israel”? Và Jacob chẳng phải là vị tổ phụ lớn, và ông đã chẳng dừng lại trong đất Bétlem này là đất thân yêu đối với ông như con ngươi trong mắt, vì ở đây Rakel, người yêu qúi của ông chết?
Hơn nữa, từ miệng tiên tri đã chẳng nói: “Một chồi sẽ mọc ra từ gốc Jessê, và một bông hoa sẽ nở trên chồi này”? Isai, cha của Đavít đã sinh ra ở đây. Chồi trên cái gốc đã bị cưa tận rễ bởi sự chiếm vị của các bạo chúa, chẳng phải là Người Trinh Nữ sẽ sinh con trai được cưu mang không phải do một người, vì như vậy thì bà không còn đồng trinh, nhưng do ý muốn của Thiên Chúa, bởi thế Người là “Emmanuel”, vì là Con Thiên Chúa, Người cũng là Thiên Chúa, và bởi vậy Người mang Thiên Chúa tới giữa dân Thiên Chúa như tên Người đã chỉ?
Và lời tiên tri đã chẳng báo cho dân chúng ở những nơi tối tăm, tức là dân ngoại “bởi một ánh sáng vĩ đại”? Và ngôi sao mà các nhà Đạo Sĩ thấy, chẳng phải là ngôi sao Jacob, ánh sáng vĩ đại của hai tiên tri Balaam và Isaie sao?
Và chính cuộc tàn sát do Hêrôđê hoàn thành, đã chẳng ở trong lời tiên tri sao? “Một tiếng kêu vang dậy... Đó là Rakel khóc các con bà”. Có dấu chỉ rằng xương cốt của Rakel trong mộ của bà tại Ephrata đã than thở và khóc vào thời kỳ mà bởi Vị Cứu Tinh, một phần thưởng sẽ đến với dân thánh. Nước mắt được đổi thành nụ cười Thiên Quốc, giống như chiếc cầu vồng tạo ra sau những giọt mưa cuối cùng của một cơn giông, nó nói: “Đây, thời kỳ trong sáng được chấp nhận cho các ngươi”.
- Ông rất có học. Ông là rabbi?
- Phải.
- Tôi thấy, có ánh sáng và sự thật trong các lời ông. Nhưng... Ôi! Qúa nhiều vết thương còn chảy máu trong miền đất Bétlem này vì Đấng Messi thực hay giả... Cả đến tôi khuyên Người đừng bao giờ tới đây. Miền đất này sẽ xua đuổi Người như xua đuổi đứa con
203
hoang, nguyên nhân làm cho các con chính phải chết. Nhưng, lại nữa... Nếu là Người... thì Người đã chết với các đứa trẻ mà người ta cắt cổ.
- Lêvi và Êlie bây giờ sống ở đâu?
- Ông biết họ à? - người đàn ông nghi ngờ.
- Tôi không biết họ. Tôi không biết mặt họ, nhưng đó là những kẻ đáng thương. Và tôi luôn luôn thương những kẻ khổ sở. Tôi muốn tìm họ.
- Ông là người đầu tiên từ gần sáu ngũ niên nay. Họ vẫn là mục đồng, phục vụ cho một người phái Hêrôđê giầu có ở Jêrusalem, kẻ đã chiếm gia tài của nhiều người bị giết. Luôn luôn có những kẻ lợi dụng. Ông sẽ tìm thấy họ với đoàn vật của họ trên đường đi Hébron. Nhưng tôi khuyên ông đừng để các người Bétlem thấy ông nói chuyện với họ, ông sẽ phải hối hận. Chúng tôi chịu đựng họ vì... vì có tên phái Hêrôđê. Nếu không...
- Ôi! Sự thù ghét! Tại sao lại thù ghét?
- Vì đó là công bằng. Họ đã làm khổ chúng tôi.
- Họ đã tin rằng họ làm đúng.
- Nhưng họ đã làm khổ chúng tôi mà họ cứ khăng khăng vậy. Chúng tôi phải giết họ, cũng như họ đã làm chúng tôi bị giết bởi sự điên khùng của họ. Nhưng chúng tôi bị trì độn... Vả nữa, có tên phái Hêrôđê.
- Vậy là nếu không có ông ta, dù cả sau cuộc khởi loạn đầu tiên còn có thể hiểu được, các ông sẽ giết họ?
- Ngay bây giờ, chúng tôi cũng có thể giết họ mà không sợ gì tên chủ của họ nữa.
- Ông ơi! Tôi bảo ông: đừng thù ghét. Đừng ước ao điều ác, đừng ước ao làm điều ác. Ở đây không có điều lỗi. Nhưng dù có, hãy tha thứ. Nhân danh Thiên Chúa, hãy tha. Hãy nói vậy với các người Bétlem khác. Khi sự thù ghét rơi xuống khỏi con tim qúi vị thì Đấng Messi sẽ tới, lúc đó các ông sẽ biết Người, vì Người vẫn sống. Người đã hiện hữu rồi khi xảy ra cuộc tàn sát. Tôi nói điều đó với ông. Không phải lỗi của các mục đồng hay các nhà Đạo Sĩ, mà là lỗi của Satan nên có cuộc tàn sát này. Đấng Messi đã sinh ra cho
204
qúi vị ở đây. Người đã đến mang ánh sáng cho đất của tổ tiên Người. Người con của bà mẹ Đồng Trinh thuộc dòng tộc Đavít, chính từ sự đổ nát của nhà Đavít mà Người mở ra cho thế giới dòng sông ân phúc đời đời, và mở ra cho loài người con đường của sự sống...
- Đi đi! Đi đi! Hãy ra khỏi đây! Ông là phe đảng của tên Messi giả này. Hắn chỉ có thể là giả, vì hắn đã mang bất hạnh cho chúng tôi, cho dân Bétlem chúng tôi, mà ông bảo vệ hắn. Vậy...
- Im đi ông! Tôi là Do Thái và tôi có các bạn bè cao cấp. Ông có thể phải hối hận vì chửi rủa Người - Judas nhảy lên, nắm lấy y phục người nông dân và lắc ông ta cách dữ dằn, bừng bừng nổi giận.
- Không. Không. Các ông đi đi! Tôi không muốn phiền phức với người Bétlem cũng như với Rôma và Hêrôđê. Đi đi! Các tên bị nguyền rủa! Nếu các ông không muốn tôi để lại cho các ông một kỷ niệm. Cút đi!...
- Chúng ta đi, Judas, đừng phản ứng. Hãy để cho họ với sự thù oán của họ. Thiên Chúa không vào nơi có sự thù oán. Chúng ta đi.
- Phải, chúng tôi đi. Nhưng các ông sẽ phải trả giá.
- Không. Judas. Không, đừng nói vậy. Đó là những người mù... Có biết bao người như vậy trên đường...
Họ ra, đi theo Gioan và Simon đã ở ngoài và đang nói với người đàn bà tại góc chuồng cừu.
- Chúa ơi! Xin tha cho chồng tôi. Tôi không ngờ là tôi đã làm phiền chừng ấy... Đây, cầm lấy đi. Ông sẽ ăn sáng mai. Trứng tươi, mới đẻ bữa nay... Xin tha. Ngài sẽ ngủ ở đâu?
- Đừng lo tới đó. Tôi biết phải đi đâu. Hãy bình an vì lòng tốt của bà. Chào.
Họ đi trong yên lặng vài mét, rồi Judas nổ bùng: “Tại sao Thầy không bắt chúng thờ lạy? Tại sao không đè bẹp xuống sát đất cái tên phạm thượng ghê tởm này? Đè bẹp xuống sát đất, vì đã thiếu sót với Thầy, Đấng Messi... Ôi! Con thì con đã làm vậy. Các tên loại Samari! Ta phải làm phép lạ để biến chúng thành tro, chỉ có
205
vậy mới làm chúng nhúc nhích!”
- Ôi! Biết bao lần Thầy đã nghe như vậy! Thầy có phải biến hết các kẻ phạm tội chống lại Thầy ra tro không?... Không... Judas, Thầy đến để kiến tạo chứ không phải để phá hủy.
- Đúng, nhưng trong khi chờ đợi thì người ta đã phá hủy Thầy.
Giêsu không đáp trả.
Simon hỏi: “Bây giờ chúng ta đi đâu Thầy?”
- Hãy đi với Thầy, Thầy biết một chỗ.
- Nhưng... Nếu Thầy không ở đây từ hồi Thầy trốn đi thì làm sao Thầy biết? - Judas bứt rứt hỏi.
- Thầy biết. Nó không đẹp, nhưng Thầy đã ở đây lần đó. Không phải ở Bétlem, hơi ở bên ngoài... Chúng ta hãy đi hướng này.
Giêsu đi trước, rồi Simon, rồi Judas, sau chót là Gioan... Trong sự yên lặng, chỉ nghe tiếng xăng-đan đạp trên đá sỏi của lối đi. Có tiếng nức nở. Giêsu quay lại hỏi:
- Ai khóc?
- Gioan. Anh ta sợ - Judas trả lời.
- Không. Tôi không sợ. Tôi đã để tay lên con dao găm mà tôi giắt ở thắt lưng... Nhưng tôi nhớ lại câu: “Đừng giết người, hãy tha thứ” của Thầy, Thầy luôn luôn nói như vậy...
- Vậy tại sao cậu khóc? - Judas hỏi.
- Vì tôi khổ khi thấy thế giới không muốn có Giêsu, không nhận ra Người và không muốn biết Người! Ôi! Đau khổ chừng nào! Tựa như người ta đâm những chiếc gai bằng lửa vào tim tôi. Tựa như tôi thấy mẹ tôi bị chà đạp và ba tôi bị nhổ vào mặt... Và còn hơn nữa... Tựa như tôi thấy các con ngựa của Rôma ăn trong hòm bia Thánh và ngủ trong nơi Cực Thánh.
- Đừng khóc, Gioan của Thầy. Con sẽ nói lần này cũng như rất nhiều lần khác rằng: “Người là Ánh Sáng đến soi trong bóng tối, nhưng bóng tối không hiểu Người; Người đã đến trong cái thế giới được tạo dựng bởi Người, nhưng thế giới không biết Người. Người đã đến thành phố của Người, trong nhà Người, nhưng những người
206
thân của Người không tiếp nhận Người”. Ôi! đừng khóc như vậy.
- Chuyện này đâu có xảy ra ở Galilê! - Gioan thở dài.
- Vậy cũng không hay hơn gì ở Juđê - Judas đáp trả. “Jêrusalem là thủ đô của Juđê, và trong ba ngày người ta chào Thầy như đấng Messi với những tiếng ‘vạn tuế’. Đây là xứ của mục đồng thô lỗ, nông dân, làm vườn... Không nên dựa trên họ. Ngay các người Galilê cũng không phải tất cả đều tốt. Với lại... tên Messi giả, hắn từ đâu tới vậy? Họ nói...”
- Đủ rồi Judas. Không nên xao xuyến. Thầy bình tĩnh. Các con cũng hãy vậy. Judas, lại đây. Thầy phải nói với con - Judas lại với Người: “Con cầm lấy túi tiền. Con sẽ mua sắm cho ngày mai”.
- Nhưng lúc này chúng ta ngủ ở đâu?
Giêsu mỉm cười và nín lặng. Đêm xuống, mặt trăng khoác áo trắng cho vạn vật. Họa mi hót trong các cây oliu. Một con suối, đúng, một giải bạc reo vui. Từ các đồng cỏ mới cắt bay tới mùi cỏ nóng, sống, có vẻ như hơi người. Vài tiếng rống, vài tiếng bê bê. Và tinh tú, tinh tú với tinh tú... Một cuộc gieo tinh tú trên màn trời, một cái lọng kiệu bằng ngọc sống trên các ngọn đồi của Bétlem.
- Nhưng đây là những đổ nát... Thầy dẫn chúng con đi đâu vậy? Không còn là thành phố nữa.
- Thầy biết. Đi! Hãy theo con suối. Cứ đi sau Thầy. Chỉ mấy bước nữa là... Rồi, Thầy tặng các con chỗ ở của Vua Israel.
Judas nhún vai và nín lặng.
Họ đi ít bước nữa, rồi đây, vô số nhà đổ nát, những thứ còn lại của chúng... Đây, một cái hang nằm giữa hai khe của các bức tường cao. Giêsu nói: “Các con có bùi nhùi không? Đốt lên đi”.
Simon đốt lên ngọn đèn nhỏ mà ông kéo ra khỏi bị, rồi đưa cho Giêsu.
- Hãy vào - Người giơ cao ngọn đèn. “Hãy vào, đây là phòng hộ sinh của Vua Israel”.
- Thầy lộn rồi! đây là cái hang dơ bẩn. A! Với con, con không ở đây. Chắc chắn vậy. Con thấy tởm: ẩm ướt, lạnh, hôi hám, đầy bọ cạp, rắn rết, có lẽ...
- Nhưng, các bạn ơi, chính ở đây, vào đêm hai mươi lăm tháng của lễ Ánh Sáng, người Trinh Nữ đã sinh ra Giêsu, Đấng Kitô,
207
Đấng Emmanuel, Ngôi Lời của Thiên Chúa mặc xác vì tình yêu loài người, là Thầy, người đang nói với các con. Khi đó cũng như bây giờ, thế giới điếc tai với tiếng nói từ Trời nói với lòng họ... Họ đã xua đuổi người mẹ... Và ở đây... Không, Judas, đừng quay đi với vẻ ghê tởm khỏi con cú mèo nó bay, con thằn lằn xanh, các màng nhện này. Đừng thắn chiếc áo thêu đẹp của con lên với vẻ ghê tởm để nó khỏi đụng vào đất dơ đầy phân giống vật. Các con cú mèo này là cháu chắt của những con đầu tiên đã làm trò chơi lay động dưới mắt trẻ sơ sinh mà các thiên thần hát cho lời “vinh danh” mà các mục đồng nghe, say sưa không vì cái gì khác ngoài niềm vui xuất thần, niềm vui thực sự. Các con thằn lằn này, mầu xanh của nó là mầu đầu tiên đập vào mắt Thầy, mầu đầu tiên sau mầu trắng của y phục và khuôn mặt từ mẫu. Các màng nhện này là cái màn che trên chiếc nôi vương giả của Thầy. Nền đất này, ôi! Các con có thể bước lên không ghê tởm... Nó đầy cứt, nhưng nó đã được thánh hóa bởi chân Mẹ, vị Thánh, Vị Đại Thánh, Đấng Trong Sạch, không bị xâm phạm, Mẹ Thiên Chúa, đấng sinh ra, vì Mẹ phải sinh; đấng sinh ra, vì Thiên Chúa chứ không vì loài người, đã nói với Mẹ khi chính Người làm cho Mẹ thụ thai. Mẹ, đấng không tì vết, đã bước lên trên đất này. Con cũng có thể đặt chân con lên. Và nguyện Thiên Chúa làm cho sự trong sạch đã phát ra từ Mẹ bốc lên qủa tim con, bởi việc con đặt chân con lên nơi đây.
Simon qùi gối. Gioan đi thẳng tới máng cỏ, gục đầu lên đó và khóc. Judas sợ hãi... Rồi cũng cảm động, không nghĩ tới chiếc áo đẹp của ông nữa. Ông cũng qùi xuống đất, cầm một góc vạt áo của Giêsu lên hôn và đấm ngực nói: “Ôi! Thầy nhân từ! Xin thương sự mù quáng của tôi tớ Thầy! Sự kiêu căng của con đã rơi... Con thấy Thầy đúng như Thầy là, không phải ông vua mà con nghĩ, nhưng là Hoàng Tử đời đời, Cha các thế kỷ tương lai, Vua Bình An. Lạy Chúa và Thiên Chúa con! Xin thương! xin thương!”
- Ừ, tất cả tình thương của Thầy. Bây giờ chúng ta sẽ ngủ tại nơi mà trẻ sơ sinh và Đức Trinh Nữ đã ngủ. Gioan đã ở chỗ Mẹ Thầy qùi thờ lạy. Chỗ của Simon có vẻ là chỗ của người cha coi như
208
chính thức của Thầy. Nếu các con thích thì đêm nay Thầy sẽ nói cho các con nghe...
- Ôi! Thưa Thầy vâng. Xin cho chúng con biết về việc Thầy đến trong thế gian này - Judas nói.
- Để nó là viên ngọc sáng láng trong tim chúng con, và để chúng con có thể nói cho thế giới - Simon nói.
- Và để tôn kính Mẹ Thầy, không phải chỉ vì là Mẹ Thầy, mà còn vì là... Ôi! Là Trinh Nữ - Gioan nói với khuôn mặt mà mấy giọt nước mắt hòa lẫn với nụ cười, tại ngay gần bên máng cỏ.
- Hãy ngồi trên cỏ. Hãy nghe... - và Giêsu tả lại đêm giáng sinh của Người: “... Mẹ, đã tới ngày sinh, ra đi theo lệnh của César Auguste, với quyết nghị của viên thụ ủy hoàng gia Publius Sulpicius Quirinus, trong khi người đang cai trị Palestin là Sentius Saturninus. Quyết nghị truyền lệnh kiểm kê dân số của toàn đế quốc. Những người không phải là nô lệ, phải về nơi nguyên quán để đăng tên vào sổ bộ của đế quốc. Giuse là chồng Mẹ, người thuộc dòng Đavít, và Mẹ cũng vậy. Vâng lời quyết nghị này, họ rời Nazarét để đi Bétlem, cái nôi của dòng dõi hoàng gia. Thời tiết lạnh...” Giêsu tiếp tục việc tường thuật của Người, và tất cả chấm dứt như vầy.
38* GIÊSU TẠI QUÁN TRỌ BÉTLEM.
THUYẾT GIÁO TRÊN ĐỐNG ĐỔ NÁT
CỦA NHÀ ANNA
Đây là những giờ đầu tiên của một buổi sáng mùa hè tươi sáng. Bầu trời nhuộm hồng những đám mây nhỏ giống như những sợi tơ bằng hơi rơi trên tấm thảm sa-tanh mầu xanh dương. Đàn chim say ánh sáng cùng nhau hòa tấu... Chim sẻ, sáo, cổ đỏ, huyên thuyên líu lo, cãi cọ vì một cộng cây, một con sâu, một cái rác để mang về tổ, để lấp đầy họng, hoặc để lấy chỗ đậu. Các con én từ trời lao xuống cái suối nhỏ để rửa những cái yếm mầu tuyết với mầu đỏ như rỉ sét ở trên đỉnh của chúng. Và sau khi đã tắm mát, sau khi đã
209
mổ một con bọ còn ngủ trên cộng cỏ, chúng bay vọt lên cao với những đôi cánh đập trong không khí như những lưỡi dao bằng thép, trong khi ríu rít vui vẻ.
Hai con chìa vôi mặc đồ lụa mầu xám duyên dáng đi dạo như hai cô gái trẻ dọc bờ suối. Chúng giơ cao cái đuôi dài được tô điểm như nhung đen để ngắm mình, thấy mình còn đẹp nên tiếp tục đi dạo, bị chế nhạo bởi một con sáo huýt gió sau lưng bằng cái mỏ dài mầu vàng của nó. Đúng là thứ loi choi của rừng rậm. Trong một cây táo rừng um tùm gần chỗ đổ nát, một con họa mi khẩn khoản gọi bạn, và chỉ nín khi nó thấy bạn tới với một con sâu dài, quắn lại dưới sức ép của cái mỏ thon nhỏ. Hai con chim cu xanh, có lẽ được thoát khỏi cái chuồng chim câu trong thành phố, đã chọn chỗ ở trong lỗ nứt của một cái tháp đổ nát, ra công bộc lộ tình cảm: con đực dụ dỗ lôi cuốn, con cái gù gù với vẻ trong trắng.
Giêsu khoanh tay nhìn niềm vui của tất cả những con vật nhỏ này và mỉm cười.
- Thầy sẵn sàng rồi à? - Simon hỏi Người từ sau lưng.
- Sẵn sàng. Những người khác còn ngủ?
- Còn.
- Họ còn trẻ... Thầy đã rửa ráy ở cái suối này. Nước mát làm trong sáng tư tưởng...
- Bây giờ con tới đó.
Trong khi Simon chỉ mặc một áo ngắn để rửa, rồi mới mặc áo dài vào, Judas và Gioan thức dậy: “Xin Thiên Chúa bảo vệ Thầy. Chúng con dậy trễ?”
- Không. Vừa mới sáng. Nhưng bây giờ lẹ lên. Chúng ta đi.
Hai người rửa ráy rồi mặc áo dài và áo khoác vào.
Giêsu, trước khi lên đường, Người hái những bông hoa mọc trong các lỗ nứt của hai vách đá và đặt vào trong một cái hộp nhỏ bằng gỗ, trong hộp đã có những thứ khác nhưng tôi không phân biệt rõ. Người giải thích: “Thầy đem về cho Mẹ Thầy. Nó sẽ rất qúi đối với
210
Mẹ. Chúng ta đi”.
- Đi đâu Thầy?
- Đi Bétlem.
- Lại nữa? Con thấy không khí không tốt cho chúng ta...
- Không quan trọng. Đi! Thầy sẽ chỉ cho các con coi chỗ các nhà Đạo Sĩ đã tới và chỗ Thầy đã ở.
- Con xin lỗi Thầy, nhưng xin cho phép con nói. Chúng ta sẽ làm một việc: Ở Bétlem và ở quán trọ, xin cho phép con nói và đặt câu hỏi. Với các vị Galilê, người ta không yêu các vị mấy, ở Juđê đã vậy, ở đây càng ít hơn các nơi khác. Vậy chúng ta làm như vầy: Thầy với Gioan, người ta đoán được ngay. Chỉ nhìn y phục là biết: Qúa đơn giản. Hơn nữa, cái mái tóc này! Tại sao qúi vị cứ lì để nó qúa dài? Con với Simon, chúng tôi cho qúi vị áo khoác của chúng tôi và qúi vị cho chúng tôi áo của qúi vị. Anh, Simon, anh đổi cho Gioan; tôi đổi cho Thầy. Đó: Như vầy, Thầy thấy không, qúi vị trông có vẻ Do Thái hơn ngay. Bây giờ cái này... - ông lấy cái khăn trùm tóc của ông, một giải băng sọc vàng, nâu, đỏ, xanh, giống như áo khoác, được giữ vào đúng chỗ bằng một sợi giây vàng nhỏ. Ông đội nó lên đầu Giêsu và cho rủ xuống hai bên má để che mái tóc dài hoe vàng. Gioan đội cái khăn mầu xanh rất đậm của Simon: “Ồ! Bây giờ khá hơn. Tôi có giác quan thực tiễn”.
- Đúng, Judas, con có giác quan thực tiễn, nhưng hãy cẩn thận, đừng để nó vượt qúa giác quan kia.
- Giác quan nào Thầy?
- Giác quan thiêng liêng.
- Ồ, không. Nhưng... Trong vài trường hợp, phải biết hành động kiểu chính trị, và hơn nữa, như kiểu các đại sứ. Và cũng phải cẩn thận... Xin hãy khoan dung, vì điều lành cho Thầy... Đừng nói ngược với con, nếu con nói những điều... những điều... phải... những điều... đó, không đúng.
- Con muốn nói gì? Tại sao nói dối? Thầy là sự thật, và Thầy không muốn sự dối trá ở nơi Thầy cũng như ở chung quanh Thầy.
- Ôi! con chỉ nói dối một nửa. Con sẽ nói rằng chúng ta từ xứ xa
211
trở về, từ Ai Cập chẳng hạn, và chúng ta muốn có các tin tức của các bạn bè thân thiết. Chúng ta sẽ nói chúng ta là Do Thái, lưu đày trở về... Thực sự tất cả những điều đó đều có một ít sự thật... Rồi con sẽ kể ít hoặc nhiều điều sai.
- Nhưng, Judas, tại sao lại lừa dối?
- Cho qua đi Thầy! Thế giới được cai trị bằng những lừa dối. Đôi khi chúng cần thiết. Được rồi, để làm vui lòng Thầy, con sẽ chỉ nói rằng chúng ta từ xa tới và chúng ta là Do Thái. Điều đó có ba phần tư sự thật rồi. Còn cậu, Gioan, cậu đừng nói gì nhé. Cậu sẽ phản bội chúng tôi.
- Tôi sẽ nín thinh.
- Rồi nếu mọi sự trôi chảy... Lúc đó chúng ta sẽ nói tiếp. Nhưng có ít hy vọng... Con qủi quyệt và con xử trí mau lẹ.
- Thầy thấy, Judas, nhưng Thầy thích con đơn sơ hơn.
- Cái đó ít ích lợi. Trong nhóm của Thầy, con sẽ giữ những chức vụ khó khăn. Hãy để con làm.
Giêsu ít thiện cảm, nhưng Người nhượng bộ.
Họ đi vòng quanh dẫy đổ nát, rồi đi dọc theo bức tường không có cửa sổ mà họ nghe thấy ở phía bên kia tường những tiếng lừa kêu, bò rống, ngựa hí, chiên cừu bê bê, và các lạc đà, đơn phong đà phát ra những tiếng kêu kỳ khôi rất mạnh. Bức tường bẻ góc, họ rẽ theo. Đây, họ đã ở trong quảng trường của Bétlem. Cái bể của phông-ten vẫn ở giữa quảng trường, vẫn với hình dáng xiêu vẹo của nó. Nhưng cái quán trọ ở phía trước thì khác. Ở đó, xưa kia là một căn nhà nhỏ - Tôi vẫn còn hình dung ra nó khi tôi nghĩ tới nó sáng như bạc ròng dưới các tia sáng của ngôi sao - Ở đó bây giờ là một khoảng rộng đầy xà bần lủng củng. Chỉ còn một chiếc cầu thang nhỏ còn lại với cái bao lơn nhỏ. Giêsu nhìn và xít xoa thở dài.
Quảng trường đang đầy người ở chung quanh các món hàng lương thực và đồ dùng, vải vóc v.v. Họ đặt hàng trên chiếu hay trong thúng, và ngay cả trên đất. Phần đông ngồi xổm ở giữa... gian hàng của họ. Cũng có một số đứng, kêu mời, múa máy với vài khách
212
hàng mua trả giá.
- Nay ngày phiên chợ - Simon nói.
Cái cổng, đúng là cổng chính của quán trọ, mở toang, và có một bầy lừa chở hàng hóa từ đó đi ra.
Judas vào trước tiên. Ông nhìn chung quanh, ông gọi hách dịch. Một đứa nhỏ coi chuồng súc vật, dơ bẩn, chỉ mặc một áo lót cụt tay dài tới đầu gối chạy ra. Ông kêu: “Thằng bé! Gọi ông chủ ngay! Lẹ lên! Ta không có thói quen chờ”.
Đứa nhỏ chạy đi, kéo theo sau lưng một cái chổi bằng chà rào.
- Nhưng Judas! Thái độ gì kỳ vậy!
- Nín đi Thầy! Cứ để con làm. Phải cho họ tin rằng chúng ta rất giầu và ở tỉnh.
Ông chủ chạy tới, cúi gù tới gẫy lưng trước Judas đang oai vệ với áo khoác mầu đỏ thẫm của Giêsu ở bên ngoài áo mầu vàng óng ánh sang trọng của ông, và chiếc đai lưng rộng với các tua rua của ông.
- Ông ơi, chúng tôi từ xa tới, người Do Thái trong tập thể đông phương. Ông này là gốc Bétlem bị bách hại, đến tìm các bạn chí thân của ông ở đây, và chúng tôi đi cùng với ông, sau khi đã thờ lạy Đấng Tối Cao trong nhà Người. Ông có thể cho chúng tôi tin tức không?
- Bẩm Chúa... Tôi tớ Ngài... Tất cả cho Ngài... Xin ra lệnh.
- Chúng tôi muốn hỏi về nhiều người, đặc biệt là Anna mà căn nhà của bà ở trước quán của ông.
- Ôi! Cái bà tội nghiệp! Anna, các ngài chỉ còn tìm thấy bà trong lòng Abraham, và các con trai bà cùng với bà.
- Chết rồi? Tại sao?
- Các Ngài không hay biết về vụ tàn sát của Hêrôđê sao? Mọi người đều nói tới, và César đã gọi ông ta là “Con heo khát máu”. Ôi! Tôi nói gì vậy? Xin đừng tố cáo tôi. Có thực ông là Do Thái không?
- Đây là dấu hiệu của chi tộc tôi. Nói đi!
- Anna đã bị lính của Hêrôđê giết cùng với tất cả các con bà, chỉ
213
trừ một người.
- Nhưng tại sao? Bà ta rất tốt!
- Ông biết bà ta?
- Biết lắm - Judas nói dối cách bất cẩn.
- Bà bị giết vì đã cho những người mà người ta gọi là cha và mẹ đấng Messi ở trọ... Xin tới đây... trong phòng này... Bức vách có tai. Và khi nói về một số điều... Rất nguy hiểm.
Họ vào một phòng nhỏ tối và thấp. Họ ngồi trên cái ghế bành rất thấp.
- Đây... Tôi có cái mũi thính. Tôi đâu có làm chủ quán để giải khuây. Tôi sinh ra ở đây, là con và cháu của chủ quán. Tôi có sự ranh mãnh trong máu tôi và tôi không muốn đón họ. Tôi có thể tìm cho họ một góc. Nhưng... dân Galilê... nghèo... vô danh tiểu tốt... Ê! Không. Ezéchias đâu có để mình chấp nhận thứ đó. Lại nữa... Tôi cảm thấy... Tôi cảm thấy họ không như những người khác. Người đàn bà đó... Đôi mắt... một cái, tôi không biết cái gì... không... không... Chắc hẳn có một thằng qủi nó ở trong bà, và bà mang nó tới đây cho chúng tôi. Cho tôi thì không. Nhưng cho thành phố. Anna thơ ngây hơn một con cừu! Bà đã cho họ trọ vài ngày sau, cùng với đứa trẻ sơ sinh. Người ta nói đó là Đức Messi... Ôi! Tôi kiếm được bao nhiêu tiền trong những ngày đó! Còn hơn là việc khai sổ. Cả những người không cần khai sổ cũng tới. Họ tới từ ngoài biển, mãi từ Ai Cập để coi... Và như vậy trong bao nhiêu tháng trời! Tôi kiếm bộn!... Sau cùng có ba ông vua, ba nhà quyền qúi, ba Đạo Sĩ... Tôi biết cái gì? Một đoàn diễn hành không dứt! Họ đã thuê hết chuồng của tôi, và trả bằng vàng nhiều như số cỏ cần cho chuồng trong một tháng. Rồi hôm sau họ đi, để lại đây hết. Và bao nhiêu là qùa cho các con trai con gái phục dịch! Và cho tôi! Ôi!... Đấng Messi, đối với tôi, dù giả hay thật, tôi chỉ có thể nói tốt. Người đã làm tôi kiếm tiền đầy giỏ. Tôi không bị phiền nhiều, không có người chết, vì tôi mới cưới vợ. Nhưng... Những người khác!...
- Chúng tôi muốn xem những nơi tàn sát.
- Các nơi à? Nhưng hết mọi nhà. Người ta kể đến hàng ngàn bị
214
chết ở Bétlem. Hãy đi với tôi.
Họ tới cầu thang, lên trên một sân thượng nhỏ. Từ đó nhìn thấy toàn thể miền quê Bétlem trải ra như hình nan quạt trên các ngọn đồi.
- Qúi vị thấy các chỗ đổ nát không? Ở đây cũng có nhiều nhà bị đốt, vì người cha cầm khí giới trong tay để bảo vệ con họ. Qúi vị thấy chỗ kia giống như một cái giếng phủ đầy cây trường xuân không? Đó là những gì còn lại của ngôi giáo đường. Người ta đã đốt nó cùng với ông trưởng giáo đường, vì ông đã xác định đó là đấng Messi. Nó bị các người sống sót đốt, vì họ phát điên phát dại do con họ bị giết. Từ đó, chúng tôi bị những phiền muộn. Đây, kia và kia... Qúi vị thấy các ngôi mộ không? Đó là các nạn nhân. Người ta nói đó là những con cừu ngủ trong đồng cỏ xanh tới mút mắt. Tất cả trẻ thơ cùng với cha mẹ chúng. Qúi vị thấy cái bể không? Nước của nó đỏ ngầu khi các kẻ giết mướn tới rửa tay và vũ khí của chúng. Và con suối, đây, ở đàng sau, qúi vị thấy không?... Nó đỏ vì máu từ các đường mương và cống rãnh chảy ra đó. Ở đây, ngay đàng trước đây là tất cả những gì của nhà Anna còn lại.
Giêsu khóc.
- Ông biết bà ta lắm?
Judas trả lời: “Giống như người chị đối với mẹ anh ta! Đúng không bạn?”
Giêsu chỉ trả lời: “Đúng”.
- Tôi hiểu - người chủ quán nói. Và ông ta trầm tư.
Giêsu cúi xuống nói nhỏ điều gì với Judas, ông liền nói với chủ quán: “Bạn tôi muốn lên chỗ đổ nát đó”.
- Ê! Ông ta cứ việc lên. Nó thuộc về mọi người.
Họ xuống, chào và đi. Người chủ quán thất vọng. Có lẽ ông ta mong tí tiền còm.
Họ băng qua quảng trường và lên cái cầu thang nhỏ, chỗ duy nhất còn lại. Giêsu nói: “Chính đây là chỗ Mẹ Thầy bảo Thầy chào các nhà Đạo Sĩ, và là nơi chúng ta xuống để đi Ai Cập...”
Người ta nhìn bốn người ở giữa những đổ nát. Có người nói: “Bà
215
con với bà đã chết”.
- Bạn hữu.
Một người đàn bà la lên: “Ít nhất là các ông, đừng làm khổ người đã chết giống như các bạn hữu khác, trong khi bà ta chết thì họ trốn thoát được và sống bình an khỏe mạnh”.
Giêsu đứng trên khoảng sân bằng trước bức tường thấp làm lan can bao vây. Như vậy Người nhìn thấy hết quảng trường chỉ cách đó độ hai mét. Đàng sau Người là khoảng không, một khoảng không sáng. Nó như trùm hào quang cho toàn thân Người, làm cho y phục vải gai của Người càng trắng, cái áo duy nhất che phủ cho Người, vì áo khoác phất phơ sau vai, làm cho chân Người như đứng trên cái bệ muôn mầu. Đàng sau nữa, ở xa hơn là hậu cảnh xanh mướt của các bụi cây mọc tại nơi trước kia là khu vườn của Anna, bây giờ buồn thảm, đầy xà bần.
Giêsu giơ tay. Judas nhìn thấy cử chỉ, vội cản: “Đừng nói! Đó là thiếu khôn ngoan”. Nhưng Giêsu đã làm đầy quảng trường bằng tiếng nói mạnh của Người:
- Hỡi các người xứ Juđa, các người Bétlem! Hãy nghe! Hãy nghe! Ôi! Hỡi các phụ nữ của miền đất thánh đối với Rakel! Hãy nghe một người con cháu của Đavít bị bách hại, làm cho nó xứng đáng ngỏ lời với qúi vị. Nó nói với qúi vị để cho qúi vị Ánh Sáng và sự khích lệ. Hãy nghe!
Người ta ngừng kêu la, cãi vả, mua bán để quây quần lại.
- Một vị rabbi.
- Chắc ông ta từ Jêrusalem tới.
- Ai vậy?
- Một ông đẹp trai.
- Tiếng nói vang dội.
- Dáng điệu qúi phái.
- Ê! Nếu ông ta dòng dõi Đavít.
- Nghe đi! Nghe đi! - Tất cả đám đông qui tụ chung quang cái cầu thang giống như một khán đài.
- Sách Sáng Thế có nói: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mày và người nữ... Bà sẽ đạp nát đầu mày, và mày sẽ rình cắn gót chân bà”. Sách
216
cũng còn nói: “Ta sẽ gia tăng sự đau đớn của mi khi mang thai và sinh nở... Trái đất sẽ sinh gai góc”. Đó là sự luận phạt của người đàn ông, người đàn bà và con rắn.
Tôi từ xa xôi đến đây để tôn kính mộ của Rakel. Tôi đã nghe trong gió chiều, trong sương đêm, trong tiếng than của loài chim họa mi lúc ban mai, những tiếng vọng của những tiếng nức nở của Rakel, nhắc lại từ miệng nọ tới miệng kia bởi các bà mẹ Bétlem trong mộ kín hay trong âm thầm của con tim. Tôi đã nghe tiếng kêu gào đau thương của Jacob trong các người chồng góa không còn vợ, vì sự đau đớn đã giết họ... Tôi khóc với qúi vị. Nhưng hãy nghe! Hỡi anh em đồng hương: Bétlem, đất được chúc phúc, thành phố nhỏ nhất xứ Juđa, nhưng lớn nhất trước mắt Thiên Chúa và nhân loại, vì là cái nôi của Vị Cứu Tinh như tiên tri Michée đã nói một cách chính xác là vì vậy, vì được tiền định để làm nhà tạm cho vinh quang của Thiên Chúa ngự, cho Lửa của Thiên Chúa, Cho Tình Yêu nhập thể của Người, nên Satan đã tràn ngập thù hận.
“Ta sẽ đặt mối thù giữa mày và người nữ, bà sẽ chà nát đầu mày dưới chân, và mày sẽ rình cắn gót chân bà”. Còn mối thù nào lớn hơn mối thù chống lại các người con, con tim của trái tim người phụ nữ ? Và có bàn chân nào mạnh hơn bàn chân Mẹ Đấng Cứu Thế? Bởi đó, đương nhiên Satan bị thua sẽ tìm cách báo thù, không phải rình gót chân của người mẹ, nhưng nó tấn công vào con tim các bà mẹ.
Ôi! Nỗi ưu phiền vô biên của các bà mẹ bị mất con sau khi đã cưu mang! Ôi! Nỗi khổ sợ hãi của các người cha đã gieo hạt, đổ mồ hôi cho con cái mà phải ở lại một mình, không còn ai nối dòng. Nhưng hỡi Bétlem! Hãy vui mừng! Máu trong sạch của ngươi, máu các trẻ thơ của ngươi đã mở đường lửa đỏ cho Đấng Messi...
Đám đông, từ lúc Giêsu nói tới Đấng Cứu Thế và Mẹ Người, đã xì xèo, và càng lúc càng rần rần. Bây giờ họ tỏ tường là giao động. Judas nói: “Nín đi Thầy. Chúng ta đi!” Nhưng Giêsu không nghe ông, Người tiếp tục: “... cho đấng Messi mà ân huệ của Chúa Cha đã giật được của các bạo vương và dành nó cho dân để cứu nó,
217
và...”
Một giọng đinh tai của một người đàn bà la lên: “Năm, năm, tôi sinh năm đứa mà bây giờ không còn ai trong nhà tôi! Khốn nạn cho tôi chừng nào!” Bà kêu lên như bị lột da. Đó là lúc bắt đầu rối ren.
Một bà khác lăn lộn trên đất, xé áo ra cho người ta thấy vú bà bị cụt và kêu gào: “Đây, đây, trên cái vú này, chúng đã cắt cổ đứa con đầu lòng của tôi! Lưỡi gươm đã cắt đầu nó cùng một trật với vú tôi! Ôi! Thằng Êlisê của tôi!”
- Còn tôi, còn tôi! Nhà tôi đây! Ba nấm mồ chung một lỗ, và ba tôi canh chừng: Chồng và các con cùng với nhau. Đó! Đó! Nếu là Vị Cứu Tinh, Người hãy trả lại chồng con cho tôi! Hãy cứu tôi khỏi thất vọng, khỏi Benzêbút!
Tất cả họ đều kêu: Con chúng tôi, chồng chúng tôi, cha chúng tôi, trả lại họ cho chúng tôi, nếu đúng Người là Vị Cứu Tinh...
Giêsu vẫy tay áp đặt sự yên lặng: “Hỡi anh chị em đồng hương của tôi! Tôi muốn trả lại con cái cho qúi vị, sống, phải, sống. Nhưng tôi bảo qúi vị: ‘hãy tốt, hãy kiên trì, hãy tha thứ, trông cậy. Hãy đẩy mình tới hy vọng. Hãy vui trong sự xác tín. Qúi vị sẽ không chậm trễ tìm lại được các con qúi vị, những thiên thần trên trời, vì đấng Messi sắp mở cửa Trời. Nếu qúi vị công chính, cái chết sẽ là việc đi tới sự sống cho qúi vị, và tình yêu sẽ trở lại...’”
- A! Ông là Messi sao? Nhân danh Thiên Chúa, xin hãy nói.
Giêsu hạ cánh tay với cử chỉ rất êm ái, rất yêu thương, như muốn ôm ấp, và người nói: “Tôi là Đấng Messi”.
- Vậy là tại lỗi ông. Đi đi! Đi đi!
Một cục đá bay giữa tiếng huýt sáo và kêu hú.
Judas có thái độ đẹp... Ôi! Nếu ông ta luôn luôn như vầy!... Ông tới trước mặt Thầy, đứng trên bức tường của lan can, giang áo khoác ra nhận những cục đá mà không sợ. Ông cũng bị chảy máu. Ông kêu với Gioan và Simon: “Dắt Giêsu ra sau đám cây kia. Tôi sẽ tới. Đi đi! Nhân danh Chúa”. Và ông la đám đông: “Lũ chó điên! Tao thuộc về Đền thờ. Tao sẽ tố chúng mày với Đền Thờ và với Rôma!”
Đám đông sợ trong một lát, rồi bỗng chốc họ lại tái chiến bằng
218
những cục đá. May thay là họ nhắm dở. Judas thản nhiên nhận trận mưa đá trong khi trả lời đám đông bằng những chửi bới và nguyền rủa. Cả đến ông bắt được một cục đá và ném trả lại trúng đầu một ông già nhỏ, làm ông ta la lối như chim ác tà bị vặt lông sống. Vì họ tính xung phong lên cái khán đài của ông, ông liền mạnh mẽ chộp lấy một cành cây khô trên sàn, vì ông đã xuống khỏi bức tường nhỏ, ông quay nó và để rơi xuống trên các lưng, đầu, tay, không thương hại.
Các lính tráng liền chạy tới, và dưới sự đe dọa của các ngọn giáo, họ mở đường ra:
- Ông là ai? Tại sao ẩu đả?
- Một người Do Thái bị dân này đột kích. Có một vị rabbi các thầy cả đều biết đi với tôi. Người nói với lũ chó này, chúng liền hóa điên và tấn công chúng tôi.
- Ông là ai?
- Judas Kêriot, trước kia ở Đền Thờ, bây giờ là môn đệ rabbi Giêsu ở Galilê, bạn của pharisiêu Simon, saddu Giocana, cố vấn Đại Pháp Đình Giuse Arimathi, và sau cùng, nếu ông muốn kiểm tra: của Êlêazar Ben Anna, bạn lớn của Thủ Hiến.
- Tôi sẽ kiểm tra. Ông đi đâu?
- Đi với bạn tôi về Kêriot, rồi Jêrusalem.
- Tôi sẽ bảo vệ các ông.
Judas dúi cho tên lính mấy đồng bạc. Có lẽ đó là việc bị cấm, nhưng... là thói quen. Vì tên lính bỏ lẹ vào túi, chào cách kính cẩn và mỉm cười. Judas nhảy xuống khỏi khán đài của ông, phóng nhanh qua cánh đồng hoang để đến với các bạn ông.
- Con bị thương nặng không?
- Không sao Thầy. Hơn nữa... vì Thầy. Con cũng đã trả đũa chúng. Chắc con bị dơ vì máu?
- Ừ, ở trên má. Ở đây có một tia nước chảy.
Gioan nhúng nước một mảnh vải và rửa má cho Judas.
- Điều đó làm tôi phiền, Judas, nhưng anh thấy... cả đến nói rằng
219
chúng ta là Do Thái theo giác quan thực tiễn của anh...
- Đây là những con vật. Thầy ơi, con nghĩ rằng Thầy sẽ chịu phép và sẽ không tha thiết nữa.
- Ồ, không. Không phải vì sợ, nhưng vì lúc này là vô ích. Khi người ta không muốn chúng ta thì chúng ta rút lui, không nên nguyền rủa, mà chỉ cầu nguyện cho những kẻ điên tội nghiệp, đang hầu chết đói mà không nhìn thấy bánh. Chúng ta đi vào con đường biệt lập này. Thầy tin là có thể rẽ vào đường đi Hébron... Tới nhà các mục đồng, nếu chúng ta tìm thấy họ.
- Để họ tấn công chúng ta bằng trận mưa đá?
- Không, để nói với họ: “Thầy đây”.
- Ê! vậy là lại một trận đòn!... Họ đã khổ vì Thầy ba mươi năm trời rồi...
- Chúng ta sẽ biết.
Họ đi vào một khu rừng rậm, đầy bóng mát, và tôi lạc mất họ.
39* GIÊSU VÀ CÁC MỤC ĐỒNG
ELIE, LÊVI VÀ GIUSE
Các đồi ở đây cao và nhiều cây cối hơn các đồi ở Bétlem, và càng lúc càng lên cao, tạo thành một dẫy núi thực sự.
Giêsu lên dốc, đi ở đàng đầu, xem xét đàng trước và ở chung quanh như muốn tìm cái gì. Người không nói. Người nghe các tiếng động của rừng hơn là tiếng nói của các môn đệ đi sau Người vài mét, nói chuyện với nhau.
Có tiếng lục lạc từ xa, nhưng gió mang tới tiếng sột soạt. Giêsu mỉm cười. Người quay lại và nói: “Thầy cảm thấy có các đoàn vật”.
- Ở đâu Thầy?
- Về phía đồi. Thầy thấy vậy. Nhưng rừng che mắt nên không nhìn thấy.
Gioan không nói một lời. Ông cởi áo - mọi người đều cuốn áo khoác vắt lên vai, vì trời nóng - chỉ mặc một cái áo cộc, ông ôm lấy
220
một thân cây cao và trơn, một cây tần bì, và ông trèo lên, trèo lên... cho tới khi ông thấy: “Đúng rồi Thầy ơi! Nhiều đoàn vật với ba người mục đồng ở đó, sau khu rừng rậm này”. Ông xuống, và mọi người vững dạ đi về phía đó.
- Rồi có phải họ không đây?
- Simon, chúng ta sẽ hỏi, và nếu không phải là họ thì họ cũng nói cho chúng ta cái gì. Họ biết nhau.
Còn đi khoảng trăm mét nữa, rồi, đây, một cánh đồng cỏ xanh tươi, được giới hạn ở chung quanh bằng những cây cổ thụ lớn. Nhiều đoàn vật được chăn trên các sườn đồi và gặm cỏ non dư dật. Ba người đàn ông giữ chúng. Một người già, tóc trắng toát. Hai người kia, một người khoảng ba mươi, một người khoảng bốn mươi.
- Cẩn thận Thầy ơi! Đó là những mục đồng - Judas nói khi thấy Giêsu dấn bước.
Nhưng Giêsu không trả lời. Người tiến bước, cao, đẹp, khuôn mặt được mặt trời hoàng hôn soi sáng, trong bộ y phục trắng. Người ta có cảm tưởng đó là một thiên thần, vì Người rất tươi sáng... “Bình an cho các bạn” Người nói khi tới giới hạn đồng cỏ.
Ba người quay lại ngạc nhiên. Một yên lặng. Rồi người già nhất hỏi:
- Ông là ai?
- Một người yêu bạn.
- Ông là người thứ nhất từ nhiều năm nay... Ông từ đâu tới?
- Từ Galilê.
- Từ Galilê? Ôi! - người đàn ông chăm chú nhìn Người. Những người khác cũng sát lại gần. “Từ Galilê”, người mục đồng nhắc lại. Và ông êm nhẹ nói thêm tựa như ông nói với chính mình: “Người cũng đến từ Galilê... Từ miền nào, thưa Chúa?”
- Từ Nazarét.
- Ôi! Vậy xin nói cho tôi: Có phải đã trở về đó một cậu bé với một người đàn bà tên là Maria, và một người đàn ông tên Giuse. Một chú bé còn đẹp hơn mẹ chú. Người ta không bao giờ thấy một bông hoa như vậy trên các đồi xứ Juđa. Một cậu bé sinh ở Bétlem
221
vào thời kiểm kê dân số. Cậu bé mà sau đó bị lưu vong vì hạnh phúc thế giới. Một chú bé mà tôi hiến mạng để biết chắc xem còn sống không, và bây giờ đã thành người lớn?
- Tại sao ông lại nói là sự lưu vong của chú bé là một dịp may cho thế giới?
- Bởi vì Người là Vị Cứu Tinh, là Đấng Messi mà Hêrôđê muốn giết. Tôi không ở đó lúc người trốn đi với cha mẹ Người... Khi tôi nghe tới cuộc tàn sát và tôi trở về - vì tôi cũng có con cái (ông khóc nấc) Chúa ơi, và một người vợ... (ông lại nấc), và tôi thấy chúng bị tàn sát (ông lại nấc). Nhưng tôi thề trước Thiên Chúa Abraham rằng tôi run cho Người hơn là cho chính thân xác tôi - Khi tôi nghe nói Người đã trốn đi, nhưng tôi không biết tin tức, và không tìm được các người của tôi bị giết... Tôi bị ném đá như những người cùi, những người ô uế, vì tôi bị coi là kẻ sát nhân... Tôi phải trốn vào rừng, sống như chó sói... cho tới khi tôi tìm được một ông chủ. Ôi! Không còn phải là Anna. Ông này khắt khe và độc ác... Nếu một con cừu bị thương, nếu chó sói bắt một con chiên là bị đánh tới đổ máu, hay bị mất hết số tiền tiết kiệm nhỏ mọn của tôi. Ông sai tôi làm việc trong rừng cho những người khác, làm bất cứ cái gì, nhưng phải trả tiền, họ luôn luôn phải trả cho ông gấp ba giá trị công việc. Nhưng không quan trọng. Tôi luôn luôn thưa cùng Đấng Tối Cao: “Xin cho con thấy Đấng Messi của Ngài, ít nhất, cho con biết là Người còn sống, và tất cả những gì khác sẽ là không”. Chúa ơi! Tôi đã kể với Ngài các người Bétlem đã xử với tôi thế nào, ông chủ xử với tôi thế nào. Tôi đã có thể lấy ác trả ác, hoặc làm việc xấu bằng cách trộm cắp để không phải khổ vì ông chủ... Nhưng tôi chỉ muốn tha thứ, chịu đựng và thật thà, vì các thiên thần đã nói: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao, và bình an dưới đất cho người thiện chí”.
- Các đấng đã nói vậy?
- Chúa ơi, vâng. Ngài hãy tin tôi, ít nhất là Ngài, một người tốt. Ít nhất là có Ngài biết và tin rằng Đấng Messi đã sinh ra... Không ai muốn tin nữa. Nhưng các thiên thần đâu có nói dối... Và chúng tôi, chúng tôi đâu có say như người ta nói. Thằng này, Ngài thấy,
222
lúc đó nó mới là một đứa trẻ, và nó đã thấy thiên thần trước tiên. Nó chỉ có uống sữa. Sữa có thể làm cho người ta say không? Các thiên thần đã nói: “Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra trong thành Đavít. Đó là Đấng Kitô, là Chúa. Các ngươi sẽ nhận biết Người như vầy: Các ngươi sẽ thấy một trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ, bọc trong khăn”.
- Đúng là Người nói vậy sao? Các ông có nghe rõ không? Các ông có nhớ lộn không? Từ qúa lâu rồi?
- Ôi! Không. Đúng không Lêvi? Để cho khỏi quên - lại nữa, chúng tôi không thể quên, đó là những lời từ Trời, và chúng đã khắc với những chữ bằng lửa trong qủa tim chúng tôi - mọi buổi sáng, mọi buổi chiều, lúc mặt trời mọc, lúc ngôi sao đầu tiên nhấp nháy, chúng tôi nói lại như một lời cầu nguyện, để được chúc phúc, được sức mạnh và sự khích lệ, cùng với tên Người và tên người Mẹ.
- A! Các ông đã nói: Đấng Kitô?
- Chúa ơi, không, chúng tôi nói: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới đất cho người thiện chí, bởi Giêsu, Đấng Kitô, Đấng sinh ra bởi Maria trong một chuồng bò ở Bétlem, được bọc trong khăn, đặt trong máng cỏ. Chính Người là Vị Cứu Tinh thế giới”.
- Nhưng tóm lại, các ông tìm ai?
- Giêsu, Đấng Kitô, con bà Maria, người Nazarét, Vị Cứu Tinh.
- Thầy đây! - Giêsu rạng rỡ khi nói lời này để tỏ mình ra cho những kẻ tin và bạn hữu không lay chuyển của Người. Trung thành, không lay chuyển, kiên trì.
- Ngài! Ôi Chúa! Vị Cứu Tinh! Giêsu của chúng ta! - Ba người qùi sụp xuống đất hôn chân Giêsu, khóc vì vui.
- Các con đứng dậy đi! Đứng dậy đi Êlie, và con, Lêvi, và con, Thầy không biết.
- Giuse, con trai của Giuse.
- Những người này là các môn đệ của Thầy: Gioan, người Galilê, Simon và Judas: Do Thái.
Các mục đồng không phục dưới đất nữa, nhưng còn qùi ngửa ra
223
đàng sau, ngồi trên gót chân. Họ thờ lạy Đấng Cứu Tinh với cái nhìn yêu mến, đôi môi run run vì cảm động, khuôn mặt hoặc đỏ bừng, hoặc tái mét vì vui.
Giêsu ngồi xuống trên cỏ.
- Không, Chúa mà ngồi trên cỏ! Không, Ngài, Vua Israel, không!
- Các bạn ơi, để yên. Thầy là người nghèo, một thợ mộc chỉ vì thế giới, chỉ giầu tình yêu cho thế giới, và tình yêu mà người ta cho Thầy. Thầy tới để ở lại với các con, bẻ bánh với các con chiều nay, ngủ trên cỏ với các con, nhận sự khích lệ của các con.
- Ôi! Khích lệ! Chúng con thô kệch và bị bách hại.
- Thầy cũng bị bách hại. Nhưng các con cho Thầy cái Thầy tìm: Tình yêu, sự trung thành và sự hy vọng kiên trì sau bao năm, bây giờ nó nở hoa. Các con thấy không? Các con biết chờ và tin, không nghi ngờ rằng chính là Thầy, nên Thầy, Thầy đã đến.
- Ôi! Vâng, Thầy đã đến. Dù con có chết bây giờ, con cũng không còn gì phải khổ về việc hy vọng và chờ đợi.
- Không, Êlie, con sẽ sống cho tới sau cuộc toàn thắng của Đấng Kitô. Con đã thấy rạng đông của Thầy. Con phải thấy sự vẻ vang huy hoàng của Thầy. Còn những người khác? Các con là mười hai: Êlie, Lêvi, Samuel, Jonas, Isaac, Tobie, Jonatha, Daniel, Simêon, Gioan, Giuse, Benjamin. Mẹ Thầy nói cho Thầy tên của tất cả các con, tên của các bạn hữu đầu tiên của Thầy.
- Ôi! - các mục đồng càng lúc càng cảm động.
- Những người khác đâu?
- Ông già Samuel đã chết, chết già, từ hai mươi năm rồi. Giuse bị chết khi chiến đấu tại cửa nhà ông, để cho vợ ông, mới sinh được mấy giờ, có thể trốn chạy với đứa nhỏ mà con đã nhận vì tình yêu đối với bạn con, và để... và để còn có con ở chung quanh con. Con cũng mang Lêvi đi với con... Nó cũng bị bách hại. Benjamin là mục đồng ở Liban cùng với Daniel. Simêon với Gioan và Tobie, bây giờ đổi tên là Mathia để ghi nhớ ba anh cũng bị giết. Ba anh này là môn đệ ông Gioan Tẩy Giả. Jonas ở trong đồng bằng Esdrelon, phục vụ một người pharisiêu. Isaac đau lưng, khốn cùng tuyệt đối, có một mình ở Jutta. Chúng con giúp anh như chúng con có thể.
224
Nhưng tất cả chúng con đều lụn bại, nên đó chỉ là giọt nước đổ vào đám cháy. Jonatha bây giờ là gia nhân của một ông lớn trong triều Hêrôđê.
- Làm sao các con, đặc biệt là Jonatha, Jonas, Daniel và Benjamin có thể tìm được những công việc đó?
- Con nhớ tới Zacari bà con của Thầy... Mẹ Thầy đã sai con tới với ông. Khi chúng con bị những người Do Thái điên cuồng bách hại, nguyền rủa, phải trốn tránh, chúng con đã nói với ông. Ông tốt, ông bảo vệ chúng con, nuôi chúng con, tìm chủ cho chúng con như ông có thể. Con đã đưa hết bầy vật của Anna cho tên phái Hêrôđê... Con ở lại với ông ta... Khi khôn lớn thành người, ông Tẩy Giả bắt đầu rao giảng thì Simêon, Gioan và Tobie đi với ông.
- Nhưng bây giờ ông Tẩy Giả bị tù.
- Vâng. Họ còn quẩn quanh ở vùng Machéronte với một bầy vật nhỏ. Một người giầu, môn đệ của Gioan bà con với Thầy, đã cho họ, để tránh mọi nghi ngờ.
- Thầy muốn gặp tất cả họ.
- Lạy Chúa, vâng, chúng con sẽ đi nói với họ rằng: “Hãy đến, Người còn sống, Người nhớ tới chúng ta và yêu chúng ta”.
- Và Người muốn chúng ta làm bạn của Người.
- Lạy Chúa, vâng.
Nhưng để bắt đầu, chúng ta đi gặp Isaac. Còn Samuel và Giuse, họ được chôn ở đâu?
- Samuel ở Hébron, vì ông ở lại phục vụ cho Zacari. Còn Giuse, Chúa ơi! Không có mộ. Ông bị thiêu cùng với căn nhà của ông.
- Không phải ở trong lửa của các kẻ dữ, nhưng trong lửa của Chúa. Ông sắp được tới vinh quang. Thầy bảo với các con, với con, Giuse, con trai của Giuse, Thầy nói điều đó. Hãy tới để Thầy hôn con, để cám ơn ba con.
- Còn các con của con?
- Các thiên thần, Êlie. Chúng là các thiên thần sẽ nói lại lời
225
“vinh danh” khi Vị Cứu Tinh vinh thắng.
- Là Vua?
- Không, Chúa Cứu Thế. Ôi! Đoàn thể các kẻ công chính và các thánh! Trước hết là đoàn trắng và đỏ của các trẻ nhỏ tử đạo! Rồi sau khi Lâm Bô được mở ra, chúng ta sẽ cùng nhau lên Vương Quốc, nơi không còn chết nữa. Rồi, các con sẽ gặp lại cha mẹ, con cái trong Chúa. Hãy có đức tin.
- Lạy Chúa, vâng.
- Hãy gọi Thầy là Thầy. Đêm rồi, các ngôi sao đầu tiên đã xuất hiện. Các con hãy đọc lời cầu nguyện của các con trước bữa ăn.
- Không, không phải con, Thầy!
- Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao, và bình an dưới đất cho người thiện chí, đáng được thấy Ánh Sáng và phục vụ Người. Đấng Cứu Tinh đã ở giữa họ. Người Mục Tử dòng Hoàng Gia đã ở giữa bầy của Người. Ngôi Sao Mai đã hiện ra. Ôi! Hỡi người công chính, hãy vui mừng. Hãy vui trong Chúa, Người đã dựng nên vòm trời và gieo vào đó đầy sao; Người đã đặt giới hạn cho đất và biển. Người đã tạo ra gió mưa và điều chỉnh các mùa để cho con cái Người có bánh và rượu. Đây, bây giờ Người gởi cho các con một lương thực tuyệt vời nhất: Bánh hằng sống từ Trời xuống, rượu của cây nho đời đời. Hãy đến, hỡi các kẻ thờ lạy Thầy đầu tiên! Hãy đến để biết Cha trong chân lý, để theo Người trong sự thánh thiện, và để được phần thưởng đời đời.
Giêsu đã đứng để cầu nguyện, tay giang ra, trong khi các môn đệ và các mục đồng qùi gối.
Rồi người ta mang tới bánh và một chậu sữa tươi vừa vắt. Nhưng vì chỉ có ba cái tô, hay ba mảnh vỏ bầu, tôi không biết, nên trước tiên là Giêsu với Judas và Simon ăn. Rồi Giêsu đưa tô cho Gioan, cũng vậy với Lêvi và Giuse. Êlie ăn sau cùng.
Đoàn vật không gặm cỏ nữa. Chúng họp thành một bầy lớn, con nọ sát vào con kia, có lẽ chờ người ta dẫn chúng vào chuồng có bao vây. Nhưng tôi lại thấy ba người mục đồng dẫn chúng vào rừng, trong một cái nhà thô sơ bằng cành cây, chung quanh có chăng
226
giây. Họ bắt đầu làm một cái giường bằng cỏ cho Giêsu và các môn đệ Người. Họ đốt lửa, có lẽ để tránh thú rừng.
Judas và Gioan nằm, một lát sau là ngủ. Simon muốn thức để làm bạn với Giêsu, nhưng một lúc sau ông cũng ngủ, ngồi trên cỏ, tựa lưng vào một cái cọc.
Giêsu thức với các mục đồng. Họ nói chuyện về Mẹ Maria, về Giuse, cuộc trốn sang Ai Cập, cuộc trở về... Rồi sau những tin tức tình cảm, bây giờ là các câu hỏi: Làm gì để phục vụ Giêsu? Làm sao họ có thể, họ: các mục đồng thô lỗ?
Giêsu giáo huấn họ và giải thích: “Bây giờ Thầy đi khắp xứ Juđê. Các con sẽ luôn luôn liên lạc với các môn đệ, rồi Thầy sẽ bảo các con đến. Trong khi chờ đợi, hãy tụ họp nhau, chỉ cho nhau về sự hiện diện của Thầy trong thế giới với tư cách là Thầy và là Đấng Cứu Thế. Hãy cho họ biết như các con có thể. Thầy không hứa rằng họ sẽ tin các con. Thầy đã bị chế nhạo và xua đuổi, các con cũng sẽ gặp như vậy. Nhưng cũng như các con đã biết can đảm và công chính trong sự chờ đợi, hãy như vậy hơn nữa, vì bây giờ các con là người của Thầy. Ngày mai chúng ta sẽ đi Jutta, rồi đi Hébron. Các con có thể đi không?”
- Ôi! Được, đường sá là cho mọi người, và đồng cỏ thuộc về Thiên Chúa. Chỉ có Bétlem họ cấm chúng con vì sự thù ghét bất công. Những xứ khác họ biết... Nhưng họ chỉ khinh bỉ chúng con và bảo chúng con là những tên say rượu. Chúng con cũng chỉ có thể làm được rất ít điều ở đây.
- Thầy sẽ gọi các con đi những nơi khác. Thầy sẽ không bỏ rơi các con.
- Trong suốt cuộc đời?
- Trong suốt cuộc đời Thầy.
- Không. Thầy ơi! Con sẽ chết trước. Con già rồi.
- Con nghĩ vậy, nhưng Thầy không nghĩ vậy. Một trong những khuôn mặt Thầy thấy trước tiên là khuôn mặt con, Êlie. Và đó sẽ là một trong những khuôn mặt sau cùng. Thầy sẽ giữ trong con ngươi của Thầy khuôn mặt bối rối của con vì sự đau đớn do cái chết của
227
Thầy. Nhưng sau đó, đến lần con sẽ mang trong tim con sự rạng ngời của buổi sáng chiến thắng, và con sẽ chờ cái chết với hình ảnh rạng ngời này. Cái chết là cuộc gặp gỡ đời đời với Giêsu mà con đã thờ lạy lúc còn bé tí. Lúc đó cũng vậy, các thiên thần sẽ hát “vinh danh” cho “người thiện chí”.
Tôi không thấy gì nữa. Thị kiến êm đềm biến đi. Thế là hết!
40* GIÊSU TẠI JUTTA, TRONG NHÀ NGƯỜI
MỤC ĐỒNG ISAAC
Một thung lũng tươi mát, vang dội tiếng nước chảy về phía nam, bắn lên và sủi bọt như bạc trong con suối nhỏ, tung sự mát mẻ tươi cười của nó trên cây cối ở hai bên bờ. Nhưng hình như sự ẩm ướt cũng thấm lên các sườn dốc, tạo ra một làn xanh mướt mầu khác nhau từ đất mọc lên, băng qua các bụi rậm và các cây nhỏ, vươn tới tận ngọn các cây cổ thụ, trong số đó có nhiều cây hồ đào ngăn cách khu rừng rậm chính thức với khu rừng thưa của các cao nguyên cỏ mập, đồng cỏ ngon lành, nơi các đoàn vật phục hồi sức lực.
Giêsu cùng với các môn đệ và ba mục đồng xuống dốc về phía dòng suối. Người dừng lại một cách kiên nhẫn khi phải chờ một con cừu chậm chạp, hoặc khi một người mục đồng phải chạy theo một con chiên lạc đường. Bây giờ đã đúng vẻ là người mục tử tốt. Người cũng trang bị một cành cây dài để gạt các cành gai của các cây sơn tra và cây ông lão mọc lên khắp nơi và móc vào y phục. Điều đó rất giống một người mục tử.
- Thầy thấy, Jutta ở trên kia. Chúng ta sẽ băng qua suối. Có một chỗ suối cạn, về mùa hè có thể đi qua mà không cần tới chỗ cầu. Nó gần hơn để đi Hébron, nhưng Thầy lại không muốn.
- Không. Chúng ta đi Hébron sau. Trước tiên hãy đến với những người đau khổ. Các người chết không còn khổ nữa khi họ là người công chính. Mà Samuel là người công chính. Sau đó sẽ thăm người chết là những người chỉ cần lời cầu nguyện, không cần ở bên cạnh xương cốt của họ để cầu cho họ. Xương cốt là gì? Bằng chứng về
228
quyền năng của Thiên Chúa đã kéo con người ra từ bụi đất, không là gì khác. Các con vật cũng có xương, một bộ xương kém hoàn hảo hơn của con người, đối với mọi con vật. Chỉ có con người, vua các loài thụ tạo, có thể đứng thẳng, như ông vua nhìn trên các bầy tôi, với khuôn mặt nhìn về phía trước và nhìn lên cao mà không cần ngoái cổ. Trên cao là nhà Cha. Nhưng đó luôn luôn là xương cốt, bụi đất trở về với bụi đất. Lòng nhân từ vô biên đã quyết định kiến tạo lại nó vào ngày vĩnh cửu, để cho các thánh niềm vui sống động hơn. Các con hãy nghĩ tới đó. Không phải chỉ có tâm hồn được đoàn tụ và yêu nhau như trên trái đất, và rất nhiều hơn, nhưng họ sẽ sung sướng gặp lại nhau với diện mạo họ đã có trên trái đất: Các trẻ em với mái tóc quăn lọn như những đứa con của con, Êlie. Các người cha, người mẹ với con tim và khuôn mặt rạng rỡ tình yêu như các người của con, Lêvi và Giuse. Và với con, Giuse, sau cùng con sẽ gặp được những khuôn mặt mà con nuối tiếc. Không còn mồ côi, không còn góa bụa ở giữa các người công chính ở trên đó...
Sự bầu cử cho các người chết, chúng ta có thể làm ở mọi nơi. Đó là lời cầu nguyện của một tâm hồn cho một tâm hồn đã đoàn tụ với chúng ta, dâng lên cùng Thần Trí trọn hảo là Thiên Chúa, đấng ở khắp nơi. Ôi! sự tự do thánh của tất cả những gì là thiêng liêng. Không còn khoảng cách, không còn lưu đày, không có ngục tù, không có mồ mả... Không có gì ngăn cách và trói buộc được những gì ở ngoài và ở trên các sợi giây xác thịt vào cảnh bất lực nặng nề. Các con đi về với các người thân yêu của các con với tất cả những gì là tốt đẹp nhất trong các con. Họ đến với các con với tất cả những gì là tốt đẹp nhất nơi họ. Và tất cả, trong sự tràn trề của các tâm hồn yêu nhau này, được diễn ra chung quanh lửa đời đời của Thiên Chúa là Thần Trí tuyệt đối trọn hảo, Đấng Tạo Hóa của tất cả những gì đã có, đang có và sẽ có, là Tình Yêu yêu các con và dạy các con yêu...
Nhưng đây, Thầy tin là chúng ta đã tới chỗ suối cạn. Thầy thấy những cục đá được xếp, chỉ có ít nước ở đáy.
- Đúng đây rồi Thầy. Vào kỳ nước lũ thì nước chảy ào ào. Bây
229
giờ chỉ còn là bảy dòng nước nhỏ cười khi đi qua giữa sáu cục đá lớn ở chỗ cạn.
Thực sự, đây là sáu cục đá lớn hầu như bằng nhau, được đặt cách nhau vài tấc ở đáy suối. Và nước, một giải sáng, tới đó thì phân chia làm bảy giải nhỏ, trong lộ trình tươi cười, chạy qua để họp lại ở bên kia thành một sự tươi mát duy nhất và chạy đi, trong khi lắm lời với các đá sỏi ở đáy suối.
Các mục đồng canh chừng cho đoàn vật đi qua. Một số bước trên các cục đá, một số khác thích lội trong nước không sâu qúa một gang tay, và uống cái làn kim cương sủi bọt tươi cười này.
Giêsu bước qua trên các cục đá, các môn đệ đi theo sau. Họ tiếp tục đi ở bờ bên kia.
- Thầy bảo con rằng Thầy muốn cho Isaac biết rằng Thầy ở đây mà Thầy không vào trong xứ ?
- Ừ, Thầy muốn vậy.
- Vậy thì tốt hơn là chia tay. Con đi tìm anh ấy. Lêvi và Giuse ở lại với bầy vật và với qúi vị. Con lên ở chỗ này thì sẽ mau hơn.
Và Êlie bắt đầu leo sườn dốc về phía một nhóm căn nhà mầu trắng sáng chói dưới mặt trời, ở tận trên đỉnh cao.
Tôi có cảm tưởng đi theo ông ta. Đây, ông ta đã tới những căn nhà đầu tiên. Ông đi vào con đường ở giữa các nhà và các khu vườn. Ông đi vài chục mét rồi vào một đường lớn hơn dẫn tới một quảng trường. Tôi đã không nói rằng tất cả những điều trên xảy ra vào lúc ban sáng, nên bây giờ tôi nói để giải thích rằng quảng trường vẫn còn họp chợ. Các bà nội trợ và các người bán nói lớn tiếng dưới những cây che rợp bóng cho quảng trường.
Êlie đi, không do dự, cho tới chỗ quảng trường tiếp tục với một con đường, một đường khá đẹp, có lẽ con lộ đẹp nhất xứ. Tại góc, có một căn nhà lụp xụp, đúng ra chỉ có một gian, với cửa mở. Ngay gần cửa, một cái chõng tội nghiệp với một bộ xương tàn tật, than van xin người qua lại của bố thí.
230
Êlie vào cách ồn ào: “Isaac... Tôi đây”.
- Anh, tôi không ngờ. Anh đã đến vào cuối tuần trăng.
- Isaac... Isaac... Anh biết tại sao tôi tới không?
- Tôi không biết... Anh xúc động... Có chuyện gì vậy?
- Tôi đã gặp Giêsu Nazarét, bây giờ là người lớn, một rabbi. Người đến tìm tôi... Người muốn gặp chúng ta. Ôi! Isaac! Anh thấy đau à?
Thực sự, Isaac lịm đi, tựa như chết. Rồi ông hồi lại: “Không, cái tin... Người ở đâu? Người thế nào? Ôi! Nếu tôi có thể gặp Người!”
- Người ở dưới kia, trong thung lũng. Người sai tôi đến nói với anh điều này. Đúng hệt là điều này: “Hãy đến, Isaac! Thầy muốn gặp con và chúc lành cho con”. Tôi đi gọi ai để giúp tôi mang anh xuống.
- Đúng Người nói vậy?
- Đúng vậy. Nhưng anh làm gì thế?
- Tôi tới đó.
Isaac lật chiếc mền ra, cử động đôi chân cứng ngắc, bỏ nó ra bên ngoài chõng, tì nó xuống đất. Ông đứng dậy, còn hơi ngập ngừng chệnh choạng. Tất cả xảy ra rất nhanh, trong khi Êlie nhìn ông, trợn tròn đôi mắt... Sau cùng ông hiểu và thét lên. Một bà già nhỏ tò mò lại gần. Bà thấy người tàn tật đứng thẳng, không mặc gì khác ngoài một cái mền che thân. Bà chạy đi, la hét như con gà mái khiếp vía.
- Đi! Chúng ta đi lẹ khỏi nơi đây để tránh đám đông... Mau đi Êlie.
Đó, họ vội vã chạy ra cửa của khu vườn sau nhà, họ đẩy cái cửa bằng cành cây khô. Họ ra ngoài. Họ đi vào một lối mòn, rồi vào một ngõ băng qua các khu vườn, xuống dốc qua các đồng cỏ và các bụi cây cho tới suối.
- Giêsu đó - Êlie nói khi chỉ ngón tay: “Người cao lớn, đẹp trai, tóc vàng hoe, áo trắng với áo khoác đỏ...”
Isaac chạy qua bầy vật đang gặm cỏ, với tiếng kêu chiến thắng, vui mừng, thờ lạy, ông qùi sụp dưới chân Giêsu.
231
- Đứng dậy đi Isaac. Thầy tới mang cho con bình an và phúc lành. Đứng dậy để Thầy thấy mặt con.
Nhưng Isaac không thể đứng. Qúa nhiều xúc động dồn dập, nên ông vẫn gục mặt dưới đất, đầy nước mắt hạnh phúc.
- Con tới ngay. Con không tự hỏi xem mình có thể không...
- Chúa bảo con tới... Và con đã tới.
- Thưa Thầy, cả đến anh ấy không đóng cửa, không lượm tiền bạc.
- Không sao. Các thiên thần sẽ canh chừng nơi ở của anh ấy. Con bằng lòng không Isaac?
- Ôi! Lạy Chúa!
- Hãy gọi Thầy là Thầy.
- Vâng, lạy Chúa, Thầy của con. Dù có không được khỏi, con cũng sẽ rất sung sướng được gặp Thầy. Làm sao con lại có thể được từng ấy ân huệ nơi Thầy?
- Vì đức tin và sự kiên trì của con, Isaac. Thầy biết con đã khổ tới mức nào!
- Không gì cả, là không. Không là gì nữa. Con đã tìm được Thầy còn sống. Thầy ở đây! Đó là tất cả. Ngoài ra, tất cả những gì còn lại là qúa khứ. Nhưng lạy Chúa, Thầy, bây giờ Thầy không bỏ đi nữa chứ? Phải không?
- Isaac, Thầy có toàn thể Israel phải rao giảng. Thầy đi. Nhưng nếu Thầy không thể ở lại, thì con có thể phục vụ Thầy và theo Thầy. Con có muốn làm môn đệ Thầy không Isaac?
- Ôi! Nhưng con sẽ không tốt!
- Con biết công bố Thầy là ai không? Công bố trước mặt những khinh bỉ và đe dọa? Và nói rằng chính Thầy đã gọi con và con đã tới?
- Dù Thầy không muốn nói những điều đó thì con cũng sẽ nói hết. Về điều đó thì con sẽ không vâng lời Thầy. Xin Thầy tha cho con nếu con nói vậy.
Giêsu mỉm cười : “Vậy con thấy rằng con tốt để làm môn đệ?”
- Ôi! Nếu chỉ làm như vậy! Con nghĩ là làm những gì khó hơn, phải đi nhà trường của các rabbi để phục vụ Thầy, Rabbi của các
232
rabbi... Mà đi nhà trường qúa già như vầy... Thực sự ông này khoảng ít nhất là năm mươi.
- Isaac, nhà trường thì con đã đi rồi!
- Con ?... Không.
- Rồi chứ con: Con đã chẳng tiếp tục tin và yêu. Tôn thờ và chúc tụng Thiên Chúa, tôn trọng và chúc lành cho tha nhân. Không tham lam, không ước ao của người, cả những cái con đã có và không còn. Chỉ nói sự thật, dù có thiệt hại cho con. Không gian dâm với Satan bằng cách phạm tội. Con đã chẳng làm những điều đó trong ba mươi năm bất hạnh sao?
- Thưa Thầy có.
- Con thấy, vậy là con đã đi nhà trường. Hãy tiếp tục như vậy, và thêm vào đó những tiết lộ về sự hiện hữu của Thầy trên thế gian. Không phải làm gì hơn.
- Con đã rao giảng Thầy: Chúa Giêsu, cho những đứa trẻ đến bên giường con. Khi con bị cà thọt, con đến xứ này để ăn mày bánh, vẫn còn làm được vài việc như xén lông, vắt sữa. Rồi khi bệnh trở nên trầm trọng, liệt lên tới bên dưới thắt lưng, các trẻ đến bên giường con, con nói về Thầy cho các đứa trẻ khi đó, và cho các đứa trẻ bây giờ, con của những đứa trẻ trên. Các trẻ em tốt và luôn luôn tin. Con nói về thời Thầy sinh ra... Các thiên thần, ngôi sao và các nhà Đạo Sĩ... Về Mẹ Thầy. Ôi! Xin Thầy nói cho con: Mẹ còn sống không?
- Mẹ còn sống và gởi lời chào con. Mẹ thường nói về các con.
- Ôi! được gặp Mẹ!
- Con sẽ gặp Mẹ. Một ngày kia con sẽ tới nhà Thầy. Maria chào con là bạn.
- Maria... Đúng. Tên Người ở trong miệng con, con thấy ngọt như mật ong. Có một người đàn bà ở Jutta, đúng, bây giờ là một đàn bà, mới sinh đứa con thứ bốn. Xưa bà là một con bé, một trong những người bạn nhỏ của con. Bà đã đặt tên cho các con bà là: Maria và Giuse cho hai đứa đầu. Đứa thứ ba không dám gọi là Giêsu, bà gọi nó là Emmanuel, tên của phúc lành cho chính bà, cho nhà bà, và cả Israel. Bà đang tìm một tên cho đứa thứ bốn mới sinh
233
được sáu ngày. Ôi! Khi bà biết là con được khỏi và Thầy ở đây! Bà ta tốt như tấm bánh của người má, Sara. Và Joakim là chồng bà cũng tốt. Và cha mẹ họ? Con sống sót là nhờ họ. Họ luôn luôn cho con trú và giúp con.
- Chúng ta hãy tới nhà họ để xin trú vào những giờ mặt trời nóng, và mang cho họ phúc lành vì tình bác ái của họ.
- Thưa Thầy, từ chỗ này thì sẽ thuận lợi hơn cho đoàn vật và tránh được đám người, chắc chắn bị khích động. Bà già đã nhìn thấy con đứng lên, chắc chắn đã đi nói.
Họ đi theo dòng suối về phía nam một đoạn, rồi đi vào con đường lên dốc khá mau, đi vòng một cái mỏm núi giống như mũi tàu. Bây giờ con suối ở phía ngược với đường lên dốc, và chảy giữa hai rặng núi cắt nhau tại một thung lũng đẹp gập ghềnh. Tôi biết chỗ này, không thể lầm được. Đó là chỗ tôi đã thấy Giêsu với các đứa trẻ trong thị kiến hồi mùa xuân vừa qua. Bức tường nhỏ quen thuộc bằng đá giới hạn vùng sở hữu và cắt ngang thung lũng. Đây là đồng cỏ với các cây táo, sung, hồ đào. Đây là căn nhà trắng trên vùng cây xanh với mái hiên chìa ra che cho cầu thang, làm thành hành lang và chỗ trú. Đây là cái mái vòm nhỏ trên nóc. Đây là vườn rau với cái giếng, dàn cây và các vườn hoa...
Có tiếng ồn ào lớn trong nhà. Isaac bước vào và hỏi lớn tiếng: “Maria, Giuse, Emmanuel đâu? Hãy đến cùng Giêsu”.
Ba đứa trẻ chạy ra. Một đứa con gái độ năm tuổi; hai đứa con trai độ bốn và hai tuổi. Đứa nhỏ nhất bước đi chưa vững. Chúng đứng yên, miệng há hốc trước... người sống lại. Rồi đứa con gái kêu lên: “Isaac! Má ơi! Isaac ở đây! Judith đã thấy đúng!”
Từ căn phòng có tiếng ồn ào lớn, một người đàn bà chạy ra: Một bà mẹ tươi mát, tóc đen, cao ráo, đẹp, với cái nhìn xa. Bà rất đẹp trong y phục ngày lễ: cái áo dài vải gai trắng sang trọng với nhiều xếp ly, dài tới mắt cá chân, ôm lấy bộ ngực nở. Một cái khăn nhiều mầu bọc quanh đôi mông lớn, rũ xuống tới đầu gối với các sợi tua ở đàng sau; đàng trước để hở, thắt lại ngang thắt lưng bên dưới một cái khóa có chạm trổ. Một cái voan nhẹ có hình các cành hồng nhiều mầu trên nền vải mầu hung hung, được cài trên các bím tóc
234
đen như một tấm khăn trùm đầu, rủ xuống từ sau gáy với các dợn sóng và nếp ly tới trên vai và ngực. Một cái vương miện bằng các bản mặt kết lại với nhau bởi các vòng tròn được gắn trên đầu tóc. Các bông tai toòng teeng với các vòng nặng. Chiếc áo dài được thắt lại ở cổ bằng một sợi giây chuyền bằng bạc luồn qua các lỗ của cổ áo. Cổ tay có nhiều cái lắc bằng bạc.
- Isaac! Nhưng làm sao? Judith... Tôi tưởng rằng mặt trời làm bà ta hóa điên... Anh đi được rồi! Nhưng làm sao vậy?
- Vị Cứu Tinh! Ôi! Sara! Chính Người. Người đã tới.
- Ai? Giêsu Nazarét? Người đâu?
- Đàng kia, sau cây hồ đào. Người hỏi qúi vị có tiếp Người không?
- Joakim ! Mẹ ơi ! Tất cả, tới đây. Đấng Messi !
Đàn ông, đàn bà, con trai, trẻ nít chạy ra la lối... Nhưng khi họ thấy Giêsu cao lớn, oai vệ, họ thành e lệ và như hóa đá.
- Bình an cho nhà này và cho tất cả qúi vị. Bình an và phúc lành của Thiên Chúa - Giêsu bước nhẩn nha và mỉm cười với nhóm người: “Các bạn ơi! Các bạn có bằng lòng cho khách bộ hành trú nhờ không?” và Người lại mỉm cười.
Nụ cười của Người thắng sự sợ sệt. Ông chồng liền can đảm nói: “Xin mời Đấng Messi vào. Chúng con đã yêu Ngài khi không biết Ngài. Chúng con sẽ yêu Ngài hơn sau khi biết Ngài. Nhà con hôm nay mừng lễ vì ba sự việc: Vì Ngài, vì Isaac, và vì lễ cắt bì cho đứa con trai thứ ba của con. Xin Ngài chúc lành cho nó. Bà ơi! ẵm con nhỏ tới. Xin Chúa vào!”
Họ vào một căn phòng đã sửa soạn cho ngày lễ: bàn ghế, đồ ăn, thảm, khăn, cành cây khắp nơi.
Sara trở lại với một trẻ sơ sinh đẹp trong tay. Bà trình cho Giêsu.
- Xin Thiên Chúa ở với nó luôn luôn. Nó tên gì?
- Không có. Con này là Maria, thằng này là Giuse, thằng kia Emmanuel. Đứa chót này nó... nó chưa có tên.
Giêsu nhìn nhóm của hai vợ chồng và mỉm cười: “Hãy tìm một cái tên, nếu nó phải cắt bì ngày hôm nay...”
Hai người nhìn nhau, nhìn Người, mở miệng rồi lại ngậm lại mà
235
không nói gì. Mọi người đều chăm chú nhìn họ.
Giêsu nhấn mạnh: “Lịch sử Israel có biết bao danh nhân với những tên êm đềm, tên được chúc phúc. Những tên êm đềm nhất, được chúc phúc nhất thì đã đặt rồi. Nhưng có lẽ cũng còn tên khác nữa”.
Hai vợ chồng cùng kêu lên: “Tên Chúa!” Và người đàn bà nói thêm: “Nhưng nó qúa thánh!...”
Giêsu mỉm cười hỏi: “Lúc nào thì cắt bì?”
- Chúng con đang chờ vị hành sự.
- Thầy sẽ tham dự nghi lễ. Trong khi chờ đợi, Thầy cám ơn các con cho Isaac. Bây giờ ông không cần những người tốt nữa, nhưng các người tốt còn cần Thiên Chúa. Các con đã gọi đứa thứ ba là: “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”. Nhưng Thiên Chúa đã ở với các con từ hồi các con có lòng bác ái với người tôi tớ của Thầy. Hãy được chúc phúc. Dưới đất cũng như trên trời, người ta sẽ ghi nhớ hành động của các con.
- Bây giờ Isaac đi sao? Ông bỏ chúng con lại?
- Các con buồn sao? Nhưng ông phải phục vụ Thầy của ông. Rồi ông sẽ trở lại. Thầy cũng vậy, Thầy sẽ trở lại. Trong thời gian đó, các con hãy nói về Đấng Messi... Phải nói về Người nhiều để khuất phục thế giới. Nhưng kìa, vị mà chúng ta chờ.
Một nhân vật trịnh trọng bước vào với một người phụ giúp. Các chào đón và cúi mình. Ông hỏi vẻ hách dịch: “Đứa bé đâu?”
- Nó đây. Nhưng, xin chào Đấng Messi. Người ở đây.
- Đấng Messi... Cái ông đã chữa Isaac? Tôi biết, Nhưng... Chúng ta sẽ nói chuyện đó sau. Tôi gấp. Đứa bé và tên nó?
Mọi người hiện diện đều ngượng vì thái độ của ông. Nhưng Giêsu cười tựa như vẻ bất lịch sự này không chỉ về Người. Người ẵm đứa nhỏ, áp các ngón tay đẹp của Người trên trán nó như để thánh hiến nó và nói: “Tên nó là Giêsai”. Rồi Người trả nó cho ba nó. Ông cùng với người hách dịch và các người khác đi vào phòng bên cạnh. Giêsu ở lại đó cho tới khi đứa nhỏ trở lại trong khi khóc cách tuyệt vọng.
- Đưa đứa bé cho Thầy đi bà. Nó sẽ không khóc nữa - Người nói
236
để an ủi người mẹ đầy lo lắng. Đứa bé ở trên đầu gối Giêsu, liền nín cách dễ thương.
Giêsu có một nhóm người ở chung quanh Người: Tất cả các trẻ em ở kề bên, rồi đến các mục đồng và các môn đệ. Bên ngoài là tiếng bê bê của đàn cừu mà Êlie đã nhốt vào một nơi, trong nhà là các tiếng động của ngày lễ. Người ta mang tới cho Giêsu và các người của Ngài các bánh ngọt và các đồ uống, nhưng Giêsu phát cho đám trẻ.
- Thầy không uống à? Thầy không nhận? Đó là lòng thành.
- Thầy biết, Joakim, Thầy nhận cách sốt sắng. Nhưng hãy để Thầy làm vui cho các trẻ. Đó là niềm vui của Thầy...
- Xin Thầy đừng bận tâm tới ông đó.
- Không, Isaac. Thầy cầu nguyện để ông thấy Ánh Sáng. Gioan, con dẫn hai đứa nhỏ đi coi các con cừu đi. Còn con, Maria, lại gần đây và hãy nói cho Thầy: Thầy là ai?
- Là Giêsu, con của Maria Nazarét, sinh tại Bétlem. Isaac đã thấy Thầy, và ông đã cho con tên của mẹ Thầy để con biết tốt.
- Tốt như thiên thần của Thiên Chúa. Trong sạch hơn một bông huệ nở trên đỉnh núi. Đạo đức như một thầy Lêvi thánh thiện nhất, để bắt chước Mẹ. Con sẽ có như vậy không?
- Có, Giêsu.
- Con, phải nói là: Thầy hay Chúa.
- Hãy để nó gọi Thầy bằng tên của Thầy, Judas. Chỉ có qua môi các trẻ thơ là nó không mất cái âm thanh nó có trên môi Mẹ Thầy. Qua dòng thời gian, tất cả sẽ nói tên này. Người thì vì lợi ích, những người khác thì vì nhiều lý do khác nhau, và với nhiều người là để xúc phạm. Chỉ có các trẻ thơ, không tính toán và không thù ghét, sẽ nói với tình yêu, giống như đứa bé này và giống như Mẹ Thầy. Các kẻ tội lỗi cũng sẽ gọi Thầy vì cần tình thương. Mẹ Thầy và các trẻ nhỏ! Tại sao con gọi Thầy là Giêsu? - Người nói khi vuốt ve đứa bé.
- Vì con rất yêu Thầy... giống như ba con và má con và các em con - nó nói khi ôm đầu gối Giêsu và ngửa mặt lên cười.
Giêsu cúi xuống cho nó một cái hôn. Và tất cả chấm dứt.
237
41* GIÊSU TẠI HÉBRON.
CĂN NHÀ CỦA ZACARI. AGLAÉ
- Khoảng mấy giờ chúng ta tới nơi? - Giêsu hỏi khi Người đi ở giữa nhóm, với đàn cừu đi ở phía trước, vừa đi vừa gặm cỏ.
- Khoảng ba giờ. Xa chừng mười dặm - Êlie trả lời.
- Rồi chúng ta đi Kêriot? - Judas hỏi.
- Ừ, chúng ta sẽ tới đó.
- Nhưng đi ngay từ Jutta tới Kêriot chả gần hơn sao? Nó không xa, phải không ông mục đồng?
- Hai dặm nữa hơn kém.
- Như vầy chúng ta đi hai mươi dặm vô ích!
- Judas, tại sao con lo lắng? - Giêsu hỏi.
- Thưa Thầy con không lo. Nhưng Thầy đã hứa tới nhà con...
- Thì Thầy sẽ tới. Thầy luôn luôn giữ lời hứa của Thầy.
- Con đã cho Người báo cho mẹ con... Ngoài ra, Thầy đã nói: Với người chết, ta hiện diện với họ bằng tâm hồn.
- Thầy đã nói vậy. Nhưng Judas, hãy suy nghĩ: Con chưa phải khổ cho Thầy. Những người này họ đã khổ cho Thầy ba mươi năm mà họ không bao giờ phản bội, dù là những kỷ niệm của Thầy, cả những kỷ niệm về Thầy. Họ không biết Thầy còn sống hay đã chết... Nhưng họ vẫn trung thành. Họ nhớ tới Thầy, một trẻ sơ sinh, chỉ bộc lộ cho họ tiếng khóc và ham sữa mẹ... Nhưng họ đã tôn kính Thầy như Thiên Chúa. Vì Thầy, họ bị đánh đập, nguyền rủa, bách hại như sự xấu hổ của Juđê. Nhưng đức tin của họ không lay chuyển, không khô héo, nhưng càng ăn rễ sâu và mạnh mẽ hơn.
- Bởi vậy, từ mấy ngày nay các vấn nạn nó đốt cháy môi con. Đó là các bạn của Thầy, tức là bạn của Thiên Chúa phải không? Các thiên thần đã chúc lành cho họ với sự bình an của Trời phải không? Họ vẫn sống công chính dù mọi thử thách phải không? Xin Thầy giải thích cho con vậy tại sao họ bất hạnh như vậy? Và Anna bị giết vì đã yêu Thầy?
- Và bởi thế con kết luận rằng Tình Yêu của Thầy và của những kẻ yêu Thầy mang vận rủi?
238
- Không... Nhưng...
- Nhưng, như vậy. Thầy buồn khi thấy con qúa khép kín đối với Ánh Sáng, qúa bị ám ảnh bởi các cảm giác loài người. Không, hãy để yên cho ông ta, Gioan, và cả con nữa, Simon. Thầy thích cho ông ta nói ra hơn, Thầy không bao giờ khiển trách ông vì nói. Chỉ có điều Thầy muốn các linh hồn mở ra cho Ánh Sáng lọt vào. Lại đây, Judas. Hãy nghe đây: Con xuất phát từ một sự xét đoán chung của bao nhiêu người đang sống và sẽ sống. Thầy nói: sự xét đoán, nhưng thực sự Thầy phải nói là sự sai lầm. Nhưng vì biết rằng các con làm điều đó không qủi quyệt, vì không biết cái gì là thật, nên đó không phải là một sai lầm nữa, mà là một sự phán đoán bất toàn, giống như sự phán đoán của một đứa trẻ. Và các con là những đứa trẻ, những người lớn tội nghiệp. Vậy Thầy ở đây để làm Thầy, để làm cho các con thành những người trưởng thành, có khả năng phân biệt điều đúng với điều sai, điều tốt với điều xấu, điều tốt với điều tốt hơn. Vậy hãy nghe đây: Đời sống là gì? Một thời gian chờ đợi, Thầy nói là lâm bô của Lâm Bô mà Thiên Chúa Cha cho các con, để các con chứng tỏ mình là những đứa con tốt hay là con hoang, và để sau công việc của các con, dành cho các con một tương lai không còn phải chờ, không còn thử thách nữa. Bây giờ các con, hãy nói cho Thầy: có chính đáng không nếu một người, vì họ có những thuận lợi họa hiếm nên có khả năng phục vụ Thiên Chúa cách đặc biệt, cũng được hưởng một sự ưu tiên đặc biệt suốt đời không? Các con không thấy là họ đã nhận được rất nhiều, và vì đó họ có thể tự xưng là sung sướng, mặc dầu theo kiểu loài người thì họ không sung sướng sao? Chẳng phải là bất công nếu một kẻ đã nhận được trong lòng nó Ánh Sáng của một sự mặc khải của Thiên Chúa, và nụ cười ưng thuận của lương tâm họ, mà lại còn được những sung sướng và của cải trần thế sao? Như vậy chẳng là thiếu khôn ngoan sao?
- Thưa Thầy, con nói đó còn là sự phàm tục hóa. Tại sao lại để những cái vui loài người ở nơi có Thầy. Khi ai có Thầy - Và vì họ có Thầy, họ là những người giầu có duy nhất trong Israel, vì họ đã có Thầy từ ba mươi năm nay - họ không cần gì khác. Người ta không đặt những vật của loài người lên trên Hòm Bia chứng ước, và một
239
chiếc Bình Thánh chỉ dùng vào các việc thánh. Họ là những người được thánh hiến từ khi họ thấy nụ cười của Thầy, và không có gì, không có gì không phải là Thầy được vào trong lòng họ là nơi có Thầy. Con cũng ước như họ - Simon nói.
- Nhưng anh, sau khi đã thấy Thầy và được chữa lành, anh đã vội vã đi lấy các của cải của anh! - Judas nói cách mỉa mai.
- Thực vậy, tôi đã nói vậy và tôi đã làm vậy. Nhưng anh biết tại sao không? Làm sao anh có thể xét đoán nếu anh không biết tường tận mọi sự. Người lo công việc cho tôi đã nhận được mệnh lệnh chính xác. Bây giờ Simon Zélote đã được khỏi - kẻ thù của ông không thể làm hại ông nữa, cũng không thể cô lập ông hay theo đuổi ông, vì ông không thuộc về đảng phái nào cả, mà chỉ thuộc về Giêsu - ông có thể phân xử những của cải mà một người ngay thật đã giữ cho ông. Và tôi, còn là chủ nhân trong một giờ nữa, tôi đã định giá cho nó để có thể rút ra nhiều tiền hơn khi bán nó, và để có thể nói... Không, điều này thì tôi không nói.
- Các thiên thần sẽ nói cho con, Simon ạ, và sẽ viết nó trong cuốn sách đời đời - Giêsu nói.
Simon nhìn Giêsu, hai cái nhìn gặp nhau, một cái ngạc nhiên, một cái chúc lành.
- Cũng vẫn như mọi khi, tôi sai.
- Không, Judas, anh có giác quan thực tiễn. Chính anh đã nói vậy.
- Ôi! Nhưng với Giêsu!... Cả Simon Phêrô cũng đã bám vào cái giác quan thực tiễn của ông, nhưng bây giờ, trái lại... Anh cũng vậy, Judas, anh cũng sẽ trở nên giống ông ấy. Anh mới ở với Thầy một thời gian ngắn, còn chúng tôi đã ở lâu hơn, nên chúng tôi đã nên tốt hơn - Gioan nói, luôn luôn êm đềm và hoà giải.
- Người đã không muốn tôi. Nếu không, tôi đã ở với Người ngay từ lễ Vượt Qua! - Bữa nay Judas thực sự phát xùng.
Giêsu cắt ngang câu chuyện khi nói với Lêvi: “Con đã bao giờ ở Galilê chưa?”
- Lạy Chúa, rồi.
240
- Con sẽ đi với Thầy. Con sẽ dẫn Thầy tới chỗ Jonas. Con có biết chỗ không?
- Có. Chúng con luôn luôn gặp nhau vào lễ Vượt Qua. Những khi đó thì con đến với ông.
Giuse cúi đầu có vẻ khổ. Giêsu nhìn thấy ông: “Các con không thể đi cả với nhau. Êlie sẽ ở lại một mình với đoàn vật. Nhưng con sẽ đi với Thầy tới chỗ qua ranh giới Jêricô, nơi chúng ta tạm chia tay một thời gian. Rồi Thầy sẽ nói cho con những điều phải làm”.
- Còn chúng con không có gì?
- Cả các con nữa, Judas, cả các con nữa.
- Đàng kia có những căn nhà - Gioan nói khi ông đang đi trước những người khác mấy bước.
- Đó là Hébron, với cái đỉnh của nó cao hẳn lên ở giữa hai con sông. Thầy thấy căn nhà lớn đàng kia, hơi cao hơn các nhà khác trong vùng cây xanh không? Đó là nhà của Zacari.
- Chúng ta đi lẹ lên.
Họ bước mau những mét sau cùng của con đường và đi vào trong xứ. Tiếng lục lạc của các con vật gây ra tiếng động như gõ mõ khi chúng tiến bước trên các tảng đá gồ ghề của con đường lát rất thô sơ. Họ tới căn nhà. Người ta nhìn đám người khác nhau về diện mạo, tuổi tác, y phục, ở giữa bầy cừu trắng.
- Ồ! Thay đổi qúa rồi! - Êlie nói. “Chỗ này trước có một cái cổng song sắt, bây giờ được thay bằng tấm sắt làm che mắt, và lại có cả bức tường cao hơn đầu người, như vậy người ta không nhìn thấy gì hết”.
- Có lẽ có cửa mở ở phía sau. Ta đi coi xem - Họ đi vòng quanh bức tường vây quanh một khu vuông mênh mông, hình chữ nhật thì đúng hơn. Nhưng bức tường khắp nơi đều cao như nhau.
- Bức tường mới xây - Gioan nói khi nhận xét. “Không có chỗ cách quãng, và ở trên đất còn có vôi và đá”.
- Tôi cũng không thấy nấm mồ nữa. Nó ở bên cạnh bụi cây. Bây giờ bụi cây ở bên ngoài bức tường và... giống như mảnh đất công cộng. Họ làm củi ở đây - Êlie phân vân.
241
Một người đàn ông. Một người tiều phu già, nhỏ con nhưng lực lưỡng, quan sát nhóm người. Ông ngừng cưa khúc cây đã hạ và đi về với họ: “Các ông tìm ai?”
- Chúng rôi muốn vào nhà để cầu nguyện ở mộ của Zacari.
- Đâu có còn mộ nữa. Các ông không biết sao? Các ông là ai?
- Tôi là bạn của Samuel, người mục đồng. Anh ấy...
- Đừng, Êlie... - Giêsu nói, và Êlie nín lặng.
- A! Samuel!... Đúng. Nhưng từ khi Gioan, con trai Zacari bị bắt, căn nhà không thuộc về ông nữa. Thật bất hạnh, vì ông đã cho phân chia hết lợi tức của đất đai ông cho các người nghèo ở Hébron. Một buổi sáng, có một gã ở triều đình Hêrôđê tới. Hắn đuổi Joel ra ngoài, niêm phong nhà. Rồi hắn trở lại cùng với các thợ nề để xây bức tường này... Nấm mồ ở góc đó, hắn không muốn... và một buổi sáng, chúng tôi thấy nó hư hỏng hết, bị phá mất cả nửa... Các hài cốt tội nghiệp lẫn lộn hết... Chúng tôi đã thu lượm như chúng tôi có thể... Bây giờ chúng ở trong một quan tài duy nhất... Và trong nhà thầy cả Zacari, tên ghê tởm đó để các tình nhân. Bây giờ là một mụ gái hề Rôma. Bởi vậy hắn xây bức tường, vì hắn không muốn người ta thấy... Nhà của vị Thầy Cả thành nhà điếm! Nhà của phép lạ và của vị Tiền Hô, vì chắc chắn là ông, dù chính ông không phải đấng Messi. Chúng tôi phiền muộn biết bao cho ông Tẩy Giả! Đó là vĩ nhân của chúng tôi. Vĩ nhân thực sự của chúng tôi. Việc sinh ra của ông đã là một phép lạ. Êlisabét già như bó cỏ khô mà sinh nở như cây táo tháng Adar: phép lạ thứ nhất. Rồi có cô em họ tới, một vị thánh, để giúp bà gỡ giây cho lưỡi vị Thầy Cả. Cô tên là Maria. Tôi còn nhớ cô, mặc dầu người ta họa hiếm mới nhìn thấy cô. Chuyện đó xảy ra thế nào tôi không biết. Người ta nói rằng để làm vui lòng Êlisabét, cô cho để cái miệng câm của Zacari trên bụng cô đang mang bầu, hay là cô để ngón tay vào miệng ông, tôi không biết rõ. Điều chắc chắn là sau chín tháng yên lặng, Zacari nói được để ngợi khen Chúa và nói rằng đã có Đấng Messi. Tôi không biết gì hơn, nhưng vợ tôi bảo đảm. Bà đã ở đó vào bữa Zacari nói được để ca tụng Chúa, nói con ông sẽ đi trước Người. Bây giờ tôi thì tôi nói: không phải như người ta tin. Gioan chính là Đấng Messi, và ông đi
242
trước mặt Chúa như Abraham đi trước mặt Thiên Chúa. Đó, tôi có lý không?
- Ông có lý về những điều có liên can tới thần trí ông Tẩy Giả luôn luôn bước đi trước mặt Thiên Chúa, nhưng ông không có lý về những điều có liên can tới Đấng Messi.
- Vậy cái bà mà người ta gọi là Mẹ Thiên Chúa - Samuel nói vậy - thì thực sự không có, bà ta chưa hiện hữu?
- Bà đã hiện hữu. Đấng Messi đã sinh ra, được đi trước bởi người đã cất cao giọng trong sa mạc, đúng như các tiên tri đã nói.
- Ông là người đầu tiên xác nhận như vậy. Lần vừa qua Joel mang tấm da cừu đến cho Gioan như ông vẫn làm mỗi năm vào trước mùa đông, khi người ta hỏi Gioan về Đấng Messi, ông không nói: “Người đã hiện hữu”. Khi nào ông sẽ nói như vậy...
- Ông ơi! Trước tôi là môn đệ Gioan, và tôi đã nghe ông nói: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa” khi ông giơ tay chỉ vào Người... - Gioan nói.
- Không. Không. Con Chiên Thiên Chúa chính là Gioan. Con chiên thực sự đã tự mình phát triển, có thể nói là không cần sự giúp đỡ của cha mẹ. Vừa là con trai lề luật, ông đã rút lui vào một cái hang ở trong núi trước sa mạc. Ông lớn lên ở đó, liên lạc với Thiên Chúa. Êlisabét và Zacari chết ông cũng không về. Đối với ông, cha mẹ là Thiên Chúa. Không có vị thánh nào lớn hơn ông. Ông cứ hỏi hết dân Hébron coi. Samuel nói vậy, vì ông là người Bétlem nên ông cho là có lý. Vị Thánh của Thiên Chúa chính là Gioan.
- Nếu ai bảo ông: “Tôi là đấng Messi”, ông sẽ nói sao với họ? - Giêsu hỏi.
- Tôi sẽ gọi nó là “Tên phạm thượng”, và tôi sẽ xua đuổi nó bằng những cục đá.
- Nhưng nếu Người làm phép lạ để chứng tỏ Người là vậy?
- Tôi sẽ bảo nó là bị qủi ám. Đấng Messi sẽ tới khi Gioan tự bộc lộ bản tính thực của ông. Ngay Hêrôđê cũng là một bằng cớ: Ông ta qủi quyệt, nhưng cũng biết Gioan là Đấng Messi.
- Ông ta đâu có sinh ra ở Bétlem?
- Nhưng khi ông được trả tự do, sau khi tự mình công bố sự tức vị
243
kế tiếp của ông, ông sẽ bộc lộ ra ở Bétlem. Bétlem cũng đang chờ ông. Trong khi mà... Ôi! Hãy tới đó đi, nếu ông không sợ nói với dân Bétlem về một Đấng Messi khác... ông sẽ thấy.
- Qúi vị có giáo đường không?
- Có, thẳng đây, độ hai trăm bước, theo con đường này. Ông không lầm được đâu. Gần ngay bên nấm mộ của những bộ xương bị xúc phạm.
- Chào ông và xin Chúa soi sáng cho ông.
Họ đi trở lại phía trước nhà. Ở cửa có một người đàn bà trẻ, ăn vận khêu gợi, rất đẹp: “Thưa Chúa, Ngài muốn vào nhà? Xin mời vào”.
Giêsu nhìn bà nghiêm khắc như vị quan tòa và không nói gì. Chính Judas can thiệp với sự ưng thuận của mọi người: “Vào đi! Trơ trẽn! Đừng phàm tục hóa chúng ta bằng hơi thở của mụ, con chó đói”.
Người đàn bà đỏ bừng mặt và cúi đầu. Bà vội vã muốn lẩn đi cho khuất, bối rối, bị chửi rủa bởi các trẻ em và người qua lại.
- Ai đủ trong sạch để nói: “Tôi không bao giờ ước ao qủa táo do Evà tặng”? - Giêsu nói cách nghiêm nghị, và người thêm: “Hãy chỉ họ cho Thầy để Thầy tới chào họ là vị Thánh. Không có ai à? Vậy nếu không phải vì khinh bỉ nhưng vì yếu đuối, các con cảm thấy không thể tới gần bà thì hãy rút lui. Thầy không bó buộc một người yếu đuối dấn thân vào một cuộc chiến không cân xứng. Bà ơi, tôi muốn vào. Căn nhà này thuộc về một người bà con của tôi, nó rất thân thiết với tôi”.
- Mời Ngài vào, nếu Ngài không cảm thấy ghê tởm đối với tôi.
- Hãy để cổng mở cho người ta nhìn thấy và không dèm pha.
Giêsu qua cổng, nghiêm trang và trịnh trọng. Người đàn bà chào người, cảm phục và không dám nhúc nhích. Nhưng các lời chửi rủa của đám đông châm chích bà tới xương, bà liền chạy trốn tới cuối vườn, trong khi Giêsu tới tận chân cầu thang, Người liếc mắt nhìn qua cái cửa hé mở nhưng Người không vào. Rồi Người tới chỗ ngôi
244
mộ, bây giờ ở đó có một cái miếu của dân ngoại.
- Hài cốt của các người công chính, dù khô héo và bị phân tán, cũng tỏa ra hương thơm trong sạch và hạt giống sự sống đời đời. Bình an cho những kẻ chết mà đã sống tốt. Bình an cho những kẻ trong sạch an nghỉ trong Chúa. Bình an cho những kẻ đau khổ mà không muốn sống trụy lạc. Bình an cho những vĩ nhân thực sự của trái đất và của Nước Trời. Bình an!
Người đàn bà đi theo một hàng dậu che khuất, bây giờ tới gần Người.
- Thưa Chúa!
- Cái gì bà?
- Tên Ngài?
- Giêsu.
- Con chưa bao giờ nghe. Con người Rôma, diễn viên và vũ nữ
nhà nghề. Con chỉ chuyên môn trong điều dâm dật. Tên Ngài có ý nghĩa gì? Tên con là Aglaé... Nó có nghĩa là trụy lạc.
- Tên Ta có nghĩa là Vị Cứu Tinh.
- Ngài cứu bằng cách nào, và cứu ai?
- Kẻ thành tâm muốn phần rỗi. Ta cứu và ta dạy sống trong sạch, muốn sự đau đớn cũng như danh dự, muốn điều lành với bất cứ giá nào - Giêsu nói, không chua chát, và không quay về phía người đàn bà.
- Con đã hư mất.
- Ta là người đi tìm những kẻ đã mất.
- Con đã chết.
- Ta là đấng ban sự sống.
- Con dơ bẩn và dối trá.
- Ta là sự trong sạch, là sự thật.
- Ngài là lòng nhân từ. Ngài không nhìn con, không đụng tới con, không chà đạp con. Xin thương con...
- Trước tiên, chính bà phải thương lấy bà, thương lấy linh hồn bà.
- Linh hồn là cái gì?
- Là cái làm cho người ta nên một chúa chứ không phải một con
245
vật. Sự trụy lạc, tội lỗi giết nó, và khi nó chết, con người trở thành một con vật ghê tởm.
- Con còn có thể gặp Ngài không?
- Ai tìm Ta thì thấy Ta.
- Ngài ở đâu?
- Ở những nơi nào có những con tim cần tới thầy thuốc và các phương dược để trở nên ngay lành.
- Vậy... con không gặp Ngài nữa. Nơi con ở, người ta không muốn thầy thuốc cũng như phương dược và sự ngay thật.
- Không có gì ngăn cản bà tới nơi Ta ở. Người ta kêu tên ta ngoài đường phố, và nó sẽ tới tai bà. Chào.
- Chào Chúa. Hãy để con gọi Ngài là Giêsu. Ôi! không phải là thân mật đâu, mà là để một chút sự cứu rỗi nó vào trong con. Con là Aglaé. Xin Ngài nhớ tới con.
- Ừ, chào.
Người đàn bà ở lại cuối vườn. Giêsu ra, dáng vẻ nghiêm nghị. Người nhìn mọi người. Người quan sát sự bối rối của các môn đệ, sự khinh bỉ của các người Hébron. Một người nô lệ đóng cổng lại.
Giêsu đi theo con đường thẳng. Người gõ vào cửa giáo đường. Một ông già nhỏ tiến tới, đầy vẻ thù ghét. Ông không để cho Giêsu có giờ nói: “Giáo đường này cấm chỉ. Không có vấn đề dành nơi thánh cho kẻ nói chuyện với gái điếm. Đi khỏi đi!”
Giêsu trở gót, không nói một lời, tiếp tục con đường của Người. Các người khác theo sau Người cho tới chỗ ra khỏi Hébron, lúc đó họ bắt đầu nói:
- Nhưng chính Thầy đã muốn vậy... Một gái điếm - Judas nói.
- Nhưng thực sự Thầy bảo con rằng bà ta sẽ lên cao bên trên con. Bây giờ, con là kẻ khiển trách Thầy, con nói sao với Thầy về các người Do Thái? Trong những nơi thánh nhất của Juđê, chúng ta đã bị hạ nhục và bị xua đuổi... Nhưng là vậy đó. Sẽ tới thời mà dân Samari và dân ngoại sẽ thờ phượng Thiên Chúa thật, còn dân Thiên Chúa thì bị dơ bẩn bởi máu của một tội ác, một tội mà so với nó thì lỗi của các gái điếm bán xác và linh hồn sẽ chẳng là gì đáng kể.
246
Thầy không thể cầu nguyện trên xương cốt của người bà con của Thầy và của người công chính Samuel, nhưng không quan trọng. Hãy nghỉ ngơi, hỡi các hài cốt thánh! Hãy vui mừng, hỡi các thần trí đã ẩn ở đó! Việc sống lại thứ nhất đã gần. Rồi sẽ đến cái ngày người ta sẽ trình qúi vị cho các thiên thần như những tôi tớ của Chúa.
Giêsu nín lặng và tất cả đều chấm dứt.
42* GIÊSU TẠI KÊRIOT.
CÁI CHẾT CỦA ÔNG GIÀ SAUL
Tôi đã có cảm tưởng là phần cheo leo nhất, tức là cái nút hẹp nhất của vùng núi xứ Juđê, nằm ở giữa Hébron và Jutta, nhưng tôi cũng có thể lầm, vì nó có một thung lũng rộng hơn mở ra trên chân trời, từ đó nhô lên những ngọn núi đơn độc, không còn là dẫy núi nữa. Có lẽ đó là một đường mương ở giữa hai rặng, tôi không biết. Đây là lần đầu tiên tôi thấy nó, và tôi không hiểu rõ lắm. Trong các thửa ruộng hẹp nhưng chăm sóc cẩn thận, trồng nhiều loại hạt khác nhau: lúa mạch và nhất là kiều mạch. Cũng có những vườn nho đẹp trên những mảnh đất nhiều mặt trời nhất. Rồi khi lên dốc, các rừng thông, trắc bá và các loại cây rừng có dầu khác. Một con đường hẻo lánh dẫn vào một làng nhỏ.
- Đây là ngoại ô Kêriot. Con xin Thầy vào căn nhà của con ở miền quê. Mẹ con chờ Thầy ở đó. Rồi chúng ta sẽ vào Kêriot - Judas nói. Ông không bình tĩnh nổi nữa, vì ông qúa sôi nổi.
Tôi đã quên nói rằng bây giờ Giêsu chỉ còn ở với Judas, Simon và Gioan. Các mục đồng không còn ở đó. Có lẽ họ ở lại trong đồng cỏ của Hébron hay đã trở về Bétlem.
- Tùy con, Judas. Nhưng chúng ta cũng có thể dừng lại ở đây để làm quen với mẹ con.
- Ồ, không. Đây là căn nhà của nông dân. Mẹ con tới đó vào mùa thu hoạch, rồi bà trở lại ở tại Kêriot... Và Thầy không muốn dân thành phố của con gặp Thầy sao? Thầy không muốn mang Ánh
247
Sáng cho nó sao?
- Chắc chắn là Thầy muốn, Judas. Nhưng con đã biết rằng Thầy không nhìn vào sự khiêm tốn của nơi cho Thầy trú.
- Nhưng hôm nay Thầy là khách của con... Và Judas biết tiếp khách.
Họ đi ít mét nữa ở giữa những căn nhà nhỏ rải rác ở miền quê. Các trẻ em gọi và đàn ông đàn bà tiến ra, đương nhiên là vì tò mò. Hẳn là Judas đã tập trung lực lượng ở chỗ khác.
- Đây là căn nhà tội nghiệp của con. Xin tha cho sự nghèo nàn của nó.
Nhưng căn nhà không phải là cái lều. Đó là một khối vuông chỉ có một tầng, nhưng rộng rãi ngăn nắp, ở giữa vườn cây ăn trái xum xuê tươi tốt. Một lối đi tư nhân rất sạch sẽ dẫn từ ngoài đường vào nhà.
- Thầy cho phép con chạy về trước không?
- Đi đi.
Judas đi.
- Thưa thầy, Judas đã làm những thứ kềnh rềnh - Simon nói. “Con đã nghi, nhưng bây giờ con chắc chắn. Thầy nói, và Thầy có lý: Thần trí, thần trí... Nhưng ông ta, ông ta không nghe như vậy. Không bao giờ ông ta hiểu Thầy... Hay rất trễ”. Ông điều chỉnh lại câu nói vì sợ làm buồn Giêsu.
Giêsu thở dài và nín lặng.
Judas ra với một người đàn bà trạc năm mươi. Bà khá cao lớn, đương nhiên không cao như con trai bà mà bà đã cho mầu mắt đen và bộ tóc quăn. Nhưng đôi mắt của bà dịu dàng, đượm vẻ buồn, trong khi mắt Judas thì hách dịch và xảo quyệt.
- Con chào Ngài, Vua Israel - bà nói trong khi cúi rạp như một đầy tớ thật: “Xin cho phép nữ tì Ngài được đón tiếp Ngài”.
- Bình an cho bà, và nguyện Thiên Chúa ở cùng bà và con bà.
- Ôi! Vâng, con của con - lời nói là một tiếng thở dài hơn là một câu trả lời.
- Bà mẹ đứng lên đi. Thầy cũng có một người mẹ, và Thầy không
248
cho phép bà hôn Thầy ở chân. Nhân danh Mẹ Thầy, Thầy tặng bà một cái hôn. Người là chị em với bà trong tình yêu, và trong định mệnh đau thương làm mẹ của những kẻ được ghi dấu.
- Thưa Đấng Messi, Ngài muốn nói gì? - Judas hỏi, hơi lo âu. Nhưng Giêsu không trả lời, Người đang ôm người đàn bà mà Người đã nâng dậy, và Người hôn trên má. Rồi Người cầm tay bà và vào nhà.
Họ vào một căn phòng mát mẻ, rợp mát bởi những màn gió sọc mầu tươi. Tất cả đều sẵn sàng: Đồ uống mát, trái cây cũng vậy. Nhưng trước tiên bà mẹ Judas gọi một người đầy tớ gái mang lên nước với khăn lau tay. Bà chủ muốn tháo xăng-đan cho Giêsu và rửa đôi chân dính bụi, nhưng Người phản đối: “Không, bà mẹ. Bà mẹ là một tạo vật qúa thánh, nhất là khi họ ngay lành và tốt như bà, Thầy không cho phép bà làm thái độ của nô lệ”.
Bà mẹ nhìn Judas, một cái nhìn lạ... Rồi bà lui ra. Giêsu tự rửa ráy lấy. Khi Người sắp xỏ xăng-đan vào thì người đàn bà trở lại với một đôi xăng đan mới: “Đây, Đấng Messi của chúng con. Con tin là đã làm đúng... như Judas muốn. Nó bảo con: hơi dài hơn của nó và cùng một chiều ngang”.
- Nhưng tại sao vậy Judas?
- Thầy không muốn cho phép con tặng Thầy một chút qùa sao? Thầy chẳng phải Vua con và Thiên Chúa con sao?
- Đúng, Judas. Nhưng con không nên làm phiền mẹ con như vậy. Con biết Thầy thế nào...
- Con biết, Thầy thánh, nhưng Thầy phải trình diện như một vị Vua Thánh. Điều đó làm cho người ta phục. Trong thế giới mà chín phần mười là ngu, phải có một diện mạo khuất phục. Con biết điều đó.
Giêsu đã xỏ xăng đan mới có giây cài chọc lỗ và phủ cao lên tới mắt cá. Rất đẹp hơn đôi xăng-đan đơn giản thợ thủ công của Người, và giống như xăng-đan của Judas. Nó là loại giầy ban, chỉ ló ra các đầu ngón chân.
- Y phục cũng vậy, Vua của con. Con đã chuẩn bị cho Judas của
249
con... nhưng nó tặng cho Thầy. Nó bằng gai, mát và mới. Xin hãy cho phép một bà mẹ mặc cho Thầy... tựa như con trai con.
Giêsu quay lại nhìn Judas, nhưng không đáp trả. Người tháo giây ở cổ áo của Người và để rơi khỏi vai chiếc áo dài rộng, chỉ còn lại áo lót. Người đàn bà trùm vào cho Người chiếc áo mới. Bà đưa cho Người một giây lưng: một cái băng thêu nổi, có ló ra một sợi giây tận cùng bằng một búp len lớn. Chắc chắn Giêsu cảm thấy thoải mái trong cái áo mát và gọn ghẽ, nhưng Người không có vẻ sung sướng. Trong lúc đó, những người khác cũng rửa ráy.
- Mời Thầy tới. Đây là những trái cây trong vườn cây nhỏ của con. Và cái này là nước mật mà mẹ con đã chế. Anh, Simon, có lẽ anh thích rượu trắng hơn. Dùng đi. Đó là từ cây nho của tôi. Còn anh, Gioan, uống giống như Thầy phải không? - Judas sung sướng rót ra trong những cái ly bằng bạc để chứng tỏ rằng ông có các phương tiện.
Bà mẹ nói rất ít, nhưng bà nhìn... nhìn... Nhìn Judas của bà, và nhìn Giêsu nhiều hơn. Giêsu, trước khi ăn, Người trao cho bà một trái cây đẹp nhất (đó là trái mơ, tôi nghĩ vậy, vì nó vàng đỏ, nhưng không phải là trái táo), và khi Người nói với bà: “Luôn luôn là bà mẹ trước tiên”, mắt bà rưng rưng nước mắt.
- Các thứ khác xong chưa má? - Judas hỏi.
- Con ơi xong rồi. Mẹ tin là đã làm tốt. Nhưng vì mẹ luôn luôn sống ở đây nên mẹ không biết... mẹ không biết thói quen của các vua.
- Thói quen nào bà? Các vua nào? Nhưng con làm gì vậy Judas?
- Nhưng Thầy không phải vị Vua đã được hứa cho Israel sao? Đã tới lúc thế giới chào Thầy như vậy, và điều đó phải xảy ra lần đầu tiên ở đây, trong thành phố của con, trong nhà con. Con tôn kính Thầy với danh hiệu này. Vì tình yêu đối với con, và vì danh hiệu: Đấng Messi, Đấng Kitô, Vị Vua mà các tiên tri đã đặt cho Thầy theo lệnh của Jêova, đừng cải chính cho con.
- Bà ơi, các bạn ơi, Thầy xin tất cả, Thầy cần nói riêng với Judas. Thầy phải ra cho ông những mệnh lệnh chính xác.
250
Bà mẹ và các môn đệ liền rút lui.
- Judas, con làm gì vậy? Cho tới lúc này, con qúa ít hiểu Thầy. Tại sao con hạ thấp Thầy tới nỗi coi Thầy như một kẻ mạnh của trái đất? Và cả đến có tham vọng tìm kiếm quyền lực này? Con không hiểu rằng đó là hạ thấp sứ mạng của Thầy, và kể cả làm trở ngại cho nó. Đúng, một trở ngại, không thể chối cãi. Israel ở dưới quyền cai trị của Rôma. Con biết điều gì xảy ra cho kẻ muốn nổi lên chống lại Rôma, cho kẻ muốn tỏ ra là thủ lãnh của dân, và bị nghi ngờ tổ chức chiến tranh giải phóng. Con đã thấy, chính xác là trong những ngày này, con đã thấy người ta kịch liệt tiêu diệt một trẻ sơ sinh thế nào, chỉ vì người ta thấy ở nó một ông vua tương lai theo kiểu loài người. Vậy mà con... Vậy mà con!
Ôi! Judas, con chờ đợi một quyền bính xác thịt cho Thầy? Con hy vọng gì? Thầy đã cho con có thời giờ suy nghĩ và quyết định. Thầy đã nói rõ ràng cho con ngay từ lúc đầu. Cả đến Thầy đã đẩy lui con, vì Thầy biết... vì Thầy biết... phải, vì Thầy biết, Thầy đọc, Thầy thấy những gì ở trong con. Tại sao con muốn theo Thầy nếu con không muốn trở nên như Thầy muốn? Đi đi Judas. Đừng làm khổ con và làm khổ Thầy... Đi đi! Điều đó tốt hơn cho con. Con không phải là một người thợ cho công việc này... Nó qúa cao ở bên trên con. Nơi con là kiêu căng, tham lam, cùng với ngành thứ ba của nó là tinh thần thống trị... Cả mẹ con cũng phải sợ con... Đó là sự hướng chiều về gian trá... Không, đó không phải là điều kẻ theo Thầy phải là. Judas, Thầy không ghét con, Thầy không nguyền rủa con. Thầy chỉ nói với con, và nói với sự đau đớn vì không thể thay đổi một kẻ mà Thầy yêu. Thầy chỉ nói với con: Đi đi, Judas. Hãy đi theo đường của con. Hãy làm cho con có một địa vị trong thế giới, vì đó là điều con muốn. Nhưng đừng ở lại với Thầy.
Con đường của Thầy!... Vương quyền của Thầy! Ôi! Nó sẽ đau đớn chừng nào! Con biết Thầy sẽ là Vua ở đâu không? Khi người ta công bố vương quyền của Thầy, đó sẽ là lúc Thầy bị treo lên trên cây gỗ cực hình. Khi Thầy mặc áo nhuộm đỏ bằng chính máu Thầy, có chiếc triều thiên bằng cành gai kết lại, có bảng hiệu là tấm bảng
251
ô nhục; có kèn, não bạt, phong cầm, thất huyền cầm mà người ta dùng để chào kẻ được tuyên dương Vua, là các lời nguyền rủa của cả một dân: của dân Thầy. Và con biết tất cả những điều đó là công việc của ai không? Đó là công việc của một kẻ không hiểu Thầy, không hiểu Thầy chút nào. Nó có con tim bằng đồng trống rỗng, nơi kiêu căng, nhục dục, tham vọng đã chế luyện chất độc của chúng; nơi sẽ xuất phát ra sự cấu kết bằng rắn độc để làm giây xích cho Thầy... Và cho hắn là sự nguyền rủa. Những người khác cũng không biết rõ vận mệnh của Thầy, và Thầy xin con: đừng nói tới nó. Điều đó chỉ ở lại giữa con và Thầy. Ngoài ra... đây là một sự khiển trách. Vậy con sẽ nín lặng để khỏi phải nói: “Tôi đã bị quở trách”. Con hiểu không Judas?
Judas như có da mầu tím, vì ông đỏ rần. Ông đứng trước mặt Giêsu, bối rối, cúi đầu... Rồi ông qùi phập xuống và khóc, gục đầu vào đầu gối Giêsu: “Thầy ơi! Con yêu Thầy, đừng đuổi con. Phải, con kiêu căng, con là đứa ngu. Nhưng đừng xua đuổi con. Không, Thầy ơi! Đây sẽ là lần sau cùng con thiếu sót đối với Thầy. Thầy có lý. Con đã không suy nghĩ. Dù sao trong sự sai lầm này cũng có tình yêu. Con muốn làm cho Thầy biết bao vinh dự... Và những người khác cũng sẽ làm cho Thầy... Vì con yêu Thầy. Mới ba bữa trước đây Thầy đã nói: ‘khi các con lầm lẫn mà không qủi quyệt, chỉ vì không biết, thì đó không phải là sai lầm, mà là phán đoán bất toàn, phán đoán của trẻ con, và Thầy ở đây để làm cho các con thành người lớn’. Đó, Thầy, con ở đây, trước đầu gối Thầy... Thầy đã bảo con rằng Thầy sẽ là một người cha cho con... Con gục vào đầu gối Thầy như Thầy là ba con, và con xin lỗi Thầy. Con xin Thầy làm cho con thành một người trưởng thành, một người trưởng thành thánh. Đừng đuổi con, Giêsu, Giêsu, Giêsu... Không, không phải tất cả nơi con đều xấu. Thầy thấy, vì Thầy, con đã bỏ tất cả, và con đến. Thầy ở bên trên những danh dự và những lợi lộc mà con có khi phục vụ những người khác. Thầy, đúng, Thầy là tình yêu cho Judas tội nghiệp bất hạnh này, kẻ chỉ muốn làm cho Thầy vui, mà trái lại, lại làm khổ Thầy...”
252
- Đủ rồi Judas. Thầy tha cho con một lần nữa... - Giêsu có vẻ mệt mỏi. “...Thầy tha cho con với hy vọng... với hy vọng trong tương lai con sẽ hiểu Thầy”.
- Thưa Thầy vâng. Nhưng bây giờ, bây giờ đừng chà nát con dưới sức nặng của một màn cải chính, làm cho con thành đối tượng của sự chế diễu. Tất cả Kêriot đều biết con đi với một người con cháu Đavít, Vua Israel, và họ chuẩn bị để tiếp đón Thầy trong thành phố này là thành phố của con... Con nghĩ mình đã làm đúng khi làm cho người ta thấy Thầy như vậy, để tạo ra sự kính sợ và vâng lời, và để Simon và Gioan thấy, và qua họ là những người khác yêu Thầy cũng thấy, nhưng đối đãi Thầy ngang hàng... Cả mẹ con cũng bị nhục vì là mẹ của một đứa con nói dối và bị loại. Chúa ơi, vì bà... Con thề với Thầy...
- Đừng thề với Thầy. Hãy thề với chính con, nếu con có thể, để đừng lỗi nữa trong ý hướng này. Vì mẹ con và vì dân chúng, Thầy sẽ không làm nhục con bằng cách ra đi mà không dừng lại. Đứng dậy đi.
- Thầy sẽ nói sao với những người khác?
- Nói sự thật.
- Ôi! Không!
- Nói sự thật là Thầy đã ra cho con các mệnh lệnh của ngày hôm nay. Luôn luôn có cách để nói sự thật mà không lỗi đức bác ái. Đi. Hãy gọi mẹ con và những người khác.
Giêsu nghiêm nghị. Người chỉ mỉm cười khi Judas trở lại với mẹ ông và các môn đệ. Người đàn bà tìm hiểu khuôn mặt Giêsu, nhưng bà thấy nó nhân từ nên bà an lòng. Tôi có cảm tưởng đây là một linh hồn đau khổ.
- Chúng ta muốn đi Kêriot? Thầy đã nghỉ ngơi và Thầy cám ơn bà, bà mẹ, vì tất cả lòng tốt của bà. Xin Trời thưởng công cho bà và cho bà nghỉ ngơi trong niềm vui với người chồng mà bà còn thương khóc, vì tình bác ái của bà đối với Thầy.
Người đàn bà tìm cách hôn tay Người, nhưng Giêsu đặt tay trên đầu bà, vuốt tóc bà và không để cho bà hôn.
253
- Thưa Thầy, xe đã sẵn, xin mời.
Thực sự, một cái xe bò đã tới ở bên ngoài. Đó là cái xe đẹp, thực dụng, trên đó đã có những chiếc gối có bọc vải đỏ làm nệm ngồi.
- Mời Thầy lên.
- Bà mẹ trước tiên.
Người đàn bà lên, rồi tới Giêsu và những người khác.
- Chỗ này Thầy. (Judas không còn gọi Người là Vua nữa).
Giêsu ngồi phía trước với Judas ở bên cạnh. Đàng sau là người đàn bà và các môn đệ. Người đánh xe chọc các con bò và khích lệ chúng bước, trong khi ông đi bộ ở bên cạnh.
Lộ trình vắn, khoản bốn trăm mét, hay hơi hơn một tí. Rồi đây, đã nhìn thấy các nhà đầu tiên của Kêriot. Tôi thấy đây là một thành phố nhỏ thông thường. Trong đường phố đầy mặt trời. Một đứa con trai nhìn... nhìn... Rồi nó phóng đi như mũi tên. Khi cái xe tới các căn nhà đầu tiên, các kỳ hào và dân chúng đã ở đó để đón Người, với những cờ xí và cành cây, cành cây và cờ xí suốt dọc đường, từ nhà nọ tới nhà kia. Các tiếng kêu vui mừng và cúi rạp tới tận đất. Bây giờ Giêsu không thể trốn tránh được nữa, từ trên cái ngai cao lắc lư của Người, Người chào và chúc phúc.
Chiếc xe tiếp tục, rồi quẹo ở một chỗ bên ngoài một quảng trường để vào một con đường khác. Nó dừng lại trước một căn nhà có cửa mở rộng. Tại ngưỡng cửa có hai ba người đàn bà. Xe dừng lại và họ xuống.
- Thưa Thầy, nhà con thuộc về Thầy.
- Bình an cho nó, Judas. Bình an và thánh thiện.
Họ vào. Bên trong tiền đường là một phòng rộng với các ghế bành thấp, các bàn ghế có trang điểm bằng các đồ cẩn. Các kỳ hào trong xứ cũng vào với Giêsu và những người khác: Cúi mình, tò mò, sắc thái lễ trọng.
Một ông già oai vệ xướng bài hùng biện: “Một biến cố vĩ đại cho Kêriot được đón Ngài, ôi Chúa! Biến cố vĩ đại, ngày hạnh phúc. Biến cố vĩ đại được có Ngài và được thấy một trong các con dân của nó là một bạn hữu và người hợp tác với Ngài. Phúc đức cho
254
kẻ này được biết Ngài trước mọi người khác. Chúc tụng Ngài trăm lần vì đã tỏ mình ra: Ngài: đấng muôn thế hệ chờ mong. Xin hãy nói, lạy Chúa và Vua. Con tim chúng tôi chờ đợi lời Ngài, như đất khô vì mùa hè nóng cháy chờ các giọt nước mát đầu tiên của tháng chín”.
- Cám ơn, dù ông là ai, cũng xin cám ơn. Và cám ơn dân chúng đã nghiêng lòng họ về Ngôi Lời của Cha, về Chúa Cha mà Thầy là Ngôi Lời, để các con biết rằng không phải một người con loài người nói với các con, nhưng nguyện chúc tụng và danh dự được dâng về Chúa Tối Cao vì thời kỳ bình an mà Người tái lập tình phụ tử đã bị cắt đứt với con cái loài người. Ngợi khen Thiên Chúa thực, Thiên Chúa Abraham, đã thương yêu dân Người và ban cho nó Đấng Cứu Thế đã hứa. Vinh quang và ca ngợi, không phải cho Giêsu, tôi tớ của Ý Muốn đời đời, nhưng cho Ý Muốn Tình Yêu này.
- Ngài nói những lời Thánh... Tôi là trưởng giáo đường, nay không phải ngày Sabat, nhưng xin đến nhà tôi để giải thích Lề Luật, vì trên Ngài có sự xức dầu khôn ngoan, còn hơn là dầu thánh hiến các vua.
- Thầy sẽ tới.
- Chúa con. Có lẽ Thầy mệt...
- Không, Judas. Thầy không bao giờ mệt để nói về Thiên Chúa, và không bao giờ làm thất vọng các con tim.
- Vậy xin tới - ông trưởng giáo đường khẩn khoản. “Tất cả Kêriot đều chờ Ngài ở ngoài”.
- Chúng ta đi.
Họ ra. Giêsu đi giữa Judas và ông trưởng giáo đường. Chung quanh là các kỳ hào và đám đông, đám đông và đám đông. Giêsu đi qua và chúc lành.
Giáo đường quay về phía quảng trường. Họ vào. Giêsu tới chỗ dành cho người giảng giải. Người bắt đầu nói, toàn trắng trong bộ y phục đẹp huy hoàng, khuôn mặt được linh ứng, tay giang ra với các cử điệu thông thường.
- Hỡi dân thành Kêriot! Ngôi Lời Thiên Chúa nói với các con. Hãy nghe! Lời đang nói với các con chỉ là lời Thiên Chúa, quyền
255
tối thượng từ Cha mà đến, và sẽ trở về cùng Cha sau khi đã giảng Tin Mừng cho Israel. Mong rằng các con tim cũng như các thần trí mở ra cho sự thật, để không bị ứ đọng vì những sai lầm làm nảy sinh bối rối.
Isaie đã nói: “Các của ăn cắp với vũ khí trong tay và các y phục dính máu sẽ là mồi cho lửa. Đây, đã sinh ra cho các ngươi một trẻ thơ, một con trai. Uy quyền ở trên vai Người. Đây là tên Người: Đấng Đáng Kính, Vị Cố Vấn, Thiên Chúa, Đấng Mạnh Mẽ, Cha của các thế kỷ tương lai, Hoàng Tử Bình An”. Đó là tên Thầy. Hãy để cho các César và các Thủ Hiến các con mồi của họ. Với Thầy, Thầy sẽ làm một cuộc đánh cắp, nhưng không phải sự đánh cắp đáng bị phạt bởi lửa, trái lại, Thầy sẽ giật trong lửa của Satan các con mồi và các con mồi để dẫn về Vương Quốc Bình An mà Thầy là Hoàng Tử, và cho các thế kỷ tương lai sự Vĩnh Viễn mà Thầy là Cha.
“Thiên Chúa”, Đavít còn nói, từ cái gốc mà Thầy đến, như đã được nói bởi những kẻ được hưởng thị kiến nhờ vào sự thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa của họ, và đã được chọn để nói về Thiên Chúa. Vậy Thiên Chúa “đã chọn một người duy nhất... Con của Ta... nhưng công việc rất vĩ đại, vì không phải chuẩn bị nhà cho một người, nhưng là nhà cho Thiên Chúa”, tức là Thiên Chúa, Vua các vua, đã chọn một người duy nhất: Con của Người, để xây dựng nhà cho Người trong các con tim. Và Người đã chuẩn bị các vật liệu: Ôi! Biết bao là vàng của đức ái, biết bao là bạc, đồng, sắt, gỗ hiếm và đá qúi! Tất cả những thứ đó dự trữ trong Ngôi Lời của Người, là đấng dùng những vật liệu này để xây dựng nơi ở của Thiên Chúa trong các con. Nhưng nếu con người không giúp Chúa, thì Chúa có muốn xây nhà của Người cũng vô ích. Phải có vàng trả lời cho vàng, bạc cho bạc, đồng cho đồng, sắt cho sắt. Tức là phải lấy tình yêu đáp lại tình yêu, tiết chế để phục vụ, trong sạch, kiên trì để trung thành, mạnh mẽ để sống tốt. Rồi phải mang tới: hôm nay là tảng đá, ngày mai khúc gỗ: Hôm nay một hy sinh, ngày mai một việc lành, và xây, luôn luôn xây dựng Đền Thờ của Thiên
256
Chúa trong các con.
Vị Thầy, Đấng Messi, vị Vua của Israel vĩnh cửu, của dân vĩnh cửu của Thiên Chúa kêu gọi các con. Nhưng Người muốn các con phải trong sạch cho công việc này. Đả đảo kiêu căng! Các lời ca ngợi là cho Thiên Chúa. Đả đảo các tư tưởng loài người: Vương Quốc thuộc về Thiên Chúa. Hãy nói cùng với Thầy một cách khiêm nhường: “Cha ơi! Tất cả đều thuộc về Cha. Mọi sự tốt lành đều thuộc về Cha. Xin dạy cho chúng con biết Cha và phụng sự Cha trong Chân Lý”. Hãy nói: “Tôi là ai?”, và các con sẽ nhận ra các con chỉ có thể là một cái gì, khi các con là những nơi ở được thanh tẩy mà Thiên Chúa có thể xuống và nghỉ ngơi.
Tất cả đều là lữ hành, là ngoại quốc trên trái đất này. Hãy biết hợp nhất và bước về Vương Quốc đã được hứa. Đường đi là những giới răn, được thi hành không phải vì sợ hình phạt, nhưng vì tình yêu đối với Cha, Cha chí thánh. Nhà Tạm là con tim trọn hảo, nơi có man-na bổ dưỡng của sự khôn ngoan, nơi nở ra cành ý muốn trong sạch. Và để căn nhà được sáng sủa, hãy đến với Ánh Sáng thế gian. Chính Thầy mang nó tới cho các con. Thầy mang Ánh Sáng tới cho các con, không có gì khác. Thầy không có của cải và Thầy không hứa các vinh dự thuộc về trái đất. Nhưng Thầy có tất cả những của cải thiêng liêng của Cha Thầy. Và với những ai theo Thiên Chúa trong Tình Yêu và Đức Ái, Thầy hứa vinh dự đời đời trên Trời. Bình an cho các con.
Người ta đã chăm chú nghe, họ xì xèo, hơi lo âu. Giêsu nói chuyện với ông trưởng giáo đường, rồi có một nhóm người khác, có lẽ là các kỳ hào cũng tới.
- Thưa Thầy...Nhưng Thầy không phải Vua Israel sao? Người ta đã bảo chúng con...
- Thầy là Vua đó.
- Nhưng Thày nói...
- ... rằng Thầy không có, cũng không hứa của cải trái đất. Thầy chỉ có thể nói sự thật. Như vậy đó. Thầy biết tư tưởng của các con. Nhưng sự sai lầm đến do sự bình giải sai, và do sự kính trọng lớn lao mà các con có đối với Đấng Tối Cao. Người ta bảo các con:
257
“Đấng Messi đến”, là các con nghĩ, cũng như rất nhiều người trong Israel, rằng Đấng Messi và Vua là một. Hãy nâng cao tâm hồn các con lên. Hãy quan sát bầu trời đẹp mùa hè. Các con nghĩ rằng nó giới hạn ở đó, biên giới của nó là ở chỗ mà không khí giống như một cái vòm lam ngọc? Không. Nó ở xa hơn. Có những tầng còn trong sạch hơn, những mầu xanh rõ ràng hơn, cho tới mầu xanh không thể tưởng tượng được của Thiên Đàng, nơi Đấng Messi sẽ dẫn các kẻ công chính chết trong Thiên Chúa tới. Sự khác nhau giữa Vương Quốc của Đấng Messi mà người ta tưởng tượng và Vương Quốc đó thực sự, hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, cũng như vậy.
- Nhưng chúng con, những con người tội nghiệp, chúng con có thể ngước mắt tới tầm cao này không?
- Chỉ cần muốn. Nếu các con muốn, thì đây, Thầy sẽ giúp các con.
- Chúng con phải gọi Thầy là gì, nếu Thầy không phải là Vua?
- Là Thầy, là Giêsu, như các con muốn. Thầy là Thầy, và là Giêsu, Vị Cứu Tinh.
Một ông già nói: “Chúa ơi! Nghe này: vào một thời lâu, rất lâu rồi, thời kỳ khai sổ, có tin đồn tới tận đây là Đấng Cứu Tinh đã sinh ra ở Bétlem. Và tôi, tôi đã tới đó với một người khác. Tôi thấy một trẻ nhỏ cũng như những đứa khác, nhưng tôi thờ lạy Người với tâm tình đức tin. Rồi tôi nghe có một người khác, một vị thánh có tên là Gioan. Ai là đấng Messi thực?
- Người mà ông đã thờ lạy. Ông kia là vị Tiền Hô của Người, một thánh cả trước mắt Thiên Chúa, nhưng không phải Đấng Messi.
- Vậy là chính Thầy?
- Chính Thầy. Và ông thấy gì chung quanh trẻ thơ là Thầy lúc đó?
- Sự nghèo khó, sạch sẽ, thật thà, trong sạch... Một người thợ thủ công đáng kính, đoan trang, tên là Giuse. Thợ thủ công nhưng dòng dõi Đavít; một bà mẹ trẻ, tóc vàng, tử tế, tên là Maria. Bên cạnh bà, bông hồng đẹp nhất của Engaddi cũng lợt lạt, và các bông huệ
258
trong vườn hoàng gia cũng có vẻ xấu. Và trẻ nhỏ: đôi mắt to mầu trời, tóc vàng lạt... Tôi không thấy gì khác. Tôi còn nghe giọng người mẹ nói với tôi: “Nhân danh con tôi, tôi bảo ông: nguyện Chúa ở với ông tới cuộc gặp gỡ đời đời, và nguyện Ân Sủng Người ở trước mặt ông trên đường ông đi”. Bây giờ tôi đã tám mươi tư tuổi... Tôi đã tới đầu đường. Tôi đã không hy vọng gặp Ân Sủng của Thiên Chúa nữa, nhưng tôi lại tìm thấy Thầy... Bây giờ tôi không ước ao thấy Ánh Sáng nào khác ngoài Thầy... Đúng. Tôi thấy Thầy trong lớp y phục của Tình Thương là xác thịt mà Thầy đã mặc lấy. Tôi thấy Thầy. Qúi vị hãy nghe tiếng nói của kẻ sắp chết được thấy Ánh Sáng.
Người ta sát lại chung quanh ông già được linh ứng ở giữa nhóm của Giêsu. Ông không còn tì vào gậy của ông nữa. Ông giơ cánh tay run run, đầu tóc trắng xóa, bộ râu dài phân làm hai chòm. Một cái đầu thực sự của vị tổ phụ hay tiên tri.
- Tôi thấy Thầy đây: Đấng Được Chọn, Đấng Tối Thượng, Đấng Trọn Lành, đến với chúng tôi bởi sức mạnh của tình yêu Thầy, rồi lại trở về bên hữu Cha và trở nên một với Người. Nhưng đây không còn phải là một tiếng nói hay một thực thể vô vật chất như Môise đã thấy Đấng Tối Cao, hay như Sách Sáng Thế đã nói rằng đôi cha mẹ đầu tiên đã biết khi Người nói trong gió chiều. Đây là một thân xác thực sự mà tôi thấy bay lên cùng Đấng Vĩnh Cửu. Thân xác sáng láng, thân xác vinh hiển. Ôi! Ánh sáng của thân xác Thiên Chúa. Ôi! Vẻ đẹp của Người-Thiên-Chúa! Đó là Vua. Đúng, đó là Vua, không phải của Israel, của cả thế giới. Trước mặt Người, mọi vương quốc của trái đất phục lạy. Mọi vương trượng và mọi triều thiên là hư vô trong Vương Trượng rạng ngời của Người và các báu vật của nó. Một triều thiên, Người mang trên trán một triều thiên. Một phủ việt, Người cầm trong tay một phủ việt. Trên ngực Người có Bố Tử bằng ngọc trai và hồng ngọc, sáng chói huy hoàng như không hề thấy. Các ngọn lửa từ đó bốc ra như một lò lửa tối cao. Hai cổ tay là hai viên hồng ngọc, và hai vòng hồng ngọc ở hai bàn chân thánh của Người. Ánh Sáng! Ánh Sáng của các hồng ngọc!
259
Hãy nhìn, hỡi dân chúng! Vị Vua muôn đời! Tôi thấy Thầy! Tôi thấy Thầy! Tôi lên với Thầy... A! Chúa ơi! Đấng Cứu Thế của chúng tôi!... Ánh Sáng gia tăng trước mắt linh hồn tôi... Vua trang điểm bằng máu của chính Người! Triều thiên là vành gai làm chảy máu! Phủ việt là thập giá!... Này là Người! Người đó! Chính Thầy!... Lạy Chúa! vì sự chết của Chúa, xin thương tôi tớ Ngài. Giêsu! Tôi phó linh hồn tôi cho Tình Thương Thầy.
Ông già từ trước vẫn đứng thẳng, như trở nên trẻ trong lửa tiên tri, liền bỗng dưng sụp xuống và sẽ ngã nếu Giêsu không đỡ lấy ông trong lòng Người.
- Saul!
- Saul chết rồi!
- Xin cấp cứu!
- Hãy chạy đến!
- Bình an chung quanh kẻ công chính chết - Giêsu nói. Rồi từ từ, người qùi gối để có thể đỡ ông già dễ hơn, vì ông càng lúc càng nặng.
Người ta yên lặng.
Rồi Giêsu đặt ông nằm dài trên đất. Người đứng lên: “Bình an cho linh hồn ông. Ông chết khi nhìn thấy Ánh Sáng. Sau sự chờ đợi sẽ mau chóng thôi, ông sẽ thấy Thiên Chúa và sẽ sung sướng. Đây không phải là chết, mà là sự chia lìa với đời sống, đối với những kẻ chết trong Chúa”.
Sau một lúc, người ta tản mát và bình luận về sự kiện. Còn lại các kỳ hào, Giêsu, các môn đệ của Người và ông trưởng giáo đường.
- Chúa ơi! Ông đã tiên tri à?
- Mắt ông đã thấy sự thật. Chúng ta đi.
Họ đi ra.
- Thưa Thầy, Saul chết vì Thánh Thần của Thiên Chúa sử dụng. Chúng con đã đụng vào ông, chúng con còn sạch hay bị dơ?
- Dơ.
- Còn Thầy?
- Thầy cũng như mọi người khác. Thầy không thay đổi Lề Luật.
260
Đó là Luật, và khi là người Israel thì tuân giữ. Chúng ta bị dơ. Chúng ta sẽ thanh tẩy trong khoảng ngày thứ ba và ngày thứ bảy. Từ đây cho tới khi đó thì chúng ta bị dơ. Judas, Thầy không trở lại nhà mẹ con nữa. Thầy không mang dơ vào nhà con. Hãy bảo ai báo
tin như con có thể. Bình an cho xứ này. Chúng ta đi. Tôi không thấy gì nữa.
43* GIÊSU TRÊN ĐƯỜNG TRỞ VỀ
VỚI CÁC MỤC ĐỒNG GẦN HÉBRON
Giêsu đi với các môn đệ Người dọc theo một dòng suối. Dọc theo... đó là một cách nói thôi, vì dòng suối ở dưới, còn ở trên, dọc bờ, là con đường quanh co như ta thường thấy ở miền núi. Gioan đỏ như vải điều, mang nặng như một phu khuân vác, một cái giỏ đầy căng tròn. Judas mang giỏ của Giêsu và của ông. Simon chỉ có giỏ của ông và các áo khoác. Giêsu đã mặc áo của người và đi xăng- đan của Người. Chắc mẹ Judas đã giặt, vì nó không nhăn.
- Bao nhiêu là trái! Các vườn nho đẹp trên đồi! - Gioan nói. Sức nóng và sự mệt mỏi cũng không làm ông mất vui. “Thưa Thầy, có phải đây là dòng suối mà cha ông chúng ta đã hái những chùm nho lạ lùng trên bờ của nó không?”
- Không, dòng suối khác, lui về phía nam. Nhưng toàn vùng là đất được chúc phúc và trái cây tuyệt vời.
- Bây giờ nó không còn đẹp như vậy nữa.
- Qúa nhiều chiến tranh đã làm hại đất. Chính đây là nơi thành lập Israel. Nhưng để thành lập, họ phải làm mầu mỡ cho nó bằng máu họ và máu quân thù của họ.
- Chúng ta tìm các mục đồng ở đâu?
- Ở cách Hébron năm dặm, trên bờ sông mà con đã nói.
- Vậy là ở bên kia đồi.
261
- Xa hơn nữa.
- Nóng qúa... Mùa hè... Sau đó chúng ta đi đâu Thầy?
- Tới một nơi vẫn còn nóng, nhưng Thầy xin các con đi. Chúng ta sẽ đi ban đêm. Sao sáng tới nỗi không có bóng tối. Thầy muốn chỉ cho các con một nơi...
- Một thành phố à?
- Không... một nơi... một nơi sẽ làm cho các con hiểu thầy của các con... có lẽ hơn là các lời của Người.
- Chúng ta mất đi bao nhiêu ngày với cái vụ rắc rối ngu ngốc đó... Ông ta đã làm hư sự hết... Và mẹ con đã chuẩn bị bao nhiêu thứ mà phải thất vọng. Con không biết tại sao Thầy lại muốn biệt lập mãi cho tới lúc thanh tẩy.
- Judas, sao con lại gọi là ngu ngốc, một sự kiện là một ân phúc cho một tín hữu thực sự. Con không ước ao cho chính con một cái chết như vậy sao? Ông đã trông chờ đấng Messi suốt cuộc đời. Ông đã ra đi, dù cũng đã già rồi, qua các con đường gập ghềnh để thờ phượng Người khi người ta bảo ông: “Người ở đó”. Ông đã giữ trong tim suốt ba mươi năm lời của Mẹ thầy. Tình yêu và đức tin đã bao bọc ông bằng lửa trong giờ sau cùng mà Thiên Chúa còn dành cho ông. Con tim ông đã vỡ ra vì vui, bị thiêu đốt như lễ toàn thiêu tốt lành bởi ngọn lửa của Thiên Chúa. Còn số phận nào tốt hơn không? Ông đã làm hỏng buổi lễ mà con đã sửa soạn ư ? Hãy nhìn trong điều đó một câu trả lời của Thiên Chúa. Người ta không được trộn lẫn lộn những cái của loài người với những cái từ Thiên Chúa mà đến... Mẹ con, bà sẽ còn có Thầy. Ông già này phải không còn có Thầy nữa. Tất cả Kêriot có thể đến với Đấng Kitô, ông già này không còn sức lực để đến. Thầy sung sướng đã ôm trên trái tim Thầy người cha già chết và đã phó linh hồn cho ông. Còn những thứ khác... Tại sao lại làm gương mù bằng cách coi thường Lề Luật? Muốn nói: “Hãy theo ta”, thì phải bước đi. Muốn dẫn người ta vào con đường thánh thì mình phải đi cùng một con đường. Làm sao Thầy đã có thể và sẽ có thể nói: “Hãy trung thành”, nếu Thầy bất trung?
262
- Con nghĩ sự sai lầm này là tại sự thoái hóa của chúng ta. Các rabbi, các pharisiêu chất trên dân chúng những gánh nặng của các giáo điều, rồi... rồi họ hành động giống như cái tên đã tục hóa căn nhà của Gioan, làm cho nó thành nơi trụy lạc - Simon nói.
- Đó là một người của Hêrôđê.
- Đúng, Judas. Nhưng người ta cũng thấy những lỗi như vậy nơi các giai cấp mà người ta nói rằng họ tự xưng mình là thánh. Thầy nói sao? - Simon nói.
- Thầy nói rằng bao lâu còn một nắm men thực sự và một chút hương thực sự trong Israel, thì người ta còn làm bánh và xông hương cho bàn thờ.
- Thầy muốn nói gì?
- Thầy nói rằng ai đến cùng Chân Lý với con tim ngay thẳng, thì Chân Lý lan tỏa ra như men trong đống bột, và như hương thơm cho toàn thể Israel.
- Thầy nói sao về người đàn bà đó? - Judas hỏi.
Giêsu không trả lời, Người quay về với Gioan: “Cái này nặng và làm mệt. Đưa gánh nặng của con cho Thầy”.
- Không, Giêsu. Con đã quen. Vả lại... Nỗi vui mà Isaac sẽ được làm con thấy nhẹ.
Họ đi vòng sườn đồi. Dưới bóng cây, ở phía sườn bên kia, có đoàn vật của Êlie. Các mục đồng ngồi trong bóng mát để canh chừng chúng. Họ thấy Giêsu và chạy tới.
- Bình an cho các con. Các con ở đây?
- Chúng con nghĩ tới Thầy, vì đã trễ. Chúng con tự hỏi không biết phải đi gặp Thầy hay vâng lời... Chúng con đã quyết định tới tận đây để vâng lời Thầy, và cũng vì tình yêu của chúng con. Đáng lẽ Thầy phải ở đây từ nhiều ngày rồi.
- Chúng ta phải dừng lại.
- Nhưng... Không có gì xấu chứ ?
- Không, bạn ơi. Không sao cả. Một kẻ trung thành chết trong lòng Thầy. Không có gì khác.
- Anh muốn sao, anh mục đồng? Khi mọi sự được chuẩn bị kỹ
263
càng... Chắc chắn là phải biết chuẩn bị, và chuẩn bị các con tim để đón nhận nó. Thành phố của con đã dành cho Đấng Kitô tất cả danh dự. Có đúng không Thầy?
- Đúng vậy Isaac. Chúng ta đã đi qua đó và trở lại nhà Sara. Thành phố Jutta cũng vậy, không có sự chuẩn bị nào khác ngoài lòng tốt đơn sơ và sự thật trong các lời của Isaac. Họ đã biết hiểu điều chính yếu trong giáo lý của Thầy, và họ yêu, một tình yêu thực hành, không vụ lợi và thánh thiện. Bà đã gởi cho con, Isaac, các y phục và lương thực, cùng với tiền bố thí còn lại trên chõng của con. Mọi người đều muốn thêm vào đó cái gì cho con là kẻ trở về trong thế giới và thiếu thốn tất cả. Cầm lấy đi. Thầy không bao giờ mang tiền, nhưng cái này thì Thầy nhận, vì nó được thanh tẩy bởi tình bác ái.
- Không, Thầy giữ lấy đi. Con đã quen, con cho qua được hết.
- Bây giờ con phải tới những xứ mà Thầy sẽ sai con đi và con cần tới nó. Người thợ thì phải có lương, dù là làm việc trên các linh hồn... Vì vẫn còn một thân xác phải nuôi, giống như con lừa để nó giúp chủ. Không nhiều nhặt gì đâu, nhưng con sẽ biết xoay xở... Gioan giữ trong giỏ các quần áo, xăng đan. Joakim đã cho con các thứ của ông. Nó rộng, nhưng có biết bao tình yêu trong những qùa tặng này.
Isaac cầm cái giỏ và lui ra sau bụi cây để mặc, vì ông vẫn đi chân đất và mặc một cái áo kỳ cục làm bằng một cái mền.
Êlie nói: “Thưa Thầy, cái bà... Người đàn bà ở trong nhà Gioan... Khi Thầy đi khỏi ba ngày, và khi chúng con chăn bầy trên cánh đồng của Hébron - các đồng cỏ thì thuộc về mọi người, và người ta không thể đuổi chúng con - người đàn bà đó sai một đầy tớ đến với chúng con cùng với cái túi tiền này và nói rằng bà muốn nói với chúng con... Con không biết con có làm đúng không, nhưng lần thứ nhất, con trả túi tiền lại cho bà và nói: “Tôi không muốn nghe gì hết”. Rồi bà lại sai đến nói với con: “Xin hãy đến, nhân danh Giêsu”. Và con đã tới. Bà đã chờ cho người đàn ông, đúng, người mà bà là tình nhân... Bà chờ cho ông ta đi... Bà ta muốn bao nhiêu thứ... Đúng, bà ta muốn biết. Con, con không nói nhiều, vì thận trọng, đó
264
là một gái điếm. Con sợ có cạm bẫy cho Thầy. Bà hỏi con Thầy là ai, Thầy ở đâu, Thầy làm gì,Thầy có phải ông lãnh chúa không... Con nói: “Đó là Giêsu Nazarét, Người ở khắp nơi, vì Người là Thầy, Người giảng dạy khắp Palestin”. Con nói rằng Thầy nghèo, một người thợ đơn sơ mà Đấng Khôn Ngoan đã thâm nhập bằng sự khôn ngoan của Người... không có gì hơn.
- Con làm đúng - Giêsu nói. Đồng thời Judas kêu lên: “Anh làm dở! Sao anh không nói Người là Đấng Messi, Vua thế giới. Hãy xua đuổi cái mụ Rôma kiêu hãnh này đi dưới sự huy hoàng của Thiên Chúa”.
- Bà sẽ không hiểu tôi. Lại nữa, tôi đâu có chắc là bà ta chân thành. Anh đã nói vậy khi anh nhìn thấy bà ta thế nào. Làm sao tôi có thể quăng những vật thánh - tất cả những gì liên can tới Giêsu đều là thánh - vào miệng bà? Tôi đâu có thể làm nguy hiểm cho Giêsu bởi cho bà biết qúa nhiều chỉ dẫn. Mong rằng mọi điều xấu đến với Người đều là tại những người khác chứ không phải tại tôi.
- Chúng ta đi đi Gioan. Đi nói Người là Thầy, giải thích cho bà sự thật thánh.
- Tôi, không. Ngoại trừ Giêsu ra lệnh cho tôi.
- Cậu sợ à? Cậu nghĩ bà ta làm gì cho cậu? Hay cậu ghê tởm bà? Thầy đã không ghê tởm.
- Không sợ, không ghê tởm. Tôi thương xót bà. Nhưng tôi nghĩ nếu Giêsu muốn, Người có thể dừng lại để giáo huấn bà. Mà Người đã không làm... Người cũng đâu có bảo chúng ta làm.
- Vậy là bà không có dấu hiệu hoán cải... Bây giờ... Êlie, đưa tôi coi túi tiền coi. - Và Judas đổ ra trên vạt áo khoác của ông những gì trong túi, vì ông ngồi trên cỏ: Nhẫn, bông tai, lắc, giây chuyền, tất cả lăn lóc. Vàng trên mầu vàng đậm của áo Judas: “Một đống nữ trang... Chúng ta sẽ làm gì với nó?”
- Cái đó bán được - Simon nói.
- Đó là những thứ có hại - Judas phản đối, nhưng ông đầy cảm phục.
- Trong khi cầm lấy, con cũng đã nói vậy với bà, và con thêm:
265
“Ông chủ sẽ đánh bà”. Bà trả lời con: “Đây không phải đồ của ông, nó là của tôi, tôi dùng nó làm cái gì tôi muốn. Tôi biết đây là vàng của tội lỗi... Nhưng nó sẽ được thanh tẩy nếu dùng nó cho người nghèo và thánh, để Người nhớ tới tôi”. Và bà khóc.
- Tới đó đi Thầy.
- Không.
- Hãy sai Simon.
- Không.
- Vậy con đi.
- Không - những tiếng không của Giêsu nghe khô khan và hách dịch.
- Thưa Thầy, con có làm sai không khi nói chuyện với bà và nhận số vàng này? - Êlie hỏi khi thấy Giêsu lo âu.
- Con không làm sai. Không còn gì nữa để làm cả.
- Nhưng, có lẽ người đàn bà này muốn được cứu chuộc, và cần được người ta giáo huấn... - Judas lại phản đối.
- Nơi bà đã có những đốm lửa có thể nhóm lên một đám cháy mà các thói hư của bà sẽ bị đốt trong đó. Hãy để cho linh hồn bà lại trở nên trinh trong bởi hiệu qủa của sám hối. Mới trước đây ít lâu, Thầy đã nói với các con về men làm dậy tất cả bột để làm bánh thánh hóa. Hãy nghe một dụ ngôn ngắn này:
Người đàn bà này chính là bột. Một thứ bột mà Đứa Qủi Quyệt đã trộn bụi hỏa ngục của nó vào. Thầy là men, có nghĩa là lời Thầy là men. Nhưng nếu có qúa nhiều cám mổi trong bột, hay nếu người ta pha vào đó những đá sỏi và cát, hoặc cả than tro nữa, thì người ta có thể làm bánh không, dù là có men tuyệt hảo? Người ta không thể. Phải kiên nhẫn nhặt ra khỏi bột những cám mổi, than, sỏi và cát. Tình Thương đi qua và tặng cho một cái rây... Trước tiên, người đặt những sự thật vắn tắt và nền tảng vào đó. Linh hồn phải được hiểu bởi một kẻ không biết tới trụy lạc và các sai lầm của dân ngoại. Nếu linh hồn đón nhận nó thì linh hồn bắt đầu sự thanh tẩy đầu tiên. Điều thứ hai sẽ tới với cái rây của linh hồn, nó đối chiếu thực thể của nó với Thực Thể đã tỏ mình ra cho nó. Nó sợ hãi chính
266
mình và bắt đầu công việc của nó. Bằng những tác động càng ngày càng chính xác, nó loại bỏ được các đá sỏi, rồi cát, rồi than tro. Sau cùng, nó đi tới chỗ lấy ra được cả những gì cũng thuộc về bột, như những hạt qúa lớn, qúa lớn để làm cho tấm bánh được tuyệt hảo. Đây, bây giờ tất cả đã sẵn, Tình Thương trở lại, pha trộn mình vào cái bột đã sẵn sàng - Đó cũng là một việc sửa soạn đó Judas - Nó làm dậy men và làm bánh. Nhưng đó là công việc lâu dài mà ý muốn của linh hồn hành động.
Người đàn bà này đã có nơi bà cái tối thiểu mà bà đã được ban một cách rất chính đáng, để nó giúp bà hoàn thành công việc của bà. Hãy để bà làm, nếu bà muốn. Đừng làm rối rít cho bà. Tất cả đều có thể làm rối rít cho linh hồn muốn hành động: sự tò mò, sự sốt sắng bộp chộp, sự khăng khăng cũng như sự thương hại qúa mức.
- Vậy là chúng ta không tới đó?
- Không. Và để không ai trong các con thử làm thì chúng ta đi ngay. Trong rừng có bóng mát. Chúng ta sẽ dừng lại ở đáy thung lũng Têrêbinthe, và chúng ta sẽ chia tay ở đó. Êlie trở về đồng cỏ với Lêvi, trong khi Giuse đi với Thầy tới khúc sông cạn ở Jêricô. Rồi... Chúng ta sẽ còn gặp lại nhau. Con, Isaac, con tiếp tục điều con đã làm ở Jutta trong khi đi qua ngả Arimathi và Liđa để về Đôcô. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đó. Có cả miền Juđê phải chuẩn bị, và con biết phải làm sao: cũng như con đã làm ở Jutta.
- Còn chúng con?
- Các con, các con sẽ đi, như Thầy đã nói: để coi sự chuẩn bị của Thầy. Thầy cũng đã chuẩn bị cho sứ mạng của Thầy.
- Bằng cách đến với một rabbi?
- Không.
- Đến với Gioan?
- Thầy chỉ nhận phép rửa của ông mà thôi.
- Vậy thì sao?...
- Bétlem đã nói bằng các cục đá và các con tim. Ở đó cũng vậy,
nơi Thầy sẽ dẫn con tới, Judas, các tảng đá và một con tim: con tim
267
Thầy, sẽ nói và sẽ trả lời cho câu hỏi của con.
Êlie mang sữa và bánh mì đen tới, ông nói: “Trong khi chờ đợi, con đã tìm, và Isaac tìm cùng với con, để thuyết phục dân Hébron... Nhưng họ không tin. Họ chỉ qủa quyết, chỉ muốn có Gioan. Đó là vị Thánh của họ, và họ chỉ muốn có ông”.
- Đó là tội chung của rất nhiều xứ và nhiều người có tín ngưỡng bây giờ cũng như tương lai. Họ nhìn người thợ mà không nhìn ông chủ đã sai thợ tới. Họ đặt những câu hỏi cho người thợ mà cả đến không nói: “Hãy nói vậy với ông chủ”. Họ quên rằng sở dĩ có người thợ là vì có ông chủ, và chính ông chủ đã chỉ dạy cho người thợ và thích nghi thợ vào công việc. Họ quên rằng người thợ có thể can thiệp, nhưng chỉ có một người có thể ưng thuận là ông chủ. Trong trường hợp này, ông chủ là Thiên Chúa và Ngôi Lời của Người cùng với Người. Không sao. Ngôi Lời có khổ vì vậy, nhưng không thù ghét. Chúng ta đi.
Thị kiến chấm dứt.
44* GIÊSU TẠI NÚI CHAY TỊNH
VÀ TRONG HANG CÁM DỖ
Một bình minh rất đẹp trong nơi hoang vu. Một bình minh trên đỉnh một sườn núi dốc. Ngày vừa ló. Trên trời, các ngôi sao sau cùng còn tỏ. Vẫn còn một vành trăng đẹp đang kỳ giảm, một dấu phẩy bạc trên màn nhung tối của bầu trời.
Ngọn núi tựa như biệt lập, không dính vào với dẫy núi nào. Nhưng đó là ngọn núi thực sự chứ không phải ngọn đồi. Đỉnh rất cao ở phía trên, nhưng ở lưng chừng núi, người ta đã thấy chân trời rộng mở, chứng tỏ rằng người ta đã ở bên trên mặt đất nhiều. Không khí mát của buổi sáng mà ánh sáng chưa rõ ràng xẻ đường đem tới mầu trắng xanh của rạng đông, rõ hơn ở các đường viền, nhưng các chi tiết còn bị che bởi sương mù trước khi ngày tới, còn tối hơn là đêm, vì ánh sáng tinh tú đã bị giảm khi chuyển từ đêm qua ngày,
268
hầu như biến mất. Do vậy tôi thấy ngọn núi là đá trần, bị cắt lồi lõm tạo thành các hang hốc có thể trú ẩn. Trong nơi duy nhất có quy tụ một chút đất, như vậy có thể nhận nước mưa và giữ được nó, có một đám cây xanh, những cây chỉ là những công gai với vài chiếc lá họa hiếm, và các bụi rậm bò thấp trên đất, những cây cỏ trông như các chiếc đũa xanh mà tôi không biết tên.
Dưới thấp là một bề mặt còn khô cằn hơn nữa, bằng phẳng, đá sỏi, càng lúc càng khô cằn khi tới gần một điểm tối, dài hơn rộng, ít nhất là năm lần dài hơn rộng. Tôi nghĩ đây là một ốc đảo tươi tốt mà người ta lấy được nước ngầm lên cho nơi buồn thảm này. Nhưng khi ánh sáng rõ hơn, tôi thấy đây là làn nước đọng, tối và chết. Một cái hồ buồn vô tận. Trong ánh sáng lờ mờ, nó làm ta nhớ tới cảnh của một thế giới chết. Tựa như cái hồ kéo theo với nó hình ảnh u ám của bầu trời và tất cả khung cảnh buồn thảm chung quanh. Tất cả đều phản chiếu trên làn nước bất động của nó: một mầu xanh tối của các cây gai và cỏ cứng trên hàng cây số và hàng cây số, chỗ đất bằng cũng như trên bờ dốc. Đó là đồ trang điểm duy nhất của mặt đất, tựa như một cái bùa mê tối ám buồn thảm tỏa lan ra toàn vùng. Nó khác cảnh xanh tốt tươi cười của hồ Gênêsarét chừng nào!
Trên cao, nhìn lên trời, là sự trong sáng tuyệt đối, càng lúc càng sáng khi nhìn ánh sáng từ phía đông tỏa ra như thủy triều ánh sáng. Tâm hồn lại thấy vui. Nhưng nhìn làn nước chết rộng mênh mông, ta thấy con tim se lại: không một con chim nào bay, không một con vật trên bờ. Hoàn toàn không.
Trong khi tôi nhìn cảnh buồn thảm này, tiếng nói của Giêsu tới lay tỉnh tôi: “Đây, chúng ta đã tới nơi Thầy muốn”. Tôi quay lại, tôi thấy Người ở sau lưng tôi, giữa Gioan, Simon và Judas, gần sườn đá dốc của ngọn núi, nơi có một con đường mòn... Đúng ra là phải nói: Đó là công việc trường kỳ của nước đã xoi mòn đá trong mùa mưa qua hàng bao thế kỷ, tạo ra một lối đi chỉ hơi rõ, là nơi nước từ trên cao chảy xuống, tạo ra một lối mòn cho dê rừng đi thì đúng hơn là cho người.
269
Giêsu nhìn chung quanh và nhắc lại: “Đúng, đây là nơi Thầy muốn dẫn các con tới. Đây là nơi đấng Kitô chuẩn bị sứ mạng của Người”.
- Nhưng ở đây đâu có gì!
- Không có gì, con nói đúng.
- Thầy ở đây với ai?
- Với tâm hồn Thầy và với Chúa Cha.
- A! Đây là trạm nghỉ trong vài giờ!
- Không, Judas, không phải trong vài giờ, nhưng nhiều ngày...
- Nhưng ai phục vụ Thầy? Thầy ngủ ở đâu?
- Thầy có các đầy tớ là các con lừa rừng. Ban đêm, chúng tới ngủ trong hang của chúng... trong chỗ này, Thầy cũng trú trong chỗ này. Có các con ó phục vụ Thầy khi chúng nói: “Ban ngày rồi”, bằng các tiếng kêu hoang dại của chúng khi chúng lên đường đi săn mồi. Thầy có các bạn nhỏ là các con thỏ rừng, chúng đến gặm cỏ dại, có thể nói là ngay ở chân Thầy... Đồ ăn đồ uống của Thầy, đó là đồ ăn đồ uống của hoa rừng: sương đêm, ánh mặt trời. Không có gì khác.
- Nhưng tại sao?
- Để chuẩn bị cẩn thận cho Thầy, như con nói: cho sứ mạng của Thầy. Những gì được chuẩn bị cẩn thận thì thành công nhiều, con đã nói vậy. Mà công việc của Thầy không phải nhỏ. Đưa Thầy ra ánh sáng là điều vô ích, vì Thầy là tôi tớ Chúa. Nhưng như vậy là để cho loài người hiểu Chúa là gì, và nhờ sự hiểu biết này, họ yêu Người trong tinh thần và chân lý. Khốn cho người tôi tớ nào của Chúa chỉ nghĩ đến sự vẻ vang của mình thay vì của Thiên Chúa! Kẻ chỉ tìm rút ra ở đó những lợi ích, chỉ nghĩ đến đưa mình lên cái ngai được chế tạo... ôi, được chế tạo bằng những lợi ích của Thiên Chúa đã bị hạ thấp tới nỗi kéo lê nó trên đất, trong khi đó là những lợi ích Thiên Quốc. Kẻ đó không còn là tôi tớ nữa, dù bề ngoài họ như vậy. Đó là một con buôn, một tên gian thương, một thực thể giả tạo, lừa dối cả chính mình, lừa dối người khác và muốn lừa dối cả Thiên Chúa... Một kẻ khốn nạn, là nô lệ mà tưởng mình là hoàng tử. Nô
270
lệ của ma qủi. Ma qủi là vua và là thầy dối trá của nó. Ở đây, trong hang này, Đấng Kitô, trong rất nhiều ngày, đã sống trong hãm mình và cầu nguyện để chuẩn bị sứ mạng của Người. Con muốn Thầy đi đâu để chuẩn bị cho mình hở Judas?
Judas bối rối, ngơ ngác. Sau cùng ông trả lời: “Nhưng... Con đâu biết... Con nghĩ... Tại nhà rabbi nào đó... gần những người khổ hạnh... Con không biết”.
- Thầy có thể tìm được rabbi nào nói cho Thầy hơn là Sức Mạnh và Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa nói cho Thầy? Lẽ nào Thầy - Ngôi Lời muôn đời của Cha, đã hiện hữu khi Cha tạo dựng loài người, Thầy biết họ sinh động bởi thần trí nào, và Đấng Tạo Hóa đã cho họ khả năng tự do phán quyết đến thế nào - lẽ nào Thầy lại đi tìm khoa học và sự hiểu biết nơi những người từ chối sự bất tử của linh hồn, từ chối sự sống lại sau cùng, từ chối ý chí tự do của con người, và chủ trương rằng nhân đức và thói hư cũng giống nhau, hành động xấu cũng như hành động thánh đều được tiền định mà họ nói là định mệnh và không thể thắng. A! Không. Các con có một tiền định, đúng. Các con có, trong thần trí Thiên Chúa, đấng tạo dựng nên các con, đã tiền định cho các con một số mệnh, đó là tiền định của Tình Yêu, của bình an và vinh quang: Chúa Cha đã ước mong cho các con sự thánh thiện, là điều làm cho các con nên con Ngài. Đó là số mệnh hiện diện trong tư tưởng của Thiên Chúa vào lúc Người làm ra Ađam bằng bùn đất. Nó sẽ hiện diện mãi cho tới lúc tạo dựng ra linh hồn của người sau cùng.
Nhưng Chúa Cha không cưỡng ép các con trong điều kiện làm vua của các con. Một ông vua, nếu ông bị tù thì ông không còn là vua nữa, ông đã bị truất phế. Các con là những ông vua, vì các con tự do trong cái vương quốc nhỏ cá nhân của các con, trong cái tôi của các con. Trong đó, các con có thể làm gì các con muốn, như các con muốn. Đàng trước và ở quanh biên giới vương quốc nhỏ của các con, các con có một vua bạn và hai sức mạnh thù nghịch. Vua bạn chỉ cho các con những nguyên tắc Người đã làm để cho các kẻ thuộc về Người được sung sướng. Người chỉ cho các con và nói: “Đó, những nguyên tắc này bảo đảm chiến thắng muôn đời”. Người,
271
Đấng Khôn Ngoan, Đấng Thánh, Người chỉ cho các con, để nếu các con muốn, các con có thể đem ra thực hành và rút ra được vinh quang đời đời. Hai sức mạnh thù địch là Satan và xác thịt. Dưới cái tên xác thịt, Thầy kể bao gồm xác thịt của các con và của thế giới, tức là những khoa trương và những lôi cuốn của thế giới: giầu sang, vui thú, danh dự, quyền bính đến từ thế giới và ở trong thế giới, và người ta kiếm được bằng những cách không luôn luôn ngay thẳng, và người ta sử dụng nó càng ít ngay thẳng hơn. Satan, ông thầy của xác thịt và thế gian, cũng đề nghị với các con những nguyên tắc, bởi chính nó và bởi xác thịt. Nó cũng có những nguyên tắc của nó... Ôi! Nó cũng có!... Và vì cái tôi được bao bọc bằng xác thịt, và xác thịt tìm kiếm xác thịt giống như mạt sắt hướng về nam châm. Bởi vì bài ca của Đứa Dụ Dỗ thì êm tai hơn những nhịp nhàng của họa mi bị say ánh trăng trong hương thơm của vườn hồng, và dễ dàng để theo những nguyên tắc của nó, để phục tòng những sức mạnh của nó và để nói: “Tôi nhận qúi vị làm bạn. Xin mời vào!”
Mời vào!... Có bao giờ các con thấy một đồng minh luôn luôn ngay thẳng, không đòi hỏi gấp trăm sự giúp đỡ mà họ cho không? Chúng cũng vậy. Chúng vào... Rồi chúng thành chủ. Chủ à? Không, một bạo chúa. Ôi! loài người! Chúng trói các con vào ghế khổ sai chèo thuyền. Chúng xích các con, không cho các con bỏ cái gông ra khỏi cổ. Và chiếc roi của chúng để lại trên các con những vết máu nếu các con muốn tìm cách thoát chúng. Ôi! Để cho mình bị đánh tới nỗi trở nên một đống thịt nát, trở nên vô dụng tới nỗi bàn chân độc ác của chúng đá đi, hoặc bị chết dưới làn roi. Nhưng nếu các con biết tỉnh ngộ trong sự tử đạo này, thì đây, Tình Thương đi qua, Đấng Duy Nhất còn có thể thương xót sự khốn cùng ghê tởm này mà thế giới, một trong hai ông chủ, đã tỏ ra nhờm gớm. Và Satan, ông chủ thứ hai, bắn lên đó những mũi tên báo thù. Tình Thương duy nhất đi qua gần bên, cúi xuống, nhận lấy và săn sóc, chữa lành và nói: “Hãy tới, đừng sợ, đừng nhìn vào mình. Các vết thương của con chỉ còn là những thẹo, nhưng nó qúa nhiều tới nỗi nó làm con sợ, vì nó làm con biến dạng chừng nào! Nhưng Ta, Ta
272
không nhìn vào nó. Ta nhìn ý muốn của con. Vì ý muốn tốt này, con được ghi một dấu hiệu, và vì dấu hiệu này, ta nói với con: Ta yêu con, hãy đi với Ta”. Và Tình Thương mang nó vào Nước của Người. Lúc đó các con sẽ hiểu rằng Tình Thương và ông vua bạn cũng chỉ là một người. Các con lại tìm thấy các nguyên tắc mà Người đã chỉ cho các con và các con đã không muốn, nhưng bây giờ thì các con muốn, và các con tới được sự bình an cho lương tâm trước hết, rồi sau đó là bình an của Thiên Chúa.
Vậy hãy nói cho Thầy: Số phận này do Đấng Duy Nhất đặt định cho mọi người hay mỗi người đã tự ý muốn cho mình?
- Do mỗi người tự ý muốn.
- Con xét đoán đúng, Simon. Vậy lẽ nào Thầy có thể đến với các kẻ từ chối sự sống lại hạnh phúc và là ân huệ của Thiên Chúa, để đào tạo cho Thầy? Chính đây là chỗ Thầy tới. Thầy mang linh hồn một người con loài người của Thầy tới đây và làm việc với nó một đợt sau cùng, chấm dứt công việc của ba mươi năm tự hủy và chuẩn bị, để đạt tới sự hoàn thành sứ mạng của Thầy. Bây giờ Thầy xin các con ở lại với Thầy vài ngày trong hang này. Sự chờ đợi sẽ luôn luôn đỡ buồn hơn, vì chúng ta là bốn bạn bè để chống lại nỗi buồn, cái sợ, sự cám dỗ, và những nhu cầu của thân xác. Thầy, lúc đó Thầy một mình. Bây giờ ít nặng nề hơn vì là mùa hè, và ở đây, trên cao, có gió điều hòa nhiệt độ. Còn Thầy, Thầy đã tới đây vào cuối tuần trăng Têbét, gió băng giá từ trên đỉnh đầy tuyết thổi xuống. Sự chờ đợi cũng ít gay go hơn vì thời gian vắn hơn, và vì bây giờ chúng ta có một số lương thực tối thiểu để hạ cơn đói, và trong bình mà các mục đồng cho các con, có đủ nước cho thời gian vắn này. Thầy, Thầy cần giật hai linh hồn của Satan. Chỉ có sự khổ hạnh mới có thể đạt tới đích. Thầy xin các con giúp. Việc này cũng giúp cho sự đào tạo của các con. Các con sẽ học được cách làm sao để giật mồi của ma qủi. Không phải bằng lời nói cho bằng sự hy sinh... Lời nói... các ồn ào của Satan ngăn cản người ta nghe. Các linh hồn làm mồi của kẻ thù bị mang đi trong cơn lốc của các tiếng nói hỏa ngục. Các con có muốn ở lại với Thầy không? Nếu các con, ai
273
không muốn thì hãy đi. Thầy ở lại. Chúng ta sẽ gặp nhau tại Têcua, chỗ gần chợ.
- Không, thưa Thầy, con không bỏ Thầy - Gioan nói, trong khi Simon cũng kêu lên: “Chính là để nâng chúng con lên nên Thầy đã muốn chúng con ở với Thầy trong nơi cứu rỗi này”. Judas, tôi thấy ông không có vẻ thiện cảm mấy, nhưng ông làm vẻ mặt vui với... số phận, và ông nói: “Con, con ở lại”.
- Vậy hãy cầm bình, giỏ xách và mang vào trong trước khi mặt trời thiêu đốt. Hãy bẻ củi và chất ở cửa hang. Ban đêm trời lạnh, dù là mùa hè, và không phải mọi con vật đều vô hại. Hãy đốt ngay lên một cành, thứ cây xiêm gai này có nhựa, dễ cháy. Chúng ta đi dọc các kẽ nứt để lấy lửa đốt, xua đuổi rắn và bọ cạp. Đi!
***
Bây giờ là cùng một chỗ của trái núi, chỉ có điều lúc này là ban đêm. Một đêm đầy sao. Trời đêm thật đẹp, tôi tin là chỉ những xứ ở gần nhiệt đới mới có. Các sao sáng và lớn tuyệt vời. Các chòm sao lớn giống như chùm nho sáng bằng hoàng ngọc lợt, lam ngọc sáng, miêu ngọc dịu dàng, hồng ngọc mềm mại. Chúng rung rinh chiếu sáng, nhấp nháy như cái nhìn lúc mắt bị mờ rồi trở lại sáng hơn. Thỉnh thoảng có một vì sao xẹt, vẽ trên trời một đường bằng lửa, rồi biến mất về chân trời nào tôi không biết. Một vệt sáng hiện ra như tiếng kêu vui mừng của một ngôi sao thích thú bay như vậy trong cánh đồng muôn ánh sáng.
Giêsu ngồi ở cửa hang và nói chuyện với ba người ngồi chung quanh Người. Chắc họ đã đốt lửa, vì ở giữa vòng tròn tạo ra bởi bốn người, có một đống tro còn ánh sáng than đỏ phản chiếu trên bốn khuôn mặt.
