TIN MỪNG NHƯ ĐÃ MẶC KHẢI CHO TÔI
Maria Valtorta
Đây là một mặc khải của Chúa Giêsu cho chị nữ tu Maria Valtorta, được xem là một mặc khải tư lớn nhất từ trước đến nay, khoảng 15.000 trang giấy tập. Tác phẩm ghi lại toàn bộ những gì Chúa Giêsu đã nói, đã làm trong suốt ba năm Chúa đi rao giảng Tin Mừng.
Đọc tác phẩm này chúng ta sẽ hiểu Chúa Giêsu nhiều hơn, hiểu Tin Mừng hơn, và cũng biết thêm được nhiều chân lý tuyệt vời mà các Thánh sử đã không thể nào nhớ hết để mà ghi lại, và đặc biệt là chúng ta sẽ YÊU CHÚA NHIỀU HƠN.
“Chớ gì người ta yêu Cha hơn một tí nhờ sự trung gian của con. Điều đó đền bù cho tất cả những mệt mỏi của con, và tất cả đời con, con đã được thưởng công lớn vì vậy. Dù chỉ là một người duy nhất trở lại với Cha nhờ sự trung gian của bông hoa nhỏ tím kín ẩn, nó cũng sẽ sung sướng”. (lời của chị Maria Valtorta Q4 tr82; Q4 tr79 PDF, chị viết sách trong khi nằm trên giường bệnh)
-------------------------------------------------------
Tác phẩm gồm 10 quyển:
CHUẨN BỊ: Quyển thứ nhất
NĂM THỨ NHẤT ĐỜI SỐNG CÔNG KHAI: Quyển thứ hai
NĂM THỨ HAI ĐỜI SỐNG CÔNG KHAI :Quyển thứ ba và bốn
NĂM THỨ BA ĐỜI SỐNG CÔNG KHAI: Quyển thứ năm, sáu và bảy
CHUẨN BỊ CUỘC TỬ NẠN: Quyển thứ tám
CUỘC TỬ NẠN: Quyển thứ chín
VINH QUANG: Quyển thứ mười
---------------------------------------------
Các bạn có thể tìm mua tác phẩm này tại các nhà sách công giáo, hoặc:
Đọc toàn bộ tác phẩm tại đây: QUYỂN 1, QUYỂN 2, QUYỂN 3, QUYỂN 4, QUYỂN 5, QUYỂN 6, QUYỂN 7, QUYỂN 8, QUYỂN 9, QUYỂN 10.
Hoặc download toàn bộ tác phẩm bằng file PDF tại đây (nguồn memaria.net), tải file word tại đây. Hoặc các bạn có thể nghe trên youtube.
---------------------------------------------------------
TRÍCH MỘT VÀI PHẦN NHỎ TRONG TÁC PHẨM:
Giải thích tội Nguyên Tổ, giải nghĩa cây ẩn dụ, cây trái cấm.
Sự bất tuân của Eva thứ nhất như thế nào?
Chúa Giêsu đã bị những cơn cám dỗ nào trong sa mạc? Mưu đồ của Satan?
Satan luôn hiện diện với vẻ ngoài nhân hậu.
Giêsu giáo huấn Judas: tự tử là sự kiêu căng, không muốn phạm tội thì sẽ không phạm tội, sự sống là phương tiện..., tất cả sẽ được tha thứ nếu...Những chân lý tuyệt diệu.
Giêsu khóc vì Judas.
Đành chịu mất một tình bạn để cứu một linh hồn.
Chúa Giêsu đã cứu Maria Madalena như thế nào, nói về niềm hy vọng ơn tha thứ.
Một điều mà vị tông đồ cần TUYỆT ĐỐI áp dụng để cứu một linh hồn.
Điều kiện đầu tiên để có Thiên Chúa.
Ba điều kiện để cứu một linh hồn.
Tông đồ đừng nãn lòng vì những thất bại vì kẻ cần hoán cải bị xâm chiếm quá chắc bởi Satan, và sức mạnh của vị tông đồ không đủ so với sức mạnh đòi hỏi. Thiên Chúa có thể cân thiệp, và lúc đó, ai có thể hơn Thiên Chúa?
Cha đã là, và Cha vẫn là CON THIÊN CHÚA, nhưng Cha cũng là con loài người.
Giữa kẻ yêu Cha từ trong tuổi trẻ trong sạch và kẻ yêu Cha trong sự ân hận vì tội lỗi, Cha không thấy có gì khác biệt.
--------------------------------------------------
ĐỌC NỘI DUNG ĐƯỢC TRÍCH Ở TRÊN:
Giải thích tội Nguyên Tổ, giải nghĩa cây ẩn dụ, cây trái cấm:
MỘT LỜI GIẢI THÍCH NỮA VỀ TỘI NGUYÊN TỔ (Trích TMNDDMKCT Quyển 1, tr131-tr134):
Chúa Giêsu nói:
Các lời của Mẹ Cha đã phải đánh tan tất cả những ngập ngừng trong tư tưởng của những người rắc rối nhất về các công thức. Có biết bao người như vậy! Họ muốn lý luận những điều thuộc về Thiên Chúa một cách vật chất với lối đo lường loài người của họ, và họ đòi hỏi cả Thiên Chúa phải lý luận như họ. Nhưng thật đẹp đẽ để nghĩ rằng Thiên Chúa lý luận một cách tuyệt hảo và vô cùng cao vời hơn loài người. Và sẽ tuyệt đẹp để thích nghi lý luận, không phải theo cái nhìn của nhân loại, nhưng theo tâm hồn và theo Thiên Chúa. Đừng cố bám chặt vào nơi mà tư tưởng loài người của các con móc vào. Đó cũng là kiêu ngạo, vì đó là giả định sự toàn thiện trong trí khôn loài người. Trái lại, về sự toàn thiện thì chỉ có Tư Tưởng của Thiên Chúa. Nếu Người muốn và Người cho là tốt để làm, thì Người có thể xuống và trở thành Lời trong tư tưởng và trên miệng lưỡi của một trong các tạo vật của Người, một trong những kẻ bị đời khinh bỉ, vì trước mắt thế gian, họ là những người ngu dốt, bần tiện, hạn hẹp, trẻ con. Sự Khôn Ngoan ưa làm lạc hướng các đầu óc kiêu căng, thông minh cho những kẻ bị đời vất bỏ, những kẻ không có ý kiến cá nhân, và càng không có một giáo thuyết đạt được nhờ văn hóa, nhưng là những kẻ đầy tình yêu và sự trong sạch, lớn khôn trong ý muốn phục vụ Thiên Chúa bằng cách làm cho Người được nhận biết và yêu mến, sau khi đã xứng đáng được nhận biết Người và yêu Người hết sức.
Hỡi người! Hãy quan sát: Ở Fatima, ở Lộ Đức, ở Guadeloupe, ở Caravaggio, ở La Salette, ở tất cả những nơi có những cuộc hiện ra thực sự và thánh thiện, những kẻ được nhìn thấy, những kẻ được kêu gọi để thấy, đều là những kẻ tội nghiệp mà tuổi tác, văn hóa, điều kiện sống, đều là những kẻ khiêm tốn của trái đất. Chính với những kẻ vô danh này, những kẻ là “không” này mà Ân Sủng được mặc khải để làm cho chúng thành những sứ giả mang mệnh lệnh của Người. Vậy loài người phải làm gì? Hãy cúi mình như người thâu thuế và nói: “Lạy Chúa, con đã phạm tội quá nhiều, không đáng được biết Chúa. Xin chúc tụng Chúa vì lòng nhân từ Chúa đã yên ủi con qua trung gian của những kẻ này, đã cho con một chỗ tựa trên trời, một hướng dẫn, một giáo huấn, một hy vọng về phần rỗi”. Và đừng nói: “Không, đó là những ức đoán, những tà giáo, không đời nào có như vậy!” Tại sao lại không thể có một kẻ ít năng khiếu trở nên thông thái trong khoa học của Thiên Chúa? Tại sao lại không thể ? Cha đã chẳng cho kẻ chết sống lại, chữa cho những kẻ điên, săn sóc các kẻ bị động kinh, mở miệng cho kẻ câm, mở mắt cho người mù, mở tai cho kẻ điếc, ban trí khôn cho kẻ bị giảm thiểu sao? Cha đã chẳng xua đuổi ma quỷ, truyền cho cá nhảy vào lưới, cho bánh nhân bội lên, cho nước trở thành rượu, cho bão tố yên lặng, cho nước trở nên cứng rắn như một mặt phẳng được lát đá? Cái gì là không thể đối với Thiên Chúa?
Ngay cả trước khi Thiên Chúa: Đấng Kitô Con Thiên Chúa, ở giữa các con, Thiên Chúa đã chẳng thi hành những phép lạ bằng phương tiện là các đầy tớ của Người hành động nhân danh Người sao? Lòng dạ son sẻ của Sarai vợ Abraham đã chẳng sinh con để bà trở thành Sara, và trong tuổi già, đã sinh ra Isaac được tiền định là kẻ mà Cha sẽ ký giao ước với sao? Nước sông Nil đã chẳng biến thành máu và đầy tràn những con vật dơ bẩn do lệnh của Môise sao? Và vẫn bởi ông, các con vật đã chết dịch và da thịt con người thành ung nhọt; đã cắt hết lúa miến bằng một trận mưa đá tàn phá, làm trần trụi cây cối bằng các con cào cào, tắt mọi ánh sáng trong ba ngày, đánh chết các con đầu lòng, mở rẽ nước biển ra cho Israel đi qua, làm êm dịu các dòng nước đắng, làm rơi xuống đầy tràn chim cút và man-na, và nước đã chẳng từ tảng đá khô vọt ra sao? Và Giôsuê đã chẳng cho mặt trời dừng lại, thanh niên Đavít đã chẳng làm cho kẻ khổng lồ sợ hãi sao? Êlia đã chẳng làm tăng bội số bột và dầu, đã chẳng cho con trai của bà góa thành Sêrepta sống lại sao? Trước mệnh lệnh của ông, mưa đã chẳng rơi trên đất khô và lửa từ trời xuống trên lễ toàn thiêu sao? Và Tân Ước đã chẳng là một bó hoa mà mỗi hoa là một phép lạ sao? Vậy ai có quyền trên phép lạ? Vậy cái gì không thể đối với Thiên Chúa? Và có ai như Thiên Chúa? Hãy cúi đầu các con xuống và hãy thờ lạy.
Đã đến mùa gặt lớn, và tất cả phải được mặc khải trước khi loài người ngừng hiện hữu.
Tất cả: Các lời tiên tri sau đức Kitô và sự tượng trưng của Kinh Thánh, những cái đã bắt đầu ngay từ những lời đầu tiên của sách Sáng Thế. Và nếu Cha giáo huấn các con về một điểm từ trước tới giờ chưa cắt nghĩa được, thì các con hãy đón nhận ơn đó và rút ra những hoa trái, chứ đừng rút ra sự luận phạt. Đừng làm như các người Do Thái vào thời cuộc đời trần thế của Cha, họ đã muốn đóng cửa lòng lại trước những giáo huấn của Cha, và vì không thể ngang hàng với Cha về sự thông hiểu các mầu nhiệm và các chân lý siêu nhiên, họ đã đối xử với Cha như kẻ bị ám và phạm thượng. Cha đã nói: “Cái cây ẩn dụ”, nhưng bây giờ Cha nói là “cây biểu tượng”, có lẽ các con hiểu hơn. Biểu tượng của nó thật rõ ràng. Theo cách mà hai người Con Thiên Chúa xử sự, người ta hiểu được khuynh hướng của họ nghiêng về điều lành hay điều dữ. Giống như nước cường toan là bằng cớ để thử vàng, và cái cân của thợ bạc cho biết trọng lượng từng ly, cái cây này đã trở thành kẻ công cán cho mệnh lệnh của Thiên Chúa, và đã cho biết mức độ tinh ròng của các kim loại Adam và Eva.
Cha đã nghe thấy sự phản đối của các con: “Sự luận phạt là quá đáng, và phương tiện sử dụng quá ngây thơ để cho tội xảy ra”. Không, nếu ngày nay các con phạm cái tội bất tuân này thì nó sẽ ít trầm trọng hơn là đối với họ khi đó. Các con là những kẻ đã có từ họ cái di sản này, các con được Cha cứu chuộc, nhưng nọc độc của Satan vẫn sẵn sàng để hoạt động trở lại. Nó giống như một số bệnh mà hậu quả không bao giờ bị vô hiệu hóa ở trong máu. Họ, hai cha mẹ đầu tiên, có Ân Sủng chưa hề bị tàn phá bởi thất sủng, vậy họ mạnh mẽ hơn, được nâng đỡ hơn bởi Ân Sủng là suối vô tội và tình yêu ở trong họ. Ơn của Thiên Chúa làm cho họ thì vô biên, bởi vậy sự sa ngã của họ khi bất kể tới ơn này rất trầm trọng hơn. Trái cây được mời và được ăn cũng là biểu tượng. Đó là cái trái của một kinh nghiệm mà họ muốn làm theo sự xúi dục của Satan chống lại mệnh lệnh của Thiên Chúa.
Cha không cấm tình yêu đối với người ta, Cha chỉ muốn nó không ranh mãnh. Cũng như Cha đã yêu họ bằng tình yêu vốn là thánh, họ cũng phải yêu nhau bằng một tình cảm thánh, không để cho dâm đãng làm cho ra ô uế. Đừng quên rằng Ân Sủng là Ánh Sáng, và kẻ có Ân Sủng thì biết phân biệt cái gì là hữu ích và tốt để tìm biết. Đấng Đầy Ân Sủng biết tất cả, vì sự Khôn Ngoan giáo huấn Người. Sự Khôn Ngoan chính là Ân Sủng, và Người biết sống cách thánh thiện. Vậy Eva cũng biết cái gì là tốt nên biết. Không còn gì hơn, vì sẽ vô ích để biết những gì không tốt. Bà đã không có đức tin vào lời Thiên Chúa, và không trung thành với lời hứa vâng lời của bà. Bà đã tin vào Satan, bà đã lỗi lời hứa và muốn biết những điều không tốt, bà đã yêu nó không ân hận. Tình yêu mà Cha cho bà thánh thiện biết bao, nhưng bà đã làm cho nó thành một thứ hư hỏng, một thứ mất giá trị. Là thiên thần sa ngã, bà lăn lộn trong bùn và vấn rác, trong khi bà có thể sung sướng chạy ở giữa muôn hoa của Thiên Đàng dưới đất, và thấy tươi nở ở chung quanh bà con cháu đầy đàn, giống như một cây được bao trùm đầy hoa, mà không lôi kéo mùa nảy lộc của nó vào trong bùn lầy.
Các con đừng giống như những đứa trẻ điên rồ mà Cha đã nói trong Tin Mừng: Chúng đã nghe hát, nhưng chúng bịt tai. Chúng đã nghe đánh trống mà chúng không nhảy. Chúng đã nghe khóc, nhưng chúng muốn cười. Đừng hẹp hòi, cũng đừng ưa phủ định. Hãy tiếp nhận, hãy tiếp nhận Ánh Sáng, không ranh mãnh. Hãy ngoan ngoãn, không chỉ trích mỉa mai, cũng đừng cứng lòng tin. Đề tài này đã được nói đủ, để cho các con hiểu các con phải biết ơn chừng nào đối với đấng đã chết để cho các con được vào Nước Trời, và để thắng sự dâm đãng thuộc về Satan. Cha đã muốn nói với các con trong thời gian chuẩn bị lễ Phục Sinh này, về những điều là chiếc vòng đầu tiên của sợi giây xích, mà bởi đó, Ngôi Lời của Chúa Cha bị kéo tới cái chết, Con Chiên Thiên Chúa bị kéo tới lò sát sinh. Cha đã muốn nói tới nó, vì hiện nay chín mươi phần trăm trong số các con giống như Eva, bị đầu độc bởi hơi thở và lời nói của Satan. Các con không sống để yêu nhau nữa, mà là để nó thỏa. Các con không sống cho Thiên Quốc, mà cho bùn lầy. Các con không còn là những tạo vật được phú bẩm một linh hồn và các giác quan biết lý luận, nhưng giống như những con chó không linh hồn, không lý lẽ. Linh hồn thì các con đã giết chết và lý trí bị hư hỏng. Thực vậy, Cha xác nhận với các con rằng các vật thô thiển, chúng đã vượt qua các con trong sự ngay thẳng và trong tình yêu của chúng.
---------------------------------------------------------------
Sự bất tuân của Eva thứ nhất(Trích TMNDDMKCT Quyển 1, tr121-tr125):
Chúa Giêsu nói:
Người ta đã chẳng đọc trong sách Sáng Thế rằng Thiên Chúa cho con người quyền cai trị trên tất cả, ngoại trừ trên Thiên Chúa và các thiên thần là các sứ giả của Người? Người ta đã chẳng đọc ở đấy rằng Người đã dựng nên người đàn bà để làm bạn của người đàn ông, để chia sẻ niềm vui của ông và quyền cai trị của ông trên mọi sinh vật? Người ta đã chẳng đọc ở đấy rằng họ có thể ăn tất cả, chỉ trừ trái của cây biết lành biết dữ sao? Tại sao? Cái gì đã được ám chỉ trong những lời “họ được cai trị”? Có cái gì ở trong cây biết lành biết dữ? Các con không bao giờ hỏi điều đó. Các con là những người tìm kiếm bao thứ vô ích mà không biết hỏi linh hồn mình về những chân lý trên trời?
Linh hồn các con, nếu nó còn sống, nó sẽ nói cho các con, vì khi nó được tạo dựng ra trong tình trạng Ân Sủng, nó giống như một bông hoa trong tay thiên thần bản mệnh của các con. Khi các con ở trong tình trạng Ân Sủng, thì linh hồn các con giống như một bông hoa nhận được cái hôn của mặt trời, được tươi mát vì sương đêm do các hành động của Thánh Thần, đáng sưởi ấm và soi sáng cho nó, tưới cho nó và tô điểm nó bằng ánh sáng Thiên Quốc. Linh hồn các con sẽ nói cho các con bao nhiêu điều, nếu các con biết nói chuyện với nó, nếu các con yêu nó đúng như cái đã làm cho các con nên giống Thiên Chúa là thần trí, cũng giống như linh hồn các con là thần trí. Các con sẽ có một người bạn lớn chừng nào trong linh hồn các con nếu các con yêu nó thay vì ghét nó tới nỗi giết chết nó. Một người bạn vĩ đại và cao cả chừng nào mà các con có thể nói về những điều trên trời, các con là những người rất ham nói, và các con hạ giá nhau cùng với tình bạn của các con. Các tình bạn này, nếu nó không bất xứng - điều thường xảy ra - thì nó cũng hầu như luôn luôn vô ích, chỉ là dịp để bộc lộ một suối lời vô ích và khó chịu, và luôn luôn hoàn toàn thuộc về thế gian.
