Maria Valtorta
TIN MỪNG NHƯ ĐÃ MẶC KHẢI CHO TÔI
QUYỂN THỨ NĂM
Năm thứ ba đời sống công khai
(Phần thứ nhất)
7
1* TẠI NAZARÉT. SỰ GIẢI HÒA.
CHUẨN BỊ KHỞI HÀNH
Khởi đầu năm thứ ba.
Gioan, Giacôbê, Mathêu và Andrê đã tới Nazarét, và trong khi chờ Phêrô, họ đi dạo trong vườn Nazarét, dỡn với Margziam hay nói chuyện với nhau. Tôi không nhìn thấy ai khác. Hình như Giêsu đi ra ngoài và Maria bận việc nhà. Vì thấy lò đang phun khói, tôi cho là mẹ đang làm bánh.
Bốn vị tông đồ rất bằng lòng được ở trong nhà Thầy và họ bộc lộ ra. Ít nhất là ba lần rồi, Margziam nói với họ: “Đừng cười như vậy!”, và lần thứ ba, Mathêu nhận thấy có sự khuyên can nên hỏi: “Tại sao vậy bé? Không chính đáng để bằng lòng vì được ở đây sao? Mày, mày đã vui hưởng nơi này, bây giờ đến lượt chúng ta”, và ông cho nó một cái búng tay bằng hữu. Margziam nhìn ông cách rất nghiêm trang, nhưng nó biết nín lặng.
Giêsu đi vô với hai người bà con Juđa và Giacôbê. Với cách biểu lộ mạnh mẽ, họ chào các người bạn mà họ đã xa cách bao ngày dài.
Maria Alphê ló đầu ra khỏi phòng làm bánh, đỏ gay và dính đầy bột, bà mỉm cười với hai cậu con.
Sau cùng Zêlote trở về và nói: “Thưa Thầy, con đã làm tất cả. Chỉ một lát nữa là Simon sẽ ở đây”.
- Simon nào? Anh tôi hay Simon Jonas?
- Anh của bạn đó Giacôbê. Ông đến với tất cả gia đình để chào bạn.
Qủa vậy, vài phút sau, có tiếng gõ cửa và những lời ồn ào báo tin Simon Alphê đến. Ông vào nhà trước tiên, cầm tay một thằng bé độ tám tuổi. Theo sau ông là Salômê, đi vào cùng với bầy con bà.
Maria Alphê ra khỏi nhà bánh và ôm hôn các cháu, vui mừng vì thấy chúng ở đó.
8
- Anh lại đi à? - Simon hỏi trong khi các con ông bắt bạn với Margziam. Tôi thấy hình như Margziam không biết rõ là chỉ có mình Alphê được khỏi bệnh.
- Ờ, đến lúc rồi.
- Vẫn còn những ngày mưa.
- Không quan trọng, mỗi ngày chúng ta một gần mùa xuân.
- Anh đi Caphanaum à?
- Chắc chắn tôi sẽ tới đó, nhưng chưa tới ngay đâu. Bây giờ tôi đi băng qua Galilê và ra khỏi đó nữa.
- Tôi sẽ đến kiếm anh khi tôi biết là anh ở Caphanaum. Tôi sẽ dẫn mẹ anh và mẹ tôi đến cho anh.
- Tôi sẽ biết ơn anh về điều đó. Bây giờ đừng lơ là với bà, bà chỉ có một mình. Hãy dắt các đứa nhỏ lại cho bà. Ở đây chúng nó không bị hư hỏng đâu. Hãy chắc chắn điều đó...
Simon đỏ gay vì câu Giêsu nói ám chỉ lối nhìn cũ của ông, và vì cái liếc mắt rất ý nghĩa của vợ ông, như muốn nói: “Anh nghe không? Câu nói chỉ về anh đó”.
Nhưng Simon lái câu chuyện đi hướng khác và nói: “Mẹ anh đâu?”
- Bà đang làm bánh, nhưng bà sẽ tới ngay...
Nhưng các đứa con của Simon không thể chờ lâu hơn nữa, chúng đi theo sau bà nội chúng vào phòng làm bánh. Nhưng đứa con gái nhỏ, chỉ hơi lớn hơn thằng bé Alphê mới được khỏi bệnh một tí, ra khỏi phòng làm bánh ngay trong khi nói: “Maria khóc. Tại sao? Hen! Giêsu, tại sao mẹ chú khóc?”
- Bà khóc à? Ôi! Cưng ơi! Mẹ đi tìm bà đây - Salômê nói, và bà vội vã đi.
Giêsu giải thích : “Bà khóc vì chú sắp đi... Nhưng cháu sẽ tới làm bạn với bà, phải không? Bà sẽ dạy cháu thêu, và cháu sẽ làm bà vui. Cháu có hứa điều đó với chú không?”
- Cháu cũng sẽ tới. Bây giờ ba cháu để cho cháu tới - Alphê nói trong khi ăn cái bánh nướng mà người ta cho nó. Cái bánh nướng nóng tới nỗi nó khó lòng cầm trong tay, nhưng tôi tin là nó lạnh so
9
với sức nóng mà Simon Alphê có vì xấu hổ khi ông nghe những lời của đứa con trai nhỏ của ông. Mặc dầu đây là một buổi sáng mùa đông khá lạnh, với luồng gió bắc đuổi đi hết những đám mây trên trời, nhưng nó cũng làm buốt da thịt, vậy mà Simon ướt đẵm mồ hôi giống như ở giữa mùa hè...
Nhưng Giêsu làm như không nhận thấy, còn các tông đồ thì cho là các lời của các đứa con Simon nói rất hữu ích. Việc tình cờ chấm dứt như vậy và Simon bình tĩnh lại, ông hỏi Giêsu tại sao các tông đồ không ở đây tất cả.
- Simon Jonas thì sắp tới. Những người khác sẽ sum họp vào lúc thuận tiện. Chúng ta đã thỏa thuận.
- Tất cả à?
- Tất cả.
- Kể cả Judas Kêriot?
- Kể cả ông ta.
- Giêsu, đi với tôi một lát đi - ông anh họ Simon khẩn khoản xin. Và khi họ đã ở riêng biệt với nhau ở cuối vườn, Simon hỏi: “Nhưng anh có biết rõ Judas Simon là ai không?”
- Đó là một người Israel, không hơn không kém.
- Ồ! Anh không muốn nói với tôi rằng hắn là... - Ông ta sắp nổi nóng và cao giọng, nhưng Giêsu làm ông bình tĩnh bằng cách để tay trên vai ông, ngắt lời ông và nói: “Ông ta là đúng như các tư tưởng chủ yếu của ông và những người đến gần ông làm cho ông. Vì vậy ví dụ nếu ở đây (và Người nhấn mạnh tiếng ở đây ) ông ta tìm thấy mọi tâm hồn đều ngay chính với những thần trí mở ra cho sự thật, thì ông ta không có cái ước ao phạm tội. Nhưng ông ta đã không tìm thấy. Trái lại, ông ta đã tìm thấy một khung cảnh hoàn toàn nhân loại, và ông ta đã thích nghi một cách thoải mái và một cách tuyệt đối cái tôi rất nhân loại của ông ta vào để mơ, để thấy, để làm việc cho tôi và trong tôi như một ông vua của Israel theo nghĩa hoàn toàn nhân loại của từ đó, cũng như anh mơ tôi, muốn thấy tôi và muốn làm, và cùng với anh là Giuse, anh ruột của anh, và cùng với hai anh là Lêvi, trưởng giáo đường Nazarét, và
10
Matathias, và Simêon, và Mathia, và Benjamin, và Jacob, ngoại trừ ba bốn người, còn tất cả qúi vị, người Nazarét, và cũng không phải chỉ có người Nazarét... Ông ta rất khó đào tạo, bởi vì tất cả các anh hợp lực để bóp méo ông ta, càng ngày càng tệ. Đó là người yếu nhất trong các tông đồ của tôi. Nhưng lúc này ông ta chưa là gì hơn là một người yếu đuối. Ông ta có những cử động tốt. Ông ta có ý muốn thẳng thắn, và ông ta có tình yêu đối với tôi, một tình yêu sai lệch trong hình thức, nhưng luôn luôn là tình yêu. Các anh đã không giúp ông ta tách rời những khuynh hướng tốt ra khỏi những khuynh hướng xấu và đào tạo cái tôi của ông ta. Các khuynh hướng xấu, các anh đã làm cho nó nên càng ngày càng trầm trọng, bằng cách làm thấm nhập vào nội tâm của ông ta sự cứng lòng tin của các anh và những hạn chế nhân loại của các anh. Nhưng chúng ta về nhà đi. Những người khác đã tới trước chúng ta rồi...”
Simon đi theo Người, hơi bỉ mặt. Khi họ gần tới ngưỡng cửa thì ông giữ Người lại và nói: “Anh ơi, anh nổi sóng với tôi à?”
- Không. Nhưng tôi cố gắng đào tạo anh cũng như tôi đào tạo các môn đệ khác. Đã chẳng có lần anh nói với tôi là anh muốn làm môn đệ sao?
- Đúng, Giêsu. Nhưng những lần trước anh không nói như vậy, kể cả khi anh khiển trách. Anh dịu dàng hơn...
- Và điều đó có ích gì? Những lần trước tôi đã như vậy. Đã hai năm rồi tôi như vậy... Các anh ngồi lên sự kiên nhẫn của tôi và lòng tốt của tôi, hoặc các anh đã mài nhọn răng nanh và móng vuốt của các anh. Tình yêu đã giúp các anh làm tổn hại cho tôi. Có đúng không nào?...
- Ừ, đúng. Nhưng như vậy là anh không còn tốt nữa?
- Tôi sẽ ngay chính. Và dù tôi là thế, tôi luôn luôn là người mà các anh không đáng, ôi các anh, Israel, những người không muốn nhìn nhận tôi là đấng Messi đã được hứa ban.
Họ đi vào trong căn phòng nhỏ, nó chật chội tới nỗi có những người đã bỏ để xuống bếp hoặc qua xưởng mộc của Giuse, và đó là các tông đồ, ngoại trừ hai người con ông Alphê thì ở lại gần mẹ họ
11
và chị dâu họ. Bây giờ Maria tới họp bầy với họ. Mẹ vào, dắt tay thằng bé Alphê. Người ta còn thấy rõ trên khuôn mặt Maria những vết nước mắt mẹ đã đổ ra.
Khi Simon bảo đảm với mẹ là ông sẽ tới nhà mẹ mỗi ngày, mẹ sắp sửa trả lời ông thì trong ngõ hẻm vắng, một chiếc xe lừa tiến tới với rất nhiều tiếng ồn ào của các lục lạc. Nó lôi kéo bởi sự huyên náo và làm các con của Alphê chú ý. Và khi người ta gõ ở phía ngoài thì người ta mở ở phía trong cùng một lúc. Khuôn mặt vui vẻ của Simon Phêrô hiện ra, vẫn còn ngồi trên xe, vì ông gõ cửa bằng cái cán roi... Porphyrê ở bên cạnh ông, bẽn lẽn nhưng tươi cười, ngồi trên một đống két như chiếc ngai của bà.
Margziam chạy ra ngoài để chào bà mẹ nuôi của nó. Những người khác cũng ra, kể cả Giêsu.
- Thưa Thầy, con đây. Con dẫn theo bà xã của con, và trang bị như vầy, vì nó là người đàn bà không thể đi đường trường. Maria, nguyện Chúa ở cùng mẹ, và với bà, Maria Alphê - ông nhìn mọi người khi ông xuống khỏi xe và giúp cho vợ ông xuống, và ông chào mọi người.
Người ta muốn giúp ông bỏ đồ xuống khỏi xe, nhưng ông phản đối mạnh mẽ: “Lát nữa đã! Lát nữa đã!” ông nói, và một cách tự nhiên, ông đi lại cái cửa lớn của xưởng mộc của Giuse và mở ra hết cỡ để thử đem cái xe với hết những đồ ở trên đó vào. Đương nhiên là nó không thể đi qua. Nhưng cách xoay xở của ông làm giải khuây cho các người khách, và cho họ hiểu là họ qúa đông... Và qủa vậy, Simon Alphê ra về cùng với gia đình ông...
- Ôi! Bây giờ còn mình chúng ta, hãy nghĩ đến chúng ta... - Simon Jonas nói trong khi cho lùi chiếc xe lừa, nó gây ra sự ồn ào bằng mười chiếc, vì nó đeo đầy những lục lạc, đến nỗi Giacôbê Zêbêđê không nín được nên vừa cười vừa hỏi: “Nhưng anh kiếm được nó ở đâu mà kỳ cục như vậy?”
Nhưng Phêrô đang bận lấy những cái két ở trên xe để trao cho Gioan và Andrê. Hai ông chuẩn bị đỡ cách thận trọng, vì tưởng là nó nặng. Nhưng rồi họ ngạc nhiên vì các két nhẹ tâng. Họ nói lớn tiếng biểu lộ sự ngỡ ngàng.
12
- Hãy luồn hết ra ngoài vườn và đừng làm các chim sẻ sợ - Phêrô ra lệnh trong khi ông cũng xuống khỏi xe với một cái két nhỏ nặng thực tình mà ông đặt trong góc phòng.
- Và bây giờ, đến lượt con lừa và cái xe? Con lừa và cái xe? Con lừa và cái xe!... Cái này khó, a!... Nhưng tất cả phải ở trong nhà...
- Ngoài vườn ấy Simon à - Maria nói nhỏ nhẹ. “Có một chỗ khuất ở bên trong hàng rào, ở cuối vườn. Người ta không nhìn thấy đâu, vì nó khuất cây cối... Nhưng có một chỗ. Hãy theo lối ngõ dọc theo nhà, giữa nhà mình và vườn nhà bên cạnh. Mẹ chỉ cho con lối vào... Phải có ai tới dẹp những cây cối chằng chịt phủ đầy chỗ đó”.
- Con. Con. - Mọi người đều chạy lại chỗ cuối vườn trong khi Phêrô đi ra với cái hệ thống trang bị ồn ào của ông và Maria Alphê khép cửa lại. Với một cái liềm, họ cắt cái hàng rào hoang dại, mở lối vào nhà chòi và hướng dẫn con lừa với cái xe vào.
- Tốt. Bây giờ chúng ta lấy ra hết những thứ đồ làm tôi bể lỗ tai này ra! - Và Phêrô bắt đầu cắt những sợi giây buộc các lục lạc vào bộ thắng xe.
- Nhưng tại sao trước anh lại để như vậy? - Andrê hỏi.
- Để tất cả Nazarét đều nghe thấy tôi tới. Và tôi đã thành công việc đó... Bây giờ tôi tháo hết ra để Nazarét không nghe thấy tôi đi. Chính vì vậy mà tôi chất những cái két rỗng... Chúng ta sẽ ra đi với những cái két đầy, và không ai, nếu có ai thấy chúng ta, họ sẽ không ngạc nhiên thấy một người đàn bà ngồi trên cái két ở bên cạnh tôi. Cái người đang ở xa đây luôn khoe khoang là ông ta có giác quan thính và thực tiễn, nhưng khi tôi muốn, tôi cũng có...
- Nhưng anh ơi, tại sao lại cần tất cả những chuyện đó? - Andrê hỏi trong khi ông dắt con lừa lại gần bên cái lò để cho nó uống nước.
- Tại sao? Chú chưa biết à?... Thầy ơi, họ chưa biết gì hết sao?
- Chưa, Simon. Thầy chờ con để nói. Tất cả hãy vào trong xưởng mộc đi. Các bà thì ở lại nơi họ đang ở. Con đã hành động như vậy là rất đúng, Simon Jonas.
Họ vào xưởng mộc, trong khi Porphyrê với đứa trẻ và hai bà Maria thì ở lại trong nhà.
13
- Thầy đã muốn các con tới đây, vì các con phải giúp Thầy lo cho Gioan Enđo và Sintica đi rất xa. Thầy đã quyết định điều này ngay từ dịp Lễ Lều. Các con đã thấy rõ rằng không thể nào giữ họ ở với chúng ta hay để họ ở đây, vì sẽ nguy hiểm cho họ. Cũng như mọi lần, Lazarô Bêtani đã giúp Thầy trong việc này. Họ đã được loan báo. Simon Phêrô đã biết từ vài ngày nay. Bây giờ các con sẽ biết. Đêm nay chúng ta sẽ rời Nazarét, dù là có mưa hay gió thay vì có trăng đầu tuần. Đáng lẽ chúng ta đã phải đi rồi, nhưng Thầy ức đoán là Phêrô gặp khó khăn trong việc tìm phương tiện vận chuyển...
- Và sao? Con đã hầu thất vọng vì không tìm được. Nhưng nhờ một tên Hy Lạp ghê tởm ở Tibêriat, nên sau cùng con đã có nó... Và cái đó sẽ dễ chịu...
- Ừ, sẽ dễ chịu, nhất là với Gioan Enđo.
- Ông ta đâu? Chúng ta không thấy ông? - Phêrô hỏi.
- Ở trong phòng với Sintica.
- Và... Họ đã đón nhận sự việc thế nào? - Phêrô lại hỏi.
- Với rất nhiều đau đớn. Người đàn bà cũng vậy.
- Và cả Thầy nữa. Trán Thầy đã khắc những vết nhăn mà trước đây không có. Thầy có đôi mắt nghiêm nghị và buồn - Gioan nhận xét.
- Đúng vậy, Thầy rất khổ... Nhưng hãy nói về những điều chúng ta phải làm. Hãy nghe Thầy cho rõ đây, vì sau đó chúng ta sẽ phải chia tay. Tối nay chúng ta sẽ ra đi vào giữa vọng canh thứ nhất. Chúng ta ra đi như những kẻ đi trốn vì có tội... dù chúng ta không làm điều gì xấu cả. Chúng ta không trốn vì đã hành động xấu, nhưng chúng ta ra đi để ngăn cản những người khác làm điều ác cho những kẻ không có đủ sức chịu đựng. Vậy chúng ta đi... Chúng ta sẽ đi con đường dẫn tới Séphoris... Rồi tới khoảng giữa đường, chúng ta sẽ nghỉ trong một căn nhà cho tới rạng sáng thì chúng ta lại đi. Đó là một căn nhà có nhiều hành lang cho súc vật nghỉ. Các mục đồng bạn của Isaac ở đó. Thầy biết họ, họ cho Thầy trọ không đòi hỏi gì. Rồi tuyệt đối chúng ta phải tới Jiphtael trước buổi tối và
14
nghỉ ở đó. Con có nghĩ rằng con vật có thể chịu đựng không?
- Chắc ăn mà Thầy. Tên Hy Lạp dơ bẩn đã bắt con trả đắt, nhưng đó là con vật tốt, rất giai sức.
- Tốt. Sáng hôm sau chúng ta sẽ đi Ptôlêmai và chúng ta sẽ chia tay. Các con, dưới sự chỉ huy của Phêrô là người các con phải vâng lời tối mặt, các con sẽ đi Tyr bằng đường biển. Ở Tyr, các con sẽ thấy một chiếc tàu đang chuẩn bị đi Antioche, các con lên đó và đưa lá thơ này cho người chủ tàu. Đây là thơ của Lazarô Théophile. Các con sẽ giống như các đầy tớ của ông, được sai tới miền đất của ông ở Antioche, hay đúng hơn là tới các khu vườn của ông ở Antigonêa. Tất cả các con sẽ là vậy. Hãy biết chú ý, đứng đắn, khôn ngoan và nín lặng. Khi tới Antioche, hãy tới ngay nhà Philíp, quản lý của Lazarô mà các con sẽ trao bức thơ này...
-Thưa Thầy ông ta biết con - Zêlote nói.
- Rất tốt.
- Nhưng làm sao ông ta tin con là một đầy tớ?
- Đối với Philíp thì không cần. Ông ta biết ông ta phải tiếp nhận và lo ăn ở cho hai người bạn của Lazarô, và giúp đỡ họ trong mọi sự. Điều đó đã viết trong thơ. Còn các con, các con đi kèm theo họ, không có gì khác. Ông ta sẽ gọi các con là “các bạn thân của ông ở Palestin”. Đó là điêu các con là. Hãy hoàn toàn hợp nhất với nhau trong đức tin và trong hành động mà các con hoàn thành. Các con sẽ nghỉ ngơi cho tới khi chiếc tàu xuống hàng và lên hàng xong và lại trở về Tyr. Từ Tyr, các con đi thuyền về Ptôlêmai, rồi từ đó, các con về gặp Thầy ở Aczib...
- Lạy Chúa, sao Thầy không đi với chúng con? - Gioan rên rỉ.
- Bởi vì Thầy ở lại để cầu nguyện cho các con, đặc biệt là cho hai kẻ khổ sở này. Thầy ở lại cầu nguyện và bắt đầu năm thứ ba đời sống công khai của Thầy như vậy. Nó bắt đầu bằng một sự ra đi rất buồn cũng như năm thứ nhất và năm thứ hai. Nó bắt đầu bằng việc cầu nguyện thống thiết và việc đền tội khắc khổ giống như năm thứ nhất... Bởi vì năm nay sẽ có những khó khăn đau đớn của năm thứ nhất và còn hơn nữa. Khi đó Thầy chuẩn bị để cải hóa thế
15
giới, bây giờ Thầy chuẩn bị một công việc to lớn hơn và rất mạnh mẽ hơn. Nhưng các con nghe cho rõ đây: Hãy biết rằng nếu năm thứ nhất Thầy đã là Người-Thầy, là hiền nhân kêu gọi tới sự khôn ngoan bởi một nhân tính thực sự và trọn lành của trí tuệ; và nếu năm thứ hai Thầy đã là Vị Cứu Tinh, là bạn, là tình thương đi qua trong khi đón nhận, tha thứ, thương yêu, chịu đựng, thì năm thứ ba Thầy sẽ là Thiên Chúa Cứu Chuộc, là Vua, là Đấng Chí Công. Vậy các con đừng ngạc nhiên nếu các con thấy nơi Thầy những thể diện mới, nếu trong Con Chiên, các con thấy sáng lên Đấng Mạnh Mẽ. Israel đã trả lời thế nào đối với lời mời gọi yêu thương của Thầy và đôi tay Thầy rộng mở để nói: “Hãy đến. Ta yêu và Ta tha thứ”? Bằng sự khép kín, bằng nhẫn tâm càng lúc càng gia tăng bởi các gian trá, cạm bẫy.
Thầy đã kêu gọi Israel trong mọi tầng lớp của nó trong khi Thầy cúi mặt xuống tận bụi đất. Nhưng họ đã khạc nhổ lên Sự Thánh Thiện nhún nhường. Thầy đã kêu gọi nó thánh hóa, nhưng nó trả lời Thầy bằng cách phó mình cho ma qủi. Thầy đã làm bổn phận của Thầy trong mọi sự, nhưng họ gọi bổn phận của Thầy là “tội”. Thầy nín lặng thì họ nói sự nín lặng của Thầy là bằng cớ tội trạng. Thầy nói thì họ bảo lời Thầy là phạm thượng.
Bây giờ đủ rồi!
Nó đã không để cho Thầy một phút nghỉ ngơi. Nó đã không chấp nhận cho Thầy niềm vui. Và niềm vui của Thầy là thấy các kẻ mới được sinh ra trong Ân Sủng lớn lên trong đời sống siêu nhiên. Chúng đã đặt cho họ những cạm bẫy, chúng đã giựt họ khỏi tay Thầy, làm cho họ, và đồng thời làm cho Thầy đau đớn giống như người cha và người con bị giật kẻ nọ ra khỏi kẻ kia, vì Thầy đã bảo vệ họ khỏi tay Israel độc ác.
Chúng, những kẻ quyền thế của Israel, tự xưng mình là “kẻ thánh hóa”, và khoe khoang vì là vậy, chúng ngăn cản Thầy, chúng muốn ngăn cản Thầy cứu vớt và vui mừng với những kẻ Thầy đã cứu.
Bây giờ Thầy có, từ biết bao tháng rồi, một Lêvi thâu thuế làm bạn và giúp Thầy, và thế giới coi xem Mathêu có bị bêu xấu hay
16
chèn ép không. Nhưng sự kết tội không chấm dứt, và nó sẽ không chấm dứt với Maria Lazarô và với bao nhiêu, bao nhiêu người khác mà Thầy sẽ cứu.
Bây giờ đủ rồi!
Thầy ra đi trên con đường của Thầy càng lúc càng cay chua và ướt đẫm nước mắt... Thầy ra đi... Nhưng không một giọt nước mắt nào của Thầy nhỏ xuống vô ích. Chúng kêu lên với Cha Thầy... Và rồi một thể dịch khác rất mạnh mẽ hơn nữa sẽ kêu lên. Thầy, Thầy ra đi. Kẻ nào yêu Thầy thì đi theo Thầy và tự củng cố cường lực, bởi vì giờ nghiêm khắc đang tới. Thầy không dừng lại. Không gì có thể ngăn chặn Thầy.
Chúng cũng không ngừng lại... Nhưng khốn cho chúng! Khốn cho chúng! Khốn cho những kẻ mà tình yêu trở thành công lý cho chúng!... Dấu hiệu của thời mới sẽ là một công lý nghiêm khắc cho những kẻ cố chấp trong tội của chúng, chống lại các lời Chúa và chống lại các hành động của Ngôi Lời của Chúa!...
Giêsu giống như một Tổng Lãnh trừng trị. Tôi nói Người như ngọn lửa cháy ở trước bức tường đen vì khói, đôi mắt Người rực sáng chừng nào!... Tựa như cả đến tiếng nói của Người cũng sáng rực, vì nó có những cung bắc như tiếng đồng tiếng bạc bị đập mạnh.
Tám vị tông đồ tái mét, co quắp lại vì sợ. Giêsu nhìn họ với tình yêu xót thương, Người nói: “Thầy không nói vậy với các con đâu, các bạn Thầy. Những đe dọa này không phải cho các con đâu. Các con là tông đồ của Thầy và chính Thầy đã chọn các con”. Giọng Người trở nên êm dịu và sâu sắc. Người chấm dứt: “Chúng ta hãy sang phòng bên kia để làm cho hai kẻ bị bách hại hiểu - Thầy nhắc lại với các con rằng họ vẫn tin là họ đi dọn đường cho Thầy tại Antioche - mong rằng chúng ta yêu họ hơn chính mình chúng ta. Nào, đi...”
2* KHỞI HÀNH TỪ NAZARÉT
17
Đây là buổi tối. Một buổi tối từ giã nữa của căn nhà nhỏ Nazarét và các người cư ngụ ở đó. Một bữa ăn tối nữa, trong đó sự đau buồn làm cho thực phẩm không còn hấp dẫn gì đối với miệng lưỡi, và làm nín thinh mọi nhân vật. Giêsu ngồi ở bàn cùng với Gioan Enđo, Sintica và Phêrô, Gioan, Simon, Mathêu. Những người khác không thể ngồi tại bàn đó. Chiếc bàn của nhà Nazarét qúa nhỏ! Nó đã được làm để dùng cho một gia đình nhỏ thôi, nơi mà cùng lắm có thể ngồi thêm một người hành hương hay một người đau khổ nữa, để bồi dưỡng cho họ bằng tình yêu hơn là bằng thực phẩm! Tối hôm đó, tối đa là có thể ngồi thêm Margziam nữa, vì nó là con nít, nó rất gầy và chiếm ít chỗ.
Nhưng Margziam, rất đoan trang và yên lặng, ăn tại một góc, ngồi trên một cái ghế nhỏ ở gần chân Porphyrê mà Đức Trinh Nữ đã xếp cho ngồi trên cái ghế để ngồi dệt vải. Êm đềm và lặng lẽ, nó ăn những đồ người ta cho nó, mắt luôn luôn nhìn với tình thương hai người sắp sửa đi đang cố gắng nuốt đồ ăn của họ, đầu cúi xuống để che khuôn mặt của họ bị cháy vì nước mắt.
Những người khác, tức là hai con ông Alphê, Andrê và Giacôbê Zêbêđê thì ngồi trong nhà bếp, ở gần cái giống như thùng nhào bột, nhưng qua chiếc cửa mở, người ta nhìn thấy họ.
Đức Thánh Trinh Nữ và Maria Alphê đi lại phục vụ người nọ người kia với tình mẫu tử lo âu và buồn. Nếu Đức Maria Rất Thánh âu yếm những người mà mẹ đến gần bằng nụ cười của Người, qúa dịu dàng trong buổi tối này, thì Maria Alphê ít dè giữ hơn và thân thiện hơn, nối kết nụ cười với các cử chỉ, các lời nói, và thêm vào đó cả những cái hôn hay cái vuốt ve, tùy theo loại người được hưởng, khích lệ người nọ người kia dùng thực phẩm, giới thiệu những món đặc biệt nhất tùy nhu cầu của mỗi người đối với cuộc hành trình này. Tôi tin là vì tình thương mến đối với Gioan, vì ông mệt mỏi, và đã trở thành gầy mòn hơn trong những ngày chờ đợi này, bà như muốn tặng chính mình bà làm thực phẩm, bởi vì bà cố gắng chừng nào để thuyết phục ông ăn thứ nọ thứ kia, tán tụng các mùi
18
vị và các đặc tính bổ dưỡng của nó. Nhưng mặc dầu những sự hấp dẫn của bà, các đồ ăn hầu như vẫn còn nguyên trong đĩa của Gioan, và Maria Alphê khổ sở như một bà mẹ thấy con nhỏ của bà từ chối vú mẹ.
- Nhưng con ơi! Con không thể ra đi như vầy - bà kêu lên. Và trong tâm hồn người mẹ của bà, bà không suy nghĩ rằng Gioan cũng gần bằng tuổi bà, và tiếng “con” không thích đáng. Nhưng bà chỉ thấy nơi ông một con người đau khổ, và bà chỉ tìm được tên đó để an ủi ông thôi... “Hành trình với bao tử rỗng trên một chiếc xe lắc lư, trong cái lạnh ẩm ướt của ban đêm, điều đó sẽ làm con bệnh. Vả nữa, ai biết qúi vị sẽ ăn uống ra sao trong suốt cuộc hành trình dài và ghê gớm này!... Lạy Tình Thương muôn đời! Ở trên biển trong bao nhiêu dặm! Tôi, tôi sẽ chết vì sợ! Và đi theo bờ của người Phênici, và rồi!... Chắc chắn sẽ còn tệ hơn, và hẳn tên chủ tàu sẽ là người Philitin hoặc một người Phênici hay một người thuộc một dân hỏa ngục nào đó... Và ông ta sẽ không thương hại đâu... Vậy trong khi còn được ở gần người mẹ yêu thương con!... Ăn đi: một miếng nhỏ của món cá tuyệt vời này thôi. Chỉ để làm vui lòng Simon Jonas, ông đã chuẩn bị nó tại Bétsaiđa với biết bao tình yêu, và hôm nay ông đã chỉ cho má cách làm cho con và cho Giêsu, để tẩm bổ cho qúi vị. Cái này con không ăn được sao?... Ôi! Vậy con sẽ ăn cái này!” Và bà chạy vào nhà bếp, rồi mang ra một nồi cháo bốc khói, tôi không biết là loại cháo gì... Chắc chắn đây là một loại bột hoặc một loại hạt nấu chín với sữa cho tới khi thành cháo nhừ: “Coi này, má làm cái này vì má nhớ có một bữa con đã nói với má về nó như một kỷ niệm êm đềm thời thơ ấu của con... Nó ngon và bổ. Nào, ăn một tí đi”.
Gioan để cho bà tiếp cho ông mấy muỗng cháo này vào đĩa của ông và cố gắng nuốt, nhưng nước mắt rơi xuống để trộn thêm muối vào đồ ăn trong khi ông cúi đầu xuống hơn nữa.
Những người khác ca tụng rối rít món này, chắc là ngon lắm đối với họ. Các khuôn mặt sáng rỡ khi nhìn thấy nó và Margziam đứng phắt dậy... Nhưng rồi nó cảm thấy cần phải hỏi ý kiến đức Trinh
19
Nữ: “Con có thể ăn món này không? Còn năm ngày nữa mới hết lời khấn...”
- Được, con ơi. Con có thể ăn. - Maria nói trong khi vuốt ve nó.
Nhưng đứa trẻ còn hơi lưỡng lự. Lúc đó Maria, để làm yên sự ngại ngùng của đứa môn đệ nhỏ, liền can thiệp với con mẹ: “Giêsu ơi, Margziam hỏi nó có được ăn cháo lúa mạch nghiền không?... Bởi vì có mật ong bỏ vào cho nó dịu, con biết đó...”
- Được, được, Margziam. Chiều nay Thầy miễn cho sự hy sinh của con, với điều kiện là Gioan cũng ăn phần lúa mạch nấu mật ong của ông. Coi, đứa trẻ thèm chừng nào? Vậy hãy giúp cho nó được ăn món này - và Giêsu cầm tay đứa trẻ, đứng ở gần Gioan. Người giữ tay nó như vậy trong khi Gioan cố gắng ăn hết phần cháo lúa mạch của ông vì vâng lời.
Bây giờ Maria Alphê bằng lòng hơn, và bà lại tấn công với một khay đầy trái lê bỏ lò, bốc khói nghi ngút. Bà từ ngoài vườn vào với cái khay của bà và nói: “Trời mưa. Bắt đầu mưa rồi. Tội nghiệp chừng nào!”
- Nhưng không. Trái lại càng tốt. Như vậy sẽ không có ai ở trên đường. Khi khởi hành, các lời chào hỏi luôn luôn không tốt... Tốt hơn là chuồn đi với gió và cánh buồm mà không đụng đáy cạn hay đá ngầm, gây ra những ngừng trệ hay chậm chạp. Và sự tò mò chính là đáy cạn và đá ngầm... - Phêrô nói, vì trong mọi biến cố, ông đều nhìn thấy cánh buồm và sự bơi thuyền.
- Cám ơn Maria. Nhưng tôi không ăn gì nữa đâu - Gioan nói trong khi tìm cách từ chối ăn trái cây.
- A! Điều đó thì không được. Chính Maria đã nấu nó. Con muốn khinh dể đồ ăn Người đã sửa soạn sao? Coi này, Người đã sửa soạn nó kỹ lưỡng chừng nào! Với các gia vị đút trong các lỗ nhỏ... Và có bơ ở bên dưới. Cái này đúng là đồ tráng miệng của ông vua, một thứ si-rô. Mẹ cũng đỏ gay vì lửa lò để nó vàng đúng mức. Và cái này tốt cho cổ họng, ăn khỏi ho... Nó sưởi ấm và chữa bệnh. Maria, hãy nói với Gioan, nó thành công chừng nào cho ông Alphê của chị khi ông ta bệnh. Và ông đã muốn nó được làm bởi tay em. Hé,
20
đúng. Là vì bàn tay em thánh và ban sức khỏe!... Thật đáng chúc tụng các món mà em đã nấu! Ông Alphê của chị, ông ấy bình tĩnh hơn sau khi ăn những trái lê như vầy... Hơi thở của ông êm đềm hơn... Ông chồng tội nghiệp của tôi!... - Và Maria chộp lấy cơ hội về kỷ niệm này để sau cùng có thể khóc. Và bà ra ngoài để khóc. Có lẽ tôi ức đoán độc, nhưng tôi tin rằng nếu không có tình thương đối với hai kẻ sắp ra đi thì ông “Alphê tội nghiệp” chẳng được một giọt nước mắt nào của vợ ông buổi chiều hôm đó. Maria Alphê hết sức rầu rĩ cho Gioan, Sintica, và cho Giêsu, Giacôbê và Juđa, những kẻ sắp ra đi, đến nỗi bà mở rộng cái đập của nước mắt bà để không bị ngộp.
Vậy Maria thay thế bà bằng cách đặt tay trên vai Sintica đang ngồi trước mặt Giêsu, ở giữa Simon và Mathêu: “Nào, ăn đi. Qúi vị muốn ra đi và để lại cho tôi cái lo âu vì qúi vị ra đi hầu như lòng không sao?”
- Mẹ ơi, con thì con ăn chứ ! - Sintica nói trong khi cô ngửa lên khuôn mặt mệt mỏi, có ghi dấu những nước mắt mà cô đã đổ ra trong nhiều ngày nay. Rồi cô nghiêng đầu trên vai, nơi có bàn tay của Maria, cà má cô trên bàn tay nhỏ để được vuốt ve. Maria vuốt tóc cô bằng bàn tay kia, rồi ôm đầu Sintica vào lòng. Bây giờ Sintica úp mặt vào lòng mẹ.
- Ăn đi Gioan. Cái này thực sự tốt cho con đó. Con cần giữ cho khỏi bị lạnh. Con, Simon Jonas, con canh chừng và cho ông ta uống sữa nóng với mật ong mỗi buổi chiều, hay ít nhất là nước thật nóng pha mật ong. Con nhớ điều đó.
- Mẹ ơi, xin mẹ an lòng. Con cũng sẽ lo điều đó - Sintica nói.
- Đúng, mẹ chắc chắn vậy. Nhưng con sẽ làm điều đó khi con đã ở Antioche. Lúc này thì Simon Jonas sẽ lo việc đó. Và Simon, con cũng hãy nhớ cho ông ta nhiều dầu oliu. Chính vì vậy mà mẹ đã giao cho con cái hũ đó. Cẩn thận đừng làm bể nó. Và nếu con thấy là hơi thở ông ta trở nên khó khăn thì hãy làm như mẹ đã bảo con với hũ dầu khác đó. Hãy lấy những gì cần thiết để xức dầu trên ngực, vai và thắt lưng. Hãy hâm nóng nó cho tới khi rờ thấy nóng
21
nhưng không bỏng, rồi thoa bóp xong thì trùm lại ngay bằng những tấm len mà mẹ đã cho con. Mẹ đã chuẩn bị nó với dụng ý đó. Và con, Sintica, con nhớ lấy các thành phần của nó để chế tạo thêm. Con luôn luôn có thể tìm thấy hoa huệ, hoa long não, hoa bạch tiến, nhựa thông, hoa cẩm chướng với cây nguyệt quế, cây ngải hương và các thứ khác. Mẹ nghe nói là ở đó, ở Antigonéa, Lazarô có một vườn các thứ cây cho tinh dầu.
- Và rất huy hoàng - Zêlote nói, vì ông đã nhìn thấy, và ông thêm: “Con, con không khuyên nhủ gì cả, nhưng con nói là với Gioan, đó là nơi tuyệt vời cho ông cả về tâm hồn lẫn thể xác, còn hơn là ở Antioche. Đó là nơi khuất gió, không khí nhẹ nhàng đến từ rừng thông ở quanh sườn một ngọn đồi ở gần đó. Nó bảo vệ cho khỏi gió biển, nhưng nó cũng cho phép muối và những thứ tốt của biển bay được tới đó. Một nơi bình an, lặng lẽ, nhưng vui với hằng hà sa số hoa lá và chim chóc sống trong bình an... Sau cùng, qúi vị sẽ thấy là nó thích hợp với qúi vị hơn. Sintica rất giỏi dắn, và những thứ như vậy thì tốt để giao phó cho bàn tay phụ nữ, có phải không?”
- Qủa vậy, Thầy đích xác giao phó Gioan cho giác quan tốt và tấm lòng tốt của Sintica - Giêsu nói.
- Con cũng vậy - Gioan Enđo nói. “Con... con... con không còn một tí sinh lực nào nữa... và... con không bao giờ ích lợi cho việc gì khác nữa”.
- Gioan, đừng nói như vậy. Khi mùa thu lột hết lá của cây cối, đừng nói là nó trơ trơ. Trái lại, nó làm việc với một nghị lực giấu kín để chuẩn bị cho chiến thắng của hoa trái sắp tới. Đối với anh cũng vậy. Bây giờ anh bị trần trụi bởi gió lạnh và sự đau khổ này, nhưng trong thực tế, tận đáy lòng anh, anh đã làm việc cho sứ mạng mới. Chính sự đau khổ của anh cũng thúc đẩy anh tới hành động. Tôi, tôi chắc chắn điều đó. Rồi anh sẽ là, anh luôn luôn sẽ là kẻ giúp tôi, một người đàn bà tội nghiệp, còn phải học hỏi biết bao nữa để có thể trở nên một cái gì của Giêsu.
- Ôi! Vậy cô muốn từ nay tôi sẽ là gì?! Tôi không còn gì để làm nữa... Đã chấm dứt cho tôi rồi!
22
- Không. Nói như vậy là không tốt! Chỉ có người chết mới có thể nói: “Tôi chấm dứt làm người”, những người khác thì không. Anh nghĩ là anh không còn gì để làm nữa sao? Anh vẫn còn cái điều mà một bữa kia anh đã nói với tôi: làm trọn lễ Hy Sinh. Và bằng cách nào nếu không phải bằng cách chịu đựng. Gioan, đối với anh, nhà giáo, thì việc trích dẫn lời khôn ngoan là việc cầu kỳ, nhưng tôi nhắc lại cho anh về Gorgias Léontine, ông đã dạy rằng người ta đền tội ở đời này cũng như đời sau bằng sự đau đớn và sự chịu đựng. Và tôi cũng nhắc lại cho anh vị Socrate vĩ đại của chúng tôi rằng: “Bất tuân những kẻ ở trên chúng ta, dù là Thiên Chúa hay là loài người, đều là xấu và đáng hổ ngươi”. Vậy nếu là chính đáng khi làm để vâng lời phán quyết bất công của một kẻ bất chính, thì sẽ thế nào đối với mệnh lệnh ban bố bởi một người rất thánh và bởi Thiên Chúa chúng ta? Nếu vâng lời là điều lớn lao bởi vì nó là vâng lời, thì sẽ là rất lớn lao việc vâng lời một mệnh lệnh thánh mà tôi, tôi cho là, và cùng với tôi, anh cũng phải cho là một tình thương bao la. Anh không ngừng nói là đời anh đã tới hồi kết thúc mà anh chưa cảm thấy hủy bỏ được những món nợ của anh đối với công bằng. Vậy tại sao anh không dùng sự đau đớn lớn lao này làm phương tiện để hủy bỏ những món nợ này, và làm việc này trong một thời gian vắn mà anh còn lại? Một đau khổ lớn để được một bình an lớn. Hãy tin tôi là sự đau khổ rất có giá. Một điều quan trọng duy nhất của đời sống là đi tới cái chết sau khi đã chinh phục các nhân đức.
- Sintica, cô làm tôi được thêm can đảm. Hãy luôn luôn làm như vậy.
- Tôi sẽ làm. Tôi hứa điều đó với anh tại đây, với con người kép của tôi: là người và là Kitô hữu.
Bữa ăn chấm dứt. Maria thu lượm các trái lê còn lại, bỏ vào một chiếc keo và đưa cho Andrê. Ông này đi ra rồi lại trở vào và nói: “Trời mưa lớn hơn. Tôi nói tốt hơn là nên...”
- Ờ, chờ thì luôn luôn là kéo dài cơn hấp hối. Tôi đi sửa soạn con vật lập tức. Và qúi vị cũng vậy, hãy mang hòm xiểng và các thứ ra. Cả bà nữa, Porphyrê. Mau đi! Bà kiên nhẫn cũng như con lừa, sung
23
sướng để cho người ta mặc đồ cho, không hề bướng bỉnh. Sau đó Andrê, người giống như tính bà, sẽ lo việc đó. Nào, lên đường thôi! - Và Phêrô đẩy mọi người ra khỏi nhà bếp, ngoại trừ Maria, Giêsu, Gioan Enđo và Sintica.
- Thầy ơi! Ôi! Thầy ơi! Giúp con với! Đã tới giờ phải... Con cảm thấy qủa tim con bị nứt ra. Đúng! Đã tới giờ. Ôi! Giêsu nhân từ! Tại sao Thầy không làm cho con chết tại đây, sau khi đã tan nát vì con bị kết án, và sau khi đã cố gắng để lãnh nhận nó?! - Và Gioan lăn vào lòng Giêsu, khóc lóc lo âu cùng độ.
Maria và Sintica cố gắng làm cho ông bình tĩnh. Và Maria, mặc dầu vẫn giữ gìn, cũng gỡ ông ra khỏi Giêsu, ôm ông và gọi ông là: “Con yêu, đứa con ưu ái của mẹ...”
Lúc này Sintica qùi gối tại chân Giêsu và nói: “Xin Thầy chúc lành cho con, thánh hiến con để con được củng cố. Lạy Chúa, Vị Cứu Tinh, Vua của con, nơi đây, trước mặt mẹ Thầy, con hứa và thề sẽ đi theo giáo lý của Thầy và phục vụ Thầy tới hơi thở sau cùng. Con hứa và thề sẽ hiến mình cho giáo lý của Thầy và cho những kẻ theo Thầy, vì tình yêu đối với Thầy là Thầy và là Vị Cứu Tinh của con. Con hứa và thề rằng đời con sẽ không còn mục đích nào khác, và tất cả những gì thuộc về thế gian, xác thịt đã chết dứt khoát đối với con. Vậy với ơn trợ lực của Thiên Chúa và lời cầu nguyện của mẹ Thầy, con hy vọng sẽ toàn thắng ma qủi để nó không đưa con vào sai lầm, và vào giờ Thầy phán xét, con không bị luận phạt. Con hứa và thề rằng những quyến rũ và những đe dọa không làm cho con lùi bước, và con sẽ nhớ điều đó nếu Thiên Chúa không định cho con thế khác. Nhưng con trông cậy nơi Người và con tin ở lòng nhân từ của Người, điều đó làm con chắc chắn rằng Người không để mặc kệ con cho những sức mạnh lớn hơn con. Ôi! Chúa, xin hãy thánh hiến tôi tớ Người, để nó được bảo vệ cho khỏi mọi cạm bẫy của tất cả kẻ thù”.
Giêsu đặt tay trên đầu cô, bàn tay mở ra như các linh mục vẫn làm, và Người cầu nguyện trên cô.
Maria dắt Gioan lại bên Sintica, bảo ông qùi xuống và nói: “Con
24
ơi, cả nó nữa, để nó phục vụ con trong sự thánh thiện và bình an”.
Và Giêsu nhắc lại cử chỉ của Người trên cái đầu cúi xuống của Gioan. Rồi Người nâng ông dậy và bảo Sintica đứng dậy. Người đặt tay họ trong tay Maria và nói: “Mẹ sẽ là người sau cùng âu yếm các con ở đây”. Và Người bước ra ngoài rất lẹ để đi đâu tôi không biết.
- Mẹ ơi, vĩnh biệt! Con sẽ không bao giờ quên những ngày này - Gioan rên rỉ.
- Mẹ cũng không. Mẹ sẽ không quên con, con cưng!
- Mẹ ơi, con cũng vậy... Vĩnh biệt. Cho phép con hôn mẹ một lần nữa... Ôi! Sau bao năm trường, con lại được no đầy những cái hôn từ mẫu, rồi bây giờ lại không còn nữa... - Sintica khóc trong vòng tay ôm của Maria.
Gioan nức nở không hãm được. Maria ôm cả ông nữa. Bây giờ mẹ có cả hai trong vòng tay mẹ, thực là mẹ của các Kitô hữu, và mẹ phớt nhẹ làn môi rất trong sạch của Người trên má sù sì của Gioan, một cái hôn nết na nhưng rất yêu thương. Và cái hôn đã để lại những nước mắt đồng trinh trên gò má hốc hác...
Phêrô bước vào: “Sẵn sàng rồi, chúng ta đi thôi...” Và ông không nói thêm một lời nào nữa vì xúc động.
Margziam vẫn theo bố nó như hình với bóng. Nó níu lấy cổ Sintica và hôn cô. Nó cũng cho Gioan những cái hôn, rất nhiều cái hôn... Nó cũng khóc.
Họ đi ra. Maria cầm tay Sintica, Margziam cầm tay Gioan.
- Áo khoác của chúng tôi... - Sintica vừa khóc vừa nói, và cô đang tính trở vào.
- Chúng đây rồi, đây rồi. Cầm lấy lẹ đi... - Phêrô nói cứng cỏi để khỏi cảm động. Nhưng ở đàng sau hai người đã trùm áo khoác, ông lau nước mắt bằng mu bàn tay ông...
Đàng kia, ở bên ngoài hàng rào, ánh sáng lay lắt của chiếc xe tạo thành một vệt vàng trong bầu khí tối... Hạt mưa gây những tiếng động trên lá oliu, vang lên từ những vũng nước... Một con chim câu gù gù kêu than vì bị thức giấc bởi ánh đèn mà các tông đồ
25
mang che dưới áo khoác, soi thật thấp lối đi đầy vũng nước... Giêsu đã ở bên cạnh xe mà họ đã căng một cái mền làm mui.
- Đi thôi! Đi thôi! Mưa to! - Phêrô nói để hối thúc họ, trong khi Giacôbê Zêbêđê thế chỗ của Porphyrê ở bên giây cương thì Phêrô, không nghĩ ngợi gì cả, ôm thốc Sintica từ dưới đất và đặt vào trong xe, và còn lẹ hơn nữa, ông nắm lấy Gioan, giơ lên và bỏ vào xe. Rồi ông cũng lên, và lập tức ông cho con lừa tội nghiệp một quất thật mạnh, làm nó lật đật tiến lên lẹ tới nỗi Giacôbê suýt té ngửa. Phêrô tiếp tục như vậy cho tới khi họ ra tới lộ chính ở một quãng xa nhà... Một tiếng kêu vĩnh biệt nữa của các kẻ ra đi vẫn khóc không hãm được...
Ra khỏi Nazarét, Phêrô cho con vật dừng lại để chờ Giêsu và các người khác. Họ mau chóng tới nơi bằng cách bước nhanh dưới mưa rào.
Họ đi vào con đường băng qua các khu vườn để tới phía bắc của thành phố mà không đi qua. Nhưng Nazarét đã chìm trong đêm và nó ngủ dưới nước mưa giá lạnh của đêm đông... Và tôi tin là tiếng động của móng lừa, rất ít cảm thấy trên đất nhão, ngay cả những người tình cờ thức giấc cũng không nhận ra...
Đoàn người tiến bước trong sự yên lặng tuyệt đối, chỉ nghe thấy tiếng nấc của hai môn đệ pha lẫn với tiếng hạt mưa rơi trên lá oliu.
3* ĐI VỀ JIPHTAEL
Chắc hẳn trời đã mưa suốt đêm, nhưng về sáng có gió khô nổi lên, đẩy các đám mây về phía nam, tới bên ngoài các ngọn đồi của Nazarét. Cũng vậy, mặt trời mùa đông e lệ đã dám ló ra, và các tia của nó thắp sáng các hạt kim cương trên lá oliu. Nhưng đó là y phục đại hội mà các cây oliu bị mất mau lẹ vì gió lay lắc chòm lá của nó, làm rơi hết các kim cương và mất đi trong cỏ phủ đầy sương hay trên đường lầy bùn.
Phêrô, với sự giúp đỡ của Giacôbê và Andrê, chuẩn bị chiếc xe
26
và con lừa. Những người khác chưa thấy xuất hiện. Nhưng rồi họ, người nọ sau người kia, ra khỏi nhà bếp, có lẽ vậy, vì họ nói với ba người ở ngoài: “Bây giờ các anh đi ăn đi”, và ba ông này vào, rồi ra mau chóng một lát sau đó, và lần này có cả Giêsu.
- Con khoác chiếc mền vì có gió - Phêrô cắt nghĩa. “Nếu thực sự Thầy muốn đi Jiphtael thì nó ở trước mặt chúng ta... và sẽ giá lạnh. Con không biết tại sao chúng ta không đi con đường về hướng Sicaminon rồi đi theo bờ... nó xa hơn nhưng dễ đi hơn. Thầy có nghe người mục đồng mà con đã bảo hát một cách khéo léo không? Anh ta nói: ‘Jotapate, trong những tháng mùa đông thì bị cô lập. Chỉ có một con đường để tới đó, và với đàn chiên thì người ta không tới đó được. Người ta không thể mang gì trên vai, vì nhiều chỗ phải đi bằng tay thay vì chân, và các con chiên thì không biết bơi... Có hai dòng nước thường đầy ngập, và chính con lộ cũng là một con suối chảy trên nền đá. Tôi, tôi đã tới đó sau Lễ Lều, ngay giữa mùa xuân, và tôi đã bán những món bở ở đó, vì họ mua trừ bị cho nhiều tháng’. Đó là điều anh ta nói... Và chúng ta... với thứ trang bị này (và ông đá chân vào bánh xe), và con lừa này... Hum!...”
- Con đường hướng từ Séphoris tới Sicaminon thì tốt hơn, nhưng nó rất đông người qua lại. Con hãy nhớ rằng không nên để lại những dấu vết của Gioan...
- Thầy có lý. Chúng ta cũng có thể gặp Isaac và các môn đệ... Lại nữa, ở Sicaminon!... - Zêlote nói.
- Vậy thì đi...
- Tôi đi gọi hai người đó... - Andrê nói.
Và trong khi Andrê đi, Giêsu từ biệt một bà già và một đứa trẻ vừa ra khỏi chuồng súc vật với một xô sữa. Người mục đồng râu xồm xoàm cũng tới, Giêsu cám ơn ông vì đã cho trọ qua đêm mưa. Gioan và Sintica đã ở trên xe do Phêrô điều khiển hướng ra lộ. Giêsu có Zêlote và Mathêu hộ vệ. Ở đàng sau Người, Andrê, Giacôbê, Gioan và hai con ông Alphê bước vội vã để bắt kịp Người.
Gió cắt da mặt và thổi phồng áo khoác. Chiếc mền căng làm mui xe đập phành phạch tựa như cánh buồm, mặc dầu nước mưa đã
27
làm cho nó nặng. Phêrô lẩm bẩm khi nhìn nó: “Được, cầu cho nó khô lẹ, miễn là nó không làm khô buồng phổi của mấy người tội nghiệp này!... Chờ tí, Simon Jonas... Ta làm như vầy”. Ông ngừng con lừa lại, cởi áo khoác của ông, chui vào trong xe và phủ cho Gioan cách rất cẩn thận.
- Nhưng tại sao? Tôi có áo của tôi rồi...
- Bởi vì tôi, điều khiển con lừa, tôi đã nóng như ở trong lò rồi. Lại nữa, tôi có thói quen, tôi ở trần trên thuyền, và hơn bao giờ hết, tôi ở trần khi có bão. Cái lạnh kích thích tôi và tôi lẹ làng hơn. Nào, hãy phủ kín cẩn thận như vậy. Maria tại Nazarét đã dặn dò tôi biết bao, biết bao rằng nếu anh trúng lạnh thì tôi không bao giờ được phép đến trước mặt mẹ nữa...
Ông xuống chỗ ngồi và cầm giây cương, giục con lừa bước. Nhưng mau chóng, ông phải xin em ông và cả Giacôbê giúp để con lừa có thể ra khỏi chỗ lầy bùn, vì bánh xe lún. Họ tiến bước, thay nhau đẩy xe để giúp con lừa. Bộ vó lực lưỡng của nó bị cứng trong bùn, và con vật tội nghiệp kéo xe, làm bắn bùn tung tóe, thở hổn hển vì mệt và vì thèm, vì Phêrô kích thích bước đi của nó bằng cách giơ ra cho nó một miếng bánh và những cái lõi táo mà ông chỉ cho nó khi dừng lại mà thôi.
- Simon Jonas, anh là tên lừa đảo! - Mathêu nói đùa khi quan sát cách điều hành của Phêrô.
- Không. Tôi ép con vật vào bổn phận của nó, và với sự êm dịu. Nếu tôi không làm vậy thì tôi phải dùng roi, mà tôi không thích roi. Tôi không đập vào chiếc thuyền khi nó lên cơn chướng, và nó là gỗ. Tại sao tôi lại phải đập cái con này là xác thịt? Bây giờ nó là cái thuyền của tôi... Nó đang ở trong nước... Và sao! Như vậy tôi cũng đối xử với nó như với cái thuyền của tôi. Tôi đâu phải Doras! Các anh biết không? Tôi muốn gọi nó là Doras trước khi mua nó, nhưng khi tôi nghe gọi tên nó, tôi ưng ý, nên tôi để yên tên đó...
- Nó gọi tên gì? - Họ tò mò hỏi.
- Đoán coi! - Và Phêrô cười trong hàm râu của ông.
Họ nói các tên, những tên lạ nhất và những tên của các Pharisiêu
28
hay Saddu độc ác nhất, và vân vân. Nhưng Phêrô vẫn cứ lắc đầu. Họ phải thú nhận là chịu thua.
- Nó tên là Antoine. Đó chẳng phải là một tên đẹp sao? Tên Rôma đáng nguyền rủa này! Người ta thấy rằng tên Hy Lạp đã bán nó cho tôi cũng bất bình với Antoine nữa.
Mọi người đều cười trong khi Gioan Enđo giải thích: “Hắn ta sẽ là một trong những người thâu thuế sau khi César chết. Hắn ta già chưa?”
- Hắn đã khoảng bảy mươi rồi... và chắc hắn đã làm đủ thứ nghề... Bây giờ hắn có một cái quán tại Tibêriat...
Bây giờ họ ở ngã tư của Séphoris, nơi giao nhau của các con đường: Nazarét- Ptolêmai; Nazarét- Sicaminon; Nazarét- Jotapate. Bờ của con đường chính mang ba cái bảng chỉ đường: Ptolêmai, Sicaminon, Jotapate.
- Chúng ta có vô Séphoris không Thầy?
- Vô ích, Chúng ta đi Jiphtael, không ngừng ở đâu cả. Chúng ta ăn trong lúc đi. Phải tới đó trước khi tối.
Họ đi, họ đi, băng qua hai cái suối nước lớn, và họ tấn công các sườn dốc đầu tiên của dẫy gồm nhiều ngọn đồi theo hướng bắcnam, mà ở phía bắc là một cái nút thẳng đứng, rồi kéo dài về phía đông.
- Ở phía đó là Jiphtael - Giêsu nói.
- Con chả thấy gì cả - Phêrô nói.
- Nó ở phía bắc. Quay về phía chúng ta là sườn dốc thẳng. Phía đông và phía tây cũng vậy.
- Vậy là phải đi vòng hết trái núi?
- Không. Có một con đường gần ngọn núi cao nhất, trong thung lũng ở chân núi. Đó là con đường tắt quan trọng, nhưng rất dốc hiểm.
- Thầy đã tới đó?
- Không. Nhưng Thầy biết.
Thực vậy, con đường hiểm trở chừng nào! Tựa như nó vội vã chạy đi tìm ban đêm, vì ánh sáng giảm bới hẳn ở đáy thung lũng
29
này, làm tôi nhớ đến Malébolge bi hùng tráng, vì nó hiểm trở dễ sợ. Một con đường thực sự khoét vào đá, có thể nói là cái cầu thang, vì nó gồ ghề và lởm chởm: một con đường hẹp, hoang dã, nằm ép giữa một con suối chảy xiết và một bờ núi hiểm trở, lên dốc rất mau về phía bắc. Đó là một điểm mà khi họ tới nơi, họ thấy sợ hết hồn...
Nếu ánh sáng tăng lên từ từ trong lúc lên dốc, thì sự mệt mỏi cũng gia tăng. Các tông đồ lấy xuống khỏi xe hết các giỏ xách cá nhân, và Sintica cũng xuống khỏi xe để cái xe được nhẹ hết sức có thể. Gioan Enđo, sau vài câu nói, chỉ còn có mở miệng để ho. Ông cũng muốn xuống khỏi xe, nhưng họ không cho phép nên ông ngồi yên khi mọi người đẩy và kéo con vật và chiếc xe, đổ mồ hôi ở mỗi nơi thay đổi chiều cao. Nhưng không ai phàn nàn gì cả, trái lại, mọi người đều cố gắng bày tỏ sự bằng lòng với những điều họ làm, để không làm nhụt hai người mà vì họ, họ đã làm. Hai người này đã nhiều lần bày tỏ sự ân hận vì những mệt nhọc này.
Con đường cua một góc vuông, rồi lại một cua khác ngắn hơn, và tận cùng bằng một thành phố bám vào sườn núi dốc đến nỗi Gioan Zêbêđê nói là nó sắp trượt xuống thung lũng với tất cả nhà cửa của nó.
- Nhưng nó rất chắc. Nó chỉ là một với núi đá.
- Vậy là nó giống Ramot - Sintica nói, vì cô nhớ tới Ramot.
- Còn hơn nữa cơ. Ở đây đá là một phần của căn nhà chứ không phải chỉ là nền mà thôi. Điều này nhắc nhớ tới Gamala hơn. Các bạn nhớ không?
- Có. Và cùng với nó, chúng ta nhớ tới đàn heo... - Andrê nói.
- Chính từ đó, chúng ta khởi hành đi Tarichée, Tabor và Enđo... - Simon Zêlote nhắc nhớ.
- Tôi được tiền định để cho các bạn những kỷ niệm nặng nề và những mệt nhọc lớn lao - Gioan Enđo xit xoa.
- Ồ, không. Anh đã cho chúng tôi một tình bạn trung thành, không gì khác hơn đâu bạn ơi. - Juđa Alphê nói hăng hái, và mọi người đều hợp với ông để xác nhận rõ ràng.
30
- Tuy nhiên... Tôi đã không được yêu... Không ai nói với tôi điều đó... Nhưng tôi biết suy nghĩ, biết tụ họp hết mọi sự kiện rải rắc vào một bức họa duy nhất. Cuộc ra đi này, không, nó không được tiên liệu, và không được quyết định cách tự nhiên.
- Gioan, tại sao con lại nói vậy? - Giêsu hỏi cách dịu dàng và buồn rầu.
- Vì đó là sự thật. Người ta đã không muốn có con. Chính con chứ không phải các người khác, dù là các đại môn đệ, là kẻ bị chọn để đi xa.
- Vậy Sintica thì sao? - Giacôbê Alphê hỏi, buồn rầu vì cái ý nghĩ đến trong tư tưởng của người xứ Enđo.
- Sintica đi để tôi không bị đuổi đi một mình, để giấu tôi sự thật vì tình thương...
- Không phải đâu Gioan!...
- Đúng mà Thầy. Và Thầy thấy không? Con có thể nói cho Thầy tên của kẻ đã hành hạ con. Thầy biết con đọc tên đó ở đâu không? Con đọc nó chỉ bằng cách nhìn tám người này! Con chỉ cần suy nghĩ tới sự vắng mặt của các người khác để đọc được. Con người mà bởi ông ta, Thầy đã tìm thấy con, cũng chính là người muốn cho con bị tìm thấy bởi Benzêbut. Chính ông ta đã đem giờ này đến cho con và cho Thầy, bởi vì chính Thầy, Thầy cũng khổ như con, và có lẽ còn hơn con. Ông ta đã đem giờ này đến cho con để làm cho con trở lại với thất vọng và sự thù ghét. Bởi vì ông ta xấu, ông ta độc ác, ông ta tị hiềm và các điều khác nữa. Chính Judas Kêriot, một tâm hồn tối tăm ở giữa những tôi tớ hoàn toàn trong sáng của Thầy...
- Đừng nói như vậy Gioan. Ông ta không phải người duy nhất vắng mặt. Tất cả đều vắng mặt vào dịp lễ Ánh Sáng, ngoại trừ Zêlote là người không có gia đình. Từ Kêriot vào mùa này, có nhiều đoạn không thể đi được. Có khoảng hai trăm dặm phải đi, nên rất chính đáng là ông ta về nhà mẹ ông, cũng như Tôma. Natanael cũng vậy. Thầy tránh cho ông ta vì ông già rồi, và Philíp cùng với ông để cho có bạn.
- Đúng. Ba người kia không có ở đây... Nhưng ôi Giêsu tốt lành!
31
Thầy biết lòng mọi người vì Thầy thánh! Nhưng không phải chỉ mình Thầy biết. Cả những kẻ gian ác cũng biết kẻ gian ác, bởi vì họ nhận ra chúng ở trong họ. Con, con đã là kẻ gian ác, và con tìm thấy những bản năng xấu xa của con nơi Judas. Nhưng con tha cho ông ta. Chỉ có một lý do duy nhất khiến con tha cho ông vì đã đẩy con đi để chết ở xa: là chính vì bởi ông ta mà con đến được với Thầy. Và mong rằng Thiên Chúa tha cho ông những gì còn lại... Tất cả những gì còn lại.
Giêsu không dám cải chính, Người nín thinh. Các tông đồ nhìn nhau trong khi họ đẩy chiếc xe trên đường trơn trượt bằng sức mạnh của cánh tay họ.
Buổi tối đã gần khi họ tới thành phố. Là những kẻ vô danh giữa những kẻ vô danh, họ tìm chỗ nghỉ trong một quán trọ ở phía nam thành phố, tại một nơi cao làm chóng mặt khi nhìn xuống dưới dọc theo bức tường của quán, vì nó sâu và thẳng đứng. Dưới đáy là tiếng rì rào, không có gì khác, trong bóng tối bình an tràn ngập thung lũng với một con suối ồn ào.
4* GIÊSU TỪ BIỆT HAI MÔN ĐỆ
Trên cùng một con đường, con đường duy nhất còn lại của xứ này, trông giống như một tổ chim ó trên đỉnh một sườn dốc đơn độc, họ lại ra đi vào sáng hôm sau, bị theo đuổi bởi thời tiết mưa và lạnh làm khó lòng cho bước chân. Cả Gioan Enđo cũng phải xuống xe, vì con đường xuống dốc còn nguy hiểm hơn khi lên. Nếu chính con lừa không bị nguy hiểm, thì sức nặng của chiếc xe mà độ dốc của con đường đẩy nó về phía trước, làm cho con vật bị húc đau. Các người lái xe cũng gặp khó khăn. Bữa nay không còn chảy mồ hôi để đẩy nó, mà là để giữ nó lại, vì nó cứ toan lồng lên, có thể gây tai hại, hay ít nhất là mất những vật dụng trong đó.
Con đường ghê gớm như vậy cho tới khi còn lại khoảng một phần ba chiều dài, đoạn sau cùng về phía thung lũng, rồi nó rẽ đôi,
32
một đường đi về hướng tây và trở nên thực dụng, bằng phẳng hơn. Họ ngừng lại để nghỉ và lau mồ hôi. Phêrô thưởng cho con vật. Nó thở hổn hển, run rẩy, vẫy tai, chắc là vì trầm tư trong một cuộc chiêm niệm sâu xa về số phận đau thương của giống lừa, và sự thất thường của loài người khi họ chọn những con đường này. Ít nhất là có Simon Jonas tham dự vào những quan điểm về sự bày tỏ cảm nghĩ của loài vật, và để cải thiện khí sắc của nó, ông để trước cổ nó một bịch đầy những cây đậu tằm. Và trong khi con vật nghiền bữa ăn cứng ngắc của nó với sự bằng lòng đầy thèm khát, thì con người cũng ăn bánh và phó mát của họ, và họ uống sữa mà họ đã đổ đầy vào các bi-đông.
Bữa ăn chấm dứt, nhưng Phêrô muốn giải khát “cho Antoine của ông, vì nó đáng được vinh dự hơn César”, ông nói, và ông cầm chiếc xô ở trên xe, đi về phía con suối chảy ra bể để múc nước.
- Bây giờ chúng ta có thể bước, và cả đến chúng ta có thể bước nước kiệu, vì tao nghĩ rằng bên kia những sườn đồi này thì toàn là đồng bằng... Nhưng chúng ta, chúng ta không thể đi nước kiệu, chúng ta sẽ chỉ đi nhanh. Nào, Gioan và cô, Sintica, lên xe và chúng ta đi.
- Thầy cũng lên, Simon ạ, và Thầy lái. Tất cả các con đi theo chúng ta... - Giêsu nói sau khi hai người đã lên.
- Tại sao? Thầy khó chịu à? Thầy tái mét!...
- Không, Simon. Thầy muốn nói riêng với họ...- Và Người chỉ vào hai người, cũng tái mét vì đoán là đến giờ từ biệt.
- A! Tốt. Vậy lên đi và chúng con theo Thầy.
Giêsu ngồi trên chiếc bàn dùng làm băng cho người đánh xe và Người nói: “Gioan, lại đây, bên cạnh Thầy. Và con, Sintica, lại rất gần đây...”
Gioan ngồi ở bên trái Chúa và Sintica ở chân Người, gần như ở trên sàn xe, quay lưng về phía trước, và quay mặt ngước lên về Giêsu. Nàng ngồi trên gót chân, trong vị thế này, nghỉ ngơi tựa như nàng đã bị một sức nặng làm nàng kiệt quệ, đôi tay nắm vào nhau và để trên đầu gối Người, vì lẽ nàng run và lúc lắc, khuôn mặt mệt
33
mỏi, đôi mắt rất đẹp mầu tím đen, tựa như bị mờ vì bao nước mắt nàng đã đổ ra. Dưới bóng áo khoác và chiếc voan dài của nàng kéo thấp xuống dưới trán, nàng có vẻ giống tượng Đức Mẹ Sầu Bi thảm não.
Còn Gioan... Tôi tin rằng nếu ông có cái cột giảo hình của ông ở đầu đường thì chắc ông bớt bối rối hơn.
Con lừa bước đi rất ngoan, rất khôn khéo tới nỗi Giêsu không cần canh chừng nó cẩn thận. Giêsu lợi dụng hoàn cảnh, buông lơi giây cương và cầm lấy tay Gioan, còn tay kia đặt trên đầu Sintica.
- Các con yêu! Thầy cám ơn các con vì nỗi vui các con đã cho Thầy. Năm vừa qua, Thầy đã được một năm rải rắc hoa vui, vì Thầy đã có thể đón nhận tâm hồn các con và giữ nó ở trước mặt Thầy, để che cho Thầy khỏi những độc ác của thế giới, và làm thơm tho làn khí hư thối bởi tội lỗi thế giới, để đổ vào trong Thầy sự êm dịu, để xác nhận với Thầy là sứ mạng của Thầy không vô ích. Margziam, con, Gioan của Thầy, Hermastê, con, Sintica và Maria Lazarô, và Alexandre Misace, và còn những người khác nữa... Những vòng hoa chiến thắng của Vị Cứu Tinh mà chỉ những con tim ngay thẳng biết ước đúng giá trị của nó... Tại sao con lắc đầu, Gioan?
- Bởi vì Thầy qúa tốt để đặt con vào giữa những con tim ngay thẳng, nhưng tội lỗi con vẫn luôn luôn hiện diện trong tư tưởng của con...
- Tội của con là kết qủa của một xác thịt bị khích động bởi hai sự độc ác. Sự ngay thẳng của qủa tim con chính là nền của cái tôi ngay thẳng của con, là cái ước ao những điều ngay thẳng, nhưng bất hạnh, vì nó bị lấy đi khỏi con bởi cái chết hay sự độc ác, nhưng nó không kém linh hoạt dưới bề dầy của một đau đớn qúa lớn lao. Chỉ cần tiếng nói của Vị Cứu Tinh thâm nhập vào được cái nơi sâu thẳm này, nơi mà cái tôi của con mệt lả, là con có thể nhảy dựng lên, rũ bỏ mọi sức nặng để đến với Thầy. Không phải vậy sao? Vậy là qủa tim của con ngay thẳng, ngay thẳng nhiều, nhiều hơn nhiều người khác tuy không có cái tội của con, nhưng có những tội khác trầm trọng hơn, vì họ ý thức và bảo tồn nó sống động một cách cố
34
chấp...
Vậy các con, các bông hoa chiến thắng của Vị Cứu Tinh, hãy được chúc phúc. Cái thế giới khép kín và thù hận này cho Vị Cứu Tinh uống sự cay đắng và ghê tởm, thì các con đã trình bày tình yêu. Cám ơn! Trong những giờ nặng nề nhất của Thầy trong năm qua, Thầy đã giữ các con hiện diện trong trí Thầy để được an ủi và nâng đỡ. Trong những giờ còn nặng nề hơn mà Thầy sẽ có, Thầy sẽ giữ các con hiện diện hơn nữa trong trí Thầy cho tới cái chết. Và các con sẽ ở cùng Thầy tới muôn đời. Thầy hứa điều đó với các con.
Thầy ký thác cho các con những lợi ích chí thiết nhất của Thầy, tức là những chuẩn bị cho Giáo Hội Thầy tại miền Tiểu Á, nơi mà Thầy không thể tới, bởi vì chính ở đây, trong xứ Palestin, là vùng đất của sứ mạng Thầy, và vì tinh thần thoái hóa của các kẻ lớn trong Israel sẽ làm mọi cách để gây thiệt hại cho Thầy nếu Thầy đi nơi khác. Thầy sẽ làm như vầy nếu Thầy có những Gioan và Sintica khác cho những nơi khác. Các tông đồ của Thầy sẽ tìm được những mảnh đất đã cày bừa để có thể gieo hạt giống tại đó khi tới giờ.
Các con hãy êm đềm và nhẫn nại, nhưng đồng thời phải mạnh mẽ để thâm nhập và chịu đựng. Các con sẽ gặp thấy những thần trí trì độn và chua chát. Đừng buồn vì vậy. Hãy nghĩ rằng: “Chúng ta ăn cùng một thứ bánh và uống cùng một chén như Giêsu của chúng ta”. Các con sẽ không hơn Thầy các con đâu, và các con không thể đòi hỏi một số phận tốt đẹp hơn. Đây là số phận tốt nhất: chia sẻ những điều Thầy có.
Thầy chỉ ra cho các con một mệnh lệnh duy nhất là đừng làm giảm giá trị của các con, đừng muốn có một câu trả lời cho sự xa cách này mà thực sự không phải là một cuộc lưu đày như Gioan muốn nghĩ, nhưng là một sự tiến lại gần cửa Quê Hương trước mọi người khác, giống như các tôi tớ đã được đào tạo một cách mà không ai khác được. Bầu Trời cúi xuống trên các con như tấm voan của từ mẫu, và Vua Trời đã đón nhận các con trong lòng Người, bảo vệ các con dưới cánh ánh sáng và tình yêu của Người, giống
35
như những con đầu lòng trong cái tổ không ranh giới của các tôi tá Thiên Chúa, của Ngôi Lời Thiên Chúa mà nhân danh Chúa Cha và Chúa Thánh Linh, Người chúc lành cho các con trong giờ này và mãi mãi.
Và hãy cầu nguyện cho Thầy, con loài người, đi gặp tất cả những hành hạ của Đấng Cứu Chuộc. Ôi! Thật vậy, nhân tính của Thầy sắp bị nghiền nát bởi những kinh nghiệm cay đắng nhất. Hãy cầu nguyện cho Thầy. Thầy cần lời cầu nguyện của các con... Chúng sẽ là những thoa dịu... Chúng sẽ là những xác nhận của tình yêu... Chúng sẽ là trợ lực để không thể nói: “Nhân tính chỉ là những Satan”...
Chào Gioan. Chúng ta hãy cho nhau cái hôn từ giã... Đừng khóc như vậy... Bằng cái giá có thể giựt thân xác Thầy ra từng mảnh, Thầy sẽ giữ con, nếu Thầy không thấy những điều lành đến từ sự chia lìa này cho con và cho Thầy. Sự lành đời đời.
Chào Sintica. Đúng, hãy hôn bàn tay Thầy. Nhưng hãy nghĩ rằng vì là phái khác nhau, Thầy không thể ôm hôn con như một cô em, nhưng Thầy cho linh hồn con một cái hôn huynh đệ.
Và với tâm hồn các con, hãy chờ Thầy. Thầy sẽ tới. Các con sẽ có Thầy ở bên những mệt mỏi của các con, và ở bên tâm hồn các con. Phải, tình yêu đối với loài người đã giam hãm bản tính Thiên Chúa của Thầy trong một xác thịt hay chết, nhưng nó không thể áp đặt giới hạn cho sự tự do của Thầy. Và như một Thiên Chúa, Thầy tự do đến với những kẻ xứng đáng được có Thiên Chúa ở với họ. Chào các con. Chúa ở cùng các con...
Giêsu thoát ra khỏi vòng tay ôm ghì quằn quại của Gioan, vì ông níu chặt lấy vai Người, và gỡ tay Sintica bám chặt vào đầu gối Người, Người mạnh mẽ nhảy xuống khỏi xe. Người làm dấu hiệu từ biệt các tông đồ của Người và chạy xa vào con đường đã đi qua, giống như con nai bị người ta săn đuổi... Con lừa dừng lại vì nó thấy bỗng chốc các giây cương rớt xuống. Những sợi giây này lúc trước ở trên đầu gối Giêsu. Tám tông đồ ngạc nhiên dừng lại, nhìn Thầy của họ càng lúc càng khuất xa.
36
- Người khóc... - Gioan lẩm bẩm.
- Và Người tái mét như xác chết - Giacôbê Alphê lẩm bẩm.
- Người không lấy cả đến giỏ xách của Người... Đó, nó ở trên xe... - Giacôbê Zêbêđê nhận xét.
- Và bây giờ Người sẽ ra sao? - Mathêu tự hỏi.
Juđa Alphê vận dụng tất cả nguồn lực của tiếng nói ông và kêu lên: “Giêsu! Giêsu! Giêsu!”... Tiếng vọng của núi đồi trả lời từ xa: “Giêsu! Giêsu! Giêsu!”...
Nhưng một chỗ quẹo của con đường đã chôn vùi vị Thầy trong mầu xanh của cây cối. Người cũng chẳng hề quay lại để nhìn kẻ gọi Người.
- Người đi mất rồi... Chỉ còn lại chúng ta phải đi tới - Phêrô buồn rầu nói trong khi bước lên xe, cầm giây cương để thúc con vật tiến.
Và chiếc xe chuyển bánh trong tiếng kêu ken két, trong nhịp điệu ồn ào của móng sắt và tiếng khóc lo âu của hai người đã rút vào đáy xe để rên rỉ: “Chúng ta sẽ không bao giờ thấy Người nữa. Không bao giờ nữa. Không bao giờ nữa...”
5* GIÊSU ĐAU ĐỚN, CẦU NGUYỆN VÀ THỐNG HỐI
Giêsu lại ở chân ngọn núi mà thành Jiphtael được xây cất ở trên đỉnh, nhưng không ở trên con lộ chính (chúng ta hãy cho nó cái tên này), hay con đường cho lừa ngựa đi mà chiếc xe đã đi lúc trước. Người ở trên đường mòn tựa vào sườn núi, để cho dê đi, rất dốc, đầy lỗ hổng và các vết nứt sâu. Tôi nói là nó được đẽo vào bức vách thẳng đứng, tựa như nó được bám vào bằng những móng vuốt muông thú, giới hạn bởi một bên là hố sâu xuống thẳng đứng tới những vực sâu khác nữa, mà ở dưới đáy có một con suối sủi bọt cách giận dữ. Ở đây, một bước lỡ chân tức là một rơi ngã hết hy vọng, và sẽ bị nẩy từ bụi nọ qua bụi kia của những cây gai và các thứ cây hoang khác mà tôi không biết làm sao chúng mọc được trong các khe đá. Chúng không mọc thẳng lên như các cây thông
37
thường, nhưng mọc xiên, hoặc mọc ngang theo đường chân trời như hoàn cảnh của chúng bó buộc. Một bước sai tức là bị xẻ bởi những mái tóc gai của những cây này, hoặc bị bể lưng vì các thân cây cứng nghiêng trên vực thẳm. Một bước lỡ tức là bị xẻ bởi các mũi đá nhọn sắc nhô ra ngoài bức tường đá thẳng. Một bước trượt tức là chảy máu và nát thân trong suối nước giận dữ sủi bọt, và chết chìm dưới đáy nền đá nhọn, và bị cào nát bởi dòng nước mạnh.
Nhưng Giêsu đi vào lối này. Cái vệt lõm vào trong đá này trở nên nguy hiểm hơn do sự ẩm ướt từ suối bốc lên, làm bờ đá rịn mồ hôi, và nước nhỏ xuống từ các cây mọc trên bức tường hơi hõm sâu vào này.
Người bước nhẩn nha và thận trọng, cân nhắc bước chân trên các tảng đá nhọn, có những cục lung lay. Đôi khi Người bó buộc phải ép sát vào thành đá, vì lối đi qúa hẹp. Và để băng qua những chỗ hết sức nguy hiểm, Người phải bám vào các cành cây xiên ra từ bờ đá. Người đi vòng như vậy ở bờ phía tây và tới bờ phía nam. Tại đó, sau khi ngọn núi từ trên đỉnh xuống thẳng đứng, nó lõm vào sâu hơn các chỗ khác, và làm lối đi trở nên rộng hơn, nhưng trái lại, trần đá ở trên đầu lại thấp hơn nên có nhiều nơi Giêsu phải khom lưng xuống để khỏi đụng đầu vào đá.
Có lẽ Người có ý định dừng lại ở chỗ đường mòn thình lình chấm dứt bởi một đống đá lở. Nhưng khi quan sát, Người thấy phía bên dưới đống đá có một cái hang, đúng hơn là một vết nứt của núi. Người băng qua đống đá để tới đó rồi đi vào trong hang. Ở bên ngoài thì chỉ là một lỗ nẻ, nhưng bên trong là một cái hang mênh mông, tựa như ngọn núi bị đào từ lâu đời bằng búa chim, tôi không biết với mục đích gì. Người ta thấy rõ những nơi mà đường cong thiên nhiên của núi đá phối hợp với những đường làm ra bởi con người, mà ở chỗ đối diện với vết nứt để đi vào, có một phần như một hành lang, ở đáy hành lang có một giải ánh sáng, nhờ đó người ta nhận ra cánh rừng, chỉ cho họ biết làm sao để đi từ phía nam tới phía đông bằng cách cắt ngang mõm núi.
Giêsu đi luồn trong hành lang tối và hẹp này cho tới khi Người
38
tới cửa, hiện ra ở phía bên trên con đường Người và các môn đệ cùng với chiếc xe đã đi để lên thành Jiphtael. Người thấy ở trước mặt Người là các ngọn núi bao quanh hồ Galilê. Bên ngoài thung lũng về hướng đông bắc là ngọn đại Hermon rực rỡ dưới lớp áo tuyết của nó. Một cầu thang sơ sài được đẽo vào sườn núi, ở chỗ này không thẳng đứng, không lên dốc, cũng không xuống dốc, và các bậc thang này dẫn tới con đường cho lừa ngựa đi ở thung lũng cũng như ở trên đỉnh, nơi thiết lập thành Jiphtael.
Giêsu hài lòng vì sự thám hiểm của Người. Người trở lại đàng sau, vào trong cái hang rộng và tìm một chỗ khuất. Người lượm những lá khô do gió thổi vào trong hang, chất lại thành một cái giường khốn nạn: một lớp lá khô ở giữa thân thể Người và đất đá giá lạnh. Người nằm xoài ở trên, bất động, duỗi thẳng, tay kê dưới đầu, mắt cắm vào vòm đá, suy tư, tôi nói là ngây ra, giống như một người đã làm một cố gắng, hay chịu một đau đớn qúa sức của họ. Rồi không nức nở, nhưng từ từ những giọt nước mắt chảy xuống hai bên mặt, mất đi trong mái tóc ở phía hai tai, và chắc chắn chấm dứt trong lớp lá khô...
Người khóc như vậy thật lâu, không nói gì, cũng không nhúc nhích... Sau đó Người ngồi dậy, đầu rũ xuống giữa hai đầu gối mà Người nâng lên và lấy hai tay ôm. Rồi bằng tất cả tâm hồn Người, Người gọi người mẹ xa xôi của Người: “Má ơi! Má ơi! Má ơi! Sự êm dịu đời đời của con! Ôi! Má ơi! Má! Con ước ao ở gần má chừng nào! Tại sao con không được luôn luôn có má, sự khích lệ duy nhất của Thiên Chúa?”
Chỉ có hang đá trả lời Người bằng tiếng vọng rì rào không rõ ràng cho các lời, các nức nở của Người, và tựa như núi đá cũng nức nở trong các góc xó của nó, trong các tảng đá của nó, và trong những chiếc thạch nhũ nhỏ treo trong một góc, có lẽ là chỗ bị nước ở bên trong xoi mòn nhiều nhất.
Nước mắt của Giêsu tiếp tục rơi, nhưng Người bình tĩnh hơn, tựa như chỉ việc gọi mẹ Người cũng đã an ủi Người. Và từ từ, Người chuyển qua màn độc thoại.
39
“Họ đã đi... Tại sao? Và vì ai? Tại sao con phải cho họ cái đau này? Và tại sao con phải cho mình, bởi vì thế giới đã đổ đầy nó vào ngày giờ của con?... Judas!...”
Ai biết được tư tưởng của Giêsu bay đi đâu. Người ngẩng đầu lên khỏi đầu gối và nhìn về phía trước, đôi mắt giãn nở, khuôn mặt căng thẳng như kẻ bị thu hút bởi một quang cảnh siêu nhiên trong tương lai, hoặc bởi một sự trầm tư sâu xa. Người không khóc nữa, nhưng tỏ tường là Người đau khổ. Rồi như Người đối thoại với một kẻ vô hình, và để trả lời, Người đứng dậy.
“Con là một người, lạy Cha, con là một người. Các đức tính của tình bạn bị tổn thương, bị xé nát ở trong con. Nó xoắn lại và than van một cách đau đớn...
Con biết rằng con phải chịu đựng tất cả. Con biết vậy. Là Thiên Chúa, con biết, và như Thiên Chúa, con muốn chịu vì sự lành cho thế giới. Là một người, con cũng biết, bởi vì thần trí Thiên Chúa của con hợp thông với nhân tính của con. Và như con người cũng vậy, con muốn chịu vì sự lành cho thế gian. Nhưng đau đớn chừng nào! Ôi! Cha của con ơi!
Cái giờ này rất nặng nề hơn những giờ mà con đã sống với thần trí của Cha và của con trong sa mạc... Cám dỗ của giờ này rất mạnh hơn, nó dụ con không yêu và không chịu đựng ở bên cạnh con một vật thể lầy nhầy và quanh co khúc khửu có tên là Judas, nguyên nhân của sự đau đớn cả thể đã tưới lên con, bão hòa con, và hành hạ những linh hồn mà con đã cho bình an.
Cha ơi! Con cảm thấy Cha trở thành khắt khe hơn với con theo đà con tới hạn của sự đền tội này, mà con đã làm cho thành của con vì ích lợi của loài người. Càng ngày sự êm dịu của Cha càng lìa xa con, và Thánh Nhan Cha hiện ra nghiêm nghị hơn cho tâm hồn con. Thần trí con càng lúc càng cảm thấy bị đẩy vào trong vực sâu, nơi loài người rên xiết từ bao năm vì bị Cha trừng phạt.
Khi trước, sự đau khổ là êm đềm đối với con. Con đường lúc đầu cuộc đời cũng êm đềm, kể cả tới lúc, từ con bác thợ mộc, con trở nên vị thầy của thế giới, bằng cách rứt mình ra khỏi người mẹ để
40
dâng con người sa ngã cho Cha, Cha ơi! So sánh với bây giờ thì cuộc chiến đấu với kẻ thù trong các cơn cám dỗ ở sa mạc vẫn còn là êm dịu đối với con. Con đã đối đầu với nó cách anh hùng trong sức mạnh toàn vẹn... Ôi! Cha của con ơi! Bây giờ sức mạnh của con bị trì trệ bởi thiếu tình yêu, và bởi sự nhận biết qúa nhiều người và qúa nhiều thứ...
Satan, con biết nó. Nó chỉ ra đi và nó đã ra đi khi cơn cám dỗ chấm dứt, và các thiên thần đã đến an ủi đứa con làm người của Cha đã bị ma qủi cám dỗ.
Nhưng bây giờ cám dỗ không ngừng nữa, khi qua cái giờ mà Người Bạn đau khổ vì các bạn phải bị sai đi xa, và vì người bạn bội ước làm tổn thương cho nó gần cũng như xa, nó sẽ không ngừng. Và các thiên thần của Cha sẽ không đến an ủi con vào giờ này và sau giờ này. Nhưng cái sẽ đến là thế giới với tất cả sự thù ghét của nó, những chế nhạo của nó, những không hiểu của nó. Nó, kẻ gian dối, kẻ phản bội, kẻ bán mình cho ma qủi sẽ đến, và càng lúc càng gần, càng quanh co, càng nhầy nhụa. Cha ôi!...”
Tiếng kêu này thật là tan nát. Đó là tiếng kêu sợ hãi, một tiếng gọi. Sự xáo động của Giêsu nhắc tôi nhớ đến những giờ của Gétsêmani.
“Lạy Cha! Con biết nó, con thấy nó... Trong khi con ở đây, con đau khổ và sắp đau khổ, và con dâng sự đau khổ của con cho Cha để xin cho nó hoán cải, và cầu xin cho những người bị giật khỏi tay con, và họ đang đi tới số phận của họ với con tim bị xuyên thấu, thì nó đang bán mình để trở nên lớn hơn con, Con Người!
Có phải chính con là Con Người không? Đúng. Nhưng đâu phải chỉ có mình con là con người. Cả nhân loại. Evà mắn con đã cưu mang các con của bà, và nếu con là Abel vô tội, thì không thiếu gì Cain trong dòng dõi loài người. Nếu con là con đầu lòng bởi vì con là đúng như con người phải là: không tì vết trước mặt Cha, còn nó thì được cưu mang trong tội, là người đầu tiên là cái họ trở nên sau khi cắn trái cây tẩm thuốc độc. Và bây giờ, không bằng lòng vì mang trong mình những thứ men ghê tởm và những phạm thượng
41
của dối trá, phản đức bác ái, khát máu, ước ao ham hố tiền bạc, kiêu căng và dâm ô, con người đáng lẽ có thể trở nên thiên thần, nhưng nó đã tự đồng hóa với Satan, để làm một con người trở thành ma qủi... ‘Và Lucifer muốn nên như Thiên Chúa, vì vậy nó bị đuổi ra khỏi Thiên Đàng, biến thành ma qủi và ở trong hỏa ngục’.
Nhưng Cha ơi! Ôi! Cha của con ơi! Con yêu nó... Con vẫn còn yêu nó. Đó là một người... Đó cũng là một trong những người mà vì họ, con đã rời Cha... Nhân danh sự khiêm nhường của con, xin Cha cứu nó... Xin Cha cho phép con chuộc nó... Lạy Chúa Tối Cao! Sự thống hối này là cho nó hơn là cho những người khác! Ôi! Con biết sự bất hợp lý của điều con xin, vì con biết tất cả những điều nó là!... Nhưng Cha ơi! Trong lúc này, đừng nhìn tới Ngôi Lời của Cha ở trong con, hãy chỉ nhìn nơi con nhân tính công chính của con... Và hãy cho phép con, trong lúc này chỉ là một người vì được nhờ ơn Cha, một người không biết về tương lai, có thể lầm tưởng... Một người không biết cái số phận không thể tránh được của mình, có thể cầu xin với một lòng trông cậy tuyệt đối để giựt được từ Cha một phép lạ.
Một phép lạ! Một phép lạ cho Giêsu Nazarét, cho Giêsu của Maria Nazarét, Người Yêu Đời Đời của chúng ta! Một phép lạ xâm phạm tới những điều đã bị ghi dấu và hủy bỏ nó! Phần rỗi của Judas! Nó đã sống ở bên con! Nó đã uống các lời của con! Nó đã chia sẻ lương thực với con! Nó đã ngủ trên ngực con... Đừng là nó. Chớ gì Satan của con không phải là nó!...
Con không xin Cha cho con không bị phản bội... Điều đó phải có và sẽ có... để nhờ sự đau đớn bởi bị phản bội của con, mọi sự dối trá được hủy bỏ. Cũng như bởi sự đau đớn vì bị bán của con, mọi sự biển lận được hủy bỏ. Cũng như bởi sự phạm thượng tan nát con phải chịu, hết mọi lời phạm thượng được sửa chữa. Và với những kẻ không tin thì cầu cho đức tin được ân ban cho những kẻ đang và sẽ không có đức tin. Cũng như bởi sự hành hạ con phải chịu thì mọi tội lỗi về xác thịt được thanh tẩy. Nhưng con xin Cha: đừng là nó, không phải là nó, Judas, bạn của con, tông đồ của con.
42
Con muốn rằng không có ai phản bội cả... Không ai cả... Kể cả những người xa xôi nơi bắc cực băng giá, hay giữa lửa nóng của miền nhiệt đới... Con muốn rằng chỉ có Cha là Vị Thượng Tế... Cũng như xưa Cha đã là khi Cha thiêu đốt các lễ hy sinh bằng lửa của Cha... Nhưng vì con phải chết bởi tay loài người, và vì một lý hình sẽ thực sự là lý hình hơn, nếu đó là lý hình bạn hữu phản bội, kẻ thối nát có ở trong nó sự ghê tởm của Satan, và nó ước vọng được nên giống như con về sức mạnh... Nó nghĩ như vậy trong sự kiêu căng của nó và trong ước mong của nó. Cha ơi! Bởi vì con phải chết bởi tay loài người, nhưng xin Cha chấp nhận cho con rằng: Kẻ mà con gọi là bạn sẽ không phải là kẻ phản bội.
Lạy Cha của con! Xin Cha tăng gấp những cực hình cho con, nhưng ban linh hồn của Judas cho con... Con đặt lời cầu nguyện này trên bàn thờ của con người với tư cách là Nạn Nhân của con. Cha ơi! Xin Cha nhận lấy nó!...
Trời khép kín và thinh lặng!... Như vậy là con sẽ có sự sợ hãi này ở với con cho tới chết sao?
Trời khép kín và thinh lặng!... Như vậy là trong sự yên lặng này, trong nhà tù này, con sẽ trút hơi sao?
Trời khép kín và thinh lặng!... Vậy đó sẽ là sự hành hạ tột bậc của kẻ tử đạo?
Lạy Cha! Nguyện cho ý Cha được hoàn thành chứ không phải ý con... Nhưng vì sự đau đớn của con, ôi ! Ít nhất là vì sự đau đớn của con, xin Cha ban bình an và lạc quan cho kẻ tử đạo khác của Judas: cho Gioan Enđo, Cha của con ơi!... Thực sự ông ta hơn nhiều người. Ông ta đã đi con đường mà ít người biết hay sẽ biết. Tất cả những gì thuộc về sự cứu chuộc đã hoàn tất cho ông ta. Vậy xin Cha ban cho ông ta sự bình an đầy tràn và trọn vẹn, để con có ông ta trong vinh quang của con, khi tất cả cũng sẽ được hoàn tất đối với con để tôn vinh Cha và vâng lời Cha... Cha của con!...”
Bây giờ Giêsu lại khóc, từ từ qùi gối, gục mặt xuống đất. Người cầu nguyện trong khi ánh sáng của ngày mùa đông vắn vỏi tắt trước giờ trong hang đá tối, và tiếng nước suối đổ như có vẻ mạnh
43
hơn theo đà bóng tối bao trùm thung lũng...
6* TỪ PTOLÊMAI ĐẾN TYR
Thành phố Ptolêmai tựa như bị đè bẹp dưới bầu trời thấp nặng như chì. Không một mảnh mầu xanh nào, cả đến không một sắc thái nào khác ngoài mầu đen chì của nó. Không, không có mây đám, không có mây tầng, không một đám mây mưa nào di chuyển trên cái vòm khép kín của bầu trời, nhưng chỉ có một bán cầu nặng như cái nắp mà người ta sắp đậy sập xuống một chiếc hòm. Một cái nắp khổng lồ mầu thiếc rỉ, đen như bồ hóng, mờ mịt nặng nề. Các nhà mầu trắng của thành phố trông giống như bằng thạch cao, một thứ thạch cao sù sì, thô lỗ, buồn thiu dưới ánh sáng này... Và mầu xanh của các cây trường thanh giống như bị phai sắc, buồn tẻ và tái mét, làm các khuôn mặt loài người có vẻ yêu quái, làm tái xám mầu sắc các y phục. Thành phố chìm ngập trong gió đông nam nặng nề.
Biển cả trả lời bầu trời bằng cùng một bộ mặt chết chóc. Mặt biển vô tận, bất động, vắng ngắt. Nó không có cả đến bộ mặt mạ chì, có lẽ nói vậy không đúng! Đó là một bề mặt vô giới hạn, tôi nói là không vết nhăn, bằng một chất dầu xám giống như các bể dầu thô. Hay đúng hơn, nếu có thể, là những hồ bằng bạc pha bồ hóng và tro, để làm cho thành một chất nhão có mầu sáng đặc biệt nhắc ta nhớ đến mầu thạch anh, nhưng nó không bóng, vì nó chết và mờ đục. Mầu sáng này chỉ nhận ra được vì sự khó chịu nó chạm vào mắt, làm chói bởi sự lấp lánh của xà cừ đen, gây mệt mà không thưởng thức được. Nhìn mút mắt không thấy một gợn sóng. Cái nhìn tới tận chân trời, nơi biển cả chết đụng vào bầu trời chết, người ta cũng không thấy một nhúc nhích nào của nước. Nhưng người ta nhận thấy đây không phải là nước vững chắc, vì nó có những con sóng ngầm, hơi nhận thấy được ở trên mặt nhờ bức gương tối của mặt nước. Nó chết tới nỗi tại bờ, nước bất động như nước
44
trong một cái thau, không có một dấu hiệu gì của sóng tới hay lui. Bãi cát chỉ ẩm ướt khoảng hơn một mét, chứng tỏ không có dao động của nước ở bãi từ nhiều giờ rồi. Một yên tĩnh bằng phẳng.
Các con tàu, một số nhỏ đậu ở cảng, không hề nhúc nhích, tựa như nó được đóng chặt vào một chất cứng, vì nó hoàn toàn bất động. Vài mảnh vải phơi trên boong, y phục hay cờ hiệu, treo trơ trơ.
Các tông đồ với hai người đi Antioche từ trong một ngõ hẻm của cảng đi ra bãi. Tôi không biết con lừa với chiếc xe bây giờ thế nào. Chúng đã biến mất. Phêrô và Andrê khênh một cái rương, Giacôbê và Gioan khênh cái thứ hai, trong khi Juđa Alphê vác trên vai cái khung cửi đã tháo ra, còn Mathêu, Giacôbê Alphê và Simon Zêlote mang tất cả các giỏ xách, kể cả giỏ của Giêsu. Sintica mang trong tay một rổ đồ ăn, còn Gioan Enđo không mang gì cả.
Họ đi mau lẹ giữa những người phần đông là từ chợ trở về với các vật dụng, hoặc nếu là thủy thủ thì vội vã ra cảng để lên hàng xuống hàng cho tàu, hoặc sửa chữa, tùy nhu cầu.
Simon Jonas tiến bước cách bảo đảm. Chắc ông đã biết phải tới đâu, vì ông không nhìn gì ở chung quanh ông. Mặt đỏ gay, với sự phụ giúp của Andrê, ông khênh cái rương, cầm ở sợi giây dùng làm chỗ nắm tay. Người ta thấy nơi hai ông này cũng như nơi các bạn Giacôbê và Gioan của họ, sự cố gắng do sức nặng của vật họ mang, trong sự co phình của các bắp thịt ống chân và cánh tay, vì để được thoải mái, họ chỉ mặc đồ lót cộc không có tay, giống như các phu khuân vác đang vội vã từ kho hàng lên tàu hay ngược lại, tùy công việc của họ. Cũng vậy, họ đi qua, tuyệt đối không ai để ý.
Phêrô không đi tới bãi đậu lớn, nhưng ông đi qua một chiếc cầu kêu cót két để tới bãi đậu nhỏ, một cái đập ở cảng, cong vòng, một vũng thứ hai nhỏ hơn nhiều, nơi các tàu đánh cá đậu. Ông nhìn và hô lên một tiếng gọi.
Có một người đàn ông trả lời trong khi ông đứng lên trong một chiếc thuyền chắc chắn và khá lớn.
- Ông tuyệt đối muốn đi à? Hãy chú ý là bữa nay cánh buồm
45
không ích lợi gì hết, phải tiến nhờ sức của mái chèo.
- Cái đó sẽ giúp cho tôi sưởi ấm và ăn ngon.
- Nhưng thực tình ông biết chèo không?
- Ohé! Ông ơi! Tôi chưa biết gọi mẹ thì bố tôi đã đặt giây kéo buồm và cột buồm vào tay tôi rồi. Tôi đã rụng răng sữa ở đó...
- Bởi vì, ông biết, cái thuyền này là cả gia tài của tôi. Ông biết...
- Anh đã nói vậy với tôi hôm qua... Anh không biết bài hát nào khác sao?
- Tôi biết rằng nếu anh chìm xuồng thì tôi toi mạng và...
- Tôi toi mạng, không phải anh!
- Nhưng đây là gia tài của tôi, bánh của tôi, niềm vui của tôi và của vợ tôi, và là của hồi môn của con gái tôi, và...
- Ùa! Nghe đây, đừng kích thích thần kinh của tôi nữa, nó đã bị vọp bẻ rồi... Một cái vọp bẻ ghê gớm hơn việc chèo thuyền. Tôi đã cho anh biết bao, đến nỗi tôi có thể nói là tôi đã mua chiếc thuyền này. Tôi đã không kỳ kèo. Anh là tên ăn cắp! Tôi đã cho anh thấy là tôi biết chèo và sử dụng buồm còn hơn anh, và tất cả đã được ký kết. Bây giờ nếu món sà-lát với tỏi tây mà anh đã ăn hôm qua làm cho miệng anh khó chịu như ăn đồ dơ, và nó cho anh những giấc mơ kinh hoàng và ân hận, thì điều đó không ăn nhằm gì với tôi hết. Sự kiện đã được ký kết với hai nhân chứng, một người phía tôi, một người phía anh, như vậy đã đủ. Hãy nhảy ra khỏi đây, con cua xù lông, để cho tôi vào.
- Nhưng... Ít nhất là một bảo đảm... Nếu anh chết, ai sẽ trả chiếc tàu cho tôi?
- Chiếc tàu à? Đó là cái tên anh đặt cho trái bầu rỗng này? Ôi! Kẻ khốn nạn và kiêu căng! Nhưng tôi sẽ làm anh yên lòng để anh quyết định. Tôi sẽ cho anh một trăm đồng nữa. Số này với số hôm qua anh đã muốn để giữ xe, anh sẽ sắm ba cái khác hơn là cái con chuột chũi này... Không, tốt hơn là không đưa tiền, anh sẽ cho tôi là điên và đòi nhiều hơn lúc tôi trở về. Bởi vì việc trở về thì tôi sẽ trở về, hãy chắc chắn điều đó, chắc như nêm, để giật râu anh nếu anh đã cho tôi một chiếc thuyền mà sàn thuyền hư hỏng. Tôi sẽ cho anh
46
con lừa với cái xe làm vật cầm thế... Không! Điều đó cũng không được. Con Antoine của tôi, tôi không thể giao cho anh, anh có thể đổi nghề từ chèo đò qua đánh xe, và chuồn đi khi tôi đi khỏi. Con Antoine của tôi đáng giá bằng mười cái thuyền của anh. Vậy tốt hơn là cho anh tiền. Nhưng hãy chú ý là với tư cách vật bảo đảm, anh sẽ trả lại tôi khi tôi trở về. Anh hiểu không? Đồng ý hay không? Ohé! Qúi vị ở trên tàu ơi! Ai là người Ptolêmai?
Từ chiếc tàu bên cạnh có ba khuôn mặt ló ra: “Chúng tôi”.
- Lại đây...
- Không, không, vô ích. Chúng ta hãy dàn xếp câu chuyện giữa chúng ta - người chèo đò nói.
Phêrô nhìn ông ta với con mắt dò xét. Ông suy nghĩ, rồi thấy là ông kia bước lên khỏi thuyền và lật đật khuân cái khung cửi mà Juđa để ở trên bờ xuống thuyền, ông lẩm bẩm: “Tôi hiểu”. Và ông kêu với những người ở tàu bên cạnh: “Không cần nữa, ở đó đi”. Rồi ông lấy ra những đồng tiền từ một cái túi tiền nhỏ, ông đếm rồi ông hôn nó và nói: “Từ giã cưng!”, rồi ông đưa cho người chèo đò.
- Tại sao ông hôn chúng? - Người này ngạc nhiên hỏi.
- Một... nghi thức mà! Tạm biệt, tên ăn cắp! Nào, các anh! Mày, ít nhất hãy giữ chiếc thuyền coi! Sau đó mày sẽ đếm. Mày sẽ thấy đầy đủ. Tao không muốn có mày làm bạn ở trong hỏa ngục, mày biết không? Tao, tao không ăn cắp. Nào, kéo lên! Nào, kéo lên! - Và ông đem lên chiếc rương thứ nhất, rồi ông giúp những người khác xếp đặt đồ đạc của họ, các giỏ xách, tất cả, để cân bằng trọng tải bằng cách xếp đồ thế nào cho việc vận hành mái chèo được dễ dàng. Và sau các đồ đạc là các nhân vật.
- Mày thấy là tao biết làm, tên khát máu! Bây giờ hãy rút lui và đi về với số phận của mày.
Và cùng với Andrê, ông nhấn mái chèo vào bờ cái cảng nhỏ và tách rời khỏi nó. Sau khi đã có trớn, ông trao mái chèo cho Mathêu và nói: “Dầu sao, để vặt lông chúng tôi, anh đã đến kề sát chúng tôi khi chúng tôi đánh cá, nên anh cũng biết chèo đỡ đỡ”. Rồi ông ngồi ở mũi thuyền, quay lưng lại Mathêu ở hàng đầu với Andrê ở
47
bên cạnh. Trước mặt ông là Giacôbê và Gioan Zêbêđê. Họ chèo đều đặn và mạnh. Chiếc thuyền tiến nhanh, không tròng trành, dù chở nặng, lướt qua mạn của các tàu lớn mà từ đó phát ra, vọng xuống những lời tán dương vì những cú toàn vẹn của mái chèo.
Và đây, mặt khơi bên ngoài bờ cảng... Ptolêmai lướt qua trước mắt các người du hành, phơi mình ra trên bờ với hải cảng ở phía nam thành phố.
Trong thuyền, yên lặng tuyệt đối. Người ta chỉ nghe tiếng mái chèo cọ vào móc.
Sau một lúc lâu là vượt ra khỏi Ptolêmai, Phêrô nói: “Nhưng nếu có lấy một tí gió nhỉ... Nhưng không, không có một tí phe phẩy nào!...”
- Miễn là trời đừng mưa. - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Hum! Trời muốn mưa lắm rồi...
Yên lặng và mái chèo mệt mỏi một lúc lâu. Rồi Andrê hỏi: “Tại sao anh lại hôn những đồng tiền vậy?”
- Bởi vì khi khởi hành thì người ta chào nhau. Tôi không gặp nó nữa và tôi buồn. Tôi thích cho nó cho một kẻ khốn khổ nào đó... Nhưng coi! Cái thuyền thực sự tốt, vững chắc, được đóng rất cẩn thận. Cái tốt nhất của Ptolêmai đây. Chính vì vậy mà tôi nhượng bộ những yêu sách của chủ nó, và cũng để người ta đừng hỏi han gì về nơi chúng ta tới. Chính vì vậy, tôi đã nói: “Để mua tại Vườn Trắng”... Than ôi! Than ôi! Trời bắt đầu mưa rồi. Tìm cách che đi, ai có thể. Và cô, Sintica, cho Gioan ăn trứng đi. Tới giờ rồi... Với mặt bể yên lặng như vầy, bao tử càng rỗng... Và Giêsu, Người sẽ làm gì? Người có thể làm gì? Không quần áo, không tiền bạc. Người có thể ở đâu cho tốt bây giờ?
- Chắc chắn là để cầu nguyện cho chúng ta - Gioan Zêbêđê trả lời.
- Tốt. Nhưng ở đâu?
Không ai có thể nói ở đâu. Chiếc thuyền chạy vát, nặng nề, khó nhọc dưới bầu trời mầu chì, trên mặt bể bằng nhựa mầu tro, dưới làn mưa nhẹ như sương mù, phiền toái như một cơn ngứa không
48
dứt. Sau một vùng đồng bằng ven biển, các ngọn núi sát lại, xanh tái mét trong làn khí như sương mù. Vùng biển ở gần thì tiếp tục làm mệt mắt bởi ánh lân tinh kỳ cục của nó, ở xa hơn thì nó biến đi trong sương mù.
- Chúng ta sẽ dừng lại ở cái làng này để nghỉ và dùng bữa - Phêrô nói trong khi không ngừng chèo, và mọi người đồng ý.
Họ tới làng. Vài mái nhà của dân chài ở khuất trong một mỏm núi mọc nhô ra biển.
- Ta không thể lên bờ ở đây. Không có bề sâu... Tốt. Chúng ta ăn tại chỗ - Phêrô lẩm bẩm.
Và qủa thật, các tay chèo ăn ngon lành, nhưng các kẻ lưu đày thì không. Mưa thay đổi: lúc mưa lúc tạnh. Ngôi làng vắng ngắt như không có dân. Nhưng các con chim câu bay lượn từ nhà nọ qua nhà kia, và các y phục phơi ở các nơi cho biết là có người ở. Sau cùng họ thấy trên đường một người đàn ông ăn vận sơ sài, đi tới chỗ một cái ghe nhỏ đã kéo lên bờ.
- Hé, ông ơi! Ông là dân chài à? - Phêrô la lên bằng cách lấy bàn tay làm loa.
- Ờ - Tiếng “ờ” tới yếu ớt, bởi vì khoảng cách xa.
- Thời tiết sẽ thế nào?
- Một lát nữa là biển sẽ động. Nếu ông không phải người ở đây thì tôi bảo ông nên đi ngay tới phía bên kia mũi đất. Ở phía bên đó nước yên lặng hơn, nhất là nếu ông chạy vát. Và ông có thể đi, vì biển sâu. Nhưng phải đi ngay...
- Ờ, bình an cho ông.
- Bình an và may mắn cho các ông.
- Vậy đi thôi - Phêrô nói với các bạn. “Và xin Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
- Chắc chắn Người sẽ ở. Đương nhiên là Giêsu đang cầu nguyện cho chúng ta -Andrê nói khi cầm lấy mái chèo.
Nhưng đã bắt đầu có sóng, nó đẩy hay kéo con thuyền ở mỗi lần nó tới hay lui, và mưa rơi dầy hạt hơn... Rồi một luồng gió giật hợp với sóng để hành hạ các kẻ bơi thuyền tội nghiệp. Simon Jonas tán
49
dương nó bằng tất cả những hình dung từ đẹp đẽ nhất, bởi vì đó là luồng gió xấu, không thể thổi cho cánh buồm, trái lại, nó có khuynh hướng đẩy con thuyền xô vào các tảng đá của doi đất bây giờ đã rất gần.
Con thuyền trôi đi cách khó khăn trong vòng cung của cái vịnh nhỏ bây giờ đen như mực. Họ chèo, họ chèo, mệt đừ, đỏ mặt mũi, đổ mồ hôi, cắn răng lợi, không lãng phí một chút hơi sức nào trong lời nói. Những người khác ngồi trước mặt họ - và tôi nhìn thấy sau lưng họ - nín thinh dưới làn mưa khó chịu. Gioan và Sintica ở giữa, gần cột buồm. Sau lưng họ là hai con ông Alphê, và ở sau cùng là Mathêu và Simon, chiến đấu để giữ tay lái ở mỗi đợt sóng.
Thật là việc gay go khi đi vòng mũi đất, nhưng sau cùng cũng xong... Các tay chèo được chấp nhận một chút nới tay, chắc chắn họ đã mệt nhoài. Họ hỏi nhau có nên nghỉ lại ở ngôi làng bên ngoài mũi đất không. Nhưng đại đa số cho là “phải vâng lời Thầy, dù là trái ngược với cảm giác tốt. Và Người đã nói là phải tới Tyr trong ngày hôm nay”. Và họ đi tiếp...
Biển bất chợt êm lại. Họ quan sát hiện tượng và Giacôbê Alphê nói: “Phần thưởng của vâng lời”.
- Đúng, Satan đã bỏ đi, vì nó không thành công trong việc làm chúng ta bất tuân - Phêrô xác nhận.
- Nhưng chúng ta sẽ tới Tyr vào ban đêm. Chuyện này đã làm chúng ta trễ nhiều... - Mathêu nói.
- Không quan trọng. Chúng ta sẽ ngủ, rồi ngày mai chúng ta sẽ tới tìm con tàu - Simon Zêlote trả lời.
- Chúng ta sẽ tìm thấy nó không?
- Giêsu đã nói thế. Vậy chúng ta sẽ tìm thấy - Thađê nói cách bảo đảm.
- Anh ơi, chúng ta có thể kéo buồm lên đó! - Andrê nhận xét. “Bây giờ có gió thuận, và chúng ta sẽ bơi lẹ hơn”.
Qủa vậy, cánh buồm căng phồng, không nhiều lắm, nhưng đủ để làm bớt sự cần thiết về công việc của các tay chèo. Con thuyền lướt đi như trở thành nhẹ, về thành Tyr mà vùng đất cao, hay đúng hơn là eo đất, đã hiện ra trong mầu trắng ở đàng kia, về phía bắc,
50
trong những tia sáng sau cùng của ban ngày.
Đêm xuống rất lẹ. Sau bức họa độc một mầu xám của ngày, thật kỳ lạ khi thấy xuất hiện những ngôi sao với ánh sáng không ngờ. Các vì sao của nhóm Đại Hùng Tinh nhấp nháy trong khi ánh trăng trong bao phủ mặt biển. Ánh sáng trắng đến nỗi nó giống như bình minh ló dạng sau một ngày nặng nề, không có đêm...
Gioan Zêbêđê ngửa mặt lên nhìn trời và cười. Rồi bất thần ông cất tiếng ca, kích thích cử động của mái chèo bằng bài ca của ông mà lời ca như sau:
“Kính chào Sao Mai,
Hoa lài về đêm,
Trăng vàng của bầu trời,
Mẹ chí thánh của Chúa Giêsu.
Hy vọng của người đi trên nước.
Kẻ đau khổ và hòng chết mơ tới mẹ.
Ngôi Sao thánh thiện và nhân đức,
Xin hãy tỏa sáng trên những kẻ yêu Mẹ. Ôi! Maria”.
Ông hát, vươn cao cái giọng bắc của ông, sung sướng.
- Nhưng em làm gì vậy? Chúng ta đang nói về Giêsu thì em nói về Maria - anh ông hỏi.
- Người ở trong mẹ và mẹ ở trong Người. Sở dĩ có Người là vì có mẹ... Hãy để em hát... - Và họ để ông hát, lôi kéo cả những người khác.
Và họ tới Tyr như vậy. Việc lên bờ dễ dàng ở cái cảng nhỏ nhất, cảng ở phía nam mũi đất. Đèn đã thắp sáng trên nhiều con thuyền, và những người đang ở đó không từ chối giúp những người mới tới.
Trong khi Phêrô ở lại trên ghe cùng với Giacôbê để canh chừng đồ đạc, những người khác, cùng với một ông ở chiếc thuyền khác, đi về quán trọ để nghỉ ngơi.
7* KHỞI HÀNH TỪ TYR TRÊN CHIẾC TÀU
CỦA NGƯỜI CRÉTOIS
51
Thành Tyr thức giấc trong gió bắc, mặt bể lăn tăn gợn sóng, một mầu trắng xanh huy hoàng nhúc nhích dưới trời xanh, dưới những đám mây trắng bay cao đó đây. Mặt trời vui hưởng một ngày thanh quang sau biết bao mầu xám của thời tiết xấu.
Phêrô đứng trong chiếc ghe ông đã ngủ và nói: “Tôi hiểu, đã đến lúc phải nhúc nhích. Và nó (ông chỉ ra bể đang dồn sóng vào cảng) sẽ cho chúng ta nước xá giải... Hum! Chúng ta sắp làm phần thứ hai của lễ hy sinh... Này Giacôbê... Anh có cảm thấy là chúng ta mang hai nạn nhân đi sát tế hy sinh không? Đối với tôi là vậy đó”.
- Simon, tôi cũng thấy vậy. Và... Tôi cám ơn Thầy vì sự qúi chuộng Thầy có đối với chúng ta. Nhưng tôi... Tôi không muốn thấy từng ấy đau khổ. Tôi không bao giờ nghĩ tới có thể thấy như vậy...
- Tôi cũng không... Nhưng... Anh biết không? Tôi nói là Thầy sẽ không làm vậy nếu Đại Pháp Đình không dí mũi vào.
- Đúng vậy. Người đã nói thế rồi mà... Nhưng ai đã có thể loan báo cho Đại Pháp Đình? Đó là điều tôi muốn biết.
- Ai nữa? Lạy Thiên Chúa Hằng Hữu! Xin cho con biết câm mồm! Xin giúp con đừng nghĩ tới. Tôi đã làm lời khấn này để đẩy xa tôi cái nghi ngờ nó gậm nhấm trong tôi. Giacôbê, hãy giúp tôi đừng nghĩ tới. Hãy nói về cái gì khác đi!
- Nhưng nói về cái gì? Về thời tiết à?
- Ừ, có thể vậy.
- Nói về biển thì tôi chả biết gì hết...
- Tôi tin rằng chúng ta sẽ nhúc nhích - Phêrô nói khi nhìn ra khơi.
- Không. Vài cái sóng, nhưng đâu có là gì. Hôm qua nó còn xấu hơn. Nhìn từ trên cao của chiếc tàu, chắc là đẹp lắm. Biển gợn sóng như vầy, nó sẽ làm Gioan thú vị, nó sẽ làm cho anh chàng ca hát. Chiếc tàu sẽ thế nào?
Ông cũng đứng lên và nhìn những chiếc tàu đậu ở phía bên kia mà người ta có thể thấy nhờ độ cao của các tầng trên của nó, nhất là khi sóng nâng chiếc tàu lên trong thế chao đu đưa. Họ nhìn chăm chú từng chiếc tàu khác nhau và phỏng đoán... Cảng đã bắt đầu nhộn nhịp.
52
Phêrô hỏi một người chèo thuyền, hoặc người giông giống vậy, đang buôn bán ở cảng: “Ông có biết trong cảng, tại cái cảng này, chiếc tàu của... chờ tôi đọc cái tên này... (và ông moi ở thắt lưng ra một mảnh giấy da), đây: Nicôđêmô Philadelphius con Philíp, người Crétois, vùng Paléocastro...”
- Ồ! Vị đại hoa tiêu! Ai lại không biết ông ta? Tôi tin là ông ta nổi tiếng, không phải chỉ từ vịnh Perles đến núi Colonne Hercule, mà còn cho tới các biển lạnh, nơi mà người ta nói chỉ có đêm trong vòng nhiều tháng! Anh là thủy thủ mà sao anh không biết ông ta?
- Không, tôi không biết ông ta, nhưng tôi sắp biết, vì tôi tìm ông ta cho người bạn chúng tôi là Lazarô con ngài Théophile, trước đây trị vì ở Syrie.
- A! Khi tôi còn đi bể - bây giờ tôi già rồi - ông ta ở Antioche... Thời vàng son... Bạn anh à? Và anh tìm ông Crétois Nicôđêmô? Vậy tới đó đi, chắc chắn mà. Anh thấy chiếc tàu đó không? Chiếc cao nhất đó, với các lá cờ bay trong gió? Đúng là tàu ông ta đó. Ông ta sẽ nhổ neo trước giờ ngọ. Ông ta đâu có sợ biển, ông ta...
- Quả vậy, người ta không nên sợ nó. Đó không phải là chuyện cả thể - Giacôbê nhận xét. Nhưng thình lình một con sóng tới đính chính lời của ông bằng cách tưới cho cả hai ông ướt từ đầu tới chân.
- Hôm qua nó qúa yên lặng, bữa nay nó lại qúa giao động. Hơi qúa điên! Tôi thích cái hồ hơn... - Phêrô càu nhàu trong khi lau mặt.
- Tôi khuyên các anh nên vào trong vũng tàu. Tất cả người ta đều vào đó. Các anh thấy không?
- Nhưng chúng tôi phải đi. Chúng tôi phải lên tàu của... của... chờ tí... Nicôđêmô với tất cả mọi thứ! - Phêrô nói. Ông không sao nhớ được các tên lạ của người Crétois.
- Các ông không kéo cả chiếc thuyền lên tàu chứ?
- Không. Điều đó đương nhiên.
- Vậy trong vũng tàu có chỗ để giữ, và có những người gửi giữ tới khi trở về. Mỗi ngày một đồng tới ngày trở về. Bởi vì tôi nghĩ rằng các anh sẽ trở lại.
- Chắc chắn rồi. Chúng tôi đi và chúng tôi trở lại, sau khi đã xem
53
tình trạng các khu vườn của Lazarô. Vậy đó.
- A! Các anh là quản lý của ông ta?
- Còn hơn vậy nữa...
- Tốt. Vậy hãy đi với tôi. Tôi sẽ chỉ nơi đó cho các anh. Nó đã được làm chỉ cho những người để ghe lại, giống như các anh...
- Chờ tí đi... Kìa, những người kia. Lát nữa chúng tôi sẽ tới gặp ông - Và Phêrô nhảy lên bờ, chạy đi gặp các bạn ông đang tới.
- Anh ngủ ngon không? - Andrê hỏi cách tình nghĩa.
- Giống như một đứa trẻ trong nôi. Cả đến người ta ru và hát cho tôi bài ca ru em.
- Tôi thấy hình như người ta cũng đã rửa ráy cho anh - Thađê cười nói.
- Đúng! Biển nó... qúa tốt bụng, đến nỗi nó rửa mặt cho tôi để đánh thức tôi.
- Tôi thấy hình như biển động - Mathêu biện bác.
- Ồ, nếu các anh biết chúng ta sắp đi với ai! Một người mà cả cá của miền băng giá cũng biết.
- Anh đã gặp ông ta à?
- Không. Nhưng tôi đã nói chuyện với một người, ông này bảo tôi là có một nơi để gửi thuyền, một cái vựa. Hãy đến khuân đồ lên và chúng ta tới đó, vì Nicôđêmô, không, Nicôđêmô Crétois, sắp khởi hành.
- Chúng ta sẽ khiêu vũ tại kênh Chypre - Gioan Enđo nói.
- Đúng. Hen? - Mathêu lo lắng hỏi.
- Đúng. Nhưng Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta.
Họ đã tới bên chiếc ghe.
- Đó, ông à. Chúng tôi khuân hết đồ lên, rồi chúng ta tới đó. Bởi vì ông qúa tốt.
- Ta giúp nhau... - người thành Tyr nói.
- Hé! Đúng! Ta giúp nhau, ta phải giúp nhau. Ta phải yêu nhau, vì đó là luật của Thiên Chúa...
- Người ta nói với tôi là một vị tiên tri mới đã xuất hiện tại Israel và truyền dạy điều đó. Đúng vậy không?
54
- Thật đó. Điều đó và điều khác nữa! Và Người làm nhiều phép lạ! Nào, Andrê, kéo, kéo, thẳng hơn lên. Nào, vào lúc sóng nâng chiếc ghe lên... Nhảy lên! Được rồi!... Ông à, tôi đã nói với ông: bao nhiêu là phép lạ: kẻ chết sống lại, người bệnh được khỏi, người mù được thấy, các kẻ trộm cắp hoán cải, và cả tới... Ông thấy không? Nếu Người ở đây, Người sẽ nói với biển: “Hãy yên lặng”, và biển sẽ lặng lẽ... Cậu làm được không Gioan! Chờ tôi, tôi tới. Các anh, giữ sát vào, thật mạnh... Nào, nào... Một tí nữa... Anh, Simon, cầm tay nắm... Cẩn thận bàn tay. Juđa! Nào, nào... Cám ơn ông... Các anh Alphê! Cẩn thận kẻo té xuống nước... Nào... Được rồi! Ngợi khen Thiên Chúa! Người ta xuống thì ít mệt hơn là lên... Nhưng tôi bị rách tay vì công việc ngày hôm qua... Vậy tôi đã nói về biển...
- Nhưng có thật vậy không?
- Thật mà. Tôi đã ở đó để coi vị tiên tri mà!
- Đúng à? Ôi!... Nhưng ở đâu?
- Trên hồ Gênêsarét đó. Hãy xuống ghe, tôi sẽ nói chuyện đó cho ông trong khi chúng ta đi về ụ giữ ghe - Và ông chèo đi cùng với người đàn ông và Giacôbê, vào trong chiếc kinh dẫn tới vũng tàu.
- Vậy mà Phêrô nói ông ta không biết làm!... - Zêlote nhận xét. “Trái lại, ông ta có cái nghệ thuật làm cho người ta biết các điều một cách đơn giản, và ông làm hơn tất cả mọi người”.
- Tôi thích ông ta nhất là cái nết thật thà của ông - Người xứ Enđo nói.
- Và sự kiên trì của ông - Mathêu tiếp.
- Sự khiêm nhường của ông. Coi, ông ta không kiêu hãnh dù ông ta biết mình là thủ lãnh. Ông chịu cực hơn mọi người. Ông săn sóc chúng ta nhiều hơn tới chính ông... - Giacôbê Alphê nói.
- Và ông ta rất nhân đức trong tình cảm của ông: một người anh tốt. Không gì khác hơn - Sintica hoàn tất.
Sau một lát, Zêlote hỏi hai môn đệ: “Nói vậy là rất phải? Đó là điều các bạn tự nhủ?”
- Đúng - Sintica trả lời. “Đó không phải là lời nói đãi môi, nhưng
55
là tinh thần sự thật. Đối với tôi, đó là người anh trưởng, từ một giường khác, nhưng bởi cùng một cha. Cha là Thiên Chúa, hai giường khác nhau là Israel và Hy Lạp. Còn Gioan là anh cả của tôi bởi tuổi tác, và điều nữa không nhìn thấy, nhưng thật sự, đó là vì anh ấy là môn đệ từ một thời gian dài trước tôi. Kìa, Simon trở lại...”
- Xong hết rồi. Ta đi thôi.
Họ khuân đồ đạc, băng qua eo đất hẹp, họ qua cảng bên kia. Người thành Tyr tháp tùng họ, rất thực tế, qua các ngõ chất đầy những đống hàng hóa trong một cái kho mênh mông, cho tới chiếc tàu hùng mạnh của người Crétois mà mọi người đang làm những vận hành sau cùng trước khi khởi hành, và ông ta gọi những người trên tàu để họ bắc lại chiếc cầu tàu mà họ đã rút lên.
- Không thể được. Chất hàng xong rồi - người cai xếp kêu.
- Có một lá thơ phải chuyển - người đàn ông nói trong khi chỉ vào Simon Jonas.
- Một lá thơ à? Của ai?
- Của Lazarô con Théophile, trước kia cai trị ở Antioche.
- A! Tôi đi tìm ông chủ.
Simon nói với ông Simon kia và Mathêu: “Bây giờ đến lần các anh xử lý. Tôi, tôi qúa cục mịch để tiếp xúc với loại người như vầy...”
- Không. Anh là xếp. Anh biết làm rất đúng. Chúng tôi sẽ giúp anh, nếu có sao... Nhưng không cần vậy đâu.
- Người có lá thư đâu? Mời ông ta lên - một người da ngăm như kiểu người Ai Cập, gầy, đẹp trai, dong dỏng, nghiêm nghị, khoảng bốn mươi tuổi hay hơn một tí, nghiêng người ra từ trên tàu để nói, và ông hạ lệnh bắc cầu tàu trở lại. Simon Jonas đã mặc y phục trở lại và choàng áo khoác vào trong khi chờ trả lời, ông đi lên cách đàng hoàng xứng đáng. Theo sau ông là Zêlote và Mathêu.
- Bình an cho ông - Phêrô nói cách trịnh trọng.
- Chào. Lá thơ đâu? - người Crétois hỏi.
- Thưa đây.
Tên Crétois bẻ con dấu, dở ra và đọc.
56
- Hoan nghênh các người được gởi tới của gia đình Théophile! Các người Crétois không quên những người tốt và tử tế. Nhưng làm mau đi. Các ông có nhiều hành lý không?
- Các thứ ông thấy ở trên cảng.
- Và các ông là?
- Mười người.
- Được. Chúng tôi sẽ dọn một chỗ cho người đàn bà. Còn các ông, hãy xếp đặt thế nào cho tốt. Nào, nhanh lên. Phải khởi hành và ra khơi trước khi gió qúa mạnh. Sau chính ngọ, gió sẽ mạnh như vậy.
Rồi ông ra lệnh, bằng những hồi còi điếc tai, việc chuyển các hòm xiểng lên và để vào chỗ. Rồi các tông đồ lên cùng với hai môn đệ. Người ta kéo cầu tàu lên, đóng cửa hông lại. Họ tháo các giây chằng và kéo các cánh buồm lên. Chiếc tàu tiến lên, lắc lư rất mạnh khi ra khỏi cảng. Rồi các cánh buồm căng ra, đập đồm độp, vì gió thổi phồng nó qúa mạnh, với những tròng trành, loan báo chiếc tàu ra khơi để trốn mau về Antioche.
Mặc dầu gió mạnh, Gioan Enđo và Sintica, người nọ ở bên cạnh người kia, đứng bên chiếc ròng rọc ở đàng lái, nhìn bờ cảng xa dần, đất của Palestin, và họ khóc...
8* BÃO TỐ VÀ CÁC PHÉP LẠ Ở TRÊN TÀU
Địa Trung Hải là một bề mặt mênh mông mầu xanh lơ-ve. Các ngọn sóng bạc đầu đầy bọt húc vào nhau cách giận dữ. Hôm nay không có sương mù, nhưng nước biển bị đập nát bởi sự va chạm liên tục của các đợt sóng vào nhau, biến thành một thứ bụi mặn thiêu đốt, thấm vào tận bên dưới lớp y phục, làm đỏ mắt, cháy cổ họng, và dường như nó bao trùm khắp nơi như một bức màn bằng bụi mặn, trong không khí mà nó đã làm cho thành mờ đục giống như sương mù nhẹ, cũng như trên vạn vật đều như bị rắc bột sáng: các tinh thể mặn tí hon. Như vậy tại những nơi sóng không tạt vào
57
được cũng như trên boong tàu, nơi các đợt sóng nhảy qua bờ, tràn vào trong, với đầy nghị lực, nó rửa sạch boong tàu từ bờ nọ tới bờ kia, để sau cùng lại rơi xuống biển qua các lỗ mở ở bờ bên kia, trong tiếng kêu tan vỡ.
Con tàu nhấp nhô như một cộng rơm, phó mặc cho đại dương. Nó là không so với biển cả. Nó kêu cọt kẹt, rên rỉ từ đáy tàu lên tới cột buồm. Biển cả thực tình là bà chủ và con tàu là đồ chơi của nó.
Trừ những người có nhiệm vụ vận hành, không còn ai ở trên boong nữa, cũng không còn hàng hoá. Chỉ còn các đồ cứu nạn đong đưa và các người trong thủy thủ đoàn với Nicôđêmô dẫn đầu. Tất cả đều mình trần, bị lôi kéo bởi sự tròng trành của chiếc tàu, chạy đó đây, từ chỗ trú ẩn tới nơi vận hành một cách khó khăn, vì boong tàu luôn luôn bị ngập nước và trơn trượt.
Các lỗ để đi xuống dưới đều đóng nên không thể nhìn thấy những gì xảy ra ở bên dưới boong tàu, nhưng tôi không tin là nó được yên tĩnh ở bên trong.
Tôi cũng không hiểu là chiếc tàu đang ở chỗ nào, vì tất cả chung quanh chỉ thấy có biển, và ở rất xa có một bờ hiện ra những ngọn núi, một miền núi thực sự chứ không phải các ngọn đồi. Tôi nói là tàu đã chạy hơn một ngày rồi, vì người ta thấy rõ đây là những giờ của buổi sáng, vì mặt trời lúc ẩn lúc hiện qua lớp mây rất dầy, vẫn còn đến từ phía đông.
Tôi tin là chiếc tàu tiến rất ít, mặc dầu là những vận hành để kích động nó, và biển như càng lúc càng phẫn nộ.
Với một tiếng động ghê gớm, một khúc cột buồm bay đi. Tôi không biết tên cái khúc này của dàn cột buồm. Vừa rơi xuống, nó bị lôi đi bởi làn nước tạt mạnh vào boong tàu, đồng thời một cơn gió xoáy giựt mất một đoạn lan can.
Những người ở bên trong hẳn có cảm tưởng là chìm xuồng... Bằng chứng là sau một lát, chiếc cửa của cái lỗ để lên boong hé mở và đầu tóc hoa râm của Phêrô ló ra. Ông nhìn và ông hiểu tình trạng. Rồi ông khép lại ngay để ngăn cản cả suối nước đổ xuống dưới qua chiếc cửa hé mở. Nhưng rồi sau một lúc nghỉ của các đợt sóng, ông lại mở ra và nhảy lên boong. Ông bám lấy các chỗ tựa,
58
quan sát biển cả như cái hỏa ngục này. Gió rít và rên xiết là thứ giải thích tất cả.
Nicôđêmô nhìn thấy ông, hắn la: “Xuống đi! Khép cửa lại. Nếu tàu bị nặng thêm, chúng ta sẽ chìm xuống đáy biển. Còn may là tôi chưa phải vất hàng hóa xuống biển... Chưa bao giờ có một cơn bão như vầy! Xuống đi! Tôi nói với ông rồi đó. Tôi không muốn có thứ người sống trên đất quấn chân tôi. Đây không phải là chỗ của người làm vườn và...” Hắn ta không thể nói tiếp, vì một đợt sóng khác quét trên boong tàu và bao phủ hết những gì ở đó.
- Ông thấy không? - Hắn la lên với Phêrô đang bị lụt.
- Tôi thấy, nhưng điều này không làm tôi kinh sợ. Không phải tôi chỉ có khả năng giữ vườn mà thôi. Tôi sinh ra ở trên nước, nước hồ, thực vậy... Nhưng dù là hồ!... Trước khi là... nông dân, tôi đã là dân chài, và tôi biết...
Phêrô rất bình tĩnh, và ông biết lựa theo sự tròng trành của con tàu bằng đôi chân nổi bắp thịt của ông dạng ra. Người Crétois quan sát cách di chuyển của ông khi ông tiến lại gần hắn.
- Ông không sợ à? - hắn hỏi ông.
- Ít sợ hơn cả.
- Còn những người khác?
- Ba người là dân chài giống như tôi, hay hầu như vậy... Những người khác, trừ một người bệnh, còn thì đều khỏe mạnh.
- Kể cả người đàn bà?... Cẩn thận, cẩn thận, đứng cho chắc.
Một cơn tràn nữa xâm chiếm boong tàu. Phêrô chờ cho nó đi qua rồi nói: “Cái tắm này là sự chào mừng của mùa hè tới... Hãy kiên nhẫn! Anh đã hỏi tôi người đàn bà làm gì. Bà cầu nguyện... Anh cũng rất nên làm. Nhưng chính xác là chúng ta đang ở đâu vậy? Trong kinh Chypre à?
- Nếu mà được như vậy! Tôi sẽ ghé vào đảo để chờ cho những hiện tượng này yên tĩnh lại. Nhưng chúng ta mới gần tới ngang Colonie Julia, hay là Béritus, nếu ông thích nói thế hơn. Và chính lúc này, điều tệ hại nhất lại tới. Đây là những núi thuộc Liban.
- Và anh không thể vào đó, trong xứ này à?
59
- Cảng không tốt. Có nhiều đá ngầm nguy hiểm. Không thể được! Coi chừng!...
Một cơn gió xoáy khác, và một khúc nữa của cột buồm bay đi sau khi đập bị thương một người. Nó không mang ông ta đi chỉ vì cái sóng đã đập ông ta vào một vật cản.
- Xuống đi! Xuống đi! Ông thấy không?
- Tôi thấy, tôi thấy... nhưng người kia?...
- Nếu anh ta không chết thì anh ta sẽ tỉnh lại... Tôi không thể săn sóc anh ta... Ông thấy không?...
Qủa vậy, tên Crétois phải để mắt vào tất cả, vì sự sống của tất cả.
- Đưa ông ta cho tôi. Người đàn bà sẽ săn sóc ông...
- Tất cả như ông muốn, nhưng đi đi!...
Phêrô lết tới bên người đàn ông bất động. Ông nắm một bàn chân của người này và lôi về phía ông. Ông nhìn anh ta. Ông huýt gió... Ông lẩm bẩm: “Anh ta có cái đầu mở ra như trái lựu chín! Phải mà có Chúa ở đây... Ôi! Nếu Người ở đây! Lạy Chúa Giêsu, Thầy của con! Tại sao Thầy lại bỏ chúng con?” Giọng của ông run run vì đau đớn.
Ông vác người đàn ông trên vai, máu dính đầy người ông. Ông trở lại cửa để đi xuống. Tên Crétois la lên với ông: “Nhọc công vô ích. Không thể làm gì được nữa. Ông thấy không?...”
Nhưng Phêrô, dù vác nặng, làm hiệu cho anh ta như muốn nói: “Chúng ta sẽ coi”. Và ông bám chặt vào cột buồm để chống cự một đợt sóng mới, rồi ông mở cửa lỗ và kêu: “Giacôbê, Gioan, lại đây”. Với sự giúp đỡ của họ, ông đem người bị thương xuống, và ông cũng xuống sau khi đóng cửa lỗ.
Dưới ánh sáng lẫn khói của ngọn đèn treo, họ thấy quần áo Phêrô đầy máu. Họ hỏi: “Anh bị thương sao?”
- Tôi, không. Máu của người này đó... Nhưng... Hãy cầu nguyện để... Sintica, nhìn chỗ này coi. Một lần cô đã nói với tôi là cô biết săn sóc người bị thương. Vậy hãy nhìn cái đầu của ông này coi...
Sintica rời nâng đỡ Gioan Enđo, vì ông rất mệt, để lại bên chiếc
60
bàn mà họ đã để kẻ khốn nạn nằm, và cô ta nhìn...
- Vết thương rất nặng! Tôi đã thấy nó hai lần nơi hai người nô lệ bị thương, một người bởi chủ của ông ta, một người bởi đá ở Caprarola. Phải có nước, rất nhiều nước để rửa và cầm máu.
- Nếu cô chỉ muốn có nước thì ở đây có qúa nhiều! Lại đây Giacôbê. Cầm theo cái thùng. Hai người thì ta mang dễ hơn.
Họ đi rồi trở lại, ướt dầm dề. Sintica lấy khăn nhúng nước, rửa và lau phía sau ót... Nhưng đó là vết thương qúa nặng: Xương mở ra từ thái dương tới sau ót. Nhưng người đàn ông mở mắt ra, đôi mắt mờ đục, ấp úng và thở dồn. Ông ta sợ chết theo bản năng tự nhiên.
- Nào, bình tĩnh lại. Bây giờ ông sắp được khỏi - Cô Hy Lạp nói như người mẹ để an ủi ông ta. Cô nói với ông ta bằng tiếng Hy Lạp, bởi vì ông này nói tiếng Hy Lạp.
Người đàn ông nhìn cô, mặc dầu đôi mắt khờ khạo. Ông nhìn cô cách ngạc nhiên và hé một nụ cười khi ông nghe nói tiếng mẹ đẻ của ông. Ông tìm bàn tay của Sintica... Người đàn ông trở nên đứa trẻ khi họ đau khổ, và họ tìm người đàn bà, luôn luôn là bà mẹ trong trường hợp này.
- Tôi sẽ bôi dầu của Maria - Sintica nói khi vết thương hơi bớt chảy máu.
- Nhưng dầu này để thoa bóp cho khỏi đau - Mathêu bắt bẻ. Ông tái mét như người chết, tôi không biết tại biển hay tại thấy máu, hoặc tại cả hai.
- Ôi! Chính tay Maria đã chế dầu này. Tôi sẽ xức trong khi cầu nguyện... Các anh cũng hãy cầu nguyện. Nó không thể làm cho đau. Dầu luôn luôn là một phương thuốc.
Cô lại chiếc giỏ của Phêrô và lấy ra một cái hũ, tôi thấy như bằng đồng. Cô mở ra, lấy một ít dầu và bỏ ngay vào cái nắp hũ, rồi hơ nóng trên ngọn đèn. Cô trét nó trên một miếng vải và đặt lên trên vết thương, rồi cô băng chặt lại bằng vải mà cô đã xé ra thành băng. Cô cuộn tròn một cái áo khoác và kê dưới đầu người bị thương. Ông ta có vẻ thiu thiu ngủ và cô ngồi ở bên cạnh để cầu nguyện. Những người khác cũng cầu nguyện.
61
Trên boong, vẫn luôn luôn là những ngả nghiêng tròng trành. Chiếc tàu không ngừng nhảy chồm lên và sụp xuống sâu. Sau một lát, chiếc lỗ cầu thang trên boong mở ra, một thủy thủ lao vào bên trong.
- Chuyện gì vậy? - Phêrô hỏi.
- Ta sắp bị chìm. Tôi đi lấy nhang và của lễ làm hy sinh.
- Hãy dẹp những chuyện đó đi.
- Nhưng Nicôđêmô muốn dâng lễ hy sinh cho thần Vénus. Chúng ta đang ở trong biển của người...
- Sảng chừng nào! - Phêrô lẩm bẩm nhỏ tiếng. Rồi ông nói lớn: “Nào, các anh, chúng ta đi lên boong. Có lẽ có chuyện để làm. Cô sợ ? Hãy ở lại với người bị thương và hai người này”. Hai người tức là Mathêu và Gioan Enđo mà say sóng đã làm cho thành như mớ dẻ rách.
- Không, không. Các anh lên đó đi - Sintica kêu.
Trong khi họ lên trên boong, họ gặp tên Crétois đang cố đốt nhang. Hắn xáp lại bên các vị một cách giận dữ để đuổi họ xuống và la: “ Nhưng các ông không thấy là nếu không có phép lạ thì chúng ta sẽ chết chìm? Lần đầu tiên từ lúc tôi đi biển”.
- Coi chừng bây giờ hắn ta sắp nói rằng tai họa là do chúng ta mà có - Juđa Thađê lẩm bẩm.
Qủa vậy, hắn la lớn: “Các tên Israel đáng nguyền rủa! Chúng mày mang cái gì trong mình? Các tên Hy Bá dơ dáy! Chúng mày mang tai họa cho tao! Hãy đi khỏi đây, để tao dâng lễ hy sinh cho thần Vénus mới sinh...” (tức là sao Vénus vừa mọc)
- Không. Không được. Chính chúng tôi sẽ làm lễ hy sinh.
- Cút đi! Chúng mày là dân ngoại, chúng mày là ma qủi, chúng mày là...
- Hãy nghe đây. Tôi thề là nếu anh để chúng tôi làm, anh sẽ thấy kỳ quan.
- Không. Đi khỏi đây đi!
Anh ta đốt nhang rồi quăng xuống biển như anh ta có thể, cùng với chất lỏng mà anh ta đã khấn vái và uống một tí, và những chất
62
bột, tôi không biết là thứ gì. Nhưng sóng làm tắt nhang, và biển, thay vì yên lặng, nó càng giận dữ hơn. Nó quét đi hết những dụng cụ của nghi lễ, và suýt nữa là nó lôi cả Nicôđêmô đi.
- Nữ thần của anh đã trả lời anh rất hay! Bây giờ đến lần chúng tôi. Chúng tôi cũng có một Nữ Thần rất trong sạch hơn nữ thần chỉ là bọt này, và rồi... Hãy hát đi Gioan, giống như hôm qua đó. Chúng tôi sẽ hát dựa vào cậu. Rồi chúng ta sẽ thấy.
- Đúng. Chúng ta sẽ thấy. Nhưng nếu việc đó làm cho tình trạng trở nên tệ hơn thì tôi sẽ quăng các ông xuống biển giống như các vật hy sinh cầu phước.
- Được. Nào, Gioan, hát đi!
Gioan xướng lên bài ca của ông, những người khác họa theo, kể cả Phêrô là người không bao giờ hát, bởi vì ông hát ngang. Tên Crétois đứng khoanh tay mỉm cười, khuôn mặt nửa giận nửa mỉa mai và nhìn họ. Sau bài hát, họ giang tay cầu nguyện, chắc là kinh Lạy Cha, nhưng đọc bằng tiếng Hy Bá nên tôi không hiểu. Rồi họ lại hát mạnh hơn và đọc kinh luân phiên, không gián đoạn, không sợ hãi, dù sóng đập vào họ. Họ không bám vào cột nữa, nhưng họ đầy bảo đảm, vững chắc như họ là một với sàn boong tàu. Các đợt sóng thực sự mất vẻ hung hăng của nó. Nó không hoàn toàn yên lặng, cũng như gió không hoàn toàn ngừng thổi, nhưng chúng không còn giận dữ như trước, và các con sóng không còn tung lên tới boong tàu nữa.
Khuôn mặt của người Crétois là một bài thơ kinh ngạc... Phêrô liếc nhìn anh ta nhưng ông không thôi cầu nguyện. Gioan mỉm cười và hát mạnh hơn... những người khác phụ họa. Lời ca càng lúc càng át đi tiếng sóng đập trong khi biển trở lại yên tĩnh với những cử động bình thường, và gió thổi nhẹ thuận lợi.
- Bây giờ anh nói sao?
- Nhưng các ông đọc cái gì vậy? Một công thức lạ lùng?
- Công thức của Thiên Chúa thật và của Nữ Tì Người. Vậy hãy kéo buồm lên và điều chỉnh nó... Chỗ này?... Nhưng không phải là các đảo sao?
63
- Đúng. Đảo Chypre đó... Và biển ở trong kinh còn yên tĩnh hơn... Lạ thật! Nhưng ngôi sao mà các ông tôn thờ là sao nào vậy? Vẫn là Vénus chứ ? Không phải à?
- Phải nói: “mà các ông tôn kính”. Người ta chỉ tôn thờ có Thiên Chúa thôi. Đó không phải là Vénus, đó là Maria, Maria Nazarét, Maria người Israel, mẹ của Đức Giêsu, Đấng Messi của Israel.
- Và cái điều khác nữa đó là cái gì vậy? Đâu có phải tiếng Hy Bá?
- Không. Đó là thổ ngữ của chúng tôi, của cái hồ của chúng tôi, của quê hương chúng tôi. Nhưng chúng tôi không thể nói điều đó với anh, dân ngoại. Đó là văn từ để nói với Jêova mà chỉ những người tin mới biết được. Chào Nicôđêmô. Và đừng hối hận vì những gì đã chìm xuống đáy biển. Đỡ đi được một trò qủi thuật chỉ mang xui xẻo tới cho anh. Chào! Hé? Anh có mặn không?
- Không... Nhưng... Xin lỗi... Lúc đầu tôi đã nguyền rủa các ông!
- Ồ, không sao. Đó là hậu qủa của... của việc thờ cúng Vénus... Anh em, chúng ta đi coi các người khác - Và Phêrô đi về phía cửa lỗ, cười vui vẻ.
Tên Crétois đi theo họ: “Nghe này! Còn người đàn ông? Chết rồi à?”
- Ồ, không. Có lẽ chúng tôi sắp trả lại ông ta cho anh trong tình trạng sức khỏe tốt... Đó là một trò dỡn chơi nữa của những... tai họa của chúng tôi...
- Ôi! Xin lỗi! Xin lỗi! Nhưng này! Người ta có thể học cái đó ở đâu để được cứu giúp? Tôi, tôi sẽ trả tiền cho việc đó.
- Chào Nicôđêmô! Đó là công việc lâu dài, và... không được phép. Người ta không đưa các đồ thánh cho dân ngoại! Chào! Chúc anh mạnh giỏi. Mạnh giỏi nhe bạn!
Và Phêrô với các người khác theo sau ông đi xuống khỏi boong, vừa xuống vừa cười, trong khi biển cũng cười tươi với gió ôn hòa làm thuận lợi cho con tàu tiến lên trong khi mặt trời xuống thấp dần. Ở phía đông, phần tư trăng đầu tiên vẽ ra trên nền trời.
64
9* CẬP BẾN VÀ LÊN BỜ TẠI SÉLEUCIE
Chính dưới một hoàng hôn lộng lẫy, thành phố Séleucie vẽ mình ra như một khối mầu trắng trên bờ nước biển xanh yên lặng và tươi vui, với những đợt sóng nhỏ phóng đãng dưới bầu trời mầu hồng không mây do hoàng hôn đỏ tía. Chiếc tàu với mọi cánh buồm đều căng, tiến nhanh về thành phố xa xôi, tựa như nó cháy lên lửa vui ngày lễ của việc cập bến sắp tới, vì nó được bao phủ bởi sự huy hoàng của mặt trời đang lặn.
Trên boong, giữa đám thủy thủ không còn bận rộn và lo lắng nữa, có các người khách thấy mình sắp tới đích. Ngồi bên cạnh Gioan Enđo còn gầy gò hơn lúc khởi hành, là người thủy thủ bị thương. Đầu ông vẫn còn cuốn băng. Ông trắng bệch như mầu ngà vì bị mất máu, nhưng ông vui vẻ nói chuyện với những người đã cứu ông và các bạn ông, họ mừng rỡ với ông vì lại thấy ông ở trên boong.
Người Crétois cũng quan sát ông. Hắn bỏ vị trí của hắn một lát bằng cách giao nó cho người trưởng đoàn để lại chào ông “Démété tuyệt vời” của hắn đã trở lại boong tàu lần đầu tiên kể từ lúc ông bị thương. Và hắn nói với các tông đồ: “Cám ơn tất cả các ông. Tôi đã tưởng là ông ta không còn có thể sống, vì bị thương như vậy bởi cái cột buồm nặng, và nòng sắt làm cho nó thành nặng hơn. Thực vậy, Démété, họ đã cho lại ông sự sống. Ông đã chết một lần thứ nhất và một lần thứ hai rồi. Lần thứ nhất ông bị té từ trên boong xuống hàng hóa, bị mất máu và bị sóng quăng xuống biển. Ông đã chết khi đi xuống giang sơn của Neptune (thủy thần) ở giữa các Néréides (con cái thủy thần). Và lần thứ hai, ông được chữa bởi thứ dầu tuyệt diệu. Vậy hãy để tôi coi các vết thương của ông”.
Người đó liền tháo băng ra, để lộ vết thẹo khép kín, nhẵn, giống như một vết đỏ từ thái dương tới ót theo đường chân tóc mà có lẽ Sintica đã cắt để khỏi dính vào vết thương. Nicôđêmô rờ nhẹ cái vết này: “Xương đã tự hàn lại! Ông rất được Vénus yêu thương. Thần chỉ muốn có ông ở trên mặt biển và trong các khúc quanh của
65
Hy Lạp. Cầu cho Eros (thần tình yêu) ân đức cho ông. Bây giờ chúng ta lên bờ. Xin thần giúp ông quên đi những kỷ niệm đau thương và những sợ hãi của Thanatos đã ôm xiết ông”.
Khuôn mặt của Phêrô là một bức họa của tư tưởng khi ông nghe tất cả những ám chỉ thần thoại này. Đứng tì vào một chiếc cột, tay để sau lưng, ông không nói, nhưng tất cả đều nói trong ông để ám chỉ một hình dung từ mặn chát về tên dân ngoại Nicôđêmô và những thần thoại của hắn, và để tỏ dấu sự khinh bỉ của ông về tất cả những gì là dân ngoại.
Những người khác cũng không kém phần khinh bỉ... Juđa Alphê có bộ mặt khép kín của những lúc xấu nhất trong đời ông. Anh ông thì quay vòng, rất chú ý vào biển. Giacôbê Zêbêđê và Andrê sẵn sàng bỏ đi để xuống dưới lấy giỏ xách và đồ nghề. Mathêu chơi với chiếc giây lưng của ông. Zêlote bắt chước ông để sửa sang chiếc xăng đan qúa rộng của ông, làm như đó là cái gì mới lạ. Gioan Zêbêđê say sưa nhìn biển.
Nếu tám người biểu lộ sự khinh bỉ và buồn bực, thì sự yên lặng của hai môn đệ ngồi bên cạnh kẻ bị thương cũng không kém nói lên điều đó. Tên Crétois cũng nhận ra và hắn xin lỗi: “Đó là tôn giáo của chúng tôi. Các ông biết chứ? Cũng như qúi vị tin vào tôn giáo của qúi vị, tất cả chúng tôi và tôi tin vào tôn giáo của chúng tôi...”
Không ai trả lời cả, và tên Crétois xét là đã đến lúc để cho các thần của hắn yên và rời bỏ Olympe để xuống trái đất, đúng hơn là xuống trên biển, trên chiếc tàu của hắn, bằng cách mời các tông đồ tới đầu lái để nhìn rõ thành phố đang từ từ tới gần: “Đó, qúi vị thấy không? Qúi vị chưa bao giờ tới đây sao?”
- Tôi đã tới một lần, nhưng bằng đường bộ - Zêlote nói với giọng nghiêm trang và sắc bén.
- A! Vậy ít nhất ông cũng biết rằng cảng thật của Antioche chính là Séleucie trên bờ biển, ở cửa sông Oronte, nơi sẵn sàng đón tiếp tàu bè cách ân cần, và vào kỳ nước lớn, người ta có thể lên tới tận Antioche bằng các thuyền nhẹ. Thành phố mà qúi vị nhìn thấy lớn
66
hơn cả, đó là Séleucie. Còn thành phố khác về phía nam không phải là một thành phố, mà là những đổ nát của một nơi bị tàn phá. Nó đánh lừa con mắt. Đó là một xứ chết. Dẫy núi kia là Pierios, nên nó cho thành phố Séleucie cái tên nữa là Pieria. Ngọn ở sâu hơn về phía nội địa, ở bên kia đồng bằng là núi Casio ngự trị trên đồng bằng Antioche như một người khổng lồ. Rặng lui về phía bắc là rặng Aman. Ôi! Qúi vị sẽ thấy ở Séleucie và ở Antioche những công trình của người Rôma! Họ không thể làm cái gì lớn hơn nữa. Một cảng, một trong những cảng tốt nhất với ba bãi tàu đậu, với các kênh, các đê, đập. Không có như vậy ở Palestin đâu. Syrie là xứ tốt hơn trong các nơi của đế quốc...
Các lời của hắn rơi trong sự yên lặng băng giá. Kể cả Sintica, vì là người Hy Lạp nên ít dễ dung hợp hơn các người khác. Cô cắn môi, và hơn bao giờ hết, khuôn mặt cô có những nét nổi của khuôn mặt trên huy chương hay bán nổi: khuôn mặt của một nữ thần ghê tởm những tiếp xúc với trái đất.
Tên Crétois cũng nhận ra được và hắn xin lỗi: “Nhưng qúi vị muốn gì? Thực sự thì tôi kiếm sống với người Rôma!...”
Câu trả lời của Sintica sắc nhọn như một lát kiếm: “Và vàng đã làm cùn lụt lưỡi kiếm của danh dự quốc gia và của tự do”. Cô ta nói với một giọng La-tinh toàn vẹn tới nỗi tên kia cứng ra như hóa đá...
Rồi hắn ta cũng dám hỏi: “Nhưng cô không phải người Hy Lạp sao?”
- Tôi người Hy Lạp, nhưng anh, anh thích Rôma nên tôi nói với anh bằng tiếng của ông thầy anh chứ không bằng tiếng của tôi, tiếng của quê hương tử đạo.
Tên Crétois bối rối, và các tông đồ bày tỏ bằng sự câm lặng, thiện cảm về bài học nàng đã cho kẻ tán tụng Rôma. Tên này nghĩ rằng nên lái câu chuyện về hướng khác bằng cách hỏi các tông đồ xem họ sẽ đi từ Séleucie tới Antioche bằng cách nào .
- Bằng chân ông ơi - Phêrô trả lời.
- Nhưng tối rồi. Lúc tàu tới bến sẽ là đêm.
- Sẽ có chỗ nào để ngủ chứ !
67
- Ôi! Chắc chắn rồi. Nhưng qúi vị cũng có thể ngủ ở đây cho tới mai.
Juđa Thađê nhìn thấy họ đã mang tất cả các thứ cần thiết tới để dâng lễ hy sinh cho các thần, có lẽ sẽ dâng vào lúc cập bến, ông nói: “Không cần. Chúng tôi biết ơn anh vì lòng tốt của anh, nhưng chúng tôi thích lên bờ hơn. Có phải không Simon?”
- Đúng, đúng. Chúng tôi cũng phải cầu nguyện, và... hoặc anh với các thần của anh, hoặc chúng tôi với Thiên Chúa của chúng tôi.
- Hãy làm như qúi vị tin. Tôi, tôi thích làm cái gì dễ chịu cho con trai Théophile.
- Chúng tôi cũng vậy, cho con cái Thiên Chúa, bằng cách thuyết phục anh là chỉ có một Thiên Chúa. Nhưng anh là tảng đá không thể lay chuyển. Như anh thấy, chúng tôi cũng vậy. Nhưng ai biết được, một ngày kia chúng ta có thể gặp lại nhau và anh đã bớt cứng đầu hơn - Zêlote nói.
Nicôđêmô làm một cử chỉ như muốn nói: “Ai biết được khi nào?” Một cử chỉ dửng dưng và mỉa mai trước sự mời gọi nhìn nhận Thiên Chúa thật và từ bỏ sai lầm. Rồi anh ta lại vị trí hoa tiêu của anh, vì cảng bây giờ đã rất gần.
- Chúng ta hãy xuống lấy hòm xiểng. Hãy tự xoay xở lấy. Tôi muốn mau mau bỏ cái tên dân ngoại hôi thối này - Phêrô nói. Và họ xuống tất cả, trừ Sintica và Gioan Enđo.
Hai người lưu đày ở bên nhau, họ nhìn những bờ kè càng lúc càng gần.
- Sintica ơi, một bước nữa về nơi bất định, một sự giật đứt nữa với qúa khứ êm đềm, một cơn hấp hối nữa. Sintica ơi... Tôi không thể nữa...
Sintica cầm tay ông. Cô rất xanh xao, đau khổ. Nhưng cô luôn luôn là người đàn bà mạnh mẽ, người biết ban phát sức mạnh: “Đúng, Gioan, một sự giật đứt nữa, một cơn hấp hối nữa. Nhưng đừng nói: một bước nữa về nơi bất định... điều đó không đúng. Chúng ta biết sứ mạng của chúng ta ở đây. Giêsu đã nói điều đó rồi. Vậy chúng ta không đi về nơi bất định, trái lại, chúng ta càng
68
lúc càng hòa tan với điều chúng ta hiểu biết, với ý muốn của Thiên Chúa. Cũng không đúng khi nói: ‘Một sự giật đứt nữa’. Chúng ta đang kết hợp với ý muốn của Người. Sự giật đứt thì phân rẽ, nhưng chúng ta, chúng ta kết hợp. Vậy không có sự giật đứt. Chúng ta chỉ phân rẽ những cái vui tình cảm do tình yêu của chúng ta đối với Người là thầy của chúng ta, trong khi chúng ta giữ lại những vui sướng siêu cảm, khi đem tình yêu và bổn phận tới mức độ vượt ra ngoài trái đất. Anh không nhận thấy như vậy sao? Có? Vậy anh không được nói: ‘một cơn hấp hối nữa’. Cơn hấp hối loan báo cái chết gần đến. Nhưng chúng ta, trong khi kết hợp với chương trình siêu nhiên để làm cho nó thành chỗ ở, thành khí quyển, thành thực phẩm của chúng ta, chúng ta không chết, nhưng chúng ta sống, vì những gì là siêu nhiên thì sẽ vĩnh cửu. Vậy chúng ta đi lên một đời sống động hơn đi trước đời sống vĩ đại ở trên Trời. Vậy nào! Hãy quên con người của Gioan. Hãy nhớ rằng anh có định mệnh ở trên Trời. Hãy lý luận, hãy suy nghĩ, hãy hành động và cậy trông như đúng là một công dân của quê hương bất tử này...”
Những người khác trở lại cùng với đồ đạc ngay vào lúc chiếc tàu oai phong đi vào cảng Séleucie.
- Bây giờ tốt nhất là chuồn lẹ vào cái quán trọ nào mà chúng ta gặp trước tiên. Chắc chắn là có những quán rất gần đây. Và ngày mai, hoặc bằng ghe, hoặc bằng xe, chúng ta sẽ đến chỗ đích điểm của chúng ta.
Giữa những hồi còi ra lệnh inh ỏi, con tàu cập vào bờ và người ta hạ chiếc cầu xuống.
Nicôđêmô lại gần những người ra đi.
- Chào anh, và cám ơn - Phêrô nói đại diện cho tất cả.
- Chào các ông Hy Bá. Và về phần tôi, cũng cám ơn. Khi đi theo con phố này, các ông sẽ tìm ngay thấy chỗ ở. Chào.
Các tông đồ xuống khỏi tàu, còn anh ta đi về bàn thờ của anh ta. Trong khi Phêrô và các người khác khuân đồ đạc như các phu khuân vác để đi nghỉ ngơi thì người ngoại giáo bắt đầu cái nghi thức vô ích của anh ta...
69
10* TỪ SÉLEUCIE TỚI ANTIOCHE
- Tại công viên họp chợ, chắc chắn các ông sẽ tìm thấy một chiếc xe. Nhưng nếu các ông muốn xe của tôi thì tôi biếu cho các ông để ghi nhớ Théophile. Nếu tôi được an toàn thì chính ông ta là người tôi phải chịu ơn. Ông ta đã bảo vệ tôi bởi vì ông ta công bằng. Và có những điều người ta không thể quên được - người chủ quán già nói khi đứng trước mặt các tông đồ trong ánh mặt trời đầu tiên của buổi sáng.
- Nhưng chiếc xe của ông, trong khi chúng tôi giữ nhiều ngày ở xa... Và rồi ai sẽ lái nó? Tôi, tôi lái được với con lừa, nhưng con ngựa thì...
- Nhưng cũng giống vậy thôi ông ơi ! Tôi sẽ không cho ông một con ngựa tơ chưa thuần thục, nhưng là con ngựa chuyên kéo xe, hiền như một con chiên. Các ông sẽ biết làm rất nhanh, không khó khăn gì. Vào giờ thứ chín, các ông đã ở Antioche rồi, vì con ngựa quen đường tới nỗi nó có thể tới đó một mình. Ông sẽ trả lại cho tôi khi nào ông muốn. Về phần tôi, tôi không muốn cái lợi nào khác ngoài việc làm một điều vui lòng cho con trai ngài Théophile mà các ông sẽ nói là tôi còn nhớ ơn ông ta biết bao, rằng tôi nghĩ đến ông ta, và rằng tôi coi mình như tôi tớ ông ta.
- Chúng ta sẽ làm gì? - Phêrô hỏi các bạn ông.
- Điều mà anh cho là tốt nhất. Anh hãy xét đoán, và chúng tôi sẽ vâng lời anh.
- Chúng ta hãy thử con ngựa. Chính vì Gioan mà tôi nói điều đó... và cũng để tới nơi cho lẹ... Tôi có cảm tưởng như dẫn một người tới cái chết, và tôi mong cho tất cả mau chấm dứt.
- Anh có lý - tất cả đều nói.
- Vậy ông ơi, tôi chấp nhận.
- Và tôi, tôi cho các ông trong niềm vui. Tôi đi sửa soạn cái xe.
Người chủ quán đi. Phêrô bày tỏ hoàn toàn điều ông suy nghĩ:
70
“Tôi đã hao mòn nửa đời tôi trong mấy ngày này. Đau khổ chừng nào! Thật là nát lòng! Tôi muốn có cái xe của Êlia và chiếc áo khoác mượn của Êlisê, tất cả những gì mau lẹ để làm cho nhanh... Và nhất là tôi muốn, dù phải chịu đựng cái chết, cho một cái gì để yên ủi những người khổ sở này, làm cho họ quên đi... Đó, tôi không biết! Một cái gì để không làm cho họ khổ như vầy... Nhưng nếu tôi biết ai là nguyên nhân chính của những đau khổ này, thì tôi không còn là Simon Jonas nữa nếu tôi không vặn nó như vặn một cái khăn. Tôi không nói là tôi giết nó, nhưng tôi sẽ nghiền nát nó như nó đã nghiền nát niềm vui và sự sống của hai kẻ khổ sở này”.
- Anh có lý. Đây là một đau đớn lớn lao. Nhưng Giêsu nói là phải tha thứ cho những xúc phạm... - Giacôbê Alphê nói.
- Nếu nó làm những điều đó cho tôi thì tôi phải tha và tôi có thể tha. Tôi lành lặn và khỏe mạnh, nếu ai xúc phạm đến tôi, tôi có sức mạnh để đương đầu với đau đớn. Nhưng cái anh Gioan tội nghiệp này! Không, tôi không thể tha thứ những xúc phạm tới anh ta, người mà Chúa đã cứu chuộc, tới một kẻ phải hầu chết vì sự đau đớn này...
- Tôi, tôi nghĩ tới lúc phải rời bỏ anh ta dứt khoát - Andrê thở dài.
- Tôi cũng vậy. Đó là một tư tưởng cố định mà càng tới gần đích điểm thì nó càng gia tăng - Mathêu thì thầm.
- Vậy chúng ta hãy hành động cho mau, vì tình thương - Phêrô nói.
- Không, Simon. Xin lỗi nếu tôi làm cho anh nhận xét rằng anh lầm khi muốn làm như vậy. Tình yêu của anh đối với tha nhân đang trở thành tình yêu sai lệch. Và anh là người luôn luôn ngay thẳng thì không nên để cho việc này xảy ra nơi anh - Zêlote nói cách bình thản khi ông để một tay trên vai Phêrô.
- Tại sao Simon? Anh có học và tốt, hãy chỉ cho tôi chỗ sai của tôi. Nếu tôi nhận ra, tôi sẽ nói: anh có lý.
- Tình yêu của anh đang trở nên bệnh hoạn, vì nó đang trở thành ích kỷ.
- Thế nào? Tôi đau khổ vì họ, và tôi ích kỷ?
71
- Đúng, anh ạ, bởi vì anh yêu thái qúa - mọi thái qúa đều vô trật tự, và vì đó dẫn đến tội - anh trở nên hèn, vì anh không muốn chịu cái việc nhìn thấy người khác khổ, và đó là ích kỷ, anh ạ, nhân danh Chúa.
- Đúng vậy, anh có lý. Tôi cám ơn anh đã báo cho tôi. Đó là điều nên làm giữa bạn bè. Tốt. Vậy tôi sẽ không vội vã nữa. Nhưng hãy nói sự thật: Đó là cái khổ phải không?
- Đúng, đúng - tất cả đều nói.
- Chúng ta làm cách nào để từ biệt họ?
- Tôi nói là phải đi khi Philíp đã tiếp nhận họ, sau khi đã ẩn ở Antioche một thời gian, và sau khi đã hỏi tin tức nơi Philíp là họ đã làm quen - Andrê đề nghị.
- Không. Điều đó sẽ làm cho họ khổ vì một sự ra đi thình lình - Giacôbê Alphê nói.
- Vậy đây: Hãy theo một nửa lời khuyên của Andrê: Chúng ta hãy ở Antioche, nhưng không ở trong nhà Philíp. Trong ít ngày, chúng ta tới gặp họ, nhưng càng lúc càng thưa cho tới... sau cùng chúng ta không tới nữa - Ông Giacôbê kia nói.
- Sự đau đớn luôn luôn mới lại, và một thất vọng độc ác. Không, không nên làm vậy - Thađê nói.
- Chúng ta sẽ làm sao Simon?
- A! Đối với tôi, tôi muốn ở địa vị của họ hơn là phải nói vĩnh biệt với họ - Phêrô nói cách thất vọng.
Simon Zêlote nói: “Tôi, tôi đề nghị một điều: chúng ta hãy đi với họ tới nhà Philíp và chúng ta ở lại đó. Rồi chúng ta đi Antigonéa tất cả với nhau. Đó là một nơi dễ mến, và chúng ta ở lại đó. Tới lúc họ đã quen, chúng ta sẽ rút lui cách đau đớn, nhưng cương quyết. Đó là điều tôi nói, ngoại trừ Simon Phêrô có những mệnh lệnh khác của Thầy”.
- Tôi à? Không. Người chỉ bảo tôi: “Hãy làm tất cả như cần thiết với tình yêu, không lười biếng, không hấp tấp, theo cách mà con cho là tốt nhất”. Cho tới lúc này, tôi thấy đã làm như vậy. Chỉ có điều tôi đã xưng mình là dân chài!... Nhưng nếu tôi không nói vậy thì hắn không để tôi ở trên boong.
72
- Đừng lo ngại vô căn cớ, Simon. Đó là những cái bẫy của ma qủi để làm anh bối rối bất an - Thađê nói để khích lệ ông.
- Ôi! Đúng đó, hoàn toàn đúng. Tôi tin là ma qủi đang ở chung quanh chúng ta hơn bao giờ hết. Nó tạo ra cho chúng ta những lo ngại và những sợ hãi để làm cho chúng ta trở nên hèn - Tông đồ Gioan nói, và ông chấm dứt nhỏ tiếng: “Tôi tin rằng chúng muốn đưa hai người này tới thất vọng bằng cách giữ họ lại trong Palestin... Bây giờ họ chạy trốn cạm bẫy của chúng nên chúng báo thù chúng ta... Tôi cảm thấy chúng ở chung quanh tôi như những con rắn núp dưới cỏ... Và đã mấy tháng rồi, tôi cảm thấy vậy ở chung quanh tôi... Nhưng kìa, người chủ quán tới từ một phía, và phía bên kia là Gioan và Sintica. Tôi sẽ nói tư tưởng còn lại với các anh khi chúng ta ở một mình, nếu các anh muốn”.
Qủa vậy, từ phía ngoài sân đang tiến tới một chiếc xe vững chắc đã đóng vào một con ngựa lực lưỡng do người chủ quán lái, trong khi hai môn đệ đang từ phía kia tiến lại với họ.
- Đến giờ đi chưa? - Sintica hỏi.
- Rồi, đã đến giờ. Anh đã mặc áo cẩn thận chưa Gioan? Anh có bớt đau không?
- Có, tôi mặc áo len, và dầu làm tôi dễ chịu.
- Vậy lên đi. Chúng tôi cũng đi.
Khi đã chất hết đồ đạc và mọi người đã lên xe, họ đi ra qua chiếc cổng lớn sau khi người chủ quán nhắc lại sự bảo đảm của ông về sự ngoan ngoãn của con ngựa. Họ băng qua một công trường mà người ta đã chỉ cho họ, rồi đi vào con lộ gần tường thành cho tới khi ra khỏi một cái cổng. Trước tiên đi theo một cái kênh sâu, rồi sau đó đi theo ngay bờ sông.
Đây là con lộ đẹp, được bảo trì tốt, chạy về hướng đông bắc, nhưng đi theo những quanh co của con sông. Ở phía bên kia lộ có nhiều núi với sườn xanh ngát. Trong các lớp đất nứt và các khe trũng của nó, dưới các tàn cây rừng, những nơi có mặt trời chiếu sáng, người ta đã thấy vô vàn mầm non của hàng ngàn loại cây đã lú ra.
73
- Đầy những mộc dược! - Sintica kêu lên.
- Và cây nguyệt quế! - Mathêu thêm.
- Gần Antioche có một chỗ được thánh hiến cho thần Apollon - Gioan Enđo nói.
- Có lẽ gió đã mang các hạt tới tận đây...
- Có lẽ vậy, nhưng đây là nơi đầy những cây đẹp - Zêlote nói.
- Anh đã tới đó, anh có tin là chúng ta sẽ đi qua gần Daphné không?
- Chắc chắn rồi. Chúng ta sắp được coi một trong những thung lũng đẹp nhất thế giới, nơi mà, ngoài việc thờ cúng dâm bôn tục tĩu đã biến thành những cuộc hành lạc càng ngày càng ghê tởm, thì đó là một thung lũng của thiên đường dưới đất. Và nếu đức tin vào được trong đó thì nó sẽ là Thiên Đàng thực sự. Ôi! Biết bao điều tốt các bạn có thể làm ở đây. Tôi chúc các bạn những con tim mầu mỡ như đất đai ở đây... - Zêlote nói để làm nảy sinh ra những ý nghĩ an ủi nơi hai người. Nhưng Gioan cúi đầu và Sintica thở dài.
Con ngựa chạy nước kiệu nhịp nhàng và Phêrô không nói, hoàn toàn chú ý để điều khiển nó, mặc dầu con vật bước một cách bảo đảm, không cần hướng dẫn hay kích thích. Con đường vượt qua khá nhanh cho tới lúc họ dừng lại gần một chiếc cầu để ăn và cho con vật nghỉ. Mặt trời ở vị trí chính ngọ và vẻ đẹp của thiên nhiên huy hoàng bày ra trước mắt.
- Nhưng... tôi thích ở đây hơn là ở trên mặt biển... - Phêrô nói khi nhìn chung quanh ông.
- Thực là một cơn bão!...
- Chúa đã cầu nguyện cho chúng ta. Tôi cảm thấy Người ở rất gần khi chúng ta cầu nguyện trên boong, giống như khi Người ở giữa chúng ta... - Gioan mỉm cười nói.
- Người đang ở đâu? Tôi không sao an lòng được khi nghĩ tới Người không có quần áo... Nếu Người bị ướt? Và người sẽ ăn gì? Người dám nhịn đói lắm ạ!...
- Anh có thể chắc rằng Người đang ăn chay để cầu nguyện cho chúng ta - Giacôbê Alphê nói cách bảo đảm.
74
- Và cũng còn điều khác nữa. Ông em của chúng tôi rất khổ trong thời gian gần đây. Tôi tin là Người liên tục hy sinh để thắng thế gian - Thađê nói.
- Anh muốn nói là thắng ma qủi ở trong thế gian? - Giacôbê Zêbêđê hỏi.
- Cũng giống vậy thôi.
- Nhưng Người sẽ không thành công. Tôi, qủa tim tôi se lại vì hàng ngàn thứ sợ - Andrê than thở.
- Ôi! Bây giờ chúng tôi đã ở xa thì tất cả sẽ khá hơn - Gioan Enđo nói, hơi chua cay.
- Đừng nghĩ như vậy. Anh với cô ấy là không so với “điều sai trái cả thể” của Đức Messi theo như các nhân vật lớn của Israel - Thađê nói bằng giọng sắc bén.
- Anh có chắc không? Tôi, trong nỗi khổ của tôi, tôi cũng có cái gai này trong tim: đã là nguyên nhân cho Giêsu đau khổ, vì tôi đã đến với Người. Nếu tôi chắc là không phải như vậy thì tôi sẽ bớt khổ hơn - Gioan Enđo nói.
- Gioan, anh có tin là tôi chân thành không? - Thađê hỏi.
- Có, tôi tin chứ!
- Vậy nhân danh Thiên Chúa và danh dự của tôi, tôi bảo đảm với anh rằng anh chỉ làm cho Giêsu một cái khổ duy nhất: phải gởi anh tới đây vì sứ mệnh. Anh là không trong tất cả những đau khổ qúa khứ, hiện tại và tương lai của Người.
Sau bao ngày buồn bã và tối tăm, một nụ cười đầu tiên soi sáng cho khuôn mặt gầy của Gioan Enđo. Ông nói: “Anh cho tôi được nhẹ nhõm chừng nào! Ngày giờ hiện ra với tôi sáng sủa hơn, sự đau đớn của tôi nhẹ nhàng hơn, con tim tôi được an ủi hơn. Cám ơn Juđa Alphê. Cám ơn”.
Họ lại lên xe, băng qua cầu để theo con đường phía bên kia sông dẫn thẳng về Antioche qua một vùng phì nhiêu.
- Đây, trong thung lũng thơ mộng này có Daphné với đền thờ và các cây cối của nó. Và ở đàng kia, trong đồng bằng này, đó, Antioche với các ngọn tháp và các pháo đài. Chúng ta sẽ vào đó bằng chiếc
75
cổng gần bờ sông. Căn nhà của Lazarô không xa tường thành mấy. Căn nhà đẹp nhất thì đã bán, chỉ còn lại căn nhà này, xưa là chỗ cho các tôi tớ và các khách hàng của Théophile. Có rất nhiều chuồng ngựa và kho lẫm. Bây giờ Philíp sống ở đó: một ông già tốt, trung thành của Lazarô. Các bạn sẽ thoải mái ở đó. Và chúng ta sẽ cùng nhau đi Antigonéa, căn nhà do Euchérie và con cái bà ở từ khi còn bé tí...
- Thành phố này bố phòng cẩn mật, hen? - Phêrô hỏi. Ông thở dài nhẹ nhõm, vì bây giờ ông thấy việc thử nghề xà ích của ông đã thành công mỹ mãn.
- Rất cẩn mật. Các bức tường cao và dầy vĩ đại, và hơn một trăm pháo đài. Các anh thấy đó, giống như các người khổng lồ vươn lên bên trên tường thành, và các hố sâu không thể vượt qua ở chân tường. Cả Silpio cũng dùng các đỉnh cao của nó vào việc bảo vệ. Và có các bức tường kép tại các nơi hiểm yếu... Cổng đây rồi. Tốt hơn là anh dừng lại để đi bộ vào bằng cách cầm giây cương để dắt con ngựa. Tôi sẽ dẫn đường cho anh vì tôi biết.
Họ đi qua chiếc cổng do lính Rôma gác.
Tông đồ Gioan nói: “Ai biết, có lẽ có ở đây tên lính ở Cửa Cá... Giêsu sẽ rất vui được biết anh ta...”
- Chúng ta sẽ tìm anh. Nhưng bây giờ đi lẹ lên - Phêrô nói, bị băn khoăn bởi tư tưởng đi vào một căn nhà không quen biết.
Gioan vâng lời, không nói gì, nhưng ông nhìn tận mặt mỗi tên lính mà ông nhìn thấy.
Qua một đoạn đường ngắn thì tới một căn nhà vững chắc và đơn sơ, tức là với bức tường cao không có cửa sổ, chỉ có một cổng cho lừa ngựa vào ở khoảng giữa bức tường.
- Đây. Dừng lại đi - Zêlote nói.
- Ôi! Simon! Bây giờ anh làm ơn nói nhé!
- Ừ, nếu anh muốn, tôi sẽ nói - Và Zêlote gõ trên chiếc cửa nặng nề. Ông tự giới thiệu là người được Lazarô sai đến. Ông vào một mình, rồi ông trở ra với một người già cao lớn và dáng bộ đáng trọng. Ông già cúi chào sâu rồi ra lệnh cho một người đầy tớ mở
76
cổng để đưa xe vào. Và ông xin lỗi để mời mọi người vào hết lối này thay vì mở cổng chính của căn nhà.
Chiếc xe dừng lại trong một cái sân mênh mông với những hành lang được bảo trì cẩn thận, có bốn cây ngô dương đồng ở bốn góc, và hai cây ở giữa sân để che cho cái giếng và cái bể để cho lừa ngựa uống nước.
Người quản lý truyền cho đầy tớ: “Hãy săn sóc con ngựa”. Rồi ông nói với các khách: “Xin mời qúi ngài vào và xin chúc tụng Chúa đã gởi đến cho tôi các tôi tớ của Người và là bạn của ông chủ tôi. Xin hãy ra lệnh, tôi tớ các ngài xin nghe”.
Phêrô đỏ mặt, vì đối với ông, những lời nói và những sự khúm núm này nó qúa đặc biệt. Ông chỉ còn biết... xin Zêlote cứu bồ...
- Các môn đệ Đấng Messi Israel mà Lazarô Théophile đã nói với ông, từ nay sẽ ở nhà ông để phục vụ Chúa. Các ngài chỉ cần nghỉ ngơi. Ông có thể chỉ cho họ nơi họ sẽ ở không?
- Ôi! Luôn luôn có những phòng sửa soạn cho các du khách giống như thói quen của bà chủ tôi trước. Xin đến, xin đến... - Và tất cả đi theo ông vào một hành lang, rồi qua một cái sân nhỏ. Ở cuối sân là nơi ở thực sự. Ông ta mở cửa, băng qua tiền đường rồi quẹo về bên phải. Đây, một cái cầu thang. Họ đi lên. Một hành lang nữa với các phòng ở hai bên.
- Đó. Cầu cho nơi ở được thoải mái đối với các ngài. Bây giờ tôi đi kêu lấy nước và khăn. Nguyện Chúa ở với các ngài.
Ông già nói xong thì lui ra. Họ mở màn gió của các phòng mà họ chọn. Tường thành và các đồn lũy của Antioche ở trước mặt họ của một phía, còn trước mặt phía kia là cái sân yên lặng, trang hoàng bằng những hàng hồng leo, lúc này thiếu vẻ hấp dẫn, vì chưa tới mùa nở bông.
Sau một cuộc hành trình dài, sau cùng, đây: một căn nhà, một căn phòng, một cái giường... Một thời gian tạm trú với một số người, một đích điểm đối với số khác...
77
11* HỌ ĐI ANTIGONÊA
- Thằng con trai Ptolmai của tôi đã tới để đi chợ. Hôm nay, vào lúc chính ngọ, nó sẽ trở về Antigonéa. Trời sẽ ấm trong ngày. Các ngài có muốn tới đó như các ngài đã ước ao không? - ông già Philíp hỏi khi ông tiếp sữa nóng cho các vị.
- Chắc chắn chúng tôi đi. Ông nói vào lúc nào?
- Vào giờ ngọ. Các ngài có thể trở về vào ngày mai nếu các ngài muốn, hoặc vào buổi chiều trước ngày Sabát nếu các ngài thích vậy. Lúc đó tất cả các đầy tớ người Hy Bá hoặc đã gia nhập đức tin, sẽ đến để làm giờ cầu nguyện ngày Sabát.
- Đó là điều chúng tôi sẽ làm. Và đâu có ai nói là nơi đó không được chọn làm chỗ ở cho họ.
- Điều đó luôn luôn làm tôi vui, dù tôi có bị mất họ. Vì đó là một nơi lành mạnh, và qúi vị có thể làm nhiều lợi ích giữa các tôi tớ mà một số vẫn còn giữ được cái gì của ông chủ để lại, và một số đã ở đấy nhờ bà chủ phước đức đã chuộc họ cho khỏi những ông chủ độc ác. Họ không phải tất cả là Israel, nhưng bây giờ họ cũng không còn là dân ngoại, tôi nói về các phụ nữ, vì tất cả nam giới đều đã cắt bì. Đừng ghê tởm họ... Nhưng họ còn ở rất xa sự công chính Israel. Các vị thánh của Đền Thờ đã phẫn nộ với họ. Các ông ấy là những đấng trọn lành...
- Hé! Đúng! Đúng!... Bây giờ họ có thể tiến bộ nhờ việc hấp thụ sự khôn ngoan của các kẻ do Chúa sai đến... Các bạn sẽ thấy các bạn có biết bao việc để làm - Phêrô nói với hai người ở lại.
- Chúng tôi sẽ làm. Chúng tôi sẽ không làm cho Thầy thất vọng - Sintica hứa, và nàng ra để sửa soạn những thứ mà nàng cho là thức thời.
Gioan Enđo hỏi Philíp: “Ông có tin là ở Antigonéa, tôi cũng có thể làm cái gì tốt cho người ta trong việc giảng dạy như một nhà giáo?”
- Rất tốt. Ông già Plaute đã chết từ ba tuần trăng, và các trẻ em rất tốt mà không còn đi trường nữa. Về phần các người Hy Bá thì
78
không còn thầy giáo, vì tất cả các thầy giáo của Đền Thờ đều bỏ trốn nơi này, vì nó quá gần Daphné. Phải có người nào là... là... giống như Théophile đã là .. không hà khắc với... đối với...
- Đúng, nói tóm là không giống Pharisiêu, ông muốn nói - Phêrô chấm dứt cách mau lẹ.
- Đó. Đúng... Tôi không muốn chỉ trích... nhưng tôi nghĩ... nguyền rủa chẳng ích lợi gì, tốt hơn là nên giúp đỡ... giống như bà chủ đã làm, người mà bằng nụ cười, đã dẫn dắt vào lề luật nhiều hơn một rabbi.
- Chính vì vậy mà Thầy đã sai tôi tới đây! Tôi đúng là loại người như cần phải có... Ôi! Tôi sẽ làm theo ý Người cho tới hơi thở cuối cùng. Bây giờ tôi tin, tôi tin thật rằng sứ mạng của tôi không là gì khác hơn là một sứ mạng biệt ái. Tôi đi nói với Sintica. Các anh sẽ thấy là chúng tôi sẽ ở lại đó... Tôi đi, tôi đi nói cho cô ta - Gioan Enđo nói, và ông đi ra với sự hăng hái ông đã có ngày trước.
- Lạy Chúa Tối Cao! Con đội ơn Chúa và chúc tụng Chúa! Ông ta vẫn còn khổ, nhưng không như trước nữa... A! Thật là nhẹ nhõm! - Phêrô kêu lên. Rồi ông nhận thấy có bổn phận phải giải thích cho Philíp một tí về lý do nỗi vui của ông như ông có thể: “Ông phải biết rằng Gioan bị coi như một điểm nhắm bởi các kẻ hà khắc của Israel. Ông đã gọi họ là những người hà khắc...”
- A! Tôi hiểu! Bị bách hại về chính trị, giống như... giống như... - Và ông ta nhìn Zêlote.
- Đúng. Giống như tôi và còn hơn nữa, vì còn lý do khác nữa: ngoài việc khác biệt về giai cấp, anh ta còn khích động họ bởi sự kiện anh ta thuộc về Đấng Messi. Bởi vậy hãy nói một lần thay cho tất cả: họ, anh ta và cô ta, được ký thác mật cho sự trung thành của ông... Ông hiểu không?
- Tôi hiểu, và tôi sẽ ý thức việc đó.
- Ông sẽ gọi họ là gì đối với những người khác?
- Hai nhà sư phạm được ký thác bởi Lazarô Théophile. Ông ta cho đám trẻ nam, cô ta cho đám trẻ nữ. Tôi thấy cô ta có những đồ thêu và khung cửi... Có nhiều công việc của phụ nữ được làm ở
79
đây và được bán tại Antioche bởi các người ngoại quốc, nhưng đó là những sản phẩm thô kệch nặng nề. Hôm qua tôi thấy cô ta có một thứ làm tôi nhớ tới bà chủ tốt của tôi... Chúng sẽ rất được người ta tìm kiếm...
- Và một lần nữa, xin ngợi khen Chúa - Phêrô nói.
- Đúng, điều đó sẽ làm giảm bớt nỗi khổ của chúng ta vì sự chia tay sắp tới.
- Qúi vị đã muốn đi rồi?
- Chúng tôi phải đi. Cơn bão đã làm chúng tôi bị trễ. Vào những
ngày đầu của tháng Scébat, chúng tôi phải ở với Thầy rồi. Thầy đã đang đợi chúng tôi, vì chúng tôi bị trễ - Thađê giải thích.
Họ phân chia để mỗi người đi lo chuyện của mình. Philíp có người đàn bà gọi, các tông đồ lên lầu hưởng mặt trời.
- Chúng ta có thể đi bữa hôm sau ngày Sabát. Các anh nghĩ sao?
- Giacôbê Alphê nói.
- Đối với tôi... Anh nghĩ coi... mỗi ngày khi thức dậy, tôi bị dằn vặt vì tư tưởng Giêsu đơn độc một mình, không quần áo, không ai săn sóc. Và mỗi đêm tôi ngủ với sự dằn vặt này. Nhưng bữa nay chúng ta sẽ quyết định.
- Hãy nói tí đi. Thầy biết tất cả chuyện này à? Từ mấy bữa nay tôi cứ tự hỏi: làm sao Người biết rằng chúng ta sẽ tìm thấy người Crétois, làm sao Người tiên liệu được công việc cho Gioan và Sintica, làm sao... làm sao... Tóm lại là rất nhiều điều - Andrê nói.
- Trong thực tế, tôi cho là tên Crétois có những thời gian cố định lưu lại ở Séleucie. Có lẽ Lazarô đã nói điều đó với Giêsu, và vì vậy Người đã quyết định ra đi, không chờ lễ Vượt Qua... - Zêlote cắt nghĩa.
- Ờ, đúng vậy. Về lễ Vượt Qua thì Gioan sẽ làm sao? - Giacôbê Alphê hỏi.
- Nhưng, cũng như mọi người Israel... - Mathêu nói.
- Không, như vậy là nhảy vào hang sói.
- Không, ai mà nhận ra anh ta được trong đám đông như thế?
- Isca... Ôi! Tôi nói gì vậy! Đừng nghĩ tới đó! Đó là sự đùa dỡn của tư tưởng tôi - Phêrô đỏ mặt, buồn rầu vì đã nói.
80
Juđa Alphê đặt một tay trên vai ông, mỉm cười bằng nụ cười nghiêm khắc của ông và nói: “Này, tất cả chúng ta đều nghĩ cùng một điều... Nhưng đừng nói với ai cả, và hãy tạ ơn Thiên Chúa vì đã lái cái ý nghĩ này ra khỏi tâm trí của Gioan”.
Tất cả đều thấm thía và giữ yên lặng. Nhưng đối với họ, những người Israel thực sự, vấn đề là họ muốn biết làm sao các môn đệ bị đi đày như vầy có thể mừng lễ Vượt Qua tại Jêrusalem... Vì vậy họ lại bắt đầu nói tới:
- Tôi tin rằng Giêsu đã lo liệu điều đó. Có lẽ Gioan biết điều đó. Chỉ có việc hỏi ngay chính anh ta - Mathêu nói.
- Đừng hỏi. Đừng đặt những ước ao và những gai góc vào nơi mà sự bình an vừa mới tái sinh - Tông đồ Gioan năn nỉ.
- Đúng. Tốt hơn là hỏi chính Thầy - Giacôbê Alphê xác nhận.
- Khi nào chúng ta mới gặp lại Người? Và Người sẽ nói thế nào?
- Andrê hỏi.
- Ôi! Nếu chúng ta khởi hành vào sau ngày Sabát, chắc chắn chúng ta sẽ ở Ptolêmai vào cuối trăng... - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Nếu chúng ta tìm thấy chiếc tàu. - Juđa Thađê nhận xét.
- Và nếu không có bão - Anh ông thêm.
- Về tàu bè thì luôn luôn có tàu về Palestin. Nếu trả tiền, chúng ta có thể bảo nó ghé vào Ptolêmai, dù đó là một tàu đi Joppê. Anh có tiền không Simon? - Zêlote hỏi Phêrô.
- Còn. Mặc dầu tên Crétois ăn cắp đã lột da tôi, dù là phản lại sự tử tế đối với Lazarô. Nhưng tôi phải trả để gởi chiếc ghe và giữ Antoine. Còn tiền cho Gioan và Sintica thì tôi sẽ không đụng tới, nó là của thánh, dù có phải nhịn đói tôi cũng giữ nó nguyên vẹn.
- Anh làm đúng. Và người này rất bệnh. Anh ấy tưởng có thể làm thầy giáo, nhưng tôi tin là anh ta sẽ trở nên một người tàn tật rất mau... - Zêlote nhận xét.
- Đúng, tôi cũng nghĩ vậy. Sintica, ngoài công việc của cô, cô còn phải chế hương dược - Giacôbê Zêbêđê xác nhận.
- Nhưng cái hương dược này, hen? Lạ lùng chừng nào! Sintica nói với tôi là cô muốn bào chế thêm để nhờ nó mà xâm nhập vào
81
được trong các gia đình ở đây - Gioan nói.
- Đó là ý kiến hay! Một người bệnh được chữa khỏi luôn luôn là một môn đệ mà ta chiếm được, và cùng với họ là các người của họ - Mathêu tuyên bố.
- A! Điều đó thì không đúng - Phêrô kêu lên.
- Thế nào? Anh muốn nói rằng phép lạ không lôi kéo người ta về với Chúa sao? - Andrê hỏi, và cùng với Andrê, có hai ba người khác nữa.
- Ôi! Các con ôi! Tôi thấy như các con ở trên trời rớt xuống! Nhưng các bạn không thấy họ đối xử với Giêsu cách nào sao? Họ có hoán cải không: Êli ở Caphanaum? Và Doras? Và Osê ở Corozain? Và Melchias ở Bétsaiđa? Và, tôi xin lỗi các anh ở Nazarét, và toàn thể Nazarét với năm, sáu, mười phép lạ, cho tới phép lạ sau cùng cho cháu các anh? - Phêrô hỏi.
Không ai đối đáp nữa, vì đó là sự thật chua chát.
Sau một lúc, Gioan nói: “Chúng ta chưa tìm thấy tên lính Rôma. Giêsu đã cho hiểu về việc đó”.
- Chúng ta sẽ nói với các người ở lại, như vậy sẽ là thêm một cái đích nữa cho đời của họ - Zêlote trả lời.
Philíp trở lại: “Con trai tôi đã sẵn sàng. Nó đã làm mau. Nó cùng với mẹ nó để sửa soạn quà cho các cháu”.
- Con dâu ông nó rất tốt, phải không?
- Rất tốt. Nó đã an ủi tôi vì tôi bị mất thằng Giuse. Nó cũng giống như con gái tôi. Nó là đầy tớ của Euchérie, bà đã đào tạo nó. Mời qúi vị lại ăn uống trước khi đi. Những người khác đã bắt đầu ăn rồi.
Và theo sau chiếc xe của Ptolmai, cháu trai của Philíp, họ đi nước kiệu về Antigonéa... Họ mau lẹ tới thành phố nhỏ, một nơi chôn vùi trong các khu vườn mầu mỡ, được che gió bởi các rặng núi ở chung quanh, đủ xa để không soi bóng trên nó, nhưng đủ gần để che chở nó và đổ xuống trên nó những hương thơm của các rừng cây có nhựa hay tinh dầu, hoàn toàn được soi sáng. Chỉ việc đi qua nó cũng làm cho nhãn quan và con tim rộn vui.
82
Các khu vườn của Lazarô ở phía nam thành phố. Đàng trước có một đại lộ, bây giờ trơ trụi. Dọc theo lộ là nhà cửa của những người được ủy thác coi sóc vườn. Các căn nhà nhỏ, thấp, nhưng được coi sóc cẩn thận. Trên ngưỡng cửa xuất hiện các khuôn mặt trẻ em và các bà, nhìn cách tò mò và vui vẻ chào hỏi. Các khuôn mặt khác nhau cho biết có nhiều chủng tộc.
Ptolmai, từ khi băng qua cổng vào khu sở hữu, khi đi qua mỗi căn nhà, ông dùng roi ngựa làm phát ra những tiếng đặc biệt, chắc đó là một dấu hiệu. Và các người trong nhà, sau khi đã nhìn, liền rút vào trong rồi sau đó trở ra, đóng cửa lại và đi theo sau hai chiếc xe với các con ngựa bước từng bước, và sau cùng dừng lại ở giữa một vòng tròn mà các con đường đi về mọi phía, giống như các que nan của chiếc bánh xe, băng qua vô số cánh đồng, ngăn cách nhau bằng những giải đất bằng, có những giải trơ trụi, có những giải xanh rờn với những cây nguyệt quế, cây keo và đại loại những cây khác. Cũng có những cây lớn mà từ những vết cắt chảy ra một thứ sữa hay nhựa thơm. Không khí thoang thoảng một pha trộn của mùi hương dược, nhựa và dầu thơm. Ở khắp nơi có những tổ ong và những bể cho việc tưới tiêu. Tại đó, các con bồ câu trắng toát đang giải khát. Tại vài nơi khác, đất trần mới được cày cuốc, có những con gà, cũng trắng nữa, đang bới đất dưới sự canh chừng của các cô gái nhỏ.
Ptolmai gõ lắc cắc chiếc roi của ông nhiều lần cho tới khi các người của cái vương quốc nhỏ này tụ tập đầy đủ chung quanh các người mới tới, và lúc đó ông bắt đầu bài thuyết trình nhỏ của ông: “Đây, Philíp, thủ lãnh của chúng ta, và là cha của cha tôi, gởi và ký thác những vị thánh này của Israel, đến đây do ước muốn của ông chủ chúng ta. Nguyện Thiên Chúa luôn luôn ở với Người và nhà Người. Chúng ta than van rất nhiều vì chúng ta thiếu lời của các rabbi thánh, thì đây, lòng tốt của Chúa và của ông chủ chúng ta tuy ở xa xôi, nhưng yêu chúng ta chừng nào! Nguyện Thiên Chúa trả lại cho Người những của Người đã cho các tôi tớ Người. Chúng ta đã được điều chúng ta mơ ước: Tại Israel đã xuất hiện đấng đã
83
được hứa ban cho các dân tộc. Người ta đã nói với chúng tôi điều đó trong dịp lễ tại Đền Thờ và trong nhà của Lazarô. Nhưng bây giờ thực sự đã đến với chúng ta thời kỳ ân phúc, vì Đấng Vua Israel đã nghĩ tới các tôi tớ bé nhỏ nhất của Người, và đã sai đến với chúng ta các vị thừa sai của Người để mang Lời Người đến cho chúng ta. Họ là các môn đệ của Người, và hai người trong nhóm họ sẽ sống giữa chúng ta, ở đây hoặc ở Antioche, để dạy cho chúng ta sự khôn ngoan, để dạy cho chúng ta khoa học của Trời và của trái đất. Gioan, nhà giáo và môn đệ Đức Kitô, sẽ dạy cho con cái chúng ta khoa học nọ cũng như khoa học kia. Sintica, môn đệ và là cô giáo thêu may, sẽ dạy cho chúng ta khoa học của tình yêu Thiên Chúa và nghệ thuật của các việc phụ nữ cho các trẻ em gái. Hãy tiếp nhận họ như một phúc lành của Trời, và hãy yêu họ như Lazarô Théophile và Euchérie yêu họ - vinh quang và bình an cho tâm hồn các ngài - và giống như các cô gái của Théophile yêu họ: Matta và Maria, các cô chủ yêu qúi của chúng ta, và là môn đệ của Đức Giêsu Nazarét, vị Rabbi của Israel, đấng đã được hứa, là Vua”.
Đám dân nhỏ, các người đàn ông thì áo lót cộc, tay dính đất, cầm các dụng cụ làm vườn; đàn bà và trẻ em ở mọi lứa tuổi, nghe một cách ngạc nhiên, rồi xì xèo, rồi cúi xuống rất sâu.
Ptolmai bắt đầu việc giới thiệu: “Simon Jonas, thủ lãnh của các người được Chúa sai tới. Simon Canane bạn của ông chủ chúng ta. Giacôbê và Juđa, anh họ của Chúa. Giacôbê và Gioan, Andrê và Mathêu”. Rồi ông nói với các tông đồ: “Đây là Anna, vợ tôi, thuộc chi tộc Juđa cũng như mẹ tôi, bởi vì chúng tôi thuần chủng, cùng với Euchérie đến từ Juđa. Giuse, đứa con trai được dâng hiến cho Chúa, và Théochérie, trong cái tên của nó có cái kỷ niệm của các vị chủ công chính, đứa con gái khôn ngoan và là bạn của Thiên Chúa, một con gái Israel thực sự; Nicolai và Dosithé. Nicolai được thánh hiến bằng lời khấn. Dosithé, đứa thứ ba (và một cái thở dài thườn thượt đi theo người giới thiệu) đã lập gia đình từ nhiều năm với Hermione. Lại đây đi Hermione...”
Một phụ nữ trẻ da ngăm tiến lên với một đứa trẻ ẵm trong tay.
84
- Nó đây. Nó là con gái một người tân tòng và là đàn bà Hy Lạp. Con trai tôi biết nó tại Alexandrocène thuộc Phênici khi nó buôn bán tại đó, và nó yêu cô ta... Lazarô không phản đối, trái lại, ông nói: “Còn hơn là hư hỏng”, và nó không đến nỗi tệ. Nhưng tôi, tôi thích dòng máu Israel...
Cô Hermione tội nghiệp cúi đầu như bị kết án. Dosithé run vì đau khổ. Anna là mẹ và mẹ chồng có cái nhìn buồn.
Gioan, dù là trẻ nhất trong đám, cảm thấy cần thiết phải nâng dậy những tâm hồn bị hạ nhục, liền nói: “Trong nước của Thiên Chúa không có Hy Lạp hay Israel, Rôma hay Phênici, nhưng chỉ có con cái Thiên Chúa. Khi nhờ những người đã đến đây, ông biết lời Thiên Chúa, nó sẽ nâng con tim ông lên tới ánh sáng mới, và bà ta sẽ không còn là người ngoại quốc nữa, mà là môn đệ của Chúa Giêsu Chúa chúng ta cũng như ông và như mọi người”.
Hermione ngửa khuôn mặt bị hạ thấp lên, với sự biết ơn, mỉm cười với Gioan. Trên mặt của Anna và Dosithé cũng có cùng một sự biết ơn.
Ptolmai, khắc khổ trả lời: “Xin Thiên Chúa canh chừng để được như vậy. Vì ngoài vấn đề nguồn gốc ra, tôi không có gì phải phàn nàn về con dâu của tôi cả. Đứa trẻ ở trong tay nó là đứa mới sanh sau cùng, tên là Alphê, đã được cho cái tên của cha cô ta, bổn đạo mới. Đứa con gái có mắt mầu da trời với những chiếc bông tai mầu huyền, đó là Myrtica, tên của người mẹ Hermione. Và thằng này, trưởng nam, là Lazarô, theo ý muốn của ông chủ, và đứa kia là Hermas”.
- Đứa thứ năm phải gọi là Ptolmai, và đứa thứ sáu là Anna để nói với Chúa và với thế giới rằng qủa tim của ông đã mở ra cho những hiểu biết mới - Gioan lại nói.
Ptolmai cúi mình, không nói. Rồi ông tiếp tục việc giới thiệu của ông: “Những người này là anh em Israel: Myriam và Sylviain thuộc chi tộc Neptali, và những người này là Elbonide Danita và Simêon, người Do Thái. Và đây là những tân tòng, khi xưa là người Rôma hoặc con cái người Rôma mà lòng bác ái cụ thể của Euchérie
85
đã cứu họ khỏi làm tôi mọi và dân ngoại: Lucius, Marcel, Solon, con trai của Êlatê”.
- Tên Hy Lạp! - Sintica nhận xét.
- Từ Thessalonica, nô lệ của một tên đầy tớ Rôma (và ông ta tỏ ra khinh bỉ khi nói: đầy tớ Rôma) Euchérie đã nhận nó cùng một lúc với người cha sắp chết của nó trong giờ đầy xao xuyến. Và nếu cha nó chết vẫn là dân ngoại, thì Solon là tân tòng... Priscille, hãy tiến lên cùng với các con bà.
Một người đàn bà cao dong dỏng, mũi quặp, tiến lên, đẩy lên trước một bé gái và một bé trai, và hai đứa gái nhỏ khác bám vào váy bà.
- Đây là vợ của Solon, ngày xưa được giải phóng bởi một người đàn bà Rôma bây giờ đã chết, và Marius, Cornélie với Maria và Martille, hai cặp sinh đôi. Priscille chuyên về tinh dầu. Amicléa, hãy tiến lên với các con bà. Bà là con gái một tân tòng, và hai con trai Cassius và Théodore của bà cũng là tân tòng. Tecta, đừng có trốn. Đó là vợ của Marcel. Bà khổ vì son sẻ. Bà cũng là con của người tân tòng. Những người này là những kiều dân. Bây giờ xin mời ra thăm vườn.
Và ông dẫn họ băng qua một khu mênh mông. Các người làm vườn đi theo để giải thích sự trồng trọt và các công việc, trong khi các bé gái trở lại với các con gà của chúng. Lợi dụng lúc người gác vắng mặt, các con gà đã chạy đi nơi khác.
Ptolmai cắt nghĩa: người ta dẫn chúng tới đây để giết sâu bọ cho đất trước khi gieo giống hàng năm.
Gioan Enđo mỉm cười với các con gà kêu cục cục, và ông nói: “Tôi thấy giống như đám gà của tôi hồi trước...” Và ông cúi xuống để thẩy cho chúng những mụn bánh mà ông mang trong giỏ, cho tới khi ông được bao quanh bởi đàn gà và ông cười, bởi vì một con trong nhóm đã dày dạn tới mổ những mụn bánh trong tay ông.
- May thay! - Phêrô kêu khi ông lấy cùi chỏ húc Mathêu để chỉ cho ông coi Gioan đang chơi với gà, trong khi Sintica nói tiếng Hy Lạp với Solon và Hermione.
86
Rồi họ trở về nhà của Ptolmai. Ông giải thích: “Đây là nơi ở. Nhưng nếu các ngài muốn giảng dạy ngay tại đây, chúng tôi sẽ dọn cho các ngài một nơi. Các ngài ở lại đây hay...”
- Ừ, Sintica! Ở đây thì đẹp hơn. Antioche làm tôi thấy nặng nề vì những kỷ niệm... - Gioan nói nhỏ nhẹ với cô bạn của ông.
- Vâng... Như anh muốn, miễn là anh thấy tốt. Đối với tôi, tất cả đều giống nhau. Tôi, tôi không nhìn về đàng sau nữa... Chỉ nhìn về đàng trước, đàng trước... Nào. Gioan, ở đây, chúng ta sẽ thoải mái: các trẻ em, các hoa trái, chim bồ câu và các con gà, cho chúng ta, những tạo vật khốn nạn, và cho tâm hồn chúng ta niềm vui trong việc phụng sự Chúa. Các anh nghĩ sao? - Cô hỏi các tông đồ.
- Chúng tôi cũng nghĩ như cô.
- Vậy là rõ ràng rồi.
- Rất tốt. Chúng tôi sẽ bằng lòng để ra đi.
- Ôi! Đừng đi! Tôi sẽ không thấy các anh nữa! Tại sao đi sớm qúa vậy? Tại sao?... - Gioan lại rơi vào sự buồn bã.
- Nhưng chúng tôi chưa đi bây giờ! Chúng tôi ở lại cho tới... Cho tới khi anh... - Phêrô không biết nói Gioan sẽ ra thế nào, và để người ta không nhìn thấy nước mắt đã trào ra ở mí mắt ông, ông ôm Gioan khi ông này khóc và tìm cách an ủi ông như thế.
12* TỪ BIỆT TẠI ANTIOCHE
Các tông đồ lại ở trong căn nhà tại Antioche cùng với hai môn đệ và tất cả những người ở Antigonéa. Hôm nay họ không mặc đồ cụt để làm việc, nhưng mặc đồ dài của ngày lễ. Tôi kết luận đây là ngày Sabát.
Philíp xin các tông đồ nói với mọi người ít là một lần trước giờ khởi hành đã rất gần.
- Về điều gì?
- Về điều như các ngài muốn. Qúi vị đã nghe những chuyện vãn của chúng tôi trong mấy ngày qua. Hãy tìm hứng ở đó.
87
Các tông đồ nhìn nhau. Ai sẽ nói đây? Đương nhiên là Phêrô, ông xếp mà! Nhưng Phêrô không muốn nói. Ông nhường danh dự cho Giacôbê hay Gioan Zêbêđê. Chỉ khi ông thấy là không thể lay chuyển được họ, ông mới quyết định nói.
- Hôm nay chúng ta đã nghe giải thích trong giáo đường về chương 52 sách Isaie, và lời bình giải đã được cho là: uyên bác đối với thế gian và thiếu sót đối với Đấng Khôn Ngoan.
Nhưng đã không ai phiền trách gì người bình giải, ông đã cho những gì ông có thể với sự khôn ngoan què quặt của ông về điều tốt nhất mà ông có: sự hiểu biết về Đức Messi và thời kỳ mới do Người mang tới. Nhưng chúng ta không chỉ trích ông, chúng ta chỉ cầu nguyện để ông nhận ra hai hồng ân này và có thể chấp nhận nó, và không đặt trở ngại cho nó.
Qúi vị đã nói với tôi rằng trong kỳ lễ Vượt Qua, qúi vị đã nghe nói về Thầy với lòng tin cũng như với sự khinh bỉ, và rằng, chính vì đức tin vững vàng đã tràn đầy các con tim trong nhà Lazarô, hết mọi con tim, mà qúi vị đã có thể chống lại được với những chướng ngại vật mà các kẻ nói xỏ xiên đặt vào con tim qúi vị. Hơn ai hết, những người này chính là các rabbi của Israel.
Nhưng thông thái không có nghĩa là thánh thiện, cũng không có nghĩa là chiếm hữu được chân lý. Chân lý chính là điều này: Giêsu Nazarét chính là Đấng Messi đã được hứa ban, là Vị Cứu Tinh mà các tiên tri đã nói, mà vị tiên tri sau cùng mới an nghỉ ít lâu trong lòng Abraham sau sự tử đạo vinh quang của Người mà Người đã chịu vì công lý: Gioan Tẩy Giả, mà đang hiện diện ở đây, có những kẻ đã nghe những lời này của ông: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian”.
Những lời này đã được tin bởi những kẻ khiêm nhường trong số những người ở đó. Vì sự khiêm tốn dẫn tới đức tin, trong khi với những người kiêu căng thì con đường sẽ khó khăn, vì họ bị cột chân, không sao lên được tới đỉnh núi, nơi những kẻ trong sạch và sáng láng sống đời đức tin. Các kẻ khiêm nhường, bởi vì họ khiêm nhường nên họ tin, họ đáng được làm những kẻ đầu tiên trong đạo
88
binh của Chúa Giêsu.
Vậy qúi vị thấy sự khiêm tốn cần thiết biết bao để biết tin mau mắn, và người ta được thưởng chừng nào vì biết tin, mặc dầu những trái nghịch ở hình thức bên ngoài.
Tôi, tôi khích lệ qúi vị và tôi thúc đẩy qúi vị hãy có trong mình hai đặc tính này, như vậy qúi vị sẽ thuộc về đạo binh của Chúa, và qúi vị sẽ chinh phục được nước Trời...
Đến lần anh, Simon Zêlote. Tôi chấm dứt. Anh hãy tiếp tục.
Zêlote bị bắt bất ngờ và bị chỉ định rõ ràng là diễn giả thứ hai, ông phải tiến lên, không chần chừ, không kháng biện. Và ông làm việc đó bằng cách nói:
- Tôi tiếp tục bài thuyết trình của Simon Phêrô, thủ lãnh của tất cả chúng tôi theo ý Chúa, và tôi dựa vào chương 52 của Isaie, được coi là người biết Chân Lý Nhập Thể mà ông là tôi tớ muôn đời. Ông đã nói: “Hỡi Sion, hãy đứng dậy, hãy mang lấy sức mạnh. Hỡi Thành Thánh, hãy mặc lấy y phục ngày lễ”.
Thực phải như vậy, vì một khi lời hứa được hoàn thành, bình an được thiết lập, sự kết án ngừng lại và thời vui mừng tới, các con tim và các kinh thành phải mặc y phục ngày lễ, để các trán cúi gằm được ngẩng lên khi nó ý thức được mình không còn bị ghét, bị thua, bị đánh, nhưng được yêu thương và giải phóng.
Chúng ta không ở đây để kết án Jêrusalem. Đức bác ái là nhân đức thứ nhất trong mọi nhân đức cấm điều đó. Vậy chúng ta hãy ngừng quan sát con tim của những người khác, và hãy nhìn vào con tim chúng ta. Hãy mặc cho con tim chúng ta sức mạnh của đức tin mà Simon đã nói. Hãy mặc y phục ngày lễ, vì lòng tin của chúng ta từ bao thế kỷ nơi Đấng Messi bây giờ được thực hiện. Đấng Messi, Đấng Thánh, Ngôi Lời của Thiên Chúa đã thực sự ở giữa chúng ta. Và không phải chỉ các tâm hồn được nghe lời của Đấng Khôn Ngoan củng cố cho họ và đổ tràn cho họ sự thánh thiện và bình an, mà cả các thân xác, bởi công việc của Đấng Thánh, đấng mà Thiên Chúa Cha luôn luôn nhận lời, đã được giải phóng cho khỏi các bệnh tật kinh hãi nhất, và cả đến sự chết, và để cho đất đai, núi đồi, thung
89
lũng của quê hương chúng ta vang lên những lời vạn tuế con vua Đavít, mà Đấng Tối Cao đã sai Ngôi Lời của Người đến như Người đã hứa cùng các tổ phụ và các tiên tri.
Tôi, người đang nói với qúi vị đây, trước đây tôi bị cùi, bị tiền định để chết sau bao năm lo âu khủng khiếp trong sự cô đơn của loài vật hoang dành cho các kẻ phong cùi. Có một người nói với tôi: “Hãy đến với vị Rabbi Nazarét, anh sẽ được chữa lành”. Tôi có lòng tin, tôi tới, và tôi được chữa khỏi, trong thân xác và trong linh hồn. Trên thân xác thì bệnh cùi biến đi, cái bệnh phân rẽ con người; trong tâm hồn thì biến đi sự thù ghét, phân rẽ với Thiên Chúa. Và với một tâm hồn mới, sau khi đã bị đày, bệnh tật, lo âu, tôi đã trở nên tôi tá Người, được gọi làm sứ mệnh hạnh phúc là đi vào giữa loài người để yêu họ nhân danh Người, để dạy họ một sự cần thiết duy nhất: Chúa Giêsu Nazarét là Đấng Cứu Tinh, và phúc cho những ai tin ở Người.
Giacôbê Alphê, bây giờ anh nói đi.
- Tôi là anh của vị Nazarét. Ba tôi và ba của Người là anh em ruột, sinh ra bởi cùng một dạ. Nhưng tôi không thể nói tôi là anh họ của Người, nhưng là tôi tớ của Người, bởi vì tính cách làm cha của Giuse, em ruột của ba tôi, chỉ là tình cha thiêng liêng. Trong thực tế, tôi nói với qúi vị rằng: cha thực của Giêsu, Thầy của chúng tôi, chính là Đấng Tối Cao mà chúng ta thờ lạy. Người đã cho phép Thiên Tính của Người: Duy nhất và Ba Ngôi, nhập thể trong Ngôi Thứ Hai và xuống trên trái đất mà vẫn luôn luôn kết hợp với các Thiên Tính trên Trời, vì Thiên Chúa có thể làm điều đó, Người là Đấng Toàn Năng, và Người đã làm vậy vì tình yêu là bản thể của Người.
Giêsu Nazarét là anh em với chúng ta, ôi loài người! Vì Người được sinh ra bởi một phụ nữ. Người giống như chúng ta trong nhân tính của Người. Người là Thầy chúng ta vì Người khôn ngoan. Người là chính Lời của Thiên Chúa, đến để nói về Thiên Chúa, để làm cho chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Người là Chúa của chúng ta, làm một với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần mà Người luôn luôn
90
kết hợp bằng tình yêu, bằng quyền phép và bằng bản tính.
Chớ gì qúi vị chiếm hữu được chân lý này mà nhiều bằng cớ đã biểu lộ do ân huệ của Đấng Công Chính là bà con của tôi. Và với cái thế giới muốn giựt qúi vị ra khỏi Đức Kitô khi họ nói: “Đó là một người như mọi người”, thì hãy trả lời: “Không, đó là Con Thiên Chúa, đó là Ngôi Sao sinh ra từ Jacob, đó là cây gậy dựng lên ở đây, trong Israel, đó là Đấng Thống Trị”. Đừng để một cái gì làm qúi vị xiêu lòng. Đó là đức tin.
Đến lần anh, Andrê.
- Đó là đức tin. Tôi là một dân chài hèn mọn tại hồ Galilê. Trong những đêm đánh cá yên lặng, dưới ánh sáng của các vì sao, tôi đã có những đàm thoại yên lặng với chính mình tôi. Tôi nói: “Khi nào Người sẽ tới? Lúc đó tôi còn sống không? Theo lời các Tiên Tri thì còn thiếu nhiều năm nữa”. Đối với con người mà đời sống giới hạn thì vài chục năm cũng dài như nhiều thế kỷ... Tôi tự hỏi: “Người sẽ đến thế nào? Từ đâu? Bởi ai?” Và bản tính loài người trì độn của tôi làm tôi mơ một vương quốc huy hoàng, những nơi ở của vua chúa, những đoàn tùy tùng, những kèn trống vang lừng và một sức mạnh, một oai quyền không thể chống lại được... Và tôi nói: “Ai có thể nhìn xem vị đại vương này?” Tôi nghĩ rằng sự xuất hiện của Người còn làm cho kinh hãi hơn là chính Jêova trên núi Sinai. Tôi nói: “Dân Hy Bá đã thấy ngọn núi rực sáng, nhưng họ không bị biến thành tro, vì Đấng Hằng Hữu ở bên ngoài tầng mây. Nhưng ở đây, Người sẽ nhìn chúng ta với con mắt xác thịt, và chúng ta sẽ chết...”
Trước tôi là môn đệ của ông Tẩy Giả, và trong những lúc nghỉ đánh cá, tôi đến tìm ông cùng với các bạn tôi. Cũng vào một ngày trăng như vầy... Bờ sông Giođan đông nghẹt. Đám đông run rẩy vì những lời của ông Tẩy Giả. Tôi nhận thấy một thanh niên trẻ, đẹp trai, bình tĩnh, đang từ một ngõ hẻm đến với chúng tôi. Y phục của Người khiêm tốn, diện mạo Người dịu dàng. Người có vẻ như xin và cho tình yêu. Con mắt xanh của Người nhìn tôi một lát, và tôi cảm thấy một cái gì tôi chưa hề bao giờ cảm thấy. Tựa như nó vuốt
91
ve tâm hồn tôi, giống như cánh các thiên thần cà nhẹ trên tôi. Trong một lát, tôi thấy mình ở rất xa trái đất, xa tới nỗi tôi nói: “Bây giờ tôi sắp chết. Đó là tiếng Thiên Chúa gọi linh hồn tôi”.
Nhưng tôi không chết. Tôi đứng say mê nhìn ngắm người thanh niên không quen mà đến lần Người lại dán đôi mắt xanh của Người trên ông Tẩy Giả, và ông Tẩy Giả quay lại, chạy đến với Người và cúi mình. Họ nói với nhau. Và vì tiếng của ông Tẩy Giả vẫn tiếp tục như tiếng sấm, những lời bí nhiệm đến tận tai tôi đang lắng nghe, vì tôi ước ao được biết người thanh niên lạ là ai. Tâm hồn tôi cảm thấy anh ta khác với mọi người. Tiếng đó nói: “Tôi phải được rửa bởi Ngài...” “Bây giờ hãy để tôi làm. Phải làm trọn mọi điều chính đáng”...
Trước đó Gioan đã nói: “Người sắp tới, đấng mà tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Ông cũng đã nói: “Ở giữa anh em, trong Israel, có một người mà anh em không biết. Người cầm cái sàng trong tay để làm sạch lúa của Người, và đốt rơm rác trong lửa không hề tắt của Người”.
Tôi ở trước mặt một người thanh niên trong dân chúng, với dáng điệu dịu dàng và khiêm tốn, nhưng tôi cảm thấy đó là đấng mà vị thánh của Israel, vị tiên tri sau cùng, vị Tiền Hô, không xứng đáng cởi quai dép cho. Tôi cảm thấy đó là đấng mà chúng ta không biết. Nhưng tôi không sợ Người. Trái lại, khi Gioan, sau cái sấm ngây ngất của Thiên Chúa, sau sự huy hoàng không thể tưởng tượng được của Ánh Sáng dưới hình chim câu hòa bình, đã nói: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa”. Tôi, bởi tiếng nói của linh hồn tôi, trong sự sảng khoái được cảm thấy trước vị Vua Messi nơi người thanh niên diện mạo dịu dàng và khiêm tốn này, tôi đã kêu lên bằng tiếng nói của tâm hồn tôi: “Tôi tin”. Chính bởi đức tin này mà tôi là tôi tá Người. Các bạn cũng hãy như vậy, và các bạn sẽ được bình an.
Mathêu, bây giờ đến lần anh kể những vinh quang khác của Chúa.