- Ừ, kỳ phòng đã chấm dứt. Lần trước, của Thầy, nó kéo dài bốn mươi ngày... Và Thầy nói lại với các con: lúc đó là mùa đông trên sườn dốc này... Và không có lương thực. Hơi khó hơn lần này phải không? Thầy biết rằng bây giờ các con cũng đã chịu đựng. Một chút mà Thầy đã cho các con chẳng là gì, nhất là với cái đói của những người trẻ. Nó chỉ vừa đủ để các con không ngã qụi vì yếu
274
sức. Nước thì qúa ít với sức nóng ban ngày, và các con sẽ nói rằng mùa đông đâu có như vậy. Nhưng khi đó là gió khô từ đỉnh thổi xuống làm cháy buồng phổi, và gió từ đồng bằng bốc lên mang đầy bụi của sa mạc, làm khô hơn là sức nóng mùa hè là mùa người ta còn có thể hạ bớt khát khi mút những trái chua này, hầu như sắp chín. Khi đó thì núi chỉ có gió và cỏ khô vì băng giá chung quanh những cây xiêm gai trơ xương này. Thầy đã không cho các con hết, vì Thầy dành lại một cái bánh, một cục phó mát và một bầu nước sau cùng cho cuộc trở về... Thầy biết thế nào là lúc trở về, kiệt lực như Thầy lúc đó trong sa mạc cô độc. Các con thu lượm đồ đạc và chúng ta đi. Đêm nay còn sáng hơn đêm chúng ta tới. Không có trăng, nhưng bầu trời mưa ánh sáng. Đi! Hãy nhớ lấy kỷ niệm của nơi này. Hãy nhớ lấy cách thế Đấng Kitô đã tự chuẩn bị, và đó cũng là cách của các tông đồ, giống như Thầy dạy cách chuẩn bị đó cho các tông đồ.
Họ đứng lên. Simon lấy một cành cây moi than hồng, thổi lên cho cháy vào nắm cỏ khô rồi đốt vào một cành cây trước khi lấy chân dập tắt hẳn đống lửa. Ông giơ cao cành cây cháy ở trước hang trong khi Judas và Gioan lượm áo khoác, giỏ xách và các bình nước mà chỉ có một bình còn đầy. Rồi ông dụi cành cây vào vách đá để tắt nó, cầm giỏ của ông, và cũng như mọi người khác, ông buộc áo khoác vào quanh thắt lưng để nó khỏi vướng bước chân.
Họ xuống dốc rất nhanh, không nói gì nữa, người nọ đi sau người kia theo một lối mòn, làm trốn biệt các con vật nhỏ đang gặm những sợi cỏ còn chống lại được với mặt trời. Đường dài và khó đi. Sau cùng họ tới đồng bằng, nhưng bước đi cũng không thoải mái, vì đường nhiều đá, và các mảnh đá trượt đi dưới chân, kể cả làm bị thương, vì đất biến thành bụi phủ lên chúng nên họ không biết để bước tránh; và các bụi gai đã khô vì mặt trời cào vào chân, móc vào quần áo và cản bước. Nhưng con đường thẳng hơn.
Trên trời, sao vẫn càng lúc càng đẹp. Họ đi, đi, đi hàng mấy giờ. Mặt đất càng lúc càng khô cằn và buồn tẻ. Có những mảnh sáng loáng trong những nếp nhăn nhỏ, những lỗ của mặt đất ghồ ghề, đó
275
là những mảnh sáng đục. Gioan cúi xuống để nhìn. Giêsu cắt nghĩa: Đó là muối ngầm, nó bị bão hòa, nó trồi lên mặt khi có nước lũ vào mùa xuân, rồi nó khô đi. Và vì thế sự sống không chịu nổi nữa ở đây. Biển Đông, do các mạch sâu, gieo sự chết cho hàng cây số ở chung quanh. Chỉ ở chỗ nào có những mạch nước ngọt đối kháng được với hậu qủa của nó, thì ở đó người ta mới thấy có cây cối để trú ngụ.
Họ còn đi nữa. Rồi Giêsu dừng lại bên một cái hang mà tôi đã thấy Satan cám dỗ Người: “Ta dừng lại đây. Các con ngồi xuống đi. Gà sắp gáy rồi. Chúng ta đã đi trong vòng sáu giờ, và hẳn là các con đói và khát, lại mệt nữa. Đây, hãy ăn và uống, ngồi chung quanh Thầy trong khi Thầy nói cho các con một điều nữa, rồi các con sẽ nói lại cho các bạn hữu và thế giới”.
Giêsu đã mở giỏ và lấy ra bánh và phó mát. Người cắt và chia phần. Rồi Người đổ nước ở trong vỏ bầu của Người ra một cái bát và cũng phân phát.
- Thầy không ăn à?
- Không, Thầy nói với các con. Hãy nghe: Có một lần, một người kia đã hỏi Thầy xem Thầy có bao giờ bị cám dỗ không; ông ta hỏi Thầy có bao giờ Thầy phạm tội không, ông hỏi Thầy khi bị cám dỗ, Thầy có nhượng bộ không, và ông ngạc nhiên rằng Thầy, Đấng Messi, mà để chống cám dỗ, Thầy đã xin Chúa Cha giúp khi nói: “Cha ơi! Đừng để con vào trong cám dỗ”.
Giêsu nói êm đềm, tựa như Người kể một sự kiện mà không ai biết... Judas cúi đầu làm như ông ngượng, nhưng những người khác rất chăm chú nhìn vào Giêsu nên họ không nhận ra ông.
Giêsu tiếp tục:
- Bây giờ các con, các bạn Thầy, các con có thể biết điều mà người đó học được cách rất sơ sài. Sau phép rửa - Thầy trong sạch, nhưng người ta không bao giờ đủ trong sạch so với Đấng Tối Cao, và việc khiêm nhường để nói: “Tôi là người có tội”, đã là một phép rửa thanh tẩy tâm hồn - Sau phép rửa, Thầy tới đây. Thầy đã được gọi là “Con Chiên Thiên Chúa” bởi vị thánh và tiên tri, người đã
276
thấy sự thật, đã thấy Thánh Thần xuống trên Ngôi Lời và xức dầu cho Người bằng nước thánh của tình yêu. Khi tiếng nói của Chúa Cha vang dội các tầng trời bởi các lời Người nói rằng: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta thỏa lòng vì Người”. Con, Gioan, con đã có mặt ở đó khi Gioan Tẩy Giả nhắc lại các lời... Sau phép rửa, dù Thầy trong sạch bởi bản tính và bởi nhân cách, Thầy đã muốn chuẩn bị cho mình. Đúng, Judas, hãy nhìn Thầy. Con mắt Thầy nói cho con điều mà miệng Thầy chưa nói. Hãy nhìn Thầy, Judas. Hãy nhìn Thầy của con, Người không cho mình là hơn người ta vì Người là Đức Messi, nhưng biết rằng mình là con người, Người đã muốn là người trong mọi sự, trừ việc ưng thuận với điều xấu. Đó, như vậy đó.
Bây giờ Judas đã ngẩng mặt lên nhìn Giêsu, Người ở ngay đối diện với ông. Ánh sáng sao làm long lanh đôi mắt Giêsu như đó là hai vì sao soi sáng cho khuôn mặt tái mét của Người.
- Để chuẩn bị làm thầy, phải là học trò trước. Thầy, Thầy biết mọi sự như Thiên Chúa. Sự thông minh của Thầy có thể cho Thầy hiểu sự chiến đấu của con người, hiểu bởi sự thông minh của Thầy và về phương diện tinh thần. Nhưng một ngày kia, một bạn hữu tội nghiệp nào đó của Thầy, một đứa con tội nghiệp nào đó của Thầy, có thể nói và nói với Thầy: “Thầy đâu có biết thế nào là loài người, thế nào là có những tình dục và đam mê”, thì đó sẽ là sự khiển trách đúng. Thầy đã đến đây, ngay đây, trên núi này để tự chuẩn bị... không phải chỉ cho sứ mệnh... nhưng để cho cám dỗ. Các con thấy không? Ngay chỗ các con ngồi, Thầy đã bị cám dỗ. Bởi ai? Bởi một kẻ hay chết? Không, sức mạnh của nó sẽ qúa yếu. Thầy đã bị cám dỗ bởi chính Satan, trực tiếp.
Thầy kiệt lực. Từ bốn mươi ngày rồi, Thầy không ăn gì... Bao lâu Thầy lạc vào kinh nguyện thì tất cả đều là không trong niềm vui được nói với Thiên Chúa, dù không là không, nhưng chịu được, vì Thầy thấy nó như một vật chất nhỏ mọn, chỉ giới hạn ở phần vật chất... Nhưng khi Thầy trở lại thế giới... trên các nẻo đường của thế giới... Thầy cảm thấy các nhu cầu của kẻ sống trong thế giới. Thầy
277
đói, Thầy khát, Thầy cảm thấy cái lạnh cắt da của đêm sa mạc. Thầy cảm thấy thân xác mệt nhừ vì thiếu ăn, không có giường ngủ, và vì con đường dài đã đi trong những điều kiện kiệt lực, đến nỗi Thầy không thể đi xa hơn.
Vì, các bạn ơi! Thầy cũng có một thân xác, một thân xác thực sự, và nó cảm thấy những yếu đuối như mọi thân xác khác. Và với thân xác, Thầy có một con tim. Đúng, về loài người, Thầy đã mặc lấy phần thứ nhất và phần thứ hai trong ba phần cấu tạo con người, Thầy đã lấy phần vật chất với những đòi hỏi của nó, và tình dục với các đam mê của nó. Nếu do ý muốn của Thầy, Thầy đã tiêu diệt tất cả những đam mê xấu ngay từ trước khi nó phát sinh, thì với tất cả những đam mê tốt, Thầy lại để cho chúng phát triển mạnh mẽ như cây bách hương cổ thụ, những đam mê thánh như tình yêu con thảo, tình yêu quê hương, tình bạn, yêu việc làm... tất cả những gì là thánh và tuyệt hảo. Và ở đây, Thầy đã cảm thấy nuối tiếc người mẹ xa xôi của Thầy. Thầy cảm thấy cần sự săn sóc của Mẹ cho sự mỏng dòn của con người Thầy. Ở đây, Thầy thấy lại sự đau đớn phải xa lìa Cha, đấng yêu Thầy trọn vẹn. Ở đây, Thầy lại thấy sự đau khổ đã được dành cho Thầy, và sự đau khổ bởi biết Mẹ sẽ phải khổ, người Mẹ tội nghiệp của Thầy. Vì Mẹ sẽ không còn nước mắt, bởi Mẹ phải đổ ra hết cho con Mẹ, vì loài người. Ở đây, Thầy lại cảm thấy sự chán nản, không muốn anh hùng và khổ hạnh, trong lúc linh cảm thấy sự vô ích của các cố gắng của Thầy... Thầy đã khóc... nỗi buồn là tiếng nói kỳ diệu kêu gọi Satan. Buồn trong giờ khổ hình không phải là phạm tội. Tội là khi lao mình vào nỗi buồn và rơi vào uể oải hay thất vọng. Satan đến ngay khi nó thấy một kẻ rơi vào sự uể oải thiêng liêng.
Nó đã tới với y phục của một người bộ hành ân cần giúp đỡ. Nó luôn luôn lấy bộ dạng thiện cảm... Thầy đói... Thầy có dòng máu của tuổi ba mươi trong mình Thầy. Nó đề nghị giúp Thầy, nó bắt đầu bằng cách bảo Thầy: “Hãy bảo những cục đá này trở nên bánh đi”. Nhưng trước đó, đúng, trước đó, nó nói với Thầy về đàn bà... Ôi! Nó biết nói. Nó biết tường tận. Nó bắt đầu bằng sự trụy lạc để
278
làm cho nó thành đồng minh với sự trụy lạc của nó. Không phải Thầy chỉ là con Thiên Chúa, Thầy còn là Giêsu, người thợ ở Nazarét. Với con người đã hỏi Thầy xem Thầy có bị cám dỗ không, và hầu như đã kết án Thầy được hạnh phúc một cách bất công, vì Thầy không phạm tội. Với người đó, Thầy nói: “Hành động phạm tội hạ cám dỗ xuống trong sự thỏa mãn. Còn khi cám dỗ bị xua đuổi, nó không hạ xuống, nhưng nó mạnh hơn, nhất là vì Satan khích động”. Thầy đã xua đuổi sự cám dỗ kép về cái đói đàn bà và đói bánh. Các con hãy biết rằng Satan đề nghị với Thầy điều thứ nhất, và nó không lầm, theo sự xét đoán của loài người, đó là đồng minh tốt nhất để áp đặt thế giới.
Đứa cám dỗ đã bị thua bởi câu: “Người ta không phải chỉ sống bằng cảm giác” của Thầy. Lúc đó nó nói về sứ mạng của Thầy. Nó muốn lôi kéo Đấng Messi sau khi đã dụ dỗ người thanh niên. Nó thúc đẩy Thầy tới việc hủy diệt các người thừa hành bất xứng ở Đền Thờ bằng một phép lạ... Phép lạ, lửa của trời, không được dùng nó như cuốn triều thiên để làm vinh dự cho mình... Và người ta không được thử thách Thiên Chúa bằng cách xin những phép lạ vì mục đích loài người. Đó là điều Satan muốn. Lý do nó trình bày chỉ là một cái cớ. Sự thực là nó muốn nói: “Hãy tôn vinh cho ông vì là Đấng Messi” để dẫn Thầy tới cái dâm đãng khác: Sự kiêu căng. Không thắng được bởi câu của Thầy: “Đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi”, nó tìm cách dụ dỗ Thầy bằng sức mạnh thứ ba của thế giới:Vàng. Ôi! Vàng! Một thứ lớn hơn bánh và lớn hơn đàn bà đối với kẻ đói bánh hay đói thú vui. Sự hoan hô của đám đông đối với một người đàn ông là rất lớn... Vì ba thứ này, người ta đã phạm biết bao tội! Nhưng vàng... Nhưng vàng! Một chiếc chìa khóa để mở, một phương tiện trụy lạc. Đó là khởi nguyên và cùng đích của chín mươi chín phần trăm các hành động của con người. Vì bánh và vì đàn bà, đàn ông trở thành trộm cắp. Vì chức quyền, họ đi tới sát nhân. Nhưng vì vàng, họ thành kẻ thờ tà thần... Thầy đã chọc thủng nó bằng lời muôn đời: “Ngươi chỉ thờ Chúa là Thiên
279
Chúa ngươi thôi”.
Chính ở đây, các điều đó xảy ra ở đây.
Giêsu đứng lên. Người có vẻ cao lớn hơn thường với đồng bằng ở chung quanh, trong ánh sáng lân tinh mờ mờ của tinh tú. Các môn đệ cũng đứng lên. Giêsu tiếp tục nói khi nhìn Juđas đăm đăm:
- Lúc đó các thiên thần của Chúa tới... Con Người đã làm một chiến thắng chấp ba. Người biết làm người là gì và Người đã thắng. Người kiệt lực. Cuộc chiến làm Người mệt hơn là cuộc chay tịnh kéo dài... Nhưng thần trí thống trị... Thầy tin là trên trời nhảy mừng vì sự xác nhận hoàn toàn của Thầy với tư cách là tạo vật được phú bẩm lý lẽ. Thầy tin rằng từ lúc này, sức mạnh để làm phép lạ đã đến với Thầy. Thầy đã là Thiên Chúa, Thầy đã trở nên người. Bây giờ thắng được con vật liên kết với thế giới, Thầy là Người-ThiênChúa. Thầy là thế. Là Thiên Chúa, Thầy có thể tất cả. Là người, Thầy có kinh nghiệm về tất cả. Các con cũng hãy hành động như Thầy, nếu các con muốn làm những điều Thầy làm. Và hãy làm để nhớ tới Thầy.
Con người đã ngạc nhiên vì Thầy xin Chúa Cha giúp, và Thầy đã xin Người đừng để Thầy vào trong cám dỗ, đừng bỏ rơi Thầy trong nguy hiểm của một cám dỗ vượt qúa sức Thầy. Thầy tin rằng bây giờ người đó đã biết thì không còn ngạc nhiên nữa. Các con cũng hãy hành động như vậy khi nhớ tới Thầy, và để chiến thắng giống như Thầy, và đừng bao giờ nghi ngờ khi thấy Thầy mạnh mẽ trong mọi thử thách của đời sống, thắng trong những trận chiến của năm giác quan, của tình dục và tình cảm trên bản tính của một thực thể loài người nơi Thầy, cộng vào với thực thể Thiên Chúa. Các con hãy nhớ tất cả những điều đó.
Thầy đã hứa dẫn các con tới nơi các con có thể hiểu Thầy các con... Từ rạng đông của đời Thầy, một rạng đông trong sạch như rạng đông sắp ló ra, cho tới chính ngọ của đời Thầy. Chính ngọ là lúc Thầy ra đi để gặp buổi chiều của đời Thầy... Thầy đã nói với một trong các con: “Thầy cũng đã chuẩn bị”. Các con thấy đúng vậy. Thầy cám ơn các con đã đi với Thầy trong cuộc trở về từ nơi
280
Thầy sinh ra và nơi Thầy làm việc khổ hạnh. Những tiếp xúc đầu tiên với thế giới đã làm Thầy buồn nôn và gây ra thất vọng. Nó qúa xấu. Bây giờ linh hồn Thầy được nuôi bằng xương tủy sư tử: Bằng sự hiệp nhất với Cha trong kinh nguyện và cô lập, Thầy có thể trở về trong thế giới để vác Thánh Giá của Thầy. Thánh Giá đầu tiên với tư cách là Chúa Cứu Thế: Đó là sự tiếp xúc với thế giới, một thế giới qúa ít linh hồn có tên là Maria và Gioan...
Bây giờ nghe đây, đặc biệt là con, Gioan. Chúng ta trở về với Mẹ Thầy và các bạn. Thầy xin các con đừng nói với Mẹ Thầy về những khắc nghiệt đối kháng với tình yêu của Con Mẹ. Mẹ đã qúa khổ. Mẹ sẽ còn khổ biết bao! Biết bao! Biết bao vì sự độc ác của loài người. Nhưng đừng đưa chén đắng cho Mẹ ngay từ bây giờ. Nó sẽ rất cay đắng khi nó sẽ được trao cho Mẹ. Rất cay đắng, như chén thuốc độc. Nó sẽ như con rắn độc luồn vào các thớ thịt thánh của Mẹ, vào các mạch máu của Mẹ và cắn, làm băng giá con tim Mẹ. Ôi! Đừng nói với Mẹ Thầy rằng Bétlem và Hébron đã xua đuổi Thầy như một con chó! Hãy thương xót Mẹ. Con, Simon, con lớn tuổi và tốt, con suy nghĩ và không nói, Thầy biết. Con, Judas, con là Do Thái, con sẽ không nói vì sự hãnh diện quê hương. Nhưng con, Gioan, con người Galilê và còn trẻ, đừng rơi vào tội kiêu căng, chỉ trích, độc ác. Hãy nín lặng. Sau này... Sau này con sẽ nói cho những người khác những điều mà bây giờ Thầy xin các con nín lặng, kể cả với những người khác. Đã có biết bao điều liên can tới Đấng Kitô để nói, tại sao lại pha vào đó những cái từ Satan mà tới để chống lại Đấng Kitô? Các bạn ơi! Các bạn có hứa với Thầy tất cả những điều đó không?
- Có, Thầy, đương nhiên là chúng con hứa với Thầy. Xin Thầy an lòng.
- Cám ơn. Hãy đi cho tới ốc đảo kia. Ở đó có một cái suối, một bồn nước đầy, mát, trong bóng râm của cây xanh. Con đường để đi ra bờ sông gần ngay bên. Chúng ta có thể tìm được ở đó lương thực và nghỉ ngơi tới chiều. Khi sao vừa mọc, chúng ta sẽ ra sông, chỗ khúc cạn. Chúng ta chờ Giuse ở chỗ hẹn, hay hợp với ông nếu ông
281
đã tới. Đi.
Và họ lên đường, trong khi những tia sáng hồng đầu tiên báo hiệu một ngày mới đã ló ra ở phương đông.
45* TẠI KHÚC SÔNG CẠN CỦA GIOĐAN.
GẶP CÁC MỤC ĐỒNG GIOAN,
MATHIA VÀ SIMÊON
Tôi thấy khúc cạn của sông Giođan. Đại lộ xanh tươi dọc bờ sông ở cả hai bên bờ rất đông người qua lại, vì nó có bóng mát. Từng đoàn lừa với người tới lui. Trên bờ sông, ba người đang chăn bầy. Trên đường, Giuse nhìn về phía trên và phía dưới. Từ xa, nơi con đường từ sông lên, Giêsu xuất hiện với ba môn đệ. Giuse gọi các mục đồng và họ đẩy đoàn vật lên đường, cho nó đi trên bờ cỏ. Họ vội vã tới gặp Giêsu.
- Tôi, tôi không dám... Tôi phải chào Người thế nào?
- Ôi! Người rất tốt. Anh cứ nói với Người: “Bình an cho Thầy”. Người luôn luôn chào như vậy.
- Người thì vậy... Nhưng chúng ta...
- Vậy tôi, tôi là ai? Cả đến tôi không là một trong những người đầu tiên thờ lạy Người, vậy mà Người yêu tôi biết bao... Ôi! Biết bao!
- Người là người nào?
- Người tóc hoe vàng, cao nhất đó.
- Mathia, chúng ta sẽ nói về ông Tẩy Giả ha?
- Ừ, đúng.
- Nhưng ôi! Simêon, nếu Người là Đấng Messi, Người nhìn thấy các con tim, và Người sẽ thấy trong tim chúng ta là nơi ông Tẩy Giả, chúng ta chỉ tìm Người.
- Anh có lý.
Bây giờ hai nhóm chỉ còn cách nhau vài mét. Giêsu đã mỉm cười, nụ cười mà người ta không tả được. Giuse nhấn bước. Các con
282
cừu bắt đầu chạy lóc nhóc, bị đẩy ở chân.
- Bình an cho các con - Giêsu nói trong khi giơ tay ra như để ôm. Rồi nói chính xác: “Bình an cho con, Simêon, Gioan, Mathia, các kẻ trung thành của Thầy và của tiên tri Gioan. Bình an cho con, Giuse”. Và Người ôm hôn ông trên má. Ba người kia bây giờ qùi gối: “Lại đây các bạn. Dưới bóng cây ở bờ sông, chúng ta sẽ nói chuyện”.
Họ xuống bờ và Giêsu ngồi trên một cái rễ trồi lên, những người khác ngồi trên đất. Giêsu mỉm cười và nhìn họ, rất chăm chú, từng người một: “Hãy để Thầy nhận diện các con. Linh hồn các con thì Thầy biết rồi, giống như linh hồn các người công chính quyến luyến với sự thiện mà họ yêu hơn mọi ích lợi của thế giới. Thầy mang cho các con lời chào của Isaac, Êlie và Lêvi, và một lời chào khác, lời chào của Mẹ Thầy. Các con có tin tức gì của ông Tẩy Giả không?”
Mấy người từ nãy tới giờ vẫn nín lặng vì rụt rè, bây giờ thấy vững dạ nên họ tìm ra lời: “Ông còn ở trong tù, và qủa tim chúng con run sợ cho ông, vì ông ở trong tay một người tàn ác, bị thống trị bởi một con qủi hỏa ngục, và được bao bọc bởi một triều đình thối nát. Chúng con yêu ông, Thầy biết là chúng con yêu ông, và ông xứng đáng tình yêu của chúng con. Từ khi Thầy rời Bétlem, chúng con bị người ta đập đánh... Nhưng còn hơn là bởi sự thù ghét của họ, chúng con buồn bã âu sầu như cây bị gió quật ngã, vì bị mất Thầy. Rồi sau bao năm đau khổ như một người có mu mắt bị khâu, tìm mặt trời mà không thể nhìn thấy, vì họ cũng ở trong tù, và họ không thể khám phá ra nó trong sự ấm áp họ cảm thấy trên làn da. Lúc đó chúng con nhận thấy rằng ông Tẩy Giả là người của Thiên Chúa mà các tiên tri đã nói là để dọn đường cho Đấng Kitô của Người, chúng con liền đến với ông. Chúng con tự bảo mình: Nếu ông đi trước Người thì khi đến với ông, chúng ta sẽ tìm thấy Người. Vì lạy Chúa, chính Thầy là Đấng chúng con tìm”.
- Thầy biết. Các con đã tìm thấy Thầy. Thầy ở với các con.
- Giuse nói với chúng con là Thầy đã đến nhà ông Tẩy Giả. Bữa đó chúng con không ở đấy, có lẽ chúng con đã đi chỗ nào đó cho
283
ông. Chúng con phục vụ ông trong những việc thiêng liêng mà ông bảo chúng con, với bao là tình yêu, cũng như chúng con nghe ông với tình yêu, mặc dù ông rất nghiêm khắc, vì ông không phải là Thầy, Ngôi Lời, nhưng những lời ông nói luôn luôn là những lời của Thiên Chúa.
- Thầy biết. Còn em này, các con không biết sao? - và Người chỉ vào Gioan.
- Chúng con đã thấy anh ấy trong nhóm những người Galilê trung thành với ông Tẩy Giả nhất. Và nếu chúng con không lầm thì anh là người có tên là Gioan mà ông đã nói với chúng con, những người chí thân của ông: “Đó, tôi là thứ nhất, anh ta là sau cùng. Rồi sau sẽ là: anh ta thứ nhất, tôi sau cùng”. Chúng con không bao giờ hiểu điều ông muốn nói.
Giêsu quay về phía trái, nơi Gioan ngồi. Người kéo ông vào ngực Người với nụ cười rất rạng rỡ... Người giải thích: “Ông muốn nói rằng ông là người thứ nhất nói: ‘Đây là Con Chiên’. Và anh này sẽ là người bạn sau cùng của Con Người sẽ nói với đám đông về Con Chiên. Nhưng trong qủa tim của Con Chiên, anh ta là người thứ nhất, vì anh ta chí thiết với Người hơn bất cứ ai khác. Đó là điều ông Tẩy Giả muốn nói. Nhưng khi các con gặp ông - vì các con sẽ còn gặp ông cho tới giờ được ghi dấu - hãy nói với ông rằng ông không phải người sau cùng trong con tim Đức Kitô. Không phải bởi máu, mà bởi sự thánh thiện mà ông là người chí thiết cũng như anh này. Và các con, hãy nhớ lấy kỷ niệm này. Nếu sự khiêm nhường của vị thánh khiến cho ông nhận mình là người sau cùng, thì lời của Thiên Chúa công bố cho ông giống như cho môn đệ chí thiết của Thầy. Hãy nói với ông là Thầy yêu anh này vì nó trùng tên với ông, và vì Thầy thấy nơi nó có những nét của ông Tẩy Giả, kẻ có trách nhiệm chuẩn bị các linh hồn cho Đấng Kitô”.
- Chúng con sẽ nói với ông. Nhưng chúng con còn được gặp ông không?
- Các con sẽ còn gặp.
- Đúng, Hêrôđê không dám giết ông vì sợ dân. Và trong triều
284
đình tham lam và đồi trụy của hắn, ông sẽ dễ dàng được giải phóng nếu chúng con có nhiều tiền. Nhưng... mặc dầu số tiền rất lớn bạn bè cho, chúng con vẫn còn thiếu nhiều, và chúng con vẫn sợ không lo kịp thời... Ông vẫn có thể bị giết.
- Các con còn thiếu bao nhiêu để mua ông?
- Chúa ơi, không phải mua chuộc. Hêrôđiađê quá ghét ông và Hêrôđê qúa bị bà xỏ mũi tới nỗi người ta không nghĩ rằng có thể chuộc được ông. Nhưng... ở Machéronte, con tin là tất cả những kẻ ham ước ngai vàng hợp lại, ai cũng muốn hưởng thụ, ai cũng muốn thống trị, từ bộ trưởng tới tên đầy tớ. Nhưng để đảo chính, họ cần tiền... Chúng con tìm được cả người có thể vì một món tiền lớn mà để cho ông ra. Có lẽ ngay cả Hêrôđê cũng muốn... Vì ông sợ, ông chỉ có thế: sợ dân và sợ vợ. Như vậy ông sẽ làm vui lòng dân mà vợ ông không thể kết án ông vì làm mất lòng bà.
- Người đó đòi bao nhiêu?
- Hai mươi lượng bạc, mà chúng con chỉ có mười hai lượng rưỡi.
- Judas, con đã nói là số châu báu đó rất đẹp?
- Đẹp và cao giá.
- Nó có thể trị giá bao nhiêu? Thầy thấy như con rành cái đó.
- Vâng, con biết. Tại sao Thầy muốn biết giá? Thầy muốn bán à? Tại sao?
- Có lẽ... nói cho Thầy đi: Nó có thể trị giá bao nhiêu?
- Bán trong điều kiện tốt thì ít nhất... Ít là sáu lượng.
- Con chắc không?
- Chắc Thầy. Chỉ một sợi giây chuyền to, nặng như vầy cũng đáng giá ít là ba lượng. Con đã xem xét kỹ. Và cái lắc cũng vậy... Con tự hỏi làm sao cái cổ tay nhỏ của Aglaé có thể chịu đựng được sức nặng này.
- Judas, đó là cái còng tay của bà ta.
- Đúng vậy Thầy... Nhưng rất nhiều người muốn có cái còng này.
- Con tin vậy? Ai?
285
- Nhưng... rất nhiều người.
- Đúng. Rất nhiều người chỉ là người có cái tên thôi. Con có biết ai mua không?
- Tóm lại, Thầy muốn bán? Và để lo cho ông Tẩy Giả? Nhưng coi, đây là vàng bị nguyền rủa!
- Ôi! Con người không mạch lạc! Con vừa nói với sự ước ao rõ ràng rằng nhiều người muốn có thứ vàng này, rồi con lại gọi nó là bị nguyền rủa?! Judas! Judas!... Đó là vàng bị nguyền rủa, đúng, nguyền rủa. Nhưng bà ta đã nói: “Nó sẽ được thánh hóa khi dùng cho người nghèo và thánh”. Vì vậy mà bà cho, để người được hưởng cầu nguyện cho linh hồn tội nghiệp của bà, giống như con ấu trùng vừa bắt đầu phát triển trong tinh dịch của qủa tim bà. Ai thánh hơn và nghèo hơn ông Tẩy Giả? Do sứ mạng của ông, ông tương đương với Êlia, nhưng về sự thánh thiện thì ông còn hơn Êlia. Ông còn nghèo hơn Thầy. Thầy còn có một người mẹ và một mái nhà... Khi người ta có những thứ đó một cách trong sạch thánh thiện như Thầy có, thì người ta không bao giờ là kẻ bị bỏ rơi. Ông ta không còn nhà cửa, không còn cả đến ngôi mộ của mẹ ông. Tất cả đều bị xâm phạm, bị phá hủy bởi sự độc ác của con người. Vậy ai là người mua?
- Có một người ở Jêricô và nhiều người ở Jêrusalem. Nhưng cái tên ở Jêricô!!! A! Đó là tên người vùng Tiểu Á gian manh, thợ bạc, cho vay nặng lãi, cầm đồ, môi giới, tất nhiên là ăn cắp, có lẽ sát nhân nữa... Chắc bị Rôma săn đuổi. Hắn lấy tên Isaac để có vẻ Hy Bá, nhưng tên thực của hắn là Diomède. Con biết rõ hắn...
- Người ta thấy! - Simon Zélote ngắt lời. Ông ít nói, nhưng luôn luôn quan sát. Rồi ông hỏi: “Anh làm sao mà biết rõ hắn qúa vậy?”
- Nhưng... Anh biết đó... để làm vui lòng các bạn lớn. Tôi đã tới gặp hắn... và tôi đã mua bán... chúng tôi, những người của Đền Thờ... Anh biết...
- Đúng. Các ông làm đủ thứ nghề - Simon kết luận với sự mỉa mai lạnh lùng. Judas đỏ mặt và nín lặng.
- Ông ta có thể mua không? - Giêsu hỏi.
- Con chắc. Hắn không bao giờ thiếu tiền. Chắc chắn cũng phải
286
biết bán, vì đó là tên Hy Lạp qủi quyệt... Nếu hắn thấy một người ngay thật, một... con bồ câu vừa ra khỏi tổ, hắn vặt lông thả cửa. Nhưng nếu hắn gặp một con diều hâu giống như hắn...
- Anh đi đi Judas. Anh là loại người thích hợp. Anh có cái qủi quyệt của con cáo, và sự nhanh nhẹn của diều hâu. Ôi! Con xin lỗi Thầy, con đã nói trước Thầy!
- Thầy cũng có ý kiến như con, nên Thầy cũng bảo Judas tới đó. Gioan, hãy đi với anh ấy. Chúng ta sẽ gặp lại nhau lúc mặt trời lặn. Chỗ hẹn sẽ là công viên gần chợ. Hãy đi và làm cho tốt.
Judas đứng dậy ngay. Gioan có đôi mắt van nài như mắt con chó nhỏ mà người ta đuổi. Nhưng Giêsu đã tiếp tục nói với các mục đồng nên Người không nhận thấy đôi mắt van nài này. Và Gioan lên đường đi theo Judas.
- Thầy muốn làm vui lòng các con - Giêsu nói.
- Thầy luôn luôn thỏa lòng chúng con. Xin Đấng Tối Cao chúc phúc Thầy cho chúng con. Người đó là bạn Thầy à?
- Con không thấy ông ta có vẻ có thể là bạn sao?
Gioan, người mục đồng, cúi đầu nín lặng. Simon Zélote nói: “Chỉ có người tốt biết nhìn. Tôi, tôi không tốt, tôi không nhìn thấy những điều Đấng Nhân Từ thấy. Tôi thấy bên ngoài, người tốt nhìn tận bên trong. Anh cũng vậy, Gioan, anh thấy giống như tôi. Nhưng Thầy tốt... Và Người thấy...”
- Simon, con thấy gì nơi Judas? Thầy ra lệnh cho con nói.
- Đây, khi nhìn ông, con nghĩ tới một số nơi bí ẩn giống như hang thú dữ và đầm lầy đầy sốt nóng. Người ta chỉ nhìn thấy ở đó một khóm lớn chằng chịt, và người ta sợ sệt quay đi... Trái lại, ở đàng sau, đàng sau cũng có những con chim cu, chim họa mi, và đất cũng có những dòng nước tốt và dược thảo. Con muốn tin là Judas như vậy. Con tin vậy vì Thầy đã nhận ông, mà Thầy biết...
- Đúng, thầy biết... Có rất nhiều khúc uốn trong con tim của người này, nhưng nó cũng không thiếu khía cạnh tốt. Con đã thấy ở Bétlem và cả ở Kêriot. Khía cạnh tốt này của ông thuộc về loài người, nó chỉ hoàn toàn nhân loại, nếu nó được nâng lên bậc siêu
287
nhiên thì Judas sẽ được như Thầy muốn cho ông. Ông còn trẻ...
- Gioan cũng còn trẻ!
- Và trong lòng con muốn nói tiếp: nhưng anh ta tốt. Nhưng Gioan là Gioan. Simon, hãy thương ông Judas tội nghiệp này, Thầy xin con. Nếu con yêu ông... con sẽ thấy ông có vẻ tốt hơn.
- Con sẽ cố gắng, vì Thầy... Nhưng chính ông ta bẻ gẫy mọi cố gắng của con như người ta bẻ gẫy cây sậy ở bờ sông... Nhưng thưa Thầy, con chỉ có một lề luật: làm điều Thầy muốn. Vì vậy con yêu Judas ngược lại với cái nó kêu gào trong con, trong lương tâm của con chống lại ông.
- Cái gì Simon?
- Con không biết chính xác... Cái gì giống như tiếng la của người lính gác ban đêm. Nó nói với con: “Đừng ngủ, hãy canh chừng!” Con không biết, cái này không có tên, nhưng đó là... đó là tiếng kêu nổi lên trong con chống lại ông ta.
- Đừng nghĩ tới đó nữa Simon. Cũng đừng cố gắng xác định nó. Có một số sự thật sẽ không tốt để biết, và sự hiểu biết về chúng có thể là nguyên nhân cho sự khinh bỉ trong con. Hãy để cho Thầy con làm. Còn con, hãy cho Thầy tình yêu của con, và hãy nghĩ rằng như thế là làm vui lòng Thầy.
Và tất cả chấm dứt.
46* ISCARIOT BÁN CHO DIOMÈDE
CÁC NỮ TRANG CỦA AGLAÉ
Đây, quảng trường họp chợ của Jêricô, nhưng đây không phải buổi sáng, đây là buổi chiều, bắt đầu một hoàng hôn dài và rất nóng ở giữa mùa hè. Phiên chợ ban sáng chỉ còn lại rác rến: rau cỏ thối, cứt đái, rơm rác từ các thúng rổ hay lưng lừa rơi xuống, các mảnh giẻ rách... Trên tất cả những thứ đó là sự toàn thắng của ruồi và các thứ mà mặt trời đã làm lên men, bốc ra mùi hôi thối ghê tởm. Quảng trường lớn vắng tanh, họa hiếm mới có người đi qua,
288
vài đứa trẻ cãi cọ, ném đá các con chim đậu trên các cây ở quảng trường, vài phụ nữ đi ra phông-ten. Đó là tất cả.
Giêsu từ một con đường đi tới. Người nhìn quanh nhưng Người không thấy ai. Một cách kiên nhẫn, người dựa vào một thân cây và chờ. Người tìm được cách để nói với các trẻ về tình bác ái bắt nguồn từ Thiên Chúa và chảy từ Đấng Tạo Hóa tới mọi thụ tạo: “Đừng ác như vậy. Tại sao các con làm xáo động các con chim này? Chúng làm tổ trên cao, chúng có các con nhỏ. Chúng đâu có làm khổ cho ai. Chúng cho chúng ta tiếng ca của chúng và làm sạch cho chúng ta bằng cách ăn những gì còn lại của con người và các sâu bọ có hại cho mùa màng hoa trái. Tại sao lại làm chúng bị thương và giết chúng bằng cách chia lìa chim con với chim cha chim mẹ? Các con có vui khi thấy một người độc ác vào nhà các con và phá nhà hay giết cha mẹ các con, hoặc mang các con đi khỏi các ngài không? Không. Các con không vui. Vậy tại sao làm cho các con vật bé nhỏ vô tội này điều mà các con không muốn người ta làm cho các con? Làm sao một ngày kia các con có thể không làm khổ người ta, nếu khi còn nhỏ, các con nỡ lòng làm khổ các tạo vật vô hại và tử tế như các con chim? Các con không biết rằng lề luật nói: ‘Hãy yêu tha nhân như chính mình’? Ai không yêu tha nhân thì cũng không có thể yêu Thiên Chúa, và người không yêu Thiên Chúa thì làm sao họ có thể tới nhà Người và cầu nguyện? Từ trời cao, Thiên Chúa có thể nói với họ: ‘Đi đi! Ta không biết ngươi. Ngươi mà là con! Không, ngươi không yêu anh em ngươi, ngươi không kính trọng Cha ở trong họ là đấng đã tạo dựng nên họ. Vậy ngươi không phải người anh em, cũng không phải người con tốt, nhưng là đứa con hoang, đứa con xấu đối với Thiên Chúa, là anh em giả hiệu đối với anh em ngươi’. Các con coi Người, Chúa hằng hữu, Người yêu thương chừng nào! Vào những tháng lạnh nhất, Người cho các con chim tìm được những nhà sàn, các vựa để trú. Vào những kỳ nóng, Người cho chúng bóng mát của lá cây để che mặt trời. Về mùa đông, trong các đồng ruộng, các hạt chỉ hơi bị đất phủ nên chúng dễ dàng tìm được để nuôi thân. Về mùa hè, các trái
289
cây ngon ngọt giải khát cho chúng. Chúng có thể làm tổ vững chắc và ấm áp bằng những cộng cỏ và lọn len mà các con cừu để lại ở bụi gai. Người là Chúa. Các con, những người còn nhỏ, được Người tạo dựng cũng như các con chim, vì vậy các con là anh em với các tạo vật nhỏ này. Sao các con lại muốn khác bằng cách nghĩ mình được phép độc ác với chúng. Hãy có tình thương đối với tất cả. Đừng lấy của chúng cái gì thuộc về chúng: của người ta, anh em của các con, cũng như của các con vật, tôi tớ và bạn hữu của các con, và Thiên Chúa...”
- Thưa Thầy, Judas tới - Simon gọi Người.
“...và Thiên Chúa sẽ xót thương đối với các con bằng cách cho các con mọi thứ cần, cũng như Người làm đối với các con vật nhỏ vô tội này. Hãy đi và mang theo với các con sự bình an của Thiên Chúa”.
Giêsu rẽ đám trẻ, có cả mấy người lớn, vây quanh Người, để đi lại với Judas và Gioan đang đến mau lẹ trên một con đường khác. Judas hớn hở, Gioan mỉm cười với Giêsu, nhưng ông không có vẻ sung sướng.
- Đi, đi Thầy, con tin là đã làm tốt. Nhưng hãy đi với con. Ta không có thể nói chuyện ngoài đường.
- Đi đâu Judas?
- Vào một cái quán. Con đã lấy ra bốn đồng... Ôi! Nhỏ mọn, đừng sợ. Chỉ vừa đủ để nghỉ trên một cái giường sau khi đã thiếu thốn biết bao, cùng với sức nóng này, để có thể ăn như một người chứ không phải như một con chim trên cành, và cũng để nói chuyện cách yên ổn. Con đã bán rất được giá, phải không Gioan?
Gioan xác nhận, không mấy thiện cảm. Nhưng Judas thật thỏa mãn với lối hành động của ông tới nỗi ông không nhận ra sự ít vui mà Giêsu tỏ ra về một chỗ ở thoải mái, cũng như thái độ ít thiện cảm của Giêsu. Và ông tiếp tục: “Đã bán được hơn là con ước đoán. Con tự nhủ: ‘thật chính đáng trích ra một món nhỏ một trăm đồng để thuê giường và cho bữa ăn. Nếu chúng ta, những người luôn luôn có để ăn mà còn kiệt lực, thì chắc chắn là Giêsu đã tới mức’.
290
Con có bổn phận phải canh chừng để Thầy không ngã bệnh. Bổn phận của tình yêu, vì Thầy yêu con và con yêu Thầy... Tôi cũng đã dự phòng cho các anh và đoàn vật”. Ông nói với các mục đồng: “Tôi nghĩ đến tất cả”.
Giêsu không nói lời nào. Người đi theo ông cùng với những người khác. Họ tới một quảng trường thứ hai nhỏ hơn. Judas nói: “Thầy coi, căn nhà nhỏ không có cửa sổ trên đường, và chiếc cửa ra vào nhỏ như một lỗ nẻ? Đó là nhà của tên thợ bạc Diomède. Người ta nói đó là căn nhà nghèo phải không? Nhưng nó có đủ vàng để mua toàn thể Jêricô. Và, A!A!A!” Judas cười cách ranh mãnh... “Và trong số vàng này, người ta thấy nhiều giây chuyền, chén bát, và... và rất nhiều vật khác của tất cả những người có ảnh hưởng nhất trong Israel. Diomède... Ôi! Mọi người đều làm như không biết hắn, nhưng mọi người đều biết. Từ các người của Hêrôđê tới... tới hết mọi người. Vậy đó. Trên bức tường không trang hoàng, nghèo nàn này, người ta có thể viết: ‘Mầu nhiệm và Bí mật’. A! Nếu các bức tường này biết nói! Gioan, không còn là gương mù nữa, cái lối mà tôi điều hành công việc... chú... chú hầu như chết ngộp vì kinh ngạc và e ngại. Nhưng Thầy hãy nghe: Đừng sai con đi với Gioan trong những công việc như vầy. Chỉ chút nữa là hỏng việc. Anh ta không biết chụp thời cơ; anh ta không biết từ chối, và với một tên xảo quyệt như Diomède, phải biết tỉnh táo và mau lẹ”.
Gioan thì thầm: “Có một số điều anh nói! Qúa bất ngờ và qúa... qúa... Vâng, Thầy ơi! Đừng sai con nữa. Con chỉ có biết yêu, con...”
- Chúng ta khó lòng mà còn cần tới một việc mua bán như vầy nữa - Giêsu trả lời. Người có vẻ bận tâm.
- Cái quán đây rồi. Vào đi Thầy. Con sẽ nói, vì... Con đã xếp đặt hết.
Họ vào, và Judas nói với ông chủ. Ông cho dẫn đoàn vật vào chuồng, rồi chính ông dẫn các khách của ông vào một phòng nhỏ, nơi có hai cái chiếu dùng làm giường, mấy cái ghế và một cái bàn đã dọn sẵn đồ ăn. Rồi ông rút lui.
- Chúng ta nói ngay Thầy ạ, trong khi các mục đồng còn bận lo cho đoàn vật của họ.
291
- Thầy nghe con.
- Gioan có thể nói là con thành thật.
- Thầy không nghi ngờ. Giữa các người thật thà với nhau, không cần thề thốt và nhân chứng. Nói đi!
- Chúng con tới Jêricô vào giờ thứ sáu. Chúng con mồ hôi nhễ nhãi như con vật chở nặng. Con không muốn cho Diomède có cảm tưởng rằng đây là một vụ gấp rút, nên trước tiên, con đến đây, tắm rửa, thay đồ sạch sẽ, và con muốn anh ta cũng làm vậy. Ôi! Anh ta không muốn biết gì về việc xức dầu thơm và chải tóc... Nhưng dọc đường, con đã phác họa chương trình. Lúc gần chiều, con nói: “Ta đi”. Lúc đó chúng con đã nghỉ mát mẻ như hai nhà cự phú trong một cuộc hành trình lý thú. Khi chúng con tới nhà Diomède, con bảo Gioan: “Cậu, cậu hãy giúp tôi, đừng cải chính cho tôi, và hãy tỉnh táo để hiểu”. Nhưng tốt hơn là nên để anh ta ở ngoài. Anh ta chẳng giúp con được việc gì, và cả đến... May mắn là con tỉnh táo cho cả hai, và con đối đầu với tất cả.
Tên nhân viên sở thuế liền ra khỏi nhà. Rồi! Con tự nhủ: “Nếu hắn ra thì chúng ta sẽ tìm được tiền và những gì tôi muốn để đi chợ”. Vì tên thu thuế, cho vay nặng lãi, ăn cắp, cũng như tất cả các tên đồng bọn của hắn, luôn luôn có những giây chuyền giật được bằng những dọa nạt và trục lợi của kẻ nào đó mà hắn đánh thuế cách bất hợp pháp để có nhiều tiền hành lạc và đàn bà. Những kẻ buôn bán vàng bạc và xác thịt rất bạn bè với Diomède. Chúng con vào sau khi con đã tự giới thiệu. Con nói là “vào”, vì vào một nơi mà hắn coi như chỗ làm thợ bạc cách thật thà, thì khác với vào cái nhà hầm, nơi hắn xử lý công việc thực sự. Phải rất quen hắn mới được mời xuống nhà hầm. Khi hắn thấy con, hắn nói: “Anh muốn bán vàng nữa? Lúc này không mấy thuận lợi, vì tôi có ít tiền lắm”. Bài ca thông thường của hắn. Con trả lời: “Tôi không đến bán, mà để mua. Ông có các nữ trang cho phụ nữ không? Nhưng phải đẹp, cao giá, nặng, bằng vàng ròng”. Diomède kinh ngạc, hắn hỏi con: “Anh muốn một cô?”. “Đừng lo việc đó” con trả lời. “Không phải cho tôi, mà là cho người bạn sắp cưới vợ đây. Anh ta muốn mua các nữ trang bằng vàng cho người yêu của anh ta”.
292
Và ở đây, Gioan bắt đầu tỏ ra con nít. Diomède nhìn anh ta, thấy anh ta đỏ như vải điều, đã nói, vì hắn ta là qủi già: “Ê! Cậu trai! Mới nghe nhắc tới vợ đã như muốn sốt. Người yêu của cậu, cô ta đẹp lắm phải không?” Con đã lấy chân đá Gioan để đánh thức anh ta, để anh ta hiểu rằng đừng tỏ ra ngu. Nhưng anh ta trả lời một tiếng “Phải” qúa nghẹn ngào tới nỗi Diomède đâm nghi. Lúc đó con vội nói: “Ông già, cô ta đẹp hay không, đừng bận tâm. Cô ta sẽ không bao giờ ở trong số đàn bà mà vì họ, ông sẽ xuống hỏa ngục. Đó là người con gái thật thà, và sắp là người vợ thật thà, không cần tới vàng của ông. Chính tôi lo cho đám cưới sắp tới, và tôi lãnh trách nhiệm giúp cho chú thanh niên này... Tôi, Do Thái, dân thành thị”. “Cậu ta người Galilê phải không?” Bộ tóc này luôn luôn tố cáo qúi vị. “Anh ta giầu?”. “Rất”.
Lúc đó chúng con đi xuống dưới, và Diomède mở các hộp, các hòm sắt. Nhưng, hãy nói sự thực đi Gioan: người ta chẳng thấy như ở trên trời trước tất cả những kim qúi và vàng bạc này sao? Giây chuyền, tràng hoa, lắc, bông tai, lưới bao tóc bằng vàng dát ngọc, trâm cài tóc, khóa, cà rá... A! Thật là chói lọi! Với vẻ rất hách dịch, con đã chọn một giây chuyền hơi giống của Aglaé, rồi các cây trâm, các cà rá, lắc... Tất cả đều giống những thứ con có ở trong túi, và với một số lượng bằng nhau. Diomède kinh ngạc hỏi: “Nữa à? Nhưng cậu ta là ai? Và vợ cậu ta là ai? Một công chúa?” Khi con đã có tất cả những thứ con muốn, con nói: “Giá cả?”
Ôi! một kinh cầu những than thở về thời tiết khắc nghiệt, thuế khóa nặng nề, các nguy hiểm trộm cắp... Ôi! một kinh cầu dài nữa để bảo đảm với con về sự thật thà của hắn. Sau cùng, đây là câu trả lời : “Thực tình, vì là anh nên tôi nói thực, không nói thách, và tôi không thể bớt một xu nào cả: Tôi xin mười hai lượng bạc”. “Ăn cắp!” Con nói, và con bảo Gioan: “Chúng ta đi, Gioan. Ở Jêrusalem, chúng ta sẽ tìm được người ít ăn cắp hơn lão này”. Và con làm như sắp đi ra. Nhưng hắn chạy theo sau con: “Ông bạn lớn! Ông bạn thân mến! Này, xin hiểu cho người tôi tớ tội nghiệp của ông. Không kém, tôi không thể, thực tình tôi không thể. Ông coi. Thực sự tôi đã cố và tôi bị thiệt. Tôi làm vậy vì ông luôn luôn là bạn tôi và ông
293
giúp tôi chạy hàng: Mười một lượng. Đó. Đó là giá tôi sẽ trả nếu tôi phải mua số vàng này của một người sắp chết đói. Không bớt một đồng nào nữa. Như vầy đã là chảy ra hết máu trong mạch của tôi rồi”.
Có đúng hắn nói vậy không? Điều đó làm con buồn cười phát nôn mửa. Khi con thấy hắn đã cố định về giá cả, con liền lật ngược: “Ông già ghê tởm! Hãy biết rằng không phải tôi muốn mua, mà là muốn bán. Đây là cái tôi muốn bán. Nhìn coi: đẹp như nữ trang của lão. Vàng của Rôma và kiểu mới. Lão sẽ không thiếu người mua. Tôi bán cho lão với giá mười một lượng. Chính lão đã cố định giá cả, lão đã phỏng giá thì lão trả”. Ôi! Vậy là!... “Đó là sự phản bội. Anh đã phản bội sự ước giá mà tôi đã làm cho anh! Anh làm tôi mạt. Tôi không thể trả từng ấy”. Lão la lên.
- Chính lão đã ước giá, trả đi!
- Tôi không thể.
- Không thì tôi mang tới cho những người khác.
- Không, bạn ơi! - và hắn giơ tay về với đống nữ trang của Aglaé.
- Vậy thì trả đi! Đáng lẽ tôi đòi mười hai lượng, nhưng tôi giữ ở giá sau cùng.
- Tôi không thể.
- Tên cho vay nặng lãi! Coi chừng! Tôi có một chứng nhân và tôi có thể tố lão là ăn cắp... - và con gán cho hắn những nhân đức khác mà con không nhắc lại đây trước mặt cậu trai này.
Sau cùng, vì con vội muốn bán cho mau, con đã hứa với hắn một việc nhỏ kiểu “giữa hai chúng ta”, con sẽ không giữ lời hứa này. Nó có giá trị gì? Hứa với một tên ăn cắp! Con đã kết thúc với mười lượng rưỡi. Chúng con đã ra đi giữa những thỉnh nguyện và những hứa hẹn tình bạn bè và... đàn bà. Và Gioan hầu phát khóc. Nhưng cậu thấy có gì can hệ đối với cậu vì một tên trụy lạc? Chỉ cần là cậu không như vậy. Cậu không biết rằng thế giới là như vậy, và hắn nhìn cậu như một kẻ chậm tiến? Một chàng trai không biết mùi đàn bà? Cậu muốn ai tin cậu? Hay nếu họ tin cậu... Ôi! Về những gì liên can tới tôi, tôi không muốn họ nghĩ về tôi như họ có thể nghĩ về
294
cậu, những kẻ tưởng là cậu không có khuynh hướng về cái đó. Đó, thưa Thầy, chính Thầy hãy xét.
Con có một đống tiền lẻ, nhưng con ghé qua tên thâu thuế và bảo ông: “Hãy lấy cho tôi đống sắt vụn này và đổi cho tôi những lượng mà anh đã nhận của Isaac”. Vì khi xử lý công việc của con, con đã biết được tin đó. Nhưng sau cùng, con đã nói với IsaacDiomède: “Ông hãy nhớ rằng Judas của Đền Thờ không còn nữa. Bây giờ tôi là môn đệ của một vị Thánh. Vậy hãy làm như ông không bao giờ biết tôi, nếu ông muốn giữ thân”. Và suýt nữa con vặn cổ hắn, vì hắn trả lời láo với con.
- Ông ta nói với anh sao? - Simon hỏi cách lãnh đạm.
- Hắn bảo tôi: “Anh là môn đệ của vị thánh? Tôi không bao giờ tin. Hoặc tôi sắp sửa thấy vị thánh của anh tới hỏi xin tôi một bà”. Hắn bảo con: “Diomède là ông già trụy lạc, là kẻ khốn nạn trên đời, nhưng anh là một phóng bản mới. Tôi, tôi còn có thể thay đổi, vì tôi mới như vầy khi tôi đã già. Còn anh, anh sẽ không thay đổi. Anh sinh ra đã như vậy”. Lão già ghê tởm, dám từ chối quyền năng của Thầy. Thầy hiểu không?
- Nhưng, ông ta là người Hy Lạp tốt. Ông ta nói nhiều điều thật.
- Anh muốn nói gì Simon? Anh nói cho tôi phải không?
- Không. Cho mọi người. Cho kẻ biết vàng cũng như biết con tim. Người nọ cũng như người kia. Một tên ăn cắp, một tên trụy lạc, với những gì là trụy lạc nhất như việc gian thương. Nhưng người ta thấy nơi ông triết lý của những đại triết gia Hy Lạp. Ông biết người ta: con vật với bảy mối tội đầu, cái bướu phá hủy hết những gì là tốt lành, thật thà, tình yêu và bao nhiêu thứ nữa nơi ông ta cũng như nơi những người khác.
- Nhưng ông ta không biết Thiên Chúa.
- Vậy anh, anh muốn dạy cho ông ta?
- Tôi, đúng, tại sao không? Đó là những người tội lỗi cần biết Thiên Chúa.
- Đúng vậy. Nhưng... Thầy phải biết ông ta để dạy ông ta.
- Vậy tôi, tôi không biết ông ta sao?
- Bình an các bạn ơi! Các mục đồng tới. Đừng làm họ xao xuyến vì những cãi cọ giữa các con với nhau. Con đã đếm tiền? Vậy được
295
rồi. Hãy hoàn tất mọi việc như đã dàn xếp. Thầy nhắc lại cho con, nếu có thể, trong tương lai, đừng nói dối, dù để làm cho dễ dàng
một hành động tốt... Các mục đồng vào.
- Các bạn ơi! Đây là mười lượng rưỡi. Chỉ thiếu một trăm đồng mà Judas đã lấy ra để thuê phòng ở. Cầm lấy đi.
- Thầy cho tất cả à? - Judas hỏi.
- Tất cả. Thầy không muốn giữ một xu nào của số tiền này. Chúng ta có của bố thí của Thiên Chúa và những kẻ tìm kiếm Thiên Chúa cách chân thành... Và chúng ta không bao giờ thiếu những sự cần. Hãy tin vậy. Hãy cầm lấy và hãy sung sướng, cũng như Thầy sung sướng cho ông Tẩy Giả. Ngày mai các con sẽ tới nhà tù của ông, hai người trong các con: Gioan và Mathia. Simêon sẽ đi với Giuse để tìm Êlie, tường thuật cho ông và hỏi các tin tức sau này. Êlie biết. Rồi Giuse trở lại với Lêvi. Hẹn nhau trong mười ngày tại Cửa Cá Jêrusalem vào lúc sáng sớm. Bây giờ chúng ta ăn rồi nghỉ ngơi. Sáng sớm ngày mai, Thầy đi với các người của Thầy. Thầy không còn gì khác để nói với các con lúc này. Sau này, các con sẽ có những tin tức của Thầy.
Màn cảnh biến mất khi Giêsu bẻ bánh.
47* GIÊSU KHÓC VÌ JUDAS VÀ
SIMON ZÊLOTE AN ỦI NGƯỜI
Miền quê nơi Giêsu đang ở rất tươi tốt. Các vườn trái cây tuyệt vời, các vườn nho huy hoàng với nhiều chùm bắt đầu có mầu vàng hoàng ngọc và hồng ngọc. Giêsu ngồi trong một vườn cây và ăn những trái mà một người nông dân biếu cho Người. Có lẽ Người đã nói lúc trước đó, vì người đàn ông nói: “Con sung sướng được làm hạ cơn khát của Thầy. Môn đệ Thầy đã nói với chúng con về sự khôn ngoan của Thầy, nhưng chúng con vẫn kinh ngạc khi nghe Thầy. Chúng con ở gần thành Thánh, chúng con tới đó luôn để bán
296
rau cỏ và hoa trái. Chúng con cũng lên Đền Thờ và nghe các rabbi, nhưng họ còn xa lắm mới nói được như Thầy. Khi trở về, chúng con nói: ‘Nếu như vậy thì ai được rỗi?’ Trái lại, Thầy, ôi! Người ta cảm thấy con tim nhẹ nhõm, một con tim trở lại như trẻ con trong khi vẫn là người lớn... Con không có học, con không biết giải thích. Nhưng chắc chắn là Thầy hiểu”.
- Ừ, Thầy hiểu con. Con muốn nói rằng với sự đứng đắn và hiểu biết đúng như người lớn, nhưng sau khi nghe lời Thiên Chúa, con lại cảm thấy sự đơn sơ, sự trong sạch tái sinh trong tim con, và con cảm thấy như lại trở nên trẻ thơ, không tội lỗi, không qủi quyệt, với bao đức tin, như khi người ta cầm tay má để lên Đền Thờ lần đầu tiên, hay khi cầu nguyện trên gối bà. Con muốn nói như vậy.
- Như vậy. Vâng, đúng hệt vậy. Phúc cho các anh vì luôn luôn được ở với Người - Ông nói tiếp với Gioan, Simon và Judas đang ăn những trái sung ngọt, ngồi trên bức tường nhỏ. Rồi ông kết thúc: “Tôi, tôi sung sướng được cho Người trọ một đêm, mà tôi không còn sợ những bất hạnh trong nhà tôi, vì phúc lành của Người đã vào đó”.
Giêsu trả lời: “Phúc lành hoạt động và tồn tại nếu các linh hồn kiên trì trung thành với luật Thiên Chúa và giáo huấn của Thầy. Trong trường hợp trái lại, ơn huệ sẽ biến mất, và đó là chính đáng. Vì nếu thực là Thiên Chúa cho mặt trời soi cho kẻ lành cũng như người dữ để họ sống, để người tốt nên tốt hơn, để người xấu hoán cải, thì cũng chính đáng là sự bảo vệ của Cha trở nên hình phạt cho kẻ dữ, để nhờ đau khổ, nhắc họ nhớ tới Thiên Chúa”.
- Sự đau đớn có luôn luôn là sự dữ không?
- Bạn ơi, không. Đó là sự dữ theo quan điểm loài người. Nhưng theo cái nhìn vượt trên loài người thì đó là điều lành. Nó tăng thêm công nghiệp của người công chính đã chịu đựng nó mà không thất vọng, cũng không phản động, biết dâng hiến nó trong khi tự hiến thân làm lễ hy sinh bởi sự kiên trì của họ, để đền bù cho những thiếu sót của họ và tội lỗi thế giới; và nó là sự cứu rỗi cho những kẻ không công chính.
- Thật khó để chịu đựng - người nông dân nói. Lúc này các người
297
trong nhà ông đã đến với ông. Khoảng mười hai người lớn nhỏ cả thảy.
- Thầy biết rằng con người thấy nó là khó, và biết con người phán đoán về nó thế nào. Chúa Cha không cho con cái người sự đau đớn, nó đã tới theo sau tội lỗi. Nhưng thời gian chịu đựng trên trái đất kéo dài bao lâu? Trong cuộc đời của một người, một chút thời gian. Luôn luôn là một chút, dù nó kéo dài suốt đời. Bây giờ Thầy bảo các con: chịu đựng một chút thời gian chẳng hơn là chịu đựng mãi mãi sao? Chịu khổ ở đây chả hơn là ở Luyện Ngục sao? Hãy suy nghĩ: Ở đó thời gian nhân lên gấp ngàn. Ôi! Thực vậy, Thầy bảo các con rằng người ta không nên nguyền rủa, nhưng nên chúc tụng sự đau khổ và gọi nó là ân huệ, gọi nó là tình thương.
- Ôi! Các lời Thầy! Chúng con uống lấy như kẻ được uống nước mật để hạ cơn khát trưa hè, nước mật được đổ ra từ chiếc bình mát. Ngày mai Thầy đã đi rồi sao?
- Ừ, ngày mai. Nhưng Thầy còn trở lại để cám ơn con vì tất cả những gì con đã làm cho những người này là các bạn của Thầy, và để lại xin con cái bánh và chỗ nghỉ.
- Thầy ơi! Thầy sẽ luôn luôn tìm được nó.
Một người dắt một con lừa chất đầy rau cỏ tới: “Đó, nếu bạn Thầy muốn đi... Con trai con nó đi Jêrusalem cho buổi chợ lớn ngày áp lễ”.
- Đi đi Gioan. Con biết phải làm gì. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong vòng bốn ngày nữa. Bình an của Thầy cho con - Giêsu ôm hôn Gioan. Simon cũng làm vậy. Judas nói:
- Thưa Thầy, nếu Thầy cho phép, con sẽ đi với Gioan. Con muốn gặp một người bạn. Mỗi ngày Sabat ông đều ở Jêrusalem. Con sẽ đi với Gioan cho tới Bétphagê rồi con tiếp tục đi lo việc của con... Đó là người bạn của gia đình... Thầy biết... mẹ con đã bảo con...
- Bạn ơi! Thầy không xin con gì cả...
- Con buồn vì phải xa Thầy. Nhưng trong bốn ngày nữa, con lại ở với Thầy, và con sẽ trung thành tới nỗi làm phiền Thầy.
- Vậy đi đi. Vào lúc rạng đông trong vòng bốn ngày nữa, hãy tới
298
Cửa Cá. Chào. Xin Thiên Chúa gìn giữ con.
Judas hôn Thầy và ra đi bên cạnh con lừa đi lóc cóc trên đường đầy bụi.
Đêm xuống trên đồng quê yên lặng. Simon quan sát các người làm vườn đang tưới các luống của họ.
Giêsu ngồi tại chỗ Người một lúc, rồi Người đứng dậy, đi quành ra sau nhà và cô lập trong vườn cây ăn trái. Người đi cho tới một bụi rậm, nơi các cây lựu lớn được ngăn cách bởi những bụi cây thấp, hình như các cây phúc bồn tử, tôi không biết chính xác. Chúng không có trái, và tôi không biết rõ lá của chúng. Giêsu ẩn sau chỗ đó. Người qùi gối. Người cầu nguyện. Rồi Người gục mặt xuống đất, trên cỏ, và Người khóc. Những tiếng xụt xịt đứt đoạn cho tôi biết như vậy. Đó là tiếng khóc thất vọng, không nức nở, nhưng thật buồn.
Người qua một lúc lâu trong thái độ này. Ánh sáng hoàng hôn yếu, nhưng chưa đêm, nên còn nhìn thấy. Và trong ánh sáng mờ, người ta thấy hiện ra bên trên khóm phúc bồn tử, khuôn mặt xấu nhưng thật thà của Simon. Ông nhìn, ông tìm, ông phân biệt được khối người của Thầy, bao phủ hoàn toàn trong áo khoác mầu xanh lam, hầu như biến mất trong bóng tối của mặt đất. Ông chỉ nhìn thấy đầu tóc hoe vàng và đôi tay chắp lại trong vị thế cầu nguyện, giơ lên khỏi đầu, mặt gục vào cổ tay. Simon nhìn Người với đôi mắt hơi lồi của ông. Ông hiểu rằng Giêsu buồn do những tiếng thở dài Người phát ra. Đôi môi dầy hầu như mầu tím của ông mở ra: “Thầy!”
- ông gọi.
Giêsu ngửa mặt lên.
- Thầy khóc? Tại sao? Thầy cho phép con tới không? - Khuôn mặt Simon biểu lộ sự ngạc nhiên đau khổ. Đó là một người xấu trai, chắc chắn rồi, với những nét xấu xí, mầu da tái xanh tím, với các vết thẹo sâu mầu xanh do bệnh tật để lại. Nhưng ông có cái nhìn rất hiền từ tới nỗi vẻ xấu xí biến đi.
- Tới đi, Simon, bạn Thầy.
Giêsu ngồi xuống trên cỏ. Simon ngồi bên cạnh Người.
- Thầy của con! Sao Thầy buồn? Con, con không phải Gioan và con không biết cho Thầy những cái ông cho Thầy. Nhưng trong con
299
có sự ước ao dâng Thầy tất cả sự an ủi. Con chỉ có một cái khổ là không có khả năng làm việc đó. Xin Thầy nói cho con: Có lẽ con đã làm mất lòng Thầy trong những ngày vừa qua, tới nỗi Thầy cảm thấy nặng nề vì phải ở lại với con?
- Không, người bạn tốt của Thầy. Con không bao giờ làm mất lòng Thầy từ lúc Thầy gặp con. Và Thầy tin rằng Thầy sẽ không bao giờ có lý do để khổ vì con.
- Vậy sao Thầy? Con không xứng đáng sự tin cẩn của Thầy, nhưng về tuổi tác, con hầu như ngang tuổi cha Thầy. Và Thầy biết con luôn luôn ước ao một đứa con trai... Xin để cho con âu yếm Thầy tựa như Thầy là con trai của con, và trong lúc đau khổ này, con thay thế người cha và người mẹ cho Thầy, là vì Thầy cần mẹ Thầy để quên đi bao nhiêu thứ.
- Ôi! Đúng, Mẹ Thầy!
- Vậy trong khi chờ đợi Thầy được an ủi ở bên cạnh bà, xin cho tôi tớ Thầy được niềm vui an ủi Thầy. Thầy khóc vì có ai làm mất lòng Thầy. Từ mấy ngày nay, dung nhan Thầy như mặt trời bị mây che. Con đã quan sát Thầy. Lòng nhân từ của Thầy che phủ vết thương của Thầy để người ta không ghét kẻ làm Thầy bị thương. Nhưng vết thương này làm Thầy đau đớn và làm Thầy buồn nôn. Nhưng Thầy ơi! Hãy nói cho con: Sao Thầy không đẩy đi xa cái nguyên do của sự đau khổ này?
- Bởi vì nó vô ích một cách loài người, và nó đối nghịch với đức Bác Ái.
- A! Thầy đã hiểu rằng con nói về Judas! Thầy khổ chính vì ông ta. Thầy là sự thật, làm sao Thầy có thể chịu đựng một kẻ nói dối? Ông ta nói dối không biết ngượng. Ông ta qủi quyệt hơn một con cáo, khép kín hơn một tảng đá. Bây giờ ông đi, để làm gì? Ông có thể có bao nhiêu bạn? Con khổ vì rời bỏ Thầy, nhưng con muốn đi theo ông ta để thấy... Ôi! Giêsu của con! Chúa ơi! Hãy đẩy xa con người này đi!
- Vô ích. Cái gì phải xảy ra thì sẽ xảy ra.
300
- Thầy muốn nói gì?
- Không có gì đặc biệt.
- Thầy đã bằng lòng cho ông đi vì... vì cách hành động của ông ở Jêricô làm Thầy ngao ngán.
- Thật vậy Simon. Thầy lại nói với con: Cái gì phải xảy ra thì sẽ xảy ra. Và Judas là một phần của cái tương lai này. Ông ta cũng phải ở đó.
- Nhưng Gioan nói với con rằng Simon Phêrô rất thẳng thắn, rất hăng hái... Ông có chịu nổi cái ông này không?
- Ông phải chịu. Phêrô cũng có phần của ông để diễn, và Judas là cái canh chỉ mà trên đó ông phải dệt phần của ông ta. Đó là ngôi trường, nơi Phêrô được đào tạo nhiều hơn với tất cả những người khác. Tốt với những Gioan, hiểu những đầu óc giống như mình thì ngay những người ngu cũng làm được. Nhưng tốt với một Judas, hiểu được những kẻ giống như anh ta, và biết làm thầy thuốc, thầy cả cho anh ta, điều đó khó. Judas là giáo huấn sống động của các con.
- Của chúng con?
- Ừ, của các con. Ông thầy không có muôn đời trên mặt đất. Người ra đi sau khi đã ăn tấm bánh cứng rắn nhất, và uống chén rượu cay đắng nhất. Nhưng các con sẽ ở lại để tiếp tục Thầy... và các con phải biết. Vì thế giới không chấm dứt với ông Thầy, nhưng nó tồn tại cho tới lần trở lại sau cùng của Đấng Kitô, và tới cuộc phán xét chung cho hết mọi người. Và thực vậy, Thầy bảo con: Với một Gioan, một Phêrô, một Simon, một Giacôbê, Andrê, Philíp, Batôlômêo, Tôma, sẽ có ít nhất là từng ấy lần bảy Judas. Và hơn nữa, còn hơn nữa!...
Simon suy nghĩ và nín lặng. Rồi ông nói: “Các người mục đồng rất tốt. Judas khinh dể họ, nhưng con yêu họ”.
- Thầy yêu họ và ca tụng họ.
- Đó là những linh hồn đơn sơ, đúng như loại người cần có để làm vui lòng Thầy.
- Judas đã sống trong thành phố.
301
- Sự biện minh duy nhất của ông. Có biết bao người sống trong thành phố, nhưng... Khi nào Thầy sẽ tới nhà bạn con?
- Ngày mai đi Simon. Thầy rất hài lòng, vì chỉ có hai chúng ta, Thầy với con. Thầy nghĩ đó là một người học thức, có kinh nghiệm cũng như con.
- Ông cũng rất đau khổ... Trong thân xác, và nhiều hơn trong tâm hồn. Thưa Thầy, con muốn xin Thầy một điều: nếu ông không nói với Thầy về nỗi buồn của ông thì Thầy đừng hỏi gì về gia đình ông.
- Thầy sẽ không hỏi. Thầy đến với những người đau khổ, nhưng Thầy không ép buộc những điều bí mật. Nỗi buồn có sự ngượng ngùng của nó.
- Vậy mà con, con đã không kính trọng nó... Nhưng, con thấy khổ biết bao...
- Con là bạn Thầy, và con đã đặt một cái tên cho nỗi khổ của Thầy. Đối với người bạn con, Thầy là vị rabbi không quen biết. Khi ông ta biết Thầy... khi đó... Chúng ta đi. Đêm rồi. Đừng để các chủ nhà phải chờ. Họ đã mệt mỏi rồi. Ngày mai, lúc rạng đông, chúng ta sẽ đi Bêtani.
48* “VỚI CÁC CON CŨNG VẬY:
NGƯỜI TỐT Ở TRONG TỈ LỆ ĐÃ CÓ GIỮA
CÁC NGƯỜI TỐT VÀ JUDAS”
Rồi Chúa Giêsu nói:
- Gioan nhỏ, biết bao lần Cha đã khóc, sấp mặt xuống đất, vì loài người. Vậy mà các con, các con muốn chịu đựng ít hơn Cha?
Ngay với các con, các người tốt cũng ở trong cái tỉ lệ đã có giữa các người tốt và Judas. Một người càng tốt, càng có cái để chịu đựng. Nhưng với các con cũng vậy, và điều này Cha nói riêng cho những kẻ được đặt định để săn sóc các linh hồn, họ cần tự huấn luyện bằng cách nghiên cứu Judas. Tất cả các con là những Phêrô, các con, các linh mục, các con phải buộc và tháo. Nhưng được bao
302
nhiêu? Bao nhiêu? Bao nhiêu thần trí biết quan sát, hiệp nhất với Thiên Chúa, sáng suốt để học hỏi, so sánh với phương pháp của Thầy các con. Các con phải làm để giống như Người, như các con phải là.
Với một số người, điều Cha đem ra ánh sáng dường như vô ích, và không thể đối với loài người. Đó là những người có thói quen từ chối nhân tính trong đời sống của Giêsu. Họ làm cho Cha thành một cái gì qúa ở ngoài đời sống con người, và chỉ là cái gì thuộc về Thiên Chúa. Vậy thì nhân tính chí thánh ở đâu? Đâu là Hy Sinh của Ngôi Hai khi mặc xác thịt? Ôi! Cha là một người thực sự biết bao ở giữa loài người! Cha đã là một người, vì thế Cha đau khổ khi thấy tên phản bội và những kẻ vô ơn; vì thế Cha vui hưởng tình yêu của những kẻ yêu Cha và trở về với Cha. Vì thế Cha run rẩy và khóc trước cái xác chết thiêng liêng của Judas. Cha run và khóc trước một người bạn chết, nhưng Cha biết rằng Cha sẽ gọi họ trở về sự sống, và Cha vui khi thấy linh hồn họ đã ở Lâm Bô. Nhưng ở đây... Ở đây Cha thấy trước mặt Cha là một tên qủi. Và Cha không nói gì hơn.
Con, Gioan nhỏ, hãy theo Cha. Hãy tặng cho loài người món qùa này nữa. Rồi... Phúc cho những kẻ nghe lời Thiên Chúa và cố gắng thi hành lời đó. Phúc cho những kẻ muốn biết Cha để yêu Cha. Phúc lành của Cha sẽ ở trong họ và cho họ.
49* GIÊSU GẶP LAZARÔ TẠI BÊTANI
Một rạng đông mùa hè rất trong sáng. Ngày đã rạng. Mặt trời đã lên khỏi chân trời và càng lúc càng lên cao, cười với trái đất tươi vui. Không một công cỏ nào không cười với một giọt sương lóng lánh. Tựa như tinh tú ban đêm đã bị nghiền thành vàng ngọc cho hết mọi công cỏ hoa lá. Cả đến đá sỏi và đất cũng phủ đầy sương như bụi vàng và kim cương.
Giêsu và Simon đi theo một con đường nhỏ tách rời với lộ lớn, hợp với nó thành hình chữ V. Họ đi về một vùng gồm những vườn
303
cây tuyệt vời. Các cánh đồng trồng cây gai cao tới đầu người, đã sẵn sàng để được cắt. Các cánh đồng khác xa hơn, chỉ thấy những hoa mỹ nhân thảo đỏ chót ở giữa mầu vàng của lúa miến.
- Chúng ta đã ở trong vùng thuộc quyền sở hữu của bạn con. Thầy thấy, khoảng cách không vượt qúa độ dài do luật định. Con không bao giờ đánh lừa Thầy. Sau vườn táo này là phạm vi khu vườn có nhà ở. Con đã dẫn Thầy đi lối tắt để kính trọng hơn giới hạn luật định.
- Bạn con rất giầu.
- Rất giầu, nhưng không hạnh phúc. Ông còn những gia tài ở các nơi khác nữa.
- Ông là một pharisiêu?
- Ba ông không phải pharisiêu. Ông... kẻ giữ luật chặt chẽ. Con đã nói với Thầy: một người Israel đích thực.
Họ đi một lát nữa. Đây, bức tường cao. Bên trong toàn là cây và cây. Căn nhà chỉ hơi nhìn thấy. Mảnh đất ở đây cao, nhưng không đủ để con mắt có thể nhìn thấy khu vườn qúa đẹp mà ta có thể gọi là một công viên.
Họ quẹo ở góc bức tường vẫn cùng một chiều cao. Từ trên nóc tường rủ xuống những cành cây phủ kín hoa hồng, hoa lài thơm phức, rực rỡ với những cánh ướt sương. Đây là chiếc cửa song sắt rèn nặng nề. Simon giật cái chuông đồng nặng.
- Simon, còn qúa sớm để vào - Giêsu phản đối.
- Ôi! Bạn con thức dậy với mặt trời. Ông chỉ tìm thấy thoải mái trong khu vườn của ông và ở giữa những sách vở. Đêm dài là một khổ hình cho ông. Xin Thầy đừng chậm trễ cho ông niềm vui.
Một người đầy tớ mở cổng.
- Chào Aseo. Hãy nói với ông chủ là Simon Zêlote tới cùng với bạn ông.
Người đầy tớ mời họ vào: “Tôi tớ xin chào qúi ngài. Xin mời vào. Nhà của Lazarô mở ra cho các bạn hữu”. Rồi ông đi lẹ.
Simon đã quen. Ông không quay về lối đi chính, nhưng về một lối đi có trồng hồng hai bên, hướng về một dàn hoa lài.
304
Qủa vậy, từ đó, Lazarô tiến tới. Luôn luôn ốm o và xanh mét như tôi vẫn thấy ông, với mái tóc ngắn dầy và không quăn. Mặt chỉ cạo tới cằm, mặc đồ trắng toát. Ông bước đi khó khăn như người bị đau chân. Khi ông thấy Simon, ông chào cách tình nghĩa. Rồi như ông có thể, ông chạy lại với Giêsu, qùi gối, cúi xuống tận đất, rồi hôn gấu áo Người và nói: “Con không đáng một danh dự như vầy, nhưng lạy Chúa, xin vào và làm chủ căn nhà tội nghiệp của con”.
- Bạn ơi! Đứng dậy đi, và hãy nhận bình an của Thầy.
Lazarô đứng dậy, hôn tay Giêsu, nhìn Người với vẻ tôn kính nhưng cũng không thiếu tò mò. Họ đi về nhà.
- Thưa Thầy, con đã chờ thầy biết bao. Mỗi sáng, lúc rạng đông, con nói: “Hôm nay Người sẽ tới”. Và mỗi buổi chiều, con lại nói: “Hôm nay Người cũng không tới...”
- Tại sao con chờ Thầy cách lo lắng qúa vậy?
- Bởi vì... Chúng con, những người Israel, chúng con chờ gì, nếu không phải là Thầy?
- Con tin chính Thầy là đấng được trông đợi?
- Simon không bao giờ nói dối con. Và ông không phải là một cậu con trai bị kích động vì những đám mây dối trá. Tuổi tác và đau khổ đã làm ông chín chắn như một hiền nhân. Vả nữa... Dù ông không biết Thầy về thực thể của Thầy, công việc của Thầy đã nói và đã tuyên xưng Thầy là Thánh. Ai làm các việc của Thiên Chúa thì chắc chắn là người của Thiên Chúa. Mà Thầy, Thầy đã làm, và Thầy làm một cách nó phải tuyên bố Thầy là người của Thiên Chúa. Ông ta, bạn con, đã đến với Thầy vì bị lôi kéo bởi sự nổi danh thần thông của Thầy và đã được phép lạ. Và con biết rằng đường đi của Thầy đã ghi dấu các phép lạ khác. Tại sao không tin rằng Thầy là đấng được trông chờ? Ôi! Thật êm đềm để tin vào những điều tốt! Biết bao thứ không tốt mà chúng ta phải giả bộ như tin là tốt vì yêu bình an, vì ta chẳng thay đổi được gì cho nó. Bao lời nói qủi quyệt có vẻ nịnh hót, ca tụng, lịch sự, mà trái lại, đó là những quở trách châm biếm, là nọc độc phủ mật ong mà chúng ta phải tỏ ra là chúng ta tin, trong khi biết chúng là nọc độc, quở trách
305
chua cay... Chúng ta phải làm vậy vì... vì không thể làm khác, và chúng ta qúa yếu để chống lại tất cả một thế giới mạnh. Chúng ta đơn độc để đối đầu với cả một thế giới thù nghịch với chúng ta... Tại sao lại làm khó khăn khi tin vào những gì là tốt? Lại nữa, thời gian đã chín mùi và đã có các dấu hiệu về thời gian. Nếu còn có thể thiếu điều gì để xác nhận lòng tin của chúng ta và loại bỏ nghi ngờ, thì sự việc này làm cho chúng ta muốn tin, và con tim chúng ta được nhẹ nhõm trong sự chắc chắn là thời gian chờ đợi đã chấm dứt và Đấng Cứu Thế đang ở đây, Đức Messi đã hiện hữu, đấng sẽ ban lại bình an cho Israel và con cái Israel; đấng sẽ cho chúng ta một cái chết êm đềm vì biết rằng chúng ta được cứu chuộc, và cho chúng ta sống không còn lo âu nuối tiếc những người của chúng ta đã chết. Ôi! Người chết! Tại sao lại khóc họ nếu không phải vì họ không còn con cái ở với họ, mà họ cũng chưa được có Cha và Thiên Chúa của họ.
- Ba con chết lâu chưa?
- Ba năm, và má con đã chết bảy năm... Nhưng mới đây thì con không còn thương khóc nữa... Con cũng vậy, con cũng đã muốn ở nơi mà con hy vọng các Ngài đang ở trong khi chờ đợi nước Trời.
- Như vậy thì con sẽ không có đức Messi làm khách của con.
- Đúng vậy. Bây giờ con được thuận lợi hơn các vị vì con được có Thầy... Qủa tim con dịu lại trong niềm vui này. Xin Thầy vào. Xin cho con cái vinh dự được làm cho nhà con thành nhà Thầy. Hôm nay là ngày Sabat nên con không thể dâng Thầy cái vinh dự đi mời bạn bè...
- Đó không phải là điều thầy muốn. Hôm nay Thầy hoàn toàn thuộc về kẻ là bạn của Simon và bạn Thầy.
Họ vào trong một phòng đẹp, nơi các đầy tớ sẵn sàng để đón họ. Lazarô nói: “Xin hãy đi theo họ. Trước tiên qúi vị dùng bữa điểm tâm”. Và trong khi Giêsu và Simon đi vào một nơi khác thì Lazarô ra lệnh cho các đầy tớ. Tôi thấy chẳng những căn nhà giầu, mà còn có vẻ lãnh chúa nữa.
Giêsu uống sữa mà Lazarô tuyệt đối muốn tự tay ông tiếp Người
306
trước khi ngồi vào bàn ăn điểm tâm. Tôi thấy Lazarô quay về với Simon và nói: “Tôi đã tìm được người sẵn sàng mua gia tài của anh đúng với giá mà người quản lý của anh đã phỏng định, không bớt một xu”.
- Nhưng họ có sẵn sàng theo các điều kiện của tôi không?
- Có. Họ chấp nhận hết để được các đất đai này, và tôi rất bằng lòng, vì ít nhất rôi biết hàng xóm của tôi là ai. Nhưng cũng như anh không muốn dự vào việc mua bán, họ cũng không muốn cho ai biết. Tôi xin anh chấp nhận ước muốn của họ.
- Tôi thấy không có lý do nào để từ chối. Anh, bạn tôi, anh thay thế tôi... Tất cả những gì anh sẽ làm đều sẽ tốt. Chỉ cần là người đầy tớ già trung thành của tôi không bị đẩy ra ngoài đường... Thưa Thầy, con bán, và về phần con, con sung sướng là không còn gì bận rộn cho con, dù là bất cứ sự gì, ngoài việc phục vụ Thầy. Nhưng con có một người đầy tớ già trung thành, một người duy nhất còn lại với con sau sự bất hạnh của con. Như con đã thưa Thầy: ông luôn luôn giúp con trong khi con bị trục xuất khỏi xã hội. Ông săn sóc gia tài của con như của ông, bằng cách nhờ Lazarô chuyển qua cho ông để cứu con và cung cấp các nhu cầu cho con. Bây giờ ông già rồi, nên sẽ không chính đáng nếu con để ông không có nhà cửa. Con đã quyết định dành căn nhà nhỏ ở biên giới khu đất của con cho ông cùng với một phần số tiền, dùng cho các nhu cầu của ông. Thầy biết, các người già họ như cây trường xuân. Khi họ đã sống ở đâu là họ rất khổ khi bị giật ra khỏi đó. Lazarô muốn đem ông về nhà anh, vì Lazarô tốt, nhưng con thích hành động như vậy hơn, ông già của con sẽ bớt khổ hơn...
- Con cũng vậy, con tốt, Simon. Nếu chỉ có những người công chính như con thì sứ mạng của Thầy sẽ dễ dàng hơn - Giêsu nhận xét.
- Thầy có thấy rằng thế giới bất kham không Thầy? - Lazarô hỏi.
- Thế giới à? Không, quyền lực của thế giới: Satan. Nếu nó không là chủ của các con tim và không chiếm hữu chúng, thì Thầy
307
sẽ không gặp phản kháng. Nhưng sự Dữ chống đối sự Lành, và Thầy phải thắng sự Dữ ở trong mỗi người để đặt sự Lành vào đó... Và không phải mọi người đều muốn...
- Đúng vậy. Không phải mọi người đều muốn. Thầy ơi! Thầy tìm đâu ra những lời để nói với những kẻ có tội, để cải hóa họ, để thuyết phục họ? Các lời quở trách nghiêm khắc như những lời đầy dẫy trong lịch sử Israel đối với kẻ có tội, và người sau cùng sử dụng nó là ông Tiền Hô, hay là những lời thương xót?
- Thầy thi hành tình yêu và lòng thương xót. Lazarô, con hãy tin rằng một cái nhìn yêu thương mạnh mẽ hơn một lời nguyền rủa đối với kẻ sa ngã.
- Nhưng nếu Tình Yêu bị khinh dể?
- Hãy khẩn khoản tha thiết nữa, khẩn khoản tới cùng. Lazarô, con biết những mảnh đất mà sự lừa dối của mặt đất nuốt những kẻ bất cẩn không?
- Có, con biết, nhờ đọc sách. Trong tình trạng sức khỏe của con, con đọc rất nhiều, vì ham đọc, và để qua những thời giờ không ngủ được. Con biết nó có ở Syrie và ở Ai-Cập, và những nơi khác nữa gần Chaldée. Và con biết nó giống như những cái ống hút. Khi người ta vào đó, nó hút lấy họ. Một người Rôma nói đó là miệng Hỏa Ngục, nơi các quái vật dân ngoại ở. Có đúng không?
- Không đúng. Đó là các cấu tạo đặc biệt của vỏ trái đất. Olympe không có ở trong đó. Sau này người ta sẽ hết tin vào Olympe, nhưng những mảnh đất này sẽ còn mãi. Sự tiến bộ của con người có thể cho nó một giải thích đúng hơn, nhưng không thể làm cho nó biến đi. Bây giờ Thầy bảo con, cũng như con biết nó có nhờ đọc sách, con cũng đã có thể đọc thấy người ta cứu những kẻ rơi vào đó bằng cách nào?
- Vâng, bằng một sợi giây với một cái cán, hoặc ngay cả một cành cây. Sự cứu giúp nhỏ này đủ để cho kẻ bị chìm một sự cần thiết để giữ họ ở yên tại chỗ, không dẫy dọn, cho tới khi những trợ giúp có hiệu qủa hơn tới.
- Vậy kẻ sa ngã là kẻ để mình bị chiếm bởi cái mặt đất lừa đảo,
308
mà ở trên mặt phủ đầy hoa, nhưng ở dưới là bùn chuyển động. Con nghĩ rằng một người đã biết thế nào là đặt, dù chỉ một xíu con người của họ, vào trong quyền lực của Satan, mà họ vẫn cứ làm sao? Không, họ không biết... Và sau đó... Hoặc họ bị tê liệt vì kinh hoàng và vì nọc độc của Đứa Ác, hoặc họ bị hốt hoảng. Và để tránh sự hối hận vì đã hư mất, họ vùng vẫy, sa lầy vào những đống bùn khác. Họ làm cho những khối bùn nặng rung động vì những cử động không suy nghĩ của họ, và điều này làm họ mau chết hơn. Tình yêu là sợi giây, là cái cành mà con nói. Hãy khẩn khoản, khẩn khoản cho tới khi họ nắm lấy nó... một lời nói... một tha thứ... một ân xá hơn cho điều lỗi... chỉ để ngăn cản sự chìm ngập khi chờ sự cứu giúp của Thiên Chúa. Lazarô, con biết sự tha thứ có sức mạnh chừng nào không? Nó dẫn Thiên Chúa tới qua sự trợ giúp của Vị Cứu Tinh... Con đọc nhiều lắm à?
- Rất nhiều. Con không biết con có làm đúng không. Nhưng bệnh tật và... và những điều khác đã ngăn cản nhiều sự thỏa mãn loài người của con. Bây giờ con chỉ còn thích hoa và sách... cây cối, và cả ngựa nữa... Con biết rằng người ta chỉ trích con. Nhưng con có thể đi tới các vùng đất của con trong tình trạng này không? (và ông lật cẳng chân to sù, phủ kín vải băng của ông). Đi bộ hay đi lừa? Con phải dùng xe, và cũng phải nhanh nữa. Vì vậy con đã nuôi ngựa và con dính bén vào chúng. Con thú thực vậy. Nhưng nếu Thầy bảo con rằng đó là xấu thì con sẽ cho bán hết.
- Không, Lazarô. Đó không phải là những thứ làm cho trụy lạc. Cái làm cho ta trụy lạc là khi nó làm cho ta xao xuyến và xa lìa Thiên Chúa.
- Đó, Thầy. Một điều con muốn biết. Con đọc nhiều. Con chỉ có sự khích lệ này. Con thích biết... Con nghĩ rằng tự trau dồi còn hơn là làm điều xấu. Đọc sách còn hơn là... là làm những thứ khác. Nhưng con không phải chỉ đọc sách của chúng ta. Con thích biết các thế giới khác. Rôma, Athènes lôi cuốn con. Bây giờ con biết Israel đã đồi trụy biết bao vì giao thiệp với Assyrie và Ai Cập. Và các người cai trị có đầu óc Hy Lạp đã làm thiệt hại chúng ta biết
309
bao. Con không biết một tư nhân có thể làm thiệt hại cho chính mình như Juđa đã làm cho chính ông và cho chúng ta là con cháu ông không? Nhưng Thầy, Thầy nghĩ sao? Con muốn Thầy dạy dỗ con, vì Thầy không phải chỉ là một rabbi, mà còn là Ngôi Lời Khôn Ngoan và là Thiên Chúa.
Giêsu nhìn ông đăm đăm vài phút. Một cái nhìn xuyên thấu, đồng thời xa xôi. Dường như qua thân xác của Lazarô, Người lục lọi con tim ông và còn đi xa hơn nữa. Người nhìn thấy gì, nào ai biết... Sau cùng người nói: “Con có cảm thấy xao xuyến vì những điều con đọc không? Nó có làm con xa lìa Thiên Chúa và lề luật của Người không?”
- Thưa Thầy không. Trái lại, nó chỉ cho con so sánh chân lý của chúng ta với chân lý giả tạo của dân ngoại. Con đối chiếu và chiêm ngắm những vinh quang của Israel, các người công chính, các tổ phụ, các tiên tri của nó với những khuôn mặt mập mờ của lịch sử dân ngoại. Con so sánh triết học của chúng ta, nếu ta có thể dùng cái tên này cho Sự Khôn Ngoan đã nói trong kinh thánh, với triết học nghèo nàn của Hy Lạp và Rôma, nơi chỉ có những tàn lửa chứ không phải một ngọn lửa yên hàn cháy và rạng ngời trong các sách của các vị khôn ngoan của chúng ta. Rồi với nhiều tôn kính hơn, con cúi mình trong tâm hồn để thờ lạy Thiên Chúa của chúng ta, đấng đã nói với Israel qua trung gian các sự kiện, các nhân vật và các văn phẩm của chúng ta.
- Vậy hãy tiếp tục đọc... Điều đó giúp con hiểu thế giới dân ngoại. Hãy tiếp tục. Con có thể tiếp tục. Con không có cái men và chứng hoại thư tinh thần. Vậy con có thể đọc mà không phải sợ. Tình yêu thật mà con có đối với Thiên Chúa làm tê liệt những hạt mầm phàm tục mà sách vở có thể nhét vào trong con. Trong mọi hành động của con người đều có khả năng của điều lành và điều dữ, tùy cách người ta hoàn thành nó. Thích không phải là phạm tội nếu người ta thích cách thánh thiện. Làm việc không phải là phạm tội nếu người ta làm việc như phải làm. Kiếm tiền không phải là phạm tội nếu người ta bằng lòng với một số lợi ngay thật. Tự trau
310
dồi không phải là tội, nếu trong sự trau dồi, người ta không giết chết những tư tưởng về Thiên Chúa. Nhưng phục vụ tại bàn thờ cũng là tội, nếu người ta làm vì lợi ích cá nhân. Con có nhìn nhận không Lazarô?
- Thưa Thầy có. Con đã đặt những câu hỏi với những người khác, nhưng họ kết thúc bằng cách khinh bỉ con... Nhưng Thầy, Thầy cho con ánh sáng và bình an. Ôi! Nếu mọi người đều nghe Thầy! Ra đây Thầy. Ở giữa các bông hoa lài có bóng mát và sự yên lặng.
Thực êm đềm để nghỉ ngơi chờ buổi chiều dưới bóng mát của chúng. Họ ra, và tất cả đều chấm dứt.
50* GIÊSU TRỞ LẠI JÊRUSALEM VÀ Ở
ĐỀN THỜ. ISCARIOT NÓI TẠI ĐỀN THỜ.
TẠI GÉTSÊMANI.
Giêsu đang cùng với Simon tại Jêrusalem. Họ băng qua đám đông của các người buôn bán và các đoàn lừa nối đuôi nhau trong thành phố. Trong lúc đó, Giêsu nói: “Chúng ta lên Đền Thờ trước khi tới Gétsêmani. Chúng ta sẽ cầu nguyện với Cha trong nhà Người”.
- Có vậy thôi à Thầy?
- Vậy thôi. Thầy không thể ở lại. Ngày mai, lúc bình minh, có hẹn với nhau ở Cửa Cá, mà nếu đám đông giữ Thầy lại thì làm sao Thầy có thể tới đó. Thầy muốn gặp các người mục đồng khác. Thầy sẽ phân tán họ, những người mục đồng thực sự, trong khắp Palestin, để họ tụ họp các chiên, để ít nhất, tên của chủ bầy được biết đến, để khi Thầy nói tới tên này, chúng biết rằng chính Thầy là chủ bầy, và chúng đến với Thầy để được vuốt ve.
- Thật êm đềm được có một người thầy như Thầy. Các chiên sẽ yêu Thầy.
- Các chiên... Nhưng các dê thì không... Sau khi đã gặp Jonas, chúng ta sẽ đi Nazarét, rồi Caphanaum. Simon Phêrô và những người khác chịu đựng một thời gian vắng mặt dài... Chúng ta đi làm
311
vui lòng họ và làm vui lòng mình. Mùa hè cũng cho Thầy lời khuyên này. Đêm được tạo dựng để nghỉ ngơi, và quá ít người biết qua những giờ nghỉ ngơi sau khi đã hiểu biết sự thật. Loài người... Ôi! Loài người! Họ quá quên rằng họ có một linh hồn. Họ chỉ nghĩ đến thân xác và chỉ lo lắng cho nó. Ban ngày mặt trời thiêu đốt, nó ngăn cản đi đường trường và ngăn cản dạy dỗ đám đông tại các quảng trường hay đường phố. Nó làm các tâm hồn buồn ngủ cũng như thân xác, nó làm họ mệt mỏi. Vậy thì... Chúng ta đi giáo huấn cho các môn đệ của Thầy. Ngoài đó, trong sự êm đềm của Galilê với nước xanh mát. Con có bao giờ ở đó chưa?
- Một lần con qua đó về mùa đông, trong sự di chuyển nặng nề của con từ thầy thuốc nọ tới thầy thuốc kia. Con thích nó...
- Ôi! Nó luôn luôn đẹp. Về mùa đông đã vậy, các mùa khác còn đẹp hơn. Bây giờ là mùa hè, nó có những đêm thật sự thần linh... Đúng, giống như nó được làm để các thiên thần tung cánh, vì chúng trong sạch biết bao! Cái hồ!... Cái hồ, trong cái khung bằng núi của nó, hầu như đúng là nó được tạo dựng để nói về Thiên Chúa với các linh hồn tìm Người. Đó là một mảnh trời rơi vào giữa vùng cây xanh, nhưng bầu trời không bỏ rơi nó, mà lại soi mình ở đó với các tinh tú và tăng gấp số lượng lên, đính nó vào tấm màn lam ngọc như để trình bày nó với Đấng Tạo Hoá. Các vườn oliu hầu như chạy xuống tới nước và đầy chim họa mi. Chúng cũng hát lời ngợi khen Đấng Tạo Hóa đã cho chúng sống trong nơi thật êm đềm, thật yên hàn này.
Và thành phố Nazarét của Thầy! Nó hiến cho cái hôn của mặt trời hết mọi cành xanh, tươi cười ở giữa hai tên khổng lồ Đại và Tiểu Hermon. Và cái bệ nâng đỡ ngọn Tabor, cái bệ là những sườn dốc thoai thoải, xanh rờn, vươn lên dưới mặt trời, với ngọn Tabor của chúng thường có tuyết, nhưng rất đẹp khi mặt trời bao phủ đỉnh núi. Lúc đó nó trở nên bạch ngọc nhuộm ánh hồng, trong khi đàng trước là Carmel với những lưu ly ngọc trong những giờ đầy mặt trời, khi ấy nước, cây, và đồng cỏ trải ra đó những mạch muôn mầu, với tử ngọc lúc rạng đông, rồi lục ngọc thạch xanh tím về buổi
312
chiều, và là một khối hồng mã não khi trăng lên, cho thấy nó mầu tối dưới ánh trăng bạc như sữa. Rồi ở dưới, lúc trưa, là một cái thảm hoa mầu mỡ của đồng bằng Esdrelon.
Rồi nữa... rồi nữa, ôi! Simon! Ở đó có một bông hoa, một bông hoa sống đơn độc, tỏa hương trinh trong và tình yêu cho Thiên Chúa của nó và cho con người! Có Mẹ Thầy! Con sẽ biết Mẹ, Simon. Con sẽ nói cho Thầy xem có một tạo vật nào trên mặt đất giống Mẹ không, dù là về vẻ đẹp loài người. Mẹ đẹp, nhưng những gì tỏa ra từ nội tâm của mẹ nó vượt xa sắc đẹp này. Nếu có một kẻ độc ác lột trần mẹ ra, rạch nát mặt Mẹ và đuổi Mẹ đi lang thang, Mẹ càng hiện ra như một bà hoàng trong y phục hoàng gia hơn. Vì sự thánh thiện của Mẹ mặc cho Mẹ chiếc áo khoác rực rỡ. Thế giới có thể làm cho Thầy mọi điều ác, nhưng Thầy tha cho cả thế giới, vì để đến trong thế giới và cứu chuộc họ, Thầy được có Mẹ. Mẹ: Bà hoàng khiêm nhường và vĩ đại của thế giới mà nó không biết. Nhưng chính nhờ Mẹ mà nó được mọi điều lành, và sẽ được nhiều hơn nữa qua dòng thời gian.
Chúng ta đã tới Đền Thờ. Chúng ta hãy giữ cách thờ phượng của đạo Juđa, nhưng thực vậy, Thầy bảo con rằng nhà Thiên Chúa thực sự, Hòm Bia Thánh chính là lòng Mẹ, mà bức màn là thân xác rất trong sạch của Mẹ, trên đó được thêu dệt những nhân đức tuyệt vời.
Họ vào, băng qua cái sân thứ nhất, qua một hành lang, hướng về sân thứ hai.
- Thưa Thầy, coi kìa, Judas đang ở giữa một nhóm người, có cả các pharisiêu và các nhân viên Đại Pháp Đình. Con đi nghe coi ông ta nói gì. Thầy có cho phép con không?
- Đi đi. Thầy chờ con ở hành lang lớn.
Simon đi lẹ, đứng ở nơi có thể nghe Judas mà không bị ông nhìn thấy.
Judas nói với sự xác tín mạnh mẽ: “... và có những người mà tất cả qúi vị đều biết và kính trọng, họ có thể nói trước đây tôi là ai. Vậy mà tôi bảo qúi vị rằng Người đã thay đổi tôi. Tôi là người đầu
313
tiên được cứu chuộc. Nhiều người trong qúi vị tôn kính ông Tẩy Giả, Người cũng tôn kính ông và gọi ông là Thánh giống như Êlia vì sứ mạng của ông, nhưng còn lớn hơn Êlia nữa. Bây giờ nếu ông Tẩy Giả mà như vậy, thì đấng mà ông Tẩy Giả gọi là ‘Con Chiên Thiên Chúa’, và thề rằng vì sự thánh thiện của Người, ông đã thấy Người được đội triều thiên bằng lửa của Thánh Thần Thiên Chúa, trong khi tiếng nói từ trời công bố Người là con yêu dấu của Thiên Chúa, và phải nghe lời Người, vị đó chỉ có thể là Đấng Messi... Người là đấng ấy, tôi thề điều đó với qúi vị. Tôi không phải một kẻ thô lỗ, cũng không ngu ngốc, đúng người đó, tôi đã thấy công việc của Người và nghe các lời Người, và tôi nói với qúi vị: Đúng Người là Đấng Messi. Các phép lạ vâng lời Người như nô lệ vâng lời chủ. Bệnh tật, bất hạnh biến đi không để lại vết tích, biến thành niềm vui và sức khỏe. Và các con tim còn thay đổi nhiều hơn là thân xác. Qúi vị thấy điều đó nơi tôi. Qúi vị có các bệnh nhân, những khổ sở để nó tùng phục Người không? Nếu có, ngày mai, lúc rạng đông, hãy tới Cửa Cá, Người sẽ ở đó để làm cho qúi vị sung sướng. Trong khi chờ đợi thì đây, nhân danh Người, tôi cho các người nghèo sự trợ giúp này”.
Và Judas phân phát các đồng tiền cho hai người què và ba người mù. Và để kết thúc, ông ép buộc một bà già nhỏ nhận những đồng bạc sau cùng. Rồi ông giải tán đám đông, ở lại với Giuse Arimathi, Nicôđêmô và những người khác tôi không biết.
- A! Bây giờ tôi sung sướng - Judas công bố. “Tôi không còn gì nữa, và tôi giống như Người muốn”.
- Thực sự tôi không nhận ra anh nữa. Tôi tưởng là anh dỡn, nhưng tôi thấy là anh hành động đứng đắn - Giuse nói.
- Đứng đắn chứ ! Ôi! Tôi, tôi là người đầu tiên không nhận ra tôi. Tôi còn là con vật ô uế so với Người, nhưng tôi đã thay đổi nhiều rồi đó.
- Và anh không còn thuộc về Đền Thờ nữa sao? - một trong số khán giả mà tôi không biết hỏi.
- Ồ, không. Tôi thuộc về Đấng Kitô. Kẻ nào tới gần Người, nếu nó không phải là rắn lục, thì nó chỉ có thể yêu Người và chỉ còn ước
314
ao Người.
- Người không đến đây nữa à?
- Chắc chắn Người sẽ tới, nhưng lúc này thì không.
- Tôi muốn nghe Người.
- Người đã nói ở đây rồi mà Nicôđêmô.
- Tôi biết. Lúc đó tôi ở với Gamaliel... Tôi đã trông thấy Người... Nhưng tôi không dừng lại.
- Gamaliel nói sao, Nicôđêmô?
- Ông nói: “Đó là vị tiên tri mới nào đó”, ông ta không nói gì hơn.
- Và anh không nói với ông ta điều tôi đã nói với anh à Giuse? Anh là bạn ông ta mà.
- Tôi có nói rồi, nhưng ông trả lời tôi: “Chúng ta đã có ông Tẩy Giả, và theo chỉ giáo của các luật sĩ, phải có ít là một trăm năm cách nhau giữa ông và Đấng Messi, để sửa soạn dân cho Đức Vua tới”. Tôi nói rằng không lâu như vậy, và tôi thêm rằng vì bây giờ thời gian đã hoàn tất. Sau cùng ông nói: “Nhưng tôi không thể tin rằng Đấng Messi tỏ mình ra như vậy... Có một kỳ tôi đã tin là Đấng Messi đã bắt đầu tỏ mình ra, vì ánh sáng đầu tiên của Người đã thực sự soi sáng trên trời. Nhưng sau đó, yên lặng quá lâu nên tôi nghĩ rằng tôi đã lầm”.
- Hãy thử nói lại xem. Nếu Gamaliel vào phe với chúng ta và vào phe với Người...
Một trong ba người tôi không quen nói: “Tôi khuyên các ông, Đại Pháp Đình rất mạnh, và Anna thống trị họ với sự qủi quyệt và tham lam. Nếu Đấng Messi của anh muốn sống thì tôi khuyên Người nên ở trong bóng tối, ngoại trừ là Người dùng lực lượng. Nhưng lúc đó thì lại có Rôma...”
- Nếu Đại Pháp Đình nghe Người, họ sẽ trở về với Đấng Kitô.
- A!A!A! - Ba người lạ reo cười, và họ nói: “Judas, chúng tôi tin là anh đã thay đổi, nhưng còn đầu óc. Nếu những điều anh nói về Người là thật, làm sao anh có thể nghĩ rằng Đại Pháp Đình theo Người? Đi, đi Giuse. Như vậy hay hơn cho mọi người. Cầu Thiên
315
Chúa che chở anh, Judas. Anh cần sự che chở”. Và họ bỏ đi. Judas ở lại với một mình Nicôđêmô.
Simon luồn đi và trở lại với Thầy: “Thưa Thầy, con tự kết án vì con đã phạm tội vu khống bằng lời nói và trong lòng. Người này đã làm con ngơ ngác. Con đã hầu như nghĩ ông ta là kẻ thù của Thầy, nhưng con đã nghe ông ta nói về Thầy với những luận cứ mà ít người trong chúng ta làm được, đặc biệt là ở đây, nơi mà sự thù ghét có thể tiêu diệt môn đệ trước tiên, rồi đến Thầy. Con đã thấy anh ta cho tiền người nghèo và tìm cách chinh phục các nhân viên Đại Pháp Đình...”
- Con thấy không Simon? Thầy bằng lòng vì con đã thấy ông ta trong trường hợp như vầy. Con sẽ nói cho cả những người khác khi họ kết án ông ta. Chúc tụng Chúa vì niềm vui này mà con đã cho Thầy, và vì sự ngay thật của con khi thú nhận: “Con đã phạm tội”, và vì công việc của người môn đệ mà con đã nghĩ là gian ác, nhưng thực sự thì không.
Họ cầu nguyện giờ lâu, rồi ra.
- Ông ta có thấy con không?
- Không. Con tin chắc vậy.
- Đừng nói gì cả. Đó là một linh hồn rất bệnh hoạn. Một lời khen có thể làm cho ông: từ một lương thực dùng cho kẻ dưỡng bệnh thành mồi cho một cơn sốt đau bao tử nặng. Nó sẽ làm cho ông nên tệ hơn, vì ông sẽ hãnh diện là được lưu ý. Và ở đâu có sự kiêu căng...
- Con sẽ nín lặng. Chúng ta đi đâu?
- Đến với Gioan. Vào giờ nóng nực này, nó ở trong nhà tại vườn oliu.
Họ đi mau tới đó, trong khi tìm các bóng mát trên các đường phố bị hun bởi mặt trời. Họ đi qua khu bình dân bụi bặm, băng qua cổng thành, đi vào miền quê chói sáng, rồi tới vườn oliu. Sau cùng là căn nhà.
Trong nhà bếp mát và tối vì các tấm màn che cửa, Gioan ở đó.
316
Ông ngủ. Giêsu gọi: “Gioan!”
- Thầy à? Con nghĩ chiều Thầy mới tới.
- Thầy tới sớm. Con thấy mình làm sao Gioan?
- Như con chiên bị mất chủ chăn. Con đã nói với mọi người về Thầy, vì nói về Thầy cũng như hơi được có Thầy. Con nói với một số bà con, người quen và người lạ. Và với Anna... Và với một người tàn tật mà con làm bạn nhờ ba đồng hào người ta đã cho con và con cho ông; và cả với một người đàn bà tội nghiệp bằng tuổi má con. Bà khóc ở trong nhóm một số phụ nữ tại một ngưỡng cửa. Con hỏi bà: “Sao bà khóc?” Bà bảo con: “Thầy thuốc đã tuyên bố với tôi rằng: con bà bị lao rồi. Thôi ráng chịu đi. Nó sẽ chết vào đầu tháng mười. Tôi chỉ có mình nó. Nó đẹp và tốt. Nó mới mười lăm tuổi. Đáng lẽ nó sắp kết hôn vào mùa xuân. Thay vì chiếc rương cho đám cưới, tôi phải chuẩn bị mồ cho nó”. Con bảo bà: “Tôi biết một thầy thuốc có thể chữa nó cho bà, nếu bà có lòng tin”.
- Không ai chữa được nó nữa. Ba thầy thuốc đã tới chẩn bệnh. Nó đã khạc ra máu.
Con nói: “Thầy thuốc của tôi không phải một thầy thuốc thông thường. Người không chữa bệnh bằng thuốc, nhưng bằng quyền phép của Người. Đó là Đấng Messi”.
Lúc đó một bà già nhỏ nói với bà: “Ôi! Tin đi Êlise. Tôi biết một người mù được nhìn thấy nhờ Người”. Lúc đó bà mẹ đi từ nghi ngờ tới hy vọng, và bà chờ Thầy... Con có làm đúng không? Con chỉ làm có vậy thôi.
- Con làm đúng. Chiều nay chúng ta sẽ đến nhà các bạn con. Con có gặp Judas không?
- Không, Thầy. Nhưng ông ta đã gởi đến cho con đồ ăn và tiền mà con đã cho các người nghèo. Ông bảo họ nói với con rằng con có thể sử dụng tùy ý con, vì đó là tiền của ông.
- Đúng đó Gioan. Ngày mai chúng ta sẽ về Galilê.
- Thầy ơi con sung sướng. Con nghĩ tới Simon Phêrô. Ai biết ông chờ đợi tới cỡ nào! Chúng ta cũng sẽ ghé qua Nazarét?
- Cũng vậy. Và chúng ta sẽ ở lại đó để chờ Phêrô, Andrê và anh
317
Giacôbê của con.
- Ồ, chúng ta ở lại Galilê?
- Chúng ta ở lại đó ít lâu.
Gioan sung sướng. Và tất cả chấm dứt trong niềm vui của ông.
51* GIÊSU NÓI VỚI NGƯỜI LÍNH
ALEXANDRE TẠI CỬA CÁ
Lại một bình minh nữa. Lại hàng dẫy lừa chen chúc tại Cửa Cá vẫn còn đóng.Và lại Giêsu với Simon và Gioan. Các người lái buôn nhận ra Người và quây quần chung quanh Người. Một người lính gác chạy đến với Người vào lúc cổng mở. Khi anh ta thấy Người, anh ta chào: “Chào ông Galilê. Hãy nói với những kẻ nao nức này đừng quá lộn xộn. Họ phiền trách chúng tôi, nhưng họ chỉ có nguyền rủa chúng tôi và bất tuân. Và họ nói rằng đó là sinh hoạt tôn giáo của họ. Họ có tôn giáo nào vậy, khi nó đặt nền trên sự bất tuân?”
- Anh lính ơi! Hãy hiểu cho họ. Họ giống như một người có ở trong nhà một ông khách họ không muốn, mà lại mạnh hơn họ. Họ chỉ có cái lưỡi để đáp trả và báo thù.
- Đúng. Nhưng chúng tôi, chúng tôi phải làm bổn phận của chúng tôi. Lúc đó chúng tôi phải phạt họ, và vì vậy chúng tôi trở nên người khách càng ngày càng không được ưa hơn.
- Anh có lý. Anh phải làm bổn phận của anh, nhưng hãy luôn luôn làm với tình nhân đạo. Hãy luôn luôn nghĩ: nếu tôi ở vào địa vị họ, tôi sẽ làm gì? Lúc đó anh sẽ cảm thấy thương những người chịu lụy các anh.
- Tôi thấy dễ chịu khi nghe ông nói. Không khinh bỉ, không tự cao tự đại. Những người Palestin khác khạc nhổ sau lưng chúng tôi, chửi rủa chúng tôi, tỏ ra khinh bỉ chúng tôi... Ngoại trừ khi họ có thể lột da chúng tôi vì một đàn bà hay một món hàng, lúc đó thì vàng của Rôma không bị khinh.
- Anh lính ơi! Con người thì luôn luôn là con người.
- Đúng, và hay lừa đảo hơn con khỉ cái. Nhưng chả dễ chịu gì khi
318
sống ở giữa những người lúc nào cũng như rắn độc rình chực chúng tôi... Chúng tôi cũng có nhà cửa, cha mẹ, vợ con, và chúng tôi quan tâm đến.
- Đó, nếu mỗi người đều nhớ như vậy thì sẽ không còn thù ghét. Anh đã nói: “Họ có tôn giáo nào?” Tôi trả lời anh: Một tôn giáo Thánh mà giới răn thứ nhất là yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân. Một tôn giáo dạy vâng lời lề luật, dù đó là nước thù nghịch.
Vậy hãy nghe, hỡi các anh em Israel của tôi: không có gì xảy ra mà không do Thiên Chúa cho phép, dù là sự thống trị của một dân ngoại quốc: một bất hạnh lớn nhất cho một dân. Nhưng nếu dân này thành tâm tự vấn, họ có thể nói rằng chính họ đã muốn như vậy bằng cách họ sống đối lập với Thiên Chúa. Các con hãy nhớ lại các tiên tri. Các ngài đã nói điều đó bao nhiêu lần! Các sự kiện quá khứ, hiện tại và tương lai đã phô diễn bao nhiêu lần rằng sự xâm lăng là hình phạt, là cái roi trên lưng các đứa con bất hiếu. Biết bao lần các vị đã dạy cho cách để không phải chịu như vậy nữa, là trở về với Thiên Chúa. Không phải sự phản động hay chiến tranh chữa lành vết thương, lau khô nước mắt và bẻ gẫy xích xiềng, nhưng là đời sống công chính. Lúc đó Thiên Chúa sẽ can thiệp. Các vũ khí và các đội quân võ trang có thể làm gì khi các cơ binh thiên thần chiến đấu cho các kẻ tốt. Chúng ta bị đánh ư ? Chúng ta xứng đáng không bị như vậy nữa bằng lối sống của chúng ta, những con cái Thiên Chúa. Đừng rèn xích xiềng cho các con bằng tội lỗi luôn luôn tái phạm. Đừng để cho các dân ngoại nghĩ rằng các con vô tôn giáo, hay còn dân ngoại hơn họ bằng lối sống của các con. Các con là dân tộc mà chính Thiên Chúa đã ban lề luật. Hãy tuân giữ nó. Hãy làm sao cho các chủ nghiêng mình trước xiềng xích của các con và nói: “Họ chịu lụy chúng ta nhưng họ lớn hơn chúng ta, một sự lớn lao không dựa vào dân số cũng như tiền bạc, vũ khí, sức mạnh, nhưng dựa vào sự gắn bó của họ với Thiên Chúa. Nơi họ, ta thấy rạng ngời tình phụ tử của Thiên Chúa trọn lành, thánh thiện, mạnh mẽ. Đó là dấu hiệu của Thiên Chúa thực, Người sáng chói trong con cái Người”. Mong cho họ suy ngắm điều này và đến với
319
Thiên Chúa thực, từ bỏ sai lầm. Mọi người, ngay cả người nghèo nhất, ngu dại nhất của dân Thiên Chúa, cũng có thể làm thầy cho một dân ngoại. Làm thầy bằng cách sống và rao giảng Thiên Chúa cho dân ngoại bởi các hành động của một đời sống thánh.
Đi đi. Bình an cho các con.
- Judas tới trễ. Các mục đồng cũng vậy - Simon nhận xét.
- Ông Galilê, ông chờ ai à? - Người lính đã chăm chú nghe bài thuyết trình hỏi.
- Chờ các bạn.
- Tới chỗ rợp này đi, ở lối vào. Mặt trời gay gắt ngay từ những giờ đầu trong ngày. Ông vào thành?
- Không, tôi trở về Galilê.
- Đi bộ?
- Tôi nghèo mà. Đi bộ.
- Ông có vợ không?
- Tôi có một bà mẹ.
- Tôi cũng vậy. Lại đây đi. Ông không khinh bỉ chúng tôi như những người khác.
- Chỉ có tội lỗi làm tôi ghê tởm.
Người lính nhìn Người, cảm phục và suy tư: “Với ông thì chúng tôi không bao giờ phải can thiệp. Thanh kiếm không bao giờ giơ lên ở trên ông. Ông rất tốt. Nhưng những người khác!...”
Giêsu ở trong bóng râm của lối vào. Gioan quay về phía thành phố, Simon ngồi trên tảng đá dùng làm ghế.
- Ông tên gì?
- Giêsu.
- A! Chính ông là người làm phép lạ cả trên những người bệnh? Tôi tưởng ông chỉ là phù thủy... Chúng tôi cũng có phù thủy. Ông là phù thủy tốt, vì có những người tốt. Nhưng phù thủy của chúng tôi không biết chữa bệnh. Ông làm cách nào?
Giêsu mỉm cười và nín thinh.
- Ông dùng các công thức thần thông? Ông có những thứ thuốc bằng tủy xương sống của người chết? Rắn khô tán thành bột, đá ma
320
thuật lấy trong các hang của Python?
- Không có thứ nào trong những thứ đó. Tôi chỉ có quyền năng của tôi.
- Vậy ông thực là thánh. Chúng tôi, chúng tôi có các ông thầy bói lòng và các nữ tư tế... Có những người trong đám họ làm những điều kỳ diệu... Và người ta nói đó là những người thánh nhất. Ông tin họ không? Họ còn xấu hơn những người khác.
- Vậy tại sao các ông thờ kính họ?
- Bởi vì... bởi vì đó là tôn giáo của Rôma. Và nếu ai không tôn trọng tôn giáo của nước nó thì làm sao nó có thể tôn trọng César và quê hương. Vả nữa... vả nữa, rất nhiều thứ...
Giêsu đăm đăm nhìn người lính: “Thực sự, anh đang tiến trên đường công chính. Ôi! Anh lính, hãy tiếp tục, anh sẽ đi tới chỗ biết được điều mà linh hồn anh có cảm tưởng là có ở trong nó mà không biết gọi là cái gì”.
- Linh hồn là cái gì?
- Sau khi anh chết, anh sẽ đi đâu?
- Lạy trời! Tôi đâu có biết. Nếu tôi chết cách anh hùng trên dàn hỏa thiêu như các anh hùng... Nếu tôi là ông già tội nghiệp, một thứ vô giá trị, có lẽ tôi sẽ chết trong chòi của tôi hay ở bờ đường.
- Đó là thân xác. Còn linh hồn, nó đi đâu?
- Tôi không biết có phải ai cũng có linh hồn không, hay chỉ có những người mà thần Jupiter cho tới cánh đồng Élisée sau một đời kỳ công, hay thần dẫn họ tới Olympe giống như thần đã làm cho Romulus.
- Mỗi người đều có một linh hồn, và chính điều này làm cho họ khác với loài vật. Anh muốn giống như một con ngựa sao? Hay một con chim, con cá? Thể xác, sau khi chết chỉ là sự hư thối.
- Không. Tôi là người và tôi thích vậy.
- Vậy cái làm cho anh thành người là linh hồn. Không có nó thì anh sẽ không hơn gì một con vật được phú bẩm tiếng nói.
- Linh hồn ở đâu? Nó thế nào?
- Nó không phải vật chất, nhưng nó hiện hữu. Nó ở trong anh. Nó đến từ đấng đã dựng nên thế giới, và nó sẽ trở về với Người sau
321
khi thân xác chết.
- Từ Thiên Chúa của Israel, theo các ông?
- Từ Thiên Chúa độc nhất, vĩnh cửu, Chúa Tối Cao, Đấng Tạo Hóa của vũ trụ.
- Và ngay cả tên lính tội nghiệp như tôi cũng có một linh hồn sẽ trở về với Thiên Chúa?
- Đúng, dù một tên lính quèn cũng có một linh hồn, và linh hồn sẽ là bạn của Thiên Chúa nếu nó luôn luôn tốt, và Thiên Chúa sẽ phạt nó nếu nó xấu.
- Thưa Thầy, Judas đang đến cùng với các mục đồng và các phụ nữ. Nếu con nhìn rõ thì đó là cô con gái trẻ bữa hôm qua - Gioan nói.
- Tôi đi đây anh lính. Hãy sống tốt.
- Tôi không gặp ông nữa sao? Tôi còn muốn biết thêm.
- Tôi ở Galilê cho tới tháng chín. Nếu anh muốn thì hãy tới Caphanaum hay Nazarét. Mọi người sẽ chỉ tôi cho anh. Hãy hỏi Simon Phêrô. Ở Nazarét thì hỏi Maria vợ Giuse. Đó là mẹ tôi. Hãy tới. Tôi sẽ nói với anh về Thiên Chúa thực.
- Simon Phêrô... Maria vợ Giuse... Tôi sẽ tới nếu tôi có thể. Còn nếu ông trở lại thì hãy nhớ tới Alexandre. Tôi thuộc đội bách binh Jêrusalem.
Judas và các mục đồng đã tới cổng.
- Bình an cho tất cả các con - Giêsu nói, và Người muốn nói gì thêm, nhưng một cô gái rất trẻ rẽ đám người ra và qùi ở chân Người: “Phúc lành của Thầy còn ở trên con, lạy Thầy và Chúa con, một cái hôn nữa cho Thầy”. Và cô hôn tay Người.
- Hãy đi. Hãy tốt và sung sướng. Là con gái tốt, rồi người vợ tốt, rồi bà mẹ tốt. Hãy dạy cho các con cái tương lai của con biết tên Thầy và giáo lý của Thầy. Bình an cho con và mẹ con. Bình an và phúc lành cho tất cả những ai là bạn của Thiên Chúa. Bình an cả cho anh nữa, Alexandre.
Giêsu đi.
- Chúng con tới trễ. Nhưng chúng con trễ tại các bà này - Judas giải thích: “Các bà tới Gétsêmani và muốn gặp Thầy. Chúng con
322
cũng tới đó, độc lập với nhóm các bà, tính để cùng đi với Thầy, nhưng Thầy đã đi rồi. Thay vì Thầy, chúng con chỉ thấy các bà. Chúng con muốn rời họ... nhưng các bà bám dính còn hơn ruồi. Các bà muốn biết bao nhiêu thứ. Thầy đã chữa cô gái này à?”
- Ừ.
- Thầy đã nói chuyện với người Rôma?
- Ừ, đó là con tim ngay thẳng và anh ta tìm chân lý.
Judas thở dài.
- Sao con thở dài, Judas? - Giêsu hỏi.
- Con thở dài vì... vì con muốn người mình là những người tìm chân lý. Trái lại, hoặc họ chạy trốn, hoặc họ khinh bỉ hay dửng dưng. Con nản lòng. Con không muốn đặt chân tới đây nữa, và không muốn làm gì khác ngoài nghe Thầy, vì... con không thành công được như một môn đệ.
- Vậy con nghĩ rằng Thầy thành công nhiều sao? Đừng nản lòng, Judas. Đó là cuộc chiến của kẻ truyền giáo, thất bại nhiều hơn thành công. Dù thất bại ở đây, nhưng trên kia luôn luôn là chiến thắng. Chúa Cha nhìn thấy thiện chí của con, dù nó không kết qủa, Người cũng không chúc lành cho con ít hơn.
- Ôi! Thầy tốt - Judas hôn tay Người. “Nhưng con có bao giờ trở nên tốt được không?”
- Có, nếu con muốn.
- Trong những ngày này con thấy rất muốn. Con khổ vì vậy, và con như vậy trong khi luôn luôn nhớ tới Thầy.
- Vậy hãy kiên trì, con sẽ cho Thầy nhiều niềm vui. Còn các con, các con mang tin gì cho Thầy? - Người hỏi các mục đồng.
- Êlie chào Thầy và gởi cho Thầy ít lương thực, và xin Thầy đừng quên ông.
- Ôi! Thầy, Thầy mang các bạn Thầy trong tim. Chúng ta hãy đi tới vùng kia, chỗ có nhiều cây xanh. Rồi chiều nay chúng ta lại lên đường. Thầy sung sướng cùng với các con đi về tìm Mẹ Thầy, và vì đã nói chân lý cho một người ngay thẳng. Thầy sung sướng. Nếu các con biết thế nào là hoàn thành sứ mạng đối với Thầy, và thấy
323
các tâm hồn đến đó, tức là đến cùng Cha, ôi! cũng như thấy các con theo Thầy trong tâm hồn càng ngày càng hơn!...
Tôi không thấy gì khác nữa.
52* GIÊSU VÀ ISAAC Ở GẦN ĐÔCÔ.
KHỞI HÀNH ĐI ESDRELON
- Thưa Thầy, con nói với Thầy rằng những kẻ tốt nhất là những kẻ khiêm tốn. Những người khác mà con quay về, họ chỉ tỏ ra khinh dể và dửng dưng. Ôi! Những đứa nhỏ ở Jutta! - Isaac nói với Giêsu. Tất cả họ đều quây quần trên cỏ ở bờ sông. Dường như Isaac phúc trình về các cố gắng của ông.
Judas ngắt lời. Một điều họa hiếm là ông gọi người mục đồng bằng tên: “Isaac, tôi cũng nghĩ như anh. Giao tiếp với họ, chúng ta mất thời giờ và đức tin. Tôi, tôi bỏ cuộc”.
- Tôi, không, nhưng tôi khổ. Tôi chỉ bỏ cuộc nếu Thầy bảo tôi. Tôi đã quen chịu đựng bao nhiêu năm để trung thành với sự thật. Tôi không thể nói dối để đẹp lòng những kẻ mạnh. Và anh biết, bao nhiêu lần họ tới cười nhạo tôi khi tôi còn tàn tật, và hứa với tôi - Ôi! đương nhiên là lời hứa giả dối - sẽ trợ giúp tôi nếu tôi nói rằng tôi đã nói dối, và Thầy, Giêsu, Thầy không phải là Thầy, Vị Cứu Tinh, Trẻ Sơ Sinh?! Nhưng tôi không thể nói dối. Nói dối tức là từ chối niềm vui của tôi, tức là giết chết niềm hy vọng độc nhất của tôi, tức là xua đuổi Thầy, ôi! Chúa của con! Xua đuổi Thầy! Thầy! Trong đêm khốn cùng của con, trong sự tàn tật buồn thảm của con, con luôn luôn thưởng thức một trời đầy sao: khuôn mặt của mẹ con, niềm vui duy nhất của cuộc đời mồ côi của con; khuôn mặt một người vợ không bao giờ là của con, và với bà, con đã giữ tình yêu cho tới bên kia cái chết. Đó là hai vì sao nhỏ. Rồi hai vì sao lớn hơn, giống như hai vừng trăng trong: Giuse và Maria mỉm cười với một trẻ sơ sinh, và với chúng con, những kẻ mục đồng tội nghiệp. Và rực rỡ ở giữa bầu trời tâm hồn con là khuôn mặt của Thầy: thơ
324
ngây, dịu ngọt, thánh, thánh, thánh! Con không thể xua đuổi bầu trời thuộc về con. Con không thể từ chối ánh sáng của nó, ánh sáng trong sạch nhất có thể hiện hữu. Con thà mất mạng sống con giữa những hành hình còn hơn là xua đuổi Thầy, kỷ niệm phúc lành của con, Giêsu sơ sinh của con.
Giêsu đặt tay trên vai Isaac và mỉm cười. Judas lại nói: “Vậy anh cứ khẩn khoản hoài?”
- Tôi khẩn khoản nhấn mạnh hôm nay, ngày mai và mãi mãi. Có người sẽ tới.
- Công việc sẽ kéo dài bao lâu?
- Tôi không biết. Nhưng hãy tin tôi: chỉ cần là đừng nhìn đàng trước cũng như đàng sau. Làm việc ngày nọ qua ngày kia. Nếu chiều tới, ta thành công thì nói: “Đội ơn Thiên Chúa”, nếu không thì nói: “Con trông cậy vào sự giúp đỡ của Ngài cho ngày mai”.
- Anh khôn ngoan.
- Cả đến tôi không biết cái đó có nghĩa là gì. Nhưng trong sứ mạng của tôi, tôi làm cái tôi đã làm trong bệnh hoạn của tôi. Gần ba mươi năm tàn tật, đâu phải một ngày!
- Tôi tin. Tôi chưa sinh ra thì anh đã tàn tật.
- Tôi tàn tật, nhưng tôi không bao giờ đếm những năm này. Tôi không bao giờ nói: “Đó, tháng Nisan trở lại mà tôi không nở ra cùng với các bông hồng. Đó, tháng Tisri trở lại mà tôi đây còn rũ liệt”. Tôi đi về đàng trước, trong khi nói về Người cho chính mình và cho những người tốt. Tôi không nghĩ tới năm tháng qua đi khi những kẻ trước kia là con nít, bây giờ mang đến cho tôi những bánh ngọt của đám cưới, hay của sinh nhật con chúng. Bây giờ tôi đã già mà tôi trở lại trẻ, nếu tôi nhìn lại sau lưng thì tôi thấy gì trong quá khứ? Chả có gì cả. Đó là quá khứ.
- Không có gì ở đây, nhưng trên trời có tất cả cho con, Isaac. Và cái tất cả này đang chờ con ở đó - Giêsu nói. Rồi Người nói với mọi người: “Phải làm như vậy. Thầy cũng làm như vậy: tiến lên phía trước, không chán nản. Sự chán nản cũng là cái rễ của kiêu căng loài người, và cả sự vội vã cũng vậy. Tại sao người ta chán nản vì
325
thất bại? Tại sao người ta xao xuyến vì chậm trễ? Vì cái kiêu ngạo nói: ‘chúng dám từ chối tôi! Chúng bắt tôi chờ lâu như vậy! Đó là thiếu kính trọng đối với tông đồ của Chúa!’ Không, các bạn ơi! Hãy nhìn sự tạo dựng và nghĩ tới đấng đã làm việc đó. Hãy suy xét những tiến bộ của loài người và hãy nghĩ tới nguồn gốc của họ. Hãy nghĩ tới giờ này của chúng ta và hãy tính xem có bao thế kỷ đi trước nó. Thế giới được tạo dựng là công trình của một sự tạo dựng bình thản. Chúa Cha không làm vũ trụ cách lộn xộn, Người đã thi hành từng giai đoạn. Con người hiện nay là một công việc tiến triển kiên nhẫn, và họ sẽ tiến mãi về sự hiểu biết và sức mạnh, những điều này thánh hay không tùy theo ý muốn của con người. Nhưng con người không trở nên khôn ngoan ngay trong một ngày. Những người đầu tiên bị đuổi khỏi vườn Địa Đàng phải học hết mọi thứ, từ từ, tiệm tiến. Phải học từ những điều đơn giản nhất: làm sao hạt lúa ngon hơn khi nghiền thành bột, làm sao để nướng nó; học đốt lửa bằng củi, học cách làm y phục khi nhìn vào bộ lông súc vật. Học cách làm chỗ trú ẩn bằng cách nhìn các thú rừng. Học làm cái giường khi quan sát tổ chim. Học chữa bệnh bằng các cây và nước khi quan sát các loài vật được thúc đẩy bởi bản năng. Học cách đi băng qua sa mạc và biển khi nghiên cứu các vì sao, bằng cách chế ngự con ngựa. Học sự quân bằng khi lên thuyền do một trái dừa trôi trên sông dạy cho. Bao nhiêu thất bại trước khi thành công. Nhưng sự thành công đến, và người ta vượt qua. Nhưng con người không hạnh phúc hơn nhờ những điều đó, vì họ giỏi trong điều xấu hơn trong điều tốt. Nhưng họ tiến bộ. Sự cứu chuộc chẳng là công việc của kiên nhẫn sao? Được quyết định ngay từ đời đời, từ bên ngoài giới hạn của thời gian, rồi đây, lúc này đã tới cái giờ mà bao thế kỷ đã chuẩn bị. Tất cả đều là công việc của sự kiên nhẫn. Vậy tại sao lại bất nhẫn? Thiên Chúa không thể làm hết ngay trong một chớp nháy sao? Con người được phú bẩm trí khôn, ra khỏi bàn tay Thiên Chúa, không thể biết hết trong một chớp nháy sao? Thầy không thể đến ngay từ lúc bắt đầu thời gian sao? Tất cả đã có thể xảy ra như vậy, nhưng không hung bạo. Không có gì. Sự
326
hung bạo luôn luôn trái ngược với trật tự. Thiên Chúa và tất cả những gì đến từ Thiên Chúa đều trật tự. Các con đừng tham vọng hay hơn Thiên Chúa”.
- Vậy khi nào Thầy mới được biết đến?
- Bởi ai, Judas?
- Nhưng, bởi thế giới!
- Không bao giờ.
- Không bao giờ? Thầy không phải Vị Cứu Tinh sao?
- Thầy là vậy. Nhưng thế giới không muốn được cứu. Chỉ có một phần ngàn số người muốn biết Thầy; và chỉ có một trên mười ngàn số người thực sự theo Thầy. Vả nữa, Thầy sẽ không được biết tới bởi ngay cả những người thân thiết nhất của Thầy.
- Nhưng, nếu họ thân thiết với Thầy thì họ biết Thầy.
- Đúng, Judas. Họ biết Thầy là Giêsu, một người Israel Giêsu, nhưng họ không biết Thầy về những điều Thầy là. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng Thầy sẽ không được biết bởi mọi người thân thiết của Thầy. Biết, tức là yêu với sự trung trành và nhân đức... và sẽ có kẻ không biết Thầy... - Giêsu luôn luôn có cử chỉ của kẻ chán nản và cam phận khi Người tuyên bố kẻ phản bội tương lai: Người xòe bàn tay, giữ yên như vậy, giơ về đàng trước, với khuôn mặt đau khổ, không nhìn vào ai, cũng không nhìn lên trời, nhưng nhìn sâu vào tương lai của số phận kẻ bị phản bội.
- Thầy ơi! Đừng nói vậy - Gioan nói giọng năn nỉ.
- Chúng con theo Thầy để biết Thầy mỗi ngày một hơn - Simon và các mục đồng đều nói.
- Như một người vợ, chúng con theo Thầy, và Thầy còn thân thiết với chúng con hơn là người vợ. Chúng con ghen vì Thầy hơn là ghen vì người đàn bà. Ôi! Chúng con đã biết Thầy nhiều tới nỗi chúng con không thể làm như chúng con không biết Thầy. Anh ta (và Judas chỉ vào Isaac) nói rằng từ chối kỷ niệm về trẻ sơ sinh là Thầy, đối với anh ta còn ghê sợ hơn mất mạng sống. Và đó chỉ là Thầy trong trẻ sơ sinh, còn chúng con, chúng con có Thầy là một người lớn và một vị Thầy; chúng con nghe Thầy và thấy công việc
327
của Thầy; sự tiếp xúc với Thầy, hơi thở của Thầy, cái hôn của Thầy là sự thánh hiến liên tục cho chúng con. Chỉ có Satan mới có thể chối Thầy sau khi đã thân thiết với Thầy!
- Đúng vậy, Judas. Nhưng nó là vậy.
- Khốn cho kẻ đó. Con sẽ là một pháp quan cho nó!
- Không. Hãy để sự phán xét cho Chúa Cha. Hãy là Vị Cứu Tinh cho nó, Vị Cứu Tinh cho linh hồn đi về với Satan này! Nhưng chúng ta hãy chào Isaac. Chiều rồi. Thầy chúc lành cho con, tôi tớ trung thành. Bây giờ con biết rằng Lazarô ở Bêtani là bạn của chúng ta. Ông muốn giúp đỡ các bạn Thầy. Thầy đi, con ở lại. Hãy cày mảnh đất khô cằn của xứ Juđa. Rồi Thầy sẽ trở lại. Khi cần thì con cũng
biết Thầy ở đâu. Bình an của Thầy ở với con. Giêsu chúc lành và hôn người môn đệ của Người.
53* GIÊSU Ở BÊN NGƯỜI MỤC ĐỒNG JONAS
TẠI ĐỒNG BẰNG ESDRELON
Do một lối đi băng qua các cánh đồng thiêu cháy, chỉ có gốc rạ và tiếng dế kêu, Giêsu bước đi với Lêvi và Gioan ở hai bên. Đàng sau là nhóm của Giuse, Judas và Simon.
Trời đêm, nhưng cũng không mát. Đất đai là lò lửa vẫn tiếp tục cháy sau hỏa hoạn ban ngày. Sương không thể làm gì được trên đất khô này. Tôi tin là nó đã bốc hơi trước khi đụng mặt đất. Sức nóng thật nồng nực bốc lên từ các luống và các lỗ nứt của mặt đất. Mọi người đều nín lặng, mệt mỏi và đầy mồ hôi. Nhưng tôi thấy Giêsu mỉm cười. Đêm rất thanh quang, mặc dù trăng sắp lặn, chỉ còn hơi thấy ở trời phía đông.
- Con tin là ông ta ở đó? - Giêsu hỏi Lêvi.
- Chắc chắn ông ở đó. Vào lúc này, lúa thóc đã vào kho nhưng mùa hái trái cây chưa bắt đầu, vì thế các người nông dân họ canh chừng các vườn nho và vườn táo cho khỏi bị mất cắp, và họ không bỏ đi, nhất là với người chủ đòi hỏi như người chủ của Jonas. Samari
328
ở gần bên, và khi những kẻ phản tặc muốn... Ôi! Chúng cướp phá chúng ta, Israel, tùy thích. Chúng không biết rằng sau đó các tôi tớ sẽ bị đòn? A! Chúng biết, nhưng chúng ghét ta, vậy đó.
- Đừng thù ghét, Lêvi - Giêsu nói.
- Không. Nhưng Thầy sẽ thấy chúng làm khổ Jonas chừng nào từ năm năm nay. Từ đó họ thay phiên canh gác suốt đêm, vì đánh đòn là một khổ hình độc ác.
- Còn xa nữa không, để tới nơi?
- Không. Thầy coi: ở cuối vùng đất buồn thiu này, nơi có một vết tối, đó là vườn táo của Doras, người pharisiêu cay nghiệt. Nếu Thầy cho phép, con tới trước để nói với Jonas.
- Đi đi.
- Nhưng Chúa ơi! Có phải tất cả các pharisiêu đều như vậy không? - Gioan hỏi. “Ôi! Con không muốn phục vụ họ. Con thích cái thuyền của con hơn”.
- Cái thuyền là cái biệt ái của con? - Giêsu hỏi, có vẻ hơi đứng đắn.
- Không, chính Thầy. Cái thuyền là khi con chưa biết thế nào là Tình Yêu ở trên mặt đất - Gioan trả lời hăng hái.
Giêsu cười vì sự hăng hái của ông: “Con không biết rằng tình yêu đã có trên mặt đất? Vậy con đã được sinh ra thế nào, nếu ba con không yêu má con?” Giêsu hỏi như để đùa.
- Tình yêu đó cũng đẹp, nhưng nó không hấp dẫn con. Thầy là tình yêu của con. Thầy, trên trái đất, Thầy là Tình Yêu cho thằng Gioan tội nghiệp.
Giêsu kéo ông vào Người và nói: “Thầy muốn nghe con nói điều đó. Tình Yêu khao khát tình yêu, và người ta cho và sẽ luôn luôn cho sự khát khao của nó một giọt cực nhỏ, giống như những hạt sương từ trời rơi xuống, nhưng nó qúa vô nghĩa tới nỗi nó bốc hơi ngay trong khí quyển, trong sự ôm ấp của mùa hè. Ngay các giọt tình yêu của người ta cũng tiêu tan trong không khí, bị giết bởi cơn sốt của qúa nhiều thứ. Qủa tim còn tạo ra nó... Nhưng các lợi ích, các tình yêu, các việc làm ăn, các ước ao tham lam, bao nhiêu,
329
bao nhiêu thứ của loài người đã làm nó bốc hơi. Vậy thì cái gì lên được tới Giêsu? Ôi! Qúa ít! Những gì còn lại của tất cả những hồi hộp trong tim con người, những cái còn có thể sống sót, những hồi hộp để xin, xin, xin khi cảm thấy cần. Yêu Thầy chỉ vì tình yêu sẽ là việc riêng của một số rất nhỏ: những Gioan... Hãy nhìn bông lúa nẩy ngoài mùa này: Có lẽ đó là một hạt bị rớt trong mùa gặt. Nó biết mọc lên, chống chọi với mặt trời, với đất khô để lớn lên, nảy bông... Con coi bông đã thành hình rồi. Chỉ có nó là còn sống trong cánh đồng trần trụi này. Ít lâu nữa là hạt sẽ chín, sẽ bẻ gẫy chiếc bọc láng dính nó vào với dé lúa và sẽ rơi xuống đất, làm việc bác ái cho chim trời, hoặc sẽ mọc lên mỗi hạt thành trăm hạt. Nó còn có thể mọc nữa trước vụ cày mùa đông. Nó sẽ chín và nuôi đám chim bị kẹp bởi cái đói của mùa buồn... Gioan của Thầy, con thấy những điều mà một hạt lúa can đảm có thể làm không? Con số ít ỏi những người yêu Thầy bằng tình yêu cũng vậy. Chỉ một người cũng có thể hạ cơn đói của một số rất đông. Một người cũng làm đẹp cho cả vùng, nơi trước đó chỉ là số không kinh khủng. Một người cũng làm phát sinh sự sống trong nơi chỉ có sự chết. Và những kẻ đói sẽ đến với họ, chúng sẽ ăn những hạt của tình yêu chuyên cần. Nhưng rồi, ích kỷ và đãng tâm, chúng bay đi nơi khác... Nhưng dù chúng không biết rằng cái hạt này đã để một cái mầm sống vào trong máu chúng: Tâm hồn chúng... Và chúng trở lại... và hôm nay, rồi ngày mai, và ngày mốt nữa, như Isaac nói. Sự hiểu biết Tình Yêu sẽ phát triển trong con tim. Cây lúa bị trần trụi, không là gì nữa, một công rơm bị đốt cháy, nhưng bao điều lành sẽ nảy sinh từ sự hy sinh của nó, và phần thưởng sẽ thế nào cho nó!”
Giêsu đã dừng lại một lát trước bông lúa nhỏ mọc ở vệ đường, trong đường mương có lẽ là con suối về mùa mưa. Người tiếp tục nói trong khi Gioan luôn luôn nghe với thái độ say mê như thường lệ. Không những ông uống các lời, mà cả các cử chỉ của Thầy. Những người khác nói chuyện với nhau, không nhận ra cuộc đàm thoại êm đềm.
Bây giờ họ đã tới vườn táo. Họ dừng chân và tụ lại. Trời nóng
330
tới nỗi họ đầy mồ hôi, dù không mặc áo khoác. Họ yên lặng để chờ.
Trong đám cây tối mà ánh trăng soi mờ mờ, nhô ra cái bóng hơi mầu sáng của Lêvi, đàng sau ông là cái bóng tối hơn: “Thưa Thầy, Jonas đây”.
- Nguyện bình an của Thầy đến với con - Giêsu nói để chào ông ngay cả trước khi Jonas tới nơi.
Nhưng Jonas không trả lời. Ông chạy, qùi phập ở chân Người, khóc và hôn chân. Khi ông có thể, ông nói: “Con đã chờ Thầy biết bao! Thất vọng biết bao khi thấy đời sống qua đi, cái chết lại gần mà phải nói: ‘Tôi không gặp Người!’ Nhưng không, hy vọng của con không chết hết. Ngay cả khi con gần chết, con cũng nói: Bà đã nói: ‘Các anh sẽ còn phục vụ Người nữa’. Và bà không thể nói điều không có thật. Đó là mẹ Đấng Emmanuel. Vậy không có ai hơn bà có Thiên Chúa ở với mình. Và ai có Thiên Chúa thì biết những gì thuộc về Thiên Chúa”.
- Đứng dậy đi. Mẹ gởi lời chào con. Con đã có Mẹ, và con có Mẹ là hàng xóm: Mẹ ở Nazarét.
- Mẹ! Thầy! Ở Nazarét! Ôi! Nếu con biết! Ban đêm, những đêm băng giá mùa đông, khi đồng quê ngủ yên, và các kẻ dữ không làm phiền các nông dân, thì con sẽ vội vã đến hôn chân Thầy và Mẹ, và con sẽ trở về cùng với kho báu là sự xác thực của con. Chúa ơi! Sao Ngài không tỏ mình ra?
- Là vì chưa đến giờ. Bây giờ thì giờ đã đến. Phải biết chờ. Con đã nói: “Vào tháng băng giá, đồng quê ngủ yên”. Nhưng nó đã được gieo hạt. Con đã thấy Thầy vào lúc gieo hạt, rồi Thầy biến mất, chôn vùi trong sự yên lặng cần thiết, để phát triển cho tới thời gặt hái, và sáng lên trước mắt kẻ đã thấy Thầy là trẻ sơ sinh và trước mắt thế giới. Thời gian này đã tới. Bây giờ trẻ sơ sinh sẵn sàng trở nên bánh cho thế giới. Thầy tìm các kẻ tin Thầy trước mọi người khác và nói với họ: “Hãy đến và hãy no thỏa bằng Thầy”.
Người đó nghe, mỉm cười sung sướng, và không ngừng nói như
331
nói trong lòng mình: “Ôi! Đúng Người rồi! Đúng Người rồi!”
- Con đã có lần sắp chết à? Khi nào?
- Khi con bị đánh hầu chết vì người ta hái trộm hai cây nho. Thầy coi, bao nhiêu vết thương! - Và ông tụt áo, để lộ đôi vai đầy các vết thẹo: “Ông đã đánh con bằng cây gậy bịt sắt. Ông đã đếm các chùm nho bị hái. Nó nhìn thấy vì nó còn lại những cái cuống. Và cứ mỗi chùm, ông đập một gậy thật mạnh. Rồi ông để con ở công trường, nửa sống nửa chết. Con được cứu giúp bởi Maria, vợ của bạn con. Bà đã cứu trợ con. Cha bà đã là quản lý trước con. Và khi con tới đây, con đã quyến luyến cái bà nhỏ này, vì bà có tên là Maria. Bà săn sóc con, con đã khỏi sau hai tháng. Khi vì trời nóng, các vết thương của con bị nhiễm độc nên con bị sốt rất nặng, con đã thưa cùng Thiên Chúa Israel: ‘Không quan trọng, xin cho con thấy dung nhan Đấng Messi của Ngài, và sự đau đớn này sẽ không quan trọng. Xin nhận nó như lễ hy sinh. Không bao giờ con được dâng Ngài một lễ hy sinh. Con là đầy tớ của một người độc ác, và Ngài biết, cả lễ Vượt Qua ông cũng không cho con tới bên bàn thờ Ngài. Xin hãy nhận con làm lễ toàn thiêu, nhưng xin ban Người cho con’”.
- Và đấng Tối Cao đã làm thỏa mãn con. Jonas, con muốn phục vụ Thầy như các bạn con không?
- Ôi! Nhưng làm cách nào?
- Cũng như họ. Lêvi biết. Ông sẽ nói cho con phục vụ Thầy nó đơn giản chừng nào. Thầy chỉ cần thiện chí.
- Con đã tặng nó cho Thầy khi Thầy còn là bé tí oe oe. Bởi nó, con đã thắng tất cả, sự thất vọng cũng như sự thù ghét. Chỉ có điều... Ở đây con chỉ nói được rất ít... Một lần ông chủ đã đá con tơi bời vì con xác nhận và qủa quyết rằng Thầy đã hiện hữu. Nhưng khi ông ta ở xa, và với những người mà con có thể hãnh diện, ôi! Con đã nói những kỳ diệu của cái đêm đó.
- Và bây giờ con nói về kỳ diệu của việc gặp Thầy. Thầy đã tìm được hầu như tất cả các con, và tất cả đều trung thành. Đó không là một kỳ diệu sao? Chỉ vì đã nhìn ngắm Thầy với Đức Tin và tình yêu, các con đã trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa và loài
332
người.
- Ôi! Bây giờ con có can đảm! Can đảm! Bây giờ con biết Thầy ở đó và con có thể nói: “Người ở đó. Hãy đến với Người”. Nhưng ở đâu Chúa?
- Khắp nơi trong Israel. Thầy sẽ ở Galilê cho tới tháng chín, thường ở Nazarét hay Caphanaum. Từ nay họ có thể tới đó tìm Thầy. Rồi... Thầy sẽ ở khắp nơi. Thầy đến để tụ họp các chiên của Israel.
- Ôi! Chúa ơi! Ngài sẽ gặp rất nhiều dê. Hãy nghi ngờ các kẻ mạnh của Israel.
- Họ không làm hại Thầy được nếu chưa đến giờ. Con, hãy nói với các người chết, các người ngủ mê, các người sống rằng Đấng Messi đang ở giữa chúng ta.
- Chúa ơi, nói với người chết?
- Với các linh hồn chết. Còn những người chết khác, những kẻ chết trong Chúa, họ đã nhảy mừng vì sắp được giải phóng khỏi Lâm Bô. Hãy nói với người chết rằng Thầy là sự sống, nói với những ai ngủ mê rằng Thầy là mặt trời mọc lên để kéo họ ra khỏi giấc ngủ. Hãy nói với các người sống rằng Thầy là Chân Lý mà họ tìm.
- Và Thầy cũng chữa các người bệnh? Lêvi đã nói với con về Isaac. Phép lạ chỉ cho mình ông thôi, vì ông là mục đồng, hay cho hết mọi người?
- Với những người tốt, phép lạ là phần thưởng chính đáng; với người ít tốt, phép lạ là để dẫn họ tới lòng tốt thực sự. Đôi khi cũng cho cả kẻ xấu, để lay động họ, để thuyết phục họ rằng Thầy hiện hữu, và Thiên Chúa ở với Thầy. Phép lạ là một ơn, và ơn này là cho người tốt. Nhưng khi đấng là Tình Thương thấy người ta nặng nề chừng nào, và chỉ một biến cố kỳ diệu mới có thể lay động họ, thì Người cũng dùng nó, và cũng là để nói: “Ta đã làm tất cả cho ngươi, nhưng tất cả đều vô ích. Vậy chính ngươi hãy nói Ta phải làm gì hơn nữa”.
- Lạy Chúa, Ngài có khinh bỉ vào nhà con không? Nếu Ngài bảo
333
đảm rằng kẻ trộm không vào trong nội khu, thì con muốn mời Thầy vào trú, và con sẽ gọi đến chung quanh Thầy một số người đã biết Thầy bởi lời con. Ông chủ dày đạp chúng con dưới chân và bẻ gẫy chúng con như cây cỏ thấp hèn. Chúng con chỉ hy vọng phần thưởng đời đời. Nhưng nếu Thầy tỏ mình ra cho những kẻ bị khinh chê, họ sẽ có một sức mạnh khác.
- Thầy tới. Đừng sợ cho cây cối và vườn nho. Con có thể tin rằng các thiên thần sẽ canh giữ cho con không?
- Ôi! Chúa ơi, con đã thấy các vị, các tôi tớ trên trời của Thầy. Con tin và con đi với Thầy trong yên hàn. Phúc cho những cây cối và vườn nho này mà gió nhẹ là sự tung cánh và tiếng hát của các thiên thần. Phúc cho mảnh đất này mà bàn chân Thầy đã thánh hóa nó. Xin đến, Chúa Giêsu. Hỡi cây cối và vườn nho, hỡi đồng quê, hãy nghe: Bây giờ tao giao phó chúng mày cho danh Người vì sự yên hàn của tao. Tao đã nói vậy với Người. Hãy nghe, Giêsu ở đây, và trong các cành cây cành nho, nhựa sống hãy nhảy mừng. Đấng Messi ở với chúng ta.
Tất cả chấm dứt với những lời vui vẻ này.
Buổi chiều cùng ngày: 26-01-1945, 20 giờ:
Nếu không phải là giờ giới nghiêm thì con đã xin đi tìm cha, vì con quá ghê sợ bởi sự xuất hiện của ma qủi, ma qủi chính thức, không ngụy trang cách nào cả. Đó là một hình người cao, gầy, phun khói, trán hẹp và thấp, mặt nhọn, mắt lõm sâu, cái nhìn độc ác, mỉa mai, giả dối tới nỗi chút nữa là con hô cầu cứu. Con đang cầu nguyện trong bóng tối của phòng con trong khi Matta ở trong bếp. Và đó chính là con đang cầu cùng trái tim vô nhiễm Mẹ. Nó hiện ra với con sau khi cửa đóng. Nó đen trong bóng đen, nhưng con thấy rõ mọi chi tiết của thân mình trần, ghê tởm, không phải vì bị biến dạng, nhưng vì cái gì con không biết. Sự ghê sợ kinh tởm của nó được tỏa ra từ khắp các chi thể của nó. Con không thấy đuôi, cũng không thấy sừng và bàn chân chia nhánh như người ta thường trình bày. Nhưng con phải nói là nó giả dối, mỉa mai, độc ác, thù hận, rình rập. Đó là những điều mà bộ dạng qủi quyệt và độc ác của nó diễn tả. Nó nhạo cười con và chửi bới con, nhưng nó không dám tới gần hơn. Nó ở đó, bị chôn chặt ở gần cửa vào. Nó ở đó trong khoảng không dưới mười phút, rồi nó đi, nhưng nó làm con đổ mồ hôi hột, vừa nóng vừa lạnh.
Trong lúc sợ hãi, con tự hỏi tại sao lại có hiện tượng này. Giêsu liền bảo con: “Vì con đã mạnh mẽ xua đuổi nó trong cái sở trường chính của nó”.(Trong khi con cầu xin Mẹ Maria, có cái gì quay cuồng dai dẳng trong tâm trí con... Con không biết phải gọi cái này là gì, vì nó không phải một tiếng nói, không phải một tư tưởng, không là cái gì, nhưng nó là cái gì như nói: “Không có mày thì sẽ có chuyện sắp xảy ra ở đây. Nhưng vì công nghiệp của mày nên nó không xảy ra, vì mày rất được Thiên Chúa yêu”. Con, con không biết con có làm đúng không, nhưng con thấy dường như con làm đúng. Khi con nghe như
334
vậy, con nói: “Cút đi, Satan. Đừng cám dỗ tao. Vì nếu đó là Giêsu nói với tao thì tao nhận, nhưng người khác nói thì chỉ là để mài bén sự tự mãn của tao đối với chính mình”). Vậy Giêsu đã bảo con: “Vì con đã mạnh mẽ xua đuổi nó trong cái sở trường chính của nó: Sự kiêu căng. Ôi! Nó ước có thể làm con sa ngã về điểm này! Con có thấy nó rõ không? Con có nhận xét rằng hình dạng của nó, Cha muốn nói là chủ quyền của nó, tính cách làm cha của nó, xuất hiện và lộ ra nơi những người, dù chỉ tạm thời phục vụ nó không? Con đừng ngạc nhiên khi thấy, với một người, nó hiện ra trong bộ dạng ghê tởm của một con vật dơ bẩn, ô uế, một quái vật chương phình, bốc ra men dâm đãng, là vì tạo vật khốn nạn này là một đống phân trụy lạc của nhiều tội lỗi, và tội về xác thịt là chính. Hãy nghĩ đến những kẻ, bằng một cách khác, đã làm con kinh ngạc và đau khổ. Với những kẻ có lẽ đã là dụng cụ của Satan chỉ trong một giờ, để dằn vặt một linh hồn trung thành, để làm khổ họ trong khi làm khổ con. Họ đã chẳng có cùng một sự độc ác dữ dằn mà con thấy hoàn toàn ở nơi nó sao? Ôi! Nó tỏ lộ ra nơi những kẻ phục vụ nó. Nhưng đừng sợ. Nó không thể làm hại con nếu con ở với Cha. Nó ghét con, ôi, vô giới hạn. Nhưng nó bất lực để hại con, nếu con không cho phép linh hồn con tự tìm mình, và nếu con ở dưới sự bảo vệ của Trái Tim Cha. Như vậy con nghĩ nó có thể làm hại gì được con? Hãy viết điều này và viết cả những thị kiến khác ít quan trọng hơn mà con thấy. Cha linh hướng cũng phải biết điều này, và nó không phải là không có mục đích. Và hãy biết rằng đã tới mùa xuân của Cha, mùa Cha ban cho các kẻ ưu ái của Cha. Các bông hoa tím và các cây xuân thảo lấp lánh trong đồng cỏ mùa xuân. Sự tham gia vào các đau đớn của Cha lấp lánh trong những ngày chuẩn bị cuộc tử nạn nơi các bạn Cha. Hãy đi bình an. Cha
chúc lành cho con để làm tan biến những sợ hãi còn lại trong con, nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”.
54* TRỞ VỀ NAZARÉT SAU KHI TỪ BIỆT JONAS
Trời lờ mờ sáng. Trước cửa một cái lều tồi tàn, tôi gọi nó vậy, vì sẽ cho nó quá nhiều danh dự nếu gọi nó là cái nhà, Giêsu ở đó với các người của Ngài, cùng với Jonas và những người khác bần cùng cũng như ông. Đây là giờ từ giã.
- Lạy Chúa, con không gặp Thầy nữa sao? - Jonas hỏi. “Thầy đã mang ánh sáng vào tim con. Lòng nhân từ của Thầy đã làm cho những ngày này thành buổi lễ sẽ tồn tại suốt đời con. Nhưng Thầy đã thấy chúng con bị đối xử thế nào. Người ta săn sóc các con vật hơn chúng con, và người ta nhân đạo với cây cối hơn. Chúng tượng trưng cho tiền bạc, chúng con chỉ là những cái máy để làm tiền, và người ta khai khẩn chúng con tới khi chúng con chết vì kiệt lực. Nhưng các lời Thầy đã vỗ về chúng con như cánh các thiên thần.
335
Tấm bánh, chúng con cảm thấy như dồi dào hơn và ngon hơn, vì Thầy đã ăn với chúng con, cái bánh mà cả đến người ta không cho chó ăn. Chúa ơi! Xin trở lại để chia sẻ nó với chúng con. Chỉ với Thầy con mới dám nói. Với người khác thì sẽ là một xúc phạm, vì đã tặng cho họ một chỗ trú và một lương thực mà người hành khất cũng chê. Nhưng Thầy...”
- Nhưng Thầy, Thầy thấy nó thơm, nó có hương vị Thiên Quốc, vì nó có đức tin và tình yêu. Thầy sẽ trở lại, Jonas, Thầy sẽ trở lại. Hãy ở lại chỗ của con. Con giống như một con vật bị buộc vào càng xe. Nguyện cho cái chỗ của con là cái thang Jacob. Và thực sự, các thiên thần lên xuống từ trời tới con, chuyên chú thu lượm mọi công nghiệp của con để đem lên Thiên Chúa. Nhưng Thầy sẽ trở lại với con để nâng đỡ tâm hồn con. Hãy luôn luôn trung thành với Thầy. Ôi! Thầy sẽ trở lại để cho các con kể cả bánh loài người. Nhưng Thầy không thể, Thầy phải nói với các con: hãy chịu đựng hơn nữa. Và điều đó thật đau lòng cho kẻ yêu...
- Lạy Chúa! Nếu Thầy yêu chúng con thì không còn khổ nữa. Trước đây không có ai yêu chúng con... Ôi! Chớ gì ít nhất con được thấy Mẹ Thầy!
- Đừng băn khoăn. Thầy sẽ dẫn Mẹ đến với con. Khi mùa nóng bớt gay gắt, Thầy sẽ tới cùng với Mẹ. Đừng phơi mình ra trước những hình phạt vô nhân đạo vì vội vã gặp Mẹ. Hãy biết chờ như người ta chờ ngôi sao mọc, ngôi sao đầu tiên. Nó sẽ hiện ra với con thình lình như ngôi sao hôm đầu tiên mà người ta không thấy, rồi bỗng chốc nó nhấp nháy trên trời. Và hãy nghĩ rằng bây giờ, Mẹ đã giãi tỏa ơn phúc tình yêu của Mẹ trên con. Chào tất cả các con. Nguyện bình an của Thầy bảo vệ các con trước sự hà khắc làm các con lo âu. Chào Jonas. Đừng khóc. Con đã chờ bao năm với một đức tin kiên trì. Bây giờ Thầy hứa với con một sự chờ đợi rất ngắn hơn. Đừng khóc. Thầy không để con cô đơn. Lòng tốt của con đã lau nước mắt trẻ thơ cho Thầy, chẳng lẽ lòng tốt của Thầy không lau nước mắt cho con bây giờ sao?
- Vâng... Nhưng Thầy đi... Con ở lại...
- Bạn Thầy, Jonas, đừng để Thầy ra đi mà bị đè nặng vì không
336
thể nâng đỡ con...
- Chúa ơi! Con không khóc, nhưng bây giờ con biết rằng Thầy còn sống, làm sao con có thể sống khi không còn được thấy Thầy nữa?
Giêsu vuốt ve khuôn mặt méo mó của ông già, rồi Người đi. Nhưng Người đứng ở biên giới cái sân tồi tàn, mở tay chúc lành cho đồng quê. Rồi Người đi.
- Thầy làm gì vậy? - Simon hỏi, vì ông nhìn thấy cử chỉ khác thường của Người.
- Thầy đóng ấn trên tất cả các vật để Satan không thể làm hại các kẻ khổ sở này bằng cách phá hại chúng. Thầy không thể làm gì hơn...
- Thưa Thầy, chúng ta đi mau lên phía trước. Con muốn thưa Thầy một điều mà con không muốn người ta nghe. - Họ tách rời khỏi nhóm, và Simon nói: “Con muốn nói với Thầy rằng Lazarô đã có lệnh dùng món tiền đó để trợ giúp tất cả những ai đến xin ông giúp nhân danh Giêsu. Chúng ta không thể giải phóng cho Jonas sao? Người này kiệt quệ và không còn cái vui được có Thầy. Hãy cho ông số tiền đó. Công việc của ông ở đây, Thầy muốn nó là cái gì? Được tự do thì ông sẽ là môn đệ của Thầy trong đồng bằng rất đẹp và rất đáng thương này. Các người giầu nhất của Israel có những vùng đất tuyệt vời ở đây, và họ khai khẩn với sự cho vay nặng lãi độc ác, đòi người ta làm việc để trả một trăm đồng cho một đồng. Con biết từ nhiều năm rồi, Thầy rất ít có thể ở đây, vì phái pharisiêu là chủ, và con không tin là có ngày họ sẽ là bạn Thầy. Những kẻ khốn nạn nhất trong Israel là những người làm việc bị đàn áp, không thấy ánh sáng. Thầy đã nghe ông nói: ngay lễ Vượt Qua người ta cũng không để cho họ yên hàn cầu nguyện, trong khi những người chủ độc ác, với những cử chỉ nghênh ngang kịch tuồng, đứng ở hàng đầu các tín hữu. Các người khổ sở, ít nhất họ sẽ được niềm vui biết rằng Thầy ở đây, và được nghe nhắc lại các lời của Thầy bởi một kẻ không biết thay đổi một chữ nhỏ. Nếu đó cũng là ý kiến của Thầy, xin Thầy ra lệnh, và Lazarô sẽ làm”.
337
- Simon, Thầy hiểu tại sao con từ bỏ hết mọi của cải. Thầy không lạ gì tư tưởng con người, và Thầy cũng yêu con vì lý do này nữa. Khi làm vui cho Jonas, con cũng làm vui cho Giêsu. Ôi! Thầy lo âu chừng nào khi thấy người tốt phải đau khổ. Điều kiện nghèo khó và bị thế giới khinh bỉ của Thầy chỉ làm Thầy lo lắng như vậy thôi. Judas, nếu ông ta nghe thầy nói như vậy, ông ta sẽ nói: “Nhưng Thầy không phải Ngôi Lời của Thiên Chúa sao? Hãy ra lệnh cho các cục đá trở nên vàng và bánh cho những kẻ khổ sở này”. Ông sẽ dùng lại cái bẫy của Satan. Thầy rất muốn cho người đói được ăn no, nhưng không như Judas muốn. Các con còn được đào tạo qúa ít để hiểu ý nghĩa sâu xa của điều Thầy nói. Nhưng Thầy nói nó với con: Nếu Thiên Chúa cung cấp tất cả, Người sẽ phạm tội ăn cắp đối với các bạn Người. Người sẽ lấy của họ khả năng biết thương xót, và bởi vậy, biết vâng lời giới răn Tình Yêu. Các bạn Thầy cần phải có dấu hiệu này của Thiên Chúa để làm cho họ nên giống Người: Sự Thương Xót thánh biểu lộ trong việc làm và lời nói. Và sự khốn nạn của kẻ khác cho các bạn Thầy có dịp để thi hành. Con hiểu tư tưởng này không?
- Nó sâu xa, con sẽ suy niệm, và con khiêm nhường hiểu rằng con trì độn biết bao, và Thiên Chúa cao cả biết bao! Người muốn cho chúng ta có tất cả những đặc tính êm ái như Người để có thể gọi chúng ta là con Người. Thiên Chúa tỏ mình ra cho con trong sự toàn thiện của Người nhờ Ánh Sáng mà Thầy đã đặt vào trong tim con. Ngày qua ngày, giống như một người đi trong xứ lạ, con khám phá ra thực tại mênh mông là Đấng Trọn Lành muốn gọi chúng ta là “Con”. Con thấy mình bay lên như con ó, hay ngụp lặn như con cá trong chiều sâu vô tận như trời và bể. Và con càng bay lên hay lặn xuống, con càng không thấy, không bao giờ thấy giới hạn. Vậy Thiên Chúa là gì?
- Thiên Chúa là sự Trọn Lành mà người ta không thể đạt tới. Thiên Chúa là Vẻ Đẹp tuyệt đối. Thiên Chúa là Sức Mạnh vô song, Thiên Chúa là Thực Thể không thể hiểu thấu, Thiên Chúa là Sự Khôn Ngoan khôn lường, Thiên Chúa là Tình Yêu trở thành Thiên Chúa. Người là Tình Yêu! Người là Tình Yêu! Con nói rằng con
338
càng biết Thiên Chúa trong sự trọn lành của Người, con càng thấy mình như ngụp lặn trong hai vực sâu không đáy của mầu xanh không bóng tối... Nhưng khi con sẽ hiểu thế nào là Tình Yêu trở thành Thiên Chúa, con sẽ không bay lên, cũng không lặn xuống trong mầu xanh nữa, nhưng con sẽ vào trong cơn lốc sáng ngời của lửa, con sẽ được hút bởi một phúc lộc sẽ là sự chết và sự sống đối với con. Con sẽ được chiếm hữu Thiên Chúa hoàn toàn khi, bởi ý muốn của con, con đạt tới chỗ hiểu Người và đáng được Người. Lúc đó con sẽ được gắn liền vào sự trọn lành của Người.
- Ôi! Chúa ơi! - Simon như bị đè bẹp.
Một lúc yên lặng. Họ lên tới lộ. Giêsu dừng lại để chờ những người khác. Khi cả nhóm đã tụ họp, Lêvi qùi gối: “Con phải từ giã Thầy, nhưng tôi tớ Thầy xin Thầy một điều: xin dẫn con tới nhà Mẹ Thầy. Người này cũng mồ côi như con, xin Thầy đừng từ chối con điều Thầy cho nó, để con được thấy mặt một người mẹ...”
- Hãy tới. Tất cả những gì người ta xin nhân danh Mẹ Thầy thì thầy sẽ cho nhân danh Mẹ Thầy.
- - - - - - - - -
Giêsu có một mình. Người bước rất mau giữa những cây oliu đầy trái đã khá lớn. Mặt trời đang xế, chiếu những tia nắng trên chòm lá của những cây cối an bình, nhưng chỉ một số rất ít tia lọt qua được các cành chen chúc. Trái lại, con lộ chính là một giải băng bụi sáng chói.
Giêsu tiến bước và mỉm cười. Người đã tới một nơi cheo leo, Người mỉm cười hơn nữa. Đây, Nazarét... Nó như rung rinh dưới mặt trời, vì ánh sáng chói bao phủ nó. Người xuống dốc lẹ hơn. Người tới con đường. Bây giờ Người không còn lưu ý tới mặt trời nữa. Giống như Người bay, vì Người bước quá lẹ. Áo khoác che nón trên đầu phình ra, phập phồng ở đàng sau và hai bên. Con đường vắng lặng cho tới những căn nhà đầu tiên. Ở đây, từ trong nhà hay các khu vườn vọng ra tiếng nói trẻ con hay phụ nữ, các khu vườn mà chòm lá rủ bóng cả ra ngoài lộ. Giêsu lợi dụng các bóng râm để tránh bị nắng rọi liên tục. Người quẹo vào một con đường
339
rợp bóng một bên. Người thấy các phụ nữ quây quần quanh một cái giếng mát. Các bà chào Người, hầu như tất cả đều có giọng bắc, vì sự trở về vui vẻ của Người.
- Bình an cho tất cả các bà... Nhưng nín lặng nhé... Tôi muốn làm cho má tôi ngạc nhiên!
- Chị dâu bà đã trở về với một vò nước mát, nhưng chắc bà sẽ trở ra. Các bà thiếu nước vì suối cạn hay vì nước bị thấm hết vào đất khô trước khi tới vườn của bà, tôi không biết. Maria Alphê sẽ nói. Kìa, bà đang tới.
Bà mẹ của Juđa và Giacôbê tới với một cái vò ở trên đầu và hai cái ở hai tay. Bà không nhìn thấy Giêsu ngay. Bà kêu: “Như vầy cho lẹ. Maria buồn thiu vì các cây của cô chết khát. Đó vẫn còn là những cây của Giuse và Giêsu, và cô ấy như bị giật mất con tim khi thấy chúng rũ xuống”.
- Nhưng bây giờ cô ấy sắp thấy cháu... - Giêsu nói khi xuất hiện ở đàng sau nhóm.
- Ôi! Giêsu của tôi! Bác mừng cháu... Bác đi nói với cô ấy...
- Không, cháu đi. Đưa các vò cho cháu.
- Cổng mở hé. Maria đang ở trong vườn. Ôi! Cô ấy sẽ sung sướng chừng nào! Sáng nay cô ấy còn nói về cháu. Nhưng về dưới cái nắng này! Cháu ướt đẫm mồ hôi! Cháu có một mình à?
- Không, với các bạn. Nhưng cháu về trước để gặp mẹ cháu trước tiên. Còn Juđa?
- Nó ở Caphanaum. Nó tới đó hoài... - Maria không nói gì hơn, nhưng bà mỉm cười trong khi lấy khăn voan của bà lau mặt đẫm mồ hôi của Giêsu.
Các vò đã đầy. Giêsu lấy giây lưng buộc hai vò vắt lên vai và cầm tay một. Người mau lẹ về nhà, đẩy cửa ra, vào trong căn phòng nhỏ có vẻ tối khi từ ngoài trời nắng vào. Người nhè nhẹ nâng chiếc màn gió ở cửa thông ra vườn và Người quan sát. Maria đứng bên một cây hồng, quay lưng về nhà. Mẹ phàn nàn vì cây bị khát. Giêsu để các vò xuống đất. Vò đồng vang lên tiếng động khi chạm vào đá
340
sỏi.
- Đã về rồi à Maria? - Mẹ nói mà không quay lại: “Lại đây coi này: Cây hồng này, các cây huệ tội nghiệp này, chúng sẽ chết nếu không tưới cho chúng. Mang cả các que để chống cho các cây đã ngã”.
- Con mang tới hết cho má đây!
Maria quay phắt lại, sững sờ một giây, mở tròn đôi mắt, rồi kêu lên, chạy về với Con Mẹ, hai tay giơ ra. Người cũng đã giơ tay sẵn sàng để chờ Mẹ với nụ cười toàn là tình yêu.
- Ôi! Con má!
- Má yêu của con! - Hai người bộc lộ hồi lâu. Maria qúa sung sướng tới nỗi Mẹ không thấy, không nghĩ tới là Giêsu đầy mồ hôi. Nhưng rồi Mẹ nhìn ra: “Con ơi! sao vào giờ này? Con đỏ như vải điều và nhỏ ra mồ hôi như cái bọt bể. Đi! Đi vào bên trong để má lau cho con và rửa mát cho con; má sẽ thay áo mới và xăng đan sạch cho con. Nhưng con ơi! Con ơi! Tại sao con đi đường vào giờ nắng nôi này? Các cây còn chết vì nóng, mà con, bông hoa của má, con ở trên đường!”
- Để tới nhà má trước tiên!
- Ôi! Cục cưng! Con khát? Ôi! Chắc chắn rồi. Má đi làm...
- Khát cái hôn của má, cái vuốt ve của má. Hãy để con ngồi như vầy, tựa đầu vào vai má như khi con còn nhỏ... Ôi! Má! Con nhớ má chừng nào!
- Nhưng con ơi, hãy bảo má đến, má sẽ đến. Con thiếu gì trong khi vắng mặt má? Một đồ ăn ưa thích? Y phục mát mẻ? Một cái giường hẳn hoi? Ôi! Niềm vui của má! Hãy nói cho má con thiếu gì? Ôi! Chúa của má! Nữ tì của con sẽ cung cấp cho con.
- Chỉ thiếu có má thôi.
Giêsu đã dắt tay Mẹ Người để vào nhà, ngồi trên chiếc rương ở gần tường, trước mặt Mẹ, Người quàng tay ôm Mẹ, gục đầu vào ngực Mẹ và thỉnh thoảng hôn Mẹ. Bây giờ Người nhìn Mẹ đăm đăm: “Hãy để con nhìn má, để cái nhìn của con tràn đầy má. Ôi!
341
Người má thánh của con!”
- Thay áo trước đi đã. Sẽ khó chịu nếu ướt mồ hôi như vầy. Đi!
Giêsu vâng lời. Khi Người trở lại với bộ đồ mát, cuộc đàm thoại lại bắt đầu, đầy ngọt ngào.
- Con về với các môn đệ và các bạn. Con đã tạm biệt họ ở rừng Melca. Bình minh ngày mai họ sẽ tới. Con, con không thể chờ nữa. Má của con!... - và Người hôn tay Mẹ. “Maria Alphê đã về để chúng ta được tự do. Bà cũng hiểu con khát má chừng nào. Ngày mai... Ngày mai má sẽ thuộc về các bạn con, và con thuộc về các người Nazarét. Nhưng chiều nay, má là bạn của con, và con là bạn của má. Ôi! Má này, con mang về cho má... Con đã tìm được các mục đồng ở Bétlem, và con dẫn về cho má hai người. Họ mồ côi, và má là mẹ, cho tất cả, nhưng nhiều hơn cho các kẻ mồ côi. Và con cũng dẫn về cho má một người cần má để thắng chính mình, và một người khác, người công chính nhưng đã phải khóc. Và rồi Gioan. Con mang cho má cái kỷ niệm của Êlie, Isaac, Tobie - bây giờ là Mathia - Gioan và Simêon. Jonas là kẻ khốn cùng nhất. Con sẽ dẫn má đến với ông. Con đã hứa vậy với ông. Những người khác thì con còn đang tìm. Samuel và Giuse đã ở trong bình an của Thiên Chúa”.
- Con đã tới Bétlem à?
- Vâng, má à. Con đã dẫn các môn đệ đang ở với con tới đó, và con mang về cho má các bông hoa nhỏ đã mọc ở giữa các tảng đá ở cửa.
- Ôi! - Maria cầm những công khô và hôn. “Còn Anna?”
- Bà đã chết trong cuộc tàn sát của Hêrôđê.
- Ôi! Tội nghiệp. Bà yêu con chừng nào!
- Các người Bétlem đã khổ rất nhiều, và họ bất công với các mục đồng. Nhưng họ qúa khổ...
- Nhưng hồi đó họ đã tốt với con!
- Vâng. Vì vậy phải thương họ. Satan đã ghen vì lòng tốt của họ và đã khích động họ tới điều xấu. Con cũng đã tới Hébron. Các người mục đồng bị bách hại...
- Ôi! Tới cỡ đó sao?
- Vâng. Họ được Zacari giúp, và nhờ ông, họ có chủ và có bánh,
342
dù họ có những chủ hà khắc. Nhưng đó là các linh hồn công chính, nên họ đã làm cho sự bách hại và các vết thương thành những lâu đài thánh thiện. Con đã tụ tập họ. Con đã chữa cho Isaac... Và con đặt tên con cho một trẻ sơ sinh... Tại Jutta, nơi Isaac bệnh hoạn đã ở, và là nơi ông trở về với đời sống, có một nhóm trẻ thơ mà tên chúng là Maria, Giuse, Giêsai.
- Ôi! Tên con!
- Và tên má với tên vị công chính. Và ở Kêriot, quê của một môn đệ, một người Israel trung thành đã chết trong lòng con... Vì vui được có con... Rồi... Ôi! Bao nhiêu thứ để kể cho má, người bạn toàn hảo, người mẹ êm đềm của con! Nhưng để bắt đầu, con xin má thương nhiều tới các kẻ sẽ tới ngày mai. Má ơi! Họ yêu con... nhưng họ không hoàn hảo. Má, thầy của mọi nhân đức! Ôi má! Hãy giúp con làm cho họ nên tốt... Con muốn cứu tất cả họ... - Giêsu lết dưới chân Maria, bây giờ oai phong đúng là bà mẹ.
- Con của má! Người má tội nghiệp của con làm được gì hơn con?
- Các hy sinh... Các nhân đức của má thánh hóa họ. Con đã cố ý dẫn họ về với má. Má ơi, một ngày kia con sẽ nói với má: “Hãy đến”, vì lúc đó là khẩn cấp phải thánh hóa các linh hồn, để con có thể tìm thấy nơi họ ý muốn được cứu chuộc. Mà mình con thì con không thể... Sự yên lặng của má cũng linh hoạt như lời con. Sự trong sạch của má sẽ phụ giúp cho sức mạnh của con. Sự hiện diện của má đuổi xa Satan... Và má ơi! Con má sẽ tìm được sức mạnh khi biết rằng má ở gần. Má sẽ tới phải không, người mẹ êm đềm của con?
- Giêsu, con yêu của má! Má cảm thấy con không sung sướng... Con làm sao? Con của lòng má? Thế giới đã cay nghiệt đối với con? Không à? Điều đó làm má nhẹ nhàng để tin... Nhưng... ờ, có chứ, má sẽ tới, nơi nào con muốn, như con muốn, khi con muốn, ngay cả bây giờ, dưới mặt trời, dưới các vì sao cũng như dưới băng giá hay dưới các cơn lốc. Con muốn gì? Má đây!
- Không. Không phải bây giờ, nhưng một ngày kia... Nhà mình
343
êm đềm chừng nào! Sự âu yếm của má. Hãy để con ngủ như vầy, gục đầu trên gối má. Con mệt. Con luôn luôn là con nhỏ của má... - Và Giêsu ngủ thật, mệt mỏi và kiệt lực, ngồi trên chiếu, gục đầu vào lòng Mẹ trong khi Mẹ sung sướng vuốt tóc Người.
55* NGÀY HÔM SAU TRONG NHÀ NAZARÉT
Tôi thấy Maria đi chân trần, nhanh nhẹn qua lại trong căn nhà nhỏ Nazarét vào những giờ đầu tiên của ngày. Trong chiếc áo nhẹ mầu xanh dương, Mẹ giống như con bướm dễ thương lướt trên các bức tường, các đồ đạc mà không gây tiếng động. Mẹ tới cái cửa mở ra ngoài đường, nhẹ nhàng mở ra, không gây tiếng động. Mẹ để nó hé mở sau khi đã liếc nhìn ra đường còn vắng. Mẹ xếp thứ tự lại đồ đạc, mở các cửa sổ, vào trong xưởng mộc đã bị thợ mộc bỏ rơi, nơi đó có cái khung cửi của Maria. Mẹ cẩn thận đậy lại tấm vải đang dệt dở và mỉm cười với tư tưởng của Mẹ khi nhìn nó.
Mẹ ra vườn. Các con bồ câu tới đậu trên vai Mẹ. Chúng bay từ vai nọ tới vai kia để tìm chỗ tốt, cãi cọ và ghen nhau vì tình yêu của bà chủ chúng. Chúng hộ vệ Mẹ tới cái lều, nơi để các đồ dự trữ. Mẹ vào đó lấy các hạt cho chúng và nói: “Chỗ này, hôm nay ở chỗ này. Đừng làm ồn. Người rất mệt!” Rồi Mẹ lấy bột và đi vào căn lều nhỏ gần lò nướng. Mẹ bắt đầu làm bánh. Mẹ nhào bột và mỉm cười. Ôi! Bữa nay bà Má mỉm cười nhiều. Ta thấy Mẹ giống như bà mẹ trẻ măng hôm sinh nhật. Nỗi vui làm Mẹ trẻ lại. Mẹ lấy ra một chút bột, bọc lại, để qua một bên, rồi tiếp tục công việc cách hăng hái. Mái tóc Mẹ trở nên mầu lạt hơn vì lớp bụi bột.