Cha đã chẳng nói: “Ai yêu Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu nó, và chúng ta sẽ đến với nó mà thiết lập chỗ ở của chúng ta trong nó”? Linh hồn trong tình trạng Ân Sủng thì chiếm hữu Tình Yêu, và khi chiếm hữu Tình Yêu thì nó chiếm hữu Thiên Chúa, tức là Chúa Cha, đáng gìn giữ nó, Chúa Con, đáng cai quản nó, và Chúa Thánh Thần, đáng soi sáng cho nó. Vậy nó chiếm hữu được sự hiểu biết, khoa học, sự khôn ngoan. Nó chiếm hữu được Ánh Sáng. Vậy hãy nghĩ: những cuộc đàm thoại tuyệt diệu nào có thể nối kết linh hồn các con với các con. Chính những cuộc đàm thoại này đã làm đầy sự yên lặng của nhà tù, sự yên lặng của các xà lim, sự yên lặng của các nơi ẩn tu, sự yên lặng của các người tật nguyền đạo đức. Chính nó khích lệ các tù nhân trong khi chờ đợi cuộc tử đạo, các người tu hành trong việc tìm chân lý, các kẻ cô đơn ước vọng về một sự hiểu biết dự đoán về Thiên Chúa, các kẻ tàn tật chấp nhận nó, nhưng Cha nói, với tình yêu cho Thập Giá của họ.
Nếu các con cũng biết hỏi linh hồn các con, nó sẽ nói cho các con cái ý nghĩa thực sự, chính xác, mênh mông như thế giới, của các lời: “Để nó cai trị”, và những lời: “Để con người thống trị tất cả trên ba tình trạng của nó: tình trạng hạ cấp: một động vật. Tình trạng trung cấp: luân lý. Tình trạng cao cấp: siêu nhiên, và cả ba phải qui phục một cùng đích duy nhất: chiếm hữu Thiên Chúa”. Chiếm hữu Người bằng cách sống xứng đáng với quyền lực tuyệt đối, bó buộc tất cả sức mạnh của cái tôi phải tùng phục, và làm cho nó thành những đầy tớ cho mục đích duy nhất: xứng đáng chiếm hữu Thiên Chúa. Nó cũng sẽ nói cho các con rằng Thiên Chúa đã cấm những tri thức về sự lành sự dữ. Bởi vì về sự lành thì Thiên Chúa đã ban nhưng không cho các tạo vật của Người, còn sự dữ thì Người không muốn cho các con biết, vì nó là một trái cây êm dịu cho cổ họng, nhưng một khi cái tinh chất của nó đi vào trong máu, thì nó sẽ mang vào đó một chứng sốt làm tử thương, và tạo ra một chứng khát kinh khủng, đến nỗi người ta càng uống cái tinh chất dối trá này thì người ta càng khát.
Các con sẽ bắt bẻ: “Vậy tại sao lại đặt nó vào đó?” Tại sao? Bởi vì sự dữ là một sức mạnh được sinh ra bởi chính nó một cách tự nhiên, cũng như một số bệnh tấn công vào cả những cơ thể lành mạnh nhất.
Lucifer là một thiên thần, một thiên thần đẹp nhất, thần trí toàn vẹn của nó chỉ ở bên dưới có mình Thiên Chúa. Nhưng trong thực thể ánh sáng của nó đã nảy sinh ra một làn hơi kiêu căng mà nó không làm tiêu tan đi, trái lại, nó đã ngưng tụ làn hơi này bằng cách ấp ủ nó. Từ sự ấp ủ này đã sinh ra Sự Ác. Nó đã có từ trước khi có loài người. Thiên Chúa đã tống ra khỏi Thiên Đàng kẻ khốn kiếp đã ấp ủ điều ác và đã làm ô uế Thiên Đàng. Nhưng nó đời đời vẫn mãi mãi là kẻ ấp ủ điều ác, và vì không thể làm ô nhơ Thiên Đàng, nên nó làm ô nhơ trái đất.
Cái cây biểu tượng đó dùng để chứng minh cho sự thật này. Thiên Chúa đã nói với người đàn ông và người đàn bà: “Các con đã biết hết các định luật và các mầu nhiệm của sự tạo dựng, nhưng đừng chiếm đoạt cái quyền là Đấng Tạo Dựng nên con người của Ta. Để lan truyền giống người, chỉ cần có tình yêu của Ta luân lưu trong các con; và không dâm đãng, mà chỉ bởi sự chuyển động của đức Ái, nó sẽ tạo ra những Adam mới của giống người. Ta cho các con tất cả. Ta chỉ giữ cho Ta mầu nhiệm về sự tạo thành con người”.
Satan đã muốn lấy của con người sự trinh trong này của trí tuệ, và với cái lưỡi rắn của nó, nó nịnh hót, mơn trớn các chi thể và đôi mắt của Eva, bằng cách tạo ra những phản ứng, và một sự kích động mà đôi cha mẹ đầu tiên không có, vì sự quỷ quyệt chưa đầu độc họ.
Eva thấy, và khi đã thấy thì bà muốn thử. Đó là sự thức dậy của xác thịt. Ôi! Nếu bà đã gọi Thiên Chúa. Nếu bà đã chạy đến nói với Người: “Cha ơi, con bệnh. Những mơn trớn của con rắn đã kích động sự xao xuyến trong con”, thì Chúa Cha đã thanh tẩy bà và chữa bà cho khỏi hơi thở của nó. Cũng như Người đã truyền sự sống vào cho bà, Người cũng có thể truyền cho bà một sự vô tội mới, bằng cách làm cho bà quên đi cái nọc độc của con rắn, và cả đến đặt vào trong bà sự sợ hãi nó, giống như một số người bị mắc một chứng bệnh, khi đã được chữa khỏi, họ vẫn còn giữ một bản năng ghê tởm đối với chứng bệnh đó. Nhưng Eva không đến với Chúa Cha, bà hướng về con rắn. Tình cảm này êm đềm đối với bà: “Khi thấy trái cây có vẻ ngon, trông đẹp mắt, nhìn dễ thương, bà liền hái và ăn”.
Và bà hiểu. Từ nay sự quỷ quyệt đã lọt vào lòng bà với vết cắn của con rắn. Bà thấy với đôi mắt mới và nghe với đôi tai mới, những phẩm cách và những tiếng nói thô tục, bà thèm khát nó bằng một sự thèm khát điên rồ. Bà đã bắt đầu phạm tội một mình, rồi bà hoàn tất nó với người bạn của bà. Đó là tại sao sự luận phạt đè trên người phụ nữ nặng nề hơn.
Chính bởi bà mà người đàn ông trở thành kẻ phản ngụy cùng Thiên Chúa, và ông đã biết sự dâm dật và sự chết. Chính bởi bà mà ông không còn biết cai quản ba sự thống trị của ông: thần trí, bởi vì ông đã cho phép thần trí bất tuân phục Thiên Chúa; cách sống luân lý, vì ông đã để cho các khát vọng thống trị ông; xác thịt, vì ông đã hạ thấp nó xuống ngang hàng với các định luật của bản năng như các loài thô thiển. Eva nói: “Con rắn đã cám dỗ tôi”, Adam nói: “Người đàn bà đã cho tôi trái cây và tôi đã ăn”. Và thế là sự dâm đãng chấp ba liền tấn công ba sự thống trị của con người.
Chỉ có Ân Sủng mới có thể thành công trong việc kìm hãm sự xiết chặt của con quái vật tàn nhẫn này. Và nếu Ân Sủng sống động, được gìn giữ cho càng lúc càng sống động hơn bởi ý muốn của người con trung thành, thì nó sẽ đi được tới chỗ xiết cổ con quái vật mà không hề sợ hãi. Không còn bạo chúa ở bên trong là xác thịt và các đam mê, không còn bạo chúa ở bên ngoài là thế giới và các sức mạnh của thế giới, không còn bách hại, không còn chết, đó là giống như tông đồ Phaolô đã nói: “Tôi không sợ điều gì cả, tôi không giữ sự sống cho tôi nữa, mà duy nhất chỉ là để hoàn thành sứ mạng của tôi và nhiệm vụ tôi đã nhận được từ Chúa Giêsu, để minh chứng cho Tin Mừng về Ân Sủng của Thiên Chúa”.
--------------------------------------------------------------------------------------------------
Chúa Giêsu đã bị những cơn cám dỗ nào trong sa mạc? Mưu đồ của Satan?
GIÊSU BỊ MA QUỶ CÁM DỖ TRONG SA MẠC (trích TMNĐMKCT Q2 T23-29):
Tôi thấy nơi sỏi đá cô đơn mà tôi đã thấy ở bên trái tôi trong thị kiến về Chúa chịu phép rửa ở sông Giođan, nhưng tôi phải tiến sâu vào đó, vì sự thực, tôi không còn thấy dòng sông đẹp với màu xanh lững lờ trôi, cũng không thấy những giải màu xanh lá cây dọc hai bên bờ, được thủy lộ này nuôi dưỡng. Ở đây chỉ có cô tịch, đá sỏi, đất cháy đã biến thành bụi vàng vàng, mà thỉnh thoảng gió bốc lên thành những đám bụi xoáy nhỏ. Có thể nói đó là hơi thở của một cái miệng lên cơn sốt, vì nó khô và nóng cháy. Nó hành hạ mũi và cổ họng vì những cát bụi nó mang theo. Ở đó đây, họa hiếm mới có vài bụi cây gai mà tôi không biết tại sao nó có thể chịu đựng được cảnh buồn thảm này. Nó giống như vài sợi tóc lơ thơ trên đầu người hói. Trên cao là bầu trời xanh khắc nghiệt, bên dưới là mặt đất khô cằn, chung quanh là sỏi đá và sự yên lặng. Đó là tất cả những gì thiên nhiên mà tôi thấy. Đây, một hang đá khổng lồ có dạng phôi đá, bên trong có một tảng đá nhỏ. Giêsu ngồi ở trên đó và tựa lưng vào vách đá. Người nghỉ ở đó cho khỏi mặt trời thiêu đốt. Đấng nói ở trong nội tâm của tôi chỉ cho tôi biết rằng tảng đá Người đang ngồi ở trên, cũng là bàn quỳ và gối đầu của Người khi Người nghỉ ngơi vài giờ, cuộn mình trong áo khoác, dưới ánh sáng của tinh tú và không khí lạnh ban đêm.
Thực vậy, ở ngay gần đó là cái giỏ mà tôi đã thấy Người cầm đi lúc khởi hành ở Nadarét. Đó là tất cả những gì Người có. Và vì thấy nó xẹp lép, tôi hiểu là chút ít lương thực mà Maria đã bỏ vào đó không còn nữa. Giêsu rất gầy và xanh xao. Người ngồi: khuỷu tay chống trên đầu gối, cánh tay trước giơ ra phía trước, hai tay chụm lại, các ngón đan vào nhau. Người chiêm niệm. Thỉnh thoảng Người ngước mắt nhìn quanh, và nhìn mặt trời hầu như ở trên đỉnh đầu trong bầu trời xanh. Thỉnh thoảng, đặc biệt là sau khi nhìn chung quanh, Người ngước mắt nhìn ánh sáng mặt trời, rồi nhắm mắt lại, gục đầu vào tảng đá của hang nơi Người trú, tựa như Người bị choáng mặt. Tôi thấy xuất hiện một cái mõm khủng khiếp của Satan. Nó không phô bày hình dạng của nó như chúng ta thường trình bày: với cặp sừng và cái đuôi dài v.v. Nó giống như một người Ả Rập, bọc trong y phục của nó. Chiếc áo khoác của nó giống như áo giả hóa trang. Đầu nó cuốn khăn mà mối khăn xõa xuống tới vai, để che đậy cho khuôn mặt mà ở hai bên, người ta chỉ nhìn thấy một hình tam giác hẹp, nâu đen, với cặp môi mỏng và cong. Đôi mắt rất đen và sâu lõm, từ đó phát ra những tia chớp thôi miên. Hai con ngươi nhìn như xuyên thấu tới đáy lòng người, nơi người ta không đọc thấy gì cả, hoặc chỉ thấy hai chữ: “Bí nhiệm”.
Trái với con mắt Giêsu, cũng làm người ta say mê bằng những tia sáng thôi miên, xuyên vào tận đáy lòng, nhưng ở đó người ta đọc được rằng: nơi Người chỉ có lòng nhân từ và tình yêu. Con mắt Giêsu là sự vuốt ve cho linh hồn. Con mắt Satan là dao găm hai lưỡi, nó đâm thủng và đốt cháy. Nó tiến lại gần Giêsu: “Ông ở một mình à?” Giêsu nhìn nó và không trả lời. Làm sao ông tới đây? Ông bị lạc à? Giêsu lại nhìn nó và nín thinh. Nếu tôi có nước trong bầu của tôi, tôi sẽ cho ông. Nhưng tôi không có. Ngựa của tôi bị kiệt lực, và tôi đi bộ lại khúc sông cạn. Tôi uống nước ở đó và có người cho tôi một cái bánh. Tôi biết
đường, hãy đi với tôi, tôi sẽ dẫn ông. Giêsu không ngước mắt lên nữa. Sao ông không trả lời tôi? Ông có biết rằng nếu ông ở lại đây, ông sẽ chết không? Gió đã nổi lên, sắp có bão. Đi! Giêsu khoanh tay trong lời cầu nguyện thầm. A! Vậy là đúng ông rồi sao? Từ hồi tôi tìm ông! Và bây giờ, tôi đã quan sát ông từ rất lâu, từ lúc ông chịu phép rửa. Ông gọi Đấng Hằng Hữu? Người ở quá xa! Bây giờ ông ở trên trái đất và ở giữa loài người, và nơi loài người thì tôi là vua. Nhưng ông làm tôi thương hại và tôi muốn giúp ông, bởi vì ông tốt và ông đến để hy sinh cách vô ích.
Loài người ghét ông vì lòng tốt của ông. Họ chỉ biết có vàng, ăn uống và hưởng thụ. Hy sinh, chịu đựng, vâng lời là những từ ngữ chết đối với họ, chết hơn là vùng đất ở chung quanh ông. Họ còn khô cằn hơn những sỏi cát này. Ở đây chỉ có rắn ẩn nấp để chờ cắn, và chó rừng chờ xé ông ra từng mảnh. Nào, đi! Họ không đáng người ta chịu khổ cho họ đâu. Tôi biết họ rõ hơn ông. Satan ngồi trước mặt Giêsu. Nó tìm hiểu Người bằng con mắt ghê gớm của nó, và nó mỉm cười bằng cái mõm rắn. Giêsu vẫn luôn luôn nín lặng và cầu nguyện trong tâm trí. Ông thách đố tôi? Ông lầm. Tôi là sự khôn ngoan của trái đất. Tôi có thể giúp ông như người thầy, để giúp ông thắng. Ông coi, quan trọng là phải thắng. Rồi khi đã áp đặt được thế giới và lôi kéo được nó, lúc đó người ta dẫn nó tới chỗ nào tùy ý.
Nhưng trước tiên phải làm như họ muốn, làm giống như họ, lôi cuốn họ bằng cách làm cho họ tin là chúng ta cảm phục họ và chúng ta theo họ trong tư tưởng của họ. Ông trẻ và đẹp trai. Hãy bắt đầu bằng đàn bà. Chính đàn bà là thứ người ta phải bắt đầu. Đáng lẽ tôi phải khuyên bà ta (Eva) cách khác, tôi sẽ có thể làm cho bà ta thành một dụng cụ tuyệt nhất, và tôi sẽ có thể thắng Thiên Chúa! Nhưng tôi quá vội. Còn ông, tôi dạy cho ông, vì đã có một hôm tôi nhìn ông với niềm vui thiên thần, và một chút tình yêu này còn lại trong tôi. Nhưng ông, hãy nghe tôi và lợi dụng kinh nghiệm của tôi. Hãy kiếm một người bạn. Nơi nào ông không thành công thì bà sẽ thành công.
Ông là Adam mới, phải có Eva của ông. Lại nữa, làm sao ông có thể chữa những bệnh về giác quan nếu ông không biết nó là gì. Ông không biết rằng đàn bà là cái nhân, từ đó sinh ra cây dục vọng và kiêu ngạo sao? Tại sao con người muốn thống trị? Tại sao họ muốn giàu có và uy quyền? Để chiếm hữu đàn bà. Bà như chim sơn ca, bà cần thấy sự hào nhoáng mới lôi kéo được bà. Vàng và sự thống trị là hai mặt của chiếc gương lôi kéo đàn bà, và là nguyên nhân mọi sự dữ trên thế giới. Ông coi: đằng sau một ngàn lỗi phạm với diện mạo khác nhau, thì có ít nhất là, chín trăm điều mọc rễ trong cái đói chiếm hữu đàn bà, hay là trong ý muốn của một đàn bà bị thiêu đốt bởi một ước ao mà người đàn ông chưa thỏa mãn hay không thỏa mãn nữa. Hãy đến với các bà, nếu ông muốn biết thế nào là đời sống, rồi sau đó, ông chỉ cần biết chữa những bệnh hoạn của nhân loại. Ông biết, đàn bà họ đẹp! Thế giới không có gì đẹp hơn. Đàn ông có tư tưởng và sức mạnh, nhưng đàn bà! Tư tưởng của họ là hương thơm, giao tiếp với họ là như cái vuốt ve của bông hoa. Sắc đẹp của họ là thứ rượu làm say sưa. Sự yếu đuối của họ giống như búp tơ hay lọn tóc quyến của trẻ thơ trong tay người đàn ông. Sự vuốt ve của họ là sức mạnh, kết hợp với sự vuốt ve của chúng ta, nó sẽ bốc lửa. Những mệt mỏi, những đau khổ, những lo âu sẽ biến đi khi đặt nó bên cạnh người đàn bà. Họ ở trong tay chúng ta như bó hoa.
Nhưng tôi ngu quá! Ông đói mà tôi lại nói về đàn bà. Sức lực ông đã cạn kiệt, vì lẽ đó, hương thơm này của trái đất, bông hoa này của sự tạo dựng, trái cây ngon biết cho và kích thích tình yêu này, đối với ông có vẻ vô giá trị. Nhưng ông hãy nhìn những hòn đá này, chúng tròn và nhẵn biết bao, vàng bóng dưới ánh mặt trời đang lặn. Chúng không giống bánh sao? Ôi! Con Thiên Chúa, ông chỉ cần nói: “Ta muốn” để nó trở thành bánh thơm giống như chiếc bánh mà giờ này các bà nội trợ đang lấy ra khỏi cái lò của gia đình. Và những cây keo khô cằn này, nếu ông muốn, nó không thể phủ đầy những trái ngon lành, ngọt như mật ong sao? Hãy ăn cho no, Con Thiên Chúa! Ông là thầy của trái đất. Nó sẽ rũ xuống và đặt mình ở chân ông để hạ cơn đói của ông. Ông coi, ông tái mét và lảo đảo chỉ vì mới nghe nói tới bánh!