- Tôi, tôi không thể dùng những lời trong sáng của Andrê. Anh
92
ấy là người công chính, tôi là người tội lỗi. Cũng vậy, lời nói của tôi không có những giọng vui tươi của không khí ngày lễ, nhưng nó có sự tin tưởng bình an của thánh vịnh.
Tôi đã là tội nhân, một đại tội nhân. Tôi đã sống trong lầm lạc hoàn toàn. Tôi đã chai đá, và tôi cảm thấy không được thoải mái vì vậy. Thỉnh thoảng các pharisiêu hay ông trưởng hội đường quất tôi bằng những lời chửi rủa và mắng trách của họ, trong khi nhắc nhở tôi về một Thiên Chúa là quan xét khắt khe, thì tôi có lúc sợ... Nhưng rồi tôi theo ý mình trong tư tưởng ngu si này: “Dù sao thì tôi cũng bị kết án rồi, vậy thì hỡi các giác quan tôi, hãy vui hưởng bao lâu còn có thể”. Và tôi chìm đắm trong tội hơn bao giờ hết.
Đã hai mùa xuân, có một người lạ tới Caphanaum. Người cũng là kẻ không quen đối với tôi. Ông ta là người của mọi người, bởi vì lúc đó là khởi đầu sứ mạng của Người. Chỉ có vài người biết thực sự Người là ai, những người mà qúi vị thấy đây, và còn vài người khác nữa. Tôi ngạc nhiên vì sự trưởng thành tuyệt vời của Người: trong trắng hơn một trinh nữ, đó là điều thứ nhất làm tôi xúc động. Tôi nhìn thấy Người khắc khổ, nhưng sẵn sàng để nghe các trẻ con đến với Người giống như bầy ong vào vườn hoa. Điều giải khuây duy nhất của Người là các trò chơi ngây thơ của chúng và những lời nói không xảo trá của chúng. Rồi đến uy quyền của Người làm tôi ngạc nhiên. Người làm những phép lạ. Tôi tự nói: “Đây là một người trừ tà, một vị thánh”. Nhưng tôi cảm thấy sợ hãi ở trước mặt Người nên tôi trốn Người.
Người tìm tôi, hay là tôi có cảm tưởng như vậy. Không một lần nào Người đi qua trước quầy của tôi mà Người không nhìn tôi với con mắt dịu dàng và hơi buồn của Người, và mỗi lần như vậy là lương tâm cứng ngắc của tôi nhảy dựng lên và nó không trở lại cùng một tình trạng mê muội như trước nữa.
Người ta luôn luôn tán dương các lời Người, nên một ngày kia, tôi ước ao nghe Người nói. Tôi đã nấp ở sau một căn nhà và tôi nghe Người nói với một nhóm nhỏ. Người nói cách thân mật về đức bác ái giống như một ân xá cho tội lỗi chúng ta... Từ chiều hôm
93
đó, tôi, kẻ vốn tham lam và có con tim chai đá, tôi đã muốn được Thiên Chúa tha cho số tội vô vàn của tôi. Tôi làm những điều một cách kín đáo... Nhưng Người biết là chính tôi làm, bởi vì Người biết tất cả. Một lần khác, tôi nghe Người cắt nghĩa ngay chính chương 52 của Isaie, Người nói rằng trong nước Người là thành Jêrusalem trên Trời, sẽ không có những sự ô uế, không có những người không cắt bì trong con tim. Người hứa Thành Thánh trên Trời này mà Người nói về những đẹp đẽ của nó, cho những ai đến với Người, và lời Người hấp dẫn tới nỗi tôi cứ còn nuối tiếc.
Và rồi... và rồi... Ôi! Cái ngày đó không còn là cái nhìn buồn nữa, nhưng là cái nhìn thúc bách. Nó xé con tim tôi, nó lột trần tâm hồn tôi, cái tâm hồn bệnh hoạn tội nghiệp của tôi. Cái nhìn của Người nung nấu nó, cầm nó trong tay, hành hạ nó bằng tình yêu đòi hỏi của Người... Và tôi đã có một tâm hồn mới. Tôi đến cùng Người với lòng thống hối và ước ao. Người không chờ tôi nói: “Lạy Chúa, xin thương”. Người đã nói với tôi: “Hãy theo Ta!”
Đấng Dịu Hiền đã thắng Satan trong tim kẻ tội lỗi. Nếu có ai trong qúi vị phải xao xuyến vì tội lỗi, thì chớ gì chuyện này nói với họ rằng: Người là Đấng Cứu Chuộc nhân từ và không nên chạy trốn Người. Và người ta càng tội lỗi, họ càng cần đến với Người trong sự khiêm nhường và thống hối để được tha thứ.
Giacôbê Zêbêđê, đến lần anh nói.
- Thực ra tôi không biết nói gì. Các anh đã nói điều tôi sẽ nói, vì đó là những chân lý và ta không thể thay đổi gì được.
Tôi cũng vậy. Lúc đó tôi cũng đang ở với Andrê ở bờ sông Giođan, nhưng tôi không nhận thấy Người trước khi ông Tẩy Giả chỉ. Tôi cũng vậy, tôi tin ngay. Khi Người đã ra đi sau sự bộc lộ rạng ngời của Người, tôi ở lại như một người đi từ đỉnh cao đầy mặt trời tới một nhà tù tăm tối. Tôi nôn nóng muốn tìm lại mặt trời. Thế giới không còn ánh sáng nữa khi Ánh Sáng của Thiên Chúa đã hiện ra với tôi rồi lại biến đi. Tôi cảm thấy cô đơn ở giữa mọi người. Trong khi tôi ăn đã no, tôi vẫn cứ đói. Trong giấc ngủ, cái phần tốt nhất của con người tôi vẫn thức; và tiền bạc, nghề nghiệp, tình cảm, tất
94
cả đều lui xa trước cái ước ao mạnh mẽ này về Người, dù Người ở rất xa và không còn thực hiện điều gì để lôi kéo tôi nữa. Như một đứa trẻ bị lạc mất mẹ, tôi rên rỉ: “Xin trở lại, lạy Con Chiên Thiên Chúa! Lạy Đấng Tối Cao! Cũng giống như Người đã sai Raphael để dẫn đường cho Tobia, xin hãy sai thiên thần của Người để dẫn con trên đường của Chúa, để con tìm thấy Người. Chớ gì con tìm thấy Người! Chớ gì con tìm thấy Người!”
Nhưng sau độ mươi ngày chờ đợi vô ích và tìm kiếm cách lo âu, và sự vô ích trở nên đau đớn khi chúng tôi bị mất Gioan lúc ông bị bắt lần thứ nhất, khi người trở về từ sa mạc và xuất hiện thì tôi lại không nhận ra Người ngay.
Và ở đây, cùng là anh em trong Chúa, tôi muốn chỉ cho qúi vị một con đường khác để đến với Người và nhận ra Người.
Simon Jonas đã nói là phải có đức tin và lòng khiêm nhường mới nhận ra Người được. Simon Zêlote đã tái xác nhận sự cần thiết tuyệt đối của đức tin để nhận ra nơi Giêsu Nazarét, đấng hiện hữu trên trời cũng như dưới đất như đã được nói. Và Simon Zêlote đã cần một đức tin rất lớn để có thể hy vọng cho thân xác vô phương cứu chữa của ông. Chính vì vậy mà Simon Zêlote nói rằng đức tin và đức cậy là những phương tiện để có Con Thiên Chúa. Giacôbê anh của Chúa nói về hiệu lực của Sức Mạnh để duy trì điều người ta đã tìm thấy. Sức Mạnh để ngăn cản những cạm bẫy của thế gian và của Satan để chúng không làm lung lạc đức tin của chúng ta. Andrê bày tỏ sự cần thiết phải kết hợp đức tin với sự khát khao thánh thiện về điều công chính bằng cách tìm kiếm và gìn giữ Chân Lý, dầu là bởi môi miệng nào loan báo, không phải vì sự kiêu căng của con người muốn làm nhà thông thái, nhưng vì sự ước ao hiểu biết Thiên Chúa. Những kẻ lo học tập trong chân lý sẽ tìm thấy Thiên Chúa.
Mathêu khi xưa là tội nhân, đã chỉ cho qúi vị một con đường khác để đến với Thiên Chúa: từ bỏ các tình dục bằng tinh thần bắt chước, tôi nói là bằng cách phản chiếu Thiên Chúa là Đấng Vô Cùng Trong Sạch. Ông ta, một tội nhân, trước tiên bị xúc động bởi
95
sự “trưởng thành trong trắng” của người lạ đã đến Caphanaum, và tựa như người này có khả năng làm sống lại sự tự chủ đã chết của ông. Ông đã bắt đầu bằng cách kiềm chế thú vui, như vậy là dọn đường cho Thiên Chúa đến và cho sự sống lại của các nhân đức đã chết. Từ sự kiềm chế, ông chuyển qua tình thương, từ tình thương qua sự thống hối. Sau sự thống hối, ông vượt lên trên tất cả để tới chỗ kết hợp với Thiên Chúa: “Hãy theo Ta” và “Con đến”. Nhưng tâm hồn ông đã nói “con đến”, và Vị Cứu Tinh đã nói “Hãy theo Ta” từ lúc, lần đầu tiên, nhân đức của Thầy đã lôi kéo kẻ tội lỗi.
Hãy noi gương bắt chước, vì mọi kinh nghiệm của kẻ khác, dù là nặng nề, đều hướng dẫn chúng ta để tránh điều xấu và tìm ra điều tốt nơi những kẻ có thiện chí.
Tôi, đối với những gì có liên can tới tôi, tôi nói rằng người ta càng cố gắng để sống bằng tâm hồn, người ta càng có khả năng nhận biết Chúa, và đời sống như thiên thần tán trợ điều đó tới độ tối cao. Trong đám chúng tôi, các môn đệ của Gioan, kẻ đã nhận ra Người sau khi Người vắng mặt, là kẻ có tâm hồn đồng trinh. Còn hay hơn là Andrê, ông đã nhận ra Người, mặc dầu sự hành xác đã làm thay đổi diện mạo của Con Chiên Thiên Chúa. Vậy tôi bảo qúi vị: hãy trong sạch để có thể nhận biết Người.
Juđa, anh có muốn nói bây giờ không?
- Đúng, hãy trong sạch để có thể nhận ra Người, và cũng hãy trong sạch để có thể giữ Người ở trong qúi vị cùng với sự khôn ngoan của Người, cùng với tình yêu của Người, với tất cả chính mình Người. Isaie cũng đã nói ở chương 52: “Đừng đụng tới những thứ dơ bẩn... Anh em là những kẻ mang những chiếc bình của Thiên Chúa, hãy thanh tẩy chính mình”. Đúng thật là kẻ đặt tất cả linh hồn mình làm môn đệ Người thì giống như chiếc bình đầy Thiên Chúa, và thân xác mang Người thì giống như kẻ mang đến cho Thiên Chúa một cái bình thánh. Thiên Chúa không thể ở nơi ô uế.
Mathêu đã nói Chúa đã cắt nghĩa thế nào về sự kiện không có gì ô uế, cũng không có sự ngăn cách với Thiên Chúa trong thành Jêrusalem trên Trời. Nhưng ngay ở dưới đất này cũng đừng ô uế và
96
đừng xa cách với Thiên Chúa để có thể lên đó. Khốn cho kẻ chờ đợi tới phút sau cùng mới sám hối. Họ sẽ không luôn luôn có giờ để làm. Cũng như những kẻ bây giờ vu khống cho Người, họ sẽ không có giờ để làm lại con tim khi Người chiến thắng, và vì vậy họ không được hưởng hoa trái của Người.
Những kẻ muốn thấy trong vị vua thánh và khiêm nhường này một triều đại trần thế, và còn hơn nữa, những kẻ sợ nhìn thấy nơi Người một triều đại trần thế, sẽ không được chuẩn bị cho giờ này. Bị dẫn vào lầm lạc, bị thất vọng trong tư tưởng của họ, những tư tưởng không phải của Thiên Chúa, nhưng là những tư tưởng khốn nạn của loài người, họ sẽ phạm tội trầm trọng hơn.
Người đã tự hạ làm một người, điều đó chúng ta phải nhớ. Isaie nói rằng tội lỗi của chúng ta đã nắm giữ Người Thiên Chúa hạ mình dưới vẻ bề ngoài thông thường. Khi tôi nghĩ đến Ngôi Lời của Thiên Chúa mang chung quanh Người, giống như một lớp vỏ dơ bẩn, tất cả sự khốn nạn của nhân loại từ khi nó bắt đầu hiện hữu, tôi suy nghĩ với một sự cảm thương sâu xa, một sự hiểu biết sâu xa về những đau đớn mà tâm hồn không bợn nhơ của Người chịu. Sự ghê sợ của một người lành lặn mà thấy mình bị bao trùm bằng những giẻ rách và những dơ bẩn của một người cùi. Người thực sự đã bị đâm thâu vì tội lỗi chúng ta, bị phủ đầy vết thương bởi tất cả mọi thứ dâm bôn thèm khát của con người. Tâm hồn Người sống ở giữa chúng ta, hẳn phải run giùng vì những giao tiếp này tựa như nó cảm thấy cái ơn ớn của cơn sốt.
Nhưng Người không nói. Người không nói rằng: “Chúng mày làm tao ớn”. Người chỉ nói rằng: “Hãy đến cùng Ta để Ta xóa bỏ tội lỗi cho các con”. Đó chính là Vị Cứu Tinh. Vì lòng nhân từ vô biên của Người, Người đã muốn che giấu vẻ đẹp không thể chịu đựng nổi của Người, vì nếu Người hiện hữu giữa chúng ta giống như Người ở trên Trời thì chúng ta sẽ biến thành tro như Andrê đã nói. Bây giờ Người tỏ mình ra dễ lôi cuốn như một con chiên hiền lành để có thể tới gần chúng ta và cứu chúng ta. Người bị đè nặng, bị kết án, chịu đựng như vậy cho tới khi Người hao mòn hết trong
97
cố gắng làm một người trọn lành giữa loài người không trọn lành. Người sẽ đứng lên bên trên đám đông vô số những kẻ được cứu chuộc trong chiến thắng của vương quyền thánh của Người. Thiên Chúa đã bằng lòng biết cái chết để cho chúng ta sự sống!
Chớ gì tư tưởng này làm qúi vị yêu người trên tất cả. Người là đấng Thánh. Tôi có thể nói vậy. Tôi, cùng với Giacôbê, đã lớn lên cùng với Người. Tôi nói điều đó và tôi sẽ còn nói. Tôi sẵn sàng hiến mạng tôi để làm cho người ta nhận biết Người, để người ta tin vào Người để được sống đời đời.
Gioan Zêbêđê, đến lần cậu nói.
- Đẹp thay bước chân của vị sứ giả trên núi! Vị sứ giả của bình an, bước chân của đấng loan báo ơn toàn phước và rao giảng sự cứu rỗi, của đấng nói với Sion: “Thiên Chúa của ngươi sẽ ngự trị”. Và những bàn chân này đã bước đi, không mệt mỏi từ hai năm nay, qua các đồi núi của Israel, kêu gọi, tụ tập đoàn chiên của Thiên Chúa; yên ủi, chữa lành, tha thứ, ban bình an, sự bình an của Người.
Tôi thực tình ngạc nhiên khi thấy rằng các đồi núi không nhảy mừng và các dòng nước của quê hương không rộn ràng sung sướng vì những mơn trớn của bàn chân Người. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên hơn là thấy các con tim không nhảy mừng. Nó không rộn ràng sung sướng để nói: “Ngợi khen Chúa, đấng trông đợi đã đến! Chúc tụng đấng nhân danh Chúa mà đến!” đấng tung vãi ân huệ và phúc lành, bình an và cứu rỗi; đấng mời gọi tới nước của Người ở trong chúng ta bằng cách mở ra cho chúng ta con đường để tới, nhất là đấng gieo vãi tình yêu bằng mọi cử chỉ, mọi lời nói, mọi cái nhìn, mọi hơi thở của Người.
Vậy thế giới này là gì mà nó mù quáng trước Ánh Sáng đang ở giữa chúng ta như vậy? Thật là những tấm bảng còn dầy hơn những tảng đá bao quanh nấm mồ, đã bao bọc con mắt của tâm hồn nên nó không nhìn thấy Ánh Sáng này. Phải chăng những núi tội lỗi đã đè trên nó, chất nặng nó, ngăn cách nó, làm cho nó thành mù, thành điếc, bị trói buộc, bị tê liệt, nên nó vẫn trơ trơ trước Đấng Cứu Tinh?
98
Đấng Cứu Tinh là ai? Đó là Ánh Sáng tan hòa trong Tình Yêu. Miệng lưỡi các anh em tôi đã biểu dương những lời ca tụng Chúa, gợi ra những công việc, chỉ cho các nhân đức phải thực hành để tới con đường của Chúa. Về phần tôi, tôi bảo qúi vị: Hãy yêu. Không còn nhân đức nào khác lớn hơn và giống bản tính của Người hơn tình yêu. Nếu qúi vị yêu, qúi vị thi hành mọi nhân đức không mệt mỏi, bắt đầu bằng đức trong sạch. Và trong sạch sẽ không còn là một gánh nặng, vì khi yêu Giêsu, qúi vị sẽ không yêu ai khác một cách thái qúa; qúi vị sẽ khiêm tốn, qúi vị sẽ thấy nơi Người các sự toàn thiện vô cùng của Người bằng con mắt của người yêu, và như vậy qúi vị sẽ không kiêu hãnh, vì qúi vị thấy mình qúa bé nhỏ. Qúi vị sẽ tin, vì ai lại không tin vào người mình yêu? Qúi vị sẽ không bị đè nát bởi đau khổ, vì sự đau khổ cứu giúp, vì sự đau khổ của qúi vị ngay chính, tức là một đau khổ vì những đau đớn Người đã chịu chứ không phải vì những đau khổ mà qúi vị đáng chịu. Qúi vị sẽ mạnh mẽ. Ôi! Đúng, kết hợp với Giêsu, người ta sẽ mạnh mẽ. Mạnh để đương đầu với tất cả. Qúi vị sẽ tràn đầy hy vọng, vì qúi vị sẽ không nghi ngờ Trái Tim của các con tim yêu thương qúi vị bằng toàn thân mình. Qúi vị sẽ khôn ngoan, qúi vị sẽ có tất cả. Hãy yêu đấng loan báo ơn toàn phúc, đấng rao giảng sự cứu rỗi, đấng ra đi không mệt mỏi qua các núi đồi và thung lũng để kêu gọi đoàn chiên của Người tụ họp lại. Chính ở trên con đường của Người mà ta được sự bằng an, và sự bằng an được ở trong Nước của Người là nước không thuộc về thế gian, nhưng nó thực tại như chính Thiên Chúa thực tại. Hãy lìa bỏ hết những con đường không phải là đường của Người. Hãy giải thoát qúi vị cho khỏi những sương mù. Hãy đến với Ánh Sáng. Đừng giống như thế giới không muốn thấy Ánh Sáng và không muốn nhìn nhận nó, nhưng hãy đến với Cha chúng ta là Cha của Ánh Sáng. Người là Ánh Sáng vô biên, bởi Người Con là Ánh Sáng của thế gian, để tận hưởng Thiên Chúa trong sự ôm ấp của Thánh Linh là nguồn chớp của Ánh Sáng, trong một tình yêu phước lộc duy nhất kết hợp Ba Ngôi làm một. Đại dương vô tận của Tình Yêu, không bão tố, không bóng tối, tiếp nhận chúng ta, tất cả, kẻ vô tội
99
cũng như người hối cải. Tất cả trong bình an. Tất cả tới muôn đời. Tất cả trên trái đất, lạy Chúa, để chúng con yêu Chúa và yêu tha nhân như Chúa muốn. Tất cả ở trên Trời, để mãi mãi, không phải chúng con chỉ yêu Chúa và các công dân Nước Trời, mà còn yêu cả những anh em đang chiến đấu dưới đất trong khi chờ đợi bình an, để giống như các thiên thần tình yêu, chúng con bảo vệ họ, nâng đỡ họ trong các cơn chiến đấu và các cám dỗ, để sau đó họ có thể ở với Chúa trong bình an, vì vinh quang muôn đời của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh của chúng con, đấng yêu loài người tới nỗi hạ mình vô tận và tuyệt vời.
Cũng như luôn luôn, Gioan bay lên trong đường bay tình yêu, mang theo các linh hồn cùng với ông tới nơi tình yêu đắm chìm trong sự yên lặng mầu nhiệm.
Chỉ sau một hồi lâu, lời nói mới trở lại trên môi những người nghe. Người đầu tiên nói là Philíp, ông nói với Phêrô: “Còn Gioan nhà giáo, ông ta không nói sao?”
- Ông ta sẽ nói với qúi vị liên tục thay vì chúng tôi. Lúc này hãy để cho ông ta yên, và để cho chúng tôi được một lát ở với ông ta. Ông, Saba, hãy đi làm điều tôi đã nói với ông trước. Và bà nữa, Bérénice tốt bụng.
Mọi người đi ra, để lại trong căn phòng mênh mông nhóm tám và hai người.
Một sự yên lặng nặng nề. Tất cả đều hơi tái xanh. Các tông đồ vì họ biết điều gì sắp xảy ra, hai môn đệ vì họ có linh cảm điều đó.
Phêrô lên tiếng, nhưng ông chỉ nói: “Chúng ta hãy cầu nguyện”, và ông xướng kinh Lạy Cha, rồi ông thực sự tái mét mà có lẽ cả khi chết ông cũng không vậy. Ông nói khi ông ở giữa hai người và đặt tay trên vai họ: “Đã đến giờ ly biệt, các con ơi! Ta phải nói gì với Chúa nhân danh các con? Chắc chắn Người đang chờ cách lo âu những tin tức về sự thánh thiện của các con”.
Sintica qùi sụp xuống, lấy hai tay ôm mặt. Gioan cũng bắt chước. Hai người ở chân Phêrô và ông vuốt ve họ một cách máy móc trong khi cắn môi để không nhượng bộ sự xúc động.
100
Gioan Enđo ngửa khuôn mặt mà xúc động làm cho nhăn nhó và nói: “Ông sẽ nói với Thầy là chúng tôi xin vâng ý Người...”
Và Sintica nói: “Mong Người giúp chúng con làm trọn tới cùng...” Nhưng nước mắt ngăn cản cô nói câu dài hơn.
- Tốt. Chúng ta hãy cho nhau cái hôn từ biệt. Giờ này phải đến... - Phêrô cũng ngừng vì họng ông bị xiết bởi tiếng nấc. Sintica xin ông:
- Trước hết, hãy chúc lành cho chúng con đi!
- Không, không phải tôi. Tốt hơn là để cho anh của Giêsu.
- Không. Anh là xếp. Chúng tôi, chúng tôi chúc lành cho họ bằng cái hôn. Hãy chúc phúc cho tất cả chúng tôi, kẻ ở cũng như người đi - Thađê nói, và ông qùi gối xuống trước hết.
Và Phêrô, ông Phêrô tội nghiệp, ông lại đỏ bừng vì sự cố gắng ông làm để cho giọng ông có bảo đảm, và ông xúc động khi ông chúc phúc, giơ tay trên nhóm nhỏ ở trước mặt ông. Ông đọc lời chúc phúc của Môise bằng cái giọng mà sự khó khăn đã làm cho thành khò khè hầu như giọng của ông già.
Rồi ông cúi xuống hôn lên trán Sintica giống như hôn cô em. Ông nâng Gioan dậy, ôm chặt lấy ông và cho ông một cái hôn. Rồi một cách can đảm, ông chạy ra khỏi căn phòng, trong khi những người khác bắt chước thái độ của ông đối với hai người ở lại.
Bên ngoài, chiếc xe đã sẵn sàng. Chỉ có Philíp và Bérénice hiện diện cùng với người đầy tớ giữ ngựa. Phêrô đã lên xe...
- Ông sẽ nói với ông chủ của tôi là xin ông an lòng về những người ông đã ký thác cho tôi - Philíp nói với Phêrô.
- Ông hãy nói với Maria là tôi cảm thấy sự bình an của Euchérie từ lúc cô là môn đệ - Bérénice nói nhỏ với Zêlote.
- Các anh hãy nói với Thầy và với Mẹ Maria, với tất cả rằng chúng tôi yêu các ngài, và vĩnh biệt! Vĩnh biệt! Ôi! Chúng tôi không gặp các đấng nữa! Vĩnh biệt các anh! Vĩnh biệt...
Hai môn đệ chạy ra đường... Nhưng chiếc xe chạy nước kiệu, bây giờ đã đi qua chỗ quẹo... biến mất...
- Sintica!
- Gioan!
101
- Chúng ta cô đơn một mình!
- Thiên Chúa ở với chúng ta... Đi, Gioan tội nghiệp! Mặt trời sắp lặn, ở ngoài trời mãi, anh sẽ bệnh...
- Mặt trời đã lặn vĩnh viễn đối với tôi... Nó chỉ còn mọc ở trên Trời.
Họ đi vào căn phòng mà lúc trước họ đã ở với những người khác. Họ gục xuống bàn và khóc không còn gì cản lại được nữa...
Chúa Giêsu nói:
“Và sự hành hạ gây ra bởi một người, điều không ai khác muốn ngoại trừ con người độc ác, đã kết thúc bằng cách dừng lại như một dòng nước dừng lại trong một cái hồ sau khi đã chảy hết con đường của nó...
Cha bảo con nhận xét về Juđa Alphê, mặc dầu được nuôi dưỡng bằng sự khôn ngoan hơn các người khác, cũng đã cho bài tường thuật của Isaie về những đau khổ của Cha là Đấng Cứu Chuộc, một sự giải thích theo loài người. Toàn thể Israel đều như vậy. Họ từ chối chấp nhận thực tại của lời tiên tri, và họ chiêm niệm những lời tiên tri có liên can tới các đau đớn của Cha như một hình thức tượng trưng. Một sự sai lầm cả thể, và vì thế, vào giờ cứu chuộc, rất ít người trong Israel còn biết nhìn ra Đức Messi trong kẻ bị kết án. Đức tin không phải chỉ là một triều thiên bằng hoa, nó cũng có những cái gai. Những kẻ biết tin trong giờ vinh quang cũng như trong giờ bi đát, biết yêu Thiên Chúa khi Người bao bọc họ bằng hoa cũng như khi Người đằn họ ra trên gai, mới là người thánh”.
13* TÁM NGƯỜI TRỞ VỀ ACZIB
Giêsu - một Giêsu rất gầy và xanh, rất buồn, tôi phải nói là rất đau khổ - đang ở trên đỉnh núi, đúng ngay vào chỗ cao nhất của một ngọn núi nhỏ, trên đó cũng có một cái làng. Nhưng Giêsu không ở trong làng, nó cũng ở trên đỉnh, đúng, nhưng nó quay về sườn ở phía đông nam. Còn Giêsu thì trái lại, Người ở trên một mỏm núi, chỗ cao nhất, quay về phía tây bắc, thực tế thì quay về tây nhiều hơn bắc.
Giêsu, khi người nhìn về nhiều phía, Người thấy một dẫy nhiều ngọn núi dợn sóng mà ngọn sau chót ở phía tây bắc, còn phía tây nam thì bức thành sau cùng của nó lặn dưới biển. Phía tây nam thì có núi Carmel mờ mờ ở xa trong ngày đẹp trời. Ở tây bắc có một mũi nhọn như mũi tàu, trông rất giống mũi Apuanes ở Ý với các
102
mạch đá sáng trắng dưới mặt trời. Từ dãy núi dợn sóng này, có nhiều thác và suối, tất cả đều tràn đầy nước vào mùa này, chảy qua đồng bằng ở bên cạnh và đổ ra biển. Gần cái vịnh thuộc Sicaminon, con suối nhiều nước nhất là Kison, nó đổ ra biển sau khi đã tạo thành một tấm gương nước do hợp sinh với một suối khác ở gần cửa sông. Mặt trời chính ngọ của một ngày trong xanh làm lấp lánh mầu hoàng ngọc hay lam ngọc trên mặt nước, trong khi biển là một khối lam ngọc mênh mông với những chuỗi giây chuyền nhẹ nhàng bằng ngọc trai. Phương nam đã lộ dáng xuân qua những lá mới lú ra từ những búp hé mở, mềm mại, sáng bóng, tôi nói là trinh trong, vì nó mới tinh, chưa hề nhiễm bụi và bão gió hay những vết cắn của côn trùng, hoặc những tiếp xúc với loài người. Các cành hạnh đào đã có những lọn bọt trắng hồng rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, đến nỗi nó cho cảm tưởng như nó sắp rời cành, nơi nó được sinh ra, để du ngoạn trong không khí trong lành như một núm mây nhỏ. Cả những thửa ruộng dưới đồng bằng, nhỏ hẹp nhưng mầu mỡ, trải ra giữa vũng phía tây bắc và tây nam, cũng đã lộ bộ mặt xanh xanh của lúa miến, làm mất đi cảnh buồn thảm của cánh đồng trơ trụi trước đây ít lâu. Giêsu nhìn. Từ chỗ Người, Người thấy ba con đường: con đường từ trong làng đi tới đây, một lối đi cho người mà thôi, và hai con đường khác do một con đường từ làng đi xuống rồi chẻ đôi đi về hai phía đối diện : một về tây bắc, một về tây nam.
Giêsu đã chịu đựng chừng nào! Sự hãm xác ghi dấu đậm hơn lần ăn chay trong sa mạc. Khi đó Người là một người xanh xao, nhưng trẻ trung khỏe mạnh. Bây giờ là một người mệt mỏi bởi những đau khổ đè nặng cùng một trật trên sức mạnh vật chất cũng như tinh thần. Đôi mắt Người rất buồn, một cái buồn vừa êm dịu vừa khắt khe. Đôi má gầy làm nổi bật hơn diện mạo tinh thần của Người; vầng trán cao, mũi dài và thẳng, cặp môi tuyệt đối vắng bóng tình dục. Một khuôn mặt thiên thần, vì nó bài trừ vật chất. Người có hàm râu dài hơn thường lệ, nó đã mọc lên tới má, tới nỗi lẫn lộn với tóc rơi trên vai, đến nỗi trên khuôn mặt Người, chỉ còn nhìn rõ
103
có cái trán, đôi mắt, cái mũi và cặp lưỡng quyền thấp mầu trắng ngà, không một vết hồng hào nào. Mái tóc Người chải cách sơ sài, dính bụi và còn mang những mảnh lá khô làm kỷ niệm của cái hang Người đã ở, và mấy công rác còn vướng vào mái tóc dài. Quần áo trong và áo khoác cũng nhầu nát và dính bụi của nơi ở hoang dã, vì Người đã mặc liên tục, không thay đổi.
Giêsu nhìn... Mặt trời chính ngọ sưởi ấm cho Người và hình như Người cảm thấy vui lòng, vì Người rời bỏ bóng của vài cây sồi để đến chỗ ngay dưới mặt trời. Nhưng mặc dầu Người có mặt trời trọn vẹn và huy hoàng, nó cũng không nhóm lên được vẻ sáng ngời của mái tóc dính bụi và đôi mắt mệt mỏi của Người, nó cũng không làm cho hồng hào đôi má gầy của Người.
Không phải mặt trời đã bồi dưỡng cho Người và làm sống lại mầu sắc của Người, nhưng là việc nhìn thấy các tông đồ thân yêu đang đi lên dốc, khua chân múa tay và nhìn lên ngôi làng, trên con đường đến từ phía tây bắc, con đường bằng phẳng hơn cả. Lúc đó xảy ra sự biến dạng: đôi mắt Người trở nên sống động, khuôn mặt có vẻ bớt gầy vì hiệu qủa của các vết hồng lan ra trên má và nụ cười soi sáng cho nó. Người mở đôi cánh tay đang khoanh ra và nói: “Các con cưng của tôi!” Người nói tiếng đó trong khi ngửa mặt lên trời và quay cái nhìn trên vạn vật như để thông niềm vui của Người cho hoa cỏ, cây cối, cho trời thanh, cho không khí đã cảm thấy mùa xuân.
Người ôm gọn áo khoác vào quanh mình để nó không vướng vào bụi gai và chạy nhanh xuống bởi một con đường tắt để gặp những người đang lên. Họ chưa nhận ra Người. Khi Người tới chỗ vừa tầm cho tiếng nói, Người gọi họ để cản họ khỏi vào làng.
Họ nghe thấy một tiếng gọi xa. Có lẽ từ chỗ họ đang ở, họ không nhìn thấy Giêsu, vì y phục đậm mầu của Người lẫn lộn với lá rừng phủ đầy sườn dốc. Họ nhìn chung quanh họ, làm các cử điệu... Giêsu lại gọi... Sau cùng, trong khoảng rừng thưa, Người hiện diện trước mắt họ dưới mặt trời, hai tay giơ ra như đã muốn ôm lấy họ.
Lúc đó là một tiếng kêu vang dội trên sườn núi: “Thầy”, và một
104
cuộc chạy đua hết tốc lực trên sườn, ở bên ngoài lộ. Họ bị châm chích, bị trượt chân; họ thở dốc, không còn cảm thấy sức nặng của giỏ xách và sự mệt mỏi của bước đi nữa... Họ được mang đi bởi nỗi vui lại được gặp Người.
Đương nhiên những người đến đầu tiên là những người trẻ hơn, lanh lẹ hơn, tức là hai con ông Alphê với bước chân vững vàng của những người sinh ra trên cao nguyên. Rồi đến Gioan và Andrê. Hai ông cũng chạy như hai con công, vừa chạy vừa cười, tràn đầy niềm vui. Họ sụp xuống chân Người, yêu thương, trọng kính, sung sướng, sung sướng, sung sướng... Rồi đến Giacôbê Zêbêđê, và sau đó, hầu như cùng loạt, ba người ít được huấn luyện chạy đua và không quen miền núi: Mathêu và Zêlote, và đàng sau, thực sự sau cùng là Phêrô.
Nhưng ông phăng ra một con đường. Ôi! nếu ông mở ra được một con đường để đến với Thầy! Vì những người đến trước đã qùi bao vây lấy Người và không ngừng hôn áo Người và hai tay buông xuôi của Người. Ông nắm thật mạnh lấy Gioan và Andrê đang cầm chặt lấy áo Người như những con hà bám vào đá, và thở dốc, ông đẩy hai người này ra để có thể gục xuống chân Giêsu và nói: “Ôi! Thầy của con! Sau cùng con đã trở lại đời sống. Con hết kham nổi rồi! Con già và gầy đi như người bệnh liệt. Thầy nhìn con coi có phải vậy không?” Và ông ngửa mặt lên để cho Giêsu nhìn. Nhưng khi làm như vậy, ông thấy Giêsu đã qúa thay đổi, ông đứng phắt dậy và kêu: “Thầy! Nhưng Thầy làm sao vậy? Ngu chưa! Các anh nhìn coi! Các anh không thấy gì hết à? Giêsu bệnh... Thầy ơi! Thầy của con! Thầy làm sao vậy? Hãy nói cho Simon của Thầy biết đi!”
- Đâu có gì đâu, bạn của Thầy!
- Không có gì sao? Với khuôn mặt như vầy? Người ta đã đánh Thầy?
- Nhưng không đâu, Simon!
- Không thể được! Thầy đã bệnh hay bị bách hại! Con, con có mắt mà!...
- Thầy cũng vậy. Và Thầy thấy con qủa thật gầy và già đi. Tại sao con như vầy? - Chúa mỉm cười và hỏi Phêrô của Người trong
105
khi ông này tìm hiểu Người tựa như ông muốn biết sự thật trên mái tóc, trên da dẻ, trên bộ râu của Giêsu.
- Nhưng con khổ. Con, con không chối điều đó. Thầy nghĩ là con dễ chịu khi thấy từng ấy đau đớn sao?
- Con đã nói đúng. Thầy cũng vậy, Thầy khổ bởi cùng một lý do...
- Chỉ vì vậy thôi à Giêsu? - Juđa Alphê hỏi cách thương hại và tình nghĩa.
- Vì sự đau đớn, đúng, anh à. Vì sự đau đớn bởi cần thiết phải cho họ đi...
- Và sự đau đớn do bó buộc phải làm vì...
- Thầy xin con!... Yên lặng! Trên vết thương của Thầy, sự yên lặng tốt hơn tất cả những lời muốn yên ủi Thầy bằng cách nói: “Con, con biết tại sao Thầy khổ”. Ngoài ra, tất cả hãy biết rằng Thầy khổ vì rất nhiều thứ, không phải chỉ có chuyện này mà thôi đâu. Nếu Juđa không ngắt lời Thầy thì Thầy đã nói cho các con rồi - Giêsu rất khắc khổ khi nói như vậy. Tất cả các ông đều sững sờ.
Nhưng Phêrô là người đầu tiên bắt lại câu chuyện. Ông hỏi: “Thầy ở chỗ nào? Thầy đã làm gì?”
- Thầy ở lại trong một hang đá... để cầu nguyện, chiêm niệm... để củng cố tinh thần của Thầy, để xin cho các con được mạnh sức trong sứ mạng của các con, cho Gioan và Sintica trong nỗi khổ của họ.
- Nhưng ở đâu? Ở đâu? Không quần áo, không tiền bạc, Thầy làm cách nào? - Simon băn khoăn.
- Ở trong một hang đá người ta không cần gì cả.
- Nhưng đồ ăn? Nhưng lửa? Nhưng giường chiếu? Nhưng... tóm lại là tất cả. Con đã hy vọng ít nhất người ta cũng cho Thầy trọ như một người du hành lạc lối, tại Jiphtael, tại đâu đó, tóm lại là trong một căn nhà. Và tư tưởng đó làm con hơi yên lòng. Nhưng, hen! Các bạn, hãy nói có phải tôi băn khoăn khi nghĩ rằng Người không quần áo, không lương thực, không dễ dàng để kiếm nó, và nhất là không muốn kiếm nó. A! Giêsu! Điều đó Thầy không nên làm, và Thầy sẽ không bao giờ làm nữa! Con sẽ không bao giờ lìa Thầy
106
nữa, dù là một giờ. Con khâu con vào y phục của Thầy để theo Thầy giống như cái bóng của Thầy, dù Thầy có nhận biết hay không. Chỉ trừ ra khi con chết, con mới chia lìa với Thầy.
- Nhưng nếu Thầy, Thầy chết?
- Ôi! Thầy, không. Thầy sẽ không được chết trước con. Đừng nói vậy. Thầy muốn làm cho con buồn hoàn toàn sao?
- Không. Trái lại, Thầy muốn vui mừng với con, với tất cả, trong cái giờ này, nó đã đem về cho Thầy những kẻ thân yêu của Thầy, những kẻ ưu ái của Thầy. Các con coi, Thầy đã hồi phục, vì tình yêu chân thành của các con nuôi dưỡng Thầy, sưởi ấm cho Thầy, yên ủi Thầy về mọi thứ.
Và Người vuốt ve họ từng người một, trong khi khuôn mặt họ rạng rỡ những nụ cười hạnh phúc, mắt họ long lanh, môi họ run mấp máy vì cảm động khi nghe những lời này. Lúc đó họ hỏi: “Chúa ơi, thật sao?”, “Thật đúng như vậy sao Thầy?”, “Chúng con thân thiết với Thầy biết bao?”
- Đúng, rất thân thiết. Các con có đồ ăn ở đây không?
- Có. Con có cảm tưởng là Thầy đã tới tột độ rồi, và con đã kiếm khi đi đường. Con có bánh, có thịt nướng. Con có sữa, có phó mát và táo. Và hơn nữa, một bầu rượu ngon và mấy cái trứng cho Thầy. Cầu cho nó không bị bể...
- Tốt. Vậy chúng ta hãy ngồi tại đây, dưới mặt trời đẹp này và chúng ta ăn. Và trong khi ăn, các con sẽ nói cho Thầy...
Họ ngồi dưới mặt trời tại một sườn dốc. Phêrô mở giỏ của ông ra, nhìn vào kho tàng của ông: “Tất cả đều tốt”. Ông kêu lên. “Kể cả mật ong của Antigonéa. Nhưng con đã nói mà! Lúc trở về, dù người ta bỏ chúng ta vào một cái thùng do một thằng điên lăn đi, hoặc trên một chiếc ghe không có mái chèo, hơn nữa, bị thủng lỗ, trong cơn bão táp... chúng ta vẫn cứ trở về bình an khỏe mạnh... Nhưng lúc đi! Lúc đầu con luôn luôn cho là chính ma qủi đã gây ra những trở ngại để ngăn cản chúng ta đi với hai người khốn khổ này”.
- Chắc chắn rồi! Bây giờ chúng đã mất mục đích - Zêlote xác
107
nhận.
- Thầy ơi! Thầy đã làm việc hãm mình cho chúng con? - Gioan hỏi. Ông đã quên ăn để nhìn ngắm Giêsu.
- Ừ, Gioan ạ. Thầy đã đi theo các con bằng tư tưởng của Thầy. Thầy ý thức về sự nguy hiểm và khó khăn của các con. Thầy đã giúp các con như Thầy có thể...
- Ôi! Con, con cảm thấy điều đó. Và tôi cũng đã nói với các anh. Các anh nhớ không?
- Có. Đúng vậy - tất cả đều xác nhận.
- Tốt. Vậy bây giờ các con trả lại cho Thầy cái Thầy đã cho các con.
- Lạy Chúa! Thầy đã nhịn đói? - Andrê hỏi.
- Chắc chắn rồi. Ở trong hang đá, không tiền bạc, dù Người có muốn ăn, các anh nghĩ làm sao Người ăn? - Phêrô trả lời ông.
- Tại vì chúng con! Con thấy khổ chừng nào! - Giacôbê Alphê nói.
- Ồ, không. Các con đừng khổ vì vậy. Đó không phải chỉ vì các con mà thôi, mà còn vì toàn thế giới. Khi Thầy bắt đầu sứ mạng của Thầy, Thầy đã làm, bây giờ Thầy cũng làm. Khi đó, lúc chấm dứt, Thầy được các thiên thần đến trợ giúp, bây giờ Thầy được các con. Và các con hãy tin rằng đây là một niềm vui gấp đôi, bởi vì đối với các thiên thần, tình bác ái là tất nhiên, nhưng đối với loài người, không dễ mà tìm được nó. Các con thì các con đã thực hành nó. Và là người như các con đã là và đang là vì tình yêu đối với Thầy, các con đã trở nên như các thiên thần, vì đã chọn sự thánh thiện trong tất cả. Vì vậy các con làm cho Thầy sung sướng như một ThiênChúa và như một Người-Thiên-Chúa, vì các con cho thầy cái gì là Thiên Chúa tức là đức bác ái, và các con cho Thầy cái gì là Đấng Cứu Chuộc: sự vươn lên tới trọn lành của các con. Điều đó từ các con mà đến với Thầy, và nó bổ dưỡng hơn bất cứ thứ thực phẩm nào. Khi đó, trong sa mạc cũng vậy, Thầy đã được nuôi bằng tình yêu sau khi đã ăn chay, và Thầy đã được tình yêu bồi dưỡng. Bây giờ cũng vậy, bây giờ cũng vậy! Tất cả chúng ta đều khổ, các con
108
cũng như Thầy. Nhưng sự đau khổ không vô ích. Thầy tin, Thầy biết là nó đã giúp các con nhiều hơn một năm tròn huấn luyện giảng dạy. Sự đau khổ, việc suy gẫm về sự đau khổ mà con người có thể làm cho người đồng loại; về lòng thương xót, về đức Tin, đức Cậy, đức Ái mà các con phải thực hiện, và bởi chính các con, các con đã trở nên chín chắn, trưởng thành như một đứa trẻ trở thành người lớn...
- Ôi! Đúng. Con trở thành già. Con sẽ không bao giờ còn là Simon như lúc khởi hành ra đi nữa. Con hiểu, trong cái vẻ đẹp của sứ mạng chúng ta, nó đau đớn chừng nào... - Phêrô xit xoa.
- Tốt. Bây giờ chúng ta cùng nhau ở đây, các con hãy kể đi.
- Simon, anh nói đi. Anh nói hay hơn tôi - Phêrô nói với Zêlote.
- Không, anh, với tư cách là thủ lãnh can đảm, anh làm bài tường trình đại diện cho tất cả - ông kia trả lời.
Phêrô bắt đầu, nhưng nói để nhập đề: “Nhưng các anh, các anh sẽ giúp tôi”.
Ông tường trình các sự kiện thứ tự cho tới lúc khởi hành từ Antioche để trở về. Sau đó ông kể cuộc trở về. “Thầy biết là tất cả chúng con đều khổ. Con không bao giờ quên những lời sau cùng của hai người...” Phêrô lau bằng mu bàn tay ông hai giọt nước mắt lớn bất chợt chảy ra... “Điều đó đối với con giống như tiếng kêu sau cùng của kẻ chết đuối... Nhưng, tóm lại, các anh nói đi... tôi, tôi không thể...” Và ông đứng dậy, đi ra xa một chút để trấn tĩnh sự xúc động.
Simon Zêlote lên tiếng: “Chúng con đã không nói, không ai nói cả trong một quãng đường dài. Chúng con đã không thể nói. Cổ họng làm chúng con đau, vì nó sưng lên do nước mắt. Và chúng con không muốn khóc... Bởi vì nếu chúng con bắt đầu, dù là chỉ một người, thì chuyện đó sẽ không chấm dứt nữa. Con, con đã cầm giây cương, vì Simon Jonas đã ngồi vào cuối xe và lục lọi các giỏ xách để cho người ta không thấy là ông đau khổ. Chúng con đã dừng lại tại một làng nhỏ trên đường khoảng giữa Antioche và Séleucie. Mặc dầu ánh trăng sáng hơn khi đêm về, nhưng vì chúng con không
109
quen đường nên chúng con dừng ở đó, và chúng con ngủ ở giữa các đồ đạc. Chúng con đã không ăn, không ai ăn cả, vì chúng con không thể ăn. Chúng con nghĩ tới hai người... Khi vừa rạng đông, chúng con băng qua cầu và chúng con tới Séleucie trước giờ thứ ba. Chúng con dẫn chiếc xe và con ngựa lại cho ông chủ quán. Và, đó là một người rất đại độ. Chúng con lợi dụng lời khuyên của ông về chiếc tàu. Ông ta nói: “Tôi đi ra cảng. Tôi biết, và người ta biết tôi”. Và ông đi. Ông ta tìm thấy ba chiếc tàu sắp nhổ neo tại cảng này. Nhưng trên một chiếc thì đã có một số người... những nhân vật mà chúng con không muốn kề cận. Chúng con đã nói với ông ta, ông ta cũng biết người chủ tàu. Một chiếc khác là tàu Ascalon, nhưng ông ta không muốn dừng lại ở Tyr ngoại trừ phải trả một số tiền mà chúng con không còn đủ. Chiếc thứ ba là chiếc ghe chở gỗ. Một chiếc thuyền tội nghiệp với một nhóm nhỏ thủy thủ mà con tin là rất nghèo. Vì vậy dù là họ đi về Cêsarê, họ cũng bằng lòng ngừng lại ở Tyr. Lộ phí trung bình: đủ một ngày tiền lương và ăn uống cho cả đoàn. Điều đó thích hợp cho chúng con. Thực tình con, và cùng với con là Mathêu, chúng con hơi sợ, vì đây là mùa gió bão. Thầy biết nó đã thế nào lúc đi. Nhưng Simon Phêrô nói: “Không việc gì đâu”, và chúng con lên ghe. Các cánh buồm của chiếc ghe tựa như các thiên thần, vì nó tiến đều và mau lẹ. Chúng con chỉ mất một phần ba thời gian so với lúc đi để tới Tyr. Và ông chủ đoàn thủy thủ rất tử tế đến nỗi ông cho chúng con móc chiếc xuồng của chúng con vào ghe để đi cho tới vùng phụ cận Ptôlêmai. Rồi Phêrô, Andrê và Gioan lên xuồng để vận hành, nhưng rất dễ dàng, không giống như lúc đi. Chúng con từ biệt họ tại Ptolêmai và chúng con rất bằng lòng tới nỗi chúng con cho thêm tiền, trả nhiều hơn món đã thoả thuận trước khi lên ghe mà chúng con đã khuân hết đồ đạc lên rồi. Chúng con ở lại Ptolêmai một ngày, rồi chúng con về đây... Nhưng chúng con không bao giờ quên những điều chúng con đã phải chịu. Simon Jonas có lý.
- Chúng con đã chẳng có lý để nói rằng ma qủi chỉ quấy rối chúng con lúc đi thôi sao? - Nhiều người hỏi.
110
- Các con có lý. Bây giờ hãy nghe đây: sứ mệnh của các con đã chấm dứt. Bây giờ chúng ta sẽ trở về Jiphtael để chờ Philíp và Natanael, và phải đi mau. Rồi những người khác sẽ tới... Trong khi chờ đợi, chúng ta sẽ giảng Tin Mừng ở đây, tại biên giới Phênici. Nhưng đối với những người sẽ tới, những chuyện này sẽ chôn chặt mãi mãi trong tim chúng ta. Không một câu hỏi nào sẽ được trả lời.
- Ngay cả với Philíp và Natanael à? Họ biết rằng chúng con ở với Thầy.
- Chính Thầy sẽ nói. Thầy đã rất khổ, các bạn ạ, các bạn đã thấy. Thầy trả bằng giá sự đau khổ của Thầy cho sự bình an của Gioan và Sintica. Các con hãy làm sao cho sự đau khổ của Thầy không vô ích. Đừng đặt thêm gánh nặng nữa trên vai Thầy, Thầy đã có qúa nhiều rồi! Và trọng lượng của nó gia tăng sau mỗi ngày, mỗi giờ. Hãy nói với Natanael rằng Thầy khổ rất nhiều. Hãy nói vậy với Philíp nữa, và mong rằng họ tốt. Hãy nói vậy với hai người kia nữa. Nhưng ngoài ra đừng nói gì hơn. Hãy nói rằng các con đã hiểu là Thầy khổ, và Thầy đã xác nhận điều đó với các con. Đó là sự thật, đừng nói gì hơn.
Giêsu nói với vẻ rất khổ sở. Tám vị nhìn Người buồn rầu. Phêrô ở đàng sau Giêsu, tự cho phép mình vuốt ve đầu tóc Người. Giêsu ngẩng mặt lên nhìn ông Phêrô ngay thẳng của Người với nụ cười buồn đầy tình cảm.
- Ôi! Con không thể thấy Thầy như vầy. Con thấy, con có cảm tưởng như niềm vui đoàn tụ của chúng ta đã biến mất, chỉ còn lại sự thánh thiện, chỉ có vậy! Lúc này chúng ta hãy đi Aczib, Thầy sẽ thay quần áo và cạo râu cạo má; Thầy sẽ chải tóc. Như vầy thì không. Đừng như vầy. Con không thể thấy Thầy như vầy... Thầy giống như... một người chạy thoát khỏi những bàn tay độc ác đã theo đuổi họ, và họ không thể chịu nổi nữa... Thầy làm con nhớ tới Abel ở Bétlem thuộc Galilê được giật ra khỏi tay các kẻ thù của anh...
- Đúng, Phêrô. Nhưng đối với Thầy con thì người ta đã đánh vào con tim... Và nó sẽ không bao giờ được chữa lành nữa. Trái lại,
111
càng ngày vết thương càng trở nên nặng. Chúng ta đi thôi.
Gioan thở dài: “Điều này làm con phật ý... Con muốn kể cho Tôma phép lạ của bài hát và của hương dược, vì ông cũng rất yêu mẹ Thầy...”
- Một ngày kia con sẽ nói. Không nói lúc này được. Một ngày kia tất cả các con sẽ nói. Khi ấy các con sẽ nói. Chính Thầy, Thầy sẽ bảo các con: hãy đi nói hết những gì các con biết. Nhưng trong khi chờ đợi, hãy biết nhìn sự thật trong phép lạ, đó là: Sức mạnh của đức tin. Gioan đã làm biển yên lặng và Sintica đã chữa lành một người đàn ông, không phải bằng các lời nói, không phải bằng các hương dược, nhưng bằng đức tin. Và với đức tin ấy, họ đưa tên của Maria và hương dược mẹ đã điều chế vào công việc. Điều này cũng đã xảy đến vì chung quanh đức tin của họ có đức tin của các con, của tất cả các con, và có tình bác ái của các con. Bác ái đối với người bị thương, bác ái đối với người Crétois. Với người trước, các con muốn bảo tồn sự sống, với người sau, các con muốn cho đức tin. Nhưng nếu chữa thể xác còn có thể dễ dàng, thì thật là khó việc chữa trị cho linh hồn. Không có thứ bệnh nào khó thắng bằng các bệnh của thần trí... - Và Giêsu thở dài thườn thượt.
Họ đã thấy Aczib trước mắt, Phêrô đi trước cùng với Mathêu để tìm nhà trọ. Những người khác theo ông, bao chung quanh Giêsu. Mặt trời lặn thật mau khi họ vào trong làng.
14* Ở ACZIB VỚI SÁU TÔNG ĐỒ
- Chúa ơi, đêm nay con đã suy nghĩ... Tại sao Thầy muốn đi qúa xa để rồi lại trở về biên giới Phênici? Xin Thầy để con đi với một người khác. Con sẽ bán Antoine... Con tiếc nó... Nhưng bây giờ không dùng nó nữa, và vì nó lôi kéo sự chú ý. Và con sẽ đi đón Philíp và Batôlômêo. Chắc hẳn họ theo con đường này và chắc chắn con sẽ gặp họ. Và Thầy có thể chắc bụng là con không nói. Con không muốn gây đau khổ cho Thầy. Thầy, Thầy hãy nghỉ ở
112
đây với những người khác, và chúng ta sẽ tiết kiệm cho mọi người cuộc hành trình đi Jiphtael... Và chúng con sẽ làm rất lẹ - Phêrô nói khi ra khỏi căn nhà mà họ đã ngủ đêm. Họ có vẻ ít gầy hơn, vì họ có y phục tốt, râu tóc được chải và sửa dọn do bàn tay nhà nghề.
- Tư tưởng của con hay. Thầy không ngăn cản con làm. Vậy hãy đi với người bạn nào như ý con muốn.
- Vậy thưa Chúa, với Simon. Xin Thầy chúc lành cho chúng con.
Giêsu ôm họ và nói: “Bằng một cái hôn. Đi đi!”
Họ nhìn hai ông ra đi, xuống dốc lẹ về phía đồng bằng.
- Simon Jonas, ông ấy qúa tốt. Trong những ngày này, tôi đánh giá ông ấy như tôi chưa hề làm trước đây - Juđa Thađê nói.
- Tôi cũng vậy - Mathêu nói. “Không bao giờ ích kỷ, không bao giờ kiêu hãnh, không bao giờ đòi hỏi”.
- Ông không bao giờ tự phụ là thủ lãnh. Trái lại, ông làm như người rốt hết trong chúng ta, mà vẫn luôn luôn giữ đúng địa vị của ông - Giacôbê Alphê thêm.
- Chúng tôi, ông ta không làm chúng tôi ngạc nhiên. Chúng tôi biết ông từ nhiều năm rồi: như lửa, nhưng hết lòng, và rất ngay thẳng - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Ông anh tôi rất tốt, dù có hơi thô lỗ. Nhưng từ khi ông đi với Giêsu, ông ta đã tốt hơn gấp đôi. Tôi, tôi có tính khác hẳn, và đôi khi anh ấy bực mình. Nhưng anh ấy biết tôi khổ vì cái tính của tôi, vì lợi ích của tôi nên anh ấy bực mình. Khi người ta hiểu anh, người ta thấy rất dễ chịu với anh - Andrê nói.
- Trong những ngày này, chúng ta luôn luôn hiểu nhau và chúng ta luôn luôn đồng lòng hợp ý - Gioan bảo đảm.
- Đúng lắm. Tôi cũng thấy vậy. Trong suốt một tuần trăng, và ngay cả trong những lúc bị kích động nhất, chúng ta không bao giờ cau có... Trong khi trước thì đôi khi... Tôi không biết tại sao... - Giacôbê Zêbêđê độc thoại.
- Tại sao à? Qúa dễ hiểu! Bởi vì chủ tâm của chúng ta ngay thẳng. Chúng ta không toàn thiện, nhưng chúng ta ngay thẳng. Vì vậy chúng ta chấp nhận điều tốt của bất cứ ai trong chúng ta đề
113
nghị, và chúng ta xa lánh điều xấu mà bất cứ ai chỉ cho chúng ta, trong khi trước kia thì chúng ta không để ý như vậy. Tại sao? Nhưng thật dễ để nói! Bởi vì tất cả tám người chúng ta chỉ có một ý tưởng: làm sao để vui lòng Giêsu. Đó là tất cả - Thađê kêu lên.
- Tôi không tin là những người khác có tư tưởng khác - Andrê nói với tinh thần cầu hòa.
- Không, Philíp thì không, Batôlômêo cũng không, mặc dầu ông ta lớn tuổi và rất đặc Israel... Tôma cũng không, mặc dầu ông ta rất người hơn là thần trí. Tôi sẽ lầm nếu tôi kết án họ về... Giêsu, Thầy có lý. Xin lỗi. Nhưng nếu Thầy biết con là thế nào khi con thấy Thầy đau khổ. Và vì ông ta! Con là một môn đệ của Thầy như những người khác, nhưng hơn nữa, con là anh em và bạn bè với Thầy, và con có trong con dòng máu hung hăng của Alphê. Giêsu, đừng nhìn con cách nghiêm nghị và buồn như vậy. Thầy là con chiên, còn con... con sư tử. Thầy hãy tin là con rất khó tự kiềm chế để không cắn xé, bằng những cú đá, tất cả những ổ vu khống bao quanh Thầy, và phá đổ những nơi trú ẩn của kẻ thù thực sự. Con muốn thấy cái bộ mặt thiêng liêng thực sự của nó, và con sẽ cho nó một cái tên... và có lẽ tên đó là: vu khống. Và con sẽ đánh dấu nó bằng một dấu hiệu không thể xóa nhòa được, nếu con biết chắc là mình không lầm. Và điều đó sẽ làm cho nó mãi mãi hết dám ước ao làm khổ cho Thầy - Thađê đã nói tất cả những lời đó cách hung hăng, mặc dầu lúc đầu Giêsu đã nháy mắt cho ông.
Giacôbê Zêbêđê trả lời ông: “Anh phải ghi dấu cả nửa Israel... Nhưng điều đó cũng không cản được Giêsu. Anh đã thấy đó, trong những ngày này đâu có gì đối nghịch với Giêsu. Thầy ơi bây giờ chúng ta sẽ làm gì? Thầy đã nói ở đây rồi sao?”
- Không. Thầy đã đến sườn núi này từ gần một ngày. Thầy đã ngủ trong rừng.
- Tại sao họ không muốn Thầy?
- Quả tim họ xua đuổi người bộ hành... Thầy không có tiền...
- Vậy đây là những qủa tim bằng đá! Họ sợ cái gì?
- Sợ Thầy là tên ăn cắp... Nhưng không quan trọng. Chúa Cha
114
trên trời đã cho Thầy tìm được một con dê cái, bị lạc hay trốn chủ. Hãy tới mà coi nó. Nó sống ở dưới cây rừng với một con dê con. Nó đã không chạy đi khi thấy Thầy tới. Trái lại, nó đã để cho Thầy vắt sữa nó vào miệng Thầy tựa như Thầy là con nhỏ của nó. Thầy cũng ngủ ở bên nó với con dê con hầu như ở trên qủa tim Thầy. Thiên Chúa rất tốt với Ngôi Lời của Người.
Họ đi lại chỗ họ đã ở ngày hôm qua trong một rừng gai dầy. Ở giữa đó có một cây sồi cổ thụ. Tôi không biết làm sao cây sồi có thể sống ở đó. Nó bị nứt ra ở gốc, tựa như đất đã rẽ ra và xé cái thân lực lưỡng của nó ra. Nó bị cuốn đầy cây trường xuân và cây gai, và bây giờ nó trụi hết lá. Ở rất gần đó, con dê cái đang gặm cỏ cùng với dê con. Khi thấy đông người, nó giơ sừng ra để tự vệ. Nhưng rồi nhận ra Giêsu nên nó bình tĩnh. Họ thẩy cho nó những mẩu bánh và rút lui.
- Thầy đã ngủ ở chỗ đó - Giêsu cắt nghĩa. “Và Thầy sẽ ở lại chỗ này nếu các con không về. Bây giờ Thầy đã đói. Mục đích của việc chay tịnh đã xong... Không nên nài nỉ những chuyện mà người ta không thể thay đổi”.
Giêsu lại buồn. Sáu vị nhìn Người, nhưng họ không nói gì.
- Bây giờ chúng ta đi đâu?
- Bữa nay chúng ta ở lại đây. Ngày mai chúng ta xuống để giảng trên đường Ptolêmai, rồi chúng ta tới biên giới Phênici. Sau đó lại trở về đây trước ngày Sabát.
Và họ từ từ đi vào làng.
15* GIẢNG TIN MỪNG TẠI BIÊN GIỚI PHÊNICI
Con đường đi từ miền Phênici về Ptolêmai là con đường đẹp. Nó cắt ngang cánh đồng nằm giữa biển và núi bằng một đường rất thẳng. Nó được bảo trì tốt và đông người qua lại. Nó thường giao nhau với những con đường nhỏ hơn chạy vào các làng ở bên trong các làng vùng bờ biển. Có nhiều ngã tư, gần nơi đó thường có một
115
căn nhà, một giếng nước, một cơ xưởng thô sơ cho những con vật cần sửa móng sắt.
Giêsu với sáu vị ở với Người đi một quãng đường dài, khoảng trên hai cây số. Dưới mắt họ luôn luôn có cùng một quang cảnh. Sau cùng họ dừng lại tại một căn nhà với cái giếng và cơ xưởng, bên một ngã tư gần một con suối. Một cái cầu cắm chân vào bờ suối, nó vững chắc nhưng hẹp, chỉ vừa cho một chiếc xe ngựa đi qua. Điều này làm các người qua lại phải dừng, vì hai dòng đi ngược chiều nhau không thể đi qua cầu cùng một lúc. Điều đó cũng cho phép những người qua lại thuộc các nòi khác nhau, và theo điều tôi có thể hiểu, tức là người Phênici và người Israel, nói đúng ra là ghét nhau cách hỗ tương, có dịp để đồng ý với nhau về một điểm duy nhất: nguyền rủa Rôma... Nhưng nếu không có Rôma thì không có chiếc cầu này, và với cái suối này, khi nước ngập, tôi không biết làm sao họ có thể qua. Nhưng là vậy đó. Kẻ áp chế thì luôn luôn bị ghét, dù là họ làm những điều hữu ích.
Giêsu dừng lại gần cầu, nơi có mặt trời soi sáng cho căn nhà ở gần suối, và cơ xưởng xông mùi hôi, vì người ta đang rèn móng sắt cho một con ngựa và hai con lừa đã bị rơi mất móng. Con ngựa được đóng vào một chiếc xe Rôma, trên đó những người lính đang dỡn bằng cách dọa nạt các người Hy Bá dám nguyền rủa họ. Họ ném một nắm phân ngựa vào một ông già mũi dài có vẻ thù hận hơn các người khác, một cái miệng mãng xà thực sự. Tôi tin là ông ta sẵn sàng cắn các người Rôma để đánh thuốc độc họ. Hãy tưởng tượng chuyện gì xảy ra: Ông già Hy Bá chạy trốn, la lối tựa như các tên lính làm ông bị cùi. Và những người Hy Bá khác hợp ca với ông. Các người Phênici cười mỉa mai: “Qúi vị thích man-na mới à? Ăn đi! Ăn đi! Cái đó sẽ cho qúi vị có hơi để la lối những người đã qúa tốt với qúi vị, các con rắn độc giả hình!” Các tên lính cười chế nhạo. Giêsu nín thinh.
Sau cùng chiếc xe Rôma cũng đi sau khi chào người thợ bịt móng: “Chào Titô. Chúc anh một ngày may mắn”. Đó là một người vạm vỡ, khá già, cổ trâu, mặt cạo nhẵn, mắt rất đen ở hai bên cái mũi
116
mạnh, dưới vầng trán rộng và dô, hơi hói. Tóc, tại những nơi có thì ngắn và quăn. Ông ta giơ cái búa nặng của ông lên trong cử chỉ từ biệt, rồi ông lại cúi xuống trên cái đe mà trên đó một người thợ học việc đã để một mảnh sắt nung đỏ, trong khi một cậu con trai khác đốt móng một con lừa để chuẩn bị đóng móng sắt.
- Những người thợ bịt móng ở dọc con lộ này hầu hết là Rôma, những người lính ở lại đây sau khi mãn hạn, và họ kiếm sống khá. Không bao giờ một cái gì có thể ngăn cản họ săn sóc các con vật. Và một con lừa có thể rơi mất móng sắt dù là trước hoàng hôn của ngày Sabát hay trong dịp lễ Ánh Sáng - Mathêu nhận xét.
- Cái ông đã đóng móng sắt cho Antoine cũng cưới một bà người Hy Bá - Gioan nói.
- Người điên thì nhiều hơn người khôn - Giacôbê Zêbêđê nói cách nghiêm trang.
- Vậy con cái thì thuộc về ai? Thuộc về Thiên Chúa hay ngẫu tượng giáo? - Andrê hỏi.
- Thường thường thì thuộc về người nào mạnh hơn - Mathêu trả lời. “Chỉ cần người đàn bà không bỏ đạo là con cái thuộc về Hy Bá. Bởi vì người chồng, những người này, họ để cho vợ làm, họ không qúa cuồng nhiệt, kể cả với Olympe của họ. Tôi tin là bây giờ họ chỉ còn tin vào tiền. Họ có rất nhiều con”.
- Những phối hợp đáng khinh, không đức tin, không một quê hương thực sự... ghê tởm đối với mọi người... - Thađê nói.
- Không, anh lầm. Rôma đâu có khinh họ, trái lại, nó tiếp tục giúp họ. Họ hữu ích cho nó hơn là khi họ cầm khí giới. Họ xâm nhập chúng ta bằng cách làm hư dòng máu hơn là bằng bạo lực. Những kẻ chịu đựng thường là thế hệ đầu tiên. Sau đó họ phân tán và... thế giới quên đi - Mathêu nói với vẻ hiểu biết.
- Đúng. Các trẻ em là những kẻ đau khổ. Nhưng cả các đàn bà Do Thái nữa. Kết bạn trong những trường hợp như vậy... cho chính các bà và cho con cái các bà. Họ làm Thầy thương. Sẽ không còn ai nói với họ về Thiên Chúa nữa. Nhưng điều đó sẽ không còn trong tương lai. Lúc đó sẽ không còn những ngăn cách giữa các loại người,
117
các dân tộc, vì các linh hồn sẽ hợp nhất trong một quê hương duy nhất: quê hương của Thầy - lúc này Giêsu nói, vì trước vẫn nín lặng.
- Nhưng lúc đó các bà sẽ chết!... - Gioan kêu lên.
- Không. Các bà sẽ tụ họp nhân danh Thầy. Sẽ không còn Rôma hay Lybie, Hy Lạp hay dân Tiểu Á, Ibère hay Gaul, Ai Cập hay Hy Bá, nhưng chỉ còn những linh hồn của Đức Kitô. Và khốn cho những ai muốn phân rẽ các linh hồn theo quê hương trần thế của họ. Tất cả đều được Thầy yêu thương, và Thầy đã chịu khổ cho họ cách đồng đều. Người hành động như vậy là chứng tỏ họ không hiểu gì về đức bác ái là nhân đức phổ quát.
Các tông đồ nhận ra lời quở trách kín đáo nên họ cúi đầu nín lặng...
Tiếng động của sắt bị đập trên đe chấm dứt, và cả những cú vang lên ở bàn chân sau cùng của con lừa. Giêsu lợi dụng dịp để cao giọng, để làm cho đám đông nghe thấy Người. Người làm như tiếp tục cuộc thảo luận với các tông đồ, nhưng thực ra là Người nói với những người qua đường, và có lẽ với cả những người ở trong nhà, chắc chắn có những phụ nữ, vì trong làn khí ấm, thấy vang lên tiếng nói phụ nữ:
- Dù là coi như không có, nhưng luôn luôn có sự liên hệ bà con giữa mọi người, vì mọi người đều đến từ một Đấng Tạo Hóa duy nhất. Nếu sau đó, con cái của một Cha duy nhất phân tán đi, thì việc đó không thay đổi gì về nguồn gốc của họ. Cũng giống như việc một đứa con bị đuổi ra khỏi nhà cha mẹ cũng không thay đổi dòng máu của nó. Trong mạch máu của Cain, luôn luôn có dòng máu của Ađam, dù là tội ác của nó đã làm cho nó trốn chạy qua khắp thế giới mênh mông. Và trong mạch máu của những đứa con sinh ra sau sự đau đớn của Evà khóc trên xác con trai bà, cũng có cùng một dòng máu đang sôi trong mạch của Cain.
Cũng vậy, và với lý do tinh ròng hơn, là sự bình đẳng giữa các con cái của Đấng Tạo Hóa: Bị lạc? Có. Lưu đày? Có. Bỏ đạo? Có. Tội lỗi? Có. Nói nhiều thứ tiếng khác nhau và nhiều khi chúng ta
118
ghê tởm? Có. Hư hỏng bởi phối hợp với dân ngoại? Có. Nhưng linh hồn do từ một Đấng Duy Nhất mà tới, và nó như vậy mãi mãi, dù là phân chia, thất lạc, lưu đày, hư hỏng... Dù nó là đối tượng cho sự đau đớn của người Cha Thiên Chúa, nó luôn luôn là linh hồn do Người tạo dựng.
Những người con tốt của một người cha tốt, phải có những tình cảm tốt: tốt đối với Cha, tốt đối với anh em, dù là họ thế nào, vì là con cùng một cha. Tốt với Cha bằng cách an ủi sự đau đớn của Người, bằng cách dẫn về cho Người những đứa con là sự đau đớn của Người, hoặc bởi vì chúng tội lỗi, hoặc bởi vì chúng phản đạo, hoặc bởi vì chúng là dân ngoại. Tốt với họ bởi vì họ có một linh hồn đến từ Cha, ẩn trong một thân xác có tội, dơ bẩn, đần độn bởi một tôn giáo sai lầm, nhưng luôn luôn là linh hồn của Chúa và giống linh hồn chúng ta.
Ôi! Các vị Israel, hãy nhớ rằng không một ai, dù là kẻ thờ tà thần xa cách Thiên Chúa nhất bởi cái tôn giáo thờ ngẫu tượng của nó; dù là một người ngoại giáo nhất trong số các dân ngoại, hoặc là kẻ vô thần nhất trong loài người, mà lại không có cái dấu vết của nguồn gốc nó. Ôi! Hỡi các vị bị lầm lẫn trong khi chia cách với tôn giáo thực bằng cách hạ mình tới chỗ pha trộn các giống tính mà tôn giáo của chúng ta ngăn cấm, dù là qúi vị thấy như tất cả những gì thuộc về Israel đã chết ở trong qúi vị, bị ngộp bởi tình yêu đối với một người có niềm tin khác, thuộc nòi giống khác, mong rằng nó chưa chết tất cả trong qúi vị, hãy còn một cái gì còn sống, và đó là Israel. Qúi vị có bổn phận thổi vào đám lửa tàn, khơi dậy cái ánh sáng còn tồn tại do ý muốn của Thiên Chúa, để làm cho nó tăng trưởng mạnh hơn tình yêu xác thịt. Tình yêu này sẽ chấm dứt với cái chết, nhưng linh hồn của qúi vị không chấm dứt với cái chết. Hãy nhớ điều đó. Và dù qúi vị là ai, qúi vị nhìn thấy, và đôi khi qúi vị sợ một cuộc hôn nhân của một phụ nữ Israel với một người có đức tin khác, thuộc nòi giống khác, qúi vị hãy nhớ là qúi vị có bổn phận bó buộc phải giúp đỡ người chị em lạc đường này với lòng bác ái, để họ lại tìm thấy con đường của Cha.
119
Đó là luật mới, luật thánh và đẹp lòng Thiên Chúa. Chớ gì những kẻ đi theo Đấng Cứu Thế, hãy chuộc lại ở khắp nơi những gì cần cứu chuộc, để Thiên Chúa được vui vì những linh hồn trở về nhà Cha, để không làm cho sự hy sinh của Đấng Cứu Thế trở nên qúa trơ trơ và nhỏ mọn.
Để làm dậy men một số lượng bột lớn, bà chủ nhà dùng một chút bột của tuần trước. Ôi! Một số lượng nhỏ làm dậy men cả một khối! Bà nhào nó với một đống bột và để tất cả trong nơi khuất gió, chỗ ấm áp thuận tiện trong nhà.
Qúi vị là những người thợ của điều thiện, qúi vị cũng hãy làm như vậy. Và cả các vị là những con cái lìa xa Cha và Vương Quốc của Người cũng vậy. Những người thứ nhất, hãy góp một chút men của qúi vị để phụ cho những người thứ hai và củng cố cho họ, họ sẽ phối hợp nó với những phân tử công chính còn tồn tại ở trong họ, và người nọ cũng như người kia, hãy giữ men mới cho khuất những sức mạnh thù hận của điều ác, trong những chỗ ấm áp của đức ái - theo như qúi vị là: hoặc qúi vị làm chủ mình, hoặc là trong qúi vị chỉ còn lại một chút kiên trì được, dù là nó đã kiệt quệ - Hãy giữ vững các bức tường của căn nhà tôn giáo chung chung quanh cái gì đang dậy men trong con tim của kẻ đồng tôn giáo lạc lõng, để họ cảm thấy Israel vẫn còn yêu họ, họ còn là con cái Sion và anh em với qúi vị, để hết mọi thiện chí đều dậy men, và để nước Thiên Chúa đến với các linh hồn và cho hết mọi linh hồn.
- Nhưng ai vậy? Ai vậy? - Nhiều người hỏi nhau. Họ không cảm thấy vội vã để qua cầu nữa, dù cầu đã trống, và những người đã qua từ bên kia cũng không vội vã đi tiếp nữa.
- Một vị rabbi.
- Một vị rabbi Israel.
- Ở đây? Tại biên giới Phênici? Lần đầu tiên có chuyện này.
- Nhưng như vậy đó. Aser nói với tôi rằng đó là vị mà người ta gọi là Đấng Thánh.
- Vậy có lẽ Người trú ngụ ở giữa chúng ta, bởi vì ở đó họ bách hại Người.
120
- Rất tốt, nếu Người đến nhà chúng ta, Người sẽ làm những kỳ công...
Trong lúc đó Giêsu bỏ đi, đi vào một con đường băng qua đồng ruộng.
16* GIÊSU TẠI ALEXANDROCÈNE
Họ lại lên lộ, sau nhiều khúc quanh qua cánh đồng, và sau khi đã băng qua một con suối trên chiếc cầu nhỏ bằng ván rung rinh, chỉ người có thể qua: một lối đi thì đúng hơn là một cái cầu.
Và họ tiếp tục bước qua miền đồng bằng càng lúc càng hẹp, vì các ngọn đồi tiến dần ra bể, tới nỗi sau khi qua một con suối khác với chiếc cầu cần yếu của Rôma, con lộ miền đồng bằng biến thành lộ miền núi. Từ chỗ chiếc cầu, nó phân đôi, một đường lên dốc ít chạy về phía đông bắc qua một thung lũng, và một đường mà Giêsu chọn thì đi theo bảng chỉ ở bờ đường của Rôma: “Alexandrocène - m. V”, thực sự là cái cầu thang trong núi đá. Nó dựng đứng và cắm mũi vào Địa Trung Hải. Biển càng lúc càng lộ ra trước mắt theo đà họ lên cao. Chỉ những người đi bộ và lừa có thể đi đường này. Có thể nói đây là đường nấc thang, nhưng có lẽ vì là đường tắt có lợi nên nhiều người qua lại. Người ta quan sát cách tò mò nhóm người Galilê rất khác thường đi trên đường.
- Chắc đây là mũi Giông Tố - Mathêu nói khi ông chỉ vào mũi đất chạy ra biển.
- Đúng. Đó, ở bên dưới là ngôi làng mà người đánh cá đã nói với chúng ta - Giacôbê Zêbêđê xác nhận.
- Nhưng ai đã có thể xây con đường này?
- Ai biết được nó đã có từ đời nào! Có lẽ người Phênici...
- Từ trên đỉnh, chúng ta sẽ thấy Alexandrocène, ở bên ngoài là Mũi Trắng. Gioan của Thầy, con sắp được coi mặt biển mênh mông - Giêsu nói khi quàng tay qua vai vị tông đồ.
- Đó là những kẻ thuộc loài bò sát!
121
- Con rất bằng lòng. Nhưng sắp tối rồi, chúng ta sẽ nghỉ ở đâu?
- Ở Alexandrocène. Con thấy không? Con đường đã bắt đầu xuống dốc. Ở bên dưới là đồng bằng cho tới thành phố mà chúng ta nhìn thấy ở đàng kia.
- Đó là thành phố của người đàn bà ở Antigonéa... Làm sao chúng ta có thể làm vui lòng bà ta? - Andrê hỏi.
- Thầy biết không? Bà ta đã nói với chúng con: “Các ông hãy đi Alexandrocène. Các anh của tôi có quầy hàng ở đó, và họ là tân tòng. Hãy nói với họ về ông Thầy. Chúng tôi cũng là con cái Thiên Chúa”. Và bà ta khóc, bởi vì bà ta bị bạc đãi bởi là con dâu... tới nỗi các anh em bà không bao giờ tới thăm bà, và bà không có tin tức gì về họ... - Gioan giải thích.
- Chúng ta sẽ tìm anh em của người đàn bà đó. Nếu họ tiếp đón chúng ta như khách lữ hành, chúng ta có thể làm cho bà cái vui này.
- Nhưng chúng ta làm sao để nói được rằng chúng ta đã gặp bà?
- Bà ta phục dịch cho Lazarô, chúng ta là bạn của Lazarô - Giêsu nói.
- Đúng vậy. Thầy sẽ nói nhé!...
- Ờ, nhưng đi lẹ lên để tìm căn nhà. Các con biết nó ở chỗ nào không?
- Có, gần một cái trại. Họ tiếp xúc với người Rôma, vì họ bán nhiều thứ cho Rôma.
- Tốt.
Họ đi mau trên con đường bằng và đẹp, đúng là con lộ huyết mạch, chắc chắn nó nối với các lộ khác ở nội thành, hay đúng hơn là nó tiếp tục vào trong thành sau khi đã qua đoạn nối dài đá lởm chởm, nhiều nấc thang dọc bời biển, trên mũi đất.
Alexandrocène là một thành phố quân sự hơn là dân sự. Chắc nó có những chiến lược quan trọng mà tôi không biết. Nó thu mình nằm giữa hai mũi đá, nó trông giống như người lính đứng canh gác cái góc biển này. Bây giờ mắt có thể nhìn thấy cả hai mũi. Ta thấy ở đó dựng lên nhiều pháo đài mạnh mẽ, làm thành một dẫy với các pháo đài của đồng bằng và của thành phố mà về phía biển, có một
122
căn trại trấn ngự canh chừng.
Họ đi vào thành phố sau khi đã đi qua một con suối nhỏ khác rất gần cổng, và họ hướng về cái khối pháo đài hận thù, mắt nhìn khắp chung quanh cách tò mò, và chính họ cũng trở nên đối tượng của sự tò mò.
Lính tráng rất đông ở đây, và họ trông như được cảm tình tốt của người dân, điều đó làm cho các tông đồ lẩm bẩm: “Các người Phênici! Không biết hãnh diện!”
Họ vào cửa hàng của anh em bà Hermione khi những người mua hàng sau cùng vừa ra khỏi, mang đầy các thứ hàng gồm nhiều loại, từ tấm trải giường tới khăn bàn, từ cỏ khô tới các loại ngũ cốc, từ dầu mỡ tới các thực phẩm. Mùi da thuộc, mùi gia vị, mùi cỏ, mùi len sống xông lên đầy cái phòng lớn mà qua đó, họ tới một cái sân mênh mông như một quảng trường mà dưới các dẫy hành lang là chỗ chất các loại hàng.
Một người đàn ông da ngăm, râu xồm xoàm chạy lại: “Các ông muốn gì? Thực phẩm à?”
- Phải... nhưng cũng một chỗ trọ nữa, nếu ông không ghê tởm cho khách bộ hành trú nhờ. Chúng tôi đến từ rất xa và chúng tôi chưa bao giờ đến đây. Hãy tiếp nhận chúng tôi nhân danh Chúa.
Người đàn ông chăm chú nhìn Giêsu, vì Người nói thay cho tất cả. Ông ta dò xét Người... Rồi ông ta nói: “Đúng ra tôi không cho khách trọ, nhưng ông làm tôi ưng ý. Ông người Galilê phải không? Người Galilê đáng giá hơn người Do Thái. Có qúa nhiều mốc meo nơi họ. Họ không tha cho chúng tôi vì có dòng máu không thuần chủng. Họ làm như họ tốt hơn vì có linh hồn trong sạch. Xin mời vào đây, tôi sẽ trở lại ngay. Tôi đi đóng cửa, vì đêm tới rồi”. Qủa vậy, hoàng hôn đã tới, và bóng tối còn dầy hơn ở trong sân, vì căn trại cao che khuất.
Họ vào trong một căn phòng và ngồi trên các ghế để ở đó đây. Họ đã mệt mỏi...
Người đó trở lại với hai người khác, một người già hơn ông ta, và người kia trẻ hơn. Ông ta chỉ vào các người khách khi họ đứng
123
dậy để chào. Ông ta nói: “Đó, anh em thấy họ thế nào? Tôi thấy họ có vẻ thật thà...”
- Ờ, em đã làm đúng - Người già hơn nói với em ông. Rồi ông nói với khách, đúng hơn là với Giêsu, vì rõ ràng Người có vẻ thủ lãnh, ông ta hỏi: “Các anh tên gì?”
- Giêsu Nazarét, Giacôbê và Juđa cũng Nazarét. Giacôbê và Gioan Bétsaiđa, Andrê cũng vậy, và Mathêu Caphanaum.
- Làm sao các ông lại ở đây? Bị bách hại à?
- Không. Chúng tôi rao giảng Tin Mừng. Chúng tôi đã hơn một lần đi vòng hết Palestin, từ Galilê tới Juđê, từ biển nọ tới biển kia. Chúng tôi đã tới cả bên kia sông Giođan, trong vùng Auraniti. Bây giờ chúng tôi đến đây... để giảng dạy.
- Một vị rabbi ở đây? Điều đó làm chúng ta ngạc nhiên, phải không Philíp và Êlie? - Người già hơn hỏi.
- Rất ngạc nhiên. Anh thuộc giai cấp nào?
- Không thuộc giai cấp nào cả. Tôi thuộc về Thiên Chúa. Những người tốt trên thế giới thì tin vào tôi. Tôi nghèo. Tôi thương người nghèo, nhưng tôi không khinh dể người giầu. Tôi dạy cho họ tình yêu, lòng thương xót và bỏ lòng dính bén vào của cải. Cũng vậy, tôi dạy cho người nghèo yêu sự nghèo khó và tin cẩn vào Thiên Chúa là đấng không để cho ai phải chết đói. Trong đám bạn hữu và môn đệ giầu của tôi có Lazarô Bêtani.
- Lazarô? Chúng tôi có người em gái kết hôn với một trong các đầy tớ của ông ta.
- Tôi biết. Cũng vì vậy nữa nên tôi tới đây để nói với các ông là bà ấy gởi lời chào các ông và bà ấy yêu các ông.
- Ông đã gặp nó?
- Tôi thì không, nhưng những người đi với tôi đây, họ được Lazarô gởi tới Antigonéa.
- Ôi! Nói đi! Hermione làm gì? Em nó có thực hạnh phúc không?
- Chồng cô và mẹ chồng cô rất yêu cô. Bố chồng thì kính nể cô - Juđa Thađê nói.
- Nhưng ông ta không tha cho nó vì dòng máu mẹ nó. Hãy nói
124
vậy đi.
- Ông ta đang đi tới chỗ tha cho cô. Ông ta rất khen cô với chúng tôi. Cô có bốn đứa con rất đẹp và dễ thương. Điều đó làm cho cô hạnh phúc. Nhưng các ông luôn luôn ở trong qủa tim của cô và cô bảo chúng tôi dẫn Đức Messi của Thiên Chúa đến với các ông.
- Nhưng... thế nào... ông là vị... ông là đấng mà người ta gọi là Đức Messi, ông?
- Tôi là vị đó.
- Ông đúng là đấng... Tại Jêrusalem người ta đã nói với chúng tôi rằng ông là... mà người ta gọi là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Có đúng không?
- Đúng.
- Nhưng ông là vậy cho những người ở đó thôi hay cho tất cả?
- Cho tất cả. Các ông có thể tin rằng tôi là đấng đó không?
- Tin thì đâu có mất mát gì, nhất là khi người ta hy vọng rằng điều người ta tin có thể lấy đi cho người ta cái làm cho người ta khổ.
- Đúng vậy, Êlie. Nhưng đừng nói như vậy. Đó là tư tưởng rất xấu, xấu hơn là dòng máu pha trộn. Anh hãy vui, không phải vì hy vọng những cái làm cho anh khổ sẽ chấm dứt theo như loài người, như sự khinh dể của kẻ khác chẳng hạn, nhưng anh hãy vui trong hy vọng chiếm được nước Trời.
- Ngài có lý. Chúa ơi, tôi là dân ngoại một nửa.
- Đừng hạ thấp anh. Tôi cũng yêu cả anh nữa, và cũng vì cả anh nữa mà tôi đã đến.
- Hẳn các ngài mệt, Êlie ạ. Em sẽ giữ các ngài lại bằng những bài thuyết trình của em ! Thôi chúng ta đi ăn rồi dẫn các ngài tới chỗ nghỉ. Không có phụ nữ ở đây... Không một đàn bà Israel nào ưng chúng tôi, mà chúng tôi muốn có một bà... Xin Ngài tha cho chúng tôi nếu Ngài thấy nhà cửa lạnh lẽo và không trang trí.
- Con tim tốt của các ông làm cho tôi thấy nó trang trí đẹp và ấm áp.
- Ngài sẽ ở lại đây bao lâu?
125
- Không hơn một ngày. Tôi muốn đi Tyr và Sidon, và tôi muốn tới Aczib trước ngày Sabát.
- Lạy Chúa, Ngài không thể. Sidon ở rất xa đây!
- Ngày mai tôi muốn nói ở đây.
- Nhà chúng tôi giống như một cái cảng. Không cần ra ngoài,
Ngài cũng có thính giả tùy tiện. Hơn nữa, ngày mai là ngày chợ phiên.
- Vậy đi thôi. Nguyện Chúa trả ơn cho tình bác ái của các ông.
17* NGÀY HÔM SAU TẠI ALEXANDROCÈNE
Cái sân của nhà ba anh em còn một nửa trong bóng tối, một nửa đã có nắng, đã đầy những người đi lại mua bán, trong khi bên ngoài cổng, tại cái công viên nhỏ, người ta đã nghe những ồn ào của khu chợ Alexandrocène với kẻ mua người bán đi lại lộn xộn, với tiếng kêu của lừa, cừu, chiên, gà... Người ta hiểu rằng ở đây ít phức tạp hơn nên người ta mang cả gà ra chợ mà không sợ bị ô uế bất cứ loại nào. Tiếng cọ kẹ của lừa, tiếng bê bê của dê, cừu, cục cục của gà mái, cú cu của gà trống, pha trộn với tiếng người thành một ban hợp ca vui, đôi khi có những cung bắc bi thảm theo sau những tiếng cãi cọ.
Ngay trong sân của ba anh em, sự ồn ào lộn xộn cũng ngự trị, và cũng có những cãi cọ, hoặc vì một giá cả, hoặc vì một món hàng mà một người đã mua, trong khi người khác cũng muốn lấy. Cũng không vắng bóng những tiếng than bi thảm của các hành khất đứng ở quảng trường, gần chiếc cổng, để tuôn ra bài kinh cầu về sự khốn nạn của họ, bằng một điệu buồn như tiếng rên của người sắp chết.
Các lính Rôma qua lại như chủ nhà tại công viên và các chỗ chất hàng. Tôi cho đó là những phục vụ theo lệnh, vì tôi thấy họ trang bị vũ khí và không bao giờ đi một mình ở giữa những người Phênici, tất cả đều vũ trang.
Giêsu cũng đi lại trong sân. Người đi dạo cùng với sáu tông đồ, chờ lúc thuận tiện để nói. Rồi Người ra ngoài công viên một lát, đi
126
qua gần các người ăn mày mà Người bố thí. Người ta sao lãng vài phút để nhìn nhóm người Galilê và hỏi nhau những người lạ này là ai. Và họ biết, vì họ hỏi ba anh em chủ nhà trọ của các đấng.
Những xì xèo theo chân Giêsu khi Người đi bình thản, vuốt ve những trẻ em Người gặp trên đường. Ở giữa những tiếng xì xèo, cũng có những tiếng cười nhạo và những hình dung từ ít vinh dự đối với dân Hy Bá, và cũng có những ước ao nghe “vị tiên tri” này, vị “Rabbi” này, vị “Thánh” này, vị “Messi Israel” này nói. Khi họ nói, họ cho Người một cái tên tùy theo mức độ lòng tin của họ và sự
ngay thẳng của tâm hồn họ. Tôi nghe hai người mẹ nói:
- Mà có thật không?
- Chính Daniel nói với tôi, với chính tôi. Tại Jêrusalem, ông ta đã nói chuyện với những người đã nhìn thấy Vị Thánh làm các phép lạ.
- Ờ, đồng ý, nhưng có đúng là ông này không?
- Ồ, Daniel nói với tôi đây chỉ có thể là ông ta, theo những điều ông ta nói.
- Vậy... Chị nói sao? Người sẽ làm ơn cho tôi không, mặc dầu tôi chỉ là tân tòng?
- Tôi nói là có... Hãy thử đi. Có lẽ Người không đến đây, vùng của chúng ta nữa. Hãy thử đi! Thử đi! Chắc chắn Người không làm gì xấu cho chị đâu.
- Tôi đi lại đó.
Và người đàn bà nhỏ bỏ lại người bán chén bát mà bà ta đã mặc cả giá của mấy cái đĩa. Người bán hàng đã nghe cuộc đàm thoại của hai người đàn bà liền thất vọng, nổi sùng vì món bở bay đi như khói, liền nắm lấy người đàn bà còn lại và phủ đầu bà ta bằng những nguyền rủa: “Quân tân tòng đáng nguyền rủa, thứ máu Hy Bá! Đàn bà bị bán”, và vân vân.
Tôi nghe hai người đàn ông nghiêm trang, đầy râu ria: “Tôi muốn nghe người nói. Họ nói đó là vị Đại Rabbi”.
- Anh phải nói là một tiên tri, còn lớn hơn ông Tẩy Giả. Êlie nói
127
với tôi một số điều! Một số điều! Anh ta biết, vì anh ta có cô em lấy một trong những người đầy tớ của một nhà giầu sụ của Israel. Và để có các tin tức của cô, anh ta hỏi những người đầy tớ của ông. Ông phú gia này là bạn rất thân của vị Rabbi...
Một người thứ ba, có lẽ người Phênici, ông ta nghe thấy, vì ông ta ở rất gần, liền đưa bộ mặt nham hiểm, chế nhạo vào giữa hai người và mỉa mai: “Sự thánh thiện qúa đẹp! Ngâm dầm trong của cải! Theo ý tôi, một vị thánh phải sống nghèo nàn”.
- Câm đi Doro, cái lưỡi vô phúc! Mày, dân ngoại, mày không xứng đáng xét đoán những điều này.
- A! các ông thì xứng đáng! Đặc biệt là ông, Samuel! Tốt hơn là ông nên trả tôi món tiền mà ông thiếu tôi !
- Đây! Và đừng quay quanh tao nữa! Giống khát máu mang mặt thú!...
Tôi nghe một ông già gần mù được một đứa bé gái dắt đi. Ông ta hỏi: “Ở đâu? Đức Messi ở đâu?” Và con bé kêu: “Tránh chỗ cho ông già Marc đi! Làm ơn nói cho ông già Marc Đức Messi ở đâu!”
Hai giọng nói, giọng của ông già thì yếu và run run, giọng của con bé thì như tiếng bạc và đầy bảo đảm, vang lên trong quảng trường một cách vô ích cho tới khi một người khác nói: “Hai ông cháu muốn tìm vị Rabbi à? Người đã trở về nhà Daniel rồi. Kìa, Người đang đứng lại để nói với mấy người hành khất”.
Tôi nghe hai giọng nói Rôma: “Đây hẳn là người mà bọn Do Thái bách hại. Bọn tốt mặt! Ta thấy, chỉ cần ngó ông ta là biết ông ta hơn bọn chúng”.
- Vì vậy ông ta làm chúng ngứa mắt.
- Chúng ta đi nói với ông cầm cờ. Đó là lệnh.
- Một cái lệnh ngu xuẩn, Caius ạ! Rôma sợ mấy con chiên, và nó chịu đựng, phải nói là nó vuốt ve những con hổ. (Scipion)
- Scipion, tao không thấy vậy. Ponciô tàn sát cách dễ dàng. (Caius)
- Đúng. Nhưng ông ta không khép cửa đối với những con linh cẩu nịnh hót ông ta. (Scipion)
- Đó là chính trị, Scipion à. Chính trị đó! (Caius)
- Caius ơi, đó là hèn và ngu. Ông ta phải biết làm bạn với những
128
người như ông này để được trợ giúp, để giữ bọn hạ cấp Á Châu này trong sự vâng lời. Ponciô, ông ta không phục vụ Rôma tốt trong khi lơ là ông này là người tốt và nịnh bợ bọn xấu. (Scipion)
- Đừng chỉ trích ông Thủ Hiến. Chúng ta là lính, và thượng cấp là thánh, giống như một ông thần. Chúng ta đã thề vâng lời Thần Chúa César, và ông Thủ Hiến là đại diện của Người. (Caius)
- Điều đó đúng với những thứ có liên can tới quê hương thánh và bất tử, nhưng điều đó không giá trị đối với những phán đoán nội tâm. (Scipion)
- Nhưng vâng lời từ sự phán đoán mà tới. Nếu trí phán đoán của mày phản loạn chống lại lệnh và chỉ trích nó thì mày sẽ không vâng lời hoàn toàn. Rôma dựa trên sự vâng lời mù quáng của chúng ta để bảo vệ các cuộc chinh phục của nó. (Caius)
- Mày giống như một dân quân và mày nói hay. Nhưng tao bảo mày hãy nhận xét là: Nếu Rôma là Bà Hoàng thì chúng ta không phải là nô lệ, nhưng là các thuộc hạ. Rôma không có, không nên có những công dân nô lệ. Chính sự nô lệ đã áp đặt sự yên lặng trên lý trí của người dân. Tao, tao nói rằng lý trí tao phán đoán rằng Ponciô hành động dở trong khi lơ là với người Israel này, hãy gọi ông ta là Messi, Thánh, Tiên Tri, Rabbi, tùy ý mày. Và tao có cảm tưởng là tao có thể nói vậy, vì sự trung thành của tao cũng như tình yêu của tao đối với Rôma không hề giảm sút. Trái lại, tao muốn vậy, vì ông ta, trong khi ông ta dạy sự kính trọng đối với lề luật của Thủ Hiến như ông ta làm, ông ta hợp tác vào sự thịnh vượng của Rôma. (Scipion)
- Scipion, mày có học thức, mày sẽ theo đường của mày. Mày đã tiến khá. Tao, tao là lính quèn. Nhưng trong khi chờ đợi, mày thấy đàng đó không? Người ta đã tụ tập chung quanh ông đó. Chúng ta đi nói với ông xếp đi. (Caius)
Qủa vậy, gần cổng của nhà ba anh em, một đám người vây quanh Giêsu, vì Người cao nên nhìn thấy rõ. Rồi bỗng chốc một tiếng thét vang lên, và người ta nhốn nháo. Một số chạy lại chỗ chợ trong khi một số khác chạy về phía công trường và bên ngoài đó.
129
Các câu hỏi... các câu trả lời...
- Cái gì vậy?
- Chuyện gì xảy ra vậy?
- Người Israel đó đã chữa ông già Marc!
- Cái màng che mắt ông đã biến đi.
Trong lúc đó Giêsu đi vào trong sân với vô số người đi theo. Ở đàng sau, có một người ăn mày lết đi một cách khó khăn, một người thọt lết đi bằng tay thì đúng hơn bằng chân. Nhưng nếu chân anh ta cong queo và không có sức mạnh, và nếu không có cái nạng thì anh ta không thể đi, thì giọng nói của anh ta lại rất mạnh, người ta nói đó là cái còi hụ xé nát bầu không khí đầy ánh nắng ban mai: “Đấng Thánh! Thánh! Messi! Rabbi! Xin thương!” Anh ta không ngừng kêu đến hết hơi.
Hai ba người quay lại nói: “Nín đi mà thở. Marc là dân Hy Bá, mày thì không”.
- Người nhận ban ơn cho những người Israel đích thực, nhưng không cho các con chó!
- Má tôi là Do Thái...
- Nhưng Thiên Chúa đã phạt bà ta bằng cách cho bà ta đẻ ra mày, một con quái vật, vì tội của bà ta. Đi đi, con cái chó sói! Hãy trở về chỗ của mày và chết trong bùn...
Người đó đứng tựa vào tường, nhục nhã, sợ hãi vì những dọa nạt của những nắm tay giơ lên.
Giêsu dừng bước, quay lại nhìn. Người ra lệnh: “Ông kia, lại đây!”
Người đó nhìn Giêsu, rồi nhìn những người đe dọa ông... và ông không dám tiến bước.
Giêsu rẽ đám đông nhỏ ra và đến với anh ta, Người để bàn tay trên vai anh và nói: “Đừng sợ. Hãy đi với Ta”. Rồi Người nhìn những người độc ác và nói cách nghiêm nghị: “Thiên Chúa thuộc về hết những ai tìm Người và biết thương xót”.
Đám người hiểu lời ám chỉ, và bây giờ đến lần họ ở lại đàng sau, đúng hơn là họ dừng lại tại chỗ.
130
Giêsu quay lại, Người thấy họ dừng lại đó, bối rối và sẵn sàng giải tán, Người nói với họ: “Không. Qúi vị cũng hãy đến. Chuyện này cũng ích lợi cho qúi vị, vì nó làm sống lại và củng cố tâm hồn qúi vị, cũng như Ta cho người này đứng dậy và tăng cường sức lực cho anh ta vì anh ta biết tin. Hỡi anh, Ta nói với anh: hãy được khỏi mọi tàn tật của anh”. Và Người nhấc tay ra khỏi vai người thọt sau khi người này đã bộc lộ một thứ lay động.
Người đó đứng dậy một cách vững chãi trên đôi chân của anh, dục bỏ đôi nạng cũ và la to: “Người đã chữa tôi! Ngợi khen Thiên Chúa của má tôi!” Và anh ta qùi gối để hôn gấu áo Giêsu.
Sự huyên náo do những người muốn xem, hoặc những người đã thấy rồi nói lời phê bình, lên cao tới cực độ. Tại chỗ đáy, gần cổng, lối để đi từ công viên vào trong sân, những tiếng la ó của đám đông vang lên rất ồn ào, dội tới các bức tường của doanh trại.
Toán lính, chắc là sợ đã xảy ra cuộc ẩu đả - điều này xảy ra dễ dàng tại đây là nơi có rất nhiều đối chọi về chủng tộc và tôn giáo - và ông lính cầm cờ chạy tới, một cách tàn bạo, ông phăng ra một lối đi trong khi hỏi có chuyện gì.
- Một phép lạ, một phép lạ! Jonas, tên thọt chân đã được chữa lành. Đó, hắn ta đứng gần người Galilê.
Các tên lính nhìn nhau. Họ nhìn nhau không nói gì cho tới khi tất cả đám đông kéo nhau đi. Nhưng ở phía sau lại tụ tập một số người khác, trước họ ở trong các cửa tiệm hay trong công viên, nơi bây giờ chỉ còn lại những người bán đầy phẫn ý, vì sự kích động bất ngờ này đã làm phiên chợ của họ lúa hoàn toàn. Rồi nhìn thấy một người trong số ba anh em, họ hỏi: “Philíp, anh biết vị Rabbi sắp làm gì không?”
- Người sẽ nói. Người giảng dạy, và ở trong sân của tôi.
Các người lính hỏi nhau: “Ở lại hay bỏ đi?”
- Ông xếp bảo chúng ta canh chừng.
- Canh chừng ai? Ông đó à? Nhưng ông ta, chúng ta có thể đánh cuộc một hũ rượu đảo Chypre - Scipion nói. (người lính lúc trước đã bênh vực Giêsu với bạn ông).
131
- Tôi, tôi nói là chính ông ta cần được bảo vệ chứ không phải luật phép của Rôma! Các anh thấy ông ta ở đàng kia không? Trong số các vị thần của chúng ta, không một vị nào êm dịu như vậy, nhưng ông ta có dáng vẻ rất trưởng thành. Bọn hạ cấp này không xứng đáng được có ông ta. Và những kẻ bất xứng thì luôn luôn xấu. Chúng ta hãy ở lại để bảo vệ ông ta. Nhân dịp, chúng ta rút ra những mối lợi, và chúng ta sẽ vuốt ve mấy người Galilê này - Một người lính khác nói. Sự can thiệp của anh ta là sự pha lẫn vừa chế diễu, vừa cảm phục.
- Pudens, mày nói đúng. Ngoài ra, Azio, mày hãy đi gọi xếp Procore. Ông ta luôn luôn nằm mơ về những kẻ đồng lõa để chống lại Rôma, và... ông ta sẽ được thăng chức để thưởng cho các hoạt động luôn luôn thức tỉnh vì phần phúc của thánh chúa César và nữ thần Rôma, mẹ và thầy của thế giới. Ông ta cho rằng ở đây, ông ta không tậu được băng tay cũng như vòng hoa chiến thắng.
Một người lính trẻ chạy đi rồi trở lại ngay và nói: “Procore không tới, ông sai lão tam binh Aquila...”
- Tốt, tốt. Ông ta còn hơn cả chính Cécilius Maximus. Aquila đã phục vụ bên Phi Châu, bên Gaule. Ông ta đã ở trong cái rừng ghê sợ đã cướp mất của chúng ta Varus và đạo quân của ông. Ông ta biết Hy Lạp và Bretagne. Ông ta rất tinh ý để biết những thứ đó... Ồ, chào! Đó, ngài Aquila vinh quang! Hãy tới dạy chúng tôi, những tên lính khốn khổ, cho biết nhận ra gía trị con người!
- Vạn tuế xếp Aquila! - Tất cả đám lính đều kêu lên và tặng cho người lính già một tràng pháo tay tình nghĩa, người mà ta không thể đếm hết các vết thẹo trên mặt, cánh tay và bắp chân trần.
Ông ta mỉm cười vẻ rất hiền lành và hô lên: “Vạn tuế Rôma, thầy của thế giới! Không phải tôi, tên lính tội nghiệp. Vậy có chuyện gì thế?”
- Phải canh chừng người kia, cái ông tóc hoe vàng như thứ đồng sáng bóng nhất.
- Tốt. Nhưng ông ta là ai?
- Chúng gọi ông ta là Đức Messi. Ông ta tên Giêsu, người Nazarét.
132
Chính ông ta, anh biết không? Là người mà họ đã chuyển lệnh...
- Hum! Có thể... Nhưng tao thấy như chúng ta chạy theo sau đám mây.
- Họ nói ông ta muốn xưng vương và thay thế Rôma. Ông ta đã bị tố giác bởi Đại Pháp Đình, các Pharisiêu và bọn Saddu cũng như các người của Hêrôđê với Ponciô. Ông biết rằng dân Hy Bá có con sâu này trong đầu óc, nên thỉnh thoảng nó lại lú ra một ông vua...
- Đúng, đúng... Nhưng nếu vì thế... Dù sao, chúng ta hãy nghe coi ông ta nói gì. Tao thấy như ông ta đã sẵn sàng để nói.
- Tôi biết, bởi một người lính đã ở với viên bách binh đội trưởng rằng Publius Quintilianus nói về ông ta như nhà triết gia Thần Chúa. Các bà ở hoàng triều cũng có thiện cảm - Một tên lính trẻ khác nói.
- Tôi tin! Và tôi cũng sẽ có thiện cảm với ông ta nếu tôi là một phụ nữ. Và tôi sẽ muốn có ông ta trong giường của tôi... - Một tên lính trẻ khác nói và cười cách thẳng thắn.
- Câm đi! Lẳng lơ! Chuyện dâm ô nó xâu xé mày! - Một tên lính khác đùa.
- Fabius, còn mày thì không! Nào là Anne, nào là Sira, Alba, Marie...
- Nín đi Sabin. Ông ta nói và tao muốn nghe - Người tam binh ra lệnh, và tất cả đều nín lặng.
Giêsu bước lên một cái két để ở sát tường, vì vậy mọi người đều nhìn thấy. Tiếng chào êm dịu của Người đã lan ra trong không khí và được tiếp theo bởi những lời này: “Hỡi các con cái của một Đấng Tạo Hóa duy nhất, hãy nghe đây”. Rồi trong sự yên lặng chăm chú của mọi người, Người tiếp:
- Thời ân phúc đã đến cho tất cả, không phải chỉ cho Israel mà thôi, mà là cho toàn thế giới.
Hỡi các người Hy Bá, qúi vị tới đây vì nhiều lý do khác nhau; hỡi qúi vị tân tòng, người Phênici, người dân ngoại, tất cả, hãy nghe lời của Thiên Chúa, hãy hiểu sự công chính, hãy biết đức bác ái. Có sự khôn ngoan, sự công chính và đức bác ái, là qúi vị có các phương tiện để tới Nước của Thiên Chúa. Nước này không phải chỉ dành riêng cho con cái Israel mà thôi, mà là cho tất cả những ai từ
133
nay biết yêu mến Thiên Chúa thật và Duy Nhất, và tin ở Ngôi Lời của Người.
Hãy nghe: Tôi đã đến từ rất xa, không phải với mục đích chiếm ngôi, cũng không phải để chinh phục bằng bạo lực. Tôi đến chỉ để làm Vị Cứu Tinh cho linh hồn qúi vị. Quyền bính, của cải, chức vụ, không lôi kéo được tôi. Nó là không đối với tôi. Cả đến tôi không nhìn tới nó, hay đúng hơn, tôi nhìn nó với sự xót thương, vì nó làm tôi thương, vì đó là những xích xiềng giam giữ tâm hồn qúi vị trong ngục tù và ngăn cản nó đến với Chúa Hằng Hữu, Duy Nhất, Phổ Quát, Thánh Thiện và Đáng Chúc Tụng. Tôi nhìn chúng và tôi lại gần chúng như những sự khốn nạn lớn lao nhất, và tôi tìm cách chữa người ta cho khỏi sự lầm lẫn độc ác và mê muội hằng lôi kéo con người này, để dạy cho họ biết sử dụng nó cách công chính và thánh thiện, không phải như một vũ khí tàn ác để đả thương và giết người, luôn luôn bắt đầu bằng cách giết linh hồn của những kẻ không biết dùng nó cách thánh thiện.
Nhưng sự thật, tôi nói với qúi vị rằng đối với tôi, chữa cho một thân xác dị dạng thì dễ hơn chữa cho một linh hồn dị dạng. Ban ánh sáng cho những con ngươi bị tắt, ban sức khỏe cho một cơ thể đang chết thì dễ hơn ban ánh sáng cho thần trí và sức khỏe cho các tâm hồn bệnh hoạn. Tại sao lại vậy? Bởi vì con người đã mất cái mục đích thực sự của đời sống, và họ để mình bị thu hút bởi những thứ tạm thời. Con người không biết, hay không nhớ, hoặc nếu họ nhớ, họ cũng không muốn vâng theo cái mệnh lệnh thánh thiện của Thiên Chúa để làm điều thiện. Tôi cũng nói với cả những người dân ngoại đang nghe tôi, vì điều thiện có ở Rôma cũng như ở Athènes, ở Gaul cũng như ở Châu Phi, bởi vì luật luân lý có ở dưới mọi vòm trời, trong mọi tôn giáo, trong mọi con tim ngay thẳng. Và những tôn giáo này, từ tôn giáo của Thiên Chúa đến tôn giáo tinh thần biệt lập, đều nói rằng trong chúng ta có cái gì tốt nhất mà tùy vào cách sống của chúng ta, số phận của nó sẽ được cố định ở thế giới bên kia.
Vậy mục đích của con người là chinh phục sự bình an cho đời
134
sống bên kia, không phải bằng cách ăn uống no say, trục lợi, thống trị, thú vui ở đời này, trong một thời gian giới hạn, rồi bị trả báo đời đời bởi những hành hình rất nghiêm khắc. Và con người không biết, không nhớ hay không muốn nhớ tới chân lý này. Nếu họ không biết thì họ ít nặng tội hơn. Nếu họ không nhớ thì họ có một mức độ nặng tội nào đó, vì phải giữ cho chân lý này luôn luôn cháy sáng như một đống lửa thánh trong thần trí và trong con tim. Nhưng nếu họ không muốn nhớ tới, và nếu trong khi lửa cháy, họ nhắm mắt lại để khỏi thấy, bằng cách ghét nó như tiếng nói của kẻ lên mặt mô phạm hùng biện, thì lúc đó tội của họ sẽ trầm trọng, rất trầm trọng.
Nhưng Thiên Chúa tha thứ cho họ nếu linh hồn đó từ bỏ lối hành động xấu và quyết chí theo đuổi trong quãng đời còn lại, cái mục đích của con người là chinh phục sự bình an đời đời trong nước của Thiên Chúa thật. Có phải cho tới lúc này, qúi vị đã đi theo con đường xấu không? Vì tự hạ, qúi vị nghĩ rằng đã qúa trễ rồi để đi vào đường tốt ư? Có phải vì buồn, qúi vị nói rằng: “Tôi không biết gì về những điều này, và lúc này, tôi không biết phải đi vào đâu”? Không, đừng nghĩ sự thánh thiện giống như những thứ vật chất, phải mất nhiều thì giờ và công sức để làm lại cái gì đã làm rồi. Lòng nhân từ của Thiên Chúa, của Chúa là Thiên Chúa thật, chắc chắn không bắt qúi vị đi ngược lại con đường qúi vị đã đi, để dẫn qúi vị trở lại ngã tư, nơi qúi vị đã sai lầm, bỏ con đường tốt để đi vào con đường xấu. Lòng nhân từ của Người lớn lao tới nỗi vừa khi qúi vị nói: “Tôi muốn thuộc về Chân Lý”, tức là thuộc về Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Chân Lý, thì lúc đó Thiên Chúa, bằng một phép lạ hoàn toàn siêu nhiên, sẽ đổ tràn sự khôn ngoan vào trong qúi vị, và từ chỗ vô tri, qúi vị chiếm hữu được khoa học siêu nhiên giống như những người đã có nó trong nhiều năm rồi vậy.
Sự Khôn Ngoan chính là ước muốn Thiên Chúa, yêu Thiên Chúa, rèn luyện tâm trí hướng về Thiên Chúa bằng cách từ bỏ những gì là xác thịt, thế gian và ma qủi. Sự Khôn Ngoan chính là vâng giữ Lề Luật của Thiên Chúa, tức là luật Bác Ái, Vâng Lời, Tự Chủ, Ngay Thẳng. Sự khôn ngoan chính là yêu Thiên Chúa hết mình, yêu tha
135
nhân như chính mình. Đó là hai điều tối cần để được khôn ngoan bằng sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Và trong việc yêu tha nhân, không phải chỉ yêu những kẻ cùng dòng máu với chúng ta, hoặc cùng nòi giống, cùng tôn giáo với chúng ta, nhưng là hết mọi người, giầu và nghèo, thông thái và ngu muội, Hy Bá, tân tòng, Phênici, Hy Lạp, Rôma...
Giêsu bị gián đoạn bởi những tiếng kêu dọa nạt của vài kẻ giận dữ. Người nhìn họ và nói: “Đúng, như vậy là tình yêu. Tôi không phải là một ông thầy hèn hạ. Tôi nói sự thật. Đó chính là điều tôi phải làm để gieo trong lòng qúi vị điều cần thiết cho sự sống đời đời, dù điều đó làm vui lòng qúi vị hay không, tôi phải nói với qúi vị để làm bổn phận của tôi là Đấng Cứu Thế. Qúi vị hãy tự làm lấy phần việc của qúi vị trong sự cứu chuộc. Vậy hãy yêu người bằng tình yêu thánh thiện, chứ không phải bằng một cuộc hôn nhân ám muội vì lợi lộc, và do đó sẽ bài trừ Rôma, Phênici, tân tòng, nếu không có tình dục hay tiền bạc; còn ngược lại, nếu nó có tình dục hay tiền bạc thì sự bài trừ biến mất...”
Một ồn ào khác của đám đông, trong khi những người Rôma, tại chỗ của họ ở tiền đường, họ la lên: “Nhân danh Jupiter! Ông này nói rất đúng!”
Giêsu để cho sự ồn ào êm lại rồi tiếp:
- Hãy yêu mọi người giống như qúi vị muốn được yêu: qúi vị không thích bị bạc đãi, bị làm khó chịu, bị ăn cắp, bị đàn áp, vu khống, chửi rủa. Những người khác cũng có những tình cảm cá nhân hay quốc gia như vậy. Vậy đừng làm điều xấu mà qúi vị không muốn người khác làm cho mình.
Sự Khôn Ngoan chính là vâng giữ mười giới răn của Thiên Chúa: “Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi, không có Chúa nào khác ngoài Ta. Đừng có các thần tượng, đừng thờ cúng nó.
Đừng dùng danh Thiên Chúa cách vô ích. Đó là Danh của Chúa, Thiên Chúa ngươi, và Thiên Chúa phạt những kẻ sử dụng danh Người không có lý do, hoặc dùng để nguyền rủa hay để làm cho có hiệu lực một điều tội.
136
Ngươi hãy nhớ thánh hóa các ngày lễ. Ngày Sabát được thánh hiến cho Chúa, là ngày Người nghỉ việc tạo dựng, Người chúc phúc và thánh hóa nó.
Hãy tôn kính cha mẹ để ngươi được sống bình an lâu dài trên mặt đất và đời đời trên Trời.
Đừng giết người.
Đừng gian dâm.
Đừng trộm cắp.
Đừng nói gian chống lại tha nhân.
Đừng ước ao nhà cửa, vợ chồng, đầy tớ, bò lừa của người khác và bất cứ thứ gì thuộc về họ.
Những điều đó chính là khôn ngoan. Những ai làm như vậy là khôn, và họ chinh phục được Sự Sống và Nước Vĩnh Cửu. Vậy bắt đầu từ hôm nay, hãy quyết định sống theo sự Khôn Ngoan bằng cách làm cho nó vượt lên trên những thứ tội nghiệp của trái đất.
Qúi vị nói gì? Hãy nói đi. Qúi vị nói là qúa trễ rồi à? Không. Hãy nghe một dụ ngôn:
Một ông chủ ra đi từ sáng sớm để mướn người vào làm việc trong vườn nho của ông, và ông đồng ý với họ là một đồng bạc cho một ngày làm việc.
Ông lại ra đi vào giờ thứ ba vì suy nghĩ rằng số thợ làm việc qúa ít. Nhìn thấy ở một chỗ khác của quảng trường có những người không làm gì, còn chờ có người mướn. Ông nhận họ và nói: “Hãy tới làm việc ở vườn nho của tôi, và tôi sẽ trả cho các ông điều tôi đã hứa với những người khác”. Và họ tới đó.
Ông lại ra vào giờ thứ sáu và giờ thứ chín, ông thấy vẫn còn người, ông nói với họ: “Các anh có muốn làm việc trong đất của tôi không? Tôi trả mỗi ngày một đồng cho thợ của tôi”. Những người này chấp nhận và đi làm.
Sau cùng, ông đi ra vào khoảng giờ thứ mười một, ông thấy còn những người khác vẫn ở không cho tới mặt trời ngả bóng, ông hỏi họ: “Các anh làm gì mà ở không như vậy? Các anh không xấu hổ vì không làm gì suốt ngày sao?”. “Suốt ngày chẳng ai mướn chúng tôi
137
cả. Chúng tôi muốn làm việc để kiếm của ăn, nhưng không ai gọi chúng tôi vào vườn nho của họ cả”. “Vậy tôi mướn các anh vào vườn nho của tôi. Hãy đi, và các anh sẽ được lương như những người khác”. Ông ta nói như vậy, vì đó là ông chủ tốt và biết thương sự tự hạ của người đồng loại.
Khi chiều đến và công việc đã chấm dứt, người đó gọi viên quản lý của ông lại và bảo: “Hãy gọi những người làm việc và trả lương cho họ như ta đã ấn định, bắt đầu từ những người làm sau cùng, những kẻ túng bấn nhất, suốt ngày không có lương thực, trong khi những người khác được ăn một hay nhiều lần, và vì biết ơn tình thương của ta, đã làm việc hơn những người khác. Ta đã quan sát họ. Hãy cho họ đi để họ nghỉ ngơi, vì họ đáng được, và để họ vui hưởng hoa trái công việc của họ”. Và người quản lý làm điều ông chủ truyền, là cho mỗi người một đồng bạc.
Khi những người sau cùng đến lãnh tiền, họ là những người đã làm việc từ giờ thứ nhất trong ngày, họ ngạc nhiên vì họ cũng chỉ lãnh được một đồng. Họ phàn nàn với nhau và với người quản lý, ông này nói với họ: “Tôi đã nhận được lệnh như vậy. Hãy đi phàn nàn với ông chủ chứ đừng với tôi”. Họ liền đến với ông chủ và nói: “Đó, ông không công bằng! Chúng tôi đã làm việc mười hai tiếng đồng hồ, trước tiên là bị sương, rồi đến mặt trời nắng gắt, rồi mới đây là sự ẩm ướt của buổi chiều, vậy mà ông cho chúng tôi cùng một số lương như những tên lười này, chỉ làm việc có một giờ!...Tại sao vậy?” Và một người trong nhóm họ cao giọng tuyên bố là bị phản bội và bị khai thác cách bất xứng.
- Bạn ơi, tôi đã lỗi điều gì với bạn? Tôi đã thỏa thuận với bạn cái gì lúc bình minh? Một ngày làm việc liên tục là một đồng tiền lương, có phải không?
- Đúng. Nhưng ông đã cho những kẻ chỉ làm việc rất ít cũng như vậy...
- Anh đã không nhận tiền lương này mà anh thấy là không thỏa đáng?
- Có. Tôi đã nhận, bởi vì những người khác còn cho ít hơn.
- Anh có bị tôi bạc đãi ở đây không?
138
- Không. Thực tình thì không.
- Tôi đã cho anh một giờ nghỉ dài và thực phẩm phải không? Tôi đã cho anh ba bữa ăn, và chúng ta không có thỏa thuận về bữa ăn và giờ nghỉ, phải không?
- Đúng. Chúng không được thỏa thuận.
- Vậy tại sao anh đã nhận chúng?
- Nhưng... Ông đã nói: “Tôi thích hành động như vậy để các anh không bị qúa mệt khi các anh trở về nhà”, và điều đó chúng tôi thấy qúa đẹp... Thực phẩm của ông ngon, như vậy chúng tôi tiết kiệm được, đó là...
- Đó là một ân huệ mà tôi làm miễn phí cho các anh, điều mà không ai trong các anh có thể yêu sách, phải không?
- Đúng vậy.
- Vậy tôi đã ưu đãi các anh, tại sao các anh phàn nàn? Đáng lẽ tôi phải phàn nàn về các anh, vì các anh hiểu rằng các anh làm việc cho một ông chủ tốt nên các anh làm việc không hăng hái, trong khi những người đến sau các anh chỉ được hưởng một bữa ăn, và những người sau cùng thì không được ăn gì, họ đã làm việc hăng say. Trong một thời gian ngắn, họ đã làm số công việc như các anh đã làm trong mười hai giờ. Tôi chỉ phản bội các anh nếu để trả lương cho những người này, tôi đã bớt đi nửa số lương của các anh, chứ không phải như vầy. Vậy hãy cầm lấy cái thuộc về các anh và đi đi. Anh muốn tới nhà tôi để áp đặt ý muốn của anh sao? Tôi, tôi làm cái gì tôi muốn và cái gì là đúng. Đừng dữ tợn và đừng cho tôi là bất công, vì tôi nhân từ.
Ôi! Tất cả qúi vị nghe tôi đây, thực vậy, tôi nói rằng Thiên Chúa Cha thỏa thuận với mọi người cùng một điều kiện và hứa cho cùng một mức lương. Nhưng kẻ nhiệt thành phụng sự Chúa sẽ được Người xử cho công minh, mặc dù họ không làm việc nhiều vì chết sớm. Thực vậy, tôi nói với qúi vị rằng không phải luôn luôn những kẻ đầu tiên là những kẻ cao nhất trên Nước Trời. Và ở đó, người ta sẽ thấy những kẻ sau cùng trở thành những kẻ thứ nhất, và những kẻ khác là những kẻ trước tiên thì lại trở thành những kẻ sau cùng. Ở
139
đó, người ta sẽ thấy nhiều người không phải là Israel mà thánh thiện hơn nhiều kẻ Israel. Tôi đến kêu gọi mọi người nhân danh Thiên Chúa. Nhưng nếu những kẻ được kêu gọi rất đông đảo, thì những kẻ được chọn chỉ có ít, vì rất ít người muốn Sự Khôn Ngoan.
Kẻ chỉ sống bằng thế giới và bằng xác thịt chứ không bằng Thiên Chúa thì không phải là khôn ngoan. Họ không khôn ngoan đối với đất cũng như đối với Trời. Vì trên trái đất, họ lôi kéo những kẻ thù, những hình phạt, những hối hận. Và đối với trời, họ mất nó vĩnh viễn.
Tôi nhắc lại: Hãy tốt với tha nhân bất cứ là ai. Hãy vâng lời và để cho Thiên Chúa lo việc trừng phạt những kẻ ra lệnh bất công. Hãy tiết chế tình dục bằng cách kìm hãm giác quan. Hãy ngay thẳng kháng cự với vàng bạc. Hãy mạch lạc để nói bài trừ với những gì đáng bài trừ, và từ chối nó khi qúi vị thấy từ chối là chính đáng, rồi hãy từ bỏ việc thiết lập quan hệ với những người mà trước tiên qúi vị nguyền rủa tư tưởng của họ. Đừng làm cho người khác những những điều mà qúi vị không muốn người ta làm cho qúi vị, và như vậy...
- Nhưng hãy đi khỏi đi! Thứ tiên tri phiền phức! Ông đã làm toi buổi chợ của chúng tôi... ông đã làm chúng tôi mất khách!... - Những người bán hàng bỗng dưng la lên trong sân... Và những người đã lẩm bẩm vào lúc đầu tiên Giêsu giảng - và đó không phải chỉ là các người Phênici, mà có cả các người Hy Bá ở trong làng, tôi không biết vì lý do nào - họ hùa với các tay bán hàng để chửi rủa, dọa nạt, nhất là để đuổi Người đi... Giêsu không vui... Người khoanh tay, nhìn họ cách buồn rầu và nghiêm trang.
Nhóm người chia làm hai phe và ra tay để bảo vệ hay tấn công ông Nazarét: chửi bới, ca tụng, nguyền rủa, chúc phúc, hô hoán: “Các Pharisiêu có lý, ông bị bán cho Rôma, bạn bè của kẻ thu thuế và các đĩ điếm”. Hay trái lại: “Câm mồm đi! Quân phạm thượng! Chính chúng mày bị bán cho Rôma. Quân Phênici của hỏa ngục!”, “Chúng mày là Satan!”, “Cầu cho hỏa ngục nuốt sống chúng mày!”, “Cút đi! Cút ra khỏi đây! Cút đi! Quân ăn cắp đến họp chợ ở đây! Quân trục lợi!” vân vân.
140
Các người lính can thiệp vào và nói: “Không phải ông ta đã gây ra lộn xộn. Ông ta phải chịu đựng nó”. Và với ngọn giáo của họ, họ lùa hết mọi người ra ngoài và đóng cửa lại. Chỉ còn lại Giêsu với ba anh em tân tòng và sáu tông đồ.
- Nhưng sao các anh lại có tư tưởng bảo ông ta nói? - Ông tam binh hỏi ba anh em.
- Có biết bao nhiêu người cũng nói - Êlie trả lời.
- Đúng. Nhưng đâu có chuyện gì, vì những người đó chỉ nói những điều người ta thích. Còn ông này không giảng những thứ đó, và họ không hiểu ông...
Người lính già chăm chú nhìn Giêsu xuống khỏi nơi Người đã đứng. Ông thấy Người như một cái gì trừu tượng.
Bên ngoài, đám đông vẫn xôn xao. Người ta cũng cho một toán lính nữa từ doanh trại tới cùng với chính viên bách binh đội trưởng. Họ gõ cửa đòi mở trong khi những người khác vẫn tiếp tục đẩy lui những người hô “Vạn tuế Vua Israel” cũng như những kẻ nguyền rủa Người.
Viên bách binh đội trưởng có chiều lo âu và tức giận. Anh ta công kích người lính già Aquila: “Ông bắt người ta kính trọng Rôma kiểu này sao? Để cho người ta tung hô một ông vua ngoại quốc trên mảnh đất bị trị?”
Người lính già chào anh ta cách lạnh lùng và trả lời: “Ông ta dạy sự kính trọng và vâng lời, và ông ta nói về một nước không ở trên trái đất. Chính vì vậy nên họ ghét ông ta, vì ông ta tốt và biết trọng kính. Tôi không tìm thấy lý do để bắt phải im đối với một người không tấn công lề luật của chúng ta”.
Viên bách binh đội trưởng bình tĩnh lại và càu nhàu: “Vậy đây là một thứ phiến động mới của bọn hạ cấp hôi thối này... Được rồi. Hãy ra lệnh cho ông ta đi ngay. Tôi không thích nhiều chuyện. Hãy vâng lời và hãy hộ tống ông ta ra ngoài thành ngay khi đường đi đã vãn người. Bảo ông ta đi nơi nào vừa ý ông, xuống hỏa ngục, nếu ông ta muốn. Nhưng ông ta hãy đi ra khỏi lãnh vực pháp quyền của tôi. Ông hiểu chưa?”
141
- Hiểu. Chúng tôi sẽ làm như vậy.
Viên bách binh đội trưởng quay lưng, làm sáng loáng áo giáp của anh ta và làm phất phơ áo khoác đỏ tía của anh. Anh ta bỏ đi, cả đến không thèm nhìn Giêsu.
Ba anh em nói với Thầy: “Chúng con rất tiếc...”
- Không phải lỗi của các con. Đừng sợ. Các con không bị tai hại gì đâu. Chính Thầy nói vậy với các con...
Ba người biến sắc... Philíp nói: “Sao Thầy biết được điều chúng con sợ?”
Giêsu mỉm cười êm dịu. Một tia mặt trời hiện ra trên khuôn mặt đang buồn của Người: “Thầy biết những gì ở trong các con tim, và Thầy biết tương lai”.
Trong khi chờ đợi, các tên lính tới đứng dưới mặt trời, liếc nhìn và bình luận...
- Làm sao họ có thể yêu chúng ta, nếu họ ghét ông ta là kẻ không đàn áp họ?
- Và anh phải nói: là kẻ làm những phép lạ.
- Lạy Hercule! Ai trong chúng ta đã đến để báo rằng có một kẻ khả nghi?
- Caius.
- Muốn lập công! Trong khi chờ đợi, chúng ta đã lỡ mất bữa xúp. Và tao loan báo rằng khéo tao bị mất cái hôn của em gái!... A!
- Épicurien này, người đẹp của mày ở đâu?
- Chắc chắn là tao không nói chỗ đó cho mày đâu bạn ơi!
- Cô ta ở phía sau lò gốm, về phía các nền gạch. Tao biết. Tao đã thấy mày mấy tối rồi... - Một tên khác nói.
Làm như cho qua chuyện, viên tam binh đi về phía Giêsu. Ông đi vòng chung quanh Người, ông nhìn Người, nhìn Người. Ông không biết nói gì... Giêsu mỉm cười để khích lệ ông. Ông ta không biết làm gì... nhưng ông ta lại gần Người hơn. Giêsu chỉ vào các vết thẹo của ông: “Tất cả những vết thẹo này? Ông là tay nghĩa hiệp và trung thành”.
Người lính già đỏ mặt vì lời khen này.
142
- Ông đã chịu khổ rất nhiều vì tình yêu đối với quê hương và hoàng đế của ông... Ông không muốn chịu khó một tí cho một quê hương to lớn hơn là Nước Trời, và cho vị Hoàng Đế đời đời là Thiên Chúa sao?
Người lính lắc đầu, rồi ông nói: “Tôi là một người dân ngoại tội nghiệp, nhưng Ngài đã không nói rằng tôi không thể đến vào giờ thứ mười một. Nhưng ai sẽ dạy cho tôi? Ngài thấy đó!... Họ đuổi Ngài. Và đó là những vết thương làm cho đau chứ không phải các vết thương của tôi... Tôi, ít nhất, tôi đã trả lại chúng cho kẻ thù. Nhưng ngài, ngài sẽ cho cái gì cho những kẻ xúc phạm đến ngài?
- Sự tha thứ, ông lính ạ. Sự tha thứ và tình yêu.
- Tôi, tôi có lý. Sự nghi ngờ họ đè trên Ngài là ngu xuẩn. Từ biệt ông Galilê.
- Từ biệt ông Rôma.
Giêsu ở một mình cho tới khi ba anh em và các môn đệ tới với các thực phẩm. Các anh em biếu cho các lính tráng ăn trong khi các môn đệ đem đến cho Giêsu. Họ ăn mà không khoái khẩu, dưới ánh mặt trời, trong khi các người lính ăn và uống vui vẻ.
Rồi một người lính ra ngoài để nhìn cái quảng trường yên lặng và anh ta kêu: “Chúng ta có thể đi. Chúng bỏ đi hết rồi, chỉ còn lại đám tuần tiễu”.
Giêsu đứng dậy cách ngoan ngoãn. Người chúc lành và an ủi ba anh em, và Người cho họ hẹn gặp nhau vào lễ Vượt Qua tại Gétsêmani. Rồi Người đi ra, được đóng khung bằng những người lính. Các môn đệ từ tốn đi theo sau. Và họ đi trên lộ cho tới tận đồng quê.
- Từ biệt ông Galilê - Người tam binh nói.
- Từ biệt Aquila. Tôi xin ông đừng làm gì khó cho Daniel, Êlie và Philíp. Chính tôi là người có lỗi. Hãy nói vậy với ông bách binh đội trưởng.
- Tôi sẽ không nói gì cả. Vào giờ này, hắn ta thậm chí không nhớ gì về chuyện này nữa. Ba anh em đã cung cấp cho chúng tôi những đồ tiếp tế rất tốt, đặc biệt là rượu Chypre mà viên bách binh đội
143
trưởng còn thích hơn sự sống. Chào.
Họ chia tay. Các tên lính lại qua cổng. Giêsu và các người của Ngài đi về hướng đông, băng qua cánh đồng yên lặng.
18* NGƯỜI MỤC ĐỒNG ANNA DẪN GIÊSU VỀ ACZIB
Giêsu đi qua một vùng toàn là núi. Đây không phải là những núi cao, nhưng liên tục lên dốc xuống dốc qua nhiều đồi và suối chảy như reo vui trong sự mát mẻ của mùa mới, trong sáng như bầu trời, trẻ trung như những lá mới càng ngày càng mọc nhiều trên cành.
Mặc dầu thời tiết đẹp, vui tươi, có khả năng làm nhẹ lòng mọi người, nhưng Giêsu không có vẻ có tâm hồn nhẹ nhõm, và các tông đồ thì càng không hơn nữa. Họ bước đi rất im lìm trong thung lũng sâu. Chỉ có các mục đồng và các đoàn vật xuất hiện trước mắt họ, nhưng Giêsu có vẻ như không nhìn thấy chúng.
Chính cái thở dài thất vọng của Giacôbê Zêbêđê và những lời nói bất ngờ của ông, kết qủa của những suy nghĩ lo âu, đã lôi kéo sự chú ý của Giêsu... Giacôbê nói: “Thất bại trên thất bại... Tựa như chúng ta là những kẻ bị nguyền rủa...”
Giêsu đặt tay Người trên vai ông: “Con không biết đó là số phận của những kẻ tốt nhất sao?”
- Hé! Con biết từ lúc con ở với Thầy. Nhưng thỉnh thoảng phải có cái gì khác chứ, để nâng cao tinh thần và niềm tin trước khi thất bại...
- Con nghi ngờ Thầy à Giacôbê? - Sự đau đớn lớn lao đã làm cho giọng nói của người thầy run run.
- Không!... - Thực sự tiếng không không có vẻ bảo đảm.
- Nhưng về việc nghi ngờ thì con có nghi ngờ. Vậy về cái gì? Con không yêu Thầy như trước nữa sao? Về việc thấy Thầy bị xua đuổi, chế nhạo, hay chỉ vì Thầy bị đặt ra ngoài biên giới Phênici, đã làm cho tình yêu của con suy giảm? - Tiếng khóc làm run run những lời của Giêsu, mặc dầu không có tiếng nấc, cũng không có nước mắt.
144
Thực sự là chính tâm hồn Người khóc.
- Lạy Chúa, chuyện đó thì không. Trái lại, tình yêu của con đối với Thầy tăng thêm khi con thấy Thầy không được hiểu, bị bác khước, bị hạ nhục, bị đau khổ. Và để không phải thấy như vậy, để có thể thay đổi qủa tim con người, con sẵn sàng hy sinh mạng sống con. Thầy hãy tin con. Đừng đập bể qủa tim con, nó đã qúa khổ rồi, mà còn phải nghĩ rằng Thầy nghi ngờ tình yêu của con. Nếu không... Nếu không, con sẽ rơi vào những thái qúa. Con sẽ trở lại đàng sau, con sẽ thi hành sự báo thù đối với những kẻ làm khổ Thầy, để chứng tỏ với Thầy rằng con yêu Thầy, để làm tan đi sự nghi ngờ của Thầy. Và nếu con bị bắt hay bị giết thì chuyện đó không quan trọng gì với con hết, chỉ cần là con cho Thầy một bằng cớ của tình yêu.
- Ôi! Con trai của sấm sét! Sự bồng bột này đã từ đâu mà đến với con? Vậy là con muốn làm một cái sét tiêu diệt? - Giêsu mỉm cười vì sự hung hăng và những dự trù của Giacôbê.
- Ôi! Ít nhất là con thấy Thầy mỉm cười. Đó đã là một kết qủa của những kế hoạch của con. Em nghĩ sao Gioan? Chúng ta có phải đem ra thực hành những điều anh nghĩ để làm nhẹ nhõm cho Thầy, bị hạ nhục bởi bao là từ chối?
- Ồ, vâng. Chúng ta hãy đi và chúng ta bắt đầu nói. Và nếu chúng còn nguyền rủa Thầy là ông vua chỉ biết nói, vua hề, vua không tiền, vua điên... Chúng ta sẽ đập tơi bời, để chúng nhận ra rằng ông vua cũng có trang bị các bầy tôi trung, và chúng không để cho họ khinh dể ông. Chúng ta đi thôi anh!
- Nhưng, tất cả hãy nghe chúng này! Và Thầy, Thầy đã giảng cái gì trong bao nhiêu thời gian? Ôi! Ngạc nhiên trên mọi ngạc nhiên! Kể cả Gioan, bồ câu của Thầy, cũng đã trở thành diều hâu! Các con nhìn nó coi, nó xấu chừng nào! Xao xuyến, bù xù, biến dạng vì giận ghét! Ôi! Xấu hổ! Vậy mà các con ngạc nhiên vì các người Phênici dửng dưng, các người Hy Bá thù ghét, các người Rôma ra lệnh trục xuất Thầy, trong khi các con, những người đầu tiên, mà các con còn chưa hiểu gì cả, dù đã từ hai năm các con ở với Thầy, trong khi các con trở thành mật đắng do sự giận ghét ở trong tim
145
các con, trong khi các con ném giáo lý của Thầy là tình yêu và tha thứ ra khỏi qủa tim của các con, trong khi các con trục xuất nó như một sự ngu xuẩn, và đón tiếp bạo lực như một đồng minh tốt! Ôi! Lạy Cha rất thánh! Cái này, đúng, cái này là một thất bại! Thay vì là bấy nhiêu diều hâu lo mài nhọn mỏ và các móng vuốt của nó, các con là những thiên thần để xin Chúa Cha củng cố cho Con Người có hơn không? Có bao giờ người ta thấy giông bão làm những điều lợi ích bởi những sấm sét và các cơn mưa đá của nó không? Vậy để kỷ niệm cái tội này mà các con đã phạm chống lại đức bác ái, kỷ niệm của giờ mà Thầy thấy con-người-động-vật nổi ở trên khuôn mặt các con thay vì con-người-thiên-thần mà thầy luôn luôn muốn thấy nơi các con, Thầy đặt biệt danh cho các con là: “Các con trai của sấm sét”.
Giêsu khá nghiêm nghị khi nói với hai con ông Zêbêđê đang bừng bừng bốc lửa. Nhưng sự khiển trách của Người không kéo dài trước sự hối hận của họ. Và với khuôn mặt mà tình yêu làm cho rạng rỡ, Người ghì hai ông vào lòng mà nói: “Sẽ không bao giờ xấu như vậy nữa. Và cám ơn vì tình yêu của các con. Và cả tình yêu của các con khác nữa, các bạn của Thầy”. Người nói với Andrê, Mathêu và hai ông anh: “Hãy đến đây để Thầy cũng ôm các con nữa. Nhưng các con không biết rằng dù Thầy không có niềm vui nào khác ngoài niềm vui bởi làm theo ý Cha Thầy và bởi tình yêu của các con, thì thầy cũng sẽ luôn luôn sung sướng, dù cả thế giới chửi bới Thầy sao? Thầy buồn, không phải buồn cho Thầy, cũng không phải vì các thất bại như các con nói, nhưng vì thương các linh hồn đã từ chối Sự Sống. Đó, bây giờ tất cả chúng ta đều bằng lòng rồi phải không? Các con là những đứa trẻ già! Nào, vậy hãy đến với các mục đồng đang vắt sữa đoàn vật của họ ở kia để xin một tí sữa nhân danh Chúa. Đừng sợ”. Người nói khi nhìn thấy vẻ mặt buồn của các tông đồ: “Hãy vâng lời với đức tin, và các con sẽ được cho sữa chứ không phải những cú của cái gậy, dù người đó là dân Phênici”.
Sáu ông đi trong khi Giêsu chờ ở trên đường, và Người cầu
146
nguyện. Một Giêsu đau khổ mà không ai muốn tiếp... Các tông đồ trở lại với một xô sữa nhỏ và nói: “Ông ta nói rằng xin Thầy lại đó. Ông ta phải nói với Thầy, nhưng ông không thể bỏ các con dê chướng của ông cho các thằng bé mục đồng”.
Giêsu nói: “Vậy hãy đi ăn bánh của họ”.
Họ đi tất cả tới cái sườn dốc, nơi các con dê chướng đang bám vào.
- Tôi cám ơn ông vì đã cho tôi sữa. Ông muốn điều gì ở tôi?
- Ông là vị Nazarét phải không? Người làm những phép lạ?
- Tôi là người rao giảng sự cứu rỗi đời đời. Tôi là Đường để đến cùng Thiên Chúa thật, là Chân Lý ban mình, là Sự Sống làm cho sống. Tôi không phải nhà phù thủy làm những việc kỳ lạ. Những điều này là sự bộc lộ về lòng tốt của tôi, và vì sự yếu đuối của con người cần những bằng cớ để tin. Nhưng ông muốn điều gì ở tôi?
- Đây... Trước đây hai ngày, Ngài ở Alexandrocène, phải không?
- Đúng. Tại sao?
- Tôi cũng tới đó với đám dê cái con, nhưng khi tôi hiểu là có cuộc ẩu đả, tôi liền chuồn đi, vì họ có thói quen gây ra như vậy để ăn cắp những thứ đang ở trong chợ. Tất cả đều là trộm cắp, những người Phênici... cũng như những người khác. Tôi không nên nói vậy bởi vì cha tôi là tân tòng, mẹ tôi người Syrie, tôi cũng tân tòng. Nhưng đó là sự thật. Rồi, hãy trở lại câu chuyện của chúng ta. Tôi đang ở trong chuồng với đàn vật của tôi để chờ xe của con trai tôi. Lúc chiều đến, khi ra khỏi thành phố, tôi gặp một người đàn bà đang khóc với một đứa bé gái ẵm trong tay. Bà ta đã đi tám dặm để đến với Ngài, vì bà ở bên ngoài thành phố, tại miền quê. Tôi đã hỏi bà làm sao. Đó là một tân tòng. Bà đã tới đó để mua bán, và bà được nghe nói về Ngài, và hy vọng vươn lên trong lòng bà. Bà chạy về nhà và ẵm đứa bé đi. Nhưng mang gánh nặng, người ta bước nhẩn nha! Khi bà tới cửa tiệm của ba anh em thì Ngài không còn ở đó. Ba anh em nói với bà: “Chúng đã đuổi Người đi, nhưng hôm qua Người đã nói với chúng tôi rằng Người sẽ dừng lại ở Tyr”. Tôi - tôi cũng là người cha - tôi đã nói với bà: “Vậy hãy tới đó đi”.
147
Nhưng bà trả lời tôi: “Nhưng nếu vì những chuyện đã xảy ra, Người đi đường khác để về Galilê thì sao?” Tôi đã bảo bà: “Ôi! Nghe đây: Từ biên giới đi chỉ có hai con đường. Tôi sẽ chăn đoàn vật của tôi ở giữa Rohob và Losemdan, ngay trên con đường biên giới giữa đây và Nephtali. Nếu tôi thấy Người, tôi sẽ trình Người việc này. Lời của một người tân tòng”. Và đây, tôi đã nói với Ngài.
- Nguyện Thiên Chúa thưởng công cho ông. Tôi sẽ đi tìm bà ta. Tôi phải trở lại Aczib.
- Ngài đi Aczib à? Vậy chúng ta có thể đi đường với nhau, nếu Ngài không khinh chê một tên mục đồng.
- Tôi không khinh chê ai cả. Tại sao ông muốn đi Aczib?
- Bởi vì tôi có đàn chiên ở đó. Hay ít là... Tôi không còn nữa.
- Tại sao vậy?
- Bởi vì có bệnh ở đó. Tôi không biết là trò phù thủy hay cái gì khác. Tôi chỉ biết rằng bầy vật rất đẹp của tôi bị bệnh. Chính vì vậy tôi phải dắt bầy dê còn khỏe mạnh tới đây để ngăn cách nó với bầy cừu. Hai đứa con trai của tôi sẽ ở lại đây. Bây giờ chúng nó vào thành phố để mua đồ. Tôi trở về đó... để nhìn chúng nó chết, các con cừu đẹp đầy len của tôi!... - Người đàn ông thở dài... Ông ta nhìn Giêsu và xin lỗi: “Nói với Ngài là Đấng Hằng Hữu những thứ này để làm Ngài buồn, vì chắc chắn Ngài đã phải khổ về những điều người ta đối xử với Ngài, đó là ngu muội. Nhưng các con cừu, chúng tôi yêu chúng và chúng là gia tài của chúng tôi. Ngài biết không?”
- Tôi hiểu. Nhưng chúng sắp được khỏi. Ông không bảo những người biết trị bệnh đó tới coi sao?
- Ôi! Tất cả họ đều nói với tôi cùng một điều: “Hãy giết chúng và bán da của chúng. Không còn gì khác hơn để làm”. Và cả đến họ dọa nạt tôi nếu tôi để chúng ra ngoài... Họ sợ lây cho cừu của họ. Tôi phải nhốt chúng như vậy... Và chúng đã chết mất phần lớn. Những người ở Aczib, họ ác lắm, Ngài biết không?
Giêsu chỉ nói: “Tôi biết”.
- Tôi, tôi nói là họ đã ếm tôi.
148
- Không. Đừng tin những chuyện đó... Khi các con ông về, ông có đi ngay không?
- Đi ngay. Một lát nữa là chúng sẽ ở đây. Có phải đây là các môn đệ Ngài không? Chỉ có vầy thôi sao?
- Không. Tôi còn những người khác nữa.
- Vậy tại sao họ lại không tới đây? Một lần ở gần Méron, tôi đã gặp một nhóm như những người này. Họ có thủ lãnh là một mục đồng. Theo như người ta nói thì đó là một người cao lớn, vạm vỡ, tên là Êlie. Hình như lúc đó là tháng mười, trước hoặc sau Lễ Lều. Bây giờ ông ta đã bỏ Ngài rồi sao?
- Không một môn đệ nào bỏ tôi.
- Người ta nói với tôi rằng...
- Cái gì?
- Rằng Ngài... rằng các pharisiêu... nói tóm lại là các môn đệ bỏ Ngài vì sợ, và bởi vì Ngài là một...
- Một thằng qủi. Hãy nói đơn giản vậy đi. Tôi biết. Ông có công gấp đôi vì đã tin, mặc dầu chuyện đó.
- Và vì cái công này, Ngài không thể... Nhưng có lẽ tôi xin một điều bất kính...
- Hãy nói điều đó đi, nếu nó xấu, tôi sẽ nói cho ông biết.
- Ngài không thể, khi đi ngang qua, chúc phúc cho bầy vật của tôi? - Ông ta rất lo lắng.
- Tôi chúc lành cho bầy vật của ông. Bầy này... - Và Người giơ tay chúc lành cho bầy dê tản mát - và bầy cừu. Ông có tin là phúc lành của tôi cứu nó không?
- Cũng như Ngài đã cứu người ta cho khỏi bệnh, Ngài cũng có thể cứu các con vật như vậy. Người ta nói Ngài là Con Thiên Chúa. Các con cừu cũng do Thiên Chúa dựng nên. Đó là những thứ của Cha. Tôi, tôi không biết có phải là bất kính khi xin Ngài điều đó không. Nhưng lạy Chúa, nếu có thể, xin hãy làm. Và tôi sẽ mang tới Đền Thờ một của lễ ca tụng rất lớn. Hay hơn là, không, tôi sẽ dâng nó cho Ngài để cho người nghèo. Như vậy hay hơn.
Giêsu mỉm cười và nín lặng. Các con trai người mục đồng tới, và
149
một lát sau, Giêsu với các người của Ngài và ông mục đồng già đi, để bầy dê lại cho các cậu trai trẻ giữ.
Họ bước nhanh với ý định tới Cédès mau chóng và ra khỏi đó ngay để vào con đường dẫn từ bờ biển vào đất liền. Chắc đó là con đường rẽ đôi tại chân mỏm đất mà họ đã đi khi tới Alexandrocène, ít nhất là tôi hiểu như vậy theo như các đàm thoại của người mục đồng với các môn đệ. Giêsu đi một mình ở đàng trước.
- Nhưng chúng ta sẽ không có những phiền phức nào khác chứ?
- Giacôbê Alphê hỏi.
- Cédès không thuộc quyền tên bách binh đội trưởng này. Nó ở ngoài biên giới Phênici. Các tên bách binh đội trưởng, chỉ cần là đừng chọc tới họ. Họ không quan tâm tới tôn giáo.
- Lại nữa, chúng ta không dừng lại ở đó...
- Các ông có thể đi nổi ba mươi dặm trong một ngày không? - Người mục đồng hỏi.
- Ôi! Chúng tôi là những người du hành bất tận!
Họ bước không ngừng... Họ tới Cédès và đi qua đó không có gì trục trặc. Họ đi vào con đường mà ở vệ đường có bảng chỉ: “Aczib”. Người mục đồng chỉ nó và nói: “Ngày mai chúng ta sẽ ở đó. Đêm nay qúi vị sẽ đi với tôi. Tôi biết những người nông dân ở thung lũng, nhưng nhiều người ở tại biên giới Phênici... Tốt. Chúng ta sẽ băng qua biên giới, và chắc chắn họ không khám phá ra chúng ta ngay đâu... Ôi! Những người canh gác! Tốt hơn là nên gác các tên trộm cắp!...”
Mặt trời xuống, và đương nhiên là thung lũng không giữ lại ánh sáng, vì đầy cây cối. Nhưng người mục đồng quen biết nên ông bước cách bảo đảm.
Họ tới một làng nhỏ. Đúng là chỉ có một nắm mái nhà.
- Nếu họ cho chúng ta trọ ở đây, đó là những người Israel. Chúng ta ở trúng ngay tại biên giới. Nếu họ không muốn có chúng ta, chúng ta sẽ tới một làng khác thuộc người Phênici.
- Ông ơi, tôi không có thành kiến.
Họ gõ cửa của một căn nhà.
150
- Ông, Anna? Cùng với các bạn? Vào đi! Vào đi! Và nguyện Chúa ở với ông. - Một người đàn bà rất già nói.
Họ vào trong một nhà bếp rất rộng, có một đống lửa lớn reo vui. Một gia đình đông đúc với mọi lứa tuổi quây quần chung quanh bàn ăn, nhưng họ lịch sự nhường chỗ cho những người mới tới.
- Đây là Jonas. Đây là vợ ông và các con các cháu của ông, và các con dâu ông. Một gia đình tôn tộc, trung thành với Chúa - ông mục đồng Anna nói với Giêsu. Rồi ông quay về phía ông già Jonas: “Và người đi với tôi đây là vị Rabbi của Israel, vị mà ông ước ao được biết”.
- Tôi chúc tụng Thiên Chúa vì được cho Người trú ngụ, bởi vì chiều nay có chỗ. Và tôi chúc phúc vị Rabbi đã tới nhà tôi, và tôi cầu xin phúc lành của Người.
Anna cắt nghĩa rằng nhà của Jonas giống như một quán trọ của những người đi từ bờ biển vào đất liền.
Tất cả đều ngồi trong nhà bếp ấm áp và các phụ nữ phục vụ những người mới tới. Sự tôn kính qúa lớn đến nỗi làm cho họ hầu như tê liệt. Nhưng Giêsu làm giãn hoàn cảnh bằng cách kéo lại chung quanh Người rất nhiều đứa trẻ mà ngay sau bữa ăn, Người đã lưu ý tới chúng và kết tình huynh đệ. Đàng sau chúng, trong quãng thời gian vắn vỏi giữa bữa ăn tối và giờ ngủ, các người đàn ông trong nhà mạnh dạn kể những điều họ đã nghe về Đức Messi và hỏi những chi tiết mới. Giêsu cải chính, xác nhận, giải thích cách nhân hậu, trong những đàm thoại an bình, cho tới khi các khách bộ hành và các người trong gia đình đi nghỉ, sau khi Giêsu đã chúc lành cho tất cả.
19* BÀ MẸ NGƯỜI CANANE
- Thầy có ở chỗ ông không? - ông nông dân già Jonas hỏi Juđa Thađê khi ông bước vào nhà bếp. Lửa đã nhóm để hâm nóng sữa và sưởi ấm căn phòng, vì trời lạnh trong những giờ đầu của buổi
151
sáng cuối tháng giêng, tôi tin vậy, hoặc đầu tháng hai. Buổi sáng rất đẹp, nhưng cái lạnh hơi cắt da.
- Chắc Người ra ngoài để cầu nguyện. Người thường ra ngoài lúc rạng đông khi người biết Người có thể ở một mình. Người sẽ trở về ngay đó. Tại sao ông hỏi Người?
- Tôi hỏi Người cũng là cho các người khác nữa. Lúc này họ tản mát đi để tìm Người, vì có một người đàn bà đang ở phòng bên cạnh với vợ tôi. Bà ta ở làng phía bên kia biên giới, và tôi thực tình không biết tại sao bà ta hay là Thầy ở đây, nhưng bà ta biết, và bà ta muốn nói với Người.
- Tốt. Bà ta sẽ được nói với Người. Có lẽ bà ta là người mẹ mà Người đang chờ, với một đứa bé gái bệnh. Chính thần trí Người đã dẫn bà ta lại đây.
- Không. Bà ta có một mình, không có đứa nhỏ nào ở với bà cả. Tôi biết bà ta lắm, bởi vì các làng mạc rất thân cận với nhau... và thung lũng thuộc về mọi người. Vả lại, tôi nghĩ rằng không nên ở ác với các láng giềng, dù là người Phênici, để phục vụ Chúa. Tôi có thể làm, nhưng...
- Đó cũng là điều Thầy luôn luôn nói: phải thương xót tất cả.
- Đó là điều Người làm, phải không?
- Đúng.
- Anna cũng đã nói vậy với tôi, kể cả lúc này là lúc người ta xử tệ với Người. Tàn tệ, luôn luôn tàn tệ!... Ở Juđê cũng như ở Galilê, ở khắp nơi. Tại sao Israel qúa xấu đối với Đấng Messi của họ? Tôi muốn nói về những người lớn trong Israel chúng ta, bởi vì dân chúng thì yêu Người.
- Làm sao ông biết được những điều này?
- Ôi! Tôi sống ở đây, xa xôi, nhưng tôi là người Israel trung thành. Chỉ cần tôi lên Đền Thờ vào các dịp lễ buộc là tôi biết tất cả, điều tốt cũng như điều xấu. Và điều tốt thì người ta biết ít hơn điều xấu, bởi vì điều tốt thì khiêm tốn và không quảng cáo. Những kẻ đã được nhận điều tốt phải biết tuyên dương nó, nhưng ít kẻ có lòng biết ơn sau khi đã nhận được ân huệ. Người ta nhận ơn rồi
152
người ta quên đi. Các kẻ xấu thì trái lại, họ làm om sòm kèn trống và vang dội lời nói của họ tới cả tai những người không muốn nghe. Các ông là các môn đệ, các ông có biết ở Đền Thờ người ta chê bai và kết án Đức Messi tới cỡ nào không? Các luật sĩ chỉ còn giảng dạy về vấn đề của Người. Tôi tin là họ đã làm một sưu tập giảng dạy về những phương cách kết án Người, và về những sự kiện để họ giới thiệu như những lý do có giá trị kết án. Phải có một lương tâm rất ngay thẳng, nhiệm nhặt và tự do để biết kháng cự và xét đoán cách khôn ngoan. Người, Người có biết những vận dụng này không?
- Người biết hết. Và chúng tôi, hoặc ít hoặc nhiều, chúng tôi cũng biết. Nhưng Người không trừng trị những thứ đó. Người tiếp tục công việc của Người, và số môn đệ và những kẻ tin càng ngày càng đông.
- Cầu xin Thiên Chúa canh chừng để họ vững vàng tới cùng, bởi vì con người rất bất ổn trong tư tưởng của họ. Họ yếu đuối... Kìa, Người đang về với ba môn đệ.
Và ông già đi ra cùng với Juđa Thađê để tôn kính Giêsu. Người đầy vẻ oai phong, hướng về ngôi nhà.
- Bình an cho ông hôm nay và mãi mãi, Jonas.
- Vinh quang và bình an cho Thầy muôn đời.
- Bình an cho con, Juđa. Andrê và Gioan chưa về à?
- Không, con không nghe thấy họ đi. Chả thấy ai cả. Con mệt và con ngủ như một khúc cây.
- Mời vào. Mời Thầy vào. Không khí rất lạnh sáng nay. Trong rừng hẳn là rất lạnh. Ở đây có sữa nóng cho hết mọi người.
Mọi người, trừ Giêsu, đang uống sữa nóng và nhúng những miếng bánh ngon vào đó thì chợt xuất hiện Andrê, Gioan và người mục đồng Anna.
- A! Thầy ở đây. Chúng con trở về để nói rằng chúng con không tìm thấy Thầy - Andrê kêu lên.
Giêsu chào và chúc bình an cho ba người và nói thêm: “Mau đi. Hãy lấy phần của các con, và chúng ta đi. Vì Thầy muốn, ít nhất là trước buổi tối, chúng ta đã ở chân núi của Aczib. Chiều nay là bắt
153
đầu ngày Sabát”.
- Nhưng, đàn cừu của con?
- Chúng đã khỏi sau khi Thầy đã chúc lành cho chúng - Giêsu mỉm cười trả lời.
- Nhưng con ở phía đông ngọn núi, còn Thầy, vì người đàn bà đó, Thầy đi về phía tây...
- Hãy để Thiên Chúa làm. Người sẽ dự liệu cho tất cả.
Bữa ăn chấm dứt và các tông đồ đi lấy giỏ xách để đi.
- Thưa Thầy, người đàn bà đó ở đây... Thầy không nghe bà ta?
- Thầy không có giờ, Jonas. Đường rất dài. Ngoài ra, Thầy đến vì các con chiên của Israel. Chào Jonas. Xin Thiên Chúa trả ơn cho ông vì lòng bác ái của ông. Phúc lành của Thầy ở trên ông và trên tất cả bà con quyến thuộc của ông. Chúng ta đi!
Nhưng ông già bắt đầu kêu gào đến bể đầu: “Các con ơi! Các bà ơi! Thầy đi! Chạy mau ra!”
Và như một đàn gà con đang tản mát trong đám rơm rạ, vội chạy lại với gà mẹ khi nghe tiếng mẹ chúng gọi. Cũng vậy, từ mọi phía của căn nhà chạy tới: các đàn bà, các đàn ông, đang bận việc hoặc còn nửa mơ ngủ, các trẻ em nửa trần, mỉm cười với khuôn mặt vừa hơi tỉnh thức. Chúng bao vây kín chung quanh Giêsu, Người đứng ở giữa tổ. Các bà mẹ cuốn con nhỏ vào trong váy họ cho khỏi khí lạnh, hoặc ôm chúng trong lòng cho tới khi người đầy tớ mang áo tới và vội vã mặc vào.
Nhưng đây, một người đàn bà không thuộc về gia đình chạy ra, một đàn bà tội nghiệp. Bà khóc, vẻ xấu hổ... Bà cúi gù xuống để bước, hầu như bò đi. Và khi tới gần nhóm có Giêsu ở giữa, bà bắt đầu kêu: “Lạy Chúa, xin thương con! Lạy con vua Đavít! Con gái con bị ma qủi dằn vặt. Ma qủi khiến cho nó làm những điều xấu hổ. Xin thương con. Con rất khổ vì vậy. Con bị mọi người khinh vì vậy, tựa như con nhỏ của con phải trách nhiệm về những gì nó làm. Lạy Chúa! Xin thương. Ngài có thể tất cả. Xin Ngài lên tiếng và giơ tay truyền cho thần ô uế ra khỏi Palma. Con chỉ có đứa này và con góa... Ôi! Xin đừng đi! Xin thương...”
Qủa vậy, Giêsu đã chấm dứt việc chúc phúc cho hết mọi người
154
trong gia đình và khiển trách những người lớn vì đã nói ra việc Người đến - và họ xin lỗi khi nói rằng: “chúng con không hề nói, Chúa hãy tin điều đó”- Người ra đi, bộc lộ một sự cứng cỏi không thể giải thích được đối với người đàn bà tội nghiệp. Bà lết đi bằng đầu gối, giơ hai tay ra van nài, thở hổn hển: “Chính con, hôm qua chính con đã thấy Ngài lúc Ngài đi qua suối. Con nghe người ta gọi Ngài là Thầy. Con đã theo các ngài giữa các bụi gai và con nghe các câu đàm thoại, con biết Ngài là ai... Và sáng nay, con đến từ lúc trời còn đêm để ở đây như một con chó nhỏ tại ngưỡng cửa, cho tới khi Sara thức dậy và cho con vào. Ôi! Lạy Chúa! Xin thương! Xin thương một người mẹ và một đứa con!”
Nhưng Giêsu bước lẹ, như điếc với tất cả mọi lời kêu gọi. Những người của căn nhà nói với bà: “Thôi, cam chịu đi. Người không muốn nghe bà. Người đã nói rồi: Người đến vì nhà Israel”.
Nhưng người đàn bà đứng dậy, cùng một trật vừa thất vọng vừa đầy lòng tin, bà trả lời: “Không. Tôi sẽ cầu xin Người cho tới khi Người nghe lời tôi”. Và bà bắt đầu đi theo Người, không ngừng kêu những tiếng van nài, làm lôi kéo tới trước cửa nhà hết mọi người trong làng đã thức giấc. Và cũng giống như các người trong nhà Jonas, họ đi theo bà để coi xem câu chuyện kết cục thế nào.
Trong lúc này, các tông đồ nhìn nhau ngạc nhiên và họ thì thầm: “Tại sao Người hành động như vầy? Người chưa bao giờ như vầy...” Và Gioan nói: “Nhưng ở Alexandrocène, Người đã chữa hai người đó”.
- Đó là những tân tòng - Thađê trả lời.
- Còn người đàn bà Người sắp chữa bây giờ?
- Bà ta cũng là tân tòng - ông mục đồng Anna nói.
- Ôi! Mà biết bao lần Người đã chữa cả những người ngoại kiều và những dân ngoại, như con bé Rôma. Vậy thì... - Andrê nói cách buồn rầu, vì không biết cách nào để tự trấn tĩnh bởi sự cứng cỏi khắt khe của Giêsu đối với người đàn bà Canane.
- Tôi nói cho các anh tại sao - Giacôbê Zêbêđê hô lên - Là vì Thầy công phẫn. Sự kiên nhẫn của Người đã tới tột đỉnh trước bao
155
nhiêu tấn công và độc ác của loài người. Các anh không thấy Người đã thay đổi chừng nào ư ? Người có lý. Từ nay Người chỉ ban mình cho những kẻ Người biết, và Người làm đúng.
- Đúng. Nhưng trong khi chờ đợi, bà ta cứ theo chúng ta mà kêu van, và một đám đông đi theo bà. Người, Người muốn đi qua cách kín đáo mà lại tìm được một phương thế để lôi kéo sự chú ý của cả cây cối nữa... - Mathêu càu nhàu.
- Chúng ta hãy nói với Người đuổi bà ta đi... Coi đó, một đoàn tùy tùng thật đẹp theo sau chúng ta! Nếu chúng ta đi vào con lộ chính theo kiểu này, chúng ta sẽ bị lạnh! Và bà ta, nếu Người không đuổi bà đi, bà ấy sẽ không thả chúng ta ra - Thađê nói cách bực bội. Thỉnh thoảng ông lại quay lại nói với người đàn bà: “Nín lặng và đi đi!” Giacôbê Zêbêđê cũng làm vậy. Nhưng người đàn bà không xúc động gì về những dọa nạt và những mệnh lệnh, và bà cứ tiếp tục van nài.
- Chúng ta hãy đi nói với Thầy để Người đuổi bà ta. Người... vì Người không muốn nghe bà ta. Không nên để kéo dài như vầy - Mathêu nói, trong khi Andrê thì thầm: “Cái bà tội nghiệp!”, và Gioan không ngừng nhắc đi nhắc lại: “Tôi, tôi không hiểu... Tôi, tôi không hiểu...” Ông băn khoăn vì cách hành động của Giêsu.
Nhưng rồi, vì bước dồn, họ đã bắt kịp Giêsu, Người đi lẹ tựa như có ai đuổi bắt: “Thầy ơi! Nhưng đuổi cái bà này đi chứ ! Đó là dịp gây phẫn nộ. Bà ta kêu gào sau lưng chúng ta. Bà làm mọi người chú ý đến chúng ta! Con đường càng lúc càng đông người qua lại, và rất nhiều người đi theo bà. Thầy hãy nói với bà ta để bà ta đi đi”.
- Các con hãy nói vậy với bà. Thầy, Thầy đã trả lời bà rồi.
- Bà ta không nghe chúng con. Nào, Thầy nói đi. Và nói cho nghiêm nghị.
Giêsu dừng bước và quay lại. Người đàn bà cho đây là dấu hiệu của ân phúc, bà gia tốc bước chân, bà cất cao cái giọng đã bắc cung của bà, mặt bà tái xanh vì hy vọng gia tăng.
- Im đi bà, và hãy trở về nhà bà. Ta đã nói rồi: “Ta đến vì các con chiên của Israel”, để chữa các bệnh tật và tìm kiếm các con
156
của nó đã lạc mất. Bà, bà không phải Israel.
Nhưng người đàn bà đã tiến đến chân Giêsu. Bà hôn chân Người để thờ lạy Người, và bà nắm chặt lấy mắt cá chân Người như người bị chết đuối tìm được một tảng đá để đứng, và bà rên rỉ: “Lạy Chúa! Xin cứu con. Lạy Chúa! Ngài có thể. Hãy truyền cho ma qủi, Ngài là Đấng Thánh... Lạy Chúa! Lạy Chúa! Ngài là chủ tể tất cả, chủ ơn phúc cũng như chủ thế giới. Lạy Chúa! Tất cả đều tùng phục Ngài, con biết, con tin. Vậy hãy lấy uy quyền của Ngài và sử dụng nó cho con gái con”.
- Không nên lấy bánh của con cái trong nhà mà quăng cho các con chó ở ngoài đường.
- Con, con tin ở Ngài, và vì tin nên từ một con chó ở ngoài đường, con đã trở thành con chó ở trong nhà. Con đã thưa Ngài: con tới từ trước bình minh và con ngủ ở ngoài cửa nơi Ngài ở. Nếu Ngài ra ngoài bằng cửa đó thì Ngài đã đụng vào con. Nhưng Ngài đã ra lối khác và Ngài không thấy con. Ngài đã không nhìn thấy con chó tội nghiệp này bị quay cuồng, đói khát ân huệ của Ngài. Nó chờ đợi được vào, được bò tới nơi Ngài ở để hôn chân Ngài, để xin Ngài đừng xua đuổi nó...
- Không nên vất bánh của con cái cho chó - Giêsu nhắc lại.
- Nhưng các con chó vào trong phòng, nơi chủ nhà ăn uống với con cái ông, và nó ăn những gì từ trên bàn rơi xuống, hoặc những đồ thừa các người trong nhà cho nó, những thứ họ không ăn nữa. Con không xin Ngài đối xử với con như một đứa con gái và cho con ngồi bàn, nhưng ít nhất, xin ban cho con những mụn bánh nhỏ...
Giêsu mỉm cười! Ôi! Khuôn mặt Người biến hình chừng nào trong nụ cười vui này!
Mọi người, các tông đồ, người đàn bà, nhìn Người cách cảm phục... Họ cảm thấy cái gì sắp xảy ra.
Và Giêsu nói: “Ôi! Bà ơi! đức tin của bà rất lớn, và bằng đức tin này, bà an ủi tâm hồn Ta. Vậy hãy đi, cho bà được như bà muốn. Kể từ lúc này, ma qủi ra khỏi con bé của bà. Hãy đi bằng an. Và giống như một con chó lạc, bà đã muốn làm chó trong nhà. Vậy trong
157
tương lai, hãy biết làm một đứa con gái ngồi trong bàn ăn của Cha. Chào”.
- Ôi! Lạy Chúa! Lạy Chúa! Lạy Chúa! Con muốn chạy về để coi Palma yêu dấu của con... Con muốn ở lại đây với Ngài, theo Ngài! Chúc tụng! Thánh!
- Bà hãy đi, hãy đi. Hãy đi bằng an.
Và Giêsu tiếp tục con đường trong khi người đàn bà Canane chạy đi nhanh nhẹn như một đứa trẻ. Đám đông tò mò chạy theo bà để coi phép lạ.
- Thầy ơi, nhưng tại sao Thầy lại bắt phải từng ấy cầu xin để rồi sau đó nhận lời? - Giacôbê Zêbêđê hỏi.
- Tại vì con, và tại vì tất cả các con. Điều này không phải là một thất bại nhe Giacôbê! Ở đây Thầy không bị đuổi, chế diễu, nguyền rủa .. Mong rằng việc này nâng lòng trí bị đánh bại của các con dậy. Hôm nay Thầy đã được ăn của ăn rất dịu ngọt, và Thầy chúc tụng Thiên Chúa vì vậy. Bây giờ chúng ta hãy đi tìm một bà khác, cũng biết tin, và bà đang chờ với một đức tin bảo đảm.
- Lạy Chúa! Còn đàn cừu của con? Sắp sửa con phải đi vào một con đường khác với Thầy để về đồng cỏ của con...
Giêsu mỉm cười nhưng không trả lời.
Thật dễ chịu để bước, vì bây giờ mặt trời sưởi ấm không khí và làm cho các lá mới của cây cối cũng như cỏ rả trong cánh đồng rực rỡ như ngọc bích, biến các vành hoa thành chiếc nhẫn vì hạt sương lóng lánh trên các cánh hoa muôn mầu của cánh đồng. Giêsu bước đi, mỉm cười. Các tông đồ bỗng được thêm can đảm, cũng mỉm cười bước theo Người.
Họ tới một ngã tư. Ông mục đồng Anna đau đớn nói: “Con phải từ giã Thầy ở đây... Vậy Thầy không đến chữa cho bầy cừu của con à? Con cũng có đức tin, con là người tân tòng... Ít nhất, Thầy có hứa với con là Thầy sẽ tới sau ngày Sabát không?”
- Ôi! Anna! Ông vẫn chưa hiểu là bầy cừu của ông đã được chữa khỏi từ lúc Thầy giơ tay về phía Ledemdan à? Vậy ông cũng hãy đi đi để thấy phép lạ và chúc tụng Chúa.
158
Tôi tin là bà vợ ông Lót, lúc bà bị biến thành tượng muối cũng không có vẻ gì khác người mục đồng này khi ông đứng ngây ra như vầy: hơi gù, nhưng ngửa mặt về phía Giêsu để nhìn Người, một cánh tay hơi đưa ra trong không khí... Ông giống như một bức tượng mà người ta có thể viết bảng tên của bức tượng là: “Người năn nỉ”. Nhưng rồi ông đứng thẳng lên, và qùi gối để nói: “Xin chúc tụng Thầy nhân từ, Thầy, Đấng Thánh! Nhưng con đã hứa với Thầy rất nhiều tiền mà ở đây con chỉ có vài đồng... Xin đến, xin đến nhà con sau ngày Sabát...”
- Thầy sẽ đến, không phải vì tiền, nhưng để chúc lành nữa cho ông vì đức tin đơn sơ của ông. Chào Anna. Bình an cho ông.
Và họ chia tay.
- Đây cũng vậy, các bạn ạ, không phải là một thất bại. Và ở đây cũng vậy, Thầy không bị chế diễu, xua đuổi, chửi rủa!...Ta đi, có một bà mẹ đang chờ chúng ta từ nhiều ngày rồi...
Và bước chân tiếp tục, chỉ dừng lại một lát để ăn bánh với phó mát và uống nước ở một con suối.
Mặt trời ở chính ngọ khi họ thấy một ngã tư hiện ra. Mathêu nói: “Đây là chỗ bắt đầu các trạm ngừng của Tyr, thành phố ở đàng kia, tận xa xa”. Và ông vui với tư tưởng là phần lớn của đường dài đã đi qua.
Ngay tại cái bảng chỉ đường của Rôma, có một người đàn bà. Ở chân bà, một con bé độ bảy tám tuổi, nằm trên một cái ghế xếp. Người đàn bà nhìn về mọi hướng: về những chỗ dừng trong núi đá, về phía đường đi Ptôlêmai, về con đường mà Giêsu đi. Thỉnh thoảng bà cúi xuống vuốt ve đứa bé, để che đầu cho nó khỏi nắng bằng một tấm vải, và che chân tay cho nó bằng một cái khăn.
- Đó, người đàn bà! Nhưng bà ta ngủ ở đâu trong mấy ngày này?
- Andrê hỏi.
- Có lẽ trong căn nhà này, rất gần ngã tư. Chung quanh đây không có căn nhà nào khác - Mathêu trả lời.
- Hoặc là dưới ngôi sao đẹp - Giacôbê Alphê nói.
- Không, vì có đứa bé. Không - em ông trả lời.
159
- Ôi! Để được ơn!... - Gioan nói.
Giêsu không nói, nhưng Người mỉm cười. Tất cả đều đi hàng ngang, Giêsu ở giữa, mỗi bên ba ông. Họ giăng hết con đường mà lúc này các khách bộ hành nghỉ chân, bận ăn uống tại chỗ họ dừng vào giữa ngày.
Giêsu mỉm cười, cao lớn, đẹp trai, đi ở giữa hàng. Và tựa như tất cả ánh sáng mặt trời đều tập trung lại trên khuôn mặt Người, bởi vì nó rất rạng rỡ, giống như Người tỏa ra các tia sáng.
Người đàn bà ngước mắt lên... Lúc này họ còn ở xa khoảng dăm chục mét. Có lẽ Giêsu đã lôi kéo sự chú ý của bà bằng cái nhìn mà người cắm chặt vào bà khi bà hơi sao lãng vì tiếng rên của con bé. Bà nhìn. Bà lấy tay ôm ngực bằng cử chỉ không cố ý, gây ra bởi sự âu lo, và bà giật nảy.
Giêsu nở nụ cười, và nụ cười rạng rỡ khôn tả này phải nói biết bao điều với người đàn bà, làm bà không còn lo âu nữa, nhưng tươi cười, tựa như bà đã cảm thấy hạnh phúc tương lai. Bà cúi xuống ẵm đứa bé lên khỏi cái ghế gấp, mang nó trong hai cánh tay giơ ra như bà dâng nó cho Thiên Chúa. Bà tiến lên, và khi bà đã tới chân Giêsu, bà qùi gối và giơ đứa bé nằm ngửa lên hết sức mà bà có thể. Đứa bé nhìn khuôn mặt đẹp của Giêsu như xuất thần.
Người đàn bà không nói lời nào. Nhưng bà có thể nói gì sâu xa hơn điều bà nói bằng thái độ của bà?...
Giêsu chỉ nói một chữ, nhỏ nhẹ nhưng mạnh sức, nhưng gia ân phúc, giống như tiếng: “Ta muốn” của Thiên Chúa trong việc tạo dựng: “Ừ”. Và Người đặt bàn tay Người trên ngực đứa bé đang nằm.
Đứa bé, với một tiếng kêu của sơn ca được thoát khỏi lồng: “Má”. Và nó ngồi phắt dậy, tụt xuống để đứng lên và ôm chầm lấy bà mẹ. Vì kiệt lực, bà lảo đảo và hầu sắp té ngửa, xỉu đi vì sự mệt mỏi và lo âu bỗng chốc biến tan bởi niềm vui vượt sức con tim đã kiệt lực vì bao đau khổ qúa khứ.
Giêsu mau lẹ đỡ lấy bà. Sự can thiệp của Người có hiệu qủa hơn của đứa bé, vì sức nặng của nó làm rã tay bà và không giúp cho
160
việc nâng đỡ bà. Giêsu để bà ngồi xuống và chuyền sức mạnh cho bà.
Người nhìn bà trong khi những giọt nước mắt câm nín chảy xuống từ khuôn mặt vừa mệt mỏi vừa sung sướng của người đàn bà. Rồi đến các lời: “Cám ơn, Chúa của con. Cám ơn và chúc tụng. Lòng trông cậy của con đã được thưởng... Con đã chờ Thầy biết bao... Bây giờ con sung sướng...”
Người đàn bà, sau khi vượt qua được cơn xỉu, liền qùi gối thờ lạy, giữ đứa bé đứng ở trước bà. Giêsu vuốt ve nó. Bà cắt nghĩa: “Đã hai năm nay, trong xương sống của nó có một đốt xương bị hoại làm nó tê liệt, làm nó chết từ từ và làm nó rất đau đớn. Chúng con đã mời thầy thuốc từ Antioche, từ Tyr, từ Siđon, và cả từ Cêsarê và cả từ Panêade đến khám, tiêu hao biết bao cho thầy thuốc và thuốc men, đến nỗi chúng con phải bán nhà của chúng con ở trong thành phố và lui về căn nhà ở miền quê, sa thải các đầy tớ ở trong nhà, chỉ giữ lại các người ở nhà quê, bán những sản phẩm mà trước kia chúng con giữ để dùng... Và không được ích lợi gì cả! Con đã thấy Thầy, và con đã được biết những điều Thầy làm ở các nơi. Con đã hy vọng Thầy cũng ban ơn cho con... Và con đã được! Bây giờ con trở về nhà, nhẹ nhõm và vui mừng... Và con đem niềm vui cho ông chồng con... Giacôbê của con. Ông ta đã đặt hy vọng vào trong tim con bằng cách kể cho con những điều đã xảy ra ở Galilê và Juđê do quyền năng của Thầy. Ôi! Nếu chúng con không sợ là sẽ không tìm thấy Thầy, thì chúng con đã đi cùng với con bé, nhưng Thầy luôn luôn ở trên đường...
- Trong khi đi đường, Thầy đã đến với con... Nhưng con ở đâu trong mấy ngày này?
- Trong căn nhà kia... Nhưng về đêm, đứa bé ở đó một mình. Ở đó có một bà rất đại độ, bà săn sóc nó thay cho con về đêm. Con thì con canh chừng ở đây, vì con sợ lỡ mất Thầy nếu Thầy đi qua về đêm.
Giêsu đặt tay trên đầu bà: “Con là người mẹ tốt. Thiên Chúa yêu con vì vậy. Con thấy rằng Người giúp con trong mọi sự”.
161
- Ôi! Đúng, con rất cảm thấy như vậy trong khi con đi. Con từ nhà đến thành phố, tưởng là tìm thấy Thầy ở đó, bởi vậy con đi một mình và chỉ mang một chút tiền. Rồi theo lời khuyên của người đàn ông, con tìm đường tới đây. Con cho người báo tin về nhà rồi con tới đây... Và con đã chẳng thiếu gì, có đủ bánh, chỗ ở và sức mạnh.
- Luôn luôn với gánh nặng này trên tay? Bà không thể thuê một chiếc xe sao? - Giacôbê Alphê hỏi cách thương hại.
- Không. Nó sẽ phải qúa đau đến chết mất. Chỉ có ở trong cánh tay con, Jeanne của con mới tới được với Đấng Gia Ân.
Giêsu thoa đầu tóc của cả hai: “Bây giờ hãy đi và hãy luôn luôn trung thành với Chúa. Nguyện Chúa ở với các con và sự bình an của Thầy ở với các con”.
Giêsu đi vào con đường dẫn tới Ptôlêmai.
- Các bạn ơi, đây cũng không phải là một thất bại. Và cũng ở đây, Thầy đã không bị đuổi, không bị chế diễu, không bị nguyền rủa.
Bằng cách đi theo con đường thẳng, họ mau chóng tới xưởng làm móng ngựa ở gần cầu. Người Rôma, thợ làm móng, ngồi nghỉ dưới mặt trời, tựa lưng vào tường nhà. Ông nhận ra Giêsu và chào Người. Giêsu chào lại ông và thêm: “Ông có cho phép tôi ở lại đây để nghỉ chân và ăn chút bánh không?”
- Vâng, Rabbi. Vợ tôi nó muốn gặp Ngài... Bởi vì tôi đã nói với nó những điều tôi đã nghe trong bài thuyết giáo của Ngài lần trước. Esther người Hy Bá, nhưng tôi đã không dám nói điều đó với Ngài. Tôi người Rôma. Tôi sẽ bảo bà ta tới gặp Ngài.
- Vậy đi gọi bà ta đi!
Và Giêsu ngồi trên cái ghế dài kê sát tường trong khi Giacôbê Zêbêđê phân phát bánh và phó mát...
Một người đàn bà trạc bốn mươi bước ra, băn khoăn đỏ mặt vì xấu hổ.
- Bình an cho bà, Esther. Bà ước ao biết Thầy à? Tại sao?
- Bởi vì những điều Thầy đã nói... Các Rabbi khinh dể chúng con, những kẻ kết hôn với người Rôma... Con cái con, con đem tất
162
cả lên Đền Thờ, và tất cả các con trai đều cắt bì. Con đã nói điều đó trước với Titus khi ông muốn cưới con... Và ông ta tốt... Ông luôn luôn để con làm với các con cái: phong tục, nghi thức, ở đây tất cả đều theo Hy Bá... Nhưng các rabbi, các trưởng giáo đường nguyền rủa chúng con. Thầy thì không... Thầy có những lời thương xót đối với chúng con... Ôi! Thầy biết điều đó là gì đối với chúng con không? Giống như cảm thấy ở chung quanh mình cánh tay của người cha, người mẹ, trước đã từ bỏ, nguyền rủa, hay đã khắt khe với chúng con... Giống như được đặt chân vào căn nhà mà người ta đã phải bỏ, và không còn cảm thấy là người lạ ở đó nữa... Titus rất tốt, trong các dịp lễ của chúng ta, ông đóng cửa xưởng bịt móng, và như vậy bị mất rất nhiều tiền, để đi với con và các cháu lên Đền Thờ, vì ông nói là người ta không thể sống không tôn giáo. Ông ta nói rằng tôn giáo của ông là tôn giáo của gia đình và công việc, cũng như trước đây là tôn giáo của bổn phận người lính... Nhưng con, Chúa ơi, con muốn xin Ngài một điều... Ngài đã nói rằng những kẻ theo Thiên Chúa Thật, phải lấy một tí men của họ và để vào trong bột tốt để làm cho nó lên men một cách thánh thiện. Con đã làm như vậy với chồng con. Trong hai mươi năm nay chúng con sống với nhau, con đã tìm cách làm việc với tâm hồn tốt của ông bằng men của Israel. Nhưng ông ta không bao giờ quyết định... Ông ta già rồi... Và con muốn ông ta ở với con trong đời sống bên kia, hợp nhất trong đức tin giống như chúng con hợp nhất trong tình yêu... Con không xin Ngài sự giầu sang, sự thoải mái, sức khỏe. Ngợi khen Chúa, những thứ đó chúng con tạm đủ. Nhưng điều này, con muốn... Xin cầu nguyện cho ông chồng con để ông được thuộc về Thiên Chúa thật...
- Ừ, ông ta sẽ được ơn đó. Hãy chắc chắn vậy. Bà xin một điều thánh thiện thì bà sẽ được. Bà đã hiểu bổn phận của người đàn bà đối với Thiên Chúa và đối với chồng. Tất cả các bà vợ phải như vậy! Thực vậy, Thầy nói với bà rằng nhiều người cần phải bắt chước bà. Hãy tiếp tục như vậy, và bà sẽ được niềm vui có Titus của bà ở bên cạnh bà trong lời cầu nguyện và ở trên trời. Hãy cho Thầy gặp
163
các con của bà.
Người đàn bà gọi đàn con đông đảo của bà: Jacob, Judas, Lêvi, Marie, Jean. Anne, Élise, Marc. Rồi bà đi vào nhà và trở ra với một đứa bé đi chập chững, và một đứa khác mới được ba tháng: “Và nó là Isaac, còn con bé nhất là Judith”. Bà nói để kết thúc việc giới thiệu.
- Dồi dào! - Giacôbê Zêbêđê cười nói.
Và Juđa kêu lên: “Sáu cậu con trai! Tất cả đều cắt bì! Và với những tên gọi thuần chủng! Hoan hô!”
Người đàn bà sung sướng, và bà khen Jacob, Judas và Lêvi giúp đỡ cha nó “hết mọi ngày, ngoại trừ ngày Sabát thì Titus làm việc một mình để ráp những móng đã làm trước”, bà nói. Và bà khen Marie và Anne “giúp mẹ chúng”, nhưng bà cũng không quên khen bốn đứa bé nhất là “tốt và không dở chứng. Titus giúp con giáo dục chúng. Trước đây ông ta đã là một người lính rất kỷ luật”. Bà nói trong khi nhìn ông ta cách tình tứ trong khi ông đứng tựa lưng vào khung cửa, một tay chống nạnh, và đã nghe hết những gì bà ta nói với nụ cười chân thành trên khuôn mặt cởi mở của ông, và bây giờ ông ta vươn cổ ra khi nghe nhắc tới nghiệp lính của ông.
- Rất tốt. Kỷ luật của quân đội không đáng ghét đối với Thiên Chúa khi nó được thi hành cách nhân đạo vì bổn phận của người lính. Tất cả là: luôn luôn chân thành theo tinh thần, trong mọi công việc, để luôn luôn đạo đức. Cái kỷ luật xưa kia đó mà ông truyền dạy cho con cái ông, phải sửa soạn cho ông vào một công việc cao hơn: việc của Thiên Chúa. Bây giờ chúng tôi từ biệt ông. Tôi chỉ có vừa đủ giờ để tới Aczib trước lúc hoàng hôn chấm dứt. Bình an cho bà, Esther, và cho cả nhà bà. Sắp sửa, tất cả hãy thuộc về Chúa.
Người mẹ và các đứa con qùi gối trong khi Giêsu giơ tay ban phúc lành cho họ. Người đàn ông, tựa như ông ta lại là lính Rôma trước vị hoàng đế của ông, ông đứng thế nghiêm và chào kiểu Rôma.
Và họ ra đi... Sau mấy mét, Giêsu đặt tay trên vai Giacôbê: “Và lại một lần nữa, lần thứ bốn trong một ngày, Thầy bảo con nhận xét rằng đây không phải là một thất bại, không phải là bị đuổi, bị chế
164
diễu, bị nguyền rủa... Bây giờ con nói sao?”
- Lạy Chúa, con là thằng ngu - Giacôbê Zêbêđê nói cách hăng hái.
- Không. Con và tất cả các con, các con vẫn còn và luôn luôn còn qúa con người, và các con bộc lộ tất cả những cơn chướng của kẻ bị chế ngự bởi nhân tính hơn là bởi thần trí. Thần trí, khi nó chế ngự, nó không thay đổi trước tất cả những cơn gió là cái không thể luôn luôn là luồng gió thơm nhẹ... Nó có thể khổ nhưng nó không thay đổi. Thầy không ngừng cầu nguyện để các con đạt tới sự chế ngự này của thần trí. Nhưng các con phải giúp Thầy bằng sự cố gắng của các con. Cuộc hành trình đã chấm dứt. Lúc này Thầy gieo những gì cần thiết để chuẩn bị cho thời kỳ mà các con sẽ là những kẻ rao giảng Tin Mừng. Bây giờ chúng ta có thể đi nghỉ cho ngày Sabát với lương tâm đã làm bổn phận của chúng ta, và chúng ta chờ những người khác... Rồi chúng ta sẽ đi... đi nữa... luôn luôn... cho tới khi tất cả được nên trọn...
20* BATÔLÔMÊO KHÁM PHÁ RA CÁI TẠI SAO...
Hôm sau ngày Sabát.
Giêsu tụ họp với sáu vị trong một căn phòng chỉ có những cái giường rất tồi tàn, kê sát vào nhau, chỉ còn trống vừa đủ chỗ để bước từ đầu nọ tới đầu kia phòng. Họ ăn những thực phẩm còn tầm thường hơn là khiêm tốn, ngồi ngay trên giường, vì không có bàn ghế. Gioan có một lúc tới ngồi ở bờ cửa sổ để tìm mặt trời. Chính vì vậy mà ông là người đầu tiên thấy những người mà họ chờ đợi: Phêrô, Simon, Philíp và Batôlômêo đang đi về phía căn nhà. Ông gọi họ rồi chạy ra ngoài. Mọi người đều đi theo, chỉ còn lại Giêsu. Tất cả cử động của Người là đứng lên và quay nhìn về phía cửa... Bốn người tới nơi và vào nhà. Thật dễ dàng để tưởng tượng ra sự bồng bột của Phêrô cũng như sự biểu lộ trọng kính của Simon Zêlote. Điều làm ngạc nhiên là thái độ của Philíp, nhất là của Batôlômêo. Họ vào nhà, tôi nói là với vẻ sợ sệt, lo lắng, mặc dầu Giêsu mở cánh tay để trao đổi với họ cái hôn bình an như Người đã làm với
165
Phêrô và Simon. Họ qùi gối và cúi xuống cho tới trán chạm đất để hôn chân Giêsu và họ gục yên như vậy... Những thở dốc làm nghẹn Batôlômêo chứng tỏ ông khóc thầm lặng trên chân Giêsu.
- Tại sao con lo âu như vậy, Batôlômêo? Con đã chẳng tới trong cánh tay của Thầy sao? Và con, Philíp, tại sao con sợ sệt như vậy? Nếu Thầy không biết rằng các con là những người ngay thẳng mà con tim không có sự ranh mãnh trú ngụ, thì Thầy có thể ngờ là các con có tội gì. Nhưng không có như vậy. Nào, Thầy mong cái hôn của các con qúa lâu rồi, và ước ao thấy cái nhìn trong sáng của đôi mắt trung thành của các con...
- Lạy Chúa, chúng con cũng vậy - Batôlômêo nói trong khi ngửa khuôn mặt long lanh ngấn lệ của ông lên: “Chúng con chỉ mong ước Thầy. Chúng con tự hỏi: chúng con đã có thể làm phật ý Thầy điều gì để phải xa cách Thầy qúa lâu như vậy. Và điều này chúng con thấy như không công bằng... Nhưng bây giờ chúng con biết... Ôi, lạy Chúa! Xin tha. Chúng con xin Thầy sự tha thứ, nhất là con, bởi vì Philíp phải xa cách Thầy là tại lỗi con, và con đã xin sự tha thứ của ông. Chính con là kẻ có tội, tên Israel già, qúa cứng cỏi để đổi mới. Và con đã làm Thầy phải khổ”.
Giêsu cúi xuống và nâng ông ta dậy cách mạnh mẽ. Đối với Philíp cũng vậy. Và Người ôm cả hai trong khi nói: “Nhưng con tự kết án về điều gì? Con không làm điều gì xấu. Không có gì xấu cả. Các con là tông đồ yêu qúi của Thầy, và hôm nay Thầy sung sướng được có các con ở bên Thầy, tụ họp mãi mãi...”
- Không, không... trong một thời gian dài, chúng con đã không biết cái lý do khiến Thầy nghi ngờ chúng con tới nỗi trục xuất chúng con khỏi gia đình tông đồ. Nhưng bây giờ chúng con biết... Và chúng con xin Thầy tha thứ, tha thứ, tha thứ, nhất là con, Giêsu, Thầy của con... - Và Batôlômêo nhìn Người lo lắng, với tình yêu, với lòng trắc ẩn. Vì lớn tuổi, ông giống như người cha nhìn đứa con đau khổ của ông, nhìn khuôn mặt gầy còm bởi đau khổ mà lúc trước ông đã không nhận ra sự gầy ốm và già đi của Người... Và những giọt nước mắt mới lại lăn trên má Batôlômêo. Ông kêu lên:
166
“Nhưng người ta đã làm gì cho Thầy? Chúng đã làm gì cho chúng ta để tất cả chúng ta phải khổ như vầy? Hình như một thần dữ nào đó đã lẻn vào giữa chúng ta để khuấy trộn chúng ta, để làm cho chúng ta buồn, yếu mòn, hững hờ, ngu muội... ngu muội tới nỗi không hiểu rằng Thầy đau khổ... tới nỗi làm gia tăng sự đau khổ của Thầy bởi sự bủn xỉn của chúng con, những trọng kính thuộc về nhân loại của chúng con, con người cũ của chúng con. Đúng, con người cũ đã thắng thế trong chúng con mà sinh lực toàn vẹn của Thầy đã không thể đổi mới chúng con được. Chính điều này, điều này đã không cho con được bình an! Con đã không biết tự canh tân để hiểu Thầy và theo Thầy với tất cả tình yêu của con. Con chỉ theo Thầy cách vật chất... Nhưng Thầy, Thầy muốn chúng con theo Thầy cách siêu nhiên... và muốn chúng con hiểu Thầy trong sự trọn lành của Thầy... để trở nên đủ khả năng nối tiếp Thầy... Ôi! Thầy của con! Thầy của con một ngày kia sẽ ra đi sau bao chiến đấu, cạm bẫy, ghê tởm, đau đớn, và với sự đau đớn bởi biết chúng con còn chưa chuẩn bị...” Và Batôlômêo gục đầu trên vai Giêsu, ông khóc, thực sự buồn, bị đè bẹp bởi ý thức mình là một đồ đệ không hiểu biết.
- Natanael, đừng để mình bị đánh bại. Con nhìn tất cả với một sự phóng đại làm con ngạc nhiên. Nhưng Giêsu của con biết rằng các con là những con người, và Người không đòi hỏi gì ngoài những điều các con có thể cho. Ôi! Các con sẽ cho Thầy tất cả, thực sự tất cả. Nhưng bây giờ các con phải phát triển, phải rèn luyện... Và đó là công việc nhẩn nha. Nhưng Thầy biết chờ đợi, và Thầy vui vì sự tiến triển của các con, bởi vì các con tăng trưởng trong đời sống của Thầy một cách liên tục. Kể cả nỗi buồn của con, kể cả sự nhất trí của những người ở với Thầy, kể cả tình thương đi theo sự cứng cỏi là bản chất của các con, sự ích kỷ, tham lam siêu nhiên, và cả sự nặng nề hiện tại của các con... Tất cả đều là những thời kỳ của sự phát triển của các con trong Thầy. Nào, vậy hãy bình an, bởi vì Thầy biết tất cả, sự ngay thẳng của con, lòng tin mạnh mẽ của con, sự quảng đại của con, tình yêu chân thành của con. Làm sao Thầy
167
có thể nghi ngờ hiền nhân Batôlômêo và Philíp của Thầy, rất quân bình và trung thành? Nghi ngờ như vậy là cho rằng Cha Thầy đã lầm khi chấp nhận cho Thầy có các con trong hàng ngũ thân tín nhất của Thầy. Nhưng bây giờ... Nào, chúng ta hãy ngồi đây, và những người đã nghỉ ngơi rồi thì hãy lo lắng cho các anh em mệt và đói, bằng cách cho họ lương thực và chỗ nghỉ ngơi. Trong lúc này, hãy kể cho Thầy các con và anh em các con những điều họ không biết.
Và họ ngồi trên giường của Người. Philíp và Natanael ngồi ở hai bên Người, còn Phêrô thì ngồi ở giường bên cạnh, trước mặt Giêsu, các đầu gối đụng vào nhau.
- Anh nói đi Philíp. Tôi đã nói rồi. Anh đúng hơn là tôi trong thời gian này...
- Ôi! Batôlômêo! Đúng! Chỉ có điều tôi đã hiểu rằng không phải vì ác ý hay bất nhất mà Thầy không muốn chúng ta... và tôi ráng làm cho anh yên tâm như vậy... bằng cách ngăn cản anh nghĩ tới những điều mà rồi sau đó nó sẽ làm cho anh khổ vì đã nghĩ như vậy, và phải hối hận... Tôi, tôi chỉ có một ân hận duy nhất... đã giữ anh cho khỏi bất tuân lời Thầy khi anh muốn theo Simon Jonas đi Nazarét để đón Margziam... Sau đó, tôi thấy anh rất đau khổ trong thân xác và tâm hồn, đến nỗi tôi tự trách mình: “Thà rằng để cho anh làm. Thầy sẽ tha thứ sự bất tuân của anh, và anh không còn có tâm hồn bị nhiễm độc về tư tưởng đó nữa”... Nhưng anh thấy đó! Nếu anh đã đi thì anh sẽ không bao giờ có được cái chìa khoá của bí nhiệm... và có lẽ sự nghi ngờ của anh là Thầy bất nhất sẽ không bao giờ tan biến. Như vầy thì trái lại...
- Đúng, như vầy thì trái lại, tôi hiểu. Thưa Thầy, con đã hỏi Simon Jonas và Simon Zêlote để biết rất nhiều điều, và để có sự xác nhận về nhiều điều mà con đã biết. Hai ông chỉ bảo con rằng: “Thầy đã đau khổ tới nỗi gầy đi và già đi. Toàn thể Israel, và trước tiên là chúng ta có trách nhiệm về điều đó. Người yêu chúng ta và tha cho chúng ta, nhưng Người không muốn nói tới qúa khứ. Vì vậy tôi khuyên các anh là không nên đặt câu hỏi và không nên nói”.
168
Nhưng con muốn nói. Về việc đặt câu hỏi với Thầy thì con không đặt, nhưng con phải nói để Thầy biết, bởi vì tâm hồn của người tông đồ Thầy không nên che giấu điều gì ở đó cả: Một hôm - Simon và những người khác đã ra đi từ mấy ngày rồi - Micael người Cana đến nhà con, ông ta hơi có họ hàng, và là bạn rất thân của con, và là bạn học từ nhỏ... Con chắc chắn là ông ta đến với ý tốt và vì cảm tình đối với con. Nhưng kẻ đã sai ông ta đến thì không có ý tốt. Ông ta muốn biết tại sao con ở lại nhà trong khi những người khác đã đi... Và ông ta nói với con: “Vậy có đúng không? Anh bị chia rẽ ra bởi lẽ anh là người Israel tốt. Anh có thể xác định một số điều. Và những người khác muốn bỏ anh qua một bên, đầu tiên là Giêsu Nazarét, vì họ chắc chắn rằng anh sẽ không giúp họ, dù là bằng cách trở nên một đồng lõa yên lặng. Anh làm rất phải, và tôi nhận ra được nơi anh con người ngày trước. Tôi tin rằng anh tự hủy hoại mình khi từ chối Israel. Anh làm tốt cho tâm trí anh, cho sự thoải mái của anh và của những người thân yêu với anh. Vì những gì đang xảy ra sẽ không được Đại Pháp Đình tha thứ, và người ta sẽ bách hại những người dự phần vào”. Con đã nói với ông ta: “Nhưng anh nói về chuyện gì? Tôi đã nói với anh là tôi đã nhận được lệnh ở lại nhà vì lẽ mùa đông, và để gởi về Nazarét những người hành hương tình cờ, hoặc bảo họ chờ Thầy tới cuối tháng Scébat tại Caphanaum. Còn anh, sao anh lại nói với tôi về chuyện chia rẽ, sự đồng lõa và sự bách hại? Anh cắt nghĩa cho tôi coi”. Có phải không Philíp? Có phải tôi đã nói vậy không?
Philíp xác nhận, Batôlômêo tiếp :
- Vậy Micael nói với con rằng anh ta biết Thầy đã phản loạn chống lại các mệnh lệnh của các phần tử trong Đại Pháp Đình bằng cách giữ với Thầy Gioan Enđo và một cô gái Hy Lạp... Lạy Chúa, con làm Thầy đau khổ phải không? Nhưng con phải nói. Con hỏi Thầy: Có phải họ đã ở tại Nazarét không?
- Ừ, đúng vậy.
- Có đúng là họ đã ra đi với Thầy không?
- Ừ, đúng vậy.
169
- Philíp à, Micael có lý. Nhưng làm sao anh ta lại biết được điều đó?
- Nhưng, đó, chính những con rắn này đã chặn Simon và con lại, và nào ai biết bao nhiêu người khác nữa. Đó là những con rắn độc thường lệ - Phêrô nói cách hăng hái.
Trái lại, Giêsu bình tĩnh hỏi: “Anh ta không nói với con điều gì khác nữa sao? Hãy chân thành với Thầy của con tận đáy lòng”.
- Không có gì khác nữa. Ông ta muốn biết về con, và con, con đã nói dối Micael, con nói: “Tôi còn ở nhà cho tới lễ Vượt Qua”, vì con sợ ông ta theo con; sợ rằng... con không biết... vì sợ làm khổ cho Thầy... và vì đó con hiểu tại sao Thầy đã chia lìa con... Thầy đã thấy rằng con còn qúa Israel... - Batôlômêo lại khóc... “Và Thầy đã nghi ngờ con...”
- Không. Điều đó thì không! Tuyệt đối không. Con không cần thiết ở bên cạnh các bạn con vào giờ đó, trong khi con đã ở, và con đã thấy họ ở Bétsaiđa. Mỗi người có sứ mạng của mình, và mỗi lứa tuổi có sự mệt mỏi của mình.
- Không, không! Đừng đặt con ra một bên vì bất cứ sự mệt mỏi nào. Lạy Chúa, đừng xá gì điều đó... Thầy tốt, và con muốn ở bên Thầy. Phải xa Thầy là một hình phạt... Và con, ngu si, bất lực mọi sự, nhưng ít nhất con có thể an ủi Thầy nếu con không thể làm những điều khác. Con đã hiểu... Thầy đã sai họ đi với hai người đó. Đừng nói việc đó với con, con không muốn biết. Nhưng con nghĩ là nó phải như vậy, và con nói ra. Vậy là trong khi con có thể và phải ở với Thầy, nhưng Thầy đã không muốn có con để phạt con vì qúa bướng, không chịu đổi mới. Nhưng con thề với Thầy là con đã rất cố gắng để đổi mới, và Thầy sẽ không bao giờ thấy tên Natanael cũ nữa.
- Vậy con thấy rằng sự đau đớn đã kết thúc trong niềm vui cho tất cả. Bây giờ chúng ta đi gặp Tôma và Judas, không vội vã gì, cũng không chờ họ đến nơi đã định trước. Rồi cùng với họ, chúng ta đi nữa... Có rất nhiều thứ phải làm! Ngày mai chúng ta sẽ lên đường sớm.
170
- Thầy làm đúng. Thời tiết sắp thay đổi ở ngoài bắc. Tội nghiệp cho các nơi canh tác - Philíp nói.
- Đúng, những trận mưa đá vừa qua đã phá hủy miền quê từng giải đất một. Chúa ơi, nếu Thầy thấy! Nó giống như lửa đã cháy qua tại nhiều nơi. Và thật kỳ lạ! Đó là những khốn nạn thật như con đã nói: từng giải một - Phêrô nói.
- Trong lúc các anh không ở đó, trời mưa đá rất nhiều. Một hôm, ở giữa tuần trăng tháng Tébeth, nó đúng là một tai ương. Người ta nói với con rằng ở đồng bằng người ta phải gieo giống lại. Trước tiên trời nóng hơn, và từ lúc đó người ta tìm mặt trời cách lý thú. Người ta quay trở lại... Những dấu hiệu thật kỳ lạ! Chúng là gì vậy? - Philíp hỏi.
- Không là gì khác ngoài ảnh hưởng của tuần trăng. Đừng nghĩ tới đó nữa. Không phải những điều này phải làm cho chúng ta có ấn tượng. Ngoài ra, chúng ta sẽ đi về phía đồng bằng, và sẽ rất dễ chịu để bước. Trời lạnh nhưng không đến nỗi, mà trái lại, khô ráo. Trong khi chờ đợi, hãy lên sân thượng, có mặt trời đẹp ở đó. Chúng ta sẽ tất cả cùng nhau nghỉ trên đó.
21* TRÊN ĐƯỜNG TRỞ VỀ GALILÊ
- Bây giờ chúng ta đã làm vui cho người mục đồng rồi, chúng ta sẽ làm gì nữa? - Phêrô hỏi khi ông đi một mình với Giêsu, trong khi những người khác đi thành nhóm ở sau vài mét.
- Chúng ta sẽ trở lại con đường dọc bờ biển, và chúng ta sẽ đi về phía Sicaminon.
- Thế à? Con nghĩ rằng chúng ta đi về Caphanaum...
- Không nên, Simon Jonas, không nên. Những tin tức về vợ con và đứa trẻ, con đã biết rồi. Và đối với Judas... Đơn giản hơn là nên đi đón ông ta.
- Chúa ơi, tốt lắm. Ông ta sẽ không đi con đường ở bên trong đất liền, dọc bờ sông hay bờ hồ à? Đó là con đường ngắn nhất và khuất
171
nhất...
- Nhưng ông ta sẽ không đi con đường đó. Con hãy nhớ là ông ta canh chừng các môn đệ, mà họ thì vào mùa này, họ rải rác ở phía tây, vì trời trở lạnh ở các nơi khác.
- Tốt lắm, tốt lắm. Nếu Thầy nói vậy... Về phần con, con chỉ cần ở lại với Thầy và thấy Thầy bớt buồn. Và... Con chả vội vã gì để đi tìm Judas Simon. Chớ gì chúng ta không gặp ông ta!... Chúng ta sẽ thoải mái giữa đám chúng ta với nhau!...
- Simon! Simon! Tình bác ái huynh đệ của con như vậy à?
- Lạy Chúa... Đó là sự thật của con - Phêrô nói cách thẳng thắn, và ông ta nói cách hăng hái tới nỗi Giêsu phải nín để khỏi cười. Làm sao người ta có thể khiển trách cách nghiêm nghị một người vừa ngay thẳng, vừa trung thành như vậy?
Giêsu thích yên lặng và chỉ trỏ mối lợi vượt mức ở bờ dốc phía bên trái họ, trong khi đồng bằng mở ra càng lúc càng phẳng ở bên phải. Ở đàng sau họ, nhóm chín vị nói chuyện với nhau. Gioan giống như vị chủ chăn hiền lành với một con chiên vác trên vai, có lẽ là qùa của người mục đồng Anna.
Sau một lúc, Phêrô hỏi: “Vậy ta không về Nazarét à?”
- Chắc chắn chúng ta sẽ về. Mẹ Thầy sẽ rất vui được biết tin tức về cuộc hành trình của Gioan và Sintica.
- Và được gặp Thầy.
- Và được gặp Thầy.
- Ít nhất, họ có để cho mẹ yên thân không?
- Chúng ta sẽ biết.
- Nhưng tại sao họ hăng say qúa vậy? Có biết bao người giống như Gioan ngay cả ở Juđê, nhưng... Hơn nữa, họ còn bảo vệ và giấu họ cho khỏi Rôma.
- Con hãy chắc rằng họ làm không phải vì Gioan, nhưng vì đó là điều chính để kết án Thầy.
- Nhưng họ không tìm thấy nữa. Thầy đã làm rất hay. Thầy... sai chúng con đi một mình... Bằng đường biển... bằng thuyền trong nhiều dặm, và rồi ra bên ngoài biên giới, trên một chiếc tàu... Ôi!
172
Tất cả đều tốt! Con hy vọng rằng họ thực sự thất vọng.
- Họ sẽ thất vọng.
- Con tò mò muốn gặp Judas để quan sát ông ta coi, giống như một bầu trời đầy gió và dấu hiệu, và coi nếu...
- Nhưng, sau cùng...
- Thầy có lý. Giống như một cái đinh ở trong này - Và ông vỗ vào trán ông.
Để giải khuây cho ông, Giêsu gọi tất cả những người khác và chỉ cho họ sự tàn phá kỳ lạ xảy ra do mưa đá và khí lạnh, trong khi người ta nghĩ rằng mùa lạnh đã qua đối với năm nay... Một số nói về điều này, một số nói về điều khác. Tất cả đều muốn thấy ở đó dấu hiệu về hình phạt của Thiên Chúa trên Palestin ngạo mạn, không tiếp nhận Chúa. Những người thông thái hơn thì nhắc lại những sự kiện tương tự, rất được biết bởi những bài tường thuật xưa, trong khi những người trẻ và những người ít học thì nghe cách chú ý và ngạc nhiên.
Giêsu lắc đầu: “Đó là ảnh hưởng của mặt trăng và gió từ xa, Thầy đã nói với các con rồi. Trong các nước ở cực bắc, có những hiện tượng xảy ra mà tất cả vùng phải chịu hậu qủa”.
- Vậy tại sao một số thửa ruộng vẫn đẹp?
- Mưa đá đã làm như vậy.
- Đó không phải là hình phạt cho những người xấu nhất sao?
- Điều đó sẽ có thể, nhưng đây không phải vậy. Hoạn nạn, nếu nó chỉ như vậy...
- Hầu như tất cả quê hương chúng ta sẽ trở nên khô cằn và thê thảm, phải không Chúa? - Andrê nói.
- Nhưng trong các lời tiên tri có nói tượng trưng rằng sẽ xảy ra sự dữ cho những kẻ không tiếp nhận Đức Messi. Các tiên tri có thể nói dối không?
- Không, Batôlômêo. Điều đã nói là sẽ xảy ra. Nhưng Đấng Tối Cao rất nhân từ, vô cùng nhân từ. Nếu là để phạt thì phải rất nhiều hơn những điều đang xảy ra bây giờ. Các con cũng hãy tốt, đừng ước ao hình phạt cho những kẻ có con tim sắt đá và trí khôn khó
173
chịu. Hãy ước ao cho họ hoán cải chứ đừng ước ao trừng phạt. Gioan, đưa con chiên cho bạn nào giữ rồi tới coi biển của con từ trên đỉnh của đụn cát này. Thầy cũng lên coi.
Qủa vậy, họ đang ở trên đoạn đường rất gần biển, chỉ cách biển bằng một dẫy đụn cát dợn sóng, trên đó mọc vài cây thốt nốt gầy lỏng chỏng và những cây me bơ phờ, những cây nhũ hương và những loại cây khác mọc trên cát.
Giêsu lên đó với Gioan. Nhưng ai bỏ Người? Không ai cả. Và tất cả họ đều lẹ làng lên trên đỉnh, dưới mặt trời đẹp nhưng không chói, trước mặt biển trong sáng tươi cười...
Thành phố Ptôlêmai ở rất gần đó với những ngôi nhà trắng của nó.
- Chúng ta có vào đó không? - Juđa Alphê hỏi.
- Không cần. Chúng ta sẽ dừng lại để ăn tại căn nhà đầu tiên. Thầy muốn ở Sicaminon chiều nay. Có lẽ chúng ta sẽ gặp được Isaac ở đó.
- Ông ta đã làm biết bao điều tốt, hen! Thầy có nghe Abel, Gioan và Giuse nói không?
- Có. Nhưng tất cả các môn đệ đều rất linh hoạt. Thầy chúc tụng Cha Thầy ngày đêm vì vậy. Tất cả các con... niềm vui của Thầy, bình an của Thầy, sự an toàn của Thầy... - Và Người nhìn họ với bao
tình yêu, tới nỗi nước mắt trào trên mi mười vị. Và thị kiến chấm dứt ở cái nhìn này.
22* GẶP JUDAS ISCARIOT VÀ TÔMA
Thung lũng Kison, mặc dầu mặt trời chói lọi trong bầu trời thanh quang, nhưng vẫn lạnh. Một luồng gió băng giá thổi tới, sau khi đã lướt trên các ngọn đồi ở phía bắc, làm hư hại những cây non, chúng rung rinh và quăn xoắn lại, chờ chết trong mầu xanh mới của chúng.
- Nhưng cái lạnh này kéo dài lâu không? - Mathêu hỏi trong khi ông quấn chặt hơn chiếc áo khoác của ông và chỉ để ló ra một phần của khuôn mặt, tức là mắt và mũi.
174
Batôlômêo trả lời bằng giọng bị ngộp bởi áo khoác của ông, vì ông trùm kín, kể cả miệng: “Có lẽ phần còn lại của tuần trăng”.
- Đó. Vậy là chúng ta sẽ tha hồ mát! Nhưng hãy kiên nhẫn! May mắn là ở Nazarét, chúng ta sẽ ở trong căn nhà hiếu khách... Và trong lúc đó, cái lạnh sẽ qua đi.
- Đúng vậy Mathêu. Nhưng đối với tôi, nó đã qua rồi. Thấy Giêsu bớt bị đè nặng, anh có thấy như mình nhẹ nhõm hơn không?
- Andrê hỏi.
- Đúng vậy. Nhưng tôi... tôi thấy là không thể như vậy được: tàn héo đi vì những điều chúng ta đã biết. Thực tình các anh biết là không có chuyện gì mới xảy ra sao? - Philíp hỏi.
- Không có gì. Tuyệt đối không có gì. Tôi đã nói với anh là cả đến có nhiều cái vui ở biên giới Syro-Phênici, vì có nhiều người tin. Và Người đã làm những phép lạ mà tôi đã kể cho anh - Giacôbê Alphê bảo đảm.
- Người đã ở rất nhiều với Simon Jonas trong những ngày này, và Simon đã rất thay đổi... Nhưng tất cả các anh đều thay đổi! Tôi không biết... các anh... có vẻ khắc khổ hơn, như vậy đó - Philíp nói.
- Nhưng đó chỉ là cảm tưởng! Thực tế, chúng tôi vẫn vậy. Chắc chắn là vì thấy Thầy khổ bởi biết bao thứ, nó đã không làm cho chúng tôi vui. Và cũng vì thấy họ hăng hái dường nào để chống lại Người... Nhưng chúng tôi, chúng tôi sẽ bảo vệ Người. Ôi! Chúng sẽ không thể làm gì cho Người nếu chúng ta ở với Người. Chiều hôm qua tôi đã nói với Người sau khi đã nghe những điều Hermas nói, vì ông ta là người đứng đắn và người ta có thể tin ông. Tôi nói: “Thầy đừng ở một mình. Bây giờ Thầy đã có nhiều môn đệ, và Thầy thấy đó, họ làm việc và làm rất tốt, và con số không ngừng gia tăng. Vậy chúng con sẽ ở bên Thầy. Con nói với Thầy là Thầy sẽ không làm tất cả. Đã đến lúc phải cất gánh nặng cho Anh, Anh ạ. Nhưng Thầy sẽ ở lại với chúng con, ở giữa chúng con giống như Môise ở trên núi. Và chúng con sẽ chiến đấu cho Thầy, sẵn sàng mọi dịp để bảo vệ Thầy, kể cả về vật chất. Điều đã xảy đến cho ông Gioan Tẩy Giả sẽ không được xảy đến cho Thầy”. Bởi vì sau
175
cùng, nếu số môn đệ ông Tẩy Giả không giảm thiểu tới nỗi chỉ còn có hai ba người không đủ khả năng để bảo vệ cho ông, thì ông đã không bị bắt. Chúng ta căn bản là mười hai người, và tôi muốn thuyết phục họ hợp nhất, và giữ ở bên cạnh Người ít là vài môn đệ nữa, những người trung thành nhất và có nghị lực nhất, ví dụ những kẻ đã ở với Gioan ở Machéronte, những kẻ trung thành và can đảm như Gioan, Mathia và cả Giuse. Các anh có biết là người trai trẻ này có rất nhiều hứa hẹn không? - Thađê nói.
- Có. Isaac là một thiên thần, nhưng sức lực của ông ta hoàn toàn siêu nhiên. Nhưng Giuse thì rất mạnh, kể cả về thể lực. Anh ta trạc tuổi với chúng ta.
- Và anh ta học được dễ dàng. Anh có nghe Hermas nói không: “Nếu anh ta được học, anh ta sẽ là một rabbi, và hơn nữa, lại là người công chính.” Và Hermas biết điều anh ta nói.
- Nhưng tôi... tôi sẽ giữ ở gần cả Étienne và Hermas, cùng với thầy cả Gioan, vì sự hiểu biết của họ về lề luật và Đền Thờ. Các anh có biết sự hiện diện của họ là gì trước mặt các luật sĩ và pharisiêu không? Kiểm tra và hãm phanh... và với những kẻ nghi ngờ thì họ là sự xác nhận rằng: Qúi vị thấy rằng có những người Israel tốt nhất ở chung quanh vị Rabbi như những học trò, những đầy tớ - Giacôbê Alphê nói.
- Các anh có lý. Hãy nói vậy với Thầy đi. Hôm qua các anh đã nghe Người nói: “Các con phải vâng lời, nhưng các con cũng phải mở tâm hồn các con ra cho Thầy để nói với Thầy những gì các con thấy là chính đáng, để các con quen biết điều khiển trong tương lai. Và Thầy, nếu Thầy thấy rằng lời nói của các con chính đáng, Thầy sẽ chấp nhận tư tưởng của các con” - Zêlôte nói.
- Có lẽ Người cũng sẽ làm vậy để chứng tỏ rằng Người yêu chúng ta, và chờ đợi tất cả chúng ta nhìn nhận là tất cả chúng ta, kẻ ít người nhiều, đều là nguyên nhân cho sự đau khổ của Người - Batôlômêo nhận xét.
- Hay là thực sự Người mệt mỏi vì phải nghĩ đến tất cả, phải quyết định và chịu trách nhiệm một mình. Có lẽ Người cũng nhận
176
ra là sự thánh thiện trọn lành của Người bị... tôi nói là ở trước mặt Người một sự bất toàn là cái thế giới không thánh. Chúng ta không phải hoàn toàn thánh, chỉ hơi bớt xảo quyệt hơn những người khác một tí... Và bởi vậy, có khả năng hơn để trả lời cho những người gần giống như chúng ta - Simon Zêlote nói.
- Và hiểu biết họ, anh phải nói vậy - Mathêu nhấn mạnh.
- Ôi! Về điều này thì tôi chắc Người cũng biết, và cả đến Người biết hơn chúng ta, vì Người đọc được trong qủa tim - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Vậy tại sao đôi khi Người hành động như vậy: đưa mình ra trước những phiền phức và nguy hiểm? - Andrê buồn rầu hỏi.
- Nhưng... Tôi không biết trả lời thế nào - Thađê nhún vai nói. Và những người khác cũng thú nhận cùng một điều.
Gioan nín lặng nên anh ông ghẹo: “Mày luôn luôn biết tất cả về Giêsu - hai người đôi khi giống như đôi tình nhân - Người không bao giờ nói cho mày tại sao Người hành động như vậy sao?”
- Có, em mới hỏi Người xong đây, Người luôn luôn trả lời em: “Vì Thầy phải làm như vậy. Thầy phải hành động tựa như thế giới gồm toàn những người vô tri nhưng tốt. Thầy cho hết mọi người cùng một giáo lý, như vậy mới phân biệt được con cái của Chân Lý và con cái của Sự Dối Trá”. Người cũng nói với em: “Con thấy không Gioan? Giống như sự phán xét lần thứ nhất, không toàn thể, không tập thể, nhưng cá thể. Trên căn bản các hành động của họ về đức tin, đức ái, sự công chính, các con chiên sẽ được tách rời ra với các con dê. Và việc đó sẽ còn tiếp tục sau này, khi Thầy không còn ở đây, nhưng sẽ có Giáo Hội Thầy trải qua các thế kỷ cho tới tận thế. Sự phán xét lần đầu của toàn thể loài người sẽ xảy ra trong thế giới, nơi con người tự do hành động, luôn luôn có trước mắt họ Sự Thiện và Sự Ác, Sự Thật và Dối Trá. Cũng đã có như vậy tại Thiên Đàng dưới đất, nơi sự phán xét đầu tiên được tuyên bố trước cây của Sự Thiện và Sự Ác, bị xâm phạm bởi những người bất tuân lệnh Thiên Chúa. Rồi khi mỗi người chết, sự phán xét đã được ghi trong sách về các hành vi của họ bởi một thần trí không khiếm
177
khuyết sẽ được phê chuẩn. Rồi sau cùng sẽ đến cuộc Đại Phán Xét, cuộc phán xét kinh khủng. Và khi đó con người sẽ bị phán xét toàn bộ, từ Ađam tới người sau cùng, bị phán xét theo điều họ đã muốn cho họ trên mặt đất một cách tự do. Bây giờ nếu thầy để riêng ra: một bên là những người đáng được hưởng đấng là Lời Thiên Chúa, là Phép Lạ, là Tình Yêu, và ở phía bên kia là những kẻ không đáng - Thầy có thể làm việc đó do quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa - thì những kẻ bị loại trừ, chúng là những Satan, khi bị phán xét riêng, chúng sẽ la lớn: ‘Kẻ có tội chính là Ngôi Lời của Ngài, Người đã không muốn dạy dỗ chúng tôi’. Nhưng làm như vầy, chúng sẽ không nói được điều đó, hoặc nếu chúng nói, tức là chúng nói dối một lần nữa, và bởi vậy, chúng sẽ bị xét xử”.
- Vậy không đón nhận giáo lý có nghĩa là bị đày? - Mathêu hỏi.