Maria Alphê nhẹ nhàng bước tới:
- Đã làm việc rồi?
- Ừ, em làm bánh. Coi này, bánh tráng với mật ong mà Người rất thích.
- Em lo bánh tráng đi. Còn nhiều bột để làm bánh mì. Để chị nhào cho.
Maria Alphê, dáng vẻ bình dân vạm vỡ, nhào bột làm bánh cách mạnh mẽ, trong khi Maria pha mật ong và bơ vào bột bánh tráng,
344
làm thành những lá tròn và đặt trên một cái mâm.
- Chị không biết làm sao để báo cho Juđa được... Giacôbê không dám... và những đứa khác... - Maria Alphê thở dài.
- Hôm nay Simon Phêrô sẽ tới. Ông luôn luôn đến vào ngày thứ hai sau ngày Sabát với cá của ông. Chúng ta sẽ bảo ông đi tìm Juđa.
- Nếu ông ta muốn đi...
- Ồ, Simon không bao giờ nói “không” với em.
- Bình an cho ngày này, một ngày của qúi vị - Giêsu nói khi xuất hiện.
Hai người đàn bà giật mình khi nghe tiếng Người.
- Dậy rồi à? Sao vậy? Má muốn con ngủ...
- Má ơi, con đã ngủ giấc ngủ của trẻ thơ. Chỉ có má không ngủ...
- Má nhìn con ngủ... Khi con còn bé má cũng nhìn vậy. Khi ngủ, con luôn luôn mỉm cười, và nụ cười của con ở lại trong tim má suốt ngày... Nhưng đêm nay con không mỉm cười, con ơi! Và con thở dài như người đau khổ... - Maria nhìn Người với vẻ buồn buồn.
- Má ơi! Con mệt. Và thế giới không phải là căn nhà này, nơi tất cả đều là thành thật và tình yêu. Má, má biết con là ai, và má có thể hiểu việc giao tiếp với thế giới là gì đối với con. Nó giống như người đi trên con đường bùn lầy và hôi hám. Dù họ chú ý cẩn thận, vẫn có một chút bùn bắn lên người họ, và mùi hôi thấm vào họ, dù là họ cố gắng để không hít phải nó... Và nếu đó là người thích sạch sẽ và sự trong lành, má có thể nghĩ họ bị phiền chừng nào...
- Đúng, con ơi, má hiểu. Má thấy khổ khi biết rằng con phải chịu đựng...
- Bây giờ con ở với má và con không khổ nữa. Đó là kỷ niệm rồi... Và nó làm cho việc ở với má thành đẹp hơn - Rồi Giêsu cúi xuống hôn Mẹ, Người cũng vuốt ve bà Maria kia, đang đỏ bừng vì lửa lò.
345
- Phải báo cho Juđa - Đó là nỗi băn khoăn nhất của Maria Alphê.
- Không cần. Hôm nay Juđa sẽ ở đây.
- Làm sao cháu biết?
Giêsu mỉm cười và nín thinh.
- Con ơi, mỗi tuần lễ Simon Phêrô đều tới vào ngày này. Ông muốn mang cho má cá ông mới đánh được ngay lúc hừng sáng, và ông tới vào cuối giờ thứ nhất. Hôm nay ông sẽ sung sướng. Simon, ông ta tốt. Trong lúc ở lại đây, ông giúp đỡ chúng ta, phải không chị Maria?
- Simon Phêrô là người thật thà và tốt - Giêsu nói. “Nhưng ông Simon kia cũng vậy. Má sắp gặp ông. Ông có con tim to lớn. Con đi đón họ đây. Họ sắp tới”.
Giêsu đi ra, trong khi hai bà, sau khi bỏ bánh vào lò, liền trở lại nhà. Maria trở ra sau khi đã xỏ xăng đan vào và thay chiếc áo trắng tinh.
Qua đi một lúc. Trong khi chờ, Maria Alphê nói: “Em không làm xong kịp giờ được”.
- Em sẽ xong ngay, và Giêsu của em sẽ yên lòng, không bị nặng đầu.
Từ phía bên ngoài, người ta đẩy cửa ra : “Má ơi! Các bạn con đây. Vào đi”.
Các môn đệ và các mục đồng vào cả nhóm. Giêsu đã để hai tay trên vai hai người mục đồng và dẫn họ lại với Mẹ Người: “Đây là hai đứa con tìm một bà mẹ. Xin bà là niềm vui cho chúng”.
- Mẹ chào các con... Con là?... Lêvi. Con? Mẹ không biết. Nhưng nhận xét tuổi như Người nói với mẹ thì mẹ chắc là Giuse. Cái tên này rất êm ái và thánh trong căn nhà này. Tới, tới đi. Mẹ nói với các con trong niềm vui: nhà mẹ đón nhận các con, và một người mẹ ôm các con để tưởng nhớ tới điều mà các con, con nơi ba con, các con đã có tình yêu cho bé tí của mẹ.
Các mục đồng sung sướng như xuất thần.
- Đúng. Mẹ là Maria. Con đã thấy một người mẹ sung sướng. Bây giờ cũng sung sướng được thấy con mẹ ở giữa các con tim trung thành.
346
- Má ơi! Ông này là Simon đây.
- Con đáng được ơn phúc vì con tốt, mẹ biết. Nguyện ơn phúc của Thiên Chúa luôn luôn ở với con.
Simon quen với lối đối xử ở đời hơn, liền cúi xuống tới đất, khoanh tay trước ngực và chào: “Con chào Mẹ, Mẹ thực sự của Ân Phúc. Con không xin gì cùng Thiên Chúa nữa, vì bây giờ con đã biết Ánh Sáng và biết Mẹ, tia phản chiếu còn êm dịu hơn ánh trăng của Người”.
- Còn đây là Judas Kêriot.
- Con có một người mẹ, nhưng tình yêu của con đối với bà biến đi trước sự tôn kính con cảm thấy đối với Mẹ.
- Không, không phải đối với mẹ, đối với Người. Mẹ có vì có Người. Mẹ không muốn gì cho mẹ, mẹ chỉ xin cho Người. Mẹ biết con đã tôn vinh con mẹ tại quê hương con, nhưng mẹ còn nói với con: chớ gì quả tim con là nơi Người nhận sự tôn kính tối thượng của con. Lúc đó mẹ sẽ chúc phúc cho con với quả tim người mẹ.
- Quả tim con ở dưới gót chân Con Mẹ, một sự tùng phục sung sướng. Chỉ có cái chết mới cắt đứt được sự trung thành của con.
- Còn đây là Gioan của chúng ta đây má à.
- Mẹ đã yên lòng từ lúc mẹ thấy con ở bên cạnh Giêsu. Mẹ biết con và tâm hồn mẹ được bảo đảm từ khi mẹ biết con ở với con mẹ. Hãy được phúc, sự nghỉ ngơi của mẹ - và Mẹ hôn ông.
Người ta nghe thấy giọng nói rè rè của Phêrô ở bên ngoài: “Tên Phêrô tội nghiệp xin chào và...” Ông đã vào và đứng sững như hóa đá. Nhưng rồi ông quăng xuống đất cái rổ ông mang trên lưng và qùi xuống đất nói: “Ôi! Chúa Hằng Sống! Nhưng... Không. Thầy không nên làm cho con như vậy! Ở đây mà không cho tên Simon tội nghiệp hay biết gì hết! Nguyện Thiên Chúa chúc phúc cho Thầy! A! Con sung sướng! Con không thể ở lại đây mà không có Thầy nữa!” Và ông vuốt ve bàn tay Người mà không nghe Người nói: “Đứng dậy đi Simon! Đứng dậy đi nào!”
- Con đứng dậy, vâng. Nhưng... Mày, thằng bé (thằng bé là Gioan) đáng lẽ mày phải chạy tới nói cho tao! Bây giờ chạy lẹ lên, tới
347
Caphanaum để nói với các người khác, trước tiên là nhà của Juđa. Bà ơi con bà sắp tới. Mau đi. Mày hãy tưởng tượng mày là con thỏ rừng bị chó săn đuổi.
Gioan cười và đi ra. Sau cùng Phêrô đứng dậy. Ông vẫn giữ bàn tay dài và đẹp của Giêsu trong đôi tay ngắn, to bè, gân guốc của ông, và hôn hít không buông ra, mặc dầu ông cũng để ý bảo người ta lấy cá ông để trong rổ ở dưới đất: “Ê! Không. Con không muốn Thầy lại ra đi một lần nữa mà không có con. Không bao giờ nữa! Không bao giờ nữa! Bao nhiêu ngày không thấy Thầy! Con sẽ theo Thầy như bóng với hình, như sợi giây theo mỏ neo. Thầy đã ở đâu vậy Thầy? Con tự hỏi: Người ở đâu? Người làm gì? Và cái thằng bé Gioan nó có biết săn sóc Người không? Nó có chú ý để Người không bị qúa mệt không? Để Người không ăn gì? Ê! Con biết lắm!... Thầy gầy đi rồi! Rõ ràng gầy hơn. Nó đã không săn sóc Thầy! Con sẽ bảo nó rằng... Nhưng Thầy đã ở những đâu vậy Thầy? Sao Thầy không nói gì hết?”
- Thầy đang chờ con để cho Thầy nói!
- Đúng vậy. Nhưng... A! Thấy Thầy, giống như rượu mới, mới chỉ ngửi hơi nó đã bốc lên đầu! Ôi! Giêsu của con! - Phêrô hầu khóc vì vui.
- Thầy cũng vậy, Thầy mong gặp các con, tất cả các con, ngay cả khi Thầy ở với các bạn rất thân. Đó, Phêrô, đây là hai người đã yêu Thầy ngay từ khi Thầy mới được mấy giờ, và hơn nữa, họ đã chịu đau khổ cho Thầy. Đây là một đứa con mà vì Thầy, nó không còn cha, không còn mẹ, nhưng nó có bao nhiêu anh em trong tất cả các con, phải không?
- Thầy ơi! Thầy còn hỏi! Phải rồi, điều không thể, nhưng giả sử ma qủi yêu Thầy thì con cũng yêu nó vì tình yêu của nó đối với Thầy. Các anh cũng nghèo, tôi thấy. Vậy chúng ta giống nhau. Đến để tôi hôn các anh. Tôi là dân chài, nhưng tôi có qủa tim mềm hơn con bồ câu non. Và nữa, nó chân thành. Đừng lưu ý nếu tôi thô kệch. Sự thô kệch là ở bên ngoài, bên trong toàn là mật ong và bơ, nhưng đối với người tốt... Vì đối với người xấu...
348
- Anh này là một môn đệ mới.
- Dường như con đã nhìn thấy anh ta...
- Đúng, đó là Judas Kêriot. Nhờ anh ta mà Giêsu được đón tiếp nồng hậu trong thành phố của anh. Thầy xin các con yêu nhau, dù các con thuộc về các miền khác nhau. Tất cả hãy là anh em trong Chúa.
- Con sẽ đối xử với anh ta như anh em, nếu anh ta cũng là vậy. Và... Đúng... (Phêrô nhìn Judas đăm đăm bằng cái nhìn thẳng thắn như cho một lời cảnh cáo), Và... Đúng... Tốt hơn là tôi nói nó ra, như vậy anh sẽ biết tôi ngay. Vậy tôi nói: Tôi không mấy gì coi trọng những người Do Thái nói chung, và dân Jêrusalem nói riêng. Nhưng tôi thành thật. Anh có thể vững tâm về sự thành thật của tôi. Tôi để ra một bên tất cả những tư tưởng tôi có về qúi vị, và tôi chỉ muốn thấy nơi anh một người môn đệ anh em. Bây giờ chính anh đừng làm cho tôi thay đổi ý kiến và cách đối xử.
- Cả với tôi nữa Simon, anh có những thành kiến này không? - Zêlote mỉm cười hỏi.
- Ôi! Tôi không nhìn thấy anh! Với anh à? Ồ, với anh thì không. Sự chân thành vẽ rõ trên khuôn mặt anh. Lòng tốt từ quả tim anh rịn ra bên ngoài như dầu thơm rịn ra qua cái bình đất xốp. Và anh lớn tuổi. Đó không luôn luôn là một phẩm chất. Đôi khi người ta càng già càng trở nên gian dối và độc ác. Nhưng anh là loại người xử sự như thứ rượu tốt: càng lâu năm càng ngon.
- Con xét đoán đúng, Phêrô - Giêsu nói. “Bây giờ, trong khi chờ các bà làm việc cho chúng ta, chúng ta hãy ra nghỉ dưới dàn cây mát. Thật tốt đẹp được ở giữa các bạn bè! Rồi chúng ta sẽ cùng nhau đi khắp Galilê và xa hơn nữa. Không phải tất cả. Lêvi, bây giờ đã thỏa mãn, sẽ trở về với Êlie để nói với ông rằng Maria gởi lời chào ông, phải không má?”
- Nói rằng mẹ chúc lành cho ông cũng như cho Isaac và những người khác. Con mẹ đã hứa sẽ đem mẹ đi với Người, mẹ sẽ tới nhà các con, những người bạn đầu tiên của bé sơ sinh của mẹ.
- Thưa Thầy, con muốn nhờ Lêvi mang về cho Lazarô tấm giấy viết về điều mà Thầy đã biết.
349
- Hãy sửa soạn đi. Hôm nay là đại lễ của chúng ta. Chiều mai
Lêvi sẽ đi để tới nơi kịp trước ngày Sabát. Đi, các bạn... Họ ra ngoài mảnh vườn xanh rờn, và tất cả chấm dứt.
56* GIÁO HUẤN CÁC MÔN ĐỆ TRONG VƯỜN OLIU
Tôi thấy Giêsu với Phêrô, Andrê, Gioan, Giacôbê, Philíp, Tôma, Batôlômêo, Simon, Judas Iscariot, và người mục đồng Giuse ra khỏi nhà và ra khỏi cả địa hạt Nazarét, nhưng ở vùng ngay kế bên, dưới
bóng các cây oliu. Người nói:
- Hãy quây quanh Thầy. Trong những tháng này, lúc thì hiện diện, lúc thì vắng mặt, Thầy đã cân nhắc và tìm hiểu các con. Thầy biết các con và biết thế giới bằng kinh nghiệm loài người. Bây giờ Thầy quyết định sai các con vào trong thế giới, nhưng trước đó, Thầy phải giáo huấn các con, để làm cho các con có khả năng đương đầu với thế giới một cách êm đềm và sáng suốt, bình tĩnh và kiên gan, với ý thức và hiểu biết về sứ mạng của các con. Trong thời gian mặt trời nóng bức này, ta không thể di chuyển xa trong Palestin, Thầy muốn dùng nó để giáo huấn các con và đào tạo các con nên người môn đệ. Cũng như một nhạc sĩ, Thầy cảm thấy những gì chói tai nơi các con, và Thầy đến để cho các con nốt nhạc hòa hợp của Trời mà các con phải chuyển cho thế giới nhân danh Thầy. Thầy giữ lại đứa con này (và Người chỉ vào Giuse), vì Thầy ủy thác cho anh trách nhiệm mang các lời Thầy tới cho các bạn anh, để anh ta thành lập ở đó một cái nhân vững mạnh, không phải chỉ loan báo sự hiện diện của Thầy, mà cả những nét chính yếu nhất về giáo lý của Thầy.
Thầy bắt đầu bằng cách nói cho các con về sự cần thiết tuyệt đối là các con phải yêu nhau và hợp nhất với nhau. Các con là ai? Là những người thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi lứa tuổi, mọi địa phương. Thầy thích nhận những người chưa biết gì về giáo lý và sự
350
hiểu biết, vì giáo lý của Thầy thấm vào họ dễ hơn. Lại nữa, các con được tiền định để giảng Tin Mừng cho những người tuyệt đối không biết gì về Thiên Chúa thực. Thầy muốn rằng khi các con nhớ tới là họ không biết gì về Thiên Chúa lúc khởi đầu, các con sẽ không khinh dể họ, và sẽ dạy dỗ họ với tình thương. Các con hãy nhớ Thầy đã dạy dỗ họ cách yêu thương chừng nào.
Thầy cảm thấy trong các con có sự phản kháng này: Chúng con không phải dân ngoại, mặc dầu chúng con không có văn hóa trí thức. Không, các con không như vậy, nhưng không phải chỉ có các con, mà ngay cả những người ở giữa các con, đại diện cho những người khôn ngoan và giầu có, tất cả, các con lầm lạc trong một tôn giáo bị biến chất bởi qúa nhiều lý do, nên chỉ có tôn giáo ở cái tên thôi. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng nhiều người tự hào là con lề luật, nhưng tám phần mười trong số họ là những kẻ thờ tà thần. Họ đã làm cho Lề Luật thực sự và thánh thiện của Thiên Chúa Abraham, Isaac và Jacob thành rối rít trong đám mây của hàng ngàn tôn giáo nhỏ của loài người. Các con cũng vậy, khi nhìn nhau, dân chài khiêm tốn, không học thức, hoặc thương gia hay con cháu thương gia, viên chức hay con cháu viên chức, giầu hay con cái người giầu, các con đều có thể nói: “Tất cả chúng ta đều giống nhau. Chúng ta có cùng một khuyết điểm, và tất cả chúng ta đều cần cùng một giáo huấn. Là anh em trong các khuyết điểm cá nhân hay quốc gia, từ nay chúng ta cần trở nên anh em trong sự hiểu biết chân lý, và trong cố gắng đem nó ra thi hành”.
Đây, anh em, Thầy muốn các con gọi nhau bằng từ này, và các con coi nhau như vậy. Các con như một gia đình duy nhất. Khi nào thì một gia đình thịnh vượng và được thế giới cảm phục? Khi người ta thấy ở đó sự hợp nhất và hòa thuận. Nếu một người con trở nên thù địch của người con khác; một anh em làm hại anh em khác, thì sự thịnh vượng của gia đình có tồn tại không? Không. Người cha sẽ vô ích để làm việc, san bằng các khó khăn và tìm sự cảm phục của thế giới. Các cố gắng của ông sẽ vô hiệu qủa, vì các nguồn lợi sẽ tan rã, các khó khăn gia tăng, thế giới nhạo cười tình trạng tranh chấp kéo dài, làm phân tán tình cảm và của cải thành một đống
351
những cái nhỏ, những lợi ích hèn mọn trái nghịch nhau mà các kẻ thù của gia đình lợi dụng để đẩy họ càng ngày càng đến chỗ lụn bại, trong khi những tình cảm và tài sản này, nếu hợp nhất thì sẽ mạnh để chống lại thế giới.
Chớ gì đừng bao giờ như vậy giữa các con. Hãy hợp nhất. Hãy yêu nhau. Hãy yêu nhau và giúp đỡ nhau. Hãy yêu nhau để dạy người ta yêu. Hãy quan sát ngay cả những cái ở chung quanh các con, chúng cũng dạy cho chúng ta sức mạnh này. Các con nhìn đàn kiến này, chúng đang chạy hết về một chỗ. Chúng ta hãy theo nó và chúng ta sẽ khám phá ra lý do sự hợp sức của nó về một điểm xác định nào đó không phải là vô ích...
Đây... Một người anh em nào đó trong chúng nó, nhờ một cơ quan tí hon mà chúng ta không nhìn thấy, đã khám phá ra một kho tàng lớn dưới cái lá cải dại này. Đó là một mẩu bánh, có lẽ một nông dân để rơi khi họ săn sóc oliu, hay do một khách bộ hành dừng lại dưới bóng mát để dùng bữa đã làm rớt, hay hơn nữa là do bàn tay một trẻ nít chạy chơi trên cỏ hoa. Làm sao một mình nó có thể kéo kho tàng này về tổ, vì miếng bánh lớn hơn nó cả ngàn lần. Đây, nó đã gọi một người anh em và nói: “Này, hãy chạy lẹ về nói với các anh em là ở đây có đồ ăn cho cả đàn trong nhiều ngày. Hãy chạy đi trước khi một con chim khám phá ra kho tàng này, và chúng sẽ gọi bạn chúng đến ăn hết”. Và con kiến nhỏ chạy hầu đứt hơi với những gập ghềnh trên đất, băng qua các đá sỏi và cỏ rơm cho tới tổ và nó nói: “Đi! một người anh em trong chúng ta gọi. Anh ta đã làm một khám phá cho tất cả, nhưng một mình thì anh ta không thể tải tới đây được. Hãy tới đó đi!”
Và tất cả, cả những con này, đã mệt vì làm việc suốt ngày, và đang nghỉ trong các hành lang của tổ cũng chạy đi. Và cả những con đang xếp đặt đồ dự trữ trong các phòng. Một, mười, một trăm, một ngàn con... Coi này, chúng bấu lấy mẩu bánh bằng cái móng của chúng, chúng nâng lên, lấy thân mình làm cái xe. Chúng tì chân xuống đất và lôi đi. Con này bị té... Con kia, đó, bị gẫy què chân vì đầu miếng bánh. Khi nó ngẩng lên, nó bị cắm giữa miếng bánh và
352
hòn sỏi. Con này nữa, bé tí, trẻ nhất bộ lạc, dừng lại vì kiệt sức... Nhưng sau khi đã lấy lại hơi, nó lại đi. Ôi! Chúng hợp nhất chừng nào! Các con coi, bây giờ miếng bánh đã được ôm chặt và bắt đầu tiến đi. Ta theo nó coi... Một tí nữa thôi, các anh em nhỏ, rồi sự mệt mỏi của các anh em sẽ được thưởng. Chúng kham hết nổi, nhưng chúng không bỏ cuộc. Chúng nghỉ một lát rồi lại tiến... Đó, tới tổ rồi. Và bây giờ sao đây? Bây giờ vào việc để cắt nhỏ cái khối này ra. Coi, bao nhiêu là việc! Một số lo cắt ra, một số khác lo chuyển đi... Đó, xong rồi. Bây giờ tất cả đều ở trong nơi an toàn. Sung sướng, chúng biến vào trong các lỗ nẻ của hành lang. Đó là những con kiến, không có gì khác ngoài những con kiến, nhưng chúng mạnh vì chúng hợp nhất.
Các con hãy suy niệm điều trên. Các con có gì hỏi Thầy không?
- Con muốn hỏi Thầy: Chúng ta không trở lại Juđê nữa sao? - Judas Iscariot hỏi.
- Ai nói vậy?
- Thầy. Thầy nói rằng Thầy chuẩn bị Giuse để anh ta dạy những người khác ở Juđê! Thầy đã bị qúa nhiều phiền phức ở đó nên không trở lại nữa sao?
- Họ đã làm gì cho Thầy ở Juđê? - Tôma tò mò hỏi, và Phêrô cuồng nhiệt: “A! vậy là con có lý để nói rằng Thầy từ đó trở về bị mệt đừ! Họ đã làm gì Thầy, các đấng ‘toàn thiện’ của Israel?”
- Đâu có gì, các bạn ơi, đâu có gì hơn những cái Thầy sẽ gặp ở đây. Dầu Thầy có đi vòng quanh trái đất, Thầy cũng sẽ có các bạn hữu lẫn lộn với các kẻ thù ở khắp nơi. Nhưng, Judas, Thầy đã xin con nín lặng...
- Đúng... Nhưng con không thể nín lặng khi con thấy Thầy thích Galilê hơn quê hương con. Thầy bất công, vậy đó. Cả ở đó, Thầy cũng đã được những danh dự...
- Judas! Judas!... Ôi! Judas! Con bất công trong sự khiển trách này. Và con kết án chính mình khi để mình bị thua sự tức giận và ghen tương. Thầy đã làm hết sức để chỉ cho người ta biết những điều tốt đã nhận được ở Juđê mà không nói dối. Với niềm vui,
353
Thầy đã có thể nói về điều tốt này để các con, các người Juđê, được yêu mến. Với niềm vui, vì với Ngôi Lời của Thiên Chúa thì không có biên giới, vùng miền, thù địch, ác cảm, khác biệt. Thầy yêu tất cả các con, ôi loài người. Tất cả... Làm sao con có thể nói là Thầy thích Galilê hơn, trong khi Thầy đã muốn hoàn thành các phép lạ đầu tiên, và tỏ mình ra trước tiên trên đất thánh của Đền Thờ và Thành Thánh, nơi thân yêu với mọi người Israel. Làm sao con có thể nói là Thầy thiên vị, nếu trong số mười một người các con, đúng hơn là mười, vì không kể anh Thầy, anh ấy không có vấn đề bạn hữu, mà là họ hàng, thì bốn người là Do Thái. Và nếu Thầy thêm các mục đồng vào, tất cả đều là Do Thái, thì con thấy Thầy có bao nhiêu người bạn ở Juđê? Làm sao con có thể nói là Thầy không yêu các con, nếu Thầy, ai biết, Thầy đã tổ chức cuộc du hành để đặt tên Thầy cho một bé sơ sinh Israel, và nhận hơi thở sau cùng của một người Israel công chính? Làm sao con có thể nói rằng Thầy không yêu các con, những người Do Thái, nếu để cho các con biết nơi Thầy sinh ra, và nơi Thầy chuẩn bị sứ mạng của Thầy, Thầy đã muốn có hai người Do Thái mà chỉ một người Galilê? Con trách Thầy bất công, nhưng con hãy xét mình, Judas, và hãy coi xem bất công có không phải là con không?
Giêsu nói với vẻ oai nghiêm và êm đềm. Nhưng dù Người không nói gì hơn nữa, thì chỉ cần cách Người nói ba lần “Judas” lúc đầu, cũng đủ để cho một bài học. Tiếng “Judas” thứ nhất được nói bởi Thiên Chúa oai nghiêm nhắc nhớ sự trọng kính. Tiếng thứ hai là người Thầy cho lời giáo huấn với đầy tình phụ tử. Tiếng thứ ba là lời xin của người bạn buồn vì thái độ của bạn mình. Judas cúi đầu, bẽ mặt, vẫn còn tức vì bị trả đũa do sự bộc lộ các tình cảm thấp hèn của ông.
Nhưng Phêrô không thể nín lặng: “Nhưng chú bé, ít nhất là hãy xin lỗi đi! Nếu tôi ở địa vị của Giêsu thì tôi không để anh ở yên chỗ với những lời này! Rõ ràng có cái gì còn khác hơn là bất công! Đó là thiếu kính trọng, ông lớn đẹp trai! Đó là cách những người ở Đền Thờ giáo dục các anh đấy phải không? Hay có lẽ anh không được giáo dục. Vì nếu họ...”
354
- Đủ rồi Phêrô. Thầy đã nói điều cần nói. Và cả ngày mai nữa, Thầy sẽ huấn luyện các con về đề tài này. Bây giờ Thầy nhắc lại cho mọi Người điều Thầy đã nói với những người này ở Juđê: Đừng nói với Mẹ Thầy rằng Con Mẹ đã bị các người Do Thái bạc đãi. Mẹ đã rất đau khổ vì đã hiểu rằng Thầy khổ. Hãy kính trọng Mẹ Thầy. Mẹ sống trong bóng tối và yên lặng. Hoạt động duy nhất của Mẹ, cũng là một nhân đức: Cầu nguyện cho Thầy, cho các con, cho mọi người. Chớ gì những xáo trộn mập mờ của thế giới, và những tranh luận chua cay ở xa nơi trú ẩn của Mẹ, nơi bao trùm bằng sự thận trọng và trong sạch. Đừng nhồi nhét, dù chỉ là tiếng vang của thù ghét, vào nơi mà tất cả chỉ là tình yêu. Hãy trọng kính Mẹ. Mẹ còn can đảm hơn Judith, rồi các con sẽ thấy. Nhưng trước giờ ấn định thì đừng bó buộc Mẹ nếm những cặn bã, là những tình cảm xấu của thế giới, của những kẻ không biết, dù là một cách ấu trĩ, thế nào là Thiên Chúa và Lề Luật của Thiên Chúa; những kẻ mà Thầy đã nói với các con lúc đầu: Những kẻ thờ tà thần mà tưởng mình là những kẻ khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì lý do này, họ liên kết tà thần với kiêu căng của họ. Chúng ta đi.
Và Giêsu đi vào con đường về Nazarét.
57* GIÊSU GIÁO HUẤN CÁC MÔN ĐỆ
Ở GẦN NHÀ NGƯỜI
Giêsu còn giáo huấn các người của Ngài mà Ngài dẫn tới dưới bóng một cây hồ đào to lớn cao hơn mọi cây của vườn nhà Maria, và vươn ra hết chiều dài khu vườn. Đây là một ngày âm u và cơn giông sắp tới. Có lẽ vì vậy nên Giêsu không đi xa nhà nhiều. Maria đi lại từ nhà ra vườn, và mỗi lần Mẹ lại ngẩng đầu mỉm cười với Giêsu của Mẹ đang ngồi trên cỏ gần gốc cây với các môn đệ vây
quanh. Giêsu nói:
- Hôm qua Thầy đã nói với các con rằng điều đã tạo ra một câu
355
nói thiếu thận trọng sẽ là đề tài của bữa nay. Đây là điều giáo huấn:
Hãy suy nghĩ kỹ càng, và mong rằng điều này sẽ là qui luật sống cho các con, là không có gì giấu kín mà giữ bí mật được mãi. Có lẽ vì Thiên Chúa lo việc làm cho người ta biết các việc của một trong những đứa con của Người bằng những phương tiện và những dấu hiệu lạ lùng, hoặc Người làm qua trung gian của các kẻ công chính nhìn nhận công nghiệp của một người anh em. Cũng có thể là Satan, bởi miệng của một kẻ thiếu thận trọng, Thầy không muốn nói gì hơn, tiết lộ những điều mà các người tốt thích nín lặng để không lỗi đức bác ái, và họ bóp méo sự thật bằng cách tạo ra sự rối loạn trong các tư tưởng. Vì vậy luôn luôn đến cái giờ mà một điều giữ bí mật bị người ta biết. Bây giờ hãy luôn luôn để điều đó hiện diện trong tâm hồn, mong cho nó ngăn cản các con trên sườn dốc của sự ác mà không kích thích các con quảng cáo việc tốt các con đã làm. Biết bao lần người ta hành động do lòng tốt, lòng tốt thực sự, nhưng hoàn toàn loài người! Và vì hành động này hoàn toàn loài người và bắt nguồn từ một ý hướng không hoàn toàn trong sạch, nên tác giả của nó mong ước cho hết mọi người đều biết, và họ phát xùng, bực bội khi thấy nó vẫn không được biết, và họ nghiên cứu các phương cách để nó được biết. Không, các bạn Thầy, đừng như vậy. Hãy làm điều tốt và phó thác cho Chúa. Ôi! Người biết việc đó có tốt không để cho người ta biết. Trái lại, nếu sự tiết lộ nó ra sẽ làm mất hết giá trị của các hành động mà các con đã làm với mục đích chính đáng, bởi sự tái xuất hiện của kiêu căng và tự mãn, thì khi đó Chúa Cha giữ nó bí mật, để dành cho các con sự vinh quang trên trời, trước mặt cả triều đình Thiên Quốc.
Mong rằng khi nhìn một hành động, các con đừng bao giờ xét đoán theo vẻ bề ngoài. Đừng bao giờ kết án, vì các hành động của người ta đôi khi có một ngoại diện không hay, nhưng nó giấu ẩn một lý do đáng ca tụng. Ví dụ một người cha có thể nói với đứa con lười biếng và phóng đãng: “Cút đi”. Điều đó có thể bị coi là khắc nghiệt và trốn tránh bổn phận của người Cha. Nhưng không phải
356
luôn luôn như vậy. Tiếng “cút đi” của ông ướp đầy nước mắt cay đắng với người cha hơn là với người con, và nó đi kèm với lời cầu ước : “Con sẽ trở lại khi con hối hận vì sự lười biếng của con”. Và đó cũng là công bằng với những đứa con khác, vì thái độ này ngăn cản kẻ phóng đãng tiêu xài cách trụy lạc những cái thuộc về người khác ngoài những cái thuộc về nó. Nhưng trái lại, lời nói này sẽ là xấu khi nó là lời của người cha có khiếm khuyết đối với Thiên Chúa và con cái ông, vì ông ích kỷ, coi mình là hơn Thiên Chúa, và nghĩ mình có quyền trên cả tâm hồn của con ông. Không, linh hồn thuộc về Thiên Chúa, và Thiên Chúa không xâm phạm tự do của tâm hồn. Đối với thế giới thì các hành động này giống nhau, nhưng thực sự nó khác nhau chừng nào: Trường hợp thứ nhất bộc lộ sự công bằng, trường hợp thứ hai là sự độc đoán đắc tội. Vậy đừng bao giờ xét đoán ai cả.
Hôm qua Phêrô có nói với Judas: “Ai là thầy của anh vậy?” Mong ông ta đừng nói vậy nữa. Đừng ai kết án người khác về những điều họ thấy nơi người khác cũng như nơi chính mình. Thầy giáo chỉ có một lời cho mọi học trò, nhưng tại sao mười người trở nên tốt và mười người trở nên xấu? Là vì mỗi người thêm cái của họ vào đó, cái mà họ có trong tim, và chính cái đó làm cho nghiêng về bên tốt hay bên xấu. Vậy làm sao có thể kết án ông thầy vì đã giảng dạy dở, nếu điều lành mà ông cố gắng ghi khắc bị triệt tiêu bởi qúa nhiều điều ác ngự trị trong con tim. Yếu tố thứ nhất để thành công nó ở trong các con. Ông thầy làm việc trên cái tôi của các con, nhưng nếu các con không dung hợp để canh tân thì ông thầy có thể làm gì? Mà Thầy đây, Thầy là gì? Thực sự, Thầy bảo các con rằng các con sẽ không có được ông thầy nào khôn ngoan hơn, kiên nhẫn hơn, hoàn toàn hơn Thầy. Nhưng, rồi, ngay chính với một trong số các người của Thầy, người ta sẽ nói: “Nhưng ai là thầy của hắn ta vậy?”
Trong sự phán đoán của các con, đừng bao giờ để mình bị thống trị bởi các lý do cá nhân. Hôm qua Judas, vì tình yêu qúa mức đối với miền của ông, đã tưởng mình nhìn thấy nơi Thầy sự bất công
357
đối với nó. Thường thường người ta bị ảnh hưởng bởi những yếu tố không lường được, như tình yêu quê hương, tình yêu đối với các ý tưởng, và họ lạc khỏi mục đích của họ như con chim bói cá bị lạc hướng. Mục đích là Thiên Chúa. Phải nhìn tất cả trong Thiên Chúa để thấy tỏ. Đừng đặt mình cũng như bất cứ cái gì khác bên trên Thiên Chúa. Và nếu có ai bị lầm... Ôi! Phêrô! Ôi! tất cả các con! Đừng khăng khăng. Sự sai lầm của một người trong các con làm các con bất bình. Các con có chắc rằng mình chưa bao giờ làm như vậy không? Các con có chắc điều đó không? Và nếu các con nhận thấy rằng mình chưa bao giờ làm thì các con phải làm gì? Phải tạ ơn Thiên Chúa. Chỉ có vậy thôi. Nhưng hãy canh chừng, canh chừng cẩn mật và liên tục, để mai này đừng ngã vào chỗ mà cho tới lúc này các con tránh được. Các con thấy không? Hôm nay trời tối om vì sắp có mưa đá, các con đã quan sát bầu trời và nói: “Chúng ta đừng đi xa nhà”. Nếu các con biết xét đoán sự vật là những cái, dù nguy hiểm tới đâu cũng chỉ là không so với việc mất tình bạn đối với Thiên Chúa vì tội lỗi, tại sao các con không biết đâu là nơi có thể có cơ nguy chí tử cho linh hồn?
Các con nhìn Mẹ Thầy kia: Các con có thể nghĩ rằng nơi Mẹ có những khuynh hướng xấu không? Nhưng vì tình yêu thúc đẩy Mẹ theo Thầy, Mẹ sẽ bỏ nhà khi tình yêu của Thầy muốn. Sáng nay Mẹ còn xin Thầy, vì Mẹ, dù đã là cô giáo của Thầy, Mẹ cũng nói: “Con ơi! Hãy để má con vào số các môn đệ của con. Má muốn học giáo lý của con”. Mẹ là người đã có cái giáo lý này trong lòng Mẹ, trước tiên là trong tâm hồn Mẹ bởi ơn của Thiên Chúa ban cho người mẹ tương lai của Ngôi Lời nhập thể của Ngài, Mẹ đã nói: “Nhưng... tùy con xét là má có thể đi theo con mà không bị nguy hiểm mất sự kết hợp với Thiên Chúa, không bị thế giới mà con nói với má là sự hôi thối của nó thấm vào khắp nơi, có thể làm hư hỏng con tim này, con tim của má, là cái đã, đang và chỉ muốn thuộc về Thiên Chúa. Má xét mình, và như má biết, thì má thấy là má có thể đi, vì... (và ở đây, Mẹ đã dâng mình, không nghĩ tới lời ca tụng vẻ vang nhất) qủa vậy, má thấy không có gì khác biệt giữa sự bình an
358
trong trắng của thời kỳ má là bông hoa của Đền Thờ, và sự bình an mà má có trong lòng má lúc này, là lúc má đã là bà chủ nhà từ sáu ngũ niên nay. Nhưng má là một nữ tì hiểu biết kém, và phán đoán còn kém hơn nữa về các sự thiêng liêng. Con là Ngôi Lời, là Sự Khôn Ngoan, là Ánh Sáng cho người má tội nghiệp, chấp nhận thà không còn được thấy con còn hơn là mất lòng Thiên Chúa”. Và Thầy, Thầy đã nói cùng Mẹ với con tim rung động vì cảm phục: “Má ơi, con nói với má rằng không phải thế giới có thể làm hư hỏng má, nhưng là nó sẽ được ướp thơm bởi má”.
Mẹ Thầy, các con nghe đó, Mẹ biết nhìn sự nguy hiểm của đời sống giữa thế gian, nguy hiểm cả cho Mẹ, ngay cả cho Mẹ. Vậy mà các con, các con không thấy sao? Ôi! Phải nói với các con là thực sự Satan luôn luôn rình chực. Chỉ những kẻ tỉnh táo mới thắng được nó. Những người khác, các con hỏi về những người khác? Với những người khác thì những gì đã được viết sẽ xảy ra.
- Cái gì đã được viết Thầy?
- Và Cain xông vào giết Abel. Và Thiên Chúa nói với Cain: “Em mày đâu? Mày đã làm gì nó? Tiếng máu của nó đã vang lên tới Ta. Đây, ngươi sẽ bị nguyền rủa ở khắp mặt đất là cái đã biết mùi máu của con người, bởi tay một người anh em đã mở các mạch máu của anh em nó ra. Và trái đất sẽ không bao giờ được giãn cái khát ghê gớm muốn uống máu loài người. Và trái đất bị đầu độc bởi máu này, nó sẽ không sinh sản đối với mi hơn là người đàn bà mà tuổi tác đã làm cho khô cạn sự sinh sản. Và ngươi sẽ trốn tránh trong khi tìm kiếm bánh và bình an, và mi không tìm được. Sự hối hận sẽ làm cho mi thấy máu trên mọi bông hoa, mọi cây cỏ, mọi dòng nước, mọi đồ ăn. Bầu trời cũng giống như máu đối với mi, biển cũng là máu. Từ trời, đất và biển sẽ đến với mi ba tiếng nói: tiếng nói Thiên Chúa, tiếng nói kẻ vô tội và tiếng nói ma qủi. Và để khỏi phải nghe chúng, mi sẽ tự tử”.
- Sách Sáng Thế đâu có nói vậy - Phêrô nhận xét.
- Không, không phải sách Sáng Thế, đó là Thầy nói, và Thầy không lầm. Thầy nói cho các Cain mới và các Abel mới; cho những
359
người, vì không canh chừng chính mình và không canh chừng kẻ thù, sẽ trở nên một với nó.
- Nhưng giữa chúng con không có như vậy, phải không Thầy?
- Gioan, khi bức màn của Đền Thờ bị xé ra, một sự thật vĩ đại sẽ chiếu soi trên toàn thể Sion.
- Chúa ơi, sự thật nào?
- Là con cái sự tối tăm đã tiếp xúc với Ánh Sáng mà cũng vô ích. Hãy nhớ lấy điều đó, Gioan.
- Con có sẽ là con cái sự tối tăm không Thầy?
- Không, không phải con. Nhưng hãy nhớ điều đó để giải thích cái Tội cho thế giới.
- Chúa ơi, tội nào? Tội của Cain à?
- Không, tội của Cain là hòa âm đầu tiên bài vịnh của Satan. Thầy nói về cái Tội Hoàn Toàn, tội khôn lường, tội mà muốn hiểu thì phải nhìn qua mặt trời Tình Yêu Thiên Chúa và qua thần trí của Satan. Vì chỉ có Tình Yêu Hoàn Toàn và Sự Hận Thù Hoàn Toàn; chỉ có sự Thiện vô biên và sự Ác vô biên mới có thể giải thích một sự dâng hiến như vậy và một tội như vậy. Các con có nghe không? Dường như Satan nghe thấy và nó gào thét muốn hoàn thành tội đó. Chúng ta đi, trước khi mây nổ ra thành chớp và mưa đá.
Họ xuống dốc, vừa chạy vừa nhảy trong khu vườn của Maria trong khi cơn giông nổi lên rất mạnh.
58* GIÁO HUẤN CÁC MÔN ĐỆ
CÙNG VỚI ĐỨC TRINH NỮ MARIA
TRONG KHU VƯỜN Ở NAZARÉT
Giêsu bước vào khu vườn có vẻ như đã được rửa sạch bởi cơn giông chiều tối hôm qua. Người thấy Mẹ người đang cúi xuống trên các cây nhỏ, Người chào Mẹ và đến với Mẹ. Cái hôn của hai mẹ con êm đềm biết bao! Giêsu quàng cánh tay trái của Người quanh vai Mẹ và kéo Mẹ vào với Người trong khi hôn lên trán Mẹ,
360
chỗ chân tóc. Rồi Người cúi xuống để Mẹ có thể cho Người cái hôn trên má. Nhưng điều ngọt ngào nhất trong cử chỉ này là cái nhìn đi kèm theo cái hôn. Cái hôn của Giêsu toàn là tình yêu, nhưng có cái gì oai phong của kẻ bảo vệ. Nụ hôn của Maria hoàn toàn tôn kính, đồng thời cũng hoàn toàn tình yêu. Trong cái hôn này, Giêsu như người lớn hơn Mẹ, và Mẹ giống như cô gái trẻ nhận cái hôn ban mai của người cha hay người anh.
- Các hoa của má có bị hư nhiều vì trận mưa đá tối hôm qua và gió ban đêm không? - Giêsu hỏi.
- Không hư gì cả Thầy ạ. Chỉ có lá bị rối - giọng nói rồ rồ của Phêrô trả lời trước cả Maria.
Giêsu ngẩng đầu lên và thấy Simon Phêrô. Ông chỉ mặc một cái áo cộc, đang lo đặt lại các cành của cây sung bị trẹo: “Con đã làm việc rồi à?”
- Ê! Dân chài chúng con ngủ giống như cá: bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, miễn là người ta để cho chúng con ngủ. Rồi thành quen. Lúc rạng đông sáng nay, con nghe cửa cót két, con tự nhủ: “Simon, Mẹ dậy rồi, nào, lẹ lên tới giúp Mẹ với bàn tay cục mịch của mày”. Con nghĩ Mẹ đã mơ tới các hoa của Mẹ trong đêm mưa gió này, và con đã không lầm. Ê! Con biết các bà lắm!... Bà của con, bà ấy trằn trọc trên giường như con cá trong lưới khi có giông bão, bà cứ nghĩ tới các cây của bà... Cái bà tội nghiệp! Đôi khi con bảo bà: “Tôi cá với bà là bà ít xao xuyến hơn khi Simon của bà chống chọi trên hồ”. Nhưng con bất công, vì đó là người vợ tốt. Người ta không ngờ là bà có bà mẹ... Ấy, nín đi Phêrô! Đừng làm như vậy. Không nên xì xèo nói ra những lời thiếu thận trọng trong khi nín lặng đi là hơn. Thầy thấy không? Lời Thầy đã vào được cả trong cái đầu lừa của con.
Giêsu cười trả lời: “Con nói hết về chính con, Thầy chỉ còn việc xác nhận và cảm phục tài làm vườn của con”.
- Ông đã buộc lại hết các cành nho bị tụt - Maria nói “ông đã sắp xếp cho cây lê qúa nặng trái, và chằng giây đỡ bên dưới cho cây lựu chỉ phát triển một bên”.
361
- Chắc chắn rồi. Nó giống như ông pharisiêu già, nó cúi xuống chỗ nào nó thích. Con đã sắp xếp nó như cái cánh buồm và con bảo nó: “Mày không biết rằng cái gì chính đáng thì ở ngay chính giữa sao? Hãy ở yên chỗ này, cứng đầu! Để không bị gẫy dưới sức nặng”. Bây giờ con chú ý tới cây sung, nhưng vì ích kỷ. Con nghĩ tới khẩu vị của mọi người: Sung tươi và bánh nóng! A! Chính Antipa cũng không có bữa ăn ngon hơn. Nhưng phải làm nương nhẹ, vì cây sung có những cành mềm như quả tim cô gái nhỏ khi cô vừa hứa tình yêu đầu đời. Con, con nặng, mà những quả sung tốt nhất đều ở trên cao. Chúng đã beo lại với những tia mặt trời đầu mùa. Chắc hẳn chúng ngon tuyệt. Này cậu bé! Đừng đứng nhìn tôi. Tỉnh lại đi! Đưa cái rổ cho tôi coi!
Gioan vừa ra khỏi xưởng mộc, liền vâng lời. Ông cũng trèo lên cây sung lớn. Khi hai người dân chài tụt xuống thì Simon Zêlote, Giuse và Judas Iscariot cũng ra khỏi xưởng. Tôi không thấy những người khác.
Maria mang bánh nóng tới: những ổ bánh tròn nhỏ. Phêrô lấy con dao nhỏ của ông xẻ bánh và bổ những trái sung đặt lên trên. Ông mời Giêsu, rồi Maria và những người khác. Họ ăn cách ngon lành trong sự mát mẻ của khu vườn huy hoàng dưới mặt trời của một buổi sáng thanh quang, được tô điểm nhờ trận mưa mới đây làm cho không khí nên trong sạch. Phêrô nói: “Nay là thứ sáu... Thưa Thầy, mai là Sabát...”
- Anh không đi khám phá - Iscariot nhận xét.
- Không. Nhưng Thầy biết con nói vậy nghĩa là gì...
- Thầy biết. Chiều nay chúng ta sẽ đi ra hồ, chỗ con đã để thuyền, chúng ta sẽ giương buồm đi Caphanaum. Ngày mai Thầy sẽ nói ở đó.
Phêrô mừng hớn hở.
Có một nhóm đi vào: Tôma, Andrê, Giacôbê, Philíp, Batôlômêo, Juđa Thađê. Chắc nhóm này ngủ ở nơi khác. Họ chào nhau. Giêsu nói: “Chúng ta tụ họp ở đây, như vậy sẽ có một môn đệ mới. Má ơi, lại đây!”
362
Họ ngồi trên tảng đá, trên ghế đẩu, quây tròn chung quanh Giêsu. Người ngồi trên cái ghế đá trước nhà. Bên cạnh Người là Mẹ. Gioan ở chân Người. Ông thích ngồi trên đất để ở gần Thầy. Giêsu nói êm đềm và oai phong như thường xuyên:
- Ta so sánh việc huấn luyện các giáo đồ với cái gì? Với thiên nhiên ở chung quanh các con. Hãy nhìn: trong mùa đông, đất như chết, nhưng ở bên trong, các hạt làm việc, hút ẩm, trương phình ra, nẩy mầm dưới đất - Như vậy Thầy có thể gọi nó là rễ - để có nhiều đồ dự trữ cho mùa nảy lộc ở trên khi mùa trổ hoa tới. Các con cũng vậy, các con được sánh như đất mùa đông này: khô khan, trần trụi, thô kệch. Nhưng người gieo hạt đi trên các con, và ông vãi hạt giống; người nông dân đi bên các con, ông cày và đảo đất chung quanh thân cây các con, được trồng trên đất khô cứng, cứng và gập ghềnh như chỗ đất này, để đồ ăn có thể đến với rễ qua mây và không khí, để củng cố cho các trái tương lai. Các con đã nhận hạt giống và công việc của cái xẻng, vì các con có thiện chí muốn mang hoa trái trong công việc của Thiên Chúa.
Thầy còn có thể so sánh việc đào tạo các giáo đồ với cơn giông vừa qua. Nó đã trút xuống trên các cây cối, và người ta bảo là một sự hung bạo vô ích. Nhưng các con coi, nó đã làm bao điều tốt. Hôm nay không khí trong sạch. Nó được rửa sạch bụi và mát lại. Mặt trời vẫn như hôm qua, nhưng nó không có sức nóng làm phát sốt, vì các tia của nó đến với chúng ta qua lớp không khí trong sạch và mát. Cây cối được nhẹ nhõm cũng như con người, vì sự sạch sẽ, sự quang đãng là những thứ mang niềm vui. Ngay những điều tương phản cũng giúp đạt tới một sự hiểu biết chính xác hơn, và sự sáng suốt minh mẫn hơn, bằng không, nó chỉ là sự độc ác. Và sự tương phản là cái gì, nếu không phải là cơn giông mà nhiều đám mây khác nhau đã tạo ra? Và các đám mây này chẳng chồng chất cách nhẹ nhàng trong các con tim với những bất mãn xấu và vô ích, các ghen tị nho nhỏ, các đám khói kiêu căng? Rồi cơn gió Ân Sủng tới để thanh tẩy những điều không vui và đem lại trong sáng.
Sự đào tạo các giáo đồ còn giống như công việc mà Phêrô làm
363
sáng nay để làm vui lòng Mẹ Thầy: dựng lên, buộc lại, chống đỡ hay cởi ra, tùy theo chiều hướng và sự cần thiết, để làm cho các con nên những kẻ mạnh cho công việc của Thiên Chúa. Phải sửa chữa những ý tưởng sai, chế ngự những đòi hỏi của xác thịt, nâng đỡ những cái yếu, điều độ trong các nhu cầu, các khuynh hướng; giải phóng cho khỏi những trói buộc và những e ngại rụt rè. Các con phải tự do và mạnh mẽ như những con phượng hoàng rời bỏ sườn dốc, nơi nó sinh ra, và chỉ nghĩ tới bay lên càng ngày càng cao. Phục vụ Thiên Chúa, đó là bay; các tình cảm, đó là sườn dốc.
Có một người trong các con hôm nay buồn bã vì cha anh sắp chết, và vì ông tới gần cái chết với con tim khép chặt trước Ánh Sáng, và trước người con của ông là kẻ đi theo Ánh Sáng. Chẳng những là khép chặt, mà còn thù hận. Và còn hơn nữa, ông đã nói với anh ta cái “cút đi” mà Thầy nói với các con ngày hôm qua, trong khi ông tự tuyên bố mình ở bên trên Thiên Chúa, nhưng con tim ông se lại, và môi ông ngậm chặt, chưa thể mở ra để nói: “Hãy theo tiếng nói gọi con”. Thầy không đòi hỏi, Thầy, người đang nói với các con, và người con này cũng không đòi hỏi đôi môi này mở ra để nói: “Hãy đến, và xin Thầy đến với con. Nguyện chúc tụng Thiên Chúa vì đã chọn trong gia đình mình một kẻ làm tôi tớ Người, và như vậy tạo ra một liên hệ họ hàng cao hơn sự liên hệ máu huyết, với Ngôi Lời của Chúa”, nhưng ít nhất, Thầy, vì sự lành cho ông, và người con, vì một lý do còn phức tạp hơn, chúng ta muốn được nghe của ông những lời không còn hận thù.
Nhưng người con này, mong rằng ông đừng khóc. Ông hãy biết rằng Thầy không oán ghét, cũng không khinh bỉ ông ta, mà Thầy chỉ thương. Thầy đã tới và đã chờ, dù biết rằng chờ cũng vô ích, để một ngày kia, con ông không nói với Thầy: “Ôi! Tại sao Thầy không tới?” Thầy đã tới để thuyết phục họ rằng tất cả đều vô ích khi con tim khép lại trong thù ghét. Thầy cũng đến để khích lệ người đàn bà tốt, đau khổ vì sự chia rẽ trong gia đình, giống như con dao chia cắt các bắp thịt... Nhưng mong rằng người con này cũng như bà mẹ tốt này biết rằng Thầy không trả lời thù ghét bằng thù ghét. Thầy kính trọng sự thật thà của một tín hữu già trung thành tới điểm tôn
364
giáo của ông còn tồn tại tới giờ này, mặc dù đức tin của ông bị lạc hướng. Trong Israel có biết bao người giống như ông. Vì vậy Thầy nói với các con rằng Thầy sẽ được đón nhận bởi dân ngoại hơn là bởi các con cháu Abraham, những kẻ đã làm hư hỏng tư tưởng về Đấng Cứu Tinh bằng cách hạ Vương Quyền thiêng liêng của Người xuống tới cái tư tưởng bần tiện của vương quốc loài người. Thầy phải chẻ cái vỏ cứng của Hy Bá ra, thâm nhập vào, gây thương tích để đi tới tận đáy, nơi có linh hồn của Hy Bá, và mang tới đó sự sinh sản của luật mới.
Ôi! Thực sự Israel đã được mọc lên chung quanh cái nhân sống của luật Sinai, nhưng đã trở nên một trái cây quái gở, mà các lớp thịt càng lúc càng kết xơ và cứng hơn, được bảo vệ ở bên ngoài bằng một cái vỏ gáo chống lại mọi sự xâm nhập, và ngăn cản cả cái mầm mọc ra. Nhưng Thiên Chúa xét rằng đã tới lúc Người tạo dựng một cây mới của đức tin nơi Thiên Chúa Duy Nhất và Ba Ngôi. Thầy, để cho ý muốn của Thiên Chúa được hoàn thành, và để Hy Bá trở thành Kitô giáo, Thầy phải đẽo vạc, chọc thủng, xâm nhập vào tới tận hạt nhân, sưởi ấm nó bằng tình yêu của Thầy để nó thức dậy, căng phồng lên, nảy mầm, phát triển, phát triển, phát triển, và trở thành một cây mạnh của Kitô giáo, tôn giáo trọn hảo, muôn đời, thuộc về Thiên Chúa. Thực sự Thầy nói với các con rằng Hy Bá chỉ để cho chọc thủng trong tỉ lệ một phần trăm. Và đó là tại sao Thầy không cho là bị bài xích đối với Israel khi nó không muốn có Thầy, và không dành các con dân của nó cho Thầy.
Cũng vậy, Thầy nói với người con này: đừng khóc vì thịt và máu đau khổ khi thấy mình bị xua đuổi bởi thịt và máu đã sinh ra nó. Thầy cũng nói: đừng khóc cho tâm hồn. Sự đau khổ của anh sẽ làm việc nhiều hơn mọi thứ khác cho lợi ích của tâm hồn anh cũng như tâm hồn ông, của người cha là cha anh mà không hiểu và không thấy. Và Thầy thêm: đừng ngập ngừng thuộc về Thiên Chúa hơn là về ba anh. Với tất cả các con, Thầy nói: Thiên Chúa hơn là cha, mẹ, anh em. Thầy không đến để hợp nhất thịt máu theo kiểu trái đất, nhưng theo lối tinh thần và Thiên Quốc. Thầy cũng phải chia
365
lìa những gì là máu thịt, để mang theo với Thầy các tâm hồn ngay từ đời này đã có khả năng cất mình lên trời cao để thành tôi tớ nước Trời. Vậy Thầy đến gọi những kẻ mạnh, để làm cho họ nên mạnh hơn. Vì đạo binh của các kẻ hiền lành dịu dàng gồm bởi những kẻ mạnh. Hiền lành dịu dàng với anh em, mạnh để đối đầu với cái tôi của mình và cái tôi của máu mủ gia đình.
Đừng khóc anh ơi! Sự đau đớn của anh, Thầy bảo đảm rằng nó làm việc nơi Thiên Chúa cho lợi ích của ba anh và các anh em anh hơn bất cứ lời nói nào, không phải chỉ của anh, mà cả của Thầy. Hãy tin rằng lời nói không vào được những nơi có thành kiến làm rào cản, nhưng Ân Sủng vào được. Sự hy sinh là nam châm lôi kéo Ân Sủng.
Thực vậy, Thầy bảo các con rằng khi Thầy gọi ai về với Thiên Chúa, thì không có sự vâng lời nào cao hơn việc trả lời cho tiếng gọi này. Và phải trả lời, cả đến không dừng lại để tính toán xem những người khác phản ứng đến đâu và bằng cách nào về sự trung thành của chúng ta với tiếng gọi. Người ta không được dừng lại, dù để mai táng cha. Các con sẽ được thưởng vì sự anh hùng này. Phần thưởng không phải chỉ cho mình các con, mà cho cả những người các con chia lìa với tiếng kêu khóc của con tim, cho những người mà lời nói của họ đánh các con đau hơn roi, vì trong sự ích kỷ của họ, họ kết án các con là con cái vô ơn và nguyền rủa các con tựa như các con phản động. Không, không phải phản động... các vị thánh. Kẻ thù thứ nhất của những người được gọi, là những phần tử trong gia đình họ. Nhưng ở giữa tình yêu và tình yêu, phải biết phân biệt và yêu cách siêu nhiên, tức là phải yêu ông chủ siêu nhiên hơn là yêu các tôi tớ của ông chủ này. Yêu cha mẹ trong Thiên Chúa chứ không hơn Thiên Chúa.
Giêsu ngừng nói để đến với anh họ của Người. Ông đang cúi đầu và không hãm được nước mắt. Người vuốt ve ông: “Juđa... Em, em rời bỏ Mẹ em để đi theo sứ mạng. Chớ gì điều đó lấy đi cho anh hết những ngập ngừng về sự ngay thật trong cách sống của anh. Nếu đó không phải là hành động tốt thì lẽ nào em làm đối với Mẹ em là người chỉ có một mình em?”
366
Juđa áp tay Giêsu vào mặt ông và chấp nhận bằng cái gật đầu, nhưng ông không thể bộc lộ gì hơn.
- Đi! Một mình hai chúng ta đi, giống như khi hai chúng ta còn nhỏ, khi Alphê nhìn em như đứa trẻ khôn nhất Nazarét. Chúng ta đi mang tới cho ông già những chùm nho vàng đẹp này, để ông không cho là em bỏ rơi ông và thù ghét ông. Và cả cho mẹ anh nữa, và cũng để làm vui lòng Giacôbê. Em sẽ nói với ông rằng ngày mai em sẽ ở Caphanaum, và con ông hoàn toàn thuộc về ông. Anh biết, những người già, họ giống như trẻ nít: họ ghen, họ luôn luôn tưởng tượng là người ta thờ ơ với họ. Phải hiểu cho họ...
Và Giêsu biến mất, để lại các môn đệ trong vườn, câm lặng bởi nghe tiết lộ một sự đau đớn và không thông cảm giữa người cha và người con vì cớ Giêsu. Maria hộ vệ Giêsu ra tới cổng, rồi Mẹ trở vào với cái thở dài đau khổ.
Tất cả chấm dứt.
59* CHỮA CHO NGƯỜI ĐẸP COROZAIN.
GIẢNG THUYẾT TẠI GIÁO ĐƯỜNG CAPHANAUM
Giêsu ra khỏi nhà mẹ vợ Phêrô cùng với các môn đệ của Người, ngoại trừ Juđa Thađê. Trước tiên, một đứa con trai nhìn thấy Người và nó đi nói cho mọi người biết, kể cả những người không muốn biết. Giêsu ở trên bờ hồ, ngồi trên be thuyền của Phêrô, lập tức dân chúng vây quanh Người, mừng rỡ vì Người trở lại. Họ hỏi Người hàng ngàn thứ. Giêsu trả lời họ với sự kiên nhẫn khôn lường, vui vẻ và bình tĩnh tựa như tất cả những lẻo mép này là một hòa hợp Thiên Quốc.
Ông trưởng giáo đường cũng tới. Giêsu đứng dậy để chào ông. Lời chào của họ đầy vẻ trịnh trọng Á Châu: “Thưa Thầy, tôi có thể tin cẩn Thầy để giáo huấn dân chúng không?”
- Chắc chắn, nếu ông muốn, và cả dân nữa.
- Thời gian mới đây, tất cả chúng con đều mong. Họ có thể nói -
367
Qủa vậy, dân chúng xác nhận bằng tiếng kêu mới.
- Vậy khoảng giữa buổi chiều, Thầy sẽ ở nhà ông. Bây giờ tất cả hãy giải tán đi. Thầy phải đi tìm một người ước ao Thầy.
Người ta bất đắc dĩ bỏ đi trong khi Giêsu cùng với Phêrô và Andrê bơi thuyền ra ngoài hồ. Những người khác ở lại trên đất. Chiếc thuyền đi một khoảng ngắn bằng buồm, rồi hai người dân chài đẩy nó vào một cái vũng giữa hai ngọn đồi cao. Dường như hai ngọn đồi này nguyên thủy chỉ là một, rồi bị đào sâu ở giữa bởi sự xoi mòn hay động đất, làm thành cái vịnh tí hon, không phải vịnh Na Uy, không trồng đầy thông, nhưng chỉ có những cây oliu bơ phờ, không biết làm cách nào mà chúng mọc được ở đây, trên các sườn dốc cheo leo giữa hai khối đá lở; và có những cây khác mọc ngang. Các cành của chúng đan vào nhau, vặn vẹo bởi gió từ hồ thổi vào, chắc là thổi mạnh, chúng tạo thành như cái mái nhà trên một dòng suối thất thường, sủi bọt rất ồn ào, vì chúng đổ thẳng, hoàn toàn sủi bọt, vì chúng đổ từng bậc một, khoảng cách cao chừng một mét. Các bậc trông giống như thằng lùn giữa dòng nước.
Andrê nhảy xuống nước để kéo thuyền vào bờ hết sức có thể và cột nó vào thân một cây oliu, trong khi Phêrô cuốn buồm lại và bác một mảnh ván làm cầu cho Giêsu. Ông nói: “Nhưng con khuyên Thầy nên cởi dép và áo dài, làm giống như chúng con. Cái đồ điên này (và ông chỉ vào dòng suối) nó làm nước hồ xoáy, nên chiếc cầu tròng trành, không được chắc”.
Giêsu vâng lời không bàn luận. Khi lên trên đất, họ đi dép vào, và Giêsu mặc lại áo dài của Người, hai ông kia chỉ mặc áo lót sậm mầu.
- Bà ta đâu? - Giêsu hỏi.
- Khi nghe tiếng nói là bà ta trốn. Thầy biết... Với cái mà bà ta đeo trên mình.
- Hãy gọi bà đi.
Phêrô nói lớn: “Tôi là môn đệ vị rabbi ở Caphanaum, và vị rabbi đang ở đây. Hãy ra”.
Không ai cho một dấu hiệu nào của sự sống.
- Bà ta nghi ngờ - Andrê giải thích. “Một hôm có người gọi và
368
nói: ‘Hãy tới, có đồ ăn đây’, rồi họ tiếp đón bà ta bằng những cục đá. Chúng con mới thấy bà ta lần đầu tiên, vì, ít nhất là con, con không nhớ bà ta là người đẹp của Corozain vào thời nào”.
- Lúc đó các con làm sao?
- Chúng con quăng cho bà ta bánh và cá, và một mảnh vải, một mảnh buồm rách mà chúng con dùng để lau chùi, vì bà ta ở trần. Rồi chúng con bỏ đi để khỏi bị ô nhiễm.
- Vậy làm sao các con trở lại?
- Thưa Thầy, Thầy đi khỏi, và chúng con chỉ nghĩ tới làm cho người ta biết Thầy hơn. Chúng con nghĩ tới tất cả những người bệnh, tất cả những người mù, què, câm... và cả bà ta. Chúng con nói: “Cứ thử coi”. Thầy biết, nhiều người... Ôi! Chắc cũng tại lỗi chúng con, đã bảo chúng con là điên và không muốn nghe, nhưng những người khác thì tin. Chính con đã nói với bà này. Con tới một mình bằng thuyền lúc trăng sáng. Con gọi bà, con nói: “Trên tảng đá ở gốc cây oliu có bánh và cá. Hãy tới, đừng sợ”. Rồi con đi. Bà ta phải chờ con đi khuất, vì con không bao giờ thấy bà. Lần thứ sáu, con thấy bà đứng trên bờ, ngay chính chỗ Thầy đang đứng. Bà chờ con. Ghê sợ chừng nào! Con không bỏ chạy vì con nhớ tới Thầy... Bà hỏi con: “Ông là ai? Tại sao ông có tình thương?”
Con nói với bà: “Vì tôi là môn đệ của Tình Thương”.
- Đó là ai?
- Đức Giêsu người Galilê.
- Và Người dạy các ông có tình thương đối với chúng tôi?
- Đối với hết mọi người.
- Nhưng ông biết tôi là ai không?
- Bà là Người Đẹp Corozain, bây giờ là người cùi.
- Có tình thương cả cho tôi sao?
- Người nói rằng Người thương hết mọi người. Và chúng tôi, để nên giống Người, chúng tôi phải thương hết mọi người.
Thưa Thầy, tới đây bà ta phạm thượng mà không hay. Bà ta nói: “Vậy chắc ông ta cũng là đại tội nhân”.
Con đã muốn nói với bà: “Hãy bị nguyền rủa vì cái lưỡi của bà”.
369
Nhưng con nói: “Không, Người là đấng Messi, Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Con không nói gì hơn với bà, vì con nghĩ: trong sự khốn cùng của bà, bà không thể nghĩ tới Tình Thương của Thiên Chúa. Lúc đó bà ta khóc và nói: “Ôi! Nếu người là thánh, Người không thể, Người không thể thương Người Đẹp. Với người cùi thì có thể, nhưng với Người Đẹp thì không. Mà tôi là kẻ hy vọng...”
Con hỏi: “Bà hy vọng gì?”
- Được khỏi, trở về với thế giới... giữa loài người, dù chết là hành khất, nhưng giữa loài người chứ không như con vật hoang, trong hang thú vật mà tôi làm chúng sợ.
- Bà có thề với tôi là nếu bà trở về thế giới, bà sẽ sống ngay thật không? - Và bà nói: “Có. Thiên Chúa phạt tôi chính là vì tội tôi. Tôi hối hận sâu xa. Linh hồn tôi chịu sự đền tội, nhưng nó ghét tội tới muôn đời”.
Con thấy như lúc này có thể hứa với bà sự cứu rỗi nhân danh Thầy. Bà bảo con: “Xin trở lại nữa, trở lại nữa... Xin nói với tôi về Người, để linh hồn tôi biết Người trước khi mắt tôi thấy Người...” Và con trở lại nói với bà về Thầy như con biết.
- Và Thầy, Thầy đến mang sự cứu rỗi cho kẻ hoán cải đầu tiên bởi Andrê của Thầy. (vì qủa thật, luôn luôn là Andrê nói, trong khi Phêrô đi khỏi đó, đi lên đồi, nhảy từ tảng đá nọ tới tảng đá kia để gọi người cùi)
Sau cùng, bà ta để lộ khuôn mặt khủng khiếp giữa các cành oliu. Bà nhìn và phát ra tiếng kêu.
- Vậy xuống đi! - Phêrô kêu: “Tôi đâu có muốn ném đá bà. Bà coi, người đứng đó chính là vị rabbi Giêsu”.
Người đàn bà tụt xuống trên bờ dốc. Tôi diễn tả vậy, vì bà ta xuống rất lẹ và tới chân Giêsu cả trước khi Phêrô trở lại với Thầy: “Lạy Chúa! Xin thương!”
- Bà có tin là Ta có thể có Tình Thương không?
- Có. Vì Ngài Thánh và con hối hận. Con là kẻ có tội, nhưng Ngài là Tình Thương. Môn đệ Ngài là người đầu tiên có Tình Thương đối với con. Ông đã đến cho con bánh và đức tin. Lạy Chúa, xin
370
thanh tẩy con. Nhưng linh hồn trước thân xác, vì con ba lần ô uế. Nếu Ngài chỉ có thể cho con một sự thanh tẩy duy nhất, thì đây, con xin nó cho linh hồn tội lỗi của con. Trước kia, khi con nghe các lời Ngài do ông nhắc lại, con nói: “được khỏi để trở về sống giữa loài người”. Bây giờ con biết nên con nói: “được khỏi để có sự sống đời đời”.
- Và nếu Ta chỉ cho con sự tha thứ thôi, không có gì khác, nhưng...
- Xin chúc tụng Ngài. Con sẽ sống bình an với Thiên Chúa trong hang của con... Tự do... Ôi! Khỏi bị cắn rứt và sợ hãi. Không còn sợ chết, vì bây giờ con được tha thứ; không còn sợ Thiên Chúa, vì bây giờ Ngài đã xá giải cho con.
- Hãy xuống hồ tắm đi, và ở yên trong đó cho tới khi Ta gọi con.
Người đàn bà, một con ma thê thảm, chỉ có da bọc xương, bị gặm mòn bởi bệnh cùi, tóc rối, cứng đơ, bạc hết mọi sợi, đứng dậy và xuống trong nước hồ. Bà dìm mình vào đó trong bộ đồ giẻ rách, chỉ phủ cho bà rất sơ sài.
- Sao Thầy lại bảo bà đi tắm? Đúng là sự hôi thối làm cho bệnh, nhưng... Con không hiểu - Phêrô nói.
- Này bà, hãy lên và tới kia cầm miếng vải trên cành. (đó là miếng vải Giêsu đã lau tay chân sau khi đã lội chỗ nước cạn từ thuyền tới bờ).
Người đàn bà đi lên, hoàn toàn mình trần, vì bà đã để miếng giẻ của bà trong nước để lấy miếng giẻ khô. Người đầu tiên la lên là Phêrô, trong khi Andrê thận trọng hơn, đã quay lưng lại bà. Nhưng khi ông nghe tiếng anh ông la, ông liền quay lại, và tới lần ông cũng la lên. Người đàn bà đăm đăm nhìn Giêsu, bà không nghĩ tới gì khác. Nhưng khi nghe tiếng la và thấy các bàn tay làm hiệu cho bà ngó tới thân mình, bà nhìn mình... Bà nhận ra là cùng với tấm giẻ của bà, bà đã để bệnh cùi lại dưới sông. Bà không chạy đi như ta nghĩ. Bà ngồi xuống, cuộn tròn mình trên bờ, xấu hổ vì trần truồng, cảm động tới nỗi bà không thể làm gì khác ngoài khóc trong những lời than dài không dứt, thảm thiết hơn là tiếng khóc.
Giêsu tiến tới... dừng lại ở gần bà, quăng trên bà miếng vải, hơi
371
quẹt tay trên đầu bà như một vuốt ve và nói: “Chào. Hãy tốt. Con đáng được ơn vì sự chân thành và lòng thống hối của con. Hãy lớn lên trong lòng tin nơi Đấng Kitô, và hãy vâng theo lề luật về sự thanh tẩy”.
Người đàn bà cứ khóc, khóc, khóc. Chỉ khi bà nghe tiếng động của tấm ván mà Phêrô kéo lên thuyền, bà mới ngẩng đầu lên, giơ tay và kêu: “Cám ơn Chúa! Cám ơn. Chúc tụng. Ôi! Chúc tụng! Chúc tụng!...”
Giêsu làm một cử chỉ từ biệt trước khi chiếc thuyền quẹo ở mỏm đồi của cái vịnh nhỏ và biến mất.
***
Bây giờ Giêsu cùng với tất cả các môn đệ Người đi vào giáo đường Caphanaum, sau khi đã băng qua quảng trường và con đường từ đó tới giáo đường. Tin về phép lạ mới chắc đã lan ra, vì có nhiều xì xèo và bình luận.
Đây, tại cửa giáo đường, tôi thấy Mathêu, tông đồ tương lai. Ông ở đó, tựa như ông tự hỏi không biết nên vào hay ra. Tôi không biết ông xấu hổ hay khó chịu vì những nháy mắt ám chỉ ông, và có cả vài hình dung từ không mấy dễ chịu tung về phía ông. Hai pharisiêu nghênh ngang trong áo choàng rộng, thấy ông, họ ôm sát áo vào người, tựa như họ sợ bị trúng dịch tễ nếu nó đụng vào y phục của Mathêu.
Trong khi vào, Giêsu nhìn ông và dừng lại một lát. Nhưng Mathêu cúi đầu. Chỉ có thế thôi.
Khi vừa đi qua ông, Phêrô nói với Giêsu: “Thầy biết cái ông tóc quăn, xức dầu thơm còn hơn đàn bà đó là ai không? Đó là Mathêu, viên thu thuế của chúng ta... Ông ta tới đây làm gì? Đây là lần đầu. Có lẽ ông không tìm thấy bồ bịch, nhất là bạn gái, để qua ngày Sabát, để tiêu xài trong hành lạc số bạc ông cưỡng bức chúng ta bằng cách đánh thuế gấp đôi gấp ba, để có tiền cho ngân khố và cho cuộc sống trụy lạc của ông”.
Giêsu nhìn Phêrô cách nghiêm khắc tới nỗi ông đỏ như bông hoa mỹ nhân thảo. Ông cúi đầu, dừng lại để tụt từ hàng đầu tới
372
hàng chót của nhóm các môn đệ.
Giêsu vào chỗ của Người sau khi đã đọc Thánh Vịnh và các lời cầu nguyện chung với dân. Người quay lại để nói. Ông trưởng giáo đường hỏi Người xem Người có muốn một ru-lô không, nhưng Người trả lời: “Không cần. Tôi đã có đề tài”.
Và Người bắt đầu:
- Vị đại vương Israel: Đavít xứ Bétlem, sau khi phạm tội, đã khóc, con tim thống hối, kêu lên cùng Thiên Chúa lòng thống hối của ông và xin ơn tha thứ. Đavít đã có tâm hồn âm u vì sương mù của giác quan, và điều đó ngăn cản ông thấy dung nhan Thiên Chúa và hiểu lời Người.
Thầy đã nói: dung nhan, vì trong con tim loài người, có một điểm luôn luôn duy trì kỷ niệm về dung nhan Thiên Chúa, một điểm được chọn đặc biệt là “Nơi Cực Thánh” của chúng ta. Từ đó đến với con tim những soi sáng thánh, những quyết định thánh. Một nơi thơm tho như bàn thờ, sáng như một dàn hỏa thiêu, vang lên tiếng hát như nơi ở của các Sêraphim. Nhưng khi tội lỗi phun khói của chúng trong chúng ta, thì đây, nơi này bị tối đen đến nỗi làm biến mất ánh sáng, hương thơm, tiếng hát, và chỉ còn lại mùi nồng nặc của làn khói dầy và mùi tro. Nhưng khi vầng sáng trở lại, vì nhờ một tôi tớ Chúa mang nó tới cho kẻ khốn nạn không có ánh sáng, khi đó nó nhìn thấy sự xấu xa, sự hư hỏng của nó, nó ghê sợ chính mình, nó kêu lên như Đavít: “Lạy Chúa, xin thương con theo lòng thương xót Chúa. Vì lòng nhân từ vô biên của Chúa, xin tẩy rửa tội lỗi con”. Ông không nói: “Tôi không thể được tha, vì vậy tôi ở lại trong tội”. Nhưng ông nói: “Con khiêm nhường, trái tim con tan nát. Chúa biết con đã được sinh ra trong tội thế nào. Xin Chúa rảy nước trên con và dìm ngập con, để con lại trở nên trắng như tuyết trên đỉnh núi”. Ông còn nói: “Lễ toàn thiêu của con không phải là chiên bò, mà là con tim tan nát thực sự, vì con biết Chúa chỉ muốn điều đó và Chúa không khinh bỉ”.
Đó là điều Đavít nói sau khi phạm tội, và sau khi Nathan, tôi tớ Chúa, đã dìu dắt ông tới sự sám hối. Còn phải như vậy, và với lý do mạnh hơn, các người tội lỗi phải nói bây giờ là lúc Chúa đã gởi đến
373
cho họ, không phải một trong các tôi tớ của người, nhưng là chính Đấng Cứu Chuộc, Ngôi Lời của Người. Chính Người là Đấng Công Chính, là chủ, không phải chỉ của loài người, nhưng là của cả những tạo vật trên trời và dưới hỏa ngục. Người xuất hiện giữa dân Người như ánh sáng xuất hiện từ rạng đông, lúc mặt trời mọc ban mai, huy hoàng trong bầu trời không vẩn mây.
Các con đã đọc: loài người, khi là mồi của ma qủi, đã trở nên yếu đuối hơn lồng ngực của kẻ hấp hối, dù trước đó nó là kẻ mạnh. Các con biết Samson đã bị triệt tiêu sau khi đã nhượng bộ tình dục. Thầy muốn các con biết bài học đã được dạy cho chúng ta bởi Samson, con Manoab, được tiền định để thắng Philitin đang áp bức Israel. Điều kiện thứ nhất để ông làm tròn sứ mạng của ông là ngay từ lúc được mang thai, ông phải kiêng hết những gì kích thích giác quan và việc phối hợp tạng phủ với những thứ thịt không trong sạch, tức là rượu và thịt béo nhóm lên lửa ô uế trong lòng. Điều kiện thứ hai để làm người giải phóng cho dân là ông phải thánh hiến cho Chúa từ nhỏ, và sống mãi trong lời thề trường tồn. Thánh hiến tức là giữ mình, không phải chỉ có sự thánh hiến bên ngoài, nhưng là sự thánh hiến nội tâm.
Nhưng xác thịt là xác thịt, và Satan là kẻ cám dỗ, nó cám dỗ chống đối Thiên Chúa trong lòng và trong các giới luật thánh của Người. Xác thịt kích thích người đàn ông chính là người đàn bà, lúc đó sức lực của kẻ mạnh run giùng và trở nên kẻ yếu, lãng phí những đặc quyền mà Thiên Chúa ban cho. Bây giờ hãy nghe: Samson bị trói bằng bảy sợi gân tươi và bảy sợi giây mới, cột chặt xuống đất với bảy bím tóc của ông, và ông luôn luôn thắng. Nhưng người ta không được thử thách Chúa, dù là về lòng nhân từ của Người. Không được phép như vậy. Người tha thứ, tha thứ, tha thứ, nhưng Người đòi thiện chí muốn thoát ra khỏi tội lỗi để Người tiếp tục tha thứ. Thật là ngu dại kẻ nào nói: “Chúa tha”, rồi không trốn chạy những gì liên tục đẩy nó vào tội lỗi. Samson thắng ba lần, nhưng không chạy trốn Dadila, tình dục, tội lỗi, nên bị chúng quấy rầy hầu chết, sách đã nói vậy, và sức mạnh của linh hồn ông một khi yếu đi -
374
sách cũng còn nói - ông đã tiết lộ bí mật: “Sức mạnh của ta ở trong bảy bím tóc của ta”. Có ai trong các con mệt mỏi vì những chán chê của tội lỗi, cảm thấy linh hồn mình yếu đi và hòng nộp mình cho kẻ thù không? Không, dù con là ai cũng đừng làm vậy. Samson đã tiết lộ cho kẻ cám dỗ cái bí mật để thắng là bảy nhân đức của ông: bảy bím tóc tượng trưng các nhân đức của ông, tức là sự trung thành với lời khấn hứa. Rồi ông mệt mỏi, ngủ trong lòng người đàn bà và bị thua. Trở nên mù lòa, nô lệ, bất lực, vì đã từ chối trung thành với lời khấn. Ông chỉ trở nên kẻ mạnh và kẻ giải phóng khi nhờ sự đau đớn sám hối thực sự, ông tìm lại được sức mạnh... Sám hối, kiên trì, cương quyết, anh hùng, rồi, ôi hỡi các người tội lỗi, Thầy hứa với các con rằng các con sẽ là kẻ giải phóng cho chính mình các con. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng không có phép rửa nào có giá trị, cũng không có nghi thức nào ích lợi, nếu không có sự sám hối và ý muốn từ bỏ tội lỗi. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng không có tội nhân nào nặng nề tới nỗi nó không thể nhờ nước mắt sám hối mà làm tái sinh các nhân đức mà tội lỗi đã giật mất của tâm hồn nó.
Hôm nay, một người đàn bà, một tội nhân của Israel, bị Thiên Chúa phạt vì tội, đã được hưởng tình thương nhờ sám hối. Thầy nói: tình thương, sẽ có ít tình thương hơn cho những kẻ không có tình thương đối với bà, những kẻ đè bẹp cách không thương xót kẻ khốn nạn đã bị phạt rồi. Những kẻ đó, họ chẳng cùi trong lòng vì tội của họ sao? Mong mỗi người hãy xét mình, và hãy thương xót để đáng được hưởng lòng thương xót cho chính mình. Thầy ngửa tay ra xin các con cho kẻ sám hối này để nó trở về giữa các người sống sau khi đã bị liệt vào số kẻ chết. Không phải Thầy, chính Simon Jonas sẽ nhận của bố thí cho kẻ sám hối trở về Sự Sống Thật trong khi đã hầu lìa đời. Qúi vị đừng lẩm bẩm, các ông lớn, đừng lẩm bẩm. Tôi chưa sinh ra đời thì người đẹp này đã hiện hữu, qúi vị cũng đã hiện hữu. Và về điều này, tôi không nói thêm gì nữa.
- Thầy kết án chúng tôi đã là nhân tình của bà? - Hai vị kỳ lão hỏi cách thù hằn.
- Mỗi người hãy xem xét con tim của mình và cách sống của mình. Đối với tôi, tôi không kết án. Tôi nói nhân danh sự công
375
chính. Chúng ta đi - và Giêsu ra với các người của Ngài.
Nhưng có hai người giữ Judas Kêriot lại, dường như họ biết ông. Tôi nghe họ nói: “Cả anh cũng ở với ông ta? Ông ta có thực sự thánh không?”
Iscariot có một câu trả lời không ngờ: “Tôi chúc các ông, ít nhất là hiểu được sự thánh thiện của Người”.
- Nhưng ông ta đã chữa trong ngày Sabát.
- Không, Người đã tha thứ trong ngày Sabát. Có ngày nào xứng đáng ơn tha thứ hơn ngày Sabát? Các ông không cho tôi gì dành cho kẻ được cứu chuộc sao?
- Chúng tôi không cho tiền của chúng tôi cho gái điếm. Đây là của dâng cúng cho Đền Thờ thánh.
Judas phá lên cười một cách bất kính, rồi ông trồng họ ở đó và chạy lại với Thầy. Giêsu sắp vào trong nhà Phêrô thì ông nói với Người: “Đây, thằng bé Giacôbê, lúc ra khỏi giáo đường, nó đã đưa cho con bữa nay hai túi tiền thay vì một, và luôn luôn là của kẻ vô danh. Nhưng ai vậy Thầy? Thầy biết... nói cho con đi!”
Giêsu mỉm cười: “Thầy sẽ nói cho con khi con học biết không bao giờ dèm pha ai”.
Và tất cả đều chấm dứt.
60* GIACÔBÊ ALPHÊ ĐƯỢC NHẬN
VÀO SỐ MÔN ĐỆ. GIÊSU GIẢNG THUYẾT
BÊN CẠNH QUẦY THUẾ CỦA MATHÊU
Đây là buổi sáng phiên chợ ở Caphanaum. Công trường đầy những người bán đủ thứ lủng củng.
Giêsu từ hồ đi tới, thấy các ông anh họ Juđa và Giacôbê đang đến gặp Người, Người vội vã lại với họ. Sau khi đã ôm hôn nhau cách tình nghĩa, Người hỏi ngay: “Ba các anh thế nào?”
- Đời sống của ông không còn gì đáng chú ý nữa.
- Vậy tại sao anh tới? Em đã bảo anh là ở lại nhà.
Juđa cúi đầu nín lặng, nhưng người phát nổ bây giờ là Giacôbê:
376
“Nếu nó không vâng lời em là tại anh. Đúng, tại lỗi anh. Nhưng anh không thể tiếp tục chịu đựng họ nữa. Mọi người đều chống lại chúng ta. Và tại sao? Yêu em có phải là hành động xấu không? Chúng ta đã hành động sai sao? Từ trước tới giờ anh nhịn, vì anh e ngại sẽ làm sai. Nhưng bây giờ anh biết. Bây giờ em đã bảo anh rằng bên trên cha mẹ còn có Thiên Chúa, nên anh không thể tiếp tục chịu đựng nữa. Ôi! Anh đã rán kính trọng, làm cho họ nghe ra lẽ, sửa lại các ý tưởng. Anh nói: ‘Tại sao qúi vị chống lại tôi? Nếu đó là tiên tri, là Đấng Messi, sao qúi vị lại muốn thế giới nói: gia đình Người hận thù với Người. Ở giữa một thế giới đi theo Người, chỉ thiếu có gia đình Người? Nếu rủi đúng như qúi vị nói, thì chúng ta thuộc về gia đình Người, tại sao chúng ta không phụ giúp trong sự loạn trí của Người để nó không thiệt hại cho Người và cho chúng ta?’ Ôi! Giêsu, anh nói vậy để lý luận theo kiểu loài người như họ lý luận, nhưng em biết rõ là Juđa với anh, chúng ta đâu có cho là em điên. Em biết rằng hai anh coi em là đấng thánh của Thiên Chúa. Em biết rõ chúng ta luôn luôn nhìn em như Ngôi Sao Vĩ Đại. Nhưng họ không muốn hiểu, cả đến không muốn nghe chúng ta. Anh đã đi, vì gia đình bảo chọn: hoặc Giêsu, hoặc gia đình. Và anh đã chọn em. Anh đây. Nếu ít nhất là em muốn có anh. Nếu sau đó em không muốn có anh nữa, thì anh sẽ là kẻ khốn nạn nhất trên đời, vì anh không còn gì nữa, không còn tình bạn đối với em, cũng không còn tình yêu đối với gia đình”.
- Chúng ta như vậy sao? Ôi! Giacôbê của em! Anh Giacôbê tội nghiệp của em! Em không muốn thấy anh phải khổ như vậy, vì em yêu anh. Nhưng nếu Giêsu-người khóc với anh, thì Giêsu-Ngôi-Lời vui mừng cho anh. Hãy đến. Em chắc rằng niềm vui mang Thiên Chúa giữa loài người gia tăng từng giờ một, để đạt tới sự xuất thần đầy đủ vào giờ sau cùng của trái đất, và giờ vĩnh cửu của Trời.
Giêsu quay lại gọi các môn đệ Người. Vì tế nhị, họ đã dừng lại cách đó vài mét: “Lại đây các bạn ơi! Bây giờ ông anh họ Giacôbê của Thầy ở vào số các bạn Thầy, vì vậy cũng là bạn các con. Người bạn tuổi thơ của Thầy là ông anh họ của Thầy trong suốt tuổi trẻ
377
của chúng ta”.
Các môn đệ mừng kẻ mới tới và mừng Juđa mà họ không thấy từ mấy ngày nay.
- Chúng con tìm Thầy ở nhà... nhưng Thầy ở trên hồ.
- Đúng, ở trên hồ hai ngày cùng với Phêrô và những người khác. Phêrô đã bắt được nhiều cá phải không?
- Đúng. Nhưng bây giờ con thấy đau lòng, vì con phải trả bao nhiêu cho tên ăn cắp kia... - và ông chỉ ngón tay vào nhân viên sở thuế Mathêu mà quầy của ông đang được bao vây bởi những người trả tiền chỗ ở chợ, tôi chắc vậy, hay hàng hóa.
- Con sẽ trả theo tỉ lệ, Thầy nói vậy đó: nhiều cá thì phải trả nhiều, nhưng cũng thu lợi nhiều.
- Thưa Thầy không. Nhiều cá thì kiếm tiền nhiều, nhưng nếu con bắt cá nhiều gấp đôi, thì đâu phải con chỉ trả gấp đôi, mà phải trả gấp bốn... Chó rừng!
- Phêrô! Vậy hãy lại gần đó. Thầy muốn nói. Luôn luôn có người ở gần quầy thu thuế.
- Con biết mà! - Phêrô càu nhàu. “Càng đông người thì càng nhiều nguyền rủa”.
- Vậy Thầy sẽ để sự chúc phúc vào đó. Ai biết đâu sẽ có tí thật thà lọt vào trong người thu thuế này.
- Thầy có thể yên trí là lời Thầy sẽ không lọt qua lớp da cá sấu của hắn.
- Chúng ta sẽ thấy.
- Thầy sẽ nói gì với ông ta?
- Không có gì trực tiếp. Nhưng Thầy sẽ nói theo cách để ông biết rằng đó cũng là nói cho ông.
- Thầy sẽ nói rằng trộm cướp là những kẻ tấn công người đi đường, cũng như những kẻ bóc lột người nghèo, là những kẻ làm việc để kiếm bánh ăn chứ không phải để chơi đàn bà và nhậu nhẹt say sưa.
378
- Phêrô, con muốn nói thay cho Thầy?
- Thưa Thầy không. Con không biết giải thích rõ ràng.
- Và với sự chua cay con có ở trong mình, con sẽ làm khổ con và cả ông ta nữa.
Họ tới gần quầy thu thuế. Phêrô sẵn sàng để trả. Giêsu dừng ông lại và nói: “Đưa tiền cho Thầy. Hôm nay chính Thầy trả”. Phêrô nhìn người ngạc nhiên và trao cho Người cái túi tiền bằng da khá đầy.
Giêsu chờ phiên Người. Khi Người tới trước mặt người thu thuế, Người nói: “Tôi trả cho tám rổ cá của Simon Jonas. Nó ở đàng kia, tại chân các cậu con trai. Hãy kiểm tra, nếu ông muốn. Nhưng ở giữa những người thật thà với nhau thì lời nói đã đủ. Và tôi nghĩ ông coi tôi là người thật thà. Bao nhiêu tiền thuế?”
Mathêu ngồi ở quầy của ông, lúc Giêsu nói: “Tôi nghĩ ông coi tôi là người thật thà”, ông liền đứng dậy. Với khổ người nhỏ và đã già gần như Phêrô, ông phơi bày khuôn mặt mệt mỏi của kẻ chơi bời, và biểu lộ sự bối rối rõ ràng. Lúc đầu ông cúi mặt, rồi ông ngẩng lên nhìn Giêsu. Giêsu nhìn ông đăm đăm, vẻ quan trọng, chế ngự ông bằng khổ người cao của Người.
- Bao nhiêu? - Sau một lát, Giêsu lại hỏi.
- Không có thuế đối với môn đệ của Thầy - Mathêu trả lời, và ông nói nhỏ: “Xin cầu nguyện cho linh hồn tôi”.
- Thầy mang nó ở trong Thầy, vì Thầy để các người tội lỗi ở đó. Nhưng con... Sao con không lo tới nó? - Rồi Giêsu quay lưng ngay và trở lại với Phêrô đang sửng sốt. Những người khác cũng sửng sốt, họ xì xèo, không tin ở mắt mình...
Giêsu tựa lưng vào một thân cây cách chỗ Mathêu độ mươi mét và bắt đầu nói:
- Thế giới ví như một đại gia đình mà các phần tử làm các nghề khác nhau, và tất cả đều cần thiết. Có các nông dân, các mục đồng, các người trồng nho, các thợ mộc, dân chài, thợ nề, người làm rừng và làm đồ sắt... Rồi các văn sĩ, binh lính, công chức được sung dụng vào các nhiệm vụ đặc biệt, các thầy thuốc, thầy cả. Có tất cả. Thế
379
giới không thể chỉ có một loại người. Tất cả các nghề nghiệp đều cần, đều thánh, nếu tất cả đều làm công việc của họ cách thật thà và công bằng. Làm sao người ta có thể làm như vậy trong khi Satan cám dỗ chúng ta mọi phía? Bằng cách nghĩ tới Thiên Chúa, đấng thấy tất cả, dù những hành động kín đáo nhất, và luật của Người nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình; đừng làm cho người ta điều ngươi không muốn người khác làm cho ngươi. Đừng trộm cắp bằng bất cứ cách nào”.
Các con, những người đang nghe Thầy đây, hãy nói cho Thầy: khi một người chết, họ có mang túi tiền đi theo với họ không? Và nếu họ đủ ngu ngốc để muốn có nó ở bên cạnh họ trong mồ, họ có thể dùng nó ở đời bên kia không? Không. Các đồng bạc sẽ hư khi tiếp xúc với cơ thể hư thối. Nhưng đàng khác, linh hồn họ sẽ trần trụi, nghèo nàn hơn ông Gióp, không có lấy một đồng bạc nhỏ, cho dù ở đời, và cả ở trong mồ, họ đã để bao nhiêu, bao nhiêu lượng vàng. Vậy hãy nghe! Hãy nghe! Thực vậy, Thầy bảo các con: Với sự giầu có, người ta tậu được nước Trời cách rất khó khăn, và với nó, người ta thường thường mất nước Trời, cho dù nó tới từ việc thừa tự, hoặc do kiếm được cách thật thà. Vì có rất ít người giầu biết dùng nó cách công chính.
Vậy phải làm sao để chiếm được nước Trời hạnh phúc này, nơi yên nghỉ trong lòng Cha? Phải không ham hố của cải. Đừng thèm muốn, nghĩa là đừng muốn có nó với mọi giá, dù phải thiếu thật thà và tình yêu. Đừng ham ước trong chiều hướng là khi có được nó là người ta yêu nó hơn Thiên Đàng và tha nhân, từ chối bác ái với tha nhân khi họ cần. Đừng ham muốn những cái mà của cải có thể cho, tức là đàn bà, vui chơi, bàn ăn dồi dào, y phục lộng lẫy, những thứ chửi vào mặt những kẻ bần cùng đang lạnh và đói. Có, đúng, cũng có thứ tiền hoán chuyển được cho thứ tiền bất công của thế giới, và có giá trị trong Nước Trời. Phải có sự qủi quyệt thánh để biến đổi sự giầu sang loài người, thường là bất công hoặc gây ra bất công, thành những của cải đời đời. Về điều này, phải kiếm tiền cách thật thà, hoàn trả những gì đã có cách bất công; sử dụng của cải thế
380
gian cách vừa phải và không dính bén vào nó. Phải biết từ bỏ của cải, vì sớm muộn nó cũng bỏ chúng ta - ôi! phải nghĩ tới điều đó - trong khi việc lành làm được thì không bao giờ nó bỏ chúng ta.
Mọi người đều muốn được người ta gọi mình là công chính và được coi như vậy, và như vậy thì được phần thưởng của Thiên Chúa. Nhưng làm sao Thiên Chúa có thể thưởng cho kẻ chỉ có tên là công chính chứ không có trong việc làm? Làm sao Người có thể nói: “Ta tha cho con”, trong khi Người thấy việc sám hối chỉ có trong lời nói, còn trong tâm hồn không có gì thực sự thay đổi? Không có sự sám hối bao lâu còn sự ước ao những cái là nguyên nhân của tội lỗi. Nhưng khi ai hạ mình, cắt đứt trong tinh thần những cái là nguyên nhân của những ham muốn xấu, cái đó có thể là đàn bà hay vàng bạc, khi nó nói: “Lạy Chúa, vì Ngài, tất cả những thứ đó không còn nữa”. Đó là một sự sám hối thực, Thiên Chúa đón nhận nó và Người nói: “Hãy đến, con thân yêu đối với Ta như một đứa con vô tội và anh hùng”.
Giêsu đã chấm dứt, Người đi ra, cả đến không quay về phía Mathêu. Ông đã lại gần vòng tròn các thính giả ngay từ những lời đầu tiên.
Khi họ tới gần nhà Phêrô thì vợ ông chạy ra nói gì với ông. Phêrô làm hiệu cho Giêsu lại gần ông: “Đó là mẹ của Juđa và Giacôbê. Bà muốn nói với Thầy mà không muốn cho ai thấy”.
- Như vầy: Thầy vào nhà giống như để nghỉ, còn tất cả các con đi phát của bố thí cho người nghèo, lấy cả tiền thuế mà ông ta không muốn. Đi đi - Giêsu làm hiệu để tất cả đi, trong khi Phêrô thuyết phục họ đi với ông.
- Bà mẹ đó đâu bà? - Giêsu hỏi vợ Phêrô.
- Thưa Thầy ở trên sân thượng. Còn bóng mát, cứ lên, yên lòng. Thầy sẽ ở trên đó tự do hơn trong nhà.
Giêsu lên cái cầu thang nhỏ. Trong một góc dưới dàn cây nho, Maria Alphê ngồi trên cái rương nhỏ gần lan can, y phục mầu đậm, khuôn mặt hầu như voan che hết. Bà khóc nhè nhẹ, không gây tiếng động. Giêsu gọi bà: “Bác Maria yêu!” Bà ngửa khuôn mặt
381
tội nghiệp đầy lo âu lên và giơ tay ra: “Giêsu! Bác đau lòng biết bao!”
Giêsu ở rất gần bà và bó buộc bà ngồi yên, nhưng Người đứng, vẫn còn mặc áo choàng, đặt một bàn tay trên vai bà bác của Người, còn tay kia thì để cho bà cầm trong tay bà: “Bác làm sao? Tại sao khóc?”
- Ôi! Giêsu! Bác trốn khỏi nhà khi bác nói: tôi đi Cana tìm trứng và rượu cho bệnh nhân. Có mẹ cháu ở bên cạnh Alphê để săn sóc ông, cô ấy rất biết làm nên bác yên tâm, nhưng thực sự bác tới đây. Bác đã đi hai đêm tròn để tới cho sớm. Bác hết chịu nổi rồi... Về sự mệt nhọc thì không là gì cả. Chính sự đau đớn trong lòng làm bác khổ! Alphê của bác!...Alphê của bác!...Các con trai bác!... Ôi! Tại sao chúng qúa khác nhau trong khi chúng có cùng một dòng máu? Giống như hai thớt cối đá nghiền nát qủa tim của người mẹ. Juđa và Giacôbê có ở với cháu không? Có à? Vậy cháu biết, Giêsu của bác, tại sao Alphê của bác, ông không hiểu. Tại sao chết? Tại sao ông muốn chết như vầy? Và Simon? Và Giuse? Tại sao chúng không vào phe với cháu mà còn chống đối cháu?
- Maria! Đừng khóc. Cháu không hề giận ghét đối với họ. Cháu đã nói điều đó với Juđa. Cháu hiểu và cháu thương. Nếu vì vậy mà bác khóc thì không nên khóc nữa.
- Vì vậy. Đúng, vì họ xúc phạm đến cháu. Vì vậy, với lại, với lại... với lại... Bác không muốn chồng bác chết như kẻ thù của cháu. Thiên Chúa sẽ không tha cho ông... Và bác... Ôi! Bác sẽ không có ông ta nữa trong đời bên kia... - Maria thực sự lo âu. Bà khóc với nước mắt nóng hổi trên bàn tay Giêsu mà Người để cho bà cầm, mà thỉnh thoảng bà hôn lên, và bà ngửa khuôn mặt tàn tạ của bà lên để nhìn Người.
Giêsu nói: “Không. Đừng nói như vậy. Cháu, cháu tha, và nếu cháu tha...”
- Ôi! Đến đi Giêsu! Đến cứu linh hồn và thân xác ông. Đến đi! Chúng còn nói phạm đến cháu. Đúng, chúng nói rằng cháu đã lấy đi hai người con trai của người cha sắp chết, và chúng nói vậy ở
382
Nazarét. Cháu hiểu không? Nhưng chúng cũng nói: “Nó làm phép lạ ở khắp nơi, nhưng trong nhà thì nó không làm gì cả”. Và bác, bác bênh vực cháu khi nói: “Người có thể làm gì được nếu qúi vị xua đuổi Người bằng những khiển trách, nếu qúi vị không tin?...” Lúc đó thì chúng không muốn nghe gì cả.
- Bác nói đúng, nếu họ không tin, làm sao cháu có thể làm phép lạ nơi người ta không tin?
- Ôi! Cháu có thể tất cả. Bác tin thay cho mọi người. Hãy đến. Hãy làm một phép lạ... cho bà bác tội nghiệp của cháu.
- Cháu không thể - Giêsu buồn sâu xa khi nói như vậy. Người đứng, ôm đầu bà Maria đầy nước mắt áp vào ngực Người, tựa như Người thú nhận sự bất lực tự nhiên của Người, tựa như Người dùng nó làm nhân chứng cho sự đau đớn của Người vì bị ngăn cản làm điều đó do một chiếu chỉ của Thiên Chúa.
Người đàn bà khóc mạnh hơn.
- Nghe đây Maria! Hãy tốt! Cháu đoan chắc với bác rằng nếu làm điều đó là tốt thì cháu sẽ làm, ôi! Cháu sẽ giật nơi Chúa Cha ơn này cho bác, cho Mẹ cháu, cho Juđa và Giacôbê, và cả cho, đúng, cả cho Alphê, Simon và Giuse nữa. Nhưng cháu không thể. Lúc này qủa tim bác qúa đau khổ nên bác không thể hiểu sự chính đáng trong nỗi bất lực của cháu. Cháu nói với bác, nhưng với bấy nhiêu, bác sẽ không hiểu: Khi đến giờ ra đi của Ba cháu, bác đã biết ông là người công chính, và Má cháu yêu ông, nhưng cháu đã không kéo dài đời sống của ông. Sẽ không chính đáng nếu trong một gia đình, nơi có một vị thánh cư ngụ, thì được miễn mọi hoạn nạn của đời sống. Nếu như vậy thì cháu phải ở lại muôn đời trên mặt đất. Nhưng cháu sẽ chết, sắp sửa rồi, và Maria, người Mẹ thánh của cháu, cũng không thể giật được cháu cho khỏi cái chết. Cháu không thể. Đây là điều có thể, và cháu sẽ làm.
Giêsu đã ngồi và kéo đầu của bà bác vào vai Người: “Cháu sẽ làm điều này: vì sự đau khổ của bác, cháu hứa sự bình an cho ông Alphê của bác. Cháu bảo đảm với bác là bác sẽ không bị xa lìa ông ấy. Cháu hứa với bác là gia đình ta sẽ sum họp trên trời, sum họp
383
muôn đời. Bao lâu cháu còn sống cũng như sau đó, cháu sẽ đổ vào con tim người bác của cháu đầy tràn bình an, đầy sức mạnh, và cháu sẽ làm cho bác trở nên tông đồ bên cạnh những người đàn bà tội nghiệp, vì với bác, phụ nữ với nhau, họ sẽ dễ dàng đến gần. Bác sẽ là người bạn yêu dấu của cháu trong thời gian rao giảng Tin Mừng. Cái chết, đừng khóc, cái chết của Alphê giải thoát cho bác khỏi nghĩa vụ làm vợ, và nâng bác lên tới bổn phận tối thượng của chức tư tế mầu nhiệm của phụ nữ, rất cần thiết bên cạnh bàn thờ của Nạn Nhân Vĩ Đại, và trước mặt bao dân ngoại mà linh hồn họ sẽ rung động trước sự anh hùng thánh thiện của các nữ môn đệ hơn là trước các nam môn đệ. Ôi! Bác thân yêu! Tên bác sẽ như ngọn lửa trong trời Kitô giáo... Đừng khóc nữa. Hãy đi bình an. Hãy mạnh mẽ, nhẫn nhục, thánh thiện... Mẹ cháu bị góa trước bác... Mẹ sẽ an ủi bác như Mẹ biết. Đi! Cháu không muốn bác đi một mình dưới mặt trời. Phêrô sẽ hộ vệ bác bằng thuyền tới sông Giođan, và từ đó về Nazarét bằng lừa. Hãy tốt!”
- Chúc lành cho bác đi Giêsu! Hãy cho bác sức mạnh.
- Vâng, cháu chúc lành cho bác và tặng bác cái hôn, bác qúi
yêu! - và Người hôn bà cách âu yếm, ghì bà vào ngực Người thật lâu cho tới khi Người thấy bà bình tĩnh.
61* GIÊSU TẠI BÉTSAIĐA.
NGƯỜI GIẢNG CHO ĐÁM ĐÔNG
Giêsu ở Bétsaiđa, người nói, đứng trên chiếc thuyền đã chở Người, đậu giống như mắc cạn trên bãi, được cột vào một chiếc cọc của cái đập nhỏ thô sơ. Nhiều người ngồi thành hình bán nguyệt trên bãi cát để nghe Người. Giêsu mới bắt đầu bài thuyết trình của Người:
- ...và Thầy thấy ở đây những người yêu thầy, các con ở Caphanaum, các con đã theo Thầy, bỏ qua một bên sự buôn bán và sự yên ổn của căn nhà, để nghe lời Thầy giáo huấn các con. Thầy
384
cũng biết rằng, còn hơn là sự mất mát làm thiệt cho túi tiền, hành động của các con còn làm cho các con bị chế diễu, và có thể gây cho các con những thiệt hại xã hội. Thầy biết rõ rằng Simon, Êli, Urie và Joakim chống đối Thầy. Hôm nay chống đối, ngày mai thù địch. Thầy nói vậy với các con vì Thầy không lừa dối ai. Thầy không muốn đánh lừa các con, những bạn trung thành của Thầy. Thầy nói với các con rằng để làm thiệt hại cho Thầy, để làm cho Thầy phải khổ, để thắng Thầy bằng cách cô lập Thầy, họ, những người quyền thế ở Caphanaum, sẽ dùng mọi phương tiện... Dèm pha và cả đe dọa, chế nhạo, vu khống. Kẻ thù chung sẽ dùng tất cả mọi thứ để giật các linh hồn ra khỏi Đức Kitô và dùng họ làm cò mồi. Thầy bảo các con: ai bền vững đến cùng sẽ được cứu rỗi. Nhưng Thầy cũng nói: Ai yêu sự sống và sự thoải mái hơn hạnh phúc đời đời thì họ được tự do để bỏ đi, rời xa Thầy để lo cho đời sống nhỏ mọn và sự thoải mái mau qua. Thầy, Thầy không cầm giữ ai cả.
Con người là tạo vật tự do. Thầy đến giải phóng cho họ càng ngày càng nhiều khỏi tội lỗi, trong những điều liên can tới tâm hồn và những xiềng xích của một tôn giáo lệch lạc, áp bức, đã làm ngộp những lời rõ ràng, vắn tắt, minh bạch, dễ dàng, thánh thiện, trọn hảo của Thiên Chúa dưới các làn sóng của những chi tiết, các lời, các qui tắc. Thầy đến gạn lọc các lương tâm. Thầy thu thập lúa thóc của Thầy trong sân, và thầy quạt nó bằng giáo lý của sự hy sinh, Thầy sàng nó bằng cái sàng của ý muốn riêng của nó. Trấu, bo bo, đậu giả, cỏ lùng vô ích và nhẹ sẽ bay đi. Các hạt nặng và có hại sẽ rơi xuống để nuôi chim. Trong kho lẫm của Thầy chỉ có các hạt được chọn: tinh tuyền, mạnh mẽ, tuyệt vời. Các hạt là các thánh. Cuộc thách đấu đã xảy ra từ bao thế kỷ giữa Thiên Chúa và Satan. Satan kiêu hãnh vì trận thắng đầu tiên của nó trên loài người, đã nói với Thiên Chúa: “Các tạo vật của Ngài sẽ muôn đời thuộc về tôi. Không có gì, dù là hình phạt, dù là lề luật mà Ngài muốn cho chúng, có thể làm cho chúng có khả năng chiếm được Thiên Đàng. Nơi ở này, nơi ở của Ngài mà Ngài đã đuổi tôi ra, mà Ngài
385
đã đuổi kẻ thông minh nhất trong các thụ tạo, sẽ trống rỗng, vô ích, buồn tẻ cho Ngài giống như tất cả những gì là vô ích”. Và Thiên Chúa trả lời kẻ bị nguyền rủa: “Cái đó còn ở trong quyền của ngươi bao lâu nọc độc của ngươi là cái duy nhất thống trị trong con người. Nhưng Ta sẽ sai Ngôi Lời của Ta, và lời Người sẽ vô hiệu hóa nọc độc của ngươi, tẩy uế các con tim, chữa chúng cho khỏi sự điên dại mà ngươi đã ếm cho chúng, rồi chúng sẽ trở về với Ta. Giống như con chiên lạc tìm được mục tử, chúng sẽ trở về chuồng của Ta, và nước Trời sẽ đông đúc, nước mà ta làm ra chính là để cho chúng. Và ngươi, trong sự bất lực điên dại, ngươi sẽ nghiến những cái răng khủng khiếp của ngươi. Các thiên thần sẽ bạt những tảng đá của Thiên Chúa xuống trên ngươi, ngươi bị giam tù và nguyền rủa trong nước ghê gớm của ngươi. Khi nó bị niêm phong, ngươi và các kẻ thuộc về ngươi sẽ chia sẻ sự tối tăm và thù oán. Tiếng hát hạnh phúc, sự giải phóng vô biên và đời đời sẽ là cả lô cho các người của Ta”. Và ma qủi, với tiếng cười chế diễu đã thề: “Ta thề trên hỏa ngục của ta rằng khi giờ đó tới, ta sẽ đến, ta sẽ hiện diện khắp nơi bên những kẻ được giảng Tin Mừng, và chúng ta sẽ coi xem ai trong hai phe: Ngài và tôi, ai sẽ là kẻ thắng”.
Đúng, Satan giương bẫy và sàng các con. Thầy cũng vậy, Thầy bao trùm các con để sàng. Có hai đối phương: Thầy và nó. Các con ở giữa hai phe. Đó là cuộc quyết đấu giữa Tình Yêu và Thù Ghét; giữa Khôn Ngoan và Vô Tri, giữa Sự Thiện và Sự Ác trên các con và ở chung quanh các con. Để tránh những cú nguy hiểm mà nó nhắm vào các con thì sự hiện diện của Thầy đã đủ. Thầy sẽ đứng ở giữa các vũ khí của Satan và các con, Thầy chấp nhận bị thương thay cho các con, vì Thầy yêu các con. Nhưng những cú đánh ở bên trong các con thì chính các con phải tránh bằng ý muốn của các con, bằng cách chạy đến với Thầy, bằng cách đi trên đường của Thầy là Sự Thật và Sự Sống. Ai không có sự ước ao Nước Trời tha thiết thì không chiếm được nó. Kẻ không có khả năng làm môn đệ của Đấng Kitô sẽ là trấu nhẹ mà gió trần gian mang đi. Những ai là kẻ thù của Đấng Kitô sẽ là các hạt có hại, sẽ mọc lại trong nước
386
của Satan.
Các con ở Caphanaum, Thầy biết tại sao các con tới. Thầy biết rõ ràng về tội mà người ta gán cho Thầy, và nhân danh cái tội không có này, người ta lẩm bẩm ở đàng sau, nói xiên xỏ rằng đến nghe Thầy và theo Thầy là đồng lõa với kẻ có tội. Thầy có lương tâm trong sạch tới nỗi Thầy không sợ tường thuật cho các người Bétsaiđa. Trong số các con, dân Bétsaiđa, có những người già, vì nhiều lý do khác nhau, đã không quên Người Đẹp Corozain. Có những đàn ông đã phạm tội với nàng, có những đàn bà đã phải khóc vì nàng. Lúc đó Thầy chưa đến để nói: “Hãy yêu kẻ làm tổn thương cho các con”, và sau các nước mắt là sự vui mừng khi biết rằng sự hư hỏng của lòng dạ ô uế nơi nàng đã lan ra trên cơ thể tuyệt vời của nàng. Đó chỉ là tượng trưng cho một bệnh cùi khác trầm trọng hơn đã gậm nhấm linh hồn ngoại tình, sát nhân và bán dâm của nàng. Bảy mươi lần bảy lần ngoại tình với tất cả những gì có tên là “đàn ông” và “có tiền”. Bảy lần bảy sát nhân đối với những đứa con tư sinh của nàng, và bán dâm vì trụy lạc chứ không vì nhu cầu.
Ôi! Thầy hiểu các con, các đàn bà bị phản bội! Thầy hiểu niềm vui của các con khi các con nghe nói: “Thân xác Người Đẹp hôi hám và thối nát hơn cái xác rữa trong lỗ ngoài đường, mồi ăn của qụa hoang và dòi bọ”. Nhưng Thầy bảo các con: Hãy biết tha thứ. Thiên Chúa đã thi hành sự báo thù của các con, rồi Thiên Chúa lại tha. Thầy đã tha cho bà nhân danh các con, vì Thầy biết các con tốt. Ôi! Phụ nữ Bétsaiđa, những người đã chào Thầy với tiếng kêu: “Chúc tụng Con Chiên Thiên Chúa, chúc tụng đấng đến nhân danh Chúa”. Nếu Thầy là Con Chiên và các con đã nhận biết Thầy như vậy; nếu thầy, Con Chiên, Thầy đến giữa các con, thì tất cả các con phải trở nên các con cừu êm đềm, ngay cả những người mà nỗi đau khổ xa xưa, bây giờ xa lắm rồi, của người vợ bị phản bội, đã cho họ bản năng của một con thú bảo vệ tổ của nó. Thầy là Con Chiên, Thầy không thể ở giữa các con nếu các con là những con báo và
387
linh cẩu.
Đấng đến nhân danh rất thánh của Thiên Chúa để tụ họp các người công chính và kẻ tội lỗi để dẫn họ về trời, Người đã đến với kẻ sám hối này và nói: “Hãy được sạch. Hãy đi và đền tội”. Điều đó Thầy đã làm vào ngày Sabát, và vì vậy người ta kết án Thầy, một sự kết án chính thức. Điều kết án thứ hai là Thầy đã đến gần một gái điếm, một kẻ trước kia là gái điếm, nhưng chỉ còn là một linh hồn khóc than vì tội.
Vậy Thầy bảo các con: Thầy đã làm điều đó và Thầy còn làm nữa. Hãy đưa Sách Thánh cho Thầy. Hãy lục lọi nó, nghiên cứu nó trong tất cả chiều sâu của nó. Hãy tìm xem có chỗ nào cấm thầy thuốc săn sóc bệnh nhân, thầy Lêvi săn sóc bàn thờ, thầy cả nghe một tín hữu nói chỉ vì lý do là ngày Sabát không? Nếu các con tìm thấy và chỉ nó cho Thầy, thì Thầy sẽ đấm ngực và nói: “Lạy Chúa, con đã phạm tội trước nhan Chúa và trước mặt loài người, con không đáng ơn tha thứ của Ngài, nhưng nếu Ngài muốn thương xót đối với tôi tớ Ngài, thì con xin chúc tụng Ngài tới hơi thở cuối cùng”, vì thực sự linh hồn này là một bệnh nhân, và các bệnh nhân cần thầy thuốc. Đó là một bàn thờ bị phàm tục hóa và cần một thầy Lêvi để thanh tẩy. Đó là một tín hữu tới khóc trong Đền Thờ thực của Thiên Chúa thực, và nó cần một thầy cả để dẫn nó vào đó. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng Thầy là thầy thuốc, Lêvi, thầy cả. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng nếu Thầy không làm bổn phận của Thầy, mà lại để hư mất, dù chỉ một linh hồn mà lòng ước ao phần rỗi đã kích thích, và không cứu nó, thì Thiên Chúa Cha sẽ đòi Thầy tính sổ, và sẽ phạt Thầy vì để mất linh hồn này.
Đó là tội của Thầy theo như các kẻ quyền thế ở Caphanaum. Thầy đã có thể chờ ngày sau ngày Sabát để chữa, đúng, nhưng tại sao lại chờ hai mươi bốn giờ nữa để đặt một linh hồn sám hối vào trong bình an của Thiên Chúa. Trong qủa tim này có một sự khiêm nhường thực, chân thành thực, và một sự đau đớn hoàn toàn. Thầy đọc được nó trong qủa tim này. Thân xác còn cùi, nhưng linh hồn đã được lành bởi chất dầu của bao năm nước mắt, thống hối đền
388
tội. Để có thể tới gần Thiên Chúa mà không làm ô uế không khí của sự thánh thiện bao quanh Thiên Chúa, linh hồn này chỉ cần sự thánh hiến được làm mới lại của Thầy, và Thầy đã làm. Bà đã ra khỏi hồ, thân xác cũng được lành, nhưng linh hồn còn trở nên trong trắng hơn. Ôi! Biết bao, biết bao người đã xuống nước sông Giođan vì vâng lời vị Tiền Hô, mà họ ra khỏi đó, không được sạch như nàng. Vì phép rửa họ nhận không phải là một hành động của ý muốn sám hối chân thành trong lòng, muốn chuẩn bị tâm hồn mình cho biến cố của Thầy, mà chỉ là một hình thức để tỏ ra mình hoàn thiện và thánh trước mắt thế gian. Vậy đó là giả hình và kiêu căng, hai tội nữa để thêm vào đống tội đã có sẵn trong lòng họ. Phép rửa của Gioan chỉ là một tượng trưng, nó muốn nói: Hãy thanh tẩy ngươi cho khỏi kiêu căng, hãy khiêm nhường thú nhận mình có tội. Hãy thanh tẩy cho khỏi tội dâm đãng bằng cách rửa những gì còn lại trong ngươi. Phép rửa hiệu nghiệm là phép rửa trả lời cho ý muốn của linh hồn các con để trở nên trong sạch mà dự yến tiệc của Thiên Chúa. Không có tội nào lớn tới nỗi nó không thể tẩy rửa, trước tiên là bằng sự sám hối, rồi bằng Ân Sủng, sau cùng là bởi Đấng Cứu Thế. Không một tội nhân nào lớn tới nỗi nó không thể ngửa khuôn mặt khiêm nhường của nó lên và mỉm cười với hy vọng được cứu chuộc. Chỉ cần nó từ bỏ tội lỗi hoàn toàn, anh hùng chống lại cám dỗ, chân thành trong ý muốn được tái sinh.
Bây giờ Thầy sắp nói với các con một điều mà các kẻ thù của Thầy coi như phạm thượng. Nhưng các con, các con là bạn Thầy, Thầy nói đặc biệt cho các con, các môn đệ mà Thầy đã chọn, rồi cho tất cả các con đang nghe Thầy. Thầy bảo các con: Các thiên thần là các thần trí trong sạch, toàn vẹn, sống trong ánh sáng của Ba Ngôi cực thánh, và ở đó, các vị được đầy tràn niềm vui. Nhưng trong sự trọn lành của các vị, các vị nhận biết mình được như vậy, nhưng so với các con thì các vị còn ở bên dưới các con là những người sống rất xa trời. Các vị ở thấp hơn các con vì họ không thể hy sinh và chịu đau khổ để hợp tác vào sự cứu chuộc loài người. Các con nghĩ sao? Thiên Chúa đã không dùng một thiên thần và bảo:
389
“Hãy cứu chuộc loài người”, nhưng Người dùng Con của Người. Và biết rõ rằng hy sinh này, dù giá trị của nó khôn lường, và khả năng của nó vô hạn, Người vẫn biết rằng nó còn thiếu một cái gì - vì lòng nhân từ phụ tử của Người không muốn có sự khác biệt giữa người con của Tình Yêu Người và các đứa con của quyền phép Người - nó còn thiếu cái gì trong số công nghiệp phải để đối diện với số tội lỗi mà nhân loại tích góp lại từng giờ một. Nhưng Người cũng không gọi một thiên thần khác để làm đầy cái đấu, và không nói với vị đó: “Hãy chịu đau khổ để bắt chước Đấng Kitô”, nhưng Người nói với các con, với các con: loài người. Người bảo các con: “Hãy chịu đau khổ, hãy hy sinh, hãy làm giống như Con Chiên của Cha, hãy làm kẻ đồng công cứu chuộc...” Ôi! Đó, Thầy thấy các cơ đội thiên thần ngừng lại một lát việc quay về Ba Ngôi là trung tâm của họ trong sự thờ phượng xuất thần, để qùi gối quay về trái đất và nói: “Phúc cho qúi vị là những người được chịu đau khổ với Đấng Kitô và cho Thiên Chúa vĩnh cửu là Thiên Chúa của chúng tôi và của qúi vị”.
Nhiều người sẽ không hiểu sự cao cả này, nó qúa cao bên trên loài người. Nhưng khi Vật Hy Sinh bị sát tế và hạt giống đời đời sống lại để không bao giờ chết nữa, sau khi đã bị cắt, bị đập, bị lột sạch, bị chôn vùi trong lòng đất, lúc đó Đấng Soi Sáng siêu nhiên tuyệt diệu sẽ tới, Người sẽ soi sáng các tâm hồn, dù những kẻ chậm chạp nhất, nhưng vẫn trung thành với Đấng Kitô Cứu Thế, lúc đó các con sẽ hiểu rằng Thầy không phạm thượng, nhưng Thầy loan báo cho các con chức vị cao cả nhất của loài người: chức vị kẻ đồng công cứu chuộc, dù trước kia họ chỉ là tội lỗi. Trong khi chờ đợi, các con hãy chuẩn bị cho vận mệnh này bằng sự trong sạch của tâm hồn và ý hướng. Các con càng trong sạch thì các con càng hiểu. Vì sự ô uế, dù bất cứ loại nào, luôn luôn là khói làm đen, làm nặng cho cái nhìn và sự thông hiểu.
Hãy trong sạch. Hãy bắt đầu trong thân xác để rồi chuyển qua tâm hồn. Hãy bắt đầu bằng năm giác quan rồi tới bảy đam mê. Hãy bắt đầu bằng con mắt. Thị giác là vua, nó mở đường cho cái đói cào cấu nhất, phức tạp nhất. Con mắt nhìn thân xác người đàn
390
bà và ước ao xác thịt; con mắt nhìn sự phong phú dồi dào và ước ao vàng bạc. Con mắt thấy thế lực của các kẻ cai trị và ước mong quyền bính. Hãy có con mắt an bình, thật thà, điều độ và trong sạch thì các con sẽ có những ước ao an bình, thật thà, điều độ và trong sạch. Con mắt càng trong sạch thì tâm hồn càng trong sạch. Hãy canh chừng con mắt để đừng thèm khát khám phá qủa táo cám dỗ. Hãy trong trắng trong cái nhìn nếu các con muốn trong sạch trong cơ thể. Nếu các con trong sạch trong thân xác, các con sẽ trong sạch đối với của cải và quyền bính, các con sẽ có mọi thứ trong trắng và sẽ là bạn hữu của Thiên Chúa.
Đừng sợ người ta chế diễu nếu các con trong trắng. Hãy chỉ sợ mình là kẻ thù của Thiên Chúa. Đã có một ngày Thầy nghe nói: “Thế giới sẽ chế diễu Thầy như kẻ nói dối hay như kẻ bạc nhược, nếu Thầy tỏ ra không ham thích đàn bà”. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng Thiên Chúa đã thành lập hôn nhân để nâng các con lên trong sự bắt chước Người để đồng tạo dựng, và hợp tác với Người để làm đầy Thiên Đàng. Nhưng có một tình trạng cao hơn khiến cho các thiên thần phải nghiêng mình khi các đấng thấy sự cao vời của tình trạng này mà không thể bắt chước. Trạng thái này là hoàn toàn khi nó kéo dài từ lúc sinh ra tới lúc chết, nhưng nó cũng không đóng kín đối với những kẻ không còn đồng trinh. Nó giảm bớt sự sinh sản của người đàn ông hay người đàn bà tới số không. Nó hủy bỏ sự trưởng thành sinh vật của họ để họ trở nên chỉ trưởng thành và sinh sản trong tâm hồn họ mà thôi. Đó là trạng thái hoạn không có sự bất toàn tự nhiên, cũng không có sự cắt cụt do áp bức hay tự ý. Tình trạng này không cấm đến gần bàn thờ. Nhưng trong các thế kỷ tương lai, việc này sẽ là bó buộc đối với những kẻ phục vụ bàn thờ và phục vụ chung quanh đó. Đó là trạng thái cao cả nhất, trong đó ý muốn tự ý chia lìa với hết những gì không thuộc về một mình Thiên Chúa, giữ cho Ngài sự trong trắng của thân xác và tâm hồn để muôn đời có mầu trắng rạng ngời rất qúi yêu đối với Con Chiên. Thầy đã nói cho dân chúng và cho những kẻ được chọn trong dân chúng. Bây giờ trước khi vào để bẻ bánh và chia sẻ hạt muối trong nhà Philíp, đây, Thầy chúc lành cho tất cả: cho người tốt để
391
thưởng công, cho người tội lỗi để đặt vào trong lòng họ sự can đảm tới với đấng đã đến để tha thứ. Bình an cho tất cả các con.
Giêsu xuống khỏi thuyền và đi qua đám đông chen chúc quanh Người. Tại góc tường của một căn nhà, có Mathêu. Ông ở đó để nghe Thầy, không dám đến gần hơn. Đi qua trước chỗ ông, Giêsu dừng lại như để chúc lành cho mọi người, chúc lành lần thứ hai, Người nhìn Mathêu, rồi cùng với nhóm của Người đi theo dân. Sau
đó Người biến mất vào trong một căn nhà. Tất cả chấm dứt.
62* GỌI MATHÊU VÀO SỐ MÔN ĐỆ
Sáng nay con lại nghĩ tới cảm tưởng của cha hôm qua khi con đọc cho cha bài viết về thị kiến. Cha đã thực sự ngạc nhiên. Con đã nói điều đó với Giêsu khi Người ở bên cạnh con, Người đã trả lời con: “Chính vì vậy nên Cha đã cho thị kiến đó. Con không thể tưởng tượng Cha vui chừng nào khi Cha là ánh sáng cho các bạn thực của Cha. Cha ban mình như vậy cho Romuald của Cha để cho ngài vui, vì tình yêu, để giúp ngài, vì Cha nhìn thấy ngài... Cha không có gì bí mật với Gioan nhỏ, Cha cũng không bí mật với các Gioan. Hãy nói với ông già Gioan rằng Cha cho ông sự bình an lớn lao và mẻ lưới tốt. Với con thì không có vụ đánh cá. Với con thì chỉ có công việc phụ nữ: việc đan các mắt lưới bằng những sợi mà Cha cho con. Hãy làm việc, hãy làm việc... đừng lo cho con có còn giờ cho các việc khác không. Trong việc này có tất cả. Cũng đừng bất bình nếu Cha không đến để nói với con: ‘Bình an cho con’. Người ta nói lời chào khi đến hay đi. Khi người ta luôn luôn hiện diện thì không cần chào. Sự hiện diện liên tục của Cha là sự bình an, sự bầu bạn với Cha. Và không phải con có Cha như một người khách, vì thực sự con ở trong tay Cha, Cha không để con xuống một lúc nào cả. Cha có biết bao điều phải nói với con về cuộc đời trần thế của Cha. Nhưng đây, hôm nay Cha làm vui lòng con, và Cha nói: ‘Bình an của Cha cho con’”.
Rồi hầu như ngay lập tức, con thấy những điều sau đây:
Vẫn còn là công trường họp chợ của Caphanaum, nhưng đây là giờ nóng và chợ đã tan. Tại công trường chỉ còn những người rảnh rỗi và các trẻ em chơi đùa. Giêsu ở giữa nhóm của Người, từ hồ đi về quảng trường. Người vuốt ve những đứa nhỏ chạy đến với Người và lưu ý đến những bí mật chúng thổ lộ cho Người. Một con bé chỉ cho Người một vết trầy lớn rướm máu trên trán, và nó kết tội em nó
392
đã gây ra cho nó.
- Sao con làm đau chị con? Như vậy không tốt.
- Con không cố ý. Con muốn hái các trái sung, và con lấy cây gậy để đập, nhưng vì nó nặng qúa nên nó rơi xuống chị. Con đã hái đền cho chị.
- Đúng không Jeanne?
- Đúng.
- Con thấy rõ là em con không muốn làm đau cho con. Cả đến nó muốn làm vui lòng con. Vậy bây giờ hãy làm hòa và cho nhau cái hôn đi. Anh em tốt, cả bạn bè tốt cũng vậy, không bao giờ được oán ghét. Nào...
Hai đứa trẻ hôn nhau trong nước mắt. Cả hai đứa đều khóc. Một đứa thì vì vết trầy làm đau, một đứa thì vì đã làm cho người khác đau.
Giêsu mỉm cười trước cái hôn tưới nước mắt này: “Ồ, đó, bây giờ Thầy thấy rằng các con tốt, Thầy sẽ hái sung cho các con, khỏi cần gậy”.
Tôi biết lắm: cao như Người, với cánh tay dài nữa, Người hái dễ dàng và phân phát.
Một người đàn bà tới: “Lấy, lấy đi Thầy. Con sẽ mang bánh tới cho Thầy”.
- Không, không phải cho Thầy. Để cho Jeanne và Tobie, chúng nó thích.
- Các con đã quấy rầy Thầy vậy sao? Ôi! Nhiều chuyện qúa! Xin lỗi Chúa.
- Bà ơi, là để vãn hồi hòa bình, và Thầy đã làm ngay bằng đối tượng của chiến tranh: Các trái sung. Nhưng các trẻ em không bao giờ nhiều chuyện. Các trái sung ngọt là niềm vui của chúng nó, và Thầy, niềm vui của Thầy là tâm hồn êm đềm và thơ ngây của chúng. Chúng lấy đi cho Thầy biết bao chua cay.
- Thưa Thầy, các ông lãnh chúa không yêu Thầy chứ dân quèn như chúng con thì chúng con rất yêu Thầy. Họ chỉ có mấy người,
393
còn chúng con rất đông!
- Bà ơi Thầy biết. Cám ơn vì sự khích lệ của bà. Bình an cho bà. Chào Jeanne, chào Tobie. Hãy tốt, không làm đau cho nhau và không muốn đau cho nhau, phải không?
- Vâng, vâng, Giêsu - hai đứa bé trả lời.
Giêsu lên đường và mỉm cười nói: “Ôi! Bây giờ nhờ những trái sung, tất cả đều sáng sủa. Chúng ta đi... Các con bảo đi đâu?”
Các tông đồ không biết, người chỉ chỗ nọ, người chỉ chỗ kia. Giêsu luôn luôn lắc đầu và cười. Phêrô nói: “Con từ chối đi, ngoại trừ Thầy nói... Hôm nay con có tư tưởng tối ám. Thầy không thấy, nhưng khi chúng ta ở thuyền lên, con thấy pharisiêu Êli, vàng vọt hơn thường lệ. Ông nhìn chúng ta với vẻ!...”
- Thì cứ để cho ông ta nhìn.
- Ê ! Hết sức. Nhưng con bảo đảm với Thầy rằng muốn thiết lập hòa bình với khứa đó thì phải nhiều hơn hai trái sung.
- Thầy đã nói gì với mẹ Tôbie? “Tôi tái lập hòa bình bằng nguyên nhân của chiến tranh”. Vậy Thầy sẽ cố gắng làm hòa bằng cách tỏ ra sự kính trọng đối với họ, vì theo họ, các kỳ hào của Caphanaum, họ cho là Thầy xúc phạm đến họ. Như vậy, cả người khác nữa cũng bằng lòng.
- Ai?
Giêsu không trả lời câu hỏi, nhưng tiếp tục: “Có lẽ Thầy không thành công, vì họ thiếu thiện chí làm hòa. Nhưng các con nghe đây: nếu trong mọi cuộc thảo luận, người ôn hòa nhất biết nhường nhịn, không hăm hở cho mình là có lý, tỏ ra là người hòa giải bằng cách chia đôi đối tượng tranh chấp, cho dù, Thầy rất muốn thừa nhận điều này, là những phàn nàn của họ là có lý, như vậy sẽ tốt hơn và thánh hơn. Không phải luôn luôn kẻ làm hại là vì họ quyết chí làm hại. Đôi khi người ta hành động sai mà không ngờ. Hãy luôn luôn nghĩ tới điều đó và tha thứ. Êli và các người khác nghĩ rằng họ phụng sự Thiên Chúa cách công chính trong khi làm như vậy. Với kiên nhẫn và bền bỉ, và với rất nhiều khiêm tốn, vui vẻ, Thầy sẽ tìm cách thuyết phục họ rằng thời kỳ mới đã tới, và bây giờ Thiên
394
Chúa muốn được phụng sự theo như giáo huấn của Thầy. Mưu lược của người tông đồ là sự vui vẻ, khí giới là kiên trì, bí mật để thành công là gương sáng và lời cầu nguyện cho kẻ phải hoán cải”.
Họ đã tới quảng trường. Giêsu đi thẳng tới quầy thuế, nơi Mathêu đang tính sổ và kiểm tra tiền bạc mà ông đã phân thành từng loại để bỏ vào các túi mầu khác nhau, rồi bỏ vào chiếc rương bằng sắt mà hai người đầy tớ đang chờ để mang đi nơi khác. Vừa khi cái bóng do khổ người cao của Giêsu ngả trên quầy, Mathêu ngẩng đầu lên để coi kẻ nào đến trả tiền trễ. Trong khi chờ, Phêrô kéo tay áo Giêsu và nói: “Thầy ơi, không phải trả gì cả. Thầy làm gì?”
Nhưng Giêsu không lưu ý. Người nhìn Mathêu đăm đăm. Ông đứng ngay lên vì kính trọng. Một cái nhìn xuyên thấu thứ hai, nhưng không phải là cái nhìn của vị phán quan nghiêm khắc như lần trước. Đây là cái nhìn của tiếng gọi yêu thương. Người bao trùm ông, xuyên thấu ông bằng tình yêu. Mathêu trở nên đỏ bừng. Ông không biết phải làm gì, nói gì...
- Mathêu, con Alphê! Giờ đã điểm, hãy đến theo Thầy - Giêsu uy nghi tuyên bố với ông.
- Con? Thầy! Chúa! Nhưng Thầy biết con là ai? Con nói vậy là cho Thầy chứ không phải cho con...
- Nào! Hãy theo Thầy, Mathêu con Alphê - Giêsu nhắc lại cách êm đềm hơn.
- Ôi! Làm sao con có thể được ơn phúc nơi Thiên Chúa? Con... Con...
- Mathêu, con Alphê, Thầy đã đọc thấy trong lòng con. Hãy đến theo Thầy - lời mời gọi thứ ba giống như một vuốt ve.
- Ôi! Lạy Chúa con! Ngay lập tức! - Mathêu khóc, từ sau quầy đi ra, không lo gì tới việc thu lượm các đồng tiền còn rải rác, cũng không đóng hộp sắt. Không gì nữa. “Chúa ơi! Chúng ta đi đâu?” Ông hỏi khi ông ở bên Giêsu: “Thầy dẫn con đi đâu?”
- Về nhà con. Con có muốn cho Con Người trọ không?
- Ôi!... Nhưng... những kẻ ghét Thầy, họ sẽ nói gì?
- Thầy, Thầy nghe những gì người ta nói trên Trời, và ở đó người
395
ta nói: “Vinh danh Thiên Chúa vì một người tội lỗi được cứu”. Và Chúa Cha nói: “Muôn đời Tình Thương bừng dậy trên Trời và lan tỏa trên mặt đất. Và vì Cha yêu con bằng tình yêu muôn đời, tình yêu toàn vẹn, nên ở đây cũng vậy, Cha sử dụng Tình Thương đối với con”. Đi, và nguyện cho nhờ việc viếng thăm của Thầy, nhà con được thánh hóa thêm vào với việc thánh hóa tâm hồn con.
- Con đã thanh tẩy nó bằng sự cậy trông con có trong linh hồn... Nhưng lòng trí con không thể nhìn nhận rằng đó là sự thật... Ôi! Con ở với các thánh của Thầy... - và ông nhìn các môn đệ.
- Ừ, với các bạn Thầy. Lại đây, Thầy hợp nhất các con. Hãy là anh em với nhau.
Các môn đệ qúa kinh ngạc tới nỗi họ chưa tìm ra cách nào để nói một lời. Họ đi cả nhóm với nhau, theo sau Giêsu và Mathêu, qua quảng trường đầy ánh nắng, nhưng bây giờ hoàn toàn trống rỗng, tới đầu một con đường cháy nóng bởi mặt trời chói lọi. Không một ai ở ngoài đường. Chỉ có mặt trời và bụi.
Họ vào trong nhà. Một căn nhà đẹp với lối vào rộng mở ra ngoài lộ; một mảnh sân đẹp rợp bóng mát. Bên kia sân là khu vườn lớn rất thứ tự: “Mời Thầy vào, Thầy của con! Mang nước và đồ uống lên !”
Các đầy tớ chạy với tất cả những thứ cần.
Mathêu ra ngoài để ra các chỉ thị trong khi Giêsu và nhóm của Người rửa ráy cho mát. Rồi ông trở lại: “Bây giờ mời Thầy vào phòng khách mát hơn... Các bạn con sắp tới. Ôi! Con muốn đây là đại lễ! Đây là cuộc hồi sinh của con... Đây là... sự cắt bì thực sự của con... lần này, Thầy đã cắt bì cho qủa tim con bằng tình yêu của Thầy... Thưa Thầy, hôm nay sẽ là buổi lễ sau cùng... Bây giờ không còn lễ lạt nữa cho tên thu thuế Mathêu, không còn lễ lạy của thế giới... Chỉ có lễ nội tâm... Lễ mừng được cứu chuộc và được phục vụ Thầy... Được Thầy yêu... Con đã khóc biết bao trong những tháng vừa qua... Con khóc đã gần ba tháng... con không biết phải làm sao để đến được với Thầy, Đấng Thánh, với tâm hồn dơ
396
bẩn của con...”
- Con đã rửa nó bằng lòng sám hối và tình bác ái của con đối với Thầy và tha nhân. Phêrô đâu? Lại đây!
Phêrô vẫn chưa nói gì, vì ông qúa kinh ngạc. Ông tiến lên. Cả hai người đều già, nhỏ thó, mập lùn, người nọ ở trước người kia. Giêsu ở giữa, tươi cười, đẹp trai.
- Phêrô, con đã hỏi Thầy bao nhiêu lần xem ai là kẻ vô danh của túi tiền mà Giacôbê mang tới. Ông ta đây. Đó là ông này.
- Ai? Tên ăn cắp này!... Ôi! Xin lỗi Mathêu! Nhưng ai có thể ngờ rằng đó là anh! Anh, thực tình anh đã làm chúng tôi thất vọng vì cái lối trục lợi của anh. Ai có thể ngờ anh có khả năng mỗi tuần giật ra một mảnh của con tim để cho món bố thí lớn đó?
- Tôi biết. Tôi đã đánh thuế các anh bất công. Nhưng đây, tôi qùi gối trước mặt tất cả các anh và tôi nói: “Xin đừng xua đuổi tôi. Người đã nhận tôi. Xin đừng nghiêm khắc hơn Người”.
Mathêu qùi ở chân Phêrô. Phêrô liền lôi ông đứng dậy rất mạnh, một cách tình nghĩa: “Đứng lên! Đứng lên! Không phải tôi, cũng không phải với những người khác. Chính với Người, anh phải xin lỗi. Chúng tôi... thực tình! Tất cả chúng ta đều ăn cắp hơn kém như anh... Ôi! Tôi đã nói vậy! Cái lưỡi vô phúc! Nhưng tôi, tôi vậy đó. Tôi nghĩ gì là nói đó. Cái gì tôi có trong lòng là cũng có ngoài miệng. Nào! Chúng ta làm một khế ước hòa bình”. Và ông hôn lên má Mathêu.
Những người khác cũng làm với tình cảm hơn kém. Tôi nói vậy vì Andrê thì qúa bẽn lẽn, còn Judas thì lạnh lùng, làm như ông ôm một đống loài bò sát, vì cái hôn của ông ta rất vắn tắt và mau lẹ.
Mathêu nghe tiếng động và đi ra. Judas Iscariot liền nói: “Thưa Thầy, con thấy việc này có vẻ thiếu khôn ngoan. Từ trước tới giờ các pharisiêu đã kết án Thầy, mà Thầy... đây, lại một tên thu thuế trong đám người của Thầy! Một tên thu thuế tiếp theo một gái điếm... Thầy quyết định toi mạng sao? Nếu thực vậy thì nói rõ đi, để...”
397
- Để chúng con chuồn phải không? - Phêrô mỉa mai nói.
- Còn anh, ai nói với anh?
- Tôi biết rõ rằng anh không nói với tôi, nhưng tôi, trái lại, tôi nói với linh hồn ông lãnh chúa của anh, với linh hồn rất trong trắng của anh, với linh hồn rất khôn ngoan của anh. Tôi biết rằng anh, nhân viên của Đền Thờ, anh ngửi thấy mùi tội lỗi trong chúng tôi, những kẻ tội nghiệp và không thuộc về Đền Thờ. Tôi biết rõ rằng anh, Do Thái rặt, pha lộn với pharisiêu, saddu, nhóm Hêrôđê, một nửa luật sĩ, một tí khổ hạnh - anh có muốn những tên qúi phái khác nữa không? - Anh thấy khó chịu ở giữa chúng tôi, giống như một con cá cháy tuyệt vời, bị mắc trong cái lưới đầy cá bống mú. Nhưng anh muốn làm gì ở đây? Người đã gọi chúng tôi và chúng tôi ở lại... Nếu anh cảm thấy khó chịu thì... đi đi! Chúng tôi sẽ dễ thở hơn, tất cả chúng tôi. Kể cả Người, anh thấy Người đó: Người phải bực mình vì tôi và vì anh. Vì tôi vì tôi thiếu bình tĩnh, và cả, đúng, cả thiếu bác ái. Nhưng vì anh nhiều hơn, vì anh chẳng hiểu gì cả. Anh có tất cả những đồ trang sức lòe loẹt của các tước vị qúi tộc, nhưng anh không có bác ái, không khiêm nhường, không có sự kính trọng. Cậu bé ơi! Cậu chẳng có gì cả. Chỉ là một đám khói lớn. Cầu Thiên Chúa canh chừng để nó đừng gây thiệt hại.
Giêsu để cho Phêrô nói. Người đứng khoanh tay, vẻ nghiêm khắc, cắn môi, đôi mắt... ít an lòng. Sau cùng Người nói: “Con nói hết chưa Phêrô? Con đã giải phóng con tim của con khỏi những thứ men nó chứa đựng chưa? Con làm đúng. Hôm nay là lễ bánh không men Vượt Qua cho một con cái Abraham. Tiếng gọi của Đấng Kitô giống như máu chiên bôi trên linh hồn các con. Nơi nào nó tới thì tội lỗi không tới nữa. Tội lỗi không tới nếu kẻ nhận nó biết trung thành với nó. Tiếng gọi của Thầy là sự giải phóng, và phải mừng lễ không với bất cứ thứ men nào”.
Không một lời nào với Judas. Phêrô nín lặng, có vẻ ngượng. Giêsu lại nói: “Ông chủ của chúng ta trở lại cùng với các bạn ông. Đừng tỏ ra cho họ thấy gì khác ngoài nhân đức. Nếu ai không giữ được như vậy thì họ hãy đi đi. Đừng giống như các pharisiêu, chất
398
đầy cho người ta những qui luật mà chính họ là những người đầu tiên không giữ”.
Mathêu vào với những người khác và bữa ăn bắt đầu. Giêsu ngồi giữa với Phêrô và Mathêu ở hai bên. Họ nói chuyện về những đề tài khác nhau, và Giêsu kiên nhẫn trả lời mọi câu hỏi mà người ta đặt cho Người. Đó là những phàn nàn vì các pharisiêu khinh bỉ họ.
- Vậy hãy đến với người không khinh bỉ qúi vị, và hãy hành động thế nào để ít nhất là những người tốt không khinh bỉ qúi vị - Giêsu trả lời.
- Thầy tốt, nhưng chỉ có mình Thầy.
- Không. Những người này họ cũng giống như Thầy. Lại nữa, Thiên Chúa Cha yêu kẻ sám hối và muốn làm bạn với họ. Nếu mọi người đều thiếu sót, ngoại trừ Cha, thì đó đã chẳng là niềm vui trọn vẹn của người ta rồi sao?
Bữa ăn đã đến đồ tráng miệng thì một đầy tớ làm hiệu cho chủ nhà và nói gì với ông.
- Thưa Thầy, Êli, Simon và Joakim xin vào nói với Thầy. Thầy có muốn gặp họ không?
- Chắc chắn là có.
- Nhưng... Các bạn con là người thâu thuế...
- Chính vì vậy nên họ tới. Hãy để họ thấy. Không có gì phải che đậy cả, che đậy không ích gì cho điều lành, mà sự qủi quyệt sẽ gia tăng tới cỡ họ có thể nói là có gái điếm ở đây. Cho họ vào đi.
Ba người pharisiêu vào. Họ nhìn khắp chung quanh với cái cười độc ác và họ sắp nói, nhưng Giêsu, Người đã đứng lên và ra đón họ cùng với Mathêu, Người nói trước họ. Người đặt tay trên vai Mathêu và nói: “Ôi! Đứa con thực của Israel! Tôi chào qúi vị và báo cho qúi vị một tin vĩ đại, chắc chắn con tim người Israel thực sự của qúi vị sẽ được tràn đầy vui mừng, vì sau khi đã tuân giữ Lề Luật hết lòng, nó ước ao làm vinh danh Chúa. Đây, Mathêu, con Alphê, từ nay không còn là kẻ tội lỗi, gương mù của Caphanaum nữa. Một con chiên ghẻ của Israel đã được chữa lành. Qúi vị hãy vui mừng. Sau nó, các chiên tội lỗi khác cũng sẽ trở về với sự thánh thiện,
399
được lành mạnh, và thành phố của qúi vị mà qúi vị rất lưu tâm, sẽ được đẹp lòng Thiên Chúa vì sự thánh thiện của nó. Ông đã bỏ hết để phục vụ Thiên Chúa. Qúi vị hãy thưởng một cái hôn bình an cho con dân Israel lầm lạc trở về lòng Abraham”.
- Và trở về với các tên thu thuế trong một bữa tiệc vui? Ôi! Đúng là cuộc hoán cải có lợi. Coi kìa Êli: Đó là Josias, tên trùm điếm.
- Và tên kia là Simon con Isaac, tên ngoại tình.
- Còn tên này: đó là Azarias, chủ sòng bạc, nơi các người Roma và người Do Thái tới chơi, cãi vã, say sưa và trụy lạc.
- Nhưng thưa Thầy, ít nhất Thầy cũng biết những người này là ai chứ ? Thầy biết không?
- Tôi biết.
- Vậy các ông, dân Caphanaum; các ông, các môn đệ, sao các ông lại để như vậy? Simon Jonas, anh làm tôi kinh ngạc!
- Còn anh, Philíp, rất quen biết ở đây, và anh, Natanael! Tôi thật kinh ngạc! Làm sao các anh có thể chịu đựng là Thầy các anh ăn uống với người thu thuế và các người tội lỗi?
- Vậy không còn dè giữ gì nữa trong Israel sao?
Ba người thực sự phẫn uất. Giêsu nói: “Hãy để cho các môn đệ của tôi yên. Chính tôi muốn điều này, một mình tôi”.
- Ôi! Đúng, ta hiểu: Khi người ta muốn làm thánh mà người ta không làm được, thì người ta rơi mau lẹ vào những lỗi lầm không thể tha.
- Và khi người ta tập cho môn đệ quen thiếu trọng kính - Tôi còn muốn phát cười vì sự thiếu trọng kính của ông này: Do Thái và của Đền Thờ, đối với tôi: Êli, người pharisiêu - thì người ta không thể không thiếu trọng kính đối với Lề Luật. Người ta dạy cái người ta biết.
- Ông lầm, Êli. Tất cả các ông đều lầm. Người ta dạy cái người ta biết, đúng thế. Mà tôi là kẻ biết Luật, tôi dạy cho những ai không biết, bởi vậy, cho các người tội lỗi. Các ông... tôi biết rõ rằng các ông làm chủ linh hồn các ông. Những người tội lỗi thì không được vậy. Tôi tìm linh hồn họ để trả lại cho họ, để rồi đến lần họ, họ đem
400
nó đến cho tôi trong tình trạng của nó: bệnh hoạn, bị thương, dơ bẩn, để tôi săn sóc và thanh tẩy. Tôi đến là vì vậy. Các người tội lỗi mới cần người cứu, và tôi, tôi đến để cứu họ. Hãy hiểu tôi... và đừng ghét tôi vô lý.
Giêsu êm đềm, đầy vẻ thuyết phục và khiêm tốn... Nhưng ba người là ba cây gai chìa ra hết các gai nhọn để chích. Họ bỉu môi khinh bỉ và đi ra.
- Họ đi... Bây giờ họ sẽ chỉ trích ở khắp nơi - Judas Iscariot lẩm bẩm.
- Hãy để cho họ làm. Hãy chỉ hành động cách nào để Chúa Cha không chỉ trích. Đừng buồn, Mathêu, cũng như các con, bạn của ông. Lương tâm nói với chúng ta: “mi không làm gì xấu”, vậy là đủ.
Giêsu lại ngồi vào chỗ của Người, và tất cả đều chấm dứt.
63* GIÊSU Ở TRÊN HỒ TIBÊRIAT.
GIÁO HUẤN CÁC MÔN ĐỆ
GẦN THÀNH PHỐ NÀY
Giêsu với tất cả các người của Ngài, từ nay là mười ba, kể cả Người. Họ ở trên hồ Galilê, trong hai chiếc thuyền, mỗi thuyền bảy người. Giêsu ở trong thuyền thứ nhất, thuyền của Phêrô, cùng với Phêrô, Andrê, Simon, Giuse và hai người anh họ. Trong chiếc thuyền kia là: Hai con ông Zêbêđê, Iscariot, Philíp, Tôma, Natanael và Mathêu.
Các thuyền lướt nhanh bằng buồm, được gió bắc đẩy, tạo ra trên mặt nước những vết nhăn nhẹ, hơi đánh dấu bởi những đường bọt nổi lên như tổ ong trên mầu xanh của nước hồ đẹp yên tĩnh. Chúng tiến, để lại phía sau hai lằn nước vội vã họp lại với nhau, làm tan những cái bọt tươi cười thành một vệt duy nhất trên mặt nước. Chúng tiến, giữ khoảng cách không đổi: thuyền của Phêrô chỉ ở trước thuyền kia chừng hai mét.
Từ thuyền nọ tới thuyền kia, họ trao đổi những câu đàm thoại về những cảm nghĩ. Tôi thấy các người Galilê chỉ trỏ và giải thích cho
401
các người Do Thái những chi tiết của cái hồ, sự buôn bán của nó, các nhân vật, các khoảng cách giữa điểm khởi hành và điểm tới, tức là giữa Caphanaum và Tibêriat. Các thuyền không dùng để đánh cá, nhưng để chở người.
Giêsu ngồi ở đàng mũi. Tỏ tường là Người thưởng thức vẻ đẹp chung quanh, sự yên lặng với tất cả mầu xanh của trời và nước, được bao bọc bằng các bờ xanh, rải rác các làng mạc toàn trắng trên nền cây xanh. Người như xa vắng đối với các đàm thoại của các tông đồ, vì Người ở đàng trước hết mọi người tại mũi thuyền, hầu như bò dài trên đống buồm, khuôn mặt soi trên chiếc gương mầu lam ngọc của mặt nước hồ. Tựa như Người nghiên cứu đáy hồ và lưu ý tới tất cả những gì sống trong làn nước trong vắt của nó. Ai biết Người nghĩ tới cái gì... Phêrô hỏi hai lần xem Người có khó chịu vì mặt trời không, vì mặt trời đã lên cao ở phía đông và chiếu xuống toàn thuyền những tia nắng chưa thiêu đốt, nhưng đã nóng. Lần thứ hai, ông hỏi xem Người có muốn ăn bánh và phó mát như mọi người không. Nhưng Giêsu không muốn gì cả. Không bánh, không vải che, và Phêrô để cho Người yên.
Một nhóm các thuyền nhỏ mà người ta dùng để đi dạo trên hồ, các loại du thuyền, được trang hoàng bằng những tán lọng mầu đỏ rất đẹp, với những cái gối dễ chịu. Chúng băng ngang qua trước thuyền của các dân chài. Ồn ào, cười dỡn, mùi thơm đi theo chúng. Chúng chở đầy các phụ nữ Rôma và Palestin đẹp, vui vẻ, nhưng Rôma nhiều hơn, có lẽ không có Palestin, vì có những người Hy Lạp. Tôi suy diễn ra từ lời của một người thanh niên gầy, cao, tóc đen như oliu sắp chín, rất chải chuốt. Anh mặc cái áo đỏ ngắn, thêu các dấu hiệu Hy Lạp ở gấu, được thắt lại ở eo bằng một giây nịt là tác phẩm nghệ thuật của thợ bạc. Anh ta nói: “Hellade (1) đẹp, nhưng quê hương thế vận hội của tôi cũng không có được mầu xanh này và các bông hoa này. Và thực tình người ta không ngạc nhiên là các nữ thần đã rời bỏ đó để tới đây. Chúng ta hãy tung cánh hoa trên các nữ thần, không còn là Hy Lạp, mà là Do Thái, các bông hoa, các bông hồng, và sự sùng bái của chúng ta...” Và anh ta tung trên các phụ nữ trong thuyền của anh ta những cánh hồng rực rỡ, và
402
tung cả trên các thuyền kế bên. Một tên Rôma trả lời: “Tung đi! Tung đi! Hy Lạp! Nhưng Vénus (2) ở với tao, tao không tung, tao hái những bông hồng trên cái miệng đẹp này, vậy là êm đềm nhất!” Và hắn cúi xuống để hôn lên cái miệng đẹp tươi cười của Maria Magđala đang nửa ngồi nửa nằm trên các chiếc gối của cô, gối đầu trên lòng tên Rôma.
Bây giờ các thuyền nhỏ sắp lao thẳng vào các thuyền nặng, hoặc vì sự vụng về của các tay chèo, hoặc tại vì gió: “Cẩn thận, nếu qúi vị muốn sống!” Phêrô bực mình la lên trong khi ông vặn tay lái, lấy cây đập, chống, để tránh va chạm. Tiếng đàn ông chửi rủa, đàn bà la thất thanh chuyền từ thuyền nọ tới thuyền kia. Các tên Rôma chửi các người Galilê khi nói: “Tránh ra! Các chó Hy Bá!”. Phêrô và các người Galilê khác không để rơi một câu chửi rủa nào, đặc biệt là Phêrô. Ông đỏ như mào gà trống, đứng ở cạnh thuyền, dù nó rất tròng trành, tay chống nạnh, trả lời chữ đối chữ, câu đối câu, không nể gì Rôma hay Hy Lạp hay Do Thái, đàn bà hay đàn ông. Ông tung ra từng tràng những tiếng gọi vinh dự mỉa mai mà tôi không viết ra đây. Cuộc đấu khẩu kéo dài bao lâu các thuyền và mái chèo còn đan vào nhau, rồi mỗi người đi theo đường của mình.
Giêsu không hề thay đổi vị trí. Người ngồi, như xa vắng, không nhìn, không nói gì với các thuyền và các người ở trong đó, Người tì lên khửu tay, tiếp tục nhìn bờ ở xa như không có gì xảy ra. Có một bông hoa được tung đến cho Người, tôi không biết nó từ đâu, chắc là từ một người đàn bà, vì tôi nghe một tràng cười đi theo cử chỉ. Nhưng Giêsu... Không hề nhúc nhích. Bông hoa rơi ngay gần mặt Người, rồi rơi xuống sàn, dừng lại bên cặp giò sôi nổi của Phêrô.
Khi các thuyền nhỏ sắp rời đi, tôi thấy Mađalêna đứng dậy, nhìn theo hướng một người bạn chơi chỉ cho nàng, nàng liếc đôi mắt đẹp trên khuôn mặt bình thản xa xôi của Giêsu. Ôi! Khuôn mặt này ở xa thế giới chừng nào!...
- Này Simon - Iscariot gọi Zêlote. “Anh người Do Thái cũng như tôi, hãy nói cho tôi: cô gái đẹp tóc vàng, nằm trong lòng tên Rôma,
403
cái cô vừa nãy đứng lên đó, có phải em của Lazarô Bêtani không?”
- Tôi, tôi đâu biết - Simon người Canane trả lời khô khan. “Tôi mới trở về thế giới người sống một thời gian ngắn, mà cái cô này còn trẻ...”
- Tôi hy vọng anh không nói với tôi là anh không biết Lazarô Bêtani! Tôi biết rõ anh là bạn ông ta, và anh đã ở nhà ông ta với Thầy.
- Nếu vậy thì sao?
- Biết như vậy thì anh phải biết cô gái tội lỗi em Lazarô. Ngay cả các nấm mồ cũng biết cô ta. Từ mười năm nay, cô ta đã làm người ta nói về cô. Vừa dậy thì, cô ta đã có vẻ nhẹ dạ. Nhưng từ bốn năm nay, anh không thể không biết tới gương mù, dù anh ở trong thung lũng kẻ chết. Tất cả Jêrusalem đều nói tới. Vậy là Lazarô rút lui về Bêtani... Ông ta làm đúng. Ngoài ra, không còn ai đặt chân tới cái lâu đài huy hoàng của ông ở Sion nữa, chỉ có cô ta còn đi về. Tôi nghe nói... Chả có ai là thánh! Ở miền quê người ta cũng biết!... Rồi bây giờ thì cô ta ở khắp nơi, ngoại trừ ở nhà. Bây giờ chắc chắn là cô ở Magđala. Cô đã tìm được tình yêu mới nào đó... Anh không trả lời? Anh có thể cải chính cho tôi không?
- Tôi không cải chính, tôi chỉ nín lặng.
- Vậy là chính cô ta. Chính anh cũng đã nhận ra cô ta!
- Tôi gặp cô ta từ lúc còn nhỏ, lúc đó cô ta còn trong trắng. Bây giờ tôi gặp lại... Nhưng tôi nhận ra, dù không còn trong trắng, vì hình vóc cô nhắc nhớ tới mẹ cô, một bà thánh.
- Vậy tại sao anh hầu như chối rằng cô ta là em của bạn anh?
- Vết thương của chúng ta và của người chúng ta yêu thì chúng ta tìm cách giấu đi, nhất là khi người ta thật thà.
Judas cười mỉa.
- Anh nói đúng, Simon. Và anh là người thật thà - Phêrô nhận xét.
- Anh nhận ra cô ta sao? Chắc chắn anh đã đi Magđala để bán cá, và ai biết là bao nhiêu lần. Anh đã gặp cô ta?...
- Cậu bé ơi! Khi người ta mệt mỏi vì một công việc lương thiện, thì đàn bà không lôi kéo người ta nữa. Người ta chỉ thích cái giường
404
chân chính của vợ họ thôi.
- Ê! Nhưng mọi người đều thích cái đẹp, nếu không nói là người ta chỉ nhìn cái đó.
- Để làm gì? Để nói rằng: “Đây không phải đồ ăn của mày”? Không. Anh biết: cái hồ và nghề nghiệp dạy cho tôi nhiều điều, và đây là một: con cá nước ngọt và ăn dưới nước sâu không thích hợp được với nước mặn và các dòng nước xoáy trên mặt.
- Anh muốn nói gì?
- Tôi nói mỗi người phải ở chỗ của mình để không chết bất đắc kỳ tử.
- Cô ta làm anh chết, cô Mađalêna?
- Không. Da tôi dầy lắm! Nhưng... Anh đã nói, chính anh cảm thấy đau. Có lẽ?...
- Tôi, cả đến tôi không nhìn cô ta.
- Nói dối chừng nào! Tôi cá với anh rằng anh đã ray rứt trong lòng vì không được ở trong cái thuyền trước này để được ở gần cô ta hơn... Cả đến anh sẵn sàng chịu đựng tôi để được ở gần cô ta hơn. Tôi nói rất thực điều này, là chính vì cô ta mà anh cho tôi cái vinh dự là anh nói với tôi sau bao ngày yên lặng.
- Tôi? Nhưng nếu cô ta không thấy tôi! Cô ta chỉ liên tục nhìn Thầy. Cô ta...
- A!A!A! Anh nói rằng anh không nhìn cô ta! Làm sao anh biết cô ta nhìn chỗ nào, nếu anh không nhìn cô ta?
Mọi người đều cười vì nhận xét của Phêrô, ngoại trừ Judas, Giêsu và Zêlote.
Giêsu chấm dứt cuộc tranh luận mà Người làm như không nghe thấy, bằng cách hỏi Phêrô: “Tibêriat đây à?”
- Thưa Thầy vâng. Bây giờ chúng ta sắp cập bến.
- Chờ đã. Con có thể đậu vào cái vịnh yên lặng này không? Thầy muốn nói, chỉ với các con thôi.
- Con đo bề sâu coi, rồi con nói cho Thầy.
Phêrô cắm một cây sào dài xuống nước, và từ từ đi vào bờ:
405
“Được Thầy ơi. Con có thể vào gần hơn được không?”
- Hết sức như con có thể. Ở đây có bóng mát và sự vắng vẻ làm Thầy thích.
Phêrô vào tới gần bờ, chỉ còn cách đất khoảng mười lăm mét: “Bây giờ con chạm đáy rồi”.
- Dừng lại đi. Và các con, lại sát đây và hãy nghe.
Giêsu rời chỗ của Người và tới ngồi ở giữa thuyền, trên tấm ván dùng làm cầu. Chiếc thuyền kia đậu trước mặt Người, chung quanh Người là các môn đệ trong thuyền của Người.
- Các con nghe đây: Đôi khi các con thấy như Thầy lơ đễnh với các câu chuyện của các con, và do vậy, Thầy là ông thầy lười biếng, không canh chừng học trò của mình. Hãy biết rằng linh hồn Thầy không rời các con một phút nào. Có bao giờ các con quan sát một thầy thuốc theo dõi một bệnh nhân mà căn bệnh chưa được xác định, và có những triệu chứng trái ngược không? Sau khi đã chẩn bệnh, ông ta cũng không rời con mắt khỏi bệnh nhân, dù họ ngủ hay thức, buổi sáng hay buổi chiều, dù họ nói hay ở lặng... vì tất cả đều có thể là các triệu chứng tiết lộ căn bệnh giấu kín, và chỉ cho phương pháp điều trị. Thầy cũng làm vậy đối với các con. Các con nối kết với Thầy bằng những sợi giây vô hình, nhưng rất nhạy cảm. Nó liên kết với Thầy và chuyển cho Thầy cả những rung động nhỏ trong cái tôi của các con. Thầy để các con nghĩ là mình tự do để các con càng ngày càng bộc lộ ra những gì các con là. Điều này cũng giống như khi một đứa học trò hay một kẻ kỳ dị tưởng là ông giám thị không thấy nó. Các con là một nhóm người, nhưng các con làm thành một cái hạt, tức là một cái duy nhất. Vì các con là một toàn thể phức tạp do đời sống tạo ra, mà người ta nghiên cứu mọi đặc tính tốt ít nhiều hơn kém để đào tạo nó, kết hợp nó, làm nhụt nó, khai triển nó trong các khuynh hướng đa dạng của nó, để làm cho nó thành một duy nhất trọn hảo. Chính vì vậy Thầy tìm hiểu các con, canh chừng các con, kể cả khi các con ngủ.
Các con là gì? Các con phải trở nên gì? Các con là muối của trái đất. Đó là cái các con phải trở nên. Với muối, người ta bảo trì thịt và rất nhiều thực phẩm khác cho khỏi hư thối. Nhưng muối có ướp
406
được không nếu nó không mặn? Chính bằng các con, Thầy muốn ướp thế giới để cho nó hương vị Thiên Quốc. Nhưng làm sao các con có thể ướp cho Thầy nếu các con đã mất vị mặn? Cái gì làm cho các con mất vị Thiên Quốc? Những cái thuộc về loài người. Nước biển, nước biển thực sự thì không tốt để uống, vì nó qúa mặn phải không? Nhưng nếu ai lấy một ly nước biển mà đổ vào một khạp nước ngọt, thì lúc đó người ta có thể uống, vì nước biển đã hòa loãng tới nỗi nó mất tính mặn chát của nó. Nhân loại giống như nước ngọt hòa với vị mặn Thiên Quốc của các con. Như vầy nữa: Giả sử có thể dẫn một tia nước biển cho nó chảy vào một cái hồ, các con có tìm được tia nước biển ở trong đó không? Không. Nó bị biến mất trong khối nước ngọt qúa lớn. Cũng vậy đối với các con khi các con ngụp lặn, hay dìm ngập sứ mạng của các con giữa bao người. Các con là con người, đúng, Thầy biết. Nhưng Thầy là ai? Thầy là đấng có trong mình tất cả sức mạnh, và Thầy làm gì? Thầy thông cho các con sức mạnh này, vì Thầy đã gọi các con. Nhưng ích lợi gì để thông cho các con nếu các con lại phân tán nó dưới những trận sụt lở của cảm giác, của tình dục nhân loại?
Các con là, các con phải là ánh sáng của thế gian. Thầy là Ánh Sáng của Thiên Chúa, Thầy đã chọn các con để các con tiếp tục soi sáng cho thế gian khi Thầy đã trở về với Cha. Nhưng các con có thể soi sáng không nếu các con là cái đèn tắt và đầy khói? Không. Khói của cái đèn còn tệ hơn là nó tắt hẳn, vì với khói, các con làm tối cả ánh sáng lờ mờ mà các tâm hồn còn có được. Ôi! Tội nghiệp cho những kẻ đi tìm Thiên Chúa, họ quay về với các tông đồ, mà thay vì ánh sáng, họ chỉ thấy khói. Họ chỉ nhận được của các tông đồ này gương mù và sự chết. Những tông đồ bất xứng sẽ chịu sự nguyền rủa và hình phạt. Vận mệnh của các con lớn lao chừng nào! nhưng sứ mạng của các con cũng rất lớn lao và đáng ngại! Các con hãy nhớ là kẻ nào càng được ban nhiều thì càng phải cho đi nhiều. Và các con là những kẻ được ban tối đa về giáo huấn và ơn phúc. Các con được dạy dỗ bởi chính Thầy, Ngôi Lời của Thiên Chúa, và các con nhận được nơi Thiên Chúa ơn làm môn đệ, tức là các kẻ
407
tiếp tục Con Thiên Chúa.
Thầy muốn các con không ngừng chiêm niệm về sự lựa chọn mà các con đã được, và các con xét mình, cân nhắc kỹ càng xem mình có khả năng trung thành không, chỉ mới trung thành, Thầy không muốn nói là xem mình có tội lỗi và chai đá không, Thầy chỉ nói: trung thành. Nếu các con thấy mình không có nghị lực của người tông đồ thì nên rút lui. Thế giới, đối với những kẻ yêu nó thì nó mênh mông, rất đẹp, đầy đủ, đa dạng! Nó cho mọi người hoa trái làm vui thỏa giác quan. Thầy, Thầy chỉ cho một điều: Sự thánh thiện. Trên trái đất, đó là một điều chật hẹp nhất, nghèo nàn nhất, khó khăn nhất, gai góc nhất, bị bách hại nhất. Ở trên trời, sự chật hẹp của nó biến thành mênh mông, nghèo khó thành giầu có, gai góc thành chiếc thảm hoa, sự khó khăn thành con đường dễ dàng thoải mái, sự bách hại biến thành bình an phúc lộc. Nhưng ở đây, thánh thiện là một cố gắng anh hùng. Thầy, Thầy chỉ tặng các con điều đó.
Các con muốn ở lại với Thầy? Hay các con thấy mình không có can đảm để làm? Ôi! đừng nhìn mình mà ngạc nhiên đau khổ. Các con sẽ còn nghe Thầy đặt câu hỏi này nhiều lần nữa. Và khi các con nghe thấy thì hãy nghĩ rằng qủa tim Thầy khóc, vì nó bị thương bởi thấy các con như điếc đối với lời kêu gọi của Thầy. Vậy hãy xét mình cách thật thà và chân thành, rồi quyết định. Hãy quyết định để không bị đày hỏa ngục. Hãy nói: “Thưa Thầy, thưa các bạn, tôi cảm thấy tôi không được sinh ra để theo con đường này. Tôi gởi các bạn cái hôn từ biệt, và tôi nói: Hãy cầu nguyện cho tôi”. Như vậy còn hơn là phản bội. Như vậy là hơn...
Các con nói gì? Phản bội ai? Ai? Thầy. Kế hoạch của Thầy, tức là kế hoạch của Thiên Chúa, vì Thầy là một với Cha. Còn các con, các con sẽ tự phản bội. Các con phản bội linh hồn các con bằng cách giao nó cho Satan. Các con muốn vẫn là Do Thái, Thầy không bó buộc các con thay đổi. Nhưng đừng phản bội. Đừng phản bội linh hồn các con và Đức Kitô, và Thiên Chúa. Thầy thề với các con rằng Thầy cũng như những kẻ trung thành với Thầy, không ai chê bai các con, không ai phơi bày các con ra cho đám đông tín hữu
408
khinh bỉ. Mới trước đây một lát, một người anh em trong các con đã nói một lời vĩ đại: “Vết thương của chúng ta và của những người chúng ta yêu thì chúng ta tìm cách giữ kín nó”, và kẻ ra đi sẽ như một vết thương, một sự hoại thư xảy ra cho tổ chức tông đồ của chúng ta. Họ chia lìa ra vì chứng hoại thư không thể khỏi, và để lại một vết thẹo làm đau mà chúng ta cẩn thận giữ kín.
Không. Đừng khóc, các con, những người tốt, đừng khóc. Thầy không ghét các con và Thầy không khăng khăng khi thấy các con qúa chậm chạp. Thầy mới nhận các con và Thầy không đòi hỏi là các con phải hoàn thiện ngay. Thầy không đòi hỏi như vậy, dù sau nhiều năm, sau khi đã nói với các con một trăm, hai trăm lần cùng một điều mà vẫn vô ích. Trái lại, hãy nghe: sau nhiều năm, các con sẽ ít nhiệt thành hơn lúc này là lúc các con mới là tân môn đệ. Đời là thế... con người là thế... Họ mất đà sau cái nhảy thứ nhất. Nhưng (bỗng dưng Giêsu đứng dậy) Thầy đoan chắc với các con rằng Thầy sẽ thắng. Sau khi được thanh tẩy bằng một sự đào thải tự nhiên, được củng cố bởi thứ đồ uống siêu nhiên, các con, những người tốt, các con sẽ trở thành những anh hùng của Thầy, những anh hùng của đấng Kitô, anh hùng của Nước Trời. Quyền lực của các César chỉ là bụi so với chức tư tế vương giả của các con. Các con, các dân chài tội nghiệp của Galilê, các người Do Thái vô danh, một nhóm người trong khối người ở chung quanh các con, các con sẽ nổi tiếng, được hoan hô, được kính trọng hơn các César, hơn tất cả các César mà trái đất đã có và sẽ có. Các con sẽ nổi tiếng, các con sẽ được chúc phúc trong một tương lai rất gần, và trong các thế kỷ xa xôi nhất, cho tới tận cùng của thế giới.
Chính vì vận mệnh cao vời này mà Thầy chọn các con. Các con, những kẻ có một ý muốn ngay thẳng và có khả năng theo đuổi nó, Thầy cho các con những hàng chính về đặc tính tông đồ của các con:
*Luôn luôn tỉnh thức và sẵn sàng: luôn luôn thắt đai lưng, luôn luôn. Đèn của các con phải luôn luôn cháy sáng như người phải ra đi bất cứ lúc nào, hoặc phải chạy đi đón ai sẽ tới. Thực sự các con
409
là vậy và sẽ là vậy cho tới khi sự chết cản các con lại: bộ hành không biết mệt để tìm kẻ bị lạc cho tới khi cái chết cản các con lại. Các con phải giơ ngọn đèn của các con thực cao và cháy sáng để chỉ đường cho kẻ lạc trở về chuồng của Đức Kitô.
*Trung thành: Các con phải trung thành với Thầy là người đã đặt các con vào chức vụ này. Phải là người đầy tớ mà chủ thấy luôn luôn tỉnh thức, nó sẽ được thưởng, và sự chết chỉ chụp lấy nó trong tình trạng ân sủng. Các con không thể, các con không được nói: “Tôi còn trẻ, tôi có giờ để làm cái nọ cái kia, rồi sau đó tôi sẽ nghĩ tới Thầy, tới cái chết, tới linh hồn”. Người trẻ cũng chết như người già, người khỏe cũng như người yếu. Già cũng như trẻ, mạnh cũng như yếu, đều bị cám dỗ tấn công. Hãy nhớ rằng linh hồn có thể chết trước thân xác. Các con có thể mang trong các con một linh hồn thối rữa mà các con không ngờ. Sự chết của một linh hồn nó rất ít mẫn cảm. Giống như cái chết của một bông hoa: không một tiếng kêu, không quằn quại. Nó để cho lửa của nó hạ xuống như cánh hoa tàn, và nó chết. Sau đó, đôi khi sau đó rất lâu, và đôi khi ngay sau đó đối với một số khác, thân xác cảm thấy nó mang trong nó một cái thây đầy dòi bọ, nó trở nên điên vì sợ hãi, và tự tử để trốn sự kết hợp này... Ôi! Nhưng nó không trốn được! Thực sự nó rơi cùng với linh hồn đầy dòi bọ của nó vào nơi đầy rắn rết lúc nhúc của hỏa ngục.
*Đừng thiếu thật thà như các kẻ mối lái và các luật sư, họ sắp đặt hai mối khách thù địch. Đừng giả dối như các chính trị gia, họ gọi người nọ người kia là bạn, nhưng thực sự họ là thù. Đừng cố gắng bắt cá hai tay. Người ta không chế nhạo Thiên Chúa được, cũng không phỉnh gạt Người được. Hãy hành động với người ta cũng như các con hành động với Thiên Chúa, vì mọi xúc phạm đến con người đều xúc phạm đến Thiên Chúa. Hãy có sự lo lắng sao cho Thiên Chúa nhìn thấy các con như các con muốn được người ta thấy.
*Hãy khiêm nhường: Các con không thể trách Thầy các con là không khiêm nhường. Thầy làm gương cho các con. Hãy hành động
410
giống như Thầy: hãy khiêm nhường, hiền từ, nhẫn nại. Chính nhờ thế mà người ta chinh phục thế giới, chứ không phải bằng vũ lực. Hãy mạnh mẽ và tàn bạo để chống lại các nết xấu của các con. Hãy nhổ hết rễ nó, dù con tim có bị rách. Mấy ngày trước đây Thầy đã bảo các con canh chừng con mắt, nhưng các con không biết làm. Thầy, Thầy bảo các con: Thà bị mù vì moi vất bỏ những con mắt thèm khát còn hơn là thành dâm đãng.
*Hãy chân thành: Thầy là sự thật, thầy muốn các con ngay thẳng, trong những sự thuộc về trời cao cũng như về loài người. Tại sao lại lừa phỉnh Thầy hay anh em hoặc tha nhân? Tại sao lừa bịp để dỡn. Cái gì? Các con kiêu căng mà các con lại không có sự hãnh diện để nói: “Tôi không muốn người ta khám phá ra là tôi nói dối”? Vậy cũng hãy chân thành với Thiên Chúa. Các con nghĩ có thể lừa được Người bằng những lời cầu nguyện dài ngoài miệng sao? Ôi! các con cái tội nghiệp! Thiên Chúa nhìn thấy trong lòng.
*Hãy kín đáo khi làm việc lành, kể cả khi bố thí. Một người thu thuế đã biết làm như vậy trước khi hoán cải, vậy mà các con lại không biết làm sao? Đúng, Thầy khen con, Mathêu. Của dâng kín đáo mỗi tuần mà chỉ có Thầy và Chúa Cha biết, Thầy lấy đó làm gương mẫu. Các bạn ơi, sự dè dặt này cũng là một hình thức trong sạch. Đừng phơi bày lòng tốt của các con ra, cũng như người ta không lột trần một cô gái trẻ trước mắt đám đông. Hãy trinh trong khi làm việc thiện. Một hành động là trinh trong khi nó không bị ô uế bởi một hậu ý về sự ca tụng hay đề cao, hoặc cảm nghĩ kiêu căng.
*Hãy là các hiền thê trung thành với Thiên Chúa trong ơn gọi của các con: Các con không thể làm tôi hai chủ. Chiếc giường hôn nhân không thể cùng một lúc nhận hai người vợ. Thiên Chúa và Satan không thể chia sẻ cái hôn của các con. Loài người không, Thiên Chúa không, Satan cũng không thể chia sẻ cái hôn tay ba giữa ba thực thể đối chọi nhau. Hãy đối kháng với các ước ao vàng bạc cũng như xác thịt, ước ao xác thịt cũng như quyền bính. Đó là những thứ Satan tặng cho các con. Ôi! Của cải lừa bịp của nó: danh
411
dự, thành công, quyền hành, tiền bạc: các hàng hóa ô uế mà các con mua bằng giá linh hồn các con. Hãy bằng lòng với một chút ít. Thiên Chúa cho các con những thứ cần, như vậy là đủ. Điều này thì Người bảo đảm cho các con như Người bảo đảm cho chim trời, mà các con thì còn rất hơn chim trời. Nhưng Người muốn các con tin cẩn và tiết độ. Nếu các con tin cẩn nơi Người thì Người không làm các con thất vọng. Nếu các con tiết độ thì ơn Người mỗi ngày luôn luôn đủ cho các con.
Đừng như các dân ngoại. Những người yêu vàng bạc và quyền hành hơn Thiên Chúa, và tự coi mình như những Á Thiên Chúa, thì dù trên danh nghĩa, họ thuộc về Thiên Chúa, nhưng thực tế họ là dân ngoại. Hãy thánh, và các con sẽ giống Thiên Chúa muôn đời.
*Đừng cố chấp: mọi người đều có tội. Các con phải đối xử với mọi người như các con muốn mọi người đối xử với các con, tức là yêu thương, sẵn sàng giúp đỡ và tha thứ.
*Đừng xét đoán: Ôi! đừng xét đoán. Các con mới ở với thầy đây, vậy mà các con thấy: Thầy vô tội, mà bao nhiêu lần Thầy bị xét đoán và kết án oan về những tội không có. Xét đoán sai là xúc phạm, mà chỉ người thực sự thánh mới không trả lời cho xúc phạm bằng xúc phạm. Vậy đừng xúc phạm để khỏi bị xúc phạm. Như vậy các con sẽ không thiếu sót về bác ái cũng như sự khiêm nhường thánh thiện, yêu thương và êm đềm - kẻ thù của Satan - và với sự trong sạch. Hãy tha thứ. Hãy luôn luôn tha thứ. Hãy nói: “Cha ơi, con tha thứ để Cha tha cho con số tội lỗi vô số của con”.
*Hãy cải thiện từng giờ một, một cách kiên trì, cương quyết, anh hùng. Ai nói với các con rằng chả khó gì để nên tốt? Cả đến Thầy bảo các con: đó là công việc gay go nhất. Nhưng nước Trời là phần thưởng đáng cần sự khó nhọc, mệt mỏi của cố gắng này.
*Hãy yêu. Ôi! Lời nào, Thầy phải dùng lời nào để ghi khắc tình yêu cho các con? Không một lời nào có thể làm các con trở về với tình yêu, những con người tội nghiệp mà Satan đã khích động. Vậy đây, Thầy nói: “Lạy Cha! xin hãy gấp rút giờ thanh tẩy. Trái đất này khô cằn, và đoàn chiên này, đoàn chiên của Cha, nó bệnh hoạn. Nhưng có một thứ sương có thể làm dịu và thanh tẩy. Xin Cha
412
hãy mở, hãy mở nguồn sương này ra. Chính con là cái Cha phải mở ra. Cha ơi! Con đây. Con nóng lòng muốn hoàn thành ý Cha, cũng là ý con và ý Đấng Tình Yêu Muôn Đời. Cha ơi! Cha ơi! Cha ơi! Xin hãy nhìn Con Chiên của Cha, và hãy để nó làm Vật Hy Sinh”. Giêsu thực sự được linh ứng. Người đứng giang tay, mặt ngửa lên trời, với y phục vải gai trắng, nổi bật trên nước hồ xanh, giống
như vị Tổng Lãnh thiên thần trong lời cầu nguyện. Thị kiến của tôi tan đi trong hành động này.
Ghi chú: (1) Hellade : miền trung tâm của nước Hy Lạp cổ.
(2) Vénus: nữ thần tình yêu và sắc đẹp, tức là thần khoái lạc, theo thần thoại Hy Lạp. Vénus cặp đôi với Apollon là nam thần cùng loại.
64* GIÊSU TẠI TIBÊRIAT, TÌM
JONATHA TẠI NHÀ CHOUZA
Tôi thấy thành phố Tibêriat rất đẹp, mới tinh. Diện mạo tổng quát của nó cho tôi thấy nó mới và giầu có. Nó được xây dựng theo một sơ đồ thứ tự hơn tất cả những thành phố Palestin khác, và phô bày một toàn thể đều hòa trật tự mà cả Jêrusalem cũng không có. Các đại lộ đẹp, các đường phố thẳng tắp với hệ thống cống rãnh ngăn cản nước đọng và tích tụ rác rến trên các lộ. Các quảng trường mênh mông với cây cối tô điểm; các phông-ten với bể đá tuyệt đẹp. Các lâu đài mang kiểu kiến trúc Rôma và các hành lang ngoài trời. Qua một số cổng chính mở ra vào giờ ban sáng này, mắt có thể nhìn thấy những tiền đường lớn với những tiền trụ bằng cẩm thạch, trang điểm bằng những màn trướng và bàn ghế qúi giá. Hầu như tất cả đều có ở giữa khu đất một cái sân lát đá trắng với phông-ten vọt nước và bể hứng bằng cẩm thạch có trang trí hoa lá cành.
Tóm lại, đây là kiểu kiến trúc Rôma được lặp lại đúng, bắt chước rất khéo. Các nhà đẹp nhất đều ở trong các phố gần hồ. Ba nhà đầu tiên song song với hồ, đúng là nhà các lãnh chúa. Căn thứ nhất dọc
413
theo một đại lộ hơi cong với bờ hồ, rất huy hoàng lộng lẫy. Phần sau cùng nối tiếp vào mặt hậu của biệt thự, có mặt tiền chính quay ra lộ chạy qua phía sau, về phía hồ, có những khu vườn đẹp chạy xuống gần tới nước, dường như được nước vuốt ve. Hầu như mỗi nhà đều có một cảng nhỏ, nơi đậu các du thuyền để đi dạo trên hồ, có trang điểm những màn trướng và lọng qúi, với những cái gối mầu đỏ chót.
