Maria Valtorta
TIN MỪNG NHƯ ĐÃ MẶC KHẢI CHO TÔI
QUYỂN THỨ TƯ
Năm thứ hai đời sống công khai
(Phần thứ hai)
7
87* NGƯỜI BẠI LIỆT TẠI HỒ BÊZATA
Giêsu đang ở Jêrusalem, một cách chi tiết là ở gần đồn Antonia. Tất cả các tông đồ đều ở với Người, ngoại trừ Iscariot. Rất đông người vội vã đi về Đền Thờ, tất cả đều ăn vận lễ phục, các tông đồ cũng như các người hành hương khác, vì vậy tôi nghĩ đây là những ngày lễ Ngũ Tuần. Nhiều người hành khất lẫn lộn trong đám đông, họ kể lể ai oán sự khốn nạn của họ trong những điệp khúc làm động lòng thương, và họ đi về những nơi tốt nhất, gần các cổng Đền Thờ hoặc tại các chỗ ngã tư, nơi đám đông đi qua. Giêsu đi qua trong khi làm phúc cho những người khốn khổ này, họ cố gắng bày tỏ sự khốn khó luôn luôn bằng những bài tường thuật. Tôi có cảm tưởng là Giêsu đã vào Đền Thờ rồi, vì tôi nghe các tông đồ nói về Gamaliel, ông làm như không nhìn thấy các vị, mặc dầu Étienne, một trong các tai mắt của ông, đã làm hiệu cho ông về việc Giêsu đi qua.
Tôi cũng nghe Batôlômêo hỏi các bạn ông: “Ông luật sĩ đó muốn nói gì trong câu: ‘một đám cừu của người bán thịt’?”
- Ông ta nói về một câu chuyện có liên can tới ông - Tôma trả lời.
- Không, ông lấy ngón tay chỉ vào chúng ta, tôi thấy rất rõ. Rồi lại một câu thứ hai để xác định câu thứ nhất: “Không bao lâu nữa Con Chiên, nó cũng vậy, sẽ bị xén lông và dẫn tới lò sát sinh”.
- Đúng, tôi cũng nghe thấy vậy - Andrê xác nhận.
- Tốt, nhưng tôi nóng lòng muốn trở lại phía sau để hỏi bạn bè của vị luật sĩ xem họ biết gì về Judas Simon - Phêrô nói.
- Nhưng họ chẳng biết gì đâu. Lần này Judas không ở đây bởi vì thực sự ông bị bệnh. Chúng ta biết mà. Có lẽ ông đã phải chịu đựng qúa trong cuộc hành trình mà chúng ta đã làm. Chúng ta bền sức hơn ông. Ông ta sống ở đây, đầy đủ tiện nghi nên ông mệt dễ dàng - Giacôbê Alphê trả lời.
- Phải, chúng ta biết. Nhưng ông luật sĩ này nói: “Còn thiếu, không thấy con tắc kè trong nhóm”. Con tắc kè có phải là con vật đổi mầu da tùy nghi, phải không? - Phêrô hỏi.
8
- Đúng, Simon. Nhưng có lẽ ông muốn nói về y phục luôn luôn đổi mới của ông ta. Ông ta như vậy, ông ta còn trẻ. Phải tha thứ cho ông - Zêlote nói với giọng hòa giải.
- Cũng đúng vậy. Nhưng... Câu nói kỳ lạ qúa! - Phêrô kết luận.
- Hầu như họ luôn luôn đe dọa chúng ta - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Sự kiện là chúng ta biết mình bị đe dọa, và chúng ta thấy sự dọa nạt cả ở nơi không có...- Juđa Thađê nhận xét.
- Và chúng ta thấy khuyết điểm cả ở nơi không có - Tôma kết luận.
- Rất đúng. Sự ngờ vực là điều đê tiện... Ai biết được Judas ra sao bữa nay? Trong khi chờ đợi, ông ta thưởng thức cái Thiên Đường này và sự hiện diện của các thiên thần này... Tôi cũng khoái được bệnh để có tất cả những thứ ngon lành này - Phêrô nói, và Batôlômêo trả lời: “Chúng ta hy vọng ông ta sẽ mau chóng khỏi bệnh. Phải chấm dứt cuộc hành trình, vì mùa nóng dồn ép chúng ta”.
- Ồ, ông ta chẳng thiếu săn sóc đâu. Lại nữa... Thầy sẽ nghĩ tới đó nếu khi nào...- Andrê bảo đảm.
- Ông ta sốt ghê lắm khi chúng ta tạm biệt ông. Tôi không biết làm sao cơn sốt lại tới như vậy? - Giacôbê Zêbêđê nói, và Mathêu trả lời: “Làm sao cơn sốt lại tới à? Bởi vì nó phải tới. Nhưng chẳng sao đâu. Thầy chả lo lắng gì cả. Nếu Người thấy nguy hiểm thì Người đã không rời lâu đài của Jeanne”.
Qủa vậy, Giêsu không hề lo lắng. Người nói chuyện với Margziam và với Gioan trong khi Người ở phía trước để cho của bố thí. Chắc chắn Người giải thích cho đứa bé nhiều điều, vì tôi thấy Người chỉ cho nó chi tiết nọ chi tiết kia. Người đi về cuối bức tường của Đền Thờ ở góc đông bắc, ở đó có một nhóm rất đông đang đi về một nơi có cái hành lang ở trước một cái cổng mà tôi nghe gọi là cổng Đoàn Vật.
- Đây là hồ chữa bệnh, gọi là hồ Bêzata. Bây giờ con hãy nhìn kỹ mặt nước, con thấy nó im lìm chừng nào? Một lát nữa con sẽ thấy nó có một chuyển động và nó dâng lên chạm tới cái vạch ướt này. Con thấy không? Lúc đó thiên thần của Chúa xuống, nước
9
cảm thấy sự hiện diện của Người, và nó tôn kính Người như nó có thể. Thiên thần ra lệnh cho nước chữa người nào mau lẹ dìm mình vào nó. Con thấy đám người đông chừng nào, nhưng phần rất lớn chia trí, không nhìn thấy những chuyển động đầu tiên của nước, hoặc là những người khỏe hơn đẩy những người yếu đi vì không thương hại. Người ta không được chia trí trước sự hiện diện những dấu hiệu của Thiên Chúa. Phải giữ tâm hồn luôn luôn tỉnh thức, bởi vì người ta không bao giờ biết lúc nào Thiên Chúa tỏ mình ra hay sai thiên thần của Người tới. Và không bao giờ được ích kỷ, dù là với lý do sức khỏe. Rất nhiều lần họ lo cãi vã với nhau về những người chạm nước đầu tiên và những người cần được khỏi hơn, và những kẻ khốn nạn này hụt mất hồng ân của thiên thần.
Giêsu cắt nghĩa tất cả những thứ này cho Margziam. Nó nhìn, mắt mở to, rất chú ý trong khi nó vẫn quan sát mặt nước.
- Người ta có thể thấy thiên thần không? Con thích vậy lắm.
- Lêvi, một người mục đồng, ở tuổi con, đã thấy thiên thần. Con cũng hãy nhìn kỹ, và hãy sẵn sàng để ngợi khen Người.
Đứa trẻ không chia trí nữa. Nó lần lượt nhìn mặt nước và ở bên trên mặt nước, và nó không nghe thấy gì khác, không thấy gì khác. Trong lúc đó, Giêsu nhìn đám dân tàn tật, đui mù, què quặt, tê bại đang chờ đợi. Các tông đồ cũng chăm chú quan sát. Mặt trời sản xuất những trò chơi ánh sáng trên mặt nước và xâm chiếm một cách huy hoàng năm dẫy hành lang bao quanh hồ.
- Đó! Đó! - Margziam kêu lên. “Nước dâng lên, rung động, lộng lẫy. Ánh sáng tuyệt vời! Thiên thần!...” và đứa trẻ qùi gối.
Qủa vậy, trong sự rung chuyển của chất lỏng trong hồ, nó như gia tăng dung lượng bởi một đợt sóng thình lình và to lớn như bơm phồng nó lên và nâng nó lên tới bờ. Nước lộng lẫy như một tấm gương trước mặt trời. Ánh sáng chói lọi trong một lúc. Một người què mau chóng dìm mình vào đó, rồi sau một lát, anh ta ra khỏi đó với cẳng chân được khỏi hoàn toàn, chỉ còn dấu một vết thẹo lớn. Những người khác phàn nàn và cãi lẫy với người được khỏi. Họ nói với anh rằng sau cùng anh ta đã có thể làm việc, còn họ thì không.
10
Và sự cãi vã kéo dài.
Giêsu nhìn tất cả chung quanh và thấy ở trên một cái ghế bố, một người bại liệt khóc thút thít. Người lại gần anh ta, nghiêng mình vuốt ve anh ta và hỏi: “Con khóc à?”
- Vâng, không bao giờ có ai nghĩ đến con. Con ở lại đây, ở lại đây, tất cả được khỏi, nhưng con thì không. Đã ba mươi tám năm rồi, con nằm trên giường. Con đã tiêu hết tất cả, các người thân của con đều chết. Bây giờ con được một người bà con xa giúp đỡ. Ông mang con đến đây lúc ban sáng và mang về lúc tối... Nhưng điều đó nặng nề chừng nào cho ông! Ôi! Con muốn chết!
- Đừng buồn. Con đã rất kiên nhẫn và có đức tin. Thiên Chúa sẽ nhận lời con.
- Con hy vọng vậy, nhưng có những lúc con nản lòng. Ông tốt, nhưng những người khác... Kẻ đã được chữa khỏi, vì lòng biết ơn Thiên Chúa, có thể ở lại đây để giúp anh em khổ sở...
- Qủa thế, đáng lẽ họ phải làm như vậy. Nhưng đừng oán giận. Họ không nghĩ tới đó, không phải vì họ xấu, nhưng vì nỗi vui được chữa lành đã làm cho họ thành ích kỷ. Hãy tha cho họ...
- Ông rất tốt, ông sẽ không hành động như vậy. Con, con cố lết tới đó bằng cánh tay khi nước hồ lay động, nhưng luôn luôn có người đi qua trước mặt con. Con không thể ở lại bờ hồ, vì người ta sẽ dày đạp lên con. Và dù con có ở lại đó thì cũng không có ai giúp con xuống hồ. Nếu con đã thấy ông sớm hơn, con đã xin ông.
- Thực tình con muốn được chữa? Vậy hãy đứng dậy, mang chõng của con mà bước đi.
Giêsu đứng thẳng để ra lệnh, và dường như khi đứng thẳng lên, Người cũng nâng người bại liệt dậy. Ông ta đứng dậy và bước một, hai, ba bước - tựa như ông chưa tin điều đó - đàng sau Giêsu lúc Người ra đi. Và vì thấy mình thực sự bước đi, ông phát ra một tiếng kêu làm mọi người quay lại.
- Nhưng Ngài là ai? Nhân danh Thiên Chúa, hãy nói cho con. Có lẽ là thiên thần của Chúa?
- Ta còn hơn một thiên thần. Tên ta là Thương Xót. Hãy đi bình
11
an.
Tất cả đều tụ họp lại. Họ muốn coi, họ muốn nói, họ muốn được lành. Các lính gác Đền Thờ chạy tới. Tôi tin là họ cũng canh chừng hồ nước, và họ đe dọa để phân tán đám đông ồn ào.
Người bại liệt cầm chõng của ông: hai thanh gỗ lắp trên bốn bánh xe và một mảnh bố cũ đóng vào các thanh gỗ. Và ông ta ra đi, sung sướng trong khi ông kêu với Giêsu: “Con sẽ tìm lại ông. Con sẽ không quên tên ông và khuôn mặt ông”.
Giêsu trà trộn vào đám đông, đi theo bờ bên kia về phía các bức tường. Nhưng Người chưa đi qua hành lang sau cùng thì có một nhóm người Do Thái ập tới, tựa như họ bị đẩy bởi một cơn gió. Họ thuộc giai cấp xấu nhất, bừng bừng cháy bởi lòng ước ao nói những lời hỗn xược với Giêsu. Họ tìm tòi, nhìn xem, dò la, nhưng họ không hiểu rõ ai đã hành động như vậy. Và Giêsu đi khỏi, còn những người này thất vọng. Dựa vào lời chỉ dẫn của các lính gác, họ liền công kích người bại liệt khốn nạn đã được lành và sung sướng. Họ trách anh ta: “Tại sao mày vác giường? Nay là ngày Sabát, mày không được phép”.
Người đó nhìn họ và nói: “Tôi chẳng biết gì cả. Tôi chỉ biết là người đã chữa tôi bảo tôi: Hãy vác chõng mà bước đi. Đó là điều tôi biết”.
- Đó chắc chắn là một thằng qủi, vì nó ra lệnh cho mày lỗi luật Sabát. Ông ta thế nào? Ông ta là ai? Một người Do Thái hay một người Galilê hoặc một tân tín đồ?
- Tôi không biết. Ông ta đã ở đây. Ông ta thấy tôi khóc, ông ta lại gần tôi, ông ta nói với tôi, ông ta chữa tôi, rồi ông ta đi khỏi, dắt theo một đứa trẻ, cầm tay nó. Tôi tin là con của ông, vì ông rất có thể có con trai cỡ tuổi đó.
- Một đứa trẻ à? Vậy không phải hắn ta... Ông ta đã nói thế nào? Ông ta tên gì? Mày đã không hỏi ông ta sao? Đừng nói dối.
- Ông ta bảo tôi tên ông là Thương Xót.
- Mày là thằng ngu! Đó không phải là một cái tên.
Người đó nhún vai và ra đi.
12
Những người khác nói: “Chắc chắn là hắn ta rồi. Các luật sĩ Zachée và Ania đã nhìn thấy hắn trong Đền Thờ”.
- Nhưng hắn không có con!
- Nhưng chính là hắn. Hắn đi với các đồ đệ.
- Nhưng Judas không ở đó. Chỉ có ông ta là chúng ta biết rõ. Những người khác... Có thể là bất cứ người nào.
- Không, chính là họ.
Và cuộc bàn cãi tiếp tục trong khi các hành lang đầy những bệnh nhân...
Giêsu vào trong Đền Thờ bởi một phía khác, lối phía tây, đối diện với thành phố nhiều hơn. Các tông đồ theo Người. Giêsu nhìn khắp chung quanh, và sau cùng Người nhìn thấy kẻ Người tìm: Jonatha, ông cũng đang tìm Người.
- Thưa Thầy, ông ta bớt rồi. Cơn sốt đã hạ. Mẹ Thầy cũng nói rằng mẹ hy vọng từ nay tới Sabát tuần tới, mẹ có thể đến.
- Cám ơn Jonatha. Con rất đúng giờ.
- Không rất đâu. Con bị Maximin của Lazarô giữ lại. Ông ta tìm Thầy. Ông đã tới hành lang Salômôn.
- Thầy sẽ đi gặp ông. Bình an cho con. Hãy mang bình an của Thầy cho mẹ Thầy và các bà môn đệ, cả Judas nữa.
Giêsu đi mau lẹ ra hành lang Salômôn, qủa vậy, Người gặp Maximin ở đó.
- Lazarô biết rằng Thầy ở đây. Ông muốn gặp Thầy để nói một điều quan trọng. Thầy sẽ đến chứ?
- Không nghi ngờ gì và không chậm trễ. Con có thể bảo ông chờ Thầy trong tuần này.
Maximin cũng ra đi sau vài câu khác.
- Chúng ta hãy đi cầu nguyện nữa, bởi vì chúng ta đã trở về tận đây - Giêsu nói, và Người đi về đại phòng dân Hy Bá.
Nhưng ngay gần đó, Người gặp người bại liệt được chữa lành đã trở lại cám ơn Chúa. Kẻ được phép lạ nhìn thấy Người giữa đám đông, anh ta chào Người cách vui mừng và kể cho Người những gì đã xảy ra tại hồ nước sau khi Người đã đi khỏi. Và ông kết thúc:
13
“Có người ngạc nhiên thấy con ở đây đầy sức khỏe, đã nói với con Thầy là ai: Thầy là Đức Messi, có thật không?”
- Ta là vậy. Nhưng dù con được chữa bởi nước hay bởi một quyền năng khác, con cũng luôn luôn có cùng một bổn phận đối với Thiên Chúa: sử dụng sức khỏe của con để hành động tốt. Con đã được khỏi, vậy hãy đi, với ý hướng tốt, lấy lại các hoạt động của đời sống, và đừng bao giờ phạm tội nữa, để Thiên Chúa không phạt con còn hơn nữa. Chào. Hãy đi bình an.
- Con già rồi... Con chẳng biết gì... Nhưng con muốn theo Thầy để phục vụ Thầy và để biết. Thầy có muốn con không?
- Thầy không xua đuổi ai. Nhưng hãy suy nghĩ trước khi đến, và nếu con còn quyết định thì hãy đến.
- Ở đâu? Con không biết Thầy đi đâu.
- Xuyên qua thế giới. Ở khắp nơi, con sẽ thấy các môn đệ, họ sẽ chỉ cho con đến với Thầy. Cầu xin Chúa soi sáng cho con nên tốt hơn.
Bây giờ Giêsu tới chỗ của Người và cầu nguyện...
Tôi không biết người được phép lạ có tự ý đến tìm các người Do Thái không hay những người này đã rình rập và chận anh ta lại để hỏi anh ta xem có phải người vừa nói chuyện với anh ta cũng là người đã chữa anh ta một cách lạ lùng không. Tôi chỉ biết rằng người đó nói chuyện với các người Do Thái rồi sau đó đi ra, và các người này lại chỗ bậc thềm, nơi Giêsu phải bước xuống để đi vào một sân khác để có thể ra khỏi Đền Thờ. Khi Giêsu tới đó, không chào hỏi gì, họ hỏi Người: “Vậy ông vẫn tiếp tục vi phạm ngày Sabát, mặc dầu tất cả những phiền trách đã được làm cho ông sao? Và ông lại muốn người ta kính trọng ông như đấng được Thiên Chúa sai đến?”
- Đấng được sai à? Còn hơn nữa: như Người Con, vì Thiên Chúa là Cha tôi. Nếu các ông không muốn trọng kính tôi thì thôi, nhưng tôi, tôi không ngừng làm tròn sứ mạng của tôi. Không có một lúc nào Thiên Chúa ngừng làm việc. Ngay cả lúc này Cha tôi cũng đang làm việc, và tôi cũng làm việc, vì một người con tốt thì làm
14
những điều cha nó làm, và bởi vì tôi đến trên trái đất để làm việc.
Người ta sáp lại gần để nghe bàn cãi. Giữa đám họ, có những người đã biết Giêsu, có những kẻ Người đã làm ơn cho, cũng có những kẻ mới thấy Người lần đầu; một số yêu Người, cũng có những kẻ ghét Người. Các tông đồ vây quanh lấy Thầy. Margziam hầu như sợ, khuôn mặt nhỏ của nó như muốn trào nước mắt.
Các người Do Thái, lẫn lộn luật sĩ, pharisiêu và saddu, họ kêu to điều xúc phạm của họ: “Ôi! Ông dám tự xưng là Con Thiên Chúa! Phạm thượng! Thiên Chúa là đấng tự hữu và Người đâu có con! Nhưng hãy gọi Gamaliel, hãy gọi Sađốc, hãy tụ họp các rabbi để họ nghe ông ta và ái ngại cho ông ta”.
- Các ông đừng xao động. Hãy đi gọi họ và họ sẽ nói cho các ông, nếu qủa thực họ biết rằng Thiên Chúa là Một và Ba: là Cha, Con và Thánh Linh, và rằng Ngôi Lời, tức là Con của Tư Tưởng, đã đến, như các tiên tri đã nói, để cứu Israel và thế giới khỏi tội. Ta là Ngôi Lời, Ta là Đức Messi đã được loan báo. Vậy không phải là phạm thượng nếu Ta gọi Ngôi Cha là Cha của Ta. Các ông lo âu vì Ta hoàn thành các phép lạ, bởi vì nhờ phép lạ, ta lôi kéo đám đông về với Ta và chinh phục họ. Các ông kết án Ta là ma qủi, bởi vì Ta thi hành những kỳ công. Nhưng Benzêbut đã ở trong thế giới từ bao thế kỷ rồi, và thực vậy, nó không thiếu những kẻ tận tâm thờ nó... vậy tại sao nó không làm những điều mà Ta làm?
Đám đông thì thầm: “Đúng vậy! Đúng vậy! Không ai làm được những điều ông này làm”.
Giêsu tiếp tục: “Ta nói với qúi vị: chính vì Ta biết những điều mà nó không biết, và Ta có thể những điều nó không thể. Ta làm những công việc của Thiên Chúa bởi vì Ta là Con Người. Tự mình thì người ta chỉ làm những điều nó đã thấy làm. Ta là Con, Ta chỉ có thể làm những điều Ta thấy Cha làm, bởi vì Ta là Một với Người từ đời đời, không có gì khác với Người về bản tính và quyền năng. Tất cả những gì Cha làm thì Ta cũng làm, vì Ta là Con. Benzêbut hay bất cứ ai khác, không thể làm những điều Ta làm, bởi vì Benzêbut và những người đó không biết những điều Ta biết. Chúa Cha yêu
15
Ta là Con Ngài, và Ngài yêu Ta không giới hạn cũng như Ta yêu Ngài. Vì vậy Ngài đã tỏ cho Ta và còn tỏ cho Ta nữa, tất cả những gì Ngài làm, để Ta làm như Ngài làm, Ta, ở dưới đất trong thời kỳ Ân Sủng này, Ngài, ở trên Trời, từ trước khi trái đất hiện hữu, và Ngài sẽ chỉ cho Ta những công trình luôn luôn lớn lao hơn để Ta hoàn thành nó và để qúi vị thán phục.
Tư tưởng của Ngài thì vô tận trong những hành động của Ngài. Ta, Ta bắt chước Ngài, với tư cách cũng vô tận trong sự hoàn thành những điều Chúa Cha muốn bằng tư tưởng của Ngài. Qúi vị, qúi vị không biết thế nào là việc sáng tạo mà không bao giờ hao mòn tình yêu. Chúng ta là Tình Yêu. Không có một giới hạn nào đối với chúng ta. Không có gì là không thể áp dụng cho ba mức độ của con người: phần hạ, phần thượng, phần siêu nhiên. Qủa vậy, cũng giống như Chúa Cha cho kẻ chết sống lại và trả sự sống cho nó, Ta là Con, Ta cũng vậy: Ta có thể ban sự sống cho ai Ta muốn. Và vì tình yêu vô tận của Chúa Cha đối với Chúa Con, Ngài đã cho Ta, không phải chỉ trả lại sự sống cho phần hạ, mà cho cả phần thượng, bằng cách giải phóng cho tư tưởng con người cũng như qủa tim họ khỏi những sai lầm, và giải phóng thần trí khỏi những tham vọng xấu, và giải phóng phần siêu nhiên bằng cách làm cho tâm hồn được độc lập với tội lỗi. Thực vậy, Chúa Cha không xét xử ai, vì Người đã đặt tất cả quyền xét xử cho Con, bởi vì Ngôi Con là đấng, bằng sự hy sinh riêng của Người, đã mua lấy nhân loại để cứu chuộc nó. Và điều đó, Chúa Cha đã làm vì sự công bằng, bởi vì thực sự là công bằng khi người ta đưa của được mua cho ai đã trả bằng tiền riêng của mình, để cho tất cả đều tôn vinh Ngôi Con cũng như họ tôn vinh Ngôi Cha.
Hãy biết rằng nếu qúi vị phân chia Cha ra khỏi Con hay Con ra khỏi Cha và không nghĩ tới Đấng Tình Yêu, là qúi vị không yêu Thiên Chúa như Người phải được yêu: yêu cùng với Chân Lý và Khôn Ngoan, tức là qúi vị phạm tội theo tà giáo, vì qúi vị chỉ tôn kính có một, trong khi Người là Một và Ba đáng kính. Cũng vậy, kẻ không tôn kính Ngôi Con thì cũng giống như nó không tôn kính
16
Ngôi Cha, vì Ngôi Cha, tức là Thiên Chúa, không chấp nhận là chỉ có một phần của Người được tôn kính, nhưng Người muốn cái Tất Cả của Người được tôn kính. Kẻ không tôn kính Ngôi Con thì cũng không tôn kính Ngôi Cha là đấng đã sai Con đi trong một tư tưởng hoàn toàn của Tình Yêu, và như vậy nó từ chối nhìn nhận rằng Thiên Chúa biết làm những điều chính đáng.
Thực vậy, Ta nói với qúi vị là ai nghe lời Ta và tin vào đấng đã sai Ta thì sẽ có sự sống đời đời và không bị kết án, nhưng nó sẽ băng qua từ sự chết vào sự sống, bởi vì tin vào Thiên Chúa và tiếp nhận lời Ta có nghĩa là tiếp nhận vào chính mình một sự sống không bao giờ chết. Giờ đang đến, và đối với nhiều người, giờ đã đến rồi, giờ mà những kẻ chết sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa, giờ mà những kẻ nghe tiếng đó vang dội cách sống động trong đáy lòng họ, sẽ được sống. Ông luật sĩ nói gì?
- Tôi nói là những kẻ chết thì chẳng còn nghe thấy gì nữa, và ông là thằng điên!
- Trời Cao sẽ thuyết phục ông rằng không phải như vậy, rằng khoa học của ông là không so với khoa học của Thiên Chúa. Các ông đã qúa nhân loại hóa những sự siêu nhiên đến nỗi các ông chỉ cho các từ ngữ một ý nghĩa nhất thời và thuộc về trái đất. Các ông đã dạy Haggadda với những công thức cứng ngắc, những công thức của các ông, và các ông không cố gắng hiểu những biểu tượng trong sự thật của nó. Và bây giờ, trong tâm hồn của các ông, mòn mỏi vì bị chèn ép bởi cái nhân tính đã thắng thần trí, các ông cả đến không tin nữa vào những điều mà các ông giảng dạy. Đó là lý do tại sao các ông không thể chiến đấu chống lại các sức mạnh thầm kín được nữa.
Cái chết mà tôi nói không phải là cái chết của thân xác, nhưng là của tâm hồn. Những kẻ nghe lời của Ta bằng tai và đón nhận nó trong lòng và đem ra thực hành, sẽ đến. Những kẻ đó, dù nó đã chết trong tâm hồn, nó cũng sẽ lại mặc lấy sự sống. Bởi vì Lời Ta là sự sống lan tỏa ra, và Ta có thể ban nó cho ai Ta muốn, bởi vì trong Ta có sự toàn thiện của Sự Sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống
17
hoàn toàn nơi Ngài, Chúa Con cũng có từ Chúa Cha sự sống trong chính mình Ngài, một sự sống hoàn hảo, trọn vẹn, vĩnh cửu, không thể hao mòn, có thể chuyển đạt. Và cùng với Sự Sống, Chúa Cha đã cho Ta quyền xét xử, bởi vì Con Chúa Cha cũng là con loài người, và Người có thể và phải xét xử loài người.
Các ông đừng ngạc nhiên về sự sống lại đầu tiên này, tức là sự sống lại siêu nhiên mà Ta thực hành bằng Lời của Ta. Các ông sẽ còn thấy những điều mạnh mẽ hơn nữa, mạnh mẽ hơn đối với giác quan nặng nề của các ông, bởi vì thật sự tôi bảo các ông rằng: không có gì lớn lao hơn sự sống lại vô hình nhưng thực sự của một tâm hồn. Sắp sửa đến giờ mà tiếng Con Thiên Chúa sẽ thâm nhập vào các nấm mồ, và tất cả những kẻ ở đó sẽ nghe thấy. Và những kẻ làm điều lành sẽ ra khỏi đó để sống lại vào sự sống đời đời, và những kẻ đã làm điều ác sẽ sống lại để bị luận phạt đời đời.
Tôi không bảo các ông là điều đó tôi làm và sẽ làm do chính tôi, chỉ do ý muốn của tôi, nhưng do ý muốn của Chúa Cha kết hợp với ý muốn của tôi. Tôi nói và tôi xét xử theo như tôi nghe, và sự xét xử của tôi ngay chính, vì tôi không tìm ý tôi, nhưng tìm ý đấng đã sai tôi.
Tôi không chia lìa với Chúa Cha. Tôi ở trong Người và Người ở trong tôi. Tôi biết Tư Tưởng của Người và tôi phiên dịch nó ra lời nói và hành động.
Điều mà tôi nói để minh chứng cho chính tôi thì không chấp nhận được đối với tâm hồn cứng lòng tin của các ông. Các ông không muốn thấy trong tôi cái gì khác ngoài một người giống như tất cả các ông. Cũng có một người khác làm chứng cho tôi, một người mà các ông nói là các ông tôn kính như một đại tiên tri. Tôi biết rằng sự minh chứng của Người là xác thực, nhưng các ông, các ông nói các ông tôn kính Người, nhưng các ông không muốn chấp nhận bằng chứng của Người, bởi vì nó khác với tư tưởng của các ông là những thứ đối nghịch với tôi. Các ông không chấp nhận bằng chứng của một người công chính, một vị tiên tri sau cùng của Israel, bởi vì khi những điều đó không phù hợp với các ông thì các
18
ông nói rằng ông ta cũng chỉ là một người và có thể sai lầm.
Các ông đã sai người đến để phỏng vấn Gioan, hy vọng ông ta sẽ nói về tôi như các ông ước ao, như các ông nghĩ về tôi. Nhưng Gioan đã làm chứng cho sự thật, và các ông không chấp nhận bằng chứng của ông ta, bởi vì vị tiên tri nói rằng Giêsu Nazarét là Con Thiên Chúa. Bởi vì các ông sợ đám đông, các ông chỉ nói trong chỗ sâu kín của con tim các ông rằng vị tiên tri điên, cũng như đấng Kitô điên. Nhưng tôi không nhận sự minh chứng của loài người, dù là vị thánh nhất của Israel. Tôi bảo các ông rằng Người là ngọn đèn cháy sáng, nhưng các ông qúa ít muốn thưởng thức ánh sáng của Người. Khi ánh sáng này chiếu trên tôi để cho các ông biết Đấng Kitô đúng như Người là, thì các ông đã để cái đèn trong một cái ống bằng sành, và cả lúc trước đó, các ông đã dựng lên một bức tường giữa ngọn đèn và các ông, để các ông không nhìn thấy Đấng Kitô của Chúa trong Ánh Sáng của Người.
Tôi biết ơn Gioan vì sự minh chứng của ông, và Chúa Cha cũng biết ơn ông vì đó. Gioan sẽ được phần thưởng rất lớn vì những minh chứng mà ông đã làm. Ông sẽ được sáng láng trên Trời, sẽ là mặt trời thứ nhất huy hoàng giữa tất cả những kẻ ở trên đó. Tất cả những ai trung thành với Chân Lý và đói khát sự công chính cũng sẽ sáng láng như vậy. Nhưng tôi, tôi có một bằng chứng lớn hơn bằng chứng của Gioan, bằng chứng này là các công việc của tôi. Bởi vì những công việc mà Chúa Cha đã cho tôi hoàn thành, những công việc này tôi làm, và chúng minh chứng rằng Chúa Cha đã sai tôi và cho tôi tất cả quyền hành. Như vậy chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, chính Người làm chứng cho tôi.
Các ông không bao giờ nghe tiếng Người, cũng không hề thấy dung nhan Người, nhưng tôi, tôi đã thấy Người và tôi vẫn thấy; tôi đã nghe tiếng Người và tôi vẫn nghe. Lời Người không ở trong các ông, bởi vì các ông không tin vào Đấng Người đã sai đến.
Các ông nghiên cứu Kinh Thánh vì các ông tin rằng nhờ sự hiểu biết nó, các ông sẽ được sự sống đời đời. Nhưng sao các ông không kể đến rằng chính Kinh Thánh nói về tôi? Tại sao các ông vẫn
19
không muốn đến với tôi để được sự sống? Tôi nói cái tại sao này cho các ông: Là vì khi có một điều ngược lại với ý nghĩ thâm căn cố đế của các ông, các ông liền xua đuổi nó. Các ông thiếu khiêm nhường, các ông không sao có thể nói: “Tôi lầm, người này hay sách này nói những điều đó, nhưng tôi sai”. Chính như vậy là điều các ông hành động đối với Gioan, đối với Kinh Thánh và đối với Ngôi Lời đang nói với các ông. Các ông không thể thấy, không thể hiểu được nữa, bởi vì các ông là tù nhân của kiêu căng, và bị choáng váng bởi tiếng nói của chính mình các ông.
Các ông nghĩ rằng tôi nói vậy vì tôi muốn được các ông ca ngợi? Không. Hãy biết điều đó. Tôi không tìm, cũng không chấp nhận vinh quang đến từ loài người. Điều tôi tìm và tôi muốn là phần rỗi đời đời của các ông. Đó là vinh quang mà tôi tìm. Sự vinh quang Vị Cứu Tinh của tôi sẽ không có, nếu tôi không có những kẻ được cứu, và mức độ vinh quang sẽ tăng với số những kẻ được cứu. Sự vinh quang sẽ được cho tôi bởi những tâm hồn mà tôi cứu, và bởi Chúa Cha và Thánh Linh rất trong sạch. Nhưng các ông, các ông sẽ không được cứu. Tôi biết các ông là gì. Các ông không có tình yêu Thiên Chúa trong các ông. Các ông là những kẻ không tình yêu, vì vậy các ông không đến với Tình Yêu đang nói với các ông, và các ông sẽ không vào Nước của Tình Yêu. Ở đó, các ông là những kẻ không được biết. Chúa Cha không biết các ông vì các ông không biết tôi là kẻ ở trong Chúa Cha. Các ông không muốn biết tôi.
Tôi đến nhân danh Cha tôi và các ông không tiếp nhận tôi, trong khi các ông sẵn sàng tiếp nhận bất cứ ai đến nhân danh riêng của họ, bởi vì họ nói những điều các ông thích. Các ông nói các ông là những tâm hồn có đức tin sao? Không, các ông không có. Làm sao các ông có thể tin trong khi các ông ăn mày nhau những vinh dự trái đất, và không tìm sự vinh quang trên Trời, vinh quang đến từ một mình Thiên Chúa? Vinh quang thật thì không thích những lợi lộc, những thứ dừng lại trên trái đất và chỉ vuốt ve cái nhân tính đồi bại của các con cháu thoái hóa của Ađam.
Tôi không kết án các ông trước mặt Chúa Cha, đừng nghĩ điều đó. Đã có người kết tội các ông, đó là Môise, người mà các ông
20
trông cậy. Ông ta sẽ khiển trách các ông vì đã không tin ông, bởi vì ông đã viết về tôi mà các ông không nhận biết tôi theo như ông đã viết và để lại. Các ông không tin ở lời Môise, người mà các ông cho là cao trọng, thì làm sao các ông có thể tin vào lời tôi, lời của Con Người, kẻ mà các ông không tin? Nói một cách nhân loại thì điều đó hợp lý. Nhưng ở đây chúng ta ở trong lãnh vực thần trí, và tâm hồn các ông đối chiếu với nó. Thiên Chúa quan sát các công việc của tôi trong ánh sáng của nó, và Người đối chiếu hành vi của các ông với những điều tôi đã giảng dạy, và Thiên Chúa sẽ xét xử các ông.
Về phần tôi, tôi ra đi. Trong một thời gian dài, các ông sẽ không thấy tôi, nhưng hãy tin rằng đó không phải là một chiến thắng cho các ông, nhưng là một gia hình. Chúng ta đi thôi.
Giêsu rẽ đám đông mà một số câm lặng, một số xì xèo những lời tán đồng mà sự sợ các pharisiêu đã làm cho nó giảm thiểu thành tiếng thì thầm, Giêsu ra đi.
88* TẠI BÊTANI:
“THƯA THẦY, MARIA ĐÃ GỌI MATTA”
Giêsu có Zêlote hộ vệ, tới vườn của Lazarô vào một buổi sáng đẹp mùa hè. Rạng đông chưa kết thúc, tất cả còn mát mẻ và tươi cười.
Người làm vườn chạy tới đón Thầy và chỉ cho Người một vạt áo trắng khuất sau một hàng rào cây và nói với Người: “Lazarô đang ngồi dưới dàn cây xanh với những ru-lô mà ông sắp đọc. Con đi gọi ông nhé!”
- Không, Thầy lại đó một mình.
Và Giêsu bước mau dọc theo một lối đi hai bên có hàng dậu cây xanh đầy hoa. Cỏ non mọc theo bờ dậu làm giảm tiếng động của bước chân, và Giêsu tìm cách đặt chân Người ngay trên cỏ để đến cách không ngờ trước mặt Lazarô.
21
Người bắt gặp ông đang đứng với những ru-lô trên cái bàn bằng đá cẩm thạch và cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng làm con thất vọng. Tia hy vọng này đã nảy sinh trong lòng con, xin Chúa làm cho nó lớn lên. Xin ban cho con điều mà bằng nước mắt của con, con đã xin Ngài mười, một trăm, một ngàn lần. Điều mà con đã xin Chúa bằng hành động, bằng sự tha thứ, bằng tất cả con người của con. Xin ban nó cho con để đổi lấy mạng sống con. Xin ban nó cho con nhân danh Giêsu. Người đã hứa với con sự bình an này. Người có thể nói dối không? Con có phải nói rằng lời hứa của Người là một từ ngữ vô ích không? Con có phải nói rằng quyền năng của Người ở bên dưới vực thẳm tội lỗi là em gái con không? Hãy nói cho con đi, lạy Chúa, để con ký thác con bằng tình yêu nơi Ngài...”
- Ừ, Ta nói điều đó với con - Giêsu nói.
Lazarô quay phắt lại và kêu: “Ôi lạy Chúa! Nhưng Thầy đến lúc nào vậy?” và ông cúi xuống hôn y phục của Giêsu.
- Mới có mấy phút thôi.
- Một mình à?
- Với Simon Zêlote, nhưng tại đây, chỗ con, Thầy đến một mình. Thầy biết con phải nói với Thầy một điều vĩ đại. Vậy hãy nói đi.
- Không, trước hết, phải trả lời cho câu hỏi mà con đã đặt ra trước Thiên Chúa, rồi tùy câu trả lời của Thầy, con sẽ nói.
- Nói cho Thầy đi! Nói cho Thầy cái điều vĩ đại này đi. Con muốn nói mà... - và Giêsu mỉm cười, mở rộng đôi tay để mời ông vào đó.
- Lạy Chúa Tối Cao! Nhưng thật à? Vậy Thầy, Thầy biết là đúng vậy sao?
Và Lazarô nép mình trong đôi tay Giêsu để tiết lộ cho Người điều vĩ đại của ông: “Maria đã gọi Matta về Magđala, và Matta đã đi, lo lắng, sợ có điều bất hạnh lớn hơn... Và con, con ở lại đây một mình với cùng một nỗi sợ. Nhưng Matta đã sai mang về cho con một lá thơ do người đầy tớ đi theo cô, một lá thơ cho con được đầy hy vọng. Thầy nhìn đây, con giữ nó ở đây, trên qủa tim con. Con để
22
nó ở đây, vì nó qúi hơn một kho báu đối với con. Chỉ có vài lời thôi, nhưng thỉnh thoảng con lại đọc để chắc chắn là nó đã được viết rõ ràng. Thầy coi này...” Và Lazarô lấy ra trong áo của ông một cuộn nhỏ, buộc bằng một sợi giây mầu tím và ông mở ra: “Thầy thấy không? Thầy đọc đi. Đọc to tiếng lên. Được đọc bởi Thầy, sự việc sẽ có vẻ chắc chắn hơn đối với con”.
“Lazarô, anh của em. Bình an và phúc lành cho anh. Em tới nơi rất lẹ và trong những điều kiện tốt, và qủa tim em không còn phập phồng vì sợ những điều bất hạnh mới, bởi vì em đã gặp Maria, Maria của chúng ta, trong sức khỏe dồi dào và... em có phải nói với anh không? Nó bớt xao xuyến hơn trước. Nó khóc trong lòng em, những nước mắt không dứt được... Rồi về đêm, trong căn phòng mà nó dẫn em tới, nó đã hỏi em biết bao và biết bao điều về Thầy. Lúc này thì không còn gì khác nữa. Nhưng em, em đã thấy mặt Maria và đã nghe tiếng nó, em nói rằng hy vọng đã vươn lên trong lòng em. Anh ơi, hãy cầu nguyện, hãy trông cậy. Ôi! Nếu đúng vậy!... Em còn ở lại đây, bởi vì em hiểu nó muốn có em ở bên cạnh nó, tựa như để được bảo vệ chống lại cám dỗ và để học... Cái gì? Điều mà chúng ta đã biết rồi: Lòng nhân từ vô hạn của Giêsu. Em nói với nó về người đàn bà đã tới Bêtani, em thấy nó suy nghĩ, suy nghĩ, suy nghĩ... Chúng ta phải có Giêsu. Hãy cầu nguyện, hy vọng. Xin Chúa ở cùng anh”.
Giêsu cuộn cái ru-lô và trả lại nó.
- Thầy...
- Thầy sẽ tới đó. Con có thể báo cho Matta đến đón Thầy ở Caphanaum trong vòng tối đa là mười lăm ngày nữa, kể từ lúc này.
- Vâng, lạy Chúa, con có thể. Còn con?
- Con ở lại đây, Matta cũng vậy. Thầy sẽ gặp lại nó ở đây.
- Tại sao?
- Bởi vì những kẻ được cứu chuộc có một sự thẹn thùng sâu xa, và không gì làm cho nó có cái cảm giác ấy hơn là con mắt của một người cha hay người anh. Thầy cũng vậy, Thầy bảo con: Hãy cầu nguyện, cầu nguyện, cầu nguyện.
23
Lazarô khóc trên ngực Giêsu... Rồi sau khi bình tĩnh lại, ông nói về sự lo lắng của ông, sự thất vọng của ông... “Điều đó đã gần một năm, con hy vọng... con thất vọng... Thời gian chờ sống lại thật là dài!” Ông kêu lên. Giêsu để cho ông nói, nói, nói... cho tới khi Lazarô nhận ra là ông đã thiếu bổn phận hiếu khách. Ông đứng dậy và dẫn Giêsu vào nhà. Để vào nhà, họ đi qua gần một hàng dậu cây lài rậm rạp đầy bông. Trên những bông hoa hình sao, các con ong vàng kêu vo vo.
- A! Con quên nói với Thầy: Vị lão trượng mà Thầy đã gởi cho con, ông đã trở về lòng Abraham. Maximin tìm thấy ông ngồi ở đây, đầu tựa vào hàng dậu này tựa như ngủ gần những tổ ong mà ông săn sóc, giống như đó là những căn nhà đầy những đứa trẻ vàng. Đó là tên ông đặt cho những con ong. Ông có vẻ hiểu chúng và được chúng hiểu. Và bên trên vị lão trượng ngủ bằng an với lương tâm tốt của ông, khi Maximin tìm thấy, có một tấm màn qúi hóa của các cơ thể vàng tí hon. Tất cả các con ong đều đậu trên người bạn của chúng. Các đầy tớ đã phải khó lòng để rứt chúng ra. Ông ta tốt đến nỗi ông có mùi mật ong. Ông thật thà đến nỗi có lẽ đối với bầy ong, ông ta là một bông hoa không bị nhiễm uế... Con buồn vì vậy. Con muốn có ông ta lâu hơn nữa trong nhà con. Đó là một người công chính...
- Đừng khóc ông ta. Ông đang ở trong bình an. Tại nơi bình an, ông cầu nguyện cho con vì đã làm êm dịu những ngày sau cùng của ông. Ông được chôn ở đâu?
- Ở đáy vườn cây, cũng gần các tổ ong. Đi, con dẫn Thầy tới đó...
Và họ đi qua một mảnh rừng nhỏ các cây nguyệt quế sáp vàng, tới nơi đặt những tổ ong đang vọng ra những tiếng vù vù của công tác.
Ngày 23 tháng 7, lúc 8 giờ sáng:
Một Judas vàng vọt xuống khỏi xe với Mẹ Chúa và các bà môn đệ khác, tức là các bà Maria, Jeanne và Êlise...
...Và vì lẽ có sự ồn ào trong nhà sáng nay nên con không thể viết được trong lúc con
24
nhìn thấy. Bây giờ đã 18 giờ, con chỉ có thể nói những điều con đã hiểu và đã nghe: Judas đang dưỡng bệnh, đã tới bên Giêsu lúc Người đang ở Gétsêmani, cùng với Maria, người đã săn sóc cho ông ta, và Jeanne, người đã năn nỉ để các bà và kẻ dưỡng bệnh trở về Galilê bằng xe. Giêsu đồng ý và cho đứa trẻ lên xe cùng với các bà. Trái lại, Jeanne và Êlise ở lại Jêrusalem mấy ngày, rồi sau đó Êlise về Betsur, Jeanne về Béther. Con nhớ rằng Êlise đã nói: “Bây giờ con có can đảm trở về đó, bởi vì đời con không còn phải là đời không đích. Con sẽ làm cho các bạn con yêu Thầy”. Và con nhớ Jeanne có nói thêm: “Và con, con sẽ làm việc đó trên đất của con bao lâu Chouza còn để cho con ở đây. Điều đó cũng là để phục vụ Thầy, dù con muốn đi theo Thầy hơn”.
Và con cũng nhớ Judas nói ông không tiếc vì không có mẹ ông ở đây, dù trong những giờ xấu nhất của cơn bệnh, bởi vì “Mẹ Thầy đã là một bà mẹ thực cho con: Êm dịu, dễ thương, và con không bao giờ quên”, ông ta đã nói. Ông ta còn bối rối trong các lời nói, nhưng con không nói tới, vì đó sẽ là con nói chứ không phải các nhân vật trong thị kiến.
89* MARGZIAM ĐƯỢC KÝ THÁC
CHO PORPHYRÊ, VỢ PHÊRÔ
Giêsu đang ở trên hồ Galilê với các tông đồ. Đây là một buổi sáng đẹp. Tất cả các tông đồ đều ở đây, bởi vì Judas đã hoàn toàn khỏi bệnh, cũng ở với các vị. Khuôn mặt ông êm đềm hơn bởi vì đã chịu đựng, và đã được hưởng các sự săn sóc mà người ta làm cho ông. Cũng có Margziam, nó hơi xúc động vì ở trên nước lần đầu tiên. Nó không muốn tỏ ra sợ, nhưng ở mỗi cái lắc hơi mạnh, nó bám chặt một tay vào cổ con chiên, cũng chia phần sợ hãi bằng những tiếng bê bê thê thảm, còn tay kia nó bám vào cái gì nó có thể: một cái cột, một cái ghế hay cái mái chèo, bất cứ cái gì ở tầm tay nó, kể cả chân của Phêrô hay Andrê khi họ đi lại để vận hành, và nó nhắm mắt, có lẽ nó tưởng đây là giờ sau cùng của nó.
Thỉnh thoảng Phêrô nói với nó và tát nhẹ trên má nó: “Hé! Mày không sợ chứ? Một môn đệ không bao giờ được sợ...” Và đứa trẻ lắc đầu ra hiệu là không, nhưng vì gió thổi mạnh hơn và nước càng lúc càng giao động khi họ tới gần cửa sông Giođan, nó gồng cứng lên hơn và nhắm mắt chặt hơn. Khi một con sóng đập vào mạn thuyền làm nó chạy xiêu vẹo, nó liền phát ra tiếng kêu sợ hãi.
Khi đó có những người cười và nhạo dỡn với Phêrô rằng ông đã trở nên cha của một đứa con trai không có căn thủy thủ, và họ dỡn
25
rằng Margziam luôn luôn nói nó sẽ đi qua các đất các biển để rao giảng Giêsu, mà nó lại sợ đi vài đoạn trên hồ. Nhưng Margziam tự vệ và nói: “Mỗi người sợ một điều lạ: tôi sợ nước, Judas sợ chết...”
Tôi hiểu rằng Judas đã rất sợ chết, và tôi ngạc nhiên vì ông không phản ứng gì về nhận xét này, trái lại, ông nói: “Mày nói đúng, người ta sợ cái người ta không biết. Nhưng bây giờ chúng ta sắp tới nơi, Bétsaiđa chỉ còn vài chặng nữa, và mày chắc chắn tìm thấy tình yêu ở đó. Tao, tao cũng muốn thấy mình như vậy: ở một chặng nhỏ gần nhà Cha và được chắc chắn là sẽ tìm thấy tình yêu ở đó”. Ông nói điều đó với vẻ mệt mỏi và buồn.
- Anh nghi ngờ Thiên Chúa sao? - Andrê ngạc nhiên hỏi.
- Không. Tôi nghi ngờ chính tôi. Trong những ngày bệnh, tôi được bao quanh bởi bao nhiêu người đàn bà tốt và trong sạch, và tôi cảm thấy tôi qúa bé nhỏ trong tâm trí của tôi. Tôi đã suy nghĩ biết bao! Tôi tự nhủ: nếu các bà luôn luôn cố gắng để trở nên tốt hơn và đạt được nước Trời, sao tôi lại không làm? Bởi vì các bà, đối với tôi, đã là các bà thánh rồi, mà còn tự nhận là kẻ tội lỗi. Còn tôi?... Có lẽ con chẳng bao giờ tới được chỗ đó, Thầy nhỉ?
- Với thiện chí, người ta có thể tất cả.
- Nhưng ý chí của con rất bất toàn.
- Sự giúp đỡ của Thiên Chúa sẽ cho nó những sự nó thiếu để trở nên toàn thiện. Sự khiêm nhường hiện giờ của con đã đến từ cơn bệnh. Con thấy rằng Thiên Chúa nhân từ đã dự liệu, bởi một đau khổ bất ngờ, để cho con một điều mà con không có.
- Đúng vậy Thầy. Nhưng các bà này! Những môn đệ toàn vẹn chừng nào! Con không nói về Mẹ Thầy. Đối với Mẹ, người ta biết rồi. Con nói về những bà khác. Ôi! Thật đúng, các bà đã vượt qua chúng ta. Con đã là một bằng cớ về sứ mạng tương lai của các bà. Nhưng Thầy tin con đi. Thầy có thể nghỉ ngơi an toàn nơi các bà. Êlise và con, chúng con đã được các bà săn sóc, và Êlise đã trở về Betsur với một tâm hồn được mới lại, còn con... Con hy vọng làm lại nó, bởi vì các bà cũng đã săn sóc nó...
Judas hãy còn yếu. Ông khóc. Giêsu ngồi gần ông, để một tay
26
lên đầu ông và làm hiệu cho những người khác đừng nói gì hết.
Phêrô và Andrê rất chú tâm vào việc vận hành cập bến nên đương nhiên không nói gì. Về phần Zêlote, Mathêu, Philíp và Margziam, chắc chắn họ cũng không cố nói. Margziam lơ là đi do cái lo âu vì đã tới nơi, còn những người khác là do sự thận trọng tự nhiên.
Con thuyền xuôi dòng Giođan một lát rồi ngừng lại ở bờ. Các cậu con trai nhảy xuống để giữ cho thuyền đứng yên. Họ buộc giây thuyền vào một tảng đá và bắc tấm gỗ dùng làm cầu. Phêrô mặc lại y phục, Andrê cũng vậy. Chiếc thuyền thứ hai làm cùng một kiểu vận hành và các tông đồ lên khỏi thuyền. Giêsu và Judas cũng lên trong khi Phêrô trao cho đứa bé chiếc áo nhỏ của nó, sửa soạn cho nó ngay ngắn để nó dễ coi khi trình diện với vợ ông.
Đây, bây giờ tất cả đều ở trên đất, kể cả các con chiên.
- Bây giờ chúng ta đi thôi - Phêrô nói. Ông thực sự xúc động. Ông đưa tay cho đứa trẻ mà đến lần nó cũng xúc động tới nỗi nó quên những con chiên mà Gioan giữ cho nó. Nó hỏi trong một cảm giác sợ sệt bất ngờ: “Nhưng bà có muốn con không? Bà có sẽ yêu con mãi không?” Phêrô bảo đảm với nó. Nhưng có lẽ cái sợ nó cũng lây lan, nên ông nói với Giêsu: “Xin Thầy nói với bà. Thầy là Thầy, hãy nói với Porphyrê. Con, con sợ không biết nói”. Giêsu mỉm cười và Người hứa sẽ lo việc đó.
Họ tới nhà mau lẹ khi băng qua bãi sạn. Qua chiếc cửa mở rộng, ta thấy Porphyrê đang lo việc nội trợ.
- Bình an cho bà - Giêsu nói khi Người tiến lên trước tới cái cửa nhà bếp, trong đó người đàn bà đang sắp xếp chén bát.
- Thầy! Simon! - Người đàn bà chạy tới qùi dưới chân Giêsu, rồi dưới chân chồng bà. Rồi bà đứng dậy, và với khuôn mặt dễ thương - nếu không đẹp - bà nói khi nó đỏ bừng: “Con chờ đợi qúi vị qúa lâu rồi! Qúi vị khỏe mạnh tất cả không? Vào đây, vào đây! Chắc chắn qúi vị mệt...”
- Không, chúng ta đến từ Nazarét, nơi chúng ta đã ở lại mấy ngày. Chúng ta cũng đã có các chặng dừng chân khác ở Cana, ở
27
Tibêriat, nhờ có thuyền. Bà thấy là chúng ta đâu có mệt. Chúng ta có ở với chúng ta một đứa trẻ và có Judas Simon hơi yếu đi sau một cơn bệnh.
- Một đứa trẻ à? Một môn đệ tí hon?
- Một đứa trẻ mồ côi mà chúng ta đã tiếp nhận ở dọc đường.
- Ôi! Cưng của tôi! Kho báu của tôi! Lại đây để bà hôn con.
Đứa trẻ im lặng cách sợ sệt, lấp ló sau lưng Giêsu, bây giờ nó để cho người đàn bà dắt đi. Bà qùi gối để có cùng một chiều cao với nó, và nó để bà hôn, không do dự.
- Và bây giờ qúi vị dẫn nó đi với qúi vị sao? Luôn luôn với qúi vị à? Qúa nhỏ! Nó sẽ mệt - Người đàn bà rất thương xót. Bà ôm chặt đứa bé trong tay bà và giữ má bà ép vào má nó.
- Thực ra, Thầy có ý nghĩ khác, là giao phó nó cho một người đàn bà môn đệ, khi chúng ta phải đi xa Galilê, xa cái hồ...
- Cho con, lạy Chúa, sao không? Con, con không có con, nhưng có các cháu, đúng, và con biết săn sóc trẻ con. Con là người môn đệ không biết nói, không có sức khỏe để đi theo qúi vị như những bà khác... Ôi! Thầy biết mà. Con có thể hèn, nếu Thầy muốn nói vậy. Nhưng Thầy biết con bị giữ bởi những gọng kìm nào. Gọng kìm, con đã nói gì? Không, con ở giữa hai sợi giây, chúng kéo con về hai phía đối nghịch, và con không có can đảm để cắt đứt một. Xin Thầy cho phép con, ít nhất được phục vụ Thầy một chút bằng cách làm môn-đệ-mẹ cho một đứa trẻ. Con sẽ dạy cho nó điều mà các môn đệ khác dạy cho bao người: dạy nó yêu Thầy...
Giêsu đặt tay trên đầu bà, mỉm cười và nói: “Thầy dẫn nó tới đây, bởi vì ở đây, nó sẽ tìm thấy một người mẹ và một người cha. Đây, chúng ta hãy thành lập gia đình”.
Giêsu đặt tay của Margziam trong tay Phêrô, mắt ông sáng rỡ, và trong tay Porphyrê: “Hãy nuôi nấng đứa trẻ thơ ngây này cách thánh thiện”.
Phêrô là người đã biết chuyện, liền lau giọt nước mắt bằng mu bàn tay ông. Nhưng người đàn bà, vì không chờ đợi việc đó, nên bất động, câm lặng một lúc vì ngẩn ngơ. Rồi bà lại qùi gối và nói: “Ôi lạy Chúa con! Chúa đã lấy đi người chồng của con và hầu như
28
có thể nói: làm cho con thành góa bụa. Nhưng bây giờ Chúa ban cho con một đứa con trai, vậy Chúa đã trả lại tất cả mọi thứ hoa hồng cho đời con, không phải chỉ những điều mà Chúa đã lấy của con, mà cả những thứ mà con không bao giờ có. Nguyện cho Chúa được chúc tụng. Đứa trẻ này sẽ thân yêu đối với con hơn là nếu nó đã được sinh ra bởi lòng dạ con, bởi vì nó đến từ Thầy”. Người đàn bà hôn y phục của Giêsu và hôn đứa bé, rồi ẵm nó trong lòng... Bà sung sướng...
- Chúng ta hãy để bà tự do bộc lộ. Simon, con cũng hãy ở lại nhà. Chúng ta đi vào thành phố để rao giảng. Thật trễ vào buổi tối, chúng ta sẽ trở lại đây để xin ăn và nghỉ ngơi.
Và Giêsu đi ra với các tông đồ, để lại ba người trong bình an...
Gioan nói: “Lạy Chúa! Bữa nay Phêrô thật sung sướng!”
- Con cũng muốn một đứa trẻ à?
- Không. Con chỉ muốn một đôi cánh để bay lên tận cửa Trời và học cái ngôn ngữ của ánh sáng để nói lại cho loài người - và ông mỉm cười.
Họ buộc những con chiên ở cuối vườn, gần căn lều để lưới. Họ cho nó lá, cỏ và nước giếng. Rồi họ ra đi về phía trung tâm thành phố.
90* GIÊSU NÓI TẠI BÉTSAIĐA
Giêsu nói từ nhà của Philíp. Có rất nhiều người tụ họp trước nhà và Giêsu đứng tại ngưỡng cửa, nơi người ta nhìn thấy được nhờ bậc thềm cao.