- Điều đó, tôi không biết là có phải hết những kẻ không tin sẽ thực sự bị đày hay không. Nếu các anh nhớ, khi nói với Sintica, Người đã cho hiểu rằng tất cả những kẻ sống ngay lành suốt đời sẽ không bị đày, dù là họ tin vào một tôn giáo khác. Nhưng chúng ta có thể hỏi Người điều đó. Chắc chắn là Israel, kẻ được nghe nói về Đức Messi mà lúc này chỉ tin một phần, hay tin ơ hờ, hay từ chối Người, sẽ bị phán xét nghiêm khắc.
- Thầy nói rất nhiều với mày nên mày biết rất nhiều điều mà chúng ta không biết - anh Giacôbê của ông nhận xét.
- Đó là lỗi của các anh. Tôi, tôi hỏi Người cách đơn giản. Đôi khi tôi hỏi Người những điều làm cho Người thấy như Gioan của Người là thằng đại ngu. Nhưng điều đó không can hệ đối với tôi, chỉ cần là tôi biết tư tưởng của Người và có nó ở trong tôi, để làm cho nó thành của tôi. Các anh cũng phải hành động như vậy. Nhưng vì các anh luôn luôn sợ! Mà sợ gì chứ ? Sợ bị coi là ngu dốt, nông cạn, đầu óc đặc sệt? Các anh chỉ phải sợ một điều là chưa chuẩn bị sẵn sàng khi Người ra đi. Người luôn luôn nói điều đó... và tôi luôn luôn tự bảo mình như vậy để chuẩn bị tôi cho cuộc chia ly... Nhưng tôi luôn luôn cảm thấy chuyện đó sẽ là một đau đớn lớn lao.
- Đừng làm tôi nghĩ đến chuyện đó - Andrê kêu lên, và những
178
người khác đồng thanh cách năn nỉ.
- Nhưng bao giờ việc đó sẽ xảy ra? Người luôn luôn nói “sắp sửa”. Việc đó có thể là trong một tháng hay là trong hàng năm. Người còn rất trẻ, và thời gian trôi mau... Nhưng anh làm sao vậy? Anh tái mét... - Thađê hỏi Giacôbê.
- Không sao, không sao. Anh suy nghĩ - Giacôbê Alphê vội nói trong khi cúi đầu xuống. Thađê cúi xuống để nhòm anh ông cho rõ... “Nhưng anh có nước ở mắt! Anh làm sao vậy?...”
- Không có gì khác ngoài những điều các anh cũng có... Tôi nghĩ đến lúc chúng ta chỉ còn một mình.
- Nhưng kìa, làm sao mà Simon Jonas chạy hỏa tốc, vừa chạy vừa la như con hải âu trong ngày giông bão? - Giacôbê Zêbêđê hỏi, và ông chỉ vào Phêrô vừa rời khỏi Giêsu và vừa chạy vừa nói những lời mà vì gió thổi nên không nghe thấy.
Họ bước nhanh hơn và thấy rằng Phêrô chạy vào con đường dẫn về thành phố Séphoris bây giờ đã rất gần (các ông đã nghĩ có lẽ Giêsu ra lệnh đi Séphoris bằng lối tắt này). Nhưng rồi khi nhận định rõ, họ thấy hai người bộ hành từ thành phố đi ra con đường lớn chính là Tôma và Judas.
- Kìa! Ở đây? Thực tình ở đây? Ôi! Các ông làm gì ở đây vậy? Từ Nazarét, chắc chắn họ đã đi Cana, rồi đi Tibêriat... - nhiều người tự hỏi.
- Có lẽ họ đã tới tìm các môn đệ. Đó là sứ mạng của họ - Zêlote nói cách thận trọng, vì ông cảm thấy sự nghi ngờ đã ngóc đầu rắn lên trong lòng nhiều người.
- Đi mau lên. Giêsu có một mình và hình như Người chờ chúng ta... - Mathêu khuyên.
Họ đi và tới chỗ Giêsu cùng một lúc với Phêrô, Judas và Tôma. Giêsu rất tái xanh đến nỗi Gioan hỏi Người: “Thầy thấy khó chịu à?” Nhưng Giêsu mỉm cười với ông và làm một dấu hiệu phủ định trong khi Người chào hai người đã tới sau một thời gian vắng mặt qúa lâu.
Trước tiên Người ôm Tôma. Ông vẫn có thái độ nhẹ nhàng và
179
vui hoạt như thường lệ. Nhưng ông trở nên nghiêm trang khi ông thấy rằng Thầy đã tỏ tường thay đổi, và ông vội vã hỏi Người: “Thầy bệnh à?”
- Không, Tôma, không hề. Còn con, vui không? Sung sướng không?
- Con, thưa Thầy có. Luôn luôn vui vẻ, luôn luôn sung sướng... Con chỉ thiếu có Thầy để cho con tim con được hạnh phúc. Ba má con biết ơn Thầy vì đã cho con về nhà ít lâu. Ba con hơi bệnh, và do đó chính con làm việc. Con đã tới nhà bà chị sinh đôi của con để coi thằng cháu. Con đã đặt cho nó cái tên mà Thầy đã chỉ cho con. Rồi Judas tới, và ông đã dắt con đi như một con chim cu trong mùa làm tình: miệt trên, miệt dưới, những nơi có các môn đệ. Ông đã làm vậy vì việc của ông, và không phải ít. Bây giờ ông ta sẽ nói với Thầy, vì ông ta đã làm việc bằng mười người, và ông ta xứng đáng được thầy nghe.
Giêsu để cho ông ta đi, và bây giờ đến lượt Judas. Ông đã chờ một cách nóng lòng, bây giờ ông tiến lên cách khẳng định, với vẻ thoải mái và chiến thắng. Giêsu xuyên thấu ông bằng cái nhìn lam ngọc của Người, nhưng Người hôn ông và nhận cái hôn của ông cũng như đối với Tôma, và theo sau là những lời rất tình cảm: “Judas, mẹ con có sung sướng vì có con ở bên cạnh không? Bà có mạnh khỏe không, người đàn bà thánh?”
- Thưa Thầy có, và bà chúc phúc Thầy vì đã gởi Judas của bà cho bà. Bà muốn gởi cho Thầy những tặng phẩm, nhưng làm sao con mang nổi trong khi con đi chỗ nọ chỗ kia, qua núi qua sông? Thầy ơi, Thầy có thể yên trí. Tất cả các nhóm môn đệ mà con tới thăm đều làm việc cách thánh thiện. Tư tưởng càng ngày càng lan rộng. Con muốn kiểm tra với tính cách cá nhân, những ảnh hưởng của họ nơi các kẻ quyền thế nhất: các luật sĩ và pharisiêu. Con quen biết nhiều người trong đám họ, và con mới quen biết những người khác nữa vì tình yêu đối với Thầy. Con đã lại gần các người saddu, các người của Hêrôđê... Ôi! Con bảo đảm với Thầy là phẩm giá của con đã bị hạ thấp rất nhiều... Nhưng vì tình yêu đối với
180
Thầy, con làm việc này và các việc khác nữa! Con đã gặp phải sự khinh chê bạc đãi và nguyền rủa, nhưng con thành công trong việc khơi dậy thiện cảm nơi những người trước có thành kiến xấu đối với Thầy. Con không cần Thầy khen, con chỉ cần làm bổn phận của con, và con ca ngợi Thiên Chúa đã luôn luôn giúp con. Trong vài trường hợp, con phải dùng phép lạ, và con làm được cách khó lòng, vì họ đáng bị sét đánh hơn là phúc lành. Nhưng Thầy bảo hãy yêu và kiên nhẫn... Con đã như vậy vì danh dự và vì vinh quang của Thiên Chúa cũng như vì niềm vui của Thầy. Con hy vọng là nhiều trở ngại sẽ được san bằng vĩnh viễn, tới nỗi con bảo đảm trên danh dự của con là nó không còn nữa. Ở bên Thầy, hai người đó đã gây ra biết bao bóng tối. Rồi con cảm thấy ngần ngại vì đã xác nhận một điều mà con không biết chắc. Do đó con muốn kiểm tra để có thể dự phòng, để không bị bắt qủa tang là nói dối, điều làm cho con luôn luôn bị nghi ngờ bởi những kẻ cần được hoán cải. Thầy nghĩ coi, con đã lại gần cả Anna và Caipha!...Ôi! Họ muốn thiêu đốt con bằng những khiển trách... Nhưng con rất khiêm tốn, rất đáng tín phục, tới nỗi sau cùng họ đã nói với con: “Vậy nếu câu chuyện thực sự như vậy... chúng tôi thì chúng tôi lại biết khác. Các ông trưởng Đại Pháp Đình có thể biết, mà chúng tôi lại tường thuật điều trái lại, và...”
- Anh không muốn nói là Giuse và Nicôđêmô là những kẻ dối trá chứ ? - Zêlote ngắt lời. Ông đã nín nhịn, nhưng không thể nhịn hơn được nữa, vì sự cố gắng đã làm cho ông tái mét.
- Ai nói vậy? Trái lại, Giuse đã nhìn thấy tôi khi tôi ở nhà Anna đi ra, và ông hỏi tôi: “Sao anh có vẻ băn khoăn qúa vậy?” Tôi đã kể hết cho ông ta và nói Thầy đã xa lìa tên tù khổ sai và người đàn bà Hy Lạp thế nào theo lời khuyên của ông và của Nicôđêmô. Vì Thầy đã xa lìa họ rồi phải không?
Judas nói trong khi nhìn đăm đăm vào Giêsu bằng đôi mắt huyền của ông, rực lửa tới nỗi nó giống như lân tinh. Tựa như ông ta muốn xuyên thấu cái nhìn qua Giêsu để đọc những việc Người đã làm.
Giêsu luôn luôn có ông ở trước mặt, rất gần. Người bình tĩnh
181
nói: “Thầy yêu cầu con tiếp tục bài tường trình của con. Thầy rất chú ý tới nó. Đây là bài tường trình chính xác, có thể giúp ích rất nhiều”.
- A! Vậy con đã nói rằng Anna và Caipha đã thay đổi ý kiến. Điều đó là quan trọng đối với chúng ta, phải không? Lại nữa... Ồ! Bây giờ tôi sắp làm các anh cười! Nhưng các anh phải biết rằng các rabbi đã đặt tôi ở giữa họ và bắt tôi chịu đựng một cuộc xét nghiệm khác, tựa như tôi là đứa trẻ tới tuổi vị thành niên! Và ôi! Cuộc xét nghiệm! Rồi tôi đã thuyết phục họ và họ đã để tôi đi. Lúc đó tôi thấy nghi ngờ và sợ vì đã nói một điều không có thực. Và tôi nghĩ tới mang Tôma đi theo, để lại đi tới nơi có các môn đệ, hoặc đến những nơi tôi có thể phỏng đoán là Gioan và cô Hy Lạp có thể ở ẩn. Tôi đã tới nhà Lazarô, nhà Manaen, tới lâu đài của Chouza, tới nhà Êlise ở Betsur, tới Béther trong vườn của Jeanne, tới Gétsêmani, tới căn nhà nhỏ của Salomon ở bên kia Giođan, tới Nước Đẹp, tới nhà Nicôđêmô, nhà Giuse...
- Nhưng anh không gặp ông ta à?
- Có. Ông ta đã bảo đảm với tôi là ông không bao giờ thấy hai người này nữa. Nhưng Thầy biết... Con muốn được chắc chắn... Tóm lại, con đã thăm tất cả những nơi mà con có thể nghi là họ ở đó... Và đừng nghĩ là con khổ vì không tìm thấy họ. Thầy hiểu lầm con - và Tôma có thể xác nhận - cứ mỗi lần con ra khỏi một nơi mà con không tìm thấy ông ta, và cả đến không thấy một dấu vết nào về sự hiện diện của ông, con đã nói: “Ngợi khen Chúa”. Và con đã nói: “Ôi lạy Đấng Hằng Hữu, xin làm cho con không bao giờ tìm thấy ông ta nữa!” Thực sự là cái thở ra của linh hồn con... Nơi sau cùng là Esdrelon... A! Thật đúng lúc! Ismael Ben Fabi đang ở trong lâu đài của ông ở miền quê Mageddo, ông ta ước ao có Thầy làm khách... Nhưng nếu con ở địa vị Thầy thì con không tới đó.
- Tại sao? Chắc chắn Thầy sẽ tới. Thầy cũng vậy, Thầy ước ao gặp ông ta. Và cả đến chúng ta sẽ đến đó ngay. Thay vì đi Séphoris, chúng ta sẽ đi Esdrelon, rồi Mageddo vào ngày mốt, tức là áp ngày Sabát, và từ đó tới nhà Ismael.
182
- Nhưng, đừng, Chúa ơi! Tại sao? Thầy tin là ông ta yêu Thầy à?
- Nhưng nếu con đã đến gần ông ta và biến đổi ông ta theo chiều có lợi cho Thầy, tại sao con lại không muốn là Thầy tới đó?
- Con không có lại gần ông ta. Ông ta đang ở ngoài đồng và ông ta nhận ra con - có phải không Tôma?- Con muốn chạy trốn khi con thấy ông ta, nhưng con không thể, vì ông ta gọi đích danh con. Con... con, con chỉ có thể khuyên Thầy là đừng bao giờ nên tới nhà một pharisiêu, một luật sĩ hay một người cùng loại như vậy nữa. Điều đó chẳng ích lợi gì cho Thầy đâu. Chúng ta hãy quanh quẩn với nhau, một mình chúng ta với dân chúng, và chỉ vậy thôi. Cả đến Lazarô, Nicôđêmô, Giuse... Điều đó sẽ là một hy sinh... Nhưng tốt hơn là vậy, để khỏi tạo ra ghen tị, thù ghét, và đưa lưng ra cho sự chỉ trích... Tại bàn ăn, họ nói... và họ làm việc một cách rất thâm hiểm trên các lời của Thầy. Nhưng hãy trở lại vấn đề Gioan... Lúc đó con đi Sicaminon, mặc dầu Isaac mà con đã gặp ở biên giới Samari, đã thề với con là không còn gặp ông ta nữa kể từ hồi tháng mười.
- Và Isaac đã thề sự thật. Nhưng còn về những điều con khuyên Thầy, về những liên lạc với các luật sĩ và các pharisiêu, thì ngược lại với những điều con đã nói với Thầy trước. Con đã bảo vệ Thầy mà... Đó là điều con đã làm, phải không? Con đã nói: “Con đã xóa tan nhiều thành kiến về Thầy”, đó là điều con đã nói, phải không?
- Thưa Thầy đúng.
- Vậy tại sao Thầy không thể chính mình hoàn tất việc đó để bảo vệ Thầy? Vậy chúng ta sẽ tới nhà Ismael. Và bây giờ con hãy trở lại đó để báo tin cho ông ta. Cả Andrê, Simon Zêlote và Batôlômêo cũng đi với con. Chúng ta sẽ vào nhà các nông dân để nghỉ. Còn về những gì có liên can tới Sicaminon, chúng ta tới đó và mười một người trong chúng ta đã ở đó. Chúng ta xác định với con là Gioan không có ở đó. Và ông ta cũng không có ở Caphanaum hay Bétsaiđa, hay Tibêriat, Magđala, Nazarét, Corozain, Bétlem thuộc Galilê... và tiếp tục như vậy về tất cả những nơi mà có lẽ con có ý định tới đó để... Chính con được bảo đảm về sự hiện diện của Gioan trong
183
đám các môn đệ cũng như trong các nhà bạn hữu.
Giêsu nói bình tĩnh và tự nhiên... nhưng trong đó phải có cái gì làm cho Judas bối rối, vì có một lúc ông biến sắc. Giêsu ôm ông như để cho ông một cái hôn... Và trong khi Người giữ ông, má kề má, Người thì thầm với ông cách dịu dàng: “Khốn nạn! Con đã làm gì cho linh hồn con?”
- Thưa Thầy... con...
- Đi đi! Con xông mùi hỏa ngục còn hơn chính Satan nữa! Im đi và hãy thống hối, nếu con có thể.
Judas!... Nếu là tôi thì tôi sẽ chạy trốn hết tốc lực. Nhưng ông ta! Trơ trẽn, nói lớn: “Cám ơn Thầy. Nhưng con xin Thầy cho con nói vài lời cách kín đáo trước khi con đi”.
Tất cả đều tránh xa ra nhiều mét.
- Chúa ơi, tại sao Thầy lại nói với con những lời này? Thầy làm con khổ...
- Bởi vì đó là sự thật. Kẻ có những giao tiếp với Satan thì có mùi Satan.
- A! Tại vì phép chiêu hồn? Ôi! Thầy làm con sợ hết hồn! Đó chỉ là để dỡn chơi! Không gì hơn một trò chơi của đứa trẻ tò mò. Và việc đó đã giúp con tới gần những người saddu và làm con bỏ các ước muốn về cái trò này. Vậy Thầy thấy là Thầy có thể miễn thứ cho con trong tất cả sự bình an. Đó là những chuyện vô ích khi người ta có cái quyền phép của Thầy. Thầy có lý. Đó, Thầy, lỗi của con chỉ nhẹ thôi!...Và Thầy thật khôn ngoan. Nhưng ai đã nói điều này với Thầy đó?
Giêsu nhìn ông cách nghiêm nghị và không trả lời.
- Nhưng có phải thật là Thầy nhìn thấy cái tội này ở trong qủa tim của con không? - Judas hỏi, hơi có vẻ sợ.
- Con làm Thầy ghê tởm. Đi đi, đừng nói thêm một lời nào nữa - Và Giêsu trở lưng để đến với các đồ đệ và người ra lệnh cho họ đổi hướng đi. Trước hết, Người cho Batôlômêo, Simon và Andrê đi, họ lại với Judas. Họ bước đi lẹ trong khi những người khác đi từ từ, không hay biết gì về sự thật mà chỉ một mình Giêsu biết.
184
Họ vô tri tới nỗi họ khen Judas về những hoạt động của ông và cách biết làm của ông. Và Phêrô thật thà kết án mình về sự xét đoán tàn nhẫn mà ông có trong con tim đối với người đồng môn đệ của ông...
Giêsu mỉm cười, một nụ cười dịu dàng, hơi mỏi mệt, tựa như Người nghĩ đến chuyện khác, tựa như Người không nghe rõ các truyện vãn của các bạn Người là những kẻ chỉ biết những điều mà nhân tính của họ cho phép họ biết.
23* ISMAEL BEN FABI
Tôi thấy Giêsu bước lẹ trên con đường lớn, bị luồng gió lạnh của buổi sáng mùa đông thổi qua và làm cho cứng lại. Các cánh đồng ở hai bên đường mới hơi e thẹn lú ra những lá non của mùa mới, một lớp màn xanh mỏng loan báo những hứa hẹn của tấm bánh tương lai, nhưng một lời hứa thực sự mới hơi nhận ra. Trong bóng rợp, có những luống đất chưa có được mầu xanh sống động và phúc đức này, chỉ có những luống ở ngoài mặt trời mới có nó, dù rất mong manh, nhưng đã vui tươi, vì nó nói rằng mùa xuân đang tới. Các cây ăn trái hãy còn trơ trụi, chưa có cái chồi nào phình ra trên các cành mầu tối. Chỉ có các cây oliu là có cái mầu xanh bạc muôn thuở của nó, với vẻ buồn dưới mặt trời tháng tám cũng như trong ánh sáng yếu ớt của buổi sáng mùa đông này. Và cùng với chúng, các cây xương rồng cũng phơi bày các lá mập mầu xanh của nó, một mầu xanh đặc biệt như sứ mới nhuộm mầu.
Như thường lệ, Giêsu đi độ hai ba bước ở đàng trước các môn đệ của Người. Tất cả họ đều cuộn kín trong áo khoác bằng len.
Có một lúc Giêsu dừng bước, quay lại hỏi các môn đệ Người: “Các con biết đường không?”
- Con đường này đó, nhưng căn nhà ở chỗ nào chúng con không biết, bởi vì nó ở giữa khu đất... Có lẽ ở kia, nơi có những cây oliu...
- Không, trái lại, có lẽ nó ở đàng kia, tận cuối đường, nơi có
185
những cây lớn trơ trụi.
- Chắc chắn ông ta phải có một con đường cho xe đi...
Tóm lại, họ không biết điều gì chính xác cả. Không thấy có ai ở trên đường hay trong cánh đồng. Họ tiến cách tình cờ, vừa đi vừa kiếm đường.
Họ nhìn thấy một căn nhà nhỏ nghèo nàn với hai ba mảnh ruộng ở chung quanh. Một cô bé đang kín nước tại một cái giếng.
- Bình an cho con, cô bé - Giêsu nói khi Người dừng lại trước hàng rào cây giới hạn một lối đi cho người qua lại.
- Bình an cho ông. Ông muốn gì?
- Một chỉ dẫn: nhà của pharisiêu Ismael ở chỗ nào con?
- Thưa Chúa, Ngài lạc lối rồi. Phải trở lại ngã tư và đi vào con đường ở phía tây. Nhưng phải đi bộ rất nhiều, rất nhiều, vì Ngài phải trở lại đó, chỗ ngã tư, và cuốc bộ, cuốc bộ. Ngài đã ăn chưa? Trời lạnh và với bao tử rỗng, người ta thấy lạnh hơn. Xin mời vào, nếu Ngài muốn. Chúng con là những người nghèo, nhưng Ngài cũng chẳng giầu, Ngài có thể thích nghi. Vào đi - và bằng một giọng the thé, nó gọi: “Má ơi!”
Một người đàn bà đi tới ngưỡng cửa. Bà trạc ba lăm hay bốn chục. Khuôn mặt ngay thẳng, hơi buồn. Bà ẵm trong tay một đứa bé độ ba tuổi, ăn mặc sơ sài.
- Xin mời vào. Lửa đã nhúm, tôi sẽ biếu ông sữa và bánh.
- Tôi không phải một mình. Tôi có các bạn.
- Xin mời tất cả vào. Và nguyện phúc lành của Thiên Chúa ở với các người hành hương mà tôi cho trọ.
Họ vào trong căn nhà bếp thấp và tối. Một lò lửa vui lách tách. Họ ngồi đó đây trên những chiếc rương thô kệch.
- Bây giờ tôi đi sửa soạn... Mới vừa sáng nên tôi chưa kịp xếp đặt thứ tự... Xin miễn thứ cho tôi.
- Bà có một mình à? - Giêsu hỏi.
- Tôi có chồng và đàn con: bảy đứa. Hai đứa lớn nhất còn ở chợ tại Naim. Chúng phải đi chợ vì ông chồng tôi bệnh. Ông rất đau...
186
Các đứa con gái giúp tôi. Đây là đứa nhỏ nhất. Nhưng tôi còn một đứa khác chỉ hơi lớn hơn.
Đứa bé bây giờ đã mặc cái áo choàng, đi chân đất. Nó chạy lại với Giêsu và nhìn Người cách tò mò. Giêsu mỉm cười với nó, thế là thành bạn. Rồi nó hỏi Người cách tin tưởng:
- Ông là ai?
- Ông là Giêsu.
Người đàn bà quay lại nhìn Người cách chăm chú. Bà đứng yên giữa lò lửa và cái bàn với ổ bánh trong tay. Bà mở miệng để nói, nhưng rồi lại nín thinh.
Đứa bé tiếp tục:
- Ông đi đâu?
- Trên mọi nẻo đường của thế giới.
- Để làm gì?
- Để chúc lành cho những đứa trẻ tốt, và cho nhà của chúng, nơi người ta trung thành với Lề Luật.
Người đàn bà quay lại để làm một cử chỉ. Rồi bà làm hiệu cho Judas Iscariot, vì ông ta ở gần bà hơn cả. Judas nghiêng xuống trên người đàn bà khi bà hỏi: “Bạn ông là ai vậy?”
Judas ngạo nghễ, làm như Đức Messi được nhờ công trạng của ông và lòng tốt của ông: “Đó là vị rabbi Galilê: Giêsu Nazarét. Bà không biết Người sao?”
- Galilê đâu có ở trong tầm tay tôi. Và tôi, tôi có rất nhiều đau đớn!... Nhưng... Tôi có thể nói với Người không?
- Bà có thể - Judas nói cách ngạo nghễ. Ông ta giống như một nhân vật quan trọng tiếp nhận một cuộc hội kiến.
Giêsu tiếp tục nói chuyện với đứa trẻ. Nó hỏi Người có con không.
Trong khi đứa bé gái gặp lúc đầu tiên và một đứa khác hơi lớn hơn mang sữa và chén bát tới, người đàn bà lại gần Giêsu. Bà ngập ngừng một lát, rồi kêu lên với giọng nghẹn ngào: “Giêsu, xin thương ông chồng của con!”
Giêsu đứng dậy. Khổ người cao lớn của Người chế ngự trên bà,
187
nhưng Người nhìn bà với bao nhân từ, làm cho bà dám bạo dạn:
- Bà muốn Thầy làm gì?
- Ông ấy rất bệnh, sưng phù như một bì nước. Ông không thể cúi xuống để làm việc, ông không thể ngủ yên, vì ông bị ngộp và bị giật... và chúng con còn những con cái nhỏ...
- Bà muốn Thầy chữa cho ông ta? Nhưng tại sao bà muốn điều đó bởi Thầy?
- Bởi vì chính Thầy, con không biết Thầy, nhưng con đã nghe nói về Thầy. Số phận đã dẫn Thầy đến nhà con sau ba lần con đi tìm Thầy ở Naim và ở Cana. Hai lần có cả ông chồng con. Ông ta tìm Thầy, mặc dầu ông cảm thấy rất đau khi đi xe. Bây giờ cũng vậy, ông đã ra đi cùng với anh ông... Người ta đã nói với chúng con rằng vị Rabbi, sau khi rời Tibêriat, đã đi Cêsarê Philíp, và ông ta tới đó để đợi Thầy...
- Thầy không đi Cêsarê. Thầy tới nhà người pharisiêu Ismael, rồi Thầy sẽ đi về phía sông Giođan...
- Thầy là người tốt, vào nhà Ismael?
- Đúng. Tại sao?
- Bởi vì... bởi vì... Lạy Chúa, con biết Thầy nói rằng đừng xét đoán, hãy tha thứ và yêu thương. Con chưa bao giờ gặp Thầy, nhưng con tìm hiểu Thầy hết sức có thể của con, và con cầu nguyện Thiên Chúa cho con được nghe Thầy ít nhất là một lần. Con không muốn làm điều gì mất lòng Thầy... Nhưng làm sao người ta có thể không xét đoán Ismael và yêu ông ta? Con, con không có gì chung chạ với ông ta, vì vậy con không có gì phải tha cho ông ta. Sự hỗn láo ông ta quăng vào mặt chúng con khi ông gặp sự nghèo nàn của chúng con trên đường, chúng con rũ sạch nó đi với cùng một sự kiên nhẫn như khi chúng con rũ bỏ bùn và bụi đã bắn lên khi chiếc xe ngựa của ông đi qua. Nhưng yêu ông ta và không xét đoán ông ta thì khó qúa... Ông ta qúa độc ác!
- Ông ta qúa độc ác à? Với ai?
- Với mọi người. Ông ta đàn áp tôi tớ ông, ông cho vay nặng lãi, ông có những đòi hỏi độc ác, ông chỉ yêu có mình ông, ông là người độc ác nhất vùng. Lạy Chúa, ông ta không đáng được gì cả.
188
- Thầy biết. Bà nói sự thật.
- Và Thầy tới nhà ông ta?
- Ông ta đã mời Thầy.
- Lạy Chúa! Xin Ngài coi chừng. Ông ta không làm việc đó vì tình yêu đâu. Ông ta không thể yêu Thầy, và Thầy không thể yêu ông ta.
- Bà ơi! Thầy thì Thầy yêu cả những người tội lỗi. Thầy đến để cứu những kẻ đã hư mất.
- Nhưng ông ta, Thầy không cứu ông ta được. Ôi! Xin tha vì đã xét đoán! Thầy, Thầy biết... Mọi sự Thầy làm đều tốt. Xin tha cho cái lưỡi ngu si của con và đừng phạt con.
- Thầy không phạt bà, nhưng bà sẽ không làm vậy nữa. Hãy yêu cả những kẻ độc ác, không phải vì sự độc ác của họ, nhưng vì do tình yêu mà người ta được hưởng lòng thương xót, và lòng thương xót sẽ hoán cải họ. Bà tốt và biết ước ao nên tốt hơn. Bà yêu Sự Thật và Sự Thật đang nói với bà rằng Người yêu bà, vì theo Lề Luật, bà đã biết thương để cho khách trọ, và bà đã dạy dỗ con bà như vậy. Thiên Chúa sẽ là phần thưởng cho bà. Thầy phải tới nhà Ismael. Ông ta đã mời Thầy để giới thiệu Thầy với đông đảo bạn bè của ông muốn biết Thầy. Thầy không thể chờ chồng bà. Hãy biết rằng ông ta đang trên đường trở về. Bà hãy nói với ông ta là hãy chịu đựng một ít nữa, và hãy đến nhà Ismael ngay. Bà cũng hãy đến. Thầy sẽ chữa cho ông ta.
- Ôi! Lạy Chúa! - Người đàn bà qùi gối ở chân Giêsu và nhìn Người, vừa cười vừa khóc. Rồi bà nói: “Nhưng hôm nay là ngày Sabat...”
- Thầy biết. Thầy cần là ngày Sabát để nói vài điều thích đáng với Ismael. Tất cả những điều Thầy làm, Thầy đều làm với mục đích rõ ràng và tránh sai lầm. Tất cả hãy biết điều đó, kể cả các con, các bạn Thầy, các con cứ sợ và cứ muốn rằng Thầy gò bó cách sống của Thầy cho tương hợp với loài người, để không bị tổn hại. Thầy biết là chính tình yêu hướng dẫn các con. Nhưng các con phải biết yêu những người các con yêu cách tốt hơn bằng cách không
189
bao giờ để lợi ích của Thiên Chúa ở bên dưới lợi ích của người các con yêu. Bà ơi, Thầy đi và Thầy chờ bà. Nguyện cho bình an trường tồn trong căn nhà này, nơi người ta yêu Thiên Chúa và Lề Luật của Người, nơi người ta trọng kính hôn nhân và nuôi dạy con cái cách thánh thiện, nơi người ta yêu tha nhân và tìm kiếm Chân Lý. Chào .
Giêsu để tay trên đầu người đàn bà và hai đứa con gái. Rồi Người cúi xuống để hôn những đứa nhỏ nhất, và Người bước ra.
Bây giờ mặt trời yếu ớt của mùa đông đã điều hòa nhiệt độ của không khí. Một đứa con trai độ mười lăm tuổi đang chờ với một chiếc xe thô kệch và trong tình trạng tồi tàn.
- Thưa Chúa, con chỉ có cái xe này thôi, nhưng Ngài sẽ đi nhanh hơn và dễ chịu hơn.
- Không, bà ơi, hãy giữ xe để đến nhà Ismael. Chỉ cần chỉ cho Thầy con đường ngắn nhất.
Đứa con trai liền đi bên cạnh Người, và qua các thửa ruộng và đồng cỏ, họ đi về một vùng đất dợn sóng, bên ngoài vùng này có một vùng lòng chảo mênh mông chừng vài hecta, trồng tỉa rất cẩn thận, ở giữa là một căn nhà đẹp, rộng và thấp, bao bọc chung quanh bởi những khu vườn vun xới tốt.
- Thưa Chúa, đó là căn nhà - cậu con trai nói. “Nếu Ngài không cần con thì con về nhà con để giúp mẹ con”.
- Đi đi. Hãy luôn luôn là đứa con trai tốt. Thiên Chúa ở với con.
Giêsu đi vào căn nhà sang trọng tại vùng quê của Ismael. Các đầy tớ, rất đông, chạy ra gặp khách, chắc chắn là được chờ đợi. Một số khác chạy đi báo tin cho chủ. Ông ta ra gặp Giêsu và cúi sâu để chào.
- Hân hạnh đón Thầy vào nhà tôi!
- Bình an cho ông. Ismael Ben Fabi. Ông đã mong tôi, tôi tới. Tại sao ông mời tôi?
- Để được cái vinh dự đón Thầy và giới thiệu Thầy với các bạn tôi. Tôi muốn họ cũng là bạn Thầy, cũng như tôi muốn Thầy là bạn tôi.
190
- Ismael, tôi là bạn của hết mọi người.
- Tôi biết. Nhưng, Thầy biết! Có các bạn hữu trong giới cao cấp thì hay hơn. Tình bạn của tôi và của các bạn tôi là vậy. Thầy, xin lỗi cho tôi nói, Thầy qúa ơ hờ với những kẻ có thể chống đỡ Thầy...
- Và ông là một trong số những người này? Tại sao?
- Tôi ở trong số những người này. Tại sao à? Bởi vì tôi phục Thầy, và tôi muốn Thầy là bạn của tôi.
- Bạn! Nhưng Ismael, ông biết cái ý nghĩa mà tôi cho cái từ này không? Đối với nhiều người, bạn có nghĩa là hiểu nhau; với những người khác, bạn có nghĩa là đồng lõa, với những người khác nữa, là tôi tớ. Đối với tôi, bạn có nghĩa là trung thành với lời Chúa. Ai không như vậy thì không thể là bạn tôi, cũng như tôi không là bạn của họ.
- Chính xác như vậy. Bởi vì tôi muốn trung thành, và tôi muốn tình bạn của Thầy. Thầy không tin vậy sao? Coi kìa, Êlêazar đang tới. Hãy hỏi ông ta xem tôi đã bảo vệ Thầy thế nào trước mặt các kỳ lão. Êlêazar, tôi chào bạn. Hãy tới, vì vị Rabbi muốn hỏi anh một điều.
Những cái chào sâu và những cái nhìn dò xét hỗ tương.
- Anh, Êlêazar, hãy nói những điều tôi đã nói về ông Thầy trong buổi họp vừa qua của chúng ta.
- Ôi! Một bài tán dương thực sự. Một sự bảo vệ say mê. Nó làm tôi muốn nghe Thầy, vì Ismael nói về Thầy như một vị Thầy, như một vị tiên tri vĩ đại nhất đến với dân Israel. Tôi nhớ ông ta nói là không ai có những lời sâu xa như lời Thầy, thực hiện một cách quyến rũ nhất, và nếu Thầy biết sử dụng việc gươm đao như Thầy biết nói, thì trong Israel sẽ không có ông vua nào lớn hơn Thầy.
- Nước của tôi, Êlêazar! Cái nước này không thuộc về loài người.
- Nhưng là vua Israel?!
- Mong rằng thần trí qúi vị mở ra để hiểu những lời bí mật. Nước của Vua các vua sẽ đến, nhưng không phải như loài người tưởng. Không phải cho những thứ hay hư nát, nhưng cho những gì đời đời. Người ta tới đó không phải bằng con đường đầy hoa và chiến thắng,
191
cũng không phải trên chiếc thảm nhuộm thắm máu quân thù, nhưng bởi con đường chông gai của hy sinh, bằng cái thang êm đềm của tha thứ và tình yêu. Đó là những chiến thắng chống lại chính chúng ta, và chúng sẽ cho chúng ta Vương Quốc này. Và xin Thiên Chúa thương cho một số rất đông Israel có thể hiểu tôi. Nước này không phải như vậy. Các ông nghĩ tới những điều không đúng. Trong tay tôi có một cái vương trượng, và là do chính dân Israel đặt vào đó: Vương trượng Vua Đời Đời. Không một ông vua nào có thể lấy nó khỏi tay tôi. Nhưng rất nhiều người trong Israel không thể nhìn nó mà không run sợ, vì nó có một cái tên khủng khiếp đối với họ.
- Thầy không tin là chúng tôi có thể theo Thầy?
- Nếu các ông muốn thì các ông có thể. Nhưng các ông không muốn. Tại sao các ông không muốn? Bây giờ các ông đã già. Tuổi tác phải cho các ông sự hiểu biết và sự công chính, kể cả công chính với chính các ông. Những người trẻ... Họ có thể lầm rồi sám hối. Nhưng các ông! Cái chết đã rất gần đối với những người già nhất. Êlêazar, ông ít bị bao bọc trong các lý thuyết hơn các người cùng loại với ông. Hãy mở lòng ông ra cho Ánh Sáng...
Ismael trở lại với năm pharisiêu cầu kỳ khác: “Vậy mời vào nhà đi”. Ông chủ nhà nói. Và họ rời bỏ chính điện trang hoàng toàn thảm và ghế, để đi vào một phòng mà người ta mang đến cho họ những bình và chậu để tẩy uế. Rồi họ qua phòng ăn, được sửa dọn rất sang trọng. Ông chủ nhà ra lệnh: “Giêsu ở bên cạnh tôi, ở giữa Êlêazar và tôi”.
Và Giêsu, đang đứng ở cuối phòng với các đồ đệ, các ông hơi rụt rè, bị bỏ qua một bên để Người đến ngồi chỗ danh dự.
Bữa ăn bắt đầu bằng nhiều món thịt và cá nướng, với rượu, và cái gì tôi thấy như là si-rô, hay nước pha mật ong, chuyền qua chuyền lại.
Mọi người đều cố làm cho Giêsu nói. Một người, một ông già khụm, run rẩy, hỏi bằng giọng rè rè của cụ già: “Thưa Thầy, có phải như người ta nói, là Thầy muốn sửa đổi lề luật?”
- Tôi sẽ không đổi một nét nào của Lề Luật. Trái lại, tôi đến
192
chính là để làm cho nó lại được nguyên vẹn như khi nó được ban cho Môise (Giêsu nhấn mạnh câu này).
- Ngài muốn nói là nó đã bị thay đổi?
- Không, không bao gìờ. Chỉ vì nó đã phải chịu số phận của tất cả những điều cao siêu bị đặt vào tay con người.
- Thầy muốn nói gì? Một cách chính xác.
- Tôi muốn nói rằng con người, do tại kiêu căng cố cựu, hoặc vì cái lò ba lần dâm đãng, đã muốn sửa lại các lời ngay chính để làm cho nó thành cái gì áp bức các tín hữu, trong khi đối với những kẻ đã sửa đổi nó thì nó chỉ là một đống các câu... mà người ta để cho người khác thi hành.
- Nhưng thưa Thầy! Các rabbi của chúng ta...
- Đó là lời kết án!
- Đừng làm chúng tôi thất vọng trong mong ước của chúng tôi muốn trở nên hữu ích cho Thầy!...
- Hé! Hé! Họ có lý để gọi ông là phản tặc!
- Yên lặng! Giêsu là khách của tôi. Ông ta được hoàn toàn tự do để nói.
- Để bắt đầu: Các vị rabbi của chúng ta đã gắng công và đã khổ sở trong ý hướng thánh, là làm cho việc thi hành lề luật trở nên dễ hơn. Chính Thiên Chúa cũng đã bắt đầu việc giảng dạy này khi Người thêm vào mười điều răn những giải thích chi tiết. Như vậy để con người không thể tự miễn thứ vì không hiểu. Công việc mà các bậc thầy đã làm, là bẻ tấm bánh mà Thiên Chúa đã ban cho thần trí của các con dại của Thiên Chúa ra thành từng mảnh nhỏ là công việc thánh. Nhưng nó chỉ thánh khi nó theo đuổi một mục đích ngay chính. Mà thực tế nó lại không luôn luôn được như vậy, và bây giờ nó tệ hơn bao giờ hết. Nhưng tại sao các ông muốn làm cho tôi nói điều đó. Các ông sẽ bị xúc phạm nếu tôi kê khai những lỗi của các kẻ quyền thế.
- Những lỗi! Những lỗi! Chúng ta chỉ có toàn là lỗi!
- Tôi muốn cho qúi vị chỉ có toàn là công nghiệp!
- Nhưng chúng tôi không có. Ông nghĩ như vậy và cái nhìn của
193
ông nói như vậy. Giêsu này, không phải bằng cách chỉ trích mà người ta chiếm được tình bạn của các kẻ mạnh. Ông sẽ không trị vì được. Ông không biết nghệ thuật cai trị.
- Tôi không xin trị vì theo như tư tưởng của các ông, và tôi không ăn mày tình bạn của các ông. Chính tình yêu là điều tôi muốn, nhưng một tình yêu ngay thẳng và thánh thiện. Một tình yêu đi từ tôi đến kẻ tôi yêu, và được bộc lộ ra với những kẻ nghèo, và là tình yêu mà tôi giảng cách sử dụng đối với họ: lòng thương xót.
- Tôi, từ lúc tôi nghe Thầy, tôi không cho vay nặng lãi nữa - một người nói.
- Thiên Chúa sẽ thưởng cho ông về điều đó.
- Chúa làm chứng cho tôi là tôi không đánh các đầy tớ của tôi nữa, dù nó đáng đòn, khi người ta kể cho tôi một trong các dụ ngôn của Thầy - một người khác nói.
- Và tôi, tôi để lại trong cánh đồng hơn mười đấu lúa mạch cho các người nghèo - một người khác nữa nói.
Các pharisiêu tự ca ngợi một cách thịnh soạn!
Ismael không nói. Giêsu hỏi ông: “Còn ông, Ismael?”
- Ồ, tôi, tôi luôn luôn dùng tình thương. Tôi chỉ có việc tiếp tục như tôi vẫn làm.
- Rất tốt cho ông. Nếu thực sự được như vậy thì ông là người không phải biết đến hối hận.
- Ồ, chắc chắn là không.
Giêsu xuyên thấu ông bằng cái nhìn lam ngọc của Người. Êlêazar rờ vào cánh tay Giêsu: “Xin Thầy nghe tôi. Tôi có một trường hợp đặc biệt xin tùng phục Thầy: Tôi mới tậu được một sở hữu từ một kẻ khổ sở. Ông ta bại sản vì một người đàn bà. Ông ta bán nó cho tôi, nhưng ông ta không nói rằng ông có một người đầy tớ già, người vú nuôi của ông ta, bây giờ mù và hầu như lẫn. Người bán không muốn bà ta. Tôi... tôi cũng không muốn. Nhưng chả lẽ quăng bà ta ra đường... Thầy sẽ làm sao?”
- Vậy ông, ông sẽ làm sao nếu ông phải cho lời khuyên một người khác?
- Tôi sẽ nói: Hãy giữ bà ta. Anh không bại sản vì một tấm bánh
194
đâu.
- Và tại sao ông sẽ nói như vậy?
- Nhưng!...Bởi vì tôi nghĩ tôi sẽ hành động như vậy. Và tôi muốn người ta hành động như vậy đối với tôi...
- Êlêazar, ông ở rất gần sự công chính. Hãy hành động như ông sẽ khuyên làm, và Thiên Chúa Jacob sẽ luôn luôn ở với ông.
- Cám ơn Thầy.
Những người khác cằn nhằn với nhau. Giêsu hỏi:
- Các ông xì xèo gì với nhau? Tôi không nói đúng sao? Và ông ta đã không nói cách công chính sao? Ismael, hãy bảo vệ các khách của ông, ông là người luôn luôn hành động với tình thương.
- Thưa Thầy, Thầy nói đúng. Nhưng... Nếu người ta luôn luôn hành động như vậy!... Người ta sẽ là nạn nhân của kẻ khác.
- Vậy theo ông, tốt hơn là để kẻ khác là nạn nhân của chúng ta, phải không?
- Tôi không nói như vậy. Nhưng có những trường hợp...
- Luật đã nói phải có tình thương.
- Đúng, với các anh em nghèo, với người ngoại quốc, với khách hành hương, với bà góa và trẻ mồ côi. Nhưng bà già này rơi vào tay Êlêazar, chẳng phải chị ông ta, chẳng phải khách hành hương, người ngoại quốc, góa hay mồ côi. Không là gì đối với ông ta cả. Không hơn không kém là một bức vẽ cũ, bị bỏ quên bởi người chủ chính của gia tài được bán. Vậy Êlêazar có thể đuổi bà ta mà không phải ngại ngùng điều gì. Sau cùng, trách nhiệm về cái chết của bà già sẽ không trút trên ông, nhưng trút trên người chủ thực sự của bà...
-... là kẻ không còn có thể giữ được bà, vì ông ta cũng nghèo, và vì vậy ông ta được miễn sự bó buộc, đến nỗi nếu bà già có chết đói thì chính bà ta có lỗi, phải không?
- Chính vậy đó Thầy. Đó là số phận của những kẻ... không còn phục vụ được nữa. Những người bệnh, già, bất lực là những kẻ bị kết án chịu sự khốn nạn và hành khất, và cái chết là cái tốt nhất cho họ... Đã như vậy từ lúc thế giới là thế giới, và sẽ luôn luôn như vậy...
195
- Giêsu, xin thương con!
Một tiếng kêu nguy ngập chui qua các cửa sổ đóng kín, vì phòng ăn đóng cửa với đèn thắp sáng, có lẽ vì trời lạnh.
- Ai gọi tôi?
- Một kẻ quấy rầy nào đó. Để tôi bảo đuổi nó đi. Hay là một tên ăn mày, tôi sẽ cho nó một cái bánh.
- Giêsu, con bệnh. Xin cứu con!
- Tôi đã nói một kẻ quấy rầy. Tôi sẽ phạt các đầy tớ đã để cho nó qua - và Ismael đứng dậy.
Nhưng Giêsu, trẻ hơn ông ít nhất là hai mươi tuổi, và cao hơn ông ta từ cổ và cái đầu, liền bắt ông ta ngồi lại bằng cách đặt tay trên vai ông ta và ra lệnh: “Ngồi yên nào Ismael. Tôi muốn coi người nào tìm tôi. Hãy cho họ vào”.
Ông ta vào, một người đàn ông tóc còn đen. Ông ta có thể khoảng bốn chục tuổi, nhưng ông ta sưng phồng như cái trống và vàng như trái chanh, với đôi môi tím và miệng thở hổn hển. Ông ta được hộ vệ bởi người đàn bà đã thấy ở phần đầu của thị kiến.
Người đàn ông tiến lên cách khó khăn, vừa vì bệnh, vừa vì sợ. Ông ta thấy mọi người nhìn ông ta với con mắt qúa xấu! Nhưng Giêsu đã rời chỗ của Người và đến với kẻ khốn khổ. Người cầm tay ông và dắt ông tới giữa phòng, chỗ trống ở giữa dẫy bàn kê theo hình móng ngựa, ngay ở dưới ngọn đèn.
- Ông muốn gì ở tôi?
- Thưa Thầy, con đã tìm Thầy biết bao... từ rất lâu... Con chỉ muốn sức khỏe... để vợ và con con... Thầy, Thầy có thể tất cả... Thầy coi con đã thành cái gì...
- Và ông tin là tôi có thể chữa ông?
- Vâng. Con tin... Mọi bước đi đều làm con đau... mọi cử động đều nặng nề... Nhưng con đã đi bao nhiêu dặm để tìm Thầy... Rồi với chiếc xe, con theo vết Thầy... Nhưng con không bao giờ bắt kịp Thầy. Vâng, con tin. Con ngạc nhiên vì chưa được khỏi ngay lúc Thầy cầm tay con, vì mọi sự nơi Thầy đều thánh. Ôi! Đấng Thánh của Thiên Chúa!
196
Kẻ khốn nạn thở như con hải cẩu, vì ông đã cố gắng để nói bấy nhiêu. Người đàn bà nhìn chồng bà và nhìn Giêsu, và bà khóc.
Giêsu nhìn họ và mỉm cười. Rồi Người quay lại và hỏi: “Ông, vị luật sĩ già (Người nói với ông già có giọng run đã nói trước tiên), hãy trả lời tôi: Có được phép chữa bệnh trong ngày Sabát không?”
- Trong ngày Sabát, không được phép làm việc gì cả.
- Kể cả cứu một người cho khỏi thất vọng? Đó không phải là một việc chân tay.
- Ngày Sabát được dâng hiến cho Chúa.
- Công việc nào xứng đáng hơn cho một ngày thánh hiến bằng việc làm cho một người con Thiên Chúa nói với Cha nó: “Con yêu Cha và con ca tụng Cha vì Cha đã chữa con”?!
- Nó phải làm vậy dù nó phải khổ sở.
- Chanania, ông có biết rằng lúc này cái rừng đẹp nhất của ông đang cháy, và tất cả sườn núi Hermon đều đỏ bừng vì ánh sáng của lửa?
Ông già nhảy lên tựa như ông bị con rắn độc cắn: “Thầy, Thầy nói thực hay nói chơi?”
- Tôi nói sự thực. Tôi thấy và tôi biết.
- Ôi! Khốn cho tôi dường nào! Cánh rừng đẹp nhất của tôi! Hàng bao ngàn đồng vàng ra tro! Khốn kiếp! Đáng nguyền rủa những con chó đã đốt lửa tại chỗ của tôi! Cầu cho tạng phủ của nó cũng cháy như rừng của tôi! - Ông già nhỏ thất vọng.
- Chanania! Đó chỉ là một cái rừng mà ông than trách. Tại sao ông không dâng lên Chúa lời ca tụng trong cái bất hạnh này? Người này không mất rừng cây là cái còn mọc lại, nhưng mất sự sống và bánh ăn của con cái ông mà ông nói anh ta phải dâng lời ca tụng mà ông không dâng? Vậy hỡi luật sĩ, tôi không được chữa bệnh ngày Sabát sao?
- Thật đáng nguyền rủa, mày, thằng đó và ngày Sabát! Tao còn nhiều thứ phải nghĩ tới. Tao... - Và ông xô Giêsu ra khi Người đang để một bàn tay Người trên cánh tay ông, và ông ta giận dữ chạy ra ngoài, và người ta nghe ông ta gào thét bằng cái giọng khàn của
197
ông để gọi xe của ông.
- Và bây giờ? - Giêsu quay cái nhìn của Người về những người khác và hỏi: “Và bây giờ, các ông hãy nói cho tôi: Có được phép hay không?”
Không ai trả lời cả. Êlêazar cúi đầu xuống sau khi đã hé môi, nhưng rồi ông khép lại, bị giữ bởi cái lạnh lùng xâm chiếm căn phòng.
- Vậy tôi, tôi sẽ nói - Giêsu nói, và Người có vẻ uy nghiêm. Tiếng nói của Người như tiếng sấm, cũng như mọi lần khi Người sắp thi hành một phép lạ: “Tôi sắp nói. Tôi nói. Tôi nói rằng: Hỡi anh, cho anh được như anh tin. Anh được khỏi. Hãy ca tụng Thiên Chúa. Hãy đi bằng an”.
Người đàn ông sững sờ. Có lẽ anh ta nghĩ tới đùng một phát lại trở nên lanh lẹ như xưa, hay là anh ta nghĩ mình không được khỏi... Ai biết được anh ta cảm thấy gì. Rồi anh phát ra tiếng kêu vui mừng, qùi sụp xuống và hôn chân Giêsu.
- Đi đi, đi đi! Hãy luôn luôn tốt. Chào!
Người đàn ông đi ra, bà vợ theo sau. Cho tới lúc chót, bà mới quay lại để chào Giêsu.
- Nhưng Thầy ơi... trong nhà tôi... ngày Sabát...
- Ông không chấp nhận! Tôi biết. Chính vì vậy nên tôi tới. Ông là bạn tôi sao? Không. Kẻ thù của tôi. Ông không thành thật với tôi, cũng không thành thật với Thiên Chúa.
- Bây giờ Thầy xúc phạm tới tôi?
- Không. Tôi nói sự thật. Ông đã nói rằng Êlêazar không phải trợ cứu bà già nhỏ đó, vì bà không thuộc về sở hữu của ông ta. Nhưng ông, ông đã có hai trẻ mồ côi trong lãnh địa sở hữu của ông. Đó là hai đứa con của hai người đầy tớ trung thành đã chết trong công việc. Một người chết với cái phạng trong tay, người kia chết vì mệt mỏi qúa mức. Để được ông giữ lại, bà ta phải thêm công việc của chồng bà vào việc phục vụ của bà. Ông đã nói: tôi đã làm giao kèo với hai công nhân, nên để giữ bà lại, tôi đòi hỏi công việc của bà và công việc của người đã chết. Và bà ta đã cho ông điều đó, và
198
bà đã chết cùng với đứa con mà bà mang trong bụng. Vì người đàn bà này là một bà mẹ, nhưng bà đã không được hưởng tình thương mà người ta cho những con vật mang thai. Hai đứa nhỏ này bây giờ ở đâu?
- Tôi không biết... Một bữa kia, chúng biến mất.
- Bây giờ đừng nói dối. Đã độc ác đủ rồi, không nên thêm vào đó sự dối trá nữa để làm cho các ngày Sabát của ông thành ghê tởm trước mặt Thiên Chúa, dù là họ có được miễn những công việc nô dịch. Hai đứa nhỏ đó đâu?
- Tôi không biết. Tôi không biết nữa. Hãy tin đi.
- Tôi, tôi biết. Tôi đã gặp chúng vào một buổi chiều tháng mười một, trời lạnh, mưa, tối tăm. Tôi gặp chúng đang đói khát, run rẩy, ở gần một căn nhà, giống như hai con chó nhỏ tìm kiếm một mẩu bánh... Bị nguyền rủa và xua đuổi bởi một người đàn ông có lòng dạ của loài chó, một người tệ hơn một con chó, vì con chó còn biết thương hại hai trẻ mồ côi này. Còn ông cũng như người đó, các ông không biết thương. Cha mẹ chúng không thể làm tôi ông được nữa phải không? Họ đã chết. Các người chết chỉ có thể khóc trong mồ của họ khi nghe tiếng nức nở của các con cái khốn nạn của họ mà những người khác không săn sóc tới. Nhưng những người chết, thần trí của họ mang những tiếng khóc của họ và của các trẻ mồ côi đến cùng Thiên Chúa và họ nói: “Lạy Chúa, xin hãy báo thù cho chúng con, vì thế giới hà hiếp chúng con khi họ không thể khai khẩn được chúng con nữa”. Hai đứa nhỏ chưa tới tuổi có thể phục vụ phải không? Phải và không. Vì đứa con gái có thể làm việc lượm lặt... Và ông đã xua đuổi chúng và từ chối chúng cả đến một chút của thuộc về cha mẹ chúng. Chúng có thể chết vì đói và vì lạnh như hai con chó trên đường. Chúng có thể sống bằng cách một đứa thì làm điếm, một đứa thì trộm cắp, vì cái đói đem tới tội lỗi. Nhưng đâu có quan trọng gì đối với ông?
Có một lúc ông đã dẫn chứng Lề Luật làm chỗ tựa cho các lý thuyết của ông. Vậy Lề Luật đã chẳng nói: “Đừng hà hiếp bà góa và trẻ mồ côi. Nếu các ngươi hà hiếp chúng, tiếng kêu của chúng
199
sẽ vang lên tới Ta, Ta sẽ nghe tiếng chúng, và cơn giận của Ta sẽ cháy bừng lên, và Ta sẽ tiêu diệt các ngươi bằng gươm giáo, vợ các ngươi sẽ góa bụa và con cái các ngươi sẽ mồ côi”. Có phải Luật đã nói vậy không? Vậy tại sao ông không giữ ? Ông đã bảo vệ tôi trước mặt những người khác? Vậy tại sao ông không bảo vệ giáo lý của tôi nơi chính mình ông? Ông muốn làm bạn với tôi, tại sao ông làm trái ngược với những điều tôi nói?
Một người trong các ông đang chạy đến đứt hơi, bứt tai giật tóc vì ông mất một đám rừng, nhưng ông ta không bứt tai giật tóc vì sự hư mất của linh hồn ông! Và ông, ông chờ đợi gì nữa để làm việc đó? Tại sao các ông muốn cho mình là trọn lành? Các ông, những người mà số phận đã cho một địa vị cao? Nếu các ông hoàn thiện trong vài điều, tại sao các ông không tìm cách hoàn thiện trong tất cả? Tại sao các ông ghét tôi vì tôi phô bày những vết thương của các ông? Tôi là thầy thuốc của tâm hồn các ông. Một thầy thuốc có thể chữa mà không lột trần các vết thương và rửa ráy cho chúng không? Các ông không biết rằng một số rất lớn, và người đàn bà mới đi ra là một trong số họ, đáng được những chỗ đầu tiên trong bàn tiệc của Thiên Chúa, mặc dầu vẻ bề ngoài hèn mọn của họ! Không phải vẻ bề ngoài, mà là con tim và thần trí là cái có giá trị. Từ ngai của Người ở trên cao, Thiên Chúa nhìn thấy các ông và Người xét xử các ông. Người nhìn thấy biết bao kẻ tốt hơn các ông. Tuy nhiên, hãy nghe: Hãy lấy điều này làm kỷ luật để sống: Khi người ta mời các ông vào dự tiệc cưới, hãy luôn luôn chọn chỗ rốt hết. Một danh dự kép sẽ đến với các ông khi chủ nhà đến nói với các ông: “Xin mời bạn lên trên”. Vinh dự vì xứng đáng và vinh dự vì khiêm tốn. Trong khi... Ôi! Buồn chừng nào cho kẻ kiêu căng phải xấu hổ khi nghe: “Mày xuống dưới kia, chỗ cuối đó, vì có kẻ hơn mày”. Cũng hãy làm vậy trong bàn tiệc bí mật của tiệc cưới giữa linh hồn các ông với Thiên Chúa. Ai hạ mình xuống sẽ được cất lên. Ai đem mình lên sẽ bị hạ xuống.
Ismael, đừng ghét tôi vì tôi săn sóc cho ông. Tôi, tôi không ghét ông. Tôi đến để chữa ông. Ông bệnh nặng hơn người đàn ông đó.
200
Ông đã mời tôi để chính ông được rạng rỡ và làm thỏa mãn các bạn ông. Ông hay mời khách, nhưng chỉ vì kiêu căng và vì sự vui thỏa của ông. Đừng làm như vậy. Đừng mời những người giầu, những bà con, bạn bè, nhưng hãy mở cửa nhà ông, mở lòng ông ra cho những người nghèo, người hành khất, người què quặt, tàn tật, trẻ mồ côi, kẻ góa bụa. Để đáp lại, họ chỉ có thể cho ông sự chúc phúc, nhưng Thiên Chúa sẽ biến nó thành ơn lành cho ông. Và sau cùng... Ôi! Sau cùng, số phận sẽ hạnh phúc chừng nào cho những kẻ biết xót thương. Họ sẽ được Thiên Chúa thưởng công trong ngày mọi kẻ chết sống lại!
Khốn cho những kẻ chỉ mơn trớn những hy vọng lợi dụng, rồi đóng cửa lòng lại với những anh em không còn thể phục vụ được nữa. Khốn cho họ. Ta sẽ báo thù cho những kẻ bị bỏ rơi.
- Thưa Thầy... Tôi... tôi muốn làm vui lòng Thầy. Tôi sẽ lấy lại những đứa trẻ đó.
- Không.
- Tại sao?
- Ismael?!...
Ismael cúi đầu. Ông muốn tỏ vẻ khiêm nhường. Nhưng đó là một con rắn độc đã bị người ta trích hết nọc độc, và nó không cắn nữa, bởi vì nó biết rằng nó không còn nọc. Nhưng nó chờ thời để cắn.
Êlêazar cố gắng vãn hồi hòa bình nên nói: “Phúc cho những kẻ được dự phần vào bàn tiệc của Thiên Chúa trong linh hồn và trong Nước Đời Đời. Nhưng Thầy ơi, Thầy hãy tin rằng chính đời sống đã mang tới cho chúng tôi những trở ngại: Các đài thọ, kinh phí, các công việc...”
Giêsu nói dụ ngôn về bữa tiệc (Mt 22, 2-10; Lc 14, 16- 24), và chấm dứt: “Các đài thọ, kinh phí, các công việc”, ông đã nói. Đúng vậy, vì thế tôi đã nói lúc bắt đầu bữa tiệc là: người ta chiếm được Nước của tôi bởi việc chiến thắng chính mình chứ không phải các chiến thắng trên chiến trường. Chỗ ngồi trong bàn đại tiệc được dành cho những kẻ khiêm nhường trong lòng, biết làm lớn bằng tình yêu
201
trung thành, không giới hạn sự hy sinh và vượt qua tất cả để đến với tôi. Dù chỉ một giờ cũng có thể đủ để thay đổi con tim, miễn là con tim này tỉnh thức. Và chỉ cần một lời, tôi đã nói với các ông biết bao lời, và tôi nhìn... Có một con tim, trong đó sắp nảy sinh một cây thánh. Còn các con tim khác là gai góc cho tôi. Và trong những gai góc này có các rắn độc, các bọ cạp. Không quan trọng. Tôi đi thẳng con đường của tôi. Ai yêu tôi thì theo tôi. Tôi vừa đi vừa gọi theo tôi. Mong rằng những người có con tim ngay thẳng hãy đến với tôi, tôi sẽ giáo huấn họ. Mong rằng những người tìm sự công chính hãy đến với phông-ten. Còn những người khác... những người khác thì Chúa Cha rất thánh sẽ xét xử họ.
Ismael, tôi chào ông. Đừng ghét tôi. Hãy suy nghĩ và hãy biết rằng tôi nghiêm khắc vì yêu chứ không vì ghét. Bình an cho nhà này và những người ở đây. Bình an cho tất cả, nếu các ông đáng.
24* GIÊSU TẠI NAZARÉT VỚI CÁC ANH HỌ.
VỚI PHÊRÔ VÀ TÔMA
Giêsu lại ở với các người của Ngài trên con đường dẫn từ đồng bằng Esdrelon về Nazarét. Chắc các vị đã nghỉ đêm tại đâu đó, vì bây giờ là buổi sáng. Họ đi một lúc trong yên lặng. Giêsu đi một mình ở đàng trước. Rồi Người gọi Phêrô và Simon đến với Người, rồi tất cả với nhau cho tới một ngã tư, nơi con đường từ Nazarét giao nhau với con đường đi về hướng đông bắc. Bây giờ các ngọn núi đã gần ở cả hai phía.
Giêsu làm hiệu cho các người đang nói yên lặng và Người nói: “Bây giờ chúng ta chia tay: Thầy đi Nazarét với các anh Thầy và với Phêrô, Tôma. Các con, dưới sự điều khiển của Simon Zêlote, bằng con đường núi Tabor và con đường của các đoàn du mục, đi Débéret, Tibêriat, Magđala, Caphanaum, và từ đó, các con sẽ đi về hồ Mêron, dừng lại ở nhà Jacob coi ông ta hoán cải chưa, và mang phúc lành của Thầy đến cho Juđa và Anna. Các con sẽ ở nơi nào người ta cho các con trọ với sự khẩn khoản nhất, và chỉ ở lại mỗi
202
nơi một đêm thôi, vì vào chiều ngày Sabát, chúng ta sẽ gặp lại nhau trên đường đi Séphét. Thầy sẽ qua ngày Sabát tại Corozain, trong nhà của bà góa. Hãy qua đó để báo cho bà. Bằng cách này, chúng ta sẽ cho tâm hồn Judas được bằng an, và ông được chắc chắn là Gioan Enđo cũng không có mặt tại các nơi cho trọ này”.
- Thưa Thầy! Nhưng con tin!...
- Nhưng rất tốt để con được yên tâm, để có thể không phải xấu hổ trước mặt Anna và Caipha, cũng như Thầy, Thầy không xấu hổ trước mặt con cũng như trước mặt bất cứ ai khi Thầy xác nhận là Gioan không còn ở với chúng ta. Tôma thì Thầy dẫn đi với Thầy về Nazarét, như vậy ông ta có thể yên hàn ở cả những nơi này khi nhìn thấy tận mắt ông...
- Nhưng con, thưa Thầy! Thầy muốn là điều đó quan trọng gì với con? Trái lại, con tiếc vì không còn người đó nữa. Ông ta có thể như ông ta đã là, nhưng từ lúc chúng ta biết ông, ông luôn luôn tốt hơn biết bao pharisiêu nổi tiếng. Con chỉ cần biết là ông ta không chối Thầy và không gây đau khổ cho Thầy, và rồi... ông ta ở trên mặt đất hay ở trong lòng Abraham, điều đó không can hệ gì với con. Thầy tin đi. Dù là ông ta ở trong nhà con... thì thực tình con cũng không có sự ghê tởm đối với ông. Con hy vọng Thầy sẽ không nghĩ rằng Tôma của Thầy có ở trong tim một cái gì hơn là một sự tò mò tự nhiên, và nó không hề có sự oán hờn, không có sự tìm hiểu hơn hay kém ngay thẳng; không có ý hướng dò xét dù vô tình hay hữu ý hoặc có lệnh, không có ý hướng làm hại ai...
- Anh xúc phạm đến tôi! Anh nói xỏ xiên! Anh nói dối! Anh đã thấy rằng trong thời gian này tôi chỉ có một lối sống thánh thiện. Tại sao anh nói như vậy? Anh muốn nói gì về tôi? Hãy nói đi! - Judas phát sùng, hung dữ.
- Yên lặng! Tôma đã chỉ trả lời cho Thầy. Chỉ có mình Thầy nói chuyện với nó. Thầy tin ở lời của Tôma, nhưng đó là ý muốn của Thầy và nó phải như vậy. Không ai trong các con có quyền khiển trách Thầy về cách hành động của Thầy.
- Con không khiển trách Thầy... Chỉ vì sự xỏ xiên làm con bị tổn thương và...
203
- Qúi vị là mười hai, tại sao chỉ có mình anh bị tổn thương về điều mà tôi nói với tất cả? - Tôma hỏi.
- Bởi vì tôi là người đã đi tìm Gioan.
Giêsu nói: “Những người bạn khác của con cũng làm vậy, và các môn đệ khác cũng làm vậy, và vì vậy không ai thấy là bị tổn thương bởi các lời của Tôma. Không phải là một tội khi hỏi han người đồng môn đệ một cách thật thà. Không phải là một điều đau khổ khi nghe những lời như những lời đã được nói, khi ở trong chúng ta chỉ có tình yêu và ngay thẳng, khi không có sự cắn rứt trong con tim làm cho nó thành siêu nhậy cảm, vì nó đã bị thương rồi bởi hàm răng của sự cắn rứt này. Tại sao con muốn nói lời khiển trách này trước mặt các bạn con? Con muốn rằng người ta nghi ngờ con là đã phạm tội sao? Judas, sự tức giận và sự kiêu căng là hai người bạn xấu. Chúng dẫn tới mê sảng, và kẻ mê sảng nhìn thấy những thứ không có, nói những điều nó không được nói... Cũng giống như lòng tham lam và sự dâm đãng dẫn tới các hành động có tội để được thỏa mãn... Con hãy giải phóng mình cho khỏi những đầy tớ xấu này... Và hơn nữa, hãy biết rằng trong suốt những ngày dài vắng mặt con này, luôn luôn có sự hòa hợp giữa chúng ta, luôn luôn có sự vâng lời và trọng kính. Chúng ta đã yêu nhau, con hiểu không?... Chào, các bạn thân mến. Hãy đi và hãy yêu. Các con hiểu không? Hãy yêu nhau. Hãy có lòng trắc ẩn đối với nhau. Hãy nói ít và hành động đúng. Bình an cho các con.
Người chúc lành cho họ. Rồi họ đi về bên phải, Giêsu tiếp tục con đường của Người với hai người anh họ, Phêrô và Tôma. Họ đi, hoàn toàn im lặng.
Rồi Phêrô xổ một tiếng đơn độc như sấm: “Nhưng!” để kết luận một chiêm niệm lâu giờ về điều gì đó tôi không biết. Những người khác nhìn ông.
Lập tức Giêsu cắt ngang những câu hỏi khác bằng cách nói: “Hai con, các con có sung sướng đi về Nazarét với Thầy không?” Và người quàng cánh tay Người quanh vai Phêrô và Tôma.
- Thầy còn hỏi? - Phêrô nói cách bồng bột giống như từ trước tới
204
nay.
Tôma bình tĩnh hơn, với khuôn mặt mũm mĩm của ông sáng rỡ vì vui, ông thêm: “Thầy không biết rằng đối với con, ở gần mẹ Thầy là một sự êm đềm tới nỗi con không tìm được lời để bày tỏ. Maria là tình yêu của con. Con không đồng trinh. Con cũng không thấy sự bất tiện để có một gia đình. Hồi đó con đã nhìn một số cô gái, không biết nên chọn ai làm vợ. Nhưng bây giờ! Nhưng bây giờ! Hé! Đó! Tình yêu của con là Maria. Tình yêu không thể chiếm được cho giác quan. Nhưng chỉ nghĩ đến Mẹ là tất cả các giác quan đều chết! Tình yêu phước đức của thần trí. Ôi! Tất cả những gì con thấy nơi người đàn bà, dù là thân yêu nhất của con như mẹ con và bà chị sinh đôi với con, tất cả những gì là tốt con thấy được trong các bà, con đem so sánh với những điều người ta biết được nơi Mẹ Thầy, con tự nhủ: ‘Nơi Mẹ có tất cả sự công chính, tất cả ân sủng, tất cả vẻ đẹp... Đó là mảnh đất đầy hoa Thiên Đàng mà thần trí đáng mến của mẹ... hình dáng của mẹ là một bài thơ...’ Ôi! Trong khi chúng ta, Israel, chúng ta không dám nghĩ đến các thiên thần, và với một sự trọng kính sợ hãi, chúng ta nhìn các Kêrubim tại nơi cực thánh!... Ngu si chừng nào! Chúng ta không có mười lần trọng kính sợ hãi như vậy trong khi nhìn Mẹ. Mẹ là đấng mà con chắc rằng trước mặt Thiên Chúa, Mẹ vượt xa vẻ đẹp của tất cả các thiên thần”.
Giêsu nhìn kẻ say đắm mẹ Người, có thể nói là để siêu nhiên hóa nó, vì những tình cảm đối với Maria đã thay đổi những nét bộc lộ rất hiền hậu của ông ta: “Vậy chúng ta sẽ ở lại với mẹ một ít giờ. Chúng ta sẽ ở lại đó tới ngày mốt. Rồi chúng ta sẽ đi Tibêriat để coi hai đứa nhỏ và kiếm một cái thuyền để đi Caphanaum”.
- Và đi Bétsaiđa? - Phêrô hỏi.
- Để lúc trở về, Simon ạ. Lúc về chúng ta sẽ ghé đó để đem Margziam đi theo cho cuộc hành hương lễ Vượt Qua.
Và đây là buổi tối cùng một ngày tại Nazarét, trong căn nhà nhỏ yên tĩnh mà Phêrô và Tôma đã đi ngủ. Bây giờ là cuộc đàm
205
thoại ngọt ngào giữa người Mẹ và người Con.
- Tất cả đều tiến hành tốt đẹp, mẹ ạ. Bây giờ họ ở trong bình an. Lời cầu nguyện của mẹ đã giúp cho cuộc hành trình, và bây giờ họ đang được chữa lành các đau thương của họ, giống như làn sương trên các bông hoa bị đốt.
- Con mẹ ơi ! Mẹ muốn chữa các đau thương của con! Con đã phải chịu đựng chừng nào! Coi này, chỗ này, tại thái dương, da thịt lõm vào; và ở chỗ này, trên má nữa. Và một vết nhăn vạch trên trán như một vết thẹo của lát gươm. Con tim của mẹ ơi! Ai đã làm con bị thương?
- Sự đau khổ vì phải làm cho người ta đau khổ, má ạ.
- Chỉ có điều đó thôi sao, Giêsu của má? Các môn đệ có làm cớ cho con khổ không?
- Không má ơi. Họ có một lòng tốt thánh thiện.
- Đó là những người ở với con... Má nói về tất cả...
- Má thấy là con đã dẫn Tôma theo để thưởng cho ông. Con cũng muốn mang theo những người lần trước không có mặt ở đây, nhưng con phải sai họ đi nơi khác...
- Còn Judas Kêriot?
- Ông ta ở với họ.
Maria ôm con mẹ, tựa đầu vào vai Người, và mẹ khóc.
- Tại sao má khóc? - Giêsu hỏi khi vuốt tóc mẹ.
Maria vẫn khóc và nín lặng. Chỉ khi Giêsu hỏi tới lần thứ ba, mẹ mới thì thầm: “Vì má sợ... Má vẫn muốn là ông ta bỏ con... Má có tội vì muốn như vậy phải không? Nhưng ước muốn này qúa mạnh. Má qúa sợ ông ta, vì con...”
- Chỉ có ông ta biến mất đi trong cái chết mới thay đổi được các việc... Nhưng tại sao ông ta phải chết?
- Má không xấu tới nỗi ước ao điều đó... Ông ta cũng có một bà mẹ! Và ông ta cũng có một linh hồn... Một linh hồn còn có thể cứu. Nhưng... Ôi! Con ơi! Cái chết chẳng là điều tốt hơn cho ông ta sao?
Giêsu thở dài và thì thầm: “Có biết bao kẻ chết là tốt...” Rồi người nói lớn: “Má không biết gì về bà già Jeanne sao? Các thửa
206
ruộng của bà?...”
- Má đã tới đó với Maria Alphê và Salômê Simon sau các trận mưa đá. Nhưng hạt giống của bà ta, vì gieo trễ nên chưa mọc và không bị thiệt hại. Ba bữa trước đây, Maria trở lại coi, bà nói là nó giống như cái thảm, một cánh đồng đẹp nhất trong miền. Rakel khỏe mạnh và bà già nhỏ sung sướng. Bây giờ Maria Alphê rất bằng lòng vì Simon hoàn toàn thuộc về con. Chắc chắn ngày mai con sẽ gặp nó. Nó tới mỗi ngày. Bữa nay nó vừa đi thì con về. Con biết không? Không ai nhận ra điều gì cả. Không ai nói là họ đã nhìn thấy mấy người đó ở đây. Nhưng nếu thực sự con không mệt thì hãy kể cuộc hành trình của họ cho má nghe đi...
Giêsu kể hết, ngoại trừ sự kiện Người đau khổ trong hang đá ở Jiphtael. Mẹ Người chăm chú nghe.
25* NGƯỜI ĐÀN BÀ GÙ LƯNG Ở COROZAIN
Giêsu ở trong giáo đường Corozain đầy kín người. Chắc các kỳ hào ở nơi đó đã năn nỉ để Giêsu giảng dạy ở đó vào ngày Sabát này. Tôi hiểu điều đó dựa vào các lý lẽ của họ và các câu trả lời của Giêsu.
- Chúng tôi đâu có hỗn láo hơn các người Do Thái và các người miền Thập Tỉnh, thế mà Thầy tới đó và trở lại đó nhiều lần! - Họ nói.
- Ở đây cũng giống vậy thôi! Ở đây, bằng lời nói và việc làm, bằng sự nín lặng và bằng hành động, tôi đã cho qúi vị những giáo huấn.
- Nhưng nếu chúng tôi chai đá hơn những người khác thì đó là một lý do nữa để khẩn khoản.
- Tốt, tốt.
- Chắc chắn là mọi sự sẽ tiến hành tốt! Chúng tôi ưng thuận cho Thầy sử dụng giáo đường để ban giáo huấn, bởi vì chúng tôi thấy làm như vậy là tốt. Vậy hãy nhận lời mời của chúng tôi và hãy nói. Giêsu mở cánh tay để làm hiệu cho những người hiện diện im
207
lặng, và Người bắt đầu bài thuyết trình của Người bằng giọng đọc Thánh Vịnh, một tường thuật nhẩn nha, du dương và phô trương: “Aréuna trả lời Đavít: xin đức vua, chúa của tôi, hãy lấy tất cả những của dâng này như ý ngài muốn. Đây, những con bò để làm lễ toàn thiêu, xe và ách của các con bò kéo gỗ, tất cả, ôi đức vua, Aréuna này xin biếu đức vua hết”. Và ông thêm: “Nguyện xin Chúa là Thiên Chúa nhận lời thề của đức vua”. Nhưng vua trả lời: “Không như ông muốn đâu. Không. Ta muốn mua bằng tiền mặt, và ta không muốn dâng cho Chúa là Thiên Chúa của ta những của lễ toàn thiêu mà người ta đã cho ta như qùa tặng”.
Giêsu hạ thấp cái nhìn, vì Người đọc hầu như ngửa mặt lên trần. Và người nhìn đăm đăm vào ông trưởng giáo đường và bốn vị kỳ hào ngồi cùng với ông. Người hỏi họ: “Các ông có hiểu ý nghĩa không?”
- Đoạn này ở trong quyển thứ hai Sách Các Vua, khi vị vua thánh mua sân đập lúa của Aréuna... Nhưng chúng tôi không hiểu tại sao Thầy đọc đoạn này. Ở đây không có vấn đề bệnh dịch, cũng không có dâng lễ hy sinh. Thầy, Thầy không phải là vua... chúng tôi muốn nói: Thầy chưa là vua.
- Thực sự là tư tưởng của các ông chậm hiểu ý nghĩa tượng trưng và đức tin của các ông không chắc chắn. Nếu nó được vững chắc, các ông sẽ thấy tôi đã là vua rồi như tôi đã nói; và nếu các ông có trực giác mau lẹ, các ông đã hiểu rằng ở đây có một bệnh dịch, rất trầm trọng hơn bệnh dịch đã vật lộn Đavít. Các ông bị chứng dịch cứng lòng tin, nó làm các ông chết.
- Vậy nếu chúng tôi chậm chạp và cứng lòng tin thì hãy cho chúng tôi sự thông minh và đức tin, và hãy giải thích cho chúng tôi điều ngài muốn nói.
- Tôi nói: Tôi không dâng cho Thiên Chúa những của lễ toàn thiêu mà người ta áp đặt cho tôi, những thứ mà người ta dâng vì một lợi ích nhỏ nhen. Tôi không chấp nhận chỉ nói nếu người ta chấp nhận điều đó cho đấng đã đến để nói. Đó là quyền của tôi và tôi sử dụng. Dưới mặt trời hay trong bốn bức tường, trên đỉnh núi
208
hay dưới đáy thung lũng, trên biển hay ngồi ở bờ sông Giođan, ở khắp nơi, tôi có quyền và có bổn phận phải giảng dạy, để thâu lượm những của lễ đẹp lòng Thiên Chúa, là những con tim hoán cải và trở nên trung thành bởi lời tôi. Ở đây, qúi vị người Corozain, qúi vị ưng thuận cho Ngôi Lời được nói, không phải vì kính trọng hay vì lòng tin, mà vì qúi vị có trong qủa tim một tiếng nói, nó hành hạ qúi vị như con mọt gặm nhấm gỗ: “Hình phạt của các trận mưa đá vì sự chai đá của con tim chúng ta”, và qúi vị muốn sửa chữa vì túi tiền chứ không vì linh hồn. Ôi! Corozain, ngoại giáo và cứng đầu! Nhưng không phải tất cả Corozain đều như vậy. Chính vì cho những kẻ không như vậy mà tôi sắp nói bằng một dụ ngôn. Hãy nghe đây: Một người giầu có nhưng ngu đần, mang tới cho một người thợ thủ công nghệ một khối vật liệu vàng giống như một thứ mật ong tinh ròng nhất, và ông ra lệnh cho người này làm một cái bình để trang trí.
Người thợ thủ công nói với người giầu: “Cái vật liệu này không thích hợp cho công việc. Anh thấy không? Nó mềm và đàn hồi, làm sao tôi có thể khắc và nặn?”
- Thế nào? Nó không tốt sao? Đây là thứ nhựa qúi, và một trong các người bạn của tôi có một cái bình nhỏ bằng thứ này, và rượu của ông ta đựng ở trong đó có được một mùi rất thơm. Tôi đã trả nó với cùng một trọng lượng vàng để có một chiếc bình lớn hơn, và như vậy làm bỉ mặt cho bạn tôi, vì anh ta khoe khoang chiếc bình của anh ta. Hãy làm nó cho tôi và làm ngay lập tức, nếu không, tôi sẽ nói rằng anh là người thợ bất tài.
- Nhưng cái bình của bạn ông, nó không phải bằng đá ngọc mầu vàng sao?
- Không. Nó bằng cái chất này.
- Nó không phải bằng hổ phách mịn sao?
- Không. Nó bằng cái chất này.
- Có lẽ, chúng ta hãy tạm chấp nhận nó bằng cái chất này, nhưng
đã được làm thành khối cứng do ảnh hưởng của thời gian bao thế kỷ, hay được pha với những vật liệu khác làm cho nó cứng. Hãy hỏi
209
ông ta, rồi trở lại nói cho tôi nghe chiếc bình của ông ta đã được làm bằng cách nào.
- Không. Chính anh ta đã bán cái này cho tôi và xác nhận là phải làm như vậy.
- Vậy là ông ta đã ăn cắp của ông để phạt ông vì ông thích cái bình của ông ta.
- Hãy coi chừng lời nói của anh! Hãy làm việc, nếu không ta sẽ phạt anh bằng cách lấy cái xưởng của anh là cái không đáng giá bằng cái nhựa đặc biệt này.
Người thợ buồn rầu bắt đầu làm việc. Ông nhào nó thành tảng bột đặc, nhưng nó dính vào tay ông. Ông trích lấy một cục nhỏ, thử làm cho nó cứng lại bằng chất nhựa và bột, nhưng chất liệu bị mất mầu vàng trong suốt. Ông mang nó lại gần lò đúc, hy vọng sức nóng làm cho nó cứng, nhưng ông phải bức tóc và mang nó đi, vì nó chảy thành lỏng. Ông sai người đi lấy tuyết đông ở đỉnh núi Hermon, và ông nhận nó vào tuyết, nó trở thành cứng và đẹp, nhưng nó không thể đúc khuôn được nữa. Ông ta nói: “Ta sẽ tạo hình cho nó bằng cái đục”. Nhưng vừa đục một phát là khối nhựa bể nát.
Người thợ hoàn toàn thất vọng, tin chắc là không gì có thể giúp ông làm việc với chất liệu này. Nhưng ông ta cố gắng một lần sau cùng: ông ta thu lượm các mảnh vụn, lại làm cho nó chảy lỏng bằng sức nóng của lò, rồi lại làm cho nó đông lại bằng tuyết. Và nhẹ nhàng, với cái khối vừa hơi mềm trở lại, ông thử sử dụng cái đục và cái bay. Nó thành hình! Ô! Đúng! Nhưng vừa nhấc cái đục và cái bay ra, nó liền trở về hình dạng lúc ban đầu, giống như bột làm bánh phồng lên trong thùng nhào bột.
Người đó thú nhận là chịu thua. Và để trốn sự trả thù của người giầu và để tránh bị tiêu tán, trong lúc đêm khuya, anh ta để lên xe vợ con anh với mọi đồ đạc, mọi dụng cụ để làm việc. Anh ta để lại cơ xưởng trống rỗng với khối nhựa vàng ở giữa xưởng, bên trên anh ta để tấm bảng có ghi: “Không thể làm được”, và anh ta trốn ra bên ngoài biên giới...
Tôi đã được sai đến để làm việc với các con tim, để đặt Chân Lý
210
và Sự Cứu Rỗi vào đó. Trong tay tôi có những con tim bằng sắt, bằng chì, bằng đồng, bằng ngọc, bằng đá, bằng bạc, bằng vàng, bằng vân thạch, bằng bảo thạch... Những con tim cứng, những con tim mọi rợ, những con tim qúa mềm, những con tim hay thay đổi, những con tim khô cằn vì đau khổ, những con tim cao qúi, hết mọi loại tim. Tôi làm việc với tất cả, tôi nắn khuôn cho tất cả theo ước nguyện của đấng đã sai tôi. Một số đã làm tôi bị thương trong khi tôi làm việc. Một số khác thích tự đập bể hơn là để cho tôi làm việc. Nhưng có lẽ với sự thù ghét, họ luôn luôn giữ một kỷ niệm về tôi.
Không thể làm việc với qúi vị được: sức nóng của tình yêu, sự kiên nhẫn của giáo huấn, sự lạnh lẽo của khiển trách, sự mệt mỏi của đục đẽo... không gì dùng được cho qúi vị. Bàn tay tôi vừa nhấc lên là qúi vị lại trở về như qúi vị đã là. Qúi vị phải làm một việc duy nhất để thay đổi: hoàn toàn phó mình cho tôi, nhưng qúi vị không làm, qúi vị sẽ không bao giờ làm. Người thợ sẽ buồn rầu bỏ rơi qúi vị cho số phận của qúi vị. Nhưng vì người công bằng, người không bỏ rơi mọi người một kiểu giống nhau. Trong sự buồn rầu, người còn biết chọn những kẻ xứng đáng tình yêu của người, người củng cố và chúc phúc cho tình yêu của họ. Bà kia, lại đây!
Người nói khi chỉ tay vào một người đàn bà đứng ở gần bức tường, gù lưng tới nỗi trông giống như một dấu hỏi.
Mọi người nhìn về phía Giêsu chỉ tay, nhưng không nhìn thấy người đàn bà. Bà này, vì tình trạng của bà, bà cũng không nhìn thấy Giêsu và tay Người. Nhiều người nói với bà: “Tới đi Matta, Người gọi bà”. Kẻ khốn nạn tiến tới, khập khễnh với chiếc gậy của bà cao ngang đầu bà.
Bây giờ bà ta đã ở trước mặt Giêsu. Người nói với bà: “Bà ơi, hãy nhận một kỷ niệm của việc Thầy đi qua, và một phần thưởng cho đức tin thầm lặng và khiêm tốn của bà. Hãy được khỏi mọi tật nguyền của bà”. Người nói với bà khi đặt tay trên vai bà.
Tức thì người đàn bà ngẩng lên, thẳng như cây thốt nốt, giơ tay lên và kêu:”Vạn tuế! Người đã chữa tôi! Người đã nhìn đến tớ nữ
211
trung thành của Người và ban ơn lành của Người. Ngợi khen Đấng Cứu Tinh và vua Israel! Vạn tuế con vua Đavít!”
Mọi người trả lời bằng những tiếng hô của họ cho tiếng vạn tuế của người đàn bà bây giờ đang qùi gối dưới chân Giêsu và hôn gấu áo Người trong khi Giêsu nói với bà: “Hãy đi bằng an và kiên trì trong đức tin”.
Ông trưởng giáo đường, chắc vẫn còn bị đốt bởi những lời Giêsu nói trước dụ ngôn, muốn phun nọc độc của ông vì những lời khiển trách, nên trong khi đám đông dạt ra cho người được phép lạ đi qua, ông kêu lên cách phẫn uất: “Có sáu ngày để làm việc, sáu ngày để xin và cho. Vậy hãy đến vào những ngày đó để xin cũng như cho. Hãy đến chữa vào những ngày đó, đừng vi phạm ngày Sabát, những kẻ tội lỗi và vô đạo, kẻ đồi bại và kẻ làm hư hỏng Lề Luật!” Và ông tìm cách đuổi mọi người ra khỏi giáo đường như đuổi những kẻ phàm tục hóa nơi cầu nguyện.
Nhưng Giêsu, nhìn thấy ông ta được giúp đỡ bởi bốn vị thân hào đã nói trên, và bởi những người khác nữa trà trộn trong đám đông, bày tỏ công khai sự phẫn nộ của họ, và nỗi đau họ cảm thấy vì... tội ác của Giêsu, và đến lần họ, họ cũng la ó, Người đứng khoanh tay, nghiêm nghị, oai vệ nhìn ông ta: “Giả hình! Ai trong các ông, ngày hôm nay không tháo con bò hay con lừa của họ tại chỗ máng ăn ra để dắt nó đi uống nước? Và ai không mang một nắm cỏ cho đàn cừu, và không vắt sữa tại những cái vú căng? Vậy tại sao, vì các ông đã có sáu ngày để làm việc, mà bữa nay các ông cũng còn làm vì vài đồng bạc sữa, hoặc vì sợ con bò con lừa của các ông chết khát? Và tôi, tôi lại không nên tháo giây xích cho người đàn bà này mà Satan đã trói trong mười tám năm, chỉ vì là ngày Sabat sao? Đó! Tôi, tôi có thể cởi cho bà này khỏi sự khốn nạn ngoài ý muốn của bà, nhưng tôi không bao giờ có thể giải thoát cho các ông khỏi sự khốn nạn tự ý của các ông được. Ôi! Hỡi các kẻ thù của Sự Khôn Ngoan và Chân Lý!”
Những người Corozain ngay lành ở giữa đám đông những người không ngay lành, tán đồng và chúc tụng, trong khi những người
212
khác tái mét vì giận, bỏ đi và để mặc ông trưởng giáo đường cũng tái xanh.
Giêsu cũng để ông lại một mình và ra khỏi giáo đường. Những người tốt bao quanh Người và hộ vệ Người cho tới khi Người đi tới miền quê. Lúc đó Người chúc lành cho họ lần sau cùng và đi vào con đường lớn với Phêrô, Tôma và hai anh họ Người.
26* CÂY SUNG KHÔNG TRÁI. TRÊN ĐƯỜNG ĐI SÉPHET
Con đường dẫn về Séphét rời đồng bằng Corozain để leo lên các ngọn núi khá quan trọng, đầy những vườn rau trái. Một dòng nước từ các núi này chảy xuống, chắc chắn hướng về hồ Tibêriat.
Các bộ hành đợi ở cầu, nơi các người được sai đi Mêron phải tới. Qủa vậy, họ không phải chờ lâu. Đúng giờ hẹn, họ hăm hở tới một cách vui sướng để họp mặt với Thầy và các bạn, và tường trình về những biến cố trong cuộc hành trình của họ, được chúc phúc bởi một số phép lạ thay phiên nhau làm bởi “tất cả các tông đồ”, họ nói. Nhưng Judas Kêriot cải chính: “Trừ con, không thành công việc gì cả”. Ông ta có vẻ rất nặng nề để thú nhận một việc làm ông bỉ mặt như vầy.
- Chúng tôi đã nói với anh rằng tại vì chúng ta ở trước mặt một đại tội nhân - Giacôbê Zêbêđê trả lời ông. Và ông giải thích: “Thầy biết không? Đó là Jacob, bệnh rất nặng. Và vì vậy ông ta gọi Thầy, vì ông sợ chết và sự xét xử của Thiên Chúa. Nhưng ông ta hà tiện hơn bao giờ hết. Bây giờ ông ta thấy trước một tai họa thực sự cho mùa màng, hoàn toàn bị hư hỏng bởi băng giá. Ông ta đã mất tất cả hạt giống và ông ta không thể đi gieo lại, vì ông ta bệnh, và tên đầy tớ gái của ông kiệt quệ vì đói và mệt. Thực vậy, ông ta dè sẻn cả bột làm bánh, vì sợ một ngày kia sẽ không còn gì ăn, và đứa đầy tớ không thể cày ruộng. Có lẽ chúng con đã phạm tội, vì qủa thật chúng con đã làm việc suốt ngày thứ sáu và sau hoàng hôn, cho tới
213
giờ sau cùng của ngày, và cả đến làm việc với ngọn lửa của các cành cây đốt lên để thấy đường. Chúng con đã canh tác một một diện tích đất lớn. Philíp, Gioan và Andrê biết làm, con cũng vậy. Chúng con đã làm việc. Simon, Mathêu và Batôlômêo đi đàng sau chúng con, xới đất của những luống mà hạt đã nẩy rồi chết, Judas thì đi nhân danh Thầy để xin Juđa và Anna một ít hạt giống và hứa với họ là chúng ta sẽ đến thăm họ hôm nay. Anh ta đã xin được, và hạt tốt nhất. Lúc đó chúng con đã nói: ngày mai chúng ta sẽ gieo. Vì vậy chúng con đến hơi trễ. Chúng con đã bắt đầu từ lúc hoàng hôn. Xin Thiên Chúa tha cho chúng con vì lý do mà chúng con đã phạm tội. Trong lúc đó, Judas ở lại bên giường của Jacob để hoán cải ông. Anh ta biết ăn nói hơn chúng con, hay ít nhất, đó là điều Batôlômêo và Zêlote nói. Nhưng Jacob như điếc với mọi lý lẽ. Ông ta chỉ muốn khỏi bệnh, vì bệnh tật làm ông hao của. Ông ta chửi rủa người đầy tớ như tên đầy tớ vô ích. Nhưng ông ta nói: “Tôi sẽ hoán cải nếu tôi được lành bệnh”. Để ông được bình tĩnh, Judas đã đặt tay trên ông, nhưng Jacob vẫn bệnh như trước. Judas đã nói vậy với chúng con, vẻ thất vọng. Chúng con cũng thử trước khi đi ngủ, nhưng chúng con không có phép lạ. Bây giờ Judas xác nhận là bởi vì anh ta đang trong tình trạng thất sủng với Thầy, đã làm phật ý Thầy, và anh ta xấu hổ vì vậy. Nhưng chúng con đã nói rằng bởi vì anh ta ở trước một tội nhân ngoan cố, đòi hỏi phải được mọi cái ông ta muốn, bằng cách đặt điều kiện và ra lệnh cho cả Thiên Chúa. Ai có lý?
- Bảy người các con. Các con đã nói sự thật. Còn Juđa và Anna, và các thửa ruộng của họ?
- Hơi hư hại, nhưng họ có nguồn lợi, và đã sửa lại tất cả. Coi, họ gởi cho Thầy những tặng phẩm này và các đồ ăn này. Họ hy vọng gặp Thầy đôi lần. Điều đáng buồn là tình trạng linh hồn của Jacob. Con muốn chữa linh hồn ông hơn là thân xác - Andrê nói.
- Còn những chỗ khác?
- Ôi! Trên đường đi Déberet, gần tới xứ đó, chúng con đã chữa một người. Chính Mathêu đã làm việc chữa lành. Đó là một người
214
bị bệnh sốt, ông ta đi bác sĩ về, và bác sĩ cho ông ta về để chết. Chúng con đã ở lại nhà ông ta từ lúc hoàng hôn tới lúc bình minh và bệnh sốt không trở lại nữa. Ông ta xác nhận là ông ta cảm thấy khỏe mạnh. Rồi ở Tibêriat, Andrê đã chữa một người chèo đò bị bể vai vì ngã xuống cầu. Andrê đặt tay trên ông và vai ông được lành. Thầy tưởng tượng cái ông này coi! Ông ta muốn chở chúng con miễn phí về Magđala, rồi về Caphanaum, rồi về Bétsaiđa, và ông ta ở lại đó, vì ở đó có các môn đệ: Timon người Aéra, Philíp Arbêla, Hermastê và Marc Josias, một trong hai người được chữa cho khỏi qủi ám ở gần Gamala. Ông chèo đò Giuse cũng muốn làm môn đệ... Các đứa trẻ ở nhà Jeanne khỏe mạnh, chúng không còn giống trước nữa. Chúng ở trong vườn và dỡn với Jeanne và Chouza...
- Thầy đã gặp chúng nó. Thầy cũng đã ghé qua đó. Tiếp tục đi.
- Tại Magđala, Batôlômêo đã hoán cải một linh hồn trụy lạc và chữa một thân xác trụy lạc. Anh ấy đã nói rất hay! Anh ấy chứng minh rằng sự vô trật tự của tâm hồn gây ra những rối loạn về thân xác, và tất cả những sự nhượng bộ cho tính dối trá đều hủy hoại và làm mất sự yên hàn, mất sức khỏe, và sau cùng mất linh hồn. Khi anh ấy thấy ông ta đã sám hối và tin phục, anh đã đặt tay trên ông và ông ta được khỏi. Họ muốn giữ chúng con ở lại Magđala, nhưng chúng con không nghe, và sau đêm đó, chúng con tiếp tục con đường về Caphanaum. Ở đó có năm người muốn xin Thầy một ơn, và họ đã sắp quay trở về cách thất vọng, nhưng chúng con đã chữa họ. Chúng con không gặp ai, vì chúng con lại lên ghe ngay để đi Bétsaiđa, để tránh những câu hỏi của Êli, Urie và nhóm họ. Tại Bétsaiđa! Nhưng đến lần anh, Andrê, hãy kể cho anh của anh đi!... - Giacôbê Zêbêđê là người luôn luôn nói, đã nói câu đó để chấm dứt.
- Ôi! Thưa Thầy! Ôi! Simon! Nếu qúi vị thấy Margziam! Chúng ta không còn nhận ra nó nữa!...
- Ôi! Tội nghiệp! Nó không trở thành một người đàn bà chứ? - Phêrô kêu lên và hỏi.
- Không. Không hề! Đó là một thanh niên đẹp trai, cao và gầy vì
215
lớn qúa lẹ... Một cái gì tuyệt vời! Chúng ta khó lòng nhận ra nó. Nó cao bằng vợ anh và bằng tôi...
- Ồ! Nhưng cả Porphyrê, cả anh và tôi, chúng ta đều không phải là cây thốt nốt! Tối đa là người ta có thể so sánh chúng ta với cây mận... - Phêrô nói, nhưng ông hớn hở khi nghe là cậu con trai thừa nhận của ông đã phát triển mạnh.
- Anh ơi, đúng. Nhưng hồi lễ Ánh Sáng, nó còn là một đứa trẻ chưa tới vai chúng ta. Vậy mà bây giờ đúng là một thanh niên về vóc dáng, về tiếng nói và sự chỉnh tề. Nó giống như những cây đã bao năm ngừng phát triển, rồi tới lúc người ta không ngờ thì nó phát triển làm cho sửng sốt. Vợ anh có nhiều việc làm, phải nối dài y phục cho nó và may đồ mới. Bà ta đã may với những cái gấu lớn và những xếp ly ở quanh lưng, bởi vì tiên đoán Margziam còn lớn nữa. Rồi nó phát triển trong sự khôn ngoan. Thưa Thầy, sự khiêm nhường khôn ngoan của Natanael đã không nói với Thầy là: trong gần hai tháng, Batôlômêo đã giữ vai trò ông thầy cho môn đệ nhỏ nhất và anh hùng nhất trong các môn đệ của Thầy. Nó đã thức dậy từ lúc còn tối trời để cho các con cừu ăn cỏ, bổ củi, kín nước, nhúm lửa, quét dọn, mua sắm, vì tình yêu đối với bà mẹ nuôi. Rồi buổi chiều cho tới đêm khuya, nó học hành và viết như vị tiến sĩ nhỏ. Hãy nghĩ coi: Nó tụ họp tất cả trẻ con ở Bétsaiđa, và ngày Sabat, nó cho một bài giáo huấn nhỏ về Tin Mừng. Như vậy các đứa trẻ mà người ta đuổi ra khỏi giáo đường để cuộc tập họp không bị lộn xộn, cũng được một ngày cầu nguyện như các người lớn. Và các bà mẹ nói với con là thật thích thú khi nghe nó nói. Các đứa trẻ yêu nó, vâng lời nó cách kính trọng và trở nên tốt hơn. Nó sẽ thành một môn đệ thế nào!
- Nhưng hãy coi! Coi... Tôi... Tôi cảm động... Margziam của tôi! Nhưng ở Nazarét, hen! Nó đã anh hùng chừng nào!... cho cô bé Rakel, không thật sao? - Phêrô ngừng nói đúng lúc, đỏ mặt vì sợ đã nói qúa.
May thay Giêsu cứu bồ và Judas mải suy tư, có vẻ sao lãng, hoặc ông giả vờ như vậy. Giêsu nói: “Đúng, Rakel. Con nhớ đúng.
216
Nó đã được lành và ruộng lúa tốt. Chúng ta, Giacôbê và Thầy, đã ghé qua đó. Một đứa trẻ tốt có thể hy sinh biết bao”.
- Ở Bétsaiđa, Giacôbê đã làm phép lạ chữa một người nghèo tàn tật, và trên đường tới nhà Jacob, Mathêu đã chữa một đứa trẻ. Nhưng ngay bữa nay, tại công trường của làng này, gần chiếc cầu, Philíp và Gioan đã chữa hai người, người thứ nhất bị đau mắt, người thứ hai là đứa trẻ bị qủi ám..
- Tất cả các con đã làm việc tốt, rất tốt. Bây giờ chúng ta đi cho tới cái làng ở sườn núi kia, chúng ta sẽ dừng lại trong một nhà nào đó để ngủ.
- Còn Thầy, Thầy đã làm gì? Maria ra sao? Và bà Maria kia nữa? - Gioan hỏi.
- Các bà đều khỏe và gởi lời chào các con tất cả. Các bà đang chuẩn bị y phục và những thứ cần cho cuộc hành hương vào mùa xuân. Và các bà sốt ruột làm xong để ở với chúng ta.
- Suzane và Jeanne cũng thế. Mẹ con cũng có cùng một lo lắng như vậy - vẫn là Gioan nói.
Batôlômêo nói: “Vợ con và các con gái bà, sau bao năm, năm nay cũng muốn đi Jêrusalem. Bà nói là sẽ không bao giờ đẹp như năm nay nữa... Con không biết tại sao bà nói vậy. Nhưng bà xác nhận là bà cảm thấy trong tim như vậy”.
- Vậy chắc chắn vợ con nó cũng đi. Nó chưa nói, nhưng hễ Anna làm gì thì Maria làm nấy. Luôn luôn vậy - Philíp nói.
- Còn hai cô em của Lazarô, các anh có gặp họ không? - Simon Zêlote hỏi.
- Các cô đau đớn để vâng lời Thầy, và vì nhu cầu... Lazarô rất đau, phải không Judas? Ông hầu như nằm suốt. Các cô chờ Thầy cách lo âu - Tôma nói.
- Nhưng sắp lễ Vượt Qua rồi. Chúng ta sẽ tới nhà Lazarô.
- Nhưng Thầy đã làm gì ở Nazarét và ở Corozain?
- Ở Nazarét, Thầy chào bà con, bạn hữu và cha mẹ của hai môn đệ. Ở Corozain, Thầy đã nói trong giáo đường và Thầy đã chữa một người đàn bà. Chúng ta đã trọ ở nhà bà góa. Bà ta đã mất mẹ.
217
Một đau đớn, đồng thời là một nhẹ nhõm, vì lợi tức nhỏ bé của bà, và vì thời gian mà bà phải bỏ ra để săn sóc người tàn tật, khiến bà không thể làm việc. Bà đã bắt đầu kéo sợi cho người khác, nhưng bà không còn thất vọng, bà được bảo đảm những nhu cầu cần thiết và bà thỏa mãn. Mỗi buổi sáng, Giuse tới nhà một người thợ mộc tại “Giếng Jacob” để học nghề.
- Những người ở Corozain, họ có khá hơn không? - Mathêu hỏi.
- Không, Mathêu à. Họ càng ngày càng xấu - Giêsu thực sự nhìn nhận. “Và họ đã xử tệ với chúng ta. Đương nhiên là những người làm lớn chứ không phải đám dân thường”.
- Đúng là một nơi xấu. Chẳng nên tới đó nữa - Philíp nói.
- Điều đó sẽ là một đau khổ cho môn đệ Êlia, cho bà góa và cho người đàn bà được khỏi bữa nay, cũng như cho những người tốt.
- Đúng. Nhưng họ qúa ít... Con thì con không để ý tới những nơi này nữa. Thầy đã nói rồi: không thể làm việc cho họ - Tôma nói.
- Chất nhựa là một thứ, còn các con tim là thứ khác. Nó sẽ còn lại cái gì, giống như một hạt giống bị vùi ở bên dưới nhiều lớp đất và nhiều lớp đất rất cứng. Phải mất rất nhiều thời giờ để nó xuyên qua được. Nhưng sau cùng, nó sẽ xuyên qua. Corozain cũng vậy, một ngày kia, cái Thầy đã gieo sẽ nảy sinh. Không nên nản lòng sau những thất bại đầu tiên. Hãy nghe dụ ngôn này. Ta có thể cho nó cái tên: “Dụ ngôn về người nông dân tốt”.
Một người giầu kia có một vườn nho lớn rất đẹp, trong đó cũng có nhiều cây sung các loại khác nhau. Ông đặt một trong các đầy tớ của ông để coi sóc vườn nho, một người trồng nho nhiều kinh nghiệm và biết tỉa xén các cây ăn trái. Ông ta làm bổn phận của ông vì tình yêu đối với chủ cũng như đối với cây cối. Mỗi năm, vào mùa đẹp trời, người chủ giầu tới vườn nho nhiều lần để xem các trái nho và trái sung chín, và tự tay ông hái các trái để thưởng thức. Vậy một ngày kia ông tới bên một cây sung, loại sung có những trái tuyệt vời, là cây duy nhất thuộc loại này hiện có trong vườn. Nhưng ngày hôm đó cũng như hai năm trước, ông thấy nó chỉ có lá, không có một trái nào. Ông gọi người trồng nho và bảo: “Đây là năm thứ
218
ba ta đến tìm trái trên cây sung này, nhưng ta chỉ thấy có lá. Ta thấy là cây này hết sinh trái rồi. Vậy hãy chặt nó đi. Nó ở đây vô ích, chiếm mất chỗ và thời giờ của anh mà không mang lại gì. Hãy cưa nó, đốt đi, dọn đất cho sạch các rễ nó và đặt vào chỗ nó một cây mới, thì trong vài năm, nó sẽ cho trái”.
Người trồng nho là người kiên nhẫn và yêu cây, anh ta trả lời: “Ông có lý. Nhưng xin ông để cho tôi năm nay nữa. Tôi sẽ không cưa nó đi, trái lại, tôi săn sóc nó nhiều hơn. Tôi sẽ xới đất hết chung quanh, bón phân và tỉa cành. Ai biết đâu nó sẽ sinh trái? Nếu với cố gắng sau cùng này, nó vẫn không cho trái, tôi sẽ vâng theo ý muốn của ông và tôi sẽ chặt nó đi”.
Corozain chính là cây sung không sinh trái. Thầy là người nông dân tốt. Người giầu có không kiên nhẫn là các con. Hãy để cho người nông dân tốt làm việc.
- Được thôi. Nhưng dụ ngôn của Thầy không có kết luận: năm sau đó cây sung có cho trái không? - Zêlote hỏi.
- Nó không ra trái và người ta đã chặt nó. Nhưng người nông dân đã được biện minh vì đã chặt một cây còn trẻ và đang tuổi sinh sản, bởi vì ông đã làm hết bổn phận của ông. Thầy cũng vậy, Thầy muốn được biện minh đối với những người Thầy phải áp dụng cái rìu và Thầy phải nhổ đi khỏi vườn nho của Thầy, nơi có những cây không sinh trái và nhiễm độc, nơi có những ổ rắn hút mất chất nhựa dinh dưỡng, những cây tầm gửi, những cây độc làm hư hỏng các bạn đồng môn và làm thiệt hại cho họ, hoặc các rễ độc hại của chúng còn lẻn vào để sinh sản, dù không được gọi vào vườn nho Thầy, chống lại mọi chồi ghép, chỉ tới để dò thám, để chê bai, để làm tê liệt cánh đồng của Thầy. Những thứ đó, Thầy sẽ cắt bỏ sau khi đã thử mọi cách để hoán cải. Lúc này, trước khi dùng đến cái rìu, Thầy thử dùng kéo, dao của người tỉa cành để Thầy tỉa, Thầy ghép... Ôi! Đó là công việc gay go đối với Thầy là người làm cũng như đối với những kẻ chịu đựng việc đó. Nhưng phải làm, để ở trên Trời, người ta có thể nói: “Người đã làm tất cả, nhưng Người càng tỉa cành, ghép chồi, vun gốc, bón phân, chảy mồ hôi vì mệt và khóc
219
ra nước mắt bằng máu... thì họ càng trở nên trơ trơ hơn và xấu hơn”. Đây, chúng ta đã tới làng. Tất cả các con hãy vào trước để tìm chỗ ở. Con, Judas Kêriot, hãy ở lại với Thầy.
Hai người ở lại, và trong bóng mờ mờ của buổi chiều, người nọ đi bên người kia, hoàn toàn thinh lặng.
Sau cùng Giêsu nói tựa như Người nói với chính mình Người: “Nhưng dù là người ta rơi vào tình trạng thất sủng đối với Thiên Chúa khi vi phạm Lề Luật, người ta vẫn luôn luôn có thể trở lại như trước bằng cách từ bỏ tội lỗi...”
Judas không trả lời gì hết.
Giêsu tiếp tục: “Và nếu người ta hiểu rằng người ta không có sức mạnh của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa không ở nơi mà Satan ở, người ta vẫn có thể dễ dàng cứu vãn bằng cách thích điều Thiên Chúa muốn hơn là điều sự kiêu căng muốn”.
Judas nín thinh.
Họ đã tới căn nhà đầu tiên của làng. Giêsu vẫn như người nói với chính mình: “Và nghĩ rằng Thầy đã làm một cuộc đền tội khắc khổ để nó sám hối và trở về với Cha nó”.
Judas giật mình, ngửa mặt lên nhìn Người, nhưng ông ta không nói gì.
Giêsu cũng nhìn ông... Rồi người hỏi: “Judas, Thầy nói với ai vậy?”
- Thưa Thầy, với con. Tại Thầy mà con không còn sức mạnh, vì Thầy đã lấy hết đi của con để ban nhiều hơn cho Gioan, cho Simon, cho Giacôbê, cho mọi người, trừ con. Thầy không yêu con, vậy đó! Và con sẽ kết thúc bằng cách không yêu Thầy, bằng cách nguyền rủa cái giờ mà con đã yêu Thầy, bằng cách làm hại con trước mặt thế giới vì một ông vua không biết phấn đấu, ông vua để cho cả hạng cùng đinh cai trị. Đó không phải là điều con chờ đợi ở nơi Thầy.
- Cũng không phải là điều Thầy chờ đợi ở con. Nhưng Thầy không bao giờ lừa dối con. Thầy không bao giờ ép buộc con, tại sao con cứ ở lại bên cạnh Thầy?
220
- Bởi vì con yêu Thầy. Con không thể xa lìa Thầy nữa. Thầy lôi kéo con và ghê tởm con. Con ước ao Thầy như không khí để thở... Thầy làm con sợ. A! Con bị nguyền rủa! Con bị kết án! Tại sao Thầy không xua đuổi ma qủi, Thầy là người có thể?
Khuôn mặt Judas tái mét và bối rối, điên dại, hoảng sợ, thù ghét... Nó nhắc tôi nhớ tới, dù một cách yếu ớt, cái mặt nạ qủi sứ của Judas ngày thứ sáu Tuần Thánh. Và khuôn mặt của Giêsu nhắc nhở tới khuôn mặt của vị Nazarét đã bị đánh đòn, ngồi trong sân tòa án, trên một cái thùng úp ngược, nhìn những kẻ chế nhạo Người với tất cả tình yêu thương xót của Người. Người nói, và như có tiếng nấc trong giọng nói của Người: “Tại sao con không có sự sám hối mà chỉ có sự thù ghét chống lại Thiên Chúa, làm như chính Người là kẻ phải chịu trách nhiệm về tội của con”.
Judas nói giữa hai hàm răng những lời nguyền rủa đê tiện.
Các môn đệ tới nói: “Thưa Thầy, chúng con đã tìm thấy: năm chỗ tại một nơi, ba chỗ trong một nơi khác, hai chỗ tại nơi thứ ba, và một chỗ trong hai nơi khác. Không thể làm hơn được”.
- Được rồi. Thầy sẽ đi với Judas Kêriot - Giêsu nói.
- Không. Con muốn ở một mình. Con lo lắng. Con sợ sẽ không để cho Thầy nghỉ ngơi...
- Như con muốn... Vậy Thầy sẽ đi với Batôlômêo. Các con hãy làm như các con muốn. Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy tới nơi nào rộng chỗ để có thể ăn tối với nhau.
27* KHI ĐI VỀ MEIERON
Một bình minh đẹp của mùa xuân nhuộm hồng bầu trời và làm tươi vui cảnh đồi núi. Các tông đồ vui hưởng cảnh đẹp với nhau trong khi họ tụ họp ở đầu làng để chờ những người chậm chân.
- Một ngày đầu tiên không lạnh, kể từ khi mưa đá - Mathêu nói khi xoa tay.
- Phải vậy chứ! Chúng ta đã vào tuần trăng mới tháng Adar -
221
Andrê kêu.
- Tốt! Tốt! Nếu phải lên núi với cái lạnh của những ngày vừa qua!... - Philíp bình luận.
- Nhưng chúng ta sẽ đi đâu sau đó? - Andrê hỏi.
- Nào ai biết!...Từ đây chúng ta sẽ đi Séphét hoặc Meieron. Nhưng sau đó à? - Giacôbê Zêbêđê trả lời ông, rồi quay lại hỏi hai người con ông Alphê: “Các anh biết chúng ta đi đâu không?”
- Giêsu nói là Người muốn đi về phía bắc. Không còn gì hơn - Juđa Alphê nói tóm tắt.
- Một lần nữa sao? Tuần trăng tới là phải bắt đầu cuộc hành hương Vượt Qua rồi - Phêrô nói không mấy thiện cảm.
- Chúng ta sẽ tới đó kịp thời mà! - Thađê đối đáp.
- Đúng, nhưng không nghỉ lại ở Bétsaiđa...
- Chắc chắn chúng ta sẽ ngừng ở đó để đón các bà và Margziam - Philíp trả lời Phêrô.
- Điều mà tôi xin các anh là đừng tỏ ra buồn chán, uể oải hay những điều khác như vậy. Giêsu rất khổ. Chiều hôm qua Người khóc. Tôi thấy người khóc khi chúng ta sửa soạn bữa tối. Người không cầu nguyện ở ngoài sân thượng như chúng ta nghĩ, nhưng Người khóc - Gioan nói.
- Tại sao? Cậu có hỏi Người không? - Tất cả đều nói.
- Có. Nhưng Người chỉ bảo tôi: “Gioan, hãy yêu Thầy”.
- Có lẽ... vì những người ở Corozain.
Zêlote tới và nói: “Thầy đang tới cùng với Batôlômêo. Hãy tới gặp Người”.
Tất cả đều tới, và vẫn tiếp tục đàm thoại: “Hay tại Judas. Chiều hôm qua, hai người ở với nhau một mình...” Mathêu nói.
- Đúng. Và sau đó Judas đã tuyên bố ông ta lo lắng, và không muốn ai ở với ông ta - Philíp nhận xét.
- Cả với Thầy, ông ta cũng không muốn. Nếu tôi thì tôi tình nguyện ngay - Gioan xít xoa.
- Tôi cũng vậy - mọi người khác đều nói.
- Tôi không ưa cái ông này... Hoặc là ông ta bệnh, hoặc là bị bùa
222
mê, hay điên, hay bị qủi ám... Ông ta có cái gì... - Thađê nói qủa quyết.
- Nhưng, các bạn tin đi, trong cuộc hành trình trở về, ông ta gương mẫu lắm. Ông ta luôn luôn bảo vệ Thầy và lợi ích của Thầy như chưa từng có ai trong chúng ta làm. Tôi, tôi đã thấy và tôi đã nghe! Và tôi hy vọng các bạn không nghi ngờ lời tôi - Tôma xác nhận.
- Anh nghĩ rằng người ta không tin anh sao? Nhưng không, Tôma. Điều đó làm chúng tôi mừng vì Judas tốt hơn chúng ta. Nhưng anh thấy không? Ông ta kỳ lạ. Đúng hay sai nào? - Andrê hỏi.
- Ôi! Kỳ lạ thì ông ta có. Nhưng có lẽ ông ta khổ vì những điều sâu kín... Cũng có lẽ tại ông ta không làm được phép lạ. Ông ta hơi kiêu hãnh. Ôi! Để có một kết cục đẹp! Nhưng ông ta dự tính làm rất nhiều, để được ca tụng...
- Hum! Có lẽ! Sự kiện là Thầy buồn. Hãy nhìn Người kìa! Đó! Người không còn vẻ là người như chúng ta đã biết. Nhưng, vạn tuế Chúa nếu tôi thành công việc khám phá ra ai là kẻ làm khổ cho Thầy... Đủ rồi! Tôi biết điều tôi sẽ làm cho nó... - Phêrô nói.
Giêsu với Natanael đang tiếp tục đàm thoại, nhìn thấy họ, Người mỉm cười và gia chân bước.
- Bình an cho các con. Các con ở đây cả chứ ?
- Còn thiếu Judas Simon... Con tưởng ông ta ở nhà với Thầy, vì ở căn nhà ông ta ngủ, người ta bảo con là họ thấy phòng ngủ trống rỗng và thứ tự - Andrê giải thích.
Giêsu nhăn trán một lát, cúi đầu và tập trung tư tưởng. Rồi Người nói: “Không quan trọng. Chúng ta cứ đi. Các con nói với những người trong các nhà sau cùng này rằng chúng ta đi Meieron, rồi sau đó đi Giscala. Nếu Judas tìm chúng ta thì họ hãy bảo ông ta đi về đó. Đi thôi”.
Mọi người đều cảm thấy giông tố ở trong không khí, và họ vâng lời, không hé ra một lời. Giêsu tiếp tục nói chuyện với Batôlômêo, đi ở trước những người khác vài bước. Tôi nghe thấy nói đến những danh nhân trong cuộc đàm thoại của họ: Hillel, Jahel, Barac, và
223
những vinh quang của quê hương đi qua tâm trí họ, qua những câu đàm thoại, những giải thích thán phục về các vị đại tiến sĩ, và những luyến tiếc, nơi miệng Batôlômêo.
- Ôi! Nếu vị đại nhân còn sống! Hillel không những tốt mà còn mạnh. Ông ta sẽ không để cho lộn xộn. Một mình ông ta sẽ phán đoán về Thầy.
- Đừng lo việc đó, Batôlômêo. Hãy chúc tụng Đấng Tối Cao vì Người đã đem ông tới nơi bình an. Như vậy thần trí vị đại nhân không phải biết tới sự lộn xộn của những thù ghét chừng nào đối với Thầy.
- Lạy Chúa con! Đâu phải chỉ có toàn thù ghét thôi đâu!...
- Nhiều thù ghét hơn là tình yêu, bạn ạ. Và sẽ luôn luôn như vậy.
- Đừng buồn. Chúng con sẽ bảo vệ Thầy...
- Không phải cái chết làm Thầy lo âu... Chính là vì thấy tội lỗi của người ta.
- Cái chết, không! Đừng nói tới cái chết. Họ không tới nỗi vậy đâu... Bởi vì họ sợ...
- Thù ghét sẽ mạnh hơn sợ, Batôlômêo ạ. Khi Thầy đã chết, và khi Thầy đã ở xa, ở trên Trời, hãy nói điều đó cho loài người: “Người đã khổ vì sự thù ghét của qúi vị hơn là vì cái chết”.
- Thầy! Thầy! Thầy! Đừng nói vậy. Không ai ghét Thầy tới nỗi làm cho Thầy chết. Và Thầy, Thầy có thể ngăn cản điều đó. Thầy rất mạnh.
Giêsu mỉm cười buồn, tôi nói là mệt mỏi, trong khi Người bước những bước đều lên dốc núi, hướng về Meieron. Càng lên cao, người ta càng khám phá ra phong cảnh đẹp và mênh mông trên hồ Tibêriat đang hiện ra khi nhìn qua một hẻm núi. Các cao nguyên chung quanh làm thành hình cung chắn ngang tầm mắt về phía hồ Mêron. Ở bên kia hồ Tibêriat và các cao nguyên bên kia sông Giođan, là các dẫy núi hình răng cưa cho tới các ngọn ở ngoài xa thuộc dẫy Auran của miền Traconiti và Pêrê.
Nhưng Giêsu chỉ vào hướng bắc đông bắc và nói: “Sau lễ Vượt Qua, chúng ta phải tới đó, trong vùng bốn miền thuộc quyền Philíp.
224
Và chúng ta sẽ có vừa đủ giờ để tới Jêrusalem vào lễ Ngũ Tuần”.
- Nhưng không thích hợp cho Thầy để đi ngay bây giờ sao? Bằng cách đi qua lối bờ bên kia sông Giođan về phía nguồn của nó... Rồi trở lại miền Thập Tỉnh.
Giêsu để tay lên trán với sự mệt mỏi của kẻ có tâm trí bị phủ mây mờ, và Người thì thầm: “Thầy không biết. Thầy chưa biết... Batôlômêo...” Trong giọng nói của Người có biết bao chán nản, bao đau khổ, bao kêu gọi!...
Batôlômêo hơi cúi xuống tựa như ông bị thương bởi cái giọng mới lạ của Giêsu, và ông nói, thở hổn hển vì tình yêu của ông: “Thầy ơi! Thầy làm sao vậy? Thầy muốn gì nơi ông già Batôlômêo của Thầy?”
- Không gì hết, Batôlômêo... Lời cầu nguyện của con... để Thầy thấy rõ điều Thầy phải làm... Nhưng người ta gọi chúng ta, Batôlômêo... Hãy dừng lại đây...
Hai người dừng lại gần một khóm cây, chỗ con đường bẻ cong. Những người khác cũng tới cả nhóm: “Thầy ơi, Judas đang đuổi theo sau chúng ta, chạy muốn đứt hơi...”
- Vậy chúng ta chờ ông.
Qủa vậy, Judas chạy tới, xuất hiện: “Thưa Thầy... Con chậm chân... Con ngủ quên và...”
- Ở đâu? Tôi không thấy anh ở nhà? - Andrê hỏi cách ngạc nhiên.
Judas dừng một phút vì sững sờ, nhưng ông ta tỉnh lại ngay và nói: “Ôi! Tôi không thích người ta biết việc sám hối của tôi! Tôi đã vào rừng suốt đêm để cầu nguyện, làm việc hy sinh... Lúc bình minh, giấc ngủ đã thắng tôi... Tôi là kẻ yếu đuối. Nhưng Chúa Tối Cao sẽ thương người tôi tớ tội nghiệp của Người, phải không Thầy? Con dậy trễ và ê ẩm cả mình mẩy”.
- Qủa vậy, anh có nét mặt rất lợt lạt - Giacôbê Zêbêđê nhận xét.
Judas cười: “Hé, chắc chắn rồi! Nhưng tâm hồn tôi vui hơn. Lời cầu nguyện làm cho thoải mái, sự sám hối làm vui cho con tim, và cũng làm cho khiêm tốn và quảng đại. Thầy ơi, tha cho Judas ngu đần của Thầy nhé...” Và ông qùi ở chân Giêsu.
225
- Ừ, đứng dậy và chúng ta đi.
- Hãy cho con sự bình an bằng cái hôn của Thầy. Đó sẽ là dấu hiệu rằng Thầy tha cho con về sự cáu kỉnh của con ngày hôm qua. Con đã không muốn ở với Thầy, đúng vậy, nhưng bởi vì con muốn cầu nguyện...
- Chúng ta có thể cầu nguyện chung với nhau...
Judas cười và nói: “Không, Thầy không thể cầu nguyện với con đêm qua, tại chỗ con ở...”
- Ồ, tại sao? Người luôn luôn ở với chúng ta, và chính Người đã dạy chúng ta cầu nguyện - Phêrô ngạc nhiên nói.
Mọi người đều cười, nhưng Giêsu không cười. Người nhìn Judas đăm đăm khi ông ôm Người và nhìn Người bằng con mắt qủi quái sắc nhọn đến tức cười, tựa như ông thách đố Người. Và ông dám nhắc lại: “Có đúng là Thầy không thể ở với con đêm qua không?”
- Qủa vậy, Thầy không thể, Thầy không thể, Thầy không bao giờ có thể chia sẻ sự ôm ấp của tâm hồn Thầy với Cha Thầy cùng một người thứ ba là kẻ chỉ là thịt và máu như con, và trong những nơi mà con tới. Thầy thích chỗ cô tịch có đông đảo các thiên thần để quên đi cái người chỉ là sự ghê tởm hôi thối của xác thịt hư hỏng bởi giác quan, bởi vàng, bởi thế gian, bởi Satan.
Judas không cười nữa, dù là cười bằng mắt. Ông trả lời cách nghiêm trang: “Thầy có lý. Thần trí Thầy đã thấy sự thật. Nhưng chúng ta đi đâu đây?”
- Đi viếng mộ các kẻ lớn và các anh hùng của Israel.
- Cái gì? Thế nào? Nhưng Gamaliel không yêu Thầy, nhưng những người khác ghét Thầy - nhiều người nói.
- Không quan trọng. Thầy cúi mình trên mộ những người công chính đang chờ Sự Cứu Chuộc. Thầy sẽ nói với hài cốt của họ: “Sắp sửa rồi, đấng ban hơi thở cho thần trí qúi vị sẽ ở trên Nước Trời, và từ đó, Người sẵn sàng xuống vào ngày sau cùng để làm cho qúi vị lại sống đời đời trên Thiên Đàng”.
Họ đi, đi cho tới miền Meieron, một xứ đẹp, được bảo trì tốt, đầy ánh sáng và mặt trời, ở giữa những ngọn đồi mầu mỡ và các
226
đỉnh rừng xanh.
- Chúng ta dừng. Tới sau trưa, chúng ta sẽ từ đây đi Giscala. Các ngôi mộ lớn rải rác ở các sườn đồi này đang chờ sự sống lại vinh quang.
28* TẠI MỒ CỦA HILLEL Ở GISCALA
Từ miền Meieron, Giêsu cùng với các môn đệ đi vào con đường về hướng tây bắc, luôn luôn là đồi núi giữa các rừng và các đồng cỏ. Người tiếp tục lên dốc. Có lẽ Người đã viếng các mộ, vì tôi nghe họ nói về mộ với nhau.
Lúc này là chính Iscariot đi ở đàng trước với Giêsu. Người ta hiểu rằng ở Meieron, các vị đã nhận và cho của bố thí, và Judas nói về những món đã nhận và đã cho. Để kết thúc, ông nói: “Và bây giờ, đây là của dâng của con. Đêm nay con đã thề sẽ cho các người nghèo để đền tội. Nó không quan trọng, nhưng con không có nhiều tiền. Con đã thuyết phục mẹ con năng gởi cho con qua nhiều người bạn làm trung gian. Những lần trước, khi con rời nhà thì con có rất nhiều tiền, nhưng lần này con phải đi qua các đồi núi một mình với Tôma, con chỉ lấy vừa đủ cho cuộc hành trình. Con thấy như vậy tốt hơn. Chỉ có điều... thỉnh thoảng con phải xin rời Thầy vài giờ để tới nhà người bạn. Con đã phối hợp tất cả... Thưa Thầy, con vẫn luôn luôn giữ tiền à? Thầy có còn tin con không?”
- Judas, con tự mình nói tất cả như vậy, và Thầy không biết con làm vì lý do nào. Hãy biết rằng đối với Thầy, không có gì thay đổi cả... Vì Thầy hy vọng bằng cách này, con sẽ thay đổi và lại trở nên người môn đệ ngày trước, và trở nên công chính bằng sự hoán cải mà vì đó, Thầy hàng cầu nguyện và chịu đựng.
- Thầy có lý, với sự giúp đỡ của Thầy, chắc chắn con sẽ trở thành vậy. Lại nữa... Đó là những khuyết điểm của tuổi trẻ, những chuyện không quan trọng. Trái lại, nó giúp cho hiểu những người như vậy và chữa họ.
- Judas, thực sự cái tinh thần của con nó rất lạ. Và Thầy phải nói hơn: không bao giờ người ta thấy một thầy thuốc tự ý làm cho mình
227
ra bệnh để sau đó có thể nói: “Bây giờ tôi biết chữa những người có bệnh này giỏi hơn”. Như vậy là Thầy, Thầy bất lực.
- Ai nói Thầy vậy?
- Con. Thầy không phạm tội, như vậy Thầy không biết chữa các tội nhân.
- Thầy là Thầy. Chúng con đâu phải là Thầy, và chúng con cần kinh nghiệm để biết làm...
- Đó là tư tưởng xưa của con, giống hệt như con hai mươi tuần trăng trước đây. Có điều là khi đó con xét đoán rằng Thầy phải phạm tội để có khả năng chuộc tội. Thực sự Thầy ngạc nhiên vì con đã không cố gắng để sửa chữa... khuyết điểm của Thầy theo như lối xét đoán của con, và không giúp Thầy để có khả năng hiểu các tội nhân.
- Thầy dỡn! Và con thấy vui vì vậy. Thầy làm con thấy tội nghiệp. Thầy qúa buồn, và chỉ có con là làm cho Thầy dỡn. Điều đó cho con một niềm vui kép. Nhưng con, không bao giờ con nghĩ đến tự cho phép mình là nhà mô phạm đối với Thầy. Ngoài ra thì Thầy thấy đó! Con đã sửa chữa cái lối suy nghĩ của con đến nỗi con biết nói rằng cái kinh nghiệm này chỉ cần đối với chúng con thôi, đối với chúng con, những con người tội nghiệp. Còn Thầy là Con Thiên Chúa, phải không? Vậy Thầy có sự khôn ngoan và không cần kinh nghiệm để biết.
- Vậy hãy biết rằng sự vô tội chính là khôn ngoan, và rất khôn ngoan hơn là sự hiểu biết đê hèn và nguy hiểm của tội lỗi. Nơi nào mà sự vô tri thánh thiện đối với tội lỗi làm hạn chế sự tự hướng dẫn và hướng dẫn, thì nhiệm vụ của các thiên thần sẽ được thêm vào, và sẽ không bao giờ vắng bóng ở bên một con tim trong sạch. Con hãy biết rằng các thiên thần, dù các ngài rất trong sạch, cũng luôn luôn biết phân biệt điều xấu và điều tốt, và hướng dẫn các kẻ trong sạch mà các ngài coi giữ, trên đường nẻo công chính và tới các hành động công chính. Tội lỗi không làm phát triển sự khôn ngoan, nó không phải là ánh sáng. Nó không hướng dẫn, không bao giờ. Nó là sự đồi bại. Nó là sự mù lòa. Nó là sự hỗn độn. Vì vậy kẻ làm
228
điều tội và biết mùi vị của nó, sẽ bị mất khả năng để biết nhiều điều siêu nhiên khác, và cũng không còn sự hướng dẫn của thiên thần Thiên Chúa, không còn tinh thần trật tự và tình yêu, nhưng nó sẽ có một thần của Satan để hướng dẫn nó vào sự đảo lộn càng ngày càng tăng, vì sự thù ghét không thể thỏa mãn cấu xé những tâm hồn thuộc về ma qủi này.
- Vậy Thầy ơi, nghe này: nếu một người muốn lại được sự hướng dẫn của thiên thần thì sự sám hối có đủ không, hay nọc độc của tội lỗi vẫn tồn tại sau khi họ đã sám hối và được tha thứ?... Thầy biết không? Ví dụ một người nghiện rượu, dù họ đã thề không say sưa nữa, và họ thề với ý chí thực sự muốn làm, nhưng họ vẫn thấy bị lôi kéo tới chỗ có rượu, và họ khổ vì vậy...
- Chắc chắn là họ khổ. Vì lẽ đó, không bao giờ được tự mình làm nô lệ cho tội lỗi. Nhưng khổ không phải là phạm tội, đó là đền tội. Vì vậy một kẻ nghiện rượu sám hối không uống nữa, nó không phạm tội, nhưng sẽ có công nếu nó chống lại một cách anh hùng với khuynh hướng của nó để không uống rượu nữa. Cũng vậy, một kẻ tội lỗi sám hối chống cự lại với các khuynh hướng, sẽ được công nghiệp, và nó cũng không bị thiếu sự trợ giúp siêu nhiên trong sự chống cự này. Bị cám dỗ không phải là một tội, trái lại, đó là cuộc chiến đấu có thể mang lại thắng trận. Và cũng hãy tin rằng Thiên Chúa chỉ ước mong tha thứ và giúp cho kẻ lầm, nhưng rồi thống hối...
Judas yên lặng một lát... Rồi ông cầm tay Giêsu, cúi xuống trên bàn tay để hôn và nói: “Nhưng con, chiều hôm qua con đã vượt qúa giới hạn. Con đã chửi rủa Thầy... Con đã nói với Thầy là con sẽ kết thúc bằng cách ghét Thầy... Con đã nói phạm thượng chừng nào! Con có bao giờ được tha thứ không?”
- Cái tội lớn nhất là thất vọng về lòng thương xót của Thiên Chúa... Judas, Thầy đã nói: “Hết mọi tội phạm đến Con Người sẽ được tha”. Con Người đến để tha, để cứu, để chữa, để dẫn về Trời. Tại sao con muốn mất Nước Trời? Judas! Judas! Hãy nhìn vào Thầy! Hãy rửa linh hồn con trong tình yêu trào ra từ mắt Thầy...
- Nhưng con không khơi cho Thầy sự ghê tởm sao?
229
- Có... Nhưng tình yêu lớn hơn sự ghê tởm. Judas, một người cùi tội nghiệp, người cùi lớn nhất của Israel. Hãy đến xin sức khỏe nơi đấng có thể ban nó cho con...
- Thầy hãy ban nó cho con.
- Không, không như vậy. Ở trong con không có sự sám hối thực và một ý chí cương quyết. Đây chỉ là một thử nghiệm của một chút tình yêu đối với Thầy còn sót lại theo thiên kiến cũ của con. Đây chỉ là sự nhúc nhích của một sự sám hối hoàn toàn loài người. Đó không phải là điều xấu, trái lại, nó là bước đầu tiên để đi về điều thiện. Hãy vun xới nó, hãy làm cho nó phát triển, hãy ghép nó vào cái siêu nhiên, hãy làm cho nó thành tình yêu thực sự đối với Thầy, một sự trở về thực sự với cái con đã là khi con đến với Thầy, ít nhất là vậy, ít nhất là vậy. Hãy làm cho nó thành, không phải chỉ là một sự hồi hộp đi qua, một cảm xúc của tình cảm bất động, mà là một tình cảm thực, linh động, lôi cuốn về sự thiện. Judas, Thầy chờ, Thầy biết chờ. Thầy cầu nguyện. Trong khi chờ đợi này, chính Thầy thay thế tên thần ghê tởm của con. Tình thương của Thầy, sự kiên nhẫn của Thầy, tình yêu của Thầy, những điều toàn thiện, những điều rất cao hơn của các thiên thần, và chúng ở bên con, giữa những hôi thối ghê tởm đang dậy men trong lòng con, để giúp con.
Judas cảm động thực sự, không giả vờ, đôi môi run và tiếng nói ít vững vàng vì điều làm cho ông cảm động, tái mét, ông hỏi: “Nhưng có thực sự Thầy biết điều con đã làm không?”
- Tất cả, Judas. Con có muốn Thầy nói ra không? Hay con muốn Thầy tránh cho con cái bẽ mặt này?
- Nhưng... con không thể tin, vậy đó...
- Vậy chúng ta hãy trở lại phía sau, và chúng ta hãy nói sự thật cho kẻ cứng lòng tin. Con, sáng nay con đã nói dối nhiều lần, về tiền bạc, về cách con đã qua đêm. Con, chiều hôm qua, con đã thử lấy sự dâm ô để bóp nghẹt tất cả các tình cảm, tất cả sự oán ghét, tất cả hối hận. Con...
- Đủ rồi! Đủ rồi! Vì bác ái, đừng tiếp tục nữa! Nếu không, con sẽ trốn khỏi mặt Thầy.
- Trái lại, con phải ôm lấy đầu gối Thầy mà xin Thầy tha.
230
- Vâng, vâng, xin tha! Xin tha! Thầy của con! Xin tha! Xin giúp con! Nó mạnh hơn con! Tất cả đều mạnh hơn con.
- Ngoại trừ tình yêu mà con phải có đối với Giêsu... Nhưng hãy lại đây để thắng cám dỗ, và để Thầy giải thoát cho con - Và Người ôm ông ta trong tay, đổ những giọt nước mắt yên lặng xuống đầu tóc nâu đen của Judas.
Những người khác ở phía sau vài mét, đã thận trọng dừng lại và nhận xét :
- Các anh thấy không? Có lẽ thực sự Judas có điều buồn.
- Và sáng nay ông ta đã thổ lộ ra với Thầy.
- Ngu thật! Nếu tôi thì tôi nói ngay lập tức.
- Đó sẽ là điều nặng nề.
- Ôi! Chắc chắn đó không phải là vì cách ăn ở xấu của mẹ ông. Bà là người đàn bà thánh. Vậy cái gì mà nặng nề?
- Có lẽ công việc của ông không tiến hành.
- Ồ, không. Ông tiêu pha và cho đi cách quảng đại.
- Tốt. Vậy đó là việc của ông. Điều quan trọng là ông ta phải hòa hợp với Thầy. Hình như ông ta như vậy. Hai người nói lâu giờ cách bình an, và bây giờ họ ôm nhau... Rất tốt.
- Đúng, vì đó là người có khả năng và có nhiều kiến thức. Thực là điều tốt nếu ông hòa hợp và sẵn sàng với chúng ta, và đặc biệt là với Thầy.
- Ở Hébron, Giêsu đã nói rằng mộ của các người công chính là nơi có phép lạ hay những điều giống như vậy... Trong vùng này có nhiều mộ, có lẽ những mộ ở Meieron đã làm một phép lạ trên sự lộn xộn của Judas.
- Ồ, vậy ông ta sắp hoàn thành việc thánh hóa tại mộ của Hillel bây giờ đó. Có phải Giscala kia không?
- Đúng đó, Batôlômêo.
- Nhưng năm ngoái chúng ta đã không đi qua lối này.
- Tôi tin vậy. Chúng ta đã tới từ phía bên kia.
Giêsu quay lại và gọi họ. Họ vui vẻ chạy tới.
- Đây, gần tới thành phố rồi. Chúng ta phải đi băng qua để đến
231
mộ của Hillel. Hãy đi thành nhóm với nhau - Giêsu nói, không giải thích điều gì khác, trong khi nhóm mười một lấp ló nhìn Judas và Giêsu cách tò mò. Nhưng nếu Judas có vẻ bình an và khiêm tốn, thì Giêsu không có khuôn mặt rạng rỡ. Người oai nghiêm và đứng đắn.
Họ đi vào Giscala, một thành phố đẹp và lớn, bảo trì tốt. Chắc chắn ở đây có một trung tâm sung túc của các rabbi, vì tôi thấy nhiều vị tiến sĩ tụ họp ở đó đây, những nhóm học trò ở bên cạnh họ để nghe bài học. Sự đi qua của các tông đồ, nhất là của Thầy, rất được chú ý, và một số rất đông bắt đầu đi theo nhóm của Người. Có những người chế nhạo, có những người khác gọi Judas Kêriot, nhưng ông ta ở bên cạnh Thầy và không quay lại nhìn. Họ ra khỏi thành phố và đi về căn nhà mà ở gần đó có ngôi mộ của Hillel.
- Táo bạo thật!
- Ông ta thiếu khôn ngoan và thiếu thận trọng!
- Ông ta khiêu khích chúng ta!
- Tên phạm thánh!
- Hãy nói vậy với ông ta đi Uziel.
- Tôi, tôi không làm nhơ tôi. Anh nói với ông ta đi Saul. Anh mới chỉ là học trò thôi mà!
- Không. Chúng ta hãy nói điều đó với Judas. Lại gọi ông ta đi. Người trẻ tuổi có tên Saul, gầy lỏng khỏng, xanh xao cả mắt lẫn miệng, tới tìm Judas và nói với ông: “Lại đây. Các rabbi gọi ông”.
- Tôi không lại. Tôi ở lại nơi này. Hãy để tôi yên. Người thanh niên trở lại tường trình với các thầy của anh.
Trong lúc đó, Giêsu, có các người của Ngài bao quanh, cầu nguyện cách kính cẩn bên ngôi mộ bằng đá trắng của Hillel.
Các rabbi từ từ tiến lại như những con rắn lặng lẽ, và họ quan sát. Hai ông già râu xồm xoàm kéo áo Judas khi ông đang cầu nguyện và không có sự bao bọc của nhóm các bạn ông.
- Nhưng tóm lại là các ông muốn gì? Cả đến người ta không thể cầu nguyện? - Judas hỏi cách nhỏ nhẹ nhưng cáu kỉnh.
- Một tiếng thôi, rồi chúng ta để cho mày bình an.
232
Simon Zêlote và Batôlômêo quay lại làm tiếng xì xèo nín thinh. Judas bước ra ngoài độ hai ba bước và hỏi: “Các ông muốn gì?”
Tôi không nghe thấy điều ông già nhất xì xèo vào tai Judas, nhưng tôi thấy Judas phản ứng ngay bằng cách tránh ra và nói: “Không. Hãy để tôi yên, các linh hồn bị nhiễm nọc độc. Tôi không biết các ông. Tôi không muốn biết các ông nữa”.
Một tràng cười khinh bỉ phát ra từ nhóm nhỏ các rabbi và một lời đe dọa: “Hãy cẩn thận điều mày làm! Thằng con trai ngu”.
- Coi chừng các ông đó! Đi đi. Hãy đi nói với những người khác, với tất cả những người khác, các ông hiểu không? Hãy nói với ai các ông cho là tốt, đừng nói với tôi. Các ông là qủi sứ!
Và ông ta bỏ rơi họ. Ông ta đã nói mạnh tới nỗi các tông đồ quay lại ngạc nhiên. Nhưng Giêsu thì không, dù là có những tràng cười và lời hứa: “Chúng ta sẽ gặp lại nhau, Judas Simon! Chúng ta sẽ gặp lại nhau” vang lên trong sự yên lặng bao bọc quanh họ. Judas trở về chỗ ông, đúng hơn là ông đứng vào chỗ của Andrê, vì ông này đã đứng sát vào Giêsu như để được bảo vệ và che chở. Ông cầm một vạt áo của Giêsu trong tay.
Cơn giận quay chỉa vào Giêsu. Họ tiến lên, dọa nạt, và họ la: “Mày làm gì ở đây? Mày, tên bị khai trừ khỏi Israel, hãy ra khỏi đây. Đừng làm cho run xương cốt của vị công chính mà mày không đáng tới gần. Chúng ta sẽ nói với Gamaliel và chúng ta sẽ yêu cầu phạt mày”.
Giêsu quay lại và nhìn họ, từng người một.
- Tại sao mày nhìn chúng ta như thế? Qủi ám!
- Để biết rõ bộ mặt các ông và con tim các ông. Vì không phải chỉ có tông đồ của tôi gặp lại các ông, mà cả tôi nữa. Tôi muốn biết rõ các ông để lúc đó nhận ra các ông ngay.
- Rồi. Mày đã thấy chúng ta. Đi đi. Gamaliel, nếu ông ta ở đây, ông ta sẽ không cho phép mày.
- Năm ngoái tôi đã tới đây với ông ta.
- Không đúng. Quân nói láo!
- Hãy hỏi ông ta, vì đó là người ngay thẳng, ông ta sẽ nói với các
233
ông là đúng. Tôi, tôi yêu và tôi tôn kính Hillel. Tôi kính nể và tôn trọng Gamaliel. Đó là hai người mà nơi họ biểu lộ nguồn gốc của con người, bởi sự công chính và sự khôn ngoan của họ, nó nhắc nhở cho ta rằng con người được tạo dựng giống Thiên Chúa.
- Và chúng ta thì không, hen! - các tên hung hăng ngắt lời.
- Nơi các ông, nó bị phủ mờ bởi ích kỷ và thù ghét.
- Nghe nó đó! Trong nhà người khác mà nó nói vậy, và nó xúc phạm tới chúng ta! Đi khỏi đây! Đi khỏi đây! Kẻ làm hư hỏng cả những người Israel tốt nhất. Đi đi hay chúng ta sẽ lượm đá. Ở đây không có Rôma để bảo vệ mày đâu. Mày là kẻ liên kết với quân thù dân ngoại.
- Tại sao các ông ghét tôi? Tại sao các ông bách hại tôi? Tôi đã làm gì xấu? Một số trong các ông đã nhận được ơn lành của tôi. Tôi kính trọng tất cả. Vậy tại sao các ông độc ác với tôi?
Giêsu khiêm tốn, êm đềm, đau khổ và yêu thương. Người năn nỉ họ yêu Người. Nhưng họ coi đó là dấu hiệu của yếu đuối và sợ sệt nên họ khích nhiễu Người.
Viên đá đầu tiên bay tới trúng phải Giacôbê Zêbêđê. Ông phản ứng rất lẹ bằng cách ném trả lại những kẻ công kích, trong khi tất cả đứng sát vào Giêsu. Nhưng họ là mươi người chống lại cả trăm. Một hòn đá khác trúng vào tay Giêsu khi Người đang ra lệnh không phản ứng. Bàn tay bị thương chảy máu ở mu tay, trông đã hơi giống vết thương do chiếc đinh.
Lúc đó Giêsu không xin nữa. Người đứng thẳng, trấn áp. Người nhìn họ, giáng sét cho họ bằng cái nhìn của Người. Nhưng một viên đá khác làm Giacôbê Alphê chảy máu ở thái dương. Giêsu phải làm tê liệt tất cả những hành động khác bằng sức mạnh của Người để bảo vệ các tông đồ của Người trong khi họ vâng lời, nhận trận mưa đá không phản ứng.
Người có một sự oai phong dễ sợ. Khi các kẻ hèn đã bị chế ngự bởi ý muốn của Người, Người nói với họ bằng một giọng như sấm: “Tôi đi, nhưng hãy biết rằng Hillel nguyền rủa các ông về điều các ông đã làm. Tôi đi, nhưng hãy nhớ rằng dù Biển Đỏ cũng không
234
ngăn cản được dân Israel trên đường Thiên Chúa đã vạch cho họ. Tất cả đều san bằng và trở nên đường cho Thiên Chúa đi qua. Với tôi cũng vậy. Cũng như các người Ai-Cập, người Philitin, người Amorrhê, người Canane và các dân khác đã không cản được bước chân chiến thắng của Israel. Các ông cũng vậy, các ông còn xấu hơn họ, các ông không cản được bước chân sứ mạng của tôi. Hỡi Israel, hãy nhớ lời đã được hát tại giếng nước do Thiên Chúa ban: ‘Hãy vọt ra, hỡi giếng, giếng được đào bởi các hoàng tử, được chuẩn bị bởi các thủ lãnh của dân, bằng phương tiện là các cây gậy của họ, với đấng đã ban Lề Luật’. Chính Ta là cái giếng! Cái giếng này là chính Ta, được đào trong các tầng Trời bằng các lời cầu nguyện, các hành động công chính của các hoàng tử thực sự và các thủ lãnh của dân thánh mà không phải là các ông. Không, không, các ông không phải dân thánh. Không bao giờ Đấng Messi đến cho các ông, bởi vì các ông không đáng, bởi vì việc đến của Người là sự tiêu diệt cho các ông. Bởi vì Đấng Tối Cao biết hết mọi tư tưởng của con người và người biết nó từ đời đời, trước khi có Cain mà từ nó, các ông tới, và Abel mà tôi là hình ảnh; trước khi có Noe, hình ảnh của tôi, Môise là người đầu tiên đã dùng hình bóng của tôi; trước khi có Balaam tiên tri về Ngôi Sao, và Isaie, và tất cả các tiên tri, Thiên Chúa đã biết các ông và Người ghê tởm, Người luôn luôn ghê tởm các ông cũng như Người luôn luôn vui hưởng các người công chính, mà vì họ, thật chính đáng để sai tôi. Và thực sự, ôi, đúng, thực tình họ đã hút lấy tôi từ các tầng Trời sâu, để tôi mang Nước Hàng Sống cho cái khát của loài người. Tôi là Suối của Đời Sống Vĩnh Cửu, nhưng các ông, các ông không muốn uống, và các ông sẽ chết”.
Rồi Người từ từ đi qua giữa các rabbi bị tê liệt cùng với các học trò của họ. Người tiếp tục con đường của Người, nhẩn nha, trang trọng, trong sự yên lặng sững sờ của người và vật.
29* CHỮA NGƯỜI CÂM ĐIẾC Ở GẦN
235
BIÊN GIỚI PHÊNICI
Tôi không biết các người hành hương đã qua đêm ở đâu. Tôi chỉ biết bây giờ là buổi sáng, và họ đang đi trên đường, luôn luôn băng qua vùng đồi núi. Giêsu có bàn tay băng bó, Giacôbê Alphê có băng trên trán, trong khi Andrê đi rất khập khễnh và Giacôbê Zêbêđê đi tay không. Giỏ của ông do em Gioan của ông cầm.
Hai lần Giêsu hỏi: “Con bước được không Andrê?”
- Thưa Thầy được. Con bước khó là tại cái băng chứ đau thì không đến nỗi - Và lần thứ hai ông thêm: “Còn tay của Thầy?”
- Tay không phải là chân. Nó nghỉ ngơi nên không đau mấy.
- Hum! Không đau mấy! Con không tin. Sưng phù và mở ra tới tận xương như vậy... Dầu làm cho dễ chịu. Nhưng tốt hơn, giá được tí dầu của mẹ Thầy. Chúng con sẽ xin một tí của...
- Của mẹ Thầy. Con có lý - Giêsu nói mạnh mẽ khi Người nhìn Phêrô để coi những gì sắp thoát ra khỏi môi ông, vì Người thấy ông đỏ mặt, băn khoăn nhìn Giêsu của ông bằng cái nhìn khổ sở. Giêsu mỉm cười với ông và đặt ngay bàn tay bị thương của Người lên vai Phêrô để kéo ông lại với Người.
- Làm như vầy Thầy sẽ bị đau.
- Không, Simon, con yêu Thầy, và tình yêu của con là thứ dầu chữa trị rất tốt.
- Ôi! Nếu vậy thì Thầy phải được lành rồi! Vì tất cả chúng con đều đau khổ khi thấy Thầy bị đối xử như vậy. Có những người đã khóc! - Rồi Phêrô nhìn Gioan và Andrê.
- Dầu và nước mắt là những phương dược tốt. Nhưng nước mắt tình yêu và lòng trắc ẩn là những thứ mạnh nhất. Và các con thấy không? Hôm nay Thầy sung sướng hơn hôm qua rất nhiều, vì Thầy biết hôm nay các con tình cảm và vâng lời chừng nào. Tất cả - Và Giêsu nhìn họ bằng cái nhìn ngọt ngào mà từ trước, nó như quen với nỗi buồn, nhưng sáng nay nó lóe ra ánh sáng yếu của niềm vui.
- Nhưng đúng là các linh cẩu! Tôi chưa bao giờ thấy một sự thù ghét tới cỡ đó. Chắc toàn là bọn Do Thái - Juđa Alphê nói.
236
- Không đâu anh. Đó không phải vấn đề các miền. Sự thù ghét thì giống nhau ở khắp nơi. Anh hãy nhớ là ở Nazarét nhiều tháng trước đây Thầy đã bị xua đuổi, và họ đã muốn ném đá Thầy. Anh không nhớ sao? - Giêsu nói cách bình tĩnh, và điều đó an ủi những người Do Thái vì lời của Thađê. Và nó đã an ủi họ tới nỗi Iscariot nói: “Nhưng chuyện này, tôi sẽ nói. Ồ, tôi sẽ nói! Chúng ta đã không làm gì xấu, chúng ta đã không phản ứng, và Người, lúc đầu Người đã nói với toàn tình yêu. Và như những con rắn, chúng đã ném đá chúng ta. Tôi sẽ nói”.
- Nói với ai, nếu tất cả họ đều chống lại chúng ta?
- Tôi, tôi biết nói với ai. Trong khi chờ đợi, ngay khi nào tôi gặp được Étienne và Hermas, tôi sẽ nói. Gamaliel sẽ biết ngay. Nhưng tới lễ Vượt Qua, tôi sẽ nói với ai, tôi biết. Tôi sẽ nói: “Hành động như vậy là không đúng. Sự giận dữ của các ông bất hợp pháp. Chính các ông có lỗi chứ không phải Người”.
- Tốt hơn là anh đừng đi lại với các ông chúa này! Tôi thấy hình như anh, anh cũng có tội trước mặt họ - Philíp khuyên cách khôn ngoan.
- Đúng vậy. Tốt hơn là đừng liên lạc. Ờ, như vậy hay hơn. Nhưng với Étienne thì tôi sẽ nói. Anh ta tốt và không bị nhiễm độc...
- Bỏ rơi vấn đề đi Judas. Con sẽ chẳng chỉnh đốn được điều gì. Thầy, thầy đã tha thứ. Đừng nghĩ tới đó nữa - Giêsu nói với giọng bình tĩnh và thuyết phục.
Đã hai lần, khi gặp một dòng suối là Andrê cũng như hai ông Giacôbê giặt vải băng của các vết thương của họ, nhưng Giêsu thì không. Người tiếp tục đi bình tĩnh như Người không cảm thấy đau.
Tuy nhiên sự đau đớn có vẻ rõ ràng: Khi họ dừng để ăn, Người phải xin Andrê cắt bánh cho Người; khi Người tháo xăng-đan ra, người phải xin Mathêu thắt cho khi mang lại... Và nhất là khi đi xuống một đường tắt dốc, Người đụng vào một thân cây vì Người bị
237
trượt chân, Người không thể giữ lại một lời than, và máu lại chảy ra đỏ miếng băng. Cũng vậy, khi tới căn nhà đầu tiên của một ngôi làng mà họ tới vào lúc hoàng hôn, họ dừng lại để xin nước và dầu để săn sóc bàn tay. Khi mở băng ra, ta thấy mu tay sưng phồng, tím xanh với vết thương đỏ chót ở giữa.
Trong khi họ chờ đợi bà chủ nhà chạy đi kiếm những thứ họ muốn, mọi người cúi xuống để quan sát bàn tay bị thương và họ phê bình, nhận xét. Nhưng Gioan lảng ra xa để giấu nước mắt của ông. Giêsu gọi ông: “Lại đây, không đau lắm đâu, đừng khóc”.
- Con biết. Nếu con bị như vậy thì con không khóc, nhưng vì Thầy bị, và Thầy không nói hết sự đau đớn mà bàn tay thân yêu, không bao giờ làm hại ai này bị - Gioan trả lời, và Giêsu đã giao phó bàn tay bị thương của Người cho ông, ông vuốt ve nhè nhẹ ở đầu các ngón, ở cổ tay, hết chung quanh vùng bị bầm. Rồi ông êm đềm lật lại để hôn lên lòng bàn tay, và áp má ông vào chỗ lõm của lòng bàn tay và nói: “Nó nóng như lửa!... Ôi! Thầy phải chịu đau chừng nào”. Và những giọt nước mắt trắc ẩn rơi trên đó.
Người đàn bà mang nước và dầu với một chiếc khăn tới. Gioan lấy khăn, cố gắng lau máu làm dơ tay, và với sự nhẹ nhàng tế nhị, ông nhỏ nước nóng vào chỗ bị thương, ông bôi dầu, rồi phủ nó lại bằng vải băng sạch. Và trên chỗ băng thắt nút, ông để một cái hôn. Giêsu để bàn tay kia của Người trên cái đầu cúi xuống của ông.
Người đàn bà hỏi: “Đó là anh của cậu à?”
- Không. Đó là Thầy của tôi, Thầy của chúng tôi.
- Các ông từ đâu tới? - Bà ta lại hỏi những người khác.
- Từ biển Galilê.
- Qúa xa! Tại sao?
- Để giảng sự cứu rỗi.
- Bây giờ gần tối rồi, các ông hãy nghỉ tại nhà tôi. Đây là nhà
nghèo, nhưng là nhà của những người ngay lành. Tôi có thể biếu các ông sữa ngay khi các con trai tôi trở về với đàn cừu. Ông nhà tôi sẽ tình nguyện đón tiếp các ông.
- Cám ơn bà. Nếu Thầy muốn thì chúng tôi sẽ ở lại.
238
Người đàn bà đi lo việc của bà trong khi các tông đồ hỏi Giêsu việc phải làm.
- Ừ, tốt. Ngày mai chúng ta sẽ đi Cédès, rồi đi Panéade. Thầy suy nghĩ rồi Batôlômêo, rất thích hợp để làm như con nói. Con đã cho Thầy lời khuyên tốt. Như vậy Thầy hy vọng tìm được các môn đệ khác nữa và gởi họ đi trước Thầy về Caphanaum. Thầy biết rằng tại Cédès chắc chắn đã có vài người, trong đó có ba người chăn chiên ở Liban.
Người đàn bà trở lại và hỏi: “Thế nào?”
- Đồng ý, bà rất quảng đại, chúng tôi sẽ ở lại đây qua đêm.
- Và về bữa tối, ôi! Xin vui lòng nhận. Điều đó không nặng nề gì cho tôi hết. Hơn nữa, chúng tôi đã được dạy về tình yêu thương bởi một số người là môn đệ của vị Giêsu ở Galilê, gọi là Đức Messi. Người làm rất nhiều phép lạ và rao giảng Nước Thiên Chúa. Nhưng Người chưa bao giờ tới đây, có lẽ vì chúng tôi ở biên giới SyroPhênici. Nhưng các môn đệ Người đã đến. Như vậy cũng là nhiều lắm rồi. Vào lễ Vượt Qua, tất cả dân làng chúng tôi đều muốn đi Juđê để coi chúng tôi có gặp được vị Giêsu đó không, vì chúng tôi có những người bệnh, mà các môn đệ chỉ chữa có mấy người, còn những người khác thì không, trong số đó có một thanh niên con người anh vợ của anh chồng tôi.
- Nó làm sao? - Giêsu mỉm cười hỏi.
- Nó bị... Nó không nói được, cũng không nghe được. Nó sinh ra đã như vậy rồi. Có lẽ một thằng qủi nào đó đã vào trong bụng mẹ nó để làm cho bà khổ và thất vọng. Nhưng nó rất tốt, tựa như nó không bị qủi ám. Các môn đệ đã nói rằng với nó thì cần phải có Giêsu Nazarét, bởi vì nó phải có cái gì mà nó thiếu, và chỉ mình vị Giêsu này... Ồ, đó, các con tôi với ông chồng tôi về. Melchias, tôi đón tiếp những người hành hương này nhân danh Chúa, và tôi đang nói về Lêvi... Sara, đi vắt sữa mau đi, và con, Samuel, xuống lấy rượu và dầu trong hang đá, và lấy táo ở trên sàn gác. Mau đi Sara, chúng ta đi sửa soạn giường trong các phòng trên lầu.
- Đừng mệt thân bà ơi. Chúng tôi ở chỗ nào cũng được. Tôi có
239
thể gặp người mà bà nói đó không?
- Được... Nhưng... Ôi! Chúa! Có lẽ Ngài là vị Nazarét đó?
- Chính tôi.
Người đàn bà qùi sụp xuống và kêu: “Melchias, Sara, Samuel! Hãy đến thờ lạy Đức Messi! Ôi! Một ngày! Một ngày! Và tôi! Tôi có Người trong nhà tôi! Và tôi đã nói với Người như vậy! Tôi đã mang cho Người nước để rửa các vết thương của Người... Ôi!...”
Bà nghẹn cổ vì xúc động. Nhưng rồi bà chạy đến chiếc thau và bà thấy nó trống rỗng: “Tại sao các con đổ nước này đi? Nó là nước thánh! Ôi! Melchias, Đấng Messi ở trong nhà chúng ta!”
- Đúng. Nhưng bà hãy tốt, đừng nói với ai cả. Hãy đi tìm người câm điếc và dẫn tới đây - Giêsu mỉm cười nói.
... Và rất lẹ, Melchias trở lại với người thanh niên câm điếc cùng với cha mẹ anh ta và ít nhất là một nửa số dân làng... Người mẹ của kẻ khốn nạn thờ lạy Giêsu và năn nỉ Người.
- Ừ, sẽ được như bà muốn - Rồi Người cầm tay người câm điếc, kéo anh ta ra khỏi đám đông một tí, vì họ chen chúc nhau. Các tông đồ, vì thương bàn tay bị thương nên cố dạt họ ra. Giêsu kéo người câm điếc lại rất gần Người, để hai ngón tay trỏ của Người trên hai lỗ tai anh, và lưỡi Người trên đôi môi hé mở. Rồi Người ngước mắt lên trời đã tối sẫm, Người thở hơi vào mặt người câm-điếc và kêu lớn tiếng: “Hãy mở ra”. Và Người buông anh ta ra.
Người thanh niên nhìn Người một lát trong lúc đám đông xì xèo. Anh ta làm người ta ngạc nhiên vì sự thay đổi của khuôn mặt anh: lúc trước thì buồn và hững hờ, bây giờ trở nên ngạc nhiên và vui tươi. Anh để hai bàn tay lên hai tai, ấn vào nó rồi bỏ ra... Anh tin chắc là mình đã nghe được, và anh ta mở miệng ra nói: “Má ơi, con nghe được rồi! Ôi! Lạy Chúa, con thờ lạy Chúa!”
Đám đông ngạc nhiên cảm hứng như thường lệ. Họ càng kinh ngạc khi hỏi nhau: “Làm sao nó lại biết nói trong khi nó chưa nghe một lời nào từ lúc nó sinh ra? Một phép lạ trong phép lạ! Người đã mở lưỡi, mở tai cho nó, đồng thời Người dạy cho nó nói. Hoan hô Giêsu Nazarét! Vạn tuế Đấng Thánh! Vạn tuế Đấng Messi!”
Và họ chèn ép chung quanh Người. Người giơ bàn tay bị thương
240
để chúc phúc, trong khi có mấy người được bà chủ cho biết, liền tới rửa mặt rửa tay bằng những giọt nước còn lại trong chậu.
Giêsu nhìn thấy họ, Người kêu lên: “Vì đức tin của các con, tất cả hãy được khỏi. Hãy về nhà các con! Hãy tốt và ngay thật. Hãy tin vào Lời của Tin Mừng và giữ lấy cho các con những gì các con đã biết, cho tới lúc để công bố nó ra trong các quảng trường, và trên mọi nẻo đường của trái đất. Bình an của Thầy ở cùng các con”.
Và Người đi vào căn nhà bếp rộng mênh mông, nơi bếp lửa soi sáng và hai ngọn đèn rung rinh.
30* GIÊSU TẠI CÉDÈS
Thành phố Cédès nằm trên ngọn núi nhỏ hơi biệt lập. Ở phía đông là một dẫy dài chạy từ bắc tới nam, trong khi ở phía tây là các đồi hầu như song song, cũng chạy từ bắc tới nam. Hai dẫy song song tiến lại gần nhau, tạo thành một hình thể giống như chữ X. Ở điểm hẹp nhất và nằm tựa vào dẫy phía đông nhiều hơn là dẫy phía tây, là ngọn núi mang thành phố Cédès trên sườn của nó, nằm từ trên đỉnh trải xuống sườn dốc thoai thoải, nhìn xuống các thung lũng xanh tươi, rất hẹp ở phía đông và rộng hơn ở phía tây.
Đây là thành phố đẹp, có tường bao quanh, với những nhà cửa đẹp đẽ và một giáo đường oai nghiêm; một phông-ten cũng oai vệ với nhiều miệng nước chảy ra nước mát tràn vào một cái bể ở thấp, rồi từ đó chảy ra như suối đến các phông-ten khác hay các khu vườn, tôi không biết.
Giêsu vào đó trúng vào ngày họp chợ. Bàn tay Người không còn băng bó, nhưng còn lớp vảy đen và một vùng xanh lớn ở mu tay. Giacôbê Alphê cũng có một vảy nâu đậm ở thái dương với vết bầm xanh ở chung quanh. Andrê và Giacôbê Zêbêđê bị thương nhẹ hơn, không còn dấu vết của cuộc phiêu lưu qúa khứ nữa nên bước lẹ làng, vừa đi vừa nhìn chung quanh, đặc biệt là ở đàng sau và hai
241
bên, vì họ đi người nọ sát vào người kia ở đàng trước và đàng sau Giêsu.
Tôi có cảm tưởng là các ngài đã dừng lại ở nơi đã mô tả hôm qua, hoặc ở vùng quanh đó hai ba ngày, có lẽ là để nghỉ ngơi, hoặc để giữ khoảng cách xa với các rabbi, vì sợ rằng họ đi về các thành phố chính với hy vọng tìm được các khuyết điểm nơi các ngài để quấy rầy các ngài nữa. Ít nhất đó là điều người ta có thể nghĩ dựa vào các câu đàm thoại của họ.
- Đây là thành phố tỵ nạn mà! - Andrê nói.
- Chú nghĩ rằng chúng có thói quen kính trọng nơi tị nạn và sự thánh thiện của nơi này sao? Em tôi ơi! Em quá ngây thơ! - Phêrô trả lời ông.
Giêsu đi giữa hai Judas. Đàng trước Người là Giacôbê và Gioan như tiền vệ, rồi đến ông Giacôbê kia với Philíp và Mathêu. Đàng sau Người là Andrê, Tôma và Phêrô. Sau cùng là Simon Zêlote và Batôlômêo.
Tất cả đều tốt đẹp cho đến khi tới một công trường đẹp, công trường có phông- ten và giáo đường. Người ta tụ họp ở đây để bàn chuyện làm ăn buôn bán. Trái lại, khu chợ thì ở dưới thấp hơn về phía tây nam của thành phố, ở tận cùng của con đường chính từ phía nam tới, và con đường khác, đường mà Giêsu đi, từ phía tây đổ về. Các con đường này giao nhau thành góc vuông, tồi thu lại thành một lộ duy nhất chạy qua dưới cổng thành, và biến thành một quảng trường mênh mông hình trái soan. Nơi đây có cả lừa, nong nia, dần sàng, người bán người mua và các huyên náo như thường xuyên.
Nhưng khi các đấng đến công trường này là công trường đẹp nhất của thành phố - tôi tin nó là con tim của thành phố, không phải vì nó ở giữa các bức tường thành, nhưng vì nó là trung tâm của đời sống tinh thần và thương mại của Cédès mà con tim đập ở đây; và có thể nói là vì địa thế của nó ở cao bên trên các vùng khác, nó giống như một thành trì để bảo vệ - chính tại công trường này là nơi bắt đầu những khó khăn. Giống như những con chó dữ tới tấn công một con chó con không có sự bảo vệ, hay đúng hơn là những con
242
chó săn đã đánh hơi được con thịt, một nhóm đông các pharisiêu và saddu, trong đó có trà trộn để làm gia vị, một mớ rabbi đã gặp ở Giscala, trong số đó có Uziel, ông đứng tựa lưng vào cái cổng rộng, được trang trí bằng nhiều hình điêu khắc và hình các cột trụ như ở ngôi giáo đường giầu sang. Lập tức họ giơ tay chỉ Giêsu và các tông đồ.
- Than ôi! Lạy Chúa, chúng cũng ở đây nữa! - Gioan sợ hãi quay lại nói với Giêsu.
- Đừng sợ, hãy đi bình tĩnh. Tuy nhiên những ai cảm thấy không dám chống chọi với các kẻ khốn nạn này thì họ hãy rút lui vào trong quán nước. Thầy tuyệt đối muốn nói ở đây, thành phố của dòng Lêvi và thành phố tị nạn.
Mọi người đều phản đối: “Thưa Thầy, Thầy có thể nghĩ rằng chúng con sẽ bỏ Thầy một mình sao? Chúng hãy giết tất cả chúng con, nếu chúng muốn. Nhưng chúng con sẽ chia sẻ cùng số phận với Thầy”.
Giêsu đi qua trước nhóm kẻ thù và Người tới đứng trước bức tường của một khu vườn, nơi rơi đầy những cánh hoa trắng của cây lê đang rộ hoa. Bức tường mầu tối và mầu hoa trắng lồng khung cho Đức Kitô với nhóm mười hai ở trước mặt.
Giêsu bắt đầu nói: “Ôi! Hỡi các qúi vị đang tụ họp ở đây, hãy đến nghe Tin Mừng, vì việc chinh phục Nước Trời thì hữu ích hơn việc buôn bán và tiền bạc”. Giọng nói trong trẻo và mạnh của Người vang dội đầy công trường, làm mọi người ở đó quay lại nhìn.
- Ô! Đó là vị rabbi Galilê. Nào, chúng ta đến nghe Người, có lẽ Người sẽ làm một phép lạ - một người nói.
Và một người khác: “Tôi, ở Betginna, tôi đã thấy Người làm một phép lạ. Và ôi! Người nói hay chừng nào! Đâu có như đám diều hâu tham mồi này, và những con rắn xảo quyệt này”.
Giêsu mau lẹ được đám đông bao vây, và Người tiếp tục nói với đám đông đang chăm chú nghe này.
- Ở trung tâm của thành phố dòng Lêvi, Thầy không muốn nhắc lại Lề Luật. Thầy biết nó đã được trình bày với con tim các con như trong một số ít thành phố của Israel đã được. Và điều biểu lộ ra là
243
trật tự mà Thầy nhìn thấy ở đây, và sự ngay thẳng mà những người bán hàng đã có với Thầy khi Thầy mua các lương thực cho nhóm nhỏ của Thầy và cho Thầy. Và ngôi giáo đường này, được trang hoàng thích hợp với một nơi mà người ta thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng ở trong các con cũng vậy, có một nơi để thờ phượng Thiên Chúa, một nơi có những nguyện vọng thánh thiện nhất, một nơi vang lên những lời cho chúng ta những hy vọng êm đềm nhất của đức tin chúng ta, và những lời cầu nguyện thành khẩn nhất để hy vọng của chúng ta biến thành sự thật: Linh hồn, đó là nơi thánh và duy nhất mà người ta nói về Thiên Chúa và với Thiên Chúa, trong khi chờ đợi lời hứa được nên trọn.
Nhưng lời hứa đã được nên trọn. Israel đã có Đấng Messi của họ, đấng mang cho các con Lời và sự chắc chắn là Thời Ân Phúc đã tới, và ơn Cứu Chuộc đã gần, Đấng Cứu Tinh đã ở giữa các con, và Nước Vĩnh Cửu đã bắt đầu.
Đã bao nhiêu lần các con nghe sách Habacuc! Và những người biết chiêm niệm nhất trong các con đã thì thầm: “Tôi cũng vậy, tôi muốn nói: Lạy Chúa, con phải kêu van tới bao giờ mà Ngài không nghe con?” Điều đó đã xảy ra từ bao thế kỷ, Israel đã rên xiết như vậy. Nhưng bây giờ Đấng Cứu Tinh đã tới. Sự áp bức dã man, những lo âu liên lỉ, những đảo lộn và bất công gây ra bởi Satan sắp rơi xuống, vì đấng được Thiên Chúa sai sắp phục hồi cho con người cái phẩm giá là Con Thiên Chúa và kẻ thừa hưởng Nước Thiên Chúa của họ. Hãy nhìn các lời tiên tri của Habacúc bằng những con mắt mới, và chúng ta sẽ hiểu là nó mang những bằng chứng về Thầy, và nó đã nói bằng ngôn ngữ của Tin Mừng mà Thầy mang tới cho con cái Israel.
Nhưng ở đây, chính Thầy là người phải rên xiết: “Sự xét xử đã được làm, nhưng đối phương thắng”. Và Thầy rên xiết như vậy với biết bao đau đớn, không phải cho Thầy là người ở bên trên các xét xử của loài người, nhưng là cho các kẻ tự kết án mình bằng sự chống đối của họ, và cho những kẻ mà họ đã làm cho đi ra ngoài con đường ngay chính. Các con ngạc nhiên vì những điều Thầy nói
244
sao? Ở giữa các con có những thương gia thuộc các nơi khác trong Israel, họ có thể nói với các con là Thầy không nói dối. Thầy không nói dối bằng cách sống một đời trái ngược với những điều Thầy giảng dạy, bằng cách không làm những điều người ta hy vọng ở nơi Vị Cứu Tinh. Thầy không nói dối khi nói rằng: người ta chống đối Thầy là chống đối sự phán đoán của Thiên Chúa, đấng đã sai Thầy, và chống lại sự phán đoán của đám đông khiêm tốn và chân thành, họ đã nghe Thầy và tin nhận Thầy đúng như Thầy là.
Một số người trong đám đông xì xèo: “Đúng vậy, đúng vậy, chúng ta là đám dân, chúng ta yêu Người và thấy Người là Đấng Thánh. Nhưng họ (và họ chỉ vào các pharisiêu và bạn bè họ), họ phản kháng”.
Giêsu tiếp tục: “Để làm sự phản kháng này, người ta xé bỏ Lề Luật. Và việc đó sẽ càng ngày càng gia tăng cho tới điểm người ta hủy bỏ nó và phạm một tội bất công tột đỉnh. Tuy nhiên việc này sẽ không kéo dài. Trong khoảng thời gian ngắn của sự nghỉ ngơi hãi hùng, đối phương coi như thắng Thầy. Khi đó, phúc cho những ai biết tiếp tục tin vào Giêsu Nazarét, vào Con Thiên Chúa, vào Con Người được nói trước bởi các tiên tri. Thầy có sức mạnh để hoàn thành sự xét đoán của Thiên Chúa một cách trọn vẹn để cứu hết mọi con cái Israel, nhưng Thầy không thể làm, vì kẻ chống đối sẽ thắng thế trong việc chống lại chính họ. Và như vậy, họ cũng dày đạp lên các quyền lợi của Thầy, họ dày đạp lên quyền lợi của các kẻ tin vào Thầy, họ cũng dày đạp cả quyền lợi của linh hồn họ là những linh hồn cần tới Thầy để được cứu rỗi, nhưng đã bị tặng cho Satan để từ chối cho Thầy”.
Các pharisiêu la lối. Nhưng đã từ một lúc rồi, một ông già oai vệ lại gần nơi Giêsu đứng, và bây giờ, trong một lát nghỉ, ông ta nói: “Tôi xin Ngài vào giáo đường để ban giáo huấn ở đó. Không ai có quyền đó hơn Ngài. Tôi là Mathia, trưởng giáo đường. Hãy tới, và nguyện cho lời Chúa ở trong nhà tôi như nó ở trên môi Ngài”.
- Cám ơn người Israel công chính. Cầu bình an luôn luôn ở với ông.
245
Và Giêsu đi qua đám đông. Họ rẽ ra như một đợt sóng để Người đi qua rồi khép lại ngay, làm thành một dòng người đi theo sau Người. Lại đi qua công viên, lại đi qua trước mặt các pharisiêu hung dữ. Nhưng bọn này cũng vào giáo đường và một cách kiêu hãnh, họ tìm cách phăng ra một con đường. Người ta nhìn xéo họ và nói: “Các ông từ đâu đến? Hãy tới giáo đường của các ông mà chờ vị rabbi. Ở đây là nhà của chúng tôi và chúng tôi ở yên đây”. Và các rabbi, saddu và pharisiêu đành chịu trận, khiêm nhường đứng ở gần cửa ra để không bị dân Cédès đuổi.
Giêsu đã có chỗ gần ông trưởng và các người khác của giáo đường, tôi không biết đó là các con ông hay các người giúp ông. Người tiếp tục bài thuyết trình của Người: “Habacuc nói” - và giống như Người mời gọi họ, vì tình yêu, hãy chú ý - “Hãy nhìn giữa dân chúng và hãy quan sát, hãy kinh ngạc và sửng sốt, vì trong thời của các ngươi sẽ xảy ra những điều mà không ai có thể tin khi nó được kể ra”. Bây giờ chúng ta còn những kẻ thù về vật chất ở bên trên Israel. Nhưng hãy bỏ qua những gì riêng biệt và ít quan trọng trong lời tiên tri, và hãy chỉ nhìn vào cái sứ điệp to tát và hoàn toàn siêu nhiên của ông. Qủa vậy, các lời tiên tri, dù coi như nó phù hợp với các sự kiện vật chất, nó luôn luôn có cái nội dung siêu nhiên. Vậy điều đã xảy ra - và là điều không ai có thể chấp nhận nếu họ không nhìn nhận lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa - là Người đã sai Ngôi Lời của Người để cứu và chuộc lại thế giới. Thiên Chúa xa lìa Thiên Chúa để cứu tạo vật có tội. Vậy chính Thầy được sai đến về việc đó. Và không một sức mạnh nào của thế giới có thể ngăn cản đà chiến thắng của Thầy trên các vua và các bạo chúa, trên tội lỗi và sự khờ dại. Thầy sẽ thắng vì Thầy là Đấng Chiến Thắng.
Một tràng cười khinh bỉ và một tiếng la phát ra từ cuối giáo đường. Người ta phản đối. Ông trưởng giáo đường, cho tới lúc này vẫn nhắm mắt, vì ông chuyên chú để nghe Giêsu, ông liền đứng dậy và áp đặt sự yên lặng trên các kẻ quấy rối và dọa sẽ trục xuất ra ngoài.
- Hãy để họ làm, và cả đến hãy mời họ trình bày các nghị bác
246
của họ - Giêsu nói lớn tiếng.
- Ồ, tốt! Tốt lắm. Hãy để chúng tôi lại gần ông. Chúng tôi muốn phỏng vấn ông - Các kẻ phản đối la lên cách mỉa mai.
- Đến đi. Hãy để cho họ qua, ôi, qúi vị Cédès.
Và đám đông, với cái nhìn hận thù và dọa nạt - cũng không thiếu các hình dung từ hơi nịnh hót - để cho họ qua.
- Các ông muốn biết điều gì? - Giêsu hỏi cách nghiêm nghị.
- Ông nói ông là Đức Messi. Có phải thực sự vậy không?
Giêsu khoanh tay trước ngực, nhìn kẻ đã nói với một uy quyền tới nỗi bỗng chốc sự mỉa mai của hắn rơi mất và hắn nín thinh.
Nhưng một tên khác lên tiếng và nói: “Ông không thể đòi hỏi người ta tin vào lời ông. Một người có thể nói dối, dù họ có đức tin tốt . Nhưng để tin, phải có bằng cớ. Vậy hãy cho chúng tôi những bằng cớ rằng ông là như ông nói”.
- Israel đầy những bằng cớ mà tôi đã cho - Giêsu nói sắc bén.
- Ôi! Những thứ đó, những điều nhỏ mọn mà bất cứ vị thánh nào cũng có thể làm. Đã có những việc và sẽ còn những việc được làm bởi các thánh của Israel - một pharisiêu nói.
Một tên khác thêm: “Người ta không thể nói là ông làm những điều đó do sự thánh thiện và do sự trợ giúp của Thiên Chúa. Người ta nói, và thực sự người ta có thể tin là ông được Satan giúp. Chúng tôi muốn một bằng chứng khác, mạnh hơn, đến nỗi Satan không thể làm”.
- Ờ, đúng! Một cái chết bị thua... - một tên khác nói.
- Các ông có nó rồi.
- Đó là những vẻ bề ngoài của cái chết. Ví dụ hãy chỉ cho chúng tôi một thân xác đang thối lại hồi tỉnh và tái lập lại, để chúng tôi có bằng cớ là Thiên Chúa ở với ông: Thiên Chúa là đấng duy nhất có thể ban hơi thở cho bùn đã trở về bùn.
- Người ta không bao giờ xin điều đó với các tiên tri để tin ở các ngài!
Một saddu kêu lên: “Ông đâu phải chỉ là tiên tri. Ít nhất là chính ông đã nói vậy, ông là Con Thiên Chúa!... A!A! Vậy tại sao ông
247
không hành động như Thiên Chúa? Nào, cho chúng ta một dấu hiệu! Một dấu hiệu!”
- Đúng! Một dấu hiệu từ trời chỉ rằng ông là Con Thiên Chúa, và khi đó chúng tôi sẽ thờ lạy ông - một pharisiêu la lối.
- Chắc chắn rồi, Simon, anh nói đúng. Chúng ta không muốn lại rơi vào tội của Aaron. Chúng ta sẽ không thờ tượng thần: con bò vàng. Nhưng chúng ta có thể thờ lạy Con Thiên Chúa! Ông không là vậy sao? Miễn là trên Trời chỉ cho chúng ta ông là vậy - Kẻ có tên Uziel và đã thấy ở Giscala nói, và ông ta cười một tràng châm biếm.
Một tên khác la lên: “Hãy để tôi nói. Tôi, Sadốc, vị luật sĩ vàng. Hãy nghe tôi đây Kitô. Đã có qúa nhiều người đi trước ông mà không phải là các Kitô. Lừa dối đã đủ rồi. Một dấu hiệu rằng ông đúng là thế. Và Thiên Chúa, nếu Người ở với ông, Người sẽ không thể từ chối ông, và chúng tôi sẽ tin ở ông, và chúng tôi sẽ thờ lạy ông. Nếu không, ông biết là cái gì đang chờ đợi ông theo giới răn của Thiên Chúa”.
Giêsu giơ bàn tay phải bị thương lên và chỉ nó rõ ràng cho kẻ đối thoại với Người: “Ông thấy dấu hiệu này không? Chính ông đã làm ra. Ông đã chỉ trỏ một dấu hiệu khác, và khi nào ông thấy nó xẻ vào thịt Con Chiên, ông sẽ vui mừng. Hãy nhìn nó đây. Ông thấy nó chứ ? Và ông cũng sẽ thấy nó ở trên Trời, khi ông xuất hiện để tính sổ về cách sống của ông. Bởi vì chính tôi sẽ phán xét ông. Và tôi sẽ ở trên đó với thân xác vinh hiển của tôi cùng với các dấu hiệu của sứ mạng của tôi và của các ông, của tình yêu của tôi và sự thù ghét của các ông. Và ông cũng vậy, Uziel, ông sẽ thấy nó. Và ông, Simon, và Caipha, Anna cũng sẽ thấy nó, và nhiều người khác nữa, vào ngày sau cùng, ngày của thịnh nộ, ngày đáng ngại, và vì vậy, các ông sẽ thích ở trong vực thẳm hơn, vì bàn tay bị thương của tôi sẽ đâm xả các ông hơn là lửa hỏa ngục”.
- Ôi! Đó là những lời phạm thượng! Ông ở trên Trời với thân xác của ông?! Kẻ phạm thượng! Ông! Phán xét thay cho Thiên Chúa?! Sự nguyền rủa ở trên ông. Ông chửi rủa vị Giáo Chủ! Ông đáng bị
248
ném đá - các saddu, pharisiêu và tiến sĩ đồng thanh kêu.
Ông trưởng giáo đường lại đứng lên, như tổ phụ, rực rỡ như Môise với bộ tóc trắng và ông kêu: “Cédès là một thành phố tộc Lêvi và thành phố tị nạn. Hãy trọng kính...”
- Chuyện đó xưa rồi. Việc đó không kể tới nữa!
- Ôi! Những cái lưỡi phạm thượng! Chính các ông là kẻ có tội chứ không phải Người, và tôi bảo vệ Người. Người không nói điều gì xấu. Người giải thích lời tiên tri và mang Tin Mừng cho chúng tôi mà các ông làm gián đoạn, các ông thử thách Người. Các ông xúc phạm tới Người. Tôi không cho phép điều đó. Người ở dưới sự che chở của ông già Mathia, con cháu Lêvi do cha, và Aaron do mẹ. Hãy ra khỏi đây để Người dạy dỗ tuổi già của tôi và tuổi trưởng thành của các con tôi - Và ông để bàn tay sù sì của ông trên cánh tay ngoài của Giêsu như để bảo vệ Người.
- Ông ta hãy cho chúng tôi một dấu hiệu thực sự thì chúng tôi sẽ đi và bị khuất phục - các kẻ thù la.
- Đừng giận, Mathia, Thầy sắp nói - Giêsu nói bình tĩnh để làm êm ông già. Và hướng về các pharisiêu, saddu và tiến sĩ, Người nói: “Khi chiều đến, các ông tìm hiểu bầu trời, nếu thấy nó đỏ vào lúc hoàng hôn, thì theo ngôn pháp cổ điển, các ông nói: ngày mai trời sẽ đẹp vì hoàng hôn đỏ trên bầu trời. Cũng vậy, lúc bình minh, khi không khí tối vì sương mù và hơi nước, mặt trời không chiếu mầu vàng, nhưng trải ra như máu trên bầu trời, các ông nói: ngày hôm nay sẽ không thoát được bão tố”. Vậy các ông biết tiên đoán thời tiết cho ngày hôm sau hay trong ngày đó dựa vào các dấu hiệu nhất thời của bầu trời và những cái còn hay thay đổi hơn gió. Vậy mà các ông lại không phân biệt được những dấu hiệu của thời gian? Điều đó không làm vinh dự cho sự thông minh và khoa học của các ông, mà còn làm nhục hoàn toàn cho thần trí và sự khôn ngoan giả mạo của các ông. Các ông thuộc về một thế hệ gian ác và dâm đãng, sinh ra trong Israel do cuộc hôn nhân của những kẻ dơ bẩn với Ác Qủi. Các ông thừa hưởng gia tài đó, và các ông phát triển sự gian ác của các ông và làm trầm trọng sự gian dâm của các ông bằng cách lặp lại tội lỗi của những kẻ đã cưu mang sự sai lầm này.
249
Vậy thì hãy biết, Mathia, hãy biết, hỡi dân thành Cédès và tất cả những ai đang ở đây như người tín hữu cũng như kẻ thù. Đây là lời tiên tri mà tôi nói để thay vào lời của Habacuc: “Thế hệ đồi bại và gian dâm này xin một dấu hiệu, nó sẽ chỉ được cho dấu hiệu của Jonas”. Thôi, nguyện bình an ở với những người thiện chí.
Và bởi một cửa hông mở ra trên một con đường vắng lặng giữa các căn nhà và các khu vườn, Người lảng đi với các tông đồ.
Những người Cédès không nhượng bộ, một số người theo sau các ngài, và khi họ thấy Người vào một quán nhỏ ở vùng ngoại ô phía đông thành phố, họ liền đem tin cho ông trưởng giáo đường và các người đồng hương. Thế là lúc Giêsu còn đang ăn thì cái sân chan hòa ánh sáng của quán nhỏ đã đầy người. Ông già trưởng giáo đường với các kỳ hào của Cédès đứng trước căn nhà có Giêsu, cúi mình và cầu xin: “Thưa Thầy, chúng con vẫn còn ước ao nghe lời Thầy. Thật đẹp biết bao lời Thầy cắt nghĩa về tiên tri Habacuc! Tại sao vì những người ghét Thầy mà những người yêu Thầy và tin ở Sự Thật của Thầy phải chịu không được biết Thầy?”
- Không đâu bố ơi! Sẽ không công bình nếu phạt người tốt tại vì người xấu. Vậy hãy nghe đây... (và Giêsu bỏ giở bữa ăn để ra trước cửa nói với những người tụ họp trong chiếc sân nhỏ yên tĩnh)
- Trong những lời của ông trưởng giáo đường, có tiếng vọng của các lời Habacuc. Đối với ông và đối với tất cả các con, ông nhìn nhận và công bố rằng Thầy là Chân Lý. Habacuc nhìn nhận và công bố: “Từ khởi đầu, Ngài ở và Ngài vẫn ở với chúng tôi, và chúng tôi sẽ không chết”. Cũng vậy, kẻ tin ở Thầy sẽ không chết. Habacuc giới thiệu Thầy như đấng mà Thiên Chúa đặt định để xét xử, như đấng mà Thiên Chúa đã làm cho mạnh mẽ để trừng phạt, như đấng mà đôi mắt qúa trong sạch, không thể nhìn sự ác và không thể chịu đựng sự bất công. Nhưng nếu thực sự tội lỗi làm Thầy ghê tởm, thì các con cũng thấy rằng Thầy mở cánh tay ra cho các kẻ ăn năn vì tội của họ, vì Thầy là Đấng Cứu Tinh. Vì vậy mà cái nhìn của Thầy quay cả về những kẻ có tội, và Thầy mời gọi những kẻ chống đối hoán cải...
250
Ôi! Các con thành Cédès, thành phố Lêvi, thành phố được thánh hóa nhờ tình bác ái đối với kẻ phạm tội ác - và mọi người đều phạm tội chống đối Thiên Chúa, chống đối linh hồn mình và chống đối đồng loại - vậy hãy đến với Thầy, nơi tị nạn của người tội lỗi. Ở đây, trong tình yêu của Thầy, cả sự nguyền rủa của Thiên Chúa cũng không thể giáng trên các con, vì cái nhìn van nài của Thầy cho các con sẽ biến sự nguyền rủa của Thiên Chúa thành sự chúc lành và tha thứ. Hãy nghe! Hãy nghe! Hãy ghi khắc trong tim các con lời hứa này, cũng như Habacuc đã ghi trên một cuốn da lời tiên tri chắc chắn của ông. Ở đó, ông đã nói: “Nếu Người đến trễ thì hãy đợi Người, vì đấng phải đến sẽ đến, không chậm trễ”. Đây, đấng phải đến đã đến, chính là Thầy.
“Kẻ không tin là không có tâm hồn ngay thẳng”. Vị tiên tri đã nói. Và trong lời ông có sự kết án những kẻ đã thử thách Thầy, nguyền rủa Thầy. Không phải Thầy kết án họ, nhưng vị tiên tri đã thấy Thầy trước và đã tin vào Thầy. Cũng như ông đã mô tả Thầy như kẻ chiến thắng, ông cũng mô tả những kẻ kiêu căng khi nói rằng họ không có danh dự vì đã mở linh hồn ra cho sự tham lam vô độ cũng như hỏa ngục tham lam vô độ vậy. Và ông đe dọa: “Vô phúc cho kẻ tích góp của cải không thuộc về nó và đầm mình trong bùn”. Những hành động xấu chống lại Con Người là thứ bùn này, và việc muốn loại bỏ sự thánh thiện của Người để mình không bị chói mắt, đó là tham lam.
Vị tiên tri nói: “Khốn cho kẻ tích chứa trong nhà nó những hoa trái do sự biển lận gian ác của họ để đặt sào huyệt của họ trên đó. Chúng tưởng như vậy sẽ thoát được nanh vuốt của sự dữ”. Như vậy là làm ô nhục và giết chính linh hồn mình.
“Khốn cho kẻ xây dựng thành phố trên xương máu và xây dựng pháo đài trên sự bất công”. Qủa vậy, một phần qúa lớn Israel củng cố những pháo đài tham lam của họ bằng nước mắt và máu, và chờ đợi tới giờ chót để làm sự nhào nặn gay go nhất. Nhưng một pháo đài có thể làm gì để chống lại những mũi tên của Thiên Chúa. Một nhóm người có thể chống lại với cả thế giới sẽ thét lên kinh sợ vì
251
tội ác vô biên không?
Ôi! Habacuc đã nói đúng chừng nào! “Tượng thần để làm gì?” Từ nay, các tượng tà thần chính là sự thánh thiện giả trá của Israel. Một mình Chúa ở trong đền thánh của Người, và trái đất chỉ cúi mình trước một mình Người với sự thờ lạy run sợ, trong khi dấu hiệu đã hứa sẽ được ban một lần thứ nhất, rồi một lần thứ hai. Rồi ngôi Đền Thờ Thực Sự, nơi Thiên Chúa ngự, sẽ lên trời vinh quang để nói ở trên đó: “Đã hoàn tất!” như Người đã nói với trái đất trong tiếng nức nở để thanh tẩy nó bằng sự loan báo Người tới.
Đấng Tối Cao đã nói: “Ta muốn”, và thế giới hiện hữu. Đấng Cứu Thế cũng sẽ nói: “Ta muốn”, và thế giới sẽ được cứu chuộc. Chính Thầy sẽ cho thế giới cái gì để được cứu chuộc, và tất cả những ai có ý muốn được cứu chuộc thì sẽ được. Bây giờ các con hãy đứng dậy, chúng ta hãy đọc lời cầu nguyện của vị tiên tri. Thật chính đáng để đọc nó trong thời kỳ ân phúc này.
“Lạy Chúa, con đã nghe loan truyền việc Chúa đến và con sung sướng”. Ôi! Hỡi các con là những kẻ tin vào Đức Messi, lúc này không còn phải là thời gian sợ hãi nữa.
“Lạy Chúa, công trình của Chúa ở giữa tháng năm, xin hãy làm cho nó sống, mặc dù những cạm bẫy của kẻ thù. Chúa đã làm cho nó được bộc lộ ở giữa thời gian”. Đúng, khi thời gian đã được nên trọn thì công trình sẽ hoàn tất.
“Lòng thương xót sẽ rực rỡ ở giữa những khinh khi”, vì sự khinh khi sẽ chỉ rơi trở lại trên những kẻ đã đặt lưới chăng giây và bắn mũi tên vào Con Chiên Cứu Tinh.
“Thiên Chúa sẽ từ Ánh Sáng đến trong thế gian”. Chính Thầy là Ánh Sáng đến để mang Thiên Chúa cho các con. Sự huy hoàng của Thầy sẽ dìm ngập trái đất, vọt ra như con sông đầy “tại nơi mà những chiếc sừng nhọn” sẽ xẻ rách thịt Nạn Nhân, chiến thắng sau cùng “của sự chết, và Satan thất trận sẽ chạy trốn trước Đấng Hằng Sống và Đấng Thánh”.
Vinh danh Chúa! Vinh danh đấng đã làm! Vinh danh đấng đã ban mặt trời và các tinh tú. Vinh danh đấng đã tạo ra núi đồi. Vinh
252
danh Đấng Tạo Hóa của biển. Vinh danh, vinh danh vô tận cho Đấng Từ Bi đã dùng Đức Kitô để cứu dân Người, để cứu loài người!
Các con hãy hợp nhất. Hãy cùng với Thầy để hát khen Tình Thương đã đến trong thế gian, và thời gian bình an đã rất gần. Đấng giơ tay ra cho các con, khích lệ các con tin và sống trong Chúa, vì thời giờ đã gần, và Israel sẽ bị xét xử theo sự thật.
Bình an cho các con đang hiện diện ở đây, cho gia đình các con, cho nhà cửa các con.
Giêsu vẽ một cử chỉ chúc lành lớn, và Người sắp sửa lui vào thì ông trưởng giáo đường xin: “Xin Thầy ở lại nữa”.
- Bố ơi, Thầy không thể.
- Ít nhất, hãy sai các môn đệ của Thầy đến với chúng con.
- Các con sẽ có, chắc chắn. Hãy đi bình an.
Các ngài ở lại một mình. Phêrô nói: “Nhưng tôi muốn biết ai đã bảo họ (các pharisiêu, saddu, rabbi) đến đón đường chúng ta. Họ tựa như các pháp sư chiêu hồn...”
Iscariot tiến lên, tái mét. Ông qùi ở chân Giêsu: “Thưa Thầy, chính con là kẻ đắc tội. Con đã nói trong thành phố đó... với một trong những người mà con là khách...”
- Thế nào! Đó là điều khác với sự sám hối! Anh là...
- Nín đi Simon Jonas. Anh em con tự thú cách chân thành. Hãy qúi trọng anh ta vì sự khiêm nhường này. Judas, đừng băn khoăn. Thầy tha cho con. Con biết rằng Thầy tha cho con. Lần tới hãy thận trọng hơn... Bây giờ chúng ta đi. Chúng ta sẽ bước bao lâu còn ánh trăng. Chúng ta phải qua sông trước bình minh. Đi. Sau chỗ này là rừng rú, họ sẽ mất dấu vết của chúng ta, kẻ xấu cũng như người tốt. Ngày mai chúng ta sẽ ở trên đường đi Panêade.
31* KHI ĐI VỀ CÊSARÊ PHILÍP
Đồng bằng quanh vùng sông Giođan trước khi nó đổ vào hồ Mêron, một đồng bằng đẹp, trong đó ngũ cốc càng lúc càng xum
253
xuê và các cây ăn trái nở đầy hoa. Các ngọn đồi và thành phố Cédès bây giờ ở sau lưng các người hành hương. Bị cóng vì lạnh, họ bước đi mạnh mẽ vào những tia sáng đầu tiên của ngày, liếc con mắt thèm thuồng lên mặt trời đang dậy và tìm kiếm nó ngay khi những tia đầu tiên của nó lướt trên đồng cỏ và mơn trớn các lá hoa. Chắc họ đã ngủ dưới các ngôi sao đẹp hoặc trong đống rơm rạ, vì y phục của họ nhầu nát, và còn dính những cộng rơm hay lá khô mà họ lấy đi khi họ nhìn thấy chúng trong ánh sáng mạnh hơn.
Dòng sông loan báo sự hiện diện của nó bằng những tiếng rì rào nghe có vẻ mạnh trong sự yên lặng của buổi sáng ở đồng quê, và bằng một rặng cây dầy, xanh, đầy lá mới rung rinh trong gió nhẹ của buổi sáng. Nhưng người ta chưa nhìn thấy nó, vì nó bị vùi trong đồng bằng. Khi dòng nước xanh, bị phình ra bởi nhiều suối nhỏ từ các ngọn đồi ở phía tây chảy xuống, cho nhìn thấy nó lấp lánh trong mầu xanh mới ở hai bên bờ, thì người ta đã hầu như ở tại bờ.
- Chúng ta đi theo bờ cho tới cầu hay chúng ta qua sông ở đây? - Các tông đồ hỏi Giêsu khi Người đi một mình, suy tư, và Người đứng lại để chờ họ.
- Các con coi có thuyền để qua không. Tốt hơn là nên qua ở đây.
- Vâng, tại cầu, ngay chỗ con đường đi Cêsarê Panêade, chúng ta lại có thể gặp vài kẻ được sai đến theo vết chúng ta - Batôlômêo nhận xét, và ông cau có nhìn Judas.
- Không, đừng nhìn xéo tôi. Tôi không biết là chúng ta sẽ ở đây, và tôi không hề nói gì cả. Thật dễ dàng để đoán ra rằng từ Séphét, Giêsu sẽ tới mộ các rabbi và đi Cédès. Nhưng tôi không bao giờ nghĩ là Người có thể đến tận thủ đô của Philíp. Vậy họ không biết đâu, và chúng ta sẽ không gặp họ do lỗi của tôi cũng như bởi ý muốn của họ, ngoại trừ họ có Benzêbut hướng dẫn họ - Iscariot nói bình tĩnh và khiêm tốn.
- Tốt. Bởi vì với một số người... Phải có mắt và canh chừng lời nói, đừng để lại dấu vết cuộc hành trình của chúng ta. Phải chú ý tới tất cả, nếu không, sự rao giảng Tin Mừng của chúng ta sẽ biến thành sự trốn tránh liên tục - Batôlômêo đối đáp.
254
Gioan và Andrê trở lại, họ nói: “Chúng con đã tìm được hai chiếc thuyền. Họ đi qua với giá một đồng một chuyến cho mỗi chiếc. Chúng ta hãy xuống bờ”.
Và trong hai chiếc thuyền, họ qua sông làm hai lượt sang bờ bên kia. Đồng bằng mầu mỡ cũng đón họ tại đây, một đồng bằng phì nhiêu nhưng ít dân. Chỉ có các nông dân trồng cấy ngay tại nơi có nhà cửa của họ.
- Hum! Chúng ta phải làm sao để có bánh. Tôi đói, mà ở đây... cả đến những bông lúa Philitin cũng không có... chỉ có cỏ và lá, lá và hoa. Tôi đâu phải con cừu, cũng không phải con ong. - Phêrô lèo xèo với các bạn ông, và họ cười vì nhận xét của ông.
Juđa Thađê quay lại (ông đi ở đàng trước một chút), và ông nói: “Chúng ta sẽ mua bánh ở làng đầu tiên”.
- Miễn là họ không làm chúng ta chạy trốn - Giacôbê Zêbêđê kết thúc.
- Các con là những người nói rằng phải chú ý tới tất cả, hãy giữ mình các con cho khỏi dính men pharisiêu và saddu. Thầy thấy hình như các con đang bị như vậy mà không suy nghĩ rằng các con làm hại cho mình. Hãy cẩn thận giữ mình - Giêsu nói.
Các tông đồ nhìn nhau và xì xào: “Nhưng Người nói gì? Bánh mà người đàn bà của người câm điếc cho chúng ta, và của người chủ ở Cédès, nó hãy còn đây. Những bánh duy nhất mà chúng ta có. Và chúng ta không biết có thể tìm được và ăn cho khỏi đói không. Tại sao Người nói là chúng ta mua của các pharisiêu và saddu, bánh với men của họ? Có lẽ Người không muốn chúng ta mua ở các làng này...”
Giêsu lại một mình ở đàng trước và lại quay lại: “Tại sao các con sợ không có bánh cho khỏi đói? Dù ở đây tất cả đều là saddu và pharisiêu, các con cũng chẳng thiếu bánh vì lời khuyên của Thầy. Không phải Thầy nói về thứ men ở trong bánh, vì vậy các con có thể mua bánh ở bất cứ đâu cho cái bụng của các con. Và nếu không ai muốn bán cho các con thì các con cũng chẳng thiếu bánh. Các con có nhớ năm cái bánh đã nuôi năm ngàn người không? Các con
255
không nhớ là các con đã lượm mười hai thúng đầy các bánh thừa sao? Thầy có thể làm cho các con: mười người mà có một cái bánh, điều Thầy đã làm cho năm ngàn người với năm cái bánh. Các con không hiểu Thầy nói ám chỉ về thứ men nào sao? Thứ men đang bốc lên trong lòng các pharisiêu, saddu và tiến sĩ để chống lại Thầy: đó là sự thù ghét và tà giáo. Vậy mà các con đang đi tới sự thù ghét, tựa như một phần men của các pharisiêu đã nhập vào trong các con. Người ta không được ghét, dù là kẻ thù của chúng ta. Đừng mở, dù một lỗ nhỏ, cho những gì không phải là Thiên Chúa vào. Sau những yếu tố đầu tiên, nó sẽ tiếp tục vào những thứ khác nghịch với Thiên Chúa. Đôi khi vì muốn chiến đấu với kẻ thù võ trang đồng đều, người ta kết thúc bằng cái chết hay bị thua. Và một khi thua, các con có thể bị tiêm nhiễm giáo thuyết của họ bởi sự tiếp xúc với họ. Không. Hãy có đức bác ái và hãy bảo trì nó. Các con chưa có nó đủ trong mình để chiến đấu với họ, với những giáo thuyết này mà không bị tiêm nhiễm. Vì một số yếu tố mà họ có, các con cũng có, mà sự thù ghét đối với họ là một. Thầy còn nói với các con là họ có thể thay đổi phương pháp để lôi cuốn các con và giựt các con khỏi tay Thầy, bằng cách dùng hàng ngàn thứ lịch sự, tử tế; bằng cách tỏ ra sám hối, ước ao làm lành. Các con không nên trốn tránh họ, nhưng khi họ tìm cách tiêm giáo lý của họ cho các con, thì hãy biết từ chối tiếp nhận. Đó là thứ men mà Thầy nói: Sự thù ghét ngược với tình yêu, và những giáo thuyết sai lạc. Thầy bảo các con: Hãy thận trọng”.
- Cái dấu hiệu mà các pharisiêu xin hôm qua, đó là men phải không Thầy? - Tôma hỏi.
- Đó là men và thuốc độc.
- Thầy đã làm rất đúng khi không cho họ.
- Nhưng một ngày kia Thầy sẽ cho họ.
- Khi nào? Khi nào? - Họ tò mò hỏi.
- Một ngày kia...
- Vậy đó là dấu hiệu nào? Thầy không nói cả với chúng con, các
tông đồ của Thầy sao? Để chúng con nhận ra nó ngay lập tức -
256
Phêrô ước ao biết.
- Các con thì các con không cần dấu hiệu.
- Ồ, không phải để có thể tin ở Thầy. Chúng con không phải thứ người có nhiều tư tưởng. Chúng con chỉ có một tư tưởng: Yêu Thầy - Giacôbê Zêbêđê nói mạnh mẽ.
- Nhưng các con tới gần dân chúng cách thân mật hơn Thầy mà không làm họ sợ như Thầy có thể gây ra cho họ. Họ nói Thầy là gì? Họ định nghĩa Con Người thế nào?
- Một số nói Thầy là Giêsu, tức là Đức Kitô. Đó là những người tốt nhất. Những người khác thì gọi Thầy là Tiên Tri, người khác nữa thì chỉ là rabbi; người khác nữa thì Thầy biết đó, nói Thầy điên hay bị qủi ám.
- Nhưng có những người gọi Thầy bằng tên mà Thầy tự xưng: họ gọi Thầy là “Con Người”.
- Và một số nữa thì nói rằng như vậy không thể được, vì Con Người là điều rất khác. Và điều đó không phải luôn luôn là phủ định, vì tận đáy lòng, họ nhìn nhận Thầy rất hơn một con người: Thầy là Con Thiên Chúa. Trái lại, có những người khác thì nói rằng Thầy thậm chí không phải là con người, nhưng là một con người tội nghiệp mà Satan khích động, hay bị xáo trộn vì điên rồ. Thầy thấy là ý kiến có rất nhiều và hoàn toàn khác nhau - Batôlômêo nói.
- Nhưng đối với người ta thì Con Người là gì?
- Đó là một người có tất cả những nhân đức đẹp đẽ nhất của loài người; một người tụ tập được trong chính mình tất cả những phẩm tính thiết yếu: thông minh, khôn ngoan, ơn phúc mà chúng ta nghĩ chúng có nơi Ađam, và chắc chắn cùng với phẩm tính này, họ thêm vào đặc tính không phải chết. Thầy biết rằng họ đã đồn cái tin là ông Tẩy Giả không chết, nhưng chỉ được các thiên thần mang đi nơi khác; và đồn rằng Hêrôđê, và nhất là Hêrôđiađe, để không phải xưng là nhượng bộ Thiên Chúa, đã giết một người đầy tớ, rồi sau khi chặt đầu ông ta, đã phơi bày cái xác cụt đầu của người đầy tớ như xác ông Tẩy Giả. Người ta kể đủ thứ chuyện! Cũng vậy, nhiều người nghĩ Con Người tức là Jêrêmia hoặc Êlia, hoặc một trong các
257
tiên tri, hoặc chính là ông Tẩy Giả, người có ơn phúc và khôn ngoan, đã tự xưng là Tiền Hô của Đức Kitô. Đức Kitô tức là đấng được Thiên Chúa xức dầu; Con Người tức là một vĩ nhân sinh ra bởi loài người. Một số rất đông không thể thừa nhận, hoặc không muốn thừa nhận là Thiên Chúa có thể sai Con Người xuống trái đất. Hôm qua Thầy đã nói: Chỉ những kẻ thừa nhận lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa mới tin được. Israel tin nhiều ở sự nghiêm khắc của Thiên Chúa hơn là ở lòng nhân từ của Người... - Vẫn là Batôlômêo nói.
- Đúng. Quả vậy, họ cảm thấy qúa bất xứng tới nỗi họ nghĩ rằng Thiên Chúa không thể tốt tới nỗi sai Ngôi Lời của Người tới để cứu họ. Điều làm trở ngại cho lòng tin của họ là sự suy sụp của tâm hồn họ - Zêlote xác nhận, và ông thêm: “Thầy nói rằng Thầy là con Thiên Chúa và Con Người. Quả vậy, nơi Thầy có tất cả ân sủng và khôn ngoan như một người. Và con tin là một người, nếu được sinh ra bởi Ađam trong tình trạng Ân Sủng, sẽ giống như Thầy về vẻ đẹp, sự thông minh và tất cả các phẩm tính khác. Và nơi Thầy, quyền phép của Thiên Chúa rực sáng. Nhưng những người xưng mình là thánh thì ai có thể tin họ, vì họ đo lường Thiên Chúa bằng chính họ, trong sự kiêu căng vô lường của họ. Họ, những kẻ độc ác, ghen ghét, những kẻ tham lam, ô nhơ, chắc chắn họ không thể tin được rằng Thiên Chúa đã đẩy lòng nhân hậu của Người tới chỗ ban chính mình Người để cứu chuộc họ: tình yêu của Người để cứu họ, sự quảng đại của Người để phó mình cho loài người, sự trong sạch của Người để hiến thân hy sinh giữa chúng ta. Họ không thể tin. Họ: Những người qúa nghiêm khắc và xét nét để tìm và phạt các lỗi”.
- Và các con, các con nói Thầy là ai? Hãy nói thật theo sự phán đoán của các con, đừng kể đến lời Thầy hay lời các người khác. Nếu các con bó buộc phải phán đoán về Thầy, các con sẽ nói Thầy là ai?
- Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống - Phêrô kêu lên khi ông qùi gối, giơ tay lên hướng về Giêsu. Người nhìn ông với vẻ mặt tươi sáng. Sau cùng Người cúi xuống nâng ông dậy, ôm ông và
258
nói: “Ôi! Hỡi Simon, con trai Jonas! Con có phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết đã tiết lộ điều đó cho con, mà là Cha Thầy ở trên Trời. Từ ngày đầu tiên mà con đến với Thầy, con đã tự đặt câu hỏi đó, và bởi vì con đơn sơ và ngay thật, con đã biết hiểu và đón nhận câu trả lời từ Trời đến với con. Con đã không thấy những biểu lộ siêu nhiên của Thầy như em con và Gioan và Giacôbê; con đã không biết sự thánh thiện của Thầy là con người, là người thợ, người công dân như Juđa và Giacôbê, các anh của Thầy. Con đã không được hưởng phép lạ và con đã không thấy Thầy hoàn thành; và Thầy đã không cho con cái dấu hiệu về quyền phép của Thầy như Thầy đã làm, và như Philíp, Natanael, Simon Canane, Tôma và Judas đã thấy. Con đã không bị chế phục bởi ý muốn của Thầy như Mathêu, người thâu thuế. Nhưng con đã kêu lên: “Người là Đức Kitô!” ngay từ giờ đầu tiên con gặp Thầy. Con đã tin và đức tin của con không hề lay chuyển. Vì vậy thầy đã gọi con là Đá, và vì thế, ở trên con: trên đá, Thầy sẽ xây Giáo Hội Thầy, và các quyền lực của hỏa ngục không thể thắng được nó. Và chính con là người Thầy sẽ ban chìa khóa Nước Trời, và tất cả những gì con cầm buộc dưới đất thì sẽ bị cầm buộc ở trên Trời, và tất cả những gì con cởi mở dưới đất thì sẽ được cởi mở ở trên Trời. Ôi! Con người trung thành và khôn ngoan mà Thầy có thể cảm nhận con tim! Tại đây, kể từ giờ phút này, con là thủ lãnh mà các người khác phải vâng lời và kính trọng như một chính Thầy khác. Đó là điều Thầy tuyên bố trước mặt tất cả các con”.
Nếu Giêsu đã dày nát Phêrô bằng một trận mưa đá của mắng trách thì tiếng khóc của Phêrô đã không mạnh đến thế. Ông khóc và bật ra những tiếng nấc, mặt úp vào ngực Giêsu. Những tiếng khóc chỉ tương đương với tiếng khóc không nín được trong sự đau đớn của ông vì đã chối Giêsu. Bây giờ là tiếng khóc của hàng ngàn cảm giác khiêm nhường và tốt lành... Hãy còn một tí con người Simon cũ - người dân chài của Bétsaiđa mà ở lời tuyên bố đầu tiên của em ông, ông đã cười và nói: “Đức Messi mà tỏ mình ra với chú à!... thực tình!” lời nói dỡn và không tin - nhưng một chút cái Simon
259
cũ đã tan thành bụi dưới nước mắt, để làm hiện ra Vị Thủ Lãnh của Giáo Hội Chúa Kitô càng ngày càng rõ ràng dưới lớp vỏ mỏng của nhân tính.
Khi ông ngửa mặt lên, rụt rè, bối rối, ông chỉ biết làm một cử chỉ để nói tất cả, để hứa hẹn tất cả, để tự hiến tất cả cho sứ mạng mới của ông: cử chỉ choàng cánh tay ngắn và nổi bắp thịt của ông quanh cổ Giêsu và bó buộc Người cúi xuống để ông hôn Người, hòa lộn tóc và râu hơi bờm xờm và muối tiêu của ông với tóc và râu hoe vàng mềm mại và óng ánh của Giêsu. Ông nhìn Người bằng cái nhìn thờ lạy, âu yếm, van nài, bằng đôi mắt hơi lồi của ông, sáng và đỏ bởi nước mắt ông đã đổ ra, trong khi ông cầm trong đôi bàn tay chai dạn, to và dầy của ông, khuôn mặt khổ hạnh của Thầy đang cúi xuống trên mặt ông, tựa như đó là chiếc bình đang tuôn ra thứ nước tươi mát... Và ông uống, uống, uống sự êm đềm và ân phúc, bình an và sức mạnh của khuôn mặt này, của đôi mắt này, của nụ cười này...
Sau cùng hai người rời ra, tiếp tục con đường về Cêsarê Philíp. Và Giêsu nói với tất cả: “Phêrô đã nói sự thật. Rất nhiều người đã linh cảm điều đó. Các con cũng tự biết mình. Nhưng lúc này các con đừng nói với ai về Đức Kitô là gì trong sự thật mà các con đã được biết. Hãy để Thiên Chúa nói trong các con tim như Người nói trong tim các con. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng: những người, do sự qủa quyết của Thầy và của các con, có một đức tin hoàn toàn và một tình yêu hoàn toàn, sẽ biết được ý nghĩa đích thực của các tiếng: Giêsu, Đức Kitô, Ngôi Lời, Con Người và Con Thiên Chúa”.
32* TẠI CÊSARÊ PHILÍP
Chắc hẳn thành phố mới được xây, giống như Tibêriat và Ascalon, được xây trên một mặt nghiêng có pháo đài với nhiều tháp mọc cao lổm chổm, được bao quanh bằng những thành lũy vĩ đại, được bảo vệ bằng những hố sâu, trong đó có nước chảy vào do một phần
260
của hai dòng suối mà sau khi đã hầu như chập một lại theo một góc vuông, rồi lại rẽ ra, một đàng chảy ra ngoài thành, một đàng chảy vào bên trong. Có nhiều đường phố, công trường và phông-ten đẹp: một bộ mặt xây cất kiểu Rôma. Ở đây cũng vậy, sự vâng lời đê tiện đối với các Thủ Hiến được bộc lộ bằng cách giày đạp lên tất cả những kính trọng đối với tập tục của quê hương.
Thành phố, chắc chắn vì nó là cái nút của nhiều con đường lớn mà các đoàn du mục dùng để đi Damas, Tyr, Séphét hay Tibêriat, theo như các bảng chỉ đường ở tất cả các cổng thành, đầy những người chuyển động: bộ hành, kỵ mã, các đoàn lừa và lạc đà, giao nhau trong các phố xá rộng và bảo trì tốt. Các nhóm thương gia hay những kẻ nhàn rỗi dừng lại ở công trường, dưới các dẫy hành lang, gần các gia cư xa hoa, có lẽ ở đây cũng có những nhà tắm hơi, để nói chuyện làm ăn, hoặc để qua thời giờ trong những chuyện gẫu không quan trọng.
- Con biết chúng ta có thể tìm thấy họ ở đâu không? - Giêsu hỏi Phêrô.
- Có. Những người con đã hỏi nói với con rằng các môn đệ của vị rabbi thường có thói quen tụ họp để dùng bữa trong nhà một người Israel trung thành ở gần nội thành. Và họ đã tả nó cho con, con không thể lầm: một nhà Israel, cả trong vẻ bề ngoài của nó, với mặt tiền phía ngoài không có cửa sổ, với cái cổng chính cao, bên bờ tường có một phông-ten nhỏ, có các bức tường cao bao quanh khu vườn có nhiều lối đi nhỏ, và một sân thượng cao bên trên mái nhà, đầy những chim câu.
- Tốt. Vậy chúng ta tới đó.
Họ băng qua thành phố cho tới khu trung tâm nội thành. Họ tới căn nhà mà họ tìm và gõ cửa. Một bà già nhỏ khuôn mặt nhăn nheo xuất hiện trước lối vào. Giêsu tiến lên chào: “Bình an cho bà. Các môn đệ của vị rabbi đã về chưa?”
- Chưa ông ơi. Họ ở lối cái Suối Lớn với những người khác, đến từ nhiều miền khác nhau ở phía bên kia sông để tìm chính vị rabbi. Tất cả họ đều chờ Người. Ông có thuộc nhóm họ không?
261
- Không. Tôi tìm các môn đệ.
- Vậy hãy nhìn đây: ông thấy con đường hầu như ở trước phôngten không? Hãy đi con đường đó cho tới khi ông tới một tường thành cao bằng đá, từ đó nước chảy vào một thứ bể mà sau đó làm thành như cái suối nhỏ. Ông sẽ tìm thấy họ ở ngay gần đó. Nhưng ông đến từ xa không? Ông có muốn giải khát không thì vào đây để chờ họ? Nếu ông muốn, tôi sẽ đi gọi chủ tôi. Đây là những người Israel tốt, ông biết không? Và họ tin ở Đức Messi. Là môn đệ chỉ vì đã thấy Người một lần ở Đền Thờ tại Jêrusalem. Nhưng bây giờ các môn đệ của Đức Messi đã dạy họ nhiều điều về Người, và đã làm các phép lạ ở đây, bởi vì...
- Tốt lắm, bà rất đại độ. Tôi sẽ trở lại với các môn đệ. Bình an cho bà. Hãy trở lại với công việc của bà - Giêsu nói với sự nhân từ, nhưng cũng đầy uy quyền để chặn lại làn sóng các lời này.
Họ lại lên đường, và các tông đồ trẻ cười thoải mái vì màn cảnh của người đàn bà, làm Giêsu cũng mỉm cười. Gioan nói: “Thưa Thầy, bà ta giống như cái Suối Lớn, Thầy có thấy vậy không? Các lời của bà chảy như sóng liên tục, và bà làm như chúng ta là những cái bể tràn ra thành suối các lời của bà...”
- Đúng. Con hy vọng các môn đệ không làm phép lạ trên cái lưỡi của bà... Đó sẽ là trường hợp để nói: “Các anh đã làm qúa nhiều phép lạ”. Thađê cười thoải mái, trái với thói quen của ông.
- Điều đẹp nhất sẽ là khi bà thấy chúng ta trở lại, và bà thấy đó là Thầy! Ai sẽ thành công làm cho bà nín lặng? - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Không, trái lại, bà sẽ câm nín vì sững sờ - Mathêu nói để tham gia vào nhận xét của các người trẻ.
- Tôi sẽ ngợi khen Đấng Tối Cao nếu sự sững sờ làm tê liệt lưỡi bà. Đương nhiên là tôi đang hầu như chay lòng, nhưng có điều chắc chắn là cơn lốc của các lời bà làm đầu óc tôi quay cuồng - Phêrô nói.
- Và ôi! Bà ta la lớn chừng nào! Có lẽ bà ta điếc? - Tôma hỏi.
- Không. Bà nghĩ là chúng ta điếc - Iscariot nói.
- Hãy để cho bà ta yên, bà già tội nghiệp! Bà ta tốt và có lòng
262
tin. Con tim bà cũng quảng đại như cái lưỡi bà - Giêsu nói nửa nghiêm trang.
- Ồ, vậy thưa Thầy, bà già này vừa anh hùng vừa quảng đại - Gioan nói, và ông cười thoải mái.
Bức tường bằng đá vôi đã hiện ra và người ta đã nghe tiếng rì rào của nước chảy vào bể.
- Đây là cái suối. Chúng ta đi theo nó... Đây, cái phông-ten... Và kìa... Benjamin! Daniel! Abel! Philíp! Hermastê! Chúng tôi đây! Có Thầy ở đây - Gioan gọi lớn nhóm người khá đông đang tụ họp chung quanh một người mà tôi không nhìn thấy.
- Im đi thằng bé này! Nếu không thì cậu cũng giống con gà mái già đó - Phêrô khuyên.
Các môn đệ quay lại và thấy các đấng. Vừa thấy, họ liền từ trên sân cao nhảy xuống một phát. Bây giờ tôi thấy, vì nhóm người phân tán ra, là trong nhóm đông các môn đệ cũ, có lẫn lộn các người dân ở Cédès và cả ở làng của người câm-điếc. Chắc họ đã đi đường tắt nhất, vì họ đến trước Thầy. Nỗi vui thật lớn lao! Nhiều câu hỏi và nhiều câu trả lời. Giêsu kiên nhẫn nghe và trả lời cho tới khi ông già Isaac ốm nheo, tươi cười, chất đầy thực phẩm, tới nơi cùng với hai người khác nữa.
- Xin mời Chúa của con đến nhà trọ, ở đó Thầy sẽ nói cho chúng con điều chúng con không thể nói, bởi vì chúng con, cả đến chúng con không biết điều đó nữa. Những người này, những người đến sau cùng, và họ mới ở với chúng con được vài giờ, họ muốn biết: Có nghĩa là gì cái dấu hiệu của Jonas mà Thầy đã hứa cho cái thế hệ gian ác bách hại Thầy - Isaac nói.