Dường như Giêsu đã xuống khỏi thuyền của Phêrô, không phải tại cảng Tibêriat, nhưng ở một nơi khác, có lẽ là ngoại ô, và Người đi theo đại lộ dọc bờ hồ.
- Thầy chưa bao giờ tới Tibêriat à? - Phêrô hỏi.
- Chưa hề.
- Ê! Antipa đã khéo làm các chuyện, và vĩ đại nữa, để nịnh Tibère (Tibérius Julius César, hoàng đế Rôma). Ông đó, đúng là tên bị mua chuộc.
- Ta thấy đây là thành phố để nghỉ ngơi hơn là để làm thương mại.
- Khu thương mại ở phía bên kia, có rất nhiều cửa tiệm giầu và đẹp.
- Những nhà này của người Palestin?
- Đúng và sai. Nhiều nhà là của Rôma, nhưng cũng có nhiều... Ê! Đúng, mặc dầu đầy những bức tượng và những thứ vô ích tương tự, nhưng nó là của dân Hy Bá - Phêrô thở dài và lẩm bẩm: “... nếu họ chỉ lấy của chúng ta nền độc lập thôi... Nhưng họ lấy mất của chúng ta đức tin... Chúng ta đang trở thành dân ngoại còn hơn họ!...”
- Phêrô, đó không phải lỗi của họ. Họ có thói quen của họ và họ không cưỡng ép chúng ta theo. Chính chúng ta muốn hư hỏng: vì lợi lộc, theo mốt, vì óc nô lệ...
- Thầy nói đúng. Nhưng người đầu tiên làm là viên Thủ Hiến...
- Thưa Thầy, chúng ta tới nơi rồi - người mục đồng Giuse nói. “Đây là nhà viên quản lý của Hêrôđê”.
Họ dừng lại ở đầu một đại lộ, nơi ngã tư, từ đó đại lộ trở thành lộ thứ cấp. Các biệt thự nằm giữa khoảng lộ và hồ. Căn nhà Giuse chỉ
414
là nhà đầu tiên. Tất cả chung quanh đều là vườn đầy hoa. Mùi thơm hoa lài, hoa hồng tỏa lan ra tới hồ.
- Jonatha ở đây à?
- Người ta bảo con là ở đây. Ông là quản lý của viên quản lý. Ông ta gặp may. Chouza không xấu, và ông nhìn nhận công trạng của tên quản lý của ông. Đó là một trong số họa hiếm người thuộc triều đình mà thật thà. Con có gọi ông không?
- Gọi đi.
Giuse tới cái cổng lớn và gõ. Người gác cổng chạy ra. Họ nói với nhau. Tôi thấy Giuse bỉu môi, vẻ thất vọng. Người gác cổng ló đầu ra ngoài hàng rào và nhìn Giêsu, rồi hỏi điều gì mà Giuse đồng ý. Họ lại nói với nhau nữa.
Rồi Giuse trở lại với Giêsu đang kiên nhẫn chờ dưới bóng cây: “Jonatha không có ở đây. Ông ta đang ở trên miền thượng Liban. Ông đem Jeanne, vợ Chouza tới nơi không khí trong sạch. Bà bệnh rất nặng. Người đầy tớ nói rằng ông đi vì Chouza ở trong triều đình, và ông không thể ra ngoài từ khi có vụ vượt ngục của Gioan Tẩy Giả. Tình trạng bệnh nhân trầm trọng và thầy thuốc nói là bà sẽ chết. Nhưng người đầy tớ mời vào để nghỉ. Jonatha đã nói về Đức Messi thơ bé, và cả ở đây, Thầy cũng được biết đến tên và được chờ đợi”.
- Chúng ta vào.
Nhóm người di chuyển. Người gác cổng đã nhìn thấy và đã gọi những người đầy tớ khác. Họ mở cổng ra hết cỡ, chạy ra đón Giêsu với sự kính trọng thực sự: “Lạy Chúa! Xin vãi phúc lành của Ngài trên chúng con và trên căn nhà buồn này. Xin vào. Jonatha sẽ ân hận biết bao vì không có mặt ở đây. Niềm hy vọng độc nhất của ông là được gặp Ngài. Xin vào, xin vào, và các bạn Ngài cùng với Ngài”.
Trong đại điện có các tôi tớ nam nữ thuộc mọi lứa tuổi. Tất cả đều chen vội lên để chào cách trọng kính, cũng hơi tò mò. Một bà già nhỏ khóc trong một góc.
Giêsu vào trong khi chúc phúc với các cử chỉ và lời chào bình an. Người ta biếu cho Người một đồ ăn nhẹ. Người ngồi trên một
415
cái ghế và mọi người vây chung quanh Người: “Thầy thấy Thầy không phải là người lạ đối với các con”. Giêsu nhận xét.
- Ôi! Jonatha đã nuôi chúng con bằng kỷ niệm về chuyện của Thầy. Ông ấy tốt. Ông nói rằng ông tốt tại vì ông được hôn Thầy. Nhưng cũng là do tính tình tự nhiên.
- Thầy đã cho và nhận nhiều cái hôn... Nhưng như con nói, chỉ nơi những người tốt, nó mới làm gia tăng lòng tốt. Bây giờ ông ta vắng nhà? Thầy đến chính là cho ông ta.
- Con đã nói: ông ta ở trên Liban. Ở đó ông có các bạn... Đó là hy vọng sau cùng cho bà chủ trẻ, và nếu việc đó không thành công...
Bà già nhỏ ở trong góc khóc mạnh hơn. Giêsu nhìn bà với vẻ nghi vấn.
- Đó là Esther, người vú nuôi của bà chủ. Bà khóc vì bà không thể chịu được phải mất bà.
Giêsu mời bà tới gần Người: “Mẹ ơi lại đây, đừng khóc như vậy. Đâu phải bệnh có nghĩa là chết!”
- Ôi! Đó là chết! Chết! Từ lần sinh sản đầu tiên bất hạnh của cô, cô chết dần chết mòn. Các mụ ngoại tình chúng sinh con lén lút, nhưng chúng sống! Còn cô, cô tốt, thật thà, thân yêu, qúa thân yêu mà phải chết!
- Nhưng cô ấy làm sao? Triệu chứng?
- Một thứ sốt ăn mòn cô. Giống như ngọn đèn trước gió... Ngọn gió càng lúc càng mạnh, mà cô càng lúc càng yếu. Ôi! Tôi muốn đi với cô, nhưng Jonatha muốn các đầy tớ trẻ, vì cô không còn sức, một cơ thể trơ trơ, và phải di chuyển, mà tôi, tôi không làm được... Không làm được việc đó... nhưng để yêu cô, phải... Tôi đã nhận cô từ dạ mẹ cô. Lúc đó tôi là đầy tớ, tôi cũng có chồng, và tôi mới sinh con tôi trước đó một tháng. Tôi đã cho cô bú, vì bà mẹ qúa yếu, không thể... Rồi tôi phục vụ cô như người mẹ khi cô thành mồ côi lúc cô vừa biết nói tiếng “Má”. Tôi bạc đầu và nhăn trán vì thức canh người bệnh... Tôi đã may y phục lễ cưới cho cô, tôi dẫn cô đi lễ cưới. Tôi lo lắng cho hy vọng làm mẹ của cô. Tôi đã khóc với cô trên đứa con của cô bị chết... Tôi đã nhận hết mọi nụ cười và mọi
416
nước mắt của đời cô... Tôi đã cho cô mọi nụ cười và mọi an ủi của tình yêu tôi... Và bây giờ cô sắp chết, và cô không có tôi ở bên cạnh... - người đàn bà rất buồn phiền đau khổ.
Giêsu vuốt ve bà nhưng không kết qủa: “Nghe này bà mẹ: Bà có đức tin không?”
- Nơi Thầy, có.
- Nơi Thiên Chúa. Bà có tin là Thiên Chúa có thể tất cả không?
- Tôi tin. Tôi tin là Thầy, Đấng Messi của Người, nếu Thầy muốn... Ôi! phải, trong thành phố, người ta nói về quyền phép của Thầy. Ông này (và bà chỉ vào Philíp) mới đây đã nói về phép lạ ở gần giáo đường. Jonatha nói với ông: “Đấng Messi đâu?” Ông ta trả lời: “Tôi không biết”. Lúc đó Jonatha bảo tôi: “Nếu Người ở đây thì tôi cá với bà là cô chủ sẽ được khỏi”. Nhưng Ngài không có ở đây. Và ông ra đi với cô... Và bây giờ cô sắp chết...
- Nhưng hãy tin. Hãy nói cho Thầy thực tình về điều bà có ở trong lòng. Bà có thể tin rằng cô chủ sẽ không chết nhờ đức tin của bà không?
- Nhờ đức tin của tôi? Ôi! Nếu Ngài muốn, đây, hãy lấy cả mạng sống tôi, mạng sống già của tôi... Nhưng xin cho tôi thấy cô được khỏi.
- Thầy là sự sống. Thầy cho sự sống chứ không cho sự chết. Xưa kia bà đã cho cô sự sống bằng sữa của bà. Đó là sự sống nhỏ nhen có thể chấm dứt. Bây giờ với đức tin của bà, hãy cho cô một sự sống vô tận. Hãy cười đi bà mẹ.
- Nhưng cô không ở đây... - Bà già bị chia sẻ giữa hy vọng và sợ sệt: “Cô đi vắng, nếu Thầy đã ở đây...”
- Hãy tin. Nghe đây: Bây giờ Thầy đi Nazarét trong ít ngày. Ở đó Thầy cũng có các bạn hữu bị bệnh... Rồi Thầy sẽ đi Liban. Nếu Jonatha trở về trong vòng sáu ngày thì hãy bảo ông đến Nazarét, tới nhà Giêsu con Giuse. Nếu ông không tới thì Thầy sẽ tới.
- Làm sao Thầy tìm được ông?
- Thiên thần của Tobia sẽ hướng dẫn Thầy. Còn bà, hãy củng cố lòng tin. Thầy chỉ xin bà có thế. Đừng khóc nữa.
Trái lại, bà già khóc mạnh hơn. Bà ở chân Giêsu và gục đầu
417
trên đầu gối Thiên Chúa, hôn bàn tay ân phúc mà bà làm ướt bằng nước mắt. Giêsu lấy bàn tay kia vuốt ve bà. Và vì những người đầy tớ khác phiền trách bà vì cứ khóc hoài, Người nói: “Để kệ bà. Bây giờ là những nước mắt nhẹ nhõm. Như vậy tốt cho bà. Tất cả các con có bằng lòng là bà chủ lại được khỏe mạnh không?”
- Ôi! Bà rất tốt. Một bà chủ như vậy là một người bạn, và người ta yêu. Chúng con rất yêu bà. Thầy tin đi.
- Thầy đọc thấy trong lòng các con. Hãy nên tốt hơn nữa. Thầy đi. Thầy không thể chờ, vì thuyền bè đã sẵn. Thầy chúc lành cho các con.
- Lạy Thầy, xin trở lại. Xin trở lại nữa.
- Thầy sẽ trở lại, nhiều, nhiều lần. Chào. Bình an cho nhà này và cho tất cả các con.
Giêsu ra cùng với các người của Ngài, được hộ vệ bởi các đầy tớ trong khi họ tung hô Người.
- Thầy được biết ở đây nhiều hơn ở Nazarét - anh họ Giacôbê buồn bã nhận xét.
- Nhà này đã được chuẩn bị bởi một người có đức tin nơi Đấng Messi. Đối với Nazarét, Thầy chỉ là ông thợ mộc... không còn gì hơn.
- Và... và chúng con, chúng con không có sức mạnh để rao giảng Thầy về những điều Thầy là...
- Các con không có sao?
- Không. Chúng con không anh hùng như các mục đồng của Thầy.
- Con tin vậy à Giacôbê? - Giêsu mỉm cười nhìn ông anh họ rất giống cha nuôi của Người. Cũng như ông: mắt và tóc nâu, da mặt hơi sạm, Trong khi Juđa thì trắng hơn, mặt đóng khung trong bộ râu rất đen, tóc quăn, đôi mắt xanh dương ngả tím, hơi hơi giống mắt Giêsu: “Vậy Thầy bảo con rằng con không biết mình. Con với Juđa là hai kẻ mạnh”.
Các ông anh lắc đầu.
- Các con sẽ thấy là Thầy không lầm.
418
- Thực tình chúng ta đi Nazarét sao?
- Ừ, Thầy muốn nói chuyện với Mẹ Thầy và... và còn làm một chuyện khác nữa. Ai muốn đi thì đi.
Tất cả đều muốn. Người bằng lòng nhất là hai ông anh: “Là vì ba và má đó. Anh hiểu không?”
- Anh hiểu. Chúng ta sẽ ghé qua Cana rồi chúng ta về đó.
- Ghé Cana à? Vậy chúng ta sẽ vào nhà Suzane. Bà sẽ gởi trứng và trái cây cho ba, anh Giacôbê ạ.
- Chắc chắn cũng có cả mật ong của bà. Ba mình thích lắm.
- Và cái đó rất bổ.
- Ông cha tội nghiệp! Ông đau lắm. Giống như một cây bị nhổ rễ, vì cảm thấy sự sống sắp rời bỏ... mà ông lại không muốn chết... - Giacôbê nhìn Giêsu trong lời cầu khẩn lặng lẽ... Nhưng Giêsu như không nhìn thấy. “Chú Giuse cũng đã có một cái chết đau đớn sao?”
- Ừ - Giêsu trả lời. “Nhưng ông khổ ít hơn, vì ông an phận”.
- Lại nữa, ông có Thầy.
- Alphê cũng có thể có Thầy...
Hai ông anh thở dài đau khổ. Và tất cả chấm dứt.
65* GIÊSU Ở TRONG NHÀ BÁC ALPHÊ,
RỒI Ở NHÀ NGƯỜI
Giêsu đang ở với các người của Ngài giữa các ngọn đồi đẹp của Galilê. Mặt trời còn ở chân trời, dù hoàng hôn đã tới. Để tránh nó, các bộ hành đi dưới các tàn cây, hầu hết là cây oliu.
- Sau cái lên dốc này là Nazarét - Giêsu nói. “Bây giờ Thầy bảo các con rằng khi tới đó, chúng ta sẽ phân chia: Juđa và Giacôbê về ngay với ba họ như lòng họ ước ao. Phêrô và Gioan phát của bố thí cho người nghèo chắc chắn đang ở gần phông-ten. Thầy và những người khác, chúng ta về nhà ăn uống rồi nghỉ ngơi”.
419
- Chúng con, chúng con sẽ tới nghỉ ở nhà ông Alphê tốt bụng (Alphê Sara), lần trước chúng con đã hứa với ông. Nhưng con sẽ tới trước một mình để chào ông. Con nhường cái giường của con cho Mathêu, vì ông chưa quen ngủ trên gỗ cứng - Philíp nói.
- Không, không phải anh. Anh già cả rồi. Tôi không đồng ý như vậy. Từ trước tới giờ tôi ngủ trên giường êm thực, nhưng tôi đã có các giấc ngủ hỏa ngục chừng nào! Anh tin đi: Bây giờ tôi dễ chịu, bình an, tựa như tôi ngủ trên nệm lông, dù là tôi nằm trên đá sỏi. Ôi! Chính là lương tâm nó cho hay không cho chúng ta giấc ngủ ngon - Mathêu trả lời.
Đó là sự ganh đua bác ái nhóm lên giữa các môn đệ Tôma, Philíp, Batôlômêo và Mathêu. Và nếu tôi hiểu đúng thì lần trước, lúc chưa có Mathêu, họ đã ngủ trong nhà ông Alphê này (Chắc chắn không phải là Alphê bố của Juđa và Giacôbê, vì tôi nghe Giacôbê nói với Andrê: “luôn luôn có chỗ cho anh đó, giống như lần trước, dù là ba tôi bệnh”). Và Tôma là người thắng: “Tôi là người trẻ nhất nhóm, nên chính tôi là kẻ nhường cái giường. Mathêu, anh cứ để tôi làm. Anh nghĩ việc đó khó đối với tôi sao? Không. Tôi giống như một tình nhân mơ mộng. Tôi sẽ ở trên giường cứng, nhưng gần ngay bên người yêu của tôi”. Tôma là người trong khoảng ba mươi tám tuổi, có cái cười vui nên Mathêu nhượng bộ. Đây, bây giờ họ chỉ còn cách các căn nhà của Nazarét vài mét.
- Giêsu... Chúng con đi - Juđa nói.
- Đi đi, đi đi.
Hai anh em đi, hầu như chạy. Phêrô thì thầm: “Ê! Cha là cha. Dù ông có hờn dỗi thì cũng luôn luôn là máu của chúng ta. Và máu mủ là cái lôi kéo chúng ta hơn là giây chão. Và nữa... Con thích các anh của Thầy... Họ rất tốt”.
- Họ rất tốt, đúng, và họ khiêm nhường, đủ để không tính toán họ từ đâu mà tới. Họ luôn luôn nghĩ mình có lỗi, vì tâm hồn họ thấy điều tốt ở khắp nơi, nhất là trong nhà họ. Họ đã tiến nhiều, rất nhiều.
Bây giờ các đấng đã vào trong Nazarét. Các phụ nữ thấy Giêsu
420
và chào Người. Các đàn ông và trẻ em cũng vậy. Nhưng đây không phải là những tung hô Đấng Messi như những nơi khác, đây chỉ là các bạn hữu bộc lộ ít nhiều để chào người bạn trở về. Tôi còn nhận ra sự tò mò mỉa mai nơi nhiều người khi họ quan sát nhóm người tạp nham ở với Giêsu. Chắc chắn đây không phải là các đại thần trong triều vua, cũng không phải phái đoàn các thầy cả lộng lẫy linh đình. Họ nhỏ mồ hôi, đầy bụi bặm, ăn mặc bình dân, ngoại trừ Judas Iscariot, Simon và Batôlômêo (tôi xếp họ theo thứ tự sang trọng giảm dần). Họ giống một nhóm bình dân du hành vào chợ hơn là những người đi theo một ông vua. Ông vua này chỉ hơn họ về khổ người cao và dáng điệu.
Họ đi mấy mét, rồi Phêrô và Gioan tách ra, quẹo bên phải, trong khi Giêsu và các người khác đi cho tới cái quảng trường nhỏ đầy trẻ nít hò la dỡn chung quanh một cái bể đầy nước mà các bà mẹ tới kín.
Một người nhận ra Giêsu và làm một cử chỉ ngạc nhiên vui mừng. Ông vội vã lại với Người và chào: “Đã về mạnh khỏe? Tôi không tưởng là anh về sớm vậy. Này, hôn cái chồi sau cùng của tôi đi. Đó là bé Giuse, nó sinh khi anh vắng nhà”. Và ông trao cho Người đứa trẻ sơ sinh mà ông đang ẵm trong tay.
- Anh gọi nó là Giuse?
- Ừ, tôi không quên ông. Ông cũng hơi có họ với tôi, nhưng thân hơn là bà con. Ông là ông bạn lớn của tôi. Bây giờ tôi đặt cho cả các cháu của tôi những tên thân yêu đối với tôi: Anna, người bạn của tôi khi tôi còn bé tí; rồi Joakim, rồi Maria... Ôi! Khi cô ấy sinh, lễ lớn! Tôi nhớ ông cho tôi hôn cô và nói: “Con thấy cái cầu vồng kia không? Đó là cái cầu thang bắc từ trời mà em nó đã đi để xuống. Đó là con đường của các thiên thần”. Và thật vậy, cô giống như một thiên thần nhỏ, vì cô đẹp chừng nào!... Bây giờ đây là Giuse. Nếu tôi biết anh về sớm vậy thì tôi sẽ chờ anh để cắt bì.
- Tôi cám ơn anh vì tình yêu của anh đối với ông bà ngoại tôi và với ba má tôi. Đây là đứa trẻ đẹp. Cầu xin cho nó công chính muôn đời như vị công chính Giuse - Giêsu đu đưa đứa trẻ và làm nó cười
421
nắc nẻ.
- Nếu anh chờ tôi thì tôi sẽ đi về với anh. Tôi chờ các vò nước đầy. Tôi không muốn để con gái Maria của tôi phải mệt. Và cả nữa, anh coi cái tôi làm: tôi đưa các vò nước của tôi cho các người của anh nếu họ muốn mang, để tôi nói chuyện với anh một lát.
- Chắc chắn là chúng tôi sẽ mang. Chúng tôi đâu phải các ông vua Assyrie - Tôma nói, và ông cầm một vò nước để bắt đầu.
- Vậy chú ý: Maria không có ở nhà, cô ở nhà ông anh chồng của cô. Anh biết không? Nhưng chìa khóa thì ở nhà tôi. Bảo chúng nó đưa cho để vào nhà, tôi muốn nói là vào xưởng mộc.
- Được, được. Về nhà, rồi chúng tôi sẽ trở lại.
Các tông đồ đi, còn Giêsu ở lại với Alphê: “Tôi muốn nói với anh... tôi là bạn thực sự của anh... Khi người ta là bạn thực, lại già hơn, lại đồng hương, thì người ta có thể nói. Tôi tin rằng tôi phải nói... Tôi... Nhưng tôi không muốn khuyên anh. Anh còn biết hay hơn tôi. Tôi chỉ muốn báo cho anh rằng... Ôi! Không, tôi không muốn làm trinh thám, cũng không muốn chỉ cho anh thấy họ hàng trong một ngày xấu. Tôi tin anh là Đức Messi, và điều đó, điều đó làm tôi buồn. Đây, khi tôi thấy họ nói rằng anh không phải anh, tức là không phải Đức Messi, họ nói anh bị bệnh, anh là sự hủy hoại của gia đình và họ hàng. Thành phố... Anh biết, Alphê rất được kính trọng, và thành phố nghe ông. Bây giờ ông bệnh và ông làm họ thương. Ngay cả tình thương, đôi khi cũng thúc đẩy người ta tới bất công. Anh coi: Tôi đã ở đó vào ngày mà Juđa và Giacôbê bảo vệ anh và bảo vệ quyền tự do để theo anh. Ôi! Thật là một màn!... Tôi không biết làm sao mẹ anh chịu nổi ở đó? Và cái bà Maria Alphê tội nghiệp! Phụ nữ luôn luôn là nạn nhân của một số hoàn cảnh gia đình”.
- Lúc này thì các anh đã ở trong nhà ba họ...
- Nhà ba họ? Ôi! Tôi tiếc! Ông già thực sự nổi sùng. Chắc chắn là vì tuổi tác và bệnh hoạn, nhưng ông hành động như người điên. Nếu ông ta không điên thì ông còn làm tôi thương hơn, vì ông làm hại linh hồn ông.
422
- Anh nghĩ ông sẽ bạc đãi con cái?
- Tôi chắc chắn điều đó. Tôi tiếc cho họ và cho các bà. Anh đi đâu?
- Vào nhà Alphê.
- Đừng, Giêsu! Đừng để cho người ta thiếu kính trọng.
- Các anh tôi yêu tôi hơn cả họ, nên thật chính đáng là tôi trả cho họ một tình yêu tương đương... Ở đó có hai người đàn bà thân yêu của tôi. Tôi tới, đừng cản tôi - và Giêsu vội vã về nhà Alphê, trong khi ông Alphê này ở lại giữa đường, đầy suy tư.
Giêsu bước lẹ. Tôi thấy Người ở chỗ ranh giới khu vườn nhà Alphê. Người nghe thấy tiếng khóc của phụ nữ, và tiếng quát tháo qúa mức của đàn ông. Người chạy nhanh những mét sau cùng còn ngăn cách Người với căn nhà, băng qua khu vườn xanh mướt. Người sắp tới ngưỡng cửa thì thấy Mẹ Người tiến ra cửa, vì Mẹ nhìn thấy Người.
- Má!
- Giêsu!
Hai tiếng kêu tình yêu.
Giêsu sắp vào, nhưng Maria bảo Người: “Đừng, con ơi!” Và Mẹ đứng giữa cửa, giang tay, hai tay nắm lấy khung cửa: Một hàng rào bằng thịt và tình yêu. Mẹ nhắc lại: “Không, con ơi! Đừng làm!”
- Má ơi! Để con, không sao đâu - Giêsu hoàn toàn bình tĩnh, mặc dù chắc chắn sự tái mét của Maria làm Người băn khoăn. Người cầm cổ tay nhỏ, gỡ tay Má ra khỏi khung cửa và đi qua.
Trong nhà bếp, tung tóe trong tình trạng nhão nhét, lẫn lộn những trứng, trái nho, và các hũ mật ong từ Cana đem về. Từ một phòng khác phát ra những tiếng gây gổ của một ông già với giọng đe dọa, kết án, than trách của một trong những cơn lôi đình cằn cỗi, rất bất công, rất bất lực, rất nặng nề để thấy và rất đau đớn để chịu đựng: “... đây, nhà của tôi bị hủy hoại, trở nên trò cười cho toàn thể Nazarét. Và tôi ở đây, một mình, bị thương tích trong tim và trong sự kính trọng, không ai giúp đỡ gì cho những nhu cầu của tôi!... Đó, Alphê! Đây là những gì còn lại cho mày sau khi đã hành động như một tín
423
hữu trung thành! Và tại sao? Tại sao? Tại một thằng điên, một thằng điên đã làm các đứa con trai ngu ngốc của tôi thành điên luôn. A! A! Đau đớn chừng nào!”
Tiếng nói của Maria Alphê năn nỉ đầy nước mắt: “Hãy tốt, Alphê! Hãy tốt!... Ông sẽ đau hơn. Nào, để tôi giúp ông nằm xuống... Ông luôn luôn tốt, luôn luôn công chính... Sao bây giờ ông như vậy đối với ông, đối với tôi, đối với những đứa con tội nghiệp...”
- Không thèm, không thèm! Đừng đụng tới tôi. Tôi không muốn! Những đứa con tốt? A! Thực sự có hai đứa bội bạc. Nó mang mật ong cho tôi sau khi nó cho tôi uống ngải đắng, nó mang trứng và trái cây cho tôi sau khi nó đã ăn qủa tim của tôi! Cút đi! Tôi bảo bà: Cút đi! Tôi không muốn bà. Tôi muốn Maria, nó biết làm. Bây giờ cái bà đó đâu rồi? Người đàn bà không có nghị lực, không biết dạy con cho biết vâng lời!
Maria Alphê bị đuổi. Bà vào trong bếp ngay khi Giêsu sắp sửa bước vào phòng Alphê. Bà liền bám lấy Người, nức nở cách thất vọng, trong khi Trinh Nữ Maria lại gần ông già cáu kỉnh cách khiêm nhường và kiên nhẫn.
- Đừng khóc bác ơi, cháu vào.
- Ôi! Đừng. Đừng để cho ông ta chửi bới cháu! Ông ta điên. Ông có gậy đó! Đừng, Giêsu! Đừng, ông đã đánh cả con ông.
- Ông sẽ không làm gì cháu - Giêsu cương quyết, nhẹ nhàng đẩy bà bác qua một bên và bước vào.
- Bình an cho bác, Alphê.
Ông già đang sắp nằm xuống trong khi không ngớt phát ra ngàn lời phiền trách Maria vì không biết làm (trong khi ông vừa nói là chỉ có mình cô biết làm). Ông liền quay phắt lại: “Ở đây à? Ở đây để nhạo cười tao? Cả vậy nữa?”
- Không. Để mang bình an cho bác. Tại sao bác lo lắng như vậy? Bác làm bác càng thêm bệnh. Má ơi, để con đỡ bác cho. Bác sẽ không làm đau cho mình nữa, và không tự làm mình mệt nữa. Má ơi! Kéo các mền lên.
Giêsu êm đềm ôm mớ xương thở rền, không còn sức lực, nhưng dữ tợn, khóc lóc, rên rỉ thảm hại. Người đặt ông trên giường như
424
một đứa trẻ mới sinh: “Đó, như vậy. Cháu đã làm cho ba cháu như vậy. Gối cao hơn tí nữa, nó đỡ đầu bác và bác thở dễ hơn. Má ơi, hãy luồn cái gối này xuống dưới lưng cho ông, như vậy cho êm. Bây giờ để ánh sáng như vầy để nó không chiếu vào mắt, mà vẫn để cho không khí trong sạch vào. Đó, như vậy. Con thấy có một siêu thuốc trên bếp. Má ơi, đưa lên đây đi. Nó làm dễ chịu. Bác
chảy mồ hôi và bác sắp bị lạnh, thuốc nóng sẽ làm dễ chịu”. Maria vâng lời đi ra.
- Nhưng tôi... Nhưng tôi... Tại sao cháu tốt với tôi?
- Vì cháu yêu bác. Bác biết mà.
- Tôi, trước tôi muốn cháu... nhưng bây giờ...
- Bây giờ bác không muốn cháu nữa. Cháu biết. Nhưng cháu yêu bác, vậy là đủ. Rồi bác sẽ yêu cháu...
- Vậy... ahi!... ahi!... Đau đớn chừng nào! Nếu đúng là cháu yêu bác, tại sao cháu xúc phạm tới tóc trắng của bác?
- Alphê! Cháu không xúc phạm đến bác bất cứ cách nào. Cháu tôn kính bác.
- Mày tôn kính bác à? Tao là trò cười cho Nazarét! Vậy đó!
- Alphê, tại sao bác nói vậy? Cháu làm cho bác thành trò cười của Nazarét về cái gì?
- Nơi các con tao. Tại sao chúng phản ngụy? Vì mày. Tại sao người ta chế nhạo? Vì mày.
- Hãy nói cho cháu: Nếu Nazarét ca tụng số phận của các con bác thì bác có khổ vậy không?
- A! Như vậy thì không. Nhưng Nazarét không ca tụng tao. Nó sẽ ca tụng tao nếu mày là người thực sự đi chinh phục thế giới. Nhưng mày là đứa hầu như điên, và đi khắp nơi để lôi kéo sự thù ghét và nhạo báng, nghèo nàn giữa đám dân nghèo. A! Ai mà không cười! A! Cái nhà tội nghiệp của tôi! Cái nhà tội nghiệp của Đavít! Nó kết cục thế nào? Mà tao lại phải sống để thấy sự bất hạnh này? Để thấy mày, cái chồi sau cùng của cái gốc vinh quang, thấy mày mù tối trong sự điên khùng bởi qúa nhiều nô dịch! Ôi! Khốn nạn trên chúng tao kể từ cái ngày mà thằng em của tao đồng ý kết hợp với
425
mụ đàn bà vô duyên này, vô duyên mà lại độc đoán, và nắm đầu nó. Lúc đó tao đã nói: “Giuse không lo làm đám cưới, nó sẽ bất hạnh”. Và đúng là như vậy. Nó biết cô ta thế nào, nhưng nó không muốn biết gì về đám cưới. Nguyền rủa cho cái luật mồ côi thừa tự! Nguyền rủa cho số phận! Nguyền rủa cho cuộc hôn nhân này!
Người “Trinh Nữ thừa tự” trở lại với siêu thuốc kịp thời để nghe những rên rỉ của ông anh chồng. Cô càng xanh xao hơn, nhưng sự kiên nhẫn của cô không bị xáo trộn. Cô tới gần Alphê với nụ cười êm đềm để giúp ông uống.
- Alphê, bác bất công, nhưng vì bác qúa đau nên người ta tha hết - Giêsu nói khi nâng đầu ông lên.
- Ôi! Phải. Đau chừng nào! Cháu nói rằng cháu là Đấng Messi. Cháu làm các việc kỳ diệu. Người ta nói như vậy. Ít nhất, để trả cho bác về các con bác mà cháu đã lấy, cháu hãy chữa cho bác đi. Chữa cho bác rồi bác sẽ tha cho cháu.
- Bác, hãy tha cho các con bác. Hãy hiểu linh hồn chúng, rồi cháu sẽ làm nhẹ nhõm cho bác. Nếu bác còn thù ghét thì cháu không thể làm gì được.
- Tha thứ ? - Ông già nhảy dựng lên. Đương nhiên là hành động này làm cho sự đau đớn của ông nên trầm trọng hơn, và vì vậy càng làm cho ông phát sùng hơn: “Tha thứ à? Không bao giờ. Cút đi! Cút đi! Nếu mày phải nói với tao điều đó. Cút! Tao muốn chết mà không muốn người ta làm tao rối bời hơn”.
Giêsu có một cử chỉ nhẫn nhục: “Chào bác Alphê. Cháu đi... Cháu có phải đi thực không? Bác của cháu... Có thực cháu phải đi không?”
- Nếu mày không làm vui lòng tao thì đúng, đi đi ! Và hãy nói với hai con rắn đó rằng cha già của chúng nó chết trong thù hận.
- Không. Cái đó thì không. Đừng mất linh hồn. Không yêu cháu nếu bác không muốn yêu. Không tin cháu là Đức Messi, nhưng đừng thù ghét. Alphê! Bác không được thù ghét. Chế nhạo cháu, bảo cháu là điên, được. Nhưng đừng thù ghét.
426
- Nhưng sao cháu lại yêu bác nếu bác chửi rủa cháu?
- Vì cháu là đấng mà bác không muốn nhìn nhận. Cháu là Tình Yêu. Má ơi! Con về nhà nhé.
- Ừ, con. Tí nữa má sẽ về.
- Cháu để lại cho bác sự bình an của cháu. Alphê, nếu bác muốn gặp cháu thì hãy cho người tìm cháu, cháu sẽ tới vào bất cứ giờ nào.
Giêsu ra, bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra. Chỉ có điều Người tái mét hơn.
- Ôi! Giêsu! Giêsu! Hãy tha cho ông - Maria Alphê rên rỉ.
- Rồi, Maria, rồi. Cả đến không cần xin. Với kẻ đau khổ thì người ta tha hết. Bây giờ ông bình tĩnh hơn rồi. Ơn Sủng làm việc cả khi con tim không hay biết. Lại nữa, có nhiều nước mắt của bác, và chắc chắn là có nỗi đau của Juđa và của Giacôbê, và sự trung thành trong ơn gọi của họ. Bình an cho tâm hồn lo âu của bác - Người hôn bà và ra vườn để về nhà.
Vào lúc Người ra tới đường thì Phêrô tới với Gioan theo sau. Ông thở dốc sau cuộc chạy hỏa tốc: “Ôi! Thầy, nhưng có chuyện gì vậy? Giacôbê bảo con: ‘Hãy chạy lẹ về nhà tôi. Ai biết được Giêsu bị đối xử thế nào!’ Nhưng con, con lầm, Alphê, ông Alphê ở ngoài phông-ten đã về và nói với Juđa: ‘Giêsu đang ở trong nhà anh’, vậy là Giacôbê bảo con thế. Hai anh họ của Thầy thất vọng. Con, con không hiểu gì cả. Nhưng con gặp Thầy... Vậy là con an lòng rồi”.
- Không có gì cả Phêrô. Một bệnh nhân tội nghiệp mà sự đau đớn làm cho thành không dung thứ. Bây giờ mọi sự đều qua.
- Ôi! Con mừng. Còn anh, sao lại ở đây? - Phêrô hỏi Iscariot với giọng không mấy êm dịu khi thấy Judas cũng lật đật chạy tới.
- Tôi thấy hình như anh cũng ở đây!
- Người ta yêu cầu tôi tới nên tôi tới.
- Tôi cũng vậy. Tôi tới coi Thầy có bị nguy hiểm không, và tại quê quán thầy. Tôi, tôi đã bảo vệ người ở Juđê thì tôi cũng có thể bảo vệ Người ở Galilê.
427
- Về điều đó thì chúng tôi đã đủ. Nhưng ở Galilê thì không cần.
- A! A! A! Qủa thực quê hương Người tẩy chay Người như một đồ ăn khó tiêu. Rồi, tôi bằng lòng cho anh vì anh đã phẫn nộ do một bất trắc nhỏ xảy ra ở Juđê, nơi Người không được biết. Trái lại, ở đây... - Và Judas hoàn tất câu nói bằng một tràng huýt sáo chế diễu.
- Nghe này cậu bé: Tôi không dễ chịu khi phải chịu đựng cậu. Vậy tốp lại đi, nếu cậu lưu tâm tới... tới điều gì. Thầy ơi, họ có làm hại gì cho Thầy không?
- Không, Phêrô. Thầy bảo đảm với con. Chúng ta mau tới an ủi hai anh Thầy.
Họ đi và vào xưởng mộc. Juđa và Giacôbê đang ở gần cái bàn thợ mộc. Giacôbê đứng, Juđa ngồi trên cái ghế đẩu, khửu tay chống trên bàn, gục mặt vào hai bàn tay. Giêsu tươi cười đến với họ để bộc lộ ngay cho họ tình cảm của Người: “Bây giờ Alphê bình tĩnh rồi. Cơn đau hạ và bình an trở về. Các con hãy an lòng”.
- Thầy thấy không? Còn má con?
- Thầy gặp hết mọi người.
- Cả các anh lớn? - Juđa hỏi.
- Không. Họ không ở đó.
- Họ ở đó. Họ không muốn ra mặt với Thầy. Nhưng với chúng con, ôi! Nếu chúng con có phạm một tội ác, họ cũng không xử với chúng con như vậy. Chúng con từ Cana về, như bay trong niềm vui được gặp lại ông và mang cho ông những thứ ông thích. Chúng con yêu ông nhưng ông không hiểu chúng con nữa. Ông không còn tin cẩn ở chúng con.
Juđa hạ tay xuống và khóc, gục đầu trên bàn. Giacôbê mạnh mẽ hơn, nhưng khuôn mặt ông bộc lộ một sự tử đạo trong lòng.
- Đừng khóc, Juđa. Và con, đừng buông xuôi cho đau khổ.
- Ôi! Giêsu. Chúng con là con mà ông lại nguyền rủa chúng con. Nhưng dù đau khổ tan nát, không, chúng con không quay lại đàng sau. Chúng con thuộc về Thầy, và chúng con sẽ ở với Thầy, cho dù họ đe giết chúng con vì tách rời với họ - Giacôbê nói.
428
- Vậy mà con bảo con không có khả năng anh hùng. Thầy, Thầy biết. Nhưng con, con tự nói vậy. Nhưng thực sự, con sẽ trung thành dù trước cái chết - Giêsu vuốt ve họ, nhưng họ đau khổ. Nước mắt Juđa vang lên dưới vòm đá, và ở đây, tôi có dịp thấy rõ hơn tâm hồn người môn đệ.
Phêrô, với khuôn mặt thật thà và buồn bã kêu lên: “Đúng, đó là đau khổ... Buồn thực! Nhưng các con ơi (và ông lúc lắc họ cách âu yếm), không phải mọi người đều đáng được các lời này... Tôi...Tôi thấy tôi may mắn trong lời Giêsu gọi tôi. Bà vợ đại độ của tôi không ngừng bảo tôi: ‘Giống như em bị rẫy vậy, vì anh không còn ở với em nữa’. Nhưng tôi nói: ‘Sự từ rẫy có phước’. Các anh cũng nói vậy đi. Các anh mất một người cha, nhưng các anh được Thiên Chúa”.
Người mục đồng Giuse ngạc nhiên, vì trong số phận mồ côi của ông, ông không biết rằng một người cha có thể là nguyên nhân đau khổ. Ông nói: “Tôi nghĩ tôi là kẻ bất hạnh nhất vì không có cha. Nhưng tôi nhận thấy thà khóc vì chết còn hơn khóc vì thành kẻ thù”. Gioan chỉ giới hạn ở việc hôn và vuốt ve các bạn ông. Andrê nín thinh, nhưng thở dài hoài. Ông rất muốn nói, nhưng sự e thẹn làm ông nghẹn cổ. Tôma, Philíp, Mathêu, Natanael nói nhỏ trong một góc, vì kính trọng sự đau khổ thực sự. Giacôbê Zêbêđê cầu nguyện thì thầm để Thiên Chúa ban bình an. Simon Zêlote, ôi! Thái độ của ông làm tôi bằng lòng chừng nào! Ông rời góc của ông, tới bên hai người bạn đau khổ, ông đặt một tay trên đầu Juđa, tay kia ông ôm lưng Giacôbê và nói: “Các con ơi đừng khóc. Người đã nói với chúng ta, với tôi và con: ‘Thầy kết hợp các con: con là người vì Thầy mà mất một người cha, con là người có qủa tim người cha mà không có con’. Và chúng ta đã không hiểu rằng đây là những lời tiên tri. Nhưng Người biết. Đây, tôi xin các con, tôi già và tôi luôn luôn mơ được gọi là cha, hãy nhận tôi là cha. Và tôi, như người cha, tôi chúc phúc cho các con buổi sáng và buổi tối. Tôi xin các con, hãy nhận tôi là cha”.
Hai người ưng thuận bằng cách khóc nấc mạnh hơn.
Maria vào và chạy tới bên hai người đau khổ. Mẹ vuốt mái tóc
429
đen của Juđa và má của Giacôbê. Mẹ trắng như bông huệ. Juđa cầm tay mẹ hôn và hỏi: “Ông ta làm gì?”
- Con ơi, ông ngủ. Má các con gởi cho các con cái hôn - và mẹ hôn cả hai ông.
Giọng nói khàn của Phêrô vang lên: “Này, lại đây. Tôi muốn nói với anh một điều”. Và tôi thấy Phêrô, bằng bàn tay lực lưỡng của ông, nắm lấy cánh tay Iscariot và dẫn ông ra ngoài đường. Rồi ông trở lại một mình.
- Con bảo ông ta đi đâu? - Giêsu hỏi.
- Đi đâu? Đi hóng gió. Và nếu gió không làm ông dịu lại thì con sẽ làm cho ông cách khác. Chỉ vì Thầy nên con không làm bây giờ. Ôi! Lúc này dễ chịu hơn. Kẻ cười trước sự đau khổ của kẻ khác là con rắn lục, mà các con rắn là con đuổi đi... Đúng, may thay là Thầy ở đây. Con chỉ cho ông đi ngắm trăng. Điều có thể... Con có thể trở nên một luật sĩ, một điều mà chỉ mình Thiên Chúa có thể làm cho con là kẻ có lương tâm ngay thẳng trên đời. Nhưng ông ta, dù với sự trợ giúp của Thiên Chúa, con không tin ông có thể trở nên tốt. Simon Jonas bảo đảm với Thầy điều đó, và con không lầm. Không, Thầy đừng lo. Ông ta thích ra ngoài hơn là chia sẻ nỗi buồn. Ông ta khô cứng hơn là đá dưới mặt trời tháng tám. Nào, các con! Ở đây có một người mẹ êm đềm hơn là trên trời có thể có; ở đây có một vị Thầy tốt hơn tất cả Thiên Đàng. Ở đây có bao con tim yêu các con cách chân thành. Nước mắt, nó tốt thôi, nó rửa sạch bụi. Ngày mai các con sẽ tươi hơn hoa, nhẹ nhàng hơn chim trời để theo Giêsu.
Và với những lời đơn sơ hay ho của Phêrô, tất cả đều chấm dứt cho tôi.
Rồi Giêsu nói:
Sau thị kiến này, con sẽ đặt thị kiến mà Cha cho con hồi mùa xuân 1944, thị kiến về việc Cha hỏi ý tưởng của Mẹ Cha về các tông đồ. Từ nay bộ mặt tinh thần của họ đã đủ để đem ra ánh sáng, để người ta có thể đặt thị kiến đó vào chỗ này mà không tạo ra gương mù cho ai. Cha không cần cố vấn, nhưng khi chúng ta một mình, khi các môn đệ đã phân tán ra các nhà bạn hay trong các vùng phụ cận, trong thời gian cư ngụ ở Nazarét, Cha thấy thật êm đềm được nói chuyện với người bạn hiền dịu của Cha, và hỏi Mẹ để được sự xác nhận bởi môi miệng đầy ân sủng và khôn ngoan của Mẹ, về tất cả những
430
điều mà Cha đã thấy. Với Mẹ, Cha không bao giờ là cái gì khác hơn là người con. Và trong số các con cái của đàn bà, không có ai mẹ hơn Mẹ trong sự toàn thiện của các nhân đức thuộc về người mẹ, về loài người và về tinh thần. Cũng không có người con nào con hơn Cha trong sự kính trọng, tin cẩn và tình yêu.
Bây giờ các con đã có một sự hiểu biết tối thiểu về nhóm mười hai, các nhân đức, các khuyết điểm của họ; tính tình của họ, sự nỗ lực của họ. Vẫn còn có kẻ nói rằng Cha dễ dàng để hợp nhất họ, nâng cao họ, đào tạo họ? Vẫn còn có kẻ nói rằng đời sống tông đồ là dễ dàng, và dễ dàng để làm tông đồ, tức là để tin mình là tông đồ, những kẻ thường cho là mình có quyền hưởng một đời dễ dãi, không đau khổ, không đụng chạm, không thất bại. Cũng có những kẻ, vì sự kiện là họ phục vụ Cha, họ đòi hỏi rằng Cha phải là đầy tớ của họ, Cha phải làm cho họ những phép lạ liên tục, là làm cho đời họ thành cái thảm hoa dễ chịu, vinh quang theo loài người? Con đường của Cha, công việc của Cha, sứ vụ của Cha là Thánh Giá, đau khổ, từ bỏ, hy sinh. Cha đi qua. Ai xưng mình là người của Cha thì hãy theo Cha.
Điều này không phải để cho các Gioan, nhưng là cho các tiến sĩ ưa bất bình và đòi hỏi. Và với những ai ưa kiếm chuyện, Cha nói rằng Cha đã dùng các từ “bác, cháu” không có trong tiếng Palestin, để soi sáng vấn đề và chấm dứt câu hỏi thiếu thận trọng về sự kiện Cha là con duy nhất của Mẹ Maria, và về sự kiện đồng trinh của Mẹ Cha trước và sau khi sinh Cha; về tính chất Thiên Chúa và siêu nhiên của sự phối hợp mà Cha đã nhận được sự sống. Cha nói lại một lần nữa: Mẹ Cha không có một sự phối hợp nào khác, và không có người con nào khác. Thân xác bất khả xâm phạm mà chính Cha cũng không xé rách, được khép lại trên mầu nhiệm của một “lòng-dạ-nhà-tạm”, ngai tòa của Ba Ngôi và của Ngôi Lời nhập thể.
66* GIÊSU HỎI Ý MẸ NGƯỜI VỀ
CÁC MÔN ĐỆ CỦA NGƯỜI
Bây giờ, khoảng hai tiếng sau bài diễn tả trên, tôi thấy căn nhà Nazarét. Tôi nhận ra căn phòng từ biệt mở cửa ra vườn, nơi hết mọi cây đều đầy lá xum xuê.
Giêsu ngồi gần Maria trên một cái ghế đá trước nhà. Ta thấy là bữa tối đã xong. Những người khác, nếu còn - vì tôi không thấy ai cả - đều đã rút lui. Người Mẹ và người Con hỗ tương vui hưởng cuộc đàm thoại êm đềm. Tiếng nói nội tâm cho tôi biết đây là một trong những lần đầu Giêsu trở về Nazarét sau khi chịu phép rửa, ăn chay trong sa mạc, và nhất là việc thu nhận đoàn môn đệ. Người kể cho Mẹ những ngày đầu rao giảng Tin Mừng của Người, những
431
cuộc chinh phục các con tim đầu tiên. Maria bám vào môi Giêsu của Mẹ.
Mẹ xanh xao hơn, gầy hơn, tựa như Mẹ đã chịu đựng nhiều trong thời gian vừa qua. Bên dưới mắt có những quầng thâm như kẻ đã khóc và suy nghĩ nhiều. Nhưng bây giờ Mẹ sung sướng và mỉm cười. Mẹ mỉm cười khi vuốt ve bàn tay Giêsu, sung sướng được có Người ở đó, được lòng kề lòng với Người trong sự yên lặng của đêm đang xuống.
Đây hẳn là mùa hè, vì các trái sung đầu tiên đã chín và rũ xuống tới gần nhà. Giêsu kiễng chân lên hái mấy trái và đưa cho Mẹ những trái đẹp nhất. Người biếu Mẹ sau khi đã lật vỏ thành một vòng như cái triều thiên, trông giống như một cái nụ trắng có tia đỏ, ở bên trong những cánh hoa mầu trắng phía trong và tím ở phía ngoài. Người để nó ở trong lòng bàn tay làm như cái đĩa, và mỉm cười khi thấy Mẹ thưởng thức nó.
Rồi bỗng dưng Người hỏi: “Má ơi, má đã thấy các môn đệ. Má nghĩ thế nào?”
Maria đang tính mang lên miệng trái sung thứ ba, liền ngừng lại, hơi giật mình, ngẩng lên nhìn Giêsu. Người tiếp tục:
- Má nghĩ sao? Bây giờ con đã trình diện họ hết với má?
- Má tin rằng họ yêu con và con có thể được nhiều việc với họ. Gioan... hãy yêu nó, Gioan, như con biết yêu. Đó là một thiên thần. Má rất an lòng khi nghĩ tới nó ở với con. Phêrô cũng vậy... Ông tốt. Cứng rắn hơn vì lớn tuổi, nhưng thẳng thắn và nhiệt thành. Em ông cũng vậy. Họ yêu con như họ có thể lúc này, sau này họ sẽ yêu con hơn. Các anh bà con của chúng ta cũng vậy. Bây giờ họ nhiệt thành, họ sẽ trung thành với con. Nhưng người xứ Kêriot... Con ơi! Má không vui lòng ông đó. Con mắt ông không trong sáng, con tim càng ít hơn. Ông ta làm má sợ.
- Đối với má, ông ta rất kính trọng.
- Rất qúa kính trọng nữa! Cả với con, ông ta cũng hoàn toàn kính trọng. Nhưng con không là người Thầy đối với ông. Con là vị Vua tương lai mà ông hy vọng rút được mối lợi và sự rạng rỡ. Ông ta
432
không là gì cả, chỉ hơn các người Kêriot khác một tí. Ông hy vọng có được ở bên cạnh con một chức vụ quan trọng, và... Ôi! Giêsu! Má không muốn lỗi đức bác ái, nhưng má nghĩ, dù má không muốn nghĩ, rằng trong trường hợp con làm ông ta thất vọng, ông ta sẽ không ngại chiếm chỗ của con hoặc tìm cách làm việc đó. Ông ta cao vọng, tham lam và dâm đãng. Ông ta là quần thần của một ông vua trái đất thì đúng hơn là tông đồ của con, con ạ. Ông ta làm má sợ. - Và người má nhìn Giêsu của Mẹ với đôi mắt sợ hãi trên khuôn mặt tái mét.
Giêsu thở dài. Người suy nghĩ. Người nhìn Mẹ. Người mỉm cười với Mẹ để khích lệ Mẹ: “Má ơi, chúng ta cũng phải có một người như vậy. Nếu không phải ông ta thì sẽ là một người khác. Tập đoàn của con đại diện cho thế giới, mà trong thế giới, không phải tất cả đều là thiên thần, và không phải tất cả đều có tính tình như Phêrô hay Andrê. Nếu con chọn toàn những người trọn hảo thì làm sao các linh hồn bệnh hoạn tội nghiệp dám trở thành môn đệ? Má ơi, con đến cứu những gì đã mất. Gioan biết tự cứu mình, nhưng biết bao người không như vậy”.
- Má không sợ Lêvi. Ông được cứu vì ông muốn được cứu. Ông đã từ bỏ tội lỗi đồng thời với quầy thuế của ông, và ông đã làm mới lại linh hồn ông để đến với con. Nhưng Judas Kêriot, không, trái lại, sự kiêu căng sẽ càng ngày càng lũng đoạn linh hồn già cỗi đê tiện của ông. Nhưng con, con biết mọi sự, sao con lại hỏi má? Má chỉ có thể cầu nguyện và khóc cho con. Con là Thầy, là Thầy của cả người má tội nghiệp của con.
Thị kiến dừng lại ở đây.
67* “TÍNH NHÂN LOẠI CỦA CÁC TÔNG ĐỒ
NẶNG NỀ CHỪNG NÀO!”
Chúa Giêsu nói: “Gioan nhỏ ơi, hôm nay có rất nhiều việc. Chúng ta đã chậm mất một ngày, nên chúng ta không thể bước từ từ. Cha đã cho con sức mạnh để làm công việc ngày hôm nay. Bốn bài chiêm niệm mà Cha đã ban cho con để con có thể nói về những đau khổ của Mẹ Maria và của Cha khi chuẩn bị cuộc khổ nạn. Đáng lẽ Cha đã phải nói ngày hôm qua, ngày thứ bảy, để kính Mẹ Cha. Nhưng Cha thương cho con. Hôm
433
nay chúng ta phải giật lại thời giờ đã mất. Những đau khổ mà Cha cho con biết, Mẹ Maria cũng có, và Cha có cùng với Mẹ”.
Cái nhìn của Cha đã đọc được quả tim của Judas Iscariot. Không ai được nói rằng Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa không có khả năng hiểu con tim này. Nhưng như Cha đã nói với Mẹ Cha, chúng ta phải có ông. Khốn nạn cho ông vì là kẻ phản bội, nhưng đó là một kẻ phản bội mà, Cha nhắc lại, chúng ta phải có. Ông ta che đậy, qủi quyệt, tham lam, dâm đãng, trộm cắp, nhưng đàng khác, thông minh và có học hơn những người khác. Ông ta biết áp đặt mọi người. Gan dạ, ông đã dẹp đường cho Cha, cả những lúc khó khăn. Điều ông thích hơn cả là tỏ ra xuất chúng, và có quyền giữ địa vị tín cẩn ở bên Cha. Ông ta không ân cần do hậu quả của tình bác ái mau mắn, nhưng ông ta là loại người mà chúng ta gọi là “người ba hoa”, điều đó cho phép ông giữ qũi và lại gần các phụ nữ. Đó là hai điều ông thích phóng túng, cùng với điều thứ ba là chức vụ ưu tiên của ông.
Đấng Trong Sạch, Khiêm Nhường, Không Dính Bén của cải trần gian, không thể không ghê tởm con rắn này. Nó cũng làm cho Cha ghê sợ. Một mình Cha với Chúa Cha và Thánh Linh, chúng ta biết Cha phải mang một gánh nặng chừng nào để chịu đựng sự kề cận với nó. Nhưng Cha sẽ giải thích cho con vào một lần khác.
Cũng như Cha biết tường về sự hận thù của các thầy cả, các pharisiêu, luật sĩ, saddu. Đó là những con cáo qủi quyệt, luôn luôn tìm cách đẩy Cha vào hang của chúng để cắn xé Cha ra trăm mảnh. Chúng đói khát máu Cha và chúng đặt bẫy khắp nơi để bắt Cha, để có cớ kết tội Cha, để làm cho Cha biến mất. Trong ba năm, họ không ngừng giương bẫy cho Cha, và họ chỉ an lòng khi biết rõ Cha đã chết. Đêm hôm đó, họ ngủ trong sung sướng. Tiếng nói của kẻ kết án họ đã tắt hẳn muôn đời. Họ tin như vậy. Nhưng không, nó chưa tắt, nó sẽ không bao giờ tắt, và nó vang rền, vang rền và nguyền rủa những kẻ giống như họ vào thời nay. Mẹ Cha phải đau khổ chừng nào vì tội của họ! Cha cũng không quên nỗi đau đớn
434
này.
Đám đông hay thay đổi, đó không phải là điều mới lạ. Đó là con thú liếm bàn tay người dạy thú nếu họ có trang bị cái roi da, và nếu họ cho nó miếng thịt để hạ cơn đói của nó. Nhưng chỉ cần là người dạy thú bị té và không thể sử dụng được cái roi, hoặc không có thịt để thoả mãn nó, là nó nhảy xổ vào họ và xé họ ra từng mảnh. Chỉ cần nói sự thật và sống tốt là có thể lôi kéo sự thù ghét của đám đông sau những lúc đầu có thiện cảm. Sự thật chính là lời khiển trách và cảnh cáo. Lòng tốt lấy cái roi đi và khiến cho các kẻ không tốt không sợ nữa, từ đó những “đóng đanh nó đi” theo sau những “vạn tuế”. Đời sống làm Thầy của Cha bão hòa hai tiếng kêu này, và tiếng sau cùng là “đóng đanh nó đi”. Tiếng “vạn tuế” chỉ là sự lấy hơi của người ca sĩ để có đủ hơi mà lên cung bắc. Maria, buổi chiều ngày thứ sáu tuần Thánh đã nghe lại trong chính Mẹ lời vạn tuế giả dối đã trở nên tiếng kêu đòi chết cho Con Mẹ, và trái tim Mẹ bị đâm thâu. Cả điều này nữa, Cha cũng không quên.
Bản tính loài người của các tông đồ nó nặng nề chừng nào! Cha mang trên tay Cha để nâng nó lên trời, những cái khối mà sức nặng của nó ghì xuống đất. Cả những người không thấy mình là kẻ thừa hành của một ông vua trái đất như Judas Iscariot, những người không nghĩ như ông ta, chờ dịp để chiếm chỗ của Cha trên ngai, họ cũng luôn luôn lo lắng tìm vinh quang. Đã đến ngày mà tới nỗi cả Gioan của Cha và anh ông cũng ước ao vinh quang này, là cái làm các con chói mắt như một ảo ảnh, dù là những điều thuộc về nước Trời. Đó không phải là khát vọng thánh về Trời mà Cha muốn các con có, nhưng là những ước ao loài người mong cho sự thánh thiện của các con được mọi người biết. Và không phải chỉ có vậy, mà còn đổi chác cách tham lam, cho vay nặng lãi: Với một tí tình yêu dành cho Đấng mà đáng lẽ các con phải hiến toàn thân, các con đòi được chỗ ở bên phải Cha trên Trời !
Không, các con ơi, không. Trước tiên phải uống hết cái chén mà Cha đã uống. Tất cả: lấy bác ái đổi cho thù ghét, lấy sự trong trắng đối chọi với tiếng nói của giác quan, anh hùng trong thử thách, toàn
435
thiêu chính mình vì tình yêu Thiên Chúa và anh em. Rồi khi đã hoàn tất nhiệm vụ, cũng vẫn còn nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô ích”, và chờ đợi Cha của Cha, cũng là Cha của các con, bởi lòng nhân từ của Người, chấp nhận cho các con một chỗ trong nước của Người. Phải biết lột bỏ như con thấy Cha bị lột bỏ trong sân tòa án, tất cả những gì là loài người, chỉ giữ lại những gì tối cần bởi kính trọng ơn của Thiên Chúa là sự sống, và vì anh em, những người mà chúng ta sẽ giúp ích cho ở trên trời hơn là ở dưới đất, và hãy để cho Thiên Chúa lo việc mặc cho các con chiếc áo được tẩy trắng trong máu Con Chiên.
Cha đã chỉ cho con những đau khổ khi chuẩn bị cuộc tử nạn. Những điều khác, Cha sẽ chỉ cho con sau. Mặc dầu đó là những đau khổ, nhưng chiêm ngắm nó sẽ là sự nghỉ ngơi cho linh hồn con. Bây giờ bấy nhiêu là đủ. Hãy bình an.
68* CHỮA CHO JEANNE CHOUZA, Ở GẦN CANA
Các môn đệ đang ăn tối trong xưởng mộc lớn của Giuse. Cái bàn thợ mộc được dùng làm bàn ăn, và tất cả những thứ cần đều ở trên đó. Nhưng tôi thấy xưởng mộc cũng là phòng ngủ. Có trải chiếu trên hai cái bàn thợ mộc khác để làm giường, và dọc theo các bức tường có những giường thấp (các tấm liếp có trải chiếu). Các tông đồ nói chuyện với nhau và với Thầy.
- Vậy thực sự là Thầy sắp đi Liban? - Iscariot hỏi.
- Thầy không bao giờ hứa mà không giữ. Và điều này Thầy đã hứa hai lần: với các mục đồng và với bà vú nuôi của Jeanne Chouza. Thầy đã chờ năm ngày mà Thầy đã nói, và vì thận trọng, Thầy thêm ngày hôn nay nữa. Nhưng bây giờ Thầy đi. Chúng ta sẽ đi ngay khi trăng lên. Đường xa, dù là chúng ta đi thuyền cho tới Betsaiđa. Nhưng Thầy muốn tặng cho quả tim Thầy niềm vui được gặp Benjamin và Daniel. Con thấy các mục đồng có tâm hồn thế nào. Ôi! Họ đáng người ta ca tụng, vì chính Thiên Chúa cũng không bị hạ thấp khi ca tụng một trong các tôi tớ của Người, trái lại, nó lan
436
tỏa sự công chính của Người.
- Với sức nóng này, Thầy phải cẩn thận những gì Thầy làm. Chính là cho Thầy nên con nói vậy đó.
- Bây giờ đêm đã bớt ngột ngạt, mặt trời chỉ còn gay gắt trong một ít giờ, và các cơn giông điều hòa sức nóng. Hơn nữa, Thầy nhắc lại: Thầy không ép buộc ai đi. Tất cả đều tự nhiên nơi Thầy và chung quanh Thầy. Nếu các con có những công chuyện hay nếu các con cảm thấy mệt thì hãy ở lại. Sau đó chúng ta sẽ trở về.
- Đó. Đúng như Thầy nói. Con phải nghĩ tới lợi ích của gia đình. Thời kỳ gặt hái đã tới, và mẹ con bảo con phải gặp các bạn... Thực sự, Thầy biết, con là trưởng gia đình. Con muốn nói: con là người đàn ông trong gia đình.
Phêrô lẩm bẩm: “May mắn là ông ta còn nhớ rằng người mẹ luôn luôn là người thứ nhất sau người cha”.
Judas, hoặc vì ông không nghe thấy, hoặc vì ông giả vờ như không nghe thấy, nên không tỏ vẻ gì là ông nghe Phêrô lẩm bẩm. Lại nữa, Giêsu tốp Phêrô lại bằng cái liếc mắt, và Giacôbê Zêbêđê ngồi đàng sau ông kéo áo ông để làm hiệu cho ông im đi.
- Đi đi Judas. Trái lại, con phải về. Không nên thiếu vâng lời đối với mẹ con.
- Vậy con đi ngay, nếu Thầy cho phép. Con sẽ tới Naim kịp giờ để còn tìm một chỗ trọ. Chào Thầy, chào các bạn.
- Hãy là bạn của sự bình an để đáng được Thiên Chúa ở với con. Chào - Giêsu nói trong khi những người khác chào tập thể.
Người ta chả đau khổ gì nhiều khi thấy ông ra đi, và kể cả... Phêrô, có lẽ ông sợ là Judas hối hận, nên giúp ông buộc giây giỏ xách của ông và khoác lên vai cho ông. Ông hộ vệ Judas ra tới cửa xưởng mộc đã mở sẵn, cũng như cái cửa mở ra lối vườn, chắc chắn là để cho căn phòng thoáng gió sau một ngày nóng ngột ngạt. Ông đứng ở cửa để nhìn hắn đi, và khi ông thấy rằng hắn đã dứt khoát đi thực, ông nhăn mặt vui mừng và làm một cái chào mỉa mai, rồi ông trở vào, vừa đi vừa xoa tay. Ông không nói gì, nhưng cũng như ông
437
đã nói tất cả.
Có ai đã thấy, vì có tiếng cười khúc khích, nhưng Giêsu không lưu ý, vì Người quan sát thấy ông anh Giacôbê đỏ rần và buồn thiu, để ra một bên những trái oliu của ông. Người liền hỏi: “Con làm sao?”
- Thầy nói: “Không nên thiếu vâng lời đối với mẹ con...” Vậy chúng con thì sao?
- Đừng lo ngại, qui luật chung là như vậy khi người ta chỉ là người và là con theo xác thịt, nhưng khi người ta có một tính chất khác và một tình phụ tử khác thì không. Điều này cao hơn, và phải theo những điều nó ước ao và truyền lệnh. Judas đã theo Thầy trước con và trước Mathêu... nhưng ông còn chậm ở đàng sau. Ông phải rèn luyện, và ông sẽ làm việc đó rất chậm chạp. Hãy bác ái đối với ông. Hãy bác ái, Phêrô! Thầy hiểu... nhưng thầy bảo con: hãy bác ái. Chịu đựng những người khó chịu là một nhân đức rất giá trị. Hãy đem nó ra thực hành.
- Thưa thầy vâng... Nhưng khi con thấy như vầy... như vầy... Thôi, nín đi Phêrô, vì Người hiểu hết. Con giống như cánh buồm quá căng vì gió... Con đập phành phạch, phành phạch dưới sức đẩy, và con luôn luôn rách một cái gì... Nhưng, Thầy biết, hay đúng hơn là Thầy không biết, vì vấn đề chèo thuyền thì Thầy không biết gì, và vì vậy nên con nói với Thầy rằng nếu cánh buồm căng quá thì nó sẽ rách hết các chỗ nối, và con qủa quyết với Thầy rằng nó sẽ đập cho các tay chèo thiếu kinh nghiệm những cú choáng váng. Đó, con cảm thấy rằng... con sắp rách hết các đường nối... và trường hợp này thì tốt hơn là ông ta đi đi. Gió đi khỏi thì cánh buồm sẽ bình tĩnh lại để có giờ củng cố cho các đường nối.
Giêsu mỉm cười lắc đầu đầy khoan dung cho sự sôi nổi chính đáng của Phêrô.
Có sự ồn ào rất mạnh của móng sắt và tiếng nhiều trẻ con kêu ngoài đường: “Đây rồi! Đây rồi! Ông ơi, dừng lại đi”. Trước khi Giêsu và các môn đệ hiểu chuyện, thì tại phía ngoài khung cửa, có bóng tối của một con ngựa bốc khói mồ hôi, một người kỵ mã lật
438
đật nhảy xuống và nhào vào bên trong như một ngôi sao xẹt. Ông qùi tại chân Giêsu và hôn cách tôn thờ.
Mọi người đều nhìn, kinh ngạc.
- Ông là ai? Ông muốn gì?
- Con là Jonatha.
Một tiếng kêu của mục đồng Giuse trả lời cho ông. Vì ngồi sau chiếc bàn thợ mộc lớn khi Jonatha xẹt vào, ông không thể nhận ra người bạn của ông. Giuse liền nhào tới trên người đàn ông còn đang phục dưới đất: “Anh, đúng là anh!...”
- Đúng. Tôi thờ lạy Chúa đáng tôn thờ của tôi! Ba mươi năm hy vọng. Ôi! Sự chờ đợi lâu dài! Nhưng đây, bây giờ nó nở hoa như bông dứa cô độc bỗng dưng nở ra trong sự xuất thần hạnh phúc, và còn hạnh phúc hơn cuộc xuất thần xa xưa! Ôi! Vị Cứu Tinh của con!
Đàn bà, trẻ con và mấy người đàn ông, trong số đó có Alphê Sara, trong tay còn cầm miếng bánh với phó mát, họ chen cả vào bên trong phòng.
- Đứng lên đi Jonatha. Thầy sắp sửa lên đường đi tìm con, và tìm cả Benjamin và Daniel nữa...
- Con biết...
- Đứng dậy để Thầy cho con cái hôn mà Thầy đã cho các bạn con - và Người lôi ông đứng dậy rồi hôn ông.
- Con biết - ông già vạm vỡ nhắc lại, một người khỏe mạnh, ăn mặc sang trọng. “Con biết. Bà có lý. Không phải là sự mê sảng của người sắp chết! Ôi! Chúa, Thiên Chúa! Đúng là linh hồn nghe thấy khi Thầy gọi nó!” Jonatha rất cảm động.
Nhưng ông trấn tĩnh lại. Ông không thể mất thời giờ. Thờ lạy nhưng chủ động, ông đi thẳng vào mục đích:
- Giêsu, Vị Cứu Tinh và Đấng Messi của chúng con, con đến xin Thầy đi với con. Con đã nói với Esther và bà đã bảo con... Ôi! Đừng cười một người sung sướng, các vị đang nghe tôi, sung sướng và lo âu cho tới khi con được tiếng “Thầy đi” của Thầy. Thầy biết rằng con đi với bà chủ sắp chết của con. Ôi! Một cuộc di chuyển! Từ Tibêriat tới Bétsaiđa thì còn được, nhưng sau khi lên khỏi thuyền
439
để đi xe, mặc dù con đã trang bị hết sức có thể, nhưng vẫn còn là một cuộc hành hình: chỉ đi rất chậm về ban đêm, nhưng bà cũng rất đau. Tại Cêsarê Philíp, bà sắp chết vì ho ra máu nên chúng con dừng lại... vào sáng ngày thứ ba, nhưng đã từ bảy ngày rồi, bà cho gọi con, bà như đã chết, vì bà tái mét và kiệt lực. Nhưng khi con gọi bà, bà mở đôi mắt êm đềm của con linh dương sắp chết và bà mỉm cười với con. Với bàn tay lạnh giá, bà làm hiệu cho con cúi xuống, vì bà chỉ có tí tiếng nói thều thào. Bà bảo con: “Jonatha, đem tôi về nhà đi. Nhưng ngay lập tức”. Bà cố gắng chừng nào để ra lệnh cho con! Bà là người luôn luôn êm đềm như một đứa trẻ dễ thương. Con thấy đôi má bà ửng hồng lên, và một tia chớp làm sáng đôi mắt bà. Bà tiếp tục: “Tôi mơ thấy căn nhà của tôi ở Tibêriat, trong đó có một người mà dung nhan như một vì sao. Người cao lớn, tóc vàng hoe, đôi mắt mầu trời, và tiếng nói êm dịu hơn tiếng đàn cầm. Người bảo tôi: ‘Ta là Sự Sống. Hãy về. Hãy trở về. Ta chờ con để ban nó cho con’”. Con muốn đi, nên con nói với bà: “Nhưng thưa bà chủ, bà không thể. Bà rất đau. Khi bà đỡ, chúng ta sẽ về”. Con nghĩ đó là sự mê sảng của người sắp chết. Nhưng bà khóc, rồi... Ôi! đây là lần đầu tiên bà nói như vậy kể từ sáu năm mà bà là bà chủ của con, và cả đến bà ngồi dậy, giận dữ, trước thì cả đến bà không thể nhúc nhích. Bà bảo con: “Hỡi đầy tớ, ta muốn, ta là chủ, hãy vâng lời”. Và bà vật ngã ngửa ra, trào máu miệng. Con tin là bà chết... con nói: “Chúng ta hãy làm vui lòng bà. Chết để chết... như vậy tôi khỏi phải hối hận vì đã làm mất lòng bà lúc sau cùng, sau khi đã luôn luôn làm vui lòng bà”. Lại hành trình!... Bà chỉ nghỉ giữa giờ thứ ba và giờ thứ sáu. Con đã quất con ngựa để nó đi nhanh. Chúng con tới Tibêriat vào giờ thứ chín sáng nay... Và Esther nói với con... Lúc đó con hiểu rằng chính Thầy đã gọi bà. Vì đó là giờ và ngày mà Thầy đã hứa phép lạ cho Esther, và Thầy đã hiện ra với linh hồn bà chủ con. Bà đã muốn lại đi ngay lập tức vào giờ thứ chín, và bà sai con đi trước bà... Ôi! Xin đến, Vị Cứu Tinh của con.
- Thầy đến ngay. Đức tin đáng được thưởng. Ai ước ao Thầy thì
440
được có Thầy. Chúng ta đi.
- Thầy chờ tí: Con đã quăng túi tiền cho một thanh niên và con nói: “Ba, năm, bao nhiêu con lừa tùy các anh muốn, nếu các anh không có ngựa, và lẹ lên, dẫn tới nhà Giêsu”. Họ sắp sửa tới, chúng ta sẽ đi lẹ hơn. Con hy vọng gặp bà ở gần Cana, nếu ít là...
- Cái gì Jonatha?
- Nếu ít là bà còn sống...
- Bà sống. Nhưng cho dù bà đã chết, Thầy là sự sống. Đây là Mẹ Thầy.
Đức Trinh nữ, chắc được ai báo tin, đang chạy tới với Maria Alphê theo đàng sau: “Con ơi! Con đi à?”
- Thưa Mẹ vâng. Con đi với Jonatha. Ông đã tới. Con biết rằng con có thể giới thiệu ông với Mẹ. Chính vì vậy nên con đã chờ thêm một ngày nữa.
Jonatha trước tiên cúi sâu, tay khoanh trước ngực để chào, rồi ông qùi gối, hơi nâng áo của Maria lên và hôn vào gấu trong khi nói: “Con chào Mẹ của Chúa con!”
Alphê Sara nói với những người tò mò: “Qúi vị nói sao? Qúi vị không xấu hổ vì một mình qúi vị là những kẻ không đức tin”.
Người ta nghe thấy tiếng động của nhiều móng sắt ngoài đường. Đó là các con lừa. Tôi tin đây là tất cả số lừa của Nazarét. Chúng nhiều đủ để họp thành một tiểu đoàn. Jonatha chọn những con tốt nhất, hỏi giá và trả không bủn xỉn. Ông nhận thêm hai người Nazarét với các con lừa khác nữa, vì sợ có con nào sút móng giữa đường, để họ có thể dẫn trở về tất cả đoàn kỵ mã này. Trong khi đó, hai bà Maria lo giúp đóng gói các giỏ xách.
Maria Alphê nói với hai con bà: “Mẹ để yên giường của các con tại chỗ và mẹ vuốt ve chúng... Mẹ sẽ cảm thấy cũng như vuốt ve các con. Hãy tốt, xứng đáng với Giêsu, các con mẹ nhé! Và mẹ... Mẹ sẽ sung sướng...” Trong khi nói vậy, bà khóc với nước mắt nóng hổi.
Còn Mẹ Maria, Mẹ giúp Giêsu, vuốt ve Người với tình yêu, trong khi gởi gấm Người cả ngàn điều, giao cho Người những lời
441
chào yêu thương đem tới cho các mục đồng ở Liban, vì Giêsu tuyên bố Người sẽ không trở về trước khi tìm thấy họ.
Họ ra đi. Đêm xuống. Mặt trăng mới ở phần tư thứ nhất lúc này đã mọc. Đầu đoàn là Giêsu và Jonatha, đàng sau là tất cả những người khác. Khi còn ở trong thành phố thì họ đi chậm, nhưng vừa ra khỏi, họ đi nước kiệu. Đó là một đoàn vang lên tiếng động của móng sắt và lục lạc.
- Bà ở trong xe với Esther - Jonatha giải thích. “Ôi! bà chủ của tôi! Vui chừng nào được làm đẹp ý bà! Tôi dẫn Giêsu đến cho bà. Ôi! Chúa của con! Có Thầy ở đây, bên cạnh con! Có Thầy! Rõ ràng Thầy có trên dung nhan Thầy ánh sáng của một vì sao đúng như bà nhìn thấy Thầy. Và Thầy có tóc hoe vàng, đôi mắt mầu trời, và tiếng nói Thầy đúng là tiếng đàn cầm... Ôi! Nhưng Mẹ Thầy! Một ngày nào đó Thầy sẽ dẫn Mẹ đến với bà chủ con chứ?”
- Bà chủ con sẽ đến với Mẹ. Các bà sẽ là bạn.
- Thật sao? Ôi!... Đúng, bà có thể. Jeanne, bà là vợ và đã là mẹ. Nhưng bà có một linh hồn trong sạch như một trinh nữ. Bà có thể ở bên cạnh Maria, người nữ có phúc.
Giêsu quay lại khi nghe một tràng cười của Gioan, mà mọi người đều cười theo.
- Thưa Thầy con làm cho họ cười đó. Ở trên thuyền, con thấy thoải mái hơn một con mèo... nhưng trên con này! Con thấy giống như cái thùng lăn tự do trên boong chiếc tàu mà gió nam làm lắc lư - Phêrô nói.
Giêsu mỉm cười khích lệ ông, hứa với ông là nước kiệu sắp chấm dứt.
- Ồ, không sao cả. Nếu các cậu ấy cười thì không có gì là xấu. Chúng ta đi, chúng ta đi làm vui lòng người đàn bà dũng cảm.
Giêsu lại quay lại vì một tràng cười khác. Phêrô la lên: “Thầy ơi, không, cái này thì con không nói cho Thầy đâu. Nhưng, sau cùng, tại sao không nói? Con đã nói: ‘Vị đại bộ trưởng của chúng ta sẽ tự cắn rứt khi biết rằng ông đã bỏ mất dịp để làm con công trước một đại phu nhân’. Họ cười, nhưng là vậy đó. Con chắc rằng nếu
442
ông có thể tưởng tượng được việc này thì ông sẽ quên việc săn sóc vườn nho của cha mẹ”.
Giêsu không đáp trả.
Con đường qua mau với những con lừa khỏe mạnh. Dưới ánh trăng, họ đã đi qua Cana.
- Nếu Thầy cho phép thì con tiến lên trước, con sẽ bảo xe dừng lại, vì sự dằn lắc làm cho bà rất đau.
- Đi đi - Jonatha cho ngựa phi nước đại.
Còn đi một đoạn khá dài nữa dưới ánh trăng, rồi kia, có bóng một cái xe có mui đứng ở lề đường. Giêsu thúc con lừa của Người cho nó chạy mau hơn. Đây, Người đã ở bên cái xe. Người xuống lừa.
- Đấng Messi - Jonatha tuyên bố.
Bà già vú nuôi nhảy từ xe xuống đường, rồi từ đường tới bụi đất: “Ôi! Xin cứu cô! Cô sắp chết”.
- Thầy đây - Giêsu bước lên cái xe có để từng đống gối, và trên đó có một cơ thể mong manh. Trong góc có một cái đèn với các ly, hũ. Ở bên cạnh, một người đầy tớ gái khóc xụt xịt trong khi lau mồ hôi lạnh của kẻ sắp chết. Jonatha chạy tới với một cái đèn của xe.
Giêsu cúi xuống trên người đàn bà buông xuôi, rõ ràng là sắp chết. Không có sự khác biệt giữa y phục bằng vải gai trắng của bà với mầu trắng hơi xanh của bàn tay và khuôn mặt gầy. Chỉ có đôi chân mày dầy rất đen là có mầu trên khuôn mặt mầu tuyết. Bà không có cả đến mầu đỏ là điềm xấu của các người bệnh lao trên lưỡng quyền. Người ta thấy bóng của một mầu hồng tím, đó là cặp môi hé mở vì hít thở khó khăn.
Giêsu qùi gối bên cạnh bà và quan sát bà. Người vú nuôi cầm tay bà và gọi bà. Nhưng linh hồn đã ở ngưỡng cửa vĩnh cửu, không còn hay biết gì nữa.
Các môn đệ và hai người thanh niên Nazarét tới nơi và bao vây lấy cái xe.
Giêsu đặt một tay trên trán người sắp chết. Bà mở đôi mắt ảm đạm mơ hồ ra một giây, rồi nhắm lại.
443
- Cô không biết gì nữa - Người vú nuôi rên rỉ và bà khóc mạnh hơn.
Giêsu làm một cử chỉ: “Mẹ ơi, cô ấy sắp nghe được. Hãy tin tưởng”. Rồi Người gọi: “Jeanne! Jeanne! Thầy đây! Chính Thầy gọi con. Thầy là Sự Sống. Hãy nhìn Thầy này Jeanne!”
Với cái nhìn sống động hơn, kẻ hấp hối mở đôi mắt to đen của bà và nhìn khuôn mặt đang cúi xuống trên bà. Bà có một cử chỉ vui và mỉm cười. Bà nhúc nhích môi để nói một lời, nhưng không thể nghe thấy được.
- Đúng. Thầy đây. Con đã tới và Thầy đến để cứu con. Con có tin ở Thầy không?
Người hấp hối làm một cử chỉ bằng đầu. Tất cả sinh lực của bà dồn lại trong cái nhìn nói lên tất cả những lời mà bà không thể biểu lộ cách nào khác.
Giêsu vẫn qùi gối và để bàn tay trái trên trán bà, Người thẳng lên, với thái độ của phép lạ: “Vậy Thầy muốn, hãy khỏi. Hãy chỗi dậy”. Rồi Người buông tay ra và đứng dậy.
Vài giây im lặng, rồi Jeanne Chouza, không một giúp đỡ nào, liền ngồi dậy, phục ở chân Giêsu, kêu bằng giọng rất mạnh: “Ôi! Yêu Thầy, ôi! Sự Sống của con! Tới muôn đời! Cho Thầy! Tới muôn đời cho Thầy. Vú ơi! Jonatha ơi! Tôi khỏi rồi. Ôi! Mau chạy đi nói cho Chouza biết, để ông đến thờ lạy Chúa. Ôi! Chúc lành cho con đi! nữa, nữa, nữa! Ôi! Vị Cứu Tinh của con!”
Bà vừa khóc vừa cười trong khi hôn áo và tay Giêsu.
- Ừ, Thầy chúc lành cho con. Con muốn Thầy làm gì nữa cho con?
- Không gì nữa, Chúa con. Chỉ xin Thầy yêu con và cho phép con yêu Thầy.
- Và con không muốn một đứa con?
- Ôi! một đứa bé!...Nhưng Chúa ơi, hãy làm những gì Thầy muốn. Con phó thác hết cho Thầy: quá khứ, hiện tại, tương lai của con. Con mắc nợ Thầy hết, và con trao phó cho Thầy hết. Thầy, xin Thầy ban cho tôi tớ Thầy cái gì Thầy biết là tốt nhất.
- Vậy thì đời sống vĩnh cửu. Hãy sung sướng. Thiên Chúa yêu
444
con. Thầy đi. Thầy chúc lành cho con và chúc lành cho tất cả các con.
- Không, Chúa ơi! Xin ở lại nhà con. Bây giờ, ôi! Bây giờ nó thực sự là cây hồng nở hoa. Xin cho phép con vào đó với Thầy... Ôi! Con sung sướng chừng nào!
- Thầy tới. Nhưng Thầy có các môn đệ.
- Chúa ơi! Đó là các anh em của con. Jeanne sẽ có cho Thầy cũng như cho họ lương thực, đồ uống và mọi thứ cần. Xin Thầy làm con vui!
- Chúng ta đi. Hãy cho các con vật đi, và chúng ta đi bộ. Bây giờ chỉ còn khoảng đường ngắn. Chúng ta sẽ đi từ từ để các con có thể theo. Chào Ismael và Aser. Hãy chào Mẹ Thầy nữa cho Thầy, và chào cả các bạn Thầy nữa.
Hai người Nazarét kinh ngạc ra về với đoàn kỵ mã ồn ào của họ, trong khi chiếc xe quay về với trọng lượng vui tươi của nó. Đàng sau là nhóm các môn đệ đang bình luận về sự kiện.
Tất cả chấm dứt.
69* GIÊSU TRÊN NÚI LIBAN, TRONG NHÀ
CÁC MỤC ĐỒNG BENJAMIN VÀ DANIEL
Giêsu đi bên cạnh Jonatha trên con đường cỏ xanh và rợp bóng. Đàng sau, các tông đồ nói chuyện với nhau. Nhưng Phêrô tách ra, đi lên phía trước, vẫn thẳng thắn như thường lệ, hỏi Jonatha: “Nhưng con đường đi về Cêsarê Philíp không ngắn hơn sao? Chúng ta đi con đường này thì... bao giờ mới tới? Anh với bà chủ anh đã đi đường khác chứ?”
- Với một người bệnh thì tôi liều hết. Nhưng anh phải nghĩ rằng tôi thuộc về một người quần thần của Antipa. Và Philíp, sau vụ loạn luân đáng xấu hổ, ông không nhìn các quần thần của Antipa với con mắt tốt... Anh biết, không phải tôi sợ cho tôi, nhưng cho qúi vị, đặc biệt là cho Thầy. Tôi không muốn cho qúi vị gặp phiền phức và tạo cho qúi vị các kẻ thù. Trong xứ của Philíp cũng phải có những
445
lời như trong xứ của Antipa... Nếu họ ghét qúi vị thì việc đó làm sao được? Lúc trở về qúi vị sẽ đi con đường khác, nếu qúi vị cho là tốt hơn.
- Thầy khen sự thận trọng của con, Jonatha. Nhưng lúc về Thầy tính đi qua miền đất Phênici - Giêsu nói.
- Nó bị bao trùm bởi tối tăm và sai lầm.
- Thầy sẽ tới các biên giới để nhắc họ nhớ rằng có Ánh Sáng hiện hữu.
- Thầy tin rằng Philíp sẽ báo thù trên một người đầy tớ về sự sai trái mà anh ông làm cho ông?
- Đúng đó Phêrô. Người nọ đáng giá của người kia. Tất cả họ đều bị thống trị bởi các bản năng thấp hèn và không còn biết phân biệt nữa. Họ giống như những con vật chứ không phải con người. Hãy tin vậy đi.
- Nhưng chúng ta, tôi muốn nói là Thầy, bà con với Gioan, chắc chắn là Người chí thiết với ông ta. Thực ra, khi nói nhân danh Thiên Chúa, ông ta đã nói nhân danh Thầy, và nói có lợi cho Thầy.
- Cả đến ông ta không hỏi các anh từ đâu đến, cũng không hỏi các anh là ai. Nhưng nếu người ta thấy các anh ở với tôi, và nếu người ta nhận ra tôi, hay nếu tôi bị tố giác bởi kẻ thù của nhà Antipa rằng tôi là đầy tớ của ông Thái Thú, thì họ sẽ nhốt tù các anh lập tức. Các anh không biết đàng sau chiếc áo đỏ nó bùn lầy chừng nào: Báo thù, tố giác, dâm ô, trộm cắp là lương thực của linh hồn họ. Linh hồn ư ? Chúng ta nói như vậy, nhưng tôi tin là họ không có linh hồn. Các anh thấy vậy, và đó là một kết thúc tốt. Nhưng tại sao Gioan được phóng thích? Vì tiếp theo sau một cuộc cãi lộn giữa hai sĩ quan trong triều và một cuộc trả thù, một ông muốn loại trừ ông kia mà Antipa đã ưu đãi cho giữ Gioan, với một món tiền, ông đã mở cửa nhà tù ban đêm... Tôi tin là ông đã làm choáng váng đối phương bằng thứ rượu mạnh, và sáng hôm sau... Kẻ khốn nạn bị chặt đầu thế cho ông Tẩy Giả vượt ngục. Thật ghê tởm. Tôi nói với anh vậy đó.
- Vậy mà ông chủ của anh ở lại đó? Tôi thấy ông ta có vẻ tốt.
- Đúng, nhưng ông ta không thể làm cách nào khác. Ba ông và
446
ông nội ông đều thuộc về triều đình Hêrôđê đại đế, và con cháu bị bó buộc ở lại đó. Ông không ưng thuận, nhưng ông chỉ giới hạn ở việc giữ vợ ông ở xa sự thối nát này.
- Vậy ông ta không thể nói: “Tôi ghê tởm chuyện này nên tôi bỏ đi?”
- Ông ta có thể, nhưng dù ông rất tốt, ông cũng chưa có khả năng làm việc đó. Điều đó có nghĩa là chết chắc chắn. Và ai là người muốn chết vì trung thành, siêu nhiên, tới mức độ cao nhất như vậy? Một vị thánh như ông Tẩy Giả thôi, chứ tội nghiệp như chúng ta...
Giêsu đã để cho họ nói chuyện với nhau, bây giờ Người can thiệp: “Trong một ít thời gian nữa thôi, trên hết mọi nơi được biết đến trên thế giới, người ta sẽ thấy các vị thánh bằng lòng chết vì trung thành với ơn sủng và vì tình yêu Thiên Chúa, nhiều như hoa trên đồng cỏ vào tháng tư”.
- Thực sao? Ôi! Con muốn chào các vị thánh này và nói với họ: “Xin cầu nguyện cho thằng Simon Jonas tội nghiệp” - Phêrô nói.
Giêsu nhìn thẳng vào mặt ông và mỉm cười.
- Sao Thầy lại nhìn con như vậy?
- Vì con sẽ thấy họ khi con tham dự với họ, và họ sẽ thấy con khi họ tham dự với con.
- Vào cái gì Chúa?
- Vào việc trở nên Phêrô được thánh hiến cho Lễ Hy Sinh mà trên đó bằng chứng về Thầy được cử hành và thiết lập.
- Con không hiểu Thầy gì cả.
- Con sẽ hiểu.
Những người khác đã lại gần và nghe, họ nói chuyện với nhau. Giêsu liền quay lại: “Thực vậy, Thầy bảo các con rằng tất cả các con sẽ phải thử thách bởi một cực hình hay một cái gì khác. Lúc này là việc từ bỏ những thoải mái, những tình cảm, những lợi lộc của các con. Sau này thì sẽ là những hy sinh càng lúc càng lớn hơn, cho tới hy sinh tối thượng sẽ đội cho các con chiếc triều thiên bất tử. Hãy trung thành. Nhưng tất cả các con sẽ trung thành. Đó là số
447
phận đang chờ các con”.
- Có lẽ chúng con sẽ bị giết bởi các người Do Thái, bởi Đại Pháp Đình vì lẽ tình yêu của chúng con đối với Thầy?
- Jêrusalem đã rửa các ngưỡng cửa Đền Thờ của nó bằng máu các tiên tri và các thánh của nó. Nhưng thế giới cũng đang chờ để được rửa... Ở đó có bao đền thờ và bao đền thờ của các thần kinh tởm. Trong tương lai, chúng sẽ là những Đền Thờ của Thiên Chúa thực, và bệnh cùi của ngẫu tượng giáo sẽ được tẩy rửa bởi nước xá giải được làm bằng máu các vị tử đạo.
- Ôi! Thiên Chúa Tối Cao, Chúa, Thầy! Con không đáng một số phận như vậy. Con yếu đuối, con sợ đau! Ôi! Lạy Chúa... Tốt hơn là Thầy đuổi tên đầy tớ vô ích này đi, hoặc là Thầy cho con sức mạnh. Thầy ơi, con không muốn người ta làm bẽ mặt Thầy vì sự hèn nhát của con - Phêrô qùi dưới chân Thầy của ông và năn nỉ bằng một giọng thực sự bầy tỏ tâm hồn ông.
- Đứng dậy đi Phêrô của Thầy. Đừng sợ. Con còn nhiều đường đất phải đi. Và sẽ đến giờ mà con chỉ còn ước ao hy sinh sau cùng. Lúc đó con sẽ có tất cả sức mạnh bởi Trời và bởi chính mình con. Thầy sẽ đầy cảm phục để nhìn con.
- Thầy nói vậy thì con tin vậy. Nhưng con là một con người tội nghiệp!
Họ lại bắt đầu bước.
***
Sau một lúc gián đoạn khá lâu, tôi lại thấy lúc họ đã bỏ đồng bằng để leo lên ngọn núi cây cối rậm rạp, trên một con đường không ngừng lên dốc. Nhưng đây chắc không phải là cùng một ngày, vì trên đây là một buổi sáng nóng bức, bây giờ là một rạng đông đẹp đang ló ra và trên mọi cộng cỏ đều trang điểm một hạt kim cương lỏng. Họ đã đi qua nhiều rừng và vẫn còn nhiều rừng thông mà từ trên cao người ta thấy chúng như những vòm cung xanh. Chúng đón nhận các người bộ hành không biết mệt ở giữa các thân cây của chúng.
Qủa thực Liban là một dẫy núi đặc biệt. Tôi không biết Liban là
448
toàn thể vùng này hay chỉ là một ngọn núi này. Tôi chỉ biết rằng tôi thấy những rặng núi um tùm cây cối, với những đỉnh cao và sườn dốc cheo leo liên tiếp; những thung lũng và cao nguyên, các suối chạy vòng rồi thành thác đổ xuống thung lũng như những giải băng bạc hơi xanh xanh mầu trời pha lẫn mầu lá cây. Chim chóc đủ loại làm đầy các rừng thông bằng tiếng hót và đường bay của chúng. Người ta ngửi thấy nồng nực mùi nhựa thông vào giờ sớm mai này. Khi quay mặt về phía thung lũng, đúng hơn là về phía tây, ta nhận thấy biển vui cười ở xa, mênh mông, bình an, oai hùng. Suốt dọc bờ về phía bắc và phía nam, có những thành phố, các hải cảng, và một số rất ít sông ngòi chảy ra biển, vẽ thành những đường như dấu phảy sáng loáng trên đất khô cằn, với lượng nước qúa ít vì mặt trời mùa hè đã làm cạn. Chúng vẽ thành các vệt hơi vàng trên mầu xanh của nước biển.
- Đây là những quang cảnh thật đẹp - Phêrô nhận xét.
- Không còn qúa nóng nữa - Simon nói.
- Với cây cối như vầy, mặt trời không khó chịu gì - Mathêu thêm.
- Có phải người ta lấy gỗ bá hương cho Đền Thờ ở đây không? - Gioan hỏi.
- Đúng ở đây đó. Đây là những cánh rừng có gỗ đẹp nhất. Ông chủ của Benjamin và Daniel có một số rất nhiều rừng, không kể các đoàn vật lớn. Người ta cưa tại chỗ rồi mang xuống thung lũng bằng những đường mương này, hoặc bằng tay. Đó là công việc khó khăn, vì thân cây phải còn nguyên vẹn để dùng như trong trường hợp dùng cho Đền Thờ. Nhưng ông chủ trả hậu nên có nhiều người làm cho ông. Lại nữa, ông ta khá tốt chứ không như cái khứa Doras hung thú. Tội nghiệp cho Jonas qúa! - Jonatha trả lời.
- Nhưng ông ta làm sao mà hầu như tất cả các đầy tớ của ông đều giống như nô lệ? Tôi đã nói với Jonas: “Nhưng thôi, bỏ rơi ông ta đi rồi đến với chúng tôi. Simon Jonas luôn luôn có bánh cho anh mà”. Nhưng ông trả lời: “Tôi không thể nếu tôi không được chuộc”. Cái chuyện này nghĩa là gì vậy?
- Đây là cách Doras thực hiện, và ông không phải là người duy nhất trong Israel: Khi ông khám phá ra một người đầy tớ tốt, ông
449
lèo lái họ bằng một sự xảo quyệt tinh vi để họ trở thành nô lệ. Ông ghi vào sổ của họ những món không đúng mà kẻ khốn nạn không thể trả được. Rồi khi nó lên tới một mức nào đó thì ông nói: “Bây giờ mày là nô lệ của tao vì nợ”.
- Ôi! Đáng xấu hổ! Và đó là một pharisiêu!
- Đúng. Và Jonas, bao lâu ông còn tiết kiệm được thì ông còn trả. Nhưng rồi... Một năm bị mưa đá, rồi lại một năm khác đại hạn, lúa miến và nho thu hoạch được rất ít, Doras đã nhân số lỗ lên gấp mười, rồi lại gấp mười nữa... Rồi Jonas bị bệnh vì làm việc qúa mức. Doras cho ông mượn một số tiền để chữa bệnh, nhưng rồi ông đòi trả mười hai cho một, và Jonas không có gì để trả cho ông, lại thêm vào món nợ cũ. Tóm lại là sau vài năm, ông trở thành nô lệ vì nợ. Và ông ta không bao giờ để cho anh đi. Ông luôn luôn tìm những lý do mới và những món nợ mới... - Jonatha buồn rầu khi nghĩ tới bạn ông.
- Vậy ông chủ của anh, ông không làm gì được sao?
- Cái gì? Yêu cầu xử nhân đạo với anh à? Có ai lại muốn đối đầu với các pharisiêu? Doras là một trong những kẻ mạnh nhất. Tôi tin ông cũng là bà con với Thầy Cả Thượng Phẩm... ít là người ta nói như vậy. Một lần Jonas bị đánh đòn hầu chết, khi tôi hay biết, tôi khóc đến nỗi Chouza bảo tôi: “Tôi sẽ chuộc ông để làm anh vui lòng”. Nhưng Doras cười vào mũi ông và không muốn biết gì hết. Ê! Người đàn ông này! Ông ta có những vùng đất tốt nhất Israel... Nhưng tôi bảo anh là nó ướt đẫm máu và nước mắt của các đầy tớ của ông.
Giêsu nhìn Zêlote và Zêlote nhìn Người. Cả hai đều buồn.
- Còn ông chủ của Daniel, ông ta có tốt không?
- Ít nhất là ông ta nhân đạo. Ông đòi hỏi nhưng không đàn áp. Và vì các mục đồng thật thà nên ông đối xử cách nhân nghĩa. Họ là trưởng của bầy vật. Ông ta biết tôi và kính trọng tôi, vì tôi là đầy tớ của Chouza... và tôi có thể phục vụ cho lợi ích của ông... Nhưng Chúa ơi, sao người ta qúa ích kỷ như vậy?
- Vì tình yêu đã bị bóp nghẹt tại Thiên Đàng dưới đất. Nhưng
450
Thầy đến cởi sợi giây ra và trả lại sự sống cho tình yêu.
- Đây, chúng ta đã ở trên đất của Êlisê. Các đồng cỏ còn ở xa, nhưng vào giờ này, hầu như tất cả các đoàn vật đều ở trong chuồng vì mặt trời nóng. Con đi coi xem họ có ở đó không - và Jonatha chạy đi.
Một lúc sau ông trở lại với hai người mục đồng tóc hoa râm, lực lưỡng. Họ chạy hỏa tốc trên sườn dốc để đến với Giêsu.
- Bình an cho các con.
- Ôi! Ôi! Chú bé tí ở Betlem của chúng ta - một người nói. Và người kia: “Bình an của Thiên Chúa đến với chúng con. Nguyện chúc tụng Ngài”. Họ nằm phục trên cỏ. Người ta không bái bàn thờ sâu bằng họ chào Thầy.
- Các con đứng dậy đi. Thầy trả lại phúc lành cho các con, và Thầy sung sướng để làm, vì nó vui mừng để đến với những kẻ xứng đáng.
- Ôi! Chúng con mà đáng!
- Đúng. Các con luôn luôn trung thành.
- Mà ai lại không trung thành? Ai có thể quên được giờ đó? Ai có thể nói rằng những điều chúng con thấy là không có thực? Ai có thể quên rằng Thầy đã mỉm cười với chúng con trong nhiều tháng, khi chúng con trở về cùng với đoàn vật vào buổi chiều, chúng con gọi Thầy, và Thầy vỗ tay theo tiếng sáo của chúng con? Anh nhớ không Daniel? Hầu như luôn luôn mặc trắng trong tay Mẹ, Thầy xuất hiện với chúng con dưới tia sáng mặt trời trong đồng cỏ của Anna hay trước cửa sổ, và Thầy giống như một bông hoa đặt trên tuyết của y phục từ mẫu.
- Và cái lần đó, khi Thầy vừa bước những bước đầu tiên, Thầy đến để vuốt ve một con chiên lông ít quăn hơn tóc Thầy. Thầy sung sướng chừng nào! Và chúng con, chúng con không biết làm gì với con người cục mịch của chúng con. Chúng con ước chớ gì được làm thiên thần để bớt thô kệch đối với Thầy...
- Ôi! Các bạn ơi! Thầy nhìn qủa tim của các con, và đó cũng là cái Thầy nhìn lúc này.
451
- Và Thầy mỉm cười với chúng con giống như lúc đó!
- Và Thầy đã đến tận đây với các mục đồng tội nghiệp!
- Với các bạn Thầy, và Thầy rất bằng lòng. Thầy đã tìm được tất cả các con và Thầy không muốn mất các con nữa. Các con có thể cho Con Người và các bạn của Ngài trú chân không?
- Ôi! Lạy Chúa, Thầy còn hỏi? Bánh và sữa thì chúng con không thiếu. Nhưng giả sử chúng con chỉ có một miếng bánh thì chúng con cũng biếu Thầy để giữ Thầy ở lại với chúng con. Phải không Benjamin?
- Chúng con sẽ dâng qủa tim chúng con làm lương thực cho Thầy. Ôi! Chúa rất được ước mong của chúng con.
- Vậy chúng ta đi. Chúng ta sẽ nói về Thiên Chúa...
- Và nói về ba má Chúa. Về Giuse rất tốt, về Maria... Ôi! Người Mẹ! Đây, qúi vị thấy bông hoa thủy tiên tươi tốt này, dầu nó đẹp và trong sạch, giống như một ngôi sao bằng kim cương. Nhưng Mẹ... Ôi! Bông thủy tiên này so với Mẹ chỉ là cái gì hèn hạ. Một nụ cười của Mẹ đủ thanh tẩy cho qúi vị. Được gặp Mẹ là đại lễ. Lời Mẹ thánh hóa qúi vị. Anh có nhớ các lời Mẹ không Benjamin?
- Có. Chúa ơi, con có thể nói lại hết cho Thầy, vì tất cả những gì Mẹ đã nói với chúng con trong những tháng chúng con còn được nghe đều đã viết ở đây (và ông đấm vào ngực). Đó là trang sách khôn ngoan của chúng con, và chúng con cũng hiểu, vì đó là những lời của tình yêu. Và tình yêu... Ôi! Tình yêu, đó là cái gì mà mọi người đều hiểu! Xin đến. Chúa ơi, xin vào trong nơi ở có phước này và chúc lành cho nó.
Họ vào trong một căn ở gần một chuồng trại mênh mông, và tất cả chấm dứt.
70* GIÊSU TẠI THÀNH PHỐ Ở BỜ BIỂN.
NHẬN ĐƯỢC THƠ CÓ LIÊN CAN TỚI JONAS
Giêsu đang ở trong một thành phố tuyệt vời ở bờ biển, với một cái vịnh thiên nhiên rất được che chở, có thể nhận nhiều tàu bè, và còn được làm cho an toàn hơn bởi một hệ thống bờ kè. Chắc hẳn nó
452
cũng được sử dụng cho các đội quân, vì tôi thấy các chiến thuyền của Rôma với lính tráng ở trên. Họ lên đất để tàu nhẹ hay để củng cố cho các đồn trại. Hải cảng, tức là thành phố ở cảng, hơi nhắc tôi nhớ tới thành Naples với Vésure bao quát ở trên.
Giêsu ngồi trong một căn nhà nghèo ở gần cảng, chắc chắn là nhà của một dân chài, có lẽ là bạn của Gioan hay Phêrô, vì tôi thấy họ tự nhiên trong nhà này và thân thiện với các người ở đó. Tôi không nhìn thấy người mục đồng Giuse, cũng không thấy Iscariot vẫn còn vắng mặt. Giêsu nói cách thân mật với những người trong nhà và những người khác đã đến để nghe Người, nhưng đây không phải là một bài thuyết giáo thực sự. Đó là những lời để khuyên bảo, khích lệ, như một mình Người có thể làm.
Andrê bước vào. Dường như ông đi mua đồ ăn, vì ông cầm trong tay một ổ bánh. Ông ta đỏ rần khi tới gần họ, vì có lẽ việc lôi kéo sự chú ý của người khác là một cực hình cho ông. Ông xì xèo thì đúng hơn là nói: “Thưa Thầy, Thầy có thể đi với con không? Có một tí gì tốt để làm, và chỉ một mình Thầy có thể làm”.
Giêsu đứng dậy, cả đến không hỏi cái tốt đó là gì. Nhưng Phêrô hỏi: “Chú dẫn Người đi đâu? Người mệt, và tới giờ ăn tối rồi. Họ không thể chờ đến ngày mai sao?”
- Không... Phải làm ngay. Đó là...
- Nhưng nói đi, con linh dương sợ sệt! Qúi vị coi một người lớn to xác như ông mà lại có thể như vậy... Giống như một con cá nhỏ mắc vào lưới!
Andrê càng đỏ rần hơn. Giêsu bảo vệ ông bằng cách kéo ông sát vào Người: “Ông ta như vậy mà Thầy thích ông. Để yên cho ông làm. Em con giống như thứ nước tốt cho sức khỏe, nó hoạt động dưới sâu, không ồn ào. Nó vọt ra khỏi đất như một cái tia, nhưng ai đến gần thì được khỏi bệnh. Chúng ta đi, Andrê”.
- Con cũng đi. Con muốn coi xem ông dẫn Thầy đi đâu - Phêrô đối đáp.
Andrê năn nỉ: “Không, Thầy ơi! Một mình Thầy thôi. Nếu có ai khác thì không thể được... Đây là vấn đề của qủa tim...”
453
- Mà cái gì vậy? Bây giờ chú lại đóng vai phù rể?
Andrê không trả lời anh ông. Ông nói với Giêsu: “Đó là một ông muốn rẫy vợ, và... và con đã nói... Con không biết xử lý thế nào. Nhưng nếu Thầy nói, Thầy, ôi! Thầy sẽ thành công. Vì ông đó không độc ác. Tại vì... tại vì... Nhưng ông ta sẽ giải thích cho Thầy”.
Giêsu đi ra, không nói gì hết. Phêrô ngập ngừng một lát, rồi ông nói: “Nhưng tôi đi. Tôi muốn coi ít nhất là họ đi đâu”. Và ông ra, mặc dầu những người khác bảo ông không nên đi.
Andrê quẹo vào một ngõ hẻm. Phêrô đi theo. Ông lại quẹo nữa, đi tới một quảng trường nhỏ đầy những đàn bà lắm mồm. Phêrô vẫn bám sát. Họ đi qua một cái như cái cổng, dẫn vào một cái sân mênh mông. Chung quanh sân là những căn nhà thấp và nghèo. Tôi nói là cái cổng, vì nó có một cái vòm cung ở trên, nhưng thực ra đó chỉ là một lối ra vào. Phêrô vẫn theo. Giêsu cùng với Andrê vào trong một căn nhà nhỏ, Phêrô dừng lại ở bên ngoài. Một người đàn bà thấy ông và hỏi: “Ông là bà con của Aava? Và cả hai người đó nữa? Các ông đến đón bà?”
- Im đi! Con gà mái lắm mồm! Đừng để người ta thấy tôi.
Làm cho một người đàn bà nín lặng là chuyện hơi khó. Phêrô đã nháy mắt lia lịa với bà, nhưng bà đi nói với các bà lắm mồm khác, và chỉ một lúc là ông Phêrô tội nghiệp bị một nhóm người bao vây: đàn bà, đàn ông, trẻ con. Và để áp đặt sự im lặng cho họ thì sự ồn ào lại càng lớn hơn, và nó tố cáo sự hiện diện của ông. Phêrô bứt rứt phẫn ý, nhưng ông không thành công.
Từ trong nhà vọng ra giọng nói đầy đặn, êm đềm, bình an của Giêsu, đồng thời với một giọng tan nát của một phụ nữ, và giọng cứng rắn, khàn khàn của một đàn ông: “Nếu bà ta luôn luôn là người vợ tốt, tại sao ông rẫy bà? Bà có bao giờ thiếu sót đối với ông không?”
- Thưa Thầy không. Con thề điều đó với Thầy. Con yêu ông ta như con ngươi trong mắt con - Người đàn bà rên rỉ.
Người đàn ông vắn tắt và cứng cỏi: “Không. Bà không bao giờ thiếu sót điều gì ngoài việc son sẻ. Mà tôi, tôi muốn có con. Tôi
454
không muốn sự nguyền rủa của Thiên Chúa trên tên tôi”.
- Đó không phải là lỗi của vợ ông nếu bà như vậy.
- Gia đình tôi kết án tôi như một tội. Họ thấy sự phản bội ở trong đó.
- Bà này, hãy chân thành: Trước đây bà có biết là bà bị như vậy không?
- Không. Con thấy con cũng như mọi người đàn bà khác. Cả thầy thuốc cũng nói vậy. Nhưng sao con không có con được.
- Ông thấy là bà đâu có phản bội ông. Và bà, bà cũng khổ. Hãy trả lời Thầy cách chân thành: Nếu bà là mẹ thì ông có rẫy bà không?
- Không, tôi thề điều đó. Tôi không có lý do. Nhưng vị rabbi nói, và ông luật sĩ cũng nói rằng: “Trong gia đình, sự son sẻ là sự nguyền rủa của Thiên Chúa. Ông có quyền và có bổn phận phải cho bà tờ giấy ly dị, và đừng làm khổ sự trưởng thành của ông bằng cách không có con”. Tôi chỉ làm điều luật nói.
- Không. Hãy nghe đây: Luật bảo không được gian dâm, vậy mà ông sắp sửa phạm. Giới răn nguyên thủy là giới răn đó chứ không có giới răn nào khác. Nếu vì sự khe khắt của con tim qúi vị, Môise đã cho phép việc ly dị là để ngăn cản những kết hợp vô luân lý, và vấn đề các vợ lẽ bà nhỏ là điều ghê tởm trước mắt Thiên Chúa. Rồi sự đồi bại của các vị càng ngày càng nới rộng câu nói của Môise tới nỗi đặt ra những cái xiềng vô nhân đạo, và cả những cục đá sát nhân, là hoàn cảnh của phụ nữ hiện nay. Họ luôn luôn là nạn nhân của sự thống trị, sự phóng túng, sự câm điếc, sự đui mù của các ông trong vấn đề tình cảm. Thầy bảo ông: Không được phép làm điều mà ông muốn làm. Hành động này là một xúc phạm tới Thiên Chúa. Abraham có ly dị Sara không? Và Jacob với Rakel? Elqana với Anna? Và Manoah với vợ ông? Ông biết ông Tẩy Giả không? Có. Vậy mẹ ông đã chẳng son sẻ tới già trước khi sinh đấng Thánh của Thiên Chúa, cũng như vợ của Manoah sinh Samson, Anna Elqana sinh Samuel, Rakel sinh Giuse, Sara sinh Isaac sao? Với sự tiết dục của người chồng, với tình thương của họ đối với kẻ son sẻ và sự trung thành của họ với lời hứa, Thiên Chúa ban thưởng, một phần thưởng nổi tiếng qua mọi thế kỷ, cũng như Người ban nụ cười cho
455
kẻ son sẻ buồn rầu, để họ không còn bị son sẻ, bị khinh dể, nhưng được vinh quang trong chức làm mẹ. Ông không được phép xúc phạm tới tình yêu của vợ ông. Hãy công chính và ngay thật. Thiên Chúa sẽ cho ông phần thưởng vượt qúa công nghiệp của ông.
- Thưa Thầy, Thầy là người duy nhất nói như vậy... Con, con không biết. Con hỏi các tiến sĩ và họ bảo con: “Hãy làm đi”. Nhưng không một lời nào để nói cho con rằng Thiên Chúa thưởng cho kẻ sống tốt. Chúng con ở trong tay họ, và họ bịt mắt, bịt lòng chúng con lại bằng bàn tay sắt... Thưa Thầy, con không độc ác. Xin thầy đừng khinh bỉ con.
- Thầy không khinh bỉ con. Con làm Thầy thương con hơn là thương người đàn bà trong nước mắt này, vì sự đau khổ của bà chấm dứt với sự sống của bà, và lúc đó là lúc bắt đầu sự đau khổ của con, và cho tới muôn đời. Hãy nghĩ tới điều đó.
- Không, nó sẽ không bắt đầu. Con không muốn. Thầy có thề với con trên Thiên Chúa Abraham rằng điều Thầy nói với con là sự thật không?
- Thầy là sự thật và sự thông biết. Ai tin vào Thầy thì sẽ có trong mình họ sự công bằng, khôn ngoan, tình yêu và sự bình an.
- Con muốn tin Thầy. Đúng, con muốn tin Thầy. Con thấy nơi Thầy có cái gì không có nơi những người khác. Đây, bây giờ con sẽ tới với thầy cả và nói với ông: “Tôi không ly dị bà nữa. Tôi giữ bà lại. Tôi chỉ xin cùng Thiên Chúa cho tôi cảm thấy ít đau khổ hơn khi không có con”. Aava, đừng khóc. Chúng ta xin Thầy tới nữa để anh nên tốt hơn, và em... hãy tiếp tục yêu anh.
Người đàn bà khóc mạnh hơn bởi sự trái ngược giữa đau khổ qúa khứ với niềm vui hiện tại.
Trái lại, Giêsu mỉm cười: “Đừng khóc. Hãy nhìn Thầy. Hãy nhìn Thầy đây bà”.
Người đàn bà ngẩng đầu lên, nhìn khuôn mặt sáng láng của Giêsu qua làn nước mắt.
- Ông lại đây. Hãy qùi đây, bên cạnh vợ ông. Bây giờ Thầy chúc lành cho các con và thánh hóa sự phối hợp của các con. Hãy nghe:
456
“Lạy Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, Ngài đã dựng nên Ađam bằng bùn đất và cho ông được Evà làm bạn, để họ sinh sản cho Chúa đầy mặt đất, nuôi con cái trong sự kính sợ Chúa. Xin hãy xuống cùng với phúc lành và tình thương của Chúa để mở ra và làm sinh sản những tạng phủ mà kẻ thù cầm giữ đóng kín để đem họ tới tội kép là gian dâm và thất vọng. Lạy Cha Rất Thánh, Tạo Hóa Tối Thượng, xin thương hai đứa con này, cho người đàn bà được sinh sản như một cây nho, cho người đàn ông là kẻ bảo vệ nàng như người giám hộ nâng đỡ. Ôi Sự Sống, xin hãy xuống và ban sự sống. Ôi Lửa Nóng, xin hãy xuống để sưởi ấm. Ôi Sức Mạnh, xin hãy xuống và hành động. Hãy xuống! Hãy làm cho lễ ca tụng mùa gặt năm tới, chúng dâng cho Cha một bông lúa sống, đứa con đầu lòng của chúng, đứa con được dâng hiến cho Cha, Thiên Chúa, Đấng chúc phúc cho những kẻ trông cậy ở Cha”.
Giêsu đã cầu nguyện với giọng như sấm, hai tay để trên hai cái đầu cúi xuống.
Người ta không thể không bao vây lấy Người, và Phêrô ở hàng đầu.
- Các con đứng dậy đi. Hãy có đức tin và hãy thánh.
- Ôi! Xin Thầy ở lại - hai kẻ làm hòa xin.
- Thầy không thể. Thầy sẽ trở lại. Nhiều, nhiều lần.
- Hãy ở lại. Hãy nói cho chúng con - đám đông kêu lên.
Giêsu chúc phúc không ngừng. Người hứa sẽ mau chóng trở lại, và với đám đông nhỏ theo sau, Người đi về căn nhà cho Người trọ.
- Con người tò mò! Thầy phải làm gì cho con đây? - Người hỏi Phêrô ở dọc đường.
- Cái gì Thầy muốn. Nhưng trong khi chờ đợi, con đã tham dự...
Người cho dân chúng đi. Họ bình luận về những lời họ đã nghe. Rồi Người vào trong nhà và ngồi vào bàn.
Phêrô vẫn còn tò mò: “Thầy ơi, nhưng thực sự họ sẽ có một đứa con trai sao?”
- Nhưng con có bao giờ thấy Thầy hứa một điều không xảy ra không? Có vẻ như con cho rằng Thầy có thể dùng sự tin cẩn nơi
457
Cha để nói dối và làm thất vọng?
- Không... Nhưng... Với mọi cặp vợ chồng, Thầy có thể làm như vậy?
- Thầy có thể, nhưng Thầy chỉ làm ở nơi nào Thầy thấy người con có thể đẩy tới sự thánh hóa. Nơi nào nó sẽ là một trở ngại thì Thầy không làm.
Phêrô lấy tay vo đầu tóc muối tiêu của ông và nín lặng.
Nhưng đây, người mục đồng Giuse. Ông ta đầy bụi bặm như người vừa đi đường xa.
- Con? Thế nào? - Giêsu hỏi sau khi đã hôn ông để chào.
- Con có những cái thơ cho Thầy. Mẹ Thầy đã đưa cho con. Có một cái là của Mẹ. Chúng đây - và Giuse trao ba ru-lô da nhỏ, được buộc bằng sợi giây. Cuộn lớn nhất có con dấu niêm phong. Những cuộn khác chỉ buộc giây. Cuộn thứ ba có con dấu đã mở. “Cuộn này là của Mẹ Thầy”. Giuse nói khi chỉ vào cuộn có buộc giây.
Giêsu giở ra và đọc, lúc đầu còn nhè nhẹ, rồi đọc lớn tiếng: “Gởi con yêu của má bình an và phúc lành. Vào những giờ đầu tiên của những ngày đầu tuần trăng Ellul, có một người đưa tin từ Bêtani đến với má, đó là người mục đồng Isaac, người mà má đã gởi cho cái hôn bình an và khích lệ nhân danh con và trong sự biết ơn của má. Ông đã mang tới cho má hai cái thơ này mà má gởi cho con đây, và ông nói miệng với má rằng người bạn Lazarô ở Bêtani xin con chiều lời cầu xin của ông. Giêsu rất yêu mến, con đáng chúc tụng và Chúa của má, má khẩn khoản xin con hai điều: Thứ nhất là con hãy nhớ rằng con đã hứa với má là sẽ gọi người má tội nghiệp của con đi để giáo huấn má về Lời của con; điều thứ hai là đừng về Nazarét mà không báo cho má biết trước”.
Thình lình Giêsu dừng lại, đứng dậy, lại giữa Giacôbê và Juđa, ôm ghì họ trong cánh tay Người và kết thúc câu bằng cách nhắc lại thuộc lòng những lời: “Alphê đã trở về lòng Abraham vào ngày trăng đầy sau cùng vừa qua. Đám táng trong thành phố rất lớn...” Hai người con khóc trên ngực Giêsu. Người tiếp: “Vào giờ sau cùng của ông, ông đã muốn gặp con, nhưng con ở xa. Dầu sao đó cũng là
458
sự an ủi cho Maria, vì bác ấy thấy ở đó một bảo đảm về sự tha thứ của Thiên Chúa, và cũng cho các cháu được bình an”. Các con nghe không? Chính Mẹ nói điều đó, và Mẹ biết điều Mẹ nói.
- Đưa cái thơ cho con đi - Giacôbê năn nỉ.
- Không. Nó sẽ làm con buồn.
- Tại sao? Mẹ có thể nói điều gì nặng nề hơn là cái chết của một người cha?...
- Ông nguyền rủa chúng ta - Juđa thở dài.
- Không. Không phải vậy.
- Thầy nói vậy... để không làm chúng con buồn, nhưng đúng là như vậy.
- Vậy đọc đi.
Và Juđa đọc: “Giêsu, má xin con, và Maria cũng xin con đừng về Nazarét trước khi xong kỳ tang. Tình yêu của những người Nazarét đối với Alphê làm cho họ thành bất công đối với con, và má con phải khóc vì vậy. Người bạn tốt Alphê (Alphê Sara) của chúng ta đã an ủi má và làm êm dịu người trong xứ. Có rất nhiều ồn ào về các lời tường thuật của Aser và Ismael về bà vợ của Chouza. Nhưng Nazarét bây giờ là cái biển bị động bởi nhiều luồng gió ngược chiều nhau. Con ơi, má chúc phúc cho con, và má xin con cho linh hồn má bình an và phúc lành. Bình an cho các cháu.
Má”.
Các Tông đồ bình luận và an ủi hai anh em đang trong nước mắt. Nhưng Phêrô nói: “Thầy không đọc hai thơ này à?”
Giêsu làm hiệu là có, và Người mở thơ của Lazarô. Người gọi Simon Zêlote và hai người đọc với nhau trong một góc. Rồi Người mở ru-lô kia và họ cũng đọc. Hai người bàn luận. Tôi thấy Zêlote tìm cách thuyết phục Giêsu điều gì, nhưng ông không thành công.
Giêsu cầm các ru-lô trong tay, trở về giữa phòng và nói:
- Hãy nghe đây các bạn: Tất cả chúng ta hợp thành một gia đình duy nhất, và giữa chúng ta thì không có gì là bí mật. Về điều xấu thì giữ kín là vì tình thương, nhưng với điều tốt thì thật chính đáng để cho mọi người biết. Vậy hãy nghe điều Lazarô Bêtani viết: “Gởi
459
Chúa Giêsu bình an và chúc tụng. Bình an và lời chào cho ông bạn Simon của con. Con đã nhận thơ Thầy, và với tư cách là tôi tớ, con đã dùng qủa tim, lời nói và mọi phương tiện của con để làm vui lòng Thầy, và được danh dự là một tôi tớ không hoàn toàn vô ích của Thầy. Con đã tới nhà Doras, lâu đài của ông tại Juđê, để xin ông bán cho con người đầy tớ Jonas như Thầy ước ao. Con thú thực rằng không có lời xin của Simon, bạn trung thành của Thầy, thì con sẽ không đối đầu với con chó rừng hay nhạo báng, độc ác và tai hại này. Nhưng vì Thầy, Thầy và Bạn của con, con cảm thấy có khả năng đối đầu với cả ma qủi. Con nghĩ rằng Thầy ở rất gần những kẻ làm việc cho Thầy, và do đó, Thầy bảo vệ họ. Chắc chắn rằng con đã được bảo vệ, vì trước mọi điều không tiên liệu, con đã thắng. Cuộc thảo luận thật là gay go, và con rất nhún nhường trước những từ chối đầu tiên. Ba lần con phải cúi mình trước tên cai ngục toàn quyền này. Rồi nó đòi con một thời gian chờ đợi. Sau cùng, đây là lá thơ. Thật đáng tên là một con rắn lục. Con, con khó có can đảm để nói với Thầy: ‘Hãy nhượng bộ để đạt mục đích’, vì hắn không xứng đáng được có Thầy. Nhưng trái lại, nếu từ chối thì lại không thể làm gì được. Con đã chấp nhận nhân danh Thầy, và con đã ký. Nếu con đã làm sai thì xin Thầy hãy khiển trách con. Nhưng xin Thầy tin là con đã làm hết sức có thể để phục vụ Thầy. Hôm qua, một trong những môn đệ của Thầy, một người Do Thái, đã đến nói với con rằng ông đến nhân danh Thầy để biết xem có tin tức gì đem tới cho Thầy không. Ông xưng tên là Judas Kêriot. Nhưng con thích chờ Isaac để mang thơ đến cho Thầy. Con đã ngạc nhiên vì Thầy đã sai một người khác, trong khi biết rằng mỗi ngày Sabat, Isaac đều tới nhà con để nghỉ. Con không còn gì nữa để nói với Thầy. Con chỉ xin hôn bàn chân thánh của Thầy. Con xin Thầy hướng nó về nhà người tôi tớ và bạn Lazarô của Thầy như Thầy đã hứa. Chào Simon. Con xin gởi Thầy, Thầy và Bạn, cái hôn bình an và lời cầu xin phúc lành.
Lazarô”. Đây là cái thơ khác: “Chào Lazarô. Tôi đã quyết định. Với một
460
món gấp đôi như vậy thì anh sẽ được Jonas. Nhưng tôi đòi điều kiện này, và tôi không thay đổi vì bất cứ lý do nào. Trước hết, tôi muốn rằng Jonas hoàn tất việc gặt hái năm nay, tức là ông bị giữ lại cho tới hết tuần trăng Tisri. Tôi muốn rằng chính Giêsu Nazarét tới để nhận ông, và tôi xin ông ta vào dưới mái nhà của tôi để tôi được
biết ông ta. Tôi muốn tiền được trả ngay sau khi ký giao kèo. Chào. Doras”.
- Quân mắc dịch! - Phêrô kêu lên. “Nhưng ai trả? Ai biết ông ta đòi chúng ta bao nhiêu. Và chúng ta, chúng ta không có lấy một đồng!”
- Chính Simon trả, để làm vui lòng Thầy và Jonas tội nghiệp. Ông chỉ nhận được một bóng người không làm được gì cho ông, nhưng ông tậu được một công phúc lớn trên trời.
- Anh? Ồ! - Mọi người đều kinh ngạc, kể cả hai con ông Alphê mà sự ngạc nhiên đã làm cho họ quên những đau khổ của họ.
- Chính anh ấy. Cũng thật chính đáng là sự việc được biết.
- Cũng thật chính đáng là người ta biết tại sao Judas Kêriot lại đến nhà Lazarô. Ai sai ông tới đó? Thầy à?
Nhưng Giêsu không trả lời cho Phêrô. Người suy tư và lo âu. Người chỉ ra khỏi sự trầm tư để nói: “Hãy cho Giuse ăn tối, rồi chúng ta đi ngủ. Thầy đi viết thơ trả lời cho Lazarô... Isaac còn ở Nazarét không?”
- Ông ta chờ con.
- Tất cả chúng ta sẽ về đó.
- Ôi! Không. Mẹ Thầy đã nói... - mọi người đều băn khoăn.
- Các con nín đi. Đó là ý Thầy. Mẹ Thầy nói bằng con tim yêu đương của Mẹ. Thầy phán đoán bằng lý lẽ của Thầy. Thầy muốn làm công việc này trong khi Judas vắng mặt, và giơ bàn tay thân hữu ra cho hai anh họ Simon và Giuse, khóc với họ trước khi hết kỳ tang. Rồi chúng ta trở lại Caphanaum, Gênêsarét, tóm lại là trên hồ để chờ hết tuần trăng Tisri. Chúng ta sẽ mang hai bà Maria đi với chúng ta. Mẹ các anh cần tình yêu, chúng ta sẽ cho bà. Và Mẹ
461
thầy cần bình an. Thầy là sự Bình An.
- Thầy tin là ở Nazarét... - Phêrô hỏi.
- Thầy không tin cái gì cả.
- A! Được! Bởi vì, nếu họ làm gì Người, hay nếu họ làm đau cho Người... Họ sẽ có chuyện để làm với tôi - Phêrô nói. Ông hoàn toàn bơ phờ.
Giêsu vuốt ve ông. Nhưng Người rất trầm tư, tôi nói là buồn. Rồi Người tới ngồi ở giữa Juđa và Giacôbê, ôm họ để an ủi họ.
Những người khác nói nhỏ để không làm rộn nỗi đau của họ.
71* GIÊSU TRONG NHÀ MARIA ALPHÊ.
LÀM HÒA VỚI ANH HỌ SIMON
Chiều xuống giữa một hoàng hôn đỏ ối như lửa đang tắt, và càng lúc càng tối cho tới khi có mầu hồng tím. Một mầu huy hoàng hiếm thấy tô cho trời tây và phai đi từ từ cho tới khi biến mất trong bầu trời tối. Phía đông, các vì sao càng lúc càng tiến lên cùng với mặt trăng đang kỳ tăng trưởng đã tới phần tư thứ hai. Các nông dân vội vã về nhà, nơi các lò lửa tung lên những làn khói bên trên các căn nhà thấp của Nazarét.
Giêsu sắp vào trong thành phố, và trái với điều mọi người nghĩ, Người không muốn ai báo tin cho Mẹ người hết: “Không việc gì đâu. Tại sao lại lo trước?” Người nói.
Đây, Người đã ở giữa các căn nhà. Có vài tiếng chào, vài tiếng xì xèo ở đàng sau, vài cái nhún vai thô lỗ, vài tiếng cửa đập rình khi nhóm tông đồ đi qua.
Điệu bộ của Phêrô đúng là nên thơ, những người khác cũng hơi lo âu. Hai con ông Alphê đúng là hai kẻ bị kết án. Họ cúi đầu bước đi bên cạnh Giêsu, nhưng trong khi quan sát chung quanh, họ trao đổi cho nhau cái nhìn sợ sệt và đầy am hiểu cho Giêsu. Còn Giêsu, người như không có chuyện gì khác. Người trả lời cho các lời chào với sự tử tế thường xuyên của Người. Người cúi xuống để vuốt ve
462
những đứa nhỏ mà trong sự đơn sơ của chúng, chúng không vào phe với người nọ người kia. Chúng luôn luôn làm bạn với Giêsu của chúng, kẻ luôn luôn yêu thương chúng. Một đứa trong bọn, đúng là một ông nhỏ mập lùn, mới tối da là bốn tuổi, thấy Giêsu, nó liền buông váy mẹ và chạy đến với Người. Nó giơ hai cánh tay nhỏ lên và nói: “Ẵm con đi!” Khi Giêsu đã ẵm nó lên để làm vui lòng nó, nó liền hôn Người bằng cái miệng ngoen ngoét những thịt trái sung mà nó mút. Và nó còn đẩy tình yêu tới chỗ tặng cho Người một miếng sung khi nói: “Ăn đi, ngon!” Giêsu cười nhận món qùa là miếng mồi mớm của ông nhỏ lem luốc này.
Isaac xách các vò ra phông-ten. Thấy Giêsu, ông liền đặt các vò xuống và kêu: “Ôi! Lạy Chúa con!” và chạy đến gặp Người. “Bây giờ Mẹ Thầy trở về nhà rồi. Trước thì Mẹ ở nhà chị dâu Mẹ. Nhưng... Thầy đã nhận được thơ chưa?” Ông hỏi.
- Chính vì nó nên Thầy ở đây. Lúc này đừng nói gì với Mẹ Thầy hết. Trước hết Thầy vào nhà Alphê đã.
Isaac rất thận trọng, chỉ nói: “Con vâng lời Thầy”. Rồi ông cầm các vò nước và về nhà.
- Bây giờ chúng ta về. Các con, các bạn, hãy chờ chúng ta ở đây. Thầy chỉ ở lại một lúc thôi.
- Không. Chắc chắn là chúng con không vào trong căn nhà có tang, nhưng chúng con chờ Thầy ở đó, ở bên ngoài, phải không? - Phêrô nói.
- Phêrô có lý. Chúng con ở lại ngoài đường, nhưng không ở xa Thầy.
Giêsu nhượng bộ ý muốn tập thể, nhưng Người mỉm cười nói: “Họ sẽ không làm gì Thầy cả. Hãy tin đi. Họ không độc ác, họ chỉ qúa tình cảm theo nhân loại. Chúng ta đi”.
Đây, họ ở trên con đường vào nhà. Đây, họ ở trước cổng vào vườn. Giêsu đi trước, đàng sau là Juđa và Giacôbê. Đây, Giêsu ở trước cửa nhà bếp, trong đó, Maria Alphê đang nấu ăn bên cạnh lò lửa, vừa làm vừa khóc. Trong một góc, Simon và Giuse với những người đàn ông khác ngồi vòng tròn. Trong đám họ có Alphê Sara. Họ ngồi yên lặng như những pho tượng. Tôi không biết đây có phải
463
là thói quen không.
- Bình an cho nhà này và cho linh hồn đã rời bỏ nó.
Bà góa liền kêu thét lên và đẩy Giêsu ra như một bản năng. Bà đứng giữa Người và những người khác. Simon và Giuse đứng dậy, ảm đạm và sững sờ. Nhưng Giêsu không tỏ ra là Người nhận thấy thái độ thù nghịch của họ. Người đi lại với hai người (Simon, theo dáng dấp thì vào khoảng năm mươi tuổi, có lẽ hơi hơn), Người đưa tay ra cho họ trong cử chỉ mời gọi thân tình. Hai người càng sững sờ hơn bao giờ hết, nhưng họ không dám làm một cử chỉ bần tiện. Alphê Sara run và thở hổn hển. Những người khác có thái độ khép kín, chờ xem chuyện gì xảy ra.
- Simon, từ nay anh là trưởng gia đình, sao anh không tiếp đón tôi? Tôi đến khóc với anh. Tôi mong ước ở với các anh chừng nào trong đám tang. Nếu tôi ở xa thì không phải là tại lỗi tôi. Simon, anh là người chính trực, anh phải nói điều đó.
Người đó vẫn đứng yên, rất dè dặt.
- Và anh, Giuse, một danh xưng rất chí thiết với tôi, tại sao anh không nhận cái hôn của tôi? Các anh không cho phép tôi khóc với các anh sao? Cái chết là sợi giây buộc chặt lại những tình yêu thực. Chúng ta yêu nhau, tại sao bây giờ nó lại phải phân rẽ?
- Tại mày mà cha chúng tao chết trong hành hạ - Giuse trả lời cách cay cú. Và Simon: “Đáng lẽ em phải ở lại. Em biết rằng ông sắp chết. Tại sao em không ở lại? Ông đã muốn gặp em...”
- Em không thể làm cho ông điều gì hơn là điều em đã làm. Các anh biết rõ vậy...
Simon chính đáng hơn, ông nói: “Đúng vậy. Anh biết là em đã đến, nhưng ông đã đuổi em. Nhưng đó là một người bệnh, một người đau khổ”.
- Em biết, nên em đã nói với mẹ anh và các em anh rằng em không oán ghét. Em hiểu con tim của ông. Nhưng bên trên tất cả còn có Thiên Chúa, và Thiên Chúa muốn sự đau khổ này cho mọi người. Với em, các anh hãy tin, em thấy đau như người ta giật của em một miếng thịt sống. Và cha các anh, trong sự đau khổ này, ông đã hiểu một sự thật lớn lao mà suốt đời ông không hiểu. Với các
464
anh, bởi sự đau đớn này, các anh có khả năng làm một hy sinh có sức cứu rỗi hơn hy tế một con bò non. Còn với Juđa và Giacôbê, bây giờ là những người lớn cũng được đào tạo như anh, ôi anh Simon, vì họ đã trả đắt bởi bao là đau khổ họ chịu. Đau khổ đã nghiền họ như thớt cối đá, nó làm cho họ nên trưởng thành, và họ đã đạt tới tuổi trọn vẹn trước mắt Thiên Chúa.
- Ba đã thấy sự thật nào? Một sự thật duy nhất là máu mủ của ông, vào giờ chót của ông, đã thù hận với ông - Giuse trả lời gay gắt.
- Không, ở bên trên máu mủ còn có linh hồn. Ông đã hiểu sự đau đớn của Abraham, và vì vậy ông đã có Abraham tới giúp ông - Giêsu trả lời.
- Mong rằng điều đó là thật. Nhưng ai bảo đảm điều đó cho chúng tôi?
- Em, Simon ạ. Và còn hơn em nữa là cái chết của ba anh. Ông đã chẳng tìm em sao? Anh đã nói.
- Anh đã nói, đúng vậy. Ông đã muốn gặp Giêsu. Ông đã nói: “Ước mong ít nhất là linh hồn ba không chết. Người có thể làm điều đó. Ba đã đuổi Người nên Người không tới nữa. Ôi! Cái chết không Giêsu, đáng sợ chừng nào! Sao ba lại đuổi Người?” Đúng, ông đã nói vậy và ông còn nói: “Người đã hỏi ba bao nhiêu lần: ‘Cháu có phải đi không’. Và ba đã đuổi Người đi... Bây giờ Người không tới nữa”. Ông đã muốn em, ông muốn em. Mẹ em đã sai người đi tìm em, nhưng họ không tìm thấy em ở Caphanaum, và ông đã khóc biết bao. Ông đã thu toàn sức lực sau cùng của ông để cầm tay mẹ em, và ông đã muốn có bà ở bên ông. Ông chỉ nói được cách rất khó khăn, nhưng ông nói: “Người mẹ thì cũng hơi hơi như người con. Ba giữ bàn tay của người mẹ để có một cái gì của Người, vì ba sợ chết”. Người cha tội nghiệp của tôi!
Tiếp đó, có một màn kiểu đông phương những kêu than và những cử chỉ bộc lộ sự đau đớn mà mọi người đều tham gia, kể cả Juđa và Giacôbê, hai ông đã dám bước vào. Kẻ bình an nhất là Giêsu, Người
465
chỉ khóc thôi.
- Em khóc à? Vậy là em yêu ông? - Simon hỏi.
- Ôi! Simon, anh còn hỏi? Nếu em có thể, anh nghĩ rằng em cho phép có những đau khổ này sao? Em ở với Chúa Cha, nhưng không ở bên trên Chúa Cha.
- Em đã chữa những người sắp chết, nhưng em đã không chữa ông - Giuse nói cách chua chát.
- Ông không tin ở em.
- Đúng vậy Giuse - anh Simon của ông nhận xét.
- Ông không tin và không từ bỏ thù ghét. Em không thể làm gì được ở nơi có sự cứng lòng tin và sự thù ghét. Chính vì vậy mà em bảo các anh: “Đừng thù ghét em các anh. Mẹ các anh tan nát về sự thù ghét luôn luôn sống động này hơn là bởi cái chết, vì chết thì hết ghét. Với ba các anh thì thù ghét tắt đi trong bình an, vì nhờ sự ông ước ao gặp em, ông đã được Thiên Chúa tha thứ. Em không nói với các anh về em, em không xin các anh điều gì cho em. Em ở trong thế gian, nhưng em không thuộc về thế gian. Kẻ nào sống trong em thì họ đền bù cho em hết những gì thế gian từ chối em. Em đau khổ trong nhân tính của em, nhưng em nâng tâm hồn lên bên trên trái đất để vui mừng trong những thực tại trên Trời. Nhưng họ... Đừng thiếu sót về luật tình yêu và máu huyết. Các anh hãy yêu nhau. Juđa và Giacôbê không xúc phạm gì đến máu huyết, nhưng giả sử họ có xúc phạm thì cũng hãy tha thứ. Hãy nhìn mọi sự với con mắt chân chính, và các anh sẽ thấy rằng chính họ là những kẻ bị đè nặng hơn cả, vì họ không được hiểu trong những điều mà tiếng gọi của Thiên Chúa bó buộc họ. Nhưng nơi họ không có thù ghét, chỉ có sự ước ao được yêu. Có phải không các anh?”
Juđa và Giacôbê, mà mẹ họ ôm ghì vào lòng, xác nhận qua làn nước mắt.
- Simon, anh là trưởng nam, hãy làm gương...
- Anh... Đối với anh... Nhưng thế giới... Nhưng em...
- Ôi! Thế giới! Họ quên và thay đổi ý kiến ở mỗi rạng đông... Còn em, nào, hãy cho em cái hôn huynh đệ của anh. Em yêu anh, anh biết. Hãy để rơi những cái vảy nó làm cho anh thành khắt khe,
466
nhưng nó không phải là của anh, mà là do những kẻ lạ ít công chính hơn anh đã áp đặt cho anh. Còn anh, hãy luôn luôn xét đoán theo sự thẳng thắn của qủa tim anh.
Simon vẫn còn hơi ngan ngán, mở cánh tay ra. Giêsu hôn ông rồi dẫn ông lại cho hai em ông. Họ hôn nhau giữa những nước mắt và những than thở.
- Bây giờ đến lần anh, Giuse.
- Không, đừng vật nài. Tôi nhớ tới những đau đớn của ba tôi.
- Thực vậy, anh đã kéo dài nó ra bằng sự giận ghét này.
- Không quan trọng. Tôi trung thành.
Giêsu không van nài. Người quay lại với Simon: “Chiều rồi, nhưng nếu anh muốn, chúng tôi nóng lòng muốn viếng mộ của ông. Các anh đã để Alphê ở đâu?”
- Ở sau nhà, cuối vườn oliu, trước sườn dốc. Một ngôi mộ xứng đáng.
- Xin anh dẫn em ra. Maria, can đảm lên. Chồng bác vui mừng vì ông thấy các con ông ở trong lòng bác. Bác ở lại đây đi, cháu đi với Simon. Hãy bình an! Hãy bình an! Giuse, em nói với anh điều em đã nói với ba anh: “Em không giận ghét. Em yêu anh. Khi nào anh muốn gặp em thì hãy gọi em, em sẽ đến khóc với anh”. Chào - Và Người đi ra với Simon.
Các tông đồ lén lút nhìn cách tò mò, nhưng họ thấy hai người hòa thuận nên họ rất bằng lòng. Giêsu nói: “Các con cũng hãy tới đi. Đó là các môn đệ của em đó Simon. Họ cũng ước ao tôn kính ba anh. Chúng ta đi”.
Họ đi băng qua vườn oliu, và tất cả chấm dứt.
72* “ÂN SỦNG LUÔN LUÔN HÀNH ĐỘNG
Ở NƠI NÀO CÓ Ý MUỐN CHÍNH TRỰC”
Chúa Giêsu nói:
Các con hãy để vào chỗ này thị kiến thứ ba và thứ bốn mà các con đã có hôm 12-02-
467
1944.
Như con thấy, Simon ít ngoan cố hơn. Ông chịu phục sự chính trực với sự mau mắn thánh, nếu không được hoàn toàn thì cũng một phần. Ông không trở nên môn đệ của Cha ngay, và càng là tông đồ ít hơn, như con đã nói vậy hồi một năm trước đây vì con không biết. Nhưng ít nhất, ông là thính giả trung lập sau cuộc gặp gỡ này về cái chết của Alphê. Ông cũng là người bảo vệ cho mẹ ông và Mẹ Cha ngay vào lúc mà một người đàn ông phải bảo vệ họ chống lại những mỉa mai của người đời. Ông không đủ can đảm để áp đặt những người cho Cha là điên, và còn qúa loài người để hơi xấu hổ vì Cha, để lo lắng cho những nguy hiểm của cả gia đình vì lẽ giáo thuyết của Cha trái ngược với các đảng phái. Nhưng ông đã ở trên con đường tốt. Sau Lễ Hy Sinh, ông đã biết bước đi càng ngày càng vững chắc tới chỗ đã tuyên xưng Cha bằng việc tử đạo. Ơn sủng hành động có khi như một tiếng sét, có khi từ từ, nhưng nó luôn luôn hành động ở nơi nào có ý muốn chính trực.
Hãy đi bằng an. Hãy bình an giữa những đau đớn của con. Bây giờ đã đến thời gian chuẩn bị lễ Phục Sinh. Con hãy mang Thánh Giá cùng với Cha. Cha chúc lành cho con, Maria của Thánh Giá Chúa Giêsu.
Sau đó một hồi, Người lại nói:
“Không, với tình bác ái không bờ bến và sự thận trọng khôn ngoan, con phải tiếp đón mọi người. Đóng kín cửa sẽ kích thích sự tò mò. Từ chối họ sẽ là thiếu bác ái. Cha đã bảo con: ‘Con sẽ là thành phố mà người ta tìm’. Không phải mọi người đều đến với ý hướng ngay lành ư? Điều đó có sao đâu? Con thận trọng, như vậy là đủ rồi. Con sợ mất thời giờ ư? Nhưng ai là chủ thời giờ? Cha. Vậy thì chúng ta hãy đi. Chúng ta đi mà không sợ, không lo, không bất nhẫn. Con thấy bao nhiêu lần Cha phải thay đổi chương trình của Cha rồi? Và đó là Cha!... Bình an, bình an và bác ái với mọi người. Rồi điều thứ ba là khôn ngoan thận trọng, như vậy là đủ rồi.
Cha sẽ nói với các con nguồn gốc của bài học này bằng tiếng nói sống động”.
73* GIÊSU KHÔNG ĐƯỢC ĐÓN TIẾP TẠI NAZARÉT
Tôi thấy một phòng vuông rộng. Tôi nói vậy, nhưng tôi hiểu đây là giáo đường Nazarét (như tiếng nói nội tâm báo cho tôi), vì chỉ có
468
các bức tường trần sơn mầu vàng, và ở một phía có bục cao. Cũng có cái kệ với các ru-lô trên đó. Cái kệ hay cái giá? Hãy chọn từ nào qúi vị muốn. Tóm lại, đó là một loại bàn hơi nghiêng có chân, trên đó xếp các ru-lô.
Có những người đang cầu nguyện, không giống như chúng ta, nhưng tất cả đều quay về một phía, không chắp tay, nhưng làm hơi giống như linh mục trên bàn thờ.
Có những ngọn đèn treo bên trên bục cũng như giá sách.
Con không hiểu mục đích của cảnh này. Nó dừng lại hồi lâu không thay đổi. Nhưng Giêsu bảo con hãy mô tả, nên con làm.
Bây giờ con lại thấy con ở trong giáo đường Nazarét.
Bây giờ vị rabbi đọc. Tôi nghe một giọng mũi đều đều, nhưng tôi không hiểu, vì ông xướng lên bằng ngôn ngữ mà tôi không biết. Trong đám đông cũng có Giêsu với hai anh họ tông đồ và những người khác, chắc chắn cũng là họ hàng, nhưng tôi không biết.
Sau bài đọc, vị rabbi nhìn đám đông như một lời mời câm lặng. Giêsu tiến lên và xin được chủ tọa buổi họp hôm nay.
Tôi nghe giọng thánh thót của người đọc đoạn tiên tri Isaie có ghi trong Tin Mừng: “Thánh Thần của Chúa ở trên tôi...” Và tôi nghe người giải thích khi xưng mình là “kẻ mang Tin Mừng và luật tình yêu, để thay thế luật cũ quá khắt khe bằng lòng thương xót, để ban phần rỗi cho tất cả những ai mà tội Ađam làm cho tâm hồn thành bệnh hoạn, và vì vậy làm cho thân xác cũng bệnh theo, vì tội lỗi gây ra trụy lạc, và trụy lạc gây ra bệnh hoạn cho cả thân xác. Và để cho tất cả những ai bị Thần Dữ cầm giữ được giải phóng. Tôi đến để bẻ gẫy những xích xiềng này và mở đường lên Trời, để ban Ánh Sáng cho những linh hồn mù lòa, ban thính giác cho những kẻ điếc. Thời kỳ ơn phúc của Thiên Chúa đã tới. Nó đang ở giữa qúi vị. Chính nó đang nói với qúi vị. Các Tổ Phụ đã ước ao thấy ngày này là ngày mà tiếng nói Đấng Tối Cao đã công bố sự hiện hữu, ngày mà các tiên tri đã loan báo thời gian. Được mang tới sự hiểu biết bằng một hành động siêu nhiên, các ngài biết rằng bình minh
469
của ngày này đã ló rạng, và họ sắp được lên Trời. Các đấng đã nhảy mừng trong tâm hồn họ. Các vị thánh này chỉ còn thiếu phúc lành của Tôi để trở thành công dân Nước Trời. Hãy đến với Ánh Sáng đã bừng lên. Hãy cởi bỏ các tham vọng để được nhẹ nhàng bước theo đấng Kitô. Hãy có thiện chí muốn tin, muốn trở nên tốt hơn, muốn phần rỗi, rồi phần rỗi sẽ được ban cho qúi vị. Nó ở trong tay Tôi, nhưng Tôi chỉ ban nó cho những ai có thiện chí muốn được, vì sẽ là xúc phạm tới Ân Sủng nếu ban nó cho những kẻ tiếp tục phục vụ Satan”.
Có tiếng xì xèo nổi lên trong giáo đường. Giêsu quay cái nhìn của Người trên khán giả. Người đọc trên các khuôn mặt và trong các con tim, và Người tiếp: “Tôi hiểu tư tưởng của qúi vị. Vì tôi là người Nazarét, qúi vị muốn một đặc ân ưu tiên. Nhưng điều đó là do sự ích kỷ của qúi vị chứ không phải do sức mạnh của đức tin. Tôi cũng nói với qúi vị rằng thực sự không một tiên tri nào được tiếp đón nơi quê hương họ. Những nơi khác đã tiếp đón và sẽ tiếp đón tôi với nhiều đức tin hơn, ngay cả tại những xứ mà tên của họ đối với qúi vị là một ô nhục, tôi cũng tìm được một mùa gặt các môn đệ, trong khi tại mảnh đất này tôi không thể làm gì được, vì nó khép kín và thù hận đối với tôi. Nhưng tôi nhắc lại cho qúi vị Êlia và Êlisê, ông thứ nhất tìm thấy đức tin nơi một đàn bà Phênici, và ông thứ hai nơi một người Syrie, và họ đã thi hành những phép lạ cho bà nọ cũng như ông kia. Những người đang chết đói trong Israel không được bánh, và những người cùi không được thanh tẩy, vì trong lòng họ không có thiện chí, viên ngọc qúi mà vị tiên tri đã tìm được ở nơi khác. Đó cũng là những điều xảy đến cho qúi vị, những người hận thù và không tin lời của Thiên Chúa”.
Đám đông giao động và dọa nạt với những lời nguyền rủa. Họ tính ra tay bắt Người, nhưng hai tông đồ anh họ Juđa và Giacôbê, cùng với Simon bảo vệ Người, trong khi các người Nazarét phẫn uất đuổi Giêsu ra khỏi thành phố. Họ vừa đi theo vừa dọa nạt, nhưng chỉ nói mồm thôi, cho tới đỉnh đồi. Lúc đó Giêsu quay lại làm họ bất động bằng cái nhìn phát quang của Người, rồi Người đi
470
qua giữa họ và biến vào một đường mòn trên đồi.
Tôi thấy một thôn nhỏ, rất nhỏ, một nắm nhà, bây giờ chúng ta gọi là một ấp. Nó ở cao hơn Nazarét mà người ta nhìn thấy ở dưới thấp cách đó vài cây số. Một thôn nhỏ rất nghèo nàn.
Giêsu đang nói chuyện với Mẹ Maria, ngồi trên một bức tường nhỏ gần một cái lều. Có lẽ đây là nhà một người bạn, hay ít ra là một người hiếu khách, theo luật tiếp khách của đông phương. Giêsu trú ở đó sau khi bị đuổi khỏi Nazarét, để chờ các tông đồ, chắc chắn là đang tản mát ở các vùng lân cận, trong khi Giêsu ở gần Mẹ.
Chỉ có ba anh họ ở với Người. Lúc này họ đang quây quần trong nhà bếp, nói chuyện với một người đàn bà già mà Thađê gọi là “mẹ”, vì vậy tôi hiểu rằng đây là Maria Clêopha. Đó là một người đàn bà khá già mà tôi nhận ra là bà đã ở với Đức Trinh Nữ trong tiệc cưới Cana. Chắc chắn bà và các con đã rút vào đó để Giêsu và Mẹ Người được tự do nói chuyện.
Maria rất đau khổ. Mẹ đã được báo tin về việc rắc rối xảy ra tại giáo đường, và Mẹ như tử đạo. Giêsu an ủi Mẹ. Maria năn nỉ con Mẹ ở xa Nazarét, nơi tất cả đều không tốt cho Người. Ngay cả những người bà con khác cũng nhìn Người như một kẻ điên tìm cách khích động những xáo trộn và cãi lẫy.
Nhưng Giêsu mỉm cười làm một cử chỉ như muốn nói: “Ở đây hay ở nơi khác cũng vậy thôi. Hãy bỏ qua!” Nhưng Maria nài nỉ nên Người trả lời: “Má ơi, nếu Con Người chỉ đi đến những nơi người ta yêu Người thì Người phải bỏ trái đất này để trở về Trời. Con có các kẻ thù ở khắp nơi. Vì người ta ghét Sự Thật, mà con, con là Sự Thật. Nhưng Con không đến để tìm một tình yêu dễ dãi. Con đến để làm theo Ý Cha và cứu chuộc loài người. Tình yêu thì là má. Má là tình yêu của con, má đền bù cho con hết những gì còn lại. Má và đoàn chiên nhỏ mà mỗi ngày mỗi gia tăng thêm vài con mà con giật được của chó sói các đam mê, và con dẫn về chuồng của Thiên Chúa. Còn những gì khác thì là bổn phận. Con đến hoàn thành bổn phận này. Và con phải hoàn thành nó cho tới khi con bị
471
gẫy nát vì đụng phải những con tim bằng đá ngoan cố chống lại điều thiện. Và chỉ khi con ngã xuống, tắm cho các con tim này bằng máu con, con mới chờ họ để in dấu của con trên họ, và hủy bỏ đi dấu hiệu của kẻ thù. Má ơi, con từ Trời xuống là vì vậy. Và con chỉ có thể ước ao cho nó được hoàn tất”.
- Ôi! Con ơi! Con má! - Maria có giọng nói tan nát. Giêsu vuốt ve Mẹ. Tôi thấy rằng Maria đội áo khoác lên đầu, mặc dầu đã có khăn voan. Mẹ trùm kín hơn bao giờ hết, như người đàn bà tội lỗi.
- Con sẽ vắng nhà ít lâu để làm vui lòng má. Khi nào con ở vùng lân cận, con sẽ báo cho má.
- Hãy sai Gioan. Má hơi thấy như gặp con khi má thấy nó. Mẹ nó cũng rất nể vì má cũng như con, tuy thực là bà có ước ao một chỗ ưu tiên cho các con bà, vì đó là một người đàn bà và một người má, Giêsu ạ, phải dung thứ cho bà. Bà cũng sẽ nói điều đó với con. Nhưng bà tận tụy với con một cách chân thành. Khi bà được giải thoát khỏi cái nhân tính nó bốc men ở trong bà cũng như trong các con bà, cũng như trong những người khác, cũng như trong tất cả, thì con ạ, bà sẽ rất lớn trong đức tin. Thật là đau khổ khi thấy mọi người đều chờ ở con một điều tốt loài người, một điều tốt, nếu nó không hoàn toàn loài người thì nó cũng ích kỷ. Nhưng tội lỗi ở trong họ, cùng với dục tình của nó. Chưa tới cái giờ phúc đức và rất, rất đáng ngại, mặc dầu tình yêu đối với Thiên Chúa và loài người làm cho má ước mong nó, giờ mà con sẽ hủy bỏ tội lỗi. Ôi! Cái giờ này! Quả tim má con run sợ chừng nào cho giờ này! Họ sẽ làm gì con, con ơi? Người Con Cứu Thế mà các tiên tri đã nói trước một tử đạo như vậy?
- Má ơi, đừng nghĩ tới đó. Thiên Chúa sẽ giúp má vào giờ đó. Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta, má và con. Rồi sau đó sẽ là bình an. Con lại nói điều đó với má thêm một lần nữa. Bây giờ về đi. Sắp đêm rồi và đường xa. Con chúc lành cho má.
74* GIÊSU CÙNG VỚI MẸ NGƯỜI Ở NHÀ
JEANNE CHOUZA
Tôi thấy Giêsu đi về phía nhà Jeanne Chouza. Khi người gác
472
cổng nhận ra ai đang tới, ông thét lên tiếng kêu vui mừng tới nỗi cả nhà đều xôn xao. Giêsu vào, mỉm cười, vừa đi vừa chúc phúc.
Jeanne đang ở trong khu vườn đầy hoa, bà chạy tới hôn chân Thầy. Chouza cũng tới. Ông cúi sâu, rồi hôn gấu áo của Giêsu.
Chouza là người đàn ông đẹp trai, khoảng bốn mươi tuổi. Ông không cao lớn lắm, nhưng cân đối, với mái tóc đen đã bắt đầu có ở thái dương vài sợi bạc. Ông có đôi mắt sâu linh hoạt, da trắng xanh với bộ râu đen cắt vuông rất chải chuốt.
Jeanne cao hơn chồng bà. Về căn bệnh trước đây thì bà chỉ còn giữ lại nét gầy dong dỏng, nhưng cũng ít xương xẩu hơn trước. Bà giống như một cây thốt nốt vươn lên, dẻo dai, trên cùng là cái đầu đẹp, với đôi mắt đen, sâu, rất dịu dàng. Mái tóc dầy mầu hạt huyền, chải rất khéo. Trán nhẵn và trắng, nó càng lộ ra trắng hơn dưới mái tóc này. Miệng nhỏ rất đẹp, nổi lên trên mầu da trắng với mầu đỏ tự nhiên của đôi môi, ở giữa hai gò má trắng xanh tế nhị như các cánh hoa trà. Đó là một người đàn bà rất đẹp... Và tôi nhớ lại trên Calvê, chính bà đã đưa túi tiền cho Longinô. Lúc đó bà đầy nước mắt, xao xuyến, trùm khăn kín mít. Ở đây bà tươi cười, để đầu trần, nhưng tôi chắc chắn đây là bà.
- Bởi đâu tôi được niềm vui có Ngài là khách? - Chouza hỏi.
- Bởi nhu cầu của tôi cần một chỗ trú để chờ Mẹ tôi. Tôi từ Nazarét tới. Tôi phải gọi Mẹ tôi tới một thời gian, rồi tôi sẽ đi Caphanaum với bà.
- Tại sao không ở nhà con? Con không đáng, nhưng... - Jeanne nói.
- Con rất xứng đáng. Nhưng Mẹ Thầy đi cùng với chị dâu Mẹ mới bị góa mấy ngày nay.
- Nhà này rất lớn, có thể đón tiếp nhiều người. Ngài đã cho tôi nhiều niềm vui tới nỗi nó mở hết ra cho Ngài. Chúa ơi, xin hãy ra lệnh. Ngài đã đuổi cái chết ra xa nhà này, và đã trả lại cho tôi bông hồng đẹp đẽ tươi nở của tôi - Chouza nói phụ lực cho lời xin của vợ ông. Chắc là ông yêu bà lắm. Tôi suy đoán theo cái nhìn của ông.
- Tôi không ra lệnh, nhưng tôi nhận lời. Mẹ tôi rất mệt và bà đã
473
khổ rất nhiều trong thời gian vừa qua. Bà sợ cho tôi, nên tôi muốn tỏ cho bà thấy rằng có người yêu tôi.
- Vậy xin Thầy đem Mẹ tới đây. Con sẽ yêu Mẹ như con gái của Mẹ và như tớ nữ của Mẹ - Jeanne kêu lên.
Giêsu chấp nhận. Bởi vậy Chouza ra ngay để ra các chỉ thị.
Đến đây thị kiến phân đôi: Giêsu ở lại trong khu vườn huy hoàng của Chouza, nói chuyện với ông và vợ ông, trong khi tôi thấy và tôi đi theo chiếc xe rất thực dụng và rất nhanh mà Jonatha đánh đi để đón Maria tại Nazarét.
Đương nhiên sự kiện đã làm cho thành phố xôn xao khi họ thấy Maria và chị dâu người được Jonatha kính trọng như hai bà hoàng, bước lên xe sau khi đã giao chìa khóa nhà cho Alphê Sara. Sự xúc động gia tăng. Chiếc xe đi khỏi, Alphê liền báo thù chuyện đê hèn chống lại Giêsu tại giáo đường. Ông nói: “Các người Samari họ tốt hơn chúng ta! Qúi vị đã thấy một đầy tớ của Hêrôđê kính trọng mẹ của Giêsu chừng nào?... Vậy mà chúng ta! Tôi xấu hổ vì là người Nazarét”.
Liền xảy ra một cuộc cãi lộn giữa hai phe. Có những người bỏ phe hận thù để đến với Alphê và đặt cho ông hàng ngàn câu hỏi. Alphê trả lời: “Chắc chắn rồi. Là khách của nhà vị Thái Thú. Qúi vị đã nghe tên quản lý của ông ta nói: ‘Ông chủ con khẩn nài Mẹ làm vinh dự cho nhà ông’. Làm vinh dự, qúi vị hiểu không? Và đó là ông Chouza đại phú và mạnh thế, cùng với vợ ông là một công chúa hoàng cung. Làm vinh dự! Tại xứ chúng ta, đúng hơn là qúi vị, đã ném đá Người. Xấu hổ chừng nào!”
Các người Nazarét không đáp trả, và Alphê nói mạnh hơn: “Đương nhiên, khi người ta có Người là người ta có tất cả! Và người ta có thể bỏ qua sự chống đỡ của loài người. Nhưng qúi vị cho có Chouza làm bạn là chuyện vô ích sao? Hay qúi vị thích ông ta khinh bỉ qúi vị hơn. Đó là Thái Thú của vị Thủ Hiến, qúi vị biết không? Qúi vị cho đó là chuyện nhỏ mọn? Hãy hành động đi! Hãy hành động như người Samari với Đấng Kitô! Qúi vị sẽ lôi kéo sự thù ghét của các kẻ mạnh. Và rồi... Ôi! Rồi, tôi muốn coi qúi vị!
474
Không có sự giúp đỡ của Trời cũng như của đất! Ngu ngốc! Độc ác! Cứng lòng tin!...” Trận mưa đá của các lời chửi rủa và khiển trách tiếp tục trong khi các người Nazarét sượng sùng bỏ đi như những con chó thất vọng. Alphê ở lại một mình như vị Tổng Lãnh báo thù ở trước cửa vào nhà Maria...
... Chiều đã muộn, bởi con đường lộng lẫy dọc bờ hồ, các con ngựa lực lưỡng kéo chiếc xe của Jonatha tới trong nước kiệu. Các đầy tớ của Chouza đã canh chừng ở cổng liền báo tin, họ liền chạy ra với nhiều ngọn đèn để phụ thêm ánh sáng cho ánh trăng trong. Jeanne và Chouza chạy tới. Giêsu cũng tươi cười xuất hiện, đàng sau họ là nhóm các tông đồ. Khi Maria xuống khỏi xe, Jeanne qùi phục tới tận đất để chào: “Ngợi khen bông hoa của chồi vương giả. Ngợi khen và chúc tụng Mẹ của Ngôi Lời, Vị Cứu Tinh”. Chouza cúi chào sâu hơn tất cả những cái chào mà ông làm ở trong triều và trước mặt Hêrôđê, và ông nói: “Chúc tụng cái giờ này đã dẫn Mẹ đến với con. Chúc tụng Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu”.
Maria trả lời êm đềm và khiêm nhu: “Chúc tụng Vị Cứu Tinh của chúng ta và chúc mừng những người tốt biết yêu con tôi”.
Tất cả đều vào trong nhà, được tiếp đãi với những dấu hiệu trọng kính nhất. Jeanne cầm tay Maria, mỉm cười với Mẹ và nói: “Mẹ cho phép con phục vụ Mẹ phải không?”
- Không phải mẹ. Người. Hãy luôn luôn phục vụ và yêu Người, như vậy là con đã cho mẹ tất cả. Thế giới không yêu Người... Đó là nỗi đau khổ của mẹ.
- Con biết. Tại sao một phần thế giới dửng dưng như vậy, trong khi phần kia sẵn sàng hiến mạng cho Người?
- Bởi vì Người là dấu hiệu mâu thuẫn cho nhiều người, vì Người là lửa thanh tẩy kim loại. Vàng được thanh lọc, các chất dơ chìm xuống đáy và người ta vất bỏ. Điều đó đã được nói cho mẹ ngay khi Người còn bé tí, và ngày qua ngày, lời tiên tri được thực hiện...
- Đừng khóc Maria. Chúng con yêu Người và bảo vệ Người - Jeanne nói để an ủi Mẹ.
Nhưng Maria tiếp tục đổ ra những nước mắt lặng lẽ mà chỉ có
475
mình Jeanne thấy, tại một góc tối mờ mờ mà các bà ngồi. Tất cả đều chấm dứt.
75* GIÊSU TẠI NHÀ ANNA VÀO NGÀY MÙA GẶT.
PHÉP LẠ CHỮA ĐỨA TRẺ TÊ LIỆT
Tất cả miền quê Galilê đều bận rộn với công việc vui vẻ của mùa gặt. Đàn ông trèo lên các thang dài để hái nho trên dàn, phụ nữ, thúng đội trên đầu, mang những chùm nho đỏ và vàng tới cho các máy cán đang chờ. Tiếng ca, tiếng cười, tiếng bông đùa lưu thông từ đồi nọ qua đồi kia, từ vườn này tới vườn khác đồng thời với mùi nước nho, với các bầy ong, rất nhiều, vù vù trong cơn say, bay nhanh, nhảy múa trên các cành còn nhiều trái, và cả trên các thúng tại hầm, nơi các trái nho biến mất trong sự nhào lộn của nước và bã nho. Các trẻ em lem luốc như các thần thôn dã, la hét như chim én, chạy trên cỏ, trong sân, trên đường.
Giêsu đi về một xứ ở hơi xa bờ hồ. Một miền đồng bằng nằm ép giữa hai rặng núi chạy về hướng bắc. Đồng bằng được tưới tiêu dồi dào, vì có một con sông (tôi nghĩ đây là sông Giođan) chảy qua. Giêsu đi trên con lộ chính, rất nhiều người chào Người với tiếng kêu: “Rabbi! Rabbi!” Người đi qua và chúc lành.
Trước khi vào trong xứ, có một vùng đất giầu, một cặp vợ chồng già đang đứng ở cửa để chờ Thầy: “Mời Thầy vào. Khi xong việc, tất cả sẽ tụ lại để nghe Thầy. Thầy mang tới niềm vui lớn chừng nào! Từ Thầy mà tới, nó lan ra như nhựa cây và trở nên rượu làm vui lòng người. Đây là Mẹ Thầy?” Ông chủ nhà hỏi.
- Mẹ đó. Thầy mang Mẹ đi vì bây giờ Mẹ ở trong nhóm các môn đệ của Thầy. Người sau cùng theo thứ tự nhận, người thứ nhất theo thứ tự trung thành. Đó là vị tông đồ. Mẹ đã rao giảng Thầy ngay từ trước khi Thầy sinh ra... Mẹ ơi, tới đây. Một hôm, vào lúc con mới bắt đầu rao giảng Tin Mừng, bà mẹ này đã làm con bớt nhớ tiếc
476
Mẹ, vì bà êm đềm chừng nào với đứa con mệt mỏi của Mẹ.
- Nguyện Chúa ban ơn phúc cho bà, kẻ hay thương xót.
- Tôi được ơn phúc vì tôi có đấng Messi và có Mẹ. Xin vào. Trong nhà mát và ánh sáng dịu, Mẹ có thể nghỉ ngơi. Chắc Mẹ mệt lắm.
- Tôi không có cái mệt nào khác ngoài sự thù ghét của thế giới. Còn theo Người và nghe Người đã là ước vọng của tôi từ tuổi trẻ rất xa xưa.
- Mẹ đã biết rằng Mẹ sẽ là Mẹ Đấng Messi?
- Ồ, không. Nhưng tôi rất hy vọng có thể nghe Người và phục vụ Người, được là kẻ sau cùng trong những kẻ được rao giảng Tin Mừng, nhưng trung thành, ôi! Trung thành!
- Mẹ nghe Người và phục vụ Người, và về niềm vui này thì Mẹ là người thứ nhất. Tôi cũng là mẹ, tôi có những đứa con khôn ngoan, khi tôi nghe chúng nói, qủa tim tôi rộn lên sự hãnh diện. Vậy Mẹ, Mẹ cảm thấy thế nào khi Mẹ nghe Người?
- Một sự xuất thần ngọt ngào. Tôi mất đi trong sự hư vô của tôi, và Lòng Nhân Từ, không là gì khác ngoài chính Người, nâng tôi lên cùng với Người. Lúc đó, trong một cái nhìn đơn sơ, tôi thấy Chân Lý Vĩnh Cửu, và nó trở nên thịt và máu của linh hồn tôi.
- Phúc cho con tim Mẹ, nó trong sạch, vì thế nó hiểu Ngôi Lời. Chúng tôi, chúng tôi không còn trong sạch, vì đầy tội lỗi...
- Vì vậy tôi muốn tặng qủa tim tôi cho mọi người, vì tình yêu sẽ là ánh sáng cho họ hiểu. Vì bà hãy tin, chính tình yêu làm cho mọi việc trở nên dễ dàng. Và tôi, tôi là Mẹ, và nơi tôi, tình yêu chảy như dòng suối.
Hai người đàn bà còn nói với nhau. Một bà già ở bên cạnh Mẹ Chúa, rất trẻ, luôn luôn rất trẻ. Trong lúc đó, Giêsu nói chuyện với ông chủ nhà bên nhà rượu, nơi các người làm mùa, hết nhóm nọ tới nhóm kia đổ các trái nho vào, nho và vẫn còn nho. Các tông đồ ngồi dưới bóng một dàn cây lài, ăn nho và bánh ngon lành.
Hoàng hôn đã tới, công việc chấm dứt từ từ. Bây giờ các nông dân tụ họp tất cả trong cái sân thô sơ, nơi thoang thoảng mùi nho
477
nghiền. Các nông dân khác ở các nhà chung quanh cũng tới.
Giêsu bước lên mấy bậc thang dẫn tới một cái chái có cửa vòng, nơi chứa những bao sản phẩm và các nông cụ. Tôi nhìn thấy nụ cười của Người qua làn tóc mềm mà gió chiều làm dợn sóng. Tôi muốn biết cái tại sao của nụ cười tươi vui này. Niềm vui của nụ cười này giống như rượu mà ông chủ nhà đã nói, lẻn vao trong tim tôi và an ủi nó, vì hôm nay nó rất buồn.
Thưa Cha, đây không phải điều thứ nhất an ủi con bữa nay. Sáng nay cha thấy con khóc lúc rước lễ vì một nỗi đau tinh thần càng lúc càng mạnh. Người đã hiện ra với con giống như mọi lần khi Cha nói: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa”. Nhưng Người không phải chỉ giới hạn ở việc nhìn cha và mỉm cười với con. Người đã bỏ chỗ của Người ở bên trái giường và vòng qua bên phải, Người giơ bàn tay dài, hơi nhịp nhịp, Người cho con những cái vuốt ve cảm được rõ ràng, và Người nói: “Đừng khóc!”... Bây giờ nụ cười của Người cho con được đầy bình an.
Người quay lại. Người ngồi trên bậc trên cùng của cầu thang đã biến thành diễn đàn cho các người được ưu đãi nhất, tức là ông chủ và bà chủ nhà, các tông đồ và Maria. Những người này luôn luôn khiêm nhường, không tìm lên chỗ danh dự, nhưng họ được mời lên đó bởi bà chủ nhà. Mẹ ngồi ở bậc ngay bên dưới bậc Giêsu ngồi, và mái tóc vàng của Mẹ ngang với đầu gối của con Mẹ. Ngồi xế ra bên cạnh, Mẹ có thể nhìn khuôn mặt Người bằng cái nhìn bồ câu say mê của Mẹ. Khuôn mặt êm dịu nhìn nghiêng của Maria nổi bật như đá trắng trên bức tường tối mầu và thô kệch của căn nhà.
Dưới thấp hơn là các tông đồ và các chủ nhà. Trong sân là tất cả các nông dân. Người thì đứng, người thì ngồi trên đất, có những người khác leo lên các bồn rượu và cả các cây sung ở bốn góc sân.
Giêsu nói nhẩn nha, tay trái thọc vào một bao hạt lớn để ở ngay sau Maria, làm như Người chơi với các hạt hay thích thú vuốt ve chúng, trong khi tay mặt làm những cử chỉ bình an.
- Người ta đã bảo Thầy: “Giêsu ơi, hãy đến chúc lành cho công việc của loài người”, và Thầy đã tới. Nhân danh Thiên Chúa, Thầy chúc lành cho nó. Vì mọi công việc, khi nó ngay lành, thì đều đáng được phúc lành của Chúa. Nhưng Thầy đã nói: điều kiện đầu tiên để được phúc lành của Thiên Chúa là luôn luôn ngay thật trong
478
mọi hành động.
Bây giờ chúng ta hãy cùng nhìn xem khi nào, và với điều kiện nào, các hành động là ngay thật. Nó là như vậy khi người ta làm nó với sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn.
Có thể nào phạm tội được, một kẻ nói: “Thiên Chúa nhìn xem tôi. Thiên Chúa để mắt trên tôi, và không một chi tiết nào của các hành động của tôi thoát được mắt Người?” Không, nó không thể, vì tư tưởng tới Thiên Chúa là một tư tưởng bổ ích, và nó đẩy xa tội lỗi hơn mọi sự đe dọa của loài người. Nhưng có phải người ta chỉ có biết sợ Thiên Chúa thôi sao?
Không. Hãy nghe đây. Các con đã được nghe: “Hãy sợ Chúa là Thiên Chúa Ngươi”. Và các tổ phụ đã run, và các tiên tri cũng đã run khi dung nhan Thiên Chúa hay một thiên thần của Thiên Chúa hiện ra với tâm hồn công chính của họ. Trong thực tế, vào thời kỳ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, sự xuất hiện siêu nhiên làm các con tim phải run sợ. Có ai, dù họ trong sạch như một trẻ thơ, mà không run sợ trước Đấng Toàn Năng, trước sự chói rạng muôn đời mà các thiên thần thờ lạy và nhắc đi nhắc lại lời Alleluia Thiên Quốc? Sự sáng láng của một thiên thần đã là không thể chịu đựng, nên Thiên Chúa đã điều chỉnh nó để con mắt loài người có thể nhìn ngắm mà con ngươi và tâm hồn họ không bị đốt cháy. Vậy nhìn thấy Thiên Chúa sẽ là thế nào?
Nhưng việc đó là vậy khi còn cơn thịnh nộ. Khi sự bình an đến thay thế nó thì Thiên Chúa Israel nói: “Ta đã thề và Ta sẽ giữ lời, đây là đấng Ta sai tới - và đó là Thầy - trong khi vẫn không phải là Ta, nhưng là Lời Ta mặc lấy thân xác để cứu chuộc”, lúc đó sự sợ hãi phải được thay thế bằng tình yêu, và chỉ có tình yêu là cái phải dâng cho Thiên Chúa hằng hữu một cách vui mừng, vì thời bình an đã tới cho trái đất, cũng như bình an giữa Thiên Chúa và loài người. Khi những cơn gió đầu tiên của mùa xuân tung vãi phấn hoa của cây nho, người nông dân còn phải sợ, vì còn bao cạm bẫy có thể giương ra cho các trái, bởi thời tiết và côn trùng. Nhưng khi tới giờ vui vẻ của mùa gặt, thì hết phải sợ, và con tim vui mừng vì sự chắc
479
chắn của sản phẩm.
Được loan báo trước bởi các tiên tri, cái chồi của gốc Jessê đã tới. Bây giờ nó ở giữa các con. Chùm nho tuyệt vời mang tới cho các con nước cốt của Sự Khôn Ngoan Đời Đời, và chỉ xin được tiếp nhận và được ép để thành rượu cho loài người. Rượu của niềm vui vô tận cho những ai nuôi mình bằng nó. Nhưng khốn cho những kẻ có thứ rượu này trong tầm tay mà lại từ chối, và ba lần khốn cho những kẻ sau khi đã được nuôi bằng của ăn này, rồi lại vất bỏ nó hay nhào lộn nó với các lương thực của Satan.
Đó là tư tưởng đầu tiên đến với Thầy. Sức mạnh đầu tiên để kéo phúc lành của Thiên Chúa trên các việc nhân loại cũng như siêu nhiên, là ý hướng ngay lành.
Cũng là ngay thật, một người nói: “Tôi giữ luật, không phải để được người ta khen, nhưng là để trung thành với Thiên Chúa”. Cũng là ngay thật, kẻ nào nói: “Tôi theo Đấng Kitô, không phải vì các phép lạ Người làm, nhưng vì các lời khuyên về sự sống đời đời mà Người cho tôi”. Cũng là ngay thật nữa kẻ nói: “Tôi làm việc không phải vì tham lợi, nhưng vì việc làm là do Thiên Chúa đã thiết lập như một phương tiện để thánh hóa, vì nó có khả năng đào tạo, hãm mình, đề phòng và nâng cao. Tôi làm việc để có thể giúp đỡ tha nhân; tôi làm việc để làm rạng rỡ các kỳ công của Thiên Chúa, đấng từ một hạt bé tí, đã làm thành một nắm bông lúa, từ một hạt nho làm thành một cây nho lớn, từ một cái hạt làm ra một cây lớn, và từ tôi, một con người, được kéo ra từ hư vô do ý muốn của Người, được làm kẻ giúp Người trong công việc không ngừng trường tồn lúa miến, cây nho, các thứ trái, cũng như làm đầy mặt đất bằng con người”.
Có những người làm việc giống như con vật chở nặng, nhưng không có tôn giáo nào ngoài: Gia tăng của cải. Bạn nó chết bên cạnh nó vì bị lột trần, vì thiếu thốn, vì kiệt lực? Con cái kẻ khốn nạn này chết vì đói? Đâu có quan trọng gì đối với kẻ chỉ tìm tích góp của cải? Có những người khác, còn tàn nhẫn hơn, không làm việc, nhưng bắt người khác làm việc để tích góp của cải bằng cách
480
khai khẩn mồ hôi của kẻ khác. Lại có những người phung phí những cái mà vì tham lam, họ rút ra được từ sự mệt mỏi của người khác. Thực vậy, với những người này, đó không phải là công việc ngay thật. Các con đừng nói: “Nhưng Thiên Chúa bảo vệ họ”. Không, Người không bảo vệ họ. Họ chỉ được một giờ thắng hôm nay, nhưng họ sẽ mau chóng bị đánh bởi sự nghiêm khắc của Thiên Chúa. Và trong đời này cũng như trong đời muôn thuở, Người sẽ nhắc cho họ giáo điều: “Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi. Hãy yêu Ta trên hết mọi sự, và yêu tha nhân như chính mình ngươi”. Ôi! Nếu những lời này vang lên trong cõi vô tận, nó sẽ rất đáng ngại hơn tiếng sét trên núi Sinai.
Người ta đã nói với các con nhiều, quá nhiều lời. Thầy, Thầy chỉ nói với các con một lời: “Hãy yêu Thiên Chúa, hãy yêu tha nhân”. Nó giống như việc vun xới người ta làm ở gốc nho vào mùa xuân. Tình yêu Thiên Chúa và tha nhân giống như cái bừa làm sạch mặt đất cho khỏi những cây cỏ có hại của ích kỷ và các đam mê xấu; nó giống như cái xẻng đào một vòng chung quanh gốc nho để ngăn cách nó với các cỏ ký sinh, và nuôi nó bằng nước mát của sự tưới tiêu. Nó giống như các con dao nhỏ để tỉa bỏ những cành quá nhiều, để tập trung nhựa và dẫn nó về nơi nó phải sinh trái. Đó là sợi giây buộc cây vào cột chống để đỡ nó. Sau cùng, nó là mặt trời làm chín các trái của thiện chí để làm cho nó thành những trái của sự sống đời đời.
Bây giờ các con vui vì được mùa, lúa thóc dồi dào, hoa trái dư dật. Nhưng thực vậy, Thầy bảo các con rằng niềm vui mà các con cảm thấy bây giờ chỉ là hạt cát so với niềm vui vô hạn mà các con sẽ có khi Thiên Chúa Cha bảo các con: “Hãy đến, hỡi các cành sinh hoa trái, được ghép vào cây nho thật. Các con đã sẵn sàng cho mọi công việc, kể cả khi nó nặng nề, để sinh nhiều trái, bây giờ hãy đến với Ta, giầu có bằng nhiều nước cốt dịu ngọt của tình yêu đối với Ta và tha nhân. Hãy tươi nở trong vườn của Ta cho đến đời đời vô tận”.
Các con hãy quay về với niềm vui vô tận này. Hãy gắn bó cương
481
quyết trung thành theo đuổi thứ của này. Với lòng biết ơn, hãy chúc tụng Thiên Chúa vì luôn luôn giúp các con đạt được nó. Hãy chúc tụng Người vì ơn của Lời Người. Hãy chúc tụng Người vì ơn của mùa gặt tốt. Hãy yêu Chúa và biết ơn Người vì những ơn lành của Người và đừng sợ. Thiên Chúa thưởng gấp trăm cho những kẻ yêu Người.
Giêsu đã chấm dứt, nhưng mọi người đều kêu: “Chúc lành, chúc lành! Phúc lành của Thầy ở trên chúng con!”
Giêsu liền đứng dậy và nói bằng một giọng như sấm: “Xin Chúa chúc lành cho các con và gìn giữ các con. Xin Người tỏ nhan thánh Người cho các con và thương xót các con. Xin Chúa cúi mặt Người xuống trên các con và ban cho các con bình an của Người. Nguyện cho danh Chúa ở trong lòng các con, trong nhà các con và trên đồng ruộng của các con”.
Đám đông nhỏ đã tụ họp hô lên những tiếng kêu vui mừng tung hô Đấng Messi. Nhưng sau đó, họ nín lặng và mở lối cho đi qua một bà mẹ, ẵm trong tay một đứa con trai khoảng mười tuổi, bại liệt. Bà đứng ở chân cầu thang, giơ nó ra như để dâng nó cho Giêsu.
- Đó là một trong những người đầy tớ của con - ông chủ nhà giải thích: “Năm ngoái con bà bị té từ trên sân thượng xuống và bị gẫy lưng. Nó sẽ phải nằm ngửa suốt đời”.
- Trong mấy tháng vừa qua, bà đã trông đợi Thầy - bà chủ nhà thêm.
- Hãy bảo bà đến với Thầy.
Nhưng người đàn bà qúa cảm động tới nỗi bà thấy như chính bà bị tê liệt. Toàn thân bà run cầm cập, và bà vướng vít trong áo dài của bà khi bà bước những bậc thang cao với đứa con trong tay.
Maria liền đứng dậy, thương xót đi xuống để đón bà: “Tới đi, đừng sợ. Con tôi thương chị. Đưa con chị cho tôi đi, như vậy chị sẽ bước dễ dàng hơn. Đi, con gái. Tôi cũng là mẹ”. Và Mẹ ẵm đứa trẻ, êm đềm mỉm cười với nó, bước lên với sức nặng đáng thương ở trong tay.
Bây giờ Maria đã ở trước mặt Giêsu. Mẹ qùi gối và nói: “Con
482
ơi! Cho người mẹ này”. Không một lời nào khác.
Giêsu cũng không đặt những câu hỏi thường lệ, như: “Con muốn Ta làm gì cho con? Con có tin là Ta có thể làm không?...” mà Người chỉ mỉm cười và nói: “Lại đây đi bà”.
Người đàn bà tới ngay bên Maria. Giêsu đặt một bàn tay trên đầu bà và chỉ nói: “Hãy bằng lòng”. Người chưa nói xong câu thì đứa trẻ đang nằm nặng trên cánh tay Maria với đôi chân bất động, liền bất thần bò nhổm dậy với tiếng kêu vui mừng: “Má ơi!”, và chạy lại lăn vào lòng mẹ nó.
Tiếng Hosanna nổi dậy như thấu tới Trời đang đỏ lửa hoàng hôn. Người đàn bà với đứa con ôm ghì trong lòng, không biết nói sao. Bà hỏi Người: “Con phải làm gì, con phải làm sao để nói với Thầy rằng con sung sướng?”
Giêsu bảo bà trong khi vuốt ve bà nữa: “Hãy tốt. Hãy yêu Thiên Chúa và tha nhân, và nuôi con bà trong tình yêu này”.
Nhưng người đàn bà chưa bằng lòng. Bà muốn... bà muốn... và sau cùng xin: “Một cái hôn của Thầy và của Mẹ Thầy cho con nhỏ của con”.
Giêsu cúi xuống hôn nó. Maria cũng vậy. Và trong khi người đàn bà lui ra, rạng rỡ giữa tiếng hoan hô của một đoàn bạn hữu chúc mừng, Giêsu giải thích với bà chủ nhà: “Không cần hỏi nữa. Nó ở trong tay Mẹ Thầy, dù Mẹ không nói gì, Thầy cũng chữa nó. Mẹ sung sướng khi Mẹ có thể an ủi một người đau khổ, và Thầy, Thầy muốn làm vui lòng Mẹ”.
Và giữa Giêsu Maria là một trong những cái nhìn của họ mà chỉ ai thấy mới có thể hiểu, vì ý nghĩa của nó sâu xa chừng nào !