Tin tức về việc Phêrô thừa nhận một đứa trẻ, và nó tới với cái gia tài nhỏ: ba con chiên của nó, để tìm lại cái sung túc lớn lao của một gia đình, đã lan ra như một vết dầu loang trên vải. Tất cả đều nói về chuyện đó và xì xèo những lời phê bình phù hợp với các tâm tính khác nhau. Những người chân thành: bạn bè của Phêrô và Porphyrê thì chia sẻ niềm vui của họ. Những người khác, xấu bụng, thì nói: “Thừa nhận như vậy, ông có quyền thừa hưởng gia tài”.
29
Một người hào hiệp khác nói: “Tất cả chúng ta đều yêu thương đứa trẻ mà Giêsu yêu”. Một người khác nói cách dã tâm: “Sự quảng đại của Simon à? Phải, chắc rồi, nhưng đó là điều có lợi cho ông, nếu không...” Những kẻ tham lam thì: “Tôi cũng sẽ làm vậy nếu có một đứa trẻ với các con chiên. Ba con, qúi vị nghĩ coi! Một đoàn vật nhỏ, và lại đẹp! Như vậy len và sữa là bảo đảm. Rồi sẽ có các con chiên nhỏ để bán hoặc để nuôi! Đó là sự giầu có! Và đứa trẻ sẽ hữu ích, làm việc...”
Những người khác nữa thì cao giọng: “Ôi! Xấu hổ chừng nào! Bắt trả giá cho một hành động tốt? Chắc chắn Simon thiếu suy nghĩ. Trong nguồn lợi nhỏ mọn do đánh cá, chúng ta luôn luôn thấy ông quảng đại với người nghèo, nhất là với trẻ em. Vậy thật chính đáng là bây giờ ông không còn thu hoạch do đánh cá, và gia đình ông lại thêm một miệng ăn, nên ông phải thu hoạch một chút bằng cách khác”.
Trong khi mỗi người phê bình bằng những điều rút ra từ con tim họ, điều tốt cũng như điều xấu, và mặc cho nó những lời lẽ, thì Giêsu nói với một người đàn ông đến từ Caphanaum. Ông ta đến gặp Người để xin Người đến sớm hết sức, vì con gái của ông trưởng giáo đường sắp chết, và cũng vì từ mấy ngày nay, có một người đàn bà với cô đầy tớ hộ vệ đi tìm Người. Giêsu hứa sẽ tới vào sáng hôm sau. Điều đó làm phật ý dân Bétsaiđa, vì họ muốn giữ Người nhiều ngày.
- Các con cần Thầy ít hơn những người khác. Hãy để Thầy đi. Hơn nữa bây giờ, bao lâu còn là mùa hè, Thầy sẽ ở lại Galilê và thường ở Caphanaum, chúng ta sẽ gặp nhau dễ dàng. Ở đó có một người cha và một người mẹ đang lo âu, vì đức bác ái, cần cứu giúp họ. Các con, những người tốt giữa các con, đã xác nhận lòng tốt của Phêrô đối với đứa trẻ mồ côi. Nhưng chỉ có sự xét đoán của các người tốt mới có giá trị. Không nên nghe sự xét đoán của những người xấu, vì nó luôn luôn tẩm đầy chất độc và dối trá. Vậy các con, những người tốt, cũng phải chấp nhận cho lòng tốt của Thầy đi nâng đỡ một người cha và một người mẹ. Hãy giữ mình, đừng để sự
30
xác nhận của các con thành trơ trơ không sinh ích, nhưng nó phải giúp các con bắt chước.
Mọi điều tốt đều đến từ một hành động tốt. Các trang Sách Thánh đều nói điều đó. Các con hãy nhớ lại Tobít: ông xứng đáng được Tổng Lãnh thiên thần bảo vệ thằng Tobie của ông và chỉ cho nó phải làm sao để trả lại cái nhìn cho cha nó. Vị công chính Tobít đã làm trọn đức bác ái chừng nào mà không nghĩ tới lợi dụng, mặc dầu những khiển trách của vợ ông và những nguy hiểm đe dọa đời sống ông! Các con hãy nhớ các lời của tổng lãnh thiên thần: “Thật là điều tốt khi lời cầu nguyện đi kèm sự chay tịnh, và sự bố thí có giá trị hơn những núi vàng, vì sự bố thí giải phóng cho khỏi chết, thanh tẩy tội lỗi, làm cho tìm thấy lòng thương xót và đời sống vô tận... Khi ngươi cầu nguyện trong nước mắt và ngươi chôn cất các người chết, Ta đã trình bày lời cầu nguyện của ngươi trước mặt Chúa”.
Ông Simon của Thầy, thật vậy, Thầy bảo các con, đã vượt qua rất xa các nhân đức của ông già Tobít. Ông ta sẽ ở lại để làm người giám hộ cho linh hồn các con trong đời sống của Thầy sau khi Thầy đã ra đi. Bây giờ ông đã bắt đầu tình phụ tử của ông đối với các linh hồn, để sau này trở thành người cha rất thánh thiện của hết mọi linh hồn sẽ trung thành với Thầy. Vậy đừng dèm pha. Và nếu có ngày nào đó, các con gặp thấy trên đường của các con một đứa trẻ mồ côi, giống như một con chim bị rơi khỏi tổ, các con hãy đón nhận nó. Không phải một miếng bánh chia sẻ với đứa trẻ mồ côi sẽ làm cho nghèo nàn bàn ăn của các người con thực sự, nhưng trái lại, nó sẽ mang tới cho gia đình phúc lành của Thiên Chúa. Hãy làm điều đó, vì Thiên Chúa là cha các kẻ mồ côi, và chính Người giới thiệu nó với các con để các con giúp nó làm lại cái tổ ấm mà sự chết đã phá mất. Hãy làm như vậy, bởi vì đó là giáo huấn của lề luật mà Thiên Chúa đã truyền cho Môise là nhà lập pháp của chúng ta. Vì sống trong đất của kẻ thù và của tà thần, mà trong sự yếu đuối trẻ thơ của ông, ông đã được một con tim đầy tình thương cúi xuống trên ông để cứu ông khỏi chết bằng cách cứu ông khỏi nước, được khỏi bị bách hại, vì Thiên Chúa đã tiền định cho ông làm
31
người giải phóng cho Israel. Một hành động thương xót đã đáng giá một thủ lãnh cho Israel. Hậu qủa của một hành vi tốt giống như những làn sóng âm thanh vang đi rất xa cho tới nơi nó sinh sản, hoặc nếu các con thích hơn, thì nó giống như những luồng gió mang
đi rất xa những hạt giống nó đã lấy ở nơi đất mầu mỡ. Bây giờ giải tán đi. Bình an cho các con.
91* NGƯỜI ĐÀN BÀ BĂNG HUYẾT
VÀ CON GÁI JAIRÔ
Thị kiến thể hiện khi con cầu nguyện, rất mệt mỏi và lo lắng, và vì vậy con ở trong những điều kiện xấu nhất để suy nghĩ về chính con và về những sự giống như vậy. Nhưng sự mệt mỏi thể chất và tinh thần cũng như sự lo lắng liền tan biến khi Giêsu của con hiện ra và con viết.
Giêsu đang ở trên một con đường đầy ánh mặt trời và bụi bặm ở bờ hồ. Người đi về phía nội địa, bị bao vây bởi một đám người rất đông. Chắc chắn họ đã chờ Người và họ chèn ép chung quanh Người, mặc dù các tông đồ húc cùi chỏ và đẩy vai để Người có thể đi qua, và các vị cả tiếng yêu cầu đám đông nhường một tí chỗ.
Nhưng Giêsu không lo gì về sự chen chúc này. Cao hơn đám đông vây quanh Người một cái đầu, Người nhìn họ bằng nụ cười êm đềm khi họ bao vây lấy Người. Người trả lời các tiếng chào, vuốt ve vài đứa trẻ đã thành công len lỏi vào giữa đám người lớn để tới gần Người. Người để tay trên những đứa bé mà mẹ nó giơ lên bên trên đầu các người khác để Người đụng vào nó, trong khi bước từ từ một cách kiên nhẫn giữa những ồn ào, những chen lấn liên tục làm phiền tất cả những người khác, ngoại trừ Người.
Có tiếng một người đàn ông kêu lên: “Tránh chỗ! Tránh chỗ!” Đó là tiếng nói lo âu, và là giọng mà mọi người phải biết và kính trọng như của một nhân vật có ảnh hưởng, vì đám đông, dù nó rất chen chúc, cũng mở ra được một cách khó khăn để cho đi qua một người trạc năm mươi tuổi, mặc y phục dài và rộng, đầu đội một khăn trắng để rũ xuống mặt và cổ. Đến trước mặt Giêsu, ông qùi
32
dưới chân Người và nói: “Ôi! Thầy! Tại sao Thầy vắng mặt qúa lâu? Con gái nhỏ của con qúa bệnh, không ai chữa được nó, chỉ có mình Thầy. Thầy là hy vọng của con và của mẹ nó. Xin Thầy đến. Con đã chờ Thầy với niềm lo lắng vô tận. Xin Thầy đến, đến ngay lập tức. Đứa con độc nhất của con đang hấp hối...” và ông khóc.
Giêsu đặt tay trên đầu người đàn ông đầy nước mắt, trên cái đầu đang cúi và rung rinh vì những tiếng nấc, và Người trả lời: “Đừng khóc, hãy tin. Con gái ông sẽ sống. Chúng ta hãy tới bên nó. Hãy đứng dậy, chúng ta đi”. Giêsu nói hai tiếng sau cùng bằng giọng truyền lệnh. Trước đó là đấng an ủi, bây giờ là đấng thống trị nói.
Họ lại lên đường. Giêsu ở bên cạnh người cha đang khóc, Người cầm tay ông. Khi một tiếng nấc mạnh hơn làm con người đau khổ rung chuyển, tôi thấy Giêsu nhìn ông và cầm tay ông chặt hơn. Người không làm gì khác, nhưng hẳn là một sức mạnh chừng nào đã chảy vào tâm hồn ông khi ông thấy mình được Giêsu đối xử như vậy! Trước đó, ở vị trí của người cha là Giacôbê, nhưng Giêsu đã bảo ông nhường chỗ cho người cha đau khổ. Phêrô ở phía bên kia, Gioan ở bên cạnh Phêrô, và hai ông cố làm một hàng rào cản đám đông, cũng như Giacôbê và Iscariot làm ở phía bên kia, gần người cha đang khóc. Các tông đồ khác thì một phần ở phía sau, một phần ở phía trước. Nhưng cần phải có những người khác, nhất là ba vị ở phía sau, trong đó tôi thấy có Mathêu, không đủ sức làm hàng rào sống. Khi họ la hơi lớn hay chửi đám đông một cách kín đáo, tôi thấy Giêsu quay mặt lại và nói nhỏ nhẹ: “Hãy để những kẻ bé mọn này làm. Họ thuộc về Thầy...”
Nhưng vào một lúc, thình lình Người quay phắt lại, buông tay người cha và dừng lại. Không phải Người chỉ quay đầu, nhưng quay toàn thân lại. Người có vẻ còn cao hơn nữa, vì Người đã lấy thái độ của ông vua. Với khuôn mặt và cái nhìn khắt khe, tra xét, Người kiểm soát đám đông. Đôi mắt Người phát ra những tia chớp bộc lộ, không phải sự khắc nghiệt, nhưng sự oai phong. Người hỏi: “Ai đã đụng vào Ta?”
33
Không ai trả lời cả.
- Ai đã đụng vào Ta, Ta nhắc lại? - Giêsu nhấn mạnh. Các môn đệ trả lời: “Thưa Thầy, Thầy không thấy là đám đông chèn ép Thầy tứ phía sao? Hết mọi người đều đụng vào Thầy, mặc dù sự cố gắng của chúng con”.
- Ai đã đụng vào Thầy để được một phép lạ, Thầy hỏi điều đó. Thầy cảm thấy một sức mạnh lạ lùng từ Thầy thoát ra bởi vì có một con tim đã xin nó bằng đức tin. Ai là con tim này?
Trong khi nói, hai ba lần đôi mắt Giêsu hạ xuống trên một người đàn bà khoảng năm chục tuổi, ăn mặc rất nghèo, mặt mũi rất nhăn nheo. Bà tìm cách lánh mặt trong đám đông, trốn ẩn trong đám hỗn tạp. Chắc chắn đôi mắt Người thiêu đốt bà, bà cảm thấy không hy vọng trốn được nên liền trở lại và qùi phục dưới chân Giêsu, mặt mũi hầu như vùi trong bụi, đôi tay đưa về phía trước nhưng không dám đụng vào Giêsu:
- Xin tha, chính con. Con bị bệnh. Con đã bệnh mười hai năm rồi. Mọi người trốn tránh con, chồng con bỏ rơi con. Con đã tiêu hết gia tài để người ta không coi con như sự nhục nhã, để sống như mọi người, nhưng không ai có thể chữa con. Thầy thấy đó, con đã già trước tuổi. Sức lực của con đã ra đi cùng với dòng huyết vô phương cứu chữa này, và sự bình an của con ra theo cùng với nó. Người ta đã bảo con là Thầy nhân từ. Người bảo con điều đó cũng đã được Thầy chữa cho khỏi bệnh cùi, người mà bao năm phải thấy thế giới tránh xa, đã không tỏ ra ghê sợ con. Con đã không dám nói điều đó trước, con xin Thầy tha. Con đã nghĩ rằng nếu con đụng vào Thầy, con sẽ được khỏi. Nhưng con không làm Thầy ra ô uế. Con chỉ hơi đụng phớt vào gấu áo của Thầy, nơi kéo lê trên đất, trên rác rến của mặt đất... Con cũng vậy, con là một cái rác... Nhưng con đã được khỏi. Cầu Thầy được chúc tụng. Lúc con đụng vào áo Thầy, bệnh con đã ngừng lại, con lại trở nên như mọi người đàn bà khác. Con sẽ không bị mọi người xa lánh nữa. Chồng con, các con con, cha mẹ con, có thể ở với con. Con có thể âu yếm họ. Con sẽ ích lợi cho gia đình. Cám ơn Giêsu, Thầy nhân lành. Chúc tụng Thầy đời
34
đời.
Giêsu nhìn bà với lòng nhân từ vô hạn. Người mỉm cười và nói với bà: “Hỡi con, hãy đi bằng an. Đức tin của con đã cứu con. Hãy được khỏi dứt khoát. Hãy tốt và hạnh phúc. Đi đi”.
Khi Người còn đang nói thì có một người đàn ông tới, tôi nghĩ đó là một đầy tớ. Ông nói với người cha, trong lúc này vẫn đứng yên với thái độ trọng kính, nhưng bồn chồn tựa như ông ở trên lửa: “Con ông chết rồi, còn làm phiền Thầy cách vô ích làm chi. Cô ấy đã trút linh hồn, và các người đàn bà đã hát ai ca. Mẹ cô sai đến nói với ông như vậy, và xin ông trở về nhà ngay”.
Người cha tội nghiệp phát ra một tiếng rên. Ông lấy tay ôm trán, bịt chặt lấy mắt, cúi gù xuống tựa như ông bị những cú đánh.
Giêsu tỏ ra như không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì, Người chỉ chú ý nghe người đàn bà và trả lời cho bà, nhưng rồi Người quay về, đặt bàn tay trên vai cúi gù của người cha đau khổ: “Ông ơi, Thầy đã bảo ông: Hãy tin. Thầy nhắc lại cho ông: Hãy tin. Đừng sợ, con gái ông sẽ sống. Chúng ta hãy đi tìm nó”. Và Người lại lên đường trong khi kéo sát người đàn ông kiệt lực vào với Người và bước đi như vậy. Trước sự đau khổ này và trước ân huệ đã xảy ra, đám đông hết dám lấn lướt, liền tránh ra để Giêsu và các người của Ngài đi tự do, và họ đi theo như một dòng nước, đàng sau vị ân phước.
Họ đi như vậy khoảng trăm mét, có lẽ hơn - tôi không biết phỏng đoán chính xác - luôn luôn đi sâu hơn vào trung tâm vùng. Có một đám đông người tụ tập trước một căn nhà đẹp, họ phê bình lớn tiếng về biến cố, được trả lời bằng những tiếng kêu xé tai và những tiếng kêu sắc nhọn nhức óc, thoát ra từ chiếc cửa mở rộng. Đó là những tiếng kêu rít rất bắc, giữ ngang những nốt cố định, hình như được điều khiển bởi một giọng sắc hơn nổi lên một mình, và một nhóm giọng yếu hơn trả lời, rồi tới một hợp ca những giọng bình. Đó là một ồn ào có thể làm chết cả người khỏe mạnh.
Giêsu ra lệnh cho các người của Ngài đứng lại ở lối ra, rồi Người gọi Phêrô, Gioan và Giacôbê cùng đi với Người. Người vào trong
35
nhà với họ, luôn luôn cầm chặt tay người cha đầy nước mắt. Tựa như bằng sự ghì chặt này, Người muốn truyền cho ông sự chắc chắn rằng Người ở đây để làm cho ông được sung sướng. Những kẻ khóc (tôi nói là những kẻ gầm thét), khi nhìn thấy ông chủ nhà và ông Thầy, họ liền gia tăng gấp đôi những tiếng gào của họ. Họ vỗ tay, đập trống, làm kêu lên những thanh tam giác, và họ đệm những lời than của họ vào bản hợp âm này.
- Nín đi! - Giêsu nói. “Không được khóc. Đứa bé không chết. Nó ngủ”.
Các người đàn bà rống mạnh hơn, và một số lăn lộn trên đất, cào cấu, giựt tóc (hay làm gần như vậy), để chứng tỏ rằng nó đã chết rõ ràng. Các nhạc sĩ và các bạn hữu lắc đầu trước lời nói bóng của Giêsu. Họ tin thật là Người nói bóng. Nhưng Người nhắc lại một “Nín đi” đầy ứ nghị lực tới nỗi sự ồn ào, dù không hoàn toàn im bặt, nhưng cũng trở nên một thì thầm, và Người tiến lên.
Người đi vào một phòng nhỏ. Đứa bé đã chết nằm trên giường, gầy gò, tái mét. Nó đã được thay đồ và mái tóc nâu đen của nó được chải cẩn thận. Bà mẹ ở bên phải, khóc bên giường và hôn bàn tay nhỏ vàng khè của người chết. Giêsu... Lúc này Người đẹp chừng nào! Rất ít khi tôi được thấy Người như vậy. Giêsu vội vã lại gần, tựa như Người lướt trên đất trong khi bay, vì Người rất vội vã đi lại chiếc giường nhỏ này.
Ba vị tông đồ ở lại bên cửa mà họ đã đóng lại trước mũi những người tò mò. Người cha đứng lại ở cuối giường.
Giêsu đến bên trái giường, Người giơ tay trái ra, cầm bàn tay nhỏ của người chết, bàn tay buông thòng. Tôi thấy rất rõ: bàn tay trái của Giêsu cầm bàn tay trái của đứa nhỏ. Người giơ cánh tay phải ra ngang vai, bàn tay mở xòe, rồi hạ xuống như một người thề hoặc ra lệnh. Người nói: “Con bé gái, Ta truyền cho con: hãy trỗi dậy”.
Một lúc mà mọi người, trừ Giêsu và người chết, như hồi hộp nín thở. Các tông đồ nghển cổ lên để coi cho rõ hơn. Người cha và người mẹ nhìn con họ đăm đăm, mắt chuẩn định. Một lát qua đi, rồi một hơi thở làm phồng lồng ngực của đứa trẻ chết, một mầu hồng
36
lợt nở trên khuôn mặt vàng khè như sáp, và làm biến đi cái mầu tái mét của sự chết. Một nụ cười nở trên đôi môi lợt trước khi đôi mắt mở ra, tựa như đứa bé gái đã mơ một giấc mơ đẹp. Giêsu vẫn luôn luôn giữ tay nó trong tay Người. Đứa bé từ từ mở mắt. Nó nhìn tất cả chung quanh tựa như nó vừa thức dậy. Nó thấy khuôn mặt của Giêsu trước tiên. Người nhìn nó đăm đăm bằng đôi mắt tuyệt vời của Người và mỉm cười với nó bằng một sự nhân từ khích lệ nó, và nó mỉm cười với Người.
- Con bò dậy đi - Giêsu nhắc lại và người lấy tay vơ gọn lại những đồ thuộc về đám tang để ở trên giường và ở bên cạnh (hoa, màn v.v.). Người giúp nó xuống khỏi giường, cho nó bước những bước đầu tiên, trong khi vẫn cầm tay nó.
- Bây giờ hãy cho nó ăn - Người ra lệnh. “Nó đã được khỏi. Thiên Chúa trả nó lại cho ông bà. Hãy tạ ơn Người và đừng nói với ai về những gì đã xảy ra cho nó. Ông bà đã tin và đáng được hưởng phép lạ. Những người khác không có đức tin, vô ích để thuyết phục họ. Với những kẻ từ chối phép lạ, Thiên Chúa không tỏ mình ra cho họ. Còn con, con gái nhỏ, hãy tốt. Chào. Bình an cho nhà này”. Và
Người đi ra, Người khép cửa lại sau lưng Người. Thị kiến chấm dứt.
Con thưa Cha là có hai chi tiết làm con đặc biệt vui mừng, là cảnh Giêsu tìm trong đám đông kẻ đã đụng vào Người, và nhất là cảnh Người đứng bên đứa trẻ chết, cầm tay nó và truyền cho nó trỗi dậy. Sự bình an và sự xác tín đã vào trong con: Một người hay thương xót và mạnh mẽ như Người không thể không thương chúng ta và toàn thắng sự dữ đã giết chết chúng ta.
Lúc này Giêsu không có các lời phê bình, cũng như Người không nói gì về những điều khác. Người thấy con hầu như đã chết, và Người không xét là vào đúng chiều nay con khá hơn. Cầu cho mọi sự được như Người muốn. Con đã đủ sung sướng vì có được thị kiến về Người.
92* GIÊSU VÀ MATTA TẠI CAPHANAUM
Đầy mồ hôi và bụi bặm, Giêsu với Phêrô và Gioan đi vào trong căn nhà tại Caphanaum.
Vừa đặt chân vào trong vườn để đi về phía nhà bếp thì ông chủ gọi Người cách thân mật và nói: “Giêsu, người đàn bà mà con nói
37
với Thầy ở Bétsaiđa, bà đã đến tìm Thầy. Con bảo bà chờ và con dẫn bà lên trên nhà, trong phòng ở trên lầu”.
- Cám ơn Tôma, Thầy lên ngay. Nếu có ai khác tới thì bảo họ chờ ở đây.
Giêsu bước lên cầu thang rất lẹ, cả đến chẳng cần cởi áo khoác.
Trên sân thượng, tại chỗ đầu cầu thang, Marcelle, người đầy tớ gái của Matta ngồi im lìm: “Ôi! Thầy của chúng con! Bà chủ con đang ở bên trong. Bà đã chờ Thầy biết bao ngày rồi”. Người đàn bà nói trong khi qùi gối để tôn kính Giêsu.
- Thầy đã đoán vậy. Thầy đi tìm bà ngay. Chúa chúc lành cho bà, Marcelle.
Giêsu nâng lên chiếc màn gió dùng để che ánh sáng còn tím ngắt, dù hoàng hôn đã đến từ lâu. Không khí như bị đốt cháy và các căn nhà trắng tại Caphanaum như bị thiêu bởi ánh phản chiếu đỏ chói của một lò than khổng lồ. Trong phòng, Matta ngồi gần cửa sổ, đầu trùm khăn kín, cuộn mình trong áo khoác. Có lẽ bà nhìn một cái vũng hồ, nơi dìm ngập cái mũi chót của một ngọn đồi um tùm cây cối. Có lẽ bà chỉ nhìn thấy tư tưởng của bà. Chắc chắn bà qúa trầm tư tới nỗi bà không nghe tiếng động nhẹ của bước chân Giêsu đang lại gần. Bà giật nảy khi Người gọi bà.
- Ôi! Thầy! - Bà kêu lên và qùi phập xuống, hai tay giơ ra như người cầu cứu. Rồi bà cúi rạp tới nỗi trán chạm đất và bà khóc.
- Nhưng tại sao? Nào, đứng dậy đi. Tại sao buồn dữ vậy? Con có điều bất hạnh gì để loan báo cho Thầy? Đúng. Vậy cái gì? Thầy đã tới Bêtani, con biết rồi phải không? Phải, và Thầy đã nhận được tin vui ở đó. Nhưng bây giờ con khóc... Con có điều gì?
Và Người buộc bà ngồi xuống một cái ghế đặt tựa vào tường, và Người ngồi trước mặt bà.
- Nào, cởi voan và áo khoác ra giống như Thầy làm. Con sẽ bị ngộp như vầy. Vả nữa, Thầy muốn nhìn khuôn mặt xao xuyến của Matta này và xua đuổi đi tất cả những mây mù làm cho nó thành tăm tối.
Matta vâng lời nhưng vẫn khóc. Khuôn mặt bà đỏ rần, đôi mắt sưng vù.
38
- Vậy sao? Thầy sẽ giúp con. Maria đã cho gọi con. Nó đã khóc nhiều, nó đã muốn biết nhiều điều về Thầy, và con đã nghĩ đó là những dấu hiệu tốt, tới nỗi con đã mong Thầy đến để hoàn thành phép lạ. Và Thầy, Thầy đã đến. Sao bây giờ?...
- Bây giờ không còn gì nữa. Thầy ơi con lầm. Vì hy vọng qúa mạnh mẽ làm cho con thấy những sự không có như vậy... Con đã làm Thầy tới cách vô ích... Maria còn tệ hơn lúc trước... Không, con nói gì? Đó là sự vu khống, con nói dối. Nó không xấu hơn, nó không muốn đàn ông ở chung quanh nó nữa. Nó khác rồi, nhưng nó vẫn luôn luôn xấu. Con thấy như nó điên... Con không hiểu nó nữa. Ít nhất trước đó con còn hiểu nó. Nhưng bây giờ! Ai có thể hiểu nó bây giờ?
Và Matta khóc cách thê thảm.
- Nào, bình tĩnh lại, và hãy nói cho Thầy những gì nó đã làm. Tại sao nó xấu? Nó không muốn đàn ông ở chung quanh nó, vậy là nó sống ẩn dật trong nhà, có phải vậy không? Phải à? Tốt, rất tốt. Nó muốn có con ở bên cạnh nó như để bảo vệ nó chống lại cám dỗ - đó là các lời của con - để ngăn cản những liên lạc tội lỗi, và đơn giản là những cái có thể dẫn đến những liên lạc tội lỗi. Đó là một dấu hiệu của thiện chí.
- Thầy xác định điều đó à? Có thật Thầy tin đúng là như vậy không?
- Nhưng chắc chắn vậy mà! Con thấy nó có vẻ dữ tợn về cái gì? Hãy kể cho Thầy những điều nó làm...
- Đây - Matta hơi bảo đảm do sự xác định của Giêsu nên bà nói thứ tự hơn: “Đây, từ lúc con tới, Maria không còn ra khỏi nhà và khu vườn, cả đến không ra để chèo thuyền trên hồ. Và người vú nuôi nói với con rằng ngay cả trước lúc con đến, hầu như nó không còn ra ngoài nữa. Chính kể từ lễ Vượt Qua, nó bắt đầu thay đổi. Nhưng trước khi con tới, vẫn còn những người tới gặp nó, và nó không luôn luôn bảo họ đi ra. Thỉnh thoảng nó ra lệnh đừng để cho ai vào, và đó có vẻ như một lệnh kéo dài. Rồi nó đi tới chỗ đánh đập đầy tớ khi nó nổi sùng cách vô lý, khi nó chạy ra tiền đường vì
39
nó nghe tiếng nói của những người đến thăm, nhưng nó thấy họ đã ra đi. Từ lúc con đến, nó không còn làm vậy nữa. Trong đêm đầu tiên nó đã nói với con, và vì vậy làm con chan chứa hy vọng: “Chị hãy giữ em lại, hãy trói em lại, đừng để em ra ngoài, để em không nhìn thấy ai khác ngoài chị và người vú nuôi, bởi vì em bệnh và em muốn được khỏi. Nhưng những người đến nhà em hay những người muốn em đến nhà họ, họ giống như những đầm lầy gây ra những cơn sốt. Họ làm cho em càng lúc càng bệnh. Nhưng vẻ bề ngoài của họ rất đẹp, họ đầy hoa và tiếng ca, với những hoa trái có vẻ dễ chịu mà em, em không biết chống lại, vì em là kẻ khốn nạn, em là kẻ khốn nạn! Matta ơi! Em gái của chị rất yếu đuối, và có những kẻ lợi dụng sự yếu đuối của em để làm cho em làm những điều đê tiện, không thể cho phép được bởi cái gì em có ở trong em, cái gì còn lại của má, của người má khốn khổ của em...” và nó khóc, nó khóc.
Và đây là điều con đã cư xử: êm dịu trong những giờ nó có vẻ hợp lẽ hơn, và cứng rắn trong những giờ nó giống như một con thú ở trong lồng. Nó không bao giờ kháng cự lại con, và cả đến, sau những lúc bị cám dỗ nặng nề nhất, nó đến khóc dưới chân con, gục đầu trên gối con và nói: “Chị tha cho em! Chị tha cho em!” Và nếu con hỏi nó: “Tha về cái gì em? Em đâu có làm khổ chị”. Nó trả lời con: “Bởi vì lúc nãy, hay hôm qua, khi chị bảo em đừng ra khỏi đây, trong lòng em đã ghét chị, nguyền rủa chị và mong cho chị chết”.
Lạy Chúa, Thầy không thấy khổ vì nó sao? Nhưng nó điên, có lẽ vậy? Các sự trụy lạc đã làm cho nó thành điên? Con nghĩ một tình nhân nào đó đã cho nó những bùa ngải để làm cho nó thành nô lệ của dâm ô, và cái bùa này đã bốc lên đầu nó...”
- Không. Không phải bùa ngải, không phải điên. Đó là cái khác. Nhưng tiếp tục đi.
- Vậy với con thì nó trọng kính và vâng lời. Các người đầy tớ cũng vậy, nó không còn ngược đãi họ nữa. Nhưng ngay từ buổi chiều đầu tiên, nó không hỏi con điều gì về Thầy cả. Ngay cả khi con nói về Thầy, nó cũng lái câu chuyện đi lối khác, bỏ đi để tới ngồi hàng giờ và hàng giờ trên tảng đá của vọng lâu để nhìn ra hồ
40
cho tới khi hoa mắt, và nó hỏi con mỗi khi nó thấy một chiếc thuyền đi qua: “Chị có nghĩ đó là thuyền của dân chài Galilê không?” Nó không bao giờ nói tên Thầy hay tên các tông đồ, nhưng con biết nó nghĩ về họ và về Thầy trong chiếc thuyền của Phêrô. Và con cũng hiểu rằng nó nghĩ đến Thầy, bởi vì thỉnh thoảng, vào buổi chiều, chúng con đi dạo trong vườn, hay khi chúng con chờ giờ để đi nghỉ, con đang khâu vá, nó đứng khoanh tay và nó nói: “Có đúng là phải sống như vầy theo cái giáo lý mà chị theo không?” Và thỉnh thoảng nó khóc, lần khác thì nó lại cười cái điệu cười chua chát như điên hay cái cười của ma qủi.
Có những lần khác, nó dỡ mái tóc luôn luôn chải rất nghệ thuật ra, nó dóc thành hai bím, nó mặc một trong những chiếc áo của con và nó đến trước mặt con với những bím tóc buông thòng trên vai hoặc đàng trước, nó lôi dựng cổ áo lên, nết na giống như đứa con gái nhỏ, với y phục, với các bím tóc và những bộc lộ của khuôn mặt, nó nói: “Vậy ra Maria phải trở nên như vầy?” Cũng đôi khi nó khóc và hôn hai bím tóc tuyệt vời, lớn như cánh tay, buông lơi tới tận đầu gối. Tất cả những sợi vàng óng ả này là sự vinh quang của má con. Trái lại, một lần nó phát ra một tràng cười ghê sợ và nói với con: “Nhưng nhìn này, tốt hơn là em làm như vầy và lìa đời”. Và nó thắt các bím tóc vào quanh cổ, nó xiết lại cho tới khi nó trở nên tím ngắt, tựa như nó muốn thắt cổ. Lần khác nữa, người ta hiểu là nó cảm thấy rất mạnh xác... xác thịt của nó, lúc đó nó than vãn hay hành xác. Con đã thấy nó đập một cách dã man vào bụng, vào ngực, cào mặt, đập đầu vào tường. Nếu con hỏi nó: “Tại sao em làm vậy?”, nó liền quay lại với con, băn khoăn, hung bạo, và nói với con: “Để đập bể bụng, bể đầu, những thứ phiền hà, bị nguyền rủa, phải phá hủy nó, em phá hủy mình”.
Và nếu con nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, của Thầy - Vì dù sao con cũng nói về Thầy tựa như nó là người trung thành nhất trong các môn đệ. Con thề với Thầy là đôi khi con chán ngấy nói như vậy trước mặt nó - nó trả lời: “Với em, em không thể có lòng thương xót nữa. Em đã tràn bờ rồi”, và lúc đó nó lên cơn thất
41
vọng điên cuồng. Nó la hét và đánh mình tới chảy máu: “Nhưng tại sao? Tại sao có con thú này cho tôi, để nó xâu xé tôi, nó không cho tôi được bình an, nó mang tôi tới sự dữ bằng tiếng nói say mê quyết rũ, rồi các tiếng nói khác hợp lại để nguyền rủa tôi: tiếng nói của ba, của má, của anh chị, bởi vì chị cũng như Lazarô, anh chị nguyền rủa tôi, Israel nguyền rủa tôi, và những tiếng nói này làm tôi phát điên...”
Khi đó con, khi con nghe nó nói như vậy, con trả lời: “Tại sao em nghĩ tới Israel, đó chỉ là một dân, thay vì nghĩ tới Thiên Chúa? Nhưng bởi vì trước đây em không nghĩ tới để dày đạp lên tất cả, thì bây giờ hãy nghĩ tới bước lên trên tất cả để nghĩ đến cái gì khác với thế giới, tức là Thiên Chúa, là ba em, má em, và các ngài sẽ không nguyền rủa em nếu em thay đổi đời sống. Các ngài sẽ mở rộng cánh tay cho em...” Và nó nghe con, suy nghĩ, ngạc nhiên, tựa như con kể cho nó nghe một chuyện ngụ ngôn không thực, rồi nó khóc... Nhưng nó không trả lời. Trái lại, thỉnh thoảng nó truyền cho đầy tớ mang rượu và nha phiến tới, và nó ăn uống tất cả những thứ đó và giải thích: “Để khỏi nghĩ”.
Bây giờ, từ lúc nó biết rằng Thầy ở trên hồ, và mỗi lần nó biết rằng con đến với Thầy, nó đều nói với con: “Một ngày kia em cũng sẽ đến”, và nó cười cái cười như nhục mạ chính mình nó. Và để kết thúc, nó nói: “Như vậy để ít nhất con mắt của Thiên Chúa sẽ liếc trên đống phân”. Nhưng con không muốn cho nó đến. Và bây giờ, con chờ cho nó chán nản bởi giận dữ, bởi rượu, bởi nước mắt, bởi tất cả, nó thiếp ngủ đi vì kiệt lực. Lại bữa nay nữa, con đi ra để trở về vào lúc đêm, trước khi nó thức dậy. Đó là đời con... và bây giờ, con không hy vọng nữa...
Và nước mắt của bà, vì mọi tư tưởng đã được tường thuật thứ tự, nó không ngừng chảy nữa, và nó chảy mạnh gấp đôi lúc trước.
- Matta, con hãy nhớ lại điều Thầy đã nói với con một lần kia: “Maria là người bệnh”, con đã không muốn tin. Bây giờ con thấy đó. Con nói nó điên, chính nó thì nó nói nó bị bệnh sốt đẩy nó vào tội lỗi. Thầy thì Thầy nói nó bị một sự chiếm hữu thuộc về ma qủi. Đó luôn luôn là một bệnh. Những sự rã rời này, những giận dữ này,
42
những nước mắt này, những sầu não này, những nghiêng chiều về với Thầy này là những thời kỳ của căn bệnh, mà vào lúc đang khỏi, sẽ bị những khủng hoảng trầm trọng nhất. Con đã làm tốt khi nhân từ với nó, con rất tốt vì nhẫn nại, con rất tốt vì đã nói về Thầy. Đừng ngao ngán khi nói tên Thầy trước mặt nó. Tâm hồn khốn khổ của Maria cũng đã ra từ tay Đấng Tạo Hóa không khác gì tâm hồn những người khác, không khác gì tâm hồn của con hay của Lazarô, hay của các tông đồ hoặc môn đệ. Và Thầy cũng kể cả nó, và Thầy thấy nó giữa đám những linh hồn mà Thầy đã mặc xác thịt để làm Đấng Cứu Chuộc. Chính vì nó còn hơn là vì con, vì Lazarô, các tông đồ và môn đệ mà Thầy đến. Tâm hồn thân yêu và khốn khổ, phải chịu đựng của Maria của Thầy! Maria của Thầy bị nhiễm độc, cộng thêm vào với cái nọc độc nguyên thủy và phổ quát. Tâm hồn Maria của Thầy bị giam tù ! Nhưng hãy để nó đến với Thầy. Hãy để nó thở hơi thở của Thầy, nghe tiếng Thầy, gặp cái nhìn của Thầy!... Nó xưng tên là “Đống phân”... Ôi! Tâm hồn thân yêu đau khổ! Nó có trong nó bảy thứ qủi, thứ qủi ít mạnh nhất là qủi kiêu căng! Nhưng chính vì vậy mà nó sẽ thoát thân.
- Nhưng nếu khi đi ra ngoài, nó gặp người nào lại lôi nó về đàng tội thì sao? Chính nó cũng sợ...
- Bây giờ nó đã tới được cái điểm buồn nôn vì thói hư, nó sẽ luôn luôn sợ những người đó. Nhưng đừng sợ. Khi một tâm hồn đã có sự ước ao đi về với sự thiện thì nó chỉ còn bị cầm giữ bởi kẻ thù là ma qủi, kẻ biết mình sắp bị mất mồi, và bởi kẻ thù cá nhân là cái tôi. Nó còn lý luận theo loài người và xét đoán chính mình như một người, và nó áp dụng sự xét đoán của nó vào Thiên Chúa để ngăn cản thần trí thống trị cái tôi con người. Khi linh hồn này đã đủ mạnh để chống lại những tấn công của thói hư và trụy lạc, nó đã tìm thấy sao Bắc Đẩu và nó không còn lạc đường nữa.
Cũng vậy, không nên nói với nó: “Em không nghĩ đến Thiên Chúa mà lại nghĩ đến Israel”, đó là ngụ ý trách móc. Đừng làm vậy. Nó vừa ra khỏi lửa, toàn thân nó là một vết thương, chỉ nên lướt trên nó những thứ dầu của êm dịu, tha thứ, hy vọng...
43
Hãy để nó tự do đến với Thầy. Cả đến con phải nói với nó khi con tính đến. Nhưng đừng nói với nó: “Hãy đi cùng với chị”, và cả đến nếu con hiểu rằng nó đến với Thầy thì con đừng đến. Con hãy trở về và chờ nó ở nhà. Nó sẽ đến với con, vì bị xúc động bởi tình thương xót. Vì Thầy, Thầy phải lấy đi cho nó cái sức mạnh độc ác bây giờ đang chiếm giữ nó. Và trong một thời gian, nó sẽ như người bị mất hết máu, tựa như người mà thầy thuốc đã tháo các xương ra. Nhưng sau đó nó sẽ bình phục, nó sẽ sửng sốt.
Nó sẽ rất cần đến sự âu yếm và sự thinh lặng. Hãy trợ giúp nó tựa như con là một thiên thần bản mạnh thứ hai cho nó. Đừng bắt nó phải nghe con. Nếu con thấy nó khóc, hãy để nó khóc. Nếu con thấy nó tự đặt các câu hỏi, hãy để nó làm. Nếu con thấy nó cười rồi lại sa sầm, rồi lại cười với cái cười khác không giống vậy, với cái nhìn đã thay đổi, với khuôn mặt đã thay đổi... thì đừng đặt các câu hỏi với nó, đừng lo giám hộ nó. Bây giờ, để đi lên, nó phải khổ nhiều hơn khi nó đi xuống. Nó phải tự ý hành động, cũng như nó đã tự ý hành động lúc nó đi xuống. Lúc đó nó đã không chịu đựng cái nhìn của các con khi các con thấy nó đi xuống, bởi vì trong con mắt của các con có sự khiển trách. Bây giờ trong sự xấu hổ đã thức dậy của nó, nó cũng không thể chịu đựng cái nhìn của các con. Khi đó nó mạnh hơn vì nó có Satan là thầy, và nó có sức mạnh xấu dẫn dắt nó, nên nó có thể đương đầu với thế giới, nhưng nó vẫn không muốn bị các con nhìn thấy nó trong tội lỗi của nó. Bây giờ nó không còn Satan là thầy, Satan vẫn còn là chủ nó, nhưng nhờ ý chí của nó, nó đã nắm cổ Satan, nhưng nó chưa có Thầy, vì thế nó rất yếu. Cả đến nó không thể chịu đựng sự âu yếm trong cái nhìn huynh đệ của con vì sự trở về với Chúa của nó. Tất cả nghị lực của nó đều dùng để xiết họng bảy thứ qủi. Những thứ còn lại thì nó trần trụi, không sự bảo vệ. Nhưng Thầy, Thầy sẽ mặc lại cho nó và sẽ củng cố cho nó.
Matta, hãy đi bằng an, và hãy nói với nó là ngày mai Thầy sẽ nói gần thác Căn-Bản, tại Caphanaum đây, vào sau lúc hoàng hôn. Hãy đi bình an, hãy đi bình an, Thầy chúc lành cho con.
44
Matta vẫn còn phân vân. Giêsu quan sát bà và nói: “Đừng ngã vào tội cứng lòng tin, Matta”.
- Lạy Chúa, không, nhưng con suy nghĩ... Ôi! Hãy cho con cái gì để con có thể cho Maria để cho nó tí sức mạnh... Nó khổ qúa... Và con, con sợ nó không thành công trong việc toàn thắng ma qủi.
- Con là đứa con nít! Maria có chúng ta: con và Thầy. Con có thể không thành công sao? Nhưng hãy lại đây, cầm lấy đi. Hãy đưa cho Thầy bàn tay này, bàn tay không bao giờ phạm tội, bàn tay biết hiền lành, thương xót, linh hoạt, đạo đức; nó đã luôn luôn làm những cử chỉ tình yêu và cầu xin; nó không bao giờ trở nên lười biếng, nó không bao giờ đồi trụy. Đây, Thầy cầm nó trong đôi tay Thầy để làm cho nó nên thánh hơn. Hãy giơ nó lên để chống lại ma qủi, và ma qủi sẽ không chịu đựng nổi nó. Và hãy cầm lấy cái giây lưng này, nó thuộc về Thầy. Con đừng bao giờ rời xa nó. Mỗi lần con nhìn thấy nó thì hãy tự nhủ: “Còn mạnh mẽ hơn cái giây lưng của Giêsu là sức mạnh của Người, và với nó, người ta toàn thắng tất cả: ma qủi và các quái vật. Tôi không phải sợ”. Bây giờ con đã bằng lòng chưa? Bình an của Thầy ở với con. Hãy đi bình an.
Matta tôn kính Người và đi ra.
Giêsu mỉm cười nhìn theo bà khi bà ngồi vào trong cái xe mà Marcelle đã gọi vào trước cửa để đi về Magđala.
93* CHỮA HAI NGƯỜI MÙ VÀ MỘT NGƯỜI CÂM BỊ QỦI ÁM
Sau đó Giêsu xuống dưới nhà bếp, thấy rằng Gioan sắp sửa đi ra phông-ten, Người lại thích đi với Gioan hơn là ở lại trong nhà bếp nóng nảy và hun khói, nơi Phêrô đang làm việc với những con cá mà các con trai ông Zêbêđê vừa mang tới cho bữa tối của Thầy và các tông đồ.
45
Họ không ra ngoài suối ở tận cuối miền, nhưng họ ra phông-ten tại công viên, nước ở đây chắc chắn chảy tới từ cái suối đẹp và dồi dào vọt ra từ sườn đồi ở gần hồ. Tại công viên là đám đông thường lệ, cũng như mọi miền thuộc xứ Palestin vào buổi chiều. Các phụ nữ với vò nước của họ, các trẻ em nô đùa; đàn ông thì bàn chuyện làm ăn hoặc... tin trong nước. Các người pharisiêu cũng ra đó, được bao vây bởi tôi tớ hay khách hàng, họ đứng nhìn vào các căn nhà giầu sang của họ. Mọi người, với vẻ kính trọng, tránh ra để họ đi qua, rồi vừa khi họ đi qua thì cũng lảng đi, chửi thầm trong lòng, kể lể lại những điều bất công mới đây của họ, và các món cho vay nặng lãi của họ.
Mathêu đứng trong một góc của công viên, nói chuyện với các bạn cũ của ông, việc đó làm pharisiêu Urie cất cao giọng cách khinh bỉ: “Những cuộc hoán cải nổi tiếng chừng nào. Vẫn còn quyến luyến với tội lỗi, vì các tình bạn vẫn tiếp tục cho người ta thấy điều đó. A!A!”
Điều đó làm Mathêu quay phắt lại để trả lời: “Nó vẫn tiếp tục để nó cải hóa họ”.
- Điều đó chả cần. Thầy của mày đã đủ. Mày, hãy ở xa họ để cái bệnh không trở lại, và để chứng tỏ mày đã thực sự được khỏi.
Mathêu đỏ mặt vì ông phải cố gắng để không nói với họ bốn sự thật của họ. Ông chỉ giới hạn trong câu trả lời: “Đừng sợ gì và đừng hy vọng gì”.
- Cái gì?
- Đừng sợ rằng tôi lại trở nên Lêvi người thâu thuế, và đừng hy vọng tôi bắt chước ông để mất những linh hồn này. Những chia rẽ và những khinh bỉ thì tôi để lại cho ông và các bạn ông, tôi, tôi chỉ bắt chước Thầy tôi và tôi lui tới với các người tội lỗi để dẫn họ về với Ân Sủng.
Urie muốn đối đáp, nhưng thình lình có một pharisiêu khác tới, đó là ông già Êli, ông này nói: “Bạn ơi, đừng làm ô uế sự trong sạch của bạn và làm nhiễm độc miệng lưỡi bạn. Hãy đến với tôi”. Và ông cầm cánh tay Urie để kéo ông ta về nhà.
46
Trong lúc đó, đám đông, nhất là trẻ con, bao quanh Giêsu. Trong đám trẻ có Jeanne và Tobie, hai chị em mà một lần đã lâu rồi, cãi nhau vì những qủa sung. Chúng nói với Giêsu trong khi các bàn tay nhỏ của chúng đập nhẹ vào thắt lưng Giêsu để lôi kéo sự chú ý của Người: “Nghe này, nghe này: hôm nay chúng con cũng đã tốt. Thầy biết không? Chúng con không bao giờ khóc, chúng con không bao giờ trêu chọc vì tình yêu đối với Thầy. Thầy có cho chúng con cái hôn không?”
- Vậy ra các con đã tốt vì tình yêu đối với Thầy! Các con đã làm Thầy vui chừng nào! Đây, cái hôn của Thầy, và ngày mai hãy cố tốt hơn nữa.
Cũng có thằng Giacôbê, đứa bé mà mỗi ngày Sabat đã mang cho Giêsu túi tiền của Mathêu. Nó nói: “Lêvi chả cho con cái gì nữa để cho các người nghèo của Chúa. Nhưng con, con đã để dành tất cả những đồng cắc nhỏ mà người ta cho con khi con ngoan, và bây giờ con đem cho Thầy, Thầy sẽ cho các người nghèo vì ông nội của con”.
- Chắc chắn rồi. Ông nội con làm sao?
- Ông không đi được nữa. Ông đã qúa già và chân ông không mang nổi ông nữa.
- Điều đó làm con buồn à?
- Vâng, vì lẽ ông là thầy giáo của con khi chúng con đi về miền quê. Ông đã nói với con biết bao điều. Ông dạy con yêu Chúa. Cả bây giờ ông cũng còn nói với con về Gióp, và chỉ cho con xem các ngôi sao trên trời, nhưng ngồi trên ghế của ông thôi. Trước kia thì hay hơn.
- Ngày mai Thầy sẽ đến thăm ông nội của con. Con có bằng lòng không?
Nhưng Giacôbê bị thay thế bởi Benjamin, không phải Benjamin ở Magđala, đây là Benjamin ở Caphanaum, đứa trẻ tôi thấy trong một thị kiến lâu lắm rồi. Nó đến công viên với mẹ nó. Khi nó nhìn thấy Giêsu, nó liền buông tay mẹ nó và nhảy cẫng, kêu ríu rít như chim én giữa đám con nít linh động. Đến trước mặt Giêsu, nó ôm ghì lấy đầu gối Người và nói: “Cả cho con nữa, cả cho con nữa một
47
cái vuốt ve”.
Ngay lúc đó, pharisiêu Simon đi qua, ông nghiêng mình một cách cầu kỳ trước Giêsu. Người chào lại ông. Ông pharisiêu dừng lại trong lúc đám đông tránh ra như bị đe dọa. Ông nói: “Còn với tôi, Ngài sẽ không cho cái vuốt ve nào sao?” Và ông cười mỉm.
- Cho hết những ai xin tôi. Tôi mừng ông vì sức khỏe tuyệt vời của ông. Lúc ở Jêrusalem, người ta nói với tôi là ông hơi bị bệnh.
- Vâng, bệnh nặng đó. Tôi đã ước ao gặp Thầy để được chữa.
- Ông tin rằng tôi có thể sao?
- Tôi không bao giờ nghi ngờ. Nhưng tôi phải tự chữa, vì Thầy vắng mặt qúa lâu. Thầy đã ở đâu?
- Mãi tận biên giới Israel. Bởi vậy tôi bận rộn trong những ngày từ lễ Vượt Qua tới lễ Ngũ Tuần.
- Nhiều thành công không? Tôi đã nghe nói về các người cùi ở Hinnom và ở Siloan. Thật vĩ đại. Chỉ có vậy thôi sao? Chắc chắn là không. Nhưng điều này tôi được biết bởi thầy cả Gioan, kẻ không có thành kiến. Ông đã tin vào Thầy và được sung sướng.
- Và kẻ không tin là vì họ có thành kiến. Vậy họ sẽ thế nào, hiền nhân Simon?
Người pharisiêu hơi băn khoăn... Ông chiến đấu giữa hai ước mong: không kết án một số qúa đông các bạn ông có thành kiến chống lại Giêsu, và sự khen ngợi mà Giêsu đáng được. Nhưng ông đã vượt được sự băn khoăn này và nói: “Ai không muốn tin Thầy, mặc dù những bằng chứng mà Thầy đã cho, thì bị kết án”.
- Tôi muốn rằng không ai bị như vậy.
- Thầy, đúng. Chúng tôi không trả lời cho lòng nhân từ mà Thầy có đối với chúng tôi. Có qúa nhiều người không xứng đáng với Thầy... Giêsu ơi, tôi muốn Thầy sẽ là khách của tôi ngày mai.
- Ngày mai thì tôi không thể. Điều đó có thể trong hai ngày nữa. Ông chấp nhận không?
- Luôn luôn. Tôi sẽ có... những người bạn... mà Thầy phải dung thứ cho họ nếu...
- Được, được. Tôi sẽ tới cùng với Gioan.
48
- Chỉ có mình ông ta thôi sao?
- Những người khác có những sứ mạng khác. Kìa, họ đang từ miền quê trở về. Bình an cho ông, Simon.
- Thiên Chúa ở cùng Thầy, Giêsu.
Người pharisiêu ra đi và Giêsu lại với các tông đồ.
Họ trở về nhà để dùng bữa tối. Nhưng đang khi họ ăn cá nướng thì nghe hai người mù cầu khẩn Giêsu từ ngoài đường. Họ đến gặp các ngài, nhắc đi nhắc lại câu: “Giêsu, con vua Đavít, xin thương chúng con” của họ.
- Nhưng đi đi! Người đã bảo các ông là ngày mai thì phải là ngày mai. Hãy để Người ăn - Simon Phêrô nói với họ bằng giọng hách dịch.
- Không, Simon, đừng đuổi họ. Sự kiên trì như vậy đáng được thưởng. Hai ông hãy lại đây - Người nói với hai người mù, và họ vào, vừa đi vừa rờ rẫm nền đất và các bức tường bằng cái gậy của họ.
- Các con có tin là Thầy có thể cho các con nhìn thấy không?
- Lạy Chúa, có, có! Chúng con đến bởi vì chúng con tin chắc như vậy.
Giêsu đứng dậy khỏi bàn, lại gần họ, đặt ngón tay Người trên các mu mắt mù, ngửa mặt lên cầu nguyện rồi nói: “Cho các con được như lòng tin của các con”. Người bỏ tay ra. Những mí mắt bất động lại nhúc nhích, vì ánh sáng lại chiếu vào các con ngươi đã trở lại sự sống cho một người, còn người kia, con mắt có một chỗ chắp nối, chắc là do một ung nhọt không được săn sóc, bây giờ sáng ra, kiện toàn lại, không còn dấu vết khuyết điểm ở bờ mí mắt, và nó nhắm mở như chiếc cánh đập.
Hai người liền qùi sụp xuống.
- Hãy đứng dậy và đi đi. Cẩn thận đừng cho ai biết điều Thầy đã làm cho các con. Hãy mang tin ơn phúc mà các con đã nhận được về cho thành phố các con, bà con các con, bạn bè các con. Ở đây không cần thiết, cũng không thuận lợi cho tâm hồn các con. Hãy giữ cho khỏi các vết thương trong đức tin. Vì bây giờ các con đã
49
biết con mắt là thế nào, hãy giữ, đừng để bị thương kẻo lại mù nữa.
Bữa ăn chấm dứt, họ lên sân thượng cho mát. Cái hồ chỉ còn là một lấp lánh dưới ánh trăng mới có một phần tư. Giêsu ngồi trên bức tường thấp và đắm chìm trong sự chiêm ngắm cái hồ với những đợt sóng bạc. Những người khác nói chuyện với nhau nhỏ tiếng để không làm rộn Người. Nhưng họ nhìn Người, say mê chừng nào! Qủa thực, Người tuyệt đẹp! Đầy hào quang do ánh trăng soi sáng khuôn mặt Người, vừa khắc khổ vừa thanh quang, cho phép người ta thấy ở đó cả những chi tiết nhỏ nhẹ nhất. Đầu Người tựa nhẹ vào một cành sù sì của cây nho lớn leo lên tới đó rồi bò bên trên sân thượng. Mắt Người trải ra một mầu xanh da trời sáng mà trong đêm, trông tựa như mầu mã não, tựa như nó chảy tràn ra trên vạn vật những làn sóng bình an. Thỉnh thoảng Người ngước nhìn lên trời quang đãng rải rác tinh tú. Lại có những lúc Người lướt nhìn trên các ngọn đồi, hoặc nhìn thấp hơn trên mặt hồ. Cũng đôi khi Người nhìn đăm đăm một điểm mơ hồ và như Người mỉm cười với thị kiến riêng của Người. Mái tóc hơi gợn sóng trong gió nhẹ; một chân lơ lửng hơi ở bên trên mặt sàn, chân kia tì trên sàn. Người giữ yên vị trí ngồi hơi nghiêng, hai tay để trên hai đầu gối. Y phục trắng của Người như gia tăng mầu trắng sáng, làm cho nó thành sáng bạc do ảnh hưởng ánh trăng, trong khi đôi tay dài mầu trắng ngà, trông như thêm mạnh mầu ngà cũ, và sắc đẹp trai tráng của chúng thật sắc bén. Khuôn mặt cũng vậy: với vầng trán cao, sóng mũi thẳng, đôi gò má trái soan dễ thương, dải ra bộ râu vàng hơi đỏ, dưới ánh trăng này, tựa như nó thành mầu ngà cũ, và mất đi sắc thái hồng mà người ta nhận thấy trên má lúc ban ngày.
- Thầy mệt à? - Phêrô hỏi.
- Không.
- Thầy có vẻ xanh và suy tư...
- Thầy suy nghĩ, nhưng Thầy không tin mình xanh hơn thường lệ. Lại đây đi... Ánh trăng làm cho tất cả các con đều xanh, các con cũng vậy. Ngày mai các con sẽ đi Corozain. Có lẽ các con sẽ tìm được các môn đệ. Hãy nói chuyện với họ, và chú ý trở về đây vào lúc hoàng hôn. Thầy sẽ giảng ở gần thác nước.
50
- Một điều đẹp chừng nào! Chúng con sẽ nói vậy với những người ở Corozain. Hôm nay lúc trở về, chúng con có gặp Matta và Marcelle. Các bà đã tới đây à? - Andrê hỏi.
- Ừ.
- Ở Magđala, người ta nói rất nhiều về Maria. Nàng không ra ngoài nữa, không cho các lễ lạt nữa. Chúng con đã nghỉ ở trong nhà người đàn bà lần trước. Benjamin đã nói với con là khi nó muốn làm điều xấu thì nó nghĩ đến Thầy và...
- Và tới tôi nữa, hãy nói vậy nữa đi Giacôbê - Iscariot nói.
- Nó không nói vậy.
- Nhưng nó đã ngụ ý vậy khi nói: “Tôi không thích đẹp trai nhưng lại dữ tợn”, và nó đã nhìn xéo tôi. Nó không thể chịu được tôi.
- Ác cảm không quan trọng đâu Judas ạ. Đừng nghĩ tới đó nữa - Giêsu nói.
- Vâng, thưa Thầy, nhưng phiền là...
- Có vị Thầy ở đây không? - Một giọng nói la lên ở ngoài đường.
- Có. Nhưng các ông lại muốn gì nữa? Ban ngày không đủ cho các ông sao? Ngày dài như vậy! Người ta quấy rầy kẻ du hành tội nghiệp vừa mới được một giờ. Ngày mai hãy trở lại - Phêrô ra lệnh.