Giêsu tội nghiệp! Ông yếu tới nỗi không thể ra lệnh cho phép lạ sao? Ông có muốn tôi làm cho ông không? Tôi không ở ngang mức của ông, nhưng tôi có thể làm được cái gì. Tôi sẽ mất sức mạnh trong vòng một năm, rồi tôi lại thu thập lại được tất cả. Nhưng tôi muốn giúp ông vì ông tốt, và vì tôi luôn luôn nhớ ông là Thiên Chúa của tôi, cho dù bây giờ tôi không đáng cho ông cái tên này. Hãy giúp tôi bằng lời cầu nguyện của ông để tôi có thể... Im! Người ta không phải chỉ sống bởi bánh, mà còn bởi mọi lời đến từ Thiên Chúa. Thằng quỷ giật nảy như điên. Nó nghiến răng và nắm tay, nhưng nó trấn tĩnh và nhe răng phác họa một nụ cười.
Tôi hiểu. Ông ở bên trên mọi nhu cầu của trái đất, và ông ghê tởm việc dùng tôi. Tôi đáng vậy. Nhưng hãy đi và coi những gì đang xảy ra ở trong nhà của Thiên Chúa. Hãy coi các thầy cả cũng không từ chối hòa lẫn thần trí và xác thịt, bởi vì sau cùng, đó là những con người chứ không phải các thiên thần. Hãy hoàn thành một phép lạ thiêng liêng. Tôi sẽ đem ông lên nóc Đền Thờ, và ở trên đó, ông biến hình thành một vẻ đẹp tuyệt vời, rồi gọi đội binh các thiên thần, bảo họ xếp cánh thành một cái bệ cho chân ông, và mang ông như vậy xuống dưới sân chính, để họ thấy ông và nhớ rằng có một Thiên Chúa. Đôi khi những biểu lộ này rất cần, vì con người có trí nhớ rất ngắn, đặc biệt là với các sự thiêng liêng. Ông sẽ thấy các thiên thần vui chừng nào để làm chỗ cho ông đặt chân, và làm cái thang cho ông xuống!
Có lời đã nói: “Đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.”
Ông hiểu rằng sự xuất hiện của ông cũng không thay đổi được gì, và Đền Thờ vẫn tiếp tục là nơi họp chợ và đổi trụy. Sự thông minh Thiên Chúa của ông biết rằng con tim của các người thừa hành trong Đền Thờ là ổ rắn độc cấu xé nhau để giành quyền. Chỉ có quyền hành loài người che ngự họ.
Nào, hãy thờ lạy tôi. Tôi sẽ cho ông tất cả trái đất: Alexandre, Cyrus, César, tất cả những kẻ chinh phục lớn nhất của quá khứ hay còn sống, sẽ chỉ là những tên chủ đoàn du mục thô lỗ so với ông là người có hết mọi nước của trái đất dưới phủ việt, và cùng với các nước là của cải, hết mọi vinh quang của trái đất: đàn bà, lừa ngựa, lính tráng, đền đài. Ông có thể dựng cờ của ông khắp nơi khi ông là Vua các vua và là Chúa thế giới. Lúc đó ông sẽ được vâng lời và kính trọng bởi dân chúng và hàng giáo phẩm. Mọi tầng lớp sẽ tôn vinh ông và phục vụ ông, vì ông sẽ là Chúa mạnh mẽ, duy nhất.
Hãy thờ lạy tôi một lát thôi. Hãy lấy đi cho tôi cái khát vọng được thờ lạy! Chính nó đã làm tôi hư mất. Nhưng nó ở lại trong tôi và thiêu đốt tôi. Lửa hỏa ngục là khí mát ban mai so với sự hung hăng nó thiêu đốt tôi ở bên trong. Cái khát này là hỏa ngục của tôi. Một lát, chỉ một nháy mắt thôi, ôi Kitô! Ông là người tốt! Một nháy mắt vui của kẻ bị hành hình đời đời! Hãy làm cho tôi cảm thấy thế nào là làm Thiên Chúa, và tôi sẽ tận tụy với ông, vâng lời như một nô lệ suốt đời, trong hết mọi công việc của ông. Một thoáng thôi, chỉ một thoáng thôi, rồi tôi sẽ không quấy quá ông nữa.
Và Satan quỳ gối xuống nền đá.
Giêsu liền đứng lên, gầy gò, sau những ngày chay tịnh. Người tựa như cao lớn hơn. Khuôn mặt Người dễ sợ vì nghiêm khắc và mạnh mẽ. Đôi mắt Người là hai viên lam ngọc nảy lửa. Tiếng Người như tiếng sấm dội vang trong đá trơ trọc, lan ra trên đá và đất khô cằn khi Người nói:
“Cút đi, Satan! Có lời chép: ‘Ngươi sẽ chỉ thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và phục vụ một mình Người.’”
Satan, với tiếng kêu xé rách của kẻ bị kết án và của sự thù ghét không tả, nhảy dựng lên, ghê sợ trong sự phẫn uất của nó, trong cơ thể bốc khói của nó. Rồi nó biến đi trong tiếng gầm và lời nguyền rủa.
Giêsu ngồi xuống, mệt mỏi, tựa đầu vào vách đá sau lưng. Người có vẻ tối mực, chảy mồ hôi. Nhưng các thiên thần đến, dùng cánh làm mới lại không khí nóng ngột ngạt trong hang, thanh tẩy nó và giải nhiệt cho nó. Giêsu mở mắt và mỉm cười. Tôi không thấy Người ăn. Có lẽ Người bồi dưỡng bằng hương thơm Thiên Đàng. Và Người ra khỏi đó, lại mạnh mẽ.
Mặt trời đã lặn và biến mất. Giêsu cầm cái giỏ rỗng, được các thiên thần bay ở bên trên Người để họ tỏa sáng, làm một ánh sáng êm dịu cho Người trong khi đêm về rất mau. Người đi hướng về phía đông, đúng hơn là đông bắc. Người đã hoài phục sự biểu lộ thông thường, bước đi vững vàng. Cuộc chay tịnh lâu dài chỉ còn là kỷ niệm với dáng vẻ khắc khổ hơn, khuôn mặt gầy hơn và xanh xao hơn. Đôi mắt hân hoan trong niềm vui không thuộc về trái đất.
------------------------------------------------------------
SATAN LUÔN LUÔN HIỆN DIỆN VỚI VẺ BỀ NGOÀI NHÂN HẬU (trích TMNĐMKCT Q2 T29-31):
Lời Chúa Giêsu:
Hôm qua con không có cái sức mạnh mà Cha thường cho con, nên con chỉ là một tạo vật sống một nửa. Cha đã cho các chi thể của con nghỉ ngơi, và Cha chỉ để cho con cháy tinh một điều duy nhất mà con thấy bị đè nặng: cháy tinh lời Cha. Maria tội nghiệp! Con đã làm một ngày thứ tư lễ tro. Con đã cảm thấy mùi tro trong mọi sự, vì con không có Thầy con. Con không thấy sự hiện diện của Cha, nhưng Cha vẫn ở đó.
Buổi sáng, vì sự lo âu là họa tương, Cha đã thì thầm trong giấc ngủ mơ màng của con: "Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian, xin ban bình an cho chúng con." Cha đã làm con nhắc đi nhắc lại nhiều lần, và đồng thời Cha cũng lặp lại. Con đã nghĩ Cha sẽ nói về đề tài này. Không. Trước tiên là đề tài Cha đã chỉ cho con, và Cha sẽ giải thích cho con. Rồi chiều nay Cha sẽ giải thích đề tài khác.
Con đã thấy: Satan luôn luôn hiện diện với vẻ bề ngoài nhân hậu, dưới vẻ thông thường. Nếu các linh hồn chú tâm, và nhất là liên lạc thiêng liêng với Thiên Chúa, họ sẽ nhận ra nó và thận trọng, mau lẹ chống lại các cạm bẫy của ma quỷ. Nhưng nếu linh hồn không lưu ý tới Thiên Chúa, chia lìa với Người bằng những khuynh hướng xác thịt, để cho nó xâm chiếm và làm cho họ điếc, không chạy đến lời cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa, nên họ làm cho sức mạnh của linh hồn họ chảy đi mất như bởi một đường ống gắn vào quả tim loài người của họ, khi đó họ sẽ khó lòng nhận ra các cạm bẫy che giấu dưới vẻ bề ngoài vô hại, họ rơi vào đó và sẽ rất khó lòng thoát ra.
Hai con đường mà Satan thường dùng để đến với các linh hồn là: sự lôi kéo về xác thịt và tính tham ăn. Nó luôn luôn bắt đầu về phía vật chất và tự nhiên. Sau khi đã phá được và chinh phục được họ, nó quay ra tấn công phần thượng: trước hết là phía luân lý, về tư tưởng với những kiểu căng và khát vọng của nó. Rồi đến thần trí, bằng cách lấy đi của nó, chẳng những tình yêu, mà cả sự kính trọng Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã không còn nữa khi họ thay thế nó bằng những tình yêu loài người khác. Khi đó là lúc con người phó thân xác và linh hồn cho Satan để đi tới sự hưởng thụ mà họ theo đuổi, để dính vào nó càng ngày càng chặt.
Cha đã xử sự thế nào, con đã thấy: Yên lặng và cầu nguyện. Sự yên lặng: vì Satan tìm lôi kéo và lung lạc chúng ta, nên ta phải chịu đựng sự hiện diện của nó, không xót ruột cách ngu dốt, và không sợ suy nhược, nhưng phản ứng cách dứt khoát trước sự hiện diện của nó, và chống cự sự lôi kéo của nó bằng lời cầu nguyện.
Thật vô ích để thảo luận với Satan. Nó sẽ thắng, vì nó rất mạnh trong ngôn ngữ của nó. Chỉ có Thiên Chúa mới nói lại với nó được. Khi đó hãy chạy đến với Thiên Chúa để Người nói thay cho các con, qua các con; hãy chỉ cho Satan danh thánh Người và dấu hiệu của Người, không phải bằng cách viết trên giấy hay khắc trên gỗ, nhưng là viết và khắc trong tim, tên Cha và dấu hiệu của Cha. Chỉ đáp trả Satan khi nó xiên xỏ như nó là Thiên Chúa, bằng cách dùng lời Thiên Chúa, nó sẽ không chịu đựng được.
Rồi sau cuộc chiến sẽ là vinh thắng, và các thiên thần sẽ phục vụ kẻ thắng, bảo vệ họ chống lại sự thù ghét của Satan. Các ngài sẽ củng cố cho họ bằng sương trời, với ân huệ mà các ngài đổ tràn vào trong tim đứa con trung thành, với phúc lành như một vuốt ve trên linh hồn.
Phải có ý muốn thắng Satan, tin ở Thiên Chúa và sự trợ giúp của Người; tin vào sức mạnh của lời cầu nguyện và lòng nhân từ của Thiên Chúa. Lúc đó Satan sẽ không làm gì được các con.
--------------------------------------------------------------------
GIÊSU GIÁO HUẤN JUDAS (Những chân lý tuyệt diệu)(trích TMNĐMKCT Q2 T172-179):
Vẫn còn là Giêsu và Judas. Sau khi đã cầu nguyện ở chỗ gần nơi Thánh nhất mà các người Israel được phép, họ ra khỏi Đền Thờ.Judas muốn ở lại với Giêsu, nhưng ước muốn này trái với ý Thầy: “Judas, Thầy muốn ở một mình về ban đêm. Trong đêm thanh vắng, tâm hồn Thầy rút được lương thực nơi Cha. Kinh nguyện, suy ngẫm và cô tịch cần thiết cho Thầy hơn của ăn vật chất. Kẻ muốn sống bằng tâm hồn và mang những người khác tới cùng một đời sống thì phải để thân xác ở đằng sau” – Thầy nói, hầu như phải giết nó – “để dành mọi săn sóc cho tâm hồn. Judas, điều đó đúng cho hết mọi người, cho cả con nữa, nếu con thực tình muốn thuộc về Thiên Chúa, tức là về siêu nhiên”.
Nhưng Thầy ơi, chúng ta còn ở trên trái đất, làm sao chúng ta có thể bỏ rơi thân xác để hoàn toàn săn sóc tâm hồn? Điều mà Thầy nói chẳng ngược với giới răn của Thiên Chúa: ‘Đừng giết người’ sao? Giới răn này có cấm giết mình không? Nếu sự sống là một ơn của Thiên Chúa, chúng ta có phải yêu nó hay không?
Với con, Thầy sẽ không trả lời như Thầy trả lời cho một tâm hồn đơn sơ. Với kẻ đơn sơ, chỉ cần ngước mắt tâm hồn lên tới phạm vi siêu nhiên là làm cho nó bay cao lên cùng với chúng ta tới lãnh vực của thần trí. Con, con không phải một người đơn sơ. Con được đào tạo trong một khung cảnh nó đã chế luyện con... nhưng nó cũng làm ô nhơ con bằng những sự tinh tế của nó và các nguyên tắc của nó. Judas, con có nhớ Salômôn không? Ông là kẻ khôn ngoan, kẻ khôn ngoan nhất thời ấy. Con có nhớ điều ông nói, sau khi đã khám phá tất cả những hiểu biết của thời đó: ‘Phù vân của mọi phù vân. Tất cả đều là phù vân. Kính sợ Thiên Chúa và tuân giữ các giới răn của Người, đó là tất cả con người’.
Bây giờ Thầy bảo con rằng trong các món ăn, phải biết ăn những gì có sức nuôi dưỡng chứ đừng ăn chất độc. Nếu chúng ta biết rằng một món ăn độc hại, vì nó tạo ra trong chúng ta những phản ứng xấu mạnh mà bản chất tự nhiên của chúng ta không thể trung hòa được, thì phải từ bỏ món ăn này, dù là nó hấp dẫn vị giác. Bánh thông thường với nước suối có giá trị hơn là các món ăn phức tạp ở bàn ăn hoàng gia, xông mạnh lên vì gia vị làm độc hại.
“Con phải tránh cái gì Thầy?”
“Tất cả những gì nó làm cho con xao xuyến. Vì Thiên Chúa là bình an. Nếu con muốn đi trên đường của Thiên Chúa, con phải loại bỏ khỏi tâm hồn con, quả tim con và thân xác con tất cả những gì không phải là bình an, những gì mang sự xao xuyến theo với nó. Thầy biết là rất khó để đào tạo lại mình, nhưng Thầy ở đây để giúp con thực hành nó. Thầy ở đây để giúp con người lại trở thành con Thiên Chúa, tái tạo lại như sự tạo dựng thứ hai, một sự tự tái sinh mà người ta tự ý muốn.
Nhưng hãy để Thầy trả lời con về điều con hỏi Thầy, để con không nói rằng con ở lại trong lầm lạc là tại lỗi Thầy. Thực tình việc tự tử là sát nhân thực sự, dù là về đời sống của ta hay của người khác. Sự sống là ơn của Thiên Chúa, và chỉ mình Thiên Chúa có quyền cắt lấy. Ai tự tử là thú nhận sự kiêu căng của họ. Và Thiên Chúa ghét sự kiêu căng”.
Thú nhận kiêu căng à? Con nói đúng ra là thất vọng.
Thất vọng là gì, nếu không phải là kiêu căng? Judas, hãy suy nghĩ: Tại sao một người thất vọng? Bởi vì bất hạnh đè nặng trên nó, mà nó, với các phương tiện riêng của nó, nó không thể tiếp tục tới cùng; hoặc vì nó có tội mà nó xét rằng Thiên Chúa không thể tha cho nó. Trong trường hợp nọ cũng như trường hợp kia, chẳng phải là kiêu căng cai trị nó sao?
Con người chỉ muốn kiêu hãnh với chính mình thì không còn khiêm nhường để giơ tay ra cho Cha và nói với Người: ‘Con không thể, nhưng Cha có thể. Xin giúp con, vì chính Cha là người ban tất cả những gì con hy vọng và chờ đợi’. Còn người kia thì nói: ‘Thiên Chúa không thể tha cho tôi’. Nó nói vậy vì nó đo Thiên Chúa bằng cái đầu của nó. Nó biết rằng một kẻ bị xúc phạm như nó đã xúc phạm tới Người thì họ không thể tha. Đó cũng là kiêu căng. Người khiêm nhường thì thương xót và tha thứ, dù nó phải khổ vì sự xúc phạm nó đã chịu. Kẻ kiêu căng không tha thứ. Nó cũng kiêu căng vì nó không thể cúi mặt để nói: ‘Lạy Cha, con đã phạm tội, xin Cha tha cho đứa con khốn nạn đắc tội’. Nhưng Judas, con không biết rằng tất cả sẽ được Chúa Cha tha thứ, nếu sự tha thứ được van nài với con tim chân thành và thống hối, khiêm nhường, ước ao phục sinh trong điều thiện”.
Nhưng có những tội không thể tha được. Nó không thể được tha.
Tại con nói như vậy. Điều đó sẽ thực khi con người muốn như vậy. Nhưng sự thực, ôi! Sự thực Thầy bảo con rằng cả sau bao nhiêu và bao nhiêu lỗi phạm, nếu kẻ có tội chạy đến chân Cha - Người được gọi là Cha là vì vậy. Ôi! Judas, đó là người Cha trọn hảo vô cùng - nếu nó khóc lóc van nài người tha cho nó, tự nguyện đền tội, không thất vọng, thì Cha sẽ cho nó các phương tiện để đền tội, để đáng được ơn tha thứ và cứu linh hồn nó”.
· Vậy Thầy nói rằng những người mà sách Thánh nói tới là đã tự tử, họ đã hành động xấu?
· Không được phép tàn bạo với ai, cũng không được với chính mình. Họ đã hành động xấu. Trong sự không hiểu biết rõ của họ, có một số trường hợp còn có thể hưởng lòng thương xót của Thiên Chúa. Nhưng khi Ngôi Lời đã soi sáng mọi sự thật và đã cho các tâm hồn sức mạnh của Thánh Linh Người, thì từ lúc đó, những kẻ chết trong thất vọng sẽ không được tha nữa, trong lúc phán xét riêng cũng như sau bao thế kỷ ở trong hỏa ngục, cũng như khi phán xét chung, không bao giờ nữa.
· Điều này là Thiên Chúa khắc nghiệt ư? Không. Đó là công bằng. Thiên Chúa sẽ nói: “Mi đã xét xử. Mi là tạo vật được phú bẩm lý lẽ và khoa học siêu nhiên, được tạo dựng tự do để theo con đường mà mi chọn. Mi đã nói: ‘Thiên Chúa không tha cho tôi, tôi xa cách Người muôn đời. Tôi xét rằng tôi bị luận phạt vì tội tôi. Tôi tự tử để khỏi phải hối hận’, mà mi không nghĩ rằng sự hối hận sẽ không hành hạ mi, nếu mi chạy vào lòng hiền phụ của Ta. Vậy cho xảy ra cho mi như mi xét đoán. Ta không xâm phạm tự do mà Ta đã cho mi.”