76* GIÊSU TẠI NHÀ DORAS. JONAS QUA ĐỜI
Tôi thấy đồng bằng Esdrelon lúc ban ngày, một ngày nhiều mây vào cuối mùa thu. Chắc trời đã mưa hồi đêm qua, một trong những
483
trận mưa đầu của những tháng mùa đông buồn, vì đất còn ướt, nhưng không nhão. Cũng có gió. Những cơn gió ẩm làm lá vàng rơi và thổi hơi ẩm vào tới xương.
Trong cánh đồng chỉ còn vài cặp bò làm việc. Chúng nặng nề trở lớp đất thịt của cánh đồng mầu mỡ này để chuẩn bị cho hạt giống. Và một cảnh làm tôi đau lòng khi nhìn thấy, là ở một số nơi, chính con người làm công việc của các con bò, để kéo lưỡi cày bằng tất cả sức lực của cánh tay và lồng ngực họ, tì vào những tảng đất đã cày, kiệt quệ như những nô lệ trong công việc nặng nề cả đối với trâu bò.
Giêsu cũng nhìn và dừng con mắt trên cảnh tượng. Khuôn mặt người buồn tới nỗi chảy nước mắt.
Các môn đệ, mười một, vì Judas còn vắng mặt và người mục đồng Giuse không ở đây, nói chuyện với nhau, và Phêrô nói: “Cái thuyền tuy nhỏ, nghèo và mệt, nhưng còn hơn công việc của loài vật này cả trăm lần!” Rồi ông hỏi: “Thầy ơi đây có phải là các đầy tớ của Doras không?”
Chính Simon trả lời: “Tôi nghĩ là không. Các cánh đồng của ông ta ở bên ngoài các vườn cây này, tôi thấy hình như vậy. Và chúng ta chưa thấy chúng”.
Và Phêrô, luôn luôn tò mò, ông bỏ con đường, đi vào một bờ dốc giữa hai cánh đồng. Trên bờ ruộng có bốn người cầy ruộng ốm nhom, đầy mồ hôi, đang ngồi nghỉ một lát. Sự mệt nhọc làm họ thở hổn hển. Phêrô hỏi họ: “Các anh thuộc về Doras?”
- Không, chúng tôi thuộc về một trong những người bà con của ông. Chúng tôi thuộc về Giocana. Còn ông, ông là ai?
- Tôi là Simon Jonas, dân chài Galilê cho tới tuần trăng Ziv. Bây giờ là Phêrô của Giêsu Nazarét, Đấng Messi của Tin Mừng - Phêrô nói với sự kính trọng và hãnh diện như kẻ nói: “Tôi thuộc về César của Rôma Tối Cao của Thiên Chúa”. Và hơn nữa, khuôn mặt thật thà của ông thực sự rạng rỡ trong niềm vui để công bố sự tùy thuộc
484
của ông vào Giêsu.
- Ôi! Đấng Messi! Người ở đâu? - bốn kẻ khốn nạn hỏi.
- Người kia. Vị cao nhất, tóc hoe vàng, mặc áo đỏ đậm. Người đang nhìn lại đây và Người mỉm cười để chờ tôi.
- Ôi!... Nếu chúng tôi tới... Người sẽ đuổi chúng tôi?
- Đuổi các anh?... Tại sao? Đó là bạn của những người khổ sở, nghèo nàn, những kẻ bị áp bức. Và tôi thấy hình như các anh, các anh thực sự là những kẻ đó...
- Ôi! Chúng tôi là vậy! Nhưng không bao giờ đến nỗi như các người của Doras. Ít nhất chúng tôi có bánh ăn no, và người ta chỉ đánh chúng tôi nếu chúng tôi bỏ bê công việc. Nhưng...
- Có nghĩa là nếu bây giờ ông lớn Giocana thấy các anh ở đây nói chuyện, các anh...
- Ông ta sẽ quất chúng tôi còn hơn là người ta đánh chó...
Phêrô huýt sáo nho nhỏ một điệu có ý nghĩa. Rồi ông nói: “Tốt hơn là làm việc ngay ở đây...” Ông đặt tay lên miệng làm loa và kêu lớn: “Lại đây Thầy ơi! Đây là những con tim đau khổ ước ao Thầy”.
- Nhưng ông làm gì vậy? Người?! Đến với chúng tôi?! Nhưng chúng tôi là những đầy tớ ti tiện - bốn người sợ hãi vì một chuyện táo bạo như vậy.
- Nhưng những roi đòn chả dễ chịu gì. Và nếu ông lớn pharisiêu bắt gặp chúng ta, tôi không muốn tham gia một phần đâu... - Phêrô cười nói, và với bàn tay mạnh mẽ của ông, ông lắc người nông dân có vẻ sợ hãi nhất trong bốn người.
Giêsu đang đi ở đàng sau, bước tới với những bước chân dài. Bốn người không biết phải làm gì. Họ muốn chạy lại gặp Người, nhưng sự kính trọng làm họ tê liệt. Những kẻ khốn nạn mà sự độc ác của loài người đã làm cho thành hoàn toàn nhát sợ. Họ liền gục mặt xuống đất, thờ lạy đấng Messi đang đến với họ.
- Bình an cho tất cả những ai ước ao Thầy. Ai ước ao Thầy là ước ao sự lành, và Thầy, Thầy yêu họ như một người bạn. Các con bò
485
dậy đi. Các con là ai?
Nhưng bốn người chỉ ngẩng mặt lên và vẫn qùi gối yên lặng.
Phêrô nói: “Đây là bốn người đầy tớ của Giocana, bà con với Doras. Họ muốn nói với Thầy, nhưng... nếu ông ta bắt gặp, họ sẽ bị đánh bằng gậy, vì vậy con xin Thầy tới. Đứng dậy đi các anh. Người không ăn thịt các anh đâu. Hãy tin tưởng. Hãy nghĩ rằng đây là một người bạn”.
- Chúng con... Chúng con đã nghe nói về Thầy... Jonas đã nói với chúng con...
- Thầy đến cho ông ta. Thầy biết ông ta đã rao giảng Thầy. Các con đã biết gì về Thầy?
- Biết rằng Thầy là Đấng Messi, rằng ông đã xem thấy Thầy lúc Thầy còn bé tí, rằng khi Thầy tới, các thiên thần đã hát bình an cho những người tốt, rằng Thầy đã bị bách hại... Nhưng Thầy đã thoát được, và bây giờ Thầy tìm các mục đồng của Thầy... và rằng Thầy yêu họ. Điều đó, những điều sau cùng ông nói với chúng con. Và chúng con nghĩ: Nếu Người tốt đến nỗi đi tìm các mục đồng và yêu họ, thì chắc chắn người cũng muốn làm cho chúng ta một cái gì tốt... Chúng ta cần có ai yêu chúng ta biết bao...
- Thầy yêu các con. Các con có khổ lắm không?
- Ôi!.. Nhưng những người của Doras còn khổ hơn. Nếu Giocana bắt gặp chúng con ở đây để nói chuyện!... Nhưng hôm nay ông ta ở Gerghesa. Ông ta đi lễ Lều chưa về. Nhưng chiều nay viên quản lý của ông sẽ phát lương thực cho chúng con sau khi đã đo công việc. Nhưng không sao, chúng con sẽ chạy rút thời giờ bị mất bằng cách bỏ qua giờ nghỉ để dùng bữa vào giờ thứ sáu.
- Này anh, tôi có thể làm công việc này không? Có khó làm không? - Phêrô hỏi.
- Khó thì không khó, nhưng mệt nhọc. Đó là công việc của sức lực.
- Tôi có sức. Hãy chỉ cho tôi đi. Nếu con làm được thì Thầy nói, còn con, con sẽ làm con bò. Cậu, Gioan, và cả chú, Andrê, và Giacôbê, hãy nhìn bài học. Chúng ta biến đổi từ cá dưới nước thành
486
sâu trong đất. Nào! - Phêrô cầm đòn ngang của cần lái. Mỗi cái cày có hai người, mỗi bên tay đòn một người. Họ nhìn và bắt chước mọi chuyển động của các nông dân. Ông khỏe, lại vừa được nghỉ ngơi nên ông làm công việc thật hay, và người nông dân khen ông.
- Tôi là đốc công - ông Phêrô vui tính khoái chí kêu lên. “Nào, Gioan! Lại đây. Mỗi cái cày một con bò và một con bê. Cái cày kia thì Giacôbê và con bò non câm là chú em tôi. Nào! A!... Kéo!” Hai cái cày được trang bị như vậy tiến lên, đảo lộn đất, vạch ra những luống dọc theo thửa ruộng. Tới bờ ruộng, họ trở ngược cày và làm một luống khác, đúng điệu tựa như xưa rầy họ vẫn làm công việc này của nông dân.
- Các bạn Thầy, họ tốt chừng nào! - Người đầy tớ bạo dạn nhất của Giocana nói. “Chính Thầy đã làm cho họ nên tốt như vậy?”
- Thầy cho lòng tốt của họ một chiều hướng, cũng như con làm với con dao quắm của người đốn cây. Nhưng lòng tốt đã có ở trong họ, bây giờ nó nẩy nở, vì có người săn sóc nó.
- Các bạn Thầy, họ cũng khiêm nhường nữa, để làm việc thay cho các đầy tớ tội nghiệp!
- Với Thầy, chỉ có thể có những kẻ yêu sự khiêm nhường, hiền lành, kiên trì, thật thà và tình yêu. Bên trên tất cả là tình yêu, vì kẻ yêu Thiên Chúa và tha nhân thì tiếp theo đó, họ sẽ có mọi nhân đức và chiếm được Nước Trời.
- Chúng con, chúng con có thể có không? Chúng con là những kẻ không có thời giờ để cầu nguyện, để lên Đền Thờ, cả đến không thể ngẩng đầu lên khỏi luống cày?
- Các con hãy trả lời: Trong lòng các con có thù ghét kẻ đối xử khắc nghiệt với các con như vầy không? Các con có phản nghịch trách móc Thiên Chúa là đã đặt các con giữa những kẻ rốt hết trên trái đất không?
- Ôi! Thưa Thầy không! Đây là số phận của chúng con. Nhưng khi chúng con mệt đừ, chúng con nằm vật trên chõng và nói: “Thiên Chúa Abraham biết rằng chúng con không thể hơn được nữa, và chúng con chỉ có thể thưa Người rằng: ‘Xin chúc tụng Chúa’. Và
487
chúng con còn nói: ‘Cả hôm nay nữa, chúng con đã không phạm tội’... Thầy biết... Chúng con còn có thể hơi gian, như cùng với bánh, ăn thêm một trái cây, và nêm một chút dầu vào rau luộc. Nhưng ông chủ đã nói: ‘Các đầy tớ đã có đủ bánh và rau luộc. Vào mùa gặt thì cho thêm một chút dấm vào rau luộc cho dãn khát và tăng sức mạnh’. Và chúng con vâng lời. Sau cùng... cái đó còn tệ hơn là không”.
- Và Thầy, Thầy bảo các con rằng thực sự Thiên Chúa Abraham mỉm cười với tâm hồn các con, trong khi Người quay mặt nghiêm khắc về các kẻ chửi rủa Người ở Đền Thờ bằng những lời cầu nguyện dối trá, trong khi họ không yêu thương đồng loại của họ.
- Ôi! Nhưng giữa họ với nhau thì họ yêu nhau. Ít nhất... họ có vẻ như vậy, vì họ bộc lộ sự kính trọng của họ bằng những cái cúi sâu và các tặng phẩm. Chỉ có đối với chúng con là họ không có tình yêu. Nhưng, chúng con khác với họ. Đó là công bằng.
- Không, trong nước của Cha Thầy thì đó không phải là công bằng, và cách xét xử ở đó khác. Không phải những kẻ giầu và những kẻ mạnh, vì lẽ họ như vậy mà được vinh dự, nhưng chỉ những kẻ luôn luôn yêu Thiên Chúa, và yêu Người hơn chính mình họ, và hơn tất cả những thứ khác như tiền bạc, chức quyền, đàn bà, bàn ăn; và yêu đồng loại là tất cả mọi người, giầu cũng như nghèo, quen cũng như lạ, thông thái cũng như vô học thức, tốt cũng như xấu. Phải, cả những người xấu cũng phải yêu họ, không phải vì sự độc ác của họ, nhưng vì thương linh hồn bị thương và chết của họ. Phải yêu họ bằng một tình yêu năn nỉ Cha trên trời chữa họ và cứu chuộc họ. Trong nước Trời sẽ rất hạnh phúc cho những kẻ biết tôn vinh Chúa với sự thật và công chính, và chứng tỏ tình yêu của họ bằng sự trọng kính đối với cha mẹ và cả họ hàng; những kẻ không ăn cắp bất cứ cách nào và bất cứ cái gì, tức là những kẻ đã cho và coi như là chính đáng, ngay cả công việc của các đầy tớ; những kẻ không giết người cũng như danh tiếng của người, và không ước ao muốn giết, cho dù kẻ đó độc ác tới nỗi họ cảm thấy khinh bỉ và muốn phản động; những kẻ không thề gian, làm thiệt hại cho tha
488
nhân hay xúc phạm tới sự thật; những kẻ không ngoại tình hay các tội về xác thịt bất cứ loại nào; những kẻ hiền lành, nhẫn nhục, luôn luôn chấp nhận số phận mình và không ghen tị số phận người khác. Nước Trời thuộc về những người đó, và có thể là người hành khất lại ở bên trên ông vua sung sướng, trong khi ông Thủ Hiến, nói về quyền hành, thì tụt xuống bên dưới số không, một số phận còn tệ hơn là số không. Ông sẽ là mồi của ma qủi, nếu ông hành động ngược với lề luật vĩnh cửu của Thập Giới.
Bốn người há miệng để nghe. Gần bên Giêsu là Batôlômêo, Mathêu, Simon, Philíp, Tôma, Giacôbê và Juđa Alphê. Bốn người kia tiếp tục công việc, mặt đỏ gay, mồ hôi nhễ nhãi, nhưng vui sướng. Một mình Phêrô cũng đủ để duy trì sự vui vẻ.
- Ôi! Jonas có lý chừng nào để gọi Thầy là Thánh, mọi sự nơi Thầy đều là Thánh. Lời nói, cái nhìn, nụ cười. Chưa bao giờ chúng con thấy trong tâm hồn như bây giờ...
- Chúng con không gặp Jonas từ bao lâu rồi?
- Từ khi ông ta bị bệnh.
- Bệnh à?
- Thưa Thầy vâng. Ông không kham nổi nữa. Ông đã phải lết rồi. Ngay từ lúc có công việc của mùa hè và vụ gặt hái, ông đã không đứng nổi nữa. Nhưng... ông ta bắt ông làm việc... Ôi! Thầy nói là phải yêu mọi người. Nhưng thật khó để yêu một con linh cẩu! Và Doras thì còn tệ hơn một con linh cẩu.
- Jonas yêu ông ta...
- Thưa Thầy đúng. Và con nói đó là một vị thánh, cũng giống như những người vì trung thành với Chúa mà bị chết tử đạo.
- Con nói đúng. Con tên gì?
- Michée, và ông này là Saul, ông kia là Joel, ông sau cùng là Isaie.
- Thầy sẽ nhắc tên các con cho Chúa Cha. Các con nói rằng Jonas bệnh nặng?
- Vâng. Việc vừa xong là ông nằm vật xuống chõng, và chúng con không gặp ông nữa. Đó là các người đầy tớ khác của Doras đã
489
nói với chúng con.
- Ông ta có làm việc vào giờ này không?
- Nếu ông đứng nổi thì có. Ông phải làm việc ở bên ngoài vườn táo này.
- Mùa thu hoạch của Doras có khá không?
- Ôi! Nổi tiếng trong cả vùng. Người ta phải chống cho các cây, vì các trái lớn lạ lùng. Doras đã phải xây một hầm mới, vì không có chỗ chứa nho trong hầm cũ. Ông có nhiều chừng nào!
- Vậy Doras phải thưởng cho đầy tớ của ông.
- Thưởng! Chúa ơi! Thầy hiểu sai ông chừng nào!
- Nhưng Jonas bảo Thầy rằng mấy năm trước đây, ông bị đánh hầu chết vì bị mất mấy chùm nho, và ông trở thành nô lệ vì nợ. Ông chủ kết án ông vì bị mất một ít sản phẩm, năm nay ông có hoa lợi lạ lùng, ông phải thưởng cho ông ta.
- Không. Ông ta đã đánh ông tàn nhẫn, vì các năm trước đã không có hoa lợi dồi dào như vậy là do ông không săn sóc đất đai cho đúng mức.
- Người này là một con thú dữ - Mathêu kêu lên.
- Không. Ông ta không có linh hồn - Giêsu nói. “Thầy tạm biệt các con cùng với phúc lành của Thầy. Các con có bánh và đồ ăn cho bữa nay không?”
- Chúng con có cái bánh này - và ông moi trong cái bị để trên đất ra một ổ bánh đen.
- Hãy lấy đồ ăn của Thầy, Thầy chỉ có như vậy. Nhưng hôm nay Thầy sẽ ở nhà Doras và...
- Thầy, ở nhà Doras?
- Ừ, để chuộc Jonas. Các con không biết à?
- Ở đây chả ai nói gì cả. Nhưng... hãy cẩn thận Thầy ạ. Thầy giống như một con chiên trong hang sói.
- Ông ta không thể làm gì Thầy được. Hãy lấy đồ ăn của Thầy. Giacôbê, hãy cho những gì chúng ta có, kể cả rượu của các con. Các con cũng hãy thưởng thức một tí, các người bạn tội nghiệp, cho linh hồn và cho thân xác. Phêrô, chúng ta đi.
490
- Con tới đây Thầy. Chỉ còn luống này nữa là xong - và ông chạy lại với Thầy, đỏ bừng vì mệt. Ông lau mồ hôi bằng áo khoác mà ông đã cởi ra, rồi ông mặc lại và cười sung sướng.
Bốn người không ngừng cám ơn.
- Thầy đi qua lối này chứ Thầy?
- Ừ, chờ Thầy đã. Các con sẽ từ biệt Jonas. Các con có thể làm không?
- Ôi! Được. Thửa ruộng phải cày chiều nay đã cày xong rồi. Đã làm hết hơn hai phần ba. Các bạn Thầy đã làm rất tốt và rất lẹ. Họ rất khỏe. Xin Thiên Chúa chúc phúc cho tất cả. Với chúng con, hôm nay còn hơn là lễ bánh không men. Ôi! Nguyện Thiên Chúa chúc lành cho tất cả. Tất cả! Tất cả!
Giêsu đi thẳng tới vườn táo. Người băng qua nó và tới cánh đồng của Doras. Nhiều nông dân khác cũng đang cày hay cúi xuống để thu nhặt cỏ rả trên các luống cày. Nhưng Jonas không có ở đó. Người ta nhận ra Giêsu, họ chào Người nhưng không rời bỏ công việc.
- Jonas đâu?
- Sau hai giờ, ông gục ngã trên luống cày và người ta khênh ông về nhà. Ông Jonas tội nghiệp. Chỉ còn phải chịu đựng một thời gian ngắn nữa thôi. Ông đã thực sự tới mức. Chúng con sẽ không bao giờ có được người bạn tốt hơn.
- Các con có Thầy trên trái đất, và có ông trong lòng Abraham. Những người chết yêu những người sống bằng một tình yêu kép: tình yêu của họ và tình yêu họ nhận được nơi Thiên Chúa, vì thế nên là tình yêu trọn hảo.
- Ôi! Xin Thầy đến ngay với ông để ông thấy Thầy trong sự đau khổ của ông.
Giêsu chúc lành và đi khỏi.
- Bây giờ thầy sẽ làm gì? Thầy sẽ nói sao với Doras? - các môn đệ hỏi.
- Thầy sẽ tới tựa như Thầy không biết gì cả. Nếu ông cảm thấy kinh ngạc, ông có thể đày Jonas và các đầy tớ ông hơn nữa.
491
- Bạn anh có lý: đó là con chó sói - Phêrô nói với Simon.
- Lazarô chỉ có thể nói sự thật, và đó không phải là người hay nói xấu. Anh sẽ biết ông và sẽ yêu ông - Simon trả lời.
Người ta đã thấy ngôi nhà của người pharisiêu: rộng, thấp, nhưng đẹp, ở giữa một vườn cây ăn trái lúc này không còn trái. Nhà miền quê, nhưng giầu có và thực dụng. Phêrô và Simon tới trước để báo tin.
Doras ra. Đó là một ông già diện mạo cay nghiệt của loài mãnh cầm già. Cái nhìn mỉa mai, cái miệng rắn với nụ cười giả dối trong bộ râu trắng nhiều hơn đen: “Chào Giêsu”. Ông nói lời chào thân thiện và tỏ tường là khinh bỉ.
Giêsu không nói “bình an”, nhưng trả lời: “Cầu cho sự cứu rỗi đến với ông”.
- Vào đi. Nhà này đón ông. Ông đúng mực như một ông vua.
- Như một người ngay thẳng - Giêsu đáp trả.
Doras cười tựa như đó là lời nói chơi.
Giêsu quay lại nói với các môn đệ không được mời: “Vào đi. Đó là các bạn tôi”.
- Họ hãy vào... Nhưng... Ông này không phải là nhân viên sở thuế con ông Alphê sao?
- Đó là Mathêu, môn đệ Đức Kitô - Giêsu nói bằng một giọng mà ông này hiểu, và ông cười mỉa mai hơn trước.
Doras muốn giày đạp ông thầy nghèo khó xứ Galilê dưới sự giầu sang của nhà ông mà ở bên trong đúng là rất lộng lẫy. Lộng lẫy và băng giá. Các đầy tớ giống như các nô lệ. Họ cúi đầu đi, lánh mặt mau lẹ, luôn luôn sợ bị phạt. Người ta cảm thấy đây là nơi ngự trị của lạnh lùng và thù ghét.
Nhưng Giêsu đâu có để mình bị lôi kéo bởi sự giầu sang hay bởi sự trưng bày của gia nghiệp hay dòng họ... Doras nhận ra sự dửng dưng của ông thầy nên dẫn Người ra vườn cây ăn trái. Ông giới thiệu những loại cây hiếm và biếu những trái mà các đầy tớ mang tới trên những cái khay và trong những cái chén bằng vàng. Giêsu nếm và khen ngon. Có những trái bảo trì trong nước mật, có những
492
trái đào tuyệt vời còn tự nhiên và những trái lê lớn khác thường.
- Trong toàn thể Palestin chỉ có mình tôi có, và tôi tin rằng trong hết bán đảo cũng không ai có. Tôi nhập nó từ bên Ba Tư và xa hơn nữa. Khả năng của các đoàn du mục đã đáng giá đối với tôi. Ngay cả các ông Thủ Hiến cũng không có những trái này. Có lẽ cả César cũng không. Tôi đếm các trái và tôi đòi hết các hột. Các trái lê chỉ được ăn tại bàn của tôi, vì tôi không muốn người ta lấy mất một hạt nào. Tôi có gởi cho Anna, nhưng nấu chín để các hạt bị chết.
- Nhưng đó là các cây của Thiên Chúa, và mọi người đều bình đẳng.
- Bình đẳng? Ồ! Tôi mà bình đẳng với... với các tên Galilê của ông sao?
- Linh hồn đến từ Thiên Chúa, và Người đã tạo dựng nên nó bình đẳng.
- Nhưng tôi, tôi là Doras, người pharisiêu trung thành... - ông ta giống như con gà lôi xòe đuôi khi ông nói câu này.
Giêsu xuyên thấu ông bằng đôi mắt lam ngọc càng lúc càng phát quang của Người. Đó là dấu hiệu chỉ sự tràn đầy tình thương hay nghiêm khắc nơi Người. Giêsu cao hơn Doras rất nhiều nên nhìn suốt con người của ông. Người oai vệ trong chiếc áo đỏ, bên cạnh ông pharisiêu nhỏ thó, hơi gù, nhẵn nhụi trong y phục thùng thình với vô số tua rua gợi cảm.
Doras, sau một lúc tự cảm phục mình, liền kêu: “Nhưng Giêsu, tại sao ông lại sai tới nhà Doras, người pharisiêu thuần túy, một ông Lazarô, anh của một gái điếm? Lazarô là bạn của ông sao? Ông không nên. Ông không biết rằng ông ta bị nguyền rủa, vì em ông ta là một gái điếm sao?”
- Tôi chỉ biết có Lazarô, và lối sống của ông ta ngay thẳng.
- Nhưng thế giới nhớ tới tội lỗi của nhà đó, và coi như vết nhơ bắn lên trên các bạn bè... Đừng tới đó. Tại sao ông không là pharisiêu? Nếu ông muốn... Tôi rất mạnh thế... Tôi sẽ làm cho ông được đón nhận như vậy, dù ông là người Galilê. Tôi có toàn quyền tại Đại Pháp Đình. Anna ở trong tay tôi giống như mảnh áo khoác
493
của tôi đây. Người ta sẽ sợ ông hơn.
- Tôi chỉ muốn người ta yêu tôi.
- Tôi sẽ yêu ông. Ông thấy rằng tôi đã yêu ông trong khi nhường Jonas cho ông theo như ước muốn của ông.
- Tôi đã trả tiền cho ông.
- Thực sự tôi ngạc nhiên là ông có thể trả một món như vậy.
- Không, không phải tôi, nhưng một người bạn của tôi.
- Được, được rồi. Tôi không điều tra làm gì. Tôi nói: Ông thấy rằng tôi yêu ông và tôi muốn làm vui lòng ông. Ông sẽ có Jonas sau bữa ăn. Phải là chính ông tôi mới làm việc hy sinh này... - và ông cười cách độc ác.
Giêsu khoanh tay, xuyên thấu ông bằng cái nhìn nghiêm khắc hơn. Họ còn ở trong vườn ây ăn trái, trong khi chờ bữa ăn.
- Nhưng ông cũng phải làm vui lòng tôi: niềm vui cho niềm vui. Tôi cho ông người đầy tớ tốt nhất, vì vậy tôi mất một mối lợi đáng kể. Năm nay, tôi biết rằng ông đã tới vào lúc nóng bức nhất, và phúc lành của ông đã cho tôi một mùa thu hoạch làm cho vùng sở hữu của tôi nổi tiếng. Bây giờ hãy chúc lành cho các đoàn vật và các cánh đồng lúa. Như vậy năm tới tôi sẽ không hối tiếc Jonas... và trong khi chờ đợi, tôi sẽ tìm một người tốt để thay thế cho ông ta. Đi, hãy chúc phúc, hãy cho tôi cái vui được nổi tiếng khắp Palestin, và có những chuồng súc vật, những kho lẫm đầy tràn mọi của cải. Đi! - và ông cầm tay Người, tìm cách kéo Người đi, bị bắt bởi cơn sốt vàng.
Nhưng Giêsu chống cự: “Jonas đâu?” Người hỏi cách nghiêm khắc.
- Đang cày ruộng. Ông còn muốn làm công việc này cho ông chủ tốt của ông. Nhưng ông sẽ tới trước khi xong bữa ăn. Trong khi chờ đợi, hãy tới chúc phúc cho đoàn vật, đồng lúa, vườn trái cây, vườn nho, các máy ép. Tất cả, tất cả... Ôi! Năm tới tôi sẽ hãnh diện chừng nào! Vậy tới đi!
- Jonas đâu? - Giêsu hỏi bằng một giọng như sấm.
- Nhưng, tôi nói với ông rồi: Ông điều khiển việc cày ruộng. Đó
494
là người đầy tớ thứ nhất, nên ông không phải làm việc, ông chỉ điều khiển.
- Tên nói dối!
- Nói dối, tôi? Tôi thề điều đó trên Javê!
- Tên thề gian!
- Tôi, tôi thề gian? Tôi là người tín hữu trung thành nhất trong các người trung thành. Cẩn thận lời nói của ông!
- Tên sát nhân! - Giêsu càng lúc càng cao giọng, và lời sau cùng thực sự là tiếng sét.
Các môn đệ sát lại chung quanh Thầy, các đầy tớ tỏ ra sợ hãi tại các cửa. Khuôn mặt Giêsu nghiêm khắc tới nỗi không ai chịu nổi. Đôi mắt tựa như phát ra lân tinh.
Doras phát sợ một lát, ông như thu mình lại nhỏ hơn, một gói vải vóc rất mỏng, trước một Giêsu oai hùng trong chiếc áo len dầy mầu đỏ thẫm. Nhưng rồi sự kiêu căng lại chộp lấy ông, ông thét lên bằng cái giọng ăng ẳng của con cáo: “Trong nhà tôi, tôi là người duy nhất ra lệnh. Ra khỏi đây, tên Galilê đê hèn!”
- Tôi sẽ ra, sau khi đã nguyền rủa ông cùng với các đồng lúa, các đoàn vật, các vườn nho, cho năm nay và các năm sẽ tới.
- Không, cái đó thì không! Phải, đúng vậy, Jonas bị bệnh, nhưng ông ta được săn sóc, rất được săn sóc. Hãy rút lời nguyền rủa của ông lại đi!
- Jonas đâu? Bảo một người đầy tớ dẫn Ta lại với ông ngay lập tức. Ta đã trả tiền, và vì với ông, đó là một món hàng, một cái máy, Ta nhìn ông ta như vậy. Vì Ta đã trả tiền, Ta đòi hỏi phải được món hàng.
Doras kéo ở trong bụng ra một cái còi bằng vàng và thổi ba hồi. Một đám đầy tớ như đám mây từ trong nhà, từ cánh đồng, từ mọi phía chạy đổ về, cúi rạp tới nỗi như họ bò tới bên ông chủ khủng khiếp: “Hãy mang Jonas đến cho người này và giao ông ta cho hắn. Ông đi đâu?”
Giêsu không trả lời. Người đi theo các người đầy tớ vội vã đi ra bên kia khu vườn, về phía nhà của các nông dân: những cái hang
495
thê thảm của các nông dân tội nghiệp. Họ vào trong cái ổ chuột của Jonas.
Ông này đã trở nên một bộ xương. Ông thở hổn hển, nửa mình trần, vật lộn với cơn sốt trên cái chõng bằng sậy mà nệm là một cái áo vá chằng chịt, một mảnh áo khoác làm mền. Người đàn bà trẻ lần trước đã giúp ông, săn sóc ông như bà có thể.
- Jonas! Bạn Thầy! Thầy tới tìm con!
- Thầy, Chúa của con! Con sắp chết... Nhưng con sung sướng được có Thầy ở đây.
- Người bạn trung thành, bây giờ con được tự do, và con sẽ không chết ở đây. Thầy sẽ đem con về nhà Thầy.
- Tự do? Tại sao? Về nhà Thầy? A! Vâng! Thầy đã hứa với con là con sẽ gặp Mẹ Thầy.
Giêsu đầy tình yêu, cúi xuống trên cái giường khốn nạn của kẻ tội nghiệp, và niềm vui như làm cho Jonas tỉnh táo lại.
- Phêrô, con khỏe, hãy đỡ Jonas dậy. Và các con, hãy cho mượn áo khoác của các con. Cái chõng này qúa cứng cho một người ở trong tình trạng này.
Các môn đệ mau mắn cởi áo khoác của họ ra. Họ gấp đôi, trải ra, lấy vài cái khác làm gối. Phêrô đặt ông xuống, và Giêsu đắp cho ông bằng chính áo của Người.
- Phêrô, con có tiền không?
- Thưa Thầy có, con có bốn mươi đồng.
- Tốt, chúng ta đi. Can đảm lên Jonas. Chỉ còn mệt một ít nữa, rồi sẽ là bình an lớn lao, trong nhà Thầy, ở bên cạnh Maria...
- Maria... Đúng... Ôi! Trong nhà Thầy! - Trong sự kiệt quệ của ông, ông khóc, ông Jonas tội nghiệp, ông chỉ biết khóc.
- Chào bà. Chúa sẽ chúc phúc cho bà vì tình thương của bà.
- Chào Chúa. Chào Jonas. Hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện cho con - người đàn bà trẻ khóc.
Khi họ ra tới cửa thì đây, Doras tới. Jonas có một cử chỉ sợ, và ông giấu mặt. Nhưng Giêsu để một tay trên đầu ông và đi ra, nghiêm khắc như một ông quan tòa. Đoàn diễn hành thê thảm ra ngoài sân,
496
đi vào lối vườn rau.
- Cái giường này của tôi. Tôi bán người đầy tớ cho ông chứ không bán giường.
Không nói một lời, Giêsu quăng túi tiền vào chân ông ta. Doras lượm lấy, đổ ra đếm: “Bốn mươi đồng năm hào. Chả nhiều nhặt gì!”
Giêsu nhìn trừng trừng vào mặt tên cai ngục tham lam ghê tởm. Đó là một cảnh không thể tả được. Người không nói một lời nào.
- Ít nhất, hãy nói cho tôi là ông đã rút lời nguyền rủa!
Giêsu lại giáng sét cho ông bằng cái nhìn và trả lời vắn tắt: “Tôi giao phó ông cho Thiên Chúa của núi Sinai”, rồi Người đi thẳng tới bên cái chõng, do Phêrô và Andrê khênh một cách cẩn thận.
Doras thấy rằng tất cả đều vô ích, và sự luận phạt là chắc chắn, liền thét lên: “Giêsu, chúng ta sẽ gặp lại nhau, mi sẽ ở trong giữa các móng vuốt của ta! Ta sẽ làm một trận tử chiến với mi. Hãy mang cái bóng người đó đi. Bây giờ nó vô ích đối với ta, điều đó đỡ cho ta khỏi phí tổn mai táng. Đi đi, đi đi! Satan đáng nguyền rủa! Nhưng ta sẽ điều động tất cả Đại Pháp Đình chống lại mi. Satan! Satan!”
Giêsu làm như không nghe thấy. Các môn đệ hoảng hồn. Giêsu chỉ lo tới Jonas. Người tìm những lối đi ít gập ghềnh hơn, những đường còn trong tình trạng tốt, cho tới khi Người tới một ngã tư gần các ruộng của Giocana. Bốn người nông dân chạy ra chào người bạn ra đi và chào Giêsu. Người chúc lành cho họ.
Nhưng đường từ Esdrelon tới Nazarét thực xa, mà họ không thể đi nhanh được vì gánh nặng thảm thương của họ. Trên lộ lớn, không thấy một cái xe lớn nhỏ nào. Không có gì cả. Họ tiến bước từ từ. Jonas tựa như ngủ, nhưng tay ông không rời bàn tay của Giêsu.
Vào buổi chiều, kìa, một cái xe quân đội Rôma bắt kịp họ.
- Nhân danh Thiên Chúa, xin dừng lại - Giêsu nói khi giơ tay ra.
Hai người lính dừng lại. Dưới mui xe đã che lên, vì trời bắt đầu mưa, một quân nhân có hạng ló đầu ra: “Ông muốn gì?” Anh ta hỏi
497
Giêsu.
- Tôi có một người bạn gần chết, tôi xin cho ông một chỗ trên xe.
- Không được phép... nhưng... lên đi. Chúng tôi cũng không phải là loài chó, chúng tôi khác.
Họ đẩy cái chõng lên.
- Bạn ông à? Ông là ai?
- Rabbi Giêsu Nazarét.
- Ông! Ôi!... - Người sĩ quan nhìn Người cách tò mò. “Nếu đúng là ông thì hãy lên bao nhiêu có thể. Chỉ cần là đừng để cho người ta thấy... Đó là mệnh lệnh... Nhưng bên trên mệnh lệnh còn có tình nhân đạo, phải không? Và ông, ông tốt, tôi biết. Ê! Chúng tôi, lính tráng, chúng tôi biết hết... Làm sao tôi biết được? Cả đến các cục đá cũng nói về điều tốt điều xấu, và chúng tôi có tai để nghe, để phục vụ César. Ông không phải là Kitô giả như những người trước đây, khích động và phản loạn. Ông tốt. Rôma biết. Người này... bệnh rất nặng”.
- Vì vậy tôi đem ông ta về nhà Mẹ tôi.
- Hum! Bà sẽ không phải săn sóc ông ta lâu dài đâu. Cho ông uống tí rượu đi. Có rượu ở trong bình đó. Anh, Aquila, quất ngựa chạy mau lên, và anh, Quintus, đưa cho tôi cái tầng mật ong và tí bơ. Nó là của tôi đó. Nó sẽ làm ông ta dễ chịu. Ông ấy ho nhiều. Mật ong rất tốt để trị ho.
- Anh rất tốt.
- Không, tôi ít xấu hơn nhiều người. Và tôi sung sướng được có ông ở với tôi. Ông hãy nhớ tới Publius Quintilianus thuộc đoàn quân nước Ý. Tôi ở Cêsarê, nhưng bây giờ tôi đi Tôlêmaide. Có lệnh kiểm tra.
- Anh không phải là kẻ thù đối với tôi.
- Tôi? Kẻ thù của những kẻ độc ác, không bao giờ của người tốt. Tôi cũng muốn tốt. Ông hãy nói cho tôi: đối với chúng tôi, người của vũ khí, ông rao giảng giáo lý nào?
- Chỉ có một giáo lý cho mọi người: công bằng, thật thà, kiên gan, yêu thương. Thực hành nghề nghiệp, không lạm dụng, ngay cả
498
trong sự cần thiết cứng rắn của nghề lính. Hãy kính trọng con người, hãy tìm biết chân lý, tức là Thiên Chúa độc nhất và vĩnh cửu, vì không có sự hiểu biết này thì mọi hành động không có Ân Sủng, và bởi vậy không được phần thưởng đời đời.
- Nhưng khi tôi chết thì những điều lành tôi đã làm sẽ là gì?
- Kẻ đến với Thiên Chúa thực thì sẽ tìm lại được những việc lành này ở đời bên kia.
- Tôi sẽ sinh ra lần thứ hai? Tôi sẽ trở nên ông quan, và có thể cả là hoàng đế?
- Không, anh sẽ trở nên giông giống như Thiên Chúa bằng cách anh kết hợp với phúc lộc đời đời của Người trên Trời.
- Thế nào? Trong Olympe (nơi ở của các thần), tôi, giữa các thần?
- Không có nhiều thần, chỉ có một Thiên Chúa thực, đấng mà tôi rao giảng. Đấng đó nghe anh, nhận xét lòng tốt của anh và sự ước ao biết điều lành của anh.
- Tôi thích như vậy đó! Tôi không biết rằng Thiên Chúa có thể lo tới tên lính tội nghiệp dân ngoại.
- Chính Người đã dựng nên anh, vậy Người yêu anh và muốn anh ở với Người.
- Ê!... Tại sao không? Nhưng... chả có ai nói với chúng tôi về Thiên Chúa... Không bao giờ.
- Tôi sẽ tới Cêsarê và anh sẽ nghe tôi.
- Ôi! Đúng, tôi sẽ tới nghe ông. Nazarét đây rồi. Tôi muốn giúp đỡ ông nữa, nhưng nếu người ta thấy tôi...
- Tôi xuống và tôi chúc lành cho anh vì lòng tốt của anh.
- Chào Thầy.
- Nguyện Thiên Chúa tỏ mình ra cho các anh. Chào.
Họ xuống và đi bộ.
- Jonas, một lát nữa là con được nghỉ - Giêsu nói để khích lệ ông.
Jonas mỉm cười. Ông càng lúc càng bình tĩnh khi chiều về và sự chắc chắn rằng ông ở xa Doras.
Gioan và anh ông chạy về trước để báo tin cho Maria. Khi đoàn diễn hành nhỏ vào tới Nazarét thì đã đêm, hoàn toàn vắng lặng.
499
Maria ở ngưỡng cửa để chờ Con Mẹ.
- Mẹ ơi, Jonas đây. Ông tới trú nhờ trong sự êm dịu của Mẹ để bắt đầu nếm Thiên Đàng của ông. Sung sướng không Jonas?
- Sướng! Sướng! - người đàn ông kiệt quệ thì thầm trong cơn xuất thần.
Người ta mang ông vào căn phòng nhỏ nơi Giuse qua đời: “Con ở trên cái giường của ba Thầy. Chỗ này là Mẹ Thầy, chỗ này là Thầy. Con thấy không? Nazarét trở nên Bétlem. Bây giờ con là Giêsu bé tí ở giữa hai người yêu con, và những người này là những kẻ tôn kính nơi con một tôi tớ trung thành. Con không nhìn thấy các thiên thần, nhưng các ngài bay lượn trên con với các đôi cánh ánh sáng của các ngài, và hát thánh vịnh của ngày giáng sinh”.
Giêsu đổ sự êm dịu của Người trên ông Jonas tội nghiệp càng lúc càng yếu đi. Dường như ông chống chọi cho tới giờ này để chết ở đây... nhưng ông rất sung sướng. Ông mỉm cười, tìm cách hôn bàn tay Giêsu và Maria, và để nói, để nói... Nhưng sự kiệt lực bẻ gẫy tiếng nói của ông. Maria an ủi ông như một người mẹ. Và ông nhắc lại: “Vâng... Vâng” với nụ cười hạnh phúc trên khuôn mặt hốc hác.
Các môn đệ đứng ở cửa ra vườn, quan sát trong yên lặng, cảm động sâu xa.
- Thiên Chúa đã chấp nhận sự ước ao lâu dài của con. Ngôi sao trong đêm dài của con đã trở thành Sao Mai Muôn Đời. Con biết tên của nó - Giêsu nói.
- Giêsu, tên Thầy! Ôi! Giêsu! Các thiên thần... Ai hát cho con nhạc khúc các thiên thần? Linh hồn con nghe thấy nó, nhưng lỗ tai con cũng muốn nghe... Ai, để con ngủ sung sướng... Con đã buồn ngủ biết bao, con đã chịu đựng biết bao! Bao là nước mắt!... Bao là chửi rủa... Doras... Con tha cho ông... nhưng con không muốn nghe tiếng ông mà con cứ nghe... Giống như tiếng nói của Satan gần bên con là kẻ sắp chết. Ai bao phủ tiếng nói này đi cho con bằng những lời đến từ Trời?
Và Maria, bằng cùng một cung điệu của bài hát ru, nhè nhẹ hát: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao thẳm, và bình an cho người dưới thế”. Mẹ nhắc lại hai ba lần, vì mẹ thấy Jonas bình tĩnh lại và
500
nghe.
Sau một lúc ông nói. “Doras không nói nữa, chỉ có các thiên thần... và có một bé sơ sinh... trong máng cỏ... giữa một con bò và một con lừa... Đó là Đấng Messi... Và con thờ lạy Người. Cùng với Người có Giuse và Maria...” Tiếng nói tắt đi trong một tiếng ọc ọc vắn tắt và sự im lặng sau đó.
- Bình an trên trời cho người thiện chí! Ông chết rồi. Chúng ta sẽ đặt ông trong ngôi mộ nghèo của chúng ta. Ông xứng đáng được chờ đợi sự sống lại của các kẻ chết, ở bên cạnh Vị Công Chính là Ba Thầy - Giêsu nói.
Tất cả thị kiến chấm dứt trong khi Maria Alphê bước vào, tôi không biết ai đã báo tin cho bà.
77* GIÊSU Ở TRONG NHÀ CỦA JACOB
GẦN HỒ MÉRON
Tôi đã nói rằng ngoài hồ Galilê và Biển Chết, nước Palestin còn có một cái hồ nhỏ khác, hay một cái ao, tóm lại là một gương nước mà tôi không biết tên.
Tôi rất tồi trong vấn đề ước lượng, nhưng với mắt nhìn thì tôi thấy cái bề mặt nước nhỏ này cũng khoảng một bề hai và một bề ba cây số. Không nhiều nhặt gì, người ta thấy là nó nhỏ, nhưng nó đẹp, bao quanh bằng cây xanh. Đó là một tấm gương rất trong xanh, rất yên tĩnh tới nỗi nó giống như một cái vảy lớn bằng sứ thiên quốc. Ở giữa là mầu lạt hơn, hơi dao động, chắc là tại dòng nước sông đổ vào ở phía bắc và chảy ra ở phía nam. Vì đáy hồ không sâu nên dòng nước chảy qua như một cái mạch sống ở giữa vùng nước đọng, cho ta nhìn thấy sự hiện diện của nó bởi một mầu khác, và bởi sự dao động nhẹ của nó.
Không có thuyền buồm trên cái hồ nhỏ này, chỉ có vài cái ghe nhỏ của các dân chài đơn độc đang thả xuống hoặc kéo lên những cái lờ, hoặc chở một người du hành băng qua để rút vắn đường đất.
501
Rất nhiều đoàn vật, chắc là từ các đồng cỏ trên núi đã xuống vì lẽ trời vào thu đã lâu, đang ăn cỏ trên bờ, trong các cánh đồng, nơi có cỏ xanh và mọng.
Tại điểm phía nam của cái hồ có hình bầu dục, có một con đường lớn chạy từ đông sang tây, đúng hơn là từ đông bắc qua tây nam. Nó khá tốt và đông người qua lại để vào các xứ tản mát trong miền.
Giêsu với các người của Ngài đang đi trên con đường này. Đây là một ngày âm u. Phêrô nhận xét: “Đáng lẽ không nên tới nhà người đàn bà này, vì ban ngày càng lúc càng ngắn và âm u, mà Jêrusalem thì còn xa”.
- Chúng ta sẽ tới kịp. Phêrô, hãy tin Thầy: Thà rằng vâng lời Thiên Chúa để làm điều lành còn hơn là tham dự vào các nghi lễ bên ngoài. Bây giờ người đàn bà này chúc tụng Thiên Chúa cùng với tất cả các con bà, chung quanh người trưởng gia đình đã được lành mạnh tới nỗi ông có thể đi Jêrusalem mừng lễ Lều, trong khi đáng lẽ giờ này ông đang ngủ trong mồ dưới các vải băng và các hương liệu. Đừng bao giờ lẫn lộn đức tin với các hành vi bên ngoài. Đừng bao giờ chỉ trích. Làm sao con lại ngạc nhiên với các pharisiêu, trong khi con cũng ảo tưởng về một sự sùng đạo hiểu sai, và nếu con đóng cửa lòng lại với tha nhân và nói: “Tôi phục vụ Thiên Chúa, vậy là đủ”.
- Thầy có lý. Con ngu hơn một con lừa cái.
- Và Thầy giữ con ở với Thầy để làm cho con nên khôn ngoan. Đừng sợ. Chouza đã cung cấp cho Thầy một cái xe để đi cho tới gần Jaboc. Từ đó tới khúc sông cạn không còn bao nhiêu đường nữa. Ông đã năn nỉ qúa chừng, và với những lý do chính đáng đến nỗi Thầy nhượng bộ, dù Thầy cho rằng Vua của các người nghèo thì phải dùng các phương tiện của người nghèo. Nhưng cái chết của Jonas đã bó buộc chúng ta phải chậm lại, và Thầy phải thích nghi với những điều không tiên liệu.
Các môn đệ nói về Jonas trong khi phàn nàn về cuộc đời khốn nạn của ông và ước ao cái chết hạnh phúc của ông. Simon Zêlote thì thầm: “Tôi đã không thể làm cho ông được sung sướng và cho Thầy một môn đệ thực sự chín mùi bởi một cuộc tử đạo lâu dài và
502
một đức tin không lay chuyển... Tôi tiếc vì vậy. Thế giới cần biết bao những con người trung thành, đầy lòng tin nơi Giêsu, để đền bù số người nghi ngờ và sẽ nghi ngờ”.
- Không sao, Simon - Giêsu trả lời. “Bây giờ ông sung sướng và hoạt động nhiều hơn. Và con, con đã làm cho ông và cho Thầy nhiều như chưa từng có ai làm. Thầy cám ơn con, cả cho ông nữa. Bây giờ ông biết ai là kẻ giải phóng cho ông, và ông chúc phúc cho con”.
- Vậy là ông cũng nguyền rủa Doras - Phêrô kêu lên.
Giêsu nhìn ông và hỏi: “Con tin vậy sao? Con lầm. Jonas đã là người công chính, bây giờ ông là vị thánh. Khi còn sống, ông đã không ghét ai và không nguyền rủa ai, thì bây giờ ông cũng không ghét, không nguyền rủa ai. Từ nơi ông đang ở, ông nhìn lên Thiên Đàng và ông sung sướng, vì ông biết rằng Lâm Bô sắp để cho những người ở đó đi ra. Ông không làm gì khác”.
- Vậy với Doras... Sự nguyền rủa của Thầy có hiệu qủa không?
- Trong ý nghĩa nào, Phêrô?
- Trong việc dẫn ông tới suy nghĩ và thay đổi... hoặc là... đánh ông bằng một hình phạt.
- Thầy giao phó ông cho sự công thẳng của Thiên Chúa. Thầy, Tình Yêu, Thầy chỉ bỏ rơi ông.
- Lạy Tình Thương! Con không muốn ở vào địa vị của ông đâu.
- Con cũng không.
- Con cũng không.
- Chả ai muốn cả, vì sự công thẳng của Đấng Trọn Lành, nó sẽ thế nào đây? - các môn đệ nói.
- Với các người tốt, nó sẽ là sự xuất thần; với các Satan, nó sẽ là tiếng sét, các bạn ạ. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng: Suốt một đời làm nô lệ, bị cùi, hành khất... đó là toàn phúc vương giả, so với một giờ, chỉ một giờ thôi, chịu đựng hình phạt của Thiên Chúa.
- Mưa rồi Thầy ơi! Chúng ta làm sao? Đi đâu đây?
Qủa vậy, trên mặt hồ tối om vì phản chiếu bầu trời bây giờ đầy mây mầu chì, đã bắt đầu có những giọt đầu tiên của một cơn mưa
503
đe dọa trở nên mạnh hơn.
- Vào trong nhà nào đó. Chúng ta sẽ xin trú nhân danh Thiên Chúa.
- Chúng ta hy vọng gặp được người nào đó cũng tốt như tên lính Rôma. Tôi không ngờ là như vậy đó... Tôi luôn luôn tránh họ như người ô uế, nhưng tôi thấy rằng... đúng, rút cuộc, họ có giá hơn nhiều người trong chúng ta - Phêrô nói.
- Con thích các người Rôma không? - Giêsu hỏi.
- Ê! Con không thấy họ xấu hơn chúng ta. Đó là những người Samari, vậy đó...
Giêsu mỉm cười không nói gì. Họ gặp một người đàn bà nhỏ đang đẩy tám con cừu cho tiến bước.
- Bà ơi! Bà có thể nói cho chúng tôi biết là chúng tôi có thể tìm được một mái nhà ở đâu không?... - Phêrô hỏi.
- Tôi là đầy tớ của một người nghèo và có một mình. Nhưng nếu qúi vị muốn đến... Tôi tin rằng ông chủ sẽ tiếp đón qúi vị cách hảo tâm.
- Chúng ta đi.
Họ đi dưới cơn mưa, bước mau ở giữa những con cừu mập, để tránh mưa. Họ bỏ con đường lớn và đi vào con đường nhỏ dẫn tới một căn nhà nhỏ thấp.
- Đó, đây rồi. Chạy trước đi, trong khi tôi dẫn các con cừu vào chuồng. Bên kia bức tường nhỏ có một cái sân, đi qua sân đó là tới nhà. Hẳn ông đang ở trong bếp. Đừng lưu ý nếu ông ta qúa ít lời... Ông có nhiều đau khổ - người đàn bà đi về một cái chòi ở bên phải, Giêsu và các người của Ngài quẹo tay trái.
Đây, cái sân với cái giếng và lò nướng ở cuối sân, bên cạnh là cây táo. Đây là cái cửa mở rộng của nhà bếp, nơi có một lò lửa cháy bằng cành cây, và một người đàn ông đang sửa chữa một nông cụ bị hư hỏng.
- Bình an cho nhà này. Tôi xin ông một chỗ trú qua đêm cho tôi và các bạn tôi - Giêsu nói ở trước ngưỡng cửa.
Người đàn ông ngẩng đầu: “Vào đi” ông nói, “và xin Thiên
504
Chúa trả cho ông sự bình an mà ông tặng. Nhưng... Bình an ở đây! Nó là kẻ thù của Jacob từ ít lâu nay rồi. Vào đi, vào đi!... Vào tất cả đi. Lửa là vật duy nhất tôi có thể cho qúi vị cách dồi dào... Bởi vì... Ôi! Nhưng... nhưng Thầy, bây giờ Thầy lật nón ra (vì Giêsu đội nón áo khoác lên đầu và lấy tay giữ chặt lấy ở dưới cằm), và tôi thấy rõ Thầy... Thầy là, đúng, Thầy là vị Rabbi Galilê, người mà người ta gọi là Messi, người làm những phép lạ. Có đúng Thầy không? Xin nói thật, nhân danh Thiên Chúa”.
- Tôi là Giêsu Nazarét, Đấng Messi. Ông biết tôi à?
- Tôi đã nghe Thầy hồi tuần trăng vừa qua, khi Thầy nói tại nhà Juđa và Anna... Tôi ở trong số những kẻ làm mùa, vì... tôi nghèo... Một loạt bất hạnh: mưa đá, sâu rầy, cây cối và chiên cừu bị bệnh... Với tôi, tôi có một mình với người đầy tớ, những cái tôi có đã đủ cho tôi. Nhưng bây giờ tôi phải đi vay nợ, vì bao bất hạnh đổ xuống trên tôi... để không phải bán tất cả bầy cừu, tôi đã làm việc trong nhà những người khác... Và rồi, các thửa ruộng của tôi, giống như chiến tranh tàn phá, vì nó khô cháy, cũng như các cây nho và oliu không sinh trái nữa. Từ khi vợ tôi chết, tới nay đã sáu năm rồi. Người ta nói là ma qủi cười nhạo tôi. Thầy thấy không? Tôi đang sửa cái lưỡi cày này, nhưng chỗ gỗ bị hư hết, làm sao đây? Đây không phải nghề của tôi, và tôi ráp, tôi ráp, nhưng không dùng được. Tôi cũng còn phải nhìn túi tiền của tôi. Bây giờ... tôi sắp phải bán một con cừu nữa để sửa chữa dụng cụ, mà mái nhà thì dột... nhưng thửa ruộng làm tôi lo hơn là căn nhà. Tai hại qúa! Các con cừu đang đẹp. Tôi đang hy vọng tái lập bầy... nhưng!
- Thầy thấy là Thầy đến, mang sự phiền muộn vào nơi đã có qúa nhiều rồi.
- Phiền muộn, Thầy? Không. Con đã nghe Thầy nói. Thực sự điều Thầy nói nó còn ở trong lòng con. Thực sự là con đã làm việc cách thật thà, nhưng... Nhưng con nghĩ rằng có lẽ con chưa đủ tốt. Con nghĩ rằng kẻ tốt chính là vợ con, đó là người đàn bà có lòng thương với hết mọi người. Lia tội nghiệp, chết qúa mau, qúa mau cho người đàn ông của bà... Con nghĩ rằng sự thịnh vượng của thời đó đã từ trời mà tới bởi nàng, và con muốn trở nên tốt hơn để thi
505
hành điều Thầy nói và bắt chước vợ con, và con không xin gì nhiều... chỉ xin ở lại trong căn nhà mà bà đã chết, nơi mà con sinh ra... và có bánh cho con và cho người đầy tớ thay thế vợ con. Bà làm mục đồng và giúp con như bà có thể. Con không còn đầy tớ nam. Chúng con là hai người, và đủ cho con rồi. Con cũng làm việc ở ngoài đồng và ở vườn oliu... Nhưng con chỉ còn bánh cho con, và cũng có rất ít...
- Đừng nhịn bánh để cho chúng tôi...
- Thưa Thầy không. Dù con chỉ có một miếng, con cũng biếu Thầy. Có Thầy là một vinh dự lớn cho con. Con không bao giờ hy vọng như vậy. Nhưng con nói những khốn cùng của con bởi vì Thầy tốt và Thầy hiểu.
- Đúng, Thầy hiểu. Đưa cái búa cho Thầy. Không phải là làm như vậy đâu. Con sẽ làm hư gỗ hết. Đưa cả cái khoan cho Thầy, nhưng sau khi đã nung đỏ trên lửa, nó sẽ xuyên qua gỗ dễ hơn, và chúng ta sẽ để cái chốt sắt vào dễ dàng. Hãy để Thầy làm. Thầy là thợ mộc mà...
- Thầy, làm việc cho con? Không!
- Hãy để Thầy làm. Con cho Thầy trọ, Thầy giúp con. Giữa người với người, phải yêu nhau bằng cách mỗi người cho cái họ có thể.
- Thầy cho bình an, Thầy cho sự khôn ngoan, Thầy cho phép lạ, Thầy đã cho nhiều rồi, nhiều rồi!
- Thầy cũng cho công việc. Nào! Hãy vâng lời... - và Giêsu, chỉ còn mặc áo cộc, làm việc mau lẹ và thực hành với cái cán hư. Người khoan, nối, lắp, thử đi thử lại cho tới khi Người thấy là nó chắc: “Nó còn dùng được khá lâu, cho tới sang năm, lúc đó con có thể thay”.
- Con tin lắm. Cái cày này đã qua tay Thầy, vậy là đất của con sẽ được chúc phúc.
- Không phải như vậy là nó được chúc phúc đâu Jacob.
- Vậy tại sao Chúa?
- Vì con sử dụng lòng thương xót. Con không khép kín trong sự
506
thù ghét, ích kỷ và ghen tương, nhưng con nhận giáo huấn của Thầy và đem ra thực hành. Phúc cho kẻ có lòng thương xót, họ sẽ được thương xót.
- Chúa ơi, con dùng lòng thương xót với Thầy ở cái gì? Qúa mọn, nếu con có một chỗ và đồ ăn mà Thầy cần. Con chỉ có thiện chí. Chưa bao giờ con thấy khổ vì nghèo như vầy, để đến nỗi không có gì để làm vinh dự cho Thầy và các bạn Thầy.
- Sự ước ao của con đã đủ. Thực vậy, Thầy bảo con, dù chỉ một ly nước cho đi vì danh Thầy cũng là một việc lớn trước mắt Thiên Chúa. Thầy là người bộ hành dưới mưa giông mà con đã cho Thầy trú. Đến giờ ăn, con đã nói: “Con biếu Thầy cái gì con có”. Đêm đến, con cho Thầy mái nhà thân hữu. Con muốn làm gì hơn? Hãy tin cậy, Jacob. Con Người không nhìn vào sự sang trọng của việc tiếp đón và lương thực, Người nhìn tình cảm của con tim. Con Thiên Chúa nói với Cha: “Cha ơi, hãy chúc phúc kẻ làm ơn lành cho con, và tất cả những kẻ nhân danh con mà thương xót với anh em họ”. Đó là điều Thầy nói cho con.
Trong khi Giêsu làm việc với cái cày, người đầy tớ đã nói với ông chủ, và bà trở lại cùng với bánh, sữa mà bà mới vắt, vài trái táo nhăn nheo và một khay oliu.
- Con không còn gì nữa - ông nói để xin lỗi.
- Ồ, Thầy thấy trong những đồ ăn này một đồ ăn khác mà con không thấy! Và thầy nuôi mình bằng nó, vì nó có hương vị Thiên Quốc.
- Thầy, Con Thiên Chúa, có lẽ Thầy ăn đồ ăn mà các Thiên Thần mang tới cho Thầy. Có lẽ Thầy sống bằng bánh thiêng liêng.
- Đúng. Tâm hồn thì qúi trọng hơn thân xác, và không phải chỉ ở nơi Thầy. Nhưng Thầy không sống bằng bánh các thiên thần. Thầy sống rất nhiều hơn bằng tình yêu của Cha và của loài người, Thầy cũng tìm thấy nó trên bàn, và Thầy chúc tụng Cha, vì tình yêu, đã dắt Thầy đến với con. Và Thầy chúc lành cho con vì đã tiếp đón Thầy với tình yêu và cho Thầy tình yêu. Đó là lương thực của Thầy, cùng với việc thi hành ý muốn của Cha Thầy.
- Vậy Thầy hãy chúc phúc và dâng hiến của ăn cho Thiên Chúa
507
thay cho con. Hôm nay Thầy là trưởng gia đình của con, và Thầy sẽ mãi mãi là Thầy và là Bạn của con.
Giêsu cầm bánh và dâng hiến, bằng cách giơ cao trên tay. Người cầu nguyện với một Thánh Vịnh, tôi tin vậy. Rồi Người ngồi, bẻ bánh và phân phát...
Tất cả chấm dứt như vậy.
78* TRỞ VỀ KHÚC CẠN CỦA SÔNG GIOĐAN
GẦN THÀNH JÊRICÔ
- Con rất ngạc nhiên là ông Tẩy Giả không có ở đây - Gioan nói với Thầy. Tất cả họ đều ở bờ phía tây sông Giođan, gần khúc cạn nổi tiếng mà một thời ông Tẩy Giả đã làm phép rửa.
- Ông cũng không ở bờ phía bên kia - Giacôbê nhận xét.
- Họ đã bắt ông, hy vọng một túi tiền khác - Phêrô bình luận. “Đó là những tên vô lại, những người của Hêrôđê!”
- Chúng ta qua bên kia và chúng ta sẽ hỏi thăm - Giêsu nói.
Qủa vậy, họ qua sông, rồi họ hỏi một người chèo đò: “Ông Tẩy Giả không làm phép rửa ở đây sao?”
- Không. Ông ở tận biên giới Samari. Người ta đã giảm thiểu ông tới cỡ đó! Một vị thánh phải trú ngụ gần những người Samari để trốn tránh dân Israel. Vậy mà qúi vị ngạc nhiên vì Thiên Chúa bỏ rơi chúng ta? Chỉ có một điều làm tôi ngạc nhiên, là Người đã không xử với toàn thể Palestin như với Sôđôma và Gomorra!...
- Người không làm như vậy vì có những người công chính ở đó, và những người không hoàn toàn công chính nhưng khao khát công chính và gắn bó với giáo huấn của những người rao giảng sự thánh thiện - Giêsu trả lời.
- Vậy họ là hai người: ông Tẩy Giả và Đấng Messi. Ông Tẩy Giả thì tôi biết, vì tôi đã phục vụ ông ở đây, trên Giođan, bằng cách dùng thuyền của tôi chở các tín hữu mà không đòi thù lao, vì ông nói rằng phải bằng lòng với số lương chính đáng. Tôi thấy là tôi
508
chính đáng để bằng lòng với số lợi tức mà tôi kiếm được bằng những việc phục vụ khác, còn việc chở các linh hồn đến thanh tẩy mà đòi trả tiền thì không chính đáng. Các bạn tôi bảo tôi là điên. Nhưng sau cùng... tôi bằng lòng với chút ít mà tôi có. Ai có thể biết để nói lại? Ngoài ra, tôi thấy rằng tôi chưa đến nỗi chết đói, và tôi hy vọng khi tôi chết, Abraham sẽ mỉm cười với tôi.
- Ông có lý. Ông là ai? - Giêsu hỏi.
- Ôi! tôi mang tên của một đại danh nhân, và tôi buồn cười, vì tôi chỉ biết có mái chèo thôi. Tôi tên Salômôn...
- Ông có sự khôn ngoan để xét rằng kẻ hợp tác vào việc thanh tẩy thì không nên làm mình ra ô uế bằng cách lấy tiền. Tôi bảo ông rằng không phải chỉ có Abraham, mà cả Thiên Chúa, sẽ mỉm cười khi ông chết như với một đứa con trung thành.
- Ôi! Ông nói có vậy thực sao? Ông là ai?
- Tôi là một người công chính.
- Nghe này: Tôi đã bảo ông rằng trong Israel có hai người công chính: một là ông Tẩy Giả, hai là Đấng Messi. Ông có phải Đấng Messi không?
- Chính là tôi.
- Ôi! Lạy Tình Thương muôn đời! Nhưng... Một hôm tôi nghe các pharisiêu nói... Nhưng chúng ta bỏ qua... Tôi không muốn làm dơ miệng tôi. Ngài đâu có như họ nói. Những cái lưỡi lắt léo, còn tệ hơn lưỡi rắn!...
- Chính tôi, tôi bảo ông: ông không xa xôi gì với Ánh Sáng. Chào Salômôn. Bình an cho ông.
- Chúa ơi! Ngài đi đâu? - Người đàn ông hốt hoảng vì sự mặc khải tới nỗi giọng nói của ông khác hẳn. Trước là một người đại độ nói, bây giờ là một môn đệ thờ lạy.
- Thầy đi Jêrusalem, qua lối Jêricô, để làm lễ Lều.
- Đi Jêrusalem? Nhưng... Ngài cũng...
- Thầy cũng là con trai Lề Luật. Thầy không hủy bỏ Luật. Thầy cho các con ánh sáng và sức mạnh để giữ luật cách trọn hảo.
- Nhưng Jêrusalem đã có sự thù ghét cho Thầy rồi. Con muốn nói là các kẻ mạnh, các pharisiêu ở Jêrusalem. Con đã nói với
509
Thầy rằng con đã nghe...
- Hãy để họ làm. Họ làm bổn phận của họ, làm cái mà họ cho là bổn phận của họ. Thầy, Thầy làm bổn phận của Thầy. Thực vậy, Thầy bảo con rằng bao lâu chưa đến giờ thì họ không thể làm gì được.
- Chúa ơi, giờ nào?
- Giờ đắc thắng của tối tăm.
- Thầy sẽ sống tới tận thế?
- Không, sẽ có một sự tối tăm còn khủng khiếp hơn sự tối tăm do các tinh tú bị tắt, và hành tinh của chúng ta sẽ chết cùng với tất cả mọi người trên đó, đó là khi loài người dập tắt Ánh Sáng là Thầy. Và ở nơi rất nhiều, rất nhiều người, tội ác này đã có rồi. Chào Salômôn.
- Thầy ơi! Con theo Thầy.
- Không, trong ba ngày nữa, hãy đến Bel Nidrash. Bình an cho con.
Giêsu lên đường giữa các môn đệ. Họ rất trầm tư.
- Các con suy nghĩ gì? Đừng sợ cho Thầy cũng như cho các con. Chúng ta đã đi qua miền Thập tỉnh và miền Pêrê, và ở khắp nơi, chúng ta thấy các nông dân làm việc trong cánh đồng. Tại nhiều nơi, đất còn đầy gốc rạ và cỏ gấu, khô cằn, cứng rắn, ngổn ngang những thứ cây có hại mà gió mùa hè đã mang các hạt từ các nơi sa mạc khô cằn tới và gieo vào. Đó là các cánh đồng của các kẻ lười biếng và chơi bời. Nhiều nơi khác thì đất đã được mở ra bởi lưỡi cày, và lửa hay các bàn tay đã loại bỏ đá sỏi, gai góc, cỏ gấu. Và những cây cỏ trước tiên là có hại, nhờ sự thanh tẩy của lửa hay sự cắt nhặt, nó biến thành những thứ hữu ích: phân tro, muối khoáng, ích lợi để đất sinh sản. Đất đã khóc vì đau đớn dưới lưỡi cày rạch nó ra và moi móc nó, và dưới miếng cắn của lửa trên các vết thương của nó. Nhưng nó sẽ tươi cười vào mùa xuân và sẽ nói: “Người ta đã hành hạ tôi để cho tôi mùa gặt phong phú này là đồ trang sức và vẻ đẹp của tôi”. Và những cánh đồng này thuộc về những kẻ biết muốn. Lại những chỗ khác nữa, đất đã ở trong tình trạng hoàn toàn,
510
đã sạch sẽ kể cả tro, một cái giường hôn nhân thực sự của cặp vợ chồng đất và hạt giống, và cuộc hôn nhân mắn con sẽ cho một vụ mùa vinh hiển của các bông lúa. Đó là những cánh đồng của các kẻ quảng đại, chỉ thỏa lòng với các công việc trọn hảo.
Vậy đối với các con tim cũng thế: Thầy là lưỡi cày và lời Thầy là lửa để chuẩn bị cho chiến thắng muôn đời.
Có những kẻ lười biếng hay chơi bời, chưa tìm Thầy, không muốn Thầy, chỉ tìm làm vui thỏa các nết hư và các đam mê xấu của họ. Tất cả những gì họ thấy là trang hoàng đầy mầu xanh và hoa tươi thì chỉ là bụi rậm đầy gai góc, xẻ rách, làm chết linh hồn họ, xiềng xích nó và biến nó thành những bó củi cho lửa hỏa ngục. Lúc này thì miền Thập Tỉnh và miền Pêrê là như vậy... Và không phải chỉ có hai miền đó. Người ta không xin Thầy phép lạ, vì họ không muốn Lời cắt tỉa họ, cũng không muốn lửa đốt nóng họ. Nhưng giờ của họ sẽ tới. Nhưng cũng có những kẻ chấp nhận sự cắt tỉa này và sự đốt nóng này, họ nghĩ: nó nặng nề, nhưng nó thanh tẩy tôi và làm cho tôi thành mầu mỡ trong các hành động tốt. Đó là những kẻ không anh hùng để làm, nhưng họ cho phép Thầy làm. Đó là bước đầu tiên trên đường. Sau cùng, có những kẻ giúp Thầy bằng công việc không biết mệt của họ. Họ làm công việc của Thầy. Không phải là họ đi, mà là bay trên con đường của Thiên Chúa. Đó là những môn đệ trung thành: các con và những người khác rải rác trong Israel.
- Nhưng chúng con không nhiều, đối chọi với một số qúa đông. Chúng con khiêm tốn đối chọi với những kẻ quyền thế. Làm sao có thể bảo vệ Thầy nếu họ muốn làm hại Thầy?
- Các bạn ơi, hãy nhớ lại giấc mơ của Jacob: Ông thấy một số đông vô kể các thiên thần lên xuống trên cái thang bắc từ trời xuống tới đất. Một số đông vô kể, nhưng đó chỉ là một phần của các đạo binh thiên thần... Vậy cho dù tất cả các thiên thần hằng hát Allêluia trước Thiên Chúa trên trời đều xuống chung quanh Thầy để bảo vệ Thầy khi giờ đến, thì các vị cũng không thể làm gì được. Sự công bằng phải được hoàn tất...
- Thầy muốn nói là sự bất công chứ? Vì Thầy là Đấng Thánh, và
511
nếu họ làm hại Thầy hay họ ghét Thầy thì đó là bất công.
- Vì điều đó nên thầy đã nói là nơi một số người, tội ác đã hoàn thành rồi. Kẻ ấp ủ một tư tưởng sát nhân thì đã là sát nhân rồi. Nếu là việc ăn cắp thì nó là tên ăn cắp rồi, nếu là gian dâm thì đã gian dâm rồi, nếu là phản bội thì đã là kẻ phản bội rồi. Chúa Cha biết và Thầy biết. Nhưng Người để cho Thầy đi, và Thầy đi con đường của Thầy, vì bởi thế nên Thầy đã đến. Nhưng mùa màng sẽ còn chín nữa, và người ta sẽ gieo hạt một lần thứ nhất, rồi một lần thứ hai nữa trước khi bánh và rượu được ban làm lương thực cho loài người.
- Lúc đó người ta sẽ ăn tiệc vui và bình an!
- Bình an, đúng. Vui? Cũng có, nhưng... Ôi Phêrô! Ôi các bạn! Biết bao nước mắt sẽ chảy giữa cái chén thứ nhất và cái chén thứ hai! Và chỉ sau khi người ta đã uống hết giọt sau cùng cái chén thứ ba thì niềm vui mới tới, và nó sẽ lớn lao chừng nào giữa những người công chính, và sẽ có một bình an bảo đảm cho những người có ý muốn ngay thẳng.
- Và Thầy sẽ ở đó phải không?
- Thầy?... Nhưng có khi nào người gia trưởng lại vắng mặt trong nghi thức? Mà Thầy chẳng phải là gia trưởng của đại gia đình Kitô hữu sao?
Simon Zêlote không hề nói gì, nhưng ông lẩm bẩm như nói với chính mình: “Ai là vị đến trong y phục nhuộm đỏ? Người thật đẹp trong y phục của Người. Người bước trong sự cao cả của sức mạnh Người”. “Ta là Đấng nói với sự công bằng và Ta bảo vệ để cứu”. “Vậy tại sao y phục của Người nhuộm đỏ, và áo Người giống như áo những người chà ở máy ép?”. “Chỉ có một mình ta chà ở máy ép. Năm cứu chuộc của Ta đã đến”.
- Con đã hiểu, Simon - Giêsu nhận xét.
- Chúa ơi, con hiểu.
Hai người nhìn nhau, những người khác nhìn họ ngạc nhiên và hỏi nhau: “Nhưng anh ấy nói về y phục đỏ Giêsu mặc bây giờ hay áo đỏ vương giả mà Người sẽ mặc khi giờ đến?”
Giêsu trầm tư mặc tưởng và có vẻ như không nghe gì cả. Phêrô
512
kéo Simon ra riêng một chỗ và hỏi: “Anh khôn ngoan và khiêm nhường, xin anh giải thích các lời của anh cho sự ngu dốt của tôi”.
- Vâng, anh ơi! Tên Người là Cứu Thế. Những chén bình an và vui mừng giữa loài người và Thiên Chúa, giữa đất và Trời, chính Người sẽ đổ đầy rượu của Người vào bằng cách dày đạp chính mình Người trong sự đau đớn vì tình yêu đối với tất cả. Vậy Người sẽ hiện diện, mặc dầu bề ngoài thì các sức mạnh của tối tăm làm ngộp Ánh Sáng là chính Người. Ôi! Phải yêu Người rất nhiều, Đức Kitô này, Đức Kitô của chúng ta, vì rất nhiều người từ chối yêu Người. Phải làm sao để tới giờ Người phó mình, người ta không thể nói về chúng ta và khiển trách chúng ta lời than của Đavít : “Một bầy chó (và chúng ta ở trong số họ) bao vây Ta”.
- Anh nói?... Nhưng chúng ta, chúng ta sẽ bảo vệ Người, cho dù phải chết với Người.
- Chúng ta sẽ bảo vệ Người... Nhưng chúng ta là những con người, Phêrô ạ, và sự can đảm của chúng ta tan rã trước khi người ta nghiền tán các xương của Người. Đúng, chúng ta giống như nước đá ở trên trời mà sấm sét làm tan thành nước mưa, và gió làm cho đông lại ở trên đất. Chúng ta là vậy đó! Đó là chúng ta. Sự can đảm hiện giờ của chúng ta làm cho chúng ta nên môn đệ Người, và tình yêu của Người cũng như sự gần gũi với Người đã làm cho nó đọng lại thành một chất rắn cương quyết, nhưng nó sẽ tan ra dưới những cú sét của Satan và các satan... Và chúng ta còn lại gì? Rồi sau những hèn kém và những thử thách cần thiết, đức tin và tình yêu của chúng ta sẽ củng cố lại, và chúng ta sẽ như pha lê, không còn sợ bị người ta đập bể nữa. Nhưng điều đó, chúng ta sẽ là và chúng ta sẽ có khả năng nếu chúng ta yêu Người rất nhiều bao lâu chúng ta còn có Người. Khi đó... Đúng, tôi nghĩ là khi đó, nhờ hiệu qủa của lời Người, chúng ta sẽ không là những kẻ thù và kẻ phản bội.
- Anh thông thái, Simon. Tôi... Tôi dốt đặc, và tôi cũng xấu hổ khi đặt cho Người biết bao câu hỏi. Và tôi khổ khi tôi thấy Người có biết bao lý do để khóc... Hãy nhìn mặt Người: tựa như nó đầy nước mắt kín đáo. Coi đôi mắt Người. Người không nhìn trời, cũng không
513
nhìn đất. Nó mở rộng vào một thế giới mà chúng ta không biết. Người có vẻ kiệt lực và cúi gù để bước. Người như già đi trong tư tưởng của Người. Ôi! Con không thể nhìn Thầy như vầy! Thầy ơi! Thầy ơi! Mỉm cười đi! Con không thể thấy Thầy khổ như vầy. Thầy chí thiết với con như một đứa con, và con cho Thầy lồng ngực của con làm gối để ru Thầy ngủ, và con làm cho Thầy mơ về một thế giới khác... Ôi! Xin tha cho con nếu con gọi Thầy là con, là vì con yêu Thầy, Giêsu!
- Thầy là Con... Tên này là tên của Thầy. Nhưng Thầy không buồn nữa. Con thấy không? Thầy mỉm cười vì các con là bạn cho Thầy. Đây, ở tít đàng kia, Jêricô đỏ rực trong hoàng hôn. Hai người nào trong các con đi tìm nhà trọ. Thầy với các người khác, chúng ta tới chờ họ ở bên cạnh giáo đường. Đi đi.
Tất cả chấm dứt khi Gioan và Juđa Thađê đi tìm nhà thọ.
79* GIÊSU Ở TRONG NHÀ LAZARÔ.
MATTA NÓI VỀ MAĐALÊNA
Quảng trường họp chợ của Jêricô với cây cối của nó và các tiếng kêu la của người bán. Trong một góc, viên thu thuế Zakê đang bận các việc... cưỡng thủ hợp pháp và bất hợp pháp của ông. Chắc hẳn ông có làm thêm một chút việc mua bán đồ qúi. Thực vậy, tôi thấy ông cân và giám định các đồ bằng kim qúi. Tôi không biết người ta đưa cho ông vì họ không thể trả thuế bằng tiền mặt, hay người ta bán vì những nhu cầu khác.
Bây giờ đến lượt một người đàn bà: cao ráo, toàn thân phủ trong áo khoác mầu ở giữa mầu rỉ sét và mầu nâu xám. Khuôn mặt bà cũng che một khăn voan mỏng bằng lụa mầu vàng lạt không cho người ta nhìn thấy mặt. Người ta chỉ thấy dáng dong dỏng của cơ thể mà người ta đoán được, mặc dầu được bọc trong y phục kỳ cục bằng vải của bà. Hẳn bà còn trẻ, ít là đoán dựa vào những gì nhìn thấy: bàn tay ló ra một lát khỏi áo khoác để đưa một cái lắc, và những bàn chân đi xăng đan không mấy đơn sơ, nhưng có phần mũi
514
và những giây thắt để cho nhìn thấy những ngón chân nhẵn của người trẻ, và cả một phần mắt cá nhỏ rất trắng.
Bà đưa cái lắc, không nói một lời, nhận tiền không bàn cãi, rồi quay lại đi ra. Bây giờ tôi nhận ra là Iscariot ở đàng sau bà. Ông chăm chú quan sát bà và khi bà quay lại để đi, ông nói với bà một câu mà tôi không hiểu rõ. Nhưng bà, tựa như bà bị câm, không trả lời, lanh lẹ bỏ đi không lôi thôi.
Judas hỏi Zakê: “Bà nào vậy?”
- Tôi đâu có hỏi tên các khách của tôi, nhất là khi họ tử tế như bà này.
- Còn trẻ, phải không?
- Hình như vậy.
- Nhưng, bà ta có phải Do Thái không?
- Ai mà biết được?! Vàng thì vàng ở mọi xứ.
- Đưa tôi xem cái lắc coi.
- Ông muốn mua nó?
- Không.
- Vậy thì chả có chuyện gì để làm cả. Ông nghĩ gì? Nghĩ rằng nó sẽ nói thay cho bà?
- Tôi muốn coi xem tôi có thể hiểu được bà là ai không?
- Ông lo chuyện đó lắm à? Ông là pháp sư chiêu hồn để suy đoán hay là chó cảnh sát đi đánh hơi? Đi đi, hãy bình tĩnh. Đỏm dáng như vầy... Bà ta thật thà và bất hạnh, hay bà ta bị cùi. Vậy... không có gì để làm cả.
- Tôi đâu có ham đàn bà - Judas trả lời với giọng khinh bỉ.
- Có thể... Nhưng với bộ mặt này, tôi ít tin. Nào, nếu ông không muốn việc gì khác thì yêu cầu nhường chỗ. Tôi còn các khách phải phục vụ.
Judas bực mình đi ra. Ông tới hỏi một người bán bánh và một người bán trái cây xem họ có biết người đàn bà mà lúc trước đã mua bánh và táo của họ không, và họ có biết bà ta ở đâu không. Họ không biết. Họ trả lời: “Từ ít lâu nay, cứ hai ba ngày bà lại tới.
515
Nhưng bà ở đâu thì chúng tôi không biết”.
- Nhưng bà ta nói cách nào? - Judas nằng nặc.
Hai người cười, và một người trả lời: “Nói bằng lưỡi”.
Judas phát sùng bỏ đi, nhào trúng ngay vào nhóm của Giêsu và các người của Ngài đang mua bánh và cái gì để ăn kèm cho bữa ăn trong ngày. Sự ngạc nhiên hỗ tương và không mấy thiện cảm. Giêsu chỉ nói với ông: “Con ở đây à?” Và trong khi Judas ấp úng điều gì thì Phêrô phá lên cười ầm ỹ và nói: “Đó, tôi mù và cứng lòng tin. Tôi không nhìn thấy vườn nho và tôi không tin phép lạ”.
- Nhưng anh nói gì vậy? - hai ba môn đệ hỏi.
- Tôi nói sự thật. Ở đây không có vườn nho, và tôi không thể tin là Judas ở đây, trong nơi bụi bặm này để làm vụ thu hoạch, bởi sự kiện duy nhất là ông là môn đệ của vị Rabbi.
- Vụ thu hoạch xong từ mấy bữa nay rồi - Judas trả lời khô khan.
- Từ Kêriot tới đây xa mấy ngàn dặm - Phêrô nói.
- Anh tấn công tôi thình lình. Anh hận thù tôi.
- Không, tôi ít ngây thơ hơn anh muốn.
- Đủ rồi - Giêsu ngắt lời. Nhưng Người rất nghiêm nghị. Người
quay về Judas: “Thầy không ngờ gặp con ở đây. Thầy nghĩ là con ở Jêrusalem để mừng Lễ Lều”.
- Ngày mai con sẽ đi. Con đã ở đây chờ một người bạn của gia đình mà...
- Thầy xin con: Đủ rồi.
- Thầy không tin con sao? Con thề với Thầy rằng con...
- Thầy không hỏi con gì cả, và Thầy xin con đừng nói gì cả. Con
ở đây, vậy là đủ. Con tính đi với chúng ta hay con còn công việc phải dàn xếp? Hãy trả lời đơn giản.
- Không... Con xong rồi, vì người của con không đến nên con đi
516
Jêrusalem mừng lễ. Còn Thầy, Thầy đi đâu?
- Đi Jêrusalem.
- Ngay bữa nay?
- Chiều nay Thầy sẽ ở Bêtani.
- Tại nhà Lazarô?
- Tại nhà Lazarô.
- Vậy con cũng đi.
- Ừ, con sẽ đi cho tới Bêtani, rồi Andrê với Giacôbê Zêbêđê và Tôma sẽ đi Gétsêmani để làm các việc chuẩn bị, và con, con sẽ đi với họ - Giêsu nói các lời rõ ràng tới nỗi ông này không thể phản ứng.
- Còn chúng con? - Phêrô hỏi.
- Con với hai anh Thầy và Mathêu, các con sẽ đi nơi mà Thầy sẽ sai các con đi, rồi trở về vào buổi chiều. Gioan, Batôlômêo, Simon và Philíp ở lại với Thầy, tức là họ sẽ đi Bêtani để loan báo rằng vị Rabbi đã tới và sẽ nói với họ vào giờ thứ chín.
Họ vội vã đi qua lối các miền quê trơ trụi. Có cơn giông, không phải trên trời thanh quang, nhưng trong các con tim. Mọi người đều cảm thấy, và họ tiến bước trong yên lặng.
Khi đi từ Jêricô về Bêtani bằng con đường này thì nhà của Lazarô là một trong những nhà gặp trước tiên của xứ này. Giêsu bảo nhóm phải đi Jêrusalem lên đường, và một nhóm khác người sai về phía Bétlem khi nói: “Hãy tới đó, đừng lo gì cả. Ở khoảng giữa đường, các con sẽ gặp Isaac, Êlie và các người khác. Hãy nói với họ rằng Thầy sẽ ở Jêrusalem trong nhiều ngày, và Thầy chờ họ để chúc lành cho họ”.
Trong khi chờ đợi, Simon đã kéo chuông ở cổng. Các đầy tớ báo tin và Lazarô chạy ra. Judas Iscariot đã đi xa mấy mét, liền chạy lại xin lỗi để nói với Giêsu: “Con đã làm mất lòng Thầy, con hiểu. Con xin lỗi Thầy”. Trong khi nói như vậy, ông lén lút nhìn qua cổng mở rộng về phía khu vườn và căn nhà.
- Ừ, được. Đi đi, đi đi. Đừng để các bạn con phải chờ.
Judas chỉ còn cách bỏ đi. Phêrô lẩm bẩm: “Anh ta hy vọng có sự thay đổi các mệnh lệnh”.
517
- Phêrô, điều đó thì không bao giờ. Thầy biết điều Thầy làm. Nhưng con, con hãy dễ thương đối với người đó...
- Con sẽ cố. Nhưng con không hứa đâu... Chào Thầy. Đi, Mathêu, và hai anh nữa. Ta đi mau đi.
- Bình an cho các con, luôn luôn - Giêsu vào với bốn người ở lại. Sau cái hôn với Lazarô, Người giới thiệu Gioan, Philíp, Batôlômêo, rồi Người cho họ đi và ở lại một mình với Lazarô.
Họ đi về nhà. Lần này, dưới dẫy hành lang đẹp, có một người đàn bà, đó là Matta. Bà không cao ráo như em bà, nhưng cũng là loại người cao. Bà da sậm tóc đen, trong khi em bà thì tóc vàng da hồng. Nhưng đó cũng là một cô gái đẹp, khổ người đều đặn. Mái tóc mầu hạt huyền, vầng trán hơi sậm và nhẵn đều. Đôi mắt toát ra vẻ dịu dàng, đen, lớn, êm đềm, được đóng khung bằng những lông mày đen dầy. Mũi hơi quặp, miệng đỏ thắm vẽ ra trên mầu da vàng sậm của đôi má. Bà mỉm cười, để lộ hàm răng trắng rất đẹp.
Y phục của bà bằng len mầu xanh dương đậm, với những sọc đỏ và xanh đậm ở cổ và ở gấu tay áo rộng chỉ dài tới khửu tay. Từ đó ló ra tay áo trong bằng vải gai mịn rất trắng, thắt lại ở cổ tay bằng một sợi giây nhỏ làm nó xếp ly lại. Trên ngực cũng vậy, ngay ở dưới cổ, áo này ló ra rất mịn và trắng, cũng được thắt lại bằng sợi giây. Thắt lưng của bà là một tấm khăn mầu xanh lơ, đỏ và xanh ve, bằng vải rất mịn, ôm bó ở trên hông bằng một cái nút và rủ xuống thành những tua ở phía bên trái. Đó là y phục sang trọng và nết na.
- Thưa Thầy, con có một cô em. Cô đây, đó là Matta. Cô tốt và đạo đức. Cô là sự an ủi và vinh dự của gia đình và là niềm vui của Lazarô tội nghiệp. Trước đây cô là niềm vui trước tiên và duy nhất của con, bây giờ cô là thứ hai, vì thứ nhất là Thầy.
Matta phục xuống tới sát đất và hôn gấu áo của Giêsu.
- Bình an cho người em tuyệt vời và cho người phụ nữ trong trắng. Con đứng dậy đi.
Matta đứng dậy để vào nhà cùng với Giêsu và Lazarô. Rồi bà xin lỗi để rút lui vì các việc của gia đình.
518
- Đó là sự bình an của con... - Lazarô thì thầm và ông nhìn Giêsu, một cái nhìn tìm hiểu, nhưng Giêsu không tỏ vẻ là Người nhận ra. Lazarô hỏi: “Còn Jonas?”
- Ông chết rồi.
- Chết? Vậy là...
- Thầy đã có ông vào lúc cuối đời ông. Nhưng ông chết trong tự do và sung sướng, trong nhà thầy tại Nazarét, giữa Thầy và Mẹ Thầy.
- Doras đã phá hủy ông trước khi giao ông cho Thầy!
- Ông chết vì kiệt lực, đúng, nhưng cũng vì những roi đòn ông đã chịu...
- Đó là một thằng qủi, và hắn ghét Thầy. Cả thế giới đều ghét con linh cẩu này. Hắn không nói với Thầy là hắn ghét Thầy sao?
- Ông ta có nói chứ.
- Hãy nghi ngờ hắn, Giêsu. Chúa ơi! Hắn có khả năng tất cả... Doras đã nói gì với Thầy? Hắn không bảo Thầy trốn tránh con? Hắn không trình bày cho Thầy thấy Lazarô khốn khổ trong một ngày ô nhục?
- Thầy tin rằng con đã biết Thầy đủ để hiểu rằng Thầy xét đoán bởi chính Thầy cách công bằng. Khi Thầy yêu là Thầy yêu, không tự hỏi xem tình yêu này có lợi hay có hại cho Thầy trước mắt thế gian.
- Nhưng con người này hung dữ và tàn bạo khi ông xúc phạm và cố gắng để làm hại... Ông cũng còn hành hạ con những ngày vừa qua. Ông ta tới đây và bảo con... Ôi! trong khi con đã có biết bao khổ não! Tại sao hắn lại muốn lấy mất của con cả Thầy nữa?
- Thầy là sự khích lệ cho kẻ khổ não, và là bạn của những kẻ bị bỏ rơi. Cũng vì vậy nữa nên Thầy đến với con.
- Ôi! Vậy là Thầy biết?... Sự xấu hổ của con!
- Không, tại sao lại là xấu hổ của con? Thầy biết. Và sao? Con khổ, và Thầy có nguyền rủa con không? Thầy là Tình Thương, Sự Bình An, Tha Thứ, Tình Yêu cho hết mọi người, thì sẽ là thế nào đối với kẻ vô tội? Con không phải trách nhiệm về tội lỗi đã làm cho
519
con khổ. Chẳng lẽ Thầy lại chất nặng trên con, trong khi Thầy cũng thương cả nó nữa?...
- Thầy đã gặp nó?
- Thầy đã gặp nó. Đừng khóc.
Nhưng Lazarô gục đầu xuống trên hai cánh tay khoanh lại trên bàn, ông khóc và nức nở cách đau đớn. Matta tiến lại và nhìn. Giêsu làm hiệu cho bà đừng nói gì hết, nên bà bỏ đi với dòng nước mắt chảy lặng lẽ. Lazarô từ từ bình tĩnh lại và khiêm tốn vì sự yếu đuối của mình. Giêsu an ủi ông, và vì bạn Người muốn ở lại một mình nên Người đi ra vườn, băng qua khu đất vẫn còn một ít bông hồng đỏ thẫm.
Sau một lát, Matta lại với Người: “Thưa Thầy... Lazarô đã nói với Thầy?...”
- Ừ, Matta.
- Lazarô không còn bình an từ khi anh biết rằng Thầy đã biết chuyện, và Thầy đã gặp nó...
- Làm sao anh ấy biết?
- Trước tiên là người đàn ông ở với Thầy và xưng mình là môn đệ của Thầy: Người đàn ông trẻ, tóc đen, không để râu... Rồi Doras, ông này quất Thầy bằng sự khinh bỉ của ông, còn ông kia chỉ nói rằng qúi vị đã thấy nó ở trên hồ với các tình nhân của nó...
- Nhưng, đừng khóc vì điều đó! Các con nghĩ rằng Thầy không biết gì về các vết thương của các con sao? Thầy đã biết ngay từ khi Thầy còn ở bên Chúa Cha... Đừng để mình bị đánh gục, Matta. Hãy nâng lòng và cất cao trán con lên.
- Xin Thầy cầu nguyện cho nó. Con, con cầu nguyện... nhưng con không biết tha thứ hoàn toàn, nên có lẽ Thiên Chúa từ chối lời cầu xin của con.
- Con nói rất đúng. Phải tha thứ để được tha thứ và nghe lời. Thầy đã cầu nguyện cho nó. Nhưng hãy cho Thầy sự tha thứ của con và của Lazarô. Con, với tình người chị tốt của con, con có thể nói và được việc nhiều hơn Thầy. Vết thương của nó qúa mở lớn và cháy nóng nên tay Thầy chưa thể chạm vào. Nhưng con, con có thể
520
làm. Hãy cho Thầy sự tha thứ hoàn toàn và thánh thiện của con, rồi Thầy, Thầy sẽ hành động...
- Tha thứ... Chúng con không thể. Mẹ chúng con chết trong đau đớn tại vì lối sống đồi trụy của nó... và lúc đó chỉ là một chút so với lối sống hiện tại của nó. Con đã nhìn thấy những khổ sở của mẹ chúng con... nó luôn luôn hiện diện trong tâm trí con. Và con thấy những gì Lazarô phải chịu đựng.
- Matta, đó là một cơn bệnh, một sự điên rồ. Hãy tha thứ.
- Thưa Thầy, nó bị qủi ám.
- Thế bị qủi ám là gì, nếu không phải là một chứng bệnh của tâm hồn bị nhiễm độc bằng Satan, bị biến chất tới nỗi nó thành một vật thể thiêng liêng thuộc về ma qủi? Làm sao có thể giải thích cách khác được đối với một số đồi trụy nơi con người? những đồi trụy làm cho con người trở nên tệ hại hơn là muông thú về sự tàn ác, dâm đãng hơn là những con khỉ đa dâm, và tiếp theo như vậy, để tạo nên một vật thể lai, trong đó người, thú vật và ma qủi hòa lộn với nhau? Đó là điều giải thích cho sự ngạc nhiên như một cái gì quái gở xảy ra cách không hiểu được nơi nhiều người. Đừng khóc, hãy tha thứ. Thầy, Thầy thấy, vì Thầy có cái nhìn vượt lên trên cái nhìn của con mắt và của con tim. Thầy có cái nhìn của Thiên Chúa. Thầy thấy, và Thầy bảo con: hãy tha thứ, vì nó bệnh.
- Vậy xin Thầy chữa cho nó!
- Thầy sẽ chữa nó. Hãy có đức tin. Thầy sẽ cho con niềm vui này. Nhưng con phải tha, và hãy nói với Lazarô để ông cũng tha. Hãy tha, hãy yêu nó nữa, hãy làm bạn với nó. Hãy nói với nó tựa như nó cũng giống như con. Hãy nói với nó về Thầy...
- Làm sao Thầy lại muốn là nó hiểu Thầy, Thầy là Thánh?
- Nó sẽ có vẻ như không hiểu, nhưng chỉ nguyên tên Thầy cũng đã là sự giải thoát. Hãy làm sao cho nó nghĩ đến Thầy và nói tên Thầy. Ôi! Satan sẽ chạy trốn khi ý nghĩ về tên Thầy vào trong tâm hồn một người. Matta, hãy mỉm cười với hy vọng này. Hãy nhìn bông hồng này: những trận mưa vừa qua đã làm hư nó, nhưng con coi, mặt trời bữa nay đã làm cho nó nở ra, và nó còn đẹp hơn, vì các
521
giọt mưa còn lại giữa các cánh cho nó sự trang điểm như kim cương. Nhà của các con cũng sẽ vậy... Nước mắt và đau khổ bây giờ, rồi sẽ là vui mừng và vinh quang. Đi đi. Hãy nói vậy với Lazarô, trong khi Thầy ở lại trong khu vườn bình an của con để cầu nguyện cùng
Cha cho Maria và cho các con... Tất cả chấm dứt như vậy.
80* VẪN CÒN LÀ TRONG NHÀ LAZARÔ SAU LỄ LỀU.
LỜI MỜI CỦA GIUSE ARIMATHI
Con không biết làm sao để viết hết, vì con thấy Giêsu muốn bầy tỏ Tin Mừng sống động của Người, và con cố gắng suốt đêm để nhớ lấy thị kiến tiếp theo. Con đã viết
nháp các lời nghe được như con có thể để không quên. Rồi bây giờ là 11giờ, con thấy cảnh sau:
Giêsu lại ở trong nhà Lazarô. Theo những điều tôi nghe thấy thì tôi hiểu rằng lễ Lều đã qua, và Giêsu trở lại Bêtani vì sự nài nỉ của người bạn không bao giờ muốn rời xa Người. Tôi cũng hiểu rằng ở nhà Lazarô với Giêsu chỉ có Simon và Gioan. Những người khác đã phân tán trong vùng. Sau cùng tôi cũng hiểu rằng có một cuộc họp bạn mà Lazarô mời những người còn trung thành với ông để giới thiệu Giêsu với họ.
Tôi hiểu tất cả những điều đó, vì Lazarô đem ra ánh sáng rõ hơn về tính tình của mỗi người. Vì vậy ông nói về Giuse Arimathi và giới thiệu ông như “một người công chính và một người Israel thực sự”. Ông nói: “Ông ta không dám nói, vì ông sợ Đại Pháp Đình mà ông là thành phần, và họ đã ghét Thầy, nhưng ông hy vọng chính Thầy là đấng các tiên tri đã loan báo. Chính ông đã xin con cho đến để biết Thầy và tự ông có thể xét đoán, vì những điều các kẻ thù của Thầy nói về Thầy thì ông ta cho là không đúng... Các pharisiêu từ Galilê tới để kết án Thầy phạm tội, nhưng Giuse đã luận xét như vầy: ‘Kẻ nào làm phép lạ thì có Thiên Chúa ở với họ. Kẻ có Thiên
522
Chúa ở với họ thì họ không thể ở trong tình trạng tội lỗi, trái lại, họ chỉ có thể là một người được Thiên chúa yêu’. Ông rất muốn mời Thầy tới nhà ông ở Arimathi. Ông bảo con nói vậy với Thầy. Và con xin Thầy nhận lời mời của ông cũng như của con”.
- Thầy đến cho những kẻ đau khổ trong linh hồn cũng như thân xác hơn là cho những kẻ quyền thế chỉ thấy nơi Thầy một đối tượng làm họ chú ý. Nhưng Thầy sẽ đến nhà Giuse. Nơi Thầy không có định kiến chống đối các kẻ mạnh. Về điểm này một trong các môn đệ của Thầy có thể làm chứng, đó là người vì tò mò, và vì muốn làm ra vẻ mình là quan trọng, đã tới nhà con không có lệnh của Thầy... Nhưng ông ta còn trẻ, phải miễn chấp cho ông... ông có thể làm chứng về sự kính trọng của Thầy đối với giới lãnh đạo, những kẻ xưng mình là “những kẻ giám hộ Lề Luật”, và muốn người ta hiểu họ là “các kẻ chống đỡ của Đấng Tối Cao”. Ôi! Đấng Tối Cao, một mình người tự chống đỡ! Không ai trong số các tiến sĩ có sự kính trọng như vậy đối với các viên chức của Đền Thờ.
- Con biết, và có rất nhiều, rất nhiều người biết... Nhưng chỉ có những người tốt cho thái độ của Thầy một cái tên chính xác. Những người khác... gọi nó là “giả hình”.
- Lazarô, mỗi người cho cái họ có ở trong họ.
- Đúng vậy. Nhưng hãy tới nhà Giuse. Ông muốn mời Thầy vào ngày Sabat tới.
- Thầy sẽ tới. Con có thể báo cho ông biết.
- Nicôđêmô cũng tốt. Nhưng ông... ông bảo con... Con có thể nói với Thầy một chỉ trích về một trong các môn đệ của Thầy không?
- Hãy nói. Nếu nó đúng thì sự xét đoán của ông ta là đúng. Nếu nó không đúng, ông ta sẽ chỉ trích một sự hoán chuyển, vì Thánh Linh ban ánh sáng cho thần trí loài người nếu là người ngay thẳng; thần trí loài người được Thánh Linh của Thiên Chúa hướng dẫn, sẽ có sự khôn ngoan siêu nhiên, và họ đọc được những điều ở trong các con tim.
- Ông ta bảo con: “Tôi không chỉ trích sự hiện diện của những người ngu dốt hay người thu thuế trong số các môn đệ của Đức Kitô, nhưng tôi thấy là không phù hợp khi có trong số người của
523
Ngài một kẻ không biết là thân hay thù của Ngài, giống như một con tắc kè thay đổi mầu theo khung cảnh chung quanh nó”.
- Đó là Iscariot, Thầy biết. Nhưng tất cả hãy tin rằng tuổi trẻ là một thứ rượu, nó lên men rồi trong lại. Trong khi lên men, nó phình ra, nổi bọt và tràn bờ ở mọi phía vì qúa dồi dào sức sống. Gió mùa xuân lay cây cối theo mọi chiều, tựa như nó điên cuồng làm tơi bời hết hoa lá, nhưng chính nó là cái chúng ta phải cám ơn vì sự thụ tinh của các hoa. Judas là rượu và gió. Nhưng anh ta không xấu. Những hành động của anh ta làm đảo lộn, khuấy động, cả đến đụng chạm và làm khó chịu. Nhưng bản tính anh ta không xấu... Đó là con ngựa non hăng máu.
- Thầy đã nói vậy... Con, con không có khả năng xét đoán. Với ông, con chỉ còn lại cái kỷ niệm chua cay vì đã nói với con rằng Thầy đã nhìn thấy nó...
- Sự chua cay này bây giờ được êm dịu bởi mật ong mà lời hứa của Thầy mang đến cho con...
- Vâng, nhưng con, con giữ lại kỷ niệm của lúc đó. Người ta không quên được những đau khổ, dù là nó thuộc về qúa khứ.
- Lazarô! Lazarô! Con lo lắng qúa nhiều điều... và nó qúa ít quan trọng. Hãy để cho thời gian làm việc: đó là những cái bọt khí sẽ bể ra và biến mất với những phản chiếu vui buồn của nó. Hãy nhìn lên trời, nó không phai mờ, nó tồn tại mãi cho các người công chính.
- Vâng, thưa Thầy và Bạn con. Con không muốn xét đoán những giao tiếp của Judas với Thầy, cũng như sự hiện diện của ông ta ở bên cạnh Thầy mà Thầy đã chấp nhận. Con sẽ cầu nguyện để ông ta đừng làm hại Thầy.
Giêsu mỉm cười và thị kiến chấm dứt.
81* GIÊSU GẶP GAMALIEL TRONG
BỮA TIỆC CỦA GIUSE ARIMATHI
524
Arimathi khá gập ghềnh. Tôi tưởng tượng nó là đồng bằng. Nhưng các ngọn đồi của nó hạ thấp từ từ về phía đồng bằng. Ở một vài khúc đường quanh, nó hiện ra mầu mỡ về phía tây, và trong buổi sáng của tháng mười một này, nó giống như một mặt nước vô giới hạn.
Giêsu ở với Simon và Tôma. Không thấy các tông đồ khác. Tôi có cảm tưởng là Người nghĩ đến những tình cảm và những tính tình khác nhau của những kẻ mà Người phải tiếp xúc, nên tùy trường hợp, Người dẫn theo với Người những ai ông chủ có thể chấp nhận mà không qúa đụng chạm. Chắc chắn những người Do Thái này... khả dĩ nhận được hơn là các thi sĩ lãng mạn.
Tôi thấy họ nói về Giuse Arimathi, và Tôma, có lẽ biết rõ ông, đã chỉ trỏ các vùng đất mênh mông và đẹp trên các ngọn đồi, đặc biệt là về phía Jêrusalem, trên đường đi từ thủ đô tới Arimathi, và nối ra tới Joppê. Đó là tôi dựa vào các lời đàm thoại của họ. Tôma cũng nói với vẻ thán phục về các cánh đồng của Giuse được bao quanh bởi các con đường của đồng bằng.
- Nhưng ít nhất ở đây người ta không bị đối xử như các con vật! Ôi! Cái gã Doras đó! - Simon nói. Qủa vậy, ở đây các người làm việc được ăn mặc đầy đủ, và tỏ ra bằng lòng được là những người có hoàn cảnh tốt. Họ chào với vẻ kính trọng, vì chắc chắn họ đã biết ai là con người cao lớn và thanh nhã đang đi qua đồng quê Arimathi về phía nhà chủ của họ. Họ quan sát Người và nói với nhau nhỏ tiếng.
Khi căn nhà của Giuse hiện ra, một người đầy tớ tới hỏi sau khi đã cúi thật sâu: “Có phải Ngài là vị rabbi được chờ đợi không?”
- Chính tôi - Giêsu trả lời.
Người đó lại chào sâu rồi chạy về báo cho chủ. Căn nhà được bao vây bằng một hàng dậu cao luôn luôn xanh tươi thay thế cho bức tường cao của nhà Lazarô, và biệt lập với đường đi bằng cách nối liền một cách hòa hợp với các khu vườn đầy cây bao quanh khu nhà. Các cây bây giờ hầu như đã rụng hết lá. Trước khi Giêsu vào
525
đó, Giuse Arimathi, trong y phục rộng thùng thình với các tua rua, ra đón Người, cúi thật sâu, tay bắt chéo trước ngực. Đó không phải là cái chào khiêm nhường của kẻ nhìn nhận Giêsu là Thiên Chúa mặc thân xác, khiêm nhường qùi gối cúi xuống tới tận đất, với cái hôn trên bàn chân hay trên gấu áo của Giêsu, nhưng đó vẫn là kiểu chào rất kính trọng. Giêsu cũng cúi mình và nói lời chào bình an.
- Mời Thầy vào. Thầy đã làm vui lòng tôi bằng cách nhận lời mời của tôi. Tôi không dám chờ đợi nơi Thầy một sự hạ cố như vậy.
- Tại sao? Tôi cũng tới nhà Lazarô và...
- Lazarô là bạn của Thầy. Tôi, tôi là người lạ.
- Ông là một linh hồn tìm chân lý. Vậy Chân Lý không từ chối ông.
- Thầy là Chân Lý?
- Tôi là Đường, là Sự Sống, là Chân Lý. Ai yêu tôi và theo tôi thì sẽ tìm thấy trong chính họ Con Đường chắc chắn, Sự Sống hạnh phúc và sẽ biết Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu và Công Bằng, và hơn nữa, là Chân Lý.
- Thầy là vị đại tiến sĩ. Mọi lời Thầy đều tỏa ra sự khôn ngoan - Rồi ông quay về với Simon: “Tôi cũng sung sướng vì anh, sau thời gian vắng mặt qúa lâu, anh lại trở về nhà tôi”.
- Sự vắng mặt của tôi không tự ý. Anh biết số phận của tôi nó thế nào, và những đau đớn nào đã đánh trên đời sống của thằng bé Simon mà ba anh rất yêu.
- Tôi biết. Và anh phải biết rằng tôi không bao giờ có một lời nào bất lợi cho anh.
- Tôi biết hết. Người đầy tớ trung thành của tôi nói với tôi rằng cũng nhờ anh nữa nên gia tài của tôi được kính trọng. Thiên Chúa sẽ thưởng công cho anh.
- Tôi là một cái gì trong Đại Pháp Đình, tôi lợi dụng hoàn cảnh để giúp đỡ một người công chính và người bạn của gia đình tôi.
- Có nhiều người đã là bạn của tôi, và nhiều người là một cái gì trong Đại Pháp Đình, nhưng họ không công chính như anh...
- Còn anh này là ai vậy? Đây không phải là khuôn mặt mới đối
526
với tôi, nhưng tôi không nhớ ở đâu...
- Tôi là Tôma, biệt hiệu Didyme...
- A! Đó! Cha già của anh còn sống không?
- Ông còn sống. Ông vẫn làm nghề của ông với các anh tôi. Tôi bỏ ông để đi theo Thầy, nhưng ông sung sướng.
- Đó là một người Israel đích thực, và vì ông tin được rằng Giêsu Nazarét là Đấng Messi, ông chỉ có thể là sung sướng vì con ông ở trong số các kẻ ưu ái của Người.
Bây giờ họ đã vào khu vườn, gần tới nhà.
- Tôi đã giữ Lazarô lại. Ông đang ở trong thư viện, đọc bản tóm phiên họp vừa qua của Đại Pháp Đình. Ông không muốn ngừng vì... Tôi biết rằng bây giờ Thầy biết... Vì vậy ông không muốn ở lại. Nhưng tôi nói: “Không, anh xấu hổ không hợp lẽ. Trong nhà tôi không ai xỉ vả anh cả. Hãy ở lại. Đừng cô lập. Cô lập một mình để chống lại cả thế giới, mà vì thế giới xấu nhiều hơn tốt. Kẻ nào cô độc sẽ bị đánh bại và bị dày đạp dưới chân. Tôi nói có đúng không?”
- Ông nói rất đúng và hành động rất đúng - Giêsu trả lời.
- Thưa Thầy hôm nay cũng có cả Nicôđêmô và... Gamaliel. Điều đó có làm phiền Thầy không?
- Tại sao tôi lại phải phiền vì vậy? Tôi biết sự khôn ngoan của ông ta.
- Vâng, ông ta rất muốn được gặp Thầy và... và dù vẫn bám chặt vào tư tưởng của ông. Thầy biết... những tư tưởng. Ông nói rằng ông đã thấy Đấng Messi, và ông chờ dấu hiệu mà Người đã hứa với ông về sự tỏ hiện của Người. Nhưng ông cũng nói rằng Thầy là một người của Thiên Chúa. Ông không nói: “Người”, ông nói: “một người của Thiên Chúa”. Sự tinh tế thuộc về rabbi phải không? Điều đó có xúc phạm tới Thầy không?
Giêsu trả lời: “Tinh tế. Ông nói đúng. Phải để cho họ làm. Những kẻ tốt nhất có thể tự mình tháp vào những cành vô ích, chỉ mọc lá chứ không cho trái. Nhưng rồi họ sẽ đến với tôi”.
- Tôi đã muốn nói với Thầy các lời của ông, vì chắc chắn chính
527
ông sẽ nói với Thầy cách đơn sơ. Ông ta ngay thẳng - Giuse lưu ý.
- Đó là một nhân đức hiếm có mà tôi đánh giá cao - Giêsu trả lời.
- Vâng, tôi còn nói với ông: “Có Lazarô Bêtani ở với Thầy”. Tôi nói vậy bởi vì... hé! Đúng, tại vì cô em của ông. Nhưng Gamaliel trả lời: “Cô ta có mặt không? Không? Vậy thì sao? Bùn sẽ rơi xuống khỏi áo khi áo không còn tiếp xúc với bùn nữa. Lazarô đã giũ sạch bùn khỏi ông thì tôi không bị nhiễm uế bởi y phục của ông. Hơn nữa, tôi nghĩ rằng một người của Thiên Chúa đã vào trong nhà ông, tôi cũng có thể qua lại với ông, dù tôi là tiến sĩ của Lề Luật”.
- Gamaliel xét đoán đúng. Pharisiêu và tiến sĩ tới xương tủy, nhưng cũng thật thà và ngay thẳng.
- Tôi bằng lòng nghe Thầy nói như vậy. Thưa Thầy, Lazarô đây.
Lazarô cúi xuống hôn áo Giêsu. Ông sung sướng được ở với Người. Nhưng người ta cũng thấy sự vui mừng của ông biểu lộ ra trong việc còn phải chờ khách. Tôi biết chắc rằng ông Lazarô tội nghiệp phải thêm vào những hành hình của ông mà người ta đã biết, những hành hình không được biết mà rất nhiều người không suy nghĩ tới, đó là sự đau khổ tinh thần của cái mũi nhọn ghê gớm này, là các tư tưởng riêng và các tự vấn: “Người này sẽ nói với tôi cái gì? Họ nghĩ gì về tôi? Họ có làm tổn thương cho tôi bằng những lời hay những cái nhìn khinh bỉ không?” Đó là mũi kim mà tất cả những người có một vết trong gia đình đều có.
Bây giờ họ đã vào trong căn phòng giầu sang, nơi đã đặt các bàn. Họ chỉ còn chờ Nicôđêmô và Gamaliel, vì bốn người khách kia đã tới. Tôi nghe họ được giới thiệu với những tên: Félix, Gioan, Simon, Corneille.
Một cuộc đại biến động của các đầy tớ chạy rần rần khi Nicôđêmô và Gamaliel tới. Gamaliel luôn luôn oai vệ trong y phục lộng lẫy như tuyết mà ông mặc với sự uy nghi của một ông vua. Giuse vội vã ra gặp ông, và lời chào của hai người có dấu trọng kính oai nghiêm. Giêsu cũng được cúi chào và Người cũng cúi chào trước vị đại rabbi, ông chào Người: “Chúa ở cùng Thầy”, Giêsu trả
528
lời: “Nguyện sự bình an luôn luôn là bạn của Ngài”. Lazarô cũng cúi mình như những người khác.
Gamaliel ngồi vào chỗ giữa bàn, giữa Giêsu và Giuse. Sau Giêsu là Lazarô, sau Giuse là Nicôđêmô. Bữa ăn bắt đầu với những lời cầu nguyện theo nghi thức mà Gamaliel đọc sau khi các nhân vật chính là Giêsu, Gamaliel và Giuse đã trao đổi phép lịch sự.
Gamaliel rất trịnh trọng, nhưng không kiêu căng. Ông nghe nhiều hơn nói. Người ta thấy rằng ông suy nghĩ mỗi lời nói của Giêsu và hay nhìn Người bằng cặp mắt sâu âm u và nghiêm khắc của ông. Khi Giêsu yên lặng vì đề tài đã kết thúc, thì chính Gamaliel, bằng một câu hỏi thích hợp, khơi lại cuộc đối thoại.
Lazarô lúc đầu hơi bối rối, nhưng sau ông mạnh dạn lên và ông cũng nói.
Không có các lời nói bóng gió hướng về Giêsu cho tới gần cuối bữa ăn. Lúc đó một cuộc thảo luận nổi lên giữa người có tên là Félix và Lazarô, rồi có Nicôđêmô tham gia để ủng hộ Lazarô, và sau cùng, người có tên là Gioan, về đề tài sự thử thách, để ủng hộ hay chống đối một nhân vật về điều có liên can tới phép lạ. Giêsu nín lặng. Thỉnh thoảng Người mỉm một nụ cười bí nhiệm, nhưng Người nín lặng. Gamaliel cũng nín lặng. Ông tì khửu tay xuống ghế nằm và nhìn Giêsu đăm đăm. Tựa như ông muốn giải thích một lời nói siêu phàm được khắc trên làn da trắng xanh, nhẵn thín của khuôn mặt gầy của Giêsu. Tựa như ông phân tích mọi thớ thịt trên đó.
Félix cho rằng sự thánh thiện của Gioan Tẩy Giả là không thể chối cãi, rằng sự thánh thiện này không được bàn cãi và không thể bàn cãi, và bởi vậy ông rút ra một hậu qủa không có lợi cho Giêsu Nazarét, tác giả của các phép lạ nhiều và nổi tiếng. Ông nói: “Phép lạ không phải là một bằng chứng của sự thánh thiện, vì đời sống của tiên tri Gioan không có phép lạ. Nhưng không ai trong Israel sống một cuộc đời như ông. Với ông, không có tiệc tùng, bạn bè, lợi ích cá nhân. Với ông là gian khổ và tù tội vì danh dự của Lề Luật. Với ông là sự cô độc. Vì qủa thật ông có các môn đệ, nhưng
529
ông không sống đời sống tập thể. Ông tìm thấy lỗi cả nơi những người ngay lành nhất, và nổi sấm với mọi người, trong khi... Ê! Trong khi ông thầy Nazarét hiện diện ở đây, qủa thực có làm các phép lạ, nhưng tôi thấy rằng ông thích hưởng thụ đời sống. Ông không khinh chê tình bạn và, xin lỗi, nếu một Kỳ Lão của Đại Pháp Đình nói với anh như vậy: ông qúa dễ dàng nhân danh Thiên Chúa để ban tha thứ và tình yêu cho cả những kẻ tội lỗi và bị nhục bởi sự nguyền rủa. Ông không nên làm vậy, Giêsu!”
Giêsu mỉm cười và không nói. Lazarô trả lời cho Người: “Chúa mạnh mẽ của chúng ta tự do để điều khiển các tôi tớ của Người như Người muốn và ở đâu người muốn. Với Môise, Người ban quyền làm phép lạ, với Aaron, vị giáo chủ đầu tiên của Người thì Người không ban. Vậy anh kết luận thế nào? Có phải Môise thánh hơn Aaron không?”
- Chắc chắn rồi - Félix trả lời.
- Vậy vị thánh nhất là Giêsu, đấng làm các phép lạ.
Félix nao núng, nhưng ông bám vào lối lý luận của ông: “Aaron được chức Giáo chủ, vậy là đủ rồi”.
- Không, bạn ơi - Nicôđêmô trả lời. “Chức Giáo Chủ là một sứ mạng, nó Thánh, nhưng không có gì hơn là một sứ mạng. Không phải luôn luôn các Giáo Chủ của Israel đều thánh, họ đã không tất cả đều được vậy. Nhưng họ là Giáo Chủ, dù là không thánh”.
- Anh không muốn nói rằng Thầy Cả Thượng Phẩm (tức cũng là Giáo Chủ) của chúng ta là một người thất sủng chứ !... - Félix la lối.
- Félix... chúng ta đừng vào trong cái lò lửa này. Tôi, anh, Gamaliel, Giuse, Nicôđêmô, tất cả, chúng ta biết qúa nhiều điều...
- Người có tên là Gioan nói.
- Nhưng thế nào? Nhưng thế nào? Gamaliel, can thiệp đi chứ !...
- Félix phẫn nộ.
- Nếu ông công chính, ông sẽ nói ra sự thật mà anh không muốn nghe - ba người nổi nóng nói chống đối Félix.
Giuse tìm cách tái lập an bình. Giêsu vẫn nín thinh, và cả Tôma, Zêlote và ông Simon khác bạn của Giuse cũng vậy. Gamaliel làm
530
như chơi đùa với các tua áo của ông, nhưng vẫn nhìn Giêsu từ phía dưới.
- Gamaliel! Nói đi chứ !... - Félix la lên.
- Đúng, nói đi, nói đi - ba người đều nói.
- Tôi, tôi nói: những yếu đuối trong gia đình thì phải giữ kín - Gamaliel nói.
- Đó không phải là một câu trả lời! - Félix kêu lên. “Ông làm như ông nhìn nhận có những tì vết trong gia đình vị Giáo Chủ!”
- Đó là cách bộc lộ sự thật - ba người nói.
Gamaliel đứng lên quay về Giêsu: “Đây là vị Thầy đã làm lu mờ hết mọi kẻ thông thái. Mong Người nói về đề tài này”.
- Ngài muốn vậy thì tôi vâng lời. Tôi nói: con người là con người. Sứ mệnh vượt qúa con người. Nhưng con người được phong ban một sứ mệnh, trở nên có khả năng hoàn thành nó như một siêu nhân, khi họ có Thiên Chúa làm bạn bởi một đời sống thánh thiện. Chính Người đã nói: “Ngươi là thầy cả theo lệnh Ta ban”. Trên Bố Tử có ghi điều gì? “Giáo lý và Sự thật”. Đó là điều các Giáo Trưởng phải có. Về Giáo Lý, người ta đạt được bằng cách không ngừng suy niệm hướng về sự hiểu biết khôn ngoan. Về Sự Thật, bằng sự trung thành tuyệt đối với điều tốt. Ai hòa mình với điều xấu, đi vào gian trá thì mất Sự Thật.
- Đúng! Ngài đã trả lời như một đại rabbi. Tôi, Gamaliel, tôi nói với Ngài vậy. Ngài vượt qua tôi.
- Vậy ông ta hãy cắt nghĩa điều này nữa: Tại sao Aaron không làm phép lạ, mà Môise lại làm - Félix la lối ồn ào.
Giêsu không chậm trễ trả lời: “Là vì Môise phải khuất phục một khối Israel nặng nề, ít được soi sáng, và kể cả đối lập. Ông phải vượt cao bên trên họ để có thể gò họ vào ý muốn của Thiên Chúa. Con người muôn thuở là trẻ nít và hoang dại, họ chỉ xúc động bởi những gì khác thường. Phép lạ là vậy: một ánh sáng mà người ta quay trước con ngươi tối, một tiếng ồn ào trước lỗ tai bịt chặt. Nó lay tỉnh, nó gọi sự chú ý, tựa như nó nói: ‘Thiên Chúa ở đây’”.
- Ông nói vậy để có lợi cho ông - Félix đáp trả.
531
- Có lợi cho tôi? Điều đó cho tôi thêm cái gì khi tôi làm một phép lạ? Tôi có vẻ cao hơn khi tôi để một công cỏ ở dưới bàn chân tôi không? Sự tương quan giữa sự thánh thiện và phép lạ vẫn là một. Có những vị thánh không bao giờ làm phép lạ. Có những người phù thủy và kẻ chiêu hồn dùng các sức mạnh tối tăm để làm, tức là họ làm những điều siêu nhân mà không thánh, mà trái lại, họ là ma qủi. Tôi vẫn là tôi như vậy, dù là tôi không làm các phép lạ nữa.
- Tốt lắm! Ngài thật lớn, Giêsu! - Gamaliel xác nhận.
- Vậy theo ông thì cái “ông lớn” này là ai? - Félix tiếp tục khi quay về Gamaliel.
- Là vị tiên tri lớn nhất mà tôi biết, trong các công việc cũng như trong các lời của Người - ông trả lời.
- Đó là Đấng Messi, tôi nói với anh vậy đó, Gamaliel. Anh khôn ngoan và công chính, hãy tin vào Người - Giuse nói.
- Thế nào? Cả anh nữa, anh điều khiển các người Do Thái, anh, Kỳ Lão, vinh quang của chúng tôi, mà anh rơi vào tà thần vì một người. Nhưng cái gì chứng tỏ cho anh rằng đây là Đức Kitô? Tôi, tôi không tin, dù tôi thấy ông ta làm các phép lạ. Nhưng tại sao ông ta không làm một cái trước mắt chúng ta. Hãy bảo ông ta đi, anh ca ngợi ông ta. Hãy bảo ông ta đi, anh bảo vệ ông ta - Félix nói với Gamaliel và Giuse.
- Tôi không mời Người tới đây để giải trí cho các bạn bè, và tôi yêu cầu anh nhớ rằng Người là khách của tôi - Giuse trả lời khô khan.
Félix đứng dậy và ra đi, giận dữ và thô kệch.
Một lúc yên lặng, rồi Giêsu quay về Gamaliel: “Còn Ngài, Ngài không đòi phép lạ để tin?”
- Không phải phép lạ của một người của Thiên Chúa lấy đi cho tôi cái gai tôi mang trong qủa tim, là ba câu hỏi vẫn không có câu trả lời.
- Các câu hỏi nào?
- Có phải Đấng Messi đang sống không? Có phải đã là người đó
532
không? Có phải bây giờ là người này không?
- Chính là Người, tôi nói với anh, Gamaliel - Giuse kêu lên. “Anh không thấy là Người thánh? Khác với những người khác? Mạnh mẽ? Có? Vậy anh còn chờ gì nữa để tin?”
Gamaliel không trả lời cho Giuse. Ông quay về Giêsu: “Một lần... đừng phật ý, Giêsu, nếu tôi cả gan trong các ý tưởng của tôi... Một lần, khi vị đại khôn ngoan Hillel còn sống, tôi đã tin, và Người cũng như tôi, rằng Đấng Messi đã ở trong Israel. Một ánh sáng lớn của mặt trời trong ngày lạnh của một mùa đông dài như không dứt. Lúc đó là lễ Vượt qua... Người ta run sợ vì mùa màng bị băng giá... Tôi, sau khi nghe những lời này, tôi nói: ‘Israel được cứu! Từ hôm nay, sẽ có dư dật trong đồng ruộng và phúc lành trong các con tim! Đấng trông đợi đã phát lộ ánh sáng đầu tiên của Người’. Và tôi đã không lầm. Tất cả qúi vị có thể nhớ lại có mùa thu hoạch nào giống như mùa của cái năm có mười ba tháng đó, và việc đó tiếp tục...”
- Anh đã nghe những lời nào? Ai nói?
- Đó là một người vừa ra khỏi tuổi thơ... Nhưng Thiên Chúa rạng ngời trên khuôn mặt thơ ngây và dễ mến của cậu... Đã mười chín năm nay tôi giữ cái kỷ niệm này... và tôi tìm nghe lại tiếng nói này là tiếng nói những lời khôn ngoan. Phần nào của thế giới đã tiếp nhận Người? Tôi, tôi nghĩ... rằng đó là Thiên Chúa dưới hình hài một đứa trẻ để không làm người ta sợ. Giống như chớp vạch ra trên trời, xuất hiện mau lẹ từ đông sang tây, từ nam tới bắc, Người, Thiên Chúa, dưới dạng lòng nhân từ thương xót của Người, với tiếng nói và khuôn mặt của một trẻ em, và với tư tưởng Thiên Chúa, Người chạy rảo khắp trái đất để nói với loài người: “Ta đây”. Đó là tư tưởng của tôi... Khi nào Người sẽ trở lại Israel?... Khi nào? Và tôi nghĩ: khi Israel sẽ là một bàn thờ cho bàn chân Thiên Chúa của Người. Và qủa tim tôi rên khóc khi thấy sự đê hèn của Israel: Không bao giờ. Ôi! Câu trả lời khắt khe! Và đó là sự thật. Có thể nào Sự Thánh Thiện đến trong nhân thân Đấng Messi của Người khi sự đồi bại còn ở trong chúng ta?
- Người có thể và Người làm, vì Người là Tình thương - Giêsu
533
trả lời.
Gamaliel nhìn Người, suy tư rồi hỏi: “Tên thực của Ngài là gì?”
Giêsu đứng dậy, oai nghiêm và nói: “Ta là Đấng Tự Hữu, là Tư Tưởng và là Lời của Chúa Cha. Ta là Đức Messi của Chúa”.
- Ngài?... Tôi không thể tin điều đó. Sự thánh thiện của Ngài lớn, nhưng đứa trẻ mà tôi tin, lúc đó Người đã nói như vầy: “Tôi sẽ cho một dấu hiệu... Những tảng đá này sẽ rung lên khi giờ của tôi tới”. Tôi chờ dấu hiệu này để tin. Ngài có thể cho tôi dấu hiệu đó để thuyết phục tôi rằng Ngài là đấng được trông chờ không?
Bây giờ hai người cùng đứng lên, cao lớn, trịnh trọng, một người trong y phục vải gai trắng rộng thùng thình, một người trong y phục đơn sơ bằng len mầu đỏ thẫm; một người già, một người trẻ, cả hai đều có mắt sâu của kẻ thống trị. Hai người nhìn nhau đăm đăm.
Rồi Giêsu hạ thấp cánh tay phải mà người đang khoanh trước ngực, giống như Người thề, và kêu lên: “Ngài muốn dấu hiệu này, Ngài sẽ được! Tôi nhắc lại lời nói xa xưa: ‘Các tảng đá của Đền Thờ Chúa sẽ run giùng vào những lời sau cùng của tôi’. Hãy chờ dấu hiệu này, hỡi Tiến Sĩ của Israel, hỡi người công chính, rồi hãy tin, nếu Ngài muốn được ơn tha thứ và phần rỗi. Hạnh phúc cho Ngài, nếu Ngài có thể tin ngay từ bây giờ! Nhưng Ngài không thể. Hàng bao thế kỷ tin tưởng sai lầm về một lời hứa chính đáng, và các đống kiêu căng đã như một bức tường ngăn chặn con đường Sự Thật và Đức Tin của Ngài”.
- Ngài nói đúng. Tôi chờ dấu hiệu này. Chào. Chúa ở cùng Ngài.
- Chào Gamaliel. Xin Thánh Thần của Thiên Chúa soi sáng và hướng dẫn Ngài.
Tất cả đều chào Gamaliel ra về cùng với Nicôđêmô, Gioan và Simon thuộc Đại Pháp Đình. Còn lại Giêsu, Giuse, Lazarô, Tôma, Simon Zêlote và Corneille.
- Tôi không ngờ!... Tôi muốn Thầy có ông ta trong số các môn đệ của Thầy. Một trọng lượng quyết liệt về phía Thầy... nhưng tôi không thành công - Giuse nói.
- Đừng buồn. Không một ảnh hưởng nào có thể cứu được tôi
534
khỏi cơn bão đã sẵn sàng. Nhưng Gamaliel, dù ông không tuyên bố ủng hộ tôi, ông cũng không tuyên bố chống lại Đức Kitô. Đó là một
con người chờ đợi. Tất cả chấm dứt.
82* CHỮA ĐỨA TRẺ SẮP CHẾT.
NGƯỜI LÍNH ALEXANDRE.
SỰ HỐI THÚC GIÊSU
Đây, bên trong Đền thờ. Giêsu ở với các người của Ngài gần Đền Thờ chính thức, tức là nơi thánh, nơi chỉ có các thầy cả được vào. Đó là một cái sân rất đẹp mà người ta tới đó qua một đại điện, rồi từ đó, lại qua một đại điện khác còn sang trọng hơn, tới một khoảng mặt bằng, trên đó có khối vuông của nơi thánh. Thật vô ích để tả. Tôi đã thấy Đền Thờ hàng ngàn lần, và tôi đã cố gắng mô tả nó hàng hai ngàn lần, nhưng hoặc vì sự phức tạp của nơi này, hoặc vì tôi không biết các từ và không có khả năng làm một sơ đồ, nên tôi luôn luôn bất toàn trong sự mô tả cái nơi huy hoàng và phức tạp như một mê thất này.
Tôi thấy các vị đang cầu nguyện. Có rất nhiều người Israel khác, đàn ông mà thôi, đang cầu nguyện riêng. Đây là buổi chiều đến sớm của một ngày âm u vào tháng mười một.
Có tiếng huyên náo, từ đó vang lên tiếng nói ồn ào và lo lắng của một người đàn ông chửi bới bằng tiếng Latin, trong đó pha lẫn các tiếng nói đinh tai nhức óc của các người Israel. Giống như sự lộn xộn của một đám ẩu đả, và một giọng the thé của một người đàn bà kêu khóc: “Ôi! Hãy để cho anh ta đi. Anh ta nói rằng Người sẽ cứu nó”.
Sự trầm mặc của cái sân huy hoàng bị phá vỡ. Nhiều cái đầu quay về nơi có các tiếng nói. Judas Iscariot đang ở đó với các môn đệ, quay lại phía đó. Vì ông cao lớn, ông thấy, hiểu chuyện và nói: “Một người lính Rôma đang vùng vẫy để vào. Anh ta vi phạm, anh
535
ta đã vi phạm Nơi Thánh rồi! Sợ hãi!” Nhiều người cũng đồng thanh với ông.
- Để cho tao qua, các chó Do thái! Giêsu đang ở đây, tao biết! Chính Người là kẻ tao muốn! Tao không biết các tảng đá ngu xuẩn của chúng mày dùng để làm gì. Đứa trẻ sắp chết, và Người sẽ cứu nó. Cút đi, các con linh cẩu giả hình...
Giêsu, khi Người hiểu rằng người ta muốn Người, Người liền đi ngay về phía đại điện, nơi đang có sự lộn xộn. Người tới đó và kêu lên: “Hãy bình an và kính trọng tại nơi này vào giờ dâng hương”.
- Ôi! Chào Giêsu! Tôi là Alexandre. Tránh ra, các con chó!
Giêsu bình thản: “Ừ, các con tránh ra. Thầy sẽ dẫn anh ta đi nơi khác. Dân ngoại họ đâu có hiểu nơi này là gì đối với chúng ta”.
Người ta tránh ra. Giêsu lại với người lính mà áo giáp dính đầy máu: “Anh bị thương à? Đi, ta không thể dừng lại đây”. Và Người dẫn anh ta ra xa, qua một sân, rồi lại qua một sân nữa.
- Không phải tôi bị thương. Một đứa trẻ. Con ngựa của tôi, tại gần đồn Antonia, đã chạy khỏi tôi và đá vào nó. Các móng sắt đã làm bể đầu nó. Procula (vợ Pilatô) bảo là không làm gì được nữa. Tôi... không phải tại lỗi tôi, nhưng vì tôi mà câu chuyện xảy ra, và bà mẹ ở đó, thất vọng. Tôi đã thấy Thầy đi qua... tới đây... Tôi nói: “Thầy thuốc, không, nhưng Người, có”. Tôi còn nói: “Bà ơi, lại đây, Giêsu sẽ chữa cho nó”. Các tên ngu ngốc này đã giữ tôi lại... có lẽ đứa trẻ đã chết.
- Nó đâu? - Giêsu hỏi.
- Dưới hành lang, trong lòng mẹ nó - Anh ta trả lời. Đây là người lính mà tôi đã thấy ở cửa Cá.
- Đi! - Giêsu đi lẹ hơn nữa. Theo sau Người là các môn đệ và một đoàn dân.
Trên bậc thềm, lối vào hành lang, một người đàn bà ngồi tựa lưng vào cột, tan nát đau đớn, khóc trên đứa con sắp chết. Đứa trẻ mầu da như đất, môi tím hơi hé mở, thở hắt ra, đặc tính của những người bị thương ở não. Một băng vải vòng quanh đầu, đỏ đầy máu
536
tại gáy và trán.
- Đầu nó mở ra ở đàng trước và đàng sau, nhìn thấy óc. Đầu trẻ con ở tuổi này còn mềm, mà con ngựa lại mạnh, và mới được đóng móng sắt - Alexandre giải thích.
Giêsu tới gần người đàn bà, bà không nói được nữa. Bà cũng hấp hối ở bên đứa con sắp chết. Người đặt tay trên đầu bà: “Bà ơi, đừng khóc”. Giêsu nói với một sự êm dịu mà chỉ Người mới có thể, một sự êm dịu vô cùng: “Hãy tin. Đưa con bà cho Thầy”.
Người đàn bà nhìn Người, khù khờ. Đám đông công kích người Rôma và than van cho kẻ sắp chết và mẹ nó. Alexandre chiến đấu giữa các cảm giác tức giận vì bị kết án oan với tình thương và hy vọng.
Giêsu ngồi xuống bên cạnh người đàn bà khi Người nhận thấy là bà không thể làm một cử chỉ nào nữa. Người cúi xuống, cầm cái đầu nhỏ bị thương trong bàn tay dài của Người. Người cúi xuống sâu hơn nữa, tới sát khuôn mặt mầu sáp và thổi vào cái miệng nhỏ đang thở hắt ra... Một lát qua đi, rồi Người có một nụ cười mà người ta nhìn thấy qua làn tóc từ trán rũ xuống. Người ngồi thẳng lên. Đứa trẻ mở mắt và cố gắng để ngồi dậy. Bà mẹ sợ đây là sức lực sau cùng nên bà ôm ghì nó vào lòng.
- Bà cứ để cho nó đi. Bé con, lại đây với Thầy - Giêsu nói. Người vẫn ngồi bên người đàn bà, Người giơ hai tay ra cho đứa bé và mỉm cười. Đứa trẻ an lòng, liền lăn vào vòng tay này. Nó khóc, không phải vì đau, nhưng nó sợ vì nhớ lại cảnh con ngựa.
- Đâu có còn con ngựa nữa, hết con ngựa rồi - Giêsu nói để bảo đảm cho nó: “Qua hết rồi. Con còn đau ở đây không?”
- Không, nhưng con sợ, con sợ !
- Bà thấy không? Chỉ còn có sợ. Bây giờ xong rồi. Đem nước cho Thầy. Máu và băng làm nó tưởng tượng. Gioan, đưa cho Thầy mấy trái táo... Con, cầm ăn đi. Ngon lắm...
Người ta mang nước tới. Anh lính Alexandre cũng mang tới trong nón cối của anh.
Giêsu sắp mở băng ra thì Alexandre và bà mẹ nói: “Đừng! Nó
537
trở lại sự sống, nhưng đầu nó bể toác ra!...” Giêsu mỉm cười và tháo băng ra. Một, hai, ba, tám vòng. Người bỏ băng dính máu ra. Từ giữa trán tới gáy, về bên phải, chỉ còn chút máu đông còn mềm giữa những sợi tóc của đứa bé. Giêsu thấm ướt một miếng băng và rửa.
- Nhưng bên dưới có vết thương... Nếu Thầy rửa máu đọng đi, nó lại bắt đầu chảy máu - Alexandre nhấn mạnh.
Bà mẹ nhắm mắt vào để khỏi thấy.
Giêsu rửa, rửa, rửa. Máu đọng sạch hết... Đây, những sợi tóc được lau sạch, chúng ướt, nhưng bên dưới không có vết thương. Trán cũng được lành. Chỉ có một lằn chỉ nhỏ đỏ, nơi vết thẹo được tạo thành.
Người ta kêu lên kinh ngạc. Người đàn bà đã dám nhìn, và khi bà thấy, bà không giữ gìn nữa, bà nhào vào Giêsu, ôm Người cùng một trật với con bà. Giêsu chịu đựng sự tấn công này cùng với trận mưa nước mắt này.
- Tôi cám ơn Thầy, Giêsu - Alexandre nói. “Tôi đau đớn vì làm chết đứa trẻ ngây thơ này”.
- Anh có lòng tốt và sự tin cẩn. Chào Alexandre. Đi lo việc của anh đi.
Alexandre quay đi thì thình lình các viên chức của Đền Thờ và các Thầy Cả nhào tới như một cơn lốc: “Thầy Cả Thượng Phẩm, qua trung gian của chúng tôi, ra lệnh cho ông phải ra khỏi Đền Thờ ngay lập tức, ông và tên dân ngoại phạm thượng. Các ông đã làm xáo trộn giờ dâng hương. Tên này đã xâm nhập vào nơi dành cho dân Israel. Đây không phải lần đầu tiên vì ông mà Đền Thờ trở thành huyên náo. Thầy Cả Thượng Phẩm và các Kỳ Lão phục vụ cùng với người truyền cho ông không được đặt chân tới đây nữa, bên trong này. Hãy đi và ở lại với các dân ngoại”.
- Chúng tôi đâu phải loài chó. Chính Người đã nói: Chỉ có một Thiên Chúa đã dựng nên người Do Thái và người Rôma. Nếu đây là nhà của Người, và nếu tôi là tạo vật của Người thì tôi cũng vào - Alaxandre trả lời, bị tổn thương vì sự khinh bỉ của các Thầy Cả khi
538
họ gọi anh ta là “dân ngoại”.
- Nín đi Alexandre, Thầy sẽ nói - Giêsu can thiệp sau khi hôn đứa bé, trả nó cho mẹ nó và đứng lên. Người nói với nhóm người tới đuổi Người: “Không ai có quyền cấm một tín hữu, một người Israel thực sự mà không ai có thể minh chứng là họ ở trong tình trạng có tội, đến cầu nguyện gần nơi Thánh”.
- Nhưng giải thích Lề Luật trong Đền Thờ thì có quyền cấm. Ông đã dùng một quyền mà ông không có và cũng không xin. Ông là ai? Ai biết ông? Làm sao ông dám chiếm đoạt một danh hiệu và một địa vị không thuộc về ông?
Giêsu nhìn họ với đôi mắt!... Rồi Người nói: “Judas Kêriot, lại đây”.
Judas có vẻ không thiện cảm với lời mời. Ông đã tìm cách lánh mặt ngay từ lúc các thầy cả và các viên chức của Đền Thờ tới (họ không mặc đồ lính, chắc đây là những hữu trách dân sự), nhưng ông phải vâng lời, vì Phêrô và Juđa Alphê đẩy ở đàng sau ông.
Giêsu nói: “Judas, hãy trả lời. Và các ông, hãy nhìn người này. Các ông biết ông ta. Ông thuộc về Đền Thờ. Các ông biết ông ta không?”
Họ bó buộc phải trả lời “Có”.
- Judas, Thầy đã bảo con làm gì khi Thầy nói ở đây lần đầu tiên? Hãy nói sự ngạc nhiên của con, và Thầy đã trả lời thế nào. Hãy nói thẳng thắn.
- Người đã bảo tôi: “Hãy đi gọi các viên chức hữu trách để Thầy có thể xin phép giảng dạy”. Người xưng tên và cho các bằng cớ về các đặc điểm của Người và chi tộc của Người... Tôi đã ngạc nhiên, và cho đó là một thể thức vô ích đối với Người là vị đã xưng mình là Messi. Nhưng Người bảo tôi: “Điều Thầy làm là cần thiết, và khi giờ này tới thì con hãy nhớ rằng Thầy đã không thiếu sự kính trọng đối với Đền Thờ cũng như các viên chức của nó”. Đúng, Người đã nói như thế. Vì sự thật, tôi phải nói vậy - Lúc đầu Judas nói không vững vàng lắm, tựa như việc này làm phiền cho ông. Nhưng rồi do hậu qủa của những biến chuyển đột ngột này là đặc điểm của ông,
539
ông nói cách vững vàng và hầu như tới điểm trở thành vênh váo.
- Tôi ngạc nhiên là anh bảo vệ ông ta. Anh đã phản bội sự tin cậy của chúng tôi nơi anh - Một thầy cả khiển trách Judas.
- Tôi chả phản bội ai cả. Bao nhiêu người trong các ông thuộc về ông Tẩy Giả, họ có vì vậy mà trở thành kẻ phản bội không? Tôi, tôi thuộc về Đức Kitô. Vậy đó.
- Vậy ông này không được nói ở đây. Ông ta được đến như một tín hữu cũng đã là qúa nhiều đối với người bạn của dân ngoại, gái điếm và bọn thu thuế...
- Bây giờ hãy trả lời tôi - Giêsu nói bình tĩnh nhưng rất nghiêm nghị: “Các Kỳ Lão phục vụ ở đây là những ai?”
- Doras và Félix: Do Thái. Joakim người Caphanaum và Giuse người Iturê.
- Tôi hiểu. Nào, hãy đi tường thuật cho ba kẻ kết án tôi, vì người Iturê không đủ tư cách để kết án, rằng Đền Thờ không hoàn toàn là Israel, và Israel không phải là cả thế giới. Mong rằng nước nhớt của loài bò sát, dù nó độc hại tới đâu, cũng sẽ không dìm ngập được lời của Thiên Chúa, và nọc độc của nó không làm tê liệt được sự đi về của Ta giữa loài người, bao lâu chưa tới giờ. Rồi... ôi! Hãy nói với họ rằng sau đó người ta sẽ xét xử các tên đao phủ và tung hô nạn nhân bằng cách coi Người như tình yêu duy nhất của họ. Thôi, về phần chúng ta, chúng ta đi - Giêsu mặc lại áo khoác nặng đậm mầu của Người và đi ra giữa các người của Ngài.
Alexandre đi ở đàng sau họ, anh ta đã đứng đó trong cuộc bàn cãi. Ra ngoài nội khu, chỗ gần đồn Antonia, anh nói: “Tôi chào Thầy. Tôi xin lỗi Thầy vì đã là nguyên nhân cho Thầy bị khiển trách”.
- Ôi! Đừng phiền. Họ kiếm cớ. Nếu không phải là anh thì cũng một cái gì khác... Qúi vị, ở Roma, qúi vị làm trò xiếc với thú dữ và trăn phải không? Vậy tôi nói với anh rằng không có thú dữ nào độc ác hơn, dối trá hơn người muốn giết một người khác.
- Và tôi, tôi nói với Thầy rằng trong việc phục vụ César, tôi đã chạy rảo khắp các miền của Roma, và với hàng ngàn và hàng ngàn cuộc gặp gỡ, tôi không bao giờ tìm thấy một người thần linh hơn
540
Thầy. Không, các thần của chúng tôi không thần linh như Thầy. Họ thù hằn, độc ác, gây gổ, nói dối. Thầy, Thầy tốt. Thầy thực sự là một người, nhưng không phải chỉ là một người. Chào Thầy.
- Chào Alexandre. Hãy tiến bước trong Ánh Sáng.
Tất cả chấm dứt.
83* GIÊSU NÓI CHUYỆN VỚI NICÔĐÊMÔ
LÚC BAN ĐÊM TẠI GÉTSÊMANI
Giêsu đang ở trong nhà bếp của căn nhà nhỏ tại vườn oliu để ăn bữa tối với các môn đệ Người. Họ nói chuyện về các biến cố trong ngày, nhưng không phải các cảnh mô tả ở trên, vì tôi thấy họ nói về những sự kiện khác, trong đó có việc chữa cho một người cùi gặp thình lình gần các mồ mả trên đường đi Bétphagê.
- Cũng có một tên bách binh Rôma nhìn thấy - Batôlômêo nói, và ông thêm: “Từ trên lưng ngựa, anh ta hỏi con: ‘Người mà anh theo thường làm những việc giống vậy sao?’ Con trả lời xác định thì anh kêu lên: ‘Vậy ông ta lớn hơn Esculape (thần của các y sĩ), và ông ta sẽ trở nên giầu hơn Crésus’ (vua mỏ vàng). Con trả lời: ‘Người sẽ luôn luôn nghèo trước mắt thế gian, vì Người không nhận, Người chỉ cho. Người chỉ muốn các linh hồn để dẫn họ về cho Thiên Chúa thật’. Viên bách binh đội trưởng ngạc nhiên nhìn con, rồi anh thúc ngựa phóng đi”.
- Cũng có một bà Rôma ở trong kiệu. Chắc đó là một bà. Bà hạ tấm màn xuống, nhưng bà nhìn ra bên ngoài. Đó là điều con thấy - Tôma nói.
- Đúng. Lúc đầu bà ở chỗ khúc đường quành, nhưng bà ra lệnh dừng lại khi người cùi kêu: “Lạy con Đavít, xin thương con!” Con thấy tấm màn hé ra và con thấy bà nhìn Thầy bằng cái ống kính qúi, và bà cười mỉa mai. Nhưng khi bà thấy rằng Thầy, Thầy chỉ truyền lệnh là Thầy chữa được ông ta, lúc đó bà gọi con và hỏi con: “Nhưng đó là người mà người ta bảo là đức Messi thực sự sao?”,
541
con trả lời là đúng, bà lại hỏi con: “Anh ở với Người?”, rồi bà hỏi: “Người có thực sự tốt không?” Gioan nói.
- Vậy là cậu đã thấy bà. Bà ta thế nào? - Phêrô và Judas hỏi.
- Thì... một người đàn bà...
- Khám phá hay nhỉ! - Phêrô cười nói.Và Iscariot tiếp: “Nhưng bà ta đẹp, trẻ, giầu?”
- Ừ, tôi thấy hình như bà trẻ, và cũng đẹp nữa. Nhưng tôi luôn luôn nhìn về Giêsu hơn là nhìn phía bà. Tôi nhìn để coi Thầy đã bắt đầu đi tiếp chưa...
- Ngu qúa! - Iscariot lẩm bẩm giữa hai hàm răng.
- Tại sao? - Giacôbê Zêbêđê nói để bảo vệ ông: “Em tôi đâu phải là một Ganymède đi phiêu lưu khám phá. Nó đã trả lời vì lịch sự, nhưng nó không thiếu sót đối với phẩm chất thứ nhất của nó”.
- Phẩm chất nào? - Iscariot hỏi.
- Phẩm chất của người môn đệ luôn luôn giữ cho thầy mình tình yêu duy nhất của nó.
Judas bất bình cúi đầu.
- Lại nữa... sẽ không tốt nếu người ta thấy các anh nói chuyện với các người Rôma - Philíp nói. “Người ta đã kết án chúng tôi là dân Galilê, bởi đó ít trong sạch hơn các người Do Thái, và cũng bởi bẩm sinh. Rồi người ta kết án chúng tôi thường cư ngụ ở Tibêriat, nơi hẹn hò của các dân ngoại, các người Rôma, người Phênici, người Syrie... Rồi... còn nữa... ôi! Họ kết án chúng tôi biết bao thứ...”
- Con tốt, Philíp, con đã che một tấm màn trên sự khắc nghiệt của sự thật mà con nói. Nhưng nếu không có tấm màn thì sự thật đó là: Họ đã kết án Thầy biết bao thứ - bây giờ Giêsu nói, vì từ đầu tới giờ Người nín lặng.
- Thực sự, họ không hoàn toàn sai. Giao tiếp qúa nhiều với dân ngoại - Iscsriot nói.
- Con tưởng dân ngoại chỉ là những người không có luật Môise
542
thôi sao? - Giêsu nói.
- Vậy còn ai nữa?
- Judas!... Con có thể thề trên Thiên Chúa của chúng ta rằng không có ngẫu tượng giáo ở trong lòng con không? Và thề rằng các người Israel, những người có máu mặt nhất, cũng vô sự?
- Nhưng thưa Thầy... Những người khác thì con không biết... nhưng con... con có thể thề những gì liên can tới con.
- Trong tư tưởng của con, ngẫu tượng là gì? - Giêsu lại hỏi.
- Nhưng... Đó là theo một tôn giáo không có thực, là thờ các thần - Judas đối đáp.
- Các thần nào?
- Các thần của Hy Lạp, của Rôma, của Ai Cập... tóm lại là các thần với hàng ngàn thứ tên, những vật thể tưởng tượng ra, mà theo các dân ngoại, ở đầy trong Olympe.
- Không có các thần khác nữa sao? Chỉ có các thần của Olympe thôi sao?
- Còn thần nào nữa? Bấy nhiêu cũng là qúa nhiều rồi.
- Qúa nhiều. Đúng, qúa nhiều. Nhưng vẫn còn các thần khác nữa, mà trên bàn thờ của chúng, hết mọi người đến đốt nhang, kể cả các thầy cả, các luật sĩ, các rabbi, pharisiêu, saddu, người của Hêrôđê. Đó toàn là những người Israel phải không? Nhưng không phải chỉ có họ, mà có cả các môn đệ của Thầy.
- A! Cái đó là không! - mọi người đều ồn ào xác nhận.
- Không à các bạn?... Ai trong các con không có một hay nhiều sự thờ cúng kín đáo? Với người này thì là sắc đẹp và vẻ phong nhã, với người kia là kiêu hãnh về sự hiểu biết của mình, kẻ khác nữa thì đốt nhang cho hy vọng làm lớn theo loài người. Còn kẻ khác nữa thì thờ đàn bà, kẻ thì tiền bạc... kẻ kia nữa thì phục lạy trước các kiến thức của nó... và tiếp theo như vậy. Thật vậy, Thầy bảo các con rằng không có người nào là không có dấu vết tà thần. Vậy tại sao lại khinh bỉ những người, bởi kém may, là dân ngoại, trong khi những người, mặc dù thuộc về Thiên Chúa thực, nhưng vẫn là
543
dân ngoại trong ý muốn của họ?
- Nhưng chúng con là loài người Thầy ơi! - nhiều người kêu lên.
- Đúng vậy. Thế thì... hãy bác ái với mọi người, vì Thầy, Thầy đến cho mọi người, và các con không hơn Thầy.
- Nhưng, trong khi chờ đợi, họ kết án chúng con, và sứ mạng của Thầy bị xiềng.
- Dù sao nó cũng tiến lên.
Phêrô ngồi gần Giêsu, ông có vẻ hớn hở, đến lần ông nói: “Về vấn đề đàn bà, mấy ngày gần đây, ngay cả từ khi Thầy nói lần thứ nhất tại Bêtani, sau khi Judas trở về, có một người đàn bà trùm khăn kín mít không ngừng theo dõi chúng ta. Con không biết bà làm sao mà biết được ý định của chúng ta. Con biết rằng ở sau nhóm người dân nghe Thầy khi Thầy nói, hay đàng sau nhóm người đi theo Thầy khi Thầy bước, và cả đàng sau chúng con khi chúng con đi rao giảng Thầy ở miền quê, hầu như bà luôn luôn có mặt. Lần đầu tiên tại Bêtani, bà thì thầm với con sau lớp voan: ‘Có phải người sắp sửa nói đây đúng là Giêsu Nazarét không?’ Con nói với bà rằng đúng, và buổi chiều, bà đứng ở sau một thân cây để nghe Thầy. Rồi con không thấy bà nữa. Nhưng hôm nay, ở đây, tại Jêrusalem, con thấy bà hai ba lần. Hôm nay con hỏi bà: ‘Bà có cần Người không? Bà có bệnh không? Hay bà muốn một của bố thí?’ Bà luôn luôn trả lời con là không bằng cái lắc đầu, vì bà không nói chuyện với ai cả”.
- Một hôm bà hỏi con: “Giêsu ở đâu?”, con bảo bà: “Ở Gétsêmani” Gioan nói.
- Hoan hô, ngu ngốc! - Iscariot tức giận nói. “Không nên nói vậy. Cậu phải nói: ‘Bỏ voan ra đi, cho người ta biết mặt rồi tôi sẽ nói’”.
- Nhưng... Chúng ta phải hỏi như vậy từ hồi nào? - Gioan kêu lên cách đơn sơ vô tội.
- Với những người khác thì ta thấy mặt, còn cái bà này che kín mít, có lẽ là tên do thám hay người cùi. Bà không được đi theo chúng ta và biết bất cứ cái gì. Nếu đó là tên do thám thì là để làm hại chúng ta. Có lẽ Đại Pháp Đình trả tiền cho bà để bà theo dõi
544
chúng ta...
- A! Họ dùng cả thủ đoạn đó, Đại Pháp Đình? - Phêrô hỏi. “Anh có chắc không?”
- Tuyệt đối chắc. Tôi thuộc về Đền Thờ, tôi biết.
- Đó là một ví dụ - Phêrô bình luận. “Phù hợp với lý lẽ mà Thầy mới nói đây”.
- Lý lẽ nào? - Judas đã đỏ mặt vì giận.
- Là ngay giữa các thầy cả cũng có các dân ngoại.
- Việc đó có ăn nhằm chi với việc trả tiền cho một người do thám?
- Ăn nhằm chứ, và sao! Đã có rồi đó. Tại sao họ trả tiền? Để hạ Đức Messi và bảo đảm chiến thắng của họ. Vậy là họ lên bàn thờ với tâm hồn nhơ nhớp dưới y phục chải chuốt - Phêrô trả lời với giác quan bình dân tốt của ông.
- Được, tóm lại - Judas tóm tắt. “Người đàn bà này nguy hiểm cho chúng ta hay cho đám đông. Cho đám đông là nếu bà ta cùi, cho chúng ta, nếu bà ta là một trinh thám”.
- Tức là nguy cho Người, hơn tất cả - Phêrô đáp.
- Nhưng nếu Người ngã gục thì chúng ta cũng ngã gục luôn...
- A! A! - Phêrô cười nói và ông kết thúc: “Nếu Người ngã gục: thần tượng bể thành trăm mảnh, ta liều mất thời giờ, mất sự nổi tiếng, và có thể mất cả mạng. Vậy thì... A! A!... vậy tốt hơn là ngăn cản người ngã, hoặc là... rời bỏ Người kịp thời phải không? Đối với tôi, trái lại, nhìn đây, tôi ôm Người chặt hơn. Nếu Người ngã, bị hạ bởi các kẻ phản bội Thiên Chúa, tôi muốn ngã gục theo với Người”. Và Phêrô ôm ghì lấy Giêsu bằng hai cánh tay ngắn của ông.
- Thầy ơi, con không ngờ là đã làm từng ấy thiệt hại - Gioan buồn rầu nói. Ông ngồi ngay trước mặt Giêsu. “Hãy đánh con, đối xử tàn ác đối với con, nhưng hãy trốn đi. Khốn nạn cho con, nếu con là nguyên nhân cho cái chết của Thầy!... Ôi! Con sẽ không tìm được bình an nữa. Con cảm thấy mặt con sẽ tan trong nước mắt và mắt con bị cháy thiêu. Ước gì con không bao giờ làm. Judas có lý:
545
Con là đứa ngu!”
- Không, Gioan, con không ngu, con đã hành động đúng. Hãy để cho bà tới, luôn luôn. Và hãy tôn trọng tấm voan của bà. Có thể bà đã trùm để tự vệ trong cuộc chiến giữa tội lỗi và ước mong được cứu chuộc. Các con có biết người ta bị đả thương chừng nào khi xảy ra cuộc chiến này không? Các con có biết những nước mắt của họ và sự xấu hổ ở trên trán họ không? Gioan, đứa con yêu với qủa tim trẻ thơ và tốt lành, con đã nói rằng mặt con sẽ bị khoét sâu vì nước mắt không cạn nếu con là nguyên nhân cho Thầy khổ. Nhưng hãy biết rằng khi một lương tâm thức dậy bắt đầu gậm nhấm thân xác đã phạm tội để phá hủy nó cho tâm hồn được thắng, nó phải mạnh mẽ tiêu hủy hết những gì là sự lôi kéo của thân xác, và người đó già đi, tàn tạ dưới sức nóng của ngọn lửa làm việc trong họ. Chỉ sau khi sự cứu chuộc đã được thực hiện, nó tự làm lại một vẻ đẹp mới, thánh thiện và toàn vẹn hơn, vì chính vẻ đẹp của linh hồn thể hiện trên cái nhìn, trên nụ cười, trong tiếng nói, trên vầng trán ngay thẳng mà sự tha thứ của Thiên Chúa xuống như một triều thiên huy hoàng.
- Vậy con đã không làm sai?...
- Không, và Phêrô cũng không làm sai. Hãy để cho bà làm. Bây giờ mỗi người đi nghỉ đi. Thầy ở lại với Gioan và Simon mà Thầy có việc phải nói. Đi đi.
Các môn đệ rút lui. Có lẽ họ ngủ trong nhà ép dầu. Tôi không biết. Họ ra ngoài, và chắc chắn không trở vào Jêrusalem, vì các cổng thành đã đóng từ lâu.
- Simon, con nói rằng hôm nay Lazarô đã sai Isaac và Maximin đến với con lúc Thầy đang ở gần tháp Đavít. Ông ta muốn gì?
- Ông muốn nói với Thầy rằng Nicôđêmô đang ở nhà ông, và ông ta muốn nói với Thầy cách kín đáo. Con đã mạn phép để nói: “Bảo ông ta đến, Thầy sẽ chờ ông lúc ban đêm”. Thầy chỉ có ban đêm mới ở một mình. Vì vậy con đã xin Thầy cho hết mọi người đi, chỉ trừ Gioan và con. Gioan sẽ ra cầu Cédron để chờ Nicôđêmô, ông ở trong một căn nhà của Lazarô bên ngoài tường thành. Con,
546
con có nhiệm vụ giải thích cho Thầy. Con có làm sai không?
- Con làm rất phải. Đi đi Gioan, hãy tới chỗ của con.
Simon và Giêsu ở lại với nhau. Giêsu suy tư. Simon kính trọng sự yên lặng của Người. Nhưng bất thình lình Giêsu phá sự yên lặng tựa như Người kết thúc lớn tiếng cuộc đàm thoại nội tâm, Người nói: “Đúng, nên làm như vậy. Isaac, Êlie và những người khác đủ để giữ cho sống động tư tưởng đã thành hình nơi những người tốt và khiêm nhường. Với những người mạnh... có những đòn bẩy khác. Có Lazarô, Chouza, Giuse và những người khác nữa. Nhưng những kẻ mạnh... họ không muốn Thầy. Họ sợ và run cho quyền bính của họ. Thầy sẽ đi xa trung tâm của những người Do Thái luôn luôn hận thù hơn với Đức Kitô”.
- Chúng ta trở lại Galilê?
- Không, nhưng đi xa Jêrusalem. Phải giảng Tin Mừng cho Juđê, đó cũng là Israel. Nhưng ở đây, con thấy đó... Người ta tìm mọi cách để kết án Thầy. Thầy rút lui. Đây là lần thứ hai rồi...
- Thưa Thầy, Nicôđêmô đây - Gioan nói khi ông bước vào trước.
Họ chào nhau, rồi Simon dắt Gioan đi với ông ra khỏi nhà bếp, để lại mình hai người.
- Thưa Thầy, xin Thầy tha lỗi cho tôi vì muốn nói với Thầy cách bí mật. Tôi nghi ngờ rất nhiều người, cho tôi và cho Thầy. Thái độ của tôi không phải chỉ là hèn nhát, mà cũng còn vì khôn ngoan và muốn giúp Thầy nhiều hơn là nếu tôi thuộc về Thầy cách công khai. Thầy có rất nhiều kẻ thù. Tôi thuộc về một nhóm nhỏ những người ở đây cảm phục Thầy. Tôi đã hỏi ý kiến Lazarô. Lazarô rất mạnh do gốc gác của ông. Người ta sợ ông vì ông được lòng Rôma, công chính trước mặt Thiên Chúa, khôn ngoan bởi sự già dặn của trí tuệ và học thức, ông là người bạn thực của Thầy và bạn thực của tôi. Chính vì vậy mà tôi muốn nói chuyện với Thầy, và tôi sung sướng là ông ta xét đoán cùng một phương cách như tôi. Tôi đã nói cho ông về... cuộc thảo luận vừa qua của Đại Pháp Đình về Thầy.
- Về cuộc kết án vừa qua. Hãy nói sự thật cách đơn sơ, rõ ràng như nó là.
- Cuộc kết án vừa qua, thưa Thầy đúng. Tôi đã sắp nói: “Vậy tôi,
547
tôi cũng là người của ông ta”, để ít nhất có một người về phe với Thầy trong hội đồng này. Nhưng Giuse ngồi gần bên tôi đã nói nhỏ với tôi: “Nín đi. Hãy giữ bí mật cách nhìn của chúng ta, tôi sẽ nói với anh sau”. Rồi khi ra ngoài, ông nói: “Tốt hơn là như vậy. Nếu họ biết chúng ta là môn đệ, họ sẽ tránh không cho chúng ta biết tư tưởng của họ và các quyết định của họ. Họ có thể làm hại Người và làm hại chúng ta. Nếu họ nghĩ rằng chúng ta chỉ lưu ý tới những gì Người nói, họ sẽ không dấu chúng ta những hành động của họ”. Tôi hiểu. Giuse có lý. Họ rất... rất xấu! Tôi còn các lợi ích của tôi và các bổn phận của tôi... Và Giuse cũng vậy... Xin Thầy hiểu.
- Thầy không hề trách móc qúi vị điều gì. Trước khi ông đến, Thầy đã nói điều đó với Simon. Và Thầy đã quyết định rời xa Jêrusalem.
- Thầy ghét chúng tôi vì chúng tôi không yêu Thầy!
- Không. Cả đến kẻ thù, Thầy cũng không ghét.
- Thầy nói vậy, đúng, thực vậy. Thầy có lý. Nhưng đau đớn chừng nào cho tôi và Giuse! Và Lazarô? Ông sẽ nói gì, vì vừa chính bữa nay, ông đã quyết định xin Thầy rời bỏ nơi này để tới ở trong một sở hữu của ông tại Sion. Thầy biết không? Lazarô rất giầu. Một phần rất lớn của thành phố thuộc về ông, cũng như nhiều vùng đất ở Palestin. Cha ông, ngoài gia sản của ông và của Euchérie do chi tộc và gia đình, còn có những phần thưởng của Rôma dành cho các tôi trung của họ. Ông đã để lại cho con cái một gia sản quan trọng. Nhưng điều quan trọng nhất là một tình bạn rất mạnh với Rôma, mặc dầu che đậy. Không có nó là cái đã cứu cả gia đình khỏi nỗi ô nhục vì lối sống nhơ nhớp của Maria, sự đoạn tuyệt của cô được nhìn nhận chỉ vì là “Cô”, đời sống phóng túng của cô trong thành phố lãnh địa của cô, và tại Tibêriat với các nhà điếm thanh lịch mà Rôma và Athènes dùng làm nơi hẹn hò trăng gió với bao nhiêu người của dân được chọn? Thực sự, nếu ông Théophile người Syrie là một người tân tòng sùng đạo hơn, thì ông không cho con cái ông lối giáo dục Hy Lạp là cái đã giết chết bao nhân đức và gieo vãi khoái lạc. Thu, thải, không kể gì nỗi bực dọc của Lazarô, và đặc
548
biệt là của Matta. Nó đã làm hỏng Maria khi cô phát triển trong bản tính đa tình của cô, và làm cho cô thành bùn lầy của gia đình và của Palestin. Không, không có sức mạnh của Rôma che chở thì người ta sẽ nguyền rủa họ còn hơn là với người cùi. Nhưng vì nó như vậy nên người ta lợi dụng hoàn cảnh.
- Không, thầy rút đi. Ai muốn Thầy thì đến với Thầy.
- Tôi đã hành động sai khi nói - Nicôđêmô lo sợ.
- Không. Chờ tí, và hãy tin chắc.
Giêsu mở một cánh cửa và gọi: “Simon, Gioan, về với Thầy”. Hai người chạy về.
- Simon, hãy nói cho Nicôđêmô điều Thầy đã nói với con trước khi ông tới.
- Với các người khiêm nhường thì các mục đồng đã đủ, với những người mạnh thì có Lazarô, Nicôđêmô, Giuse và Chouza. Và Thầy sẽ rút ra xa Jêrusalem nhưng không bỏ rơi Juđê. Đó là những điều Thầy đã nói. Tại sao Thầy bảo con nhắc lại? Có chuyện gì xảy ra?
- Không có gì hết. Nicôđêmô sợ Thầy nói vậy tại vì các lời của ông.
- Tôi đã nói với Thầy rằng Đại Pháp Đình càng ngày càng hận thù đối với Người, và sẽ là điều tốt nếu Thầy ở dưới sự che chở của Lazarô. Ông đã bảo vệ tài sản của anh vì ông có Rôma về phe ông. Ông cũng sẽ bảo vệ Giêsu.
- Thực vậy, đó là một lời khuyên tốt. Mặc dầu giai cấp của con không được lòng Rôma, nhưng một lời của Théophile đã duy trì của cải cho con trong lúc con đi đày và bị cùi. Và Lazarô rất gắn bó với Thầy.
- Thầy biết. Nhưng Thầy đã quyết định, và Thầy làm điều Thầy đã quyết định.
- Vậy là chúng con sắp mất Thầy!
- Không, Nicôđêmô. Người thuộc mọi đảng phái có thể đến với ông Tẩy Giả; người thuộc mọi đảng phái và mọi hoàn cảnh có thể đến với Thầy.
- Chúng con đến với Thầy. Hãy biết rằng Thầy còn hơn Gioan.
- Qúi vị còn có thể tới. Thầy sẽ là một rabbi đơn độc cũng như
549
Gioan, và Thầy sẽ nói với đám đông ước ao nghe tiếng Thiên Chúa và có thể tin rằng Thầy là tiếng nói đó. Còn những người khác sẽ quên Thầy, nếu ít ra họ có thể quên.
- Thầy ơi, Thầy buồn và thất vọng. Thầy có lý. Mọi người đều nghe Thầy và tin vào Thầy chỉ để được phép lạ. Ngay cả một quần thần của Hêrôđê mà chắc chắn lòng tốt tự nhiên của ông đã bị hư hỏng trong cái triều đình loạn luân này, và còn ngay cả đến các lính Rôma cũng tin vào Thầy. Chỉ có chúng con, dân Sion, là chai đá... Nhưng không phải tất cả. Thầy thấy đó... Chúng con biết rằng Thầy bởi Thiên Chúa mà đến. Sự uyên bác của Thầy, vĩ nhân số một cũng không có. Chính Gamaliel cũng nói vậy. Không ai có thể làm các phép lạ mà Thầy đã làm nếu Thiên Chúa không ở với họ. Điều đó ngay cả những người thông thái như Gamaliel cũng tin. Vậy làm sao chúng tôi không thể có được lòng tin mà các kẻ nhỏ mọn của Israel có được? Ôi! Hãy nói cho tôi cách chính xác, tôi sẽ không phản bội Thầy dù Thầy bảo tôi: “Ta đã nói dối để làm cho có giá các lời khôn ngoan của Ta dưới một con dấu mà không ai có thể chế nhạo”. Thầy có phải Đức Messi của Chúa? Đấng được trông đợi? Lời của Chúa Cha, nhập thể để giáo huấn và cứu chuộc Israel theo như giao ước không?
- Có phải chính ông đặt câu hỏi hay ai đã sai ông tới để đặt?
- Chính tôi, chính tôi, Chúa ơi. Tôi có nỗi dằn vặt ở đây, trong lòng tôi. Tôi chịu một cơn lốc. Các luồng gió ngược chiều và các tiếng nói tương phản. Tôi, một người đứng tuổi, tại sao tôi không có được sự chắc chắn bình an mà cậu bé này, hầu như mù chữ, còn trẻ măng, lại có được. Sự bình an đã đặt nụ cười trên môi cậu, ánh sáng vào mắt cậu, và mặt trời trong qủa tim cậu. Gioan, cậu làm sao để tin, để được bình an như vậy? Ôi! Con ơi, hãy dạy cho ông bí mật của con, điều đã làm cho con biết, thấy, và nhận ra Đấng Messi nơi Giêsu Nazarét!
Gioan trở nên đỏ như qủa dâu, rồi ông cúi đầu như xin lỗi để nói một điều qúa vĩ đại, và ông trả lời đơn sơ: “Bằng cách yêu”.
- Bằng cách yêu! Còn anh, Simon, con người ngay thẳng, đã ở
550
ngưỡng cửa tuổi già. Anh học thức và đã từng gian khổ tới nỗi anh bị đẩy tới chỗ sợ hãi sự xảo quyệt ở khắp nơi?
- Bằng cách suy niệm.
- Bằng cách yêu! Bằng cách suy niệm! Tôi cũng yêu, tôi cũng suy niệm, nhưng tôi không có được sự chắc chắn này!
Giêsu can thiệp khi nói: “Tôi, tôi nói cho ông cái bí mật thực sự: Những người này đã biết sinh lại với một tâm hồn mới, tự do khỏi mọi xiềng xích, sạch mọi ý tưởng. Chính vì vậy họ đã hiểu Thiên Chúa. Nếu ai không sinh lại, họ không thể thấy nước Thiên Chúa, cũng không thể tin vào Vua của Nước ấy”.
- Làm sao một người có thể sinh lại nếu họ đã lớn? Một khi ra khỏi lòng mẹ, người ta không bao giờ có thể trở vào đó nữa. Có lẽ Thầy ám chỉ về thuyết hóa thân mà nhiều người dân ngoại tin? Nhưng không, Thầy không thể giả sử điều đó. Lại nữa, đây không phải là trở vào trong bụng, mà là nhận lại một thân xác ở ngoài thời gian. Như vậy thì không còn là sinh lại nữa. Thế nào? Thế nào?
- Chỉ có một lần hiện hữu cho thân xác trên trái đất, và một đời sống muôn đời cho linh hồn ở bên kia trái đất. Bây giờ Thầy không nói về thịt và máu, thầy nói về linh hồn bất tử, là cái nhờ sự trung gian của hai điều để sinh lại vào đời sống: Bởi nước và bởi Thánh Linh. Nhưng sự lớn lao hơn là Thánh Linh, không có Người, nước chỉ là một tượng trưng. Ai được rửa bằng nước thì phải thanh tẩy lại với Thánh Linh, và cùng với Người để cháy sáng và rực rỡ, nếu nó muốn sống trong lòng Thiên Chúa ở đời này và trong Nước Vô Tận. Vì những gì được cưu mang bởi xác thịt thì là xác thịt, và nó chết sau khi đã được dùng cho các ước muốn và tội lỗi. Nhưng những gì được cưu mang bởi Thánh Linh thì là thần trí, nó sống và trở về với Thánh Linh đã cưu mang nó sau khi đã làm cho nó tới tuổi hoàn thiện. Chỉ những vật thể đã tới tuổi hoàn thiện của thần trí mới được ở trong Nước Trời. Vậy đừng ngạc nhiên khi Thầy nói: “Các con phải sinh lại”. Những người này đã biết sinh lại. Người trẻ đã giết xác thịt để làm tái sinh thần trí bằng cách đặt cái tôi của nó trên giàn hỏa thiêu của tình yêu. Tất cả những gì là vật chất đã bị
551
cháy thiêu. Từ đống tro đã mọc lên bông hoa thiêng liêng mới, bông hoa qùi tuyệt vời, biết quay về với mặt trời đời đời. Người già đã đặt cái rìu của sự suy niệm thẳng thắn vào gốc cây của các tư tưởng cũ, và đã chặt rễ của cây cũ, chỉ để lại những chồi của thiện chí, từ đó ông làm sinh ra tư tưởng mới của ông. Bây giờ ông yêu Thiên Chúa với một thần trí mới và ông thấy Người. Mỗi người có phương pháp của mình để tới bến. Gió nào cũng thích hợp cho kẻ biết sử dụng cánh buồm. Qúi vị nghe gió thổi, và qúi vị căn cứ vào hướng của nó để điều hành, nhưng qúi vị không thể nói nó từ đâu đến, cũng không thể gọi cơn gió mà qúi vị cần. Thánh Linh cũng gọi, Người đến, Người gọi rồi Người đi. Chỉ những ai chú ý mới có thể theo Người. Đứa con nhận ra tiếng nói của người cha, thần trí đã được cưu mang bởi Thánh Linh thì nhận ra tiếng nói của Thánh Linh.
- Điều đó xảy ra thế nào?
- Ông là thầy của Israel mà ông hỏi tôi điều đó? Ông không biết các điều này sao? Người ta nói và người ta làm chứng về những điều người ta biết và người ta đã thấy. Vậy tôi nói và làm chứng về điều tôi biết. Làm sao ông có thể nhận những điều mà ông không thấy nếu ông không nhận lời chứng mà tôi nói cho ông. Làm sao ông có thể tin vào Thánh Linh nếu ông không tin vào Lời Nhập Thể. Tôi xuống để trở lên và mang theo với tôi những kẻ ở dưới thế này. Chỉ có một người duy nhất từ trời mà xuống: Con Người. Và chỉ có một người duy nhất sẽ lên trời với quyền bính để mở cửa Trời: Tôi, Con Người. Ông hãy nhớ lại Môise: trong sa mạc, ông đã treo con rắn lên để chữa cho những người Israel bị bệnh. Khi nào tôi bị treo lên thì những người mà cơn sốt của tội lỗi làm cho mù, điếc, câm, điên, cùi, bệnh, sẽ được chữa, và những ai tin vào tôi sẽ được sự sống đời đời, và cả những ai đã tin vào tôi cũng sẽ được đời sống hạnh phúc này.
Đừng cúi mặt, Nicôđêmô. Tôi đến để cứu chứ không phải để cho mất. Thiên Chúa không sai Con Một duy nhất của Người xuống trần gian để những kẻ ở đó bị kết án, nhưng để thế giới được cứu
552
bởi Người. Trong thế gian, tôi thấy có đủ thứ tội, đủ thứ tà giáo, đủ thứ tà thần. Nhưng con én bay nhanh bên trên bụi có thể bị dơ bộ lông không? Không. Nó chỉ mang xuống trên các con đường buồn của trái đất một dấu phẩy xanh, một mùi hương của Trời. Nó dóng lên một tiếng gọi để lay động lòng người, để bảo họ ngước cái nhìn lên bên trên bùn, và bảo họ theo đường bay của nó để trở về trời. Với tôi cũng vậy. Tôi đến để mang qúi vị đi với tôi. Hãy đến!... Ai tin vào Con Duy Nhất của Cha sẽ không bị phán xét, nó đã được cứu, vì người Con này nói với Cha: “Người này yêu con”. Nhưng với những kẻ không tin thì vô ích để làm những việc thánh. Nó đã bị xét xử, vì nó không tin vào danh Con Duy Nhất của Thiên Chúa. Tên tôi là gì, Nicôđêmô?
- Giêsu.
- Không, Người Cứu. Tôi là sự cứu rỗi. Kẻ không tin tôi là từ chối phần rỗi của nó, nó đã bị phán xét bởi Sự Công Bằng Đời Đời, và đây là phán quyết: “Ánh Sáng đã được gởi đến cho ngươi, cho ngươi và cho thế giới, để là sự cứu rỗi cho các ngươi. Nhưng ngươi và những người khác đã thích bóng tối hơn Ánh Sáng, vì các ngươi thích những việc xấu mà các ngươi đã quen hơn là việc tốt mà Người chỉ cho các ngươi và các ngươi phải gắn bó với nó để trở nên thánh. Các ngươi đã ghét Ánh Sáng, vì các kẻ gian ác thì thích bóng tối để phạm tội, và các ngươi đã trốn Ánh Sáng để nó không tỏ lộ vết thương kín đáo của các ngươi”. Đó không phải đặc biệt cho ông mà tôi nói vậy đâu Nicôđêmô. Nhưng đó là sự thật. Và hình phạt sẽ cân xứng với sự kết án cho cá nhân cũng như tập thể.
Còn với những kẻ yêu tôi và đem ra thực hành những điều tôi dạy, và như thế là sinh ra một lần thứ hai bằng một việc sinh ra thực sự hơn, tôi nói rằng họ không sợ gì ánh sáng, trái lại, họ tới gần nó, vì ánh sáng này gia tăng ánh sáng đã soi cho họ lúc đầu. Đó là sự vinh quang hỗ tương làm cho Thiên Chúa được sung sướng nơi con cái Người, và đến lần họ, họ cũng được hạnh phúc nơi Cha họ. Không, con cái Ánh Sáng không sợ bị soi sáng, trái lại, trong lòng họ và bởi công việc của họ, họ nói: “Không phải tôi, nhưng là
553
Người: Chúa Cha, Người: Chúa Con, Người: Chúa Thánh Thần, đã hoàn thành những điều lành nơi tôi. Vinh quang cho Người đời đời”. Và từ Trời, tiếng ca vô tận của Ba Ngôi yêu nhau trả lời trong sự hợp nhất toàn vẹn của Người: “Hỡi đứa con thực của ý muốn chúng ta, phúc lành muôn đời cho con”. Gioan, con hãy nhớ lấy những lời này cho giờ sẽ đến để viết nó ra. Nicôđêmô, ông có nhìn nhận không?
- Thưa Thầy... có. Khi nào tôi có thể nói với Thầy nữa?
- Lazarô sẽ biết phải dẫn ông tới đâu. Thầy sẽ tới nhà ông ta trước khi rời xa đây.
- Tôi đi, Thầy. Xin hãy chúc lành cho tôi tớ Thầy.
- Bình an của Thầy ở với ông.
Nicôđêmô ra cùng với Gioan.
Giêsu quay về với Simon: “Con thấy công việc của các quyền lực tối tăm không? Giống như cái màng nhện, nó giương bẫy, vùi dập, giam hãm những kẻ không biết chết để tái sinh thành con bướm mạnh mẽ đủ để xé rách tấm màn tối và ra ngoài, mang theo làm kỷ niệm về chiến thắng, những mảnh vụn sáng rực rỡ trên đôi cánh vàng của nó như những cờ xí và hiệu kỳ chiến thắng trên kẻ thù. Chết để sống. Chết để cho các con sức mạnh để chết. Simon, con đi nghỉ đi, và nguyện Thiên Chúa ở với con”.
Tất cả chấm dứt.
84* GIÊSU TẠI NHÀ LAZARÔ TRƯỚC KHI
ĐI TỚI “NƯỚC ĐẸP”
Giêsu đi lên con đường dốc dẫn tới cao nguyên, nơi Bêtani được xây cất. Lần này Người không đi con đường chính, Người đi con đường mòn dốc hơn, dẫn thẳng từ tây bắc về phía đông, rất ít người qua lại, có lẽ vì độ dốc đứng của nó. Chỉ có những khách du hành vội vã mới đi, và những người dẫn đoàn vật, muốn tránh sự đi lại của nhiều người ở lộ chính, cũng như những người giống Giêsu
554
hôm nay, không muốn bị nhiều người quan sát. Người đi đàng trước, nói chuyện kín đáo với Zêlote. Đàng sau Người, nhóm thứ nhất là hai anh họ với Gioan và Andrê. Rồi nhóm khác là Giacôbê Zêbêđê, Mathêu, Tôma, Philíp. Sau cùng là Batôlômêo với Phêrô và Iscariot.
Họ tới cao nguyên, nơi Bêtani đang cười với mặt trời một ngày trong sáng của tháng mười một. Nhìn về phía đông, ta thấy thung lũng sông Giođan và con đường dẫn về Jêricô. Giêsu ra lệnh cho Gioan đi báo tin cho Lazarô rằng Người tới. Trong khi Gioan chạy đi mau lẹ, Giêsu đi từ từ với các người của Ngài, được chào ở khắp nơi bởi các người địa phương.
Người đầu tiên từ nhà Lazarô tới là một người đàn bà. Bà phủ phục tới tận đất trong khi nói: “Một ngày hạnh phúc cho nhà bà chủ con. Mời Thầy vào. Kìa, Maximin đã ở cổng, kìa, Lazarô”.
Maximin chạy tới. Tôi không biết rõ ông này là ai. Tôi có cảm tưởng đó là người bà con ít giầu hơn mà các con của Théophile cho ở trong nhà, hoặc là người quản lý cho gia tài quan trọng của họ, nhưng được đối xử như bạn bè vì phẩm tính của ông và vì thời gian dài phục vụ trong nhà. Hoặc đây là con của người quản lý của cha Lazarô, và tiếp tục cha trong nhiệm vụ này bên các con của Théophile. Ông hơi già hơn Lazarô, khoảng ba mươi lăm tuổi hay hơn một ít. “Chúng con không ngờ được có Thầy sớm như vậy”. Ông nói.
- Thầy đến xin một chỗ trọ qua đêm.
- Nếu đó là mãi mãi thì Thầy làm cho chúng con sung sướng.
Họ tới cổng. Lazarô ôm hôn Giêsu và chào các môn đệ. Rồi lấy tay ôm quanh thắt lưng Giêsu, ông cùng với Người đi vào trong vườn. Ông tách rời các người khác và thình lình hỏi: “Vì sao con được niềm vui gặp Thầy?”
- Vì sự thù ghét của Đại Pháp Đình.
- Họ đã làm hại Thầy? Lại vậy nữa?
- Không, nhưng họ muốn làm. Chưa tới giờ. Bao lâu Thầy chưa cày bừa toàn thể Palestin và gieo hạt xong thì Thầy không được để
555
mình bị hạ.
- Thầy cũng phải gặt nữa chứ. Thật chính đáng là như vậy.
- Gặt hái thì các bạn Thầy sẽ làm. Họ sẽ để lưỡi hái vào chỗ Thầy đã gieo. Lazarô, Thầy đã quyết định rời xa Jêrusalem. Thầy biết rằng việc đó không ích lợi gì cho cá nhân Thầy, Thầy đã biết trước, nhưng nó cho Thầy có thể rao giảng Tin Mừng, thay vì kết qủa khác. Tại Sion người ta đã từ chối Thầy cả việc đó.
- Con đã bảo Nicôđêmô xin Thầy tới một trong những sở hữu của con. Không ai dám xâm phạm nó. Thầy có thể thi hành sứ vụ của Thầy không bị phiền phức. Và, ôi nhà con! Căn nhà phúc đức nhất trong các nhà của con, vì nó sẽ được thánh hóa bởi giáo huấn của Thầy, và vì Thầy sẽ hít thở ở đó. Xin Thầy cho con được niềm vui có ích cho Thầy, Thầy của con.