- Bởi vì chúng tôi có một người bị ám. Dọc đường nó đã chạy thoát ba lần. Nếu không vậy thì chúng tôi đã đến sớm rồi. Hãy nhân từ! Nếu không, trong một lát nữa, khi trăng lên cao, nó sẽ rống làm cả xứ phải sợ. Các ông coi đây, nó đã vùng vẫy chừng nào rồi!
Giêsu nghiêng mình từ trên bức tường, sau khi đã đi băng qua sân thượng. Các tông đồ cũng làm theo. Một hàng các khuôn mặt cúi xuống trên những người ngửa mặt lên để nhìn những người ở trên.
Ở giữa đám, với những cử động và tiếng rống của một con gấu hay con chó sói bị xích, một người với cổ tay bị trói chặt để ông ta không chạy thoát. Ông ta rống và vùng vẫy với những cử động của một con vật, tựa như ông ta tìm cái gì trên mặt đất. Nhưng khi ông ngửa mặt lên, ông ta gặp cái nhìn của Giêsu, ông liền phát ra những tiếng gầm như thú hoang, không rõ ràng, chỉ là một tiếng gầm thực
51
sự, và ông ta tìm cách chạy trốn.
Đám đông, hầu như tất cả những người lớn ở Caphanaum liền tránh ra, sợ hãi: “Xin đến, vì lòng bác ái. Nó lại bị như trước”.
- Thầy đến ngay lập tức - Và Giêsu xuống mau lẹ tới trước kẻ khốn nạn đang vùng vẫy mạnh hơn bao giờ hết.
- Hãy ra khỏi ông ta. Ta muốn như vậy.
Tiếng gầm, rồi chết giấc với một lời duy nhất: “Bình an”.
- Phải, bình an. Bây giờ con đã được giải thoát, hãy bình an.
Đám đông kêu lên sự thán phục khi thấy sự biến đổi thình lình từ điên cuồng qua bình thản, từ bị chiếm qua giải thoát, từ câm qua tiếng nói.
- Làm sao các con biết Thầy ở đây?
- Ở Nazarét người ta bảo chúng con rằng: “Người ở Caphanaum”. Ở Caphanaum, chúng con được xác nhận bởi hai người mù mà Thầy đã chữa mắt tại căn nhà này.
- Đúng vậy, đúng vậy. Họ cũng nói vậy với chúng con - Nhiều người kêu lên, và họ nhận xét: “Chưa bao giờ người ta thấy những điều như vầy trong Israel”.
- Nếu ông ta không có sự trợ giúp của Benzêbut, ông ta không làm được những điều đó - Các người pharisiêu ở Caphanaum cười nhạo. Trong đám họ không thấy Simon.
- Giúp hay không giúp, tôi cũng đã được khỏi, và các người mù cũng vậy. Các ông, các ông không thể làm được vậy, mặc dầu các ông cầu nguyện dài - người câm bị qủi ám đã được chữa lành đối đáp, và ông ta còn hôn áo Giêsu. Người không trả lời các người pharisiêu. Người chỉ giới hạn ở việc giải tán đám đông với câu “Bình an cho các con” của Người. Người giữ người được phép lạ và các người theo giữ ông ở lại, và cho họ vào phòng ở trên lầu để họ ngủ tới bình minh.
94* DỤ NGÔN CON CHIÊN LẠC
52
Giêsu nói với đám đông. Người ở trên bờ một cái thác trồng đầy cây. Đám đông rất lớn tụ tập trong cánh đồng mà lúa miến đã được cắt hết, chỉ còn lại khung cảnh buồn của các gốc rạ bị mặt trời thiêu đốt.
Đây là buổi tối. Hoàng hôn đang xuống nhưng mặt trăng đã lên. Một buổi tối đẹp và trong sáng của đầu mùa hè. Các đàn vật đang về chuồng, tiếng leng keng của chuông nhạc hòa lẫn với tiếng hát điếc tai của dế hay ve sầu. Một tiếng ồn ri ri ri thật lớn.
Giêsu làm một việc so sánh về đoàn vật và nói:
- Cha của các con giống như người chăn chiên ân cần. Người chủ chăn tốt thì làm gì? Họ tìm các đồng cỏ tốt cho đoàn vật, nơi không có cây độc cần hay những cây nguy hiểm khác, nhưng có toàn những cỏ ngon lành, cỏ thơm và những thứ rau tuy đắng nhưng tốt cho sức khỏe. Ông tìm những nơi có đồ ăn, đồng thời cũng có bóng mát, có suối nước trong, có cây cao cho bóng mát mà không có rắn độc giữa đám cỏ xanh. Ông không lo lắng tìm những đồng cỏ tươi cao rậm rạp, vì ông biết rắn độc nấp ở đó dễ dàng để rình, và có những thứ cỏ có hại, nhưng ông thích những đồng cỏ miền núi, nơi sương đêm làm cho cỏ sạch và tươi, và mặt trời xua đuổi đi những loài bò sát; nơi có không khí trong lành và gió chỉ lay nhẹ, không có sự nặng nề và thiếu trong sạch của miền đồng bằng. Người chủ chăn tốt canh chừng trên các con chiên, từng con một. Ông săn sóc nó nếu nó bệnh, ông băng bó cho nó nếu nó bị thương. Với những con có thể bệnh vì phàm ăn, ông cao giọng can ngăn. Với những con có thể đau bởi ở hoài trong nơi ẩm thấp, hoặc ở qúa lâu ngoài mặt trời, ông bảo đi lại chỗ khác. Nếu một con chê ăn, ông tìm cho nó những cỏ chua và thơm có thể kích thích khẩu vị, và chính tay ông đem đến cho nó và nói với nó như một người bạn.
Đó chính là cách cư xử của người Cha nhân từ trên trời đối với con cái Người còn lữ thứ trên mặt đất. Tình yêu của Người là cây gậy để tụ họp họ, tiếng Người hướng dẫn họ; các đồng cỏ là lề luật của Người, chuồng chiên của Người là Nước Trời.
Nhưng đây, có một con chiên bỏ Người mà đi. Người yêu nó
53
chừng nào! Nó còn trẻ, ngây thơ trắng tinh như một khóm mây nhẹ trong bầu trời tháng tư. Người mục tử nhìn nó với biết bao tình yêu trong khi nghĩ đến bao điều tốt ông có thể làm cho nó, và tất cả tình yêu ông có thể nhận được nơi nó. Nhưng nó lại bỏ rơi ông.
Dọc con đường ở biên giới đồng cỏ có một đứa cám dỗ đã đi qua. Nó không mang cái nón khắc khổ, nhưng nó mặc y phục muôn mầu. Nó không thắt đai lưng da có đeo cái rìu và con dao, nhưng một cái giây lưng bằng vàng có đeo những cái chuông vang lên những tiếng kêu như bạc, du dương như tiếng hót chim họa mi, và những ống dầu thơm làm ngây ngất... Nó không có cây gậy mà người chủ chăn tốt phải có để tụ họp và bảo vệ con chiên, và nếu cây gậy không đủ mạnh thì ông sẵn sàng bảo vệ chúng bằng cái rìu và con dao, cho dù phải mất mạng. Đứa cám dỗ đi qua, cầm trong tay nó một bình hương sáng loáng đầy đá qúi, bốc lên một thứ khói vừa thơm vừa thối, làm lóa mắt như các mặt nhỏ của hạt kim cương. Ôi! Giả dối chừng nào! Nó vừa đi vừa hát, để rơi trên con đường tối những nắm muối sáng loáng.
Chín mươi chín con chiên nhìn nó không nhúc nhích. Con thứ một trăm, con nhỏ nhất và thân yêu nhất, nhảy một phát và biến mất sau đứa dụ dỗ. Người mục tử gọi nó nhưng nó không trở lại. Nó chạy đi còn nhanh hơn gió, để gặp kẻ đã đi qua. Và để tăng sức trong cơn theo đuổi, nó ăn những hạt muối trên đường. Muối này thấm vào nội tạng của nó và thiêu đốt nó bằng một sự khoái trá kỳ lạ, xô đẩy nó đi tìm những dòng nước đen và xanh trong rừng sâu tăm tối. Và ở trong rừng, khi chạy theo đứa dụ dỗ, nó đắm chìm, nó đi sâu mãi vào; nó đi lên, đi xuống, và nó té ngã... một lần, hai, ba lần. Và một, hai, ba lần nó cảm thấy ở chung quanh cổ nó cái quấn quít nhơn nhớt của loài bò sát. Bị khát, nó uống thứ nước dơ, bị đói, nó ăn những cây cỏ sáng bóng do một chất nhớt ghê tởm.
Trong lúc đó người mục tử tốt làm gì? Ông để vào một nơi an toàn chín mươi chín con chiên trung thành, rồi ông lên đường. Ông không dừng lại cho tới khi tìm ra dấu vết của con chiên lạc. Bởi vì ông gởi tiếng gọi của ông tới cho nó qua làn gió, nhưng nó không
54
trở lại với ông nên ông đến với nó. Từ xa, ông nhìn thấy nó đang say sưa và bị cuốn chặt bởi các loài bò sát. Nó say sưa tới nỗi nó không nuối tiếc khuôn mặt của kẻ yêu nó, nó còn cười nhạo ông. Và ông gặp được nó. Nó có tội vì đã vào trong nhà người khác như một kẻ trộm. Nó có tội đến nỗi nó không dám nhìn mặt ông... Nhưng người mục tử không nản lòng... Ông đi, ông tìm, ông tìm, ông theo dõi nó, ông quấy rầy nó, ông khóc trên dấu vết của kẻ lạc: Một mảnh da: một mảnh linh hồn; một vết máu: các sai phạm đủ thứ ; các đống rác: bằng chứng sự dâm ô của nó. Ông đi, và ông gặp nó.
A! Ta đã gặp con! Con cưng nõn của ta! Ta đã tìm thấy con. Bao là đường đất ta đã đi vì con, để dắt con về chuồng. Đừng gục cái trán dơ bẩn của con xuống. Tội lỗi con đã bị chôn sâu trong qủa tim ta. Không một ai biết nó ngoài ta là kẻ yêu con. Ta sẽ bảo vệ con cho khỏi những phê phán của những người khác. Ta sẽ che phủ cho con bằng chính ta, để làm cái mộc che cho con khỏi những viên đá của những kẻ kết án con. Hãy tới đây. Con bị thương à? Hãy chỉ cho ta các vết thương của con. Ta biết nó, nhưng ta muốn con chỉ nó cho ta với sự phó thác mà con có khi con còn trong sạch, khi con nhìn ta, chủ chăn của con và Thiên Chúa của con, với cặp mắt thơ ngây. Đây, các vết thương đây. Tất cả chúng có cùng một tên. Ôi! Chúng sâu chừng nào! Ai đã làm nên nó qúa sâu như vậy, các vết thương ở đáy con tim này? Đứa cám dỗ, ta biết. Chính nó, kẻ không có gậy, cũng không có rìu, nhưng nó gây thương tích sâu bằng những miếng cắn tẩm nọc độc. Và sau nó là các nữ trang giả của cái bình hương của nó, đã lôi kéo con bằng vẻ chớp sáng của nó... Nó là chất lưu huỳnh chí tử, đã sản xuất ra ánh sáng để thiêu đốt tim con. Hãy nhìn này! Bao là vết thương! Bao là mảnh da bị rách, bao là máu, bao là gai!
Ôi! Tâm hồn nhỏ khốn khổ bị ảo tưởng! Nhưng hãy nói cho ta: nếu ta tha cho con, con sẽ còn yêu ta? Hãy nói cho ta: nếu ta mở cánh tay ra cho con, con sẽ lăn xả vào đó. Hãy nói cho ta: con có khát tình yêu trong sạch không? Vậy hãy tới. Hãy trở lại đời sống, hãy trở lại đồng cỏ thánh. Con khóc thì nước mắt con hòa với nước
55
mắt ta, sẽ rửa các vết tội con. Và ta, để nuôi con, vì con bị kiệt quệ bởi những sự dữ nó thiêu đốt con, ta sẽ mở trái tim ta ra, ta mở các mạch máu của ta ra và ta nói với con: “Hãy nuôi mình và hãy sống”.
Hãy đến để ta ẵm con trong tay, chúng ta sẽ đi mau hơn tới đồng cỏ thánh và an toàn. Con sẽ quên tất cả những giờ thất vọng, và chín mươi chín chị em con, những người tốt, sẽ vui mừng vì sự trở về của con.
Thầy nói với con, hỡi con chiên lạc của Thầy, Thầy đã đi rất xa để tìm con. Thầy tìm thấy con, Thầy cứu con. Các người khác sẽ làm một buổi lễ rất lớn để vui vì một con chiên đã mất, nay lại trở về, hơn là chín mươi chín kẻ công chính không ra khỏi chuồng.
Giêsu không hề quay lại để nhìn con đường ở đàng sau Người. Từ con đường này, Maria Magđala đã đến trong cảnh tranh tối tranh sáng của buổi chiều. Nàng vẫn còn rất thanh nhã, nhưng ăn mặc kín đáo, che kín các nét và vóc dáng của nàng dưới lớp voan sậm mầu. Khi Giêsu nói tới câu: “Con cưng nõn của Ta, Ta đã tìm thấy con”, nàng giơ tay lên luồn dưới lớp voan và khóc nhè nhẹ không ngừng. Người ta không nhìn thấy nàng, vì nàng ở bên kia cái bờ dốc mà con đường bao quanh. Chỉ có vầng trăng bây giờ đã cao, và thần trí Giêsu là nhìn thấy nàng.
Chúa Giêsu nói với tôi: “Sự phê bình đã có ở trong thị kiến, nhưng Cha cũng còn nói nữa. Bây giờ hãy nghỉ đi, vì đến giờ rồi. Cha chúc lành cho con, Maria trung thành”.
95* SAU KHI ĐÃ NHẮC LẠI LỀ LUẬT,
CHA LÀM HÁT LÊN NIỀM
HY VỌNG ƠN THA THỨ
Giêsu nói: “Từ tháng Giêng, từ lúc Cha cho con thấy bữa tối trong nhà Simon tật phong, con và cha linh hướng của con đã ước ao biết rõ hơn về Maria Magđala và những lời Cha nói với cô. Bảy tháng sau, Cha cho các con khám phá ra những trang qúa khứ này để làm vui lòng các con, và để cho một kỷ luật đời sống cho những người phải biết nghiêng mình trên những linh hồn phong cùi, và một tiếng nói để nói với những linh hồn khốn nạn đang bị ngập trong nấm mồ của các thói hư, để nó ra khỏi đó”.
Thiên Chúa nhân từ. Người nhân từ với cả thế giới. Người không
56
dùng những biện pháp loài người. Người không cho là có sự khác nhau giữa tội nhẹ và tội trọng. Tội, dù nó thế nào, cũng làm đau lòng Người. Sự sám hối làm cho Người vui và sẵn sàng để tha thứ. Sự chống lại Ân Sủng làm cho Người khắt khe không lay chuyển được, vì sự công bằng không thể tha cho kẻ không sám hối, nó phải chết trong tình trạng ấy, mặc cho tất cả những trợ giúp mà nó có để hoán cải.
Nhưng trong sự thiếu hoán cải, nếu không một nửa thì ít nhất cũng bốn phần mười, có nguyên nhân đầu tiên là sự chểnh mảng của những kẻ có bổn phận cho sự hoán cải: một sự nhiệt thành hiểu sai và giả dối là một tấm màn che trên sự ích kỷ đích thực, và trên sự kiêu căng của họ, để cho phép họ yên lòng ở lại nơi náu ẩn riêng của họ, mà không cần đi xuống dưới bùn để lôi ra khỏi đó một tâm hồn: “Tôi, tôi trong sạch, tôi đáng được kính trọng, tôi không đi tới những nơi dơ bẩn và những nơi người ta thiếu sự trọng kính đối với tôi”. Nhưng những kẻ nói như vậy đã không đọc Tin Mừng, nơi đã nói rằng Con Thiên Chúa đến hoán cải các người thu thuế và các gái điếm chứ không phải chỉ có những người ngay lành của luật cũ. Những người đó không nghĩ rằng sự kiêu căng là sự ô uế của tâm hồn, và thiếu bác ái là sự ô uế của con tim. Con sẽ bị nhục nhã ư ? Cha đã bị như vậy trước con và còn hơn con nữa, trong khi Cha là Con Thiên Chúa. Con phải để y phục của con chạm vào sự ô uế ư ? Còn Cha, Cha đã chạm vào sự ô uế này bằng bàn tay Cha, để nó đứng dậy và để Cha nói với nó: “Hãy bước đi trên con đường mới này”.
Các con không nhớ những điều Cha đã nói với các vị tiền bối của các con sao? “Trong bất cứ thành hay làng nào mà các con vào, hãy hỏi xem ở đó có ai xứng đáng không, và hãy ở trong nhà họ”. Như vậy để thế giới không dèm pha. Thế giới qúa sẵn sàng để thấy điều xấu trong tất cả mọi sự. Nhưng Cha lại thêm: “Rồi khi đi vào các nhà - Cha nói: các nhà, chứ không phải: nhà - hãy chào họ bằng cách nói: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu nhà đó xứng đáng với sự bình an thì sự bình an sẽ xuống trên đó, nếu không, sự bình an sẽ
57
trở về với các con”. Điều đó để dạy các con rằng cho tới lúc có bằng cớ chắc chắn về sự không chịu hoán cải, các con phải có cùng một con tim với mọi người. Và để hoàn tất lời giáo huấn, Cha nói: “Nếu ai không tiếp nhận các con và không nghe lời các con, hãy ra khỏi các nhà đó và các thành đó, hãy phủi bụi còn dính ở gót giầy các con”. Nơi những người tốt mà lòng tốt được yêu qúi một cách bền bỉ, có thể nói nó đã biến thành một khối pha lê nhẵn, thì sự dâm ô chỉ là bụi. Đối với bụi thì chỉ cần lúc lắc hay thổi vào nó là nó bay đi mà không để lại vết thương nào.
Vậy hãy thực sự tốt như một khối duy nhất với Đấng Tốt Lành đời đời ở trung tâm, thì không một sự đồi trụy nào có thể lên cao để làm nhơ bẩn các con. Nó không thể lên cao hơn cái gót giầy là thứ đạp trên đất. Linh hồn thì ở trên cao hơn biết bao, linh hồn các kẻ lành, các kẻ chỉ là một với Thiên Chúa! Linh hồn ở tận trên trời, ở đó bụi và bùn không tới được, dù là nó bị tung lên do sự thù ghét chống lại thần trí của người tông đồ. Nó có thể đụng tới thân xác, làm cho các con bị thương vật chất hay tinh thần, bằng cách bách hại các con. Bởi vì sự dữ ghét sự lành, và chúng xúc phạm tới các con. Điều đó là gì? Cha đã không bị xúc phạm sao? Cha đã không bị thương sao? Nhưng những cú đả thương đó và các lời tục tĩu dâm bôn đó có làm in dấu trên thần trí của Cha không? Nó có làm Cha xao xuyến không? Không. Cũng như đống đờm rãi trên tấm gương, giống như hòn sỏi ném vào chất thịt có nước cốt của một trái cây, nó trượt đi và không nhập vào được, hoặc là nó nhập vào, nhưng chỉ một tí trên mặt, không thể tổn hại cho cái nhân nép kín trong hạt. Trái lại, nó làm lợi cho sự nảy mầm, vì cái mầm chui qua một khối đã hơi mở ra thì dễ hơn chui qua một trái còn nguyên vẹn. Chính trong khi chết mà hạt giống nảy mầm và người tông đồ sinh sản. Đôi khi trong khi chết một cách vật chất, trong khi chết hầu như mỗi ngày theo nghĩa bóng, mà cái tôi con người bị bẻ gẫy. Và đó không phải là chết, đó là sống, đó là sự toàn thắng của thần trí trên những cái chỉ là con người.
Nàng (Mađalêna) đã đến với Cha bởi một cơn chướng của sự nhàn
58
rỗi, vì không biết làm gì trong những giờ rảnh. Tai nàng đã bị chát chúa vì những lời nịnh hót dối trá của những kẻ ru ngủ nàng bằng những ca vịnh của tình dục, để bắt nàng làm nô lệ. Nàng thấy vang dội nơi tai nàng tiếng nói trong trẻo và nghiêm khắc của Chân Lý, của một chân lý không sợ bị người ta khinh chê, chân lý mà người ta không biết tới, và chân lý nói khi nó nhìn lên Thiên Chúa. Và giống như tiếng chuông trong ngày lễ, tất cả mọi tiếng đều tan thành lời. Những tiếng quen thuộc vang trong trời, trong bầu khí quyển xanh và tự do, lan qua thung lũng, đồi núi, đồng bằng, biển hồ, để nhắc lại sự vinh quang của Chúa và các ngày lễ của Người. Các con có nhớ tiếng chuông ngày lễ trong thời bình, nó làm cho vui tươi biết bao cái ngày được dâng hiến cho Chúa? Qủa chuông lớn nhất, bằng cái trái của nó, cho một nốt đầu tiên, nhân danh lề luật của Thiên Chúa, nó nói: “Tôi nói nhân danh Thiên Chúa là thẩm phán và là vua”, rồi các chuông nhỏ chuyển cung: “Là đấng nhân từ, thương xót và nhẫn nại”, cho tới khi trái chuông nhỏ nhất nói bằng cái giọng thiên thần: “Đức ái của Người thúc đẩy tới sự tha thứ và lòng thương xót, để dạy ta rằng sự tha thứ có ích lợi hơn sự thù hằn, và sự thương xót có lợi hơn tính khắc nghiệt. Hãy đến với đấng hay tha thứ, hãy tin ở đấng hay thương xót”. Cha cũng vậy, sau khi đã nhắc lại lề luật bị kẻ tội lỗi chà đạp, Cha làm hát lên niềm hy vọng ơn tha thứ, như một giải băng lụa mầu xanh mà Cha vẫy nó giữa các thứ mầu đen, để đặt vào đó những lời khích lệ. Sự tha thứ: đó là giọt sương mát trên vết phỏng của kẻ có tội. Sương không phải là mưa đá rơi, đập xuống như mũi tên, làm bị thương, rồi nảy lên và ra đi, không thấm nhập, lại làm hư các bông hoa. Sương rơi xuống rất nhẹ nhàng, dù các bông hoa mong manh nhất cũng không cảm thấy sương đến đậu trên cánh tràng như lụa của nó. Nhưng rồi nó uống lấy sự mát mẻ và được phục hồi. Sương cũng đọng gần nơi rễ, trên lớp đất cháy, và thấm vào nó. Đó là sự ẩm ướt của nước mắt: nước mắt của các vì sao, nước mắt yêu thương của người vú nuôi trên đứa trẻ khát. Nó rơi xuống và nó nuôi dưỡng
cùng một trật với dòng sữa ngọt và bổ dưỡng. Ôi! Mầu nhiệm của các yếu tố hoạt động cả khi con người nghỉ ngơi hay phạm tội.
59
Sự tha thứ giống như làn sương này. Nó mang theo với nó, không phải chỉ có sự trong sạch, mà còn có chất nước cốt nuôi sống mà nó lấy, không phải nơi các yếu tố, mà là lấy ở cái lò của Thiên Chúa.
Rồi sau khi đã hứa ơn tha thứ, đây, Đấng Khôn Ngoan nói để cho biết những gì đúng luật và những gì không đúng. Người nhắc lại và lay động, không phải bằng sự khắt khe, nhưng bằng sự lo lắng cứu vớt của hiền mẫu.
Biết bao lần sự chai đá của các con đã làm cho Đức Ái không thấm nhập được, và các con khăng khăng chống lại Đức Ái cúi xuống trên các con! Biết bao lần các con trốn nó trong khi nó nói với các con! Biết bao lần các con chế nhạo nó! Biết bao lần các con ghét nó!... Nếu Đức Ái xử sự với các con giống như các con đối xử với nó thì khốn cho các con chừng nào! Trái lại, các con thấy đó: Nó là người bước không biết mệt để đi tìm các con. Nó tới gặp các con, dù các con vùi dập trong cái hang ghê tởm của các con.
Tại sao Cha muốn vào căn nhà này? Tại sao Cha không làm phép lạ ở đó? Là để dạy cho các tông đồ phải hành động thế nào trong khi đương đầu với các thành kiến và các chỉ trích, để làm trọn nhiệm vụ cao cả, và thoát được những điều này của thế giới.
Tại sao Cha lại nói với Judas các lời đó? Các tông đồ rất thường như vậy trong tính khí nhân loại của họ. Tất cả các Kitô hữu cũng vậy, kể cả các vị thánh trên trái đất, ở một mức độ ít hơn, vẫn còn cái gì tồn tại, ngay cả nơi những người hoàn toàn. Nhưng các tông đồ chưa tới được chỗ đó. Tư tưởng của họ bị thấm nhiễm bởi nhân tính. Cha nâng họ lên, nhưng sức nặng của nhân tính nơi họ lôi họ xuống. Để làm cho họ luôn luôn lên cao hơn, Cha phải đặt trên con đường lên dốc những thứ có thể ngăn cản họ tụt xuống bằng cách họ dừng lại trước vật cản, suy nghĩ, nghỉ ngơi, rồi lại đi lên cao hơn lúc trước. Đó là những thứ có khả năng thuyết phục họ rằng Cha là Thiên Chúa, và bởi đó Cha nhìn được vào nội quan của các tâm hồn, và bởi đó thắng được các yếu tố, làm được phép lạ, biến hình, sống lại và hiện diện khắp nơi.
Cha đã ở trên đường đi Emmau trong khi Cha hiện diện ở nhà
60
tiệc ly, và giờ khắc của hai sự hiện diện được đối chiếu bởi các tông đồ và các môn đệ, đã là một trong những lý do làm họ lay động nhất để dứt ra khỏi các của cải của họ và lao họ vào con đường của Đức Kitô.
Còn hơn là với Judas, một phần tử mà sự chết đã âm ỷ trong nó rồi, Cha nói cho mười một tông đồ kia. Cha cần thiết phải làm sáng lên trước mắt họ rằng Cha là Thiên Chúa. Không phải vì kiêu ngạo, nhưng đó là sự cần thiết để đào tạo họ. Cha là Thiên Chúa và là Thầy. Những từ này diễn tả Cha là ai. Cha tỏ mình ra bằng những quyền năng vượt trên nhân loại, và Cha dạy dỗ một sự hoàn thiện: Đừng làm những việc đàm thoại xấu, dù là trong nội tâm chúng ta, bởi vì Thiên Chúa thấy. Và Thiên Chúa phải thấy một nội tâm trong sạch để Người có thể xuống đó và làm cho nó thành chỗ ở của Người.
Tại sao Cha không làm phép lạ trong căn nhà đó? Để cho mọi người hiểu rằng sự hiện diện của Thiên Chúa đòi hỏi một ngoại diện trong sạch, do việc kính trọng sự cao cả của vương quyền Người. Để nói mà không cần nhích môi, nhưng nói những lời thấm thía hơn, nói vào thần trí của cô gái tội lỗi, nói với cô rằng: “Con gái khốn nạn ơi! Con thấy không? Con dơ bẩn hơn tất cả. Chung quanh con toàn là ô uế, dơ bẩn tới nỗi Thiên Chúa không thể hành động. Con dơ bẩn hơn cái tên này, vì con đã làm mới lại cái tội của Evà, và con trao trái cấm cho các Ađam bằng cách quyến rũ họ xa lìa bổn phận của họ. Con là sứ giả của Satan”.
Nhưng tại sao Cha không muốn cho người mẹ đang âu sầu gọi cô ta là Satan? Bởi vì không một lý do nào biện minh được cho sự nguyền rủa và sự thù ghét. Sự thiết yếu đầu tiên bó buộc phải có, và điều kiện đầu tiên để có Thiên Chúa ở với chúng ta là không được giữ sự thù ghét và phải biết tha thứ. Điều thiết yếu thứ hai là phải biết nhìn nhận rằng trong chúng ta cũng như trong những cái thuộc về chúng ta, đều có những sai phạm, nên đừng chỉ nhìn thấy lỗi của người khác mà thôi. Điều thiết yếu thứ ba là phải biết bảo trì lòng biết ơn và sự trung thành sau khi đã nhận được ơn phúc, đó
61
là sự công bình đối với Đấng Hằng Hữu. Khốn cho những kẻ, sau khi đã nhận được ơn phúc, lại còn xấu hơn con chó, không còn nhớ tới vị ân nhân của nó, trong khi con chó thì nó vẫn nhớ.
Cha đã không nói một lời nào với Maria Mađalêna, tựa như cô ta là bức tượng. Cha chỉ nhìn cô ta một thoáng rồi Cha ngoảnh đi. Cha trở lại với các kẻ “sống” mà Cha muốn cứu. Cô ta là chất liệu chết, giống như, và còn hơn đối với bức tượng đá. Cha đã bao phủ cô ta bằng vẻ ơ hờ lãnh đạm, Cha không nói một lời nào, cũng như không có một cử chỉ nào ngoài mục đích chính là linh hồn khốn nạn của cô ta mà Cha muốn cứu. Và lời sau cùng của Cha: “Thầy, Thầy không nguyền rủa, con cũng đừng nguyền rủa. Hãy cầu nguyện cho kẻ tội lỗi, không có gì khác hơn”, giống như một tràng hoa mà người ta kết lên, nó được gắn liền với điều Cha đã nói trên núi: “Sự tha thứ hữu ích hơn sự thù ghét, và sự thương xót có lợi hơn sự khắc nghiệt”. Những lời đó đã vây hãm cô ta, cô gái khốn nạn đáng thương, trong một cái vòng bằng nhung, mát mẻ, thơm tho mùi của lòng nhân từ, làm cho cô ta thấy sự yêu mến phụng sự Thiên Chúa khác xa chừng nào với sự hung bạo của Satan. Hương thơm trên Trời thì ngọt ngào chừng nào so với sự hôi thối của tội lỗi. Được yêu một cách thánh thiện là sự nghỉ ngơi chừng nào hơn là bị xâm chiếm bởi Satan.
Các con thấy Thiên Chúa tiết độ chừng nào trong các ý muốn của Người. Người không đòi hỏi những cuộc hoán cải sét đánh, Người không yêu sách sự tuyệt đối của một con tim. Người biết chờ đợi, Người biết tự bằng lòng. Trong khi Người chờ đợi kẻ lạc tìm lại được con đường, kẻ điên lấy lại được lý trí, Người tự bằng lòng với điều bà mẹ băn khoăn cho Người.
Cha chỉ hỏi bà: “Bà có thể tha thứ không?” Biết bao điều khác Cha có thể hỏi bà để làm cho bà xứng đáng với phép lạ, nếu Cha xét đoán như con người. Nhưng Cha đo lường sức lực của các con theo cách thức của Thiên Chúa. Đối với bà mẹ xao xuyến này, tới được chỗ sẵn sàng tha thứ đã là nhiều rồi. Lúc này Cha chỉ đòi hỏi bà có thế thôi. Sau đó, khi đã trả lại cho bà đứa con của bà, Cha nói với bà: “Hãy nên thánh và làm cho cả nhà bà nên thánh”. Nhưng
62
trong lúc bà băn khoăn, Cha chỉ đòi hỏi bà tha cho kẻ có lỗi. Người ta không thể đòi hỏi tất cả nơi một kẻ mà mới một lúc trước là số không và ở trong tối tăm. Bà mẹ này sau đó đã hoàn toàn trở về với ánh sáng, và cùng với bà là bà vợ và các đứa con. Tại lúc này, phải làm cho hoàng hôn của ánh sáng đến trên đôi mắt mù vì nước mắt của bà: Sự tha thứ là bình minh của ngày Thiên Chúa.
Đối với những kẻ hiện diện - Cha không kể Judas, Cha nói về những kẻ đã ở nơi đó mà không là các môn đệ của Cha - chỉ có một người duy nhất không trở về với ánh sáng. Những thất bại này đi theo các chiến thắng của việc truyền giáo. Luôn luôn có những kẻ mà vị tông đồ phải nhọc công vô ích. Nhưng những thất bại này không được làm cho các ngài mất can đảm. Người tông đồ không thể đòi hỏi phải được tất cả. Có những sức mạnh đối phương mang nhiều thứ tên chống lại các Ngài. Những sức mạnh này giống như những cái râu mực tuộc, nó kéo lại những con mồi mà các ngài đã giật của nó. Công phúc của người tông đồ không thay đổi. Khốn cho người tông đồ nào nói: “Tôi biết ở đó tôi không thể làm hoán cải nên tôi không tới đó”. Người này là một tông đồ vô giá trị.
Phải đi tới đó, dù chỉ có một trong số một ngàn người được cứu. Ngày giờ của vị tông đồ sẽ sinh hoa trái cho người duy nhất này cũng giống như cho một ngàn người, vì ngài đã làm tất cả những gì ngài có thể, và vì thế, Thiên Chúa thưởng công cho ngài. Cũng phải nghĩ rằng ở nơi mà vị tông đồ không hoán cải người ta được, bởi vì những kẻ cần hoán cải bị xâm chiếm qúa chắc bởi Satan, và sức mạnh của vị tông đồ không đủ so với sức mạnh đòi hỏi. Thiên Chúa có thể can thiệp, và lúc đó, ai có thể hơn Thiên Chúa?
Một điều khác nữa mà vị tông đồ phải tuyệt đối áp dụng là Tình Yêu, một tình yêu bộc lộ chứ không phải tình yêu thầm kín của các con tim trung thành. Tình yêu thầm kín chỉ đủ cho các anh em tốt. Tông đồ là người thợ của Thiên Chúa, và họ không thể chỉ giới hạn trong việc cầu nguyện. Họ phải hành động. Họ phải hành động với tình yêu, một tình yêu vĩ đại. Sự khắt khe làm tê liệt công việc của vị tông đồ và những di động của các linh hồn về với ánh sáng.
63
Không khắt khe, nhưng yêu thương. Tình yêu là y phục bằng chất thạch ma mà ngọn lửa của các tham vọng xấu không thể tấn công được. Tình yêu làm cho các con bão hòa một thứ tinh dầu bảo vệ, ngăn cản không cho sự hư thối con-người-satan thấm nhập vào các con. Để chinh phục một linh hồn, phải biết yêu nó. Để chinh phục một linh hồn, phải dẫn nó tới tình yêu: Yêu điều thiện và xa tránh tất cả những tình yêu khốn nạn của tội lỗi.
Cha đã muốn linh hồn của Maria. Cũng như với con, Gioan nhỏ, Cha không chỉ giới hạn ở việc nói về chức vị làm Thầy của Cha. Cha đã xuống tìm nó trên con đường của tội lỗi. Cha theo đuổi nó, hành hạ nó bằng tình yêu của Cha, một sự hành hạ êm dịu! Cha là sự trong sạch, Cha đã vào nơi nàng ở, nàng: kẻ dơ bẩn.
Cha không nghi ngờ sự phẫn nộ đối với Cha cũng như đối với những kẻ khác. Sự phẫn nộ không thể thấm nhập vào Cha, bởi vì Cha là sự Thương Xót. Và cô gái này khóc về sự lỗi lầm mà không phẫn nộ. Khốn cho vị chủ chăn phẫn nộ và núp sau cái bức bình phong này để bỏ rơi một linh hồn. Các con không biết rằng linh hồn trỗi dậy dễ hơn thân xác, lời nói của lòng thương xót và tình yêu rằng: “Bạn ơi, trỗi dậy đi, vì lợi ích của bạn”, thường thi hành những phép lạ sao? Cha không sợ sự phẫn nộ của kẻ khác. Các hành động của Cha được biện minh trước mặt Thiên Chúa và được hiểu trước mặt những kẻ tốt. Con mắt ác ý bốc lên men hiểm độc, xông ra mùi hư thối từ nội tâm, chẳng có giá trị gì cả. Nó tìm thấy lỗi ở cả nơi Thiên Chúa, nó chỉ thấy có nó là hoàn hảo. Vậy Cha không phải lo gì về nó.
Đây là ba điều kiện để cứu rỗi một linh hồn:
* Hoàn toàn liêm khiết để có thể nói mà không sợ lời nói bị giảm thiểu thành sự yên lặng. Nói với tất cả một đám đông theo cách nào để cho lời giảng đạo hướng về đám đông tụ họp chung quanh chiếc thuyền mầu nhiệm, nhờ các đợt sóng vươn ra, có thể đi luôn luôn xa hơn, tới tận những bãi bùn, nơi các kẻ bị cầm giữ trong bùn lầy nằm ngủ mà không lo âu gì tới việc nhận biết chân lý.
Đó là công việc đầu tiên phải làm để đập bể lớp vỏ đất cứng và
64
sửa soạn cho việc gieo hạt. Đó là công việc nặng nề nhất cho kẻ phải hoàn thành nó cũng như cho kẻ phải chịu đựng, vì lời nói phải như một lưỡi cày sắc, phải làm bị thương để mở ra. Thực vậy, Cha nói với các con rằng: người tông đồ tốt sẽ bị thương và chảy máu vì sự đau khổ do phải làm bị thương để mở ra. Nhưng nỗi đau này sinh sản. Chính nhờ máu và nước mắt của vị tông đồ mà đất cứng không trồng cấy được trở nên mầu mỡ.
* Phẩm chất thứ hai: làm việc cả ở nơi mà một người khác, vì hiểu sai sứ mạng của họ, đã bỏ trốn. Phải nát lòng để cố gắng diệt các cỏ lùng, cỏ gấu, các gai góc để đất sạch sẽ, có thể cày bừa, để làm sáng lên, như một mặt trời, quyền phép của Thiên Chúa và lòng nhân từ của Người, cùng một lúc là vị thẩm phán và thầy thuốc. Nghiêm nghị nhưng đầy tình thương, biết dừng lại để chờ cho thời gian giúp các linh hồn vượt qua cơn khủng hoảng, để suy nghĩ và quyết định.
* Điểm thứ ba: Vừa khi linh hồn, trong sự yên lặng, ăn năn hối hận, khóc và nhìn xem các sai lầm của nó, và một cách bẽn lẽn, dám đi lại với vị tông đồ, sợ rằng sẽ bị đuổi, thì người tông đồ phải có con tim lớn hơn biển cả, êm dịu hơn con tim người mẹ, gợi tình yêu hơn con tim người chồng, và mở toang nó ra để cho trào ra những đợt sóng âu yếm.
Nếu các con có Thiên Chúa trong các con, Thiên Chúa là đức Ái, các con sẽ tìm thấy dễ dàng các lời của Đức Ái để nói với các linh hồn. Thiên Chúa sẽ nói trong các con, bởi các con. Và như mật ong chảy ra từ tầng mật, như dầu thơm chảy ra từ một ống dầu, tình yêu sẽ chảy trên đôi môi cháy nóng, được thưởng thức, sẽ đến với các tâm hồn bị thương để trở thành sự nâng đỡ và phương thuốc.
Hãy làm thế nào để các kẻ có tội yêu các con, thầy thuốc của các linh hồn. Hãy làm cho họ thưởng thức mùi vị của Đức Ái trên Trời, và trở nên lo lắng để không tìm của ăn nào khác. Hãy làm cho nó cảm thấy, trong sự êm đềm của các con, một sự nhẹ nhõm tuyệt vời tới nỗi nó tìm kiếm cho hết các vết thương của nó.
Tình bác ái của các con phải tránh cho họ mọi thứ sợ sệt, vì,
65
cũng như trong chương mà con đọc hôm nay: “Sự sợ hãi ức đoán hình phạt. Kẻ sợ thì không ở trong đức Ái toàn vẹn”. Nhưng kẻ làm cho sợ cũng không. Đừng nói: “Ngươi đã làm gì?” Đừng nói: “Đi khỏi đi!” Đừng nói: “Ngươi không thể thưởng thức tình yêu tốt lành”. Nhưng hãy nói, hãy nói nhân danh Cha: “Hãy yêu và cha tha cho con”. Hãy nói: “Hãy đến, đôi tay của Giêsu đang mở rộng”. Hãy nói: “Hãy thưởng thức bánh các thiên thần và lời Chúa, hãy quên đi chất nhựa của hỏa ngục và sự khinh bỉ của Satan”. Các con hãy tự ý làm các con vật chở đồ nặng cho sự yếu đuối của kẻ khác. Vị tông đồ phải mang lấy ách của mình và của người khác, cùng một lúc với Thánh Giá của mình và của người khác. Và khi các con đến với Cha, chở nặng những con chiên bị thương, hãy bảo đảm cho chúng, các con chiên lạc, hãy nói với chúng: “Tất cả đều được quên đi kể từ lúc này”. Hãy nói: “Đừng sợ Vị Cứu Tinh, Người từ Trời xuống thế cho con, đặc biệt là cho con. Ta chỉ là cái cầu để dẫn con về với Người. Người đang chờ con ở bên kia con kênh của sự miễn tố vì thống hối, để dẫn con tới đồng cỏ thánh của Người, mà bắt đầu là ở đây, trên trái đất này, nhưng rồi tiếp tục trong vẻ đẹp đời đời, nuôi sống và kỳ diệu trên Trời”.
Đó là lời phê bình, nó ít liên can tới các con, những con chiên trung thành với chủ chăn tốt. Nhưng với con, bạn tình nhỏ, nó sẽ là sự tăng trưởng của lòng tin cậy. Và đối với cha linh hướng, nó sẽ cho thêm ánh sáng vào ánh sáng của Ngài để xét đoán. Với nhiều người, nó không phải là cây gậy kích thích để đẩy vào sự thiện, nhưng nó sẽ là làn sương như Cha đã nói, thấm nhập và nuôi dưỡng, và làm đứng dậy các bông hoa đã héo.
Hãy ngửa mặt lên, bầu trời ở trên kia. Hãy đi bằng an, Maria. Chúa ở cùng con.
96* GIÊSU NÓI VỚI MATTA:
“CON ĐÃ CÓ SỰ TOÀN THẮNG TRONG TAY”
Giêsu sắp bước lên thuyền. Đây là một bình minh trong sáng của mùa hè. Các cánh hồng tách ra rơi trên tấm nhiễu như tơ của mặt hồ, thình lình Matta tới cùng với người đầy tớ: “Ôi Thầy ơi, nghe con tí, vì tình yêu Thiên Chúa”.
66
Giêsu lại lên trên bờ và nói với các tông đồ: “Hãy tới chờ Thầy gần cái thác. Trong lúc chờ đợi, hãy chuẩn bị tất cả cho sứ mạng ở Magédan. Miền Thập Tỉnh cũng đang chờ Lời. Đi đi”.
Trong khi chiếc thuyền rời bến và ra xa, Giêsu bước đi bên cạnh Matta. Marcelle theo sau một cách kính cẩn.
Họ rời xa khu vực trong khi bước dọc bờ hồ ngay sau một giải cát có mọc ít cỏ dại, tới một khu vực đầy cỏ cây, rồi rời bỏ con đường ngang để leo lên sườn dốc soi mình trên mặt hồ.
Khi họ đã tới một nơi yên tĩnh, Giêsu mỉm cười nói: “Con muốn nói với Thầy điều gì?”
- Ôi Thầy ơi... Đêm nay, vừa sau vọng canh thứ hai một tí, Maria nó trở về nhà. A! Mà con quên nói với Thầy rằng nó đã nói với con lúc trưa, khi chúng con đang ăn: “Chị có phiền để cho em mượn một áo dài và một áo khoác của chị không? Nó sẽ hơi cộc. Em sẽ để chiếc áo rộng rãi vậy, và em sẽ xuống lai áo khoác”. Con đã nói với nó: “Cứ lấy bất cứ cái gì em muốn”. Và qủa tim con đập rất mạnh, vì trước lúc đó, ở trong vườn, con đã nói với Marcelle: “Vào lúc hoàng hôn, phải sẵn sàng ở Caphanaum, vì Thầy sẽ nói với đám đông tối nay”, và con thấy Maria giật nảy, biến sắc, không ở yên một chỗ, nhưng đi đi lại lại một mình như một tâm hồn đau khổ, băn khoăn vì phải quyết định... chưa biết phải nhận cái gì và xua đuổi cái gì.
Sau bữa ăn, nó vào phòng con và nó lấy bộ đồ tối mầu nhất mà con có, bộ đồ khiêm tốn nhất. Nó mặc thử và xin người vú nuôi xuống tất cả đường viền, vì cái áo qúa cộc. Nó đã thử tự làm lấy, nhưng nhận ra và khóc: “Em không biết khâu nữa. Em đã quên tất cả những gì là hữu ích và tốt...” Và nó choàng tay ôm cổ con và nói: “Cầu nguyện cho em”. Rồi lúc hoàng hôn, nó đi ra một mình... Vì con đã cầu nguyện để nó đừng gặp ai ngăn cản nó tới đây, để nó hiểu lời Thầy, để nó thành công trong việc bóp nghẹt dứt khoát con quái vật đã biến nó thành nô lệ... Thầy coi này: con đã thêm vào giây lưng của con, chiếc giây lưng của Thầy thắt ở bên trong. Và khi con cảm thấy sức ép của da cứng vào lưng, vì con không có thói
67
quen với chiếc giây lưng cứng như vầy, con nói: “Người mạnh hơn tất cả”.
Rồi với chiếc xe, chúng con đi lẹ, và chúng con tới, Marcelle và con. Con không biết Thầy có nhìn thấy chúng con trong đám đông không... Nhưng đau đớn chừng nào, biết bao là gai trong tim khi không nhìn thấy Maria! Con nghĩ: “Nó đã hối tiếc, nó đã trở lại nhà, hay là... hay là nó đã trốn đi, không chịu đựng nổi uy quyền của con mà nó đã phàn nàn”. Con nghe Thầy và con khóc dưới khăn voan. Những lời này tựa như được nói cho nó... mà nó không nghe! Con nghĩ vậy, vì con không nhìn thấy nó. Con trở lại nhà, thất vọng. Đúng vậy, con đã không vâng lời Thầy, bởi vì Thầy nói với con rằng: “Nếu nó đến thì đợi nó ở nhà”. Nhưng Thầy coi qủa tim con: chính em con đến với Thầy, làm sao con có thể không ở đó để nhìn thấy nó ở bên Thầy? Rồi... Thầy bảo con rằng: “Nó sẽ bị dày vò”, con muốn ở gần nó ngay để nâng đỡ nó.
Con đã qùi gối khóc trong khi cầu nguyện trong phòng con. Và vọng canh thứ hai chấm dứt từ lâu rồi khi nó về, rất êm nhẹ tới nỗi con chỉ biết khi nó lăn xả trên con, ôm chầm lấy con rất chặt trong tay và nói: “Đúng thật, tất cả những điều chị nói, người chị có phước. Và kể cả rất nhiều hơn chị đã nói: tình thương của Người rất lớn lao hơn. Ôi! Matta của em! Chị không cần phải giữ em nữa. Chị sẽ không còn thấy em vô luân và thất vọng nữa. Chị sẽ không còn nghe em nói: ‘Để khỏi suy nghĩ’ nữa. Bây giờ em muốn suy nghĩ. Em biết phải nghĩ về cái gì: Về Lòng Nhân Từ đã mặc lấy xác. Chị ơi, chị đã cầu nguyện cho em. Chắc chắn chị đã cầu nguyện cho em. Chị đã có sự chiến thắng trong tay. Maria của chị không muốn phạm tội nữa, bây giờ nó sinh lại. Nó đây. Chị hãy nhìn rõ mặt nó, bởi vì đây là một Maria mới, mặt mũi được rửa bằng nước mắt trông cậy và thống hối. Chị có thể hôn em, người chị trong sạch. Không còn vết tích tình yêu đáng xấu hổ trên mặt em nữa. Người đã nói Người yêu tâm hồn em, bởi vì chính với nó và về nó mà Người đã nói. Con chiên lạc là em, Người đã nói. Hãy nghe kỹ xem có phải em nói đúng không. Chị đã biết kiểu nói của Vị Cứu Tinh...”
68
Và nó nhắc lại cho con một cách hoàn toàn dụ ngôn của Thầy.
Maria nó rất thông minh, rất nhiều hơn con. Nó biết nhắc lại, như vậy là con đã nghe Thầy hai lần: trên môi Thầy, những lời thánh và đáng tôn thờ; trên môi nó, con thấy nó thánh, đáng tôn thờ và dễ thương, vì đó là môi của người em gái, của người em gái đã tìm lại được của con, trở về với chuồng chiên của gia đình, đã nói những lời đó với con. Chúng con ôm nhau, ngồi trên chiếc thảm dưới đất như khi chúng con còn nhỏ, và chúng con ở như vậy trong phòng của má con hay nơi má làm việc, dệt hay thêu những mảnh vải lộng lẫy của má. Chúng con ngồi yên như vậy. Chúng con không còn bị tội lỗi chia lìa, và con thấy như má con cũng hiện diện bằng thần trí của má. Chúng con đã khóc, không đau đớn, nhưng với biết bao bình an! Chúng con ôm nhau, sung sướng... Rồi Maria, mệt vì con đường nó đã đi bộ và xúc động bởi bao nhiêu thứ, nó đã thiếp ngủ trong tay con. Với sự trợ giúp của người vú nuôi, con đã đặt nó trên giường của nó... và con đã rời nó để tới đây”. Và Matta hôn đôi tay của Giêsu, hớn hở.
- Thầy cũng nói với con điều mà Maria đã nói với con: “Con đã có sự toàn thắng trong tay”. Hãy đi và hãy sung sướng. Hãy đi trong bình an. Hãy xử sự rất êm dịu và khôn ngoan đối với kẻ vừa tái sinh. Chào con, Matta. Hãy cho Lazarô biết tin, vì ông đang băn khoăn ở đó.
- Thưa Thầy vâng. Nhưng Maria, khi nào nó sẽ đến với chúng con: các môn đệ Thầy.
Giêsu mỉm cười và nói: “Đấng Tạo Hóa đã làm việc tạo dựng trong sáu ngày, và ngày thứ bảy, Người nghỉ ngơi”.
- Con hiểu. Phải kiên nhẫn...
- Kiên nhẫn, đúng. Đừng thở dài. Đó cũng là một nhân đức. Bình an cho các con. Chúng ta sẽ mau chóng gặp lại nhau.
Và Giêsu rời hai bà để đi xuống hồ, nơi con thuyền đang chờ Người ở gần bãi.
97* MARIA MAĐALÊNA
69
TRONG NHÀ PHARISIÊU SIMON
Tôi thấy một phòng rất giầu sang. Một bộ đèn chùm lộng lẫy gồm nhiều ngọn treo ở giữa phòng, tất cả đều thắp sáng. Trên tường treo đầy những bức thảm rất đẹp. Bàn ghế được trang trí bằng những đồ cẩn, khắc và khảm ngà voi cùng với những lá mỏng qúi giá. Tất cả các bàn ghế đều rất đẹp.
Giữa phòng là một cái bàn vuông lớn, nhưng do bốn cái bàn kê lại với nhau. Chắc chắn bàn kê kiểu này để đủ chỗ cho tất cả các khách mời (tất cả đều là nam giới). Nó được phủ bằng những tấm trải bàn rất đẹp, trên đó là những chén đĩa qúi giá, với nhiều bình và ly qúi. Các đầy tớ phục dịch ở chung quanh để mang các món và chuốc rượu. Trong khoảng trống ở giữa bốn cái bàn thì không có ai. Tôi thấy nền nhà rất đẹp, phản chiếu ánh sáng của các ngọn đèn dầu. Trái lại, phía ngoài bàn là nhiều ghế nằm, tất cả đều có khách giữ.
Tôi thấy mình như đang ở trong một góc hơi tối ở cuối phòng, gần một cái cửa mở rộng ra phía bên ngoài, nhưng nó được che bằng cái thảm nặng hay cái màn giống như cái thảm, treo vào ngưỡng cửa.
Ở phía xa cửa hơn là chủ nhà với các khách mời có hạng. Ông chủ là người có tuổi, mặc áo choàng trắng rộng, thắt lại ở lưng bằng sợi giây nịt thêu đẹp. Y phục có ở cổ, ở gấu tay và ở cả thân áo, những băng thêu, được dùng như những băng vải hay những giải thêu, nếu người ta thích gọi như vậy. Nhưng tôi không thích khuôn mặt của ông già nhỏ này. Đó là khuôn mặt độc ác, lạnh lùng, kiêu hãnh và tham lam.
Ở phía đối diện, trước mặt ông ta là Giêsu, tôi nhìn Người nghiêng, hầu như nhìn từ phía sau. Người mặc y phục trắng thường xuyên, chân đi xăng đan, tóc rẽ đôi trên trán và dài như thường lệ.
Tôi thấy Người cũng như tất cả các thực khách, không nằm như tôi nghĩ trên ghế nằm, tức là thẳng góc với bàn, nhưng lại song song với bàn. Trong thị kiến về tiệc cưới Cana, tôi không chú ý
70
nhiều tới chi tiết này. Tôi đã thấy họ ăn trong khi tì lên đầu gối tay trái, nhưng tôi thấy như họ không nằm, bởi vì ở đó, các ghế-giường ít sang trọng hơn và ngắn hơn nhiều. Ở đây, những chỗ ngồi này đúng là cái giường, nó giống như cái đi-văng kiểu mới theo mốt Thổ Nhĩ Kỳ.
Giêsu có Gioan ở bên cạnh, và cũng như Giêsu, ông tì trên cùi chỏ trái (cũng như mọi người), kết qủa là Gioan ở vào giữa bàn và cơ thể Chúa, cùi chỏ của ông ngang với hông của Thầy, theo cách giữ vị trí để không vướng khi ăn, và cũng cho phép ông, nếu ông muốn, tựa đầu cách kín đáo trên ngực Thầy.
Không có phụ nữ. Mọi người đều nói, và ông chủ nhà thỉnh thoảng hướng về Giêsu với vẻ thân mật đầy điệu bộ và bộc lộ sự chiếu cố. Rõ ràng là ông ta muốn tỏ cho Người, và tỏ ra cho tất cả những người hiện diện là ông ta đã làm cho Người một vinh dự lớn, là mời Người vào căn nhà giầu sang của ông, vì Người là một tiên tri nghèo, là người mà người ta cho là ít được ca tụng...
Tôi thấy Giêsu trả lời cách tao nhã và bình thản. Người mỉm nụ cười rất nhẹ nhàng với những ai hỏi Người. Người mỉm nụ cười rất tươi sáng nếu kẻ hỏi Người, hoặc chỉ đưa mắt nhìn Người là Gioan.
Tôi thấy tấm màn dầy sang trọng che khung cửa ra vào được vén lên, và một người phụ nữ đi vào. Nàng còn trẻ, rất đẹp, ăn mặc sang trọng và đầu tóc chải rất mỹ thuật. Bộ tóc vàng bóng rất dầy, làm cho đầu nàng đúng là một sự trang điểm, bằng bộ tóc được thắt bím cách nghệ thuật. Nàng tựa như đội một cái món bằng vàng rất nổi, vì bộ tóc qúa dầy và bóng láng. Nàng mặc một bộ đồ mà tôi phải nói là nó rất kỳ dị và phức tạp, nếu tôi so sánh với y phục mà tôi luôn luôn nhìn thấy nơi Đức Trinh Nữ Maria. Có những cái khóa trên vai, những nữ trang để giữ các nếp ly trên ngực, những giây chuyền vàng để trang trí lồng ngực; một giây lưng với cái khóa bằng vàng và những đá qúi. Một loại y phục rất khêu gợi, làm nổi lên những đường nét của cơ thể rất đẹp của nàng. Trên đầu là một chiếc voan rất mỏng tới nỗi nó chả che được gì cả. Đó là một đồ trang sức, có thế thôi. Ở chân là đôi xăng-đan rất đẹp với những cái
71
khóa bằng vàng. Đó là xăng-đan bằng da đỏ với những sợi giây thắt lại ở mắt cá chân.
Hết mọi người, trừ Giêsu, đều quay lại nhìn nàng. Gioan quan sát nàng một lát, rồi ông quay về Giêsu. Những người khác nhìn nàng đăm đăm với sự thèm thuồng xấu rõ ràng. Nhưng người phụ nữ không nhìn họ tí nào cả. Nàng cũng không lo chi đến những xì xèo nổi lên khi nàng vào, và những cái liếc mắt của tất cả các thực khách, trừ Giêsu và người môn đệ. Giêsu tỏ ra như Người không nhận thấy điều gì cả, Người tiếp tục nói và kết thúc câu đàm thoại với ông chủ nhà.
Người đàn bà đi về phía Giêsu và qùi gối bên chân Thầy. Nàng để xuống đất chiếc bình nhỏ có dạng bình có quai, có bụng rất phình. Nàng dỡ chiếc voan che đầu ra bằng cách tháo ra chiếc trâm qúi cài nó vào mái tóc. Nàng tháo các chiếc nhẫn ở các ngón tay ra và đặt tất cả trên cái ghế giường, bên cạnh chân Giêsu. Rồi nàng cầm trong tay những bàn chân của Giêsu, trước tiên là chân phải, rồi chân trái. Nàng tháo xăng-đan của Người ra và đặt trên đất. Rồi nàng hôn hai chân Người, gục trán trên đó và khóc nức nở. Nàng vuốt ve nó và nước mắt nàng rơi như mưa. Các giọt nước mắt sáng lên dưới những ngọn đèn và tưới lên làn da của đôi chân đáng thờ lạy.
Giêsu từ từ hơi quay đầu lại, đôi mắt xanh đậm của Người đặt cái nhìn trên cái đầu đang cúi trong giây lát, một cái nhìn tha thứ, rồi người lại nhìn vào giữa. Người để nàng tự do trong sự bộc lộ của nàng.
Nhưng những người khác thì không. Họ dỡn với nhau, liếc mắt và cười diễu. Người pharisiêu ngồi hẳn dậy một lúc để nhìn cho rõ. Cái nhìn của ông biểu lộ sự thèm khát, sự khó chịu, sự mỉa mai. Chính ông ta thèm muốn người đàn bà, tình cảm này hiển nhiên. Đàng khác, ông bực mình vì người đàn bà đi vào cách tự do, điều có thể làm cho các người khác nghĩ rằng nàng là người... quen thuộc của căn nhà. Rồi sau cùng là cái nhìn mỉa mai của ông về phía Giêsu.