· Đấng Hằng Hữu sẽ nói như vậy với kẻ tự tử. Hãy nghĩ tới đó, Judas. Sự sống là một ân mà ta phải yêu. Nhưng nó là ân thế nào? Một ân thánh. Vậy phải yêu nó cách thánh thiện. Sự sống tồn tại bao lâu thể xác còn chịu đựng được. Rồi bắt đầu đời sống lớn: Đời sống đời đời, hạnh phúc cho kẻ công chính, khốn nạn cho kẻ không như vậy. Sự sống là mục đích hay phương tiện? Đó là phương tiện. Vậy hãy cho sự sống những gì nó cần để nó tồn tại mà phục vụ tâm hồn trong cuộc chinh phục của nó. Hãy tiết chế xác thịt trong mọi ước muốn của nó, trong tất cả. Tiết chế con tim trong những đam mê loài người, trái lại, dành không giới hạn cho các đam mê đến từ Trời: Tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Ý chí phụng sự Thiên Chúa và tha nhân. Vâng lời Thiên Chúa. Anh hùng trong điều thiện và các nhân đức.
· Thầy đã trả lời con tất cả rồi đó, Judas. Con có nhìn nhận không? Sự giải thích có đủ cho con không? Hãy luôn luôn chân thành và hỏi, nếu con chưa biết đầy đủ. Thầy ở đây để làm Thầy dạy dỗ.
· Con hiểu và như vậy là đủ. Nhưng... thật khó để làm những điều con hiểu. Thầy thì Thầy có thể vì Thầy thánh. Nhưng con, con là một người còn trẻ, đầy sức sống...
· Judas, Thầy đến là cho loài người chứ không phải cho các thiên thần. Các đấng không cần thầy giáo. Các đấng thấy Thiên Chúa, sống trong Thiên Đàng của Người. Các đấng không phải không biết những đam mê loài người, vì Trí Tuệ là đời sống của các đấng cho các đấng biết tất cả, kể cả những đấng không làm kẻ họ mệnh cho con người. Các đấng thiêng liêng, các vị chỉ có thể phạm một tội giống như một trong các đấng đã phạm, và đã lôi kéo những kẻ không vững vàng trong đức mến: tội kiêu căng, cái mũi tên đã làm biến dạng Lucifer, từ vị đẹp nhất trong các Tổng Thần, nó thành quái vật ghê tởm của địa ngục. Thầy không đến cho các thiên thần mà sau sự sa ngã của Lucifer, đã run sợ đối với mọi dấu vết nhỏ mọn nhất của một tư tưởng kiêu căng. Nhưng Thầy đến cho loài người, để làm cho họ thành thiên thần.
· Con người là sự trọn hảo của việc tạo dựng. Họ có thần tính của các thiên thần, và sắc đẹp trọn hảo của loài vật trong tất cả thực thể sinh vật và luân lý của họ. Không một tạo vật nào sánh bằng với họ. Họ là vua trái đất cũng như Thiên Chúa là Vua Trời. Và một ngày, cái ngày mà họ ngủ giấc ngủ sau cùng trên trái đất, họ sẽ trở nên vua cùng với Cha trên Trời. Satan đã cắt đứt đôi cánh của thần-nhân, nó đã ghép cho họ những móng vuốt của thú dữ và cho họ cái khát dơ bẩn. Nó đã làm cho họ thành một quỷ-nhân hơn là một người thô sơ. Thầy muốn xóa bỏ điều xấu mà Satan đã làm, triệt tiêu cái đòi của thể xác đồi trụy và dơ bẩn, trả lại đôi cánh cho con người và dẫn họ về nước Thầy, để họ chia phần gia tài của Cha trên Thiên Quốc. Thầy biết rằng con người, nếu họ muốn, họ có thể làm tất cả những gì Thầy nói để lại trở thành vua và thiên thần. Thầy không nói với các con điều các con không thể làm. Thầy không phải nhà hùng biện rao giảng những giáo thuyết bất khả thi. Thầy đã mặc một thân xác thực sự, để bởi kinh nghiệm của một bản tính xác thể, Thầy biết thế nào là những cảm dỗ của con người.
Còn tội lỗi?
Cảm dỗ thì mọi người có thể bị, còn phạm tội thì chỉ những người muốn.
Thầy không bao giờ phạm tội à, Giêsu? Thầy không bao giờ ưng thuận với tội lỗi. Và như vậy không phải vì Thầy là con Chúa Cha, nhưng vì Thầy muốn điều đó để chứng tỏ với loài người rằng Con Người không phạm tội vì Người không muốn phạm tội. Vậy nếu họ không muốn phạm tội thì họ có thể không phạm tội.
Thầy không bao giờ bị cám dỗ sao?
Thầy ba chục tuổi rồi, Judas! Đâu phải Thầy sống trong hang trên núi, nhưng sống giữa loài người. Cho dù Thầy sống ở một nơi cô tịch nhất trên trái đất, con nghĩ rằng cám dỗ không thể tới sao? Chúng ta có tất cả ở ngay trong chúng ta: điều tốt và điều xấu. Chúng ta mang tất cả đi theo với chúng ta. Thiên Chúa thổi trên điều tốt để cho nó hừng lên như một bình hương thơm tho ngọt ngào và thánh thiện. Satan thổi trên điều xấu để làm cho nó thành một dàn hỏa thiêu bằng lửa hỏa ngục của nó. Nhưng ý muốn chăm chú và lời cầu nguyện không ngừng giống như cát ướt trên lửa hỏa ngục, nó dập tắt lửa và toàn thắng.
Nhưng nếu Thầy không bao giờ phạm tội thì làm sao Thầy có thể phán đoán tội nhân?
Thầy là một người và là Con Thiên Chúa. Điều mà Thầy có thể không biết và xét đoán sai với tư cách là một người, thì Thầy biết và xét đoán đúng với tư cách là Thiên Chúa. Ngoài ra... Judas, hãy trả lời câu hỏi này: khi một người đói thì họ khổ hơn khi nói: “Bây giờ tôi đi ngoài vào bàn ăn”, hay là khi nói: “Không có đồ ăn cho tôi”?
Họ khổ hơn trong trường hợp thứ hai, vì nguyên việc biết rằng mình không có đồ ăn đã đem tới cho họ mùi vị của món ăn, và làm cho tạng phủ của họ quặn lại vì thèm.
Đó, Judas. Cám dỗ cắn vào các con như cái thèm này. Satan làm cho nó thành sắc nhọn hơn, chính xác hơn, hấp dẫn hơn hết mọi thỏa mãn. Ngoài ra, hành động đem lại sự thỏa mãn đôi khi đưa đến sự chán ngán ghê tởm, trong khi cám dỗ không làm cho người ta yếu nhược, nhưng giống như một cây mà người ta cắt tỉa, nó phát triển tốt hơn.
Thầy không bao giờ nhượng bộ à?
Thầy không bao giờ nhượng bộ.
Làm sao Thầy có thể?
Thầy nói: lạy Cha, xin đừng để con vào cơn cám dỗ.
Thế nào? Thầy, Đấng Mêsia, Thầy làm phép lạ mà Thầy phải xin Cha giúp?
Không phải chỉ xin giúp, mà Thầy xin Người đừng đặt Thầy vào trong cơn cám dỗ. Con nghĩ rằng vì Thầy là như Thầy là, Thầy có thể vượt qua Cha sao? Ôi! Không. Thực vậy, Thầy bảo con rằng: Cha ưng thuận cho Con tất cả, nhưng Con cũng nhận tất cả từ Cha. Và Thầy bảo con rằng tất cả những gì người ta xin Cha nhân danh Thầy thì sẽ được nhận lời. Nhưng đây, chúng ta đã đến Giếtsêmani, nơi Thầy ở. Ta đã nhìn thấy những cây ôliu đầu tiên bên kia bức tường. Con, con ở bên ngoài Tôphết. Tối rồi, con không nên đi lên mãi trên kia. Chúng ta sẽ gặp lại nhau ngày mai tại cùng một nơi. Chào. Bình an cho con.
Cũng bình an cho Thầy... Nhưng con muốn nói với Thầy một điều khác. Con sẽ hộ vệ Thầy tới Kêđrôn, rồi con trở lại. Tại sao Thầy cứ ngủ ở nơi ẩm ướt này? Thầy biết người ta nhìn vào nhiều thứ. Thầy không biết ai trong thành phố có căn nhà đẹp sao? Con, nếu Thầy muốn, con có thể dẫn Thầy tới nhà bạn bè. Họ sẽ cho Thầy ở vì tình bạn đối với con, và đó sẽ là chỗ ở xứng đáng hơn đối với Thầy.
Con tin vậy sao? Thầy, Thầy không tin. Xứng hay bất xứng đều có trong mọi tầng lớp xã hội. Và không thiếu bác ái, cũng không để lỗi sự công bằng, Thầy nói với con rằng: Bất xứng, những cái bất xứng quỷ quyệt, thường có nơi các kẻ tai to mặt lớn. Không cần, cũng không ích lợi gì phải mạnh thế mới là tốt, hoặc để che đậy những điều tội lỗi trước mặt Thiên Chúa. Tất cả đều đảo lộn dưới dấu hiệu của Thầy, và không phải kẻ quyền hành, nhưng là kẻ khiêm nhường và thánh thiện sẽ là những kẻ lớn.
Nhưng để được kính trọng, để áp đặt...
Hêrôđê có được kính trọng không? Xêda có được kính trọng không? Không. Người ta rắn chịu. Nhưng trên môi cũng như trong lòng, người ta nguyền rủa họ. Với những người tốt, và ngay cả với những người ước ao nên tốt, Judas, hãy tin chắc rằng Thầy sẽ được tín nhiệm bởi các kẻ khiêm tốn hơn là bởi bộ tịch của các kẻ mạnh.
Vậy là... Thầy khinh bỉ tất cả các kẻ mạnh. Thầy sẽ làm cho họ thành kẻ thù. Con, con tính nói về Thầy với những người danh giá mà con biết...
Thầy không khinh ai. Thầy tới với người nghèo cũng như người giàu, với kẻ nô lệ cũng như ông vua, với kẻ trong sạch cũng như người tội lỗi. Nhưng nếu Thầy biết ơn những người đã cho Thầy một tấm bánh và một mái nhà khi Thầy mệt, dù là mái nhà nào và lương thực nào, thì Thầy sẽ luôn luôn thích những kẻ khiêm tốn hơn. Những kẻ lớn họ đã có bao nhiêu thứ để vui, người nghèo thì chỉ có sự ngay thẳng của lương tâm họ, với một tình yêu trung thành, các con cái, và nỗi vui khi được nghe bởi những người ở trên họ. Thầy, Thầy sẽ luôn luôn cúi xuống trên người nghèo, đau khổ, tội lỗi. Thầy cảm ơn con vì sự ân cần của con, nhưng hãy để Thầy ở đây là nơi cầu nguyện và bình an. Đi đi. Nguyện Thiên Chúa soi cho con những gì là tốt.
Giêsu rời người môn đệ và đi vào giữa các cây ôliu. Và tất cả đều chấm dứt.
--------------------------------------------------------------------
Giêsu khóc vì Judas:
(trích TMNĐMKCT Q6 trang 24-26):
“ Con! Con!- mọi người điều muốn đi, nhưng Giêsu giữ Judas Kêriot lại. Khi họ vừa đi xa, Giêsu cầm hai tay ông và nói với ông, thực sự mặt đối mặt. Tựa như Người muốn truyền tư tưởng của Người qua cho ông, gợi cảm cho ông tới nỗi Judas không thể có những tư tưởng nào ngoài những tư tưởng mà Giêsu muốn: “ Judas… đừng làm khổ cho con! Đừng làm khổ cho con! Judas của Thầy ơi! Con không thấy bình thản hơn và sung sướng hơn trong thời gian gần đây sao? Vì con được thoát khỏi những con mực ma của cái tôi xấu nhất của con, cái tôi của con người rất dể dàng trở nên trò chơi cho Satan và thế giới. Đúng, con đã cảm thấy như vậy. Vậy hãy bảo trì sự bình an của con, sự thoải mái của con. Đừng làm thiệt hại cho con, Judas. Thầy đọc được trong con. Con đang có những thời gian rất tốt. Ôi! Nếu Thầy có thể, với giá tất cả máu huyết của Thầy, giữ con trong tình trạng này, phá hủy cho tới cái thành lũy sau cùng, nơi trú ẩn của kẻ thù rất lớn của con, và làm cho con nên hoàn toàn tinh thần, thông minh tinh thần, tình yêu tinh thần, tinh thần, tinh thần!.”
Judas ngực kề ngực, mặt đối mặt, tay trong tay với Giêsu, hầu như hoảng hốt. ông thì thầm: “ Làm thiệt hại? Thành lũy sau cùng? Cái nào?...”
Cái nào? Con biết mà. Con biết con làm thiệt hại cho mình bằng cách nào! Bằng cách nuôi dưỡng tư tưởng được quyền thế trong loài người của con, và những tình bạn mà con cho là ích lợi để cho con cái quyền thế này. Irael, họ không yêu con đâu. Hãy tin điều đó. Họ ghét con cũng như họ ghét thầy, và cũng như họ ghét những ai có vẽ một kẻ có thể chiến thắng. Và con, chính vì con không dấu diếm tư tưởng của con là con muốn như vậy, nên con bị ghét. Đừng tin vào những lời dối trá của của họ, vào nhúng câu hỏi họ giả vờ đặt ra, viện lẽ là lưu ý đến tư tưởng của con để giúp con. Họ dụ dỗ con để làm hại con, để biết và làm hại. Thầy không xin con điều đó vì Thầy, nhưng vì con, vì một mình con mà thôi. Thầy, nếu Thầy phải chịu sự bất công, Thầy vẫn luôn luôn là Chúa, Họ có thể hành hạ thân xác và giết nó, không còn gì hơn. Nhưng con! Nhưng con! Chính linh hồn con là cái mà họ sẽ giết…Hãy chạy trốn cám dỗ! Bạn của Thầy ơi! Hãy nói với Thầy là con sẽ trốn nó! Hãy cho ông Thầy tội nghiệp, ông thầy bị hành hạ, bị khổ tâm của con, lời nói này của sự bình an!
Bây giờ Người ôm ông trong vòng tay, và Người nói với ông ta, má kề má, ngay bên lỗ tai, và những sợi tóc hoe vàng của Giêsu lẫn lộn với những lọn tóc nặng mầu nâu đậm của Judas:
Thầy, thầy biết rằng Thầy phải chịu chết. Thầy biết rằng triều thiên của thầy sẽ chỉ là triều thiên tử đạo. Thầy biết rằng áo đỏ của Thầy sẽ là áo nhuộm máu. Chính vì vậy mà Thầy đã đến. Chính nhờ sự tử đạo này mà Thầy cứu chuộc loài người, và tinh yêu hối thúc Thầy từ đời đời tới việc làm trọn hành động này. Nhưng Thầy muốn rằng không ai trong nhũng người của Thầy bị hư mất. Ôi! Hết mọi người điều thân thiết với Thầy, vì họ mang trong họ hình ảnh và sự tương tự như Cha Thầy, và linh hồn bất tử mà Người đã dựng nên. Nhưng các con, các con thân yêu và biệt ái của Thầy! Các con, máu của máu Thầy, con ngươi của mắt Thầy! không! Không! Hư mất, không! Ôi! Không có cái hành hạ nào giống cái hành hạ này! Cho dù Satan đâm vào Thầy những ngọn giáo cháy đỏ bằng lưu huỳnh của hỏa ngục, và nó, tên có tội, tên ghê sợ, tên ghê tởm, nó cắn xé Thầy, bao bọc lấy Thầy, thì đối với Thầy, sẽ không có cái hành hạ nào giống như cái hành hạ là một trong các kẻ lựa chon của Thầy hư đi…Judas! Judas! Judas của Thầy! Con có muốn rằng Thầy xin Cha Thầy để chịu đựng ba lần cuộc khổ nạn kinh khủng của Thầy, và trong ba lần này, thì hai lần là để cứu một mình con không? Bạn ơi! Hãy nói điều đó với Thầy và Thầy sẽ làm. Thầy sẽ xin gia tăng tới vô tận những khổ đau của Thầy cho việc này. Thầy yêu con! Judas! Thầy yêu con chừng nào! Và Thầy muốn cho con chính mình Thầy, trả cho con chính mình Thầy để cứu cho con khỏi chính mình con…”
Thầy ơi! Đừng khóc, đừng nói vậy. Con, con cũng yêu Thầy. Con sẽ hiến mạng con để thấy Thầy mạnh mẽ, được kính nể, được toàn thắng. Có lẽ con không yêu Thầy cách trọn hảo…Nhưng con thề với Thầy, con thề với Thầy trên Jêova là con sẽ không tới gần các luật sĩ, các Phanrisiêu, các người Saddu, các người Do Thái, các thầy cả nữa…Con chỉ cần là Thầy không buồn vì con. Thầy có bằng lòng không? Một cái hôn đi Thầy. Một cái hôn như là chúc lành và sự bảo vệ của Thầy.
Hai người ôm nhau hôn rồi rời ra trong khi các người khác trở lại, từ trên đồi chạy xuống, vẫy tay với nhũng cái bánh trán nướng và những miếng phó mát tươi.”
------------------------------------------------
ĐÁNG CHỊU MẤT MỘT TÌNH BẠN ĐỂ CHINH PHỤC MỘT LINH HỒN
(trích sách TMNĐMKCT Q4 Tr83 or Q4 Tr79 file PDF )
Giêsu đang ở trên đường dẫn từ hồ Mêron về hồ Galilê. Ở với Người có Zêlote và Batôlômêo, và hình như các ngài đang chờ ở gần thác nước, lúc này chỉ còn là một tia nước, nhưng cũng nuôi được những khóm cây rậm rạp. Những người khác đang đi tới từ hai ngả khác nhau.
Một ngày nồng nực, nhưng vẫn nhiều người đi theo ba nhóm đã giảng dạy qua các miền quê, dẫn các bệnh nhân về cho nhóm của Giêsu, và nói về Người cho các người khỏe mạnh. Một số rất đông các người được hưởng phép lạ họp thành một nhóm sung sướng ngồi giữa các cây. Niềm vui trong họ lớn tới nỗi họ không cảm thấy sự phiền phức của sức nóng, của bụi đất, của ánh sáng lóa mắt. Tất cả những thứ này cũng chỉ hơi làm phiền những người khác.
Nhóm được hướng dẫn bởi Juđa Thađê về với Giêsu đầu tiên. Rõ ràng họ có vẻ mệt mỏi, những người trong nhóm cũng như những người đi theo họ. Nhóm điều hành bởi Phêrô về sau cùng, trong đó có nhiều người ở Corozain và Bétsaiđa.