- Thầy sẽ cắt nghĩa hết trong khi đi đường.
Nhưng đi thì không dễ! Vì giống như mùi của bông hoa lan trong không khí lôi kéo bầy ong lại với nó, từ mọi phía, người ta chạy tới để họp đoàn với những người ở chung quanh Giêsu.
Isaac giải thích: “Đây là các bạn của chúng con, những người tin và chờ Thầy...”
- Những người mà do các ông này, nhất là do ông ta cách đặc
263
biệt, mà đã được các ơn - một người trong đám đông nói trong khi chỉ vào Isaac.
Isaac đỏ mặt, và như để xin lỗi, ông nói: “Tôi, tôi là đầy tớ, còn Người là Thầy. Qúi vị đã chờ, thì đây là Thầy Giêsu!”
Vậy là đúng! Cái góc yên tĩnh này của Cêsarê, hơi xa trung tâm, gần biên giới, đã trở nên náo động hơn một cái chợ và ồn ào hơn: Vạn tuế, hoan hô, van nài... Có đủ thứ. Giêsu tiến bước rất chậm, bị chèn ép bởi cái kềm tình yêu này. Nhưng Người mỉm cười và chúc phúc. Đi chậm tới nỗi một số có thời giờ để chạy đi loan tin, rồi trở lại với bạn bè hay cha mẹ, mang các đứa trẻ trong bàn tay để có thể giơ nó tới tận Giêsu để Người vuốt ve và chúc phúc cho nó.
Theo kiểu đó, Người tới căn nhà mà Người đã tới lúc nãy và gõ cửa. Người đầy tớ già vừa rồi nghe tiếng họ và bà mở không ngập ngừng. Nhưng... Bà Thấy Giêsu ở giữa đám đông đang tung hô Người và bà hiểu... Bà qùi sụp xuống đất và rên rỉ: “Lạy Chúa! Xin thương! Tôi tớ Ngài đã không nhận ra Ngài và đã không tôn kính Ngài!”
- Không có gì xấu đâu bà. Bà chưa biết Người mà bà đã tin vào Người. Đó chính là điều phải làm để được Thiên Chúa yêu. Hãy đứng dậy và dắt chúng ta tới các chủ của bà.
Bà già nhỏ vâng lời, run rẩy vì kính trọng. Nhưng bà thấy các chủ cũng thất kinh vì kính trọng, đứng ép sát vào tường ở cuối lối vào hơi tối. Bà chỉ vào họ: “Họ đó”.
- Bình an cho qúi vị và cho nhà này. Nguyện Chúa chúc phúc cho qúi vị vì đức tin của qúi vị vào Đức Kitô, và vì lòng bác ái của qúi vị đối với các môn đệ Người - Giêsu nói khi bước lại với hai người già nhỏ, vợ chồng hay anh em gì đó.
Họ tôn kính Người, hộ vệ Người vào một cái hàng hiên mênh mông, nơi nhiều chiếc bàn trải khăn nặng đã được sửa soạn. Từ đây, cái nhìn bao quát trên Cêsarê, còn ở phía hông và phía sau thì nhìn ra các vùng đồi núi. Các con chim câu bay lượn từ sân thượng xuống vườn đầy lá và hoa.
Trong khi một người đầy tớ già đặt thêm các chỗ ngồi, Isaac giải thích: “Benjamin và Anna không những chỉ đón tiếp chúng con, mà
264
đón cả những người đến tìm Thầy. Họ làm nhân danh Thầy”.
- Nguyện trên Trời giáng phúc cho mỗi lần như vậy.
- Ôi! Chúng con có phương tiện mà chúng con không có người thừa kế. Vào cuối đời, chúng con nhận những người nghèo của Chúa làm thừa kế - người đàn bà già nhỏ nói cách đơn sơ.
Giêsu đặt tay trên đầu tóc trắng của bà và nói: “Và việc đó làm cho bà trở thành mẹ hơn là nếu bà đã thụ thai bảy và bảy lần. Nhưng bây giờ hãy cho phép Thầy cắt nghĩa điều họ muốn biết, để rồi có thể giải tán dân chúng, và chúng ta sẽ ngồi vào bàn”.
Cái sân thượng đã bị dân chúng xâm chiếm, và họ vẫn còn tới, chen chúc vào những nơi còn trống, Giêsu ngồi giữa một triều thiên trẻ nhỏ. Chúng nhìn Người ngây ngất bằng con mắt ngây thơ của chúng. Người quay lưng lại cái bàn và mỉm cười với đám trẻ này, dù là sắp đề cập đến vấn đề nghiêm trọng. Tựa như Người đọc trên các khuôn mặt ngây thơ những lời của sự thật mà người ta xin Người cắt nghĩa.
- Hãy nghe đây: Dấu hiệu của Jonas mà Thầy đã hứa với các kẻ dữ, Thầy cũng hứa với các con nữa, không phải vì các con xấu, mà trái lại, để cho các con có thể đi tới hoàn thiện đức tin khi các con thấy nó được nên trọn, là đây: Như Jonas đã ở lại trong bụng cá ba ngày, rồi được trả lại trên đất để hoán cải và cứu thành Ninive. Cũng sẽ xảy ra như vậy cho Con Người. Để làm yên những làn sóng của cơn bão tố thuộc về Satan, các vị quyền thế của Israel cho là phải hy sinh Đấng Vô Tội. Nhưng họ chỉ làm gia tăng thêm sự hủy hoại của họ, vì cùng với Satan là đứa quấy quất họ, họ sẽ có Thiên Chúa để phạt họ sau tội ác của họ. Họ có thể thắng cơn bão của Satan bằng cách tin vào Thầy, nhưng họ không làm, bởi vì họ thấy nơi Thầy cái lý do của sự băn khoăn của họ, sự sợ hãi của họ, sự nguy hiểm của họ, và sự cải chính cho sự thánh thiện giả dối của họ. Nhưng khi tới giờ, con vật tham lam vô độ là lòng trái đất, đã nuốt chửng hết mọi người chết, sẽ mở ra để trả Ánh Sáng cho cái thế giới từ chối Ánh Sáng.
Vậy đây, cũng như đối với thành Ninive, Jonas là dấu hiệu của
265
sức mạnh và lòng thương xót của Chúa, Con Người cũng là như vậy cho thế hệ này. Chỉ có điều khác nhau là dân thành Ninive đã hoán cải, còn Jêrusalem thì không hoán cải, vì nó mang đầy thế hệ độc ác mà Thầy đã nói. Cũng vậy, vào ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên phản đối các người của thế hệ này và kết án họ, vì vào thời của bà, bà đã từ tận biên giới trái đất đến để nghe lời khôn ngoan của Salômôn, trong khi thế hệ này có Thầy ở giữa họ mà họ không muốn nghe Thầy, họ bách hại Thầy, xua đuổi Thầy như người cùi và người tội lỗi, mà Thầy là đấng còn hơn Salômôn rất nhiều. Vào ngày phán xét, dân thành Ninive cũng đứng lên chống đối thế hệ xấu này, vì nó không trở lại với Chúa là Thiên Chúa của nó, trong khi họ đã hoán cải do lời giảng của một người. Thầy, Thầy còn hơn một người, dù là Jonas hay bất cứ tiên tri nào khác.
Vậy Thầy sẽ cho dấu hiệu không thể mập mờ của Jonas cho những kẻ xin một dấu hiệu. Đó là một, và một dấu hiệu nữa Thầy cho những kẻ không muốn cúi cái trán ngạo mạn của họ trước những bằng cớ đã cho về những người đã sống lại do ý muốn của Thầy. Thầy sẽ cho hết mọi dấu hiệu: dấu hiệu của một thân xác đang thối rữa, lại sống lại và lành lặn, và dấu hiệu của một thân xác tự mình mà sống lại, bởi vì mọi quyền lực đã được ban cho thần trí của thân xác đó. Nhưng đây không phải là ân phúc. Nó không làm cho hoàn cảnh bớt nặng nề, ở đây cũng như trong cuốn sách đời đời. Điều đã viết là đã được viết. Và giống như những viên đá cho một cuộc ném đá sắp tới, các bằng cớ sẽ chồng chất lại. Chống đối Thầy để làm thiệt hại cho Thầy nhưng không thành công. Chống đối họ để làm cho họ bước qua đời vĩnh cửu dưới sự kết án của Thiên Chúa dành cho những kẻ cứng lòng tin độc ác.
Đó là dấu hiệu của Jonas mà Thầy đã nói. Các con còn điều gì muốn hỏi nữa không?
- Thưa Thầy không. Chúng con sẽ tường trình cho ông trưởng giáo đường của chúng con. Ông ta rất gần với sự thật trong việc phán đoán của ông về dấu hiệu Thầy đã hứa.
- Mathia là người công chính. Chân Lý tỏ mình ra cho người
266
công chính cũng như nó tỏ mình ra cho các trẻ ngây thơ này, chúng biết Thầy là ai hơn những người khác. Trước khi giải tán các con, hãy cho Thầy được nghe các thiên thần của trái đất ca tụng lòng thương xót của Thiên Chúa. Đến đây, các em bé.
Các trẻ con vẫn ngồi yên tĩnh cách khó khăn chung quanh Giêsu, liền chạy lại với Người.
- Các trẻ nhỏ không qủi quyệt, hãy nói cho Thầy, đối với các con, dấu hiệu của Thầy là gì?
- Là Thầy tốt.
- Là Thầy cho chữa lành má con nhân danh Thầy.
- Là Thầy yêu cả thế giới.
- Là Thầy đẹp như không ai có thể.
- Là Thầy làm cho cả những kẻ xấu như ba con trở nên tốt.
Mỗi cái miệng nhỏ của trẻ con tuyên bố một đặc tính của Giêsu và trình bày những đau khổ mà Giêsu đã biến thành nụ cười.
Nhưng đứa tử tế hơn tất cả là một bé trai bốn tuổi, nó trèo lên đầu gối Giêsu, ôm cổ Người và nói: “Dấu hiệu của Thầy là Thầy rất yêu tất cả các trẻ nhỏ và các trẻ nhỏ rất yêu Thầy. Chúng yêu Thầy như vầy...” Và nó mở đôi cánh tay mũm mĩm ra để lại ghì chặt lấy cổ Giêsu. Nó cười và cà cái má trẻ con của nó vào má Giêsu. Người hôn nó và hỏi: “Nhưng tại sao con yêu Thầy nhiều như vầy trong khi trước đây các con chưa bao giờ thấy Thầy?”
- Bởi vì Thầy giống như thiên thần của Chúa.
- Con nhỏ của Thầy, con cũng chưa bao giờ thấy thiên thần... - Giêsu mỉm cười và nói để thử nó.
Đứa trẻ sững sờ một lát, rồi nó cười nhe ra những chiếc răng nhỏ và nói: “Nhưng linh hồn con đã thấy các đấng. Má con nói là thiên thần ở trong con, ở đây, và Thiên Chúa nhìn thấy. Linh hồn thấy Thiên Chúa và thiên thần, và linh hồn thấy các vị, và linh hồn con biết Thầy, bởi vì Thầy là Chúa”.
Giêsu hôn vào trán nó và nói: “Vì cái hôn này, cầu cho ánh sáng phát triển trong sự thông minh của con”, và Giêsu đặt nó xuống đất. Đứa trẻ chạy lại với ba nó, tay vẫn để trên trán, chỗ Giêsu đã
267
hôn, và nó kêu: “Để cho má, để cho má, cho má cái hôn vào cùng một chỗ như Chúa, và để tiếng nói trở về với má, và để má không khóc nữa”.
Người ta giải thích với Giêsu rằng đó là bà vợ bị đau ở cuống họng. Bà ước ao phép lạ nhưng không được chữa bởi các môn đệ, vì lẽ họ không thể đụng tới chỗ đau này, vì nó ở qúa sâu.
- Bà sẽ được chữa bởi người môn đệ nhỏ nhất: thằng bé của bà ta. Ông hãy đi bình an và hãy có đức tin như con ông - Giêsu nói khi cho người cha và đứa con đi.
Người hôn những đứa còn lại, vì chúng cũng muốn một cái hôn trên trán, và Người giải tán dân chúng, chỉ còn lại các môn đệ, những người ở Cédès và những người ở nơi khác.
Trong khi họ lo đồ ăn, Giêsu ra lệnh về việc khởi hành ngày mai của tất cả các môn đệ, để các ông đi trước Người về Caphanaum, kết tụ với các người khác: “Các con sẽ dẫn theo với các con: Salômê, các bà vợ và con gái của Natanael và Philíp, rồi Jeanne và Suzane trong khi các con tiến về Nazarét. Ở đó, các con sẽ đón mẹ Thầy và mẹ của hai anh Thầy, và các con hộ vệ các bà về Bêtani, về căn nhà có Giuse ở, trong khu đất của Lazarô. Chúng ta sẽ đến bằng đường thập tỉnh”.
- Còn Margziam? - Phêrô hỏi.
- Thầy đã nói: “Các con hãy về Caphanaum trước Thầy”. Thầy không nói: “Hãy đi”, nhưng từ Caphanaum, ta có thể báo cho các bà là chúng ta sẽ tới, để các bà sẵn sàng khi chúng ta đi Jêrusalem bằng đường thập tỉnh. Margziam bây giờ đã là một thanh niên, nó có thể đi với các môn đệ để hộ vệ các bà.
- Vấn đề là... Con cũng muốn dẫn vợ con đi Jêrusalem. Tội nghiệp cho bà. Bà luôn luôn ước ao điều đó mà... bà chưa bao giờ được đi, vì con, con không muốn phiền phức... Nhưng con muốn làm vui lòng bà năm nay. Bà ta qúa tốt!
- Đúng, Simon. Một lý do nữa để Margziam đi với bà. Chúng ta sẽ hành trình từ từ, và chúng ta sẽ gặp nhau ở đó...
Ông già chủ nhà nói: “Qúa ít thời giờ ở nhà con!”
268
- Bố ơi, Thầy còn nhiều việc phải làm lắm. Thầy muốn có mặt ở Jêrusalem ít là tám ngày trước lễ Vượt Qua. Ông hãy nghĩ rằng pha thứ nhất của tuần trăng tháng Adar đã chấm dứt rồi đó.
- Đúng vậy. Nhưng con đã mong mỏi Thầy biết bao!... Được có Thầy, con thấy như mình được ở trong Ánh Sáng trên Trời... Và ánh sáng lại tắt lúc Thầy ra đi.
- Không đâu bố ơi. Thầy để nó lại ở trong tim cho bố, và cho cả bà xã bố nữa, cho tất cả cái nhà hiếu khách này.
Họ ngồi vào bàn. Giêsu làm việc dâng hiến và Người chúc lành các thực phẩm, rồi các đầy tớ mang đi phân chia cho các bàn khác nhau.
33* TẠI LÂU ĐÀI Ở CÊSARÊ PANÉADE
Bữa ăn kết thúc ở nhà trọ. Giêsu đi ra với nhóm mười hai, các môn đệ và người chủ nhà già. Họ trở lại cái Suối Lớn, nhưng họ không dừng lại đó. Họ tiếp tục con đường, luôn luôn đi về hướng bắc.
Con đường họ đi, dù lên dốc, nhưng dễ đi, vì là con đường thực sự mà xe cộ, lừa ngựa có thể đi. Ở trên đỉnh cao, tại chỏm một ngọn núi, có một pháo đài hay một loạt cung điện làm họ ngạc nhiên vì hình dáng hiếm có của nó. Ta thấy có hai kiến trúc được thiết lập ở hai cao độ khác nhau, cái nọ cao hơn cái kia chừng vài mét, theo cách cái ở đàng sau là cái vững chắc hơn, cao hơn cái ở đàng trước, nó canh chừng và bảo vệ cái thấp. Một bức tường cao và dầy với nhiều tháp canh nhô lên bên trên với dạng khối vuông, nối liền hai kiến trúc, làm thành một khối duy nhất, vì cả hai đều được bao quanh bởi một dẫy tường duy nhất bằng đá lởm chởm, hoặc thẳng đứng, hoặc hơi nghiêng ở chân đế để cho một chỗ tựa tốt nhất cho sức nặng của pháo đài. Tôi không nhìn thấy lối phía tây, nhưng hai lối bắc và nam thì thẳng đứng, làm thành một với ngọn núi đá đơn độc, dốc thẳng ở hai bên, và tôi tin là cũng giống vậy ở phía tây.
269
Ông già Benjamin, vì lẽ sự hãnh diện của cả dân thành đối với kinh thành của họ, đã làm tăng giá trị khối lâu đài của vị Thủ Hiến, vừa là một lâu đài, vừa là khối phòng thủ của thành phố, ông liệt kê vẻ đẹp của nó, sức mạnh và sự vững chắc của nó; những tiện nghi của các bồn nước, các bể, các khoảng trống, nhãn giới rộng, địa vị của nó, v.v. và v.v.
- Chính những người Rôma cũng nói là nó đẹp. Họ là những người biết nó!... - Ông già kết thúc và nói thêm: “Tôi biết tên quản lý, tôi có thể bảo cho qúi vị vào. Tôi sẽ chỉ cho qúi vị phong cảnh mênh mông nhất, đẹp nhất xứ Palestin”.
Giêsu nghe cách nhân hậu, những người khác hơi mỉm cười, vì họ là những người đã nhìn biết bao phong cảnh... Nhưng ông già rất tốt đến nỗi họ không thể có con tim để làm bỉ mặt ông, và họ chấp nhận ông trong việc ông ước ao chỉ cho Giêsu những thứ đẹp.
Họ lên tới đỉnh. Quang cảnh qủa là đẹp, dù là ngay tại cái công trường nhỏ trước cổng sắt để đi vào. Nhưng ông già nói: “Tới đây đi, tới đây... Ở bên trong đẹp hơn. Chúng ta sẽ đi lên chỗ cao nhất của thành trì. Qúi vị sẽ thấy...” Họ đi vào một lối đi tối được đào trong tường thành, bề ngang rộng nhiều mét cho tới một cái sân, nơi người quản lý và gia đình ông ta đang chờ họ. Hai người bạn chào nhau, và ông già giải thích mục đích của cuộc thăm viếng.
- Vị rabbi Israel à? Thật uổng là Philíp đi vắng. Ông ta ước ao gặp Người, vì sự nổi tiếng của Người đã bay tới tai ông. Ông yêu những vị rabbi thực sự, vì chỉ có họ bảo vệ quyền lợi của ông, và cũng để chế nhạo Antipa, vì ông này không yêu họ. Tới đây, tới đây!... - Người đàn ông, trước tiên nhìn trộm Giêsu, rồi ông nghĩ là nên tôn kính Người bằng cách cúi sâu trước mặt Người như một ông vua.
Họ lại đi qua một lối vào nữa. Đây, lại đến một cái sân thứ hai và một cổng sắt nữa, qua đó là đến sân thứ ba, bên ngoài đó là dẫy hố sâu với tường thành lởm chởm những tháp canh của pháo đài. Các khuôn mặt tò mò của những người mang vũ khí, và các chỉ dụ được ban truyền trong mọi ngả. Họ đi vào trung tâm, rồi qua một
270
cầu thang, họ đi lên pháo đài, và từ đó, đi lên một tháp canh. Chỉ có Giêsu, người quản lý, Benjamin và nhóm mười hai có thể vào trong tháp canh, không thể vào nhiều hơn nữa, vì nó đã chật ních như cá đối. Những người khác ở lại trên pháo đài.
Nhưng ôi! Một quang cảnh tuyệt vời khi Giêsu và những vị đi theo Người bước ra cái sân nhỏ bao quanh tháp canh, và tất cả họ đều nghiêng mặt xuống từ trên lan can bằng đá! Khi nghiêng xuống từ trên bức tường ở phía tây, phía cao nhất của đồn lũy, người ta thấy toàn thể Cêsarê trải ra dưới chân của ngọn núi này, và thấy rất rõ, vì nó không phải đồng bằng, nhưng ở trên một sườn dốc thoai thoải. Bên ngoài Cêsarê là đồng bằng mầu mỡ trải ra phía trước hồ Mêron giống như một cái biển nhỏ với mầu xanh êm dịu của mặt nước trong, lấp lánh trên toàn diện tích như những mảnh trời trong sáng. Rồi đến những ngọn đồi vui tươi nằm như những giây chuyền mầu ngọc bích đậm, được xoi rãnh bởi mầu bạc của các vườn oliu đó đây ở chỗ giáp giới với đồng bằng. Rồi đây là những chùm lông nhẹ nhàng của các cây đang trổ bông, đúng là những khối cây đầy bông. Khi nhìn về phía bắc và phía đông thì đây, ngọn Liban và ngọn Hermon hùng vĩ, sáng lóng lánh dưới mặt trời với đỉnh tuyết như ngọc trai, và các ngọn núi của Iturê; rồi thung lũng sông Giođan nằm trong cái nôi tạo ra ở giữa các ngọn đồi của biển Tibêriat và các núi Gaulaniti, xuất hiện trong một đường tắt rất ngắn, rồi mất đi trong miền mộng mơ xa xôi.
- Đẹp! Đẹp! Rất đẹp! - Giêsu kêu lên cách cảm phục, và hình như Người chúc phúc hoặc ôm lấy những nơi tuyệt vời này bằng đôi cánh tay rộng mở và khuôn mặt rạng rỡ. Người trả lời cho các tông đồ xin Người giải thích điều nọ điều kia khi chỉ vào những nơi họ đã ở, hoặc những miền hay những hướng họ đã biết.
- Nhưng con không nhìn thấy sông Giođan - Batôlômêo nói.
- Con không thấy nó được, nhưng nó ở trong cái bề mặt mênh mông giữa hai rặng núi. Ngay đàng sau dẫy phía đông, đó là sông Giođan. Chúng ta sẽ xuống bằng lối đó, vì miền Pêrê và miền Thập Tỉnh còn đang chờ người giảng Tin Mừng.
271
Nhưng ngay lúc đó, Người quay lại như để hỏi không khí vì có một tiếng rên dài, nghẹn ngào, đập vào tai Người, và đó không phải là lần thứ nhất. Người nhìn viên quản lý như muốn hỏi có chuyện gì.
- Đó là một người đàn bà của lâu đài, một người vợ. Bà ta đến giờ sanh con, đứa đầu tiên và cũng là đứa sau cùng, vì chồng bà chết hôm đầu tháng Casleu. Tôi không biết đứa trẻ có sống được không, vì người đàn bà, từ lúc bị góa, chỉ biết có khóc. Bà chỉ còn là một cái bóng. Thầy có nghe không? Cả đến bà không còn sức để kêu... Đương nhiên rồi... Góa bụa ở tuổi mười bảy... Và họ rất yêu nhau. Vợ tôi và mẹ chồng bà nói với bà: “Trong đứa con của mày, mày sẽ tìm thấy Tobie của mày”. Nhưng đó chỉ là những tiếng...
Họ xuống khỏi tháp canh và đi vòng quanh pháo đài, vẫn luôn luôn cảm phục các nơi và các cảnh. Rồi người quản lý tuyệt đối muốn tặng cho các khách tới viếng những đồ uống và hoa qủa, nên ông dẫn họ vào một phòng mênh mông ở trước đồn lũy, và các đầy tớ mang đến các thứ đã được lệnh.
Tiếng than van nghe gần hơn và tan nát hơn. Viên quản lý lại xin lỗi vì việc đó đã giữ vợ ông ở xa, không được tới gần Thầy. Nhưng tiếng kêu còn bi thảm hơn tiếng than lúc trước, và làm cho các bàn tay cầm trái cây hay ly đồ uống dừng lại trong không khí, không thể lên tới miệng.
- Tôi đi coi chuyện gì - Viên quản lý nói, và anh ta ra ngoài, trong khi cái âm khó nghe của các tiếng kêu và khóc đi vào mạnh hơn qua chiếc cửa hé mở.
Viên quản lý trở lại: “Con cô ta chết lúc vừa mới sinh ra... Tội nghiệp qúa! Cô ta ráng làm nó hồi sinh với chút sức lực cô ta còn lại... Nhưng nó không thở nữa. Nó đen rồi!...” Và anh ta lắc đầu nói thêm: “Dorca tội nghiệp!”
- Mang đứa bé tới cho Thầy.
- Nhưng Chúa ơi, nó chết rồi.
- Thầy bảo anh, hãy mang đứa bé tới cho Thầy như tình trạng của nó. Và hãy bảo mẹ nó là cô ta hãy tin.
272
Viên quản lý lại đi ra. Và ông trở lại: “Cô ấy không muốn. Cô ta nói cô ta không đưa nó cho ai cả. Tựa như cô ta điên. Cô ta nói rằng chúng ta làm vậy để lấy mất nó của cô ta”.
- Hãy dẫn Thầy tới cửa phòng cô ta để cô nhìn thấy Thầy.
- Nhưng...
- Hãy bỏ qua! Sau đó Thầy sẽ thanh tẩy, nếu có...
Họ mau lẹ đi qua hành lang tối cho tới một cái cửa đang đóng. Chính Giêsu mở nó ra rồi dừng lại ở ngưỡng cửa, trước cái giường mà trên đó, một tạo vật tái mét đang ôm ghì vào ngực một thụ tạo bé tí không còn cho dấu hiệu gì về sự sống nữa.
- Bình an cho con, Dorca. Hãy nhìn vào Thầy. Đừng khóc. Thầy là Vị Cứu Tinh. Hãy đưa con nhỏ của con cho Thầy.
Trong giọng nói của Giêsu có điều gì thì tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng người đàn bà tuyệt vọng, ở cái nhìn đầu tiên, đã ghì thật mạnh đứa trẻ mới sinh vào ngực bà, bà nhìn nó bằng đôi mắt quay cuồng và điên dại, mở ra với ánh sáng đau thương nhưng đầy hy vọng. Bà đưa vật bé nhỏ bọc trong vải mịn cho vợ viên quản lý... và bà ta ở lại đó, hai tay giơ ra, sự sống, đức tin trong đôi mắt mở và trương nở, như điếc trước lời xin của người mẹ chồng muốn cho bà ta nằm.
Giêsu cầm gói thịt đã hơi lạnh cùng với khăn vải. Người giữ đứa bé ở hai bên nách cho nó thẳng đứng. Người áp miệng Người vào đôi môi nhỏ hơi mở trong khi cúi xuống, vì đầu của đứa nhỏ lật ra sau lưng nó. Người thở hơi mạnh vào cái họng trơ trơ bất động... Người giữ môi Người áp vào cái miệng nhỏ một lát rồi người buông ra... Một tiếng riu ríu rung trong không khí bất động... Rồi một tiếng thứ hai mạnh hơn... và một tiếng thứ ba... Sau cùng là tiếng khóc oe oe thực sự của đứa nhỏ trong khi nó cố gắng cử động lại cái đầu nhỏ của nó. Nó vẫy tay, vẫy chân. Cùng với tiếng khóc dài chiến thắng của trẻ sơ sinh, cái đầu nhỏ không có tóc của nó và khuôn mặt bé tí của nó trở nên hồng hào... Tiếng kêu của bà mẹ trả lời cho nó: “Con tôi! Tình yêu của tôi... Dòng dõi của Tobie của tôi! Trên lòng mẹ! Trên qủa tim của má con... Để má chết vì sung
273
sướng...” Cô ta nói trong tiếng thì thầm và tắt lịm đi trong một cái hôn và một phản ứng buông xuôi dễ hiểu.
- Cô ta chết! - Các bà kêu lên.
- Không. Cô ta vào một sự nghỉ ngơi rất xứng đáng. Khi cô tỉnh dậy, hãy bảo cô gọi đứa bé là Giêsai-Tobie. Thầy sẽ gặp lại cô ta ở Đền Thờ vào ngày thanh tẩy của cô. Chào. Bình an cho các bà.
Người từ từ khép cửa và quay ra để trở về chỗ lúc nãy với các môn đệ, nhưng tất cả họ đều ở đó, một đám người cảm động vì đã thấy. Họ nhìn Người với đầy cảm phục.
Họ cùng nhau trở lại sân. Họ chào anh quản lý còn đang ngây người ra và không ngừng lặp đi lặp lại: “Ông Thủ Hiến sẽ tiếc chừng nào vì không có mặt ở đây!” Và họ xuống dốc để trở về thành phố.
Giêsu để tay lên vai ông già Benjamin và nói với ông: “Thầy cám ơn ông vì điều ông đã làm cho chúng ta được coi, và để là nguyên cớ cho một phép lạ...”
34* GIÊSU NÓI TRƯỚC VỀ CUỘC
TỬ NẠN CỦA NGƯỜI LẦN THỨ NHẤT.
NGƯỜI QUỞ TRÁCH PHÊRÔ
Giêsu đã rời thành phố Cêsarê của Philíp từ tia sáng đầu tiên của buổi sáng, vì bây giờ nó đã ở xa với các ngọn núi của nó, và đồng bằng lại bao bọc Giêsu. Người hướng về hồ Mêron, để rồi sau đó đi về hồ Gênêsarét. Cùng với Người, có cả các tông đồ và các môn đệ đã ở Cêsarê. Có một đoàn du mục rất đông ở trên đường, nhưng nó không làm ai ngạc nhiên, vì họ đã gặp các đoàn du mục khác di chuyển về Jêrusalem, những đoàn du mục của dân Israel hay dân tân tòng, đến từ mọi nơi thuộc miền Diaspora và ước ao dừng lại trong Thành Thánh ít lâu để nghe các rabbi, và để hít thở lâu giờ làn khí của Đền Thờ.
Họ tiến mau lẹ dưới mặt trời đã lên cao bên trên chân trời, nhưng không làm khó chịu, vì đây là mặt trời mùa xuân đến đùa dỡn với
274
lá mới và các cành hoa, toàn là hoa, hoa, hoa ở mọi phía. Đồng bằng ở trước hồ đúng là cái thảm hoa, và khi con mắt lướt trên những đồi bao quanh nó, thấy nó được phủ bằng những khối trắng, hồng lạt, hồng đậm, đỏ lạt hay đỏ đậm của các loại cây ăn trái khác nhau; hoặc khi đi qua gần bên những căn nhà thưa thớt của các nông dân, hoặc các xưởng bịt móng ngựa họa hiếm ở đó đây dọc theo lộ, con mắt thưởng thức vẻ đẹp của các bông hồng đầu tiên nở trong vườn, dọc theo hàng rào hay trước tường nhà.
- Chắc là khu vườn của Jeanne đã đầy hoa - Simon Zêlote nhận xét.
- Khu vườn ở Nazarét cũng vậy, chắc là giống như cái lẵng đầy hoa. Maria là con ong êm đềm, bay từ cây hồng nọ tới cây hồng kia; từ cây hồng tới cây lài sẽ không chậm trễ đơm bông, tới những cây huệ mà các nụ đã xuất hiện trên đầu cộng. Và mẹ cắt những cành hạnh đào, như mẹ vẫn luôn luôn làm; mẹ cũng cắt cả những cành lê, cành lựu, để cắm vào chiếc bình trong phòng nhỏ của mẹ. Khi chúng con còn nhỏ, mỗi năm chúng con thường hỏi mẹ: “Tại sao cô lại chưng cành bông của các cây ăn trái thay vì chưng những bông hồng đầu tiên?” Mẹ đã trả lời: “Bởi vì trên những cánh hoa này, cô thấy đã được viết một mệnh lệnh của Thiên Chúa đến với cô, và cô cảm thấy mùi trinh trong của gió chiều Thiên Đàng”. Em nhớ không Juđa? - Giacôbê Alphê hỏi em ông.
- Đúng, em nhớ. Em nhớ rằng khi đã thành người lớn, em hồi hộp chờ đợi mùa xuân để nhìn Maria đi lại trong vườn của mẹ dưới đám mây của các cây ăn trái đang rộ hoa, và qua hàng rào của các bông hồng đầu tiên. Em không bao giờ thấy một cảnh nào đẹp hơn cảnh người con gái trẻ vĩnh cửu này lướt đi giữa các bông hoa, giữa đường bay của đàn bồ câu...
- Ôi! Chúng ta đi lẹ lên để coi. Chúa ơi, ước gì con cũng được thấy tất cả những điều đó! - Tôma năn nỉ.
- Chúng ta chỉ việc nhấn bước, nghỉ đêm ít thôi để đến Nazarét kịp thời - Giêsu trả lời.
- Chúa ơi, Thầy sẽ cho con cái vui này chứ ?
275
- Ừ, Tôma. Tất cả chúng ta sẽ đến Bétsaiđa, rồi tới Caphanaum, và ở đó, chúng ta sẽ chia tay. Chúng ta đi ghe về Tibêriat, rồi về Nazarét. Như vậy tất cả chúng ta, ngoại trừ các người Do Thái, sẽ lấy những y phục nhẹ nhàng, vì mùa đông đã qua.
- Đúng. Và chúng ta sẽ nói với con bồ câu đó: “Hãy trỗi dậy, ôi người yêu của tôi! Và hãy đến, vì mùa đông đã qua, mưa đã tạnh, hoa nở trên mặt đất... Hãy đứng dậy, bạn tình ơi. Hãy đến, hỡi chim bồ câu ẩn mình. Hãy cho ta thấy dung nhan, hãy cho ta nghe tiếng Người”.
- Hoan hô Gioan. Cậu giống hệt người yêu hát cho người đẹp của nó - Phêrô nói.
- Tôi là người yêu. Tôi là người yêu của Maria. Tôi không thấy người đàn bà nào khác lay dậy tình yêu của tôi. Chỉ có Maria mà tôi yêu hết mình.
- Một tháng trước đây, tôi cũng đã nói vậy. Phải không Chúa? - Tôma nói.
- Tôi tin là tất cả chúng ta đều say yêu mẹ. Một tình yêu qúa cao, qúa Thiên Đường!... Tới nỗi chỉ có người đàn bà này mới có thể gợi lên. Và linh hồn yêu linh hồn mẹ cách trọn vẹn. Thần trí yêu và cảm phục sự thông minh của mẹ, con mắt cảm phục mẹ và vui mừng trong hồng ân trinh trong, cho ta một tình cảm không xáo trộn, giống hệt như người ta nhìn một bông hoa. Maria, vẻ đẹp của trái đất, và tôi tin cũng là vẻ đẹp của Thiên Đàng - Mathêu nói.
- Đúng vậy! Đúng vậy! Tất cả chúng ta đều thấy nơi Maria những gì là êm dịu nhất nơi người đàn bà. Cùng một lúc: người con trong sạch và người mẹ dịu dàng. Tôi không biết người ta yêu người nọ hay người kia hơn vì những ơn này - Philíp nói.
- Người ta yêu mẹ vì mẹ là Maria, vậy đó - Phêrô nói cách nghiêm trang.
276
Giêsu đã nghe họ, và Người nói: “Tất cả các con đều nói đúng. Phêrô đã nói rất đúng: người ta yêu Maria bởi vì là Maria. Khi tới Cêsarê, Thầy đã nói với các con rằng: chỉ những người kết hợp một đức tin hoàn toàn với một tình yêu hoàn toàn mới biết được ý nghĩa đích thực của các tiếng: Giêsu, Đức Kitô, Ngôi Lời, Con Thiên Chúa và Con Người. Bây giờ Thầy cũng bảo các con rằng có một tên khác cũng mang nặng ý nghĩa, đó là tên của Mẹ Thầy, mà chỉ những ai kết hợp một đức tin hoàn toàn với một tình yêu hoàn toàn, mới biết được ý nghĩa tên Maria của Mẹ Con Thiên Chúa, và ý nghĩa thực sự sẽ bắt đầu xuất hiện rõ ràng cho những người thực sự tin và thực sự yêu vào cái giờ đáng ngại, giờ tan nát, khi đấng đã sinh chịu hành hình cùng với đấng đã được sinh ra bởi Người. Khi Đấng Nữ Cứu Chuộc cùng với Đấng Nam Cứu Chuộc, trước mặt cả thế giới, sẽ chuộc lại thế giới cho đến đời đời”.
- Khi nào? - Batôlômêo hỏi khi họ dừng lại trên bờ một con suối lớn, nơi một số đông các môn đệ xuống uống nước.
- Chúng ta hãy dừng lại đây để chia sẻ bánh. Mặt trời đã tới chính ngọ. Chiều nay chúng ta sẽ ở tại hồ Mêron, và chúng ta có thể rút ngắn đường lại bằng những con thuyền nhỏ - Giêsu trả lời cách lững lờ.
Tất cả đều ngồi xuống trên cỏ mềm và và tai tái vì mặt trời, ở bên bờ suối. Gioan nói: “Uổng qúa! Làm hư những bông hoa nhỏ qúa dễ thương này. Người ta thấy như những mảnh trời rơi xuống trên cỏ”. Có hàng trăm và hàng trăm ngàn bông lưu ly thảo.
- Ngày mai nó sẽ nở lại đẹp hơn - Giacôbê nói với Gioan để an ủi em ông. “Nó đã nở ra để làm một phòng tiệc bên trên mặt đất cho Chúa”.
Giêsu dâng hiến và chúc phúc thực phẩm mà mọi người bắt đầu ăn cách hoan hỉ. Các môn đệ, giống như từng ấy bông hướng dương, tất cả đều quay về Giêsu. Người ngồi ở giữa hàng các tông đồ của Người. Bữa ăn chấm dứt mau lẹ, được gia vị bằng sự thanh tịnh và nước trong. Nhưng vì Giêsu vẫn ngồi nên không ai nhúc nhích cả. Các môn đệ cũng sát lại gần để nghe các điều Giêsu nói và các
277
điều các tông đồ hỏi. Và họ cũng còn hỏi nữa về điều Người đã nói lúc trước về mẹ Người.
- Đúng. Bởi vì làm mẹ Thầy về thể xác đã là một điều lớn lao. Các con hãy nghĩ tới điều người ta nhớ lại về Anna Elqana, bởi vì bà là mẹ tiên tri Samuel. Nhưng ông ta chỉ là một tiên tri, nhưng người ta nhớ tới mẹ ông vì bà đã cưu mang ông. Bởi vậy, việc nhớ về Maria sẽ kèm theo những sự tán dương lớn lao nhất, vì mẹ đã ban Giêsu, Vị Cứu Tinh cho thế giới. Nhưng điều đó chỉ là nhỏ mọn so với điều Thiên Chúa đòi hỏi ở mẹ để hoàn tất những biện pháp cần thiết cho việc cứu chuộc thế giới. Maria không bao giờ làm thất vọng những ước muốn của Thiên Chúa. Mẹ không bao giờ làm Người thất vọng. Từ sự yêu cầu một tình yêu trọn vẹn tới một hy sinh trọn vẹn. Mẹ đã hiến thân và mẹ sẽ hiến thân. Và khi mẹ sẽ chịu sự hy sinh lớn lao nhất với Thầy, vì Thầy và vì cả thế giới, khi đó những tín hữu thực sự và các người yêu thực sự sẽ hiểu ý nghĩa thực sự của tên Người. Và trong mọi thế kỷ, các tín hữu thực sự và các người yêu thực sự sẽ được chấp nhận cho biết tên đó: Tên của Người Mẹ Vĩ Đại, của người vú nuôi thánh mà trong mọi đời, sẽ cho các con cái của Đức Kitô bú dòng sữa của Người bởi nước mắt của Người, để làm cho họ tăng trưởng trong đời sống trên Trời.
- Khóc à Chúa? Mẹ Thầy, bà phải khóc sao? - Iscariot hỏi.
- Hết mọi bà mẹ đều có khóc. Và mẹ Thầy sẽ khóc nhiều hơn tất cả các bà khác.
- Nhưng tại sao? Đôi khi con làm mẹ con khóc, vì con không luôn luôn là đứa con tốt. Nhưng Thầy, Thầy không bao giờ làm mẹ Thầy khổ.
- Không. Đúng vậy, Thầy không bao giờ làm mẹ khổ với tư cách là con người, nhưng Thầy làm mẹ khổ với tư cách là Đấng Cứu Thế. Có hai điều làm cho mẹ Thầy đổ ra nước mắt không cùng: Thầy, để cứu nhân loại, và nhân loại, bởi tội lỗi liên tục của nó. Hết mọi người đã sống, đang sống và sẽ sống đều là giá nước mắt của Maria.
- Nhưng tại sao? - Giacôbê Zêbêđê nhạc nhiên hỏi.
278
- Bởi vì mọi người đều là giá những gia hình của Thầy để cứu chuộc họ.
- Nhưng làm sao Thầy có thể nói vậy về những người đã chết hay những người chưa sinh ra? Chỉ những người đang sống làm khổ Thầy: Các luật sĩ, các pharisiêu, các saddu, do sự kết án của họ, sự ghen tương độc ác của họ, rồi đâu có còn gì hơn nữa? - Batôlômêo xác nhận, tin là mình chắc lý.
- Gioan Tẩy Giả cũng đã bị giết... Và đó không phải vị tiên tri độc nhất mà Israel đã giết. Và vị Thầy Cả duy nhất của Ý Muốn Đời Đời bị giết vì bị nhìn sai bởi những kẻ không vâng lời Thiên Chúa.
- Nhưng Thầy, Thầy còn hơn là một tiên tri, và còn hơn chính ông Tẩy Giả, vị Tiền Hô của Thầy. Thầy là Ngôi Lời Thiên Chúa. Bàn tay của Israel không thể giơ lên ở bên trên Thầy - Juđa Thađê nói.
- Con tin vậy à, ông anh của Thầy? Con sai lầm - Giêsu trả lời ông.
- Không. Điều đó không thể! Điều đó không thể xảy ra! Thiên Chúa sẽ không cho phép. Điều đó sẽ làm giảm giá trị Đức Kitô của Người! - Juđa Thađê qúa xao xuyến nên ông đứng dậy.
Giêsu cũng đứng dậy. Người nhìn đăm đăm vào khuôn mặt tái mét của ông. Đôi mắt của Người chân thành. Người nói nhẩn nha trong khi giơ tay lên như để thề: “Nhưng mà nó sẽ như vậy”. Và Người hạ tay xuống.
Mọi người đều đứng dậy và bao vây sát vào Người hơn. Một triều thiên những khuôn mặt đau khổ, và còn hơn nữa là không tin. Có những xì xèo lan truyền trong nhóm: “Chắc chắn... nếu đã như vậy... Thađê sẽ có lý”.
- Điều đã xảy đến cho ông Tẩy Giả là xấu, nhưng điều đó tán dương con người đã anh hùng tới cùng. Nhưng nếu điều đó xảy ra cho Đức Kitô thì sẽ làm hạ giá Người.
- Đức Kitô có thể bị bách hại, nhưng không bị hạ giá.
- Dầu xức của Thiên Chúa ở trên Người.
279
- Ai còn có thể tin nếu họ thấy Thầy phó mặc cho quyền bính loài người?
- Chúng ta sẽ không cho phép điều đó.
Người duy nhất nín lặng là Giacôbê Alphê. Em của ông bèn tấn công: “Sao anh không nói? Anh không phản ứng? Anh không nghe sao? Hãy bảo vệ Đức Kitô chống lại chính Người!”
Để trả lời tất cả, Giacôbê chỉ lấy tay che mặt. Ông lui ra và khóc.
- Ngu quá! - em ông nói.
- Có lẽ ít ngu hơn anh tưởng - Hermastê trả lời ông, và anh ta nói thêm: “Hôm qua, khi giải thích lời tiên tri, Thầy đã nói về một thân xác thối rữa lại tự tạo lại, và một thân xác tự mình mà sống lại. Tôi nghĩ một người không thể sống lại nếu trước tiên họ không chết”.
- Nhưng có lẽ chết bằng một cái chết bình thường, vì già. Và như vậy cũng là qúa đối với Đức Kitô rồi - Thađê đối đáp, và nhiều người cho là ông có lý.
- Đúng. Nhưng đó không phải dấu hiệu được cho cái thế hệ này là thế hệ rất nhiều người già hơn Người - Zêlote nhận xét.
- Ừ, nhưng Người đâu có nói là Người nói về chính Người - Thađê đối đáp cách cứng đầu trong tình yêu và sự trọng kính của ông.
- Không có ai, nếu không phải là Con Thiên Chúa, có thể tự mình mà sống lại. Cũng vậy, không có ai, nếu không phải là Con Thiên Chúa, có thể sinh ra như Người đã sinh ra. Tôi, tôi nói điều đó. Tôi là người đã nhìn thấy vinh quang của việc Người sinh ra - Isaac nói, chắc chắn về minh chứng của ông.
Giêsu đứng khoanh tay, nghe họ nói và lần lượt nhìn họ. Bây giờ Người làm hiệu là Người sắp nói, rồi Người nói: “Con Người sẽ bị nộp vào tay loài người, vì Người là Con Thiên Chúa, nhưng Người cũng là Đấng Cứu Chuộc của loài người. Không có sự cứu chuộc nào không đau khổ. Các đau khổ của Thầy: sẽ có những đau đớn trong thân xác, thịt và máu, để đền những tội về thịt và máu; sẽ có những đau khổ về tinh thần, để đền bù những tội của linh hồn và
280
các đam mê; sẽ có những đau khổ thiêng liêng để đền bù những tội về thần trí. Nó sẽ hoàn toàn. Như vậy, vào giờ đã định, Thầy sẽ bị bắt tại Jêrusalem, và sau khi đã chịu đau khổ rất nhiều bởi các kỳ lão, các thầy cả, các luật sĩ, các pharisiêu, Thầy sẽ bị kết án chết nhục nhã. Thiên Chúa sẽ để cho họ làm, bởi vì phải có như vậy, vì Thầy là Con Chiên đền tội cho tất cả thế giới. Và trong cái biển khổ sầu đó, mẹ Thầy chia sẻ với Thầy, cũng có vài người khác nữa. Thầy sẽ chết trên giảo đài. Ba ngày sau, bởi ý muốn riêng thuộc về Thiên Chúa của Thầy, Thầy sẽ sống lại để sống đời đời và vinh hiển như một người, và Thầy sẽ lại là Thiên Chúa ở trên Trời với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh. Nhưng trước đó, Thầy phải chịu hết mọi thứ nhục nhã, và trái tim Thầy sẽ bị đâm thấu bởi sự dối trá và thù ghét”.
Một loạt những tiếng kêu phẫn nộ nổi lên trong làn khí ẩm và thơm phức của mùa xuân.
Phêrô, vẻ mặt sợ hãi, ông cũng phẫn nộ. Ông cầm cánh tay Giêsu, kéo Người hơi ra xa và nói với Người nhỏ nhẹ vào lỗ tai: “Ôi! Chúa ơi! Đừng nói như vậy, không tốt đâu. Thầy thấy không? Họ phẫn nộ. Thầy rơi ngay vào sự đánh giá của họ. Không một lý do nào mà Thầy phải cho phép như vậy. Cũng thế, một chuyện như vậy sẽ không bao giờ xảy đến cho Thầy, vậy tại sao Thầy nghĩ tới nó như là có thật? Thầy phải càng ngày càng lên cao trong sự kính nể của loài người nếu Thầy muốn xác nhận Thầy, và có lẽ Thầy phải kết thúc bằng một phép lạ sau cùng, như phép lạ làm cho các kẻ thù của Thầy biến thành tro chẳng hạn. Nhưng đừng bao giờ hạ giá Thầy và làm cho Thầy thành giống như kẻ bất lương mà người ta trừng phạt”. Phêrô ra vẻ giống như một ông thầy hay một người cha, đau khổ vì phải nói những lời quở trách đầy tình yêu lo lắng đối với đứa con đã nói những lời dại dột.
Giêsu, trước Người hơi nghiêng xuống để nghe những lời lèo xèo của Phêrô, liền đứng thẳng lên, nghiêm khắc, với những tia chớp trong mắt Người, nhưng là những tia chớp giận dữ, và Người la thật to để tất cả đều nghe thấy, và để bài học ích lợi cho mọi
281
người: “Hãy tránh xa Ta! Lúc này mi là Satan để khuyên Ta thiếu vâng lời đối với Cha Ta. Chính vì vậy mà Ta đã đến chứ không phải vì danh dự. Mi, khi khuyên Ta kiêu ngạo, bất tuân, cứng cỏi, thiếu bác ái, mi cám dỗ để dẫn Ta tới điều ác. Đi đi! Mi làm dịp vấp phạm cho Ta! Mi không hiểu rằng sự vĩ đại không ở trong vẻ vang, mà là ở trong hy sinh. Mi không hiểu rằng bị loài người coi là con sâu cũng không là gì, nếu Thiên Chúa nhìn ta như một thiên thần. Mi, con người ngu, mi không hiểu cái gì là to lớn đối với Thiên Chúa và các lý lẽ của Thiên Chúa, và mi thấy, phán đoán, nghe, nói, với tất cả những gì là con người”.
Ông Phêrô tội nghiệp đứng thất kinh dưới sự trách mắng nghiêm nghị. Rồi ông bỏ đi, bẽ bàng, và ông khóc... Và đó không phải là những nước mắt vui mừng của mấy ngày trước, nhưng là nước mắt đau khổ của kẻ hiểu rằng mình đã phạm tội, và đã làm cho kẻ mình yêu phải khổ. Giêsu để cho ông khóc, Người tháo giầy, xắn quần áo và lội qua dòng suối cạn. Những người khác cũng bắt chước Người trong yên lặng, không ai dám nói một lời. Đi ở sau chót là Phêrô tội nghiệp mà Isaac và Zêlote cố gắng để an ủi một cách vô ích. Andrê quay lại nhiều lần để nhìn anh ông, rồi ông xì xèo điều gì với Gioan cũng đầy bi thảm. Nhưng Gioan lắc đầu ra dấu từ chối.
Lúc đó Andrê quyết định. Ông chạy lên phía trước, bắt kịp Giêsu. Ông gọi Người nhỏ nhẹ với vẻ sợ sệt thấy rõ: “Thưa Thầy! Thưa Thầy!...”
Giêsu để ông gọi nhiều lần, sau cùng, Người quay lại, vẻ nghiêm khắc, Người hỏi: “Muốn gì?”
- Thưa Thầy, anh con khổ... Ông khóc...
- Nó đáng lắm!
- Lạy Chúa, đúng vậy. Nhưng ông, ông vẫn là con người... ông không luôn luôn nói đúng.
- Qủa vậy, bữa nay nó đã nói rất bậy - Giêsu trả lời, nhưng Người đã bớt nghiêm khắc, và một tia mỉm cười làm dịu dàng đôi mắt Thiên Chúa của Người.
282
Andrê đánh bạo và kéo dài sự biện hộ cho anh ông: “Thầy rất đúng, và Thầy biết rằng chính tình yêu của ông đối với Thầy làm ông lầm...”
- Tình yêu phải là ánh sáng chứ không được là bóng tối. Nó đã làm cho ông thành bóng tối và bao phủ thần trí ông bằng bóng tối đó.
- Chúa ơi, đúng vậy. Nhưng cái băng thì người ta có thể tháo ra khi người ta muốn, nó đâu có giống như bị thần trí tối tăm. Cái băng là ở bên ngoài, còn thần trí là ở bên trong, là cái nhân sống... Cái bên trong của anh con thì tốt.
- Vậy nó hãy tháo ra cái băng mà nó đã tự ý bịt vào.
- Lạy Chúa, chắc chắn ông sẽ làm. Ông đã làm rồi. Thầy quay lại và nhìn coi, ông biến dạng chừng nào vì nước mắt mà Thầy không an ủi. Tại sao Thầy khắt khe với ông qúa vậy?
- Bởi vì nó phải là người thứ nhất như Thầy đã làm cho nó cái vinh dự ấy. Ai đã nhận nhiều thì phải cho nhiều.
- Ôi! Chúa ơi! Đúng. Nhưng Thầy không nhớ tới Maria em Lazarô? Gioan Enđo? Aglaé? Người đẹp Corozain? Lêvi?... Với họ, Thầy đã cho tất cả... Và họ chỉ cho Thầy cái ý chí muốn được cứu chuộc... Chúa ơi!... Thầy đã nghe lời con cho người đẹp Corozain và cho Aglaé... lẽ nào Thầy không nghe lời con cho Simon của Thầy và của con, là kẻ đã phạm tội vì tình yêu đối với Thầy sao?
Giêsu hạ con mắt của Người xuống trên kẻ êm dịu, đã dám táo bạo và thúc bách vì ân huệ của anh ông, giống như ông đã làm một cách thầm lặng cho Aglaé và người đẹp Corozain, và khuôn mặt của Người rạng rỡ ánh sáng. Người nói: “Đi gọi anh con và dẫn nó tới đây”.
- Ôi! Cám ơn! Chúa của con, con đi - và ông rời Người, chạy nhanh như con én.
- Tới đi, Simon. Thầy không còn tức với anh nữa đâu. Hãy tới. Người muốn nói vậy với anh.
- Không. Tôi, tôi xấu hổ. Người mới chửi tôi qúa ít giờ... Người muốn chửi tôi thêm nữa.
283
- Anh hiểu lầm Người chừng nào! Thôi, tới đi! Anh tin rằng em có thể dẫn anh tới để làm cho anh khổ thêm nữa sao? Nếu em không chắc rằng một niềm vui đang chờ anh thì em không hối thúc anh đâu. Tới đi.
- Nhưng tôi phải nói sao với Người? - Phêrô nói khi tiến lên, hơi hối tiếc, bị hãm lại bởi những tình cảm phàm trần, được khích động bởi thần trí của ông là cái không thể thiếu sự chiếu cố của Giêsu và tình yêu của Người. Ông tiếp tục hỏi: “Tôi phải nói gì với Người?”
- Không nói gì cả. Anh chỉ cần đưa mặt anh ra cho Người là đủ - Andrê nói để khích lệ anh ông.
Tất cả các môn đệ, khi thấy hai anh em đi qua, họ hiểu điều gì đang xảy ra, và họ mỉm cười.
Hai người bắt kịp Giêsu. Nhưng Phêrô dừng lại vào phút chót. Andrê không bịa chuyện. Cũng giống như ông đẩy chiếc thuyền để đưa nó ra khơi, ông đẩy Phêrô thực mạnh về phía trước. Giêsu dừng lại... Phêrô ngửa mặt lên, Giêsu cúi xuống... Họ nhìn nhau... Hai giọt nước mắt lớn lăn trên đôi má đỏ rần của Phêrô.
- Lại đây, đứa trẻ già thiếu suy nghĩ, để Ta làm cha bằng cách lau những nước mắt này cho con - Giêsu nói, và Người giơ bàn tay vẫn còn dấu vết của viên đá ở Giscala, Người lấy ngón tay lau những giọt nước mắt này.
- Ôi! Chúa ơi! Thầy đã tha cho con? - Phêrô nói, run rẩy cầm bàn tay của Giêsu trong tay ông và nhìn Người với đôi mắt của con chó trung thành, muốn được tha thứ bởi người chủ đang bực tức của nó.
- Thầy không bao giờ kết án con...
- Nhưng trước...
- Thầy đã yêu con. Tình yêu là đừng để mọc ra trong con những cái rễ lạc hướng của tình cảm và khôn ngoan. Con phải là người thứ nhất trong tất cả, Simon Phêrô.
- Vậy... Vậy Thầy còn yêu con? Thầy còn muốn con? Không phải vì con chú ý tới chỗ thứ nhất, Thầy biết? Con chỉ cần được chỗ rốt bét, nhưng được ở với Thầy, được phục vụ Thầy... và chết vì
284
phục vụ Thầy là Chúa và Thiên Chúa của con.
Giêsu quàng tay qua vai ông và kéo ông sát vào Người. Lúc đó Phêrô, vẫn không rời bàn tay kia của Giêsu, bao phủ nó bằng những cái hôn... sung sướng. Ông rì rầm: “Con đã khổ chừng nào! Cám ơn Giêsu”.
- Đúng hơn là cám ơn em con. Và trong tương lai, hãy biết mang gánh nặng của con cách công chính và anh hùng. Chúng ta hãy chờ những người khác. Họ đâu rồi?
Họ đã đứng lại tại chỗ khi Phêrô đến với Giêsu, để Thầy được tự do nói với vị tông đồ đau khổ của Người. Giêsu làm hiệu cho họ tiến tới. Cùng với họ, có mấy người nông dân đã bỏ công việc đồng áng để tới hỏi han các môn đệ.
Giêsu vẫn để tay trên vai Phêrô, Người nói: “Vì việc đã xảy ra, các con hiểu rằng phục vụ Thầy là điều nhiệm nhặt. Thầy trách móc ông ta, nhưng cũng là cho tất cả, vì có cùng một ý nghĩ trong phần lớn con tim của các con, hoặc đã thành hình, hoặc mới nảy mầm. Bằng cách này, Thầy đập nát nó, và ai còn trồng cấy nó là chứng tỏ họ không hiểu gì về giáo lý của Thầy, sứ mạng của Thầy, con người của Thầy.
Thầy đến để là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống. Thầy cho các con Sự Thật bởi những điều Thầy giảng dạy. Thầy san bằng đường đi cho các con bằng hy sinh của Thầy. Thầy vạch nó cho các con, Thầy chỉ nó cho các con. Nhưng Sự Sống thì Thầy cho các con bằng cái chết của Thầy. Các con hãy nhớ rằng ai trả lời tiếng gọi của Thầy và đặt mình vào hàng ngũ của Thầy để hợp tác vào công cuộc cứu chuộc thế giới, thì họ phải sẵn sàng chết để ban Sự Sống cho những người khác. Cũng vậy, ai muốn theo Thầy thì phải sẵn sàng để bỏ mình, để từ chối cái chính mình cũ cùng với những khát vọng của nó, những khuynh hướng, những thói quen, những tập tục, những tư tưởng của nó, và theo Thầy với cái chính mình mới của họ.
Mong rằng mỗi người sẽ vác thập giá của mình như Thầy sẽ vác nó. Họ hãy vác nó, cho dù họ cảm thấy nó qúa nhục nhã đối với họ.
285
Họ hãy để cho sức nặng của thập giá chà nát cái chính mình nhân loại của họ, để giải phóng cho cái chính mình siêu nhiên. Như vậy thập giá không còn là sự sợ hãi, mà trái lại, nó là điểm tựa và là đối tượng tôn kính, bởi vì linh hồn biết và nhớ. Và họ hãy theo Thầy với thập giá của họ. Phải chăng cái chết nhục nhã đang chờ họ ở cuối đường như nó đang chờ Thầy? Không quan trọng. Họ đừng buồn khổ, trái lại, hãy vui mừng, vì sự nhục nhã của trái đất sẽ đổi thành vinh quang cả thể trên Trời, trong khi sự hèn nhát trước các việc anh hùng siêu nhiên sẽ là ô nhục. Các con không ngừng nói là các con muốn theo Thầy tới chết. Vậy hãy theo Thầy, Thầy sẽ dẫn các con tới nước Trời bằng con đường chua cay, nhưng thánh thiện và vinh quang. Ở cuối con đường đó, các con sẽ chinh phục được sự sống đời đời không bao giờ thay đổi nữa. Đó sẽ là Sống. Trái lại, theo con đường của thế gian và xác thịt sẽ là Chết. Theo cách này: Ai muốn cứu mạng sống mình trên trái đất thì sẽ mất nó, trong khi ai mất sự sống mình trên trái đất vì Thầy và vì tình yêu đối với Tin Mừng của Thầy, thì sẽ cứu được nó. Và hãy suy xét: chiếm được cả thế giới mà sau đó lại mất linh hồn mình thì nào được ích gì?
Lại nữa, hãy coi chừng, bây giờ cũng như trong tương lai: Xấu hổ vì lời Thầy và các hành động của Thầy, đó cũng là Chết. Thực vậy, ai xấu hổ vì Thầy và các lời Thầy giữa cái thế hệ ngu muội, gian dâm, tội lỗi này mà Thầy đã nói, để hy vọng kéo ở đó ra được sự che chở và lợi ích, nịnh hót nó và từ chối Thầy, Thầy và giáo lý của Thầy, quăng các lời Thầy mà họ đã có vào cái mõm dơ bẩn của loài heo, loài chó, để được thưởng những đống phân làm lương bổng, kẻ đó sẽ bị phán xét bởi Con Người khi Người đến trong vinh quang của Cha Người và các thiên thần, các thánh, để phán xét thế gian. Khi đó nó sẽ phải xấu hổ vì tất cả những tội ngoại tình, dâm ô, hèn nhát, trục lợi của nó, và Người sẽ đuổi nó ra khỏi nước Người, vì thành Jêrusalem trên Trời không có chỗ cho những kẻ ngoại tình, hèn nhát, dâm bôn, phạm thượng, trộm cắp. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng: Chắc chắn trong số những người hiện diện ở đây, trong đám các nam nữ môn đệ của Thầy, sẽ có những người
286
không nếm cái chết trước khi thấy Nước Thiên Chúa được thành lập với Vị Vua của nó, đấng sẽ nhận triều thiên và sự xức dầu”.
Họ lại tiếp tục con đường, vừa đi vừa nói linh hoạt, trong khi mặt trời từ từ xuống trên bầu trời...
35* LỜI TIÊN TRI VỀ PHÊRÔ VÀ MARGZIAM.
NGƯỜI MÙ TẠI BÉTSAIĐA
Họ không còn bước nữa, nhưng họ chạy trong một bình minh mới còn tươi sáng hơn những ngày hôm trước. Khắp nơi, sương mai lóng lánh và các cánh hoa muôn mầu mưa xuống đầu và trên đồng cỏ, để đặt thêm vào đó những mầu khác của cánh hoa rời, gần những bông hoa vô số kể nở trên đầu cuống tại bờ sông và trong các cánh đồng, để đốt sáng những hạt kim cương mới trên những cộng cỏ mới. Họ chạy giữa tiếng hát của loài chim mùa tình yêu và giữa tiếng rì rào của gió nhẹ, của làn nước tươi cười đang hít thở hay ngân nga, lướt qua các cành cây, mơn trớn cỏ hoa và lúa miến đang mọc mỗi ngày một cao, hoặc chảy giữa các bờ, làm các thân thảo hơi cúi vì bị dòng nước trong phớt qua. Họ chạy tựa như họ đi gặp tình yêu. Cả những người già như Philíp, Batôlômêo, Mathêu, Zêlote, cũng chia sẻ sự vội vã vui tươi của các thanh niên. Giữa đám các môn đệ cũng vậy, các người già đua tranh với các người trẻ để bước nhanh.
Sương mai chưa khô trên đồng cỏ khi họ đến vùng ngoại ô Bétsaiđa, nằm giữa hồ, sông và núi.
Từ một lối đi nhỏ trong một cánh rừng trên núi, một thanh niên đang xuống dốc, cúi gù dưới một bó củi cành. Anh xuống mau lẹ tựa như chạy vì vị trí của anh. Anh không nhìn thấy các tông đồ... Anh ta hát vui vẻ khi chạy dưới bó củi của anh. Khi tới đường lớn, chỗ bắt đầu những ngôi nhà đầu tiên của Bétsaiđa, anh ta vất bó củi xuống, đứng thẳng lên để thở, vắt ra đàng sau mái tóc nâu đen sậm của anh. Anh ta cao và dong dỏng, với thân mình lực lưỡng, tứ chi lanh lẹ và mỏng mảnh. Khuôn mặt đẹp của tuổi trẻ.
287
- Đó là Margziam - Andrê nói.
- Chú điên sao? Đó là một người đàn ông - Phêrô trả lời.
Andrê lấy tay làm loa và gọi anh ta lớn tiếng. Người thanh niên đã cúi xuống để cầm lấy gánh nặng sau khi đã thắt lại giây lưng của chiếc áo khoác ngắn chỉ xuống tới gần đầu gối và để hở ở ngực, có lẽ vì nó qúa chật, anh ta quay về phía có tiếng gọi, và anh nhìn thấy Giêsu, Phêrô và những người khác đang nhìn anh, đứng ở gần một khóm liễu rũ mà các cành của nó nhúng vào trong nước của một con suối rộng, đang chảy về phía tả ngạn sông Giođan, trước hồ Galilê, ngay ở tại ranh giới của xứ. Anh ta lại để bó củi xuống và kêu: “Chúa của con! Bố của con!” Và anh ta chạy lao đi.
Nhưng Phêrô cũng chạy, băng qua dòng suối cạn, cả đến không cởi xăng đan, chỉ xắn quần áo thôi. Rồi ông chạy trên đường bụi, để lại trên đất khô những dấu xăng đan ướt của ông.
- Bố của con!
- Con cưng của bố!
Họ ở trong vòng tay nhau. Margziam đã thực sự cao bằng Phêrô. Các lọn tóc đen của nó rơi trên mặt Phêrô trong cái hôn thân thiết của nó. Nó có vẻ cao hơn, vì nó dong dỏng. Nhưng Margziam rời khỏi cái ôm dịu dàng và tiếp tục con đường chạy về với Giêsu. Người đã băng qua suối, bước nhẩn nha với các tông đồ vây quanh.
Margziam qùi gối dưới chân Người, hai tay giơ lên và kêu: “Ôi! Chúa của con! Xin chúc lành cho tôi tớ Người!”
Nhưng Giêsu cúi xuống nâng anh ta dậy và ôm ghì anh vào ngực, hôn anh trên hai má và chúc cho anh ta “một sự bình an liên tục, một sự phát triển trong khôn ngoan và ân sủng trên đường của Chúa”.
Các tông đồ cũng mừng vui với người thanh niên, nhất là những người đã nhiều tháng rồi không gặp anh ta. Họ mừng vui với anh vì sự nẩy nở của anh.
Nhưng Phêrô! Nhưng Phêrô! Nếu ông ta có là người đồng tạo dựng nên nó, ông ta cũng không thỏa mãn hơn! Ông lượn chung quanh, nhìn nó, rờ vào nó và hỏi người nọ người kia: “Nhưng nó
288
không đẹp trai sao? Nó đã không được tác tạo đúng sao? Coi này, nó thẳng tắp! Ôi! Lồng ngực cao! Đôi cặp giò rất thẳng!... Hơi ốm và chưa nhiều bắp thịt, nhưng nó hứa hẹn! Thực tình nó hứa hẹn! Và khuôn mặt? Nhìn coi! Nó đâu có giống tạo vật bé nhỏ mà năm ngoái tôi ẵm trong tay nữa! Lúc đó tựa như tôi mang một con chim khổ sở, tái mét, buồn thiu, sợ sệt... Hoan hô Porphyrê! A! Thực sự bà đã rất quảng đại với tất cả mật ong của bà, bơ, dầu, trứng của bà, và các gan cá của bà. Bà rất xứng đáng được tôi nói với bà điều đó ngay lập tức. Hé! Thầy ơi! Thầy để cho con đi tìm bà không?”
- Đi đi! Đi đi Simon. Thầy sẽ tới với con ngay.
Margziam mà Giêsu vẫn còn cầm tay, nó nói: “Thưa Thầy, chắc chắn bố con sẽ ra lệnh cho má con chuẩn bị một bữa ăn. Thầy cho phép con tạm rời Thầy để giúp bà...”
- Đi đi. Và nguyện Thiên Chúa chúc lành cho con vì con biết tôn kính kẻ là cha và mẹ cho con.
Margziam chạy đi, lấy bó củi vác lên vai và đến với Phêrô, đi bên cạnh ông.
- Hai người giống như Abraham và Isaac đang trèo lên núi - Batôlômêo nhận xét.
- Ôi! thằng Margziam tội nghiệp! Nó chỉ còn thiếu có điều đó - Simon Zêlote nói.
- Và ông anh tội nghiệp của tôi! Tôi không biết ông có đủ sức để làm Abraham không... - Andrê nói.
Giêsu nhìn ông, rồi nhìn đầu tóc hoa râm của Phêrô đang xa dần với Margziam ở bên ông, và Người nói: “Thực sự, Thầy bảo các con rằng sẽ đến một ngày mà Simon Phêrô sẽ vui mừng khi nghe biết rằng Margziam của ông bị cầm tù, bị đập đánh, bị giết, và ngày mà nó sẽ có can đảm giơ tay ra trên giảo đài để mặc lấy chiếc áo đỏ của Trời, và để làm phì nhiêu cho trái đất bằng máu tử đạo của nó. Ông sẽ thèm muốn số phận của nó, và ông chỉ khổ vì một điều duy nhất: không được thế chỗ cho con trai ông và bó buộc phải duy trì mạng sống vì sự tuyển lựa của ông làm Thủ Lãnh Tối Cao cho Giáo Hội Thầy, cho tới khi Thầy bảo ông ta: ‘Hãy đi chết
289
cho Giáo Hội’. Các con chưa biết Phêrô đâu. Nhưng Thầy, Thầy đã biết”.
- Vậy Thầy đã thấy trước sự tử đạo của Margziam và của anh con?
- Con khổ vì vậy à Andrê?
- Không. Con khổ vì Thầy không thấy trước cho cả con nữa.
- Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng: Tất cả các con sẽ được mặc áo đỏ thắm, trừ một người.
- Ai vậy? Ai vậy?
- Hãy để sự yên lặng trên sự đau đớn của Thiên Chúa - Giêsu nói, sầu khổ và nghiêm trang. Mọi người đều nín lặng, sợ hãi và suy tư.
Họ đi vào con lộ đầu tiên của Bétsaiđa, giữa các khu vườn đầy mầu xanh mới. Phêrô với mấy người Bétsaiđa khác đang dẫn một người mù đến cho Giêsu. Margziam không ở đó, chắc chắn nó ở nhà để phụ với Porphyrê. Cùng với các người Bétsaiđa và cha mẹ người mù, có nhiều môn đệ đến Bétsaiđa từ Sicaminon và các thành phố khác, trong số đó có Étienne và Hermas, thầy cả Gioan, luật sĩ Gioan và nhiều người khác (từ nay trở đi, thật rối ren để nhớ tên họ, vì họ rất đông)
- Chúa ơi, con dẫn nó đến với Chúa, vì nó đã chờ nhiều ngày rồi - Phêrô giải thích trong khi người mù và cha mẹ nó không ngừng hát: “Giêsu, con Đavít, xin thương chúng con!”, “Xin để bàn tay Ngài trên mắt con con và nó sẽ nhìn thấy”, “Lạy Chúa, xin thương con, con tin ở Ngài”.
Giêsu cầm tay người mù và cùng với nó đi lùi lại vài mét, để đặt nó ở chỗ khuất mặt trời bây giờ sáng chói đầy đường. Người đặt nó tựa lưng vào bức tường của một căn nhà đầy lá cây bao phủ, căn nhà đầu tiên của ngôi làng, và người đứng trước mặt nó. Người thấm ướt nước miếng của Người vào hai ngón tay trỏ và người cà nó lên mu mắt người mù. Rồi Người áp bàn tay lên mắt nó, chỗ cuối bàn tay áp vào tròng mắt, và các ngón tay ở trên mái tóc nó. Người cầu nguyện như vậy, rồi Người buông tay ra: “Con nhìn thấy
290
gì?” Người hỏi người mù.
- Con thấy người ta, chắc chắn đó là người ta, nhưng nó hiện diện trước mắt con như những cây cối đầy hoa, nhưng chắc chắn đó là người ta, vì họ cử động và đi về phía con.
Giêsu lại để bàn tay Người lên rồi lại nhấc ra khi nói: “Và bây giờ?”
- Ôi! Bây giờ con thấy rõ ràng sự khác nhau giữa các cây trồng dưới đất và các người này đang nhìn con... Và con thấy Thầy! Thầy! Thầy đẹp chừng nào! Mắt Thầy giống như bầu trời và tóc Thầy giống như những tia sáng mặt trời... Cái nhìn và nụ cười của Thầy là của Thiên Chúa. Lạy Chúa, con thờ lạy Chúa! - Và nó qùi gối để hôn gấu áo Giêsu.
- Hãy đứng dậy và lại với mẹ con, người mà trong bao năm đã là ánh sáng và an ủi cho con, và nơi bà, con chỉ biết có tình yêu.
Người cầm tay nó và dắt lại cho mẹ nó. Bà qùi ở xa xa để thờ lạy Người, giống như trước đó, lúc bà van xin Người.
- Bà đứng dậy đi, con bà đây. Nó đã nhìn thấy ánh sáng ban ngày, và cầu cho con tim nó tỉnh thức để đi theo Ánh Sáng đời đời. Hãy trở về nhà. Hãy sung sướng và sống thánh thiện vì biết ơn Thiên Chúa. Nhưng khi đi qua làng, đừng nói cho ai biết là Thầy đã chữa nó, để đám đông đừng vội vã kéo tới đây và ngăn cản Thầy tới nơi mà Thầy phải tới, để mang sự xác nhận về đức tin, ánh sáng và niềm vui cho các con cái khác của Cha Thầy.
Và một cách mạnh mẽ, bằng các lối đi nhỏ băng qua các khu vườn, Người đi về nhà Phêrô. Người vào và chào Porphyrê bằng lời chào êm đềm của Người.
36* TỪ CAPHANAUM TỚI NAZARÉT
VỚI MANAEN VÀ CÁC NỮ MÔN ĐỆ
Khi các đấng vừa đặt chân lên cái bãi nhỏ của Caphanaum, họ được đón tiếp bởi tiếng hò hét của trẻ con, chúng như đua tranh với
291
các con chim yến đang tíu tít lăng xăng để xây tổ mới của chúng, vì chúng lẹ chừng nào! Vừa chạy vừa líu lo, từ ngoài bãi về nhà, vui bằng niềm vui đơn sơ của trẻ con, vì với chúng, đây là một cảnh tuyệt vời, một điều kỳ diệu hơn việc tìm thấy một con cá nằm chết trên bãi, hay một hòn sỏi mà sóng đã mài nhẵn và có mầu sắc như viên đá qúi, hoặc một bông hoa mọc giữa hai tảng đá, hoặc một con cánh quít có mầu thay đổi, bị chộp ngay đang khi bay... Tất cả những kỳ công mà chúng đưa cho má chúng coi, để các bà chia sẻ niềm vui với con các bà.
Nhưng bây giờ các chim-én-người đã thấy Giêsu, và tất cả mọi đường bay đều hướng về Người khi Người sắp đặt chân lên bãi.
Đây là trận tuyết lở của các da thịt con nít nóng ẩm, đây là cái giây xích êm đềm của các bàn tay giơ ra, đây là tình yêu của các con tim trẻ thơ đổ xuống trên Giêsu, bao vây Người, bám vào Người, sưởi nóng Người như ngọn lửa êm dịu.
- Con! Con!
- Một cái hôn!
- Cho con!
- Cho con nữa!
- Giêsu, con yêu Thầy lắm!
- Đừng đi qúa lâu như vậy nữa!
- Con ra đây mỗi ngày để coi Thầy có tới không.
- Con, con đã đến nhà Thầy.
- Cầm bông hoa này đi. Bông hoa dành cho má, nhưng con biếu Thầy.
- Một cái hôn nữa cho con đi! Cái hôn đẹp và mạnh cơ! Cái hôn trước không đụng tới con, vì Jabel đẩy con...
Đủ thứ tiếng nói nhỏ phát ra trong khi Giêsu cố gắng bước đi trong cái lưới âu yếm này.
- Nhưng để cho Người yên một tí nào! Đủ rồi! - Các môn đệ và các tông đồ kêu trong khi tìm cách nới rộng vòng vây. Và rồi, đúng! Chúng giống như những cây leo có trang bị những cái hấp khẩu! Khi người ta gỡ phía này ra thì phía kia bám vào.
292
- Hãy để, hãy để chúng làm. Một cách kiên nhẫn, ta cũng tới nơi - Giêsu mỉm cười nói khi Người bước những bước ngắn không thể tưởng được, để có thể tiến lên mà không dẵm lên các bàn chân trần.
Nhưng việc giải vây hiệu qủa nhất là Manaen, ông đến cùng với mấy môn đệ nữa, trong số đó có các người mục đồng ở Juđê.
- Bình an cho Thầy!
Manaen nói bằng một giọng ầm ầm như sấm, trong y phục lộng lẫy của ông. Ông không còn vàng ở trên trán cũng như ở ngón tay, nhưng ở bên hông là một thanh gươm sáng loáng, gây ra sự khâm phục và sự trọng kính của đám trẻ con, nên trước người kỵ mã tuyệt vời, ăn vận mầu đỏ tía, với một khí giới huy hoàng ở bên hông, chúng liền rụt rè tránh ra. Và như vậy, Giêsu có thể hôn ông và hôn Êlie, Lêvi, Mathia, Giuse, Gioan, Simêon, và tôi không biết bao nhiêu người khác nữa.
- Làm sao con lại ở đây? Và làm sao con biết được là Thầy lên bãi?
- Con biết do tiếng la của trẻ con. Nó xuyên qua các bức tường như những mũi tên mang niềm vui. Nhưng con tới đây vì nghĩ rằng Thầy sắp hành trình về Juđê, và chắc chắn các bà sẽ dự phần... Con cũng muốn đi trong nhóm để bảo vệ Thầy, lạy Chúa, nếu không phải là qúa tự kiêu để nói như vậy. Có rất nhiều xáo động trong Israel để chống lại Thầy. Thật đau đớn để nói điều đó. Nhưng đâu phải Thầy không biết - Trong khi nói chuyện như vậy, họ tới nhà và vào trong.
Manaen tiếp tục cuộc đàm thoại của ông sau khi ông chủ nhà đã tôn kính Thầy: “Từ nay những xáo động và những thiện cảm mà Thầy tạo ra đã xâm chiếm hết mọi nơi, làm rung động và lôi kéo sự chú ý của cả những kẻ trì độn nhất, và của những kẻ chỉ tiêu khiển bằng những thứ khác hẳn với những điều Thầy là. Tin tức về những điều Thầy làm đã thâm nhập vào tới bên trong những bức thành trì ghê tởm của Machéronte và những nơi trú ẩn dâm ô của Hêrôđê, dù là lâu đài ở Tibêriat hay lâu đài của Hêrôđiađe, hay lâu đài hoàng gia lộng lẫy của các Asmoné ở gần Sixte. Như một làn sóng
293
ánh sáng và sức mạnh, nó băng qua các hàng rào tối tăm và hèn hạ, nó làm sụp đổ những đống tội lỗi là những chiến hào và nơi trú ẩn che chở cho những tình yêu ghê tởm và các tội ác của triều đình; nó giáng như những mũi tên lửa, nó viết những lời còn đe dọa gấp bội những lời trong bữa tiệc của Balthazar, trên bức tường dơ bẩn của các phòng the, các phòng vua chúa và phòng tiệc. Nó kêu lên danh Thầy và sức mạnh của Thầy, bản tính của Thầy và sứ mạng của Thầy. Hêrôđê run lên vì sợ. Hêrôđiađe quằn quại trên giường, sợ rằng Thầy là ông vua báo oán, sẽ lấy mất của bà những giầu sang và những đặc miễn của bà, nếu không phải là sự sống, thì cũng quăng bà cho đám đông, họ sẽ báo oán vì bao tội ác của bà. Trong triều đình, họ run sợ vì Thầy. Họ run sợ con người cũng như siêu nhân. Từ lúc đầu Gioan rơi xuống, tựa như một ngọn lửa thiêu đốt tạng phủ của các kẻ sát nhân. Chúng không còn cả đến sự bình an khốn nạn của chúng trước đây, sự bình an của những con heo được ăn no uống say, bóp nghẹt những khiển trách của lương tâm trong say sưa và hư đốn. Không còn gì làm cho chúng yên hàn được nữa. Chúng bị bách hại... Và chúng ghét nhau sau những giờ hư đốn, đứa nọ ghê tởm đứa kia, đổ cho nhau trách nhiệm về tội ác đã làm chúng xáo trộn, một tội ác vượt mức. Còn về Salomê, cô ta như bị qủi ám, trở nên mồi cho dâm dật và sẽ thoái hóa thành nô lệ. Lâu đài hoàng gia xông mùi ghê tởm còn hơn lỗ cống.
Hêrôđê đã hỏi con nhiều lần về Thầy. Mỗi lần con đều trả lời: ‘Đối với tôi, đó là Đức Messi, Vua Israel, từ một dòng dõi duy nhất: dòng Đavít. Đó là con người mà các tiên tri đã loan báo. Đó là Ngôi Lời của Thiên Chúa, đấng gọi là Kitô, đấng được Thiên Chúa xức dầu, có quyền thống trị trên mọi kẻ sống’. Và Hêrôđê tái mét vì sợ khi nghĩ rằng Thầy là Đấng Báo Oán. Và ông xua đuổi sự sợ hãi cũng như tiếng kêu của lương tâm ông mà sự ân hận xâu xé bằng cách nói rằng - Vì các quần thần, để an ủi ông, đã nói rằng Thầy là Gioan mà người ta tin lầm là đã chết, và vì vậy, họ làm cho ông, hơn bao giờ hết, dẹp được nỗi sợ, hoặc là Êlia hay một tiên tri nào đó trong qúa khứ - bằng cách ông nói rằng: ‘Không, đó không
294
phải là Gioan! Ta đã cho chém đầu ông, và Hêrôđiađe giữ thủ cấp trong một nơi an toàn. Và đó không phải là một trong các tiên tri. Người ta không thể lại sống sau khi đã chết. Nhưng đó có lẽ cũng không phải là Đức Kitô. Ai đã nói điều đó? Ai đã nói là chính ông ta? Ai dám nói với ta rằng ông ta là vua theo một dòng hoàng gia duy nhất? Chính ta là vua chứ không ai khác. Đức Messi đã bị giết bởi Hêrôđê cả. Ông ta đã bị nhận chìm từ lúc sinh ra trong bể máu. Ông ta đã bị cắt cổ như con chiên... và ông ta mới được vài tháng... Anh nghe không, ông ta khóc chừng nào? Tiếng rên rỉ của ông không ngớt vang lên trong đầu ta đồng thời với tiếng gào của Gioan: Ông không được phép... Ông không cho phép ta sao?! Có, ta được phép tất cả, vì ta là vua. Ở đây ta có rượu và đàn bà nếu Hêrôđiađe từ chối những ôm ấp của ta, và có Salômê nhảy để làm khơi dậy các giác quan của ta khi nó sợ hãi vì những tường thuật hãi hùng của anh’.
Và ông ta say sưa giữa những đào hát của triều đình, trong khi tại nhà, vợ ông như điên, la lối những lời phạm thượng đến vị tử đạo và đe dọa cả Thầy. Trong khi đó Salômê, kinh nghiệm được thế nào là sinh ra trong tội bởi hai kẻ hư hốt và đã tham gia vào tội ác, cô ta giao phó thân xác cô cho sở thích dâm ô của một tên ghê tởm. Nhưng rồi Hêrôđê hồi tỉnh và muốn được tin tức về Thầy, và ông ta muốn gặp Thầy, vì vậy ông ta làm thuận lợi cho việc con đến với Thầy trong hy vọng là con sẽ dẫn Thầy đến với ông. Đó là điều con sẽ không bao giờ làm, là dẫn thánh nhan Thầy vào sào huyệt của loài thú dơ bẩn. Hêrôđiađe muốn có Thầy để đập Thầy, bà ta la lên với con dao găm trong tay... Salômê cũng muốn có Thầy, cô ta đã thấy Thầy mà không biết, tại Tibêriat vào tháng Êtanim vừa qua, và cô ta điên vì Thầy...
Thưa Thầy, lâu đài hoàng gia là vậy đó. Nhưng con, con ở lại đó để canh chừng những chương trình của họ về Thầy”.
- Thầy biết ơn con, và Đấng Tối Cao sẽ chúc phúc cho con vì vậy. Đó cũng là phục vụ những chiếu chỉ của Đấng Vĩnh Cửu.
- Con đã nghĩ tới đó, và vì vậy nên con đã tới.
- Manaen, Thầy khẩn khoản xin con một điều, bởi vì con đã tới.
295
Hãy xuống Jêrusalem, không phải với Thầy, nhưng với các bà. Thầy sẽ đi với các ông bởi một con đường lạ, và chúng không thể làm gì hại cho Thầy. Nhưng các bà là những phụ nữ không thể tự vệ, và người hộ vệ các bà là kẻ có tâm hồn rất dịu dàng, và anh ta đã học biết giơ má ra cho những kẻ muốn đánh. Sự hiện diện của con sẽ là một bảo vệ chắc chắn. Thầy hiểu đó là một hy sinh, nhưng chúng ta sẽ ở cùng nhau tại Juđê. Bạn, đừng chối Thầy.
- Chúa ơi, tất cả mọi ước muốn của Thầy đều là luật đối với tôi tá Thầy. Con sẽ phục vụ mẹ Thầy và các nữ môn đệ đi với mẹ, ngay từ lúc này và cho tới khi nào Thầy muốn.
- Cám ơn. Sự vâng lời này cũng sẽ được ghi trên Trời. Bây giờ, trong khi chờ đợi có ghe đến cho tất cả, chúng ta hãy lợi dụng thời giờ để chữa cho các bệnh nhân đang chờ Thầy.
Và Giêsu xuống trong vườn, nơi để những cái cáng hay các người tàn tật, và Người chữa họ mau lẹ ngay trong khi nhận sự tôn kính của Jairô và một số bạn hữu ở Caphanaum.
Giữa đám phụ nữ có Porphyrê và Salômê, thêm vào đó là bà vợ của Batôlômêo khá già, vợ Philíp, ít già hơn, cùng với hai cô gái trẻ. Các bà lo thực phẩm cho nhóm đông đảo các môn đệ mà người ta sẽ nuôi bằng từng rổ cá do Bétsaiđa và Caphanaum dâng cúng. Đó là một thúng lớn cá bạc, còn nhảy tê tê. Rồi một mẻ rửa lớn trong cái vạc, rồi một loạt nổ lách tách lớn trên chiếc vỉ ở trong nhà bếp, trong khi Margziam và các môn đệ khác khơi thêm lửa và mang những bình nước tới để giúp các bà.
Bữa ăn chuẩn bị rất mau và tiêu thụ rất mau. Và vì bây giờ các thuyền đã tụ tập để vận chuyển hết đám dân này, nên chỉ còn việc lên thuyền để đi Magđala trên mặt hồ vui tươi, vì nó thanh quang, thần linh, trong cái mầu ngọc bích ở hai bên bờ.
Các khu vườn thuộc căn nhà của Maria Magđala mở ra để đón Thầy và các môn đệ vào buổi trưa đầy ánh sáng, và toàn thể Magđala đều tới để chào vị rabbi sắp khởi hành đi Jêrusalem.
***
Các sườn đồi dốc tươi mát của xứ Galilê lại nghe tiếng bước
296
chân lẹ làng vui vẻ của nhóm tín hữu, theo sau là một cái xe tiện nghi, trên đó có Jeanne với Porphyrê, Salômê, vợ của Batôlômêo, vợ của Philíp cùng với hai cô con gái trẻ, và thêm vào đó là Maria và Mathia, chúng rất vui vẻ, khó lòng mà nhận ra chúng, vì chúng đã qúa thay đổi từ năm tháng nay.
Margziam bước cách dũng cảm với các người lớn như Giêsu muốn, và cả đến nó ở ngay giữa nhóm các tông đồ, đi giữa Gioan và Phêrô, và nó không để rơi một lời nào của Giêsu.
Mặt trời soi sáng trong bầu trời rất trong. Các cơn gió ẩm mang tới mùi của rừng, của bạc hà, hoa tím, những bông cẩm chướng đầu tiên, những cây hồng càng lúc càng nhiều hoa. Và ở bên trên tất cả các mùi tươi mát này là mùi hơi đắng của hoa các cây ăn trái, chúng rải ra ở khắp nơi một làn tuyết cánh hoa trên cỏ. Mọi người đều có chúng trên tóc khi họ tiến bước giữa tiếng líu lo liên tục của chim chóc, giữa những tiếng hót quyến rũ và những lời kêu gọi run rẩy từ bụi này qua bụi kia, giữa các con đực táo bạo và các con mái nết na, trong khi các con cừu gặm cỏ, đã trở nên thô kệch vì làm mẹ, và các con chiên đầu tiên húc chiếc mũi hồng của nó vào bầu vú tròn của mẹ nó để làm tăng sự tiết sữa, hoặc nhảy nhót trong đồng cỏ non như những đứa trẻ sung sướng.
Nazarét tới ngay sau Cana, nơi Suzane đã nhập bọn với các phụ nữ, mang theo với bà những sản phẩm của đất đai thuộc về bà trong những cái thúng và những bình, và một cành hồng đỏ đầy những nụ đã sẵn sàng nở ra “để tặng cho Maria”, bà nói.
- Tôi cũng vậy, chị thấy không? - Jeanne nói khi bà mở ra một cái hộp, trong đó có xếp nhiều loại hồng trong rêu ẩm: “Những bông đầu tiên, và đẹp nhất, nhưng luôn luôn chỉ là không đối với Mẹ là người qúa chí thiết đối với chúng ta”.
Tôi thấy là mỗi bà đều mang theo những thực phẩm cho cuộc hành hương lễ Vượt Qua. Và cùng với những thứ đó, họ mang thêm: bà thì bông hoa, bà thì một cây để trồng trong vườn của Maria. Còn Porphyrê thì xin lỗi vì chỉ mang theo một chậu cây long não tuyệt vời với những lá mầu xanh li ti, chỉ hơi đụng tới là đã nghe mùi
297
thơm phức. “Maria muốn thứ cây hương dược này...” Bà nói, và mọi người đều khen nó vì vẻ đẹp đầy sinh lực của nó. “Ôi! Tôi đã săn sóc nó suốt mùa đông, tôi giữ nó trong phòng tôi để nó khỏi bị tuyết và mưa đá. Margziam giúp tôi bằng cách mỗi ngày mang nó ra để dưới mặt trời, rồi đem vào nhà mỗi buổi chiều. Và đứa trẻ yêu dấu này, nếu không có thuyền, và bây giờ là xe, thì nó sẽ mang trên vai để đem tới cho Maria, để làm vui lòng Mẹ và cả tôi nữa”. Người đàn bà khiêm tốn đã nói vậy. Bà càng lúc càng bạo dạn vì thấy lòng tốt của Jeanne, và bà thấy mình được vui hơn trong cuộc hành trình đi Jêrusalem với Thầy, với chồng bà và Margziam của bà.
- Chị chưa bao giờ tới đó à?
- Khi ba tôi còn sống thì đi mỗi năm. Nhưng sau đó... má tôi không đi nữa. Các anh tôi bằng lòng dẫn tôi đi, nhưng tôi phải phục vụ má tôi và bà không để cho tôi đi. Rồi tôi lấy Simon... Và sức khỏe của tôi không còn được tốt. Simon phải hành trình lâu dài, và điều đó làm phiền cho ông... Như vậy là tôi chỉ ở nhà để chờ ông... Chúa đã thấy ước nguyện của tôi... tựa như tôi đã làm lễ hy sinh tại Đền Thờ... - Người đàn bà dịu dàng nói.
Và Jeanne, đang ở bên cạnh bà, để tay trên những bím tóc tuyệt đẹp của bà và nói với bà chỉ một tiếng: “cưng!”, nhưng trong tiếng này có biết bao tình yêu, bao là thông cảm, bao là tình nghĩa.
Đây, Nazarét... Đây, nhà Maria Alphê, bà đã đang ở trong tay các con trai bà. Và với đôi tay ướt vì thuốc giặt mà bà đang làm, bà vuốt ve họ. Rồi lau tay vào cái tạp-dề dầy của bà, bà chạy lại với Giêsu để hôn Người. Rồi đây là nhà Alphê Sara ngay trước khi đến nhà Maria. Alphê ra lệnh cho đứa cháu lớn nhất của ông chạy đi báo cho Maria. Trong khi chờ đợi, ông bước những bước dài lại với Giêsu, với cả một đám cháu trong tay, và ông chào Người với cái ổ này. Chúng bám chặt vào tay ông và ông biếu cho Người như một bó hoa. Và đây, Maria hiện diện trước cửa nhà đầy mặt trời với bộ y phục mặc trong nhà mầu xanh lơ nhạt hơi bạc mầu. Mái tóc vàng óng rực rỡ mong manh trên vầng trán đồng trinh và rũ xuống thành
298
những bím nặng ở sau gáy. Mẹ lăn vào ngực con mẹ và Người ôm mẹ với hết tình yêu của Người.
Những người khác thận trọng dừng lại để hai mẹ con được tự do trong phút đầu gặp gỡ. Nhưng họ rời nhau ra ngay, và mẹ quay khuôn mặt mà thời gian không thay đổi của mẹ, lúc này thì đỏ hồng vì bất chợt, được soi sáng bởi nụ cười, để chào bằng giọng nói thiên thần của mẹ: “Bình an cho qúi vị, các tôi tớ Chúa và môn đệ của con tôi; bình an cho qúi vị, các chị em trong Chúa”. Và với các bà đã xuống khỏi xe, mẹ trao đổi cái hôn chị em.
- Ồ, Margziam! Bây giờ mẹ không thể ẵm con trong tay mẹ nữa. Bây giờ con là một người lớn rồi. Nhưng hãy đến với mẹ của tất cả những người tốt, để mẹ cho con một cái hôn nữa. Con cưng! Nguyện xin Thiên Chúa chúc phúc cho con và làm cho con lớn lên trong đường lối Người, vạm vỡ như thân thể trai trẻ của con và còn hơn nữa. Con ơi! Chúng ta phải dẫn nó về cho ông nội nó. Ông sẽ sung sướng nhìn thấy nó như vầy - Mẹ nói câu sau cùng khi quay về phía Giêsu.
Rồi mẹ hôn Giacôbê và Juđa Alphê, và mẹ cho họ tin tức mà chắc chắn làm họ vui: “Năm nay Simon sẽ đi với mẹ như một môn đệ của Thầy. Nó đã nói vậy với mẹ”.
Rồi hết người nọ tới người kia, mẹ chào những người quen biết nhất, những người có ảnh hưởng nhất, kèm cho tất cả, mỗi người một lời ân phúc. Manaen được dẫn tới và được giới thiệu với mẹ như tiền hộ vệ của mẹ trong cuộc hành trình của mẹ về Jêrusalem.
- Con không đi với chúng ta à?
- Mẹ ơi, con còn những nơi khác phải giảng Tin Mừng. Chúng ta sẽ gặp lại nhau ở Bêtani.
- Cầu cho ý con được thực hiện bây giờ và luôn luôn. Cám ơn Manaen. Con là thiên thần loài người đi cùng với các vị hộ mệnh của chúng ta là các thiên thần của Trời, chúng ta sẽ an toàn tựa như chúng ta ở trong nơi cực thánh.
Mẹ giơ tay ra cho Manaen trong dấu hiệu bạn hữu. Người kỵ mã, như đã lớn lên trong nơi đài các, liền bái gối để hôn bàn tay tế
299
nhị mà mẹ giơ ra cho ông.
Trong lúc đó, họ đã lấy ra các thứ hoa sẽ được để lại ở Nazarét. Rồi chiếc xe ra đi để vào một trại ngựa trong thành phố.
Căn nhà nhỏ giống như một vườn hồng, vì hoa hồng được cắm khắp nơi bởi các bà môn đệ. Nhưng cái cây của Porphyrê được đặt trên bàn, gây nên sự cảm phục của Maria. Mẹ cho mang nó tới một nơi thuận lợi, theo những chỉ dẫn của bà vợ Phêrô. Đương nhiên là không thể nào hết mọi người đều vào được trong căn nhà nhỏ, cũng không đủ chỗ ở ngoài vườn, nơi không còn là mảnh đất, mà là cái gì đang bay lên trời thanh giống như không khí, vì có những đám mây hoa trên các cây trong vườn. Juđa Alphê mỉm cười hỏi Maria: “Hôm nay mẹ có cắt các cành cho cái bình của mẹ không?”
- Chắc chắn rồi Juđa. Trước khi qúi vị đến thì mẹ đã ngắm nghía nó...
- Má nhỉ, và má mơ về những kỷ niệm xa xôi của má - Giêsu nói khi lấy tay trái ôm mẹ và kéo mẹ vào ngực Người.
Maria ngửa khuôn mặt đỏ ửng của mẹ lên và mỉm cười: “Đúng, con ạ... Và má mơ đến những nhịp đập đầu tiên của trái tim con ở trong má”.
Giêsu nói: “Bây giờ hãy ở lại: các nữ môn đệ, các tông đồ, Margziam, các môn đệ mục đồng, Thầy cả Gioan, Étienne, Hermas và Manaen. Các người khác hãy phân tán để tìm chỗ ở...”
- Tôi có thể cho nhiều người ở trong nhà tôi... - Simon Alphê nói lớn tại ngưỡng cửa nhà mà ông dừng lại. “Tôi là đồng môn đệ với họ, và tôi yêu cầu họ”.
- Ồ! Anh của tôi, lại đây để tôi hôn anh - Giêsu nói với đầy tình cảm bộc lộ, trong khi Alphê Sara, Ismael và Aser, hai người chăn lừa ở Nazarét trước đây, đến lần họ cũng nói : “Hãy đến, hãy đến nhà chúng con”.
Các môn đệ không được chọn liền đi ra, và người ta có thể đóng cửa... Nhưng lại phải mở ra ngay khi Maria Alphê đến. Bà không thể ở xa, dù là bận việc giặt giũ. Có khoảng bốn chục người. Họ tản mát ra ngoài khu vườn ấm áp và yên tịnh cho tới giờ bẻ bánh.
300
Mọi người đều cảm thấy trong đó cái hương vị Thiên Đàng, vì nó có cái thi vị khi ăn nó trong nhà Chúa, do Maria phân phát.
Simon Alphê trở lại sau khi đã xếp đặt cho các môn đệ trọ ở nhà ông. Ông nói: “Thầy không gọi anh ở lại như các người khác, nhưng anh là anh Thầy, nên dù sao anh cũng ở lại”.
- Simon, anh đến thật đúng lúc. Thầy muốn có tất cả các con ở đây để làm cho các con biết về Maria. Nhiều người trong các con biết Maria như một “bà mẹ”, một số khác thì như “người vợ”, nhưng không ai biết Maria như một “Nữ Đồng Trinh”. Thầy, Thầy muốn làm cho các con biết điều đó trong khu vườn đầy hoa này, nơi mà qủa tim các con đã đến với đầy ước vọng trong những lúc bó buộc phải xa cách nó, và như để nghỉ ngơi sau những mệt nhọc của việc truyền giáo.
Thầy đã nghe các con nói, tất cả các con: tông đồ, môn đệ và bà con, và Thầy cảm nhận những cảm tưởng của các con, những kỷ niệm của các con, những phán đoán của các con về Mẹ Thầy. Tất cả những điều đó, dù đáng phục nhưng còn rất nhân loại. Thầy sắp biến đổi nó thành những kiến thức siêu nhiên cho các con. Bởi vì trước Thầy, Mẹ Thầy phải được hiển dung trước con mắt của những người xứng đáng nhất, để trình bày mẹ ra đúng như mẹ là. Các con, các con nhìn thấy một người đàn bà, một người đàn bà mà bởi sự thánh thiện của bà, các con thấy như khác với những người khác. Nhưng trong thực tế, các con chỉ thấy một linh hồn được bao bọc bởi thân xác như thân xác của hết mọi phụ nữ chị em của mẹ. Nhưng bây giờ Thầy muốn tiết lộ tâm hồn của mẹ Thầy, vẻ đẹp thực sự và vĩnh cửu của Mẹ.
Mẹ ơi, lại đây đi. Đừng xấu hổ, đừng rút lui, con bồ câu kín ẩn dịu ngọt của Thiên Chúa. Con mẹ là Lời của Thiên Chúa và nó có thể nói về mẹ, về các bí nhiệm của mẹ, các bí nhiệm của mẹ! Ôi! Bí nhiệm cao cả của Thiên Chúa. Chúng ta hãy ngồi đây, dưới bóng mát nhẹ của các cây đầy hoa, gần căn nhà này, gần nơi ở thánh thiện của mẹ. Vậy chúng ta hãy vén bức màn dợn sóng này lên, để cho những làn sóng thánh thiện của Thiên Đường thoát ra
301
từ nơi ở trinh khiết này, để chúng ta được bão hòa bằng mẹ... Đúng, con cũng vậy, con phải được ướp thơm bằng mẹ, Trinh Nữ Vẹn Toàn, để con có thể chịu đựng sự ghê tởm của thế giới; để con có thể thấy sự trong trắng bởi con ngươi mắt đã được bão hoà bằng sự trong trắng của mẹ. Hãy lại chỗ này, Margziam, Gioan, Étienne, và các chị em môn đệ, hãy ở ngay trước cái cửa mở để vào nơi ở trinh khiết của đấng là sự trinh khiết trên hết tất cả các phụ nữ. Và ở đàng sau, các con, bạn Thầy, lại đây, ở bên Thầy, và ở đây là mẹ, mẹ rất yêu dấu của con.
Thầy đã nói với các con mới một lát trước đây: “Vẻ đẹp muôn đời của linh hồn Mẹ Thầy”. Thầy là Lời, và vì thế, Thầy biết dùng các từ mà không bị lầm. Thầy đã nói: “muôn đời”, chứ không phải: “bất tử”, và không phải không có dụng ý mà Thầy đã nói vậy. Bất tử là một kẻ, khi đã sinh ra thì không chết nữa. Cũng thế, linh hồn các người công chính bất tử ở trên trời, linh hồn các người tội lỗi bất tử trong hỏa ngục. Vì linh hồn, một khi được tạo dựng thì chỉ còn chết với ân sủng mà thôi. Nhưng linh hồn sống, hiện hữu kể từ khi Thiên Chúa nghĩ tới nó. Đó là tư tưởng của Thiên Chúa đã tạo dựng nên nó. Linh hồn của Mẹ Thầy thì từ muôn đời đã được Thiên Chúa nghĩ tới. Bởi vậy, nó muôn đời trong vẻ đẹp của nó, mà trong đó Thiên Chúa đã đổ vào tất cả sự trọn lành, để rút ra ở đó tất cả sự vui thỏa và an ủi.
Đã viết trong sách của tổ phụ Salômôn của chúng ta. Ông đã thấy mẹ trước, và bởi đó ông là tiên tri của mẹ: “Thiên Chúa đã chiếm hữu ta ngay từ khởi đầu các công trình của Người, từ khởi nguyên, trước việc tạo dựng. Ta đã được dựng nên từ đời đời, từ khởi đầu, trước khi trái đất được tạo dựng. Khi các vực thẳm chưa hiện hữu thì ta đã được cưu mang. Khi các suối nguồn chưa vọt ra, các núi non chưa được thiết lập những khối nặng nề của nó, thì ta, ta đã hiện hữu. Ta đã được sinh ra trước các núi đồi. Khi Người chưa tạo dựng nên trái đất, sông ngòi cũng như các cực của thế giới, thì ta đã hiện hữu. Khi Người sửa soạn các tầng trời và bầu trời thì ta đã hiện diện. Khi Người dùng các luật bất khả xâm phạm để khép các vực thẳm lại dưới vòm trời; khi Người làm cho vòm
302
trời vững chắc trên các tầng cao và treo vào đó những nguồn nước; khi Người cố định cho biển những ranh giới của nó, và cho định luật để nước không tràn qua giới hạn; khi Người đặt nền móng cho trái đất, ta đã ở với Người để xếp đặt mọi sự cho thứ tự. Luôn luôn ở trong niềm vui, ta vui chơi liên lỉ trước nhan Người. Ta vui chơi trong vũ trụ”.
Đúng. Ôi Mẹ! Thiên Chúa, Đấng Vô Biên, Đấng Cao Trọng, Đấng Trinh Khiết, Đấng Không Được Tạo Dựng, đã phải nặng vì Mẹ, và Người mang Mẹ như một gánh nặng rất êm dịu của Người, sung sướng khi thấy Mẹ cử động trong Người, và cho Người những nụ cười mà Người đã làm ra trong việc tạo dựng. Mẹ là vị mà Người đã sinh ra trong đau đớn để ban Mẹ cho thế giới. Hỡi linh hồn ngọt ngào, được sinh ra bởi Đấng là sự Thanh Khiết để làm Trinh Nữ, là sự Toàn Vẹn của việc tạo dựng, là Ánh Sáng của Thiên Đàng, Cố Vấn của Thiên Chúa, đến nỗi khi nhìn Mẹ, Người có thể tha thứ nguyên tội, vì chỉ có mình Mẹ, và bởi một mình Mẹ, Mẹ biết yêu theo cách mà dù toàn thể nhân loại hợp lại cũng không yêu bằng. Trong Mẹ là sự tha thứ của Thiên Chúa! Trong Mẹ là phương dược của Thiên Chúa. Mẹ là sự vuốt ve của Thiên Chúa trên vết thương mà con người đã làm cho Người! Nơi Mẹ là sự cứu rỗi của thế giới, mẹ của Tình Yêu Nhập Thể và của Đấng Cứu Chuộc đã được ưng ban. Linh hồn của Mẹ Ta! Tan biến trong tình yêu với Chúa Cha, Ta nhìn Mẹ trong nội tâm của Ta, ôi linh hồn của Mẹ Ta!... Và sự huy hoàng của Mẹ, lời cầu nguyện của Mẹ, tư tưởng mà Mẹ mang cho con, an ủi con mãi mãi về số phận đau thương của con, về những kinh nghiệm vô nhân đạo, tức là sự kiện thế nào là một thế giới hư hỏng đối với Thiên Chúa tuyệt đối toàn thiện. Ôi Mẹ! Cám ơn Mẹ. Con tới, được bão hòa sự khích lệ của Mẹ. Con xuống thế trong khi chỉ cảm thấy Mẹ, hương thơm của Mẹ, tiếng hát của Mẹ, tình yêu của Mẹ... Hỡi Niềm Vui, niềm vui của con!
Nhưng hãy nghe đây, các con là những kẻ bây giờ đã biết thế nào là người đàn bà duy nhất không hề có một tì ố, một tạo vật duy
303
nhất đã không là giá vết thương của Đấng Cứu Chuộc, hãy nghe sự hiển dung thứ hai của Maria: Người Được Lựa Chọn của Thiên Chúa.
Lúc đó, vào một buổi chiều thanh quang của tháng Adar, cây cối đầy hoa trong khu vườn yên tĩnh. Maria, vợ của Giuse, đã hái một cành cây đầy hoa để thay thế cho cành ở trong phòng Người. Cô mới tới Nazarét được ít lâu. Maria được mang từ Đền Thờ về để tô điểm cho một căn nhà thánh. Cô có tâm hồn chia sẻ giữa Đền Thờ, căn nhà và Trời. Trong khi nhìn những cành hoa, cô nghĩ tới: cũng một cành tương tự đã nở hoa một cách khác thường, một cành cây được cắt trong vườn này vào giữa mùa đông, và đã nở hoa ra như trong mùa xuân trước hòm bia của Chúa - Có lẽ Mặt-Trời-ThiênChúa đã sưởi ấm cho nó bằng cách chiếu vinh quang của Người trên nó - mà Thiên Chúa đã biểu thị ý muốn của Người cho cô... và cô còn nghĩ tới là vào ngày lễ cưới, Giuse đã mang cho cô những hoa khác, nhưng không bao giờ nó giống lần đầu tiên, là những hoa có mang trên các cánh của nó câu viết: “Ta muốn con kết hợp với Giuse”... Cô nghĩ đến biết bao thứ... Và trong khi suy nghĩ, cô lên với Thiên Chúa. Đôi tay lanh lẹ giữa con quay và trục chỉ, cô kéo những sợi còn nhỏ hơn sợi tóc của mái tóc trẻ của cô. Linh hồn dệt một cái thảm tình yêu khi đi từ đất lên trời một cách lẹ làng như con thoi trên khung cửi, với những nhu cầu của nhà cửa, của người chồng, của tâm hồn, của Thiên Chúa. Cô hát và cầu nguyện. Và chiếc thảm thành hình trên khung cửi mầu nhiệm, trải ra từ đất tới trời, lên cao tới nỗi biến mất trên đó... Nó được tạo thành bằng cái gì? Bằng những sợi nhỏ, toàn vẹn, vững chắc của các nhân đức của cô, những sợi bay ra khỏi con thoi mà cô tưởng là của cô, trong khi nó là của Thiên Chúa: Con thoi là ý muốn của Thiên Chúa, trên đó được cuộn ý muốn của cô gái, Người Nữ Đồng Trinh vĩ đại của Israel, đấng mà thế giới không biết, nhưng Thiên Chúa biết. Ý muốn của cô cuộn vào ý muốn của Thiên Chúa, và hai ý muốn làm thành một. Và chiếc thảm nở đầy những hoa tình yêu, hoa thanh khiết, những cây thốt nốt của bình an, những vinh quang của hoa tím, hoa
304
lài... Tất cả mọi nhân đức đều nở hoa trên chiếc thảm tình yêu mà cô gái trải ra từ đất lên đến Trời, mời mọc. Và như chiếc thảm không đủ, cô tung con tim của cô lên khi hát: “Cầu mong người yêu của tôi đến trong vườn của Người, và ăn những trái cây của Người... Cầu cho người yêu của tôi xuống trong vườn của Người, mảnh đất thơm tho, để no nê trong vườn, để hái các bông huệ. Tôi thuộc về người yêu của tôi, và người yêu của tôi thuộc về tôi. Người sẽ no thỏa giữa các bông huệ”. Và từ khoảng cách vô tận, giữa những suối Ánh Sáng, phát ra một tiếng nói mà lỗ tai con người không thể nghe được, cũng không một cổ họng nào của con người có thể tạo thành. Tiếng đó nói: “Em đẹp chừng nào! Bạn của Ta! Em đẹp chừng nào!... Môi em tinh luyện mật ong... Em là vườn rào kín, là suối nước niêm phong. Ôi! Hỡi cô em gái là hiền thê của Ta...” và hai tiếng nói kết hợp làm một để hát lên Chân Lý đời đời: “Tình yêu mạnh hơn sự chết. Không gì có thể dập tắt hay nhận chìm tình yêu của chúng ta”. Và Người Trinh Nữ hiển dung như thế... như thế... như thế... trong khi Gabriel xuống, với sự nồng nàn của Ngài, nhắc nhở cho cô về trái đất, tái hợp thần trí của cô với thân xác để cô có thể nghe và hiểu đòi hỏi của Đấng đã gọi cô là “Em gái”, nhưng lại muốn cô là “Hiền Thê”.
Chính đây là lúc xảy ra mầu nhiệm... Một người phụ nữ trong trắng, trong trắng nhất trong tất cả các phụ nữ, đấng không biết cả đến những thúc đẩy theo bản năng của xác thịt, bàng hoàng trước thiên thần của Chúa, vì dù là một thiên thần, cũng làm xao động sự khiêm tốn và bẽn lẽn của Người Trinh Nữ, và cô chỉ yên lòng khi đã nghe Người nói, và cô tin, và cô nói một lời mà do lời đó, Tình Yêu của họ đã biến thành xác thịt, và sẽ thắng sự chết, và không có thứ nước nào có thể dập tắt, không một thứ độc ác nào có thể nhận chìm nó...
Giêsu từ từ cúi xuống trên Maria đang ngồi ở chân Người, tựa như xuất thần khi nhớ lại một giờ xa xưa, rạng ngời trong ánh sáng đặc biệt tựa như tỏa ra từ linh hồn Mẹ, và Người dịu dàng hỏi Mẹ: “Ôi! Hỡi Trinh Nữ trong trắng! Câu trả lời của mẹ như thế nào cho
305
vị đã bảo đảm với Mẹ rằng khi trở nên Mẹ Thiên Chúa, Mẹ cũng không mất sự đồng trinh trọn vẹn của Mẹ?”
Và Maria, giống như trong một giấc mơ, đôi mắt trương nở vì nước mắt vui mừng, nói một cách nhẩn nha: “Đây là nữ tì của Chúa, xin hãy làm cho tôi như lời Ngài”. Rồi mẹ gục đầu vào đầu gối con mẹ, thờ lạy.
Giêsu lấy áo khoác của Người che cho mẹ, giấu mẹ khỏi con mắt mọi người và nói: “Và điều đó đã được làm, và sẽ được làm tới cùng, cho tới cuộc hiển dung khác, và cuộc hiển dung khác nữa. Cô sẽ luôn luôn là Nữ tì của Thiên Chúa, cô sẽ luôn luôn làm như Lời đã nói. Mẹ Thầy! Đó là Mẹ Thầy. Thật tốt là các con bắt đầu biết về sự sung mãn của khuôn mặt thánh thiện của mẹ... Mẹ ơi! Mẹ ơi! Tỏ mặt mẹ ra đi, Mẹ yêu dấu... Hãy nhắc nhớ lại những tình cảm của mẹ tại mảnh đất mà bây giờ chúng ta đang ở”. Người nói, và lại dỡ áo ra, để lộ mẹ ra sau một lúc yên lặng tuyệt đối, không có một tiếng động nào khác ngoài tiếng vù vù của con ong, và tiếng róc rách của cái suối nhỏ.
Maria ngửa khuôn mặt đầy nước mắt lên và thì thầm: “Con ơi! Tại sao con lại làm điều này cho mẹ? Các bí mật của Đức Vua là thánh...”
- Nhưng Đức Vua có thể tiết lộ nó khi Người muốn. Mẹ ơi, con làm vậy để họ hiểu lời của một tiên tri: “Một người phụ nữ sẽ cất giấu một người ở trong bà”, và một lời khác của một tiên tri khác: “Người Trinh Nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai”. Cũng để cho những người hay sợ vì qúa nhiều điều liên can tới Ngôi Lời của Thiên Chúa mà đối với họ là nhục nhã, đối lực với biết bao điều khác xác nhận cho họ trong niềm vui được thuộc về con, như vậy họ sẽ không bao giờ phẫn uất nữa, và bởi đó, họ sẽ chinh phục được Nước Trời... Bây giờ những ai cần đi tới những nhà cho ở trọ thì họ hãy đi. Còn Thầy, Thầy ở lại với các phụ nữ và Margziam. Ngày mai mọi người sẽ có mặt ở đây vào lúc bình minh, vì Thầy muốn dẫn các con lại chỗ gần đây. Sau đó chúng ta sẽ trở lại chào các nữ môn đệ rồi trở lại Caphanaum để tụ họp các môn đệ khác
306
và sai họ đi tiếp theo.
37* GIÊSU HIỂN DUNG VÀ CHỮA
NGƯỜI BỊ ĐỘNG KINH
Ai trong loài người chưa thấy ít nhất là một lần, một bình minh thanh quang của tháng ba? Nếu có ai như vậy thì đó là người đại rủi, vì họ không được biết một trong những ân huệ đẹp nhất của thiên nhiên, khi nó thức dậy về mùa xuân, lại trở nên đồng trinh, một cô gái nhỏ như cô là trong ngày đầu tiên.
Đó là vẻ đẹp trinh trắng trong tất cả những gì hiện diện, từ cộng cỏ mới, nơi sáng bóng sương đêm, cho tới bông hoa nhỏ mở ra như hài nhi chào đời, tới nụ cười đầu tiên của ánh sáng ban ngày, cho tới chim chóc thức dậy trong tiếng sột soạt của đôi cánh và tiếng kêu “chíp” đầu tiên đầy nghi vấn, dạo đàn cho tất cả những hùng biện du dương trong ngày của nó, cho đến cả mùi của không khí mà trong suốt đêm, do ảnh hưởng của sương sa và sự vắng bóng của con người, đã mất đi cái dơ bẩn của bụi cát, của khói, và của mùi xông lên từ cơ thể con người. Chính trong cái vẻ yêu kiều này, họ lên đường: Giêsu, các tông đồ và các môn đệ. Cùng với họ, có cả Simon Alphê. Các vị đi về phía đông nam, băng qua cái triều thiên của các ngọn đồi bao quanh Nazarét. Họ đi qua một con suối, băng qua một đồng bằng hẹp giữa các đồi của Nazarét và các núi về phía đông. Những núi này ở trước cái đỉnh hình nón bị cắt ngang của núi Tabor. Cái ngọn của nó nhắc tôi nhớ tới một cách kỳ lạ, đầu tóc của các hiến binh của chúng ta khi trông nghiêng.
Họ xúm lại với Người. Giêsu dừng lại và nói: “Phêrô, Gioan và Giacôbê Zêbêđê đi với Thầy lên núi. Các con, những người khác, hãy phân tán ra ở bên dưới, chia nhau vào các đường ngõ chung quanh đây để rao giảng Chúa. Vào buổi chiều, Thầy lại muốn ở Nazarét. Vậy các con không đi xa. Bình an cho các con”. Và Người nói với ba người đã gọi: “Đi”. Rồi Người bắt đầu lên dốc, không quay lại đàng sau, và bước nhanh tới nỗi Phêrô không sao theo kịp.
307
Tại một chỗ ngừng, Phêrô đỏ gay và đổ mồ hôi, hỏi Người trong thở dốc: “Nhưng chúng ta đi đâu vậy? Không có căn nhà nào ở trên núi. Tại đỉnh chỉ có cái pháo đài cũ, Thầy muốn giảng ở đó sao?”
- Thầy đã có thể đi lối sườn bên kia, nhưng con thấy là Thầy đã quay lưng về nó. Chúng ta không tới pháo đài, và những người ở đó cũng không nhìn thấy chúng ta. Thầy đi kết hợp với Cha Thầy, và Thầy muốn các con ở với Thầy, vì Thầy yêu các con. Nào. Đi lẹ lên.
- Ôi! Chúa ơi! Chúng ta không thể bước nhẩn nha hơn một tí, và nói về những điều chúng ta đã nghe và thấy hôm qua mà chúng con đã thức suốt đêm để nói sao?
- Hẹn hò với Thiên Chúa thì phải luôn luôn lẹ làng. Nào, Simon Phêrô, ở trên đó, Thầy sẽ để cho con nghỉ - Và Người tiếp tục lên dốc.
(Chúa Giêsu nói: “Hãy đính vào chỗ này sự hiển dung mà con đã có hôm 5-8- 1944, nhưng đừng để bài chính tả đính vào nó. Sau khi đã chép lại sự hiển dung của năm ngoái, P. M. sẽ chép lại điều Cha tỏ cho con bây giờ”)
Tôi ở cùng với Giêsu trên núi cao. Cùng với Người, có Phêrô, Giacôbê và Gioan. Họ còn lên cao nữa, và cái nhìn có thể đến tận chân trời rộng mở mà một ngày đẹp và thanh quang cho nhìn thấy rõ ràng các chi tiết ở xa.
Ngọn núi này không thuộc về một rặng như các núi ở Juđê, nó vươn lên biệt lập. So với nơi chúng tôi đang ở thì phía đông ở trước mặt, phía bắc ở bên trái, phía nam ở bên phải, và sau lưng là phía tây. Chóp đỉnh còn vươn lên vài trăm bước nữa. Ngọn núi rất cao và mắt nhìn được một chân trời rộng: hồ Gênêsarét giống như một mảnh trời rơi xuống để nằm trong chiếc khung xanh. Một mầu lam hình bầu dục nằm giữa khối cẩm thạch mầu hơi khác nhau, một tấm gương lung linh gợn sóng dưới gió nhẹ, mà trên đó, các con thuyền buồm căng lướt đi nhẹ nhàng như những con hải âu, hơi nghiêng về làn sóng xanh, thực tình lanh lẹ như đường bay của
308
chim bói cá bay trên nước để tìm mồi. Rồi đây, từ mầu xanh mênh mông chảy ra một cái mạch, một mầu xanh lạt hơn, nơi bãi cát rộng và tối mầu nhất, nơi hai bờ hồ tiến lại gần nhau, và là nơi nước sâu hơn, tối hơn do bóng của các cây tăng trưởng gần dòng sông, được nuôi dưỡng bằng sự tươi mát của nó. Dòng Giođan giống như một nét vẽ hầu như thẳng trong mầu xanh lục của đồng bằng. Các làng nhỏ rải rác trên đồng bằng ở hai bên bờ sông. Nhiều làng chỉ có vừa một nắm nhà, một số khác thì rộng hơn, đã có vẻ như thành phố. Các con đường là những nét vàng vàng ở trong mầu xanh. Nhưng tại đây, phía ngọn núi, thì đồng bằng trồng trọt nhiều hơn và phì nhiêu hơn, rất đẹp. Người ta thấy ở đó những vùng trồng tỉa khác nhau với mầu sắc khác nhau, tươi cười với mặt trời đẹp chiếu xuống từ trời xanh.
Đây hẳn là mùa xuân, có lẽ tháng ba, nếu tôi kể đến vĩ độ của xứ Palestin, vì tôi thấy lúa miến đã lớn nhưng còn xanh, gợn sóng như những biển xanh lục, và tôi thấy những chòm của những cây ăn trái mọc hoa sớm phơi bày những đám mây hoa trắng hay hồng trên cái biển thảo mộc nhỏ này. Rồi các đồng cỏ đầy hoa với thân cỏ đã cao, trong đó các con cừu đang gặm cỏ trông giống như các đống tuyết rải rác khắp nơi trên nền xanh.
Ngay bên ngọn núi, trên những ngọn đồi ở chân núi, những đồi thấp và nhỏ, có hai thành phố, một ở phía nam, một ở phía bắc. Đồng bằng rất mầu mỡ trải ra về phía nam nhiều hơn.
Giêsu, sau một lúc dừng chân dưới bóng một khóm cây mà chắc chắn Người đã ưng thuận vì thương Phêrô, vì ông mệt rõ ràng khi lên dốc, Người lại tiếp tục lên. Người lên hầu như tới đỉnh, nơi có một khoảng đất đầy cỏ, giới hạn bởi những cây to mọc thành hình bán nguyệt ở phía sườn.
- Các bạn ơi, hãy nghỉ ngơi, Thầy lại chỗ kia để cầu nguyện - Người nói trong khi chỉ tay vào một tảng đá lớn, một tảng đá nằm trên mặt núi, do đó nó không phải ở sườn, mà là ở trên đỉnh núi.
Giêsu qùi trên cỏ, tì bàn tay và đầu vào tảng đá, trong vị thế như Người sẽ có lúc cầu nguyện tại Gétsêmani. Mặt trời không chiếu
309
trên Người, vì đỉnh đá cho Người bóng mát, nhưng những nơi khác được phủ đầy cỏ thì hoàn toàn vui vẻ với mặt trời cho tới giới hạn của các bóng cây mà các tông đồ ngồi ở bên dưới.
Phêrô tháo xăng đan ra phủi bụi và các viên đá nhỏ, và ông ở yên như vậy, không dép, đôi chân trần vùi trong cỏ tươi, hầu như nằm, đầu kê lên một đám cỏ cao giống như cái gối.
Giacôbê cũng bắt chước ông, nhưng để thoải mái hơn, ông tìm một thân cây để tựa lưng có che áo khoác của ông.
Gioan vẫn ngồi và ông quan sát Thầy. Nhưng sự yên lặng của địa thế, làn gió nhẹ mát, sự yên lặng và sự mệt mỏi đã làm ông cũng tới mức, nên đầu ông gục xuống ngực, mu mắt phủ lên con ngươi. Không ai trong ba ông ngủ say, nhưng họ bị đè bởi sự bần thần mơ màng làm cho họ thành nặng nề.
Họ bị đánh thức dậy bởi một luồng sáng mạnh tới nỗi nó làm mờ ánh sáng mặt trời. Ánh sáng lan ra, xâm nhập tới tận bên dưới mầu xanh của các bụi cỏ và các cây cao mà họ đang ở bên dưới.
Họ mở mắt và ngạc nhiên thấy Giêsu biến đổi dung nhan. Bây giờ Người giống như tôi đã thấy Người trong thị kiến về Thiên Đàng, đương nhiên là chưa có vết thương và không có cờ hiệu Thánh Giá, nhưng sự oai phong của khuôn mặt và cơ thể thì giống nhau: giống nhau về ánh sáng và giống nhau về y phục đã biến từ mầu đỏ đậm thành một thứ vải vô vật chất như kim cương, như ngọc trai, là y phục của Người trên Trời. Dung nhan Người là mặt trời phát ra ánh sáng như tinh tú, nhưng rất mạnh, mà đôi mắt lam ngọc của Người chói sáng ở đó. Người có vẻ như cao lớn hơn, tựa như vinh quang của Người đã làm gia tăng kích thước của Người. Tôi không biết có phải ánh sáng làm cho cả đỉnh núi rực sáng là hoàn toàn đến từ Người, hay là ánh sáng riêng của Người đã hòa lẫn với ánh sáng mà tất cả vũ trụ và các tầng trời đã hội tụ lại trên Chúa của chúng. Tôi chỉ biết đó là một cái gì không thể tả được.
Bây giờ Giêsu đứng, tôi có thể nói là Người ở bên trên mặt đất, vì giữa Người và mầu xanh của cỏ có một thứ hơi ánh sáng, một khoảng không gian chỉ làm bằng ánh sáng, và tựa như Người đứng
310
ở trên đó. Nhưng nó mạnh tới nỗi tôi có thể lầm, và sự việc không nhìn thấy mầu xanh của cỏ ở dưới chân Giêsu có thể là do ánh sáng mạnh này. Nó rung động và phát ra những luồng sóng giống như đôi khi người ta thấy trong các đám cháy. Ở đây, những luồng sóng có mầu trắng sáng rực. Giêsu ngửa mặt lên trời, mỉm cười trong thị kiến mang Người đi.
Các tông đồ hầu như sợ hãi. Họ gọi Người, vì họ thấy như Người không còn là Thầy của họ nữa, vì Người đã thay đổi sắc diện chừng nào: “Thầy ơi! Thầy ơi!” Họ gọi nhỏ nhẹ, nhưng với giọng đầy lo âu.
Người không nghe thấy. Phêrô run rẩy nói: “Người xuất thần. Có thể Người đã thấy cái gì”.
Ba người đều đứng lên. Họ muốn lại gần Giêsu, nhưng họ không dám.
Ánh sáng còn gia tăng khi có hai khối lửa từ trời xuống và dừng lại ở hai bên Giêsu. Khi chúng đã đứng yên trên đỉnh bằng, tấm màn sáng của chúng mở ra, để xuất hiện hai nhân vật oai phong sáng quắc. Một người già với cái nhìn xuyên thấu và nghiêm nghị, với bộ râu dài xẻ làm đôi. Từ trán ông nhô ra những cái sừng ánh sáng, chỉ cho tôi biết đó là Môise. Người kia trẻ hơn, gầy, râu ria xồm xoàm và nhiều lông, hơi giống như Gioan Tẩy Giả. Tôi nói giống về khổ người gầy, vóc dáng và sự nghiêm khắc. Trong khi ánh sáng của Môise thì mầu trắng sáng như của Giêsu, nhất là những tia ở trên trán, thì ánh sáng tỏa ra từ Êlia giống như tia lửa mạnh của mặt trời.
Hai vị tiên tri có thái độ trọng kính trước Thiên Chúa nhập thể của họ. Và mặc dầu Giêsu nói với họ cách thân mật, họ cũng không từ bỏ thái độ trọng kính. Tôi không hiểu một tiếng nào về những điều họ nói.
Ba tông đồ qùi sụp xuống, run rẩy, lấy tay che mặt. Các ông muốn nhìn nhưng các ông sợ. Sau cùng Phêrô nói: “Thầy ơi, Thầy! Nghe con này”. Giêsu quay nhìn Phêrô và mỉm cười, ông liền đánh bạo nói thêm: “Thật là tốt đẹp được ở đây với Thầy, Môise và Êlia.
311
Nếu Thầy muốn, chúng con sẽ làm ba lều cho Thầy, Môise và Êlia, và chúng con sẽ ở đây để phục vụ ba Ngài”.
Giêsu lại nhìn ông và mỉm cười nhiều hơn. Người cũng nhìn Giacôbê và Gioan bằng cái nhìn như ôm lấy họ bằng tình yêu. Môise và Êlia cũng đăm đăm nhìn ba ông. Đôi mắt họ rực sáng. Đó hẳn là như các tia xuyên thấu vào tim.
Các tông đồ không dám nói gì khác nữa. Vì qúa sợ, họ nín thinh. Họ hơi giống như say và sửng sốt. Nhưng khi một bức màn, không phải là mây, cũng không phải sương mù, cũng không phải luồng sáng, bao phủ và tách rời ba nhân vật vinh quang sau một bức màn còn sáng hơn bức màn đã bao phủ họ, và che khuất họ khỏi cái nhìn của ba ông, thì một tiếng nói mạnh, du dương, rung động, làm đầy tất cả không gian, ba ông liền gục mặt xuống trong cỏ: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta được thỏa lòng về Người. Hãy vâng nghe Người”.
Phêrô nằm sấp bụng xuống đất và kêu: “Xin thương con là kẻ tội lỗi! Sự vinh quang của Chúa xuống!” Giacôbê không hé ra một lời nào. Gioan thì thầm trong hơi thở, tựa như ông sắp xỉu: “Chúa nói!”
Không ai dám ngửa mặt lên, dù là khi sự yên lặng đã trở nên tuyệt đối. Vậy là họ không nhìn thấy ánh sáng đã trở lại trạng thái tự nhiên của ánh sáng mặt trời, để cho thấy Giêsu ở lại một mình, và lại trở thành Giêsu quen thuộc trong y phục đỏ. Người mỉm cười bước lại với họ, Người đụng vào họ, lay họ và gọi tên họ.
“Đứng dậy đi! Thầy đây. Đừng sợ”. Người nói vậy vì ba ông không dám ngửa mặt lên và cứ kêu cầu lòng thương xót của Chúa cho tội lỗi của họ, vì sợ thiên thần của Chúa phơi bày nó ra trước Đấng Tối Cao.
- Vậy đứng dậy đi. Thầy truyền cho các con - Giêsu nhắc lại cách oai quyền. Họ ngửa mặt lên và thấy Giêsu đang mỉm cười. Phêrô kêu lên:
- Ôi! Thầy! Thiên Chúa của con! Chúng con làm sao để sống bên cạnh Thầy, vì bây giờ chúng con đã thấy vinh quang của Thầy?
312
Chúng con phải làm sao để sống giữa loài người? Chúng con, những người tội lỗi, mà bây giờ chúng con đã nghe tiếng của Thiên Chúa?
- Các con sẽ phải sống bên cạnh Thầy và thấy vinh quang của Thầy cho tới tận cùng. Hãy làm sao để xứng đáng, vì thời giờ đã gần. Hãy vâng lời Chúa là Cha Thầy và là Cha các con. Bây giờ chúng ta hãy trở lại giữa loài người, vì Thầy đến để ở giữa họ và dẫn họ về với Thiên Chúa. Nào, hãy sống thánh và nhớ lấy những giờ này. Hãy vững mạnh và trung thành. Các con sẽ có phần của vinh quang Thầy cách trọn vẹn nhất. Nhưng bây giờ đừng nói với ai những điều các con đã thấy, kể cả với các đồng bạn của các con. Khi Con Người sẽ từ kẻ chết sống lại và trở về trong vinh quang của Cha Ngài, lúc đó các con sẽ nói. Bởi vì lúc đó thì phải tin mới được dự phần vào nước Thầy.
- Nhưng Êlia không phải trở lại để chuẩn bị cho Nước Thầy sao? Các rabbi nói điều đó.
- Êlia đã đến và ông đã dọn đường cho Chúa. Tất cả đều xảy ra như đã được mặc khải, nhưng những người giảng dạy mặc khải không biết, không hiểu nó. Họ không thấy và không nhận ra những dấu chỉ về thời gian và những kẻ được Thiên Chúa sai đến. Êlia đã trở lại lần thứ nhất rồi. Ông sẽ trở lại lần thứ hai nữa khi gần đến thời gian chót, để chuẩn bị những kẻ sau cùng cho Thiên Chúa. Bây giờ ông đã đến để chuẩn bị những người đầu tiên cho Đức Kitô, nhưng người ta đã không muốn nhìn nhận ông. Họ đã hành hạ ông và giết ông. Họ cũng sẽ làm như vậy cho Con Người, vì loài người không muốn nhìn nhận những gì tốt cho họ.
Ba vị cúi đầu suy nghĩ và buồn. Họ trở xuống theo con đường họ đã đi lên với Giêsu.
... Và vẫn còn là Phêrô nói trong một chỗ nghỉ ở dọc đường:
- A! Chúa ơi! Con cũng nói như Mẹ Thầy hôm qua: “Tại sao Thầy lại làm cho chúng con điều này?” Và con cũng nói: “Tại sao Thầy lại nói với chúng con điều này?” Những lời sau cùng của Thầy đã xóa đi trong qủa tim chúng con niềm vui được thấy vinh quang của Thầy. Hôm nay là một ngày trọng đại của sợ hãi. Điều
313
trước tiên làm chúng con sợ là ánh sáng vĩ đại đã thức tỉnh chúng con. Ánh sáng mạnh tựa như qủa núi bị thiêu hay như mặt trời đã rơi xuống để chiếu sáng đỉnh núi dưới mắt chúng con. Rồi diện mạo của Thầy và cách Thầy rời khỏi mặt đất, tựa như Thầy sắp bay lên. Con sợ là Thầy đã ghê tởm những bất công của Israel nên Thầy trở về Trời, có lẽ do lệnh của Đấng Tối Cao. Rồi con sợ vì thấy Môise, đấng mà những người đồng thời với ông không dám nhìn mà không có khăn che mặt, vì các tia phản chiếu của Thiên Chúa chiếu sáng trên mặt ông. Mà lúc đó ông là một người, bây giờ ông là một thần trí hạnh phúc và cháy lửa của Thiên Chúa. Và Êlia... Lạy Thiên Chúa tình thương! Con đã nghĩ rằng đây là giờ sau cùng của con. Tất cả những tội lỗi của đời con, từ thời con còn bé, con đã ăn cắp trái cây trong chạn của người hàng xóm, cho tới cái tội sau cùng là con đã khuyên bậy Thầy mấy ngày qua, tất cả đều về trong trí con. Con đã thống hối với biết bao run sợ! Rồi con thấy như hai vị công chính đó thương con... và con dám nói. Nhưng cả tình yêu của họ cũng làm con sợ, vì con không xứng đáng được tình yêu của các thần trí như vậy. Rồi sau đó... Rồi sau đó... Cái sợ trên mọi cái sợ! Tiếng nói của Thiên Chúa!... Jêova đã nói! Với chúng con! Người bảo chúng con: “Hãy vâng nghe Người”, Thầy. Và Người đã tuyên bố Thầy là “Con yêu dấu của Người và Người được thỏa lòng”. Sợ chừng nào! Jêova!... Với chúng con!... Chắc chắn rằng sức mạnh của Thầy đã giữ sự sống cho chúng con!... Khi Thầy đụng tới chúng con bằng ngón tay cháy nóng như mũi lửa của Thầy, con có cái sợ sau cùng. Con đã tin là đến giờ phán xét, và thiên thần đụng vào con để lấy linh hồn con mà đem lên trước Đấng Tối Cao... Nhưng mẹ Thầy đã làm thế nào để thấy... để nghe... Tóm lại là để sống cái giờ mà Thầy nói hôm qua, mà không chết, trong khi mẹ chỉ có một mình, còn trẻ và không có Thầy?
- Maria, Đấng Không Tì Vết, không thể sợ Thiên Chúa. Evà đã không sợ Người bao lâu bà còn vô tội. Và mẹ cũng có Thầy, Thầy, Chúa Cha và Chúa Thánh Linh. Chúng ta ở trên Trời, ở dưới đất, ở khắp nơi. Chúng ta có nhà tạm của chúng ta trong con tim của Maria - Giêsu nói nhỏ nhẹ.
314
- Điều kỳ diệu! Điều kỳ diệu!... Nhưng sau đó Thầy nói về cái chết... Và mọi niềm vui đều chấm dứt... Nhưng tại sao lại chỉ cho ba chúng con tất cả những điều đó? Cho hết mọi người được thấy vinh quang của Thầy không tốt sao?
- Chính bởi vì các con chết giấc khi nghe nói về cái chết, và cái chết khổ hình của Con Người, nên Người-Thiên-Chúa đã muốn củng cố các con cho giờ đó và mãi mãi, bởi sự việc được biết trước Thầy sẽ ra sao sau cái chết. Các con hãy nhớ lấy tất cả những điều này để nói ra vào thời của nó... Các con hiểu không?
- Ôi! Có, lạy Chúa. Không thể nào quên được. Và nói ra cũng vô ích, vì họ sẽ nói là chúng con say.
Họ tiếp tục đi về phía thung lũng, nhưng khi tới một chỗ, Giêsu quẹo vào một lối đi dốc nhanh về phía Enđo, tức là về phía đối diện với nơi Người đã chia tay với các môn đệ. Giacôbê nói: “Chúng ta sẽ không gặp họ. Mặt trời đã bắt đầu xuống. Họ đang tụ họp để chờ Thầy tại chỗ Thầy đã chia tay với họ”.
- Hãy đi, và đừng có tư tưởng ngu ngốc.
Qủa vậy, tại chỗ mà rừng nhường chỗ cho đồng cỏ, dốc thoai thoải để đi tới con đường lớn, họ thấy một đám đông các môn đệ, được gia số bởi những người bộ hành tò mò và các luật sĩ đến từ đâu tôi không biết, đang xôn xao ở chân núi.
- Than ôi! Các luật sĩ!... Và họ đã cãi lộn rồi! - Phêrô nói khi giơ tay chỉ. Và ông đi xuống mấy mét sau cùng cách bất đắc dĩ.
Nhưng những người ở dưới thấp đã nhìn thấy họ và giơ tay chỉ, rồi họ bắt đầu chạy lên với Giêsu, vừa chạy vừa la: “Thầy ơi, làm sao Thầy đi lối này? Chúng con đang đi tới nơi đã hẹn thì các luật sĩ giữ chúng con lại vì những cãi lộn, vì một người cha lo âu, và vì các thứ năn nỉ”.
- Các con cãi lộn về cái gì?
- Một người bị qủi ám. Các luật sĩ chế nhạo chúng con vì chúng con không thể giải thoát cho nó. Judas Kêriot cũng đã thử, điểm danh dự dành cho ông, nhưng vô ích. Lúc đó chúng con nói với họ: “Các ông hãy đặt tay trên nó đi”. Họ trả lời: “Chúng tôi không phải
315
các thầy trừ tà”. Tình cờ các người Caslot-Tabor cũng đi qua, trong đám họ có hai pháp sư trừ tà, nhưng không ai thành công. Đó, người cha đang lại để xin Thầy. Xin Thầy nghe ông ta.
Qủa vậy, một người đàn ông tiến lên, qùi gối trước Giêsu để van xin trong khi Người dừng lại tại đồng cỏ dốc, ở bên trên con đường ít là ba mét. Bởi vậy mọi người đều nhìn rõ Người. Người đàn ông thưa Người: “Thưa Thầy, con đã cùng với con trai con đi Caphanaum để tìm Thầy. Con dẫn đứa con khốn nạn của con tới để Thầy giải thoát cho, Thầy là đấng đã xua đuổi ma qủi và chữa hết mọi bệnh tật. Nó bị ám bởi một thần câm. Khi nó bị ám, nó chỉ có thể phát ra những tiếng rồ rồ như con vật bị nghẹt. Thần dữ quăng nó xuống đất, nó lăn lộn và nghiến răng, sùi bọt mép như ngựa nhai hàm thiếc. Nó bị thương và nguy hiểm có thể bị chết chìm hay chết cháy, hoặc bị nát thây, vì qủi thần đã nhiều lần quăng nó vào nước, vào lửa hay xuống chân cầu thang. Các môn đệ của Thầy đã thử, nhưng họ không thể. Ôi! Lạy Chúa nhân từ, xin thương con và con trai con!”
Giêsu cháy lửa sức mạnh khi Người la: “Ôi! Thế hệ gian ác! Ôi! Đám đông của Satan! Lũ phản ngụy, dân hỏa ngục cứng lòng tin và độc ác! Ta phải tiếp xúc với ngươi đến bao giờ nữa? Ta phải chịu đựng ngươi tới bao giờ ?” Người áp đảo tới nỗi có một sự yên lặng tuyệt đối, và các luật sĩ phải ngừng chế diễu.
Giêsu nói với người cha: “Đứng dậy và dẫn con ông đến cho Thầy”.
Người đàn ông đi rồi trở lại với những người khác, ở giữa là cậu con trai khoảng mười hai tới mười bốn tuổi. Một đứa trẻ đẹp, nhưng cái nhìn hơi đần độn, tựa như nó ngây ngô. Trên cái trán đỏ có một vết thương dài mà ở bên dưới có một vết thẹo của vết thương cũ. Ngay lúc nó thấy Giêsu nhìn nó bằng cái nhìn thôi miên, nó liền phát ra những tiếng kêu rồ rồ, nó lăn ra đất và quằn quại co giật toàn thân, sùi bọt mép, mắt trợn trừng, tới nỗi người ta chỉ nhìn thấy tròng trắng của mắt trong khi nó lăn lộn trong những co giật, đặc trưng của bệnh động kinh.
316
Giêsu tiến lại vài bước để tới gần nó và người nói: “Nó bị như vậy từ bao giờ? Hãy nói to để mọi người đều nghe thấy”.
Người đàn ông la lớn trong khi vòng người chen sát lại. Các luật sĩ đứng ở cao hơn Giêsu để thấy hết màn cảnh. Ông ta nói: “Từ khi nó còn bé. Con đã nói với Thầy: nó hay té vào nước, vào lửa, chân thang và cây cối. Bởi vì thần dữ đột kích nó bất ngờ và quăng nó như vậy để nó chết. Nó đầy những thẹo và vết phỏng. Nó không bị mù bởi lửa lò đã là hay lắm. Không một thầy thuốc, không một pháp sư trừ tà nào chữa được nó. Các môn đệ Thầy cũng không. Nhưng Thầy, nếu như con tin vững vàng, Thầy có thể làm gì, xin Thầy thương chúng con và cứu chúng con”.
- Mọi sự đều có thể đối với ta, nếu ông có thể tin. Vì mọi sự đều được chấp nhận cho kẻ tin.
- Ôi! Lạy Chúa, vâng, con tin. Nhưng nếu đức tin của con còn chưa đủ, xin Thầy gia tăng đức tin của con để nó được hoàn toàn và được phép lạ - Người đàn ông nói trong khi khóc, qùi gối bên đứa con trai của ông đang co giật hơn bao giờ hết.
Giêsu đứng thẳng lên, bước lùi hai bước, trong khi đám đông chen lại sát hơn, Người kêu lớn tiếng: “Hỡi thần dữ đã làm cho đứa trẻ thành điếc và câm và hành hạ nó, ta truyền cho mi: Hãy ra khỏi nó và không bao giờ được trở lại nữa”.
Đứa trẻ vẫn nằm trên đất, nẩy lên những cú dễ sợ, uốn cong và phát ra những tiếng kêu không phải là loài người. Rồi sau một cái nẩy sau cùng làm nó lật úp bụng xuống đất, đập mặt và trán vào một tảng đá nhô lên khỏi cỏ, làm nó chảy máu và nó nằm im bất động.
- Nó chết rồi! - nhiều người kêu lên.
- Đứa trẻ tội nghiệp! Người cha tội nghiệp! - những người tốt hơn nói cách ái ngại.
Và các luật sĩ nhạo: “Tên Nazarét đã phục vụ anh rất tài!”, hoặc là: “Thưa Thầy, thế nào vậy? Lần này Benzêbút đã làm Ngài bẽ mặt!...” Và họ cười đầy oán ghét.
Giêsu không trả lời ai cả, kể cả với người cha. Ông lật con ông
317
nằm ngửa trở lại, lau máu trên trán và đôi môi bị thương của nó, trong khi rên rỉ và gọi Giêsu. Nhưng vị Thầy cúi xuống và cầm tay đứa trẻ. Nó liền mở mắt ra và thở một hơi dài, tựa như nó tỉnh dậy từ một giấc mơ. Nó ngồi dậy và mỉm cười. Giêsu kéo nó về phía Người cho nó đứng lên, và Người giao nó cho người cha, trong khi đám đông hô hoán nhiệt tình và các luật sĩ lẻn đi, bị theo đuổi bởi những chế nhạo của đám đông.
- Bây giờ chúng ta đi!
Giêsu nói với các môn đệ, và sau khi đã giải tán đám đông, Người đi vòng ngọn núi về phía con đường Người đã đi buổi sáng.
Chúa Giêsu nói:
Cha đã chuẩn bị cho con chiêm ngắm vinh quang của Cha. Ngày mai Giáo Hội sẽ mừng lễ ấy (lễ Chúa Hiển Dung). Nhưng Cha muốn cho Gioan nhỏ của Cha thấy nó trong sự thực của nó để hiểu rõ hơn. Cha chọn con không phải chỉ để biết những nỗi buồn và đau thương của Thầy con. Ai ở lại với Cha trong sự đau đớn thì cũng được dự phần với Cha trong niềm vui của Cha.
Cha muốn rằng con, ở trước mặt Giêsu của con, đấng tỏ mình ra cho con, con có cùng một tâm tình khiêm nhường và thống hối như các tông đồ của Cha.
* Không bao giờ kiêu căng. Con sẽ bị trừng phạt và mất Cha.
* Một ghi nhớ liên tục về: Cha là gì và con là gì.
* Một tư tưởng liên tục về sự thiếu thốn của con và sự toàn thiện của Cha, để có một qủa tim được tẩy rửa bằng sự sám hối, nhưng đồng thời cũng có một sự tin cẩn hoàn toàn nơi Cha. Cha đã nói: “Đừng sợ. Hãy đứng lên. Hãy đi. Chúng ta hãy đi giữa loài người, vì Cha đến để ở giữa họ. Hãy sống thánh, mạnh mẽ và trung thành trong khi nhớ đến những giờ này”. Cha cũng nói điều đó với con và với tất cả những kẻ ưu ái của Cha giữa loài người, với những kẻ được chiếm hữu Cha cách đặc biệt.
Đừng sợ Cha chút nào cả. Cha tỏ mình ra để nâng cao các con lên chứ không phải để biến các con thành tro bụi. Các con hãy đứng lên. Chớ gì niềm vui của ơn này cho các con sự hăng say và không để cho các con bị tê liệt trong sự vui hưởng chủ nghĩa vô tri, bằng cách nghĩ rằng các con đã được cứu rỗi, vì Cha đã chỉ Trời cho các con. Chúng ta hãy cùng nhau đi giữa loài người. Cha đã mời gọi các con vào những chương trình siêu nhân bởi những thị kiến siêu nhân, và những chỉ giáo, để các con có thể giúp Cha nhiều hơn. Cha liên kết các con vào công trình của Cha. Nhưng Cha, Cha đã không biết và vẫn không biết sự nghỉ ngơi, vì Sự Ác không bao giờ nghỉ ngơi, và Sự Thiện phải luôn luôn hoạt động để hủy bỏ hết sức có thể những công việc của kẻ thù. Chúng ta sẽ nghỉ ngơi khi thời gian đã hoàn tất. Bây giờ phải đi, không được mệt, làm việc liên tục, tiêu hao không ngừng cho mùa gặt của Thiên Chúa. Chớ gì sự liên lạc không ngừng của Cha
318
thánh hóa các con. Chớ gì những giáo huấn liên tục của Cha củng cố cho các con. Chớ gì tình yêu biệt ái của Cha làm cho các con trung thành chống lại mọi cạm bẫy. Đừng như các rabbi khi xưa: giảng dạy những mặc khải mà lại không tin vào đó, tới mức không nhận ra những dấu hiệu của thời gian và những người được Thiên Chúa sai đến. Hãy nhận ra những vị Tiền Hô của Đức Kitô trong việc giáng thế lần thứ hai của Người, vì những lực lượng chống đối Kitô đang hoạt động bằng cách đi ra ngoài những giới hạn mà Cha đã đặt định. Vì Cha biết rằng các con uống một số sự thật không vì tinh thần siêu nhiên, mà vì cái khát của sự tò mò con người. Thực vậy, Cha bảo các con rằng: Điều mà một số đông tin là một chiến thắng trên các kẻ chống đối Kitô, một sự bình an mà bây giờ đã gần, sẽ chỉ là một sự dừng chân để các kẻ thù của Đức Kitô có thời gian rèn luyện, để lành các vết thương, để tụ tập khí giới cho một trận chiến ác liệt hơn.
Các con là những tiếng nói của Giêsu của các con, của Vua các vua, của Đấng Trung Thành và Chân Thực, đấng phán xét và chiến đấu một cách chính trực, và sẽ chiến thắng con quái vật và các tôi tớ, các tiên tri của nó. Các con hãy nhận ra đấng Tốt Lành của các con và hãy luôn luôn theo Người.
Chớ gì đừng một vẻ bề ngoài hấp dẫn nào quyến dũ được các con, và không một bách hại nào hạ được các con. Chớ gì tiếng nói của các con nói lời của Cha. Chớ gì đời các con dùng cho công trình này. Và nếu trên mặt đất, các con có cùng một số phận như Đức Kitô, như vị Tiền Hô của Ngài và như Êlia: số phận đẫm máu hay số phận bị hành hạ bởi những cực hình tinh thần, hãy mỉm cười với số phận của các con, vì trong tương lai, các con cũng sẽ chung phần với Đức Kitô, với vị Tiền Hô và vị Tiên Tri của Người.
Giống nhau trong công việc, trong đau đớn, trong vinh quang. Ở thế này, Cha là Thầy, là Gương Mẫu. Trên Trời, Cha là phần thưởng và là Vua. Chiếm hữu Cha sẽ là hạnh phúc của các con. Điều đó sẽ làm các con quên đi những đau thương. Tất cả mọi mặc khải vẫn luôn luôn là không đủ để các con hiểu, vì niềm vui của đời sống tương lai qúa vượt qua khả năng tưởng tượng của tạo vật còn kết hợp với thân xác.
38* GIÁO HUẤN CÁC MÔN ĐỆ
SAU SỰ HIỂN DUNG
Bây giờ họ lại ở trong nhà Nazarét, một cách chính xác hơn là họ ở trên các cồn, giữa các cây ôliu, trong khi chờ đợi chia tay để đi nghỉ. Họ đã nhúm một đống lửa nhỏ để soi sáng, vì trời đã bắt đầu tối và mặt trăng lên trễ. Nhưng buổi tối ẩm ướt, hầu như qúa ẩm, theo như các dân chài nói khi họ tiên đoán những trận mưa sắp tới, và thật là dễ chịu được ở đây, hoàn toàn hợp nhất. Các phụ nữ thì ở trong vườn đầy hoa chung quanh Maria. Các ông thì ở trên cao,
319
trên đỉnh bờ dốc, theo cách để khi ở giữa nhóm các ông và nhóm các bà, Giêsu trả lời cho người nọ người kia trong khi các bà chăm chú nghe. Họ nói về người động kinh kỳ dị được chữa ở chân núi, và các bình luận vẫn còn kéo dài.
- Đúng thật là phải có Thầy - ông anh họ Simon nói.
- Ôi! Nhưng dù thấy là các thầy trừ tà của họ chẳng làm được gì,
tất cả đều nhận ra rằng họ đã dùng những công thức mạnh nhất, nhưng phép lạ cũng chẳng chinh phục được họ, những con chim vọ!
- người chèo đò Salômon lắc đầu nói.
- Và dù có nói với các luật sĩ về những kết luận của chính họ, người ta cũng chẳng thuyết phục được họ.
- Đúng. Nhưng tôi thấy như người ta đã nói đúng, phải không? - một người mà tôi không biết hỏi.
- Rất đúng. Họ đã loại trừ tất cả những bùa ngải của ma qủi nơi uy quyền của Giêsu. Họ nói rằng họ cảm thấy một sự bình an sâu xa tràn ngập họ khi Thầy đã làm phép lạ, trong khi, họ cũng nói rằng, khi nó xuất hiện dưới ảnh hưởng của một uy quyền xấu thì họ cảm thấy một sự đau đớn khó chịu - Hermas trả lời.
- Nhưng, hen! Tà thần đó mạnh thiệt! Nó không muốn ra đi! Nhưng tại sao nó không giữ thằng bé liên tục? Đó là một tà thần đã có những lúc bị đuổi, bị thua, hay là vì đứa bé đủ thánh thiện để tự nó đuổi đi? - một môn đệ khác mà tôi không biết tên hỏi.
Giêsu trả lời cách tự nhiên: “Đã nhiều lần Thầy cắt nghĩa rằng hết mọi bệnh tật đều là một khổ não và rối trật tự, nó có thể che giấu Satan, và Satan có thể ẩn trong một căn bệnh, sử dụng nó, tạo ra nó để hành hạ người ta và làm cho người ta nói phạm đến Thiên Chúa. Đứa trẻ là một người bệnh chứ không phải bị ám. Một linh hồn trong sạch. Vì vậy mà với bao niềm vui, Thầy đã giải thoát cho nó khỏi một thứ qủi rất qủi quyệt, muốn thống trị nó tới nỗi có thể làm cho nó ra ô uế”.
- Vậy nếu đó chỉ là một căn bệnh, tại sao chúng con không thành công? - Judas Kêriot hỏi.
- Đúng. Người ta hiểu rằng các thầy trừ tà không thể làm được
320
gì, nếu đó không phải là một người bị ám. Nhưng chúng con... - Tôma nhận xét.
Và Judas Kêriot, vì không tiêu hóa được sự thất bại bởi đã thử nhiều lần trên đứa trẻ mà chỉ làm cho nó rơi vào sự vùng vẫy, đúng hơn là vào sự co giật mạnh hơn, nên ông nói: “Nhưng đối với chúng con, nó trở thành tệ hơn. Anh có nhớ không Philíp? Anh đã giúp tôi, anh đã nghe và thấy những chế nhạo nó quăng vào tôi. Nó đã tới cỡ nói với con: ‘Cút đi, giữa mày và tao, đứa ma qủi hơn chính là mày!’ Điều đó làm các luật sĩ cười ở sau lưng con”.
- Và điều đó làm phật ý con? - Giêsu hỏi như hững hờ.
- Chắc chắn rồi. Đâu có tốt đẹp gì khi bị nhạo, và đâu có lợi ích gì khi người ta làm môn đệ Thầy như vậy. Người ta bị mất uy ở chỗ đó.
- Khi người ta có Thiên Chúa ở với họ thì người ta không thiếu gì ảnh hưởng, dù là cả thế giới chế nhạo họ, Judas Simon ạ.
- Đúng rồi. Nhưng Thầy phải tăng sức mạnh cho chúng con, ít nhất là cho các tông đồ của Thầy, để những thất bại như vậy không xảy ra nữa.
- Sẽ không chính đáng và vô ích nếu Thầy gia tăng quyền lực cho các con. Tự mình các con, các con phải hành động để thành công. Chính vì sự không đầy đủ của các con mà các con không thành công, và cũng vì các con đã làm giảm bớt những gì Thầy đã cho các con bởi những bài trí không thánh thiện. Các con đã thêm nó vào với hy vọng toàn thắng ngoạn mục hơn.
- Có phải Thầy nói về con không Chúa? - Iscariot hỏi.
- Con phải biết tự xét xem con có đáng những lời đó không. Thầy thì Thầy nói cho tất cả.
Batôlômêo hỏi: “Vậy phải có cái gì để thắng được những qủi này?”
- Cầu nguyện và chay tịnh, không gì khác hơn. Hãy cầu nguyện và giữ chay, không phải chỉ về thân xác. Vì cần thiết là phải kiêng khem thỏa mãn sự kiêu căng của các con. Sự kiêu căng, khi người ta thỏa mãn nó, nó làm cho thần trí và linh hồn trở nên hững hờ,
321
nguội lạnh, vô cảm trong kinh nguyện. Cũng vậy, một thân xác no say thì bần thần và nặng nề. Và bây giờ, nào, chúng ta cũng vậy, chúng ta đi nghỉ ngơi chỉ vừa đủ. Ngày mai, lúc rạng đông, hết mọi người, trừ Manaen và các môn đệ mục đồng, sẽ lên đường đi Cana. Đi đi. Bình an cho các con.
Nhưng rồi Người giữ Isaac và Manaen lại để chỉ bảo những điều đặc biệt cho ngày mai là ngày khởi hành của các nữ môn đệ và Maria, cùng với Simon Alphê và Alphê Sara, cho cuộc hành hương Lễ Vượt Qua:
- Các con sẽ đi lối Esdrelon để Margziam gặp ông già. Các con sẽ cho các nông dân túi tiền mà Thầy đã bảo Judas Kêriot đưa cho các con. Trong cuộc hành trình này, các con sẽ cứu giúp những người nghèo khổ mà các con gặp, với túi tiền mà Thầy vừa đưa cho các con. Đến Jêrusalem, hãy vào Bêtani và nói là chờ Thầy tới tuần trăng mới tháng Nisan. Thầy có thể chậm rất ít kể từ ngày này. Thầy giao phó cho các con nhân vật thân thiết nhất của Thầy và các nữ môn đệ. Nhưng Thầy an lòng, vì họ sẽ được an toàn. Thôi đi. Chúng ta sẽ gặp lại nhau tại Bêtani, và chúng ta sẽ ở lại với nhau một thời gian dài.
Người chúc lành cho họ, và trong khi họ rời đi vào trong đêm, Người phóng ra vườn rồi vào trong căn nhà, nơi có các nữ môn đệ và Mẹ Người đang cùng với Margziam để buộc chặt các túi du lịch và xếp đặt tất cả cho một thời gian vắng mặt mà không ai biết sẽ là bao lâu.
39* THUẾ ĐỀN THỜ VÀ ĐỒNG TIỀN
TRONG MIỆNG CÁ
Hai chiếc thuyền được dùng để trở về Caphanaum lướt trên mặt hồ bình lặng một cách khó tin. Đây là một tấm thủy tinh trong xanh, khép lại ngay với cái mặt bóng nhẵn đồng nhất của nó sau khi hai chiếc thuyền đi qua. Nhưng đó không phải là thuyền của Phêrô và Giacôbê, có lẽ là hai chiếc thuyền thuê ở Tibêriat. Tôi
322
nghe Judas phàn nàn, vì sau việc tiêu pha này, ông không còn đồng nào cả.
- Người ta đã nghĩ đến những người khác mà không nghĩ đến chúng ta! Chúng ta làm sao bây giờ ? Tôi đã hy vọng rằng Chouza... Nhưng chẳng được gì cả. Chúng ta ở trong hoàn cảnh một người ăn mày, một trong số những người qúa nhiều trên đường để quyên tiền các người hành hương - Ông ta càu nhàu nhỏ tiếng với Tôma, nhưng ông này hiền khô, trả lời: “Nếu như vậy thì có gì là xấu đâu? Tôi, tôi tuyệt đối không bận tâm”.
- Đúng. Nhưng vào giờ ăn, anh ăn ngon lành hơn tất cả mọi người.
- Chắc chắn rồi! Tôi đói mà. Về điểm đó cũng vậy, tôi rất mạnh mẽ. Vả nữa, bữa nay, thay vì xin bánh và đồ ăn nơi loài người, tôi sẽ xin thẳng ngay nơi Thiên Chúa.
- Hôm nay! Hôm nay! Nhưng ngày mai, chúng ta sẽ ở trong cùng một hoàn cảnh, và cả ngày mốt cũng vậy nữa. Chúng ta đi về miền Thập Tỉnh, nơi chúng ta không được biết, và dân chúng ở đó là dân ngoại. Nhưng không phải chỉ có bánh, mà cả xăng đan, nó cũng sẽ rách ra từng mảnh, và các người nghèo quấy rầy chúng ta, và ta có thể gặp sự chẳng lành, và...
- Và nếu anh chỉ tiếp tục một lát nữa là anh sẽ làm tôi chết, và anh lại phải nghĩ đến việc chôn cất tôi. Ôi! Biết bao là lo lắng!... Tôi, thực tình là tôi không lo gì cả. Tôi sung sướng bình an như đứa trẻ mới sinh.
Giêsu có vẻ như đắm chìm trong tư tưởng của Người. Người ngồi ở bờ thuyền tại đàng mũi, Người quay lại và nói lớn tiếng với Judas đang ngồi ở đàng lái, nhưng Người nói giống như Người nói với mọi người: “Mong rằng dù người ta không còn một đồng xu nào cũng rất tốt. Tình phụ tử của Thiên Chúa sẽ rạng ngời hơn, ngay cả trong những điều nhỏ mọn nhất”.
- Từ mấy bữa nay thì đối với Thầy, tất cả đều tốt: Rất tốt khi không có phép lạ nào, dù là người ta không dâng cúng cho chúng ta gì cả; rất tốt vì đã cho đi tất cả những gì chúng ta có... Tóm lại là tất
323
cả đều tốt. Nhưng con, con thấy không thoải mái... Thầy là ông Thầy chí thiết, một ông Thầy thánh, nhưng đối với đời sống vật chất... Thầy không có giá trị nào hết - Judas nói, không chua cay, tựa như ông làm những nhận xét đối với một người anh em tốt, tự tuyên dương cả đến lòng tốt không biết phòng xa của họ.
Giêsu mỉm cười và trả lời ông: “Phẩm chất cao cả nhất của Thầy là không có giá trị nào đối với đời sống vật chất... Và Thầy nhắc lại là rất tốt khi không có một xu nhỏ nào”. Và Người mỉm cười rạng rỡ.
Chiếc thuyền cà vào đáy và dừng lại. Họ xuống khỏi đó khi chiếc kia cặp vào bờ. Giêsu với Judas, Tôma, Juđa và Giacôbê, Philíp và Batôlômêo đi về nhà...
Phêrô lên khỏi chiếc kia cùng với Mathêu, hai con ông Zêbêđê, Simon Zêlote và Andrê. Nhưng khi mọi người đã bắt đầu bước, Phêrô vẫn ở lại bãi để nói với các người lái đò là những người đã chở họ, và có lẽ là những người ông quen biết. Rồi ông giúp họ lại ra khơi. Sau đó ông bận áo vào, lên khỏi bãi và về nhà.
Trong khi ông băng qua công trường chỗ họp chợ, có hai người đàn ông tới gặp ông, họ cản ông lại và nói: “Nghe này, Simon Jonas”.
- Tôi nghe đây, các ông muốn gì?
- Thầy của ông, chỉ vì ông ta là như vậy, ông ta trả hay ông ta không trả hai đồng tiền phải nộp cho Đền Thờ?
- Chắc chắn là Người trả. Tại sao Người lại không trả?
- Nhưng... Bởi vì ông ta nói ông ta là Con Thiên Chúa và...
- Và Người là như vậy - Phêrô đối đáp cách qủa quyết. Ông đã đỏ mặt vì bực mình. Và để chấm dứt, ông nói: “Nhưng bởi vì Người là con của Lề Luật, người con tốt nhất của Lề Luật, Người sẽ trả hai đồng bạc như mọi người Israel...”
- Ông ta không có vẻ như vậy. Người ta nói với chúng tôi là ông ta không trả, và chúng tôi khuyên ông ta là nên trả.
- Hum! - Phêrô càu nhàu, vì sự kiên nhẫn của ông đã hầu tới mức. “Hum!... Thầy tôi không cần lời khuyên của các ông. Hãy đi
324
bằng an và hãy nói với những người sai các ông là những đồng tiền sẽ được trả vào dịp thứ nhất”.
- Trả vào dịp thứ nhất!... Tại sao không trả ngay lập tức? Ai sẽ bảo đảm cho chúng tôi rằng ông ta sẽ trả, nếu ông ta cứ nay đây mai đó không mục đích?
- Không ngay lập tức, bởi vì lúc này Người không có đồng xu nhỏ nào cả. Các ông có hối thúc Người, Người cũng không có đồng nào để bỏ ra. Tất cả chúng tôi đều không có tiền, bởi vì chúng tôi không phải là các pharisiêu, không phải là các luật sĩ, không phải là các saddu, không phải là các người giầu, không phải là các kẻ do thám, không phải là các rắn độc. Chúng tôi có thói quen cho người nghèo những gì chúng tôi có nhân danh giáo lý của Người. Các ông hiểu không? Và lúc này chúng tôi đã cho đi hết, và bao lâu Đấng Tối Cao chưa nghĩ tới nó thì chúng tôi có thể chết đói hay sẽ đứng ở góc đường để xin của bố thí. Cũng hãy nói điều đó với những kẻ bảo Người là phóng đãng. Chào! - Và ông bỏ họ mà đi, càu nhàu và đỏ rần vì giận.
Ông về nhà và lên lầu, vào phòng nơi Giêsu đang ở. Người đang nghe một người đến xin Người tới một căn nhà ở trên ngọn núi sau lưng Magđala, nơi có một người hấp hối.
Giêsu cho người đó đi và hứa là Người sẽ tới, không chậm trễ. Sau khi người đó đi, Giêsu nói với Phêrô, đang ngồi suy nghĩ trong một góc, Người bảo ông: “Con nói sao Simon: thường thường các vua thế gian lấy tiền thuế của những ai? Của con cái ông hay của người ngoài?”
Phêrô giật nảy và ông nói: “Chúa ơi, làm sao Thầy biết điều con phải nói với Thầy?”
Giêsu mỉm cười như muốn nói: “Hãy bỏ qua chuyện đó”, rồi người nói: “Hãy trả lời điều Thầy hỏi con”.
- Thì lạy Chúa, người ngoài chứ!
- Vậy con cái được miễn. Sự kiện như vậy là chính đáng. Vì một đứa con cùng dòng máu ở trong nhà của cha nó, nó chỉ phải trả cho cha nó thứ thuế tình yêu và vâng lời. Vậy Thầy, con của Chúa Cha, Thầy không phải trả thuế cho Đền Thờ là nhà của Cha Thầy. Con
325
đã trả lời rất đúng. Nhưng vì có điều khác nhau giữa con và họ, đó là điều này: Con thì con tin rằng Thầy là Con Thiên Chúa, còn họ cũng như những người đã sai họ thì không tin. Vì vậy để khỏi gây dịp vấp phạm cho họ, Thầy sẽ trả thuế, và trả ngay trong khi họ còn ở trên bãi để nhận.
- Vậy trả bằng gì, nếu chúng ta không còn lấy một xu nhỏ? - Judas hỏi khi ông tiến lại gần cùng với những người khác: “Thầy thấy cần thiết chừng nào là chúng ta phải có cái gì?”
- Chúng ta đi hỏi vay người chủ nhà - Philíp nói.
Giêsu lấy tay làm hiệu yên lặng và Người nói: “Simon Jonas, con hãy ra ngoài bãi và quăng xa chừng nào con có thể, một sợi giây thuyền chắc có buộc một lưỡi câu. Và khi con cá cắn câu, con hãy kéo nó lên. Đó sẽ là một con cá lớn. Con đem nó lên bờ, mở miệng nó ra, con sẽ thấy ở đó một đồng tiền bạc. Con hãy lấy nó, ghép chung hai phần thuế, và trả nó cho con và cho Thầy, rồi mang con cá về. Chúng ta sẽ nướng nó và Tôma (chủ nhà) sẽ cho chúng ta một chút bánh bác ái. Chúng ta ăn rồi đi ngay để tìm người đang chết. Giacôbê và Andrê, hãy chuẩn bị thuyền. Chúng ta sẽ đi Magđala bằng nó. Rồi buổi chiều, chúng ta sẽ đi bộ về để không ngăn trở việc đánh cá của Zêbêđê và các em rể của Simon”.
Phêrô đi ra và một lát sau, người ta đã thấy ông ở ngoài bãi. Ông trèo lên một chiếc tàu nhỏ đang đậu dưới nước. Ông buông sợi giây thuyền nhỏ và chắc, có buộc ở đầu một cục đá hay cục chì, và tận cùng bằng một đoạn giây nhỏ của chiếc cần câu đúng nghĩa. Nước hồ mở ra với những ánh bạc khi chất nặng chìm xuống, rồi lại trở về yên lặng trong khi làm thành những vòng tròn đồng tâm.
Sau một lát, sợi giây chùn trong tay Phêrô trở nên căng và rung động... Phêrô kéo, kéo, kéo, trong khi sợi giây chịu đựng sự dẫy dụa càng lúc càng mạnh. Sau cùng, ông giật mạnh một phát, và sợi giây bay lên cùng với con mồi của nó. Nó bay trong không khí, làm thành một hình cung trên đầu người câu rồi rơi trên bãi cát vàng vàng, nơi nó uốn cong vì sự đau do lưỡi câu làm rách hàm và vì sự ngạt hơi đã bắt đầu.
326
Đó là một con cá tuyệt vời, lớn như con cá chim hoa và nặng ít là ba ký. Phêrô tháo lưỡi câu ra khỏi đôi môi mập của nó, ông thọc ngón tay của ông vào miệng nó và lôi ra một đồng tiền lớn bằng bạc. Ông giơ nó lên giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ để cho Thầy đang đứng tựa lan can trên sân thượng nhìn thấy. Rồi ông thu sợi giây, cuộn lại, cầm con cá và chạy về công trường.
Các tông đồ kinh ngạc... Giêsu mỉm cười và nói: “Như vậy chúng ta loại bỏ được một dịp vấp phạm”.
Phêrô trở về:
- Họ đã đến đó với ông pharisiêu Eli. Con đã cố gắng để tử tế với họ như một cô gái trẻ. Con đã gọi họ và nói: “Hé! Các sứ giả của sở thuế! Cầm lấy đi! Cái này có giá trị bằng bốn đồng phải không? Hai đồng cho Thầy và hai đồng cho tôi. Và chúng tôi sạch nợ phải không? Hẹn gặp lại, và đặc biệt là với ông, ông bạn thân mến, trong thung lũng Josaphát”. Họ tức giận vì con đã nói “sở thuế”: “Chúng tôi thuộc về Đền Thờ chứ không thuộc về Sở Thuế”. “Các ông trưng thâu thuế như các nhân viên Sở Thuế. Đối với tôi, tất cả những ai thâu thuế đều thuộc về Sở Thuế”. Con đã trả lời vậy. Nhưng Êli bảo con: “Hỗn láo! Mày chúc cho tao chết?” “Không, bạn ơi! Không phải vậy đâu. Tôi chúc bạn một cuộc hành trình hạnh phúc về thung lũng Josaphát. Ông bạn không đi Jêrusalem mừng lễ Vượt Qua sao? Vậy chúng ta có thể gặp nhau ở đó, bạn ạ”. “Tôi không mong điều đó, và tôi không muốn anh gọi tôi là bạn của anh”. “Qủa thế, vì như vậy là qúa vinh dự”. Con trả lời lão ta như thế, và con đi. Điều đẹp nhất là có khoảng nửa Caphanaum ở đó để thấy rằng con đã trả thuế cho con và cho Thầy, và con rắn già này không thể nói gì được nữa.
Tất cả các tông đồ đều cười về bài thường thuật và điệu bộ của Phêrô. Giêsu muốn giữ thái độ thản nhiên, nhưng Người cũng nhếch một nụ cười khi Người nói: “Con còn tệ hơn con nít”. Và Người nói để kết thúc: “Đi nướng cá mau đi. Thầy muốn trở lại đây vào lúc hoàng hôn”.
327
40* KẺ LỚN NHẤT TRONG NƯỚC TRỜI.
THẰNG BÉ BENJAMIN Ở CAPHANAUM
Ngay vào lúc mà bầu trời và chiếc hồ bị cháy bởi lửa của hoàng hôn thì các đấng lên đường để trở về Caphanaum. Mọi người đều thỏa mãn. Họ nói chuyện với nhau. Giêsu nói rất ít, nhưng Người mỉm cười. Họ nhận thấy rằng nếu người đưa tin đã nói chính xác thì họ đã tiết kiệm được đường đất. Tuy nhiên họ cũng nói rằng sự mệt mỏi của họ đã được trả công, bởi vì cả một đám trẻ con có người cha được chữa lành khi cái chết của ông đã gần kề, và ông đã lạnh toát, và cũng vì họ hoàn toàn không còn tiền.
- Thầy đã nói với các con là người cha cung cấp tất cả - Giêsu nói.
- Và đó là người yêu cũ của Maria Magđala? - Philíp hỏi.
- Có vẻ vậy... Dựa theo những điều người ta nói với chúng ta... - Tôma trả lời.
- Chúa ơi, người đàn ông đó đã nói gì với Thầy? - Juđa Alphê hỏi.
Giêsu mỉm cười vẻ thoái thác lững lờ.
- Con, con đã thấy ông ta nhiều lần cùng với nàng, khi con đi Tibêriat với các bạn con. Cái đó là chắc - Mathêu xác nhận.
- Này, anh ơi! Làm vui lòng chúng con đi: Ông ta chỉ xin Thầy chữa bệnh thôi hay cũng xin tha thứ nữa? - Giacôbê Alphê hỏi.
- Một câu hỏi vô ích chừng nào! Có bao giờ Chúa không đòi hỏi sự sám hối để chấp nhận một ơn phúc đâu? - Iscariot nói với một ít khinh bỉ đối với Giacôbê Alphê.
- Ông anh tôi không nói điều ngu xuẩn đâu: Giêsu chữa bệnh hoặc giải thoát, rồi Người nói: hãy đi và đừng phạm tội nữa - Thađê trả lời ông.
- Nhưng bởi vì Người đã thấy sự sám hối ở trong lòng - Iscariot đối đáp.
- Nơi những người bị qủi ám, không có sự sám hối, cũng không
328
có ý chí muốn được giải thoát. Chúng ta không thấy một người nào có như vậy. Anh hãy nhớ lại hết mọi trường hợp, anh sẽ thấy rằng: hoặc họ chạy trốn, hoặc họ biểu lộ như kẻ thù, hay ít nhất, họ cố gắng làm điều nọ điều kia, nhưng họ không làm được chỉ vì bà con họ ngăn cản họ - Thađê đáp trả.
- Và quyền phép của Giêsu - Zêlote thêm.
- Nhưng lúc đó Giêsu kể đến thiện chí của bà con đại diện cho thiện chí của người bị ám muốn được giải thoát, nhưng chỉ vì ma qủi ngăn cản họ.
- Ôi! Biết bao là tinh tế! Còn với người tội lỗi thì sao? Tôi thấy hình như Người dùng cùng một hình thức, dù là họ không bị ám - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Đối với tôi, Người đã nói: “Hãy theo Ta”, và tôi chưa hề nói với Người một lời liên can tới tình trạng của tôi - Mathêu nhận xét.
- Nhưng Người đã thấy nó trong lòng anh - Iscariot nói, vì ông muốn rằng ông có lý với bất cứ giá nào.
- Ừ, đồng ý. Nhưng người này, theo như tiếng đồn, thì là một kẻ rất hư đốn, một đại tội nhân, không phải là người bị ám, hay đúng hơn, ông ta có một thằng qủi là thầy chứ không phải là kẻ chiếm cứ, vì lẽ tất cả tội lỗi của ông. Ông ta sắp chết, nhưng tóm lại là ông ta xin gì? Tôi thấy hình như chúng ta đang làm một cuộc hành trình ở trên mây... Chúng ta lại vẫn còn ở câu hỏi thứ nhất - Phêrô nói.
Giêsu thỏa mãn họ:
- Người này đã muốn được ở một mình với Thầy để có thể nói tự do. Ông không bày tỏ ngay tình trạng sức khỏe của ông... nhưng tình trạng tinh thần của ông. Ông ta đã nói: “Con sắp chết, nhưng chưa đến nỗi như con làm cho người ta tưởng, để có thể gặp Thầy sớm hết sức. Con cần sự tha thứ của Thầy để được khỏi. Nhưng sự tha thứ đã đủ cho con. Nếu Thầy không chữa con, con sẽ nhẫn nhục. Con đáng bị như vậy. Nhưng xin Thầy cứu linh hồn con” - và ông ta đã xưng thú số tội lỗi rất nhiều của ông. Một giây xích tội lỗi làm cho buồn nôn... - Giêsu nói như vậy, nhưng khuôn mặt Người
329
rạng rỡ niềm vui.
- Và Thầy mỉm cười vì vậy? Con ngạc nhiên đó! - Batôlômêo nhận xét.
- Ừ, Batôlômêo. Thầy mỉm cười bởi vì tội lỗi không còn nữa. Và bởi vì cùng với tội lỗi, Thầy đã biết được tên của vị Nữ Cứu Chuộc. Tông đồ đã là một người đàn bà trong trường hợp này.
“Mẹ Thầy”, nhiều người nói. Và một số khác: “Jeanne Chouza, bà hay đi Tibêriat, có lẽ ông ta biết bà”. Giêsu lắc đầu. Họ hỏi Người: “Vậy ai chứ?”
- Maria Lazarô - Giêsu trả lời.
- Cô ta đã tới đây? Tại sao cô ta không để cho ai trong chúng ta thấy?
- Cô ta không tới. Cô ta đã viết thơ cho người đồng lõa cũ. Thầy đã đọc các bức thơ, tất cả đều nói với ông ta một sự van nài: Hãy nghe cô. Hãy cứu lấy mình như cô ta đã tự cứu. Hãy theo cô ta trong đường lành như ông ta đã theo cô ta trong đàng tội. Và với những lời lẽ của nước mắt, cô ta xin ông an ủi linh hồn Maria cho bớt sự ân hận vì đã quyến rũ linh hồn ông. Và cô ta đã hoán cải ông, tới nỗi ông ta đã lui về căn nhà ở nhà quê để thắng các cám dỗ ở đô thị. Căn bệnh đến từ sự hối hận của ông ta hơn là tình trạng thể chất. Nó đã chuẩn bị ông ta cho ân sủng. Đó, các con đã bằng lòng chưa? Bây giờ các con đã hiểu tại sao Thầy mỉm cười chưa?
- Rồi Thầy - Tất cả đều nói. Và thấy rằng Giêsu bước dài hơn để biệt lập ra, họ lại bắt đầu tán gẫu với nhau...
Họ đã nhìn thấy Caphanaum. Tại một ngã tư giữa con đường họ đi với con đường ven theo bờ hồ, đến từ Magđala, họ gặp các môn đệ đang đi bộ để giảng Tin Mừng ở Tibêriat. Tất cả, trừ Margziam, các mục đồng và Manaen là những người đã đi từ Nazarét về Jêrusalem với các phụ nữ. Và cả đến số các môn đệ đã đông hơn, vì vài biến cố đã tụ tập họ với nhau khi họ trở về sau sứ mạng, và đã dẫn theo với họ một số tân tòng của giáo lý Kitô giáo.
Giêsu êm đềm chào họ. Nhưng rồi Người biệt lập ra ngay trong sự chiêm niệm và kinh nguyện sâu xa. Người đi vài bước ở đàng
330
trước họ.
Còn các tông đồ, họ tụ tập với các môn đệ, nhất là những người có ảnh hưởng hơn như Étienne, Hermas, thầy cả Gioan, luật sĩ Gioan, Timon, Giuse người Emmau, Hermastê (người mà như tôi hiểu, đã bay nhanh trên đường trọn lành), Abel người Bétlem thuộc Galilê mà mẹ ông đang ở trong đám các phụ nữ. Các môn đệ và các tông đồ trao đổi các câu hỏi và câu trả lời về những điều đã xảy ra từ lúc họ chia tay. Chính vì vậy, họ nói về việc chữa lành và sự hoán cải hôm nay, và về đồng tiền trong miệng cá... Chuyện đồng tiền, vì lẽ những trường hợp là nguyên nhân cho nó, đã gây ra nhiều đàm thoại, và lan ra từ hàng ngũ nọ tới hàng ngũ kia như ngọn lửa đi qua các lớp lá khô...
***
Tôi thấy Giêsu đang đi trên một con đường miền quê, có các tông đồ và các môn đệ ở chung quanh Người.
Hồ Galilê sáng bóng không ở xa đó mấy, yên lặng, xanh biếc dưới mặt trời tươi của mùa xuân hay mùa thu, vì nó không nắng gắt như mặt trời mùa hè. Nhưng tôi cho đây là mùa xuân, vì thiên nhiên còn rất tươi mát, không có mầu vàng ối của lá chết mà ta thấy trong mùa thu. Hình như sắp chiều, Giêsu đi về nhà trọ, và vì thế, đi về phía thành phố mà người ta thấy đã hiện ra. Giêsu, như thường thấy, đi trước các môn đệ vài bước, hai hoặc ba bước, không hơn, nhưng đủ để biệt lập ra trong tư tưởng của Người khi Người cần yên lặng sau một ngày giảng đạo. Người bước đi, trầm tư, cầm trong tay phải một cành nhỏ xanh, chắc là hái ở một bụi nào đó, và Người nhè nhẹ quất trên cỏ ở bờ đường, chìm sâu trong suy tư.
Trái lại, ở đàng sau Người, các môn đệ nói cách nhộn nhịp. Họ nhắc lại các biến cố trong ngày, và họ không có bàn tay qúa nhẹ để phê phán các lỗi của người khác cũng như sự độc ác của người khác. Tất cả đều bình phẩm ít nhiều về sự kiện những người có trách nhiệm thâu thuế của Đền Thờ đã đòi Giêsu phải trả.
Phêrô, rất hăng hái, tán đồng rằng đó là việc phạm thánh, bởi vì Đức Messi không phải nộp thuế. Ông nói: “Điều đó giống như Thiên
331
Chúa trả tiền cho chính mình Ngài. Điều đó không chính đáng. Và nếu sau đó họ tin Người là Đức Messi thì việc đó trở nên tội phạm thượng”.
Giêsu quay lại một lát và nói: “Simon, Simon, sẽ có biết bao kẻ nghi ngờ về Thầy, ngay trong số những kẻ nghĩ rằng đức tin của họ vào Thầy là bảo đảm và không lay chuyển. Simon, đừng đoán xét anh em. Con hãy bắt đầu bằng cách đoán xét chính mình con”.
Judas, với một nụ cười mỉa mai, nói với Phêrô đang khiêm tốn cúi đầu: “Câu này là cho anh đó. Bởi vì anh là người già nhất, anh luôn luôn muốn làm tiến sĩ. Không có sách nào nói rằng phải phán đoán tài năng theo tuổi. Giữa chúng ta, có những người ở bên trên anh về học thức và địa vị xã hội”.
Họ nổi lên một cuộc bàn cãi về những huân công đáng nể, như khoe mình là người thứ nhất trong các môn đệ, như đánh giá công trạng dựa vào địa vị mà họ đã bỏ để theo Giêsu, như nói không ai có quyền như ông vì không ai đã hoán cải như ông khi đi từ địa vị người thu thuế qua địa vị người môn đệ. Cuộc bàn cãi kéo dài, và nếu tôi không sợ xúc phạm đến các tông đồ thì tôi nói rằng nó đã có dáng một cuộc tranh tụng.
Giêsu không quan tâm tới đó. Người tựa như không nghe gì cả. Trong lúc đó, họ đã tới những căn nhà đầu tiên của thành phố mà tôi biết đó là Caphanaum. Giêsu tiếp tục và những người khác ở đàng sau vẫn bàn cãi.
Một đứa trẻ độ bảy tám tuổi, vừa chạy vừa nhảy ở đàng sau Giêsu. Nó bắt kịp Người khi băng qua cái nhóm xôn xao của các tông đồ. Đó là một đứa trẻ đẹp, tóc nâu đen quăn lọn, cắt ngắn, khuôn mặt da ngăm và đôi mắt đen thông minh. Nó gọi Thầy cách thân mật tựa như nó rất quen thuộc với Người: “Giêsu, hãy để con đi với Thầy cho tới nhà Thầy, Thầy muốn không?”
- Mẹ con có biết không? - Giêsu hỏi khi nhìn nó với nụ cười dịu dàng.
- Bà biết.
- Thực không? - Giêsu vẫn mỉm cười, nhìn nó với cái nhìn xuyên
332
thấu.
- Vâng, thực đó Giêsu.
- Vậy đi.
Đứa trẻ nhảy lên vì vui và cầm lấy bàn tay trái của Giêsu đang giơ ra cho nó. Với tình yêu tin cẩn, đứa trẻ đặt bàn tay ngăm ngăm của nó vào bàn tay dài của Giêsu. Tôi, tôi cũng muốn làm như vậy biết bao!
- Kể cho con một dụ ngôn đẹp đi Giêsu - đứa trẻ nói khi nhảy ở bên cạnh ông thầy, trong khi nó nhìn Người từ phía dưới với khuôn mặt rạng rỡ niềm vui.
Giêsu cũng nhìn nó với nụ cười vui làm Người hơi hé mở khuôn miệng nằm giữa bộ ria và bộ râu hoe vàng mà mặt trời soi làm bóng lên như vàng. Đôi mắt lam ngọc của Người cười vui khi Người nhìn đứa trẻ.
- Con làm gì với cái dụ ngôn? Đó không phải là một trò chơi.
- Nó còn đẹp hơn một trò chơi. Khi con đi ngủ, con nghĩ tới nó, rồi con mơ về nó, và ngày hôm sau con nhớ lại nó, con kể lại nó để biết sống tốt. Nó làm cho con trở nên tốt.
- Con nhớ không?
- Nhớ. Thầy có muốn con kể lại cho Thầy tất cả những dụ ngôn Thầy đã kể cho con không?
- Con rất tốt, Benjamin, còn hơn nhiều người lớn, họ quên đi. Để thưởng con, Thầy sẽ kể cho con một dụ ngôn.
Đứa trẻ không nhảy nữa. Nó bước cách nghiêm trang, chú tâm như một người lớn, và nó không để mất một lời nào, một biến giọng nào của Giêsu. Nó nhìn Người cách chăm chú, cả đến nó không chú ý phải đặt chân vào chỗ nào.
- Một người mục đồng đã nghe biết rất rõ rằng ở một nơi kia trong thiên nhiên, có một bầy cừu bị bỏ rơi bởi những người mục tử xấu. Chúng nó đang nguy hiểm trên con đường xấu và trong vùng cỏ độc, và càng lúc chúng càng tiến về phía những khe núi tối. Ông ta liền đi tới nơi đó, hy sinh tất cả những gì ông có để mua những con cừu và con chiên này.
333
Ông ta muốn dẫn chúng về nước của ông, vì người mục tử này là vua cũng giống như nhiều vua trong Israel. Trong nước ông, những con cừu và những con chiên này sẽ có vô số đồng cỏ thơm lành, vô số nước mát và trong, những con đường chắc chắn và những nơi trú ẩn an toàn cho khỏi kẻ trộm và những con sói hung dữ. Khi đó người mục tử này tụ họp bầy cừu và chiên lại và nói với chúng: “Ta đến để cứu các con, để dẫn các con tới nơi các con không còn phải khổ nữa, nơi các con không còn biết đến những cạm bẫy và những đau đớn. Hãy yêu Ta, hãy theo Ta, vì Ta yêu các con chừng nào! Để có các con, Ta đã hy sinh đủ thứ. Nhưng nếu các con yêu Ta thì sự hy sinh của Ta không còn đè nặng trên Ta nữa. Hãy theo Ta và chúng ta đi”. Và người mục tử đi trước, đàn cừu theo sau, lên con đường dẫn tới nước hạnh phúc.
Thỉnh thoảng người mục tử quay lại để coi chúng có theo ông không, để khích lệ những con mệt mỏi, củng cố cho những con bị mất sự tin cậy, cứu giúp những con bệnh, âu yếm các con chiên nhỏ. Ông ta yêu chúng chừng nào! Ông cho chúng bánh và muối của ông. Ông đã bắt đầu bằng cách nếm nước ở các suối xem nó có lành mạnh không, và ông chúc phúc cho nó để thánh hóa nó.
Nhưng các con cừu - con có tin không Benjamin?- Các con cừu, sau một thời gian, bắt đầu chán nản. Lúc đầu thì một con, rồi hai con, rồi ba, rồi mười, rồi cả trăm, ở lại đàng sau để gặm cỏ, ních đầy bụng cho tới không thể nhúc nhích. Chúng nằm lăn ngay trong bụi đất và bùn, mệt mỏi vì qúa no. Có những con khác thì cúi xuống trên các hố sâu, mặc dầu các lời của người mục tử: “Đừng làm vậy”. Và vì ông đứng tại những chỗ nguy hiểm như vậy để ngăn cản chúng rơi vào, nên một số đã chen đẩy ông bằng cái đầu hỗn láo của chúng, và nhiều lần chúng đã cố gắng đẩy ông xuống hố. Như thế nên nhiều con đã kết thúc bằng cách té xuống khe núi và chết thảm hại. Có những con khác lấy sừng và đầu đánh nhau và giết nhau.
Chỉ có một con chiên nhỏ không bao giờ rời xa ông. Nó vừa đi vừa kêu be be. Nó nói với Người mục tử: “Con yêu Thầy”. Nó chạy
334
đàng sau người mục tử tốt, và khi tới cổng của nước ông thì chỉ còn có hai: Người mục tử và con chiên trung thành. Lúc đó người mục tử không nói với con chiên: “Hãy vào”, nhưng ông nói: “Lại đây”, và ông ôm nó trong lòng, trong đôi tay, và ông ẵm nó vào trong. Ông gọi tất cả những người của ông và nói với họ: “Đây là đứa yêu Ta. Ta muốn nó ở với Ta mãi mãi. Tất cả hãy yêu nó, vì nó là kẻ ưu ái của lòng Ta”.
Dụ ngôn chấm dứt. Benjamin, bây giờ con có thể nói cho Thầy ai là người mục tử tốt?
- Chính là Thầy, Giêsu.
- Và con chiên nhỏ là ai?
- Là con, Giêsu.
- Nhưng bây giờ Thầy sắp đi. Con sẽ quên Thầy không?
- Không, Giêsu. Con không quên Thầy, vì con yêu Thầy.
- Tình yêu của con sẽ biến mất khi con không thấy Thầy nữa.
- Con sẽ tự nói lại với con những dụ ngôn mà Thầy đã nói cho
con, và như vậy cũng giống như Thầy hiện diện. Con yêu Thầy và con sẽ vâng lời Thầy bằng cách đó. Và Giêsu, hãy nói cho con nghe: Thầy có nhớ tới Benjamin không?
- Luôn luôn.
- Thầy làm cách nào để nhớ?
- Thầy sẽ bảo mình rằng con đã hứa yêu Thầy và vâng lời Thầy, và như vậy Thầy sẽ nhớ tới con.
- Và Thầy sẽ cho con Nước Thầy?
- Nếu con tốt thì: Đúng.
- Con sẽ tốt.
- Con sẽ làm sao? Đời sống rất dài.
- Nhưng cũng vậy, các lời Thầy qúa hay. Nếu con nói lại với mình, và nếu con làm những điều các lời đó bảo con làm thì con sẽ giữ mình tốt suốt đời. Con sẽ làm điều đó, vì con yêu Thầy. Khi người ta yêu nhiều thì người ta không phải mệt mỏi để sống tốt. Con không mệt mỏi khi vâng lời má con vì con yêu bà nhiều. Con cũng sẽ không mệt để vâng lời Thầy, vì con yêu Thầy nhiều.
335
Giêsu dừng lại để nhìn khuôn mặt nhỏ cháy lửa bởi tình yêu hơn là bởi mặt trời. Niềm vui của Giêsu thật sống động tới nỗi như có một mặt trời khác cháy trong tâm hồn Người và phát ra ở con ngươi Người. Người cúi xuống và hôn lên trán đứa nhỏ.
Người dừng lại trước một căn nhà tầm thường, có một cái giếng ở đàng trước. Giêsu lại ngồi gần cái giếng và các môn đệ đến với Người tại đó. Họ vẫn còn đang đo lường về những đặc quyền ưu tiên đáng trọng của họ.
Giêsu nhìn họ, rồi người gọi: “Hãy đến chung quanh Thầy, và hãy nghe những giáo huấn sau cùng của ngày, các con, những người không ngừng tán dương công trạng của các con và phán định cho mình một chỗ tương xứng. Các con có thấy đứa trẻ này không? Nó đã ở trong chân lý nhiều hơn các con. Sự ngây thơ của nó đã cho nó chiếc chìa khóa để mở các cửa của Nước Thầy. Trong sự đơn sơ của các trẻ nhỏ, nó đã hiểu rằng chính trong tình yêu, người ta tìm thấy sức mạnh để trở nên lớn, và sự vâng lời vì tình yêu là lối vào Nước Thầy. Hãy đơn sơ, khiêm nhường, yêu mến với một tình yêu mà không phải các con chỉ dành cho Thầy, nhưng là chia sẻ với nhau, vâng theo các lời Thầy, hết mọi lời, kể cả những lời này, nếu các con muốn tới được nơi các trẻ ngây thơ tới. Hãy học nơi những trẻ nhỏ. Chúa Cha tiết lộ cho chúng những chân lý mà Người không tiết lộ cho những kẻ thông thái”.
Giêsu nói khi giữ đứa trẻ đứng trước đầu gối Người và Người để tay trên vai nó. Lúc này khuôn mặt Giêsu đầy oai phong. Người nghiêm trang, không giận dỗi, nhưng nghiêm trang, đúng là vị Thầy. Những tia sau cùng của mặt trời bao quanh như hào quang trên đầu tóc hoe vàng của Người.
Thị kiến ngừng với tôi ở đây. Nó để lại cho tôi đầy sự êm đềm trong đau đớn của tôi.
Vậy các môn đệ đã không thể vào trong nhà, điều đó tự nhiên, vì lẽ số lượng đông đảo của họ, và vì trọng kính. Họ không bao giờ vào nếu Thầy không bảo họ vào, hoặc từng nhóm, hoặc từng người.
336
Tôi nhận thấy họ luôn luôn có sự trọng kính sâu xa, một sự giữ gìn ý tứ, mặc dầu sự bặt thiệp của Thầy và sự bình dị hoàn toàn của Người. Cả Isaac, kẻ được coi như số một giữa các môn đệ, cũng không bao giờ tự do đến với Giêsu, nếu không có một nụ cười, ít nhất là một nụ cười của Giêsu gọi ông lại với Người.
Nhiều người đối xử với những sự siêu nhiên một cách qúa tự do thư thái hầu như cợt nhả!... Đó là một trong những bình luận của tôi, và tôi thấy là chính đáng. Vì đối với tôi là không được khi, với những thứ ở rất cao bên trên chúng ta, nhiều người lại có thái độ mà họ không có đối với những thứ ngang hàng với họ: loài người, khi người ta chỉ ở trên họ một tí... Nhưng... Ta hãy tiến lên...
Các môn đệ đã rải rác ra trên bờ hồ để mua cá cho bữa tối, kể cả bánh và các thứ cần. Giacôbê Zêbêđê trở về và ông gọi Thầy khi Người đang ngồi trên sân thượng, với Gioan ngồi chồm hổm ở chân Người trong sự giao tiếp đầy êm đềm và phó thác... Giêsu đứng dậy và cúi nghiêng trên lan can.
Giacôbê nói: “Thầy ơi! Bao nhiêu là cá. Ba con nói là việc Thầy đến đã chúc phúc cho các mẻ lưới. Coi này Thầy: Chỗ này là phần chúng ta”. Và ông giơ ra một rổ cá trắng bạc.
- Nguyện Thiên Chúa ban cho ông nhiều ơn vì lòng quảng đại của ông. Hãy chuẩn bị nó, và sau bữa tối, chúng ta sẽ ra ngoài bãi với các môn đệ.
Và họ đã làm như vậy. Mặt hồ có mầu đen về đêm trong khi chờ mặt trăng lên trễ. Người ta không nhìn thấy hồ, nhưng nghe thấy tiếng rì rào của nó, tiếng kêu lốp bốp của sóng đập vào các tảng đá ở bờ. Chỉ có những vì sao phi thường ở phía đông là soi mình trên mặt nước phẳng lặng. Họ ngồi vòng tròn chung quanh một chiếc thuyền nhỏ lật ngược mà Giêsu ngồi trên đó. Những đèn hiệu của các ghe được mang tới đây, ở giữa vòng tròn, hơi soi sáng cho những khuôn mặt ở gần nhất. Khuôn mặt Giêsu được soi sáng hoàn toàn từ phía dưới bởi một chiếc đèn đặt ở chân Người, và vì vậy, mọi người đều có thể nhìn thấy Người khi Người nói với người nọ người kia.
337
Lúc đầu là một cuộc đàm thoại thân mật, không kiểu cách, nhưng rồi nó thành giọng một bài giáo huấn. Giêsu nói rõ ràng:
- Hãy đến nghe, chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ chia tay, và Thầy muốn giáo huấn các con nữa để đào tạo các con.
Hôm nay Thầy đã nghe các con tranh luận với nhau, và điều đó không luôn luôn với tình bác ái. Với những người đầu tiên trong các con, Thầy đã cho giáo huấn này rồi. Nhưng Thầy cũng muốn cho một lần nữa, vì nó chẳng xấu gì đối với những người đầu tiên nếu họ nghe lại. Bây giờ thằng bé Benjamin không còn ở trước đầu gối Thầy nữa. Nó đang ngủ trong giường và nó mơ những giấc mơ ngây thơ, nhưng có lẽ tâm hồn trong trắng của nó đang ở giữa chúng ta. Nhưng cứ coi như có nó hay đứa trẻ nào khác ở đây để làm gương. Trong lòng các con, tất cả đều có cái định ý này: Là người thứ nhất trong nước Trời; và một sự tò mò: biết ai sẽ là người thứ nhất; và sau cùng, một sự nguy hiểm: cái ước ao còn nhân loại, được nghe trả lời: “Anh là người thứ nhất trong Nước Trời” bởi bạn bè nói đùa, hoặc bởi Thầy, nhất là bởi Thầy, người mà các con biết về tính cách xác thực và sự hiểu biết về tương lai.
Có phải vậy không? Các câu hỏi rung trên môi các con và sống động ở đáy lòng các con. Thầy, vì sự thoải mái cho các con nên chấp nhận sự tò mò này, mặc dầu Thầy ghê sợ sự nhượng bộ cho các tò mò loài người. Thầy các con không phải là thầy lang băm mà người ta hỏi han với giá hai đồng xu nhỏ giữa những ồn ào ở chợ; cũng không phải kẻ bị ám bởi thần trí mãng xà, kiếm tiền bằng cách đoán quẻ, để trả lời cho các đầu óc hẹp hòi của các người muốn biết tương lai để “tự hướng dẫn”. Con người không thể tự hướng dẫn bởi chính mình. Chính Thiên Chúa hướng dẫn nó nếu nó tin ở Người. Và sẽ vô ích để biết tương lai, hoặc để tin là người ta biết, nếu sau đó lại không có phương tiện để thay đổi cái tương lai đã được tiên tri. Chỉ có một phương tiện: Cầu xin Cha là Chúa, để tình thương của Người giúp chúng ta. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng: một lời cầu nguyện tin tưởng có thể biến một hình phạt thành một phúc lành. Nhưng kẻ chạy đến với loài người, để với tư
338
cách là loài người và bằng những phương tiện loài người, mong thay đổi được tương lai, là kẻ không hề biết cầu nguyện, hoặc biết cầu nguyện cách rất sai lầm.
Thầy, lần này, vì sự tò mò này, có thể cho các con một lời giáo huấn tốt, Thầy trả lời điều đó, mặc dầu Thầy ghê sợ những câu hỏi tò mò và thiếu trọng kính. Các con đã hỏi nhau: “Ai trong các con là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?”
Thầy, Thầy bỏ cái giới hạn “trong các con” đi, Thầy nới rộng câu hỏi tới cái giới hạn toàn thể thế giới, hiện tại và tương lai, và Thầy trả lời: Kẻ lớn nhất trong Nước Trời là kẻ bé mọn nhất giữa loài người, tức là kẻ mà loài người coi như “kẻ bé nhất”: Kẻ đơn sơ, khiêm nhường, tin tưởng, dốt nát, vì vậy là những đứa trẻ, và những người biết làm cho mình một tâm hồn trẻ nhỏ. Không phải khoa học, quyền lực, của cải hay các hoạt động, dù là tốt, làm cho các con thành “người lớn nhất” trong Nước Hạnh Phúc, mà là trở nên như những trẻ rất nhỏ bởi tình yêu, sự khiêm tốn, sự đơn sơ và đức tin.
Hãy quan sát: các trẻ nhỏ yêu Thầy chừng nào, và hãy bắt chước chúng. Chúng tin ở Thầy chừng nào, hãy bắt chước chúng. Chúng ghi nhớ những điều Thầy nói chừng nào, hãy bắt chước chúng. Chúng thực hành những điều Thầy dạy chừng nào, hãy bắt chước chúng. Chúng không kiêu căng về những điều chúng làm, hãy bắt chước chúng. Chúng không ghen tị với Thầy cũng như với bạn bè chúng, hãy bắt chước chúng. Thực vậy, Thầy bảo các con: Nếu các con không thay đổi cách suy nghĩ, hành động và cách yêu của các con, và nếu các con không làm lại mình theo khuôn mẫu của các trẻ nhỏ, thì các con sẽ không được vào Nước Trời. Chúng cũng biết những điều các con biết: những điều căn bản về giáo lý của Thầy, nhưng chúng thực hành cách khác các con biết bao về những điều Thầy dậy. Các con thì, với tất cả những hành động tốt mà các con đã làm, các con nói: “Tôi đã làm”. Trẻ nhỏ thì nó nói: “Giêsu ơi, hôm nay con đã nghĩ đến Thầy, vì thế con vâng lời, con yêu mến, con giữ một lòng ước ao phấn đấu... Và con bằng lòng, bởi vì con
339
biết Thầy bằng lòng khi con tốt”. Hơn nữa, hãy coi những đứa trẻ khi nó hành động xấu, nó thú nhận với Thầy cách khiêm tốn biết bao: “Hôm nay con đã ác, và điều đó làm con không vui, bởi vì con làm cho Thầy khổ”. Chúng không tìm cách bào chữa. Chúng biết rằng Thầy biết, chúng tin, chúng đau khổ vì sự đau khổ của Thầy.
Ôi! Các trẻ nhỏ, chúng thân thiết với con tim Thầy chừng nào! Nơi chúng không có kiêu căng, không phức tạp tráo trở, không dâm đãng! Thầy bảo các con: hãy trở nên như trẻ nhỏ, nếu các con muốn vào Nước Thầy. Hãy yêu các trẻ nhỏ như các mẫu gương thiên thần mà các con vẫn có thể có. Các con phải như các thiên thần. Để biện hộ cho mình, các con có thể nói: “Chúng tôi đâu có thấy các thiên thần”. Nhưng Thiên Chúa đã cho các con những trẻ nhỏ làm kiểu mẫu, và chúng thì các con có ở giữa các con. Và nếu các con thấy một đứa trẻ bị bỏ rơi về vật chất hay tinh thần và có thể chết, các con hãy tiếp nhận nó nhân danh Thầy, bởi vì chúng rất được Thiên Chúa yêu, và ai tiếp nhận một đứa trẻ vì danh Thầy là tiếp nhận chính Thầy, bởi vì Thầy ở trong tâm hồn các trẻ nhỏ là những đứa vô tội. Và ai tiếp nhận Thầy là tiếp nhận đấng đã sai Thầy, là Chúa, là Đấng Tối Cao.
Và các con hãy giữ mình để khỏi làm gương mù cho một trong những đứa trẻ mà mắt chúng nhìn Thiên Chúa. Người ta không được làm gương mù cho bất cứ ai, nhưng khốn nạn, ba lần khốn nạn cho kẻ nào phá lòng trong trắng vô tri của trẻ nhỏ. Hãy để chúng là thiên thần hết sức có thể của các con. Thế gian và xác thịt đã qúa ghê tởm cho linh hồn là thứ từ Thiên Chúa mà đến rồi! Và những đứa trẻ, với sự ngây thơ của chúng, chúng còn hoàn toàn là linh hồn. Hãy kính trọng linh hồn cũng như thân xác của trẻ nhỏ như các con kính trọng một nơi thánh. Trẻ nhỏ cũng là thánh, vì Thiên Chúa ở trong chúng. Và mọi thân xác đều là Đền Thờ của Thánh Linh, nhưng đền thờ của trẻ nhỏ thì thánh hơn và sâu xa hơn, và nó ở bên kia bức màn kép thánh. Cả đến đừng làm lay động tấm màn cao cả là sự vô tri về tà dâm bằng ngọn gió đam mê của các con. Thầy muốn có một đứa trẻ trong mọi gia đình, giữa mọi buổi hội
340
họp của người ta, để nó làm cái thắng cho dục vọng con người.
Đứa trẻ thánh hóa, sửa chữa, làm tươi mát, bởi dù chỉ một tia của ánh mắt không qủi quyệt của chúng. Nhưng khốn cho kẻ nào lấy đi sự thánh thiện của trẻ nhỏ bởi lối hành động gây gương mù của chúng! Khốn cho những kẻ di chuyển sự qủi quyệt của chúng cho trẻ nhỏ bằng lối sống phóng túng dâm dật của chúng. Khốn cho những kẻ mà lời nói và những mỉa mai của chúng làm tổn thương đến lòng tin của đứa trẻ nơi Thầy. Đối với tất cả những kẻ đó, tốt hơn là người ta buộc cối đá vào cổ chúng và quăng chúng xuống biển, để chúng chết chìm ở đó cùng với gương mù của chúng. Khốn cho thế giới vì những gương mù chúng làm cho trẻ nhỏ ngây thơ! Nếu gương mù xẩy ra không thể tránh được thì khốn cho kẻ nào gây ra gương mù bởi tội của nó.
Không ai có quyền được hành hung xúc phạm tới thân xác và sự sống của họ, vì sự sống và thân xác đến từ Thiên Chúa, và chỉ một mình Người có quyền lấy đi một phần hay toàn thể. Nhưng Thầy bảo các con rằng: nếu tay con gây dịp tội cho con, tốt hơn là con hãy chặt bỏ nó đi. Nếu chân con làm cho con nên gương mù, rất tốt là con chặt bỏ nó. Thà bị cụt tay cụt chân mà vào Sự Sống, còn hơn là bị quăng vào lửa đời đời với hai tay hai chân. Nếu chặt đi một tay hay một chân mà không đủ, thì hãy bảo người ta chặt cho cả tay kia hay chân kia nữa, để không còn thể gây gương mù và để có giờ mà sám hối trước khi bị quăng vào lửa không hề tắt, và bị gậm nhấm như sâu mọt tới muôn đời. Và nếu mắt con nên dịp tội cho con, hãy móc nó đi. Thà rằng chột còn hơn là vào hỏa ngục với hai mắt. Với một mắt, và cả đến không có mắt nào mà lên Trời, các con vẫn thấy Ánh Sáng, trong khi với hai con mắt gây dịp tội, các con sẽ thấy trong hỏa ngục những tối tăm và ghê sợ, không thấy gì hơn.
Các con hãy nhớ tất cả những điều đó. Đừng khinh thường các trẻ nhỏ, đừng làm gương mù cho chúng, đừng chế nhạo chúng. Chúng còn hơn các con, vì thiên thần của chúng không ngừng xem thấy Thiên Chúa, Người nói với các vị những chân lý cần tiết lộ cho trẻ
341
nhỏ và các kẻ có tâm hồn trẻ nhỏ.
Và các con, giống như các trẻ nhỏ, hãy yêu nhau, không cãi cọ, không kiêu căng. Hãy giữ sự bình an với nhau. Hãy có tinh thần bình an với mọi người. Các con là anh em nhân danh Chúa chứ không phải kẻ thù. Không có, không được có kẻ thù giữa các môn đệ của Giêsu. Kẻ thù duy nhất là Satan. Hãy là kẻ thù không nguôi nung nấu đối với nó. Hãy vào trận chiến đấu với nó, và với tội lỗi là cái mở đường cho Satan vào trong tâm hồn. Đừng mệt mỏi trong trận chiến chống lại điều ác dù dưới bất cứ hình thức nào.
Hãy kiên nhẫn. Không có giới hạn nào cho công việc của người tông đồ, vì công việc của sự ác không biết tới giới hạn. Ma qủi không bao giờ nói: “Đủ rồi, bây giờ tao mệt và tao nghỉ”. Nó không biết mệt. Nó đi từ người nọ qua người kia nhanh như tư tưởng và còn nhanh hơn nữa. Nó cố gắng, nó tấn công, nó quyến rũ, nó quấy nhiễu, nó không chấp nhận một sự ngưng nghỉ nào. Nó đột kích một cách phản bội và nó hạ đối phương nếu người ta không hết sức cẩn mật. Đôi khi nó xâm lăng và trị vì nhờ sự yếu đuối của kẻ nó tấn công. Những lần khác thì nó tới như người bạn, vì lối sống của con mồi mà nó tìm thì đã giống như đồng minh của nó. Lần khác nữa, vì bị một người đuổi, nó đi tìm và chộp lấy một con mồi dễ hơn để báo thù thất bại mà Thiên Chúa hoặc tôi tớ Thiên Chúa đã bắt nó chịu. Nhưng các con, các con cũng phải nói điều nó nói: “Đối với tôi, không có vấn đề nghỉ xả hơi”. Nó không nghỉ để làm đông đúc hỏa ngục, các con cũng không được nghỉ để làm đông đúc Thiên Đàng. Đừng cho nó nghỉ. Thầy bảo trước cho các con là: các con càng chiến đấu với nó, nó càng làm cho các con phải chịu đựng, nhưng các con không được kể tới điều đó. Nó có thể chạy rảo khắp trái đất nhưng không lên Trời được. Ở trên đó, nó không còn làm phiền các con được nữa. Và ở trên đó là tất cả những người đã chiến đấu với nó.
Giêsu thình lình ngừng lại và hỏi: “Nhưng tại sao các con luôn luôn gây phiền cho Gioan? Tóm lại, họ muốn cái gì ở con?”
Gioan đỏ rần như lửa, và Batôlômêo, Tôma, Iscariot cúi đầu vì
342
thấy mình bị lộ.
- Sao? - Giêsu hỏi cách hách dịch.
- Thưa Thầy, các bạn muốn con nói với Thầy một điều.
- Vậy nói đi.
- Hôm nay, trong khi Thầy ở trong nhà người bệnh, và chúng con đi vào các xóm như Thầy đã bảo, chúng con thấy một người không phải là môn đệ Thầy, và cả đến chúng con không bao giờ thấy anh ta trong đám những người nghe Thầy giảng. Anh ta nhân danh Thầy mà xua đuổi ma qủi trong một nhóm người hành hương đi Jêrusalem, và anh ta đã thành công. Anh ta đã chữa một người bị run khiến họ không thể làm việc, và anh ta trả lại tiếng nói cho một cô gái đã bị đột kích trong rừng bởi một thằng qủi đã mặc lốt con chó, và nó đã buộc lưỡi cô ta. Anh ta nói: “Cút đi, hỡi ma qủi bị nguyền rủa, nhân danh Chúa Giêsu, Đức Kitô, Vua bởi dòng Đavít, Vua Israel, Người là Vị Cứu Tinh và là Đấng Toàn Thắng, hãy chạy trốn trước danh Người”. Và thực sự ma qủi chạy trốn. Chúng con bực mình và chúng con cấm anh ta làm. Anh ta bảo chúng con: “Phải chăng tôi đã làm điều xấu? Tôi tôn vinh Đức Kitô bằng cách dẹp khỏi đường đi của Người những tên qủi không đáng được thấy Người”. Chúng con trả lời anh: “Anh không phải thầy trừ tà trong Israel, anh cũng không phải môn đệ Đức Kitô, anh không được phép làm điều đó”. Anh ta nói: “Người ta luôn luôn được phép làm điều tốt”. Và anh ta phản công chống lại mệnh lệnh của chúng con và nói: “Tôi sẽ tiếp tục làm điều tôi đã làm”. Đó, các bạn muốn con nói như vậy, nhất là bây giờ Thầy đã nói rằng trên Trời sẽ có tất cả những ai đã chiến đấu với Satan.
- Tốt, anh ta sẽ là một trong những người đó. Anh ta có lý và các con lầm. Các con đường của Chúa thì vô tận, và không phải chỉ những kẻ đi đường thẳng mới lên Trời. Ở mọi nơi, trong mọi thời, và với muôn ngàn cách, luôn luôn có những thụ tạo đến với Thầy, và có lẽ bởi cả những con đường mà lúc đầu là xấu, nhưng Thiên Chúa thấy sự ngay thẳng trong ý hướng của họ, và Người dẫn họ vào đường tốt. Cũng vậy, sẽ có những kẻ bởi say thứ tình dục chấp
343
ba, sẽ ra khỏi con đường tốt, và đi vào con đường dẫn họ ra xa, và cả đến làm họ lạc hoàn toàn. Vậy các con không bao giờ được xét đoán tha nhân. Một mình Thiên Chúa thấy. Các con hãy làm sao để đừng ra ngoài đường tốt, nơi mà ý Thiên Chúa, đúng hơn là ý muốn của các con, đã đặt các con vào. Khi các con thấy ai tin vào danh Thầy và hành động nhân danh Thầy thì đừng gọi họ là người lạ, là kẻ thù hay phạm thượng. Đó đúng là một trong những người của Thầy, là bạn và tín hữu, vì họ tin vào danh Thầy một cách hồn nhiên và tốt hơn nhiều người trong các con. Vì vậy danh Thầy ở trên môi họ đã thi hành những kỳ công giống như các con, và có lẽ còn hơn nữa. Thiên Chúa yêu họ vì họ yêu Thầy, và Người sẽ kết thúc bằng cách đưa họ về Trời. Không ai, nếu họ đã làm những phép lạ nhân danh Thầy, mà lại có thể là kẻ thù của Thầy và nói xấu về Thầy. Nhưng bởi hành động của họ, họ đã mang cho Đức Kitô vinh dự và chứng nhân của đức tin. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng: tin ở danh Thầy thì đã đủ để cứu linh hồn của chính mình, vì tên Thầy là Sự Cứu Rỗi. Vậy Thầy bảo các con: nếu các con còn gặp anh ta nữa thì đừng cấm anh ta, nhưng trái lại, hãy gọi anh ta là “anh em”, bởi vì thực sự anh ta là vậy, dù anh ta ở bên ngoài hàng rào của chuồng chiên Thầy. Ai không chống lại Thầy là hợp tác với Thầy. Kẻ không chống lại các con là hợp tác với các con.
- Chúa ơi, chúng con đã phạm tội sao? - Gioan hỏi, đầy hối hận.
- Không, các con đã hành động vì không biết và không độc ác, vậy không có tội. Nhưng trong tương lai, điều đó sẽ là một tội, vì bây giờ các con đã biết. Bây giờ chúng ta về nhà. Bình an cho các con.
41* BENJAMIN SẼ TRUNG THÀNH TỚI CHẾT
Rồi Giêsu nói:
Điều Cha đã nói với môn đệ nhỏ của Cha, Cha cũng nói với các con. Nước Trời thuộc về những con chiên trung thành, yêu Cha và theo Cha, không lạc lõng trong những ảo tưởng, và yêu Cha tới
344
cùng.
Và Cha nói với các con điều Cha đã nói với các môn đệ người lớn của Cha: “Hãy học nơi những trẻ nhỏ”. Không phải sự thông thái, giầu có, táo bạo, làm cho các con chiếm được Nước Trời. Không phải loài người, nhưng là khoa học của tình yêu làm cho người ta nên thông thái, giầu có, gan dạ một cách siêu nhiên. Tình yêu soi sáng cho hiểu chân lý biết bao! Nó làm cho nên giầu có để thu góp chân lý, nó làm cho gan dạ để chinh phục chân lý. Nó làm cho tin tưởng biết bao, an toàn biết bao!
Hãy làm như thằng bé Benjamin, bông hoa nhỏ đã ướp thơm con tim Cha buổi chiều hôm đó. Nó đã cho nghe một khúc nhạc của các thiên thần, che lấp đi cái mùi nhân loại sôi lên giữa các môn đệ, và sự ồn ào vì các tranh luận thuộc loài người.
Các con muốn biết sau này Benjamin sẽ thế nào không? Nó sẽ vẫn là con chiên nhỏ của Đức Kitô khi nó bị mất vị Mục Tử Vĩ Đại của nó, vì Người trở về Trời. Nó sẽ xin làm môn đệ của kẻ giống Cha hơn cả và nhận từ tay người đó phép rửa và tên Étienne, vị tử đạo tiên khởi của Cha. Nó sẽ trung thành tới chết. Và cùng với nó là cha mẹ nó, được dẫn tới đức tin nhờ gương mẫu của vị tông đồ nhỏ trong gia đình họ. Nó không được biết đến ư ? Rất nhiều người không được biết đến bởi loài người, nhưng ở trong nước Cha, Cha biết, và họ được phúc vì vậy. Nổi tiếng ở thế gian không thêm được một tia nào vào hào quang của các thánh.
Gioan nhỏ ơi! Hãy bước đi, luôn luôn để bàn tay con trong bàn tay Cha. Con sẽ đi cách an toàn và tới được nước Trời. Cha sẽ không bảo con: “Hãy vào”, nhưng Cha nói: “Tới đây”, và Cha ẵm con trong tay Cha và đặt con vào chỗ mà tình yêu của Cha đã sửa
soạn cho con, một chỗ mà tình yêu của con đáng được. Hãy đi bình an. Cha chúc lành cho con.
42* BÁNH HÓA NHIỀU LẦN THỨ HAI
345
Chúa Giêsu nói :
Maria ơi, con hãy nói: “Con đây” như những vì sao mà lời tiên tri đã nói, và đầy vui mừng, hãy đến nghe Cha.
Đây là chiều áp Lễ Hiện Xuống. Đấng Khôn Ngoan không phải chỉ đến một lần với lửa của Ngài. Ngài xuống luôn luôn để ban ánh sáng của Ngài cho các con. Chỉ cần các con yêu Ngài và tìm Ngài như kho tàng qúi báu. Thế giới hư đi vì nó chế nhạo Đấng Khôn Ngoan và xua đuổi Ngài bằng cách đi ở ngoài con đường của Ngài. Con người đã tích góp trong tâm trí họ rất nhiều khoa học, nhưng họ còn dốt hơn thời kỳ sơ khai. Khi đó họ biết tìm con đường của Chúa và mở tâm hồn ra để đón nhận lời Người. Bây giờ họ tìm đủ thứ, ngoại trừ những thứ phải tìm. Và họ chất đầy con người của họ bằng những lời vô ích và nguy hiểm, mà không tìm những lời sẽ là sự sống cho họ.
Baruc nói: “Chúa không chọn những kẻ to lớn để thông cho họ những lời của Đấng Khôn Ngoan”. Không, Chúa không chọn những kẻ lớn, Người không chọn họ, dù họ là người đời hay người đã thánh hiến, những người mà các con rất tin chỉ vì các con đầy kiêu căng, nhưng trước mắt Cha, các con còn kém hơn các con ve sầu kêu inh ỏi. Chúa không nhìn các bằng cấp và các chức vụ của các con, cũng không nhìn y phục và tên tuổi mà các con mang. Tất cả những thứ đó chỉ là cái hào nhoáng ở trên cái mà Thiên Chúa nhìn để đo lường giá trị: Tâm hồn. Nếu tâm hồn các con không cháy lửa bác ái, quảng đại trong hy sinh, khiêm nhường, trong trắng, thì không, Chúa không chọn các con làm những kẻ ưu ái của Người, để ủy thác những kho tàng khôn ngoan của Người.
Không phải các con là người có thể nói với Cha: “Tôi muốn làm kẻ biết”. Chính Cha là người có thể nói: “Ta muốn người này biết”. Cha có thể thương các con, cả điều này nữa, vì các con khốn nạn, các con bị nhiễm thứ bệnh cùi xấu nhất. Nhưng về việc chọn các con làm kẻ ưu ái của Cha thì không, các con không đáng.
Hãy biết làm sao cho xứng đáng điều đó bằng một đời sống chính trực trong mọi sự. Nếu các con gìn giữ đức tin đối với những điều bó buộc nặng nề nhất, nhưng các con thiếu sót những điều ít tỏ tường hơn nhưng sâu xa hơn, thì các con không chính trực, các con không còn là vậy nữa. Sự ghen ghét mà các con có này chỉ là một lý do con người, nó khoác chiếc áo lừa đảo của sự nhiệt thành, còn ý hướng thì không ngay thẳng, và nó không có giá trị gì.