72
Nhưng người phụ nữ không để ý đến chuyện gì cả. Nàng tiếp tục trào nước mắt lênh láng. Không một tiếng kêu, chỉ có những giọt nước mắt lớn, và thỉnh thoảng một tiếng nấc. Rồi nàng dỡ bím tóc ra bằng cách tháo ra những cái trâm bằng vàng giữ mái tóc chải cách cầu kỳ của nàng, và cũng đặt những trâm này bên các chiếc nhẫn và chiếc trâm lớn cài voan. Mái tóc vàng óng ả xổ ra trên vai. Nàng lấy tay vơ nó về phía trước ngực và để nó trên đôi chân ướt của Giêsu. Nàng lau cho tới khi nó khô. Rồi nàng thọc ngón tay vào cái bình nhỏ và lấy ra một thứ pô-mát hơi vàng và rất thơm. Một mùi thơm như hoa huệ và hoa dạ hương tỏa ra khắp phòng. Nàng moi ra dồi dào thứ dầu này, nàng trét, nàng thoa, nàng vuốt ve và hôn trên chân Người.
Thỉnh thoảng Giêsu nhìn nàng với tình cảm thương xót. Gioan rất ngạc nhiên khi nghe tiếng nấc. Rồi không thể rời mắt khỏi Giêsu và người phụ nữ nữa, ông nhìn lần lượt hết người nọ tới người kia.
Khuôn mặt ông pharisiêu càng lúc càng cau có. Tôi nghe thấy những lời đã quen biết trong sách Tin Mừng, nhưng tôi được nghe với cung giọng và kèm theo cái nhìn làm cho cái đầu ông pharisiêu già ghen ghét phải cúi xuống.
Tôi nghe thấy những lời tha thứ được nói với người đàn bà. Rồi nàng ra đi, để lại các nữ trang ở chân Giêsu. Nàng cuốn chiếc voan quanh đầu và thắt chặt như nàng có thể để giữ mái tóc rối của nàng. Trong khi Giêsu nói với nàng: “Hãy đi bình an”, Người đặt nhẹ tay trên cái đầu đang cúi của nàng với vẻ cực kỳ dịu dàng.
98* “KẺ YÊU NHIỀU
THÌ ĐƯỢC THA THỨ NHIỀU”
Bây giờ Chúa Giêsu nói với tôi:
Điều làm cho đầu của ông pharisiêu và của các bạn ông phải cúi xuống, điều mà sách Tin Mừng không thuật lại, đó là những lời mà thần trí của Cha, bằng cái nhìn của Cha, đã lao và cắm sâu vào
73
trong tâm hồn khô cằn và tham lam này. Cha đã trả lời với nhiều sức mạnh hơn là nếu Cha nói bằng lời, vì tư tưởng của con người không có gì che giấu được Cha, và ông ta đã hiểu Cha trong cái ngôn ngữ câm này. Nó còn là sự trách móc nặng hơn là các lời Cha. Cha đã nói với ông ta: “Không, đừng nói những lời ám chỉ ác ý để tự biện minh trước con mắt riêng của ông. Ta, Ta không có những tham vọng xấu của ông. Người đàn bà này đến với Ta không phải vì bị thúc đẩy bởi tình dục. Ta đâu có như ông và các người giống như ông. Nàng đến với Ta bởi vì cái nhìn của Ta và các lời Ta, nghe được hoàn toàn do tình cờ, đã soi sáng cho tâm hồn nàng mà sự dâm ô đã tạo ra những tối tăm. Nàng đến vì nàng muốn thắng tình dục. Nàng, một tạo vật khốn nạn, đã hiểu rằng một mình nàng, không bao giờ nàng có được sự thắng thế đó. Chính thần trí là cái nàng yêu nơi Ta. Chỉ có thần trí là cái nàng cảm thấy tốt một cách siêu nhiên. Sau biết bao điều xấu mà nàng đã nhận được ở tất cả các ông, những kẻ đã khai thác sự yếu đuối của nàng cho các thói xấu của các ông, rồi trả cho nàng bằng những roi đòn của khinh bỉ. Nàng đến với Ta vì nàng cảm thấy nàng tìm được Lòng Tốt, Niềm Vui, Sự Bằng An mà nàng đã tìm một cách vô ích giữa những lộng lẫy của loài người. Hãy chữa cho mình khỏi cái bệnh cùi này của tâm hồn, hỡi pharisiêu giả hình. Hãy biết nhìn mọi sự cho ngay chính. Hãy từ bỏ sự kiêu căng của tâm hồn và sự dâm ô của thân xác. Đó là những bệnh cùi hôi thối hơn bệnh cùi của cơ thể. Với bệnh cùi thân xác, Ta có thể chạm vào để chữa các ông vì các ông xin Ta chữa, nhưng bệnh cùi của thần trí thì không, bởi vì cái cùi này các ông không muốn khỏi, bởi vì các ông thích nó. Còn nàng, nàng muốn khỏi. Nên, đó, Ta thanh tẩy cho nàng. Ta giải phóng cho nàng khỏi những xích xiềng nô lệ. Con người tội lỗi đã chết, nàng ở đây, trong những đồ trang điểm mà nàng đã xấu hổ để dâng cho Ta, để Ta thánh hóa nó, dùng nó cho các nhu cầu của Ta, của các môn đệ Ta, và của các người nghèo mà Ta trợ giúp bằng của dư thừa của những người khác. Vì Ta là chủ vũ trụ, bây giờ Ta là Vị Cứu Tinh của loài người, và ta không chiếm hữu của gì cả. Nàng ở
74
đây, với những thuốc thơm xức trên chân Ta, tự hạ cũng như bộ tóc của nàng, trên phần cơ thể mà ông đã chểnh mảng rửa bằng nước giếng của ông, sau bao đường dài mà Ta đã đi để mang ánh sáng cho ông, cho cả ông nữa. Người phụ nữ tội lỗi đã chết, và Maria trở về sự sống, lại trở nên đẹp như cô gái nhỏ trong trắng bởi sự đau đớn dữ dằn của nàng, bởi sự chân thành trong tình yêu của nàng. Nàng đã tắm trong nước mắt nàng. Thật vậy, ôi hỡi pharisiêu! Ta nói với ông: giữa kẻ yêu Ta từ trong tuổi trẻ trong sạch và người đàn bà này, yêu Ta trong sự ân hận chân thành của một con tim sống lại trong Ân Sủng, Ta không thấy có sự gì khác nhau. Với kẻ trong sạch và với kẻ sám hối, Ta cho hiểu tư tưởng của Ta hơn ai hết, và nàng là kẻ cho thân xác Ta những vinh dự sau cùng và lời chào đầu tiên (Cha không kể lời chào đặc biệt của Mẹ Cha) khi Ta sống lại”. Đó là những điều Cha muốn nói với người pharisiêu qua cái nhìn của Cha.
Nhưng với con, Cha cho chú thích một điều khác, cho niềm vui của con và của một số đông những người khác: Ở Bêtani cũng vậy, Maria nhắc lại cử chỉ nàng đã làm lúc rạng đông của ơn cứu chuộc của nàng. Có những cử chỉ cá nhân, được lặp đi lặp lại để diễn tả một người như cái phong cách của họ: những cử chỉ cá thể, nhưng nó rất chính đáng. Tại Bêtani, hành vi ít tự hạ hơn, nhưng nhiều tin cậy hơn trong sự trọng kính và thờ phượng của nàng.
Maria đã bước rất nhiều kể từ lúc bình minh của ơn cứu độ của nàng. Rất nhiều. Tình yêu đã kéo nàng đi như gió, rất nhanh lên cao và về phía trước. Tình yêu đã thiêu đốt nàng như một giàn hỏa thiêu, phá hủy trong nàng cái xác thịt không trong sạch, và làm cho tâm hồn được thanh tẩy của nàng thành vị thầy tối thượng. Maria rất khác trước trong phẩm giá đã tìm lại được của người phụ nữ, cũng như khác trước về y phục, bây giờ thì đơn giản như y phục của Mẹ Cha, cũng như trong kiểu đầu tóc, trong cái nhìn, trong cử chỉ, trong lời nói... Tất cả đều mới, những cách mới để tôn vinh Thầy bởi cùng một hành động. Nàng đã lấy bình thuốc thơm sau cùng của nàng, thứ dành riêng cho Cha, để đổ trên chân Cha, và cả trên đầu Cha, không khóc nữa, với cái nhìn làm cho tình yêu sung sướng,
75
và sự chắc chắn được tha thứ và được cứu. Nàng đã rất có thể làm cho Cha lần xức thuốc thơm này, và bây giờ đụng vào Cha trên đầu. Maria, kẻ sám hối mà tình yêu đã thanh tẩy bằng lửa của Sêraphim, và nàng là một Sêraphim.
Hãy nói điều đó với chính con, ôi Maria, tiếng nói nhỏ của Cha. Hãy nói điều đó với các linh hồn. Hãy đi, hãy nói với các linh hồn không dám lại với Cha bởi vì nó cảm thấy nó có tội. Sẽ được tha thứ rất nhiều, rất nhiều, rất nhiều cho kẻ yêu nhiều, cho kẻ yêu Cha nhiều. Hỡi các linh hồn khốn khổ! Các con chẳng biết rằng Đấng Cứu Tinh yêu các con chừng nào! Đừng sợ Cha gì hết. Hãy đến với lòng tin cẩn, với sự can đảm. Cha mở trái tim và cánh tay Cha ra cho các con.
Các con hãy luôn luôn nhớ điều này: “Cha không thấy gì khác nhau giữa kẻ yêu Cha với một tình yêu nguyên vẹn, và kẻ yêu Cha với sự thống hối chân thành của một con tim được tái sinh trong Ân Sủng”. Cha là Vị Cứu Tinh, các con hãy luôn luôn nhớ vậy.
Hãy đi bình an. Cha chúc lành cho con.
99* CỨU XÉT VỀ VIỆC HOÁN CẢI
CỦA MARIA MAĐALÊNA
Hôm nay con không ngừng suy nghĩ về bài chính tả của Chúa Giêsu ngày hôm qua, và về những điều con thấy và hiểu, dù Người không nói.
Nhưng một cách tình cờ, con nói với cha về những đàm thoại của các thực khách. Những điều mà con hiểu, tức là những đàm thoại hướng trực tiếp về Giêsu, xoay quanh các biến cố hiện tại: các người Rôma, sự chống đối của họ đối với Lề Luật; rồi sứ mạng của Giêsu với tư cách là Thầy của một ngôi trường mới. Nhưng dù dưới vẻ bề ngoài tử tế, người ta cũng hiểu được rằng đó là những câu hỏi xảo quyệt và bịp bợm, được đặt ra để đẩy Người vào chỗ lúng túng bối rối. Điều đó chả phải là dễ, vì Giêsu đối chiếu bằng rất ít lời đối với mọi nhận xét, chỉ bằng một câu trả lời chính xác và qủa quyết.
Ví dụ khi người ta hỏi Người đã học ở trường nào hay giáo phái nào để trở nên ông thầy mới, Người chỉ trả lời đơn giản: “Trường của Thiên Chúa. Chính Người là đấng mà tôi theo trong Lề Luật thánh của Người. Và chính vì Người mà tôi lo lắng làm thế nào để đối với những kẻ bé mọn này (và Người nhìn Gioan cách yêu thương, và trong Gioan, Người nhìn tất cả những ai có tâm hồn ngay thẳng), luật đó phải được mới lại hoàn toàn từ trong căn bản của nó, đúng như khi nó được Chúa công bố trên núi Sinai. Tôi dẫn đưa các linh hồn về với ánh sáng của Thiên Chúa”.
Một câu hỏi khác về việc Người nghĩ gì đối với sự lạm dụng của César trong việc ông ta tự coi mình như chủ nhân tối thượng của Palestin, Người đã trả lời: “César là như
76
ông là, vì đó là ý muốn của Thiên Chúa. Các ông hãy nhớ lại tiên tri Isaie: ông ta, bởi sự linh ứng của Thiên Chúa, đã chẳng gọi Assure là cây gậy của cơn thịnh nộ của Người sao? Cái roi để phạt dân Thiên Chúa vì đã qúa xa lìa Thiên Chúa và lấy sự lừa đảo làm y phục và lý lẽ? Và tiên tri đã chẳng nói rằng: sau khi đã dùng ông ta làm roi để phạt, Người sẽ đập nát ông ta, vì ông ta đã lạm dụng chức quyền và trở nên kiêu căng độc ác?”
Đó là hai câu trả lời làm con cảm động nhất.
Rồi chiều nay, Giêsu của con lại mỉm cười nói với con:
Cha phải gọi con giống như với Daniel. Con là người ước ao Cha và thân yêu đối với Cha, vì con ước ao Thiên Chúa của con chừng nào! Cha có thể tiếp tục nói với con điều đã được nói cho Daniel bởi thiên thần của Cha: “Đừng sợ, vì từ ngày đầu tiên mà ngươi ứng dụng con tim của ngươi để hiểu và đau đớn trước sự hiện diện của Thiên Chúa, thì các lời cầu nguyện của ngươi đã được chấp nhận, và Ta đến vì lý do đó”. Nhưng ở đây không phải thiên thần nói với con, nhưng là Cha, Giêsu, nói với con.
Ôi Maria, Cha luôn luôn đến với những kẻ “ứng dụng con tim để hiểu”. Cha không phải là một Thiên Chúa cứng cỏi và nghiêm khắc. Cha là sự thương xót sống động, và Cha đến với kẻ nào quay về với Cha còn nhanh hơn tư tưởng.
Ngay cả với Maria Magđala tội nghiệp, kẻ đã qúa chìm sâu trong tội, Cha cũng đến rất mau lẹ bằng thần trí của Cha ngay khi Cha cảm thấy trong nàng nổi lên sự ước ao hiểu biết: hiểu ánh sáng của Thiên Chúa và tình trạng tối tăm của mình. Và Cha đã là ánh sáng cho nàng.
Bữa đó Cha đã nói với rất nhiều người, nhưng sự thật thì Cha đã nói cho mình nàng. Cha chỉ thấy có nàng đang lại gần, bị thúc đẩy bởi sự hăng hái của một linh hồn đang đứng lên để chống lại xác thịt đã bắt nó làm nô lệ. Cha chỉ nhìn thấy nàng với khuôn mặt tội nghiệp trong nguy nan, với cái mỉm cười gượng gạo, che giấu dưới vẻ bề ngoài an toàn và vui vẻ giả tạo, là sự thách đố với thế giới và với chính mình, nỗi đau lớn lao trong nội tâm nàng. Cha chỉ nhìn thấy mình nàng bị bao vây bởi các cỏ gai hơn là con chiên lạc trong dụ ngôn. Nàng là kẻ bị chìm trong những ghê tởm của đời sống, đang cố trồi lên mặt nước, giống như các dòng nước dưới đáy lôi theo với nó các làn nước ở dưới sâu.
Cha không nói các dụ ngôn dài, cũng không đề cập tới một đề
77
tài được chỉ định cho nàng - một phụ nữ tội lỗi nổi tiếng - để không làm nhục nàng, làm nàng phải bó buộc trốn đi, hoặc làm nàng xấu hổ với chính mình hay xấu hổ để đến nghe. Cha để nàng an tịnh. Cha để cái nhìn của Cha và lời Cha đi vào trong nàng và dậy men ở đó, để từ sự thúc đẩy lúc này, làm thành sự vinh quang tương lai về sự thánh thiện của nàng. Cha đã nói bằng một trong những dụ ngôn êm đềm nhất của Cha: một tia của ánh sáng và của lòng nhân từ trải ra cho chính nàng. Và buổi chiều hôm đó, khi Cha đặt chân vào căn nhà của kẻ giầu có kiêu căng, nơi mà lời của Cha không thể dậy men cho vinh quang tương lai, vì nó bị giết bởi sự kiêu căng pharisiêu, Cha đã biết rằng nàng sẽ đến. Sau khi đã khóc biết bao trong căn phòng mà nàng đã phạm tội, và dưới ánh sáng của nước mắt nàng, tương lai của nàng đã được quyết định.
Các người đàn ông, bị thiêu đốt bởi dâm dục, khi thấy nàng vào, đã rộn rã trong xác thịt của họ, và đã ức đoán trong ý nghĩ của họ. Tất cả đều ước ao nàng, trừ hai kẻ trong sạch của bữa tiệc: Gioan và Cha. Tất cả đều tin rằng nàng đến vì bị thúc đẩy bởi một trong các cơn thất thường, một sự xâm nhập thực sự của ma qủi đã quăng nàng vào cuộc phiêu lưu bất ngờ. Nhưng từ nay, Satan đã bại trận. Và tất cả đã suy nghĩ, thèm muốn, ghen tị lúc thấy nàng không đến với họ, và thấy nàng đến vì Cha.
Con người luôn luôn làm dơ bẩn cả những thứ trong sạch nhất khi họ chỉ là con người của huyết nhục. Chỉ có những kẻ trong sạch mới nhìn thấy đúng, vì trong họ không có tội lỗi khuấy động tư tưởng của họ. Nhưng Maria ơi, dù con người không hiểu, điều đó cũng không phải sợ. Thiên Chúa hiểu, điều đó đủ cho Nước Trời rồi.
Sự vinh quang đến từ loài người không gia tăng thêm một ly nào cho sự vinh quang của những kẻ được chọn trên Thiên Đàng. Con hãy luôn nhớ điều đó. Maria Magđala tội nghiệp đã luôn luôn bị xét đoán xấu trong các hành động tốt của nàng. Nàng đã không bị vậy trong các hành động xấu của nàng, vì đó là những miếng dâm ô tặng cho các kẻ dâm ô. Bị chỉ trích và xét đoán xấu tại Naim,
78
trong nhà người pharisiêu, bị chỉ trích và khiển trách nặng lời tại Bêtani, trong nhà nàng. Nhưng Gioan đã nói một lời vĩ đại, là chìa khóa cho sự chỉ trích sau cùng này: “Judas... bởi vì hắn là tên ăn cắp”. Còn Cha, Cha nói: “Người pharisiêu và các bạn ông, bởi vì họ dâm ô”. Đó, con thấy không? Sự thèm khát tình dục, sự thèm khát tiền bạc đã cao giọng chỉ trích một hành động tốt. Nhưng những người tốt thì không chỉ trích, không bao giờ. Họ hiểu.
Nhưng Cha nhắc lại: Sự chỉ trích của thế gian không quan trọng gì. Điều quan trọng là sự xét đoán của Thiên Chúa.
Và Cha sửa soạn cho con những giáo huấn của ngày mai. Hãy ghi chú chương 12 sách Daniel với những lời thiên thần sáng láng đã nói với ông: “Đừng sợ, bình an cho ngươi. Hãy can đảm và mạnh mẽ”. Và con, hãy luôn luôn biết trả lời: “Lạy Chúa con, xin hãy nói, vì Chúa đã làm cho con nên mạnh mẽ”.
Rồi Chúa Giêsu lại nói với con:
Khi Cha thấy con chú ý vào giáo huấn của Cha như vậy, Cha thấy con như đứa nữ sinh chu đáo và thương yêu đối với ông thầy của nó. Ông là tất cả sự hiểu biết cho nó. Đàng khác, khi con tự mình khám phá ra những chi tiết mới, con làm được những nhận xét (và điều đó ở trong thị kiến), con làm cho Cha nghĩ tới đứa trẻ tốt mà cha nó cầm bàn tay nhỏ của nó, và dắt nó tới trước những thứ mà ông muốn cho con nhỏ của ông thấy để trở nên thông minh hơn. Nhưng đồng thời ông không can thiệp, để cho con ông cái vui khám phá ra được điều gì mới, và tự cảm thấy lớn lên trong tư tưởng.
Để làm điều đó, con phải được thoát mọi lo âu nhân loại. Luôn luôn tự do hơn. Con phải luôn luôn có sự bảo đảm hơn để bước cách thoải mái trong con đường chiêm ngắm. Và luôn luôn an tĩnh hơn, tin cẩn hơn ở Cha là kẻ dắt tay con. Một người cha không để cho thấy, nhưng bởi hàng ngàn khúc quanh mà tình yêu thúc đẩy ông, ông làm sao cho con ông thấy những điều ông muốn cho nó thấy. Ôi! Cha, Cha là kẻ yêu thương nhất trong các người cha, và là kẻ kiên nhẫn nhất trong các ông thầy đối với các con nhỏ của Cha. Khi Cha có thể cầm tay dắt ai, khi nó ngoan ngoãn và chú tâm, Cha rất sung sướng: sung sướng được làm thầy và làm cha. Thật khó mà các tạo vật của Cha tin tưởng đặt tay nó trong tay Cha để được hướng dẫn, được dạy dỗ bởi Cha, và để nói với Cha: “Con yêu Cha hơn tất cả mọi sự với toàn thể con người của con”. Rất ít những kẻ như vậy: là tất cả của Cha, không chừa lại gì. Với những kẻ đó, Cha mở những kho tàng mặc khải và chiêm ngắm cho, và Cha ban mình không giới hạn.
Vì thế, Maria ơi, vì Cha đã chọn các con để làm cho người ta biết thiên tính của Cha trong những biểu lộ khác nhau của nó, cho những kẻ đã cần được đánh thức để thoáng thấy Thiên Chúa, con hãy nhớ phải hoàn toàn chu đáo tỉ mỉ để nhắc lại những điều con thấy. Ngay cả một chuyện tầm phào cũng có một giá trị, và nó không phải là của con, mà là của Cha. Vậy con không được phép làm cho nó mất đi. Điều đó sẽ là thiếu thật thà
79
và ích kỷ. Hãy nhớ con là cái thùng nước của Thiên Chúa, và nước phải chảy ra để mọi người lấy được. Với những bài chính tả thì con đã tới mức trung thành nhất; trong những chiêm ngắm thì con đã quan sát với rất nhiều chú ý, nhưng trong việc vội vã để viết, vì tình trạng sức khỏe đặc biệt của con, và vì hoàn cảnh chung quanh của con, con đã bỏ sót vài chi tiết. Phải tránh điều đó. Hãy viết nó vào ở cuối trang, nhưng hãy chỉ rõ tất cả. Đó không phải là sự quở trách, nhưng là lời khuyên êm dịu của Thầy con.
Mấy ngày trước đây con đã nói với Cha: “Chớ gì người ta yêu Cha hơn một tí nhờ sự trung gian của con. Điều đó đền bù cho tất cả những mệt mỏi của con, và tất cả đời con, con đã được thưởng công lớn vì vậy. Dù là chỉ một người duy nhất trở lại với Cha nhờ sự trung gian của bông hoa nhỏ tím kín ẩn, nó cũng sẽ sung sướng”. Con càng cẩn thận và chính xác, số người trở về với Cha càng nhiều, sự toàn phúc siêu nhiên hiện tại của con cũng như sự toàn phúc đời đời của con càng lớn. Hãy đi bình an. Chúa con ở với con.
100* ĐÁNG CHỊU MẤT MỘT TÌNH BẠN
ĐỂ CHINH PHỤC MỘT LINH HỒN
Giêsu đang ở trên đường dẫn từ hồ Mêron về hồ Galilê. Ở với Người có Zêlote và Batôlômêo, và hình như các ngài đang chờ ở gần thác nước, lúc này chỉ còn là một tia nước, nhưng cũng nuôi được những khóm cây rậm rạp. Những người khác đang đi tới từ hai ngả khác nhau.
Một ngày nồng nực, nhưng vẫn nhiều người đi theo ba nhóm đã giảng dạy qua các miền quê, dẫn các bệnh nhân về cho nhóm của Giêsu, và nói về Người cho các người khỏe mạnh. Một số rất đông các người được hưởng phép lạ họp thành một nhóm sung sướng ngồi giữa các cây. Niềm vui trong họ lớn tới nỗi họ không cảm thấy sự phiền phức của sức nóng, của bụi đất, của ánh sáng lóa mắt. Tất cả những thứ này cũng chỉ hơi làm phiền những người khác.
Nhóm được hướng dẫn bởi Juđa Thađê về với Giêsu đầu tiên. Rõ ràng họ có vẻ mệt mỏi, những người trong nhóm cũng như những
80
người đi theo họ. Nhóm điều hành bởi Phêrô về sau cùng, trong đó có nhiều người ở Corozain và Bétsaiđa.
- Thưa Thầy, chúng con đã làm việc, nhưng phải có nhiều nhóm... Thầy thấy, đi xa thì không thể được, vì nóng qúa. Vậy phải làm sao? Người ta nói thế giới đã lớn lên theo đà làm việc nhiều hơn của chúng ta. Trong khi tản mát vào trong xứ và kéo dài các khoảng cách, con chưa bao giờ nghĩ là Galilê lớn đến thế! Chúng ta chỉ mới làm việc có một góc, đúng là chỉ có một góc, và chúng ta cũng chưa sao giảng Tin Mừng được cho nó. Thật là mênh mông, và số kẻ cần đến Thầy và ước ao Thầy thì đông chừng nào! - Phêrô xít xoa.
- Simon, không phải thế giới lớn lên, nhưng là do sự lan truyền danh tiếng của Thầy chúng ta - Thađê trả lời.
- Phải, đúng vậy. Coi, biết bao là người. Một số đã theo chúng ta từ buổi sáng. Vào những giờ nóng nhất, chúng tôi trú trong rừng. Bây giờ buổi chiều đã gần và bước đi đã mỏi, mà những người này ở rất xa nhà họ hơn chúng ta. Nếu công việc cứ tiếp tục tăng lên như vầy, tôi không biết phải làm thế nào - Giacôbê Zêbêđê nói.
- Vào tháng mười, các mục đồng sẽ đến với chúng ta - Andrê nói để khích lệ họ.
- Hé! Đúng, các mục đồng, các môn đệ, tốt! Nhưng họ chỉ được dùng để nói: “Giêsu là Vị Cứu Tinh, Người ở đây”. Không có gì hơn - Phêrô trả lời.
- Nhưng ít nhất họ biết Người ở đâu. Trái lại, bây giờ chúng ta đến đây thì họ đến đây. Trong khi có những người đang đến đây thì chúng ta lại đi nơi khác, và họ phải chạy theo sau chúng ta. Và đối với trẻ em và các bệnh nhân thì không thực tiễn tí nào.
Giêsu nói: “Simon Phêrô, con có lý. Thầy cũng thương các linh hồn này và các đám đông này. Đối với nhiều người, không tìm thấy Thầy vào lúc được chỉ bảo có thể là một bất hạnh không sửa lại được. Các con hãy nhìn những người chưa có một sự xác thực về chân lý, họ chán nản và băn khoăn chừng nào! Và những kẻ đã thưởng thức lời Thầy thì họ đói khát chừng nào! Không thể nhịn nó
81
nữa, và không có lời nào khác có thể làm cho họ thoả lòng. Họ giống như những con chiên không người chăn, đi lang thang đây đó mà không tìm được người nào dẫn dắt và nuôi chúng. Thầy sẽ cung cấp cho chúng, nhưng các con phải giúp Thầy bằng tất cả sức lực siêu nhiên, tinh thần và thể xác của các con. Không thể đi từng nhóm đông nữa, các con phải biết đi từng nhóm hai người một. Và Thầy cũng sẽ sai đi từng hai người một trong số các môn đệ tốt nhất. Mùa gặt thật là bao la! Ôi! Mùa hè này Thầy sẽ chuẩn bị cho các con vào sứ mệnh cao cả này. Tại Tamuz, chúng ta sẽ họp đoàn với Isaac và các môn đệ tốt nhất, và Thầy sẽ chuẩn bị cho các con. Các con chưa đủ số cho công việc, vì vụ gặt qủa là rất lớn, mà các thợ gặt thì qúa ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng để Người sai nhiều thợ gặt đến cho vụ gặt hái của Người”.
- Vâng, lạy Chúa, nhưng điều đó không thay đổi bao nhiêu tình trạng của những kẻ tìm Thầy - Giacôbê Alphê nói.
- Tại sao anh?
- Vì không phải họ chỉ tìm giáo lý và các lời của sự sống, mà còn tìm sự chữa lành các bệnh hoạn của họ, các mệt mỏi của họ, của tất cả mọi thứ tật nguyền mà đời sống hay Satan đã mang tới cho phần hạ hay phần thượng của tất cả con người họ. Và điều đó chỉ có Thầy có thể làm, vì Thầy có sức mạnh.
- Những kẻ kết hợp làm một với Thầy thì có thể làm tất cả những gì Thầy làm, và những kẻ đau khổ sẽ được cứu trợ trong tất cả mọi thứ khốn nạn của họ. Nhưng các con chưa có trong các con những sự phải có để làm. Hãy cố gắng vượt qua bản thân của các con để dày đạp những khuynh hướng về loài người, để cho thần trí được toàn thắng. Hãy lãnh hội, không phải chỉ các lời Thầy, mà cả tinh thần các lời ấy, tức là hãy thánh hóa các con bằng những lời ấy. Rồi sau đó, các con sẽ có thể tất cả. Bây giờ chúng ta hãy đi nói cho họ các lời Thầy, vì họ không muốn ra đi nếu Thầy không cho họ Lời của Thiên Chúa. Rồi sau đó chúng ta sẽ trở về Caphanaum. Ở đó cũng có nhiều người đang chờ.
- Chúa ơi, có đúng là Maria Magđala đã xin Thầy tha thứ trong
82
nhà người pharisiêu không?
- Đúng đó Tôma.
- Và Thầy đã tha cho cô ta? - Philíp hỏi.
- Thầy đã tha cho nó.
- Nhưng Thầy đã làm sai rồi! - Batôlômêo kêu lên.
- Tại sao? Nàng đã thành tâm thống hối và đáng được tha thứ.
- Nhưng Thầy không nên cho cô ta ơn tha thứ trong căn nhà này, một cách công khai... - Iscariot trách Người.
- Nhưng Thầy không thấy Thầy đã lầm lẫn trong điều gì.
- Trong điều này: Thầy biết các pharisiêu là người thế nào. Biết bao lý sự cùn họ có trong đầu óc họ. Họ canh chừng Thầy, họ vu cáo Thầy, họ ghét Thầy chừng nào! Ở Caphanaum chỉ có một người trong bọn họ là bạn, tức là Simon. Và Thầy đã gọi vào nhà ông ta một cô gái điếm để phàm tục hóa nhà của ông ta, và làm phẫn nộ cho ông bạn Simon.
- Thầy không gọi cô ta. Cô ta tự ý đến đó. Đó không phải là một gái điếm, nhưng là kẻ sám hối. Điều đó khác nhau rất nhiều. Nếu trước đó người ta đã không ghê tởm lại gần nàng, và vẫn luôn luôn thèm muốn nàng, dù trước mặt Thầy, thì lúc này nàng không còn là một xác thịt nữa, mà là một linh hồn, thì người ta không được ghê tởm thấy nàng tới qùi gối dưới chân Thầy và khóc, tự trách mình, tự hạ trong sự xưng thú khiêm tốn và công khai, gói ghém trong những nước mắt của nàng. Căn nhà của pharisiêu Simon đã được thánh hóa bởi một phép lạ cả thể: Sự phục sinh của một linh hồn. Năm ngày trước đây, tại công trường của Caphanaum, ông ta đã hỏi Thầy: “Ngài đã chỉ làm có một phép lạ thôi ư ?”, và ông đã tự trả lời: “Chắc chắn là không”. Ông ta rất ước ao được coi một phép lạ, và Thầy đã cho ông ta. Thầy đã chọn ông ta làm chứng nhân, làm người phù rể của cuộc đính hôn giữa linh hồn với Ân Sủng. Ông ta phải hãnh diện vì vậy.
- Trái lại, ông ta đã phẫn nộ. Có lẽ Thầy đã mất một người bạn.
- Thầy đã tìm được một linh hồn. Thật đáng chịu mất tình bạn của một người, cái tình bạn tội nghiệp của con người, để trả lại cho
83
một linh hồn tình bạn với Thiên Chúa.
- Điều đó vô ích. Nơi Thầy, người ta không thể có được một lối suy nghĩ thuộc về loài người. Thầy ơi, chúng ta đang ở trên mặt đất, Thầy hãy nhớ điều đó. Và những luật, những ý tưởng của trái đất là cái ưu thắng. Thầy hành động theo những phương pháp trên Trời, Thầy tàn đời trong bầu trời của Thầy mà Thầy có trong tim. Thầy nhìn tất cả qua ánh sáng của bầu trời. Ông Thầy tội nghiệp của tôi! Thầy bất lực một cách thần linh để sống giữa chúng tôi là những kẻ gian ác - Iscariot ôm Người, cảm phục, buồn rầu, và nói để chấm dứt: “Con khổ vì vậy, bởi vì Thầy đã tạo ra biết bao kẻ thù vì qúa toàn thiện”.
- Judas, đừng khổ vì vậy. Đã có lời chép là phải như vậy. Nhưng làm sao con biết là Simon bị xúc phạm?
- Ông ta không nói là ông ta bị xúc phạm. Nhưng với con và Tôma, ông đã cho chúng con hiểu rằng đó là việc không nên làm. Thầy không nên mời nàng vào nhà ông, nơi chỉ có những người ngay lành được bước vào.
- Tốt. Sự ngay lành của những người đến nhà Simon, chúng ta không nói nữa - Phêrô nói.
- Và tôi có thể nói rằng mồ hôi của các gái điếm đã nhiều lần chảy trên nền gạch, trên bàn và tại các nơi khác trong nhà pharisiêu Simon - Mathêu nói.
- Nhưng không công khai - Iscariot đối đáp.
- Không, với một sự giả hình cẩn thận để che đậy.
- Anh thấy đó, có sự khác nhau.
- Cũng là sự khác nhau nữa, giữa việc một gái điếm vào để nói: “Tôi từ bỏ tội lỗi nhơ nhớp của tôi”, với một gái điếm vào để nói: “Tôi đây, tôi thuộc về ông để chúng ta cùng nhau hoàn thành tội lỗi”.
- Mathêu có lý - mọi người đều nói.
- Phải, anh ta có lý. Nhưng họ không nghĩ như chúng ta. Và phải đi tới một sự điều giải với họ, thích nghi với họ để có họ làm bạn.
- Điều đó không bao giờ đâu Judas ạ. Về phương diện chân lý,
84
sự ngay thẳng, đời sống luân lý, không có sự thích nghi, cũng không có điều giải - Giêsu nói bằng giọng như sấm. Và Người kết thúc: “Vả lại, Thầy biết là Thầy hành động đúng và vì sự lành, vậy là đủ. Chúng ta đi giải tán cho những người mệt mỏi này”.
Và Người đi đến với những kẻ đang rải rác dưới các gốc cây và nhìn về phía Người, lo lắng để nghe lời Người:
- Bình an cho tất cả các con đã đến trong những thời giờ nóng bức này để nghe Tin Mừng. Thật vậy, Thầy nói với các con rằng, các con đã bắt đầu hiểu Nước Thiên Chúa là gì, sự chiếm hữu nó là việc cao trọng chừng nào, và được thuộc về nó là hạnh phúc chừng nào! Và đối với các con, tất cả sự mệt mỏi là không, trong khi nó đáng kể đối với những người khác, bởi vì linh hồn truyền lệnh trong các con và nói với xác thịt: “Hãy vui mừng vì ta lấn át ngươi. Ta đã làm vậy vì hạnh phúc của ngươi. Khi ngươi sẽ được kết hợp với ta sau sự sống lại cuối cùng, ngươi sẽ yêu ta tùy theo mức độ ta dày đạp ngươi, và ngươi sẽ thấy ta như một vị cứu tinh thứ hai của ngươi”. Đó là những điều linh hồn các con nói, phải không? Chắc chắn là nó nói vậy. Bây giờ các con biết đặt căn bản cho các hành động của các con theo các giáo huấn của Thầy trong những dụ ngôn từ lâu rồi. Nhưng bây giờ Thầy cho các con một ánh sáng khác để các con luôn luôn say mê hơn cái Vương Quốc đang chờ các con này, một Vương Quốc có giá trị vô song.
Hãy nghe đây: một người kia tình cờ đi vào một thửa ruộng để lấy đất mang về đổ vào vườn của ông. Đây, đang khi ông mệt mỏi để đào đất cứng, ông thấy bên dưới một lớp đất, có một cái mạch kim loại qúi. Người đó làm gì? Ông lại phủ đất lên cái của mà ông đã khám phá. Ông không ngần ngại làm việc nhiều hơn, vì của khám phá đáng công khó nhọc. Rồi ông về nhà, gom góp tất cả gia tài bằng tiền, còn các thứ bằng đồ vật thì ông bán hết đi để có thật nhiều tiền. Rồi ông đi tìm người chủ thửa ruộng và nói: “Tôi thích thửa ruộng của ông. Ông muốn bao nhiêu?” Người kia nói: “Nó đâu phải ruộng chờ bán”. Nhưng người này đề nghị một giá luôn luôn lớn hơn, rất chênh lệch so với giá trị của thửa ruộng. Và sau
85
cùng người chủ quyết định. Ông ta nghĩ: “Ông này điên. Nhưng bởi vì ông ta điên nên ta lợi dụng. Ta lấy món tiền mà ông ta đề nghị. Đây đâu phải là cho vay nặng lãi, bởi vì chính ông ta muốn cho ta. Với món tiền này, ta mua được ít nhất là ba thửa ruộng khác còn đẹp hơn”. Và ông ta bán, chắc ăn là đã làm một cuộc làm ăn tuyệt vời. Nhưng trái lại, chính người kia đã trúng mánh, vì ông ta bỏ đi một số vật mà kẻ trộm có thể lấy đi, hoặc có thể bị mất hay xài đi, ông ta chiếm được một kho tàng thiên nhiên thực sự và không hư nát. Vậy thật xứng đáng là ông ta hy sinh tất cả những cái ông ta có để tậu ruộng này. Ông ta chỉ còn lại là chủ thửa ruộng, nhưng trong thực tế, ông ta luôn luôn có một kho tàng giấu trong đó.
Các con, các con đã hiểu điều đó, và các con làm như người trong dụ ngôn. Hãy từ bỏ tất cả những giầu sang phù du để chiếm lấy nước Trời. Các con hãy bán nó cho những kẻ ngu si của thế gian. Hãy nhường cho họ. Hãy chấp nhận cho người ta cười nhạo các con về những điều mà trước mắt thế gian, họ coi như đó là hành động ngu xuẩn. Hãy luôn luôn hành động như vậy, và một ngày kia, Cha các con ngự trên Trời sẽ vui mừng ban cho các con chỗ của các con trong nước Người. Hãy trở về nhà trước khi tới giờ ngày Sabát. Và trong ngày của Chúa, hãy nghĩ tới dụ ngôn về kho báu là nước Trời. Bình an cho các con.
Mọi người tản mát từ từ vào các con đường và các ngõ hẻm ở miền quê, trong khi Giêsu đi về hướng Caphanaum trong buổi chiều đang xuống.
Người tới nơi vào lúc đêm. Các ngài đi qua thành phố yên lặng dưới ánh trăng là ngọn đèn duy nhất soi cho các lối đi tối và gập ghềnh. Họ lặng lẽ vào khu vườn nhỏ ở bên cạnh nhà, ngờ rằng mọi người đã lên giường. Nhưng trái lại, một ngọn đèn còn sáng trong nhà bếp, và ba bóng người rung rinh bởi ánh lửa đèn, in lên bức tường nhỏ trắng của cái lò ở ngay bên cạnh.
- Thưa Thầy, có những người chờ Thầy. Nhưng như vậy không thể được. Bây giờ con đi nói với họ là Thầy qúa mệt rồi. Trong khi chờ, Thầy lên sân thượng đi.
86
- Không, Simon. Thầy vào nhà bếp đây. Nếu Tôma đã giữ những người này lại, có nghĩa là có lý do quan trọng.
Nhưng trong lúc đó, những người ở trong nhà đã nghe tiếng xì xèo, và Tôma, chủ căn nhà, đã đứng ở ngưỡng cửa.
- Thưa Thầy, có người đàn bà quen mọi khi. Bà ta chờ Thầy từ lúc mặt trời lặn chiều hôm qua. Có một người đầy tớ ở với bà - Rồi ông nói rất nhỏ: “Bà rất xao xuyến. Bà ta khóc không ngừng”.
- Được. Nói với bà ta lên trên lầu. Bà ta đã ngủ ở đâu?
- Bà ta không muốn ngủ, nhưng sau cùng bà đã lui vào phòng con trong vài giờ vào lúc bình minh. Người đầy tớ thì con cho ngủ ở một trong các giường của nhóm Thầy.
- Tốt. Ông ta sẽ còn ngủ ở đó đêm nay nữa. Còn ông, ông sẽ ngủ ở trong giường của Thầy nhé.
- Thưa Thầy không. Con sẽ lên sân thượng, trên những tấm chiếu, con sẽ ngủ dễ dàng.
Giêsu đi lên sân thượng. Đây, Matta cũng đi lên.
- Bình an cho con, Matta.
Một tiếng nấc trả lời cho Người.
- Con còn khóc à? Nhưng con không sung sướng sao?
Bằng cái lắc đầu, Matta làm hiệu là không.
- Vậy tại sao?...
Một quãng im lặng dài đầy những tiếng nấc. Sau cùng trong những rên rỉ: “Từ mấy buổi tối rồi, Maria không trở lại nữa, và người ta không tìm thấy nó. Con không tìm thấy, người vú nuôi, Marcelle, không ai thấy nó cả. Nó gọi xe và đi ra. Nó ăn mặc rất diện... Ôi! Nó không muốn mặc lại y phục của con. Nó không ăn mặc nửa hở. Nó vẫn còn cái thói ấy, nhưng nó rất khêu gợi trong cái... Và nó đã mang theo vàng và dầu thơm... và nó không trở về nữa. Nó đã cho người đầy tớ trở về tại chỗ căn nhà đầu tiên của Caphanaum và nói: ‘Tôi sẽ trở lại với một người bạn khác’. Nhưng nó không trở lại. Nó đã đánh lừa chúng con, hay nó cảm thấy cô đơn, có lẽ nó bị cám dỗ... hay nó đã gặp điều bất hạnh... Nó không trở về nữa...”
Và Matta qùi xuống khóc nức nở, gục đầu trên cánh tay mà bà tì
87
trên đống bao rỗng.
Giêsu nhìn bà và nói từ từ cách bảo đảm của kẻ chế ngự: “Đừng khóc. Maria đã đến với Thầy từ ba bữa nay. Nó đã xức thuốc thơm chân Thầy. Nó đã để tại chân Thầy tất cả những nữ trang của nó. Nó đã hy sinh như vậy và vĩnh viễn giữ một chỗ giữa các môn đệ của Thầy. Đừng gièm pha nó trong qủa tim con. Nó đã vượt qua con rồi”.
- Nhưng ở đâu? Vậy em con ở đâu? - Matta kêu khi ngửa khuôn mặt bối rối của bà lên. “Tại sao nó không trở lại nhà? Có lẽ nó đã bị tấn công? Có lẽ nó đã lấy một cái thuyền và bị chìm? Có lẽ một người yêu mà nó xua đuổi đã bắt cóc nó. Ôi! Maria! Maria của chị! Chị vừa tìm được em rồi chị lại mất em ngay!”
Thực sự Matta đã lạc hồn. Bà không còn nghĩ gì nữa là những người ở dưới nhà có thể nghe thấy. Bà không còn nghĩ gì nữa là Giêsu có thể nói cho bà rằng em bà đang ở đâu. Bà thất vọng, không còn nghĩ tới gì nữa.
Giêsu cầm cổ tay bà và buộc bà bình tĩnh để nghe Người. Người trấn áp bà bằng khổ người cao lớn của Người, và bằng cái nhìn thôi miên của Người: “Đủ rồi! Thầy muốn rằng con tin vào lời Thầy. Thầy muốn rằng con quảng đại, con hiểu chưa?” Và Người chỉ buông bà khi Người thấy bà đã hơi bình tĩnh.
- Em con đã đi thưởng thức niềm vui của nó, bao bọc mình bằng một sự an bình thánh thiện, bởi vì nó có trong nó cái tình cảm qúa bẽn lẽn của những kẻ được cứu chuộc. Thầy đã nói trước như vậy với con rồi. Nó không thể chịu đựng cái nhìn êm dịu nhưng tra xét của các người thân về cái y phục mới của cô dâu với Ân Sủng của nó. Và điều Thầy nói với con luôn luôn là sự thật. Con phải tin Thầy.
- Vâng. Lạy Chúa, vâng. Nhưng em Maria của con nó đã qúa... qúa ở trong quyền lực của ma qủi. Ma qủi có thể bắt lại nó bằng một phát, nó...
- Ma qủi báo thù trên con vì miếng mồi mà nó bị mất vĩnh viễn. Vậy lẽ nào Thầy phải thấy con, một phụ nữ can đảm, trở nên miếng
88
mồi của nó do một sự khiếp sợ điên khùng và vô lý sao? Thầy phải thấy rằng vì lẽ em con, người bây giờ đã tin ở Thầy, mà con bị mất đức tin đẹp đẽ mà Thầy vẫn biết ở con sao? Matta, hãy nhìn kỹ Thầy đây. Hãy nghe Thầy, đừng nghe Satan. Con không biết rằng khi nó bị bó buộc buông con mồi vì một chiến thắng của Thiên Chúa trên nó, nó bắt đầu hành động ngay - tên lý hình không biết mệt mỏi của loài người; tên ăn cắp không biết mệt mỏi các quyền lợi của Thiên Chúa - để tìm các mồi khác sao? Con không biết rằng những khổ tâm của một nhân vật thứ ba, kẻ đã chống lại được với các tấn công bởi vì họ tốt và trung thành, sẽ làm cho vững vàng sự chữa lành của một linh hồn sao? Con không biết rằng không có gì là hoàn toàn cách biệt đối với những gì đã có trong việc tạo dựng, nhưng tất cả đều theo một quy luật vĩnh viễn của những sự tùy thuộc, và những hậu qủa làm cho một hành động của một người có ảnh hưởng tự nhiên và siêu nhiên rất rộng rãi sao? Con đang khóc ở đây - con là kẻ đã biết cái khổ ghê gớm của sự nghi ngờ, và con vẫn trung thành với Đức Kitô của con ngay trong những giờ tối tăm - thì ở chỗ kia, trong một nơi lân cận mà con không biết, Maria đang cảm thấy tan biến đi cái nghi ngờ sau cùng về ơn tha thứ vô tận mà nó đã nhận. Các nước mắt của nó đã biến thành nụ cười, và sự tối tăm của nó biến thành ánh sáng. Chính sự băn khoăn lo lắng của con đã dẫn nó tới bình an, nơi mà các linh hồn được hồi sinh nhờ cái động lực không tì vết, ở bên cạnh đấng tràn đầy Sự Sống mà Người đã lãnh được để ban cho thế giới chính Sự Sống là Đức Kitô. Em con đang ở nhà Mẹ Thầy. Ôi! Nó không phải là người đầu tiên đã ghé cánh buồm vào trong hải cảng bình an này, sau khi những tia sáng êm đềm của ngôi sao sống Maria đã gọi nó vào lòng của tình yêu, vì tình yêu câm lặng nhưng linh hoạt của Con Mẹ. Em con đang ở Nazarét!
- Nhưng làm sao nó tới đó được? Nó không biết Mẹ Thầy, nhà Thầy?... một mình... trong đêm khuya... như thế... không phương tiện... với y phục như vậy... Con đường qúa dài... Làm sao?...
- Làm sao à? Cũng như các chim én trở về nơi tổ ấm lúc sơ sinh,
89
băng qua sông, biển, đồi núi; thắng được bão tố, mây mưa và gió ngược. Cũng như các chim én tới được nơi nghỉ mùa đông của nó, bởi cái bản năng đã hướng dẫn nó, bởi sự ấm áp kêu mời nó, bởi mặt trời gọi nó. Em con cũng vậy, nó chạy đến với tia sáng đang gọi nó... đến với người mẹ chung. Và chúng ta sẽ thấy nó trở về với bình minh, sung sướng... vĩnh viễn ra khỏi tối tăm, với một người mẹ ở bên cạnh, Mẹ của Thầy, để không bao giờ bị mồ côi nữa. Con có thể tin vậy không?
- Có chứ. Lạy Chúa.
Matta như bị thôi miên. Qủa vậy, Giêsu rất thống trị: Cao lớn, đứng, nhưng Người hơi nghiêng xuống trên Matta đang qùi gối. Người nói nhẩn nha bằng giọng thấm thía, như để nó xuyên thấu vào người môn đệ đang xao xuyến. Rất ít khi tôi thấy Người mạnh mẽ như vậy, để, bằng lời nói, Người chinh phục kẻ nghe Người. Nhưng sau cùng, tươi sáng chừng nào, nụ cười rạng rỡ chừng nào trên khuôn mặt Người.
Matta phản chiếu lại bằng một nụ cười và một ánh sáng yên hàn trên khuôn mặt của bà.
- Bây giờ hãy đi nghỉ bằng an.
Matta hôn tay Người và đi xuống, tươi tỉnh lại...
101* MARIA MAĐALÊNA ĐI THEO MARIA
TRONG ĐÁM CÁC MÔN ĐỆ
- Thưa Thầy có lẽ bữa nay có bão. Thầy coi các đám mây mầu chì đang tới từ sau núi Hermon. Và Thầy có thấy cái hồ gợn sóng chừng nào không? Thầy có cảm thấy gió bắc thổi luân phiên với các luồng gió nóng miền đông nam không? Những cơn lốc, dấu hiệu rõ ràng của bão.
- Trong bao lâu nữa Simon?
- Trước khi chấm dứt giờ thứ nhất. Coi kìa, các dân chài đang vội vã trở về. Họ cảm thấy chiếc hồ đe dọa. Trong một lát nữa, nó cũng
90
sẽ có mầu chì, rồi mầu nhựa thông, rồi đến sóng cả.
- Nhưng nó có vẻ rất bình lặng - Tôma nói, không tin.
- Anh, anh biết vàng. Tôi, tôi biết nước. Sẽ có như tôi nói cho mà xem. Đó cũng không phải là cơn bão bất chợt. Nó sửa soạn bằng những dấu hiệu rõ ràng. Nước chỉ bình lặng ở trên mặt, chỉ hơi gợn sóng như để dỡn chơi. Nhưng nếu anh ở trên thuyền, anh sẽ cảm thấy như hàng ngàn ngàn cái búng ngón tay đập vào mạn thuyền và lay lắc nó một cách kỳ lạ. Nước đã sôi lên ở dưới. Hãy đợi trên trời cho dấu hiệu, và anh sẽ thấy những điều tiếp theo... Hãy để gió bắc cuộn quanh với gió đông nam, và rồi... Ô này! Các bà ơi! Hãy đem vào tất cả các đồ các bà phơi, và dắt các con vật vào nơi trú ẩn. Sắp có mưa đá và nước như thác đổ.
Qủa vậy, bầu trời càng lúc càng có mầu lục nhạt, với những vệt mầu đá đen do những giải mây cứ tiếp tục ùn ùn kéo lên, tựa như chúng bị ngọn Hermon mửa ra. Chúng đẩy bình minh về phía nó tới, tựa như giờ giấc trở lui về ban đêm thay vì tiến về chính ngọ. Chỉ có một lóe sáng tiếp tục chạy trốn bằng cách đi xéo vào hàng rào mây mầu nhựa thông, và tạo ra những nét vẽ không thực mầu vàng-lục trên đỉnh ngọn đồi ở phía tây nam Caphanaum. Chiếc hồ đã mất mầu xanh dương của nó để mặc lấy mầu chàm, và các đám bọt đầu tiên nổi lên ở giữa các đợt sóng nhỏ, bị bể tung, trông như một mầu trắng mơ hồ trên nền tối của nước. Trên hồ không còn thuyền bè nữa. Người ta vội vã lôi thuyền vào bãi cạn, thu về các lưới, rổ rá, cánh buồm, mái chèo. Và nếu là người miền quê thì họ mang về các thứ nhật dụng, bảo đảm các đồ thờ, các giây nhợ, nhốt các con vật vào chuồng. Các phụ nữ vội vã ra phông-ten trước khi trời mưa, hoặc tụ họp các trẻ con đã thức giấc theo mặt trời để dẫn chúng vào trong nhà và đóng cửa lại, lo lắng tựa như lũ gà mẹ cảm thấy mưa đá sắp tới.
- Simon, đi với Thầy. Gọi người đầy tớ của Matta và gọi cả Giacôbê anh Thầy nữa. Hãy lấy một tấm vải dầy, dầy và rộng. Hai người đàn bà đang ở trên đường và phải đi đón họ.
Phêrô nhìn Người, tò mò, nhưng vâng lời không mất thời giờ.
91
Trong khi chạy trên đường băng qua xứ về phía nam, Simon hỏi: “Nhưng các bà là ai vậy?”
- Mẹ Thầy và Maria Magđala.
Phêrô ngạc nhiên tới nỗi ông dừng lại một lát, tựa như bị chôn chặt xuống đất, và ông nói: “Mẹ Thầy với Maria Magđala?!!! Cùng với nhau?!!!” Rồi ông lại bắt đầu chạy, vì Giêsu không dừng lại, Giacôbê và người đầy tớ cũng không. Nhưng ông lại nói: “Mẹ Thầy với Maria Magđala! Cùng với nhau!... Từ hồi nào vậy?”
- Từ lúc cô ta chỉ còn là Maria của Giêsu. Đi mau lên Simon. Đó, có hạt mưa rồi.
Và Simon cố gắng đi lẹ với các bạn ông, những người lớn con hơn và lẹ hơn ông. Bây giờ bụi đất tung lên như mây trên đường cháy nóng, được nâng lên bởi gió càng lúc càng mạnh. Gió thổi trên hồ và nâng nó lên thành những cái mào gà và đã bắt đầu vỡ ra trong những tiếng rắc rắc trên bãi. Khi vị trí có thể nhìn thấy hồ, ta thấy nó đã trở thành một cái vạc khổng lồ mà nước sôi điên cuồng. Các con sóng khoảng một mét hay thấp hơn chạy theo mọi hướng, đập vào nhau, trồi lên, hòa lẫn vào nhau, lìa xa nhau để đi về các ngả đối diện, để tìm một con sóng khác để đập vào. Tất cả là trận đấu chí tử của bọt, của ngọn sóng, của các đỉnh lồi có bụng lớn; của các tiếng nổ, tiếng gào, tiếng đập, vươn lên tới tận các căn nhà ở gần bờ hồ. Ở các nơi bị các căn nhà che khuất, cái hồ bộc lộ sự hiện diện của nó bằng những tiếng vỡ mạnh hơn tiếng gió rít. Trong khi cuồng phong bẻ gập các cây, giựt các cành lá và làm rụng quả. Các cú sét gầm kéo dài, đe dọa, được dẫn đầu bởi các làn chớp càng lúc càng nhiều và mạnh.
- Ai biết được các bà này sợ chừng nào! - Phêrô nói, thở hổn hển.
- Mẹ Thầy thì không. Còn bà kia, Thầy không biết. Nhưng điều chắc chắn là nếu chúng ta không bước lẹ thì họ sẽ bị ướt.
Họ đã ra khỏi Caphanaum độ vài trăm mét thì kìa, trong làn mây bụi, giữa những tiếng gầm đầu tiên của cơn mưa rào đổ xuống và bay xéo rất mạnh, rạch qua bầu khí tối, rồi lập tức trở thành một
92
thác tia nước phun, làm chóa mắt, làm ngộp thở, họ nhìn thấy hai người đàn bà đang chạy để tìm trú mưa dưới một gốc cây rậm rạp.
- Họ kìa! Ta chạy!
Mặc dầu tình yêu của ông đối với Maria đã cho ông đôi cánh, nhưng với đôi chân ngắn và không có điểm nào của một tay đua, ông chỉ tới nơi khi Giêsu và Giacôbê đã che các bà dưới tấm vải cánh buồm nặng.
- Ta không thể ở lại đây được. Phải liều mình bị sét đánh để chạy. Và chỉ lát nữa, con đường sẽ là thác nước. Ta đi thôi Thầy. Ít nhất là tới căn nhà đầu tiên - Phêrô nói khi thở dốc.
Họ đi. Các người đàn bà đi giữa. Mảnh vải buồm được giữ căng trên đầu và lưng họ.
Lời đầu tiên Giêsu nói với Maria Mađalêna - Nàng vẫn còn bộ y phục của bữa tiệc buổi chiều tại nhà Simon, nhưng khoác ra ngoài chiếc áo khoác của Đức Trinh Nữ - là để nói: “Con sợ không Maria?”
Nàng vẫn cúi đầu dưới bộ tóc như chiếc voan, rối vì chạy, liền đỏ mặt, cúi sâu hơn và thì thầm: “Lạy Chúa, không ạ”.
Bà Chúa cũng bị mất trâm cài đầu nên giống như một cô gái nhỏ với những bím tóc rơi trên vai. Nhưng mẹ mỉm cười với con mẹ ở bên cạnh mẹ và nói với Người bằng nụ cười.
- Maria, mẹ bị ướt? - Giacôbê Alphê nói khi rờ vào khăn trùm đầu và áo khoác của Bà Chúa.
- Không sao. Bây giờ chúng ta ở trong vải che rồi, phải không Maria? Nó đã che cho chúng ta khỏi mưa - Maria nói cách êm đềm với Maria Mađalêna, vì mẹ cảm thấy sự bối rối của nàng. Nàng làm hiệu bằng đầu, cho biết là: đúng.
- Chị con sẽ rất bằng lòng được gặp con. Bà đang ở Caphanaum. Bà tìm con - Giêsu nói.
Mađalêna ngửa mặt lên một lát, dán đôi mắt đẹp của nàng vào Giêsu, vì Người nói với nàng bằng điệu bộ tự nhiên như nói với các môn đệ khác. Nhưng nàng không nói gì. Nàng bị khớp bởi bao xúc động. Giêsu nói thêm: “Thầy rất bằng lòng vì đã giữ bà lại. Thầy sẽ để cho các con đi sau khi chúc lành cho các con”.