- Con thấy rằng Thầy đang cho con rồi. Nhưng Thầy không thể ở lại Jêrusalem. Thầy sẽ không bị phiền, nhưng người ta làm phiền những người tới đó. Thầy đi về phía Ephraim, khoảng giữa Ephraim và sông Giođan. Ở đó, Thầy sẽ giảng Tin Mừng và làm phép rửa như ông Tẩy Giả.
- Ở khoảng đó con có một căn nhà nhỏ. Đó là chỗ chứa đồ của các người làm việc. Thỉnh thoảng họ ngủ ở đó vào mùa cắt cỏ hay mùa thu hoạch. Nó thảm hại, chỉ có mái và bốn bức tường. Nhưng nó vẫn là ở trên đất của con và người ta biết... đó sẽ là con bù nhìn cho các chó sói. Chúa ơi, xin nhận nó. Con sẽ sai các đầy tớ đến dọn dẹp.
- Vô ích, nếu các nông dân ngủ ở đó, nó cũng thích hợp cho chúng ta.
- Con không để ở đó các đồ sang trọng, nhưng con bổ túc số giường, ôi! Nghèo nàn như Thầy muốn. Con sẽ cho mang tới các chăn mền, ghế, ly chén và lu bình. Qúi vị cũng phải ăn và che ấm trong những tháng mùa đông này. Xin Thầy để con làm, nhưng không phải là chính con làm đâu. Kìa Matta đang đến với chúng ta. Cô được thiên phú óc thực tiễn, thông minh và biết tổ chức. Cô làm cho nhà cửa, để nó là sự khích lệ vật chất và tinh thần cho những người ở trong đó. Lại đây đi, cô chủ êm đềm và trong trắng của
556
anh. Thầy thấy không? Con cũng nương trú dưới sự bảo trợ từ mẫu của cô, trong phần gia tài thuộc về cô. Như vậy con sẽ không qúa hối tiếc mẹ con cách đau đớn. Matta, Giêsu rút về vùng đồng bằng của Nước Đẹp. Về đẹp thì chỉ có đất mầu mỡ. Căn nhà là cái chuồng súc vật. Nhưng Người muốn một căn nhà nghèo. Phải để vào đó những thứ cần thiết. Hãy ra lệnh, em, phụ nữ dũng cảm! - Và Lazarô hôn bàn tay rất đẹp của em ông mà sau đó cô giơ lên để vuốt ve ông với một tình yêu thực sự mẫu tử.
Rồi Matta nói: “Em tới đó ngay. Em mang Maximin và Marcelle đi với em. Các người đánh xe sẽ giúp xếp dọn. Xin Thầy chúc lành cho con, như vậy con sẽ mang theo với con một cái gì của Thầy”.
- Ừ, cô chủ êm đềm của Thầy. Thầy gọi con giống như Lazarô. Thầy cho con qủa tim của Thầy để con mang nó với con, ở trong tim con.
- Thầy có biết rằng hôm nay Isaac với Êlie và các người khác đang ở trong miền quê này không? Họ đã xin con đồng cỏ ở dưới, trong đồng bằng, để có thể hơi ở gần nhau. Con đã làm vui lòng họ. Hôm nay họ thay đồng cỏ, và con chờ họ vào bữa ăn.
- Thầy sung sướng vì điều đó. Thầy sẽ cho họ những chỉ thị...
- Vâng, để có thể giữ sự liên lạc. Nhưng thỉnh thoảng Thầy sẽ tới phải không?
- Thầy sẽ tới. Thầy đã nói với Simon. Và vì không có lý nào Thầy xâm chiếm căn nhà với các môn đệ, Thầy sẽ ở trong nhà của Simon.
- Không, Thầy ơi, sao Thầy làm con buồn?
- Lazarô, đừng tìm hiểu. Thầy biết như vậy là tốt.
- Vậy là...
- Vậy là Thầy vẫn ở trong nội địa của con. Điều mà Simon chưa biết, Thầy đã biết. Kẻ muốn tậu nhà mà không ra mặt, không bàn cãi, chỉ vì muốn ở gần Lazarô Bêtani, đó là con trai của Théophile, người bạn trung thành của Simon Zêlote, người bạn lớn của Giêsu Nazarét. Người đã trả gấp đôi vì Jonas mà không lấy trên số tiền của Simon, để cho ông này được cái vui có thể làm nhiều cho Thầy
557
là người nghèo, và cho các người nghèo của Thầy, người đó có tên là Lazarô. Kẻ luôn luôn kín đáo và lưu ý điều khiển, nâng đỡ mọi cố gắng tốt để cho Thầy sự giúp đỡ, khích lệ cũng như bảo vệ, đó là Lazarô Bêtani. Thầy biết.
- Ôi! Đừng nói điều ấy ra. Con nghĩ rằng hành động kín đáo như vậy là tốt!
- Với người ta thì đó là điều bí mật, nhưng với Thầy thì không. Thầy đọc được trong các con tim. Con có muốn Thầy nói cho con tại sao lòng tốt mà con vẫn có cách tự nhiên lại được nhuộm một sự toàn vẹn siêu nhiên không? Là vì con xin một ơn siêu nhiên: con xin phần rỗi cho một linh hồn đồng thời với sự thánh thiện của con và của Matta. Con nhận rằng chỉ tốt theo những tư tưởng của thế gian thì không đủ, còn phải tốt theo các luật của tâm hồn để được ơn của Thiên Chúa. Con đã không nghe các lời Thầy, nhưng Thầy đã nói: “Khi các con làm việc lành, hãy làm cách kín đáo, và Chúa Cha sẽ ban thưởng lớn lao cho các con”. Con đã hành động theo một sự thúc đẩy tự nhiên về lòng nhân đạo. Và thực sự, Thầy bảo con rằng Chúa Cha đang chuẩn bị cho con một phần thưởng mà con không thể tưởng tượng.
- Sự cứu chuộc cho Maria?...
- Điều đó và hơn, hơn nữa.
- Thưa Thầy, vậy còn điều gì không thể hơn điều này?
Giêsu nhìn ông và mỉm cười, rồi người nói theo giọng đọc Thánh Vịnh: “Chúa hiển trị, và các thánh của Người đồng hiển trị với Người. Bằng các tia sáng của Người, Người kết triều thiên và đặt lên trán các thánh của Người, nơi nó sẽ muôn đời rực rỡ trước mắt Thiên Chúa và vũ trụ.
Nó được làm bằng kim loại nào? Nó được trang điểm bằng loại đá qúi nào? Bằng vàng. Chiếc triều thiên được làm bằng vàng rất tinh tuyền, rèn trong lò lửa kép của tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân, được ý muốn tinh luyện, đúc, mài, dũa, chạm trổ.
Có một số dồi dào các ngọc trai, bích ngọc còn xanh hơn cỏ mọc vào tháng tư, lơ ngọc như bầu trời, miêu ngọc mầu mặt trăng, tử
558
ngọc trinh trong như bông hoa tím, và các đá hoa vân, các lam ngọc, phong tín tử ngọc, hoàng ngọc. Đó là tất cả các đá qúi đã được đời sống cẩn vào. Rồi để hoàn tất tác phẩm, có một vòng hồng ngọc, một vòng lớn trên vầng trán vinh hiển.
Bởi vì kẻ được chúc phúc đã có đức tin và lòng trông cậy, đức hiền lành và lòng trong trắng, đức tiết độ và sức mạnh, đức công bằng và khôn ngoan, tình thương không giới hạn, và ở đáy qủa tim của nó đã được viết bằng máu nó: tên Thầy và lòng tin nơi Thầy, tình yêu của nó cho Thầy. Và tên nó sẽ ở trên trời.
Hỡi người công chính, hãy nhảy mừng trong Chúa. Loài người không biết, nhưng Thiên Chúa thấy.
Các lời hứa của Thầy và các việc của các con đã ghi trong cuốn sách đời đời cùng với tên các con, các hoàng tử của các thế kỷ tương lai, các kẻ chiến thắng muôn đời cùng với Đức Kitô của Chúa”.
Lazarô nhìn người ngạc nhiên. Rồi ông thì thầm: “Ôi!... con... con không có khả năng...”
- Con tin vậy sao? - Rồi Giêsu hái trên lối đi một nhánh lệ liễu mềm và nói: “Con coi đây, bàn tay Thầy bẻ gập cành lá này dễ dàng chừng nào. Tình yêu cũng sẽ uốn nắn linh hồn con như vậy để làm một triều thiên đời đời. Tình yêu là vị cứu tinh của mỗi cá nhân. Kẻ yêu là đã bắt đầu sự cứu chuộc của nó. Con Người sẽ làm hoàn tất”.
85* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP. BẮT ĐẦU
ĐỜI SỐNG CỘNG ĐỒNG VỚI CÁC MÔN ĐỆ
Nếu người ta muốn so sánh căn nhà thấp và thô sơ này với nhà ở Bêtani thì chắc chắn nó là chuồng súc vật đúng như Lazarô nói. Nhưng nếu so sánh nó với nhà ở của các nông dân của Doras thì nó là một nơi ở khá đẹp.
Nó rất thấp và rất rộng, được xây vững chắc. Nó có một nhà
559
bếp, tức là một lò sưởi ở trong một phòng ám khói, nơi có để một cái bàn, các ghế, bình và một giá úp chén bát thô kệch với các chén đĩa và ly. Một cái cửa rộng bằng gỗ thô để ra vào và để cho ánh sáng tràn vào. Trên cùng bức vách có cái cửa đó, có ba cửa khác để vào ba phòng lớn dài và hẹp, các bức tường được quét vôi. Cũng như nhà bếp, nền nhà bằng đất nện. Hai trong số ba phòng bây giờ có các chõng nhỏ, đó là các phòng ngủ. Nhiều cái móc được đóng vào tường chứng tỏ rằng người ta đã treo các dụng cụ, hoặc các bao nông sản ở đó. Bây giờ nó được dùng làm giá áo, và họ treo áo khoác và các giỏ xách. Phòng thứ ba (đúng hơn là cái hành lang, vì chiều dài và chiều rộng không cân đối) trống rỗng. Chắc nó đã được dùng làm chỗ trú cho các con vật, vì có một máng cỏ và các khoen trên tường, và trên nền đất có các dấu của móng sắt. Lúc này không có gì ở đó cả.
Bên ngoài, chỗ gần phòng sau cùng này, có một hành lang rộng thô sơ, có mái che bằng gỗ và các phiến đá mỏng, được đỡ nhờ các cột bằng thân cây đẽo hơi vuông. Đúng ra đây là cái chái nhà thì đúng hơn cái hành lang, vì nó trống ở ba bề, hai bề cỡ mười mét, bề thứ ba hẹp hơn, không qúa năm mét. Về mùa hè, chắc chắn có các cành nho bò từ cột nọ tới cột kia ở bề phía nam. Bây giờ các lá rụng hết, chỉ còn trơ các cành như xương. Có một cây sung lớn cũng trụi lá, trong mùa hè, hẳn nó che rợp cho cái bể ở giữa sân đập lúa mà người ta đặt ở đó cho các con vật uống nước. Bên cạnh, một cái giếng sơ sài, đúng chỉ là một cái lỗ ngang mặt đất, chỉ hơi nhận ra bởi một vòng các viên đá trắng và bằng.
Đó là nơi Giêsu cư ngụ cùng với các người của Ngài, một nơi có tên là: “Nước Đẹp”. Cũng có các cánh đồng: Các đồng cỏ và vườn nho ở chung quanh. Ở cách đó khoảng ba chục mét, ta thấy một căn nhà khác ở giữa cánh đồng, đẹp hơn, vì nó có một sân thượng mà nhà này không có. Ở xa hơn nhà này nữa, có các khóm oliu và các cây khác mà một phần đã trơ trụi. Nếu còn lá thì nó sẽ che tầm mắt.
Phêrô với em ông và Gioan làm việc hăng say để quét sân đập
560
lúa và các phòng, đặt các giường cho thứ tự, kín nước. Hơn nữa, Phêrô làm các thứ chung quanh cái giếng để chỉnh đốn và củng cố cho các sợi giây, để nó thực dụng và dễ dàng khi kín nước.Về phía hai người anh họ của Giêsu, họ làm việc với búa và dũa để sửa các cửa và lá xếp. Giacôbê Zêbêđê giúp họ với cưa và rìu như một người thợ thủ công.
Trong bếp, Tôma lăng xăng như một đầu bếp chuyên nghiệp. Nào đốt bếp, chỉnh lửa, lặt các rau cỏ mà người đẹp Judas đã chiếu cố mang từ làng bên cạnh về. Tôi hiểu đó là một làng ít quan trọng, vì Judas giải thích rằng họ chỉ làm bánh hai lần mỗi tuần, và hôm nay không có bánh.
Phêrô nghe ông nói, ông đề nghị: “Chúng ta sẽ làm bánh tráng nướng trên lửa. Ở kia có bột. Anh cởi áo ra nhào bột mau đi, tôi sẽ lo việc nướng. Tôi biết nướng”. Tôi không thể nín cười khi thấy Judas, chỉ mặc áo sơ mi, trịnh trọng nhỏ nước vào bột.
Giêsu vắng mặt, cũng như Simon, Batôlômêo, Mathêu và Philíp.
- Hôm nay là gay go nhất - Phêrô trả lời cho Judas Kêriot khi ông càu nhàu. “Ngày mai sẽ khá hơn, và tới mùa xuân sẽ rất tốt”.
- Mùa xuân? Qúi vị tính ở đây hoài sao? - Judas sảng hồn nói.
- Tại sao không? Đây không phải là cái nhà sao? Nếu trời mưa, ta có chỗ trú. Có nước uống, củi đốt cũng không thiếu. Anh muốn gì hơn nữa? Tôi thấy rất tốt ở đây. Hơn nữa, tôi không ngửi thấy mùi thối pharisiêu và những kẻ khác cùng thứ.
- Phêrô, chúng ta đi thả lưới đi! - Andrê nói và dắt Phêrô ra ngoài trước khi cuộc tranh luận nổ bùng giữa ông và Iscariot.
- Cái ông này, ông ta không muốn nhìn thấy tôi! - Judas kêu lên.
- Không, anh không thể nói vậy. Ông ta như thế với hết mọi người, nhưng ông ta tốt. Chính anh là người luôn luôn bất bình - Tôma trả lời, nhưng ông vẫn vui vẻ.
- Là vì tôi, tôi hình dung một điều...
- Ông em của tôi không ngăn cản anh đi về với những “chuyện khác”. Giacôbê Alphê bình thản nói. “Tôi tin rằng tất cả, vì ngu ngốc, chúng ta tưởng tượng theo Người là ‘chuyện khác’ nhưng vì
561
chúng ta có cái gáy cứng và chúng ta rất kiêu căng. Người thì Người không bao giờ giấu chúng ta những khó khăn nguy hiểm khi theo Người”.
Judas lẩm bẩm điều gì giữa hai hàm răng và Juđa Thađê trả lời trong khi ông vẫn làm việc với một cái cây đỡ để ráp một cái kệ cho nhà bếp: “Anh lầm. Dù theo phong tục, anh cũng lầm. Mọi người Israel đều phải làm việc, và chúng ta làm việc. Công việc nặng nề lắm cho anh sao? Tôi, tôi không cảm thấy nặng, vì khi tôi ở với Người thì tôi không cảm thấy mệt”.
- Tôi cũng vậy. Tôi không phàn nàn gì và tôi rất bằng lòng ở đây, bây giờ hoàn toàn như một gia đình - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Chúng ta sắp làm những việc kỳ diệu ở đây!... - Iscariot nhận xét cách mỉa mai.
- Nhưng tóm tắt là anh đòi hỏi cái gì? - Thađê quát lên. “Một triều đình của thị trấn Ba Tư à? Tôi không cho phép anh chỉ trích những điều ông em của tôi làm. Anh hiểu không?”
- Nín đi em - Giacôbê Alphê nói. “Giêsu không muốn những cuộc cãi lẫy như vậy. Chúng ta hãy nói ít hết sức và làm việc nhiều hết sức có thể. Như vậy sẽ rất tốt hơn cho mọi người. Hơn nữa, nếu Người không thành công để thay đổi các con tim, thì em, với các lời của em, em có hy vọng làm được không?”
- Qủa tim người ta không thể thay đổi là qủa tim tôi phải không?
- Iscariot gây hấn.
Nhưng Giacôbê không trả lời. Hơn nữa, ông cắn một cái đinh giữa hai hàm răng và đóng tấm gỗ kịch liệt tới nỗi sự càu nhàu của Judas biến mất trong tiếng động.
Qua đi một lúc, rồi kìa, Isaac và Andrê tới. Isaac với những qủa trứng và một thúng bánh nóng hổi, và Andrê với các con cá đựng trong giỏ.
Isaac nói: “Đó, ông quản lý gởi cho đây. Ông hỏi có thiếu gì không. Ông ta có lệnh làm những thứ này”.
- Anh thấy là chúng ta không chết đói - Tôma nói với Iscariot. Rồi ông thêm: “Andrê, đưa cá cho tôi đi. Cá đẹp qúa xá! Nhưng
562
làm cách nào đây... cái này tôi không biết làm”.
- Để tôi lo cho - Andrê nói. “Tôi là dân chài”. Và ông vào một góc, đổ ra những con cá còn tươi sống.
- Thầy sắp về, Người đã làm một vòng trong xứ và ở miền quê. Các anh sẽ thấy Người sắp sửa ở đây. Người đã chữa những người đau mắt, Và tôi, tôi cũng đã chạy rảo khắp miền quê này, và người ta cũng đã biết...
- Ê! Chắc chắn rồi! Tôi, tôi!... một mình các người mục đồng... chúng ta, ít nhất là tôi, đã bỏ một đời sống bình thản, và chúng ta đã làm cái nọ cái kia, nhưng chẳng ai kể đến...
Isaac kinh ngạc nhìn Iscariot, nhưng bình tĩnh và không trả lời. Những người khác cũng nín thinh... nhưng nó sôi ở trong lòng.
- Bình an cho tất cả các con - Giêsu ở ngưỡng cửa, tươi cười, nhân từ. Người ta thấy mặt trời sáng hơn từ lúc Người ở đây. “Các người dũng cảm! Tất cả đều làm việc! Thầy có thể giúp không, ông anh tôi?”
- Không. Thầy nghỉ đi, con xong rồi.
- Chúng ta vác nặng đồ ăn. Ai cũng muốn cho. Nếu mọi người đều có con tim khiêm nhường - Giêsu nói, hơi buồn.
- Ôi! Thầy của con. Nguyện Thiên Chúa chúc phúc cho Thầy! - Đó là Phêrô về với một bó củi trên vai, chưa bỏ xuống, ông đã chào Giêsu của ông như vậy.
- Nguyện Thiên Chúa chúc phúc cho con nữa, Phêrô. Các con đã làm việc hăng hái!
- Rồi chúng con sẽ làm việc hơn vào giờ rảnh. Chúng ta có một căn nhà miền quê, chúng ta!... Và chúng ta phải làm cho nó thành một vườn Êđen. Trong thời gian này, con đã sửa dọn cái giếng để ban đêm người ta nhìn thấy nó ở chỗ nào, và để chắc chắn không bị mất vò khi thả xuống. Và rồi... Thầy coi công việc của hai ông anh dũng cảm của Thầy! Tất cả những gì cần để sống một thời gian dài ở một nơi. Con, dân chài, con không biết. Các anh thật đại độ. Và cả Tôma nữa. Anh ta có thể làm đầu bếp trong nhà Hêrôđê. Judas
563
cũng dũng cảm, anh làm những cái bánh tráng nướng tuyệt vời...
- Vô ích. Có bánh rồi - Judas trả lời không vui.
Phêrô nhìn ông và tôi chờ đợi một câu trả lời mặn chát, nhưng Phêrô chỉ lắc đầu, ông đàn than nóng ra và để bánh lên trên.
- Tất cả đều sắp xong - Tôma cười nói.
- Hôm nay Thầy có nói không? - Giacôbê Zêbêđê hỏi.
- Có, giữa giờ thứ sáu và giờ thứ chín. Các bạn con đã nói. Vậy chúng ta ăn uống đi, đừng chậm trễ.
Sau một lúc, Gioan đặt bánh lên bàn, sửa soạn ghế, mang tới các ly và bình. Tôma mang lên rau luộc và cá nướng.
Giêsu ngồi giữa. Người dâng hiến và chúc lành rồi phân phát. Tất cả đều ăn vẻ ngon lành.
Họ còn đang ăn thì một nhóm người kéo vào trong sân. Phêrô liền đứng dậy và ra cửa: “Qúi vị muốn gì?”
- Vị rabbi, Người không nói ở đây sao?
- Người sắp nói, nhưng giờ Người còn đang ăn, vì Người cũng là con người. Qúi vị hãy ngồi dưới mái nhà đàng kia và chờ.
Nhóm người đi ra, vào trong cái kho mộc mạc.
- Vì trời sắp lạnh và hay mưa. Con nghĩ ta có thể dùng cái kho rỗng này, nên con đã quét tước sạch. Cái máng dùng làm ghế...
- Đừng có mỉa mai ngu ngốc! Vị rabbi là một rabbi - Judas nói.
- Nhưng mỉa mai cái gì? Nếu Người đã sinh ra trong chuồng bò thì Người cũng có thể nói ở trên một cái máng!
- Phêrô có lý. Nhưng Thầy xin các con, hãy yêu nhau! - Giêsu có vẻ mệt mỏi khi nói câu này.
Họ ăn xong và Giêsu ra gặp đám người ngay.
- Chờ đã Thầy ơi - Phêrô kêu ở đàng sau Người. “Anh Thầy đã làm cho Thầy một cái ghế, vì ở ngoài đó đất ẩm”.
- Không cần. Con biết là Thầy đứng để nói. Người ta muốn thấy Thầy và Thầy muốn thấy họ. Tốt hơn... hãy làm những cái ghế và những cái cáng. Có thể có những người bệnh tới, những cái đó sẽ cần dùng...
- Thầy luôn luôn nghĩ tới người khác, Thầy nhân từ! - Gioan nói,
564
và ông hôn tay Người.
Với nụ cười hơi buồn, Giêsu đi tới với đám đông nhỏ. Các môn đệ đi với Người.
Phêrô ở ngay bên cạnh Giêsu, ông bảo Người cúi xuống và ông xì xèo: “Ở bên kia bức tường có người đàn bà trùm khăn. Con nhìn thấy bà. Bà đã đi theo chúng ta từ Bêtani. Có phải đuổi bà đi hay để kệ bà?”
- Để kệ bà. Thầy đã nói rồi.
- Nhưng nếu đó là một kẻ do thám, như Iscariot nói?
- Không, bà không phải vậy. Hãy tin tưởng vào điều Thầy nói với con. Hãy để kệ bà. Đừng nói gì với những người khác, và hãy kính trọng bí mật của bà.
- Con sẽ nín lặng, vì con nghĩ như vậy tốt hơn...
- Bình an cho các con là những kẻ đi tìm Lời - Giêsu bắt đầu. Người đã đi cho tới cuối hành lang, đàng sau Người là bức tường nhà. Người nói nhẩn nha với khoảng hai chục người ngồi dưới đất hay dựa lưng vào cột nhà, trong sự ấm áp của mặt trời tháng mười một.
- Người ta rơi vào sai lầm khi họ cứu xét sự sống và sự chết, và việc áp dụng của họ vào hai từ này. Họ gọi “sống” là thời gian từ khi lọt lòng mẹ và bắt đầu thở, dinh dưỡng, chuyển động, suy nghĩ, hành động; và họ gọi “chết” là lúc họ ngừng thở, ăn, cử động, suy nghĩ, làm việc, khi họ trở nên một cái xác lạnh, vô cảm, sẵn sàng để vào mồ. Nhưng không chính xác là như vậy. Thầy muốn làm cho các con hiểu thế nào là “sống”, và chỉ cho các con những việc thích hợp với đời sống.
Sống không phải là hiện hữu. Hiện hữu không phải là sống. Cây nho leo vào cái cột này hiện hữu, nhưng nó không có đời sống mà Thầy nói. Con cừu kêu bê bê, bị cột vào cái cây kia, nó cũng hiện hữu, nhưng nó không có sự sống mà Thầy nói. Sự sống mà Thầy nói nó không bắt đầu với sự hiện hữu và không chấm dứt đồng thời với thể xác. Sự sống mà Thầy nói nó không bắt đầu trong lòng mẹ. Nó bắt đầu khi, trong Tư Tưởng của Thiên Chúa, nó được sinh ra, được tạo dựng bởi Người, một linh hồn để cư ngụ trong một thân
565
xác. Nó chấm dứt khi tội lỗi giết nó.
Con người, trước tiên chỉ là một hạt giống phát triển, hạt giống thân xác thay vì chất nhựa và chất bột xốp như của hạt miến hay trái cây. Trước tiên, nó chỉ là một con vật làm thành một phôi thai không khác gì cái đang lớn lên trong bụng con cừu bây giờ. Nhưng từ lúc mà cái phôi thai này được thâm nhập bởi một phần vô thể, nhưng trong tình trạng vô thể của nó, nó mạnh mẽ nhất, và nó nâng cao vật thể lên. Từ lúc đó, cái phôi thai động vật, không phải chỉ có hiện hữu với những nhịp đập của qủa tim nó mà thôi, nhưng nó “sống” theo Tư Tưởng của Đấng Tạo Hóa, và nó trở nên người, được tạo dựng theo hình ảnh và giông giống như Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là công dân tương lai của Nước Trời. Nhưng điều này chỉ có khi sự sống tồn tại. Người ta có thể sống do họ giữ khuôn mặt loài người, nhưng thực sự không còn là con người nữa, nhưng là cái mồ, nơi sự sống thối nát.
Đó là tại sao Thầy nói: “Sự sống không bắt đầu với sự hiện hữu và không chấm dứt khi thân xác chấm dứt”. Sự sống bắt đầu trước khi sinh ra, rồi sau đó, nó không có cùng nữa, vì linh hồn không chết, tức là không thành hư vô. Nó chết đối với định mệnh hạnh phúc khi nó chết đối với Ân Sủng. Sự sống này, khi nó bị nhiễm bởi một chứng hoại thư, tức là nó chết với định mệnh hạnh phúc của nó, thì nó vẫn tồn tại qua mọi thế kỷ trong sự kết án và khổ não. Trái lại, nếu sự sống này được duy trì như khi nó được tạo dựng, nó sẽ đạt tới nơi toàn vẹn của đời sống trong khi trở thành vĩnh cửu, trọn lành, hạnh phúc như đấng Tạo Hóa của nó.
Chúng ta có bổn phận đối với đời sống không? Có, đó là một ơn của Thiên Chúa. Người ta phải dùng và gìn giữ cẩn thận mọi ơn của Thiên Chúa, vì đó là một điều thánh cũng như đấng đã ban nó. Các con có dùng bừa bãi một món qùa của ông vua không? Không, nó được duy trì và lưu truyền từ đời nọ qua đời kia như một vinh quang của gia đình. Vậy tại sao lại xử tệ với ơn của Thiên Chúa? Nhưng người ta phải sử dụng và bảo trì món qùa Thiên Chúa này thế nào? Làm sao giữ bông hoa Thiên Đàng của linh hồn luôn luôn sống tươi cho Nước Trời? Làm sao để sống cho Nước Trời và bên
566
trên sự hiện hữu?
Về đề tài này, Israel có những luật rõ ràng và họ chỉ có việc giữ. Israel có các tiên tri và các người công chính làm gương sáng và dạy dỗ cách thi hành lề luật. Bây giờ Israel cũng vẫn có các vị thánh của nó. Vậy Israel không thể, không được sai lầm. Thầy, Thầy thấy các vết tích trong các con tim, và các linh hồn chết lang thang khắp nơi. Vậy Thầy bảo các con: Hãy thống hối, hãy mở linh hồn các con ra cho Lời, hãy thi hành các lề luật bất biến. Hãy củng cố sự sống kiệt quệ, ẻo lả trong các con. Nếu nó đã chết thì hãy đến với Sự Sống thực: với Thiên Chúa. Hãy khóc tội lỗi của các con. Hãy kêu: “Xin thương!” Rồi hãy chỗi dậy. Đừng là những kẻ chết sống, để mai này không bị giao phó cho khổ hình muôn đời. Thầy sẽ không nói với các con điều gì khác ngoài cách duy trì và tìm lại sự sống. Có một người khác đã nói với các con: “Hãy sám hối, hãy thanh tẩy mình cho sạch lửa ô uế, dâm đãng, bùn lầy của tội lỗi”. Thầy, Thầy bảo các con: các bạn ơi, chúng ta hãy cùng nhau nghiên cứu Lề Luật, hãy nghe một lần nữa tiếng nói phụ tử của Thiên Chúa thực. Rồi cùng nhau cầu nguyện cùng Thiên Chúa rằng: “Xin lòng thương xót Chúa xuống trên chúng con”.
Bây giờ là mùa đông ảm đạm, nhưng mùa xuân sắp tới. Một linh hồn chết còn buồn thảm hơn một khu rừng bị băng giá làm trơ trụi. Nhưng nếu sự khiêm nhường, ý muốn, sự sám hối và đức tin thấm nhập vào trong các con, thì sự sống sẽ trở lại trong các con giống như khu rừng tới mùa xuân, và các con sẽ nở hoa cho Thiên Chúa, để rồi sau đó kết trái vĩnh cửu của sự sống thực trong cái ngày mai muôn đời.
Hãy đến với Sự Sống. Đừng chỉ hiện hữu mà thôi. Hãy bắt đầu sống, lúc đó cái chết sẽ không phải là tận cùng, nhưng là bắt đầu. Bắt đầu một ngày không có hoàng hôn, bắt đầu một niềm vui không chán, không giới hạn. Cái chết sẽ là khải hoàn của thân xác sẽ được gọi sống lại muôn đời, để tham gia vào sự sống này, mà nhân danh Thiên Chúa thực, Thầy hứa cho tất cả những ai muốn sự sống cho linh hồn họ bằng cách dày đạp dưới chân các tình dục và các đam mê, để tận hưởng sự tự do của con cái Thiên Chúa.
567
Thôi đi đi. Mỗi ngày, vào giờ này, Thầy sẽ nói với các con về các chân lý đời đời. Chúa ở cùng các con.
Người ta từ từ ra đi với rất nhiều bình luận. Giêsu trở lại trong căn nhà nhỏ đơn độc, và tất cả chấm dứt.
86* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP:
“TA LÀ CHÚA, THIÊN CHÚA NGƯƠI”
Hôm nay số người tham dự hầu như gấp đôi hôm qua. Cũng có những người không phải trong đám bình dân. Một số đến bằng lừa và dùng bữa dưới mái nhà kho. Trong khi chờ đợi Thầy, họ buộc các con vật vào các cây cột.
Một ngày lạnh nhưng quang đãng. Họ nói chuyện với nhau, những người biết rõ hơn giải thích Người là ai và tại sao Thầy lại nói ở nơi này. Một người hỏi: “Nhưng Người còn hơn Gioan sao?”
- Không, Người khác. Tôi đã thuộc về Gioan: ông là vị Tiền Hô, là tiếng nói của sự công chính. Vị này là Đấng Messi: tiếng nói của sự khôn ngoan và tình thương.
- Làm sao anh biết? - nhiều người hỏi.
- Đó là ba môn đệ chí thiết của Gioan Tẩy Giả đã nói với tôi. Nếu mà qúi vị biết! Họ đã thấy Người sinh ra. Nghĩ coi: Người sinh ra từ trong ánh sáng. Đó là một ánh sáng rất mạnh tới nỗi họ, lúc đó là những mục đồng, họ chạy ra bên ngoài chuồng, giữa các con vật, hoảng hốt và sợ hãi. Họ thấy toàn thể Bétlem ở trong lửa, rồi từ trời có các thiên thần xuống, các ngài lấy cánh quạt tắt lửa. Dưới đất có Người, trẻ thơ sinh ra từ ánh sáng. Tất cả lửa đều trở thành một ngôi sao...
- Nhưng không, không phải vậy.
- Đúng vậy mà! Khi tôi còn nhỏ, một người mã phu ở Bétlem đã nói vậy với tôi. Bây giờ Đức Messi đã trở thành người lớn, ông ta rất tự hào.
- Không, cái đó cũng không đúng nữa. Ngôi sao thì sau đó mới có. Nó đến cùng với các nhà Đạo Sĩ phương đông. Một trong số họ
568
là bà con với Salômôn, bởi vậy bà con với Đức Messi, vì Người thuộc dòng Đavít, mà Đavít là cha của Salômôn. Salômôn mê bà hoàng hậu xứ Saba vì bà đẹp và vì những qùa tặng bà mang cho ông. Bà có một con trai thuộc về Juđê trong khi vẫn là người ở bên kia sông Nil.
- Nhưng, anh kể chuyện gì vậy? Anh điên sao?
- Không, anh muốn nói rằng không đúng là ông ta, người bà con, đã mang cho Người các hương thơm như các vua dòng dõi này quen dùng sao?
- Tôi, tôi biết đúng sự thật - một người khác nói. “Như vầy này. Tôi biết, vì tôi là bạn của Isaac, một trong số các mục đồng. Vậy: Đứa trẻ sinh ra trong một chuồng bò. Điều đó đã được tiên tri nói...”
- Nhưng, Người không phải ở Nazarét sao?
- Hãy để tôi nói. Người sinh ở Bétlem, vì Người thuộc dòng dõi Đavít, đó là vào thời kỳ khai sổ. Các người mục đồng đã thấy một ánh sáng, ánh sáng đẹp nhất hiện hữu. Đứa nhỏ nhất, vì nó vô tội, nó thấy thiên thần của Chúa trước tiên. Tiếng người du dương như tiếng đàn cầm, Người nói: “Đấng Cứu Thế đã sinh ra. Hãy đến thờ lạy”. Rồi các thiên thần, thiên thần và thiên thần hát rằng: “Vinh quang cho Thiên Chúa và bình an cho người tốt”. Các mục đồng đi và thấy một trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ, giữa một con bò và một con lừa, và người mẹ, và người cha. Họ thờ lạy, rồi họ dẫn các Ngài tới nhà một người đàn bà quảng đại. Đứa trẻ lớn lên như mọi đứa trẻ khác, đẹp, dễ thương, toàn là tình yêu. Rồi các đạo sĩ đến từ bên kia sông Euphrate và sông Nil, vì họ đã thấy ngôi sao và nhận ra đó là ngôi sao của Balaam. Nhưng đứa trẻ đã có thể bước được rồi. Vua Hêrôđê đã ra lệnh tiêu diệt vì ghen với vị vua tương lai. Nhưng Thiên Thần Chúa đã báo nguy. Các trẻ em ở Bétlem bị giết, nhưng Người trốn đi còn xa hơn là Matarea. Rồi người trở về Nazarét và làm thợ mộc. Tới giờ của Người, sau khi ông Tẩy Giả, bà con của Người, đã loan báo Người, Người bắt đầu sứ mệnh của Người, và trước tiên Người tìm các mục đồng. Người đã chữa Isaac cho khỏi bại liệt, sau ba mươi năm tàn tật. Bây giờ Isaac không mệt
569
mỏi rao giảng Người. Như vậy đó.
- Ba người môn đệ của ông Tẩy Giả đã nói cho tôi y hệt những lời này - Người đã nói đầu tiên nói, hơi bẽ.
- Và đó là sự thật. Điều không thật, đó là sự diễn tả của tên mã phu. Ông ta tự hào à? Tốt hơn, ông ta nên bảo các người Bétlem hãy tốt. Người không thể rao giảng ở Bétlem cũng như ở Jêrusalem.
- Đúng, nhưng nghĩ coi, nếu các luật sĩ và các pharisiêu muốn nghe lời Người! Đó là những rắn độc và linh cẩu, đúng như ông Tẩy Giả đã gọi họ.
- Tôi, tôi muốn được chữa. Anh thấy không? Tôi có một chân bị hoại thư. Tôi chịu đựng hầu chết để tới đây trên lưng lừa. Tôi đã tìm Người ở Sion, nhưng Người không còn ở đó nữa... - một người nói.
- Họ đe dọa giết Người... - một người khác nói.
- Lũ chó!
- Đúng. Anh từ đâu tới?
- Từ Lidda.
- Đường qúa xa!
- Tôi... tôi, tôi muốn nói với Người điều sai lầm của tôi... Tôi đã nói với ông Tẩy Giả, nhưng tôi chạy biệt tích, vì ông la tôi qúa trời. Tôi nghĩ mình không thể được tha thứ nữa... - một người nữa nói.
- Anh đã làm gì?
- Rất nhiều điều xấu. Tôi sẽ nói với Người. Qúi vị nghĩ sao? Người có nguyền rủa tôi không?
- Không. Tôi đã nghe Người nói ở Bétsaiđa. Tôi tới đó tình cờ. Ôi! Những lời!!! Người nói về một người đàn bà tội lỗi. A! Hầu như tôi muốn là bà để được hưởng những lời đó!... - một ông già bệ vệ nói.
- Kìa, Người đến - nhiều người kêu lên.
- Lạy Tình Thương! Tôi xấu hổ! - kẻ có tội nói, và ông đi trốn.
- Đi đâu vậy con ơi! Có phải con có qủa tim qúa đen tới nỗi con ghét Ánh Sáng đến độ phải chạy trốn nó không? Con đã qúa phạm tội đến nỗi con sợ Thầy: sự tha thứ? Nhưng con đã có thể phạm tội gì? Dù con đã giết Thiên Chúa, cũng không được sợ nếu con sám
570
hối thật. Đừng khóc. Đúng hơn, hãy đến đây, chúng ta khóc cùng với nhau - Giêsu đã giơ tay ra để ngăn cản ông trốn, bây giờ Người ôm ông vào lòng. Rồi Người quay về với những người đang chờ và nói: “Một lát thôi, để thoa dịu con tim này, rồi Thầy sẽ đến với các con”.
Người rời xa căn nhà. Khi rẽ ở góc tường, Người đụng vào người đàn bà trùm khăn đang ở vị trí để nghe của bà. Người nhìn bà đăm đăm một lát, rồi người đi chừng mươi bước nữa, rồi đứng lại.
- Con đã làm gì?
Người đó liền qùi gối. Đó là một người đàn ông chừng năm mươi tuổi, khuôn mặt khô cháy vì khát vọng và bị tàn phá vì một nỗi khổ kín đáo. Ông giơ hai tay ra và kêu: “Để có tất cả gia tài cha mẹ mà tiêu xài với đàn bà, con đã giết mẹ con và anh con... Con không còn bình an nữa... của ăn của con là... máu... giấc ngủ của con là... ác mộng... Sự giải trí của con... A! trong lòng đàn bà, trong tiếng kêu dâm đãng của họ, con cảm thấy xác chết giá lạnh của mẹ con, và hơi thở hắt ra của anh con bị đánh thuốc độc. Khốn kiếp các đàn bà của khoái lạc! Các rắn lục, sứa độc, cá chình vô độ, hủy hoại, hủy hoại, sự hủy hoại của con!”
- Đừng nguyền rủa. Thầy không nguyền rủa con...
- Thầy không nguyền rủa con?
- Không. Thầy khóc, và Thầy vác tội của con trên Thầy. Ôi! Nó nặng chừng nào! Nó làm gẫy các chi thể của Thầy. Nhưng Thầy ôm chặt lấy nó để tiêu hủy nó đi cho con... Và với con, Thầy cho con sự tha thứ. Phải, Thầy tha cho con cái tội nặng nề của con - Người giơ tay trên đầu người đàn ông đang khóc nức nở và Người cầu nguyện: “Cha ơi, máu con cũng sẽ đổ ra cho nó nữa. Trong khi chờ đợi thì đây, nước mắt và lời cầu nguyện của con. Lạy Cha, xin tha, vì nó sám hối. Con Cha muốn vậy. Tất cả đều được tha theo sự xét xử của con...” Người giữ yên như vậy mấy phút nữa, rồi Người cúi xuống nâng người đó dậy và nói: “Tội lỗi được tha. Bây giờ phần con là phải đền tội bằng cách sống cuộc đời còn lại trong sám
571
hối vì những tội con”.
- Thiên Chúa có tha cho con không? Và mẹ con? Và anh con?
- Điều mà Thiên Chúa tha thì mọi người đều tha. Hãy đi và đừng bao giờ phạm tội nữa.
Người đó khóc mạnh hơn và hôn tay Người. Giêsu để ông lại đó với nước mắt của ông và trở vào nhà. Người đàn bà trùm khăn có vẻ như muốn ra gặp Người, nhưng rồi bà cúi đầu và không nhúc nhích nữa. Giêsu đi qua trước bà mà không nhìn bà.
Người đã tới chỗ của Người. Người nói:
- Một linh hồn đã trở về với Chúa. Chúc tụng sức mạnh của Người đã giật khỏi các giây trói buộc của ma qủi, những linh hồn mà Người đã tạo dựng, để lại đặt họ vào con đường về trời. Tại sao linh hồn này xa lạc? Vì nó lạc xa Lề Luật.
Có nói trong Sách rằng Thiên Chúa tỏ mình ra trên núi Sinai với tất cả sức mạnh kinh khủng của Người, để qua đó Người nói: “Ta là Thiên Chúa. Đây là ý muốn của Ta. Đây là sấm sét sẵn sàng cho những kẻ phản động chống lại ý muốn của Thiên Chúa”. Và trước khi nói, Người đã truyền rằng không ai trong dân chúng được lên để nhìn ngắm Đấng Tự Hữu. Ngay các thầy cả cũng phải thanh tẩy trước khi tới gần ranh giới được chỉ định bởi Thiên Chúa, để không bị đánh phạt. Như vậy, vì đó là thời kỳ công thẳng và thử thách. Các tầng trời khép chặt như đá trên các mầu nhiệm về Nước Trời và về cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, và chỉ có các mũi tên công bằng rơi trên các con cái đắc tội. Nhưng bây giờ, không. Bây giờ Đấng Công Chính đến để làm trọn mọi phép công bằng. Đã đến thời mà Lời của Thiên Chúa nói với loài người, không ranh giới, không sấm sét, để cho loài người Ân Sủng và Sự Sống.
Lời đầu tiên của Cha và Chúa là lời này: “Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi”.
Không một lúc nào trong ngày mà lời này không vang dội và biểu lộ bởi tiếng nói và bởi ngón tay Thiên Chúa. Ở đâu? Ở khắp nơi... Tất cả đều không ngừng nói, từ cỏ cây tới tinh tú, từ nước tới lửa, từ vải vóc tới lương thực, từ ánh sáng tới bóng tối, từ sức khỏe
572
tới bệnh tật, từ sự giầu tới sự nghèo... Tất cả đều nói: “Ta là Chúa. Chính bởi Ta mà ngươi ở đây; một trong các tư tưởng của Ta đã ban nó cho ngươi, một tư tưởng khác lấy nó đi khỏi ngươi. Không một vũ khí mạnh mẽ nào, không một sự phòng thủ nào có thể làm cho ngươi thoát khỏi ý muốn của Ta. Nó gào lên trong tiếng gió, nó hát trong tiếng róc rách của nước, nó lan tỏa trong hương thơm loài hoa, nó đập trên đỉnh núi đồi, nó thì thầm, nó nói, nó gọi, nó kêu gào trong các lương tâm: “Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi”.
Các con đừng bao giờ quên điều đó. Đừng nhắm mắt, bịt tai, bóp nghẹt lương tâm để không nghe thấy nó, lời này. Nó không kém hiện hữu hơn. Trên tường của phòng tiệc hay trên các làn sóng tràn bờ của biển; trên đôi môi tươi cười của trẻ thơ hay trên mầu tái mét của người già sắp chết; trên bông hồng thơm tho hay trong sự thối nát của nấm mồ, nó tới, được viết bởi ngón tay bằng lửa của Thiên Chúa. Trong sự say sưa của men rượu hay khoái lạc, trong sự quay cuồng của công việc, trong sự nghỉ ngơi ban đêm, trong cuộc tản bộ cô độc, có tiếng nói luôn luôn vang lên để nói: “Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi”. Và thể xác này mà ngươi hôn hít cách say sưa, đồ ăn này mà ngươi nuốt cách thèm thuồng, đống vàng này mà sự hà tiện của ngươi đã tích góp, cái giường mà ngươi đã nằm lại cách lười biếng, và sự thinh lặng, sự cô độc, giấc ngủ, không gì có thể làm cho nó nín.
“Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi”. Đó là người bạn không rời bỏ ngươi, là người khách mà ngươi không thể xua đuổi. Ngươi tốt ư? Nó là người khách và người bạn tốt. Ngươi đồi bại và đắc tội ư? Người bạn và người khách này trở nên ông vua làm nhức nhối và không cho bình an. Nhưng nó không rời bỏ, không rời bỏ, không rời bỏ. Nó chỉ cho phép kẻ bị kết án xa lìa Thiên Chúa. Nhưng sự xa lìa này là một khổ hình không nguôi và đời đời. “Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi”, và Người thêm: “Đấng đã kéo ngươi ra khỏi Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ”. Ôi! Bây giờ thực sự chừng nào, Người có thể nói điều đó cách chính xác! Người đã kéo ngươi ra khỏi Ai Cập nào? Khỏi nước Ai Cập nào để dẫn ngươi vào đất hứa không phải là nơi
573
này, mà là Nước Trời! Nước vĩnh cửu của Chúa, nơi không còn đói, không còn khát, không còn lạnh, không còn chết; nơi tất cả đều chan hòa vui sướng và bình an; nơi tất cả thần trí được no thỏa bình an và niềm vui.
Bây giờ Người kéo các con ra khỏi cảnh nô lệ thực sự. Đây, Vị Giải Phóng chính là Thầy. Thầy đến bẻ gẫy xiềng xích cho các con. Hết mọi kẻ thống trị của loài người đều có thể bị chết, và khi họ chết, các dân nô lệ lại được tự do. Nhưng Satan không chết. Nó muôn đời. Đó là kẻ thống trị đã xích các con lại để lôi các con tới nơi nó muốn. Tội lỗi ở trong các con, và tội lỗi là cái xích Satan dùng để trói các con. Thầy đến bẻ gẫy cái xích này. Thầy đến nhân danh Chúa Cha, và đó cũng là ước muốn của Thầy. Đó là để hoàn thành lời hứa đã không được hiểu: “Ta đã kéo con ra khỏi Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ”.
Chính bây giờ nó được hoàn thành một cách thiêng liêng. Chúa là Thiên Chúa các con đã đưa các con ra khỏi đất của tà thần, đứa đã dụ dỗ các cha mẹ đầu tiên. Người giật các con ra khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, Người mặc lại cho các con bằng Ân Sủng, Người nhận các con vào nước của Người. Thật vậy, Thầy bảo các con rằng ai đến với Thầy, sẽ có thể nghe Đấng Tối Cao nói trong qủa tim hạnh phúc của họ bằng giọng nói đầy êm đềm tình phụ tử: “Ta là Chúa, Thiên Chúa của con, Đấng đã kéo con lại với Ta, tự do và hạnh phúc”.
Hãy đến. Hãy quay mặt, con tim, lời cầu nguyện, ý muốn của các con về với Thiên Chúa. Giờ ơn phúc đã đến.
Giêsu đã chấm dứt. Người đi qua trong khi chúc phúc, Người vuốt ve một bà già nhỏ và một đứa bé tóc đen nhánh và tươi cười.
- Thầy ơi! Chữa cho con với. Con rất bệnh! - người bị bệnh hoại thư nói.
- Linh hồn trước tiên. Linh hồn trước tiên. Hãy làm việc sám hối.
- Xin Thầy cho con phép rửa giống như Gioan. Con bệnh nên
574
con không thể đến với ông.
- Đi - Giêsu đi tới bờ sông ở bên ngoài hai đồng cỏ lớn và một cánh rừng che khuất. Người cởi dép. Người kia lết theo với cái nạng của ông. Họ xuống bờ nước. Giêsu vụm hai tay như cái chén, múc nước đổ trên đầu người đó trong khi ông ở trong nước tới nửa ống chân.
Trong khi ông ta trở lên bờ, Người ra lệnh: “Bây giờ hãy tháo băng ra”.
Người đàn ông vâng lời. Cẳng chân đã khỏi hết. Đám đông kêu lên kinh ngạc.
- Cả con nữa!
- Cả con nữa!
- Cả con nữa! Phép rửa bởi tay Thầy! - nhiều người kêu lên.
Giêsu đã về tới nửa đường, Người quay lại: “Để ngày mai. Bây giờ về đi, và hãy tốt. Bình an cho các con”.
Tất cả đã xong, Giêsu trở về nhà, vào nhà bếp đã hơi tối, mặc dù mới là những giờ đầu tiên của buổi chiều.
Các môn đệ sáp lại chung quanh Người. Phêrô hỏi: “Người đàn ông mà Thầy dẫn ra sau nhà, ông ta làm sao?”
- Cần sự thanh tẩy.
- Nhưng ông ta không trở lại và không xin phép rửa.
- Ông ta đi tới nơi Thầy bảo đi.
- Đi đâu?
- Đi đền tội, Phêrô.
- Trong nhà tù?
- Không, đi đền tội trong cuộc đời còn lại.
- Vậy không phải người ta được rửa bằng nước?
- Bằng nước mắt nữa. Đó là nước.
- Đúng vậy. Bây giờ Thầy đã làm một phép lạ, ai biết họ sẽ đến bao nhiêu người!... Hôm nay đã đông gấp đôi rồi...
- Ừ, nếu Thầy phải làm hết thì Thầy không thể. Chính các con sẽ làm phép rửa. Trước tiên thì một người làm, rồi các con sẽ hai người, rồi ba, rồi nhiều. Còn Thầy, Thầy giảng, chữa các người
575
bệnh và các người có tội.
- Chúng con rửa tội à? Ôi! Con, con không đáng. Chúa ơi, xin miễn cho con sứ mệnh này! Chính con là kẻ cần được rửa - Phêrô qùi gối năn nỉ.
Nhưng Giêsu cúi xuống và nói: “Chính con là người sẽ làm phép rửa trước tiên, ngay từ ngày mai”.
- Không, lạy Chúa, con làm sao được, nếu con còn đen hơn cái ống khói này?
Giêsu mỉm cười trước sự khiêm nhường thành thật của vị tông đồ đang qùi gối, hai bàn tay to của dân chài chắp lại tì vào đầu gối Người. Rồi Người cúi xuống hôn lên trán ông, tại chỗ chân tóc muối tiêu, chìa ra lởm chởm thì đúng hơn là quăn: “Đó, Thầy rửa cho con bằng một cái hôn. Con bằng lòng không?”
- Con sẽ làm ngay một lỗi khác để được một cái hôn khác!
- Cái đó thì không được. Người ta không được nhạo báng Thiên Chúa bằng cách lạm dụng ơn của Người.
- Còn con, Thầy không cho cái hôn nào? Con còn có vài tội - Iscariot nói.
Giêsu nhìn ông đăm đăm. Cái nhìn của Người rất biến chuyển, từ ánh sáng vui vẻ soi sáng cho nó khi Người nói với Phêrô, biến thành bóng nghiêm nghị, tôi nói là mệt mỏi, và Người nói: “Ừ, cho cả con nữa. Nào, Thầy không bất công với ai cả. Hãy tốt, Judas. Nếu con muốn... Con còn trẻ, có cả cuộc đời trước mắt để tiến lên không ngừng, cho tới bậc trọn lành của sự thánh thiện...” Và Người hôn ông.
- Bây giờ đến lần con, Simon, bạn Thầy. Và con, Mathêu, chiến thắng của Thầy. Và con, hiền nhân Batôlômêo. Và con, Philíp trung thành. Và con, Tôma, ý chí vui vẻ. Nào, Andrê, linh hoạt thầm lặng. Và con, Giacôbê của cuộc gặp gỡ đầu tiên. Bây giờ là con, Gioan, niềm vui của Thầy con. Rồi con, Juđa, người bạn của tuổi thơ và tuổi thanh niên. Và con, Giacôbê, kẻ nhắc lại cho Thầy Vị Công Chính bởi thân thể con và qủa tim con. Đó, tất cả, tất cả... Nhưng các con hãy nhớ rằng nếu tình yêu của Thầy tăng gấp lên, nó cũng đòi thiện chí của các con. Tiến thêm một bước nữa về phía trước
576
trong đời sống người tông đồ của Thầy, các con sẽ làm kể từ ngày mai. Nhưng hãy nghĩ rằng mỗi bước về phía trước là một vinh dự và một bó buộc.
Phêrô nói: “Thưa Thầy... một hôm Thầy đã nói với Gioan, Giacôbê, Andrê và con rằng Thầy sẽ dạy chúng con cầu nguyện. Con nghĩ rằng nếu chúng con cầu nguyện giống như Thầy, chúng con có thể xứng đáng với công việc mà Thầy đòi hỏi chúng con”.
- Lúc đó Thầy cũng đã trả lời con: “Khi các con được đào tạo đủ, Thầy sẽ dạy các con lời cầu nguyện tối thượng để lưu lại cho các con lời cầu nguyện của Thầy. Nhưng nó sẽ chẳng là gì nếu nó chỉ được nói bằng môi miệng. Lúc này, các con hãy hướng về Thiên Chúa với một tâm hồn ước ao chân thành. Lời cầu nguyện là một ơn mà Thiên Chúa nhượng ban cho con người và con người dâng lên Thiên Chúa”.
- Thế nào? Chúng con chưa xứng đáng cầu nguyện sao? Tất cả Israel đều cầu nguyện - Iscariot nói.
- Đúng, Judas, nhưng con thấy, theo các công việc của họ thì Israel cầu nguyện thế nào? Thầy không muốn làm cho các con thành những kẻ phản bội, tức là chỉ cầu nguyện ở bên ngoài mà không sẵn sàng ở bên trong. Đối nghịch với điều lành, đó là phản bội.
- Còn các phép lạ - vẫn là Judas hỏi. “Khi nào Thầy mới cho chúng con biết làm?”
- Chúng ta, các phép lạ, chúng ta? Lạy tình thương muôn đời! Nhưng chúng ta uống nước sạch mà! Chúng ta mà các phép lạ? Nhưng cậu bé ơi, cậu huyên thuyên vơ vẩn quá! - Phêrô tức mình, thất kinh như mất hồn.
- Người đã nói ở Juđê mà. Chứ điều đó không có thật sao?
- Đúng, có thật, Thầy đã nói vậy, và các con sẽ làm. Nhưng bao lâu các con còn qúa xác thịt thì các con sẽ không có phép lạ.
- Chúng con sẽ ăn chay - Iscariot nói.
- Vô ích, về xác thịt, Thầy nghe thấy những khát vọng đồi bại, cái đói chấp ba, trong cái dòng của bộ ba phản trắc này, cả đoàn các nết xấu... Giống như các đứa con của một cuộc song thê ô
577
nhục, thần trí kiêu căng, với khát vọng của xác thịt và khát vọng thống trị, đã cưu mang hết mọi thứ xấu trong con người và trong thế giới.
- Chúng con, vì Thầy, chúng con đã bỏ hết những gì chúng con có - Judas đáp trả.
- Nhưng không bỏ chính mình các con.
- Vậy chúng con phải chết? Để ở với Thầy, chúng con sẽ làm, ít nhất là con...
- Không, Thầy không đòi cái chết vật chất của các con. Thầy yêu cầu phải chết trong các con những khuynh hướng động vật và Satan. Và chúng sẽ không chết bao lâu xác thịt còn giữ các ước muốn của nó, bao lâu sự dối trá, kiêu căng, bực tức, tự hào, thèm ăn, tham lam, lười biếng còn ở trong các con.
- Chúng con qúa loài người ở bên Thầy qúa thánh - Batôlômêo thì thầm.
- Và Người đã luôn luôn thánh như vậy. Chúng tôi có thể nói - Giacôbê Alphê xác nhận.
Gioan nói: “Người biết chúng ta là thế nào. Chúng ta không nên thất vọng vì vậy, nhưng hãy chỉ nói với Người: hãy cho chúng con, ngày qua ngày, sức mạnh để phục vụ Thầy. Nếu chúng ta nói: ‘Chúng ta không có tội’, là chúng ta lầm và lừa dối. Vậy lầm và lừa dối với ai? Với chính chúng ta là kẻ biết mình thế nào, dù chúng ta không muốn nói ra ư ? Với Thiên Chúa là Đấng mà người ta không thể lừa dối được ư ? Nhưng nếu chúng ta nói: ‘Chúng con yếu đuối và tội lỗi, xin đến giúp chúng con với sức mạnh và sự tha thứ của Chúa’, lúc đó Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng, và với lòng tốt và sự công chính của Người, Người sẽ tha thứ cho chúng ta và thanh tẩy sự bất công của con tim tội nghiệp của chúng ta”.
- Con có phúc, Gioan, vì Chân Lý nói bởi môi miệng con là cái có hương thơm vô tội và chỉ biết hôn Tình Yêu đáng thờ lạy - Khi nói như vậy, Giêsu đứng lên kéo kẻ biệt ái vào lòng Người sau khi
578
ông đã nói trong góc tối của ông.
87* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP:
“NGƯƠI SẼ KHÔNG LÀM CHO NGƯƠI NHỮNG
TÀ THẦN Ở TRƯỚC MẶT TA”
Có lời rằng: “Ngươi sẽ không làm cho ngươi những tà thần ở trước mặt ta. Ngươi sẽ không làm một hình điêu khắc, một hình gì tượng trưng cho những gì ở trên trời hay dưới đất, trong nước hay trong lòng đất. Ngươi sẽ không thờ lạy vật nọ vật kia, cũng không dành cho nó một sự cúng vái. Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi, mạnh mẽ, hay ghen, Ta phạt sự bất công của cha ông trên con cái chúng tới đời thứ ba thứ bốn đối với những kẻ ghét ta, và Ta thi hành tình thương cho tới đời thứ cả ngàn đối với những kẻ yêu Ta và tuân giữ giới răn của Ta”.
Tiếng nói Giêsu vang lên trong căn phòng đầy người. Vì trời mưa nên mọi người đều vào trong nhà đó. Ở hàng đầu là bốn bệnh nhân: một người mù do một người đàn bà dắt, một đứa trẻ mình đầy những vảy, một người đàn bà vàng khè, có lẽ bị sốt rét, và người thứ bốn được mang trên băng ca.
Giêsu nói, tì vào cái máng rỗng. Gioan và hai anh họ cùng với Mathêu và Philíp ở bên cạnh Người, trong khi Judas, Phêrô, Batôlômêo, Giacôbê, Andrê canh chừng ở lối vào để xếp đặt những người tới sau. Tôma và Simon vòng quanh giữa đám người để làm im các trẻ em, nhận của bố thí và nghe các lời thỉnh cầu.
“Ngươi sẽ không làm cho ngươi các tà thần ở trước mặt Ta”.
Các con đã nghe Thiên Chúa hiện diện khắp nơi bởi cái nhìn của Người và bởi Lời Người thế nào. Thực vậy, chúng ta luôn luôn ở trước mặt Người. Khép kín trong phòng hay ở giữa công chúng trong Đền Thờ, chúng ta cũng ở trước mặt Người. Ân nhân kín đáo, giấu mặt với kẻ được giúp đỡ hay kẻ sát nhân tấn công kẻ du hành đơn độc và giết họ, cả hai đều ở trước mặt Người như nhau. Ở trước mặt Người: ông vua giữa triều đình, người lính trên chiến trường,
579
thầy Lêvi ở trong Đền Thờ, hiền nhân cúi mình trên sách, nông dân trên luống cày, thương gia trước quầy hàng, bà mẹ cúi trên nôi, bà vợ trong phòng the, cô gái trẻ trong nơi kín đáo của nhà cha mẹ, đứa trẻ học ở nhà trường, người già nằm chờ chết... tất cả đều ở trước mặt Người, cũng như mọi hành động của con người đều ở trước mặt Người.
Mọi hành động của con người! Lời nói kinh khủng! Lời nói an ủi! Nó kinh khủng nếu hành động là phạm tội; nó an ủi nếu nó theo đuổi sự thánh thiện. Biết rằng Thiên Chúa thấy, là cái thắng hãm những hành động xấu, là sự khích lệ cho các hành động tốt. Thiên Chúa nhìn thấy kẻ hành động tốt, tôi biết Người không quên những gì Người thấy. Tôi tin Người sẽ thưởng cho các hành động tốt. Vậy tôi chắc chắn đã có phần thưởng này và tôi an nghỉ trên sự chắc chắn này. Nó sẽ cho tôi một đời sống trong sáng và một cái chết an bình, vì trong đời sống và trong khi chết, linh hồn tôi sẽ được an ủi bởi ngôi sao sáng ngời là tình bạn của Thiên Chúa. Đó là điều các kẻ hành động tốt lý luận. Nhưng kẻ hành động xấu, tại sao họ không nghĩ tới rằng trong số những hành động bị cấm, có việc thờ cúng tà thần? Tại sao họ không nói: Thiên Chúa thấy rằng trong khi tôi giả vờ một sự thờ phượng thánh, tôi đã thờ một hay nhiều thần dối trá mà tôi đã thiết lập bàn thờ cho nó trong nơi kín đáo loài người không thấy, nhưng Thiên Chúa thấy?
Các con hỏi: những thần tượng nào, nếu ngay cả trong Đền Thờ cũng không có một hình tượng nào tượng trưng cho Thiên Chúa? Các thần này có những khuôn mặt nào nếu người ta không thể nghĩ tới một khuôn mặt cho Thiên Chúa thực? Đúng, không thể cho Người một khuôn mặt, vì Đấng Trọn Lành, Đấng Rất Trong Sạch không thể được biểu tượng một cách xứng đáng bởi con người. Chỉ có tâm hồn có thể hé thấy vẻ đẹp siêu nhiên và tuyệt diệu của Người, nghe tiếng Người, nếm sự âu yếm nâng niu của Người khi Người tỏ lộ ra gần vị thánh đáng được sự giao tiếp thần linh này. Nhưng con mắt, lỗ tai, bàn tay loài người không thể thấy hay nghe, hay cảm, để có thể biểu lộ bằng tiếng thất huyền cầm, hay bởi cái búa, cái
580
đục làm việc trên đá, thế nào là Thiên Chúa.
Ôi! Hỡi linh hồn các người công chính! Hạnh phúc vô tận khi qúi vị thấy Thiên Chúa! Cái nhìn đầu tiên sẽ là bình minh cho một phúc lộc đi theo qúi vị muôn đời. Nhưng điều người ta không thể làm cho Thiên Chúa thực, thì đây, họ làm cho các thần dối trá: người thì lập bàn thờ cho đàn bà, người thì cho vàng, người khác cho quyền bính, người nữa cho khoa học, người khác cho các chiến thắng quân sự. Có người thì thờ kẻ mạnh, kẻ giống như nó trong trật tự thiên nhiên, chỉ hơn nó ở sức lực và cơ hội. Lại có kẻ thờ chính mình và nói: “Không ai bằng tôi”.
Đó là những thần của các người thuộc về dân Thiên Chúa.
Các con đừng ngạc nhiên khi thấy dân ngoại thờ động vật, các con bò sát hay các thiên thể. Biết bao nhiêu thứ bò sát, động vật và thiên thể tối mà các con thờ trong tâm hồn các con: môi miệng nói những lời dối trá để nịnh hót, để chiếm hữu, để làm đồi bại. Và ở đó không có những lời cầu nguyện cùng tà thần bí mật sao? Con tim ấp ủ các tư tưởng báo thù, gian thương, đàng điếm. Đó không phải là thờ phượng các thần ô uế của khoái lạc, tham lam và xấu xa sao?
Có lời rằng: “Ngươi không được thờ cái gì khác ngoài Thiên Chúa thực, duy nhất, vĩnh cửu của ngươi”. Có lời rằng: “Ta là Thiên Chúa mạnh mẽ và ghen tương”.
Mạnh mẽ: không một quyền lực nào có thể hơn Người. Loài người tự do hành động, Satan tự do cám dỗ. Nhưng khi Thiên Chúa nói “đủ rồi”, con người không còn thể hành động xấu và Satan không thể cám dỗ nữa. Satan thất vọng chui vào hỏa ngục của nó, con người rút lui những hành động xấu qúa mức của họ, vì có một giới hạn mà Thiên Chúa không cho vượt qúa.
Ghen tương: ghen với ai? Sự ghen tương nào? Sự ghen tương bần tiện của con người nhỏ mọn ư ? Không, nhưng là sự ghen tương thánh của Thiên Chúa về các con cái Người. Sự ghen tương chính đáng. Sự ghen yêu. Người đã tạo dựng nên các con, Người yêu các con, Người muốn các con, Người biết cái gì thiệt hại cho các con, Người biết cái gì làm cho các con xa cách với Người, và Người
581
ghen với những gì đặt ở giữa người Cha và các con, và làm cho chúng lạc hướng ra khỏi tình yêu duy nhất là sự rỗi và bình an: Thiên Chúa. Các con hãy hiểu sự ghen tương Thiên Chúa này, nó không nhỏ mọn, không độc ác, không giam hãm. Nhưng nó là tình yêu vô tận, lòng nhân từ vô tận, và sự tự do không giới hạn, ban mình cho tạo vật có hạn của Người để thu hút nó về với Người và trong Người, để cho nó thành kẻ đồng chia sẻ lòng tốt vô hạn của Người. Một người cha tốt không muốn một mình hưởng thụ sự giầu sang của ông, nhưng ông muốn con cái ông tham dự vào đó. Thực sự, ông đã tích góp nó cho con cái ông hơn là cho ông. Đối với Thiên Chúa cũng vậy, nhưng Người mang tới cho tình yêu này và niềm ước ao này sự trọn lành của tất cả mọi hành động của Người.
Đừng lừa dối Chúa. Người hứa hình phạt cho các kẻ đắc tội và con cháu các kẻ đắc tội. Và Thiên Chúa không bao giờ thiếu sót trong các lời hứa của Người. Nhưng tâm hồn các con đừng thất vọng, ôi hỡi con cái loài người và con cái Thiên Chúa, hãy nghe lời hứa khác và hãy vui mừng: “Ta thi hành tình thương cho tới đời thứ cả ngàn đối với những kẻ yêu Ta và giữ các giới răn của Ta”.
Cho tới cả ngàn thế hệ của những người tốt, cho tới sự yếu đuối thứ cả ngàn của các con cái tội nghiệp của con người, những kẻ sa ngã không vì ác tâm, nhưng vì khờ khạo, và vì các cạm bẫy của ma qủi. Còn hơn nữa, Thầy bảo các con rằng Người mở rộng vòng tay ra ngay, nếu các con, với con tim hối hận, khuôn mặt đầy nước mắt, các con nói: “Cha ơi, con đã phạm tội, con biết, con hạ mình nhìn nhận nó trước mặt Cha. Xin Cha tha cho con. Sự tha thứ của Cha sẽ là sức mạnh để trở về sống đời sống thực”.
Đừng sợ. Trước khi các con phạm tội vì yếu đuối, người đã biết rằng các con sẽ phạm tội. Nhưng qủa tim của Người chỉ khép lại khi các con lì lợm trong tội, thực sự muốn phạm tội, làm cho tội thành những thần ghê tởm của các con. Hãy bạt các tà thần xuống, hãy dành chỗ cho Thiên Chúa thực. Người sẽ xuống trong sự vinh quang của Người để thánh hiến qủa tim các con khi Người thấy
582
rằng chỉ có mình Người ở trong các con.
Hãy trả lại cho Thiên Chúa nơi ở của Người. Nơi ở này không phải là các đền đài bằng đá, mà là các con tim loài người. Hãy rửa ngưỡng cửa, dọn dẹp bên trong cho hết những xa hoa vô ích và có tội. Một mình Thiên Chúa, một mình Người. Người là tất cả! Tâm hồn một người có Thiên Chúa ngự sẽ không kém gì Thiên Đàng. Con tim một kẻ hát tình yêu của nó cho vị khách Thiên Chúa là Thiên đàng.
Hãy làm cho tất cả con tim các con thành Trời. Hãy bắt đầu sống chung với Thiên Chúa. Trong ngày mai vô tận, nó sẽ được trọn vẹn trong sức mạnh và niềm vui trọn hảo. Nhưng ngay ở thế này, nó cũng đã có thể vượt qúa sự ngạc nhiên run rẩy của Abraham, Jacob và Môise, vì nó không còn là cuộc gặp gỡ sáng rực và đáng sợ với sức mạnh, nhưng là sự cư lưu với người Cha và người Bạn, đấng đến để nói: “Niềm vui của Ta là ở với con cái loài người. Con làm cho Ta sung sướng. Cám ơn con”.
Đám đông khoảng hơn trăm người ra về sau một lúc cảm động. Có những người bất chợt thấy mình khóc, người khác lại mỉm cười, do cùng một niềm hy vọng vui tươi. Sau cùng đám đông như tỉnh giấc. Bắt đầu như tiếng thì thầm, như tiếng thở mạnh, và sau cùng như tiếng kêu giải phóng: “Chúc tụng Thầy! Thầy mở con đường bình an cho chúng con!”
Giêsu mỉm cười trả lời: “Bình an ở trong lòng các con, nếu các con theo con đường tốt ngay từ bây giờ”.
Rồi Người đến với các người bệnh. Người đưa tay qua trước đứa trẻ bệnh, người mù, người đàn bà da vàng khè, Người cúi xuống trên người bại liệt và nói: “Thầy muốn”.
Người đàn ông nhìn Người và kêu lên: “Sức nóng trong cơ thể kiệt quệ của con!” Ông đứng dậy, mình trần, cho tới khi người ta lấy cái mền trên chõng để phủ cho ông. Bà mẹ nâng đứa con nhỏ dậy, không còn vảy nữa. Người mù dụi mắt vì sự tiếp xúc đầu tiên với ánh sáng. Các người đàn bà kêu lên: “Dina không còn vàng
583
như cây mao cấn rừng nữa”.
Sự xúc động đầy tràn. Người ta chúc tụng, hô hoán, chen nhau để coi, để ra đi nói lại ở xứ. Giêsu bị công hãm tứ bề. Phêrô thấy hầu như người ta sắp đè bẹp Người nên ông la lên: “Các bạn ơi! Họ làm Thầy chết ngộp. Tới giải tỏa cho Người!” Và với khửu tay, đôi khi cả với ống chân, họ thành công giải phóng cho Người và đưa Người ra ngoài: “Ngày mai tôi sẽ nghĩ tới việc này. Anh ở gần cửa, những người khác ở cuối phòng. Họ có làm đau cho Thầy không?”
- Không.
- Họ giống như điên! Hành động kiểu kỳ cục!
- Hãy để họ làm. Họ sung sướng... và Thầy cùng với họ. Hãy đi làm phép rửa cho những người xin con. Thầy đi vào nhà. Con, Judas, với Simon, hãy phát của bố thí cho người nghèo. Phát hết đi. Chúng ta có rất nhiều hơn là cần thiết đối với người môn đệ của Chúa. Phêrô, đi đi, đi đi. Đừng sợ làm qúa. Thầy sẽ biện minh cho con bên Cha, vì Thầy ra lệnh cho con. Chào các bạn.
Và Giêsu, mệt và chảy mồ hôi, khép kín trong nhà, trong khi các môn đệ, mỗi người lo việc mình với các người hành hương.
88* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP :
“ĐỪNG XƯỚNG DANH TA VÔ ÍCH”
Ngày kỷ niệm không thể quên ! Khuôn mặt che kín được lộ ra.
“Người lạ” đã tỏ mình ra cho biết. Vị Thầy đã gọi “Maria”... và Maria trở thành Gioan. Nước mắt của con được lau khô bởi cái hôn và lời hứa của Chúa!... Và “sinh lại” cách thiêng liêng bởi ý muốn của Chúa. Người ta không biết, nhưng con biết, và thưa cha, cha biết. Con có thể không mừng cái ngày kỷ niệm này không?... Con mừng nó trong sự phục vụ Thiên Chúa, chúc tụng những mệt mỏi và những khó khăn của công việc này, vì... Ôi! Giờ này của ngày 1- 3-1943. Nó đến nỗi Thánh Giá cũng là không so với nó.
Các môn đệ ở mọi ngả trên dưới. Giống như tổ ong vỡ, vì họ náo
584
động chừng nào. Họ nói, canh chừng ở bên ngoài, nhìn về mọi phía... Giêsu không ở đó. Sau cùng họ quyết định về điều làm cho họ náo động, và Phêrô ra lệnh cho Gioan: “Chạy đi tìm Thầy đi. Người ở trong rừng về phía con sông. Xin Thầy về ngay, hoặc Người nói cho xem phải làm sao”.
Gioan chạy đi. Iscariot nói: “Tôi, tôi không hiểu tại sao náo động và bất lịch sự qúa vậy. Tôi sẽ tới với ông và đón tiếp ông cách vinh dự đúng như cấp bậc của ông. Sự viếng thăm của ông là danh dự cho chúng ta. Vậy...”
- Tôi chẳng biết gì cả - Phêrô nói. “Ông ta khác với người anh em cùng sữa của ông (1)... Nhưng... ai ở với linh cẩu thì có mùi và bản tính của nó. Ngoài ra, anh muốn đuổi người đàn bà này đi... Hãy coi chừng! Thầy không muốn vậy đâu. Và tôi, tôi là kẻ bảo vệ bà. Nếu anh đụng tới bà... Tôi, tôi không phải là Thầy... chỉ là để anh tự chỉnh”.
- Ôi! vậy bà ta là ai?! Người đẹp Hêrôđiađê chắc?
- Đừng làm bộ hay!
- Chính anh đẩy tôi tới đó. Anh canh giữ bà ta oai vệ, làm như bà ta là bà hoàng...
- Thầy đã bảo tôi: “Hãy canh chừng để người ta đừng làm phiền bà và hãy kính trọng bà”. Đó là điều tôi làm.
- Nhưng bà ta là ai, anh biết không? - Tôma hỏi.
- Tôi, không.
- Nào, nói đi... anh biết mà... - nhiều người nhấn mạnh.
- Tôi thề với các anh là tôi không biết gì cả. Chắc chắn Thầy biết, nhưng tôi, không.
- Phải bảo Gioan hỏi Người. Với anh ta, Người nói hết.
- Tại sao? - Judas nói. “Gioan có gì đặc biệt? Em anh có phải ông thần không?”
- Không, Judas, đó là người tốt nhất trong chúng ta.
- Các anh có thể tránh được cái mệt này - Giacôbê Alphê nói. “Hôm qua em tôi nó thấy bà trong khi bà ở ngoài sông trở về với mấy con cá mà Andrê đã cho bà, và chính nó đã hỏi Giêsu, nhưng Người trả lời: ‘Bà ta không có khuôn mặt. Đó là một linh hồn tìm
585
Thiên Chúa. Đối với Thầy, bà ta không là gì khác, và Thầy muốn bà ta như vậy đối với mọi người’. Người nói tiếng ‘Thầy muốn’ với giọng mà tôi khuyên các anh đừng nài nỉ”.
- Tôi sẽ đi gặp bà ta - Judas Kêriot nói.
- Thử coi, nếu anh có khả năng - Phêrô nói. Ông đỏ như con gà trống.
- Anh làm trinh thám cho Giêsu?
- Tôi để cái nghề ấy cho Đền Thờ. Chúng tôi, ở hồ, chúng tôi kiếm bánh bằng làm việc chứ không bằng cách tố cáo. Đừng sợ Simon Jonas trinh thám anh. Nhưng đừng chọc tức tôi, và đừng lỗi vâng lời Thầy, vì tôi ở đây, tôi...
- Nhưng anh là ai? Một con người tội nghiệp cũng như tôi.
- Thưa ông đúng. Còn tội nghiệp hơn, ngu si hơn, thô kệch hơn ông. Tôi biết, và điều đó không làm tôi khổ. Nhưng tôi sẽ lo sợ nếu tôi có qủa tim giống như của ông. Thầy đã giao cho tôi trách nhiệm này, và tôi làm tròn.
- Qủa tim giống như của tôi? Nhưng có cái gì trong qủa tim tôi làm anh ghê tởm? Hãy nói, hãy kết án, hãy tấn công...
- Nhưng tóm lại! - Zêlote bực mình nói, và Batôlômêo cùng với ông. “Tóm lại, chấm dứt đi Judas. Hãy kính trọng tóc trắng của Phêrô”.
- Tôi kính trọng hết mọi người. Nhưng tôi muốn biết có cái gì ở trong tôi...
- Xin phục vụ ngay lập tức... Hãy để tôi nói... Có sự kiêu căng, đủ để lấp đầy cái nhà bếp này, có sự gian dối, có sự dâm đãng.
- Tôi, gian dối?
Mọi người đều can thiệp nên Judas phải nín lặng.
Simon bình tĩnh nói với Phêrô: “Xin lỗi bạn, nếu tôi nói với bạn một điều: anh ta có những khuyết điểm, nhưng anh, anh cũng có vài cái. Một trong số đó là không hiểu những người trẻ. Sao anh không kể đến tuổi tác, bẩm sinh... và bao nhiêu thứ? Anh coi, anh hành động vì tình yêu đối với Giêsu, nhưng anh không nghĩ rằng những cãi vã làm cho Người mệt. Với anh ta (ông chỉ vào Judas), thì tôi không nói, nhưng với anh, người chín chắn và rất thật thà, tôi
586
xin nói điều này: Người đã qúa khổ vì các kẻ thù của Người mà chúng ta còn làm khổ cho Người nữa! Bao thù ghét vây quanh Người, tại sao lại tạo ra nữa ngay ở trong tổ ấm của Người?”
- Đúng thế - Juđa Thađê nói. “Giêsu rất buồn và kể cả gầy đi. Ban đêm tôi thấy Người trằn trọc trên giường và thở dài. Ban đêm tôi hay thức dậy, tôi thấy Người khóc trong khi cầu nguyện. Tôi hỏi Người: ‘Thầy làm sao?’ Người ôm lấy tôi và nói: ‘Hãy yêu Thầy nhiều. Thật gian nan để làm Đấng Cứu Thế’”
- Tôi cũng vậy. Tôi thấy Người đầy nước mắt ở trong rừng bên bờ sông - Philíp nói. “Tôi nhìn Người với con mắt nghi vấn thì Người trả lời: ‘Con biết cái gì làm cho Trời khác với đất, ngoài sự hiện diện hữu hình của Thiên Chúa không? Đó là sự thiếu tình yêu giữa người với người. Điều đó giống như sợi giây xiết nghẹt cổ Thầy. Thầy tới đây ném những hạt lúa cho các con chim nhỏ để được yêu bởi những vật thể biết yêu nhau’”.
Judas Iscariot (hẳn ông ta hơi mất quân bình), ông qùi phập xuống đất và khóc như đứa con nít. Ngay lúc đó Giêsu với Gioan đi kèm, liền bước vào: “Có chuyện gì vậy? Và những nước mắt này?...”
- Thưa Thầy, tại lỗi con - Phêrô nói thẳng thắn. “Con đã hành động sai. Con đã khiển trách Judas qúa khắt khe”.
- Không... tại con... con... chính con có lỗi. Con làm khổ cho Thầy... Con không tốt... con làm rối trật tự, gây bất bình, không vâng lời. Con... Phêrô có lý. Vậy xin Thầy giúp con nên tốt. Vì con có cái gì ở đây, ở trong qủa tim, nó làm cho con làm những cái con không muốn. Nó mạnh hơn con... và con chỉ làm khổ cho Thầy, cho Thầy, cho Thầy, người mà con chỉ muốn mang đến cho niềm vui... Thầy tin đi! Đó không phải là giả dối...
- Nhưng, đúng, Judas. Thầy không nghi điều đó. Con đã đến với Thầy với con tim đầy chân thành, trong nhiệt tình thực sự. Nhưng con còn trẻ... không có ai, kể cả con, biết con như Thầy biết con. Thôi, đứng dậy, lại đây đi, chúng ta sẽ nói chuyện chỉ hai người với nhau. Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy nói về người mà vì họ, các con đã gọi Thầy về. Manaen tới thì có gì là xấu đâu? Một người dù vẫn là bà con với Hêrôđê, không thể có khát vọng Thiên Chúa thực
587
sao? Các con sợ cho Thầy à? Không. Hãy tin cẩn vào lời Thầy. Người này chỉ đến với ý hướng ngay lành.
- Vậy tại sao ông không nói cho biết? - Các môn đệ hỏi.
- Bởi chính vì ông đến với tư cách là một linh hồn chứ không với tư cách anh em cùng sữa của Hêrôđê. Ông ta nín lặng vì ông ta nghĩ rằng trước Lời của Thiên Chúa thì tình họ hàng với một ông vua không kể đến... Chúng ta sẽ kính trọng sự yên lặng của ông.
- Nhưng nếu trái lại, chính hắn sai ông ta đến?
- Ai? Hêrôđê à? Không, đừng sợ.
- Vậy ai sai ông? Làm sao ông ta biết Thầy?
- Bởi chính người bà con Gioan của Thầy. Các con nghĩ rằng ở trong tù ông không rao giảng Thầy sao? Và cũng bởi cả Chouza nữa... bởi tiếng nói của đám đông... bởi cả sự thù ghét của các pharisiêu... Từ nay, kể cả hoa lá, cả không khí cũng nói về Thầy. Viên sỏi vất xuống nước yên lặng, cây gậy đập vào tấm đồng... các làn sóng chạy thành các vòng tròn càng lúc càng lớn, mang sự mặc khải cho các làn nước ở xa, và âm thanh mang nó vào không gian. Trái đất đã học biết nói “Giêsu”, và nó sẽ không bao giờ nín lặng nữa. Đi, hãy bặt thiệp với ông ta cũng như với mọi người. Thầy ở lại với Judas.
Các môn đệ đi.
Giêsu nhìn Judas còn ướt nước mắt và hỏi: “Nào, con không có gì nói với Thầy sao? Thầy biết hết những gì có liên can tới con, nhưng Thầy muốn nghe bởi chính con. Tại sao khóc? Và nhất là tại sao có sự thiếu quân bình làm cho con thành một người trường kỳ bất mãn?”
- Ôi! Vâng, thưa Thầy, Thầy nói đúng. Con bản tính hay ghen. Chắc chắn Thầy biết rằng con khổ khi thấy rằng... khi thấy biết bao thứ. Đó là cái làm con lo và... bất công, và trở nên xấu, trong khi con không muốn, không...”
- Và đừng lại bắt đầu khóc! Con ghen cái gì? Con hãy tập quen nói chuyện với chính linh hồn thực sự của con. Con nói nhiều và cả đến qúa nhiều, nhưng với cái gì? Với bản năng và tư tưởng. Con
588
theo một công việc mệt mỏi và liên tục để nói điều con muốn nói. Thầy nói về con, về cái tôi của con, vì những điều con nói về những người khác và với những người khác thì không gì có thể làm con giữ lại hay làm con ngừng lại. Với xác thịt cũng vậy, nó là con ngựa điên của con. Con giống như tay đua mà người giám đốc cuộc đua đã giao cho hai con ngựa điên. Một con là tình dục. Con kia... Con muốn biết con kia là gì không? Có? Con kia là những sai lầm mà con không muốn khắc phục. Con là tay đua khéo léo nhưng thiếu khôn ngoan. Con ỷ y vào sự hiểu biết của con và con cho như vậy là đủ. Con muốn về trước tiên... con không mất thời giờ để thay ít là một con ngựa. Trái lại, con kích thích nó và quất nó. Con muốn là người thắng cuộc. Con muốn những tiếng hoan hô. Con không biết rằng mọi chiến thắng chỉ chắc chắn khi người ta chinh phục nó bằng sự kiên trì, nhẫn nại và khôn ngoan thận trọng sao? Hãy nói với linh hồn con. Thầy muốn lời hứa của con phát xuất từ nó. Thầy có phải nói cho con những gì con có ở trong lòng con không?
- Con khổ vì ngay chính Thầy, Thầy không công bằng, và không hòa hợp với chính Thầy, và con khổ vì vậy.
- Tại sao con kết án Thầy? Thầy đã thiếu sót về cái gì trước mắt con?
- Khi con muốn dẫn Thầy đến nhà các bạn con thì Thầy không muốn, Thầy nói rằng Thầy thích ở với các người khiêm tốn. Rồi Simon và Lazarô nói với Thầy rằng tốt để đặt Thầy dưới sự bảo trợ của một người mạnh thì Thầy lại nhận. Thầy ưu ái Phêrô, Simon, Gioan... Thầy...
- Còn gì nữa?
- Không còn gì nữa, Giêsu.
- Các đám mây! Các bọt nước. Con làm Thầy thương, vì con là một con người tội nghiệp tự hành hạ mình trong khi con có thể sung sướng. Con có thể nói rằng chỗ ở này sang trọng không? Con có thể nói rằng không có lý do nào quan trọng khiến Thầy chấp nhận nó không? Nếu Sion ít độc ác hơn với các Tiên Tri của nó thì Thầy có phải ở đây như một người sợ công lý loài người và cư ngụ trong một
589
nơi lưu đầy không?
- Không.
- Vậy thì sao? Con có thể nói được rằng Thầy không trao cho con các nhiệm vụ như những người khác không? Con có thể nói được rằng Thầy đã khắt khe với con khi con có những thiếu sót không? Con đã không thành thật... Các vườn nho... Ôi! Các vườn nho! Các vườn nho này nó đã có những tên gì? Con đã không tử tế với kẻ đau khổ và muốn cứu chuộc. Con đã không trọng kính đối với Thầy. Và những người khác đã thấy... Nhưng chỉ có một tiếng nói cất lên để bênh vực con, và bênh vực con luôn luôn, là tiếng nói của Thầy. Những người khác có quyền ghen, vì nếu có một người mà Thầy che chở, thì đó là con.
Judas khóc, bẽ bàng và cảm động.
- Thầy đi. Đã đến giờ Thầy thuộc về mọi người. Còn con, hãy ở lại và suy nghĩ.
- Con xin lỗi Thầy. Con không thể có bình an nếu con không có sự tha thứ của Thầy. Đừng buồn tại vì con. Con là đứa con trai xấu... Con yêu và con làm đau khổ... Đối với mẹ con cũng vậy... đối với Thầy cũng vậy. Nó cũng sẽ vậy đối với vợ con nếu mai ngày con có vợ... Tốt hơn là con chết!...
- Tốt hơn là con sám hối. Nhưng con đã được tha. Chào.
Giêsu ra và tới gần cửa. Phêrô đang ở ngoài: “Tới đi Thầy, trễ rồi. Rất đông người. Sắp đêm rồi mà Thầy còn chưa ăn... Chính cậu con trai này là nguyên nhân tất cả”.
- Cậu con trai này cần tới tất cả các con để không còn là nguyên nhân của những chuyện như vậy nữa. Phêrô, hãy nhớ lấy điều này: nếu đó là con trai con, con có phàn nàn không?
- Hum! Có và không. Con sẽ phàn nàn... nhưng... con cũng sẽ dạy nó cái gì, dù nó đã là người lớn, như một đứa trẻ dữ tợn. Nhưng nếu là con trai con, nó sẽ không như vậy...
- Đủ rồi.
- Vâng, đủ rồi, Chúa của con. Đó, Manaen, người mặc áo khoác hầu như đen, vì nó đỏ rất đậm. Ông đã cho con cái này cho người
590
nghèo, và ông hỏi con xem ông có thể ở lại ngủ không.
- Vậy con trả lời thế nào?
- Sự thật: “Chúng tôi chỉ có đủ giường cho chúng tôi thôi. Hãy đi vào trong xứ”.
Giêsu không nói gì, nhưng Người bỏ lửng Phêrô ở đó và đi tìm Gioan để nói với ông cái gì, rồi Người tới chỗ của Người và bắt đầu nói.
- Bình an cho tất cả các con, và cùng với bình an là ánh sáng và sự thánh thiện. Có lời rằng: “Đừng xướng danh Ta vô ích”.
Khi nào xướng danh Người vô ích, và ai làm như vậy? Có phải chỉ khi người ta phạm thượng thôi sao? Không, cả khi người ta xướng danh Người mà không làm cho mình xứng đáng với Người. Một đứa con có thể nói: “Tôi yêu cha tôi và tôi tôn kính Người”, rồi nó lại làm những việc đối nghịch với các ước muốn của cha nó không? Không phải khi nói “cha, cha” là người ta yêu ông thực sự đâu. Không phải kẻ nói “Chúa, Chúa”, là người ta yêu Chúa đâu.
Như Thầy đã nói ngày hôm kia: trong Israel có rất nhiều tà thần kín đáo của các con tim, ở đó cũng có những lời ngợi khen giả hình cho Thiên Chúa: những lời ngợi khen không có việc làm phù hợp của kẻ ngợi khen Người. Trong Israel cũng có nhiều khuynh hướng: khuynh hướng tìm tòi bao nhiêu thứ tội trong các điều ở bên ngoài, và không muốn tìm nó ở nơi nó có thực sự: ở bên trong. Trong Israel cũng có một sự kiêu căng ngu ngốc, một thói quen nghịch nhân bản và nghịch siêu nhiên: đó là cho như phạm thượng khi nghe Danh của Thiên Chúa chúng ta trên môi các người dân ngoại, và người ta thêm vào đó việc cấm các dân ngoại tới gần Thiên Chúa thực, vì cho đó là phạm thánh.
Những điều đó là từ trước tới nay. Bây giờ không được như vậy nữa.
Thiên Chúa Israel cũng là Thiên Chúa đã dựng nên mọi người. Tại sao lại ngăn cản những người đã được tạo dựng cảm thấy sự lôi cuốn của Đấng Tạo Hóa của họ? Các con tưởng rằng các dân ngoại không cảm thấy gì trong đáy lòng họ sao? Một cái gì không thỏa mãn, cứ kêu than, khuấy động, tìm tòi? Ai? Cái gì? Đấng Thiên
591
Chúa mà họ không biết. Và các con nghĩ rằng nếu một người dân ngoại hướng toàn thể con người của họ về bàn thờ của vị Thiên Chúa không biết, về bàn thờ vô vật chất là linh hồn họ, nơi luôn luôn có một kỷ niệm về Đấng Tạo Hóa của nó, linh hồn chờ đợi được chiếm hữu bởi vinh quang của Thiên Chúa, giống như Nhà Tạm được thiết lập bởi Môise theo lệnh ông đã nhận được, người dân ngoại khóc cho tới khi nó được chiếm hữu, các con tưởng rằng Thiên Chúa từ chối của lễ của họ như một sự phạm thánh sao? Các con nghĩ đó là một tội, hành động được tạo ra bởi một ước ao ngay lành của linh hồn thức tỉnh dậy bởi tiếng gọi từ trời, và nó nói: “Con đến”, trả lời cho tiếng Thiên Chúa gọi: “Hãy đến”? Các con nghĩ là Thánh, việc thờ phượng hư hỏng của một người Israel dâng vào Đền Thờ chỗ thừa của các khoái lạc của họ, và vào trước nhan Thiên Chúa, xướng danh Người, Đấng rất Trong Sạch, với một linh hồn và một thân xác mà tội lỗi lúc nhúc như dòi sao?
Không. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng sự bất kính trọn vẹn nhất là ở nơi người Israel này, người với tâm hồn dơ bẩn, xướng danh Thiên Chúa cách vô ích. Xướng danh Người cách vô ích là khi các con không phải người điên, nhưng vì tình trạng của linh hồn các con, các con xướng lên cách vô ích. Ôi! Thầy thấy dung nhan phẫn nộ của Thiên Chúa ghê tởm ngoảnh đi nơi khác khi kẻ giả hình gọi Người, khi kẻ đó gọi tên Người mà không sám hối. Và Thầy cảm thấy sợ, dù Thầy là kẻ không phải chịu sự phẫn nộ Thiên Chúa này.
Thầy đọc thấy trong nhiều con tim tư tưởng này: “Vậy ngoài các trẻ nhỏ ra, không ai có thể gọi Thiên Chúa, vì trong mọi người đều có sự ô uế và tội lỗi”. Không, đừng nói như vậy. Chính bởi các người tội lỗi mà Danh này cần được kêu gọi, và bởi tất cả những ai cảm thấy mình bị chết nghẹt bởi Satan, muốn được giải phóng khỏi tội lỗi và đứa cám dỗ. Họ muốn - đó là điều biến đổi sự phạm thượng thành lễ nghi - gọi Đấng Toàn Năng để được tha thứ và được chữa lành. Gọi Người để Người xua đuổi kẻ cám dỗ đi, làm cho nó phải trốn chạy.
Sách Sáng Thế nói rằng Con Rắn cám dỗ Evà khi Thiên Chúa không ở trong vườn Êđen. Nếu Thiên Chúa ở đó thì Satan không
592
thể ở đó. Nếu Evà gọi Thiên Chúa thì Satan sẽ chạy trốn. Hãy luôn luôn giữ tư tưởng này trong lòng các con. Và với sự chân thành, hãy gọi Chúa. Tên Người là sự cứu thoát. Nhiều người trong các con muốn xuống sông để thanh tẩy, nhưng hãy thanh tẩy con tim các con không ngừng, và hãy viết vào đó tiếng: “Thiên Chúa” bằng tình yêu. Đừng cầu nguyện dối trá, đừng làm những thực hành theo thói quen. Nhưng với tâm hồn các con, tư tưởng các con, hành động của các con, với tất cả con người của các con, hãy nói tên: “Thiên Chúa”. Hãy nói nó để không phải cô đơn. Hãy nói nó để được nâng đỡ. Hãy nói nó để được tha thứ.
Các con hãy hiểu lời Thiên Chúa nói ở Sinai: “Vô ích” : xướng danh Thiên Chúa mà không cải thiện, đó là phạm tội. Không phải là “vô ích” khi ở mỗi nhịp đập của qủa tim các con, ở mỗi giây phút trong ngày, trong mọi hành động ngay lành của các con, trong mọi nhu cầu, trong cám dỗ, trong đau khổ, các con đem lên đôi môi lời nói tình yêu của con thảo và nói: “Lạy Thiên Chúa của con, xin hãy đến!”, thì lúc đó thực sự các con không hề phạm tội khi xướng Thánh Danh Thiên Chúa.
Hãy đi. Bình an cho các con.
Không có người bệnh. Giêsu ở lại, khoanh tay, dựa lưng vào tường nhà kho, nơi đã tối. Người nhìn những người cỡi lừa ra đi, những người vội vã ra sông bởi ước ao được thanh tẩy, những người băng qua cánh đồng để về xứ.
Người đàn ông mặc mầu đỏ sậm dường như không quyết định chắc chắn được. Giêsu nhìn ông. Sau cùng ông đi tới con ngựa của ông. Ông có một con ngựa trắng tuyệt vời, có trùm tấm mền đỏ ở bên dưới yên để bảo vệ.
- Ông ơi, chờ tôi - Giêsu nói khi đến với ông: “Đêm rồi, ông có chỗ nào ngủ không? Ông từ xa đến? Ông có một mình?”
Người đó trả lời: “Từ rất xa... tôi sẽ đi... tôi không biết... vào trong xứ, nếu tôi tìm được... nếu không... ở Jêricô... Tôi để người cận vệ ở đó vì tôi không tin cẩn”.
- Không, tôi nhường cho ông cái giường của tôi. Nó sẵn sàng
593
hết. Ông có lương thực không?
- Tôi không có gì cả. Tôi tưởng sẽ tìm được một xứ hiếu khách hơn...
- Nó đâu có thiếu gì.
- Không thiếu gì cả, kể cả sự thù ghét đối với Hêrôđê. Thầy biết tôi là ai không?
- Đối với những người tìm tôi, chỉ có một tên: anh em nhân danh Thiên Chúa. Tới đi, chúng ta bẻ bánh với nhau. Ông có thể cột con ngựa của ông trong nhà kho. Tôi sẽ ngủ ở đó, và tôi sẽ gác nó cho ông...
- Không. Điều đó thì không. Tôi sẽ ngủ ở đây. Tôi chỉ nhận bánh thôi chứ không nhận gì khác. Tôi không đặt cơ thể ô uế của tôi trên nơi Thầy đã đặt cơ thể thánh của Thầy.
- Ông tin tôi là thánh?
- Tôi biết Thầy là thánh. Gioan, Chouza... các việc của Thầy... các lời Thầy... Triều đình rộn lên như con sò giữ tiếng động của biển... Tôi đã tới nơi Gioan... rồi tôi lạc mất ông. Nhưng ông đã bảo tôi: “Có một người cao hơn Ta sẽ đón tiếp con và sẽ dạy dỗ con”. Người đó chỉ có thể là Thầy. Tôi đến khi tôi biết rằng Thầy ở đâu.
Hai người ở lại một mình trong nhà kho. Các tông đồ nói chuyện với nhau gần nhà kho, và họ canh chừng.
Zêlote có nhiệm vụ làm phép rửa hôm nay, ông từ ngoài sông về cùng với những người chịu phép rửa sau cùng. Giêsu chúc lành cho họ, rồi Người nói với Simon: “Ông này là một người hành hương tìm chỗ trú nhân danh Thiên Chúa, và nhân danh Thiên Chúa, chúng ta chào ông như một người bạn”.
Simon cúi mình. Người đó cũng vậy. Họ vào trong phòng và Manaen cột con ngựa vào máng cỏ. Gioan, được Giêsu ra hiệu, liền chạy tới, mang theo cỏ và một xô nước. Phêrô cũng tới với một cái đèn dầu, vì trời tối.
- Tôi sẽ rất dễ chịu ở đây. Xin Thiên Chúa trả ơn cho qúi vị - người kỵ mã nói. Rồi ở giữa Giêsu và Simon, ông vào trong nhà
594
bếp được soi sáng bởi lửa củi chà rào mà họ đã đốt lên. Tất cả chấm dứt.
(1) Gọi là anh em cùng sữa: những người không phải là ruột thịt, nhưng được nuôi bởi cùng một dòng sữa, hoặc của người vú nuôi, hoặc của một trong các bà mẹ.
89* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP:
“HÃY TÔN KÍNH CHA MẸ NGƯƠI”
Giêsu đi dạo nhẩn nha trên bờ sông. Ngày vừa chớm nở qua lớp sương mù của một ngày mùa đông buồn, còn đọng lại trên đám lau sậy ở bờ sông. Nhìn mút mắt, không thấy một bóng người ở hai bên bờ sông, chỉ có sương mù, tiếng rì rào của nước chảy qua đám lau sậy, tiếng róc rách của nước đổ, đúng ra là nước bùn, vì các trận mưa của các ngày vừa qua. Vài tiếng chim kêu vắn tắt và buồn, vì mùa yêu đương đã qua. Mùa đông lạnh và sự thiếu thực phẩm càng làm cho chúng thành buồn hơn.
Giêsu nghe chúng và có vẻ rất lưu ý tới tiếng gọi của một con chim nhỏ. Với tiếng kêu đều đều như một chiếc đồng hồ, nó quay đầu về phía bắc và nói một tiếng “xia rích” than van, rồi lại quay về phía nam và nhắc lại tiếng “xia rích” nghi vấn của nó. Sau cùng con chim nhỏ như nhận được câu trả lời trong tiếng “xíp” vọng tới từ bờ sông bên kia, nó liền đập cánh và bay qua sông với tiếng kêu nhỏ vui mừng. Giêsu làm một cử chỉ như muốn nói: “May thay!” Rồi Người tiếp tục bước.
- Thưa Thầy, con có làm phiền Thầy không? - Gioan từ phía đồng cỏ đi tới và hỏi.
- Không. Con muốn gì?
- Con muốn nói với Thầy... con thấy như đây là một tin có thể an ủi Thầy nên con đến ngay, và cũng để hỏi ý Thầy.
Con đang quét phòng thì Judas Kêriot vào. Ông bảo con: “Tôi giúp cậu”. Con ngạc nhiên, vì rất hiếm khi anh ta tự nguyện làm công việc này, kể cả khi người ta yêu cầu. Nhưng con không nói
595
thêm gì với anh ta ngoài câu: “Ồ, cám ơn. Như vậy tôi sẽ làm mau hơn và làm tốt hơn”. Anh ta bắt đầu quét, và chúng con làm xong lẹ. Rồi anh nói: “Chúng ta đi vào rừng đi, luôn luôn là các người già kiếm củi, như vậy không tốt. Chúng ta đi. Tôi không rành việc đó mấy, nhưng nếu cậu chỉ cho tôi...” Và chúng con đi. Trong khi con bó củi với anh ta, anh bảo con: “Gioan, tôi muốn nói với cậu một điều”.
“Nói đi”. Con bảo anh. Và con nghĩ đây là một điều chỉ trích. Nhưng trái lại, anh nói: “Tôi với cậu là hai người trẻ nhất, phải đoàn kết hơn. Hầu như cậu sợ tôi. Cậu có lý, vì tôi, tôi không tốt. Nhưng cậu hãy tin... tôi không có ý như vậy. Đôi khi tôi cảm thấy nhu cầu phải xấu. Có lẽ vì là đứa con duy nhất nên tôi hư. Nhưng tôi muốn trở nên tốt. Tôi biết, các người già họ không nhìn tôi bằng con mắt tốt. Các người bà con của Giêsu rất khó chịu... Đúng, tôi rất thiếu sót đối với họ, và cả đối với em của họ. Nhưng cậu, cậu tốt và kiên nhẫn. Hãy yêu tôi. Hãy làm tất cả tựa như tôi là anh ruột cậu, xấu, đúng, nhưng dù sao cũng phải yêu. Thầy cũng nói phải hành động như vậy. Khi cậu thấy rằng tôi hành động không tốt, hãy nói với tôi. Rồi đừng để tôi ở một mình hoài. Khi tôi đi vào trong xóm, hãy đi với tôi. Cậu sẽ giúp tôi không hành động xấu. Hôm qua tôi rất khổ. Giêsu đã nói với tôi và tôi nhìn Người. Trong sự thù ghét ngu ngốc của tôi, tôi không nhìn vào chính tôi, cũng không nhìn người khác. Hôm qua, tôi đã nhìn và tôi đã thấy... Họ có lý để nói rằng Giêsu khổ... và tôi thấy rằng tôi cũng phải chịu trách nhiệm. Tôi không muốn như vậy nữa. Hãy đi với tôi. Cậu sẽ đi chứ? Cậu sẽ giúp tôi bớt xấu chứ?”
Anh đã nói với con như vậy. Con thú thật rằng qủa tim con đập như qủa tim của con chim bị một đứa trẻ vồ được. Nó đập vì vui, bởi con rất bằng lòng nếu anh trở nên tốt, và con cũng mừng cho Thầy nữa. Nhưng nó đập mạnh hơn vì sợ... bởi con không muốn trở nên như Judas. Nhưng rồi con nhớ lại điều Thầy đã nói hôm Thầy nhận Judas, con trả lời: “Đồng ý, tôi sẽ giúp anh. Nhưng tôi phải vâng lời, nếu tôi có những mệnh lệnh khác...” Con đã nghĩ: bây giờ tôi đi nói với Thầy, rồi nếu Người muốn thì tôi sẽ làm. Nếu Người
596
không muốn, tôi sẽ xin Người ra lệnh cho tôi không được đi xa nhà.
- Nghe đây Gioan. Thầy, Thầy để cho con đi. Nhưng con phải hứa với Thầy rằng nếu con cảm thấy cái gì làm cho con xao xuyến, con sẽ đến nói với Thầy. Con đã cho Thầy rất nhiều niềm vui. Kìa, Phêrô đem cá về. Đi đi Gioan.
Giêsu quay về với Phêrô: “Nhiều cá không?”
- Hum! Không nhiều lắm, toàn cá nhỏ... nhưng cũng lợi dụng được. Giacôbê cằn nhằn vì có con vật nào đã làm đứt giây và bị mất một cái lưới. Con nói: “Có thể nó đã ăn cả lưới. Hãy thương hại con vật tội nghiệp”. Nhưng Giacôbê không nghe điều này... - Phêrô cười nói.
- Đó là điều Thầy đã nói về một người anh em, và đó là điều các con không biết làm.
- Thầy nói về Judas?
- Thầy nói về Judas. Anh ấy khổ. Anh ấy có những ước mong tốt và những khuynh hướng xấu. Con là một dân chài nhiều kinh nghiệm, hãy nói cho Thầy biết: Khi Thầy muốn đi thuyền từ sông Giođan về hồ Gênêsarét, Thầy phải làm thế nào? Thầy có thành công không?
- Ê! Đó sẽ là công việc lớn. Nhưng Thầy sẽ thành công với một cái thuyền nhỏ đáy bằng... Việc đó mệt nhọc và lâu dài! Phải luôn luôn đo bề sâu, chú ý tới bờ và chỗ nước cạn, các cành cây nổi trôi theo dòng nước. Nhiều trường hợp cánh buồm không ích lợi, trái lại... Nhưng Thầy muốn trở về hồ bằng cách đi theo dòng sông à? Hãy biết rằng đi ngược dòng nước rất khó. Phải đông người, nếu không...
- Con nói đúng. Khi một người trụy lạc muốn đi về với sự thiện, nó phải đi ngược dòng nước, và nó không thể thành công một mình. Judas đúng là một trong những người này. Và các con, các con không giúp anh ta. Kẻ khốn nạn ra đi một mình, đụng đáy cạn, mắc lầy, vướng vít vì các cành trôi dạt, bị sa vào chỗ nước xoáy. Đàng khác, nếu nó muốn đo bề sâu, nó không thể, vì đồng thời nó phải lái và chèo. Tại sao lại phiền trách nó nếu nó không tiến lên. Các con
597
thương các người lạ mà lại không thương anh ta, bạn của các con. Điều đó không đúng. Kìa, Gioan với anh ta đi vào xóm mua bánh và rau cỏ? Anh ta đã xin để không phải đi một mình, và anh ta đã xin điều đó với Gioan, vì anh ta đâu có ngu, anh ta biết các con, những người già, các con nghĩ gì về anh ta.
- Và Thầy đã sai nó đi? Và nếu Gioan cũng hư hỏng?
- Ai? Em tôi à? Tại sao nó hư ? - Giacôbê hỏi. Ông vừa về tới với cái lưới vớt lại được ở trong đám sậy.
- Bởi vì Judas đi với nó.
- Từ hồi nào?
- Bắt đầu từ bữa nay, và chính Thầy đã cho phép.
- Vậy nếu Thầy đã cho phép...
- Đúng. Kể cả Thầy khuyên tất cả các con: Các con qúa hay để anh ta một mình. Đừng chỉ là thẩm phán cho anh ta mà thôi. Anh ta không xấu hơn biết bao người khác. Nhưng anh ta được nuông chiều nhất từ tuổi nhỏ.
- Phải, đúng vậy, hẳn là vậy. Nếu anh ta có Zêbêđê và Salômê làm cha mẹ thì anh ta không như vậy. Bố mẹ con tốt. Họ luôn nhớ họ có quyền và có nghĩa vụ đối với các con họ.
- Con nói đúng. Hôm nay Thầy sẽ nói đúng về điều này. Bây giờ chúng ta đi. Thầy đã thấy người ta đang đến trên đồng cỏ.
- Con, con không biết từ nay chúng ta sẽ sống ra sao. Không còn giờ để ăn, để cầu nguyện, để nghỉ ngơi... Và số người luôn luôn gia tăng - Phêrô nói, bị chia sẻ giữa sự cảm phục và phiền toái.
- Con phàn nàn điều đó? Đó là dấu chỉ còn có những người tìm Thiên Chúa.
- Thưa Thầy vâng. Nhưng Thầy phải chịu đựng. Ngày hôm qua cả đến Thầy không ăn, và đêm vừa qua Thầy không có cái mền nào ngoài áo khoác. Nếu Mẹ Thầy biết!
- Mẹ sẽ chúc tụng Thiên Chúa vì đã dẫn đến cho Thầy biết bao tín hữu.
- Và Mẹ sẽ trách con. Con là người Mẹ đã ủy thác... - Phêrô kết
598
luận.
Kìa, Philíp và Batôlômêo đang đến với họ, tay múa may. Thấy Giêsu, họ đi mau trong khi nói: “Ôi Thầy ơi! Chúng ta làm sao đây? Một cuộc hành hương thực sự: các người bệnh, các người khóc lóc, các người nghèo từ xa đến chẳng có gì hết”.
- Chúng ta sẽ mua bánh. Các người giầu cho của bố thí. Chỉ có việc dùng.
- Bây giờ ngày ngắn, trong nhà kho đã đầy những người đóng đô. Ban đêm ẩm ướt và lạnh.
- Con có lý, Philíp. Chúng ta chồng chất vào ngủ hết trong một phòng. Chúng ta có thể làm, và chúng ta sẽ tổ chức cho những người khác, những người không thể trở về nhà họ trong buổi chiều.
Phêrô càu nhàu: “Con hiểu! Chỉ ít nữa là chúng ta phải xin các khách cho phép chúng ta thay quần áo. Họ xâm lăng chúng ta tới nỗi họ làm chúng ta chạy trốn”.
- Phêrô của Thầy! Con sẽ thấy những cuộc chạy trốn khác. Người đàn bà kia làm sao vậy? - Họ đã vào trong sân và Giêsu nhìn thấy một người đàn bà khóc.
- Con không biết. Hôm qua bà ta cũng đã ở đây, và hôm qua bà ta cũng đã khóc. Khi Thầy nói với Manaen, bà có vẻ như muốn tới gặp Thầy, nhưng rồi bà ta lại đi. Chắc bà ta ở lại trong xóm hay ở vùng chung quanh, vì bà đã trở lại. Bà không có vẻ bệnh...
- Bình an cho bà - Giêsu nói khi đi qua bên cạnh bà. Bà trả lời nhỏ nhẹ: “Và cho Thầy”. Không có gì khác.
Có ít nhất là ba trăm người. Trong nhà kho có những người què, người mù, người câm. Có một người cứ run giật liên hồi. Đó là một cậu con trai còn rất trẻ, hẳn là bị bệnh màng não có nước, một người đàn ông dắt tay cậu. Cậu ta chỉ biết rên, chảy nước miếng, lắc đầu, có vẻ đần độn.
- Có lẽ đó là con trai người đàn bà đó? - Giêsu hỏi.
- Con không biết. Simon lo cho các người hành hương, anh ta biết.
Người ta gọi Zêlote và hỏi. Nhưng người đàn ông không đi với
599
người đàn bà. Bà ta một mình. “Bà chỉ khóc và cầu nguyện. Vừa nãy bà hỏi con: ‘Thầy chữa cả bệnh tâm hồn nữa phải không?’” Zêlote giải thích.
- Chắc đây là người đàn bà bị phản bội - Phêrô bình luận.
Trong khi Giêsu đến với các người bệnh thì Batôlômêo và Mathêu làm phép rửa cho nhiều người hành hương.
Người đàn bà khóc ngồi yên trong góc của bà, không nhúc nhích.
Giêsu không từ chối phép lạ với ai cả. Người con trai đần độn, đẹp trai tuyệt!!! Giêsu phú ban sự thông minh bằng hơi thở của Người trong khi cầm đầu anh ta trong bàn tay dài của Người. Mọi người chen chúc chung quanh, kể cả người đàn bà trùm khăn. Có lẽ vì rất đông người nên bà ta dám lại gần và đứng bên cạnh người đàn bà khóc. Giêsu nói với người đần độn: “Thầy muốn có ánh sáng thông minh ở trong con để nó dẫn con tới ánh sáng của Thiên Chúa. Con nghe đây: hãy nói cùng với Thầy: Giêsu. Nói đi, Thầy muốn”.
Người đần độn trước chỉ biết rên như con vật, không biết gì khác, liền ấp úng: “Giêsu”, đúng ra là “Giêgiu”.
- Nữa - Giêsu ra lệnh, Người vẫn giữ cái đầu dị dạng của anh trong tay Người và chế ngự anh ta bằng cái nhìn của Người.
- Gié-su.
- Nữa.
- Giêsu! - Sau cùng người đần độn nói đúng, con mắt anh không còn khù khờ, miệng anh có nụ cười khác.
- Ông ơi - Giêsu nói với người cha: “Ông có đức tin. Con ông được khỏi. Hãy hỏi nó. Tên Giêsu có phép lạ chống lại bệnh tật và các đam mê”.
Người đàn ông nói với con ông: “Ta là ai?”
Đứa con trai: “Cha tôi”.
Người đó ôm con ông vào lòng và giải thích: “Nó sinh ra như vậy. Vợ tôi chết khi sinh nó, và nó không có ý tưởng, không lời nói. Bây giờ qúi vị coi. Tôi có đức tin, đúng. Tôi mãi từ Joppê đến. Thưa
600
Thầy, con phải làm gì cho Thầy?”
- Hãy tốt. Và con ông cùng với ông. Không có gì hơn.
- Và yêu Thầy. Ôi! Chúng ta đi ngay để nói cho bà ngoại con biết. Chính bà đã quyết định bảo con tới. Nguyện cho bà được phúc!
Hai người sung sướng ra đi. Về tàn tật cũ, cậu ta chỉ còn lại cái đầu to. Sự bộc lộ tình cảm và tiếng nói như người bình thường.
- Nhưng nó được khỏi bởi ý muốn của Thầy hay bởi tên Thầy? - nhiều người hỏi.
- Bởi ý muốn của Chúa Cha luôn luôn nhân hậu với Chúa Con. Nhưng tên Thầy cũng là sự cứu rỗi. Các con biết: Giêsu có nghĩa là Vị Cứu Tinh. Có sức khỏe cho linh hồn và cho thân xác. Kẻ xướng danh Giêsu với một đức tin thật, chỗi dậy được khỏi bệnh tật và tội lỗi. Trong mọi bệnh tật thiêng liêng hay thể chất, luôn luôn có móng vuốt của Satan. Nó tạo ra các bệnh tật về thể chất để dẫn người ta tới phản động và thất vọng vì sự đau đớn của thân xác, và các bệnh về tinh thần hay thiêng liêng để dẫn người ta tới sự luận phạt.
- Vậy theo Thầy, trong mọi đau đớn của nhân loại, Benzêbut nó không lạ lẫm gì?
- Nó không lạ lẫm gì. Chính bởi nó mà bệnh tật và cái chết vào trong thế gian. Cũng bởi nó mà tội ác và sự đồi bại vào trong thế giới. Khi các con thấy một người bị hành hạ bởi một bất hạnh nào đó, cũng hãy nghĩ rằng chính vì Satan mà họ phải chịu. Khi các con thấy một người là nguyên nhân cho điều đau khổ, cũng hãy nghĩ rằng họ là dụng cụ của Satan.
- Nhưng bệnh tật từ Thiên Chúa mà đến.
- Bệnh tật là sự rối loạn trong trật tự. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người khỏe mạnh lành lặn hoàn toàn. Sự rối loạn do Satan đem vào trong trật tự mà Thiên Chúa đã ban, và đem vào cùng với nó những tật bệnh của thân xác và những hậu qủa phát xuất từ đó, tức là cái chết và những di sản tang tóc. Con người đã thừa hưởng của Ađam và Evà tội khởi nguyên, và không phải chỉ có tội này. Tội lỗi càng ngày càng lan tràn và bao trùm ba ngành của con người:
601
xác thịt càng ngày càng đồi bại, và bởi đó thành yếu đuối và bệnh tật; tinh thần càng ngày càng kiêu căng, và bởi đó thối nát; tâm hồn càng ngày càng cứng lòng tin, tức là càng ngày càng nhiều tà thần. Bởi vậy, cũng như Thầy đã làm trên kẻ khuyết tật này, phải dạy cho biết tên Thầy là tên xua đuổi ma qủi, phải khắc nó vào trong tâm hồn và trong con tim, đặt nó trên cái tôi nội tâm như một con dấu sở hữu chủ.
- Nhưng Thầy có chiếm hữu chúng con không? Thầy là ai mà tự tin được như vậy?
- Nếu mà được như vậy! Nhưng lại không được như vậy. Nếu Thầy chiếm hữu được các con thì các con đã được cứu rồi, và Thầy sẽ có quyền, vì Thầy là người cứu thì Thầy phải có quyền chiếm hữu những kẻ mà Thầy đã cứu. Nhưng Thầy sẽ cứu những kẻ tin vào Thầy.
- Gioan... con từ chỗ ông Gioan Tẩy Giả mà tới, ông đã bảo con: “Hãy đến với đấng nói và rửa tội tại gần Ephraim và Jêricô. Người có quyền buộc và tháo, trong khi tôi, tôi chỉ có thể nói: hãy sám hối, làm cho tâm hồn nên mềm dẻo để có thể theo con đường cứu rỗi - một người được phép lạ nói. Trước ông ta đi nạng, bây giờ ông đi lại không cần nạng nữa.
- Ông Tẩy Giả không khổ vì đám đông rời bỏ ông sao? - một người hỏi.
Người đã nói lúc trước trả lời: “Khổ à? Ông nói với mọi người: ‘Đi đi, đi đi! Tôi là tinh tú đang lặn, Người là tinh tú đang mọc, và sẽ cố định trong sự huy hoàng muôn đời của Người. Để không phải ở lại trong bóng tối, hãy đến với Người trước khi đèn của tôi tắt’”.
- Đó không phải là điều các pharisiêu nói! Họ đầy thù ghét vì Thầy lôi kéo đám đông. Thầy biết không?
- Thầy biết - Giêsu trả lời vắn tắt.
Họ liền mở ra một cuộc thảo luận về những lý do, hay đúng ra là cách hành động của các pharisiêu, nhưng Giêsu cắt gọn bằng một câu “Đừng chỉ trích”, không chấp nhận đối đáp.
Batôlômêo và Mathêu trở về với các người đã rửa tội. Giêsu bắt đầu nói:
602
- Bình an cho tất cả các con.
Bởi vì bây giờ các con đến đây từ ban sáng, nên Thầy nghĩ thiết thực hơn là Thầy nói với các con buổi sáng để các con ra về lúc trưa. Thầy cũng nghĩ đến chỗ ở của các người không thể trở về nhà họ trong buổi chiều. Thầy cũng là khách hành hương, nên thầy chỉ có một tí tối thiểu cần thiết mà một người bạn thương tình cho Thầy. Gioan còn có ít hơn Thầy. Nhưng đến với Gioan là những người khỏe mạnh, hoặc chỉ hơi bệnh, mù, què, câm, nhưng không có những người sắp chết hay sốt kịch liệt như đến với Thầy. Họ đến với ông là để tẩy rửa sám hối, còn đến với Thầy còn là để được lành bệnh thân xác. Luật có nói: “Hãy yêu tha nhân như chính mình”. Thầy nghĩ và Thầy nói: làm sao Thầy biểu lộ tình yêu đối với anh em nếu Thầy khép lòng lại trước nhu cầu của họ, dù là về vật chất? Và Thầy kết luận: tôi sẽ cho họ những thứ mà người ta cho tôi. Tôi sẽ giơ tay ra với người giầu để xin bánh cho người nghèo. Khi nhường cái giường của tôi, tôi sẽ đón tiếp một người mệt mỏi và đau đớn.
Tất cả chúng ta là anh em. Và tình yêu không chỉ bày tỏ ra bằng lời nói, nhưng bằng hành động. Kẻ khép qủa tim lại trước tha nhân là có qủa tim của Cain. Kẻ không có tình yêu là phản động chống lại giới răn của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta là anh em, nhưng Thầy thấy, và các con cũng thấy rằng ngay ở trong gia đình - nơi có cùng một dòng máu kết hợp, và cùng với máu là xác thịt và tình huynh đệ từ Ađam mà tới - cũng có những oán ghét và những bất hòa. Anh em chống lại nhau, con cái chống đối cha mẹ, vợ chồng thù địch với nhau.
Nhưng để không là những anh em xấu, những vợ chồng một ngày nào đó sẽ gian dâm, thì phải học từ tuổi đầu tiên, sự trọng kính đối với gia đình, một tổ chức nhỏ nhất và lớn nhất thế giới. Nhỏ nhất so với một thành phố, một miền, một quốc gia, một lục địa. Nhưng lớn nhất vì nó xa xưa nhất, vì nó được thành lập bởi chính Thiên Chúa. Khi chưa có tư tưởng về quê hương, xứ sở thì cái nhân gia đình đã sống và hoạt động. Nó là nguồn gốc của nòi giống
603
và mọi giống nòi, là vương quốc nhỏ, nơi người đàn ông là vua, người đàn bà là hoàng hậu và con cái là các thuộc nhân. Một vương quốc có thể tồn tại được không nếu các người ở trong đó chia rẽ và hiềm khích? Nó không có thể tồn tại. Thực vậy, một gia đình không thể đứng vững nếu không có sự vâng lời, trọng kính, hòa hợp, thiện chí, yêu thích làm việc, tình cảm thương yêu.
“Hãy tôn kính cha mẹ ngươi” Thập Giới nói.
Tôn kính các vị thế nào? Tại sao phải tôn kính các vị?
Danh dự cần phải có sự vâng lời thực tình, tình yêu không rạn nứt, sự kính trọng tin tưởng, sự kính sợ không loại trừ sự tin cẩn, nhưng đồng thời không làm cho chúng ta đối xử với các người già tựa như chúng ta là các nô lệ hay các hạ cấp. Người ta phải tôn kính cha mẹ, vì sau Thiên Chúa, cha mẹ chúng ta cho chúng ta sự sống và cung cấp cho chúng ta mọi nhu cầu vật chất. Các vị là các thầy giáo đầu tiên và người bạn đầu tiên của con người non trẻ đến trong thế giới. Ta nói: “Thiên Chúa chúc phúc cho anh”, ta nói “cám ơn anh” cho kẻ đã lượm một vật rơi cho chúng ta hay cho chúng ta một miếng bánh. Vậy kẻ đã liều chết để làm việc cho chúng ta có của ăn, để dệt, may quần áo cho chúng ta và giữ gìn cho nó sạch sẽ; với kẻ thức giấc để canh chừng giấc ngủ cho chúng ta, từ chối nghỉ ngơi để săn sóc chúng ta, làm cho chúng ta một cái giường là lòng dạ các ngài trong những mệt mỏi đau đớn của chúng ta, mà chúng ta lại không nói với tình yêu: “Thiên Chúa Chúc phúc” và “cám ơn” sao?
Đó là các thầy giáo của chúng ta. Thầy giáo thì người ta sợ và kính trọng. Nhưng thầy giáo chỉ săn sóc chúng ta khi chúng ta đã biết những điều cần thiết để theo, để dinh dưỡng, để nói những điều chính yếu, nhưng ông lại rời bỏ chúng ta khi chúng ta còn cần một sự giảng dạy gay go nhất của đời sống, là “cách biết sống”. Và chính cha mẹ là người chuẩn bị cho chúng ta tới nhà trường trước hết, rồi vào đời sau đó.
Đó là các người bạn của chúng ta. Nhưng có bạn trai nào có thể bạn hơn người cha? Có bạn gái nào có thể bạn hơn người mẹ? Các con có thể sợ các ngài không? Các con có thể nói: “ông ấy phản
604
tôi, bà ấy phản tôi” không? Nhưng đây, một người con trai ngu ngốc, và một người con gái càng ngu ngốc hơn, đã nhận người lạ làm bạn và đóng cửa lòng lại với cha mẹ chúng, và làm hư hỏng tâm hồn và thân xác trong những giao tiếp thiếu khôn ngoan, nếu không muốn nói là tội lỗi, là nguyên nhân bao nước mắt cho cha mẹ, những nước mắt chảy như những giọt chì lỏng trên qủa tim cha mẹ chúng. Nhưng Thầy bảo các con rằng những nước mắt này không rơi vào cát bụi và quên lãng. Thiên Chúa nhận lấy nó và Người đếm. Sự tử đạo của một người cha bị người ta dày đạp dưới chân sẽ được Thiên Chúa thưởng. Nhưng những cực hình mà đứa con gây ra cho cha mẹ chúng sẽ không được quên, cho dù người cha người mẹ, trong tình yêu đau đớn của họ, đã van nài tình thương của Thiên Chúa cho đứa con đắc tội.
“Hãy tôn kính cha mẹ ngươi nếu ngươi muốn sống lâu dài trên trái đất” lời đã nói. Và Thầy thêm vào: “Và sống đời đời trên trời”. Sống ít trên trái đất là hình phạt qúa nhẹ đối với kẻ thiếu sót với cha mẹ! Đời sống bên kia không phải là chuyện phiếm. Ở đó, người ta được thưởng hay bị phạt tùy theo lối sống người ta theo đuổi trên trái đất này. Kẻ thiếu sót với cha mẹ thì thiếu sót với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã ban giới răn tình yêu đối với cha mẹ, và kẻ nào không yêu các ngài là phạm tội. Và như vậy, còn hơn là mất đời sống vật chất, nó sẽ mất đời sống thật mà Thầy đã nói với các con. Nó đi gặp cái chết, nhưng nó đã chết rồi, vì linh hồn nó ở trong tình trạng thất sủng đối với Thiên Chúa. Nó đã có tội ác trong nó, vì nó làm tổn thương tình yêu thánh thiện nhất sau tình yêu Thiên Chúa. Nó mang trong mình nó mầm mống các tội gian dâm tương lai, vì người con xấu thường trở nên những vợ chồng bất trung. Nó mang trong nó những khuynh hướng đồi trụy cho xã hội, vì từ một đứa con xấu, sẽ ra một tên trộm cắp, một tên sát nhân, một kẻ tàn ác, hung bạo; một kẻ trục lợi lạnh lùng, một tên dụ dỗ hoang đàng, một kẻ chơi bời vô liêm xỉ, một kẻ ghê tởm phản bội quê hương, bạn bè, vợ con, hết mọi người. Và các con có thể qúi trọng và tin cẩn một kẻ đã không ngại phản bội tình yêu của mẹ, chế nhạo tóc
605
trắng của cha không?
Nhưng hãy nghe nữa đây: tương đương với bổn phận của con cái, cha mẹ cũng có những bổn phận như vậy. Khốn cho những đứa con có tội, nhưng cũng khốn cho cha mẹ tội lỗi. Các con hãy hành động thế nào để con cái các con không thể chỉ trích, cũng không thể bắt chước các con trong điều xấu. Hãy làm cho các con được yêu bởi một tình yêu đã được cho với sự công bằng và thương xót. Thiên Chúa là Tình Thương. Cha mẹ là người đến ngay sau Thiên Chúa, cũng hãy là tình thương. Hãy là gương mẫu và sự khích lệ cho con cái các con. Hãy là sự bình an và sự hướng dẫn cho chúng, hãy là tình yêu đầu tiên cho chúng. Người mẹ luôn luôn là hình ảnh đầu tiên của người vợ mà chúng ta muốn có. Người cha, đối với các con gái, luôn luôn có khuôn mặt mà chúng mơ cho người chồng của chúng. Nhất là hãy làm sao cho con cái các con lựa chọn cách khôn ngoan người bạn tương lai của chúng bằng cách nghĩ đến cha mẹ chúng, và muốn thấy nơi bạn chúng những điều chúng thấy nơi cha mẹ chúng: những nhân đức thật.
Nếu Thầy phải nói hết về đề tài này thì cả đêm cả ngày cũng không đủ, nên Thầy nói tóm tắt vậy vì thương các con. Những gì còn lại thì xin Thánh Linh nói với các con. Thầy gieo hạt rồi Thầy ra đi. Nhưng hạt giống nơi các người tốt sẽ mọc rễ và sinh bông. Đi, bình an cho các con.
Những người ra về thì đi ngay lập tức, những người ở lại thì vào trong căn phòng thứ ba. Họ ăn bánh của họ và bánh mà các môn đệ tặng cho họ nhân danh Chúa. Họ đã để những tấm liếp và trải cỏ trên những tấm ván thô sơ mà các người hành hương có thể ngủ ở đó.
Người đàn bà trùm khăn ra đi mau lẹ. Người đàn bà khóc vẫn tiếp tục khóc khi Giêsu nói, bây giờ bà quanh quẩn một tí, không xác định, rồi sau cùng bà ra đi.
Giêsu vào trong nhà bếp để dùng bữa, nhưng Người vừa bắt đầu ăn thì người ta gõ cửa. Andrê ở gần đó nhất, liền đứng dậy và đi ra ngoài sân. Ông nói rồi trở vào: “Thưa Thầy, một người đàn bà, bà
606
hay khóc, hỏi Thầy. Bà nói bà phải đi, và bà phải nói với Thầy”.
- Nhưng cứ kiểu như vầy thì làm sao Thầy ăn? - Phêrô kêu rêu.
- Phải nói với bà ta lát nữa trở lại - Philíp nói. - Yên đi. Thầy sẽ ăn sau. Các con tiếp tục đi. Giêsu ra ngoài. Người đàn bà đang ở đó.
- Thưa Thầy... một lời... Thầy đã nói... Ôi! Đi ra sau nhà! Thật nặng nề để nói sự đau đớn của con!
Giêsu làm vui lòng bà, không nói lời nào. Chỉ khi đã ra sau nhà, Người hỏi: “Bà muốn gì ở Thầy?”
- Thưa Thầy... trước tiên con đã nghe Thầy khi Thầy nói ở giữa chúng con... rồi con đã nghe Thầy lúc Thầy giảng. Đúng là Thầy nói cho con. Thầy đã nói rằng trong mọi bệnh tật vật chất cũng như tinh thần đều có Satan... Con có một đứa con trai bệnh tật trong tâm hồn. Chớ gì nó được nghe Thầy nói về cha mẹ. Đó là sự hành hạ cho con. Nó lầm lạc với các bạn xấu và nó... và nó đúng như Thầy nói... ăn cắp... lúc này thì mới ở trong nhà, nhưng... nó ưa đánh lộn... nó muốn thống trị... Nó còn trẻ như vậy mà nó tự hủy hoại trong dâm đãng và chè chén say sưa. Chồng con muốn đuổi nó đi, nhưng con... con là mẹ... và con khổ hầu chết vì nó. Thầy thấy con lo âu chừng nào? Qủa tim con vỡ ra vì đau đớn. Từ hôm qua con đã muốn nói với Thầy, vì... con hy vọng nơi Thầy, Thiên Chúa của con. Nhưng con không dám nói gì. Vì qúa đau đớn cho một bà mẹ phải nói: “Tôi có một đứa con độc ác!” Người đàn bà khóc, cúi gù và sầu não trước mặt Giêsu.
- Đừng khóc nữa, nó sẽ được khỏi những tật xấu của nó.
- Nếu nó chịu nghe Thầy, đúng. Nhưng nó không muốn nghe. Ôi! Nó sẽ không bao giờ được khỏi.
- Nhưng con có đức tin cho nó không? Con có muốn điều đó cho nó không?
- Và Thầy còn hỏi? Con từ miền thượng Pêrê tới để cầu nguyện cho nó...
- Vậy về đi. Khi con tới nhà, con trai con sẽ ra gặp con, đã hối
607
cải.
- Nhưng thế nào?
- Thế nào? Con nghĩ Thiên Chúa không thể làm điều Thầy xin Người sao? Con trai con ở đó, Thầy ở đây, nhưng Thiên Chúa ở khắp nơi. Thầy nói cùng Thiên Chúa: “Cha ơi, xin thương bà mẹ này”. Và Thiên Chúa làm vang dội tiếng gọi của Người trong lòng con trai của con. Đi đi. Một ngày kia Thầy sẽ đi qua miền của con, và con, hãnh diện vì con trai của con, con sẽ tới gặp Thầy cùng với nó. Khi nó khóc trên đầu gối của con để xin lỗi con và kể cho con cuộc chiến đấu mà nó đã ra khỏi với một linh hồn mới, nó sẽ hỏi con làm sao việc đó xảy ra, hãy nói với nó: “Chính nhờ Giêsu mà con được sinh ra một lần thứ hai vào điều thiện”. Hãy nói với nó về Thầy. Nếu con đã đến với Thầy thì có nghĩa là con biết. Hãy làm sao cho nó biết và nghĩ đến Thầy để có sức mạnh cứu rỗi. Chào. Bình an cho bà mẹ có đức tin, cho đứa con trở về, cho người cha vui sướng, cho gia đình xum họp. Đi đi.
Người đàn bà đi về phía thôn xóm, và tất cả chấm dứt.
90* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP:
“NGƯƠI SẼ KHÔNG PHẠM ĐIỀU TÀ DÂM
TRONG THÂN XÁC CŨNG NHƯ
TRONG SỰ ƯNG THUẬN”
Chúa Giêsu nói với con:
“Hỡi linh hồn của Cha, hãy kiên nhẫn vì sự mệt mỏi gấp đôi này. Đây là thời gian đau khổ. Trong những ngày vừa qua, con đã thấy Cha mệt mỏi chừng nào. Con đã thấy, để bước đi, Cha đã tì vào Gioan, vào Phêrô, vào Simon, và cả vào Judas... Đó, Cha là người tỏa xông ra phép lạ, chỉ hơi quẹt vào áo Cha là được. Vậy mà Cha không thể thay đổi con tim này! Gioan nhỏ, hãy để Cha tì vào con, để nói lại những lời đã nói trong những ngày sau cùng của Cha, cho những tâm hồn ngoan cố này, nó khép chặt, sự loan báo về khổ hình của Cha chảy trượt trên đó mà không thể thấm vào. Cũng hãy để vị Thầy nói về các giờ tiên đoán của Người trên đồng bằng buồn tẻ của Nước Đẹp. Cha chúc lành cho con hai lần: cho sự mệt mỏi của con và cho tình thương của con. Cha đếm các cố gắng của con. Cha đón nhận những nước mắt của con. Các cố gắng vì tình yêu anh em sẽ được phần thưởng của kẻ mòn mỏi để làm cho người ta biết Thiên Chúa. Với những nước mắt mà con đã đổ ra trên những đau khổ của Cha trong tuần lễ sau cùng của đời Cha, con sẽ được thưởng bằng những cái hôn của Giêsu. Hãy viết đi, và hãy được
608
chúc phúc”.
Giêsu đứng trên các chiếc bàn kê giống như khán đài trong căn phòng sau cùng. Người nói rất lớn ở gần cửa để được nghe thấy bởi những người ở trong phòng cũng như ở trong nhà kho và cả ở ngoài sân ngập nước mưa. Dưới những cái áo bằng len thô không thấm nước mầu đậm, họ giống như các thầy dòng. Trong phòng là những người yếu nhất, trong nhà kho là các phụ nữ, ngoài sân, dưới mưa là những người khỏe mạnh, nhất là nam giới.
Phêrô đi đi lại lại, chân trần, chỉ mặc có y phục ngắn, được che bởi mảnh vải ông đội trên đầu, nhưng ông không mất tính vui vẻ của ông, dù ông phải lội bì bõm trong nước và chịu một mẻ tắm bất ngờ. Cùng với ông có Gioan, Andrê và Giacôbê. Họ cẩn thận mang những người bệnh từ các phòng khác tới, dắt những người mù và nâng đỡ những người tàn tật. Giêsu kiên nhẫn chờ cho hết mọi người yên vị, Người chỉ thương tình vì bốn môn đệ ướt như miếng bọt bể nhúng nước.
- Không sao, không sao. Chúng con giống như gỗ tráng nhựa. Thầy đừng lo. Chúng con nhận phép rửa thứ hai, và người rửa chính là Thiên Chúa - Phêrô trả lời cho sự thương xót của Giêsu.
Sau cùng mọi người đã vào chỗ và Phêrô nghĩ là có thể đi thay áo khô, và ông đi làm cùng với ba người kia. Nhưng khi ông trở lại với Thầy, ông thấy người đàn bà trùm khăn mặc áo khoác mầu xám đang tiến về phía góc nhà kho, ông chỉ nghĩ tới phải đến với bà, không lo lắng, dù phải băng chéo qua sân dưới mưa rào, và trong những vũng nước bắn lên tới đầu gối, bị đập bởi những hạt mưa lớn. Ông đến với bà, cầm khửu tay bà, nhưng không làm di chuyển áo khoác của bà, ông dẫn bà tới một chỗ cao hơn, gần bức tường của căn phòng, chỗ không có nước. Rồi ông đứng sững ở bên cạnh, cứng đơ và bất động như người lính gác.
Giêsu thấy ông, Người mỉm cười và cúi xuống để che sự rạng rỡ của nụ cười. Bây giờ Người bắt đầu nói:
- Các con, những người đến nghe giáo huấn của Thầy thường
609
xuyên, đừng nói rằng Thầy không nói theo thứ tự của Thập Giới, và Thầy nhảy qua vài giới răn. Các con nghe, Thầy thấy, các con nghe rất chăm chú. Thầy áp dụng vào các đau khổ và các vết thương mà Thầy nhìn thấy nơi các con. Thầy là y sĩ. Người y sĩ thì đến với các người bệnh nặng trước tiên, những người gần cái chết nhất. Rồi sau đó họ trở lại với những người bệnh nhẹ hơn. Thầy cũng làm như vậy.
Hôm nay Thầy nói: “Đừng phạm điều tà dâm”. Đừng quay cái nhìn khắp chung quanh để tìm đọc trên trán ai đó: “dâm đãng”. Hãy bác ái với nhau. Các con có thích người ta đọc nó trên mặt các con không? Không. Vậy đừng tìm đọc trong con mắt bối rối của người bên cạnh, trên cái trán đỏ cúi xuống đất của họ.
Lại nữa... Ôi! Các con, nhất là các ông, hãy nói, ai trong các con không bao giờ nếm cái bánh bằng tro và vấn rác, là sự thỏa mãn tình dục, không bị sự dâm đãng đã xô đẩy các con vào vòng tay của gái điếm trong một giờ? Chẳng phải cũng là tà dâm sao, việc tục hóa hôn nhân với người vợ? Tục hóa, vì nó là sự trụy lạc hợp pháp của những kẻ tìm thỏa mãn tình dục cách hỗ tương trong khi trốn tránh những hậu qủa của nó. Hôn nhân có nghĩa là đồng tạo dựng, và hành động có nghĩa là, và phải là sinh sản. Không có vậy là vô luân. Người ta không được làm cho cái phòng the của hôn nhân thành nhà điếm. Nó sẽ là như vậy nếu nó bị ô uế bởi dục vọng, và nó không được thánh hiến bởi việc làm mẹ. Đất không bao giờ xua đuổi hạt giống. Nó nhận lấy và làm ra một cây. Hạt giống không rời bỏ mảnh đất sau khi người ta đặt nó vào đó, nhưng nó mọc ra một cái rễ, nó cắm vào đó và phát triển, tạo ra bông lúa. Cây cối sinh ra do hôn nhân giữa đất và hạt giống. Người đàn ông là hạt giống và người đàn bà là đất, bông lúa là con cái. Từ chối sinh bông và mất sức lực cách đồi bại là một tội, đó là làm điếm trên chiếc giường hôn nhân, chẳng khác gì điếm thực, mà còn trầm trọng hơn bởi bất tuân mệnh lệnh: “Hãy là một thân xác, và hãy tăng gấp lên trong con cái”.
Ôi! Hỡi các đàn bà son sẻ tự ý, các người vợ hợp pháp và ngay
610
thật trước mắt thế gian nhưng không như vậy trước mắt Thiên Chúa, các con thấy rằng các con có thể làm điếm và phạm tội tà dâm, dù vẫn luôn luôn ở với người chồng duy nhất của các con, vì các con không tìm mẫu chức, mà tìm thú vui, và qúa hay như vậy. Các con không suy nghĩ rằng thú vui là chất độc mà người ta ngấm phải, nó đến từ một môi miệng nhiễm độc nào đó. Nó thiêu đốt bằng ngọn lửa tưởng rằng thỏa mãn, nhưng nó thiêu đốt không nguôi. Nó để lại vị tro đắng trên lưỡi. Nó cho sự ghê tởm, sự buồn nôn, sự khinh bỉ chính mình và sự khinh bỉ của người bạn đồng thú vui. Vì khi lương tâm thức dậy, và nó thức dậy giữa hai cơn sốt, nó chỉ có thể cho sự khinh bỉ chính mình, vì đã tự hạ mình xuống bên dưới loài vật.
“Đừng phạm điều tà dâm”, lời đã nói.
Sự tà dâm phần lớn đến từ người đàn ông. Và, Thầy cũng không dừng lại ở sự phối hợp không thể tưởng tượng được, là cơn ác mộng mà sách Lêvi kết án bằng những lời: “Hỡi người đàn ông, ngươi không được phối hợp với một người đàn ông khác tựa như đó là một người đàn bà”, và: “Ngươi không được phối hợp với bất cứ con vật nào để làm ô uế thân ngươi với nó. Và cũng giống như vậy đối với người đàn bà, vì những phối hợp này là tội ác”.
Sau khi đã lưu ý về các bổn phận của vợ chồng trong hôn nhân là điều luôn luôn thánh, mà vì qủy quyệt, nó trở thành không sinh sản, thầy vừa nói về sự tà dâm đích thực giữa người đàn ông và người đàn bà, do ác ý hỗ tương, do tiền bạc hay qùa tặng.
Cơ thể con người là đền thờ tuyệt vời, trong đó có một bàn thờ. Trên bàn thờ này phải có Thiên Chúa ngự. Nhưng Thiên Chúa không ở nơi có sự đồi bại. Vậy cơ thể ô uế có một bàn thờ phàm tục không có Thiên Chúa.
Giống như một người say lăn lộn trong bùn và trong những thứ nó mửa ra, con người tự hạ mình trong thú tính của sự tà dâm cũng thế. Nó trở nên xấu hơn con sâu và con vật ô uế nhất. Hãy nói cho Thầy, nếu có ai trong các con trụy lạc tới nỗi bán cơ thể mình giống như người ta bán lúa miến hay một con vật, các con thu được ích lợi
611
gì? Hãy cầm qủa tim của các con trong tay, hãy xem xét nó, tra hỏi nó, nghe nó, nhìn các vết thương của nó, sự đau đớn làm nó run giùng, rồi hãy nói và trả lời Thầy: cái trái cây này có ngon ngọt tới nỗi đáng chịu sự đau đớn này của một con tim đã được sinh ra trong sạch, mà các con đã ép buộc nó phải sống trong một thân xác ô uế, phải đập để cho sự sống và sức nóng cho dâm đãng, và bị dùng trong trụy lạc không?
Hãy nói cho Thầy: các con có đủ trụy lạc để không nức nở thầm khi nghe một đứa trẻ gọi: “Má ơi”, và khi nghĩ tới mẹ các con có lẽ đã chết đau đớn vì phải nói: “Tôi đã sinh ra một đứa con là sự xấu hổ của tôi” không? Ôi hỡi các đàn bà của thú vui, phải trốn khỏi nhà hay bị đuổi để cái trái hư không vì chất thối rữa của nó mà làm hư các đứa con khác!
Các con có cảm thấy con tim bể ra khi gặp một người già màtóc trắng làm cho thành đáng kính, với tư tưởng rằng các con đã quăng ô nhục trên tóc trắng của cha các con như bùn cầm đầy tay, và cùng với sự ô nhục này là sự khinh bỉ của xứ sở ông không?
Các con có cảm thấy sự hối hận làm nghẹn lòng các con khi thấy hạnh phúc của một người vợ, hay sự vô tội của một cô gái trẻ, mà các con phải nói: “Tôi đã từ chối tất cả những thứ này, và tôi sẽ không bao giờ có nữa” không?
Các con có cảm thấy sự xấu hổ làm các con méo mặt khi các con gặp một người đàn ông nhìn các con cách thèm thuồng hay khinh bỉ không?
Các con có cảm thấy khốn nạn khi các con khát một cái hôn của trẻ thơ mà các con không thể nói: “Hãy hôn má”, vì các con đã giết các sự sống phải sinh ra, bị các con vất bỏ như một gánh nặng phiền phức, một bận rộn vô ích; bị tách rời khỏi cây đã cưu mang nó, bị quăng vào phân rác, và bây giờ các sự sống nhỏ này đang kêu với các con: “Sát nhân” không?
Nhất là các con có run sợ khi nghĩ tới Vị Thẩm Phán, đấng đã tạo dựng nên các con, đấng đang chờ các con để hỏi: “Ngươi đã làm gì cho chính ngươi. Có phải vì vậy mà Ta đã ban cho ngươi sự
612
sống không? Hỡi cái tổ lúc nhúc những hư thối, sao ngươi dám đứng trước mặt Ta? Ngươi đã có tất cả những cái là một thần chúa cho ngươi: thú vui. Hãy vào nơi bị nguyền rủa muôn đời”.
Ai khóc? Không có ai? Các con nói: không có ai? Nhưng linh hồn Thầy đi gặp một linh hồn đang khóc. Tại sao nó tới với linh hồn ấy? Để ném sự nguyền rủa trên một gái điếm ư ? Không. Bởi vì linh hồn cô làm Thầy thương. Tất cả nơi Thầy là một sự ghê tởm đối với thân xác ô uế của cô, vì nó toát ra mồ hôi ô nhơ. Nhưng linh hồn cô!
Ôi! Cha ơi! Cha ơi! Cũng chính vì linh hồn này nữa mà con đã mặc thân xác, và con đã bỏ trời để làm Đấng Cứu Thế cho nó và cho bao linh hồn khác, anh chị em của nó. Tại sao con lại phải không nhận lấy con chiên lạc này, dẫn nó về chuồng, thanh tẩy nó, kết hợp nó vào bầy, cho nó đồng cỏ và một tình yêu trọn vẹn như chỉ có tình yêu của con có thể? Một tình yêu rất khác với cái mà cho tới lúc này nó gọi là tình yêu, mà thực sự chỉ là thù ghét; một tình yêu rất thương xót, rất vẹn toàn, rất êm đềm, để nó không phải khóc thời gian qúa khứ nữa, hoặc nó chỉ khóc để nói: “Con đã mất qúa nhiều ngày ở xa Chúa, Vẻ Đẹp muôn đời. Ai trả lại được cho con thời gian đã mất. Làm sao trong một khoảng ngắn thời gian còn lại cho con sống, con thưởng thức được cái mà đáng lẽ con đã thưởng thức, nếu con đã giữ mình luôn luôn trong sạch?”
Nhưng đừng khóc, hỡi linh hồn bị dày đạp dưới chân bởi tất cả sự dâm bôn thế giới, hãy nghe đây: con là một miếng giẻ ghê tởm, nhưng con có thể trở nên một bông hoa. Con là một đống phân, nhưng con có thể trở nên mảnh đất đầy hoa. Con là một con vật dơ bẩn, nhưng con có thể trở nên một thiên thần. Một thời xa xưa con đã là vậy. Con đã nhảy trên đồng cỏ đầy hoa, một bông hồng giữa các bông hồng, tươi mát như nhau, ngào ngạt hương thơm trinh trong của con. Con đã hát bình an các bài hát trẻ thơ của con, rồi con chạy lại với mẹ với cha và nói: “Ba má là các tình yêu của con”, và đấng canh giữ vô hình mà mọi người đều có ở bên cạnh đã mỉm
613
cười trước sự trong trắng tươi xanh của linh hồn con...
Rồi? Tại sao? Tại sao con lại giật đôi cánh nhỏ thơ ngây trong trắng của con đi? Tại sao con lại dày đạp dưới chân trái tim của một người cha và một người mẹ để chạy đến với những qủa tim khác mà con không chắc chắn gì? Tại sao con lại hạ tiếng nói trong sạch của con xuống bằng cách bắt nó nói những điều dối trá của một tình yêu giả dối. Tại sao con lại bẻ gẫy cành hồng bằng cách tàn bạo với chính con. Hỡi con gái của Thiên Chúa, hãy hối cải. Sự hối cải là sự mới lại, sự thanh tẩy, là cái đà để tung mình lên cao. Người ta không thể tha cho con ư ? Ngay chính ba con cũng không thể? Nhưng Thiên Chúa có thể. Vì lòng tốt của Thiên Chúa không thể so sánh với lòng tốt loài người, và lòng thương xót của Người vô cùng lớn hơn sự khốn nạn của loài người. Hãy qúi trọng chính con bằng cách trả lại cho linh hồn con cái danh dự xứng đáng, bởi một đời sống ngay lành. Hãy biện minh cho con trước Thiên Chúa bằng cách đừng phạm tội chống lại linh hồn con nữa. Hãy làm cho con thành một người mới trước Thiên Chúa. Đó là cái có giá trị. Con trụy lạc, hãy trở nên thật thà, hãy trở thành lễ hy sinh, hãy trở thành tử đạo bằng sự sám hối của con. Con đã rất biết làm tử đạo tâm hồn để cho thân xác được hưởng thụ, bây giờ hãy biết làm tử đạo thân xác để đem bình an muôn đời cho tâm hồn con.
Hãy đi đi, tất cả các con, mỗi người với gánh nặng của mình và tư tưởng của mình. Hãy suy nghĩ. Thiên Chúa chờ đợi tất cả các con và Người không xua đuổi một ai thống hối. Nguyện Chúa cho các con ánh sáng để biết linh hồn mình. Đi đi.
Nhiều người đi về trong xóm. Một số khác đi về các phòng. Giêsu đi tới với các người bệnh và chữa họ.
Một nhóm đàn ông tranh luận trong một góc, phân chia làm nhiều ý kiến khác nhau. Họ múa máy và ồn ào. Một số chạy lại với Giêsu, một số khác cản lại. Cũng có những người khuyên tất cả nên chín chắn trong việc xét đoán. Sau cùng, những người hung hăng nhất, có lẽ vì họ số ít hơn so với hai nhóm kia, họ chọn con đường trung gian. Họ đến với Phêrô đang cùng với Simon dọn dẹp
614
các băng ca bây giờ đã thành vô ích của ba người được phép lạ. Họ tấn công ông, rất hống hách, ở bên trong căn phòng đã trở nên nhà trọ của các người hành hương. Họ nói: “Ông Galilê, nghe đây”.
Phêrô quay lại và nhìn họ như những con vật điên. Ông không nói, nhưng khuôn mặt ông là cả một bài thơ! Simon chỉ bằng lòng liếc một cái về phía năm người hung hăng, rồi ông bỏ đi, để tất cả họ ở lại đó. Một trong năm người nói tiếp: “Tôi là Samuel, luật sĩ; ông này là một luật sĩ khác: Sađốc. Ông này là Do Thái: Êlêazar, rất nổi tiếng và có ảnh hưởng. Ông khác kia là Callascebona, kỳ lão. Để chấm dứt: người sau cùng là Nahum. Anh biết không? Nahum!” và giọng điệu hoàn toàn là khoa trương.
Phêrô hơi cúi mình ở mỗi tên, nhưng ở tên sau cùng thì ông chỉ cúi một nửa, và ông nói cách rất dửng dưng: “Tôi chả biết... không bao giờ gặp. Lại nữa... tôi chả hiểu gì cả”.
- Dân chài cục mịch! Hãy biết: đó là người tin cẩn của Anna!
- Tôi không biết Anna. Có nghĩa là tôi biết nhiều đàn bà có tên là Anna, thực sự nhiều như nấm ngay ở Caphanaum. Tôi không biết ông này là người tin cẩn của Anna nào.
- Ông này? Chính Ta mà anh gọi là “ông này”?
- Nhưng ông muốn tôi gọi ông là gì? Con lừa hay con chim? Khi tôi còn ở nhà trường, thầy giáo dạy tôi nói “ông” khi nói về một người đàn ông. Nếu tôi không hoa mắt thì ông là một đàn ông.
Người đàn ông vùng vẫy tựa như ông bị lột da sống vì những lời này. Người kia, người đã nói trước tiên, giải thích: “Nhưng Anna là bố vợ Caipha...”
- A!... Hiểu!!! Vậy thì sao?
- Vậy hãy biết rằng chúng tôi phẫn nộ!
- Với cái gì? Với thời tiết à? Tôi cũng vậy. Tôi đã thay đồ ba lần, và bây giờ tôi không còn cái nào khô.
- Nhưng đừng giả bộ ngu ngốc!
- Ngu ngốc? Đó là sự thật. Nếu các ông không bất bình với thời tiết thì với cái gì đây? Với các người Rôma?
- Với Thầy của anh! Với tiên tri giả.
- Ê! Samuel thân mến! Đừng có kích thích tôi! Tôi giống như cái
615
hồ: từ lúc sóng gió yên lặng tới lúc bão tố chỉ có một lát. Hãy cẩn thận lời nói của ông...
Trong lúc này, các người con ông Zêbêđê và ông Alphê tới cùng với Iscariot và Simon. Họ đến bên Phêrô trong lúc ông càng lúc càng cất cao giọng.
- Anh không được đụng tới các đại nhân của Sion bằng bàn tay dân quèn của anh!
- Ôi! Các ông chúa đẹp trai chừng nào! Vậy các ông, đừng đụng tới ông Thầy, vì nếu không, các ông sẽ bay xuống giếng ngay lập tức để thanh tẩy cho sạch bên ngoài và bên trong.
Simon nói bình tĩnh: “Tôi xin lưu ý các vị thông thái của Đền Thờ rằng đây là nhà tư”. Và Iscariot nói phóng: “Và tôi bảo đảm rằng Thầy luôn luôn có một sự kính trọng lớn lao đối với nhà người khác, và trên tất cả là nhà Chúa. Mong rằng người ta đối xử với nhà Người với cùng một sự trọng kính”.
- Câm đi! Con sâu nham hiểm.
- Nham hiểm? Về cái gì? Các ông đã chán ghét tôi nên tôi đi tới nơi không thể có sự chán ghét. Thiên Chúa đã canh chừng nên dù đã ở với các ông, tôi cũng chưa đến nỗi hoàn toàn hư hỏng.
- Tóm lại là các ông muốn gì? - Giacôbê Alphê hỏi xẵng.
- Vậy anh, anh là ai?
- Tôi là Giacôbê con Alphê, Alphê con Jacob, Jacob con Mathan, Mathan con Êlêazar, và nếu ông muốn, tôi sẽ xướng danh tất cả các tổ tiên tôi cho tới vua Đavít mà tôi là dòng dõi. Và tôi là anh họ của Đấng Messi. Tôi xin ông hãy nói với tôi, chồi của hoàng gia và nòi giống Do Thái, nếu sự cao sang của ông không thích nói với một người Israel ngay thẳng, kẻ biết Thiên Chúa hơn cả Gamaliel và Caipha. Nào, nói đi.
- Thầy và bà con của anh cho cả gái điếm theo. Người đàn bà trùm khăn kia là một trong số họ. Tôi đã thấy bà ta trong lúc bà ta bán vàng. Tôi biết bà ta. Đó là tình nhân của Sciammai. Cô ta đã bỏ ông. Điều đó làm nhục cho bà con của anh.
- Của ai? Của Sciammai vị rabbi? Vậy bà ta chỉ là một bộ hài cốt
616
già, chả có gì nguy hiểm... - Iscariot nói dỡn.
- Câm đi, thằng điên! Của Sciammai Elchi, kẻ biệt ái của Hêrôđê.
- Đó, đó! Có nghĩa là bây giờ bà ta không thích ông ta nữa, ông kẻ biệt ái. Bà ta là tình nhân của ông ta chứ đâu phải của anh mà sao anh rầu rĩ như vậy? - Judas nói, rất mỉa mai.
- Ông ơi, ông không nghĩ rằng ông tự hạ nhục khi đi do thám người ta sao? - Juđa Alphê hỏi. “Ông không nghĩ rằng kẻ sa ngã phạm tội là tự hạ nhục chứ đâu phải kẻ tìm cách nâng kẻ có tội dậy? Vậy có gì là nhục đối với Thầy và anh tôi, nếu trong khi Người nói, Người làm cho tiếng Người dội tới những lỗ tai đã bị mất giá vì những nước nhầy dâm đãng của Sion?”
- Tiếng Người? A! A! Anh ta mới ba mươi tuổi, ông thầy và bà con của anh, anh ta chỉ có thể giả hình hơn những người khác! Và anh, và tất cả các anh, ban đêm, các anh ngủ như những người điếc...
- Loài bò sát thiếu thận trọng! Cút ra khỏi đây, nếu không tao bóp cổ mày! - Phêrô la lối, Giacôbê và Gioan họa theo, trong khi Simon chỉ giới hạn ở câu nói: “Xấu hổ chừng nào! Sự giả hình của ông qúa lớn tới nỗi nó lòi ra và tràn bờ, và ông chảy nước nhớt giống như con nhậy trên bông hoa trong trắng. Hãy ra khỏi đây và hãy trở nên một nguời, vì lúc này ông chỉ là nước nhầy. Samuel, tôi nhận ra ông. Ông vẫn luôn luôn có cùng một qủa tim. Xin Thiên Chúa tha cho ông. Đi khỏi đây đi. Hãy đi xa khỏi mặt tôi”.
Nhưng trong khi Kêriot và Giacôbê Alphê cản Phêrô sôi sục lại, thì đây, Juđa Thađê can thiệp. Trong dáng đi của ông, giống người em họ của ông hơn bao giờ hết: ông cũng có trong cái nhìn cùng một ngọn lửa xanh và dáng vẻ oai nghiêm. Ông kêu lên như sấm: “Kẻ tìm cách hạ nhục người vô tội là nó hạ nhục chính nó. Thiên Chúa đã dựng nên đôi mắt và cái lưỡi để thi hành những việc thánh. Kẻ vu khống phàm tục hóa nó và hạ giá nó bằng cách dùng nó để làm việc xấu. Tôi không làm ô uế thân tôi bởi một hành động xấu chống lại mớ tóc trắng. Nhưng tôi nhắc lại cho ông rằng kẻ độc ác thì ghét người liêm khiết, và kẻ ngu thố lộ ác ý của nó mà không
617
nghĩ rằng nó phản bội chính mình. Kẻ sống trong bóng tối coi cành hoa như con vật bò sát, nhưng người sống trong ánh sáng thấy mọi sự như sự thật của nó, và họ bảo vệ nó nếu nó bị tấn công, vì họ yêu công bằng. Chúng tôi, chúng tôi sống trong ánh sáng, chúng tôi trong trắng và là thế hệ tốt lành của con cái ánh sáng, và vị thủ lãnh của chúng tôi là đấng Thánh, Người không bao giờ biết đến phụ nữ và tội lỗi. Chúng tôi theo Người và chúng tôi bảo vệ Người chống lại các kẻ thù của Người, nhưng với họ, như Người đã dạy chúng tôi, chúng tôi không thù ghét, trái lại, chúng tôi cầu nguyện cho họ. Vậy ông già ơi, hãy học lấy bài học của một người trẻ tuổi đã đạt tới sự trưởng thành, vì Sự Khôn Ngoan đã giáo huấn nó, để đừng nói những lời thiếu suy nghĩ, đừng là kẻ bất tài vô dụng trong điều lành. Hãy đi và tường trình cho các kẻ đã sai ông rằng không phải căn nhà bị phàm tục hóa trên núi Moriah, nhưng là chỗ ở nghèo nàn này, chính là nơi Thiên Chúa ngự trong vinh quang của Người. Chào”.
Năm người không dám đối đáp nữa, và họ ra đi.
Các môn đệ hỏi nhau xem có nên nói với Giêsu không. Người còn đang ở với các bệnh nhân đã được lành. Nên nói thì hơn.
Họ lại với Người, gọi Người và nói với Người. Giêsu mỉm cười bình tĩnh và nói: “Thầy cám ơn các con vì sự bảo vệ của các con. Nhưng các con muốn làm gì ở đó? Mỗi người cho cái họ có”.
- Nhưng họ hơi có lý. Người ta có mắt để coi, và nhiều người thấy. Bà ta luôn luôn ở cửa như một con chó. Bà ta làm hại cho Thầy - nhiều người nói.
- Hãy để kệ bà ta. Bà không phải là cục đá sẽ đập vào đầu Thầy. Và nếu bà được cứu... niềm vui của Thầy sẽ trả cho Thầy vì tất cả những chỉ trích này.
Tất cả chấm dứt trên câu trả lời êm đềm này.
91* NGƯỜI ĐÀN BÀ TRÙM KHĂN TẠI NƯỚC ĐẸP
Một ngày xấu tới nỗi không có một người hành hương nào. Trời mưa rào và cái sân trở thành ao, nơi các lá khô lềnh bềnh, không biết từ đâu trôi tới, dạt theo các cơn gió rít và lung lay các cửa sổ và
618
cửa ra vào. Căn nhà bếp tối om hơn bao giờ hết, vì để cản mưa tạt vào, người ta chỉ hơi hé mở. Khói làm chảy nước mắt và làm ho, vì gió làm cho nó luẩn quẩn ở bên trong.
Phêrô nghiêm trang nói: “Salômôn có lý: có ba điều đuổi người đàn ông ra khỏi nhà: người đàn bà hay gây gổ... bà này thì tôi đã để lại ở Caphanaum cùng với đồng loại của bà; ống khói xì khói, và mái nhà dột nước. Hai điều sau thì chúng ta có... Nhưng ngày mai tôi sẽ nghĩ tới cái ống khói này. Tôi sẽ trèo lên mái, và anh, với cậu, và chú (Giacôbê, Gioan và Andrê), sẽ lên với tôi, với những tấm ngói đá, chúng ta sẽ dỡ nóc mái và làm một nóc mái cao ở bên trên.
- Anh lấy những tấm ngói đá ở đâu? - Tôma hỏi.
- Trên mái nhà kho. Nếu dột nước ở đó thì cũng không phải là tận thế. Nhưng ở đây... Anh đau khổ vì các đĩa đồ ăn của anh không còn được trang hoàng bằng những nước mắt khói nữa sao?
- Hãy tưởng tượng, nếu anh có thể! Anh coi tôi lem luốc chừng nào, vì nước mưa nhỏ xuống trên đầu tôi khi tôi ở gần bếp lửa.
- Anh trông giống như con quái vật Ai Cập - Gioan cười nói.
Thực sự Tôma có những dấu phẩy mầu đen ngộ nghĩnh trên khuôn mặt phính và rất hiền của ông. Ông là người đầu tiên cười, luôn luôn vui vẻ, và Giêsu cũng cười, vì ngay chính lúc họ đang nói thì một giọt nước lớn mang đầy bồ hóng từ trên rơi xuống làm đen sống mũi của ông.
- Anh biết nhiều về thời tiết, anh nói sao? Còn kéo dài lâu như vầy không? - Iscariot hỏi Phêrô. Từ mấy ngày nay ông hoàn toàn thay đổi.
- Bây giờ tôi có thể nói cho anh. Tôi đi học thiên văn đã - Phêrô nói. Rồi ông ra cửa, mở hé ra, ló đầu ra ngoài cùng với một cánh tay, và ông tuyên bố: “Gió nam nhẹ: nóng và có sương mù... Hum! hơi có...” Phêrô nín bặt, ông rón rén rụt vào, vẫn để cửa hé mở, và ông rình.
- Hơi có cái gì? - nhiều người hỏi.
Nhưng Phêrô lấy tay làm hiệu yêu cầu yên lặng. Ông nhìn, rồi
619
ông xì xèo: “Người đàn bà đó. Bà đã uống nước giếng, rồi bà lấy bó củi ở ngoài sân. Bà ướt sũng. Chắc chắn bà lạnh... Bà đi rồi... tôi đi theo bà. Tôi muốn coi...” Ông đi ra, không gây tiếng động.
- Nhưng bà có thể ở chỗ nào mà luôn luôn gần đây? - Tôma hỏi.
- Và ở lại đây trong thời tiết này! - Mathêu nói.
- Chắc chắn bà về trong xóm, vì bữa hôm kia, tôi thấy bà mua bánh - Batôlômêo nói.
- Bà ta thật kiên trì để lúc nào cũng trùm khăn như vậy! - Giacôbê Alphê nói.
- Hay có một lý do quan trọng - Tôma nhận xét.
- Nhưng đó có đúng là bà mà ông Do Thái nói hôm qua không?
- Gioan hỏi. “Họ thường hay gian dối”.
Giêsu vẫn yên lặng như người điếc. Tất cả đều nhìn Người. Họ chắc chắn là Người biết. Nhưng Người đang dùng một con dao để đẽo trên một miếng gỗ mềm, và nó từ từ biến thành một cái xiên thực dụng để vớt rau ra khỏi nước sôi. Khi hoàn tất, Người tặng cho Tôma, ông dùng ngay vào nghề đầu bếp của ông.
- Thầy rất đại độ. Nhưng... Thầy có nói cho chúng con biết bà ta là ai không?
- Một linh hồn. Đối với Thầy, tất cả các con là các linh hồn. Không là gì khác. Đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con: các linh hồn, các linh hồn, các linh hồn. Linh hồn trong trắng các trẻ thơ, linh hồn hồng các người trẻ, linh hồn vàng các người công chính, linh hồn chai các tội nhân. Nhưng chỉ là các linh hồn. Không có gì khác các linh hồn. Và Thầy mỉm cười với các linh hồn trong trắng, vì Thầy thấy như mỉm cười với các thiên thần. Thầy nghỉ ngơi trong những bông hoa hồng và hoa xanh của các thiếu niên tốt. Thầy sung sướng trong những linh hồn qúi giá các người công chính; Thầy chịu đựng và đau khổ để làm cho linh hồn các tội nhân nên qúi giá và sáng láng. Các khuôn mặt... Các cơ thể... Chẳng là gì cả. Chính bởi linh hồn các con mà Thầy biết các con và nhận ra các con.
- Vậy bà ta, bà là linh hồn nào?
- Một linh hồn ít tò mò hơn linh hồn các bạn Thầy, vì bà không
620
thăm dò, không đặt câu hỏi, bà tới và đi, không nói, không nhìn.
- Con đã tưởng đó là một người đàn bà có đời sống xấu hay một người cùi, nhưng rồi con đổi ý, vì... thưa Thầy, nếu con nói với Thầy một điều, Thầy có khiển trách con không? - Iscariot đặt câu hỏi khi ông đến ngồi dưới đất trước đầu gối Giêsu. Ông đã thay đổi hẳn: khiêm nhường, tốt, thực sự đẹp trai hơn lúc ông là một Judas khoa trương và kiêu ngạo.
- Thầy không khiển trách con đâu. Nói đi.
- Con biết bà ta ở đâu. Một buổi chiều, con đi theo bà... con giả vờ như ra ngoài để kín nước, vì con nhận thấy bà tới giếng khi trời tối... một buổi sáng, con thấy dưới đất một cái trâm bằng bạc... ngay ở bờ giếng. Con hiểu rằng chính bà đã đánh mất. Bà ở trong một cái lều nhỏ bằng cây ở trong rừng, có lẽ đó là lều của các nông dân, nhưng nó đã hư một nửa. Bà lấy cành cây phủ lên làm mái. Có lẽ vì vậy bà đã lấy bó củi. Đó là một cái hang. Con không biết làm sao bà có thể ở đó. Nó chỉ tốt cho một con chó lớn hay một con lừa nhỏ. Con thấy bà vào một buổi tối sáng trăng, con thấy rất rõ. Cái lều vùi một nửa trong bụi gai rậm, nhưng ở bên trong rỗng và không có cửa. Tất cả những thứ đó làm con giác ngộ, và con hiểu đó không phải là một người đàn bà sống đời xấu xa.
- Con không nên làm như vậy. Nhưng hãy thành thật: Con không làm gì khác nữa chứ ?
- Thưa Thầy không. Con đã muốn coi bà, vì ngay từ khi ở Jêricô, con đã nhận xét bà, và con nhận ra dáng đi rất nhẹ nhàng của bà khi bà phải tới chỗ nào đó. Con người của bà cũng vậy, chắc hẳn mềm mại và... đẹp. Đúng, người ta đoán được, mặc dầu tất cả quần áo... Nhưng con không dám quan sát bà khi bà nằm dưới đất. Có lẽ bà bỏ voan ra. Nhưng con kính trọng bà...
Giêsu nhìn ông đăm đăm, đăm đăm, rồi Người nói: “Và con phải chịu đựng vì vậy. Con đã nói sự thật. Thầy, Thầy nói với con rằng Thầy bằng lòng với con. Lần tới sẽ bớt gay go hơn để tốt. Tóm tắt, đây là bước đầu. Hoan hô Judas”. Và Người vuốt ve ông.
Phêrô bước vào: “Nhưng Thầy ơi! Người đàn bà này điên! Thầy biết bà ta ở đâu không? Hầu như ở bên cạnh bờ sông, trong một cái
621
lều bằng cây trong một bụi rậm. Có lẽ trước là lều của một người đánh cá hay một người tiều phu... Ai mà biết? Con không thể ngờ rằng ở nơi ẩm ướt này, trong một cái lỗ, giữa một đống cây gai, có một người đàn bà tội nghiệp. Con nói với bà: ‘Hãy nói và hãy thành thật, bà có cùi không?’ Bà trả lời con trong cái thở dài: ‘Không’. ‘Hãy thề đi’ con nói. Và bà nói: ‘Tôi thề điều đó’. ‘Coi chừng nếu bà cùi mà bà không nói, nếu bà đến gần nhà mà tôi biết rằng bà ô uế thì tôi sẽ cho ném đá bà. Nhưng nếu bà bị theo dõi, nếu bà trộm cắp, sát nhân, và bà ở đây vì sợ chúng tôi, thì đừng sợ gì cả. Nhưng bây giờ hãy ra khỏi đó đi. Bà không thấy rằng bà ở trong nước sao. Bà có đói không? Bà có lạnh không? Bà run rẩy. Tôi già rồi, bà thấy đó. Tôi không làm tình với bà đâu. Tôi già và thật thà.Vậy hãy nghe tôi’. Con đã nói với bà như vậy, nhưng bà không muốn tới. Chúng ta sắp tìm thấy bà chết, vì bà thực sự ở trong nước”.
Giêsu trầm tư. Người nhìn mười hai khuôn mặt cũng đang nhìn Người, rồi Người nói: “Các con nói chúng ta phải làm gì?”
- Nhưng, Thầy, Thầy hãy quyết định!
- Không. Thầy muốn rằng chính các con xét đoán. Đó cũng là một điều có liên can tới sự kính trọng của các con. Thầy không thể làm áp lực trên quyền của các con muốn bảo vệ bà.
- Nhân danh tình thương, con nói rằng chúng ta không thể bỏ rơi bà ở đó - Simon nói.
Và Batôlômêo: “Con nói bữa nay nên cho bà ở trong phòng lớn. Các người hành hương đã chẳng ở đó sao? Bà cũng có thể ở đó”.
- Sau cùng, đó cũng là một người như mọi người khác - Andrê bình luận.
- Lại nữa, hôm nay không có ai tới, vì vậy... - Mathêu nhận xét.
- Con đề nghị cho bà ở đây bữa nay, rồi ngày mai nói với người quản lý. Đó là một người đại độ - Thađê nói.
- Anh có lý, hoan hô! Ông có nhiều cái chuồng rỗng. Một cái chuồng luôn luôn là cái lâu đài hoàng gia so với cái thuyền thủng
622
đáy này - Phêrô kêu lên.
- Vậy đi nói với bà ta đi - Tôma nói để khích lệ ông.
- Những người trẻ chưa nói - Giêsu nhận xét.
- Đối với con, tất cả những gì Thầy làm đều tốt - anh họ Giacôbê nói. Và ông Giacôbê kia cùng với em ông: “Chúng con đồng ý”.
- Con chỉ nghĩ tới nếu rủi có tên pharisiêu nào đó biết - Philíp nói.
Judas Kêriot nói: “Ôi! cho dù chúng ta đi lên các tầng mây, anh nghĩ rằng họ sẽ không kết án chúng ta sao? Họ không kết án Thiên Chúa vì Người ở qúa xa. Nhưng nếu họ có thể có Người ở bên cạnh như Abraham, Jacob và Môise, thì họ cũng sẽ khiển trách Người hoài. Ai là người vô tội đối với họ?”
- Vậy đi nói với bà tới ở trong chỗ trọ của các người hành hương. Hãy đi, con Phêrô, với Simon và Batôlômêo. Các con già, sẽ ít làm cho người đàn bà có cảm tưởng hơn. Và hãy nói với bà rằng chúng ta sẽ cho bà một đồ ăn nóng và một áo khô. Đó là cái áo mà Isaac đã để lại. Các con thấy rằng tất cả đều hữu ích, dù là một áo phụ nữ được đem cho một người đàn ông...
Các người trẻ cười, vì về vấn đề cái áo, hẳn họ đã có chuyện gì tiếu lâm khôi hài.
Ba người già đi, một lúc sau trở về.
- Bà không muốn, nhưng sau cùng bà cũng tới. Chúng con đã thề với bà rằng chúng ta sẽ không bao giờ làm phiền bà. Bây giờ con đi cho bà rơm khô và cái áo. Cho tôi xin tí rau và một cái bánh. Cả ngày hôm nay bà chưa ăn gì. Thực sự... ai mà trở lại với cái nơi hồng thủy này? - Ông Phêrô đại độ ra đi cùng với của báu của ông.
Giêsu nói: “Và bây giờ, một mệnh lệnh cho tất cả: Không ai tới chỗ ở của bà vì bất cứ lý do nào. Ngày mai chúng ta sẽ liệu. Các con hãy học thói quen làm việc lành vì sự lành, không tò mò, không ước mong trong việc đó một sự giải trí hoặc làm vì bất cứ lý do nào khác. Các con thấy không? Các con phàn nàn vì hôm nay không làm gì ích lợi. Chúng ta đã yêu người đồng loại, và chúng ta có thể làm điều gì lớn hơn? Nếu đó là một kẻ khốn nạn, và điều đó là chắc chắn, thì sự giúp đỡ của chúng ta chẳng có thể cho bà một an
623
ủi, một sức nóng, một sự bảo vệ rất sâu xa hơn là một tí đồ ăn này, cái áo tội nghiệp này, cái mái nhà này mà chúng ta kiếm cho bà sao? Nếu đó là một kẻ đắc tội, một người đàn bà tội lỗi, một người tìm Thiên Chúa, thì tình yêu của chúng ta chẳng là giáo huấn đẹp đẽ nhất, là lời nói mạnh mẽ nhất, là sự chỉ dẫn rõ ràng nhất để đặt bà vào con đường của Thiên Chúa sao?”
Phêrô rón rén vào để nghe Thầy của ông.
- Các con thấy có rất nhiều thầy trong Israel, và họ nói, họ nói... nhưng các linh hồn vẫn chứng nào tật nấy. Tại sao? Vì các linh hồn nghe các lời của các thầy, nhưng không nhìn thấy hành động. Trong khi lời nói,việc làm, cái nọ tiêu diệt cái kia, các linh hồn vẫn ở lại nơi họ đang ở, nếu may mắn là họ không trở lui về đàng sau. Nhưng khi một vị thầy làm điều họ dạy và hành động cách thánh thiện trong mọi hành động của họ, cho dù họ chỉ làm những hành động vật chất, như cho một cái bánh, một cái áo, một chỗ ở cho thân xác đau khổ của tha nhân, họ cũng làm được cho các linh hồn tiến lên và làm cho họ đến với Thiên Chúa, vì chính những hành động này nói với anh em: “Có một Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở đây”. Ôi! Tình yêu! Thầy bảo các con rằng kẻ yêu cứu được chính mình và cứu những người khác.
- Thầy nói đúng. Người đàn bà này đã nói với con: “Chúc tụng Vị Cứu Tinh và Đấng đã sai Người, và tất cả các ông cùng với Người”. Bà đã muốn hôn chân con! Chân con người tội nghiệp, và bà khóc sau tấm voan dầy của bà... Nhưng!... hy vọng không có con chim cú muỗi nào từ Jêrusalem tới... Nếu không thì ai có thể thoát được chúng?
- Lương tâm của chúng ta cứu chúng ta khỏi sự xét xử của Cha chúng ta, như vậy là đủ - Giêsu nói. Và Người ngồi vào bàn sau khi đã chúc phúc và dâng tiến của ăn.
92* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP:
“HÃY THÁNH HÓA CÁC NGÀY LỄ”
Thời tiết đã bớt xấu, mặc dầu còn hơi mưa, nhưng người ta có
624
thể đến tìm Thầy.
Tôi nghe hai ba người có chuyện quan trọng riêng muốn nói với Người, sau khi nói rồi, họ trở về chỗ của họ, được bình tĩnh hơn. Người cũng chúc lành cho một đứa trẻ bể xương từ chỗ phần trên đùi mà không thầy thuốc nào muốn chữa, vì họ nói rằng: “Vô ích, vì vết gẫy kéo từ phần trên đùi lên tới gai cột sống”. Đó là điều bà mẹ đầy nước mắt nói. Bà giải thích: “Nó chạy với em gái nó trong đường phố tại xứ nhà, một người phái Hêrôđê phóng xe tới và cán lên trên nó. Con tưởng nó chết, nhưng còn tệ hơn, Thầy thấy đó. Con để nó nằm trên tấm ván này, vì không có cách nào khác. Và nó đau, nó đau, vì xương chọc vào nó. Rồi khi xương không chọc nữa thì nó lại đau vì chỉ có thể nằm ngửa”.
- Con đau lắm phải không? - Giêsu hỏi với đầy tình thương, đứa trẻ khóc.
- Vâng.
- Chỗ nào?
- Chỗ này... và chỗ này - đứa trẻ giơ bàn tay lưỡng lự rờ vào hai xương hông. “Rồi cả đây và đây nữa”, và nó rờ vào lưng và hai vai. “Tấm ván cứng, con không thể cử động”. Và nó khóc cách tuyệt vọng.
- Con có muốn ở trong cánh tay Thầy không? Con sẽ tới? Thầy sẽ mang con lên trên kia. Con sẽ nhìn thấy mọi người trong khi Thầy nói.
- Ôi! Vâng... - Tiếng vâng của nó đầy ước ao. Đứa trẻ tội nghiệp giơ hai cánh tay van nài ra.
- Vậy thì hãy tới.
- Nhưng thưa Thầy, nó không thể, không thể được! Nó qúa đau... cả đến con không thể nhúc nhích nó để tắm rửa cho nó.
- Thầy sẽ không làm đau cho nó.
- Thầy thuốc...
- Thầy thuốc là thầy thuốc, còn Thầy là Thầy. Tại sao bà tới?
- Bởi vì Thầy là Đấng Messi - Người đàn bà trả lời. Bà vừa tái
625
mét vừa đỏ rần giữa hy vọng và tuyệt vọng.
- Vậy? Nào, bé - Giêsu luồn một tay xuống dưới hai cẳng chân trơ trơ, tay kia xuống dưới đôi vai nhỏ. Người ẵm đứa bé lên và hỏi nó: “Thầy có làm con đau không? Không? Vậy chào má đi và chúng ta đi”.
Và, ở giữa đám đông mở lối ra, Người mang gánh của Người đi cho tới cuối phòng, bước lên trên diễn đàn mà người ta đã làm cho Người để mọi người nhìn thấy Người, kể cả ở ngoài sân. Người bảo đưa cho Người một cái ghế dài nhỏ, Người ngồi trên đó, ẵm đứa nhỏ trên đầu gối, Người hỏi nó: “Con thích không? Bây giờ con hãy ngồi yên và cũng hãy nghe”, và Người bắt đầu nói. Người chỉ làm các cử chỉ bằng một tay: tay mặt, vì tay trái Người giữ đứa trẻ. Nó nhìn mọi người, sung sướng được thấy cái gì, và nó mỉm cười với mẹ nó ở bên dưới, ở cuối phòng, qủa tim phập phồng hy vọng. Nó chơi với những sợi giây của áo Giêsu, và cả với bộ râu hoe vàng mềm mại và các lọn tóc dài của Người.
- Có lời chép: “Hãy làm các việc ngay lành, và ngày thứ bảy, hãy thánh hiến cho Chúa và cho tâm hồn ngươi”. Đó là điều giới răn nghỉ ngơi ngày Sabát nói.
Con người không hơn Thiên Chúa, và Thiên Chúa đã làm việc tạo dựng trong sáu ngày, và ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Vậy tại sao con người lại cho phép mình không bắt chước Cha và không vâng giữ giới răn của Người? Có phải mệnh lệnh này kém thông minh không? Không. Thực sự đó là một giới luật lành mạnh cho các trật tự vật chất cũng như tinh thần và thiêng liêng.
Cơ thể con người, khi nó mệt mỏi, nó cần sự nghỉ ngơi cũng như mọi thụ tạo khác. Nó nghỉ ngơi, và chúng ta để cho nó nghỉ để không bị mất nó. Con bò cày ruộng, con lừa chở đồ, con cừu đẻ con để cho chúng ta sữa, chúng nghỉ, và chúng ta để cho chúng nghỉ. Đất ruộng, trong những tháng nó không được gieo hạt, nó bồi dưỡng, được bão hòa muối khoáng từ trời rơi xuống cho nó hay từ lòng đất bốc lên. Nó nghỉ ngơi hoàn toàn, dù nó không hỏi ý kiến chúng ta. Các động vật và thực vật vâng theo một luật muôn đời về sự tái sản
626
xuất khôn ngoan. Tại sao con người không muốn bắt chước Tạo Hóa, đấng đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy, trong khi những tạo vật hạ cấp, thực vật và động vật, chỉ có một mệnh lệnh cho bản năng của chúng, mà chúng biết thích nghi và vâng lời Người?
Giới răn này ích lợi cho trật tự tinh thần cũng như vật chất. Trong sáu ngày, con người đã bận rộn với mọi người và mọi thứ. Bị giữ như sợi chỉ trong khung cửi, nó đi lên, đi xuống mà không bao giờ có thể nói: “Bây giờ tôi phải lo cho tôi và cho những người thân yêu nhất của tôi. Tôi là cha, và hôm nay tôi lo cho con tôi; tôi là chồng, hôm nay tôi dành cho vợ tôi; tôi là anh, hôm nay tôi chơi với các em tôi; tôi là con, hôm nay tôi phải săn sóc cha mẹ già của tôi”.
Đó là một trật tự thiêng liêng. Việc làm là thánh. Tình yêu là thánh hơn. Thiên Chúa là rất thánh. Vậy hãy nhớ dành ít nhất là một trong bảy ngày cho người Cha nhân từ và thánh của chúng ta, đấng đã ban sự sống cho chúng ta và gìn giữ nó cho chúng ta. Tại sao lại đối xử với Người kém hơn một người cha, một người con, một người anh em, một người vợ, và kém hơn cả cơ thể chúng ta? Mong rằng ngày của Chúa thuộc về Người. Sau một ngày làm việc, buổi chiều, ôi! êm đềm chừng nào lại tìm thấy gia đình đầy yêu thương; êm đềm chừng nào lại tìm thấy nó sau một cuộc hành trình dài! Vậy tại sao sau sáu ngày làm việc, không xum họp trong nhà Cha? Tại sao không làm như đứa con trở về sau một cuộc hành trình trong sáu ngày và nói: “Đây, con đến để qua ngày nghỉ của con với Cha”?