Và con, hãy đến đàm thoại với Thầy con. Hãy đến để Cha kéo con ra khỏi nấm mồ đau đớn, và để Cha không làm nặng nề cho con bởi một thị kiến oai nghiêm khủng khiếp mà con đã thấy trước đây rồi. Về sự sống lại của kẻ chết, hãy chỉ duy trì khía cạnh thiêng liêng được áp dụng vào sự trang trọng hiện tại. Chính Thánh Thần của Thiên Chúa ở trong các con ban cho các con Sự Sống. Hãy yêu Người, hãy khẩn cầu Người, hãy trung thành với Người. Con sẽ được Sự Sống và sự Bình An. Sự Sống ở bên kia thế giới, sự Bình An ngay từ ở trái đất này.
Tôi thấy một nơi, chắc chắn không phải là đồng bằng, cũng không phải miền núi. Có những ngọn núi ở phía đông, nhưng chúng rất xa. Rồi có một thung lũng nhỏ và những vùng đất bằng và thấp;
346
những cao nguyên đầy cỏ. Hình như đây là những cái sườn đầu tiên của một dẫy đồi. Đất đai khô cằn, không có cây lớn, chỉ có cỏ ngắn và thưa rải rác trên đất sỏi. Có những bụi gai mọc đó đây. Về phía tây, chân trời rộng mở mênh mông và sáng sủa. Tôi không thấy cảnh thiên nhiên nào khác hơn. Hãy còn là ban ngày, nhưng tôi thấy buổi chiều đã bắt đầu, vì trời phía tây đỏ mầu hoàng hôn; các ngọn núi ở phía đông đã tím mầu trong ánh sáng đang chuyển thành hoàng hôn. Một sự khởi đầu cho hoàng hôn làm tối sầm các hố sâu, và các phần cao hơn có mầu hầu như tím.
Giêsu đứng trên một tảng đá lớn. Người nói với một đám rất đông ngồi tràn trên cao nguyên. Các môn đệ bao quanh Người. Người có vẻ cao lớn hơn trên cái bệ thô sơ của Người, cao bên trên đám đông của những người thuộc mọi lứa tuổi và mọi tầng lớp vây quanh Người.
Chắc hẳn Người đã hoàn thành những phép lạ, vì tôi nghe Người nói: “Không phải với Thầy, mà là với đấng đã sai Thầy, các con phải dâng lời ca tụng và lòng biết ơn. Và lời ca tụng, không phải chỉ những lời giống như hơi thở, phát ra khỏi cặp môi sao lãng, nhưng là những lời thoát ra từ con tim, là những tình cảm thực sự của con tim các con. Những lời đó làm vui lòng Thiên Chúa. Mong rằng những người đã được chữa lành biết yêu Chúa bằng tình yêu trung thành, và cả cha mẹ bà con của kẻ được lành cũng hãy yêu Người. Do ơn huệ về sức khoẻ lại phục hồi, đừng sử dụng nó cách không tốt. Hãy sợ các bệnh tật về tâm hồn hơn là các bệnh về thể xác. Đừng có ý muốn phạm tội, vì mọi tội lỗi đều là chứng bệnh, có những tội có thể làm cho chết. Vậy bây giờ tất cả các con đều được vui mừng, đừng phá hủy phúc lành này của Thiên Chúa bởi tội lỗi là thứ làm khô cạn niềm vui của các con, vì những hành động xấu sẽ lấy mất sự bình an, và ở đâu không có bình an thì không có niềm vui. Hãy thánh, hãy trọn lành như Cha các con muốn. Người muốn vậy vì Người yêu các con, và Người muốn ban Nước Người cho những kẻ Người yêu. Nhưng trong nước thánh thiện của Người, chỉ có thể vào đó những kẻ mà sự trung thành với Lề Luật đã làm cho
347
nên trọn lành. Bình an của Thiên Chúa ở cùng các con”.
Giêsu nín lặng. Người khoanh tay trước ngực, và đứng khoanh tay như vậy, Người quan sát đám đông ở quanh Người, rồi Người nhìn hết những vùng chung quanh. Người ngước mắt lên bầu trời quang đãng đang trở nên càng lúc càng tối theo độ ánh sáng giảm bớt. Người suy nghĩ. Người xuống khỏi tảng đá. Người nói với các môn đệ: “Thầy thương đám người này. Họ đã theo Thầy từ ba ngày, và họ không còn lương thực trong mình. Chúng ta ở xa mọi làng xóm. Thầy sợ những người yếu sẽ phải chịu đựng qúa nhiều nếu Thầy cho họ đi mà không cho họ ăn”.
- Vậy Thầy muốn làm sao? Thầy đã nói: chúng ta ở xa làng xóm. Trong nơi hoang vu này thì tìm đâu ra bánh? Và ai sẽ cho chúng ta đủ tiền để mua cho mọi người?
- Các con không có gì với các con sao?
- Chúng con có vài con cá và vài mẩu bánh, chỗ lương thực còn lại của chúng ta. Nhưng chỗ đó chả đủ cho ai cả. Nếu Thầy phát nó cho những người ở gần nhất thì sẽ gây ra cãi lộn, Thầy sẽ làm chúng con mất ăn mà chả ích gì cho ai cả - Đó là Phêrô nói.
- Hãy mang tới cho Thầy những gì các con có.
Họ mang đến cho Người một cái rổ nhỏ, ở bên trong có bảy miếng bánh. Đó không phải là những cái bánh nguyên, hình như đó là những miếng cắt ra từ một ổ bánh lớn. Rồi các con cá nhỏ. Đó là những con cá hèn nướng cháy.
- Hãy bảo đám đông ngồi xuống thành từng nhóm năm mươi người, và bảo họ bình tĩnh và yên lặng, nếu họ muốn ăn.
Các môn đệ, người thì đứng trên tảng đá, người thì trà trộn vào đám đông, vất vả để cho thi hành lệnh của Giêsu. Với sự khẩn khoản, họ thành công. Vài đứa trẻ khóc ri rỉ vì chúng đói và buồn ngủ, mấy đứa khác thì vì để làm cho chúng vâng lời, mẹ chúng hay người bà con chúng đã áp dụng biện pháp bạt tai.
Giêsu cầm bánh, đương nhiên là không cầm tất cả: mỗi lần hai miếng, mỗi tay một miếng. Người dâng hiến, rồi để xuống và chúc phúc. Rồi Người cầm các con cá nhỏ. Có qúa ít tới nỗi Người cầm
348
tất cả trong bàn tay dài của Người. Người cũng dâng hiến, rồi để xuống và chúc phúc.
- Bây giờ hãy lấy, đi vòng các đám đông và phát cho mỗi người cách dồi dào.
Các môn đệ vâng lời.
Giêsu đứng, bóng dáng trắng cao hơn tất cả mọi người ngồi thành những nhóm lớn trên khắp cao nguyên, quan sát và mỉm cười.
Các môn đệ đi, đi, càng lúc càng xa. Họ cho và cho mãi, nhưng cái thúng vẫn luôn luôn đầy đồ ăn. Mọi người ăn trong khi chiều xuống. Có một sự yên lặng thực sự và một bình an lớn lao.
43* PHÉP LẠ SIÊU NHIÊN:
SỰ TĂNG GẤP BỘI LỜI CHÚA
Chúa Giêsu nói:
- Đây là một điều khác làm phiền cho các vị tiến sĩ hay xét nét: việc áp dụng thị kiến này của Tin Mừng. Cha không làm cho con suy niệm về sức mạnh và lòng nhân từ của Cha, cũng không về đức tin và sự vâng lời của các môn đệ Cha. Không có gì về những thứ đó. Cha muốn cho con xem những điều tương tự của thời đó với công việc của Thánh Linh.
Con thấy: Cha ban lời Cha. Cha ban hết những gì các con có thể hiểu, và đồng hóa nó để làm cho nó thành lương thực của linh hồn. Nhưng các con đã làm cho mình thành qúa chậm hiểu bởi sự mệt mỏi và cái đói, đến nỗi các con không thể tiêu hóa được hết những lương thực trong lời Cha. Phải cho các con rất nhiều, rất nhiều, rất nhiều. Nhưng các con không biết đón nhận nhiều. Các con qúa nghèo nàn sức mạnh siêu nhiên! Điều đó đè trên các con mà không cho các con máu và sức mạnh. Đây, Thánh Linh thi hành những phép lạ cho các con, phép lạ siêu nhiên: sự tăng gấp bội lời Cha. Những lời này tăng bội lên trong các con khi nó soi sáng những ý nghĩa sâu kín nhất, mà không làm cho các con bị nặng nề bởi một trọng lượng đè bẹp các con mà không củng cố cho các con. Các con sẽ nuôi mình bằng các lời đó để không bị mệt lử và gục ngã dọc
349
con đường sa mạc của đời sống. Bảy mẩu bánh và vài con cá!
Cha đã giảng trong ba năm, và như tông đồ yêu Gioan của Cha đã nói: “Nếu người ta viết hết mọi lời mà Cha đã nói và kể mọi phép lạ mà Cha đã hoàn thành để cho các con một lương thực dư dật, có thể dẫn các con tới Nước Trời mà không yếu mệt, thì trái đất không đủ để chứa hết mọi tác phẩm”. Nhưng nếu điều đó được làm thì các con không thể đọc hết một khối lượng bản viết như vậy. Các con không đọc cả đến những điều các con phải đọc: một chút ít ỏi bản viết về Cha, điều duy nhất mà các con phải biết, giống như các con biết những từ ngữ cần thiết nhất từ tuổi nhỏ.
Vậy Đấng Tình Yêu đến và tăng bội lên. Người cũng là một với Chúa Cha và Cha, đã “thương các con là những kẻ chết đói”. Và bởi một phép lạ lặp đi lặp lại từ bao thế kỷ, gấp đôi, gấp mười, gấp trăm những ý nghĩa, những ánh sáng, lương thực của mỗi lời Cha. Như thế, đây là một kho tàng vô hạn của lương thực bởi Trời. Nó được tặng cho các con bởi tình bác ái. Hãy kín lấy nó, đừng sợ. Đây là hoa trái của Đấng Tình Yêu, tình yêu của các con càng kín lấy, nó càng gia tăng các đợt sóng của nó. Thiên Chúa không có giới hạn trong sự giầu có của Người và trong khả năng của Người. Các con thì tương đối, nhưng Người thì không. Người vô tận trong tất cả mọi công việc của Người, kể cả khả năng có thể cho các con vào mỗi giờ, trong mỗi hoàn cảnh, những ánh sáng mà các con cần cho lúc đó. Và giống như trong ngày lễ Hiện Xuống, Thánh Linh tỏa trên các tông đồ, làm cho các lời của họ được hiểu bởi người Parthe, Mèdes, Scythe, Capadocie, cho dân ở Pont và ở Phrygie, và trở nên giống như tiếng mẹ đẻ của họ cho người Ai Cập và Rôma, cho người Hy Lạp và Lybie. Cũng giống vậy, Người sẽ cho các con sự an ủi nếu các con khóc, cho các con lời khuyên nếu các con hỏi han, tham dự niềm vui nếu các con vui, bởi cùng một lời.
Ôi! Thực tế, nếu Thánh Linh soi sáng cho các con, thì câu: “Hãy đi bình an và đừng phạm tội”, là một phần thưởng cho kẻ không phạm tội, là sự khích lệ cho kẻ còn yếu đuối nhưng không muốn
350
phạm tội, là sự tha thứ cho kẻ có tội sám hối, là sự khiển trách ôn hòa của tình thương cho kẻ chỉ thoáng có ý định sám hối. Và đó chỉ là một câu, một câu đơn giản nhất. Nhưng có biết bao câu trong Tin Mừng của Cha! Biết bao, giống như các nụ hoa, sau một cơn mưa và một mặt trời của tháng tư, chen chúc nở ra trên cành, nơi trước tiên chỉ có một bông, và bao phủ kín cành để tặng niềm vui cho những ai chiêm ngắm.
Bây giờ con hãy nghỉ ngơi. Bình an của Tình Yêu ở với con.
44* BÁNH BỞI TRỜI
Bờ hồ Caphanaum đầy những người lên khỏi một tiểu hạm đội thật sự của các thứ thuyền đủ cỡ. Và những người đầu tiên lên bờ là đi ngay vào giữa các đám người để hỏi xem có nhìn thấy ông Thầy hay một tông đồ, hay ít nhất là một môn đệ không. Và họ đi tìm...
Sau cùng có một người trả lời: “Ông Thầy? Các tông đồ? Không. Các vị đã đi ngay sau ngày Sabát, và họ không trở lại. Nhưng họ sắp trở lại vì có các môn đệ. Tôi vừa nói với một người trong nhóm họ. Chắc chắn đó là một môn đệ lớn, anh ta nói giống như Jairô! Anh ta đã đi về căn nhà giữa cánh đồng, theo lối bờ biển”.
Người đàn ông đã đặt câu hỏi liền tung tin đi, và tất cả đều đi về nơi được chỉ. Nhưng sau chừng vài trăm mét dọc bờ biển, họ gặp tất cả nhóm môn đệ đang đi về Caphanaum, vừa đi vừa vẫy tay rối rít. Họ chào và hỏi: “Ông Thầy, Người ở đâu?”
Các môn đệ trả lời: “Hồi đêm, sau phép lạ, Người cùng với các người của Người lên thuyền về phía bên kia biển. Chúng tôi nhìn thấy cánh buồm dưới trăng sáng đi về miền Dalmanutha”.
- A! Đó! Chúng tôi đã tìm Người ở Magđala, trong nhà của Maria, nhưng Người không ở đó. Đáng lẽ... Các dân chài ở Magđala, họ có thể nói cho chúng tôi chứ !
- Họ không biết đâu. Có lẽ Người đã lên núi Arbêla để cầu nguyện. Đã một lần như vậy, hồi năm ngoái, trước lễ Vượt Qua. Lúc đó tôi đã gặp Người, nhờ một ơn rất trọng Chúa ban cho tôi tớ
351
hèn mọn của Người - Étienne nói.
- Nhưng Người không trở lại đây sao?
- Chắc chắn Người sắp trở lại. Người phải tạm biệt và ra các mệnh lệnh. Nhưng các ông muốn gì?
- Nghe Người nữa, theo Người, trở nên người của Người.
- Hiện thời Người đang đi về Jêrusalem. Các ông sẽ gặp Người ở đó. Và ở đó, trong nhà của Thiên Chúa, Chúa sẽ nói với các ông xem các ông theo Người có ích lợi không. Và cần thiết các ông cũng nên biết: Nếu Người không xua đuổi một ai, thì chúng ta lại khác, chúng ta có ở trong chúng ta những khuynh hướng xua đuổi Ánh Sáng. Kẻ có nhiều khuynh hướng này tới nỗi không phải chỉ là bão hoà nó - điều đó cũng chỉ là một ít tệ hại, vì Người là Ánh Sáng, và nếu chúng ta trở nên môn đệ của Người một cách thành thực, với một ý chí quyết định mạnh mẽ, ánh sáng của Người sẽ thấm nhập vào chúng ta và xua đuổi bóng tối cho chúng ta - nhưng nếu bị thấm nhuần khuynh hướng này và liên kết với nó như thớ thịt của thân mình, thì thà rằng đừng đến để khỏi phá bỏ cuộc sống rồi sau đó lại phải gây dựng lại. Hãy suy nghĩ kỹ để biết có thực sự qúi vị đủ sức để mặc lấy một tinh thần mới, một lối suy nghĩ mới, một ước muốn mới không. Hãy cầu nguyện để có thể biết sự thật về ơn gọi của qúi vị, rồi hãy đến, nếu qúi vị tin là có. Hãy xin Đấng Tối Cao, đấng đã hướng dẫn Israel trong cuộc hành trình của nó, hướng dẫn qúi vị trong cuộc chuyển qua này, để theo vết chân Con Chiên qua khỏi sa mạc về miền đất đời đời, về Nước Thiên Chúa - Étienne nói đại diện cho tất cả các bạn ông.
- Không! Không! Phải ngay lập tức! Lập tức. Không ai làm được như Người làm. Chúng tôi muốn theo Người - đám đông ồ ạt nói.
Étienne có một nụ cười rất ý nghĩa. Ông mở cánh tay ra và nói: “Bởi vì Người đã cho qúi vị dư thừa bánh ngon nên qúi vị muốn đến? Qúi vị tin rằng trong tương lai, Người chỉ cho qúi vị có vậy thôi sao? Người đã hứa cho những kẻ theo Người cả lố: Sự đau đớn, sự bách hại, sự tử đạo. Đó không phải là những hoa hồng, mà là những cái gai; không phải những vuốt ve mà là những bạt tai; không
352
phải bánh, mà là những cục đá. Tất cả đã sẵn sàng cho các Kitô. Và tôi nói như vậy mà không sợ phạm thượng, bởi vì các tín hữu trung thành thực sự của Người sẽ được xức thứ dầu thánh làm bằng ân sủng và sự đau thương của Người, và chúng ta sẽ được xức dầu để làm vật hy sinh trên bàn thờ, và làm các quân tướng trên Trời”.
- Này, có lẽ anh ghen! Anh đã là vậy, chúng tôi cũng muốn là thế. Người là Thầy cho tất cả.
- Tốt thôi. Tôi nói với qúi vị vậy bởi vì tôi yêu qúi vị và tôi muốn qúi vị biết thế nào là làm môn đệ của Người, để sau đó qúi vị khỏi phải là lính đào ngũ. Vậy chúng ta hãy đi chờ Người tất cả cùng nhau trong nhà. Hoàng hôn đã bắt đầu và là khởi đầu ngày Sabát. Người sẽ tới nghỉ ở đây trước khi khởi hành.
Họ tiến về thành phố, vừa đi vừa nói. Nhiều người hỏi han Étienne và Hermas, vì hai anh này, trước mắt các người Israel, có một ánh sáng đặc biệt, vì là học trò ưu ái của Gamaliel. Nhiều người hỏi: “Nhưng Gamaliel nói gì về Người?” Những người khác thì: “Có phải ông ta sai hai anh tới không?” Và người khác nữa: “Ông ta có khổ vì bị mất các anh không?” Hoặc là: “Ông Thầy nói gì về vị Đại Rabbi?”
Hai người trả lời cách kiên nhẫn: “Gamaliel nói về Giêsu Nazarét như nhân vật vĩ đại nhất của Israel”.
- Ôi! Lớn hơn cả Môise sao? - một số người nói, hầu như phẫn uất.
- Ông nói rằng Môise là một trong số nhiều vị tiền phong của Đức Kitô, nhưng ông ta chỉ là tôi tớ Đức Kitô.
- Vậy đối với Gamaliel, ông này là Đức Kitô? Đó là điều ông ta nói? Nếu Rabbi Gamaliel nói thế thì câu hỏi đã được giải quyết. Chính Người là Đức Kitô.
- Ông không nói như vậy. Ông chưa đi được tới chỗ tin, đó là sự bất hạnh của ông. Nhưng ông nói rằng Đức Kitô đã ở trên trái đất, vì ông ta đã nói với Người từ nhiều năm rồi, ông ta và hiền nhân Hillel. Và ông ta chờ dấu hiệu mà Đức Kitô đã nói với ông để nhận ra Người - Hermas nói.
353
- Nhưng ông đã làm cách nào để tin được rằng ông này lúc đó là Đức Kitô? Người đã làm gì? Tôi, tôi cũng già như Gamaliel, nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói rằng giữa chúng ta đã xảy ra những việc như Thầy đã làm. Nếu ông ta không bị thuyết phục bởi các phép lạ, thì ông đã thấy điều gì lạ lùng nơi Đức Kitô để có thể tin ở Người?
- Ông ta đã thấy Thầy được xức dầu bằng sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Đó là điều ông nói - Hermas trả lời.
- Vậy đối với Gamaliel, ông này là ai?
- Nhân vật vĩ đại, là Thầy và là vị tiền phong của Israel. Khi nào ông có thể nói: “Đó là Đức Kitô”, thì linh hồn khôn ngoan và ngay chính của ông, vị thầy thứ nhất của tôi, sẽ được cứu rỗi - Và Étienne nói để chấm dứt: “Và tôi cầu nguyện để việc đó được thực hiện với bất cứ giá nào”.
- Nếu ông không tin đây là Đức Kitô, tại sao ông sai các anh tới?
- Chúng tôi muốn tới. Ông đã để cho chúng tôi tới khi nói rằng: việc đó tốt.
- Có lẽ để biết và phúc trình với Đại Pháp Đình... - một người nói chen vào.
- Ông ơi, ông nói sao? Gamaliel là người ngay thẳng, ông không dò thám ai cả, nhất là dò thám cho kẻ thù của một người vô tội! - Étienne bực mình, anh ta có vẻ như một tổng thần, vì anh ta phẫn nộ, hầu như phát quang trong sự khinh bỉ thánh của anh.
- Nhưng chắc ông ta buồn vì mất các anh - một người khác nói.
- Có và không. Là một con người rất yêu chúng tôi thì có, là một tinh thần ngay thẳng thì không. Bởi vì ông đã nói: “Người hơn ta và trẻ hơn ta. Vậy khi nhắm mắt, ta được vững tâm về tương lai của các con khi biết rằng các con thuộc về Thầy của các thầy”.
- Và Giêsu Nazarét, Người nói gì về vị Rabbi?
- Ôi! Người chỉ có những lời cao cả cho ông.
- Người không ghen sao?
- Thiên Chúa không ghen - Hermas nói nghiêm nghị. “Đừng có những ức đoán phạm thánh”.
- Vậy đối với các anh, Người là Thiên Chúa? Các anh có chắc
354
chắn điều đó không?
Và cả hai nói cùng một lúc: “Chắc như chúng tôi đang sống lúc này”. Và Étienne kết thúc: “Qúi vị nữa, cũng hãy tin để được Sự Sống thật”.
Họ lại ở trên bãi, nơi đã trở thành chỗ hội họp, và họ băng qua để về nhà. Giêsu đang ở trước ngưỡng cửa và vuốt ve các trẻ nhỏ.
Các môn đệ họp đoàn với các người tò mò, và họ hỏi: “Thầy tới lúc nào vậy?”
- Mới được một lúc.
Khuôn mặt Giêsu còn vẻ oai nghiêm trang trọng, hơi xuất thần, điều Người thường có sau khi cầu nguyện lâu giờ.
- Thầy đã cầu nguyện à Thầy? - Étienne hỏi nhỏ tiếng vì kính trọng, và ông ta cúi mình cũng vì lý do đó.
- Ừ, con ơi. Con thấy như vậy ở đâu? - Giêsu hỏi khi đặt tay lên vuốt nhẹ mái tóc đậm mầu của ông.
- Trên khuôn mặt thiên thần của Thầy. Con là kẻ hèn mọn, nhưng hình dáng Thầy qúa trong sáng tới nỗi con đọc được những hồi hộp và những hành động của thần trí Thầy.
- Hình dáng con cũng trong sáng. Con là một trong những người biết sống bé nhỏ...
- Chúa ơi, vậy có cái gì ở trên mặt con?
- Đi riêng ra đây, và Thầy sẽ nói cho con - và Người cầm cổ tay ông, dắt ông tới một hành lang tối: “Đức bác ái, đức tin, sự trong trắng, sự quảng đại, sự khôn ngoan. Tất cả những điều đó Thiên Chúa ban cho con, và con đã biết vun xới nó, và con sẽ còn làm hơn nữa. Sau cùng, theo như cái tên của con, con sẽ có cái triều thiên bằng vàng ròng với một viên ngọc lớn sáng chói ở trên trán con. Trên vòng vàng và các viên đá có khắc hai câu: “Tiền định” và “Hoa trái đầu mùa”. Étienne, hãy sống xứng đáng với số phận của con. Hãy đi bằng an với phúc lành của Thầy”. Và Người lại để tay trên dầu tóc Étienne trong khi ông qùi xuống, rồi gục mặt để hôn chân Người. Rồi họ lại với những người khác.
- Những người này đến để nghe Thầy - Philíp nói.
- Ta không thể nói ở đây. Hãy lại giáo đường. Jairô sẽ bằng
355
lòng.
Giêsu đi đầu, theo sau là đoàn rước của những người khác. Họ tới ngôi giáo đường đẹp của Caphanaum. Jairô chào Giêsu. Người vào và ra lệnh mở tất cả các cửa để những người không thể vào có thể nghe Người từ ngoài đường và từ công trường ở bên cạnh giáo đường.
Giêsu tới chỗ của Người trong ngôi giáo đường bạn hữu này. May mắn, hôm nay vắng mặt các pharisiêu, có lẽ họ đã ra đi về Jêrusalem trong huy hoàng lộng lẫy. Và Người bắt đầu nói:
- Thật vậy, Thầy bảo các con: Các con tìm Thầy không phải để nghe Thầy, cũng không phải vì những phép lạ mà các con đã thấy, nhưng vì những bánh mà Thầy đã cho các con ăn no nê miễn phí. Ba phần tư trong các con tìm Thầy vì vậy, và vì tò mò nữa. Các con đến từ mọi miền của quê hương chúng ta, nhưng các con thiếu sự tìm kiếm tinh thần siêu nhiên, và bị thống trị bởi tinh thần nhân loại với những tò mò kém lành mạnh, hoặc ít nhất, bởi những bất toàn của trẻ con, không đơn sơ như các trẻ nhỏ, nhưng bị giảm thiểu như sự thông minh của một đầu óc trì độn. Và cùng với sự tò mò là tình dục và các tình cảm hư hỏng. Tình dục nó ẩn náu khôn khéo như ma qủi là cha nó, sau những vẻ bề ngoài và những hành động có vẻ tốt, và tình cảm hư hỏng chỉ là sự lạc hướng của tình cảm. Và giống như một bệnh, nó thấy cần và nó ước ao chất ma túy là thứ không phải loại thực phẩm đơn sơ, bánh tốt hay nước lành, dầu trong hay sữa đủ để sống, để sống mạnh. Tình cảm hư hỏng muốn những thứ khác thường để được kích động, để cảm thấy sự rợn mình làm thích thú, cái rùng mình bệnh hoạn của những kẻ tê liệt, cần có ma túy để cảm thấy cái ảo tưởng là mình liêm khiết và tráng kiện. Tình dục muốn thỏa mãn tính tham ăn mà không phải mệt mỏi, trong trường hợp này, là với thứ bánh không phải trả giá mồ hôi, vì Thiên Chúa ban nó bởi lòng tốt của Người.
Những ân huệ của Thiên Chúa không phải là thứ bình thường, chúng đặc biệt. Người ta không thể yêu sách nó, cũng không được buông thân lười biếng mà nói rằng: “Thiên Chúa sẽ ban nó cho tôi”. Đã chép rằng: “Ngươi sẽ ăn tấm bánh thấm ướt mồ hôi từ trán
356
ngươi”, tức là bánh có được do việc làm. Nếu đấng là Tình Thương đã nói: “Thầy thương đám đông này vì họ đã theo Thầy ba ngày và không còn gì ăn, và có thể ngã qụi dọc đường trước khi tới được Ippo ở bờ hồ, hoặc Gamala hay thành phố nào khác”, và đã cung cấp cho nhu cầu của họ, nhưng Người đã không nói là phải theo Người vì lý do này. Chính bởi một mục đích rất cao hơn một chút bánh được tiền định trở nên phân rác sau sự tiêu hóa, mà người ta phải theo Thầy, không phải vì thực phẩm chỉ làm đầy bụng, nhưng vì thực phẩm nuôi linh hồn, vì các con không phải chỉ là động vật phải gặm cỏ và nhai lại, hay bới chũi với cái mõm, và mập phì ra. Nhưng các con là những linh hồn! Các con là vậy! Xác thịt là quần áo, thực thể là linh hồn, chính nó là thứ bất tử. Xác thịt cũng giống như mọi thứ quần áo, hao mòn và chấm dứt, và không đáng được người ta bận rộn như một cái gì toàn vẹn, phải được cung cấp mọi săn sóc.
Vậy hãy tìm những gì chính đáng, đáng được tìm kiếm, đừng tìm những thứ bất chính. Hãy tìm kiếm cho các con, không phải thứ lương thực hay hư nát, mà là thứ lương thực tồn tại cho đời sống đời đời. Thứ lương thực đó, Con Người sẽ luôn luôn ban cho các con khi các con muốn. Vì Con Người luôn luôn để sẵn sàng tất cả những gì đến từ Thiên Chúa và có thể ban cho các con. Người là Chủ, một ông chủ đại độ giữ những kho tàng của Thiên Chúa Cha, đấng đã in trên Con Người dấu ấn của Ngài, để các con mắt ngay thẳng không bị lộn. Nếu các con có trong mình các con thứ lương thực không hư nát, các con có thể làm những công việc của Thiên Chúa, vì các con được nuôi bằng lương thực của Thiên Chúa.
- Chúng con phải làm sao để có thể làm được những công việc của Thiên Chúa? Chúng con giữ Lề Luật và lời các tiên tri, vậy chúng con đã được nuôi bằng Thiên Chúa và chúng con làm các việc của Thiên Chúa.
- Đúng vậy, các con giữ luật, hay đúng hơn là các con biết luật. Nhưng biết không phải là thi hành. Ví dụ chúng ta biết luật của Rôma, nhưng các người Israel trung thành không thực hành nó ngoại
357
trừ những công thức họ bị bó buộc bởi những điều kiện trong hoàn cảnh của họ. Ngoài ra chúng ta, Thầy nói về các người Israel trung thành, chúng ta không thi hành những tập quán dân ngoại Rôma, dù là ta hoàn toàn biết chúng. Luật và lời tiên tri mà tất cả chúng ta đều biết, đúng vậy, đã nuôi các con bằng Thiên Chúa, và bởi thế, nó cho các con khả năng làm những việc của Thiên Chúa. Nhưng để làm được những việc đó, nó phải trở nên một với các con, giống như không khí mà các con thở và đồ ăn mà các con đồng hóa, để cả hai biến thành sự sống và máu. Nếu nó chỉ trơ trơ như vật lạ, dù nó vẫn ở trong nhà các con, giống như một đồ vật ở trong nhà, dù nó quen thuộc và hữu ích, nhưng nếu thiếu nó, nó không làm cho các con chết. Trong khi... Ôi! Hãy thử nín thở vài phút, hãy thử không ăn uống gì trong nhiều ngày và nhiều ngày... Các con sẽ thấy là các con không thể sống. Cái tôi của các con cũng phải cảm thấy như vậy về việc bỏ cấp dưỡng lương thực của lề luật và lời tiên tri, bởi vì các con biết, nhưng không đồng hóa nó, và nó không trở nên một với các con. Chính vì vậy mà Thầy đến để ban cái tinh chất là không khí của lề luật và lời tiên tri, để ban máu và hơi thở cho linh hồn các con đang chết vì đói và ngạt. Các con giống như những đứa trẻ bị chứng bệnh làm cho nó mất khả năng nhận biết cái gì có thể nuôi chúng. Các con có những kho thực phẩm, nhưng các con không biết rằng phải ăn nó để biến nó thành chất sống, và nó phải thực sự trở nên các con, bằng một sự trung thành thực tình với luật Chúa, đã được nói qua Môise và các tiên tri cho tất cả các con. Vậy hãy đến với Thầy để có không khí và tinh chất của Sự Sống đời đời. Đó là một bổn phận. Nhưng bổn phận này giả định trước là các con có đức tin trong mình các con. Vì nếu ai không có đức tin thì họ không thể tin vào lời Thầy. Và nếu họ không tin thì họ không tới để nói với Thầy: “Hãy cho con thứ bánh thực”. Và nếu họ không có bánh thực thì họ không thể làm những việc của Thiên Chúa, họ không có khả năng để làm. Vì vậy, để được nuôi bằng Thiên Chúa, và để làm được các việc của Thiên Chúa, các con phải làm một điều căn bản, là điều này: “Tin vào Đấng Thiên Chúa đã sai đến”.
- Vậy Thầy sẽ làm những phép lạ nào để chúng con có thể tin
358
vào Thầy như vị được Thiên Chúa sai đến, và để có thể thấy nơi Thầy dấu ấn của Thiên Chúa. Những điều thầy đã làm, dưới một hình thức khiêm tốn hơn, các tiên tri đã chẳng làm sao? Môise cả đến đã vượt qua Thầy, bởi vì không phải chỉ một lần, mà là trong bốn mươi năm, ông đã nuôi cha ông chúng ta bằng một đồ ăn tuyệt vời. Đã chép rằng cha ông chúng ta, trong bốn mươi năm, đã ăn man-na trong sa mạc, bởi vậy đã nói rằng Môise đã cho họ ăn bánh từ trời xuống. Ông ta đã có thể như vậy.
- Các con sai lầm: không phải là Môise, mà là Chúa đã có thể làm việc đó. Trong sách Xuất Hành, ta đọc: “Đây, Ta sẽ làm mưa bánh từ Trời. Dân chúng hãy ra và lượm lấy vừa đủ cho mỗi ngày, và như vậy để Ta coi dân có bước đi theo Lề Luật của Ta không. Và ngày thứ sáu, họ hãy lượm gấp đôi vì kính trọng ngày thứ bảy là ngày Sabát”. Và mỗi buổi sáng, các người Hy Bá thấy sa mạc phủ đầy những chất li ti giống như thứ gì đã được giã nát trong cối, hay giống như mưa đá bụi, giống các hạt rau mùi, có mùi thơm của hoa, của bột trộn mật ong. Vậy không phải Môise, mà là Chúa đã làm ra man-na. Thiên Chúa có thể tất cả. Tất cả. Phạt và chúc phúc, lấy đi và ban cho. Và Thầy, Thầy bảo các con: trong hai điều, Người thích chúc phúc và ban cho hơn là phạt và lấy đi.
Môise, như được nói trong sách Giảng Viên: “Là người rất chí thiết với Thiên Chúa và loài người. Kỷ niệm về ông đã được chúc phúc, vì Thiên Chúa đã làm cho ông giống như các vị thánh trong vinh quang. Cao cả và khủng khiếp đối với kẻ thù, có thể tạo nên những kỳ công và làm cho nó chấm dứt. Vinh quang trước mặt các vua và toàn dân. Ông đã thấy vinh quang của Thiên Chúa và đã nghe tiếng Đấng Tối Cao. Ông là người canh giữ các giáo điều, các luật về đời sống và khoa học”. Cũng vậy, giống như sách Khôn Ngoan nói, Thiên Chúa, vì tình yêu đối với Môise, đã nuôi dân Người bằng bánh các thiên thần, và từ trời gửi xuống cho họ thứ bánh đã làm sẵn, không phải mệt nhọc, một thứ bánh ngon với hương vị êm dịu, và - hãy nhớ cho rõ điều sách Khôn Ngoan nói - và bởi vì đến từ trời, từ Thiên Chúa, và vì Người bày tỏ sự êm dịu
359
Thiên Chúa của Người đối với con cái Người, nó đã có cho mỗi người một hương vị mà họ muốn, và cho mỗi người được cái hậu qủa mà họ ước ao. Vừa ích lợi và ngon lành cho con nít, cho bao tử chưa hoàn bị của nó, vừa cho người lớn, cho khẩu vị và sự tiêu hóa mạnh mẽ của họ; vừa tốt cho các cô gái mảnh dẻ và các cụ già yếu. Vả nữa, để chứng tỏ rằng đó không phải là công việc của loài người, Thiên Chúa đã làm đảo lộn định luật của các yếu tố: Thứ bánh nhiệm mầu này lại chịu được lửa, trong khi lúc mặt trời (tức cũng là lửa) vừa soi sáng lúc ban mai là nó tan ra như sương giá. Vẫn luôn luôn là sách Khôn Ngoan: lửa quên đi bản tính tự nhiên của nó vì kính trọng công việc của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của nó, và vì nhu cầu của các kẻ công chính của Thiên Chúa, tới nỗi thông thường thì nó cháy để hành hạ, ở đây nó trở nên êm dịu để làm thoải mái cho những kẻ tín nhiệm nơi Thiên Chúa. Vì vậy, trong khi biến đổi theo mọi cách, nó được dùng như ân huệ của Chúa, nuôi mọi người tùy nhu cầu của kẻ cầu xin với Cha Hằng Hữu, để các con yêu của Người học biết rằng không phải việc tái sinh sản các hoa trái đã nuôi con người, nhưng chính là lời Chúa gìn giữ những kẻ tin ở Thiên Chúa. Qủa vậy, lửa không làm hư thứ man-na êm đềm này như nó có thể, dù là lửa cháy to và mạnh, trong khi chỉ một chút mặt trời êm dịu ban mai là làm cho nó tan, để con người nhớ và biết rằng phải tìm ân huệ của Thiên Chúa ngay từ khi bắt đầu một ngày và bắt đầu cuộc đời, và muốn có nó, phải đi trước ánh sáng, và thức dậy để ca ngợi Chúa từ giờ đầu tiên của buổi sáng.
Đó là những điều man-na dạy cho người Hy Bá, và Thầy, Thầy nhắc lại cho các con, vì đó là bổn phận phải tồn tại và sẽ tồn tại cho tới tận thế. Hãy tìm Chúa và các ơn Thiên Quốc của Người, không được lười biếng chờ tới giờ trễ trong ngày hay trong đời. Hãy thức dậy để ca tụng Chúa trước khi mặt trời thức giấc để ca tụng Người. Hãy nuôi mình bằng lời Người là những lời công nhận, bảo trì và dẫn dắt tới Đời Sống Thực. Không phải Môise đã cho các con bánh từ Trời, nhưng thực sự, đấng ban nó chính là Thiên Chúa Cha,
360
và bây giờ, thực vậy, chính Cha Thầy cho các con thứ Bánh thật, Bánh mới, Bánh đời đời từ Trời xuống, Bánh của Tình Thương, Bánh của Sự Sống, Bánh cho thế giới Sự Sống, Bánh làm no thỏa mọi cái đói, và làm tan biến mọi mệt nhọc, Bánh ban cho kẻ ăn nó được Sự Sống đời đời và niềm vui đời đời.
- Ôi! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ bánh này để chúng con không phải chết nữa.
- Các con sẽ chết như mọi người đều chết, nhưng các con sẽ sống lại cho cuộc sống đời đời nếu các con nuôi mình cách thánh thiện bằng Bánh này, bởi vì nó làm cho kẻ ăn nó không phải hư mất. Nó sẽ được ban cho những kẻ nào xin Cha Thầy với con tim trong sạch, với ý hướng ngay lành và với tình bác ái thánh thiện. Vì vậy Thầy đã dạy các con nói: “Xin Cha ban cho chúng con bánh hàng ngày”. Nhưng với những kẻ nuôi mình bằng Bánh này cách bất xứng, nó sẽ trở nên những lúc nhúc của các con sâu hỏa ngục, giống như man-na giữ lại ngoài mệnh lệnh đã ban. Và thứ Bánh của sức khỏe và của Sự Sống này sẽ trở nên cho họ sự chết và sự luận phạt. Vì sự phạm thánh cả thể nhất sẽ bị phạm bởi những kẻ đặt Bánh này trên chiếc bàn thiêng liêng hư thối dơ bẩn, và tục hóa nó bằng cách xáo trộn nó với sự ô trọc của đam mê bất trị của họ. Đối với họ, tốt hơn là đừng bao giờ ăn.
- Nhưng thứ bánh này ở đâu? Làm sao để tìm thấy nó? Nó có tên là gì?
- Thầy, Thầy là Bánh của Sự Sống. Người ta tìm thấy nó ở trong Thầy. Tên nó là Giêsu. Ai đến với Thầy sẽ không còn đói, ai tin ở Thầy sẽ không bao giờ còn khát, bởi vì những dòng sông từ Trời sẽ đổ vào lòng nó, dập tắt mọi nóng nảy về vật chất. Từ rày Thầy đã nói vậy với các con. Các con đã biết Thầy, nhưng các con không tin. Các con không thể tin là mọi vật hiện hữu là hiện hữu ở trong Thầy. Và như vậy là mọi kho tàng của Thiên Chúa đều ở trong Thầy. Mọi sự thuộc về trái đất đã được ban cho Thầy và vì vậy nơi Thầy qui tụ tất cả: các tầng Trời vinh hiển, trái đất phấn đấu, và cho tới nỗi đau khổ và chờ mong của cả khối những người đã chết
361
trong ân sủng của Thiên Chúa, tất cả đều ở trong Thầy, vì mọi quyền bính đều ở trong Thầy và cho Thầy. Và Thầy, Thầy bảo các con: Mọi sự Chúa Cha ban cho Thầy sẽ đến với Thầy, và Thầy không xua đuổi kẻ nào đến với Thầy, vì Thầy từ trời xuống, không phải để làm theo ý Thầy, mà làm theo ý đấng đã sai Thầy. Và ý của Cha Thầy, của Chúa Cha, đấng đã sai Thầy là: Thầy sẽ không làm mất đi một ai trong những kẻ Người đã ban cho Thầy, nhưng Thầy sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Bây giờ ý của Thiên Chúa Cha, đấng đã sai Thầy là: Ai nhận biết Chúa Con và tin ở Người thì được Sự Sống Đời Đời, và Thầy có thể cho họ sống lại trong ngày sau hết, khi Thầy thấy họ được nuôi bằng đức tin nơi Thầy, và được ghi dấu ấn của Thầy.
Có sự rì rầm không phải là kín đáo trong giáo đường cũng như ở bên ngoài vì những lời mới lạ và cương quyết của ông Thầy. Còn Người, sau một lát nghỉ lấy hơi, quay con mắt sáng quắc của Người về chỗ có sự ồn ào mạnh hơn, và chính xác, đó là chỗ của nhóm người Do Thái. Người lại bắt đầu nói:
- Tại sao các con lèo xèo? Đúng, Thầy là con trai bà Maria ở Nazarét, con gái của Joakim thuộc dòng Đavít, đồng trinh, dâng mình vào Đền Thờ, rồi kết hôn với Giuse con Jacob, dòng dõi Đavít. Nhiều người trong các con đã biết những vị công chính đã sinh ra Giuse, thợ mộc, dòng giống vương giả, và Maria, trinh nữ từ chồi vương giả. Điều này làm cho các con nói: “Làm sao ông này có thể nói mình từ trời mà xuống”? Và sự nghi ngờ nảy sinh ra trong các con.
Thầy nhắc lại cho các con lời tiên tri về sự nhập thể của Ngôi Lời, và Thầy nhắc lại cho các con rằng, đối với chúng ta, người Israel, còn hơn đối với tất cả những dân khác, điều thuộc về đức tin là: Đấng mà chúng ta không dám gọi tên, không thể nào lại cho mình một thân xác theo các định luật của loài người, và hơn nữa, lại là những định luật của một nhân loại bị truất phế. Đấng rất trong sạch, không bị tạo thành, nếu Người đã tự hạ tới nỗi tự làm người vì tình yêu loài người, chỉ có thể chọn cung lòng của một
362
Trinh Nữ trong trắng hơn hoa huệ, để mặc xác cho Thiên Tính của Người. Bánh từ Trời xuống vào thời Môise đã được đặt trong hòm bia bằng vàng, được che phủ và đặt trên chiếc bàn cầu phước, được canh giữ bởi các Kêrubim ở đàng sau các bức màn của Nhà Tạm, thì với Bánh là Lời của Thiên Chúa, rất chính đáng là phải như vậy. Vì sự trọng kính lớn lao nhất phải được dành cho hồng ân của Thiên Chúa và cho chiếc bàn để Lời rất thánh của Người. Vậy thì cái gì đã được sửa soạn bởi Thiên Chúa cho chính Lời Người và cho Bánh Thật từ Trời mà xuống? Một hòm bia còn bất khả xâm phạm hơn, qúi báu hơn hòm vàng, được đặt trên Bàn Cầu Phước qúi giá của ý muốn tinh tuyền hy sinh, được canh giữ bởi các Kêrubim của Thiên Chúa, được bao bọc bằng sự trinh khiết trong trắng, sự khiêm nhường trọn hảo, đức ái cao cả và tất cả những nhân đức thánh thiện nhất.
Vậy mà các con còn chưa hiểu là tình phụ tử của Thầy ở trên Trời, và bởi vậy Thầy đến từ Trời sao? Đúng, Thầy từ trời mà xuống để làm trọn sắc lệnh của Cha Thầy, sắc lệnh về sự cứu rỗi loài người theo những điều đã được hứa ngay từ lúc tuyên án phạt, và đã được nhắc lại cho các tổ phụ và các tiên tri. Nhưng điều đó là đức tin. Và Thiên Chúa ban đức tin cho những kẻ có tâm hồn thiện chí. Như vậy, không ai có thể đến với Thầy nếu nó không được dẫn đến cùng Thầy bởi Cha Thầy, đấng nhìn thấy họ ở trong nơi tối, nhưng với sự ước ao ánh sáng thực. Có lời tiên tri rằng: “Tất cả họ sẽ được Thiên Chúa giáo huấn”. Đó, lời đã được nói. Chính Thiên Chúa dạy cho họ phải tới đâu để được Thiên Chúa giáo huấn. Vậy mọi người, ở tận đáy lòng ngay thẳng của họ, đã nghe Thiên Chúa nói, và đã được Cha Thầy dạy để đến với Thầy.
- Vậy Thầy muốn ai là người đã nghe Thiên Chúa nói hay đã thấy dung nhan Người? - Nhiều người hỏi. Họ bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu bực bội và vấp phạm. Và họ chấm dứt bằng cách nói: “Ông sảng và ông bị ảo tưởng”.
- Không ai thấy Thiên Chúa ngoại trừ đấng từ Thiên Chúa mà ra. Đấng đó đã thấy Thiên Chúa, và Thầy, Thầy là đấng ấy. Và bây giờ hãy nghe bản kinh Tin Kính của đời sống tương lai, vì không có
363
nó, người ta không thể được cứu rỗi:
Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng: Ai tin ở Thầy thì có Sự Sống Đời Đời. Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng: Thầy là Bánh của Sự Sống Đời Đời.
Trong sa mạc, cha ông các con đã ăn man-na, và họ đã chết, vì man-na là một lương thực thánh, nhưng nhất thời, và nó cho đời sống trong thời kỳ cần thiết để đi về đất mà Thiên Chúa đã hứa cho dân Người. Nhưng Thầy là man-na không có giới hạn về thời gian và sức mạnh. Không những nó chỉ bởi Trời, mà nó còn Thiên Chúa, và nó sản xuất ra những thứ thuộc về Thiên Chúa: Không hư nát, có tính cách bất tử của kẻ đã được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh Người và giông giống như Người. Không phải nó chỉ kéo dài bốn mươi ngày, bốn mươi tháng, bốn mươi năm, bốn mươi thế kỷ, mà nó sẽ kéo dài bao lâu còn thời gian, và nó sẽ được ban cho những ai đói khát nó một cách thánh thiện, đẹp lòng Chúa, đấng sẽ vui thỏa để ban mình một cách không giới hạn cho con người, mà vì họ, Người đã nhập thể để họ có Sự Sống không bao giờ chết.
Thầy, Thầy có thể ban mình Thầy. Thầy có thể tự hóa thành chất thể vì tình yêu đối với loài người, theo cách: bánh hóa thành Thịt và Thịt trở thành Bánh cho cái đói thiêng liêng của loài người, mà không có của ăn này, họ sẽ chết vì đói và các chứng bệnh thiêng liêng. Nếu ai ăn bánh này cách công chính, họ sẽ sống đời đời. Bánh mà Thầy sẽ ban là thịt Thầy bị sát tế vì sự sống thế giới. Đó sẽ là tình yêu của Thầy đổ tràn ra trong các nhà của Thiên Chúa, để tất cả những ai yêu mến hay khổ sở, có thể đến bàn ăn của Chúa để tìm sự củng cố cho nhu cầu của họ, và tan hòa trong Thiên Chúa và được nâng đỡ trong đau khổ của họ.
- Nhưng làm sao Thầy có thể cho chúng con thịt Thầy để ăn? Thầy cho chúng con là loại gì? Loài man rợ? Loài sát nhân? Chúng con ghê tởm máu và tội ác.
- Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng rất nhiều lần con người còn hơn con mãnh thú, tội lỗi làm cho họ thành tệ hơn là man rợ, kiêu căng làm cho họ khát sát nhân, và không phải hết mọi
364
người hiện diện ở đây đều ghê tởm máu và tội ác. Và trong tương lai, con người sẽ là vậy, vì Satan, tình dục và kiêu ngạo làm cho họ thành con vật hung dữ. Và để thỏa mãn một nhu cầu lớn lao hơn bao giờ hết, là các con phải, và loài người sẽ phải chữa cho chính mình khỏi những mầm mống ghê sợ bằng sự thấm nhuần của thánh.
Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng nếu các con không ăn Thịt Con Người, và nếu các con không uống Máu Người, thì các con không có Sự Sống trong các con. Kẻ nào ăn Thịt Thầy và uống Máu Thầy một cách xứng đáng, thì nó có Sự Sống Đời Đời, và Thầy sẽ làm cho nó sống lại trong ngày sau hết. Vì Thịt Thầy là thực của ăn, và Máu Thầy là thực của uống. Ai ăn Thịt Thầy và ai uống Máu Thầy thì ở trong Thầy và Thầy ở trong nó. Như Chúa Cha hằng sống đã sai Thầy và Thầy sống bởi Chúa Cha, cũng thế, kẻ ăn Thầy sẽ sống bởi Thầy, và đi tới nơi Thầy sai nó đi, nó sẽ làm điều Thầy muốn. Nó sẽ sống khổ hạnh như một con người, và sẽ nồng nàn như một Sêraphim, và nó sẽ thánh. Vì để có thể nuôi mình bằng Thịt Thầy và Máu Thầy, thì nó sẽ tự cấm chỉ các tội lỗi. Nó sẽ sống trong khi nâng mình lên để hoàn tất việc đi lên của nó tới chân Thiên Chúa.
- Cái ông này điên rồi! Ai có thể sống kiểu đó được? Trong tôn giáo của chúng ta, chỉ có các thầy cả là phải tẩy rửa để dâng vật hy sinh. Ở đây ông ta muốn làm cho chúng ta thành từng ấy vật hy sinh cho cơn điên của ông ta. Cái giáo lý này qúa nặng nề và những lời này qúa khó nghe! Ai có thể nghe nó và thực hành nó được? - những người hiện diện lẩm bẩm, và nhiều môn đệ nổi danh cũng vậy.
Người ta vừa giải tán vừa phê bình. Có vẻ hàng ngũ các môn đệ đã giảm bớt rất nhiều khi Thầy ở lại trong giáo đường với số người trung thành nhất. Tôi không đếm, nhưng tôi thấy khoảng gần một trăm. Như vậy là có một sự đào ngũ đông đảo ngay cả trong hàng ngũ các môn đệ kỳ cựu, đã phục vụ Thiên Chúa một thời gian dài. Trong số những người ở lại có các tông đồ, Thầy cả Gioan và luật sĩ Gioan, Étienne, Hermas, Timon, Hermastê, Agape, Giuse,
365
Salômôn, Abel người Bétlem thuộc Galilê và Abel người cùi ở Corozain cùng với người bạn Samuel của ông, Êlia (người đã bỏ việc chôn cất cha để theo Giêsu), Philíp ở Arbêla, Aser và Ismael người Nazarét, và những người khác nữa mà tôi không biết tên. Tất cả những người này nói nhỏ tiếng và phê bình sự đào ngũ của những người khác, và những lời của Giêsu. Người đứng khoanh tay, suy nghĩ, tựa vào cái giá sách cao.
- Và các con, các con cũng bực bõ về những điều Thầy đã nói? Nếu Thầy lại nói với các con rằng một ngày kia các con sẽ thấy Con Người lên Trời, nơi Người đã ở trước, và ngồi bên Chúa Cha? Cho tới giờ này, các con đã hiểu, đã thấm nhuần, đã tin những gì? Các con đã nghe và lãnh hội bằng cái gì? Chỉ toàn bằng những gì là loài người. Chính thần trí làm cho sống và có giá trị. Xác thịt chẳng được việc gì cả. Các lời Thầy là thần trí và sự sống. Vậy phải nghe và hiểu nó bằng thần trí để có sự sống. Nhưng thần trí của nhiều người trong các con đã chết, vì họ không có đức tin. Nhiều người trong các con không thực sự tin, nên họ có ở lại bên Thầy cũng vô ích. Họ không có sự sống, chỉ có sự chết. Vì như Thầy đã nói: họ ở lại hoặc vì tò mò, hoặc vì tình cảm nhân loại, hoặc tệ hơn, vì những mục đích bất xứng. Họ không được dẫn tới đây bởi Cha Thầy để thưởng công cho thiện chí của họ, mà là bởi Satan. Thực vậy, không ai có thể đến với Thầy nếu không được Cha Thầy chấp nhận. Các con cũng hãy đi đi, những người ở lại cách khó khăn chỉ vì xấu hổ do việc bỏ rơi Thầy theo kiểu loài người. Nhưng các con sẽ còn xấu hổ hơn nếu ở lại phục vụ một người mà các con cho là “điên và cứng cỏi”. Đi đi, thà rằng các con ở xa để làm hại.
Nhiều người khác nữa rút lui khỏi hàng ngũ các môn đệ, trong số này có luật sĩ Gioan và Marc, người Gêrasa bị qủi ám được chữa lành bằng cách cho qủi vào đàn heo. Các môn đệ tốt hỏi ý nhau rồi chạy theo những người đã rút lui để cố gắng ngăn cản họ. Bây giờ trong giáo đường chỉ còn lại Giêsu, ông trưởng giáo đường và các tông đồ.
Giêsu quay về phía họ đang đau khổ đứng trong một góc, và
366
Người nói: “Các con cũng muốn bỏ đi không?” Người nói không chua cay, không buồn, nhưng rất nghiêm trang.
Phêrô trong cái đà đau đớn, nói với Người: “Chúa ơi, Thầy muốn chúng con đi đâu, đến với ai? Thầy là sự sống và tình yêu của chúng con. Một mình Thầy có những lời của Sự Sống đời đời. Chúng con biết rằng Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Nếu Thầy muốn thì hãy xua đuổi chúng con, nhưng về phần chúng con, chúng con không bỏ Thầy, cả đến... cả đến nếu Thầy không thương chúng con nữa...” Và Phêrô khóc, không ồn ào, với những giọt nước mắt lớn, Andrê cũng vậy. Gioan và hai người con ông Alphê khóc không cần giấu. Những người khác tái mét hay đỏ gay. Sau sự xúc động, họ không khóc nữa, nhưng rõ ràng là đau khổ.
- Tại sao Thầy lại phải đuổi các con? Không phải Thầy đã chọn mười hai các con sao?...
Jairô thận trọng, đã rút lui để Giêsu được tự do khích lệ hay quở trách tông đồ của Người. Khi Giêsu thấy rằng ông đã lặng lẽ rút lui, Người ngồi, vẻ bị đè nặng, tựa như điều Người mặc khải bắt Người phải trả một giá nỗ lực vượt trên những sự Người có thể làm. Mệt mỏi, chán ngán, đau đớn, Người nói: “Tuy nhiên một người trong các con là qủi”.
Lời nói rơi xuống từ từ, khiếp sợ, trong giáo đường, nơi chỉ có ánh sáng của nhiều ngọn đèn cháy vui... Không ai dám nói gì. Nhưng họ nhìn nhau, rùng rợn vì sợ, tự đặt câu hỏi lo âu, và bằng câu hỏi còn lo âu và kín ẩn hơn, mỗi người tự xét mình...
Không ai nhúc nhích gì trong một lúc. Giêsu ngồi yên trên ghế, tay bắt chéo trên đầu gối, đầu cúi... Sau cùng Người ngẩng mặt lên và nói: “Lại đây. Thầy đâu phải người cùi! Hay các con nghĩ Thầy là vậy?...”
Lúc ấy Gioan chạy nhanh lại, ôm ghì lấy cổ Người và nói: “Vậy thì cùng với Thầy trong bệnh cùi, tình yêu độc nhất của con; cùng với Thầy trong sự kết án, cùng với Thầy trong cái chết, nếu Thầy tin là những thứ đó đang chờ Thầy...” Còn Phêrô thì bò lại chân Người, cầm hai chân để lên hai vai ông và nức nở: “Hãy đè bẹp
367
con, hãy dày xéo con dưới chân! Nhưng đừng làm con nghĩ rằng Thầy nghi ngờ Simon của Thầy”.
Những người khác thấy là Giêsu vuốt ve hai người đầu tiên, liền tiến lại hôn y phục của Người, tay Người, tóc Người... Chỉ có Judas là dám hôn lên mặt.
Thình lình Giêsu đứng dậy, tựa như Người đẩy ông ta thình lình, vì cử động của Người qúa bất ngờ, và Người nói: “Chúng ta hãy về nhà. Chiều mai, lúc đêm về, chúng ta sẽ đi Ippo bằng thuyền”.
45* MỘT MÔN ĐỆ MỚI: NICÔLAI NGƯỜI ANTIOCHE
Giêsu có một mình trên sân thượng căn nhà của Tôma tại Caphanaum. Thành phố rảnh rỗi trong ngày Sabát với số dân chúng đã giảm bớt, vì những người nhiệt thành trong việc thực thi Lề Luật đã lên đường đi Jêrusalem. Nhiều người đi cả gia đình với con nhỏ, chúng không thể bước lâu, vì vậy bó buộc người lớn phải nghỉ sau mỗi chặng ngắn. Do đó trong ngày, đã hơi mờ sương, lại thiếu những nốt vàng dễ thương của trẻ con.
Giêsu rất trầm tư. Người ngồi trên một cái ghế rất thấp, trong một góc, gần bức tường bao vây, quay lưng về phía cầu thang, có thể nói là bị che bởi bức tường. Người tì khửu tay lên đầu gối và úp mặt vào bàn tay, vẻ mệt mỏi, tựa như Người đau khổ. Người bị gián đoạn sự chiêm niệm bởi một đứa trẻ, vì nó muốn chào Người trước khi lên đường đi Jêrusalem: “Giêsu! Giêsu!” Nó kêu ở mỗi bậc thang. Nó không nhìn thấy Người, vì bức tường thấp che Người khuất tầm mắt của những người ở bên dưới.
Giêsu tập trung tới nỗi Người không nghe giọng nói nhẹ và bước chân chim... Khi đứa trẻ đã lên tới sân thượng, Người vẫn còn chìm trong vị trí đau đớn. Đứa trẻ như bị dọa nạt. Nó dừng lại ở bờ sân thượng, đặt ngón tay nhỏ của nó lên môi và suy nghĩ... Rồi nó quyết định và từ từ tiến lại... Bây giờ nó ở đàng sau Giêsu... Nó cúi
368
xuống để coi Người làm gì... Và nó nói: “Không, hãy ngoan, đừng khóc! Tại sao? Tại cái đám mất dạy hôm qua à? Ba con nói với Jairô rằng chúng không xứng đáng với Thầy. Nhưng Thầy không nên khóc. Con, con yêu Thầy nhiều, và cũng vậy, cả em gái con và Giacôbê với Tobie và Jeanne, và Marie, và Michée, và tất cả, tóm lại là tất cả các trẻ em Caphanaum. Đừng khóc nữa...” Và nó ôm cổ Người, vuốt ve. Sau cùng nó nói: “Nếu không, con cũng sẽ khóc, con sẽ khóc hoài trong suốt cuộc hành trình...”
- Không, Đavít, Thầy không khóc nữa. Con đã an ủi Thầy. Con có một mình à? Khi nào các con đi?
- Sau lúc hoàng hôn. Đi thuyền tới Tibêriat. Hãy đi với chúng con. Ba con yêu Thầy lắm, Thầy biết không?
- Thầy biết cưng à. Nhưng Thầy phải đi gặp các trẻ em khác... Thầy cám ơn con đã đến chào Thầy, và Thầy chúc lành cho con, bé Đavít. Hãy cho Thầy cái hôn từ giã rồi trở về với mẹ con. Bà có biết con ở đây không?...
- Không. Con chạy đi vì con không thấy Thầy ở với các môn đệ, và con đã nghĩ rằng Thầy khóc.
- Thầy không khóc nữa đâu. Con thấy đó. Hãy lại với má con. Có lẽ bà đang lo lắng tìm con. Chào. Chú ý các con lừa của các đoàn du mục. Con thấy không? Họ dừng lại ở khắp nơi.
- Nhưng có đúng là Thầy không khóc nữa không?
- Thật mà. Thầy hết đau rồi. Con đã lấy nó đi cho Thầy. Cám ơn con nhỏ của Thầy.
Nó phóng xuống cầu thang. Giêsu quan sát nó. Rồi Người lắc đầu, trở lại chỗ của Người, với sự chiêm niệm đau đớn của Người.
Một lúc qua đi. Mặt trời sắp lặn xuất hiện giữa vầng sáng.
Một bước chân khác nặng hơn tại cầu thang. Giêsu ngẩng mặt, Người thấy Jairô đi về phía Người. Người chào ông. Jairô đáp lễ Người bằng một kiểu chào đầy kính trọng.
- Làm sao ông lại ở đây, Jairô?
- Lạy Chúa, có lẽ con đã có lỗi. Nhưng Thầy thấy trong lòng mọi người, Thầy thấy rằng trong qủa tim của con không có ý xấu. Con
369
đã không mời Thầy nói ở giáo đường bữa nay, nhưng con đã khổ biết bao cho Thầy hôm qua. Con đã thấy Thầy khổ đến nỗi... con không dám. Con đã hỏi các người của Thầy, họ đã bảo con: “Người muốn ở một mình”... Nhưng vừa nãy Philíp, ba của Đavít, ông ta nói với con là con trai ông nhìn thấy Thầy khóc. Nó nói rằng Thầy cám ơn nó vì nó đã đến với Thầy. Con cũng đến Thầy ạ. Những người còn ở lại Caphanaum sắp tụ họp ở giáo đường, và giáo đường của con là của Thầy, Chúa ạ.
- Cám ơn Jairô. Hôm nay những người khác sẽ nói tại giáo đường. Thầy, Thầy sẽ đến như một tín hữu thường...
- Thầy chẳng bó buộc phải tới đó. Giáo đường của Thầy là cả thế giới. Nhưng thực tình Thầy không tới sao?
- Không, Jairô, Thầy ở lại đây, trước mặt Chúa Cha là đấng hiểu Thầy và không tìm thấy lỗi ở nơi Thầy - một giọt nước mắt long lanh trong con mắt đau khổ của Giêsu.
- Con cũng vậy, con không tìm thấy lỗi ở nơi Thầy... Xin chào Chúa.
- Chào Jairô - và Giêsu lại ngồi xuống, luôn luôn trầm tư.
Con gái Jairô, nhẹ nhàng như chim câu trong bộ đồ trắng của nó. Nó đi lên, nó nhìn... Nó gọi nhè nhẹ: “Vị Cứu Tinh của con!”
Giêsu quay đầu, thấy nó, Người mỉm cười và bảo nó: “Hãy lại với Thầy”.
- Thưa Chúa, vâng. Nhưng con muốn dẫn Chúa đến cho những người khác. Tại sao giáo đường lại phải câm nín bữa nay?
- Có ba con với bao nhiêu người khác nữa để làm cho nó đầy lời.
- Nhưng đó là những lời... Lời Thầy, đó là Lời. Ôi lạy Chúa! Bởi Lời Thầy, Thầy đã trả con lại cho ba má con khi con đã chết. Nhưng xin hãy nhìn những người tới giáo đường! Nhiều người còn chết hơn con lúc đó. Xin đến để cho họ sự sống.
- Con ơi! Con thì con xứng đáng. Còn họ... Không một lời nào có thể ban sự sống cho kẻ đã chọn cái chết cho mình.
- Vâng, lạy Chúa, nhưng dù sao cũng xin đến. Cũng có những người luôn luôn sống nhiều hơn nhờ nghe Lời Thầy... Đến đi. Hãy
370
để tay Thầy trong tay con, và chúng ta đi. Con, con là bằng cớ của quyền phép Thầy, và con sẵn sàng làm chứng trước mặt cả những kẻ thù của Thầy, dù với giá bị mất sự sống thứ hai, là cái, vả nữa, không còn là của con. Thầy đã ban nó cho con, Thầy nhân từ, vì thương một người mẹ và một người cha. Nhưng con... - Cô gái trẻ, một cô gái đẹp, đã có vẻ một bà nhỏ, với đôi mắt dịu dàng trong sáng trên khuôn mặt trong trắng và thông minh. Cô ngừng nói vì một dòng nước mắt bóp nghẹn cô khi nó chảy từ đôi mi dài xuống má.
- Bây giờ tại sao con khóc? - Giêsu hỏi khi đặt tay trên đầu cô.
- Bởi vì... người ta nói với con rằng Thầy sẽ chết...
- Mọi người đều chết, con gái ơi!
- Nhưng không chết như Thầy nói! Con... Ôi! Bây giờ con không muốn lại trở nên sống, để khỏi phải thấy điều đó, để không phải ở đó khi... sự kinh khủng này xảy ra...
- Vậy con cũng sẽ không ở đó để cho Thầy sự khích lệ như con cho Thầy bây giờ? Con không biết rằng lời nói, dù chỉ là một lời nói duy nhất của kẻ trong sạch và kẻ yêu Thầy, sẽ lấy đi cho Thầy hết đau khổ sao?
- Có, ôi! Vậy thì Thầy không phải khổ nữa, bởi vì con yêu Thầy hơn yêu ba con, má con, và sự sống con!
- Phải như vậy.
- Vậy tới đi. Đừng ở một mình. Hãy nói cho con, cho Jairô, cho má con, cho thằng bé Đavít, tóm lại, cho hết những ai yêu Thầy. Chúng con đông, và sẽ đông hơn nữa. Nhưng đừng ở một mình, cái buồn sẽ đến - và theo bản năng làm mẹ như tất cả các phụ nữ ngay thật, nó chấm dứt bằng cách nói: “Với con ở bên cạnh Thầy, không ai làm hại Thầy được. Con sẽ bảo vệ Thầy”.
Giêsu đứng lên để cho nó cái vui này. Tay trong tay, họ băng qua các phố và đi vào giáo đường bằng cửa hông.
Jairô đang đọc lớn tiếng một ru-lô, liền ngừng đọc, cúi sâu và nói: “Thưa Thầy, con xin Thầy, hãy nói cho những người có lòng ngay thẳng. Xin sửa soạn Lễ Vượt Qua cho chúng con bằng những
371
lời thánh của Thầy”.
- Ông đang đọc Sách Các Vua phải không?
- Thưa Thầy vâng. Con cố gắng làm cho hiểu rằng kẻ xa lìa Thiên Chúa thật sẽ rơi vào thuyết ngẫu tượng của các con bò vàng.
- Ông nói rất đúng. Không ai muốn nói gì nữa sao?
Tiếng ồn ào nổi lên trong đám đông. Người thì muốn Giêsu nói, kẻ khác thì la: “Chúng tôi gấp, yêu cầu đọc lời cầu nguyện và chấm dứt buổi họp. Vả nữa, chúng tôi sẽ đi Jêrusalem, và ở đó chúng tôi sẽ nghe các rabbi”. Và những người la như vậy phần lớn là lính đào ngũ hôm qua mà ngày Sabát đã giữ họ lại Caphanaum.
Giêsu nhìn họ cách hết sức buồn và nói: “Qúi vị vội vã, đúng vậy. Thiên Chúa cũng vội vã để phán xét qúi vị. Vậy đi đi”. Rồi quay về với những người trách móc họ: “Đừng trách họ. Mỗi cây cho thứ trái của nó”.
- Chúa ơi. Xin nhắc lại cử chỉ của Nêhêmi! Hãy nói chống lại họ. Thầy là Thầy Cả Tối Cao! - Jairô bực bõ kêu. Các tông đồ đồng thanh với ông cùng với các môn đệ và các người Caphanaum.
Giêsu khoanh tay, rất xanh xao, vẻ như bị hành hạ nhưng rất êm dịu, Người kêu: “Ôi Thiên Chúa của con! Xin hãy nhớ tới con cách nhân từ. Và xin cũng nhớ tới họ cách nhân từ! Con, con tha cho họ”.
Giáo đường hết người, chỉ còn lại những kẻ trung thành với Giêsu... Ở trong góc có một người lạ. Một người đàn ông vạm vỡ mà không ai nhìn tới, cũng không ai nói với. Ông ta cũng không nói với ai. Ông chỉ nhìn Giêsu đăm đăm tới nỗi Người quay mặt lại hướng đó, nhìn thấy ông ta và hỏi Jairô cho biết đó là ai.
- Con không biết. Chắc là một người qua đường.
Giêsu hỏi ông: “Ông là ai?”
- Nicôlai, người tân tòng ở Antioche. Con đi Jêrusalem làm lễ Vượt Qua.
- Ông tìm ai?
- Thầy, Chúa Giêsu Nazarét. Con ước ao được nói với Thầy.
- Đi - và đi bên ông, Người vào khu vườn ở sau giáo đường để nghe ông.
372
- Ở Antioche, con đã nói chuyện với một trong các môn đệ của Thầy tên là Félix. Con nóng lòng ước ao được biết Thầy. Ông ta nói với con là Thầy ở Caphanaum và mẹ Thầy ở Nazarét, và Thầy cũng đi Gétsêmani hay Bêtani. Thiên Chúa đã làm cho con được gặp Thầy ngay ở nơi đầu tiên. Con đã ở đây hôm qua... Và sáng nay con ở rất gần Thầy khi Thầy khóc và cầu nguyện ở gần phôngten. Lạy Chúa, con yêu Thầy, vì Thầy thánh và hiền lành. Con tin ở Thầy. Các hành động của Thầy, các lời nói của Thầy đã làm cho con thành người của Thầy. Nhưng lòng thương xót của Thầy vừa lúc nãy với kẻ có tội đã làm con nhất quyết. Chúa ơi, xin nhận con vào thế chỗ cho những kẻ đã bỏ Thầy. Con đến cùng Thầy với tất cả những gì con có: đời sống và của cải. Tất cả - và ông ta qùi gối khi nói những lời sau cùng.
Giêsu nhìn ông đăm đăm... Rồi Người nói: “Hãy tới. Kể từ bữa nay, con thuộc về Thầy. Chúng ta hãy đến với các bạn của con”.
Họ trở lại giáo đường, nơi các tông đồ và các môn đệ đang đàm đạo lớn tiếng với Jairô.
- Đây là một môn đệ mới. Chúa Cha đã an ủi Thầy. Hãy yêu ông ta như người anh em. Chúng ta hãy cùng với ông đi chia sẻ bánh và muối. Rồi đến đêm, các con sẽ cùng với ông ta đi Jêrusalem. Còn chúng ta, chúng ta sẽ lấy thuyền đi Ippo... và đừng chỉ đường Thầy cho ai để Thầy không bị giữ lại.
Nhưng ngày Sabát đã chấm dứt, và những kẻ muốn trốn Giêsu đang tụ tập thành nhóm ở quảng trường để mặc cả chuyến đi Tibêriat. Họ cãi cọ với Zêbêđê vì ông này không muốn nhường chiếc thuyền của ông cho họ. Ông đã sẵn sàng nó ở bên cạnh thuyền của Phêrô để ra đi vào đêm với Giêsu và nhóm mười hai.
- Tôi đi giúp ông ta - Phêrô bực bõ nói.
Để tránh những đụng chạm mạnh, Giêsu giữ ông lại và nói: “Tất cả chúng ta đều đi, không phải một mình con”.
Và các vị đi... Họ nếm mùi chua cay khi thấy các kẻ trốn Người bỏ đi, không thèm chào hỏi, cắt đứt mọi bàn luận để lánh xa Giêsu... Và họ nghe thấy mấy hình dung từ khinh bỉ và những lời khuyên
373
chua cay cho các môn đệ trung thành.
Giêsu quay lại để trở về nhà sau khi đám người hận thù đã bỏ đi, và Người nói với người môn đệ mới: “Con có nghe họ không? Đó là những điều đang chờ con khi con đến với Thầy”.
- Con biết. Chính vì vậy mà con ở lại. Con đã thấy Thầy vào một ngày vinh quang giữa đám đông chào Thầy và tung hô Thầy là vua. Con đã nhún vai và nói: “Một ảo tưởng tội nghiệp nữa! Một hoạn nạn nữa cho Israel!” Và con đã không theo Thầy, bởi vì Thầy như một ông vua đối với con. Và cả đến con không nghĩ tới Thầy nữa. Bây giờ con theo, bởi vì con thấy Đức Messi được hứa trong các lời Thầy và lòng tốt của Thầy.
- Thực vậy, con công chính hơn nhiều người khác. Một lần nữa, Thầy bảo các con: những ai hy vọng ở Thầy một ông vua của trái đất thì họ hãy rút lui. Những ai cảm thấy xấu hổ trước cái thế giới kết án Thầy thì họ hãy rút lui. Những ai thấy nhục nhã bởi thấy Thầy bị đối xử như kẻ bất lương thì họ hãy rút lui. Thầy nói điều đó với các con trong khi các con còn có thể làm mà không bị mất danh giá trước mặt thế gian. Hãy bắt chước những kẻ chạy trốn trên những chiếc xuồng đó, nếu các con cảm thấy không đủ can đảm chia sẻ số phận nhục nhã của Thầy, để rồi sau đó có thể chia phần trong vinh quang của Thầy. Bởi vì điều này sẽ xảy ra: Con Người sắp bị kết án, rồi bị giao cho người ta để họ giết Người như kẻ bất lương, và họ tin là đã thắng. Nhưng họ sẽ phạm tội ác này một cách vô ích, vì sau ba ngay Thầy sẽ sống lại, và Thầy sẽ toàn thắng. Phúc cho những ai biết ở lại với Thầy tới cùng.
Họ đã tới nhà và Giêsu giao phó kẻ mới tới cho các môn đệ. Người một mình đi lên chỗ Người đã ở lúc trước. Người cũng vào căn phòng ở trên đó và ngồi suy nghĩ.
Một lát sau, Iscariot lên cùng với Phêrô: “Thưa Thầy, Judas làm con suy nghĩ tới những điều có vẻ đúng”.
- Hãy nói đi.
- Thầy nhận Nicolai, một người tân tòng mà Thầy không biết qúa khứ của ông. Chúng ta có và chúng ta đã có biết bao phiền
374
phức. Và bây giờ chúng ta biết gì về ông ta? Chúng ta có thể hãnh diện về ông không. Judas nói có lẽ đúng: Có thể đó là một người do thám của kẻ thù sai đến.
- Vâng, đúng! Một tên phản bội! Tại sao ông ta không muốn nói là ông ta từ đâu đến và ai đã sai ông ta? Con đã hỏi ông, ông chỉ nói: “Tôi là Nicôlai người Antioche, tân tòng”. Con, con rất nghi.
- Thầy nhắc với con rằng ông ta đến vì ông ta thấy Thầy bị phản bội.
- Có lẽ đó là tên nói dối! Có lẽ đó là tên phản bội.
- Người thấy kẻ nói dối hay phản bội ở khắp nơi là người có tâm hồn có khả năng làm điều đó, vì họ phán đoán theo khuôn mẫu của chính họ - Giêsu nói cách nghiêm trang.
- Chúa ơi, Thầy xúc phạm đến con! - Judas kêu lên cách phẫn uất.
- Vậy hãy bỏ Thầy và đi với những kẻ đã bỏ Thầy.
Judas đi ra và đóng cửa kêu phình rất mạnh.
- Nhưng, Chúa ơi! Judas không hoàn toàn sai... Và rồi con không muốn rằng người này nói tới Gioan. Chỉ có thể là người xứ Enđo, ông Félix đó, đã gởi ông ta cho Thầy...
- Chắc chắn. Nhưng Gioan là người khôn ngoan, và ông ta đã lấy lại tên cũ của ông. Hãy an lòng, Simon. Một người trở nên môn đệ vì biết rằng các nguyên nhân loài người của Thầy đã mất, chỉ có thể là một thần trí ngay thẳng. Ông ta rất khác với kẻ vừa đi ra, là kẻ đến với Thầy vì hy vọng được làm thủ tướng của một ông vua mạnh... và là kẻ không thể nhìn nhận được rằng Thầy chỉ là vua về thần trí.
- Thầy có những nghi ngờ về ông ta không, thưa Chúa?
- Không về ai cả. Nhưng thực vậy, Thầy bảo con rằng: nơi mà Nicôlai, môn đệ và tân tòng, sẽ tới được, thì Judas Simon, tông đồ và Israel, và Do Thái, sẽ không tới được.
- Chúa ơi, con muốn hỏi Nicôlai về... Gioan.
- Đừng hỏi. Gioan không ủy thác cho ông việc gì, vì ông ta khôn ngoan. Con đừng kém khôn ngoan.
375
- Chúa ơi, không. Con chỉ hỏi Thầy việc đó thôi.
- Hãy xuống và bảo làm bữa ăn lẹ lên. Khi đêm về, chúng ta sẽ đi... Simon... Con yêu Thầy không?
- Ôi! Thầy của con! Nhưng Thầy nói gì vậy?
- Simon ơi! Trái tim Thầy còn tăm tối hơn cái hồ trong đêm giông bão. Nó cũng vật vã như vậy...
- Ôi! Thầy của con!... Con phải nói gì với Thầy, nếu con còn tối tăm hơn và vật vã hơn Thầy? Con sẽ nói với Thầy: “Đây là Simon của Thầy. Nếu qủa tim con có thể khích lệ Thầy thì Thầy hãy cầm lấy nó”. Con chỉ có nó, và nó chân thành.
Giêsu tựa đầu Người vào chiếc ngực rộng và vạm vỡ một lát. Rồi Người đứng dậy và đi xuống với Phêrô.
46* GIÊSU ĐI VỀ GADARA
Giêsu đã ở trong miền phía bên kia bờ sông Giođan. Và theo như tôi hiểu, thành phố mà người ta nhìn thấy trên ngọn đồi kia là Gadara. Đó cũng là thành phố đầu tiên mà họ tới, kể từ khi lên bờ ở phía đông nam hồ Galilê. Họ đã lên bờ ở đó để tránh lên ở Ippo, vì các thuyền chở những người thù hận với Giêsu đã lên bờ ở đó trước rồi. Tôi nghĩ vậy là họ đã lên bờ ngay chỗ đối diện với Tarichée, nơi sông Giođan đổ vào hồ.
- Con biết con đường ngắn nhất để đi Gadara phải không? Con có nhớ không? - Giêsu hỏi.
- Thế nào! Khi chúng ta tới suối nước nóng ở bên trên Yarmoc, chúng ta chỉ còn có việc đi theo con đường đó - Phêrô trả lời.
- Vậy con suối, anh thấy nó ở đâu? - Tôma hỏi.
- Ôi! chỉ cần có mũi là tìm thấy nó. Người ta ngửi thấy nó trước khi tới nơi cả dặm. - Phêrô nói khi nhăn mũi ghê tởm.
- Tôi không biết rằng anh đã bị bệnh - Iscariot nhận xét.
- Bị bệnh? Tôi? Vậy hồi nào?
- Hé! Nếu anh biết rõ là cái suối nước nóng ở bên trên Yarmoc,
376
tức là anh đã tới đó.
- Tôi không bao giờ cần tới cái suối để được khỏe mạnh. Những chất độc của xương đã ra khỏi tôi cùng với mồ hôi của việc làm ngay thẳng của tôi... Vả nữa, quen với công việc nhiều hơn là vui chơi, nên chất độc nó vào trong người tôi rất ít...
- Nhận xét đó là dành cho tôi phải không? Đương nhiên là tôi có lỗi về mọi sự - Judas nói, vẻ bực bội.
- Nhưng ai đã cắn anh? Anh hỏi thì tôi trả lời giống như tôi trả lời cho Thầy hay cho các bạn. Tôi tin là không ai trong đám họ, dù là Mathêu, trước đây là dân chơi bời, cũng không bất bình vì vậy.
- Vậy thì tôi, tôi bất bình!
- Tôi không biết rằng anh dễ giận như vậy. Nhưng tôi xin anh miễn thứ về sự ám chỉ mà anh cho là có. Anh biết không? Vì tình yêu đối với Thầy. Thầy đã qúa khổ vì những người lạ, đừng để Người khổ vì chúng ta nữa. Hãy nhìn Người đó, thay vì chạy theo những ảo tưởng của anh, và anh sẽ thấy là Người cần bình an và tình yêu.
Giêsu không nói. Người bằng lòng nhìn Phêrô và mỉm với ông một nụ cười biết ơn. Judas không trả lời về nhận xét chính đáng của Phêrô, ông ta tự khép kín và bực tức. Ông ta muốn tỏ ra lịch sự, nhưng sự phật ý, sự cáu kỉnh, sự tỉnh ngộ mà ông có trong tim thoát ra trong cái nhìn của ông, trong giọng nói và khuôn mặt của ông, và ngay cả đến bước đi đầy ý muốn mạnh của ông. Ông đập phình phịch đế giầy, dậm chân trên đất cách giận dữ, tựa như muốn cho tất cả những gì đang sôi lên trong ông được tự do trào ra.
Nhưng ông cố gắng tỏ ra bình tĩnh và lịch sự. Ông không thành công, nhưng ông thử... Ông hỏi Phêrô: “Vậy làm sao anh biết nơi đó? Có lẽ anh đã tới đó cho vợ anh?”
- Không, tôi qua đó vào tháng Êtamin. Chúng tôi đã đi Auraniti với Thầy. Tôi đã hộ vệ mẹ Thầy và các nữ môn đệ cho tới đất của Chouza. Và khi từ Bozra tới, tôi đã đi qua đó - Phêrô trả lời thành thật và khôn ngoan.
- Anh có một mình à? - Judas hỏi cách mỉa mai.
377
- Tại sao? Anh nghĩ rằng tôi không đáng giá bằng nhiều người, khi đã lên tới cỡ được làm một việc tin cẩn, và hơn nữa, được làm việc đó vì tình yêu sao?
- Ôi! Kiêu ngạo chừng nào! Tôi muốn giá lúc đó được nhìn thấy anh!
- Anh sẽ thấy một người nghiêm chỉnh, đi hộ tống các bà thánh.
- Nhưng có đúng thực là anh đi một mình không? - Judas hỏi. Ông đã thực sự dấn thân vào một cuộc điều tra.
- Tôi đi với các anh của Chúa.
- A! Đó. Các lời thú nhận đã bắt đầu.
- Và anh bắt đầu chọc tức tôi. Người ta có thể nào biết được điều anh có.
- Đúng vậy. Thực xấu hổ! - Thađê nói.
- Đã đến lúc phải chấm dứt rồi đó - Giacôbê Zêbêđê chen vào.
- Anh không được phép chế nhạo Simon - Batôlômêo nói giọng quở trách.
- Và anh phải nhớ rằng ông ấy là thủ lãnh của tất cả chúng ta - Zêlote nói để chấm dứt.
Giêsu không nói gì.
- Ôi! Tôi chả chế nhạo ai cả. Tôi không có gì cả. Tôi chỉ chọc ông ấy tí để đùa thôi...
- Chẳng đúng. Anh nói dối. Anh đặt những câu hỏi ranh mãnh, vì anh muốn thiết lập một cái gì. Kẻ thâm hiểm tin là mọi người đều như nó. Ở đây không có gì bí mật cả. Tất cả chúng ta đều ở đó. Tất cả chúng ta đều làm cùng một việc: Điều mà Thầy ra lệnh, và không có gì khác. Anh hiểu không? - Juđa Thađê nói, bực mình thực sự.
- Im đi. Các con cãi nhau giống như đám đàn bà. Tất cả các con đều sai, và Thầy xấu hổ vì các con - Giêsu nghiêm nghị nói.
Một yên lặng sâu xa trong khi họ đi vào thành phố ở trên đồi. Tôma phá sự yên lặng khi ông nói: “Tởm qúa!”
- Đó là con suối. Đây là Yarmoc, và các xây cất này là khu tắm hơi của người Rôma. Hơi xa hơn, có một con đường đẹp lát đá dẫn
378
về Gadara. Các người Rôma muốn hành trình trong những điều kiện tốt. Gadara là một thành phố đẹp - Phêrô nói.
- Nó sẽ còn đẹp hơn, bởi vì ở đây chúng ta không gặp những... vật thể. Ít nhất là không có nhiều - Mathêu càu nhàu giữa hai hàm răng.
Họ đi băng qua cầu trên con sông trong khi hít phải mùi khó chịu của dòng nước lưu huỳnh. Họ đi men bên cạnh khu tắm hơi, len lỏi giữa các cỗ xe của người Rôma và đi vào một con đường đẹp, với những tảng đá lát rất rộng, dẫn tới thành phố trên đồi, đẹp tuyệt trong nội khu của nó.
Gioan lại bên Thầy: “Có phải đúng là tại chỗ con suối này, ngày xưa người ta đã đẩy một người bị kết án vào trong lòng đất không? Má con nói vậy với chúng con khi chúng con còn bé, để làm cho chúng con hiểu rằng người ta không được phạm tội, nếu không thì hỏa ngục sẽ mở ra dưới chân kẻ nào bị nguyền rủa bởi Thiên Chúa và nuốt lấy nó. Rồi để nhắc lại như một cảnh cáo, chỗ đó vẫn còn những vết nứt, từ đó thoát ra cái hơi này với sức nóng này, và cái dòng nước địa ngục này. Con sợ, không dám tắm ở đó...”
- Sợ cái gì con? Con đâu có bị hư hỏng vì nó. Bị hư hỏng bởi con người thì dễ hơn. Con người có hỏa ngục ở trong họ, từ đó tỏa ra sự ghê tởm và chất độc. Nhưng nó chỉ làm hư kẻ nào có khuynh hướng làm cho chính mình thành như vậy.
- Con có thể bị hư hỏng không?
- Không. Cho dù con sống ở giữa một đám qủi, không.
- Tại sao? Nó có gì khác với những người khác? - Judas Kêriot hỏi ngay.
- Điều nó có là: Nó trong sạch về mọi phương diện, vì thế nó nhìn thấy Thiên Chúa - Giêsu trả lời, và Judas cười nham hiểm.
Gioan trở lại với câu hỏi của ông: “Vậy con suối này không phải là miệng hỏa ngục?”
- Không. Trái lại, đó là những cái tốt mà Đấng Tạo Hóa đặt ở đó cho con cái Người. Hỏa ngục không khép kín trong trái đất. Nó ở trên mặt đất, Gioan ạ, ở trong tim người ta, và nó hoàn tất ở chỗ
379
khác.
- Nhưng hỏa ngục có hiện hữu thực sự không? - Iscariot hỏi.
- Anh nói gì vậy? - Các bạn ông hỏi, bực tức.
- Tôi nói: nó có thực sự hiện hữu không? Tôi, tôi không tin. Và tôi không phải là người duy nhất.
- Dân ngoại! - Họ kêu lên, vẻ kinh sợ.
- Không. Người Israel. Chúng ta có một số rất đông trong Israel không tin vào cái điều tán phét này.
“Vậy anh làm sao để tin vào Thiên Đàng? “, “Và vào sự công bằng của Thiên Chúa?”, “Anh để các kẻ phạm tội vào đâu?”, “Làm sao anh cắt nghĩa được về Satan...” Nhiều người la lên.
- Tôi nói điều tôi nghĩ. Vừa nãy người ta chửi tôi là nói dối. Tôi tỏ ra cho các anh là tôi chân thành, mặc dù là các anh bực tức vì vậy, hoặc là điều đó làm cho tôi trở nên ghê tởm trước mắt các anh. Dầu sao, tôi không phải người duy nhất trong Israel, từ khi Israel tiến bộ trong lãnh vực khoa học bởi những giao tiếp với nền văn minh Hy Lạp và Rôma là những dân có tư tưởng này. Và chính Thầy, một người duy nhất mà tôi kính trọng sự phán đoán, cũng không thể khiển trách tôi hay Israel, vì Người bảo vệ dân Hy Lạp và Rôma, và công khai làm bạn với họ... Tôi, từ cái triết thuyết này, tôi rút ra kết luận: Nếu tất cả đều được Thiên Chúa kiểm tra, thì tất cả những gì chúng ta làm đều là làm vì ý muốn của Người. Và vì thế Người phải thưởng cho chúng ta theo cùng một cách thế, bởi vì chúng ta chỉ là những người máy do Người phát động. Chúng ta là những vật thể không có ý muốn. Chính Thầy cũng nói điều đó: “Ý muốn của Đấng Tối Cao, ý muốn của Chúa Cha”. Đó là ý muốn duy nhất, và nó vô biên tới nỗi nó dày đạp và vô hiệu hóa ý muốn hạn hẹp của tạo vật. Cũng vì vậy mà trong điều thiện cũng như trong điều ác, được coi tựa như chúng ta làm, nhưng là chính Thiên Chúa làm, vì Người áp đặt nó. Vì vậy Người sẽ không phạt chúng ta về điều ác, và như vậy là Người thi hành sự công bằng của Người, vì điều lỗi của chúng ta không phải do ý muốn của chúng ta, nhưng nó bị áp đặt bởi đấng muốn cho chúng ta làm để cho có cả điều
380
thiện điều ác trên trái đất. Kẻ ác được dùng cho kẻ ít ác hơn có dịp để đền tội, và kẻ ác phải khổ vì nó không được coi là người tốt, và vì thế nó đền tội về phần nó. Giêsu đã nói vậy. Hỏa ngục ở trên trái đất và ở trong tim con người. Satan thì tôi chả cảm thấy nó. Nó không hiện hữu. Ngày trước tôi tin vào nó, nhưng từ ít lâu nay, tôi tin rằng đó chỉ là những điều tán phét. Khi người ta bị khuất phục tin vào điều đó thì người ta cảm thấy bình an.
Judas xổ ra những... thuyết lý này một cách vững vàng tới nỗi ông làm mọi người nín thở... Giêsu nín thinh, và Judas chọc Người: “Con có lý không Thầy?”
- Không - và tiếng “không” của Người khô tới nỗi nó giống như một sự bùng nổ.
- Nhưng con... Satan thì con chả cảm thấy nó, con không chấp nhận là có ý muốn tự do và ma qủi. Tất cả những người saddu đều đồng ý với con, và cùng với con, còn có nhiều người khác nữa, hoặc là người Israel, hoặc không. Không, không có Satan.
Giêsu nhìn ông, một cái nhìn phức tạp tới nỗi người ta không thể phân tích nó. Đó là cái nhìn của vị Thẩm Phán, của người Lương Y, của một kẻ đau khổ, của kẻ sửng sốt... cùng một trật là tất cả những cái nhìn đó...
Judas thấy được khích động nên nói để kết thúc: “Có lẽ vì tôi khá hơn những người khác, hoàn thiện hơn, nên tôi đã thắng được cái sợ của con người đối với Satan”.
Giêsu nín thinh nên ông ta khích động Người: “Nhưng nói đi chứ! Tại sao con không phải sợ?”
Giêsu vẫn nín thinh.
- Tại sao Thầy không trả lời? Thầy sợ à?
- Không. Thầy là tình bác ái. Tình bác ái giữ sự đoán xét lại cho tới lúc phải bó buộc đoán xét... Hãy để Thầy yên và tránh ra - Sau cùng Người nói vậy vì Judas tính ôm Người. Người kết thúc bằng tiếng thở dài vì tên phạm thượng dùng sức mạnh để ôm ghì lấy Người: “Con làm Thầy cảm thấy ghê tởm! Con không nhìn thấy, cũng không cảm thấy Satan, vì nó nên một với con. Lui ra! Ma
381
qủi!”
Judas trơ trẽ hôn người và cười, làm như Thầy đã nói với hắn cách kín đáo vài lời ca ngợi nào đó. Rồi hắn trở lại với những người khác đang sững sờ dừng chân lại. Hắn nói với họ: “Các anh thấy không? Tôi biết cách mở con tim của Thầy ra và tôi làm cho Người sung sướng, bởi vì tôi tỏ cho Người sự tin cậy của tôi và tôi nhận được những chỉ dẫn. Các anh thì trái lại, các anh không bao giờ dám nói, bởi vì các anh kiêu căng. Ôi! Tôi, tôi sẽ học được nơi Người nhiều hơn tất cả mọi người, và tôi có thể nói...”
Các đấng đã tới cửa thành và họ cùng vào trong đó với nhau, vì Giêsu đã chờ họ. Nhưng trong lúc băng qua lối vào, Giêsu ra lệnh: “Các anh của Thầy cùng với Simon vào trước đi để tụ họp dân chúng”.
- Tại sao Thầy không sai con? Thầy không cho con sứ mạng nào nữa sao? Thầy đã cho con hai sứ mạng liên tiếp, và nó đã kéo dài mấy tháng trời...
- Và con đã phàn nàn khi nói rằng Thầy muốn xa lìa con. Bây giờ con lại phàn nàn vì Thầy giữ con ở bên cạnh Thầy?
Judas không biết trả lời thế nào nên nín lặng. Hắn tiến lên trước cùng với Tôma, Zêlote, Giacôbê Zêbêđê và Andrê. Giêsu đứng lại để cho Philíp, Batôlômêo, Mathêu và Gioan đi qua, tựa như Người muốn ở một mình, và họ để cho Người tự do.
Nhưng con tim tình cảm của Gioan, người mà đôi mắt đã nhiều lần long lanh ngấn lệ trong lúc tranh luận và khi nghe những lời phạm thượng của Judas, làm cho ông cứ quay lại nhìn Giêsu. Người không biết là mình bị quan sát trong ngõ hẻm đơn độc và tối om bởi các cửa tò vò liên tiếp che khuất đường. Người để tay lên trán, có vẻ đau đớn, cúi gù như người rất khổ sở. Gioan liền tách rời các bạn ông để trở lại với Thầy ông: “Lạy Chúa con! Thầy làm sao? Thầy còn rất khổ, giống như khi chúng con gặp lại Thầy ở Aczib. Ôi! Lạy Chúa con!”
- Không sao, Gioan. Không sao. Hãy giúp Thầy bằng tình yêu của con. Hãy nín lặng đối với những người khác, và hãy cầu nguyện cho Judas.
382
- Thưa Thầy vâng. Anh ta rất khốn nạn, phải không? Anh ta ở trong tối tăm mà không biết là mình ở đó. Anh tin mình đã tìm được bình an... Bình an này có phải là bình an của Thầy không?
- Anh ta rất đáng thương - Giêsu nói như bị đè nặng.
- Thầy đừng khổ sở như vậy. Hãy nghĩ đến con số đông đảo các tội nhân đã chai đá trong tội, rồi đã trở nên tốt. Judas cũng sẽ như vậy. Ôi! Chắc chắn là Thầy sẽ cứu anh ta! Đêm nay con sẽ canh thức để cầu nguyện cho anh ta. Con sẽ xin Chúa Cha làm cho con thành người chỉ biết yêu. Con chỉ còn muốn điều đó thôi. Con mơ tới hiến mạng con vì Thầy, hoặc làm rạng ngời quyền năng của Thầy qua các công việc của con. Bây giờ không còn gì ngoài điều đó nữa. Con từ bỏ tất cả. Con chọn đời sống khiêm tốn nhất, công cộng nhất, và con xin Chúa Cha chuyển cho Judas tất cả những gì con có... để làm vui lòng anh ta... và để vì thế, anh ta quay về với sự thánh thiện... Chúa ơi... Con phải thưa Thầy một điều... Con tin rằng con biết tại sao Judas lại như vậy.
- Đêm nay con hãy tới. Chúng ta sẽ cầu nguyện chung với nhau, và chúng ta sẽ nói chuyện.
- Và Chúa Cha sẽ nghe con chứ ? Người sẽ nhận hy sinh của con?
- Chúa Cha sẽ chúc phúc cho con. Nhưng con sẽ phải khổ vì vậy.
- Ồ, không. Chỉ cần là con thấy Thầy được vui lòng... Và Judas... Và Judas...
- Ờ, Gioan. Họ gọi chúng ta kìa. Chạy mau lên.
Ngõ hẻm được thay thế bằng con lộ đẹp. Con đường trở thành một đại lộ, được trang điểm bằng những dẫy hành lang, các phôngten với các công viên càng lúc càng đẹp hơn. Nó giao nhau với một đại lộ khác tương tự, và chắc chắn tận cùng bằng một đại thao trường. Các người tàn tật đủ loại đã tụ tập tại một góc hành lang để chờ Vị Cứu Tinh.
Phêrô tới gặp Giêsu: “Họ đã duy trì đức tin về những điều chúng con đã nói về Thầy hồi tháng Êtamin. Họ đã đến ngay lập tức”.
- Và Thầy, Thầy sẽ đến ngay lập tức để thưởng cho đức tin của
383
họ. Chúng ta đi.
Và trong hoàng hôn đã nhuộm đỏ các tảng đá cẩm thạch, Người chữa cho những kẻ chờ Người với lòng tin.
47* BAN ĐÊM TẠI GADARA
VÀ CUỘC KHỞI HÀNH. SỰ LY DỊ
Những vì sao huy hoàng của một đêm trong sáng vào tháng ba đã rạng ngời trong trời phía đông. Chúng rõ ràng và sống động tới nỗi như bầu trời đã hạ thấp xuống, giống một cái lọng hoa trên sân thượng của căn nhà tiếp đón Chúa Giêsu. Đây là căn nhà rất cao, tọa lạc ở vị trí cao nhất của thành phố. Nó cho thấy chân trời vô tận mở ra ở trước mặt và ở chung quanh theo mọi hướng. Tuy trái đất đã biến đi trong đêm tối, mặt trăng vẫn chưa chịu vui đùa trong kỳ đang giảm của nó. Bầu trời huy hoàng với bao ngàn ngàn ánh sáng. Đúng là sự trả thù của bầu trời, nó phơi bày một cách chiến thắng những vườn hoa tinh tú của nó, các cánh đồng của giải Ngân Hà, các hành tinh khổng lồ, các chòm sao đối diện với các hoa cỏ phù du của trái đất, một hành tinh tuy đã lâu đời, nhưng luôn luôn chỉ là một giờ so với các ngôi sao kể từ khi Đấng Tạo Hóa dựng nên bầu trời. Và người ta thấy mình lạc lõng khi ngắm nhìn trời cao, dạo con mắt qua các con đường rực rỡ mà cây cối là các vì sao, người ta thấy mình như nghe thấy các giọng nói, các tiếng hát của các cánh rừng huy hoàng này, của chiếc phong cầm khổng lồ này, trong ngôi đại Thánh Đường cao cả nhất, nơi tôi thích tưởng tượng rằng các hộp gió và các âm vực là gió do hành trình của các vì sao, và âm thanh là các tinh tú phóng đi trong lộ trình của nó. Cảm tưởng này áp đặt trên tôi hơn là cái yên lặng tuyệt đối về đêm của Gadara đang yên giấc. Không một tiếng ca nào của các phông-ten, không một bài hát nào của chim chóc. Vũ trụ yên ngủ cũng như các tạo vật. Con người ngủ trong giấc điệp ít vô tội hơn các tạo vật khác. Họ ngủ hơn kém yên tĩnh trong căn nhà tối của họ.
384
Từ cái cửa mở ra ngoài sân thượng phía dưới - vì còn một sân thượng nữa ở bên trên tất cả các phòng - xuất hiện một bóng đen lớn, chỉ hơi nhìn thấy trong màn đêm, trông thấy được nhờ bóng trắng của khuôn mặt và bàn tay nổi lên trên y phục sậm mầu. Bóng đen này được theo sau bởi một bóng khác nhỏ hơn. Họ đi nhón gót để không đánh thức những người đang ngủ ở trong phòng phía dưới. Và nhón gót như vậy, họ đi lên cầu thang dẫn tới sân thượng trên cùng. Rồi cầm tay nhau, họ tới ngồi trên một cái ghế dài kê dọc theo lan can cao bao quanh sân thượng. Vì cái ghế dài rất thấp và lan can rất cao nên mọi sự đều biến mất khỏi tầm mắt họ, cho dù có một vầng trăng sáng rất đẹp chiếu xuống soi sáng cho trần gian, đối với họ cũng như không. Thành phố hoàn toàn bị lan can che khuất, và cùng với nó là các bóng tối đen nhất, tức là các ngọn núi ở chung quanh, hoàn toàn chìm trong màn đêm. Chỉ có bầu trời mở ra cho họ với các chòm sao mùa xuân. Chòm Xích Đạo với các ngôi sao huy hoàng: Rigel, Bételgeuse, Aldébaran, Persée, Adromède, Cassiopée, và các sao chòm Thất Tinh. Tất cả hợp nhất như chị em. Và ngôi Sao Kim mầu lam ngọc, sáng như kim cương; rồi mầu đỏ lợt của Sao Hỏa, mầu hoàng ngọc của Mộc Tinh... Đó là những ông hoàng của đoàn dân tinh tú. Tất cả đều nhấp nháy, nhấp nháy như để chào Chúa. Chúng gia tăng những ánh sáng lấp lánh để tôn vinh Ánh Sáng của trần gian.
Giêsu ngẩng mặt nhìn trời, tựa đầu vào bức tường lan can. Gioan cũng bắt chước, mất hút cái nhìn trên nơi cao thẳm, nơi người ta không còn biết đến trần gian nữa... Rồi Giêsu nói: “Bây giờ đã được thanh tẩy bởi muôn sao, chúng ta hãy cầu nguyện”. Người đứng dậy và Gioan làm theo. Một kinh nguyện dài, thầm lặng, khẩn khoản hết tâm hồn; tay khoanh, mặt ngửa lên trời, quay về hướng đông, nơi vừa báo hiệu ánh trăng đầu tiên. Sau đó họ đọc chung kinh “Lạy Cha” một cách nhẩn nha, không phải một lần, mà là ba lần, càng lúc càng tha thiết trong lời cầu của họ mà giọng đọc của họ bộc lộ rõ ràng. Một sự van nài phân chia tâm hồn ra khỏi thể xác, nồng nàn đến nỗi nó đặt họ vào con đường vô tận.
Rồi một lúc yên lặng. Sau đó họ ngồi xuống chỗ họ đã ngồi
385
trước, trong khi vầng trăng vẫn soi sáng càng lúc càng tỏ trên trái đất yên ngủ.
Giêsu quàng một cánh tay quanh vai Gioan để kéo ông về phía Người và nói: “Vậy hãy nói cho Thầy điều con cảm thấy cần phải nói. Gioan của Thầy đã nhìn thấy những gì, nhờ sự trợ giúp của Ánh Sáng siêu nhiên, trong tâm hồn tăm tối của người bạn?”
- Thưa Thầy, con hối hận vì đã nói với Thầy như vậy... Con đã phạm hai tội.
- Tại sao?
- Tại vì con sẽ làm cho Thầy khổ trong khi tiết lộ cho Thầy điều Thầy không biết, và... bởi vì... Thưa Thầy, là phạm tội khi nói điều xấu mà chúng ta nhìn thấy nơi kẻ khác, đúng vậy phải không? Vậy làm sao con có thể nói điều đó, vì lỗi đức bác ái... - Gioan rất lo lắng.
Giêsu soi sáng cho tâm hồn ông: “Hãy nghe đây Gioan: cái gì là quan trọng hơn đối với con: ông Thầy hay người đồng môn đệ?”
- Lạy Chúa, ông Thầy chứ! Chính Thầy là điều quan trọng hơn.
- Vậy Thầy là gì đối với con?
- Là khởi nguyên và cùng đích. Thầy là tất cả.
- Con có tin rằng Thầy, bởi vì Thầy là tất cả, vậy Thầy cũng biết tất cả những gì hiện hữu không?
- Lạy Chúa, có. Vì vậy nên con băn khoăn, vì con nghĩ rằng Thầy biết và Thầy khổ. Và bởi vì con nhớ có lần Thầy đã nói với con rằng đôi khi Thầy là con người, chỉ là một con người, và vì vậy Chúa Cha cho Thầy biết thế nào là một con người, một con người phải tự hướng dẫn mình theo lý lẽ. Và con cũng nghĩ rằng Chúa Cha, vì thương Thầy, có thể giấu Thầy những thực tại xấu xa...
- Gioan, hãy giữ mình con trong ý tưởng này và hãy nói. Với lòng tin tưởng, hãy ký thác cho đấng “là tất cả” cho con điều con biết. Đó không phải là một tội, vì đấng “là tất cả” không vấp phạm, không dèm pha, không thiếu bác ái, dù là trong tư tưởng, đối với kẻ khốn nạn. Sẽ là có tội nếu con nói điều con biết với một người có thể không hoàn toàn là tình yêu, ví dụ nói với bạn con chẳng hạn. Họ có thể dèm pha, và cả đến tấn công kẻ có tội, không thương
386
hại, như vậy làm thiệt hại cho kẻ ấy và cho chính họ. Qủa vậy, phải có tình thương. Tình thương phải luôn luôn lớn hơn đối với một linh hồn khốn nạn, phải khổ vì mọi thứ xấu. Một thầy thuốc, một y tá hay một bà mẹ, khi gặp một sự bất ổn đơn giản, ít xúc động, thì họ không lo lắng là bao để chữa trị. Nhưng nếu đứa con hay một người bệnh rất nặng, hòng chết, đã bị hoại thư hay tê liệt, thì họ phấn đấu chừng nào, vượt thắng mọi ghê tởm và mệt mỏi để chữa nó. Có phải vậy không?
- Thưa Thầy đúng vậy - Gioan nói khi ông đã lấy lại thái độ thông thường: quàng tay quanh cổ Thầy ông và tựa đầu vào vai Người.
- Vậy đó. Nhưng không phải mọi người đều biết thương các linh hồn bệnh hoạn. Vậy phải biết khôn ngoan để tiết lộ các bệnh tật của họ, để thế gian không lẩn tránh họ, và không làm thiệt hại cho họ bởi sự khinh dể. Một con bệnh thấy mình bị khinh dể sẽ trở nên tăm tối và bệnh sẽ nặng hơn. Nhưng trái lại, nếu người ta săn sóc họ với lòng tốt, nó có thể được lành, vì lòng tốt và tin cẩn của kẻ trợ giúp sẽ thấm nhập vào họ, và giúp cho phương thuốc có công hiệu. Con biết rằng Thầy là Tình Thương và Thầy không bỏ thí Judas. Vậy hãy nói, không phải e ngại. Con không phải là kẻ do thám. Con là đứa con thổ lộ cho người cha, với sự lo lắng thương xót, về điều xấu nó phát hiện nơi anh em nó, để người cha săn sóc cho họ. Nào...
Gioan thở một hơi thật sâu, rồi ông cúi đầu sâu hơn nữa, để nó rơi trên ngực Giêsu và nói: “Thật là nặng nề khi phải nói về sự trụy lạc!... Lạy Chúa... Judas không trong sạch... và ông tìm cách lôi kéo con vào sự ô uế. Anh ta khinh dể con, điều đó không quan trọng. Nhưng con khổ vì anh ta đến với con khi đã bị ô uế bởi các tình yêu của anh ta. Từ khi anh ta trở lại, anh ta đã cố gắng cám dỗ con nhiều lần. Khi tình cờ chúng con ở riêng hai người với nhau - và anh ta tìm mọi cách để cho dịp đó xảy ra - anh ta chỉ nói về đàn bà... Con cảm thấy kinh tởm tựa như người ta dìm con vào chất hôi thối, và người ta cố gắng đút vào miệng con...”
387
- Nhưng con có bị xao xuyến tận đáy lòng con không?
- Xao xuyến à? Thế nào? Linh hồn con run rẩy. Lý trí con kêu gào chống lại những cám dỗ này... Con, con không muốn hư hỏng...
- Nhưng xác thịt con nó cảm thấy thế nào?
- Nó run rẩy vì sợ.
- Chỉ có vậy thôi sao?
- Thưa Thầy vâng. Và lúc đó con khóc, vì con thấy như Judas không thể làm cho một kẻ đã dâng hiến cho Thiên Chúa một xúc phạm nặng nề hơn. Xin Thầy nói cho con: điều đó có đụng gì tới lễ vật của con không?
- Không. Điều đó không hơn gì một nắm bùn quăng lên một tấm kim cương, nó không làm được vết khứa trên tấm đó, nó không thấm vào được. Chỉ cần người ta đổ lên đó một chén nước sạch là làm cho nó thành nguyên vẹn, và nó còn đẹp hơn trước.
- Vậy xin Thầy thanh tẩy con.
- Lòng bác ái của con sẽ thanh tẩy con, và cả thiên thần của con nữa. Không có gì ở lại trên con. Con là một bàn thờ được thanh tẩy và Thiên Chúa ngự ở đó. Và Judas còn làm gì nữa?
- Lạy Chúa! Anh ấy... Ôi! Lạy Chúa ! - Gioan lại cúi đầu thấp hơn nữa.
- Cái gì?
- Anh ấy... Không phải là tiền của anh ta biếu Thầy để cho người nghèo. Đó là tiền của người nghèo mà anh ta đã ăn cắp cho anh ta, để người ta ca tụng anh ta là quảng đại. Điều đó không thật. Thầy đã làm cho anh ta phát sùng, vì khi ở Tabor về, Thầy đã lấy lại hết tiền ở anh ta. Anh ta đã nói với con: “Trong đám chúng ta có những tên do thám”. Con nói với anh: “Để do thám cái gì? Anh ăn cắp, có lẽ vậy”. Anh ta trả lời con: “Không. Nhưng tôi tiên liệu để tôi có hai túi tiền. Có tên nào đã nói điều đó với Thầy, và Người đã áp đặt tôi phải đưa tất cả. Người đã áp đặt tôi mạnh mẽ tới nỗi tôi bị bó buộc phải đưa”. Nhưng Chúa ơi, điều đó không đúng. Không phải là anh ta tiên liệu, nhưng anh ta làm vậy để có tiền. Con có thể xác nhận điều đó, và con hầu như chắc chắn là nói sự thật.
388
- Hầu như chắc chắn! Sự nghi ngờ này, phải, đó là một lỗi nhẹ. Con không thể kết án anh ta ăn cắp nếu con không tuyệt đối chắc chắn về điều đó. Hành động của người ta đôi khi có vẻ bề ngoài tai hại, nhưng thực ra là tốt.
- Thưa Thầy đúng vậy. Con sẽ không kết án anh ta nữa, dù là trong tư tưởng. Nhưng sự kiện là anh ta có hai túi tiền, và túi mà anh ta nói là thuộc về anh ta, và anh ta biếu cho Thầy thì cũng là của Thầy nữa. Anh ta đã làm vậy để được ca tụng, điều đó là đúng. Con thì con không làm điều đó. Con thấy không tốt để làm như vậy.
- Con có lý. Con còn phải nói gì nữa?
Gioan ngửa khuôn mặt lo sợ lên, ông sắp sửa nói gì, nhưng rồi ông lại nín lặng. Ông lết qùi xuống và giấu khuôn mặt ông trong y phục của Giêsu. Người đặt tay trên đầu tóc ông.
- Nào! Có thể con nhìn không rõ. Thầy sẽ giúp con nhìn cho tỏ. Con cũng phải nói với Thầy những điều con nghĩ rằng đó có thể là nguyên nhân về tội của Judas.
Chúa ơi, Judas cảm thấy bị mất những sức mạnh mà anh ta muốn có để làm phép lạ... Thầy biết anh ta luôn luôn tham vọng điều đó... Thầy có nhớ ở Enđo không? Nhưng trái lại... Anh ta làm được ít nhất. Từ khi anh ta trở về, anh ta không thành công lần nào cả. Và cả về đêm, anh ta phàn nàn trong giấc mơ, tựa như đó là cơn ác mộng. Và... thưa Thầy! Thầy của con ôi!
- Nào, nói đi! Hãy đi cho tới cùng.
- Và anh ta thốt ra những lời nguyền rủa... Và anh ta làm trò ma thuật. Điều này không phải nói dối, cũng không phải sự nghi ngờ. Chính con đã thấy anh ta. Anh ta đã chọn con làm bạn vì con ngủ say, hay đúng ra bởi vì anh ta nghĩ con ngủ say. Bây giờ con xin thú điều đó. Con đã canh chừng anh ta và bây giờ con không ngủ say nữa, vì khi anh ta vừa nhúc nhích là con nghe thấy. Có lẽ con đã làm xấu, nhưng con đã giả vờ ngủ để coi anh ta làm gì. Có hai lần con đã thấy anh ta và nghe anh ta làm những điều không thích hợp. Con không biết trò ma thuật, nhưng đó là điều anh ta làm.
- Một mình nó à?
389
- Phải và không. Ở Tibêriat, con đã đi theo anh ta, anh ta vào một căn nhà. Sau đó con đã hỏi xem ai ở đó, thì đó là một người làm phép chiêu hồn với những người khác nữa. Và khi Judas ra khỏi đó, hầu như trời đã sáng, dựa vào những câu trao đổi, con hiểu là họ quen nhau, và họ rất đông người... và không phải tất cả đều là người lạ. Anh ta xin ma qủi cái sức mạnh mà Thầy không cho anh ta. Chính vì vậy mà con xin Chúa Cha để hy sinh của con, xin Người chuyển qua cho anh ta để anh ta không phạm tội nữa.
- Con sẽ phải cho anh ta cả linh hồn của con. Nhưng điều này thì cả Chúa Cha, cả Thầy, sẽ không cho phép.
Một hồi yên lặng lâu, rồi Giêsu nói bằng giọng mệt mỏi: “Nào, Gioan, ta đi xuống và chúng ta nghỉ để chờ bình minh”.
- Ôi! Lạy Chúa, Thầy buồn hơn lúc trước. Con đã làm rất tệ vì đã nói.
- Không. Thầy đã biết những điều đó rồi. Nhưng con, ít nhất là con đã được nhẹ nhõm... Và đó là điều đáng kể.
- Chúa ơi, con có phải trốn anh ta không?
- Không. Đừng sợ. Satan không thể làm hại cho Gioan. Nó làm người ta sợ, nhưng nó không thể lấy đi của người ta những ơn mà Thiên Chúa không ngừng ban cho họ. Đi. Sáng mai Thầy sẽ nói, rồi chúng ta sẽ đi Pella. Phải hành động gấp, vì nước sông đã bắt đầu dâng do tuyết tan, và do những cơn mưa trong những ngày vừa qua. Sắp sửa có nước lũ. Hơn nữa, chiếc quầng chung quanh mặt trăng cũng báo hiệu mưa nhiều.
Họ đi xuống và biến vào trong căn phòng ở bên dưới sân thượng. ***
Đây là buổi sáng, một buổi sáng tháng ba. Các chỗ trời quang và các đám mây nối tiếp nhau trên bầu trời. Nhưng rồi các đám mây nhiều hơn các chỗ thanh quang, và nó có khuynh hướng bao phủ lấy vòm trời. Một làn khí nóng thổi từng chặp, làm cho khí quyển thành nặng nề, xâm chiếm nó bằng những lớp bụi, có lẽ được thổi đến từ vùng cao nguyên.
- Nếu gió không đổi chiều thì sẽ có nước - Phêrô nói cách linh
390
cảm khi ông ra khỏi nhà cùng với những người khác.
Người ra sau cùng là Giêsu cùng với ông chủ nhà. Người chào ông và ông cũng cùng với các đấng đi về phía quảng trường. Nhưng mới đi được vài bước thì một viên sĩ quan Rôma có các lính hộ vệ, chặn các vị lại và hỏi:
- Ông là Giêsu Nazarét?
- Phải.
- Ông làm gì?
- Tôi nói với đám đông.
- Ở đâu?
- Ở quảng trường.
- Những lời khích loạn?
- Không. Các nguyên tắc của nhân đức.
- Cẩn thận, đừng nói dối. Rôma đã có đủ các thần giả rồi.
- Anh cũng hãy đến nghe. Anh sẽ thấy là tôi không nói dối.
Người đàn ông đã cho Giêsu ở trọ cảm thấy cần phải can thiệp: “Nhưng từ hồi nào mà bao là câu hỏi với vị Rabbi vậy?”
- Ông ta bị tố cáo là phản loạn.
- Người? Phản loạn? Nhưng Marius Sévère ơi! Anh lộn rồi! Đây là một người êm dịu nhất trái đất. Chính tôi nói vậy với anh đó.
Người sĩ quan nhún vai và trả lời: “Điều đó càng hay cho ông ta. Nhưng người ta đã tố cáo ông ta như vậy với viên bách binh đội trưởng. Vậy đi đi. Ông ta đã được tiên báo”. Anh ta quay lại và đi khỏi cùng với các thuộc hạ.
- Nhưng điều đó là gì vậy? Tôi không hiểu gì cả - nhiều người nói. Và Giêsu trả lời: “Đừng tìm hiểu vô ích. Hãy đi mau khi còn nhiều người ở quảng trường. Sau đó chúng ta sẽ đi khỏi đây”.
Đây là một quảng trường thương mại. Nó không phải là cái chợ, nhưng hầu như vậy, vì nó được bao quanh bằng các cửa tiệm, nơi được bầy đủ thứ mặt hàng. Có nhiều người trong các tiệm này, và cũng có nhiều người ở quảng trường. Một người làm hiệu rằng đó là Giêsu, và lập tức vị Nazarét bị bao vây. Những người này thuộc mọi tầng lớp và đủ thứ quốc tịch. Một số đến vì kính trọng, một số
391
khác thì vì tò mò.
Giêsu làm hiệu là Người sắp nói.
- Yêu cầu nghe ông ta - một người Rôma ra khỏi một cửa tiệm và la lên.
- Có phải là sẽ nghe một bài than van không? - bạn anh ta nói.
- Constance, đừng nghĩ vậy. Ông ta có vẻ ít khó hiểu hơn những nhà hùng biện thông thường của chúng ta.
- Bình an cho những ai nghe tôi. Có chép trong sách Esdras, trong lời cầu nguyện của Esdras rằng: “Ôi Thiên Chúa của chúng con! Bây giờ chúng con sẽ nói sao sau những điều đã xảy đến? Vì chúng con đã bỏ rơi các giới răn của Chúa, những điều Chúa đã truyền cho chúng con qua trung gian của các tôi tớ Chúa...”
- Ông, người đang nói, yêu cầu ngừng lại. Đề tài phải là do chúng tôi cho ông - Một nhóm pharisiêu phăng một lối đi ở giữa đám đông và la lối. Và hầu như lập tức, nhóm người hộ tống có khí giới lúc nãy tái xuất hiện và dừng lại tại góc kế bên. Còn các pharisiêu thì đã đến ngay trước mặt Giêsu.
- Ông là người Galilê? Giêsu Nazarét?
- Phải.
- Ngợi khen Chúa là chúng tôi đã tìm thấy ông - nhưng thực tình họ có những khuôn mặt đầy oán ghét, không có vẻ gì là sung sướng vì cuộc gặp gỡ. Tên già nhất trong đám nói: “Chúng tôi chạy theo ông từ nhiều ngày nay, nhưng chúng tôi luôn luôn đến sau khi ông đã đi khỏi”.
- Tại sao các ông chạy theo tôi?
- Bởi vì ông là Thầy, và chúng tôi muốn được soi sáng về một điểm tối của lề luật.
- Đâu có vấn đề điểm tối trong Lề Luật của Thiên Chúa.
- Trong đó, không. Nhưng, hé! hé!... nhưng đã có những điều “thêm vào” lề luật như ông đã nói, hé! hé!... và chúng đã tạo ra điểm tối.
- Nhất là tạo ra chỗ mờ. Chỉ cần quay sự thông minh về với Thiên Chúa là đánh tan được nó.
392
- Nhưng không phải mọi người đều biết làm điều đó. Ví dụ chúng tôi, chúng tôi dừng lại ở chỗ lờ mờ. Ông là rabbi, hé, hé! Vậy hãy giúp chúng tôi.
- Các ông muốn biết điều gì?
- Chúng tôi muốn biết một người đàn ông có được phép rẫy vợ mình vì lý do nào không. Đó là điều hay xảy ra, và mỗi lần lại có sự ồn ào tại nơi xảy ra chuyện. Người ta hỏi chúng tôi xem điều đó có được phép không, và chúng tôi trả lời tùy trường hợp.
- Bằng cách chấp nhận cho sự kiện được hoàn thành là chín mươi phần trăm. Đối với mười phần trăm mà các ông không chấp nhận, thì đó là những người nghèo, hoặc là kẻ thù của các ông.
- Làm sao ông biết điều đó?
- Bởi vì nó xảy ra như vậy trong hết mọi sự thuộc về nhân loại. Và tôi thêm vào một loại thứ ba, loại được phép ly dị, nó được biện minh hơn cả, đó là trường hợp nặng nề, ví dụ một người bị bệnh cùi không thể khỏi, một người bị kết án chung thân, hoặc một người bị bệnh đáng xấu hổ...
- Vậy đối với ông thì điều đó không bao giờ được phép?
- Không đối với tôi, không đối với Đấng Tối Cao, không đối với mọi linh hồn ngay thẳng. Các ông đã chẳng đọc rằng: Đấng Tạo Hóa lúc khởi đầu đã dựng nên người đàn ông và người đàn bà. Người đã dựng nên họ nam và nữ. Người đã không cần làm điều đó, nhưng vì Người muốn, và Người có thể. Đối với vua của các thụ tạo, nếu Người muốn, Người có thể làm ra họ theo hình ảnh Người và giông giống như Người theo một kiểu đồng tạo dựng khác, cũng tốt, mà vẫn luôn luôn khác với các phương tiện tự nhiên khác. Và Người nói: “Vì lẽ đó, người nam sẽ bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai sẽ là một thân xác”. Vậy Thiên Chúa đã kết hợp họ làm một. Họ không phải là hai thân xác nữa, nhưng là một, duy nhất. Điều Thiên Chúa đã kết hợp, vì Người đã thấy là điều đó tốt, thì loài người không được phân rẽ, bởi vì nếu chuyện đó xảy ra thì nó không còn là điều tốt nữa.
- Nhưng tại sao hồi đó Môise đã nói: “Nếu một người đàn ông
393
lấy vợ, nhưng bà ta không ưng ý ông ta vì một điều xấu hổ nào đó, thì ông ta sẽ viết tờ từ rẫy, đặt vào chính tay bà ta và đuổi bà ta ra khỏi nhà”?
- Ông ấy đã nói như vậy là do sự cay nghiệt của con tim các ông, để dùng một trật tự mà tránh những lộn xộn trầm trọng. Vì vậy ông đã cho phép rẫy vợ, nhưng từ đầu, không có như vậy đâu. Vì một người đàn bà thì hơn một con vật mà bởi cơn chướng của ông chủ, hay bởi các hoàn cảnh tự do thiên nhiên, nó tùy thuộc vào con đực nọ hay con đực kia để các xác thịt không có linh hồn phối hợp với nhau để tái sinh sản. Vợ của các ông cũng có một linh hồn như các ông, nên sẽ không công bằng nếu các ông dày đạp họ không thương xót. Nếu đã chép trong sự kết án rằng: “Mi sẽ phải phục tòng người chồng, nó sẽ cai quản mi”, thì điều đó phải diễn ra theo sự công bằng chứ không phải theo uy lực làm thiệt hại cho một linh hồn tự do và đáng được kính trọng.
Các ông rẫy vợ trong khi các ông không được phép là các ông xúc phạm đến linh hồn người bạn của các ông, tới thân xác đã kết hợp với các ông, tới tất cả những gì là của người đàn bà mà các ông đã cưới. Trong khi các ông đòi hỏi sự ngay thật của nàng thì các ông lại thề gian. Các ông đến với nàng, làm nhục nàng, hạ thấp nàng, đôi khi làm hư hỏng nàng. Và các ông tiếp tục như vậy trong lúc lợi dụng mọi dịp để xúc phạm đến nàng và thả tự do cho các đam mê vô chừng của các ông. Các ông làm cho vợ các ông thành những gái điếm. Các ông không được vì bất cứ ký do nào mà chia lìa người vợ đã kết hợp với các ông theo Lề Luật và Phúc Lành. Chỉ khi các ông có ân sủng, các ông mới hiểu rằng người đàn bà không phải là một đồ vật mà người ta chiếm hữu, và bởi thế, nàng có quyền ngang hàng với các ông, được nhận biết như một phần tử tập hợp với người đàn ông, chứ không phải một vật để giải khuây. Chỉ trong trường hợp con tim các ông đã chai đá để không cưới người đàn bà sau khi đã chơi bà ta như một gái điếm, và vì muốn làm biến đi cái gương mù của hai người vì đã sống chung không có phúc lành của Thiên Chúa trên sự phối hợp, thì các ông mới có thể
394
từ rẫy một người đàn bà, vì khi đó không phải là một sự kết hợp, mà là sự tà dâm, là điều không được vinh dự khi có con cái đã bị loại trừ cách phản thiên nhiên, hoặc xa lìa chúng như một sự sỉ nhục.
Trong mọi trường hợp khác, nếu các ông có những con cái bất hợp pháp với người vợ tư hôn, các ông có bổn phận phải chấm dứt gương mù bằng cách cưới bà ta nếu các ông tự do. Tôi không dừng lại ở việc gian dâm đã gây nên những thiệt hại cho người đàn bà vô tội vì bà vô tình. Đối với người này thì phải có các viên đá của việc ném đá và lửa của âm phủ. Còn đối với người chồng từ rẫy người vợ hợp pháp vì ông chán bà ta, để lấy một người khác, thì chỉ có một xét đoán duy nhất: Đó là gian dâm. Cũng vậy, người nào lấy một phụ nữ bị rẫy, vì dù con người đã cho mình quyền chia cắt điều Thiên Chúa đã phối hợp, thì sự hợp nhất hôn nhân vẫn tiếp tục trước mắt Thiên Chúa, vậy kẻ không phải là góa mà lại lấy người vợ thứ hai thì sẽ là kẻ bị nguyền rủa. Và cũng vậy, sẽ bị nguyền rủa cho kẻ nào sau khi đã rẫy vợ mình, sau khi đã bỏ rơi bà cho sự sợ hãi về cuộc sống nên đã chấp nhận đám cưới mới để có của ăn, người nào lấy bà ta khi bà ta góa người chồng thứ hai - mà không góa đối với người chồng thứ nhất - thì mặc dầu là góa, bà ta cũng ngoại tình do tội của các ông, và các ông làm tăng lên gấp đôi sự gian dâm của bà ta.
Ôi! Hỡi các ông pharisiêu muốn thử thách tôi, các ông hiểu chưa?
Những người này sượng sùng bỏ đi, không trả lời. Một tên lính Rôma nói: “Ông này rất nghiêm khắc. Nếu ông ta sống ở Rôma, ông ta sẽ thấy còn các thứ bùn khác hôi thối hơn nữa bốc hơi lên”.
Có mấy người Gadara xì xèo: “Thật khó để là một người đàn ông, nếu phải trong sạch như vậy...”
Một số người khác nói lớn hơn: “Nếu hoàn cảnh của một người đàn ông đối với vợ phải như vậy thì tốt hơn là đừng kết hôn”.
Các tông đồ cũng lý luận như vậy khi họ đi trên đường về phía miền quê sau khi đã giã từ dân Gadara. Judas nói chuyện đó với vẻ
395
khinh dể. Giacôbê nói với vẻ kính cẩn và suy tư. Giêsu trả lời cho người nọ cũng như người kia: “Không phải mọi người đều hiểu được điều đó, người ta cũng không hiểu nó cho đúng. Qủa vậy, một số người thích độc thân để được tự do thỏa mãn tính xấu của họ; có những người khác thì là để tránh dịp tội vì thấy mình không thể là người chồng tốt. Nhưng chỉ có một số ít người được chấp nhận cho hiểu vẻ đẹp của việc được miễn dâm dục, kể cả việc ước ao người phụ nữ một cách ngay chính. Và đó là những người thánh nhất, tự do nhất, giống các thiên thần nhất ở trên trái đất. Thầy nói đó là những người tự hoạn mình cho Nước Trời. Trong loài người, có những người sinh ra đã như vậy, có những người khác thì bị người ta làm cho ra như vậy. Những người loại thứ nhất là những người quái gở, họ phải tạo ra sự khát khao; loại người thứ hai là những điều lạm dụng có tội. Nhưng sau cùng có một loại người thứ ba: loại người tự ý hoạn mà không tự ý hành hung, và vì vậy họ có công gấp đôi. Họ biết liên kết với yêu cầu của Thiên Chúa và sống như các thiên thần, để cho các bàn thờ bị bỏ hoang của trái đất còn có những bông hoa và hương thơm cho Chúa. Loại người sau cùng này từ chối thỏa mãn cho phần hạ của con người họ để làm cho phần thượng lớn lên, và bởi đó họ nở hoa ra ở trên trời, trong những mảnh vườn gần ngai vua cả nhất. Thực vậy, Thầy bảo các con, đó không phải là những cái bị cưa cụt đi, mà là những thứ được ân ban mà phần đông loài người không được. Đó không phải là đối tượng cho sự khinh dể ngu xuẩn, nhưng là những sự được kính trọng rất mực. Mong rằng những ai phải hiểu thì hãy hiểu, và hãy kính trọng, nếu họ có thể”.
Những người đã lập gia đình trong đám các tông đồ xì xèo với nhau. Giêsu hỏi: “Các con có chuyện gì?”
Batôlômêo nói nhân danh tất cả: “Còn chúng con, vì chúng con không biết việc này nên chúng con đã lấy vợ. Nhưng chúng con cũng thích giữ như Thầy nói”.
- Các con đâu có bị cấm để từ nay trở đi nên như vậy. Các con hãy sống trong sự tiết dục, coi người bạn của các con như người em
396
gái, và các con sẽ được công lớn trước mặt Thiên Chúa. Nhưng đi lẹ lên để có thể tới Pella trước khi trời mưa.
48* GIÊSU TẠI PELLA
Con đường dẫn từ Gadara tới Pella băng qua vùng đất mầu mỡ trải ra giữa hai dẫy đồi, một dẫy cao, một dẫy thấp. Nó giống như hai bậc khổng lồ của chiếc cầu thang vĩ đại trong truyện thần thoại, để đi từ thung lũng sông Giođan tới núi Auran. Khi con đường tới gần bậc thang ở phía tây hơn thì cái nhìn bao quát, không phải chỉ các dẫy núi ở bờ bên kia - tôi tin đó là những núi thuộc miền nam Galilê, và chắc chắn là các núi thuộc Samari - nhưng cũng nhìn thấy hết vùng xanh ngát huy hoàng chạy dọc theo hai bờ sông nước xanh lơ. Khi chúng tách rời ra để lại gần các rặng phía đông thì con mắt bị mất thung lũng Giođan, nhưng nó còn thấy các đỉnh của các núi miền Samari và Galilê nhô lên cùng với mầu xanh của nó trên nền trời xám. Vào lúc có mặt trời thì đó là một quang cảnh mỹ lệ xinh tươi và sống động. Hôm nay bầu trời rất thấp và phủ đầy mây chồng chất lên nhau bởi gió đông nam thổi càng lúc càng mạnh, tạo thành những đám mây mới dày đặc hơn, hạ thấp bầu trời xuống với tất cả những khối bông gòn mầu xám kỳ dị này. Phong cảnh cũng bị mất vẻ sáng của mầu xanh, giống như bị sương mù bao phủ.
Họ đi băng qua một làng nhỏ, không có gì xảy ra bởi các kỳ hào. Sự dửng dưng đón tiếp và đi theo ông Thầy. Chỉ có điều không thiếu gì những người ăn mày lưu ý tới nhóm người hành hương Galilê và họ đến xin của bố thí.
Luôn luôn có những người mù như thường lệ, mà phần đông là con mắt bị hư bởi chứng đau mắt hột, và những người hầu như mù. Họ bước đi, đầu cúi gù vì không chịu được ánh sáng, men theo bờ tường, có khi một mình, có khi được dắt bởi một phụ nữ hay trẻ em. Trong một ngôi làng, nơi giao nhau giữa con đường đi về Pella với
397
con đường đi về Gérasa và Bozra từ hồ Tibêriat, có một đám đông truy kích đoàn xe du mục bằng những bài than van của họ, giống như các tiếng chó kêu ăng ẳng, thỉnh thoảng gián đoạn bằng những tiếng gầm thét thực sự. Họ nghe ngóng, nhóm người khốn nạn, dơ bẩn, mệt mỏi, dựa lưng vào tường của các căn nhà đầu tiên, nhai các mẩu bánh và các trái ôliu, hoặc ngủ gật gù, trong khi ruồi bọ kiếm ăn thoải mái trên các mí mắt ung nhọt. Nhưng vừa nghe tiếng động của móng sắt hay bàn chân đám đông là họ đứng lên và đi, giống như một đội binh rách rưới trong một bi kịch cổ xưa. Tất cả đều thốt ra cùng một lời, cùng làm một cử chỉ về phía những người đang tới.
Vài đồng bạc cắc hay vài mẩu bánh bay tới, thế là các người mù hay nửa mù sờ soạng tìm trong bụi đất hay rác rến để kiếm của bố thí.
Giêsu quan sát họ rồi nói với Zêlote và Philíp: “Hãy mang tiền và bánh cho họ. Judas giữ tiền và Gioan giữ bánh”.
Hai ông đi nhanh về phía trước để làm điều họ đã được lệnh, và họ dừng lại để nói trong khi Giêsu tiến lại từ từ, bị chậm lại bởi một đàn lừa cản đường.
Những người hành khất ngạc nhiên bởi lời chào và ân huệ, bởi thấy mình được chào và cứu trợ bởi những người vừa tới. Họ hỏi: “Các ông là ai mà qúa tử tế với chúng tôi như vầy?”
- Môn đệ của Đức Giêsu Nazarét, vị Rabbi của Israel, đấng yêu thương những kẻ nghèo và khổ sở, vì Người là Vị Cứu Tinh. Người đi qua để giảng Tin Mừng và làm phép lạ.
- Đây, phép lạ đây! - một người đàn ông có đôi mi mắt hư hỏng ghê sợ nói, và ông ta đập vào miếng bánh của ông ta. Đúng là một con vật chỉ hiểu và chỉ phục những gì là vật chất.
Một người đàn bà mang một cái bình bằng đồng đi qua và nghe thấy, bà ta nói với hắn: “Câm đi! Đồ lười biếng ghê tởm!” Rồi bà quay về với các môn đệ và nói: “Hắn không phải người ở đây. Hắn hay gây gổ và hung bạo với người đồng loại. Đáng lẽ phải đuổi hắn đi, vì hắn ăn cắp của người nghèo trong làng. Nhưng chúng tôi sợ
398
hắn báo thù”. Rồi một cách rất êm nhẹ, với chỉ một tí lèo xèo của giọng nói, bà lẩm bẩm: “Người ta nói hắn là tên ăn cắp, đã nhiều năm ăn cắp và giết người khi hắn từ trên núi Caracamoab và Séla xuống. Ngọn núi sau cùng này được gọi là Pétra bởi quân chiếm đóng là những người canh chừng lộ trình trong sa mạc. Người ta nói hắn là lính đào ngũ từ nhóm lính Rôma này khi họ tới đó để tuyên truyền cho Rôma... Hình như hắn tên Hélios, và hắn còn một tên khác nữa... Nếu các ông cho hắn ta uống rượu, hắn sẽ kể hết với các ông... Bây giờ bị mù, hắn tới đây... Vị Cứu Tinh đó phải không?” Bà ta hỏi khi chỉ vào Giêsu khi Người đang đi thẳng tới.
- Người đó. Bà muốn nói với Người không?
- Ồ, không - bà ta dửng dưng nói.
Hai tông đồ chào bà ta rồi đi lại với Thầy. Nhưng có sự ồn ào nổi lên giữa đám người mù, và người ta nghe thấy tiếng than van hầu như của trẻ con. Nhiều người quay lại, kể cả người đàn bà lúc nãy. Bà ta đứng tại ngưỡng cửa nhà bà và giải thích: “Chắc lại cái tên độc ác đó lấy mất đồng bạc của kẻ yếu đuối nhất. Hắn ta luôn luôn làm như vậy”.
Cả Giêsu cũng quay lại nhìn.
Qủa vậy, một đứa trẻ, đúng hơn là một thiếu niên, bước ra khỏi nhóm người. Nó đầy máu me và nước mắt. Nó than: “Ông ta đã lấy hết của tôi! Vậy là má tôi không còn bánh ăn”. Một số người phàn nàn cho nó, trong khi một số khác thì cười.
- Ai vậy? - Giêsu hỏi người đàn bà.
- Một đứa trẻ ở Pella. Nó nghèo. Nó tới đây ăn mày. Hết mọi người trong nhà nó đều mù. Họ bị lây bệnh của nhau. Người cha đã chết, người mẹ ở lại nhà. Đứa trẻ đi xin của bố thí nơi khách qua đường và nơi các nông dân.
Đứa trẻ tiến lên với chiếc gậy mù của nó. Nó cầm vạt áo khoác rách của nó để lau nước mắt và máu từ trán chảy xuống.
Người đàn bà gọi nói: “Jaia, đứng lại đi. Tao sẽ rửa trán cho mày và tao sẽ cho mày một cái bánh”.
- Lúc nãy tôi có tiền và bánh cho nhiều ngày. Bây giờ tôi chả còn gì! Má tôi chờ tôi để ăn... - Đứa trẻ khốn nạn than van trong khi
399
nó rửa bằng nước của người đàn bà.
Giêsu tiến lên và nói: “Ta sẽ cho con cái ta có. Đừng khóc”.
- Nhưng Chúa ơi! Tại sao? Chúng ta sẽ ở đâu? Chúng ta sẽ làm gì? - Judas bực tức nói.
- Chúng ta sẽ ngợi khen Chúa vì đã cho chúng ta sức khỏe tốt. Đó đã là một ơn rất trọng rồi.
Đứa trẻ nói: “Ôi! Chắc chắn rồi. Nếu tôi nhìn thấy, tôi sẽ làm việc cho má tôi”.
- Con có muốn khỏi không?
- Có.
- Tại sao con không đi hỏi thầy thuốc?
- Không một người nào trong chúng con được khỏi. Họ nói với chúng con rằng có một người ở Galilê, ông không phải là thầy thuốc, nhưng ông chữa bệnh. Nhưng làm sao đi tìm được ông ấy?
- Hãy đi Jêrusalem, tới Gétsêmani, có một vườn ôliu ở chân núi Ôliu gần con đường đi Bêtani. Hãy hỏi ông Marc và ông Jonas. Tất cả những người ở vùng Ophel sẽ chỉ nó cho con. Con có thể đi theo một đoàn du mục. Có rất nhiều đoàn đi qua đó. Rồi hỏi Giêsu Nazarét nơi ông Jonas.
- Đó, đúng tên đó rồi. Ông ta sẽ chữa cho con không?
- Nếu con tin thì: Có.
- Con tin. Ông đi đâu? Ông tốt quá!
- Đi Jêrusalem mừng lễ Vượt Qua.
- Ôi! Xin ông cho con đi với ông! Con sẽ không làm phiền ông đâu. Con sẽ ngủ dưới trời sao đẹp và con chỉ cần một mẩu bánh... Chúng ta hãy tới Pella... Ông cũng tới đó phải không? Con sẽ nói với má, rồi chúng ta đi... Ôi! Chúa ơi! Xin hãy tốt... - Và đứa trẻ qùi gối, tìm bàn chân Giêsu và hôn.
- Đi. Ông sẽ dẫn con tới ánh sáng.
- Xin chúc tụng ông.
Họ lại tiến bước, và bàn tay thon dài của Giêsu cầm một cánh tay đứa trẻ để dắt nó đi cách ân cần. Đứa trẻ hỏi: “Ông, ông là ai? Một môn đệ của Vị Cứu Tinh?”
400
- Không.
- Nhưng ít nhất ông cũng biết Người?
- Ờ.
- Ông tin rằng Người sẽ chữa con?
- Ông tin.
- Nhưng... Người có đòi tiền không? Con không có tiền. Các thầy thuốc đòi rất nhiều. Chúng con sẵn sàng nhịn đói để chữa bệnh...
- Giêsu Nazarét chỉ đòi Đức Tin và Tình Yêu.
- Vậy là Người rất tốt. Nhưng ông cũng vậy, ông rất tốt - đứa trẻ nói, và nó cầm lấy để vuốt ve bàn tay đang dắt nó. Nó rờ tay áo Người và nói: “Ông có áo đẹp qúa! Ông là một ông chúa! Ông không xấu hổ vì con sao? Con rách rưới như vầy?”
- Ta chỉ xấu hổ vì các tội lỗi nó làm ô nhục cho con người.
- Con, con chỉ có cái tội nguyền rủa hoàn cảnh của con và tội ao ước quần áo ấm, bánh ăn, và nhất là ánh sáng.
Giêsu vuốt ve nó: “Đó không phải là những tội làm ô nhục, nhưng hãy làm sao cho đừng có cả những bất toàn này, và con sẽ là thánh”.
- Nhưng nếu con được khỏi, con sẽ không có vậy nữa... hoặc là... con không được khỏi, nhưng ông, ông biết điều đó, ông sẽ chuẩn bị cho số phận của con, ông sẽ dạy bảo con để thánh hóa con giống như ông Gióp.
- Con sẽ được khỏi. Nhưng sau đó, nhất là sau đó, con phải bằng lòng với tình trạng của con, dù nó không phải là sung sướng nhất.
Họ đã tới Pella. Các khu vườn luôn luôn ở trước các thành phố để phơi bày sự phong phú của đất đai bằng mầu xanh sang trọng của nó. Các phụ nữ bận rộn trên các luống cây hay tại các bể giặt, chào Jaia và nói với nó: “Hôm nay mày về sớm à? Kiếm khá phải không?” Hoặc là: “Thằng bé tội nghiệp, mày đã tìm được người bảo trợ à?” Một bà già kêu lên từ đáy vườn rau: “Này Jaia, nếu mày đói thì ở đây có một tô cho mày đó. Nếu không thì để cho má mày. Mày về nhà hở? Cầm lấy đi”.
401
- Con đi về nói với má con rằng con đi Jêrusalem với một ông chúa tốt để chữa bệnh. Ông biết vị Giêsu Nazarét, vì ông sẽ dẫn con đến với Người.
Con đường hầu như ở ngay trước cổng của Pella đông nghẹt những người. Có các thương gia, nhưng cũng có những người hành hương.
Một người đàn bà ăn mặc đẹp ngồi trên lưng lừa, có một người đầy tớ trai và một đầy tớ gái hộ vệ. Bà quay lại khi nghe nói về Giêsu. Bà kéo giây cương, dừng con lừa lại, nhảy xuống và đi lại với Giêsu: “Ông biết vị Giêsu à? Và ông đi tìm Người? Tôi cũng vậy, tôi đi tìm Người... Để xin chữa cho một đứa con trai. Tôi muốn thưa chuyện với ông Thầy bởi vì...” Và bà bắt đầu khóc dưới khăn voan của bà.
- Con bà bệnh gì? Nó ở đâu?
- Nó đã ở Gêrasa, nhưng bây giờ nó ở phía Juđê. Nó đi như người bị ám... Ôi! Tôi đã nói gì?
- Đó là người bị ám à?
- Lạy Chúa, nó đã bị ám, và nó đã được lành. Bây giờ... nó còn ma qủi hơn trước, vì... Ôi! Tôi chỉ có thể nói với vị Nazarét thôi!
- Giacôbê ơi, hãy dắt đứa trẻ ở giữa con và Simon, và hãy đi lên phía trước với những người khác. Các con hãy chờ Thầy ở phía bên trong cổng. Bà ơi, bà có thể sai các đầy tớ đi lên phía trước, chúng ta sẽ nói chuyện với nhau.
Người đàn bà nói: “Nhưng ông đâu phải là vị Nazarét! Tôi chỉ muốn nói với một mình Người thôi. Chỉ một mình Người có thể hiểu và có tình thương”.
Bây giờ chỉ còn lại hai người. Các người khác đã tiến lên phía trước và nói về công việc của họ. Giêsu đợi cho đường vắng và nói: “Bà có thể nói. Tôi là Giêsu Nazarét”.
Người đàn bà rên rỉ và sắp qùi xuống.
- Không, lúc này thì đừng. Đừng để người ta biết. Nào, chỗ kia có một căn nhà mở cửa. Chúng ta hãy xin họ cho chúng ta nghỉ ngơi, và chúng ta sẽ nói. Đi.
402
Họ đi theo một đường hẻm giữa hai vườn rau, về phía một căn nhà bình dân mà trong sân đập lúa, các trẻ em đang nô đùa.
- Bình an cho qúi vị. Qúi vị có cho phép tôi để cho người đàn bà này nghỉ ngơi một lúc không? Tôi phải nói chuyện với bà. Chúng tôi đến từ xa để có thể nói chuyện với nhau, và Thiên Chúa đã cho chúng tôi gặp nhau trước đích điểm.
- Xin mời vào. Khách là một sự chúc lành. Chúng tôi sẽ phục vụ qúi ngài sữa và bánh, cùng với nước cho đôi chân mệt mỏi của qúi ngài - một bà già nhỏ nói.
- Không cần đâu. Chúng tôi chỉ muốn một nơi yên tĩnh để có thể nói chuyện.
- Xin mời - và bà ta dẫn hai người lên sân thượng, nơi có một giàn chằng chịt những cành nho tạo nên một giàn lá xanh.
Họ ở lại một mình với nhau: “Nói đi bà. Tôi đã nói đó: Thiên Chúa đã cho chúng ta gặp nhau trước đích điểm của con đường, để cho bà được nhẹ nhõm”.
- Không có đâu. Không còn sự nhẹ nhõm cho tôi nữa. Tôi có một đứa con trai, nó bị qủi ám, trở thành con vật hoang trong mồ mả. Không gì có thể giữ nó lại; không gì có thể chữa được nó. Nó đã gặp Ngài. Nó đã thờ lạy Ngài qua miệng ma qủi, và Ngài đã chữa cho nó. Nó muốn đi với Ngài, nhưng Ngài đã nghĩ tới mẹ nó, và Ngài đã sai nó về cho tôi để trả lại cho tôi sự sống và trí khôn đã bị lung lay vì những đau đớn mà đứa con bị ám đã làm cho tôi. Và Ngài đã sai nó đi để nó rao giảng Ngài, vì nó muốn yêu Ngài. Ôi! Tôi lại được làm mẹ một đứa con thánh! Nó sẽ là tôi tớ Ngài! Nhưng hãy nói cho tôi, hãy nói cho tôi! Khi Ngài sai nó đi, Ngài có biết rằng nó đã... rằng nó sẽ lại trở nên ma qủi không? Bởi vì đó là một thằng qủi. Nó đã bỏ Ngài sau khi đã nhận được biết bao từ Ngài, sau khi đã biết Ngài, sau khi đã được nhận cho Nước Trời... Hãy nói cho tôi, Ngài có biết nó không? Nhưng tôi nói lung tung! Tôi nói mà tôi không cho Ngài hay tại sao đó là thằng qủi... Nó đã trở nên như điên từ ít lâu nay. Ôi! Từ mấy ngày nay, nhưng nó nặng nề với tôi hơn là những năm dài nó bị ám trước đây... Khi đó tôi
403
không bao giờ nghĩ là tôi có thể đau đớn hơn lúc đó... Nó đã tới, và nó phá đổ đức tin mà Gêrasa đã bón xới cho Ngài, nhờ Ngài và nhờ nó, bằng cách nói những lời nhục mạ về Ngài. Và nó đã đi trước Ngài về khúc sông cạn ở Jêricô để làm thiệt hại cho Ngài, làm thiệt hại cho Ngài!
Người đàn bà không dỡ ra tấm voan che nước mắt của bà. Tâm hồn tan nát, bà qùi dưới chân Giêsu và năn nỉ: “Xin hãy đi! Xin hãy đi! Xin đừng để cho người ta nguyền rủa Ngài! Với sự đồng ý của ông chồng bệnh hoạn của tôi, tôi đã ra đi trong khi cầu xin Thiên Chúa cho tôi tìm thấy Ngài. Người đã nhận lời tôi. Nguyện chúc tụng Người! Tôi không muốn, tôi không muốn cho phép rằng Ngài, Vị Cứu Tinh, Ngài bị bạc đãi tại vì con trai tôi. Ôi! Tại sao tôi lại sinh nó ra đời? Nó đã phản Ngài, Chúa nó. Nó đã làm sai lệch các lời Ngài. Ma qủi đã tái chiếm nó. Và... Ôi! Đấng Tối Cao và Chí Thánh! Xin thương một người mẹ! Nó sẽ bị kết án. Con trai tôi! Con trai tôi! Trước đây nó bị đầy tràn ma qủi, nhưng không phải tại lỗi nó. Đó là một sự bất hạnh xảy đến cho nó. Nhưng bây giờ! Nhưng bây giờ Ngài đã ban ơn cho nó. Bây giờ nó đã biết Thiên Chúa, bây giờ Ngài đã dạy dỗ nó! Bây giờ nó đã muốn làm một thằng qủi, và không một sức mạnh nào giải phóng được cho nó nữa! Ôi! Ôi!” Người đàn bà phục xuống đất: một mớ quần áo, một mớ thịt rung động trong tiếng nấc. Rồi bà rên rỉ: “Xin nói cho tôi, xin nói cho tôi, tôi phải làm gì cho Ngài, cho con trai tôi? Để đền bù, để cứu vớt! Không, đền bù. Ngài, Ngài thấy rằng sự đau đớn của tôi đã là sự đền bù. Nhưng để cứu vớt! Tôi không thể cứu kẻ đã từ chối Thiên Chúa. Nó bị kết án... Và còn gì cho tôi, một người Israel, ngoài sự dằn vặt?”
Giêsu cúi xuống và đặt tay trên vai bà: “Bò dậy và bình tĩnh lại đi. Bà rất thân thiết đối với Thầy. Hãy nghe đây, bà mẹ tội nghiệp”.
- Ngài không nguyền rủa tôi vì đã cưu mang nó?
- Ôi! Không. Bà không phải chịu trách nhiệm về sự lầm lạc của nó. Hãy nhớ điều đó để tự phấn chấn. Trái lại, bà có thể là nguyên nhân cho phần rỗi của nó. Sự hư hỏng của con cái có thể được sửa
404
chữa bởi các bà mẹ. Và bà, bà sẽ làm việc đó. Nỗi đau đớn của bà, vì nó tốt, nên nó không trơ trơ, nhưng sinh sản. Nhờ đau khổ của bà, linh hồn mà bà yêu thương sẽ được cứu. Bà đền tội cho nó, và bà đền tội với một ý hướng ngay lành tới nỗi bà xin được sự ân xá cho con bà. Nó sẽ trở về với Thiên Chúa. Đừng khóc nữa.
- Nhưng bao giờ ? Vậy tới khi nào ?
- Khi nước mắt của bà được hòa lộn với máu Thầy.
- Máu Ngài à? Vậy ra điều nó nói là đúng sao? Nó nói rằng Ngài sẽ bị giết vì Ngài đáng chết?... Lộng ngôn kinh khủng!
- Đúng ở phần đầu. Thầy sẽ bị giết để trả Sự Sống cho người ta. Bà ơi, Thầy là Đấng Cứu Tinh. Và phần rỗi được ban nhờ lời nói, nhờ tình thương, nhờ lễ hy sinh. Con bà cần những điều đó, và Thầy sẽ cho. Nhưng bà hãy giúp Thầy. Hãy hiến cho Thầy những đau khổ của bà. Hãy đi với phúc lành của Thầy. Hãy giữ gìn điều đó trong lòng bà để có thể thương xót và nhẫn nại ở bên con bà, để nhắc nhở nó rằng có một đấng khác đã thương xót đối với nó. Đi đi. Hãy đi bằng an.
- Nhưng Ngài, xin Ngài đừng nói ở Pella, đừng nói ở Pêrê. Nó đã làm cho họ quay lưng chống lại Ngài. Và không phải chỉ có mình nó. Nhưng tôi, tôi chỉ thấy và tôi chỉ nói về nó.
- Thầy sẽ nói bằng hành động, và như vậy là đủ để vô hiệu hóa công việc của những người khác. Hãy về nhà bà trong bình an.
- Lạy Chúa, bây giờ vì Ngài đã miễn giải cho tôi cái tội đã cưu mang nó, xin hãy nhìn khuôn mặt tôi để biết thế nào là khuôn mặt của một bà mẹ khi nó bị xé nát - Và bà để lộ khuôn mặt ra và nói: “Đây là khuôn mặt của bà mẹ thằng Marc Josias, kẻ đã chối Đấng Messi và hành hạ kẻ đã sinh ra nó”. Rồi bà lại trùm khăn phủ lấy khuôn mặt bị tàn phá bởi nước mắt, và bà rên rỉ: “Không một bà mẹ nào trong Israel phải đau đớn như tôi!”
Họ xuống khỏi nơi đã tiếp đón họ và tiếp tục con đường. Họ vào Pella và họp mặt: Người đàn bà gặp các đầy tớ của bà, Giêsu gặp các tông đồ của Người. Nhưng người đàn bà theo Người như bị thôi miên, trong khi Giêsu đi theo đứa nhỏ khi nó hướng về cái chòi của
405
nó, ở một căn hầm dưới đất của một căn nhà xây tựa lưng vào núi, đặc tính của miền này. Nhà cửa đều có sân thượng, theo kiểu cứ lầu một ở phía tây là lầu hai ở phía đông, nhưng thực tế là một mảnh đất, vì người ta có thể tới đó bằng con đường ở phía trên, ngang với lầu hai. Tôi không biết tôi cắt nghĩa có được rõ không.
Đứa con trai gọi lớn: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”
Từ trong cái hang tồi tàn, một người đàn bà đi ra. Bà còn trẻ và mù mắt. Bà đi cách dễ dàng, vì bà biết những gì ở chung quanh bà: “Con đã về đấy à? Chắc của bố thí được nhiều đủ để con trở về khi ngày còn tỏ?”
- Má ơi! Con gặp được một người quen với vị Giêsu Nazarét. Ông nói ông sẽ dẫn con đến với Người để được chữa lành. Ông rất tốt. Má có cho con đi không?
- Có chứ Jaia, dù là má phải ở lại một mình. Đi đi, đi đi. Hãy được phúc. Và con cũng hãy nhìn Vị Cứu Tinh cho mẹ với nữa.
Có sự liên kết. Đức tin của người đàn bà là tuyệt đối.
Giêsu mỉm cười và nói: “Bà không nghi ngờ tôi cũng như Vị Cứu Tinh à?”
- Không. Nếu ông biết Người hoặc ông là bạn của Người thì ông chỉ có thể là người tốt. Con ơi! Đi đi, đi đi. Đừng chậm một phút nào cả. Mẹ con mình hôn nhau, rồi con hãy đi đến với Thiên Chúa.
Họ tìm nhau trên đầu gậy và ôm hôn nhau. Giêsu đặt trên bàn một ổ bánh lớn và những đồng tiền.
- Chào bà. Ở đây có ít thứ làm thức ăn cho bà. Bình an cho bà.
Họ đi ra. Nhóm người lại lên đường. Mưa đã bắt đầu rơi. Các tông đồ nói:
- Chúng ta không dừng lại à? Trời mưa mà!...
- Chúng ta sẽ dừng lại ở Jabès Galaad. Đi đi.
Họ trùm áo khoác lên đầu. Giêsu trùm áo của Người trên đứa trẻ. Bà mẹ của Marc Josias theo Người trên lưng lừa cùng với các đầy tớ của bà, tựa như bà không thể chia lìa Người được.
Họ ra khỏi Pella, đi vào vùng quê xanh tươi và buồn tẻ trong ngày mưa gió này.
406
Họ đi khoảng ít là một cây số, rồi Giêsu dừng lại. Người giữ đầu của đứa trẻ trong đôi bàn tay của Người và đặt một cái hôn trên đôi mắt tối trong khi nói: “Bây giờ con hãy trở lại. Hãy trở về nói với mẹ con là Chúa thưởng cho kẻ có lòng tin. Hãy đi nói với những người ở Pella rằng vị này là Chúa”. Người để nó lại đó và bước đi mau lẹ.
Nhưng chưa được ba phút thì đứa trẻ la lên: “Ôi! Con nhìn thấy! Ôi! Đừng chạy trốn! Ông là Giêsu! Xin cho con được thấy Ngài trước tiên”. Và nó qùi phục xuống đường ướt sũng nước mưa.
Một đàng là người đàn bà xứ Gêrasa với các đầy tớ của bà, một đàng là các tông đồ, tất cả đều chạy lại để coi phép lạ. Giêsu mỉm cười và cũng nhẩn nha bước trở lại. Người cúi xuống để vuốt ve đứa bé: “Đi đi. Hãy đi về với má con, và hãy luôn luôn biết tin ở Thầy”.
- Lạy Chúa con, vâng ạ... Nhưng không có gì cho má con sao? Bà phải ở lại trong tối tăm! Bà cũng biết tin như con mà?
Giêsu mỉm một nụ cười rạng rỡ hơn nữa. Người nhìn chung quanh Người. Người thấy ở bờ đường có một chòm hoa cẩm chướng ướt đầm nước mưa, Người cúi xuống hái lấy và đưa cho đứa trẻ: “Hãy cà chúng trên mắt mẹ con thì bà sẽ nhìn thấy. Thầy không trở lại đâu. Thầy đi về phía trước. Những người nào tốt thì hãy theo Thầy bằng thần trí, và hãy nói về Thầy cho những kẻ còn nghi ngờ. Con hãy nói về Thầy ở Pella, nơi đức tin đang bị lung lay. Đi đi. Thiên Chúa ở với con”.
Rồi Người quay về người đàn bà xứ Gêrasa: “Còn bà, hãy đi theo nó. Việc này là câu trả lời của Thiên Chúa cho hết những ai thử làm suy giảm đức tin của người ta nơi Đức Kitô. Chớ gì việc này củng cố cho lòng tin của bà và của Josias. Hãy đi bằng an”.
Họ chia tay. Giêsu theo đường về hướng nam, đứa trẻ và người đàn bà xứ Gêrasa cùng với các đầy tớ của bà đi về phía bắc. Một bức màn mưa chia cách họ giống như màn khói.
407
49* Ở BÊN NGOÀI JABÈS GALAAD,
TRONG NHÀ CỦA MATHIA.
Thung lũng sâu và cây cối rậm rạp, nơi xây cất Jabès Galaad, vang lên tiếng róc rách của con suối nhỏ rất đầy nước, chảy mạnh và sủi bọt ra sông Giođan ở rất gần đó. Một hoàng hôn âm u đang kết thúc một ngày âm u, và càng âm u hơn bởi bóng tối của rừng cây. Ngôi làng hiện ra có vẻ buồn và không hiếu khách.
Tôma luôn luôn vui tính, mặc dầu quần áo ông giống như những đồ vừa lấy ra khỏi thùng: từ đầu tới thắt lưng, từ thắt lưng tới bàn chân, giống như một đống bùn biết đi. Ông nói: “Hum! Tôi không muốn rằng sau bao thế kỷ, cái xứ này lại báo thù chúng ta vì sự độc ác bất ngờ mà Israel đã làm cho họ. Đủ rồi! Chúng ta hãy đi chịu khổ vì Chúa”.
Người ta đã không đập đánh các đấng, điều đó thì không. Nhưng họ xua đuổi các ngài, coi các ngài như đồ trộm cắp hay tệ hơn nữa, và Philíp với Mathêu phải chạy thục mạng để tránh một con chó lớn do mục đồng thả ra để tấn công họ khi họ gõ cửa của một trại súc vật để xin trọ qua đêm, “ít nhất là dưới mái nhà của súc vật”.
- Bây giờ chúng ta phải làm gì?
- Chúng ta không có bánh.
- Và không có tiền. Không tiền thì không bánh và không nhà trọ.
- Và chúng ta ướt át, giá lạnh và đói.
- Sắp đêm rồi. Sáng mai chúng ta sẽ thoải mái sau một đêm nằm trong rừng!
Trong số mười hai vị thì bảy vị cằn nhằn ra mặt, ba vị thì tỏ nét mặt bất mãn, tuy họ không nói nhưng cũng như nói. Simon Zêlote bước đi, đầu cúi gằm, không thể hiểu. Gioan thì như ở trên than hồng, và ông quay đầu lẹ làng từ những kẻ hay cằn nhằn tới Giêsu và từ Giêsu tới những người này. Khuôn mặt ông lộ vẻ đau khổ. Bởi vì các tông đồ từ chối làm hay làm với vẻ sợ sệt, nên chính Giêsu tới gõ cửa từ nhà nọ qua nhà kia, lặn lội một cách kiên nhẫn qua các ngõ hẻm đã biến thành đầm lầy trơn trượt và hôi thối.
408
Nhưng khắp nơi, người ta xua đuổi các ngài.
Họ đã tới cuối làng, nơi thung lũng nở rộng thành cánh đồng cỏ của đồng bằng sông Giođan. Chỉ còn lại vài căn nhà hiếm hoi nữa thôi... Nhưng khắp nơi là sự thất vọng...
- Chúng ta hãy tìm trong cánh đồng. Gioan, con có thể trèo lên cây du này không? Từ trên cao, con có thể nhìn thấy.
- Chúa ơi, được chứ !
- Mưa làm cho cây du trơn trượt, thằng này sẽ không thành công. Nó sẽ bị đau, và như vậy chúng ta lại có một mạng bị thương - Phêrô càu nhàu.
Giêsu nói êm đềm: “Thầy sẽ trèo lên”.
- Điều đó thì không ạ - tất cả đều la lên. Các dân chài la to hơn cả và nói thêm: “Nếu đối với chúng con là những dân chài mà nguy hiểm thì Thầy có thể làm gì được, vì Thầy chưa bao giờ trèo lên cột buồm hay thang giây?”
- Thầy làm vậy vì các con, để kiếm chỗ nghỉ cho các con. Đối với Thầy thì chả là gì cả. Đâu phải nước là cái làm cho Thầy phải nặng nhọc!...
Buồn chừng nào! Đáng thương cho Người chừng nào trong giọng nói của Người! Có vài người hiểu nên nín lặng. Những người khác, đó là Batôlômêo và Mathêu thì nói: “Bây giờ đã qúa trễ để đề phòng. Phải nghĩ tới đó sớm hơn”.
- Đúng. Và đừng có dở chứng để muốn đi khỏi Pella mặc dầu trời mưa. Thầy đã ương ngạnh và thiếu khôn ngoan nên bây giờ chúng ta phải gánh hậu qủa. Bây giờ Thầy muốn dàn xếp cái gì chứ ? Nếu chúng ta có một túi tiền đầy thì Thầy sẽ thấy là mọi căn nhà đều mở ra. Nhưng Thầy!... Tại sao Thầy không làm một phép lạ, ít nhất là một phép lạ cho các tông đồ của Thầy! Thầy đã làm cho cả những kẻ bất xứng! - Judas Kêriot nói trong khi múa máy như điên, vẻ gây hấn tới nỗi những người khác, phần nào có cùng ý kiến, cũng cảm thấy nhu cầu phải nhắc nhở hắn về sự kính trọng.
Giêsu đã có vẻ là kẻ bị kết án. Người êm đềm nhìn các lý hình của Người và nín thinh. Sự yên lặng này, từ ít lâu nay rất hay thấy
409
nơi Giêsu, khúc dạo đầu cho màn “Đại Yên Lặng” trước Đại Pháp Đình, trước Pilatô và Hêrôđê, và nó làm tôi thấy khổ. Ta thấy nó là chỗ nghỉ yên lặng trong tiếng rên của kẻ hấp hối. Nó không phải sự yên tĩnh trong đau đớn, mà là sự khai mào cho cái chết. Những yên lặng này của Giêsu, tôi thấy như nó kêu lên mạnh mẽ hơn mọi lời nói, và nó nói lên tất cả sự đau đớn của Giêsu trước sự không thông cảm của loài người và sự thiếu tình yêu của họ. Sự êm đềm không phản ứng của Người, thái độ hơi cúi đầu của Người làm tôi thấy Người như đã bị trói tay, bị giao phó cho sự thù hằn của loài người. Họ hỏi Người:
- Tại sao Thầy không nói?
- Bởi vì Thầy đã nói những điều mà qủa tim các con không hiểu, vào giờ này... Nào, chúng ta hãy bước để khỏi bị cóng... và xin lỗi...
Người quay lại và lẹ làng đi dẫn đầu nhóm. Họ hơi cảm thấy thương hại Người, nhưng cũng hơi kết án Người và cho là bạn họ có lý.
Gioan đi chậm lại, rồi ở lại phía sau, nhưng làm một cách để không ai thấy. Rồi ông đi tới một cây cao, tôi thấy hình như đó là cây bạch dương hay cây tần bì. Ông cởi bỏ áo khoác và cả áo dài, nửa mình trần, ông bắt đầu trèo lên, không phải là không khó khăn, cho tới khi cành cây đầu tiên giúp cho ông trèo dễ hơn. Ông lên, lên, như một con mèo. Đôi khi ông cũng trượt, nhưng ông lại lên. Và đó, ông đã lên tới ngọn. Ông quan sát chân trời được soi sáng bởi những tia sáng sau cùng của ngày. Qủa vậy, mây có những khoảng trống, và nơi đồng bằng trời ít tối hơn nơi thung lũng. Ông quan sát mọi hướng và sau cùng ông có một cử chỉ vui. Ông tụt mau lẹ xuống đất, mặc lại quần áo và bắt đầu chạy. Ông vượt qua các bạn, và đây, ông ở bên cạnh Thầy. Thở hổn hển vì cuộc đua, ông thưa Người: “Chúa ơi, có một cái chòi... một cái chòi ở phía đông... nhưng phải trở lại đàng sau... Con đã trèo lên cây cao... Đi, đi...”
- Thầy đi với Gioan về phía này. Nếu các con muốn thì hãy tới, nếu không muốn thì hãy tiếp tục đi cho tới làng kề đây dọc bờ
410
sông. Chúng ta sẽ gặp nhau ở đó - Giêsu nói cách nghiêm trang và qủa quyết.
Tất cả đều đi theo Người băng qua đồng cỏ ướt nước.
- Nhưng trở lại Jabès à?
- Tôi chả thấy nhà cửa nào cả!...
- Ai mà biết được thằng bé đã thấy gì!
- Có lẽ một đống rơm!
- Hay một cái lều của người cùi.
- Như vậy chúng ta sẽ hoàn tất việc dầm nước của chúng ta. Cái đồng cỏ này giống như cái bọt bể.
Các tông đồ nói và càu nhàu. Nhưng đó không phải là cái lều của người cùi, cũng không phải đống rơm. Cái mà người ta nhìn thấy qua bức màn của cây cối, đó là cái lều, đúng vậy. Nó rộng và thấp, giống như cái trại nghèo của súc vật. Một nửa được che bằng cỏ với các bức tường bằng đất, được chống đỡ một cách nặng nề tại các góc bằng những tảng đá thô kệch. Một hàng rào bằng cọc bao quanh căn nhà nhỏ và ở bên trong có một ít rau đang ngâm trong nước.
Gioan gọi. Một ông già nhỏ đi ra :
- Ai đó?
- Các người hành hương trên đường đi Jêrusalem. Xin cho một chỗ trú nhân danh Thiên Chúa - Giêsu nói.
- Luôn luôn có. Đó là một bổn phận. Nhưng qúi vị không may rồi: tôi có rất ít chỗ và không có giường.
- Không quan trọng. Ít nhất là ông có đống lửa.
Người đàn ông mở khoá: “Xin mời vào, và bình an ở với qúi vị”.
Họ đi vào qua một vườn rau nhỏ xíu, rồi tới gian nhà duy nhất được dùng làm nhà bếp và phòng ngủ. Một đống lửa bốc sáng trong lò sưởi. Đó là nhà nghèo nhưng có trật tự. Về các dụng cụ thì chỉ có những thứ tối cần.
- Coi đó. Tôi chỉ có qủa tim là lớn và luôn luôn sẵn sàng. Nhưng nếu qúi vị không qúa đòi hỏi... Qúi vị có bánh không?
- Không. Chỉ có một nắm ôliu.
411
- Tôi không có đủ bánh cho mọi người, nhưng tôi đi làm một món với sữa. Tôi có hai con cừu, nó đủ cho tôi. Tôi đi vắt sữa. Các ông có muốn đưa áo khoác của các ông cho tôi không? Tôi sẽ phơi nó trong chuồng cừu ngay phía sau, nó sẽ khô bớt, và ngày mai ta sẽ hong nó bên lò lửa.
Người đàn ông đi ra, mang nặng quần áo ướt. Mọi người quây quần quanh lò lửa, thưởng thức sức nóng của nó.
Người đó trở lại với một cái chiếu thô kệch, ông trải ra: “Tháo xăng đan của qúi vị ra đi, tôi sẽ rửa chúng cho sạch bùn rồi tôi sẽ treo lên để chúng khô. Tôi sẽ cho các ông nước nóng để rửa chân. Chiếc chiếu tuy thô kệch nhưng nó sạch và dầy, như vậy sẽ dễ chịu cho qúi vị hơn là nằm trên đất ẩm và lạnh”.
Ông bưng cái vạc đầy nước, một thứ nước hơi xanh, vì ông luộc rau ở trong đó. Ông đổ một nửa nước vào trong cái chậu lớn và một nửa vào cái thau nhỏ hơn. Ông thêm nước lạnh vào đó và nói: “Đó, để cho qúi vị lấy lại diện mạo. Qúi vị rửa ráy đi. Đây là chiếc khăn sạch”.
Trong khi nói như vậy, ông săn sóc lửa và khơi cho cháy mạnh hơn. Ông đổ sữa vào cái vạc và đặt trên bếp lửa. Khi nó vừa sôi, ông bỏ vào đó một ít hạt, tôi thấy hình như đó là lúa mạch cà nát hay hạt kê xay, rồi ông quậy đồ nấu của ông.
Giêsu đã rửa xong trong cái chậu thứ nhất, Người tới bên ông: “Nguyện Thiên Chúa ban ơn cho ông vì lòng bác ái của ông”.
- Tôi chỉ trả lại những sự tôi đã nhận được từ Người. Trước đây tôi bị cùi, từ lúc ba mươi bảy tuổi tới lúc năm mươi mốt tuổi, tôi đã bị cùi. Rồi tôi được khỏi. Nhưng khi về làng, tôi thấy cha mẹ tôi đã chết, vợ tôi cũng vậy, và nhà cửa tôi bị tàn phá. Và vì tôi đã là người cùi... Tôi đến đây để làm một cái tổ, bằng những phương tiện riêng của tôi với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Trước tiên là một cái lều bằng cây lác, rồi bằng gỗ, rồi các bức tường. Mỗi năm đều có cái gì mới. Năm vừa qua tôi làm chuồng cừu, tôi đã mua chúng bằng tiền bán chiếu và chén bát bằng gỗ mà tôi làm. Tôi có một
412
cây táo, một cây lê, một cây sung, một cây nho. Ở đàng sau, tôi có một ruộng lúa mạch nhỏ, và ở đàng trước thì có rau cỏ; bốn đôi bồ câu, hai con cừu. Ít lâu nữa tôi sẽ có những con chiên. Tôi hy vọng lần này sẽ là những con chiên cái. Tôi chúc tụng Chúa và tôi không xin gì hơn. Còn ông, ông là ai?
- Một người Galilê. Ông có thành kiến không?
- Không hề, mặc dầu tôi dòng dõi Do Thái. Nếu tôi có con trai, tôi có thể có nó giống như ông... Tôi tự coi mình như cha của các con bồ câu. Tôi đã quen sống một mình.
- Còn các ngày lễ thì sao?
- Tôi bỏ đầy đồ ăn vào máng và tôi ra đi. Tôi thuê một con lừa. Tôi chạy. Tôi làm những điều phải làm rồi tôi trở về. Tôi không bao giờ thiếu một lá cỏ. Thiên Chúa rất tốt.
- Đúng, đối với những kẻ tốt cũng như ít tốt. Nhưng những kẻ tốt thì ở dưới cánh của Người.
- Đúng vậy. Đó là điều Isaie đã nói... Tôi thì, Người bảo vệ tôi.
- Nhưng ông đã bị cùi! - Tôma nói.
- Và tôi đã trở nên nghèo và cô đơn. Nhưng đó, cũng là ơn của Thiên Chúa: lại được trở thành một người, có một mái nhà và có bánh ăn. Người gương mẫu của tôi trong hoạn nạn là ông Gióp. Tôi hy vọng xứng đáng được phúc lành của Thiên Chúa như ông ta, không phải về của cải, nhưng về ân sủng.
- Ông sẽ được. Ông là người công chính. Ông tên gì?
- Mathia - Và ông bắt cái chảo, mang lên bàn, bỏ thêm vào đó bơ và mật ong, ông quậy, rồi lại để lên bếp lửa và nói: “Tôi chỉ có sáu cái đồ đựng, vừa đĩa vừa tô. Các ông thay nhau để dùng”.
- Còn ông?
- Kẻ tiếp khách thì ăn sau cùng. Trước tiên là các anh em do Thiên Chúa gởi tới. Đây, sẵn sàng rồi. Cái này ăn tốt lắm - và ông múc thứ cháo bốc khói vào bốn cái đĩa và hai cái tô. Có những cái muỗng bằng gỗ.
Giêsu mời những người trẻ ăn trước.
- Không. Thầy ăn trước đi - Gioan nói.
413
- Không, không. Tốt hơn là Judas ăn đi để anh ta thấy rằng Chúa
Cha luôn luôn có lương thực cho các con của Người. Judas Iscariot biến sắc, nhưng ông ăn.
- Ông là một rabbi?
- Phải. Và họ là môn đệ của tôi.
- Tôi, tôi đã đến gặp ông Tẩy Giả khi ông ta ở Bêtabara. Ông có biết gì về Đức Messi không? Người ta nói rằng Ngài đã đến, và Gioan đã chỉ cho biết Người. Khi tôi đi Jêrusalem, tôi luôn luôn hy vọng gặp Người, nhưng tôi không thành công. Tôi làm xong các nghi thức rồi tôi đi, vì vậy tôi không gặp được Người. Ở đây tôi cô độc, và hơn nữa, người ta không tốt ở Pêrê. Tôi đã nói chuyện với các mục đồng. Họ đến đây để tìm đồng cỏ. Họ biết. Họ đã nói với tôi. Thật là những lời!... Và rồi được nói bởi Người!...
Giêsu không tỏ mình ra. Đã đến lần Người ăn, và Người ăn ngon lành bên cạnh ông già tốt bụng.
- Và bây giờ chúng ta làm sao để ngủ. Tôi nhường cho các ông cái giường của tôi, nhưng tôi chỉ có một cái... Tôi, tôi đi nằm với các con cừu.
- Không. Chúng tôi sẽ tới đó. Cỏ rơm rất tốt khi người ta bị mệt.
Bữa súp kết thúc và các vị nghĩ tới đi ngủ để lại ra đi lúc rạng đông. Vì ông già năn nỉ nên Mathêu nằm trên giường, vì ông bị cảm nặng.
Nhưng tới rạng đông thì trời mưa lớn. Làm sao có thể đi dưới thác nước này? Họ nghe lời ông già và ở lại. Trong lúc đó, các y phục được chải sạch, khô ráo; xăng đan được bôi dầu, và họ được nghỉ ngơi. Ông già lại nấu lúa mạch với sữa cho mọi người. Rồi ông nướng khoai trên than. Đó, bữa ăn của họ. Họ đang ăn thì thấy từ bên ngoài vọng lại một tiếng nói.
- Một người hành hương khác nữa à? Chúng ta sẽ làm sao đây? - ông già nói. Nhưng rồi ông cuộn mình trong chiếc mền bằng len sống, không thấm nước, và đi ra. Trong nhà bếp, các vị sưởi bên lò lửa, nhưng họ không vui. Giêsu nín lặng.
414
Ông già trở lại, mắt giương tròn. Ông nhìn Giêsu, ông nhìn các người khác. Ông có vẻ sợ... Ông có vẻ nghi ngờ và tra xét. Sau cùng ông nói: “Trong đám qúi vị có Đức Messi? Xin hãy nói. Những người ở Pella tìm Người để thờ lạy, vì phép lạ cả thể Người đã làm. Từ chiều hôm qua tới giờ, họ đã gõ cửa hết mọi nhà để tìm Người, từ thành phố tới bờ sông, cho tới ngôi làng đầu tiên. Bây giờ, khi trở lại, họ nghĩ tới tôi, vì có người đã chỉ nhà tôi cho họ. Họ đang ở ngoài với xe cộ và một nhóm đông người”.
Giêsu đứng lên. Nhóm mười hai nói: “Đừng ra. Vì Thầy đã nói rằng không dừng lại ở Pella là việc khôn ngoan. Tỏ mình ra lúc này là vô ích”.
- Vậy ra... Ôi! Chúc tụng! Chúc tụng Ngài và đấng đã sai Ngài! Và tôi... Tôi đã đón tiếp Ngài! Ngài là Rabbi Giêsu! Ngài... Ôi! - người đàn ông qùi gối, gục trán xuống đất.
- Đúng. Nhưng hãy để Thầy đến với những người tìm Thầy, rồi Thầy sẽ trở lại với ông, ông già đại độ - Người gỡ gót chân bị giữ chặt bởi bàn tay ông chủ nhà và ra ngoài vườn rau ngập nước.
- Người đó! Người đó! Vạn tuế!
Họ nhảy xuống khỏi xe. Có cả đàn ông, đàn bà. Có đứa trẻ mù ngày hôm qua và mẹ nó, và có cả người đàn bà Gêrasa. Không nghĩ gì tới bùn chằm, họ qùi gối và năn nỉ Người: “Xin trở lại, xin trở lại nhà chúng con, trở lại Pella”.
- Không, trở lại Jabès - nhóm người khác, chắc là dân Jabès la lên. “Chúng con muốn Thầy. Chúng con hối hận vì đã xua đuổi Thầy!” Những người Jabès kêu lên.
- Không, về nhà chúng con, về Pella, nơi phép lạ của Thầy còn sống động. Cho họ là những con mắt, cho chúng con là ánh sáng cho tâm hồn.
- Thầy không thể. Thầy đi Jêrusalem. Các con sẽ gặp Thầy ở đó.
- Thầy tức giận vì chúng con đã xua đuổi Thầy?
- Thầy ngao ngán vì Thầy biết rằng các con đã tin vào lời vu khống của một tội phạm.
415
Bà mẹ của Marc che mặt và khóc.
- Jaia, mày hãy xin Người trở lại. Mày hãy nói với đấng yêu mày.
- Các con sẽ gặp Thầy ở Jêrusalem. Hãy đi và hãy kiên trì. Đừng giống như gió thổi theo mọi hướng. Đi đi. Chào.
- Không, xin tới. Chúng con sẽ bắt Thầy nếu Thầy không tới.
- Các con sẽ không giơ tay trên Thầy. Đó là thờ ngẫu tượng chứ không phải đức tin thật. Đức tin thì tin dù không thấy; nó kiên trì dù phải chiến đấu, nó lớn lên dù không có phép lạ. Thầy ở lại nhà của Mathia là người tin dù không thấy gì, và là người công chính.
- Ít nhất là xin nhận tặng vật của chúng con: tiền và bánh. Người ta nói với chúng con rằng Thầy đã cho tất cả những gì Thầy có cho Jaia và mẹ nó. Xin hãy nhận một cái xe, Thầy sẽ dùng nó để đi. Thầy sẽ để nó lại ở Jêricô, tại quán trọ Timon. Hãy nhận đi. Trời mưa và sẽ mưa nữa, Thầy có mái che, Thầy sẽ đi nhanh hơn. Hãy tỏ cho chúng con thấy rằng Thầy không ghét chúng con.
Họ ở bên ngoài hàng rào, Giêsu ở bên trong. Hai bên nhìn nhau và những người ở bên ngoài xôn xao. Ở đàng sau Giêsu là ông già Mathia qùi gối, miệng há hốc. Sau lưng ông là các tông đồ đứng.
Giêsu giơ tay và nói: “Thầy nhận cho người nghèo. Nhưng Thầy không muốn cái xe. Thầy là người nghèo giữa các người nghèo. Đừng nài nỉ. Jaia và mẹ nó, và bà người Gêrasa, hãy đến để Thầy chúc lành đặc biệt cho”.
Mathia mở cửa rào cho họ, và khi họ đến gần Giêsu, Người vuốt ve, chúc lành cho họ rồi cho họ đi. Rồi Người chúc lành cho những người khác đứng túm tại ngưỡng cửa, trao cho các tông đồ tiền bạc và lương thực. Rồi Người giải tán họ và vào nhà.
- Tại sao Thầy không nói với họ?
- Đã nói bằng phép lạ chữa hai người mù.
- Tại sao Thầy không lấy chiếc xe?
- Bởi vì đi bộ thì tốt hơn.
Rồi Người quay về với Mathia: “Thầy thưởng cho ông bằng phúc lành của Thầy. Bây giờ Thầy có thể thêm một chút vào những gì
416
ông đã tiêu...”
- Không. Lạy Chúa Giêsu... Con không muốn. Con đã làm cách vui lòng. Bây giờ, bây giờ thì con làm để phục vụ Chúa. Chúa thì không phải trả, Người không phải kể đến. Chính con là người đã nhận chứ không phải Thầy. Ôi! Ngày hôm nay! Kỷ niệm của ngày này sẽ tồn tại trong con cho tới đời sống bên kia.
- Con nói đúng. Tình thương của con đối với người hành hương, con sẽ tìm thấy nó được ghi ở trên trời, cũng như lòng tin mau mắn của con... Ngay khi trời quang, Thầy sẽ từ biệt con. Họ có thể trở lại. Họ khẩn khoản bao lâu phép lạ còn lung lay họ, rồi sau đó... lại cứng cỏi như trước, hoặc là thù hận. Thầy ra đi. Từ trước tới giờ thì Thầy ở lại để cố gắng cải hóa họ, bây giờ thì Thầy đến rồi đi, Thầy không dừng lại. Thầy đi tới cái định mệnh của Thầy, nó hối thúc Thầy. Thiên Chúa và loài người khích động Thầy, Thầy không thể dừng lại. Tình yêu kích thích Thầy, sự thù hằn khích động Thầy. Ai yêu Thầy thì có thể theo Thầy, nhưng ông Thầy không còn chạy theo sau những con cừu bướng bỉnh nữa.
- Họ không yêu Thầy, vị Thầy Thiên Chúa? - Mathia hỏi.
- Họ không hiểu Thầy.
- Họ độc ác.
- Họ bị đè nặng bởi tình dục.
Người đàn ông không dám tự tin như trước nữa, ông ta tựa như ở trước một bàn thờ. Trái lại, Giêsu, vì bây giờ Người đã được biết nên ít dè giữ hơn. Người nói chuyện với ông già như với một người cha.
Hàng giờ qua đi như vậy cho đến đầu buổi chiều, khối mây vỡ ra báo hiệu mưa ngừng. Giêsu ra lệnh khởi hành. Trong khi ông già đi lấy các áo khoác đã khô ráo, Người để những đồng bạc vào một ngăn kéo, và bảo để bánh và phó mát vào trong chiếc thùng nhào bột.
Ông già trở lại và Giêsu chúc phúc cho ông. Rồi Người lên đường, và còn quay lại một lần nữa để nhìn đầu tóc trắng lú ra trên cái hàng rào tối.
417
50* CHỮA NGƯỜI ĐÀN BÀ CÙI
(BÔNG HỒNG JÊRICÔ)
Vì những trận mưa liên tiếp nên đồng bằng phía đông sông Giođan trở nên như một đầm nước, đặc biệt là ở chỗ Giêsu và các tông đồ đang đi. Họ vừa băng qua một con suối, nước chảy đến từ một cái họng hẹp giữa các ngọn đồi ở chung quanh nó. Các đồi này giống như bức tường khổng lồ chạy từ bắc tới nam dọc bờ Giođan, bị gián đoạn đây đó bởi các thung lũng hẹp, từ đó tràn ra các suối nước không thể tránh được. Tựa như Thiên Chúa đã đặt một tràng hoa dài của các dẫy đồi để bao quanh thung lũng lớn của Giođan tại nơi này. Tôi có thể nói đây là một tràng hoa đều đều, vì các vòm cung giống nhau và có cùng độ cao. Nhóm các nhà truyền giáo đang ở giữa hai con suối sau cùng, nó đầy tràn ra bờ sông làm cho lòng sông lớn hơn lên, nhất là dòng suối phía nam, nó trấn ngự bởi lượng nước mà nó đã lôi kéo được của các núi. Do đó nước đục đổ mạnh ào ào vào Giođan. Con sông cũng cho nghe thấy âm thanh kỳ quái của nó, hoặc tại các khúc quanh thiên nhiên của nó, tôi có thể nói là nơi nó bị mắc nghẹn liên tục, hoặc nơi có một chi lưu đổ vào, tạo nên sự ứ đọng nước. Giêsu đang ở tại nơi tạo thành bởi ba dòng nước đầy ứ, và Người khó lòng rút chân ra khỏi bùn.
Khí sắc của các tông đồ giao động hơn trong ngày, và tất cả đều nói. Mỗi người đều muốn nói ý kiến của mình, và mọi lời nói đều ẩn giấu sự phiền trách dưới vẻ một lời khuyên. Đây là giờ của những “tôi đã nói đúng mà!”, “Nếu người ta nghe tôi”, v.v. và v.v. rất thương tổn cho những ai phạm một lầm lẫn là người đã rất khổ vì đã làm điều đó.
Luôn luôn có người nói: “Đáng lẽ phải qua sông chỗ ngang với Pella và đi ở bờ bên kia có phải dễ hơn không!” Hoặc là: “Giá nhận cái xe có phải tốt hơn không! Chúng ta đã làm bộ dũng cảm, nhưng rồi sau đó...”, hay “Nếu ta ở lại trên núi thì ta đâu phải lội
418
cái bùn này!”
Gioan nói: “Các anh là tiên tri của thời quá khứ nên các anh thấy trước được cái mưa dai dẳng này?”
- Đó là mùa của nó mà. Người ta có thể tiên đoán được - Batôlômêo trịnh trọng nói.
- Những năm khác đâu có như vầy trước lễ Vượt Qua. Tôi đã đến với các anh vào lúc chắc chắn suối Cédron không đầy, và năm ngoái cả đến chúng ta có hạn hán. Các anh là những người than van, các anh có nhớ cái khát chúng ta phải chịu tại đồng bằng Philitin không? - Zêlote nói.
- Hé! Đương nhiên rồi! Hai nhà thông thái đã nói vậy và phải nghe vậy - Judas Kêriot nói mỉa.
- Im đi! Tôi xin anh. Anh chỉ biết chỉ trích thôi. Nhưng vào lúc cần, khi một tên pharisiêu hay tên đồng lõa của nó nói thì anh lại như câm, tựa như lưỡi anh bị trói - Thađê bực mình nói.
- Đúng, anh ta có lý. Trong cái làng vừa qua, tại sao anh không đối đáp một lời nào với ba con rắn đó? Anh biết rằng chúng ta đã ở Giscala và Méieron vì kính trọng và vâng lời. Và Người, chính là Người đã muốn tới đó, vì Người tôn kính các vị đại rabbi qúa cố. Nhưng anh đã không nói. Anh biết Người đòi hỏi chúng ta phải kính trọng Lề Luật và các thầy cả tới cỡ nào. Vậy mà anh đã không nói! Đợi tới bây giờ anh mới nói, bây giờ mới nói để mỉa mai những người tốt nhất trong chúng ta và chỉ trích Thầy - Andrê làm một tràng. Ông thường kiên nhẫn, nhưng bữa nay ông thực sự nóng mặt.
- Im đi em ơi! Judas lầm, vì anh ta là bạn của qúa nhiều người Samari.
- Tôi à? Họ là ai? Hãy kể tên họ đi nếu anh có thể.
- Đúng, bạn hữu: Tất cả các pharisiêu, saddu, các người quyền thế mà anh thường tự hào là bạn của họ và họ biết anh. Điều đó tỏ tường. Tôi thì họ chả bao giờ chào tôi, nhưng anh thì họ chào.
- Anh ghen! Nhưng tôi, bởi vì tôi thuộc về Đền Thờ, còn anh thì không.
- Nhờ ơn Thiên Chúa, tôi là dân chài. Đúng, và tôi tự hào về
419
điều đó.
- Một dân chài ngu tới nỗi không biết tiên đoán thời tiết.
- Không à! Tôi đã nói rồi: vào tuần trăng của tháng Nisan là mưa đổ xuống đầy ống khói - Phêrô trịnh trọng nói.
- A! Đó là điều tôi chờ anh. Và anh, Juđa Alphê, anh nói sao? Và anh, Andrê nữa? Đó, cả Phêrô, ông xếp, cũng chỉ trích Thầy.
- Tôi, thực tình tôi chả chỉ trích ai cả. Tôi chỉ nói một câu ngạn ngữ thôi.
- Ai nghe anh thì đó rõ ràng là lời chỉ trích và trách móc.
- Phải, nhưng tôi thấy tất cả những điều này chả làm khô mặt đất được. Bây giờ chúng ta ở đây và chúng ta phải ở lại đây. Hãy giữ hơi thở của chúng ta để có thể rút chân ra khỏi cái đầm lầy này - Tôma nói.
Còn Giêsu? Giêsu nín thinh. Người bước hơi ở phía trước, bì bõm trong bùn, vừa bước vừa tìm chỗ có cỏ. Nhưng cả ở chỗ đó, chỉ cần bước lên là ngập tới nửa ống chân, tựa như bàn chân bước lên cái bong bóng chứ không phải cỏ. Người nín thinh. Người để họ nói, bất mãn, hoàn toàn là con người, không có gì hơn một con người mà một chút phiền phức là làm cho họ cáu và bất công.
Bây giờ họ đã tới gần dòng suối ở lui về phía nam nhất. Giêsu thấy một người ngồi trên lưng la đi theo bờ sông ngập lụt. Người hỏi ông ta: “Chiếc cầu ở chỗ nào vậy?”
- Ở đàng kia. Tôi cũng đi qua đó. Chiếc cầu kia, chỗ hạ lưu, chiếc cầu của Rôma, thì bây giờ đã ngập nước.
Lại một hợp ca phàn nàn... Nhưng họ vội vã đi theo người đàn ông đang nói chuyện với Giêsu.
- Tốt hơn là ông nên đi về phía núi - ông ta nói, và thêm: “Hãy trở lại đồng bằng khi ông thấy suối nước thứ ba sau Yaloc. Lúc đó là ông đã ở gần khúc sông cạn. Nhưng phải đi nhanh, đừng ngừng, vì dòng sông dâng nước lên từng giờ một. Mùa này xấu qúa! Trước tiên là băng giá, rồi đến nước, và tràn ngập như vầy! Đây là hình phạt của Thiên Chúa, nhưng là công bằng. Khi người ta không ném đá kẻ nói phạm đến Lề Luật thì Thiên Chúa sẽ phạt. Và chúng ta có những kẻ đó. Ông người Galilê phải không? Vậy hẳn ông biết
420
tên Nazarét mà những kẻ tốt đã bỏ rơi, vì hắn ta là nguyên nhân của mọi điều xấu. Hắn lôi kéo sấm sét bằng lời của hắn! Các hình phạt! Phải nghe những người ở gần hắn nói về hắn. Các người pharisiêu họ có lý để theo dõi hắn. Ai biết được hắn là tên ăn cắp tới chừng nào! Hắn làm người ta sợ như một Benzêbút. Trước tôi cũng khoái đi nghe hắn, bởi vì trước tiên người ta nói nhiều điều tốt về hắn. Nhưng... Đó là những bài thuyết trình của những kẻ thuộc phe đảng của hắn, tất cả những kẻ vô sản giống như hắn. Những kẻ tốt đều bỏ rơi hắn và họ làm đúng. Tôi, vì lợi ích của tôi, tôi sẽ không đi gặp hắn nữa. Nhưng nếu sự tình cờ dẫn hắn lại gần tôi thì tôi sẽ ném đá hắn giống như bổn phận phải làm đối với những kẻ phạm thượng”.
- Vậy hãy ném đá tôi đi. Tôi là Giêsu Nazarét đây. Tôi không chạy trốn và không nguyền rủa ông đâu. Tôi đến để cứu chuộc thế giới bằng cách đổ máu ra. Tôi đây. Hãy hiến tế tôi. Nhưng hãy trở nên công chính.
Giêsu nói những lời đó trong khi hơi mở cánh tay ra, hơi nghiêng về phía mặt đất. Người nói nhẩn nha, êm dịu và rất buồn. Nhưng nếu Người đã nguyền rủa ông thì ông không đến nỗi xúc động như vậy. Ông giật giây cương con la thình lình tới nỗi nó quay ngang ra, suýt nữa là nó nhào xuống sông từ trên bờ ngập nước. Giêsu giữ lấy hàm nó và kềm con vật lại kịp thời để cứu cả người lẫn la. Người đàn ông không ngừng nhắc lại: “Ông, ông!...” Và khi nhìn thấy cử chỉ đã cứu mình, ông kêu lên: “Nhưng tôi đã nói với ông là tôi sẽ ném đá ông... ông không hiểu à?”
- Và tôi, tôi nói với ông là tôi tha cho ông, dù tôi phải đau khổ vì ông, để cứu chuộc ông. Vị Cứu Tinh là như vậy.
Người đàn ông lại nhìn Người, thúc con la và phóng đi. Ông ta chạy trốn... Giêsu cúi đầu...
Các tông đồ cảm thấy cần phải quên bùn, nước mưa và tất cả những khốn khó khác để an ủi Người. Họ bao quanh Người và nói: “Đừng buồn Thầy ơi! Chúng ta không cần những tên trộm cướp, và ông đó là một tên, vì chỉ những kẻ vô lại mới tin vào những lời vu
421
khống cho Thầy và sợ Thầy”.
Họ cũng nói: “Nhưng Thầy thiếu khôn ngoan qúa! Nếu hắn ta đánh Thầy đau thì sao? Tại sao Thầy lại nói rằng Thầy là Giêsu Nazarét?”
- Bởi vì đó là sự thật... Chúng ta hãy đi về phía núi như ông ta khuyên. Chúng ta mất thêm một ngày, nhưng các con được ra khỏi đầm lầy.
- Cả Thầy nữa - họ đối đáp.
- Ôi! Đối với Thầy thì nó chẳng đáng kể gì. Chính đầm lầy của các linh hồn mới làm cho Thầy khổ - và hai giọt nước chảy ra từ đôi mắt Người.
- Đừng khóc Thầy ơi! Chúng con cằn nhằn vậy nhưng chúng con yêu Thầy nhiều. Nếu chúng con gặp những kẻ dèm pha Thầy, chúng con sẽ báo thù cho Thầy.
- Các con sẽ tha thứ như Thầy tha thứ. Nhưng hãy để Thầy khóc. Thầy cũng là một người, và bị phản bội, từ chối, bỏ rơi... nó làm Thầy đau đớn.
- Hãy nhìn chúng con! Hãy nhìn chúng con. Chúng con ít người nhưng tốt. Không ai trong chúng con phản bội hay bỏ rơi Thầy. Thầy tin vậy đi.
- Có những điều không nên nói ra! Đúng là vấp phạm đến linh hồn chúng con khi nghĩ rằng chúng con có thể phản bội Thầy - Iscariot kêu lên.
Nhưng Giêsu rất khổ. Người nín lặng nhưng các giọt nước mắt cứ từ từ lăn trên đôi gò má xanh của khuôn mặt gầy và mệt mỏi.
Họ đã tới gần miền núi và họ chỉ cho Người quan sát: “Chúng ta sẽ lên trên kia hay đi vòng ở chân núi? Có những làng mạc ở lưng chừng sườn núi. Thầy hãy nhìn về hai phía của bờ sông là Thầy thấy”.
- Sắp đêm rồi. Chúng ta hãy tới một ngôi làng. Làng này hay làng kia cũng vậy thôi.
Juđa Thađê có mắt rất sáng. Ông quan sát sườn núi rồi lại bên Giêsu và nói: “Có những khe nứt ở trong núi, Thầy thấy ở đàng kia
422
không? Chúng ta sẽ trú ở đó. Dù sao cũng rất tốt hơn là ở trong bùn”.
- Chúng ta sẽ đốt lửa - Andrê nói để nâng cao tinh thần họ.
- Với củi ướt à? - Judas Kêriot hỏi mỉa mai. Không ai trả lời cả. Phêrô lẩm bẩm: “Tạ ơn Chúa vì không có các bà đi với chúng ta, cũng không có Margziam”.
Họ đi qua cầu, đúng là cái cầu tiền sử ở tận cuối thung lũng, và họ đi về hướng nam, men theo con đường cho lừa ngựa đi, nó dẫn về một ngôi làng. Đêm xuống thật lẹ nên họ quyết định trú trong một cái hang mênh mông để tránh mưa to gió lớn. Có lẽ đây là cái hang dùng làm nơi trú ẩn của các mục đồng, vì nó có rơm cỏ, rác rến và một cái lò lớn để đốt lửa.
- Cái này không dùng làm giường được nhưng để đốt lửa thì... - Tôma nói khi chỉ vào các cành cây dơ bẩn rải rác trên đất cùng với các cây đuôi chồn khô và các cành đỗ tùng hay các cây khác cùng loại. Ông dùng gậy vơ gọn về chỗ lò lửa, chất đống lại và châm lửa.
Đống lửa toả ra khói hôi, lẫn lộn với mùi nhựa thông và mùi đỗ tùng. Nhưng sức nóng của nó dễ chịu, và tất cả đều bao vây thành hình bán nguyệt quanh ánh sáng rung rinh của ngọn lửa. Họ ăn bánh và phó mát.
- Vậy mà chúng mình lại tính đi vô làng! - Mathêu nói. Ông bị cóng và khan tiếng.
- Ồ, nghe này! Vào làng để bắt đầu lại câu chuyện của ba bữa chiều trước đây sao? Ở đây chả ai đuổi chúng mình. Mình ngồi trên cây gỗ này và đốt lửa bao lâu có thể. Bây giờ nhìn thấy rồi: Có củi, coi này! Coi này! Có rơm cỏ!... Đúng là trại súc vật, chắc chắn dùng về mùa hè, và để di chuyển đoàn vật. Và lối này dẫn tới đâu? Andrê, cầm một cành cây cháy đi. Tôi muốn coi - Phêrô ra lệnh, ông quay tròn, lên hứng đi khám phá. Andrê vâng lời. Họ luồn vào một cái lỗ như một cái cửa hẹp ở vách hang.
- Cẩn thận kẻo có những con vật nguy hiểm đó - những người khác kêu.
423
- Hoặc các người cùi - Thađê nói.
Sau một lát, tiếng Phêrô vọng lại: “Tới đây đi! Tới đây! Ở đây hay hơn, sạch sẽ và khô ráo, có những ghế dài bằng gỗ và củi để đốt. Ôi! Đây là đền vua đối với chúng ta. Mang các cành cây cháy lại đây và chúng ta đốt đống lửa ngay lập tức”.
Chắc hẳn đây là chỗ trú của các mục đồng. Phần này là chỗ họ ngủ nghỉ, còn phần kia là chỗ họ thay phiên nhau thức canh đoàn vật. Đây là cái hầm trong núi, nhỏ hơn nhiều so với chỗ trước, và có lẽ được làm bởi tay người, hoặc ít nhất được khoét rộng thêm ra và được củng cố bằng các cột để chống đỡ cái vòm. Một ống thoát khói nguyên thủy ăn thông với hang thứ nhất, giúp cho khói thoát ra phía này. Có những tấm ván và rơm cỏ dọc theo các bức vách, nơi có đóng những cái đinh móc để treo đèn, quần áo hay giỏ xách.
- Cái này tốt qúa! Nào, ta hãy đốt thật nhiều lửa! Chúng ta sẽ ấm, đồng thời ta sấy khô áo khoác. Các bạn tháo giây lưng ra để làm giây phơi áo - Phêrô ra lệnh. Ông sắp đặt các tấm ván và rơm cỏ, rồi ông nói: “Bây giờ thay phiên nhau: một người thức canh chừng lửa để có thể thấy đường và để ta được ấm, trong khi những người khác ngủ. Ân huệ lớn của Thiên Chúa!”
Judas lẩm bẩm giữa hai hàm răng. Phêrô quay lại, bực tức: “So với hang đá Bétlem nơi Chúa sinh ra thì cái này là đền vua. Nếu Người đã có thể sinh ra trong những điều kiện đó thì chúng ta cũng dễ dàng ngủ qua một đêm ở đây”.
- Nó cũng còn đẹp hơn cái hang ở Arbêla. Ở đó, chỉ có con tim chúng ta là đẹp, đẹp hơn bây giờ - Gioan nói khi ông đi lạc vào một kỷ niệm huyền bí.
- Và nó còn tốt hơn cái hang Thầy đã ở khi Người sửa soạn ra giảng đạo - Zêlote nói cách nghiêm nghị khi ông nhìn Judas Iscariot như để bảo ông ta là hãy nín lặng.
Để chấm dứt, Giêsu nói: “Và nó ấm áp, dễ chịu hơn không tả được so với cái hang mà Thầy đã làm việc sám hối cho con, Judas Simon ạ, hồi tháng Tébeth vừa qua đó”.
- Sám hối cho con à? Tại sao? Đâu có cần.
424
- Thực vậy, Thầy và con, chúng ta phải bỏ suốt cuộc đời ra để sám hối, để giải thoát cho con khỏi tất cả những cái nó đè nặng trên con, và như vậy cũng vẫn không đủ.
Câu nói được bộc lộ cách bình tĩnh, nhưng với bao là xác định, rơi như một tiếng sét trên nhóm người sợ hãi... Judas cúi đầu và rút lui vào một góc. Ông ta không có cái táo bạo để phản ứng.
Sau một lúc, Giêsu ra lệnh: “Thầy canh thức, Thầy săn sóc lửa. Các con ngủ đi”.
Chỉ một lúc sau là tiếng tí tách của củi hòa với tiếng thở nặng nề của mười hai tông đồ mệt mỏi, nằm trên các tấm ván ở trong cỏ rơm. Giêsu, khi thấy cỏ rớt xuống và để trật họ ra, Người liền đứng dậy và lại đắp lên cho các kẻ đang ngủ, yêu thương như một người mẹ. Nhưng Người khóc khi Người nhìn các khuôn mặt trong giấc ngủ: hoặc bí hiểm, hoặc bình an, hoặc giận dữ. Người nhìn Iscariot, cả trong giấc ngủ, ông cũng có vẻ chế nhạo, dọa nạt, tay nắm chặt. Người nhìn Gioan ngủ, một tay kê dưới má, khuôn mặt che bởi những lọn tóc vàng, má hồng, bình tĩnh như đứa trẻ trong nôi. Người nhìn khuôn mặt thật thà của Phêrô, khuôn mặt nghiêm nghị của Natanael, khuôn mặt rỗ của Zêlote, khuôn mặt qúi phái của anh họ Juđa, và Người dừng lại hồi lâu để nhìn Giacôbê Alphê, trông giống như một Giuse rất trẻ của làng Nazarét. Người mỉm cười khi nghe cuộc độc thoại của Tôma và Andrê, tựa như nói chuyện với Thầy. Người đắp một cách cẩn thận cho Mathêu vì ông thở nặng nề. Người còn lấy cỏ, hơ nóng trên lửa rồi đắp lên chân cho ông để giữ cho ông ấm. Người mỉm cười khi nghe Giacôbê tuyên bố: “Hãy tin vào Thầy và qúi vị sẽ có sự sống”... Và ông tiếp tục giảng cho các nhân vật của giấc mơ. Người cúi xuống để lượm một cái túi mà Philíp giữ các kỷ niệm thân thiết của ông, Người nhẹ nhàng đặt lại dưới đầu cho ông. Trong những khoảng cách, Người suy ngắm và cầu nguyện...
Nhân vật đầu tiên thức giấc là Zêlote. Ông thấy Giêsu còn ngồi gần đống lửa trong cái hang rất ấm áp. Khi nhìn thấy đống củi lớn
425
lúc trước đã hầu như hết, ông hiểu rằng thời gian đã qua đi nhiều giờ rồi. Ông xuống khỏi tấm ván giường của ông và ông nhón gót đi nhẹ lại với Giêsu: “Thầy ơi, Thầy đi ngủ đi, con canh chừng cho”.
- Bình minh rồi, Simon ạ. Thầy vừa ra ngoài, Thầy thấy trời đã bắt đầu sáng.
- Nhưng tại sao Thầy không gọi chúng con? Thầy cũng mệt mà!
- Ôi! Simon ơi, Thầy rất cần suy nghĩ... và cầu nguyện - và người tựa đầu vào ngực Simon.
Zêlote đứng đàng sau Người khi Người ngồi. Ông vuốt ve Người và thở dài. Rồi ông hỏi Người: “Thầy suy nghĩ về điều gì? Thầy đâu có cần suy nghĩ. Thầy biết tất cả mà!”
- Không phải suy nghĩ về những điều Thầy phải nói, nhưng về những điều Thầy phải làm. Thầy không có khí giới để chống lại thế gian xảo quyệt, vì Thầy không có cái ranh mãnh của con người và cái xảo trá của Satan. Thế gian thắng, và Thầy mệt mỏi.
- Và Thầy đau khổ. Và chúng con là cái gì ở trong đó, người Thầy qúa tốt mà chúng con không đáng được có. Xin Thầy tha cho con và tha cho các bạn con. Con xin Thầy thay cho tất cả.
- Thầy rất yêu các con... Và Thầy rất khổ... Tại sao qúa thường thường các con không hiểu Thầy?
Cuộc đàm thoại của họ lay tỉnh Gioan ngủ rất gần đó. Ông mở đôi mắt xanh lơ và ngạc nhiên nhìn chung quanh. Rồi ông nhớ ra và chỗi dậy ngay. Ông lại đàng sau hai người đang nói, do vậy ông nghe được câu nói của Giêsu: “Để cho tất cả sự thù ghét và không thông cảm trở thành không và có thể chịu đựng được đối với Thầy, Thầy chỉ cần tình yêu của các con và sự thông cảm của các con... Nhưng trái lại, các con không hiểu Thầy... Và đó là sự hành hạ thứ nhất của Thầy. Nó rất nặng! Rất nặng! Nhưng đó không phải là tại lỗi các con. Các con là những con người. Nó sẽ là nỗi đau cho các con vì đã không hiểu Thầy khi các con sẽ không thể sửa chữa được nữa... Vì vậy, khi đó các con sẽ đền tội về những điều lúc này các con thiển cận, bủn xỉn, hẹp hòi. Thầy tha cho các con và Thầy nói
426
trước: ‘Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết điều chúng làm cũng như nỗi đau khổ chúng gây ra cho con’”.
Gioan lết đến phía trước, ông qùi gối và ôm lấy đầu gối của Giêsu đau khổ của ông. Các giọt nước trào ra ở mắt ông khi ông thì thầm: “Ôi! Thầy của con!”
Zêlote vẫn để đầu Giêsu ở trên ngực ông. Ông cúi xuống hôn trên đầu tóc Người và nói: “Nhưng chúng con rất yêu Thầy. Chúng con muốn có khả năng để bảo vệ Thầy, để tự vệ và chiến thắng. Chúng con nhụt khi thấy Thầy là con người phải chịu lụy con người, phải chịu đựng thời tiết, sự khốn cùng, sự độc ác, những nhu cầu của đời sống... Chúng con ngu muội. Nhưng như vậy đó. Đối với chúng con, Thầy là Vua, là Đấng Chiến Thắng, là Thiên Chúa. Chúng con không hiểu được sự cao cả của việc Thầy quên mình, phục tùng biết bao thứ vì tình yêu đối với chúng con. Chỉ một mình Thầy biết yêu. Chúng con thì chúng con không biết...
- Vâng, Thầy ơi, Simon nói rất đúng. Chúng con không biết yêu như Thiên Chúa yêu: như Thầy yêu. Và điều do lòng nhân từ vô hạn, tình yêu vô hạn, thì chúng con lại cho là sự yếu đuối, và chúng con lạm dụng... Xin Thầy gia tăng tình yêu của chúng con, gia tăng tình yêu của Thầy. Thầy là nguồn tình yêu. Xin Thầy làm cho nó tràn trề giống như lúc này dòng sông tràn trề. Xin Thầy thấm nhập nó vào trong chúng con, bão hòa chúng con bằng nó như các đồng cỏ dọc theo các thung lũng. Không cần phải có khôn ngoan, giá trị hay khắc khổ để nên hoàn thiện như Thầy muốn. Chỉ cần có tình yêu... Chúa ơi, con, con kết án nhân danh tất cả: Chúng con không biết yêu.
- Hai các con là những người hiểu Thầy hơn, các con kết án mình. Các con khiêm hạ, và sự khiêm hạ chính là tình yêu. Nhưng những người khác, về điểm này, họ cũng chỉ xa cách với các con bởi một vách ngăn mỏng, và Thầy, Thầy sẽ bạt nó xuống. Vì qủa thực Thầy là Vua, là Đấng Chiến Thắng, là Thiên Chúa muôn đời. Nhưng bây giờ Thầy là con người. Trán Thầy đã cúi xuống vì cực hình của chiếc triều thiên của Thầy. Là con người, luôn luôn là một
427
triều thiên hành hạ... Cám ơn các bạn của Thầy. Các con đã an ủi Thầy. Vì điều tốt khi làm người là: Có một người Mẹ yêu thương và các người bạn chân thành. Bây giờ chúng ta đi đánh thức các bạn dậy. Đừng khóc nữa. Các áo khoác đã khô, các cơ thể đã được nghỉ ngơi. Hãy ăn, rồi chúng ta khởi hành.
Người cất cao giọng từ từ, nhưng tiếng “khởi hành” là một mệnh lệnh chính xác. Mọi người đều bò dậy và hối tiếc vì đã ngủ hết trong khi Giêsu canh thức. Họ sửa soạn, ăn uống, mặc áo khoác vào, tắt lửa và đi ra ngoài lối đi ẩm ướt. Họ xuống dốc cho tới con đường cho lừa ngựa đi ở quanh sườn núi, nó dốc đủ để không là một bể bùn. Ánh sáng còn yếu ớt. Không có mặt trời, vì bầu trời bị mây phủ, nhưng cũng đủ để thấy hướng đi.
Andrê và hai con ông Alphê đi hẳn ở phía trước. Có một lúc họ cúi xuống nhìn rồi chạy trở lại: “Có một người đàn bà, hình như chết rồi. Bà nằm chắn ngang lối đi”.
- Ôi! Phiền qúa! Cuộc khởi hành xấu. Ta phải làm sao đây? Bây giờ lại phải lo việc thanh tẩy nữa! - Đó là những tiếng phàn nàn đầu tiên trong ngày.
- Chúng ta tới coi có đúng là bà ta chết không? - Tôma nói với Judas Iscariot.
- Tôi thì tôi tuyệt đối không lại đó - Iscariot trả lời.
- Tôma ơi, tôi đi với anh - Zêlote nói và ông tiến về phía trước. Họ tới gần bà, cúi xuống nhìn. Rồi Tôma chạy vội lại đàng sau, vừa chạy vừa la lối.
- Có lẽ bà ta bị ám sát - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Hay bà ta chết vì lạnh - Philíp nói.
Nhưng Tôma đã tới bên họ và kêu: “Bà ta ăn mặc rách rưới như người cùi...” và ông ta làm vẻ sợ hãi như đã nhìn thấy ma qủi.
- Nhưng bà ta có chết không? - họ hỏi ông.
- Ai mà biết được! Tôi, tôi vội bỏ chạy.
Zêlote đứng dậy và vội vã đi lại với Giêsu, ông nói: “Thầy ơi, một người chị em cùi. Con không biết bà đã chết chưa. Bà ta không nói. Con thấy hình như qủa tim còn đập”.
428
- Anh đã đụng vào bà ta sao? - nhiều người kêu lên và tránh xa ông.
- Ừ, tôi không sợ cùi nữa kể từ khi tôi thuộc về Giêsu. Tôi thương họ, vì tôi biết thế nào là bị cùi. Có lẽ người đàn bà khốn nạn này đã bị đánh, vì bà chảy máu ở đầu. Có lẽ bị khi bà đi xuống để tìm của ăn. Các anh biết không? Thật là kinh khủng phải chết vì đói, và phải bó buộc thách đấu với con người để có được một cái bánh.
- Bà ta có tàn tạ lắm không?
- Không. Con không biết tại sao bà ở giữa các người cùi. Bà ta không có vảy, không vết thương, không bị hủy hoại. Có lẽ bà mới bị như vậy thôi. Thầy ơi, tới coi, con xin Thầy. Xin Thầy thương người chị em cùi như đã thương con.
- Đi. Đưa cho Thầy bánh, phó mát, và chút rượu mà chúng ta còn.
- Thầy đừng cho bà ta uống vào cái mà chúng ta uống! - Iscariot sợ hãi kêu lên.
- Đừng sợ. Bà ta sẽ uống trong tay Thầy. Đi, Simon.
Họ tới gần... Nhưng sự tò mò lôi kéo tất cả những người khác. Không còn lo gì tới những lá ướt làm rớt nước xuống khi đụng vào, cũng không ngán rêu ướt, họ leo lên bờ dốc để coi cho rõ mà không phải lại gần người đàn bà. Họ thấy Giêsu cúi xuống, cầm cánh tay bà, nâng bà lên và để bà ngồi tựa lưng vào vách đá. Bà rũ đầu tựa như chết rồi.
- Simon, con nâng đầu bà lên để Thầy có thể nhỏ vào họng bà một tí rượu.
Zêlote vâng lời không sợ hãi, và Giêsu giơ cao chiếc bình, nhỏ những giọt rượu vào giữa đôi môi tái mét và hơi hé mở. Người nói: “Bà ta bị cóng, tội nghiệp! Và bà ta ướt sũng!”.
- Nếu bà ta không bị cùi thì chúng ta có thể mang bà đi theo với chúng ta - Andrê thương hại nói.
- Chỉ còn thiếu có chuyện đó! - Judas bực bõ nói.
- Nhưng nếu bà ta không cùi! Bà ta đâu có dấu vết cùi.
- Cho bà ta quần áo, vậy là đủ rồi.
429
Trong lúc rượu sinh hiệu qủa, người đàn bà thở một hơi dài mệt mỏi. Giêsu thấy bà nuốt được, liền đổ một ngụm rượu vào miệng bà. Người đàn bà mở đôi mắt mờ lệ và sợ hãi. Bà thấy các người đàn ông. Bà cố gắng đứng dậy để chạy trốn trong khi kêu: “Tôi ô nhiễm! Tôi ô nhiễm!” Nhưng bà thiếu sức mạnh. Bà lấy hai tay bưng mặt và rên rỉ: “Xin đừng ném đá tôi. Tôi đi xuống vì tôi đói... Đã ba ngày nay không ai ném cho tôi một cái gì cả...”
- Bánh và phó mát đây. Ăn đi. Đừng sợ. Hãy uống một tí rượu trong tay tôi - Giêsu nói, và đổ vào lòng bàn tay Người một tí rượu và giơ cho bà.
- Ông không sợ tôi sao? - Người đàn bà ngạc nhiên hỏi.
- Ta không sợ - Giêsu trả lời. Người mỉm cười và đứng thẳng lên nhưng vẫn ở bên cạnh người đàn bà đang ăn bánh và phó mát cách thèm thuồng. Bà giống như con vật hoang đói khát. Bà vừa ăn vừa thở hổn hển và lo lắng.
Rồi khi đã hạ bớt cái thèm của loài vật do tạng phủ rỗng của bà, bà nhìn khắp chung quanh... Bà đếm lớn tiếng: “Một... hai... ba... mười ba... Vậy ra... Ôi! Ai là vị Nazarét? Ngài phải không? Chỉ có Ngài mới có tình thương cho kẻ cùi như Ngài đã có!...” Bà ta qùi gối lên một cách khó lòng, vì bà qúa yếu.
- Đúng. Ta đây. Bà muốn gì? Được lành?
- Vâng. Nhưng trước tiên con phải nói một điều... Con đã nghe nói về Ngài... Mấy người qua đường đã nói với con rất lâu rồi! Lâu? Không. Đó là mùa thu. Nhưng đối với người cùi... mỗi ngày dài như một năm... Con muốn gặp Ngài, nhưng làm sao con có thể đi tới Juđê, Galilê? Người ta gọi con là “đứa cùi”, nhưng con chỉ có một vết thương ở ngực, nó là do chồng con đã làm cho con. Ông đã lấy con khi con đồng trinh và lành mạnh, nhưng ông ta không lành mạnh. Nhưng đó là một ông lớn... ông ta có thể tất cả, kể cả nói được rằng con đã phản bội ông bằng cách đến với ông, mang theo bệnh hoạn, và như vậy ông rẫy con để lấy một người đàn bà khác mà ông yêu. Ông đã tố con là bị cùi, và vì con cãi, nên ông đã ném đá con. Lạy Chúa! Như vậy có phải là công bằng không? Chiều
430
hôm qua, có một người đi qua bằng đường Bétjaboc, ông ta loan báo rằng Ngài đã tới, và ông ta đi tìm Ngài để đuổi Ngài. Con đã ở đó, vì con đã xuống tận chỗ có nhà ở, vì con đói. Con đã tìm tòi trong rác rến để kiếm gì ăn... Con, trước đây đã là một mệnh phụ,
mà con phải lấy của các con gà một tí cám chua... Bà khóc... Rồi nói tiếp:
- Con lo lắng tìm Ngài để, về phía Ngài thì nói với Ngài là: “Hãy trốn đi”, về phía con, là để thưa Ngài: “Xin thương xót”. Sự lo âu đã làm con quên rằng: Trái với lề luật của chúng ta, các con chó, con heo, con gà được sống ở gần các căn nhà của Israel, nhưng các người cùi thì không thể tới gần để xin một cái bánh, kể cả người đàn bà chỉ cùi có cái tên thôi. Và con đã tiến tới để hỏi xem Ngài ở đâu. Họ không nhìn thấy con ngay trong bóng tối, nên họ đã trả lời con: “Ngài đi lên lối bờ sông”. Nhưng rồi người ta nhìn thấy con và người ta đã ném đá con thay vì bánh. Ban đêm, con chạy đi để gặp Ngài, để trốn những con chó. Con đói, con lạnh, con sợ, nên con ngã qụi tại chỗ Ngài thấy con, tại chỗ này. Con tin là mình chết. Nhưng trái lại, con đã gặp Ngài. Lạy Chúa, con không phải người cùi, nhưng chỉ vì vết thương này ở trên ngực nó ngăn cản con trở lại giữa loài người. Con không xin lại được trở nên bông hồng thành Jêricô như vào thời của ba con, nhưng ít là được sống với loài người và được theo Thầy. Những người đã nói chuyện với con hồi tháng mười đã nói với con rằng Thầy cũng có những bà môn đệ, và Thầy cũng đi với họ... Nhưng trước hết, Thầy hãy trốn đi. Xin đừng chết, Thầy qúa tốt!
- Thầy, Thầy sẽ không chết bao lâu chưa tới giờ. Hãy lại đàng kia, tại ngọn núi này, có một cái hang rất an toàn. Hãy nghỉ ngơi, rồi sau đó hãy đi tìm thầy cả.
- Lạy Chúa, tại sao? - người đàn bà run lên vì lo sợ.
Giêsu mỉm cười: “Hãy lại trở nên bông hồng của thành Jêricô, nở tươi trong sa mạc, và luôn luôn sống như vậy, dù nó có vẻ như chết. Đức tin của con đã chữa con”.
Người đàn bà mở hé áo trước ngực ra và nhìn, rồi nàng kêu lên: “Hết trơn rồi! Ôi! Lạy Chúa, Thiên Chúa của con!” Và nàng qùi
431
gối, gục mặt xuống đất.