93
Lời của Người bị mất đi trong tiếng động của một cú sét ở gần. Maria Mađalêna có một cử chỉ sợ sệt. Nàng lấy hai tay bịt mặt, cúi xuống và bật ra tiếng nấc.
- Đừng sợ - Phêrô nói để bảo đảm cho cô. “Tiếng sét đã đi qua, và với Giêsu thì không có gì phải sợ”.
Giacôbê cũng vậy, ông đi bên cạnh Maria Mađalêna và nói với nàng: “Đừng khóc. Nhà ở rất gần đây thôi”.
- Tôi không khóc vì sợ. Tôi khóc vì Người nói với tôi là Người sẽ chúc lành cho tôi... Tôi... Tôi... - Và nàng không thể nói thêm gì hơn.
Đức Trinh Nữ liền can thiệp để nàng yên lòng: “Maria, con đã vượt qua cơn giông tố của con. Đừng nghĩ tới nó nữa. Bây giờ tất cả đều trong sáng và bình an. Phải không con trai mẹ?”
- Đúng mẹ ạ, hoàn toàn đúng. Không bao lâu, mặt trời sẽ trở lại, và tất cả sẽ đẹp hơn, trong sạch hơn, tươi mát hơn hôm qua. Điều đó cũng sẽ y hệt cho con, Maria.
Bà Chúa cầm chặt bàn tay của Maria Mađalêna và tiếp: “Mẹ sẽ nói với Matta điều con đã nói. Mẹ rất bằng lòng vì có thể gặp bà ta ngay để nói với bà rằng Maria của bà có thiện chí chừng nào”.
Phêrô lội bì bõm trong bùn và chịu đựng lụt lội cách kiên nhẫn, vì ông rời tấm vải che và đi về một căn nhà để hỏi chỗ trọ.
- Không, Simon. Chúng ta thích tất cả chúng ta đều trở về nhà chúng ta. Phải không? - Giêsu nói.
Mọi người đều xác nhận và Phêrô lại trở về dưới tấm vải.
Caphanaum là sa mạc. Chủ nhân ngự trị ở đó là gió, mưa, sấm, chớp, và bây giờ là mưa đá vang dội và nẩy trên sân thượng và ở trước thềm. Cái hồ thật dễ sợ, vì nó chế ngự. Các ngôi nhà gần đó bị sóng đập, vì cái bãi nhỏ không còn thấy nữa. Các chiếc thuyền được lôi lên để ở gần nhà tựa như bị chìm, vì nó đầy nước, và mỗi cơn sóng xô vào nó thì lại làm cho nước đang ở đó tràn ra.
Họ chạy vào trong vườn thực sự đã trở nên một cái đầm. Các đồ dùng nổi lình bình trên làn nước lay động. Qua khỏi đó, trong nhà bếp, mọi người đang tụ họp.
94
Matta kêu lên một tiếng đinh tai khi bà nhìn thấy em bà, đang được Maria dắt tay. Bà ôm chầm lấy cổ nàng, không cần biết là nàng đang ướt sũng. Bà hôn nàng, bà gọi nàng: “Miri! Miri! Niềm vui của chị!” Có lẽ đó là cái tên tắt mà họ gọi Maria Mađalêna khi nàng còn nhỏ.
Maria khóc, nghiêng xuống, gục đầu trên vai chị nàng, đầu tóc nàng giống như phủ lên y phục mầu tối của Matta một tấm voan bằng vàng, vật duy nhất lấp lánh trong nhà bếp tối om, chỉ có ngọn lửa duy nhất cháy bằng cành cây nhỏ để xóa đi bóng tối mà một ngọn đèn nhỏ không đủ sức làm được.
Các tông đồ đều sửng sốt. Ông chủ nhà và vợ ông cũng vậy, vì họ đã chạy tới khi nghe tiếng kêu của Matta. Nhưng sau một lúc tò mò, rồi hiểu, họ kín đáo rút lui.
Khi cơn điên của các ôm ấp hôn hít đã dịu lại, Matta mới nghĩ đến Giêsu, đến Maria, đến sự kỳ lạ là họ tới cùng với nhau. Và bà hỏi em bà, hỏi Bà Chúa và hỏi Giêsu, và tôi không biết bà có ý nhấn mạnh hơn với ai: “Nhưng làm sao? Làm sao qúi vị lại có thể đến tất cả cùng với nhau?”
- Matta à, vì cơn bão sắp tới nên Thầy đi cùng với Simon, Giacôbê và người đầy tớ của con để đi đón hai người bộ hành.
Matta qúa ngạc nhiên tới nỗi bà không suy nghĩ gì tới sự kiện là Giêsu đã ra đi một cách bảo đảm như vậy để đón họ, và bà không hỏi: “Nhưng sao Thầy biết”. Chính Tôma đã hỏi điều đó với Giêsu, nhưng ông không được câu trả lời, vì Matta nói với em bà: “Làm sao em lại có thể đi cùng với Maria?”
Maria Mađalêna cúi đầu. Bà Chúa liền “cứu bồ” bằng cách cầm tay nàng và nói: “Nó đã đến nhà mẹ giống như người lữ hành đi theo những con đường mà người ta có thể chỉ dẫn cho nó để tới đích. Nó tới và nói với mẹ: “Xin mẹ dạy cho con biết phải làm thế nào để thuộc về Giêsu”. Ôi! Nó đã có một ý chí thực sự và hoàn toàn biết bao! Nó đã hiểu ngay và học được sự khôn ngoan này. Và mẹ, mẹ thấy ngay là nó đã sẵn sàng để mẹ cầm tay nó, như mẹ làm đây, để dẫn nó tới cho Con, Con trai mẹ, và tới cho con, Matta tốt lành, và cho qúi vị, các anh em môn đệ, để nói với qúi vị: “Đây là
95
người môn đệ và người chị em chỉ biết dâng cho Chúa của nó và các anh chị em của nó những niềm vui siêu nhiên. Hãy tin ở mẹ, và tất cả hãy yêu nàng như Giêsu và mẹ đã yêu”.
Khi đó các tông đồ lại gần để chào người chị em mới, cũng không phải là không có sự tò mò... Nhưng làm sao được?! Phải, đây cũng còn là những con người.
Chính bởi một ý tốt mà Phêrô nói: “Tất cả đều tiến hành tốt đẹp. Qúi vị đã bảo đảm với họ về sự trợ giúp và về tình bạn thánh thiện của qúi vị. Nhưng cũng phải nghĩ tới là mẹ và người chị em ướt như chuột lột. Nói đúng ra, cả chúng tôi cũng vậy... Nhưng với các bà thì còn tệ hơn. Tóc tai các bà nhỏ nước như lệ liễu sau cơn mưa bão, quần áo dơ và dính đầy bùn. Chúng ta hãy nhóm lửa, đi hỏi mượn quần áo và sửa soạn các món ăn nóng...”
Mọi người đều bắt tay vào việc. Matta dẫn hai người bộ hành ướt sũng vào phòng trong khi người ta khơi lên ngọn lửa và căng ra ở trên đó các áo khoác, khăn voan, các y phục ướt. Tôi không biết họ làm việc đó cách nào... Tôi chỉ biết rằng Matta đã tìm được bà chủ nhà tuyệt vời đến, bà đi tới đi lui cách vội vã với những nồi nước nóng, những ly sữa bốc hơi, những quần áo mượn của bà chủ nhà để trợ cứu hai bà Maria...
102* DỤ NGÔN NGƯỜI ĐÁNH CÁ
Tất cả mọi người đều tụ họp trong căn phòng rộng mênh mông ở trên lầu. Cơn bão dữ dội đã trở thành cơn mưa dai dẳng, lúc thì lất phất như muốn chấm dứt, lúc lại tăng gấp lên với sự điên rồ bất ngờ. Cái hồ bữa nay không có mầu da trời, nhưng là mầu vàng lạt, với những dải bọt kéo dài khi có cơn gió, và mầu xám chì với những bọt trắng khi gió ngưng bớt. Các ngọn đồi đầy những suối nước với những chòm lá còn nằm rạp dưới sức nặng của hạt mưa, với các cành bị gió bẻ gẫy còn đeo lủng lẳng, và biết bao lá bị rụng vì mưa đá, làm thành ở khắp nơi những dòng nước vàng vàng, lôi xuống hồ những lá, đá, đất giựt được ở sườn đồi. Ánh sáng vẫn còn bị che, le
96
lói xanh xanh.
Trong căn phòng, gần cái cửa sổ mở trông lên đồi, có Maria Rất Thánh ngồi cùng với Matta và Maria Mađalêna và hai người đàn bà khác mà tôi không biết rõ họ là ai, nhưng tôi có cảm tưởng là họ quen biết với Giêsu và Maria cũng như các tông đồ, vì họ có vẻ thoải mái, chắc chắn là hơn Maria Mađalêna. Nàng ngồi bất động, cúi đầu, ở giữa Matta và Maria. Các bà đã mặc lại quần áo đã giặt sạch bùn và đã sấy trên ngọn lửa. Nhưng tôi cắt nghĩa qúa dở! Đức Trinh Nữ đã mặc lại y phục bằng len mầu xanh lam của Người, nhưng Maria Mađalêna mặc bộ đồ đi mượn, nó ngắn và chật, vì nàng cao lớn và nẩy nở. Nàng tìm cách che giấu những bất toàn của y phục bằng cách cuộn mình trong áo khoác của chị nàng. Nàng đã tết mái tóc thành hai cái đuôi xam lớn và nàng thắt đại lại với nhau ở sau gáy, bởi vì để giữ trọng lượng của nó, phải có cái gì mạnh hơn là vài cây trâm giữ ở chỗ nọ chỗ kia. Qủa vậy, ngay từ đầu, tôi luôn luôn thấy Maria Mađalêna phụ lực cho các cây trâm bằng những giải băng gắn những hạt kim cương nhỏ có mầu như mầu rơm để lẫn lộn với mái tóc bóng vàng.
Ở phía bên kia phòng, ngồi trên các ghế đẩu và ở bờ các cửa sổ, có Giêsu, các tông đồ và ông chủ nhà. Không thấy người đầy tớ của Matta. Phêrô và các dân chài khác quan sát thời tiết và làm các dự đoán cho ngày mai. Giêsu nghe và trả lời cho người nọ người kia.
- Nếu tôi biết thì tôi đã bảo mẹ tôi tới, bởi vì rất tốt là cho cô này làm quen với các bạn của cô - Giacôbê Zêbêđê nói trong khi nhìn nhóm phụ nữ.
- Nếu ta biết!... Nhưng tại sao má không đến với Maria? - Thađê hỏi anh Giacôbê của ông.
- Anh đâu biết. Anh cũng tự hỏi mình vậy.
- Hay má bệnh?
- Maria sẽ nói điều đó.
- Em đi lại hỏi mẹ - Và Thađê tiến lại bên nhóm phụ nữ. Người ta nghe giọng nói trong trẻo của Maria trả lời: “Bà rất khỏe mạnh.
97
Chính mẹ đã tránh cho bà cái mệt mỏi ghê gớm bởi sức nóng này. Chúng ta cũng đã chuồn đi như hai cô gái nhỏ, phải không Maria? Maria tới đó vào buổi tối, và chúng ta ra đi lúc rạng đông. Mẹ chỉ có nói với Alphê (Sara): ‘Chìa khóa đây. Tôi sẽ trở về sớm. Hãy nói vậy với Maria’”. Và mẹ đi.
- Mẹ ơi, chúng ta sẽ trở về cùng với nhau. Ngay khi trời đẹp trở lại và Maria có quần áo, tất cả chúng ta sẽ đi với nhau băng qua Galilê trong khi hộ tống các chị em tới con đường an toàn nhất. Như vậy các bà cũng sẽ được biết bởi Porphyrê, Suzane, và bởi các bà vợ và các con gái các con, Philíp và Batolômêo ạ.
Thật là dễ thương cái câu “các bà cũng sẽ được biết”, thay vì “Maria sẽ được biết”. Nó mạnh và nó lật đổ những thành kiến và những đầu óc hẹp hòi của các tông đồ đối với kẻ được cứu chuộc. Người áp chế sự ngượng ngập mà nàng cảm thấy bằng cách thắng sự chống đối của họ. Matta rạng rỡ, Maria Mađalêna đỏ mặt, nàng có cái nhìn năn nỉ, biết ơn, băn khoăn. Tôi biết gì nữa?... Đức Trinh Nữ có nụ cười êm dịu.
- Thưa Thầy chúng ta sẽ bắt đầu đi đâu?
- Đi Bétsaiđa, rồi Magđala, Tibêriat, Cana, Nazarét. Rồi từ đó qua Jafia và Sémeron. Chúng ta sẽ đi Bétlem thuộc Galilê, rồi đi Sicaminon và Cêsarê... - Giêsu gián đoạn bởi một tiếng nấc của Maria Mađalêna. Người ngửa mặt nhìn nàng, rồi tiếp tục như không có chuyện gì: “Tại Cêsarê, các con sẽ có xe. Thầy đã ra lệnh cho các đầy tớ, và các con sẽ đi Bêtani. Chúng ta sẽ gặp nhau vào dịp Lễ Lều”.
Maria Mađalêna bình tĩnh lại ngay. Nàng không trả lời các câu hỏi của chị nàng, nhưng nàng đi ra, có lẽ rút lui vào nhà bếp một lúc.
- Giêsu, Maria khổ khi nghe nói nó phải đi vào một vài thành phố nào đó. Phải hiểu cho nó... Thưa Thầy, con nói điều đó với các môn đệ nhiều hơn là với Thầy - Matta nói, khiêm nhu và lo lắng.
- Đúng vậy, Matta. Nhưng cần phải như vậy. Nếu nàng không đương đầu ngay với thế giới và không đập nát tên bạo chúa ghê
98
gớm là sự kính nể của nhân loại, thì sự trở lại anh hùng của nàng sẽ bị tê liệt, ngay lập tức và với chúng ta.
- Với chúng ta, chẳng ai nói gì đâu Matta. Tôi bảo đảm với bà, và cũng nói nhân danh các bạn tôi - Phêrô hứa.
- Chắc chắn rồi. Chúng tôi sẽ bao bọc nàng như người chị em. Sẽ như vậy đó, đúng như Mẹ Thầy đã nói. Và cô ấy sẽ như vậy đối với chúng ta - Thađê xác nhận.
- Và rồi... Tất cả chúng ta đều là tội nhân, và thế gian cũng đâu có chừa chúng ta ra. Chúng ta cũng hiểu các chiến đấu của nàng lắm chứ - Zêlote nói.
- Tôi, tôi hiểu nàng hơn ai hết. Thật đáng thưởng khi sống ở giữa những nơi mà chúng ta đã phạm tội, người ta biết chúng ta là ai!... Đó là một khổ hình, nhưng cũng là một sự công bình và một vinh quang khi chịu đựng nó. Chính vì tỏ tường là có sức mạnh của Thiên Chúa ở trong chúng ta, chúng ta sẽ dắt người ta tới hoán cải, dù chúng ta không mở miệng nói - Mathêu nói.
- Con thấy không Matta. Em con được mọi người thông cảm và yêu mến, và nó sẽ luôn luôn được như vậy hơn. Nó sẽ trở nên một dấu hiệu chỉ điểm cho biết bao tâm hồn có tội và run sợ. Đó cũng là sức mạnh lớn lao cho cả các người lành. Bởi vì khi Maria đã bẻ gẫy các xiềng xích sau cùng của các tình cảm nhân loại, nó sẽ là ngọn lửa tình yêu. Nó chỉ cần đổi hướng của các tình cảm sung mãn nơi nó. Nó đã mang lên bình diện siêu nhiên cái sức mạnh của khả năng yêu thương mà nó sẵn có, và rồi nó sẽ hoàn thành các kỳ công. Thầy bảo đảm điều đó với con. Bây giờ nó còn xao xuyến, nhưng ngày qua ngày, các con sẽ thấy nó bình định và tăng lực trong đời sống mới của nó. Trong nhà Simon, Thầy đã nói: “Nàng đã được tha thứ nhiều bởi vì nàng yêu mến nhiều”. Bây giờ Thầy nói với các con rằng trong sự thực, nó sẽ được tha thứ tất cả, vì nó sẽ yêu Thiên Chúa của nó với tất cả sức lực của nó, tất cả linh hồn của nó, tất cả tư tưởng của nó, tất cả máu huyết của nó, tất cả xác thịt của nó, cho tới lễ toàn thiêu.
- Hạnh phúc cho nàng vì được hưởng những lời này! Con cũng
99
muốn được như vậy - Andrê xit xoa.
- Con à? Nhưng con đã được rồi. Lại đây, người dân chài của Thầy. Thầy muốn kể cho con một dụ ngôn như được áp dụng ngay cho con.
- Chờ đã Thầy ơi! Con đi tìm Maria. Nó rất ước ao được biết giáo lý của Thầy...
Trong khi Matta đi ra, các người khác kê các ghế thành một hình bán nguyệt chung quanh ghế của Giêsu.
Hai chị em trở lại và ngồi vào chỗ của họ bên cạnh Đức Trinh Nữ.
Giêsu bắt đầu nói:
- Các người đánh cá ra khơi và thả lưới xuống biển. Sau một thời gian chờ đợi, họ kéo lưới vào bờ. Với rất nhiều mệt mỏi, họ hoàn thành công việc theo lệnh của một ông chủ đã ra lệnh cho họ cung cấp những loại cá tốt nhất cho thành phố của ông. Ông nói với họ: “Những con cá nguy hại hay chất lượng xấu, đừng thèm lấy, thậm chí đừng mang vào bờ. Hãy quăng nó xuống biển, các thuyền chài khác sẽ lấy, vì họ làm việc cho một ông chủ khác, và họ mang cá vào thành phố của ông ta, và ở đó, họ ăn những con cá độc hại, và vì vậy thành phố của kẻ thù ta càng ngày càng trở nên ghê tởm. Trong thành phố của ta thì đẹp đẽ, trong sáng, thánh thiện, không có gì thiếu lành mạnh được vào”.
Một khi đã kéo lưới vào bờ, các dân chài bắt đầu lựa chọn. Cá thật dồi dào với dáng vẻ, kích thước và mầu sắc khác nhau. Có những con cá có vẻ đẹp, nhưng trong thịt đầy những xương, có mùi khó chịu vì bao tử nó chứa đầy bùn, sâu bọ, lá thối, làm cho thịt con cá càng ghê tởm hơn. Trái lại, có những con khác trông vẻ không đẹp, với cái mõm giống như vẻ mặt của tên ác phạm, hay của các quái vật trong cơn ác mộng, nhưng các dân chài biết rằng thịt nó ngon. Cũng có những con khác, bởi vì nó không có ý nghĩa gì nên không cần để ý đến. Các dân chài làm việc và làm việc. Các thúng đã đầy các loại cá ngon, trong lưới chỉ còn lại những cá vô ý nghĩa: “Bây giờ đủ rồi, các thúng đã đầy, hãy vất chỗ còn lại xuống biển”.
100
Nhiều dân chài nói như vậy.
Nhưng trong đám họ có một người nói rất ít. Trong khi những người khác khoe hoặc chê bai những con cá rơi vào tay họ, ông này cứ tiếp tục vạch lưới để tìm. Và trong đống những con cá nhỏ, ông còn tìm được hai ba con mà ông giấu dưới đáy rổ. Những người khác hỏi: “Anh làm gì vậy? Các rổ đều đầy, đẹp đẽ. Anh sẽ làm hư nó khi anh bới lên để bỏ con cá xấu này xuống dưới, người ta sẽ nói rằng anh muốn nó được kiểm tra như cá tốt”. “Hãy để tôi làm. Tôi biết loại cá này và tôi biết ta sẽ lợi dụng được gì, và nó sẽ cho ta cái vui nào”.
Dụ ngôn được chấm dứt với việc ông chủ chúc phúc cho người dân chài kiên nhẫn, hiểu biết và yên lặng, biết phân biệt những con cá tốt nhất trong một đống cá lớn.
Bây giờ hãy nghe những áp dụng mà Thầy làm với dụ ngôn: Ông chủ của thành phố đẹp, sáng láng, thánh thiện là Thiên Chúa. Thành phố là Nước Trời. Các dân chài là các tông đồ của Thầy, các loại cá của biển là nhân loại, nơi có đủ thứ người. Các con cá tốt là các thánh.
Chủ của thành phố hãi hùng là Satan, thành phố rùng rợn đó là hỏa ngục; các người đánh cá của nó là thế gian, xác thịt, các đam mê xấu nhập thể trong các tôi tớ của Satan, hoặc thiêng liêng tức là ma qủi, hoặc nhân loại tức là các kẻ đồi bại và các kẻ giống như chúng. Các con cá xấu là các kẻ không xứng đáng với nước Trời, các kẻ bị kết án.
Trong số những kẻ chài lưới các linh hồn cho kinh thành của Thiên Chúa, luôn luôn có những kẻ tranh đua với sự hiểu biết kiên nhẫn của người dân chài, biết bền tâm trong việc tìm kiếm ngay trong các tầng lớp nhân loại, nơi mà các bạn khác của họ, kém kiên nhẫn hơn, đã chỉ lựa lấy những gì có vẻ tốt khi vừa thoáng nhìn mà thôi. Tội nghiệp thay, cũng có những ngư phủ hay chia lòng chia trí và lắm lời, trong khi việc lựa chọn đòi hỏi sự chú ý và thinh lặng, để nghe tiếng nói của các linh hồn và các sự chỉ dẫn siêu nhiên, nên họ không xem thấy các con cá tốt và để mất chúng. Cũng có những ngư phủ vì tính khăng khăng cố chấp, đã xua đuổi những linh
101
hồn mà vẻ bề ngoài không hoàn hảo, nhưng tuyệt vời về các phương diện khác.
Có can hệ gì tới các con nếu một trong các con cá mà các con bắt được cho Thầy có những dấu hiệu của các trận chiến qúa khứ, tỏ lộ những chỗ bị cắt cụt, tạo ra bởi bao lý do, nếu nó không làm tổn thương thần trí nó? Có hề gì tới các con nếu một trong những kẻ này, để tự thoát khỏi tay kẻ thù, đã bị thương và xuất hiện với những vết thương này, nếu nội tâm của nó bộc lộ một ý chí rõ ràng muốn thuộc về Thiên Chúa? Các linh hồn đã từng gian khổ là những linh hồn vững chắc, còn hơn là những kẻ giống như đứa trẻ, được bao bọc bởi tã lót, bởi cái nôi, bởi người mẹ, và được nuôi dưỡng no nê nên tốt và mỉm cười bình an, nhưng sau đó, vì lớn lên, và vì những thăng trầm của đời sống hiện tại, có thể bộc lộ những ngạc nhiên đau thương của sự lạc hướng luân lý.
Thầy nhắc lại cho các con dụ ngôn về người con phung phá. Các con sẽ còn nghe những dụ ngôn khác nữa, bởi vì Thầy luôn luôn cố gắng làm thấm nhập vào trong các con sự chính trực để nhận thức, trong việc nghiệm xét các lương tâm để chọn một kiểu hướng dẫn cho các linh hồn. Mỗi linh hồn đều là cá biệt và duy nhất, và vì thế nó có phương cách đặc biệt để cảm nhận và phản ứng trước những cám dỗ và các lời giáo huấn. Các con đừng nghĩ rằng việc lựa chọn các tâm hồn là dễ dàng. Hoàn toàn trái lại: Điều đó đòi hỏi con mắt thiêng liêng được soi sáng hoàn toàn bởi ánh sáng của Thiên Chúa. Việc đó đòi hỏi một sự thông minh được thấm nhập bởi sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Việc đó đòi hỏi sự chiếm hữu các nhân đức tới độ anh hùng, mà ở trên tất cả là đức bác ái. Việc đó đòi hỏi khả năng thu tâm trong sự chiêm niệm, vì mỗi linh hồn là một bản văn tối mà họ phải đọc và suy gẫm. Việc đó đòi hỏi sự kết hợp liên tục với Thiên Chúa và quên đi mọi thứ lợi lộc ích kỷ: Chỉ sống cho các linh hồn và cho Thiên Chúa, vượt qua mọi thành kiến, mọi oán giận, mọi ác cảm. Êm đềm như một người cha và sắt đá như người lính chiến. Êm đềm để khuyên răn nhắn nhủ và làm cho can đảm. Sắt đá để nói: “Việc đó không được phép và con sẽ không
102
làm”, hay là: “Việc này tốt và con phải làm”. Bởi vì, các con hãy nghĩ cho kỹ: có rất nhiều linh hồn sẽ bị quăng vào đầm lầy hỏa ngục, nhưng không phải đó chỉ là những linh hồn tội lỗi, nhưng còn có những linh hồn các kẻ rao giảng Tin Mừng tội lỗi: những kẻ đã thất tín với sứ mạng của họ và lôi kéo nhiều linh hồn đến chỗ hư mất.
Sẽ có một ngày, ngày sau cùng của trái đất, ngày đầu tiên của Jêrusalem hoàn toàn và vĩnh viễn, ngày mà các thiên thần, giống như các ngư phủ trong dụ ngôn, sẽ phân chia các kẻ tốt ra khỏi các kẻ xấu, để, theo lệnh nghiêm khắc của vị thẩm phán, đưa các kẻ tốt vào Nước Trời, và các kẻ xấu vào lửa đời đời. Khi đó sẽ được tỏ cho biết những sự thực có liên can tới các ngư phủ và những người họ đã chài được. Những kẻ giả nhân giả nghĩa sẽ ngã xuống, và dân của Thiên Chúa sẽ hiện ra đúng như họ là, với các thủ lãnh của họ và những người họ đã cứu. Khi đó chúng ta sẽ thấy biết bao kẻ bề ngoài không có nghĩa lý gì, hay bị ngược đãi, là những kẻ chói lọi trên Nước Trời; và những ngư phủ bình tĩnh, nhẫn nhục, là những kẻ đã làm việc nhiều hơn, và bây giờ họ chói ngời, đầy những đá qúi, là tất cả những kẻ họ đã cứu được.
Vậy là dụ ngôn đã được nói và được giải thích.
- Vậy em con?! Ôi! Nhưng... - Phêrô nhìn Người, nhìn Người... Rồi nhìn Maria Mađalêna.
- Không, Simon, với cô ta, tôi không có công gì đâu. Một mình Thầy đã hành động - Andrê nói cách thẳng thắn.
- Nhưng những ngư phủ khác, các người của Satan, họ lấy những cá còn lại à? - Philíp hỏi.
- Chúng cố gắng lấy những cá tốt hơn: Những linh hồn có khả năng cho những việc phi thường hơn của Ân Sủng, và chúng dùng chính con người để làm, phụ thêm vào cho những xúi giục của chúng. Có biết bao người trên thế giới, chỉ vì một đĩa đậu xanh, đã từ chối quyền trưởng nam của họ.
- Thưa Thầy, bữa trước Thầy nói là có rất nhiều người bị lôi kéo bởi những thứ thuộc về thế gian, đó cũng là những ngư phủ của
103
Satan à? - Giacôbê Alphê hỏi.
- Đúng anh ạ. Trong dụ ngôn này, kẻ để mình bị lôi kéo bởi sự giầu sang là những thứ có thể cho họ nhiều điều hưởng thụ, họ để mất quyền được hưởng kho tàng của Nước Trời. Nhưng trong thực tế, Thầy bảo các con rằng: trong một trăm người, chỉ có một phần ba biết chống lại sự lôi kéo của vàng và các thứ hấp dẫn khác. Và trong số một phần ba này, chỉ có một nửa biết kháng cự một cách anh hùng. Thế giới chết ngộp, bởi vì nó tự ý xiết cổ mình bằng những sợi giây tội lỗi. Thà rằng bị lột trần hết còn hơn là có những của cải rẻ mạt và hão huyền. Hãy biết hành động như người thợ bạc tham lam: Khi họ biết rằng ở một nơi kia, người ta đã mò được một viên ngọc trai cực hiếm, anh ta không lo lắng để giữ trong tủ sắt của anh một mớ lớn những đồ trang sức nho nhỏ, nhưng anh ta bán hết đi để mua viên ngọc tuyệt vời này.
- Vậy tại sao chính Thầy đã làm những sự khác biệt trong sứ mạng mà Thầy cho những kẻ theo Thầy, và tại sao Thầy bảo chúng con rằng phải coi sứ mạng đó như một ơn của Thiên Chúa? Trong khi cũng phải từ khước sứ mạng này, vì đó là những điều vô ý nghĩa so với Nước Trời? - Batôlômêo hỏi.
- Đó không phải là những điều vô nghĩa lý: đó là những phương tiện. Nó sẽ là điều không quan trọng, hay nói đúng hơn, nó là những cộng rơm rác dơ bẩn, nếu nó trở nên một cái đích nhân loại trong đời sống. Những kẻ hoạt động để có một địa vị với mục đích có lợi về nhân loại, nó sẽ làm cho địa vị này thành một cộng rơm rác dơ bẩn, dù đó là địa vị thánh. Các con hãy làm cho nó thành một sự lãnh nhận đầy vâng lời, một nghĩa vụ vui vẻ, một lễ toàn thiêu hoàn toàn. Và các con sẽ làm cho nó trở thành một viên ngọc cực kỳ hiếm. Sứ mạng là một lễ toàn thiêu nếu người ta hoàn thành nó hết mình. Đó là một sự tử đạo, một vinh quang. Nó làm chảy nước mắt, mồ hôi và máu. Nhưng nó làm nên một triều thiên vương giả đời đời.
- Đúng thật, Thầy biết trả lời cho hết mọi vấn đề.
- Các con có hiểu Thầy không? Các con có hiểu tất cả những
104
điều Thầy nói với các con bằng những so sánh về các sự trong đời sống hàng ngày, nhưng được soi sáng bởi ánh sáng siêu nhiên, để từ đó giải thích những sự đời đời không?
- Thưa Thầy hiểu.
- Vậy các con hãy nhớ lấy phương pháp đó để giảng dạy cho đám đông, vì đó là một trong những bí mật của các luật sĩ và các rabbi: sự hồi tưởng. Thật vậy, Thầy bảo các con rằng mỗi người trong các con, được giáo huấn bởi sự khôn ngoan bảo đảm cho sự chiếm hữu Nước Trời, thì giống như một người cha trong gia đình, ông lấy từ trong kho tàng của ông ra những thứ hữu ích cho gia đình để sử dụng nó, những thứ cũ cũng như mới, với mục đích duy nhất là tạo sự thoải mái cho con cái ông. Mưa tạnh rồi, chúng ta hãy để cho các bà bình an tới nhà ông già Tobie. Ông sắp mở con mắt linh hồn ông ra trên những thứ của đời sống bên kia. Bình an cho các con, các phụ nữ.
103* MARGZIAM DẠY KINH LẠY CHA
CHO MARIA MAĐALÊNA
Trời đẹp đã trở về trên biển Galilê. Tất cả đều đẹp hơn lúc trước cơn bão, vì tất cả đều được rửa sạch bụi. Bầu khí quyển trong suốt hoàn toàn, và con mắt, khi nhìn lên bầu trời, có cảm tưởng là nó bay lên cao hơn và trở nên nhẹ hơn... Đó là một tấm màn căng ra giữa trái đất và các huy hoàng của Thiên Đàng. Mặt hồ phản chiếu mầu xanh dương hoàn hảo này và tươi cười bình lặng với làn nước mầu lam ngọc của nó.
Đây là lúc bắt đầu rạng đông. Giêsu cùng với Mẹ Maria, Matta và Maria Mađalêna lên thuyền của Phêrô. Cùng với Người, ngoài Phêrô và Andrê, còn có Zêlote, Philíp, Batôlômêo. Còn Mathêu, Tôma, hai ông anh họ của Giêsu và Iscariot thì lên thuyền của Giacôbê và Gioan. Họ hướng về Bétsaiđa, một đoạn đường ngắn, lại có gió thuận. Thời gian di chuyển chỉ mấy phút.
105
Khi họ sắp tới nơi, Giêsu nói với Batôlômêo và người bạn bất khả phân ly của ông là Philíp: “Các con đi báo cho các bà xã của các con. Hôm nay Thầy sẽ tới nhà các con”. Và Người nhìn hai ông với vẻ đầy ý nghĩa.
- Xong ngay Thầy ơi. Thầy không ưng thuận cho con cũng như Philíp được có Thầy ở với chúng con sao?
- Chúng ta chỉ ở đây cho tới lúc mặt trời lặn, và vì Thầy không muốn cho Phêrô bị mất cái vui được gặp Margziam.
Chiếc thuyền vào bờ và dừng lại. Họ lên bờ. Philíp và Batôlômêo tạm biệt các bạn ngay để đi vào trong vùng.
- Hai ông kia đi đâu vậy? - Phêrô hỏi Thầy là người đầu tiên lên bờ và ở bên cạnh họ.
- Họ đi báo cho các bà vợ của họ.
- Vậy con cũng đi báo cho Porphyrê.
- Không cần. Porphyrê rất tốt đến nỗi không cần chuẩn bị cho bà. Con tim bà chỉ biết phân phát sự êm dịu.
Mặt Phêrô sáng rỡ khi nghe Giêsu khen bà xã của ông nên ông không nói gì thêm nữa. Trong lúc đó, các phụ nữ cũng lên khỏi thuyền nhờ một tấm ván dùng làm cầu, và họ đi về hướng nhà Simon.
Người đầu tiên nhìn thấy họ là Margziam. Nó đang dẫn các con chiên ra ngoài để cho chúng gặm cỏ tươi trên sườn ngọn đồi đầu tiên của Bétsaiđa. Với một tiếng kêu vui mừng, nó loan tin cho mọi người trong khi nó chạy tới lăn vào lòng Giêsu. Người cúi xuống để hôn nó. Rồi nó đến với Phêrô. Porphyrê chạy ra, tay dính đầy bột. Bà cúi mình chào.
- Bình an cho bà, Porphyrê. Bà đâu có chờ chúng ta sớm như vầy phải không? Nhưng Thầy muốn dẫn đến cho bà: Mẹ Thầy và hai môn đệ, cùng với phúc lành của Thầy. Mẹ Thầy muốn gặp lại đứa bé... Đó, nó đang ở trong tay mẹ. Và các bà môn đệ muốn biết bà... Đây là bà xã của Simon, một môn đệ tốt và thầm lặng, linh hoạt trong sự vâng lời hơn là nhiều người khác. Còn các bà này là Matta và Maria ở Bêtani, hai chị em. Tất cả hãy thương yêu nhau.
106
- Những người mà Thầy dẫn đến cho con, đối với con, họ còn thân thiết hơn máu mủ. Xin mời vào căn nhà tự nên đẹp hơn mỗi lần Thầy đặt chân tới.
Maria mỉm cười, lại gần ôm hôn Porphyrê và nói với bà: “Mẹ thấy con đúng là bà mẹ sống động rồi. Đứa trẻ đã có vẻ tươi tốt hơn và nó sung sướng. Cám ơn con”.
- Ôi thưa mẹ, còn hơn là tất cả những tốt phước khác, con biết rằng chính nhờ mẹ mà con được nghe gọi “Má ơi”, và xin mẹ biết rằng con sẽ không làm mẹ khổ bởi không sống như bà mẹ, với tất cả những gì là tốt trong con. Xin vào. Xin vào với tất cả các chị.
Margziam nhìn Maria Mađalêna cách tò mò. Nó vận dụng tất cả đầu óc để suy nghĩ. Sau cùng nó nói: “Nhưng... ở Bêtani, cô đã không có ở đó”.
- Cô đã không có ở đó. Nhưng bây giờ cô sẽ luôn luôn ở đó - Maria Mađalêna nói, đỏ mặt và cố nặn một nụ cười. Nàng vuốt ve đứa bé và nói với nó: “Mặc dù chỉ bây giờ chúng ta mới biết nhau, nhưng cháu thương cô nhiều không?”
- Có, bởi vì cô tốt. Cô đã khóc phải không? Vì vậy mà cô tốt. Và cô có tên Maria phải không? Má con cũng có tên vậy, và bà rất tốt. Tất cả các đàn bà có tên Maria đều tốt. Nhưng... - Để không làm tổn thương cho Porphyrê và Matta, nó kết thúc: “Nhưng cũng có những người tốt trong đám các phụ nữ mang tên khác. Má cô tên gì?”
- Euchérie... và bà rất tốt - Và hai giọt nước mắt lớn chảy ra từ đôi mắt của Maria Magđala.
- Cô khóc vì má cô chết rồi phải không? - Đứa trẻ hỏi, và nó vuốt ve đôi tay rất đẹp nắm vào nhau trên y phục mầu đậm, chắc chắn đó là áo của Matta được sửa lại cho vừa, vì người ta thấy nó đã xuống lai. Và nó thêm: “Nhưng cô không nên khóc. Cô biết chúng ta đâu có cô đơn. Má của chúng ta luôn luôn ở gần chúng ta. Chính Giêsu đã nói vậy. Và các vị giống như thiên thần hộ mệnh. Điều này cũng vậy, Giêsu cũng đã nói. Và nếu ta tốt, các vị sẽ đến đón ta khi ta chết, và ta sẽ lên với Thiên Chúa trong tay mẹ chúng ta. Nhưng đúng vậy, cô biết chứ? Chính Người đã nói vậy”.
107
Maria Magđala ôm rất chặt người yên ủi nhỏ, hôn nó và nói: “Vậy hãy cầu nguyện để cô trở nên tốt như vậy”.
- Nhưng... Cô không vậy à? Với Giêsu, chỉ có những người tốt đến... Và nếu ta chưa hoàn toàn tốt, ta sẽ trở nên như vậy để có thể là môn đệ của Giêsu. Bởi vì người ta không thể giảng dạy nếu người ta không biết. Người ta không thể nói: “Hãy tha thứ” nếu trước tiên chúng ta không tha. Ta không thể nói: “Hãy yêu tha nhân”, nếu trước tiên chúng ta không yêu họ. Cô biết lời cầu nguyện của Giêsu không?
- Không.
- A! Đúng vậy. Cô vừa mới đi theo Người. Cô biết không? Nó rất hay. Nó nói lên mọi điều. Cô hãy nghe, nó hay chừng nào! - Và Margziam đọc nhẩn nha kinh lạy Cha với tâm tình và đức tin.
- Cháu biết rõ chừng nào! - Maria Magđala nói, đầy cảm phục.
- Chính mẹ cháu dạy cháu lúc ban đêm, và mẹ của Giêsu dạy cháu lúc ban ngày. Nhưng nếu cô muốn, cháu sẽ dạy cho cô. Cô có muốn đi với cháu không? Các con chiên nó đang kêu bê bê, vì nó đói rồi. Cháu dẫn chúng vào đồng cỏ. Đi với cháu đi. Cháu sẽ dạy cho cô cầu nguyện, và cô sẽ trở nên hoàn toàn tốt - Và nó cầm tay Mađalêna.
- Nhưng cô không biết Thầy có muốn không...
- Đi đi, đi đi Maria. Con có người bạn ngây thơ vô tội, và các con chiên. Đi đi với tất cả sự thanh thản.
Maria Magđala đi với đứa trẻ. Người ta thấy chúng xa dần, ba con chiên đi trước. Giêsu nhìn... Những người khác cũng nhìn.
- Đứa em tội nghiệp của tôi! - Matta nói.
- Đừng phàn nàn. Đó là một bông hoa tươi lại, đứng thẳng lên trên cuống sau cơn bão. Con nghe không?... Nó đang cười... Kẻ thơ ngây trong trắng luôn luôn là sự khích lệ.
104* GIÊSU NÓI VỚI PHILÍP:
“THẦY LÀ NGƯỜI YÊU MẠNH THẾ”.
108
DỤ NGÔN ĐỒNG TIỀN ĐƯỢC TÌM THẤY
Con thuyền chạy dọc bời hồ từ Caphanaum tới Magđala.
Đây là lần đầu tiên Maria Magđala ở trong dáng điệu thông thường từ sau khi hồi chánh: ngồi dưới sàn thuyền bên chân Giêsu trong khi Người ngồi trên bục ở đầu mũi thuyền. Khuôn mặt nàng rất khác xa với khuôn mặt ngày hôm qua. Đây chưa phải là khuôn mặt rạng rỡ của Maria Mađalêna khi chạy ra đón Giêsu mỗi lần Người tới Bêtani, nhưng cũng đã là khuôn mặt được loại trừ hết những sợ sệt và băn khoăn. Đôi mắt nàng, trước tiên là khiêm hạ cũng như trước đó nữa nó trơ trẽn, bây giờ thì đoan trang và đầy bảo đảm. Và trong sự đoan trang đầy phẩm giá của nàng, thỉnh thoảng lóe ra một tia vui khi nàng nghe Giêsu nói với các tông đồ hoặc với mẹ Người hay Matta.
Họ nói chuyện về lòng tốt của Porphyrê: rất đơn giản và rất dễ thương. Họ nói về sự đón tiếp tình nghĩa của Salômê và các bà trong gia đình của Batôlômêo cũng như Philíp. Và Philíp nói: “Nếu không vì lý do là chúng còn qúa trẻ, và mẹ chúng không muốn thấy chúng ở ngoài đường, thì chúng cũng sẽ đi theo Thầy”.
- Linh hồn chúng theo Thầy, và đó cũng là một tình yêu thánh. Philíp ơi, nghe Thầy này: đứa con gái cả của con sắp làm đám hỏi phải không?
- Thưa Thầy vâng. Đó là vị hôn phu xứng đáng, và nó sẽ là người chồng tốt. Có phải không Batôlômêo?
- Đúng vậy. Tôi bảo đảm điều đó, vì tôi biết rõ gia đình này. Tôi không thể chấp nhận làm người mối lái, nhưng nếu tôi không bị giữ ở bên cạnh Thầy, thì với sự bảo đảm và bình an, tôi sẽ giúp nó thành lập một gia đình thánh.
- Nhưng cô gái trẻ đã xin Thầy nói với con là đừng làm gì hết.
- Vị hôn phu không vừa ý nó sao? Vậy thì nó lầm. Nhưng tuổi trẻ điên lắm! Con hy vọng nó sẽ chịu nhận. Không có lý do gì để từ chối một ông chồng hảo hạng như vậy, nếu không là... Không thể được! - Philíp nói.
109
- Nếu không là sao? Nói tiếp đi Philíp - Giêsu nói để khuyến khích ông.
- Nếu không là nó đã yêu một người khác. Nhưng điều đó không thể được! Nó không bao giờ ra khỏi nhà, và ở trong nhà, nó sống một đời rất kín đáo. Không thể được.
- Philíp, có những tình nhân có thể vào trong những căn nhà đóng cửa chặt nhất; người tình biết nói với những nàng mà họ yêu, mặc dù tất cả những rào cản và những sự canh chừng; người tình phá hủy được tất cả những trở ngại mù quáng hay những trở ngại của tuổi trẻ được giữ gìn cẩn thận, hay... Còn những thứ khác nữa, để lấy những nàng mà họ yêu. Cũng có những tình nhân mà người ta không thể từ chối, bởi vì họ là những người bất khả kháng trong ý chí của họ; bởi vì họ rất hấp dẫn để thắng mọi kháng cự, dù là của ma qủi. Một trong những người đó đã yêu con gái con, và là người mạnh nhất.
- Nhưng ai? Một người trong triều Hêrôđê à?
- Đó không phải là một người mạnh.
- Một người... một người trong nhà Thủ Hiến? Một qúi tộc Rôma à? Con sẽ không cho phép điều đó với bất cứ giá nào. Dòng máu Israel tinh ròng sẽ không tiếp xúc với một dòng máu dơ bẩn. Thà rằng con giết con gái con. Xin Thầy đừng cười! Con khổ mà!
- Bởi vì con giống như một con ngựa sợ bóng. Con thấy bóng tối ở nơi chỉ toàn là ánh sáng. Nhưng con yên tâm. Ông Thủ Hiến không là một đầy tớ sao? Các bạn qúi phái của ông không là những đầy tớ sao? César không phải là một đầy tớ sao?
- Thầy dỡn hoài! Thầy muốn làm con sợ. Không ai lớn hơn César, và không có ai là chủ hơn ông ta.
- Có Thầy, Philíp ạ.
- Thầy? Thầy muốn cưới con gái con?
- Không. Linh hồn của nó. Thầy là người yêu xâm nhập được vào trong những căn nhà đóng kỹ nhất, vào những con tim còn khóa chắc hơn bảy và bảy lần chìa khóa. Thầy là người biết nói, mặc dầu có tất cả mọi thứ hàng rào và sự canh chừng. Thầy là kẻ
110
phá hủy mọi trở ngại để lấy cái gì Thầy muốn: các kẻ trong sạch, các người tội lỗi, các trinh nữ, các bà góa, những kẻ không bị thói xấu xiềng xích và những kẻ là nô lệ của nó. Và với tất cả mọi người, Thầy cho một linh hồn duy nhất, mới mẻ, được hồi sinh, được hạnh phúc và trẻ trung đời đời: Các lễ đính hôn của Thầy. Và không ai có thể từ chối cho Thầy các con mồi êm ái của Thầy, dù là cha, mẹ, con cái, kể cả Satan. Thầy nói với linh hồn một cô gái nhỏ như con gái của con, hay với một người tội lỗi dìm ngập trong tội, bị Satan cầm giữ bằng bảy sợi xích. Linh hồn sẽ đến với Thầy, và không có gì, cũng không người nào có thể giựt nó khỏi tay Thầy nữa. Không một giầu sang nào, một quyền hành nào, một niềm vui nào của thế gian có thể thông đạt được với niềm vui trọn vẹn, là niềm vui của những kẻ kết hợp với sự nghèo khó và sự hy sinh của Thầy. Lột bỏ mọi của cải hèn để mặc lấy mọi của cải trên trời; vui tươi trong sự trong sáng được thuộc về Thiên Chúa, chỉ một mình Thiên Chúa... Chính những người đó là chủ dưới đất và trên Trời. Là chủ trái đất vì họ thống trị nó, là chủ trên Trời vì họ đã chinh phục nó.
- Nhưng trong luật của chúng ta không có điều đó - Batôlômêo kêu lên.
- Hãy lột bỏ con người cũ, Natanael. Khi Thầy gặp con lần đầu tiên, Thầy đã chào con khi gọi con là người Israel hoàn toàn, không gian dối. Nhưng giờ đây con thuộc về Đức Kitô, không thuộc về Israel nữa. Hãy thuộc về Đức Kitô không gian dối, không úp mở. Hãy mặc lấy cái tâm tính mới này, nếu không, con không thể hiểu biết bao vẻ đẹp của sự cứu chuộc mà Thầy mang đến cho toàn thể nhân loại.
Philíp can thiệp vào và nói: “Vậy con gái con, Thầy nói là nó được Thầy gọi? Vậy nó làm gì bây giờ? Con, con không cãi lý với Thầy, nhưng con muốn biết, chỉ là để giúp nó. Lời kêu gọi của Thầy cốt tại cái gì?”
- Dẫn đưa các bông huệ được dâng hiến bởi một tình yêu trinh nguyên vào trong khu vườn của Đức Kitô. Sẽ có rất nhiều trong các
111
thế kỷ tương lai!... Rất nhiều!... Vườn cảnh thơm tho mùi hương để cân đối với sự ô trọc của các thói hư; các linh hồn cầu nguyện để cân đối với các kẻ phạm thượng và những kẻ vô thần; là sự trợ cứu cho tất cả các hoạn nạn của thế gian và là niềm vui của Thiên Chúa.
Maria Magđala mở môi để đặt một câu hỏi, trong khi hỏi, nàng vẫn còn đỏ mặt, nhưng với sự dễ dàng hơn trong những ngày trước: “Vậy chúng con, những đổ nát mà Thầy đã nâng dậy, chúng con sẽ trở nên thứ gì?”
- Giống như các chị em đồng trinh của các con.
- Ôi! Không thể được! Chúng con đã dẵm lên qúa nhiều bùn, và... và... không thể được.
- Maria! Maria! Giêsu không bao giờ chỉ tha một nửa. Thầy đã bảo con rằng Thầy tha cho con, thì sẽ là như vậy. Con và tất cả những ai phạm tội như con mà tình yêu của Thầy đã tha thứ và kết hôn, các con sẽ tỏa hương thơm, các con sẽ cầu nguyện, các con sẽ yêu, các con sẽ khích lệ. Các linh hồn này ý thức được điều xấu và biết rằng khả năng chữa trị ở đâu, trước mặt Thiên Chúa, họ là những vị tử đạo, vì thế họ cũng thân yêu đối với Người như các trinh nữ vậy.
- Tử đạo à? Về cái gì Thầy?
- Chống lại chính mình các con và những kỷ niệm của qúa khứ, và bởi sự khao khát tình yêu và sự đền tội.
- Con phải tin điều đó không?... - Maria Mađalêna nhìn tất cả mọi người trong thuyền để tìm một sự xác nhận cho niềm hy vọng vừa nhúm lên trong nàng.
- Hãy hỏi Simon điều đó. Một buổi chiều kia, trong mảnh vườn đầy trăng sao soi sáng của nhà con, Thầy đã nói về con, và cách chung là về tất cả các kẻ tội lỗi. Các anh em con có thể nói cho con lời Thầy đã hát lên cho tất cả những kẻ được cứu chuộc, về những kỳ công của lòng thương xót và sự hoán cải.
- Đứa trẻ cũng đã nói điều đó với con bằng cái giọng thiên thần của nó. Khi con trở về, tâm hồn được tươi mát ra vì bài học của nó.
112
Nó đã cho con biết về Thầy còn hơn chị con nữa, đến nỗi bữa nay con cảm thấy can đảm hơn để đối diện với Magđala. Bây giờ Thầy đã nói với con như vậy, con thấy sức mạnh của con lớn lên. Con đã làm gương mù cho thế gian, nhưng lạy Chúa, con thề với Thầy là bây giờ thế giới, khi nhìn vào con, họ sẽ biết thế nào là uy quyền của Thầy.
Giêsu để bàn tay Người trên đầu nàng một lát, trong khi Đức Thánh Trinh Nữ mỉm cười, nụ cười mà chỉ mẹ biết làm: nụ cười của Thiên Đàng.
Đây, thành phố Magđala trải ra trên bờ hồ, với mặt trời vươn lên trước núi Arbêla, ngọn núi che gió cho nó ở phía sau, và cái thung lũng hẹp với những sườn dốc thẳng và hoang dã. Nơi đây, một dòng suối đến từ phía tây đổ vào hồ với những bờ dốc đầy vẻ đẹp mê hồn và khắc nghiệt.
Gioan kêu lên từ chiếc thuyền bên kia: “Thầy ơi! Đây là cái thung lũng của tuần tĩnh tâm của chúng ta”. Và mặt ông rạng rỡ tựa như mặt trời cháy lên trong lòng ông.
- Thung lũng của chúng ta, đúng. Thầy nhận ra ngay.
- Người ta không thể không nhớ những nơi người ta đã nhận biết Thiên Chúa - Gioan trả lời.
- Trong khi con, con luôn luôn nhớ tới cái hồ này, vì chính ở đây, con đã biết Thầy. Chị biết không Matta, chính ở đây, một buổi sáng kia em đã thấy Thầy?
- Đúng, và chỉ chút xíu nữa là tất cả chúng ta, chúng tôi và qúi vị, đều chìm xuống đáy. Bà ơi, hãy nhớ là các tay chèo thuyền của bà không đáng giá là bao - Phêrô nói trong khi cho thuyền cập bờ.
- Chúng tôi chẳng đáng giá gì, cả người chèo, cả những người ở cùng với họ... Nhưng còn điều là chính ở đây xảy ra cuộc gặp gỡ đầu tiên, và điều đó có giá trị lớn. Rồi sau đó con thấy Thầy ở trên núi, rồi ở Magđala, và rồi ở Caphanaum. Bao lần gặp gỡ là bấy nhiêu xích xiềng bị gẫy... Nhưng Caphanaum là nơi đẹp nhất, vì ở đó Thầy đã giải phóng cho con...
Họ lên đất, trong khi những người ở thuyền kia đã lên rồi. Họ đi
113
vào thành phố.
Chỉ vì tò mò hay... một sự tò mò không đơn giản về phía những người dân của Magđala, là một hành hạ đối với Maria Mađalêna. Nhưng nàng chịu đựng cách anh hùng trong khi theo chân Thầy. Người đi ở đàng trước, giữa tất cả các tông đồ, trong khi ba người đàn bà đi ở phía sau. Tiếng xì xào rất mạnh. Cũng không thiếu những lời chỉ trích. Tất cả những người vào thời mà Maria còn là tình nhân có ảnh hưởng ở Magđala, và họ đã nể nàng vì sợ trả đũa, bây giờ họ nhìn nàng, biết nàng đã xa lìa các bạn hữu mạnh thế, bây giờ nàng khiêm nhu, trong sạch, họ tự cho phép mình làm chứng về nàng, kể cả khinh bỉ, và quăng về phía nàng những hình dung từ ít nịnh hót hơn.
Matta cũng khổ như nàng nên bà hỏi: “Em có muốn về nhà không?”
- Không, em không rời Thầy. Và Người, trước khi căn nhà được thanh tẩy mọi dấu vết của qúa khứ, em sẽ không mời Thầy vào.
- Nhưng em khổ mà em!
- Em đáng vậy.
Và người ta thấy nàng chịu đựng: mồ hôi như những hạt ngọc trên mặt, và mầu đỏ lan ra tới cổ, không phải chỉ là tại trời nóng.
Họ đi qua tất cả thành phố Magđala, đi vào các khu dân nghèo cho tới căn nhà các ngài đã đến lần trước. Người đàn bà đứng sững, kinh ngạc khi ngước đầu qua bên trên bể giặt để coi xem ai chào, bà thấy mình ở trước mặt Giêsu và cái cô nổi tiếng của Magđala, không còn quần áo sang trọng, không còn phủ đầy nữ trang, nhưng đầu che bằng một tấm khăn gai nhẹ, ăn mặc mầu xanh lơ phớt hồng, một cái áo cộc, chật, chắc chắn không phải áo nàng, dù người ta đã cố làm cho vừa, choàng một áo khoác nặng mà chắc chắn là một cực hình với sức nóng này.
- Bà có cho phép Thầy dừng lại trong nhà bà để nói với những người theo Thầy không? - tức là tất cả Magđala, vì tất cả dân thành đều đi theo nhóm các ngài.
- Lạy Chúa, sao Thầy lại hỏi con vậy? Nhà con thuộc về Thầy -
114
và bà vội vã đi lấy các ghế ngồi, các băng để cho các bà và các tông đồ. Khi đi qua gần Maria Mađalêna, bà cúi xuống như một người nô lệ.
- Bình an cho bà, bà chị - nàng trả lời. Người đàn bà ngạc nhiên tới nỗi bà để rơi chiếc ghế nhỏ bà cầm trong tay. Nhưng bà không nói gì. Cử chỉ của bà làm tôi nghĩ rằng Maria có lẽ thường đối đãi những người tùy thuộc vào nàng với điệu kẻ cả. Sự ngạc nhiên của người đàn bà càng lớn khi bà nghe nàng hỏi các đứa trẻ thế nào, chúng đâu, chài lưới có khá không.
- Chúng khỏe mạnh... chúng ở nhà trường hay ở nhà mẹ tôi, chỉ có đứa nhỏ đang ngủ trong nôi. Chài lưới khá, chồng tôi sẽ mang cho cô số mười phần trăm...
- Không, không phải mang nữa. Hãy giữ lấy cho các con bà. Bà cho phép tôi coi đứa bé không?
- Mời vào.
Người ta đã kéo tới đầy đường. Giêsu bắt đầu nói:
- Một người đàn bà có mười đồng bạc trong túi, nhưng trong khi bà hoạt động, túi tiền tụt khỏi bụng, nó mở ra, các đồng tiền rơi trên đất. Bà lượm lại, với sự giúp đỡ của các bạn hàng xóm hiện diện, và bà đếm. Chỉ có chín đồng, đồng thứ mười không tìm thấy. Vì buổi tối đã gần và thiếu ánh sáng, người đàn bà đốt đèn và để trên đất. Bà lấy chổi và quét cẩn thận để coi xem đồng tiền có lăn đi xa khỏi chỗ rơi không. Nhưng không thấy đồng tiền. Các bạn bà bỏ đi, nản lòng, thôi không tìm nữa. Khi đó người đàn bà di chuyển cái rương, cái kệ, kể cả một chiếc rương nặng, xê dịch các hũ, các bình đặt tại các lỗ trong tường... Nhưng vẫn không thấy đồng tiền. Khi đó bà bắt đầu bò bốn chân và tìm trong đống rác rến ở gần cửa nhà để xem lỡ ra đồng bạc có lăn ra ngoài nhà và lẫn lộn vào các lá rác, vỏ rau không. Và sau cùng bà đã tìm được đồng bạc, hoàn toàn dơ bẩn, hầu như bị vùi trong đống rác rến và rau cỏ thối đã lấp trên nó.
Người đàn bà đầy vui mừng, cầm nó đem rửa, lau chùi. Bây giờ nó lại đẹp hơn trước. Bà giơ nó cho các bạn hàng xóm mà bà đã gọi
115
trở lại bằng những tiếng kêu lớn, những kẻ đã rút lui sau một lúc tìm kiếm. Bà nói với họ: “Đây, các bạn coi! Các bạn đã khuyên tôi đừng nhọc công tìm kiếm hơn, nhưng tôi đã kiên tâm, và tôi đã tìm thấy đồng bạc đã mất. Vậy các bạn hãy vui với tôi, vì tôi không phải chịu cái khổ phải mất một đồng trong số kho tàng của tôi”.