Nhưng bây giờ hãy nghe đây, Thầy đã nói: “Hãy làm những công việc thật thà”
Các con biết rằng lề luật của chúng ta truyền dạy tình yêu tha nhân. Sự thật thà trong công việc là một phần của tình yêu tha nhân. Kẻ thật thà trong công việc thì không ăn cắp trong thương mại, không cưỡng đoạt lương của người thợ. Họ nhớ rằng người đầy tớ và người thợ cũng có một thân xác giống như của họ, nên họ không đối xử như những viên đá trơ trơ mà người ta có thể đập đánh bằng chân hay bằng gậy sắt. Kẻ không hành động như vậy là
627
không yêu tha nhân, và như vậy là phạm tội trước mặt Thiên Chúa. Lợi tức của họ bị nguyền rủa, dù họ có rút ra từ đó một ít để dâng vào Đền Thờ.
Ôi! Của lễ dối trá chừng nào! Làm sao người ta lại dám đặt nó ở chân bàn thờ, trong khi nó chảy ra những nước mắt và máu của những người dưới bị cưỡng đoạt, hay nó có tên là “của ăn cắp”, tức là sự phản bội tha nhân, vì kẻ ăn cắp tức là kẻ phản bội tha nhân? Các con hãy tin: không phải là thánh hóa ngày lễ, nếu không dùng nó để xét mình, để trở nên tốt hơn, và không sửa lại các tội đã phạm trong sáu ngày.
Đây là sự thánh hóa ngày lễ: không phải một hành động bên ngoài, chẳng thay đổi gì lối suy nghĩ của các con, Thiên Chúa muốn những công việc sống động chứ không phải công việc giả tạo ở bên ngoài. Đó là sự giả vờ, sự vâng lời Lề Luật cách giả dối; sự thánh hóa ngày Sabát cách dối trá, tức là sự nghỉ ngơi mà người ta giữ để bộc lộ trước mắt người đời là người ta giữ luật, nhưng dùng hàng bao nhiêu giờ để vui chơi trong các nết xấu, trong dâm đãng, trong no say, trong việc nghĩ cách cưỡng đoạt người khác, và để làm hại người ta trong tuần lễ tới. Đó là sự giả vờ thánh hóa ngày Sabát, tức là sự nghỉ ngơi vật chất không kèm theo công việc nội tâm, thiêng liêng, thánh hóa, của việc thành thật xét mình, của một lời thú nhận khiêm nhường về sự khốn nạn của mình, của một giải pháp đứng đắn để hành động tốt hơn trong tuần lễ tới.
Các con sẽ nói: “Nếu sau đó người ta lại tái ngã phạm tội?” Nhưng các con nói sao về đứa trẻ bị ngã rồi không muốn bước thêm bước nào nữa để khỏi bị ngã? Nói rằng nó ngu; nói rằng không nên xấu hổ vì có bước đi không vững vàng, vì tất cả chúng ta đều đi qua giai đoạn này khi chúng ta còn bé, và không phải vì vậy mà cha chúng ta yêu chúng ta ít hơn. Ai không nhớ rằng sự té ngã của chúng ta đã làm mưa xuống trên chúng ta bao nhiêu cái hôn của mẹ và những cái vuốt ve của cha chúng ta?
Người Cha rất êm đềm của chúng ta trên trời cũng làm như vậy. Người cúi xuống trên đứa con nhỏ của Người bị té và đang khóc
628
dưới đất, và Người nói: “Đừng khóc, Cha nâng con dậy. Lần tới con sẽ cẩn thận hơn. Bây giờ hãy vào trong vòng tay Cha, ở đây, mọi đau đớn sẽ biến mất, con sẽ ra khỏi đó, mạnh mẽ hơn, được chữa lành, sung sướng”. Đó là điều người Cha của chúng ta ở trên Trời nói, và đó là điều Thầy nói cho các con. Nếu các con có đức tin nơi Cha, các con sẽ thành công tất cả. Một đức tin như đức tin của trẻ nhỏ. Hãy chú ý: đứa trẻ nhỏ tin rằng mọi sự đều có thể. Nó không tự hỏi một sự kiện diễn ra thế nào. Nó không đo chiều sâu. Nó tin ở người làm nó tin cẩn, và nó làm điều họ bảo nó. Hãy giống như các trẻ nhỏ đối với Thiên Chúa. Các thiên thần nhỏ lưu lạc trên trái đất và là vẻ đẹp của nó này, Người yêu chúng chừng nào! Người cũng yêu các tâm hồn tự trở nên đơn sơ, tốt, trong sạch như các trẻ nhỏ.
Các con muốn thấy đức tin của một đứa nhỏ để học cho có đức tin không? Hãy nhìn kỹ đây. Tất cả các con đều thương hại đứa nhỏ mà Thầy ôm trong lòng đây. Trái với điều thầy thuốc và má nó nói, nó không khóc khi Thầy để nó ngồi trong lòng Thầy. Các con thấy không? Từ lâu ngày, nó chỉ khóc, vì đêm ngày không tìm được sự nghỉ ngơi. Ở đây, nó không khóc và ngủ yên trên qủa tim Thầy. Thầy đã hỏi nó: “Con có muốn tới trong cánh tay Thầy không?”, nó đã trả lời: “Có”, không lý luận về tình trạng khốn nạn của nó, về sự đau đớn mà có lẽ nó sẽ cảm thấy, về các hậu qủa của một sự di chuyển. Nó chỉ nhìn thấy trên khuôn mặt Thầy có tình yêu, và nó nói: “Có”, và nó tới. Nó không cảm thấy đau. Nó sung sướng được ở đây, trên cao, và nhìn thấy. Nó đã bị đóng chặt vào tấm ván, và nó sung sướng được người ta đặt nó trên da thịt êm đềm thay vì trên gỗ cứng. Nó đã mỉm cười, chơi và ngủ, vẫn còn một lọn tóc của Thầy trong bàn tay nhỏ. Bây giờ thầy sẽ đánh thức nó dậy bằng một cái hôn... - Và Giêsu đặt cái hôn trên mái tóc nâu của đứa nhỏ cho đến khi nó thức dậy và mỉm cười với Người.
- Con tên gì?
- Gioan.
- Nghe đây Gioan. Con muốn bước đi không? Hãy đến với má
629
con và nói với bà rằng: “Đấng Messi chúc phúc cho má vì đức tin của má”.
- Vâng! Vâng! - Rồi nó vỗ tay và hỏi Người: “Thầy sẽ làm cho con đi? Trên đồng cỏ? Không còn tấm ván tàn nhẫn này, qúa cứng? Không còn thầy thuốc làm cho đau?”
- Không còn, không bao giờ còn nữa.
- Ôi! Con yêu Thầy chừng nào! - Rồi đứa bé quàng tay quanh cổ Giêsu và hôn Người. Và để cho thoải mái hơn để hôn Người, nó liền nhảy qùi dậy trên đầu gối Người. Một cơn mưa những cái hôn thơ ngây rơi trên trán, trên mắt, trên má Giêsu.
Trong niềm vui, đứa trẻ không nghĩ ra rằng nó đã có thể cử động, và trước đây nó bị gẫy xương. Nhưng tiếng kêu của bà mẹ và của đám đông lay tỉnh nó, làm nó quay lại, ngỡ ngàng, với đôi mắt thơ ngây trên khuôn mặt gầy đầy nghi vấn. Vẫn qùi gối, cánh tay mặt vòng quanh cổ Giêsu, nó hỏi Người cách kín đáo - trong khi chỉ vào đám đông huyên náo, với mẹ nó ở đàng cuối, đang gọi nó, dồn tên nó với tên của Giêsu: “Gioan! Giêsu! Gioan! Giêsu!”- “Tại sao đám đông la lối, và cả má nữa? Họ làm sao vậy? Có phải Thầy không? Giêsu?”
- Chính Thầy. Đám đông la lối vì họ bằng lòng rằng con có thể bước đi. Chào bé Gioan (Giêsu hôn nó và chúc lành cho nó). Hãy đến với má con, và hãy ngoan.
Đứa trẻ bình tĩnh xuống khỏi đầu gối Giêsu, rồi xuống đất. Nó chạy đến với mẹ nó, ôm chầm lấy cổ bà và nói: “Giêsu chúc lành cho má. Tại sao má khóc?”
Khi người ta đã hơi yên lặng, Giêsu nói bằng một giọng như sấm: “Hãy làm như bé Gioan, hỡi các con, những người đã sa ngã trong đàng tội và bị thương, hãy tin vào tình yêu của Thiên Chúa. Bình an cho các con”.
Trong khi đám đông hô vạn tuế, và bà mẹ sung sướng khóc, Giêsu ở giữa các người của Ngài ra khỏi căn phòng, và thị kiến
630
chấm dứt.
93* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP: “ĐỪNG GIẾT NGƯỜI”.
CÁI CHẾT CỦA DORAS.
Có lời rằng: “Đừng giết người”. Điều này thuộc về phần nào trong hai phần của giới răn? “Phần thứ hai”, các con nói? Các con có chắc không?
Thầy lại hỏi các con: đây là tội phạm đến Thiên Chúa hay đến nạn nhân? Các con nói: “Đến nạn nhân”? Các con có chắc điều này nữa không?
Thầy lại còn hỏi các con: đó chỉ là một tội sát nhân thôi sao? Khi giết người, các con chỉ phạm một tội duy nhất này thôi? Các con nói vậy? Có ai nghi ngờ gì không? Hãy nói lớn lên câu trả lời của các con. Hãy để một người nói thay cho tất cả. Thầy nghe.
Và Giêsu cúi xuống để vuốt ve một đứa nhỏ đến bên cạnh Người, nhìn Người như xuất thần, quên ăn trái táo mà mẹ nó đã cho nó để nó ở yên.
Một ông già oai nghiêm đứng dậy nói: “Thưa Thầy, xin nghe: con là ông già trưởng giáo đường, và họ bảo con nói đại diện cho tất cả. Con nói, con thấy như, chúng con thấy như đã trả lời đúng theo như những điều người ta đã dạy chúng con. Con chắc chắn dựa vào chương của Lề Luật có liên can tới việc sát nhân và những cú đánh. Nhưng Thầy, Thầy biết tại sao chúng con tới: để Thầy dạy dỗ chúng con, vì chúng con nhìn nhận nơi Thầy Sự Khôn Ngoan và Sự Thật. Vậy nếu con lầm, xin Thầy soi sáng cho sự tối tăm của con, để tên đầy tớ già đi đến với Vua của nó, được mặc bằng ánh sáng, và cũng để phục vụ những người này là những người thuộc về bầy của con, họ đã cùng với mục tử của họ tới uống ở phông-ten Sự Sống”. Và trước khi ngồi, ông già cúi mình cách kính cẩn nhất.
- Bố là ai?
- Tôi tớ Thầy là Clêopha Emmau.
- Không phải tôi tớ Thầy, nhưng tôi tớ đấng sai Thầy, vì người ta
631
phải dâng cho Cha tất cả ngôi vị, tất cả tình yêu ở trên trời, dưới đất, và trong mọi con tim. Và người đầu tiên dâng cho Người danh dự này là Ngôi Lời của Người, đấng nhận lấy mọi con tim tốt để dâng lên Người trên bàn thờ không tì ố, giống như các thầy cả làm với bánh tiến. Nhưng Clêopha, hãy nghe đây để đến với Thiên Chúa, được sáng láng như sự ước ao thánh của ông.
Để cân lường tội trạng, phải nghĩ tới các hoàn cảnh đi trước, chuẩn bị, chứng minh, giải thích cho chính điều lỗi: tôi đã đánh ai? Tôi đã đánh người thế nào? Tôi đã đánh ở đâu? Tôi đã đánh bằng những phương tiện nào? Tại sao tôi đánh? Tôi đánh thế nào? Tôi đánh khi nào? Kẻ giết người phải tự vấn như vậy trước khi trình diện trước Thiên Chúa để xin ơn tha thứ.
“Tôi đã đánh ai?”
- Một người. Thầy nói: một người, nhưng Thầy không nghĩ tới và không xem xét coi người đó giầu hay nghèo; tự do hay nô lệ. Với Thầy, không có vấn đề nô lệ hay kẻ quyền thế. Chỉ là những người được tạo dựng bởi Thiên Chúa độc nhất, bởi vậy tất cả đều bình đẳng. Thực ra, trước sự oai nghiêm của Thiên Chúa, cả đến một đại vương hùng mạnh nhất của trái đất cũng chỉ là cát bụi. Trước mắt Người cũng như trước mắt Thầy, chỉ có một sự nô lệ duy nhất: nô lệ tội lỗi, và như vậy là ở dưới sự cai trị của Satan. Luật xưa phân biệt người tự do và kẻ nô lệ, và đề ra những sự cứu xét tỉ mỉ, theo như cái chết là lập tức hay còn sống sót hai ba ngày, cũng như xét xem người đàn bà mang thai bị đánh có chết không, hay chỉ cái thai của bà chết. Nhưng tất cả những điều đó được nói khi ánh sáng của sự trọn lành còn xa vời. Bây giờ nó đã ở giữa các con và nó nói với các con: “Ai giết người là phạm tội”. Và không phải nó chỉ phạm đến người đó, mà nó còn phạm đến Thiên Chúa.
Con người là gì? Con người là tạo vật tuyệt hảo mà Thiên Chúa đã tạo dựng để làm vua vũ trụ. Người đã tạo dựng nên họ giống hình ảnh Người và giông giống như Người, bằng cách cho họ sự giống Người về thần trí, và cho họ hình ảnh được kéo ra từ hình ảnh trọn hảo của tư tưởng trọn lành của Người. Hãy nhìn trong không
632
khí, trên mặt đất và dưới nước, các con có thấy một con vật hay một cái cây, dù đẹp tới đâu, mà giống như con người không? Con vật chạy, ăn, uống, ngủ, mang thai, làm việc, hót, bay, bò, leo, nhưng nó không có tiếng nói. Con người cũng biết chạy và nhảy, và trong cái nhảy, họ lanh lẹ tới nỗi họ có thể tranh đua với con chim. Họ biết bơi, và họ bơi nhanh tới nỗi giống như con cá. Họ biết bò giống như loài bò sát. Họ biết leo giống như con khỉ. Họ biết hát giống như con chim. Họ biết thụ thai để truyền giống, nhưng hơn nữa, họ biết nói.
Các con đừng nói: “Mỗi con vật đều có ngôn ngữ của nó”. Đúng, con thì rống, con thì bê bê, con thì bư bư; thứ khác nữa thì líu lo, và loại sau cùng còn biết rung láy. Nhưng từ con bò đầu tiên tới con bò sau cùng, luôn luôn chỉ có một kiểu rống duy nhất. Cũng như con cừu chỉ biết bê bê cho tới tận thế; con lừa bư bư giống như con lừa đầu tiên. Con chim sẻ luôn luôn nói cái líu ríu ngắn của nó, trong khi con sơn ca và con họa mi nói cùng một điệu cho mặt trời lần thứ nhất, rồi cho các vì sao đêm lần thứ hai mỗi ngày. Cho dù là ngày sau cùng của trái đất, nó cũng sẽ chào như nó chào ngày đầu tiên và đêm đầu tiên. Trái lại, con người, không những nó có một cái lưỡi và cuống họng, nhưng còn có một toàn thể phức tạp của thần kinh mà trung tâm ở trong não, ngai tòa của thông minh, nó biết bắt lấy những cảm giác mới, và dùng chúng làm đối tượng cho các suy nghĩ, và đặt cho chúng những cái tên.
Ađam gọi con vật bạn của ông là chó, và sư tử là con vật giống ông với cái bờm dầy dựng đứng lên ở bên trên bộ mặt hơi có râu của nó. Ông gọi là cừu, con vật chào ông cách dịu dàng, và đặt cái tên chim cho bông hoa có cánh, bay như con bươm bướm, nhưng phát ra tiếng ca êm đềm mà con bươm bướm không có. Rồi qua dòng các thế kỷ, con cháu Ađam luôn luôn tạo ra những tên mới theo đà nó biết những công trình của Thiên Chúa trong việc tạo dựng, hay theo đà mà với tia sáng của Thiên Chúa ở trong họ, con người không những chỉ sinh con, mà còn chế ra những vật dụng hữu ích, và cả có hại cho chính con cái họ, tùy như họ về phe với Thiên
633
Chúa hay chống lại Người. Tạo ra những thứ tốt là về phe với Thiên Chúa. Khi họ chế ra những thứ xấu, có hại cho tha nhân, là họ chống lại Thiên Chúa. Thiên Chúa báo thù cho các con cái Người bị hành hạ bởi những thiên tài xấu của loài người.
Vậy con người là tạo vật yêu thương của Thiên Chúa. Mặc dù bây giờ họ đắc tội, nhưng họ vẫn là tạo vật chí thiết nhất của Người. Bằng cớ là Người đã gởi cho họ chính Ngôi Lời của Người. Không phải một thiên thần, không phải một tổng lãnh thiên thần; không phải một Kêrubim, không phải một Sêraphim, nhưng là chính Ngôi Lời của Người, bằng cách mặc cho Người thân xác loài người để cứu họ. Người đã không cho y phục này là bất xứng để làm cho thành nhạy cảm đối với đau khổ đền tội, cho đấng là Thần Trí rất trong sạch cũng như Người, vì nếu chỉ là thần trí như vậy, Người không thể chịu đau khổ và đền tội cho loài người.
Chúa Cha đã nói với Thầy: “Con sẽ làm người. Người: Cha đã dựng nên một người, toàn vẹn như tất cả những gì Cha làm. Cha đã tiền định cho nó một đời sống êm đềm, một giấc ngủ rất dịu dàng và một sự thức dậy sung sướng, một đời sống rất hạnh phúc và vĩnh cửu trong Thiên Đàng của Cha. Nhưng con biết, trong Thiên Đàng này không thể vào những gì là ô uế, vì nơi đây, Cha-Chúng-Ta, Thiên Chúa Duy Nhất và là Ba, chúng ta có ngai tòa của chúng ta, và trước ngai đó chỉ có thể là sự thánh thiện. Cha là Đấng Tự Hữu. Bản tính Thiên Chúa của Cha, mầu nhiệm căn bản của chúng ta chỉ có thể được biết bởi những kẻ không tì ố. Bây giờ con người, trong Ađam và bởi Ađam, đã bị ô uế. Con hãy đi, hãy thanh tẩy họ. Cha muốn vậy. Từ rày con sẽ là: Người. Là Trưởng Tử, vì con sẽ vào đây trước tiên với thân xác hay chết không có tội, và với linh hồn được miễn tội nguồn gốc. Những kẻ đã đến trước con trên trái đất và những kẻ sẽ theo con, sẽ có Sự Sống nhờ cái chết Đấng Cứu Chuộc của con”. Chỉ những ai đã được sinh ra mới có thể chết. Thầy đã được sinh ra, và Thầy sẽ chết.
Con người là tạo vật ưu tiên của Thiên Chúa. Bây giờ các con hãy nói cho Thầy: nếu một người cha có nhiều con cái, nhưng có
634
một đứa là kẻ ưu ái của ông, là con ngươi của mắt ông, và nếu người ta giết nó, có phải người cha không đau khổ hơn nếu đó là đứa con khác không? Điều này không nên có, vì người cha phải công bằng với hết các con của ông. Nhưng điều đó vẫn xảy ra, vì con người bất toàn. Thiên Chúa có thể làm vậy một cách công bằng, vì con người là tạo vật duy nhất có chung với Đấng Tạo Hóa một linh hồn thiêng liêng, ghi dấu tình phụ tử không chối cãi được của Thiên Chúa.
Khi giết đứa con của một người cha, người ta chỉ phạm đến đứa con thôi sao? Không. Cả người cha nữa. Đứa con trong thân xác, người cha trong tâm hồn. Vết thương gây ra cho cả hai. Khi giết người, người ta chỉ phạm đến người thôi sao? Không. Cả Thiên Chúa nữa. Người trong thân xác, Thiên Chúa trong quyền bính của Người. Vì sự sống và sự chết, chỉ có mình Người có quyền ban cho hay lấy đi. Giết người là tàn bạo với Thiên Chúa và với người. Giết người là đột nhập vào lãnh địa của Thiên Chúa. Giết người là lỗi giới luật tình yêu. Kẻ giết người không yêu Thiên Chúa, vì nó hủy hoại công việc của Người: một con người. Kẻ sát nhân không yêu tha nhân, vì nó lấy của họ cái nó muốn giữ cho nó.
Đó là Thầy trả lời cho hai câu hỏi đầu tiên.
“Tôi giết ở đâu?”
Người ta có thể giết người trên đường, trong nhà nạn nhân, hay dụ dỗ nạn nhân vào nhà mình. Người ta có thể đánh trên cơ quan nọ cơ quan kia, gây ra sự đau đớn trầm trọng. Người ta phạm đồng thời hai tội sát nhân nếu đánh một người đàn bà có mang thai trong dạ.
Người ta có thể đánh trong đường phố mà không cố ý. Một con vật chạy thoát khỏi tay chủ có thể giết một người qua lại. Nhưng khi đó không có sự cố ý. Nhưng nếu một người trang bị một con dao nó giấu dưới áo, nó giả hình vào nhà một kẻ thù - và thường kẻ thù là người có điều lỗi ít hơn - hoặc mời họ vào nhà nó với những dấu hiệu danh dự, rồi nó xiết cổ họ, quăng xác họ vào trong thùng, lúc đó là cố ý, và đó là tội ác hoàn toàn vì qủi quyệt, độc ác và tàn bạo.
Nếu cùng với người mẹ, tôi giết cái bào thai của bà, thì Thiên
635
Chúa sẽ đòi tôi tính toán về hai vụ sát nhân. Vì lòng dạ mang thai một người mới theo mệnh lệnh của Thiên Chúa là thánh; và sự sống nhỏ đang chín ở trong bà mà Thiên Chúa đã cho một linh hồn cũng là thánh.
“Tôi đã đánh bằng những phương tiện nào?”
Thật vô ích khi một người xác nhận: “Tôi không muốn đánh”, trong khi nó ra đi với một vũ khí thật sự. Trong cơn giận, cả bàn tay cũng có thể là vũ khí, hoặc một cục đá lượm ở trên đường, một cành bẻ trên cây. Nhưng kẻ lạnh lùng xem xét con dao găm hay cái rìu của nó, và nếu nó thấy có vẻ không sắc thì nó mài, rồi nó mang theo cách nào cho người ta không nhận ra, nhưng nó dễ dàng vung lên khi nó vào nhà địch thù, nó không thể nói: “Tôi không có ý đánh”. Kẻ chuẩn bị một thứ thuốc độc bằng cách hái những cỏ hay những trái cây độc, làm thành một thứ bột hay một đồ uống, rồi biếu cho nạn nhân, làm như đó là đồ gia vị hay đồ uống có men, chắc chắn không thể nói: “Tôi không muốn giết”.
Bây giờ hãy nghe đây, các con phụ nữ, các kẻ sát nhân lặng lẽ của bao mạng sống, cách kín đáo và không bị người đời phạt. Cũng là sát nhân khi các con giật ra một cái trái đang phát triển trong lòng các con, vì nó đến từ tội lỗi, hay nó không được ước mong, vì nó là gánh nặng vô ích bên sườn các con, hay nó không tốt cho sự giầu có của các con. Chỉ có một cách để tránh gánh nặng này: giữ mình trong trắng. Đừng phối hợp sát nhân với dâm dục, hung bạo và bất tuân. Đừng tưởng là Thiên Chúa không thấy những điều loài người không thấy. Thiên Chúa thấy hết, và Người nhớ hết. Các con hãy nhớ điều đó.
“Tại sao tôi đánh?”
Ôi! có biết bao lý do: sự thiếu quân bình thình lình tạo ra trong các con một xúc động tàn bạo, kẻ thấy phòng the bị xâm phạm, kẻ ăn trộm bị bắt qủa tang trong nhà, kẻ ghê tởm đã hãm hiếp con gái các con, hay sự tính toán lạnh lùng và có suy nghĩ để loại trừ một nhân chứng nguy hiểm, một kẻ ngăn cản các con đạt tới, hay vì thèm khát địa vị hay tài sản của người: Ở đó có biết bao lý do. Nếu
636
Thiên Chúa còn có thể tha cho kẻ trong cơn sốt của đau đớn, đã trở thành sát nhân, thì Người không tha cho kẻ trở thành sát nhân vì tham vọng, hay vì nó tìm sự qúi chuộng của người đời.
Hãy luôn luôn hành động cách chính trực, như vậy các con sẽ không sợ cái nhìn hay lời nói của bất cứ ai. Hãy bằng lòng với những gì các con có, và đừng thèm muốn những gì người khác có tới nỗi trở thành sát nhân để chiếm đoạt những thứ của đồng loại.
“Tôi đã đánh thế nào?”
Bằng cách nhào vào tấn công người ta trước, và sau cú đánh đầu tiên vì bị kích thích, thường người ta không thể hãm lại được nữa. Satan quăng họ vào tội ác như người bắn ná bắn một cục đá. Các con sẽ nói thế nào về một cục đá, sau khi đã được bắn tới đích, lại trở về với cái ná để người ta bắn nó một lần nữa để nó lại bắt đầu đánh? Các con sẽ nói: “Nó bị chiếm cứ bởi một sức mạnh qủi thuật thuộc về hỏa ngục”. Cũng vậy đối với người, sau khi đã đánh cú đầu tiên, lại đánh cú thứ hai, thứ ba, thứ mười, mà sự tàn bạo của nó không nguôi. Vì cơn giận chỉ nguôi, và người ta chỉ trở về với lý lẽ khi việc đó xảy ra bởi một lý do có thể hiểu được. Nhưng với những kẻ sát nhân thực sự, nạn nhân càng bị đánh, sự tàn bạo của nó càng trở nên hung hăng hơn. Đó chính là Satan, kẻ không có, không thể có tình thương đối với anh em nó, vì nó là Satan, tức là sự thù ghét.
“Tôi đã đánh khi nào?”
Tôi đã giết ngay từ cú đầu tiên? Giết sau khi nạn nhân đã ngã trên đất? Hay tôi đã giả vờ tha thứ, nhưng sự thù ghét càng ngày càng mạnh? Tôi đã chờ, có lẽ sau nhiều năm mới giết, để làm cho đau đớn gấp đôi, bằng cách giết người cha trong con cái của ông?
Các con thấy rằng khi giết người, người ta vi phạm giới răn thứ nhất và thứ hai, vì người ta chiếm quyền của Thiên Chúa và dày đạp tha nhân. Vậy là phạm tội chống lại Thiên Chúa và đồng loại. Không phải chỉ phạm tội sát nhân mà thôi, nhưng còn phạm tội giận dữ, tàn bạo, kiêu căng, bất tuân, phạm thánh, và cả tội tham lam nếu giết người để chiếm đoạt một địa vị hay của cải. Nhưng
637
hôm nay Thầy chỉ hơi hình dung cho các con, một ngày khác, thầy sẽ giải thích cho các con: Không phải người ta chỉ sát nhân bằng vũ khí và chất độc, mà còn bằng sự vu khống. Hãy suy niệm điều đó.
Thầy lại nói thêm: người chủ đánh một người nô lệ, và qủi quyệt tránh để nó không chết trong tay mình, là có tội gấp đôi. Người nô lệ không phải là tiền của người chủ. Đó là một linh hồn thuộc về Thiên Chúa của nó. Sẽ bị nguyền rủa muôn đời, kẻ nào hành hạ nó bằng những đối xử mà họ không áp dụng cho con bò của họ...
Đôi mắt Giêsu bỗng phóng ra chớp và người quát như sấm. Mọi người đều nhìn Người ngạc nhiên, vì từ trước tới giờ, Người nói rất êm đềm.
- Khốn cho nó! Luật mới hủy bỏ sự hà khắc này. Xưa nó cũng đã là công bình khi chưa có trong dân Israel những kẻ giả hình, làm bộ như mình là thánh, nhưng chỉ tìm cách xoay xở luật của Thiên Chúa và khai khẩn nó để có lợi cho họ. Nhưng bây giờ, lúc mà toàn thể Israel bị xâm lăng bởi loài rắn độc, chúng tự cho phép mình làm những điều mà người ta bỏ qua cho chúng, vì đó là chúng, những kẻ quyền hành khốn nạn mà Thiên Chúa nhìn cách giận ghét và ghê tởm. Thầy, Thầy nói: điều đó không còn nữa.
Các nô lệ ngã gục trên luống cày hay khi quay cối đá. Họ ngã xuống với những xương bị gẫy, các gân trật ra vì những roi đòn. Để có thể đánh họ, chúng đã kết án họ là nói dối, để biện minh cho sự bạo dâm Satan của chúng. Chúng dùng cả đến phép lạ của Thiên Chúa để kết án họ, và để có quyền đánh họ. Dù sức mạnh của Thiên Chúa, dù sự thánh thiện của người nô lệ cũng không thể làm cho linh hồn man rợ này cải thiện. Sự lành không thể vào trong nơi đã bão hòa sự ác. Nhưng Thiên Chúa nhìn thấy và Người nói: “Đủ rồi”.
Có qúa nhiều các Cain giết các Abel. Các con nghĩ sao về những nấm mồ dơ dáy, bên ngoài quét vôi trắng và viết kín nhưng lời của lề luật, nhưng ở bên trong, Satan là vua, nơi lúc nhúc những qủi quyệt tàn bạo nhất. Các con nghĩ sao? Chỉ có một Abel là con của Ađam thôi sao? Và Thiên Chúa chỉ nhìn với lòng nhân hậu những
638
kẻ không phải là nô lệ loài người thôi sao? Và Người quăng ra xa Người của lễ duy nhất mà kẻ nô lệ có thể dâng: sự ngay lành được gia vị bằng nước mắt của họ sao? Không. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng: mỗi người công chính là một Abel, dù họ mang nặng xiềng xích, dù họ chết trên luống cày hay đầy vết máu vì các roi đòn. Và là những Cain, tất cả những kẻ bất công, những kẻ dâng qùa tặng cho Thiên Chúa vì kiêu căng chứ không phải vì muốn dâng cho Người một sự thờ phượng thực tình. Họ dâng những của lễ ô uế vì tội của họ và vì các vết máu.
Hỡi kẻ tục hóa phép lạ, tục hóa con người. Hỡi kẻ sát nhân, kẻ phạm thánh! Hãy ra ngoài! Hãy lánh xa khỏi mặt Ta! Đủ rồi! Ta nói: Đủ rồi! Và Ta có thể nói vậy, vì Ta là Lời của Thiên Chúa, là sự bộc lộ Tư Tưởng của Thiên Chúa. Hãy đi khỏi đi!
Giêsu đứng trên diễn đàn tội nghiệp của Người, trông dễ sợ vì vẻ nghiêm nghị của Người. Tay giơ ra, chỉ vào cửa vô. Đôi mắt Người như các ngọn lửa xanh, như giáng sét trên các kẻ đắc tội hiện diện. Đứa trẻ ngồi ở chân Người bắt đầu khóc và chạy về với má nó. Các môn đệ nhìn nhau ngạc nhiên và tìm coi xem sự nghịch đảo này hướng về ai. Đám đông cũng quay lại với cái nhìn nghi vấn.
Sau cùng, đây, bí nhiệm được giải thích: Tận đáy, ở bên ngoài cửa, sau đám dân khổ người cao, Doras đang lấp ló. Ông ta còn khô khẳng hơn, vàng khè, nhăn nheo, khuôn mặt chỉ thấy mũi và cằm. Một người đầy tớ đi với ông để giúp ông di chuyển, vì ông có vẻ như hơi bị ngộ nạn.Vậy ai có thể nhận ra ông ta ở đó, ngoài giữa sân? Ông ta dám nói bằng cái giọng rè rè của ông: “Ông nói với chính tôi sao? Ông nói cho tôi sao?”
- Đúng, cho ông. Hãy ra khỏi nhà tôi.
- Tôi ra. Nhưng chúng ta sắp sửa tính sổ. Đừng nghi ngờ.
- Sắp sửa à? Ngay lập tức chứ. Tôi đã nói với ông rồi: Thiên Chúa núi Sinai đang chờ ông.
- Cả ông nữa, tên gian ác, đã làm cho những bất hạnh và các con vật có hại cho đất đai đến với ta. Chúng ta sẽ gặp lại nhau. Và lúc
639
đó sẽ là niềm vui cho ta.
- Đúng. Và ông sẽ không muốn gặp tôi nữa, vì tôi, tôi sẽ xét xử ông.
- A! A! khốn kiếp!... - Ông ta quờ quạng, rối ren, lẩm bẩm và vật ngã.
- Ông ta chết rồi! - người đầy tớ kêu lên. “Ông chủ chết rồi! Chúc tụng Ngài, Đấng Messi, kẻ báo thù cho chúng tôi!”
- Không, không phải Thầy, Thiên Chúa, Chúa muôn đời. Đừng ai làm mình ra ô uế. Người đầy tớ hãy lo cho chủ của anh. Và hãy tốt với thi thể. Hãy tốt, tất cả các con, đầy tớ của ông. Đừng vì oán ghét mà vui vì cái chết của ông để không bị phạt. Nguyện Thiên Chúa và người công chính Jonas luôn luôn là bạn của các con, và Thầy cùng với các vị. Chào.
- Nhưng không phải ông ta chết bởi ý muốn của Thầy sao? - Phêrô hỏi.
- Không. Nhưng Chúa Cha ở trong Thầy... Đó là một mầu nhiệm mà con không thể hiểu. Hãy chỉ biết rằng không được phép tấn công Thiên Chúa. Chính Người sẽ báo thù.
- Nhưng Thầy không thể nói với Chúa Cha làm chết hết những kẻ ghét Thầy sao?
- Nín đi! Con không biết con có tinh thần nào! Thầy là Tình Thương chứ không phải Sự Báo Thù.
Ông già trưởng giáo đường lại gần: “Thưa Thầy, Thầy đã trả lời hết mọi câu hỏi của con, và ánh sáng đã ở trong con. Xin chúc tụng Thầy. Xin hãy tới trong giáo đường của con. Xin đừng từ chối lời Thầy với một ông già”.
- Thầy sẽ tới. Hãy đi bình an. Chúa ở cùng ông.
Tất cả chấm dứt khi đám đông từ từ ra về.
94* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP.
BA MÔN ĐỆ CỦA ÔNG TẨY GIẢ
Đây là một ngày mùa đông trong sáng. Có gió và mặt trời trong bầu trời thanh quang, thuần nhất, không một gợn mây. Ngày vừa ló rạng, vẫn còn một lớp băng giá mỏng, đúng ra là sương gần đóng
640
băng, tựa như bụi kim cương trên đất và cỏ cây.
Có ba người đang đi về phía căn nhà với bước chân vững vàng của người biết chắc mình đi đâu. Sau cùng họ nhận ra Gioan ở phía bên kia sân, đang xách những vò nước mà ông kín ở giếng. Họ gọi ông.
Gioan quay lại, đặt các vò xuống đất và nói: “Các anh ở đây? Hoan hô. Thầy sẽ gặp các anh với niềm vui. Vào đi, vào đi, trước khi đám đông tới. Bây giờ rất đông người đến đây!...”
Đó là ba người mục đồng, môn đệ ông Tẩy Giả: Simêon, Gioan và Mathia. Họ vui mừng đi theo vị tông đồ.
- Thưa Thầy, đây là ba người bạn. Thầy coi - Gioan nói khi bước vào căn nhà bếp, nơi có một ngọn lửa lớn vui vẻ được đốt bằng cành cây, tỏa ra mùi gỗ và mùi cành nguyệt quế cháy.
- Ôi! Bình an cho các con, các bạn Thầy. Làm sao các con lại tới gặp Thầy? Có sự chẳng lành cho ông Tẩy Giả?
- Thưa Thầy không. Chúng con đến với phép của ông. Ông chào Thầy và xin Thầy gởi gắm nơi Thiên Chúa con sư tử bị xạ thủ theo đuổi. Ông không ám chỉ số phận của ông, vì lúc này ông tự do, và ông sung sướng vì ông biết Thầy có nhiều tín hữu, kể cả những người trước kia là người của ông. Thưa Thầy... chúng con cũng nôn nóng được như vậy, nhưng... chúng con không muốn bỏ rơi ông trong lúc này là lúc ông bị theo dõi. Xin Thầy hiểu cho chúng con...
- Simêon nói.
- Chắc chắn Thầy chúc phúc cho các con về điều các con làm. Ông Tẩy Giả xứng đáng tất cả sự kính trọng và tất cả tình yêu.
- Vâng, Thầy nói đúng. Ông thật lớn, ông Tẩy Giả, và càng ngày càng lớn. Ông nhắc ta nhớ tới cây dứa gai, sau khi chết, nó mọc lên một cái trụ lớn, với bông hoa bảy cánh đỏ như lửa và tỏa ra mùi thơm. Ông cũng giống vậy. Ông luôn luôn nói: “Tôi chỉ muốn gặp Người một lần nữa...” Gặp Thầy. Chúng con đã đón nhận tiếng kêu này của linh hồn ông và đem đến cho Thầy mà không nói với ông. Ông là “Sự Sám Hối” và “Sự Kiêng Khem”, mà ông còn làm sự hy sinh về ước mong thánh của ông là gặp Thầy và nghe Thầy. Con là
641
Tobie, bây giờ là Mathia. Nhưng con nghĩ rằng vị Tổng Lãnh thiên thần đã được sai đến cho Tobie trẻ cũng không khác gì ông. Tất cả nơi ông là sự khôn ngoan.
- Không phải là Thầy không gặp ông nữa... Nhưng có phải vì vậy mà các con đến không? Việc đi lại khó khăn về mùa này. Hôm nay trời đẹp, nhưng ba ngày vừa qua, mưa chừng nào trên đường!
- Không phải chỉ vì vậy. Mấy ngày trước đây, Doras, ông pharisiêu, đến để xin thanh tẩy, nhưng ông Tẩy Giả từ chối phép rửa khi nói: “Nước không thấm qua một lớp vỏ tội lỗi như vậy được. Chỉ có một người có thể tha cho ông: Đấng Messi”. Lúc đó ông ta nói: “Tôi sẽ đi tìm ông ấy. Tôi muốn được khỏi, và tôi nghĩ rằng bệnh hoạn này xảy tới do sự nguyền rủa của ông ấy”. Lúc đó ông Tẩy Giả đuổi ông đi như xua đuổi Satan. Và ông ta, lúc ra đi, ông gặp Gioan, người mà ông hơi biết từ ngày anh ấy tới gặp Jonas là người hơi có họ với anh, ông ta nói: “Tôi sẽ tới đó. Mọi người đều tới đó, cả Manaen cũng tới, và cho tới...(con nói là các gái điếm, nhưng ông ta nói một danh từ ghê tởm hơn) cũng tới đó. Nước Đẹp đầy những người ảo tưởng. Bây giờ nếu ông ta chữa tôi và lấy đi cho tôi lời nguyền rủa trên đất đai, bị từng đạo quân chuột chũi bới như các máy móc chiến tranh; bị sâu và dế chũi ăn hết các hạt, các rễ của các cây ăn trái và cây nho, vì không có phương tiện nào diệt hết được chúng, tôi sẽ trở thành bạn của ông ta. Bằng không... khốn cho ông ta!” Chúng con đã trả lời ông: “Ông tới đó với những tình cảm này sao?” Ông trả lời: “Nhưng ai thèm tin cái tên qủi sứ này? Ngoài ra, cũng như ông ta đón nhận các gái điếm, ông ta cũng có thể đồng minh với tôi”. Chúng con muốn đến nói với Thầy, để Thầy có thể biết cách xử trí với Doras.
- Tất cả đã xong.
- Xong rồi? A! Đúng vậy! Ông ta có xe và ngựa, chúng con chỉ có chân. Ông ta đến hồi nào vậy Thầy?
- Hôm qua.
- Vậy là ông ta đã đến hôm qua?
- Đây: nếu các con có ý lo cho Doras, các con có thể tới nhà ông
642
ở Jêrusalem để dự đám táng. Người ta đang sửa soạn cho ông để đem ra mồ.
- Chết rồi?!!
- Chết. Ở đây. Nhưng chúng ta đừng nói tới Doras nữa.
- Thưa Thầy, vâng... xin Thầy chỉ nói cho chúng con một điều thôi: điều ông ta nói về Manaen có thật không?
- Thật. Điều đó làm các con không vui?
- Ôi! Đó là niềm vui của chúng con. Chúng con đã nói cho ông biết bao về Thầy tại Machéronte. Một người môn đệ muốn gì, nếu không phải là muốn cho thầy mình được yêu? Đó là điều Gioan muốn, và chúng con cũng muốn như ông.
- Con nói đúng, Mathia. Sự Khôn Ngoan ở với con.
- Và con... Con đã không tin ông. Nhưng bây giờ, chúng con đã gặp bà... kể cả bà đã đến nhà chúng con để tìm Thầy hồi trước lễ Lều và chúng con đã bảo bà: “Vị mà bà tìm không có ở đây, nhưng Người sắp sửa tới Jêrusalem mừng lễ Lều”. Chúng con đã nói với bà vậy vì ông Tẩy Giả đã bảo chúng con: “Các anh thấy người đàn bà tội lỗi này: Đó là một lớp vỏ của rác rến. Nhưng ở bên trong bà có một ngọn lửa sắp sửa cháy lên và trở nên mạnh tới nỗi nó bẻ tan lớp vỏ và tất cả sẽ cháy thiêu. Rác rến sẽ tiêu đi và chỉ còn lại lửa”. Ông đã nói như vậy. Nhưng... Có phải là bà ta ngủ ở đây, theo như hai luật sĩ mạnh thế tới nói không?
- Không, bà ngủ trong chuồng súc vật của người quản lý ở cách đây khoảng hai trăm mét.
- Lưỡi hỏa ngục. Anh nghe không? Vậy mà họ!...
- Hãy để họ nói. Những người tốt không tin ở lời họ, nhưng ở công việc của Thầy.
- Đó cũng là điều Gioan nói. Mấy ngày trước đây, vài người môn đệ nói với ông trước mặt chúng con: “Thưa Thầy, người đã ở với Thầy ở bên kia sông Giođan, người mà Thầy đã làm chứng cho, bây giờ ông cũng làm phép rửa, và mọi người đều đến với ông. Thầy sắp sửa không còn môn đệ”.
Và Gioan đã trả lời: “Phúc cho lỗ tai tôi được nghe những lời này! Các anh không biết các anh đã cho tôi niềm vui chừng nào.
643
Hãy biết rằng loài người sẽ không có gì nếu trên Trời không ban cho. Các anh có thể làm chứng rằng Thầy đã nói: ‘Thầy không phải Đấng Kitô, nhưng là kẻ được sai đi trước Người để dọn đường cho Người’. Người công chính không nhận lấy cho mình cái danh hiệu không phải là của mình. Cả đến nếu có ai ca tụng ông và nói: ‘Chính Thầy là đấng đó’, tức là Đấng Thánh, ông nói: ‘Không, thực sự không. Tôi là tôi tớ của Người’. Và ông cảm thấy niềm vui lớn, vì ông nói: ‘Đó là vì tôi được giống Người một chút, nếu có ai có thể tưởng tôi là Người’. Và kẻ yêu thì muốn gì, nếu không phải là giống người mình yêu? Chỉ có người vợ được hưởng người chồng. Kẻ tham dự vào đám cưới không thể hưởng, vì đó là vô luân và ăn cắp. Nhưng bạn của chú rể đứng ở bên chú, nghe những lời nói đầy niềm vui phu thê của chú, họ cũng cảm thấy một niềm vui sống động tới nỗi nó cũng hơi giống niềm vui đã làm cho người trinh nữ mà bạn họ đã cưới được sung sướng, và họ cũng nếm mật ngọt của các lời nói phu thê. Đó là niềm vui của tôi, và nó trọn vẹn. Người bạn của chú rể làm gì nữa, sau khi đã phục vụ chú hàng tháng trước, và sau khi đã hộ tống cô dâu tới nhà cho chú? Họ rút lui và biến đi. Đối với tôi cũng vậy! Chỉ còn lại chú rể với cô dâu: Người với loài người. Ôi! Lời nó sâu xa! Người phải lớn lên và tôi phải nhỏ lại. Đấng từ Trời mà xuống thì ở bên trên tất cả. Các tổ phụ, các tiên tri biến mất khi Người đến, vì Người giống như mặt trời soi sáng tất cả bằng một ánh sáng mạnh tới nỗi các thiên thể và các hành tinh đã tắt cũng được mặc lại ánh sáng của Người, và những gì tự nó là bóng tối đều biến mất trong sự huy hoàng tuyệt đỉnh của Người. Người là như vậy đó, vì Người từ trời mà xuống, trong khi các tổ phụ và các tiên tri phải lên trời, nhưng không lên được. Đấng từ Trời mà đến thì ở bên trên tất cả, và Người loan báo những gì Người đã thấy và đã nghe. Nhưng không ai có thể nhận lời chứng của Người nếu họ không hướng về trời, và bởi vậy họ từ chối Thiên Chúa. Ai nhận lời chứng của đấng từ trời mà xuống, thì bởi lòng tin của họ, họ đóng ấn đức tin của họ nơi Thiên Chúa thật, và đó không phải là chuyện ngụ ngôn không có sự thật. Họ cảm thấy Chân Lý, vì họ có một linh hồn tìm Chân Lý. Vì đấng mà Thiên Chúa đã sai,
644
nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thánh Linh cho Người một cách sung mãn, và Thánh Linh nói: ‘Ta đây. Hãy nhận lấy Ta. Ta muốn ở với Con. Con là sự ngon lành thú vị của Tình Yêu chúng ta’. Vì Chúa Cha yêu Chúa Con vô hạn và đã đặt tất cả trong tay Người. Vậy kẻ tin vào Chúa Con thì có sự sống đời đời. Nhưng kẻ từ chối tin vào Chúa Con thì sẽ không thấy Sự Sống, và cơn thịnh nộ của Thiên Chúa ở trên nó và ở trong nó”.
Ông đã nói như vậy. Những lời này đã khắc vào tâm hồn con để con nói lại cho Thầy - Mathia nói.
- Và Thầy, Thầy khen con và Thầy cám ơn con. Vị tiên tri sau cùng của Israel không phải là đấng từ trời xuống, nhưng đã được đặc hưởng các ơn của Thiên Chúa ngay từ trong lòng mẹ ông - các con không biết, nhưng Thầy biết, và Thầy nói điều đó cho các con - đó là kẻ ở gần Trời nhất.
- Cái gì? Cái gì? Ôi! Xin Thầy kể đi. Ông nói về chính mình ông: “Tôi là kẻ có tội”. Ba người mục đồng hồi hộp muốn biết, và cả các môn đệ cũng có cùng ước ao.
- Khi Mẹ Thầy mang Thầy, mang thai Thầy-Thiên-Chúa, vì Mẹ khiêm nhường và yêu thương, Mẹ đi giúp mẹ của Gioan là chị họ của Mẹ về phía mẹ của mẹ, bà đang mang thai trong tuổi già. Gioan Tẩy Giả đã có linh hồn của ông, vì ông đang ở trong tháng thứ bảy trong sự thành lập con người của ông. Khép kín trong lòng mẹ, ông đã nhảy mừng khi nghe tiếng người hiền thê của Thiên Chúa. Ông cũng là vị Tiền Hô bởi sự kiện là ông đi trước các người được cứu chuộc, vì Ân Sủng tràn từ lòng dạ nọ qua lòng dạ kia, nó thâm nhập vào và Tội Nguyên Tổ của đứa trẻ biến đi. Vậy Thầy nói rằng trên trái đất có ba người có sự Khôn ngoan: Ngôi Lời với Mẹ Người và vị Tiền Hô, cũng như trên Trời có Ba: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
- Linh hồn chúng con đầy ngạc nhiên... hầu giống như lúc chúng con được nghe nói: “Đấng Messi đã sinh ra...” Thầy là vực thẳm Tình Thương, Gioan của chúng con là vực thẳm khiêm nhường.
- Mẹ Thầy là vực thẳm của Trong Sạch, Ân Sủng, Bác Ái,Vâng
645
Lời, Khiêm Nhường và tất cả các nhân đức khác mà nguồn mạch là Thiên Chúa, và Thiên Chúa đổ vào trong các thánh của Người.
Giacôbê nói: “Thưa Thầy có rất nhiều người tới”.
- Vậy các con cũng hãy tới.
Đám đông thật lớn.
- Bình an cho các con - Giêsu nói, tươi cười như ít khi thấy. Người ta nói chuyện và chỉ ngón tay. Có rất nhiều tò mò.
- Có lời chép: “Đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi”.
Người ta qúa hay quên giới răn này. Chúng ta thử thách Thiên Chúa khi chúng ta muốn áp đặt Người theo ý muốn của chúng ta. Người ta thử thách Thiên Chúa khi họ hành động cách thiếu thận trọng, ngược với các qui tắc của Lề Luật thánh và toàn vẹn, tức là các điều thiêng liêng và chính yếu, để săn sóc và lo lắng cho thân xác mà Thiên chúa đã dựng nên. Người ta thử thách Thiên Chúa khi, sau khi đã nhận được ơn tha thứ của Người, họ lại trở về với tội lỗi. Người ta thử thách Thiên Chúa khi, sau khi đã nhận các ơn của Người, họ làm nảy sinh ra những thiệt hại bằng cách dùng các ơn ấy một cách ích kỷ, không nghĩ tới tác giả của chúng. Người ta không được đùa dỡn với các ơn của Thiên Chúa và không được chế nhạo Người. Điều đó qúa hay xảy ra.
Hôm qua các con đã thấy hình phạt giáng trên những kẻ chế nhạo. Thiên Chúa hằng hữu, đầy tình thương với kẻ sám hối, nhưng nghiêm khắc với kẻ không sám hối và không chịu thay đổi. Các con đến với Thầy để nghe lời của Thiên Chúa. Các con đến với Thầy để được phép lạ. Các con đến với Thầy để được ơn tha thứ. Và Thầy, Thầy không hối tiếc Thiên Đàng, vì Thầy muốn ban cho các con phép lạ và ơn tha thứ, và Thầy có thể làm cho các con biết Thiên Chúa.
Người đã ngã gục hôm qua, bị giáng sét giống như Nadab và Abiu, bởi lửa của cơn giận Thiên Chúa. Nhưng với các con, các con đừng xét đoán. Chỉ có điều là sự kiện đã xảy ra, một phép lạ mới, phải làm cho các con suy nghĩ về cách hành động thế nào để có Thiên Chúa làm bạn. Ông ta muốn nước của sám hối, nhưng không
646
muốn tinh thần siêu nhiên. Ông ta muốn nước này với tâm địa loài người, coi như đó là một thực hành ma thuật có thể chữa cho ông bệnh tật và lấy đi cho ông sự bất hạnh. Ông không có mục đích nào khác ngoài thân xác ông và mùa thu hoạch của ông. Không có gì cho linh hồn tội nghiệp của ông. Nó không có giá trị đối với ông. Điều đáng kể đối với ông là sự sống và tiền bạc.
Thầy nói: con tim ở đâu thì kho báu ở đó, và kho báu ở đâu thì con tim ở đó. Vậy kho báu ở trong con tim. Trong con tim của ông chỉ có cái khát sống và có nhiều của cải. Làm sao để có nó? Bằng bất cứ phương tiện nào, kể cả tội ác. Vậy xin phép rửa chẳng là thử thách Thiên Chúa và chế nhạo Người sao? Chỉ cần một sự sám hối chân thành vì một đời sống dài tội lỗi là có thể được một cái chết thánh, và ngay cả những điều ông có thể có một cách công chính trên trái đất. Nhưng ông không sám hối. Vì không bao giờ yêu ai ngoài chính ông, ông đi tới chỗ không yêu cả chính mình, vì sự hận thù giết cả tình yêu thuộc về loài vật và tình yêu ích kỷ mà người ta có với chính mình. Chính nước mắt của một kẻ sám hối chân thành phải là nước xá giải của ông. Và phải như vậy đối với tất cả các con đã nghe Thầy, vì không ai là không có tội, và bởi vậy mọi người đều cần tới thứ nước này. Được ép ra từ con tim, nó vọt ra, nó rửa, nó trả lại sự trinh trong cho những gì đã bị tục hoá, nó nâng kẻ ngã dậy, nó trả lại sức lực cho kẻ mà tội lỗi đã làm cho chảy hết máu. Người đó chỉ lo lắng cho những thứ khốn nạn của trái đất, nhưng chỉ có một thứ khốn nạn mà người ta phải suy nghĩ, đó là sự khốn nạn đời đời do bị mất Thiên Chúa. Người này không quên dâng các của theo nghi thức, nhưng ông không biết dâng cho Thiên Chúa một sự hy sinh thiêng liêng, tức là xa lánh tội lỗi, làm việc sám hối, cầu xin ơn tha thứ bằng các hành động của ông. Những của lễ giả hình, được dâng bằng những của cải chiếm được cách bất chính, giống như mời Thiên Chúa làm đồng lõa với những hành động xấu của người ta. Điều đó có thể xảy ra không? Hành động táo bạo này chẳng là chế nhạo Thiên Chúa sao? Thiên Chúa đẩy ra xa Người kẻ nói: “Đây là lễ hy sinh của tôi”, nhưng nó nóng lòng muốn tiếp
647
tục đời sống tội lỗi của nó. Việc chay tịnh thân xác có ích gì nếu linh hồn không chay tịnh tội lỗi?
Mong rằng cái chết đã xảy ra cho người đó làm cho các con suy nghĩ về các điều kiện tối cần để thực sự được Thiên Chúa yêu. Bây giờ, trong lâu đài giầu sang của ông, các người bà con và các người khóc mướn đang lo tang chế trên thân xác mà người ta sắp sửa đem ra mồ.
Ôi! Một đám tang thực sự và một xác chết thực sự. Ông ta chỉ còn là một xác chết! Không còn gì khác ngoài một tang chế không hy vọng. Vì linh hồn đã chết, sẽ muôn đời xa cách với những kẻ ông yêu vì tình họ hàng hay vì hợp tư tưởng. Và dù nếu đời sống giống nhau có xum họp họ, thì sự thù ghét ngự trị ở đó cũng phân chia họ. Và như vậy cái chết sẽ là một sự chia cách thực sự. Giá thay vì được những người khác khóc, ông ta đã khóc cho chính mình khi ông giết chết linh hồn ông, và nhờ nước mắt sám hối và khiêm nhường, ông trả lại sự sống cho linh hồn ông với sự tha thứ của Thiên Chúa.
Hãy đi, đừng thù ghét, đừng bình luận, đừng có gì khác ngoài sự khiêm nhường. Cũng như Thầy không thù ghét, Thầy chỉ nói về ông với sự phê phán đúng đắn. Đời sống và cái chết dạy cho người ta biết sống tốt và chết tốt, để chinh phục Đời Sống không còn chết nữa. Bình an cho các con.
Không có người bệnh, không có phép lạ nên Phêrô nói với ba môn đệ của ông Tẩy Giả: “Tôi bực mình cho các anh”.
- Ôi! Không nên. Chúng tôi tin dù không thấy. Chúng tôi đã có phép lạ trong ngày Người sinh ra làm cho chúng tôi tin. Bây giờ chúng tôi có lời Người để xác nhận đức tin của chúng tôi. Chúng tôi chỉ cầu xin biết trung thành tới ngày về trời như Jonas, anh em của chúng tôi.
Tất cả chấm dứt.
95* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP:
“ĐỪNG ƯỚC MUỐN VỢ CHỒNG NGƯỜI KHÁC”
648
Giêsu đi qua một dân nhỏ thực sự, họ gọi Người tứ phía: kẻ thì chỉ trỏ các vết thương, người thì kể lể những bất hạnh. Có người chỉ giới hạn ở câu nói: “Xin Thầy thương con”, có người giơ con nhỏ của họ cho Người để Người chúc lành cho nó. Một ngày thanh quang và không có gió, nên rất nhiều, rất nhiều người tới.
Khi Giêsu đã gần tới chỗ của Người, thì từ lối mòn dẫn ra bờ sông vọng tới một tiếng than: “Lạy con vua Đavít, xin thương kẻ khốn nạn!”
Giêsu quay về hướng đó, cả các môn đệ và đám đông cũng vậy. Nhưng một bụi hoàng dương rậm che khuất kẻ van nài.
- Con là ai? Hãy tiến lên.
- Con không thể. Con ô nhiễm. Con phải đến gặp thầy cả để bị đuổi khỏi thế giới người sống. Con đã phạm tội nên bệnh cùi đã xuất hiện trên cơ thể con. Con trông cậy nơi Thầy.
- Một người cùi! Một người cùi! Nguyền rủa! Chúng ta hãy ném đá nó - đám đông náo động ồn ào.
Giêsu làm một cử chỉ áp đặt sự yên lặng và bất động: “Nó không ô uế hơn kẻ ở trong tội lỗi. Trước mắt Thiên Chúa, kẻ ở trong tội lỗi không chịu sám hối còn ô uế hơn người phong cùi biết sám hối này. Ai có thể tin thì hãy đi với Thầy”.
Các môn đệ và một số người tò mò đi theo Người. Những người khác nghển cổ lên nhìn, nhưng họ ở lại tại chỗ của họ.
Giêsu rời xa nhà và từ con đường mòn, Người hướng về bụi cây. Nhưng rồi Người đứng lại và ra lệnh: “Hãy ra mặt”.
Đây, từ bụi cây đi ra một người đàn ông còn rất trẻ, chỉ mới hơn tuổi thiếu niên một tí, còn đẹp trai với khuôn mặt hơi có bóng một bộ ria đang thành lập và hàm râu còn thưa thớt. Khuôn mặt còn tươi mát và đầy đặn, với đôi mắt đẫm nước mắt.
Một tiếng kêu lớn chào Người, phát ra từ một nhóm phụ nữ, tất cả đều trùm khăn. Các bà đã khóc ở trong sân nhà. Khi Giêsu đi qua, các bà khóc mạnh hơn trước sự dọa nạt của đám đông: “Con trai tôi!” một người đàn bà sụm xuống trong tay một bà khác, họ
649
hàng hay bạn bè, tôi không biết.
Giêsu tiến lại gần kẻ khốn nạn: “Con còn rất trẻ! Chứng cùi này từ đâu mà tới?”
Người thanh niên cúi mặt, xấu hổ, ấp úng, nhưng không dám làm gì hơn. Giêsu nhắc lại câu hỏi. Anh ta nói vài lời rõ hơn, nhưng chỉ nghe được mấy tiếng này: “... ba con... con đi... và chúng con đã phạm tội... không phải chỉ có mình con...”
- Kia, mẹ con trông cậy và khóc. Trên Trời có Thiên Chúa biết. Ở đây có Thầy cũng biết. Nhưng để có thể thương, Thầy cần sự khiêm nhường của con. Hãy nói đi.
- Con ơi! Hãy nói đi. Hãy thương đến lòng dạ đã cưu mang con - bà mẹ rên rỉ. Bây giờ bà lết tới tận bên Giêsu, một tay vô tình nắm lấy vạt áo Người, tay kia giơ ra về phía con bà và để lộ ra khuôn mặt tàn tạ vì nước mắt.
Giêsu đặt tay trên đầu anh ta: “Nói đi” người nhắc lại.
- Con là con cả, và con giúp ba con trong việc thương mại của ông. Ông đã sai con đi Jêricô nhiều lần để nói chuyện với các khách của ông, và... có một người... một người có bà vợ trẻ đẹp... Con thích... con thích bà. Con đã tới đó nhiều hơn là cần thiết... Bà thích con... chúng con muốn nhau và... chúng con đã phạm tội trong khi ông chồng bà vắng nhà. Con không biết làm sao lại như vầy, vì bà lành mạnh. Đúng, không phải chỉ có con lành mạnh và con muốn bà... nhưng bà cũng lành mạnh và bà muốn con. Con không biết có phải... có phải đồng thời với con, bà có những tình nhân khác nhiễm uế không... Con chỉ biết rằng trên mình bà, bệnh cùi phát triển lập tức, và bà đã ở giữa các mồ mả, bị kết án chết sống... Còn con... còn con... Má ơi! Má thấy đó, không nhiều gì, nhưng người ta bảo đây là bệnh cùi... và con sẽ chết vì nó... bao giờ?... Không còn đời sống, không còn nhà cửa... không còn má!...Ôi! Má ơi ! Con thấy má mà con không thể hôn má! Hôm nay họ sẽ đến xé bỏ quần áo của con và đuổi con ra khỏi nhà, khỏi xứ... như vậy còn tệ hơn là chết. Và con sẽ không có cả đến nước mắt của má con trên xác
650
chết của con...
Người thanh niên khóc. Bà mẹ giống như một cây bị gió lay, vì bà lay lắc vì nức nở. Đám đông thảo luận và phân chia trong những tình cảm đối lập.
Giêsu buồn. Người nói: “Khi con phạm tội, con đã không nghĩ tới mẹ con? Con đã điên tới nỗi con không còn nhớ rằng con có một bà mẹ ở dưới đất và một Thiên Chúa ở trên Trời? Và nếu bệnh cùi không xuất hiện thì con sẽ không bao giờ nhớ rằng con đã xúc phạm tới Thiên Chúa và tha nhân? Con đã làm gì cho linh hồn con... cho tuổi trẻ của con?”
- Con bị cám dỗ...
- Phải chăng con là một đứa trẻ để không biết cái trái cây bị nguyền rủa này? Con đáng chết mà không được Thầy thương.
- Ôi! Xin thương. Một mình Thầy, Thầy có thể...
- Không phải Thầy. Thiên Chúa. Nếu con thề trên cánh đồng này là sẽ không phạm tội nữa.
- Con thề. Con thề. Chúa ơi, xin cứu con. Con chỉ còn vài giờ nữa trước lúc bị kết án. Má ơi!... Má ơi! Hãy giúp con bằng nước mắt của má!... Ôi! Má của con ơi!
Người đàn bà không còn lời nữa. Bà chỉ bám vào chân Giêsu và ngửa khuôn mặt sưng phù vì đau đớn. Khuôn mặt bi thảm của kẻ sắp chết chìm và biết rằng đây là vật duy nhất có thể nâng đỡ mình và cứu mình.
Giêsu nhìn bà, thương xót mỉm cười với bà: “Đứng lên đi bà mẹ. Con bà được khỏi, vì lẽ bà chứ không phải vì lẽ nó”.
Người đàn bà còn ngập ngừng. Ở một khoảng cách, bà thấy hình như vậy, nhưng không lẽ nào nó đã được khỏi, và giữa những tiếng nấc, bà làm một dấu hiệu phủ định.
- Này con, hãy cởi áo, để lộ ngực ra, đó là nơi con có những dấu vết, để mẹ con được an ủi.
Người thanh niên liền tụt áo xuống, để mình trần trước mặt mọi người. Anh ta chỉ có làn da đồng nhất, nhẵn nhụi của người trai trẻ khỏe mạnh.
651
- Hãy nhìn đó, bà mẹ - Giêsu nói, và Người cúi xuống để đỡ người đàn bà lên. Đó cũng là cử chỉ để giữ bà ta lại, vì khi thấy phép lạ, tình yêu người mẹ thúc đẩy bà nhào tới với con bà mà không chờ anh ta thanh tẩy. Nhận thấy không thể tới nơi tình mẫu tử của bà thúc đẩy, bà liền nhào vào ngực Giêsu, hôn Người trong sự mê sảng thực sự vì vui. Bà khóc, cười, hôn, chúc tụng... Giêsu vuốt ve bà với tình thương. Rồi Người nói với người thanh niên: “Hãy đi tìm thầy cả, và hãy nhớ rằng Thiên Chúa chữa cho con là vì mẹ con, để trong tương lai, con sống công chính. Đi đi!”
Người thanh niên ra đi sau khi đã chúc tụng Vị Cứu Tinh. Bà mẹ theo anh ở xa xa cùng với những người tháp tùng bà. Đám đông hô lên những tiếng vạn tuế.
Giêsu trở về chỗ của Người
- Anh đó cũng quên rằng có một Thiên Chúa đã truyền lệnh phải sống ngay thẳng. Anh ta quên rằng không được phép đặt bất cứ cái gì không phải là Thiên Chúa lên làm Thiên Chúa. Anh ta đã quên thánh hóa ngày Sabát như Thầy đã dạy. Anh ta đã quên kính trọng tình yêu đối với mẹ anh. Anh ta đã quên rằng không được làm điều tà dâm, không được ăn cắp, gian dối, không được ước muốn vợ người khác, không được giết mình cũng như giết linh hồn mình, không được gian dâm. Anh ta đã quên hết. Các con coi anh ta đã bị phạt như thế nào.
“Đừng ước muốn vợ chồng người khác”. Điều đó chỉ là một với: “Đừng gian dâm”. Vì ước muốn luôn luôn đi trước hành động. Người ta qúa yếu đuối để có thể ước ao mà không thoả mãn sự ước ao. Nhưng điều đáng buồn cực điểm là họ không biết làm như vậy đối với những ước ao tốt. Trong điều xấu, ước ao rồi hoàn thành; trong điều tốt, ước ao rồi người ta dừng lại, khi họ không trở lui về đàng sau.
Như Thầy đã nói với anh ta, Thầy cũng nói với tất cả các con, vì cái tội bởi ước ao nó lan ra như cây cỏ gấu, nó phát triển một mình: Các con có phải là những con nít để không biết rằng cái cám dỗ này là một thứ thuốc độc cần phải chạy trốn không? “Con bị cám dỗ!” Đó là câu nói qúa xưa rồi! Nhưng vì đó là gương người xưa,
652
nên phải nhớ các hậu qủa của nó và phải biết nói: “không”. Lịch sử của chúng ta không thiếu những gương mẫu trong trắng, biết giữ mình, mặc dầu sự cám dỗ của phái khác và những đe dọa hành hung.
Cám dỗ có phải là điều xấu không? Không. Đó là công việc của ma qủi, nhưng nó biến thành vinh quang cho kẻ chiến thắng nó.
Người chồng đi đến với những tình yêu khác là kẻ sát nhân của vợ con nó và của chính nó. Kẻ đi vào nơi ở của kẻ khác để phạm tội gian dâm là kẻ ăn cắp đê hèn nhất. Giống như con chim tu hú, nó lợi dụng tổ của người khác cách miễn phí. Kẻ đánh lừa sự tin cẩn của bạn bè là kẻ gian dối, vì nó bày tỏ một tình bạn mà thực tế nó không có. Kẻ hành động như vậy là làm nhục cho chính mình và làm nhục cho cha mẹ nó. Nó có thể có Thiên Chúa ở với nó không?
Thầy đã làm phép lạ vì thương người mẹ tội nghiệp này. Nhưng sự dâm đãng làm Thầy ghê tởm tới nỗi Thầy phản động với nó. Các con đã kêu lên vì sợ và ghê tởm bệnh cùi. Đối với Thầy, linh hồn Thầy kêu lên vì ghê tởm sự dâm dục. Hết mọi sự khốn nạn bao quanh Thầy, và Thầy là Vị Cứu Tinh cho tất cả, nhưng Thầy thích đụng vào một người chết, vào thân xác của một người công chính đang thối rữa, mà linh hồn họ đang ở trong bình an, còn hơn là tới gần một kẻ dâm đãng. Thầy là Vị Cứu Tinh, nhưng Thầy vô tội. Mong rằng tất cả những ai đến đây, hay những ai nói về Thầy bằng cách ghép cho Thầy những khát vọng bốc men nơi họ, họ hãy nhớ điều đó.
Thầy hiểu rằng các con muốn một cái gì khác nơi Thầy, nhưng Thầy không thể được. Sự hủy hoại của một tuổi trẻ vừa mới thành hình mà bị phá hủy bởi các khát vọng làm Thầy bồn chồn hơn là nếu Thầy đã đụng vào người chết. Chúng ta hãy đến với các người bệnh. Vì sự buồn nôn làm Thầy bị nghẹn, Thầy không thể là Lời, nên Thầy sẽ là sự cứu thoát cho những ai trông cậy nơi Thầy.
Bình an cho các con.
Thực sự, Giêsu tái mét, tựa như Người đau đớn. Người chỉ tìm lại được nụ cười khi Người cúi xuống trên những đứa trẻ bệnh và
653
trên những người bại liệt nằm trên băng ca. Lúc đó Người lại trở nên chính Người, nhất là khi Người đặt ngón tay vào miệng đứa trẻ khoảng mười tuổi bị câm và dạy nó nói: “Giêsu”, rồi: “Má”.
Người ta từ từ ra về. Giêsu ở lại đi dạo trong sân đầy mặt trời cho tới khi Iscariot đến nói với Người: “Thưa Thầy, con không an lòng...”
- Làm sao vậy Judas?
- Vì lẽ những người ở Jêrusalem... Con biết họ. Xin Thầy để con đi về đó vài ngày. Con không xin Thầy sai con đi. Trái lại, con xin Thầy điều khác: Hãy cho con đi cùng với Simon và Gioan, những người đã là bạn rất tốt của con trong cuộc hành trình thứ nhất tại Juđê. Một người thì giữ con lại, một người thì thanh tẩy tư tưởng của con. Thầy không thể tin được Gioan đã là gì cho con! Đó là làn sương làm êm sự sốt nóng của con, và là lớp dầu trên mặt nước dao động của con... Thầy tin đi.
- Thầy biết. Bởi vậy con đừng ngạc nhiên nếu Thầy yêu nó như vậy. Đó là sự bình an của Thầy. Nhưng con cũng vậy, nếu con luôn luôn tốt, con sẽ là sự an ủi của Thầy. Con được rất nhiều ơn Thiên Chúa, nếu con dùng nó cho việc lành, giống như con đã làm trong mấy ngày nay, con sẽ trở nên một người tông đồ thực sự.
- Và Thầy sẽ yêu con giống như Gioan?
- Thầy sẽ yêu con như vậy, Judas. Thầy sẽ chỉ yêu con, không lo âu, không đau đớn.
- Ôi! Thầy của con, Thầy tốt chừng nào!
- Vậy hãy đi Jêrusalem. Điều đó chẳng ích lợi gì. Nhưng Thầy không muốn làm con thất vọng trong ước muốn của con muốn ích lợi cho Thầy. Bây giờ Thầy đi nói ngay với Simon và Gioan. Đi. Con thấy Giêsu của con khổ chừng nào với một số tội? Thầy giống như một người phải mang một trọng lượng qúa nặng. Đừng bao giờ làm cho Thầy sự đau khổ này. Đừng bao giờ nữa...
- Không, thưa Thầy không. Con yêu Thầy. Thầy biết... Nhưng
654
con yếu đuối...
- Tình yêu sẽ cho sức mạnh.
Họ vào trong nhà và tất cả chấm dứt.
96* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP:
CHỮA NGƯỜI RÔMA ĐIÊN.
NÓI VỚI CÁC NGƯỜI RÔMA
Hôm nay Giêsu ở với chín người ở lại, vì ba người kia đi Jêrusalem. Tôma luôn luôn vui vẻ, tự phân chia giữa đám rau cỏ của ông với các công việc khác thuộc về tinh thần hơn. Trong lúc đó Phêrô với Philíp, Batôlômêo và Mathêu lo cho các người hành hương, và những người khác đi ra sông để làm phép rửa. Đây thực sự là phép rửa sám hối, vì gió bắc thổi!
Giêsu còn ở trong góc của Người trong nhà bếp, trong khi Tôma làm các việc vặt để cho Thầy được yên. Lúc đó Andrê vào và nói: “Thưa Thầy có một người bệnh. Con nói tốt nhất là chữa ngay cho anh... họ nói anh ta điên. Đây không phải những người Israel. Cái đó chúng ta gọi là bị ám. Anh ta la lối, bê bê, vùng vẫy. Xin Thầy tới coi”.
- Ngay lập tức. Anh ta đâu?
- Còn ở trong đồng bằng. Thầy có nghe tiếng rống không? Anh ta đó. Giống như con vật. Chắc hẳn anh ta giầu, vì người đi kèm với anh ta ăn mặc đẹp, và người bệnh đã được đưa xuống khỏi một cái xe rất đẹp bởi nhiều đầy tớ. Chắc đây là dân ngoại, vì họ nói phạm đến các thần của Olympe.
- Chúng ta đi.
- Con cũng đi coi - Tôma tò mò muốn coi hơn là lo lặt rau.
Họ đi ra, và thay vì đi về bờ sông, họ quay về phía các cánh đồng phân chia cái trại này với nhà ông quản lý.
Các con cừu bê bê trong đồng cỏ, vì bây giờ chúng sợ và chạy tán loạn khắp nơi. Các người mục đồng với một con chó (đây là con chó thứ hai tôi thấy trong các thị kiến của tôi) đã thực sự cố
655
gắng để tụ tập chúng. Giữa đồng cỏ có một người mà người ta trói rất chặt. Mặc dù vậy, anh ta nhảy như điên, anh ta rống lên những tiếng kêu kinh sợ, càng lúc càng mạnh hơn theo đà Giêsu lại gần.
Phêrô, Philíp, Mathêu và Natanael ở rất gần, phân vân. Cũng có những người khác, đàn ông thôi, vì đàn bà sợ, không dám tới.
- Thầy tới à? Thầy coi nó điên chừng nào? - Phêrô nói.
- Nó sẽ qua.
- Nhưng... Họ là dân ngoại, Thầy biết không?
- Như vậy có gì khác đâu?
- Ê!... tại vì linh hồn họ!...
Giêsu nhoẻn một nụ cười vắn rồi tiến tới. Người tới bên nhóm của người điên đang càng lúc càng vùng vẫy mạnh. Một người liền tách ra khỏi nhóm. Y phục và khuôn mặt không để râu cho ta biết đó là người Rôma. Anh ta chào: “Chào Thầy. Danh tiếng của Thầy đã đến tai tôi. Thầy lớn hơn Hypocrate trong việc chữa bệnh, và hơn cả Esculape trong việc thi hành phép lạ trên các bệnh nhân. Tôi biết, vì vậy tôi tới. Đây là anh tôi. Thầy thấy không. Anh ấy điên vì một chứng bệnh kỳ lạ. Các Thầy thuốc không hiểu gì cả. Tôi đã đi với anh tới đền thờ của Esculape, nhưng anh ra khỏi đó còn điên hơn. Tôi có một người bà con ở Ptolémai, ông ta gởi cho tôi một tin với một chiến thuyền. Ông nói rằng ở đây có một vị chữa hết mọi người. Và tôi đã tới. Một cuộc hành trình kinh khủng!...”
- Nó đáng được thưởng.
- Nhưng đây, cả đến chúng tôi không phải là tân tòng, nhưng là người Rôma, trung thành với các thần. Qúi vị gọi là dân ngoại. Chúng tôi ở Sybaris, và bây giờ thì ở Chypre.
- Đúng, các anh là dân ngoại.
- Vậy không có gì cho chúng tôi sao? Olympe của Thầy đuổi Olympe của chúng tôi hay bị đuổi bởi nó?
- Thiên Chúa của tôi, Độc Nhất và Ba Ngôi ngự trị. Độc nhất một mình.
656
- Vậy tôi đến cách vô ích? - Người Rôma nói cách thất vọng.
- Tại sao?
- Vì tôi thuộc về một thần khác.
- Chỉ có một Thiên Chúa đã tạo dựng nên linh hồn.
- Linh hồn?...
- Linh hồn, một cái thuộc về Thiên Chúa, được Thiên Chúa tạo dựng cho mỗi người, đi kèm với họ trong đời sống, nhưng tồn tại sau đời sống.
- Vậy nó ở đâu?
- Ở trong chiều sâu của cái tôi, nhưng luôn luôn là một điều thuộc về Thiên Chúa, nó ở trong thâm cung thánh thiện nhất. Người ta có thể nói về nó - và tôi nói về nó chứ không phải về người này, bởi vì nó không phải là một sự vật, nó là một thực thể xứng đáng tất cả sự kính trọng - Nó không bị chứa đựng, nhưng nó chứa đựng.
- Lạy Jupiter! Nhưng ông là triết gia sao?
- Tôi là Lý Trí kết hợp với Thiên Chúa.
- Tôi tin vậy, vì những điều ông nói...
- Và triết học là gì khi nó thực và ngay thẳng, nếu không phải là sự nâng lý trí con người lên với Đấng Khôn Ngoan và Mạnh Mẽ vô cùng, tức là Thiên Chúa.
- Thiên Chúa! Thiên Chúa!... Tôi có kẻ khốn nạn này làm tôi rối rít, nhưng tôi hầu như quên tình trạng của ông để nghe Thầy. Thầy thuộc về thần linh.
- Tôi không phải là thần linh theo cách mà anh nói. Anh gọi thần linh là những gì vượt qúa loài người. Tôi nói một danh hiệu như vậy chỉ được dành cho đấng là Thiên Chúa.
- Thiên Chúa là gì? Có ai đã thấy Người?
- Có lời đã viết: “Kính chào Ngài, đấng đã tạo tác nên chúng tôi. Khi tôi diễn tả sự hoàn thiện của loài người, sự hòa hợp trong cơ thể chúng tôi, tôi mừng kính vinh quang của Ngài”. Có lời đã viết: “Lòng tốt của Ngài sáng chói trong việc Ngài ban phát các ơn của Ngài cho mọi loài sống, để mọi người có những gì cần thiết. Và các ơn của Ngài minh chứng sự khôn ngoan của Ngài, và việc hoàn
657
thành ý muốn của Ngài minh chứng cho quyền phép Ngài”. Anh biết các lời này không?
- Nếu Minerve đến giúp tôi... Đó là những lời của Galien. Nhưng làm sao Thầy biết? Tôi rất ngạc nhiên...
Giêsu mỉm cười trả lời: “Hãy đến với Thiên Chúa Thực và Thánh Thần của Người sẽ dạy anh sự khôn ngoan thực, và tình thương bởi việc biết mình và thờ phượng Đấng Chân Lý”.
- Nhưng đó vẫn còn là lời của Galien! Bây giờ tôi chắc chắn rằng ngoài việc là thầy thuốc và nhà đạo sĩ, Thầy còn là triết gia. Sao Thầy không tới Rôma?
- Tôi không phải thầy thuốc, không phải đạo sĩ, cũng không phải triết gia như anh nghĩ. Nhưng tôi là bằng chứng của Thiên Chúa trên trái đất. Hãy dắt người bệnh lại gần tôi.
Người ta đem anh ta lại. Anh ta la hét và múa may.
- Anh thấy không? Anh nói anh ta điên. Không thầy thuốc nào có thể chữa. Đúng vậy. Không một thầy thuốc nào, vì đây không phải điên, nhưng một thực thể của hỏa ngục đã vào trong anh ta - tôi nói vậy cho anh là dân ngoại hiểu.
- Anh ta không có thần trí mãng xà, nhưng anh nói toàn những điều sai trái.
- Chúng tôi gọi loại thần trí này là ma qủi chứ không phải mãng xà. Có thứ qủi nói và có thứ qủi câm. Có thứ lừa đảo bằng những lý lẽ nhuộm mầu sự thật, có thứ chỉ làm rối loạn tinh thần. Loại thứ nhất trong nhóm qủi thứ hai là thứ hoàn toàn và nguy hiểm nhất, Anh của anh thuộc loại thứ hai. Nhưng bây giờ nó sắp ra khỏi anh ta.
- Thế nào?
- Chính nó sẽ nói cho anh. - Rồi Giêsu ra lệnh: “Hãy ra khỏi người này. Hãy trở về vực thẳm của mi”.
- Tôi đi. Sức mạnh của tôi qúa yếu để chống lại Ngài. Ngài đuổi tôi và bịt miệng tôi. Tại sao Ngài luôn luôn thắng?... - thần trí đã nói bởi miệng người đàn ông. Rồi anh ta sụp xuống như bị kiệt lực.
- Anh ta khỏi rồi. Hãy cởi trói cho anh ta, đừng sợ.
- Khỏi rồi? Ngài có chắc không? Nhưng... Nhưng tôi, tôi thờ lạy
658
Ngài! - người Rôma muốn phủ phục, nhưng Giêsu không muốn.
- Hãy nâng tâm hồn anh lên Trời là nơi Thiên Chúa ngự. Hãy thờ lạy Người và hãy đến với Người. Chào.
- Không, như vậy thì không. Ít nhất hãy nhận. Hãy cho phép tôi được xử với Ngài như các thầy cả của Esculape. Hãy cho phép tôi được nghe Ngài nói... Hãy cho phép tôi được nói về Ngài ở quê hương tôi...
- Đồng ý. Hãy đến cùng với anh của anh.
Người bệnh nhìn chung quanh ngạc nhiên và hỏi: “Nhưng tôi ở đâu vậy? Đây không phải Cintium sao? Biển ở chỗ nào?”
- Anh bị... - Giêsu làm hiệu cho mọi người yên lặng rồi nói: “Anh bị sốt nặng và người ta mang anh tới đây để đổi khí. Bây giờ anh khỏe hơn. Hãy tới”.
Tất cả mọi người đều đi về nhà. Nhưng không phải mọi người đều cảm động. Có những người cảm phục, nhưng có những người chỉ trích việc chữa cho người Rôma. Vào trong phòng họp, Giêsu lên chỗ của Người, ở hàng đầu của thính giả là các người Rôma.
Mong rằng các con không bất bình khi Thầy trích dẫn đoạn này trong sách các Vua: Có ghi ở đó rằng vua Syrie đang sắp gây chiến với Israel, thì trong triều của ông có một người quyền chức rất được tôn trọng tên là Naaman bị cùi. Một người con gái Israel bị người Syrie bắt và trở thành nô lệ của ông đã nói với ông: “Nếu chúa tôi đến nhà tiên tri ở xứ Samari, chắc chắn Người sẽ chữa cho chúa khỏi bệnh cùi”. Sau đó Naaman xin phép vua để theo lời khuyên của cô gái. Nhưng vua Israel rất bối rối và nói: “Ta có phải Thiên Chúa đâu mà vua Syrie gởi người bệnh này đến cho ta? Đó là cái bẫy để khai chiến”. Nhưng tiên tri Êlisê nghe biết, Người nói: “Hãy bảo người cùi đến với ta, ta sẽ chữa cho ông ta, và ông ta sẽ biết rằng trong Israel có một vị tiên tri”. Khi đó Naaman khởi hành tới nhà Êlisê, nhưng Êlisê không tiếp, ông chỉ sai người nói với ông ta: “Hãy đi tắm bảy lần ở sông Giođan và ông sẽ được sạch”. Naaman phẫn nộ, vì ông thấy như đã đi đường trường vô ích. Và bực tức, ông đã sắp sửa bỏ đi thì các đầy tớ nói: “Người chỉ bảo ông đi tắm bảy
659
lần, cho dù Người truyền cho ông rất nhiều hơn, ông cũng phải làm, vì đó là một tiên tri”. Naaman nghe ra lẽ, ông tới sông và tắm, khi trở lên thì được khỏi. Sung sướng, ông trở lại với đầy tớ Chúa và nói: “Bây giờ tôi biết sự thật: trên khắp mặt đất, không có Thiên Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa của Israel”. Và vì Êlisê không muốn nhận qùa, ông đã xin phép lấy trên đất Israel một số đất ông có thể mang, để ông có thể dâng lễ hy sinh cho Thiên Chúa thật.
Thầy biết rằng không phải tất cả các con đều chấp nhận điều Thầy làm. Thầy biết rằng Thầy không phải ở đây để tự biện hộ trước mặt các con, nhưng vì Thầy yêu các con bằng một tình yêu thực, Thầy muốn các con hiểu hành động của Thầy, để nó soi sáng cho các con, để nó rơi xuống khỏi tâm hồn các con tất cả những chỉ trích và phẫn nộ.
Ở đây chúng ta có hai người dân ngoại. Một người đã bị bệnh và người ta nói với họ qua trung gian một người bà con, nhưng chắc chắn bởi miệng của một người Israel: “Nếu các ông đi tìm Đấng Messi của Israel, Người sẽ chữa cho”. Và từ rất xa, họ đã tới. Sự tin cẩn của họ còn lớn hơn của Naaman, vì họ không biết gì về Israel cũng như Đức Messi, trong khi người Syrie là một dân láng giềng và có sự giao tiếp liên tục với các nô lệ Israel, họ đã biết rằng trong Israel có một Thiên Chúa, vị Thiên Chúa Thực. Vậy bây giờ chẳng phải là điều tốt khi một người dân ngoại trở về quê hương họ và nói: “Qủa thực trong Israel có một người của Thiên Chúa, và ở Israel, người ta thờ Thiên Chúa Thực” sao?
Thầy đã không nói: “Hãy đi tắm bảy lần”, nhưng Thầy đã nói về Thiên Chúa và về linh hồn, hai điều mà họ không biết, và là những điều giống như những cái miệng phông-ten không thể khô cạn, nó mang theo với nó bảy ơn phúc. Vì ở đâu có tư tưởng về Thiên Chúa và về linh hồn, thì ở đó có sự ước ao tìm thấy những của ấy, và sẽ nảy sinh ra các cây về đức tin, đức cậy, đức ái, sự công bằng, tiết độ, sức mạnh và khôn ngoan, các nhân đức không được biết đến bởi những người mà các thần của họ chỉ có thể sao lại các đam mê của con người, và còn đồi bại hơn, vì là đam mê của các vật thể cấp cao. Bây giờ họ trở về quê hương họ, ngoài niềm vui vì được nhận
660
lời, họ có niềm vui lớn hơn, là nói được rằng: “Chúng tôi biết rằng chúng ta không phải các vật thô sơ, nhưng sau đời sống này có một đời sống tương lai. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa thực rất nhân từ và Người cũng yêu chúng ta, vậy chúng ta hãy làm điều tốt để đến với Người”.
Các con nghĩ sao? Nghĩ rằng chỉ có mình họ không biết sự thật thôi sao? Vừa nãy, một trong các môn đệ của Thầy đã nghĩ rằng Thầy không thể chữa cho người bệnh này, vì họ có một linh hồn dân ngoại. Nhưng linh hồn là gì? Nó từ đâu tới?
Linh hồn là bản thể thiêng liêng của con người, nó được Thiên Chúa tạo dựng vào thời kỳ tốt nhất, được cấp ban làm đồng hành, làm sinh động cho tất cả đời sống của thân xác, và nó tiếp tục sống khi thân xác không còn nữa, vì nó bất tử như đấng đã tạo dựng nên nó, tức là Thiên Chúa. Vì chỉ có một Thiên Chúa. Không có vấn đề linh hồn dân ngoại hay linh hồn không dân ngoại được tạo dựng bởi các thần khác nhau. Chỉ có một Sức Mạnh duy nhất có thể tạo dựng các linh hồn, đó là sức mạnh của Đấng Tạo Hóa, của Thiên Chúa chúng ta: Độc Nhất, Toàn Năng, Thánh Thiện, Nhân Từ, không có khát vọng nào khác ngoài Tình Yêu, Đức Ái trọn lành, hoàn toàn siêu nhiên, và để cho các người Rôma này hiểu, như Thầy đã nói: Đức Ái, Thầy cũng nói: Đức Ái hoàn toàn tinh thần, vì tư tưởng về thần trí không được hiểu bởi các con cái này là những người không biết gì về Kinh Thánh.
Và các con nghĩ gì? Nghĩ rằng Thầy chỉ đến cho Israel thôi? Thầy là Đấng qui tụ hết mọi nòi giống dưới một cây gậy duy nhất: nòi giống của Nước Trời. Và thực vậy, Thầy bảo các con rằng sắp tới thời mà mọi dân ngoại sẽ nói: “Hãy cho phép chúng tôi có tất cả những gì cần để có thể dâng lễ hy sinh cho Thiên Chúa Thực, cho Thiên Chúa Độc Nhất và Ba Ngôi, ở trên đất dân ngoại của chúng tôi”. Và Thầy là Lời của Thiên Chúa đó. Bây giờ họ ra về, tin tưởng hơn là nếu Thầy đã xua đuổi họ một cách khinh bỉ. Trong các phép lạ của Thầy và trong các lời Thầy, họ đã có ý thức về
661
Thiên Chúa, họ sẽ nói về Người và họ sẽ trở lại.
Thầy nói thêm: Không chính đáng để thưởng cho một đức tin lớn lao sao? Bị lạc hướng bởi các câu trả lời của các thầy thuốc, thất vọng vì các cuộc hành trình vô ích đến các đền thờ, họ còn biết tin để đến với người Vô Danh, Người Vô Danh Vĩ Đại của thế giới, người Bị Khinh Chê, người Bị Khinh Chê Vĩ Đại, Người Bị Vu Khống của Israel, để nói với Người: “Tôi tin là Ngài có thể”. Nước thánh đầu tiên cho tâm trí họ đến với họ từ sự kiện họ biết tin. Không phải Thầy chữa cho bệnh tật của họ cho bằng chữa cho lòng tin sai lầm của họ. Thực vậy, Thầy đã đặt vào môi họ một cái chén mà càng uống càng khát : khát được biết Thiên Chúa Thật.
Thầy chấm dứt. Thầy nói với các con, Israel: Hãy biết tin như những người này đã biết.
Người Rôma tiến lại gần cùng với ông anh được chữa lành của ông: “Ôi!... Tôi không dám nói: lạy Jupiter nữa. Tôi nói: trên danh dự của người công dân Rôma của tôi, tôi thề với Thầy là tôi có cái khát này! Bây giờ tôi phải đi. Từ nay ai sẽ cho tôi uống đây?”
- Thần trí của anh. Linh hồn mà bây giờ anh biết là anh có, cho tới ngày mà một trong những kẻ Thầy sai đi sẽ đến với anh.
- Và Thầy, Thầy không tới?
- Thầy... Thầy, không. Nhưng Thầy sẽ không vắng mặt dù vẫn không hiện diện. Chỉ trong vòng hơn hai năm một tí nữa thôi, Thầy sẽ cho anh một qùa tặng còn lớn hơn việc chữa lành cho một người thân thiết của anh. Chào hai anh. Hãy kiên trì trong tình cảm về đức tin này.
- Chào Thầy. Xin Thiên Chúa thật cứu Thầy - Hai người Rôma ra đi. Người ta nghe thấy họ gọi xe và các đầy tớ của họ.
- Và thậm chí họ không biết rằng họ có một linh hồn! - Một ông già lẩm bẩm.
- Đúng đó bố. Và họ biết đón nhận lời Thầy hơn là biết bao người trong Israel. Bây giờ vì họ đã cho một của dâng rất quan trọng, chúng ta hãy cho các người nghèo của Thiên Chúa hưởng bằng cách gấp đôi hay gấp ba của bố thí, và xin các người nghèo
662
cầu nguyện cho các vị ân nhân còn nghèo hơn chính họ này, để họ đến với sự giầu có thực sự và duy nhất là: biết Thiên Chúa.
Người đàn bà trùm khăn khóc dưới cái khăn che không cho người ta thấy nước mắt của bà, nhưng không nghe thấy tiếng nấc.
Phêrô nói: “Người đàn bà này khóc. Có lẽ bà ta không còn tiền. Chúng con có thể cho bà một ít không?”
- Không phải bà khóc vì vậy đâu. Hãy tới nói với bà: “Tổ quốc qua đi, nhưng Nước Trời tồn tại. Nó thuộc về những kẻ biết tin. Thiên Chúa nhân từ nên Người yêu cả những người tội lỗi. Người cho bà các ân huệ của Người để chinh phục bà đến với Người”. Hãy tới nói với bà vậy rồi để cho bà khóc, như thế chất độc sẽ trôi đi.
Phêrô đi tìm người đàn bà đang hướng về phía cánh đồng. Ông nói với bà rồi trở lại: “Bà càng khóc mạnh hơn. Con tưởng là an ủi được bà...” Ông nói và ông nhìn Giêsu.
- Thực sự bà đã được an ủi. Nỗi vui cũng làm cho người ta khóc.
- Hum!... Nhưng!... Đây, con sẽ bằng lòng khi con nhìn thấy khuôn mặt bà. Con sẽ thấy được không?
- Vào ngày phán xét.
- Lạy Thiên Chúa Tình Thương! Nhưng lúc đó con đã chết thì thấy bà để làm gì nữa? Lúc đó con đã có Thiên Chúa để nhìn ngắm!
- Hãy làm việc đó ngay từ bây giờ đi. Đó là việc duy nhất hữu ích.
- Vâng... nhưng... Thưa Thầy, bà nào vậy?
Mọi người đều cười.
- Nếu con hỏi một lần nữa thì chúng ta sẽ đi khỏi đây ngay, như vậy con sẽ không nghĩ tới đó nữa.
- Không, Thưa Thầy. Nhưng... chỉ cần là Thầy ở lại...
Giêsu mỉm cười và nói: “Người đàn bà này là một của còn lại, và là một của đầu mùa”.
- Thầy muốn nói gì? Con không hiểu.
Nhưng Giêsu trồng ông ở đấy và đi vào trong xóm.
- Người tới nhà Zacari. Vợ ông sắp chết - Andrê giải thích. “Ông
663
đã bảo tôi nói vậy với Thầy”.
- Chú làm tôi phát sùng! Cái gì chú cũng biết. Chú làm tất cả mà không bao giờ chú nói ra cái gì cả. Chú còn tệ hơn một con cá - Phêrô trút nỗi thất vọng của ông trên em ông.
- Anh ơi! Đừng giận. Anh cũng vậy, anh nói thay vì tôi. Nào, chúng ta đi kéo lưới lên đi!
Người thì đi về bên phải, người thì về bên trái, và tất cả chấm dứt.
97* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP:
“ĐỪNG LÀM CHỨNG GIAN”
- Bao nhiêu là người!... - Mathêu kêu lên. Và Phêrô trả lời: “Coi! có cả những người Galilê!... Ei! Ei!... Hãy đi nói với Thầy. Đó là ba tên trộm cướp khả kính!”
- Có lẽ họ đến vì tôi. Họ theo dõi tôi cả ở đây...
- Không, Mathêu. Cá mập không ăn cá nhỏ. Chính Người là kẻ họ muốn. Một con mồi qúi phái. Chỉ khi nó không tìm thấy mồi này, nó mới táp một con cá lớn. Tôi, anh, những người khác, chúng ta là cá vụn... mồi không quan trọng.
- Anh nói về Thầy? - Mathêu hỏi.
- Chứ còn về ai nữa? Anh không thấy họ đang nhìn tứ phía sao? Giống như thú dữ đánh hơi linh dương.
- Tôi đi nói với Người...
- Đợi đã! Chúng ta hãy nói cả với các con trai Alphê nữa. Người qúa nhân từ. Sẽ là lãng phí lòng nhân từ khi để nó rơi vào những cái mõm này.
- Anh có lý.
Hai người đi ra sông để gọi Giacôbê và Juđa: “Về đi. Có những tên... đầu trộm đuôi cướp. Chúng đến chắc chắn là để quấy phá Thầy”.
- Chúng ta về. Còn Người, Người ở đâu?
- Còn ở trong bếp. Chúng ta làm mau, vì nếu Người thấy, Người
664
không muốn.
- Đúng. Và Người lầm.
- Tôi cũng vậy. Tôi đồng ý kiến với anh.
Họ trở về trong sân. Nhóm người được gọi là “người Galilê” đang nói với những người khác một cách khinh bỉ. Juđa Alphê lại gần họ tựa như tình cờ, và ông nghe: “Lời nói phải dựa trên việc làm”.
- Người đã làm. Mới hôm qua người đã chữa một người Rôma bị ám - một người dân vạm vỡ đối đáp.
- Ghê sợ! Chữa cho dân ngoại ! Gương mù! Anh nghe không Êli?
- Có tất cả các tội nơi ông ta: bạn bè với bọn thu thuế và các gái điếm, tiếp xúc với dân ngoại và...
- Và chịu đựng các kẻ dèm pha. Đó cũng là một tội. Trước mắt tôi, đó là tội nặng nhất. Nhưng bởi vì Người không biết, không muốn tự vệ, hãy nói với tôi. Tôi là anh cả của Người, và ông này là một ông anh còn lớn tuổi hơn nữa. Hãy nói đi.
- Nhưng, tại sao anh làm do thám? Anh nghĩ rằng chúng tôi nói xấu đấng Messi sao? Không đâu. Chúng tôi từ rất xa tới vì nghe danh tiếng Người. Chúng tôi nói vậy với cả những người này...
- Nói dối! Các ông làm tôi ghê tởm tới nỗi tôi quay lưng - và Juđa Alphê, có lẽ vì cảm thấy đức bác ái của ông sắp bị tiêu tan với kẻ thù nên bỏ đi.
- Có đúng vậy không tất cả qúi vị? Hãy nói đi...
Nhưng “tất cả qúi vị”, tức là những người mà các người Galilê này nói với, họ nín lặng. Họ không muốn nói dối, và họ không dám nói ngược. Vì thế họ nín lặng.
- Cả đến tôi không biết ông ta thế nào... - Ông Galilê Êli nói.
- Ông đã không chửi rủa Người ở trong nhà tôi phải không? Có phải bệnh hoạn đã làm ông mất trí nhớ không? - Mathêu hỏi cách mỉa mai.
Ông “Galilê” này liền cầm áo khoác và đi ra với những người
665
khác.
- Hèn! - Phêrô kêu ở sau lưng họ.
- Họ muốn nói với chúng tôi những điều kinh khủng về Người... - một người giải thích. “Nhưng chúng tôi, chúng tôi đã thấy các sự kiện, và chúng tôi biết họ là ai: các pharisiêu. Vậy nên tin vào ai? Vào Người Tốt, thực sự tốt, hay vào kẻ độc ác chỉ giả vờ tốt, nhưng thực ra là tai ách? Tôi biết rằng từ khi tôi đến với Người, người ta không nhận ra tôi nữa, vì tôi đã thay đổi chừng nào! Trước tôi vũ phu, cay nghiệt với vợ con, không kính nể hàng xóm. Nhưng bây giờ... mọi người trong xứ đều nói: ‘Azarias không còn là ông ta nữa’. Có bao giờ người ta nghe nói một thằng qủi làm cho người ta nên tốt không? Nó làm việc cho cái gì? Cho sự thánh thiện của chúng ta sao? Đúng là thật ngộ nghĩnh nếu Satan làm việc cho Chúa!”
- Ông nói đúng. Nguyện Thiên Chúa bảo vệ ông, vì ông biết hiểu đúng, thấy đúng, hành động đúng. Hãy tiếp tục như vậy và ông sẽ là môn đệ thật của Đấng Messi đáng chúc tụng, là niềm vui cho Người là đấng chỉ muốn điều lành cho qúi vị, và chịu đựng tất cả để dẫn qúi vị tới đó. Chỉ nên phẫn nộ với điều xấu thật sự. Còn khi qúi vị thấy những điều làm nhân danh Thiên Chúa thì đừng tức giận. Đừng tức và đừng tin vào những kẻ muốn làm cho qúi vị tin rằng đó là gương mù, dù đó là những điều mới. Đây là thời đại mới. Giống như một bông hoa nở ra sau khi rễ đã làm việc bao nhiêu thế kỷ, và thời đại này đã tới. Nếu nó không được đi trước bởi bao thế kỷ chờ đợi thì chúng ta không thể hiểu lời Người. Nhưng bao thế kỷ vâng lời Lề Luật của núi Sinai đã cho chúng ta những chuẩn bị tối thiểu để cho phép chúng ta, trong thời đại mới này, được thấy bông hoa Thiên Chúa mà Lòng Nhân Từ đã chấp nhận cho chúng ta, được hít lấy hết hương thơm và hết những tinh chất để củng cố sức mạnh cho chúng ta, thanh tẩy cho chúng ta, và ướp thơm cho chúng ta bằng sự thánh thiện như một bàn thờ. Bởi vì đây là thời đại mới nên có những phương pháp mới, không trái với Lề Luật, nhưng tất cả đều thấm nhuần tình thương và tình bác ái, vì
666
Người là Tình Thương và là Tình Yêu từ trời xuống - Giacôbê Alphê chào họ và vào nhà.
- Anh nói hay quá! - Phêrô nói, đầy cảm phục. “Tôi, không bao giờ tôi biết nói cái gì. Tôi chỉ nói: ‘Hãy tốt. Hãy yêu Người. Hãy nghe Người. Hãy tin vào Người’. Tôi không biết tại sao Người lại bằng lòng với tôi!”
- Nhưng Người bằng lòng với anh - Giacôbê Alphê trả lời.
- Anh nói vậy cách thành thật hay vì tử tế?
- Sự thật là như vậy. Hôm qua Người còn nói với tôi.
- Thật à? Vậy hôm nay tôi bằng lòng hơn là cái ngày người ta dẫn vợ tôi đến cho tôi. Nhưng anh... Anh học ở đâu mà nói hay qúa vậy?
- Trên đầu gối của Mẹ Người và ở bên cạnh Người. Những bài học tuyệt vời! Những lời tuyệt hay! Chỉ có Thầy mới có thể nói hay hơn Mẹ. Điều mà quyền năng của Mẹ thiếu thì Mẹ thêm vào cho anh bằng sự êm đềm... Và điều đó thấm thía... Các bài học của Mẹ! Có bao giờ anh thấy một mảnh vải mà một góc đã quệt vào chất dầu thơm không? Nó từ từ hút hết chất dầu và cả hương thơm. Cho dù chất dầu đã biến mất, hương thơm cũng vẫn còn như để nói: “Tôi đã ở đây”. Cũng giống vậy về Mẹ. Chúng tôi là những mảnh vải thô kệch. Rồi được giặt rửa bởi đời sống, và Mẹ đã làm thấm sự khôn ngoan và ơn phúc của Mẹ vào, và hương thơm của Mẹ tồn tại trong chúng tôi.
- Sao Người không bảo Mẹ đến? Người đã nói Người sẽ làm! Chúng ta sẽ nên tốt hơn, bớt cứng đầu... ít là tôi. Và cả những người này... Họ sẽ trở nên tốt hơn, kể cả những con rắn lục thỉnh thoảng tới...
- Anh nghĩ vậy à? Tôi, không. Chúng ta sẽ trở nên tốt hơn, những người khiêm nhường cũng vậy. Nhưng những kẻ quyền hành và độc ác!... Ôi! Simon Jonas! Đừng bao giờ nghĩ ai cũng thật thà như anh! Anh sẽ thất vọng... Kìa Người. Đừng nói gì với Người nhé...
Giêsu ra khỏi nhà bếp, dắt tay một đứa bé trai, nó vừa nhảy nhót bên cạnh Người vừa cắn miếng bánh tẩm dầu. Giêsu điều chỉnh
667
bước đi của Người với cặp giò ngắn của bạn nhỏ Người. Người hớn hở nói: “Một cuộc chinh phục. Cái ông bốn tuổi này, tên là Asrael, đã nói với Thầy rằng ông muốn làm môn đệ, và ông muốn học rao giảng, chữa bệnh cho các trẻ em, làm cho nho mọc trên cành vào tháng mười hai; rồi ông muốn leo lên núi để nói với mọi người: ‘Hãy đến, đây là Đấng Messi’. Có phải không Asrael?”
Ông nhỏ cười, nói “Đúng, đúng”, trong khi nhai miếng bánh của ông.
- Mày, mày mới vừa biết ăn! - Tôma nói để chọc nó. “Cả đến mày chưa biết ai là Đấng Messi”.
- Đó là Giêsu Nazarét.
- Messi nghĩa là gì?
- Nghĩa là... nghĩa là... Người được sai đến để cho người ta tốt và để làm cho mọi người tốt.
- Vậy làm sao để trở nên tốt? Mày là con nít, mày sẽ làm sao?
- Tôi sẽ yêu Người và tôi sẽ làm tất cả. Và Người sẽ làm tất cả bởi vì tôi yêu Người. Ông cũng vậy. Hãy làm, và ông sẽ trở nên tốt.
- Bài học đã được cho con rồi đó Tôma. Đó là mệnh lệnh: “Hãy yêu Thầy và con sẽ làm tất cả, vì Thầy sẽ yêu con nếu con yêu Thầy, và tình yêu sẽ làm tất cả nơi con. Thánh Linh đã nói. Đi, Asrael. Chúng ta đi giảng”. Giêsu rất vui khi Người có một đứa trẻ, tới nỗi tôi muốn dẫn tới cho Người tất cả các đứa trẻ và làm cho chúng biết Người. Có biết bao đứa không biết cả đến tên Người!
Người sắp sửa đi qua người đàn bà trùm khăn. Trước khi đi qua bà, Người bảo đứa trẻ: “Hãy nói với người đàn bà này: ‘Bình an cho bà’”.
- Tại sao?
- Vì bà có một tí đau nhẹ giống như khi con bị té, và bà khóc. Nhưng nếu con nói với bà như vậy, bà sẽ được chữa khỏi.
- Bình an cho bà. Đừng khóc. Đấng Messi đã nói vậy với tôi. Nếu bà yêu Người nhiều thì Người sẽ yêu bà nhiều và sẽ chữa cho bà. - Đó là điều Asrael nói trong khi Giêsu dắt nó đi với Người, không dừng lại. Asrael thực sự có khả năng truyền giáo, mặc dù
668
đôi khi nó hơi... không đúng lúc trong sự giảng dạy của nó, và nó nói nhiều hơn người ta bảo nó nói.
- Bình an cho tất cả các con.
Có lời rằng: “Đừng làm chứng gian”.
Còn gì ghê tởm hơn một kẻ nói dối? Người ta không thể nói rằng nó đã kết hợp sự độc ác với sự ô uế sao? Có, người ta có thể. Kẻ nói dối, Thầy nói về kẻ nói dối những điều trầm trọng, là độc ác. Nó giết danh tiếng bằng lưỡi của nó, vậy nó không khác gì sát nhân. Kể cả Thầy nói: nó còn xấu hơn kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân chỉ giết thân xác, kẻ nói dối giết cả danh tiếng, cả kỷ niệm của một người. Vậy nó sát nhân hai lần. Đó là kẻ sát nhân không bị phạt, vì nó không đổ máu, nhưng nó làm tổn thương danh dự của kẻ nó vu khống và đồng thời danh dự của tất cả gia đình họ. Thầy không dừng lại ở trường hợp một kẻ lấy lời thề mà làm cho một người phải chết. Than lửa của Hoả Ngục chồng chất trên kẻ đó. Thầy chỉ nói về kẻ, bởi sự nói dối, xiên xỏ để chinh phục người khác làm thiệt hại cho một kẻ vô tội. Tại sao nó làm vậy? Hoặc vì thù ghét vô lý, hoặc vì ước ao có thứ của mà người kia có, hoặc vì sợ.
Bởi thù ghét: Nó bị lôi kéo bởi thù ghét. Nó là bạn của Satan. Người tốt không bao giờ thù ghét vì bất cứ lý do nào. Dù người ta khinh bỉ, hiểu lầm, họ cũng tha. Họ không bao giờ ghét. Thù ghét là bằng cớ một linh hồn đã hư mất làm cho chính nó, và đó là bằng chứng đẹp nhất có thể làm cho một kẻ vô tội. Thù ghét là sự phản loạn của sự ác chống lại sự lành. Nó không tha cho người ta vì họ là người tốt.
Bởi tham lam: Tên này có cái mà tôi không có. Tôi muốn có. Không phải chỉ bằng cách làm cho nó bị khinh bỉ mà tôi chiếm được địa vị của nó. Tôi sẽ làm. Tôi nói dối? Không quan trọng. Tôi ăn cắp? Không quan trọng. Tôi có thể đi tới chỗ hủy hoại tất cả một gia đình? Không quan trọng. Giữa những câu hỏi mà tên nói dối qủi quyệt tự đặt ra, nó quên, nó muốn quên đi một câu hỏi, đó là câu: “Và nếu người ta khám phá ra tôi?” Câu hỏi này nó không tự đặt ra, vì bị lôi kéo bởi kiêu căng và tham lam, tựa như mắt nó bị nhắm
669
chặt, nó không nhìn thấy nguy hiểm. Nó còn giống như người say, nó bị say bởi rượu của Satan, nên nó không suy nghĩ rằng Thiên Chúa mạnh hơn Satan và Người nhận trách nhiệm báo thù cho kẻ bị vu khống. Kẻ nói dối lao mình vào sự gian dối và tin cẩn một cách ngu si vào sự bảo vệ của nó.
Bởi sợ: Rất thường là một người vu khống để tự biện hộ. Đó là kiểu nói dối thông thường nhất. Người ta làm điều xấu, rồi người ta sợ hành động bị khám phá và nhận biết, thế là họ dùng và lạm dụng sự nể vì mà họ có trước mặt những người khác, họ làm biến tính sự kiện, và họ đặt điều họ đã làm trên lưng một người khác, người mà họ chỉ sợ vì sự ngay thẳng. Người ta hành động như vậy, đôi khi cũng còn vì một người nào đó tình cờ nhìn thấy hành động xấu của họ, khi đó, để cho người này khỏi nói ra, họ kết án người này để làm cho chứng nhân thành bỉ ổi, để nếu người đó nói ra thì sẽ không ai tin.
Các con hãy hành động cho chính đáng! Hãy hành động ngay thẳng, thì các con sẽ không bao giờ cần nói dối. Khi các con nói dối, các con không suy nghĩ tới cái ách nặng mà các con đặt trên vai mình, đó là sự lệ thuộc vào ma qủi, sự sợ hãi liên tục một sự đính chính, và sự cần thiết phải nhắc lại điều nói dối với những sự kiện và những chi tiết bao quanh nó mà không tự mâu thuẫn, dù sau nhiều năm: công việc của tù khổ sai. Lại nữa, nếu nó dùng được cho Nước Trời! Đàng này nó chỉ dùng được để chuẩn bị một chỗ trong Hỏa Ngục!
Hãy ngay thẳng. Môi miệng của kẻ không biết đến điều dối trá đẹp đẽ biết bao! Họ nghèo? Họ thô kệch? Họ vô danh tiểu tốt? Cả đến như vậy? Đúng, nhưng họ luôn luôn là ông vua, vì họ chân thành. Sự chân thành là cái gì qúi phái hơn vàng, hơn cả chiếc vương miện, và nó nâng người ta lên cao bên trên đám đông hơn là chiếc ngai, và họ có một triều đình những người thật thà đông hơn là triều đình một đại vương. Việc kề cận với người thật thà cho ta sự an toàn và khích lệ. Tình bạn của người không thành thật chỉ tạo ra sự khó chịu phiền phức, và chỉ việc ở gần họ ta cũng có cảm
670
tưởng bất an. Kẻ nói dối không suy nghĩ rằng nó luôn luôn bị nghi ngờ, vì điều nói dối sẽ mau chóng bị lộ vì hàng ngàn lý do? Từ nay làm sao người ta có thể tin điều nó nói? Dù là nó nói sự thật, và người ta không xin gì hơn là muốn tin, nhưng thực sự, luôn luôn có sự nghi ngờ: “Bây giờ hắn có còn nói dối nữa không?” Các con sẽ nói: “Nhưng trong đó có chỗ nào là chứng gian không?” Hết mọi lời nói dối đều là chứng gian. Không có chứng gian nào bằng.
Hãy đơn sơ như Thiên Chúa và như đứa trẻ. Hãy ngay thẳng trong mọi lúc của đời các con. Các con muốn người ta cho các con là tốt? Hãy tốt thực. Cho dù một kẻ hay nói xấu, nói những điều xấu về các con, sẽ có hàng trăm người tốt nói: “Không, điều đó không đúng. Anh ta tốt. Các việc của anh ta nói thay cho anh ta”. Trong sách đạo đức có nói: “Kẻ bất công bước đi trong sự gian ác trên môi... trong qủa tim đồi bại của nó, nó chuẩn bị những chương trình xấu và nó luôn luôn gieo rắc sự bất hòa. Có sáu điều Thiên Chúa ghét, và điều thứ bảy thì Người ghê rợn: con mắt kiêu căng, miệng lưỡi dối trá, bàn tay đổ máu người vô tội, con tim hoạch định những chương trình bất công, bàn chân vội vã chạy tới điều ác, làm chứng gian, và kẻ gieo rắc sự bất hòa trong anh em...” Sự hư hỏng tới gần kẻ dữ do tội của miệng lưỡi... Kẻ nói dối là nhân chứng gian. Miệng lưỡi chân thành không bao giờ thay đổi, còn kẻ có cái lưỡi giả thì bằng chứng của nó hay thay đổi. Lời của kẻ nói thì thầm có vẻ đơn sơ nhưng nó thấm vào trong tạng phủ. Kẻ thù biết tìm ra cách nói của nó khi nó ấp ủ sự phản bội. Khi nó nói nhỏ cũng đừng tin, vì nó mang trong tim nó bảy điều ác. Dưới vẻ bề ngoài hấp dẫn, nó che giấu sự thù ghét, nhưng sự qủi quyệt của nó sẽ bị bại lộ... Kẻ đào hố sẽ ngã xuống đó, và hòn đá sẽ rơi xuống kẻ nào làm cho nó lăn.
Nói dối là tội xưa như trái đất, tư tưởng của hiền nhân liên kết với điều họ quyết định, cũng giống như sự phán xét của Thiên Chúa đối với đứa nói dối. Thầy bảo các con: hãy chỉ luôn luôn có một cái lưỡi duy nhất. Chớ gì tiếng có luôn luôn là có, và tiếng không luôn luôn là không, dù ngay trước mặt các kẻ quyền thế và các bạo
671
vương, và các con sẽ có một phần thưởng lớn trên trời. Thầy bảo các con: hãy hồn nhiên như đứa trẻ, đi từ bản năng trẻ nhỏ tới người lớn mà lòng tốt vẫn tồn tại, không tìm cái gì khác ngoài lòng tốt, và chỉ nói điều mà lòng tốt nghĩ, không tính toán xem có nói qúa không và có thể bị rầy không.
Hãy đi trong bình an và xin Chân Lý trở nên bạn của các con.
Thằng bé Asrael vẫn ngồi ở chân Giêsu, nó ngẩng mặt lên như con chim nhỏ nghe tiếng nói của cha nó, nó có một cử động êm đềm: nó cà khuôn mặt nhỏ của nó vào đầu gối Giêsu và nói: “Thầy với con, chúng ta là bạn, bởi vì Thầy tốt và con yêu Thầy. Bây giờ con cũng nói vậy”, và nó rống lên nói rất lớn để mọi người trong căn phòng mênh mông đều nghe thấy, vừa nói vừa làm những cử chỉ mà nó thấy Giêsu làm: “Tất cả hãy nghe đây: tôi biết những người không biết nói dối và biết yêu Giêsu Nazarét sẽ đi đâu. Họ trèo cái thang của Jacob để lên trên cao, trên cao, trên cao... đồng thời với các thiên thần, và họ dừng lại khi họ thấy Chúa”, và nó cười sung sướng, nhe hết hàm răng nhỏ của nó ra.
Giêsu vuốt ve nó và đi xuống giữa đám đông. Người mang đứa bé trả lại cho mẹ nó: “Cám ơn bà đã cho tôi con nhỏ của bà”.
- Nó đã làm phiền Thầy...
- Không, nó cho tôi tình yêu. Đây là đứa nhỏ của Chúa. Nguyện
Chúa luôn luôn ở với nó và với bà. Chào. Tất cả chấm dứt.
98* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP:
“ĐỪNG ƯỚC AO CỦA NGƯỜI”
- Thiên Chúa cho mỗi người điều họ cần. Đó là sự thật. Cái gì là cần thiết cho con người? Sự lộng lẫy? Đông đúc tôi tớ? Đất đai mà người ta không đếm hết các thửa ruộng? Các bữa tiệc mà người ta thấy từ sau hoàng hôn cho tới bình minh? Không. Điều cần cho con
672
người là: một mái nhà, bánh ăn, áo mặc, cần thiết để sống.
Hãy nhìn chung quanh các con: Ai là những người vui vẻ nhất và lành mạnh nhất? Ai được hưởng một tuổi già khỏe mạnh và an bình? Những kẻ chơi bời ư ? Không. Những kẻ sống ngay lành, làm việc, hạn chế các ước muốn. Họ không có cái nọc độc của dâm đãng nên họ duy trì được sức lực, không có nọc độc của các bàn tiệc nên họ vẫn nhanh nhẹn dẻo dai, không có nọc độc của thèm khát nên họ luôn luôn vui vẻ. Trong khi kẻ lúc nào cũng ước ao có nhiều hơn, họ giết sự bình an của họ mà chẳng được hưởng gì. Họ già sớm, bị thiêu đốt bởi ghen ghét và lạm dụng.
Thầy có thể đặt hai giới răn: đừng trộm cắp và đừng ước ao của người chung với nhau. Vì thực sự, ước ao thái qúa thúc đẩy tới trộm cắp. Từ cái nọ tới cái kia chỉ có một bước. Có phải mọi ước ao đều bất chính không? Thầy không nói như vậy. Người cha gia đình làm việc ngoài đồng hay trong cơ xưởng, ước ao rút được ở đó cái gì để bảo đảm bánh cho con cái ông, thực sự không phạm tội, trái lại, ông làm tròn bổn phận của người cha. Nhưng kẻ không ước ao gì hơn là được hưởng thụ tối đa, và họ xâm chiếm những của thuộc về người khác, kẻ đó phạm tội.
Ghen tị! Tại sao? Ước ao của người là gì, nếu không phải là tham lam và ghen tị? Các con ơi! Ghen tị xa lìa Thiên Chúa và kết hợp với Satan. Các con không nghĩ rằng kẻ đã ước ao của người trước tiên là Lucifer sao? Nó là vị Tổng Thần đẹp nhất, được hưởng Thiên Chúa, đáng lẽ nó phải bằng lòng với điều đó. Nhưng nó ghen với Thiên Chúa và muốn làm Thiên Chúa, nên nó đã trở thành ma qủi, thằng qủi đầu tiên. Ví dụ thứ hai: Ađam và Evà có tất cả: họ vui hưởng thiên đàng dưới đất, họ được hưởng tình bạn với Thiên Chúa, hạnh phúc bởi những ơn huệ mà Thiên Chúa ban. Đáng lẽ họ phải bằng lòng với điều đó. Nhưng họ ghen với Thiên Chúa về sự biết lành biết dữ, nên họ bị đuổi ra khỏi vườn Êđen, trở nên những kẻ bị đày, ghê tởm đối với Thiên Chúa: những kẻ phạm tội đầu tiên. Ví dụ thứ ba: Cain ghen với Abel vì tình bạn của ông với Thiên Chúa, và hắn trở nên kẻ sát nhân đầu tiên. Maria, em gái
673
của Aaron và Môise, ghen với anh bà, nên bà trở thành người cùi đầu tiên trong lịch sử Israel. Thầy có thể dẫn các con từng bước một qua tất cả đời sống của dân Thiên Chúa, các con sẽ thấy rằng một ước ao thái qúa đã làm cho kẻ ước ao thành tội nhân, và dẫn hình phạt tới cho dân tộc. Đó là các tội của nhiều cá nhân tích góp lại và dẫn hình phạt đến cho cả dân. Giống như cát: nhiều hạt, nhiều hạt, nhiều hạt tích góp lại, tạo nên sự sụt lở, vùi lấp cả xứ và tất cả những gì ở trong đó.
Thầy thường lấy các trẻ em làm ví dụ cho các con, vì chúng đơn sơ và tin tưởng. Hôm nay Thầy bảo các con: hãy bắt chước chim trời trong việc tự do đối với mọi ước ao. Hãy nhìn: bây giờ là mùa đông, có rất ít đồ ăn trong các vườn cây. Nhưng trong mùa hè chúng có lo lắng để tích góp không? Không. Chúng phó thác cho Chúa. Chúng biết rằng một con sâu nhỏ, một hạt ngũ cốc, một mụn bánh, một mẩu đồ ăn thừa, một con bọ trên mặt nước, chúng có thể tìm được luôn cho cái riều của chúng. Chúng biết rằng sẽ luôn luôn có một cái ống khói ấm, một mảnh len làm chỗ trú cho chúng trong mùa đông. Chúng cũng biết rằng khi đến kỳ chúng cần rơm cỏ để làm tổ và thực phẩm dồi dào cho các con nhỏ của chúng, thì trong cánh đồng sẽ có nhiều cỏ thơm, và có nhiều đồ ăn ngon ngọt trong các vườn cây; trên luống cày, trên không và dưới đất sẽ đầy sâu bọ, và chúng êm đềm hát: “Cám ơn Tạo Hóa vì những gì Ngài cho và sẽ cho chúng tôi”, chúng mau lẹ xướng lời vạn tuế đầy họng khi mùa yêu đương tới, chúng vui hưởng tình vợ chồng và thấy con cháu đầy đàn.
Có loài vật nào vui vẻ hơn loài chim? Nhưng sự thông minh của chúng là gì so với sự thông minh của loài người? Một hòn sỏi ở trước một ngọn núi. Nhưng chúng cho ta một bài học. Thực sự, Thầy bảo các con rằng kẻ sống không ước ao bất chính sẽ có được sự vui vẻ của loài chim, sống phó thác nơi Thiên Chúa và cảm thấy Người là Cha. Nó mỉm cười với ngày ló rạng và với đêm về, vì nó biết rằng mặt trời là bạn và đêm là người vú nuôi của nó. Nó nhìn loài người không chút ghen ghét và không sợ sự báo thù của họ, vì
674
nó không làm gì xấu cho họ. Nó không cảm thấy sợ cho sức khỏe hay cho giấc ngủ, vì nó biết một đời sống ngay thật đẩy xa bệnh tật và cho giấc ngủ êm đềm. Sau cùng, nó không sợ chết, vì nó biết rằng sau khi đã hành động tốt, nó chỉ có thể có nụ cười của Thiên Chúa. Ngay cả ông vua cũng chết, người giầu cũng vậy. Không một vương trượng nào tránh được cái chết, không tiền bạc nào mua được sự bất tử. Trước mặt Vua các vua và Chúa các chúa, mọi vương miện và tiền bạc chỉ là trò đùa. Chỉ có một cái có giá trị, là một cuộc đời đã sống theo Lề Luật.
Các người ở dưới cuối phòng kia nói gì với nhau? Đừng sợ nói lên.
- Chúng con nói: Antipa đắc tội về cái gì? Ăn cắp hay gian dâm?
- Thầy không muốn các con nhìn những người khác, hãy nhìn vào lòng mình. Nhưng Thầy trả lời các con rằng ông ta phạm tội thờ tà thần, vì còn hơn là Thiên Chúa, ông thờ xác thịt, gian dâm, ăn cắp, các ước muốn bất chính, và sắp sữa sẽ là sát nhân.
- Ông ta có được cứu bởi Thầy - Vị Cứu Tinh - không?
- Thầy sẽ cứu những kẻ sám hối và trở về với Thiên Chúa. Các kẻ không sám hối sẽ không được cứu chuộc.
- Thầy nói ông là kẻ ăn cắp, nhưng ông đã ăn cắp gì?
- Bà vợ của em ông. Việc ăn cắp không phải chỉ liên can tới tiền bạc. Cũng là ăn cắp khi làm mất danh tiếng của một người, sự trong trắng của một cô gái, lấy mất bà vợ của một người chồng, giống như lấy con bò của người hàng xóm hay phá phách cây cối của họ. Rồi sự ăn cắp sẽ thành trầm trọng bởi đam mê hay chứng gian, hoặc bởi gian dâm, ô uế hay nói dối.
- Một người đàn bà làm điếm, bà phạm tội gì?
- Nếu bà có chồng thì phạm tội gian dâm và ăn cắp đối với chồng bà. Nếu bà là gái chưa chồng thì phạm tội ô uế và ăn cắp đối với chính bà.
- Đối với chính bà? Nhưng bà từ bỏ những gì thuộc về bà !
- Không. Thân xác chúng ta được Thiên Chúa dựng nên để làm đền thờ của linh hồn và đền thờ của Thiên Chúa, vậy phải gìn giữ nó nguyên vẹn, nếu không, linh hồn bị cưỡng đoạt mất tình bạn với
675
Thiên Chúa và sự sống đời đời.
- Vậy gái điếm chỉ có thể thuộc về Satan?
- Mọi tội lỗi đều là gian dâm với Satan. Người phạm tội cũng giống như người đàn bà bán mình, họ phó mình cho Satan vì những tình yêu bất chính mà họ hy vọng được những lợi ích dơ bẩn. Làm điếm là tội lớn, rất lớn, vì làm cho mình trở nên giống các con vật ô uế. Nhưng các con nghĩ rằng các tội trọng khác ít lớn hơn sao? Thầy sẽ nói sao về tội thờ tà thần? Thầy sẽ nói sao về tội sát nhân? Nhưng Thiên Chúa đã tha cho Israel sau con bò vàng, Người đã tha cho Đavít sau tội của ông, cái tội kép của ông. Thiên Chúa tha cho kẻ thống hối. Sự thống hối đền tội phải cân xứng với con số và độ lớn của tội. Và Thầy bảo các con rằng kẻ thống hối nhiều thì được tha nhiều. Qủa vậy, sự thống hối là một hình thức của tình yêu. Tình yêu thì thi hành điều tốt. Kẻ thống hối nói với Thiên Chúa qua sự thống hối của nó: “Con không thể ở dưới sự đe dọa của cơn giận Chúa, vì con yêu Chúa và muốn được yêu”. Và Thiên Chúa yêu kẻ yêu Người. Vậy Thầy bảo các con rằng: người ta càng yêu thì người ta càng được yêu. Kẻ yêu hoàn toàn thì được tha thứ hoàn toàn.
Đó là sự thật. Thôi giải tán. Nhưng trước hết hãy biết rằng ở cổng làng có một bà góa đông con đang không có gì để hạ cơn đói, bị đuổi khỏi nhà vì mang nợ, bà vẫn còn cám ơn chủ nhà vì chỉ đuổi mà thôi. Thầy sẽ dùng của bố thí của các con để cho bà bánh ăn, nhưng gia đình bà cần một chỗ trú. Tình thương là lễ hy sinh đẹp lòng Chúa. Hãy tốt, và nhân danh Người, Thầy hứa cho các con phần thưởng.
Người ta xì xèo, cho ý kiến, tranh luận.
Trong lúc đó, Giêsu chữa một người gần mù và nghe một bà già nhỏ từ Đôcô đến để xin Người tới nhà con dâu bà đang bị bệnh. Đó là câu chuyện dài trong nước mắt. Nhưng hôm nay tôi như người giở chết nên không thể sao chép được.
May thay là tất cả đều chấm dứt, vì con không còn thể tiếp tục với cơn đau tim kéo
676
dài từ ba tiếng đồng hồ rồi, và nó làm con mờ mắt.
99* GIÊSU TẠI NƯỚC ĐẸP: TỔNG KẾT.
BÌNH LUẬN: TỪ VỰC SÂU VÀ XIN THƯƠNG XÓT
Hỡi các con trong Chúa, bây giờ đã rất gần lễ Thanh Tẩy, và Thầy, Ánh Sáng của thế giới, Thầy gởi các con tới đó, được chuẩn bị những cần thiết tối thiểu để mừng lễ. Đó là ánh sáng đầu tiên của ngày lễ mà các con rút ra ánh sáng cho tất cả các ngày lễ khác. Đúng là ngu, một kẻ muốn đốt một dẫy đèn mà lại không có khả năng đốt ngọn đầu tiên. Và còn ngu hơn nữa, kẻ có ý định bắt đầu sự thánh hóa của nó bằng những việc khó khăn phức tạp, mà ơ hờ cái nền móng của lâu đài bất biến của sự trọn lành là Thập Giới.
Người ta đọc thấy trong sách Maccabê rằng Juđa với các người của ông, nhờ sự phù hộ của Thiên Chúa, đã chiếm lại được Đền Thờ và Thành Thánh, đã phá hủy các đền thờ của các thần ngoại quốc cùng với các thánh điện của chúng, và thanh tẩy Đền Thờ. Rồi ông dựng một bàn thờ khác, lấy lửa ở đá lửa, dâng các lễ hy sinh, đốt hương, đặt ánh sáng và bánh tiến. Rồi tất cả đều phủ phục xuống đất, nài xin Thiên Chúa làm sao để họ đừng phạm tội nữa, hoặc nếu vì yếu đuối, họ lại sa ngã vào tội, thì xin đối xử với họ theo lòng thương xót của Thiên Chúa. Việc này xảy ra vào ngày 25 tháng Casleu.
Chúng ta hãy suy nghĩ và áp dụng bài tường thuật này vào chính chúng ta, vì tất cả mọi lời của lịch sử Israel, tức là của dân được chọn, đều có một ý nghĩa thiêng liêng. Đời sống luôn luôn là bài giáo huấn. Đời sống của Israel là sự giáo huấn, không phải chỉ cho những ngày ở trên mặt đất, nhưng cho cả việc chinh phục các ngày vô tận.
“Họ phá hủy bàn thờ và đền thờ dân ngoại”.
Đó là việc làm đầu tiên, việc mà Thầy đã chỉ cho các con làm khi Thầy chỉ cho các con tên các tà thần cá nhân đã thay thế cho Thiên Chúa thực: Các tà thần của giác quan, của vàng, của kiêu
677
căng, của các mối tội đầu, dẫn tới việc tục hóa, tới cái chết của linh hồn và thân xác, và tới sự luận phạt của Thiên Chúa. Thầy không dày nát các con dưới vô vàn các công thức hiện nay đang áp đặt trên người tín hữu, và làm thành một con đê mạo nhận là Lề Luật thật, nặng nề, ẩn giấu dưới hàng đống và hàng đống những điều cấm toàn là bên ngoài. Trong khi làm cho Lề Luật ra nặng nề, họ đưa người tín hữu tới chỗ lạc mất tiếng nói thẳng thắn, rõ ràng, thánh thiện của Chúa. Người nói: đừng phạm thượng, đừng thờ tà thần, đừng tục hóa các ngày lễ, đừng bất kính với cha mẹ, đừng giết người, đừng làm điều dâm ô, đừng trộm cắp, đừng nói dối, đừng ham của người, đừng ước muốn vợ chồng người. Mười cái “đừng”, không thêm một cái nào. Đó là mười cái cột của đền thờ linh hồn, trên đó rực rỡ vàng của quy luật thánh hơn tất cả : “Yêu Thiên Chúa. Yêu tha nhân”. Đó là triều thiên của đền thờ. Đó là cái bảo vệ nền móng. Đó là vinh quang của kẻ xây dựng.
Không có tình yêu, không ai có thể tuân giữ mười giới răn, và các cây cột sẽ đổ: hoặc tất cả, hoặc vài cây, và đền thờ sẽ sập hoàn toàn hay vài phần. Nhưng dù chỉ sập vài phần, nó cũng là nơi đổ nát và không thể tiếp đón Đấng Rất Thánh. Hãy làm điều Thầy bảo các con bằng cách tiêu diệt ba thứ dâm đãng. Hãy thẳng thắn đặt cho cái nết xấu của các con một cái tên như Thiên Chúa đã dùng sự thẳng thắn để nói với các con: “Đừng làm cái nọ đừng làm cái kia”. Vô ích để nói các câu cho khéo léo. Kẻ có một tình yêu khác mạnh hơn tình yêu nó dâng cho Thiên Chúa, là kẻ thờ tà thần, dù tình yêu mạnh đó là bất cứ cái gì. Kẻ xướng danh Thiên Chúa trong khi bày tỏ như phụng sự Người, rồi sau đó lại không vâng lời Người, là kẻ phản ngụy. Kẻ vì tham mà làm việc ngày Sabát là kẻ phạm thánh và là kẻ đa nghi và tự đắc. Kẻ từ chối cứu giúp cha mẹ, viện lẽ theo giáo điều, dù nó xác nhận đó là những nguồn lợi dâng cho Thiên Chúa, sẽ bị ghét bởi Thiên Chúa, đấng đã đặt cha mẹ là hình ảnh của Người trên trái đất. Kẻ giết người thì luôn luôn là sát nhân. Kẻ làm sự ô uế là kẻ dâm đãng. Kẻ ăn cắp luôn luôn là đạo tặc. Kẻ nói dối luôn luôn là kẻ đê tiện. Kẻ muốn những của không
678
thuộc về nó, luôn luôn là kẻ tham ăn với cái đói ghê tởm nhất. Kẻ xâm phạm phòng the luôn luôn là vật ô uế.
Như vậy đó. Và Thầy nhắc lại cho các con rằng sau con bò vàng là cơn giận của Thiên Chúa. Sau việc thờ tà thần của Salômôn là sự chia rẽ đã phân cắt và làm yếu nhược Israel. Sau khi đã chấp nhận văn minh Hy Lạp và cả sau khi đã tiếp đón nó qua trung gian của các người Do Thái bất xứng dưới thời Antiochus Epiphane, người ta thấy xảy ra những bất hạnh cho chúng ta cho tới hiện nay về tinh thần, kinh tế và quốc gia. Thầy nhắc lại cho các con rằng Nadab và Abiu, các tôi tớ giả của Thiên Chúa, đã bị Jêova đánh phạt. Thầy nhắc lại cho các con rằng man-na rơi xuống ngày Sabát không thánh. Thầy nhắc lại cho các con Cain và Absalon. Thầy nhắc lại cho các con tội của Đavít với sự thiệt hại của Urie. Thầy nhắc lại cho các con tội của Absalon với sự thiệt hại của Amnon. Thầy nhắc lại cho các con kết cục của Absalon và Amnon. Thầy nhắc lại cho các con số phận của tên ăn cắp Héliodore và số phận của Simon và của Ménélaus. Thầy nhắc cho các con kết cục nhục nhã của hai tên vu khống đã tạo ra chứng gian chống lại Suzane. Thầy có thể tiếp tục không cùng các ví dụ tương tự. Nhưng chúng ta hãy trở lại Maccabê.
“Họ thanh tẩy Đền Thờ”.
Nói: “Tôi phá hủy” thôi thì không đủ, phải nói: “Tôi thanh tẩy”. Thầy đã nói cho các con người ta thanh tẩy bằng cách nào: Bằng một sự sám hối khiêm nhường và thành thật. Không có tội nào mà Thiên Chúa không tha nếu tội nhân thành thực sám hối. Hãy tin vào lòng nhân từ của Thiên Chúa. Nếu các con có thể hiểu được lòng nhân từ này, thì dù các con có tất cả tội lỗi của thế giới trên các con, các con cũng không trốn xa Thiên Chúa, nhưng các con sẽ chạy đến dưới chân Người, vì chỉ có đấng nhân từ vô cùng mới có thể tha điều mà loài người không tha.
“Và họ thiết lập một bàn thờ khác”.
Ôi! Đừng cố gắng đánh lừa Thiên Chúa. Đừng giả dối trong các hành động của các con. Đừng trộn lẫn Thiên Chúa với ma qủi. Các con sẽ có một bàn thờ trống: Bàn thờ của Thiên Chúa. Vì thiết lập
679
bàn thờ mới sẽ vô ích nếu các phần của bàn thờ cũ vẫn còn. Hoặc Thiên Chúa hoặc tà thần, các con hãy chọn.
“Họ đốt lửa với tảng đá và bùi nhùi”.
Tảng đá là ý chí cương quyết thuộc về Thiên Chúa. Bùi nhùi là ước muốn dùng tất cả cuộc đời còn lại để diệt trừ cho tới cả kỷ niệm về tội lỗi trong lòng Thiên Chúa. Lúc đó sẽ bùng lên một ngọn lửa: tình yêu. Vì đứa con, bằng tất cả đời sống danh dự, tìm cách an ủi người cha mà nó đã xúc phạm, nó sẽ làm gì, nếu không là yêu cha, muốn làm vui lòng cha. Xưa kia nó là nguyên nhân nước mắt, bây giờ nó muốn là nguyên nhân niềm vui cho cha.
Bây giờ đã đi tới tình trạng này, các con có thể dâng lễ hy sinh, đốt hương, mang đèn sáng và bánh tới. Lễ hy sinh không còn ghê tởm đối với Thiên Chúa nữa, lời cầu nguyện làm vui lòng Người, bàn thờ thực sự được soi sáng, dồi dào của lễ hàng ngày. Các con có thể cầu nguyện rằng: “Xin Chúa bảo vệ chúng con”, vì Người sẽ là bạn các con. Tình Thương của Người chỉ chờ các con kêu xin thương. Người đã thấy trước ước nguyện của các con và đã sai Tình Thương đến để nói với các con: “Hãy trông cậy, Ta bảo các con: Thiên Chúa tha cho các con. Hãy đến với Chúa”.
Đã có một bàn thờ ở giữa các con: bàn thờ mới. Từ đó vọt ra những dòng sông ánh sáng và tha thứ. Nó lan ra như dầu, chữa lành, ban sức mạnh. Hãy tin vào Lời từ Người mà đến. Hãy khóc tội lỗi của các con cùng với Thầy. Giống như vị Lêvi hướng dẫn ca đoàn, Thầy hướng dẫn tiếng nói của các con về với Thiên Chúa, và Người sẽ không từ chối tiếng than van của các con nếu nó kết hợp với tiếng Thầy. Cùng với các con, Thầy tự hư vô hóa, làm anh em với loài người bởi thân xác, là con Cha bởi thần trí, Thầy nói cho các con, với các con: “Từ vực sâu, nơi Con-Loài-Người bị rơi xuống, con kêu lên Chúa, xin nghe tiếng kẻ tự nhìn mình và thở dài, đừng bịt tai trước lời con. Ôi! Thiên Chúa, thực kinh tởm để nhìn vào con. Con cũng kinh tởm trước mắt chính con! Con sẽ là gì trước mắt Ngài? Lạy Chúa, xin đừng nhìn vào tội con, vì như thế, làm sao con có thể ở trước nhan Chúa, nhưng xin sử dụng lòng thương xót đối với con. Chúa đã phán: ‘Ta là Tình Thương’. Con tin ở lời Chúa.
680
Linh hồn bị thương tích và ngã qụi của con ký thác cho Chúa, tin cẩn ở lời hứa của Chúa, và từ rạng đông tới đêm về, từ thơ trẻ tới tuổi già, con trông cậy nơi Chúa”.
Đắc tội vì sát nhân và gian dâm, bị Thiên Chúa lên án, nhưng Đavít đã được tha thứ sau khi đã kêu lên cùng Chúa: “Xin thương, không phải vì sự kính trọng của con, nhưng vì danh dự của lòng thương xót vô biên của Chúa. Vì lòng thương xót này, xin xóa tội con. Không có nước nào có thể rửa linh hồn con nếu nó không được kín ở làn nước sâu thẳm của lòng nhân từ cực thánh của Chúa. Với nước này, xin rửa con khỏi mọi bất công và thanh tẩy con khỏi mọi ô uế. Con không chối tội con. Con nhìn nhận tội con. Nó luôn luôn ở trước mắt con như chứng nhân kết án con. Con đã xúc phạm đến tha nhân và đến chính con, nhưng con hối hận nhất là đã xúc phạm đến Chúa. Chớ gì điều đó nói lên cùng Chúa rằng con nhìn nhận Chúa chính trực trong các lời của Chúa, và con sợ sự xét xử của Chúa, vì nó thắng hết mọi sức mạnh loài người. Nhưng ôi Thiên Chúa, xin hãy xét: con đã sinh ra trong tội, và kẻ cưu mang con cũng tội lỗi. Nhưng Chúa đã yêu con đến nỗi đã tiết lộ cho con sự khôn ngoan của Chúa và ban nó cho con làm Thầy, để con hiểu những mầu nhiệm của các chân lý cực cao của Chúa. Nếu Chúa đã làm nhiều đến thế cho con, lẽ nào con phải sợ Chúa? Không, con không sợ. Xin hãy vảy trên con nước đau đớn cay đắng và con sẽ được thanh tẩy. Hãy rửa con bằng nước mắt, và con lại trở nên trắng như tuyết. Xin cho con nghe tiếng Chúa, và tôi tới thấp hèn của Chúa sẽ nhảy mừng, vì tiếng Chúa là niềm vui, dù là nó quở trách. Hãy quay mặt về với tội con, cái nhìn của Chúa sẽ xóa bỏ sự bất công của con. Qủa tim mà Chúa ban cho con đã bị tục hóa bởi Satan và bởi sự yếu đuối nhân loại của con. Xin tác tạo trong con một qủa tim mới trong sạch, xin tiêu hủy những gì thối nát trong lòng tôi tớ Chúa, để chỉ có một tinh thần ngay thẳng ngự trị ở đó. Nhưng xin đừng xua đuổi con khỏi nhan Chúa, và đừng cắt đứt tình bạn của Chúa, vì chỉ có sự cứu rỗi đến từ Chúa là niềm vui cho linh hồn con, và thần trí tối thượng của Chúa là sự an ủi cho kẻ khiêm
681
nhường. Hãy làm cho con thành một người đi vào giữa loài người để nói: ‘Hãy coi xem Chúa nhân từ chừng nào. Hãy đi trên đường của Người và qúi vị sẽ được phúc như tôi. Tôi, một kẻ thấp hèn, lại được trở nên con Thiên Chúa bởi ơn phúc tái sinh trong tôi’. Và các kẻ tội lỗi sẽ trở về với Chúa. Máu thịt sẽ phản ngụy và kêu gào trong con. Xin giải thoát cho con, ôi Chúa, phần rỗi của linh hồn con, và con sẽ dâng lời ca tụng Chúa. Con đã không biết, nhưng bây giờ con hiểu: Chúa không muốn các lễ hy sinh chiên bò, nhưng muốn sự toàn thiêu của một tấm lòng sám hối. Một con tim sám hối và khiêm nhường đẹp lòng Chúa hơn tất cả dê cừu, vì Chúa đã tạo dựng nên nó cho Chúa. Chúa muốn chúng con nhớ điều đó và trả lại cho Chúa những gì thuộc về Chúa. Xin hãy nhân hậu với con, và trong lòng nhân hậu cao cả của Chúa, xin hãy xây dựng lại Jêrusalem của con cũng là của Chúa: Jêrusalem của một linh hồn được thanh tẩy và được tha thứ, trên đó người ta có thể dâng lễ hy sinh, vật cung tiến, lễ toàn thiêu đền tội với các lời tạ ơn và ngợi khen. Xin cho mỗi ngày mới của con là một bánh tiến của sự thánh thiện, được tiêu thụ trên bàn thờ Chúa, để hương thơm tình yêu của con bay lên tới Chúa”.
Hãy đến, chúng ta đi về với Chúa! Thầy đi trước, các con theo sau. Chúng ta đi tới mạch nước trong lành, tới đồng cỏ thánh. Chúng ta đi về đất của Thiên Chúa. Hãy quên qúa khứ. Hãy mỉm cười với tương lai. Đừng nghĩ tới bùn, nhưng hãy nhìn các tinh tú. Đừng nói: “Tôi tối tăm”, nhưng hãy nói: “Thiên Chúa là Ánh Sáng”. Thầy đến để loan báo cho các con sự bình an, để loan Tin Mừng cho kẻ an bình, chữa những kẻ có tâm hồn dập nát bởi qúa nhiều thứ, loan báo tự do cho tất cả các nô lệ, trước tiên là những kẻ nô lệ ma qủi, giải phóng cho những kẻ bị cầm tù bởi tình dục của họ.
Thầy nói với các con: Năm hồng phúc đã tới. Với các con, đừng khóc bởi sự buồn rầu như các tội nhân cảm thấy. Các con bị lưu đày xa nước Thiên Chúa, đừng khóc. Thầy thay thế tro bằng vàng, thay nước mắt bằng dầu, thầy mặc áo đại lễ cho các con, Thầy giới thiệu các con với Cha và nói: “Đây là những con chiên mà Cha đã
682
sai con đi tìm. Con đã viếng thăm chúng và tụ họp chúng. Con đã đếm từng con. Con đã tìm những con bị tản mát, đem chúng ra khỏi mây đen và sương mù và con dẫn chúng tới cho Cha. Con đã tìm chúng giữa mọi dân tộc, con qui tụ chúng từ mọi miền để dẫn chúng về Đất không còn phải là đất, nơi Cha đã chuẩn bị cho chúng, ôi Cha rất thánh, để dẫn chúng tới đỉnh thiên đàng của những ngọn núi mầu mỡ, nơi tất cả đều là ánh sáng và đẹp đẽ, dọc theo những dòng sông thiên phước, nơi các linh hồn được Cha yêu sẽ no thoả bằng chính Cha, Con cũng đi tìm các con bị thương, con đã chữa các xương gẫy; con đã phục hồi sức lực cho các con yếu, con không bỏ qua một con nào. Và con mà chó sói tham lam đã làm cho đau nặng nhất, con đã vác trên vai như một cái gông của tình yêu, và con đặt nó ở chân Cha, ôi Cha nhân hậu và rất thánh, vì nó không thể bước được nữa, nó không biết lời Cha, và đó là một linh hồn tội nghiệp, bị sự ân hận và loài người săn đuổi; một linh hồn hối lỗi và run sợ, bị các làn sóng đẩy tới đẩy lui trên bãi. Nó đầy ước ao để tới, nhưng bị giữ lại bởi sự nhận biết chính mình... Xin Cha mở lòng Cha ra cho nó, ôi Cha, đấng hoàn toàn là Tình Yêu, để ở trong Cha, tạo vật bị hư mất này tìm được bình an. Hãy nói với nó: ‘Hãy đến’. Hãy nói với nó: ‘Con thuộc về Ta’. Nó đã thuộc về mọi người, nhưng nó buồn nôn và sợ. Nó nói: ‘Mỗi ông chủ là một kẻ giết mướn ghê tởm’. Hãy làm sao cho nó có thể nói: ‘Vị vua này của tôi đã cho tôi niềm vui được cầm giữ’. Nó không biết tình yêu là gì, nhưng nếu Cha đón nhận nó, nó sẽ biết thế nào là tình yêu Thiên Quốc, tình yêu phu thê giữa Thiên Chúa và linh hồn loài người. Và như con chim được thoát khỏi lồng của những con người độc ác, nó sẽ bay lên, bay lên càng ngày càng cao cho tới Cha, trên trời, trong niềm vui, trong vinh quang, trong khi hát: ‘Tôi đã gặp được Đấng tôi tìm, tâm hồn tôi không có ước mong nào khác. Tôi an nghỉ trong Người và tôi sung sướng, ôi Chúa muôn đời. Tôi được hạnh phúc tới muôn đời’”.
Thôi hãy đi, với một tâm hồn mới, hãy mừng lễ Thanh Tẩy.
683
Nguyện Ánh Sáng của Thiên Chúa soi sáng trong các con.
Giêsu không thể tả được vào cuối bài thuyết trình: khuôn mặt ánh sáng, đôi mắt hớn hở, một nụ cười và một giọng nói êm ái vô tận.
Người ta vẫn còn xuất thần và không nhúc nhích cho tới khi Người nhắc lại: “Đi đi. Bình an cho các con”. Lúc đó các người hành hương bắt đầu ra về và họ nói ồn ào.
Người đàn bà trùm khăn ra đi như mọi khi, với bước đi nhẹ nhàng và uyển chuyển. Bà tựa như có cánh với áo khoác phùng ra ở vai.
- Bây giờ tôi sẽ biết bà ta có phải là Israel không - Phêrô nói.
- Tại sao?
- Bởi vì nếu bà ở lại đây, đó là dấu hiệu rằng...
-... rằng đó là một người đàn bà tội nghiệp, không có một căn nhà riêng, không có gì nữa. Phêrô, con hãy nhớ điều đó - Giêsu đi về phía thôn xóm.
- Thưa Thầy vâng, con sẽ nhớ... Bây giờ chúng ta làm gì đây, trong khi mọi người ở trong nhà để mừng lễ?
- Các bà vợ của chúng ta sẽ thắp đèn cho chúng ta.
- Con tiếc... Đây là năm thứ nhất con không nhìn thấy đèn thắp trong nhà con, là năm con không thắp...
- Con là đứa trẻ cồ! Chúng ta cũng sẽ thắp đèn. Như vậy con sẽ không làm bộ mặt xám nữa, và chính con sẽ là người thắp.
- Con à? Không phải con, Chúa ơi. Thầy là gia trưởng, chính Thầy làm việc đó.
- Thầy, Thầy luôn luôn là ngọn đèn cháy sáng... Thầy muốn các con cũng như vậy. Phêrô, Thầy là Ánh Sáng muôn đời. Con có biết rằng Thầy sinh ra đúng vào ngày 25 tháng Casleu không?
- Ê! Ai biết được có bao nhiêu ánh sáng? - Phêrô ngạc nhiên hỏi.
- Người ta không thể đếm xuể... Đó là tất cả các ngôi sao trên trời...
- Không! Người ta không mừng sinh nhật Thầy ở Nazarét sao?
- Thầy không sinh ở Nazarét, nhưng ở giữa những đổ nát tại Bétlem. Thầy thấy rằng Gioan biết nín lặng. Gioan rất biết vâng
684
lời.
- Và anh ấy không tò mò. Nhưng con... con rất tò mò! Thầy sẽ kể chuyện đó chứ? Kể cho Simon tội nghiệp đi, nếu không thì làm sao để nói về Thầy. Đôi khi người ta hỏi mà con chẳng biết nói gì... Những người khác biết nói, con muốn nói là các anh Thầy, và Simon, Batôlômêo, và Judas Simon. Và... đúng, Tôma cũng biết nói... người ta bảo anh ta là người quảng cáo ở ngoài chợ... để bán hàng, nhưng anh cũng nói được... Mathêu... Ê! Anh ta cũng khá! Anh ta khai triển cách làm mà anh ta đã dùng để vặt lông người ta ở quầy thuế, để bó buộc người ta phải nói: “Anh có lý”. Nhưng con, Simon Jonas tội nghiệp! Nhưng những con cá thì chúng dạy cho ta được cái gì? Và cái hồ? Được hai điều... nói cho những người không biết: Những con cá dạy con ở lặng và kiên trì: chúng kiên trì để thoát lưới, con kiên trì để đem chúng vào đó. Cái hồ dạy can đảm và để mắt vào tất cả. Còn cái thuyền? Làm việc tận lực, không tiết kiệm bắp thịt, đứng hoài, dù nước động và liều mình bị té. Mắt nhìn sao trời, tay nắm vững cần lái, mạnh mẽ, can đảm, kiên trì, chú ý, đó là những cái đời sống nghèo dạy cho con...
Giêsu để một tay lên vai ông, Người lắc ông trong khi nhìn ông cách yêu thương và đầy cảm phục, một sự cảm phục thực sự đối với sự đơn sơ này và nói: “Con thấy như vậy là ít à Simon Phêrô? Con có tất cả những cái cần để làm Đá của Thầy. Không phải thêm bớt điều gì nữa. Con sẽ là vị hoa tiêu muôn đời, Simon. Và con sẽ nói với những kẻ đến sau con: ‘Mắt nhìn sao trời: Giêsu, tay nắm vững cần lái, mạnh mẽ, can đảm, kiên trì, chú ý, làm việc cật lực không chểnh mảng, để mắt vào tất cả, biết đứng, dù nước động...’ Còn về việc yên lặng... nào... các con cá đã chẳng dạy con sao?”
- Nhưng về việc con phải biết nói, con còn câm hơn con cá. Những lời khác?... Ngay cả con gà mái cũng biết cục tác như con làm... Nhưng, Thầy của con, nói cho con đi: Thầy cũng sẽ cho con một đứa con trai chứ? Chúng con già rồi... Nhưng Thầy đã nói rằng ông Tẩy Giả sinh ra bởi một người đàn bà già... Bây giờ Thầy nói: “Và con sẽ nói với những kẻ đến sau con...” Ai đến sau một người
685
đàn ông, nếu không phải là một đứa con trai? - Phêrô có bộ mặt năn nỉ và đầy hy vọng.
- Không, Phêrô. Đừng khổ vì chuyện ấy. Con hoàn toàn giống như cái hồ của con khi mây che mất mặt trời: đang sáng sủa, liền trở nên âm u. Không, Phêrô của Thầy. Nhưng không phải một đứa con trai, nhưng con sẽ có hàng ngàn và hàng chục ngàn đứa, và trong hết mọi dân tộc... Con không nhớ hôm Thầy đã bảo con: “Con sẽ là kẻ chài người”?
- Ôi!... Đúng... Nhưng... sẽ êm dịu chừng nào khi một đứa nhỏ gọi con: “Ba”!
- Con sẽ có nhiều tới nỗi con không thể đếm, những người mà con sẽ cho đời sống vĩnh cửu. Con sẽ gặp được họ trên Trời, và con sẽ dắt họ lại với Thầy và nói: “Đây là những đứa con của Phêrô của Thầy, và con muốn chúng ở nơi con ở”. Và Thầy sẽ nói với con: “Ừ, Phêrô, con được như con muốn. Vì con đã làm tất cả cho Thầy, thì Thầy, Thầy sẽ làm tất cả cho con” - Với một sự êm đềm vô tận, Người hứa với ông những lời này.
Phêrô nuốt nước bọt, bị chia sẻ giữa nỗi khổ của một hy vọng hay hư nát thuộc về một tình phụ tử trên trái đất, và nước mắt vui của một sự xuất thần đã được loan báo. Ông nói: “Ôi! Chúa ơi! Nhưng để cho sự sống đời đời, phải thuyết phục các linh hồn về với sự thiện. Mà... chúng con vẫn ở hoài tại cùng một điểm: con không biết nói”.
- Con sẽ biết nói khi giờ đến. Con sẽ nói hay hơn cả Gamaliel.
- Con muốn tin vậy... Nhưng Thầy hãy làm phép lạ này đi, vì nếu con phải tự mình biết làm như vậy...
Giêsu cười bằng nụ cười an bình của Người và nói với ông: “Hôm nay Thầy hoàn toàn thuộc về con. Chúng ta hãy vào trong xóm, tới nhà bà góa. Thầy có một của cúng bí mật: Một cái nhẫn để bán. Con biết Thầy có bằng cách nào không? Có một cục đá rơi vào chân Thầy trong khi Thầy đang cầu nguyện ở gốc cây liễu. Người ta đã buộc vào đó một gói nhỏ với một miếng giấy da, bên trong
686
gói: cái nhẫn. Trên miếng giấy da là chữ: Bác Ái”.
- Thầy có muốn cho con coi không? Ôi! Đẹp thật! Của một người đàn bà. Ngón tay nhỏ xíu! Nhưng bao nhiêu là vàng!
- Bây giờ con đi bán đi. Thầy không biết làm việc này. Ông chủ quán trọ có mua vàng, Thầy biết. Thầy chờ con ở gần lò bánh. Đi đi Phêrô.
- Nhưng... nếu con không biết làm? Con, vàng... con chẳng biết gì về vàng!
- Hãy nghĩ đó là bánh của các kẻ đói, và hãy làm như con cho là tốt nhất. Chào.
Phêrô đi về phía bên phải, trong khi Giêsu nhẩn nha hơn, quẹo trái về hướng ngôi làng hiện ra ở hơi xa sau đám cây, phía bên kia nhà người quản lý.
100* GIÊSU RỜI NƯỚC ĐẸP VÀ ĐI VỀ BÊTANI
Nước Đẹp không có khách hành hương. Nó nhìn có vẻ lạ. Không còn người cắm trại để ở lại một đêm, hay ít nhất là dùng bữa ngoài sân hay trong nhà kho. Hôm nay nó hoàn toàn sạch sẽ thứ tự, không một chút rác rến mà đám đông thường để lại sau lưng.
Các môn đệ dùng thời giờ của họ vào các việc thủ công. Một số xe các cây lác để làm những cái chiếu mới, một số khác lo đắp đất để dẫn nước mưa từ trên mái xuống cho nó khỏi đọng trong sân. Giêsu đứng giữa đồng cỏ, bẻ vụn bánh thảy cho chim sẻ. Nhìn mút mắt không thấy một bóng người nào, dù đây là một ngày thanh quang.
Andrê đến với Giêsu, chắc ông trở về từ một công tác nào đó: “Bình an cho Thầy”.
- Và cho con, Andrê. Lại đây, ở với Thầy một tí. Con có thể ở bên các con chim. Con giống như chúng. Nhưng con thấy không? Khi chúng biết rằng kẻ đến gần chúng yêu chúng, chúng không sợ nữa. Con coi chúng tin cẩn, bình an, vui vẻ chừng nào. Vừa nãy nó hầu như ở sát chân Thầy. Bây giờ con ở đây, chúng báo động... Nhưng coi, coi... Đó, con này bạo nhất, nó tới. Nó hiểu rằng không
687
có gì nguy hiểm. Và sau nó, đó, những con khác. Con coi chúng ăn ngon lành chừng nào? Chẳng vậy đối với chúng ta, con của Cha sao? Người nuôi chúng ta bằng tình yêu của Người. Và khi chúng ta chắc chắn mình được yêu và được kêu gọi làm bạn với Người, tại sao lại sợ Người và sợ chúng ta. Tình bạn của Người phải cho chúng ta sự bạo dạn, ngay cả ở bên loài người. Con hãy tin: chỉ có kẻ xấu mới phải sợ người đồng loại, chứ không phải kẻ chính trực như con.
Andrê đã đỏ mặt và không nói. Giêsu kéo ông lại với Người, cười và nói: “Con và Simon, các con phải hợp làm một. Các con tan vào nhau rồi làm lại mình, các con sẽ toàn vẹn. Nhưng...Thầy nói với con rằng lúc đầu các con rất khác nhau, nhưng con sẽ hoàn toàn giống như Phêrô vào lúc cuối cùng của sứ mạng con. Con có tin không?”
- Thầy đã nói vậy thì đó là chắc chắn. Cả đến con không hỏi tại sao điều đó lại có thể, vì mọi điều Thầy nói đều là thật. Và con sẽ bằng lòng được như Phêrô, anh con, vì ông là người chính trực và ông làm vui lòng Thầy. Anh ấy dũng cảm, Phêrô. Con rất bằng lòng vì anh ấy đại độ, can đảm, mạnh mẽ. Nhưng những người khác cũng vậy!...
- Còn con, không?
- Ôi! con!... Chỉ có mình Thầy là có thể bằng lòng với con...
- Thầy nhận thấy rằng con làm việc không ồn ào và sâu xa hơn những người khác. Vì trong số mười hai, có những kẻ làm ồn ào giống như công việc; có những kẻ làm ồn ào rất nhiều hơn công việc, và có một người bằng lòng với công việc, một công việc khiêm tốn, linh hoạt, không ai biết... Những người khác có thể tin là ông ta không làm gì cả, nhưng đấng nhìn thấy, Người biết. Có sự khác biệt này là vì các con chưa hoàn thiện. Và sẽ luôn luôn như vậy giữa các môn đệ tương lai, những kẻ sẽ đến sau các con, cho tới khi thiên thần nói bằng một giọng như sấm: “Hết giờ rồi”. Sẽ luôn luôn có những thừa sai của Đức Kitô biết lôi kéo cái nhìn trên công việc của họ cũng như trên cá nhân họ: các vị thầy. Khốn thay, cũng có những kẻ chỉ là tiếng động ồn ào và các cử chỉ bên ngoài, chỉ có bên ngoài, các mục tử giả, các điệu bộ cải lương... Các linh mục ư
688
? Không: các diễn viên tuồng câm, không là gì hơn. Không phải các cử chỉ làm nên người linh mục, cũng không phải y phục. Không phải sự thờ phượng bị tục hóa, không phải những xã giao rộng rãi và với những người quyền hành làm nên linh mục, nhưng là linh hồn của họ, một linh hồn lớn tới nỗi hư vô hóa xác thịt. Họ chỉ còn là thần trí hoàn toàn, linh mục của Thầy... vị linh mục trong mơ của Thầy. Các linh mục thánh của Thầy sẽ như vậy. Tinh thần thì không có cung giọng, không có điệu bộ của diễn viên bi kịch. Nó không có điệu bộ, vì nó thiêng liêng, và bởi vậy nó không thể mặc áo kịch hay mang mặt nạ. Nó là nó: tinh thần, lửa, ánh sáng, tình yêu. Nó nói với các tâm hồn. Nó nói bằng sự trong sạch của cái nhìn, của các cử chỉ, các lời nói, các việc làm của nó.
Loài người nhìn, và họ thấy một người đồng loại với họ. Nhưng bên ngoài và bên trên thể xác, họ thấy gì? Một cái gì hãm dáng đi vội vã của họ lại, một cái gì làm họ suy nghĩ và kết luận: “Người này, một đồng loại của tôi, chỉ là người ở bên ngoài, bên trong, họ có một linh hồn thiên thần”. Và nếu họ vô tín ngưỡng, họ sẽ kết luận: “Vì người này, tôi tin là có Thiên Chúa và có Trời”. Nếu họ là người dâm đãng, họ sẽ nói:”Người này, đồng loại của tôi, có cái nhìn thiên quốc. Tôi hãm tình dục của tôi lại để không tục hóa nó”. Nếu đó là người hà tiện, họ sẽ quyết định: “Người này không dính bén vào của cải, tôi noi gương họ, không tham lam nữa”. Nếu đó là người hay giận dữ, độc ác, trước sự êm đềm này, họ sẽ trở thành người bình tĩnh hơn. Một linh mục thánh có thể làm rất nhiều. Và con hãy tin: trong số các linh mục, luôn luôn có các vị thánh biết chết vì tình yêu Thiên Chúa và đồng loại. Và họ biết làm cách rất êm đềm, sau khi đã thực hành sự trọn lành trong suốt đời họ với sự êm đềm tương tự, đến nỗi thế giới không nhận ra. Nếu thế giới chưa hoàn toàn trở thành ô uế và thờ tà thần, chính là nhờ họ: các anh hùng trong yên lặng và các kẻ hoạt động trung thành. Và họ sẽ có nụ cười trong trắng và bẽn lẽn của con. Sẽ luôn luôn có những Andrê. Sẽ có, nhờ ơn Thiên Chúa và cho hạnh phúc của thế giới!
- Con không tin mình xứng đáng những lời này. Con chẳng làm
689
gì để đáng được...
- Con đã giúp Thầy lôi kéo một tâm hồn về với Thiên Chúa. Và đây là linh hồn thứ hai mà con dẫn về với Ánh Sáng.
- Ôi! Tại sao ông ta lại nói ra? Ông ta đã hứa với con...
- Không ai nói gì cả, nhưng Thầy, Thầy biết. Khi các bạn đã mệt mỏi và nghỉ ngơi, có ba người canh thức ở Nước Đẹp: vị tông đồ có tình yêu thầm lặng và linh hoạt đối với các tội nhân; tạo vật mà linh hồn khích động về với phần rỗi; Vị Cứu Tinh canh thức cầu nguyện, chờ đợi và hy vọng... Niềm hy vọng của Thầy: một linh hồn tìm thấy phần rỗi... Cám ơn Andrê. Hãy tiếp tục và hãy được chúc phúc.
- Ôi! Thầy!... Nhưng đừng nói gì với những người khác... Khi chỉ có mình con với một mình bà, như khi nói với người đàn bà cùi ở bãi vắng, hoặc ở đây, nói với một người mà con không biết mặt, con còn hơi biết nói một tí. Nhưng nếu những người khác biết, nhất là Simon, và nếu anh ấy tới... con sẽ không biết làm gì nữa... Và cả Thầy, Thầy cũng không tới... vì con xấu hổ nói trước mặt Thầy.
- Thầy sẽ không tới. Giêsu sẽ không tới. Nhưng Thánh Linh của Thiên Chúa luôn luôn đi kèm theo con. Chúng ta về nhà thôi. Người ta gọi chúng ta dùng bữa.
Và tất cả chấm dứt giữa Giêsu và người môn đệ êm đềm.
Họ còn đang ăn thì các đèn đã thắp lên, vì đêm xuống rất mau và gió bắc khuyên nên đóng cửa. Nhưng có tiếng gõ cửa, và có tiếng nói vui vẻ của Gioan.
- Đã về bình an!
- Các anh đã xong lẹ!
- Có chuyện gì đó?
- Sao khuân vác dữ vậy!
Mọi người đều nói một trật và giúp ba người bỏ các đồ nặng họ
690
vác trên vai xuống.
- Nhè nhẹ chứ!
- Hãy để chúng tôi chào Thầy đã.
- Nhưng, lát nữa đã!
Có sự ồn ào vui vẻ thân mật vì niềm vui xum họp.
- Thầy chào các con. Thiên Chúa đã cho các con những ngày bình an.
- Thưa Thầy vâng, nhưng không có những tin tức bảo đảm. Con đã tiên đoán vậy -Iscariot nói.
- Có chuyện gì đó? - Sự tò mò bừng dậy.
- Hãy chờ họ ăn trước đã - Giêsu nói.
- Không, thưa Thầy, trước hết chúng con đưa cho Thầy những thứ chúng con có cho Thầy và cho các người khác. Và trước tiên... Gioan, đưa thư đi.
- Simon giữ. Tôi sợ sẽ làm hư trong đống đồ đạc.
Từ nãy tới giờ Zêlote tranh luận với Tôma, người muốn đưa nước cho ông rửa đôi chân mệt mỏi. Simon liền chạy lại trong khi nói: “Con có đây, trong túi ở giây lưng của con”. Và ông mở cái túi ở bên trong cái giây lưng rộng bằng da đỏ, ông lấy ra một cái ru-lô, bây giờ đã xẹp lép.
- Thơ của Mẹ Thầy. Khi chúng con tới gần Bêtani, chúng con gặp Jonatha đang đi tới nhà Lazarô với thơ từ và nhiều thứ khác. Jonatha đi Jêrusalem, vì Chouza xếp đặt lại lâu đài của ông... Có lẽ Hêrôđê tới Tibêriat... Và Chouza không muốn để vợ ông ở gần Hêrôđiađê - Iscariot cắt nghĩa trong khi Giêsu cởi cái nút của ru-lô và dở ra.
Các tông đồ truyện trò trong khi Giêsu đọc với nụ cười sung sướng các lời của bà Má. Rồi Người nói: “Hãy nghe đây. Cũng có điều cho các người Galilê. Mẹ Thầy viết:
- Gởi Giêsu, đứa con êm đềm và Chúa của má, bình an và phúc lành. Jonatha, tôi tớ của Chúa ông, đã mang tới cho má những món qùa qúi của Jeanne. Bà xin Vị Cứu Tinh của bà chúc lành cho bà, cho chồng bà và tất cả nhà. Jonatha nói với má rằng theo lệnh của
691
Chouza, ông đi Jêrusalem với lệnh tái mở cửa lâu đài ở Sion. Má chúc tụng Thiên Chúa về điều này, vì má có thể gởi cho con các lời và phúc lành của má. Maria Alphê và Salômê cũng gởi cho các con họ những cái hôn và phúc lành. Và vì Jonatha đã qúa tốt, ông có cả lời chào của bà vợ Phêrô cho ông chồng xa xôi của bà, và cũng vậy đối với các gia đình của Philíp và Natanael. Ôi hỡi các ông chồng xa xôi thân yêu! Tất cả các bà vợ của các ông, với cái kim và khung cửi cùng với việc làm vườn, xin gởi tới các ông các y phục cho mùa đông này cùng với mật ong, và yêu cầu các ông dùng với nước thật nóng trong những buổi chiều ẩm ướt. Hãy giữ mình. Đó là điều các bà mẹ và các bà vợ bảo mẹ nói với các con. Má cũng nói điều đó với con má. Hãy tin, chúng ta không hy sinh vô ích. Hãy lợi dụng các món qùa khiêm tốn mà chúng ta, môn đệ của các môn đệ Đức Kitô, chúng ta tặng cho các tôi tớ của Chúa, và hãy chỉ cho chúng ta niềm vui được biết tất cả đều khỏe mạnh.
Bây giờ, con yêu của má, má nghĩ rằng đã gần một năm nay, con không còn hoàn toàn thuộc về má, má cảm thấy như lại trở về thời gian con đã ở đó, vì má cảm thấy qủa tim nhỏ của con đập trong lòng má, nhưng má cũng có thể nói rằng con chưa ở đó, vì con bị phân chia với má bởi một hàng rào, nó ngăn cản má vuốt ve cơ thể yêu thương của con, và má chỉ có thể thờ lạy thần trí con, ôi con yêu dấu và Thiên Chúa đáng thờ lạy của má. Bây giờ cũng vậy, má biết rằng con ở đó, không bao giờ chia lìa với má, dù con ở xa, nhưng má không thể vuốt ve con, nghe con, phục vụ con, tôn thờ con, Đấng Messi của Chúa và của tôi tớ thấp hèn của Người.
Jeanne muốn má tới nhà bà để không phải ở một mình trong lễ Ánh Sáng, nhưng má thích ở lại đây với Maria để đốt đèn cho má và cho con. Nhưng nếu má có là bà hoàng hậu lớn nhất trái đất, và nếu má có thể đốt hàng ngàn và hàng chục ngàn ngọn lửa, má cũng sẽ như ở trong đêm, vì con không ở đây. Trong khi hồi đó má ở trong ánh sáng hoàn toàn tại cái hang tối đó, khi má có con trong lòng má: Ánh Sáng của má và của thế giới. Đây là lần đầu tiên má tự bảo mình: “Hôm nay con tôi thêm một tuổi nữa, mà tôi không có
692
nó ở bên tôi”, và điều này còn buồn hơn sinh nhật đầu tiên của con ở Matarêa. Nhưng con làm trọn sứ mạng của con, và má làm sứ mạng của má. Và cả hai, chúng ta làm theo ý Cha, và chúng ta làm việc vì vinh danh Thiên Chúa. Điều này lau khô mọi nước mắt.
Con yêu, má hiểu điều con làm, theo như người ta nói với má. Giống như các làn sóng mang tiếng nói ở ngoài khơi vào tới bên trong một cái vịnh đơn độc và rào kín, cũng vậy, tiếng vọng của các việc làm thánh của con cho vinh danh Chúa vào trong căn nhà nhỏ của chúng ta và đến tận tai má. Má vui mừng và đồng thời run sợ. Vì mọi người đều nói về con, nhưng họ không nói với cùng một tình cảm. Các bạn bè và các người được hưởng ơn lành của con đến để nói: “Phúc cho Con của lòng bà”, các kẻ thù đến để gây thương tích cho con tim má khi nói: “Khốn cho hắn!” Nhưng với những người này, má chỉ cầu nguyện cho họ, vì đó là những kẻ khốn nạn, còn dân ngoại hơn là các dân ngoại đến để hỏi má: “Vị Pháp Sư, người của Thiên Chúa ở đâu?” Họ không biết rằng trong con tim sai lầm của họ, họ đã nói một sự thật vĩ đại, vì thực sự con là thầy cả và vĩ đại đúng như ý nghĩa của tiếng này theo ngôn ngữ cổ xưa, và con là của Thiên Chúa, ôi Giêsu của má. Lúc đó má bảo họ đi khi nói: “Người ở Bêtani”, bởi vì má nghĩ đó là điều má phải nói cho tới khi con ra cho má một lệnh khác. Và má cầu nguyện cho những kẻ đến tìm sự cứu thoát cho cái hay chết để họ tìm thấy phần rỗi cho linh hồn bất tử.
Vậy má xin con đừng khổ vì những đau đớn của má. Nó đã được bù trừ bởi bao niềm vui do các lời của những người mà con đã chữa linh hồn và thể xác. Nhưng Maria Alphê còn có nỗi đau đớn lớn hơn má. Không phải người ta chỉ nói với má mà thôi: Giuse Alphê muốn con biết rằng trong chuyến đi làm ăn vừa qua của nó ở Jêrusalem, nó đã bị chận lại và bị đe dọa vì tại con. Đó là những người thuộc Đại Công Hội. Má nghĩ nó đã bị báo hiệu cho họ bởi vài kẻ quyền thế ở đây, nếu không thì ai mà biết được Giuse là gia trưởng và là anh con? Má nói điều đó cho con vì má phải vâng lời theo như tư cách là phụ nữ. Nhưng về phần má, má nói với con: má
693
muốn ở gần con để khích lệ con. Nhưng về việc đó, con là sự khôn ngoan của Cha, con hãy quyết định, đừng kể tới những nước mắt của má. Simon, anh con, hầu như đã quyết định đến với con sau chuyện làm ăn này. Nhưng sự khó khăn của mùa đông đã giữ anh ta lại, và hơn nữa, lại sợ không tìm thấy con, vì người ta đã nói với giọng đe dọa rằng có thể con phải ở lại nơi con đang ở.
Con! Con của má! Người con thánh đáng thờ lạy của má! Má đứng, giơ tay ra như Môise trên núi, để cầu nguyện cho con trong cuộc chiến chống với các kẻ thù của Thiên Chúa và của con, Giêsu của má mà thế giới không yêu.
Ở đây, Lia Isaac đã chết, má buồn, vì bà luôn luôn là bạn tốt của má. Nhưng nỗi khổ lớn nhất của má là con, người con xa cách mà người ta không yêu. Má chúc lành cho con. Cũng như má chúc bình
an và phúc lành cho con, má xin con cũng hãy ban nó cho Má của con.
- Những tên trơ tráo này, chúng vào tận căn nhà đó! - Phêrô kêu lên.
Và Juđa Thađê la lối: “Giuse... có thể giữ cái tin đó cho riêng anh. Nhưng... Anh ta vội vã để loan báo!”
- Tiếng kêu của linh cẩu không làm cho các người sống sợ - Philíp nói cách nghiêm trang.
- Điều rủi ro là đây không phải linh cẩu, mà là các con báo. Chúng tìm một con mồi sống - Iscariot nói. Rồi ông quay qua nói với Zêlote: “Hãy nói điều chúng ta đã nghe”.
- Thưa Thầy vâng, Judas có lý để sợ. Chúng con đã đi tới nhà Giuse Arimathi và nhà Lazarô, những người được tuyên bố là bạn Thầy. Rồi con và Judas, làm như con là một trong các bạn thời nhỏ của anh, chúng con tới nhà một số bạn của anh ở Sion... Và... Giuse, và Lazarô, khuyên Thầy rời khỏi đây ngay trong dịp lễ này. Thầy đừng ở lại đây, vì lợi ích của Thầy. Rồi các bạn của Judas nói: “Coi chừng, người ta đã quyết định bắt ông để kết án, chi tiết là vào dịp lễ này là lúc không có dân chúng. Bảo ông ta rút lui đi một thời gian để đánh lừa các con rắn độc này. Cái chết của Doras đã kích thích nọc độc và sự sợ hãi của chúng. Vì chúng sợ và thù hằn. Sự sợ
694
hãi làm chúng nhìn thấy các điều không có, và sự thù hằn làm chúng nói lời dối trá”.
- Chúng biết hết, biết hết về chúng ta! Ghê tởm! Và chúng bóp méo tất cả! Và chúng phóng đại tô mầu tất cả. Khi chúng thấy sự việc không đủ để nguyền rủa thì chúng bịa ra. Con thấy ghê tởm và bị đè nặng. Con có tư tưởng muốn đi lưu đày, đi... con không biết... rất xa, ra khỏi cái Israel này, nơi chỉ toàn là tội lỗi... - Judas bị suy nhược tinh thần.
- Judas! Judas! Để cho thế giới một con người, người đàn bà làm việc trong chín tuần trăng. Con, để cho thế giới sự nhận biết Thiên Chúa, con muốn làm lẹ hơn sao? Không phải chỉ chín tuần trăng, mà phải hàng ngàn tuần trăng. Và như mặt trăng sinh ra và chết ở mỗi tuần trăng, nó xuất hiện như mới sinh, rồi đầy, rồi giảm. Thế giới sẽ như vậy, bao lâu nó còn hiện hữu, sẽ luôn luôn có những kỳ tăng trưởng và giảm bớt của tôn giáo. Cả khi nó hình như đã chết, nhưng nó vẫn sống, tựa như mặt trăng vẫn hiện hữu khi người ta thấy nó chấm dứt. Và những kẻ làm việc cho tôn giáo này sẽ được phần thưởng đầy tràn, dù chỉ còn lại trên trái đất một số rất ít tín hữu. Nào, nào! Đừng qúa dễ cảm hứng trong chiến thắng, và đừng qúa dễ nản lòng trong thất bại.
- Nhưng... đi khỏi đây. Chúng ta chưa đủ mạnh. Chúng ta cảm thấy sợ trước Đại Pháp Đình. Ít nhất là con... những người khác, con không biết... Nhưng con cho là thiếu khôn ngoan để thử nghiệm. Chúng ta không có qủa tim của ba trẻ trong triều Nabucodonoso.
- Vâng, thưa Thầy, như vậy tốt hơn.
- Đó là khôn ngoan.
- Judas có lý.
- Thầy thấy mẹ thầy và cả các bà con của Thầy...
- Và Lazarô, và Giuse.
- Chúng ta làm cho họ đến đây vô ích.
Giêsu mở cánh tay và nói: “Hãy làm như các con muốn. Nhưng rồi chúng ta sẽ trở lại đây. Các con thấy người ta đến đây đông chừng nào. Thầy không ép buộc, và thầy không thử thách tâm hồn
695
các con. Qủa vậy, Thầy cảm thấy chúng chưa sẵn sàng... Nhưng chúng ta hãy nhìn công việc của các phụ nữ đi”.
Và tất cả đều với ánh mắt vui, tiếng kêu sung sướng, lôi trong các giỏ xách ra những quần áo, những xăng-đan, những lương thực của các bà mẹ và các bà vợ. Họ cố ý lôi kéo sự chú ý của Giêsu để Người cảm phục một hồng ân lớn của Thiên Chúa. Nhưng Người có vẻ lo âu và xao lãng. Người đọc đi đọc lại lá thơ của mẹ. Với một ngọn đèn, Người thu mình trong góc trống của chiếc bàn, trên đó họ bày đầy những quần áo, những trái táo, những hộp thiếc và các cục phó mát. Một tay che lấy mắt, tựa như Người suy niệm, nhưng Người đau khổ.
- Nhưng Thầy ơi coi này: bà vợ tội nghiệp của con, bà làm cho con cái áo đẹp qúa, và cái áo khoác này nữa, có cả mũ. Ai biết bà đã mệt tới cỡ nào, vì bà đâu có được khéo léo như mẹ Thầy - Phêrô nói, ông sung sướng ôm đầy tay các kho tàng của ông.
- Đẹp, ờ, đẹp. Đó là một người đàn bà dũng cảm - Giêsu nói cách lịch sự, nhưng với cái nhìn thật xa những thứ người ta trình cho Người.
- Còn của chúng con, má đã làm hai cái áo kép. Bà má tội nghiệp! Thầy thích không? Mầu này rất đẹp, phải không? - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Rất đẹp, Giacôbê, nó rất hợp cho con.
- Coi, con cá rằng cái đai lưng này là do Mẹ Thầy làm. Chỉ có Mẹ mới thêu đẹp như vầy. Và cả cái khăn kép để che mặt trời này nữa, con nói là do Maria làm. Nó hoàn toàn giống như cái của Thầy. Cái áo thì không. Chắc chắn cái này là mẹ chúng con dệt. Má tội nghiệp. Sau bao nhiêu nước mắt má đã đổ ra mùa hè vừa qua, má đâu có nhìn tỏ nữa, mà chỉ hay bị đứt! Má thân yêu! - Và Juđa Alphê hôn chiếc áo nặng mầu nâu đỏ.
- Thầy không được vui - Sau cùng Batôlômêo nhận xét. “Cả đến Thầy không coi những thứ người ta gởi cho Thầy”.
- Người không thể vui - Simon Zêlote nói.
- Thầy suy nghĩ... nhưng... Các con gói các thứ lại và để mọi thứ
696
vào chỗ. Chưa phải là lúc để nộp mình và người ta cũng sẽ không bắt chúng ta đâu. Tới đêm khuya, dưới ánh trăng, chúng ta sẽ đi Đôcô, rồi đi Bêtani.
- Sao lại đi Đôcô?
- Vì có một người đàn bà sắp chết và đang chờ Thầy chữa.
- Chúng ta có ghé qua nhà ông quản lý không?
- Không, Andrê, không ghé nhà ai cả. Như vậy sẽ không có ai phải nói dối rằng họ không biết chúng ta ở đâu. Nếu các con cho là để không bị theo dõi, thì Thầy, Thầy lưu tâm làm sao để Lazarô không bị phiền.
- Nhưng Lazarô đang chờ Thầy.
- Chúng ta sẽ tới nhà ông. Hay đúng hơn... Simon, con có cho chúng ta ở trong nhà người đầy tớ già của con không?
- Thưa Thầy, rất vui lòng. Bây giờ Thầy đã biết hết, vậy con có thể nói với Thầy nhân danh Lazarô, nhân danh con và nhân danh kẻ đang ở đó rằng: căn nhà thuộc về Thầy.
- Nào, các con làm mau đi để chúng ta có thể ở Bêtani trước ngày Sabát.
Trong khi mọi người phân tán với những ngọn đèn để làm mọi sự cần cho cuộc khởi hành bất ưng, Giêsu ở lại một mình.
Andrê vào, đến bên Giêsu và nói: “Còn người đàn bà đó? Con tiếc vì phải bỏ rơi bà, trong khi bây giờ bà ở rất gần để tới... Bà ta rất thận trọng... Thầy thấy đó...”
- Hãy tới nói với bà rằng trong ít lâu chúng ta sẽ trở lại, và nói trong khi chờ đợi, bà hãy nhớ lại các lời của con...
- Các lời của Thầy chứ Chúa! Con chỉ nói với bà các lời của Thầy.
- Đi lẹ lên và đừng để ai thấy. Thực sự trong thế giới xấu này, những người vô tội cũng phải làm dáng diệu như kẻ dối trá nhất...
Tất cả đều chấm dứt cho tôi trên sự thật vĩ đại này.
101* CHỮA CHO BÀ JÊRUSA BỊ UNG THƯ TẠI ĐÔCÔ
697
Con đã thưa cha về cuộc viếng thăm không dễ chịu và lời tiên tri mà con có chiều hôm qua. Cha đã thấy rằng con có khuôn mặt hoảng sợ, và cha đã nói cho con khi bước vào. Con không biết con có khuôn mặt thế nào, nhưng chắc chắn là con bị xúc động, và điều đó không qua đi sau nhiều giờ.