- Thưa Thầy, chúng con đã làm việc, nhưng phải có nhiều nhóm... Thầy thấy, đi xa thì không thể được, vì nóng qúa. Vậy phải làm sao? Người ta nói thế giới đã lớn lên theo đà làm việc nhiều hơn của chúng ta. Trong khi tản mát vào trong xứ và kéo dài các khoảng cách, con chưa bao giờ nghĩ là Galilê lớn đến thế! Chúng ta chỉ mới làm việc có một góc, đúng là chỉ có một góc, và chúng ta cũng chưa sao giảng Tin Mừng được cho nó. Thật là mênh mông, và số kẻ cần đến Thầy và ước ao Thầy thì đông chừng nào! - Phêrô xít xoa.
- Simon, không phải thế giới lớn lên, nhưng là do sự lan truyền danh tiếng của Thầy chúng ta - Thađê trả lời.
- Phải, đúng vậy. Coi, biết bao là người. Một số đã theo chúng ta từ buổi sáng. Vào những giờ nóng nhất, chúng tôi trú trong rừng. Bây giờ buổi chiều đã gần và bước đi đã mỏi, mà những người này ở rất xa nhà họ hơn chúng ta. Nếu công việc cứ tiếp tục tăng lên như vầy, tôi không biết phải làm thế nào - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Vào tháng mười, các mục đồng sẽ đến với chúng ta - Andrê nói để khích lệ họ.
- Hé! Đúng, các mục đồng, các môn đệ, tốt! Nhưng họ chỉ được dùng để nói: “Giêsu là Vị Cứu Tinh, Người ở đây”. Không có gì hơn - Phêrô trả lời.
- Nhưng ít nhất họ biết Người ở đâu. Trái lại, bây giờ chúng ta đến đây thì họ đến đây. Trong khi có những người đang đến đây thì chúng ta lại đi nơi khác, và họ phải chạy theo sau chúng ta. Và đối với trẻ em và các bệnh nhân thì không thực tiễn tí nào.
Giêsu nói: “Simon Phêrô, con có lý. Thầy cũng thương các linh hồn này và các đám đông này. Đối với nhiều người, không tìm thấy Thầy vào lúc được chỉ bảo có thể là một bất hạnh không sửa lại được. Các con hãy nhìn những người chưa có một sự xác thực về chân lý, họ chán nản và băn khoăn chừng nào! Và những kẻ đã thưởng thức lời Thầy thì họ đói khát chừng nào! Không thể nhịn nó nữa, và không có lời nào khác có thể làm cho họ thoả lòng. Họ giống như những con chiên không người chăn, đi lang thang đây đó mà không tìm được người nào dẫn dắt và nuôi chúng. Thầy sẽ cung cấp cho chúng, nhưng các con phải giúp Thầy bằng tất cả sức lực siêu nhiên, tinh thần và thể xác của các con. Không thể đi từng nhóm đông nữa, các con phải biết đi từng nhóm hai người một. Và Thầy cũng sẽ sai đi từng hai người một trong số các môn đệ tốt nhất. Mùa gặt thật là bao la! Ôi! Mùa hè này Thầy sẽ chuẩn bị cho các con vào sứ mệnh cao cả này. Tại Tamuz, chúng ta sẽ họp đoàn với Isaac và các môn đệ tốt nhất, và Thầy sẽ chuẩn bị cho các con. Các con chưa đủ số cho công việc, vì vụ gặt qủa là rất lớn, mà các thợ gặt thì qúa ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng để Người sai nhiều thợ gặt đến cho vụ gặt hái của Người”.
- Vâng, lạy Chúa, nhưng điều đó không thay đổi bao nhiêu tình trạng của những kẻ tìm Thầy - Giacôbê Alphê nói.
- Tại sao anh?
- Vì không phải họ chỉ tìm giáo lý và các lời của sự sống, mà còn tìm sự chữa lành các bệnh hoạn của họ, các mệt mỏi của họ, của tất cả mọi thứ tật nguyền mà đời sống hay Satan đã mang tới cho phần hạ hay phần thượng của tất cả con người họ. Và điều đó chỉ có Thầy có thể làm, vì Thầy có sức mạnh.
- Những kẻ kết hợp làm một với Thầy thì có thể làm tất cả những gì Thầy làm, và những kẻ đau khổ sẽ được cứu trợ trong tất cả mọi thứ khốn nạn của họ. Nhưng các con chưa có trong các con những sự phải có để làm. Hãy cố gắng vượt qua bản thân của các con để dày đạp những khuynh hướng về loài người, để cho thần trí được toàn thắng. Hãy lãnh hội, không phải chỉ các lời Thầy, mà cả tinh thần các lời ấy, tức là hãy thánh hóa các con bằng những lời ấy. Rồi sau đó, các con sẽ có thể tất cả. Bây giờ chúng ta hãy đi nói cho họ các lời Thầy, vì họ không muốn ra đi nếu Thầy không cho họ Lời của Thiên Chúa. Rồi sau đó chúng ta sẽ trở về Caphanaum. Ở đó cũng có nhiều người đang chờ.
- Chúa ơi, có đúng là Maria Magđala đã xin Thầy tha thứ trong nhà người pharisiêu không?
- Đúng đó Tôma.
- Và Thầy đã tha cho cô ta? - Philíp hỏi.
- Thầy đã tha cho nó.
- Nhưng Thầy đã làm sai rồi! - Batôlômêo kêu lên.
- Tại sao? Nàng đã thành tâm thống hối và đáng được tha thứ.
- Nhưng Thầy không nên cho cô ta ơn tha thứ trong căn nhà này, một cách công khai... - Iscariot trách Người.
- Nhưng Thầy không thấy Thầy đã lầm lẫn trong điều gì.
- Trong điều này: Thầy biết các pharisiêu là người thế nào. Biết bao lý sự cùn họ có trong đầu óc họ. Họ canh chừng Thầy, họ vu cáo Thầy, họ ghét Thầy chừng nào! Ở Caphanaum chỉ có một người trong bọn họ là bạn, tức là Simon. Và Thầy đã gọi vào nhà ông ta một cô gái điếm để phàm tục hóa nhà của ông ta, và làm phẫn nộ cho ông bạn Simon.
- Thầy không gọi cô ta. Cô ta tự ý đến đó. Đó không phải là một gái điếm, nhưng là kẻ sám hối. Điều đó khác nhau rất nhiều. Nếu trước đó người ta đã không ghê tởm lại gần nàng, và vẫn luôn luôn thèm muốn nàng, dù trước mặt Thầy, thì lúc này nàng không còn là một xác thịt nữa, mà là một linh hồn, thì người ta không được ghê tởm thấy nàng tới qùi gối dưới chân Thầy và khóc, tự trách mình, tự hạ trong sự xưng thú khiêm tốn và công khai, gói ghém trong những nước mắt của nàng. Căn nhà của pharisiêu Simon đã được thánh hóa bởi một phép lạ cả thể: Sự phục sinh của một linh hồn. Năm ngày trước đây, tại công trường của Caphanaum, ông ta đã hỏi Thầy: “Ngài đã chỉ làm có một phép lạ thôi ư ?”, và ông đã tự trả lời: “Chắc chắn là không”. Ông ta rất ước ao được coi một phép lạ, và Thầy đã cho ông ta. Thầy đã chọn ông ta làm chứng nhân, làm người phù rể của cuộc đính hôn giữa linh hồn với Ân Sủng. Ông ta phải hãnh diện vì vậy.
- Trái lại, ông ta đã phẫn nộ. Có lẽ Thầy đã mất một người bạn.
- Thầy đã tìm được một linh hồn. Thật đáng chịu mất tình bạn của một người, cái tình bạn tội nghiệp của con người, để trả lại cho một linh hồn tình bạn với Thiên Chúa.
- Điều đó vô ích. Nơi Thầy, người ta không thể có được một lối suy nghĩ thuộc về loài người. Thầy ơi, chúng ta đang ở trên mặt đất, Thầy hãy nhớ điều đó. Và những luật, những ý tưởng của trái đất là cái ưu thắng. Thầy hành động theo những phương pháp trên Trời, Thầy tàn đời trong bầu trời của Thầy mà Thầy có trong tim. Thầy nhìn tất cả qua ánh sáng của bầu trời. Ông Thầy tội nghiệp của tôi! Thầy bất lực một cách thần linh để sống giữa chúng tôi là những kẻ gian ác - Iscariot ôm Người, cảm phục, buồn rầu, và nói để chấm dứt: “Con khổ vì vậy, bởi vì Thầy đã tạo ra biết bao kẻ thù vì qúa toàn thiện”.
- Judas, đừng khổ vì vậy. Đã có lời chép là phải như vậy. Nhưng làm sao con biết là Simon bị xúc phạm?
- Ông ta không nói là ông ta bị xúc phạm. Nhưng với con và Tôma, ông đã cho chúng con hiểu rằng đó là việc không nên làm. Thầy không nên mời nàng vào nhà ông, nơi chỉ có những người ngay lành được bước vào.
- Tốt. Sự ngay lành của những người đến nhà Simon, chúng ta không nói nữa - Phêrô nói.
- Và tôi có thể nói rằng mồ hôi của các gái điếm đã nhiều lần chảy trên nền gạch, trên bàn và tại các nơi khác trong nhà pharisiêu Simon - Mathêu nói.
- Nhưng không công khai - Iscariot đối đáp.
- Không, với một sự giả hình cẩn thận để che đậy.
- Anh thấy đó, có sự khác nhau.
- Cũng là sự khác nhau nữa, giữa việc một gái điếm vào để nói: “Tôi từ bỏ tội lỗi nhơ nhớp của tôi”, với một gái điếm vào để nói: “Tôi đây, tôi thuộc về ông để chúng ta cùng nhau hoàn thành tội lỗi”.
- Mathêu có lý - mọi người đều nói.
- Phải, anh ta có lý. Nhưng họ không nghĩ như chúng ta. Và phải đi tới một sự điều giải với họ, thích nghi với họ để có họ làm bạn.
- Điều đó không bao giờ đâu Judas ạ. Về phương diện chân lý, sự ngay thẳng, đời sống luân lý, không có sự thích nghi, cũng không có điều giải - Giêsu nói bằng giọng như sấm. Và Người kết thúc: “Vả lại, Thầy biết là Thầy hành động đúng và vì sự lành, vậy là đủ. Chúng ta đi giải tán cho những người mệt mỏi này”.
Và Người đi đến với những kẻ đang rải rác dưới các gốc cây và nhìn về phía Người, lo lắng để nghe lời Người:
- Bình an cho tất cả các con đã đến trong những thời giờ nóng bức này để nghe Tin Mừng. Thật vậy, Thầy nói với các con rằng, các con đã bắt đầu hiểu Nước Thiên Chúa là gì, sự chiếm hữu nó là việc cao trọng chừng nào, và được thuộc về nó là hạnh phúc chừng nào! Và đối với các con, tất cả sự mệt mỏi là không, trong khi nó đáng kể đối với những người khác, bởi vì linh hồn truyền lệnh trong các con và nói với xác thịt: “Hãy vui mừng vì ta lấn át ngươi. Ta đã làm vậy vì hạnh phúc của ngươi. Khi ngươi sẽ được kết hợp với ta sau sự sống lại cuối cùng, ngươi sẽ yêu ta tùy theo mức độ ta dày đạp ngươi, và ngươi sẽ thấy ta như một vị cứu tinh thứ hai của ngươi”. Đó là những điều linh hồn các con nói, phải không? Chắc chắn là nó nói vậy. Bây giờ các con biết đặt căn bản cho các hành động của các con theo các giáo huấn của Thầy trong những dụ ngôn từ lâu rồi. Nhưng bây giờ Thầy cho các con một ánh sáng khác để các con luôn luôn say mê hơn cái Vương Quốc đang chờ các con này, một Vương Quốc có giá trị vô song.
Hãy nghe đây: một người kia tình cờ đi vào một thửa ruộng để lấy đất mang về đổ vào vườn của ông. Đây, đang khi ông mệt mỏi để đào đất cứng, ông thấy bên dưới một lớp đất, có một cái mạch kim loại qúi. Người đó làm gì? Ông lại phủ đất lên cái của mà ông đã khám phá. Ông không ngần ngại làm việc nhiều hơn, vì của khám phá đáng công khó nhọc. Rồi ông về nhà, gom góp tất cả gia tài bằng tiền, còn các thứ bằng đồ vật thì ông bán hết đi để có thật nhiều tiền. Rồi ông đi tìm người chủ thửa ruộng và nói: “Tôi thích thửa ruộng của ông. Ông muốn bao nhiêu?” Người kia nói: “Nó đâu phải ruộng chờ bán”. Nhưng người này đề nghị một giá luôn luôn lớn hơn, rất chênh lệch so với giá trị của thửa ruộng. Và sau cùng người chủ quyết định. Ông ta nghĩ: “Ông này điên. Nhưng bởi vì ông ta điên nên ta lợi dụng. Ta lấy món tiền mà ông ta đề nghị. Đây đâu phải là cho vay nặng lãi, bởi vì chính ông ta muốn cho ta. Với món tiền này, ta mua được ít nhất là ba thửa ruộng khác còn đẹp hơn”. Và ông ta bán, chắc ăn là đã làm một cuộc làm ăn tuyệt vời. Nhưng trái lại, chính người kia đã trúng mánh, vì ông ta bỏ đi một số vật mà kẻ trộm có thể lấy đi, hoặc có thể bị mất hay xài đi, ông ta chiếm được một kho tàng thiên nhiên thực sự và không hư nát. Vậy thật xứng đáng là ông ta hy sinh tất cả những cái ông ta có để tậu ruộng này. Ông ta chỉ còn lại là chủ thửa ruộng, nhưng trong thực tế, ông ta luôn luôn có một kho tàng giấu trong đó.
Các con, các con đã hiểu điều đó, và các con làm như người trong dụ ngôn. Hãy từ bỏ tất cả những giầu sang phù du để chiếm lấy nước Trời. Các con hãy bán nó cho những kẻ ngu si của thế gian. Hãy nhường cho họ. Hãy chấp nhận cho người ta cười nhạo các con về những điều mà trước mắt thế gian, họ coi như đó là hành động ngu xuẩn. Hãy luôn luôn hành động như vậy, và một ngày kia, Cha các con ngự trên Trời sẽ vui mừng ban cho các con chỗ của các con trong nước Người. Hãy trở về nhà trước khi tới giờ ngày Sabát. Và trong ngày của Chúa, hãy nghĩ tới dụ ngôn về kho báu là nước Trời. Bình an cho các con.
Mọi người tản mát từ từ vào các con đường và các ngõ hẻm ở miền quê, trong khi Giêsu đi về hướng Caphanaum trong buổi chiều đang xuống.
Người tới nơi vào lúc đêm. Các ngài đi qua thành phố yên lặng dưới ánh trăng là ngọn đèn duy nhất soi cho các lối đi tối và gập ghềnh. Họ lặng lẽ vào khu vườn nhỏ ở bên cạnh nhà, ngờ rằng mọi người đã lên giường. Nhưng trái lại, một ngọn đèn còn sáng trong nhà bếp, và ba bóng người rung rinh bởi ánh lửa đèn, in lên bức tường nhỏ trắng của cái lò ở ngay bên cạnh.
- Thưa Thầy, có những người chờ Thầy. Nhưng như vậy không thể được. Bây giờ con đi nói với họ là Thầy qúa mệt rồi. Trong khi chờ, Thầy lên sân thượng đi.
- Không, Simon. Thầy vào nhà bếp đây. Nếu Tôma đã giữ những người này lại, có nghĩa là có lý do quan trọng.
Nhưng trong lúc đó, những người ở trong nhà đã nghe tiếng xì xèo, và Tôma, chủ căn nhà, đã đứng ở ngưỡng cửa.
- Thưa Thầy, có người đàn bà quen mọi khi. Bà ta chờ Thầy từ lúc mặt trời lặn chiều hôm qua. Có một người đầy tớ ở với bà - Rồi ông nói rất nhỏ: “Bà rất xao xuyến. Bà ta khóc không ngừng”.
- Được. Nói với bà ta lên trên lầu. Bà ta đã ngủ ở đâu?
- Bà ta không muốn ngủ, nhưng sau cùng bà đã lui vào phòng con trong vài giờ vào lúc bình minh. Người đầy tớ thì con cho ngủ ở một trong các giường của nhóm Thầy.
- Tốt. Ông ta sẽ còn ngủ ở đó đêm nay nữa. Còn ông, ông sẽ ngủ ở trong giường của Thầy nhé.
- Thưa Thầy không. Con sẽ lên sân thượng, trên những tấm chiếu, con sẽ ngủ dễ dàng.
Giêsu đi lên sân thượng. Đây, Matta cũng đi lên.
- Bình an cho con, Matta.
Một tiếng nấc trả lời cho Người.
- Con còn khóc à? Nhưng con không sung sướng sao?
Bằng cái lắc đầu, Matta làm hiệu là không.
- Vậy tại sao?...
Một quãng im lặng dài đầy những tiếng nấc. Sau cùng trong những rên rỉ: “Từ mấy buổi tối rồi, Maria không trở lại nữa, và người ta không tìm thấy nó. Con không tìm thấy, người vú nuôi, Marcelle, không ai thấy nó cả. Nó gọi xe và đi ra. Nó ăn mặc rất diện... Ôi! Nó không muốn mặc lại y phục của con. Nó không ăn mặc nửa hở. Nó vẫn còn cái thói ấy, nhưng nó rất khêu gợi trong cái... Và nó đã mang theo vàng và dầu thơm... và nó không trở về nữa. Nó đã cho người đầy tớ trở về tại chỗ căn nhà đầu tiên của Caphanaum và nói: ‘Tôi sẽ trở lại với một người bạn khác’. Nhưng nó không trở lại. Nó đã đánh lừa chúng con, hay nó cảm thấy cô đơn, có lẽ nó bị cám dỗ... hay nó đã gặp điều bất hạnh... Nó không trở về nữa...”
Và Matta qùi xuống khóc nức nở, gục đầu trên cánh tay mà bà tì trên đống bao rỗng.
Giêsu nhìn bà và nói từ từ cách bảo đảm của kẻ chế ngự: “Đừng khóc. Maria đã đến với Thầy từ ba bữa nay. Nó đã xức thuốc thơm chân Thầy. Nó đã để tại chân Thầy tất cả những nữ trang của nó. Nó đã hy sinh như vậy và vĩnh viễn giữ một chỗ giữa các môn đệ của Thầy. Đừng gièm pha nó trong qủa tim con. Nó đã vượt qua con rồi”.
- Nhưng ở đâu? Vậy em con ở đâu? - Matta kêu khi ngửa khuôn mặt bối rối của bà lên. “Tại sao nó không trở lại nhà? Có lẽ nó đã bị tấn công? Có lẽ nó đã lấy một cái thuyền và bị chìm? Có lẽ một người yêu mà nó xua đuổi đã bắt cóc nó. Ôi! Maria! Maria của chị! Chị vừa tìm được em rồi chị lại mất em ngay!”