Thầy của các con cũng vậy, và các tông đồ của Người cùng với Người, làm giống như người đàn bà trong dụ ngôn. Người biết rằng một cử động có thể làm rơi mất một kho tàng - mỗi linh hồn là một kho tàng - và Satan, kẻ ghét Thiên Chúa, gây ra những cử động xấu để làm rơi các linh hồn khốn nạn. Có những kẻ, trong lúc rơi té, dừng lại ở gần cái túi tiền, tức là đi hơi ra xa Lề Luật của Thiên Chúa, đấng gìn giữ các linh hồn dưới sự bảo vệ của các giới răn Người. Có những kẻ đi xa hơn, tức là xa lìa Thiên Chúa và giới răn của Người hơn. Sau cùng, có những kẻ lăn tới tận các đống rác, các đồ phế thải, các chỗ bùn nhơ, và ở đó, nó sẽ kết thúc bằng cách hư đi, bị thiêu trong lửa đời đời, giống như những vật dơ dáy mà người ta thiêu đốt trong những nơi đặc biệt.
Vị Thầy biết vậy, và Người tìm kiếm không biết mệt những đồng bạc bị mất. Người tìm chúng ở khắp nơi với tình yêu. Đó là những kho báu của Người, và Người không cho phép mình mệt, cũng không để mình chán nản vì bất cứ cái gì. Nhưng Người lục lọi, moi móc, lúc lắc, quét tước, cho tới khi Người tìm thấy nó. Khi Người đã tìm thấy nó, Người rửa nó bằng sự tha thứ của Người. Người gọi các bạn Người: toàn thể Thiên Đàng, và tất cả các người lành trên trái đất, và nói: “Hãy vui với Ta, vì Ta đã tìm thấy kẻ đã lạc mất. Bây giờ nó còn đẹp hơn trước, vì sự tha thứ của Ta đã làm cho nó cái gì mới”.
Thật vậy, Thầy bảo các con: sẽ có một lễ lớn trên Trời, và tất cả các thiên thần của Thiên Chúa cũng như các kẻ lành trên trái đất, sẽ vui mừng khi một người tội lỗi trở lại. Thật vậy, Thầy bảo các con: không có gì đẹp hơn nước mắt thống hối. Thật vậy, Thầy bảo các con: chỉ có ma qủi mới không biết, và không thể vui mừng vì sự cải thiện là chiến thắng của Thiên Chúa. Thầy cũng bảo các con
116
rằng: cách thức mà một người đón nhận sự cải thiện của một tội nhân cho ta biết mức độ về lòng nhân từ của họ, và về sự kết hợp
của họ với Thiên Chúa. Bình an cho các con.
Người ta hiểu lời giáo huấn và họ nhìn Maria Mađalêna. Nàng đến ngồi tại cửa với đứa bé trong tay, có lẽ là để được bình tĩnh.
Mọi người từ từ xa dần, chỉ còn lại bà chủ căn nhà nhỏ và mẹ bà ta - người đã tới với các đứa trẻ - Thiếu Benjamin, vì nó còn ở nhà trường.
105* KIẾN THỨC SẼ KHÔNG ĐỒI TRỤY
KHI NÓ LÀ TÔN GIÁO
Khi chiếc thuyền dừng lại tại cái cảng nhỏ của Tibêriat, mấy người nhàn rỗi đang đi dạo gần cái đập nhỏ chạy lại để coi các ngài. Có những người thuộc mọi tầng lớp và mọi quốc tịch. Cũng vậy: y phục dài đủ mầu của người Hy Bá; tóc bù xù với bộ râu oai vệ của các người Israel, lẫn lộn với y phục bằng len trắng, cộc hơn và không có tay, mặt mũi cạo nhẵn, tóc ngắn, của người Rôma lực lưỡng, và những y phục còn ngắn hơn, che phủ cơ thể nhanh nhẹn và mảnh khảnh của các người Hy Lạp. Những người sau cùng này giống nhau cho tới cả dáng vẻ nghệ thuật của tổ quốc xa xôi của họ. Họ giống như các bức tượng thần, xuống thế trong thân xác con người, bao bọc trong y phục mềm, khuôn mặt cổ điển với mái tóc quăn thơm phức, cánh tay mang đầy lắc lóng lánh, trong những cử động được nghiên cứu.
Nhiều cô gái giang hồ trà trộn trong hai loại người sau, vì các người Rôma và Hy Lạp không ngần ngại quảng cáo tình yêu của họ tại các công viên và đường phố, trong khi người Palestin thì không. Rồi sau đó họ đem nhau vào nhà họ để phó mình cho tình yêu tự do với các khách giang hồ. Điều này rất rõ ràng, vì các gái
117
giang hồ, mặc dầu những người các nàng gọi hỏi nhìn các nàng với vẻ kinh ngạc, các nàng vẫn gọi họ cách thân mật bằng các tên Hy Bá khác nhau. Trong số những người này, có một tên pharisiêu hủ lậu.
Giêsu đi vào thành phố, hướng về những nơi mà các đám đông dân thanh lịch tụ họp đông đảo. Các dân thanh lịch, tức phần đông là Rôma hay Hy Lạp, với một nhúm quần thần của Hêrôđê và ít nhân vật khác mà tôi tin đó là các thương gia giầu thuộc về phía Phênici, Siđon và Tyr, vì họ nói chuyện về những thành phố này, về các cửa tiệm và tàu bè.
Các nhà tắm hơi có các hành lang bên ngoài đầy đám người qúi phái nhàn rỗi, nên họ mất thời giờ để bàn bạc về những đề tài ít quan trọng nhất, như một lực sĩ ném đĩa, hoặc một lực sĩ lẹ làng nhất và điều hòa nhất trong trận đấu Hy Lạp - Rôma; hoặc họ nói về các mốt, các tiệc tùng và hẹn hò các cuộc dạo mát vui vẻ, hoặc đi mời các kỹ nữ đẹp nhất, các mệnh phụ sang trọng khi họ ra khỏi nhà tắm hơi hay các lâu đài với tóc quăn thơm phức, tản mát vào trung tâm Tibêriat toàn xây bằng đá cẩm thạch, trang hoàng nghệ thuật như một phòng tiếp tân.
Đương nhiên là sự đi qua của nhóm này gây ra nhiều tò mò tọc mạch, và nó trở nên hoàn toàn đặc biệt đối với những ai đã biết Giêsu vì đã thấy Người ở Cêsarê, hoặc với những ai đã nhận ra Maria Mađalêna. Nàng vẫn bước, bao bọc trong áo khoác và chiếc voan trắng che sâu xuống dưới trán và má. Chẳng những che như vậy, nàng còn cúi đầu, nên người ta thấy rất ít khuôn mặt nàng.
Một người Rôma nói:
- Đây là người Nazarét đã chữa đứa nhỏ của Valêria.
Một tên Rôma khác trả lời: “Tao rất muốn xem một phép lạ”.
- Tao, tao muốn nghe ông ta nói. Người ta nói đó là đại triết gia. Chúng ta có thể xin ông ta nói không? - Một tên Hy Lạp hỏi.
- Đừng bận tâm, Théodate. Ông ta chỉ giảng về gió. Ông ta thích hợp với tuồng bi hài kịch - Một tên Hy Lạp khác trả lời.
- Đừng lo, Aristobule. Hình như ông ta từ trên mây xuống và
118
bước đi trên đất cứng. Mày coi ông ta có một đoàn tùy tùng với những phụ nữ trẻ và đẹp - một tên Rôma nói dỡn.
- Nhưng cô đó là Maria Magđala! - một tên Hy Lạp kêu lên. Rồi anh ta gọi lớn: “Lucius! Cornélius! Titus! Nhìn kìa! Đó là Maria!”
- Nhưng không phải nàng đâu! Maria trong y phục này à? Mày xỉn rồi sao?
- Chính nàng, tao nói mà! Tao không thể lầm, dù nàng cải trang như vậy.
Các người Rôma và Hy Lạp liền tụ tập bên cạnh nhóm người truyền giáo đang đi băng qua công viên đầy những hành lang và phông-ten. Cả các đàn bà cũng lại cùng với các đàn ông tò mò. Và một bà tới tận dưới voan của Maria để nhìn nàng cho tỏ hơn, và bà ta sững sờ khi thấy là chính nàng. Bà ta hỏi: “Cô mặc như vầy để làm gì vậy?” Và bà ta cười khinh bỉ.
Maria dừng lại, đứng thẳng, lấy tay hất chiếc voan ra đàng sau, để lộ khuôn mặt nàng. Đó là Maria Magđala, bà hoàng và bà thầy của tất cả những gì là đáng khinh, bây giờ là bà thầy của các ấn tượng về nàng, hiện ra: “Phải, chính tôi”. Nàng nói bằng tiếng nói như chuông của nàng, với những tia sáng trong đôi mắt rất đẹp của nàng: “Chính tôi, và tôi dỡ voan ra để qúi vị không nghĩ rằng tôi xấu hổ khi ở với các vị thánh này”.
- Ôi! Ôi! Maria ở với các thánh! Nhưng hãy để cho các thánh yên, và đừng nhục mạ chính cô! - Người đàn bà nói.
- Nhục mạ! Từ trước tới giờ tôi đã vậy. Bây giờ tôi không vậy nữa.
- Nhưng cô điên sao? Hay là một cơn chướng? - Bà ta nói.
Một tên Rôma tung về phía nàng một cái nhìn và nói giọng khinh bỉ: “Lại với anh đi! Anh đẹp trai và vui hơn cái tên râu ria xồm xoàm và hay khóc này. Ông ta làm nhục đời sống bằng cách chôn vùi nó. Đời đẹp lắm! Một chiến thắng! Một cuộc hành lạc! Lại đây. Anh biết vượt trên tất cả để làm cho em hạnh phúc”. Một anh chàng trẻ tóc hơi nâu, mặt nhọn nhưng dễ thương nói. Và anh ta đến để đụng vào nàng.
119
- Lui ra, đừng đụng vào tôi. Ông đã nói đúng: đời sống mà các ông theo đuổi là một cuộc hành lạc đáng xấu hổ nhất. Tôi buồn nôn vì nó rồi.
- Ô! Ô! Nhưng mới chỉ ít lâu trước đây, đó là đời sống của cô mà! - tên Hy Lạp trả lời.
- Bây giờ cô ta làm bộ đồng trinh! - một tên phe Hêrôđê chế diễu.
- Em làm hư các vị thánh! Vị Nazarét của em sẽ mất hào quang với em! Lại với chúng ta đi! - Một tên Rôma năn nỉ.
- Các ông, hãy tới theo Người với tôi. Đừng làm con vật nữa. Ít nhất, hãy trở nên một người.
Một tràng cười chế diễu trả lời nàng. Chỉ có một ông già người Rôma nói: “Hãy kính trọng người phụ nữ. Nàng tự do để làm những gì nàng muốn. Tôi, tôi bảo vệ nàng”.
- Tên nịnh bợ! Mày nghe ông ta không? Buổi rượu hôm qua đã làm ông ta bịnh rồi - một gã trẻ nói.
- Không, ông ta buồn rầu vì ông bị đau lưng - một tên khác trả lời.
- Hãy đến với tên Nazarét để hắn gãi cho ông.
- Tôi sẽ đến để ông ta cào cho tôi lớp bùn mà tôi bị dính khi tiếp xúc với các anh - ông già trả lời.
- Ôi! Crispus bị hư hỏng ở tuổi sáu mươi! - nhiều người chế diễu và bao quanh ông.
Nhưng người đàn ông có tên Crispus không lưu ý đến những lời chế diễu, và ông ta bắt đầu bước ở đàng sau Maria Mađalêna. Cô lại với Thầy khi Người tới trú dưới bóng một lâu đài rất đẹp tựa như một thứ phòng họp ở hai bề quảng trường.
Giêsu gặp một người luật sĩ, ông ta trách Người đã ở Tiberiat và ở trong nhóm này.
- Còn ông, tại sao ông cũng ở đây? Tại sao ông trách tôi đã ở Tibêriat? Tôi nói với ông là ở Tibêriat, và ở đây còn hơn ở các nơi khác, cũng có những linh hồn cần phải cứu - Giêsu trả lời.
- Chúng không thể được cứu. Đó là những dân ngoại, những dân
120
tội lỗi.
- Tôi đến vì những người tội lỗi, để làm cho mọi người biết Thiên Chúa thật. Tôi cũng đến vì ông nữa.
- Tôi không cần thầy, cũng không cần Đấng Cứu Chuộc. Tôi trong sạch và có học thức.
- Chớ gì ít nhất, ông được như vậy đủ để biết tình trạng của ông.
- Còn ông, để biết ông đã thiệt hại chừng nào khi bầu bạn với một gái điếm.
- Tôi cũng tha cho ông nhân danh nàng. Nàng, trong sự khiêm tốn, được xóa hết tội lỗi, còn ông, bởi sự kiêu căng của ông, ông tăng gấp đôi tội của ông lên.
- Tôi đâu có tội.
- Ông có cái tội lớn nhất: ông không có tình yêu.
Tên luật sĩ nói: “Khốn kiếp”, và ông ta trở lưng.
- Thưa Thầy, lỗi tại con! - Maria Mađalêna nói. Và khi thấy Trinh Nữ Maria tái mét, nàng rên rỉ: “Xin tha cho con. Con làm chúng chửi Con Mẹ. Con xin rút lui”.
- Không, con, hãy ở lại. Thầy muốn vậy - Giêsu nói bằng một giọng chế ngự, và với những tia sáng quắc trong mắt Người; một sự chế ngự trong tất cả con người của Người, hầu như người ta không dám nhìn vào Người. Rồi êm dịu hơn: “Con hãy ở lại. Nếu có ai không chịu được sự thân cận với con thì nó hãy đi, một mình nó thôi”. Và Người lại lên đường hướng về phía tây thành phố.
- Thưa Thầy! - ông gìa Rôma to lớn đã bênh vực Maria Mađalêna kêu lên. Giêsu quay lại.
- Họ gọi ngài là Thầy, tôi cũng gọi ngài bằng tên đó. Tôi ước ao nghe Thầy nói. Tôi người nửa triết gia nửa ham khoái lạc, nhưng Thầy, có lẽ Thầy có thể làm cho tôi nên người ngay thẳng.
Giêsu nhìn ông ta đăm đăm và nói: “Tôi rời cái thành phố mà sự hèn hạ của thú tính con người ngự trị, và sự khinh bỉ là chúa tể”. Và Người lại tiếp tục bước.
Người đàn ông theo sau, nhỏ mồ hôi hột, mệt, vì bước chân của Giêsu lanh lẹ, còn ông ta mập, già và nặng nề nữa bởi trụy lạc.
121
Phêrô quay lại và lưu ý Giêsu.
- Hãy để ông ta bước, đừng bận tâm.
Một lát sau, đến lượt Iscariot nói: “Nhưng ông này đi theo chúng ta, không tốt”.
- Tại sao? Vì thương hại ông ta hay vì lý do khác?
- Thương hại ông ta à? Không. Nhưng bởi vì ở đàng sau chúng ta hơn một tí, người luật sĩ lúc nãy cũng theo chúng ta với những người Do Thái khác.
- Hãy để họ theo. Nhưng tốt hơn là con nên thương cho con hơn là thương ông ta.
- Thương Thầy à?
- Không, thương con, Judas. Hãy ngay thẳng để kể đến những tình cảm của con và để nhận ra nó.
- Con, con thực tình thương hại ông già này. Thầy biết, ông ta mệt khi theo Thầy - Phêrô nói, ông cũng đầy mồ hôi.
- Để theo sự toàn thiện, người ta luôn luôn mệt, Simon ạ.
Người đàn ông theo các vị không biết mệt, luôn luôn theo gần các bà, nhưng ông không nói gì cả.
Maria Mađalêna khóc thầm dưới voan của nàng.
- Đừng khóc, Maria - Bà Chúa nói với nàng trong khi cầm tay để khích lệ: “Sau này người ta sẽ trọng kính con. Đây là những ngày đầu tiên, luôn luôn là những ngày nặng nề nhất”.
- Ôi! Không phải vì con, nhưng vì Người. Nếu con phải làm khổ cho Người, con sẽ không tha cho mình điều đó. Mẹ đã nghe ông luật sĩ, điều ông ta nói? Con, con làm Người phải liên lụy.
- Tôi nghiệp con gái. Nhưng con không biết rằng những lời này rít lên như bao con rắn độc rít lên ở chung quanh Người ngay cả trước khi con nghĩ tới việc trở về với Người. Simon nói với mẹ là họ đã kết án Người như vậy từ hồi năm ngoái, bởi vì Người đã chữa một người đàn bà cùi, trước là người tội lỗi, Người đã gặp bà lúc làm phép lạ cho bà, rồi sau đó không hề gặp lại. Một bà còn già hơn mẹ là mẹ Người. Nhưng con có biết rằng Người đã phải trốn khỏi Nước Đẹp bởi vì một trong những chị em của con đến đó để được cứu chuộc? Con muốn biết họ kết án Người thế nào trong khi
122
Người hoàn toàn vô tội? Bằng các lời dối trá. Họ tìm thấy nó ở đâu? Trong sứ mạng của Người giữa loài người. Một hành động tốt, họ trình bày như một bằng cớ của tội. Bất cứ cái gì Con mẹ làm cũng luôn luôn là tội đối với họ. Nếu Người nhốt mình trong nơi khổ hạnh, họ sẽ nói Người có tội vì chểnh mảng với dân Chúa; Người sống giữa dân Thiên Chúa thì Người có tội vì làm vậy. Đối với họ, Người luôn luôn có tội.
- Vậy họ hung dữ một cách ghê tởm.
- Không. Họ khăng khăng đóng cửa lại trước Ánh Sáng. Người, Giêsu của mẹ, sẽ đời đời không được hiểu. Và Người sẽ như vậy luôn luôn, luôn luôn hơn.
- Và mẹ không khổ vì vậy sao? Con thấy mẹ qúa trong sáng.
- Im đi! Qủa tim mẹ như bị bao bọc bằng những gai nhọn. Chúng làm mẹ bị thương ở mỗi hơi thở. Nhưng đừng để Người biết! Mẹ để cho thấy như vậy để nâng đỡ Người bằng sự thanh quang của mẹ. Nếu mẹ Người không khích lệ Người thì Người tìm ở đâu ra sự khích lệ? Giêsu của mẹ, trên tấm lòng nào Người có thể tựa đầu mà không thấy bị thương hay vu khống vì Người đã làm vậy? Vậy thật chính đáng là mẹ không kể đến những gai nhọn đã xé nát tim mẹ, và những nước mắt mà mẹ uống trong những giờ cô đơn. Mẹ mặc một chiếc áo khoác tế nhị của tình yêu, là mẹ cho nụ cười với bất cứ giá nào để cho Người được bình thản hơn, bình thản hơn... Cho tới lúc mà những đợt sóng thù ghét sẽ tới mức không có gì sử dụng được nữa, kể cả tình yêu của người mẹ.
Hai giọt nước mắt lớn lăn trên khuôn mặt của Mẹ Maria.
Hai chị em nhìn Người, thực sự xúc động: “Nhưng Người có chúng con, những kẻ yêu Người, và các tông đồ...” Matta nói để yên ủi mẹ.
- Người có các con, phải. Người có các tông đồ... hãy còn qúa xa bên dưới sứ mạng của họ... Và sự đau đớn của mẹ mạnh hơn, bởi vì mẹ biết rằng Người, không có gì Người không biết...
- Vậy Người cũng biết rằng con muốn vâng lời Người cho tới sát tế, nếu cần? - Maria Mađalêna hỏi.
123
- Người biết. Con là niềm vui lớn trên con đường gian khổ của Người.
- Ôi! Mẹ! - Và Maria Mađalêna cầm tay Maria và hôn với tình chan chứa.
Tibêriat chấm dứt trong các khu vườn vùng ngoại ô. Bên ngoài đó có một con đường đầy bụi dẫn về Cana, bao bọc một bên bởi các vườn cây ăn trái, bên kia bởi một đoạn cuối của cánh đồng cỏ khô cháy vì mặt trời mùa hè.
Giêsu đi vào một khu vườn và dừng lại ở dưới một cây rậm rạp. Các phụ nữ lại với người, rồi người Rôma thở dốc, thực tình không bước nổi nữa. Ông ngồi hơi xa, nhìn và không nói gì.
- Trong khi nghỉ ngơi, chúng ta hãy dùng bữa - Giêsu nói. “Ở đây có một cái giếng và rất gần nhà một nông dân. Hãy đi hỏi xin ông ta nước”.
Gioan và Thađê tới đó, rồi họ trở lại với bình nước đầy tới miệng, với người nông dân đi theo họ. Ông ta biếu các ngài những quả sung tuyệt vời.
- Thiên Chúa sẽ thưởng cho ông trong sức khoẻ và mùa màng của ông.
- Thiên Chúa bảo vệ ông. Ông là ông Thầy phải không?
- Phải.
- Thầy sẽ nói ở đây?
- Không có ai ước ao cả.
- Thưa Thầy tôi. Còn hơn là nước tốt chừng nào khi người ta khát - ông người Rôma kêu lên.
- Ông có khát không?
- Khát chừng nào! Tôi đã theo Thầy từ trong thành phố.
- Ở Tibêriat đâu có thiếu phông-ten nước mát!
- Xin Thầy đừng lầm hay làm bộ như lầm. Tôi đã theo Thầy để nghe Thầy.
- Nhưng tại sao?
- Tôi không biết tại sao và thế nào. Khi nhìn thấy cô ta (và ông chỉ vào Maria Mađalêna), tôi không biết. Có cái gì đó nói với tôi:
124
“Người sắp nói cho ông những điều mà ông chưa biết”, và tôi đi.
- Hãy cho ông này nước và các qủa sung để ông bồi bổ thân xác.
- Còn tinh thần?
- Tinh thần sẽ bồi bổ trong chân lý.
- Chính vì vậy mà tôi theo Thầy. Tôi đã tìm chân lý trong khoa học. Tôi đã tìm thấy sự đồi bại. Trong các giáo thuyết, dù là những thứ tốt nhất, luôn luôn có cái gì không tốt. Tôi đã bị mất giá trị tới cỡ buồn nôn vì nó, và trở nên một người tởm gớm tới nỗi không biết tương lai nào khác ngoài cái giờ tôi đang sống.
Giêsu nhìn ông ta đăm đăm trong khi Người ăn bánh và các qủa sung mà các tông đồ mang cho Người.
Bữa ăn chấm dứt mau chóng.
Giêsu vẫn ngồi và bắt đầu nói tựa như Người nhủ bảo các tông đồ của Người. Người nông dân cũng ngồi rất gần đó.
- Có nhiều người tìm chân lý suốt đời họ mà không tìm thấy. Họ giống như những kẻ điên muốn thấy tất cả khi để một tấm bảng đồng trước mắt họ và họ sờ soạng một cách vùng vẫy đến nỗi càng lúc họ càng rời xa chân lý, hoặc họ che phủ nó đi vì họ làm rơi trên nó những thứ mà sự tìm tòi điên khùng của họ đã làm di chuyển và rơi xuống. Họ chỉ đi được tới đó, vì họ tìm chân lý ở nơi không có nó.
Để tìm thấy chân lý, phải kết hợp sự thông minh với tình yêu, và nhìn sự vật, không phải chỉ với con mắt khôn ngoan, nhưng còn với con mắt tốt, bởi vì lòng tốt có giá trị hơn sự khôn ngoan. Kẻ biết yêu, luôn luôn có được con đường dẫn tới chân lý. Yêu không phải là vui hưởng xác thịt và bởi xác thịt. Cái đó không phải là tình yêu, đó là tình dục. Tình yêu là một tâm tình giữa linh hồn với linh hồn, giữa phần thượng với phần thượng. Với tình yêu này, người ta thấy trong người bạn đồng hành, không phải một nô lệ, nhưng là người sinh ra các con cái, chỉ có điều đó, tức là cái nửa được tạo thành với người nam một khả năng tạo ra sự sống, nhiều sự sống. Tức là người bạn nữ cũng là mẹ, là chị, là con gái của người nam, là người yếu hơn một đứa trẻ sơ sinh, hoặc mạnh hơn một con sư tử, tùy
125
trường hợp. Và vì là mẹ, là chị, là con gái thì phải được yêu với sự tin cẩn, trọng kính và được bảo vệ. Những thứ không phải như Thầy nói thì không phải là tình yêu. Đó là trụy lạc. Nó không dẫn lên cao, nhưng nó kéo xuống thấp; nó không dẫn tới ánh sáng, nhưng tới bóng tối; không đi về với tinh tú, nhưng đi xuống bùn. Yêu người đàn bà để biết yêu tha nhân. Yêu tha nhân để biết yêu Thiên Chúa. Đó là tìm thấy con đường của Chân Lý. Chân Lý đang ở đây, hỡi những người tìm nó! Chân lý là Thiên Chúa. Đó là cái chìa khóa để hiểu khoa học.
Chỉ có giáo lý của Thiên Chúa mới không có khuyết điểm. Làm sao con người có thể trả lời cho những cái “tại sao” của họ, nếu không có Thiên Chúa trả lời cho họ. Ai có thể tiết lộ những mầu nhiệm của việc tạo dựng, chỉ nguyên việc này, và đơn giản là việc này, nếu không phải là người Thợ Tối Thượng đã làm ra tất cả sự sáng tạo này? Làm sao hiểu được cái kỳ quan sống động là con người, trong đó hòa hợp sự hoàn hảo của con vật với sự hoàn hảo bất tử là linh hồn, mà nhờ nó, chúng ta là các thần linh, nếu chúng ta có trong chúng ta linh hồn sống động - tức là linh hồn tự do đối với tội lỗi là cái hạ nó xuống ngang hàng với thú vật - mà con người thể hiện và tự hào để thể hiện?
Thầy nói với các con lời của Gióp, ôi, hỡi người tìm chân lý: “Hãy hỏi các súc vật và chúng sẽ chỉ dạy cho con; hãy hỏi chim trời, nó sẽ làm cho con hiểu; hãy nói với đất, và nó sẽ trả lời con; hãy nói với cá biển, và chúng sẽ làm cho con biết”.
Phải, trái đất, cái trái đất xanh tươi đầy hoa nở này, với những trái nở phồng trên cây; những con chim đang gia tăng sinh sản này, những luồng gió đang phân tán các chòm mây này, mặt trời này, cái đã không bao giờ lầm lẫn trong việc thức dậy của nó trong bao thế kỷ và bao thiên niên kỷ, tất cả đều nói về Thiên Chúa, tất cả đều giải thích về Thiên Chúa, tất cả đều tiết lộ những khám phá về Thiên Chúa. Nếu khoa học không dựa trên Thiên Chúa, nó sẽ trở nên sai lầm, không còn nâng lên, nhưng làm giảm giá trị. Kiến thức sẽ không đồi trụy khi nó là tôn giáo. Ai hiểu biết trong Thiên Chúa
126
sẽ không sa ngã, vì nó có ý thức về phẩm giá của nó, bởi vì nó tin ở tương lai đời đời của nó. Nhưng phải tìm kiếm Thiên Chúa thật chứ không phải là những ma quái không phải là Thiên Chúa, mà là những mê sảng của con người còn bị bao bọc trong những vô tri thiêng liêng. Với những thứ đó, không có bóng dáng của sự khôn ngoan trong tôn giáo của họ, cũng không có bóng chân lý trong niềm tin của họ.
Hết mọi lứa tuổi đều có thể trở nên khôn ngoan. Điều này cũng được nói trong sách Gióp: “Vào buổi chiều, Ta sẽ cho ló lên cho ngươi một ánh sáng giống như lúc chính ngọ. Khi ngươi nghĩ rằng đã tận cùng đối với ngươi, thì ngươi sẽ đứng dậy như ngôi sao mai. Ngươi sẽ đầy tin tưởng vì hy vọng đang chờ đợi ngươi”.
Chỉ cần có thiện chí là tìm ra được Chân Lý, và sớm hoặc muộn, Chân Lý sẽ tỏ mình ra. Nhưng khốn cho ai, khi đã tìm ra Chân Lý mà lại không theo. Họ bắt chước những kẻ cứng đầu trong Israel, có trong tay sợi giây hướng dẫn để tìm ra Thiên Chúa là tất cả những gì đã nói về Thầy, nhưng họ không muốn nhìn nhận sự thật, họ ghét sự thật. Họ gom góp trong sự thông hiểu của họ và trong con tim họ, những khô cằn của thù ghét và các công thức. Họ không biết rằng vì sự trì trệ của họ, trái đất sẽ mở ra dưới bước chân họ, những bước mà họ cho là đắc thắng, nhưng chỉ là những vận động nhục nhã của các hình thức câu nệ, của sự thù ghét và ích kỷ. Họ sẽ bị chôn vùi khi rơi vào nơi các kẻ tội lỗi phải vào, vì họ ý thức được tội đa thần của họ. Họ còn bị tội nặng hơn các dân đã tự tạo ra cho mình một tôn giáo, để theo đó, họ chỉnh đốn lối sống của họ.
Đối với Thầy, Thầy không xua đuổi những kẻ sám hối trong đám con cái Israel, Thầy cũng không xua đuổi những kẻ thờ tà thần, những kẻ tin vào những thứ người ta nói cho nó để tin, mà ở trong nội tâm nó luôn luôn có tiếng rên: “Xin cho chúng tôi chân lý”.
Thầy đã nói rồi. Bây giờ chúng ta hãy nghỉ trên thảm cỏ xanh này nếu người ta cho phép. Chiều nay chúng ta sẽ đi Cana.
- Thưa Chúa, tôi từ giã Ngài. Nhưng vì tôi không muốn phàm tục hóa cái khoa học mà Ngài đã cho tôi, tôi sẽ rời Tibêriat, tôi bỏ
127
miền đất này. Tôi sẽ cùng người đầy tớ của tôi lui về bờ Lucania, ở đó tôi có một căn nhà. Ngài đã cho tôi rất nhiều. Tôi hiểu rằng Ngài không thể cho ông già ham khoái lạc này nhiều hơn. Nhưng với những cái Ngài đã cho, tôi đã có những gì để xây dựng tư tưởng của tôi. Và... Ngài, xin Ngài cầu nguyện cùng Thiên Chúa của Ngài cho ông già Crispus, thính giả độc nhất của Ngài ở Tibêriat. Xin cầu để trước sự ghì chặt của Libitina, tôi có thể nghe Ngài nữa. Và với những tài nguyên mà tôi có thể tạo ra trong tôi bằng các lời Ngài, tôi sẽ hiểu Ngài hơn và hiểu Chân Lý hơn. Xin chào Ngài.
Và ông chào theo kiểu Rôma. Nhưng khi đi qua nhóm phụ nữ ngồi hơi riêng biệt, ông cúi mình trước Maria Magđala và nói với nàng: “Cám ơn Maria. Thật rất tốt là tôi biết cô. Cô đã cho người bạn già của các bữa tiệc của cô một kho báu mà hắn tìm kiếm. Nếu tôi tới được nơi mà cô đã tới, thì chính cô là người tôi mắc nợ. Chào”. Và ông đi khỏi.
Maria Mađalêna lấy hai tay ôm ngực, vẻ mặt ngạc nhiên và rạng rỡ. Rồi nàng lết bằng đầu gối tới trước Giêsu: “Ôi! Lạy Chúa! Lạy Chúa! Vậy ra đúng là con có thể dẫn về sự thiện? Ôi! Chúa của con! Qúa nhân từ!” Và nàng cúi xuống, khuôn mặt dìm trong cỏ, nàng hôn chân Giêsu, lại rửa nó bằng nước mắt người tình vĩ đại của Magđala, nhưng bây giờ là nước mắt biết ơn.
106* TRONG NHÀ TẠI CANA
Trong căn nhà tại Cana, đây là buổi lễ vì có Giêsu tới, một buổi lễ hơi kém hơn buổi lễ cưới có phép lạ ở đây: thiếu các nhạc sĩ, không có các khách mời. Căn nhà không chăng giây hoa và không có các cành lá xanh; không có bàn ghế cho số khách đông đảo, cũng không có người quản gia đứng gần cái bàn để đồ lễ và các bình đầy rượu... Nhưng tất cả đều được vượt qua bằng tình yêu mà người ta dâng tặng trong hình thức và ở mức độ chính đáng của nó, tức là không phải tặng cho người chỉ là khách, có lẽ hơi có bà con,
128
nhưng không bao giờ chỉ là một người, mà là Khách Thầy, mà người ta biết và nhận ra bản chất thực, và người ta tôn sùng lời nói như một thứ thuộc về Thiên Chúa. Cũng vậy, các con tim của Cana đã yêu người bạn vĩ đại này bằng tất cả con người của họ, người bạn đang hiện diện trong y phục bằng vải gai trước lối vào vườn, giữa mầu xanh rờn của mặt đất và mầu đỏ của hoàng hôn. Sự hiện diện của Người tô điểm cho mọi vật, thông tràn sự bình an của Người, không phải chỉ cho các linh hồn mà Người hướng về phần rỗi của nó, mà là cho tới cả các sự vật.
Ở bất cứ nơi nào mà Người quay con mắt xanh của Người tới, thì đúng như Người trải trên nó một bức màn bình an, trang trọng và vui tươi. Sự trong trắng và bình an chảy ra từ con ngươi của mắt Người, cũng như khoa học trào ra từ miệng Người, và tình yêu từ con tim Người.
Với những ai đọc các trang này, điều con nói có vẻ như không thể có. Nhưng cùng một nơi này, trước khi Giêsu tới, nó chỉ là nơi thông thường, hay là một nơi mà các sinh hoạt làm ăn đã loại trừ sự bình an, một thứ mà người ta cho là lạ lẫm trong những nơi náo động của công việc. Từ lúc Người hiện diện, nơi này trở nên qúi phái. Chính công việc cũng có cái gì, con không biết cái gì, được sắp đặt để không loại trừ sự hiện diện của một tư tưởng siêu nhiên hòa tan trong công việc chân tay. Con không biết con có giải thích rõ không. Giêsu không bao giờ cau có, dù trong những giờ phiền hà nhất của các biến cố xảy đến cho Người. Người luôn luôn có phẩm cách oai phong. Người thông cái phẩm cách siêu nhiên này vào những nơi nó đã chết. Giêsu không bao giờ vui qúa đáng tới choáng váng, cũng không bao giờ rên rỉ khóc lóc, hoặc có khuôn mặt biến dạng vì cười, cũng không u uất buồn sầu, dù trong những lúc vui mừng nhất hay nản lòng nhất.
Nụ cười của Người không thể ai bắt chước được, không một họa sĩ nào có thể phác họa được. Nó giống như một ánh sáng phát xuất từ trái tim Người. Một ánh sáng rạng ngời vào giờ vui mừng vì một linh hồn được cứu chuộc hay một linh hồn khác lại gần sự hoàn thiện. Một nụ cười, con nói là mầu hồng khi nó xác nhận các hành vi hồn nhiên của các bạn Người hay các đồ đệ Người khi Người vui hưởng sự thân cận với họ. Một nụ cười da trời, thiên thần, khi Người cúi xuống trên các đứa trẻ để nghe chúng, giáo huấn chúng, chúc phúc cho chúng; một nụ cười ôn hòa vì tình thương khi Người nhìn một sự khốn nạn nào đó về thân xác hay tâm hồn; sau cùng, một nụ cười Thiên Chúa khi Người nói về Chúa Cha hay về Mẹ Người, hoặc khi Người nhìn và nghe người mẹ rất trong sạch này.
Con không thể nói đã thấy Người rên rỉ khóc lóc, dù là trong những giờ tan nát nhất: trong những hành hạ và phản bội, trong những lo âu của mồ hôi máu, trong những rùng
129
rợn của cuộc tử nạn. Nếu nỗi buồn dìm ngập ánh sáng rất êm dịu của nụ cười của Người, thì nó cũng không đủ để xóa bỏ sự bình an giống như triều thiên bằng ngọc Thiên Đàng chói lọi trên vừng trán không vết nhăn của Người, và ánh sáng của nó soi sáng tất cả nhân thân Thiên Chúa của Người.
Cũng vậy, con cũng không thể nói được là đã thấy Người buông mình vào một nỗi vui qúa mức. Không lạ gì việc Người có một tràng cười chân thành khi hoàn cảnh đòi hỏi, nhưng ngay sau đó, Người lấy lại sự trong sáng đầy phẩm giá của Người. Nhưng khi Người cười, Người trẻ lại một cách lạ lùng tới nỗi Người có khuôn mặt như một thanh niên hai mươi, và hình như thế giới trẻ lại nhờ ảnh hưởng của nụ cười đẹp, chân thành, âm vang điều hòa của Người.
Con cũng không thể nói đã thấy Người làm cái gì lật đật. Dù Người nói hay bày biện đồ đạc, Người luôn luôn làm cách bình tĩnh, không bao giờ chậm chạp hay uể oải. Có lẽ vì Người cao lớn, Người có thể bước những bước dài mà không cần phải chạy để đi đường trường. Và cũng vì Người có thể với được dễ dàng các vật ở xa mà không cần đứng dậy. Có điều chắc chắn là trong mọi cử chỉ của Người, Người luôn luôn có vẻ oai phong của một vị đại chúa.
Và tiếng nói của Người! Đó, đã gần hai năm rồi, con nghe Người nói, nhưng thỉnh thoảng con mất dòng lời về điều Người nói, vì con qúa đắm chìm trong việc nghiên cứu tiếng nói của Người. Và Giêsu nhân từ, rất kiên nhẫn, lặp lại điều Người đã nói trong khi Người nhìn con với nụ cười ông thầy tốt của Người, để tránh cho các bài chính tả không vì đó mà bị cắt những đoạn do cái hồng phúc mà con được khi nghe tiếng Người, thưởng thức nó, nghiên cứu cái âm sắc và vẻ đẹp của nó. Nhưng sau hai năm, con không biết nói chính xác phải đặt giọng nói của Người vào chỗ nào trong âm vực. Tuyệt đối là loại trừ giọng trầm rồi, cũng như con loại trừ giọng bắc nhẹ. Nhưng con vẫn không biết có một giọng bắc mạnh, hay một giọng trung hoàn toàn với tầm rất rộng trong cái âm độ của tiếng nói không. Con nói như vậy bởi vì tiếng nói của Người đôi khi có âm của đồng, hầu như được nhồi bông, vì nó qủa là sâu xa, đặc biệt là khi Người nói mặt đối mặt với một tội nhân để dẫn họ về với Ân Sủng, hay khi Người chỉ cho đám đông những sự lạc đường của con người. Nhưng rồi khi Người làm việc phân tích, loại bỏ những điều bị cấm và tiết lộ những giả hình, thì tiếng đồng trở nên rõ hơn và trở nên sắc như tiếng sét; khi Người áp đặt sự thật và ý chí của Người, thì nó vang lên như tấm bảng vàng được gõ bằng một cái búa pha-lê; khi nó nổi lên để ca thánh vịnh của tình thương, hoặc để ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa, hoặc nữa, khi nó lấy một âm sắc âu yếm để nói với Mẹ Người hay nói về Mẹ Người, thì khi đó, cái giọng này thấm đẵm tình yêu, một tình yêu trọng kính của người con, và tình yêu của một Thiên Chúa ca ngợi cái kỳ công tuyệt diệu nhất của Người. Và một giọng nữa, dù ít nhấn mạnh hơn, dùng để nói với những người ưu tiên, những người cải hối hay các trẻ em. Và giọng nói Người không bao giờ mệt, dù là trong những bài thuyết trình dài nhất, vì tiếng nói này mặc lấy tư tưởng và các lời bằng cách bộc lộ nó trong sức mạnh hay sự êm dịu, tùy nhu cầu.
Và con, đôi khi con bất động cây viết ở trong tay để nghe, và con nhận thấy là tư tưởng đã khai triển qúa xa rồi, không thể bắt lấy được nữa, con đành nghỉ viết luôn cho tới khi Giêsu nhắc lại, giống như Người làm khi người ta gián đoạn con, để dạy con kiên nhẫn chịu đựng các điều hay các người làm phiền. Và con để cha tự nghĩ họ làm phiền
130
chừng nào khi họ lấy mất của con cái niềm vui tuyệt hảo được nghe Giêsu của con...
Bây giờ, tại Cana, Giêsu cám ơn Suzane vì sự tiếp đãi bà đã dành cho Aglaé. Họ ở chỗ riêng, dưới dàn nho rậm đầy các chùm trái bắt đầu chín, trong khi các người khác đang ăn uống trong cái nhà bếp mênh mông.
- Thưa Thầy, bà đó rất tốt. Thật tình bà ta không phải là một gánh nặng. Bà muốn giúp con trong tất cả công việc giặt giũ, trong việc lau quét nhà cửa chuẩn bị cho lễ Vượt Qua như một người đầy tớ. Và bà làm việc, con bảo đảm với Thầy, như một người nô lệ, để giúp con hoàn tất các y phục cho lễ Vượt Qua. Bà rất thận trọng rút lui ngay khi có ai tới. Bà cũng tìm cách để không ở lại với ông chồng con. Bà nói rất ít trước sự hiện diện của gia đình. Bà ăn rất ít. Bà thức dậy sớm trước khi trời sáng để lo vệ sinh cá nhân trước khi mọi người thức dậy, và con luôn luôn có lửa trong lò và nhà cửa sạch sẽ. Nhưng khi chúng con ở một mình, bà hỏi con về Thầy và xin con dạy cho bà những thánh vịnh của đạo chúng ta. Bà nói: “Để biết cầu nguyện giống như ông Thầy cầu nguyện”. Vậy bây giờ bà đã hết khổ chưa? Bởi vì về chịu khổ thì bà chịu rất nhiều. Bà sợ tất cả. Bà thở dài và khóc nhiều. Bây giờ bà đã sung sướng chưa?
- Rồi, sung sướng cách siêu nhiên, được khỏi sợ hãi, sống trong bình an. Thầy còn cám ơn con nữa vì điều tốt con đã làm cho nàng.
- Ôi! Lạy Chúa con, điều tốt nào? Con chỉ cho nàng có tình yêu nhân danh Thầy, bởi vì con không biết làm gì khác. Đó là người chị em tội nghiệp. Con hiểu bà. Và con, vì lòng biết ơn Đấng Tối Cao đã gìn giữ con trong Ân Sủng của Người, con đã yêu bà.
- Con đã làm tốt hơn là nếu con đã giảng dạy ở Bel Nidrasc. Bây giờ con có ở đây một cô khác. Con biết cô ta không?
- Ai là người không biết cô ta ở miền này?
- Đúng thật, không ai không biết. Nhưng qúi vị, con và dân miền này, chưa biết cái cô Maria thứ hai, cái cô sẽ luôn luôn trung thành với ơn gọi. Luôn luôn! Thầy xin con hãy tin điều đó.
- Thầy đã nói vậy. Thầy thì Thầy biết, con thì con tin.
131
- Cũng hãy nói: “con yêu”. Thầy biết người ta khó lòng thương xót và tha thứ cho một người khi họ là một người trong chúng ta hơn là một người đã xin lỗi vì là một dân ngoại. Nhưng nếu nỗi đau phải thấy những sự bỏ đạo trong gia đình là mạnh, thì sự thương xót cũng như sự tha thứ phải mạnh hơn. Thầy đã tha thứ cho tất cả Israel - Giêsu chấm dứt khi nhấn mạnh từng chữ.
- Và con, về phần con, con sẽ tha thứ, vì con nghĩ rằng một môn đệ phải làm điều thầy mình làm.
- Con đang ở trong chân lý, và Thiên Chúa vui mừng vì vậy. Chúng ta hãy đi tìm những người khác. Đêm xuống rồi. Thật êm đềm được nghỉ ngơi trong sự thinh lặng của buổi tối.
- Thầy sẽ không nói gì với chúng con sao?
- Thầy chưa biết.
Họ đi vào nhà bếp, nơi các món ăn và đồ uống đã được sẵn sàng cho bữa tối rất gần rồi.
Suzane tiến lên với khuôn mặt hơi ửng đỏ và nói: “Các bà chị có muốn đi với tôi lên phòng trên nhà không? Chúng ta phải sửa soạn rất lẹ bàn ghế cho bữa ăn, vì sau đó chúng ta phải dọn đồ ngủ cho các ông. Tôi có thể làm điều đó một mình, nhưng mất nhiều thời giờ”.
- Suzane, mẹ cũng lên - Đức Trinh Nữ nói.
- Không, chúng con là đủ rồi, với lại như vậy để làm quen, vì công việc nối kết chúng ta lại như anh chị em.
Các bà cùng nhau ra khỏi bếp trong khi Giêsu, sau khi đã uống nước pha với một thứ si-rô gì đó, liền tới ngồi với Mẹ Người. Các tông đồ và các người trong nhà ra dưới dàn cây mát để các đầy tớ và bà chủ nhà già được tự do để chuẩn bị bữa ăn.
Người ta thấy từ căn phòng trên lầu vọng xuống giọng nói của ba nữ môn đệ đang sửa soạn bàn ghế, Suzane kể phép lạ xảy ra trong đám cưới của bà và Maria Magđala trả lời: “Biến nước thành rượu là mạnh, nhưng biến một con tội lỗi thành nữ môn đệ thì còn mạnh hơn. Thiên Chúa sẽ canh chừng để tôi làm giống như thứ rượu này, để tôi trở nên tốt hơn”.
132
- Đừng nghi ngờ điều đó. Người biến đổi mọi sự bằng một phương cách hoàn toàn. Đã có một bà ở đây, hơn nữa, lại là một dân ngoại, được trở lại nhờ Người, trong tình cảm và trong đức tin. Lẽ nào cô có thể nghi ngờ là điều đó không thể xảy đến cho cô, một người đã thuộc về Israel rồi.
- Một người đàn bà à? Còn trẻ không?
- Còn trẻ, rất đẹp.
- Bây giờ bà ta ở đâu? - Matta hỏi.
- Chỉ mình Thầy biết điều đó.
- A! Vậy là cái bà mà tôi đã nói với chị. Lazarô đã ở nhà Giêsu chiều hôm đó, và anh ấy đã nghe những lời được nói cho nàng. Căn phòng thơm chừng nào! Lazarô còn mùi thơm này trong y phục của anh trong nhiều ngày. Nhưng Giêsu đã nói rằng con tim của kẻ trở lại đã vượt qua mùi thơm này bởi hương thơm thống hối của nàng. Ai biết nàng đã đi đâu? Vào nơi thanh vắng, tôi nghĩ vậy.
- Bà thì bà sống trong nơi thanh vắng, và đó là người ngoại quốc. Em thì ở đây. Em là người bị quen biết. Sự đền tội của nàng ở nơi thanh vắng, sự đền tội của em là sống ở giữa cái thế giới đã biết em. Em không ước ao số phận của bà, vì em ở bên Thầy. Nhưng em hy vọng một ngày kia em có thể bắt chước bà, để không có gì làm cho em sao lãng về Thầy.
- Em sẽ bỏ Người à?
- Không. Nhưng vì Người nói Người sẽ ra đi, vậy khi đó tâm hồn em sẽ đi theo Người. Với Người, em có thể thách đố với thế giới, nhưng không có Người, em sẽ sợ thế giới. Em sẽ đặt sa mạc ở giữa em và thế giới.
- Vậy còn Lazarô và chị, chúng ta sẽ làm thế nào?
- Làm giống như anh chị đã làm trong đau thương. Anh chị sẽ yêu nhau và yêu em, và không phải xấu hổ. Bởi vì tuy lúc đó anh chị một mình, nhưng anh chị biết là em ở với Chúa, và em yêu anh chị trong Chúa.
Lúc đó Phêrô nghe được và ông nói: “Cô Maria, cô ấy mạnh mẽ và rõ ràng trong các quyết định của cô ta”.
133
Và Zêlote trả lời: “Đó là một lưỡi dao thẳng, giống như ba cô. Cô ta có những nét về cơ thể của mẹ cô, nhưng tinh thần thì không ai chế ngự được, giống như ba cô”.
Và bây giờ người đàn bà có tinh thần bất trị lẹ làng đi xuống để nói với các bạn hữu là bàn ghế đã sẵn sàng.
***
Miền quê biến mất trong đêm thanh tịnh, vì lúc này không có trăng. Chỉ có một ánh sáng mờ từ các tinh tú làm hiện ra các khối đen của cây cối, và các khối trắng của các căn nhà. Không có gì khác. Các con chim ăn đêm di chuyển trong đường bay lặng lẽ của chúng chung quanh căn nhà của Suzane để bắt ruồi muỗi, bay sà cả vào các người đang ngồi trên sân thượng, chung quanh một ngọn đèn phát ra một ánh sáng vàng mờ, trên khuôn mặt của những người quây quần chung quanh Giêsu. Matta, người rất sợ dơi, phát ra tiếng kêu mỗi khi có một con bay sớt vào bà. Còn Giêsu, Người bận rộn với những con bươm bướm mà ngọn đèn đã lôi kéo tới. Và với cánh tay dài của Người, Người đuổi chúng cho khỏi sà vào lửa.
- Đây là những con vật tuyệt đối ngu si! Con nọ cũng như con kia. Những con nọ thì tưởng chúng ta là ruồi muỗi, còn những con kia thì tưởng ngọn đèn là mặt trời và bị thiêu ở đó. Chúng không có cả đến một tí trí não - Tôma nói.
- Đây là những con vật. Anh muốn nó phải lý luận à? - Iscariot nói.
- Không, tôi muốn ít nhất chúng phải có bản năng.
- Chúng không có thời giờ để thu hoạch điều đó, bởi vì vừa thử lần đầu tiên, chúng đã chết keo trên lửa. Bản năng chỉ hồi sinh và phát triển sau những ngạc nhiên đau đớn đầu tiên - Giacôbê Alphê bình luận.
- Còn các con dơi thì sao? Chúng phải có bản năng, bởi vì chúng sống hàng mấy năm. Bởi vì chúng ngu, vậy đó - Tôma đối đáp.
- Không, Tôma, không ngu hơn con người đâu. Cả con người nhiều khi cũng giống các con dơi ngu. Họ bay, đúng hơn là họ bay chập chững tựa như bị say chung quanh một cái gì chỉ làm khổ cho
134
họ. Đó, ông anh của Thầy, lấy áo khoác quất, đã đập được một con. Đưa nó cho Thầy đi - Giêsu nói.
Con dơi rớt xuống chân Giacôbê Zêbêđê, bây giờ quờ quạng, nhúc nhích trên mặt đất với những cử động lộn xộn. Ông lấy hai đầu ngón tay, cầm một chiếc cánh có màng của nó và giơ lên tựa như miếng giẻ dơ, và để trên đầu gối Giêsu.
- Đó, kẻ thiếu thận trọng. Hãy để nó làm. Các con sẽ thấy nó hồi lại, nhưng nó không sửa mình.
- Thầy là kẻ cứu nạn hy hữu. Con thì con sẽ giết nó - Iscariot nói.
- Không, tại sao? Nó cũng có một đời sống và nó ghì chặt lấy - Giêsu nói.
- Người ta đâu có nói vậy, hay đúng hơn, nó không biết là nó có đời sống, hoặc là nó không giữ chặt lấy. Nó để đời sống của nó vào trong nguy hiểm.
- Ôi! Judas! Judas! Con qúa nghiêm khắc với tội nhân, với con người chừng nào! Cả con người, biết rằng mình có một linh hồn và một đời sống, mà họ cũng không ngần ngại làm hư cái nọ cũng như cái kia.
- Chúng ta có hai đời sống?
- Đời sống thể xác và đời sống linh hồn, con biết mà.
- A! Con nghĩ Thầy nói bóng về sự tái đầu thai. Nhiều người tin như vậy.
- Không có sự tái đầu thai, mà là có hai đời sống, nhưng người ta để nguy hiểm cho cả hai. Nếu con là Thiên Chúa, con sẽ xét xử thế nào đối với con người là loài được thiên phú lý lẽ cùng với bản năng?
- Rất nghiêm nhặt, ít nhất là về phương diện tinh thần bị hạ thấp bởi con người.
- Con không kể đến những điều kiện đã làm cho con người thành điên về luân lý sao?
- Con không kể tới đó.
- Tức là con không thương hại kẻ nào đã biết Thiên Chúa và Lề Luật mà vẫn còn phạm tội.
135
- Con không thương họ, bởi vì con người phải biết sống.
- Đã phải?
- Thưa Thầy, phải. Thật là một xấu hổ không thể tha được khi một người trưởng thành sa ngã, nhất là vào một số tội, và nhất là khi không có một áp lực nào đẩy nó vào đó.
- Theo con thì là thứ tội nào?
- Để bắt đầu thì là tội dâm ô. Đó là một sự giảm giá không thể cứu vãn được.
Maria Magđala cúi đầu. Judas tiếp tục: “Đó là sự đồi trụy cho cả người khác. Bởi vì từ cơ thể ô uế toát ra một thứ men làm khuấy đục cả kẻ trong sạch và lôi kéo nó bắt chước...”
Trong khi Maria Mađalêna càng cúi đầu nhiều hơn thì Phêrô nói: “Ô là là! Đừng có qúa khắt khe như vậy. Người đầu tiên đã phạm cái điều xấu hổ không tha được là Evà. Anh không muốn nói với tôi là bà đã bị đồi bại do một thứ men ô uế toát ra từ một kẻ dâm ô chứ ? Hơn nữa, về những sự có liên can tới nó, hãy biết rằng tôi chả cảm thấy một xáo trộn nào dù là nếu tôi ngồi bên một kẻ dâm ô. Đó là chuyện của nó...”
- Hoàn cảnh chung quanh luôn luôn làm cho dơ bẩn, nếu không cho thân xác thì cho tâm hồn, và như vậy còn tệ hơn.
- Tôi thấy anh giống một pharisiêu. Nhưng xin lỗi, nếu như vậy thì phải tự nhốt mình trong một cái tháp bằng pha-lê và ở yên trong đó, dưới dấu niêm phong.
- Simon, nhưng tôi không tin là việc đó có ích cho anh, vì chính trong sự cô tịch, người ta thấy những cám dỗ đáng ngại nhất - Zêlote nói.
- Ồ, vậy thì nó chỉ có ở trong mơ, chẳng có gì là xấu - Phêrô nói.
- Không có gì xấu à? Nhưng anh không biết rằng cám dỗ ảnh hưởng trên trí tưởng tượng, và thúc đẩy nó đi tìm các phương tiện để thỏa mãn cách nào đó những tiếng kêu của bản năng, và các phương tiện này mở đường cho sự tinh tế của tội lỗi, nơi mà tình dục phối hợp với tư tưởng sao? - Iscariot hỏi.
- Tôi chả biết gì về tất cả những điều đó, anh Judas thân mến! Có lẽ như anh nói, bởi vì tôi chả bao giờ bị mang tới chỗ băn khoăn
136
suy nghĩ về một số vấn đề. Tôi thấy là chúng ta đã đi qúa xa các con dơi rồi. Và điều thiết yếu là anh không phải Thiên Chúa, nếu không, với sự khắt khe của anh, anh sẽ ở một mình trên Thiên Đàng. Thưa Thầy, Thầy nghĩ thế nào?
- Thầy nói là không bao giờ nên qúa tuyệt đối. Qủa vậy, các thiên thần của Chúa nghe các lời của loài người và ghi chép vào cuốn sổ đời đời, và nó có thể là điều không vui nếu một ngày kia phải nghe nói: “Sẽ được làm cho ngươi như ngươi đã xét đoán”. Thầy nói rằng nếu Thiên Chúa đã sai Thầy, là vì Người muốn tha hết mọi tội cho kẻ thống hối. Hãy biết rằng con người yếu đuối chừng nào đối với Satan. Judas ơi, hãy trả lời Thầy: “Con có nhìn nhận rằng Satan có thể chiếm cứ một linh hồn bằng cách thi hành trên nó những điều cưỡng bách, là những điều làm nhẹ bớt tội của nó trước mặt Thiên Chúa không?”
- Không, con không nhìn nhận điều đó. Satan chỉ có thể tấn công phần hạ thôi.
- Nhưng Judas Simon, anh phạm thượng rồi! - Zêlote và Batôlômêo hầu như nói đồng thời.
- Tại sao? Về cái gì?
- Về việc cải chính cho Thiên Chúa và sách thánh. Ta đã đọc thấy ở đó là Lucifer tấn công cả phần thượng; và Thiên Chúa, bởi miệng Ngôi Lời của Ngài đã nói điều đó cho chúng ta vô cùng nhiều lần rồi - Batôlômêo trả lời.
- Người cũng nói rằng con người có ý chí và tự do, có nghĩa là trên sự tự do của con người về tư tưởng và tình cảm, Satan không thể cưỡng bức, Thiên Chúa cũng không.
- Thiên Chúa thì không, bởi vì Người là trật tự và chính trực, nhưng Satan thì có, bởi vì nó là sự đảo lộn và thù ghét.
- Sự thù ghét không phải là tình cảm đối lập với sự chính trực. Anh nói sai rồi!
- Tôi nói đúng, bởi vì Thiên Chúa chính trực, do đó Người không thiếu sót đối với lời Người đã nói là để cho con người được tự do hành động. Ma qủi không thể nói dối với lời này, bởi vì nó không
137
hứa để cho con người được ý chí tự do. Nhưng đích thực nó là sự thù ghét, và vì vậy nó tấn công Thiên Chúa và loài người, và nó tấn công bằng cách công hãm sự tự do tinh thần của con người, ngoài thân xác ra, để dẫn tư tưởng tự do này tới chỗ nô lệ và bị nó chiếm giữ, để con người làm những điều mà họ không làm nếu họ được giải phóng khỏi Satan - Zêlote nói.
- Tôi không nhận như vậy.
- Vậy những người bị ám thì sao? Anh từ chối sự tỏ tường này sao? - Juđa Thađê kêu lên.
- Những người bị ám, họ điếc hay câm chứ không dâm ô.
- Anh chỉ nghĩ tới tật xấu đó thôi! - Tôma nói cách mỉa mai.
- Bởi vì nó phổ biến nhất và hạ cấp nhất.
- A! Tôi nghĩ đó là cái tật xấu mà anh biết rõ nhất! - Tôma cười nói.
Judas nhảy dựng lên như để phản ứng, nhưng rồi ông tự chế và đi xuống cầu thang để tránh xa ra qua cánh đồng.