Cha biết, đây không phải lần đầu Satan quấy phá con khi cám dỗ con về điều nọ điều kia. Bây giờ nó không cám dỗ con về thể xác nữa, nhưng về tâm hồn. Từ một năm nay, thỉnh thoảng nó lại phá con. Lần đầu tiên là khi nó cám dỗ con trong những ngày đáng ngại của con: tháng tư 1944, khi nó hứa giúp con nếu con thờ lạy nó. Lần thứ hai, khi nó công hãm con bằng cuộc cám dỗ lâu dài, thấm thía và mạnh mẽ hôm mồng 4 tháng 7 năm 1944, nó cám dỗ con bắt chước ngôn ngữ của Thầy để hạ thấp những người đã xúc phạm đến con. Lần thứ ba, nó đề nghị con làm cho các lời được đọc cho con viết thành một tác phẩm của cá nhân con, rồi quảng cáo nó, gán cho mình những công trạng, để rút ra những lợi ích. Lần thứ bốn, vào tháng hai năm nay (con thấy hình như lúc đó đã là tháng hai), nó hiện ra với con (đây là lần đầu tiên con nhìn thấy nó, vì những lần trước, con chỉ cảm thấy sự hiện diện của nó), con kinh sợ bởi diện mạo của nó và sự oán thù của nó. Lần thứ năm là chiều hôm qua. Đó là sự bộc lộ vĩ đại của Satan. Nhưng con đã gán cho nó tất cả những chuyện khác nhỏ hơn, đến với con từ những người khác, những cái muốn làm cho con kiêu căng, thoả mãn với chính mình, hoặc giả vờ, hoặc tin rằng con chỉ là một kẻ bệnh hoạn, và tất cả chỉ là kết qủa của sự rối loạn tâm lý. Ngay cả những trở ngại đến từ họ hàng, từ các quyền bính, các tài xế, con gán hết cho Satan. Cho nó cứ làm cái nó muốn, như nó muốn, để quấy phá con, để dụ dỗ con lo lắng, phản động, thuyết phục con rằng cầu nguyện là vô ích. Tất cả đều là dối trá.
Nhưng con thú với cha rằng hôm qua nó đã làm con xao xuyến. Đây không phải lần đầu nó làm nảy sinh ra trong con sự sợ hãi bị lầm, và một ngày kia sẽ phải trả lời trước Thiên Chúa và loài người. Cha biết rằng đó là cái sợ của con... Giêsu và cha củng cố cho con luôn luôn, và nó tái diễn luôn luôn. Nhưng đó là tư tưởng thuộc về con, bị khích động bởi Satan, nhưng nó tới từ con. Chiều hôm qua, đó là sự đe dọa trực tiếp và minh bạch. Nó bảo con: “Đi đi, đi đi. Tao chờ mày vào đúng giờ, vào giờ chót, lúc đó tao sẽ thuyết phục mày rằng mày đã luôn luôn nói dối Thiên Chúa, nói dối loài người và nói dối chính mình mày. Mày là tên dối trá, và mày sẽ rơi vào sự kinh hãi thực sự, trong sự thất vọng vì bị kết án. Và mày sẽ nói ra điều đó với những lời làm cho những người ở chung quanh mày tin đó là một sự phủ nhận sau cùng của mày, để đi về cùng Thiên Chúa với số tội bớt nặng nề hơn. Mày và những người ở với mày sẽ lưu giữ sự tin tưởng này, và mày sẽ chết như vậy... và những người khác sẽ xao xuyến sâu xa... Tao chờ mày, đúng... Mày cũng vậy, hãy chờ tao. Tao không bao giờ hứa mà không làm. Lúc này mày làm thiệt hại tao vô vàn, nhưng lúc đó sẽ là tao làm cho mày. Tao báo thù về tất cả những gì mày làm cho tao... Tao sẽ báo thù như chỉ có mình tao biết làm”.
Trên những lời đó, nó bỏ đi, để lại con thực khổ sở.
Rồi người Má êm dịu đã đến. Êm đềm và yêu thương trong y phục trắng, để mỉm cười với con và âu yếm con. Giêsu của con đã mỉm cười với con bằng nụ cười vui tươi nhất. Nhưng hai vị vừa ra đi, con lại rơi vào sự suy sụp... Và tình trạng đó kéo dài. Khi tư tưởng này đến với con từ sức mạnh này, con cảm thấy bị cám dỗ để nói: “Tôi không viết
698
một chữ nào nữa, bất chấp mọi áp lực”. Nhưng sau đó, con tự nhủ và nói: “Đó chính là điều Satan muốn”, và con bỏ rơi ý tưởng này. Đây là Tuần Thánh phải không? Có những người, do hậu qủa của việc thờ tà thần qúa sâu xa neo chặt vào con tim loài người, dù là những người tốt, đã thờ kẻ xướng ngôn, quên đi rằng nó chỉ là một dụng cụ, và chỉ được thờ một mình Thiên Chúa. Có những người khác khinh bỉ con. Người nọ cũng như người kia đều chờ đợi, dù với mục đích khác nhau, sẽ xảy ra nơi con những sự kiện kỳ diệu, nhất là trong những ngày Tuần Thánh này. Có lẽ chính cha cũng chờ nó như một điều tự nhiên trong trường hợp của con. Với cha, đó là sự chờ đợi có thể biện minh. Với những người khác, đó là khinh bỉ hay tà thần. Con bảo đảm với Cha rằng con thích sự khinh bỉ cho Maria Valtorta hơn là sự thờ tà thần với con người của con. Sự thờ tà thần làm cho con những thiệt hại không thể tả. Con thấy như người ta lột trần con giữa công trường, và người ta cưỡng đoạt bí mật qúi giá của con... Con biết gì? Con khổ, vậy đó. Sự khinh bỉ làm con ít khổ hơn nếu nó hướng về Maria Valtorta, miễn là nó đừng làm thiệt cho những bài chính tả, và đừng làm cho người ta coi đó là trò cười hay khùng điên...
Nhưng bên trên những ước muốn thánh và ngay lành ít nhiều của bao nhiêu người, có ý muốn của Thiên Chúa, đúng hơn là lòng nhân từ của Người, đã nghe lời Maria thấp hèn của Người, lời cầu nguyện của mọi lần, lời cầu nguyện bây giờ của nó là: “Đây, nạn nhân của Chúa, tất cả những gì Chúa muốn, nhưng những dấu hiệu bên ngoài thì không”. Con cũng không muốn những biểu lộ này của Thiên Chúa nơi con, về những gì có liên can tới con... Nhưng Người muốn con là máy thu thanh của Người... Kiên nhẫn! Nhưng điều khác thì không, không và không. Tất cả mọi bệnh tật đoán chẩn được hay không đoán chẩn được, vì nó không có những triệu chứng đã biết. Tất cả mọi đau đớn để chịu ở trong con những gì Người đã chịu. Một cơn hấp hối hoàn toàn đè bẹp con dưới sức nặng của cơn hấp hối của Người, nhưng nó chỉ được biết bởi Người, bởi cha là người hướng dẫn con, và bởi con. Như vậy là đủ. Nếu trong những ngày của cuộc tử nạn, con làm cho những người thờ tà thần cũng như những kẻ khinh bỉ con thất vọng, vì con không cảm thấy cuộc tử nạn một cách vật chất, con bảo đảm với Cha rằng con cũng đã sống cuộc tử nạn của con. Sự đau đớn thể chất gia tăng, thân xác con bị vỡ nát bởi những cú và những kiệt lực của Golgota. Đầu con quay cuồng vì những hành hạ, những giằng co, những vọp bẻ trong các bắp thịt. Sự hành hạ này làm con đứt hơi và nghẹt thở. Rồi cái khát, cái sốt, sự mệt mỏi, co giật của các cực hình. Nhưng đó không phải là cuộc khổ nạn của con, nó luôn luôn chỉ là điều mà con gọi là “Gétsêmani của con”. Đêm về với những ma quái và sợ hãi... sợ tương lai và sợ Thiên Chúa... Và ở gần Thù Hằn trong khi Tình Yêu vắng mặt. Đó là những gì làm cho khát, làm cho sốt, làm cho khóc ra máu mắt, làm cho mệt, làm cho tới mức tất cả. Con bảo đảm với cha rằng đó là cái gì cũng mạnh như những giờ con đã sống hồi năm ngoái, khi Thiên Chúa để con một mình. Và cả đến con có thể nói: nó mạnh hơn, vì con khổ, mặc dầu có sự hiện diện của Thiên Chúa trong con.
Con hy vọng đã giải thích đúng, nhưng những khổ hình thì chắc chắn giải thích rất dở, và so với thực tế thì nó rất bị hiểu sai hơn, hoặc bởi cha linh hướng cũng như bởi các kẻ thờ tà thần, các kẻ tò mò, các kẻ lưu ý tới... hiện tượng, hay các kẻ khinh bỉ. Rất tốt là cho ba loại người sau cùng này cảm thấy trong vòng một giờ những điều chúng ta đã cảm thấy... Và cả các kẻ thờ tà thần nữa, có lẽ họ sẽ ghen vì chúng ta. Nhưng không, tốt
699
hơn là họ không cảm thấy. Các kẻ thờ tà thần sẽ cố gắng để trốn, ai biết ở đâu, vì sợ một giờ như vậy. Các thứ tò mò, tìm hiểu, chế nhạo, khinh bỉ, tới cả mức nguyền rủa Thiên Chúa... Vậy... Chúng ta hãy giơ vai ra cho chiếc gông, chúng ta hãy uống chén đắng... và tiến lên.
Lạy Chúa, không phải ý con, nhưng ý Chúa. Đây là nữ tì của Chúa và nạn nhân của Chúa. Vâng, hãy làm cho con điều Chúa muốn. Nhưng vì lòng nhân từ của Chúa, xin ban cho con sức mạnh để chịu đựng, và đừng để con một mình: “Xin ở lại với chúng con, vì trời đã muộn, ngày đã gần tắt...”
Tôi thấy Giêsu, vào lúc có những ánh sáng đầu tiên của một buổi sáng đến trễ trong mùa đông, đi vào thành phố nhỏ Đôcô. Người hỏi một người qua đường buổi sáng: “Nhà của bà mẹ già Marianne mà đứa con dâu sắp chết ở chỗ nào?”
- Marianne, bà góa của Lêvi, mẹ chồng của Jêrusa, vợ của Giosia?
- Đúng, bà ta.
- Ông nhìn đây: Ở đầu con đường này là một quảng trường, ở góc có một phông-ten, từ đó chạy ra ba con đường. Hãy đi vào con đường có cây thốt nốt ở giữa, đi khoảng trăm bước, ông thấy một cái lỗ, ông đi tiếp cho tới một cái cầu bằng cây, ông đi qua, ông sẽ thấy một ngõ hẻm có lợp mái, ông đi vào đó. Khi ông thấy không còn đường nữa, cũng không còn mái che, vì nó đổ vào một công trường, là ông đã tới nơi. Nhà của Marianne vàng khè vì cũ nát. Với những thứ họ phải chi tiêu, họ không thể sửa chữa. Đừng lộn. Chào. Ông từ xa tới?
- Không xa mấy.
- Nhưng ông người Galilê?
- Phải.
- Còn những người này? Ông đến để mừng lễ?
- Đó là các bạn. Chào ông. Bình an cho ông - Giêsu bỏ rơi kẻ lắm lời và không vội vã lại. Người đi con đường của Người và các môn đệ theo Người. Người tới cái công trường nhỏ: một mảnh đất đầy bùn, ở giữa có một cây sồi lớn mọc ở đó một mình. Có lẽ trong mùa hè, nó cho một bóng mát dễ chịu. Nhưng lúc này nó buồn, vì chòm lá rậm và tối của nó che mất ánh sáng và mặt trời trên các
700
căn nhà nghèo.
Căn nhà của Marianne là căn tồi tàn nhất: rộng và thấp, nhưng hoàn toàn bỏ bê. Cửa ra vào được che bằng những mảnh ván đóng trên các thanh gỗ cũ nát; một cửa sổ nhỏ không màn gió, để lộ một lỗ đen như tròng mắt không có nhãn cầu.
Giêsu gõ cửa, một bé gái độ mười tuổi ra mặt: xanh xao, gầy còm, mắt đỏ: “Con là cháu của Marianne? Hãy nói với bà nội con là Giêsu đang ở đây”.
Đứa trẻ thét lên, chạy đi trong khi hô hoán lớn tiếng. Bà già chạy tới với sáu đứa bé theo sau, không kể đứa con gái lúc nãy, đứa lớn nhất hình như sinh đôi với nó. Những đứa nhỏ nhất, hai đứa con trai, không giầy dép, ốm nheo, bám vào váy bà già, chúng mới biết bước đi chập chững.
- Ôi! Thầy đã tới! Các con ơi, hãy tôn kính Đấng Messi! Thầy đến kịp lúc vào căn nhà nghèo của con. Con gái con sắp chết... Đừng khóc, các con nhỏ, để má các con khỏi nghe thấy. Tội nghiệp! Các đứa nhỏ kiệt lực vì canh thức. Con làm hết, nhưng con không thức nổi nữa, con vật ngã trên đất vì buồn ngủ. Bao nhiêu tháng rồi con không vào giường. Bây giờ con ngủ trên cái ghế bên cạnh nó và các đứa trẻ. Các đứa con gái, chúng còn nhỏ mà đã khổ. Mấy đứa bé trai thì kiếm củi nhóm lửa, chúng cũng bán để kiếm chút bánh. Nhưng chúng làm hết nổi rồi, các đứa nhỏ tội nghiệp! Nhưng điều giết chúng con, không phải là sự mệt mỏi, nhưng vì nhìn thấy nó sắp chết... Đừng khóc. Chúng ta có Giêsu.
- Ừ, đừng khóc, má sắp khỏi rồi. Ba sẽ trở về, không còn phải tốn tiền nhiều nữa, không còn đói nhiều nữa. Hai đứa này là hai đứa sau cùng?
- Lạy Chúa, vâng. Đứa con yếu đuối này đã sinh đôi ba lần... và vú nó trở thành đau.
- Người thì nhiều qúa, người thì chẳng có gì - Phêrô lẩm bẩm trong hàm râu. Rồi ông ẵm một đứa nhỏ và cho nó một qủa táo để cho nó nín. Đứa kia cũng xin một qủa, và Phêrô làm vui lòng nó. Giêsu được bà già hộ vệ, băng qua phòng lớn, rồi qua một cái sân,
701
đi lên cầu thang để vào trong một phòng, nơi có tiếng rên rỉ của một người đàn bà còn trẻ, nhưng gầy giơ xương.
- Đấng Messi đây Jêrusa. Bây giờ con sắp được khỏi đau. Con thấy không? Người đã đến thực. Isaac không bao giờ nói dối. Ông đã nói. Vậy hãy tin, vì nếu Người đến tức là Người có thể chữa con.
- Vâng, thưa mẹ. Vâng, Chúa của con. Nếu Ngài không thể chữa cho con, ít nhất hãy làm cho con chết. Trong ngực con có những con chó. Miệng của các con con mà con đã cho sữa ngọt, đã mang đến cho con lửa và sự cay đắng. Chúa ơi, con đau biết bao. Con là giá đắt. Chồng con làm việc ở xa để kiếm bánh. Má già kiệt lực, con gần chết. Các con nhỏ của con sẽ đi với ai khi con chết vì cái đau này, và bà chết vì kiệt lực?
- Có Thiên Chúa cho chim trời, cũng vậy đối với con loài người. Nhưng con sẽ không chết. Con đau ở đây à?
Giêsu sắp đặt tay trên lồng ngực quấn đầy băng.
- Đừng động vào con. Đừng tăng thêm sự đau đớn của con - người bệnh kêu.
Nhưng Giêsu nhẹ nhàng đặt bàn tay dài của Người trên ngực người bệnh: “Thực tình con có lửa ở bên trong, Jêrusa tội nghiệp. Tình yêu từ mẫu đã đốt cháy ngực con, nhưng con không giận ghét chồng của con và các con nhỏ của con, phải không?”
- Ôi! Tại sao con lại phải làm vậy? Anh ấy tốt và luôn luôn yêu con. Chúng con yêu nhau bằng tình yêu trong trắng, và tình yêu nở hoa trong con người... Và chúng nó... con lo âu phải bỏ chúng nó, nhưng... Chúa ơi! Nhưng lửa biến đi rồi! Mẹ ơi! Mẹ ơi! Giống như một thiên thần của Trời thổi vào sự hành hạ của con. Ôi! Bình an biết bao! Đừng nhấc, đừng nhấc tay ra Chúa ơi! Trái lại, hãy đè. Ôi! Sức mạnh, vui mừng! Các con má! Tới đây, các con má! má muốn các con! Dina! Osia! Anna! Séba! Melchi! Đavít! Juđa! Tới đây! Tới đây! Má không chết nữa! Ôi!...
Người đàn bà lăn trên gối, khóc vì vui trong khi các đứa nhỏ chạy tới. Bà già qùi gối, rống lên đọc thánh vịnh của Azarias trong lò lửa, vì trong cơn vui của bà, bà không tìm thấy gì khác. Bà đọc
702
hết bài, bằng giọng run rẩy của người già cảm động.
- A! Chúa ơi! Nhưng con có thể làm gì cho Chúa đây? Con chẳng có gì để tôn vinh cho Chúa cả! - sau cùng bà nói.
Giêsu kéo bà dậy và nói: “Hãy chỉ cho phép Thầy nghỉ ở đây vì Thầy mệt. Và hãy nín lặng. Thế giới không yêu Thầy. Thầy phải tránh đi một thời gian. Thầy xin con trung thành với Thiên Chúa và yên lặng. Thầy xin con, xin người vợ, và xin các đứa nhỏ nữa”.
- Ôi! xin Thầy đừng sợ! Không ai tới nhà những người nghèo đâu! Thầy có thể ở lại đây mà không sợ ai nhìn thấy. Các pharisiêu, êh? Nhưng... Còn ăn uống? Con chỉ có một tí bánh...
Giêsu gọi Iscariot: “Hãy lấy tiền và đi mua mọi thứ cần. Chúng ta sẽ ăn rồi chúng ta nghỉ tại nhà những người tử tế này cho tới chiều. Đi đi, và hãy nín lặng”. Rồi Người quay về người được chữa lành: “Hãy tháo băng ra, đứng dậy giúp mẹ con, và hãy vui mừng. Thiên Chúa ban ơn cho con để thưởng các nhân đức người vợ của con. Chúng ta sẽ bẻ bánh chung với nhau, vì hôm nay Chúa Tối Cao đã ở trong nhà con, và phải mừng lễ kính Người”. Giêsu ra và đến với Judas đang sắp sửa ra ngoài: “Hãy mua thật dồi dào để còn lại cho họ trong mấy ngày tới. Chúng ta, chúng ta sẽ không thiếu gì trong nhà Lazarô”.
- Thưa Thầy vâng. Và nếu Thầy cho phép... Con có tiền riêng. Con đã khấn sẽ dâng cúng để cứu Thầy khỏi kẻ thù. Con đổi nó thành ra bánh. Như vậy tốt cho các anh em trong Chúa, còn hơn là bỏ vào các mõm của Đền Thờ. Đối với con, vàng luôn luôn là rắn độc. Con không còn thấy bị mê hoặc vì nó nữa. Vì bây giờ con tốt, con cảm thấy rất dễ chịu. Con thấy mình tự do và con sung sướng.
- Hãy làm như con muốn, Judas. Và nguyện Chúa ban bình an cho con.
Giêsu lại với các môn đệ trong khi Judas đi ra, và tất cả đều chấm dứt.
Đây, con ở trong cơn đại cuồng phong, giống như một trong những trận bão vào tháng ba, lúc ánh sáng mặt trời với mây đen của giông tố nối tiếp nhau. Con có cảm tưởng con là một chiếc xuồng trên mặt biển động. Lúc thì con ở trên đỉnh sóng đầy mặt
703
trời, lúc thì bị lún xuống giữa hai ngọn núi lỏng như muốn dìm ngập con trong vực thẳm tối tăm. Con cảm thấy như luân phiên đi từ một đại dương điên cuồng tới một cảng an bình, và lúc thì bị dìm trong mật đắng, lúc thì trong mật ong.
Đau đớn chừng nào, kể từ chiều hôm qua. Có những lúc con như ở trên trời với những lời êm đềm vắn tắt, những nụ cười hạnh phúc mà Giêsu Maria cho con cùng với sức mạnh. Lúc đó con nói: “Ôi, tôi rất chắc chắn đây không phải là ảo ảnh, cũng không phải là tội”.(Đương nhiên là về các bài chính tả và các thị kiến). Rồi con lại bị chìm vào vực thẳm tối tăm, trong những tiếng đổ vỡ kinh sợ của các lời và các sự đe dọa hôm qua. Sau Thiên Đàng, con nếm Hỏa Ngục. Rồi lòng nhân từ của Giêsu Maria trở lại cứu con, và linh hồn khốn nạn của con lại cảm thấy được nâng lên về phía mặt trời, về Trời, trong hạnh phúc đầy êm đềm. Rồi con lại rơi vào cay đắng, sợ hãi khi đêm về... Xin giúp con thắng trận.
102* TẠI BÊTANI, TRONG NHÀ SIMON ZÊLOTE
Sau khi đã leo sườn dốc sau cùng, Giêsu lên tới đỉnh cao nguyên. Người thấy Bêtani tươi cười dưới mặt trời tháng mười hai, làm cho đồng quê trơ trụi bớt buồn, và làm cho bớt tối các chòm lá xanh của các cây trắc bá, cây sồi, cây keo mọc ở đó đây giống như các quần thần săn đón bên cạnh vài cây thốt nốt rất cao, thật sự vương giả, đứng thẳng đơn độc trong những khu vườn đẹp nhất.
Tại Bêtani, không phải chỉ có nhà Lazarô là đẹp, nhưng cũng có các gia cư khác giầu sang, có lẽ là các công dân Jêrusalem thích sống ở đây, gần gia nghiệp của họ. Bên cạnh các căn nhà nhỏ của dân làng, họ làm nhô lên những khối đồ sộ tuyệt vời của các biệt thự của họ, với những khu vườn được săn sóc tỉ mỉ. Các ngọn đồi này có một quang cảnh kỳ lạ, nó nhắc nhớ tới đông phương, với những cây thốt nốt cao vút, mang trên đỉnh một chòm lá rậm ồn ào. Tựa như theo bản năng, người ta tìm bãi cát vàng vô biên giới của sa mạc ở sau những chòm bích ngọc này. Nhưng trái lại, ở đây là cái nền bằng các cây oliu xanh bạc, các cánh đồng canh tác, lúc này trơ trụi, không có hoa mầu nào, và các vườn cây ăn trái giơ xương, thân cây mầu nâu đen, các cành đan vào nhau như các linh hồn quằn quại trong sự đày đọa của hỏa ngục.
Bỗng dưng Người thấy một người đầy tớ của Lazarô, kẻ có nhiệm
704
vụ canh chừng. Anh ta chào rất sâu và xin phép báo tin cho chủ nhà. Rồi anh ta đi rất nhanh.
Trong lúc đó, các nông dân và các dân làng chạy lại chào vị Rabbi, và từ hàng rào bằng cây nguyệt quế xanh thơm bao quanh một căn nhà đẹp, tiến ra một người đàn bà trẻ, chắc chắn là không phải Israel. Chiếc áo kiểu như một loại áo choàng của bà, và chiếc khăn ren khá dài và nhẹ bay, rất rộng, bằng len rất trắng, có ló ra một tấm kẹp thêu các chữ Hy Lạp mầu tươi, sáng loáng những đường chỉ bằng vàng. Áo được cột lại ở thắt lưng bằng một giây lưng giống như tấm kẹp ở trên đầu. Mái tóc được giữ bằng một tấm lưới bằng vàng, rất phức tạp, với những cái khóa ở phía trước, đàng sau nhẵn. Mái tóc tận cùng bằng một búi tó lớn ở gáy. Những thứ đó làm tôi nghĩ đây là một bà Hy Lạp hay Rôma. Bà quan sát cách tò mò, chú ý tới những tiếng kêu the thé của phụ nữ và các tiếng hô vạn tuế của nam giới. Rồi bà ta mỉm cười khinh bỉ khi biết họ hướng về một người đàn ông nghèo, không có cả đến một con la để di chuyển, và đi giữa một đám người cũng giống như ông, tất cả còn ít lôi kéo hơn là ông ta. Bà nhún vai, bỉu môi khinh bỉ và bỏ đi, được theo sau, thay vì chó, bởi một nhóm vật cao cẳng đủ mầu, trong đám đó có hai con cò trắng và các con chim hạc đủ mầu, không kể hai con diệc mầu lửa với một chòm lông rung rinh trên cái đầu bạc của chúng, mầu trắng duy nhất của bộ lông mầu lửa ánh vàng của chúng.
Giêsu nhìn bà một giây rồi quay lại để nghe một ông già... ông muốn được khỏe ở hai chân qúa yếu của ông. Giêsu vuốt ve ông và khích lệ ông, vì mùa xuân sắp tới, với mặt trời đẹp của tháng tư, chúng sẽ khỏe hơn.
Maximin chạy tới ở đàng trước Lazarô vài mét: “Thưa Thầy... Simon nói với con rằng... rằng Thầy tới trong nhà ông... Đó là sự đau đớn cho Lazarô... nhưng người ta hiểu...”
- Chúng ta sẽ nói chuyện này sau. Ôi! bạn Thầy! - Giêsu mau lẹ tới gần Lazarô. Ông có vẻ như lúng túng. Người hôn ông ở trên má. Họ tới gần một căn nhà nhỏ ở giữa các vườn cây khác và vườn cây
705
của nhà Lazarô.
- Vậy là Thầy muốn tới trong nhà của Simon?
- Ừ, bạn ơi, Thầy có tất cả các môn đệ ở với Thầy, và Thầy thấy như vậy tốt hơn...
Lazarô tiếc vì quyết định, nhưng không đáp trả. Ông chỉ quay về với đám đông nhỏ theo sau Người và nói: “Đi đi, Thầy cần nghỉ ngơi”.
Tôi thấy ở đây rằng Lazarô có ảnh hưởng tới cỡ nào. Mọi người đều nghiêng mình trước lời của ông và rút lui: “Bình an cho các con. Thầy sẽ bảo nói cho các con khi nào Thầy sẽ giảng”.
- Thưa Thầy - Lazarô nói với Người, vì bây giờ họ một mình, các môn đệ đi theo sau cách mấy mét, nói chuyện với Maximin: “Thưa Thầy... Matta đầy nước mắt, vì vậy em nó không tới, nhưng nó sẽ tới sau. Đối với con, con chỉ khóc trong đáy lòng. Nhưng chúng con nói: Điều đó chính đáng. Nếu chúng con đã nghĩ rằng hôm nay nó về... Vì không bao giờ nó về để mừng lễ... nhưng... khi nào nó về?... Con, con nói: hôm nay đúng là ma qủi đã thúc đẩy nó về đây”.
- Ma qủi à? Tại sao lại không là thiên thần của nó theo lệnh của Thiên Chúa? Nhưng con phải tin Thầy, dù nó không ở đây thì Thầy cũng tới trong nhà Simon.
- Chúa ơi, tại sao? Thầy không tìm thấy bình an trong nhà của con sao?
- Một bình an lớn lao, chỉ sau Nazarét là nơi thân yêu nhất của Thầy. Nhưng hãy trả lời Thầy: Tại sao con bảo Thầy rời khỏi Nước Đẹp? Vì những cạm bẫy mà họ sửa soạn ở đó phải không? Vậy Thầy đến trên đất của Lazarô, nhưng Thầy không đặt Lazarô vào trong những điều kiện có thể bị xỉ vả trong nhà của ông. Con tưởng là họ kính trọng con sao? Để chà đạp Thầy dưới chân, họ có thể bước qua cả Hòm Bia Thánh... Hãy để Thầy làm, ít là lúc này. Rồi thầy sẽ coi. Ngoài ra, đâu có gì ngăn cản Thầy dùng bữa tại nhà con, và đâu có gì ngăn cản Thầy tới nhà con. Nhưng hãy làm vậy để người ta nói: “Người ở trong nhà của một trong các môn đệ của
706
Người”.
- Vậy con, con không phải là môn đệ sao?
- Con là bạn, còn hơn môn đệ về tình cảm. Điều đó không giống nhau đối với các kẻ độc ác. Hãy để Thầy làm, Lazarô: căn nhà này thuộc về con... nhưng đó không phải là nhà con: căn nhà giầu, đẹp của con trai Théophile. Và, với những kẻ lên mặt thông thái, điều đó rất quan trọng.
- Thầy nói vậy... nhưng là... tại vì nó... vậy đó. Con đã tính tha cho nó... nhưng nếu nó làm Thầy lánh đi xa, thì... vạn tuế Thiên Chúa, con sẽ ghét nó...
- Và con sẽ mất Thầy hoàn toàn. Hãy bỏ tư tưởng đó đi ngay lập tức, hoặc con sẽ mất Thầy ngay lập tức... Kìa Matta. Bình an cho con, bà chủ êm đềm của Thầy.
- Ôi! Lạy Chúa! - Matta qùi gối khóc. Bà đã hạ chiếc voan cài trên mái tóc chải giống như cái vương miện của bà xuống, để người lạ không nhìn thấy nước mắt, nhưng bà không nghĩ tới giấu nó đối với Giêsu.
- Tại sao lại khóc? Thực sự con đã làm hư những nước mắt này. Có bao nhiêu lý do để khóc và làm cho nước mắt thành những vật qúi giá. Nhưng khóc vì lý do này! Ôi! Matta! Thầy thấy như con không còn biết Thầy là ai nữa! Con biết, về loài người, Thầy chỉ có quần áo. Trái tim là Thiên Chúa, và mỗi nhịp đập của nó là Thiên Chúa. Nào, đứng dậy đi và về nhà... còn nó... hãy để nó làm. Dù nó có về để chế diễu, hãy để nó làm. Thầy nói điều đó với các con. Vì không phải nó, mà là kẻ cầm giữ nó đã làm cho nó thành một dụng cụ xáo trộn. Nhưng ở đây có người mạnh hơn tên chủ của nó. Bây giờ cuộc chiến chuyển thẳng qua giữa Thầy và tên chủ này. Còn các con, hãy cầu nguyện, tha thứ, kiên nhẫn, và hãy tin. Không có gì hơn.
Họ vào trong căn nhà nhỏ. Đó là một căn nhà vuông, chung quanh có hành lang làm cho nó lớn thêm. Bên trong có bốn phòng được phân chia bởi một lối đi hình chữ thập. Một cầu thang ở bên ngoài, như thường lệ, bắc qua bên trên hành lang, dẫn tới sân thượng,
707
và để đi vào một phòng rất rộng theo với mặt bằng của căn nhà, có lẽ để chứa sản phẩm trong một thời kỳ nào đó, nhưng bây giờ hoàn toàn sạch sẽ và trống rỗng.
Simon ở bên cạnh người đầy tớ già mà tôi nghe gọi là Giuse. Ông nói để làm vinh dự cho căn nhà: “Ở đây Thầy có thể nói với dân, hay dùng bữa... như Thầy muốn”.
- Lát nữa chúng ta sẽ nghĩ tới. Bây giờ hãy chỉ đi nói với những người khác loan báo cho người ta tới vào sau bữa ăn. Thầy sẽ không làm thất vọng những người đại độ ở đây.
- Con phải bảo họ tới đâu?
- Tới đây. Hôm nay trời ấm và nơi này khuất gió. Vườn cây trơ trụi, nó sẽ không bị hư nếu người ta vào đó. Ở đây, Thầy sẽ nói từ trên sân thượng. Vậy đi đi.
Lazarô ở lại một mình với Giêsu. Matta, bổn phận phải lo cho bao nhiêu người, đã trở thành “bà chủ êm đềm”, cùng với các đầy tớ và chính các tông đồ, làm việc ở tầng dưới để sửa soạn bàn ghế và giường chiếu.
Giêsu quàng tay quanh vai Lazarô, dắt ông ra khỏi phòng, đi dạo trên sân thượng, vòng quanh căn phòng lớn ở trên, dưới mặt trời đẹp làm điều hòa thời tiết. Từ trên cao, người quan sát công việc của các đầy tớ và các môn đệ. Người mỉm cười với Matta đi đi lại lại, khuôn mặt nghiêm trang, nhưng đã bớt xao xuyến. Người cũng nhìn quang cảnh đẹp chung quanh và nói với Lazarô tên của nhiều địa điểm khác nhau và nhiều nhân vật khác nhau. Sau cùng, bỗng dưng Người hỏi: “Cái chết của Doras đã giống như một cây gậy quậy trong ổ rắn?”
- Ôi! Thầy! Nicôđêmô nói với con rằng phiên họp của Đại Pháp Đình đã là một sự hung hăng chưa từng thấy!
- Thầy đã làm gì Đại Pháp Đình mà họ phải lo? Doras chết tự nhiên trước mặt mọi người, chết vì phẫn nộ. Thầy đã không cho phép người ta thiếu kính trọng đối với người chết. Vậy...
- Thầy có lý. Nhưng họ... Họ điên lên vì sợ. Và... Thầy có biết
708
rằng họ đã nói phải tìm nơi Thầy các tội để có thể giết Thầy?
- Ôi! Vậy thì cứ yên trí. Họ phải chờ tới giờ của Thiên Chúa!
- Nhưng, Giêsu! Thầy biết người ta nói về ai không? Thầy biết các pharisiêu và các luật sĩ có khả năng làm những gì không? Thầy có biết những cảm tình của Anna không? Thầy biết ai là người sau ông không? Thầy biết ông ta không?... Nhưng con nói gì vậy? Thầy biết! Vậy vô ích để nói với Thầy rằng họ sẽ tạo ra tội để có thể kết án Thầy.
- Họ đã tìm thấy rồi. Thầy đã phạm nhiều hơn là họ cần. Thầy đã nói với các người Rôma, Thầy đã nói với các đàn bà tội lỗi... Đúng, các đàn bà tội lỗi, Lazarô. Đừng nhìn Thầy với vẻ sợ hãi như vậy... Một trong số họ đã luôn luôn đến nghe Thầy. Bà ngủ trong chuồng súc vật mà người quản lý của con đã cho phép do lời xin của Thầy, vì để có thể ở gần Thầy, bà đã trú trong một cái chòi của heo...
Lazarô trở nên như bức tượng vì kinh ngạc. Ông đứng bất động. Ông nhìn Giêsu tựa như ông thấy một người mà sự lạ lùng của họ làm cho không thể hiểu được. Giêsu mỉm cười lay ông: “Con đã nhìn thấy ma qủi?” Người hỏi.
- Không... Chính là Tình Thương. Con nhìn thấy Tình Thương... Nhưng... Nhưng con, con hiểu. Họ, những người trong Hội Đồng, không. Và họ nói đó là tội. Vậy là đúng! Con đã tưởng... Ôi! Thầy đã làm gì?
- Đó là bổn phận của Thầy, quyền lợi của Thầy, ước muốn của Thầy: tìm cách cứu chuộc một tâm hồn sa ngã. Vậy con thấy em gái con sẽ không phải là bùn lầy đầu tiên mà Thầy lại gần và Thầy cúi xuống, và nó sẽ không phải là người sau cùng. Chính trên bùn là nơi Thầy muốn gieo các hạt hoa và làm cho chúng mọc lên: Các bông hoa của điều tốt.
- Ôi! Thiên Chúa! Thiên Chúa của con!... Nhưng... Ôi!... Thầy của con, Thầy có lý. Đó là quyền của Thầy, đó là bổn phận của Thầy, đó là ước muốn của Thầy. Nhưng các linh cẩu, chúng không hiểu. Chúng là những xác súc vật thối, hôi hám tới nỗi chúng không
709
ngửi thấy, chúng không thể ngửi thấy mùi hoa huệ. Và ngay tại nơi hoa huệ nở, chúng, các xác thối quyền hành, chúng cũng thấy mùi tội lỗi. Chúng không hiểu rằng cái mùi này phát xuất từ sự ô trọc của chúng... Con xin Thầy, đừng ở lâu ngày tại một nơi. Hãy đi, hãy quay vòng, không cho chúng có phương tiện để đến với Thầy. Hãy như lửa diêm sinh nhảy trên đầu công hoa, mau lẹ, không thể nắm được, làm chúng chưng hửng trong vận động của chúng. Hãy làm như vậy, không phải vì hèn, mà vì tình yêu đối với thế giới đang cần Thầy sống để được thánh hóa. Sự đồi bại gia tăng. Hãy đối lập với nó bằng sự thánh hóa... Sự đồi bại!... Thầy đã thấy người thị dân mới của Bêtani? Đó là một bà Rôma kết hôn với một người Do Thái. Ông ta trung thành với Lề Luật, nhưng bà ta thờ tà thần. Bà không thể sống ở Jêrusalem như bà ta muốn, vì bà cãi lẫy với các hàng xóm vì lẽ các con vật của bà, nên bà tới đây. Nhà bà đầy những con vật mà theo chúng ta là ô uế... Nhưng ô uế nhất là chính bà. Bà cười chúng ta và tự cho phép mình những điều... Con, con không thể chỉ trích bà, bởi vì... Nhưng con nói rằng người ta không đặt chân tới nhà con vì lẽ Maria mà tội lỗi đè nặng trên tất cả gia đình, nhưng nhà của người đàn bà này, người ta vào không ngại ngùng, là vì bà được Ponciô Pilatô hậu đãi, và vì bà sống biệt lập với chồng bà. Ông ta sống ở Jêrusalem, bà ta ở đây. Ông ta và họ làm như không bị tục hóa khi tới đó, và làm như không nhận thấy là mình bị tục hóa. Giả hình! Họ sống dìm ngập tới cổ trong sự giả hình! Và không bao lâu nữa là họ chết chìm trong đó. Ngày Sabát là một ngày tiệc tùng... trong đó có cả các nhân viên của Hội Đồng! Con trai của Anna là kẻ tận tình nhất.
- Thầy có thấy bà. Ừ. Hãy để cho bà ta làm, hãy để cho họ làm. Khi thầy thuốc đang sửa soạn một món thuốc, ông pha lộn các thành phần, và nước giống như dơ, vì ông quậy, nó giống như nước đục. Nhưng rồi những gì chết lắng xuống, nước lại trở nên trong, và được bão hòa những tinh cốt của cái chất chữa lành. Bây giờ cũng vậy. Tất cả đều pha lộn, và Thầy làm việc với hết mọi người. Rồi những gì chết sẽ lắng xuống và người ta vất bỏ, những gì sống sẽ tồn tại linh động trong cái đại dương của dân Đấng Kitô. Chúng ta
710
xuống. Người ta gọi chúng ta.
***
Thị kiến tiếp tục khi Giêsu trở lại sân thượng để nói với dân Bêtani và dân những vùng lân cận đến để nghe Người.
- Bình an cho các con.
Ngay cả khi Thầy nín lặng, gió của Thiên Chúa cũng mang tới cho các con các lời của tình yêu Thầy và của sự thù ghét của những người khác. Thầy biết rằng các con bị giao động, vì các con không lạ gì lý do của việc Thầy hiện diện giữa các con. Nhưng nguyện cho đây là một sự bộc lộ vui mừng, và hãy cùng Thầy chúc tụng Chúa vì đã dùng điều ác để làm hoan hỉ cho các con cái Người, bởi mũi nhọn của sự dữ, đã đem Con Chiên của Người về giữa bầy chiên, để bảo vệ nó khỏi sói rừng.
Các con thấy Chúa nhân từ dường nào. Ở nơi mà Thầy đã ở, người ta kéo tới như nước đổ ra bể: một dòng sông và một khe suối. Một dòng sông của tình yêu dịu dàng, một khe suối đắng cay nóng bỏng. Dòng sông là tình yêu của các con, từ Lazarô, Matta cho tới tận cùng xứ sở; khe suối là những mưu mô bất chính của những kẻ không thể về với Sự Thiện hằng mời gọi họ, họ kết án Sự Thiện là Tội Ác. Và dòng sông đã nói: “Hãy trở lại, hãy trở lại giữa chúng con. Dòng nước của chúng con sẽ bao bọc Thầy, cô lập Thầy, bảo vệ Thầy, nó sẽ cho Thầy tất cả những gì thế giới từ chối Thầy”. Khe suối chất độc đe dọa và muốn giết bằng chất độc của nó. Nhưng một khe suối là gì trước một dòng sông, và dòng sông là gì so với biển? Không là gì cả. Và chất độc của khe suối bị triệt tiêu, vì dòng sông tình yêu của các con đã tiêu hủy nó, và chỉ có sự êm đềm của tình yêu các con chảy vào cái biển của tình yêu Thầy, và cả đến khe suối này đã làm nảy sinh ra một điều lành: Nó đã dẫn Thầy về với các con. Chúng ta hãy chúc tụng Chúa Tối Cao vì điều đó.
Tiếng nói của Giêsu lan ra rất mạnh trong không khí yên tĩnh và thinh lặng. Giêsu, rất đẹp dưới mặt trời, tươi cười với các cử chỉ bình an từ trên sân thượng. Ở dưới, người ta nghe với niềm vui tràn
711
đầy. Đó là một rừng các khuôn mặt hướng về Người và hớn hở với âm thanh của giọng nói du dương của Nguời. Lazarô ở gần bên Giêsu, Simon và Gioan cũng vậy. Những người khác tản mát trong đám đông. Matta cũng lên trên sân thượng và ngồi gần chân Giêsu. Bà quay về phía nhà bà mà người ta nhìn thấy bên kia vườn cây.
- Thế giới thuộc về các kẻ dữ. Thiên Đàng thuộc về những người tốt. Đó là sự thật và là lời hứa. Sức mạnh bình an của các con dựa trên sự thật này. Thế giới qua đi, Thiên Đàng không qua. Kẻ nào bởi lòng tốt, chinh phục được nó thì sẽ vui hưởng nó muôn đời. Vậy tại sao lại xao xuyến về những điều kẻ dữ làm? Các con có nhớ những lời than van của ông Gióp không? Muôn đời đó là tiếng than van của những người tốt bị người ta áp bức. Vì xác thịt rên xiết, nhưng đáng lẽ nó không nên rên xiết, người ta càng dày xéo nó dưới chân thì các cánh của linh hồn nó càng nâng cao nó lên trong niềm vui của Chúa.
Các con tin là họ sung sướng thật, những kẻ có vẻ là sung sướng, vì một cách hợp pháp, đúng hơn là bất hợp pháp, họ có những đống lúa mì, những hầm đầy rượu, các vò đầy dầu sao? Không. Họ ngửi thấy mùi máu và nước mắt của kẻ khác trong mọi thứ lương thực của họ, và cái giường của họ như đầy chông gai, vì ở đó họ bị nghiến ngấu bởi hối hận. Họ ăn cắp của người nghèo, bóc lột kẻ mồ côi, thâm lạm người khác để luôn luôn tích góp. Họ đàn áp những kẻ ít mạnh hơn, ít đồi trụy hơn họ. Không quan trọng, hãy để cho họ làm. Nước của họ là thế giới này, và lúc chết, họ còn lại gì? Không còn gì cả, nếu không là cái người ta gọi là kho tàng của họ, tức là một gánh nặng những tội mà họ mang theo với họ, và cùng với nó, họ trình diện trước Thiên Chúa. Hãy để họ làm. Đó là các con cái sự tối tăm, phản động chống lại Ánh Sáng và không muốn theo con đường ánh sáng của Người. Khi Thiên Chúa làm sáng lên Ngôi Sao Mai thì họ gọi nó là bóng chết và họ cho là nó bị nhiễm uế. Họ thích đi trong ánh lờ mờ của vàng bạc và thù ghét của họ, nó chỉ lóe sáng vì các thực tại của hỏa ngục làm cho các hồ trầm luân
712
lóe ra lân tinh...
- Em con, Giêsu... Ôi! - Lazarô nhìn thấy Maria lẻn ra sau hàng dậu của vườn cây nhà ông để đến gần hết sức có thể. Cô cúi gù xuống để bước, nhưng đầu tóc của cô sáng như vàng trước các bụi hoàng dương mầu tối. Matta sắp đứng dậy, nhưng Giêsu đặt một bàn tay trên đầu bà nên bà phải ngồi lại tại chỗ. Giêsu cất cao giọng mạnh hơn nữa:
- Phải nói gì về những kẻ khốn nạn này? Thiên Chúa đã cho họ thời giờ để sám hối, nhưng họ lạm dụng để phạm tội. Nhưng Thiên Chúa không rời mắt khỏi họ, dù là có khi Người có vẻ như vậy. Sẽ đến lúc, giống như sét đập bể đá tảng, tình yêu Thiên Chúa sẽ đập bể con tim chai đá của họ, hoặc là sự tích tụ tội lỗi của họ sẽ làm cho thủy triều bùn thối của họ trào lên tới họng, tới mũi họ. Và họ cảm thấy, ôi, sau cùng họ cảm thấy sự ghê tởm của cái mùi hôi thối này, nó làm cho những người khác kinh tởm, mà nó lại ở đầy trong con tim họ, sẽ đến lúc họ buồn nôn vì nó, và trong họ nổi lên một khởi đầu ước ao sự thiện. Lúc đó linh hồn họ kêu lên: “Ai sẽ giúp tôi trở về thời gian niên thiếu của tôi, lúc mà linh hồn tôi còn ở trong tình bạn với Thiên Chúa? Khi ánh sáng của Người rạng rỡ trong linh hồn tôi, và tôi bước đi trong luồng sáng của Người; khi thế giới nín lặng, đầy cảm phục trước sự công chính của tôi, và ai thấy tôi cũng khen hạnh phúc của tôi? Thế giới uống nụ cười của tôi, và người ta đón nhận các lời của tôi như các lời của một thiên thần, và con tim các người thân yêu của tôi nhảy mừng hãnh diện trong ngực họ. Bây giờ tôi là gì? Đối tượng chế nhạo của các người trẻ, ghê sợ của các người già. Họ chế nhạo tôi và khạc nhổ sự khinh bỉ vào mặt tôi”.
Đúng, linh hồn của các người tội lỗi có những lúc nói như vậy. Họ là những ông Gióp thực sự, vì không có sự khốn nạn nào lớn hơn cái khốn nạn này, sự khốn nạn của kẻ bị mất tình bạn của Thiên Chúa và Nước của Người muôn đời. Họ làm cho ta thương, chỉ có thương. Đó là những linh hồn, hoặc vì nhàn rỗi, hoặc vì khinh xuất, đã để mất Phu Quân đời đời: “Ban đêm, trong giường của tôi, tôi đã tìm người yêu của linh hồn tôi, nhưng tôi không tìm thấy”.
713
Qủa thật, trong đêm tối, người ta không thể phân biệt người chồng, và linh hồn, bị kích thích bởi tình yêu, nhưng nó bị bao vây bởi đêm tối thiêng liêng, nó tìm một cách vô ý thức, và nó muốn tìm được một sự nhẹ nhõm cho sự dằn vặt của nó, nó tưởng là tìm thấy trong bất cứ tình yêu nào. Không. Chỉ có một tình yêu cho linh hồn: Thiên Chúa. Nó đi, các linh hồn này mà tình yêu Thiên Chúa kích thích, nó đi tìm tình yêu. Chỉ cần nó canh chừng ánh sáng ở trong nó, là nó sẽ có tình yêu cho Phu Quân. Nó đi, giống như người bệnh, nó tìm tình yêu, lò mò rờ rẫm, nó gặp đủ thứ tình yêu, tất cả những thứ ghê tởm mà người ta gọi là tình yêu. Nhưng nó không gặp được Tình Yêu, vì Tình Yêu là Thiên Chúa chứ không phải vàng, thú vui, quyền hành.
Linh hồn tội nghiệp! Tội nghiệp! Nếu nó bớt lười hơn, nó đã chỗi dậy ngay vào lúc có tiếng gọi đầu tiên của Phu Quân Muôn Đời để đi về với Thiên Chúa, đấng gọi: “Hãy theo Ta”, đấng nói: “Hãy mở cửa cho Ta”. Nó sẽ chỉ chỗi dậy để mở cửa với cái đà tình yêu đã thức giấc của nó khi Phu Quân thất vọng, đã đi xa... biến mất... Và nếu nó đã không phàm tục hoá cái đà tình yêu thánh này của nhu cầu yêu đương, trong thứ bùn mà các con vật ô uế cũng ghê tởm, vì nó vô ích và bao phủ đầy gai, không phải là hoa, mà toàn là gai xâu xé nó thay vì đội triều thiên cho nó. Và nó không biết sự khinh bỉ của các người canh gác, của tất cả những người, cũng như Thiên Chúa, nhưng với lý do đối lập, không rời mắt khỏi kẻ có tội, họ chỉ ngón tay để hành hạ, chế nhạo và chỉ trích nó.
Linh hồn tội nghiệp, bị đánh, bị lột trần, bị thương bởi hết mọi người! Chỉ có mình Thiên Chúa là không tham gia vào cuộc ném đá của khinh bỉ không thương xót này.
Nhưng Người làm cho các nước mắt rơi để chữa các vết thương của nó, và mặc lại cho tạo vật của Người chiếc áo sáng như kim cương. Nó luôn luôn là con Ngài... một mình Thiên Chúa... Và các con của Thiên Chúa cùng với Cha. Chúng ta hãy chúc tụng Chúa. Người đã muốn Thầy phải trở về đây để nói với các con cho các người tội lỗi: “Hãy tha thứ, hãy luôn luôn tha thứ. Hãy làm phát
714
sinh ra điều lành từ mọi điều dữ; hãy làm phát sinh ra ơn phúc từ mọi xúc phạm”. Thầy không chỉ nói với các con: “Hãy làm”, Thầy nói với các con: Hãy lặp đi lặp lại các cử chỉ của Thầy. Thầy yêu và Thầy chúc phúc cho các kẻ thù của Thầy, vì nhờ họ, Thầy đã có
thể trở về với các con, các bạn Thầy. Bình an cho tất cả các con.
Người ta vẫy khăn và các cành cây để hoan hô Giêsu, rồi họ giải tán rất từ từ.
- Họ có thấy cái con thiếu thận trọng đó không?
- Không, Lazarô. Nó nấp sau hàng dậu che rất kín. Chúng ta có thể nhìn thấy từ chỗ này, trên sân thượng. Những người khác, không.
- Nó đã hứa với con là...
- Tại sao nó lại phải không đến? Chẳng phải nó cũng là con cái Abraham sao? Thầy muốn các con, anh chị em, và các con, các môn đệ, các con thề sẽ không làm cho nó dội lại. Hãy để cho nó làm. Nó chế nhạo Thầy? Hãy để cho nó làm. Nó khóc? Hãy để cho nó làm. Nó muốn ở lại? Hãy để cho nó làm. Nó muốn trốn đi? Hãy để cho nó làm. Đó là bí mật của Đấng Cứu Thế và của các vị cứu thế: nhẫn nại, nhân từ, kiên trì và cầu nguyện. Không còn gì hơn. Mọi cử chỉ đều là qúa đối với một số bệnh... Chào các bạn. Thầy ở lại để cầu nguyện. Các con, mỗi người hãy đi lo bổn phận của mình. Xin Thiên Chúa hộ phù các con.
Và tất cả chấm dứt.
103 * LỄ ÁNH SÁNG TRONG NHÀ LAZARÔ
VỚI CÁC MỤC ĐỒNG
Căn nhà của Lazarô đã vốn sang trọng, chiều nay nó hoàn toàn rực rỡ huy hoàng. Nó như bị thiêu đốt bởi vô vàn ngọn đèn, và ánh sáng của nó tỏa cả ra bên ngoài trong đêm đã về hôm nay. Nó tràn đầy trong đại phòng, và từ đó, tràn ra các hành lang, trải ra để dát vàng cho các tảng đá của lối đi, các cây cối, các bụi rậm, các khoảng
715
đất, đua tranh với ánh trăng trong, và toàn thắng trong những mét đầu tiên với ánh vàng rực rỡ của nó, trong khi ở xa hơn thì tất cả như thần tiên bởi chiếc áo bạc tinh ròng của mặt trăng bao trùm lên vạn vật. Ngay cả sự yên lặng bao trùm khu vườn tuyệt vời, nơi người ta chỉ nghe thấy tiếng nước rơi trong bể, cũng có vẻ như gia tăng sự trầm mặc bình an như Thiên Quốc của đêm trăng, trong khi ở gần nhà là tiếng nói vui vẻ của đông người, kèm theo tiếng động rộn ràng của các bàn ghế người ta xếp đặt vào chỗ, các khăn chén người ta đặt trên bàn, nhắc nhở rằng con người vẫn còn là con người chứ chưa phải là thần trí.
Matta đi lại nhanh nhẹn trong chiếc áo huy hoàng, rộng rãi và trong trắng, mầu đỏ tím. Bà giống như một bông hoa, một bông hoa chuông, hay như một con bướm bay lượn giữa các bức tường đỏ của đại phòng, hay các bức tường có trang hoàng những bức tranh nhỏ họa lại một cái thảm của phòng tiệc.
Về phần Giêsu, người đi dạo một mình và trầm mặc ở gần bể nước. Tựa như Người luân phiên bị thu hút bởi bóng tối trải ra bởi một cây nguyệt quế lớn, một cây nguyệt quế thực sự khổng lồ, và bởi ánh sáng lân tinh của mặt trăng càng lúc càng tỏ. Ánh sáng rất mạnh đến nỗi tia nước của bể giống như một chùm lông bằng bạc, bể ra thành những chớp sáng, rơi xuống và mất đi trên mặt nước phẳng của cái bể giống như cái hồ nhỏ bằng bạc. Giêsu nhìn và nghe những lời của nước ban đêm. Nó có một cung nhạc làm thức tỉnh một con họa mi đang ngủ trong cây nguyệt quế rậm rạp. Nó trả lời cho tiếng chuyển cung chầm chậm của nước bằng điệu sáo bắc của nó. Rồi nó ngừng lại như để lấy tông và hòa giọng, sau cùng, nó tấn công: một ông vua thực sự của ngành hát, bài thi ca vui, toàn vẹn, biến chuyển, đầy êm dịu và hân hoan của nó.
Giêsu ngừng bước để tiếng bước chân Người không làm rộn nỗi vui trong sáng của con họa mi, và cả nỗi vui của Người nữa, tôi tin vậy, vì Người mỉm cười, nghiêng đầu, một nụ cười cho thấy một niềm vui trong sáng. Con họa mi giữ giọng và uốn cung để lên một nốt rất trong. Tôi tự hỏi làm sao một cổ họng bé tí như vậy mà có
716
thể giữ một nốt như thế. Rồi nó ngừng bài ca của nó. Giêsu kêu lên: “Con chúc tụng Cha, Cha chí thánh, vì sự toàn vẹn này, và vì niềm vui mà Cha đã cho con!” Rồi Người tiếp tục bước đi chậm và nặng nề, tôi không biết trong điều chiêm niệm nào.
Simon lại với Người: “Thưa Thầy, Lazarô xin Thầy về. Tất cả đã sẵn sàng”.
- Đi, và như vậy họ cũng hết nghi ngờ rằng Thầy ít chí thiết với họ vì lẽ Maria.
- Thầy ơi, nỗi buồn lớn lao chừng nào! Chỉ có một phép lạ bí mật của Thầy mới có thể chữa sự đau đớn này. Thầy có biết rằng Lazarô đã bỏ trốn khi họ trở về, và thấy cô ta đã ra khỏi nhà trong khi nói rằng cô ta bỏ rơi mồ mả để vui chơi... và các câu ngạo mạn khác nữa? Con và Matta, chúng con đồng tình bảo ông đừng làm, bởi vì... người ta không bao giờ biết được phản ứng của các con tim. Nếu ông đi tìm được cô ta, ông sẽ phạt cô một lần thay cho tất cả. Họ đã muốn ít nhất là cô ta phải giữ yên lặng đối với những gì có liên can tới Thầy...
- Một phép lạ lập tức của Thầy cho cô ta, Thầy có thể làm. Nhưng Thầy không muốn một sự sống lại cưỡng ép trong các con tim. Thầy sẽ cưỡng ép cái chết, và nó phải trả lại con mồi cho Thầy, vì Thầy là chủ sự sống và sự chết. Nhưng khi đó là một tâm hồn, không phải là một vật chất bất động không sự sống, nhưng là các cốt yếu bất tử có khả năng tự chỗi dậy bằng ý muốn riêng của nó, thì Thầy không cưỡng ép sự sống lại của nó. Thầy cho một lời kêu gọi thứ nhất và một sự giúp đỡ thứ nhất, giống như Thầy mở ra nấm mồ mà người ta đã chôn một người còn sống. Họ sẽ chết từ từ nếu họ ở trong sự tối tăm ngột ngạt này, và thầy làm cho không khí và ánh sáng lọt vào... Và Thầy chờ. Nếu tâm hồn có ý muốn ra khỏi đó thì nó ra. Nếu nó không muốn thì nó chui vào bóng tối hơn và nó vùi mình trong đó. Nhưng nếu nó ra... Ôi! Nếu nó ra, thực sự Thầy bảo con rằng không ai lớn hơn linh hồn sống lại này. Chỉ có sự vô tội tuyệt đối là lớn hơn kẻ chết lại trở thành kẻ sống bởi sức mạnh của chính tình yêu riêng của nó, và vì niềm vui của Thiên Chúa...
717
Các chiến thắng lớn nhất của Thầy!
Simon, con hãy nhìn trời. Con thấy ở đó các ngôi sao lớn nhỏ hơn kém, và các hành tinh cỡ khác nhau. Tất cả đều có một đời sống và một sự chói lọi bởi Thiên Chúa là đấng đã làm ra chúng, nhưng không phải tất cả đều có một sự huy hoàng và một độ lớn như nhau. Trong Trời của Thầy cũng sẽ như vậy. Mọi kẻ được cứu đều có sự sống bởi Thầy, và có sự huy hoàng bởi ánh sáng của Thầy, nhưng không phải mọi người đều có sự huy hoàng như nhau và một sự to lớn như nhau. Một số chỉ là một hạt bụi thiên thể, giống như hạt bụi sữa của giải Ngân Hà. Những người này sẽ là con số vô vàn những kẻ chỉ có được nơi đức Kitô, đúng ra là chỉ có một ước muốn tối thiểu cần thiết để không bị kết án, và chỉ vì lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, và sau một thời gian dài ở luyện ngục, sẽ lên Thiên Đàng. Một số khác sẽ sáng láng hơn và thành hình rõ ràng hơn: đó là những người công chính đã kết hợp ý muốn của họ - hãy ghi chú rõ ràng: ý muốn của họ, chứ không phải thiện chí của họ - vào với ý muốn của Đức Kitô, và đã vâng lời Thầy để không bị phạt. Và cũng sẽ có các hành tinh: các kẻ có thiện chí, ôi! một sự huy hoàng phi thường! Sự sáng chói của họ sẽ giống như kim cương tinh tuyền, hay giống như ngọc ngà với các mầu khác nhau: mầu đỏ của hồng ngọc, mầu tím của tử ngọc, mầu vàng của hoàng ngọc, mầu trắng sáng của ngọc trai. Đó là những kẻ say yêu tới chết vì yêu, những kẻ ôm ấp sự hãm mình hy sinh vì yêu, những kẻ hoạt động vì yêu, những kẻ giữ mình trong sạch vì yêu.
Cũng sẽ có một số trong những kẻ được gọi là hành tinh này, đó là những vinh quanh Đấng Cứu Chuộc của Thầy: những kẻ sẽ có nơi họ ánh sáng của hồng ngọc, tử ngọc, hoàng ngọc và ngọc trai, bởi vì tất cả nơi thực thể của họ đều là tình yêu: anh hùng để xin ơn tha thứ vì đã không biết yêu từ khởi đầu đời sống của họ; sám hối để tự bão hòa bằng việc đền tội giống như Esther tự bão hòa bằng hương thơm trước khi trình diện với Assuérus. Họ, những kẻ không mệt mỏi để làm trong một thời gian ngắn, khoảng thời gian còn lại
718
cho họ, vì họ đã không làm trong những năm họ để mất đi trong tội lỗi, trong sạch tới độ anh hùng để quên đi rằng giác quan hiện hữu, quên nó đi trong cả tạng phủ của họ, chứ không phải chỉ quên trong linh hồn và trong tư tưởng mà thôi. Chính họ, bằng sự sáng chói muôn dạng của họ, sẽ lôi kéo con mắt của các kẻ tin, kẻ trong sạch, kẻ sám hối, kẻ tử đạo, kẻ anh hùng, kẻ khắc khổ, kẻ tội lỗi, và với mỗi kẻ trong các loại này, sự huy hoàng của họ sẽ là lời nói, là câu trả lời, là lời mời gọi, là sự bảo đảm...
Nhưng đi thôi. Chúng ta ở đây để nói, mà người ta đang chờ chúng ta ở đó.
- Tại vì khi Thầy nói, người ta quên là mình còn sống. Con có thể nói điều này với Lazarô không? Con thấy như ở đây có một lời hứa...
- Con phải nói. Lời của người bạn có thể đặt trên vết thương của họ, và nó không làm cho họ xấu hổ như ở trước mặt Thầy... Matta, chúng ta đã để con phải chờ. Nhưng thầy nói với Simon về các ngôi sao, và chúng ta đã quên tất cả những ánh sáng này. Chiều nay nhà con đúng là một bầu trời...
- Chúng con đã thắp lên như vậy, không phải chỉ cho chúng con và các đầy tớ mà thôi, nhưng còn cả cho Thầy và các khách, các bạn Thầy. Bây giờ đã thuộc về ngày lễ, mà lại chính là lễ Thanh Tẩy... - Matta muốn nói nữa, nhưng bà cảm thấy nước trào lên mắt nên bà nín.
- Bình an cho tất cả các con - Giêsu nói khi bước vào đại phòng, nơi có khoảng chục cây đèn bằng bạc đặt ở khắp nơi, tất cả đều đã thắp sáng.
Lazarô tiến lên, mỉm cười: “Bình an và phúc lành cho Thầy, cùng với nhiều năm thánh phúc”. Họ hôn nhau. “Một số bạn bè của chúng con nói với con rằng Thầy đã sinh ra trong khi Bétlem sáng ngời một lễ Ánh Sáng xa xôi. Chúng con sung sướng được có Thầy chiều nay, chúng con và họ. Thầy không hỏi họ là những ai?”
- Thầy không có những bạn không phải là các môn đệ và các bạn thân yêu ở Bêtani ngoài các mục đồng. Vậy là họ. Họ đã đến?
719
Tại sao?
- Để thờ Thầy, Đấng Messi của chúng con. Jonatha đã loan báo cho chúng con sự hiện diện của Thầy nên chúng con tới đây, cùng với đoàn vật của chúng con bây giờ ở trong chuồng của Lazarô, và với con tim của chúng con, bây giờ và mãi mãi ở dưới bàn chân thánh của Thầy - Isaac đã nói thay cho Êlie, Lêvi, Giuse và Jonatha. Tất cả họ đều qùi phục ở chân Người. Jonatha mặc đồ đẹp của người quản lý, ông rất được chủ yêu; Isaac vẫn là kẻ hành hương không biết mệt, trong chiếc áo len dầy mầu nâu đậm, không thấm nước; Lêvi, Giuse, Êlie, cả ba đều được mặc mới tinh bởi Lazarô để có thể không phải ngồi vào bàn với y phục nghèo rách rưới và ám đầy mùi súc vật của mục đồng.
- Chính vì vầy nên các con đã bảo Thầy đi ra vườn? Nguyện Thiên Chúa chúc phúc cho tất cả các con. Chỉ thiếu có Mẹ thầy trong hạnh phúc của Thầy. Các con đứng dậy đi! Đứng dậy đi. Đây là sinh nhật đầu tiên Thầy vắng Mẹ Thầy, nhưng sự hiện diện của các con lấy đi cho Thầy nỗi buồn, sự nuối tiếc cái hôn của Mẹ.
Mọi người đi vào phòng tiệc. Ở đây phần lớn các cây đèn đều bằng vàng. Kim loại được ánh sáng chiếu soi, và ánh sáng như sáng hơn, vì được phản chiếu bởi biết bao là vàng. Các bàn đã được kê theo hình chữ U để có đủ chỗ cho số người, và để cho dễ dàng công việc của các tùy viên sắc bén và các người phục vụ. Ngoài Lazarô, các tông đồ, các mục đồng và Maximin, còn có người đầy tớ già của Simon.
Matta trông chừng việc sắp xếp các chỗ và muốn đứng, nhưng Giêsu phản đối: “Hôm nay con không là bà chủ, mà là bà chị, con ngồi bàn với Thầy, tựa như chúng ta có cùng dòng máu. Chúng ta là một gia đình. Mọi kỷ luật đều rơi để nhường chỗ cho tình yêu. Ở đây, bên cạnh Thầy, và bên con, Gioan. Nhưng cho Thầy xin cây đèn đi. Ở giữa Thầy và Matta là một ánh sáng canh chừng... một ngọn lửa cho những người vắng mặt, nhưng vẫn hiện diện trong thần trí chúng ta. Cho các kẻ mà chúng ta yêu, chúng ta chờ. Cho các người đàn bà thân yêu ở xa đây. Cho tất cả. Ngọn lửa có các lời
720
trong sáng, tình yêu có các lời cháy nóng, và các lời này đi rất xa, trên các làn sóng vô vật chất của thần trí, và chúng luôn luôn gặp nhau, băng qua núi cao biển cả, chúng mang theo những cái hôn và phúc lành... chúng mang theo tất cả. Có đúng vậy không?”
Matta đặt chiếc đèn ở nơi Giêsu muốn, tại nơi có một chỗ trống. Và Matta... hiểu ý chỉ của Người, cúi xuống hôn bàn tay Người, rồi Giêsu đặt tay đó lên đầu bà, chúc phúc và khích lệ bà.
Bữa ăn bắt đầu. Ba người mục đồng có vẻ hơi lúng túng lúc đầu. Isaac đã có vẻ vững vàng hơn. Jonatha không bộc lộ sự lúng túng. Nhưng họ từ từ bạo dạn theo đà bữa ăn tiến tới, và sau khi đã giữ yên lặng, họ cũng bắt đầu nói. Và họ nói về cái gì, nếu không về các kỷ niệm của họ?
Lêvi nói: “Lúc đó tôi vừa mới ra, và tôi lạnh đến nỗi tôi ẩn vào giữa đoàn vật. Tôi khóc và tôi muốn được ở với má tôi...”
- Tôi, tôi nghĩ tới bà mẹ trẻ mà tôi mới gặp lúc nãy. Tôi tự hỏi: “Không biết bà có tìm được chỗ nào không?” Nếu tôi biết rằng bà vào trong chuồng bò, tôi sẽ dẫn bà về công viên của chúng ta... Nhưng bà qúa dễ thương: một bông huệ trong thung lũng của chúng ta, đẹp tới nỗi tôi đã nghĩ rằng sẽ xúc phạm đến bà nếu nói: “Hãy đến với chúng tôi”. Nhưng tôi nghĩ đến bà... và tôi cảm thấy lạnh hơn khi nghĩ tới chắc bà bị lạnh lắm. Anh có nhớ ánh sáng buổi tối hôm đó không? Và sự sợ hãi của anh?
- Đúng... nhưng sau đó... thiên thần... Ôi! - Lêvi hơi lạc vào trong mơ, mỉm cười với kỷ niệm.
- Ôi! Nghe này các bạn. Chúng tôi biết được rất ít điều, và chúng tôi được chỉ bảo rất ít. Chúng tôi có nghe nói về thiên thần, về chuồng bò, về đoàn vật, về Bétlem... Với chúng tôi, chúng tôi chỉ biết Người là người Galilê, là thợ mộc... Thật không chính đáng là chúng tôi không được biết. Ở Nước Đẹp, tôi đã hỏi Thầy, nhưng rồi người ta nói những chuyện khác. Có người biết mà họ không nói gì với tôi... Đúng, tôi nói về cậu đó Gioan Zêbêđê. Cậu rất kính trọng tuổi già của tôi ! Cậu giữ tất cả cho cậu, và cậu để tôi lớn lên như một môn đệ hạn hẹp. Tôi đã qúa thiển cận hạn hẹp rồi!
721
Người ta cười về sự bực bội của Phêrô, nhưng ông quay về với Thầy: “Họ cười, nhưng chính con là người có lý”. Rồi ông quay nói với Batôlômêo, Philíp, Mathêu, Tôma, Giacôbê và Andrê: “Các anh cũng hãy nói đi. Hãy phản đối cùng với tôi! Tại sao chúng ta không biết gì hết?”
- Thực tình... các con ở đâu khi Jonas chết? Các con ở chỗ nào trên Liban?
- Thầy có lý, nhưng về Jonas, con, ít nhất là con, con đã tưởng đó là sự mê sảng của người hấp hối. Còn ở Liban... con mệt và buồn ngủ. Con xin lỗi Thầy, nhưng đó là sự thật.
- Đó sẽ là sự thật của biết bao người! Thế giới của những kẻ được nghe giảng Tin Mừng thường sẽ trả lời Vị Thẩm Phán Muôn Đời, để bào chữa cho sự không biết của họ, mặc dầu có sự giảng dạy của các tông đồ của Thầy, họ sẽ trả lời như con vừa nói: “Con nghĩ đó là mê sảng... con mệt và buồn ngủ”. Và thường họ không nhìn nhận sự thật vì họ cho đó là mê sảng, và họ không nhớ được sự thật, vì họ mệt mỏi bởi qúa nhiều điều vô ích, nhất thời, và kể cả có tội. Chỉ có một điều cần: Biết Thiên Chúa.
- Rồi, bây giờ Thầy đã nói với chúng con điều chúng con đáng, hãy kể cho chúng con những việc đúng như đã xảy ra... kể cho Phêrô của Thầy, rồi con sẽ nói lại với người ta. Nếu không... con đã nói với Thầy rồi: con có thể nói gì? Qúa khứ thì con không biết, các tiên tri và sách Thánh thì con không biết giải thích, tương lai... Ôi! Tội nghiệp cho con! Con sẽ rao giảng cái gì đây?
- Thưa Thầy vâng. Cho chúng con cũng biết... chúng con biết rằng Thầy là Đấng Messi, và chúng con tin. Nhưng ít là đối với con, con khó lòng nhận là từ Nazarét có thể sinh ra được cái gì hay...Tại sao lại không cho chúng con biết ngay về qúa khứ của Thầy? - Batôlômêo nói.
- Để kiểm nghiệm đức tin của con và độ sáng của thần trí con. Nhưng bây giờ Thầy sắp nói cho các con đây, đúng ra là chúng ta sẽ nói cho các con, về qúa khứ của Thầy. Thầy sẽ nói về những điều mà cả các mục đồng cũng không biết, còn họ, họ sẽ nói về
722
những điều họ đã thấy, và các con sẽ biết về rạng đông của Đấng Kitô. Hãy nghe đây:
Thời gian Ân Phúc đã tới, Thiên Chúa đã sửa soạn cho Người vị Trinh Nữ của Người. Các con có thể hiểu rõ rằng Thiên Chúa không thể ở nơi mà Satan đã đặt dấu hiệu không thể xóa nhòa của nó. Vậy Đấng Toàn Năng làm việc để làm ra Nhà Tạm vô nhiễm tương lai của Người. Và bởi hai vị công chính, tuổi đã già, và trái với luật tự nhiên về việc sinh sản, đã mang thai đấng mà trên người không hề có một tì vết. Ai đã đặt linh hồn này vào trong thể xác phôi thai đã làm hồi xuân lòng dạ của Anna dòng Aaron, bà ngoại của Thầy? Con, Lêvi, con đã thấy vị Tổng Lãnh Thiên Thần của hết mọi cuộc báo tin, con có thể nói: Chính vị đó. Vì đấng là sức mạnh của Thiên Chúa luôn luôn là vị toàn thắng, mang tin vui cho các thánh và các tiên tri, là vị không thể bị chế ngự, với người, sức mạnh dữ dội nhất của Satan cũng bị chà nát như công rêu khô, là vị thông minh, với sự thông sáng tốt lành của người, người làm trở lui sự thông minh độc ác kia, và thi hành mau chóng các mệnh lệnh của Thiên Chúa.
Với một tiếng kêu vui mừng, Người, thông tín viên, đã biết đường lối của trái đất, vì Người đã xuống để nói với các tiên tri, nhận lấy từ Lửa của Thiên Chúa, một tia lửa tinh tuyền là linh hồn của Đứa Trẻ Đời Đời, gói ghém trong vòng lửa thần linh của Người, lửa của tình yêu thiêng liêng của Người, mang xuống trái đất, vào trong một căn nhà, đặt trong một lòng dạ. Từ lúc đó, thế giới đã có Đấng Thờ Lạy, và từ lúc đó, Thiên Chúa có thể nhìn một điểm của trái đất mà không cảm thấy ghê tởm. Rồi một tạo vật bé nhỏ đã sinh ra, Người Yêu của Thiên Chúa và của các thiên thần của Người, đấng được dâng hiến cho Thiên Chúa, được yêu một cách thánh thiện bởi cha mẹ: “Và Abel dâng cho Chúa các con đầu lòng trong đoàn vật của ông”. Ôi! Thực vậy, cha mẹ của Abel đời đời đã biết dâng cho Thiên Chúa của đầu lòng trong các của của họ, hết tất cả mọi của của họ, và đã hầu phải chết để dâng của này cho đấng đã ban cho họ!
Mẹ Thầy là con của Đền Thờ từ ba tuổi tới mười lăm tuổi. Mẹ đã hối thúc Đấng Kitô đến sớm bằng sức mạnh của tình yêu Mẹ.
723
Đồng trinh trước khi được thụ thai, đồng trinh trong bóng tối của lòng mẹ, đồng trinh trong tiếng khóc chào đời, đồng trinh trong những bước đi đầu tiên. Đấng Đồng Trinh thuộc về Thiên Chúa, một mình Thiên Chúa. Mẹ đã tuyên bố quyền của Mẹ ở bên trên chiếu chỉ của Lề Luật Israel, trong khi được người chồng mà Thiên Chúa ban cho Mẹ ưng thuận không xâm phạm tới Mẹ sau hôn lễ.
Giuse Nazarét là người công chính. Chỉ mình ông có thể được giao phó Bông Huệ của Thiên Chúa, và chỉ mình ông được chiếm hữu Người. Là thiên thần trong linh hồn cũng như thân xác, ông yêu như các thiên thần của Thiên Chúa yêu. Vực thẳm tình yêu mạnh này có tất cả những âu yếm phu thê mà không vượt qua hàng rào của lửa thiên quốc, bên kia hàng rào này là Nhà Tạm của Chúa, điều được rất ít người trên trái đất hiểu. Đó là bằng chứng về điều một người công chính có thể làm, miễn là họ canh chừng nó. Về điều họ có thể, dù linh hồn còn bị thương bởi tội nguồn gốc, cũng chiếm hữu được những sức mạnh để lên cao, để hồi tưởng, để trở về với phẩm giá người con Thiên Chúa của nó, và nó thực hiện cách thần linh vì tình yêu Cha.
Maria còn ở trong nhà cô trong khi chờ chung sống với chồng, thì Gabriel, thiên thần thông tín viên của Thiên Chúa, xuống trên trái đất và xin người Trinh Nữ làm mẹ. Chính Người đã hứa vị Tiền Hô cho thầy cả Zacari, nhưng ông không tin. Trong khi Người Trinh Nữ tin rằng việc này có thể xảy ra bởi ý muốn của Thiên Chúa. Trong sự vô tri tuyệt đỉnh của cô, cô chỉ hỏi: “Việc đó xảy ra thế nào?” và thiên thần trả lời cô: “Ôi Maria, cô là Đấng Đầy Ơn, vậy đừng sợ, vì cô có ơn nghĩa trước mặt Chúa, ngay cả về sự đồng trinh của cô. Cô sẽ thụ thai và sinh một con trai mà cô sẽ gọi tên là Giêsu. Chính Người là Vị Cứu Tinh đã hứa cùng Jacob và tất cả các tổ phụ và tiên tri. Người sẽ cao trọng và là con thực sự của Đấng Tối Cao, vì Người sẽ được thụ thai bởi hành động của Thánh Linh. Chúa Cha sẽ ban cho Người ngai của Đavít như đã được tiên báo, Người sẽ ngự trị trên nhà Jacob tới tận cùng của thời gian, nhưng triều đại thực sự của Người sẽ vô tận. Bây giờ Chúa Cha, Chúa
724
Con, Chúa Thánh Thần đang chờ đợi sự vâng lời của cô để làm trọn lời hứa. Vị Tiền Hô của Đấng Kitô đã ở trong dạ của Êlisabét, chị họ của cô, và nếu cô ưng thuận, Thánh Linh sẽ xuống trên cô, và đấng cô sinh ra sẽ là Đấng Thánh, và sẽ mang tên thực sự của Người là ‘Con Thiên Chúa’”.
Lúc đó Maria trả lời: “Đây là Nữ Tì của Chúa, xin làm cho tôi theo như lời Ngài”. Và Thánh Linh của Thiên Chúa xuống trên Hiền Thê của Người, và trong cái hôn đầu tiên của Người, Người đã cho cô ánh sáng của Người để cô hoàn tất và toàn thiện các nhân đức yên lặng, khiêm nhường, khôn ngoan và bác ái mà cô được đầy tràn, vì cô chỉ là một với khôn ngoan, từ nay cô bất khả ly với Bác Ái, Vâng Lời, Trong Trắng, tan biến trong đại dương vâng lời là Thầy. Và cô được biết niềm vui làm mẹ mà không phải xao xuyết vì bị sớt qua. Cô là tuyết trở thành hoa và dâng hiến như vậy cho Thiên Chúa...
- Nhưng người chồng? - Phêrô ngạc nhiên hỏi.
- Ấn của Thiên Chúa đã đóng cửa môi của Maria và Giuse, và kỳ công chỉ được biết khi Maria từ nhà Zacari, bà con của Mẹ, trở về nhà Người. Lúc đó Maria đã rõ nét làm mẹ trước mắt chồng cô.
- Vậy ông nói sao?
- Ông đau khổ... và Maria đau khổ...
- Nếu mà là con...
- Simon Jonas, Giuse là một vị thánh. Thiên Chúa biết phải đặt ơn huệ của Người vào chỗ nào... Ông đau đớn sâu xa và quyết định bỏ mẹ, nhận lấy cho mình cái tiếng là bất công. Nhưng thiên thần đã xuống nói với ông: “Đừng sợ nhận lấy Maria làm vợ, vì Đấng đang tạo hình trong Người là Con Thiên Chúa, và Người là mẹ do công việc của Thiên Chúa. Khi con trai Người sinh ra, ông sẽ đặt tên cho trẻ là Giêsu, vì chính Người là Vị Cứu Tinh”.
- Giuse có học vấn không? - Batôlômêo hỏi.
- Như một con cháu Đavít.
- Vậy là ông có ngay ánh sáng để nhớ lại lời tiên tri: “Đây, một
725
Trinh Nữ sẽ mang thai...”
- Đúng, ông có. Và tiếp theo sau thử thách là niềm vui...
- Nếu mà là con... - Phêrô lại nói. “sẽ không có điều gì tốt xảy ra được cả, vì trước đó con đã... Ôi! Lạy Chúa, thật may mắn đó không phải là con! Nếu mà là con thì con đã vặn cổ Mẹ như một cộng cỏ mà không cho Mẹ có giờ để nói. Rồi sau đó, nếu con không sát nhân thì con lại sợ Mẹ... Cái sợ của toàn thể Israel từ bao thế kỷ đối với Nhà Tạm...”
- Cả Môise cũng sợ Thiên Chúa, nhưng ông được nâng đỡ và ở lại với Người trên núi. Vậy Giuse tới ở trong căn nhà thánh của Vợ Người và cung cấp mọi nhu cầu cho Đức Trinh Nữ và đấng sẽ phải sinh ra. Rồi đến thời kỳ chiếu chỉ kiểm kê cho mọi người, ông cùng với Maria trở về đất tổ tiên. Nhưng Bétlem đã xua đuổi họ, vì qủa tim con người đã khép lại với đức bác ái. Bây giờ đến lần các con nói.
- Con, con kể: Vào buổi chiều, một người đàn bà trẻ tươi tắn ngồi trên con lừa; một người đàn ông hộ vệ bà. Ông hỏi xin con sữa và những chỉ dẫn. Con đã nói với ông như con biết... Rồi đêm về... một ánh sáng bao la... chúng con ra ngoài... và Lêvi thấy một thiên thần ở gần quảng trường. Và thiên thần nói: “Đấng Cứu Thế đã sinh ra”. Lúc đó là ngay giữa đêm, bầu trời đầy sao, nhưng ánh sáng của chúng mất đi trong ánh sáng của thiên thần. Và hàng ngàn và hàng ngàn thiên thần (Êlie vẫn còn khóc khi nhớ tới kỷ niệm này). Và thiên thần bảo chúng con: “Hãy đi thờ lạy Người, Người ở trong một chuồng súc vật, trong một máng cỏ, giữa hai con vật... Các ngươi sẽ tìm thấy một trẻ sơ sinh, vấn trong khăn hèn...” Ôi! thiên thần, người lấp lánh tỏa sáng chừng nào khi nói những lời này!... Nhưng anh nhớ không Lêvi, đôi cánh người phát ra những ngọn lửa như thế nào, khi người cúi mình, rồi xướng danh Đấng Cứu Thế, Người nói: “... Đó là Chúa Kitô”?
- Ôi! Tôi nhớ chứ! Và tiếng nói của hàng ngàn ngàn? Ôi!... “Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao thẳm, và bình an dưới thế cho những người có thiện chí!” Khúc nhạc này nó ở đây, nó ở đây, và nó đem
726
tôi về Trời mỗi khi tôi nghe thấy nó - Và Lêvi ngửa khuôn mặt xuất thần, trên đó long lanh một giọt nước mắt.
- Và chúng tôi đã đi - Isaac nói, “khuân vác như các con vật chở nặng, sung sướng như đi dự tiệc cưới... nhưng rồi chúng tôi không biết làm gì nữa khi nghe tiếng khóc trẻ nhỏ và tiếng nói của người mẹ. Chúng tôi đẩy Lêvi tới để nó nhìn, lúc đó nó còn rất trẻ. Chúng tôi cảm thấy mình như những người cùi trước bao nhiêu là trong trắng... và Lêvi nghe, và nó cười trong khi nó khóc, nó lặp lại như tiếng nói của một con chiên, tới nỗi con cừu của Êlie cất tiếng kêu bê bê. Rồi Giuse ra cửa hang và cho chúng tôi vào... Ôi! Thầy bé tí và đẹp chừng nào! Một nụ hồng bằng thịt nằm trên rơm, nó chích Thầy... và Thầy khóc... Rồi Thầy cười trong mảnh da cừu ấm mà chúng tôi dâng cho Thầy, và với sữa mà chúng tôi vắt cho Thầy... Bữa ăn đầu tiên của Thầy... Ôi!... và rồi... và rồi chúng tôi hôn Thầy... Thầy thơm mùi hạnh đào và mùi hoa lài... và chúng tôi không thể bỏ thầy mà đi nữa...”
- Qủa thật, các con không thể bỏ Thầy nữa.
- Đúng vậy - Jonatha nói. “Các nét của Thầy ở lại trong chúng con, và tiếng nói của Thầy, nụ cười của Thầy... Thầy lớn lên... Thầy càng ngày càng đẹp. Thế giới những người tốt đến vui hưởng Thầy, thế giới những kẻ dữ xa lánh Thầy... Anna... các bước đi đầu tiên của Thầy... ba nhà Đạo Sĩ... Ngôi sao...”
- Ôi! Đêm hôm đó, sáng chừng nào! Thế giới như bốc lửa bởi hàng ngàn ánh sáng. Trái lại, buổi chiều ngày sinh nhật của Thầy, ánh sáng bất động và kết ngọc... Rồi đến cuộc khiêu vũ của các thiên thể, nhưng đó là việc thờ lạy của các vì sao. Và chúng con, trên đồi cao, chúng con thấy đoàn lữ hành đi qua, chúng con theo họ xem họ có dừng lại không... Và ngày hôm sau, toàn thể Bétlem đều thấy sự thờ lạy của các nhà Đạo Sĩ. Và rồi... Ôi! Chúng ta đừng nói về sự kinh hãi... Đừng nói!... - Êlie tái mét với kỷ niệm này.
- Đúng, đừng nói. Hãy yên lặng trên sự thù ghét...
- Nỗi đau đớn nhất là không còn được có Thầy, và không được tin tức gì về Thầy. Zacari cũng không biết gì hết. Hy vọng sau cùng
727
của chúng con... không còn gì nữa.
- Chúa ơi, tại sao Thầy không yên ủi các tôi tớ của Thầy?
- Con hỏi tại sao à Philíp? Là vì hành động như vậy là khôn ngoan. Con thấy ngay cả Zacari, người mà sự đào tạo thiêng liêng đã được bổ sung kể từ giờ đó, cũng không muốn vén bức màn lên...
- Nhưng Thầy đã bảo chúng con rằng ông lo cho các mục đồng, vậy tại sao ông không nói với họ trước tiên, rồi nói với Thầy rằng các người nọ đang tìm người kia?
- Zacari là một người công chính, hoàn toàn theo loài người. Ông bớt loài người hơn và công chính hơn trong chín tháng bị câm, và ông hoàn hảo trong những tháng sau khi Gioan sinh ra. Nhưng ông trở nên một thần trí công chính khi sự đính chính của Thiên Chúa rơi trên sự kiêu căng loài người của ông. Trước ông đã nói: “Tôi, thầy cả của Thiên Chúa, tôi nói Đấng Cứu Thế phải sống ở Bétlem”. Và Thiên Chúa đã chứng tỏ cho ông rằng sự xét đoán của loài người, dù là một thầy cả, chỉ là một xự xét đoán tội nghiệp, nếu nó không được Thiên Chúa soi sáng. Khi ông sợ hãi nghĩ rằng: “Ta có thể làm cho Giêsu bị giết bởi các lời của ta”, Zacari trở nên người công chính, bây giờ đang nghỉ ngơi để chờ Thiên Đàng. Và sự công chính dạy ông khôn ngoan và bác ái. Bác ái với các mục đồng, khôn ngoan với thế giới là nơi Đấng Kitô còn phải ẩn dật vô danh. Khi trở về quê hương, chúng ta đã hướng về Nazarét, với cùng một sự khôn ngoan đã hướng dẫn Zacari. Chúng ta tránh đi qua Bétlem và Hébron, chúng ta đã đi ven bờ biển để về Galilê. Ngay cả trong ngày Vị Thành Niên của Thầy, chúng ta cũng không thể gặp Zacari, dù ông có đến với cùng một nghi lễ, và buổi tối, ông đã ra về cùng với con trai ông.
Thiên Chúa thấy, Thiên Chúa thử thách, Thiên Chúa lo liệu, Thiên Chúa hoàn thành. Có Thiên Chúa cũng còn là có cố gắng nỗ lực, không phải chỉ có niềm vui. Người cha thân yêu của Thầy có sự nỗ lực, Mẹ thầy cũng vậy, về cả linh hồn lẫn thân xác Thầy. Ngay cả những điều được phép, chúng ta cũng tránh, để mầu nhiệm che bóng cho hài nhi Messi. Điều đó giải thích cho rất nhiều người
728
không hiểu những lý do về sự lo lắng của các ngài khi lạc mất Thầy trong ba ngày: Tình yêu mẫu tử, tình yêu phụ tử đối với trẻ bị lạc, nỗi lo sợ của người có nhiệm vụ canh giữ Đấng Messi, sợ Người bị khám phá trước thời gian, nỗi sợ vì đã không bảo vệ cẩn thận Phần Rỗi của thế giới và ơn cả thể của Thiên Chúa. Đó là những lý do của tiếng kêu khác thường: “Con ơi! Tại sao con làm như vậy? Cha con và mẹ lo lắng tìm con!” Cha con và mẹ... tấm màn che trên sự chói lọi của Ngôi Lời nhập thể. Và câu trả lời chắc nịch: “Tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao?” Câu trả lời được đón nhận và được hiểu bởi Đấng Đầy Ơn về điều nó muốn nói, tức là: “Đừng sợ. Con còn nhỏ, một đứa trẻ. Nhưng nếu theo loài người, con tin vào một người theo tầm vóc, sự khôn ngoan, vẻ thanh nhã trước mắt loài người, thì với tư cách là Con Cha, con là người Trọn Hảo, bởi vậy con biết hành động cách trọn hảo, phục vụ Cha để làm chói lọi ánh sáng của Người, phục vụ Thiên Chúa bằng cách gìn giữ Vị Cứu Tinh của Người”. Và Thầy đã hành động như vậy cho tới cách đây một năm.
Bây giờ thời gian đã tới, các bức màn được vén lên, người con trai của Giuse tỏ mình ra với bản tính của Người: Đấng Messi của Tin Mừng, Vị Cứu Tinh, Đấng Cứu Thế, vị Vua của các thế kỷ tương lai.
- Và Thầy không bao giờ gặp Gioan?
- Chỉ ở sông Giođan, Gioan của Thầy, khi Thầy muốn phép rửa.
- Tới nỗi Thầy không biết rằng Zacari đã giúp cho những người này?
- Thầy đã nói với con rồi: sau cơn tắm máu các kẻ vô tội, người công chính trở nên thánh, người thường trở nên công chính, chỉ có ma qủi vẫn là ma qủi. Zacari đã học tự thánh hóa bằng khiêm nhường, bác ái, khôn ngoan, và yên lặng.
- Tôi muốn nhớ tất cả những điều này, nhưng tôi có thể không? - Phêrô nói.
- Hãy an lòng, Simon. Ngày mai tôi sẽ xin các mục đồng nhắc lại cách bình tĩnh trong vườn, một, hai hay ba lần nếu cần. Tôi có trí
729
nhớ tốt. Tôi đã khai triển nó tại quầy của tôi. Tôi sẽ nhớ nó cho hết mọi người. Khi anh muốn, tôi có thể nhắc lại tất cả cho anh. Tôi không giữ sổ ở Caphanaum, nhưng...
- Ồ! Không, anh không lộn một xu!... Tôi nhớ... Toàn vẹn! Tôi tha qúa khứ cho anh, nhưng thực tình, nếu anh nhớ những tường thuật này... và nếu anh hay nói lại cho tôi, tôi muốn nó đi vào trong qủa tim tôi như trong những người này... như trong Jonas... Ôi! được chết khi nói tên Người!...
Giêsu nhìn Phêrô và mỉm cười, rồi Người đứng lên, hôn trên đầu tóc muối tiêu của ông.
- Tại sao Thầy cho con cái hôn này?
- Vì con đã nói tiên tri. Con sẽ chết khi nói tên Thầy. Thầy hôn thần trí đã nói trong con.
Và Giêsu, bằng một giọng rất mạnh, xướng thánh vịnh, và mọi người đều đứng lên đồng thanh: “Hãy đứng lên và hãy chúc tụng Chúa là Thiên Chúa con, từ đời đời đến đời đời. Nguyện chúc tụng danh thánh cao cả và vinh quang của Người bằng mọi lời ngợi khen và chúc tụng. Một mình Chúa là Chúa. Chúa đã dựng nên Trời, Trời với các tầng trời và mọi đạo binh trong đó; trái đất với tất cả những gì nó chứa đựng v.v. (đó là thi ca được các Lêvi hát trong ngày lễ dâng hiến dân chúng, chương 9, quyển 2 sách Esdras)”, và tất cả chấm dứt với Thánh Vịnh dài này. Tôi không biết nó thuộc về nghi thức cổ xưa hay Giêsu tự ý đọc.
Con đã nghỉ ngơi từ ba ngày nay. Con mở Sách Thánh cách tình cờ, chỉ để đọc một cái gì vẫn còn là lời đến từ Thiên Chúa. Con rơi trúng vào câu 25- 31, Thánh vịnh 17 ở cuốn thứ nhất, và Chúa nói với con:
“Có phải đó là điều con có thể nói về con? Có một thời Cha đã yêu con với tất cả sự toàn thiện của Cha, nhưng con, con không yêu Cha với sự toàn thiện nhất mà con có thể. Quả thực, tận đáy lòng, con cũng có nghĩ về Cha, nhưng ở đó có những tình yêu mạnh hơn tình yêu mà con cho Cha. Vậy con không đáng Cha thưởng cho con. Con có nhớ kỳ đó không? Cha thì Cha nhớ: Con vừa ra khỏi nhà nội trú, đầy hương thơm Thiên Chúa như người trinh nữ ở đền thờ được ướp thơm bằng hương nghi thức. Và Cha, Cha đã chọn con. Cha chọn con hồi nào? Con có muốn biết điều đó không? Thực sự ngay từ lúc linh hồn con được dựng nên, vì không một vận mệnh nào của con người mà Tư Tưởng Đời
730
Đời không biết. Nhưng cô bé Maria, được giữ cho sống bởi ý muốn của Cha, mặc dầu những hoàn cảnh bất hạnh lúc con sinh ra, và những tháng sau đó, khi con là một con bé mà người ta cho bú. Con bé này là của Cha khi nó rơi những giọt nước mắt đầu tiên lúc thấy Cha được đem xuống khỏi Thánh Giá. Con đã tìm Cha, và Cha đã ban mình với một nụ cười bằng lòng. Nụ cười này đã nhắc lại cho con ở trên trời, và nó nói với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần câu: “Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Ta” của nó.
Chỉ có môi các trẻ nhỏ có thể lấy đi cho Cha sự đau đớn của các vết thương, các trẻ nhỏ bởi tuổi hay bởi sự ưng thuận; các kẻ bởi tình yêu của họ và sự vâng lời của họ đối với Thầy của họ, “tự trở nên giống như các trẻ nhỏ để chiếm hữu Nước Trời”, những của ngon lành của Thiên Chúa. Maria, Người Mẹ Đồng Trinh, là một trẻ nhỏ toàn vẹn làm hoan hỷ Nước Trời. Các linh hồn người lớn là “trẻ nhỏ” hiếm hoi như viên ngọc trai tròn xoay và lớn khác thường. Nhưng các trẻ nhỏ bởi tuổi, tất cả đều có được linh hồn này, vì chúng chưa bị tục hóa. Chúng là sự thoả mãn của Thiên Chúa và sự khích lệ của Đấng Kitô. Và Chúa Con đã ưng con ngay từ lúc này. Mỗi giọt nước mắt thơ ngây của con là một cái hôn cho Người, mỗi cái hôn là một ơn phúc, mỗi ơn phúc đính hôn con với Tình Yêu Thiên Chúa. Không phải là một sai lầm khi nhìn lại đàng sau để có thể xướng bài Magnificat và bài Miserere. Bài Magnificat, con có thể hát cho tới khi con ra khỏi lưu xá. Lúc đó con hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Trong con chỉ có một bàn thờ và một tình yêu. Bông huệ với những cánh vừa hé mở, được đổ đầy sương trời và các tia sáng Thiên Chúa. Rồi thế gian đã tới với rất nhiều bàn thờ khác và nhiều tình yêu khác: những thứ đã chiếm đoạt chỗ của Cha. Và chúng ở lại đó bao lâu Cha còn muốn.
Cha cũng đã có thể không muốn. Có những người sẽ nói: “Đó là một kinh nghiệm nguy hiểm”. Không, nó cần thiết. Các tông đồ trở nên khiêm nhường bởi việc họ phản bội Đức Kitô. Lúc này, hết mọi ngành của con người hư hỏng đều chiếm chỗ trên cao trong họ, và một lần nữa, tất cả những gì làm xao xuyến con người lại bắt giữ họ, lung lay họ và kích thích họ. Lúc đó họ hiểu rằng trong mức độ họ đã trở nên khác, không phải duy nhất do công lao của họ, nhưng do sự kiện họ ở với Giêsu. Lúc đó nơi họ, sự kiêu căng, kẻ làm hư hỏng con người, sẽ bị nghiền nát. Điều đó cần thiết phải được làm cho tất cả những kẻ được chọn vào một định mệnh đặc biệt, để họ không mất ơn gọi của họ bằng cách mất tình yêu đối với Cha. Lần lượt, cái nọ sau cái kia, tất cả những cái đã chiếm chỗ của Cha trong con đều rơi xuống, và một mình Thiên Chúa của con lại trở nên Vua của con, và con đã hát bài Miserere của sự sám hối khôn ngoan của con cho Người. Bây giờ, hỡi con, hãy nhìn qúa khứ và hiện tại. Hãy nhìn thời gian con có vô số tình yêu: cho người đời, cho khoa học, cho chính con. Và hãy nhìn lúc hiện tại, lúc lại chỉ có một tình yêu duy nhất cho con: Tình yêu Cha. Và hãy nói cho Cha, hãy nói cho Cha với tất cả linh hồn con, hãy nghe một mình nó thôi, vì chỉ có nó mới có tiếng nói thật thà và qúi báu: Bây giờ con không có tất cả sao? Từ khi con là của Cha, con không có tất cả sao? Nhiều người, những kẻ ngu, sẽ nói: “Bà ta chả có gì hết: không có sức khỏe, không có niềm vui, không có sự thoải mái”. Nhưng linh hồn con, nó thấy bằng con mắt riêng của nó, nó nói: “Tôi có tất cả, kể cả các của thánh dư thừa”, nếu người ta có thể gọi là dư thừa, những thứ phát xuất từ những sự không tuyệt đối cần thiết để lên với Thiên Chúa. Con có sứ mạng đặc biệt của người xướng ngôn, nhưng đó là một ơn, và không cần thiết phải có nó để được ưu ái. Con được Thiên Chúa ưng thuận cho mọi ước muốn của con. Tại sao? Vì như Thánh Vịnh nói (XVII, 21- 25) : “Chúa
731
đã đối xử với tôi theo sự công chính của tôi, theo sự trong sạch của bàn tay tôi là cái không thoát được con mắt Người”.
Cha vô cùng quảng đại, quảng đại cách thần linh đối với các kẻ công chính, những người có con tim trong sạch. Cha nhân từ với các kẻ yếu, Cha hoàn toàn nhân từ với các kẻ biết mạnh vì tình yêu Cha. Và vì Cha là Tình Yêu, Cha phải làm hung bạo với chính Cha để không yếu đuối với cả những người tội lỗi. Với những người này, cha ban tình thương của Ngôi Con Cha. Với các con Cha, Cha chấp nhận tăng gấp các ơn của Cha. Cha cứu họ, soi sáng cho họ, giải thoát cho họ, tăng cường lực cho họ mỗi ngày một hơn. Cha cầm tay họ để hướng dẫn họ trên con đường thanh khiết của Cha, trong khi giáo huấn họ bằng Lời Cha, thấm nhuần họ bằng lửa tình yêu Thiên Chúa của Cha. Nó cũng như vậy đối với con, hỡi linh hồn của Cha, vì con đã đặt nơi Cha tình yêu của con và sự tin cẩn của con. Đừng sợ, hỡi bông hoa của Thiên Chúa, không một bông nào, từ những bông hoa tí hon của vùng băng giá tới những bông khổng lồ của vùng nhiệt đới, Cha không bỏ rơi một bông nào mà không ban sương, ánh sáng và sức nóng cần thiết cho đời sống xinh đẹp của nó. Và đó chỉ là những cộng thảo mộc! Nhưng các bông hoa linh hồn của Cha! Đấng Tạo Hóa của chúng sẽ săn sóc tới chúng chừng nào! Đừng sợ, hỡi các bông hoa của Thiên Chúa, được dát ngọc bằng máu và nước mắt của Chúa Con và của Đức Trinh Nữ, được tô điểm bằng những hạt ngọc trung thành của con, con chí thiết với Cha chừng nào. Hãy hát, hãy hát tới muôn đời bài Magnificat. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ở với con”.
Ôi! Lạy Chúa! Lạy Chúa! Chúa đã nói vậy thì chắc chắn đó là sự thật. Tất cả đều cần thiết. Nhưng xin đừng là sự bỏ rơi của Cha như năm ngoái cho con. Cha thấy, Cha biết tường những cảm giác của các con tim. Có những vết thương làm đau cả sau khi đã thành sẹo khi người ta chỉ đụng nhẹ vào nó; có những vết thương làm đau do phản ứng của thần kinh ngay khi người ta sắp đụng vào, hay khi người ta chỉ đụng vào các bộ phận liên can. Thần kinh bị đứt làm đau ngay cả sau khi vết thương đã lành. Sự bỏ rơi của Cha, dù bây giờ Cha đã mang con trên trái tim Cha, nó vẫn làm con đau, vì nó đã cắt đứt sợi gân nối con lại với Cha. Con không hỏi Cha: “Tại sao Cha làm như vậy”, nhưng con chỉ thưa Cha: “Cha biết sự bỏ rơi của Cha là gì đối với con! Hôm nay con còn run khi viết về ngày 10 tháng tư, vì việc đó xảy ra tới nay là đúng một năm, Cha đã bỏ rơi bông hoa tội nghiệp của Cha: không có sương, không ánh sáng, không sức nóng. Chỉ tí nữa là con chết. Vì con đã dâng cho Cha hết, và nếu sau này con có cái gì nữa thì con cũng sẽ dâng cho Cha, nhưng đừng bao giờ cho con một thử thách như vậy nữa. Cha thấy sự khốn nạn của con không chịu được nó. Con hát, vâng, con hát bài Magnificat của con. Con cũng thưa Cha: Chắc chắn con không đáng Cha làm nơi con một cái gì to lớn, nhưng tiếng hát của con sẽ muôn đời pha nước mắt. Giống như một đứa trẻ đã qua thời thơ ấu bị bỏ rơi, nó sẽ không còn nụ cười của những đứa trẻ sung sướng. Cũng vậy, sự bỏ rơi của Cha hồi năm ngoái luôn luôn hiện diện cho con. Giêsu có lý! Maria có lý! Điều người ta không thể chịu đựng trong “Cuộc tử nạn của chúng ta” là sự bỏ rơi của Cha, Cha ơi...
Trong khi con viết những điều này, người ta thắp lại ngọn đèn nhỏ luôn luôn cháy trước Giêsu. Ngôi sao nhỏ cháy với con tim con trước Giêsu chịu đóng đanh của con, nó đã bị tắt một năm nay... Phòng con, nhà tạm của con, Thiên Đàng của con không còn ánh sáng. Và điều đó làm cho con khổ biết bao... Con đã có tất cả từ tình yêu Cha, nhưng
732
cũng có tất cả từ sự nghiêm khắc của Cha. Tối tăm, cô độc, và cả điều mà Con Cha gọi là “hỏa ngục”... Con giống như một con chim tình cờ thoát tay kẻ hành hạ nó. Con sợ... Con thấy lưới và lồng và hành hạ ở khắp nơi... Lạy Chúa, xin thương.
104* TRỞ VỀ NƯỚC ĐẸP
Giêsu cùng với các tông đồ của Người băng qua các cánh đồng bằng của Nước Đẹp. Hôm nay trời mưa và nơi này vắng ngắt. Lúc này khoảng trưa, vì một chút mặt trời thỉnh thoảng ló ra qua lớp màn mây dày chiếu xuống thẳng góc. Giêsu nói với Iscariot, người bảo ông vào xóm mua những thứ tối cần. Khi Người đi một mình, Andrê đến với Người, vẫn luôn luôn rụt rè, ông nói nhỏ nhẹ: “Thầy nghe con không?”
- Ừ, hãy đi với Thầy, chúng ta bước - và Người gia chân, vị tông đồ theo sau để đi cách ra vài mét với những người khác.
- Thưa Thầy, người đàn bà không còn ở đó - Andrê đau khổ nói, và ông cắt nghĩa: “Họ đã đuổi bắt bà và bà đã chạy trốn. Bà đã bị thương và chảy máu. Người quản lý đã nhìn thấy. Con đã đến trước, khi con nói rằng con đi trước để xem có cạm bẫy gì không, nhưng là vì con muốn tới tìm bà ngay. Con hy vọng dẫn bà về với Ánh Sáng biết bao! Trong những ngày này, con đã cầu nguyện biết bao với ý chỉ này!... Bây giờ bà trốn đi! Bà sẽ hư mất. Nếu con biết bà ở đâu, con sẽ đến với bà... Con không nói với những người khác, nhưng nói với Thầy, vì Thầy hiểu con. Thầy biết không có tình cảm trong sự tìm kiếm này, chỉ có sự ước ao, ôi! rất lớn, tới nỗi nó hành hạ con, dẫn đưa một người chị em về phần rỗi...”
- Thầy biết, Andrê, và Thầy bảo con: mặc dầu tất cả những gì xảy ra, sự ước ao của con sẽ nên trọn. Lời cầu nguyện trong ý chỉ này không bao giờ bị mất. Thiên Chúa sẽ dùng nó và bà sẽ được cứu.
- Thầy nói vậy? Ôi! Sự đau đớn của con thấy dịu đi hơn!
- Con không muốn biết bà sẽ ra sao? Con không lo vì không được là chính kẻ dẫn bà ta về với Thầy? Con không tự hỏi bà ta sẽ
733
làm thế nào? - Giêsu cười êm đềm với một ánh chớp trong đôi ngươi xanh. Người nghiêng xuống trên người môn đệ đang bước bên cạnh Người. Người có nụ cười và cái nhìn là một trong những bí mật của Giêsu để chinh phục các con tim.
Andrê nhìn Người bằng đôi mắt nâu êm đềm của ông và nói: “Con chỉ cần biết là bà ta đến với Thầy. Rồi, con hay một người nào khác thì có sao đâu? Bà ta làm thế nào? Điều đó Thầy biết và con không cần biết. Con có tất cả trong việc Thầy đã bảo đảm với con, và con sung sướng”.
Giêsu quàng tay quanh vai ông và kéo ông lại với Người trong cái ôm yêu thương, khiến ông Andrê tốt lành như xuất thần. Người giữ ông như vậy và nói: “Đó là đặc tính của người tông đồ thật. Bạn Thầy, con thấy đời con và đời của các tông đồ tương lai sẽ phải như vậy. Đôi khi các con cứu, và các con biết các con là người cứu, nhưng thường hơn là các con sẽ cứu mà không biết, những người các con muốn cứu nhất. Chỉ có khi về Trời, các con mới Thấy ra đón các con, hoặc thấy lên trời, những người mà các con đã cứu. Và niềm vui hạnh phúc của các con sẽ gia tăng với mỗi người được cứu. Đôi khi các con biết ngay từ ở trên trái đất này, đó là niềm vui Thầy cho các con để khuyến khích các con hăng hái hơn cho những cuộc chinh phục mới. Nhưng hạnh phúc cho vị linh mục không cần sự kích thích như vậy để làm bổn phận riêng của họ. Phúc cho kẻ không buồn vì họ không nhìn thấy thắng trận, và kẻ không nói: ‘Tôi không làm nữa vì tôi không được thỏa mãn’. Sự thỏa mãn của người tông đồ, coi như đó là sự khích lệ duy nhất để làm việc, chứng tỏ rằng vị tông đồ thiếu đào tạo, đã hạ việc tông đồ là một việc siêu nhiên xuống ngang hàng với một việc loài người thông thường. Đừng bao giờ rơi vào tà thần của sứ mạng. Không phải các con là người phải được thờ lạy, nhưng là Chúa, Thiên Chúa các con. Cho một mình Người, vinh quang của những kẻ được cứu chuộc; cho các con là công việc lo phần rỗi, trong khi chờ tới thời kỳ ở trên trời, sự vinh quang được làm Người Cứu. Nhưng con đã nói với
734
Thầy là ông quản lý đã thấy bà ta. Hãy kể cho Thầy đi”.
- Ba ngày sau khi chúng ta đi, các pharisiêu đã đến đây để tìm Thầy. Đương nhiên là họ không tìm thấy chúng ta. Họ đi vòng quanh trong xóm và các nhà ở miền quê, nói là họ cần gặp Thầy gấp, nhưng không ai tin họ. Họ liền ở trong quán trọ, sau khi đã đuổi hết những người ở đó đi, nói rằng họ không muốn giao tiếp với những người lạ không quen biết, vì những người này có thể phàm tục hóa họ. Mỗi ngày họ đều tới nhà. Sau vài ngày, họ tìm thấy kẻ tội nghiệp, bà vẫn tới, vì bà hy vọng tìm thấy Thầy và được bình an của Thầy. Họ đã làm bà chạy trốn, họ đuổi bà tới chỗ trú của bà trong chuồng súc vật của người quản lý. Họ không tấn công bà ngay, bởi vì ông ta với các con trai ông cầm dùi côn ra. Nhưng rồi buổi chiều, khi bà ra ngoài, họ trở lại với những người khác nữa. Khi bà tới phông-ten, họ đã ném đá bà và gọi bà là: “con đĩ” trong khi giơ tay xỉa xói bà để cho người trong xứ khinh dể bà. Nhưng vì bà chạy trốn, họ đến chỗ bà, ngược đãi bà, giật voan và áo khoác của bà để mọi người thấy bà. Họ đã đánh bà, lấy quyền của họ để ép buộc ông trưởng giáo đường nguyền rủa bà và cho ném đá bà, và nguyền rủa Thầy là người đã đem bà tới xứ. Nhưng ông ta không muốn làm, nên bây giờ, ông chờ đợi sự trục xuất của Đại Pháp Đình. Người quản lý đã giật bà khỏi tay những tên vô lại này và cứu bà. Nhưng đêm hôm đó bà bỏ đi, để lại một chiếc lắc với một lời trên một mảnh giấy da. Bà đã viết: “Cám ơn. Xin cầu nguyện cho tôi”. Người quản lý nói bà ta rất trẻ và rất đẹp, mặc dầu rất xanh xao và gầy. Ông đã tìm bà khắp miền quê, vì bà bị thương nặng. Nhưng ông không tìm thấy bà. Ông không biết làm sao bà có thể đi xa. Có lẽ bà đã chết ở một nơi nào đó... mà không được cứu...
- Không.
- Không? Bà không chết? Bà không hư mất?
- Ý muốn được cứu chuộc đã là sự xá giải. Dù bà chết, bà sẽ được tha, vì bà đã tìm Đấng Chân Lý, dày đạp đứa Sai Lầm dưới chân. Nhưng bà không chết. Bà đang trèo những sườn dốc đầu tiên
735
của núi cứu chuộc. Thầy thấy bà... Cúi gù dưới nước mắt sám hối. Sự đau khổ của bà càng lúc càng mạnh, trong khi gánh nặng của bà nhẹ dần. Thầy thấy bà. Bà đi gặp Ánh Sáng. Khi bà sẽ trèo lên hết các sườn dốc, bà sẽ ở trong vinh quang của Mặt-Trời-Thiên-Chúa. Bà đang lên... hãy giúp bà bằng lời cầu nguyện của con.
- Ôi! Chúa của con! - Andrê hầu như ngây ngất vì có thể giúp một linh hồn tự giải thoát.
Giêsu mỉm một nụ cười êm đềm nhất: “Phải mở cánh tay và con tim ra cho ông trưởng giáo đường bị bách hại, và tới chúc lành cho người quản lý. Chúng ta đi lại với các bạn và nói vậy với họ”.
Họ đi ngược lại quãng đường đã đi và đến với mười người đã dừng lại cách một khoảng, vì họ hiểu Andrê nói chuyện bí mật với Thầy. Ngay lúc đó thì Judas chạy hỏa tốc tới. Ông giống như một con bướm khổng lồ đang bay trên đồng cỏ, vì ông phóng nhanh, áo khoác bay phất phới ở đàng sau, trong khi ông tấn công trong một trận chiến thực sự bằng các dấu hiệu.
Phêrô hỏi: “Nhưng anh ta làm sao? Anh ta điên?”
Trước khi một ai có thể trả lời cho ông thì Iscariot tới khoảng đủ gần để nói. Ông vừa thở dốc vừa kêu: “Dừng lại Thầy ơi. Hãy nghe con trước khi vào nhà... Có cạm bẫy... Ôi! Hèn chừng nào!...” Và ông chạy. Ông đã tới nơi của nhóm: “Ôi! Thầy ơi! Ta không thể ở đây nữa. Các pharisiêu ở trong xóm, và mỗi ngày họ đều tới nhà. Họ chờ Thầy để làm hại Thầy. Họ đuổi những người đến tìm Thầy. Họ làm người ta sợ bằng những lời nguyền rủa kinh khủng. Thầy muốn làm gì? Ở đây Thầy sẽ bị bách hại và công việc của Thầy sẽ bị vô hiệu hóa... Một người trong số họ đã tấn công con, một tên hèn có mũi bự, hắn biết con vì đó là một luật sĩ của Đền Thờ. Cũng có các luật sĩ. Hắn tấn công con bằng cách cào con và chửi rủa con bằng cái giọng chim ưng của hắn. Hắn đã rủa xả con và cào con qúa trời! Thầy coi... (và ông chìa cho thấy cổ tay và một bên má có những vết móng tay rõ ràng). Con đã để hắn làm, nhưng khi hắn
736
chửi rủa Thầy, con liền nắm lấy cổ áo hắn...”
- Nhưng, Judas! - Giêsu kêu lên.
- Không, thưa Thầy, con đâu có xiết cổ hắn. Con chỉ ngăn cản hắn phạm thượng đến Thầy. Rồi con để hắn đi. Bây giờ hắn ta đang ở đó, chết khiếp vì sự nguy hiểm hắn đã thoát... Nhưng chúng ta, con xin Thầy, rút lui đi Thầy. Vả lại, không ai có thể đến với Thầy nữa...
- Thầy!
- Sợ thật!
- Judas có lý.
- Chúng rình như những con linh cẩu!
- Hỡi lửa trời đã xuống trên Sôđôma, sao ngươi không trở lại?
- Nhưng này cậu bé, cậu có biết rằng cậu đã rất dũng cảm không? Tiếc là tôi không ở đó. Nếu có, tôi đã giúp cậu một tay.
- Ôi! Phêrô! Nếu anh ở đó thì con chim ưng nhỏ này sẽ mãi mãi bị trụi lông và mất tiếng kêu.
- Nhưng, anh đã làm sao để... để không đi tới cùng?
- Nhưng!... Đó hẳn là một tia sáng trong trí khôn tôi, một tư tưởng đã đến với tôi, tôi không biết từ chiều sâu nào của con tim: “Thầy kết án bạo động”, và tôi dừng lại. Điều đó làm cho tôi bị một cú mạnh hơn là sự va chạm vào tường mà tôi đã bị khi tên luật sĩ tấn công tôi. Tôi hầu như bị đứt gân... tới nỗi tôi không còn sức để đập. Thật là gay go để tự thắng!...
- Anh đã thực sự rất dũng cảm! Phải không Thầy? Thầy không nói tư tưởng của Thầy? - Phêrô rất vui sướng về cách cư xử của Judas tới nỗi ông không thấy khuôn mặt Giêsu đã thay đổi: từ vẻ mặt rạng rỡ lúc trước tới vẻ mặt nghiêm khắc đã làm cho cái nhìn của Người tối sầm lại. Người mím môi, làm cho nó có vẻ mỏng hơn.
Rồi Người mở nó ra và nói: “Thầy nói với các con rằng Thầy ghê tởm lối suy nghĩ của các con hơn là lối sống của các người Do Thái. Họ là những kẻ thất sủng, sống trong tối tăm, còn các con ở với Ánh Sáng mà các con khắc nghiệt, ưa báo thù, hay cằn nhằn,
737
hung bạo. Các con cũng chấp nhận sự tàn bạo như họ. Thầy nói rằng các con cho Thầy bằng cớ để thấy rằng các con vẫn còn như khi Thầy gặp các con lần đầu. Thầy cảm thấy đau đớn vì vậy. Với những điều có liên can tới các pharisiêu, các con biết rằng Giêsu, đức Kitô không trốn. Các con hãy rút lui. Thầy đi đối đầu với họ. Thầy không phải kẻ hèn. Một khi Thầy đã nói với họ mà không thuyết phục được họ thì Thầy sẽ rút lui. Người ta sẽ không nói được rằng Thầy đã không làm hết cách để lôi kéo họ về với Thầy. Họ cũng là các con cái Abraham. Thầy làm bổn phận của Thầy tới cùng. Sự luận phạt của họ chỉ đến duy nhất bởi ý muốn xấu của họ chứ không phải vì sự chểnh mảng của Thầy đối với họ”. Và Giêsu đi về căn nhà mà họ đã nhìn thấy mái thấp ở bên kia hàng cây trơ trụi.
Các tông đồ đi theo, cúi đầu, nói nhỏ với nhau.
Đây, họ đã ở trong nhà. Họ lặng lẽ vào trong nhà bếp và lăng xăng quanh chiếc lò. Giêsu trầm mặc trong tư tưởng của Người.
Họ sắp sửa dùng bữa thì một nhóm người xuất hiện ngoài cửa: “Họ đó”. Iscariot lẩm bẩm.
Giêsu đứng dậy ngay và ra với họ. Người rất oai nghiêm tới nỗi nhóm người lùi lại một lát, nhưng lời chào của Giêsu làm họ vững dạ: “Bình an cho các ông. Các ông muốn gì?”
Lúc đó các tên hèn tin là có thể dám làm tất cả, và ra lệnh cho Người một cách xấc xược: “Nhân danh Lề Luật Thánh, chúng tôi truyền cho ông phải rời khỏi nơi này. Ông là kẻ làm xao xuyến các tâm hồn, vi phạm Lề Luật, làm mất sự yên tĩnh của thành Juđê. Ông không sợ sự trừng phạt của Trời, ông bắt chước vị công chính đã làm phép rửa ở sông Giođan, ông bảo vệ các gái điếm? Hãy ra khỏi đất thánh của Juđê để hơi thở của ông không lọt vào tới nội khu Thành Thánh”.
- Tôi không làm gì xấu. Tôi giảng dạy như một rabbi, tôi chữa bệnh như một nhà thần thông, tôi xua đuổi ma qủi như người trừ tà. Tất cả những loại người này cũng có ở Juđê, và Thiên Chúa muốn họ được trọng và tôn kính bởi các ông. Tôi không xin các ông sự tôn
738
kính, tôi chỉ xin các ông để cho tôi làm việc lành cho những kẻ có khuyết tật trong thân xác, trong đầu óc, trong tâm hồn. Tại sao các ông lại cấm tôi?
- Ông là tên bị qủi ám. Cút đi.
- Chửi rủa không phải là một câu trả lời. Tôi hỏi tại sao các ông cho phép những người khác?
- Bởi vì ông là kẻ bị qủi ám, ông xua đuổi ma qủi và làm phép lạ với sự giúp đỡ của ma qủi.
- Vậy còn các người trừ tà của các ông, với sự giúp đỡ của ai mà họ làm?
- Bởi đời sống thánh của họ. Ông là kẻ tội lỗi, và để gia tăng sức mạnh của ông, ông dùng các gái điếm, vì sự phối hợp với các nàng làm gia tăng quyền lực của sức mạnh ma qủi. Sự thánh thiện của chúng ta đã thanh tẩy khu vực cho khỏi kẻ đồng lõa với ông, nhưng chúng ta không cho phép ông ở lại đây để lôi kéo những đàn bà khác.
- Nhưng, căn nhà này thuộc về các ông sao? - Phêrô hỏi. Ông đã tới gần Thầy với điệu bộ không mấy vững dạ.
- Không phải nhà của chúng tôi, nhưng toàn thể Juđê và tất cả Israel đều ở trong bàn tay thánh của những người Israel chính tông.
- Tức là các ông, các ông! - Judas kết thúc. Ông đã tới ngưỡng cửa và phát ra một tràng cười mỉa mai. Rồi ông hỏi: “Còn ông kia, bạn của các ông, ông ta đâu? Xấu hổ cho các ông. Cút hết đi, và ngay lập tức. Nếu không tôi sẽ làm cho các ông phải hối vì...”
- Nín đi, Judas. Và con, Phêrô, hãy trở về chỗ của con. Hãy nghe đây, các ông, pharisiêu và luật sĩ. Vì sự lành của các ông, vì thương linh hồn các ông, tôi xin các ông đừng giao chiến với Ngôi Lời của Thiên Chúa. Hãy đến với tôi. Tôi không ghét các ông. Tôi hiểu tâm tính của các ông, và tôi tiếc. Nhưng tôi muốn dẫn các ông tới một tâm tính mới, thánh, có khả năng thánh hóa các ông và cho các ông nước Trời. Các ông nghĩ rằng tôi đến để chiến đấu với các ông sao? Ồ! Không! Tôi đến để cứu các ông. Chính vì điều đó mà tôi đến. Tôi ôm các ông trên trái tim tôi. Tôi xin các ông tình yêu và sự
739
thông cảm. Chính vì các ông là những người thông thái nhất trong Israel, các ông phải hiểu sự thật hơn mọi người. Hãy là linh hồn chứ đừng là thân xác. Các ông muốn tôi qùi gối để năn nỉ các ông? Vật tranh giành, là linh hồn các ông, nó cao qúi tới nỗi tôi đặt mình dưới chân các ông để chiếm được nó cho Nước Trời, chắc chắn rằng Cha sẽ không nhìn sự hạ mình của tôi như một sai lầm. Hãy nói đi! Hãy nói với tôi một lời. Tôi chờ!
- Khốn kiếp! Đó là lời chúng tôi nói.
- Được rồi, lời đã nói. Vậy hãy đi đi. Tôi cũng sẽ đi - Và Giêsu quay lại, trở về chỗ của Người. Người gục đầu trên bàn và khóc.
Batôlômêo khép cửa lại để không ai trong những kẻ độc ác thấy những nước mắt này. Họ đã chửi rủa Người và ra đi với những đe dọa và phạm thượng chống lại Đức Kitô.
Một yên lặng dài. Rồi Giacôbê Alphê vuốt tóc Giêsu của ông và nói: “Đừng khóc, chúng con yêu Thầy, thay cho cả họ nữa”.
Giêsu ngửa mặt lên và nói: “Không phải Thầy khóc cho Thầy, nhưng cho họ, những kẻ tự sát, như điếc trước hết mọi lời kêu mời”.
- Chúng ta sẽ làm gì đây Chúa? - Giacôbê Zêbêđê hỏi.
- Chúng ta sẽ đi Galilê. Sáng mai, chúng ta sẽ khởi hành.
- Không đi hôm nay sao Chúa?
- Không. Thầy phải đi chào những người tốt ở đây. Các con sẽ đi cùng với Thầy.
105* MỘT MÔN ĐỆ MỚI - KHỞI HÀNH ĐI GALILÊ
- Lạy Chúa, con chỉ làm bổn phận của con đối với Thiên Chúa, đối với ông chủ của con và đối với lương tâm của con. Người đàn bà này, con đã canh chừng bà trong suốt thời gian bà là khách của con, và con thấy bà luôn luôn ngay thật. Nếu trước kia bà đã là một tội nhân, bây giờ bà không vậy nữa, tại sao con lại phải tìm hiểu về một qúa khứ mà bà đã xóa đi và hủy bỏ. Con có những đứa con trai còn trẻ và không thô lỗ. Bà không bao giờ cho thấy khuôn mặt thực sự đẹp của bà, cũng không bao giờ cho nghe tiếng bà. Con có thể nói rằng con đã nghe thấy âm thanh của tiếng nói trong như bạc
740
của bà khi bà kêu vì các vết thương. Ngoài ra, về rất ít điều mà bà hỏi, và luôn luôn là với con hay với vợ con, bà chỉ thì thầm sau voan, và rất nhỏ nhẹ tới nỗi người ta khó hiểu. Thầy cũng thấy bà ta thận trọng chừng nào. Khi bà sợ rằng sự hiện diện của bà có thể gây phiền phức thì bà đi... Con đã hứa bảo vệ bà và giúp bà, nhưng bà không ỷ y vào đó. Không, đó không phải là lối hành động của đàn bà hư hỏng. Con sẽ cầu nguyện cho bà như bà xin, dù không có cái kỷ niệm này. Xin Chúa cầm lấy đi, hãy dùng làm của bố thí vì lợi ích thiêng liêng của bà. Được làm bởi Thầy, chắc chắn nó sẽ cho bà bình an.
Người quản lý nói với với Giêsu một cách kính cẩn. Đó là người đàn ông đẹp, khuôn mặt thật thà, thân mình mập. Đàng sau ông là sáu cậu con trai trẻ rất giống cha của họ, sáu khuôn mặt ngay thẳng và thông minh. Và có bà vợ, một người đàn bà nhỏ, thanh bai và rất dịu dàng. Bà nghe ông chồng bà nói như nghe một vị thần, không ngừng gật đầu xác nhận.
Giêsu cầm chiếc lắc vàng, đưa cho Phêrô và nói: “Để cho người nghèo”. Rồi Người quay lại với người quản lý: “Không phải mọi người trong Israel đều ngay thẳng như ông. Ông khôn ngoan vì ông biết phân biệt điều tốt điều xấu, và ông theo điều tốt, hoàn thành nó mà không nghĩ tới lợi ích loài người. Nhân danh Thiên Chúa Cha, Thầy chúc lành cho ông, cho các con ông, cho vợ ông, cho nhà cửa ông. Hãy luôn luôn giữ mình trong sự sẵn sàng thiêng liêng này, Chúa sẽ luôn luôn ở với các con và các con sẽ được sống đời đời. Bây giờ Thầy đi, nhưng không phải là chúng ta không bao giờ gặp lại nhau. Thầy sẽ trở lại và các con có thể luôn luôn đến với Thầy. Với tất cả những gì các con đã làm cho Thầy và cho kẻ khốn nạn đó. Xin Thiên Chúa ban bình an của Người cho các con”.
Người quản lý, các người con, và sau cùng là bà vợ, qùi gối hôn chân Giêsu. Sau cử chỉ chúc lành sau cùng, Người rời đi cùng với các môn đệ Người, hướng về thôn xóm.
- Nếu những tên thô lỗ còn ở đó? - Philíp hỏi.
- Không ai có quyền cấm người ta nói trên đường - Juđa Alphê
741
trả lời.
- Không, nhưng chúng ta, đối với họ, chúng ta là những kẻ bị khai trừ.
- Ôi! Hãy để họ làm. Đừng lo chuyện đó.
- Tôi, tôi không lo gì khác ngoài lo làm điều Thầy muốn: tránh bạo động. Và họ, họ biết điều đó, nên họ có ưu thế - Phêrô lẩm bẩm trong hàm râu. Ông tin chắc là Giêsu đang nói chuyện với Simon và Iscariot nên không nghe. Nhưng Người nghe. Người quay lại, nửa nghiêm nghị, nửa tươi cười: “Con tưởng Thầy sẽ thắng bằng bạo động sao? Đó là cách hành động tội nghiệp của con người, và chỉ sử dụng được một thời gian, cho những chiến thắng của loài người. Cái ưu thế đó kéo dài được bao lâu? Thời gian đủ để chính nó tạo ra, nơi những kẻ họ đàn áp, những phản ứng tích tụ lại cho thành một bạo động mạnh mẽ hơn, để quật ngã các kẻ được ưu thế xuống đất. Thầy không muốn một vương quốc tạm bợ. Thầy muốn một vương quốc muôn đời: Vương Quốc Trên Trời. Thầy đã nói điều đó với các con bao nhiêu lần rồi? Thầy sẽ phải nói với các con bao nhiêu lần nữa? Các con có bao giờ hiểu được không? Có, sẽ đến lúc các con hiểu được”.
- Khi nào Chúa? Con vội vã muốn hiểu để bớt ngu - Phêrô nói.
- Khi nào? Khi các con bị nghiền nát như các hạt giữa các tảng đá của đau đớn và sám hối. Các con có thể, và cả đến các con phải hiểu trước. Để được như vậy, các con phải bẻ gẫy nhân tính của các con để cho thần trí được tự do. Nhưng các con không biết làm cái cố gắng này trên chính mình các con. Nhưng các con sẽ hiểu... Các con sẽ hiểu. Và khi đó các con sẽ hiểu rằng Thầy không thể dùng bạo lực để thiết lập nước Trời: nước của thần trí. Nhưng trong khi chờ đợi, đừng lo. Những người làm cho các con lo, họ sẽ chẳng làm gì các con cả. Họ chỉ cần là đuổi được Thầy đi.
- Nhưng báo cho ông trưởng giáo đường đến nhà người quản lý, hoặc bảo ông chờ chúng ta trên lộ lớn, có phải dễ hơn không?
- Ôi! Hôm nay Tôma của Thầy khôn ngoan chừng nào! Nhưng điều đó không dễ, hay đúng hơn, nó dễ, nhưng không chính đáng.
742
Ông ta đã tỏ ra anh hùng đối với Thầy. Ông ta đã bị xỉ vả trong nhà ông vì Thầy, nên thật chính đáng là Thầy đến nhà ông để an ủi ông.
Tôma nhún vai và không nói nữa.
Đây, đã tới nơi: một xứ rộng, nhưng là xứ nhà quê với các căn nhà ở giữa vườn cây, lúc này trơ trụi, và rất nhiều bãi nhốt cừu. Đây hẳn là nơi thuận lợi cho các đồng cỏ, vì tôi nghe từ mọi phía tiếng bê bê của đoàn vật đang lên cao nguyên hay đi xuống. Các đường phố, như thường lệ, họp thành ngã tư, nơi là quảng trường của làng với phông-ten nước. Đó là nơi có nhà của ông trưởng giáo đường.
Một người đàn bà già, trên mặt có dấu nước mắt, ra mở cửa. Nhưng khi nhìn thấy Chúa, bà có những cử động vui, và bà qùi phục để chúc phúc cho Người.
- Đứng dậy đi mẹ. Thầy đến để chào qúi vị. Con trai mẹ đâu?
- Nó kia... - và bà chỉ vào một phòng ở cuối nhà. “Thầy đến an ủi nó? Con, con không thể...”
- Vậy là ông ta buồn? Ông ta khổ vì bảo vệ Thầy?
- Lạy Chúa, không. Nó e ngại. Nhưng Thầy sẽ nghe nó. Con đi gọi nó.
- Không, Thầy tới đó. Các con, hãy chờ ở đây. Chúng ta đi, bà.
Giêsu đi qua mấy mét của tiền đường, đẩy cửa, vào trong một phòng và nhè nhẹ đến với một người đàn ông đang ngồi cúi nhìn đất, trầm tư trong một suy niệm đau đớn.
- Bình an cho con, Timon.
- Lạy Chúa! Thầy!
- Thầy. Tại sao con buồn vậy?
- Chúa ơi... con... người ta bảo con là đã phạm tội. Người ta bảo con bị trục xuất. Con xét mình. Con không thấy như vậy. Nhưng họ, đó là những thánh của Israel, còn con, một trưởng giáo đường tội nghiệp, chắc chắn họ có lý. Bây giờ con không dám ngước mắt lên dung nhan thịnh nộ của Thiên Chúa nữa, mà lúc này con đang cần biết bao! Con phụng sự Người với tình yêu thực sự, và con tìm cách làm cho Người được biết. Bây giờ con bị mất sự lành này, vì chắc
743
chắn Đại Pháp Đình nguyền rủa con.
- Nhưng con đau đớn vì cái gì? Không còn được làm trưởng giáo đường nữa hay không còn có thể nói về Thiên Chúa nữa?
- Nhưng chính điều thứ hai làm con đau đớn! Con nghĩ rằng Thầy muốn hỏi con xem con có bất bình vì không còn được làm trưởng giáo đường, vì lẽ những lợi ích và danh dự của chức vụ. Điều đó thì con không quan tâm. Con chỉ có mình mẹ con, người gốc ở Aera, ở đó bà còn một căn nhà nhỏ. Vậy ở đó có cho bà một mái nhà và những phương tiện để sống. Còn con... con còn trẻ, con sẽ làm việc. Nhưng con không bao giờ dám nói về Thiên Chúa nữa, vì con đã phạm tội.
- Con đã phạm tội về cái gì?
- Họ nói rằng con là đồng lõa của... Ôi! Chúa ơi! Đừng bảo con nói!...
- Không. Thầy sẽ nói cho con. Không, Thầy cũng sẽ không nói cho con. Thầy và con, chúng ta biết những buộc tội của họ, và chúng ta biết nó không đúng. Bởi vậy con không có phạm tội. Chính Thầy nói điều đó cho con.
- Vậy là con còn có thể ngước mắt lên với Đấng Toàn Năng? Con có thể...
- Cái gì con? - Giêsu rất êm đềm khi Người cúi xuống trên người đàn ông khi ông ta bỗng dưng ngừng lại như bị đe dọa: “Cái gì? Cha Thầy tìm cái nhìn của con. Và Thầy, Thầy muốn con tim của con và tư tưởng của con. Đúng, Đại Pháp Đình sắp đánh con, Thầy, Thầy mở cánh tay ra cho con và thầy nói với con: ‘Hãy tới’. Con có muốn làm môn đệ của Thầy không? Thầy, Thầy nhìn thấy nơi con tất cả những gì cần thiết để làm người thợ của vị Thầy Muôn Đời. Hãy tới trong vườn nho của Thầy...”
- Nhưng, Thầy nói thực vậy sao? Mẹ ơi... mẹ có nghe không? Con sung sướng qúa mẹ ơi! Con... chúc tụng cái đau khổ này, vì nó cho con niềm vui này. Ôi! Chúng ta sẽ làm một lễ lớn mẹ ạ, rồi sau đó con sẽ đi với Thầy, và mẹ sẽ trở về nhà mẹ. Con đi ngay lập tức, Chúa của con, Thầy đã hủy bỏ cho con mọi sợ hãi và đau đớn, và
744
sự sợ hãi Thiên Chúa.
- Con sẽ chờ quyết định của Đại Pháp Đình, với tâm hồn yên bình và không thù ghét. Hãy ở lại vị trí của con bao lâu họ còn cho con ở. Rồi sau đó con sẽ đến với Thầy ở Nazarét hay ở Caphanaum. Chào. Bình an cho con và cho mẹ con.
- Thầy không dừng lại trong nhà con?
- Không, Thầy sẽ tới nhà mẹ con.
- Xứ đó họ ít trung thành.
- Thầy sẽ dạy nó sự trung thành. Chào mẹ. Bây giờ mẹ vui chưa? - Giêsu vuốt ve bà như Người vẫn làm đối với các người đàn bà lớn tuổi, và hầu như Người luôn luôn gọi họ là “Mẹ”.
- Sung sướng lắm rồi Chúa. Con đã nuôi một đứa con trai cho Chúa. Chúa đã nhận lấy nó làm tôi tớ cho Đấng Messi của Người. Nguyện chúc tụng Chúa. Chúc tụng Thầy, Đấng Messi của Người. Chúc tụng cái giờ mà Thầy đã đến. Chúc tụng đứa con của tôi được gọi để phục vụ Thầy.
- Phúc cho người mẹ thánh giống như Anna Elqana. Bình an cho các con.
Giêsu đi ra, hai người theo sau. Người đến với các môn đệ. Rồi người bắt đầu cuộc trở về Galilê.
106* TRÊN MIỀN NÚI XỨ EMMAU
Giêsu đang đi với các người của Ngài tại một vùng núi. Đường sá gập ghềnh khó khăn. Các người già rất mệt mỏi, trái lại, các người trẻ rất vui vẻ chung quanh Giêsu và lên dốc cách nhanh nhẹn, nói chuyện với nhau. Hai ông anh họ, hai con ông Zêbêđê và Andrê rất vui với tư tưởng trở về Galilê, và niềm vui của họ lan cả sang cho Judas Iscariot, người mà từ ít lâu nay ở trong trình trạng tinh thần tốt nhất. Ông chỉ giới hạn ở câu: “Nhưng thưa Thầy, tới lễ Vượt Qua, khi chúng ta tới Đền Thờ... Thầy sẽ trở lại Kêriot? Mẹ con luôn luôn hy vọng có Thầy. Bà đã nhắn cho con biết. Và cả các người đồng hương của con nữa...”
- Chắc chắn rồi. Lúc này, dù có muốn, mùa đông cũng qúa gay
745
go để đi trên những con đường khó khăn. Con thấy mệt mỏi chừng nào, ngay cả ở đây. Và nếu người ta không áp đặt, thì Thầy không di chuyển vào lúc này... Nhưng ta không thể ở lại... - Giêsu nín lặng, trầm tư.
- Và rồi, con muốn nói là Lễ Vượt Qua, ta có thể tới không? Con muốn chỉ hang đá của Thầy cho Giacôbê và Andrê - Gioan nói.
- Anh quên tình yêu của Bétlem đối với chúng ta rồi - Iscariot hỏi. “Nhất là đối với Thầy”.
- Không, nhưng tôi sẽ đi với Giacôbê và Andrê, Giêsu có thể ở lại Jutta hay trong nhà anh...
- Ôi! Tôi thích vậy đó. Thầy sẽ làm vậy không Thầy? Họ đi Bétlem, Thầy ở lại với con ở Kêriot. Qủa vậy, Thầy chưa bao giờ ở một mình với con... Và con ước bao biết bao được có Thầy cho một mình con...
- Con ghen sao? Con không biết rằng Thầy yêu tất cả các con theo cùng một cách? Con không tin rằng Thầy ở với tất cả các con, ngay cả khi các con thấy như Thầy ở xa các con?
- Con biết rằng Thầy yêu chúng con. Nếu Thầy không yêu chúng con thì chắc chắn Thầy sẽ khắt khe hơn nhiều, ít là đối với con. Con tin rằng thần trí Thầy luôn luôn canh chừng trên chúng con, nhưng chúng con không phải chỉ là thần trí, cũng có cả con người với các tình yêu loài người của nó, các ước ao, các luyến tiếc của nó. Giêsu của con, con biết rằng con không phải là người làm cho Thầy sung sướng nhất. Nhưng con tin rằng Thầy biết nó sống động chừng nào trong con sự ước ao làm vui lòng Thầy, và sự hối tiếc của con về tất cả những giờ con mất Thầy vì sự khốn nạn của con...
- Không, Judas. Thầy không mất, Thầy theo sát con hơn những người khác, một cách chi tiết là vì Thầy biết con là ai.
- Con là ai, Chúa con? Hãy nói đi. Hãy giúp con hiểu cái con là. Con không hiểu con. Con thấy con giống như người đàn bà băn khoăn bởi sự ước ao thụ thai. Con có những ước ao thánh và những ước ao khác đồi bại. Tại sao? Con là cái gì?
Giêsu nhìn ông bằng cái nhìn không thể giải thích được. Nó buồn,
746
nhưng là nỗi buồn pha lẫn thương xót. Thương xót chừng nào! Giống như một thầy thuốc biết rõ tình trạng của một bệnh nhân, và biết đó là bệnh nhân không thể khỏi... Nhưng người không nói.
- Nói đi, Thầy của con. Sự xét xử của Thầy sẽ luôn luôn ít khắt khe hơn tất cả mọi người đối với Judas tội nghiệp. Rồi nữa... chúng con là anh em. Con thấy không quan trọng nếu họ biết con là gì. Nhưng nếu họ biết được bởi Thầy, họ sẽ sửa đổi sự xét đoán của họ và giúp con, phải không?
Những người khác ngượng, không biết nói sao. Họ nhìn bạn họ. Họ nhìn Giêsu.
Giêsu kéo Iscariot lại gần Người, thay vào chỗ của anh họ Giacôbê trước, và Người nói: “Con chỉ có một điều là hỗn độn. Trong con có tất cả những yếu tố tốt nhất, nhưng nó không ở trúng vị trí, và chỉ một cơn gió rất nhẹ cũng làm cho nó tan rã.
Chúng ta vừa đi qua cái đèo mà người ta đã chỉ cho chúng ta những thiệt hại gây ra cho các nhà nghèo của xứ nhỏ này bởi nước, bởi đất và cây cối. Nước, đất và cây cối là những thứ hữu ích và được chúc phúc, có đúng vậy không? Nhưng nó đã trở nên những thứ vô phúc. Tại sao? Tại vì nước của thác không có một đường được điều chỉnh để chảy. Rồi bởi sự thờ ơ của con người, nó đã đào thành nhiều đường để chảy theo tính thất thường của nó. Nó thật đẹp khi không có bão tố. Nó giống như công việc của người thợ kim hoàn, nước trong này chảy trên núi thành nhiều lạch nhỏ, được trang điểm bằng kim cương hay các giây chuyền bằng bích ngọc, tùy theo nó phản chiếu ánh sáng hay bóng tối của các bụi cây. Và người ta thưởng thức nó, vì các dòng nước rì rào này hữu ích cho các thửa ruộng nhỏ của họ. Và đẹp chừng nào, các cây cối mọc theo tính thất thường của gió thành từng khóm ở đó đây, và để chừa ra các khoảng rừng thưa đầy nắng. Và nó cũng đẹp, lớp đất nhẹ, Thầy không biết nó được đặt vào đây như đất bồi từ hồi xa xưa nào, giữa những dợn sóng của nhiều ngọn đồi, rất mầu mỡ để canh tác. Nhưng chỉ cần một trận bão, như mới xảy ra một tháng nay, là các con suối thất thường và lộn xộn tràn bờ, họp lại, tạo ra những dòng
747
nước khác, cuốn theo các cây cối mọc lộn xộn, những đống đất, và quăng xuống dưới thấp. Nếu người ta đã điều chỉnh đều hòa các dòng nước, nếu các cây mọc thành từng khóm đều đặn, nếu người ta đã giữ đất bằng cách đắp những mô thật vững, thì ba yếu tố tốt: nước, đất, cây, sẽ không trở nên sự phá hoại và chết cho cái xứ nhỏ bé này.
Con có sự thông minh, táo bạo, học vấn, nhanh nhẹn, và vẻ oai vệ. Con có biết bao và biết bao điều lợi. Nhưng tất cả đều hỗn độn như rừng hoang ở trong con, và con để yên chúng trong tình trạng đó. Con thấy, con cần làm việc nhẫn nhục và kiên trì với chính con để đặt cố định tất cả vào trật tự, rồi trật tự này sẽ trở nên sức mạnh giữa những phẩm tính của con, thì khi bão tố của cám dỗ tới, các yếu tố tốt trong con không trở thành điều thiệt hại cho con và những người khác”.
- Thầy có lý. Mỗi lúc con bị gió lật là tất cả đều đảo lộn. Và Thầy nói con có thể...
- Ý muốn là tất cả, Judas.
- Nhưng có những cám dỗ cắn qúa mạnh... Người ta lẩn trốn, lánh mặt, vì sợ thế giới đọc được nó ở trên mặt.
- Đó là sai lầm! Chính lúc đó là lúc không nên lánh mặt, nhưng phải tìm các bạn tốt để được giúp đỡ. Nguyên việc tiếp xúc với sự bình an của người tốt cũng làm hạ cơn sốt. Và cũng phải tìm các bạn hay chỉ trích, vì nguyên nhân là sự kiêu ngạo đã thúc đẩy ta lánh mặt để người khác không đọc được bí mật của tâm hồn bị cám dỗ của ta, sự chỉ trích làm cho ta phản ứng chống lại những yếu đuối tinh thần, và ta không bị sa ngã.
- Thầy, Thầy đã vào trong sa mạc...
- Bởi vì Thầy có thể làm như vậy. Nhưng khốn cho kẻ đơn độc, nếu trong sự đơn độc của nó, nó không là tập thể để chống lại tập thể.
- Thế nào? Con không hiểu.
- Tập thể các nhân đức chống lại tập thể các cám dỗ. Khi có ít nhân đức qúa thì người ta phải làm như cây bìm bìm lỏng chỏng,
748
bám vào các cây lớn để leo lên.
- Cám ơn Thầy. Con sẽ bám vào Thầy và vào các bạn. Nhưng tất cả hãy giúp tôi. Tất cả các bạn đều tốt hơn tôi.
- Tốt hơn là nhờ cái nơi thanh bạch và ngay thật mà chúng tôi đã lớn lên đó bạn ơi. Nhưng bây giờ anh ở với chúng tôi và chúng tôi yêu anh, anh sẽ thấy... Không phải là chỉ trích Juđê, nhưng hãy tin là ở Galilê, ít là ở xứ chúng tôi, ít giầu hơn và ít đồi bại hơn. Tibêriat, Magđala, và những nơi khác, người ta chơi bời, ở gần ngay xứ chúng tôi. Nhưng chúng tôi, chúng tôi sống với linh hồn của chúng tôi: đơn sơ, thô kệch, nếu anh muốn, nhưng cần mẫn, thỏa mãn một cách thánh thiện với những gì Thiên Chúa ban cho chúng tôi - Giacôbê Alphê nói.
- Nhưng anh biết không Giacôbê? Má của Judas là một người đàn bà thánh. Người ta thấy lòng tốt vẽ trên nét mặt bà - Gioan nhận xét.
Judas Kêriot mỉm cười với ông, sung sướng vì lời khen, và nụ cười của ông nở ra khi Giêsu nói thêm: “Con nói đúng, Gioan. Đó là một tạo vật thánh”.
- Ê! Đúng, nhưng giấc mơ của ba tôi là làm cho tôi thành một vĩ nhân của thế giới, nên ông đã chia lìa tôi khỏi mẹ tôi qúa sớm và qúa sâu xa...
- Nhưng các anh nói gì mà nói không ngừng vậy? - Phêrô hỏi từ đàng xa: “Đứng lại chờ chúng tôi với. Thật không tử tế chút nào khi đi như vậy mà không nghĩ tới tôi là người có cặp giò ngắn”.
Họ đứng lại chờ cho tới khi nhóm kia tới nơi.
- Ouf ! Tao yêu mày chừng nào, hỡi cái thuyền nhỏ của tao! Ở đây người ta khổ như nô lệ... Các anh nói chuyện gì vậy?
- Chúng ta nói về những đức tính để thành người tốt - Giêsu trả lời.
- Vậy Thầy không nói những đức tính đó với con sao Thầy?
- Nhưng có chứ: thứ tự, nhẫn nại, kiên trì, khiêm nhường, bác
749
ái... Thầy đã nói những thứ đó nhiều lần rồi.
- Nhưng, thứ tự, không. Nó để làm gì?
- Sự hỗn độn không bao giờ là một tính tốt. Thầy đã giải thích cho các bạn con, họ sẽ nói lại cho con. Và Thầy đã đặt nó lên đầu, trong khi Thầy đặt đức bác ái để kết thúc, vì đó là hai đầu mút của một đường thẳng hoàn toàn. Con biết một đường thẳng vẽ trên một mặt phẳng không có khởi đầu, cũng không có tận cùng, và hai cực điểm có thể đổi chỗ cho nhau. Trong khi một đường xoắn ốc hay một đường vẽ bất kỳ nào đó, nếu nó không khép kín, nó luôn luôn có một điểm khởi đầu và một điểm kết thúc. Sự thánh thiện thẳng, đơn sơ, hoàn toàn, và chỉ có hai cực điểm, giống như một đường thẳng.
- Qúa dễ để làm một đường thẳng...
- Con tin vậy? Con lầm. Trong một bức họa, dù là phức tạp, những khuyết điểm nhỏ có thể bỏ qua mà người ta không nhận thấy, nhưng trong một đường thẳng, người ta thấy ngay mỗi chỗ sai: hoặc vì nó nghiêng hay nó không đều. Khi Giuse dạy nghề cho Thầy, ông nhấn mạnh rất nhiều để những cái bàn phải rất phẳng, với lý do mà ông bảo Thầy: “Con thấy không: một sự hơi bất toàn ở chỗ trang hoàng, hay ở các chỗ làm trong máy tiện, ta còn có thể bỏ qua, vì với một con mắt không quen nghề, khi họ quan sát một điểm, họ không thấy các điểm khác. Nhưng nếu một tấm ván không bào thẳng, dù là dùng cho một vật đơn giản, như cái bàn của nông dân, nó cũng là công việc thiếu sót: hoặc nó xiêu vẹo, hoặc nó khập khễnh. Nó chỉ có tốt cho lửa”. Ta cũng có thể nói như vậy về các linh hồn: để không còn dùng vào việc nào khác nữa ngoài lửa hỏa ngục, tức là để chinh phục Nước Trời, phải hoàn toàn như tấm ván bào láng và thẳng như cần thiết. Kẻ bắt đầu công việc thiêng liêng của nó trong sự hỗn độn, như bắt đầu bằng những việc vô ích, nhảy từ việc nọ qua việc kia như con chim lo lắng. Lúc họ muốn lắp ráp các phần khác nhau của công việc thì họ không đi tới đâu cả. Không thể lắp ráp, bởi vậy không có thứ tự, bởi vậy không có bác ái. Rồi bằng cách giữ chặt hai đầu mút này giữa hai cái ê-tô,
750
nó sẽ không nhúc nhích nữa, ta có thể làm các việc còn lại: hoặc là trang trí, hoặc là điêu khắc. Con hiểu không?
- Con hiểu - Trong yên lặng, Phêrô thấu triệt bài học, bỗng dưng ông kết luận: “Vậy là chú em con tốt hơn con. Chú ấy rất thứ tự, từng bước một, lặng lẽ, bình tĩnh. Tựa như chú ấy không làm gì, nhưng trái lại... Con thì con muốn làm cho lẹ và làm nhiều thứ, mà thành ra con chẳng làm được gì. Ai sẽ giúp con đây?”
- Sự ước ao tốt của con. Đừng sợ, Phêrô. Con cũng làm. Con tự luyện.
- Còn con?
- Con cũng vậy, Philíp.
- Còn con? Con thấy như con tuyệt đối không được việc gì cả.
- Không, Tôma. Con cũng tự luyện. Tất cả, tất cả các con đều tự luyện. Các con là những cây hoang, nhưng được ghép, các con sẽ thay đổi từ từ và chắc chắn. Và Thầy được vui trong các con.
- Đó: chúng con buồn, và Thầy an ủi chúng con ; yếu đuối thì Thầy củng cố, sợ hãi thì Thầy cho can đảm. Cho tất cả, và trong mọi trường hợp, Thầy có ngay lời khuyên và sự khích lệ. Thầy ơi, Thầy làm cách nào mà luôn luôn rất lẹ, rất tốt như vậy?
- Các bạn ơi, chính vì vậy nên Thầy đã đến. Thầy đã biết trước điều Thầy sẽ gặp thấy và điều Thầy sẽ phải làm. Khi người ta không có ảo tưởng thì người ta không thất vọng, không bị hụt hơi. Người ta tiến lên phía trước. Các con hãy nhớ lấy, vì rồi các con cũng phải làm việc để biến các người-động-vật thành người-siêunhiên.
107* TRONG NHÀ CỦA ÔNG CLÊOPHA,
TRƯỞNG GIÁO ĐƯỜNG
Gioan và anh ông gõ vào cửa của một căn nhà trong xứ. Tôi nhận ra đây là căn nhà mà hai môn đệ đi Emmau đã vào cùng với Giêsu phục sinh. Khi người ta mở cho họ, họ nói với một người mà tôi không nhìn thấy, rồi họ ra đường và đến với Giêsu đang đứng
751
với các người khác tại một nơi hơi xa.
- Thưa Thầy, ông ta ở nhà, và ông ta rất sung sướng là Thầy đến. Ông bảo chúng con: “Đi nói với Người là nhà tôi sẵn sàng cho Người. Bây giờ tôi cũng tới”.
- Vậy chúng ta đi.
Họ đi một lúc thì họ gặp ông già trưởng giáo đường Clêopha ta đã thấy ở Nước Đẹp. Bên nọ và bên kia đều cúi mình. Nhưng rồi ông già tốt, trông giống như vị tổ phụ, qùi gối chào trong sự thờ phượng. Các dân thành nhìn thấy, tò mò lại gần.
Ông già đứng dậy và nói: “Đây là Đấng Messi đã được hứa. Ôi! Hỡi dân thành Emmau, hãy nhớ lấy ngày hôm nay.”
Một số người nhìn với vẻ tò mò hoàn toàn loài người, một số khác đã có sự kính trọng mộ đạo. Có hai người rẽ đường tới và nói: “Chào Thầy, rabbi. Hôm ấy chúng con cũng ở đó”.
- Bình an cho các con và cho tất cả. Thầy đến như ông trưởng giáo đường của các con xin Thầy.
- Thầy cũng sẽ làm các phép lạ ở đây chứ?
- Nếu có những người con Thiên Chúa tin và cần phép lạ thì chắc chắn Thầy sẽ làm.
Ông trưởng giáo đường nói: “Ai muốn nghe Thầy thì hãy đến giáo đường, và cả những người có bệnh. Con có thể nói vậy không Thầy?”
- Ông có thể nói. Sau giờ ngọ, Thầy sẽ hoàn toàn thuộc về các con. Bây giờ Thầy thuộc về ông Clêopha tốt lành - Rồi với một đoàn người theo sau, Người tiếp tục đi bên cạnh ông già cho tới nhà ông.
- Thưa Thầy, đây là con trai con, vợ con, con dâu con và các cháu nội. Con rất tiếc là đứa con trai kia của con, thằng Clêopha, nó đang ở Jêrusalem với bố vợ nó, cùng với một người tội nghiệp khác quê ở đây... Nhưng con sẽ nói sau... Xin mời Chúa vào cùng với các môn đệ của Chúa.
Họ vào và bồi dưỡng theo tục của xứ. Rồi họ tới gần ngọn lửa đang cháy trong cái ống khói lớn, vì hôm nay trời ẩm ướt và lạnh.
- Lát nữa chúng ta sẽ ngồi vào bàn. Con đã mời các kỳ hào trong
752
xứ. Hôm nay là đại lễ. Không phải tất cả họ đều tin vào Thầy, nhưng họ cũng không có cảm tưởng thù hằn. Họ chỉ tìm hiểu... Họ muốn tin, nhưng trong các thời gian vừa qua, chúng con đã bị lừa biết bao lần về vấn đề Đấng Messi. Có sự nghi ngờ. Chỉ cần một lời của Đền Thờ là lấy đi mọi nghi ngờ. Nhưng Đền Thờ... Con nghĩ rằng khi gặp Thầy và nghe Thầy, như vầy, một cách đơn sơ, người ta biết được nhiều điều trong chiều hướng đó. Con muốn cho Thầy những người bạn thực sự.
- Ông là một trong những người đó.
- Con là một ông già tội nghiệp. Nếu con còn trẻ, con sẽ đi theo Thầy. Nhưng tuổi tác đã làm con thành nặng nề.
- Ông đã phục vụ Thầy trong khi tin. Ông rao giảng Thầy bằng Đức Tin của ông. Hãy an lòng, Clêopha, Thầy sẽ không quên ông trong giờ cứu chuộc.
- Kìa, Simon với Hermas, họ sắp vào tới nơi - Con trai của ông trưởng giáo đường tuyên bố.
Mọi người đều đứng dậy trong khi hai người đứng tuổi, dáng điệu lãnh chúa bước vào.
- Thưa Thầy, ông này là Simon, và ông kia là Hermas. Đây là những người Israel thực sự, chân thành trong đáy lòng.
- Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cho linh hồn họ. Trong khi chờ đợi, xin bình an xuống trên họ. Không có bình an, người ta không thể nghe lời Thiên Chúa.
- Điều đó cũng có nói trong sách Các Vua khi nói về Êlia.
- Những người này có phải là môn đệ của Thầy không? - Người có tên là Simon hỏi.
- Phải.
- Có mọi lứa tuổi và thuộc mọi miền. Còn Thầy, Thầy người Galilê?
- Người Nazarét. Nhưng tôi sinh ở Bétlem vào thời kỳ kiểm tra dân số.
- Vậy là dân Bétlem. Đó là điều các nét của Thầy xác nhận.
- Đó là sự xác nhận tốt cho sự yếu đuối của loài người, nhưng sự
753
xác nhận là từ một mệnh lệnh bên trên loài người.
- Trong các việc của Thầy, Thầy muốn nói? - Hermas nói.
- Trong đó và trong các lời mà Thánh Linh nhóm lên trên môi tôi.
- Các thính giả của Thầy cũng có nhắc lại cho tôi. Sự khôn ngoan của Thầy thật lớn. Có phải trên đó là cái Thầy muốn đặt nền móng cho Nước của Thầy không?
- Một ông vua thì phải có những bầy tôi hiểu biết lề luật của nước ông.
- Nhưng luật của Thầy hoàn toàn là siêu nhiên!
- Ông nói đúng, Hermas, hoàn toàn siêu nhiên. Tôi sẽ có một nước thiêng liêng, vậy tôi có những luật thiêng liêng.
- Nhưng, vậy là việc tái lập nước Israel?
- Đừng rơi vào sự sai lầm thông thường bằng cách dùng tên Israel với ý nghĩa loài người của nó. Người ta nói Israel để chỉ “Dân Thiên Chúa”. Tôi sẽ tái lập sự tự do thật sự và sức mạnh thật sự của Dân Thiên Chúa này, và tôi sẽ tái lập nó bằng cách đem các linh hồn lên Nước Trời, đã được cứu chuộc và chiếm hữu được sự khôn ngoan của các chân lý đời đời về nó.
- Xin ngồi vào bàn - Clêopha nói, và ông ngồi vào chỗ ở giữa với Giêsu. Bên phải Giêsu là Hermas, và ở bên cạnh Clêopha là Simon, rồi con trai ông trưởng giáo đường, và các chỗ khác là các môn đệ.
Giêsu, theo lời xin của chủ nhà, dâng hiến và chúc phúc. Bữa ăn bắt đầu.
- Thầy tới trong miền này? - Hermas hỏi.
- Không. Tôi đi Galilê. Tôi ghé đây khi đi qua.
- Thế nào? Thầy bỏ Nước Đẹp?
- Ừ, Clêopha.
- Người ta kéo tới đó từng đoàn lũ, dù là mùa đông. Sao Thầy lại làm họ thất vọng?
- Không phải Thầy, mà là các vị Israel chính tông đã quyết định
754
như vậy.
- Cái gì? Tại sao? Thầy đã làm điều gì xấu? Palestin có rất nhiều rabbi, họ nói ở nơi nào họ muốn. Tại sao điều đó lại không cho phép Thầy?
- Đừng tìm hiểu, Clêopha. Ông già rồi và khôn ngoan. Đừng đặt vào tim ông chất độc của sự hiểu biết cay đắng này.
- Nhưng có lẽ, Thầy đã nói những giáo lý mới, bị coi là nguy hiểm, ôi ! Chắc chắn là bởi sự đánh giá sai lầm của các luật sĩ và pharisiêu? Tất cả những điều chúng con biết về Thầy, chúng con thấy không có vẻ... đúng không Simon? Nhưng có lẽ chúng con không biết hết. Giáo lý của Thầy cốt tại điều gì? - Hermas hỏi.
- Trong sự hiểu biết chính xác Thập Giới trong tình yêu và tình thương. Cái hơi thở này, dòng máu Thiên Chúa này là kỷ cương của giáo lý của tôi và cách sống của tôi. Và tôi áp dụng nó vào trong mọi hoàn cảnh của ngày giờ.
- Nhưng, đó không phải là một lỗi! Đó là lòng nhân từ.
- Các luật sĩ và các pharisiêu xét đó là tội. Nhưng tôi, tôi không thể nói dối với sứ mệnh của tôi, cũng không thể lỗi vâng lời đối với Thiên Chúa, đấng đã sai tôi xuống trên trái đất như “Tình Thương”. Thời gian Thương Xót hoàn toàn đã tới sau bao thế kỷ là thời gian Công Bằng. Chúng là chị em như được sinh ra bởi cùng một dạ. Nhưng trước tiên thì Công Bằng mạnh hơn, và Tình Thương chỉ làm dịu bớt sự nghiêm khắc - vì Thiên Chúa không thể cầm hãm yêu thương - Bây giờ Tình Thương là bà hoàng, và sự Công Bằng vui mừng biết bao, vì nó khổ khi phải phạt. Nếu qúi vị nhìn kỹ vào đó, qúi vị sẽ thấy là cả hai vẫn hiện diện kể từ lúc con người ép buộc Thiên Chúa nghiêm khắc. Sự tồn tại của nhân loại là bằng chứng điều tôi vừa nói. Tình Thương pha lẫn vào trong hình phạt, ngay cả với Ađam. Ông đã có thể bị biến thành tro bởi tội ông. Người đã cho họ sự đền tội. Trước mắt người đàn bà, nguyên nhân của mọi điều dữ, Người đã làm sáng chói dung nhan của một Người Đàn Bà, nguyên nhân của mọi điều lành. Người đã chấp nhận cho cả hai có con cái và những hiểu biết cần thiết cho cuộc sống. Đối với
755
Cain sát nhân, đồng thời với hình phạt của công bằng, Người đã ban một dấu hiệu của tình thương để người ta không giết ông. Người đã ban Noe để duy trì loài người trong tàu. Và từ đó, Người đã hứa một khế ước hòa bình vĩnh viễn: Không còn Đại Hồng Thủy tiêu diệt. Sự Công Bằng đã bị ảnh hưởng của Tình Thương. Qúi vị có muốn cùng Thầy đi ngược lại Lịch Sử Thánh cho tới khi Thầy tới không? Qúi vị sẽ thấy các làn sóng tình yêu luôn luôn giãi tỏa, và giãi tỏa ra càng ngày càng rộng. Bây giờ là thủy triều cao nhất của Thiên Chúa, và, ôi nhân loại, nó nâng ngươi lên trên làn nước êm dịu và an bình của nó. Nó nâng ngươi lên tới trời đẹp đẽ trong sáng, và nó nói: “Ta trả ngươi cho Cha Ta”.
Ba người say sưa trong sự ngạc nhiên về một ánh sáng như vậy của tình yêu. Rồi Clêopha thở dài: “Như vậy đó, nhưng chỉ có mình Thầy là như vậy! Giuse sẽ ra sao đây? Đáng lẽ ông đã được người ta nghe? Ông ta có sẽ được nghe không?”
Không ai trả lời gì cả.
Clêopha quay về Giêsu: “Thưa Thầy, có một người ở Emmau. Ba của ông ngày xưa đã rẫy vợ. Bà này đi về Antioche sống với một người anh là chủ một cửa tiệm. Ông này (người Emmau) đã rơi vào một lỗi trầm trọng. Ông không bao giờ biết người đàn bà này là người bị đuổi ngay sau đám cưới vài tháng, và con không tìm hiểu lý do. Ông không hề biết gì về bà, vì đương nhiên là tên bà đã bị xóa bỏ trong nhà này. Đến tuổi trưởng thành, và được hưởng của ba ông việc thương mại và các của cải, ông nghĩ tới việc lập gia đình. Ông quen ở Joppê một người đàn bà là chủ một cửa tiệm lớn, và ông cưới bà ta làm vợ. Rồi, con không biết làm sao người ta biết, và người ta đã làm cách nào để biết rằng người đàn bà này là con gái của người vợ bị rẫy của ba ông. Vậy đó là tội nặng, dù là theo ý kiến của con. Quan hệ cha con của người đàn bà này không có gì là chắc chắn cả. Giuse bị kết án, bị mất đồng thời sự bình an của người tín hữu và của người chồng. Mặc dầu đau buồn, ông cũng rẫy vợ ông, vì bị coi như em gái ông. Bà này vì đau khổ qúa, đã lên cơn sốt và chết. Mặc dầu vậy, người ta cũng không tha cho ông. Con, con nói theo lương tâm rằng, nếu không có những kẻ thù chung
756
quanh gia tài của ông thì ông không bị phạt như vậy. Còn Thầy, Thầy làm sao?”
- Đây là trường hợp trầm trọng, Clêopha. Ông đã đến với Thầy, tại sao ông không nói với Thầy?
- Tôi không muốn Thầy bỏ đây để đi nơi khác.
- Ôi! Nhưng những điều thuộc loại này không đuổi Thầy! Bây giờ hãy nghe đây: Một cách vật chất thì đó là loạn luân, và bởi vậy bị phạt. Nhưng một tội, để là một tọi theo tinh thần thì phải dựa trên ý muốn phạm tội. Người này có ý thức là mình phạm tội loạn luân không? Ông nói là không. Vậy tội ở đâu? Thầy muốn nói là tội vì đã muốn phạm tội? Vậy chỉ còn vấn đề là ông đã sống chung với một người con gái của chính cha ông. Nhưng ông đã nói là liên hệ cha con này không chắc chắn. Và ngay cả nếu nó được chứng minh là chắc chắn thì tội cũng sẽ hết khi chấm dứt đời sống chung. Ở đây, sự chấm dứt là chắc chắn, không phải chỉ bởi sự ly dị, mà còn bởi sự kiện là cái chết đã đến. Vậy Thầy nói rằng người ta phải tha cho người này, dù có vẻ như có tội. Thầy nói: bởi vì không có sự luận phạt cho kẻ loạn luân hoàng gia là tội mọi người đều biết và thấy, người ta phải thương cho trường hợp đau đớn này, mà nguyên nhân của nó trở lại tới phép ban bởi Môise cho rẫy vợ để tránh số tội nhiều, nếu không là cả trầm trọng nữa. Cái phép này, Thầy kết án nó, vì người đàn ông, dù đã kết hôn tốt hay xấu, họ phải sống với vợ họ và không được rẫy bà, điều làm thuận lợi cho việc gian dâm và những hoàn cảnh giống như trường hợp này. Ngoài ra, Thầy nhắc lại, về sự khắt khe, phải thi hành nó một cách đồng đều với mọi người, nhất là với chính mình và những người lớn quyền. Bây giờ, như Thầy biết, không ai, ngoại trừ ông Tẩy Giả, lên tiếng chống đối tội của nhà vua. Những kẻ kết án, họ có tránh được những tội như vậy, và cả những tội lớn hơn không, hay là tên của họ và quyền bính của họ được dùng để che giấu nó đi, giống như chiếc áo khoác sang trọng che cho cơ thể mà phóng đãng thường làm cho bệnh hoạn của họ.
- Thầy nói đúng. Thực là như vậy. Nhưng Thầy, tóm lại, Thầy là
757
ai?... - hai người bạn của ông trưởng giáo đường cùng hỏi.
Giêsu chưa thể trả lời thì người ta mở cửa và bố vợ của Clêopha con bước vào.
- Về rồi? Thế nào?
Sự tò mò mạnh tới nỗi không ai nghĩ tới ông Thầy nữa.
- Rồi... kết án tuyệt đối. Cả đến họ không chấp nhận cho dâng lễ hy sinh. Giuse bị tách rời khỏi Israel.
- Ông ta đâu?
- Ở ngoài kia, và ông khóc. Tôi đã tìm cách nói với những người mạnh nhất, nhưng họ đuổi tôi như đuổi người cùi. Bây giờ... nhưng... đó là sự sụp đổ cho người này. Của cải và linh hồn. Qúi vị muốn ông ta làm gì?
Giêsu đứng dậy và đi ra cửa, không nói một lời.
Ông già Clêopha tưởng là Người bị xúc phạm vì sự thờ ơ của ông nên vội nói: “Ôi! Xin lỗi Thầy. Nhưng sự đau đớn của biến cố làm con rối trí. Ở lại đi! Con xin Thầy!”
- Clêopha, Thầy ở lại. Thầy chỉ đi tìm kẻ khốn khổ. Hãy đi với Thầy, nếu các con muốn - Và Giêsu ra ngoài tiền đường.
Đàng trước nhà có một khoảng đất, rồi tới mấy luống đất nữa, bên ngoài đó là đường phố. Tại ngưỡng cửa, một người đàn ông ngồi dưới đất. Giêsu lại gần ông và đưa tay ra cho ông. Đàng sau Người là tất cả những người khác tìm cách để coi.
- Giuse, không ai tha cho con sao? - Giêsu nói với một sự êm đềm vô tận.
Người đàn ông giật nảy khi nghe một giọng nói lạ đầy nhân từ sau bao giọng nói kết án. Ông ngẩng mặt lên và nhìn Người cách ngạc nhiên.
- Giuse, không ai tha cho con sao? - Giêsu lặp lại, và Người cúi xuống cầm hai bàn tay của người đàn ông và cố gắng nâng ông
758
đứng dậy.
- Ông là ai? - kẻ thất sủng hỏi.
- Ta là Tình Thương và sự Bình An.
- Đối với tôi, không còn tình thương, cũng không còn bình an.
- Trong lòng Thiên Chúa luôn luôn có. Tấm lòng này đầy tràn những thứ này, đặc biệt là cho các kẻ khổ sở.
- Nhưng tội tôi nặng tới nỗi tôi bị xa cách với Thiên Chúa. Ông, chắc chắn là người tốt, hãy tránh ra xa tôi để khỏi bị nhiễm uế.
- Ta không buông con. Ta muốn dẫn con về với bình an.
- Nhưng, tôi, tôi bị... Ông, ông là ai?
- Ta đã nói rồi: Tình Thương và Bình An. Ta là Vị Cứu Tinh. Ta là Giêsu. Con đứng dậy đi. Ta, Ta có thể điều gì Ta muốn. Nhân danh Thiên Chúa, Ta xá giải cho con sự ô uế ngoài ý muốn. Những điều xấu khác là không có. Ta là Con Chiên Thiên Chúa, đấng xóa tội trần gian. Chính Ta là đấng Thiên Chúa trao mọi quyền xét xử. Ai tin vào lời Ta sẽ có sự sống đời đời. Hãy đến, hỡi đứa con tội nghiệp của Israel. Hãy bồi dưỡng cơ thể kiệt quệ của con và củng cố tâm hồn bị quật ngã của con. Ta sẽ tha thứ rất nhiều tội khác. Không, sẽ không có sự thất vọng nào trong tâm hồn bởi Ta mà ra. Ta là Con Chiên không tì vết, nhưng Ta không vì sợ bị nhiễm uế mà trốn các con chiên bị thương. Trái lại, Ta tìm nó và dẫn nó đi với Ta. Qúa, qúa nhiều người bị lôi kéo vào sự hư mất hoàn toàn bởi một sự kết án khắt khe, vả nữa, lại bất công. Khốn cho những kẻ, bởi sự khắc nghiệt khăng khăng mà dẫn một linh hồn tới sự thất vọng! Họ không phục vụ lợi ích của Thiên Chúa, mà là lợi ích của Satan. Lúc này Ta thấy một nữ tội nhân đang ước ao cứu chuộc một cách lo âu mà phải xa lìa Đấng Cứu Chuộc. Ta thấy một ông trưởng giáo đường bị bách hại vì sự công chính của ông. Ta thấy người ta đánh một người bị rơi vào một lỗi vì vô ý thức. Ta thấy qúa nhiều điều xảy đến từ một nơi có sự trụy lạc và dối trá. Giống như một bức tường dựng nên, viên gạch nọ sau viên gạch kia, tạo ra sự chia cách. Các điều mà Ta nhìn thấy cũng vây. Và Ta đã nhìn thấy qúa nhiều trong một năm nay, chúng đang dựng lên giữa Ta và họ một bức tường khắc
759
nghiệt. Khốn cho họ khi bức tường đã hoàn toàn cao với những vật liệu do chính họ cung cấp. Đây, hãy uống, hãy ăn. Con bị kiệt lực. Rồi ngày mai, con sẽ đến với Thầy. Đừng sợ. Khi tâm hồn con trở lại yên tĩnh và bình an, con sẽ tự do để lựa chọn tương lai của con. Lúc này con không thể, và sẽ nguy hiểm nếu để cho con làm.
Giêsu đã dẫn người đó vào phòng, bó buộc ông ngồi vào chỗ của Người và phục vụ ông. Rồi Người quay lại với Hermas và Simon và nói: “Đó là giáo lý của Thầy. Như vậy chứ không có gì khác. Và Thầy không giới hạn ở việc giảng dạy, nhưng Thầy thi hành. Ai khát Chân Lý và Tình Yêu, hãy đến với Thầy”.
Giêsu nói: “Năm thứ nhất đời rao giảng Tin Mừng kết thúc với việc này. Con hãy ghi chú lấy nó. Các con nói gì nữa? Cha đã cho bài tường thuật này vì ước muốn của Cha là nó được biết. Nhưng công việc này xảy ra cũng giống như với các pharisiêu. Ước mong được yêu của Cha - biết tức là yêu - bị xua đuổi bởi qúa nhiều thứ. Đó là sự đau đớn lớn lao cho Cha, vị Thầy Đời Đời, bị nhốt tù bởi các con...”
Hết quyển hai
MỤC LỤC
1* Chúa Giêsu từ giã Mẹ Người lúc khởi hành từ Nazarét ....... 7
2* “Maria khóc, vì Mẹ là đấng Đồng Công Cứu Chuộc” ........ 11
3* Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan .......................... 16
4* “Gioan không cần một dấu hiệu nào” ................................. 20
5* Giêsu bị ma qủi cám dỗ trong sa mạc.................................. 23
6* “Satan luôn luôn hiện diện với vẻ bề ngoài nhân hậu” ...... 30
7* Gặp Gioan và Giacôbê ......................................................... 31
8* “Cha yêu Gioan vì sự trong sạch của ông” .......................... 33
9* Gioan và Giacôbê nói với Phêrô về Đức Messi................... 36
10* Cuộc gặp gỡ đầu tiên của Phêrô với Đức Messi................ 41
11* “Gioan cũng lớn trong sự khiêm nhường” ......................... 51
12* Giêsu gặp Philíp và Natanael tại Bétsaiđa,
trong nhà Phêrô................................................................... 53
13* Juđa Thađê ở Bétsaiđa để mời Giêsu
tới dự tiệc cưới Cana........................................................... 63
14* Giêsu tại tiệc cưới Cana ..................................................... 68
15* Bà ơi, từ rày có gì giữa tôi và bà ........................................ 73
16* Giêsu xua đuổi các lái buôn khỏi Đền Thờ ........................ 75
17* Gặp Iscariot và Tôma. Phép lạ cho Simon Zêlote.............. 82
18* Tôma trở thành môn đệ ....................................................... 89
19* Juđa Alphê, Tôma và Simon được nhận
ở bờ sông Giođan ................................................................ 96
20* Trở về Nazarét sau lễ Vượt Qua cùng với sáu môn đệ.... 104
21* Chữa người mù tại Caphanaum......................................... 108
22* Người bị qủi ám được chữa trong giáo đường
Caphanaum ........................................................................ 116
23* Chữa mẹ vợ của Simon Phêrô .......................................... 123
24* Giêsu thuyết giáo và làm các phép lạ trong nhà Phêrô .. 131
25* Giêsu cầu nguyện ban đêm ............................................... 138
762
26* Người cùi được chữa gần Corozain ................................... 141
27* Người bại liệt được chữa trong nhà Phêrô
tại Caphanaum ................................................................... 147
28* Mẻ cá lạ lùng .................................................................... 154
29* Iscariot tìm thấy Giêsu tại Gétsêmani.
Người nhận ông làm môn đệ ........................................... 157
30* Giêsu làm phép lạ cho các lưỡi dao bể tan tại Cửa Cá .. 162
31* Giêsu ở Đền Thờ với Iscariot. Người giảng thuyết ở đó .167
32* Giêsu giáo huấn Judas ...................................................... 174
33* Giêsu gặp Gioan Zêbêđê tại Gétsêmani......................... 181
34* “Gioan là mẫu người hoàn toàn của những kẻ
hiến thân hy sinh cho tình yêu Cha” .............................. 188
35* Giêsu và Iscariot gặp Simon Zêlote và Gioan.................. 189
36* Giêsu, Gioan, Simon và Judas đi Bétlem ......................... 193
37* Giêsu tại Bétlem, trong nhà người nông dân
và trong hang đá................................................................ 198
38* Giêsu tại quán trọ Bétlem. Thuyết giáo trên
đống đổ nát của nhà Anna ............................................... 210
39* Giêsu và các mục đồng Elie, Lêvi và Giuse .................... 221
40* Giêsu tại Jutta, trong nhà người mục đồng Isaac ............. 229
41* Giêsu tại Hébron. Căn nhà của Zacari. Aglaé ................. 239
42* Giêsu tại Kêriot. Cái chết của ông già Saul..................... 248
43* Giêsu trên đường trở về với các mục đồng gần Hébron .. 262
44* Giêsu tại núi chay tịnh và trong hang cám dỗ .................. 269
45* Tại khúc sông cạn của Giođan. Gặp các mục đồng
Gioan, Mathia và Simêon ................................................. 283
46* Iscariot bán cho Diomède các nữ trang của Aglaé .......... 289
47* Giêsu khóc vì Judas và Simon Zêlote an ủi Người ......... 298
48* “Với các con cũng vậy: Người tốt ở trong tỉ lệ
đã có giữa các người tốt và Judas” ................................. 304
49* Giêsu gặp Lazarô tại Bêtani ............................................ 305
50* Giêsu trở lại Jêrusalem và ở Đền Thờ.
Iscariot nói tại Đền Thờ. Tại Gétsêmani. ...................... 312
763
51* Giêsu nói với người lính Alexandre tại Cửa Cá .............. 319
52* Giêsu và Isaac ở gần Đôcô. Khởi hành đi Esdrelon ........ 325
53* Giêsu ở bên người mục đồng Jonas
tại đồng bằng Esdrelon ..................................................... 330
54* Trở về Nazarét sau khi từ biệt Jonas ................................ 337
55* Ngày hôm sau trong nhà Nazarét ..................................... 345
56* Giáo huấn các môn đệ trong vườn oliu............................. 351
57* Giêsu giáo huấn các môn đệ ở gần nhà Người ................ 357
58* Giáo huấn các môn đệ cùng với Đức Trinh Nữ Maria
trong khu vườn ở Nazarét ................................................. 362
59* Chữa cho người đẹp Corozain. Giảng thuyết tại
giáo đường Caphanaum ................................................... 369
60* Giacôbê Alphê được nhận vào số môn đệ.
Giêsu giảng thuyết bên cạnh quầy thuế của Mathêu .... 378
61* Giêsu tại Bétsaiđa. Người giảng cho đám đông.............. 386
62* Gọi Mathêu vào số môn đệ .............................................. 394
63* Giêsu ở trên hồ Tibêriat. Giáo huấn các môn đệ
gần thành phố này ........................................................... 403
64* Giêsu tại Tibêriat, tìm Jonatha tại nhà Chouza ............... 415
65* Giêsu ở trong nhà bác Alphê, rồi ở nhà Người ............... 421
66* Giêsu hỏi ý Mẹ Người về các môn đệ của Người .......... 433
67* “Tính nhân loại của các tông đồ nặng nề chừng nào!” ... 435
68* Chữa cho Jeanne, vợ Chouza, ở gần Cana ...................... 438
69* Giêsu trên núi Liban, trong nhà các mục đồng
Benjamin và Daniel ......................................................... 447
70* Giêsu tại thành phố ở bờ biển. Nhận được thơ
có liên can tới Jonas ........................................................ 454
71* Giêsu trong nhà Maria Alphê.
Làm hòa với anh họ Simon ............................................. 464
72* “Ân Sủng luôn luôn hành động ở nơi nào có
ý muốn chính trực” ......................................................... 470
73* Giêsu không được đón tiếp tại Nazarét ........................... 471
74* Giêsu cùng với Mẹ Người ở nhà Jeanne Chouza ............ 475
764
75* Giêsu tại nhà Anna vào ngày mùa gặt. Phép lạ
chữa đứa trẻ tê liệt .......................................................... 478
76* Giêsu tại nhà Doras. Jonas qua đời.................................. 486
77* Giêsu ở trong nhà của Jacob gần hồ Méron .................... 503
78* Trở về khúc cạn của sông Giođan gần thành Jêricô ....... 510
79* Giêsu ở trong nhà Lazarô. Matta nói về Mađalêna ........ 516
80* Vẫn còn là trong nhà Lazarô sau Lễ Lều.
Lời mời của Giuse Arimathi ........................................... 524
81* Giêsu gặp Gamaliel trong bữa tiệc của Giuse Arimathi . 527
82* Chữa đứa trẻ sắp chết. Người lính Alexandre.
Sự hối thúc Giêsu............................................................ 537
83* Giêsu nói chuyện với Nicôđêmô lúc ban đêm
tại Gétsêmani................................................................... 543
84* Giêsu tại nhà Lazarô trước khi đi tới “Nước Đẹp” ......... 557
85* Giêsu tại Nước Đẹp. Bắt đầu đời sống cộng đồng
với các môn đệ................................................................. 562
86* Giêsu tại Nước Đẹp:“Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi”. .. 570
87* Giêsu tại Nước Đẹp: “Ngươi sẽ không làm cho ngươi
những tà thần ở trước mặt Ta”........................................ 581
88* Giêsu tại Nước Đẹp: “Đừng xướng danh Ta vô ích” ....... 587
89* Giêsu tại Nước Đẹp: “Hãy tôn kính cha mẹ ngươi”........ 597
90* Giêsu tại Nước Đẹp: “Ngươi sẽ không phạm điều
tà dâm trong thân xác cũng như trong sự ưng thuận”.... 611
91* Người đàn bà trùm khăn tại Nước Đẹp ........................... 621
92* Giêsu tại Nước Đẹp: “Hãy thánh hóa các ngày lễ”........ 627
93* Giêsu tại Nước Đẹp: “Đừng giết người”.
Cái chết của Doras. ......................................................... 633
94* Giêsu tại Nước Đẹp. Ba môn đệ của ông Tẩy Giả ......... 643
95* Giêsu tại Nước Đẹp: “Đừng ước muốn vợ chồng
người khác” ...................................................................... 652
96* Giêsu tại Nước Đẹp: Chữa người Rôma điên.
Nói với các người Rôma................................................. 658
97* Giêsu tại Nước Đẹp: “Đừng làm chứng gian” ................. 667
765
98* Giêsu tại Nước Đẹp: “Đừng ước ao của người” .............. 676
99* Giêsu tại Nước Đẹp: Tổng kết.
Bình luận: từ vực sâu và xin thương xót ......................... 680
100* Giêsu rời Nước Đẹp và đi về Bêtani .............................. 690
101* Chữa cho bà Jêrusa bị ung thư tại Đôcô ......................... 701
102* Tại Bêtani, trong nhà Simon Zêlote ................................ 707
103 * Lễ Ánh Sáng trong nhà Lazarô với các mục đồng ........ 719
104* Trở về Nước Đẹp ............................................................. 736
105* Một môn đệ mới - Khởi hành đi Galilê .......................... 744
106* Trên miền núi xứ Emmau ................................................ 749
107* Trong nhà của ông Clêopha, trưởng giáo đường ............ 755
------------------------