- Hãy cho cô ta bánh và đồ ăn. Và con, Mathêu, hãy cho cô ta một đôi xăng đan. Thầy sẽ cho cô ta một áo khoác để cô ta có thể tìm gặp thầy cả sau khi cô đã được bồi bổ. Judas, hãy cho cô ta tiền bố thí để tiêu vào việc thanh tẩy. Chúng ta sẽ đợi cô ta ở Gétsêmani để giao cô ta cho Êlise. Bà đã xin Thầy một cô con gái.
- Không. Chúa ơi, con sẽ không nghỉ. Con đi ngay lập tức. Ngay lập tức.
- Vậy hãy xuống sông tắm đi và mặc áo khoác vào.
- Lạy Chúa - Zêlote nói “Con sẽ cho cô cùi này áo khoác. Xin Thầy cho phép con, và con sẽ dẫn cô tới cho Êlise. Con được chữa lành lần thứ hai khi thấy con được sung sướng trong cô”.
- Cho con như con muốn. Hãy cho cô các thứ cần. Này cô, hãy nghe kỹ: Con đi thanh tẩy, rồi con hãy đi Bêtani. Hãy tìm Lazarô và nói với ông ta giữ con ở trong nhà ông cho tới khi Thầy đến. Hãy đi bình an.
- Lạy Chúa, khi nào con mới được hôn chân Chúa?
- Sắp sửa. Hãy đi, nhưng hãy biết rằng chỉ có tội lỗi làm Thầy ghê tởm. Và hãy tha cho chồng con, bởi vì nhờ trung gian của ông mà con được gặp Thầy.
- Đúng vậy. Con tha cho ông. Con đi đây... Ôi! Chúa ơi, đừng ở lại đây, nơi người ta ghét Thầy. Hãy nghĩ tới con lê bước suốt đêm để thưa Thầy điều này. Nếu thay vì tìm thấy Thầy, con lại gặp một người khác thì con có thể bị ném đá như một con rắn.
- Thầy sẽ nhớ điều đó. Đi đi. Hãy đốt quần áo của con đi. Simon, hãy đi theo cô ta. Chúng ta sẽ đi theo sau các con. Chúng ta sẽ họp nhau ở bên chiếc cầu.
Họ chia tay.
- Bây giờ chúng ta phải thanh tẩy. Tất cả chúng ta đều ô uế.
- Judas Simon à, cô ta không bị cùi đâu. Chính Thầy nói điều đó với con.
- Vậy con, con sẽ thanh tẩy. Con không muốn có sự ô uế trên mình con.
432
- Bông huệ trong trắng! - Phêrô kêu lên. “Nếu Chúa không thấy Người bị ô uế, sao anh lại muốn bị?”
- Và bởi một người đàn bà mà Chúa đã xác định không phải là người cùi? Nhưng bà ta bệnh gì vậy Thầy? Thầy có thấy vết thương không?
- Có. Đó là hậu qủa sự dâm ô của một người đàn ông, nhưng cô ta không bị cùi. Nếu ông ta ngay thật thì ông ta không xua đuổi cô, vì ông ta còn bệnh nặng hơn cô. Nhưng tất cả là để phục vụ cho sự dâm đãng, để thỏa mãn cái đói của họ. Con, Judas, con có thể đi đi, nếu con muốn. Chúng ta sẽ gặp lại nhau tại Gétsêmani. Con hãy thanh tẩy! Hãy thanh tẩy! Nhưng sự thanh tẩy trên hết phải là sự chân thành. Con giả hình. Hãy nhớ điều đó. Nhưng con có thể đi.
- Không. Con ở lại. Bởi vì Thầy đã nói vậy nên con tin. Vậy con không bị ô uế và con ở lại với Thầy. Thầy muốn nói là con dâm đãng, con muốn lợi dụng cơ hội để... chứng tỏ với Thầy rằng: chính Thầy là tình yêu của con.
Họ xuống dốc mau lẹ.
51* PHÉP LẠ VỀ SÔNG GIOĐAN KHI NƯỚC LŨ
Sau cùng con đã có thể viết về những điều làm bận rộn thị giác và thính giác tinh thần của con từ lúc khởi đầu bình minh sáng nay. Con khổ vì phải gắng sức để nghe những điều ở bên ngoài và các việc nhà cửa, trong khi con phải nhìn và nghe những điều thuộc về Thiên Chúa. Và con không thể chịu đựng được điều gì khác ngoài những điều mà thần trí con nhìn thấy.
Phải cố gắng chừng nào để không mất kiên nhẫn khi chờ đợi lúc để có thể nói với Giêsu: “Con đây. Bây giờ Chúa hãy tiến bước!” Vì con đã nói câu đó nhiều lần và con lặp lại nó khi con bị gián đoạn, rồi lại bắt đầu bài tường thuật về điều con thấy, trong khi màn cảnh phải dừng lại từ đầu hoặc ở điểm con bị gián đoạn, để rồi lại diễn tiếp khi con được tự do để theo dõi. Con tin rằng Thiên Chúa đã muốn như vậy để tránh bị bỏ mất những đoạn, hoặc bị sai về chi tiết, điều thường xảy ra cho con nếu con viết sau khi nhìn thấy.
Con xác nhận với lương tâm những điều con viết, vì con thấy và con nghe, và con viết ngay khi con thấy và nghe.
Vậy đây là những điều con đã bắt đầu thấy từ sáng nay, và đấng loan báo của nội tâm con nói cho con biết rằng đây là khởi đầu một thị kiến dài và đẹp.
433
Giêsu, vào lúc thời tiết xấu, đi trên con đường đất hết sức lầy lội. Con đường giống như con suối bùn nhỏ, bắn lên ở mỗi bước chân, một thứ bùn hơi vàng, dính dẻo, trơn như xà bông mềm, dính vào xăng đan, hít lấy nó như ống giác, đồng thời chạy trốn dưới đế dép, làm cho bước đi thành khó khăn vì cứ liên tiếp bị trượt.
Chắc trời đã mưa đi mưa lại trong những ngày trước đây, và bầu trời còn loan báo mưa nữa. Nó rất thấp với mầu chì, trôi dạt những lớp mây dầy bị đẩy bởi các luồng gió tây nam hay gió từ Hy Lạp, dầy tới nỗi không khí ở trong miệng giống như một chất lờ lợ, như trộn mật ong. Cái thứ gió thổi từng chặp này không làm cho dễ chịu, nó uốn cong cỏ và cành cây, nhưng khi nó đi qua thì tất cả lại trở về nặng nề, bất động, với sức nóng như trước cơn giông. Thỉnh thoảng có một đám mây mang nước, nó để rơi xuống những giọt nóng tựa như nó vừa ra khỏi vòi nước nóng, rơi xuống và tạo ra những bong bóng trong bùn, bắn lên chân tay quần áo.
Các gấu áo dài, mặc dầu Giêsu và các người của Ngài đã vén lên tới tận thắt lưng và lấy giây lưng cột lại, nhưng cũng bị bắn đầy bùn, bên dưới thì ướt, nhưng những vết trên cao thì hầu như đã khô. Y phục, cả những cái người ta giữ ở trên cao hết sức có thể bằng cách xếp lại trong giữa đồ đạc, để giữ cho nó sạch và che nó cho khỏi những cơn mưa ngắn nhưng rất mạnh, cũng bị dơ vì bùn. Bùn bám vào tới nửa ống chân như một đôi tất dầy bằng len bùn và đóng chặt vào chân.
Các môn đệ phàn nàn một chút về thời tiết và con đường, và cả về ý muốn không mấy... hợp vệ sinh của Thầy, vì đã xuất hành trong thời kỳ này.
Giêsu làm như Người không nghe gì, nhưng Người nghe thấy hết. Hai ba lần Người quay lại. Họ bước hầu như hàng một để giữ bờ đường phía bên trái hơi cao hơn, do đó hơi ít bùn hơn bờ phía bên phải. Người quay lại nhìn họ, nhưng Người không nói gì.
Lần sau cùng, chính là người lớn tuổi hơn cả trong các môn đệ nói: “Ôi, tội nghiệp cho tôi! Cái bùn ướt này nó khô đi trên mình tôi, tôi sẽ cảm thấy đau. Tôi già rồi! Tôi đâu còn ở tuổi ba mươi!”
434
Mathêu cũng càu nhàu: “Vậy còn tôi? Tôi đâu có quen. Phêrô, anh biết rõ là khi ở Caphanaum, nếu trời mưa là tôi không ra khỏi nhà. Tôi để các trợ tá ở quầy thuế, và họ dẫn lại cho tôi những người phải trả. Tôi đã tổ chức những người phục vụ thực sự vì mục đích này... Đúng, lại nữa, ai di chuyển khi trời xấu? Hum! Vài tên buồn tẻ. Chợ búa và du hành thì người ta làm khi trời đẹp chứ!...”
- Các anh nín đi! Người nghe thấy đó! - Gioan nói.
- Ồ, không. Người không nghe đâu. Người suy nghĩ, và khi Người suy nghĩ thì... tựa như Người không hiện hữu nữa - Tôma nói.
- Và khi Người đã quyết định điều gì thì dù sự lưu ý chính đáng nhất cũng không làm được cho Người thay đổi ý kiến. Người muốn làm điều Người muốn. Người chỉ tin cậy vào chính mình. Điều đó sẽ là tận số của Người. Nếu Người nghe tôi một tí... Tôi, tôi biết rõ bao nhiêu là thứ - Judas nói với sự tự phụ khéo léo của ông, và với cao vọng được coi là hay hơn những người khác.
Phêrô bất chợt trở nên đỏ như mào gà trống, ông nói: “Anh biết được gì? Anh biết tất cả sao? Anh có những bạn bè nào? Có lẽ anh là đại nhân của Israel? Nhưng này, anh cũng chỉ là một con người tội nghiệp như tôi và như những người khác. Có hơi đẹp trai hơn... Nhưng sắc đẹp của tuổi trẻ là cái hoa chỉ tồn tại được một ngày! Tôi, tôi cũng vậy. Hồi trước tôi cũng đẹp!”
Một tràng cười dòn của Gioan băng qua không khí. Những người khác cũng cười và hơi diễu Phêrô vì những nét nhăn của ông, vì cặp giò hơi giạng của ông cũng như hầu hết các thủy thủ, đôi mắt hơi lồi của ông, đỏ hoe vì gió hồ.
- Vậy cứ cười đi, nhưng là vậy đó. Rồi đừng có ngắt lời tôi: Judas, anh nói coi: anh có bạn bè nào? Anh biết được những gì? Để biết cái điều, như anh cho người ta hiểu, thì chắc chắn anh có các bạn hữu trong đám các kẻ thù của Giêsu. Và kẻ có bạn trong số các kẻ thù tức là kẻ phản bội! Hé! Ông tướng! Coi chừng! Đừng cậy vào sắc đẹp của ông! Vì nếu thực sự là tôi không còn đẹp trai nữa, thì điều rất thực là tôi còn rất mạnh, và tôi sẽ không khó để xin anh mấy cái răng và móc mắt anh - Phêrô nói.
435
- Ôi! Cái lối ăn nói! Rõ là tên ngư phủ thô lỗ! - Judas nói cách khinh miệt, giống như một hoàng tử bị xúc phạm.
- Rất đúng. Và tôi hãnh diện vì vậy. Ngư phủ, nhưng ngay thẳng như cái hồ của tôi. Khi nó muốn làm bão thì nó không nói: “Tôi sẽ làm bể yên sóng lặng”, nhưng nó làm một thứ rùng mình, và nó đặt chứng nhân trên bầu trời là những khối mây. Chỉ cần đừng có ngu si hay say sưa là hiểu được những báo hiệu của nó và hành động kịp thời. Anh... anh giống như cái bùn này, trông có vẻ chắc, nhưng coi này! (và với một cú mạnh của bàn chân, ông làm bắn bùn lên tận cằm của Iscariot đẹp trai).
- Ô Phêrô! Lối hành động này qúa bất xứng! Đó là tất cả hoa trái của các lời Thầy về tình bác ái đó!
- Và cũng những lời cho anh về sự khiêm nhường và ngay thẳng. Nào, hãy khạc những điều anh biết ra đi! Anh biết gì? Có thực là anh biết hay anh giả bộ vậy để người ta nghĩ rằng anh có các bạn hữu thế lực! Anh là con sâu tội nghiệp!
- Điều tôi biết là tôi biết, tôi đâu có cần nói cho anh để xảy ra ẩu đả cho anh vui sao? Anh chỉ là tên Galilê. Tôi nhắc lại là nếu Thầy đã bớt cứng đầu thì đã có đại lợi, và cũng bớt tàn bạo nữa, vì thiên hạ mệt mỏi khi nghe lời xúc phạm.
- Tàn bạo à? Nhưng nếu Người tàn bạo thì hẳn Người đã làm cho anh bay xuống sông lập tức rồi! Một đường bay thật đẹp ở bên trên các ngọn cây! Như vậy để anh rửa khuôn mặt bị dính bùn, và sẽ may mắn nếu điều đó cũng giúp cho anh rửa con tim của anh, mà nếu tôi không lầm thì nó còn đóng vảy cứng hơn là cặp giò bị dính bùn của tôi nữa - Qủa vậy, Phêrô, vì lông lá xồm xoàm và vì nhỏ con nên bị nhúng bùn nhiều hơn. Ông với Mathêu đầy bùn lên tới đầu gối. Mathêu nói: “Thôi, sau cùng cũng phải chấm dứt chứ!”
Gioan thấy Giêsu đi chậm lại, nghi rằng Người đã nghe nên nhấn bước. Ông vượt qua hai ba người bạn và tới nơi để đi bên cạnh Người và ông gọi: “Thầy ơi!” rất êm đềm như thường lệ, với cái nhìn tình yêu của ông. Ông ngửa mặt lên, vì ông nhỏ con hơn Người, và ông đi ở phía giữa đường, trong khi những người khác đi ở bờ đường phía cao hơn.
436
- Ồ, Gioan. Con đến với Thầy à? - Giêsu mỉm cười với ông.
Gioan tìm hiểu một cách vừa yêu thương, vừa kính sợ khuôn mặt của Thầy để đoán xem Người có nghe thấy họ nói không. Ông trả lời: “Vâng, Thầy của con. Thầy có muốn con không?”
- Thầy luôn luôn muốn con. Thầy muốn tất cả các con, và với con tim như của con. Nhưng con đi ở chỗ đó sẽ bị ướt hết.
- Thầy ơi, không quan trọng đâu. Chỉ có một điều quan trọng đối với con là được ở lại bên Thầy.
- Con muốn luôn luôn ở bên cạnh Thầy à? Con không nghĩ là Thầy thiếu khôn ngoan, và Thầy có thể gây phiền phức cho các con. Con không cảm thấy bị xúc phạm bởi vì Thầy không nghe theo lời khuyên của con?
- Ôi! Thầy ơi, vậy là Thầy đã nghe hết! - Gioan kinh ngạc.
- Thầy nghe hết, ngay từ những lời đầu tiên. Nhưng con đừng buồn. Các con không phải trọn lành. Thầy biết điều đó khi nhận các con. Và Thầy không đòi hỏi các con phải hoàn hảo mau lẹ. Trước tiên, các con phải tiến từ tình trạng hoang dại qua tình trạng gia cầm nhờ phương tiện của hai cuộc ghép...
- Cái nào Thầy?
- Một cuộc ghép máu, một cuộc ghép lửa. Sau đó các con sẽ là những anh hùng của Nước Trời, và các con sẽ hoán cải thế giới, bắt đầu từ các con.
- Máu? Lửa?
- Đúng, Gioan. Máu là máu Thầy...
- Giêsu! Không! - Gioan ngắt lời Người bằng tiếng rên.
- Bình tĩnh nào bạn ơi! Đừng ngắt lời Thầy. Trước tiên là con, hãy nghe những sự thật này. Con đáng được: Máu là máu Thầy, con biết. Chính vì vậy mà Thầy đến. Thầy là Đấng Cứu Thế... Con hãy nghĩ đến các lời tiên tri. Họ đã không bỏ mất một nét nào khi họ mô tả sứ mạng của Thầy. Thầy sẽ là con người mà Isaie đã tả. Và khi Thầy đổ máu ra thì chính máu này sẽ sinh sản. Nhưng Thầy không chỉ giới hạn ở đó. Các con rất bất toàn, yếu đuối, khép kín, sợ sệt, nên Thầy, khi đã được vinh hiển bên Cha Thầy, Thầy sẽ gởi
437
Lửa xuống cho các con. Đó là Sức Mạnh phát nguyên ra sự kiện Thầy được sinh bởi Chúa Cha, Sức Mạnh liên kết Chúa Cha với Chúa Con bởi một cái vòng bất khả tiêu tan để làm cho cả Ba thành Một: Tư Tưởng, Máu, và Tình Yêu. Khi chính Thánh Thần của Thiên Chúa, còn hơn là Thần Trí của Thánh Thần của Thiên Chúa, Sự Toàn Vẹn của mọi Sự Toàn Vẹn Thiên Chúa sẽ xuống trên các con, các con sẽ không còn như các con đang là bây giờ nữa, nhưng sẽ được đổi mới, mạnh mẽ và thánh thiện... Nhưng có một người trong các con, Máu sẽ là không và Lửa sẽ là không, vì đối với nó, Máu sẽ là quyền năng để kết án nó, và cho tới đời đời, nó sẽ biết một thứ lửa khác, trong lửa này, nó sẽ bị thiêu đốt trong khi nôn mửa ra máu và uống lấy máu, vì nó sẽ thấy máu ở khắp nơi mà nó để mắt vào, con mắt thể xác cũng như con mắt tâm hồn. Nó sẽ thấy máu từ lúc nó phản bội Máu của Thiên Chúa.
- Ôi! Thầy ơi! Ai vậy?
- Một ngày kia con sẽ biết. Bây giờ thì đừng biết. Và vì bác ái, cũng đừng tìm cách để biết, để phỏng đoán, giả tỉ. Con không được nghi ngờ anh em con, bởi vì nghi ngờ đã là thiếu bác ái rồi.
- Con chỉ cần Thầy bảo đảm với con rằng không phải con là kẻ phản bội, cũng không phải anh Giacôbê của con.
- Ồ, không phải con, cũng không phải Giacôbê. Gioan anh dũng, con là sự khích lệ của Thầy. - Rồi Giêsu quàng cánh tay Người quanh vai ông và kéo ông lại với Người. Và họ ôm nhau như vậy mà bước đi.
Họ nín lặng một lúc. Bây giờ những người khác cũng nín lặng, chỉ còn nghe tiếng động của bàn chân trên đất.
Rồi họ nghe thấy một tiếng động khác, tiếng sùng sục đều đều, giống tiếng ngáy gỗ nặng nề của người bị sổ mũi, thỉnh thoảng bị gián đoạn bởi các tiếng vỡ nhẹ. Giêsu nói:
- Con nghe thấy không? Tới gần sông rồi.
- Nhưng chúng ta chỉ tới chỗ sông cạn vào ban đêm. Sắp đêm rồi.
- Chúng ta sẽ nghỉ trong một cái lều, và sáng mai chúng ta sẽ
438
qua sông. Thầy đã muốn tới sớm hơn, vì mực nước sông dâng cao từng giờ. Con nghe thấy không? Tiếng các cây sậy ở bờ sông bị bẻ gẫy dưới sức nặng của nước lũ.
- Họ đã giữ Thầy lại qúa lâu trong các làng của miền Thập Tỉnh. Chúng con đã nói với những người bệnh đó là “để lần khác”, nhưng...
- Những người bệnh thì muốn được khỏi ngay chứ Gioan. Và đấng có Tình Thương cũng chữa ngay. Không quan trọng đâu Gioan, dù sao chúng ta cũng sẽ qua sông. Thầy muốn đi ở bờ bên kia trước khi trở lại Jêrusalem dịp lễ Ngũ Tuần.
Họ lại nín lặng. Màn đêm buông mau trong ngày mưa. Đường đi, vào hoàng hôn, càng lúc càng tối và trở nên khó hơn. Cây cối ở dọc đường cũng làm tăng bóng tối bởi chòm lá của chúng.
- Chúng ta hãy qua phía bên kia đường. Bây giờ chúng ta đã ở gần khúc sông cạn. Chúng ta sẽ tìm một cái lều.
Họ băng qua đường. Những người khác cũng làm theo. Họ băng qua rãnh bùn, bùn thì đúng hơn là nước, đang rì rào đổ ra sông. Hầu như phải dò từ cây nọ qua cây kia, họ di chuyển hướng về phía sông mà tiếng ồn ào càng lúc càng nghe gần và mạnh.
Một tia sáng trăng đầu tiên xuyên qua làn mây, len lỏi giữa hai cụm mây, chiếu sáng nước bùn của dòng Giođan rất đầy, rất rộng ở chỗ này. Đây không còn là con sông phẳng lặng, đẹp mầu da trời nữa, nơi mọi khi thì dòng nước cạn và yên lặng cho nhìn thấy lớp cát mịn của bãi sạn gần bờ, nơi bắt đầu bãi sậy luôn luôn có tiếng rì rào. Bây giờ nước đã xâm chiếm hết, và những cây sậy ở đầu bãi đã gục xuống, bị gẫy, bị ngập, không còn nhìn thấy nữa. Suốt dọc bờ, một dải lá xanh dợn sóng của hoa nước giống như ra dấu hiệu từ biệt, hoặc giống như tiếng kêu cầu cứu. Nước đã lên tới gốc các cây lớn. Tôi không biết những cây này. Chúng to và rậm rạp, làm thành một bức tường dầy tối om trong màn đêm. Vài cây liễu đã dìm ngọn bộ tóc rối của chúng vào trong nước đục vàng.
- Chỗ này không còn là bãi cạn nữa - Phêrô nói.
- Không phải chỗ này. Nhưng coi kìa, ở đàng kia, người ta còn đang băng qua - Andrê nói.
439
Qủa vậy, hai con vật đang dò dẫm cẩn thận để qua sông. Nước đã lên tới bụng chúng.
- Nếu chúng qua được thì thuyền cũng qua được.
- Nhưng phải qua ngay, dù là đã đêm. Mây đã tan và có ánh trăng. Ta đừng để mất thời giờ. Đi tìm xem có thuyền không... - Và Phêrô hô ba lần tiếng kêu kéo dài và than van: “Oh!... hé”.
Không có tiếng trả lời.
- Hãy đi tí nữa, tới tận chỗ sông cạn. Chắc chắn Melchias ở đó với các con trai ông. Đây là mùa tốt của ông ta. Ông ta sẽ chở chúng ta qua.
Họ bước nhanh hết sức có thể trên lối đi hẹp dọc bờ sông hầu như sắp chạm nước.
- Nhưng có phải là người đàn bà không? - Giêsu nói khi nhìn hai người bây giờ đã sang qua sông cùng với con ngựa của họ và dừng lại trên lối đi.
- Một người đàn bà sao? - Phêrô và những người khác không nhìn rõ nên không phân biệt được cái bóng người vừa xuống khỏi ngựa và đang đứng chờ là đàn ông hay đàn bà.
- Đúng. Đó là người đàn bà. Đó là... Đó là Maria. Bây giờ nhìn coi, cô ta đang ở dưới ánh trăng.
- Thầy may mắn nhìn thấy tỏ. Thầy có mắt tốt.
- Đúng Maria rồi. Cô ta muốn gì vậy? - Và Giêsu kêu: “Maria!”
- Raboni! Thầy hở? Ngợi khen Thiên Chúa vì con tìm được Thầy.
Và Maria chạy như một con linh dương về phía Giêsu. Tôi không biết sao nàng không trượt té trên lối đi nguy hiểm này. Nàng đã bỏ rơi chiếc áo khoác thứ nhất, rất nặng, và bây giờ nàng chạy với chiếc áo khoác thứ hai nhẹ hơn, bao bọc cơ thể nàng bên ngoài y phục đậm mầu.
Khi tới trước Giêsu, nàng phục xuống chân Người, không nghĩ gì tới bùn. Nàng thở hổn hển nhưng sung sướng. Nàng nhắc lại: “Ngợi khen Thiên Chúa vì con đã tìm được Thầy”.
- Tại sao vậy Maria? Có chuyện gì vậy? Con không ở Bêtani à?
- Con ở Bêtani với mẹ Thầy và các bà, đúng như Thầy đã bảo... Nhưng con tới gặp Thầy... Lazarô không thể đi, vì anh ấy rất đau...
440
nên con đi cùng với người đầy tớ...
- Con, đi một mình với một người con trai, và vào mùa này!
- Ôi! Raboni! Thầy không muốn nói với con rằng Thầy nghĩ là con sợ. Con đã không sợ để làm biết bao điều xấu... Bây giờ con đâu có sợ để làm điều tốt.
- Vậy tại sao con tới?
- Để xin Thầy đừng qua sông... Ở bờ bên kia, chúng đang chờ Thầy để làm hại Thầy... Con biết... Con biết bởi một người của Hêrôđê, kẻ hồi trước... Kẻ hồi trước yêu con... Ông ta đã nói điều đó cũng còn là vì yêu, hay vì ghét con không biết... Con chỉ biết rằng bữa trước ngày hôm qua, ông ta nhìn thấy con qua hàng rào và ông ta bảo con: “Maria ngu ngốc ơi, em đang đợi ông Thầy em à? Em làm đúng, vì đây sẽ là lần chót. Khi ông ta tới Juđê, người ta sẽ bắt ông ta. Hãy nhìn ông ta cho kỹ rồi trốn đi, vì vào lúc này, ở gần ông ta sẽ là thiếu khôn ngoan...” Khi đó, Thầy có thể nghĩ với con tim như thế nào... con đã được báo tin... Thầy biết... Con biết nhiều kẻ... và vẫn coi con như điên hay bị qủi ám... chúng còn nói với con... Con biết đó là sự thật... Con lấy hai con ngựa và con đi, không hề nói gì với mẹ Thầy để khỏi làm khổ mẹ. Xin Thầy lánh đi... Xin Thầy lánh đi ngay. Nếu chúng biết rằng Thầy ở đây, chúng sẽ tới từ phía bên kia sông. Hêrôđê cũng tìm Thầy... Bây giờ Thầy đã ở gần Machéronte. Thầy ơi, hãy lánh đi, hãy lánh đi vì tình thương! Vì tình thương! Thầy ơi!...
- Maria! Đừng khóc...
- Thầy ơi con sợ!
- Không! Sợ! Con đã có đủ can đảm để qua sông giữa đêm mà!...
- Nhưng đó chỉ là con sông, còn những người này là kẻ thù của Thầy, và chúng ghét Thầy... Con sợ là sợ sự thù ghét của họ đối với Thầy... Vì con yêu Thầy! Thầy ơi!
- Đừng sợ. Chúng chưa bắt Thầy đâu. Đây không phải là giờ của Thầy. Dù là chúng đặt hàng đội và hàng đội lính dọc theo hết mọi con đường, chúng cũng không bắt được Thầy. Đây chưa phải là giờ của Thầy. Nhưng Thầy sẽ làm như con muốn. Thầy sẽ trở lại phía
441
sau...
Judas lẩm bẩm cách mập mờ điều gì đó nên Giêsu trả lời: “Đúng, Judas ạ, đúng hệt như con nói, nhưng chỉ đúng hệt có phần đầu câu con nói thôi. Thầy cho cô ta là có lý, đúng, Thầy cho cô ta là có lý, không phải vì đó là một người đàn bà như con ám chỉ, nhưng bởi vì chính nàng là kẻ đã tiến cao nhất trên con đường tình yêu. Maria, hãy trở về nhà ngay khi con có thể. Thầy trở lại phía sau, rồi Thầy sẽ qua sông... nơi Thầy có thể. Rồi Thầy sẽ đi Galilê. Con hãy cùng với mẹ Thầy và các người khác tới Cana, vào nhà Suzane, ở đó Thầy sẽ bảo các con những gì phải làm. Hãy đi trong bình an và phúc lành. Thiên Chúa ở với con”.
Giêsu đặt tay trên đầu cô và chúc lành cho cô như vậy. Maria cầm tay Giêsu và hôn. Rồi cô đứng lên và trở lại. Giêsu nhìn cô đi, nhìn cô lượm chiếc áo khoác lớn của cô, mặc lại rồi tới bên con ngựa, nhảy lên, phóng tới chỗ sông cạn và băng qua.
- Bây giờ chúng ta đi - Người nói. “Thầy muốn cho các con nghỉ mà không được. Thầy sẽ lo việc bảo vệ cho các con như Judas nghĩ. Và hãy tin rằng nếu các con rơi vào tay các kẻ thù của Thầy thì sẽ có hại cho sức khỏe của các con hơn là nước và bùn...”
Mọi người đều cúi đầu, hiểu ra lời trách móc ẩn giấu được nói cho họ để trả lời cho những đàm thoại của họ lúc nãy.
Họ đi, đi, đi suốt đêm, giữa những lúc tạnh và các cơn mưa ngắn. Một bình minh tái mét bắt gặp họ gần một làng rất nhỏ nằm gần bờ sông với những căn nhà nhỏ đầy bùn. Dòng sông ở đây nhỏ hơn ở chỗ sông cạn. Có những chiếc thuyền đã được lôi lên cạn tới tận đàng sau nhà ở để giữ cho nó khỏi nước lũ.
Phêrô phóng một tiếng kêu: “Oh!... hé!”
Một người đàn ông già vạm vỡ ra khỏi lều: “Ông muốn gì?”
- Mấy cái thuyền để qua sông.
- Không thể được! Sông qúa ngập... dòng nước...
- Hé, bạn ơi, bạn nói với ai vậy? Tôi là dân chài Galilê đây.
- Biển là một chuyện. Ở đây là sông... Tôi không muốn mất cái thuyền của tôi... Hơn nữa, tôi chỉ có một cái, mà ông với các người của ông, các ông qúa đông!
442
- Nói điêu chưa! Ông muốn nói với tôi là ông chỉ có một cái thuyền sao?
- Cầu cho mắt tôi khô héo nếu tôi nói dối! Tôi...
- Coi chừng kẻo nó khô thực nhé! Người là vị Rabbi Galilê đó. Người ban mắt cho kẻ mù, Người cũng có thể làm thỏa lòng ông bằng cách làm khô mắt ông...
- Lạy Tình Thương! Rabbi! Xin tha cho con! Raboni!
- Ừ, đừng bao giờ nói dối. Thiên Chúa yêu những kẻ thành thật. Tại sao ông lại nói dối là ông chỉ có một cái thuyền trong khi cả xứ có thể đính chính cho ông? Thật qúa nhục cho một người nói dối và bị lột mặt nạ. Ông sẽ cho tôi mượn các thuyền chứ ?
- Thưa Thầy, tất cả ạ.
- Phêrô, cần mấy chiếc?
- Thời tiết bình thường thì hai là đủ, nhưng với nước lũ, chèo chống khó hơn nên phải ba cái.
- Hãy lấy đi, ông dân chài. Nhưng rồi tôi làm sao để lấy lại được?
- Hãy đi theo trong một thuyền. Ông không có con trai sao?
- Tôi có một thằng con trai, hai đứa con rể và những đứa cháu trai.
- Mỗi thuyền hai đứa là đủ để trở về.
- Chúng ta đi.
Người đàn ông gọi những người khác, và với sự phụ giúp của Phêrô, Andrê, Giacôbê, Gioan, họ đặt các thuyền xuống nước. Dòng nước mạnh muốn lôi nó đi lập tức. Các sợi giây cột nó vào các cây ở gần đó căng ra như giây cung, kêu ken két. Phêrô nhìn, ông nhìn các thuyền, nhìn dòng sông. Ông nhìn và lắc đầu, vùi bàn tay trong mớ tóc hoa râm. Rồi ông liếc Giêsu cách tò mò.
- Con sợ à Phêrô?
- Hé!... gần như... gần như...
- Đừng sợ. Hãy tin. Và cả ông nữa. Kẻ mang Thiên Chúa và các kẻ Người sai đến thì không được sợ. Hãy lên thuyền đi. Thầy lên chiếc thứ nhất.
443
Người chủ của các thuyền làm một cử chỉ nhẫn nại. Hẳn ông nghĩ rằng đã đến giờ sau cùng của ông và con cái ông, hoặc ít nhất, ông cũng nghĩ rằng ông sắp mất các chiếc thuyền và đi trôi theo dòng nước.
Giêsu đã ở trong thuyền, đứng ở đàng mũi. Những người khác lên thuyền với Người và hai thuyền kia, chỉ còn lại trên đất một đứa nhỏ để canh chừng các giây cột thuyền.
- Chúng ta lên hết chưa?
- Chúng ta đã lên hết.
- Các mái chèo sẵn sàng chưa?
- Sẵn sàng.
- Ông, hãy rời bến.
Ông già nhỏ tháo giây buộc tại cái chốt gần mạn thuyền. Các con thuyền, khi vừa tách bờ, trôi vẹo về phía nam theo chiều dòng nước. Nhưng Giêsu có khuôn mặt của phép lạ.
Người nói gì với dòng sông thì tôi không biết, tôi chỉ biết rằng dòng nước hầu như ngừng chảy. Nó chỉ có những nhu động nhẩn nha của sông Giođan khi không có nước lũ. Các con thuyền cắt ngang dòng nước cách dễ dàng và cả đến lẹ làng, làm cho ông chủ thuyền ngạc nhiên.
Đây, đã đến bờ. Họ lên đất dễ dàng, và dòng nước không cố gắng lôi các con thuyền đi khi các mái chèo đã ngừng hẳn. Ông chủ thuyền liền nói :
- Thưa Thầy, con thấy Thầy thật mạnh mẽ. Xin Thầy chúc lành cho tôi tớ Thầy, và xin Thầy nhớ đến con là kẻ tội lỗi.
- Tại sao lại mạnh mẽ?
- Hé! Chuyện này đối với Thầy có vẻ là chuyện nhỏ sao? Thầy đã làm ngừng dòng nước của Giođan khi nước lũ!...
- Josuê cũng đã làm phép lạ này, mà còn lớn hơn nữa, vì nước sông đã biến đi để cho Hòm Bia đi qua...
- Còn ông, ông ơi, ông đã đưa Hòm Bia thực sự của Thiên Chúa qua sông - Judas nói cách tự mãn.
- Lạy Thiên Chúa Tối Cao! Vâng, con tin điều đó. Thầy thực là
444
Đấng Messi, Con Thiên Chúa Tối Cao. Ôi! Con sẽ nói trong các tỉnh và các làng quanh đây. Con sẽ nói điều Thầy đã làm, điều mà con đã thấy Thầy làm. Xin Thầy trở lại. Cái xứ tội nghiệp của con có nhiều bệnh nhân, xin Thầy đến chữa cho họ.
- Thầy sẽ trở lại. Trong khi chờ đợi, con hãy nhân danh Thầy mà rao giảng đức tin và sự thánh thiện, để họ được đẹp mắt Thiên Chúa. Chào. Hãy đi bình an và đừng sợ cho sự trở về của con.
- Con không sợ. Nếu con sợ, con đã xin Thầy thương xót mạng sống con. Nhưng con tin ở Thầy và ở lòng tốt của Thầy, và con ra đi, không xin gì cả. Xin chào Thầy.
Ông lên thuyền, quay mũi chiếc thuyền đầu tiên ra dòng sông và nó đi ra, êm đềm, mau lẹ. Nó đụng bờ bên kia rồi.
Giêsu ở lại đó cho tới khi Người thấy ông đã lên đất, Người làm một cử chỉ chúc phúc, rồi Người lên đường.
Dòng sông lại lấy lại nhịp chảy mạnh... Và tất cả chấm dứt như vậy.
52* TRÊN BỜ BÊN KIA SÔNG. GẶP MẸ.
Bây giờ họ đang ở trên bờ bên kia của sông Giođan. Họ bước lẹ về phía tây nam, hướng tới một dẫy đồi thứ hai cao hơn dẫy thứ nhất, những ngọn đồi thấp, bên ngoài nó là đồng bằng sông Giođan. Qua những câu đàm thoại của họ, tôi hiểu là họ đã tránh đi trong đồng bằng để không bị rơi vào cảnh bùn lầy mà họ đã để lại ở bờ bên kia, và họ nghĩ tới phải đi đâu để có thể theo những con đường xa bờ sông, được bảo trì tốt và thực dụng hơn, nhất là vào kỳ mưa.
- Có thể chúng ta đang ở chỗ nào vậy? - Mathêu hỏi, vì ông định hướng giở.
- Chắc chắn là ở giữa Silô và Béthel - Tôma nói. “Tôi nhận ra những ngọn núi này. Tôi đã đi qua đây cách nay ít lâu cùng với Judas, mà ở Béthel, anh đã được các pharisiêu đón tiếp”.
- Anh cũng có thể được như vậy nếu anh đã muốn tới. Họ cũng như tôi, đâu có bảo anh là “đừng tới”.
- Tôi cũng không nói rằng anh đã bảo tôi như vậy. Tôi chỉ nói
445
rằng tôi đã thích ở lại với các môn đệ đang giảng Tin Mừng ở đó hơn.
Chuyện rắc rối chấm dứt, và cả Andrê cũng mừng rỡ nói: “Nếu ở Béthel, chúng ta có các pharisiêu làm bạn thì họ sẽ không tấn công chúng ta”.
- Nhưng chúng ta đang trở lại đàng sau thay vì đi Jêrusalem - họ đối đáp với ông.
- Nhưng chúng ta phải tới đó để cử hành lễ Vượt Qua. Tôi không biết chúng ta sẽ làm thế nào...
- Ờ, đúng rồi. Tại sao Người lại nói rằng chúng ta trở về Cana? Các bà có thể trở về, và chúng ta hoàn tất cuộc hành hương...
- Điều đó có nghĩa là vợ tôi sẽ không làm lễ Vượt Qua ở Jêrusalem - Phêrô kêu lên.
Gioan can thiệp với Giêsu khi Người đang trò truyện với Zêlote: “Thưa Thầy, chúng ta làm thế nào để đi và về kịp thời?”
- Thầy không biết. Thầy phó thác cho Thiên Chúa. Nếu chúng ta bị trễ thì đó không phải tại lỗi Thầy.
- Thầy đã làm đúng khi hành động khôn ngoan - Zêlote nói.
- Ôi! Thầy thì Thầy có thể tiếp tục, vì chưa tới giờ của Thầy. Thầy biết. Nhưng các con, làm sao các con có thể chịu đựng phiêu lưu. Từ ít lâu nay, các con rất... mệt mỏi.
- Thưa Thầy, Thầy có lý. Hình như có một thằng qủi nó quậy giữa đám chúng ta. Chúng con đã qúa thay đổi!
- Con người dễ mệt mỏi. Họ muốn mọi sự tiến hành mau lẹ, và họ có những ước mơ bất hợp lý. Khi họ thấy rằng thực tế khác với giấc mơ thì họ xao xuyến. Và nếu họ không có thiện chí thì họ ngã qụi. Họ không nhớ rằng Đấng Toàn Năng đã có thể trong một chốc lát, đưa vũ trụ ra khỏi sự hỗn mang, làm cho nó thành đều hòa và phân chia trong không gian khoảng thời gian gọi là ngày. Thầy phải làm phát sinh ra Nước Thiên Chúa từ cái hỗn mang tinh thần của thế giới. Và Thầy sẽ làm. Thầy sẽ xây nền tảng cho nó. Thầy đang xây rồi đây. Và Thầy phải đập bể tảng đá rất cứng để đẽo vào đó cái nền móng không thể lún. Các con sẽ từ từ xây các bức tường.
446
Các kẻ nối nghiệp các con sẽ tiếp tục công việc theo chiều cao và chiều rộng. Cũng như Thầy sẽ chết vì công việc, các con cũng sẽ chết, và sẽ có những người khác sẽ chết, hoặc bằng cách đổ máu, hoặc không, nhưng bị hao mòn bởi công việc này là việc đòi hỏi tinh thần sát tế, quảng đại, nước mắt và máu, và một sự kiên trì vô giới hạn.
Phêrô chui cái đầu tóc hoa râm của ông vào giữa Giêsu và Gioan: “Có được phép biết điều qúi vị đang nói không?”
- Ồ, Simon, lại đây. Thầy đang nói về tương lai của Giáo Hội. Thầy cắt nghĩa rằng: thay vì những vội vã, những mệt mỏi, những thất vọng của các con và những thứ khác cùng loại, Giáo Hội đòi hỏi sự bình tĩnh, sự kiên trì, cố gắng, tin tưởng. Thầy cắt nghĩa rằng nó đòi hỏi sự hy sinh của mọi phần tử, kể từ Thầy là kẻ đặt nền móng, là đầu huyền nhiệm, cho tới các con, cho tới hết mọi môn đệ, cho tới hết những ai có tên là Kitô hữu và thuộc về Giáo Hội phổ quát. Thật vậy, trong cái thang vĩ đại của cái giai trật này, thường thường những kẻ khiêm tốn nhất, những kẻ chỉ có vẻ là những con số đơn giản, sẽ là những kẻ làm cho Giáo Hội thực tình sống động. Thực vậy, Thầy sẽ thường thường phải ẩn náu trong họ để tiếp tục duy trì cho sống động đức tin và sức mạnh của các đồng nghiệp truyền giáo luôn luôn đổi mới, và Thầy phải để cho các tông đồ này bị hành hạ bởi Satan và bởi những con người ghen tị, kiêu căng, cứng lòng tin. Và sự tử đạo tinh thần của họ sẽ không kém nặng nề hơn tử đạo về thể chất. Họ bị giằng co bởi ý muốn của Thiên Chúa thúc đẩy họ hành động, và ý muốn xấu của loài người, khí cụ của Satan, chúng áp dụng mọi biện pháp với tất cả sự tàn bạo của chúng, để họ bị coi như những người dối trá, điên khùng, bị ám, để làm tê liệt công việc của Thầy nơi họ, và hoa trái của họ sẽ là từng ấy chiến thắng chống lại con Quái Vật.
- Và họ có kiên trì được không?
- Họ sẽ kiên trì, dù không có Thầy ở với họ một cách hữu hình. Họ phải tin, không phải chỉ tin vào những điều buộc phải tin, mà còn tin vào sứ mạng ẩn kín của họ, tin là nó thánh, tin nó hữu ích,
447
tin là nó từ Thầy mà đến, trong khi Satan rít lên ở chung quanh họ để làm cho họ sợ, và thế giới la lối để biến họ thành lố bịch, những thừa sai của Thiên Chúa, những người không phải luôn luôn được soi sáng cách hoàn toàn, để kết án họ. Đó là số phận của các tiếng nói tương lai của Thầy. Nhưng Thầy không có cái nguồn nào khác để lay động con người, để dẫn họ về với Tin Mừng và Đức Kitô. Nhưng vì tất cả những gì Thầy đòi hỏi nơi họ, những gì Thầy đặt để nơi họ và nhận được của họ, thì ôi! Thầy sẽ cho họ một niềm vui đời đời, một vinh quang đặc biệt! Họ có một cuốn sách khép kín ở trên trời, chỉ mình Thiên Chúa có thể đọc. Nó gói ghém tất cả sự thật. Nhưng đôi khi Thiên Chúa cũng tháo ấn ra và làm thức tỉnh những chân lý đã được nói cho con người, bằng cách ép buộc một người được chọn cho cái định mệnh này, phải biết những điều qúa khứ, hiện tại và tương lai như đã được hàm chứa trong cuốn sách bí nhiệm. Có bao giờ các con thấy một đứa con, đứa con tốt nhất trong gia đình, hoặc một đứa học trò, đứa tốt nhất trường, được cha nó hay thầy giáo nó gọi lên để đọc cuốn sách của một đại nhân vật, để nhận những lời cắt nghĩa không? Nó đứng ở bên cạnh người cha hoặc người thầy, ông này một tay ôm nó, còn tay kia, ông chỉ bằng ngón tay trỏ của ông, những hàng mà ông muốn nó được đọc và được hiểu bởi kẻ ưu ái của ông. Thiên Chúa cũng làm như thế đối với những kẻ Người gọi tới một định mệnh như vậy. Người lôi kéo họ và giữ họ trong tay Người, và Người ép buộc họ đọc những gì Người muốn, để họ hiểu ý nghĩa, rồi nói lại, rồi bị khinh dể và đau khổ vì vậy. Thầy, là một người, Thầy là thủ lãnh của một dẫy những kẻ nói các chân lý trong cuốn sách Thiên Quốc, và Thầy nhận sự khinh chê, đau đớn và chết vì vậy. Nhưng Chúa Cha đã chuẩn bị vinh quang cho Thầy. Và Thầy, một khi Thầy lên đó, Thầy sẽ chuẩn bị vinh quang cho những kẻ Thầy ép buộc đọc cuốn sách khép kín những điểm mà Thầy muốn. Và trước mặt toàn thể nhân loại phục sinh và trước mặt các cơ đội Thiên Thần, Thầy sẽ chỉ cho họ điều họ đã là, và Thầy gọi họ tới bên Thầy, Thầy sẽ mở ra những cái ấn của cuốn sách mà từ nay sẽ vô ích để giữ kín, và họ sẽ mỉm cười khi thấy những điều đã được viết, khi đọc lại những lời mà Thầy đã
448
soi sáng cho họ khi họ chịu đau khổ trên trái đất.
- Còn những người khác? - Gioan hỏi. Ông rất chăm chú vào giáo huấn.
- Những người khác nào?
- Những người khác giống như con, đã không đọc cuốn sách này trên trái đất. Họ sẽ không bao giờ được biết nó được viết những gì trong đó sao?
- Ở trên Trời, các kẻ hạnh phúc được biết tất cả. Họ sẽ biết, vì được bão hòa trong sự khôn ngoan vô tận.
- Ngay lập tức à? Khi vừa chết à?
- Ngay khi vào trong Sự Sống.
- Vậy tại sao vào ngày sau hết, Thầy sẽ cho thấy là Thầy đã gọi họ để cho biết cuốn sách?
- Bởi vì không phải chỉ những kẻ hạnh phúc mới thấy nó, mà là cả nhân loại. Và trong số những kẻ bị kết án, sẽ có rất nhiều kẻ đã chế nhạo các tiếng nói của Thiên Chúa như những kẻ điên và bị qủi ám, đã hành hạ họ vì tặng ân Thầy đã làm cho họ. Đó là một sự trả thù dài nhưng bó buộc, được ban cho những kẻ tử đạo vì sự tàn ác của thế giới.
- Sẽ đẹp biết bao được thấy những điều đó - Gioan hứng khởi kêu lên.
- Đúng, và được thấy tất cả các pharisiêu nghiến răng như điên - Phêrô vừa nói vừa xoa tay.
- Ôi! Con thì con nghĩ rằng con sẽ chỉ nhìn Giêsu và các kẻ được chúc phúc đọc cuốn sách với Người... - Gioan trả lời. Ông mơ cái giờ này, đôi mắt lạc vào một thị kiến sáng láng nào đó tôi không biết. Chúng trở nên sáng hơn bởi một giọt nước mắt xúc động, nó đọng lại trong mắt và làm sáng lên chiếc đồng tử mầu xanh lạt, với một nụ cười trẻ con trên đôi môi hồng.
Zêlote nhìn ông. Giêsu cũng nhìn ông nhưng Người không nói gì. Trái lại, Zêlote nói: “Khi đó cậu sẽ nhìn chính cậu thôi. Bởi vì nếu trong chúng ta có một kẻ sẽ là tiếng nói của Thiên Chúa trên trái đất, kẻ sẽ được gọi để đọc các trang của cuốn sách niêm phong, thì người đó chắc chắn sẽ là cậu, Gioan, kẻ biệt ái của Giêsu và là
449
bạn của Thiên Chúa”.
- Ôi! Đừng nói vậy. Tôi, tôi ngu hơn tất cả. Và nếu Giêsu không nói rằng Nước Trời thuộc về những trẻ nhỏ, thì tôi không dám nghĩ rằng tôi có thể chiếm được nó. Thực tình tôi chẳng tốt được vào việc gì cả. Có phải không Thầy? Cái giá trị duy nhất của con chỉ là giống đứa trẻ thôi nhỉ?
- Ừ, con thuộc về các đứa trẻ hạnh phúc. Và hãy được chúc phúc vì vậy.
Họ đi một lát, rồi Phêrô quay nhìn về phía sau của con đường dùng cho đoàn du mục mà họ đang đi, rồi ông kêu: “Lạy Tình Thương Quan Phòng! Nhưng đó là xe của các bà!”
Mọi người đều quay lại. Thực tình là chiếc xe nặng nề của Jeanne đang tiến nước kiệu với hai con ngựa lực lưỡng. Họ ngừng lại để chờ nó. Chiếc mui bằng da che kín hoàn toàn không cho thấy người ở bên trong. Nhưng Giêsu làm hiệu ngừng và người xà ích phát ra tiếng kêu vui mừng khi ông thấy Giêsu đang đứng bên lề đường, hai tay giơ cao.
Lúc đó người đàn ông dừng các con ngựa đang thở hổn hển lại. Rồi khuôn mặt gầy của Isaac xuất hiện. Ông kêu: “Thầy! Mẹ ơi, hãy vui mừng, Người ở đây!”
Có tiếng nói phụ nữ, các tiếng động của bàn chân ở trong xe. Nhưng trước khi một trong các bà xuống xe thì đã thấy nhảy xuống đất: Manaen, Margziam và Isaac. Các ông chạy tới tôn kính Thầy.
- Con ở đây à Manaen?
- Trung thành với thượng lệnh, và bây giờ còn hơn bao giờ hết, vì các bà sợ... Nhưng... Chúng con vâng lời Thầy vì cần phải vâng lời. Nhưng hãy tin là không có gì bận lòng hết. Con biết từ một nguồn chắc chắn là Pilatô đã nhắc nhở những kẻ muốn gây náo động phải vào trật tự, khi ông nói rằng ai gây ra náo động trong những ngày lễ sẽ bị nghiêm trị. Con tin là bà vợ Pilatô chả lạ gì việc bảo vệ này, và các bạn của bà thì càng ít lạ hơn. Trong triều đình, người ta biết tất cả và không biết gì cả. Nhưng người ta được loan tin khá đầy đủ... - và Manaen tránh ra để nhường chỗ cho Maria đã xuống khỏi
450
xe, đang đi mấy mét đoạn đường, run bần bật vì xúc động.
Mẹ con hôn nhau trong khi các bà môn đệ khác kính bái Thầy. Nhưng Matta và Maria em Lazarô thì lại không có mặt ở đây.
Maria thì thầm: “Mẹ lo qúa sức kể từ chiều hôm đó! Con ơi, họ ghét con chừng nào, tất cả!” Và những giọt nước mắt chảy xuống theo những vết đỏ, dấu vết của rất nhiều giọt khác mà mẹ đã đổ ra trong những ngày vừa qua.
- Nhưng mẹ thấy là Chúa Cha dự liệu tất cả. Vậy đừng khóc. Con thách đố cách can đảm với tất cả sự thù ghét của thế giới, nhưng chỉ một giọt nước mắt của mẹ cũng làm cho con thấy nặng nề. Nào! Người mẹ thánh của con - và ôm ghì lấy mẹ như vậy, Người quay về với các nữ môn đệ để chào họ. Người có một lời đặc biệt cho Jeanne, vì bà đã muốn trở lại phía sau để hộ tống Maria.
- Ôi! Thầy ơi, người ta đâu có phiền gì để ở lại với mẹ Thầy. Maria bị giữ lại Bêtani vì anh cô rất đau, vì thế con đi. Con để hai đứa nhỏ lại cho người đàn bà gác dan của lâu đài, bà ta tốt và có tình mẹ. Nhưng cũng có Chouza canh chừng ở đó để thằng Mathia mà ông chồng con cưng đặc biệt không bị thiếu thốn gì. Nhưng Chouza cũng nói với con là đi cũng vô ích. Sự loan báo của toà Tổng Trấn đã bẻ gẫy các móng vuốt, kể cả Hêrôđiađe. Còn ông ta - Vị Tổng Trấn - ông run vì sợ. Ông ta chỉ có một tư tưởng duy nhất là canh chừng để Hêrôđiađe không hủy hoại ông trước mắt Rôma. Cái chết của Gioan đã làm thiệt hại rất nhiều cho Hêrôđiađe. Hêrôđê cũng biết vậy, và rất tốt là dân chúng chống lại ông ta về việc sát hại Gioan. Con cáo già hiểu rằng hình phạt nguy hại nhất sẽ là mất sự bảo vệ ghen ghét và hão huyền của Rôma thì dân chúng sẽ tấn công hắn lập tức. Vì vậy, ôi! Thầy đừng nghi ngại, hắn sẽ chẳng đề xướng một cái gì đâu.
- Vậy chúng ta hãy trở lại Jêrusalem. Các con có thể đi cách an toàn. Nào, các phụ nữ hãy lên xe, và Mathêu với những ai mệt mỏi thì hãy lên với họ. Chúng ta sẽ nghỉ ở Béthel. Đi thôi.
Các bà vâng lời, lên xe cùng với Mathêu và Batôlômêo. Những
451
người khác thích đi bộ theo xe hơn cùng với Manaen, Isaac và Margziam. Manaen kể ông đã làm cách nào để có các tin tức chính xác về các lời đồn đãi của tên nhóm Hêrôđê, kẻ đã gieo rắc lo âu trong sự yên hàn của Bêtani, nơi Lazarô đã rất đau đớn.
- Có người đàn bà nào tới Bêtani không?
- Thưa Chúa không. Nhưng chúng con đã vắng mặt ở đó từ ba bữa nay rồi. Ai vậy?
- Một môn đệ. Thầy sẽ cho bà cho Êlise, vì bà ta còn trẻ, cô độc và không có phương tiện.
- Êlise đang ở trong lâu đài của Jeanne. Bà muốn đi theo, nhưng bà cúm nặng. Bà sốt nóng như thiêu vì muốn gặp Thầy. Bà nói: “Nhưng qúi vị không hiểu rằng sự gặp gỡ Người sẽ cho tôi được bình an sao?”
- Thầy cũng sẽ cho bà ta một niềm vui vì cô gái này. Còn con, Margziam, sao con không nói gì?
- Thưa Thầy con nghe.
- Đứa trẻ nghe và ghi chép. Nó nhờ người nọ người kia nhắc lại cho nó các lời Thầy và nó ghi chép, ghi chép... Nhưng chả biết chúng con có nói lại đúng không - Isaac nói.
- Thầy sẽ coi lại, và Thầy sẽ thêm vào những gì còn thiếu trong công việc của môn đệ Thầy - Giêsu nói trong khi vuốt ve đôi má hơi nâu của Margziam, và Người hỏi: “Con đã gặp ông ngoại con chưa?”
- Ôi! Rồi ạ. Ông không nhận ra con. Ông đã khóc vì mừng. Nhưng chúng ta sẽ gặp lại ông ở Đền Thờ, vì Ismael cho họ đi, và cả đến năm nay ông ta cho họ nhiều ngày hơn. Ông ta sợ Thầy.
- Đương nhiên rồi, kể từ sau sự phiền hà xảy ra cho Chanania vào tháng Scébat - Phêrô cười nói.
- Nhưng sự sợ Thiên Chúa không xây dựng, nó còn phá hủy nữa. Đó không phải là tình bạn, đó là sự trông chờ thường biến thành sự thù ghét. Nhưng mỗi người cho cái họ có thể...
Họ tiếp tục con đường và tôi không thấy gì nữa.
452
53* TẠI RAMA. SỐ NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN
Tôma đang đi ở phía sau của nhóm các tông đồ để nói chuyện với Manaen và Batôlômêo. Ông bỏ các bạn lại, chạy đến với Thầy khi Người đang đi ở phía trước với Margziam và Isaac: “Thưa Thầy, chúng ta sắp đến Rama. Thầy có vui lòng đến chúc lành cho đứa con nhỏ của bà chị con không? Bà rất ước ao được gặp Thầy. Chúng ta có thể nghỉ ở đó, có đủ chỗ cho mọi người. Chúa ơi, xin Thầy làm con vui đi!”
- Ừ, rất vui lòng. Ngày mai chúng ta sẽ vào Jêrusalem để nghỉ ngơi.
- Ôi! Vậy con chạy đi trước để báo tin nhé! Thầy có cho con đi không?
- Đi đi. Nhưng hãy nhớ rằng Thầy không phải là người bạn hào hoa. Đừng bắt các người nhà con phải tiêu pha nhiều. Hãy coi Thầy như “ông thầy”, con hiểu không?
- Thưa Chúa, vâng. Con sẽ nói với ba má con. Margziam, con đi với ông không?
- Nếu Giêsu muốn.
- Đi đi, đi đi, con trai.
Những người khác nhìn thấy Tôma và Margziam đi về phía Rama, ở hơi về phía trái con đường từ Samari về Jêrusalem, tôi tin vậy, liền gia bước để hỏi có chuyện gì.
- Chúng ta sẽ vào nhà bà chị của Tôma. Thầy đã nghỉ ở tất cả các nhà cha mẹ của các con, nên thật chính đáng là Thầy cũng tới nhà ông, vì vậy Thầy đã sai ông đi trước.
- Vậy nếu Thầy cho phép, hôm nay con cũng đi trước một lát coi có chuyện gì không. Khi Thầy vào cửa Damas, con sẽ ở đó nếu có những gì phiền phức, nếu không, chúng ta sẽ gặp nhau sau... Nhưng ở đâu Chúa? - Manaen nói.
- Ở Bêtani, Manaen ạ. Thầy sẽ đến nhà Lazarô ngay. Nhưng các phụ nữ thì Thầy để lại Jêrusalem. Thầy đi một mình, và hơn
453
nữa, Thầy xin con, sau trạm dừng chân hôm nay, con hãy hộ tống các bà về nhà họ.
- Xin như Chúa muốn.
- Hãy bảo người xà ích theo chúng ta vào Rama.
Qủa vậy, chiếc xe đi nhẩn nha sau lưng các tông đồ. Isaac và Zêlote dừng lại để chờ nó trong khi những người khác đi vào con đường phụ ở sườn hơi dốc, dẫn về ngọn đồi nhỏ rất thấp mà Rama được xây dựng ở trên.
Tôma không nén được niềm vui, và ông càng đỏ gay hơn vì sự thỏa lòng bừng trên nét mặt. Ông chờ các đấng ở lối vào làng. Ông chạy tới gặp Giêsu: “Thầy ơi! Sung sướng qúa! Tất cả gia đình đều ở nhà. Ba con rất mong được gặp Thầy. Má con, các anh em con! Con thỏa lòng chừng nào!” Và ông đi bên cạnh Giêsu, vênh vang như kẻ chinh phục vào giờ chiến thắng.
Ngôi nhà bà chị của Tôma ở gần một ngã tư bên phía đông thành phố. Đây là căn nhà tiêu biểu của những người Israel khá giả, với một mặt tiền hầu như không có cửa sổ, cửa sắt có cái lỗ nhòm, sân thượng thay cho mái nhà, có các bức tường cao và tối bao quanh khu vườn, chạy dài ra phía sau nhà mà các cành lá của các cây ăn trái mọc cao vượt lên trên.
Nhưng hôm nay người đầy tớ không cần nhìn vào cái lỗ nhòm, chiếc cửa đã mở rộng hết cỡ, và mọi người trong nhà đã tụ họp ở tiền đường. Những người lớn bận rộn với các trẻ con, con trai con gái, một đám đông chen chúc ồn ào, sôi nổi vì tin vui, liên tục làm đảo lộn trật tự của giai tầng và nô dỡn trước mặt các người lớn tại chỗ danh dự, nơi địa vị hàng đầu thuộc về cha mẹ của Tôma và bà chị của ông cùng với ông chồng bà.
Nhưng khi Giêsu vào tới ngưỡng cửa thì ai có thể giữ lũ trẻ này yên được? Chúng giống như một đàn chim ra khỏi chuồng chim sau một đêm ngủ, và Giêsu nhận những va chạm của cái đám hiếu động này. Chúng tử tế, bổ nhào vào đầu gối Giêsu và ôm lấy, giơ các khuôn mặt nhỏ của chúng lên để chờ cái hôn, và chúng không thể ở yên, mặc dầu những lời cảnh giác của các cha mẹ, và ngay cả mấy cái bạt tai mà Tôma đã phân phát để tái lập trật tự.
454
- Để kệ chúng! Để kệ chúng! Nếu mọi người có thể như chúng - Giêsu kêu lên, và Người cúi xuống để làm vui lòng tất cả cái đám náo nức này.
Sau cùng Người cũng có thể đi vào giữa sự chào đón trọng kính nhất của các người lớn. Nhưng điều làm tôi thỏa lòng đặc biệt là lời chào của ông bố Tôma, một ông già đặc biệt Do Thái mà Giêsu nâng dậy, vì Người muốn hôn ông “vì biết ơn sự quảng đại của ông khi cho Người một vị tông đồ”.
- Ôi! Thiên Chúa đã yêu tôi hơn tất cả những người khác trong Israel. Trong khi mọi người Hy Bá chỉ có người con đầu lòng được dâng hiến cho Chúa, thì tôi được dâng hiến hai đứa: đứa thứ nhất và đứa sau cùng. Và đứa sau cùng càng thánh hiến hơn, vì dù không phải người Lêvi, cũng không phải thầy cả, nhưng nó đã làm điều mà ngay chính những vị Đại Thượng Tế cũng không thể làm: Nó được liên tục nhìn thấy Thiên Chúa và nó nhận các mệnh lệnh của Người - ông nói bằng giọng hơi run của người già mà sự xúc động làm cho ông càng run hơn. Và ông nói để chấm dứt: “Xin Ngài nói cho tôi chỉ một điều thôi, để làm yên lòng linh hồn tôi. Ngài là đấng không hề nói dối, hãy nói cho tôi: Con trai tôi, theo cách nó theo Ngài, nó có đáng được phục vụ Ngài, và đáng được sự sống đời đời không?”
- Bố ơi, hãy bình an. Tôma của bố có một chỗ lớn trong trái tim Thiên Chúa bởi cách thế nó sống. Nó sẽ có một địa vị lớn trên Trời bởi cách thế nó sẽ phục vụ Thiên Chúa tới hơi thở cuối cùng của nó.
Tôma hổn hển như một con cá ra khỏi nước, bởi cảm động vì các lời ông đã nghe. Ông già giơ hai tay lên trong khi hai giọt nước mắt chảy xuống theo vết nhăn sâu và mất đi trong bộ râu lão trượng, và ông nói: “Nguyện xuống trên con sự chúc phúc của Jacob, sự chúc phúc của kỳ lão trên kẻ công chính giữa các người con. Nguyện Đấng Toàn Năng chúc phúc cho con bằng những phúc lành của trời cao ở bên trên chúng ta, bằng các phúc lành của vực thẳm ở bên dưới, bằng các phúc lành của lòng dạ. Chớ gì các phúc lành của cha con vượt qúa những phúc lành mà chính ông đã nhận của cha
455
ông, và nguyện nó ở trên đầu của Tôma cho tới khi ước nguyện của các ngọn đồi vĩnh cửu tới trên đầu của đấng là một người Nazarét giữa các anh em!”
Và mọi người trả lời: “Nguyện cho được như vậy”.
- Bây giờ Ngài, lạy Chúa, xin hãy chúc phúc cho nhà này, và nhất là cho những người thuộc máu của máu tôi - ông già nói khi chỉ vào đám trẻ.
Giêsu mở tay xướng lời chúc phúc của Môise, và Người thêm: “Nguyện Thiên Chúa mà cha mẹ các con hàng bước đi trước mặt; Nguyện Thiên Chúa, đấng đã nuôi dưỡng Thầy từ nhỏ tới ngày nay; nguyện vị thiên thần, đấng đã che chở Thầy khỏi mọi tai ương, chúc phúc cho đám trẻ này, để chúng mang tên Thầy cũng như tên cha mẹ Thầy, và cho chúng sinh sản ra đầy đàn trên mặt đất”. Và để kết thúc, Người ẵm đứa nhỏ mới sinh từ tay mẹ nó, Người hôn lên trán nó và nói: “Và nguyện cho tràn xuống trong con như mật và bơ, các nhân đức của kẻ được chọn, đã ở trong đấng công chính mà tên Người đã được đặt cho con, để làm cho nó đầy tràn trong đời sống cho nước Trời, và được trang điểm như những cây chà là bằng những chùm trái nâu của nó, và như cây bá hương bằng những chòm lá oai phong của nó”.
Mọi người tham dự đều cảm động và ngây ngất. Nhưng rồi sau đó là những tiếng reo vui của mọi miệng lưỡi để hộ tống Giêsu vào nhà, và chỉ dừng lại khi đã vào tới sân, nơi Người giới thiệu với các chủ nhà: Mẹ Người, các nữ môn đệ, các tông đồ và các môn đệ khác.
***
Bây giờ không còn là buổi sáng, cũng không còn là buổi trưa. Các tia sáng yếu ớt của mặt trời xuyên qua các chòm mây bơ phờ một cách khó khăn, lúc này nó không sao hồi lại được nữa. Mặt trời sắp lặn, không còn chậm trễ. Đây là hoàng hôn.
Các phụ nữ không còn ở đây, Isaac và Manaen cũng không. Margziam thì còn ở đó, và nó rất sung sướng ở bên cạnh Giêsu. Nó ra khỏi nhà với Giêsu, các tông đồ và tất cả bà con phái nam của
456
nhà Tôma để coi vườn nho có giá trị đặc biệt. Cả bố, cả anh rể Tôma đều khoe về những hướng của vườn nho và sự hiếm hoi của loại nho này mà bây giờ chỉ có những lá mới rất mềm.
Giêsu, với lòng nhân hậu, nghe những lời giải thích hay về sự tỉa cành và dẫy cỏ, tựa như đó là những điều quan trọng nhất thế giới. Sau cùng Người mỉm cười nói với Tôma: “Thầy có cần chúc phúc cho cái của hồi môn này của bà chị song sinh của con không?”
- Ôi! Lạy Chúa, con không phải Doras, cũng không phải Ismael. Con biết rằng hơi thở của Thầy, sự hiện diện của Thầy trong một nơi đã là sự chúc phúc. Nhưng nếu Thầy muốn giơ tay mặt của Thầy trên vườn nho này, xin Thầy hãy làm, và chắc chắn hoa trái của nó sẽ thánh.
- Và dư dật, phải không? Bố nghĩ thế nào?
- Chỉ cần nó là thánh. Điều đó là đủ. Và tôi, tôi sẽ ép nó, và tôi sẽ gởi rượu cho Thầy vào dịp lễ Vượt Qua tới, để Thầy dùng nó trong chiếc chén nghi thức.
- Đúng rồi. Thầy cậy vào đó. Thầy muốn vào dịp lễ Vượt Qua tới, sẽ tiêu thụ rượu của một người Israel chân chính.
Họ ra khỏi vườn nho để trở về làng.
Tin tức về sự hiện diện của Giêsu Nazarét ở trong xứ đã lan ra, và tất cả dân Rama đều ra ngoài đường với ước vọng được tới gần Người.
Giêsu thấy họ và nói với Tôma: “Tại sao những người này không tới? Có lẽ họ sợ Thầy. Con đi nói với họ là Thầy yêu họ”.
Ôi! Tôma không chờ phải nói hai lần. Ông đi từ nhóm nọ tới nhóm kia, nhanh như một con bướm bay từ hoa nọ tới hoa kia. Và các người đã được nghe mời cũng không đợi nghe lần thứ hai, tất cả họ đều chạy tới chung quanh Giêsu, vừa chạy vừa báo cho nhau. Khi Người tới ngã tư gần nhà Tôma thì có một đám đông, họ nói cách kín đáo và kính trọng với các tông đồ và với cha mẹ Tôma, hỏi han điều nọ điều kia.
Tôi cho là Tôma đã làm việc nhiều trong những tháng mùa đông, và một số thân hào, về giáo lý của Tin Mừng thì họ đã biết ở trong
457
xứ, nhưng họ muốn Giêsu cắt nghĩa cho họ một số trường hợp đặc biệt. Có một người rất cảm động bởi phúc lành mà Giêsu ban cho các trẻ trong nhà tiếp đón Người, và bởi những lời Người đã nói về Tôma. Ông hỏi: “Có phải tất cả họ đều là người công chính nhờ lời chúc phúc của Thầy không?”
- Không phải vì những lời chúc phúc, mà vì các hành động của họ. Thầy, Thầy cho họ sức mạnh bởi lời chúc phúc của Thầy, để củng cố cho họ trong các hành động của họ, nhưng chính họ phải làm các hành động, và phải chỉ làm các hành động chính đáng mà thôi để được Nước Trời. Thầy chúc phúc cho hết mọi người... Nhưng không phải mọi người Israel đều được cứu rỗi.
- Và cả đến họ sẽ được cứu rỗi rất ít, nếu họ cứ bước đi như họ đang đi bây giờ - Tôma rì rầm.
- Anh nói gì?
- Nói sự thật: Những kẻ bách hại Đức Kitô và vu khống cho Người; những kẻ không thi hành các lời Người dạy, sẽ không được dự phần vào Nước Người - Tôma nói bằng cái giọng ồ ồ rất mạnh của ông.
Có một người kéo tay áo ông và hỏi: “Người rất nghiêm khắc?” Và ông ta chỉ vào Giêsu.
- Không. Trái lại, Người qúa nhân từ.
- Tôi thì anh nói sao? Tôi có được cứu không? Tôi không ở trong số các môn đệ, nhưng anh biết tôi thế nào, và tôi luôn luôn tin vào các lời anh đã nói, nhưng tôi không biết làm hơn. Tôi phải làm gì hơn nữa để được rỗi ngoài những điều tôi đã làm?
- Hãy hỏi Người đi. Người có bàn tay xét đoán êm hơn và chính đáng hơn tay tôi.
Người đó tiến lên và hỏi: “Thưa Thầy, con vẫn trung thành với lề luật, và từ khi Tôma nhắc lại cho con các lời Thầy thì con cố gắng làm hơn. Nhưng con ít quảng đại, con chỉ làm những điều tuyệt đối con phải làm. Con kiêng không làm những điều không tốt vì con sợ hỏa ngục. Nhưng con thích sự tiện nghi thư thái và... con xin thú rằng con cố gắng làm những điều thế nào để không phạm
458
tội, nhưng không qúa phiền cho con. Con hành động như vậy thì con có được cứu không?”
- Con sẽ được cứu. Nhưng tại sao con lại hà tiện với Chúa nhân từ là đấng rất quảng đại đối với con? Tại sao con chỉ cầu mong cho mình một phần rỗi chiếm được một cách khó khăn, mà không quyết tâm một sự thánh thiện cao cả có thể cho con sự bình an đời đời ngay lập tức. Nào, con ơi, hãy quảng đại với linh hồn con.
Người đó nói cách khiêm nhường: “Chúa ơi, con sẽ suy nghĩ. Con sẽ suy nghĩ. Con thấy Thầy có lý, và con làm thiệt hại cho linh hồn con bằng cách bó buộc nó phải chịu một cuộc thanh tẩy lâu dài trước khi được bình an”.
- Hoan hô. Tư tưởng này đã là khởi đầu cho sự hoàn thiện.
Một người Rama khác hỏi Người: “Chúa ơi, số những kẻ được cứu rỗi có đông lắm không?”
- Nếu người ta biết sống với sự trọng kính chính mình và với tình yêu trọng kính đối với Thiên Chúa, thì mọi người đều được cứu như Thiên Chúa muốn. Nhưng người ta không hành động như vậy. Và giống như một đứa ngu, họ vui với những lá vàng giả thay vì lấy vàng thật. Vậy hãy quảng đại trong việc tìm điều thiện. Việc đó đắt giá cho các con ư ? Nhưng chính ở đó mới có công nghiệp. Các con hãy cố gắng để vào qua cửa hẹp. Cửa rộng và hấp dẫn là sự cám dỗ của Satan để cắn xé các con. Cửa lên Trời thì hẹp, thấp, trơ trọi và nghiêm khắc. Để đi qua đó, phải mềm mại, nhẹ nhõm, không lộng lẫy, khoa trương, và không vật chất. Phải là tinh thần để có thể làm, nếu không thì khi giờ chết đến, các con không thể qua nổi. Thực vậy, người ta sẽ thấy nhiều người tìm vào mà không thàng công, vì vật chất làm cho họ thành phì nộn, vì sự phù hoa của thế gian làm cho họ thành phức tạp, vì cái vỏ cứng của tội lỗi làm cho họ thành cứng ngắc, vì sự kiêu căng là bộ xương cứng của họ, làm cho họ không thể xếp lại được. Rồi khi ông chủ Nước Trời tới khoá cửa lại thì những người ở bên ngoài, những người đã không thể vào kịp giờ, sẽ ở lại bên ngoài mà gõ cửa và kêu: “Chúa ơi, xin mở cho chúng tôi, chúng tôi cũng đang ở đây”. Nhưng Người sẽ nói: “Thực
459
vậy, ta không biết các ngươi. Ta không biết các ngươi từ đâu tới”. Và họ: “Thế nào, Ngài không nhớ chúng tôi sao? Chúng tôi đã ăn uống với Ngài; chúng tôi đã nghe Ngài khi Ngài giảng dạy tại quảng trường của chúng tôi”. Nhưng Người trả lời: “Thực vậy, Ta không biết các ngươi. Ta càng nhìn các ngươi, các ngươi càng tỏ lộ là đã no nê những thứ mà ta đã tuyên bố là thực phẩm ô uế. Thực vậy, Ta càng nhìn các ngươi, Ta càng thấy là các ngươi không thuộc về gia đình của Ta. Thực vậy, đây, bây giờ Ta thấy các ngươi là con cái ai: của đứa khác kia. Các ngươi có cha là Satan, mẹ là xác thịt, nhũ mẫu là sự kiêu căng, đầy tớ là sự thù ghét. Tội lỗi là kho báu của các ngươi, các thói hư là các đá qúi của các ngươi. Trên qủa tim của các ngươi có viết: Ích kỷ. Bàn tay các ngươi dơ bẩn vì các thứ trộm cắp của anh em. Hãy ra khỏi đây. Hãy tránh xa Ta, tất cả các ngươi, các người thợ bất công”. Và lúc đó, trong khi ở các tầng Trời cao, Abraham, Isaac, Jacob, tất cả các tiên tri và các người công chính của Nước Thiên Chúa đến, rực rỡ vinh quang, còn họ, những kẻ không có tình yêu, chỉ có ích kỷ; những kẻ không có hy sinh, chỉ có trụy lạc, sẽ bị đuổi ra xa để cư ngụ ở nơi mà sự than khóc sẽ là đời đời, nơi chỉ có sợ hãi. Và những kẻ được sống lại vinh hiển đến từ phương đông phương tây, từ nam chí bắc, sẽ tụ họp tại bàn tiệc cưới của Con Chiên, vị Vua của Nước Thiên Chúa. Và người ta sẽ thấy nhiều người đã có vẻ là những kẻ bé mọn nhất trong đạo quân trên trái đất, sẽ là những kẻ hàng đầu trong dân Nước Trời. Và cũng vậy, người ta sẽ thấy tất cả các kẻ quyền hành trong Israel, không phải tất cả đều là quyền hành trên Trời, cũng như cả những kẻ mà Đức Kitô đã lựa chọn làm tôi tá của Người mà không biết sống xứng đáng để được chọn vào bàn tiệc cưới. Và người ta cũng sẽ thấy nhiều người mà người ta tưởng là những kẻ hàng đầu, sẽ là, không những không được làm kẻ sau cùng, mà còn ở bên ngoài kẻ sau cùng nữa. Bởi vì các kẻ được gọi thì nhiều, nhưng có ít kẻ biết làm cho sự lựa chọn của mình thành một vinh quang thật.
Trong khi Giêsu đang nói thì các pharisiêu xuất hiện cùng với
460
một người hành hương đang đi về Jêrusalem hay đang tìm chỗ trọ. Vì họ thấy đông người nên họ tới gần để xem. Họ nhận ra ngay đầu tóc hoe vàng của Giêsu nổi bật trước bức tường mầu tối của nhà Tôma.
- Yêu cầu để cho chúng tôi đi qua, vì chúng tôi muốn nói một lời với người Nazarét - họ phách lối la lên.
Đám đông mở lối ra cách không thiện cảm, và các tông đồ thấy nhóm các pharisiêu tiến về phía họ.
- Thầy, bình an cho Thầy!
- Bình an cho các ông. Các ông muốn gì?
- Thầy đi Jêrusalem à?
- Cũng như mọi người Israel trung thành.
- Đừng đi. Sự nguy hiểm đang chờ Thầy ở đó. Chúng tôi biết điều đó vì chúng tôi từ đó đi thăm gia đình, và chúng tôi tới báo cho Thầy khi chúng tôi biết rằng Thầy đang ở Rama.
- Bởi ai, nếu được phép hỏi điều đó? - Phêrô hỏi, đầy nghi ngờ và sẵn sàng khai mào một cuộc tranh luận.
- Điều đó ông không tự thấy sao? Ông gọi chúng tôi là rắn độc, ông chỉ cần biết rằng ở gần ông thầy có nhiều rắn độc. Và ông sẽ có lý để nghi ngờ số môn đệ qúa đông và qúa mạnh thế.
- Hé! Ông không muốn ám chỉ rằng Manaen hay...
- Nín đi Phêrô. Và ông, pharisiêu, hãy biết rằng không có nguy hiểm nào có thể làm cho một người trung thành quay lưng lại với bổn phận của nó. Nếu người ta mất mạng sống thì chả là gì cả. Điều quan trọng là nếu nó bị mất linh hồn bằng cách đi ngược với Lề Luật. Nhưng ông biết điều đó, và ông biết rằng tôi cũng biết. Vậy tại sao ông thử thách tôi? Có lẽ ông không biết rằng tôi biết tại sao ông làm điều này?
- Tôi không thử ông. Đó là sự thật. Nhiều người trong chúng tôi có thể là kẻ thù của ông, nhưng không phải tất cả. Chúng tôi thì chúng tôi đâu có ghét ông. Chúng tôi biết rằng Hêrôđê tìm ông và chúng tôi nói với ông: Hãy đi khỏi đi, vì nếu Hêrôđê bắt được ông, hắn sẽ giết ông. Đó là điều hắn muốn.
461
- Đó là điều hắn muốn nhưng hắn sẽ không làm. Điều đó tôi biết. Ngoài ra, các ông hãy đi nói với con cáo già đó rằng: người hắn ta tìm đang ở Jêrusalem. Qủa vậy, tôi sẽ tới đó để xua đuổi ma qủi, chữa mọi bệnh hoạn, không hề ẩn núp. Tôi làm điều đó và tôi sẽ làm hôm nay, ngày mai và ngày mốt, cho tới khi thời giờ của tôi hoàn tất. Nhưng tôi phải tiến hành bao lâu thời gian của tôi chưa đáo hạn. Tôi phải vào Jêrusalem hôm nay, rồi một lần nữa, và một lần nữa, và lại một lần nữa, vì không thể nào đường đi của tôi dừng lại trước lúc đó, và nó phải hoàn tất như nó chính đáng, tức là tại Jêrusalem.
- Ông Tẩy Giả đã chết ở nơi khác.
- Ông ta đã chết trong sự thánh thiện, và sự thánh thiện có nghĩa là “Jêrusalem”. Nếu bây giờ Jêrusalem có nghĩa là “Tội lỗi”, thì đó chỉ là nói về những thứ thuộc về trái đất mà nó sắp sửa không còn nữa. Nhưng tôi nói về những cái vĩnh cửu và thiêng liêng, tức là Jêrusalem trên Trời. Chính ở đó, ở trong sự thánh thiện của nó, mà tất cả những kẻ công chính và các tiên tri chết. Cũng chính ở đó, tôi sẽ chết. Và các ông có muốn kéo tôi vào tội lỗi cũng vô ích. Tôi cũng sẽ chết trên các ngọn đồi của Jêrusalem, không phải bởi bàn tay Hêrôđê, nhưng bởi ý muốn của những kẻ thù ghét tôi một cách tinh tế hơn ông ta, vì họ cho là tôi chiếm đoạt chức Tư Tế mà họ khao khát, và họ thấy tôi là kẻ thanh tẩy cho Israel khỏi mọi bệnh hoạn đã hủy hoại nó. Vậy đừng đặt trên lưng Hêrôđê tất cả lòng ước ao muốn giết, nhưng mỗi người hãy nhận lấy phần mình, vì thực vậy, Con Chiên ở trên núi, và các sói dữ, các linh cẩu, sẽ leo lên từ mọi phía để xiết cổ nó và...
Các pharisiêu liền lẩn đi dưới trận mưa đá của sự thật cháy nóng...
Giêsu nhìn họ lẩn đi, rồi người quay về hướng nam, về một vùng sáng mạnh hơn, có lẽ đó là vùng Jêrusalem, và Người buồn rầu nói: “Jêrusalem! Jêrusalem! Ngươi giết các tiên tri của ngươi, và ném đá những người được sai đến với ngươi! Biết bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi như con chim làm trong tổ của nó, nơi nó ôm ấp các con nhỏ của nó dưới cánh, nhưng ngươi không muốn! Đây,
462
người ta sẽ bỏ ngươi trống vắng, không còn nhà của người Thầy Thực Sự của ngươi nữa. Người sẽ đến, sẽ làm như nghi thức đòi hỏi, và như người Israel đầu tiên và sau cùng phải làm, rồi Người ra đi. Người sẽ không ở lại nữa trong các bức tường của ngươi để thanh tẩy chúng bằng sự hiện diện của Người. Và Ta bảo đảm với ngươi rằng: ngươi và dân chúng của ngươi sẽ không thấy Ta nữa trong dung mạo thực sự của Ta, cho tới ngày các ngươi sẽ nói: “Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến”... Và các con, dân Rama, hãy nhớ lấy các lời này và tất cả các lời khác nữa, để không bị chộp bắt, bị lôi cuốn đi trong sự trừng phạt của Thiên Chúa. Hãy trung thành. Đi đi. Bình an cho các con.
Giêsu trở lại vào trong nhà của Tôma cùng với các người trong gia đình và các tông đồ của Người.
54* GIÊSU TẠI ĐỀN THỜ.
KINH LẠY CHA VÀ DỤ NGÔN
VỀ CÁC NGƯỜI CON
Chúa Giêsu nói:
“Bò dậy đi Maria. Hãy thánh hóa ngày hôm nay bằng một trang của Tin Mừng, vì Lời Cha là sự thánh hóa. Maria, con hãy nhìn, vì nhìn những ngày của Đức Kitô ở trên trái đất tức là thánh hóa. Maria, con hãy viết, vì viết về Đức Kitô tức là thánh hóa, bởi vì nhắc lại điều Giêsu nói tức là thánh hóa, bởi vì rao giảng Giêsu tức là thánh hóa, bởi vì giáo huấn các anh em tức là thánh hóa. Con sẽ được một phần thưởng lớn lao vì lòng bác ái của con”.
Giêsu đã rời Rama và Người đã nhìn thấy Jêrusalem. Người tiến bước, cũng như năm ngoái, vừa đi vừa hát thánh vịnh.
Nhiều người ở trên con đường đông đảo này quay lại để nhìn nhóm các tông đồ đi qua. Một số chào cách trọng kính, một số khác chỉ giới hạn ở cái liếc mắt nhìn và mỉm cười cách kính cẩn, nhất là các phụ nữ. Có những người bằng lòng khi nhìn quang cảnh đó, có những người khác thì có nụ cười mỉa mai và khinh bỉ. Sau cùng, có những người đi qua cách ngạo nghễ và bộc lộ ác ý.
Giêsu tiến bước bình tĩnh, ăn mặc sạch sẽ và xứng hợp. Cũng
463
như mọi người khác, Người đã thay y phục tại một lối vào để được thích đáng, tôi có thể nói là đứng đắn, trong thành thánh.
Năm nay Margziam cũng tham dự mọi hoàn cảnh, với y phục mới, nó bước ở bên cạnh Giêsu, hát với cả tấm lòng bằng cái giọng hơi khó nghe, vì nó đang vỡ tiếng. Nhưng cái âm bất toàn của nó mất đi trong đoàn các giọng của các bạn. Nó chỉ vang lên cách thanh bai trong các nốt cao mà nó còn lên cung được cách rõ ràng và chắc chắn. Nó rất sung sướng, Margziam...
Họ sắp vào qua cổng Damas đã nhìn thấy trước mắt, nhưng họ phải đứng lại và gián đoạn các bài hát, vì một đoàn xe du hành nghênh ngang chiếm hết lòng đường và gián đoạn giao thông, bó buộc mọi người phải đứng lại trên lề đường. Nhưng đây là con đường ngắn nhất. Lúc đó Margziam hỏi: “Chúa của con ơi! Chúa không nói thêm một dụ ngôn thật đẹp nào nữa cho đứa con trai xa vắng của Chúa sao? Con muốn thêm vào những bản viết mà con đã có, bởi vì chắc chắn chúng ta sẽ gặp ở Bêtani những người ông ấy sai đến và các tin tức của ông. Con ước ao tặng cho ông như một niềm vui mà con đã hứa với ông, và như qủa tim ông và qủa tim con ước mong...”
- Ừ, con ơi, chắc chắn là Thầy sẽ cho con.
- Một dụ ngôn thực sự củng cố cho ông và nói với ông là Thầy luôn luôn yêu ông...
- Thầy sẽ nói như vậy, và Thầy sẽ vui, vì điều sẽ được nói là một chân lý.
- Thưa Chúa, bao giờ thì Chúa nói?
- Ngay tức thì. Chúng ta lên Đền Thờ ngay bây giờ như mọi người, và Thầy sẽ nói ở đó trước khi người ta có thể ngăn cản Thầy nói.
- Và Thầy sẽ nói cho ông?
- Ừ, con ạ.
- Cám ơn Chúa. Thực là đau đớn phải chia lìa như vầy... - Margziam nói, và trong đôi mắt đen của nó có một giọt nước mắt long lanh. Giêsu đặt bàn tay Người trên đầu nó, và Người quay lại để làm hiệu cho nhóm mười hai tiến lại để tiếp tục bước.
464
Qủa vậy, nhóm mười hai đã đứng để nghe những người mà tôi không biết họ tin ở ông Thầy hay họ muốn biết về Ngài, và họ đã phải dừng lại bởi cùng một lý do như Giêsu và nhóm của Ngài.
- Chúng con tới ngay. Thưa Thầy, chúng con đã nghe những người này, trong đám họ có những người tân tòng tới từ xa, họ hỏi chúng con rằng họ có thể tới gần Thầy ở chỗ nào - Phêrô vừa chạy vừa nói.
- Họ ước ao điều đó vì lý do nào?
Bây giời Phêrô đã ở bên Giêsu và bước đi với Người, ông nói: “Bởi ước ao nghe lời Thầy, và cũng để được chữa lành một số tật nguyền. Thầy thấy chiếc xe phủ kín ở tuốt đàng sau kia không? Đó là dân tân tòng ở Diaspora đến bằng đường biển hoặc bằng các cuộc hành trình dài, bị thúc đẩy bởi lòng tin ở Thầy, và hơn nữa, bởi kính trọng Lề Luật, để làm cuộc hành trình này. Có những người ở Ephêsô, Perge và Iconium; và cũng có một người nghèo ở Philadelphie mà họ, phần đông là các thương gia giầu, đã nhận ông vào đoàn xe vì tình thương khi nghĩ tới để tạ ơn Chúa”.
- Margziam, hãy chạy đến bảo họ theo Thầy vào Đền Thờ, và họ sẽ được cả hai điều: sức khỏe cho linh hồn bởi lời Thầy, và sức khỏe cho thân xác nếu họ biết tin.
Người thanh niên chạy đi mau lẹ. Nhưng nhóm mười hai nổi lên một tràng phản đối vì sự “thiếu khôn ngoan” của Giêsu, bởi Người muốn công khai vào Đền Thờ.
- Chúng ta tới đó công khai để cho họ thấy rằng Thầy không sợ; để chứng tỏ rằng không một đe dọa nào làm cho Thầy lỗi luật. Nhưng các con chưa hiểu mánh lới của họ sao? Tất cả những đe dọa này, những lời khuyên này chỉ có vẻ bề ngoài là thân hữu, còn thực tình là họ có mục đích làm cho Thầy phạm tội, để có một yếu tố thực sự mà kết án Thầy. Đừng hèn, hãy tin. Chưa đến giờ của Thầy đâu.
- Nhưng tại sao Thầy không bảo đảm cho mẹ Thầy trước hết? Bà đang đợi Thầy - Judas Iscariot nói.
- Không. Trước tiên Thầy lên Đền Thờ, nơi còn là nhà của Thiên
465
Chúa cho tới lúc được đánh dấu bởi Đấng Hằng Hữu. Mẹ Thầy sẽ bớt khổ hơn khi chờ đợi Thầy. Bà không khổ khi biết rằng Thầy giảng dạy ở Đền Thờ. Và bằng cách này, Thầy tôn kính Cha Thầy và mẹ Thầy, khi Thầy dâng cho Cha những giờ khởi đầu của Lễ Vượt Qua, và Thầy cho mẹ được bình an. Nào đi, đừng sợ. Ngoài ra, nếu ai sợ thì họ hãy đi Gétsêmani để ấp ủ nỗi sợ của họ giữa đám phụ nữ.
Các tông đồ, bị quất bởi sự quan sát này nên không nói nữa. Họ xếp hàng từng ba người. Họ là bốn người ở hàng đầu, nơi có Giêsu, cho tới khi Margziam trở lại để bổ túc thành năm. Đúng hơn là Thađê và Zêlote đi ở đàng sau Giêsu, còn Người đi ở giữa Phêrô và Margziam.
Tại cửa Damas, họ thấy Manaen: “Chúa ơi, con nghĩ tốt hơn là để Thầy thấy con, để con lấy đi hết những nghi ngại về hoàn cảnh. Con bảo đảm với Thầy là không có vấn đề gì hết ngoài sự oán ghét của các pharisiêu và luật sĩ là điều nguy cho Thầy. Thầy có thể vào cách an toàn”.
- Manaen, Thầy biết mà, nhưng Thầy cũng biết ơn con. Hãy vào Đền Thờ với Thầy nếu điều đó không nặng nề cho con...
- Nặng nề cho con à? Nhưng vì Thầy, con sẽ thách đấu với cả thế giới. Không gì có thể làm con mỏi mệt.
Iscariot lẩm bẩm điều gì. Manaen quay lại, bực tức. Ông nói bằng giọng bảo đảm: “Không đâu ông ơi. Đó đâu phải chỉ là lời suông. Con xin Thầy minh chứng cho sự chân thành của con”.
- Không cần, Manaen, đi!
Họ tiến qua giữa đám đông chen chúc, và khi tới nhà một người bạn, họ bỏ các giỏ xách ra, và Giacôbê, Gioan và Andrê mang vào đó để cho mọi người tại căn tiền đình dài và tối. Rồi họ ra, đi lại với các bạn họ.
Họ vào nội khu Đền Thờ, đi qua gần đồn Antonia. Các lính Rôma nhìn nhưng không nhúc nhích. Chúng nói chuyện với nhau. Giêsu quan sát họ để coi có ai quen không, nhưng Người không thấy Quintilianus, cũng không thấy anh lính Alexandre.
466
Đây, họ đã vào trong Đền Thờ, trong sự đông đúc không mấy thánh thiện của các sân đầu tiên, nơi có các thương gia và người đổi tiền. Giêsu nhìn và rùng mình. Người tái mét và có vẻ cao lớn hơn, vì Người bước đi cách trịnh trọng và uy nghiêm.
Iscariot thử Người: “Tại sao Thầy không nhắc lại hành động thánh? Thầy thấy không? Chúng quên rồi... Lại là sự phàm tục hóa trong nhà Thiên Chúa. Thầy không xúc động sao? Thầy không đứng lên để bảo vệ nó à?” Khuôn mặt đen dòn, đẹp nhưng mỉa mai và gian dối, mặc dầu những cố gắng mà Judas đã làm để nó không tỏ lộ ra như vậy. Nó giống mặt một con cáo khi Judas hơi cúi xuống, làm ra vẻ đầy kính cẩn để nói những lời này với Giêsu và quan sát Người từ phía dưới.
- Không phải lúc. Nhưng tất cả những điều này sẽ được thanh tẩy vĩnh viễn!... - Giêsu nói cách qủa quyết.
Judas mỉm cười và phê bình: “Cái vĩnh viễn của loài người! Nhiều khi nó rất nhất thời. Thầy thấy đó”.
Giêsu không trả lời Judas. Người để ý chào Giuse Arimathi từ xa khi ông đi qua, bao bọc trong chiếc áo khoác sang trọng, có các người khác theo sau.
Họ đọc các lời cầu nguyện theo nghi thức, rồi trở ra sân dân ngoại, nơi người ta chen chúc nhau dưới các hành lang.
Các người tân tòng đã gặp trên đường đi theo Giêsu, họ mang theo các bệnh nhân, và bây giờ họ để nằm dưới bóng mát, dưới hành lang gần ông Thầy. Các phụ nữ của họ đã chờ Người, liền từ từ sát lại. Tất cả đều trùm khăn kín mít. Nhưng một bà, có lẽ bị bệnh, đang ngồi, liền đứng dậy để các bạn bà dắt bà lại bên các bệnh nhân khác. Các người khác đều bao quanh lấy Giêsu. Tôi thấy nhóm các rabbi kinh ngạc và bối rối vì Giêsu đến cách công khai, và về sự thuyết giáo của Người.
- Bình an cho các con, ôi, hỡi các con đến nghe Thầy! Lễ Vượt Qua thánh đã dẫn vào nhà Cha những đứa con trung thành. Lễ Vượt Qua phúc đức của chúng ta, nó giống như người mẹ lo lắng cho điều tốt của các con mình. Bà gọi chúng lớn tiếng để chúng tới, để
467
chúng tới từ khắp nơi, để lại mọi lo lắng cho cái lo lắng lớn lao hơn, độc nhất, thực sự lớn lao và hữu ích: lo lắng tôn vinh Chúa là Cha. Điều đó cho hiểu được chúng ta là anh em thế nào, và từ đó, bởi một minh chứng ngọt ngào, đã phát sinh mệnh lệnh phải yêu tha nhân như chính mình. Chúng ta chưa bao giờ gặp nhau ư? Chúng ta không biết nhau ư ? Đúng, nhưng nếu chúng ta ở đây, thì là con của một cha duy nhất, Người muốn chúng ta ở trong nhà Người để ăn bữa tiệc Vượt Qua. Bởi đó, nếu không phải do giác quan vật chất của chúng ta, thì chắc chắn là do phần thượng đẳng, chúng ta cảm thấy chúng ta bình đẳng, là anh em đến từ một cha, và chúng ta yêu nhau giống như chúng ta đã lớn lên cùng với nhau. Sự liên kết tình yêu này của chúng ta là một sự tiên phong, đi trước tình yêu khác rất hoàn toàn hơn mà chúng ta sẽ vui hưởng trên Nước Trời, dưới cái nhìn của Thiên Chúa, tất cả đều được ấp ủ bởi tình yêu của Người. Thầy, Con Thiên Chúa và con loài người, cùng với các con, loài người, con cái Thiên Chúa; Thầy, con đầu lòng, cùng với các con, các em, được yêu cách vượt mọi đo lường của nhân loại, tới nỗi làm cho Thầy trở nên Con Chiên vì tội lỗi loài người.
Chúng ta là những kẻ bây giờ được hưởng tình huynh đệ hợp nhất trong nhà Cha, chúng ta hãy nhớ đến những kẻ ở xa, những kẻ vắng mặt trước bàn thờ thánh. Họ cũng là anh em chúng ta, hoặc trong Chúa, hoặc bởi nguồn gốc. Chúng ta hãy để họ trong tim chúng ta, chúng ta hãy mang họ trong tim chúng ta. Hãy cầu nguyện cho họ. Bằng thần trí, hãy đón nhận những tiếng nói xa xôi của họ, sự nuối tiếc của họ vì không được ở đây, những than thở của họ. Và khi chúng ta đón nhận những than thở ý thức của các người Israel vắng mặt, chúng ta cũng hãy đón nhận những thứ đó của những linh hồn thuộc về những người không biết cả đến rằng mình có một linh hồn, và họ cũng là con của Đấng Duy Nhất. Hết mọi linh hồn trong thế giới đều kêu về Đấng Tối Cao trong cái nhà tù của thân xác họ. Trong cái nhà tù tối tăm của họ, họ rên xiết về phía Ánh Sáng. Chúng ta là những người được ở trong ánh sáng của đức tin chân thật, chúng ta hãy thương xót họ.
468
Chúng ta hãy cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên Trời, chớ gì danh Cha được tôn vinh bởi tất cả nhân loại! Nhận biết danh Cha tức là đi tới sự thánh thiện. Xin Cha làm cho các dân ngoại nhận biết sự hiện hữu của Cha. Ôi! Lạy Cha rất thánh, giống như ba nhà đạo sĩ vào thời kỳ mà tới nay đã thành xa xôi nhưng không trơ trơ, vì không có gì thuộc về biến cố của ơn Cứu Chuộc trần gian mà lại trơ trơ bất động, xin cho họ đến với Thiên Chúa, đến với Cha, được hướng dẫn bởi Ngôi Sao của Jacob và ngôi Sao Mai, bởi vị Vua và Đấng Cứu Thế thuộc dòng Đavít, bởi đấng mà Cha đã xức dầu, đã ban tặng và thánh hiến để làm Lễ Hy Sinh vì tội lỗi thế giới.
Nguyện cho Nước Cha đến trong mọi nơi trên trái đất, nơi người ta biết Cha và yêu Cha, nơi người ta cũng còn chưa biết Cha. Và nguyện cho nó đến nhất là với những kẻ ba lần là tội nhân, những kẻ không yêu Cha, dù đã biết Cha trong các công trình của Cha và trong sự thể hiện của Ánh Sáng, mà vẫn tìm cách đẩy lui và dập tắt Ánh Sáng đến trong thế giới, vì đó là những linh hồn tối tăm, họ thích các công việc tối tăm và chỉ muốn dập tắt Ánh Sáng thế giới và xúc phạm đến Cha, vì Cha là Ánh Sáng Rất Thánh, và là Cha của mọi ánh sáng, bắt đầu bằng Ánh Sáng đã tự làm thành Xác Thể và Lời Nói để mang Ánh Sáng của Cha tới cho mọi linh hồn có thiện chí.
Ôi Cha Rất Thánh! Nguyện cho ý Cha được thực hiện trong mọi con tim hiện hữu trên mặt đất, tức là cho mọi con tim được cứu rỗi, và không ai là không được hưởng hiệu qủa do Lễ Hy Sinh của Nạn Nhân Vĩ Đại, ôi Cha Rất Thánh, vì ý muốn của Cha là mọi người được cứu chuộc và tận hưởng Cha sau sự tha thứ sắp được ân ban.
Ôi Chúa! Xin ban cho chúng con sự trợ giúp của Cha, tất cả sự trợ giúp của Cha, và ban nó cho tất cả những ai chờ nó, cho tất cả những ai không biết rằng mình đang chờ. Xin Cha ban nó cho các tội nhân cùng với sự sám hối để được cứu; xin Cha ban nó cho các dân ngoại với vết thương của lời Cha kêu gọi để lay động họ; xin ban nó cho những kẻ khốn khổ, xin ban nó cho những kẻ ẩn dật, những kẻ bị lưu đày, những kẻ bệnh hoạn trong thân xác và linh
469
hồn. Xin Cha ban nó cho tất cả, bởi vì Cha là tất cả, bởi vì thời kỳ của Tình Thương đã đến.
Ôi Cha nhân từ! Xin tha thứ tội lỗi cho con cái Cha. Tội lỗi của những kẻ thuộc về dân Cha là trầm trọng hơn cả; tội lỗi của những kẻ có tội vì muốn ở lì trong lầm lạc, trong khi tình yêu biệt ái của Cha đã ban Ánh Sáng đặc biệt cho dân này. Xin Cha tha thứ cho những kẻ u mê bởi các ngẫu tượng đồi trụy đã dạy họ những sự đồi bại, và họ bị dìm ngập trong những trụy lạc nặng nề và hôi thối này, trong khi ở giữa họ cũng có những tâm hồn có gía trị, và Cha cũng yêu chúng vì Cha đã tạo dựng nên chúng. Chúng con tha thứ, trước tiên là con, con tha, để Cha có thể tha. Và trên sự yếu đuối của các thụ tạo, chúng con cầu khẩn sự bảo trợ của Cha, để Cha giải thoát chúng con cho khỏi Căn Nguyên của Sự Ác, mà từ đó nó đến cho những kẻ Cha đã tạo dựng mọi tội ác, mọi thứ tà thần, mọi lỗi phạm, mọi thứ cám dỗ và sai lầm. Ôi lạy Chúa, xin giải thoát cho họ khỏi Quyền Lực kinh khủng, để họ có thể đến với Ánh Sáng đời đời”.
Người ta đã chăm chú theo dõi lời cầu nguyện trọng thể này. Có những vị rabbi nổi tiếng cũng lại gần, trong số đó có Gamaliel. Ông đứng trầm ngâm, cầm bộ râu rậm rạp của ông trong tay. Một nhóm phụ nữ tiến lại, hoàn toàn phủ kín trong áo khoác với chiếc nón che kín mặt mà các rabbi tránh ra cách khinh bỉ... Một số đông các môn đệ trung thành cũng có mặt, vì họ bị lôi kéo bởi cái tin Thầy đến, trong số đó có Hermas, Étienne, thầy cả Gioan; rồi có Nicôđêmô và Giuse, hai người bất khả ly, và những người khác là bạn bè của họ mà hình như tôi đã gặp.
Trong lúc nghỉ tiếp theo sau lời cầu nguyện của Chúa, khi Người còn đang mặc niệm cách nhiệm nhặt và nghiêm trang, người ta nghe tiếng Giuse Arimathi nói: “Này, Gamaliel, điều đó anh vẫn cho là không phải, vẫn cho là chưa phải những lời của Chúa sao?”
- Giuse ơi, Người đã nói với tôi: “Những tảng đá này sẽ run giùng vì âm thanh của lời tôi” - Gamaliel trả lời.
Étienne kêu lên cách cuồng nhiệt: “Chúa ơi, xin hãy hoàn thành cái kỳ công này. Xin Chúa truyền lệnh, và nó sẽ rung chuyển! Chớ
470
gì lâu đài này sụp đổ, nhưng các bức tường của đức tin nơi Thầy được dựng lên trong các con tim. Đó sẽ là một đại hồng ân. Xin Chúa hãy làm điều đó cho người thầy của con”.
- Phạm thượng! - Một toán rabbi phẫn nộ la lên cùng với các học trò của họ.
Đến lượt Gamaliel cũng nói lớn: “Không, đồ đệ của tôi đã nói một lời được linh ứng, nhưng chúng ta không thể chấp nhận nó, bởi vì thiên thần của Thiên Chúa chưa thanh tẩy cái qúa khứ cho chúng ta bằng than hồng của bàn thờ Thiên Chúa... và có lẽ dù là tiếng kêu của ông ấy (và ông chỉ vào Giêsu) có giựt ra các bản lề của những cái cửa này, chúng ta vẫn không biết tin...” Và ông nâng lên một vạt của chiếc áo khoác rộng thùng thình và trắng tinh của ông, ông phủ lên đầu, hầu như che hết mặt, và bỏ đi.
Giêsu nhìn ông ra đi... Rồi người tiếp tục để trả lời cho một số trong nhóm họ lẩm bẩm với nhau, tỏ ra phẫn uất. Và để làm cho rõ ràng hơn sự phẫn nộ của họ, họ đổ lên đầu Judas Kêriot tất cả những phàn nàn của họ mà vị tông đồ chịu trận, không phản ứng. Ông chỉ nhún vai và bộc lộ một bộ mặt không chút bằng lòng. Giêsu nói:
- Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng có những người có vẻ như đứa con hoang thì lại là đứa con thực, và có những đứa con thực thì lại trở thành đứa con hoang.
Tất cả các con, hãy nghe dụ ngôn này:
Một thời kia, có một người vì công việc làm ăn nên vắng nhà một thời gian dài. Ông để lại nhà những đứa con còn dại. Từ nơi ông ở, ông viết thơ về cho những đứa con lớn để nhắc chúng luôn luôn kính trọng người cha vắng mặt, và nhắc lại các lời giáo huấn của ông. Đứa con sau cùng được sinh ra sau khi ông đã trẩy đi, nó được nuôi tại nhà một người đàn bà ở xa nơi ấy, trong xứ của vợ ông, một người đàn bà thuộc một nòi khác. Vợ ông chết khi đứa trẻ còn nhỏ và ở xa nhà. Các anh nó nói: “Chúng ta hãy để nó ở đó, nơi nhà các bà con của mẹ chúng ta, có lẽ ba chúng ta sẽ quên nó đi, và như vậy sẽ có lợi cho chúng ta, ta sẽ bớt đi được một người
471
chia gia tài với chúng ta khi ba chúng ta chết”. Và họ hành động như vậy. Với cách đó, đứa trẻ sống ở xa, được bà con bên mẹ nuôi, không biết gì tới những giáo huấn của cha, không biết rằng mình có một người cha và các người anh. Và tệ hơn nữa, nó có những tư tưởng chua cay này: “Mọi người đều từ rẫy tôi tựa như tôi là đứa con hoang”. Và rồi nó tin nó là đứa con hoang bị cha nó bỏ rơi.
Khi trở nên một người lớn, nó có một việc làm. Chua xót vì những tư tưởng này, nó ghét cả mẹ nó mà nó tin là đã ngoại tình. Tình cờ người thanh niên này tới thành phố nơi cha nó ở, nó liên lạc với ông và có dịp nghe ông nói mà chẳng biết ông là ai. Người cha này là kẻ khôn ngoan. Và vì ông không thỏa lòng với những người con mà ông để lại ở quê xa - vì bây giờ chúng sống tùy thích, chỉ giữ những liên lạc theo tập quán với cha chúng đang sống ở xa, chỉ đủ để nhắc cho ông rằng chúng là con ông, để ông nhớ tới chúng trong tờ di chúc - ông cho người thanh niên lạ những lời khuyên hữu lý khi ông có dịp ở gần anh ta trong thành phố ông cư ngụ. Người thanh niên bị lôi kéo bởi sự ngay thẳng đầy tình cha đối với sự qúa non trẻ của anh, không những anh chỉ qua lại với ông, anh còn coi các lời ông như một kho báu làm giải phiền cho lòng trí chua cay của anh.
Người đàn ông ngã bệnh và ông phải quyết định trở về quê. Người thanh niên nói với ông: “Thưa Ngài, chỉ một mình Ngài đã nói với tôi những lời chính đáng làm nhẹ nhõm tâm trí tôi. Xin cho phép tôi theo Ngài như một đầy tớ. Tôi không muốn lại rơi vào tình trạng buồn thảm của tôi trước đây nữa”.
- Hãy đi với ta, anh sẽ thay thế cho đứa con mà ta không còn tìm thấy tin tức nữa.
Và họ cùng nhau trở về nhà của người cha.
Tất cả: người cha, các người anh cũng như người thanh niên, không ai ngờ rằng Chúa đã tái họp các người cùng một dòng máu dưới cùng một mái nhà. Nhưng người cha phải khóc rất nhiều vì những người con mà ông nhận ra, vì ông thấy chúng đã quên các huấn giáo của ông: chúng tham lam, lòng dạ chai đá, không còn tin
472
vào Thiên Chúa. Trái lại, có rất nhiều tà thần ở trong lòng chúng: Kiêu căng, keo kiệt, dâm đãng là chúa của chúng, và chúng không còn muốn nghe nói về điều gì khác ngoài những mối lợi vật chất. Trái lại, người thanh niên lạ luôn luôn ở gần ông chủ và trở nên công chính, nhân từ, tình nghĩa, vâng lời. Các người anh ghét kẻ lạ mặt này, vì người cha thương anh ta. Anh vẫn tha thứ và yêu thương, vì anh hiểu rằng sự bình an ở trong tình yêu.
Một ngày kia, người cha chán ngấy vì cách sống của các con ông, ông nói với chúng: “Các con không quan tâm gì tới bà con của mẹ các con và ngay cả em các con. Các con làm ba nhớ tới thái độ của các người con ông Jacob đối với em Giuse của chúng. Ba muốn trẩy đi tới xứ đó để hỏi thăm tin tức của nó. Nó có thể để ba gặp thấy nó và ba sẽ được an ủi”. Và ông từ giã các con ông cũng như người lạ, sau khi đã cho anh này chút ít vốn liếng để anh ta trở về thành phố anh ta đã tới và mở một cửa hàng nhỏ.
Khi ông tới thành phố của vợ ông, nơi bà đã chết, các bà con của bà kể cho ông rằng đứa con trai bị bỏ rơi, trước tiên có tên là Môise, rồi sau đó lại đổi là Manassê, vì khi nó sinh ra, cha nó đã quên sự công bằng, vì ông đã bỏ rơi nó.
- Nhưng đừng bắt lỗi tôi. Người ta đã nói với tôi rằng họ đã bị mất mọi dấu vết của đứa trẻ. Cả đến tôi không hy vọng tìm được ai trong qúi vị nữa. Nhưng xin hãy nói cho tôi về nó: nó thế nào? Nó có trở nên người khỏe mạnh không? Nó có giống người vợ yêu dấu đã chết của tôi không? Vì bà chết khi sinh nó ra cho tôi. Nó có tốt không? Nó có yêu tôi không?
- Về vấn đề khỏe thì nó khỏe; nó đẹp giống như mẹ nó, ngoại trừ có đôi mắt đen ngay thẳng. Về phía mẹ nó, nó giống bà ta cả đến cái tính thích có một qủa keo ở bên cạnh. Trái lại, về phía ông, nó giống tật hơi nói ngọng. Khi lớn lên, nó đi khỏi đây, chua chát vì hoàn cảnh của nó, nghi ngờ về sự ngay thẳng của mẹ nó và nó giận ghét ông. Nó sẽ rất tốt nếu nó không có sự giận ghét này trong tâm hồn. Nó đã đi băng qua ngọn núi này và cả con sông, tới tận Trapézius để...
473
- Qúi vị nói tới Trapézius à? Trong vùng Sinope? Ôi! Hãy nói cho tôi! Ở đó, tôi đã ở đó và tôi biết một người thanh niên hơi nói ngọng, cô đơn và buồn, rất tốt dưới cái mã khắc khổ. Có phải nó không? Làm ơn nói...
- Có lẽ nó. Hãy kiếm lại nó xem. Ở bên phải nó có một vết nám sậm mầu hình qủa keo giống hệt vợ ông.
Người đàn ông vội vã ra đi, hy vọng còn tìm thấy người lạ ở nhà ông. Ông trở lại vùng thuộc địa Sinope, và ở đó, ông tìm thấy anh ta. Ông kêu anh ta tới để khám xét bên cạnh sườn. Ông nhận ra anh ta. Ông qùi xuống để ca tụng Thiên Chúa đã trả lại cho ông người con tốt hơn tất cả những đứa khác là những đứa càng ngày càng u mê, trong khi nó, thời gian càng trôi qua, nó càng trở nên thánh. Và ông nói với người con tốt: “Con sẽ có phần của các anh con, vì con, dù không được ai yêu thương mà con cũng trở nên công chính hơn những người khác”.
Và như vậy là không công bằng sao? Đương nhiên là có. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng, họ sẽ là người con thật của điều Thiện, những người bị thế giới ruồng bỏ, khinh chê, thù ghét, chỉ trích, bỏ rơi như đứa con hoang, bị coi như sự xấu hổ, như kẻ chết. Họ biết vượt qua những người con đã lớn lên trong nhà, nhưng phản lại Lề Luật. Không phải chỉ thuộc về Israel là có quyền lên Trời, cũng không phải là pharisiêu, luật sĩ, tiến sĩ là được bảo đảm cái định mệnh này, nhưng phải có thiện chí, đến với Luật Tình Yêu cách quảng đại, tự canh tân trong nó để nhờ nó mà được trở nên con Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý.
Tất cả các con đã nghe, hãy biết rằng nhiều kẻ tưởng mình chắc chắn trong Israel, sẽ bị chiếm chỗ bởi những kẻ đối với họ là hạng thâu thuế, giang hồ, dân ngoại, tù khổ sai. Nước Trời thuộc về những kẻ biết tự canh tân bằng cách đón nhận Chân Lý và Tình Yêu..
Giêsu quay đi và đến với nhóm bệnh nhân tân tòng: “Các con có tin vào điều Thầy nói không?” Người hỏi lớn tiếng.
- Vâng, lạy Chúa, có ạ! - họ đồng thanh đáp.
- Các con có muốn đón nhận Chân Lý và Tình Yêu không?
474
- Lạy Chúa, có ạ.
- Nếu Thầy chỉ ban cho các con có hai điều đó thôi thì các con có bằng lòng không?
- Lạy Chúa, Chúa biết chúng con cần điều gì hơn. Nhất là hãy cho chúng con sự bình an của Thầy và sự sống đời đời.
- Các con hãy đứng dậy và đi ca ngợi Chúa. Các con được chữa lành vì thánh danh Thiên Chúa.
Rồi lẹ làng, Người đi về phía cửa thứ nhất và lẫn lộn vào đám đông đầy tràn Jêrusalem, ngay cả trước khi đám đông ngây ngất và kinh ngạc đang ở trong sân dân ngoại có thể tìm thấy Người để hô vạn tuế...
Các tông đồ lạc hướng, không tìm thấy Người đâu nữa. Chỉ có mình Margziam không bao giờ rời cầm chắc vạt áo Người mới sung sướng chạy ở bên cạnh Người và nói: “Cám ơn, cám ơn, cám ơn Thầy! Cám ơn cho Gioan. Con đã ghi hết trong khi Thầy nói. Con chỉ còn việc thêm vào phép lạ. Ôi! Thật đẹp! Nó sẽ thực tình sung sướng cho ông ta!...”
55* GIÊSU TẠI GÉTSÊMANI VÀ BÊTANI
Giêsu đi vào vườn ôliu xanh rờn và yên tĩnh. Margziam luôn luôn ở bên cạnh Người, và nó mỉm cười khi nghĩ tới cuộc chạy bộ mà chắc chắn Phêrô sẽ làm để đến với Người và nó. Nó nói: “Ôi! Thầy ơi! Ai mà biết được ông ấy sắp nói gì? Nếu Thầy tiếp tục đi Bêtani mà không dừng lại ở đây thì thật tình ông ấy sẽ ở trong tình trạng buồn”.
Giêsu cũng mỉm cười nhìn đứa trẻ và trả lời nó: “Đúng, ông ta sắp sửa chôn vùi Thầy bằng các lời than của ông. Nhưng điều đó giúp cho ông để lần sau biết chú ý hơn. Trong khi Thầy nói, ông ta giải trí bằng cách gẫu chuyện với người nọ người kia”.
- Thưa Chúa, họ hỏi ông ta - Margziam nói để bào chữa cho ông, và nó không cười nữa.
475
- Ta phải nhân hậu làm hiệu rằng ta sẽ trả lời khi Lời Chúa đã chấm dứt. Con hãy nhớ lấy điều đó cho tương lai của con, khi con sẽ là linh mục. Ta phải đòi sự trọng kính tuyệt đối tại những giờ và những nơi ta cho sự giáo huấn.
- Chúa ơi! Vậy khi đó thằng Margziam tội nghiệp này phải nói sao?...
- Không quan trọng. Luôn luôn chính là Thiên Chúa nói qua miệng các tôi tá Người vào những giờ của sứ mạng của họ. Và khi như vậy thì người ta phải nghe cách trọng kính và trong yên lặng.
Margziam chau mày nhăn mặt cách ý nghĩa để bình luận những lý lẽ trong nội tâm nó.
Giêsu quan sát nó và nói: “Con không thấy là phải như vậy sao? Tại sao nhăn mặt? Nói đi con, đừng sợ”.
- Lạy Chúa, con tự hỏi có phải Thiên Chúa cũng ở trên môi của các thầy cả ngày nay không? Và... với sự sợ hãi, con tự hỏi không biết những người trong tương lai có giống vậy không... và con kết luận rằng... nhiều thầy cả đã cho Chúa một khuôn mặt tồi tệ... Chắc là con đã phạm tội... nhưng họ có con tim qúa xấu, keo kiệt, khô cằn và... mà...
- Đừng xét đoán. Nhưng con hãy nhớ lấy cảm giác ghê tởm này, để nó luôn hiện diện cho con trong tương lai, để con biết vận dụng tất cả sức lực để không giống những người làm con ghê tởm, và để những người tùy thuộc vào con cũng đừng như vậy. Hãy dùng vào mục đích tốt tất cả những điều xấu mà con nhìn thấy. Mọi hành động và mọi hiểu biết phải biến thành tốt bằng cách đi qua một phán đoán và một ý chí ngay thẳng.
- Ôi! Lạy Chúa, trước khi đi vào căn nhà mà ta đã thấy ở đàng kia, xin Chúa trả lời cho con một câu hỏi nữa: Thầy không từ chối rằng chức tư tế hiện tại đã hư hỏng. Thầy nói với con là đừng xét đoán, nhưng Thầy, Thầy xét đoán và Thầy có thể làm, và Thầy xét đoán cách công bình. Bây giờ Chúa ơi, xin nghe điều con nghĩ: Khi các thầy cả hiện tại nói về Thiên Chúa và về tôn giáo, như phần lớn trong đám họ làm, và bây giờ con nói về những người xấu nhất
476
trong đám họ, thì ta có phải nghe họ tựa như họ nói các chân lý không?
- Con ơi, luôn luôn phải nghe vì kính trọng sứ mạng của họ. Khi họ làm các hành vi thuộc về sứ mạng của họ, thì họ không còn là ông Caipha hay ông Sadốc, và v.v. nhưng đó là người thầy cả. Hãy luôn luôn phân biệt sứ vụ với con người tội nghiệp.
- Nhưng nếu họ không hoàn thành sứ vụ đó?
- Thiên Chúa sẽ bù đắp. Và rồi... nghe đây Margziam: Không có ai hoàn toàn tốt, cũng không có người nào hoàn toàn xấu, và không có ai hoàn toàn tới nỗi có quyền xét đoán anh em mình là hoàn toàn xấu. Phải kể đến các khuyết điểm của mình, nó đối lập với những tính tốt của kẻ mà chúng ta muốn xét đoán, và lúc đó chúng ta sẽ có mức độ chính xác về sự xét đoán với tình bác ái. Thầy cũng chưa bao giờ thấy một người hoàn toàn xấu.
- Chúa ơi, kể cả Doras?
- Kể cả ông ta, vì đó là người chồng ngay thật, và là người cha biết yêu thương.
- Kể cả cha của Doras cũng không?
- Ông ta cũng là người chồng ngay thật và người cha biết yêu thương.
- Nhưng ông ta đâu phải chỉ có điều đó!
- Ông ta không phải chỉ có điều đó, nhưng về điều đó thì ông ta không xấu. Vậy thì ông ta không hoàn toàn xấu.
- Kể cả Judas cũng không xấu?
- Không.
- Nhưng ông ta không tốt.
- Ông ta không hoàn toàn tốt cũng như ông ta không hoàn toàn xấu. Con có nhìn nhận điều Thầy nói không?
- Con nhìn nhận rằng Thầy, Thầy hoàn toàn tốt, và Thầy tuyệt đối không độc ác. Điều đó, đúng, Thầy như vậy tới nỗi Thầy không bao giờ tìm ra sự kết án cho bất cứ ai...
- Ôi! Con ơi, nếu Thầy chỉ nói tới từ “kết án”, thì các con sẽ nhảy bổ lên đầu kẻ bị kết án như những con vật hoang dại... Thầy,
477
Thầy tránh cho các con khỏi bị ô uế bởi tội xét đoán, nên Thầy hành động như vậy. Margziam ơi, con hãy hiểu Thầy: Không phải Thầy không thấy điều xấu ở nơi nó ở, không phải Thầy không thấy sự lẫn lộn giữa điều xấu và điều tốt ở trong một số người, không phải Thầy không biết khi một linh hồn lên cao hay xuống thấp hơn mức độ Thầy dẫn nó tới. Con ơi, tất cả những điều đó không để làm gì cả, nhưng đó là sự khôn ngoan thận trọng để tránh cho các con khỏi thiếu bác ái. Thầy sẽ luôn luôn hành động như vậy, ngay cả trong các thế kỷ tương lai, khi Thầy phải cho ý kiến về một người. Con ơi, con không biết rằng đôi khi một lời khen, một lời khích lệ có giá trị hơn ngàn lời khiển trách sao? Con không biết rằng trên một trăm trường hợp rất xấu, mà lại được xét là tương đối tốt, thì ít là một nửa sẽ thực sự trở nên tốt. Bởi vì khi đó, sau những lời nhân hậu của Thầy, họ sẽ không thiếu sự giúp đỡ của những người tốt mà trước kia chỉ làm cho kẻ bị điểm chỉ là xấu trốn chạy. Phải nâng đỡ các linh hồn, đừng làm nặng nề cho họ. Nhưng nếu Thầy không phải là người đầu tiên nâng đỡ họ, che chở cho những kẻ xấu, tạo ra trong các con sự nhân hậu và trợ giúp họ, thì các con sẽ không bao giờ cho họ một tình thương linh hoạt. Margziam, con hãy nhớ điều đó...
- Lạy Chúa, vâng... (nó thở dài) Con sẽ nhớ... (nó lại thở dài), nhưng thật là khó trước một số việc tỏ tường...
Giêsu nhìn nó đăm đăm, nhưng Người chỉ nhìn thấy phần trán trên của đứa trẻ, vì nó cúi gằm mặt xuống.
- Margziam, hãy ngửa mặt lên. Hãy nhìn Thầy, và hãy trả lời Thầy: “Cái tỏ tường nào con thấy là khó để bỏ qua?”
Margziam rối trí... làn da hơi nâu của nó thành đỏ... Nó trả lời: “Nhưng... Chúa ơi, có rất nhiều...”
Giêsu thúc đẩy nó: “Tại sao con nêu danh Judas? Bởi vì đó là một hiển nhiên? Có lẽ đó là cái con khó vượt qua... Judas đã làm gì con? Ông ta làm gương mù cho con về điều gì?” Và Giêsu để bàn tay Người lên vai đứa trẻ mà bây giờ thành đỏ tía.
Margziam nhìn Người, đôi mắt rực sáng. Rồi nó gỡ tay người ra,
478
chạy đi và kêu: “Đó là kẻ phạm thánh... Judas. Nhưng con không thể nói... Lạy Chúa, xin hãy trọng kính con...” Và đầy nước mắt, nó đi nấp. Giêsu gọi nó cách vô hiệu bằng một cử chỉ nản lòng đau đớn.
Nhưng tiếng kêu của Người lôi kéo sự chú ý của những người ở trong căn nhà tại Gétsêmani, và trên ngưỡng cửa nhà bếp, liền thấy xuất hiện Jonas và Mẹ Chúa Giêsu. Ở đàng sau là các nữ môn đệ: Maria Clêopha, Maria Salômê và Porphyrê. Các bà nhìn thấy Giêsu và bắt đầu tiến lại với Người.
- Bình an cho tất cả. Con đây má!
- Một mình à? Tại sao?
- Con chạy đi trước. Những người khác, con để lại ở Đền Thờ... Nhưng con đi cùng với Margziam...
- Vậy con trai của con đâu mà con không thấy nó? - Porphyrê hỏi, hơi có vẻ lo lắng.
- Nó lại đàng kia... Nhưng nó sắp tới. Các bà có đủ đồ ăn cho mọi người không? Các người khác sắp tới.
- Thưa Chúa không. Thầy đã nói rằng Thầy đi Bêtani.
- Đúng. Nhưng Thầy nghĩ rằng nên tới đây. Hãy mau đi sắm những cái cần. Thầy ở lại với mẹ Thầy.
Các bà môn đệ vâng lời không bàn bạc.
Giêsu ở lại một mình với Maria. Họ bước nhẩn nha dưới cành cây đan vào nhau mà mặt trời rọi qua, vẽ thành những vòng tròn óng vàng trên cỏ xanh đầy hoa.
- Sau bữa ăn, con sẽ đi Bêtani với Simon.
- Simon Jonas à?
- Không. Simon Zêlote. Và con sẽ dắt Margziam theo với con...
- Giêsu yên lặng và trầm tư.
Maria quan sát Người, rồi mẹ hỏi: “Margziam làm con buồn à?”
- Không đâu má. Trái lại ấy. Tại sao má lại nghĩ vậy?
- Tại sao con trầm tư vậy?... Tại sao con gọi nó với giọng như
truyền lệnh? Và tại sao nó lại tránh con? Tại sao nó tách rời con ra như nó xấu hổ? Cả đến nó không tới chào mẹ nó và má?
479
- Đứa trẻ chạy trốn vì một câu hỏi con đặt cho nó.
- Ôi! - Maria kinh ngạc sâu xa. Mẹ nín lặng một lát rồi mẹ thì thào tựa như nói với chính mình: “Hai người ở trong Thiên Đàng dưới đất đã chạy trốn khi nghe tiếng nói của Thiên Chúa, sau khi phạm tội... Nhưng ôi, con ơi, phải thương xót đứa trẻ. Nó đang bắt đầu trở nên một người đàn ông... Và có lẽ... Con ơi! Satan cắn vào hết mọi người” - Maria đầy tình thương và van nài.
Giêsu nhìn mẹ và nói: “Mẹ thật là bà mẹ! Và mẹ thật là mẹ con! Nhưng đừng nghĩ là đứa trẻ phạm tội. Trái lại, mẹ phải tin rằng nó đau khổ vì sự xung kích do một tiết lộ. Nó rất trong sạch. Nó rất tốt... Hôm nay con sẽ dẫn nó đi theo để làm cho nó hiểu rằng con hiểu nó, mà không cần lời nói. Bất cứ lời nào cũng sẽ là qúa... Và con sẽ không tìm được một lời nào để biện hộ cho kẻ đã xâm phạm tới một trẻ thơ”. Giêsu rất nghiêm khắc trong những lời sau cùng này.
- Ôi! Con ơi! Chúng ta ở trong cuộc. Má không hỏi con đích danh, nhưng nếu trong đám chúng ta có một người có khả năng làm cho đứa trẻ xao xuyến, thì chỉ có một người có thể làm điều đó thôi... Qủi ma dường nào!
- Chúng ta hãy đi tìm Margziam đi má. Nó sẽ không chạy trốn trước mặt má.
Họ đi và tìm thấy nó nấp sau bụi cây sơn tra.
- Con hái hoa cho mẹ à? - Maria hỏi khi lại với nó và ôm nó.
- Không. Nhưng con ước ao làm - Margziam nói. Nó vẫn còn nước mắt trên mặt.
- Và mẹ, mẹ đã tới. Nào, lẹ lên, vì hôm nay con phải đi Bêtani với Giêsu của mẹ, và con phải đàng hoàng cho xứng hợp.
Khuôn mặt Margziam rạng rỡ. Nó đã quên sự xao xuyến mà nó đã cảm thấy. Nó nói: “Một mình con với Người à?”
- Với cả Simon Zêlote.
Margziam hãy còn rất trẻ con, nó nhảy lên vì mừng và nó ra khỏi chỗ nấp để lăn xả vào ngực Giêsu... Nó cảm thấy băn khoăn, nhưng Giêsu khích động nó bằng cách bảo nó: “Chạy đi coi bố con
480
tới chưa”.
Và trong khi Margziam chạy đi, Giêsu quan sát nó: “Đúng là một đứa trẻ, mặc dầu tư tưởng của nó đã chín chắn. Làm cho qủa tim của nó xao xuyến là một tội nặng. Nhưng con sẽ canh chừng”. Và vừa đi vừa nói, Người trở lại nhà với Maria. Nhưng họ chưa tới nhà thì đã thấy Margziam trở lại, chạy nhảy ở đàng sau lưng.
- Thầy ơi... mẹ ơi... Có nhiều người... những bà đã ở trong Đền Thờ... Các người tân tòng... Có một bà... một người đàn bà muốn gặp mẹ, mẹ ơi... bà nói bà đã biết mẹ ở Bétlem... Bà tên là Noêmi.
- Mẹ biết nhiều bà tên như vậy. Thế thì ta đi...
Họ đi tới cái công viên nhỏ, nơi có căn nhà. Một nhóm người đang chờ, và vừa khi nhìn thấy Giêsu, họ liền qùi xuống. Nhưng một người đàn bà đứng dậy ngay và bà tới qùi tại chân Maria trong khi gọi tên mẹ.
- Chị là ai? Tôi không nhớ chị. Đứng dậy đi.
Người đàn bà đứng dậy và bà sắp cất tiếng nói thì các tông đồ tới, thở hổn hển.
- Nhưng lạy Chúa! Nhưng tại sao? Chúng con đã chạy như lũ điên khắp thành Jêrusalem. Chúng con nghĩ thầy vào nhà Jeanne hay nhà Annalia... Tại sao Thầy không dừng lại? - Các câu hỏi và các tin tức giao nhau lộn xộn.
- Nhưng bây giờ chúng ta đã gặp nhau, có cắt nghĩa cái tại sao cũng vô ích. Hãy để người đàn bà này nói bình tĩnh.
Tất cả đều tụ lại để nghe.
- Chị không nhớ em, ôi! Maria của Bétlem. Nhưng em, từ ba mươi mốt năm nay, em nhớ tên chị và khuôn mặt chị như mặt của tình thương. Em hồi đó cũng đến từ xa, từ Perge, vì chiếu chỉ. Lúc đó em đang có bầu, nhưng em hy vọng sẽ về kịp thời. Nhưng ông chồng em ngã bệnh trên đường, và tại Bétlem, ông suy nhược tới chết. Em sinh được hai mươi ngày thì ông chết. Tiếng khóc của em xuyên thấu tới trời và làm khô dòng sữa của em, hoặc đã làm cho nó thành độc hại. Em mọc mụn nhọt đầy người, và con em cũng vậy... Và người ta quăng mẹ con em vào một cái hang cho chết ở
481
đó. Và rồi... chị... chỉ có một mình chị đến với sự khéo léo thận trọng, trong gần hết một tuần trăng, để mang cho em của ăn và săn sóc vết thương của em, khóc với em, cho con em bú sữa, nó sống là nhờ chị, nhờ một mình chị... Chị đã liều mình bị chết vì ném đá, vì chúng gọi em là “con mẹ cùi”... Ôi! Ngôi Sao dịu dàng của em! Em không quên những điều đó. Em ra đi sau khi được lành. Tại Êphêsô, em nghe tin về cuộc tàn sát. Em đã tìm chị biết bao! Biết bao! Em không thể tin là chị bị giết cùng với con trai chị trong đêm kinh khủng ấy. Nhưng em không hề tìm thấy chị. Mùa hè vừa qua, có người ở Êphêsô đã nghe con trai chị nói, ông ta biết Người là ai. Ông ta đã theo Người một ít, ông ta đi với các người khác vào sau Lễ Lều... Rồi khi trở về nhà, ông ta đã nói. Em, em đến để gặp chị, ôi, Vị Thánh, trước khi chết, để chúc phúc cho chị, vì biết bao lần chị đã cho thằng Gioan của em những dòng sữa mà chị đã lấy bớt của người con phúc đức của chị...
Người đàn bà khóc trong thái độ trọng kính, hơi cúi nghiêng, bàn tay nắm chặt lấy cánh tay của Maria.
- Chị ơi, sữa thì người ta không bao giờ được từ chối. Và...
- Ôi! Em không phải là chị của chị. Chị là mẹ của Vị Cứu Tinh, em là người đàn bà tội nghiệp, lạc lõng, xa nhà, góa với đứa con thơ trong lòng, với cặp vú khô héo như cái suối về mùa hè... Không có chị thì em đã chết. Chị đã cho em tất cả, nhờ đó em đã có thể trở về nhà các anh của em, thương gia ở Êphêsô. Nhờ chị...
- Chúng ta là hai bà mẹ, hai bà mẹ tội nghiệp với hai con thơ giữa đời. Chị, chị phải khổ vì góa bụa, em thì bị đâm thâu trong con em như ông già Simêon đã nói trong Đền Thờ. Em chỉ làm cái bổn phận người chị em của em bằng cách cho chị cái mà chị không còn. Còn con trai chị, nó còn sống không?
- Nó đây. Và sáng nay người con rất thánh của chị đã chữa nó cho em. Nguyện cho Người được chúc tụng - Rồi người đàn bà qùi gối trước Vị Cứu Tinh và nói: “Lại đây Gioan, để cám ơn Chúa”.
Một người đàn ông trạc tuổi Giêsu liền rời các bạn ông và tiến ra. Anh ta vạm vỡ, khuôn mặt ngay thẳng nhưng không đẹp. Anh ta
482
chỉ có những bộc lộ của đôi mắt sâu là đẹp.
- Bình an cho anh, người anh em ở Bétlem. Tôi đã chữa anh cái gì?
- Lạy Chúa, chứng mù. Một mắt đã mù, mắt kia cũng gần mù. Con là trưởng giáo đường, nhưng con không còn có thể đọc các rulô thánh nữa.
- Bây giờ anh sẽ đọc với một đức tin mạnh hơn.
- Không, lạy Chúa, bây giờ con muốn đọc ở Chúa. Con muốn ở lại như một môn đệ mà không phải do những quyền lợi đòi hỏi bởi những giọt sữa mà con đã bú của cặp vú đã nuôi Thầy. Chẳng là gì những ngày của một tuần trăng để tạo nên một sợi giây, nhưng đó là tất cả tình thương của mẹ Thầy lúc đó, và của Thầy sáng nay .
Giêsu quay về phía người đàn bà: “Còn bà, bà tính sao?”
- Con nghĩ rằng con trai con thuộc về Thầy hai lần. Lạy Chúa, xin hãy nhận nó, và giấc mơ của Noêmi tội nghiệp này sẽ được thực hiện.
- Tốt. Con sẽ thuộc về Đức Kitô. Các con, hãy tiếp nhận người bạn này nhân danh Chúa - Người nói với các tông đồ.
Các người tân tòng phấn khởi cảm động. Tất cả nam giới đều muốn ở lại với Người, nhưng Giêsu nói qủa quyết: “Không. Các con hãy ở tại nơi các con ở. Hãy trở về nhà các con, giữ gìn đức tin trong khi chờ giờ được gọi. Nguyện Thiên Chúa luôn luôn ở với các con. Đi đi”.
- Chúng con còn có thể gặp lại Thầy ở đây không? - Họ hỏi.
- Không. Giống như một con chim bay từ cành nọ qua cành kia, Thầy di chuyển không ngừng. Các con sẽ không tìm thấy Thầy ở đây. Thầy không có đường đất, cũng không có chỗ ở nhất định. Nhưng nếu là chính đáng, chúng ta sẽ gặp nhau, và các con sẽ nghe Thầy. Còn bà thì hãy ở lại với môn đệ mới.
Rồi Người vào nhà, các phụ nữ và các môn đệ theo sau, bình luận cách cảm động về thời kỳ mà cho tới lúc này họ chưa được biết, và về lòng bác ái sâu xa của Mẹ Maria.
***
483
Giêsu với nhịp bước lẹ, tiến về Bêtani. Ở hai bên Người là Simon Zêlote và Margziam. Cả hai đều sung sướng vì được chọn cho cuộc viếng thăm này. Margziam, tình trạng đã hoàn toàn trong sáng, đặt hàng ngàn câu hỏi về người đàn bà xứ Êphêsô. Nó hỏi Giêsu xem Người có biết việc đó không, v.v.
- Thầy không biết chuyện đó. Lòng tốt của mẹ Thầy thì vô tận, và được thi hành với một sự lặng lẽ rất êm đềm đến nỗi phần nhiều không ai biết tới.
- Nhưng thời kỳ đó thực đẹp! - Zêlote nói.
- Vâng, tới nỗi con muốn cho Gioan Enđo biết. Thầy nói sao? Chúng ta sẽ có thơ của ông ở Bêtani chứ ?
- Thầy hầu như chắc điều đó.
- Chúng ta cũng phải tìm người đàn bà cùi được chữa lành - Zêlote nhận xét.
- Ừ, bà ta đã trung thành giữ các luật, nhưng bây giờ phải hoàn tất sự thanh tẩy.
Bêtani đã xuất hiện trên cao nguyên của nó.
Họ đi qua căn nhà lần trước đã thấy các con công và chim hồng hạc, bây giờ bỏ hoang và đóng cửa. Simon đang quan sát nó thì sự quan sát của ông bị gián đoạn bởi lời chào vui vẻ của Maximin bay thoát ra ngoài cổng.
- Ôi! Thầy chí thánh! Hạnh phúc chừng nào trong sự đau đớn lớn lao này!
- Bình an cho con. Tại sao đau đớn?
- Bởi vì Lazarô rất đau đớn do đôi chân ung lở của ông mà chúng con không biết làm gì cho ông được bớt đau. Nhưng khi gặp Thầy, ông ấy sẽ bớt, ít nhất là trong tâm hồn.
Họ đi vào khu vườn và từ từ tiến vào nhà trong khi Maximin chạy vào trước.
Maria Magđala chạy ra ngoài với tiếng kêu thờ phượng của cô: “Raboni”, theo sau cô là Matta, có vẻ bình tĩnh hơn. Cả hai đều xanh xao như người mất ngủ và khổ sở.
- Các con đứng dậy đi. Chúng ta tới thăm Lazarô ngay lập tức.
484
- Ôi! Thầy ơi, Thầy có thể làm mọi sự, xin Thầy chữa anh con - Matta năn nỉ.
- Vâng, Thầy nhân lành, anh ấy đau hơn sức anh ấy có thể chịu! Anh ấy hao mòn, rên rỉ. Chắc chắn anh ấy sắp chết nếu tình trạng này kéo dài. Xin Thầy thương anh ấy - Maria năn nỉ.
- Thầy là tất cả Tình Thương. Nhưng đây không phải giờ của phép lạ cho anh ấy. Cầu cho anh ấy được can đảm, và các con cũng vậy, cùng với anh. Hãy giúp anh ấy làm trọn ý Chúa.
- A! Thầy muốn nói rằng anh ấy phải chết! - Matta rên rỉ và hỏi trong nước mắt.
Maria có đôi mắt chìm trong lệ và sáng ngời vì yêu, vì một tình yêu kép đối với Giêsu và với anh cô: “Ôi, thưa Thầy, nhưng khi hành động như vậy, Thầy ngăn cản con theo Thầy và phục vụ Thầy, và Thầy ngăn cản anh con vui hưởng sự phục sinh của con. Vậy Thầy không muốn là trong nhà của Lazarô, người ta vui sướng vì một sự phục sinh sao?”
Giêsu nhìn cô với nụ cười nhẹ và nhân từ, rồi người nói: “Vì một sự phục sinh sao? Một sự phục sinh duy nhất thôi sao? Đó, các con qúa ít hiểu Thầy, nếu các con tin rằng Thầy không thể chỉ có một! Hãy tốt và can đảm. Đừng khóc như vậy. Các con làm đè lên anh ấy những nghi ngờ nặng nề”. Và Người bỏ đi trước.
Chắc chắn để cho dễ dàng việc săn sóc, Lazarô đã được chuyển đến một phòng ở bên cạnh thư viện, đối diện với đại phòng dành cho đại tiệc. Maximin chỉ chiếc cửa vào cho Người, nhưng ông để Người vào một mình.
- Bình an cho con, Lazarô, bạn Thầy.
- Ôi! Thầy chí thánh! Bình an cho Thầy. Còn cho con thì các chi thể con nó không còn bình an nữa. Thần trí con bị đè nặng. Con chịu đựng biết bao! Chúa ơi! Hãy cho con cái mệnh lệnh rất thân yêu của Thầy: “Lazarô, hãy ra ngoài”. Và con sẽ đứng dậy, được chữa lành, để phục vụ Thầy...
- Thầy sẽ cho con cái lệnh đó, nhưng không phải bây giờ - Giêsu trả lời trong khi ôm hôn ông.
485
Lazarô rất gầy, vàng vọt, mắt lõm sâu. Tỏ tường là ông bệnh nặng và rất yếu. Ông khóc như một đứa trẻ khi ông để lộ ra đôi chân sưng phù, hơi xanh, với các vết thương mà tôi cho là chứng trương tĩnh mạch, bị bể ra ở nhiều nơi. Có lẽ ông hy vọng khi chỉ cho Giêsu sự hủy hoại này như vậy, Người sẽ động lòng, và sẽ làm phép lạ. Nhưng Giêsu chỉ giới hạn ở việc nhẹ nhàng đặt lại trên các vết thương những lớp khăn tẩm dầu thơm.
- Thầy đến để ở lại? - Lazarô thất vọng hỏi.
- Không, nhưng Thầy sẽ năng tới.
- Thế nào? Thầy không mừng lễ Vượt Qua với con sao? Cả năm nay nữa? Con có ý bảo đem con đến đây. Hồi Lễ Lều, Thầy đã hứa với con là Thầy sẽ ở lại lâu ngày với con sau Lễ Ánh Sáng.
- Thầy sẽ ở lại, nhưng không phải bây giờ. Thầy sẽ làm rầy con khi ngồi hoài ở cạnh giường con.
- Ôi, không đâu. Sự tươi mát của bàn tay Thầy như làm êm dịu cơn sốt của con. Lạy Chúa, sao Thầy không ở lại?
- Bởi vì cũng như con bị hành hạ bởi các vết thương của con, Thầy cũng bị như vậy bởi các kẻ thù của Thầy. Mặc dầu Bêtani ở trong giới hạn để ăn tiệc Vượt Qua cho mọi người, nhưng đối với Thầy, người ta cho là một tội khi ăn lễ Vượt Qua ở đây. Đối với Đại Pháp Đình và các pharisiêu thì mọi sự thầy làm đều là đắc tội...
- A! Các pharisiêu! Đúng vậy. Thế thì ít nhất là ở một trong các nhà của con.
- Điều đó thì được. Nhưng vì thận trọng, Thầy sẽ chỉ nói cho con vào giờ chót.
- Ồ, vâng. Không nên qúa tin cẩn. Tất cả đều tiến hành tốt cho Gioan, Thầy biết không? Hôm qua Ptolmai đến đây với những người khác, và ông mang cho con các bức thơ của Thầy. Các cô em của con đang giữ. Nhưng Matta và Maria đâu vậy? Hai cô không lo tôn kính Thầy gì hết sao? - Lazarô bứt rứt giống như nhiều người bệnh khác.
- Hãy an lòng. Các cô đứng ở ngoài cùng với Simon và Margziam. Thầy tới đây cùng với họ và Thầy không cần gì cả. Thầy đi gọi họ
486
- và Người gọi những người vì thận trọng đã đứng ở ngoài phòng.
Matta đi, rồi trở lại với hai chiếc ru-lô mà bà trao cho Giêsu. Maria tường trình rằng người đầy tớ của Nicôđêmô nói rằng anh ta đến trước chủ của anh là người sẽ đến cùng với Giuse Arimathi. Và đồng thời Lazarô nhớ tới một người đàn bà “đã trình diện ở đây nhân danh Thầy”, ông nói.
- A! Đúng. Con biết ai đó không?
- Cô ta đã nói với chúng con: đó là con gái một nhà giầu ở Jêricô. Ông đã sang Syrie từ nhiều năm, lúc còn rất trẻ. Ông gọi cô là Anastasica để kỷ niệm bông hoa của sa mạc. Nhưng cô ta không muốn cho biết tên chồng cô - Matta giải thích.
- Không cần. Ông ta đã rẫy cô ta. Vậy cô ta chỉ còn độc nhất là “môn đệ”. Cô ta đâu?
- Cô ta rất mệt và cô ngủ. Những ngày đêm mới đây, cô ta đã sống rất khổ. Nếu Thầy muốn, con đi gọi cô.
- Không. Hãy để cô ta ngủ. Ngày mai Thầy sẽ liệu.
Lazarô nhìn Margziam với vẻ đầy thán phục, còn nó thì như nằm trên gai. Nó nóng lòng muốn biết có chuyện gì trong hai chiếc ru-lô. Giêsu hiểu và mở ra. Lazarô nói: “Thế nào? Nó biết chuyện à?”
- Ừ, nó và cả những người khác nữa, ngoại trừ Natanael, Philíp, Tôma và Judas...
- Thầy đã làm rất đúng khi giấu ông ta - Lazarô ngắt lời. “Con, con rất nghi...”
- Bạn ơi, Thầy đâu có thiếu khôn ngoan - Giêsu ngắt lời và Người mở các ru-lô ra. Sau đó Người tường thuật những tin chính để cho biết rằng hai người đã thích nghi rất giỏi, rằng trường học thịnh vượng, và rằng Gioan không bị đau yếu. Mọi sự đều tốt. Nhưng Người không thể nói hơn, vì người ta loan báo rằng Nicôđêmô và Giuse tới.
- Ôi! Thầy. Thiên Chúa gìn giữ Thầy ! Luôn luôn, cũng như sáng nay!
- Cám ơn Giuse. Và ông, Nicôđêmô, ông đã không ở đó à?
487
- Không. Nhưng khi biết rằng Thầy tới, con đã nghĩ đến tới nhà Lazarô, hầu như chắc là con sẽ tìm thấy Thầy. Và Giuse cũng đi với con.
Họ nói về những biến cố của buổi sáng tại chung quanh giường của Lazarô, và ông chú ý tới nỗi hầu như ông quên đau.
- Nhưng cái ông Gamaliel này! Chúa ơi! Thầy có nghe thấy không? - Giuse Arimathi nói.
- Tôi có nghe.
Nicôđêmô nói: “Con thì trái lại, con nói: Cái ông Judas Kêriot này! Chúa ơi, sau khi Thầy đi, con thấy ông ta gào thét như một thằng qủi giữa đám học trò của các rabbi. Ông ta kết án Thầy và bảo vệ Thầy cùng một trật. Và con chắc chắn ông đã cho là mình làm rất đúng. Họ muốn tìm các lỗi nơi Thầy và bị các bậc thầy của họ thúc đẩy làm việc đó. Ông ta chiến đấu với các lời kết án của họ bằng một nỗi buồn hung hăng khi nói: ‘Ông Thầy của tôi, Người chỉ có một điều sai, là Người làm sáng tỏ sức mạnh của Người qúa ít. Người để qua đi các dịp tốt, Người làm cho các người tốt phát mệt vì sự êm đềm qúa mức của Người. Người là Vua, Người phải hành động như ông Vua. Các ông coi Người như đầy tớ vì Người hiền lành. Và Người tự hại mình vì chỉ biết có êm dịu. Đối với các ông, những kẻ hèn và độc ác thì phải có ngọn roi của uy quyền tuyệt đối và dã man. Ôi! Tại sao tôi không thể làm cho Người thành một Saul hung bạo!’”
Giêsu lắc đầu và không nói.
- Nhưng ông ta yêu Thầy - Nicôđêmô nhận xét.
- Thật là một người sai lệch! - Lazarô nói.
- Đúng. Anh nói rất phải. Từ hai năm nay tôi ở gần ông ta mà tôi chưa hiểu ông ta - Zêlote xác nhận.
Maria Magđala đứng dậy với vẻ oai nghiêm của một bà hoàng, và với giọng chuông vàng của cô, cô tuyên bố: “Tôi, tôi hiểu ông ta hơn mọi người: Đó là sự ô nhục ở bên cạnh sự Toàn Thiện. Không còn gì khác để nói nữa”. Và cô đi ra để lo vài việc, mang theo Margziam đi với cô.
488
- Có lẽ Maria có lý - Lazarô nói.
- Tôi cũng nghĩ vậy - Giuse nói.
- Còn Thầy, Thầy nói sao?
- Thầy nói rằng Judas là “một người”, cũng như Gamaliel. Một người giới hạn ở bên Thiên Chúa vô hạn. Con người rất hạn hẹp trong tư tưởng của họ. Bao lâu người ta chưa làm cho họ hít thở không khí siêu nhiên thì họ chỉ có thể nhận một ý tưởng duy nhất. Họ khắc nó vào mình và cẩn mình vào nó, kết liên với nó, dù là nó trái với sự thật hiển nhiên. Họ cứng đầu và ngoan cố, ví dụ đối với lòng tin vào một cái gì đã đập mạnh vào họ. Cũng như một số ít người trong Israel, tận đáy lòng Gamaliel có một lòng tin vào Đức Messi mà ông đã tiếp xúc và nhận ra trong một đứa trẻ, và ông trung thành với lời nói của đứa trẻ này... Judas cũng vậy: bị bão hòa bởi ý tưởng về Đức Messi như phần đông trong Israel ôm ấp, được xác nhận về nó bởi sự bộc lộ đầu tiên mà ông thấy nơi Thầy, ông thấy, ông muốn thấy nơi Đức Kitô một ông Vua nhất thời và mạnh mẽ... và ông trung thành với ý tưởng mà ông ta đã tự tạo ra. Ôi! Biết bao người, cả ở trong tương lai nữa, sẽ hư đi vì một tư tưởng sai lầm về đức tin. Họ phản loạn với mọi lý lẽ. Nhưng qúi vị, qúi vị tin gì? Tin là dễ dàng để theo chân lý và công bằng trong mọi sự sao? Qúi vị tin gì? Tin là sẽ dễ dàng để được cứu vì là một rabbi Gamaliel hay một tông đồ Judas sao? Không. Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo qúi vị rằng một đứa trẻ, một tín hữu thường được cứu dễ dàng hơn một người cao cấp với một chức vụ đặc biệt, một sứ mạng đặc biệt. Thường thường những người được gọi tới một định mệnh đặc biệt hay để xâm nhập vào lòng họ sự kiêu căng về ơn gọi của họ. Sự kiêu căng này mở cửa cho Satan và xua đuổi Thiên Chúa. Khi rơi, các ngôi sao tới nơi dễ hơn một hòn sỏi. Đứa bị nguyền rủa tìm cách dập tắt các vì sao, và nó len lỏi, nó len lỏi một cách nham hiểm để dùng đòn bẩy nâng những người được chọn lên rồi làm cho họ rơi xuống. Nếu một ngàn hay mười ngàn người rơi vào trong những lầm lạc thông thường, thì sự sa ngã của họ chỉ làm hại cho chính họ thôi. Nhưng nếu kẻ sa ngã là người đã được chọn vào một
489
định mệnh đặc biệt, thì nó sẽ trở nên khí cụ của Satan thay vì của Thiên Chúa, nó là tiếng nói của Satan thay vì tiếng nói Thầy, là môn đệ Satan thay vì là môn đệ Thầy. Lúc đó sự thiệt hại sẽ rất lớn hơn, và cả đến có thể làm nảy sinh ra những tà thuyết sâu xa làm tổn thương cho số đông đảo các linh hồn.
Điều lành mà Thầy làm cho một người có thể sinh sản ra nhiều điều lành, nếu nó rơi vào mảnh đất khiêm tốn và nó biết duy trì như vậy. Nhưng nếu nó rơi vào một mảnh đất kiêu căng hoặc trở nên kiêu căng vì ân huệ nhận được, lúc đó điều tốt trở thành điều xấu. Với Gamaliel, ông đã được ban những dấu bộc lộ đầu tiên của Đức Kitô, điều đó đối với ông phải là tiếng gọi trước cho ông đến với Đức Kitô, nhưng nó lại là lý do của sự điếc tai của ông đối với tiếng Thầy gọi ông. Đối với Judas, ông đã được nhận làm tông đồ, là một trong số mười hai tông đồ giữa bao nhiêu triệu người Israel. Điều đó phải là sự thánh hóa cho ông. Nhưng ông đã làm gì với nó?... Các bạn ơi! Con người là Ađam muôn thuở... Ađam có tất cả, tất cả, chỉ trừ một điều. Và ông ta muốn có điều này. Và chớ gì con người vẫn là Ađam! Nhưng họ rất thường trở thành Lucifer. Họ có tất cả, trừ bản tính Thiên Chúa, và họ muốn điều này. Họ muốn là siêu nhiên để gây ngạc nhiên, để được hoan hô, được kính sợ, được biết, được nổi tiếng... Và để có được cái điều mà chỉ một mình Thiên Chúa có thể ban nhưng không, họ bám vào Satan, một con khỉ của Thiên Chúa, để được nó cho một ơn siêu nhiên giả mạo. Ôi! Thật kinh khủng số phận của kẻ đã Satan hóa!
Thầy rời các con, các bạn Thầy. Thầy cần ẩn dật một thời gian. Thầy cần trầm mặc trong Thiên Chúa.
Giêsu đi ra, rất xao xuyến... Những người ở lại là Lazarô, Giuse, Nicôđêmô, Zêlote. Họ nhìn nhau.
- Anh thấy không? Người xao xuyến chừng nào! - Giuse hỏi nhỏ Lazarô.
- Tôi thấy. Tựa như Người nhìn thấy một quang cảnh kinh sợ.
- Người có thể có điều gì trong lòng Người? - Nicôđêmô hỏi.
- Chỉ có Người và Thiên Chúa biết - Giuse trả lời.
490
- Simon, anh không biết gì sao?
- Không. Nhưng có điều chắc chắn là từ nhiều tháng nay Người rất lo âu.
- Xin Thiên Chúa cứu Người. Nhưng chắc chắn là sự thù ghét đang lớn mạnh.
- Đúng, Giuse, sự thù ghét lớn mạnh. Tôi tin là sự Thù Ghét sắp thắng Tình Yêu.
- Đừng nói vậy Simon. Nếu phải như vậy thì tôi không xin khỏi bệnh nữa. Thà chết còn hơn dự vào điều sai lầm khủng khiếp này.
- Lazarô, anh phải nói là điều phạm thánh khủng khiếp!
- Nhưng... Israel có khả năng làm điều đó lắm! Nó đã rất chín mùi để nhắc lại hành vi của Lucifer khi gây chiến với Thiên Chúa đáng chúc tụng! - Nicôđêmô thở dài.
Họ ở lặng cách nặng nề, tựa như mõm cắn xiết họng họ... Đêm xuống trong căn phòng, nơi bốn người ngay thẳng nghĩ tới tội ác tương lai.
56* CÁC LÁ THƠ TỪ ANTIOCHE
Giêsu đã rời Bêtani cùng với các người đi với Ngài, tức là Simon Zêlote và Margziam. Nhưng cùng với họ, có thêm Anastasica, bà phủ khăn kín mít, đi bên cạnh Margziam, trong khi Giêsu đi hơi ở đàng sau với Simon. Hai đôi vừa đi vừa nói, mỗi người chuyện mình, và về điều họ giữ chặt nhất trong tim.
Anastasica nói với Margziam tiếp tục vào câu chuyện đã bắt đầu rồi: “Cô rất nôn nóng được gặp bà”. Có lẽ cô ta nói về bà Êlise người Bétsur. “Cháu hãy tin là cô chả xúc động như vậy khi cô làm đám cưới cũng như khi người ta tuyên bố là cô bị cùi. Cô sẽ phải chào bà ấy thế nào?”
Và Margziam, với một nụ cười dịu dàng và đứng đắn: “Ôi! Bằng cái tên thực sự của bà: Mẹ”.
- Nhưng cô không biết bà ta. Như vậy có qúa thân mật không?
491
Sau cùng thì cô là gì đối với bà?
- Cũng như cháu hồi năm ngoái. Và cô, dầu sao cô cũng còn hơn cháu. Lúc đó cháu là đứa trẻ mồ côi tội nghiệp, dơ dáy, nhút nhát, thô kệch. Nhưng bà đã luôn luôn gọi cháu là con ngay từ lúc đầu, và bà luôn luôn là bà mẹ thực đối với cháu. Năm ngoái chính cháu cảm thấy sự xao xuyến sợ sệt khi chờ gặp bà, nhưng rồi chỉ nhìn thấy bà là cháu đã hết sợ. Nó biến đi hết trơn, tất cả những thứ sợ đã ở trong máu cháu từ lúc cháu biết nhìn bằng đôi mắt trẻ con: trước tiên là sự phẫn nộ của thiên nhiên đã phá hủy tất cả nhà cửa và gia đình cháu. Và rồi... rồi, bằng đôi mắt trẻ con của cháu, cháu đã phải thấy con người là con thú hoang độc ác chừng nào! Còn dữ hơn linh cẩu và ma cà rồng nữa! Luôn luôn run sợ, luôn luôn khóc... Cảm thấy cái nút nó thắt lại ở chỗ này rất chặt, một cái nút đau đớn của sợ hãi, khổ sở, thù ghét, của tất cả... Trong mấy tháng, cháu biết hết mọi sự xấu, mọi nỗi khổ, mọi tàn ác hiện hữu trên thế giới... và cháu không thể tin là còn có lòng tốt, còn có tình yêu, còn sự che chở...
Nhưng thế nào! Khi Thầy đã nhận cháu... Và khi cháu đã ở giữa các môn đệ, qúa tốt!?
- Cô ơi, cháu vẫn còn run sợ, và cháu còn ghét... Ôi! Phải có thời gian để thuyết phục cháu là không phải sợ... Và còn phải nhiều thời gian hơn nữa để cháu tới được điểm không còn ghét những người đã làm khổ cho tâm hồn cháu, bằng cách làm cho cháu thấy rằng con người có thể là một thằng qủi dưới vẻ một con thú hoang. Người ta sẽ không phải chịu đựng những hậu qủa của nó, nếu người ta đã không phải khổ lâu dài, nhất là khi người ta còn nhỏ... Các vết thương vẫn còn, vì con tim chúng ta còn non, còn ấm áp những cái hôn của mẹ, đói khát những cái hôn hơn là đói bánh. Nhưng thay vì những cái hôn, ta lại nhận được những cái roi...
- Đứa trẻ tội nghiệp!
- Vâng, tội nghiệp! Qúa tội nghiệp! Cháu không còn cả hy vọng ở Thiên Chúa, cũng không còn kính trọng loài người... Cháu sợ loài người, kể cả ở gần Giêsu, kể cả ở trong tay Phêrô. Cháu sợ... Cháu
492
tự bảo mình: “Có thể được không? Ôi! Cái này không kéo dài lâu đâu. Rồi họ cũng chán, không muốn tốt nữa...” Và cháu thèm Maria. Một người mẹ thì luôn luôn là người mẹ phải không? Và thực vậy, khi cháu thấy mẹ, khi cháu ở trong tay mẹ thì cháu không sợ nữa. Cháu hiểu rằng qúa khứ thực sự không còn nữa, và cháu đã bước từ hoả ngục qua Thiên Đàng... Lần đau khổ sau cùng là khi cháu thấy người ta để cháu ra một bên. Cháu luôn luôn nghi ngờ sự dữ. Cháu đã khóc lớn! Ôi! Khi đó mẹ đã ẵm cháu với bao là tình yêu! Không, kể từ lúc đó, cháu không còn khóc má cháu nữa, cháu không còn run nữa... Maria là sự dịu dàng và bình an cho những kẻ khốn khổ.
- Và về sự dịu dàng và bình an thì cô cũng cần - người đàn bà xit xoa.
- Cô sắp sửa có. Cô thấy đám cây xanh ở đàng kia không? Mẹ ẩn ở trong đó, trong ngôi nhà ở Gétsêmani.
- Cũng có Êlise ở đó nhỉ? Nhưng cô sắp nói gì với họ đây? Các bà sẽ nói gì với cô?
- Cháu không biết Êlise có ở đó không. Bà ấy bệnh.
- Ôi! Bà không chết chứ? Rồi ai sẽ nhận cô làm con gái?
- Đừng sợ. Người đã nói: “Con sẽ có một người mẹ và một ngôi nhà”, thì sẽ có như vậy. Ta tiến mau hơn tí đi. Cháu không thể chậm bước khi cháu tới gần Maria.
Hai người chạy, và tôi không còn nghe thấy đàm thoại của họ nữa.
Zêlote thấy họ hầu như chạy trên đường rất đông người qua lại, ông chỉ cho Giêsu quan sát: “Thầy coi, chúng giống như bạn tốt. Người ta nói đó là chị em”.
- Margziam biết đặt mình vào mọi người. Đó là nhân đức khó và rất cần cho sứ mạng của nó trong tương lai. Thầy sẽ lưu ý để làm lớn lên cái khả năng này trong nó, bởi vì sẽ rất ích lợi cho nó.
- Nó, Thầy đào tạo nó theo sở thích của Thầy, phải không Thầy?
- Đúng, vì tuổi của nó cho phép Thầy.
- Nhưng cả đến ông già Gioan Félix, Thầy cũng đã có thể đào tạo...
493
- Ừ, bởi vì ông ta chịu để cho Thầy phá hủy hoàn toàn rồi xây dựng lại.
- Đúng vậy. Con thấy là những tội nhân nặng nề nhất, khi trở lại, họ vượt qua chúng con về sự công chính: chúng con, những người tương đối có tội. Tại sao vậy?
- Bởi vì nơi họ, sự hối cải tương xứng với tội lỗi vô vàn của họ, vì vậy họ đập bể nó dưới sức nặng của sự đau đớn khiêm nhường: “Tội lỗi con luôn luôn chống lại con”. Thánh vịnh đã nói. Điều đó giữ tâm hồn họ trong sự khiêm nhường. Đó là những kỷ niệm hay khi nó liên kết với sự trông cậy và tin tưởng ở lòng thương xót. Nhưng kẻ trọn hảo trung bình hoặc những kẻ còn dưới trung bình, họ thường dừng lại, vì họ không có cái mũi nhọn của sự hối tiếc vì đã phạm tội nặng nề và bổn phận phải sửa chữa để tiến tới sự trọn lành thực. Họ dừng lại giống như nước ao tù. Họ nhìn mình và thỏa mãn vì mình trong sáng. Nhưng dù nước trong tới đâu, nếu bị khuấy động, nó sẽ không còn rửa được bụi đất hay cát sạn mà gió đem tới nữa, nó sẽ kết thúc bằng cách trở thành bùn và làm dơ.
- Và sự bất toàn mà chúng con để cho tồn tại, và nó chai lỳ ở trong chúng con, nó có phải là những bụi bặm và đổ nát không?
- Đúng, Simon. Các con còn qúa tù hãm. Những vận chuyển của các con về sự trọn lành hầu như không nhận ra được. Các con không thấy rằng thời gian qua đi rất lẹ sao? Các con không nghĩ rằng trong khoảng thời gian còn lại cho các con, các con phải cố gắng trở nên toàn thiện sao? Nếu các con không chiếm được sức mạnh của toàn thiện, được chinh phục bởi một ý chí qủa quyết trong thời gian đang trôi đi này, thì làm sao các con có thể chống cự được với những bão tố mà Satan và các con cái nó sẽ xổ lồng chống lại Thầy và giáo lý của Thầy? Một ngày sắp tới, các con sẽ tự hỏi: “Làm sao chúng tôi lại có thể xao xuyến như vậy trong khi chúng tôi đã sống với Người trong ba năm?” Ôi! Câu trả lời ở ngay trong các con, trong cách hành động của các con. Ai càng cố gắng trở nên hoàn thiện trong thời gian còn lại này, họ càng có khả năng để trung thành.
494
- Ba năm... vậy là... Ôi! Lạy Chúa!... Vậy ra vào mùa xuân tới là chúng con sẽ mất Thầy sao?
- Những cây này đã có những trái non nhỏ của nó. Thầy sẽ ăn nó khi nó chín. Nhưng Thầy sẽ không bao giờ ăn những mùa thu hoạch khác nữa sau những trái của mùa năm nay... Đừng buồn bã, Simon. Sự buồn bã làm tê liệt. Hãy biết củng cố cho con trong sự công chính và biết lo toan để có thể trung thành trong lúc đáng ngại.
- Vâng, con sẽ làm, và với tất cả sức lực của con. Con có thể nói điều đó với những người khác để họ cũng chuẩn bị không?
- Con có thể nói. Nhưng kẻ có ý chí mạnh sẽ đứng vững.
- Còn những người khác? Hư mất hay sao?
- Không. Nhưng họ sẽ bị thử thách nặng nề do lối sống của họ. Họ sẽ giống như kẻ tưởng là mình khỏe, nhưng rồi bị quật ngã và chịu thua: ngạc nhiên và nhục nhã. Sau cùng cũng là sự khiêm nhường! Bởi vì, hãy tin đi Simon, nếu không có sự khiêm nhường thì người ta không tiến được. Sự kiêu căng là tảng đá dùng làm bàn đạp cho Satan. Tại sao lại giữ nó ở trong lòng? Một vị thầy có dễ chịu với cái thứ ghê gớm này không?
- Thưa Thầy không.
- Nhưng các con giữ ở trong lòng các con cái điểm tựa của nó, cái tòa giảng cho các giáo thuyết của nó. Các con tôi luyện kiêu ngạo. Các con có nó trong mọi sự và vì mọi lý do. Cả việc là người của Thầy cũng là sự kiêu ngạo cho các con. Nhưng các con ngu chừng nào! Sao các con không chữa nó khi so sánh mình với Đấng đã chọn các con? Không phải vì Thầy gọi các con là các con sẽ thánh, nhưng vì các con sẽ trở nên thánh sau sự kêu gọi của Thầy. Sự thánh thiện là một công trình mà mỗi người phải tự mình xây dựng. Đấng Khôn Ngoan có thể chỉ cho các phương pháp và các đồ án, nhưng các việc cụ thể thì tùy thuộc vào các con.
- Đúng vậy. Nhưng lúc đó, chúng con không hư mất chứ ? Sau thử thách, chúng con sẽ thánh hơn vì khiêm nhường chứ ?
- Đúng - Tiếng đúng rất khô và nghiêm nghị.
495
- Đó chính là điều Thầy nói?
- Chính là vậy.
- Thầy muốn chúng con thánh trước cuộc thử thách?...
- Đúng. Đó là điều Thầy muốn, và đối với tất cả.
- Đối với tất cả? Chúng con sẽ không giống nhau trong thử thách sao?
- Không giống nhau, cả trước, trong khi và sau thử thách, mặc dù Thầy đã cho cùng một lời cho tất cả...
- Và cùng một tình yêu Thầy nhỉ? Chúng con qủa là nặng tội đối với Thầy...
Giêsu thở dài.
Zêlote, sau một lúc yên lặng dài hơn, đang sắp nói thì có các người đang hầu như chạy đến để gặp họ: các tông đồ và các môn đệ đã gặp Margziam ở sườn dốc đầu tiên của Gétsêmani. Simon nín lặng trong khi Giêsu trả lời cho mọi tiếng chào. Rồi Người đi bên cạnh Phêrô, băng qua vườn ôliu để vào nhà.
Phêrô báo cáo rằng ngay từ sáng sớm, họ đã canh chừng, rằng Êlise còn bệnh trong nhà Jeanne, rằng buổi chiều hôm trước các pharisiêu đã tới, rằng... rằng... rằng... cả một đống tin tức lộn xộn, và sau cùng, một câu hỏi: “Còn Lazarô?” mà Giêsu trả lời chi tiết.
Phêrô rất tò mò nên không thể nín hỏi: “Chúa ơi, và không còn gì?... Không... tin tức nào...”
- Có. Con sẽ biết vào lúc thích hợp. Margziam với người đàn bà đâu? Vô nhà rồi à?
- Ồ, không. Người đàn bà không dám tiến bước. Bà ngồi ở bờ dốc để chờ Thầy. Margziam! Margziam!... Nó biến đi đâu rồi? Chắc nó đã chạy vào nhà.
- Ta đi lẹ lên!
Nhưng mặc dầu họ bước vội, họ cũng không tới nhà trước khi Maria, chị dâu mẹ, Salômê, Porphyrê, vợ Philíp, vợ Batôlômêo, chạy ra để tôn kính Người. Giêsu chào họ từ xa và đi về nơi Anastasica đang đứng cách khiêm nhu. Người cầm tay nàng và dắt lại cho mẹ Người và các bà kia.
496
- Đây, mẹ ơi, một bông hoa của lễ Vượt Qua này. Năm nay chỉ có một bông thôi, nhưng mong rằng nó êm dịu đối với mẹ, vì chính con dẫn nó tới cho mẹ.
Người đàn bà qùi gối. Maria nghiêng xuống để nâng nàng dậy và nói: “Các con gái thì ở trên qủa tim của bà mẹ chứ không ở chân. Hãy đến, con ơi! Chúng ta hãy biết mặt nhau giống như linh hồn chúng ta đã biết nhau. Đây là các chị em hiện diện, những người khác cũng sẽ tới. Và ước nguyện đây là một gia đình êm đềm, đầy tình yêu giữa các phần tử, và đầy sự thánh thiện cho vinh danh Chúa”.
Những cái hôn tình nghĩa trao đổi giữa các nữ môn đệ, và họ nhận diện nhau. Họ vào nhà và đi lên sân thượng, nơi được bao quanh bằng mầu xanh lục của hàng trăm cây ôliu. Các nhóm chia tay nhau: Giêsu đi với nhóm nam giới, phụ nữ tách rời ra, bao vây chung quanh kẻ mới tới. Rồi Suzane đi ra phố với chồng bà cũng trở về, Jeanne tới với các đứa trẻ, Annalia xuất hiện với khuôn mặt thiên thần. Jairô đã đi lẫn lộn với các môn đệ khi họ chạy lại với Giêsu, bây giờ ông trở lại cùng với con gái ông. Nó chạy lại với nhóm phụ nữ, ở bên Maria và mẹ vuốt ve nó.
Thực là bình an và tình yêu trong sự tiếp đón của mọi người. Rồi mặt trời lặn. Trước khi giải tán những người sẽ về nhà riêng họ, hay về nhà những người cho họ trú chân, Giêsu tụ họp tất cả họ lại để cầu nguyện và chúc lành cho họ. Rồi Người giải tán mọi người. Người ở lại với những người thích chồng chất trong căn nhà của Gétsêmani, hoặc muốn qua đêm dưới gốc cây ôliu hơn là rời xa nơi này. Như vậy là còn lại: Maria, Maria Alphê, Salômê, Anastasica, Porphyrê, đó là phụ nữ. Các ông thì có Giêsu, Phêrô, Andrê, Giacôbê và Juđa Alphê, Giacôbê và Gioan Zêbêđê, Simon Zêlote, Mathêu, Margziam.
Bữa ăn tối trôi qua mau lẹ. Rồi Giêsu mời mẹ Người và Maria Alphê đến với Người và các môn đệ trong vườn ôliu lặng lẽ. Có lẽ các bà khác có thể tới nếu họ muốn, nhưng Giêsu không gọi họ. Và Người nói với Salômê và Porphyrê: “Hãy trò truyện cách thánh
497
thiện với người chị em mới tới, rồi đi ngủ đi, đừng chờ chúng ta. Bình an cho các bà”. Và ba bà cam nhận số phận của họ. Phêrô hơi gắt gỏng trong khi mọi người đều nói. Cả nhóm đi thẳng ngay đến tảng đá của cơn hấp hối tương lai. Họ ngồi trên bờ dốc, quay mặt về phía Jêrusalem đang dịu dần sau những ồn ào lộn xộn của một ngày.
- Đốt cành cây lên đi Phêrô - Giêsu ra lệnh.
- Tại sao?
- Vì Thầy muốn đọc coi Gioan và Sintica viết cái gì. Do đó, con là người không bằng lòng, hãy biết rằng vì vậy Thầy chỉ gọi tới có hai người đàn bà thôi.
- Nhưng chiều hôm đó cũng có cả vợ con ở đó!...
- Nhưng loại trừ một mình Salômê, một trong các môn đệ cũ, sẽ là điều ít thích đáng... Ngoài ra, điều này sẽ cho con có dịp bộc lộ với người vợ khôn ngoan của con, bằng cách kể cho bà những điều con sắp nghe đây.
Phêrô hoàn toàn hãnh diện về lời khen được dành cho Porphyrê và về phép được ban cho ông để có thể thông trao bí mật, ông tan hết sự cáu kỉnh và bắt đầu nhóm lửa. Từ đống than vui tươi, một ngọn lửa bốc thẳng lên trong không khí yên tĩnh.
Giêsu lôi từ thắt lưng ra hai lá thơ, giở ra và đọc nó giữa vòng tròn đầy chú ý của mười một khuôn mặt.
“Gởi về Giêsu Nazarét, danh dự và chúc tụng. Gởi về Maria Nazarét, chúc tụng và bình an. Gởi tới các anh em thánh, bình an và chào kính. Gởi cưng yêu Margziam, bình an và âu yếm.
Đây là những nước mắt và nụ cười của con ở trong tim con khi con ngồi viết lá thơ này cho tất cả qúi vị. Những kỷ niệm nuối tiếc, sự cậy trông và bình an của bổn phận được hoàn thành. Tất cả những thứ đó ở đầy trong con. Tất cả qúa khứ có giá trị đối với con, tức là những điều đã bắt đầu từ mười hai tháng nay, nó ở trước mắt con, và một thánh vịnh về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa là đấng qúa xót thương kẻ tội lỗi, dâng trào từ qủa tim con. Nguyện cho Thầy được chúc phúc, và cùng với Thầy, vị thánh đã ban Thầy cho
498
thế gian, và cả người mẹ khác nữa mà con nhớ tới như là hiện thân của lòng trắc ẩn, và cùng với Thầy, các vị có phước: Phêrô, Gioan, Simon, Giacôbê và Juđa, và cả Giacôbê kia nữa, và Andrê, Mathêu, và sau cùng, trong khi ôm nó trong lòng để chúc phúc cho nó: Margziam rất thân yêu của con, vì tất cả những gì mà qúi vị đã cho con từ lúc con biết qúi vị cho tới lúc con từ biệt qúi vị. Ôi! Điều này không phải do ý con. Xin Thiên Chúa tha thứ cho những kẻ đã giật con ra khỏi qúi vị! Xin Thiên Chúa tha thứ cho họ, và xin Người gia tăng trong con cái khả năng để làm việc đó bởi chính con. Lúc này, với sự trợ giúp của Người, con có thể làm cùng với Người. Nhưng bởi một mình con thì không, con chưa thể làm, bởi vì nó còn qúa sống động, cái vết thương mà họ đã làm cho con trong khi giật con ra khỏi sự sống thật của con: ra khỏi Thầy, Đấng Thánh. Nó còn qúa sống động, mặc dầu sự củng cố của Thầy giống như những trận mưa liên tục và như hương dược trên con”.
Giêsu lướt qua nhiều hàng mà không đọc. Rồi Người tiếp: “Đời con...” Nhưng Phêrô, để cho Thầy coi rõ, đã cầm một cành cây đang cháy, giơ cao lên, xích lại gần Thầy, nghển cổ lên để coi những điều được viết, ông nói: “Không, đâu phải chỗ đó. Tại sao Thầy không đọc? Có những điều khác ở giữa! Con rất ngu, nhưng không đến nỗi không biết đọc tí nào. Con, con đọc thấy: Các lời hứa của Thầy đã vượt qúa mọi hy vọng...”
- Nhưng con khủng khiếp qúa! Còn tệ hơn một đứa trẻ! - Giêsu nói khi mỉm cười.
- Đương nhiên! Con hầu như đã là một ông già, vì vậy con đâu có chỉ ranh ma như một đứa trẻ.
- Nhưng con cũng phải khôn ngoan thận trọng hơn.
- Như vậy đối với kẻ thù. Tại đây chúng ta ở giữa bạn bè. Chỗ này Gioan nói những điều về Thầy. Con muốn biết chúng, để con cũng biết tự hướng dẫn khi Thầy trục xuất con đi nơi khác như một món hàng. Nào, đọc tất cả đi. Mẹ ơi, mẹ hãy nói với Người là không chính đáng khi cho chúng con những tin tức mà còn lựa chọn như từng ấy con cá nhỏ. Loại trừ, vất bỏ những cây rong, những cục đất, những cá con. Loại cá có lựa chọn! Tất cả hãy giúp tôi! Các
499
anh nữa! Các anh giống như từng này bức tượng! Các anh chọc giận tôi! và còn cười!
Thật là khó để không cười trước sự ồn ào của Phêrô. Ông nhảy chỗ nọ chỗ kia như con ngựa tơ náo nức, lúc lắc cành cây cháy của ông mà không chú ý gì tới than lửa rơi trên ai cả.
Giêsu phải nhượng bộ để ông yên và tiếp tục đọc: “Các lời hứa của Thầy đã vượt qúa mọi hy vọng mà con đặt vào các lời hứa của Thầy. Ôi! Thầy chí thánh! Trong buổi sáng mùa đông buồn tẻ đó, Thầy đã hứa với con là Thầy sẽ đến an ủi người môn đệ buồn rầu của Thầy. Con đã không hiểu những thực tại mà lời hứa của Thầy mang lại. Sự đau đớn và sự hạn hẹp của con người đã đè nặng trên khả năng của thần trí, và nó bị khép lại trước sự hiểu biết về hậu qủa do lời hứa của Thầy.
Xin hãy được chúc phúc, lạy Đấng Viếng Thăm thiêng liêng trong các đêm dài của con. Và như vậy, nó không còn buồn rầu đau khổ như con tiên đoán, nhưng nó là sự chờ đợi Thầy, hoặc là nỗi vui được gặp Thầy. Đêm dài, sự sợ hãi của các bệnh nhân, các kẻ lưu đày, các kẻ cô đơn, các tội nhân... đối với Félix, thực sự sung sướng được làm theo ý Thầy và phục vụ Thầy, nó đã trở nên “sự chờ đợi của các trinh nữ khôn ngoan chờ chú rể đến”. Linh hồn khốn nạn của con còn được hơn nữa. Nó được cái phúc làm cô dâu chờ Tình Yêu vào phòng the để hiến cho Người, ở mỗi lần, nỗi vui của lần gặp gỡ đầu tiên, và sự tăng cường lực xuất thần của sự hiệp nhất.
Ôi! Lạy Thầy và Chúa của con! Vẫn luôn luôn trong sự chúc tụng Thầy về ơn trọng Thầy đã làm cho con, con xin nhắc Thầy nhớ lại hai lời hứa khác mà Thầy đã cho con. Lời hứa quan trọng nhất của kẻ còn qúa yếu đuối là con, là đừng để con còn sống vào giờ khổ nạn của Thầy. Thầy biết sự yếu đuối của con! Đừng để cho kẻ mà tình yêu của Thầy đã tẩy chay sự thù ghét, lại vì sự thù ghét đối với các lý hình của Thầy mà lại mặc vào chiếc áo gai góc và cháy nóng của thù hằn. Lời hứa thứ hai là cho người môn đệ tội nghiệp của Thầy, còn qúa yếu đuối và bất toàn: Hãy ở bên cạnh con, như Thầy đã nói, vào giờ chết của con. Bây giờ con biết rằng đối với
500
Thầy, không có vấn đề khoảng cách, biển rộng, núi cao, sông dài, và các mưu mô của con người không ngăn cản được Thầy ban cho các kẻ yêu Thầy sự khích lệ bằng sự hiện diện tỏ tường của Thầy. Con không còn nghi ngờ gì việc có thể có thầy vào hơi thở sau cùng của con. Hãy đến, lạy Chúa Giêsu! Xin hãy đến mau và đem con vào bình an.
Con đã nói với Thầy về tâm hồn con rồi. Bây giờ con sắp cho Thầy những tin tức về công việc của con.
Con có nhiều học trò thuộc mọi nòi giống và mọi dân nước. Để không làm tổn thương cho người nọ cũng như người kia, con đã phân chia ngày cho chúng, bằng cách thay phiên: một ngày cho dân ngoại, một ngày cho tín hữu, để lợi dụng được nhiều về vấn đề sư phạm mà ở đây bị thiếu. Số lợi tức kiếm được, con phân phát cho người nghèo, như vậy để lôi kéo họ về với Chúa. Con đã lấy lại tên cũ của con, không phải vì con thích nó, mà vì khôn ngoan. Vào những giờ con thuộc về thế giới thì con là Félix, vào những giờ con thuộc về Giêsu thì con chỉ là Gioan: Ân huệ của Thiên Chúa. Con đã cắt nghĩa cho Philíp rằng tên thật của con là Félix, và người ta gọi con là Gioan để phân biệt con giữa các anh em. Điều đó đã không gây ra sự ngạc nhiên nào cả, mà nó còn cho ta sự dễ dàng để đổi tên hay để xưng danh bằng một tên hiệu. Con hy vọng làm được nhiều việc ở đây để dọn đường cho các anh em thánh. Nếu con được khỏe mạnh hơn, con muốn đi tới khắp miền quê này để rao giảng danh Thầy. Có lẽ con có thể làm vào đầu mùa hè hay vào những ngày ấm của mùa thu. Chỉ cần là con có quyền làm. Không khí trong lành của Antigonéa, những mảnh vườn rất đẹp, rất yên tĩnh này, với các bông hoa, các trẻ em, các con gà, tình cảm của các người làm vườn, nhất là Sintica vĩ đại, khôn ngoan, đầy tình con thảo, đã cho con nhiều niềm vui. Con thấy rằng con khỏe hơn. Đó không phải là ý kiến của Sintica, mặc dầu tư tưởng của cô chỉ biểu lộ trong sự săn sóc ân cần và liên tục mà cô bao trùm cho con, về thực phẩm của con, sự nghỉ ngơi của con, để con khỏi bị trúng lạnh... Nhưng con cảm thấy khỏe hơn. Có lẽ đó chỉ là cảm
501
tưởng đến với con do hoàn thành bổn phận cách anh hùng? Đó là điều Sintica nói. Và con muốn biết xem cô có lý không. Vì bổn phận là một điều thuộc về tinh thần, còn bệnh tật là điều thuộc về thân xác.
Con cũng muốn biết có phải Thầy tới thực sự không hay Thầy chỉ hiện ra trong giác quan thiêng liêng, nhưng rất trọn vẹn tới nỗi nó không cho con biết cái thực tại vật chất về sự hiện diện của Thầy nó chấm dứt ở chỗ nào.
Thầy yêu dấu và đáng chúc tụng, Gioan của Thầy qùi gối để xin phúc lành của Thầy.
Với Mẹ Thầy, với bà Maria kia, với các anh em thánh: bình an và phúc lành. Với Margziam một cái hôn, để nó nhớ gởi cho con các lời thánh, bánh của những kẻ lưu đầy đang làm việc tại vườn nho của Chúa”.
Đó là lá thơ của Gioan... Các con nói sao?
Các cảm tưởng giao nhau, nhưng nhiều hơn cả là về sự hiện diện của Giêsu. Họ chất đầy cho Người các câu hỏi... về cách việc đó xảy ra thế nào, về khả năng của nó, về một sự tham dự của Sintica, và v.v.
Giêsu làm hiệu để mọi người yên lặng, và người mở cái ru-lô của Sintica. Người đọc: “Sintica gởi Chúa Giêsu tất cả tình yêu mà nó có thể có. Gởi mẹ diễm phúc sự tôn kính và chúc tụng, gởi các anh em trong Chúa sự biết ơn và phúc lành. Gởi Margziam sự ôm ấp yêu thương của người chị xa xôi.
Ôi Thầy, Gioan đã nói về đời sống của chúng con. Anh ấy đã nói với Thầy rất tóm tắt về những việc anh ấy đã làm, và những gì con làm với tính cách là phụ nữ. Con có một trường học đầy các bé gái. Về tinh thần, con kiếm được rất nhiều, bởi vì con kiếm cho Thầy, ôi, Chúa của con, bằng cách nói về Thiên Chúa thật ngay trong chính các công việc. Ở đây, trong miền này, có rất nhiều chủng tộc pha trộn. Có một mớ lộn xộn các tôn giáo. Nó rối ren tới nỗi nó không phải chỉ là những tôn giáo không thực tiễn, mà là những sợi giây tôn giáo không ích lợi gì cả. Trong đó, cứng ngắc và ngoan cố
502
là Do Thái giáo, mà với sức nặng của nó, nó cắt đứt những sợi giây các tôn giáo khác dùng, mà nó chẳng chiếm được gì.
Gioan có những học trò nam nên phải cư xử cách khôn ngoan. Con, với các cô gái nhỏ, con hành động tự do hơn. Là phụ nữ tức là luôn luôn ở cấp dưới, nên dù là với các gia đình có các tôn giáo khác nhau, việc tụ tập tất cả các con gái lại trong một ngôi trường duy nhất cũng chẳng quan trọng gì, chỉ cần là chúng học được cái nghệ thuật sinh lời của nghề thêu may, và tư tưởng khinh bỉ mà thế giới có đối với chúng con, các phụ nữ, vẫn được chúc tụng. Điều đó cho phép con luôn luôn mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Các sản phẩm thêu được bán như bánh. Sự nổi tiếng của nó lan rộng, có các người mua từ xa tới. Với mọi người, con đều có dịp nói về Thiên Chúa... Ôi! Cũng như ngay chính những sợi chỉ trên khung cửi hay trên các tấm vải trở thành hoa, thành con vật, thành ngôi sao khi người ta muốn, chúng có thể giúp để dẫn dắt các linh hồn về với Chân Lý. Vì biết nhiều ngôn ngữ, con có thể dùng tiếng Hy Lạp với người Hy Lạp, tiếng Latin với người Rôma, tiếng Hy Bá với người Hy Bá. Nhưng về tiếng Hy Bá thì con phải nhờ Gioan để con hoàn bị nó.
Một phương tiện khác nữa để hội nhập là cái hương dược của mẹ Maria. Con đã chế một lượng nữa với những tinh dầu có ở đây, và con trộn nó với một chút hương dược nguyên thủy để thánh hóa nó. Ung nhọt, đau nhức, vết thương, tức ngực... biến mất. Thực sự, trong khi băng bó với hương dược, con không ngừng nhắc đi nhắc lại hai thánh danh Giêsu Maria. Và khi nói tên Đức Kitô bằng tiếng Hy Lạp, con đã gọi thứ hương dược này là “Thánh Dược”. Chẳng phải như vậy sao? Đã chẳng có ở trong nó cái tinh dầu cứu rỗi của đấng cưu mang Thầy: mộc dược của Thiên Chúa sao? Ôi! Thứ dầu qúi đã làm cho chúng ta thành các vua. Con thường phải đứng để điều chế dầu mới, và con xin mẹ thánh điều chế thêm cho con và gởi cho con vào Lễ Lều, để con có thể pha nó với số lượng khác mà tôi tớ thấp hèn của Thiên Chúa đã điều chế. Nhưng Chúa ơi, nếu con đã làm sai khi hành động như vậy thì xin Chúa nói cho con, con sẽ không bao giờ làm vậy nữa.
503
Gioan thân yêu khen con rất nhiều, vậy con phải nói gì về anh ấy? Anh chịu đựng một cái đau sắc nhọn, nhưng anh can đảm tuyệt vời. Nếu con không biết sự bí mật của anh thì con rất ngạc nhiên. Nhưng từ cái đêm mà, khi con đi thăm một bệnh nhân về, con thấy anh xuất thần và biến sắc. Con nghe các lời của anh, con liền qùi xuống, vì con hiểu rằng Thầy đã hiện diện với tôi tớ của Thầy, và con không ngạc nhiên nữa. Trái lại, có lẽ có vài anh em sẽ ngạc nhiên khi biết rằng con không ân hận gì vì không được nhìn thấy Thầy. Tại sao con phải ân hận? Tất cả đều tốt. Tất cả những gì Thầy ban đều đầy đủ. Mỗi người nhận lấy phần họ đáng và cần thiết cho họ. Vậy rất tốt là Gioan có Thầy cách nhìn thấy tỏ tường, và con chỉ có Thầy trong tâm hồn.
Con có sung sướng không? Như một phụ nữ thì con hối tiếc thời gian con được ở gần Thầy và mẹ Maria. Nhưng như một tâm hồn thì con rất sung sướng, vì con nghĩ rằng chỉ chính lúc này con mới phục vụ Thầy, Chúa của con. Con nghĩ thời gian chả là gì cả. Con nghĩ sự vâng lời là tiền phải trả để vào Nước của Thầy. Con nghĩ rằng được giúp Thầy là một ân huệ mà đứa nô lệ tội nghiệp không thể mơ tới, dù là chỉ được một giờ sung sướng mà Thầy ban cho con vì được giúp Thầy. Con nghĩ rằng bây giờ xa cách, nhưng sau cùng con sẽ chiếm được Thầy trong suốt cõi đời đời. Và con hát bài ca của Gioan, như con chim sơn ca làm trong mùa xuân, trên cánh đồng vàng của Hellade. Các bé gái của con cũng hát, vì chúng nói là nó hay, và con cho chúng hát theo nhịp của khung cửi, rất giống nhịp của mái chèo trong ngày xa xôi đó. Bởi vì con nghĩ rằng nói tên Mẹ, ôi Mẹ, tức là sẵn sàng cho Ân Sủng.
Gioan xin con thêm vào phần tin tức mà anh đã gởi Thầy bởi một công dân ưu tú của Antioche, có tên là Nicolai. Đó là cuộc chinh phục đầu tiên của anh ấy cho đoàn chiên của Thầy. Chúng con hy vọng rất nhiều là Nicôlai không làm thất vọng những mong chờ của con tim chúng con nơi ông ta.
Lạy Chúa, xin hãy chúc lành cho tôi tớ Chúa. Ôi Mẹ, xin chúc lành cho nó. Tất cả hãy chúc lành cho con, các anh em thánh, và
504
em, đứa trẻ có phước, được lớn lên trong sự khôn ngoan bên Chúa”.
Đó là những điều Sintica đã viết, và cô thêm vào một ít chú thích về Gioan. Cô nói: “Gioan chỉ khỏe hơn ở tâm hồn, ngoài ra, anh yếu dần, dù có hết mọi săn sóc. Anh rất tin tưởng vào đầu mùa hè. Con nghĩ anh không thể làm điều anh nói. Con nghĩ mùa đông sẽ bóp anh nghẹt hết những gì là sự sống... Nhưng anh ấy bình an. Anh tự thánh hóa bằng việc làm và sự chịu đau đớn. Xin Thầy giữ sức mạnh cho anh bằng sự hiện diện của Thầy, ôi Chúa của con! Con xin Thầy để cho con chịu mọi thứ đau khổ để đổi lấy ơn này cho người môn đệ của Thầy. Con gởi những thơ này cho Lazarô nhờ Ptolmai. Và con nài xin Thầy nói với ông và các em ông rằng chúng con luôn luôn nhớ lòng tốt của họ đối với chúng con, và chúng con cầu nguyện tha thiết và không ngừng theo ý chỉ của họ”.
Mọi người trao đổi những cảm tưởng mới.
Andrê cúi xuống hỏi Maria điều gì, và ông ngạc nhiên khi thấy nước mắt trên mặt Người. Ông hỏi: “Mẹ khóc à?”
“Tại sao mẹ khóc?”, “Nhưng làm sao vậy Mẹ?”... nhiều người nói.
- Con, con biết tại sao mẹ khóc - Margziam nói.
- Vậy tại sao?
- Bởi vì Gioan đã nhắc tới cái chết của Chúa.
- A! Đúng vậy. Nhưng làm sao mà ông ta biết, trong khi ông không có ở đây khi Thầy nói trước việc đó?
- Bởi vì ông ta biết bởi chính Thầy, để khích lệ ông.
- Hum! Khích lệ...
- Đúng, sự khích lệ của ông. Lời hứa là ông sẽ không phải chờ qúa lâu để vào Nước Thầy. Ông đáng được, vì ông đã vượt qua tất cả các con bằng ý muốn và sự vâng lời. Chúng ta về nhà thôi. Và ta sửa soạn thơ trả lời để đưa cho Ptolmai. Và con, Margziam, con sẽ thêm vào các bản viết của con.
- A! Con hiểu! Con hiểu! Chính là để cho họ nên nó đã viết!...
- Đúng. Nào đi. Ngày mai chúng ta sẽ lên Đền Thờ.
505
57* THỨ NĂM TRƯỚC LỄ VƯỢT QUA
PHẦN THỨ NHẤT
Vừa mới bắt đầu rạng đông, nhưng loài người đã đua tranh với chim chóc, náo nhiệt trong những đường bay đầu tiên, những công việc đầu tiên và các tiếng ca đầu tiên trong ngày. Căn nhà ở Gétsêmani từ từ tỉnh thức. Sớm sủa hơn cả là ông Thầy, lúc này đã trở về sau giờ cầu nguyện mà Người đã làm từ lúc vừa hơi hé rạng đông, so với những lần Người trở về sau một đêm thức trắng để cầu nguyện.
Đây là sự thức giấc từ từ của trại người Galilê ở rất gần đó, trên cao nguyên của núi Ôliu. Các tiếng kêu và tiếng gọi nhau vang qua không khí trong lành, bị giảm độ mạnh vì khoảng cách, nhưng cũng đủ rõ để hiểu rằng các người hành hương đạo đức đã tụ họp để tiếp tục các nghi lễ Vượt Qua bị gián đoạn chiều hôm trước.
Thành phố đang thức dậy ở đàng kia. Đây là khởi đầu cho những huyên náo sắp sửa làm đầy không gian trong những ngày vội vã này: tiếng bư bư của lừa, tiếng la lối của các người bán rau và các người bán chiên chen chúc nhau để vào cửa, và với tiếng than rất cảm động của hàng mấy trăm con chiên được mang trên xe, trên yên ngựa, trên đòn khênh hoặc trên vai khi đi tới định mệnh bi thảm của nó, trong khi chúng gọi mẹ, khóc vì sự chia lìa, mà không biết rằng mình phải khóc vì cuộc đời đang đi tới một kết cục khủng khiếp. Rồi sự ồn ào càng lúc càng tăng trong Jêrusalem, với tiếng bước chân trên đường, tiếng gọi vọng từ sân thượng này tới sân thượng kia, hoặc từ sân thượng ra đường phố hay ngược lại. Sự huyên náo đến như thủy triều, giảm độ theo khoảng cách cho tới cái khu yên tĩnh của Gétsêmani.
Một tia sáng của mặt trời đập ngay vào một trong những chiếc vòm qúi giá của Đền Thờ và chiếu sáng nó toàn bộ, tựa như mặt trời đã rớt xuống đất. Chiếc vòm giống như một mặt trời nhỏ được đặt trên cái bục trắng, nhưng rất đẹp trong sự bé nhỏ của nó.
506
Các môn đệ, nam cũng như nữ, nhìn cái điểm vàng, đầy cảm phục. Đó là nhà Chúa! Đó là Đền Thờ! Để hiểu biết nơi này là gì đối với người Israel, chỉ cần nhìn con mắt họ đang cắm chặt vào đó. Tựa như qua lớp vàng sáng loáng bởi mặt trời, họ nhìn thấy dung nhan cực thánh của Thiên Chúa rạng ngời. Sự thờ kính và tình yêu đối với quê hương, sự hãnh diện được làm người Hy Bá bộc lộ trong cái nhìn này mạnh hơn những lời do môi miệng thốt ra.
Porphyrê, đã từ bao năm không được đi Jêrusalem, có những giọt nước mắt cảm động, trong khi vô tình bà nắm chặt lấy cánh tay chồng bà lúc ông chỉ cho bà cái gì đó tôi không biết. Bà hơi tựa vào ông, giống như bà vợ mới say mê ông chồng của mình và đầy cảm phục đối với ông, sung sướng vì được ông tận tình dạy dỗ.
Trong lúc đó, các bà khác nói nhỏ nhẹ từng tiếng để báo cho nhau về giờ giấc trong ngày. Anastasica chưa quen nên có vẻ lạc lõng, đứng hơi nghiêng, trầm tư mặc tưởng. Maria đang nói chuyện với Margziam, trông thấy cô, liền lại gần và quàng một cánh tay quanh thắt lưng cô.
- Con gái! Con cảm thấy hơi cô đơn à? Nhưng hôm nay rồi sẽ khá hơn. Con thấy không? Con mẹ đang ra lệnh cho các tông đồ tới nhà các bà môn đệ báo cho họ tụ họp lại để chờ Người chiều nay tại nhà Jeanne. Chắc chắn Người muốn nói với chúng ta, đặc biệt là đám phụ nữ chúng ta, và chắc chắn trước lúc đó, Người đã cho con một bà mẹ rồi. Bà rất tốt. Con biết không? Mẹ biết bà từ hồi mẹ còn ở Đền Thờ. Ngay từ hồi đó, bà đã là mẹ cho các cô gái trẻ nhất trong các cô. Bà sẽ hiểu con, vì bà cũng đã đau khổ rất nhiều. Con trai mẹ đã chữa cho bà hồi năm ngoái khỏi một nỗi buồn chí tử đã xâm chiếm bà sau cái chết của hai đứa con trai bà. Mẹ nói chuyện đó với con để con biết thế nào là kẻ từ nay sẽ yêu con, và con sẽ yêu bà. Nhưng cũng như năm ngoái mẹ đã nói với Simon Phêrô lúc ông nhận Margziam làm con, mẹ cũng nói với con: “Chớ gì tình cảm này không làm cho qủa tim con mệt mỏi trong ý muốn phục vụ Giêsu”, vì nếu như vậy, ơn của Thiên Chúa sẽ nguy hại cho con hơn là bệnh cùi, bởi vì nó làm tắt đi trong con cái ý muốn
507
chân thành, là cái phải cho con chiếm hữu được nước Người một ngày kia.
- Ôi mẹ, đừng sợ. Bao lâu điều đó còn lệ thuộc vào con thì con sẽ làm cho tình cảm này trở nên một ngọn lửa luôn luôn cháy mạnh hơn cho việc phụng sự Chúa. Con sẽ không mệt mỏi, và con sẽ không làm nặng nề cho Êlise. Và hơn nữa, cùng nhau, chúng con sẽ nâng đỡ nhau, khuyến khích nhau bằng một sự ganh đua thánh thiện. Chúng con sẽ bay trên đường của Chúa nhờ sự trợ giúp của Người.
Trong khi họ nói thì từ trại Galilê, từ thành phố, từ các nhà rải rác ở sườn đồi hay từ ngoại ô kế cận thành phố, trên một trong hai con đường dẫn từ Jêrusalem tới Bêtani, và một cách chi tiết là con đường xa hơn mà Giêsu ít khi đi, có các môn đệ cũ và mới đang tới. Các người sau cùng đang tới là Philíp cùng với gia đình ông. Tôma có một mình; Batôlômêo cùng với vợ ông.
- Hai con ông Alphê đâu? Cả Simon và Mathêu nữa? - Tôma hỏi, vì ông không nhìn thấy họ.
- Họ đi trước rồi. Simon và Mathêu thì đi Bêtani để báo cho hai chị em tới nhà Jeanne vào sau trưa, hai ông Alphê thì vào nhà Jeanne và Annalia để bảo họ tới nhà Jeanne vào sau trưa. Chúng ta sẽ gặp nhau vào giờ thứ ba tại Cửa Vàng. Đi thôi. Trong khi chờ đợi, hãy đi bố thí cho các người hành khất và người cùi. Batôlômêo với Andrê đi trước đi để mua thực phẩm cho người cùi. Chúng ta từ từ đi theo sau họ. Chúng ta sẽ dừng lại ở khu Ophel, ở gần cổng, để rồi sau đó đến với các người cùi tội nghiệp.
- Tất cả sao? - Có vài người hỏi không mấy thiện cảm.
- Tất cả nam và nữ. Lễ Vượt Qua năm nay chúng ta sum họp. Chưa bao giờ được như vầy. Hãy cùng nhau làm điều mà trong tương lai mọi người nam nữ sẽ phải làm nhân danh Thầy. Đó, Judas Simon đang vội vã tới. Thầy bằng lòng, vì Thầy muốn ông ấy cũng ở với chúng ta.
Qủa vậy, Judas tới, thở dốc: “Con trễ hở Thầy? Tại lỗi của mẹ con đó. Bà đã đến trái với thói quen và trái với điều con đã nói với bà. Chiều hôm qua con gặp bà nơi một người bạn của nhà chúng
508
con. Sáng nay bà lại giữ con lại để nói với con... Bà muốn đến đây với con nhưng con không đồng ý”.
- Tại sao? Có phải tại vì Maria Simon không xứng đáng ở nơi con ở không? Trái lại, bà ấy còn xứng đáng hơn con. Vậy hãy mau đi đón bà rồi lại với chúng ta tại Cửa Vàng.
Judas ra đi, không đối đáp. Giêsu lên đường, đi ở phía trước với các tông đồ và các môn đệ. Các phụ nữ, có Maria ở giữa, đi theo sau đám nam giới.
58* THỨ NĂM TRƯỚC LỄ VƯỢT QUA
PHẦN THỨ HAI: TẠI ĐỀN THỜ
Tôi không nhìn thấy việc phát thực phẩm cho các người cùi tại Hinnom. Tôi chỉ nghe nói thôi. Và theo tôi thì hình như không có phép lạ cho họ, vì Simon Phêrô nói: “Sự cô độc kinh khủng không cho họ ơn biết tin và biết đâu là sự cứu rỗi”.
Rồi thành phố tiếp nhận họ qua chiếc cổng dẫn vào vùng Ophel ồn ào và đông đúc.
Sau vài mét, họ thấy Annalia vui mừng nhảy qua chiếc cổng mở. Cô đến kính bái Thầy và nói: “Chúa ơi, con được phép mẹ con để ở với Thầy tới chiều”.
- Điều đó không làm Samuel bất mãn sao?
- Chúa ơi, không còn Samuel trong đời con nữa. Xin cám ơn Đấng Tối Cao về điều đó. Xin Người chấp nhận cho con chỉ một điều: Anh ta bỏ con nhưng anh ta không bỏ Thầy, ôi Thiên Chúa của con - Khuôn miệng trẻ trung mỉm cười cách anh hùng, trong khi một giọt nước mắt long lanh trong cái nhìn trong trắng.
Giêsu nhìn cô ta đăm đăm và nói với cô cho tất cả mọi câu trả lời: “Hãy lại với các môn đệ chị em của con”. Và Người tiếp tục đi.
Nhưng bà mẹ già của Annalia, già vì đau khổ hơn là vì tuổi tác, đến lần bà tiến lại, và bà chào, cúi gằm xuống vì kính trọng và vì sự chán nản đè nặng. Bà nói: “Bình an cho Thầy. Khi nào con mới
509
được nói với Thầy? Con có rất nhiều phiền muộn!...”
- Ngay lập tức bà ơi - Và quay về với các người đang đi với Người, Người ra lệnh: “Hãy dừng lại đây, ở bên ngoài, Thầy vào nhà này một lát”. Và Người rời họ, đi theo người đàn bà.
Nhưng Annalia từ trong nhóm các nữ môn đệ, nhắc nhở Người chỉ bằng một tiếng: “Thầy!” Nhưng có gì là không có trong tiếng này. Và trong khi nói vậy, cô chắp tay lại như van xin.
- Đừng sợ. Hãy bình an. Lý do của con ở trong tay Thầy, cũng như bí mật của con - Giêsu nói để bảo đảm cho cô. Rồi một cách mạnh bạo, Người đi vào qua chiếc cổng hé mở.
Ở bên ngoài, người ta bình luận sự kiện. Sự tò mò của nam giới đua tranh với sự tò mò của nữ giới để biết... biết... biết...
Ở bên trong, người ta nghe và người ta khóc. Giêsu nghe, tựa vai vào cánh cửa mà Người đã đóng lại sau khi Người vào, hai tay khoanh trước ngực. Người nghe bà mẹ của cô gái trẻ vừa khóc vừa kể cho Người về sự thay đổi thất thường của vị hôn phu. Ông tìm mọi lẽ để giải phóng cho ông khỏi mọi ràng buộc... “Với kiểu này, Annalia giống như một người đàn bà bị rẫy, và nó không thể lấy chồng nữa. Quả vậy, nó đã công bố rằng Thầy xác nhận là người ta không thể kết bạn sau khi bị rẫy. Nhưng đây không phải trường hợp của nó. Nó còn là con gái trẻ, nó không bán mình cho một người đàn ông khác, bởi vì nó không thuộc về người đàn ông nào cả. Và anh ta có tội vì sự độc ác này, và hơn nữa, anh ta còn muốn một cuộc hôn nhân khác. Nhưng có vẻ như con gái con sẽ có lỗi, và thiên hạ sẽ cười chê nó. Chúa ơi, xin Thầy xem xét, vì chính tại Thầy mà chuyện này xảy ra”.
- Tại tôi à bà? Tôi đã phạm tội gì?
- Ôi! Thầy không phạm tội. Nhưng anh ta nói rằng Annalia yêu Thầy, và anh ta giả vờ ghen. Chiều hôm qua anh ta đến thì nó lại ở nhà Thầy. Anh ta vào và phát sùng, và nói rằng anh ta không muốn nó làm vợ nữa. Lúc đó thình lình Annalia trở về và nó trả lời anh ta: “Anh làm rất phải. Tôi chỉ hối tiếc một điều là anh đã bao trùm sự thật bằng những lời dối trá và vu khống. Anh biết rằng người ta chỉ
510
yêu Giêsu bằng tâm hồn thôi. Nhưng bây giờ tâm hồn anh đã hư hỏng, nó từ bỏ Ánh Sáng vì xác thịt, trong khi tôi rời bỏ xác thịt vì Ánh Sáng. Chúng ta không thể có cùng một tư tưởng như vợ chồng phải có. Vậy thôi đi đi. Xin Thiên Chúa canh chừng trên anh”. Không một giọt nước mắt nào, Thầy hiểu không? Không gì có thể lay động tới con tim anh ta. Hy vọng của con đã biến tan!... Nó... Ôi! Chắc chắn sự nhẹ dạ là nguyên do sự hủy hoại của nó. Lạy Chúa, xin hãy gọi nó, nói với nó. Hãy dẫn nó về với lý lẽ. Hãy tìm Samuel, anh ta ở trong nhà Abraham, bà con của anh ta, căn nhà thứ ba sau phông-ten Cây Sung. Xin Thầy giúp con. Nhưng trước hết, hãy nói với nó ngay lập tức đi...
- Về việc nói thì Thầy sẽ nói. Nhưng bà phải cám ơn Thiên Chúa vì Người đã tháo ra cái sợi giây của một con người tỏ tường là không đáng tín nhiệm. Anh ta thay đổi và bất công với Thiên Chúa và vợ anh ta.
- Đúng. Nhưng thật là ghê sợ khi thế giới lại nghĩ rằng nó có lỗi, rằng Thầy có lỗi chỉ vì nó là một môn đệ của Thầy.
- Thế giới kết án rồi quên ngay. Nhưng Trời là vĩnh viễn. Con gái của bà là một bông hoa của Trời.
- Vậy tại sao Thầy lại làm cho nó sống? Đáng lẽ nó đã là một bông hoa mà không phải chịu những trận ném đá của vu khống. Ôi! Thầy là Thiên Chúa, xin Thầy dẫn nó về với lý lẽ, và làm cho Samuel suy nghĩ chín chắn...
- Bà ơi, bà hãy nhớ rằng chính Thiên Chúa cũng không thể xâm phạm tự do và ý muốn của con người. Hai đứa, Samuel và con gái bà, chúng nó có quyền để theo đuổi điều chúng cho là tốt cho chúng, Annalia đặc biệt có cái quyền đó.
- Nhưng tại sao?
- Bởi vì nó là người yêu của Thiên Chúa hơn là của Samuel; bởi vì nó dâng tình yêu của nó cho Thiên Chúa hơn là dành cho Samuel. Con gái bà thuộc về Thiên Chúa.
- Không. Điều đó không có trong Israel. Người đàn bà là phải lấy chồng. Con gái con, nó thuộc về con... Sự lập gia đình của nó sẽ
511
mang lại cho con sự bình an về tương lai...
- Con gái bà đã ở trong mồ từ một năm nay nếu không có sự can thiệp của Thầy. Đối với bà. Thầy là ai?
- Là Thầy và Thiên Chúa.
- Vậy như Thiên Chúa và như vị Thầy, Thầy nói rằng Đấng Tối Cao có quyền hơn mọi người khác trên các con cái Người. Và sắp sửa sẽ có rất nhiều thay đổi trong tôn giáo. Từ nay trở đi, các trinh nữ có thể giữ mình như vậy mãi mãi vì tình yêu Thiên Chúa. Ôi! Bà mẹ, đừng khóc. Hôm nay bà hãy rời căn nhà bà để đến với chúng ta. Đi. Ở ngoài kia có mẹ Thầy và các bà khác. Họ đã anh hùng dâng con họ cho Thiên Chúa. Bà hãy họp đoàn với họ.
- Hãy nói với Annalia đi!... Chúa ơi! Hãy thử coi! - Người đàn bà rên rỉ và nức nở.
- Tốt. Thầy sẽ làm như bà muốn - Giêsu nói, và Người mở cửa, Người gọi mẹ Người cùng với Annalia. Hai người tới mau lẹ và vào trong.
- Con à, mẹ con muốn Thầy bảo con là hãy suy nghĩ nữa. Bà muốn rằng Thầy nói chuyện với Samuel. Vậy Thầy phải làm sao? Câu trả lời của con cho Thầy thế nào?
- Vậy hãy nói với Samuel. Cả đến con năn nỉ Thầy nói nữa. Nhưng chỉ vì con muốn rằng khi nghe Thầy, anh ấy sẽ trở nên công chính. Về phần con thì Thầy biết. Con xin Thầy cho mẹ con một câu trả lời chính xác nhất.
- Bà nghe chưa?
- Vậy câu trả lời là thế nào? - Bà ta hỏi bằng giọng đứt đoạn. Người đàn bà nghe những lời đầu tiên của con gái bà, bà tưởng là nó hối hận. Nhưng rồi sau đó bà hiểu rằng không phải như vậy.
- Câu trả lời là: Từ một năm nay, con gái bà thuộc về Thiên Chúa, và lời thề của nó vĩnh viễn, kéo dài suốt cuộc đời.
- Ôi! Khốn nạn cho tôi! Đâu có người mẹ nào khốn nạn hơn tôi!
Maria bỏ bàn tay của cô gái trẻ để ôm người đàn bà và êm dịu nói với bà: “Đừng phạm tội bằng tư tưởng và bằng lời nói của chị. Dâng hiến con cái cho Thiên Chúa không phải là việc bất hạnh,
512
nhưng đó là một vinh quang lớn. Một bữa nọ chị đã bảo tôi rằng chị khổ vì chỉ có một đứa con gái, vì chị muốn một đứa con trai để hiến dâng cho Chúa. Đây chị có, không phải một đứa con trai, mà là một thiên thần, một thiên thần sẽ đi trước Chúa trong chiến thắng của Người. Vậy mà chị lại cho là mình khốn nạn sao? Mẹ tôi đã dâng hiến tôi một cách hồn nhiên cho Chúa từ cái mấp máy đầu tiên của tôi mà bà cảm thấy trong bụng. Tôi là đứa con mà bà cưu mang rất trễ, và bà chỉ giữ tôi lại có ba năm. Và tôi, tôi chỉ có bà ở trong tim tôi. Nhưng trong giờ chết, bà đã rất bình an vì đã dâng tôi cho Thiên Chúa... Nào, chúng ta hãy lên Đền Thờ để hát lời ngợi khen đấng đã yêu thương chị đến nỗi đã chọn con gái chị làm hiền thê. Hãy có sự khôn ngoan thực sự ở trong tim. Sự khôn ngoan thực sự là đừng đặt giới hạn cho sự quảng đại của mình đối với Thiên Chúa”.
Người đàn bà không khóc nữa. Bà nghe... Rồi bà quyết định. Bà cầm áo khoác và mặc vào. Nhưng khi đi qua trước mặt con gái bà, bà thở dài: “A! Trước tiên là bệnh, rồi đến Chúa... A! Mẹ không được có con!...”
- Không, má ơi! Đừng nói như vậy! Chưa bao giờ má có con bằng bây giờ. Má và Thiên Chúa, Thiên Chúa và má, chỉ có hai người, cho đến chết... - Rồi cô ôm bà cách dịu dàng và nói: “Một phúc lành đi má! Một phúc lành... Vì con đã khổ biết bao bởi phải làm cho má khổ. Nhưng Thiên Chúa muốn con như vậy...”
Họ vừa hôn nhau vừa khóc. Rồi họ đi ra. Giêsu và Maria đi trước. Họ đóng cửa và đi lại với các nữ môn đệ...
... - Chúa ơi, tại sao chúng ta đi lối này? Vào lối kia chả hay hơn sao? - Giacôbê Zêbêđê hỏi.
- Bởi vì khi vào lối này, chúng ta sẽ đi qua đồn Antonia.
- Và Thầy hy vọng... Cẩn thận nhe Thầy!... Đại Pháp Đình do thám Thầy đó - Tôma nói.
- Làm sao anh biết? - Batôlômêo hỏi.
- Chỉ cần suy nghĩ đến sự lưu tâm của các pharisiêu là hiểu. Các
513
anh đã nói với tôi rằng với hàng ngàn lý lẽ để bào chữa, họ liên tục tới để quan sát những gì chúng ta làm!... Với mục đích nào, nếu không là để bắt lỗi Thầy.
- Anh có lý. Vậy Thầy ơi, đừng đi qua trước đồn Antonia. Nếu các người Rôma không gặp Thầy thì càng hay.
- Và trong lý do này thì không có nhiều lo lắng cho Thầy bằng sự khinh bỉ của con đối với họ phải không Batôlômêo? Con sẽ khôn ngoan hơn biết bao nếu con lấy ra khỏi lòng con những cái khốn nạn này - Giêsu trả lời và Người tiếp tục đường của Người, không nghe ai cả.
Để tới Antonia, họ phải đi qua Sixte, nơi có lâu đài của Jeanne và của Hêrôđê, nơi nọ hơi xa nơi kia. Jonatha đã ở trên cổng lâu đài của Chouza, và khi ông vừa thấy Giêsu, ông liền làm hiệu cho các người trong nhà. Chouza ra ngay và nghiêng mình. Jeanne theo ông và sẵn sàng để đi theo nhóm các nữ môn đệ.
Chouza nói: “Con nghe rằng hôm nay Thầy tới nhà Jeanne, vậy xin Thầy chấp nhận cho tôi tá Thầy được có Thầy là khách trong một đại tiệc”.
- Được. Với điều kiện là ông cho phép Thầy làm cho nó thành một đại tiệc bác ái cho những người nghèo và khốn khổ.
- Lạy Chúa, xin như Thầy muốn. Hãy ra lệnh và con sẽ làm như Thầy muốn.
- Cám ơn. Bình an cho ông, Chouza.
Jeanne hỏi: “Thầy có mệnh lệnh gì cho Jonatha không? Ông ta sẵn sàng phục vụ Thầy”.
- Thầy sẽ cho ông khi Thầy lên Đền Thờ. Chúng ta đi thôi, bởi vì có người chờ chúng ta.
Họ đi, và một lát sau thì đi qua lâu đài đẹp và độc ác của Hêrôđê. Nhưng nó đóng cửa tựa như không có người ở. Họ đi qua gần Antonia. Các người lính quan sát đoàn rước nhỏ của vị Nazarét.
Họ vào Đền Thờ. Trong khi các phụ nữ dừng lại ở phần bên dưới thì nam giới tiếp tục tới nơi dành cho họ.
Họ tới nơi dùng để trình diện các trẻ nhỏ và thanh tẩy các bà
514
mẹ. Một nhóm nhỏ người hộ tống một bà mẹ trẻ và dừng lại để quan sát các lễ theo nghi thức.
- Thưa Thầy, một đứa trẻ được hiến cho Chúa - Andrê nói khi quan sát cảnh tượng.
- Nếu tôi không lầm thì đó là người đàn bà ở Cêsarê Philíp, người ở trong lâu đài. Bà ta đã đi qua trước mặt tôi khi chúng tôi chờ anh ở Cửa Vàng - Giacôbê Alphê nói.
- Đúng. Cũng có cả bà mẹ chồng của cô, và người quản gia của Philíp. Họ không nhìn thấy chúng ta, nhưng chúng ta nhìn thấy họ - Thađê nói. Và Mathêu thêm: “Đàng khác, hai chúng con đã nhìn thấy Maria Simon đứng với một ông già, nhưng Judas không có ở đó. Bà ta có vẻ rất buồn. Bà nhìn chung quanh với vẻ lo âu”.
- Chúng ta sẽ tới tìm bà sau. Bây giờ chúng ta cầu nguyện. Và con, Simon, con dâng của cúng cho kho bạc thay cho tất cả chúng ta.
Họ cầu nguyện hồi lâu. Người ta nhận thấy và chỉ trỏ ông Thầy cho nhau.
Có một cuộc cãi cọ ngắn, mà to tiếng hơn cả là một giọng the thé của phụ nữ, làm cho những người cầu nguyện ít cầm trí hơn đều quay lại.
- Nếu tôi đến đây để hiến dâng một đứa con trai cho Thiên Chúa, tôi cũng có thể ở lại một lát để dâng nó cho vị đã cứu nó cho Chúa - Giọng the thé nói.
Và những giọng mũi của đàn ông nhấn mạnh: “Người đàn bà không được phép ở lại đây sau các lễ theo nghi thức. Đi đi!”
- Tôi sẽ đi, nhưng sau Người.
- Vậy hãy gọi ông ta và đi ra sau ông ta.
- Từ từ nào! Từ từ! Hãy để người đàn bà nói, và mong rằng bà ta hãy nói làm sao bà có thể nói được rằng ông Nazarét đã cứu đứa nhỏ cho Chúa - một giọng nam kéo dài nói.
- Jonatha Uziel, anh chú ý tới chuyện đó về điểm nào?
- Nếu nó làm tôi chú ý thì chắc chắn ở trong đó đã có một tội mới, một bằng cớ mới. Này bà, nghe tôi đây: người đó đã cứu con
515
trai bà thế nào? Bà có thể nói cho kẻ tìm biết sự thật một cách bền bỉ không? - Người pharisiêu mà tôi đã gặp hỏi bằng giọng ngọt ngào.
- Ồ, vâng. Tôi nói với lòng đầy biết ơn. Tôi hoàn toàn thất vọng vì con tôi đã chết. Tôi góa chồng, và đứa trẻ này là tất cả cho tôi. Người đã đến và đã cho nó sự sống.
- Khi nào? Ở đâu?
- Tại Cêsarê Philíp. Tôi ở trong lâu đài tại Cêsarê.
- Sự sống! Chắc đó là sự suy nhược của đứa trẻ...
- Không. Nó đã chết. Mẹ tôi có thể nói điều đó, và người quản
gia của lâu đài cũng có thể nói. Người đến và Người thổi vào miệng nó, thế là đứa trẻ cựa quậy và khóc oe oe.
- Còn bà, bà ở đâu?
- Thưa ngài tôi ở trong giường. Tôi mới sinh nó.
- Ôi! Khủng khiếp!
- A! Đáng trục xuất!
- Ô uế!
- Phạm thánh!
- Các anh thấy là tôi có lý để hỏi bà ta chứ?
- Anh rất khôn, Jonatha Uziel. Làm sao anh đoán được thế?
- Tôi biết người đó. Tôi đã thấy hắn vi phạm ngày Sabát trên đất ruộng của tôi để thỏa mãn cái đói của hắn.
- Chúng ta hãy đuổi hắn ra khỏi đây.
- Chúng ta hãy tường trình sự việc với thủ lãnh các thầy cả.
- Không. Hãy hỏi hắn coi hắn đã thanh tẩy chưa. Chúng ta không thể kết án nếu không biết...
- Câm đi Êlêazar. Đừng tự bôi nhọ bằng một sự bảo vệ ngu xuẩn.
Giữa cảnh này, người đàn bà trẻ Dorca thấy sự cãi cọ này, liền bật khóc và kêu: “Ôi! Đừng làm hại Người tại vì tôi!”