Một yên lặng... Rồi Andrê nói: “Tư tưởng của anh ta không hoàn toàn sai. Người ta nói rằng Satan chỉ thực hiện sự chiếm cứ trên giác quan: mắt, tai, lời nói và trên trí não. Nhưng thưa Thầy, làm sao cắt nghĩa được một số hiện tượng đồi bại, có thể đó không phải là sự chiếm cứ? Ví dụ một Doras chẳng hạn”.
- Một Doras, như con nói, để không thiếu đức bác ái với ai cả, và điều đó Thiên Chúa sẽ thưởng cho con, hay là một Maria như tất cả chúng ta đều nghĩ tới. Hãy bắt đầu bằng cô ta - sau những ám chỉ rõ ràng và thực tình thiếu bác ái của Judas - là những kẻ bị chiếm cứ hoàn toàn nhất bởi Satan. Nó giương uy quyền của nó trên ba sức mạnh lớn của con người. Những sự chiếm cứ hung bạo nhất và tinh vi nhất, chỉ có thể được giải phóng đối với những kẻ mà tâm hồn mới bị hủy hoại ít, còn đủ để họ còn biết và hiểu được lời mời gọi của Ánh Sáng. Doras không phải là dâm ô, tuy vậy ông ta không biết đến với vị giải phóng. Điều này có sự khác biệt: trong khi những kẻ bị bệnh lên cơn, bị câm, bị điếc, bị mù do tác động của ma qủi, thì bà con tìm cách dẫn nó đến với Thầy; còn những kẻ bị
138
chiếm cứ trong thần trí của nó, thì chỉ có thần trí nó lo việc giải phóng cho nó. Vì vậy nó nhận được sự tha thứ cùng với sự giải phóng, bởi vì ý muốn của nó trước tiên đã bắt đầu tước đoạt của ma qủi.
Bây giờ chúng ta hãy đi nghỉ. Maria, con đã biết thế nào là bị chiếm cứ. Hãy cầu nguyện cho những kẻ, từng chặp một, lao mình vào các hành động của kẻ thù khi phạm tội và làm khổ người khác.
- Vâng, thưa Thầy, và không oán giận.
- Bình an cho tất cả. Hãy để lại đây cái lý do của bao bàn cãi. Để sự tối tăm cho sự tối tăm ở bên ngoài, trong màn đêm. Còn chúng ta, hãy vào trong nhà và ngủ dưới cái nhìn của các thiên thần.
Và Người để con dơi trên một cái ghế, nó cố thử để bay lên. Rồi Người cùng với các tông đồ vào phòng ở trên lầu, trong khi các phụ nữ và các chủ nhà thì xuống tầng trệt.
107* GIOAN NHẮC LẠI BÀI LUẬN THUYẾT
CỦA GIÊSU TRÊN TABOR
Tất cả các ngài đang leo lên con đường tắt mát mẻ dẫn về Nazarét. Các sườn đồi của Galilê tựa như mới được tạo dựng sáng nay, vì cơn mưa gió lốc mới đây đã rửa cho nó và sương đêm giữ cho nó tươi mát và sáng loáng. Tất cả đều lấp lánh dưới những tia đầu tiên của mặt trời. Không khí trong suốt tới nỗi người ta nhìn thấy mọi chi tiết của những ngọn núi xa gần hơn kém, và nó cho một cảm tưởng nhẹ nhàng trong sáng.
Khi họ lên tới đỉnh một ngọn đồi, thực kỳ diệu khi nhìn một góc hồ hết sức đẹp dưới ánh sáng ban mai này. Mọi người đều thán phục, Giêsu cũng vậy. Nhưng Maria Magđala mau lẹ quay mặt khỏi cảnh này, nàng tìm một cái gì ở một hướng khác. Mắt nàng dừng lại ở các đỉnh núi phía tây bắc chỗ nàng đang đứng, và trông như nàng không tìm thấy.
Suzane cũng ở đó, hỏi nàng: “Cô tìm gì vậy?”
139
- Tôi muốn nhận ra ngọn núi nơi tôi đã gặp Thầy.
- Hãy hỏi Người chỗ đó.
- Ồ, có đáng gì để làm phiền Người. Người đang nói với Judas Kêriot.
- Thứ người nào? Cái gã Judas này! - Suzane lẩm bẩm. Nàng không nói gì hơn nữa, nhưng người ta cũng đoán được.
- Ngọn núi này chắc chắn không ở trên đường của chúng ta, nhưng Matta ơi, một ngày kia em sẽ dẫn chị lên đó. Hôm đó, vào một bình minh giống như bữa nay, với bao là hoa... và bao là người... Ôi! Matta, và em, em dám phơi mình ra cho tất cả, với cái y phục đắc tội đó, và những người bạn đó... Không, em không thể bị xúc phạm bởi các lời của Judas. Em rất đáng chịu tất cả. Và sự chịu đựng mà em cảm thấy này là việc đền tội của em. Tất cả mọi người đều nhớ, tất cả đều có quyền nói sự thật cho em, và em, em phải câm miệng. Ôi! Nếu người ta đã suy nghĩ trước khi phạm tội! Những kẻ xúc phạm đến em bây giờ là bạn qúi nhất của em, vì họ giúp em đền tội.
- Nhưng điều đó đã không ngăn cản ông ta hành động xấu. Mẹ ơi, có thực là Con Mẹ bằng lòng với cái ông này không?
- Phải cầu nguyện rất nhiều cho ông ta. Đó là điều Giêsu nói.
Gioan rời chỗ các tông đồ để đến giúp các phụ nữ tại một khúc đường khó, xăng đan dễ bị trượt. Hơn nữa, con đường đầy đá trơn, giống như những tấm phiến đá hơi đỏ. Cũng có những cây cỏ ngắn, bóng và cứng, không chịu giữ những bàn chân đặt lên chúng. Zêlote cũng bắt chước Gioan. Và các bà bám vào hai ông để băng qua khúc đường nguy hiểm.
- Con đường này hơi mệt, nhưng không có bụi, không có đám đông, và nó gần hơn - Zêlote nói.
- Mẹ biết con đường này rồi Simon ạ. Mẹ đã đến miền ở lưng chừng đồi với các đứa cháu trai của mẹ khi Giêsu bị đuổi khỏi Nazarét - Đức Trinh Nữ nói, và mẹ thở dài.
- Nhưng thế giới thật đẹp nhìn từ đây. Kia là núi Tabor và núi tiểu Hermon, và ở bắc là ngọn Arbêla, và ở xa hơn, ở tận đáy, là
140
ngọn đại Hermon. Xui là ta không nhìn thấy biển như khi ta nhìn thấy từ trên Tabor - Gioan nói.
- Con đã lên đó rồi à?
- Vâng, lên với Thầy.
- Gioan, vì tình yêu cảnh vô tận, đã cho chúng con một niềm vui lớn, vì ở trên đó, Giêsu nói về Thiên Chúa với một sự say mê mà chúng con chưa bao giờ nhận thấy. Rồi sau khi đã nhận được biết bao, chúng con lại được một cuộc hoán cải lớn. Maria, cô cũng sẽ biết và tâm hồn cô sẽ trở nên mạnh mẽ hơn nữa. Chúng con đã tìm được một người chai đá trong thù ghét, bị u mê trong những hối tiếc, và Giêsu đã làm cho thành, con không ngại nói: một đồ đệ lớn. Cũng giống như cô đó, Maria. Vậy hãy tin là rất thật điều tôi nói là chúng ta, những tội nhân, chúng ta mềm mại hơn với điều lành, một khi nó đã bắt giữ chúng ta, bởi vì chúng ta cảm thấy cần được tha thứ đối với cả chính chúng ta nữa - Zêlote nói.
- Đúng. Nhưng anh đã rất tốt khi nói: “Chúng ta, những người tội lỗi”, vì anh đã là kẻ khổ sở, nhưng không phải người tội lỗi.
- Tất cả chúng ta đều là tội nhân, kẻ ít người nhiều, và kẻ nào nghĩ mình ít tội hơn là kẻ có nghiêng chiều trở thành tội nhân nhiều hơn, nếu nó chưa là vậy. Tất cả chúng ta là tội nhân. Nhưng những tội nhân nặng nề nhất, khi họ hoán cải, họ biết ở trong điều lành cách tuyệt đối hơn, cũng như họ đã là vậy trong điều xấu.
- Sự khích lệ của anh nâng đỡ tôi. Anh, anh luôn luôn là người cha cho các con của Théophile.
- Và giống như một người cha, tôi vui mừng thấy qúi vị, cả ba đều là bạn của Giêsu.
- Qúi vị đã tìm thấy người môn đệ đại tội nhân ở đâu vậy?
- Ở Enđo, Maria ạ. Simon đã muốn cho cái ước ao được thấy biển của tôi công trạng của biết bao điều tốt và đẹp. Nhưng nếu Gioan Enđo đã đến với Giêsu thì không phải nhờ thằng Gioan ngu ngốc này đâu, mà là nhờ Judas Simon đó - Gioan Zêbêđê cười nói.
- Ông ta đã hoán cải Gioan à? - Matta hỏi cách ngờ vực.
- Không. Nhưng vì ông ta muốn tới Enđo, và...
141
- Đúng - Simon nói, “để coi cái hang của bà phù thủy... Judas Simon... Đó là một người rất kỳ lạ. Phải chấp nhận ông ta như ông ta là... Chắc chắn rồi... Và Gioan Enđo đã dẫn chúng ta tới hang. Rồi ông ta đi với chúng ta. Nhưng con trai ơi, luôn luôn chính con là người đáng công, vì nếu con không ước ao điều vô tận, chúng ta sẽ không đi theo con đường đó, và Judas Simon cũng không ước ao làm cái việc tìm kiếm kỳ lạ đó”.
- Tôi rất muốn biết những điều Giêsu đã nói ở trên Tabor... cũng như tôi muốn nhận ra ngọn núi nơi tôi đã gặp Người - Maria Mađalêna xit xoa.
- Ngọn núi đó là ngọn mà trên đó, vào giờ này, nó hiện ra sáng như mặt trời, nhờ một cái vũng nước lớn dùng cho các đoàn vật, do các nước nguồn chảy vào. Lúc đó chúng ta ở trên cao hơn. Tại đó, ngọn núi chia ra làm hai như cái chỉa hai răng vĩ đại, tựa như nó muốn xiên lấy mây trời và đem đi nơi khác. Về bài luận thuyết của Giêsu thì tôi tin là Gioan có thể nói cho cô.
- Ồ, Simon! Có bao giờ một thằng con trai có thể nói lại những lời của Thiên Chúa?
- Một thằng con trai thì không, nhưng cậu thì có. Hãy thử đi, để làm vui lòng các bà chị và làm tôi vui, vì tôi rất yêu cậu.
Gioan đỏ mặt khi ông bắt đầu nói lại bài luận thuyết của Giêsu:
- Người đã nói: Đây là trang sách vô tận, trên đó các dòng nước viết: “Tôi tin”. Hãy nghĩ đến sự hỗn mang của vũ trụ trước khi Đấng Tạo Hóa muốn đặt các yếu tố vào trật tự, và phối hợp nó cách tuyệt diệu, và ban trái đất cho con người với tất cả những gì nó chứa đựng, và cho không trung các thiên thể và các hành tinh. Trước tiên thì tất cả chưa hiện hữu, cũng chưa có sự hỗn mang và chưa có sinh vật.
Thiên Chúa đã làm ra tất cả. Vậy để bắt đầu, Người làm ra các yếu tố, bởi vì chúng cần thiết, dù là đôi khi chúng có vẻ như có hại. Nhưng hãy luôn luôn nghĩ rằng: không một giọt sương nào, dù là nhỏ nhất, mà không có một lý do chính đáng để hiện hữu. Không một côn trùng nào, dù là nhỏ bé và rầy rà tới đâu mà không có lý do chính đáng để hiện diện. Và cũng vậy, không một ngọn núi quái
142
gở nào, thứ núi khạc ra đá và lửa cháy đỏ, mà không có lý do tốt để hiện hữu. Không một cơn lốc nào vô lý. Hãy đi từ vật qua người: không biến cố nào, không nước mắt nào, không niềm vui nào, không sự sinh nở nào, không cái chết nào, không sự son sẻ hay mắn con nào, không sự sum họp lâu dài hay góa bụa mau chóng nào, không sự bất hạnh đến từ nghèo khó hay bệnh tật nào, cũng như không một thịnh vượng hay sức khỏe nào lại không có lý do chính đáng để hiện hữu, dù là chúng có vẻ không hoàn toàn đối với con mắt cận thị và sự kiêu căng của con người, khi họ thấy và xét đoán với tất cả những đám mây và vảy cá trong mắt họ. Nhưng con mắt Thiên Chúa, nhưng tư tưởng vô biên của Thiên Chúa thấy và biết. Cái bí mật để sống ngoài tất cả những nghi ngờ vô ích, làm mệt cho gân cốt, làm hao mòn, làm nhiễm độc những ngày sống trên trái đất, là biết rằng Thiên Chúa làm tất cả với sự thông minh và với lý do chính đáng; biết rằng Thiên Chúa làm tất cả vì tình yêu chứ không phải với cái ý định ngu xuẩn là bắt phải chịu đựng vì để phải chịu đựng.
Thiên Chúa đã tạo dựng nên các thiên thần. Một số trong đám họ đã không muốn tin là mức độ vinh quang mà Thiên Chúa đặt để cho họ là tốt. Họ đã phản loạn, và với tâm hồn bị thiêu cháy bởi thiếu lòng tin vào Thiên Chúa của họ, họ đã cố gắng công hãm cái ngai bất khả tấn công của Thiên Chúa. Các thiên thần có lòng tin, với những lý do đầy hòa hợp, đã đối nghịch với sự bất hòa của họ, sự bất chính của họ, tư tưởng bi quan của họ. Và sự bi quan, vì thiếu lòng tin, đã làm cho họ trở thành các thần của tối tăm, trong khi trước đó họ là các thần của ánh sáng.
Ở trên trời cũng như dưới đất, những kẻ biết đặt nền móng cho tư tưởng của họ trên sự lạc quan đầy ánh sáng, sẽ được sống đời đời. Họ sẽ không bao giờ bị hoàn toàn lầm lạc, dù là các sự kiện mâu thuẫn với họ, ít nhất là về những điều có liên quan tới tâm hồn họ. Họ vẫn tin, vẫn hy vọng, vẫn yêu Thiên Chúa trên tất cả, và yêu tha nhân. Vì vậy họ sẽ ở trong Thiên Chúa cho tới đời đời.
Thiên Đàng đã trừ khử được những kẻ bi quan kiêu căng này,
143
những kẻ nhìn thấy sự rối loạn ngay cả trong những công trình tươi sáng nhất của Thiên Chúa. Ngay cả ở dưới đất, những kẻ bi quan thấy sự rối loạn cả ở trong những hành động ngay thẳng nhất và sáng sủa nhất của loài người. Họ muốn tự đặt mình riêng biệt trong một cái tháp ngà, tự tin mình là kẻ duy nhất hoàn thiện. Họ tự kết án mình ở trong cái nhà tù tối tăm, tận cùng ở chỗ tối tăm của âm phủ, vương quốc của sự từ chối, bởi vì bi quan cũng là từ chối.
Vậy Thiên Chúa đã làm công việc tạo dựng. Để hiểu cái mầu nhiệm vinh hiển về thực thể của chúng ta: Thiên Chúa Một và Ba, phải biết tin và thấy rằng: Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời ở nơi Thiên Chúa, cả hai kết hợp bởi Tình Yêu rất hoàn hảo lan tràn trên hai thực thể là những Thiên Chúa hoàn toàn trong khi vẫn là một Thực Thể Duy Nhất. Cũng vậy, để thấy sự tạo dựng như nó là, phải nhìn nó với con mắt đức tin, vì nó mang trong thực thể không thể xóa bỏ của nó sự phản chiếu của Đấng Tạo Tác ra nó, cũng như người con mang cái phản chiếu không thể xóa bỏ được của cha nó. Chúng ta thấy rằng ở đây cũng vậy: từ khởi đầu có trời và đất, và sau đó có ánh sáng ví như tình yêu, bởi vì ánh sáng là niềm vui, cũng như Tình Yêu và Ánh Sáng là khí quyển của Thiên Đàng, và Thực Thể vô thể, tức là Thiên Chúa, là Ánh Sáng và là Cha của tất cả ánh sáng trí tuệ, tình cảm, vật chất, tinh thần trên trời cũng như dưới đất.
Từ lúc khởi đầu có trời và đất, và chúng được ban ánh sáng, và bởi ánh sáng, mọi sự được làm ra. Cũng như trên Trời Cao thẳm, các thần ánh sáng được phân cách với các thần tối tăm, cũng vậy, trong sự tạo dựng, bóng tối được phân chia ra khỏi ánh sáng để làm ra ngày và đêm. Ngày đầu tiên của việc tạo dựng có buổi sáng và buổi chiều của nó, với giữa trưa và nửa đêm của nó. Và khi nụ cười của Thiên Chúa, tức là ánh sáng, trở lại sau ban đêm, thì đây, bàn tay của Thiên Chúa, ý muốn mạnh mẽ của Người giơ ra trên trái đất chưa thành hình và trống rỗng, giơ ra trên trời, nên các dòng nước chảy, một trong các yếu tố tự do của sự hỗn mang, và Người đã muốn rằng bầu trời được phân chia với các dòng nước hỗn độn giữa trời và đất, để dùng làm màn cho ánh sáng Thiên Đàng và
144
giới hạn cho nước ở phía trên, để ngăn cản lụt lội đổ xuống trên các kim khí đang sôi sục, và các nguyên tử có thể xoi rãnh và làm tan những thứ mà Thiên Chúa đã phối hợp.
Thứ tự được thiết lập trên trời và thứ tự hiện hữu trên trái đất do lệnh của Thiên Chúa truyền cho nước lan tràn trên đất, và biển được tạo ra. Nó đó. Bên trên nó, tựa như một bầu trời, có viết: “Thiên Chúa hiện hữu”. Một người, bất cứ nó thông minh cỡ nào, bất cứ đức tin nào của nó, hoặc là nó không có niềm tin, thì trước trang sách này, nơi sáng lên một tia của vô biên là Thiên Chúa, và nó là bằng cớ của quyền phép Người, thì mọi người bó buộc phải tin, bởi vì không một sức mạnh nào của loài người, cũng không một tổ chức tự nhiên nào của các yếu tố có thể, dù chỉ trong mức độ tối thiểu, có thể lặp lại một kỳ quan như vậy. Phải tin. Không phải chỉ tin vào quyền năng của Thiên Chúa, nhưng còn tin vào lòng tốt của Người, đấng đã, bởi cái biển này, ban cho con người thực phẩm và đường đi, chất muối bổ dưỡng, điều hòa mặt trời, cho gió được tự do thổi, mang hạt giống tới cho những miền đất cách xa nhau, cho nghe thấy tiếng bão tố để nhắc với Đấng Vô Tận về con kiến là con người, Đấng Vô Tận là Cha nó; cho nó những phương tiện để cất cao mình lên trong khi chiêm ngắm những khung cảnh cao hơn, về những tinh cầu cao hơn.
Có ba thứ nói với chúng ta nhiều hơn về Thiên Chúa trong sự tạo dựng, dù là tất cả đều là chứng nhân về Người: Ánh sáng, bầu trời và biển. Thứ tự của các tinh tú và khí tượng, phản chiếu thứ tự về Thiên Chúa. Ánh sáng mà một mình Thiên Chúa có thể làm; biển, sức mạnh mà một mình Thiên Chúa, sau khi đã tạo dựng, đã có thể đặt nó trong ranh giới hữu hạn, và ban cho nó những chuyển động và tiếng nói, và không vì thế, nó có thể làm hại trái đất đang mang nó trên mặt, dù nó là những yếu tố linh động vô thứ tự.
Hãy đi sâu vào mầu nhiệm của ánh sáng là thứ không bao giờ cạn kiệt. Hãy ngước mắt lên bầu trời, nơi các thiên thể và các hành tinh đang tươi cười. Hãy hạ thấp cái nhìn xuống trên mặt biển. Hãy coi xem nó là cái gì, không phải là cái chia cắt, nhưng là cái cầu
145
nối với các dân ở bờ phía bên kia, dù ta không thấy, chưa biết, nhưng phải biết là chúng hiện hữu, bởi chính vì thế mà có biển. Thiên Chúa không làm gì vô ích, vì vậy Người đã không làm cái bề mặt vô biên này nếu nó không có ở phía bên kia một giới hạn, ở bên ngoài chân trời, ngăn cản chúng ta không nhìn thấy miền đất khác, đông đúc những dân tộc khác, tất cả đều đến từ một Thiên Chúa độc nhất, được dẫn tới đó do ý muốn của Thiên Chúa, bởi bão tố hay các dòng nước, để sinh sống trên các lục địa và các miền đất. Và cái biển này mang trong các làn sóng của nó, trong tiếng nói của các làn nước và các thủy triều của nó những tiếng gọi xa xăm. Nó là vật trung gian chứ không phải vật ngăn cách. Nỗi lo âu êm dịu này đến từ lời kêu gọi của các anh em xa xôi đã làm cảm kích Gioan (Tẩy Gỉa). Tinh thần càng chế ngự xác thịt, nó càng có khả năng nghe tiếng nói của các thần trí khác kết hợp lại, dù là chúng bị ngăn cách, giống như các cành phát ra từ một gốc duy nhất đều kết hợp với nhau, dù cành nọ không nhìn thấy cành kia, vì lẽ có một vật cản ở giữa chúng. Hãy nhìn biển cả với con mắt của ánh sáng, các con sẽ thấy những miền đất và những miền đất rải rác trên các bãi biển, giới hạn của nó; và ở bên trong đất liền cũng còn có những miền đất nữa. Tất cả đều đồng thanh kêu: “Hãy đến, hãy mang cho chúng tôi Ánh Sáng của qúi vị. Hãy mang cho chúng tôi Sự Sống mà qúi vị đã được ban cho. Hãy nói với trái tim chúng tôi một từ mà chúng tôi không biết, nhưng là từ mà chúng tôi biết nó là nền móng của vũ trụ, từ: Tình Yêu. Hãy dạy chúng tôi đọc cái lời mà chúng tôi thấy viết trên trang giấy vô tận của không trung và của biển cả: Thiên Chúa. Hãy soi sáng cho chúng tôi, bởi vì chúng tôi linh cảm thấy có một Ánh Sáng còn thực hơn ánh sáng đỏ rực trên trời và biến biển khơi thành những bảo ngọc lấp lánh. Hãy cho sự tối tăm của chúng tôi thứ Ánh Sáng mà Thiên Chúa đã cho qúi vị, sau khi đã cưu mang nó bằng Tình Yêu. Người đã ban nó cho qúi vị, nhưng là để cho tất cả, cũng như Người đã ban nó cho các thiên thể là để nó cho lại trái đất. Qúi vị là các thiên thể, chúng tôi là cát bụi. Nhưng hãy đào tạo chúng tôi theo cùng một cách Đấng Tạo
146
Hóa đã đào tạo con người từ cát bụi của trái đất, để con người sống trên trái đất mà thờ phượng Người bây giờ và mãi mãi, cho tới giờ không còn trái đất nữa, vì đã đến ngày của Vương Quốc, Vương Quốc của ánh sáng, tình yêu và bình an như Thiên Chúa hằng sống đã nói với qúi vị những điều đó, vì chúng tôi cũng là con cái của Thiên Chúa này, và chúng tôi xin cho chúng tôi được biết Cha chúng tôi”.
Hãy biết đi trên những con đường vô tận. Đừng sợ và đừng khinh dể đi gặp những kẻ đang khóc và kêu gọi, đến với những kẻ cũng sẽ làm các con đau khổ, vì họ linh cảm thấy Thiên Chúa nhưng không biết thờ phượng Người, nhưng họ cũng sẽ là những kẻ cho các con sự vinh quang, bởi vì sự vinh quang của các con sẽ lớn lao tùy theo mức độ các con chiếm hữu tình yêu và biết phân phát nó bằng cách dẫn dắt các con dân đang chờ đợi về với chân lý.
Giêsu đã nói như vậy đó. Rất hay hơn là tôi nhắc lại. Nhưng ít nhất, đó là tư tưởng của Người.
- Gioan ơi, cậu đã nhắc lại y hệt như Thầy nói. Cậu chỉ chừa ra điều Thầy đã nói về việc cậu có khả năng hiểu Thiên Chúa nhờ vào lòng quảng đại trong sự tận hiến của cậu. Cậu rất tốt, Gioan, người tốt nhất trong chúng ta. Chúng ta đã đi hết con đường mà không hay. Kìa, Nazarét ở trên đồi. Thầy đang nhìn chúng ta và mỉm cười. Chúng ta hãy lại với Người gấp để họp thành một nhóm mà vào thành phố.
- Mẹ cám ơn con, Gioan. Con đã cho mẹ một món qùa lớn - Bà Chúa nói.
- Tôi cũng vậy. Anh đã mở chân trời vô tận ra cho Maria khốn khổ này.
- Qúi vị nói về cái gì nhiều vậy? - Giêsu hỏi những người vừa đến với Người.
- Gioan đã nhắc lại cho chúng con bài thuyết giảng của Thầy ở trên Tabor một cách rất hoàn toàn, và chúng con sung sướng.
- Thầy rất bằng lòng là Mẹ Thầy đã nghe bài đó. Mẹ mang một cái tên không lạ lùng gì với biển cả, và mẹ có một tình bác ái bao la như biển.
147
- Con ơi, con có tình bác ái của một người, và điều đó chỉ là không so với tình bác ái của con là Ngôi Lời Thiên Chúa. Giêsu êm dịu của mẹ.
- Má ơi, hãy đi ở bên cạnh con đây, giống như khi chúng ta từ Cana hay từ Jêrusalem trở về nhà lúc con còn bé, mà má đã dắt tay con.
Và hai người ngó nhau với cái nhìn tình yêu.
108* GIÊSU TẠI NAZARÉT
Chỗ dừng chân đầu tiên của Giêsu tại Nazarét là nhà Alphê. Người đang sắp bước vào vườn thì gặp Maria Alphê đi ra với hai cái vò bằng đồng để ra phông-ten.
- Bình an cho bác, Maria - Giêsu nói, và Người hôn người bác mà như thường lệ, bộc lộ nỗi vui bằng một tiếng kêu, và bà hôn Người.
- Giêsu của tôi! Chắc chắn đây là một ngày bình an và vui vẻ, bởi vì cháu về. Ôi! Các con yêu của má! Vui chừng nào cho má các con được thấy các con! - Và bà hôn cách thân thiết hai người con trai ở ngay sau lưng Giêsu.
- Bữa nay qúi vị sẽ ở lại nhà tôi phải không? Tôi vừa nhúm lò để nướng bánh. Tôi đi lấy nước để không phải gián đoạn khi nấu nướng.
- Má ơi, chúng con sẽ đi lấy nước - hai người con trai nói và chụp lấy các chiếc vò.
- Chúng tốt chừng nào! Có phải không Giêsu?
- Rất tốt - Giêsu xác nhận.
- Cả với cháu nữa, phải không? Bởi vì nếu chúng yêu cháu ít hơn thì chúng sẽ ít thân yêu đối với bác hơn.
- Đừng sợ, bác Maria. Chúng chỉ là niềm vui cho cháu.
- Cháu có một mình à? Maria đã ra đi như vậy, bất ngờ... Bác cũng sẽ đi. Cô ấy đi với một người đàn bà... một môn đệ à?
- Vâng, em gái của Matta.
- Ôi! Xin chúc tụng Thiên Chúa! Bác đã cầu nguyện biết bao cho việc này. Cô ta đâu?
- Kìa, cô ta đang đi với mẹ cháu, Matta và Suzane.
148
Qủa vậy, các phụ nữ vừa rẽ vào đường, các tông đồ đi theo đàng sau. Maria Alphê chạy ra đón họ và kêu lên: “Sung sướng cho tôi chừng nào được có cô làm chị em. Tôi phải nói cô là con gái, vì cô còn trẻ, tôi già rồi. Nhưng tôi gọi cô bằng tên, cái tên rất thân yêu đối với tôi từ khi tôi đặt nó cho Maria của tôi. Lại đây cưng! Chắc chắn cưng mệt, nhưng cũng sung sướng nữa”. Và bà ôm hôn Maria Mađalêna, rồi cầm tay nàng như để nàng cảm thấy bà yêu nàng.
Sự tươi mát và sắc đẹp của Maria Mađalêna như rạng ngời hơn gần khuôn mặt héo uá của bà Maria Alphê tốt bụng.
- Hôm nay tất cả sẽ ở nhà tôi. Tôi sẽ không để qúi vị đi.
Và với một cái thở dài của tâm hồn, thoát ra ngoài ý muốn, bà để thoát ra lời tự thú: “Tôi luôn luôn cô đơn chừng nào! Khi cô em dâu của tôi không có ở đây, tôi qua những ngày buồn tẻ và cô đơn”.
- Các con trai chị vắng nhà à? - Matta hỏi.
Maria Alphê đỏ mặt và thở dài: “Bằng tâm hồn, đúng, còn. Là môn đệ, sum họp và chia lìa... Nhưng cũng giống như cô, Maria. Cô đã tới, chúng cũng sẽ tới”. Và bà lau nước mắt. Bà nhìn Giêsu. Người đang quan sát bà với vẻ thương xót. Bà cố gắng mỉm cười và hỏi Người: “Đây là những điều đòi hỏi thời gian, phải không?”
- Đúng, Maria, nhưng bác sẽ thấy chúng.
- Bác đã hy vọng... Sau khi Simon đã... Nhưng sau đó, nó đã biết những... điều khác, và nó lại trở về, ngập ngừng. Giêsu, dầu sao cũng hãy yêu nó.
- Bác có thể nghi ngờ điều đó sao?
Maria vừa nói vừa sửa soạn những đồ giải khát cho các bộ hành, như điếc trước những lời mọi người nói là không cần gì cả.
- Hãy để các nữ môn đệ bằng an - Giêsu nói, và Người thêm: “Và chúng ta hãy đi vào trong vùng”.
- Cháu đi à? Có lẽ các đứa con trai khác của bác cũng sẽ tới?
- Cháu sẽ ở lại hai ngày tròn, như vậy chúng ta sẽ ở với nhau. Bây giờ cháu đi kiếm các bạn. Bình an cho các bà. Má ơi, tạm biệt nhé!
Nazarét đã xúc động vì Giêsu trở về, và vì Maria Magđala đi
149
theo Người. Có những người vội vã vào nhà Maria Alphê, có những người khác vội tới nhà Giêsu để coi, nhưng thấy nhà đóng cửa, họ kéo nhau đến hết với Giêsu. Người đang băng qua Nazarét, về phía trung tâm miền. Thành phố vẫn khép cửa trước người Thầy. Một số mỉa mai, một số không tin. Có vài nhóm người bộc lộ sự độc ác, và họ tỏ lộ ác cảm bằng những lời gây thương tích. Thành phố theo Người vì tò mò, không có tình yêu. Họ không hiểu người con vĩ đại của họ. Ngay trong những câu hỏi mà họ đặt ra cho Người cũng không có tình yêu, chỉ có sự cứng lòng tin và nhạo báng. Nhưng Người không tỏ ra là Người biết. Người trả lời êm đềm cho những kẻ nói với Người.
- Ông cho mọi người, nhưng ông giống như một người con không có một giây liên lạc nào với quê hương nó, bởi vì ông không cho nó cái gì cả.
- Tôi ở đây để cho qúi vị những gì qúi vị xin tôi.
- Nhưng ông không thích ở đây. Có lẽ chúng tôi tội lỗi hơn những người khác.
- Không có một người nào, dù tội lỗi tới đâu mà tôi không lưu tâm hoán cải. Và qúi vị, qúi vị không tội lỗi hơn những người khác.
- Nhưng ông không nói rằng chúng tôi tốt hơn những người khác. Một đứa con tốt luôn luôn nói rằng mẹ nó tốt hơn những người khác, dù là bà ta không được như vậy. Có lẽ đối với ông, Nazarét là bà mẹ ghẻ?
- Tôi không nói gì cả. Sự yên lặng là cái thước đo lòng bác ái với người khác và với chính mình khi người ta không thể nói về một người là tốt, và người ta không muốn nói dối. Nhưng sự ca tụng sẽ đến với qúi vị ngay lập tức nếu qúi vị đến với giáo lý của tôi.
- Vậy ông muốn là người ta cảm phục ông?
- Không. Tôi chỉ muốn qúi vị nghe tôi và tin ở tôi, vì lợi ích của linh hồn qúi vị.
- Vậy nói đi. Chúng tôi nghe ông.
- Hãy nói cho tôi, tôi phải nói với qúi vị về đề tài nào?
Một người trạc bốn mươi, bốn lăm tuổi nói: “Đây, chúng tôi
150
muốn ông vào giáo đường và giải thích cho chúng tôi một điểm”.
- Lêvi, tôi đến ngay lập tức.
Và họ đi về giáo đường. Người ta chen chúc nhau sau lưng Giêsu và ông trưởng giáo đường, và lập tức ngồi đầy giáo đường. Ông trưởng giáo đường cầm một cuộn và đọc: “Ông cho mang người con gái của Pharaon vào thành Đavít, ở trong một căn nhà mà ông đã xây cho bà, vì ông nói: ‘Vợ ta không được ở trong nhà của Đavít, vua Israel, nơi đã được thánh hóa khi hòm bia của Chúa vào đó’”. Đấy, tôi muốn ông nói là biện pháp này có đúng không, và tại sao?
- Không một chút nghi ngờ gì là nó chính đáng, bởi vì sự kính trọng đối với ngôi nhà đã được thánh hoá của Đavít do việc hòm bia ngự tới, đòi hỏi như vậy.
- Nhưng sự kiện được làm vợ của Salômôn không làm cho người con gái của Pharaon được xứng đáng ở trong nhà của Đavít sao? Người đàn bà không trở nên, theo lời của Ađam: “Xương của xương” của người chồng, và “Thịt của thịt” ông sao? Nếu nàng là như vậy, làm sao nàng có thể phàm tục hóa nếu nàng không phàm tục hóa người chồng?
- Trong sách Esdras có viết: “Ngươi đã phạm tội khi cưới các người đàn bà ngoại quốc, và thêm cái tội này vào vô số tội khác của Israel”. Một trong các nguyên cớ tội thờ tà thần của Salômôn, chính là tội có liên can tới việc cưới vợ ngoại quốc. Thiên Chúa đã nói: “Các bà, những vợ ngoại quốc, sẽ làm đồi bại con tim của ngươi cho tới nỗi làm cho ngươi theo những thần ngoại quốc”. Và các hậu qủa thì chúng ta đã biết.
- Nhưng ông ta không đồi trụy vì đã cưới con gái Pharaon, vì ông vẫn xét xử cách khôn ngoan trong khi bà không được ở trong căn nhà được thánh hóa.
- Lòng nhân từ của Thiên Chúa không ở trong mức độ như chúng ta. Con người, sau lỗi lầm, họ không tha thứ, mặc dầu chính họ cũng luôn luôn lỗi lầm. Thiên Chúa không khắc nghiệt sau một lần sa ngã, nhưng Người không cho phép chai đá trong cùng một tội mà không bị phạt. Vì thế Người không phạt ngay sau khi sa ngã lần
151
đầu. Khi đó Người nói trong con tim. Nhưng Người phạt khi lòng nhân từ của Người không cải hóa được con người, và khi con người lấy đó làm cớ cho sự yếu đuối. Khi đó hình phạt sẽ đổ xuống, vì con người không nhạo cười Thiên Chúa được. Xương bởi xương ông, thịt bởi thịt ông, con gái Pharaon đã gieo cái hạt đầu tiên cho sự đồi bại trong tim vị vua khôn ngoan. Và qúi vị biết rằng một cơn bệnh phát xuất không phải ngay khi chỉ có một cái mầm bệnh trong máu, nhưng khi máu bị hư vì cái mầm đầu tiên này đã phát triển và tăng gấp lên. Sự sa ngã của con người tới tận đáy sâu luôn luôn bắt đầu bằng một lỗi phạm có vẻ nhẹ. Rồi sự chiều theo điều xấu lớn lên. Người ta làm quen với sự phương hại, sự chểnh mảng với bổn phận, sự bất tuân đối với Thiên Chúa, và từng bậc một, người ta đi tới tội nặng. Đối với Salômôn, ông đã đi tới tội thờ tà thần, gây ra sự ly giáo mà các hậu qủa còn tồn tại cho tới ngày nay.
- Vậy ông nói rằng phải rất chú ý và rất kính trọng đối với những vật thánh?
- Chắc chắn rồi.
- Bây giờ giải thích cho tôi điều này nữa: “Ông xưng mình là Ngôi Lời của Thiên Chúa, có đúng vậy không?”
- Tôi là vậy. Chính Người đã sai tôi mang Tin Mừng cho mọi người và cứu chuộc mọi người cho khỏi tội lỗi.
- Vậy nếu ông là Ngôi Lời thì ông còn lớn hơn Hòm Bia, bởi vì Thiên Chúa không ở trong cái vinh quang ngự trên Hòm Bia, nhưng ở trong chính ông.
- Ông nói đúng, và đó là sự thật.
- Vậy tại sao ông làm hoen ố chính ông?
- A, ra để nói với tôi câu đó nên ông đã dắt tôi tới đây? Nhưng tôi thương cho ông, cho ông và cho kẻ đã xúi giục ông nói. Tôi không cần phải biện minh, vì mọi biện minh đều vô ích và bị bẻ gẫy bởi sự thù ghét của các ông. Nhưng về điểm các ông trách tôi là thiếu tình yêu đối với các ông và làm hoen ố nhân thân tôi, tôi cho các ông sự biện minh của tôi. Hãy nghe đây. Tôi biết các ông nói ám chỉ về cái gì. Nhưng tôi trả lời các ông: “Các ông sai lầm”.
152
Cũng như tôi mở cánh tay cho kẻ chết để đem nó trở về sự sống, tức là tôi gọi các kẻ chết để trả sự sống cho nó. Tôi mở cánh tay cho những kẻ hấp hối và tôi gọi những kẻ đã chết thực sự, là các kẻ tội lỗi, để dẫn nó về đời sống vĩnh cửu, để làm cho nó sống lại nếu nó đã thối rữa, để nó không chết nữa. Nhưng tôi sắp nói cho qúi vị một dụ ngôn:
Một người, vì hậu qủa của nhiều dâm đãng nên bị cùi. Người ta cách ly ông ra khỏi xã hội và con người. Trong sự cô đơn khủng khiếp, ông suy nghĩ đến tình trạng của ông và về tội lỗi đã làm ông suy sụp. Ông qua đi nhiều năm như vậy, và vào một lúc ông không ngờ nhất thì ông được khỏi bệnh cùi. Chúa đã tỏ lòng thương xót ông vì bao lời cầu nguyện và nước mắt của ông. Khi ấy người đó làm gì? Ông có thể trở về nhà ông vì Thiên Chúa đã xót thương ông không? Không. Ông phải trình diện với thầy cả, vị này, sau một lúc xem xét cẩn thận, thanh tẩy ông sau một lễ hy sinh đầu tiên là một đôi chim tước. Rồi sau đó, không phải sau một lần, mà sau hai lần giặt giũ quần áo, người đó được đến tìm thầy cả với những con chiên không tì vết, con chiên cùng với bột và dầu đã được mô tả. Thầy cả dẫn ông tới trước cửa nhà tạm, và chỉ khi đó, người này mới được nhìn nhận lại vào dân Israel theo tôn giáo. Nhưng qúi vị, hãy nói cho tôi: Khi người đó đến với thầy cả lần đầu tiên, tại sao ông ta tới?
- Để được thanh tẩy lần thứ nhất, để có thể làm trọn việc thanh tẩy lớn nhất, để ông lại có thể hội nhập vào dân thánh.
- Qúi vị đã nói đúng. Vậy khi đó ông ta chưa được hoàn toàn thanh sạch sao?
- Ồ, chưa. Ông còn thiếu rất nhiều để được thanh sạch, vật chất cũng như tinh thần.
- Vậy tại sao ông ta dám lại gần thầy cả lần đầu tiên trong khi ông ta còn dơ bẩn, và lần thứ hai, ông ta tới gần cả Nhà Tạm?
- Bởi vì Thầy cả là phương tiện cần thiết để ông ta có thể lại được nhận vào số những kẻ sống.
- Vậy còn Nhà Tạm?
153
- Bởi vì chỉ mình Thiên Chúa là có thể hủy bỏ tội lỗi, và đức tin chỉ rằng phải tin là ở sau bức màn thánh, Thiên Chúa ngự trong vinh quang của Người, và từ đó Người phân phát ơn tha thứ.
- Như vậy là người cùi được lành chưa hoàn toàn sạch tội khi ông tới gần thầy cả và Nhà Tạm?
- Chưa, chắc chắn là chưa.
- Hỡi các người có tư tưởng xảo quyệt và con tim không trong sáng! Tại sao qúi vị trách móc tôi, nếu tôi: Thầy Cả và Nhà Tạm, tôi để cho những kẻ bị cùi một cách siêu nhiên lại gần tôi? Tại sao qúi vị lại có hai biện pháp để xét đoán? Phải, người phụ nữ đã hư mất, cũng như Lêvi, người thu thuế, bây giờ hiện diện ở đây với tâm hồn mới và nghĩa vụ mới, và cùng với họ, có những đàn ông đàn bà khác đã đến trước họ, và bây giờ ở bên cạnh tôi. Họ có thể, bởi vì bây giờ họ được tái nhập vào dân Chúa. Họ đã được dẫn đến bên tôi do ý muốn của Thiên Chúa, Đấng đã giao cho tôi quyền xét xử và xá giải, chữa lành và phục sinh. Sẽ có sự hoen ố nếu sự thờ tà thần vẫn ở trong họ, giống như nó vẫn ở trong con gái Pharaon. Nhưng ở đây không có sự hoen ố, vì họ đã ôm ấp cái giáo lý mà tôi đã đem xuống trên trái đất, và bởi giáo lý này, họ được sống lại trong Ân Sủng của Chúa.
Hỡi các người Nazarét, qúi vị giương bẫy hại tôi, bởi vì qúi vị cho rằng tôi không thể được cái điều là có sự khôn ngoan thực sự của Ngôi Lời Thiên Chúa ở trong tôi. Tôi nói với qúi vị: “Hãy bắt chước những người tội lỗi”, thực sự họ đã ở bên trên qúi vị khi họ ở trong sự quan hệ với Chân Lý. Tôi cũng nói với qúi vị: “Đừng dùng những thủ đoạn ô nhục để có thể đối đầu với tôi”. Đừng làm như vậy. Hãy xin tôi, và tôi sẽ cho qúi vị Lời của sự sống, cũng như tôi đã cho hết những ai đến với tôi. Hãy tiếp nhận tôi như một người con của miền đất này là đất của qúi vị. Tôi không giữ sự hiềm khích với qúi vị. Bàn tay tôi đầy sự vuốt ve, và trái tim tôi ước ao chỉ bảo qúi vị và làm cho qúi vị sung sướng. Tôi rất là như vậy, tới nỗi nếu qúi vị muốn, tôi sẽ qua ngày Sabat ở giữa qúi vị để giảng cho qúi vị Lề Luật Mới.
154
Các người nghe không đồng ý với nhau, nhưng sự tò mò đã thắng, hay là tình yêu? Một số đông kêu lên: “Đúng, đúng, ngày mai đến đây. Chúng tôi sẽ nghe ông”.
- Tôi sẽ cầu nguyện để đêm nay, cái lớp hồ tô làm cứng con tim của qúi vị nó rớt xuống, để cho tất cả các thành kiến đều sụp đổ, để một khi được giải thoát khỏi nó, qúi vị có thể hiểu Lời của Thiên Chúa đã đến mang Tin Mừng cho tất cả trái đất, nhưng với niềm ước ao là miền đầu tiên đón nhận nó phải là thành phố nơi tôi đã lớn lên.
Bình an cho tất cả qúi vị.
109* NGÀY SABÁT TẠI GIÁO ĐƯỜNG NAZARÉT
Lại ở trong giáo đường Nazarét, nhưng là ngày Sabát.
Giêsu đã đọc chuyện ngụ ngôn của Abimelech, và kết thúc bằng những lời: “Chớ gì từ nơi nó phát ra những ngọn lửa và thiêu đốt các cây bách hương của Liban”. Rồi Người trả ru-lô cho ông trưởng giáo đường. Ông này liền nói: “Ông không đọc chỗ còn lại à? Nó sẽ tốt để làm cho hiểu chuyện ngụ ngôn”.
- Không cần, thời của Abimelech qúa xưa rồi. Tôi áp dụng sách ngụ ngôn cổ vào thời hiện tại.
Hãy nghe đây, hỡi những người Nazarét: Qua sự giảng dạy của ông trưởng giáo đường của qúi vị, qúi vị đã hiểu những áp dụng về ngụ ngôn của Abimelech. Qủa vậy, trong thời của ông, ông ta đã được dạy dỗ bởi một rabbi, và vị rabbi này bởi một vị khác, và cứ vậy qua các thế kỷ, luôn luôn theo cùng một phương pháp và có cùng một kết luận.
Với tôi, qúi vị sẽ nghe một áp dụng khác. Ngoài ra, tôi xin qúi vị hãy biết vận dụng sự thông minh của qúi vị, chứ đừng làm như sợi giây ở cái ròng rọc tại giếng nước, bao lâu nó chưa đứt thì nó chỉ biết đi từ cái ròng rọc xuống tới nước, rồi từ nước tới cái ròng rọc
155
mà không bao giờ có thể thay đổi. Con người không phải là một sợi giây bị thắt chặt, cũng không phải một dụng cụ cơ khí. Con người được cung cấp một trí não thông minh, và nó phải tự biết sử dụng tùy nhu cầu và trường hợp.
Nếu những chữ của Sách Thánh là vĩnh cửu, thì các cảnh ngộ có thể thay đổi. Tội nghiệp cho những bậc thầy không muốn biết sự mệt mỏi và sự thỏa mãn trong việc rút ra mỗi lần một giáo lý mới từ những lời khôn ngoan xưa kia vẫn tích chứa. Họ giống như những tiếng vọng, chỉ có thể lặp lại mười và mười lần một lời duy nhất mà không biết đặt vào đó một lời nào của họ.
Cây cối, tức là nhân loại, tượng trưng bằng những khu rừng, nơi có những cây cao lớn, cây trung bình và cây cỏ, cảm thấy cái nhu cầu phải được dẫn dắt bởi người có trách vụ về tất cả vinh quang, và cũng - điều này nặng nề hơn - có trách vụ về quyền lực, về hạnh phúc hay bất hạnh của các người thuộc về họ. Họ chịu trách nhiệm nơi các người của họ, nơi những người kề cận với họ, và đáng ngại nhất là nơi Thiên Chúa. Bởi vì mọi triều thiên, tức là mọi địa vị cao trong xã hội, dù nó là cỡ nào, đều được cho bởi con người, đúng vậy, nhưng với sự cho phép của Thiên Chúa. Không có sự ưng thuận của Người thì không một sức mạnh nào của con người có thể áp đặt. Điều đó giải thích những thay đổi không thể tưởng được và bất ngờ của các triều đại tưởng như vô tận, và các quyền hành tưởng như không thể đụng tới được. Nhưng khi nó vượt qúa mức trong địa vị của họ về những hình phạt hay những gian khổ cho người dân, họ đã bị dân chúng lật đổ với sự cho phép của Thiên Chúa. Họ bị giảm thiểu tới chỉ còn là cát bụi, đôi khi là bùn nhơ cống rãnh.
Tôi đã nói: người dân cảm thấy cái nhu cầu tuyển chọn người nào có thể gánh vác hết mọi trách nhiệm đối với các người của họ, đối với các nước lân bang và đối với Thiên Chúa - điều đáng ngại hơn cả.
Sự xét đoán của lịch sử rất ghê gớm, và lợi lộc của các dân tìm cách thay đổi nó một cách vô vọng, vì các biến cố và các dân trong tương lai sẽ trả nó lại cho sự thật đầu tiên của nó. Và ghê gớm cùng
156
với nghiêm khắc là sự xét xử của Thiên Chúa, thứ xét xử không bị ảnh hưởng bởi một áp lực nào, cũng không phải là thứ có thể thay đổi thái độ hay sự xét đoán như con người rất thường là, và lại càng không là người có thể sai lầm khi xét xử. Vậy những người được lựa chọn làm thủ lãnh của dân và làm người tạo dựng lịch sử, phải biết hành động cách công chính và anh hùng như những vị thánh, để không bị ô nhục trong những thế kỷ tương lai và bị Thiên Chúa trừng phạt đời đời.
Nhưng chúng ta hãy trở lại ngụ ngôn của Abimelech: Vậy các cây muốn tuyển lựa một ông vua, và chúng đến tìm cây ôliu, nhưng cây này là một thứ cây được thánh hiến để dùng vào các việc siêu nhiên, vì lý do dầu của nó cháy trước nhan Chúa và có một địa vị ưu thắng trong thuế thập phân dâng cúng và trong các lễ hy sinh; nó cung cấp dầu của nó để làm hương liệu thánh xức cho bàn thờ, các thầy cả và vua chúa, và xuống với các đặc tính mà tôi gọi là các phép thần thông, trên các cơ thể và các bệnh nhân. Cây này nói: “Làm sao tôi có thể bỏ ơn gọi thánh và siêu nhiên của tôi để hạ thấp tôi xuống tới các sự thuộc về trái đất?” Ôi! Câu trả lời êm ái của cây ôliu!
Tại sao câu trả lời này lại không được học hỏi và được áp dụng bởi tất cả những người Thiên Chúa đã lựa chọn vào một nhiệm vụ thánh, ít nhất là bởi họ? Tôi nói: ít nhất là, bởi vì thực sự nó phải được phát biểu bởi hết mọi người để trả lời cho những đề nghị của ma qủi. Mọi người đều là vua và con Thiên Chúa, được phú bẩm một linh hồn, làm cho họ nên con cái vương giả của Thiên Chúa, và được gọi tới một định mệnh siêu nhiên. Họ có một linh hồn là bàn thờ và là nơi ở: Bàn thờ của Thiên Chúa, nơi ở mà Cha trên Trời xuống để nhận tình yêu và sự trọng kính của kẻ là con và là người của Ngài. Mọi người đều có một linh hồn và mỗi linh hồn đều là bàn thờ, nó biến con người mang nó thành thầy cả, kẻ canh giữ bàn thờ. Và sách Lêvi có nói: “Thầy cả không được ô uế”.
Vậy con người có nhiệm vụ phải trả lời với những cám dỗ của ma qủi, của thế gian và xác thịt: “Làm sao tôi có thể thôi việc siêu
157
nhiên để lo lắng việc vật chất là thứ dẫn đến tội lỗi?”
Vậy các cây cối liền đến kiếm cây sung và mời nó cai trị chúng. Nhưng cây sung trả lời: “Làm sao tôi có thể từ bỏ sự dịu ngọt của tôi và những trái rất ngon lành của tôi để làm vua của các anh?”
Rất nhiều người quay về với các kẻ dịu ngọt để bầu họ làm vua, không phải vì cảm phục sự êm dịu của họ, mà vì hy vọng rằng một người êm dịu như vậy sẽ trở nên một ông vua hề, sẽ ưng thuận cho họ mọi thứ, và họ có thể được hoàn toàn tự do.
Nhưng sự êm dịu không phải là sự yếu đuối, nhưng là lòng nhân từ. Nó công chính, thông minh, nhiệm nhặt. Đừng bao giờ lầm lộn sự dịu dàng với sự yếu đuối. Sự dịu dàng là một nhân đức, sự yếu đuối là một khuyết điểm. Và vì là một nhân đức, nó thông cho kẻ chiếm hữu nó một lương tâm ngay thẳng, cho phép họ chống lại những yêu cầu và những cám dỗ của loài người, những vồn vã có ý kéo họ về những lợi ích của họ chứ không phải lợi ích của Thiên Chúa. Với mọi giá, họ luôn luôn trung thành với vận mệnh của họ.
Kẻ êm dịu không bao giờ quăng lại một cách cay chua những lời khiển trách của kẻ khác. Họ không bao giờ xua đuổi cách tàn nhẫn những kẻ cần tới họ. Trong khi tha thứ và mỉm cười, họ luôn luôn nói: “Anh ơi, hãy để tôi theo cái định mệnh êm đềm của tôi. Tôi ở đây để yên ủi anh và giúp đỡ anh, nhưng tôi không thể trở nên một ông vua như anh nghĩ, bởi vì tôi chỉ lo lắng và săn sóc tới một vương quyền duy nhất cho linh hồn tôi và linh hồn anh: Vương Quyền của thần trí”.
Các cây cối lại đến tìm cây nho và xin nó làm vua chúng, nhưng cây nho trả lời: “Làm sao tôi có thể từ bỏ sự hoan lạc và là sức mạnh để trở nên vua của qúi vị?”
Là vua, do trách nhiệm và sự ân hận, bởi vì một ông vua không phạm tội thì còn hiếm hơn kim cương đen, và như vậy ông tạo ra cho mình những ân hận, và điều đó luôn luôn dẫn tới sự tối tăm cho thần trí. Uy quyền chỉ hấp dẫn khi nó ở xa, nó sáng như chiếc đèn pha. Nhưng khi người ta đã tới bên nó, người ta thấy nó chỉ là ánh sáng của con đom đóm chứ không phải của ngôi sao.
Và còn nữa, uy quyền chỉ là một sức mạnh kết nối bởi những sợi
158
giây của hàng ngàn mối lợi co kéo chung quanh ông vua: lợi của các cận thần, lợi của đồng minh, lợi của cá nhân, lợi của gia đình bà con. Biết bao ông vua, trong lúc dầu thánh thánh hiến họ, họ đã thề: “Tôi sẽ vô tư, không thiên vị”, nhưng rồi sau đó ông không biết làm như vậy. Cũng như một cây mạnh, không phản kháng những mơn trớn đầu tiên của con thỏ mềm mại yếu đuối, và nói: “Nó qúa yếu đuối tới nỗi nó không thể làm hại gì tới tôi”, và cả đến nó vui lòng chăng hoa cho con thỏ, làm kẻ bảo vệ cho nó và nâng đỡ nó khi nó trèo lên. Thường thường, tôi có thể nói là luôn luôn, ông vua nhượng bộ những vuốt ve đầu tiên vì một lợi ích của triều thần, của đồng minh, của cá nhân hay bà con, kẻ kêu cầu ông, và ông vui lòng làm kẻ bảo hộ rộng lượng: “Điều đó có đáng kể gì!” khi lương tâm kêu với ông: “Hãy liệu chừng!” và ông ngờ là điều đó không thể làm hại cho ông, dù về quyền lực, dù về danh tiếng. Cái cây mạnh này cũng tin như vậy. Nhưng một ngày: dù đã cành nọ sau cành kia, phát triển về sức mạnh cũng như về độ dài, phát triển nhờ cái tính háu ăn chất tinh nhựa hút được ở trong đất và vươn cao lên để chinh phục ánh sáng mặt trời, con thỏ đã xơi hết cái cây khỏe mạnh, đè bẹp nó, làm ngộp nó, giết nó. Và bây giờ nó qúa yếu, trong khi con thỏ thì rất mạnh.
Đối với các ông vua cũng vậy, cùng một thứ tật: lần đầu tiên điều đình với sứ mệnh riêng của ông, lần đầu tiên nhún vai với tiếng lương tâm, bởi vì các lời ca tụng nó rất êm ngọt, bởi vì không khí của kẻ bảo trợ mà người ta tìm đến thì rất dễ chịu, và rồi đến lúc ông vua không còn cai trị nữa, nhưng kẻ cai trị là các mối lợi của kẻ khác, và chúng đầu độc ông, chúng bịt miệng ông cho tới cỡ bóp nghẹt ông và loại trừ ông. Và nếu chúng trở nên mạnh hơn ông, chúng sẽ thấy không cần bắt ép ông ta chết.
Người thường cũng vậy, luôn luôn là ông vua trong trí óc của họ, họ sẽ hư mất nếu họ chấp nhận một vương quyền hạ cấp của kiêu căng, ham hố. Và họ sẽ mất cái tinh thần trong sáng đến từ sự kết hợp với Thiên Chúa. Bởi vì ma qủi, thế gian, xác thịt có thể cho một uy quyền và một sự hưởng thụ hão huyền, nhưng làm mất sự
159
hoan hỉ thiêng liêng của việc kết hợp với Thiên Chúa. Sự hoan lạc và sức mạnh của người nghèo ở trong tâm hồn, họ biết nói: “Làm sao tôi có thể chấp nhận trở nên vua của con người hạ cấp ở trong tôi, nếu vì đồng minh với qúi vị, tôi mất sức mạnh và niềm vui siêu nhiên cùng với Nước Trời và vương quyền đích thực của nó?”
Những người có phước, có tinh thần nghèo khó, chỉ nhằm chiếm hữu nước Trời và coi thường tất cả những giầu sang không phải là nước Trời này, họ cũng còn có thể nói: “Làm sao chúng tôi có thể làm giảm cấp sứ mệnh của chúng tôi, sứ mệnh làm cho chín cái tinh chất bổ dưỡng, sứ mệnh mang niềm vui đến cho nhân loại, anh em của chúng tôi, đang sống trong sa mạc khô cằn của thú tính. Họ cần được giải khát để không chết, cần được nuôi bằng thứ nước cốt ban sinh lực, giống như đứa trẻ đang xa lìa người vú nuôi? Chúng tôi là những vú nuôi của nhân loại, những đứa trẻ đã mất cái vú của Thiên Chúa, đang lang thang, không sinh sản, bệnh hoạn; đang đi tới cái chết vì thất vọng, vì những hoài nghi đen tối, nếu họ không tìm thấy chúng tôi là những kẻ, nhờ sự lao động của những người tự do đối với mọi dính bén với trái đất, chúng tôi cho họ sự xác tín rằng họ có một đời sống, một niềm vui, một sự tự do, một bình an. Chúng tôi không thể bỏ tình bác ái này vì một cái lợi bần tiện”.