Thực sự Matta đã lạc hồn. Bà không còn nghĩ gì nữa là những người ở dưới nhà có thể nghe thấy. Bà không còn nghĩ gì nữa là Giêsu có thể nói cho bà rằng em bà đang ở đâu. Bà thất vọng, không còn nghĩ tới gì nữa.
Giêsu cầm cổ tay bà và buộc bà bình tĩnh để nghe Người. Người trấn áp bà bằng khổ người cao lớn của Người, và bằng cái nhìn thôi miên của Người: “Đủ rồi! Thầy muốn rằng con tin vào lời Thầy. Thầy muốn rằng con quảng đại, con hiểu chưa?” Và Người chỉ buông bà khi Người thấy bà đã hơi bình tĩnh.
- Em con đã đi thưởng thức niềm vui của nó, bao bọc mình bằng một sự an bình thánh thiện, bởi vì nó có trong nó cái tình cảm qúa bẽn lẽn của những kẻ được cứu chuộc. Thầy đã nói trước như vậy với con rồi. Nó không thể chịu đựng cái nhìn êm dịu nhưng tra xét của các người thân về cái y phục mới của cô dâu với Ân Sủng của nó. Và điều Thầy nói với con luôn luôn là sự thật. Con phải tin Thầy.
- Vâng. Lạy Chúa, vâng. Nhưng em Maria của con nó đã qúa... qúa ở trong quyền lực của ma qủi. Ma qủi có thể bắt lại nó bằng một phát, nó...
- Ma qủi báo thù trên con vì miếng mồi mà nó bị mất vĩnh viễn. Vậy lẽ nào Thầy phải thấy con, một phụ nữ can đảm, trở nên miếng mồi của nó do một sự khiếp sợ điên khùng và vô lý sao? Thầy phải thấy rằng vì lẽ em con, người bây giờ đã tin ở Thầy, mà con bị mất đức tin đẹp đẽ mà Thầy vẫn biết ở con sao? Matta, hãy nhìn kỹ Thầy đây. Hãy nghe Thầy, đừng nghe Satan. Con không biết rằng khi nó bị bó buộc buông con mồi vì một chiến thắng của Thiên Chúa trên nó, nó bắt đầu hành động ngay - tên lý hình không biết mệt mỏi của loài người; tên ăn cắp không biết mệt mỏi các quyền lợi của Thiên Chúa - để tìm các mồi khác sao? Con không biết rằng những khổ tâm của một nhân vật thứ ba, kẻ đã chống lại được với các tấn công bởi vì họ tốt và trung thành, sẽ làm cho vững vàng sự chữa lành của một linh hồn sao? Con không biết rằng không có gì là hoàn toàn cách biệt đối với những gì đã có trong việc tạo dựng, nhưng tất cả đều theo một quy luật vĩnh viễn của những sự tùy thuộc, và những hậu qủa làm cho một hành động của một người có ảnh hưởng tự nhiên và siêu nhiên rất rộng rãi sao? Con đang khóc ở đây - con là kẻ đã biết cái khổ ghê gớm của sự nghi ngờ, và con vẫn trung thành với Đức Kitô của con ngay trong những giờ tối tăm - thì ở chỗ kia, trong một nơi lân cận mà con không biết, Maria đang cảm thấy tan biến đi cái nghi ngờ sau cùng về ơn tha thứ vô tận mà nó đã nhận. Các nước mắt của nó đã biến thành nụ cười, và sự tối tăm của nó biến thành ánh sáng. Chính sự băn khoăn lo lắng của con đã dẫn nó tới bình an, nơi mà các linh hồn được hồi sinh nhờ cái động lực không tì vết, ở bên cạnh đấng tràn đầy Sự Sống mà Người đã lãnh được để ban cho thế giới chính Sự Sống là Đức Kitô. Em con đang ở nhà Mẹ Thầy. Ôi! Nó không phải là người đầu tiên đã ghé cánh buồm vào trong hải cảng bình an này, sau khi những tia sáng êm đềm của ngôi sao sống Maria đã gọi nó vào lòng của tình yêu, vì tình yêu câm lặng nhưng linh hoạt của Con Mẹ. Em con đang ở Nazarét!
- Nhưng làm sao nó tới đó được? Nó không biết Mẹ Thầy, nhà Thầy?... một mình... trong đêm khuya... như thế... không phương tiện... với y phục như vậy... Con đường qúa dài... Làm sao?...
- Làm sao à? Cũng như các chim én trở về nơi tổ ấm lúc sơ sinh, băng qua sông, biển, đồi núi; thắng được bão tố, mây mưa và gió ngược. Cũng như các chim én tới được nơi nghỉ mùa đông của nó, bởi cái bản năng đã hướng dẫn nó, bởi sự ấm áp kêu mời nó, bởi mặt trời gọi nó. Em con cũng vậy, nó chạy đến với tia sáng đang gọi nó... đến với người mẹ chung. Và chúng ta sẽ thấy nó trở về với bình minh, sung sướng... vĩnh viễn ra khỏi tối tăm, với một người mẹ ở bên cạnh, Mẹ của Thầy, để không bao giờ bị mồ côi nữa. Con có thể tin vậy không?
- Có chứ. Lạy Chúa.
Matta như bị thôi miên. Qủa vậy, Giêsu rất thống trị: Cao lớn, đứng, nhưng Người hơi nghiêng xuống trên Matta đang qùi gối. Người nói nhẩn nha bằng giọng thấm thía, như để nó xuyên thấu vào người môn đệ đang xao xuyến. Rất ít khi tôi thấy Người mạnh mẽ như vậy, để, bằng lời nói, Người chinh phục kẻ nghe Người. Nhưng sau cùng, tươi sáng chừng nào, nụ cười rạng rỡ chừng nào trên khuôn mặt Người.
Matta phản chiếu lại bằng một nụ cười và một ánh sáng yên hàn trên khuôn mặt của bà.
- Bây giờ hãy đi nghỉ bằng an.
Matta hôn tay Người và đi xuống, tươi tỉnh lại...
-------------------------------------
SAU KHI ĐÃ NHẮC LẠI LỀ LUẬT, CHA LÀM HÁT LÊN NIỀM HY VỌNG ƠN THA THỨ:
( trích TMNĐMKCT Q4 T57-68)
Giêsu nói: “Từ tháng Giêng, từ lúc Cha cho con thấy bữa tối trong nhà Simon tật phong, con và cha linh hướng của con đã ước ao biết rõ hơn về Maria Magđala và những lời Cha nói với cô. Bảy tháng sau, Cha cho các con khám phá ra những trang quá khứ này để làm vui lòng các con, và để cho một kỷ luật đời sống cho những người phải biết nghiêng mình trên những linh hồn phong cùi, và một tiếng nói để nói với những linh hồn khốn nạn đang bị ngập trong nấm mồ của các thói hư, để nó ra khỏi đó”. Thiên Chúa nhân từ. Người nhân từ với cả thế giới. Người không dùng những biện pháp loài người. Người không cho là có sự khác nhau giữa tội nhẹ và tội trọng. Tội, dù nó thế nào, cũng làm đau lòng Người. Sự sám hối làm cho Người vui và sẵn sàng để tha thứ. Sự chống lại Ơn Sủng làm cho Người khắt khe không lay chuyển được, vì sự công bằng không thể tha cho kẻ không sám hối, nó phải chết trong tình trạng ấy, mặc cho tất cả những trợ giúp mà nó có để hoán cải.
Nhưng trong sự thiếu hoán cải, nếu không một nửa thì ít nhất cũng bốn phần mười, có nguyên nhân đầu tiên là sự chểnh mảng của những kẻ có bổn phận cho sự hoán cải: một sự nhiệt thành hiểu sai và giả dối là một tấm màn che trên sự ích kỷ đích thực, và trên sự kiêu căng của họ, để cho phép họ yên lòng ở lại nơi náu ẩn riêng của họ, mà không cần đi xuống dưới bùn để lôi ra khỏi đó một tâm hồn: “Tôi, tôi trong sạch, tôi đáng được kính trọng, tôi không đi tới những nơi dơ bẩn và những nơi người ta thiếu sự trọng kính đối với tôi”. Nhưng những kẻ nói như vậy đã không đọc Tin Mừng, nơi đã nói rằng Con Thiên Chúa đến hoán cải các người thu thuế và các gái điếm chứ không phải chỉ có những người ngay lành của luật cũ.
Những người đó không nghĩ rằng sự kiêu căng là sự ô uế của tâm hồn, và thiếu bác ái là sự ô uế của con tim. Con sẽ bị nhục nhã ư? Cha đã bị như vậy trước con và còn hơn con nữa, trong khi Cha là Con Thiên Chúa. Con phải để y phục của con chạm vào sự ô uế ư? Còn Cha, Cha đã chạm vào sự ô uế này bằng bàn tay Cha, để nó đứng dậy và để Cha nói với nó: “Hãy bước đi trên con đường mới này”. Các con không nhớ những điều Cha đã nói với các vị tiền bối của các con sao? “Trong bất cứ thành hay làng nào mà các con vào, hãy hỏi xem ở đó có ai xứng đáng không, và hãy ở trong nhà họ”.
Như vậy để thế giới không dèm pha. Thế giới quá sẵn sàng để thấy điều xấu trong tất cả mọi sự. Nhưng Cha lại thêm: “Rồi khi đi vào các nhà - Cha nói: các nhà, chứ không phải: nhà - hãy chào họ bằng cách nói: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu nhà đó xứng đáng với sự bình an thì sự bình an sẽ xuống trên đó, nếu không, sự bình an sẽ trở về với các con”. Điều đó để dạy các con rằng cho tới lúc có bằng chứng chắc chắn về sự không chịu hoán cải, các con phải có cùng một con tim với mọi người. Và để hoàn tất lời giáo huấn, Cha nói: “Nếu ai không tiếp nhận các con và không nghe lời các con, hãy ra khỏi các nhà đó và các thành đó, hãy phủi bụi còn dính ở gót giày các con”.
Nơi những người tốt mà lòng tốt được yêu quí một cách bền bỉ, có thể nói nó đã biến thành một khối pha lê nhẵn, thì sự dâm ô chỉ là bụi. Đối với bụi thì chỉ cần lúc lắc hay thổi vào nó là nó bay đi mà không để lại vết thương nào. Vậy hãy thực sự tốt như một khối duy nhất với Đấng Tốt Lành đời đời ở trung tâm, thì không một sự đồi trụy nào có thể lên cao để làm nhơ bẩn các con. Nó không thể lên cao hơn cái gót giày là thứ đạp trên đất. Linh hồn thì ở trên cao hơn biết bao, linh hồn các kẻ lành, các kẻ chỉ là một với Thiên Chúa! Linh hồn ở tận trên trời, ở đó bụi và bùn không tới được, dù là nó bị tung lên do sự thù ghét chống lại thần trí của người tông đồ. Nó có thể đụng tới thân xác, làm cho các con bị thương vật chất hay tinh thần, bằng cách bách hại các con.
Bởi vì sự dữ ghét sự lành, và chúng xúc phạm tới các con. Điều đó là gì? Cha đã không bị xúc phạm sao? Cha đã không bị thương sao? Nhưng những cú đả thương đó và các lời tục tĩu dâm bôn đó có làm in dấu trên thần trí của Cha không? Nó có làm Cha xao xuyến không? Không. Cũng như đống đờm rãi trên tấm gương, giống như hòn sỏi ném vào chất thịt có nước cốt của một trái cây, nó trượt đi và không nhập vào được, hoặc là nó nhập vào, nhưng chỉ một tí trên mặt, không thể tổn hại cho cái nhân nép kín trong hạt.
Trái lại, nó làm lợi cho sự nảy mầm, vì cái mầm chui qua một khối đã hơi mở ra thì dễ hơn chui qua một trái còn nguyên vẹn. Chính trong khi chết mà hạt giống nảy mầm và người tông đồ sinh sản. Đôi khi trong khi chết một cách vật chất, trong khi chết hầu như mỗi ngày theo nghĩa bóng, mà cái tôi con người bị bẻ gãy. Và đó không phải là chết, đó là sống, đó là sự toàn thắng của thần trí trên những cái chỉ là con người. Nàng (Mađalêna) đã đến với Cha bởi một cơn chướng của sự nhàn rỗi, vì không biết làm gì trong những giờ rảnh. Tai nàng đã bị chát chúa vì những lời nịnh hót dối trá của những kẻ ru ngủ nàng bằng những ca vịnh của tình dục, để bắt nàng làm nô lệ. Nàng thấy vang dội nơi tai nàng tiếng nói trong trẻo và nghiêm khắc của Chân Lý, của một chân lý không sợ bị người ta khinh chê, chân lý mà người ta không biết tới, và chân lý nói khi nó nhìn lên Thiên Chúa.
Và giống như tiếng chuông trong ngày lễ, tất cả mọi tiếng đều tan thành lời. Những tiếng quen thuộc vang trong trời, trong bầu khí quyển xanh và tự do, lan qua thung lũng, đồi núi, đồng bằng, biển hồ, để nhắc lại sự vinh quang của Chúa và các ngày lễ của Người. Các con có nhớ tiếng chuông ngày lễ trong thời bình, nó làm cho vui tươi biết bao cái ngày được dâng hiến cho Chúa? Quả chuông lớn nhất, bằng cái trái của nó, cho một nốt đầu tiên, nhân danh lề luật của Thiên Chúa, nó nói: “Tôi nói nhân danh Thiên Chúa là thẩm phán và là vua”, rồi các chuông nhỏ chuyển cung: “Là đáng nhân từ, thương xót và nhẫn nại”, cho tới khi trái huông nhỏ nhất nói bằng cái giọng thiên thần: “Đức ái của Người thúc đẩy tới sự tha thứ và lòng thương xót, để dạy ta rằng sự tha thứ có ích lợi hơn sự thù hận, và sự thương xót có lợi hơn tính khắc nghiệt. Hãy đến với đáng hay tha thứ, hãy tin ở đáng hay thương xót”.
Cha cũng vậy, sau khi đã nhắc lại lề luật bị kẻ tội lỗi chà đạp, Cha làm hát lên niềm hy vọng ơn tha thứ, như một giải băng lụa màu xanh mà Cha vẫy nó giữa các thứ màu đen, để đặt vào đó những lời khích lệ. Sự tha thứ: đó là giọt sương mát trên vết phỏng của kẻ có tội. Sương không phải là mưa đá rơi, đập xuống như mũi tên, làm bị thương, rồi nảy lên và ra đi, không thấm nhập, lại làm hư các bông hoa. Sương rơi xuống rất nhẹ nhàng, dù các bông hoa mong manh nhất cũng không cảm thấy sương đến đậu trên cánh tràng như lụa của nó. Nhưng rồi nó uống lấy sự mát mẻ và được phục hồi. Sương cũng đọng gần nơi rễ, trên lớp đất cháy, và thấm vào nó. Đó là sự ẩm ướt của nước mắt: nước mắt của các vì sao, nước mắt yêu thương của người vú nuôi trên đứa trẻ khát. Nó rơi xuống và nó nuôi dưỡng cùng một trật với dòng sữa ngọt và bổ dưỡng.
Ôi! Mầu nhiệm của các yếu tố hoạt động cả khi con người nghỉ ngơi hay phạm tội. Sự tha thứ giống như làn sương này. Nó mang theo với nó, không phải chỉ có sự trong sạch, mà còn có chất nước cốt nuôi sống mà nó lấy, không phải nơi các yếu tố, mà là lấy ở cái lò của Thiên Chúa. Rồi sau khi đã hứa ơn tha thứ, đây, Đấng Khôn ngoan nói để cho biết những gì đúngn luật và những gì không đúng. Người nhắc lại và lay động, không phải bằng sự khắt khe, nhưng bằng sự lo lắng cứu vớt của hiền mẫu. Biết bao lần sự chai đá của các con đã làm cho Đức Ái không thấm nhập được, và các con khăng khăng chống lại Đức Ái cúi xuống trên các con! Biết bao lần các con trốn nó trong khi nó nói với các con! Biết bao lần các con chế nhạo nó! Biết bao lần các con ghét nó!... Nếu Đức Ái xử sự với các con giống như các con đối xử với nó thì khốn cho các con chừng nào!
Trái lại, các con thấy đó: Nó là người bước không biết mệt để đi tìm các con. Nó tới gặp các con, dù các con vùi dập trong cái hang ghê tởm của các con. Tại sao Cha muốn vào căn nhà này? Tại sao Cha không làm phép lạ ở đó? Là để dạy cho các tông đồ phải hành động thế nào trong khi đương đầu với các thành kiến và các chỉ trích, để làm trọn nhiệm vụ cao cả, và thoát được những điều này của thế giới. Tại sao Cha lại nói với Giuđa các lời đó? Các tông đồ rất thường như vậy trong tính khí nhân loại của họ. Tất cả các Kitô hữu cũng vậy, kể cả các vị thánh trên trái đất, ở một mức độ ít hơn, vẫn còn cái gì tồn tại, ngay cả nơi những người hoàn toàn. Nhưng các tông đồ chưa tới được chỗ đó. Tư tưởng của họ bị thấm nhiễm bởi nhân tính. Cha nâng họ lên, nhưng sức nặng của nhân tính nơi họ lôi họ xuống. Để làm cho họ luôn luôn lên cao hơn, Cha phải đặt trên con đường lên dốc những thứ có thể ngăn cản họ tụt xuống bằng cách họ dừng lại trước vật cản, suy nghĩ, nghỉ ngơi, rồi lại đi lên cao hơn lúc trước.
Đó là những thứ có khả năng thuyết phục họ rằng Cha là Thiên Chúa, và bởi đó Cha nhìn được vào nội quan của các tâm hồn, và bởi đó thắng được các yếu tố, làm được phép lạ, biến hình, sống lại và hiện diện khắp nơi. Cha đã ở trên đường đi Emmaus trong khi Cha hiện diện ở nhà tiệc ly, và giờ khác của hai sự hiện diện được đối chiếu bởi các tông đồ và các môn đệ, đã là một trong những lý do làm họ lay động nhất để dứt ra khỏi các của cãi của họ và lao họ vào con đường của Đức Kitô. Còn hơn là với Giuđa, một phần tử mà sự chết đã âm ủ trong nó rồi, Cha nói cho mười một tông đồ kia.