Nhưng có vài tên điên tiết đã lại với Giêsu và nói với Người bằng giọng uy quyền: “Hãy lại đây và trả lời”.
Các tông đồ và các môn đệ náo động vì tức và vì sợ. Giêsu bình
516
tĩnh và trịnh trọng đi theo kẻ gọi Người.
- Ông biết người đàn bà này không? - Họ la lối và đẩy Người vào giữa cái vòng tròn tạo thành ở chung quanh Dorca mà chúng lấy ngón tay trỏ tựa như cô ta là người cùi.
- Có, đó là người mẹ trẻ góa bụa ở Cêsarê Philíp. Bà này là mẹ chồng của cô, và ông này là quản gia của lâu đài. Vậy thì sao?
- Bà ta kết án ông đã vào phòng bà trong lúc bà sanh.
- Không đúng. Lạy Chúa, con không nói vậy. Con nói rằng Ngài đã hồi sinh con trai con. Không có gì khác. Con muốn tôn vinh Thầy mà lại ra làm khổ Thầy. Ôi! Xin tha! Xin tha!
Người quản gia của Philíp tới cứu bà và nói: “Không đúng, các ông nói dối. Người đàn bà này không nói như vậy và tôi làm chứng. Tôi sẵn sàng thề. Và cả nữa là vị Rabbi không vào phòng, nhưng là tại ngưỡng cửa là nơi Người thi hành phép lạ”.
- Câm đi, tên đầy tớ!
- Không. Tôi không im. Tôi sẽ thưa chuyện này với Philíp, ông tôn kính vị Rabbi hơn các ông, các kẻ mộ đạo giả hình của Thiên Chúa Tối Cao.
Cuộc cãi lộn đã đẩy người đàn bà từ lãnh vực tôn giáo qua chính trị. Giêsu nín thinh. Dorca khóc.
Êlêazar, người khách ngay thẳng trong bữa tiệc tại nhà Ismael, nói: “Tôi tin rằng sự nghi ngờ đã được soi sáng, và sự kết án đã rơi xuống. Và Ngài Rabbi đã được biện minh. Ngài có thể đi tự do”.
- Không. Tôi muốn biết hắn ta có thanh tẩy vì đã đụng vào người chết không. Hắn hãy thề trước Jêova! - Jonatha Uziel kêu.
- Tôi không thanh tẩy vì đứa trẻ không chết, nhưng nó không thở được.
- A! Điều đó bây giờ rất tiện cho ông để nói là nó không sống lại, hen! - Một pharisiêu kêu lên.
- Tại sao ông không khoe việc đó như ông đã làm ở Cédès? - một tên khác hỏi.
- Nhưng đừng mất thời giờ để nói. Chúng ta hãy đuổi hắn đi rồi tường trình tin về sự kết án cho Đại Pháp Đình. Một bó những điều
517
kết án?
- Còn điều nào khác nữa? - Giêsu hỏi.
- Điều khác à? Điều đã đụng vào con mẹ cùi mà không thanh tẩy. Ông có thể chối điều đó không? Điều đã phạm thượng ở Caphanaum tới nỗi những người công chính nhất cũng bỏ rơi ông. Ông có thể chối điều đó không?
- Tôi chả chối gì cả, nhưng tôi vô tội. Qủa vậy, Sađốc à, ông kết án tôi, nhưng ông biết qua ông chồng của Anastasica rằng cô ta không bị cùi. Ông biết điều đó. Ông là người trung gian môi giới cho sự gian dâm của Samuel, ông đã nói dối mọi người cùng với hắn, để làm thuận lợi cho sự đam mê của một con người ghê tởm, bằng cách gán cái tên “cùi” cho kẻ không bị cùi, và kết án người đàn bà bằng cái cực hình bị gọi là “cùi” trong Israel, chỉ vì ông đồng lõa với người chồng có tội.
Luật sĩ Sađốc, một trong những người đã ở Giscala, rồi sau đó ở Cédès, bị đánh giữa trời, lẻn đi mất, không nói một lời. Người ta chạy theo ông bằng những tràng chế diễu.
- Im lặng. Đây là nơi thánh - Giêsu nói. Rồi người truyền cho người đàn bà và những người đi với bà: “Đi. Hãy đi với Thầy tới nơi người ta đang chờ Thầy”. Rồi Người bỏ đi, nghiêm nghị và oai phong. Các người của Người đi theo sau.
Trong lúc đó, người đàn bà bị nhiều người đặt câu hỏi. Bà không ngừng lặp đi lặp lại: “Con trai tôi thuộc về Người, và tôi thánh hiến nó cho Người”.
Còn viên quản đốc, ông tiến lại bên Giêsu và nói: “Thưa Thầy, con đã kể phép lạ cho Philíp. Ông ta sai con nói với Thầy là ông ta yêu Thầy. Hãy nhận sự trợ cứu của ông trong những cạm bẫy của Antipa Hêrôđê... và của những người khác nữa. Nhưng ông ta cũng muốn gặp Thầy và nghe Thầy. Hôm nay Thầy có đến nhà ông không? Ông sẽ tình nguyện giữ Thầy, kể cả ngay tại dinh Tổng Tài”.
- Thầy không phải kịch sĩ, cũng không phải pháp sư. Thầy là thầy của Chân Lý. Ông ta hãy đến với Chân Lý, Thầy sẽ không xua đuổi ông.
Họ đã ra tới sân phụ nữ.
518
- Người kia rồi! Người kia rồi! - Các nữ môn đệ nói với Maria, vì mẹ lo lắng do sự chậm trễ của nhóm Giêsu.
Họ tụ họp, và Giêsu muốn giải tán các người ở Cêsarê để đi tìm Maria mẹ Judas, nhưng Dorca qùi gối và nói: “Con đã tìm Thầy trước bà ta, trước người đàn bà mà Thầy tìm. Bà là mẹ của một môn đệ. Con đã tìm Thầy để thưa Thầy rằng: đứa con trai này thuộc về Thầy. Đứa con duy nhất. Con dâng hiến nó cho Thầy. Thầy là Thiên Chúa hằng sống, để nó thành đầy tớ của Thầy”.
- Con có biết điều đó có nghĩa là gì không? Có nghĩa là dâng hiến con trai con cho đau khổ, bị mất nó như một người mẹ, nhưng có nó như một vị tử đạo ở trên Trời. Con có thể là vị tử đạo ở trong con trai con không?
- Lạy Chúa, được. Cái chết của nó đã làm cho con thành một tử đạo, nhưng là cái tử đạo của một bà mẹ tội nghiệp. Con sẽ là tử đạo vì Thầy, theo một cách thế trọn vẹn, đẹp lòng Chúa.
- Mong được như vậy... Ôi! Maria Simon, bà tới lúc nào vậy?
- Vừa tới, với Anania, bà con của con... Con cũng vậy, lạy Chúa, con tìm Ngài...
- Thầy biết. Thầy đã sai Judas đi bảo bà tới. Nó có tới không?
Bà mẹ Judas cúi đầu lẩm bẩm: “Con đi ra ngay sau nó để tới Gétsêmani, nhưng Thầy đã đi khỏi đó!... Con chạy tới Đền Thờ... Bây giờ con gặp được Thầy... Kịp thời để nghe đứa con gái này, đã được làm mẹ, và rất sung sướng!... Ôi! Chúa ơi, con ước ao có thể nói như vậy về một Judas mới sinh... êm dịu, êm dịu... như một trong những con chiên này...” Và bà khóc, bà chỉ vào những con chiên kêu be be để đi về nơi sát tế. Bà trùm áo khoác để che nước mắt của bà.
- Bà mẹ ơi, hãy đi với Thầy. Chúng ta sẽ nói chuyện trong nhà Jeanne. Ở đây không đúng chỗ.
Các phụ nữ dẫn Maria mẹ Judas đi với họ trong khi người bà con Anania của bà trà trộn với các môn đệ. Dorca và mẹ chồng của cô cũng đi với các phụ nữ. Maria Alphê và Salômê thì say sưa mơn trớn đứa nhỏ.
519
Họ hướng về cửa ra. Nhưng trước khi họ tới đó thì một tên nô lệ người Rôma mang cho Jeanne một tấm bảng tráng sáp. Bà đọc rồi trả lời: “Anh sẽ nói rằng đồng ý. Vào sau trưa, tại nhà tôi, trong lâu đài”.
Rồi đến tiếng kêu của Jaia và mẹ nó khi họ nhìn thấy Vị Cứu Tinh: “Người đó! Người đó! Đấng ban ánh sáng! Xin chúc tụng Thầy, ánh sáng của Thiên Chúa”. Và họ qùi gục trán xuống đất, sung sướng.
Người ta chen chúc, hỏi sự việc, rồi hiểu ra, họ hô những tiếng vạn tuế.
Rồi đến ông già Mathia, người đã cho Giêsu và các người của Ngài trú chân trong đêm mưa gió ở gần Jabés Galaad. Ông tôn kính và chúc tụng Giêsu.
Rồi lại đến ông ngoại của Margziam và các nông dân khác. Sau khi đã nói với Jeanne, Giêsu bảo họ: “Hãy đến với Thầy”, cũng như Người đã nói vậy với Dorca, Jaia và Mathia.
Nhưng gần tới Cửa Vàng thì đây là Marc Josias, người môn đệ phản bội. Anh ta nói cách ồn ào với Judas Iscariot. Judas nhìn thấy Thầy nên chỉ Người cho kẻ đàm thoại với ông. Anh này liền quay lại khi Giêsu đã ở ngay sau lưng anh. Các tia nhìn giao nhau. Ôi! Cái nhìn của Đức Kitô! Nhưng anh kia, bây giờ như điếc với mọi quyền lực thánh. Anh ta hầu như đẩy Giêsu xô vào một cái cột để có thể chạy trốn cho lẹ. Với tất cả phản ứng của anh ta, Giêsu chỉ nói: “Marc ơi, đứng lại, vì thương linh hồn con và mẹ con!”
- Satan! - Anh ta kêu lên và bỏ đi.
- Sợ hãi! Nhưng Chúa ơi, nguyền rủa nó đi - Các môn đệ kêu, và người nói đầu tiên là Iscariot.
- Không, như vậy Thầy sẽ không còn là Giêsu... Ta đi!
- Nhưng làm sao, làm sao anh ta lại có thể trở nên như vậy. Trước anh ta rất tốt mà! - Isaac nói. Dường như ông bị một mũi tên xuyên thấu, vì ông khổ chừng nào trước sự thay đổi của Marc.
- Đó là một bí nhiệm. Một điều không thể giải thích được - nhiều người nói. Còn Judas Kêriot thì: “Đúng. Tôi đã làm cho anh ta nói.
520
Hoàn toàn là tà giáo, nhưng làm sao giải thích được. Hầu như anh ta đã thuyết phục được các anh. Anh ta đâu có khôn ngoan như vậy khi anh ta còn chính đáng”.
- Anh phải nói rằng anh ta đâu có điên như vậy khi anh ta còn bị qủi ám ở gần Gamala! - Giacôbê Zêbêđê nói.
Gioan thì hỏi: “Chúa ơi, tại sao khi anh ta bị qủi ám, anh ta làm phiền Thầy ít hơn bây giờ? Thầy không thể chữa cho anh ta để anh ta khỏi làm phiền Thầy sao?”
- Bởi vì bây giờ anh ta đã đón nhận vào tâm hồn anh một thằng qủi thông minh. Trước đây anh ta là một cái quán mà một đạo binh qủi đã dùng sức mạnh để chiếm cứ, nhưng anh ta không bằng lòng chứa chúng. Bây giờ sự thông minh của anh đã muốn Satan và Satan đã đặt ở trong anh một sức mạnh của ma qủi thông minh. Đối với loại bị ám thứ hai này, Thầy không thể làm gì được. Thầy không thể xâm phạm ý muốn tự do của con người.
- Thầy khổ không?
- Có. Đó là những nỗi lo âu của Thầy... những thất bại của Thầy... Và Thầy đau khổ, vì đó là những linh hồn bị hư mất. Thầy chỉ khổ vì vậy thôi chứ không vì những điều xấu họ làm cho chính Thầy.
Họ đứng lại để chờ giải tỏa con đường bị nghẽn bởi một đoàn người và vật. Vì vậy tất cả đều tụ lại. Cái nhìn của bà mẹ Judas qúa xuyên thấu tới nỗi con bà hỏi bà: “Nhưng mẹ làm sao vậy? Có phải đây là lần đầu tiên mẹ thấy mặt tôi không? Thực sự mẹ bệnh rồi. Tôi phải cho người săn sóc mẹ...”
- Con ơi, mẹ không bệnh, cũng không phải lần đầu tiên mẹ thấy con!
- Vậy thì sao?
- Vậy thì... không sao cả. Mẹ chỉ muốn rằng con không bao giờ đáng những lời đó của Thầy.
- Con, con không bỏ rơi Người, con cũng không kết án Người. Con là tông đồ của Người.
Họ lại tiếp tục con đường cho tới khi Giêsu dừng lại để chào Jeanne và các nữ môn đệ đi với Jeanne về nhà bà. Còn các ông thì
521
đi Gétsêmani hết.
- Chúng ta có thể vào đó hết. Con muốn nghe coi Êlise nói gì.
- Con sẽ nghe. Bởi vì chỉ bữa nay bà mới biết, và sẽ biết bởi chính Thầy, rằng Thầy ký thác Anastasica cho bà.
- Còn bữa ăn tối nay?
- Ừ, Thầy đã nói với Jeanne những gì phải làm.
- Bà phải làm gì? Thầy nói với bà lúc nào vậy?
- Các con sẽ thấy. Thầy nói trước khi từ biệt bà, khi Thầy chào bà. Chúng ta lẹ lên để vào vườn của Jeanne lúc còn sớm.
59* THỨ NĂM TRƯỚC LỄ VƯỢT QUA.
PHẦN THỨ BA: CÁC GIÁO HUẤN KHÁC
Trên con đường trở lại nhà Jeanne, khi vừa được hơi tách biệt với những người chen chúc trên đường và làm cho nhiều người trong nhóm rách rời nhau ra, Phêrô đi với Thầy và hai con ông Alphê, ông hỏi: “Bây giờ chúng ta có thể nói trong đám chúng ta với nhau. Xin Thầy nói cho con điều mà con suy nghĩ từ hôm qua”.
- Ừ, Simon. Hãy nói cho Thầy đó là điều gì, Thầy sẽ trả lời cho con.
- Từ hôm qua tới giờ, con nghĩ về ơn trọng mà Thầy ban cho Gioan ở Antigonéa. Nhưng Thầy có biết là nó rất lớn không?! Một điều duy nhất chỉ ban cho ông ta! Nhưng Sintica cũng xứng đáng biết bao... Và sau cùng, cũng có biết bao người đại độ... xứng đáng được thấy Thầy... mà họ chỉ thấy Thầy khi Thầy ở bên cạnh họ. Ví dụ con chẳng hạn. Chúng con được an ủi biết bao khi Thầy sai chúng con vào giữa thế giới! Nhưng đôi khi người ta có những lúc mà chỉ cần một lời nói là kéo được chúng con ra khỏi ngờ vực... Nhưng Thầy, đối với chúng con, Thầy không bao giờ tới... Tại sao có sự khác nhau này?
- Để kết luận thì con, Simon, con hơi ghen?...
- Ồ, không! Nhưng... sau cùng, con muốn biết ba điều: Tại sao
522
lại cho Gioan Enđo; có phải điều đó chỉ cho một mình ông; và có thể không là một ngày kia, điều đó cũng xảy đến cho chúng con, cho con chẳng hạn, được thấy Thầy một cách lạ lùng, để từ Thầy, con biết phải hành động thế nào.
- Và Thầy, Thầy trả lời con: Cho Gioan, vì đó là một tâm hồn có nhiều thiện chí, nhưng vì những phiêu lưu qúa khứ của ông, ông có những yếu nhược về thể chất hơn là những điều khác, có thể làm hư hỏng cái lâu đài mà ông đã xây bằng sự đi lên cùng Thiên Chúa. Bạn Thầy ơi, con thấy không? Cái qúa khứ, khi nó đã qúa dài ở trên chúng ta như một lớp vỏ cứng đã ăn sâu vào trong, và khắc những nét không thể tẩy đi được, và không những chỉ có vậy, mà nó còn để lại trong người ta những khuynh hướng không thể đổi. Ví dụ con hãy nhìn căn nhà nhỏ xây trên sườn núi kia: nước ở dưới đất và nước mưa ở trên núi xuống đã từ từ thấm vào nó. Bây giờ có mặt trời nóng, và mặt trời sẽ kéo dài nhiều tháng, nhưng các mốc meo đã mọc vào chất vôi sẽ tồn tại mãi như những vết cùi. Căn nhà đã bị bỏ hoang bởi vì người ta đã tuyên bố là nó bị cùi. Đến lúc thời tiết khắt khe hơn, căn nhà sẽ hoàn toàn bị sụp đổ theo luật tự nhiên. Tại sao tai họa này lại xảy đến cho căn nhà tội nghiệp này? Bởi vì chủ của nó đã không thấy trước để đào các rãnh chung quanh nhà để ngăn cản nước ứ đọng ở nền, để hướng nước chảy xuống từ phía tựa vào sườn núi đi nơi khác. Bây giờ thì căn nhà không những chỉ ở trong tình trạng xấu, mà nó còn bị ăn mòn bởi ẩm ướt. Nếu có người quyết định phục hồi tình trạng của nó bằng cách cạo sạch các bức tường, thay các viên gạch hư bằng các viên mới, thì nó còn có thể ở được, nhưng nó vẫn luôn có vẻ yếu, nếu có động đất thì nó sẽ đổ trước tiên. Gioan, trong nhiều năm đã bị thâm nhập bởi chất độc của điều ác trong thế giới, ông đã lo liệu, bằng ý chí của ông, để đào thải nó ra khỏi linh hồn đã sống trở lại của ông, nhưng trong cái nền bị che kín, ở bên dưới, nó vẫn còn có những yếu điểm... Thần trí thì mạnh, nhưng thể xác thì yếu đuối. Và thể xác cũng có thể gây bão tố khi các khích động của nó nối kết với các yếu tố của thế giới, nó có thể lay động cái “tôi” Gioan!...
523
Những việc xảy ra đã gây cho ông biết bao quay cuồng của những kỷ niệm qúa khứ! Thầy, Thầy đến để hỗ trợ cho sự chống cự của ông, sự thanh tẩy của ông, chiến thắng của ông trên sự tái phát xuất qúa khứ này. Thầy mang tới, như Thầy có thể, những củng cố cho sự đau đớn lớn lao của ông, vì ông đáng được. Bởi vì thật chính đáng để giúp một ý chí thánh mà tất cả sự gian ác của thế giới tấn công chống lại nó. Con có nhìn nhận không?
- Vâng, Thầy... Thầy chỉ tỏ mình ra với ông thôi sao?
Giêsu mỉm cười nhìn Phêrô trong khi ông nhìn Người từ bên dưới, giống như một đứa trẻ quan sát khuôn mặt của cha nó. Người trả lời: “Không phải chỉ có mình ông. Cho cả những người khác nữa khi họ ở xa để xây dựng sự thánh thiện ở giữa những khó khăn và trong cô đơn”.
- Ai vậy?
- Không cần phải biết.
Giacôbê Alphê hỏi: “Ví dụ với chúng con, khi chúng con sẽ bị cô đơn, và ai biết được sẽ bị thế giới quay cuồng tới cỡ nào?... Thầy không giúp chúng con bằng sự hiện diện của Thầy sao?”
- Các con sẽ có Thánh Linh và ánh sáng của Người.
- Điều đó tốt... nhưng con... con không biết Người... và... con nghĩ rằng con sẽ không bao giờ hiểu Người. Trái lại, với Thầy... Con sẽ nói: “Ô! Thầy đây rồi!” Và con sẽ hỏi Thầy điều phải làm với sự chắc chắn rằng chính là Thầy... - Phêrô nói, và ông kết thúc: “Thánh Linh à? Qúa cao xa đối với tên dân chài tội nghiệp! Ai biết được lời của Người khó nắm bắt được chừng nào!... Và nó... nhẹ chừng nào! Một hơi thở đi qua... Ai mà nhận ra được? Con thì con cần người ta phải lắc con, phải la lớn để cho cái đầu của con nó tỉnh dậy và có thể hiểu. Nhưng Thầy, nếu Thầy hiện ra với con, con nhìn thấy Thầy, thế là... Thầy hứa với con đi, và cả đến hứa với chúng con, là Thầy sẽ hiện ra với cả chúng con nữa. Như vậy, hen!... với thịt và máu, để người ta thấy rõ Thầy và người ta nghe rõ Thầy”.
- Nhưng nếu Thầy đến để quở trách?
- Không quan trọng! Nhưng ít nhất - có phải không hai anh?
524
Chúng ta sẽ biết điều phải làm.
Hai người con ông Alphê cũng có cùng ý kiến.
- Tốt. Vậy Thầy hứa điều đó với các con, mặc dầu, các con hãy tin, Thánh Linh biết làm cho linh hồn các con hiểu. Nhưng Thầy sẽ đến để nói với các con: “Giacôbê, hãy làm điều này hay điều kia. Simon Phêrô, con làm điều khác kia không tốt. Juđa, con hãy tự củng cố để sẵn sàng cho việc này hay cho việc khác”.
- Ôi! Rất tốt. Bây giờ con yên trí hơn. Nhưng Thầy năng đến nhe! Thầy biết không? Vì con sẽ giống như một đứa trẻ lạc, chỉ biết khóc... và làm những cái không tốt... - và Phêrô hầu như khóc ngay từ lúc này...
Juđa Thađê hỏi: “Thầy không thể làm vậy cho mọi người ngay từ bây giờ sao? Con muốn nói là cho những kẻ nghi ngờ, những kẻ có tội, những kẻ bội giáo. Có thể một phép lạ...”
- Không anh ơi! Phép lạ làm nhiều điều tốt là những phép lạ loại đặc biệt, được ban vào lúc và nơi thích đáng, cho những người không có tội một cách ác tâm. Nếu ban cho những người có tội một cách ác tâm, nó sẽ gia tăng tội của họ, vì nó gia tăng sự kiêu căng của họ. Ơn của Thiên Chúa, họ, những kẻ kiêu căng, họ cho là sự yếu đuối của Thiên Chúa, và Người phải năn nỉ họ cho phép Người yêu họ. Ơn của Thiên Chúa, họ cho đó là hiệu qủa của các công phúc lớn lao của họ. Họ sẽ tự nói: “Thiên Chúa hạ mình đối với tôi vì tôi thánh”. Lúc đó sẽ là sự hư hỏng hoàn toàn. Sự hư hỏng của một Marc Josias chẳng hạn, và những người khác cùng với anh ta... Khốn thay! Khốn thay cho kẻ đi con đường này của Satan! Ơn của Thiên Chúa trong nó sẽ biến thành nọc độc của Satan. Thử thách lớn lao nhất, và cũng bảo đảm nhất cho mức độ lên cao và ý muốn thánh thiện của con người, là được tưởng thưởng bằng những ơn đặc biệt. Rất thường người ta say sưa nó một cách nhân loại, và từ siêu nhiên, họ trở thành hoàn toàn con người, rồi xuống dốc và trở thành Satan.
- Vậy tại sao Thiên Chúa ban cho họ? Tốt hơn là người đừng ban cho họ.
- Simon Jonas, để dạy con bước đi, có phải mẹ con cứ giữ con ở
525
trong tã, hoặc trên cánh tay bà không?
- Không. Bà để con xuống đất, và để cho chân con tự do.
- Nhưng con có té không?
- Ôi! Vô cùng nhiều lần. Còn nhiều hơn là con... Thực ra lúc còn nhỏ, con có cao vọng tự mình hành động, và làm tốt hết.
- Nhưng bây giờ con không té nữa à?
- Chỉ còn thiếu có điều đó! Bây giờ con biết rằng trèo lên cái lưng ghế là nguy hiểm, dùng cái ống máng xối để tụt từ trên mái nhà xuống, để có con đường vắn nhất là một lỗi lầm. Muốn bay từ trên cây sung vào trong nhà như một con chim là điên... Nhưng khi còn nhỏ, con không biết những điều đó. Con đã không chết, đó đúng là một bí nhiệm. Nhưng rồi từ từ, con học sử dụng đôi chân của con và cả cái đầu của con.
- Vậy là Thiên Chúa đã làm đúng khi ban cho con hai chân và một đầu, và mẹ con để cho con học ở những thương tổn của con?
- Chắc chắn rồi.
- Đó là điều Thiên Chúa làm với các linh hồn. Người cho họ những ơn, và giống như một bà mẹ, Người báo động và nhủ bảo. Nhưng rồi mỗi người phải tự mình quyết định sử dụng nó thế nào.
- Nhưng nếu là một người ngu dốt?
- Thiên Chúa không ban ơn như vậy cho kẻ ngu muội. Họ thì Người yêu họ vì họ khốn nạn, nhưng Người không cho họ những thứ họ không biết sử dụng.
- Nhưng nếu Người cho họ và nếu họ sử dụng sai?
- Thiên Chúa xử với họ tùy theo điều họ là: những kẻ bất lực thì tức là không phải trách nhiệm. Người không đoán xét họ.
- Vậy nếu một người thông minh, nhưng sau khi đã nhận những ơn ấy, họ trở thành ngu si và điên dại?
- Nếu đó là một chứng bệnh thì không có lỗi vì đã không dùng ơn mà họ đã nhận.
- Nhưng... một người trong chúng con, ví dụ vậy. Một Marc Josias... hay... hay một người khác đó, thì sao?
- Ôi! Khi đó! Thà nó đừng sinh ra thì hơn! Nhưng như vậy mới có
526
sự phân rẽ kẻ tốt người xấu... Một công việc nặng nề, nhưng công bằng.
- Nhưng các anh nói những gì hay vậy? Không có gì cho chúng tôi hết sao? - Các tông đồ khác, vì đường đã rộng nên có thể lại với Giêsu và hỏi.
- Chúng tôi đã nói nhiều thứ lắm. Giêsu đã nói cho tôi một dụ ngôn về bệnh cùi của các căn nhà. Tôi sẽ nói cho các anh sau - Phêrô trả lời.
- Nhưng dị đoan chừng nào! - Iscariot trịnh trọng tuyên bố. “Qủa xứng đáng với thời đại đó. Các bức tường đâu có bị cùi. Các cổ nhân ngu dốt đã gán cho các bức tường và các y phục những thứ thuộc về động vật. Những điều lố bịch và chúng làm cho chúng ta thành lố bịch”.
- Không phải như con nói đâu Judas. Dưới bộ mặt bóng bảy được gán cho trí tuệ vào thời đó, người ta theo đuổi một mục đích lớn lao có thể trả lời cho những đề phòng thánh thiện. Cũng như biết bao điều giáo huấn của cổ Israel, những giáo huấn bảo đảm cho sức khỏe của một dân tộc. Gìn giữ cho dân tộc được lành mạnh, đó là bổn phận của các nhà lập pháp, đó là tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ Người, bởi vì dân tộc được làm ra từ việc tạo dựng của Thiên Chúa. Vậy không được sao lãng đối với nó, trong khi lại không sao lãng đối với loài vật và cây cối.
Thật ra thì các căn nhà gọi là cùi không có cái bệnh cùi của xác thịt, nhưng nó có những khuyết điểm trong việc xây cất, và có những hoàn cảnh làm cho nó thành không tốt, bộc lộ ra bằng những vết mà người ta gọi là “cùi của tường”. Với thời gian, nó trở thành không lành mạnh cho con người và thành nguy hiểm, lại thêm vào cái nguy hiểm có thể bị sập. Vì vậy luật pháp có lý để chỉ định những qui tắc, và ra lệnh phế bỏ hoặc làm lại, và cả đến phá hủy nó, nếu sau khi xây lại mà nó vẫn có vẻ nguy hiểm.
- Ôi! nhưng một chút ẩm ướt thì có là gì? Ta sấy khô nó bằng than.
- Nhưng sự ẩm ướt ở bên trong thì không nhìn thấy, trong khi sự
527
suy yếu ở bên ngoài gia tăng. Sự ẩm ướt lan ra trong bề sâu và ăn mòn các bức tường. Một ngày kia, căn nhà sẽ sập xuống và đè chết những người ở trong. Judas! Judas! Thà canh chừng qúa mức còn hơn thiếu thận trọng.
- Con, con đâu phải cái nhà!
- Con là cái nhà của linh hồn con. Đừng để điều xấu len lỏi vào trong nhà và làm cho nó đổ nát... Hãy canh chừng cho tâm hồn các con. Hãy canh chừng tất cả.
- Thưa Thầy con sẽ canh chừng. Nhưng xin Thầy nói thẳng thừng cho con là Thầy có ấn tượng bởi các lời của má con không? Người đàn bà này bệnh. Bà nhìn thấy bóng đen. Con phải kiếm người săn sóc cho bà. Xin Thầy chữa cho bà đi.
- Thầy, Thầy sẽ củng cố cho bà, nhưng chỉ có mình con có thể chữa cho bà bằng cách làm êm đi nỗi lo của bà.
- Lo lắng không có nền tảng. Chúa ơi, hãy tin vậy đi.
- Judas, thà là như vậy, như vậy là hơn. Nhưng con, con hãy tìm cách loại bỏ nó bằng một lối sống luôn luôn ngay chính hơn. Nếu sự lo âu này nảy sinh ra thì chắc chắn nó có một lý do. Hãy xóa bỏ kể cả những kỷ niệm về nó, và má con và Thầy, chúng ta sẽ chúc phúc cho con.
- Thưa Thầy, Thầy sợ là con đã thỏa thuận với Marc Josias?
- Thầy chẳng sợ gì cả.
- A! Vậy tốt. Bởi vì con chỉ tìm cách thuyết phục anh ta. Và con tin đó là bổn phận của con. Chả ai lo làm việc đó cả. Con có lòng nhiệt thành với các linh hồn.
- Cẩn thận để điều đó không sinh hại cho anh - Phêrô nói cách thật thà.
- Anh muốn nói gì? - Judas nói vẻ gây hấn.
- Không có gì khác ngoài điều này: Khi đụng vào những thứ cháy bỏng thì phải dùng đồ cách nhiệt.
- Vậy cái gì, trong trường hợp của chúng ta?
- Cái gì nữa? Một sự thánh thiện lớn lao!
- Và tôi, tôi không có phải không?
- Anh không, tôi cũng không, không ai trong chúng ta có cả. Vậy
528
chúng ta có thể bị cháy và để lại những vết phỏng.
- Vậy ai sẽ săn sóc các linh hồn?
- Lúc này thì Thầy. Sau này sẽ là chúng ta, mà theo lời Người hứa thì chúng ta sẽ có các phương tiện và quyền hành để làm.
- Nhưng tôi, tôi muốn làm trước. Không bao giờ qúa sớm để làm việc cho Chúa.
- Đó. Tôi cho là anh nói đúng. Nhưng tôi cho rằng công việc đầu tiên phải làm cho Chúa, là làm trên chính chúng ta. Đi giảng sự thánh thiện cho người khác trước khi lo giảng cho chính mình!...
- Anh ích kỷ.
- Không hề đâu.
- Có mà.
- Không.
Cuộc cãi lộn bắt đầu. Giêsu can thiệp: “Phêrô có lý trong phần lớn. Con cũng vậy. Con cũng hơi có lý. Vì sự rao giảng phải dựa trên việc làm. Vậy phải lo tự thánh hóa để có thể nói: ‘Hãy làm điều tôi nói, bởi vì nó chính đáng’. Và điều đó xác nhận các lời của Phêrô. Nhưng công việc làm cho các linh hồn khác cũng giúp đào tạo tâm hồn mình, bởi vì nó bó buộc chúng ta phải tốt hơn để không phải nghe những lời bình phẩm của những người mà chúng ta muốn hoán cải. Nhưng đây, chúng ta đến nhà Jeanne rồi... Hãy vào để vui hưởng tình yêu được ở giữa các người thợ của Chúa, để bằng việc làm, ta cho các lời thuyết giáo của tương lai”.
60* THỨ NĂM TRƯỚC LỄ VƯỢT QUA.
PHẦN THỨ BỐN: TRONG NHÀ JEANNE
- Bình an cho nhà này và cho tất cả những người hiện diện - Giêsu chào như vậy khi bước vào căn tiền đường mênh mông và rất lộng lẫy, đèn nến sáng trưng, mặc dầu hãy còn ban ngày. Và các ngọn đèn qủa là không vô ích, vì nếu đúng là ban ngày, và mặt trời chói lọi ở bên ngoài, trong phố xá và trên mặt tường của các căn
529
nhà quét vôi trắng, nhưng ở đây, trong cái hành lang mênh mông và nhất là rất dài dùng làm tiền đường, đi băng qua khu nhà, từ chiếc cửa nặng nề vào tới khu vườn mà người ta nhìn thấy mầu xanh đang tắm nắng ở cuối hành lang, trông thật xa. Chắc chắn ở đây thường xuyên là ánh sáng mờ, là bóng tối cho những ai ở ngoài vào mà mắt bị chói bởi mặt trời thanh thiên bạch nhật.
Chouza cũng đã dự liệu để các ngọn đèn bằng đồng lớn, với số lượng đông đảo, treo trên hai bờ tường với những khoảng cách đều nhau, tất cả đều được thắp sáng cũng như chiếc đèn chùm trung ương, giống một cái thau lớn bằng đá ngọc mầu hồng, với những thứ được khảm vào các mảnh ngọc thạch mầu hồng đào trong suốt, các đá hoa và các mảnh vảy qúi muôn mầu mà nhờ ánh sáng chiếu từ bên trong, trông rực rỡ như từng ấy vì sao, phóng ra những chiếc cầu vồng trên các bức tường sơn mầu xanh dương đậm, trên các khuôn mặt, trên nền nhà bằng lục vân thạch. Tựa như các ngôi sao ở trên tường, trên mặt, trên nền nhà, những ngôi sao muôn mầu, nhỏ bé và di động, bởi vì chiếc đèn lúc lắc nhè nhẹ do gió luồng thổi qua tiền đường, làm di động liên tục các mảnh vảy qúi.
“Bình an cho nhà này” Giêsu nhắc lại trong khi Người vào và không ngừng chúc lành cho các đầy tớ cúi sâu tới tận đất. Các người khách đầy kinh ngạc cũng được tụ tập ở đó, rất gần vị Rabbi, trong một lâu đài huy hoàng.
Các người khách! Tư tưởng của Giêsu thể hiện rõ ràng. Bữa tiệc tình yêu mà Người muốn có ở trong nhà một người môn đệ tốt là sự thực hiện một trang của Tin Mừng. Có những người ăn mày, những người què quặt, những người mù, những trẻ mồ côi, những người già cả, các bà mẹ trẻ góa bụa với đàn con của họ luôn bám chặt vào y phục của họ, hoặc bú dòng sữa ít oi của bà mẹ đói ăn. Sự giầu sang của Jeanne đã có khả năng thay thế những y phục rách rưới bằng những y phục khiêm tốn nhưng sạch sẽ và mới. Các mái tóc được chải trong sự lo lắng cho được sạch sẽ. Các y phục sạch sẽ của các kẻ khổ sở mà các đầy tớ đã cho sắp hàng và dẫn vào chỗ ngồi, chắc chắn đã cho họ một diện mạo bớt bi đát hơn lúc Jeanne
530
cho người đi kiếm họ tại các ngõ hẻm, tại các ngã tư, trên các con đường dẫn về Jêrusalem, nơi họ xấu hổ để che giấu nỗi khốn khổ của họ, hoặc phơi bày ra để có của bố thí. Nhưng ở bên cạnh những điều này, vẫn còn rõ ràng những thiếu thốn trên khuôn mặt, những phế tật trên các chi thể, và sự khổ sở cô đơn trong cái nhìn...
Giêsu đi qua và chúc phúc. Mỗi kẻ khốn nạn đều nhận được phúc lành của Người. Nhưng nếu tay phải Người giơ lên để chúc phúc, thì tay trái hạ xuống để vuốt ve những cái đầu run rẩy và bạc trắng của các cụ già, hay mái đầu vô tội của các trẻ em. Người đi qua tiền đường như vậy, đi đi lại lại để chúc lành cho mọi người, kể cả những người tới sau khi Giêsu đã chúc phúc rồi, và họ vẫn còn rách rưới, e dè và sợ sệt nép trong một góc, cho tới khi các đầy tớ lịch sự dẫn họ đi để rửa ráy và mặc đồ sạch sẽ như các người đã đến trước.
Một bà góa trẻ đi qua với đàn con của bà... Khốn khó chừng nào! Đứa bé nhất hoàn toàn trần trụi, được gói trong cái khăn rách của mẹ nó... Đứa lớn nhất chỉ có vừa đủ để giữ đoan trang. Chỉ có đứa trưởng nam, một thằng con trai ốm nhom, là có những cái tạm gọi được là quần áo, nhưng đổi lại, nó không có giầy dép gì cả.
Giêsu quan sát và gọi người đàn bà lại và hỏi: “Bà ở đâu tới?”
- Lạy Chúa, ở đồng bằng Saron. Lêvi đã tới tuổi thành niên... Con phải dẫn nó tới Đền Thờ... Con... vì nó không có cha - và người đàn bà khóc không ra tiếng. Tiếng khóc câm lặng của kẻ đã khóc qúa nhiều.
- Chồng bà chết hồi nào?
- Một năm rồi, vào tháng Scébat. Con đang mang thai đã được hai tuần trăng... - Và bà ta trấn át tiếng nấc để khỏi khuấy rối, bằng cách cúi gằm xuống trên con nhỏ của bà.
- Vậy là đứa nhỏ được tám tháng?
- Lạy Chúa vâng.
- Chồng bà làm gì?
Người đàn bà rì rầm rất khẽ tới nỗi Giêsu không hiểu. Người cúi xuống để nghe và nói: “Nhắc lại đi, đừng sợ”.
531
- Ông ta là thợ rèn trong một xưởng bịt móng ngựa, nhưng ông ta rất bệnh... vì ông ta có các vết thương bị nhiễm độc - và bà ta kết thúc bằng cách nói rất nhỏ: “Đó là người lính Rôma”.
- Nhưng bà, bà là Israel?
- Vâng. Lạy Chúa, xin đừng xua đuổi con vì sự ô uế, như các anh con đã làm khi con đến xin nài tình thương của họ sau khi Cornélius chết...
- Đừng sợ như vậy. Bây giờ bà làm gì?
- Làm đầy tớ khi người ta cần đến con; mót lúa, giặt đồ, chà sợi gai... tất cả... để cho chúng có của ăn. Bây giờ Lêvi sắp làm nông dân... nếu người ta mướn nó, vì... đó là đứa con hoang về nòi giống.
- Hãy phó thác cho Chúa.
- Lạy Chúa, nếu con không có sự tin cậy thì con đã tự tử cùng với chúng.
- Thôi, bà đi đi. Chúng ta sẽ gặp lại nhau - và Người cho bà đi.
Trong khi đó, Jeanne chạy lại và cứ qùi gối để chờ Thầy nhìn thấy bà. Qủa vậy, Người quay lại và nhìn thấy bà.
- Bình an cho con, Jeanne. Con đã vâng lời Thầy cách trọn vẹn.
- Vâng lời Thầy là niềm vui của con. Nhưng con không phải một mình để sửa soạn cái “triều đình” như Thầy muốn. Chouza đã giúp con bằng mọi cách, cả Matta và Maria nữa, và Êlise cũng cùng với các cô. Người thì sai các đầy tới đi lấy các thứ cần và giúp các đầy tớ của họ tụ họp khách, người thì giúp các đầy tớ nam và nữ lo việc tắm, rửa ráy cho các “người yêu qúi” như Thầy gọi. Bây giờ, với sự cho phép của Thầy, con đi phát cho mọi người một chút đồ ăn để họ không bị qúa đói trong khi chờ bữa ăn.
- Ừ, làm đi. Các bà môn đệ đâu?
- Trên sân thượng trên cùng, nơi con cho sửa soạn bàn ghế. Con có nghĩ đúng không?
- Đúng, Jeanne. Ở trên đó, họ sẽ được yên tĩnh, họ cũng như chúng ta.
- Vâng, con cũng nghĩ vậy. Lại nữa, không có phòng nào khác con có thể sửa soạn cho từng ấy người... và con không muốn phân
532
chia để không gây ra ghen tị và đau khổ. Những người khốn khổ họ rất nhậy cảm, họ rất dễ khổ, con cũng đã nói... Họ chỉ là một vết thương, và chỉ cần một cái nhìn là có thể làm cho họ khổ.
- Đúng, Jeanne. Tâm hồn họ nhậy cảm với tình thương, và con hiểu. Nguyện Thiên Chúa thưởng cho con vì tình thương của con. Có nhiều nữ môn đệ không?
- Ồ! Tất cả các bà đã ở Jêrusalem!... Nhưng... Chúa ơi... Có lẽ con đã phạm một lỗi lầm... Con muốn nói riêng với Thầy một điều.
- Dẫn Thầy đến chỗ vắng đi.
Hai người đi vào một phòng. Nơi này, vì các đồ chơi rải rác khắp chỗ, tôi hiểu đó là phòng chơi của Maria và Mathia.
- Sao, Jeanne?
- Ôi! Lạy Chúa con, chắc là con đã thiếu khôn ngoan... Nhưng tư tưởng đến với con qúa nhanh và qúa mạnh! Chouza đã trách con. Nhưng bây giờ... Lúc ở Đền Thờ, có một người nô lệ của Plautina đến với một tấm bảng. Bà và các bạn bà hỏi con xem họ có thể gặp Thầy không. Con đã trả lời: “Được, vào sau trưa, tại nhà tôi”. Và họ sắp đến... Con có làm sai không? Ôi! Không phải vì Thầy... Nhưng vì những người khác, vì những người hoàn toàn là Israel... và không có tình yêu như Thầy. Nếu con đã sai lỗi, con sẽ cố gắng để sửa chữa... Nhưng con ước ao cho thế giới, toàn thể thế giới yêu Thầy, nên... con đã không suy nghĩ rằng trong thế giới chỉ có Thầy là toàn thiện, và có qúa ít người tìm cách để giống Thầy.
- Con đã làm đúng. Hôm nay Thầy giảng cho tất cả bằng hành động. Và sự hiện diện của các người ngoại giáo ở giữa những người tin vào Giêsu Vị Cứu Tinh sẽ là một trong những điều mà trong tương lai, những kẻ tin vào Thầy phải làm. Các đứa nhỏ đâu?
- Chúa ơi, chúng ở khắp nơi - Jeanne mỉm cười nói cách chắc chắn, và bà kết thúc: “Buổi lễ làm chúng sung sướng. Chúng chạy
533
chỗ nọ chỗ kia như những con chim hạnh phúc”.
Giêsu rời bà và trở lại tiền đường, Người làm hiệu cho những người ở đó đi ra vườn để lên chiếc sân thượng mênh mông.
Một sinh hoạt vui tươi làm đầy căn nhà, từ dưới nhà hầm lên tới mái nhà. Đó là sự đi lại không ngừng với những thực phẩm và đồ đạc, với những gói quần áo, các bàn ghế. Người ta hộ vệ các khách, trong khi trả lời các câu hỏi cách luôn luôn vui vẻ và tình nghĩa.
Jonatha nghiêm trang trong chức vụ quản đốc của ông: điều hành, quan sát, chỉ bảo không ngừng.
Bà già Esther sung sướng nhìn sự nhiệt thành và hạnh phúc của Jeanne, cười tươi giữa vòng tròn các trẻ em nghèo mà bà phát cho những cái bánh nướng, trong khi kể cho chúng những câu chuyện tuyệt vời. Giêsu đứng lại một lát để nghe câu kết luận hay ho của một trong những chuyện đó, chỗ người ta kể rằng: “Đối với cô Bình Minh tốt của tháng năm, kẻ không bao giờ phản ngụy chống lại Chúa vì những đau khổ xảy đến cho gia đình cô, Thiên Chúa ban rất nhiều ơn, cho phép Bình Minh tháng năm mang sự bảo vệ và của cải cho các anh cô. Các thiên thần đổ đầy bột vào cái thùng nhỏ, hoàn tất công việc trên cái khung cửi để giúp cô gái nhỏ và nói: ‘Đây là em chúng ta, vì nó yêu Chúa và tha nhân. Chúng ta phải giúp nó’”.
- Thiên Chúa chúc lành cho bà, Esther! Thầy cũng dừng lại để nghe dụ ngôn của bà! Bà có muốn Thầy không? - Giêsu mỉm cười nói.
- Ôi! Chúa của con! Chính con là người phải nghe Thầy. Nhưng với những đứa nhỏ này, con còn có thể thích hợp. Con, bà già ngu si tội nghiệp!
- Tâm hồn ngay chính của bà cũng hữu ích cho người lớn nữa. Tiếp tục đi! Tiếp tục đi Esther... - Người mỉm cười với bà và bỏ đi.
Bây giờ các người khách tản mát trong khu vườn rộng mênh mông để ăn bữa dặm trong khi nhìn khắp chung quanh, và người nọ nhìn người kia, kinh ngạc. Họ nói chuyện và trao đổi những nhận xét về niềm hạnh phúc bất ngờ. Nhưng khi nhìn thấy Giêsu đi qua,
534
họ đứng dậy khi họ có thể, và cúi sâu để thờ phượng.
- Ăn đi! Ăn đi! Cứ tự do và hãy chúc tụng Chúa - Giêsu nói khi đi qua để tới nhà của các người làm vườn, nơi bắt đầu chiếc cầu thang ở bên ngoài dẫn tới cái sân thượng mênh mông.
- Ôi! Thầy của con! - Maria Mađalêna kêu. Cô chạy ra khỏi một phòng, hai tay ôm đầy khăn áo cho các đứa nhỏ, và giọng nói êm như phong cầm vàng của cô làm đầy con đường che rợp bởi các cây hoa hồng.
- Maria, Thiên Chúa ở với con. Con đi đâu mà vội thế?
- Ồ, con có mười đứa trẻ phải mặc đồ cho. Con đã tắm cho chúng, bây giờ con mặc cho chúng. Sau đó, con sẽ dẫn chúng đến cho Thầy, tươi mát như các bông hoa. Con đi nhe Thầy, vì... Thầy nghe thấy không? Giống như mười con chiên kêu bê bê... - Và nàng chạy đi với nụ cười tuyệt vời và trong sáng, trong bộ y phục đơn giản và qúi phái bằng vải gai trắng, ôm chặt lấy thắt lưng bởi chiếc giây nịt nhỏ bằng bạc; tóc thắt gọn một nút ở sau gáy, được giữ chặt bằng một chiếc băng trắng thắt lại ở trước trán.
- Cô ta khác với cái cô ở trên núi Phước Thật chừng nào! - Zêlote kêu lên.
Ở bậc cầu thang thứ nhất, họ gặp đứa con gái của Jairô và Annalia đang chạy xuống lẹ tới nỗi các cô như bay.
“Thầy! “, “Chúa!” Các cô kêu.
- Thiên Chúa ở với các con. Các con đi đâu vậy?
- Đi lấy khăn bàn. Người đầy tớ của Jeanne sai chúng con đi. Thầy có nói không?
- Chắc chắn rồi.
- Ôi! Vậy chạy thôi Miryam! Chúng ta làm lẹ lên - Annalia nói.
- Các con có đủ giờ để làm tất cả công việc của các con mà! Thầy còn đợi những người khác nữa. Nhưng này, con gái! Con được gọi là Miryam từ hồi nào vậy? - Người nói trong khi nhìn đứa con gái của Jairô.
- Từ hôm nay. Từ bây giờ. Chính mẹ Thầy đã cho con cái tên đó. Bởi vì... có phải không Annalia? Hôm nay là ngày trọng đại của
535
bốn trinh nữ.
- Ờ, đúng. Chúng ta nói với Chúa đi? Hay chúng ta để Maria lo nói!
- Để Maria! để Maria! Chúa ơi, đi đi. Mẹ sẽ nói với Thầy - và các cô chạy đi, trong bông hoa khởi đầu cho tuổi trẻ, nhân loại trong vóc dáng xinh đẹp, thiên thần trong cái nhìn trong sáng...
Họ lên tới bậc thứ ba thì gặp Êlise Bétsur đang bước xuống một cách thận trọng cùng với bà vợ của Philíp.
- A! Chúa! Đối với người nọ thì Chúa lấy đi, đối với người kia thì Chúa cho... nhưng nguyện Chúa được chúc tụng giống nhau - bà vợ Philíp kêu lên.
- Bà nói về cái gì vậy?
- Thầy sẽ biết. Đau đớn chừng nào và vinh quang chừng nào Chúa ơi! Thầy cắt cụt con đi rồi Thầy đội triều thiên cho con.
Phillíp đứng rất gần Giêsu, ông nói: “Bà nói sao? Bà nói về cái gì? Bà là vợ tôi, cái gì xẩy đến cho bà cũng làm tôi xúc động...”
- Ôi! Ông cũng sẽ biết, Philíp. Đi đi, đi với Thầy đi.
Trong lúc đó Giêsu hỏi Êlise xem bà đã khỏi bệnh chưa. Người đàn bà mà sự đau đớn lớn lao khi trước đã cho bà cái oai phong của Bà Hoàng Đau Khổ, bà nói: “Lạy Chúa của con, rồi. Nhưng đau đớn với một con tim bình an thì không phải là đau đớn. Và bây giờ thì con có sự bình an ở trong lòng con”.
- Và sắp sửa bà sẽ có nhiều hơn.
- Chúa ơi, cái gì?
- Đi đi rồi trở lại, và bà sẽ biết.
- Giêsu đây rồi! Giêsu đây rồi! - hai đứa trẻ kêu lên khi chúng đang đứng áp mặt vào chiếc lan can trang trí kiểu Ả Rập bao quanh khu sân thượng ở hai lối nhìn xuống vườn, mà từ đó các cành hoa hồng rũ xuống cùng với các cành lài đầy hoa. Khu sân thượng giống như mảnh vườn treo mênh mông, mà trên đó, vào giờ nhiều mặt trời này, trải ra một bức màn hoa lá muôn mầu. Hết mọi người đang bận sửa soạn trên sân thượng đều quay lại khi nghe tiếng kêu của Maria và Mathia. Họ để công việc đó, chạy lại gặp Giêsu mà
536
hai đứa trẻ đã bám chặt vào đầu gối.
Giêsu chào số đông đảo các bà chen chúc. Trong số các nữ môn đệ chính tông, tức là các bà, các cô, các chị của các tông đồ và các môn đệ, có lẫn lộn những người khác ít được biết hơn, ít thân mật hơn, chẳng hạn bà vợ của anh họ Simon, các bà mẹ của các người đánh xe lừa ở Nazarét, bà mẹ của Abel người Bétlem thuộc Galilê, Anna và Juda (nhà ở gần hồ Méron), Maria Simon mẹ Judas Kêriot, Noêmi người Êphêsô, Sara và Marcelle ở Bêtani (Sara là người đàn bà mà Giêsu đã chữa cho ở trên núi Phúc Thật, và được gởi tới cho Lazarô cùng với ông già Ismael. Hình như bây giờ bà được làm đầy tớ cho Maria Mađalêna); rồi bà mẹ của Jaia, mẹ của Philíp ở Arbêla, Dorca, bà mẹ góa trẻ ở Cêsarê Philíp và mẹ chồng của bà; bà mẹ của Annalia; Maria ở Bozra, người đàn bà cùi được khỏi, đi Jêrusalem cùng với chồng bà. Và những người khác, nhiều người khác mà tôi biết bởi cái nhìn, nhưng tôi không thể nói đích xác tên của họ.
Giêsu đi vào khu sân thượng mênh mông hình chữ nhật mà một bề nhìn về phía Sixte, Người tới bên căn phòng nhỏ là chỗ đầu cầu thang để xuống phía trong nhà. Nó giống như cái hộp vuông nhỏ, không cao, ở góc phía bắc của sân thượng. Jêrusalem hiện ra toàn diện cùng với các vùng phụ cận ở gần kề. Một quang cảnh ngạc nhiên. Tất cả các nữ môn đệ, tất cả các bà đều bỏ việc bàn ghế để đến bao quanh Giêsu. Các người đầy tớ tiếp tục công việc.
Maria ở gần con mẹ. Trong ánh sáng bao la bóng vàng xuyên qua tấm màn lớn căng trên sân thượng đã trở thành mầu ngọc bích, nơi mà để đi được tới mắt, nó phải được lọc qua các khóm bông lài và bông hồng đan vào nhau như cái giàn, Maria có vẻ trẻ hơn, lanh lẹ hơn: một người chị của các môn đệ trẻ nhất, chỉ hơi lớn tuổi hơn, và đẹp, đẹp như một bông hồng lộng lẫy nhất đang nở trong cái vườn treo, trong những cái chậu lớn để đầy chung quanh, có trồng các cây hồng, cây lài, cây linh lan, cây huệ và các cây đáng yêu khác.
- Mẹ ơi, vợ con nó nói bằng cái cách!... Cái gì đã xảy ra để nó
537
có thể nói được là cắt cụt và đội triều thiên? - Philíp hỏi, vì ông nóng lòng muốn biết.
Maria mỉm cười êm đềm trong khi mẹ nhìn ông, và rất tin tưởng, mẹ cầm tay ông và nói: “Con có thể cho Giêsu của mẹ một cái đối với con là thân thiết nhất không? Thực tình thì con phải cho... bởi vì Người cho con nước Trời và con đường để lên đó”.
- Chắc chắn chứ mẹ. Nhưng con phải biết nó... Nhất là nếu con biết rằng điều con cho Người sẽ làm Người vui.
- Người vui, Philíp: Đứa con gái thứ hai của con cũng tự nguyện dâng mình cho Chúa. Nó vừa nói điều đó với mẹ nó và với mẹ, trước mặt đông đảo các môn đệ.
- Con?! Con?! - Philíp kinh ngạc hỏi trong khi ông giơ ngón tay trỏ chỉ vào cô gái ngoan đang ôm chặt lấy Maria như để được Người che chở. Vị tông đồ không sao nuốt được cái cú thứ hai này, nó làm cho ông vĩnh viễn hết hy vọng có con cháu nối dòng. Ông lau những giọt mồ hôi mà bỗng dưng cái tin này đã gây ra... Ông quay mắt nhìn những người chung quanh. Ông chiến đấu... Ông đau khổ...
Người con gái rên rỉ: “Ba ơi... sự tha thứ của ba... và phúc lành của ba...” Và cô qùi ở chân ông.
Philíp vuốt ve cách máy móc mái tóc nâu đen và hắng giọng, vì ông bị nghẹn. Sau cùng ông nói: “Người ta tha thứ cho những đứa con phạm tội... Con, con không phạm tội khi tự hiến cho Thầy... và... và... người cha tội nghiệp của con chỉ có thể nói với con... nói với con: ‘Nguyện cho con được phúc’. A! Con gái, con gái của tôi!... Ý muốn của Thiên Chúa êm đềm và kinh khủng chừng nào!” Và ông cúi xuống nâng cô dậy, ôm cô, đặt một cái hôn trên trán cô, trên đầu cô, và ông khóc... Rồi vẫn ôm cô trong tay, ông lại với Giêsu và nói với Người: “Con, con đã sinh ra nó, nhưng Thầy, Thầy là Thiên Chúa của nó... Quyền của Thầy lớn hơn của con... Tạ ơn... Tạ ơn Chúa... vì... niềm vui mà...” ông không thể tiếp tục. Ông qùi gối tại chân Giêsu và cúi xuống hôn chân Người khi rên rỉ: “Không bao giờ nữa! Không bao giờ có các cháu... Giấc mơ của con... nụ cười của tuổi già con... Lạy Chúa con! Xin tha cho con những nước
538
mắt này... Con là người đàn ông tội nghiệp...”
- Đứng dậy đi, bạn của Thầy. Và hãy sung sướng vì được tặng những bông hoa đầu mùa cho mảnh vườn các thiên thần. Lại đây, lại đây, ở giữa mẹ Thầy và Thầy. Chúng ta hãy nghe từ mẹ cho biết sự kiện đã xảy ra thế nào. Vì con bảo đảm với mẹ là con đâu có ở đây vô ích.
Maria giải thích: “Mẹ cũng vậy, mẹ chỉ biết một ít điều: chúng ta nói chuyện giữa các phụ nữ với nhau, và vì họ thường hỏi mẹ về lời khấn đồng trinh của mẹ. Người ta còn hỏi mẹ là trong tương lai, các trinh nữ sẽ thế nào, mẹ nhìn thấy trước những nhiệm vụ nào, những vinh quang nào dành cho các nàng. Mẹ đã trả lời như mẹ biết... Và về tương lai, mẹ tiên đoán một đời cầu nguyện, yên ủi Giêsu vì những đau khổ thế giới làm cho Người. Mẹ nói: các trinh nữ sẽ nâng đỡ các tông đồ, họ sẽ tẩy rửa thế giới dơ bẩn, mặc lại cho nó, xức dầu thơm cho nó bằng sự trong sạch của họ. Họ sẽ là các thiên thần hát lời ca tụng để làm át đi những lời phạm thượng. Giêsu sẽ được hài lòng, và Người sẽ ban ơn cho thế giới, và Người sẽ ban ơn thương xót nhờ những con chiên nhỏ này đang rải rác giữa bầy sói... Và mẹ còn nói những điều khác nữa. Chính lúc đó, đứa con gái của Jairô đến nói với mẹ: ‘Ôi mẹ, mẹ cho con một cái tên cho cái tương lai đồng trinh của con đi, vì con không thể để cho người đàn ông nào vui hưởng thân xác con là cái đã được hồi sinh bởi Giêsu. Thân xác con chỉ thuộc về Người mà thôi, cho tới khi nó là cái xác ở trong mồ và linh hồn con ở trên trời’. Rồi Annalia nói: ‘Con cũng vậy, con đã nghĩ đến làm như vậy. Và hôm nay con nhẹ nhàng còn hơn một con én, vì con đã cắt đứt mọi sợi giây’. Và chính lúc đó mà con gái con, ôi Philíp, nó nói: ‘Tôi cũng vậy. Tôi cũng sẽ như các bạn: đồng trinh đời đời!’ Lúc đó mẹ nó đến và bảo nó phải suy nghĩ kỹ, vì người ta không thể quyết định một điều như vậy theo kiểu này. Nhưng nó không thay đổi ý kiến. Và có những người hỏi nó xem nó đã nghĩ tới điều đó lâu chưa, thì nó trả lời là ‘chưa’. Và có những người hỏi nó rằng chuyện ấy xảy ra như thế nào thì nó nói: ‘Tôi chẳng biết nữa. Nó giống như một mũi tên bằng ánh sáng
539
xuyên qua qủa tim tôi, và tôi hiểu rằng tôi yêu Giêsu bằng tình yêu nào’”.
Bà vợ của Philíp hỏi ông: “Ông đã nghe chưa?”
- Tôi nghe rồi bà ơi! Thể xác rên xiết... nhưng nó phải hát, vì đó là vinh quang của chúng ta. Cái thân xác nặng nề của chúng ta đã sinh ra hai thiên thần. Đừng khóc bà ạ. Bà đã nói lúc nãy là Người đội triều thiên cho chúng ta. Bà hoàng hậu thì đâu có khóc khi bà nhận chiếc vương miện...
Nhưng Philíp vẫn khóc, và nhiều người khác cũng khóc, đàn ông cũng như đàn bà, vì bây giờ tất cả đều tụ họp ở trên đó. Maria Simon chảy nước mắt trong một góc... Maria Magđala khóc trong một góc khác, dày vò một cách máy móc y phục của cô, giật ra một cách máy móc những sợi trang điểm ở gấu áo. Anastasica khóc và lấy tay bịt mặt để giấu khuôn mặt đầy nước mắt.
- Tại sao các con khóc? - Giêsu hỏi.
Không ai trả lời cả. Chúa liền gọi Anastasica và hỏi bà lần nữa, bà trả lời: “Lạy Chúa, vì một cái vui buồn nôn cảm thấy chỉ trong một đêm mà con bị mất làm một trinh nữ”.
- Hết mọi tình trạng đều tốt khi người ta dùng nó để phụng sự Chúa. Trong Giáo Hội tương lai, phải có các trinh nữ và các phụ nữ kết hôn. Tất cả đều hữu ích cho chiến thắng của nước Thiên Chúa trong thế giới và trong công việc của các anh em linh mục. Êlise Betsur, lại đây. Hãy an ủi người đàn bà này. Bà ta không là gì khác ngoài là một đứa con...
Và bằng chính tay Người, Người đặt Anastasica vào vòng tay của Êlise. Người quan sát họ trong khi Êlise vuốt ve cô, và cô ta nép mình vào cánh tay từ mẫu. Rồi Người hỏi: “Êlise, bà biết chuyện cô ta không?”
- Thưa Chúa có. Cô làm con thương quá! Con bồ câu tội nghiệp không có tổ!
- Êlise, bà yêu người chị em này không?
- Yêu à? Qúa yêu đi chứ, nhưng không như một chị em. Cô có thể làm con của con. Bây giờ con ôm cô trong tay, con thấy mình
540
lại trở thành người mẹ hạnh phúc của thời qúa khứ. Thầy sẽ ký thác con linh dương êm đềm này cho ai?
- Cho bà đó Êlise.
- Cho con?
Và người đàn bà gỡ vòng tay để nhìn Chúa, không tin...
- Cho bà mà! Bà không muốn sao?
- Ôi! Lạy Chúa! Chúa! Chúa!... - Êlise qùi gối, lết lại với Giêsu, và bà không biết phải nói gì, bà không biết phải làm sao để bộc lộ nỗi vui của bà.
- Đứng dậy đi. Và bà hãy là một bà mẹ thánh cho cô ta, và nguyện cho cô ta là một người con gái thánh cho bà. Và cả hai hãy tiến bước trên đường của Chúa. Maria Lazarô, tại sao con khóc? Vừa lúc nãy con vui vẻ lắm mà! Mười bông hoa mà con muốn dẫn lại cho Thầy đâu?
- Thưa Thầy, chúng đã no, chúng ngủ trong sự sạch sẽ... Còn con, con khóc vì con không bao giờ được sự trinh trong của các trinh nữ nữa. Và tâm hồn con sẽ khóc mãi. Nó sẽ không bao giờ được thỏa lòng, vì con... vì con đã phạm tội...
- Sự tha thứ của Thầy và nước mắt con làm cho nó còn trong sạch hơn các cô. Lại đây, đừng khóc nữa. Hãy để nước mắt lại cho những kẻ có những điều phải xấu hổ. Nào, đi lấy các bông hoa của con đi. Nào, cả các con nữa: vợ hiền và trinh nữ. Hãy đi gọi các khách của Thiên Chúa lên. Phải cho họ đi trước khi các cổng đóng, vì nhiều người trong đám họ phải tản mát về miền quê.
Họ vâng lời đi. Trên sân thượng chỉ còn lại Giêsu. Người vuốt ve Maria và Mathia. Êlise và Anastasica ở hơi xa, cầm tay nhau và nhìn nhau với nụ cười tươi sáng bởi một giọt nước mắt vui mừng. Maria rất thánh nghiêng mình trên Maria Simon với tình thương xót. Jeanne ở ngưỡng cửa, nhìn không nhất định, lúc nhìn bên trong, lúc nhìn bên ngoài, hoặc nhìn Giêsu. Các tông đồ và các môn đệ đi xuống cùng một trật với các phụ nữ để giúp các đầy tớ di chuyển các người tàn tật, mù, què, gù, già nua... đi lên chiếc cầu thang dài.
Giêsu cúi xuống trên hai đứa trẻ, nhưng Người ngẩng đầu lên và
541
thấy mẹ Người đang cúi xuống trên mẹ Judas, Người đứng lên và đi lại với hai bà. Người đặt một bàn tay trên đầu tóc muối tiêu của Maria Simon: “Tại sao bà khóc?”
- Ôi! Lạy Chúa! Lạy Chúa! Con đã sinh ra một thằng qủi! Không một bà mẹ nào trong Israel phải đau khổ như con.
- Maria, có một bà mẹ khác, và với cùng một lý do như bà, đã nói với Thầy những lời này. Các bà mẹ tội nghiệp!...
- Ôi! Lạy Chúa! Vậy là còn một người khác giống như Judas của con: phản trắc và độc ác đối với Thầy? Ôi! Không thể được! Nó có Thầy, mà nó nhúng thân vào những thực hành ô uế. Nó hít hơi thở của Thầy mà nó dâm đãng, trộm cắp, có lẽ nó sẽ trở thành sát nhân... Nó... Ôi! Tư tưởng của nó dối trá. Đời nó là một cơn sốt. Chúa ơi! Xin làm cho nó chết. Vì tình thương, xin làm cho nó chết!
- Maria, con tim của bà chỉ nó cho bà xấu hơn là thực tình nó là. Sự sợ hãi đã làm bà hoảng hốt. Nhưng bình tĩnh lại và hãy lý luận. Bà có những bằng cớ nào về lối sống của nó?
- Đối với Thầy thì không có gì. Nhưng đó là cái núi lở đang đổ xuống. Con đã bắt gặp nó tại trận, và nó không còn thể giấu các bằng cớ... Kìa, nó tới... Xin làm phước nín lặng! Nó nhìn con. Nó nghi ngờ. Đó là sự đau đớn của con. Trong Israel không còn bà mẹ nào khác phải khổ như con...
Maria thì thầm: “Tôi... cùng với đau khổ của tôi, tôi thêm vào các đau khổ của tất cả các bà mẹ... Cái đau khổ của tôi, nó gây ra bởi sự thù ghét, không phải của một người, mà của toàn thế giới”.
Giêsu bị Jeanne gọi nên lại với bà. Trong lúc đó, Judas lại với mẹ ông mà Maria còn đang an ủi, và ông mắng bà: “Mẹ còn có thể nói những điều mê sảng của mẹ nữa sao? Vu khống cho tôi? Bây giờ mẹ đã sung sướng chưa?”
- Judas! Con nói với mẹ con như vậy sao? - Maria hỏi cách nghiêm nghị, và đây là lần thứ nhất tôi thấy như vậy...
- Phải. Bởi vì tôi mệt mỏi vì sự khủng bố của bà ta!
- Ôi! Con trai của mẹ! Đó không phải là khủng bố, mà là tình yêu. Con nói rằng mẹ bệnh, nhưng chính con bệnh. Con nói rằng
542
mẹ vu khống cho con và mẹ nghe các kẻ thù của con, nhưng chính con đã lầm. Con đi theo và năng lui tới với các kẻ xấu, chúng lôi kéo con, bởi vì con yếu đuối, và chúng nhận ra... Hãy tin ở mẹ con. Hãy nghe Anania là người lớn tuổi và khôn ngoan. Judas! Judas! Hãy thương lấy chính mình con và thương mẹ! Judas! Con đi đâu? Judas!
Judas hầu như chạy băng qua sân thượng. Ông quay lại và kêu: “Tới nơi tôi hữu ích và được kính nể”. Và ông lao xuống cầu thang, trong khi người mẹ tội nghiệp từ lan can cúi xuống và kêu với ông: “Đừng tới đó! Đừng tới đó! Chúng muốn hủy hoại con! Con! Con ! Con trai mẹ!...”
Judas xuống tới dưới nhà và cây cối che khuất ông khỏi mắt của mẹ ông. Một lát sau, ông lại xuất hiện ở chỗ có khoảng trống, trước lối vào tiền đường.
- Nó đi... Sự kiêu căng xâu xé nó! - mẹ ông rên rỉ.
- Maria, chúng ta hãy cầu nguyện cho nó. Hai chúng ta hãy cầu nguyện với nhau... - Đức Trinh Nữ nói khi cầm tay người mẹ buồn của kẻ giết Chúa tương lai.
Trong lúc đó các khách đã bắt đầu lên... và Giêsu nói chuyện với Jeanne:
- Tốt, vậy hãy cho các bà đến. Rất tốt là các bà mặc y phục Hy Bá để không đụng phải thành kiến của nhiều người. Thầy đợi các bà ở đây. Con đi gọi các bà đi - Và đứng tựa vào khung cửa, Người quan sát dòng người các khách dự tiệc mà các tông đồ, các môn đệ, đàn ông và đàn bà, dìu dắt một cách yêu thương, theo thứ tự đã được chỉ định trước: Ở giữa là dẫy bàn thấp của các trẻ em, ở hai bên là bàn sẵn sàng cho những người khác, đặt song song.
Nhưng trong khi các người mù, người què, người gù, người cụt chân tay, người già cả, các bà góa, các người hành khất ngồi vào chỗ cùng với những câu chuyện thương tâm còn in trên nét mặt, thì đây, ngoan ngoãn dễ thương như những lẵng hoa, người ta mang tới những cái thúng đã cải thành những cái nôi, và có cả những cái hộp, ở trong có để cái gối nhỏ, mỗi cái có một đứa trẻ đã no nê,
543
nằm ngủ an bình. Chúng đã được lấy ra từ các bà mẹ hành khất của chúng. Maria Magđala tươi cười chạy đến với Giêsu và nói: “Chúa ơi! Các bông hoa đã đến. Xin tới chúc lành cho chúng”.
Nhưng lúc đó, Jeanne bước lên từ chiếc cầu thang ăn thông với phía trong nhà, bà nói: “Thưa Thầy, các môn đệ dân ngoại đây”. Có bảy bà, ăn vận bình dân mầu đậm, giống như y phục của dân Hy Bá. Tất cả các bà đều có khăn voan che mặt và áo khoác dài phủ tới gót chân.
Có hai bà lớn con, vẻ oai vệ. Những bà khác khổ người trung bình. Nhưng sau khi đã tôn kính Thầy, các bà liền cởi áo khoác, và ta dễ dàng nhận ra họ: Plautina, Lidia, Valêria, người nô lệ được giải phóng Flavia, người đàn bà đã viết các lời của Giêsu trong vườn của Lazarô. Và có ba bà lạ. Một trong các bà, với cái nhìn của kẻ quen nghề ra lệnh, nhưng bà ta qùi xuống và nói: “Cùng với con, Rôma xin phủ phục dưới chân Ngài”. Và có một mệnh phụ khoảng năm mươi, dáng trẻ trung, dong dỏng cao, tươi mát như một bông hoa đồng nội.
Maria Magđala nhận ra các bà Rôma, mặc dầu y phục Hy Bá của họ. Cô thì thầm: “Claudia!” Và cô đứng bất động, mở tròn đôi mắt.
- Tôi đây. Tôi đã nghe đủ bởi người khác về Sự Thật và Sự Khôn Ngoan. Cần phải đến thẳng với nguồn.
- Chị tin là họ nhận ra chúng tôi không? - Valêria hỏi Maria Magđala.
- Nếu các chị không tự phản bội bằng cách xưng tên ra thì tôi tin là không. Ngoài ra, tôi sẽ xếp các chị vào một nơi an toàn.
- Không, Maria. Các bà hãy phục vụ các người ăn mày ngồi tại bàn. Không ai có thể nghĩ được rằng các nhà qúi tộc phục vụ các người nghèo, những người Hy Bá thấp bé nhất.
- Ôi Thầy, đó là tư tưởng hay. Bởi vì kiêu căng nó là bẩm sinh trong chúng con.
- Và sự khiêm nhường là dấu hiệu rõ ràng nhất trong giáo lý của Thầy. Ai muốn theo Thầy thì phải yêu Sự Thật, sự Trong Sạch, sự
544
Khiêm Nhường, có tình Bác Ái với mọi người, và có sự anh hùng để thách đố với ý kiến của loài người và các áp lực của các bạo chúa.
- Xin lỗi Rabbi, đứa bé gái này là một đứa nô lệ, con gái của một người nô lệ. Con đã chuộc nó bởi vì nó gốc Israel, và Plautina giữ nó với bà. Nhưng con cho Thầy. Con nghĩ là làm đúng. Tên nó là Egla. Nó thuộc về Thầy.
- Maria, nhận lấy nó đi... rồi chúng ta sẽ tính... Cám ơn bà.
Giêsu ra giữa sân thượng để chúc lành cho các trẻ. Các bà đã gây ra rất nhiều tò mò, nhưng vì ăn mặc và chải tóc theo kiểu Hy Bá, y phục hầu như giống người nghèo, nên các bà không tạo ra nghi ngờ. Giêsu tới giữa sân thượng, gần dẫy bàn của các trẻ em, Người cầu nguyện, dâng tiến của ăn cho Chúa thay cho mọi người, Người chúc phúc và ra lệnh bắt đầu bữa ăn.
Các tông đồ, môn đệ nam và nữ, và các mệnh phụ, là kẻ hầu bàn của các người nghèo. Giêsu làm gương bằng cách xắn cao tay áo rộng của chiếc áo đỏ của Người và săn sóc các trẻ em, được phụ giúp bởi Miryam Jairô và Gioan.
Các lỗ miệng làm việc mạnh mẽ trông rõ, nhưng tất cả các con mắt đều hướng về Chúa. Chiều đã tới, người ta dỡ tấm màn ra trong khi các người đầy tớ mang đến những ngọn đèn vẫn còn như vô ích.
Giêsu đi vòng giữa các bàn. Người không để cho ai thiếu sự khích lệ và giúp đỡ. Người qua lại nhiều lần như vậy cùng với các bà qúi phái Claudia và Plautina. Các bà khiêm nhường chia bánh và mang rượu tới tận miệng cho các người mù, tàn tật, cụt tay. Người mỉm cười với các trinh nữ của Người đang săn sóc đám khách phụ nữ, với các bà mẹ môn đệ đầy tình thương bên cạnh các kẻ khốn nạn, với Maria Magđala đang tiếp thật nhiều cho bàn của những người già nghèo, những người buồn hơn tất cả, toàn những người ho lụ khụ, run lẩy bẩy, móm răng, chỉ nhai tóm tém và nhiễu nước bọt. Và cô giúp Mathêu trợ cứu một đứa nhỏ đã nuốt trọng một miếng bánh tráng mà nó đã mút và cắn bằng mấy cái răng mới
545
của nó. Người khen Chouza đã đến từ đầu bữa để cắt thịt và làm việc như một đầy tớ giầu kinh nghiệm.
Bữa ăn chấm dứt. Trên các khuôn mặt đỏ ửng, trong cái nhìn vui tươi, người ta thấy rõ sự thỏa mãn của những người nghèo.
Giêsu cúi xuống trên một ông già lắc lư vì run và Người hỏi ông: “Bố ơi, bố cười à? Bố nghĩ tới điều gì đó?”
- Tôi nghĩ đúng đây không phải là mơ. Mới một lúc trước đây, tôi vẫn còn nghĩ rằng mình nằm ngủ và mơ. Nhưng bây giờ tôi cảm thấy đây là sự thật. Nhưng ai làm cho Thầy nên qúa tốt, vì Thầy là vị làm cho các môn đệ của Thầy trở nên qúa tốt như vậy? Giêsu muôn năm! - Sau cùng ông kêu lên như vậy.
Và tất cả các người nghèo này, có tới mấy trăm, đều kêu lên: “Giêsu muôn năm!”
Giêsu lại tới chỗ giữa, mở cánh tay ra để làm hiệu yên lặng và ở yên tại chỗ. Người bắt đầu nói trong khi ngồi với một đứa trẻ trên đầu gối.
- Muôn năm, đúng, muôn năm Giêsu, không phải vì Thầy là Giêsu, nhưng vì Giêsu tức là tình yêu của Thiên Chúa mặc thân xác, xuống ở giữa loài người để được biết, và để làm cho người ta biết Tình Yêu là cái sẽ là dấu hiệu của kỷ nguyên mới. Giêsu muôn năm, bởi vì Giêsu tức là Vị Cứu Tinh. Chính Thầy cứu các con. Thầy cứu tất cả các con: giầu và nghèo, trẻ em và người già cả, Israel và dân ngoại, tất cả, miễn là các con cho Thầy cái thiện chí muốn được cứu. Giêsu là cho hết mọi người. Người không phải chỉ cho người nọ người kia. Giêsu thuộc về mọi người. Người thuộc về mọi người và vì mọi người. Chính vì mọi người mà Thầy là Tình Yêu Thương Xót và là phần rỗi chắc chắn. Cần phải làm gì để được thuộc về Giêsu, và do đó được cứu rỗi? Không nhiều điều, nhưng là điều lớn lao. Không phải lớn bởi vì nó khó như những điều các ông vua làm, nhưng nó lớn, bởi vì nó muốn con người tự canh tân để làm, để trở nên sở hữu chủ của Giêsu, tức là sở hữu Tình Yêu, sự Khiêm Nhường, Đức Tin, Sự Nhẫn Nhục, lòng Trắc Ẩn. Đó, các con, các môn đệ, các con đã làm điều gì là lớn lao ngày hôm nay?
546
Các con sẽ nói: “Chả có gì cả. Chúng con phục vụ bữa ăn”. Không, các con đã phục vụ tình yêu. Các con tự hạ. Các con đối xử như anh em với những kẻ không quen biết thuộc mọi nòi giống, không hỏi họ là ai, họ có lành mạnh, có tốt không. Và các con đã làm điều đó nhân danh Chúa. Có lẽ các con trông đợi nơi Thầy những lời vĩ đại để giáo huấn các con. Thầy đã bảo các con làm những hành động vĩ đại. Chúng ta đã bắt đầu một ngày bằng lời cầu nguyện. Chúng ta đã đến cứu giúp các người cùi và các người hành khất. Chúng ta đã thờ phượng Đấng Tối Cao trong nhà của Người. Chúng ta đã bắt đầu bữa ăn huynh đệ và săn sóc các người hành hương và các người nghèo. Chúng ta đã phục vụ. Phục vụ vì yêu tức là giống Thầy, tôi tớ của mọi tôi tớ Thiên Chúa. Tôi tớ đến nỗi tự hạ tới chết, để cho các con được phần rỗi...
Một tiếng kêu và một tiếng động làm gián đoạn Giêsu. Một nhóm người Israel điên cuồng chạy phóng lên cầu thang. Các bà Rôma được quen biết nhất, tức là Plautina, Claudia, Valêria và Lidia giấu mặt bằng cách trùm khăn lên.
Các kẻ nhiễu loạn vọt xuất hiện trên sân thượng và hình như họ muốn tìm cái gì tôi không biết. Chouza, bị xúc phạm, liền đến trước mặt họ và hỏi: “Các ông muốn gì?”
- Không có gì liên can tới ông cả. Chúng tôi tìm Giêsu Nazarét chứ không phải ông.
- Tôi đây. Các ông không nhìn thấy tôi à? - Giêsu hỏi khi Người để đứa trẻ xuống và đứng lên oai vệ.
- Ông làm gì ở đây?
- Các ông thấy đó: Tôi làm điều tôi dạy, và tôi dạy điều phải làm: tình yêu đối với người nghèo. Người ta đã nói gì với các ông?
- Người ta đã nghe thấy những tiếng kêu phiến loạn, và vì ông ở đâu là có lộn xộn ở đó nên chúng tôi tới để xem.
- Tôi ở đâu là có bình an ở đó! Người ta đã kêu: “Giêsu muôn năm!”
- Đúng vậy. Ở trong Đền Thờ cũng như tại đền Hêrôđê, người ta đã nghĩ rằng ở đây chúng âm mưu chống lại...
547
- Ai? Chống lại ai? Ai là vua của Israel? Không phải Đền Thờ, cũng không phải Hêrôđê. Chính Rôma là chủ. Và thật là điên kẻ nào muốn xưng mình là vua ở nơi Rôma cai trị.
- Ông, ông nói rằng ông là vua.
- Tôi là vua, nhưng không phải của cái nước này. Nó qúa hèn mọn đối với tôi. Tất cả đế quốc cũng là hèn mọn nữa. Tôi là vua của Vương Quốc Thánh ở trên Trời, vương quốc của Tình Yêu và của Thần Trí. Các ông hãy đi bằng an, hoặc hãy ở lại nếu các ông muốn, và hãy học cho biết người ta tới Vương Quốc của tôi bằng cách nào. Các người của tôi, họ đó: các người nghèo, các người khổ sở, các người bị áp bức; và rồi những người tốt, những người khiêm nhường, những người bác ái. Hãy ở lại. Hãy họp đoàn với họ.
- Nhưng ông luôn luôn tiệc tùng trong những nhà lộng lẫy, ở giữa các đàn bà đẹp và...
- Đủ rồi, không được nói xỏ xiên chống lại vị Rabbi, và không được xúc phạm tới Người ở trong nhà tao! Cút đi! - Chouza la lên như sấm.
Nhưng từ cầu thang phía trong nhà, một bóng con gái đẹp trùm khăn nhảy lên sân thượng. Nàng chạy, nhẹ nhàng như một con bướm lại với Giêsu, nàng vất bỏ khăn voan và áo khoác, qùi dưới chân Giêsu và cố gắng để hôn chân Người.
- Salômê! - (con gái Hêrôđiađe, vợ lẽ Hêrôđê) Chouza và các người khác kêu lên.
Giêsu lùi tránh để trốn những đụng chạm với nàng mạnh đến nỗi cái ghế của Người lật đổ, và Người lợi dụng nó để làm vật cản giữa Người và Salômê. Đôi mắt Người làm người ta phát sợ, vì nó phát quang sáng quắc kinh khủng.
Salômê mềm mại và trơ trẽn, ve vãn tán tỉnh. Nàng nói: “Đúng là tôi. Tiếng hoan hô đã dội tới lâu đài, và Hêrôđê sai một sứ giả tới nói với Ngài là ông muốn gặp Ngài. Nhưng tôi, tôi đã tiên đoán điều đó. Xin Chúa đi với tôi. Tôi yêu Ngài chừng nào và tôi ước ao Ngài chừng nào! Tôi cũng là máu thịt Israel”.
548
- Hãy về nhà cô đi!
- Triều đình chờ Ngài để tôn vinh Ngài.
- Triều đình của Ta là đây. Ta không biết triều đình nào khác, cũng không biết vinh dự nào khác - và người chỉ tay vào các người nghèo ngồi tại bàn.
- Tôi mang cho Ngài các qùa tặng cho họ. Đây, các nữ trang của tôi.
- Ta không muốn.
- Tại sao Ngài từ chối chúng?
- Bởi vì chúng ô uế và được cho với ý hướng không trong sạch. Đi đi!
Salômê đứng dậy, sững sờ. Cô lén nhìn đấng đáng sợ, đấng rất trong sạch đang giáng sét cho cô bằng cánh tay giơ ra và cái nhìn như lửa của Người. Cô lén nhìn mọi người, cô thấy các khuôn mặt chế nhạo hoặc ghê tởm. Các pharisiêu sững sờ và họ quan sát màn kịch thật hùng mạnh. Các bà Rôma đã dám tiến lại gần để coi cho rõ.
Salômê thử tấn công đợt sau cùng: “Ngài đã tới gần cả những người cùi...” Nàng nói, nhún nhường và năn nỉ.
- Đó là những người bệnh. Còn cô, cô lẳng lơ. Đi khỏi đi!
Tiếng “đi khỏi đi” sau cùng mạnh mẽ tới nỗi Salômê lượm khăn áo, cúi gù như bò, đi tới cầu thang. Chouza liền thì thầm nhỏ tiếng: “Chúa ơi, cẩn thận... cô ta mạnh thế lắm... Cô ta có thể làm hại Thầy”.
Nhưng Giêsu trả lời bằng giọng rất mạnh, để hết mọi người có thể nghe, bắt đầu là kẻ Người mới đuổi: “Không hệ gì. Thầy thà bị giết còn hơn liên minh với kẻ trụy lạc này. Mồ hôi của đàn bà dâm dật, vàng của gái điếm là nọc độc của hỏa ngục. Vì hèn nhát mà liên minh với kẻ mạnh là một tội. Thầy là Sự Thật, sự Trong Sạch và Sự Cứu Chuộc. Thầy không thay đổi. Đi đi, hãy hộ vệ cô ta...”
- Con sẽ phạt những đứa đầy tớ đã để cho cô ta vào.
- Con sẽ không phạt ai cả. Chỉ có một kẻ đáng phạt: cô ta. Và cô ta bị phạt, mong rằng cô ta biết. Và hãy biết rằng Thầy biết tư
549
tưởng của cô ta và Thầy thấy ghê tởm. Con rắn hãy trở về hang của nó. Còn con chiên thì trở về vườn của nó.
Người ngồi xuống. Người đổ mồ hôi. Người nín thinh. Sau đó Người nói: “Jeanne, hãy cho mỗi người một tí của bố thí để đời họ bớt buồn trong vài ngày... Thầy có thể làm gì khác nữa, hỡi các con cái đau khổ? Các con muốn gì về điều Thầy có thể cho các con. Thầy đọc được trong các con tim. Với những ai bệnh và biết tin, hãy được bình an và sức khỏe!”
Một lát yên tĩnh, rồi một tiếng kêu... Rồi nhiều tiếng kêu. Rất đông đảo những kẻ được khỏi và đứng dậy. Các người Do Thái tới bắt Giêsu hoảng hốt ra đi, bỏ qua vấn đề trong sự mê sảng thường xuyên vì thấy các phép lạ và sự trong sạch của Giêsu.
Giêsu mỉm cười ôm các đứa trẻ, rồi người cho khách về. Người giữ lại các bà góa và xin Jeanne giúp họ. Jeanne ghi vào sổ và hẹn họ tới ngày mai. Rồi các bà cũng ra đi. Các cụ già đi sau cùng.
Sau chót, còn lại các tông đồ, các môn đệ, các bà Rôma. Giêsu nói: “Các buổi hội họp trong tương lai cũng vậy. Không có lời nói. Chính những hành động nói vào các tâm trí và các linh hồn bằng sự tỏ tường của nó. Bình an cho các con”.
Người đi lại chiếc cầu thang phía trong nhà và biến mất. Jeanne và các người khác đi theo.
Ở chân cầu thang, Người gặp Judas: “Thưa Thầy, đừng đi Gétsêmani, các kẻ thù của Thầy kiếm Thầy ở đó. Còn mẹ, mẹ nói sao bây giờ? Mẹ kết án con! Nếu con không tới đó thì con đâu có biết người ta giương bẫy bắt Thầy. Chúng ta hãy đi tới một nhà khác, một nhà khác!”
- Vậy vào nhà con. Chỉ có những bạn hữu của Thiên Chúa mới vào trong nhà của Lazarô - Maria Magđala nói.
- Ờ, những người hôm qua đã ở Gétsêmani hãy đến với hai chị em tại lâu đài của Lazarô. Ngày mai chúng ta sẽ liệu.
61* THỨ NĂM TRƯỚC LỄ VƯỢT QUA.
550
PHẦN THỨ NĂM
Chắc chắn những người đi theo Giêsu không thấy rực rỡ gì về sự anh hùng của họ.
Cái tin do Judas mang tới giống như sự xuất hiện của một con diều hâu trên một cái sân đầy gà con, hoặc sự hiện diện của một con sói gần bầy chiên. Sợ hãi, hoặc ít là xao xuyến, được đọc thấy trên chín phần mười các khuôn mặt của những người ở đó, đặc biệt là các ông. Tôi tin là nhiều người đã có ấn tượng về lưỡi kiếm và roi đòn, và điều họ ít tưởng tượng hơn, là những bí mật của nhà tù trong khi chờ phiên tòa.
Đám phụ nữ ít dao động hơn. Điều họ xao xuyến là lo cho con hoặc chồng họ, và các bà khuyên người nọ người kia nên chia đều thành nhóm nhỏ và tản mát về đồng quê.
Maria Magđala đứng lên để chống lại làn sóng sợ hãi qúa mức này: “Ôi! Có qúa nhiều linh dương trong Israel! Qúi vị không xấu hổ vì run sợ như vậy sao? Tôi đã nói với qúi vị là ở trong lâu đài của tôi, qúi vị sẽ an toàn hơn ở trong một pháo đài. Vậy tới đi. Tôi bảo đảm rằng sẽ không có gì xảy đến cho qúi vị. Không có gì hết. Ngoài những người mà Giêsu đã chỉ định, nếu có ai khác nghĩ rằng họ sẽ an toàn ở trong nhà tôi thì họ hãy tới. Có các giường lớn nhỏ cho hàng trăm người. Nào, hãy quyết định, thay vì chết vì sợ! Tôi chỉ xin Jeanne cho các đầy tớ đi theo chúng tôi cùng với lương thực, vì ở lâu đài không có đủ cho từng này người, mà bây giờ đã tối rồi. Một bữa ăn đàng hoàng sẽ là phương thuốc tốt nhất để phục hồi can đảm cho những kẻ sợ sệt”. Cô ta không những chỉ trấn át trong bộ đồ trắng của cô, mà còn sáng rực, đủ mỉa mai trong đôi mắt tuyệt vời của cô, trong khi với khổ người cao lớn, cô nhìn đám người sợ hãi chen chúc nhau trong tiền đường của nhà Jeanne.
- Tôi sẽ lo ngay. Vậy đi đi. Jonatha sẽ đi theo qúi vị cùng với các đầy tớ. Tôi cũng đi với ông, vì tôi được niềm vui để theo Thầy, và theo không hề sợ sệt, tôi bảo đảm với qúi vị điều đó, đến nỗi tôi dắt cả hai đứa bé đi theo tôi - Jeanne nói. Rồi bà lui ra để cho các
551
mệnh lệnh, trong khi đám tiền đạo sợ hãi ló đầu ra khỏi cổng một cách thận trọng. Và thấy rằng không có gì đáng sợ, họ đã dám đi ra và tiến bước. Các người khác đi theo.
Nhóm các trinh nữ ở giữa, ngay đàng sau Giêsu, thuộc về các hàng đầu . Ở đàng sau, ôi! đàng sau các trinh nữ là các bà, rồi đến các kẻ... ít can đảm hơn, được Maria Lazarô bảo vệ, đi cùng với các bà Rôma, vì các bà quyết định chưa rời bỏ Giêsu sớm như vậy. Nhưng rồi Maria Lazarô chạy lên phía trước để nói gì với chị bà, và bảy bà Rôma cùng với Sara và Marcelle ở lại phía sau trong đám hậu vệ theo lệnh của Maria, với ý định để cho bảy bà Rôma đi qua mà không bị nhận diện.
Jeanne tới mau lẹ cùng với các đứa trẻ mà bà dắt tay. Đàng sau bà là Jonatha và các đầy tớ mang các giỏ và thúng là đuôi của nhóm. Thực sự thì không ai để ý gì tới họ. Con đường lúc ban ngày đông đúc, bây giờ người ta trở về nhà họ hoặc lều trại của họ rồi. Hơn nữa, ánh sáng mập mờ làm cho các khuôn mặt không dễ nhận ra. Bây giờ Maria Magđala cùng với Jeanne, Anastasica và Êlise đã lên hàng đầu tiên. Nàng dẫn các khách của nàng vào lâu đài của nàng bởi một con đường phụ.
Có thể nói là Jonatha đi ngang hàng với các bà Roma mà ông nói chuyện cũng như nói với đầy tớ của các môn đệ giầu. Claudia lợi dụng cơ hội để nói với ông: “Ông à, tôi nhờ ông đi gọi người môn đệ đã mang tin đến, bảo ông ta đến đây. Và hãy nói cách nào để đừng lôi kéo sự chú ý. Đi đi”. Tuy y phục bình dân, nhưng giọng nói thì vô tình hách dịch của kẻ có thói quen ra lệnh. Jonatha trợn tròn mắt và cố gắng nhìn qua lớp voan mỏng coi ai nói với ông. Nhưng ông chỉ nhìn thấy chớp sáng trong đôi mắt uy quyền. Ông hiểu người đàn bà nói với ông không phải là một đầy tớ, nên ông cúi mình trước khi vâng lời.
Ông đến với Judas Kêriot trong khi ông này đang ba hoa ồn ào với Étienne và Timon, ông kéo tay áo Judas.
- Anh muốn gì?
- Tôi có điều phải nói với anh.
552
- Thì nói đi.
- Không. Đi lùi lại đàng sau với tôi. Người ta hỏi anh, vì của cúng, tôi tin vậy...
Lời xin lỗi được đón nhận an bình bởi các bạn đường của Judas cũng như bởi chính ông với thiện cảm. Ông mau lẹ trở lại phía sau với Jonatha.
Rồi đây, họ lại ở tại nhóm chót. Jonatha nói với Claudia: “Thưa bà, đây là người bà muốn”.
- Tôi biết ơn ông vì đã giúp tôi - bà trả lời trong khi vẫn trùm khăn. Rồi bà nói với Judas: “Ông có vui lòng dừng lại một lát để nghe tôi không?”
Judas nghe một kiểu nói rất luyện lọc. Ông nhìn thấy đôi mắt tuyệt vời qua lớp voan mỏng. Có lẽ ông cảm thấy mình ở gần một cuộc phiêu lưu vĩ đại, và ông ưng thuận không khó khăn.
Nhóm các bà Rôma phân chia, và ông đứng lại cùng với Claudia, Plautina và Valêria. Các người khác tiếp tục bước.
Claudia nhìn chung quanh. Bà thấy con đường vắng vẻ ở chỗ họ đứng lại, nên với một bàn tay rất đẹp, bà lật chiếc voan ra sau và để lộ khuôn mặt.
Judas nhận ra bà, và sau một lát ngạc nhiên, ông cúi mình để chào bà bằng lối pha trộn cử chỉ Do Thái với những lời Rôma: “Domina!”
- Đúng, tôi đây. Ông hãy đứng thẳng lên và nghe: Ông yêu vị Nazarét, ông lo lắng cho sự an lành của Người. Ông có lý. Đó là một người nhân đức và cần bảo vệ. Chúng tôi tôn kính Người như một vĩ nhân và công chính. Những người Do Thái không tôn kính Người. Họ ghét Người, tôi biết. Vậy nghe đây, nghe cho rõ nhé, và hãy nhớ và đem ra thi hành. Tôi, tôi muốn bảo vệ Người. Tôi không giống như cái con dâm đãng lúc nãy. Với sự ngay thẳng và nhân đức, khi tình yêu của ông và sự minh mẫn của ông cho ông thấy rằng có một cái bẫy gài cho Người thì ông hãy tới, hoặc sai ai tới. Claudia có thể tất cả trước Ponciô. Claudia sẽ có sự bảo vệ cho người công chính. Ông hiểu không?
553
- Thưa bà, hoàn toàn hiểu. Cầu Thiên Chúa của chúng tôi che chở bà. Tôi sẽ đến. Chỉ cần là tôi có thể. Tôi sẽ đến với tính cách cá nhân. Nhưng làm sao tôi có thể gặp được bà?
- Hãy luôn luôn hỏi Albula Domitilla. Đó cũng như một “chính tôi” thứ hai. Nhưng sẽ không có ai ngạc nhiên khi thấy bà ta nói chuyện với người Do Thái, vì chính bà lo về các tặng ân của tôi. Người ta sẽ nghĩ ông là một khách hàng. Có lẽ điều đó làm ông xấu hổ?
- Thưa bà không. Phục vụ Thầy và tạo được sự bảo vệ cho Người là một vinh dự.
- Ừ, tôi sẽ bảo vệ các ông. Tôi là một người đàn bà, nhưng tôi thuộc dòng Claudia. Tôi có nhiều uy quyền hơn tất cả các nhân vật lớn của Israel, vì sau lưng tôi có Rôma. Trong khi chờ đợi, hãy cầm lấy cho người nghèo của Đức Kitô: của dâng cúng của chúng tôi. Nhưng... Tôi muốn rằng người ta để cho chúng tôi ở giữa các môn đệ trong buổi tối hôm nay. Ông hãy xin cho chúng tôi cái vinh dự đó, rồi ông sẽ được sự bảo vệ của Claudia.
Đối với một loại người như Judas thì những lời của bà qúi tộc có hiệu qủa kỳ diệu. Ông ta được ở tầng trời thứ bảy... Rồi ông cũng dám hỏi: “Thực sự bà sẽ giúp Người à?”
- Đúng. Nước của Người đáng được thiết lập, vì đó là một Vương Quốc của các nhân đức. Nó sẽ được hoan nghênh để đối lập với những dơ bẩn bao phủ các nước hiện nay, những cái làm tôi ghê tởm. Rôma to lớn, nhưng vị Rabbi qủa là rất vĩ đại hơn Rôma. Trên các kỳ hiệu của chúng tôi có ghi dấu những con ó, dấu hiệu kiêu căng. Nhưng trên kỳ hiệu của Người sẽ là các thần linh và Tên Chí Thánh của Người. Rôma và trái đất sẽ thực sự vĩ đại khi nó để Tên Người trên các biểu tượng của nó, và khi dấu hiệu của Người được ghi trên các lá cờ phất phới trên các đền thờ, các tàu bè, các tháp cao.
Judas kinh ngạc, mơ màng, xuất thần. Ông lắc lư cái túi tiền nặng đã được trao cho ông. Ông làm vậy một cách máy móc trong khi gật đầu và nói: “Vâng, vâng, vâng” với tất cả.
554
- Vậy bây giờ chúng ta hãy đến với họ. Chúng ta là đồng minh phải không? Đồng minh để bảo vệ Thầy của ông và Vua của các tâm hồn ngay thẳng.
Bà trùm khăn lại, rồi lẹ làng, dẻo dai, bà hầu như chạy để bắt kịp nhóm đã đi trước bà. Các người khác cùng với Judas theo sau bà. Ông hầu như nghẹt thở, không phải vì chạy, mà vì những điều ông đã nghe.
Lâu đài của Lazarô đang nuốt những nhóm sau cùng khi họ bắt kịp. Họ đi vào mau lẹ, và chiếc cổng sắt khép lại với tiếng động lớn của khóa sắt do người gác dan khóa lại.
Chỉ có một chiếc đèn do bà vợ của người gác dan cầm nên không đủ soi sáng cho dẫy tiền đường hình vuông hoàn toàn sơn trắng của lâu đài Lazarô. Người ta hiểu rằng căn nhà không có người ở, mặc dầu nó vẫn được giữ thứ tự sạch sẽ. Maria và Matta dẫn các khách vào căn phòng khách mênh mông, chắc chắn cũng là nơi cho các đại tiệc. Trên các bức tường lộng lẫy bao phủ bằng những vải vóc qúi, phơi bày các đường trang trí ra theo nhịp các đèn được thắp lên và được đặt trên các bàn, các tủ qúi kê dọc bờ tường. Tất cả đều sẵn sàng để dùng, nhưng từ ít lâu nay đã để không. Maria ra lệnh đặt tất cả vào giữa phòng và chuẩn bị bữa tối với các thực phẩm mà các đầy tớ của Jeanne lấy ra từ các giỏ, các thúng và để trên bàn.
Judas kéo Phêrô ra một chỗ riêng và nói nhỏ vào lỗ tai ông điều gì. Tôi thấy Phêrô mở tròn đôi mắt và ông vảy tay tựa như các ngón tay bị bỏng trong khi ông kêu: “Sấm sét và gió lốc! Nhưng anh nói gì?”
- Đúng. Nhưng hãy nhìn và nghĩ coi! Đừng sợ nữa. Không còn phải lo lắng như vậy nữa.
- Nhưng qúa đẹp! Qúa đẹp! Nhưng bà ta nói sao? Thực tình là bà ta sẽ bảo vệ chúng ta? Nguyện Thiên Chúa chúc phúc cho bà. Nhưng bà nào vậy?
- Cái bà mặc y phục mầu chim cu rừng, người lớn con, cao dong dỏng đó. Coi, bà ta đang nhìn chúng ta...
555
Phêrô nhìn người đàn bà cao ráo, khuôn mặt đều đặn và nghiêm trang, với đôi mắt hiền lành nhưng hách dịch.
- Vậy... Anh đã nói với bà ta thế nào? Anh không có...
- Không. Không hề.
- Nhưng anh ghét giao dịch với họ! Cũng như tôi, cũng như mọi người.
- Đúng. Nhưng tôi đã thắng lướt vì tình yêu Thầy, cũng như tôi đã thắng lướt để cắt đứt liên lạc với các bạn cũ ở Đền Thờ... Ôi! Tất cả vì Thầy! Tất cả các anh, và cả mẹ tôi cùng với các anh, đều cho là tôi hai lòng. Anh, mới đây, anh đã khiển trách tình bạn của tôi. Nhưng nếu tôi không duy trì nó, và với nhiều khó khăn, thì tôi sẽ không biết biết bao điều... Đâu có tốt gì khi cứ bịt một giải băng trên mắt và để cục sáp trong lỗ tai vì sợ rằng thế gian sẽ nhập vào chúng ta qua mắt và tai. Khi người ta ở trong một tổ chức như của chúng ta thì phải biết mở rộng mắt và tai. Hãy canh chừng cho Người vì lợi ích của Người, vì sứ mạng của Người, vì sự đặt nền móng cho cái vương quốc phúc đức này.
Một số lớn các tông đồ và vài môn đệ cũng sáp lại để nghe và gật đầu tỏ dấu tán đồng. Vì thực tế, người ta không thể nói được rằng Judas nói dở!
Phêrô thật thà, khiêm nhường nhận lỗi và nói: “Anh thực tình có lý. Xin tha cho sự khiển trách của tôi. Anh có giá hơn tôi. Anh biết làm. Ôi! Chúng ta hãy đi nói với Thầy, với mẹ Người, và với mẹ anh. Bà rất lo lắng”.
- Bởi vì những cái lưỡi xấu đã xỏ xiên... Nhưng lúc này hãy nín lặng đã, sau đó sẽ hay. Anh thấy không? Họ đã ngồi vào bàn và Thầy làm hiệu cho chúng ta tới...
Bữa tối được thanh toán mau lẹ. Các bà Rôma cũng ngồi vào bàn với các phụ nữ, trà trộn với họ. Vì thế Claudia ở giữa Porphyrê và Dorca, lặng lẽ ăn những thứ người ta phục vụ bà. Ở giữa các bà và Jeanne và Maria Magđala có những lời bí mật được trao đổi bằng những nụ cười và cái liếc mắt. Các bà giống như các nữ sinh đang lúc nghỉ hè.
556
Sau bữa ăn, Giêsu ra lệnh xếp các ghế thành hình vuông và ngồi để nghe Người. Người ngồi ở giữa và bắt đầu nói ở tâm điểm một hình vuông của các khuôn mặt đầy chú ý, trong đó chỉ có đứa bé của Dorca là nhắm đôi mắt ngây thơ của nó, ngủ yên trong lòng mẹ. Và cũng sắp sửa ngủ nữa là Maria ngồi trong lòng Jeanne và Mathia ngồi chồm hổm trên đầu gối của Jonatha.
- Hỡi các môn đệ nam và nữ tụ họp ở đây nhân danh Chúa, hoặc bị lôi kéo đến đây bởi lòng ước ao chân lý, lòng ước ao này cũng đến từ Thiên Chúa, đấng muốn có ánh sáng và chân lý trong mọi con tim, hãy nghe đây:
Chiều nay chúng ta được hợp nhất tất cả ở đây, mà chính là những kẻ muốn phân tán chúng ta đã tạo ra cho chúng ta. Và các con không biết, vì giác quan của các con hạn hẹp, các con không biết rằng sự hợp nhất này nó thực sự sâu xa và mênh mông chừng nào. Nó là rạng đông của sự hợp nhất tương lai, sẽ hiện hữu khi Thầy không còn ở giữa các con nữa một cách thể chất, nhưng sẽ ở trong các con bằng thần trí của Thầy. Lúc đó các con sẽ biết yêu. Lúc đó các con sẽ biết thực hành tình yêu. Lúc này các con giống như những đứa trẻ còn ở trong bụng mẹ, lúc đó các con sẽ giống những người lớn, có thể ăn mọi đồ ăn mà nó không gây thiệt hại. Lúc đó các con sẽ biết nói giống như Thầy nói: “Hãy đến với tôi, tất cả các bạn, bởi vì tất cả chúng ta là anh em, và Người đã tự sát tế cho tất cả chúng ta”.
Có qúa nhiều thành kiến trong Israel. Đó là những mũi tên làm thương tổn cho đức bác ái. Đối với các con là những tín hữu trung thành, Thầy nói cách rõ ràng thẳng thắn, vì giữa các con không có những kẻ phản bội, cũng không có những kẻ đầy thành kiến, họ chia rẽ, trở thành không thông cảm, ngoan cố, thù ghét đối với Thầy là người chỉ cho các con con đường của tương lai. Thầy không thể nói kiểu nào khác. Và từ rày trở đi, Thầy sẽ nói ít hơn, vì Thầy thấy rằng các lời nói vô ích, hay gần như vậy. Các con đã có những gì để tự thánh hóa và huấn luyện mình cách hoàn hảo. Nhưng các con chưa lên cao, đặc biệt là các con nam giới, vì các lời nói làm
557
vui lòng các con, nhưng các con không đem ta thi hành. Từ nay, và càng ngày càng năng hơn, Thầy sẽ cho các con làm những việc các con phải làm khi Thầy đã trở về Trời, nơi mà từ đó Thầy đã đến. Thầy sẽ cho các con tham dự vào điều mà các linh mục sẽ làm trong tương lai. Hãy quan sát các hành động của Thầy hơn là các lời nói của Thầy. Hãy lặp lại nó, dạy bảo nó và liên kết nó với các lời giáo huấn. Lúc đó các con sẽ trở nên những môn đệ hoàn hảo.
Thầy đã làm gì bữa nay, và Thầy bảo các con làm gì và thực hành những gì? Lòng bác ái dưới nhiều hình thức: Đức Ái đối với Thiên Chúa, không phải chỉ là Đức Ái bằng lời cầu nguyện ngoài miệng, theo nghi thức, nhưng là Đức Ái linh hoạt, được canh tân trong Chúa, rũ bỏ tinh thần thế gian, những tà thuyết của dân ngoại, không phải chỉ có nơi dân ngoại, mà có cả ở trong Israel với hàng ngàn thói tục không thể hiện cho tôn giáo thực, thánh thiện, cởi mở, đơn sơ, giống như tất cả những gì đến từ Thiên Chúa. Không nên làm những hành động tốt hoặc chỉ thể hiện bề ngoài để được người đời ca tụng, nhưng hãy làm những hành động thánh đáng được Thiên Chúa khen. Kẻ nào đã sinh ra thì đều chết, các con biết vậy. Nhưng sự sống không chấm dứt ở cái chết. Nó tiếp tục dưới một hình thức khác và tồn tại đời đời, với một phần thưởng cho những kẻ tốt, và một hình phạt cho những kẻ xấu. Chớ gì tư tưởng về sự phán xét không tê liệt đi trong lúc sống và trong giờ chết, nhưng nó sẽ là sự kích thích và một cái thắng. Sự kích thích để đẩy tới điều thiện, và cái thắng để tránh xa các khuynh hướng xấu.
Vậy hãy là các bạn hữu thật của Thiên Chúa thật, bằng cách luôn luôn hành động trong suốt đời sống với ý chỉ để được hưởng Người trong đời sống tương lai. Ôi, các con, những kẻ yêu thích những điều cao cả, còn sự cao cả nào vĩ đại hơn việc trở nên con cái Thiên Chúa? Ôi, các con là những kẻ sợ sự đau đớn, còn sự chắc chắn nào hơn để không phải đau đớn nữa, là sự chờ đợi Nước Trời. Hãy nên thánh. Các con muốn thiết lập nước Trời ngay từ dưới đất? Các con cảm thấy mình là mồi cho các cạm bẫy và các con sợ không thành công? Nếu các con hành động cách thánh thiện,
558
các con sẽ thành công. Vì các quyền lực, kể cả các quyền lực đang cai trị chúng ta, cũng không thể ngăn cản được nó, dù là với những đoàn quân của họ. Vì các con biết rằng các đoàn quân theo giáo lý thánh, cũng như chính Thầy, không cần bạo lực, Thầy cũng thuyết phục được các phụ nữ Rôma rằng ở đây có Chân Lý...
- Chúa ơi! - Các bà Rôma kêu lên khi thấy mình bị bại lộ.
- Đúng đấy các bà ạ. Hãy nghe và hãy nhớ. Thầy sắp nói cho các người Israel theo Thầy, Thầy cũng sắp nói cho các bà, không phải là Israel, nhưng có tâm hồn ngay thẳng, về qui chế của Nước Thầy:
Không dấy loạn. Nó không ích lợi gì. Thánh hóa uy quyền bằng cách thấm nhiễm nó bằng sự thánh thiện của chúng ta. Đó là công việc lâu dài, nhưng sẽ chiến thắng. Với sự êm đềm và nhẫn nại, không hấp tấp dại dột, không đổi hướng theo nhân loại, không phản loạn vô ích, vâng lời tất cả những gì không làm thiệt hại cho linh hồn, các con sẽ làm được cho cái uy quyền bây giờ đang cai trị chúng ta theo tà thuyết, thành một uy quyền bảo vệ và Kitô hữu. Hãy làm bổn phận của các con đối với uy quyền giống như các con làm bổn phận tín hữu đối với Thiên Chúa. Hãy nhìn trong tất cả uy quyền, không phải một kẻ đàn áp các con, nhưng là kẻ nâng cao các con, vì họ cho các con cái khả năng thánh hóa nó và thánh hóa chính mình các con bằng gương mẫu và sự anh hùng.
Cũng như các con là những tín hữu tốt và những công dân tốt, các con cũng hãy cố gắng là những người vợ, người chồng tốt, thánh thiện, thanh sạch, vâng lời, yêu thương nhau, hợp nhất để nuôi nấng con cái trong Chúa, có tình phụ tử và mẫu tử cả với các tôi tớ và nô lệ, vì họ cũng có một linh hồn và một thân xác, có tình cảm và yêu thương như các con. Nếu cái chết lấy đi của các con người vợ hay người chồng, thì nếu có thể, đừng ước ao một cuộc hôn nhân khác. Hãy yêu các trẻ mồ côi thay cho cả phần người bạn đã khuất. Và các con, các tôi tớ, hãy tùng phục chủ. Nếu họ bất toàn thì hãy thánh hóa họ bằng gương mẫu của các con. Các con sẽ có công trước mặt Thiên Chúa về điều đó. Trong tương lai, nhân danh Thầy, sẽ không còn chủ và đầy tớ nữa, nhưng là các anh em. Sẽ không
559
còn các chủng tộc, nhưng chỉ là anh em; sẽ không còn kẻ đàn áp và kẻ bị đàn áp ghen ghét nhau, bởi vì các kẻ bị đàn áp sẽ gọi những kẻ đàn áp họ là anh em.
Hãy yêu nhau trong một đức tin duy nhất và giúp đỡ nhau, giống như Thầy đã bảo các con làm hôm nay. Nhưng đừng giới hạn ở việc giúp đỡ những người nghèo, những người hành hương thuộc chủng tộc của các con, hoặc các bệnh nhân của các con mà thôi. Hãy mở cánh tay ra cho mọi người như Tình Thương đã mở ra cho các con.
Mong rằng kẻ có nhiều hãy cho kẻ không có hay có qúa ít. Kẻ hiểu biết nhiều, hãy dạy dỗ kẻ không biết gì hay biết qúa ít. Và họ hãy dạy bảo cách kiên nhẫn, khiêm tốn, khi nhớ lại rằng trong sự thực, trước khi Thầy dạy họ thì họ cũng chẳng biết gì. Hãy tìm sự khôn ngoan, không phải vì nó làm cho các con sáng chói, nhưng là để nó giúp các con tiến bước trên đường của Chúa.
Các phụ nữ kết hôn và các trinh nữ, hãy yêu nhau một cách hỗ tương. Những người này cũng như những người kia, hãy bao bọc các bà góa cách yêu thương. Tất cả các con đều hữu ích cho Nước của Thiên Chúa.
Những người nghèo thì đừng ghen tị. Những người giầu thì đừng tạo ra sự thù ghét bằng cách khoa trương của cải và sự cay nghiệt của con tim.
Hãy săn sóc các trẻ mồ côi, các bệnh nhân, những người không nhà cửa. Hãy mở qủa tim ra cho họ trước khi mở ra cho họ kho bạc của các con, vì dù là các con cho, nhưng nếu đó là một ân huệ miễn cưỡng, thì đó không phải là một vinh dự, mà là một xúc phạm các con làm cho Thiên Chúa là đấng hiện diện trong mọi kẻ khốn nạn.
Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con rằng: không khó khăn gì việc phụng sự Thiên Chúa, chỉ cần biết yêu: yêu Thiên Chúa thật và yêu tha nhân, dù là bất kỳ ai.
Thầy ở trong mọi vết thương và mọi cơn sốt mà các con săn sóc. Thầy ở trong mọi khốn khổ mà các con nâng đỡ. Và tất cả những gì các con làm cho người khác, nếu là điều tốt, thì chính là các con làm cho Thầy; nếu nó là điều ác thì cũng chính là các con làm cho Thầy nữa. Các con có muốn làm cho Thầy khổ không? Các con có
560
muốn mất Nước Bình An, mất thuộc về Thiên Chúa chỉ vì không muốn tốt với tha nhân không?
Chúng ta sẽ không bao giờ được tụ họp như vầy nữa. Sẽ có những lễ Vượt Qua khác nữa... nhưng chúng ta không thể ở cùng nhau vì nhiều lý do. Trước tiên là vì sự dè dặt thánh thiện một phần, và là một phần qúa đáng, vì mọi qúa đáng đều là lỗi lầm, nó bó buộc chúng ta chia tay. Sẽ còn những lễ Vượt Qua khác mà Thầy không còn ở với các con... Nhưng các con hãy nhớ lại ngày hôm nay. Trong tương lai, hãy làm điều Thầy đã bảo các con làm hôm nay, không phải chỉ vào dịp lễ Vượt Qua, mà là vào hết mọi dịp.
Đừng tự đắc là thuộc về Thầy một cách dễ dàng. Thuộc về Thầy có nghĩa là sống trong Ánh Sáng và Chân Lý, nhưng cũng có nghĩa là ăn bánh chiến đấu và bách hại. Khi đó, tình yêu của các con càng mạnh, thì các con càng mạnh trong chiến đấu và bách hại.
Hãy tin vào Thầy, vào điều thực sự Thầy là: Giêsu Kitô, Vị Cứu Tinh, mà nước Người không thuộc về thế gian, và việc Người đến có nghĩa là bình an cho người tốt, mà sự chiếm hữu Người có nghĩa là hiểu biết và chiếm hữu Thiên Chúa. Vì thực sự, kẻ có Thầy ở trong họ và chính họ ở trong Thầy, thì ở trong Thiên Chúa, và chiếm hữu Thiên Chúa trong tâm hồn họ, để rồi sau đó được chiếm hữu Người trong Nước Trời tới muôn đời.
Đêm đã về. Ngày mai sẽ là áp lễ Vượt Qua. Các con hãy giải tán. Hãy thanh tẩy mình. Hãy suy niệm. Hãy mừng một lễ Vượt Qua thánh.
Các người đàn bà thuộc chủng tộc khác nhưng tâm hồn ngay thẳng, hãy đi. Chớ gì thiện chí của các bà, nó đã cổ võ cho các bà, thì nó cũng sẽ là con đường cho các bà đến với Ánh Sáng trong tương lai. Nhân danh những người nghèo cũng như chính Thầy, Thầy chúc lành cho các bà vì của bố thí đại lượng của các bà. Và Thầy chúc lành cho các bà vì sự sẵn sàng các bà dành cho Người đã đến để mang sự Bình An và Tình Yêu xuống trên trái đất. Đi đi. Và con, Jeanne và tất cả những ai không sợ cạm bẫy, cũng hãy đi đi.
561
Có sự rì rầm kinh ngạc trao đổi trong đám các bà Rôma ra đi. Flavia đã ghi trên các tấm bảng sáp những lời của Giêsu khi Người nói. Chúng được xếp ở trong một cái hộp. Các bà Rôma ra đi sau khi đã chào trọng thể. Các bà chỉ còn lại sáu người, vì Egla ở lại bên Maria Magđala. Jeanne, Jonatha và các đầy tớ của Jeanne ra đi, ẵm trong tay các đứa trẻ đang ngủ. Sự kinh ngạc lớn tới nỗi ngoài họ ra, không ai nhúc nhích cả. Nhưng khi tiếng động của chiếc cửa được khóa lại cho biết rằng các bà Rôma đã ra khỏi, thì một sự ồn ào tiếp tục vào các lời thì thầm:
- Những ai vậy?
- Làm sao họ lại ở giữa chúng ta?
- Các bà làm gì vậy?
Và ở bên trên tất cả, Judas kêu lên: “Chúa ơi, làm sao Thầy biết là các bà đã đưa cho con một món dâng cúng lớn?”
Bằng cử chỉ, Giêsu hạ thấp ồn ào và Người nói: “Đó là Claudia và các mệnh phụ của bà. Vậy là khi các bà khác của Israel sợ sự nổi giận của chồng họ, hoặc có cùng tư tưởng, cùng tình cảm như chồng họ, đã không dám đến theo Thầy, thì những đàn bà dân ngoại mà người ta khinh dể, với những mưu cơ thánh thiện, đã biết đến để học giáo lý của Thầy. Dù bây giờ họ lãnh nhận với những tình cảm con người, nhưng cũng luôn luôn hữu ích để nâng họ lên... Và đứa bé gái này là nô lệ nhưng thuộc dòng dõi Do Thái, là bông hoa Claudia tặng cho bầy chiên của Đức Kitô, để cho nó sự tự do và lòng tin vào Đức Kitô. Còn về những gì liên can tới việc Thầy biết về của dâng cúng... Ôi Judas! Tất cả, ngoại trừ con, có thể đặt cho Thầy câu hỏi ấy! Con biết rằng Thầy, Thầy nhìn thấy trong các con tim.
- Vậy là Thầy biết là con đã nói sự thật khi con nói về một cạm bẫy rằng con đã phát hiện ra nó, khi con làm cho... các kẻ có tội nói ra.
- Đúng vậy.
- Vậy hãy nói điều đó thật mạnh đi để mẹ con nghe thấy... Mẹ ơi, con là đứa con trai, nhưng không phải kẻ hiểm ác... Mẹ à, chúng
562
ta làm hòa đi. Chúng ta hãy hiểu nhau, yêu nhau, hợp nhất trong việc phục vụ Giêsu của chúng ta.
Và Judas, khiêm tốn và tình nghĩa tới ôm mẹ ông. Bà nói với ông: “Ờ, con ơi! ờ, Judas của mẹ! Tốt! Tốt! Hãy luôn luôn tốt. Ôi! Con mẹ! Vì con, vì Chúa, vì người má tội nghiệp của con!”
Trong lúc đó, nhiều người ở trong phòng giao động và bình phẩm. Nhiều người tuyên bố rằng tiếp nhận các bà Rôma là thiếu khôn ngoan, và họ phiền trách Giêsu về điều đó.
Judas nghe thấy, ông liền rời mẹ ông để bảo vệ Thầy. Ông kể lại cuộc đàm thoại của ông với Claudia, và ông nói để kết thúc: “Đó không phải là sự giúp đỡ đáng khinh. Lại nữa, trước khi tiếp nhận họ vào giữa chúng ta, chúng ta cũng đâu có tránh được bách hại. Hãy để cho bà ta làm. Và qúi vị hãy nhớ rõ rằng tốt hơn là đừng nói với ai. Hãy nghĩ rằng nếu đó là sự nguy hiểm cho Thầy, thì đối với chúng ta cũng chẳng kém nguy hiểm khi là bạn với dân ngoại. Đại Pháp Đình, tận đáy lòng, họ còn kìm giữ vì còn sợ Giêsu, một cái sợ sau chót, là sẽ giơ tay trên kẻ được xức dầu của Thiên Chúa, họ sẽ chẳng e ngại giết chúng ta như một bầy chó, chúng ta, những kẻ tầm thường tội nghiệp. Thay vì làm bộ tức giận, qúi vị hãy nhớ rằng vừa lúc nãy, qúi vị giống như từng ấy con chim sẻ chết khiếp, và hãy chúc tụng Thiên Chúa vì đã giúp chúng ta bằng một phương tiện bất ngờ, bất hợp pháp, nếu qúi vị muốn nói, nhưng rất mạnh, để đặt nền móng cho Nước của Đức Messi. Chúng ta có thể tất cả nếu Rôma bảo vệ chúng ta. Ôi! Tôi, tôi không sợ nữa. Bữa nay là một ngày trọng đại! Trọng đại cho điều này hơn cho tất cả mọi điều khác. A! Khi Thầy là thủ lãnh! Một quyền bính êm đềm, mạnh mẽ đáng chúc tụng chừng nào! Bình an chừng nào! Công bình chừng nào! Vương Quốc mạnh mẽ và nhân hậu của Đấng Công Chính! Và thế giới sẽ từ từ đến với Người!... Các lời tiên tri được thực hiện! Các đám đông, các dân tộc... Thế giới ở dưới chân Thầy! Ôi! Thầy, Thầy của con! Thầy là Vua, chúng con là những bộ trưởng của Thầy... Bình an trên trái đất, vinh quang trên Trời... Giêsu Kitô Nazarét, Vua thuộc dòng Đavít, Vị Messi Cứu Tinh, con
563
chào Thầy và con thờ Thầy!” Và Judas như xuất thần, qùi phục xuống và nói để kết thúc: “Trên trái đất, trên Trời, và cả cho tới hỏa ngục, danh Thầy sẽ được nhận biết và uy quyền của Thầy sẽ vô hạn. Sức mạnh nào có thể chống lại Thầy, ôi Con Chiên và Sư Tử, Linh Mục và Vua, Thánh, Thánh, Thánh!?” Và ông tiếp tục cúi rạp xuống tới đất trong căn phòng hoàn toàn câm nín vì kinh ngạc.
62* NGÀY ÁP LỄ VƯỢT QUA.
PHẦN THỨ NHẤT: BUỔI SÁNG
Trong lâu đài của Lazarô đã biến thành phòng ngủ công cộng đêm vừa qua. Người ta thấy các ông ngủ hầu như khắp nơi. Không nhìn thấy các bà. Có lẽ người ta đã dẫn các bà lên các phòng trên lầu.
Bình minh hé lộ từ từ, nhuộm trắng thành phố, lẻn vào trong sân lâu đài, đánh thức những tiếng líu ríu e lệ đầu tiên trong chòm lá của các cây che bóng rợp cho sân, và tiếng gù gù đầu tiên của đàn bồ câu ngủ trong khung của mái hiên. Nhưng con người chưa thức giấc. Mệt mỏi và no nê lương thực cũng như cảm xúc, họ ngủ và mơ mộng...
Giêsu đi ra tiền đường, không gây một tiếng động. Người đi qua đó để vào sân danh dự, Người rửa ráy tại một cái suối trong đang vui ca giữa một khoảng vuông của các cây đào kim nhưỡng mà ở gốc chúng có những bông huệ nhỏ, rất giống loại hoa người ta gọi là bông linh lan Pháp. Người tự vuốt ve sửa sang cho thứ tự cân đối, rồi vẫn không gây tiếng động, Người đi tới chiếc cầu thang dẫn tới tầng trên và tới sân thượng. Người lên đó để cầu nguyện, suy niệm...
Người từ từ đi lại. Ở đó chỉ có các con bồ câu, chúng vươn dài cổ và nghiêng nghiêng tựa như hỏi nhau: “Ông này là ai vậy?” Rồi Người tì tay vào bức tường thấp và đứng trầm mặc, bất động. Sau cùng Người ngẩng đầu lên, có lẽ ngạc nhiên vì tia sáng mặt trời đầu tiên vươn lên sau chân đồi, những đồi này che khuất Bêtani và
564
thung lũng sông Giođan. Người nhìn quang cảnh trải ra dưới chân Người.
Lâu đài của Lazarô chắc chắn ở trên một trong vô số vùng đất cao, làm cho các đường phố của Jêrusalem lên dốc xuống dốc liên tục, đặc biệt là trong những vùng ít đẹp. Căn nhà hầu như ở trung tâm thành phố, hơi lui về phía tây nam.
Nhà được xây tại một con lộ đẹp dẫn về vùng Sixte, làm thành một hình chữ T với Sixte. Nó ở trên cao, nhìn xuống thành phố ở bên dưới. Đàng trước là khu Bézéta, Moriah và Ophel. Bên ngoài các khu này là dẫy núi Ôliu. Đàng sau nhà là núi Sion mà căn nhà đã nằm lên một phần của núi này. Còn ở hai bên thì cái nhìn ở phía nam cho thấy các ngọn đồi phía nam, ở phía bắc thì vùng Bézéta che khuất hết một phần lớn phong cảnh, nhưng còn nhìn thấy ở bên ngoài thung lũng Gihon là cái đầu trọc vàng vàng của Golgota chìm ngập trong ánh hồng của rạng đông, luôn luôn có vẻ thê lương, dù là trong ánh sáng vui tươi này.
Giêsu nhìn nó... Cái nhìn của Người, mặc dù trưởng thành hơn, suy tư hơn, nhưng nó vẫn nhắc tôi nhớ đến cái nhìn xa xưa của Giêsu, lúc Người mười hai tuổi, trong thị kiến về sự tranh luận với các nhà tiến sĩ. Bây giờ cũng như hồi đó, không phải là cái nhìn sợ hãi, không, đó là cái nhìn xứng đáng của vị anh hùng nhìn bãi chiến trường sau cùng của mình.
Rồi Người quay để nhìn các ngọn đồi ở phía nam thành phố, và Người nói: “Nhà Caipha!” Rồi bằng cái nhìn, Người vẽ tất cả lộ trình: từ đây tới Gétsêmani, rồi tới Đền Thờ, và Người còn nhìn ra ngoài các tường thành cho tới Calvê... Trong lúc này, mặt trời đã lên và soi sáng toàn bộ thành phố.
Thình lình, tại cổng lâu đài, người ta gõ hàng tràng những cú thật mạnh và không gián đoạn. Giêsu cúi xuống để nhìn, nhưng đầu hồi nhô ra qúa nhiều, trong khi cái cổng lại lùi vào trong bức tường dầy nên Người không nhìn thấy người gõ. Trái lại, Người nghe thấy ngay tiếng kêu của những kẻ đang ngủ giật mình thức dậy, trong khi chiếc cổng do Lêvi mở ra lại được khép lại cách gẫy
565
gọn. Rồi Người nghe tên Người được kêu lên bởi một số nhiều giọng nam cũng như nữ... Người vội vã đi xuống để nói: “Thầy đây. Các con muốn gì?”
Những kẻ gọi Người, vừa khi họ nghe tiếng Người, họ liền đổ xô lên cầu thang, họ vừa phóng lên vừa la ó. Đó là các tông đồ và các môn đệ cũ nhất, và ở giữa họ là Jonas, người ở Gétsêmani. Tất cả mọi người đều nói và không ai hiểu gì cả.
Giêsu phải khắt khe trấn át họ dừng lại và nín lặng để có thể làm họ bình tĩnh. Người lại với họ và hỏi ngay: “Có chuyện gì?”
Lại một ồn ào nữa nổi dậy vì xúc động, vừa vô ích, vừa không thể hiểu được. Đàng sau những người la lối đó là các khuôn mặt hoặc buồn rầu, hoặc ngạc nhiên của các bà và các môn đệ...
- Mỗi lần chỉ một người nói thôi. Con, Phêrô, bắt đầu đi.
- Jonas tới... Ông ta nói họ rất đông, và họ tìm Thầy ở khắp nơi. Ông ta lo suốt đêm, và khi cổng vừa mở, ông ta tới nhà Jeanne, và ông biết rằng Thầy ở đây. Nhưng chúng ta phải làm sao? Vì dù sao chúng ta cũng phải làm lễ Vượt Qua!
Jonas ở Gétsêmani tô điểm cho cái tin đó và nói: “Vâng. Chúng cũng ngược đãi con nữa. Con đã nói rằng con không biết Thầy ở đâu, rằng có lẽ Thầy không trở lại. Nhưng chúng nhìn thấy quần áo của qúi vị và chúng hiểu rằng Thầy đã tới Gétsêmani. Đừng bạc đãi con Thầy ơi! Con luôn luôn cho Thầy ở với tình yêu, và đêm qua con phải khổ vì Thầy. Nhưng... nhưng...”
- Đừng sợ! Từ nay Thầy không để ông bị nguy hiểm nữa. Thầy sẽ không trú ở nhà ông nữa. Thầy chỉ giới hạn ở việc, khi đi qua, Thầy đến đó cầu nguyện về ban đêm... Ông không thể cấm Thầy việc đó... - Giêsu rất dịu dàng với Jonas Gétsêmani đang sợ chết khiếp...
Nhưng giọng chuông vàng của Maria Magđala ngắt lời Người cách mạnh mẽ: “Ông ơi! Ông đã quên rằng ông là một người đầy tớ từ hồi nào vậy? Ông quên rằng chính sự chiếu cố của chúng tôi đã cho phép ông được coi mình như chủ. Căn nhà và vườn ôliu thuộc về ai chứ? Chỉ có chúng tôi mới có quyền nói với vị Rabbi:
566
‘Đừng đến làm thiệt hại cho của cải của chúng tôi’. Nhưng chúng tôi không nói điều đó, bởi vì sẽ là một lợi ích lớn lao nếu vì để tìm Người, chúng, các kẻ thù của Đức Kitô, phá hủy cây cối và tường rào, và cả đến làm sập đổ hành lang, vì tất cả những thứ đó bị phá hủy vì đã nhận làm nơi ở cho Tình Yêu, và Tình Yêu sẽ ban tình yêu của Người cho chúng ta, các bạn trung thành của Người. Ồ, chúng cứ đến, cứ phá hủy, cứ dày xéo! Chuyện đó có nghĩa lý gì? Chỉ cần là Người yêu chúng ta và Người được vô sự!”
Jonas bị chẹt giữa cái sợ các kẻ thù và sợ cô chủ hung hăng của ông. Ông lẩm bẩm: “Vậy nếu chúng làm khổ con trai con?...”
Giêsu khích lệ ông ta: “Đừng sợ, Thầy đã nói với ông, Thầy sẽ không trọ ở nhà ông nữa. Ông có thể nói với những người hỏi ông rằng Thầy không ở Gétsêmani nữa... Không, Maria! Như vậy là tốt. Hãy để Thầy làm. Thầy biết ơn con vì sự đại độ của con... Nhưng đây không phải là giờ của Thầy, chưa phải là giờ của Thầy! Thầy cũng cho là có các pharisiêu...”
- Và các Đại Pháp Đình viên, các người của Hêrôđê, các người Saddu... và các lính của Hêrôđê... và... tất cả... tất cả... Con không thể không run vì sợ... Nhưng lạy Chúa, Thầy thấy đó! Con chạy đi để báo tin cho Thầy... tại nhà Jeanne, rồi ở đây... - Người đàn ông cố gắng làm cho thấy rằng ông liều mất sự an bình của ông để làm bổn phận của ông đối với Thầy.
Giêsu mỉm nụ cười nhân từ thương xót và nói với ông: “Thầy thấy, Thầy thấy. Nguyện Thiên Chúa thưởng công cho ông. Bây giờ hãy về nhà ông bình an. Thầy sẽ cho người nói với con là để các giỏ xách ở đâu, hoặc chính Thầy sẽ sai người đến lấy”.
Người đàn ông ra đi. Ngoại trừ Giêsu và Đức Trinh Nữ, còn thì không ai tiếc lời khiển trách và chế nhạo. Mặn mà là các lời của Phêrô, mặn chát là các lời của Iscariot. Các lời của Batôlômêo thì mỉa mai. Juđa Thađê không nói, nhưng ông ném một trong những cái nhìn của ông! Các lời lẩm bẩm và những cái nhìn khiển trách hộ tống ông ta ngay cả trong hàng ngũ các bà, để kết thúc tràng liên thanh sau cùng của Maria Magđala. Cô này, trước sự nghiêng
567
mình của người đầy tớ nông dân, đã nói: “Tôi sẽ nói với anh Lazarô rằng để làm bữa tiệc... anh hãy đến lấy những con gà thật béo ở Gétsêmani”.
- Thưa cô, con không có chuồng gà.
- Mày với Marc và Maria: ba con gà thiến tuyệt vời!
Mọi người đều cười vì câu nói không êm đềm và linh động của Maria Lazarô. Cô nổi sùng vì thấy các người dưới quyền cô sợ hãi, và vì sự kiện Thầy không tới bởi bị bó buộc từ bỏ cái tổ ấm êm đềm của Gétsêmani.
- Đừng giận, Maria! Hãy bình an! Bình an! Không phải mọi người đều có con tim của con.
- Ôi! Khốn thay là không! Nếu mọi người đều có qủa tim như con... Thầy ơi! Dù mọi ngọn giáo và mọi mũi tên chỉa vào con, cũng không làm cho con chia lìa với Thầy.
Có tiếng xì xèo giữa nhóm nam giới. Maria nghe được và nàng trả lời mạnh mẽ: “Đúng. Chúng ta sẽ thấy! Và chúng ta hãy hy vọng là sắp sửa rồi, nếu điều đó giúp các anh học can đảm. Không gì làm cho tôi sợ nếu tôi có thể phụng sự Rabbi của tôi. Phụng sự, đúng, phụng sự. Và chính vào giờ nguy hiểm mới là giờ người ta phụng sự Người, các anh ạ! Còn những lúc khác... Ôi! Những lúc khác thì không phải là phụng sự! Đó là vui hưởng... Và người ta đi theo Đức Messi không phải để vui hưởng!”
Các ông cúi đầu, bị châm chích bởi sự thật này.
Maria băng qua các nhóm người và đến trước mặt Giêsu: “Thầy quyết định thế nào? Nay là ngày áp lễ rồi! Lễ Vượt Qua của Thầy ở đâu? Xin Thầy ra lệnh... Và nếu con được ân phúc trước mặt Thầy, thì xin Thầy cho phép con được dâng cho Thầy một trong các phòng tiệc của con, và được nghĩ đến tất cả”.
- Con đã tìm được ân phúc trước mặt Cha trên Trời, vậy là cũng ân phúc trước mặt Con của Cha, mà đối với Con Cha thì mọi sự thuộc về Cha đều là thánh. Nhưng nếu Thầy chấp nhận phòng tiệc, thì hãy để Thầy lên Đền Thờ để sát tế con chiên như một người Israel tốt.
568
- Nếu chúng bắt Thầy? - nhiều người nói.
- Chúng sẽ không bắt Thầy. Ban đêm, trong tăm tối, chúng có thể dám làm giống như những tên ác nhân làm. Nhưng ở giữa đám đông tôn kính Thầy thì không. Đừng hèn!...
- Ôi, với lại bây giờ chúng ta có Claudia! Hoàng đế và Vương Quốc không thể hư mất - Judas kêu lên.
- Judas, Thầy xin con! Đừng làm cho những thứ ấy sụp đổ ở trong con! Đừng chăng các cạm bẫy cho chúng ở trong con! Nước Thầy không thuộc về thế giới này. Thầy không phải là một ông vua giống như các ông vua ngự trên ngai. Nước Thầy là thiêng liêng. Nếu con hạ thấp nó thành một cái nhỏ hèn của một nước thuộc về con người là con chăng các cạm bẫy cho nó và làm cho nó sụp đổ ở trong con.
- Nhưng Claudia...
- Claudia là một dân ngoại, do đó bà không thể biết được những giá trị tinh thần. Nếu bà nhìn thấy và ủng hộ đấng đối với bà là Vị Khôn Ngoan cũng đã là nhiều rồi. Nhiều người trong Israel cả đến chẳng coi Thầy là Người Khôn Ngoan!... Nhưng con không phải là dân ngoại, bạn Thầy ạ! Mong rằng cuộc gặp gỡ may mắn của con với Claudia không trở thành nguy hại cho con. Cũng vậy, đừng xử sự theo cách làm cho một ơn huệ của Thiên Chúa, được định đoạt để củng cố đức tin và ý chí của con trong việc phụng sự Chúa, lại trở nên một bất hạnh thiêng liêng cho con.
- Chúa ơi, làm sao điều đó có thể được?
- Rất dễ. Và không phải chỉ với một mình con thôi đâu. Nếu một ơn được ban để trợ giúp sự yếu đuối của con người, mà thay vì củng cố cho họ, làm cho họ luôn luôn ước ao sự lành siêu nhiên hơn, hoặc ngay một cách đơn giản là các sự lành về luân lý hơn, lại làm cho họ ra nặng nề vì sức nặng của các thèm khát nhân loại, và làm cho họ xa lìa con đường ngay chính, tới những con đường đem họ xuống dốc, lúc đó ơn huệ trở nên nguy hại. Chỉ cần kiêu ngạo là đủ làm cho một ân huệ thành nguy hại. Chỉ cần lạc hướng bởi một điều làm cho các con bị kích thích và làm cho các con không còn
569
nhìn thấy cái cùng đích tốt và tối cao nữa, là đủ làm cho một ân huệ thành nguy hại. Con đã nhận ra chưa? Việc bà Claudia đến chỉ được cho con sức mạnh của một nhận xét, đó là điều này: Nếu một người dân ngoại đã cảm thấy sự cao cả trong giáo lý của Thầy và sự cần thiết là nó phải toàn thắng, thì con, và cùng với con, hết các môn đệ, phải nhận thấy điều đó một cách rất mạnh mẽ hơn, và vì vậy, hiến toàn thân cho nó, nhưng luôn luôn một cách siêu nhiên. Luôn luôn... Và bây giờ chúng ta quyết định: Các con nói là ở đâu sẽ tốt để ăn mừng lễ Vượt Qua? Thầy muốn là tâm hồn các con bình an để làm các nghi thức này, để nghe Thiên Chúa, đấng mà người ta không thể nghe trong xao xuyến. Chúng ta đông người, nhưng Thầy thấy thật êm đềm là chúng ta, tất cả được ở cùng nhau, để các con có thể nói: “Chúng ta đã mừng một lễ Vượt Qua với Người”. Vậy hãy chọn một nơi mà chúng ta có thể phân chia theo các qui tắc của nghi thức, theo cách họp thành các nhóm để mỗi nhóm tiêu thụ con chiên của nhóm mình, để có thể nói: chúng ta đã hợp nhất, và mỗi người đều có thể nghe tiếng nói của anh em mình.
Người ta chỉ danh chỗ nọ chỗ kia, nhưng hai cô em của Lazarô gạt đi: “Ôi! Chúa ơi, ở đây đi. Chúng con sẽ sai người đi đón anh chúng con. Ở đây có nhiều phòng. Chúng ta sẽ họp nhau theo nghi thức. Xin Chúa vui lòng nhận. Lâu đài có nhiều phòng, có thể tiếp nhận hai trăm người chia thành các nhóm hai mươi người. Và chúng ta đâu có qúa đông như vậy. Lạy Chúa, xin cho chúng con được cái vui này, và cũng vì anh Lazarô qúa buồn... qúa bệnh của chúng con...” Và hai chị em khóc khi kết thúc: “...Vì Người ta không còn thể nghĩ được rằng anh ấy sẽ còn mừng một lễ Vượt Qua khác...”
- Các con nói sao? Các con có nghĩ rằng nên chấp nhận đề nghị của hai chị em qúa tốt này không? - Giêsu nói với mọi người.
- Con thì con nói rằng nên - Phêrô nói.
- Con cũng vậy - Iscariot nói đồng thời với nhiều người khác nữa. Những người không nói gì cũng ưng thuận.
- Vậy các con hãy cáng đáng công việc. Còn chúng ta, chúng ta lên Đền Thờ để chứng tỏ rằng kẻ vâng lời Đấng Tối Cao thì chắc
570
chắn không sợ và không hèn. Đi! Bình an của Thầy cho những người ở lại.
Giêsu xuống nốt những bậc thang còn lại, băng qua tiền đường và ra ngoài cùng với các môn đệ, trên con lộ đầy người.
63* NGÀY ÁP LỄ VƯỢT QUA.
PHẦN THỨ HAI: TRONG ĐỀN THỜ
Giêsu đi vào Đền Thờ, và từ bước chân đầu tiên của Người ở đây, người ta đã dễ dàng thấy tình cảm của các linh hồn đối với vị Nazarét. Cái nhìn xấu: lệnh truyền cho các người coi Đền Thờ canh chừng “kẻ nhiễu loạn” được ban bố công khai để mọi người đều nhìn và nghe thấy. Các lời khinh miệt dành cho các người ở với Ngài, và cả đến cố tình xô đẩy các môn đệ. Sự thù ghét lên tới nỗi các pharisiêu, luật sĩ và tiến sĩ huy hoàng đã lấy điệu bộ và cử chỉ của các kẻ làm phu khuân vác hoặc các kẻ hèn hơn nữa. Họ qúa mù quáng vì thù ghét nên họ không nghĩ được rằng hành động như vậy là họ tự làm giảm giá trị tới tận cùng.
Giêsu đi qua cách bình tĩnh tựa như những thái độ này không liên can tới Người! Người là kẻ đầu tiên chào hỏi ngay khi Người thấy ai, vì địa vị của họ trong Đền Thờ, hoặc vì quyền bính của họ trong thế giới Hy Bá, là loại người trên. Và nếu ai không trả lời cho tiếng chào trọng kính mà Giêsu dành cho họ, thì Người cũng không thay đổi thái độ. Chắc chắn khuôn mặt của Người khi Người đi qua từ một trong những kẻ kiêu căng tới một trong những kẻ khiêm nhường rất đông đảo này, đã thay đổi sự thể hiện - và rất đông là những người hành khất và người nghèo, người bệnh mà Người đã tụ họp ngày hôm qua, mà một dịp may không thể tưởng tượng mà họ có, đã cho phép họ mừng lễ Vượt Qua như họ không thể làm có lẽ đã từ nhiều năm nay. Họ tụ họp thành nhóm nhỏ, một hội nhỏ được thành lập một cách hồn nhiên, đi mua các con chiên để sát tế.
571
Họ, những kẻ bị bỏ rơi, sung sướng được ngang hàng với những người khác về quần áo và các phương tiện - khi đó mặt mũi họ tươi nở những nụ cười rất êm đềm. Người đứng lại để nghe một cách nhân hậu những lời của họ, những tường thuật ngạc nhiên của họ, những chúc phúc của họ... Người già, trẻ con, bà góa, người tàn tật hôm qua, hôm nay được khỏi; hôm qua khốn cùng, rách rưới, đói khát, bị bỏ rơi, hôm nay được ăn mặc hẳn hoi, và sung sướng được như những người khác trong ngày Đại Lễ Bánh Không Men!
Các giọng nói rất thay đổi: từ giọng thanh của các trẻ em tới giọng run rẩy của các cụ già. Và ở giữa hai thái cực này là giọng cảm động của các phụ nữ, chào hỏi, đi hộ tống sau Giêsu. Những cơn mưa hôn trên y phục, trên bàn tay Người. Giêsu mỉm cười và chúc phúc trong khi các kẻ thù của Người tái mét vì phẫn uất cũng bằng Người sáng rỡ sự bình an. Họ bị bứt rứt dày vò bởi sự công phẫn bất lực.
Tôi nghe được các mảnh đàm thoại:
- Anh nói đúng. Nhưng nếu chúng ta chuyển qua thực hành thì chúng (và một pharisiêu chỉ vào đám đông dân chúng vây quanh Giêsu) sẽ xé chúng ta thành trăm mảnh.
Một người đàn ông, có lẽ hôm qua là người ăn mày tàn tật, nói: “Anh nghĩ coi: Người đã đón nhận chúng tôi, cho ăn no, cho quần áo mặc, chữa lành bệnh, và nhiều người tìm được việc làm và sự giúp đỡ nhờ trung gian của các môn đệ giầu. Nhưng chính nhờ Người mà tất cả đã đến. Nguyện Thiên Chúa luôn luôn cứu giúp Người”.
-... Tôi rất tin, chính như vậy mà hắn, tên phiến loạn này, đã mua chuộc đám dân cùng đinh để chống lại chúng ta - một tên luật sĩ lẩm bẩm giữa hai hàm răng với một đồng bọn.
- Một trong số các môn đệ của Người đã ghi tên tôi và bảo tôi tới nhà bà sau lễ Vượt Qua. Bà sẽ dẫn tôi về cơ sở của bà ở Béther. Bà hiểu không? Các con tôi và tôi. Tôi sắp làm việc. Nhưng đó có phải là công việc bảo đảm và chắc chắn không à? Đó là niềm vui! Và thằng Lêvi của tôi sẽ không phải rã rời vì việc đồng áng, vì bà
572
môn đệ đã nhận tôi sẽ để nó ở các vườn hồng... Một trò chơi, tôi nói với bà vậy đó. A! Nguyện xin Thiên Chúa ban vinh quang và phúc lộc cho Đấng Messi của Người - Người đàn bà góa ở đồng bằng Saron nói với một bà Israel giầu đã hỏi bà.
- Ôi! Vậy tôi, tôi không thể sao?... Qúi vị, những người Ngài đã tụ họp ngày hôm qua, tất cả qúi vị đều đã được xếp đặt - Người đàn bà Israel giầu nói.
- Không bà ơi. Vẫn còn những bà góa khác với con cái, và những người đàn ông khác nữa.
- Tôi muốn nói với Người để xin Người ban ơn giúp đỡ tôi.
- Hãy gọi Người.
- Tôi không dám.
- Con, Lêvi của mẹ, con đi nói với Người là có một người đàn bà muốn thưa chuyện với Người.
Đứa trẻ đi mau lẹ và tường trình sự kiện với Giêsu.
Vào lúc đó, một saddu ngược đãi một ông già đang nói một cách trịnh trọng giữa một đám đông đến từ bên kia sông Giođan, và ông ta tán dương vị Thầy xứ Galilê.
Ông già tự vệ và nói: “Tôi đã làm gì xấu chứ ? Ông muốn rằng tôi ca tụng ông sao? Vậy ông chỉ việc làm những gì Người đã làm. Nhưng ông, nguyện Thiên Chúa tha cho ông, đối với những kẻ bạc đầu và những kẻ khổ sở, ông chỉ cho sự khinh dể chứ không cho tình yêu. Tên Israel giả dối, không tôn trọng Đệ Nhị Luật để biết thương người nghèo”.
- Qúi vị nghe không? Đó là hậu qủa cái giáo lý của tên đầu đảng này! Nó dạy bọn cùng đinh xúc phạm đến các vị thánh của Israel.
Một thầy cả của Đền Thờ trả lời: “Điều đó xảy ra là tại lỗi của chúng ta. Chúng ta chỉ giới hạn ở việc hăm dọa mà không có hành động”.
... Trong lúc đó, Giêsu nói với bà Israel giầu: “Nếu bà muốn thực sự coi mình như mẹ của các trẻ mồ côi và người chị của các bà góa, thì hãy tới lâu đài của Chouza tại Sixte. Hãy nói với Jeanne là chính Thầy gởi bà tới. Hãy đi. Và cầu cho đất đai của bà được mầu
573
mỡ như đất Êđen vì lẽ tình thương của bà; và cầu cho con tim bà mầu mỡ trong một tình yêu luôn luôn lớn thêm đối với tha nhân”. Lúc đó Giêsu nhìn thấy các lính gác Đền Thờ lôi kéo ông già đã nói lúc trước. Người kêu: “Các ông làm gì ông già này vậy?”
- Hắn đã chửi các chức trách đã quở trách hắn.
- Không phải đâu. Một ông saddu đã ngược đãi con vì con nói về Thầy cho các người hành hương này. Và bởi vì ông ta đã giơ tay trên con vì lẽ con là ông già nghèo, con đã nói với ông ta rằng ông là người Israel giả dối, đã dày đạp lời của Đệ Nhị Luật.
- Buông ông già này ra. Ông ta đi với tôi. Đúng là sự thật ở trên môi ông ta. Không phải là sự chân thành, mà là Sự Thật. Thiên Chúa, nếu Người nói bởi miệng lưỡi các trẻ nhỏ, thì Người cũng nói bởi miệng lưỡi các cụ già. Có lời rằng: “Đừng khinh dể người già, vì họ là người của chúng ta và đã già đi”. Và lời nữa: “Đừng khinh dể lời của những người già cả và khôn ngoan, và chớ gì ngươi quen thuộc với các phương ngôn của họ, vì chính từ họ mà ngươi học được sự khôn ngoan và những giáo huấn của thông minh”. Và lời nữa: “Đừng nói nhiều qúa tại nơi có những người già”. Hỡi Israel, chớ gì ngươi nhớ lấy những điều đó. Cái phần tử này của Israel nhất định là đúng. Nếu không thì Đấng Tối Cao cũng có khả năng để đính chính cho nó. Bố già, hãy đến đi bên cạnh Thầy.
Ông già nghèo lại với Giêsu trong khi những người saddu, bị đập bởi sự khiển trách, liền căm tức bỏ đi.
- Ôi! Hỡi vị Vua được trông chờ! Con là đàn bà Hy Bá sống ở Diaspora. Con có thể phục vụ Thầy giống như người đàn bà mà Thầy đã sai tới nhà Jeanne không? - một người đàn bà nói. Tôi thấy bà ta rất giống một bà tên là Nique, kẻ đã lau mặt cho Giêsu trên Golgota và có chiếc khăn. Nhưng các đàn bà Palestin rất giống nhau. Thị kiến đó đã xảy ra mấy tháng rồi nên tôi có thể bị lộn.
Giêsu nhìn bà ta. Người thấy một người đàn bà khoảng bốn mươi, ăn mặc đẹp đẽ, dáng điệu ngay thẳng. Người hỏi bà: “Bà góa phải không?”
- Vâng. Và không có con. Con mới trở về và con mua đất ở Jêricô để được ở gần thành thánh. Nhưng bây giờ con thấy Thầy lớn hơn
574
là đất, và con theo Thầy. Con xin Thầy nhận con làm đầy tớ. Con biết Thầy nhờ các môn đệ Thầy. Nhưng Thầy vượt qua những gì họ đã nói với con.
- Tốt. Nhưng chính xác là bà muốn gì?
- Giúp Thầy trong các người nghèo và làm cho người ta biết và yêu Thầy như con có thể. Con biết nhiều kiều dân ở Diaspora, vì con đã đi theo chồng con trong việc buôn bán. Con có các phương tiện và con không đòi hỏi nhiều, vì vậy con có thể làm được nhiều. Con muốn làm rất nhiều cho tình yêu Thầy, và để giúp cho linh hồn của người đã lấy sự đồng trinh của con từ hai mươi năm rồi. Ông đã là người chồng đáng yêu của con cho tới hơi thở sau cùng của ông. Khi gần chết, ông đã bảo con, tựa như ông nói tiên tri: “Khi anh chết, hãy đặt vào mồ cái thân xác đã yêu em, và hãy đi về quê hương chúng ta. Em hãy đi tìm Đấng Đã Được Hứa. Ôi! Em sẽ gặp được Người! Hãy tìm Người, hãy theo Người. Chính Người là Đấng Cứu Thế và là Đấng cho sống lại, và Người sẽ mở cửa của Đời Sống cho anh. Hãy sống tốt để giúp anh sẵn sàng khi Người mở cửa Trời cho những kẻ không còn nợ nần gì với sự công bằng, và hãy tốt để được gặp Người không chậm trễ. Em hãy thề rằng em sẽ làm điều đó, và em sẽ biến những nước mắt son sẻ góa bụa thành những hoạt động anh hùng. Ôi! Hiền thê của anh, hãy lấy Judith làm gương mẫu, và hết mọi dân tộc sẽ biết tên em”. Ông chồng tội nghiệp của con! Con thì con chỉ xin được một mình Thầy biết con...
- Thầy sẽ biết con như một môn đệ tốt. Con cũng hãy tới nhà Jeanne, và xin Thiên Chúa ở cùng con...
Bực bội như những con ong, các kẻ thù của Giêsu lại tới tấn công Người. Người đã cho sát tế con chiên và Người chờ người ta giết các con khác do các môn đệ đem tới để có đủ cho số người đông đảo của Người. Rồi Người trở lại nội khu Đền Thờ.
- Ông tính bao giờ mới chấm dứt những thái độ vua chúa của ông? Ông đâu phải vua, cũng chẳng phải tiên tri. Ông còn lạm dụng lòng tốt của chúng tôi tới bao giờ, con người tội lỗi, dấy loạn, nguyên nhân mọi điều dữ cho Israel. Chúng tôi phải nói với ông
575
bao nhiêu lần rằng ông không có quyền làm như rabbi ở đây, trong nội khu này?
- Tôi tới để sát tế con chiên. Các ông không thể cấm tôi việc đó. Còn những điều khác thì tôi nhắc các ông hãy nhớ lại Adonias và Salômôn.
- Người ta phải coi cái gì? Ông muốn nói về cái gì? Có phải ông là Adonias không?
- Không. Adonias xưng vương một cách gian trá, nhưng Sự Khôn Ngoan đã canh chừng và khuyên nhủ, và chỉ mình Salômôn được làm vua. Ta không phải Adonias. Ta là Salômôn.
- Vậy ai là Adonias?
- Tất cả các ông.
- Chúng tôi à? Ông nói sao?
- Nói sự thật và công lý.
- Chúng tôi giữ luật về hết mọi điểm. Chúng tôi tin vào các tiên tri và...
- Không. Các ông không tin vào các tiên tri. Các ngài đã chỉ đích danh tôi mà các ông không tin vào tôi. Không. Các ông cũng không giữ luật. Luật dạy những hành vi công chính mà các ông không làm. Kể cả các của lễ mà các ông vừa dâng cũng không chính đáng. Có lời rằng: “Lễ vật của kẻ hy sinh một của kiếm được cách bất chính là thứ dơ bẩn”. Có lời rằng: “Đấng Tối Cao không nhận lễ dâng của kẻ bất công, Người không ghé mắt tới lễ vật của họ, và Người sẽ không ân xá cho tội của họ vì lẽ họ dâng nhiều lễ hy sinh”. Có lời rằng: “Kẻ dâng lễ hy sinh bằng các của cải lấy của người nghèo thì giống như kẻ bóp cổ một người con trước mắt cha nó”. Điều đó đã được nói rồi đó, ôi Giocana!
Có lời rằng: “Bánh của kẻ túng thiếu cũng là sự sống của họ. Ai cướp lấy bánh ấy tức là sát nhân”. Điều đó đã được nói rồi đó, ôi Ismael !
Có lời rằng: “Kẻ nào lấy bánh tạo ra do mồ hôi thì cũng giống như nó giết người nghèo”. Điều đó đã được nói rồi đó, ôi Doras, con của Doras !
576
Có lời rằng: “Kẻ đổ máu và kẻ lường đoạt lương của công nhân là hai anh em ruột”. Điều đó đã được nói rồi đó, ôi Giocana, Ismael, Chanania, Doras, Jonatha! Và các ông cũng hãy nhớ có lời rằng: “Ai bịt tai trước tiếng kêu của kẻ nghèo thì nó cũng sẽ phải kêu, và sẽ không được nghe”.
Và ông, Êlêazar con Anna, ông hãy nhớ, và hãy nhắc cho cha ông nhớ rằng có lời đã nói: “Các thầy cả phải thánh, và không được để mình ra ô uế vì bất cứ lý do nào”.
Và ông, Cornêlius, hãy biết, có lời rằng: “Ai nguyền rủa cha hay mẹ mình thì bị phạt tử hình”. Và không phải chỉ có cái chết do lý hình làm cho, một cái chết rất sợ hơn chờ đợi những kẻ phạm đến cha mẹ, một cái chết đời đời, đáng sợ.
Và ông, Tolmê, ông hãy nhớ có lời rằng: “Kẻ nào lao mình vào các trò ma thuật sẽ bị Ta tiêu diệt”.
Và ông, Sađốc, vị luật sĩ vàng, hãy nhớ rằng: giữa kẻ gian dâm và kẻ môi giới, không có gì khác nhau trước mắt Thiên Chúa, và có lời rằng: “Kẻ xét xử gian một điều sẽ phải làm mồi cho ngọn lửa đời đời”. Và hãy nói cho kẻ quên điều ấy rằng: Kẻ nào cưới một trinh nữ rồi từ rẫy họ, xa lìa họ bằng những kết án gian trá thì phải bị kết án. Ôi! Không phải ở đời này, mà là ở đời sau, cùng một trật về các tội: dối trá, thề gian, làm hại người đàn bà và gian dâm.
Ô, cái gì vậy? Các ông chạy trốn sao? Trước một kẻ không khí giới, chỉ nói những lời, không phải là lời của nó, mà là các lời các ông đã biết là của các thánh trong Israel, và vì vậy các ông không thể nói rằng kẻ vô khí giới phạm thượng, vì khi nói như vậy là các ông tuyên bố rằng các sách đạo đức nói phạm thượng, cũng như các sách của Môise, đã được Thiên Chúa đọc cho viết. Các ông chạy trốn trước kẻ vô khí giới! Có phải tình cờ các lời tôi là các viên đá không? Hay vì nó đánh thức các ông, nó đập vào các tấm đồng cứng của con tim chai đá của các ông, của lương tâm các ông, để nó cảm thấy rằng nó phải tự thanh tẩy, nó, chứ không phải chỉ các chi thể, trong ngày áp lễ Vượt Qua này, để có thể ăn con chiên thánh mà không có các tội ô uế. Ôi! Nếu được như vậy thì ngợi
577
khen Chúa, bởi vì sự khôn ngoan thực, ôi, hỡi các ông là những người muốn được ca tụng là khôn ngoan, sự khôn ngoan thực chính là biết mình, biết những sai lầm của mình, thống hối nó, và đi làm các nghi lễ với một sự mộ mến thực sự, tức là với sự sùng kính và các nghi thức của tâm hồn, chứ không phải chỉ các nghi thức ở bên ngoài.
Họ đi hết rồi. Chúng ta cũng đi để mang bình an cho những kẻ đang chờ chúng ta...
64* NGÀY ÁP LỄ VƯỢT QUA.
PHẦN THỨ BA:
TRONG CÁC ĐƯỜNG PHỐ JÊRUSALEM
Các đấng ra khỏi một nơi đông ngẹt người để dìm mình vào các đường phố lúc nhúc. Mọi người đều chạy lăng xăng cho những chuẩn bị sau cùng của lễ Vượt Qua, và những người chậm trễ lo lắng tìm một phòng, một cái tiền đường, bất cứ chỗ nào để biến nó thành phòng ăn, để ăn con chiên.
Trong những điều kiện này thì rất dễ để gặp nhau, và để không nhận ra nhau trong sự chen chúc liên tục chảy qua dưới con mắt của các khuôn mặt thuộc mọi lứa tuổi, mọi miền, nơi có những người Israel với dòng máu Israel đã bị rút lại do những pha trộn máu, hoặc chỉ vì một sự phù hợp với thủy thổ mà họ giống với các chủng tộc khác. Vì vậy nên người ta thấy những người Hy Bá giống Ai Cập; có những người khác với cặp môi dầy, mũi tẹt, với diện mạo như sự giao nhau với các người Soudan. Một số khác có những nét đều đặn, gầy, tứ chi lỏng khỏng, mắt linh động, chứng tỏ họ thuộc về các thuộc địa Hy Lạp hoặc pha trộn với người Hy Lạp, trong khi những người vạm vỡ, cao lớn, phần đông mặt vuông, loan báo rõ ràng là họ không lạ lẫm gì với khối Latin. Cũng có nhiều người mà chúng ta, dân hiện đại, chúng ta nói họ thuộc về vùng Caucase hay Ba Tư, với những nét nhắc tới các con mắt của dân
578
Mông Cổ trong khuôn mặt rất trắng, hoặc con mắt Ấn Độ trong khuôn mặt mầu lục nhạt. Một chiếc kính vạn hoa đẹp của các khuôn mặt và y phục! Con mắt mỏi mệt với nó, và sau cùng, nó dễ dàng nhìn mà không thấy gì cả. Nhưng điều trốn thoát được người này thì lại bị quan sát bởi người kia, do đó dễ hiểu là điều ông Thầy không nhận ra - Người luôn luôn hơi trầm tư khi người ta để cho người yên, không hỏi han - thì lại bị nhận xét bởi một trong những kẻ ở với Người. Và các tông đồ, những người ở gần Giêsu nhất, chỉ trỏ những điều họ trông thấy và xì xèo với nhau, nói những lời phê bình... rất nhân loại, về những người họ chỉ trỏ.
Một trong những lời phê bình mặn chát về một người môn đệ cũ, vì ông này đi qua, hững hờ, giả vờ như không thấy họ. Giêsu nghe thấy và Người hỏi: “Các con nói những lời đó về ai vậy?”
- Về tên thô lỗ đó - Giacôbê Zêbêđê chỉ tay. “Hắn ta giả vờ như không nhìn thấy chúng ta. Và không phải chỉ có mình hắn ta hành động như vậy. Nhưng khi hắn ta tìm Thầy để được chữa khỏi thì lúc đó hắn biết nhìn Thầy. Cầu trời cho hắn ta bị nhiễm chứng ung nhọt độc!”
- Giacôbê ơi! Con có những cảm nghĩ như vậy ở bên cạnh Thầy sao? Và con sửa soạn ăn con chiên như vậy? Thực thế, con còn xa rời Thầy hơn anh ta. Anh ta bỏ đi cách ngay thẳng khi anh ta cảm thấy mình không thể làm được điều Thầy nói. Con thì con ở lại, nhưng con không làm điều Thầy nói. Phải chăng con nặng tội hơn anh ta?
Giacôbê đỏ mặt, bị xung huyết, bẽ bàng, liền rút lui ra sau các bạn ông.
Gioan nói để giúp cho anh ông vì bị rầy: “Thầy ơi, thực là buồn khi thấy họ hành động như vậy. Tình yêu của chúng con nổi loạn khi thấy họ thiếu tình yêu”.
- Đúng. Nhưng các con tin là hành động như vậy sẽ dắt họ về với Tình Yêu sao? Thiếu lịch sự, các lời nói độc ác, chửi bới, không bao giờ dẫn được một đối thủ hay một người có lối suy nghĩ khác tới điểm mà ta phải dẫn họ tới. Chính sự êm đềm, nhẫn nại, bác ái,
579
kiên trì dù tất cả các từ chối, sẽ kết thúc bằng cách thu được kết qủa. Thầy hiểu rằng quả tim các con khổ khi thấy Thầy không được yêu, và Thầy chia sẻ cảm tình với các con. Nhưng Thầy muốn các con biết và thấy một cách siêu nhiên hơn trong những hành động của các con, và trong cách thế để làm cho Thầy được yêu. Nào, Giacôbê, lại đây. Không phải Thầy nói để hạ nhục con đâu. Chúng ta hãy hiểu nhau, chúng ta hãy yêu nhau, ít nhất là giữa chúng ta với nhau, các bạn Thầy... Đã có biết bao không hiểu và đau đớn cho Con Người rồi!
Giacôbê thấy tạm yên tâm, trở lại đi bên Thầy. Họ bước trong yên lặng một lát, rồi bỗng dưng Tôma nổ như sấm: “Nhưng đó thực đáng xấu hổ!”
- Cái gì? - Giêsu hỏi.
- Nhưng sự hèn nhát của rất nhiều người đó! Thầy không thấy bao nhiêu người làm bộ như không biết Thầy đó sao?
- Nhưng chuyện đó có nghĩa lý gì? Cái lối hành động của họ có thay đổi được một nét nào những điều đã viết về Thầy không? Không. Chỉ có họ là có thể thay đổi những điều sẽ có thể được viết về họ. Vì trong cuốn sách đời đời, có thể được viết về họ: “Những môn đệ tốt” nhưng sẽ bị viết: “Những kẻ không tốt, những kẻ mà việc Đức Messi tới chẳng ích gì cho họ”. Các con biết, một lời đáng ngại thay! Còn hơn là cái lời: “Ađam cùng với Evà phạm tội”. Bởi vì Thầy, Thầy có thể hủy bỏ cái tội này, nhưng Thầy không thể hủy bỏ tội từ chối Ngôi Lời và Đấng Cứu Tinh... Chúng ta hãy rẽ lối này. Thầy, Thầy sẽ cùng với các anh Thầy, với Simon Phêrô và Giacôbê dừng lại ở khu Ophel. Cả Judas Simon cũng ở lại nữa. Còn Simon Zêlote, Gioan, Tôma sẽ đi Gétsêmani để lấy các giỏ xách...
- Vâng. Như vậy Jonas sẽ không bị nuốt ngang xương con chiên của ông - Phêrô bực tức nói. Những người khác cười...
- Tốt, tốt! Con đừng ngạc nhiên nếu ông ta sợ. Ngày mai sẽ lại đến lần con.
- Con à Thầy! Biển Galilê trở thành rượu còn dễ hơn con sợ -
580
Phêrô đoan chắc.
- Nhưng... buổi tối hôm đó... Ôi Simon! Anh có vẻ không được can đảm lắm tại cầu thang trong lâu đài của Chouza - Judas nói, châm chọc, không qúa mỉa mai, nhưng... cũng đủ chua chát để châm chích Phêrô.
- Là tại vì... tôi sợ cho Chúa nên tôi đã giao động! Không vì chuyện gì khác.
- Tốt! Tốt! Chúng ta hãy chúc cho nhau không bao giờ sợ... để đừng bị bẽ mặt, hen! - Judas trả lời trong khi lấy tay đập vào vai Phêrô với vẻ người bảo vệ và xấu ý... Vào những lúc khác thì hành động của ông sẽ làm phát ra một tràng phản ứng mạnh. Nhưng Phêrô, từ chiều hôm trước, đã đầy cảm phục đối với Judas, nên chịu đựng hắn hết.
Giêsu nói: “Philíp và Natanael cùng với Andrê và Mathêu, hãy đến lâu đài của Lazarô để báo rằng chúng ta đến”.
Bốn ông này chia tay, và những người khác đi với Giêsu. Các môn đệ, trừ Étienne và Isaac, đều đi với các tông đồ để đến lâu đài của Lazarô.
Tới khu Ophel thì lại một chia tay nữa: Những người đã được cử đi Gétsêmani thì đi tới đó cùng với Isaac. Étienne ở lại với Giêsu cùng với các con ông Alphê, Phêrô, Giacôbê và Iscariot. Và để không phải dừng lại ở ngã tư, họ bước từ từ theo cùng một hướng với những người đi Gétsêmani. Họ đi một lộ trình y hệt như lộ trình mà Giêsu sẽ đi vào đêm Thứ Năm Tuần Thánh ở giữa những kẻ hành hạ Người. Bây giờ là khoảng giữa trưa, con đường vắng vẻ. Một công trường rất nhỏ với một phông-ten, được che rợp bởi một cây sung mà tàn lá vươn ra trên mặt gương nước phẳng lặng, và sau vài bước là rũ xuống tới tận nước.
- Kìa, Samuel của Annalia - Giacôbê Alphê nói. Chắc ông biết rõ người này. Người thanh niên đi vào nhà với một con chiên... Ông cũng mang các thực phẩm khác nữa.
- Anh ta cũng lo bữa ăn Vượt Qua cho người bà con - Juđa Alphê nhận xét.
- Nhưng bây giờ anh ta ở đây à? Anh ta không đi sao? - Phêrô
581
nói.
- Ừ, anh ta ở đây. Người ta nói rằng anh ta qua lại với con gái Clêopha, thợ đóng giầy. Cô ta có tiền...
- A! Vậy tại sao anh ta lại nói là Annalia bỏ rơi anh ta? Đó là tên nói dối - Iscariot nói.
Giêsu nói với Judas Kêriot: “Người đó nói vậy dễ dàng, và anh ta không biết rằng hành động như vậy là anh ta bước vào con đường xấu. Chỉ cần một bước, một bước là không thể thoát ra được nữa... Đó là cái bẫy... Đó là mê lộ... Đó là cái cửa sập... Một cái bẫy sập sẽ không nâng lên nữa...”
- Uổng qúa! Năm ngoái anh ta có vẻ tốt ghê! - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Đúng. Tôi thì tôi tin chắc rằng anh ta sẽ bắt chước vị hôn thê của anh để hiến trọn cho Thầy, để thành lập một đôi thiên thần để phục vụ Thầy. Tôi thề là sẽ như vậy - Phêrô nói.
- Simon của Thầy ơi! Đừng bao giờ thề về tương lai của một người. Không có gì bất định hơn nó. Không một yếu tố nào đang hiện hữu vào lúc thề có thể là một bảo đảm chắc chắn. Có những tội nhân sau trở thành thánh; có những kẻ công chính hay có vẻ công chính mà sau trở thành tội nhân - Giêsu trả lời ông.
Trong lúc đó, Samuel, sau khi đã vào nhà, lại trở ra phông-ten để lấy nước... Do đó anh ta nhìn thấy Giêsu. Anh ta nhìn Người, biểu lộ sự khinh bỉ và quăng về phía Người một lời chửi rủa, nhưng anh ta nói tiếng Hy Bá nên tôi không hiểu.
Iscariot chạy phóng lên phía trước, cầm cánh tay anh ta và lắc như người ta lắc một cái cây để cho trái chín rụng xuống: “Ôi! Thằng tội lỗi! Mày nói với Thầy như vậy sao? Qùi xuống đất ngay, xin lỗi Người! Cái lưỡi dơ đầy những phân heo! Qùi xuống! Nếu không tao xé mày ra thành trăm mảnh!” Ông ta kinh khủng trong sự hung bạo thình lình của ông, ông Judas đẹp trai! Khuôn mặt ông
582
biến đổi và trông dễ sợ. Giêsu cố gắng làm ông ta dịu lại một cách vô ích. Bao lâu ông chưa thấy kẻ phạm thượng qùi gối trong đất bùn ở chung quanh phông-ten là ông ta không giảm bớt áp lực của ông.
- Xin lỗi! - Kẻ tội nghiệp nói giữa hai hàm răng, vì anh ta bị hành hạ bởi khổ người cao lớn và các ngón tay của Judas. Anh ta nói cách bất đắc dĩ, vì anh ta bị bó buộc.
Giêsu trả lời: “Ta không giận ghét. Anh, mặc dầu anh nói vậy, nhưng lời nói là vô ích nếu nó không đi theo với cử động của con tim. Anh thì trong con tim, anh vẫn còn nguyền rủa Ta, và anh có tội gấp đôi. Qủa vậy, anh kết án Ta và ghét Ta vì một lý do mà tận đáy lòng anh biết là không có, và bởi vì chỉ có mình anh thiếu sót bổn phận chứ không phải Annalia, cũng không phải Ta. Nhưng Ta tha tất cả cho anh. Hãy đi và làm sao để lại trở nên thật thà đáng yêu trước mắt Thiên Chúa. Judas, hãy buông anh ta ra”.
- Tôi đi, nhưng tôi ghét ông! Ông đã lấy mất Annalia của tôi và tôi ghét ông!...
- Nhưng anh đã tự khuây khỏa với Rébecca, con gái người đóng giầy. Và anh đã khuây khỏa như vậy từ lúc Annalia còn là hôn thê của anh, mà nàng, khi nàng bệnh, nàng chỉ nghĩ đến anh.
- Tôi góa... Tôi nghĩ là tôi đã bị góa, và tôi tìm một người vợ... Bây giờ tôi trở lại với Rêbecca bởi vì... bởi vì Annalia không muốn tôi - Samuel bào chữa, vì anh ta thấy âm mưu của anh bị lộ.
Judas Iscariot kết thúc: “...Và vì Rêbecca rất giầu. Xấu như một chiếc dép mòn... và già như cái gót giầy rớt ở ngõ hẻm... nhưng giầu, ồ! giầu...” Và ông cười mỉa mai trong khi anh kia chạy trốn.
- Làm sao anh biết vậy? - Phêrô hỏi.
- Ôi! Rất dễ để biết các cô gái muốn lấy chồng và tiền bạc ở chỗ nào!
- Tốt. Chúng ta đi lối này hở Thầy? Cái công trường này đúng là cái lò. Ở lối kia còn có tí bóng mát và không khí - Phêrô đầy mồ hôi và năn nỉ.
Họ từ từ đi trong khi chờ những người khác trở lại. Con đường
583
hẻm vắng tanh.
Một người đàn bà ra khỏi một cái cổng và đến khóc tại chân Giêsu:
- Bà làm sao?
- Thưa Thầy? Thầy đã thanh tẩy rồi? (để mừng lễ)
- Ừ, nhưng tại sao bà lại hỏi vậy?
- Bởi vì con muốn nói với Thầy... Nhưng Thầy không thể lại gần ông ta. Đó là một thứ hư thối... Thầy thuốc nói ông bị nhiễm độc. Sau lễ Vượt Qua, con sẽ gọi Thầy cả... Và... Hinnom sẽ đón nhận ông ta. Đừng nói rằng con có tội. Con, con không biết... Ông ta làm việc nhiều tháng tại Joppê, và ông trở về trong tình trạng như vậy. Ông nói rằng ông bị thương. Con đã dùng dầu và rửa với các dược liệu... nhưng không ích lợi gì cả. Con đã hỏi người bán dược thảo, ông ta đã cho con cái thuốc bột cho máu... Con đã để các đứa nhỏ ra xa... Con đặt giường của ông ở nơi riêng biệt... vì... con đã bắt đầu hiểu. Bệnh đã thành tồi tệ. Con đã mời bác sĩ, ông nói với con: “Bà ơi, bà biết bổn phận của bà, và tôi biết bổn phận của tôi. Đây là vết thương của dâm đãng. Bà hãy tránh xa ông. Tôi sẽ tách rời ông khỏi dân chúng và thầy cả Israel. Đáng lẽ ông ta phải nghĩ tới đó khi ông xúc phạm đến Thiên Chúa, đến bà và chính mình ông ta. Bây giờ ông ta phải đền tội”. Con sẽ giữ sự yên lặng cho ông ta cho tới hết lễ Bánh Không Men. Nhưng nếu Thầy thương xót kẻ có tội, thương con là kẻ vẫn còn yêu ông ta, và thương năm đứa trẻ vô tội...
- Bà muốn Thầy làm gì? Bà không nghĩ rằng ông ta đã phạm tội, và thật chính đáng là ông ta phải đền tội sao?
- Lạy Chúa, có chứ! Nhưng Thầy là lòng Thương Xót sống động - tất cả lòng tin mà một người đàn bà có thể có đều bộc lộ trong giọng nói của bà, trong cái nhìn của bà, trong thái độ của bà đang qùi gối, giơ tay ra về phía Vị Cứu Tinh.
- Và ông ta, ông ta có điều gì trong lòng?
- Sự thất vọng... Lạy Chúa! Thầy muốn rằng ông còn điều gì khác?
- Chỉ cần một cảm tình thống hối siêu nhiên và công bằng là tạo
584
được tình thương...
- Công bằng?
- Ừ, để nói: “Tôi đã phạm tội. Tội lỗi tôi đáng bị như vầy và còn hơn nữa. Nhưng tôi cầu xin tình thương với những kẻ mà tôi đã xúc phạm”.
- Con, con đã cho ông tình thương rồi. Thầy, Thiên Chúa, xin Thầy cũng ban cho ông. Con không thể xin Thầy vào nhà. Thầy thấy rằng con cũng không dám đụng vào Thầy... Nhưng nếu Thầy muốn, con sẽ bảo ông ta lên trên sân thượng cao, và từ đó, con sẽ bảo ông ta nói.
- Ừ.
Khi người đàn bà vừa chui đầu vào trong nhà, bà gọi lớn: “Jacob! Jacob! Hãy lên mái nhà. Hãy tỏ mình ra, đừng sợ”.
Sau một lát, một người đàn ông đứng trước lan can của sân thượng: một khuôn mặt vàng khè, sưng phù, cổ cuốn băng, tay cũng cuốn băng... Một sự hủy hoại của một người đang hư nát... Ông ta nhìn với những con mắt ướt của kẻ bệnh một thứ bệnh đê tiện. Ông hỏi: “Ai muốn tôi?”
- Jacob ơi, có Vị Cứu Tinh đó... - Người đàn bà không nói gì hơn, nhưng tựa như bà muốn thôi miên ông để truyền sang cho ông các tư tưởng của bà...
Người đàn ông, hoặc vì ông cảm thấy các ý nghĩ của vợ ông, hoặc vì ông có một cử động hồn nhiên, ông giơ tay ra và nói: “Ôi! Xin giải thoát cho con! Con tin ở Ngài! Thật là kinh khủng phải chết như thế này!”
- Thật kinh khủng kẻ thiếu sót bổn phận của mình. Ông không nghĩ tới bà và các con ông sao?
- Lạy Chúa! Xin thương... tới chúng nó, tới con... Xin tha! Xin tha! - Và ông ta cúi xuống trên bức tường lan can và khóc. Các bàn tay cuốn băng và cả cánh tay giơ ra ở bên trên bức tường. Các tay áo tụt lên, để lộ các cánh tay đã nhớp nhơ những ung nhọt liền nhau, sưng phồng, trông ghê tởm... Trong vị trí này, ông ta giống như một hình nộm gớm ghiếc, một đống giẻ dơ vất ở đó, đã bắt đầu thối nát. Thật thương tâm và buồn nôn khi nhìn ông.
585
Người đàn bà khóc, vẫn cứ qùi trong bụi đất. Hình như Giêsu còn chờ đợi một lời.
Sau cùng ông đi xuống và nói giữa các tiếng nấc: “Con rên xiết ở gần Ngài trong sự thống hối của qủa tim con! Ít nhất, xin Ngài hứa là chúng nó không phải đói khát... Rồi... con sẽ ra đi, nhẫn nhục để đền tội. Còn Ngài, Vị Cứu Tinh phúc đức, xin Ngài cứu linh hồn con! Ít nhất là linh hồn con. Ít nhất là nó”.
- Được, ta chữa cho ông vì những đứa trẻ vô tội, để ông có dịp bày tỏ sự công chính. Ông hiểu không? Ông hãy nhớ rằng Vị Cứu Tinh đã chữa ông, và Thiên Chúa sẽ tùy thuộc vào cách ông trả lời cho ân huệ này để tha thứ các tội ông. Chào. Bình an cho bà - và Người bỏ đi, hầu như chạy, để gặp những người từ Gétsêmani tới, cả đến không đứng lại khi có tiếng kêu của người đàn ông được chữa lành cũng như tiếng kêu của vợ ông...
- Hãy đi theo ngõ này để khỏi phải đi qua chỗ đó nữa - Giêsu nói sau khi đã tụ họp với những người khác.
Họ đi vào một ngõ hẻm rất thê thảm, rất khó lòng đi được hai người ngang nhau, và nếu có một con lừa chở đồ đi qua thì chỉ còn việc đứng dính vào tường như các con tem bưu điện. Trời tối mờ mờ, vì các mái nhà hầu như chạm nhau, và vì cảnh lặng lẽ cô quạnh và các mùi hôi thối làm buồn nôn. Họ đi hàng dọc giống như các thầy dòng đi rước kiệu, dọc theo ngõ hẻm bi đát, rồi họ tụ họp lại tại công trường nhỏ, nơi có nhiều con trai đang tụ tập.
- Tại sao Thầy nói như vậy với ông đó? Chưa bao giờ thấy Thầy nói như vậy... - Phêrô tò mò hỏi.
- Bởi vì người này sẽ là một trong số các kẻ thù của Thầy. Và tội trong tương lai sẽ làm cho tội qúa khứ của ông ra trầm trọng hơn.
- Vậy mà Thầy chữa cho ông ta!? - tất cả đều ngạc nhiên hỏi.
- Ừ, vì thương các trẻ thơ...
- Hum! Ông ta sẽ lại nhiễm bệnh nữa...
- Không. Về đời sống của thân xác, sau những đau đớn kinh khủng mà ông đã phải chịu, ông sẽ cẩn thận và không bị nhiễm bệnh nữa.
586
- Nhưng ông ta sẽ phạm tội chống lại Thầy. Thầy đã nói mà? Con thì con sẽ để cho ông ta chết luôn.
- Simon Jonas, con là kẻ tội lỗi.
- Còn Thầy, Giêsu Nazarét, Thầy qúa nhân từ! - Phêrô đối đáp.
Họ biến mất trong một phố ở trung tâm, và tôi không thấy gì nữa.
Chú thích cá nhân:
Người đàn ông được chữa lành cũng như Samuel, tôi nhận ra họ. Người thứ nhất là kẻ trong cuộc Thương Khó Tử Nạn, đã ném một hòn đá vào đầu Giêsu. Tôi biết vợ ông ta nhiều hơn biết ông ta, bà buồn khổ bây giờ cũng như lúc đó. Và căn nhà của bà rất dễ nhận ra, vì người ta phải bước lên ba bậc thềm để vào. Cũng thế, dưới tấm màn của sự thù ghét đã làm ông ta thay đổi, tôi nhận ra Samuel, người đàn ông đã giết mẹ bằng một cú đá để có thể chạy tới đánh Giêsu bằng một cái dùi côn.
65* NGÀY ÁP LỄ VƯỢT QUA.
PHẦN THỨ BỐN:
BỮA ĂN VƯỢT QUA VỚI LAZARÔ
Khi Giêsu vào trong lâu đài, tôi thấy Người bị bao bọc bởi một đám đông các đầy tớ từ Bêtani đến. Tất cả đều lo việc chuẩn bị. Lazarô nằm trên giường, rất đau đớn. Ông chào Thầy ông bằng một nụ cười xanh xao khi Người vội vã đến với ông, nghiêng mình trên ông một cách yêu thương và hỏi: “Con đau lắm phải không bạn Thầy, vì sự dằn lắc của xe?”
- Thưa Thầy, rất đau - Lazarô trả lời. Ông mệt mỏi tới nỗi khi nhớ tới những điều ông đã chịu, mắt ông đầy nước.
- Tại lỗi Thầy. Hãy tha cho Thầy!
Lazarô cầm bàn tay Giêsu và áp vào mặt ông. Ông lướt bàn tay qua gò má hốc hác của ông, ông hôn nó và thì thầm: “Ôi! Chúa ơi! Đâu phải lỗi Thầy. Con bằng lòng biết bao vì Thầy ăn lễ Vượt Qua với con... Lễ Vượt Qua sau cùng của con!...”
- Nếu Thiên Chúa muốn, mặc dầu tất cả, con vẫn còn nhiều lễ Vượt Qua nữa, Lazarô ạ. Và con tim của con sẽ luôn luôn ở với Thầy.
587
- Ôi! Con tận số rồi! Thầy an ủi con... Nhưng con chấm dứt rồi. Và điều đó làm con buồn - và ông khóc.
- Lạy Chúa, Thầy thấy không? Lazarô chỉ toàn khóc. Xin Thầy bảo anh đừng khóc nữa. Anh sẽ kiệt lực! - Matta thương xót nói.
- Xác thịt vẫn còn quyền lợi của nó. Matta ơi, sự đau đớn rất nặng nề, và thể xác khóc. Nó cần sự nhẹ nhõm này. Nhưng tâm hồn sẽ kiên trì, phải không bạn Thầy? Tâm hồn người công chính tình nguyện làm theo ý muốn Thiên Chúa.
- Vâng... Nhưng con khóc bởi vì Thầy, bị ngược đãi như vầy, Thầy không thể trợ giúp con lúc con chết... Con sợ, con sợ chết. Nếu có Thầy ở bên thì con không có những tình cảm này. Con sẽ nép vào cánh tay Thầy... Và con ngủ đi như vậy. Con sẽ làm sao? Con sẽ làm sao để chết mà không phản ứng chống lại việc vâng lời Ý Muốn đáng ngại này?
- Này, thôi đừng nghĩ tới những điều đó. Con thấy không? Con làm cho các cô em của con khóc... Chúa sẽ giúp con với tình phụ tử lớn lao tới nỗi con sẽ không sợ. Sự sợ hãi, chỉ những kẻ tội lỗi mới phải sợ...
- Nhưng Thầy, nếu Thầy có thể đến, Thầy sẽ đến trong cơn hấp hối của con chứ? Thầy hứa điều đó với con đi!
- Thầy hứa với con điều đó và còn hơn nữa.
- Trong lúc người ta sửa soạn, xin Thầy kể cho con những gì Thầy đã làm sáng nay...
Giêsu ngồi trên thành giường, cầm một trong hai bàn tay gầy gò của Lazarô trong đôi tay Người, kể lể chi tiết hết những gì đã xảy ra cho tới khi Lazarô mệt và thiếp ngủ. Cả khi đó Người cũng không rời ông. Người ngồi bất động để không làm rầy giấc ngủ phục hồi sinh lực. Người làm hiệu cho mọi người bớt tiếng động hết sức có thể, đến nỗi Matta, sau khi đã mang tới cho Giêsu chút gì ăn, bà nhón gót khi đi ra, hạ chiếc màn gió nặng xuống và khép các cánh cửa dầy lại. Tiếng động của căn nhà đang hoạt động ở khắp nơi giảm bớt hẳn, chỉ còn như tiếng ầm ì nghe êm nhẹ. Lazarô ngủ, Giêsu cầu nguyện và suy ngẫm. Hàng giờ qua đi như vậy cho tới
588
khi Maria trở lại, đem theo một chiếc đèn hoa, vì sắp đêm, và người ta đóng các cửa sổ. Cô ta thì thầm: “Anh ấy vẫn còn ngủ?”
- Ờ, anh ấy yên hàn, như vậy sẽ làm anh dễ chịu.
- Từ nhiều tháng nay, chưa ngày nào anh ngủ ngư vậy... Con tin là anh ấy rất xao xuyến vì sợ chết. Có Thầy ở bên cạnh, anh ấy chả còn sợ gì nữa... Anh ấy may mắn!
- Tại sao Maria?
- Bởi vì anh ấy có thể có Thầy ở bên cạnh khi chết... Nhưng con...
- Tại sao con không có?
- Bởi vì Thầy muốn chết... và sắp sửa rồi! Còn con, ai biết được bao giờ con mới chết. Thầy ơi! Thầy làm cho con chết trước Thầy đi.
- Không. Con còn phải phục vụ Thầy một thời gian dài nữa.
- Vậy là con có lý để nói rằng anh Lazarô may mắn!
- Những người yêu nhiều, tất cả đều có cái may như anh ấy, mà còn hơn nữa.
- Họ là ai? Những người trong sạch phải không?
- Những người biết yêu cách hoàn toàn, ví dụ như con chẳng hạn, Maria.
- Ôi! Thầy của con! - Maria qùi xuống trên chiếc thảm sặc sỡ che phủ nền nhà của căn phòng này, và cô yên lặng thờ lạy Giêsu của cô.
Matta tìm cô, ló đầu vào trong phòng: “Đi thôi chứ! Chúng ta phải sửa soạn căn phòng đỏ để làm phòng tiệc của Chúa”.
- Đừng, Matta. Phòng đó thì con hãy dành cho những người thấp bé nhất, các nông dân của Giocana chẳng hạn.
- Nhưng tại sao vậy Thầy?
- Bởi vì những người nghèo thì cũng giống như từng ấy Giêsu, vì Thầy ở trong họ. Hãy luôn luôn tôn trọng những người nghèo mà chẳng ai thương, nếu các con muốn nên trọn lành. Đối với Thầy, các con hãy sửa soạn cho Thầy ở tiền đường, và để mở hết các cửa ở lối trong, như vậy mọi người đều thấy Thầy và Thầy cũng thấy
589
mọi người.
Matta không được hài lòng lắm nên biện bác: “Nhưng Thầy ở trong tiền đường... Chỗ đó không xứng đáng với Thầy!...”
- Đi đi! Đi đi! Hãy làm điều Thầy bảo con. Xứng đáng nhất là làm điều Thầy khuyên.
Matta và Maria đi ra, không một tiếng động. Giêsu kiên nhẫn ngồi lại canh chừng người bạn đang nghỉ.
Tất cả đều đã vào bàn của bữa tiệc thánh. Các người khách được sắp xếp không theo quan điểm nhân loại, mà theo một quan điểm cao, theo cách để dành vinh dự và tình yêu cho những người thế gian thường khinh bỉ.
Như vậy, trong căn phòng đỏ lộng lẫy sang trọng, mà cái vòm cung trên đầu được nâng đỡ bởi hai cái cột bằng đá vân ban đỏ. Ở giữa hai cột này, người ta kê một cái bàn dài. Ngồi tại đó là các nông dân của Giocana, cùng với Margziam và Isaac, và các môn đệ khác nữa cho đủ số đòi hỏi. Trong căn phòng đã ăn bữa tối hôm qua là các môn đệ khác trong số những người khiêm tốn nhất. Trong phòng trắng, một giấc mơ trinh trong, là các môn đệ đồng trinh. Cùng với các cô - chỉ có bốn người - có hai cô em của Lazarô, Anastasica và các cô trẻ khác. Nhưng bà hoàng của bàn tiệc này là Maria, Trinh Nữ tuyệt vời. Trong phòng kế bên, có lẽ là cái thư viện, vì nó có bày biện những chiếc tủ cao sậm mầu, có lẽ trong đó đựng các ru-lô thánh. Phòng này thuộc về các bà góa, các bà vợ. Đứng đầu họ là Êlise Betsur và Maria Alphê. Và tiếp tục như vậy.
Nhưng điều cảm động là thấy Giêsu ở trong tiền đường bằng đá. Cái gu tinh tế của hai cô em Lazarô đã biến căn tiền đường hình vuông thành một phòng khách thực sự: đèn đuốc sáng trưng, đầy hoa nở, lộng lẫy còn hơn một phòng khách, nhưng nó vẫn luôn luôn là cái tiền đường! Giêsu ở với nhóm mười hai, nhưng ở bên cạnh Người là Lazarô, và cùng với Lazarô thì cũng có Maximin.
Bữa tiệc diễn tiến theo nghi thức... Giêsu rạng rỡ vui vì được ở giữa tất cả các môn đệ trung thành của Người.
Khi bữa tiệc kết thúc, tức là sau khi đã uống chén rượu sau cùng và đã hát thánh vịnh sau cùng, hết mọi người đang ở trong các
590
phòng khác nhau đều tuôn đến tiền đường, nhưng họ không vào trong vì lẽ bàn ghế ngổn ngang.
- Thưa Thầy, chúng ta hãy vào phòng đỏ. Chúng ta sẽ đẩy hết bàn vào bờ tường, và tất cả chúng con sẽ ngồi chung quanh Thầy - Lazarô đề nghị, và ông ra hiệu cho các đầy tớ thi hành.
Bây giờ Giêsu ngồi ở giữa trung tâm khoảng cách của hai chiếc cột qúi, dưới một cái đèn chùm soi sáng cho Người rất rõ. Người được đặt trên một cái bệ làm bằng hai cái ghế nằm đã dùng cho bữa tiệc, thực sự giống như một ông vua ngự trên ngai ở giữa các quần thần. Bộ y phục bằng vải gai Người đã mặc trước bữa tiệc, sáng chói như nó được dệt bằng thứ sợi qúi. Nó càng có vẻ trắng hơn vì nó nổi bật trước các bức tường đỏ đậm và các cây cột đỏ sáng. Dung nhan Người thực là Thiên Chúa và Hoàng Đế trong khi Người nói hay nghe những kẻ ở chung quanh Người. Ngay cả những kẻ bé mọn nhất mà Người muốn ở rất gần, cũng cảm thấy được yêu bởi mọi người khác như những anh em. Họ nói một cách tin tưởng về những hy vọng và những phiền muộn của họ với sự đơn sơ và đức tin.
Nhưng kẻ sung sướng nhất trong các kẻ sung sướng là ông ngoại của Margziam! Ông không rời thằng cháu của ông một phút nào, và ông khoái cảm để nhìn nó và nghe nó... Thỉnh thoảng ông ngồi ở bên Margziam khi nó đứng, ông tựa đầu hói của ông vào ngực cháu ông cho nó vuốt ve.
Giêsu nhìn thấy như vậy nhiều lần và Người can thiệp: “Bố già ơi! Bố vui trong lòng lắm hở?”
- Ôi! Lạy Chúa, rất vui. Và con cảm thấy điều đó tựa như không tưởng. Con chỉ còn ước ao một điều...
- Điều gì?
- Điều mà con đã nói với cháu con mà nó không chấp nhận.
- Ông ước ao điều gì?
- Điều con muốn là nếu có thể, con được chết trong sự bình an
này, hoặc ít nhất là chày kíp. Vì bây giờ cái của lớn lao nhất thì con đã được. Một tạo vật không thể có nhiều hơn trên trái đất. Con đi...
591
không còn đau khổ... đi... Như lời Chúa đã nói trong Đền Thờ: “Kẻ nào dâng một lễ hy sinh bằng những của lấy của người nghèo, thì giống như nó bóp cổ đứa con trước mắt cha nó”. Chỉ có sự sợ hãi mà Thầy thổi vào lòng ông mới giữ Giocana lại cho khỏi đua tranh với Doras. Ông ta đang quên cái kỷ niệm về những chuyện đã xảy đến cho Doras. Các cánh đồng của ông tươi tốt, và nó mầu mỡ bằng mồ hôi của chúng con. Mồ hôi chẳng phải là của cải của người nghèo, là chính mình họ, mà họ kiệt quệ đi trong những mệt mỏi qúa sức của họ sao? Ông ta không đánh chúng con, nhưng ông ta chỉ cho chúng con vừa đủ để chịu đựng công việc. Ông đã chẳng khai thác chúng ta hơn là con bò sao? Các bạn tôi, hãy nói điều đó đi...
Các nông dân cũ và mới của Giocana đều xác nhận.
- Hum! Con sợ rằng... Đúng, con sợ những lời Thầy sẽ làm cho ông thành độc ác hơn bao giờ hết, và làm khổ họ... Tại sao Thầy lại nói vậy? - Phêrô hỏi.
- Bởi vì ông ta đã đáng những lời đó rồi, phải không các con, những người của đồng ruộng?
- Ôi! Vâng! Mấy tháng đầu thì được lắm. Nhưng bây giờ thì... còn tệ hơn lúc trước nữa - Michée xác nhận.
- Cái xô ở giếng đi xuống bằng trọng lượng của chính nó - Thầy cả Gioan lặng lẽ nói.
- Đúng. Và con chó sói sẽ mau mệt mỏi khi nó giả vờ làm con chiên - Hermas thêu dệt thêm.
Các phụ nữ thì thầm với nhau, động lòng trắc ẩn.
Giêsu, đôi mắt căng tròn vì thương. Người nhìn các nông dân tội nghiệp, khổ sở vì không thể lấy bớt gánh nặng đi cho họ.
Lazarô nói: “Con đã trả với giá điên khùng để mua các cánh đồng đó để cho họ sự bình an, nhưng con không thành công. Doras ghét con, cũng giống hệt như ba ông ta”.
- Được... chúng ta sẽ chết như vậy. Đó là số phận của chúng ta. Nhưng rồi sẽ được nghỉ ngơi trong lòng Abraham - Saul, một nông dân khác của Giocana kêu lên.
- Trong lòng của Thiên Chúa, con ạ! Trong lòng của Thiên Chúa.
592
Ơn Cứu Chuộc sẽ được hoàn tất, các cửa Trời sẽ mở ra, các con sẽ vào đó và...
Nhưng đây, có ai gõ rầm rầm rất mạnh ở ngoài cửa. Tiếng gõ vang lên, tất cả hội nghị đều ở trong tình trạng báo động.
- Ai vậy?
- Ai lại đi tuần vào chiều áp lễ Vượt Qua?
- Các đội tuần canh à?
- Các pharisiêu?
- Các lính của Hêrôđê?
Nhưng trong khi sự giao động lan ra thì thấy Lêvi, người gác dan của lâu đài xuất hiện. Ông nói: “Ôi! Rabbi, xin tha. Có một người đàn ông hỏi Thầy. Ông ta ở ngoài lối vào. Ông có vẻ rất khổ. Ông đã già và có vẻ là dân thường. Ông muốn gặp Thầy, và lập tức”.
- Ô là là! Đây không phải là buổi chiều của phép lạ! Bảo ông ta ngày mai trở lại - Phêrô nói.
- Không. Tất cả buổi chiều là giờ của phép lạ và của tình thương - Giêsu nói. Và Người bước xuống khỏi cái bục của Người và đi ra tiền đường.
- Thầy đi một mình à? Con cũng đi - Phêrô nói.
- Không. Con hãy ở lại chỗ con đang ở.
Người đi ra ở bên cạnh Lêvi.
Ở cuối phòng, gần chiếc cửa nặng nề, trong tiền đường mờ tối, vì người ta đã tắt những đèn đã thắp ở đó lúc trước, có một ông già rất xao xuyến. Giêsu lại bên ông.
- Xin Thầy đứng lại. Có lẽ con đã đụng vào người chết, và con không muốn làm nhơ cho Thầy. Con là người bà con của Samuel, vị hôn phu của Annalia. Chúng con ăn bữa tiệc thánh, và Samuel uống, uống... như anh ta không bao giờ được phép làm. Nhưng từ ít lâu nay, con thấy người thanh niên như điên. Chúa ơi, đó là sự hối hận. Đã chếnh choáng mà anh ta còn uống nữa và nói: “Như vậy để tôi không nhớ tới rằng ông ta đã bảo tôi là tôi ghét ông ta. Bởi vì tôi, qúi vị hãy biết là tôi đã nguyền rủa vị rabbi”. Và con thấy anh ta giống như Cain, bởi vì anh ta nhắc đi nhắc lại: “Sự bất công của tôi qúa lớn, tôi không đáng được tha thứ! Tôi phải uống, uống để quên.
593
Vì có lời rằng kẻ nguyền rủa Thiên Chúa của nó sẽ mang tội, và nó phải chết”. Nó đang mê sảng như vậy thì người bà con của mẹ Annalia vào nhà để hỏi lý do của sự từ rẫy. Samuel nửa say, phản ứng bằng những lời xấu. Và người đó dọa sẽ tố cáo anh ta trước quan tòa vì anh ta đã xúc phạm đến danh dự của gia đình ông. Samuel bắt đầu bằng cách vả mặt ông. Thế là họ đánh nhau. Con thì con già, chị con cũng già; ông đầy tớ và bà đầy tớ cũng già. Chúng con có thể làm gì được? Chúng con là bốn người già cới hai cô con gái: hai cô em của Samuel. Chúng con có thể kêu, cố gắng để phân rẽ họ ra, không thể làm gì hơn... Rồi Samuel cầm cái rìu chúng con đã dùng để bổ củi nướng con chiên, anh ta đập một cú mạnh vào đầu ông kia... Anh ta không bổ bể đầu, vì anh ta đánh bằng bề sống chứ không phải bề lưỡi rìu. Nhưng ông kia lảo đảo, kêu ọc ọc và gục ngã... Chúng con không kêu la nữa để... không lôi kéo sự chú ý của người khác... Chúng con gài cửa, núp ở trong nhà... chán nản... Chúng con hy vọng ông ta sẽ tỉnh lại bằng cách đổ nước lên đầu ông. Nhưng ông chỉ kêu ọc ọc, ọc ọc. Chắc chắn ông ta sắp chết. Lúc này ông ta đã hầu như chết. Con liền trốn ra để đi gọi Thầy. Ngày mai, có lẽ còn sớm hơn, bà con ông ta sẽ đến tìm ông tại nhà con, vì chắc chắn họ biết ông ta tới đây, và họ sẽ thấy ông ta chết rồi... Và theo luật, Samuel sẽ bị giết... Lạy Chúa! Lạy Chúa! Sự ô nhục ở trên chúng con... Nhưng điều đó, không! Xin Thầy thương đến bà chị con. Lạy Chúa! Anh ta đã nguyền rủa Thầy, nhưng mẹ anh ta yêu Thầy... Chúng con phải làm gì?
- Hãy chờ Thầy ở đây. Thầy sẽ đi - Và Giêsu trở lại phòng. Từ cửa phòng, Người gọi: “Judas Kêriot, hãy đi với Thầy”.
- Đi đâu Chúa? - Judas hỏi, nhưng vâng lời ngay.
- Con sẽ biết. Các con khác, hãy ở yên lại trong bình an và tình yêu. Chúng ta sẽ trở về ngay.
Họ ra khỏi phòng, tiền đường và căn nhà. Đường phố vắng vẻ và tối mờ mờ nên đi được mau lẹ. Họ đến căn nhà định mệnh.
- Nhà của Samuel! Tại sao vậy?
- Nín lặng đi Judas. Thầy gọi con đi vì Thầy tin ở tình cảm bén
594
nhạy của con.
Ông già gọi để cho biết, và họ đi vào. Họ đi lên phòng của bữa tiệc, nơi họ đã kéo người bị đánh vào.
- Một người chết? Nhưng thưa Thầy, chúng ta sẽ bị ô uế.
- Ông ta không chết. Con thấy ông ta thở, và con nghe ông ta rên. Bây giờ Thầy sẽ chữa ông.
- Nhưng ông ta bị một cú ở trên đầu! Ở đây có một tội ác! Ai đã đánh ông ta?... Và trong ngày của con chiên! - Judas hoảng sợ.
- Chính anh ta - Giêsu nói khi chỉ vào Samuel. Anh ta nằm co quắp trong một góc, có vẻ chết hơn là chính người chết, thở hắt ra vì sợ giống như người kia thở hắt ra vì hấp hối; một vạt áo khoác trùm lên đầu để không ai nhìn thấy và không nhìn thấy ai. Mọi người đều sợ hãi nhìn anh ta. Còn bà mẹ thì sự sợ hãi bởi việc sát nhân được cộng thêm với sự đau đớn tan nát cho thằng con trai có tội và bị kết án trước bởi luật pháp gang thép của Israel. “Con thấy cái tội đầu tiên dẫn tới đâu không? Tới cái này đó. Ôi Judas! Anh ta bắt đầu bằng cách bội ước với vợ anh, rồi với Thiên Chúa. Rồi anh ta trở nên kẻ vu khống, nói dối, phạm thượng. Rồi anh ta lao mình vào rượu, và bây giờ anh ta sát nhân. Người ta trở nên sở hữu của Satan như vậy đó, ôi Judas! Con hãy luôn luôn nhớ điều đó...” Giêsu trông dễ sợ khi Người giơ tay chỉ vào Samuel.
Nhưng rồi Giêsu nhìn bà mẹ đứng tựa vào cửa sổ, không đứng vững nổi, lắc lư vì run và như hầu chết. Người buồn rầu nói: “Như vậy đó, ôi Judas! Các bà mẹ bị giết, không bởi khí giới nào khác ngoài tội ác của con mình. Các bà mẹ tội nghiệp!... Vì vậy mà Thầy thương. Thầy thương các bà mẹ. Thầy, người con không được thấy sự thương xót dành cho mẹ mình...”
Giêsu khóc... Judas nhìn Người, kinh ngạc...
Giêsu cúi xuống trên kẻ đang chết và đặt tay trên đầu ông. Người cầu nguyện. Người đàn ông mở mắt ra. Ông có vẻ như người hơi say, ngạc nhiên... Nhưng rồi ông hồi tỉnh. Ông ngồi dậy, chống bàn tay trên đất. Ông nhìn Giêsu và hỏi: “Ông là ai?”
- Giêsu Nazarét.
595
- Đấng Thánh! Tại sao Thầy lại ở bên cạnh con? Con ở đâu vậy? Chị con và con gái của bà đâu? Đã xảy ra chuyện gì? - Và ông tìm cách nhớ lại.
- Ông ơi, ông gọi Thầy là Thánh. Vậy ông tin Thầy như vậy không?
- Chúa ơi! Có. Thầy là Đấng Messi của Thiên Chúa.
- Vậy lời Thầy là thánh đối với ông.
- Ôi lạy Chúa, vâng.
Giêsu đứng thẳng lên. Người rất oai quyền: “Vậy Ta, với tư cách là Thầy và là Đấng Messi, Ta truyền cho con phải tha thứ. Con đã tới đây và con đã bị chửi rủa...”
- A! Samuel! Đúng... Cái rìu! Con sẽ tố giác nó... - ông nói trong khi đứng dậy.
- Không. Hãy tha thứ nhân danh Thiên Chúa. Chính vì vậy nên Thầy đã chữa con. Con có bà mẹ của Annalia ở trong tim con, vì bà ấy đau khổ. Bà mẹ của Samuel còn đau khổ hơn nữa. Hãy tha.
Người đàn ông quanh quẩn một lát. Ông nhìn kẻ đã đánh ông với sự oán ghét rõ ràng. Ông nhìn bà mẹ đầy lo âu. Ông nhìn Giêsu trấn át ông... Ông không biết quyết định.
Giêsu mở cánh tay ra, lôi ông vào ngực Người và nói: “Vì tình yêu đối với Thầy!”
Người đàn ông bắt đầu khóc... Được như vầy ở trong tay Đấng Messi, cảm thấy hơi thở của Người trên đầu tóc ông và một cái hôn tại nơi ông đã nhận phát rìu!... Ông khóc... Ông khóc...
- Đồng ý phải không? - Giêsu nói. “Ông tha vì tình yêu đối với Thầy. Ôi! Phúc cho những kẻ có lòng thương xót! Hãy khóc đi! Hãy khóc trên qủa tim Thầy. Xin cho tất cả oán ghét đi ra cùng với nước mắt! Hoàn toàn mới! Hoàn toàn trong sạch. Đó, như vậy! Êm đềm! Ôi! Êm đềm như một người con Thiên Chúa phải êm đềm...”
Người đàn ông ngửa mặt lên, vừa khóc vừa nói: “Vâng. Tình yêu của Thầy qúa êm đềm! Annalia, cô ta có lý. Bây giờ con hiểu... Bà ơi, đừng khóc nữa. Qúa khứ đã qua. Không một ai sẽ biết điều gì bởi miệng tôi. Hãy vui vì đứa con lại tìm thấy của bà, nếu anh ta
596
có thể cho bà niềm vui. Chào bà. Tôi về nhà tôi đây”.
Ông ta sắp sửa bước ra thì Giêsu bảo ông: “Thầy đi với ông. Chào bà mẹ, chào Abraham, chào các con gái”. Không một lời nào cho Samuel. Anh ta cũng không tìm ra lời nào.
Do phản ứng bởi những gì đã xảy ra, bà mẹ xông vào anh ta và giật chiếc áo khoác khỏi mặt anh ta: “Tạ ơn Vị Cứu Tinh của mày đi! Tâm hồn chai đá! Cám ơn Người đi! Mày qúa bất xứng!...”
- Bà ơi, để kệ anh ta. Kệ anh ta! Lời nói của anh ta sẽ không giá trị. Rượu làm cho anh ta thành khờ dại và tâm hồn anh khép kín. Hãy cầu nguyện cho anh ta... Chào!
Người xuống cầu thang và ra đường cùng với Judas và ông kia. Người gỡ ông già Abraham muốn hôn tay Người ra và bắt đầu bước lẹ dưới trăng vừa lên. Người hỏi ông kia:
- Con ở xa đây không?
- Ở chân núi Moriah.
- Vậy chúng ta phải chia tay.
- Lạy Chúa! Thầy đã giữ sự sống con cho các con con, cho vợ con. Con phải làm gì cho Thầy?
- Hãy tốt, tha thứ và nín lặng. Không bao giờ vì bất cứ lý do nào mà con nói một lời về những chuyện đã xảy ra. Con có hứa điều đó không?
- Con thề trên Đền Thánh, mặc dầu con khổ vì không thể nói ra được rằng Thầy đã cứu con.
- Hãy công chính, và Thầy, Thầy sẽ cứu linh hồn con. Điều đó thì con có thể nói. Chào. Bình an cho con.
Người đàn ông qùi gối chào, rồi đi tách ra.
- Thật là những chuyện! Thật là những chuyện tầy trời! - Judas nói khi chỉ còn hai người với nhau.
- Ừ, kinh khủng! Judas, con cũng vậy, con cũng sẽ không nói gì cả.
- Chúa ơi, không. Nhưng tại sao Thầy lại muốn con đi với Thầy?
- Con không bằng lòng vì sự tin cẩn của Thầy sao?
- Ồ! Qúa đi chứ! Nhưng...
- Nhưng bởi vì Thầy muốn con suy nghĩ xem những lời dối trá,
597
những ham ước tiền bạc, rượu chè say sưa, những thực hành máy móc của một tôn giáo thiếu những tâm tình và những thực hành siêu nhiên có thể dẫn tới cái gì. Và bữa ăn biểu tượng là gì đối với Samuel? Chả là gì cả. Một bữa chè chén. Một sự phạm thánh. Và chính trong bữa ăn này, anh ta đã thành kẻ sát nhân. Trong tương lai sẽ có nhiều người như anh ta: Với mùi vị của con chiên còn trên lưỡi, không phải con chiên được sinh ra bởi con cừu, mà là Con Chiên Thiên Chúa, họ sẽ ra đi đến với tội ác. Tại sao lại vậy? Chuyện đó thế nào? Con không tự hỏi sao? Nhưng Thầy, dù sao Thầy cũng nói cho con: là vì họ đã chuẩn bị cho giờ đó, bắt đầu bằng rất nhiều khinh xuất; rồi sau đó là sự cứng đầu. Judas, con hãy nhớ lấy những điều đó.
- Thưa Thầy vâng. Chúng ta sẽ nói gì với những người khác?
- Nói rằng có một người rất trầm trọng. Đó là sự thật.
Họ quẹo mau lẹ vào một con đường, và tôi không thấy họ nữa.
66* NGÀY THỨ BẢY LỄ BÁNH KHÔNG MEN
Một số đông các nam nữ môn đệ đã giải tán để trở về các căn nhà họ trọ, hoặc lên đường trở lại con đường mà từ đó họ đã tới.
Trong buổi chiều huy hoàng của một ngày cuối tháng tư này, chỉ còn lại trong nhà Lazarô các môn đệ chính tông, đặc biệt là những người có nhiệm vụ thuyết giáo, tức là các mục đồng, Hermas, Étienne, thầy cả Gioan, Timon, Hermastê, Giuse người Emmau, Salômôn, Abel Bétlem thuộc Galilê, Samuel và Abel người Corozain, Agape, Aser và Ismael người Nazarét, Êlia Corozain, Philíp Arbêla, Giuse, người chèo đò ở Tibêriat, Gioan Êphêsô, Nicôlai Antioche. Về phía các bà, thêm vào số môn đệ đã quen thì có Annalia, Dorca, bà mẹ của Judas, Myrta, Anastasica, hai con gái của Philíp. Tôi không nhìn thấy Miryam con gái Jairô, có lẽ họ đã trở về nơi ở của họ.
Họ nhẩn nha đi lại trong sân hoặc trên sân thượng, trong khi
598
Giêsu ngồi bên giường Lazarô, và chung quanh Người là hầu hết các phụ nữ và các nữ môn đệ cũ. Các bà nghe Giêsu nói với Lazarô, diễn tả những miền đã đi qua trong mấy tuần lễ trước của cuộc hành hương Vượt Qua.
- Thầy đã đến vừa lúc để cứu đứa bé - Lazarô bình luận sau bài tường thuật rất mạnh về Cêsarê Philíp, khi ông chỉ vào đứa bé đang sung sướng ngủ trong tay mẹ nó. Và Lazarô thêm: “Đó là đứa bé đẹp! Bà ơi, bà cho tôi nhìn nó thật gần coi!”
Dorca đứng dậy, lặng lẽ với vẻ chiến thắng, bà giơ đứa bé cho sự cảm phục của Lazarô.
- Một đứa bé kháu, rất đẹp! Nguyện xin Chúa bảo vệ nó và cho nó tăng trưởng trong sức mạnh và sự thánh thiện.
- Và trung thành với Vị Cứu Tinh của nó. Nếu trong tương lai nó lại không như vậy thì tôi muốn nó chết, dù ngay bây giờ. Tất cả, nhưng sau khi đã được cứu, nó không được phép vô ơn với Chúa - Dorca nói cách qủa quyết khi trở về chỗ của bà.
- Chúa luôn luôn đến kịp để cứu - Myrta, mẹ của Abel Bétlem thuộc Galilê nói. “Đứa con của tôi cũng không kém gần cái chết hơn đứa bé của Dorca, và một cái chết!... Nhưng Người đã đến và cứu nó. Cái giờ sợ hãi chừng nào!...” Myrta vẫn còn tái mét khi nhớ lại...
- Vậy Thầy cũng sẽ đến kịp thời cho con nữa phải không? Để cho con sự bình an... - Lazarô nói khi vuốt ve bàn tay của Giêsu.
- Nhưng anh không thấy đỡ hơn sao? - Matta hỏi. “Từ hôm qua tới nay, em thấy hình như anh đỡ đau hơn...”
- Ừ, chính anh cũng ngạc nhiên. Có lẽ Giêsu...
- Không đâu bạn ơi. Đó là vì Thầy đã đổ bình an của Thầy vào trong con. Tâm hồn con bão hòa bình an, và điều đó làm êm dịu sự đau đớn của các chi thể. Con chịu đau khổ, đó là sắc lệnh của Thiên Chúa.
- Và con chết. Hãy nói cả điều đó nữa đi. Vậy... Nguyện cho ý Người được làm trọn như Thầy đã dạy. Từ nay con không xin khỏi bệnh, cũng không xin bớt đau nữa. Con đã có biết bao của Thiên
599
Chúa (và vô tình ông nhìn vào Maria, em ông). Thật chính đáng là con nhận sự vâng phục để đổi lấy một kho tàng như vầy...
- Bạn Thầy ơi, hãy làm hơn nữa đi. Kiên nhẫn và chịu đau đớn đã là nhiều. Nhưng con, con hãy cho nó một giá trị to lớn hơn.
- Giá trị nào, Chúa con?
- Hãy dâng hiến nó cho sự cứu chuộc loài người.
- Thưa Thầy, con cũng là một con người tội nghiệp, con đâu dám tham vọng làm kẻ cứu chuộc.
- Con nói vậy là con lầm. Thiên Chúa tự làm người để giúp loài người, nhưng loài người cũng có thể giúp Thiên Chúa. Các công việc của các người công chính sẽ kết hợp với công việc của Thầy trong giờ cứu chuộc. Công việc của các kẻ công chính đã chết từ bao thế kỷ, của các kẻ đang sống bây giờ và những kẻ sẽ sống trong tương lai. Con, con hãy hợp của con vào với nó ngay từ bây giờ. Thật đẹp biết bao được kết hợp với lòng tốt của Thiên Chúa, thêm vào đó những gì chúng ta có thể cho với lòng tốt giới hạn của chúng ta, và để nói: “Ôi Cha, con cũng vậy, con hợp tác với công nghiệp của các anh em con”. Không thể nào có tình yêu lớn hơn đối với Chúa và tha nhân cho bằng biết chịu khổ và chết vì vinh danh Chúa và vì phần rỗi đời đời của các anh em. Tự cứu chính mình, đó là việc nhỏ, một sự thánh thiện “cực tiểu”. Thật là đẹp để cứu, để hiến mình mà cứu, để đẩy tình yêu tới chỗ tự biến mình thành lò lửa sát tế để cứu. Lúc đó tình yêu là trọn vẹn. Và sự thánh thiện của kẻ quảng đại sẽ rất lớn lao.
- Tất cả những điều đó đẹp chừng nào, phải không các em của anh? - Lazarô nói với một nụ cười mơ mộng trên khuôn mặt gầy.
Matta cảm động, xác nhận bằng cái gật đầu.
Maria ngồi trên chiếc gối tại chân Giêsu trong vị trí thông thường của khiêm nhường và thờ phượng nồng nàn. Cô nói: “Có lẽ chính con là giá cho các đau khổ của anh con? Lạy Chúa, hãy nói điều đó cho con đi, để sự lo âu của con thành trọn vẹn”.
Lazarô kêu lên: “Không đâu Maria. Không. Anh... Anh phải chết vì thế này. Đừng tự đâm thủng trái tim em”.
Nhưng Giêsu chân thành cho tới cùng, Người nói: “Chắc chắn là
600
đúng! Thầy, Thầy đã nghe người anh tốt của con trong những lời cầu nguyện của anh, trong những hồi hộp của anh. Nhưng điều đó không thể làm cho con một sự lo âu đè nặng trên con, nhưng trái lại, nó cho con sự ao ước trở nên hoàn thiện vì những điều con đã là giá. Và con cũng hãy vui mừng, con hãy vui mừng, vì để có con, Lazarô đã giật con từ tay ma qủi...”
- Không phải con đâu Thầy ơi! Chính là Thầy đó.
-... vì đã giật được con từ tay ma qủi. Anh đáng được nơi Thiên Chúa một phần thưởng tương lai, mà vì đó, các dân tộc và các thiên thần sẽ nói về anh ấy. Và cũng như về Lazarô, họ sẽ nói về các người khác nữa, nhất là các phụ nữ khác, những người mà vì sự anh hùng của họ, họ đã giật được các mồi của Satan.
- Ai vậy? Ai vậy Thầy? - Các bà tò mò hỏi. Và có lẽ tất cả đều hy vọng rằng đó là mình. Mỗi người lo lợi ích của mình.
Maria mẹ Judas không nói, nhưng bà nhìn, bà nhìn Thầy... Giêsu cũng nhìn bà. Người có thể nhìn bà trong sự ám chỉ, nhưng Người không làm. Người không làm bẽ mặt bà, Người không ám chỉ bà. Người trả lời cho tất cả: “Các con sẽ biết ở trên Trời”.
Bà mẹ của Judas, vẫn thường liên tục sống trong lo âu, bà hỏi: “Vậy nếu một bà nào đó không thành công, mặc dầu tất cả khát mong của bà, số phận họ sẽ thế nào?”
- Họ được cái mà linh hồn họ đáng được bởi lòng tốt của họ.
- Nước Trời? Nhưng lạy Chúa, một người đàn bà, một người chị hay người mẹ... không thành công trong việc cứu vớt người họ yêu, và thấy nó bị luận phạt, làm sao bà có thể chiếm hữu Thiên Đàng và luôn luôn ở trên đó? Thầy không tin là bà sẽ không bao giờ được vui, bởi vì... xác thịt của xác thịt bà, máu của máu bà đã đáng hình phạt đời đời? Con, con nghĩ rằng bà sẽ không bao giờ có thể vui khi thấy người bà yêu phải làm mồi cho một khổ hình kinh khủng...
- Maria, bà lầm rồi. Sự nhìn thấy Thiên Chúa, sự chiếm hữu được Thiên Chúa là một nguồn hạnh phúc vô tận tới nỗi sự đau khổ không thể nào tồn tại được nơi các thánh. Họ linh hoạt và lưu tâm
601
để giúp những kẻ còn có thể cứu được. Họ không còn chịu đau khổ nữa cho những kẻ đã xa lìa với Thiên Chúa và xa lìa với chính họ là những người ở trong Thiên Chúa. Sự thông công giữa các thánh luôn luôn hiện hữu cho các thánh.
- Nhưng nếu họ giúp cho những kẻ còn có thể cứu, đó là dấu chỉ rằng những kẻ này chưa thánh - Phêrô biện bác.
- Nhưng họ có ý muốn, ít là một ý muốn thụ động muốn được cứu. Các thánh ở trong Thiên Chúa có thể giúp đỡ cả về vật chất, để các kẻ chỉ có một ý muốn thụ động có thể chuyển qua ý muốn hoạt động. Con hiểu Thầy không?
- Có và không. Một ví dụ như vầy: Nếu con đã ở trên Trời, và, chúng ta giả sử thôi, là con nhìn thấy những cử chỉ thoáng qua của lòng tốt nơi... ông pharisiêu Êli, hãy chấp nhận vậy đi, thì con làm gì?
- Con sẽ dùng mọi phương tiện để phát triển các hoạt động tốt của ông ta.
- Và nếu việc đó không giúp ích gì cả thì rồi làm sao?
- Rồi, khi ông ta bị kết án thì con sẽ hết quan tâm tới nữa.
- Nhưng nếu, cứ như ông ta lúc này thì ông ta hoàn toàn đáng phạt, nhưng nếu ông ta thân thiết đối với con - điều đó sẽ không bao giờ có - thì con phải làm gì?