Cha cần thiết phải làm sáng lên trước mắt họ rằng Cha là Thiên Chúa. Không phải vì kiêu ngạo, nhưng đó là sự cần thiết để đào tạo họ. Cha là Thiên Chúa và là Thầy. Những từ này diễn tả Cha là ai. Cha tỏ mình ra bằng những quyền năng vượt trên nhân loại, và Cha dạy dỗ một sự hoàn thiện: Đừng làm những việc đàm thoại xấu, dù là trong nội tâm chúng ta, bởi vì Thiên Chúa thấy. Và Thiên Chúa phải thấy một nội tâm trong sạch để Người có thể xuống đó và làm cho nó thành chỗ ở của Người. Tại sao Cha không làm phép lạ trong căn nhà đó? Để cho mọi người hiểu rằng sự hiện diện của Thiên Chúa đòi hỏi một ngoại diện trong sạch, do việc kính trọng sự cao cả của vương quyền Người.
Để nói mà không cần nhích môi, nhưng nói những lời thấm thía hơn, nói vào thần trí của cô gái tội lỗi, nói với cô rằng: “Con gái khốn nạn ôi! Con thấy không? Con dơ bẩn hơn tất cả. Chung quanh con toàn là ô uế, dơ bẩn tới nỗi Thiên Chúa không thể hành động. Con dơ bẩn hơn cả cái tên này, vì con đã làm mới lại cái tội của Eva, và con trao trái cấm cho các Adam bằng cách quyến rũ họ xa lìa bổn phận của họ. Con là sứ giả của Satan”. Nhưng tại sao Cha không muốn cho người mẹ đang âu sầu gọi cô ta là Satan? Bởi vì không một lý do nào biện minh được cho sự nguyền rủa và sự thù ghét.
Sự thiết yếu đầu tiên bắt buộc phải có, và điều kiện đầu tiên để có Thiên Chúa ở với chúng ta là không được giữ sự thù ghét và phải biết tha thứ. Điều thiết yếu thứ hai là phải biết nhìn nhận rằng trong chúng ta cũng như trong những cái thuộc về chúng ta, đều có những sai phạm, nên đừng chỉ nhìn thấy lỗi của người khác mà thôi. Điều thiết yếu thứ ba là phải biết bảo trì lòng biết ơn và sự trung thành sau khi đã nhận được ơn phúc, đó là sự công bình đối với Đấng Hằng Hữu. Khốn cho những kẻ, sau khi đã nhận được ơn phúc, lại còn xấu hơn con chó, không còn nhớ tới vị ân nhân của nó, trong khi con chó thì nó vẫn nhớ.
Cha đã không nói một lời nào với Maria Mađalêna, tựa như cô ta là bức tượng. Cha chỉ nhìn cô ta một thoáng rồi Cha ngoảnh đi. Cha trở lại với các kẻ “sống” mà Cha muốn cứu. Cô ta là chất liệu chết, giống như, và còn hơn đối với bức tượng đá. Cha đã bao phủ cô ta bằng vẻ ơ hờ lãnh đạm, Cha không nói một lời nào, cũng như không có một cử chỉ nào ngoài mục đích chính là linh hồn khốn nạn của cô ta mà Cha muốn cứu. Và lời sau cùng của Cha: “Thầy, Thầy không nguyền rủa, con cũng đừng nguyền rủa. Hãy cầu nguyện cho kẻ tội lỗi, không có gì khác hơn”, giống như một tràng hoa mà người ta kết lên, nó được gắn liền với điều Cha đã nói trên núi: “Sự tha thứ hữu ích hơn sự thù ghét, và sự thương xót có lợi hơn sự khắc nghiệt”. Những lời đó đã vây hãm cô ta, cô gái khốn nạn đáng thương, trong một cái vòng bằng nhung, mát mẻ, thơm tho mùi của lòng nhân từ, làm cho cô ta thấy sự yêu mến phụng sự Thiên Chúa khác xa chừng nào với sự hung bạo của Satan. Hương thơm trên Trời thì ngọt ngào chừng nào so với sự hôi thối của tội lỗi. Được yêu một cách thánh thiện là sự nghỉ ngơi chừng nào hơn là bị xâm chiếm bởi Satan.
Các con thấy Thiên Chúa tiết độ chừng nào trong các ý muốn của Người. Người không đòi hỏi những cuộc hoán cải sét đánh, Người không yêu sách sự tuyệt đối của một con tim. Người biết chờ đợi, Người biết tự bằng lòng. Trong khi Người chờ đợi kẻ lạc tìm lại được con đường, kẻ điên lấy lại được lý trí, Người tự bằng lòng với điều bà mẹ băn khoăn cho Người. Cha chỉ hỏi bà: “Bà có thể tha thứ không?” Biết bao điều khác Cha có thể hỏi bà để làm cho bà xứng đáng với phép lạ, nếu Cha xét đoán như con người. Nhưng Cha đo lường sức lực của các con theo cách thức của Thiên Chúa. Đối với bà mẹ xao xuyến này, tới được chỗ sẵn sàng tha thứ đã là nhiều rồi. Lúc này Cha chỉ đòi hỏi bà có thế thôi. Sau đó, khi đã trả lại cho bà đứa con của bà, Cha nói với bà: “Hãy nên thánh và làm cho cả nhà bà nên thánh.”
Nhưng trong lúc bà băn khoăn, Cha chỉ đòi hỏi bà tha cho kẻ có lỗi. Người ta không thể đòi hỏi tất cả nơi một kẻ mà mới một lúc trước là số không và ở trong tối tăm. Bà mẹ này sau đó đã hoàn toàn trở về với ánh sáng, và cùng với bà là bà vợ và các đứa con. Tại lúc này, phải làm cho hoàng hôn của ánh sáng đến trên đôi mắt mù vì nước mắt của bà: Sự tha thứ là bình minh của ngày Thiên Chúa.
Đối với những kẻ hiện diện – Cha không kể Judas, Cha nói về những kẻ đã ở nơi đó mà không là các môn đệ của Cha – chỉ có một người duy nhất không trở về với ánh sáng. Những thất bại này đi theo các chiến thắng của việc truyền giáo. Luôn luôn có những kẻ mà vị tông đồ phải nhọc công vô ích. Nhưng những thất bại này không được làm cho các ngài mất can đảm. Người tông đồ không thể đòi hỏi phải được tất cả. Có những sức mạnh đối phương mang nhiều thứ tên chống lại các Ngài. Những sức mạnh này giống như những cái râu mực tuộc, nó kéo lại những con mồi mà các ngài đã giật của nó.
Công phúc của người tông đồ không thay đổi. Khốn cho người tông đồ nào nói: “Tôi biết ở đó tôi không thể làm hoán cải nên tôi không tới đó.” Người này là một tông đồ vô giá trị. Phải đi tới đó, dù chỉ có một trong số một ngàn người được cứu. Ngày giờ của vị tông đồ sẽ sinh hoa trái cho người duy nhất này cũng giống như cho một ngàn người, vì ngài đã làm tất cả những gì ngài có thể, và vì thế, Thiên Chúa thưởng công cho ngài.
Cũng phải nghĩ rằng ở nơi mà vị tông đồ không hoán cải người ta được, bởi vì những kẻ cần hoán cải bị xâm chiếm quá chắc bởi Satan, và sức mạnh của vị tông đồ không đủ so với sức mạnh đòi hỏi. Thiên Chúa có thể can thiệp, và lúc đó, ai có thể hơn Thiên Chúa?
Một điều khác nữa mà vị tông đồ phải tuyệt đối áp dụng là Tình Yêu, một tình yêu bộc lộ chứ không phải tình yêu thầm kín của các con tim trung thành. Tình yêu thầm kín chỉ đủ cho các anh em tốt. Tông đồ là người thợ của Thiên Chúa, và họ không thể chỉ giới hạn trong việc cầu nguyện. Họ phải hành động. Họ phải hành động với tình yêu, một tình yêu vĩ đại. Sự khắt khe làm tê liệt công việc của vị tông đồ và những di động của các linh hồn về với ánh sáng. Không khắt khe, nhưng yêu thương. Tình yêu là y phục bằng chất thạch mà mà ngọn lửa của các tham vọng xấu không thể tấn công được. Tình yêu làm cho các cơn bão hoá một thứ tinh dầu bảo vệ, ngăn cản không cho sự hư thoái con-người-satan thấm nhập vào các con. Để chinh phục một linh hồn, phải biết yêu nó. Để chinh phục một linh hồn, phải dẫn nó tới tình yêu: Yêu điều thiện và xa tránh tất cả những tình yêu khoan nhượng của tội lỗi.
Cha đã muốn linh hồn của Maria. Cũng như với con, Gioan nhỏ, Cha không chỉ giới hạn ở việc nói về chức vụ làm Thầy của Cha. Cha đã xuống tìm nó trên con đường của tội lỗi. Cha theo đuổi nó, hành hạ nó bằng tình yêu của Cha, một sự hành hạ êm dịu! Cha là sự trong sạch, Cha đã vào nơi nàng ở, nàng: kẻ dơ bẩn. Cha không nghi ngờ sự phản nộ đối với Cha cũng như đối với những kẻ khác. Sự phản nộ không thể thấm nhập vào Cha, bởi vì Cha là sự Thương Xót. Và cô gái này khóc về sự lỗi lầm mà không phản nộ. Khoan cho vị chủ chăn phản nộ và núp sau cái bức bình phong này để bỏ rơi một linh hồn. Các con không biết rằng linh hồn trỗi dậy dễ hơn thân xác, lời nói của lòng thương xót và tình yêu rằng: “Bạn ơi, trỗi dậy đi, vì lợi ích của bạn”, thường thi hành những phép lạ sao? Cha không sợ sự phản nộ của kẻ khác. Các hành động của Cha được biện minh trước mặt Thiên Chúa và được hiểu trước mặt những kẻ tốt. Con mắt ác ý bốc lên men hiểm độc, xông ra mùi hư thoái từ nội tâm, chẳng có giá trị gì cả. Nó tìm thấy lỗi ở cả nơi Thiên Chúa, nó chỉ thấy có nó là hoàn hảo. Vậy Cha không phải lo gì về nó. Đây là ba điều kiện để cứu rỗi một linh hồn:
· Hoàn toàn liêm khiết để có thể nói mà không sợ lời nói bị giảm thiểu thành sự yên lặng. Nói với tất cả một đám đông theo cách nào để cho lời giảng đạo hướng về đám đông tụ hợp chung quanh chiếc thuyền màu nhiệm, nhờ các đợt sóng vươn ra, có thể đi luôn luôn xa hơn, tới tận những bãi bùn, nơi các kẻ bị cầm giữ trong bùn lầy nằm ngủ mà không lo âu gì tới việc nhận biết chân lý. Đó là công việc đầu tiên phải làm để đập bể lớp vỏ đất cứng và sửa soạn cho việc gieo hạt. Đó là công việc nặng nề nhất cho kẻ phải hoàn thành nó cũng như cho kẻ phải chịu đựng, vì lời nói phải như một lưỡi cày sắc, phải làm bị thương để mở ra. Thực vậy, Cha nói với các con rằng: người tông đồ tốt sẽ bị thương và chảy máu vì sự đau khổ do phải làm bị thương để mở ra. Nhưng nỗi đau này sinh sản. Chính nhờ máu và nước mắt của vị tông đồ mà đất cứng không trồng cấy được trở nên màu mỡ.
· Phẩm chất thứ hai: làm việc cả ở nơi mà một người khác, vì hiểu sai sứ mạng của họ, đã bỏ trốn. Phải nát lòng để cố gắng diệt các cỏ lùng, cỏ gấu, các gai góc để đất sạch sẽ, có thể cày bừa, để làm sáng lên, như một mặt trời, quyền phép của Thiên Chúa và lòng nhân từ của Người, cùng một lúc là vị thẩm phán và thầy thuốc. Nghiêm nghị nhưng đầy tình thương, biết dừng lại để chờ cho thời gian giúp các linh hồn vượt qua cơn khủng hoảng, để suy nghĩ và quyết định.
· Điểm thứ ba: Vừa khi linh hồn, trong sự yên lặng, ăn năn hối hận, khóc và nhìn xem các sai lầm của nó, và một cách bẽn lẽn, dám đi lại với vị tông đồ, sợ rằng sẽ bị đuổi, thì người tông đồ phải có con tim lớn hơn biển cả, êm dịu hơn con tim người mẹ, gọi tình yêu hơn con tim người chồng, và mở toang nó ra để cho trào ra những đợt sóng âu yếm.
Nếu các con có Thiên Chúa trong các con, Thiên Chúa là đức Ái, các con sẽ tìm thấy dễ dàng các lời của Đức Ái để nói với các linh hồn. Thiên Chúa sẽ nói trong các con, bởi các con. Và như mật ong chảy ra từ tầng mật, như dầu thơm chảy ra từ một ống dầu, tình yêu sẽ chảy trên đôi môi cháy nóng, được thưởng thức, sẽ đến với các tâm hồn bị thương để trở thành sự nâng đỡ và phương thuốc. Hãy làm thế nào để các kẻ có tội yêu các con, thầy thuốc của các linh hồn. Hãy làm cho họ thưởng thức mùi vị của Đức Ái trên Trời, và trở nên lo lắng để không tìm của ăn nào khác. Hãy làm cho nó cảm thấy, trong sự êm đềm của các con, một sự nhẹ nhõm tuyệt vời tới nỗi nó tìm kiếm cho hết các vết thương của nó.
Tình bác ái của các con phải tránh cho họ mọi thứ sợ sệt, vì, cũng như trong chương mà con đọc hôm nay: “Sự sợ hãi ức đoán hình phạt. Kẻ sợ thì không ở trong đức Ái toàn vẹn”. Nhưng kẻ làm cho sợ cũng không. Đừng nói: “Ngươi đã làm gì?” Đừng nói: “Đi khỏi đi!” Đừng nói: “Ngươi không thể thưởng thức tình yêu tốt lành”. Nhưng hãy nói, hãy nói nhân danh Cha: “Hãy yêu và Cha tha cho con”. Hãy nói: “Hãy đến, đôi tay của Giêsu đang mở rộng”. Hãy nói: “Hãy thưởng thức bánh các thiên thần và lời Chúa, hãy quên đi chất nhựa của hoả ngục và sự khinh bỉ của Satan”. Các con hãy tự ý làm các con vật chở đồ nặng cho sự yếu đuối của kẻ khác. Vị tông đồ phải mang lấy ách của mình và của người khác, cùng một lúc với Thánh Giá của mình và của người khác. Và khi các con đến với Cha, chở nặng những con chiên bị thương, hãy bảo đảm cho chúng, các con chiên lạc, hãy nói với chúng: “Tất cả đều được quên đi kể từ lúc này”. Hãy nói: “Đừng sợ Vị Cứu Tinh, Người từ Trời xuống thế cho con, đặc biệt là cho con. Ta chỉ là cái cầu để dẫn con về với Người. Người đang chờ con ở bên kia con kênh của sự miễn tội vì thống hối, để dẫn con tới đồng cỏ thánh của Người, mà bắt đầu là ở đây, trên trái đất này, nhưng rồi tiếp tục trong vẻ đẹp đời đời, nuôi sống và kỳ diệu trên Trời”.
------------------------------------------
"CHA ĐÃ LÀ, VÀ CHA VẪN LÀ CON THIÊN CHÚA, NHƯNG CHA CŨNG LÀ CON LOÀI NGƯỜI"
(Trích TMNDDMKCT Quyển 9, tr11-tr23)
Chúa Giêsu nói: Sự đau khổ của cơn hấp hối về tinh thần của Cha, con đã chiêm ngắm trong buổi chiều thứ năm. Con đã thấy Giêsu của con ngã sụp như một người bị đánh tử thương, cảm thấy sự sống của mình chảy trọn qua các vết thương làm cho mất máu, hay như một người bị chế ngự bởi sự tổn thương tâm thần quá sức chịu đựng. Con thấy sự tăng trưởng của tổn thương này đã đạt tới cực điểm của nó trong việc máu tràn ra, vì bị kích động do mất thăng bằng về tuần hoàn, bởi nỗ lực Cha đã làm để thắng mình và chịu đựng những sức nặng chụp xuống trên Cha.
Cha đã là, và Cha vẫn là Con Thiên Chúa tối cao, nhưng Cha cũng là con loài người. Cha muốn rằng qua những trang này, lưỡng tính giống nhau và toàn thiện của Cha được giải thích rõ ràng. Do Thiên Tính của Cha, các lời Cha được làm chứng để tin, và nó có những âm giọng mà chỉ mình Thiên Chúa có thể có. Do nhân tính của Cha, Cha có những nhu cầu, những khát vọng, những thống khổ mà Cha đã tỏ cho các con thấy là Cha chịu đựng trong xác thịt của một người thật, và Cha đề nghị với các con như một kiểu mẫu cho nhân tính của các con, cũng như Cha huấn luyện trí tuệ các con bằng giáo thuyết của Thiên Chúa thật.
Qua dòng thời gian của bao thế kỷ, do những hành động tán loạn của nhân tính bất toàn của các con, các con đã làm cho thiên tính rất thánh của Cha cũng như nhân tính rất hoàn hảo của Cha bị giảm bớt, bị biến dạng trong khi các con trình bày lưỡng tính ấy. Các con đã làm cho nhân tính của Cha trở thành không thực tế và vô nhân, cũng như làm cho bộ mặt Thiên Chúa của Cha trở thành quá nhỏ, bằng cách các con từ chối bao nhiêu điểm mà các con không muốn biết, hay vì các con không thể nhận ra với trí tuệ đã bị giảm thiểu bởi truỵ lạc, tật xấu, thuyết vô thần, thuyết nhân bản, thuyết duy lý.
Vào giờ bi thảm này, giờ khai mạo cho những khốn nạn của toàn thế giới, Cha đến để làm dịu mắt trong trí óc các con, bộ mặt lưỡng tính của Cha: Là Thiên Chúa và là người, để các con biết Cha đúng như Cha là, để các con biết Cha sau bao điều mà chủ nghĩa ngu dân đã che đậy Cha khỏi trí tuệ các con, để các con yêu Cha và trở về với Cha, và để các con được cứu rỗi nhờ trung gian của Cha.
Đó là dung nhan Vị Cứu Tinh của các con mà ai tin và yêu Người thì được cứu rỗi.
Trong những ngày này, Cha đã cho con biết những đau khổ thể chất của Cha, nó đã hành hạ nhân tính của Cha. Cha đã cho con biết những đau khổ tinh thần của Cha, nó liên kết, đan lồng vào và hòa tan với những đau khổ của Mẹ Cha, giống như những cây leo chằng chịt ở vùng nhiệt đới, người ta không thể gỡ ra được, không thể tách ra từng giây riêng biệt, mà chỉ có cách, với một lưỡi dao, người ta cắt gọn hết để mở một lối đi; hay giống như các mạch máu của cơ thể, người ta không thể tách rời một mạch để máu không đi vào, bởi vì chỉ có một thứ máu loãng làm đầy tất cả các mạch.
Hay hơn nữa, người ta không thể ngăn cản một thai nhi đang thành hình trong lòng mẹ khỏi chết nếu người mẹ chết, bởi vì sự sống là vậy: sức nóng, của nuôi, máu của người mẹ, theo nhịp cử động của quả tim bà, thấm nhập, chuyển vào cho thai nhi qua các nội màng để thai nhi sống, rồi sinh ra là một người.
Mẹ, ôi người mẹ trong trắng đã mang Cha, không phải chỉ trong chín tháng mà các bà mang cái quả của giống người, nhưng trong suốt đời Mẹ. Trái tim chúng ta đã liên kết bởi những sợi dây thiêng liêng và luôn luôn cùng một nhịp đập. Không một giọt nước mắt từ má nào rơi xuống mà không thấm ướt trái tim Cha bằng muối của nó, và không một tiếng rên rỉ nội tâm nào của Cha mà không vọng vang trong lòng Mẹ để khơi dậy nỗi đau thương của Mẹ.
Các con khổ khi thấy bà mẹ của một đứa con đang chờ chết vì một chứng bệnh nan y, hoặc mẹ của một kẻ bị kết án tử hình bởi sự nghiêm khắc của công lý loài người. Vậy hãy nghĩ đến Mẹ Cha là người mà ngay từ phút đầu tiên cưu mang Cha, đã run sợ khi nghĩ đến Cha sẽ bị kết án; người mẹ mà từ lần đầu tiên cho Cha một cái hôn trên làn da mềm đỏ hồng của bé sơ sinh, đã cảm thấy những vết thương tương lai của con mình. Người mẹ này đã muốn cho Cha mười, một trăm, một ngàn lần sự sống của mình, để ngăn cản Cha trưởng thành và tiến tới lúc phải sát tế hy sinh. Người mẹ này đã biết, đã phải ước ao cái giờ kinh khủng này để nhận lãnh Thánh Ý Chúa, vì vinh danh Chúa và vì lòng tốt đối với nhân loại. Không, không có một cơn hấp hối nào dài hơn, và chấm dứt trong một đau thương lớn hơn cơn hấp hối của Mẹ Cha. Và không có một đau khổ nào lớn hơn và hoàn toàn hơn đau khổ của Cha.
Cha là một với Chúa Cha. Người đã yêu Cha bằng tất cả vĩnh cửu như một mình Thiên Chúa có thể yêu. Người được thỏa lòng nơi Cha, và Người tìm thấy nơi Cha niềm vui Thiên Chúa của Người. Và Cha, Cha đã yêu Người như một mình Thiên Chúa có thể yêu, và Cha đã tìm thấy niềm vui Thiên Chúa của Cha trong sự hợp nhất với Người. Những tương quan khôn tả nối kết đời đời Chúa Cha với Con Ngài thì không thể giải thích được, dù là vốn ngôn ngữ của Cha, vì nó toàn vẹn, trong khi sự thông minh của các con thì không toàn vẹn.
Các con không thể hiểu, không thể biết được Thiên Chúa là gì bao lâu các con chưa ở với Người trên Trời. Và rồi, giống như sức của nước dâng cao ép vào bờ đê, Cha cảm thấy sự công thẳng của Chúa Cha đối với Cha cứ tăng trưởng lên từng giờ và từng giờ. Để làm chứng nhân chống lại loài người hung bạo, không muốn hiểu Cha là ai, trong đời sống công khai của Cha, Người đã mở Trời ra ba lần: ở sông Giođan, trên núi Tabor, và ở Giêrusalem buổi chiều trước cuộc tử nạn. Nhưng Người đã làm thế vì loài người, chứ không phải để cho Cha một chút khuây khỏa.
Từ đây, Cha là kẻ phải đền tội. Maria ôi, nhiều khi Thiên Chúa cho loài người biết một trong các tôi trung của Người, để lay động và lôi kéo họ về với Người qua sự trung gian của người tôi tớ đó, nhưng cũng có khi bằng chính những đau khổ của người đó. Bằng cách ăn bánh cay đắng của sự công thắng Thiên Chúa, người tôi trung này đích thân trả cái giá cho sự nâng đỡ và phần rỗi của anh em mình. Không phải sao? Các nạn nhân phải đền tội đều biết sự công thắng của Thiên Chúa. Chỉ sau khi sự công thắng được nguôi thì sự vinh quang mới tới. Điều đó không giống như tình yêu Cha: Cha cho các nạn nhân của tình yêu Cha những cái hôn. Cha là Giêsu, là Đấng Cứu Chuộc. Cha đã chịu đau khổ, và do kinh nghiệm cá nhân, Cha biết thế nào là cái khổ bị Chúa Cha nhìn với vẻ khắt khe, và bị Người bỏ rơi. Cha không bao giờ khắt khe và không bao giờ bỏ rơi ai. Cha tiêu hủy nạn nhân của tình yêu Cha giống như vậy, nhưng trong lò lửa của tình yêu.
Giờ đền tội càng tới gần, Cha càng cảm thấy Chúa Cha xa dần. Luôn luôn: càng xa cách Chúa Cha, nhân tính của Cha càng cảm thấy bị giảm bớt sự nâng đỡ của thiên tính, và Cha chịu đựng điều đó bằng mọi cách. Sự xa cách Thiên Chúa dẫn tới sự sợ hãi, sự dính bén vào đời sống, sự lật lẽo, sự mệt mỏi, sự buồn chán. Sự xa cách càng sâu xa, hậu quả càng trầm trọng. Sự xa cách hoàn toàn sẽ dẫn tới tuyệt vọng.
Vì theo thánh chỉ của Thiên Chúa, người ta càng cảm thấy bất xứng với Thiên Chúa thì người ta càng khổ, vì linh hồn sống động cảm thấy bị xa lìa với Thiên Chúa cũng như thân xác sống động cảm thấy bị cắt mất một chi thể. Đó là một nỗi đau lạ lùng, nặng nề, mà ai không cảm thấy thì không hiểu được. Cha đã cảm thấy. Cha đã phải biết tất cả để Cha có thể biện hộ cho các con trước tòa Chúa Cha về tất cả mọi vấn đề, kể cả nỗi thất vọng của các con.
Ôi! Cha đã cảm thấy thế nào là câu nói: “Tôi cô đơn một mình. Tất cả đã phản bội tôi, bỏ rơi tôi. Kể cả Chúa Cha, kể cả Thiên Chúa cũng không giúp tôi nữa”. Chính vì thế mà Cha đã thực hiện những kỳ công bí nhiệm của ơn thánh trong những con tim khốn nạn vì bị thất vọng đè nặng, và Cha xin những linh hồn ưu tuyển của Cha uống chén rất đắng mà Cha đã có kinh nghiệm uống, để cho những người bị chìm trong biển thất vọng không từ chối Thánh Giá mà Cha trao cho họ như một cái neo cứu rỗi, nhưng họ hãy bám chặt vào nó để Cha có thể dẫn họ vào bờ bến hạnh phúc, nơi chỉ có sống trong bình an.
Trong buổi chiều thứ năm, một mình Cha biết Cha cần Chúa Cha chừng nào! Tâm hồn Cha đã ở trong cơn hấp hối vì phải cố gắng vượt qua hai đau khổ lớn nhất của con người: phải từ giã người mẹ rất yêu mến của Cha và phải kề cận với người bạn bất trung. Đó là hai vết thương thiêu đốt trái tim Cha.
Vết thương thứ nhất thiêu đốt bằng nước mắt, vết thương thứ hai bằng sự thù ghét. Cha đã phải bẻ bánh với tên Cain của Cha. Cha phải nói với nó như bạn hữu để không tố giác nó cho những người khác mà Cha biết có thể gây bạo động để ngăn cản tội ác, vả lại, vô ích, vì tất cả đã được ghi trong cuốn sách lớn của đời sống: sự chết thánh thiện của Cha và cái chết tự vẫn của Giuđa. Chúa Cha không kết án một cái chết vô ích nào nữa. Không dòng máu nào ngoài dòng máu của Cha phải đổ ra hay bị làm cho đổ ra nữa. Sợi dây thắt nghẹn sự sống này đã dấu sẵn trong cái túi dơ bẩn là thân xác tên phản bội. Máu nó đã được bán cho Satan. Máu này, khi rơi xuống đất, không thể được pha trộn với máu rất thanh khiết của Đấng Vô Tội.
Hai vết thương này đã rất đủ để biến Cha thành kẻ hấp hối trong cái tội của Cha. Nhưng Cha là kẻ phải đền tội, là nạn nhân, là con chiên. Con chiên này, trước khi bị cắt họng, đã biết dấu hiệu của thanh sắt đỏ. Nó biết những cú đánh, nó biết sự lột da, nó biết việc buôn bán ở hàng thịt. Không phải chỉ ở phút sau cùng nó mới biết cái lạnh của con dao đâm thấu vào họng để làm chảy máu và giết chết. Trước đó, nó đã phải từ bỏ tất cả: đồng cỏ, nơi nó đã lớn lên, người mẹ mà trong lòng bà, nó được nuôi nấng và sưởi ấm, các bạn bè nó đã cùng sống.
Tất cả, Cha đã biết tất cả, Cha: Con Chiên Thiên Chúa. Vậy Satan tiến lại trong khi Chúa Cha rút về Trời. Nó đã đến vào lúc khởi đầu của sứ mạng Cha, để thử làm cho Cha trở lưng. Bây giờ nó lại đến. Đây là giờ của nó, ngày Sabát của Satan. Từng đoàn và từng đoàn quỷ sứ ở trên mặt đất đêm ấy để dẫn dắt tới chung kết việc mê hoặc các con tim, và đặt vào đó ước muốn hạ sát Đức Kitô ngày hôm sau. Mỗi Pháp Đình Viên có thằng quỷ của họ. Hêrôđê có tên quỷ của ông, Philatô cũng vậy, và cả những người Do Thái sẽ xin máu Cha đổ xuống trên họ, cũng được quỷ họ thúc giục. Các tông đồ cũng có tên cám dỗ ở bên cạnh. Nó ru ngủ các ông trong khi Cha phải héo hon. Nó chuẩn bị cho các ông đi tới chỗ hèn nhát.
Con hãy quan sát năng lực của kẻ trong sạch: Gioan, kẻ trong sạch, là người đầu tiên trong tất cả, đã tự giải phóng khỏi nanh vuốt của ma quỷ và trở lại ngay với Giêsu của ông, và đã hiểu niềm ước ao không diễn tả được của Thầy mình, và dẫn Mẹ Maria đến cho Cha. Nhưng Giuđa có Lucifer, và Cha, Cha cũng có Lucifer. Hắn có nó ở trong tim, Cha có nó ở bên cạnh. Chúng ta là hai nhân vật chính của tấn bi kịch, và Satan săn sóc từng người trong hai chúng ta. Sau khi đã dẫn Giuđa tới điểm không tài nào trở lui được nữa, nó quay về phía Cha. Với mưu cơ hoàn hảo của nó, nó bày ra trước mắt Cha những hành hạ về thể xác với một vẻ thực tế không tài nào tả hơn được.
Ở trong sa mạc cũng vậy, nó đã bắt đầu bằng thể xác. Cha đã thắng nó bằng lời cầu nguyện. Thần trí Cha đã chế ngự cái sợ của thể xác. Khi ấy nó bày cho Cha thấy chết như vậy là vô ích. Tốt hơn là hãy sống cho chính mình, không cần bận rộn tới loài người vô ơn; sống giàu sang, hạnh phúc, được yêu mến; sống cho Mẹ Cha để không làm Mẹ phải khổ; sống để dẫn về cho Thiên Chúa, sau một thời gian dài giảng đạo cho biết bao người mà dù sau khi Cha chết, họ cũng sẽ không quên Cha.
Như vậy Cha sẽ là thầy không phải chỉ trong ba năm, nhưng trong nhiều ngũ niên và nhiều ngũ niên. Và Cha sẽ kết thúc sau khi đã làm cho tất cả đều thấm nhuần giáo lý của Cha. Các thần của nó sẽ giúp Cha hấp dẫn loài người. Phải chăng Cha không thấy các thiên thần của Thiên Chúa không can hiệp để giúp Cha? Rồi sau đó Thiên Chúa sẽ tha cho Cha khi Ngài nhìn thấy mùa gặt các kẻ tin mà Cha dẫn về cho Ngài.
Trong sa mạc nó cũng cám dỗ Cha thử thách Thiên Chúa cách bất cẩn. Cha đã thắng nó bằng lời cầu nguyện. Thần trí Cha đã chế ngự các cám dỗ về tinh thần. Nó lại bày ra cho Cha sự từ bỏ của Thiên Chúa. Chúa Cha không thương Cha nữa. Cha bị chất đầy tội lỗi thế giới. Cha làm Người kinh tởm. Người lành mặt, Người bỏ Cha một mình. Người giao phó Cha cho sự chế nhạo của một lũ đông hung dữ. Người không chấp nhận cho Cha dù một tí khích lệ thần linh của Người.
Cô đơn, cô đơn, cô đơn. Vào giờ này, chỉ có Satan ở gần Đấng Kitô. Thiên Chúa và loài người vắng mặt, vì họ không yêu Cha. Họ ghét Cha hoặc họ dửng dưng. Cha đã cầu nguyện để lời cầu nguyện của Cha che lấp tiếng của Satan. Nhưng lời cầu nguyện của Cha không bay lên với Thiên Chúa nữa, nó rơi trở lại trên Cha như những cục đá trong khổ hình ném đá, và nó chà nát Cha dưới khối nặng của nó.
Trước đây, lời cầu nguyện của Cha luôn luôn là một sự âu yếm dâng lên Chúa Cha, một tiếng nói bay lên và được đáp trả bằng những âu yếm của tiếng nói người cha, bây giờ nó như chết, nặng nề, tung lên một cách vô ích về một bầu trời khép kín. Khi ấy Cha cảm thấy sự chua cay từ đáy chén đắng, mùi vị của sự tuyệt vọng. Đó cũng là điều Satan mong ước: dẫn Cha tới tuyệt vọng để biến Cha thành nô lệ của nó. Cha đã thắng sự tuyệt vọng chỉ nhờ sức mạnh của riêng Cha, bởi vì Cha muốn thắng nó. Chỉ với sức mạnh của một người, vì Cha chỉ còn là một người, và Cha chỉ còn là một người không được Thiên Chúa giúp đỡ. Khi Thiên Chúa giúp thì rất dễ dàng để nâng bổng cả thế giới lên và cầm giữ nó như một trò chơi trẻ con, nhưng khi Thiên Chúa không giúp nữa thì sức nặng của một bông hoa cũng làm cho mệt mỏi.
Cha đã thắng sự tuyệt vọng và kẻ tạo ra nó là Satan, để phục vụ Thiên Chúa và các con, trong khi ban Sự Sống cho các con. Cha đã biết cái chết. Không phải cái chết của kẻ bị đóng đinh - nó ít khốc liệt hơn - nhưng là cái chết toàn diện, có ý thức, của một tay đấu vật té ngã sau khi đã toàn thắng, trái tim bị bể ra, máu trào ra do sự cố gắng vượt sức. Cha bị đổ mồ hôi máu. Cha đổ mồ hôi máu để trung thành với thánh ý Thiên Chúa. Đó là tại sao một thiên thần đã đến trong cơn đau khổ của Cha, để tỏ cho Cha thấy niềm hy vọng của bao linh hồn sẽ được cứu rỗi nhờ sự hy sinh của Cha, nó như một liều thuốc cho cái chết của Cha.
Tên của các con! Đối với Cha, mỗi người là một giọt thuốc tiêm vào mạch máu của Cha, để làm cho nó lại căng lên và hoạt động trở lại. Mỗi người là một sự sống trở lại, một ánh sáng trở lại, một sức mạnh trở lại cho Cha, để trong những hành hạ vô nhân đạo, Cha không kêu la cái đau của một con người, không thất vọng đối với Thiên Chúa mà nói rằng Người quá khắt khe và bất công đối với Nạn Nhân của Người.
Cha đã tự nhắc lại tên các con, Cha đã thấy các con, Cha đã chúc phúc cho các con ngay từ lúc đó. Từ lúc đó, Cha đã mang các con trong trái tim Cha. Và khi đến giờ để các con xuất hiện trên trái đất, thì từ trên Trời, Cha đã nghiêng mình xuống để đón các con, hoan hỷ với tư tưởng rằng: một bông hoa tình yêu mới nở trên thế gian, và nó sẽ sống cho Cha.
Ôi! Hỡi những kẻ được chúc phúc của Cha, sự an ủi của Đức Kitô từ nạn! Mẹ Cha, người môn đệ của Cha, và các bà đạo đức vây quanh cái chết của Cha, nhưng các con cũng ở đó. Đôi mắt hấp hối của Cha đã thấy cùng một lúc, khuôn mặt tan nát của Mẹ Cha và khuôn mặt thân yêu của các con, và nó đã khép lại như vậy. Nó sung sướng để khép lại, bởi vì nó đã cứu rỗi các con. Ôi, các con là những kẻ đã xứng đáng sự hy sinh của một Thiên Chúa!
------------------------------------------------------------------------------------
Giữa kẻ yêu Cha từ trong tuổi trẻ trong sạch và kẻ yêu Cha trong sự ân hận vì tội lỗi, Cha không thấy có gì khác biệt:
(trích: TMNĐMKCT Q4 tr77-78):
“Giữa kẻ yêu Ta từ trong tuổi trẻ trong sạch (Gioan) và người đàn bà này (Maria Mađalêna), yêu Ta trong sự ân hận chân thành của một con tim sống lại trong Ân Sủng, Ta không thấy có sự gì khác biệt.”
“Tình yêu đã thiêu đốt nàng như một giàn hỏa thiêu, phá hủy trong nàng cái xác thịt không trong sạch, và làm cho tâm hồn nàng được thanh tẩy. Maria Mađalêna, kẻ sám hối mà tình yêu đã thanh tẩy bằng lửa của Sêraphim, và nàng là một Sêraphim.
Hãy nói điều đó với chính con, ôi Maria Valtorta, tiếng nói nhỏ của Cha. Hãy nói điều đó với các linh hồn. Hãy đi, hãy nói với các linh hồn không dám lại với Cha bởi vì nó cảm thấy nó có tội. Sẽ được tha thứ rất nhiều, rất nhiều, rất nhiều cho kẻ yêu nhiều, cho kẻ yêu Cha nhiều. Hỡi các linh hồn khốn khổ! Các con chẳng biết rằng Đấng Cứu Tinh yêu các con chừng nào! Đừng sợ Cha gì hết. Hãy đến với lòng tin cẩn, với sự can đảm. Cha mở trái tim và cánh tay Cha ra cho các con.
Các con hãy luôn luôn nhớ điều này: “ Cha không thấy gì khác nhau giữa kẻ yêu Cha với một tình yêu nguyên vẹn, và kẻ yêu Cha với sự thống hối chân thành của một con tim được tái sinh trong Ân Sủng”. Cha là Vị Cứu Tinh, các con hãy luôn luôn nhớ vậy. ’’
---------------------------------------------------------------------------
NGHE TRÊN YOUTUBE