- Trước hết, hãy biết rằng con liều mình bị kết án khi nói rằng ông ta không, và sẽ không bao giờ thân thiết đối với con. Rồi hãy biết rằng nếu con đã ở trên Trời rồi thì với tất cả lòng bác ái, con sẽ cầu nguyện cho ông ta, cho phần rỗi của ông. Sẽ có những tâm hồn chỉ được cứu vào giờ sau cùng, sau cả một đời cầu nguyện cho họ.
Một người đầy tớ bước vào nói: “Manaen tới. Ông ta muốn gặp Thầy”.
- Bảo ông ta vào. Chắc chắn ông ta muốn nói những điều nghiêm trọng.
Các phụ nữ liền kín đáo rút lui và các môn đệ cũng theo họ. Nhưng Giêsu gọi lại Isaac, thầy cả Gioan, Étienne, Hermas, Mathia và Giuse, các môn đệ mục đồng: “Các con là môn đệ, các con biết
602
câu chuyện là tốt”. Người giải thích. Manaen vào và cúi mình.
- Bình an cho con - Giêsu nói để chào ông.
- Bình an cho Thầy. Mặt trời lặn. Những bước chân đầu tiên của con sau ngày Sabát là vì Thầy, Chúa của con.
- Con đã có một lễ Vượt Qua tốt đẹp chứ?
- Tốt đẹp!!! Không thể có gì tốt ở nơi có Hêrôđê và Hêrôđiađe. Con hy vọng đây là lần chót con ăn con chiên với họ. Con sẽ không ở lại với họ lâu hơn nữa, dù con phải chết vì vậy.
- Tôi tin là anh lầm. Anh có thể phục vụ Thầy trong khi ở lại... - Iscariot bác bẻ.
- Đúng vậy. Và chính vì thế nên tôi đã ở lại đến giờ này. Nhưng thật là buồn nôn! Chouza có thể thay thế tôi...
Batôlômêo nhận xét: “Chouza không phải là Manaen. Chouza là... đúng, ông ta biết chèo chiếc ghe của ông. Ông ta không bao giờ chỉ trích Thầy. Nhưng anh thì anh ngay thẳng hơn”.
- Đúng vậy. Và điều anh nói cũng đúng. Chouza là một cận thần. Ông ta bị vương quyền thôi miên... Vương quyền! Tôi đã nói gì? Cái vương quyền dơ bẩn! Nhưng ông ta thấy mình tựa như vua, vì ông ta ở với vua... Ông sợ thất sủng với vua. Chiều hôm đó ông ta giống như một con chó bị đánh đòn. Ông ra trước mặt Hêrôđê, hầu như bò tới khi Hêrôđê gọi ông sau khi hắn nghe những than van của Salomê vì bị Thầy đuổi. Chouza đã qua một khắc đồng hồ qúa xấu. Người ta đọc thấy trên mặt ông sự ước ao trốn đi với bất cứ giá nào, dù phải kết án Thầy, làm hại cho Thầy. Nhưng Hêrôđê... ông ta chỉ muốn cười nhạo cô gái mà bây giờ ông ta đã buồn nôn, cũng như ông đã buồn nôn mẹ cô ta. Và ông ta cười như điên khi nghe Chouza nhắc lại các lời Thầy. Và ông nhắc lại: “Qúa, còn qúa êm dịu cho cô gái này... (và ông ta nói một lời tục tĩu mà con không nhắc lại với Thầy). Ông ta (Giêsu) đã phải dày đạp lòng ham muốn của ông ta... nhưng ông ta sẽ bị ô nhiễm”. Và ông cười. Rồi ông trở lại đứng đắn và nói: “Nhưng... sự xỉ nhục, dù người đàn bà đáng bị, cũng không được phép đối với hoàng triều. Ta là người đại độ (ông ta có định kiến là người đại độ, và vì không ai nói điều đó với ông nên
603
ông tự ý nói như vậy), ta sẽ tha thứ cho vị rabbi, bởi vì ông ta đã nói sự thật với Salômê. Nhưng ta muốn ông vào triều để tha cho ông cách hoàn toàn. Ta muốn gặp ông, nghe ông nói và xin ông làm các phép lạ. Hãy bảo ông ta tới, và ta sẽ bảo vệ cho ông”. Chiều hôm đó ông ta đã nói vậy, và Chouza không biết nói sao. Với đại vương, ông không muốn nói không, mà ông lại không thể nói có. Bởi vì chắc chắn là Thầy không chấp nhận ý muốn của Hêrôđê. Hôm nay ông ta nói với con: “Chắc chắn là anh đi gặp Người... Hãy nói với Người ý muốn của tôi”. Con nói nó, nhưng... con đã biết câu trả lời rồi. Nhưng xin Thầy nói cho con để con có thể chuyển đạt nó.
- Không! - Một tiếng không xuất hiện như tiếng sấm.
- Thầy sẽ không làm cho mình thành kẻ thù của một kẻ qúa mạnh sao? - Tôma hỏi.
- Dù là một lý hình. Nhưng Thầy chỉ có thể trả lời là “không” thôi.
- Ông ta sẽ bách hại chúng ta.
- Ôi! Chỉ ba ngày nữa là ông ta không còn nhớ gì chuyện đó nữa - Manaen nhún vai. Rồi ông thêm: “Người ta đã hứa với ông các gái nhảy... Ngày mai các cô sẽ tới... và ông ta sẽ quên hết”.
Người đầy tớ trở lại: “Có Nicôđêmô, Giuse và các pharisiêu khác, và các thủ lãnh Đại Pháp Đình. Họ muốn chào Thầy”.
Lazarô nhìn Giêsu, dáng điệu nghi vấn. Giêsu hiểu: “Họ hãy tới. Thầy sẽ tình nguyện chào họ”.
Một lát sau họ đi vào: Nicôđêmô, Giuse, Êlêazar (người ngay chính trong bữa tiệc ở nhà Ismael), Gioan (người đã ở trong bữa tiệc lâu rồi tại Arimathi), một người khác mà tôi nghe gọi là Josuê, một ông Philíp, một Juđa, và người sau cùng là Joakim. Các lời chào hỏi không dứt nữa! May mắn là căn phòng rộng mênh mông, nếu không thì họ làm sao để dàn trận bấy nhiêu cúi rạp và hôn hít cùng với các áo khoác sang trọng? Nhưng dù nó rất rộng, nó cũng đầy mau lẹ, và các môn đệ phải bỏ đi, chỉ còn một mình Lazarô ở lại với Giêsu. Có lẽ ông cũng không tỏ ra cho họ là ông ở dưới ngọn lửa của con mắt từng ấy Pháp Đình viên.
604
- Ô Lazarô! Chúng tôi biết rằng anh ở Jêrusalem nên chúng tôi tới - ông có tên là Joakim nói.
- Tôi ngạc nhiên và vui. Đôi khi tôi cũng không nhớ được khuôn mặt anh... - Lazarô nói, hơi mỉa mai.
- Nhưng... anh biết... Chúng tôi luôn luôn muốn đến, nhưng... anh biến mất...
- Hình như không đúng là như vậy! Nhưng qủa là khó khăn để đến nhà một kẻ bất hạnh.
- Không! Đừng nói vậy... Chúng tôi tôn trọng ước muốn của anh. Nhưng bây giờ thì... Bây giờ thì... Có phải không Nicôđêmô?
- Đúng, Lazarô ạ. Các bạn cũ trở lại, mong được biết tin tức của anh, và để tôn kính vị Rabbi.
- Các anh mang đến cho tôi tin tức gì?
- Hum!... Đó... Những điều thông thường... thế giới... đúng - họ nhìn Giêsu, Người ngồi thẳng trên ghế, hơi trầm tư.
- Vậy làm sao hôm nay lại gặp nhau, trong khi ngày Sabát vừa chấm dứt?
- Có một cuộc họp bất thường.
- Hôm nay à? Vì lý do nào mà gấp vậy?
Các người hiện diện nhìn Giêsu với nhiều ý nghĩa. Nhưng Người như trầm tư. Rồi họ trả lời: “Vì nhiều lý do”.
- Và nó chả liên can gì tới vị rabbi?
- Có chứ Lazarô. Cả Người nữa. Nhưng một sự kiện trầm trọng cũng đã được xét xử, trong những ngày lễ, tất cả chúng ta đều tụ họp trong thành... - Giuse Arimathi giải thích.
- Một sự kiện trầm trọng? Chuyện gì vậy?
- Một... một sai lầm của... tuổi trẻ... Hum! Phải! Một cuộc cãi vã hung bạo, bởi vì... rabbi, xin nghe chúng tôi. Ngài ở trong số những kẻ chân thật. Dù chúng tôi không phải là môn đệ, chúng tôi cũng không phải kẻ thù. Trong nhà của Ismael, Ngài đã nói với tôi rằng tôi không xa sự công chính - Êlêazar nói.
- Đúng vậy. Và tôi xác nhận điều đó.
- Và tôi, tôi đã bảo vệ Thầy trong bữa tiệc của Giuse, chống lại
605
với Félix - Gioan nói.
- Điều đó cũng đúng.
- Và họ nghĩ như chúng tôi. Hôm nay chúng tôi đã được mời đến để quyết định... Và chúng tôi không bằng lòng về điều đã được quyết định, bởi vì một số đông hơn đã thắng chúng tôi. Thầy, vị khôn ngoan hơn Salômôn, hãy nghe và xét xử.
Giêsu xuyên thấu họ bằng cái nhìn thật sâu, rồi Người nói: “Hãy nói đi”.
- Chúng ta có được chắc chắn là không bị ai nghe không? Vì đây là một chuyện kinh khủng... - Người có tên Juđa nói.
- Hãy đóng cửa và hạ màn gió xuống là chúng ta sẽ ở trong một cái mồ - Lazarô trả lời.
- Thưa Thầy, sáng hôm qua, Thầy đã nói với Êlêazar con Anna đừng tự làm ô uế vì bất cứ lý do nào. Tại sao Thầy nói vậy với ông ta? - Philíp hỏi.
- Bởi vì phải nói như vậy. Ông ta đã bị nhiễm uế chứ không phải tôi. Sách Thánh đã nói điều đó.
- Đúng vậy. Nhưng làm sao Thầy biết là ông ta bị nhiễm uế? Có phải cô gái đã nói với Thầy trước khi chết không? - Êlêazar hỏi.
- Cô gái nào?
- Cô gái đã chết sau khi bị hãm hiếp, và mẹ cô ta chết với cô. Người ta không biết có phải sự đau đớn đã giết họ hay họ tự tử; hay là người ta đã đánh bả thuốc độc họ để ngăn cản họ nói ra.
- Tôi, tôi không biết gì về những chuyện đó. Tôi nhìn thấy linh hồn hư hỏng của con trai Anna; tôi cảm thấy sự hôi thối của nó, và tôi nói. Tôi không biết, cũng không thấy điều gì khác.
- Nhưng có chuyện gì vậy? - Lazarô hỏi, rất lưu ý.
- Chuyện xẩy ra là Êlêazar con Anna nhìn thấy một cô gái, con gái độc nhất của một bà góa, và... ông ta lôi kéo cô ta, tự nhận là để yêu cầu cô làm việc, vì để sinh sống, cô ta may y phục. Và... ông ta lạm dụng cô. Cô gái đã chết... Ba ngày sau, mẹ cô chết với cô. Nhưng trước khi chết, mặc dầu đã nhận được nhiều đe dọa, cô đã kể hết cho người bà con duy nhất của cô... Và người này đã tới nhà
606
Anna để kết tội. Và như vậy cũng chưa hả dạ, ông đã kể với Giuse, với tôi, và với những người khác nữa... Anna đã bắt ông ta và quăng vào tù. Ông ta sẽ hoặc tù chung thân, hoặc ra để chết. Hôm nay Anna muốn biết chúng tôi nghĩ thế nào - Nicôđêmô nói.
- Ông ta sẽ không hỏi điều này nếu ông không biết rằng chúng tôi đã biết chuyện - Giuse lẩm bẩm giữa hai hàm răng.
- Đúng... Sau một sự giả bộ như bỏ phiếu, một sự xử án giả tạo để quyết định về danh dự, về sự sống của ba kẻ khốn nạn, và về sự trừng phạt kẻ có tội. - Nicôđêmô nói để chấm dứt.
- Rồi sao?
- Rồi sao? Tự nhiên thôi! Chúng tôi đã bỏ thăm cho sự tự do của người đó và trừng phạt Êlêazar. Chúng tôi đã bị đe dọa và bị đuổi ra như các kẻ bất công. Thầy thì Thầy nói sao?
- Nói rằng Jêrusalem làm tôi cảm thấy ghê tởm. Và tại Jêrusalem, những ung nhọt hôi thối nhất chính là Đền Thờ - Giêsu công bố cách nhẩn nha và bằng một giọng khủng khiếp. Và Người kết thúc: “Hãy tường thuật tất cả với những người ở Đền Thờ”.
- Và Gamaliel, ông ta đã làm gì? - Lazarô hỏi.
- Ngay khi ông biết được sự việc, ông liền che mặt, đi ra và nói: “Cầu cho Samson mới hãy đến mau mau để hủy diệt các quân Philitin thối nát”.
- Ông ta đã nói đúng. Và Samson sắp tới.
Một yên lặng.
- Còn về Người, họ không nói gì sao? - Lazarô chỉ vào Giêsu và hỏi.
- Ồ, có chứ, nói trước tất cả các việc khác. Họ tường trình rằng Thầy đã tuyên bố nước của Israel là “hèn mọn”, và vì vậy, họ tuyên bố là Thầy phạm thượng, và cả đến phạm thánh nữa, vì nước Israel thuộc về Thiên Chúa.
- A! Đúng. Vậy vị Giáo Chủ gọi kẻ đã hãm hiếp một trinh nữ là gì? Kẻ đã làm ô nhơ chức vụ của mình? Trả lời đi - Giêsu hỏi.
- Ông ta là con Thầy Cả Thượng Phẩm, vì Anna luôn luôn thực sự là ông vua ở trong đó - Gioakim nói cách e dè vì sự oai phong của Giêsu đang đứng ngay trước mặt ông, tay giơ ra...
607
- Đúng, ông vua thối nát. Và các ông không muốn tôi gọi là “hèn mọn” một nước có một ông Thủ Hiến bẩn thỉu và sát nhân, một Thầy Cả Thượng Phẩm đồng lõa với kẻ hiếp dâm và sát nhân sao?
- Có lẽ cô gái đã tự tử, hoặc đã chết vì đau đớn. - Êlêazar thì thầm.
- Cô ta luôn luôn là bị sát hại bởi kẻ đã hãm hiếp cô... Và bây giờ, phải chăng người ta đang làm một nạn nhân thứ ba, bằng cách nhốt người bà con ở trong tù để ông ta khỏi nói? Bị dơ bẩn bởi bao là tội ác, lẽ nào người ta không tục hóa bàn thờ khi lại gần đó sao? Người ta đã không bóp nghẹt công bằng khi áp đặt sự yên lặng nơi những người công chính, một con số qúa ít trong Đại Pháp Đình sao? Đúng. Vị Samson mới phải đến mau để người phá hủy cái nơi bị tục hóa này, và Người diệt trừ để chữa lành!... Tôi, vì sự nôn mửa mà tôi cảm thấy, không những tôi gọi cái xứ tội nghiệp này là hèn mọn, mà tôi còn tránh xa con tim hư thối của nó, nơi đầy những tội ác vô kể, cái tổ ấm của Satan... Tôi đi, không phải vì tôi sợ chết. Tôi sẽ chứng tỏ cho qúi vị thấy là tôi không sợ. Nhưng tôi đi, bởi vì không phải giờ của tôi, và để không trao những viên ngọc cho các con heo của Israel, nhưng để mang nó cho những kẻ khiêm nhường rải rác trong các lều tranh, trên núi cao, dưới thung lũng, tại các xứ nghèo nàn. Ở đó người ta còn biết tin và biết yêu nếu có người dạy dỗ cho họ. Ở đó có những tâm hồn ẩn dưới những y phục thô kệch, trong khi ở đây, các áo dài, áo khoác thánh, và hơn nữa, lại còn áo tế và bố tử tế phục, dùng để che đậy những xác thối rữa dơ bẩn, và giấu diếm những vũ khí sát nhân. Hãy nói với họ rằng nhân danh Thiên Chúa thật, tôi chỉ định cho họ sự luận phạt. Và là Micael mới, tôi đuổi họ ra khỏi Thiên Đàng, và tới đời đời. Họ là những ma qủi mà muốn làm Thiên Chúa. Họ không cần phải chết để bị phán xét, họ đã bị phán xét rồi, và không được miễn thứ.
Các phần tử oai vệ của Đại Pháp Đình và các pharisiêu tựa như trở thành nhỏ tí, vì họ đứng dồn lại với nhau trước cơn thịnh nộ khủng khiếp của Đức Kitô. Trái lại, Người trở thành như người khổng lồ, vì cái nhìn của Người như chớp sáng, và các cử chỉ của Người qúa mạnh bạo.
608
Lazarô rên rỉ: “Giêsu! Giêsu! Giêsu!...”
Giêsu nghe thấy, và Người thay đổi giọng nói và diện mạo: “Con làm sao, bạn Thầy?”
- Ôi! Đừng qúa kinh khủng như vậy. Không còn là Thầy nữa. Làm sao có thể hy vọng ở lòng thương xót, nếu Thầy tỏ ra dễ sợ như vậy?
- Nhưng là như vậy đó. Thầy sẽ còn dễ sợ hơn khi Thầy sẽ xét xử mười hai chi họ Israel. Nhưng Lazarô, con hãy vững tâm. Kẻ tin ở Đức Kitô thì đã được xét xử rồi, nó được vững tâm... - Người đã bình tĩnh lại.
Một yên lặng. Sau cùng, Gioan hỏi: “Còn chúng con, chúng con đã bằng lòng bị khiển trách hơn là dối trá phản lại sự công bằng, chúng con sẽ được xét xử thế nào?”
- Với sự công bằng. Hãy kiên trì, và các ông sẽ tới được nơi mà Lazarô đã đang ở: Trong tình bạn hữu với Thiên Chúa.
Họ đứng dậy.
- Thưa Thầy, chúng tôi xin rút lui. Bình an cho Thầy, và cho anh nữa, Lazarô.
- Bình an cho các ông.
- Những điều chúng ta đã nói thì xin để lại đây - nhiều người năn nỉ.
- Đừng sợ. Đi đi. Xin Thiên Chúa hướng dẫn các ông trong mọi cách cư xử của các ông.
Họ ra, chỉ còn lại một mình Giêsu và Lazarô. Sau một lát, ông nói: “Kinh khủng!”
- Đúng, kinh khủng... Lazarô, Thầy đi sửa soạn khởi hành rời Jêrusalem. Thầy sẽ là khách của con tại Bêtani cho tới hết những ngày bánh không men.
Và Người đi ra.
67* “MATTA, MATTA,
CON LO NHIỀU CHUYỆN QÚA!”
609
Tôi hiểu ngay rằng chúng ta còn đang ở chung quanh khuôn mặt của Maria Mađalêna, vì tôi thấy cô ta trước tiên, trong bộ y phục đơn giản mầu hoa cà, như chiếc hoa tím lạt. Không một đồ nữ trang qúi giá nào. Bộ tóc chỉ thắt bím lại gọn ghẽ sau gáy. Cô ta có vẻ trẻ hơn là thời kỳ cô ta còn là tuyệt tác phẩm của các phòng trang điểm. Cô không còn cái nhìn sợ sệt của thời còn là nữ tội nhân, cũng không còn cái nhìn xấu hổ của lúc cô nghe dụ ngôn về con chiên lạc, cũng không còn sự xấu hổ đẫm nước mắt của buổi chiều trong phòng tiệc của người pharisiêu... Bây giờ đôi mắt cô bình an, lại trở nên trong sáng như mắt trẻ thơ với nụ cười bình an rạng rỡ.
Cô đứng tựa vào một thân cây tại chỗ giới hạn vùng sở hữu của Bêtani, và cô nhìn về con đường. Cô chờ đợi. Rồi bỗng dưng cô phát ra tiếng kêu vui mừng. Cô quay về căn nhà và la rất lớn để người ta nghe thấy. Cô kêu bằng cái giọng tuyệt vời, êm như nhung và hấp dẫn độc nhất trên đời: “Người đến!... Chị Matta ơi! Họ đã nói rất đúng. Vị Rabbi ở đây!” Và cô chạy tới để mở cái cổng nặng nề. Nó kêu ken két. Cô không để cho các đầy tớ có giờ để làm. Rồi cô chạy ra đường, hai tay giơ ra như đứa trẻ chạy đến với mẹ, và cô kêu với giọng vui mừng yêu mến: “Ôi Thầy của con!” Và cô qùi phục dưới chân Giêsu và hôn nó trong bụi đất của con đường.
- Bình an cho con, Maria. Thầy đến nghỉ ngơi dưới mái nhà của con.
- Ôi Thầy của con! - Maria nhắc lại trong khi ngửa mặt lên với tâm tình kính trọng, yêu mến. Khuôn mặt nói lên biết bao điều... Vừa cám ơn, vừa chúc tụng, vừa vui mừng, vừa mời mọc, sung sướng vì Người đến...
Giêsu đặt tay trên đầu cô và giống như Người lại tha thứ cho cô. Maria đứng dậy, đi bên cạnh Giêsu để vào nội khu đất sở hữu. Trong lúc đó, Matta và các đầy tớ chạy đến. Các đầy tớ mang theo các bình và các chiếc cúp. Matta chỉ đến với tình yêu của cô, nhưng nó rất lớn lao.
Các tông đồ nồng nhiệt uống những đồ giải khát mà các đầy tớ
610
tiếp đãi họ. Họ cũng muốn dâng cho Giêsu trước tiên, nhưng Matta đã đi trước họ. Nàng đã lấy một ly sữa và dâng cho Giêsu, chắc nàng biết rằng thứ này làm vui lòng Người.
Khi các môn đệ đã giãn khát, Giêsu bảo họ: “Hãy đi báo tin cho các tín hữu. Tối nay Thầy sẽ nói với họ”.
Các tông đồ lập tức ra khỏi vườn, phân tán đi mọi ngả.
Giêsu tiến bước giữa Matta và Maria. Matta nói: “Xin mời Thầy vào. Trong khi chờ anh Lazarô, xin Thầy giải khát và nghỉ ngơi”.
Trong khi họ đi vào một căn phòng mát mẻ mở cửa về phía dẫy hành lang rợp bóng. Maria lẹ làng bỏ đi rồi trở lại với một vò nước. Một người đầy tớ đi theo cô với một cái thau. Nhưng chính Maria muốn rửa chân cho Giêsu. Cô tháo đôi xăng đan đầy bụi và đưa cho người đầy tớ để anh ta lau sạch, đồng thời với chiếc áo khoác để anh ta giũ cho sạch bụi. Rồi cô nhúng các bàn chân vào thau nước mà cô đã đổ thuốc thơm, khiến cho nó có mầu hồng lạt. Cô lau sạch rồi hôn chúng. Rồi cô thay nước, để nước sạch cho đôi tay. Trong khi chờ người đầy tớ mang xăng đan tới, cô ngồi chồm hổm trên thảm tại chân Giêsu và vuốt ve chúng. Trước khi xỏ xăng đan vào cho Người, cô lại hôn chân và nói: “Đôi chân thánh đã đi biết bao đường đất để tìm con!”
Matta thực tế hơn trong tình yêu của cô. Cô nghĩ đến những nhu yếu của con người và cô hỏi: “Thưa Thầy, ngoài các môn đệ Thầy, còn ai tới nữa không?”
Giêsu trả lời: “Thầy chưa biết chính xác, nhưng con có thể sửa soạn cho năm người, thêm vào số các tông đồ của Thầy”.
Matta đi khỏi.
Giêsu đi ra ngoài vườn rợp bóng và tươi mát. Người chỉ có chiếc áo dài mầu xanh lơ đậm đơn giản. Áo khoác của Người, Maria đã gấp lại cẩn thận và để trên ghế trong phòng. Maria cũng theo Giêsu ra. Họ đi trên những lối đi được chăm sóc cẩn thận, giữa các luống hoa, cho tới một cái ao nuôi cá, trông như một chiếc gương bị rớt giữa đám cây xanh.
Nước rất trong, chỉ hơi đụng đậy chỗ nọ chỗ kia do một con cá
611
quậy, hoặc do những giọt nước li ti của tia nước chảy vào ở giữa ao. Có những chiếc ghế để ngồi ở gần một cái bể rất lớn, tựa như một cái hồ nhỏ, từ đó chảy ra những dòng nước nhỏ để tưới cây. Tôi tin rằng một trong những dòng nước này cung cấp nước cho ao cá. Còn những dòng khác nhỏ hơn, dùng để tháo nước ra khi tưới cây.
Giêsu ngồi xuống trên một cái ghế đặt ngay trên thành bể. Maria ngồi ở chân Người, trên lớp cỏ được cắt đẹp đẽ. Lúc đầu thì không ai nói gì cả. Rõ ràng là Giêsu thưởng thức sự lặng lẽ, và nghỉ ngơi trong sự tươi mát của khu vườn. Maria sung sướng nhìn Người.
Giêsu chơi với làn nước ở trong bể. Người nhúng đầu các ngón tay vào để vẽ trên mặt nước, tạo ra những sóng nhỏ. Rồi Người nhúng hết bàn tay vào trong nước mát: “Cái nước này đẹp tuyệt vời!” Người nói.
- Nó làm vui lòng Thầy chừng nào! - Maria nói.
- Ừ, Maria, bởi vì nó trong. Coi này, không một vết bùn nào. Đó là nước, nhưng nó trong tựa như không có gì ở trong bể cả; tựa như nó không phải là một yếu tố vật chất, nhưng tinh thần. Chúng ta có thể đọc ở dưới đáy những lời các con cá nhỏ nói với nhau.
- Tựa như người ta đọc ở đáy các tâm hồn trong sạch, phải không Thầy? - Và Maria thở dài với một sự hối tiếc kín đáo.
Giêsu nhận ra cái thở dài mà nàng chận lại, và Người đọc được sự ân hận mà nụ cười che đi. Người liền chữa ngay cho nỗi khổ của Maria:
- Những tâm hồn trong sạch, họ ở đâu, Maria? Một ngọn núi dời chỗ đi còn dễ hơn một tạo vật biết duy trì sự trong sạch cho khỏi ba thứ ô uế. Có qúa nhiều thứ lay động và dậy men ở chung quanh một người trưởng thành, và họ không thể luôn luôn ngăn cản được nó thâm nhập vào bên trong. Chỉ có các trẻ nhỏ là có tâm hồn thiên thần, tâm hồn còn được bảo vệ bởi sự ngây thơ về những hiểu biết có thể biến thành bùn. Chính vì vậy mà Thầy rất yêu chúng. Thầy nhìn thấy nơi chúng một tia của sự trong sạch vô tận. Chỉ có chúng nó là còn mang được trong mình cái kỷ niệm của Trời.
Mẹ Thầy là người đàn bà với tâm hồn trẻ thơ, và còn hơn nữa,
612
mẹ là người đàn bà có tâm hồn thiên thần. Mẹ là Evà vừa ra khỏi bàn tay Chúa Cha. Maria, con hãy tưởng tượng bông huệ đầu tiên nở ra trong vườn của trái đất nó thế nào. Những người đến với nước này, họ cũng rất đẹp, nhưng người đầu tiên vừa ra khỏi bàn tay Đấng Tạo Hóa! Đó là bông hoa hay hạt kim cương? Đó là những cánh hoa hay những lá bạc tinh ròng? Vậy thì mẹ Thầy còn trong sạch hơn bông huệ đầu tiên này, bông hoa đã ướp thơm các làn gió. Hương thơm đồng trinh bất khả xâm phạm của mẹ tràn đầy Trời và đất. Và chính sau lưng mẹ, các kẻ tốt lành của mọi dòng thế kỷ sẽ bước theo.
Thiên Đàng là ánh sáng, hương thơm và hòa hợp. Nhưng nếu ở trong đó, Chúa Cha không được sung sướng chiêm ngắm Đấng Hoàn Toàn Đẹp Đẽ, đấng đã làm cho trái đất trở thành Thiên Đàng; nếu trong tương lai, Thiên Đàng không được chiếm hữu bông huệ sống, trong đó có ba cái bầu nhị cái bằng lửa của Thiên Chúa Ba Ngôi: Ánh sáng, hương thơm và hòa hợp, thì niềm vui của Thiên Đàng sẽ giảm đi một nửa. Sự trong sạch của Mẹ Thầy sẽ là viên ngọc của Thiên Đàng. Nhưng Thiên Đàng thì vô giới hạn! Con sẽ nói gì về một ông vua chỉ có một viên ngọc trong kho tàng của ông? Dù đó là viên ngọc tuyệt vời?
Khi Thầy sẽ mở cửa Nước Trời... - đừng thở dài, Maria, chính vì việc này mà Thầy đã tới - thì nhiều người công chính và các trẻ nhỏ sẽ vào. Một cơ đội trong trắng ở đàng sau cẩm bào đỏ của Đấng Cứu Thế. Nhưng như vậy cũng còn qúa ít về số các viên ngọc, là các công dân của Jêrusalem đời đời. Và rồi... Khi giáo lý về Sự Thật và Sự Thánh Hóa được người ta biết đến, khi cái chết của Thầy ban lại Ân Sủng cho loài người, thì làm sao các người trưởng thành có thể chinh phục nước Trời, nếu đời sống tội nghiệp của con người là một vũng bùn liên tục làm cho họ dơ bẩn? Vậy có phải lúc đó Thiên Đàng của Thầy chỉ thuộc về đám trẻ nhỏ thôi sao? Ồ, không. Phải biết trở nên nhỏ, nhưng Nước Trời cũng mở ra cho các người lớn nữa.
Giống như trẻ nhỏ... Đó là sự trong sạch. Con thấy làn nước này
613
không? Nó có vẻ rất trong. Nhưng hãy quan sát: Chỉ cần với một cây sậy, Thầy quậy ở đáy bể là nó thành đục. Các đồ mục nát và bùn nổi lên. Sự trong suốt của nó trở thành vàng vàng, và sẽ không ai uống nó nữa. Nhưng nếu Thầy nhấc cái que ra, sự bình an trở lại, nước sẽ từ từ lấy lại sự trong suốt và vẻ đẹp của nó. Cái que là tội lỗi. Các linh hồn cũng vậy. Con hãy tin: sự sám hối là cái thanh tẩy linh hồn...
Thình lình Matta chạy tới, thở dốc: “Maria, em còn ở đây sao? Chị có biết bao điều phải lo!... Thời giờ qua đi, các khách sắp sửa tới mà còn bao thứ phải làm: các nữ đầy tớ thì lo làm bánh, các nam đầy tớ thì lo chặt thịt và nấu nướng. Chị phải lo bàn ghế, khăn bàn và đồ uống. Nhưng còn phải hái trái cây và pha nước bạc hà và nước mật ong...”
Maria nghe các lời phàn nàn của chị cô chút đỉnh, rồi với nụ cười sung sướng, cô tiếp tục nhìn Giêsu và không nhúc nhích khỏi chỗ.
Matta yêu cầu sự trợ giúp của Giêsu: “Thầy coi, con nổi nóng chừng nào! Thầy cho là chính đáng để con sửa soạn mọi thứ một mình sao? Thầy bảo nó phụ với con chứ!” Matta thực tình tức giận.
Giêsu nhìn bà với một nụ cười nửa êm dịu, nửa hơi mỉa mai, hay đúng hơn là chế nhạo.
Matta hơi bị xúc phạm: “Thầy ơi, con nói đứng đắn đó. Thầy coi nó nhàn hạ chừng nào! Trong khi con làm việc thì nó ngồi ở đây để nhìn...”
Giêsu làm vẻ nghiêm trang hơn: “Matta, không phải là nhàn hạ, đó là tình yêu. Nhàn hạ là trước đây cơ. Con đã khóc biết bao vì sự nhàn hạ bất xứng đó. Nước mắt của con đã làm cho lẹ làng sự vận động của Thầy để cứu nó cho Thầy, và để trả nó cho tình thương ngay thẳng của con. Con muốn cãi cọ với nó về tình yêu của nó đối với Vị Cứu Tinh của nó sao? Con thích thà rằng nó ở xa đây để khỏi thấy con làm việc, và như vậy nó cũng ở xa Thầy sao? Matta, Matta! Vậy Thầy có phải nói với con rằng nó (và Giêsu để tay lên đầu Maria) đã đến từ rất xa, mà đã vượt qua con trong tình yêu
614
không? Thầy có phải nói với con rằng nó, trước đây chẳng biết nói một lời nào tốt, mà bây giờ là kẻ uyên bác trong khoa học của tình yêu không? Hãy để cho nó bình an. Trước nó đã bệnh qúa nặng, bây giờ là thời kỳ dưỡng bệnh để sức khỏe trở lại bằng cách uống những đồ uống bổ dưỡng. Nó đã qúa khổ sở, bây giờ ra khỏi cơn ác mộng, nó nhìn vào nó và chung quanh nó, và nó khám phá ra cái ‘chính mình’ mới và thế giới mới. Hãy để nó được an toàn để làm việc đó. Chính với cái ‘mới’ của nó, nó phải quên qúa khứ để chinh phục cái vĩnh cửu... Nó sẽ chinh phục không phải chỉ bằng việc làm, mà còn bằng sự thờ phượng. Sẽ có một phần thưởng cho những kẻ cho vị tông đồ hay vị tiên tri một miếng bánh, nhưng một phần thưởng gấp đôi sẽ được ban cho kẻ quên cả ăn uống vì yêu Thầy, bởi vì nó có một tâm hồn lớn hơn thể xác, và một tâm hồn biết yêu mạnh hơn những nhu cầu của con người, dù là hợp pháp. Matta, con lo lắng nhiều chuyện qúa! Đối với nó, chỉ có một chuyện thôi, và chỉ một chuyện này là đủ cho tâm hồn nó và cho Chúa của nó, cũng là Chúa của con. Con hãy bỏ rơi những chuyện vô ích. Hãy bắt chước em con. Maria đã chọn phần tốt nhất, là phần sẽ không bao giờ bị lấy mất. Khi mọi nhân đức sẽ qua đi, bởi vì nó không cần thiết cho các công dân của Nước Trời nữa, thì chỉ còn lại nhân đức duy nhất là Đức Ái. Nó sẽ tồn tại muôn đời. Một mình nó là Bà Hoàng. Maria đã chọn nó, đã giữ nó như cái khiên và cây gậy. Với nó giống như với cánh của các thiên thần, nó sẽ tới được Nước Trời của Thầy”.
Matta bị hạ giá, cúi đầu và bỏ đi. Maria nói để biện hộ cho chị cô:
- Chị con yêu Thầy lắm, vì chị chịu cực rất nhiều để tôn vinh Thầy...
- Thầy biết, và chị ấy sẽ được thưởng. Nhưng chị ấy cần được thanh lọc, giống như người ta thanh lọc cái nước này, về cái lối suy nghĩ loài người của chị ấy. Con nhìn coi, cái nước này lại trở nên trong khi chúng ta nói. Matta sẽ được thanh lọc nhờ những lời Thầy đã nói với chị ấy. Con... con được, nhờ sự sám hối chân thành của con...
615
- Không, thưa Thầy, bởi ơn tha thứ của Thầy. Sự sám hối của con không đủ để tẩy rửa tội lỗi nặng nề của con...
- Nó đã đủ và sẽ đủ cho tất cả các chị em sẽ biết bắt chước con, cho tất cả những kẻ tội nghiệp, bị tàn tật về tâm hồn. Sự sám hối chân thành là cái lưới để lọc, rồi tình yêu sẽ là chất ngăn ngừa cho khỏi bị dơ trở lại. Đó là lý do vì sao các người mà cuộc sống đã làm cho trưởng thành và tội lỗi, có thể lại trở nên sạch tội như các trẻ nhỏ và được vào Nước Thầy giống như chúng. Bây giờ chúng ta về nhà thôi, để Matta không phải ở lâu qúa trong đau khổ. Chúng ta hãy mang tới cho chị ấy nụ cười của người bạn và người em.
Chúa Giêsu nói :
“Không cần bình luận. Dụ ngôn về nước đã là một sự bình luận để thi hành sự sám hối trong các con tim.
Như vậy là con đã có cái vòng tròn đầy đủ về Maria Mađalêna. Từ sự chết đến sự sống. Đó là sự phục sinh lớn nhất trong Tin Mừng của Cha. Cô ta đã phục sinh từ bảy cái chết. Cô ta đã trở lại với sự sống. Con đã thấy cô ta giống như một cây hoa mọc lên ở giữa bùn, và cái cộng của bông hoa mới càng ngày càng vươn cao, rồi nở hoa cho Cha, tỏa hương thơm cho Cha, chết cho Cha. Con đã thấy cô ta là tội nhân, rồi ước ao tới nguồn nước, rồi sám hối, rồi được tha thứ, rồi yêu mến, rồi nghiêng xuống cách thương xót trên cơ thể bất động của Chúa cô, rồi là tôi tá của người Mẹ mà cô yêu mến, bởi vì đó là Mẹ Cha. Sau cùng, sám hối tại cửa Thiên Đàng.
Hỡi các linh hồn sợ sệt, hãy học biết không phải sợ hãi Cha khi đọc đời sống của Maria Magđala.
Hỡi các linh hồn biết yêu, hãy học ở nàng để biết yêu với sự nồng nàn của Sêraphim. Hỡi các linh hồn đã lầm lạc, hãy học ở nàng cái khoa học chuẩn bị cho Nước Trời.
Cha chúc lành cho tất cả các con để giúp các con trỗi dậy. Hãy đi bằng an”.
68* GIÊSU NÓI TẠI BÊTANI
Giêsu đang ở tại Bêtani giầu sang và đầy hoa nở trong tháng Nisan đẹp đẽ, hoàn toàn thanh quang, trong sạch, tựa như tạo vật đã được rửa sạch mọi nhơ nhớp.
Có những đám đông kéo đến. Chắc họ đã tìm Người ở Jêrusalem
616
và không muốn ra về mà chưa được nghe Người. Họ muốn có thể mang theo các lời Người trong tim họ. Họ đông đảo tới nỗi Giêsu ra lệnh phải thu dồn họ lại để có thể giảng dạy. Nhóm mười hai và nhóm bảy mươi hai đã tụ họp với đám đông này hay đám đông khác ít hơn, cùng với các môn đệ mới đã đến với họ trong thời gian mới đây, họ tản mát đi mọi phía để thi hành lệnh đã nhận được.
Trong lúc đó, tại vườn của Lazarô, Người giải tán các bà, nhất là mẹ Người. Theo lệnh của Người, họ trở về Galilê, được hộ vệ bởi Simon Alphê, Jairô, Alphê Sara, Margziam, chồng của Suzane và ông Zêbêđê. Có những lời chào và những nước mắt. Cũng có những ước ao lớn lao không phải vâng lời, những ước ao gây nên bởi tình yêu đối với Thầy. Nhưng sức mạnh của tình yêu trọn hảo còn lớn hơn, bởi vì đối với Ngôi Lời Chí Thánh thì hoàn toàn là siêu nhiên. Và sức mạnh này đòi họ sự vâng lời bằng cách chấp nhận sự chia tay nặng nề.
Người nói ít lời nhất là Maria mẹ Người, nhưng cái nhìn của mẹ nói nhiều hơn tất cả những điều các bà khác nói hợp lại. Giêsu thông cảm với cái nhìn này, và Người làm mẹ vững lòng, an ủi mẹ, cho mẹ no những cái vuốt ve tựa như không bao giờ được thỏa đối với một bà mẹ, nhất là bà mẹ này, đầy tình yêu và lo lắng cho đứa con bị bách hại của mẹ. Sau cùng các bà ra đi, còn quay lại hoài để chào Thầy và chào các con họ cũng như chào các nữ môn đệ người Do Thái được hạnh phúc ở lại với Thầy.
- Các bà rất khổ vì phải đi - Zêlote nhận xét.
- Nhưng các bà cần phải đi, Simon ạ.
- Thầy đã tiên đoán các ngày buồn?
- Ít ra cũng băn khoăn. Các phụ nữ không thể chịu đựng sự nhọc mệt như chúng ta. Hơn nữa, bây giờ có một con số gần như cân bằng giữa các phụ nữ Do Thái và Galilê, nên rất tốt là phân chia họ ra để họ thay nhau được có Thầy, và thay nhau được niềm vui phục vụ Thầy, và Thầy, Thầy được khích lệ vì tình yêu thánh thiện của họ.
Trong lúc này, số lượng người đến càng lúc càng đông. Vườn
617
cây ăn trái nằm giữa nhà Lazarô và nhà thuộc về Zêlote không thể chứa hết đám đông. Có các người thuộc mọi giai cấp và mọi hoàn cảnh. Cũng có cả các pharisiêu miền Juđê, các nhân viên Đại Pháp Đình và các người đàn bà trùm khăn. Có một nhóm người từ trong nhà Lazarô đi ra, bao vây chung quanh một cái kiệu, trên đó người ta đặt Lazarô. Các nhân viên Đại Pháp Đình đã đến thăm ông tại Jêrusalem vào ngày Sabát sau lễ Vượt Qua cũng có mặt cùng với các người khác nữa.
Khi đi qua, Lazarô hướng về Giêsu một cử chỉ và một nụ cười vui. Giêsu đáp trả cách lịch sự và đi theo đoàn tùy tùng nhỏ để đến nơi đám đông đang chờ Người.
Các tông đồ cũng họp đoàn với Người. Judas Iscariot, đầy vẻ chiến thắng từ mấy ngày nay, và bây giờ đang ở trong những sẵn sàng tốt đẹp nhất. Ông liếc đôi mắt sáng và rất đen của ông chỗ nọ chỗ kia và tuyên bố vào tai Giêsu những khám phá của ông:
- Ôi! Thầy coi đó, có cả các thầy cả!... Đó, đó, cũng có Simon thuộc Đại Pháp Đình, và có Elchias. Thầy coi! Quân dối trá chừng nào! Mới vài tháng nay hắn ta nói về Lazarô còn tệ hơn là xử giảo, vậy mà bây giờ hắn lại tôn vinh ông ta như một vị thần!... Và ở kia là Doro, viên kỳ lão, cùng với Trison. Thầy thấy hắn ta chào Giuse không? Và luật sĩ Samuel với Saul... và con trai Gamaliel! và một nhóm người của Hêrôđe... Và nhóm phụ nữ trùm khăn, chắc chắn là các bà Rôma. Các bà đứng riêng biệt, nhưng Thầy thấy đó, các bà quan sát coi Thầy đi đâu để có thể lại gần để nghe Thầy. Con nhận ra các nhân vật, dù là trùm áo khoác. Thầy thấy không? Có hai bà cao lớn, một bà cao hẳn lên. Những bà khác khổ người trung bình nhưng cân đối. Con có lại chào họ không?
- Không. Các bà đến như những người vô danh, như những người không ai hay biết để nghe lời vị Rabbi. Chúng ta cũng phải coi họ như vậy.
- Như Thầy muốn. Con muốn... nhắc cho Claudia về lời hứa của bà...
- Không cần. Và cả trong trường hợp ngược lại, chúng ta cũng
618
không bao giờ trở thành kẻ ăn xin, phải không Judas? Sự anh hùng của đức tin phải tự đào tạo giữa những khó khăn.
- Nhưng thưa Thầy, đó là để... cho Thầy.
- Và cho cái tư tưởng ngoan cố của con về một chiến thắng kiểu nhân loại. Judas, đừng tạo ra cho con những ảo tưởng, dù về các cách hành động trong tương lai của Thầy, dù về các lời hứa đã nhận được. Con tin vào những điều con tự bảo mình, nhưng không gì có thể thay đổi tư tưởng của Thiên Chúa, đó là Thầy: Đấng Cứu Thế và Vua của Nước Thiêng Liêng.
Judas không đối đáp.
Giêsu đã ở chỗ của Người giữa đám các tông đồ. Hầu như ngay ở chân Người là Lazarô ở trên cái kiệu. Ở hơi xa là các nữ môn đệ người Do Thái: hai cô em của Lazarô, Êlise, Anastasica, Jeanne với hai đứa trẻ, Annalia, Sara, Marcelle, Nique.
Các bà Rôma, hay ít là theo như Judas gọi họ, ở xa đàng sau hơn, hầu như ở cuối nhóm, trà trộn với đám dân thường. Các nhân viên Đại Pháp Đình, các pharisiêu, các luật sĩ, các thầy cả thì ở ngay hàng đầu, điều không thể tránh được.
Giêsu yêu cầu họ để chỗ cho ba chiếc băng ca trên đó có những bệnh nhân. Giêsu hỏi han họ nhưng người chưa chữa ngay.
Để giới thiệu tư tưởng về bài thuyết trình của Người, Giêsu lôi kéo sự chú ý của các thính giả của Người về số rất đông chim chóc ẩn náu trong những chòm lá của khu vườn nhà Lazarô và trong vườn cây ăn trái, nơi các thính giả của Người tụ họp:
- Các con hãy quan sát: Ở đây có những người thuộc vùng này và những người đến từ các nơi khác xa lạ. Họ thuộc mọi chủng tộc và mọi tầng lớp. Nhưng khi đêm về, họ sẽ được thay thế bằng những loài chim đêm. Chúng rất đông đảo ở đây, mặc dầu chúng ta dễ dàng quên chúng chỉ vì một sự kiện là ta không nhìn thấy chúng. Tại sao có nhiều chim ở đây như vậy? Bởi vì chúng tìm thấy ở đây những gì để sống sung sướng. Ở đây có mặt trời, có chỗ nghỉ ngơi, có lương thực dồi dào, có chỗ trú ẩn an toàn và có nước mát. Và chúng tụ họp, tới đây từ đông sang tây, từ nam chí bắc nếu là loài
619
chim di cư; hoặc trung thành mãi với nơi này nếu đó là loài chim địa phương. Và gì? Vậy chúng ta có thấy rằng loài chim khôn ngoan hơn con cái loài người không? Trong số những con chim này, có bao nhiêu con là con của những chim bây giờ đã chết, mà hồi năm ngoái, hoặc xa hơn nữa, đã làm tổ ở đây, nơi chúng tìm được mọi thứ cần thiết cho chúng. Trước khi chết, chúng đã nói điều đó với con chúng, chúng đã điểm chỉ nơi này, và các chim con đã vâng lời và tới đây.
Chúa Cha ở trên Trời là Cha của mọi người, Người đã chẳng nói với các thánh của Người về các chân lý của Người, chỉ bảo hết những gì cần thiết cho sự sung sướng của các con cái Người sao? Hết mọi chỉ dẫn: những điều có liên can tới sự thoải mái của thân xác, và những điều liên can tới lợi ích của tâm hồn. Nhưng chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy rằng những điều đã được dạy bảo có liên can tới thân xác - từ chiếc áo bằng da mà Người đã làm cho cha mẹ đầu tiên sau khi bị lột mất trước mắt họ, bộ y phục thơ ngây mà tội lỗi đã xé rách, cho tới những khám phá sau cùng mà con người tìm được nhờ ánh sáng của Thiên Chúa - người ta nhớ nó, chuyển đạt nó, dạy dỗ nó. Nhưng đối với những gì có liên can tới tâm hồn, những điều đã được dạy dỗ, truyền lệnh, chỉ bảo, thì họ không bảo tồn, không dạy dỗ, không thi hành.
Nhiều người thuộc về Đền Thờ xì xèo, nhưng Giêsu làm cử chỉ để yêu cầu họ ở yên.
- Chúa Cha, nhân từ như rất ít người có thể tưởng tượng, đã sai tôi tớ của Người để nhắc lại giáo huấn của Người, để tụ họp các con chim trong nơi có sự cứu rỗi, để cho họ sự hiểu biết chính xác về những điều ích lợi và thánh thiện; để thành lập một nước, nơi tất cả các chim thiên thần, tất cả mọi thần trí, tìm được ân sủng và bình an, khôn ngoan và phần rỗi. Và thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con: giống như những con chim đã nở ra ở nơi này vào mùa xuân nói với những con chim nở ra ở chỗ khác: “Hãy đến với chúng tôi, có một nơi rất tốt mà các bạn sẽ được hưởng bình an và sự dư dật của Chúa”. Và người ta sẽ thấy vào năm tới, rất nhiều chim mới
620
kéo tới đây. Cũng vậy, từ khắp nơi, giống như các tiên tri đã nói, chúng ta sẽ thấy các tâm hồn và các tâm hồn kéo đến với giáo lý đến từ Thiên Chúa, với Vị Cứu Tinh, đấng thiết lập Nước Thiên Chúa.
Nhưng tại đây, những con chim kiếm ăn ban ngày bị trà trộn với các chim ăn đêm, các chim săn mồi, các kẻ nhiễu loạn, có thể gieo sợ hãi và chết chóc cho các chim con. Và đó là những con chim mà từ bao năm, bao thế hệ rồi, chúng vẫn vậy, và không gì có thể trục xuất chúng, bởi vì công việc của chúng được làm trong nơi tối, và trong những nơi người ta không thể tới được. Những con chim này, với con mắt độc ác của chúng, đường bay lặng lẽ của chúng, tính tham lam của chúng, sự nham hiểm của chúng, chúng làm việc trong bóng tối và nơi dơ bẩn, làm lan tràn sự ô uế và gây đau đớn. Chúng ta so sánh chúng với ai? Với tất cả những người trong Israel không muốn chấp nhận Ánh Sáng đến để soi sáng chỗ tối tăm, LỜI đến để dạy dỗ, Sự Công Chính đến để thánh hóa. Đối với họ, việc Thầy đến là chuyện vô ích, và cả đến Thầy là nguyên cớ cho họ phạm tội, bởi vì họ bách hại Thầy và bách hại những kẻ trung thành với Thầy. Vậy Thầy sẽ nói sao? Nói một điều mà Thầy đã nói rất nhiều lần rồi: “Rất nhiều người sẽ từ phương đông phương tây đến để ngồi với Abraham và Jacob trong Nước Trời, nhưng những con cái của nước này sẽ bị quăng ra nơi tối tăm ở bên ngoài”.
- Con cái Thiên Chúa mà ở nơi tối tăm sao? Ông phạm thượng! - một trong các nhân viên Đại Pháp Đình kêu lên để phản đối Người. Đó là tia nước miếng đầu tiên của đám bần tiện, đã phải nín lặng qúa lâu mà bây giờ không thể nín được nữa, vì nọc độc của họ làm họ bị ngộp.
- Không phải con cái Thiên Chúa - Giêsu trả lời.
- Chính ông đã nói vậy. Ông đã nói: Con cái của nước này sẽ bị quăng ra nơi tối tăm ở bên ngoài.
- Và tôi nhắc lại: con cái của nước này, của nước mà xác thịt, máu mủ, tham lam, gian trá, dâm đãng, tội ác là chủ. Nhưng đó không phải là nước của tôi. Nước của tôi là nước của Ánh Sáng.
621
Nước các ông là nước của tối tăm. Sẽ đến với nước của Ánh Sáng, từ đông tới tây, từ nam chí bắc, các tâm hồn ngay thẳng, kể cả những người mà Israel coi là dân ngoại, thờ ngẫu tượng, những kẻ đáng khinh. Và họ sẽ sống trong sự kết hợp thánh thiện với Thiên Chúa, họ nhận được Ánh Sáng của Thiên Chúa trong mình họ trong khi chờ đợi lên Jêrusalem thực sự, nơi không còn nước mắt, không còn đau đớn, nhất là không còn dối trá. Sự dối trá bây giờ đang điều khiển thế giới tối tăm và bão hòa trong con cái nó tới nỗi không một tia nào của Ánh Sáng Thiên Chúa có thể lọt vào trong họ. Ôi! Cầu cho các con cái mới đến mau để chiếm chỗ của các con cái phản bội! Họ hãy đến, và cho dù họ có nguồn gốc nào đi nữa, Thiên Chúa cũng sẽ soi sáng cho họ và họ sẽ trị vì muôn đời!
- Ông đã nói để chửi chúng tôi! - Các người Do Thái thù nghịch nói.
- Tôi đã nói sự thật.
- Con rắn mới! Quyền lực của ông ở trên lưỡi ông, và ông sử dụng nó để lôi kéo đám đông và làm cho họ lạc đường.
- Quyền lực của tôi ở tại sức mạnh đến với tôi do việc tôi kết hợp với Chúa Cha.
- Tên lộng ngôn! - Các thầy cả kêu lên.
- Vị Cứu Tinh! Con, con đang nằm dài ở chân Thầy, con bị đau cái gì?
- Từ nhỏ, con bị gẫy cột sống lưng, và con phải nằm ngửa từ ba mươi năm nay.
- Con hãy đứng dậy và đi. Còn bà, bà đau cái gì?
- Đôi chân con tê liệt từ khi đứa trẻ mà con mang với chồng con được sinh ra - Và bà chỉ vào một thanh niên khoảng ít nhất là mười sáu tuổi.
- Bà cũng vậy. Hãy đứng lên và ngợi khen Chúa. Còn đứa trẻ này, tại sao nó không thể đi một mình được?
- Bởi vì nó sinh ra đã khờ dại, điếc, mù và câm. Một đống thịt biết thở - những người đi với kẻ khốn nạn nói.
- Nhân danh Thiên Chúa, hãy có sự thông minh, lời nói, thị giác
622
và thính giác. Ta muốn điều đó.
Sau khi đã hoàn thành phép lạ thứ ba, Người quay về phía các kẻ thù hận với Người và hỏi họ: “Các ông nói sao?”
- Những phép lạ đáng nghi! Tại sao ông không chữa cho bạn ông, cũng là kẻ bảo vệ ông, nếu ông có thể làm tất cả?
- Bởi vì đó không phải là ý muốn của Thiên Chúa.
- A!A! Tốt!... Thiên Chúa! Lối bào chữa tiện lợi! Nếu chúng tôi mang đến cho ông một bệnh nhân, đúng hơn là hai, ông có chữa cho họ không?
- Có, nếu họ đáng được.
- Vậy hãy chờ chúng tôi - và họ hăng hái ra đi trong khi cười nhạo.
- Thầy ơi, cẩn thận! Họ giương bẫy đó! - nhiều người nói. Giêsu làm cử chỉ như muốn nói: “Hãy để họ làm”. Rồi Người cúi xuống vuốt ve các đứa trẻ đã từ từ rời bỏ cha mẹ chúng để tiến lại gần Người. Có mấy bà mẹ bắt chước chúng, mang tới cho Người những đứa trẻ đi chưa vững hoặc còn đang ẵm trong lòng.
- Hãy chúc phúc cho con chúng con, thưa Thầy có phúc, để chúng là bạn của Ánh Sáng - các bà mẹ nói.
Giêsu đặt tay để chúc phúc cho chúng. Việc đó gây ra ồn ào trong đám đông: tất cả những người có con nhỏ đều muốn cùng một phúc lành, và họ xô đẩy la lối để người ta tránh chỗ cho họ.
Các tông đồ, một phần vì họ phát sùng bởi thói quen độc ác của các luật sĩ và pharisiêu, một phần vì họ thương cho Lazarô, vì ông suýt bị té ngửa bởi làn sóng của các cha mẹ đang mang con tới lãnh phép lành của Chúa, họ bực mình, la lối chỗ nọ chỗ kia, đẩy lui người này người khác, nhất là những đứa trẻ tới một mình. Nhưng Giêsu rất êm đềm, yêu thương nói với họ: “Không, không, đừng làm vậy! Đừng bao giờ ngăn cản các trẻ nhỏ đến với Thầy, cũng đừng ngăn cản cha mẹ chúng mang chúng tới cho Thầy. Nước Trời thuộc về chính những trẻ vô tội này. Chúng sẽ được vô can đối với tội ác cả thể, và chúng sẽ lớn lên trong lòng tin ở Thầy. Vậy hãy để Thầy thánh hiến chúng. Chính các thiên thần của chúng dẫn chúng
623
đến cho Thầy”.
Bây giờ Giêsu ở giữa cái vòng hoa trẻ con. Chúng nhìn Người như xuất thần. Bao là khuôn mặt nhỏ ngửa lên, bao là cặp mắt thơ ngây, bao là khóe môi mỉm cười...
Các người đàn bà trùm khăn lợi dụng lúc lộn xộn để đi vòng đám đông và tới phía sau Giêsu, làm như bị sự tò mò thúc đẩy.
Các người pharisiêu, luật sĩ và bạn bè họ trở lại với hai người có vẻ rất đau đớn. Một trong hai người rên rỉ trên chiếc băng ca, trùm kín hoàn toàn bằng áo khoác. Người kia có vẻ bớt bi đát hơn, nhưng anh ta bệnh nặng, vì anh ta hốc hác và thở hổn hển.
- Các bạn của chúng tôi đây. Hãy chữa cho họ. Họ rất bệnh, nhất là ông này - Và họ chỉ vào người đàn ông đang rên.
Giêsu hạ con mắt xuống trên các bệnh nhân, rồi Người lại ngước lên nhìn các người Do Thái. Người bắn cái nhìn rất dễ sợ trên các kẻ thù của Người. Đứng thẳng ở sau hàng rào các trẻ nhỏ chỉ cao tới thắt lưng Người, tựa như Người mọc lên từ một bụi cây trong sạch để làm kẻ báo thù. Tựa như Người kéo sức mạnh ra từ cái bụi trong sạch này để là như vậy. Người giang cánh tay ra và kêu: “Các kẻ dối trá! Người này không bệnh! Chính ta nói điều đó với qúi vị. Hãy mở anh ta ra, nếu không, chỉ trong chốc lát, anh ta sẽ chết thực vì tội lừa bịp chống lại Thiên Chúa”.
Người đàn ông nhảy bổ dậy khỏi chiếc băng ca và nói: “Không, không! Đừng đánh tôi! Và các ông, đồ khốn kiếp! Hãy cầm lấy tiền của các ông”. Và anh ta ném một túi tiền ở chân các pharisiêu, rồi vắt giò lên cổ, chạy trốn.
Đám đông xì xèo, cười, huýt gió, vỗ tay...
Người bệnh kia nói: “Còn con, lạy Chúa, con đã bị áp lực lôi con ra khỏi giường. Từ sáng tới giờ con chịu đựng sự hung bạo này... Nhưng con không biết rằng con ở trong tay các kẻ thù của Thầy...”
- Con, đứa con tội nghiệp! Hãy được khỏi và được chúc phúc! - và Người rẽ cái hàng rào sống của các trẻ em ra để tới đặt tay trên ông.
Người đàn ông mở ra một lát chiếc mền che trên mình ông ta.
624
Ông ta nhìn, tôi không biết ông nhìn cái gì... Rồi ông đứng dậy, để lộ đôi chân trần từ đùi tới bàn chân. Và ông ta kêu, ông ta kêu hết sức lực, tới khản tiếng: “Chân tôi! Chân tôi! Nhưng Ngài là ai? Ngài là ai để có thể trả lại cái đã mất?” và anh ta qùi sụp tại chân Giêsu, rồi lại đứng dậy, nhảy lên giường, bước nhúng nhính trên đó và kêu: “Cái bệnh đã ăn mòn xương tôi. Thầy thuốc đã cắt các ngón chân, đốt cháy thịt, ông đã đẽo tôi tới xương đầu gối. Qúi vị hãy nhìn, hãy nhìn dấu vết. Và tôi chỉ còn chờ chết. Vậy mà bây giờ... tất cả đều lành! Chân tôi, chân tôi được kiến tạo lại!... Và tôi không đau nữa. Bây giờ là sức lực, thoải mái... Lồng ngực nhẹ nhõm... Tim an toàn!... Ôi! Má ơi! Má ơi! Con đến đem niềm vui cho má!”
Và ông ta sắp chạy đi, nhưng sự biết ơn giữ ông ta lại. Ông ta trở lại với Giêsu, ông hôn chân Người, hôn hoài và chúc phúc, cho tới khi Giêsu xoa đầu tóc ông và nói: “Đi đi, hãy đi tìm má con và hãy tốt”. Rồi Người nhìn các kẻ thù bị hạ giá của Người và nói bằng giọng như sấm: “Và bây giờ? Tôi phải làm gì với các ông? Đám đông ơi! Thầy phải làm gì, sau sự đoán xét của Thiên Chúa?”
Đám đông kêu: “Ném đá những kẻ xúc phạm đến Thiên Chúa! Tử hình! Đã đủ những cạm bẫy với Đấng Thánh rồi! Đáng nguyền rủa!” Và họ đi lượm những cục đất, những cành cây, những hòn sỏi, hoàn toàn sẵn sàng để ném đá.
Giêsu ngăn cản họ: “Đó là lời của đám đông, đó là câu trả lời của họ. Câu trả lời của tôi thì khác. Tôi, tôi nói: ‘Hãy đi đi, tôi không làm dơ mình bởi đánh các ông. Đấng Tối Cao sẽ chịu trách nhiệm với các ông. Chính Người là đấng bảo vệ tôi chống lại các kẻ nghịch’”.
Những kẻ có tội, thay vì nín lặng, mặc dầu sợ đám dân, vẫn tiếp tục xúc phạm đến vị Thầy. Họ sùi bọt vì giận và la lối: “Chúng tôi là Do Thái và mạnh thế. Chúng tôi truyền cho ông phải đi khỏi đây. Chúng tôi cấm ông không được giảng dạy. Chúng tôi đuổi ông, hãy đi khỏi đây. Chúng tôi đã có đủ về ông rồi. Quyền lực ở trong tay chúng tôi và chúng tôi sử dụng, và chúng tôi sẽ làm càng ngày càng nhiều hơn. Ôi! Quân khốn kiếp! Kẻ tiếm vị! Ôi...”
625
Họ sắp nói một điều gì khác trong cái ồn ào của tiếng gào, tiếng khóc, tiếng huýt sáo, thì một bóng người tiến lên, đứng ở giữa Giêsu và kẻ thù của Người, bằng một cử điệu lanh lẹ và oai vệ, tiếng nói và cái nhìn càng hách dịch hơn: một người đàn bà trùm khăn. Bà mở khăn ra, để lộ khuôn mặt, và bằng giọng sắc bén, quất mạnh hơn là chiếc roi quất trên tù khổ sai, hơn lưỡi rìu chặt trên cổ, bà để rơi câu nói của bà: “Ai đã quên rằng họ là nô lệ của Rôma?” Đó là Claudia. Bà lại trùm khăn lên, hơi nghiêng mình trước Thầy, rồi trở về chỗ của bà. Nhưng vậy là đã đủ.
Các pharisiêu lập tức yên tĩnh. Chỉ có một ông, đại diện cho tất cả, với vẻ ti tiện như bò lết, ông nói: “Xin bà thứ lỗi! Nhưng ông ta làm xáo trộn thần trí già của Israel. Bà là kẻ quyền thế, bà phải ngăn cản ông ta. Và xin Ngài Tổng Tài công minh đại độ cấm ông ta. Cầu cho Ngài khang an và trường thọ”.
- Điều này không liên can gì tới chúng tôi. Chỉ cần là ông ấy không làm đảo lộn trật tự của Rôma, và ông ta không làm điều đó - Bà qúi phái trả lời cách khinh bỉ. Rồi bà ra lệnh cho các bạn bà, và các bà bỏ đi về một khóm cây ở cuối đường đi, các bà khuất đi sau lùm cây, rồi lại xuất hiện trên chiếc xe có mui. Nó nghiến lóc cóc, và Claudia ra lệnh hạ hết các tấm màn xuống.
Các người Do Thái, pharisiêu và đồng bọn lại tấn công Người và hỏi: “Ông thỏa lòng vì đã cho chửi bới chúng tôi?”
Đám đông hô hoán khinh bỉ. Giuse, Nicôđêmô và tất cả những ai đã tỏ ra là bạn - và cùng với họ, cho dù không vào hùa, nhưng với nhận xét, ta thấy có cả con trai Gamaliel - tất cả đều cảm thấy cần phải can thiệp bằng cách khiển trách những người đã vượt qúa giới hạn. Cuộc cãi vã xảy ra giữa các kẻ thù của Giêsu và nhóm đối nghịch, và họ để ra bên lề nhân vật đáng lưu ý nhất.
Giêsu nín lặng, đứng khoanh tay. Tôi tin là Người đã tỏa ra một sức mạnh để giữ đám đông lại, nhất là các tông đồ, trong khi họ xanh mặt vì tức giận.
- Chúng ta phải bảo vệ chúng ta, và nghiêm cấm - một tên Do Thái gầm lên như điên.
626
- Nhìn đám đông chạy theo hắn đủ rồi! - Một tên khác nói.
- Chúng ta là những kẻ mạnh! Một mình chúng ta! Và người ta chỉ được nghe và theo một mình chúng ta thôi - một viên luật sĩ nói oang oang.
- Hắn ta phải đi khỏi đây! Jêrusalem thuộc về chúng ta - một thầy cả gào thét, mặt đỏ như con gà trống.
- Các ông dối trá!
- Các ông tệ hơn người mù!
- Đám đông bỏ rơi các ông vì các ông đáng bị bỏ rơi.
- Hãy thánh thiện, nếu các ông muốn người ta yêu các ông. Không phải nhờ làm những chuyện bất công mà người ta duy trì được quyền bính, bởi vì nó dựa trên sự kính nể của dân chúng đối với những kẻ cai trị họ! - Phe đối lập và nhiều người trong đám đông cũng la ó.
- Yên lặng! - Giêsu áp đặt. Khi sự yên lặng được tái lập, Người nói: “Bạo lực và sự cưỡng bức không thể thay đổi tình yêu và hậu qủa của những điều tốt đã nhận được. Tôi, tôi gặt hái những gì tôi đã cho, đó là tình yêu. Còn các ông, với sự đàn áp của các ông, các ông chỉ làm cho tình yêu này lớn mạnh thêm, vì nó muốn đền bù cho tôi về sự thiếu tình yêu của các ông. Với tất cả sự khôn ngoan của các ông mà các ông không biết rằng: sự đàn áp một giáo thuyết chỉ làm cho sức mạnh của nó phát triển, nhất là khi nó phù hợp với những sự kiện như được giảng dạy. Ôi, qúi vị Israel, hãy nghe một trong các lời tiên tri của tôi: Các ông càng bách hại vị Rabbi xứ Galilê và những kẻ theo Người, bằng cách dùng bạo lực để vô hiệu hóa Giáo Lý Thiên Chúa của Người, thì các ông càng làm cho nó thịnh vượng và càng làm cho nó lan tràn ra trong thế giới. Mỗi giọt máu của các vị tử đạo mà các ông làm chảy ra, với hy vọng chiến thắng và cai trị bằng các luật của các ông, bằng các qui lệ của các ông, những thứ đồi trụy và giả hình, không phù hợp với luật của Thiên Chúa. Mỗi giọt nước mắt của các thánh mà các ông dày đạp sẽ là một hạt giống cho các tín hữu tương lai. Các ông sẽ thất bại trong lúc các ông tin là mình toàn thắng. Thôi đi đi. Tôi cũng vậy,
627
tôi đi. Ai yêu tôi thì hãy tìm tôi ở biên giới miền Juđê và ở bên kia sông Giođan, hoặc là họ hãy chờ tôi. Vì như chớp từ phương đông chiếu tới phương tây, sự di chuyển của Con Người cũng mau lẹ như vậy, cho tới khi Người lên trên bàn thờ và trên ngai để làm Giáo Chủ và làm Hoàng Đế mới, và ngự trị ở đó vững bền trước mặt thế giới, mọi tạo vật và các tầng trời, một trong số vô vàn sự hiển linh của Người mà chỉ những kẻ tốt mới biết hiểu”.
Các pharisiêu hậm hực đi ra với đồng bọn. Những người khác ở lại. Người con trai của Gamaliel chiến đấu với chính mình để đến với Giêsu, nhưng rồi ông bỏ đi và không nói gì...
- Thưa Thầy, Thầy sẽ không ghét chúng tôi vì chúng tôi thuộc về cùng một tầng lớp chứ? - Êlêazar hỏi.
- Tôi không đánh phạt một người vì lẽ giai cấp của họ có tội. Đừng sợ - Giêsu trả lời.
- Bây giờ họ sẽ ghét chúng ta - Joakim thì thầm.
- Đó là một vinh dự cho chúng ta khi bị như vậy - Pháp đình viên Gioan nói.
- Xin Thiên Chúa củng cố cho những kẻ lung lay và chúc phúc cho những kẻ vững mạnh. Tôi chúc lành cho tất cả nhân danh Chúa - Người mở cánh tay ban phúc lành theo mẫu Môise cho mọi người hiện diện.
Rồi Người từ giã Lazarô và hai em gái ông, cùng với Maximin và các nữ môn đệ. Và Người bắt đầu bước...
Miền quê xanh tươi ở hai bên đường về phía Jêricô tiếp đón Người trong mầu xanh đang đỏ ối vì hoàng hôn rực rỡ.
69* ĐI TỚI NÚI ADOMIN
- Đêm xuống rồi, chúng ta đi đâu đây? - Các tông đồ hỏi nhau. Họ nói về những gì đã xảy ra, nhưng họ nói nhỏ tiếng để không làm nặng nề cho Thầy đang rõ ràng chìm trong trầm tư mặc tưởng. Đêm về trong khi họ vẫn bước theo sau vị Thầy đầy suy tư.
628
Nhưng rồi một ngôi làng hiện ra ở chân một dẫy núi nổi lên rất rõ. Giêsu ra lệnh:
- Chúng ta sẽ dừng lại đó để qua đêm. Hay tốt hơn là chúng ta dừng lại ngay chỗ này. Thầy, Thầy sẽ đi cầu nguyện trên những ngọn núi này.
- Một mình? A! Không! Thầy sẽ không đi một mình lên núi Adomin! Với tất cả những tên trộm cướp mai phục ở đó! Không. Thầy sẽ không lên đó một mình!... - Phêrô nói rất qủa quyết.
- Các con muốn chúng làm gì Thầy? Thầy chả có gì hết.
- Thầy có... chính Thầy. Con nói về những tên trộm cướp thực sự, những kẻ thù của Thầy. Đối với chúng, chỉ mạng sống Thầy là đủ. Thầy sẽ không bị giết như... như... vậy đó, trong một ổ phục kích đê hèn, để cho kẻ thù của Thầy có thể bịa ra, con không biết cái gì, để cho đám đông lìa bỏ giáo lý của Thầy - Phêrô đối đáp.
- Thầy ơi, Simon Jonas có lý - Juđa Thađê nói. “Họ có thể làm biến mất xác Thầy rồi nói là Thầy chạy trốn vì biết mình bị lột mặt nạ... hoặc chúng mang Thầy tới một nơi nổi tiếng xấu, một nhà của gái điếm, để có thể nói: ‘Hãy coi ông ta chết ở đâu và thế nào? Trong cuộc ẩu đả với một gái điếm’. Thầy đã nói đúng: ‘Bách hại một giáo thuyết tức là làm cho sức mạnh của nó gia tăng’, và con nhận thấy, bởi vì con không hề rời mắt, rằng con trai Gamaliel xác nhận bằng những cái gật đầu trong khi Thầy nói. Nhưng người ta có lý để nói rằng: làm cho một vị thánh và giáo lý của Người thành lố bịch là khí giới chắc nhất để làm cho nó sụp đổ, và lấy đi sự tin tưởng của đám đông nơi vị thánh”.
- Đúng. Và điều đó không được để cho xảy đến với Thầy - Batôlômêo chấm dứt.
- Thầy đừng đặt mình vào trò chơi của kẻ thù - Zêlote thêm. “Hãy nghĩ rằng không phải chỉ có mình Thầy, mà cả ý muốn của đấng đã sai Thầy cũng sẽ bị hạ nhục vì sự kém khôn ngoan này. Và như vậy người ta sẽ thấy rằng con cái tối tăm đã thắng Ánh Sáng, ít nhất là trong chốc lát”.
- Phải, đúng đấy. Thầy không thôi nói, và Thầy đâm thấu qủa
629
tim chúng con khi nói rằng Thầy phải bị giết. Con nhớ cái phen Thầy quở trách Simon Phêrô nên con không nói với Thầy: “cầu cho điều đó đừng bao giờ xảy ra”. Nhưng con không tin mình sẽ là Satan khi nói: “Ít nhất là điều đó xảy ra theo cách nào để Thầy được vinh quang. Cầu cho đó là cái ấn không mập mờ về thân thế thánh thiện của Thầy, và một sự trừng phạt chắc chắn cho các kẻ thù của Thầy. Cầu cho đám đông được biết, được có những dấu hiệu để nhận ra và tin”. Ôi Thầy, ít nhất là như vậy. Nhiệm vụ thánh của anh em Maccabê không bao giờ được tỏ hiện nếu Juđa, con trai Mathatias không chết anh hùng như vị cứu tinh trên bãi chiến trường. Thầy muốn lên núi Adomin? Chúng con cũng lên với Thầy. Chúng con là các tông đồ của Thầy. Thầy đi đâu thì chúng con phải tới đó. Thầy là thủ lãnh, chúng con là các kẻ thừa hành của Thầy - Tôma nói. Rất ít khi tôi thấy ông ta vừa hùng biện, vừa nghiêm trang như vầy.
- Đúng vậy, đúng vậy! Nếu chúng đột kích Thầy, chúng phải đột kích chúng con trước - nhiều người nói.
- Ôi! Chúng sẽ không đột kích chúng ta dễ dàng đâu! Chúng còn đang điều trị các vết thương do các lời của Claudia và... chúng qủi quyệt, rất qủi quyệt, qúa qủi quyệt! Chúng không thể không suy nghĩ rằng Ponciô sẽ biết phải đập ai về cái chết của Thầy. Chúng qúa hay phản bội, và ở trước mắt Claudia, chúng phải nghĩ tới nghiên cứu một cái bẫy an toàn hơn một cuộc tấn công thô lỗ. Có lẽ cái sợ của chúng ta là ngu xuẩn. Bây giờ chúng ta đâu còn là những kẻ vô danh tiểu tốt như trước nữa. Bây giờ chúng ta đã có Claudia! - Iscariot nói.
- Được rồi, được rồi... nhưng chúng ta đừng liều. Và rồi, Thầy nuốn làm gì ở trên Adomin? - Giacôbê Zêbêđê hỏi.
- Cầu nguyện, và tìm một nơi để tất cả chúng ta có thể cầu nguyện trong những ngày sắp tới, để chuẩn bị cho chúng ta vào cuộc chiến đấu mới càng ngày càng kịch liệt.
- Với các kẻ thù?
- Với cả cái tôi của chúng ta. Nó rất cần thiết phải được củng cố.
630
- Nhưng Thầy đã chẳng nói rằng Thầy muốn đi tới biên giới xứ Juđê và bên kia sông Giođan sao?
- Có. Thầy sẽ tới đó, nhưng sau khi cầu nguyện. Thầy sẽ đi Acor, rồi qua Doco để tới Jêricô.
- Không, không, Chúa ơi! Đó là những nơi tai họa của các vị thánh trong Israel. Đừng tới đó! Đừng tới đó! Con xin Thầy, con cảm thấy nó. Có cái gì nói ở trong con: Đừng tới đó! Nhân danh Thiên Chúa, đừng tới đó! - Gioan kêu. Hầu như ông bị mất trí, tựa như ông bị chiếm bởi một cảm tình sợ hãi xuất thần... Mọi người đều ngạc nhiên nhìn ông, vì họ không bao giờ thấy ông như vậy. Nhưng không ai cười nhạo ông. Tất cả đều có cảm tưởng là đang ở trước một sự kiện siêu nhiên, và họ giữ yên lặng cách kính cẩn. Chính Giêsu cũng nín lặng trước khi Người thấy Gioan trở về tình trạng thông thường và nói: “Ôi! Chúa của con, con đau đớn chừng nào!”
- Thầy biết. Chúng ta sẽ đi Carít. Thần trí của con nói sao? - Tôi xúc động sâu xa về sự kính trọng của Giêsu khi Người nói với vị tông đồ được linh ứng...
- Lạy Chúa! Thầy hỏi con điều đó à? Thầy hỏi đứa trẻ ngu ngốc tội nghiệp sao? Thầy là sự khôn ngoan hoàn toàn thánh thiện.
- Ờ, hỏi con. Kẻ nhỏ nhất là kẻ lớn nhất. Với sự khiêm nhường, nó đi vào sự thông hiệp với Chúa, vì ích lợi của các anh em. Nói đi con!...
- Lạy Chúa, vâng. Chúng ta đi Carit. Ở đó có những hẻm núi an toàn để trầm mặc với Thiên Chúa, và các con đường để đi Jêricô và Samari ở rất gần đó. Chúng ta sẽ xuống để tụ họp những kẻ yêu Thầy và trông đợi Thầy, chúng ta dẫn họ lại với Thầy, hoặc dẫn Thầy lại với họ. Rồi chúng ta nuôi mình bằng sự cầu nguyện... Và Chúa sẽ đến để nói với tâm hồn chúng ta... để mở lỗ tai cho chúng ta. Nó đã nghe Ngôi Lời, nhưng nó chưa hiểu hoàn toàn... Để nhất là Người xâm chiếm con tim chúng ta bằng lửa của Người. Vì chỉ khi chúng ta được thiêu đốt, chúng ta mới biết kiên trì trong tử đạo của trái đất. Chỉ khi nào chúng ta cảm thấy cái tử đạo êm đềm của
631
tình yêu trọn hảo, chúng ta mới biết sẵn sàng chịu tử đạo bởi sự thù ghét của nhân loại... Lạy Chúa, con đã nói gì vậy?
- Gioan, con nói các lời Thầy. Đừng sợ. Chúng ta dừng lại đây, rồi ngày mai, lúc bình minh, chúng ta sẽ lên núi.
70* SAU CUỘC TĨNH TÂM TẠI CARIT
Đây là những ngọn núi giống như chúng lo lắng bận rộn để vươn lên luôn luôn cao hơn. Và tôi nói, ở mỗi nhịp, sự cố gắng của nó được đánh dấu bởi một dẫy đá cheo leo, rất dốc, đẽo thành những thung lũng hẹp như những vết mổ khổng lồ, được đội triều thiên bằng những đỉnh hoang vu. Từ đó, người ta có thể ngẫu nhiên nhìn thấy hết các phần của Biển Chết ở phía đông nam nơi các tông đồ đang tụ họp với Thầy. Sông Giođan với thung lũng mầu mỡ bình lặng của nó không được nhìn thấy. Người ta cũng không nhìn thấy Jêricô và các thành phố khác. Chỉ thấy có núi và núi dựng lên về phía Samari, và mặt nước tối om của Biển Chết nằm ở giữa hai núi đá hiểm trở. Ở bên dưới, một con suối chảy từ tây sang đông, chắc chắn là đổ vào Giođan. Những tiếng kêu ầm ĩ của chim ưng và tiếng quạc quạc của đàn qụa trong bầu trời trong xanh. Những tiếng líu ríu ồn ào của chim chóc trong các bụi lá trên các sườn dốc hoang vu. Tiếng gió rít trong các khe núi, mang lại các mùi và các tiếng động từ xa, hoặc làm át cả tiếng động gần, tùy theo chúng êm nhẹ hay mạnh mẽ. Vài tiếng kêu của lục lạc vọng lên từ con đường đi băng qua thung lũng, vài tiếng bê bê của chiên cừu gặm cỏ trên đồi, vài tiếng nước từ đá nhỏ giọt ra, hoặc tiếng thác gầm. Nhưng đây là mùa đẹp trời: khô ráo, ấm áp. Các sườn dốc chỉ là một mặt sứ hoa sặc sỡ trên mầu ngọc bích của cỏ. Và vẫn còn là hoa: hoa chùm, hoa giây treo thòng lòng từ thân, từ cành lá, cho khung cảnh một vẻ vui tươi.
Rất vui, với niềm vui siêu nhiên, là dung nhan của mười ba vị tụ họp ở đây. Họ đã quên thế giới, nó ở rất xa... Các thần trí đã lấy lại
632
được sự quân bình bị lung lay bởi bao va chạm. Họ đã có thể vào trong cái hào quang của Thiên Chúa, tức là sự bình an. Và bình an hiển hiện trên các khuôn mặt.
Nhưng kỳ nghỉ đã qua. Giêsu đang nói về nó, và Phêrô nhắc lại lời xin của ông ở trên Tabor: “Ôi! Tại sao không ở lại đây? Thật là đẹp được ở lại đây với Thầy!”
- Simon Jonas, bởi vì công việc đang chờ chúng ta. Chúng ta không thể chỉ biết có chiêm ngắm. Thế giới đang chờ chúng ta để được dạy dỗ. Các người thợ của Chúa không thể dừng lại, bao lâu còn các cánh đồng phải gieo hạt.
- Vậy thì... con, con chỉ có thể cải thiện được một tí khi con được cô lập như vầy... Con sẽ không bao giờ có thể... Thế giới qúa lớn! Làm sao chúng ta có thể làm việc cho tất cả và thành công trước khi chết để tụ họp họ trong Thầy?
- Chắc chắn là con không thể làm việc cho toàn thế giới. Phải có bao thế kỷ và bao thế kỷ, và khi một phần đã được làm, thì Satan lại lẻn vào đó và làm hư hỏng những cái đã được làm. Vì vậy đó sẽ là một công việc liên tục cho tới tận thế.
- Ôi! Vậy làm sao con có thể chuẩn bị để chết? - Phêrô thực sự buồn.
Giêsu làm cho ông vững tâm bằng cách ôm ông và nói: “Con sẽ có thời giờ. Không cần nhiều. Chỉ cần một hành động mặc niệm hoàn hảo để chuẩn bị ra trước Thiên Chúa. Nhưng con sẽ có tất cả thời gian. Lại nữa, hãy biết rằng sự thi hành ý muốn của Thiên Chúa đã luôn luôn là một sự chuẩn bị để chết cách thánh thiện. Nếu Thiên Chúa muốn cho con hoạt động, và nếu con vâng lời, thì con chuẩn bị cho mình bằng hành động vâng lời còn nhiều hơn là con giam mình trong hang núi cô độc để cầu nguyện và chiêm ngắm. Con có nhận ra không?”
- Chắc chắn rồi, bởi vì chính Thầy nói vậy. Bây giờ chúng con phải làm gì?
- Các con hãy phân tán ra các con đường trong thung lũng. Hãy tụ họp người ta ở đó để chờ Thầy. Hãy rao giảng Chúa và đức tin
633
cho tới khi Thầy tới.
- Thầy ở lại một mình?
- Ờ, đừng sợ. Các con thấy rằng đôi khi điều xấu phục vụ cho điều tốt. Ở đây Êlia đã được nuôi sống bởi các con qụa. Chúng ta đã có thể nói được rằng các con diều hâu dữ dằn đã nuôi chúng ta.
- Thầy có nghĩ rằng đây là một chuyển động của hoán cải không?
- Không, nhưng đó là đức bác ái, dù nó đến với họ từ tư tưởng rằng vì họ đã quảng đại, điều đó bó buộc chúng ta không được phản bội họ.
- Nhưng chúng ta không phản bội họ - Andrê kêu lên.
- Không. Nhưng họ, những tên trộm cướp khốn nạn, họ không biết. Không một sự gì siêu nhiên có thể làm việc nơi họ, vì họ chất đầy tội ác.
- Chúa ơi, Thầy nói rằng đức bác ái... Thầy muốn nói gì? - Gioan hỏi.
- Thầy muốn nói là đức bác ái mà họ có đối với chúng ta sẽ không phải là không có phần thưởng, ít là đối với những người tốt nhất. Sự cải thiện chưa đến vào lúc này, nhưng nó có thể hoạt động từ từ. Nó có thể đến. Vì vậy Thầy đã nói với các con: “Đừng từ chối qùa tặng của họ”. Thầy đã nhận nó, mặc dầu đối với Thầy, nó có mùi hôi thối của tội lỗi.
- Nhưng Thầy đã không, Thầy đã không ăn...
- Nhưng Thầy không làm nhục kẻ có tội bằng cách từ chối họ. Họ có một cử động khởi đầu của lòng tốt, tại sao lại phá hủy nó đi. Dòng suối ở dưới kia đã chẳng bắt đầu ở cái tia nước chảy từ sườn dốc này đó sao? Các con hãy luôn luôn nhớ điều đó. Đó là bài học cho đời sống tương lai của các con, khi Thầy không còn ở giữa các con nữa. Nếu các con gặp thấy những tội ác trên đường truyền giáo của các con, đừng làm như các pharisiêu khinh dể mọi người, mà không nghĩ tới khinh dể chính mình là những kẻ hư hỏng trước tiên. Hãy lại gần họ với tình yêu lớn lao. Thầy muốn có thể nói được rằng “với tình yêu vô hạn”. Thầy nói như vậy đó. Và điều đó có thể, dù là con người có cùng có hạn trong các hành động của họ.
634
Các con có biết làm sao con người có thể có một tình yêu vô hạn không? Bằng cách kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, đến nỗi trở nên một với Người. Lúc đó qủa thật là tạo vật đã biến mất trong Đấng Tạo Hóa. Chính Đấng Tạo Hóa hoạt động, và Người thì vô hạn. Chính như vậy, các tông đồ của Thầy phải kết hợp với Thiên Chúa của họ bằng sức mạnh của tình yêu, là cái liên kết họ với nguồn gốc của họ, tới nỗi tan hòa trong nó. Không phải với cách các con nói, mà là với cách các con yêu, các con sẽ cải hóa các tâm hồn. Các con gặp các tội nhân ư ? Hãy yêu họ. Các con khổ vì các môn đệ lạc đường ư ? Hãy tìm cách cứu họ vì tình yêu. Các con hãy nhớ lại các lời của dụ ngôn về con chiên lạc. Ôi! Trong mọi thế kỷ và mọi thế kỷ, nó sẽ là tiếng gọi rất êm đềm cho các tội nhân. Nhưng nó cũng sẽ là mệnh lệnh chắc chắn được ban cho các linh mục của Thầy. Các con phải đi tìm các con chiên lạc để dẫn nó về chuồng bằng mọi cách, bằng mọi hy sinh, dù phải mất mạng sống, để cố gắng cứu các linh hồn với tất cả sự kiên trì có thể.
Tình yêu sẽ cho các con niềm vui. Nó sẽ nói với các con: “Đừng sợ”. Nó sẽ cho các con quyền lực để bành trướng ra trong thế giới đến nỗi chính Thầy cũng không có. Trong tương lai, tình yêu của các kẻ công chính không phải chỉ được đặt như một dấu hiệu ở bên ngoài, trên qủa tim hay trên cánh tay như thánh vịnh của các thánh vịnh nói, nhưng nó phải được đặt trong qủa tim. Nó phải là cái đòn bẩy để đẩy tâm hồn tới mọi hành động. Và mọi hành động phải rất dồi dào về Đức Bác Ái, một đức bác ái không thỏa mãn để chỉ yêu Thiên Chúa và tha nhân bằng tâm trí, nhưng nó phải vào trong đấu trường để chiến đấu chống lại các kẻ thù của Thiên Chúa, để cũng mến Chúa và yêu người một cách cụ thể trong hành động, dù là về vật chất, là con đường dẫn tới các hành động vĩ đại hơn và toàn thiện hơn, dẫn tới sự cứu chuộc và thánh hóa các anh em. Bằng sự chiêm ngắm, người ta yêu Thiên Chúa, nhưng bằng hành động, người ta yêu tha nhân. Hai tình yêu không tách rời nhau, vì chỉ có một tình yêu. Trong khi yêu tha nhân, chúng ta yêu Thiên Chúa là đấng đã truyền lệnh tình yêu này, và Ngài đã cho ta tha nhân làm anh em. Các con, cũng như các linh mục trong tương lai, các con
635
không thể nói được rằng các con là bạn Thầy, nếu tình bác ái của các con không hoàn toàn hướng về phần rỗi các linh hồn, mà vì họ, Thầy đã nhập thể và chịu đau khổ cho họ. Thầy làm gương cho các con về cách người ta phải yêu. Điều Thầy làm thì các con cũng như những người đến sau các con phải làm. Thời đại mới đã tới: Thời đại của Tình Yêu. Thầy đến để nhóm ngọn lửa này trong các con tim, và nó sẽ còn cháy mạnh hơn sau cuộc Tử Nạn và sự Thăng Thiên của Thầy. Và nó sẽ thiêu đốt các con khi Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con xuống để thánh hiến các con vào sứ mạng.
Hỡi Tình Yêu Thiên Chúa! Sao Người còn chậm trễ tiêu thụ Lễ Vật Hy Sinh, và mở mắt, mở tai, mở miệng lưỡi và các chi thể cho đoàn chiên của con, để chúng đi vào giữa bầy sói mà rao giảng rằng Thiên Chúa là Tình Yêu, và kẻ không có tình yêu ở trong mình nó thì nó chỉ là con thú hay ma qủi. Ôi! Lạy Thánh Linh rất êm dịu và rất mạnh mẽ, xin hãy đến và thiêu đốt trái đất, không phải để tiêu diệt nó, mà là để thanh tẩy nó. Xin hãy thiêu đốt các con tim, làm cho chúng trở thành những “chính con” khác, những Kitô khác, tức là những linh hồn đã nhận phép xức dầu của tình yêu, hành động bởi tình yêu, nên thánh và thánh hóa bởi tình yêu.
Hạnh phúc cho những kẻ yêu, vì họ sẽ được yêu, và linh hồn họ sẽ không ngừng giây phút nào việc ca tụng Thiên Chúa với các thiên thần, cho tới lúc họ sẽ hát mừng vinh quang bất diệt trong ánh sáng trên Trời. Nguyện cho các con được như vậy, các bạn của Thầy. Bây giờ hãy đi làm điều Thầy đã bảo các con với tình yêu.
71* NHỮNG NGƯỜI PHÁI KHỔ HẠNH
VÀ PHÁI PHARISIÊU. DỤ NGÔN VỀ
VIÊN QUẢN LÝ BẤT TRUNG
Một đám rất đông đang chờ Thầy, rải rác ở chân một trái núi hầu như cô lập. Nó trồi lên ở chỗ giao nhau của các thung lũng ở chung quanh nó, và các sườn dốc của nó đột xuất, đúng hơn là vọt
636
lên rất hiểm trở, hầu như thẳng đứng, ở một số nơi thì thực sự là thẳng đứng. Để lên đỉnh thì có một con đường hẻm đẽo vào trong đá vôi. Ở một vài chỗ, nó làm trầy sứt sườn núi bằng những khúc quanh co bám vào vách thẳng đứng giữa núi và vực thẳm. Con đường mòn gập ghềnh này, với mầu vàng hầu như đỏ, nó giống như một giải băng ném vào giữa mầu xanh bụi bặm của các đám cây thấp và gai góc. Tôi nói rằng chính các lá cũng là gai châm, che phủ lấy sườn dốc khô cằn và sỏi đá. Tại đó đây, nở ra vài bông hoa trường thọ mầu đỏ tím, giống như một chùm lông hay một lọn tơ bị giật ra khỏi y phục của kẻ tội nghiệp nào đó, khi họ đi qua cái vùng có nhiều cây mâm xôi này. Lớp bao phủ nguy hiểm này làm cho các các đám gai nhọn có một mầu xanh lục, buồn như chúng bị phủ một lớp tro mịn, trải ra thành những băng dài ngay ở chân núi và trên cao nguyên nằm giữa ngọn núi này và các núi khác về phía tây bắc cũng như đông nam, luân phiên với những vùng đầu tiên có những cỏ và cây cối thực sự, không nguy hiểm hay vô ích.
Mọi người tụ họp ở đó, kiên nhẫn chờ Chúa tới. Đây chắc là ngày hôm sau của bài thuyết giảng cho các tông đồ, vì buổi sáng còn mát, và sương sa chưa bốc hơi trên cỏ cây. Nó còn ướt sương, nhất là trong bóng râm. Nó tô điểm cho lá và gai, biến các bông hoa kỳ dị của các cây gai thành những viêm kim cương. Đây chắc là giờ đẹp đẽ của vùng núi buồn tẻ. Qủa vậy, vào những giờ khác, hoặc dưới mặt trời khắt khe, hoặc về đêm dưới trăng, chắc chắn nó có bộ mặt ghê sợ của nơi hỏa ngục đền tội. Ở phía đông, ta nhận ra một thành phố lớn và giầu ở giữa đồng bằng phì nhiêu. Ta không nhìn thấy gì khác ở phía này, vì chỗ các người hành hương tụ họp là chỗ thấp. Nhưng từ trên đỉnh, con mắt chắc chắn được ngắm một cảnh khôn sánh tại những miền lân cận. Tôi tin là với độ cao của trái núi, tầm nhìn có thể bao quát hết Biển Chết và các vùng ở phía đông biển, và cho tới các rặng núi thuộc Samari và rặng đang che khuất Jêrusalem. Nhưng tôi không lên đỉnh núi.
Các tông đồ đảo quanh đám đông, cố gắng giữ yên lặng và trật tự, đặt các bệnh nhân ở chỗ tốt nhất. Họ được các môn đệ phụ giúp, có lẽ là những người làm việc tại miền này, và họ đã dắt tới
637
tận biên giới Juđê những khách hành hương ước ao nghe Thầy.
Thình lình Giêsu xuất hiện trong bộ đồ vải gai trắng, bao phủ bằng áo khoác đỏ để điều hòa sức nóng của những giờ nắng gắt với cái lạnh ban đêm chưa phải là mùa hè. Người nhìn đám đông đang chờ Người và mỉm cười, nhưng không ai thấy Người. Hình như Người đến từ sau ngọn núi thấp ở phía tây, và Người xuống rất lẹ bởi con đường gập ghềnh khó đi. Chính một đứa trẻ đã nhận ra Người trước tiên. Có lẽ nó đã theo dõi một con chim bay trong các bụi rậm, và nó sợ hãi bay vọt lên vì một hòn đá lăn từ trên xuống, hoặc là vì Giêsu đã lôi kéo cái nhìn của nó. Khi thấy Người, nó nhảy cẫng và la: “Chúa!”
Mọi người đều quay về hướng đó và họ thấy Giêsu chỉ ở hơi xa, tối đa là hai trăm mét. Họ đang sắp chạy lại với Người thì Người làm một cử chỉ cùng với tiếng nói của Người vọng tới tai họ rõ ràng, có lẽ nó được tăng cường độ do tiếng vọng của núi: “Hãy ở yên tại chỗ của các con”. Và luôn luôn mỉm cười, Người xuống với những kẻ chờ Người. Người dừng lại tại chỗ cao nhất của cao nguyên. Từ đó Người chào: “Bình an cho tất cả các con”. Và với một nụ cười đặc biệt hơn, Người nhắc lại lời chào với các tông đồ và các môn đệ vây quanh Người.
Giêsu có một vẻ đẹp sáng ngời. Với mặt trời chiếu vào khuôn mặt Người và vào sườn núi xanh rờn ở sau lưng Người. Người ta nói là cảnh đẹp như mơ. Những giờ đã qua đi trong thanh vắng, một vài sự kiện mà chúng ta không biết, có lẽ các âu yếm phụ tử đã đổ tràn trên Người, tôi không biết cái gì, đã làm rạng tỏ hơn vẻ đẹp luôn luôn toàn thiện của Người, tạo cho Người cái vẻ vinh quang, oai phong, an bình, trong sáng, tôi nói là vui tươi, giống như kẻ trở về từ một cuộc hẹn hò của tình yêu, và mang theo với họ sự vui tươi trong tất cả dáng vẻ, trong nụ cười, trong cái nhìn. Đây là sự phản chiếu của cuộc hẹn hò yêu thương này, là Thiên Chúa phát lộ ra bên ngoài. Phải nhân lên hàng trăm lần trăm những gì xem thấy sau cuộc hẹn hò của một tình yêu tội nghiệp nơi loài người. Đây là cảnh tượng lóe sáng, nó chế phục những người ở đó. Họ ngây ngất
638
cảm phục, lặng lẽ chiêm ngắm, tựa như họ bị thị uy bởi một linh tính về mầu nhiệm của sự kết hợp của Chúa Cha với Ngôi Lời của Người... Đây là một bí mật, một giờ bí mật của tình yêu giữa Chúa Cha và Con Cha. Không bao giờ có ai biết được. Nhưng Ngôi Con duy trì những dấu vết của sự hiệp thông này, tựa như sau khi đã là Ngôi Lời của Chúa Cha giống như Người là ở trên Trời, Người rất khó lòng để lại trở thành con loài người. Sự vô tận, sự siêu việt khó lòng để lại trở thành “người”. Thiên Tính của Người đầy tràn, bùng nổ, thoát ra khỏi nhân tính tựa như dầu ngọt ngào thấm qua chiếc bình bằng đất xốp, hoặc ánh sáng từ một lò lửa tới, xuyên qua tấm màn bằng thủy tinh trong mờ.
Giêsu nhìn xuống, nghiêng khuôn mặt hạnh phúc, che giấu nụ cười phi phàm của Người bằng cách cúi trên các bệnh nhân mà Người âu yếm và chữa cho. Họ đầy ngạc nhiên nhìn dung nhan như mặt trời và tình yêu đang cúi xuống trên nỗi khốn cùng của họ để ban niềm vui cho họ. Nhưng rồi sau cùng Người cũng phải đứng thẳng lên và để cho đám đông nhìn thấy thế nào là dung nhan hòa bình, thánh thiện của Thiên Chúa mặc xác, còn được hoàn toàn bao trùm bởi ánh sáng do sự xuất thần để lại. Người lại nói: “Bình an cho các con”. Giọng Người du dương hơn thường lệ, nó cho nghe được những nốt êm ái và toàn thắng... Mạnh mẽ, nó lan tới các thính giả câm nín, nó tìm các con tim, vuốt ve âu yếm chúng, lay động chúng, mời mọc chúng tới tình yêu.
Ngoại trừ nhóm các pharisiêu khô cứng và khó chịu, gai góc còn hơn là chính ngọn núi, họ đứng trong một góc như các bức tượng của sự không thông cảm và thù ghét; ngoại trừ một nhóm khác mặc đồ trắng, đứng riêng biệt để nghe từ trên đầu một bờ dốc mà tôi nghe Batôlômêo và Iscariot gọi họ là các người khổ hạnh, và Phêrô lẩm bẩm: “Như vậy là lại làm chuồng gà cho diều hâu nữa”, còn thì mọi người đều rất cảm động.
- Ôi! Hãy để họ làm. Ngôi Lời thuộc về mọi người - Giêsu mỉm cười nói với Phêrô của Người khi ám chỉ về nhóm khổ hạnh. Rồi Người bắt đầu nói:
639
- Thật là tốt đẹp biết bao nếu con người trọn lành như Cha trên Trời muốn: Trọn lành trong mọi tư tưởng của họ, tình yêu của họ, hành động của họ. Nhưng con người không biết sống toàn thiện, và họ sử dụng sai những ơn của Thiên Chúa, đấng đã ban cho con người được tự do hành động, trong khi truyền dạy họ biết bao điều tốt, khuyên dạy họ những sự trọn lành để con người không thể nói được rằng: “Tôi không biết”.
Con người đã sử dụng sự tự do Thiên Chúa ban cho như thế nào? Phần đông nhân loại sử dụng nó như một đứa trẻ hay như một người ngu si. Phần còn lại thì sử dụng nó như một tội phạm. Nhưng rồi sự chết đến, và con người phải chịu lụy vị Thẩm Phán. Người tra hỏi họ cách rất nghiêm khắc: “Ngươi đã sử dụng thế nào, và đã lạm dụng thế nào những ơn Ta đã ban cho ngươi?” Một câu hỏi kinh khủng! Lúc đó những của cải của trái đất sẽ hiện ra hèn hạ hơn một cộng rác, những của mà thường vì nó mà con người phạm tội. Nghèo nàn bằng sự nghèo nàn đời đời; bị lột mất chiếc áo mà không có gì thay thế được, họ bị ô nhục và run sợ trước oai phong của Chúa, và họ không tìm ra được một lời để tự biện minh. Qủa vậy, trên trái đất thì dễ dàng để tự biện minh bằng cách đánh lừa các con người tội nghiệp. Nhưng ở trên Trời thì không thể nào đánh lừa Thiên Chúa được, không bao giờ. Và Thiên Chúa sẽ không hạ mình để điều giải. Không bao giờ.
Vậy phải làm sao để tự cứu? Làm sao để tất cả đều phục vụ cho phần rỗi, kể cả những thứ tới từ đứa Đồi Bại, kẻ đã dạy rằng kim qúi và đá ngọc là dụng cụ của giầu sang, kẻ đã đốt lên lòng ước ao quyền thế và thèm khát xác thịt? Phải chăng con người không thể, vì nó đáng thương, luôn luôn có thể phạm tội bởi qúa ước ao vàng bạc, vinh dự và đàn bà - và vì thế nó trở thành kẻ cướp để có những thứ mà kẻ giầu sang có - vậy con người, dù giầu hay nghèo, cũng không bao giờ cứu mình được sao? Có chứ, họ có thể. Vậy bằng cách nào? Bằng cách dùng của cải vào việc tốt, bằng cách dùng sự bần cùng vào việc tốt. Người nghèo mà không thèm khát, không nguyền rủa, không xâm phạm tới những thứ thuộc về người khác,
640
nhưng bằng lòng với những gì mình có, sử dụng tình trạng khiêm tốn của mình để chiếm lấy sự thánh thiện tương lai. Thật vậy, phần đông các người nghèo biết làm như vậy. Những người giầu thì ít biết điều đó hơn. Đối với họ, của cải là cái cạm bẫy liên tục của Satan, của sự dâm dục chấp ba.
Nhưng hãy nghe một dụ ngôn rồi các con sẽ thấy rằng những người giầu cũng có thể được cứu rỗi, dù vẫn luôn luôn giầu, hoặc sửa lại lỗi lầm qúa khứ bằng cách sử dụng tốt của cải, dù nó đã được tạo ra cách bất chính. Bởi vì Thiên Chúa, đấng rất nhân từ, luôn luôn để nhiều phương tiện cho con cái mình, để nó có thể tự cứu mình.
Vậy một người giầu kia có một anh quản lý. Có một số người, hoặc vì họ là kẻ thù của anh ta vì họ thèm địa vị của anh, hoặc họ là bạn của người giầu nên họ lo cho điều lành của ông ta. Họ kết án tên quản lý trước mặt chủ của anh: “Anh ta phân tán của cải của bạn; hoặc là anh ta chểnh mảng việc làm cho nó sinh lời. Bạn phải cẩn thận! Hãy tự bảo vệ!”
Người giầu, sau khi đã nghe các lời tố cáo lặp đi lặp lại, liền truyền cho viên quản lý tới gặp ông. Ông nói với anh ta: “Người ta nói với ta về việc nọ việc kia của anh. Tại sao anh lại hành động như vậy? Hãy tính toán sổ sách việc quản lý của anh, vì Ta không cho anh lo việc đó nữa. Ta không thể tin cậy ở anh. Ta không thể làm gương về sự bất công, và không thể cho phép làm những việc sẽ khuyến khích các đầy tớ khác cũng làm như anh. Hãy đi, rồi ngày mai trở lại với đầy đủ giấy tờ để Ta kiểm tra, để Ta biết tình trạng của cải của Ta trước khi giao phó nó cho viên quản lý mới”. Và ông cho viên quản lý đi. Anh này lo lắng và tự bảo mình: “Bây giờ ta phải làm sao, vì ông chủ cách chức quản lý của ta? Ta đã không tiết kiệm, vì ta đã nghĩ rằng ta là quản lý, ta trốn tránh được dễ dàng, nên ta đã tiêu hết những gì ta kiếm được. Đi làm mướn như một nông dân dưới quyền một ông chủ? Điều đó không thể được, vì ta không quen với việc nặng nhọc, và ta bị trì trệ bởi tính thích cao lương mỹ vị. Đi ăn mày thì càng không được hơn, nó qúa
641
nhục! Vậy phải làm gì?”
Nhờ suy nghĩ lâu giờ, anh ta tìm ra phương cách để thoát khỏi tình trạng nặng nề của anh ta. Anh ta nói: “Ta đã tìm ra! Cũng như cách ta đã được bảo đảm cho tới giờ này về một lối sống thoải mái, từ nay ta sẽ bảo đảm cho mình có những người bạn sẽ tiếp nhận ta vì lòng biết ơn, khi ta không còn được làm quản lý nữa. Kẻ giúp đỡ thì luôn luôn có bạn hữu. Vậy ta hãy đi giúp đỡ để người ta giúp đỡ lại ta, và phải đi ngay trước khi tin tức lan ra và sẽ qúa trễ”.
Anh ta tới nhà nhiều con nợ của chủ anh, anh nói với người thứ nhất: “Anh thiếu chủ tôi bao nhiêu về món mà ông đã cho anh mượn vào mùa xuân ba năm trước đây?”
Người kia trả lời: “Một trăm thùng dầu, cả vốn cả lời”.
- Ôi! Tội nghiệp chưa! Anh với bầy con, anh có những đứa con bệnh mà phải trả bấy nhiêu! Nhưng ông ta đã chẳng cho anh vay một số lượng là ba mươi thùng sao?
- Đúng, nhưng vì tôi có nhu cầu gấp, nên ông ta nói với tôi: “Tôi cho anh, nhưng với điều kiện là anh phải trả lại cho tôi số lượng mà món này sinh ra cho anh trong ba năm”. Và nó đã mang lại cho tôi một món có giá trị bằng một trăm thùng, và tôi phải trả lại cho ông ta.
- Ôi! Đó là tên cho vay cắt cổ! Không, không. Ông ta giầu, còn anh chỉ có vừa đủ ăn. Ông ta gia đình chỉ có vài người, còn anh là gia đình đông con. Hãy viết rằng số này chỉ mang lại cho anh năm mươi thùng thôi, và đừng nghĩ tới đó nữa. Tôi sẽ thề rằng việc đó là thật, và anh sẽ lợi dụng được nó.
- Nhưng anh sẽ không phản bội tôi chứ, nếu ông ta biết?
- Anh nghĩ coi, tôi là quản lý, điều tôi thề là thánh. Hãy làm như tôi nói, và hãy vui mừng.
Người đó viết và ký rồi nói: “Ông bạn tôi, ông hãy được chúc phúc. Ông là vị cứu tinh của tôi. Tôi phải làm gì để thưởng cho ông?”
- Không phải gì cả. Nhưng nếu vì anh mà tôi phải khổ và bị đuổi thì anh hãy tiếp đón tôi vì lòng biết ơn.
642
- Chắc chắn rồi! Chắc chắn rồi. Anh có thể tin tưởng điều đó.
Tên quản lý ra đi tìm một con nợ khác mà anh ta làm hầu như cùng một bài thuyết trình. Người này phải trả lại một trăm dạ lúa, vì trong ba năm hạn hán, mùa màng của anh ta hư hỏng, anh ta phải vay của ông nhà giầu để nuôi gia đình.
- Nhưng anh không nghĩ rằng đó là trả gấp đôi số ông ta đã cho anh vay sao? Từ chối lúa thóc hoặc đòi hỏi phải trả gấp đôi với kẻ bị đói và có con cái, trong khi sâu mọt tấn công các kho dự trữ quá dồi dào của ông!!! Nào, viết tám mươi thôi.
- Nhưng nếu ông ta nhớ là ông ta đã cho tôi vay một lần hai mươi dạ, rồi lại hai mươi dạ, rồi sau đó lại mười dạ?
- Nhưng anh lại muốn là ông ta nhớ sao? Chính tôi đã đong nó cho anh và tôi không muốn nhớ tới đó nữa. Hãy làm như vậy. Hãy làm như vậy để thoát hiểm. Phải có sự công bằng giữa người giầu và người nghèo! Đối với tôi, nếu tôi là chủ, tôi chỉ đòi anh trả năm mươi dạ, và có lẽ tôi cho không anh luôn.
- Anh tốt qúa! Nếu mọi người được như anh! Hãy nhớ rằng nhà tôi là nhà bạn hữu đối với anh.
Tên quản lý tới nhà những người khác với cùng một phương pháp. Anh ta tuyên bố sẵn sàng chịu khổ để xếp đặt lại mọi sự trong công bình, và các lời hứa giúp đỡ cũng như phúc lành mưa xuống trên anh ta. Sau khi đã được bảo đảm về tương lai, anh ta bình tĩnh đến gặp ông chủ. Về phần ông này, ông đã theo dõi tên quản lý và biết trò ma mãnh của anh ta, nhưng ông khen anh ta và nói: “Lối hành động không tốt và ta không chấp nhận, nhưng ta khen sự khéo léo của anh”. Thực vậy, thực vậy, con cái đời này giỏi lo liệu hơn con cái Sự Sáng.
Điều mà người giầu đã nói thì Thầy cũng nói. Thầy bảo các con: Gian lận là điều không tốt, và về điểm này thì Thầy không bao giờ khen ai cả. Nhưng Thầy cổ võ các con, ít nhất cũng hãy làm như con cái đời này, biết khôn khéo với những phương tiện của đời này, để dùng nó như tiền vào cửa của Nước Ánh Sáng. Tức là với những của cải của trái đất, những phương tiện đã bị phân phối không
643
đồng đều, và bị dùng để kiếm lấy một cuộc qua đường thoải mái, nhưng không có giá trị gì trong Nước Vĩnh Cửu, các con hãy tạo lấy các bạn bè, để họ mở cửa Nước Trời cho các con. Hãy làm điều thiện với các phương tiện các con có. Hãy trả lại những thứ mà các con, hoặc các người trong gia đình các con đã chiếm hữu cách trái lẽ. Hãy dứt bỏ những tình cảm bệnh hoạn và có tội đối với của cải, rồi mọi sự sẽ giống như các bạn hữu mà vào giờ chết, sẽ mở cho các con các cửa đời đời và nhận các con vào nơi ở hạnh phúc.
Làm sao các con có thể đòi hỏi Thiên Chúa ban cho các con những của cải trên Trời, nếu Người thấy rằng các con không biết dùng nên các của cải trên trái đất? Các con muốn - một điều giả sử không thể có - rằng Người nhận vào Jêrusalem trên Trời những kẻ phá hoại của cải sao? Không. Không bao giờ. Trên Trời, người ta sống trong tình bác ái, đại độ và công bằng. Tất cả vì một người và tất cả vì tất cả. Sự thông công giữa các thánh là một tổ chức linh hoạt và ngay thẳng. Đó là một tổ chức thánh. Không một ai có thể vào nếu nó tỏ ra bất công và bất trung.
Đừng nói rằng: “Ở trên đó chúng tôi sẽ trung thành và công bằng, vì ở đó chúng tôi sẽ có tất cả mà không phải sợ điều gì”. Không, kẻ bất trung trong điều nhỏ thì sẽ bất trung trong điều lớn, dù nó có tất cả; và kẻ bất công trong điều nhỏ thì sẽ bất công trong điều lớn. Thiên Chúa không giao phó của cải thực cho những kẻ, trong cuộc thử thách trên trái đất, đã chứng tỏ rằng nó không biết sử dụng của cải của trái đất. Làm sao một ngày kia ở trên Trời, Thiên Chúa có thể giao phó cho các con việc nâng đỡ các anh em trên trái đất, khi các con đã chứng tỏ rằng các con chỉ biết bòn mót, gian lận, hoặc giữ bo bo một cách ham hố? Người sẽ từ chối các con cái kho tàng mà Người đã chuẩn bị cho các con, để ban cho những người đã biết khôn khéo trên trái đất, bằng cách biết dùng những của cải bất công và không trong sạch vào những việc ngay chính và thánh thiện.
Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì họ sẽ thương yêu người nọ hay người kia, hoặc sẽ ghét chủ nọ hoặc chủ kia. Hai ông chủ mà
644
con người có thể lựa chọn là Thiên Chúa và Tiền Của. Nhưng nếu các con muốn thuộc về chủ thứ nhất, thì các con không thể mặc đồng phục, nghe tiếng nói và dùng các phương tiện của chủ thứ hai. Một giọng nói nổi lên từ nhóm các người khổ hạnh: “Con người đâu có được tự do để lựa chọn. Họ phải gò ép để theo định mệnh của họ. Chúng ta không thể nói được rằng định mệnh này được phân phát không khôn ngoan, trái lại, đấng là Tư Tưởng Toàn Vẹn đã thiết lập nó, bởi một chương trình trọn hảo, Người đã cố định số người sẽ được xứng đáng cho nước Trời. Những người khác có cố gắng vào đó cũng vô ích. Như vậy đó, không thể nào khác hơn được. Có người thì ra khỏi nhà là bị chết vì một tảng đá rời khỏi sườn núi, trong khi một người khác mạnh mẽ hơn, có thể ra khỏi một trận đấu mà không bị một vết thương nào. Cũng vậy, kẻ muốn cứu mình mà nếu nó không được tiền định thì nó chỉ có phạm tội, cả khi nó không biết, bởi vì sự luận phạt của nó đã được đánh dấu”.
- Không ông ơi ! Không như vậy đâu. Ông hãy giác ngộ. Nghĩ như vậy là ông cho Chúa là kẻ bất công trầm trọng.
- Tại sao? Hãy chỉ nó cho tôi, tôi sẽ thay đổi ý kiến.
- Bởi vì ông, khi nói như vậy, trong thâm tâm, ông cho rằng Thiên Chúa bất công với tạo vật của Người. Người đã tạo dựng nên họ theo cùng một kiểu và với cùng một tình yêu. Người là Cha, Người toàn thiện trong tình phụ tử của Người cũng như trong mọi sự khác. Làm sao Người lại có thể đối xử khác nhau, và làm sao một người lại bị nguyền rủa khi vừa được thụ thai, khi nó mới chỉ là cái phôi thai, lúc nó chưa thể phạm tội?
- Để báo thù con người vì đã xúc phạm đến Người.
- Không. Thiên Chúa không báo thù như vậy. Người không bằng lòng vì một sự hy sinh hèn hạ như vậy, một sự hy sinh bất công, bị áp đặt. Sự xúc phạm đến Thiên Chúa chỉ có thể được đền bù bởi Thiên Chúa làm người. Chính Người sẽ đền tội chứ không phải người nọ người kia. Ôi! Chớ gì có thể được là tôi chỉ phải đền bù tội nguyên tổ thôi, nếu trái đất không có những Cain, những Lamech, những người Sôđôma đồi trụy; không có kẻ sát nhân, trộm cướp,
645
dâm ô, ngoại tình, phạm thượng; không có những con cái bất kính với cha mẹ, không có kẻ thề gian và v.v.! Nhưng Thiên Chúa không phải là tác giả của các thứ tội này. Chính con người mới là kẻ có tội. Thiên Chúa đã để cho con người tự do để chọn điều thiện hay điều ác.
Một luật sĩ la lên: “Người đã hành động sai. Người đã thử thách chúng ta ngoài sức chịu đựng của chúng ta. Biết rằng chúng ta yếu đuối, ngu muội, bị đầu độc, mà Người còn đặt chúng ta vào giữa chước cám dỗ. Đó là thiếu thận trọng và độc ác. Ông là người ngay thẳng, ông phải đồng ý là tôi đã nói một sự thật”.
- Ông đã nói dối để thử tôi. Thiên Chúa đã ban cho Ađam Evà hết mọi lời khuyên can, nhưng họ đã dùng nó làm gì?
- Lúc đó Người cũng hành động dở nữa. Đáng lẽ Người không nên để cái cây ấy, một sự cám dỗ, ở trong vườn.
- Vậy công phúc của con người ở đâu?
- Họ sẽ bỏ qua. Họ sống không có công phúc cá nhân, chỉ có công của Thiên Chúa.
- Thưa Thầy, bọn họ muốn thử Thầy. Hãy bỏ rơi những con rắn độc này và hãy nghe chúng tôi, chúng tôi là những người sống khắc khổ trong sự chiêm niệm - một người trong nhóm khổ hạnh kêu lên.
- Đúng. Các ông sống trong những điều đó, nhưng sống dở. Tại sao lại không sống trong đó một cách thánh thiện?
Người phái khổ hạnh không trả lời câu hỏi này, nhưng ông ta hỏi: “Cũng như Thầy cho tôi cái giá trị hữu lý về một ý muốn tự do, tôi thì tôi suy niệm nó, không thành kiến, với hy vọng có thể chấp nhận nó. Bây giờ Thầy hãy nói cho tôi: có thực tình Thầy tin vào sự sống lại của thân xác và vào đời sống của các thần trí là đời sống sẽ tới để hoàn tất không?”
- Vậy ông muốn là Thiên Chúa cho đời sống loài người chấm dứt như vậy sao?
- Nhưng linh hồn... Bởi vì phần thưởng đã làm cho nó hạnh phúc thì việc vật chất sống lại có ích gì nữa? Điều đó có làm tăng niềm vui cho các thánh không?
- Không có gì làm tăng niềm vui của một vị thánh khi Ngài đã
646
chiếm hữu được Thiên Chúa, hay đúng hơn, chỉ có một điều duy nhất làm gia tăng nó trong ngày sau hết, là được biết rằng tội lỗi không còn nữa. Nhưng ông không thấy rằng thực chính đáng là ngày nay thân xác và linh hồn đã kết hợp trong cuộc chiến đấu để chiếm hữu Nước Trời, thì trong ngày vĩnh cửu, thân xác và linh hồn cũng kết hợp để chung hưởng phần thưởng sao? Ông không thấy như vậy sao? Vậy tại sao ông sống trong khổ hạnh và chiêm niệm?
- Để... Để làm người hơn, là chúa ở bên trên tất cả các con vật khác chỉ biết vâng lời, không thể cưỡng lại những đòi hỏi của bản năng chúng, và để ở bên trên một số rất đông những người lem luốc đầy thú tính, mặc dù họ vẫn phơi bày ra các lá bùa, các tua áo, các chùm lông, các y phục rộng thùng thình, và họ cho là mình “riêng biệt”.
Khốn nạn! Các pharisiêu bị trúng những mũi tên bắn thẳng, những lời đã tạo ra trong đám đông những xì xèo cảm phục. Họ nhăn nhó cau có, kêu lên như bị qủi ám: “Thầy ơi, nó nguyền rủa chúng tôi. Hãy bảo vệ chúng tôi!” Họ la lối và múa máy chân tay.
Giêsu trả lời: “Ông ta cũng biết sự giả hình của các ông. Y phục không ăn nhằm chi với sự thánh thiện. Hãy làm sao để được xứng đáng lời khen và tôi sẽ có thể khen. Nhưng với ông, ông khổ hạnh ơi, tôi trả lời ông rằng ông hy sinh qúa ít điều. Tại sao? Cho ai? Trong bao lâu? Vì một lời khen của loài người, cho một thân xác hay chết, trong một thời gian ngắn như đường bay của một con chim ưng. Hãy nâng cao cái hy sinh của ông lên. Hãy tin vào Thiên Chúa thật, vào sự sống lại vinh quang, vào ý chí tự do của con người. Hãy sống khổ hạnh, nhưng với những lý do siêu nhiên. Rồi cùng với thân xác sống lại của ông, ông sẽ vui hưởng niềm vui bất diệt.
- Quá trễ rồi! Tôi già rồi! Có lẽ tôi đã lãng phí cuộc đời khi ở lại trong một phái sai lạc... Thế là hết rồi!...
- Không. Không bao giờ chấm hết đối với kẻ muốn sự lành. Hãy nghe đây, hỡi các con là những người tội lỗi, hỡi các con là những kẻ lầm lạc, hỡi các con là những kẻ có bất luận qúa khứ nào, các
647
con hãy sám hối. Hãy đến với lòng Thương Xót. Tình Thương mở rộng cánh tay ra cho các con. Tình Thương chỉ đường cho các con. Thầy là suối rất trong sạch, là nguồn sự sống. Hãy vất bỏ những gì đã làm cho các con lạc đường cho tới lúc này. Hãy đến bể tắm với mình trần, rồi hãy mặc lấy ánh sáng. Hãy tái sinh. Các con đã trộm cắp giống như các kẻ trộm cắp trên đường, hoặc các con là những lãnh chúa qủi quyệt trong thương mại, trong hành chánh? Hãy đến. Các con có những thói xấu và những đam mê nhơ bẩn? Hãy đến. Các con đã là những kẻ đàn áp? Hãy đến! Hãy đến. Hãy hối cải. Hãy đến với tình yêu và sự bình an. Ôi! Nhưng hãy cho phép tình yêu của Thiên Chúa đổ đầy vào trong các con. Hãy nâng đỡ nó. Tình yêu này lo âu vì sự chống cự của các con, sự sợ hãi của các con, sự ngập ngừng của các con. Thầy, Thầy xin điều đó với các con nhân danh Cha Thầy và Cha của các con. Hãy đến với Sự Sống và Chân Lý, và các con sẽ được sự sống đời đời.
Một người ở giữa đám đông kêu lên: “Tôi, tôi giầu nhưng tội lỗi. Tôi phải làm gì để đến?”
- Hãy từ bỏ tất cả vì tình yêu Thiên Chúa và vì linh hồn con.
Các pharisiêu lẩm bẩm chống lại Giêsu, khinh dể Người là “lái buôn ảo ảnh và tà thuyết”, là “Kẻ tội lỗi giả bộ làm thánh”, và họ bảo Người chú ý là tà thuyết thì luôn luôn là tà thuyết, và phái khổ hạnh cũng vậy. Họ nói rằng những cuộc hoán cải thình lình chỉ là sự hăng hái nhất thời, và kẻ ô uế thì luôn luôn là ô uế, kẻ trộm thì vẫn ăn trộm, kẻ sát nhân thì vẫn giết người. Và họ kết thúc bằng cách nói rằng chỉ có họ là những người sống trong sự thánh thiện trọn lành mới có quyền với Nước Trời và sự thuyết giáo.
- Đây là một ngày sung sướng. Một hạt giống thánh đã được gieo vào các con tim. Tình yêu của Thầy, được nuôi dưỡng bằng sự ôm ấp của Thiên Chúa, đã cho sự sống vào các hạt giống. Con Người được sung sướng để thánh hóa... Các ông đã đầu độc ngày của tôi, nhưng không sao. Tôi nói với các ông - và nếu tôi không êm dịu thì là tại lỗi các ông - Tôi nói với các ông rằng các ông tự cho mình là công chính, và cố gắng để thể hiện như vậy trước mắt
648
loài người. Nhưng các ông không công chính. Thiên Chúa biết con tim của các ông. Điều lớn lao trước mắt loài người là điều hèn mọn trước sự bao la và trọn lành của Thiên Chúa. Các ông trích dẫn luật cũ, vậy tại sao các ông không sống luật đó? Các ông biến cải Luật để có lợi cho các ông, bằng cách làm cho nặng nề những điều các ông có thể lợi dụng. Vậy tại sao các ông không cho phép tôi biến cải nó để có lợi cho những kẻ bé mọn này, bằng cách loại bỏ những búp nhỏ, những nặng nề phức tạp vô ích, những qui tắc mà các ông đã làm ra, và nó quá nhiều hơn là Lề Luật căn bản. Và dưới sức nặng của nó, Lề Luật bị chết ngộp. Tôi thương đám đông này. Những linh hồn này đi tìm một sự nâng đỡ trong tôn giáo, nhưng họ đã tìm thấy một cái nút chặn; họ tìm tình yêu, nhưng họ gặp sự sợ hãi... Không, hãy đến, hỡi các con nhỏ của Israel! Luật là Tình Yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu. Tôi nói vậy với những kẻ mà các ông đã làm cho sợ hãi. Lề Luật nghiêm khắc và các lời tiên tri đe dọa đã loan báo về tôi, nhưng đã không thành công để ngăn cản tội lỗi, mặc dầu có những tiếng kêu tiên tri đầy lo âu của họ, đã dừng lại ở Gioan. Sau Gioan là Nước Thiên Chúa đến: Nước của tình yêu. Và tôi, tôi nói với các kẻ khiêm nhường: “Hãy vào, nước đó thuộc về các con”. Và tất cả những ai có thiện chí, hãy cố gắng để vào. Nhưng với những ai không muốn cúi đầu xuống, không chịu đấm ngực để nói: “Tôi đã phạm tội”, thì không có Nước Trời cho họ. Lời đã chép: “Hãy cắt bì cho con tim các ngươi, và đừng cứng đầu nữa”.
Vùng đất này đã thấy kỳ công của Êlisê trong khi ông làm dịu dòng nước đắng bằng cách ném muối vào đó. Và tôi, tôi đã chẳng ném muối của sự khôn ngoan trong con tim các ông sao? Vậy tại sao các ông lại kém hơn nước, và tâm hồn các ông không biến cải? Hãy tẩm các công thức của các ông bằng muối của tôi, và chúng sẽ có hương vị mới, vì nó sẽ trả lại cho Lề Luật cái sức mạnh nguyên thủy của nó. Hãy bắt đầu trong các ông là những người có nhu cầu hơn cả. Các ông nói rằng tôi thay đổi Lề Luật? Không. Đừng nói dối. Tôi trả lại cho Lề Luật cái hình thức nguyên thủy của nó mà
649
các ông đã làm cho biến dạng, vì Lề Luật sẽ tồn tại bao lâu trái đất còn tồn tại. Trời đất sẽ biến mất trước khi chỉ một yếu tố hay một lời khuyên bất kỳ nào đó của nó biến mất. Nếu các ông đã thay đổi nó là vì việc đó làm vui lòng các ông. Nếu các ông cãi bướng để tìm một lối thoát cho tội của các ông, thì hãy biết rằng điều đó chẳng ích lợi gì. Điều đó không ích gì, ôi Samuel; điều đó không ích gì, ôi Isaie. Luật luôn luôn nói: “Đừng gian dâm”. Và tôi, tôi làm trọn nó: “Kẻ nào rẫy vợ để cưới một bà khác là gian dâm, và kẻ nào cưới người đàn bà bị chồng rẫy cũng là gian dâm. Vì điều Thiên Chúa đã phối hợp thì chỉ có sự chết mới phân rẽ được”.
Nhưng những lời nói cứng rắn là nói cho những tội nhân không chịu sám hối. Những người đã phạm tội mà hối hận, đau buồn vì đã phạm, thì họ hãy biết, hãy tin rằng Thiên Chúa nhân từ. Và họ hãy đến cùng đấng xá giải, tha thứ và dẫn họ về sự sống. Hãy ra đi với sự xác tín này, hãy làm lan tràn nó vào các con tim. Hãy rao giảng Tình Thương đã cho các con bình an trong khi chúc lành cho các con nhân danh Chúa.
Người ta giải tán từ từ, hoặc vì đường đi chật hẹp, hoặc vì sự hấp dẫn của Giêsu. Nhưng họ ra đi...
Chỉ còn lại các tông đồ với Giêsu. Họ lên đường trong khi nói chuyện với nhau. Họ tìm các bóng mát và đi gần một đám cây me bơ phờ. Nhưng trong đám cây có một ông phái khổ hạnh, đó là ông đã nói với Giêsu. Ông đang cởi bộ đồ trắng của ông ra.
Phêrô đi ở đàng trước. Khi nhìn thấy người đàn ông chỉ mặc một chiếc quần đùi cụt lủn, ông dừng lại, kinh ngạc. Rồi ông chạy lại phía sau và nói: “Thầy ơi, một người điên! Cái ông đã nói với Thầy, ông khổ hạnh. Ông ta cởi trần. Ông khóc và thở dài. Chúng ta không thể đi lối này”.
Nhưng người đàn ông gầy gò, rậm râu, chỉ mặc có chiếc quần đùi và đi xăng đan, đã bỏ lùm cây và đi về phía Giêsu, vừa đi vừa khóc và đấm ngực. Ông qùi phục xuống: “Con, con được phép lạ trong lòng. Thầy đã chữa tâm hồn con. Con vâng lời Thầy. Con mặc lại Ánh Sáng bằng cách lột bỏ tất cả những tư tưởng đã bao
650
phủ con bằng những sai lầm. Con lánh đi để chiêm niệm về Thiên Chúa thật để có sự sống lại. Vậy có đủ không? Xin Thầy cho con một cái tên mới, và hãy chỉ cho con một nơi mà con sẽ chỉ sống bằng Thầy và Lời Thầy”.
- Ông ta điên! Chúng ta còn chưa biết sống như vậy, dù chúng ta đã nghe biết bao! Còn ông ta... mới có một bài thuyết trình duy nhất... - Các tông đồ nói với nhau.
Nhưng người đàn ông đã nghe họ, ông ta nói: “Các ông muốn đặt giới hạn cho Thiên Chúa sao? Người đã đập bể con tim tôi để cho tôi một tâm hồn tự do. Lạy Chúa!...” Và ông giơ tay về phía Giêsu, van nài.
- Ừ, con hãy lấy tên là Êlia, và hãy là lửa. Ngọn núi kia có nhiều hang, hãy đến đó. Và khi con cảm thấy trái đất lung lay vì một cuộc động đất kinh khủng, thì con hãy ra và đi tìm các đầy tớ Chúa để hợp đoàn với họ. Con sẽ trở lại đời sống để cũng là tôi tớ Chúa. Thôi, đi đi.
Người đó hôn chân Người, rồi đứng dậy để đi.
- Nhưng ông ta đi mình trần sao? - Các vị kinh ngạc hỏi.
- Hãy cho ông ta một áo khoác, một con dao, một cái đèn, một cái quẹt, một cái bánh. Ông ta sẽ đi đường ngày hôm nay và ngày mai để tới nơi chúng ta đã trú. Ông sẽ ẩn ở đó để cầu nguyện, rồi Thiên Chúa sẽ cung cấp cho nhu cầu của con cái Người.
Andrê và Gioan chạy mau để đến với ông khi ông sắp biến mất tại một khúc quanh.
Họ trở lại và nói: “Ông ta đã nhận. Chúng con cũng chỉ cho ông ta nơi chúng ta đã ở. Lạy Chúa! Một miếng mồi bất ngờ!”.
- Ngay ở trên đá, Thiên Chúa cũng làm nảy ra các bông hoa. Ngay trong sa mạc của các con tim, Người cũng làm chỗi dậy các tâm hồn thiện chí để khích lệ Thầy. Bây giờ chúng ta hãy đi Jêricô. Chúng ta sẽ dừng chân ở một nhà nào đó tại miền quê.
72* TRONG NHÀ CỦA NIQUE
651
Con đường, mặc dù băng qua miền quê xanh tươi, có những hàng cây rậm lá ở hai bên lề, nhưng vẫn nóng như lò lửa dưới mặt trời giữa trưa. Từ các cánh đồng mà hoa mầu sắp chín, bay tới cái sức nóng và hương vị của lò lửa, nơi các nắm bột biến thành bánh. Ánh sáng như đốt mù mắt. Mỗi bông lúa giống như một cái đèn nhỏ bằng vàng trong các vỏ bộ áo vàng và bộ râu châm chích. Sự lấp lánh của mặt trời trên cây lúa cũng làm mỏi mắt, giống như sự lấp lánh của nó trên đường làm mờ mắt. Con mắt tìm sự nghỉ ngơi trên lá cách vô ích. Nếu nó ngước lên để tìm, nó còn bị quất mạnh hơn bởi mặt trời không tình thương, và nó phải vội vàng nhìn xuống để trốn sự hung hãn, và nó phải khép lại để chỉ bằng lòng với một vết nẻ qua hàng mi đầy bụi, đỏ hoe và ngứa. Mồ hôi vẽ lên những vệt sáng trên các đôi má dính bụi. Các bàn chân mệt mỏi kéo lết, làm tung lên các lớp bụi mới như một gia hình liên tục.
Giêsu yên ủi các tông đồ mệt mỏi của Người. Vì Người cũng chảy mồ hôi nên Người trùm áo khoác lên đầu để tránh mặt trời, và Người khuyên các ông bắt chước Người. Các ông vâng lời, không nói gì. Họ qúa mệt mỏi để dấn thân vào những than van thường lệ. Họ bước như những người say.
- Can đảm lên! Đàng kia có một căn nhà ở giữa cánh đồng - Giêsu nói.
- Nếu nó cũng như các nhà khác... Thật là nản lòng khi đi những đoạn đường dài không mục đích, băng qua các cánh đồng nóng bỏng! - Phêrô càu nhàu trong áo khoác của ông, và những người khác xác nhận bằng những “hum” đầy chán nản.
- Thầy, Thầy tới coi. Các con ở lại đây, dưới chút bóng mát này.
- Không, không. Chúng con cũng tới. Ít nhất chúng con cũng tìm thấy một cái giếng. Ở đây người ta đâu có thiếu nước. Chúng ta sẽ uống để dập tắt ngọn lửa ở trong chúng ta.
- Uống khi đang nóng như vầy, các con sẽ bệnh.
- Chúng con sẽ chết... nhưng như vậy còn hơn là chịu đựng cái chúng con đang có bây giờ.
Giêsu không đối đáp nữa. Người thở dài và đi trước vào con
652
đường hẻm băng qua thửa ruộng.
Cánh đồng không lan tới sát căn nhà, nhưng nó dừng lại ở bờ một vườn trái cây tuyệt vời, đầy bóng mát, nơi các chòm lá điều hòa ánh sáng và sức nóng, tạo thành một cái triều thiên dầy và an nghỉ chung quanh nhà. Các tông đồ, với một cái “A!” nhẹ nhõm, bước vào.
Giêsu đi vào trước, không lo gì tới sự yêu cầu của họ xin dừng lại một lát. Tiếng gù gù của bồ câu, tiếng cọt kẹt của cái ròng rọc, tiếng nói bình thản của các phụ nữ vọng ra từ căn nhà, lan tỏa trong sự yên lặng tuyệt đối của đồng quê.
Giêsu bước lên một cái thềm nhỏ giống như vỉa hè bao quanh nhà. Nó khá lớn, sạch sẽ, bên trên là giàn nho rậm lá, vươn ra như bảo vệ. Hai cái giếng, một ở bên phải, một ở bên trái căn nhà, được che bóng bởi các cành nho. Những luống hoa ở sát tường nhà. Hai tấm màn gió nhẹ có sọc mầu đậm gợn sóng tại chiếc cửa để mở. Giọng nói phụ nữ và tiếng chén bát kêu vọng ra từ một căn phòng. Giêsu đi về hướng này. Người đi qua một nhóm khoảng một tá bồ câu đang mổ những hạt trên đất. Chúng bay vọt lên và đập mạnh đôi cánh. Tiếng động lôi kéo sự chú ý của các người trong phòng. Họ thấy chiếc màn gió di chuyển do Giêsu vạch ra bằng bàn tay phải của Người. Một cô đầy tớ cũng vén ra tấm màn ở bên trái và đứng sững sờ trước người không quen.
- Bình an cho nhà này. Tôi có thể bồi dưỡng như người hành hương không? - Giêsu nói khi đứng tại ngưỡng cửa phòng. Đây là cái nhà bếp mênh mông, trong đó các người đầy tớ đang xếp đặt chén bát đã dùng cho bữa trưa.
- Bà chủ sẽ không từ chối ông đâu. Tôi đi báo cho bà.
- Tôi có mười hai người cùng đi với tôi. Nếu tôi chỉ được bồi dưỡng một mình thì tôi thích bỏ qua việc đó.
- Chúng tôi sẽ nói vậy với bà chủ, và chắc chắn...
- Lạy Thầy và Chúa con! Thầy ở đây? Tại nhà con? Hồng phước nào vậy? - Giọng một người đàn bà ngắt lời. Rồi Nique lẹ làng chạy tới và qùi xuống để hôn chân Giêsu.
653
Các người đầy tớ trở thành như các bức tượng. Cô đang rửa chén thì bất động với một cái búi rửa ở tay mặt và một cái đĩa nhỏ nước tong tong ở tay trái, đỏ rần vì nước nóng. Một cô khác đang lau dao, ngồi trên gót chân ở dưới đất trong một góc. Cô ta liền qùi lên để coi cho rõ hơn, và cô làm rơi các con dao kêu loảng xoảng trên đất. Một cô thứ ba đang hốt tro trong lò, liền ngẩng mặt dính đầy tro lên. Cô đứng yên, miệng há, ở bên trên lò lửa.
- Thầy ở đây. Người ta đã xua đuổi chúng ta khỏi nhiều căn nhà. Chúng ta mệt và khát.
- Ôi! Xin vào! Xin vào! Không phải ở đây, trong phòng ở phía bắc, nơi rợp và mát. Và các cô, hãy sửa soạn nước để rửa ráy và các nước giải khát thơm. Và con, con bé, hãy chạy đi đánh thức ông quản lý để ông lo đồ ăn lót dạ trong khi chờ bữa ăn.
- Không, Nique! Thầy không phải người khách xa hoa. Thầy là ông thầy bị bách hại của con. Thầy xin con một chỗ trú và tình yêu hơn là lương thực. Thầy xin sự trắc ẩn cho bác bạn Thầy hơn là cho chính Thầy...
- Lạy Chúa, vâng. Nhưng qúi vị đã dùng bữa sau cùng vào lúc nào?
- Họ thì Thầy không biết. Thầy thì vào bình minh ngày hôm qua cùng với họ.
- Vậy Thầy thấy đó... Con sẽ không làm uổng phí đâu. Nhưng giống như người chị và người mẹ, con sẽ biếu mọi người tất cả những gì cần. Còn với Thầy, giống như một đầy tớ và môn đệ, con sẽ dâng Thầy tình yêu và sự trợ giúp. Các anh em ở đâu?
- Ngoài vườn cây. Nhưng chắc họ đang vào. Thầy đã nghe thấy tiếng họ.
Nique chạy ra ngoài, bà thấy họ và gọi họ. Rồi bà dẫn họ cùng với Giêsu tới một cái tiền đường mát mẻ, trong đó đã có các thau nước và khăn tay. Họ có thể rửa ráy mặt mũi chân tay đầy bụi và mồ hôi.
- Tôi xin các anh em thay hết y phục ướt đẫm mồ hôi và giao ngay cho các đầy tớ. Anh em sẽ dễ chịu với y phục sạch sẽ và xăng
654
đan mát. Rồi hãy vào phòng này. Chúng tôi chờ anh em ở đó. Rồi Nique đi ra và khép cửa lại...
- A! Thật là dễ chịu ở trong bóng râm mát mẻ thế này! - Phêrô xit xoa khi đi vào căn phòng nơi Nique chờ họ với đầy niềm nở và kính cẩn.
- Ôi! Tông đồ của Chúa tôi! Niềm vui của tôi vì được làm nhẹ nhõm cho anh em, chắc chắn còn lớn hơn chính sự nhẹ nhõm nữa.
- Hum! Tông đồ... Đúng... Nhưng... Chị thấy không Nique? Không có kiểu như vậy đâu. Chị, chị không cho là sáng giá sự giầu có khôn ngoan của chị. Tôi, tôi không cho là sáng giá việc là tông đồ của tôi. Như vậy... Giống như các anh em tốt, người nọ cần tới người kia, cho tâm hồn và thân xác. Tôi rất... sợ nghĩ tới tôi là tông đồ.
- Sợ cái gì? - Người đàn bà ngạc nhiên hỏi.
- Sợ... mình sẽ qúa... qúa to so với cục đất sét là chính mình, và sức nặng sẽ làm mình tan nát... Sợ rằng... mình sẽ là vậy như con gà trống vì kiêu căng... sợ rằng... với ý tưởng tôi là tông đồ, những người khác... tôi muốn nói là các môn đệ, và các linh hồn tốt, sẽ đứng ở xa và nín thinh nếu tôi lầm lẫn... Và điều đó thì tôi không muốn. Vì ở giữa các môn đệ, hay đơn giản là chỉ ngay ở giữa những người tin, có biết bao người tốt hơn tôi, người này về cái nọ, người kia về cái kia. Tôi muốn làm như... như các con ong đã bay vào rổ trái cây mà chị đã cho mang tới cho chúng tôi, để thưởng thức một tí trái này, một tí trái kia. Rồi bây giờ nó đậu ở đó để bổ sung cho chất mật đã hút ở bông hoa này, rồi nó lại bay ra để hút mật của các hoa trục thảo, hoa cúc tím, hoa cúc vàng, hoa bìm bìm. Nó hút tất cả. Tôi, tôi cần phải làm như nó...
- Nhưng anh đã hút mật ở bông hoa đẹp nhất là Thầy.
- Đúng chị Nique ạ. Nhưng nơi Người thì tôi học để trở nên con Thiên Chúa; nơi những người tốt thì tôi học làm người.
- Anh là người rồi mà!
- Không đâu chị ơi! Tôi chỉ hơn con vật một tí. Và tôi thực tình không biết tại sao Thầy có thể chịu đựng tôi...
- Thầy chịu đựng con bởi vì con biết con là cái gì, và vì vậy
655
người ta có thể làm việc với con như với một cục bột. Nhưng nếu con ngoan cố, cứng đầu, nhất là kiêu căng, thì Thầy sẽ xua đuổi con như một thằng qủi - Giêsu nói.
Các đầy tớ tới với những ly sữa lạnh và các bình bằng đất, trong đó các đồ uống chắc là mát rượi.
- Xin mời giải khát - Nique nói. “Rồi các vị có thể nghỉ ngơi tới chiều. Nhà có nhiều phòng và giường, và nếu không đủ, tôi sẽ nhường các giường của tôi cho qúi vị nghỉ. Thưa Thầy, con xin rút lui để lo việc nhà. Tất cả các vị đều biết tôi ở đâu và các người đầy tớ ở chỗ nào”.
- Đi đi. Và đừng lo lắng gì đến chúng ta hết.
Nique đi ra. Các tông đồ thấy vinh dự để thưởng thức những đồ họ đã được biếu. Họ ăn ngon lành trong khi nói chuyện và bình luận:
- Trái cây ngon tuyệt!
- Một người môn đệ tốt.
- Một căn nhà đẹp, không sang trọng, nhưng không tồi tàn.
- Và được điều khiển bởi một người đàn bà biết thực hành quyền bính cách êm dịu: thứ tự, sạch sẽ, kính trọng, đồng thời đầy âu yếm.
- Các thửa ruộng ở chung quanh đẹp chừng nào! Rất mầu mỡ xum xuê.
- Đúng. Và một cái lò! - Phêrô nói, vì ông chưa quên được cái nóng ông đã chịu. Những người khác cười.
- Nhưng ở đây qúa dễ chịu. Thầy có biết là Nique ở đây không Thầy? - Tôma hỏi.
- Không hơn gì các con. Thầy chỉ biết rằng bà có đất đai mới tậu ở gần Jêricô chứ không biết gì hơn. Vị thiên thần yêu dấu của các người hành hương đã hướng dẫn chúng ta.
- Ngài đã hướng dẫn chính Thầy. Lúc đó chúng con đã không muốn tới.
- Con, con đã sẵn sàng nằm lăn trên đất để mặt trời đốt cháy con còn hơn bước thêm một bước nữa - Mathêu nói.
656
- Ban ngày, người ta không thể đi bộ được nữa. Năm nay mới giờ này mà mặt trời đã qúa gay gắt! Nó cũng thành điên nữa!
- Được, chúng ta sẽ đi vào những giờ đầu tiên của ngày và vào buổi chiều. Nhưng chúng ta sắp sửa tới miền núi, ở đó sức nóng ôn hòa hơn.
- Tới nhà con à? - Iscariot hỏi.
- Ừ, Judas. Và tới Jutta và Hébron.
- Nhưng chúng ta sẽ không đi Ascalon, hen?
- Không, Phêrô. Chúng ta sẽ tới những nơi chúng ta chưa tới. Nhưng chắc chắn là chúng ta còn chịu mặt trời và sức nóng. Một chút hy sinh vì tình yêu đối với Thầy và các linh hồn. Bây giờ các con hãy nghỉ đi. Thầy vào vườn cây để cầu nguyện.
- Nhưng sao Thầy không bao giờ mệt vậy? Thầy cũng đi nghỉ chả tốt hơn sao? - Giacôbê Alphê hỏi.
- Có lẽ Thầy muốn nghỉ lại đây... - Zêlote nhận xét.
- Không. Chúng ta sẽ đi vào lúc rạng đông để băng qua khúc sông cạn vào giờ còn mát.
- Chúng ta sẽ đi nơi nào ở phía bên kia sông Giođan?
- Đám đông đã trở về nhà họ sau lễ Vượt Qua. Ở Jêrusalem, rất nhiều người đã tìm kiếm Thầy vô ích. Thầy sẽ giảng và chữa bệnh ở khúc sông cạn. Rồi chúng ta đi xếp đặt lại cho thứ tự căn nhà nhỏ của Salômôn. Nó sẽ rất qúi gía cho chúng ta...
- Nhưng chúng ta không trở về Galilê à?
- Chúng ta cũng sẽ về đó. Nhưng chúng ta sẽ lưu lại lâu ở miền nam, và nó sẽ là nơi trú ẩn qúi giá cho chúng ta. Các con ngủ đi. Thầy đi đây.
Chắc chắn đã qua bữa tối rồi. Bây giờ là ban đêm. Những giọt sương tràn trề rơi ồn ào từ các mép lá nho. Trên trời, tinh tú đông đúc kỳ lạ. Cái nhìn chìm đắm trong sự chiêm niệm. Tiếng dế ca vang và tiếng kêu của chim đêm. Sự thinh lặng của đồng quê...
Các tông đồ đã lui về phòng, nhưng Nique thức dậy để nghe Thầy.
Người ngồi thẳng trên cái ghế đá ở trước nhà. Người đàn bà
657
đứng trước mặt Người trong thái độ chăm chú và kính trọng. Giêsu kết thúc bài nói đã bắt đầu rồi. Người nói: “Ừ, sự nhận xét rất đúng. Nhưng Thầy nghĩ rằng với kẻ sám hối, hay đúng hơn là với kẻ mới sinh lại, sự giúp đỡ của Thiên Chúa sẽ không thiếu. Trong bữa tối, khi con tiếp bàn và hỏi han, Thầy đã nghĩ rằng kẻ giúp đỡ sẽ là con. Con đã nói: ‘Con chỉ có thể theo Thầy trong những khoảng thời gian ngắn, vì con phải canh chừng nhà cửa và các gia nhân mới’, và con tiếc vì điều đó và nói rằng nếu con chắc là con tìm được Thầy ngay thì con đã không sắm những thứ nó trói con lại này. Con thấy là nó đã được dùng để tiếp đón các người gieo Tin Mừng. Vậy là nó tốt. Nhưng con còn có thể phục vụ hơn nữa... trong khi chờ đợi hoàn toàn phục vụ Chúa con. Thầy xin con một việc phục vụ vì tình yêu đối với linh hồn đang tái sinh này, linh hồn đầy thiện chí, nhưng rất yếu đuối. Sự sốt sắng sám hối có thể làm ông lo lắng, và Satan có thể lợi dụng sự lo lắng này”.
- Ôi! Lạy Chúa con, con phải làm gì?
- Tới đó. Vào mỗi tuần trăng, con tới đó như một nghi thức. Đúng là vậy. Đó là nghi thức của tình yêu huynh đệ. Con sẽ tới Carit, rồi lên dốc bởi đường mòn giữa các bụi gai. Con sẽ gọi: “Êlia! Êlia!” Ông ta sẽ xuất hiện, đầy ngạc nhiên. Con sẽ chào ông ta như vầy: “Bình an cho ông, người anh em, nhân danh Chúa Giêsu Nazarét”. Con sẽ mang cho ông số lượng bánh cắt lát bằng số ngày của tuần trăng. Về mùa hè thì không có gì khác hơn. Kể từ Lễ Lều, cùng với bánh, con mang thêm cho ông mỗi tháng bốn xị dầu. Vào dịp các ngày Lễ Lều, con mang cho ông ta một tấm da dê dầy không thấm nước và một chiếc mền. Không còn gì hơn.
- Và không nói lời nào?
- Chỉ nói những điều thật hữu ích. Ông ta sẽ hỏi con về tin tức của Thầy, con sẽ nói những điều con biết. Ông ta sẽ thố lộ cho con những nghi ngờ, những hy vọng, và những điều làm nặng nề cho ông. Con sẽ nói những điều mà đức tin và lòng trắc ẩn soi sáng cho con. Vả lại, thời gian của việc hy sinh này sẽ không kéo dài đâu... chưa tới mười hai tuần trăng... Con có muốn áp dụng tình thương
658
đối với Thầy và đối với kẻ sám hối không?
- Lạy Chúa con, vâng. Nhưng tại sao Thầy buồn qúa vậy?
- Còn con, tại sao con khóc?
- Bởi vì trong các lời Thầy, con cảm thấy điềm báo cái chết... Chúa ơi! Phải mất Thầy qúa sớm! - Nique khóc trong chiếc voan của bà.
- Đừng khóc. Sau đó sẽ là sự bình an hoàn toàn cho Thầy. Không còn thù ghét, không còn cạm bẫy, không còn những ghê tởm của tội lỗi ở trên Thầy, chung quanh Thầy... Không còn những đụng chạm tàn bạo. Ôi! Nique à, đừng khóc. Vị Cứu Tinh của con sẽ ở trong bình an. Người sẽ toàn thắng...
- Nhưng trước đó... Khi xưa, cùng với chồng con, chúng con luôn luôn đọc các tiên tri... Và chúng con run sợ vì những lời của Đavít và Isaie... Nhưng thực sự, thực sự sẽ như vậy về Thầy sao?
- Như vậy và còn hơn nữa...
- Ôi!... Ai sẽ khích lệ Thầy? Ai sẽ làm cho Thầy chết với... vẫn còn hy vọng?
- Tình yêu của các môn đệ, và đặc biệt là các nữ môn đệ trung thành.
- Vậy là cả tình yêu của con nữa. Vì con sẽ không xa lìa Chúa Cứu Tinh của con với bất cứ giá nào. Chỉ có... Ôi! Lạy Chúa! Xin hãy đòi hỏi con bất cứ sự thống hối nào, bất cứ hy sinh nào, nhưng xin ban cho con can đảm cương quyết vào giờ đó. Khi Thầy sẽ phải như “cục đất khô” với “lưỡi dính vào khẩu cái” vì khát; khi Thầy sẽ như “người cùi phải che mặt”, xin hãy làm cho con vẫn nhận ra Thầy là Vua các vua, và để con cứu giúp Thầy như một tớ nữ tận tụy. Đừng che giấu con khuôn mặt bị hành hạ của Thầy. Ôi! Thiên Chúa của con! Cũng như bây giờ Thầy cho phép con được khoái cảm trong sự huy hoàng của dung nhan Thầy như vì Sao Mai, khi đó, xin Thầy cũng cho con có thể nhìn Thầy, và xin cho thánh nhan Thầy ghi khắc vào tim con. Ôi! Tim con cũng như tim Thầy, sẽ mềm như sáp vì đau thương trong ngày đó... - Bây giờ Nique qùi gối, hầu như phủ phục. Thỉnh thoảng bà ngẩng khuôn mặt đầy nước
659
mắt lên để nhìn Chúa của bà, xác thể trong trắng dưới ánh trăng trong trắng, in trên mặt tường mầu tối.
- Con sẽ được tất cả những điều đó. Và Thầy, Thầy sẽ được lòng trắc ẩn của con. Nó sẽ cùng với Thầy đi lên giảo đài, và nó sẽ cùng với Thầy lên Trời, triều thiên đời đời của con. Các thiên thần và loài người sẽ nói về con lời ca ngợi đẹp nhất: “Vào giờ khốn nạn, giờ của tội lỗi, bà đã trung thành, bà đã không phạm tội, và đã cứu trợ Chúa của bà”. Con hãy đứng dậy đi. Và nguyện cho con được chúc phúc ngay từ bây giờ và mãi mãi.
Người đặt tay trên bà khi bà trỗi dậy. Rồi họ vào căn nhà lặng lẽ để nghỉ đêm.
73* TẠI KHÚC SÔNG CẠN
GIỮA JÊRICÔ VÀ BÊTABARA
Các bờ sông Giođan gần khúc sông cạn trông thật giống một nơi cắm trại của dân du mục. Trong những ngày này, các đoàn du mục trở về xứ của họ. Các lều, hoặc chỉ là các chiếc mền, căng từ cây nọ tới cây kia, buộc vào các cây cọc cắm xuống đất, vào chiếc yên cao của một con lạc đà... tóm lại, được giữ chắc cách nào đó để có thể che cho khỏi sương đêm, chắc là nhiều như mưa, tại cái nơi thấp hơn mặt biển này. Chúng được phân tán khắp nơi dọc theo những lùm cây làm thành giải bờ xanh ở hai bên sông.
Khi Giêsu với các người của Ngài tới gần bờ sông ở phía bắc khúc sông cạn, thì tất cả những người cắm trại đang từ từ thức dậy. Chắc Giêsu đã rời nhà của Nique từ tia sáng đầu tiên, vì bây giờ vẫn chưa hoàn toàn là bình minh, và quang cảnh ở mọi nơi đều đẹp, tươi mát, trong lành. Những người vội vàng nhất, bị thức giấc bởi tiếng hí của ngựa, tiếng bai bai của lừa, tiếng kêu của lạc đà, hoặc bởi tiếng cãi vã và tiếng ca của hàng mấy trăm con chim tước và của các loại chim khác trong các chòm lá liễu, các đám sậy, và tại các cây lớn mọc thành cái hành lang xanh dọc bờ sông, họ bắt
660
đầu bò ra khỏi những chiếc lều đủ mầu và đi xuống sông để rửa ráy. Vài tiếng khóc của trẻ con và tiếng các bà mẹ êm đềm nói với con cái. Cuộc sống bừng dậy từng phút một dưới mọi hình thức. Từ thành Jêricô ở gần đó, đổ tới các thương gia đủ loại và các người hành hương mới, các người canh gác và các lính tráng được ủy thác việc canh chừng và giữ trật tự trong những ngày gặp gỡ của các bộ lạc thuộc mọi miền, họ không tiếc lời chửi bới và oán trách, hẳn trong đó có nhiều vụ trộm cắp do các tên trộm dưới lớp áo người hành hương để trà trộn vào đám đông, thực ra là để ăn cắp vặt. Cũng có những gái điếm tìm cách thực hành cuộc hành hương Vượt Qua của họ bằng cách rút của những người hành hương giầu có và dâm đãng nhất, những tiền bạc và qùa tặng họ bỏ ra để trả cho các giờ hưởng lạc, và bởi đó họ vô hiệu hóa tất cả những thanh tẩy Vượt Qua... Các phụ nữ ngay thẳng trong đám các khách hành hương, cùng với chồng và các con trai lớn của họ, huýt sáo như những con chim ác nổi giận, để gọi về với họ những người hành lạc, hoặc các bà vợ, các bà mẹ nhìn các gái điếm đang cười cách trơ trẽn, và trả lời cho những... hình dung từ mà các phụ nữ ngay lành quăng cho họ. Nam giới, nhất là lính tráng, cười nói và không từ chối đùa dỡn với các phụ nữ. Vài người Israel thực sự cứng rắn trong vấn đề luân lý, hoặc chỉ giả hình cứng rắn... bỏ đi cách khinh bỉ, và những người kia... dự đoán được các mẫu tự của các người câm điếc, vì thực sự họ hiểu rất rành các dấu hiệu làm với các gái điếm.
Giêsu không đi theo con đường dẫn thẳng tới giữa khu cắm trại, nhưng Người đi dưới bờ cát của sông. Người cởi dép và đi tại chỗ nước đã vỗ vào bờ cỏ. Các tông đồ cũng làm theo Người.
Những người già hơn là những người ngoan cố nhất, lẩm bẩm: “Coi, chỗ này là nơi ông Tẩy Giả đã giảng sự sám hối!”
- Đúng, nhưng chỗ này đã trở nên tệ hơn cổng nhà tắm hơi của người Rôma!
- Và những người đã tự xưng là thánh cũng chẳng chê đến chỗ này để giải trí.
- Anh cũng thấy chứ?
661
- Tôi có những con mắt ở trong đầu nên tôi cũng thấy. Tôi thấy!
Những người trẻ hơn hoặc ít nghiêm khắc hơn - tức là Judas Kêriot, ông cười và nhìn chăm chú những gì xảy ra trong khu cắm trại. Ông cũng không chê ngắm nghía các em đẹp mặt dầy mày dạn đến để kiếm khách; Tôma thì cười khi thấy các bà vợ nổi sùng và các người pharisiêu tỏ vẻ khinh bỉ; Mathêu, cựu tội nhân, không dám nói nghiêm khắc nghịch lại thói hư và các người trụy lạc, ông chỉ giới hạn ở thở dài và lắc đầu. Giacôbê Zêbêđê quan sát cách dửng dưng, không chăm chú, không bình phẩm - là những người đi ở đuôi của toán nhỏ mà Giêsu đi đầu, ở giữa Andrê, Gioan, Juđa, và Giacôbê Alphê.
Khuôn mặt Giêsu đanh thép như đá cẩm thạch, và Người càng lúc càng đanh thép, tới nỗi từ trên bờ cao bay tới tai Người những câu bóng gió, hoặc những câu đàm thoại khêu gợi của một đàn ông ít ngay thẳng với một gái làng chơi, Người vẫn nhìn đăm đăm về phía trước. Người không muốn thấy. Ý hướng của Người bộc lộ trong dáng điệu của Người.
Nhưng một chàng trai ăn mặc sang trọng đang cùng với những người khác cùng loại nói chuyện với hai khách giang hồ, anh ta nói lớn tiếng với một trong hai cô: “Lại đi, lại đi! Chúng ta muốn cười một tí. Hãy hiến mình đi, an ủi ông ta tí. Ông ta buồn vì ông ta nghèo, không thể trả cho đàn bà được”.
Một làn sóng đỏ hồng hiện ra trên khuôn mặt Giêsu rồi lại trở thành tái mét. Nhưng Người không đổi hướng nhìn. Sự biến sắc là dấu hiệu duy nhất cho biết Người cảm thấy.
Một cô gái trơ trẽn với nhiều giây chuyền kêu lách cách, trong một đường bay nhẹ của y phục, trong tiếng cười yểu điệu, nhảy từ trên bờ xuống bãi cát, và tìm được phương cách để làm rạng ngời nhiều vẻ đẹp kín đáo. Cô qùi dưới chân Giêsu, với tất cả điệu cười rung trên khóe miệng đẹp, với cặp mắt và thân hình mời mọc, cô kêu: “Ôi! Người đẹp giữa các con cái của đàn bà! Chỉ một cái hôn của miệng Người là toàn thân tôi miễn phí!”
Gioan, Andrê, Juđa và Giacôbê Alphê phẫn nộ, nhưng bị tê liệt
662
vì sững sờ và không biết làm một cử chỉ nào. Nhưng Phêrô, từ nhóm của ông, ông nhảy một phát như con báo, tóm lấy kẻ khốn nạn đang qùi gối hơi ngả về đàng sau, ông lắc cô, lôi cô dậy, quăng cô vào bờ sông với một hình dung từ kinh khủng, rồi xô tới để cho cô ta những cái còn lại.
Giêsu nói: “Simon!” Một tiếng kêu còn nói nhiều hơn một bài thuyết trình.
Simon đỏ gay vì giận, trở lại với Chúa của ông: “Sao Thầy không để con phạt nó?”
- Simon, người ta không phạt những cái áo bị dơ, nhưng người ta giặt nó. Cô gái này có áo, tức là thân xác bị dơ, và tâm hồn bị phàm tục hóa. Chúng ta hãy cầu nguyện để thanh tẩy cô ta trong tâm hồn cũng như thân xác cô - Người nói những lời đó cách êm đềm, nhỏ nhẹ, nhưng không nhỏ tới nỗi cô gái không nghe được. Người lại lên đường. Người quay lại, phải, bây giờ Người quay lại một khoảnh khắc, quay cái nhìn của đôi mắt dịu hiền của Người về phía cô gái tội tình. Một cái nhìn, chỉ một cái nhìn! Một khoảnh khắc! Chỉ một khoảnh khắc! Nhưng ở đó có tất cả sức mạnh của tình yêu thương xót. Cô gái cúi đầu, trùm khăn voan và bó lấy thân... Giêsu tiếp tục đường của Người.
Khúc sông cạn đây rồi. Mực nước thấp cho phép người lớn lội qua. Chỉ cần xắn y phục lên bên trên đầu gối, và tìm những viên đá lớn bị ngập, trắng toát dưới làn nước trong, dùng làm như vỉa hè cho người đi bộ qua lại. Trái lại, hơi lui về phía hạ lưu hơn là để cho các người đi ngựa qua.
Các tông đồ sung sướng lội uồm uồm cho tới nửa đùi, nhưng điều này đối với Phêrô không qúa đẹp để làm, vì ông đã hứa và tự hứa rằng khi đã đến nghỉ tại nhà Salômôn, ông sẽ không thiếu sót việc trả cho mình một “mẻ tắm thật mát”, ông nói, để bù vào mẻ “nướng thịt” chiều hôm trước.
Đây, họ đã ở bờ bên kia. Ở đây cũng có những đám đông bắt đầu đi sau đêm nghỉ. Họ lau người sau khi đã lội qua khúc sông.
Giêsu ra lệnh: “Các con hãy phân tán đi để nói rằng vị Rabbi ở
663
đây. Thầy tới chỗ thân cây nằm ngả ở kia và Thầy chờ các con”. Một đám người thật đông mau lẹ được báo tin, và họ chạy tới.
Giêsu bắt đầu nói, lợi dụng dịp có một đám người đi qua trong nước mắt, theo sau một chiếc cáng, trên đó có một người bị ngã bệnh nặng tại Jêrusalem. Các thầy thuốc đã chê nên họ vội vã đem người đó về để chết ở nhà. Mọi người đều nói về việc đó, vì ông ta giầu và còn trẻ. Nhiều người nói: “Thật là một đau đớn lớn lao khi phải chết lúc người ta có biết bao của cải mà chỉ có một ít năm sống”. Cũng có những người nói - có lẽ là những người đã tin vào Giêsu - “Điều đó tốt cho hắn! Hắn ta không biết tin. Các môn đệ đã đến nói với bà con hắn: Vị Cứu Tinh đang ở đây. Nếu qúi vị có lòng tin và xin Người thì người bệnh sẽ được khỏi. Nhưng chính hắn ta là người thứ nhất từ chối đến với vị Rabbi”. Các lời bình phẩm khác tiếp theo đó với dấu hiệu thiện cảm, và Giêsu dùng tất cả những thứ đó để bắt đầu nói:
- Bình an cho tất cả các con. Chắc chắn cái chết làm phật lòng những người giầu và trẻ, chỉ giầu về của cải và trẻ về năm tháng. Nhưng những người giầu về nhân đức và trẻ trung nhờ sự trong trắng về phẩm hạnh của họ, thì cái chết không đau đớn gì. Người khôn ngoan thực thì ngay từ lúc họ biết suy nghĩ, họ đã hiệu chỉnh lối sống của họ theo cách nào để sắp đặt được một cái chết yên hàn. Sống là sửa soạn để chết, và chết là sửa soạn để vào một đời sống vĩ đại. Người khôn ngoan thực thì ngay từ lúc họ hiểu về sự thật của đời sống và sự chết, về việc chết để sống lại, họ đã cố gắng để lột bỏ tất cả những gì là vô ích, để làm giầu về những gì là hữu ích, tức là các nhân đức và các hành động tốt, để có những hành lý về việc thiện ở trước đấng sẽ gọi họ để phán xét họ, để thưởng hay phạt họ với một sự công bằng tuyệt đối. Người khôn ngoan thực thì sống một cuộc đời làm cho họ trưởng thành hơn những người già về sự khôn ngoan, và trẻ hơn một thiếu niên, vì khi sống trong nhân đức và sự công chính, họ duy trì trong con tim họ sự tươi mát về những tình cảm mà đôi khi những người rất trẻ cũng không có. Như vậy thì thật là êm đềm để chết. Họ nghiêng cái đầu
664
mỏi mệt của họ vào lòng Cha, yên nghỉ trong vòng tay ôm của Người, nói qua lớp mây của sự sống đang chạy trốn: “Con yêu Cha, con hy vọng ở Cha, con tin ở Cha”. Họ nói lời đó lần sau cùng trên mặt đất, để rồi sau đó nói trong hạnh phúc: “Con yêu Cha” trong suốt đời đời giữa sự huy hoàng Thiên Đàng.
Cái chết, một tư tưởng hắc ám ư ? Không. Đó là một chiếu chỉ chính đáng cho mọi người. Nó chỉ nặng nề lo âu cho những kẻ không tin và chất đầy tội lỗi. Để cắt nghĩa những lo âu không tên của một người đang chết mà suốt cuộc đời đã không sống tốt, thì thật là vô ích khi người ta nói: “Ông ta chưa muốn chết, tại vì ông ta không làm được điều gì tốt, hoặc đã làm qúa ít, và ông ta muốn sống nữa để sửa sai”. Cũng vô ích để nói: “Nếu ông ta được sống thêm, ông ta có thể có phần thưởng lớn hơn, vì ông ta sẽ làm nhiều hơn”. Linh hồn biết, ít nhất là một cách mập mờ, có bao nhiêu thời giờ đã được ban cho nó: một thời gian hầu như số không so với cái đời đời, và linh hồn đẩy toàn bộ cái tôi để hành động. Nhưng linh hồn khốn nạn! Biết bao lần nó bị chà nát, bị dày xéo, bị bịt miệng để người ta không phải nghe tiếng kêu của nó. Điều đó xảy ra nơi những người thiếu thiện chí. Trái lại, nơi những người công chính, từ tuổi thơ trẻ, họ đã nghe tiếng nói của linh hồn, vâng nghe các lời khuyên của nó, và liên tục ở trong tình trạng hoạt động. Và như vậy các thánh chết, nhiều khi ngay từ rạng đông của đời sống, trẻ tuổi về năm tháng, nhưng giầu có về công phúc, mà nếu có thêm một trăm năm hay một ngàn năm nữa, họ cũng không thể thánh hơn mức độ như họ đã thánh, vì tình yêu Thiên Chúa và tha nhân đã được họ thi hành dưới mọi hình thức, và với sự quảng đại hoàn toàn, đã làm cho họ nên trọn lành. Ở trên Trời, người ta không nhìn vào số năm, nhưng nhìn vào cách người ta sống.
Người ta để tang người chết, khóc trên họ, nhưng xác chết không khóc. Người ta run sợ vì phải chết, nhưng người ta không lo sống cách nào để không phải run sợ vào giờ chết. Vậy tại sao người ta không khóc và không để tang các thây ma sống, những thây ma thực sự hơn, những người giống như ở trong mồ, họ mang trong
665
thân xác họ một linh hồn chết? Tại sao những người khóc khi nghĩ rằng thân xác họ phải chết, không khóc cho cái thây ma mà họ mang ở trong họ? Thầy nhìn thấy biết bao thây ma, và bao người cười dỡn chứ không khóc cho chính mình! Thầy thấy biết bao người cha, người mẹ, người chồng, anh em, con cái, bạn bè, các thầy cả, các vị thầy... khóc một cách ngu si cho người con, người chồng, người anh, em, cha, mẹ, bạn hữu, giáo hữu hay đồ đệ đã chết cách tỏ tường là ở trong tình bạn với Thiên Chúa, sau một đời sống như một tràng hoa trọn lành, và họ lại không khóc trên thây ma của linh hồn người con, người chồng, anh, em, cha, mẹ, bạn hữu, tín hữu hay đồ đệ đã chết vì thói hư, tội lỗi, và sẽ chết vĩnh viễn, hư mất vĩnh viễn nếu nó không hồi sinh! Tại sao không tìm cách phục sinh cho họ? Các con biết, đó là tình yêu mà! Đó là tình yêu lớn lao nhất! Ôi! Những nước mắt ngu si trên bụi đất lại trở về bụi đất! Những tình cảm tà thần, những tình cảm giả dối! Hãy khóc, nhưng khóc trên linh hồn đã chết của những người thân yêu. Hãy tìm cách phục sinh cho nó. Thầy nói vậy cách đặc biệt với các con, các phụ nữ. Các con có thể biết bao với những người các con yêu.
Bây giờ hãy cùng nhau nhìn những điều mà Sự Khôn Ngoan chỉ cho như nguyên cớ của sự chết và sự nhục nhã.
Đừng nguyền rủa Thiên Chúa bằng cách sử dụng cách bất chính đời sống mà Người đã ban cho các con, bằng cách làm dơ bẩn nó bởi những hành động xấu làm ô nhục cho các con. Đừng nguyền rủa cha mẹ bằng một lối sống như trét bùn trên đầu tóc trắng của các ngài, và như cây đuốc đốt cháy những ngày sau cùng của các ngài. Đừng xúc phạm đến những người đã làm điều lành cho các con, để không bị nguyền rủa bởi tình yêu mà các con chà đạp. Đừng đứng lên chống lại những người cai trị. Không phải là nhờ nổi loạn chống lại kẻ cai trị mà các dân tộc làm cho mình lớn mạnh và tự do, nhưng là nhờ vào lối sống thánh thiện của các công dân mà người ta được sự trợ giúp của Chúa. Người có thể chạm tới con tim của các nhà lãnh đạo, lấy đi địa vị của họ và cả sự sống của họ như đã xảy ra biết bao lần trong lịch sử Israel của chúng ta, khi họ
666
vượt qúa giới hạn, và nhất là khi dân chúng biết tự thánh hóa để xứng đáng ơn tha thứ của Thiên Chúa. Vì lý do này, Người làm biến đi những đàn áp đè nặng trên những kẻ bị phạt. Đừng xúc phạm đến người vợ bằng cách làm cho họ phải đương đầu với tình yêu gian dâm. Đừng làm thương tổn cho các trẻ em vô tội bằng cách làm cho nó biết tình yêu bất chính. Hãy sống thánh trước những kẻ mà vì tình cảm hay vì nghĩa vụ, nhìn vào các con như kẻ phải làm gương mẫu cho đời sống của họ. Các con không thể phân rẽ sự thánh thiện đối với Thiên Chúa ra khỏi sự thánh thiện đối với tha nhân thân cận nhất của các con, vì cái nọ là chồi của cái kia, cũng như hai tình yêu: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân, cái nọ là chồi của cái kia.
Hãy chính đáng đối với bạn hữu của các con. Tình bạn là người bà con của các linh hồn. Có lời nói: “Thật đẹp biết bao, các bạn hữu cùng nhau tiến bước!” Nhưng nó đẹp nếu người ta đi trên đường tốt. Khốn cho kẻ nào làm hư hỏng hay phản bội tình bạn, bằng cách làm cho nó thành ích kỷ hay phản bội, hoặc thành một thói xấu hay điều bất chính. Có qúa nhiều người nói: “Tôi yêu bạn” để biết công việc của bạn mà lợi dụng. Cũng có qúa nhiều người xâm chiếm quyền lợi của bạn bè.
Hãy thật thà đối với các vị thẩm phán, đối với hết mọi vị thẩm phán: từ Vị Thẩm Phán Tối Cao là Thiên Chúa mà người ta không thể đánh lừa bằng những thực hành giả trá, cho tới vị thẩm phán thân mật là lương tâm, cho tới những người có tình cảm yêu thương, đau khổ, chăm chú trong tình yêu tỉnh thức của họ, tức là các con mắt của những người trong gia đình, và cho tới những thẩm phán nghiêm khắc của dân chúng. Đừng nói dối rồi lấy Thiên Chúa làm chứng nhân để xác định sự dối trá của mình.
Hãy thật thà trong việc mua bán. Trong khi bán, sự tham lam bảo con: “Ăn cắp để kiếm lời nhiều hơn”, trong khi lương tâm bảo con: “Hãy thật thà, vì ngươi cũng sợ bị ăn cắp”. Hãy nghe tiếng nói thứ hai này. Hãy nhớ rằng ta không được làm cho người khác điều ta không muốn người khác làm cho chính ta. Tiền bạc được trao cho
667
các con để đổi lấy hàng hóa, thường ướt đẫm mồ hôi và nước mắt của người nghèo, nó là giá của những mệt nhọc. Các con không biết nó đã đáng giá bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu chịu đựng giấu ẩn trong những tiền bạc này, mà đối với các con, những người bán, nó luôn luôn có vẻ qúa ít so với món hàng mà các con cho. Các bệnh nhân, các trẻ không cha, các người già với lợi tức ít ỏi... Ôi! Đau khổ thánh và phẩm giá thánh của người nghèo mà các người giầu không hiểu! Tại sao người ta không nghĩ tới nó? Tại sao người ta thật thà khi bán cho các kẻ mạnh và quyền thế, vì sợ báo thù, trong khi người ta lợi dụng các anh em không bảo vệ, vô danh tiểu tốt? Đó là một tội ác chống lại tình yêu hơn là chống lại chính sự ngay thẳng. Và Thiên Chúa nguyền rủa nó, vì nước mắt giật lấy của người nghèo là những người chỉ có nó để phản ứng chống lại bất công, sẽ kêu lên tới Chúa, giống như máu lấy ra khỏi mạch của một người bởi một kẻ sát nhân, bởi một Cain của chính đồng loại người đó.
Hãy thật thà trong cái nhìn cũng như trong lời nói và hành động. Một cái nhìn gởi cho một kẻ không đáng, hoặc từ chối một kẻ xứng đáng, sẽ giống như sợi giây và con dao găm. Cái nhìn quấn lấy con ngươi trơ trẽn của một gái điếm và nói với nó: “Em đẹp lắm!” để trả lời cho cái nhìn mời mọc của cô ta bằng cái nhìn ưng thuận của mình, thì còn tệ hơn cái nút của giây treo cổ. Cái nhìn từ chối cho người bà con nghèo khổ hay bạn bè bị rơi vào cảnh khốn quẫn, thì giống như con dao găm cắm vào con tim của hai kẻ khổ sở này. Cũng giống vậy đối với cái nhìn oán ghét cho kẻ thù và cái nhìn khinh bỉ cho người hành khất. Kẻ thù phải được tha thứ và yêu thương bởi lòng trí nếu xác thịt từ chối yêu nó. Sự tha thứ là tình yêu của tâm hồn; sự từ chối báo thù là tình yêu của tâm hồn. Người hành khất phải được yêu, vì không có ai yên ủi họ. Nếu chỉ quăng một của bố thí rồi đi qua cách khinh bỉ thì không đủ. Của bố thí dùng cho thân xác đói khát, trần truồng, không nơi trú ngụ, nhưng tình thương để mỉm cười khi cho, để lưu ý đến nước mắt của kẻ đau khổ, đó là bánh của con tim.
668
Các con hãy yêu! Hãy yêu! Hãy yêu!
Hãy thật thà trong thuế thập phân và trong thói tục. Hãy thật thà ở trong nhà bằng cách không lạm dụng, bỏ bớt cân lường của các đầy tớ, và hãy kính trọng các nữ đầy tớ ngủ dưới mái nhà của các con. Dù là thế giới không biết gì về những tội phạm nơi kín đáo trong nhà các con, nhưng Thiên Chúa biết tội bất trung với người vợ vô tình và sự xâm phạm tới đầy tớ của các con.
Hãy thật thà trong mọi lời nói, thật thà trong việc giáo dục con trai con gái. Có lời rằng: “Hãy hành động sao cho con gái ngươi không làm cho ngươi thành trò cười cho thành phố”. Thầy thì Thầy nói: “Hãy làm sao cho tâm hồn con gái con không phải chết”.
Bây giờ hãy giải tán. Thầy cũng đi, sau khi đã cho các con lộ phí khôn ngoan. Nguyện Thiên Chúa ở với các kẻ biết cố gắng để yêu Người.
Bằng một cử chỉ, Người chúc lành cho họ và lẹ làng bước xuống khỏi cái thân cây đổ nằm ngang, Người đi vào con đường mòn giữa các cây. Người đi về phía thượng lưu con sông và biến mất trong những cành cây xanh chằng chịt.
Đám đông bình luận náo nhiệt với các ý kiến trái ngược. Dĩ nhiên những người phản đối vẫn là các kiểu mẫu thiểu số của các luật sĩ và pharisiêu hiện diện giữa đám đông khiêm tốn.
74* TẠI NHÀ CỦA SALÔMÔN
Căn nhà nhỏ của Salômôn, tôi đã nhìn thấy hồi tháng ba năm 1944 mà tôi không biết người chủ, trong thị kiến về sự sống lại của Lazarô. Đó là một trong những nhà sau cùng, trên con đường duy nhất chạy ra bờ sông từ ngôi làng nhỏ nghèo nàn và hẻo lánh này. Đây là làng chài lưới nhỏ, với những căn nhà... giầu nhất thì ở dọc con đường nhỏ bụi bặm, các nhà khác thì rải rác tình cờ giữa các cây cối ở bờ sông. Chúng không nhiều lắm, tôi tin là không tới năm chục căn, những mái nhà nhỏ tới nỗi cả căn nhà có thể để vào
669
trong một nhà ở chung cư bình dân của các thành phố hiện tại. Bây giờ là mùa xuân nên nó có vẻ bớt bi đát, vì được trang điểm bằng vẻ tươi mát của các giây bìm bìm và các cành nho, hoặc cái cười ngay thẳng của các bông hoa bí vàng được buộc cho leo vào các hàng rào thô sơ phân chia giới hạn các chủ, hoặc trên mái nhà hay quanh cổng nhà, không kể vài bông hồng mà vẻ đẹp như lạc lõng giữa các rổ, thúng và lưới; các hoa cải cay mầu vàng lạt và những đu đưa khiêm tốn của các trái đậu đầu tiên.
Chính con đường cũng có vẻ bớt xấu, bởi vì bãi lau sậy ở dưới thấp, không phải chỉ là một bãi những đất bụi bặm, nhưng nó được cuốn những băng sặc sỡ. Và ở giữa những băng của lá sậy, các bông lai-ơn dại chỉa những bông đủ mầu của nó lên như những con dao nhọn, trong khi những cây bìm bìm nhẹ nhàng với thân mảnh mai như sợi chỉ, cuốn quanh các mô đất và các cây sậy bằng những đường xoắn ốc của nó, và đặt ở mỗi vòng một chiếc cúp rất mảnh mai của bông hoa mầu tím hồng mềm mại. Các con chim, có hằng hà sa số, làm tình trong bãi sậy, đậu đu đưa trên các cộng bìm bìm, làm cho mầu xanh của bờ sông bùn lầy thành náo nhiệt bởi tiếng láy rung và mầu sắc của chúng.
Giêsu đẩy chiếc cửa của hàng rào thô sơ để đi vào một khu vườn, hoặc cái sân nhỏ. Nếu trước đây đó thực là khu vườn, thì bây giờ đã bị xâm lăng hoàn toàn bởi cỏ dại mọc lộn xộn. Nếu trước nó là cái sân thì bây giờ cũng là các cây vô trật tự do gió gieo hạt. Chỉ có các cây bí là còn bộc lộ sự khôn ngoan bằng cách bám vào gốc cây nho duy nhất, và vào cây sung để leo lên, để đặt những cái miệng tươi cười của các bông hoa vàng ở bên cạnh các chùm tí hon của cây nho hoặc các lá mềm của cây sung mà ở gần gốc, trong các kẽ cuống lá, đã có hạt ngọc cứng của trái sung mà các hoa vừa được tạo hình. Các cây tầm ma làm đau các bàn chân trần. Phêrô và cả Tôma nữa, kiếm được hai cái mái chèo mục, bắt đầu đập vào các cây cắn ngứa để làm giảm bớt nọc độc của nó.
Trong lúc đó, Giacôbê và Gioan cố gắng để mở cái khóa lớn rỉ sét. Sau khi thành công, họ mở chiếc cửa thô lỗ và đi vào nhà bếp,
670
nơi mùi mốc và mùi khí bí xông lên rất mạnh. Các bức tường phủ đầy bụi và màng nhện. Có một cái bàn thô kệch, các ghế dài và ghế đẩu, một cái kệ, bày biện ở đó, và hai cửa ra vào mở qua bức tường.
Phêrô khảo sát: “Ở đây có một phòng nhỏ với một cái giường duy nhất: rất tốt cho Giêsu... Và đây là gì? A! Tôi hiểu! Chỗ dự trữ, xưởng công binh, kho lúa, và các giường của chuột!... Coi! Chuột nó chạy đua! Chúng đã cắn nát hết trong những tháng vừa qua! Nhưng tôi, bây giờ tôi nghĩ đến qúi vị. Đừng ngại. Thầy ơi! Chúng ta có thể sinh hoạt ở đây không?”
- Đó là điều Salômôn đã nói.
- Rất tốt. Nào, ông em của tôi, và anh, Giacôbê, lại đây lấp hết các lỗ lại. Và anh, Mathêu với Judas, anh đứng bên cạnh cửa để canh chừng, không cho một con chuột nào chạy ra. Hãy nghĩ như anh còn là nhân viên sở thuế dễ thương ở Caphanaum, lúc đó anh đã không để một khách nào thoát được, cho dù họ có lẹ như con thằn lằn tỉnh thức. Còn các anh, hãy ra vườn lấy cỏ xanh bao nhiêu có thể và mang vào đây cho tôi. Còn Thầy, xin thầy tới chỗ nào Thầy cho là tốt, trong khi... con lo lắng cho các tên Satan dơ bẩn này. Chúng đã làm hư những cái lưới tiện dụng này, và đã ăn hết hoàn toàn một cái sống thuyền... - Và trong khi nói, ông chất những miếng gỗ mục, những mảnh lưới rách bấy, những que củi... tất cả, ở giữa phòng. Khi đã có những ôm cỏ xanh, ông phủ lên bên trên đống, châm lửa và tránh xa ra khi lượng khói đầu tiên bốc lên. Ông cười và nói: “Cầu cho hết các tên Philitin đều chết!”
- Nhưng anh sẽ không đốt nhà chứ? - Simon Zêlote hỏi.
- Không đâu anh thân mến của tôi! Vì ẩm độ của các cây củi giữ ngọn lửa lại, và lửa thành khói tỏa ra qua lớp cỏ. Như vậy, với một liên minh tốt, cái tươi và cái khô giúp nhau để thi hành sự báo thù. Anh có ngửi thấy mùi ghê tởm không? Lát nữa thì anh chỉ còn nghe các tiếng kêu! Có ai đã nói với tôi về các con hạc hát trước khi chết nhỉ? A! Sintica. Đám chuột sắp sửa hát.
Judas Iscariot gián đoạn tràng cười và ông nhận xét: “Sao không
671
ai có thể biết gì về cô ta cũng như về Gioan Enđo vậy? Ai biết được họ đang ở đâu?”
- Chắc chắn là ở một nơi tốt - Phêrô trả lời.
- Anh biết chỗ đó không?
- Tôi biết họ không còn là đích của các kẻ ác tâm nữa.
- Anh không hỏi ai cả sao? Tôi, tôi có hỏi.
- Tôi thì không. Tôi chả lưu ý gì tới việc họ ở đâu. Chỉ cần nghĩ tới họ và cầu nguyện cho họ để họ giữ mình cho thánh thiện là đủ rồi.
Tôma nói: “Các pharisiêu giầu có, khách hàng của ba tôi cũng hỏi tôi về họ, nhưng tôi đã trả lời là tôi chả biết gì hết”.
- Nhưng anh không tò mò muốn biết sao? - Judas nhấn mạnh.
- Tôi, không. Và tôi nói sự thực.
- Nghe này! Nghe này! Khói đã bắt đầu có hiệu qủa. Chúng ta ra ngoài đi, nếu không nó cũng làm chúng ta chết ngộp - Phêrô nói. Và sự đánh lạc hướng đã chấm dứt những thảo luận.
Giêsu đang ở ngoài vườn. Người dựng dậy những cây rau bị ngả, mọc lên do các hạt rớt xuống.
- Thầy làm vườn à? - Philíp mỉm cười hỏi.
- Ừ, Thầy thấy tội nghiệp khi nhìn những cây bò lan cách vô ích, trong khi nó được tiền định để vươn lên với mặt trời và sinh hoa trái.
- Một đề tài hay cho một bài thuyết trình đó Thầy ạ - Batôlômêo nhận xét.
- Ừ, hay. Nhưng tất cả đều là đề tài cho kẻ biết chiêm ngắm.
- Chúng con cũng phụ với Thầy đây. Nào, ai ra bãi sậy ở bờ sông để kiếm một ít cây sậy cho các cây rau đi?
Những người trẻ vui vẻ đi. Những người già lo dọn dẹp bằng cách cẩn thận nhổ những cây nguy hiểm.
- Ôi! Như vầy người ta mới thấy đây là cái vườn. Không có rau riếp, nhưng có tỏi tây, tỏi ta, rau thơm, có nhiều rau rác và bí! Bao nhiêu là bí đỏ. Phải tỉa cây nho, giải phóng cho cây sung và...
- Nhưng Simon ơi, chúng ta đâu có ở lại đây!... - Mathêu nói.
672
- Nhưng chúng ta sẽ trở lại đây nhiều lần. Người đã nói vậy mà. Và chúng ta chẳng phải phiền gì khi thấy nó hơi trật tự ở chung quanh. Anh coi này, coi này! Cả cây lài, tội nghiệp chưa! Dưới sự đàn áp của cây bí. Nếu Porphyrê thấy một cây bị đàn áp như vầy, bà sẽ khóc, và sẽ nói với nó như với một đứa con... đúng. Bởi vì trước khi có Margziam, bà luôn luôn nói chuyện với các bông hoa của bà như với đứa con... Đó, tôi dẹp cả chỗ này nữa. Tôi cắt bớt các giây bí rợ bởi vì... Ô! Các thanh niên với các bó sậy và với một... Thầy ơi! Thầy có việc rồi. Ông ta mù!
Qủa vậy, Giacôbê và Gioan cùng với Andrê và Tôma vác nặng những sậy. Và Tôma vác như một gánh nặng, một ông già nhỏ rách tả tơi với đôi mắt trắng vì bệnh mắt vảy cá.
- Thưa Thầy, ông ấy tìm rau đắng ở bờ sông, và suýt nữa là té xuống nước. Ông sống một mình từ mấy tháng nay, bởi vì người con trai săn sóc ông bị chết, và con dâu ông trở về nhà cô. Còn ông, ông sống như ông có thể. Phải không bố?
- Phải, phải. Chúa đâu? - ông hỏi khi ông liếc đôi mắt mù.
- Người đây. Bố thấy cái bóng trắng cao này không? Đó là Người.
Nhưng Giêsu đã bước lại với ông. Người cầm tay ông: “Bố sống một mình à? Bố già tội nghiệp! Bố không nhìn thấy sao?”
- Không. Khi tôi còn nhìn thấy thì tôi đan rổ, đó, nơm và đan lưới. Nhưng bây giờ... Tôi nhìn bằng bàn tay hơn là bằng mắt. Khi tôi kiếm rau, tôi lộn, và tôi bị đau bụng vì những cỏ độc.
- Nhưng ở trong làng...
- Ôi! Tất cả họ đều nghèo và đông con. Mà tôi, tôi già cả... Nếu một con lừa chết thì đáng tiếc, nhưng nếu một ông già chết!... Một ông già như tôi đây là cái gì? Đứa con dâu đã lấy hết của tôi. Nếu ít nhất, nó dắt tôi đi theo với nó như một con cừu già, để tôi có các cháu cùng với tôi... Các đứa con của con trai tôi... - ông khóc và gục vào ngực Giêsu. Người ôm và vuốt ve ông.
- Bố không có nhà sao?
- Cô ấy đã bán rồi.
- Vậy bố sống làm sao?
673
- Như những con vật. Những ngày đầu tiên thì dân làng giúp tôi, nhưng rồi họ cũng mỏi mệt...
- Vậy là Salômôn không phải cùng một nòi, vì ông ta quảng đại - Mathêu nhận xét.
- Nhưng quảng đại với chúng ta. Tại sao ông ấy lại không cho ông già căn nhà này? - Philíp hỏi.
- Bởi vì khi ông ấy về đây lần chót thì tôi vẫn còn nhà cửa. Salômôn rất tốt, nhưng dân làng gọi ông ta là “thằng điên”. Từ lâu nay, họ không còn làm những điều Salômôn dạy bảo nữa - ông già nói.
- Ông có tự nguyện ở lại đây với Thầy không?
- Ôi! Tôi sẽ không tiếc gì các đứa cháu của tôi nữa.
- Cho dù ông vẫn ở trong tình trạng nghèo và mù để phục vụ Thầy, để được hạnh phúc, có được không?
- Được! - một tiếng được run rẩy nhưng đầy bảo đảm.
- Tốt lắm. Bố ơi, nghe đây: Bố không thể đi các con đường mà Thầy đi. Thầy thì Thầy không ở lại đây. Nhưng chúng ta có thể yêu nhau và người nọ làm sự lành cho người kia.
- Thầy làm cho tôi thì có. Nhưng rồi... Ông già Anania có thể làm gì được?
- Giữ nhà và vườn cho Thầy, để mỗi lần trở lại, Thầy thấy nó được xếp dọn. Ông có vui lòng không?
- Ôi! Vâng... Nhưng tôi mù lòa... Nhà cửa... tôi có thể làm quen với các bức tường. Nhưng vườn tược... tôi làm sao để chăm sóc nó nếu tôi không phân biệt được các cây? Ôi! Chúa ơi! Sẽ đẹp biết bao được phục vụ Thầy và kết thúc cuộc đời như vậy... - Ông già đặt tay trên ngực và mơ tới điều không thể có.
Giêsu mỉm cười và cúi xuống hôn trên đôi mắt mù...
- Nhưng tôi... Tôi bắt đầu thấy... Tôi thấy... Ôi! Ôi! Ôi!...
Niềm vui làm cho ông lảo đảo. Ông sẽ ngã nếu Giêsu không đỡ lấy ông.
674
- Hé! Vui qúa! - Phêrô nói bằng giọng rất cảm động.
- Và cả cái đói nữa... Ông ta nói từ nhiều ngày nay ông chỉ sống bằng rau đắng, không dầu mỡ mắm muối gì hết - Tôma kết thúc.
- Đúng. Chúng con đã đem ông về vì vậy, để cho ông ta ăn.
- Ông già tội nghiệp! - Tất cả đều nói với giọng buồn.
Ông già tội nghiệp tỉnh lại và khóc. Ông khóc, nước mắt tội nghiệp của các người già... Nó rất buồn, dù đó là những nước mắt vui. Và ông lẩm bẩm: “Bây giờ, phải, bây giờ tôi có thể phục vụ Thầy. Chúc tụng! Chúc tụng! Chúc tụng!” Và ông muốn cúi xuống để hôn chân Giêsu.
- Không. Bố ơi, bây giờ chúng ta vào nhà và chúng ta sẽ ăn. Rồi chúng ta cho bố quần áo. Bố sẽ như người cha ở giữa bầy con, và chúng ta sẽ có một người cha để chúc mừng chúng ta mỗi khi chúng ta trở lại, và chúc lành cho chúng ta mỗi khi chúng ta ra đi. Chúng ta sẽ đi tìm hai con bồ câu để cho có vật sống ở bên cạnh bố. Chúng ta sẽ tìm các hạt để gieo trong vườn. Bố sẽ gieo hạt trong đất, và gieo đức tin vào Thầy trong lòng dân làng này.
- Tôi sẽ dạy họ tình bác ái. Họ không có bác ái.
- Cả bác ái nữa. Nhưng phải rất êm dịu.
- Ôi! Tôi sẽ êm dịu. Tôi đã không nói một lời nào cứng cỏi với đứa con dâu đã bỏ rơi tôi. Tôi hiểu và tha thứ.
- Thầy thấy điều đó trong tim bố. Vì thế mà Thầy yêu bố. Đi. Hãy đi với Thầy - Và Giêsu dắt tay ông già để đi vào nhà.
Phêrô nhìn hai người đi và lấy mu bàn tay lau nước mắt trước khi tiếp tục công việc bị gián đoạn.
- Anh khóc à?
Phêrô không trả lời. Andrê nhấn mạnh: “Tại sao anh khóc?”
- Chú, chú lo nhổ cỏ gấu đi. Nếu tôi khóc là bởi vì... bởi vì... tôi biết, tôi...
- Nói cho chúng tôi đi. Hãy tốt - nhiều người nói.
- Là bởi vì... bởi vì như vầy, những giáo huấn này làm tôi cảm động... đúng... tóm lại là hãy làm như vậy, hơn là khi Người oai hùng và nổi sấm sét...
675
- Nhưng khi đó người ta mới thấy Người là ông Vua - Judas kêu lên.
- Ở đây người ta thấy Người là vị thánh. Phêrô có lý - Batôlômêo nói.
- Nhưng để cai trị thì phải mạnh.
- Nhưng để cứu chuộc thì phải thánh.
- Đối với các linh hồn thì đúng, nhưng đối với Israel...
- Israel sẽ không bao giờ là Israel nếu các tâm hồn không tự thánh hóa.
Các “đúng” và các “không” giao nhau, và mỗi người nêu ra ý kiến riêng mình.
Ông già nhỏ trở ra với một cái vò nhỏ trong tay để đi ra suối kín nước. Ông không còn vẻ gì trước nữa, vì ông qúa sướng.
- Cha già ơi, nghe này: theo cha thì muốn lớn mạnh, Israel cần cái gì? Một ông vua hay một vị thánh? - Andrê hỏi.
- Chính Thiên Chúa là người nó cần. Nó cần Thiên Chúa này, ở trong nhà đó, đang cầu nguyện và suy ngắm. A! Các con! Hãy tốt. Các con là những kẻ theo Người, hãy tốt! Tốt! Tốt! A! Chúa đã ban cho các con ơn trọng chừng nào! Ơn trọng! Ơn trọng! - Và ông bỏ đi trong khi giơ tay lên trời và lẩm bẩm: “Ơn trọng chừng nào! Ơn trọng chừng nào!...”
75* GIẢNG THUYẾT TẠI NGÃ TƯ
GẦN LÀNG CỦA SALÔMÔN
Nhóm nhỏ ra khỏi căn nhà, được gia tăng thêm ông già. Ông thầm cảm phục mình trong y phục của một tông đồ nhỏ con.
- Nếu bố muốn ở lại... - Giêsu đang tính nói gì, nhưng ông già ngắt lời:
- Không, không. Con cũng đi. Ôi! Hãy để con đi. Hôm qua con đã ăn, đêm nay con đã ngủ, và ngủ trên giường! Con không còn đau trong tim. Con khỏe như một thanh niên!
676
- Vậy đi. Bố đi với Thầy, với Batôlômêo và với anh Juđa của Thầy. Các con, hãy đi từng hai người một như đã chỉ. Tất cả lại trở về đây trước chính ngọ. Đi đi. Và bình an cho các con.
Họ chia tay. Kẻ thì đi về phía bờ sông, người thì đi về đồng quê. Giêsu để họ đi trước, rồi Người lên đường sau cùng. Người từ từ băng qua làng, được nhận ra bởi những dân chài đi ra sông hoặc từ sông trở về, và bởi các bà nội trợ linh hoạt, đã dậy sớm để giặt giũ, tưới cây hoặc làm bánh. Nhưng không ai nói gì.
Chỉ có một đứa con trai đang lùa bảy con cừu của nó ra phía sông, nó hỏi ông già: “Ông đi đâu đấy Anania? Ông bỏ xứ để đi à?”
- Ông đi với vị Rabbi, nhưng ông sẽ trở lại cùng với Người. Ông là đầy tớ của Người.
- Không. Bố là cha Thầy. Tất cả các cụ già công chính đều là người cha và là phúc lành cho những ai cho họ trú ngụ, và những ai trợ giúp họ. Phúc cho ai biết kính trọng và yêu mến người già - Giêsu nói bằng giọng nghiêm trang.
Đứa trẻ nhìn Người e lệ, rồi nó lẩm bẩm: “Tôi, tôi luôn luôn cho Anania một chút bánh của tôi...” Cũng như nó nói: “Đừng trách tôi. Tôi không đáng trách”.
- Đúng. Micael đã tốt với con. Nó là bạn của các cháu con... và nó vẫn như cháu đối với con. Mẹ nó cũng không tệ, bà đã giúp con. Nhưng bà có mười một đứa con, và tất cả họ chỉ sống nhờ việc đánh cá...
Mấy phụ nữ tò mò lại gần để nghe.
- Thiên Chúa luôn luôn giúp đỡ những người đã làm điều họ có thể cho người nghèo. Và người ta luôn luôn có phương tiện để giúp đỡ. Người ta rất hay nói: “Tôi không thể”. Đó là nói dối. Qủa thật, khi người ta muốn, người ta luôn luôn tìm được một miếng bánh dư, một cái mền cũ, một cái áo cho người không có. Và Trời sẽ thưởng công cho họ. Micael, Thiên Chúa sẽ trả lại cho con những miếng bánh mà con đã cho ông già - Giêsu vuốt ve đứa trẻ rồi tiếp tục đi.
Các phụ nữ ở lại nơi đó, cảm thấy bỉ mặt. Rồi các bà hỏi han đứa nhỏ và nó nói những gì nó biết. Nỗi sợ xâm chiếm các người
677
đàn bà keo kiệt, đã đóng cửa lòng lại trước nhu cầu của ông già...
Trong khi đó Giêsu đã đi tới căn nhà sau cùng. Người hướng về một ngã tư, nơi con đường chính quẹo vào ngôi làng nhỏ. Người ta thấy từ đó, các đoàn xe du mục lên lộ để trở về các thành phố thuộc miền Thập Tỉnh và miền Pêrê.
- Chúng ta tới đó để giảng. Bố có muốn giảng không?
- Con không có khả năng. Con phải làm gì?
- Bố có thể. Tâm hồn bố biết cái khôn ngoan của sự tha thứ và sự trung thành với Chúa, và cả sự nhẫn nhục trong những giờ đau đớn. Và bố biết rằng Chúa đến cứu kẻ trông cậy ở Người. Hãy đi nói các điều đó cho các người hành hương.
- Ôi! Điều đó thì được.
- Juđa, hãy đi với bố. Thầy ở lại ngã tư với Batôlômêo.
Khi tới đó, họ đứng vào dưới bóng của mấy cây ngô dương đồng rậm rạp và họ kiên nhẫn chờ.
Các cánh đồng ở chung quanh rất tươi tốt và các vườn cây đẹp, đầy tươi mát vào giờ sớm mai này. Con mắt thỏa mãn để ngắm nhìn. Các đoàn xe đi qua... Rất ít người nhìn hai vị đứng quay lưng vào các thân cây ngô dương đồng. Có lẽ họ cho đây là hai người bộ hành mệt mỏi. Nhưng có những người biết Giêsu, họ giơ ngón tay chỉ và họ nghiêng mình để chào Người.
Sau cùng có một người dừng con lừa của ông lại cùng với lừa của các người bà con. Họ xuống và đi lại với Giêsu: “Ôi! Rabbi. Thiên Chúa ở cùng Thầy. Con người ở Arbêla. Con đã nghe Thầy nói hồi mùa thu. Đây là vợ con và bà chị góa của bà. Đây là mẹ con, ông già này là anh của bà, và người trẻ tuổi này là em của vợ con; và đây là tất cả các con của con. Xin Thầy ban phép lành. Con có nghe nói rằng Thầy đã nói ở chỗ khúc sông cạn, nhưng con mới tới đó chiều hôm qua... Không có lời nào cho chúng con sao?”
- Lời thì không bao giờ từ chối. Nhưng đợi mấy phút nữa, vì có những người sắp tới...
Qủa vậy, dân làng từ từ đi ra ngã tư. Có những người khác đã đi vào con đường để đi về phía bắc, cũng quay trở lại. Một số khác, ngạc nhiên hay tò mò, cũng đứng lại, xuống khỏi lưng con vật,
678
hoặc ngồi luôn trên yên. Họ họp thành một đám nhỏ, và số thính giả không ngừng gia tăng.
Juđa Alphê cũng trở lại cùng với ông già, dẫn theo với họ hai bệnh nhân và nhiều người khỏe mạnh. Giêsu bắt đầu nói:
- Những người đi con đường của Chúa, con đường do Chúa chỉ cho, và đi trong đó với thiện chí, sẽ kết cục bằng cách tìm thấy Chúa. Các con, các con tìm Chúa sau khi đã làm xong nghĩa vụ của người Israel trung thành với Lễ Vượt Qua thánh. Và đây, Sự Khôn Ngoan nói với các con như các con mong muốn, tại cái ngã tư này, nơi lòng nhân từ của Thiên Chúa đã cho chúng ta gặp nhau.
Có rất nhiều ngã tư mà người ta gặp trên đường đời, và ngã tư siêu nhiên còn nhiều hơn ngã tư vật chất. Mỗi ngày lương tâm của chúng ta ở trước con đường rẽ đôi, hay là các ngã tư của điều tốt và điều xấu, và nó phải lựa chọn cẩn thận để không bị lầm. Và nếu nó bị lầm, nó phải khiêm nhường trở lại phía sau khi người ta nhắc nhở và loan báo cho nó. Nếu nó thấy con đường của điều xấu, hoặc chỉ đơn giản là con đường của sự chểnh mảng hững hờ có vẻ đẹp hơn, thì nó phải biết chọn con đường gồ ghề nhưng bảo đảm của điều tốt.
Hãy nghe một dụ ngôn: Có một nhóm người hành trình đến từ những miền rất xa xôi để kiếm việc làm. Họ đến biên giới của một nước. Tại biên giới này có những người đi thuê người, do nhiều ông chủ khác nhau gởi tới. Có những người kiếm người để làm trong các hầm mỏ, những người khác thì kiếm cho các cánh đồng và rừng cây; người khác nữa thì kiếm đầy tớ cho một người giầu đê tiện, người khác nữa thì kiếm lính cho một ông vua ngự trên đỉnh một ngọn núi, trong lâu đài của ông mà người ta chỉ có thể tới bằng một con đường rất dốc. Ông vua muốn có những đoàn quân, nhưng ông đòi hỏi rằng nó phải được thành lập bằng sự khôn ngoan hơn là bằng những quân lính tàn bạo, để rồi sau đó gởi họ đến các thành phố để thánh hóa các người của ông. Ông cũng sống trên đó như trong một nhà tu khổ hạnh để đào tạo các tôi tớ ông, để cho các thứ tiêu khiển dơ bẩn không làm hư hỏng, chậm trễ hay vô hiệu hóa
679
công việc đào tạo của thần trí họ. Ông không hứa những phần thưởng to lớn, ông không hứa một đời sống dễ dãi, nhưng ông bảo đảm rằng từ sự phục vụ ông sẽ phát sinh ra sự thánh thiện và phần thưởng.
Các người được sai đến nói như vậy với những người họ gặp ở biên giới. Các sứ giả của các ông chủ hầm mỏ và đồng ruộng nói: “Đó sẽ không phải là một đời sống dễ dãi, nhưng các vị sẽ được tự do và kiếm được chút đỉnh để trả cho các trò tiêu khiển”. Những người tìm đầy tớ cho ông chủ đê tiện hứa ngay: lương thực dồi dào, các trò tiêu khiển, các thứ hưởng thụ, của cải giầu sang: “Chỉ cần là qúi vị ưng thuận những đòi hỏi bất lương của ông ta - ôi, chả có gì là nặng nề đâu - và qúi vị sẽ được hưởng thụ như các ông Tổng Trấn Ba Tư”.
Các người hành hương bàn bạc với nhau. Họ không muốn tách rời nhau... Họ hỏi: “Nhưng các cánh đồng và hầm mỏ, lâu đài của ông chủ hưởng thụ và lâu đài của ông vua có ở gần nhau không?”
- Ồ, không - Các người đi thuê nói. “Hãy đến cái ngã tư này và chúng tôi chỉ cho qúi vị các con đường khác nhau”.
Họ liền tới đó.
- Đây, con đường tuyệt vời này đầy bóng mát, hoa thơm, bằng phẳng, với các suối mát chảy vào lâu đài của ông chủ - các người đi mướn tôi tớ nói.
- Đây, con đường bụi bặm, băng qua các miền quê an bình, dẫn tới cánh đồng. Nó bị phơi ra mặt trời, tuy nhiên, qúi vị thấy là nó cũng đẹp - các người mướn thợ cho cánh đồng nói.
- Đây, con đường đầy vết bánh xe tải nặng và kín những vết đen như vầy là chỉ hướng tới hầm mỏ. Nó không đẹp, cũng không dễ chịu - những người mướn thợ hầm mỏ nói.
- Đây, con đường mòn, dốc, khoét vào trong đá, cháy thiêu bởi mặt trời, đầy gai góc, bị cắt bởi những lỗ trũng làm cho chậm bước tiến. Nhưng ngược lại, nó có vị trí tự vệ dễ dàng để chống lại các kẻ thù. Nó dẫn về phía đông, tới cái lâu đài nghiêm khắc, ta phải nói là lâu đài thánh hiến, nơi các tâm hồn đào tạo sự thánh thiện - các người mướn lính cho vua nói.
680
Các người hành hương nhìn, nhìn thật kỹ. Họ tính toán... Họ bị cám dỗ bởi nhiều thứ mà trong đó chỉ có một thứ tốt. Rồi từ từ, họ chia rẽ nhau. Có mười người thì ba người nghiêng về làm ruộng và hai cho hầm mỏ. Những người còn lại nhìn nhau, và hai trong nhóm họ nói: “Hãy đi với chúng tôi tới đền vua, chúng ta không kiếm được lương lớn và không được hưởng thụ trên trái đất, nhưng chúng ta sẽ thánh đời đời”.
- Con đường mòn này à? Chúng ta điên sao? Không lương lậu, không hưởng thụ! Chả là uổng việc phải bỏ tất cả, lưu lạc tới đây để rồi được hưởng ít hơn những thứ chúng ta có ở trong xứ chúng ta sao? Chúng tôi muốn kiếm lợi và hưởng thụ...
- Nhưng các bạn sẽ mất những của đời đời. Các bạn đã chẳng nghe rằng ông chủ là người đê tiện sao?
- Nhảm nhí! Sau một thời gian, chúng tôi sẽ bỏ ông ta. Nhưng lúc đó chúng tôi đã hưởng thụ và giầu có rồi.
- Các bạn sẽ không thoát nổi ông ta đâu. Những người đầu tiên đã hành động dở khi đi theo tiền tài. Nhưng các bạn, các bạn đi theo sự lôi cuốn của khoái lạc. Ôi! Đừng đổi lấy một giờ hưởng thụ mà để mất số phận đời đời của các bạn!
- Các bạn là những kẻ khờ dại nên mới tin vào các lời hứa lý tưởng. Chúng tôi, chúng tôi thực tế. Chào!... - Và một cách hăng hái, họ đi vào con đường đẹp, đầy bóng mát, hoa thơm, suối nước mát, bằng phẳng, mà ở đầu đường, lâu đài kỳ diệu của các kẻ hưởng thụ chói lọi dưới mặt trời.
Hai người còn lại vừa cầu nguyện vừa khóc, vừa đi vào con đường cheo leo. Sau ít bước, họ xiêu lòng nản chí, vì nó qúa khó. Nhưng rồi họ quyết chí, và thể xác càng lúc càng trở nên nhẹ theo mức họ tiến. Sự mệt mỏi trở nên nhẹ nhàng bởi một hoan lạc lạ lùng. Họ tới nơi, thở hổn hển, bị trầy da. Tới đỉnh núi, họ được nhận ra trình diện vua. Ông nói với họ tất cả những điều ông đòi hỏi họ để làm cho họ thành những hiệp sĩ. Và ông nói để chấm dứt: “Hãy suy nghĩ đến điều đó trong tám ngày, rồi trả lời”.
Họ suy nghĩ rất nhiều và chống đỡ cuộc chiến gay go chống lại đứa cám dỗ nó làm cho họ sợ, và với xác thịt họ luôn luôn nói:
681
“Các bạn hy sinh tôi sao?” và với thế gian mà những kỷ niệm vẫn còn lôi kéo họ. Nhưng họ thắng trận, họ ở lại. Họ trở thành các anh hùng của Sự Thiện. Vào giờ chết, tức là giờ vinh quang, từ trên Trời cao, họ thấy dưới vực thẳm có những người đã đi theo ông chủ bất lương. Chúng bị trói ở bên kia đời sống, chúng rên xiết trong tăm tối của hỏa ngục. Hai người thánh nói: “Vậy mà họ đã muốn tự do và hưởng thụ”.
Ba kẻ bị kết án thấy họ và sợ hãi. Chúng nguyền rủa họ. Chúng nguyền rủa tất cả, bắt đầu từ Thiên Chúa, và chúng nói: “Qúi vị đã đánh lừa chúng tôi!”
- Không. Các bạn không thể nói vậy. Chúng tôi đã nói với các bạn về những nguy hiểm, nhưng các bạn đã muốn điều khổ cho các bạn - Các vị thánh trả lời, vẫn giữ sự bình tĩnh, mặc dầu nhìn thấy và nghe thấy những lời nhạo báng dâm bôn và những lời tục tĩu phạm thượng quăng về phía họ.
Họ cũng thấy những người đã tới các cánh đồng và các hầm mỏ tại nhiều nơi khác nhau trong luyện ngục. Những người này cũng thấy họ và nói: “Chúng tôi không tốt, cũng không xấu. Nhưng bây giờ chúng tôi đền tội vì sự lơ là hững hờ của chúng tôi. Xin cầu nguyện cho chúng tôi”.
- Ôi! Chúng tôi sẽ cầu nguyện. Nhưng tại sao các bạn không lên với chúng tôi?
- Là vì trước đây chúng tôi không phải là các ma qủi, nhưng chỉ là loài người. Chúng tôi đã không quảng đại. Mặc dù thật thà, nhưng chúng tôi đã yêu những gì mau qua hơn là những thứ vĩnh cửu và thánh thiện. Bây giờ chúng tôi mới học để biết và để yêu cách chính đáng.
Lời đã chấm dứt. Mọi người đều ở ngã tư, cái ngã tư trường tồn. Phúc cho những ai biết gắn bó và quảng đại trong ý chí theo đuổi điều thiện. Cầu Thiên Chúa ở với họ. Và cầu Thiên Chúa chạm tới và hoán cải những ai không như vậy và dẫn họ tới đó. Hãy đi bình an.
- Còn những người bệnh?
682
- Người đàn bà này bị làm sao?
- Những cơn sốt hiểm độc nó vặn các xương. Bà ta đã đi tới những làn nước lạ lùng của biển lớn, nhưng không đỡ chút nào cả.
Giêsu nghiêng xuống trên người bệnh và hỏi: “Bà tin Thầy là ai?”
- Đấng mà con tìm: Đức Messi của Thiên Chúa. Xin thương con, vì con đã tìm Thầy biết bao!
- Nguyện đức tin của bà cho bà sức khỏe của các chi thể cũng như con tim. Còn ông, ông làm sao?
Người đàn ông không trả lời. Người đàn bà đi theo ông nói thay cho ông: “Một thứ ung thư nó ăn mòn lưỡi ông ta. Ông không thể nói, và ông hầu bị chết đói”. Qủa vậy, người đàn ông chỉ là một bộ xương.
- Ông có đức tin là cái có thể chữa cho ông không?
Người đàn ông gật đầu ra dấu là có.
- Mở miệng ra coi! - Giêsu ra lệnh, và Người lại gần khuôn mặt với cái miệng kinh khủng vì bị ung thư rúc rỉa. Người thổi vào đó và nói: “Ta muốn”.
Một lát chờ đợi, rồi hai tiếng kêu: “Xương tôi trở lại lành mạnh!” Và: “Maria, tôi khỏi rồi! Coi này! Coi miệng tôi này! Vạn tuế! Vạn tuế!” Ông muốn đứng dậy, nhưng ông lảo đảo vì qúa yếu.
- Hãy cho ông ăn! - Giêsu ra lệnh và sắp sửa đi.
- Xin đừng đi! Còn các bệnh nhân khác sẽ tới. Những người khác sẽ tới ở đàng sau... Xin chữa cho họ nữa! Cho họ nữa! - Đám đông kêu lên.
- Mỗi buổi sáng, từ bình minh tới chính ngọ, Thầy sẽ tới đây. Mong những người có thiện chí lo tụ tập các người hành hương.
- Thưa Chúa con! Con! - Nhiều người nói.
- Xin Thiên Chúa chúc phúc cho các con về việc đó.
Và Giêsu trở về làng với những người lúc trước và các người khác nữa, vì họ đã tới từng nhóm nhỏ trong khi Người nói. Và tất cả đi về.
- Nhưng Phêrô và Judas Kêriot đâu rồi? - Giêsu hỏi.
683
- Họ vào thành phố bên cạnh với rất nhiều tiền. Họ đi mua sắm...
- Vâng. Judas đã làm được một phép lạ, và ông ta ăn mừng. - Simon Zêlote quan sát và mỉm cười.
- Andrê cũng vậy. Ông có một con cừu làm kỷ niệm. Ông đã chữa cái chân gẫy cho một người mục đồng, và họ cho ông để thưởng công. Chúng ta sẽ tặng nó cho bố già. Sữa rất tốt cho người già... - Gioan nói khi vuốt ve ông già nhỏ. Ông rất sung sướng.
Họ vào nhà và sửa soạn một tí đồ ăn...
Họ sắp ngồi vào bàn thì hai người vắng mặt về, mang vác như những con lừa, với một chiếc xe theo sau, trên xe chất đầy những tấm liếp mà các người Palestin nghèo thường dùng làm giường.
- Xin lỗi Thầy. Nhưng phải có những cái này. Bây giờ chúng ta sẽ thoải mái - Phêrô nói.
Và Judas: “Thầy coi, chúng con chỉ mua những thứ thật cần thiết, sạch sẽ và nghèo, đúng như Thầy thích”. Và họ bắt đầu khuân đồ xuống để cho xe đi.
- Mười hai cái giường và mười hai cái chiếu; vài cái khăn bàn. Đây là hạt giống. Kia là đôi chim câu và tiền. Ngày mai sẽ rất đông người. Ôi ! Nóng qúa! Nhưng bây giờ mọi sự đều tốt. Thầy đã làm gì?...
Và trong khi Giêsu tường thuật, họ ngồi vào bàn, rất thỏa mãn.
Hết quyển năm.
MỤC LỤC
1* Tại Nazarét. Sự giải hòa. Chuẩn bị khởi hành ....................... 7
2* Khởi hành từ Nazarét ........................................................... 17
3* Đi về Jiphtael ........................................................................ 25
4* Giêsu từ biệt hai môn đệ ....................................................... 31
5* Giêsu đau đớn, cầu nguyện và thống hối ............................. 36
6* Từ Ptolêmai đến Tyr ............................................................. 43
7* Khởi hành từ Tyr trên chiếc tàu của người Crétois ............. 51
8* Bão tố và các phép lạ ở trên tàu.......................................... 57
9* Cập bến và lên bờ tại Séleucie ............................................ 64
10* Từ Séleucie tới Antioche .................................................... 69
11* Họ đi Antigonêa .................................................................. 77
12* Từ biệt tại Antioche ............................................................ 87
13* Tám người trở về Aczib .................................................... 102
14* Ở Aczib với sáu tông đồ ................................................... 112
15* Giảng tin mừng tại biên giới Phênici ............................... 115
16* Giêsu tại Alexandrocène .................................................. 121
17* Ngày hôm sau tại Alexandrocène .................................... 126
18* Người mục đồng Anna dẫn Giêsu về Aczib..................... 144
19* Bà mẹ người Canane ........................................................ 152
20* Batôlômêo khám phá ra cái tại sao... .............................. 166
21* Trên đường trở về Galilê .................................................. 172
22* Gặp Judas Iscariot và Tôma ............................................. 175
23* Ismael Ben Fabi ................................................................ 186
24* Giêsu tại Nazarét với các anh họ.Với Phêrô và Tôma ... 203
25* Người đàn bà gù lưng ở Corozain .................................... 208
26* Cây sung không trái. Trên đường đi Séphet .................... 214
27* Khi đi về Meieron ............................................................. 222
28* Tại mồ của Hillel ở Giscala ............................................. 228
29* Chữa người câm điếc ở gần biên giới Phênici ................ 237
690
30* Giêsu tại Cédès ................................................................ 242
31* Khi đi về Cêsarê Philíp .................................................... 255
32* Tại Cêsarê Philíp .............................................................. 262
33* Tại lâu đài ở Cêsarê Panéade .......................................... 270
34* Giêsu nói trước về cuộc tử nạn của Người lần thứ nhất.
Người quở trách Phêrô .................................................... 276
35* Lời tiên tri về Phêrô và Margziam.
Người mù tại Bétsaiđa..................................................... 288
36* Từ Caphanaum tới Nazarét
với Manaen và các nữ môn đệ ........................................ 293
37* Giêsu hiển dung và chữa người bị động kinh ................... 308
38* Giáo huấn các môn đệ sau sự hiển dung ......................... 321
39* Thuế Đền Thờ và đồng tiền trong miệng cá .................... 324
40* Kẻ lớn nhất trong Nước Trời.
Thằng bé Benjamin ở Caphanaum ................................. 329
41* Benjamin sẽ trung thành tới chết ..................................... 346
42* Bánh hóa nhiều lần thứ hai .............................................. 347
43* Phép lạ siêu nhiên: sự tăng gấp bội lời Chúa ................. 351
44* Bánh bởi trời ..................................................................... 353
45* Một môn đệ mới: Nicôlai người Antioche ....................... 370
46* Giêsu đi về Gadara ........................................................... 378
47* Ban đêm tại Gadara và cuộc khởi hành. Sự ly dị............ 386
48* Giêsu tại Pella................................................................... 399
49* Ở bên ngoài Jabès Galaad, trong nhà của Mathia. ........ 410
50* Chữa người đàn bà cùi (bông hồng Jêricô) .................... 420
51* Phép lạ về sông Giođan khi nước lũ ................................ 436
52* Trên bờ bên kia sông. Gặp Mẹ. ....................................... 448
53* Tại Rama. Số người được chọn ......................................... 455
54* Giêsu tại Đền Thờ. Kinh Lạy Cha và dụ ngôn
về các người con .............................................................. 466
55* Giêsu tại Gétsêmani và Bêtani ........................................ 478
56* Các lá thơ từ Antioche ...................................................... 494
57* Thứ năm trước lễ Vượt Qua. Phần thứ nhất ..................... 509
691
58* Thứ năm trước lễ Vượt Qua. Phần thứ hai: tại Đền Thờ .. 512
59* Thứ năm trước lễ Vượt Qua.
Phần thứ ba: các giáo huấn khác .................................... 525
60* Thứ năm trước lễ Vượt Qua.
Phần thứ bốn: Trong nhà Jeanne ...................................... 533
61* Thứ năm trước lễ Vượt Qua. Phần thứ năm ..................... 554
62* Ngày áp lễ Vượt Qua. Phần thứ nhất: buổi sáng .............. 567
63* Ngày áp lễ Vượt Qua. Phần thứ hai: trong Đền Thờ ........ 574
64* Ngày áp lễ Vượt Qua. Phần thứ ba:
Trong các đường phố Jêrusalem ...................................... 582
65* Ngày áp lễ Vượt Qua. Phần thứ bốn:
Bữa ăn Vượt Qua với Lazarô ........................................... 591
66* Ngày thứ bảy lễ bánh không men ..................................... 602
67* “Matta, Matta, con lo nhiều chuyện qúa!” ...................... 613
68* Giêsu nói tại Bêtani........................................................... 620
69* Đi tới núi Adomin ............................................................. 632
70* Sau cuộc tĩnh tâm tại Carit ............................................... 636
71* Những người phái khổ hạnh và phái pharisiêu.
Dụ ngôn về viên quản lý bất trung ................................. 640
72* Trong nhà của Nique ........................................................ 656
73* Tại khúc sông cạn giữa Jêricô và Bêtabara .................... 664
74* Tại nhà của Salômôn ........................................................ 674
75* Giảng thuyết tại ngã tư gần làng của Salômôn.............. 680
______________________________