Các cây liền đến với bụi gai, nó không xua đuổi, nhưng nó áp đặt một hiệp ước nghiêm khắc: “Nếu qúi vị muốn tôi làm vua, hãy ở bên dưới tôi. Và nếu sau khi đã chọn tôi mà qúi vị không muốn ở bên dưới tôi, tôi sẽ dùng tất cả các gai của tôi để hành hạ qúi vị cách mạnh mẽ, và tôi sẽ thiêu đốt tất cả qúi vị, kể cả các cây sên trên núi Liban”.
Đó là vương quyền mà thế giới coi như thực sự. Nhân loại trụy lạc coi sự chuyên chế và sự độc ác như vương quyền thực, còn sự êm dịu và lòng nhân từ thì họ cho là ngu si và hèn hạ.
Con người không chịu lụy điều thiện, nhưng nó chịu lụy điều ác. Nó bị lôi kéo vào đó, và do vậy, bị thiêu cháy.
Đó là dụ ngôn của Abimelech. Nhưng tôi, tôi đề nghị với qúi vị
160
một ngụ ngôn khác, không xa xôi với những sự kiện xa xưa, nhưng ngay đây, ở hiện tại:
Các con vật nghĩ tới việc tuyển chọn một ông vua, nhưng vì chúng qủy quyệt, nên chúng nghĩ tới chọn một con vật không thể làm chúng sợ vì khỏe mạnh hay độc ác.
Vậy chúng loại trừ con sư tử và tất cả các con vật thuộc họ mèo. Chúng tuyên bố không chọn chim ó vì lẽ cái mỏ của nó, cũng không chọn con nào trong số chim bắt mồi. Chúng nghi ngại con ngựa vì sự lẹ làng của nó có thể bắt kịp chúng và thấy những gì chúng làm. Chúng còn nghi ngại hơn đối với con lừa vì chúng biết nó kiên nhẫn, và cả cái tính hay thình lình phát khùng, và sức mạnh của bộ vó của nó. Chúng sợ hãi với tư tưởng có một ông vua là con khỉ, bởi vì nó qúa thông minh và hay báo thù. Chúng cũng xin lỗi con rắn, dù nó đã giúp Satan để cám dỗ loài người. Chúng tuyên bố không muốn nó làm vua, mặc dầu cái mầu sắc yêu kiều của nó và sự thanh lịch trong các cử động của nó. Trong thực tế, chúng không muốn con rắn, vì chúng biết những bước đi lặng lẽ của nó, sức mạnh kinh khủng của các bắp thịt của nó, hành động đáng ngại của các nọc độc của nó. Rồi chúng nói: “Chẳng lẽ tự cho mình một ông vua là con trâu hay con vật khác có trang bị những cái sừng nhọn sao? Vậy thì ghê qúa! Ma qủi cũng có vậy”. Và chúng nghĩ: Nếu một ngày kia chúng ta làm loạn, nó sẽ diệt trừ chúng ta nhờ cặp sừng của nó.
Sau những tìm kiếm vô ích, chúng thấy một con chiên non mũm mĩm, trắng tinh, đang nhảy nhót vui vẻ trong đồng cỏ xanh. Nó dùng thực phẩm trong cái vú căng phồng của mẹ nó. Nó không có sừng; nó có đôi mắt dịu như bầu trời tháng tư. Nó êm đềm và đơn sơ. Nó bằng lòng với tất cả: dòng nước của một cái suối nhỏ, nơi nó uống bằng cách nhúng cái mũi nhỏ mầu hồng của nó vào đó. Nó bằng lòng với những bông hoa có hương vị khác nhau, làm nó vui mắt và khoái khẩu; với những chòm cỏ rậm, nơi nó được thoải mái nằm ngủ khi nó đã no nê; với những đám mây xuất hiện ở trên cao, trông giống như các con chiên khác đang nô đùa với nhau trên trời,
161
bên trên cánh đồng xanh ngát này, và chúng mời gọi nó chơi bằng cách chạy nhảy trên cánh đồng giống như chúng chạy trên trời; nhất là nó bằng lòng với những âu yếm của mẹ nó, bà mẹ vẫn còn cho nó mút dòng sữa ấm của bà trong khi bà liếm lớp lông xù trắng của nó bằng cái lưỡi hồng của bà; nó bằng lòng với cái chuồng được bảo vệ kỹ lưỡng cho khỏi gió, với cái ổ rơm mềm và thơm, trong đó nó thoải mái ngủ yên bên cạnh mẹ nó.
- Nó rất dễ bằng lòng, nó không có vũ khí, cũng không có nọc độc. Nó rất ngây thơ. Chúng ta hãy bầu nó làm vua.
Và chúng phong vương cho con chiên. Chúng ca ngợi nó vì nó đẹp và tốt, được các lân bang cảm phục, được các người của nó yêu vì sự hiền dịu nhẫn nại của nó.
Thời gian qua đi và con chiên nhỏ trở thành con cừu. Nó nói: “Bây giờ là lúc phải thực sự cai trị. Bây giờ tôi hoàn toàn ý thức được sứ mạng của tôi. Ý của Thiên Chúa đã muốn tôi được chọn làm vua. Người đã đào tạo tôi cho sứ mạng này bằng cách cho tôi có khả năng cai trị. Vậy thật chính đáng là tôi thực hành nó cách trọn hảo, và như vậy để không coi thường hồng ân của Thiên Chúa”.
Khi thấy người nào làm những chuyện trái với sự ngay thẳng của thuần phong mỹ tục, của lòng bác ái, của sự êm dịu, của sự trung trực, sự điều độ, sự vâng lời, sự kính trọng, sự khôn ngoan và các điều như vậy, nó liền lên tiếng khiển trách.
Các người của nó chế nhạo những tiếng bê bê khôn ngoan và êm dịu của nó, những tiếng không làm chúng sợ như những tiếng gầm của các thú họ mèo, cũng không như tiếng kêu của loài kên kên khi chúng lao xuống trên con mồi, cũng không như tiếng rít của con rắn, cũng không giống tiếng sủa của con chó... để làm chúng sợ.
Con chiên đã trở thành con cừu, và nó không giới hạn ở việc kêu bê bê, nhưng nó đi tìm kẻ có tội để dẫn nó về với bổn phận của nó. Nhưng con rắn bò vào dưới chân nó, con kên kên bay lên cao, bỏ nhiệm sở. Con mãnh thú, bằng một cú đá nhẹ của bàn chân nó, đã đẩy nó và đe: “Mày thấy có cái gì ở trong cặp giò nhẹ nhàng của
162
tao, lúc này mới chỉ hơi đẩy khẽ mày thôi? Những cái vuốt?” Các con ngựa, và tất cả loài chạy nhanh nói chung, bắt đầu phi nước đại chung quanh nó, quay tròn nó và chế nhạo nó. Các con voi cùng với tất cả loài thú có lớp da dầy, bằng một phát của mũi nó, đã quăng nó từ chỗ nọ tới chỗ kia, trong khi các con khỉ thì leo lên cây cao và quăng các tạc đạn vào nó.
Con chiên đã trở thành con cừu, cuối cùng cũng lo lắng và nói: “Tôi không muốn sử dụng cặp sừng của tôi, cũng không muốn dùng sức mạnh, vì dù sao tôi cũng có sức mạnh trong cái cổ này, và tôi dùng nó làm phương tiện để hạ những trở ngại trong thời chiến. Nhưng tôi không muốn sử dụng nó. Tôi chỉ muốn dùng tình yêu để chinh phục. Nhưng bởi vì các ông tấn công tôi bằng những khí giới này, thì đây, tôi sẽ sử dụng sức mạnh của tôi. Bởi vì nếu các ông thiếu bổn phận đối với tôi và với Thiên Chúa, thì tôi, tôi không muốn thiếu bổn phận của tôi đối với Thiên Chúa và đối với các ông. Tôi đã được đặt vào địa vị này bởi các ông và bởi Thiên Chúa, để dẫn dắt các ông tới sự công chính và điều lành, và tôi muốn sự công chính và điều lành, tức là trật tự, ngự trị ở đây”.
Và nó sử dụng cặp sừng của nó để sửa phạt, một cách nhẹ nhàng thôi, bởi vì nó nhân từ, một con chó dữ cứng đầu cứ tiếp tục quấy rầy hàng xóm của nó. Rồi với một cú đẩy của cái cổ mạnh, nó phá thủng cửa của một cái hang, nơi một con heo phàm ăn và ích kỷ đã tích góp các thứ thực phẩm thiệt hại cho những người khác; nó cũng phá hủy bụi cây bìm bìm, nơi hai con khỉ dâm ô đã chọn cho tình yêu bất chính của chúng.
- Ông vua này đã trở nên qúa mạnh. Thực tình ông ta muốn cai trị. Ông ta tuyệt đối muốn cho chúng ta sống khôn ngoan. Điều đó chúng ta không ưa. Phải truất phế ông ta - Chúng quyết định.
Nhưng một con khỉ nhỏ xảo quyệt khuyên chúng: “Chúng ta chỉ làm điều đó dưới cái vẻ bề ngoài của một lý do chính đáng. Nếu không, chúng ta sẽ bỉ mặt với dân chúng, và chúng ta sẽ thành ghê tởm đối với Thiên Chúa. Vậy hãy dò thám mọi hành vi của con chiên đã trở thành con cừu, để có thể kết án nó với cái vẻ như công
163
bình”.
- Tôi cũng nghĩ tới đó - con rắn nói.
- Tôi cũng vậy - con khỉ nói.
Rồi một con chui xuống dưới cỏ, còn con kia trèo lên cây cao. Chúng không rời mắt khỏi con chiên đã trở thành con cừu nữa.
Mỗi buổi chiều, khi con cừu lui về để nghỉ ngơi sau những mệt nhọc của sứ mạng, để đắn đo về những phương thế phải chọn và những lời phải nói để chế ngự sự phản loạn và toàn thắng tội lỗi của những thuộc hạ của nó, thì những con này, ngoại trừ vài con hiếm hoi ngay thẳng và trung thành, liền họp nhau để nghe tường trình của hai kẻ trinh thám và phản bội. Bởi vì đúng thật chúng là như vậy.
Con rắn nói với vua của nó: “Thần theo Bệ Hạ vì thần yêu Bệ Hạ. Và nếu thần thấy người ta tấn công Bệ Hạ, thần muốn có thể bảo vệ Bệ Hạ”.
Con khỉ cũng nói với vua của nó: “Thần cảm phục Bệ Hạ chừng nào! Thần muốn giúp bệ hạ. Hãy nhìn kìa: Từ đây, thần thấy ở bên ngoài cánh đồng cỏ, chúng nó đang phạm tội. Hãy phóng nhanh”. Nhưng rồi sau đó nó nói với các bạn nó: “Hôm nay cũng vậy, nó đã ăn tiệc với mấy người tội lỗi. Nó giả vờ tới đó để cải hóa họ, nhưng trong thực tế, nó đã đồng lõa với các bợm nhậu”.
Và con rắn phúc trình: “Hắn đã ra tận bên ngoài khu vực dân chúng của hắn, qua lại với con bướm, ruồi muỗi và các con ốc sên lầy nhầy. Hắn bất trung. Hắn liên lạc với các thứ ngoại quốc ô uế”.
Chúng nói như vậy về kẻ vô tội, tưởng là Người không biết gì. Nhưng Thần trí của Chúa, đấng đã đào tạo Người cho sứ mạng của Người, đã soi sáng cho Người về sự đồng loã của dân Người. Người có thể bỏ trốn đi, công phẫn và nguyền rủa chúng. Nhưng con chiên rất hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Nó yêu. Nó đã sai trái khi yêu, và nó càng sai trái hơn khi khăng khăng trong yêu thương và tha thứ trong sứ mệnh của nó, cho tới giá của sự sống của nó, để làm trọn ý Thiên Chúa.
Ôi! Đó là những sai trái chừng nào đối với loài người! Những sai
164
trái không thể tha thứ được. Chúng là vậy, nên chúng đã là cái giá bị kết án cho Người.
- Nó phải bị giết, để chúng ta được thoát khỏi sự thúc bách của nó - và con rắn giữ trách nhiệm giết con chiên, vì con rắn luôn luôn là kẻ phản bội...
Đó là ngụ ngôn thứ hai. Hãy tự hiểu lấy, hỡi dân thành Nazarét! Về phần tôi, vì lẽ tình yêu trói buộc tôi lại với qúi vị, tôi chúc qúi vị, ít là ở lại trong mức độ chống đối mà thôi, đừng vượt ra ngoài mức đó.Tình yêu đối với cái miền đất mà tôi đã tới ở từ còn bé tí, và tôi đã lớn lên trong khi yêu thương qúi vị và nhận lãnh tình yêu, đã làm tôi muốn nói với tất cả qúi vị: “Đừng vượt qúa mức chống đối. Đừng hành động để lịch sử nói rằng: Kẻ phản bội và kẻ nộp Người, cũng như những kết án bất công, đã đến từ Nazarét”.
Chào. Hãy thẳng thắn trong sự xét đoán của qúi vị, và kiên trì trong ý chí của qúi vị. Điều thứ nhất là nói cho tất cả qúi vị, những người đồng hương của tôi. Điều thứ hai là nói cho những ai trong qúi vị đang xao xuyến vì những tư tưởng không ngay thẳng. Thôi giải tán đi... Bình an cho qúi vị.
Và giữa sự yên lặng nặng nề, chỉ được phá bởi hai hay ba lời xác nhận, Giêsu đi ra, buồn thiu, cúi đầu, ra khỏi giáo đường Nazarét. Các tông đồ đi theo sau Người. Ngay trong đám nối đuôi nhau này là hai con trai ông Alphê, và mắt các ông chắc chắn không phải là mắt con chiên hiền lành... Hai ông nghiêm khắc nhìn đám đông thù nghịch, và Juđa Thađê không ngại đứng thẳng ngay trước mặt ông anh Simon của ông và nói: “Tôi đã tưởng là có được một ông anh ngay thẳng hơn và có đức tính hơn”.
Simon cúi đầu và nín thinh. Nhưng người anh khác của ông, được các người Nazarét khác khích lệ, đã nói: “Mày không xấu hổ khi xúc phạm đến anh cả của mày sao?”
- Không. Tôi xấu hổ vì các anh, vì tất cả qúi vị. Nazarét không phải chỉ là bà mẹ ghẻ của Đấng Messi, mà là bà mẹ ghẻ đồi bại. Nhưng hãy nghe lời tiên tri của tôi: qúi vị sẽ khóc với nước mắt đủ để cung cấp cho một cái phông-ten, nhưng nó cũng không đủ để xóa khỏi cuốn sách của lịch sử cái tên thực của thành phố này là
165
thành phố của qúi vị. Qúi vị biết cái tên nào không? “Ngu ngốc”. Chào!
Giacôbê thì thêm vào một lời chào rộng rãi hơn, bằng cách chúc họ ánh sáng và sự khôn ngoan. Rồi họ đi ra cùng với Alphê Sara và hai thanh niên trẻ, nếu tôi nhận diện họ đúng, thì đó là hai người đánh xe lừa đã dắt các con lừa đi đón Jeanne Chouza khi bà sắp chết.
Đám đông đứng yên bất động, thì thầm: “Nhưng từ đâu đến cho ông ta từng ấy khôn ngoan?”
- Và các phép lạ? Ông ta đã lấy quyền ở đâu, vì để làm từng ấy, ông ta đã làm từng ấy, cả Palestin đều nói tới.
- Ông ta không phải con trai của Giuse, người thợ mộc sao? Tất cả chúng ta đã thấy ông trong xưởng của ông ở Nazarét, làm các bàn ghế, giường, sửa chữa các bánh xe và các ổ khóa. Ông ta thậm chí không đi nhà trường, và chỉ mình mẹ ông là cô giáo của ông.
- Đó là điều ô nhục mà ba tôi đã chỉ trích - Giuse Alphê nói.
- Nhưng các em của anh đã kết thúc nhà trường với bà Maria vợ Giuse.
- Hé ! Ba tôi qúa yếu đối với vợ ông - Giuse lại trả lời.
- Và cả em của ba anh cũng vậy?
- Cũng vậy.
- Nhưng đây có đúng là con trai bác thợ mộc không?
- Vậy anh không nhìn thấy ông ta à?
- Ồ, có biết bao người giống nhau! Tôi, tôi cho là người nào đó muốn giả bộ như ông ta.
- Vậy thì Giêsu con Giuse ở đâu?
- Mày nghĩ là mẹ ông ta không nhận ra ông ta à?
- Ở đây có các anh chị ông ta, và tất cả đều gọi ông ta là bà con.
Có đúng vậy không? Có lẽ cả hai các anh nữa? Hai người con cả của Alphê làm hiệu là đúng.
- Vậy ra ông ta bị điên hay bị qủi ám, vì những lời ông ta nói không thể đến từ một người thợ mộc.
- Không nên nghe nó. Cái giáo lý giả mạo của nó là do mê sảng
166
hay bị ám.
Giêsu dừng lại ở công viên để chờ Alphê Sara trong khi ông này nói chuyện với một ông khác. Lúc Người đang chờ thì một trong hai người dắt lừa, trước đó anh ta đã đứng ở gần cửa giáo đường, ông tường thuật cho Người các lời vu khống mà người ta đã nói.
- Đừng buồn vì vậy. Thường thường một tiên tri không được trọng kính nơi quê hương mình và trong gia đình mình. Người ta ngu si đến nỗi nghĩ rằng để làm một tiên tri, phải là những kẻ sống, có thể nói là kỳ dị trong đời sống. Và các người đồng hương và những người trong gia đình, hơn ai hết, sẽ nhớ những đức tính nhân loại của người đồng hương hay bà con của họ. Nhưng chân lý sẽ thắng. Bây giờ Thầy chào con. Bình an cho con.
- Cám ơn Thầy đã chữa cho mẹ con.
- Con đáng được, vì con biết tin. Quyền phép của Thầy ở đây bất lực, vì không có đức tin. Đi đi, bạn. Ngày mai, lúc rạng đông, chúng ta sẽ khởi hành.
110* MẸ GIÁO HUẤN MARIA MAGĐALA
- Thưa Chúa, chúng ta nghỉ ở trạm nào? - Giacôbê Zêbêđê hỏi trong khi các ngài đang đi băng qua một họng núi hoàn toàn được canh tác, xanh rờn từ chân tới đỉnh.
- Tại Bétlem thuộc Galilê. Nhưng trong những giờ nóng nhất, chúng ta sẽ nghỉ trên ngọn núi nghiêng bóng trên Mérala, như vậy em con sẽ sung sướng được xem biển một lần thứ hai nữa - Giêsu mỉm cười và Người thêm: “Chúng ta, nam giới, chúng ta có thể đi xa hơn, nhưng chúng ta có các nữ môn đệ đi theo, các bà không bao giờ phàn nàn, nhưng chúng ta không nên làm các bà mệt qúa cỡ”.
- Các bà không bao giờ phàn nàn, đúng vậy. Chúng ta phàn nàn cách dễ dàng hơn - Batôlômêo cảm phục.
- Mà các bà lại ít có thói quen hơn chúng ta về lối sống này - Phêrô nói.
- Có lẽ vì vậy mà các bà đã tự nguyện làm - Tôma nói.
167
- Không, Tôma, các bà đã tự nguyện làm vì tình yêu. Con hãy tin là Mẹ Thầy cũng như các bà khác, là bà chủ nhà như Maria Alphê, Salômê, Suzane, không rời nhà của họ vì vui chơi để đi trên các nẻo đường của thế giới và ở giữa mọi người. Và Matta với Jeanne cũng sẽ tới, là những người không có thói quen với sự mệt mỏi. Họ sẽ không tự nguyện làm nếu tình yêu không thúc đẩy họ. Với những thứ có liên can tới Maria Magđala, chỉ có sức mạnh của tình yêu có thể cho cô ta sức lực để chịu đựng sự hành hạ này - Giêsu nói.
- Vậy tại sao Thầy lại áp đặt cô ta nếu Thầy biết đây là một sự hành hạ? Đây không phải là điều tốt cho cô ta cũng như cho chúng ta - Iscariot nói.
- Không gì ngoài cái bằng chứng hiển nhiên chắc chắn về sự thay đổi của nàng để thuyết phục thế giới. Maria muốn thuyết phục thế giới. Sự cắt đứt với qúa khứ của nàng đã hoàn toàn. Nó hoàn toàn.
- Phải để coi. Lúc này còn qúa sớm để nói vậy. Khi người ta đã có thói quen với một lối sống thì khó lòng mà người ta cắt bỏ nó ngay hoàn toàn. Bạn bè và sự nuối tiếc dẫn chúng ta trở lại đó - Iscariot nói.
- Vậy ra anh nuối tiếc đời sống của anh trước kia? - Mathêu hỏi.
- Tôi... không. Nhưng đó là một kiểu để nói. Tôi là tôi: Một người yêu Thầy và... Sau cùng, tôi có trong tôi những yếu tố giúp tôi trung thành với kế hoạch của tôi. Nhưng nàng, một phụ nữ, và một phụ nữ như vậy! Và rồi, dù là nàng không thiếu sự nghiêm nhặt, nhưng cũng không dễ chịu gì khi có nàng ở với chúng ta. Nếu ta gặp các rabbi, các thầy cả hay các pharisiêu mạnh thế, hãy tin chắc là sự phê bình của họ sẽ không dễ chịu gì. Tôi xấu hổ khi nghĩ trước tới đó.
- Đừng nói phản với mình, Judas. Nếu con đã thực sự cắt đứt chiếc cầu nối với qúa khứ, như con muốn nói, thì tại sao con qúa khổ như vậy khi một linh hồn khốn nạn theo chúng ta để hoàn tất sự biến đổi của nó trong sự thiện?
- Nhưng thưa Thầy, vì tình yêu, con cũng sẽ làm tất cả vì tình yêu đối với Thầy.
168
- Vậy hãy hoàn thiện con trong tình yêu này. Một tình yêu, để thực sự là tình yêu, không bao giờ được độc đoán. Khi ai chỉ biết yêu một người mà không yêu người nào khác, dù là nó được yêu bởi người nó yêu, nó cũng biểu lộ rằng nó không ở trong tình yêu thật. Tình yêu hoàn toàn thì yêu tới mức nó bao trùm tất cả nhân loại, ngay cả trên loài động vật và thảo mộc, các tinh tú và nước, bởi vì nó thấy tất cả trong Thiên Chúa. Nó yêu Thiên Chúa như nó biết, và yêu tất cả trong Thiên Chúa. Vậy hãy coi chừng. Tình yêu độc đoán thường là ích kỷ. Hãy biết yêu cả những người khác nữa vì tình yêu.
- Thưa Thầy vâng.
Đề tài được thảo luận trong lúc các phụ nữ khác ở bên cạnh Maria, không hay biết gì về việc nàng là nguyên nhân cho một bàn luận sôi nổi như vậy.
Các vị tới nơi, băng qua, rồi đi khỏi vùng thị dân của Jafia mà không một người dân nào biểu lộ sự ước ao theo Thầy hay giữ Thầy lại. Họ tiếp tục đường của họ. Các tông đồ lo âu về sự dửng dưng của miền này và Giêsu tìm cách trấn an họ.
Thung lũng tiếp tục về hướng tây, và người ta thấy ở biên giới của nó có một vùng khác trải ra dưới chân một ngọn núi khác.
Cả miền này nữa, tôi nghe họ gọi là Méraba, cũng dửng dưng. Chỉ có ít đứa trẻ lại gần trong khi họ lấy nước rất trong tại một phông-ten dựa vào một căn nhà. Giêsu vuốt ve các đứa trẻ và hỏi tên chúng. Các đứa trẻ cũng hỏi tên Người và hỏi Người là ai, đi đâu, làm gì. Cũng có một người ăn mày tiến lại. Ông ta gần mù, già, gù. Ông giơ tay ra nhận của bố thí và qủa thật ông đã nhận được.
Đường đi lại bắt đầu bằng cách lên dốc một ngọn đồi chận ngang thung lũng mà nước của một con suối nhỏ đổ vào. Suối này bây giờ giảm lượng, chỉ còn là một tia nước, hoặc chỉ thấy đá cháy nóng bởi mặt trời, nhưng đường sá tốt, trước tiên dẫn tới các rừng ôliu, rồi các loại cây khác, mọc xiên cành lá vào nhau tạo thành một cái dàn cây xanh bên trên đường. Các vị lên tới đỉnh, ngọn đồi được
169
đội triều thiên bằng một rừng cây mà ta nghe tiếng rì rào: rừng cây tần bì, nếu tôi không lầm. Các vị ngồi để nghỉ ngơi và dùng bữa. Cùng với của ăn và sự nghỉ ngơi, họ thưởng thức quang cảnh xinh tươi, vì toàn cảnh thật tuyệt vời với dẫy Carmel ở bên trái khi ta nhìn về hướng tây. Đây là một dẫy xanh ngát, nơi người ta khám phá ra tất cả các sắc độ của mầu xanh. Nơi nó chấm dứt là mặt biển lấp lánh, phơi ra không biên giới, trải tấm màn xanh của nó nhấp nhô bởi những đợt sóng nhẹ xô về phía bắc, nó tắm cho những bãi từ chỗ tận cùng của mỏm núi tạo thành bởi dẫy hoành sơn của rặng Carmel, đi lên về phía Ptôlêmai và các thành phố khác, để cuối cùng mất hút trong sương mù của bờ phía Syro-Phênici. Trái lại, người ta không nhìn thấy biển ở phía nam của mũi Carmel, vì dẫy núi cao hơn các đồi chỗ các ngài đang ở, nên bị khuất.
Từng giờ qua đi trong bóng mát rì rào của khu rừng thoáng gió. Một số người ngủ, một số khác nói chuyện nhỏ tiếng, một số khác nữa chỉ nhìn. Gioan đi xa các bạn bằng cách đi lên nơi cao nhất để nhìn cho tỏ hơn. Giêsu cũng cô lập vào một nơi khuất để cầu nguyện và chiêm ngắm. Các bà thì rút vào sau chiếc màn gió dợn sóng của một cây kim ngân rậm rạp đầy hoa, nơi đó, các bà rửa cho mát tại con suối bé tí, chỉ còn là một tia nước, đọng lại trong đất như một vũng nước, không đủ sức chảy thành con suối. Rồi những bà già hơn thì thiếp ngủ, mệt nhoài, trong khi Maria Rất Thánh với Matta và Suzane nói về căn nhà xa xôi của họ. Maria nói rằng Người rất muốn có bụi rậm đầy hoa này để chưng bầy cái hang đá nhỏ của Người.
Maria Mađalêna đã tháo các bím tóc ra vì không chịu nổi trọng lượng của nó, bây giờ lại thắt lại và nói: “Tôi lại chỗ Gioan, đang ở với Simon, để cùng với họ coi biển”.
- Mẹ cũng đi - Đức Trinh Nữ nói.
Matta và Suzane ở lại với các bạn họ đang ngủ.
Để đến với hai tông đồ, họ phải đi qua bụi rậm nơi Giêsu rút vào để cầu nguyện.
- Con tôi tìm sự nghỉ ngơi của nó trong lời cầu nguyện - Maria
170
nói êm nhẹ.
Maria Mađalêna trả lời Mẹ: “Con tin rằng Người cũng cần tự cô lập để giữ sự tự chủ tuyệt vời của Người mà thế giới đặt nó vào trong những thử thách gắt gao. Mẹ biết không? Con làm điều mà Mẹ đã bảo con. Mỗi đêm con tự cô lập ra một thời gian vắn hoặc dài để thiết lập lại trong con sự bình lặng mà rất nhiều thứ làm cho nó dao động. Sau đó con cảm thấy mạnh mẽ hơn”.
- Bây giờ mạnh hơn thì sau này con sẽ cảm thấy sung sướng hơn. Maria, hãy tin mẹ: trong niềm vui cũng như trong đau thương, trong bình an cũng như trong chiến đấu, lòng trí chúng ta cần chìm ngập hoàn toàn trong đại dương của sự chiêm ngắm, để xây dựng lại những gì thế giới và những thăng trầm của cuộc đời đã phá đổ, và để tạo ra những sức mạnh mới để bay lên càng lúc càng cao. Trong Israel, chúng ta dùng, và chúng ta lạm dụng những lời cầu nguyện ngoài miệng. Mẹ không muốn nói là nó vô ích và không đẹp mắt Thiên Chúa, nhưng mẹ nói rằng: sự chiêm ngắm rất ích lợi hơn cho tâm hồn và nâng cao nó lên cùng Thiên Chúa. Ở đó, ta chiêm ngưỡng Thiên Tính hoàn hảo của Người và nỗi cơ hàn của chúng ta cũng như của bao tâm hồn khốn nạn, không phải để chỉ trích họ, nhưng để ái ngại cho họ và hiểu họ, và để cám ơn Chúa đã nâng đỡ chúng ta, ngăn cản chúng ta phạm tội, hoặc đã tha thứ cho chúng ta và không để chúng ta dưới đất. Như vậy chúng ta mới cầu nguyện thực sự, tức là yêu. Bởi vì kinh nguyện theo đúng như thực sự nó phải là, thì nó phải là tình yêu. Nếu không thì đó chỉ là những cái giật môi, mà tâm hồn thì vắng bóng.
- Nhưng có được phép nói với Thiên Chúa không khi người ta có cặp môi ô uế vì biết bao lời phàm tục? Con, trong những giờ trầm mặc mà con đã qua như mẹ đã dạy con - Mẹ là tông đồ rất dịu dàng của con - con đã đàn áp con tim của con vì nó muốn nói với Thiên Chúa: “Con yêu Chúa”.
- Không. Tại sao?
- Bởi vì con thấy như mình dâng một của lễ bất kính khi con dâng qủa tim của con...
- Con gái mẹ ơi! Đừng làm vậy. Đừng làm điều đó. Trước tất cả,
171
qủa tim của con đã được tái thánh hiến bởi sự tha thứ của Chúa Con, và Chúa Cha chỉ nhìn thấy sự tha thứ này. Nhưng dù nếu Giêsu chưa tha thứ cho con, và nếu con, trong sự cô độc không hay biết, có thể là về vật chất cũng như tinh thần, con kêu với Thiên Chúa: “Cha ơi! Con yêu Cha! Xin tha cho những khốn nạn của con, con không thích nó, bởi vì nó làm khổ cho Cha”. Ôi! Maria ơi! Hãy tin chắc rằng Thiên Chúa Cha, chính Người sẽ tha thứ cho con, vì tiếng kêu tình yêu của con rất thân thiết đối với Người. Hãy trao thân con, hãy phó mình con cho tình yêu, đừng đàn áp nó. Cả đến hãy để nó trở nên hung bạo như một đám cháy. Đám cháy thiêu đốt hết những gì là vật chất, nhưng không phá hủy một phân tử nào của không khí, vì không khí vô hình thể. Trái lại, nó thanh tẩy những vấn rác tí hon mà gió mang tới cho nó, và làm cho nó thành nhẹ hơn. Tình yêu cũng vậy đối với linh hồn. Nó thiêu đốt mau lẹ những chất thuộc về loài người, nếu Thiên Chúa cho phép, nhưng nó không phá hủy linh hồn. Trái lại, nó làm gia tăng sức sống của linh hồn, làm cho nó trong sạch và lanh lẹ để bay lên với Thiên Chúa. Con thấy Gioan ở đàng kia không? Đó thực là một thằng con trai, nhưng đó là con phượng hoàng. Nó mạnh hơn tất cả các tông đồ, vì nó đã hiểu cái bí mật của sức mạnh cho việc đào tạo siêu nhiên: Sự chiêm ngắm trong tình yêu.
- Nhưng nó trong sạch. Con... Nó là con trai. Con...
- Vậy hãy nhìn Zêlote. Đó không phải là đứa con trai. Ông đã sống. Ông đã chiến đấu. Ông đã oán ghét. Ông nhận biết điều đó cách thành thực. Nhưng ông đã học chiêm ngắm. Ông ta cũng vậy, hãy tin mẹ, đã tiến rất cao. Con thấy không? Hai người tìm nhau vì họ giống nhau. Họ đã đạt tới cùng một tuổi hoàn thiện của tinh thần, bằng cùng một phương tiện: kinh nguyện tinh thần. Chính bởi nó mà đứa con trai trở nên trưởng thành trong thần trí của nó, và cũng bởi nó mà một kẻ đã già nua mệt mỏi lại trở nên cường tráng mạnh mẽ. Và con biết một người khác, không phải là tông đồ, sẽ, và ngay cả đến là đang tiến nhanh nhờ vào cái khuynh hướng tự nhiên thích chiêm ngắm của ông, mà từ khi ông làm bạn với Giêsu,
172
đối với ông, nó đã là một nhu cầu thiêng liêng: Anh của con.
- Anh Lazarô của con?... Ôi mẹ ơi! Hãy nói cho con, mẹ biết nhiều thứ qúa, vì Thiên Chúa chỉ cho mẹ: Lazarô sẽ đối xử với con thế nào khi gặp con lần đầu? Trước đây anh ấy nín lặng, khinh bỉ. Nhưng anh làm thế bởi vì con, con không thể chịu đựng được những quan sát của anh. Con đã rất tàn nhẫn với anh con và chị con... Bây giờ con hiểu. Bây giờ anh biết là anh có thể nói. Anh sẽ nói gì với con? Con sợ sự quở trách thẳng thừng của anh. Ôi! Chắc chắn anh sẽ nhắc lại tất cả những đau khổ mà con đã gây ra. Con muốn bay về với Lazarô, nhưng con sợ. Trước kia con còn về đó, nhưng những kỷ niệm của người mẹ đã chết của con, nước mắt của Người còn hiện diện trên những vật mà Người dùng; những nước mắt đổ ra cho con, vì tội con, không có gì làm con chuyển động. Con tim của con nó vô liêm sỉ, trơ tráo, khép kín trước tất cả những tiếng nói không phải là tội lỗi. Nhưng bây giờ con không còn những sức mạnh xấu của tội nữa, nên con run... Lazarô sẽ làm gì cho con?
- Ông sẽ mở đôi cánh tay ra cho con và gọi con: “Em gái yêu của anh”, nói bằng con tim của ông nhiều hơn bằng cặp môi. Ông đã được đào tạo vững vàng trong Thiên Chúa, đến nỗi ông chỉ có thể xử sự cách đó. Đừng sợ, ông sẽ không nói với con một lời nào về qúa khứ. Ông ta, tựa như mẹ nhìn thấy, đang ở đó, tại Bêtani, và những ngày chờ đợi rất dài đối với ông. Ông chờ con để ôm con vào lòng, để thỏa mãn tình huynh đệ của ông. Con chỉ có việc yêu ông như ông yêu con, để thưởng thức niềm vui được sinh ra bởi cùng một dạ.
- Con sẽ yêu anh, dù anh có mắng trách con. Con xứng đáng bị.
- Nhưng ông ta chỉ yêu con, không có gì khác.
Hai người tới nơi Gioan và Simon lúc họ đang nói về các cuộc hành trình trong tương lai. Họ đứng dậy với vẻ trọng kính khi Mẹ Chúa đến.
- Chúng tôi cũng đến để ca tụng Chúa vì công trình đẹp đẽ của Người trong việc tạo dựng.
- Mẹ ơi! Mẹ thấy biển bao giờ chưa?
173
- Ồ, mẹ đã thấy. Và khi ấy, trong lúc bão tố, nó còn ít quay cuồng hơn con tim mẹ, và ít mặn hơn nước mắt mẹ, trong khi mẹ đi trốn dọc theo bờ Gaza để tới Biển Đỏ, với Bé Tí của mẹ trong tay, và sự sợ hãi là Hêrôđê đang đuổi theo mẹ. Và mẹ lại thấy nó lúc trở về. Nhưng lúc trở về là mùa xuân trên mặt đất cũng như trong lòng mẹ: Mùa xuân của việc hồi hương. Và Giêsu vỗ đôi tay nhỏ, sung sướng khi thấy những thứ mới... Giuse và mẹ, chúng ta cũng sung sướng, vì lòng nhân từ của Chúa đã làm cho cuộc lưu đầy của chúng ta tại Mataréa bớt gian khổ bằng hàng ngàn cách.
Cuộc đàm thoại của họ tiếp tục, nhưng tôi không còn nghe và thấy gì nữa.
111* TẠI BÉTLEM THUỘC GALILÊ
Đây là buổi chiều khi các ngài tới Bétlem thuộc vùng Galilê. Người ta hiểu rằng thành phố mang tên này là miền đất trải ra trên các ngọn đồi dợn sóng, bao quanh bằng mầu xanh của các rừng, các đồng cỏ, nơi các đoàn vật được chăn, và đang đi xuống để về chuồng nghỉ đêm.
Bầu trời mầu đỏ, cái còn lại của một hoàng hôn mạnh đang hoàn tất. Khí quyển chứa đầy nhạc thôn dã của tiếng chuông và tiếng kêu bê bê run run, hòa lẫn với những tiếng kêu vui vẻ của trẻ con đang chơi đùa, và tiếng các bà mẹ gọi chúng.
- Judas Simon, hãy đi cùng với Simon để kiếm một chỗ trọ cho chúng ta và cho các phụ nữ. Các quán đều ở trung tâm miền. Chúng ta sẽ gặp hai con ở đó.
Trong khi Judas và Simon vâng lời, Giêsu quay về với Mẹ Người và nói: “Lần này không phải như lần ở xứ Bétlem khác. Má à, má sẽ tìm được một nơi để nghỉ ngơi. Không có nhiều người du hành vào mùa này và không có chiếu chỉ”.
- Vào mùa này, thật dễ chịu khi ngủ ngay cả ngoài cánh đồng hoặc giữa những người mục đồng này, giữa những con chiên này -
174
và Maria mỉm cười với con mẹ và mỉm cười với các mục đồng nhỏ đang đăm đăm nhìn mẹ cách tò mò. Mẹ mỉm cười một cách làm cho một đứa lấy cùi chỏ húc vào một đứa khác và nói nhỏ: “Đây chắc hẳn là bà rồi”. Và nó tiến lên, chắc bụng và nói: “Con chào bà, Maria đầy ơn phúc, Chúa ở cùng bà?”
Maria trả lời bằng một nụ cười còn êm đềm hơn: “Chúa đó”. Và mẹ chỉ vào Giêsu trong lúc Người đang quay lại để nói với hai người anh họ, để giao cho họ nhiệm vụ phân phát của bố thí cho những người nghèo đang tiến lại với những tiếng than van. Mẹ động nhẹ vào Con mẹ và nói với Người: “Con ơi, mấy nhỏ mục đồng này tìm con và chúng đã nhận ra mẹ. Mẹ không biết bằng cách nào...”
- Chắc chắn Isaac đã đi qua đây và để lại đây hương thơm của mặc khải. Bé con, lại đây đi!
Thằng bé mục đồng, một đứa tóc nâu đen độ 12- 14 tuổi, lực lưỡng, dù là gầy, mắt đen rất linh hoạt, tóc xõa bù xù như nô lệ, thân bọc trong miếng da cừu (tôi thấy nó như bản sao của vị Tiền Hô trẻ), nó lại gần Giêsu với nụ cười sung sướng, như bị thôi miên.
- Bình an cho con, bé con. Làm sao con nhận ra được Maria?
- Bởi vì chỉ có Mẹ Đấng Cứu Tinh mới có thể có nụ cười như vầy và khuôn mặt này. Người ta đã nói với con: “Khuôn mặt của một thiên thần, đôi mắt như vì sao và nụ cười còn êm hơn cái hôn của bà mẹ; êm như tên Maria của Người, thánh thiện tới nỗi có thể cúi xuống trên Thiên Chúa mới sinh”. Con thấy những thứ đó trên bà và con chào bà, vì con tìm Thầy, lạy Chúa! Chúng con tìm Ngài và... con không dám chào Ngài trước tiên.
- Ai đã nói với con về chúng ta?
- Isaac, người của Bétlem khác. Ông ta đã hứa sẽ dẫn chúng con tới với Ngài vào mùa thu.
- Isaac đã đến đây?
- Ông hãy còn ở trong miền này với biết bao môn đệ. Nhưng chính ông đã nói với chúng con. Chúng con đã tin ở lời ông. Lạy Chúa, xin cho chúng con được thờ Ngài như các bạn chúng con
175
trong đêm hồng phúc - và trong khi nó qùi gối trong bụi đất của đường đi, nó kêu một tiếng với các mục đồng khác đang cho dừng đoàn vật ở cổng thành phố (cổng, đó là một kiểu để nói, vì thành phố này không có tường bao quanh). Đó cũng là nơi Giêsu dừng lại để chờ các phụ nữ và để cùng với các bà đi vào thành phố.
Đứa trẻ mục đồng kêu: “Ba ơi, các anh và các bạn ơi, chúng ta đã tìm thấy Chúa. Hãy đến thờ lạy”.
Các mục đồng đến tụ họp cùng với đoàn vật của họ bên Giêsu và xin Người đừng đi nơi khác, nhưng hãy chấp nhận căn nhà nghèo của họ ở cách đó không xa, để ở cùng với các bạn của Người.
- Có một cái chuồng lớn - họ cắt nghĩa, “bởi vì Thiên Chúa bảo vệ chúng con, và có những hành lang và các phòng đầy rơm rạ thơm. Các phòng thì để cho bà Mẹ và các chị, bởi vì đó là các phụ nữ. Nhưng cũng có một phòng cho Ngài. Những người khác có thể ngủ trên rơm với chúng con tại hành lang”.
- Thầy cũng vậy. Thầy sẽ nghỉ cùng với các con, và đối với Thầy, đó là sự nghỉ ngơi còn êm hơn là nếu Thầy ngủ trong phòng của ông vua. Nhưng trước tiên, chúng ta phải đi báo cho Judas và Simon.
- Thưa Thầy con đi - Phêrô nói, và ông ra đi cùng với Giacôbê Zêbêđê.
Họ dừng lại ở bờ đường trong khi chờ bốn tông đồ.
Các mục đồng nhìn Giêsu tựa như đây đã là Thiên Chúa trong vinh quang của Người. Những đứa bé hơn thì thực sự sung sướng. Hình như chúng muốn in vào trí khôn chúng hết mọi chi tiết về Giêsu và Maria. Mẹ đang cúi xuống để vuốt ve những con chiên khi chúng đến cà mũi vào đầu gối Người và kêu bê bê.
- Trong nhà Êlisabét bà con của mẹ cũng có một con. Nó cứ liếm cái bím tóc của mẹ mỗi khi nó thấy mẹ. Mẹ gọi nó là bạn, vì với mẹ, nó đúng là người bạn, giống như một đứa trẻ, vì khi nào nó có thể, nó đều chạy đến với mẹ. Con này nó nhắc mẹ nhớ tới con đó rõ ràng với đôi mắt hai mầu của nó. Đừng giết nó nhá! Con ở nhà Êlisabét cũng vậy, người ta đã để cho nó sống vì tình yêu của
176
nó đối với mẹ.
- Thưa bà, đây là một con chiên cái, chúng con muốn bán, bởi vì nó có mắt hai mầu, và con tin là một mắt nó nhìn thấy rất ít. Nhưng chúng con sẽ giữ nó lại nếu bà muốn.
- Ôi! Phải. Mẹ muốn là không bao giờ người ta giết một con chiên... chúng thật vô tội. Tiếng kêu của chúng là tiếng kêu của trẻ con gọi mẹ. Mẹ thấy như người ta giết một đứa trẻ khi người ta giết một trong những con này.
- Nhưng thưa bà, như vậy thì sẽ không còn chỗ cho chúng ta trên trái đất nếu tất cả các con chiên đều ở lại trong đời sống - người mục đồng già nhất nói.
- Mẹ biết vậy. Nhưng mẹ nghĩ tới sự đau đớn của chúng cũng như của các con cừu cái, mẹ chúng. Chúng khóc rất nhiều khi người ta bắt con của chúng đi. Chúng có vẻ rõ ràng là mẹ, giống như chúng ta. Và mẹ, mẹ không thể nhìn thấy ai khổ, và mẹ cảm thấy một sự tan nát khi mẹ thấy một bà mẹ bị khổ như vậy. Đó là một sự đau khổ hoàn toàn khác với tất cả các đau khổ khác. Bởi vì đối với chúng ta, sự tan nát không phải chỉ ở trái tim và trí não do sự chao động gây ra bởi cái chết của một đứa con, mà nó còn xé nát tới tận gan ruột nữa. Chúng ta, những bà mẹ, luôn luôn kết hợp với con mình. Chính chúng ta là kẻ người ta xé nát tan tành khi người ta bắt đứa con của chúng ta đi - Maria không mỉm cười nữa. Một giọt nước mắt sáng long lanh trong đôi mắt xanh của Người. Mẹ nhìn Giêsu. Người nghe mẹ và nhìn mẹ, và mẹ để một bàn tay trên cánh tay Người, tựa như mẹ sợ người ta sắp mang Người đi khỏi mẹ.
Trên con đường đầy bụi, có một nhóm nhỏ những người trang bị vũ khí đi tới. Có sáu người hộ tống những người đang phát ra những tiếng hô hoán. Các người mục đồng nhìn họ và nói nhỏ với nhau. Rồi họ nhìn Giêsu và Maria. Người mục đồng già nhất nói: “May mắn là Thầy không vào thành phố tối nay”.
- Tại sao vậy?
- Bởi vì những người này, những người vừa đi qua, vào thành phố, và ở đó, họ sẽ giật một đứa con trai khỏi một bà mẹ.
177
- Ôi! Nhưng tại sao?
- Để giết anh ta.
- Ồ. Không. Anh ta đã làm gì? - Giêsu cũng hỏi vậy, và các tông đồ bước lại gần để nghe.
- Người ta thấy một người bị giết trên đường miền núi. Đó là ông nhà giầu Joel. Ông ta từ Sicaminon trở về với rất nhiều tiền. Nhưng đó không phải là những kẻ cướp, vì tiền vẫn còn ở trên người chết. Người đầy tớ hộ vệ ông ta đã nói rằng chủ anh ta đã bảo anh ta chạy đi trước để báo tin là ông ta về. Trên con đường, anh ta chỉ gặp một mình người thanh niên mà người ta sắp giết đi về phía xảy ra vụ sát nhân. Rồi có hai người ở trong miền đã thề là thấy anh ta tấn công Joel. Bây giờ cha mẹ của người chết đòi cái chết của người thanh niên... Nếu anh ta sát nhân...
- Ông không tin điều đó à?
- Điều đó đối với con là không thể được. Người thanh niên mới hơi lớn hơn cậu thiếu niên một tí. Anh ta rất tốt. Anh luôn luôn sống với mẹ anh mà anh ta là đứa con duy nhất. Bà ta góa, một bà góa thánh. Anh ta không thiếu nguồn lợi, anh ta không nghĩ tới đàn bà, anh không phải người hay cãi vã, anh ta không điên. Vậy tại sao anh ta giết người?
- Nhưng có lẽ anh ta có những kẻ thù?
- Ai? Joel, người đã chết, hay Abel, người bị kết án?
- Người bị kết án.
- A! Con không biết... Nhưng... Con không biết.
- Ông ơi, hãy thành thật!
- Lạy Chúa, đó là điều con nghĩ. Nhưng Isaac đã bảo chúng con là đừng nghĩ xấu cho người đồng loại.
- Nhưng người ta phải can đảm nói ra để cứu một kẻ vô tội.
- Nếu con nói, dù con có lý hay nói sai, con cũng phải trốn khỏi đây, bởi vì Aser và Jacob rất mạnh thế.
- Hãy nói và đừng sợ. Ông sẽ không bị miễn cưỡng trốn tránh đâu.
- Lạy Chúa, bà mẹ của Abel còn trẻ, đẹp và khôn ngoan. Aser
178
không khôn ngoan, Jacob cũng không. Với Aser, ông khoái bà vợ góa trẻ, còn với Jacob, cả xứ đều biết rằng Jacob là con chim gáy trong đời vợ chồng của Joel. Con nghĩ rằng...
- Thầy hiểu. Các bạn ơi, ta đi. Các bà, hãy ở lại với các mục đồng. Thầy sẽ trở lại ngay.
- Không, con ơi ! Mẹ đi với con.
Giêsu đi lẹ về phía trung tâm thành phố. Các người mục đồng ngập ngừng. Nhưng rồi họ để đoàn vật cho đứa bé nhất, để nó ở lại với các bà, ngoại trừ mẹ Người và Maria Alphê đi theo Giêsu, và họ vội vã để bắt kịp nhóm các tông đồ.
Ở con đường thứ ba giao với con lộ chính của Bétlem, họ gặp Iscariot, Simon, Phêrô và Giacôbê đang tới, khoa chân múa tay, miệng la lối.
- Chuyện bi đát chừng nào! Thầy ơi! Bi thảm! Và đau đớn chừng nào - Phêrô nói, bối rối.
- Một người con trai bị bạo lực lôi ra khỏi người mẹ để người ta giết nó. Bà bảo vệ nó như một con linh cẩu. Nhưng một người đàn bà mà chống lại những người mang khí giới! - Simon Zêlote nói thêm.
- Bà ta đã chảy máu khắp nơi - Iscariot nói.
- Người ta đã phá tung cửa, bởi vì bà cài chận ở trong nhà bà - Giacôbê Zêbêđê chấm dứt.
- Thầy đi tìm bà.
- Ôi! Vâng. Chỉ mình Thầy có thể an ủi bà.
Họ quẹo bên phải, rồi bên trái về trung tâm thành phố. Người ta đã thấy đám đông tụ tập huyên náo, rần rần chèn ép nhau gần nhà của Abel, và tiếng kêu của một người đàn bà xé lòng, dã man, hung bạo, đồng thời thảm thương vọng tới tận đây.
Giêsu vội vã đi về một công viên nhỏ, một chỗ đường rộng ra thì đúng hơn là một công viên, nơi mà sự huyên náo đã lên tới cực độ.
Người đàn bà còn đang giằng co con trai bà với các tên lính. Bà ghì lấy, một tay đã trở nên như những móng vuốt, bám chặt vào chiếc cửa đã bị phá, còn tay kia bám chặt lấy giây lưng con bà. Nếu ai tìm cách chia lìa bà ra thì bà cắn cách tàn ác, vô cảm đối với
179
những cú người ta đánh bà và sự đau đớn ở đầu tóc khi người ta giật tóc ngược ra phía sau cách tàn bạo, làm bà ngửa ra đàng sau. Và khi bà không cắn thì bà la: “Buông nó ra! Quân sát nhân! Nó vô tội! Đêm xẩy ra vụ ám sát Joel, nó ngủ trong giường bên cạnh tao! Quân sát nhân! Sát nhân! Quân vu khống! Dơ bẩn! Thề gian!”
Cậu con trai bị giữ ở vai bởi những người muốn bắt cậu, bị cầm tay kéo đi, khuôn mặt bối rối. Cậu quay lại và kêu: “Má ơi! Má ơi! Tại sao con phải chết trong khi con không làm gì cả?”
Đó là một thiếu niên đẹp trai, cao lớn, dong dỏng, mắt đen rất êm dịu, tóc đen láy và hơi dợn sóng. Quần áo anh bị xé rách, để lộ ra cho thấy một cơ thể mềm mại, trẻ trung, hầu như cơ thể một trẻ em.
Giêsu được trợ giúp bởi các kẻ hộ tống Người, phăng đám đông cứng ngắc ra, khoan lấy một lối đi cho tới cái nhóm thảm hại ngay vào lúc người đàn bà đã kiệt lực, bị giựt khỏi cái cửa và lôi đi như một cái giỏ dính vào cơ thể con bà trên đường đá lởm chởm. Nhưng việc lôi kéo chỉ đi xa được mấy mét thì một cú đánh mạnh hơn đã rứt được tay bà mẹ ra khỏi giây lưng của con bà, và người đàn bà té sấp, dập mặt xuống đường làm máu chảy ra hơn nữa. Nhưng bà trỗi dậy ngay, qùi gối giơ tay ra, trong khi người ta lôi con bà đi mau qua đám đông tránh ra cách khó khăn. Anh giơ cánh tay trái, vẫy tay trong khi quay lại phía sau và kêu: “Má ơi! Vĩnh biệt! Má nhớ, ít nhất là má, hãy nhớ rằng con vô tội”.
Người đàn bà nhìn anh ta với đôi mắt như điên, rồi nằm vật ra trên đất, bất tỉnh.
Giêsu hiện diện trước nhóm lính gác: “Dừng lại một lát. Tôi truyền cho các ông”. Và khuôn mặt Người không chịu những đối đáp.
- Ông là ai? - một thị dân trong đám hỏi cách gây hấn. “Chúng tôi không biết ông. Hãy tránh ra để chúng tôi đi, để nó phải giết trước lúc đêm tới”.
- Tôi là một rabbi, vị lớn nhất. Nhân danh Jêova, các ông hãy đứng lại, nếu không, Thiên Chúa sẽ cho sét đánh các ông - Lúc này tựa như Người sắp giáng sét xuống trên họ. “Ai là nhân chứng chống
180
lại anh này?”
- Tôi, ông này và ông này - người đã nói đầu tiên trả lời.
- Sự minh chứng của các ông không có giá trị, bởi vì nó không đúng sự thật.
- Tại sao ông nói như vậy? Chúng tôi đã sẵn sàng để tuyên thệ.
- Lời thề của các ông là một tội.
- Chúng tôi, phạm tội? Chúng tôi?
- Các ông. Cũng giống như việc các ông che giấu sự dâm đãng; cũng giống như việc các ông nuôi sự thù ghét, việc các ông khao khát giầu sang, việc các ông sát nhân, các ông cũng thề gian, các ông đã bán mình cho dơ bẩn, các ông có khả năng hoàn thành bất cứ một việc đê tiện nào.
- Hãy thận trọng lời nói của ông. Tôi là Aser...
- Còn tôi, tôi là Giêsu.
- Ông không phải người ở đây. Ông không phải thầy cả, cũng không phải quan án. Ông không là gì cả. Ông là người ngoại quốc.
- Phải, tôi là người ngoại quốc, vì trái đất này không phải là vương quốc của tôi. Nhưng tôi là quan án và là thầy cả, không phải chỉ là của cái mảnh đất nhỏ này, mà là của toàn thể Israel và của toàn thế giới.
- Chúng ta đi thôi! Chúng ta đi thôi. Chúng ta không mắc mớ gì với một tên điên - tên nhân chứng kia nói trong khi hắn đẩy Giêsu để Người tránh ra.
- Ông không bước thêm một bước nào nữa! - Giêsu quát như sấm và nhìn hắn với cái nhìn của phép lạ, làm tê liệt và chế ngự, cũng như lúc Người trả lại sự sống và niềm vui khi Người muốn: “Ông không bước thêm một bước nào nữa. Ông không tin vào điều tôi nói sao? Vậy hãy nhìn đây. Ở đây không có bụi của Đền Thờ, cũng không có nước của Đền Thờ, cũng không có những lời được viết bằng mực để làm cho trở nên rất đắng thứ nước là sự phán quyết cho sự ghen tương và ngoại tình. Nhưng ở đây có Ta, và chính Ta tuyên án”.
Tiếng nói của Giêsu vang như tiếng kèn, vì nó sắc bén chừng
181
nào!
Người ta chen chúc để coi. Chỉ có Rất Thánh Maria và Maria Alphê lo việc cứu giúp người mẹ bị xỉu.
- Và đây, hãy coi Ta xử thế nào. Hãy cho ta một nhúm bụi đường và một ít nước trong một cái bình. Và trong khi người ta lo cho Ta những thứ đó, thì các ông, những kẻ bên nguyên, và con, bên bị, hãy trả lời Ta: Thằng con trai, con có tội không? Hãy nói cách ngay thẳng với đấng là Vị Cứu Tinh của con.
- Lạy Chúa, con vô tội.
- Aser, ông có thể thề là ông chỉ nói sự thật không?
- Tôi thề như vậy. Tôi không có lý do nào để nói dối. Tôi thề trên bàn thờ. Cầu cho lửa từ trời xuống thiêu đốt tôi nếu tôi không nói sự thật.
- Jacob, ông có thể thề là ông ngay thẳng trong sự kết tội và không có một lý do bí mật nào đã thúc đẩy ông nói dối không?
- Tôi thề nhân danh Jêova. Chỉ có tình yêu đối với người bạn bị sát hại của tôi thúc đẩy tôi nói. Với người này, tôi không có dính dáng gì cả.
- Và mày, tên đầy tớ, mày có thề là đã nói sự thật không?
- Tôi thề điều đó một ngàn lần, nếu cần! Ông chủ của tôi! Ông chủ tội nghiệp của tôi! - và hắn khóc trong khi lấy áo khoác che đầu.
- Được rồi. Đây là nước, đây là bụi, và đây là lời: “Lạy Cha là Cha Rất Thánh và là Thiên Chúa Tối Cao, qua trung gian của Con, xin Cha hoàn tất việc phán quyết sự thật, để đời sống và hạnh phúc được trả lại cho kẻ vô tội và cho người mẹ đau khổ của nó, và một sự luận phạt chính đáng cho những kẻ không vô tội. Nhưng vì Ơn Phúc mà Con có trước mặt Cha, xin Cha đừng cho lửa, cũng đừng cho cái chết, nhưng cho một sự đền tội lâu dài đến với những kẻ đã phạm tội”. Người nói những lời này trong khi giơ tay trên chiếc bình giống như các linh mục khi làm lễ, lúc dâng bánh rượu. Rồi người nhúng bàn tay phải của Người vào trong chiếc bình, và với bàn tay ướt, Người vảy nước trên bốn kẻ chịu sự phán xét, rồi người
182
bắt họ mỗi người uống một ngụm nước này, trước tiên là người thiếu niên, rồi đến ba người kia.
Rồi người khoanh tay trước ngực và nhìn họ. Đám đông cũng nhìn chăm chú, rồi sau một lát, họ phát ra tiếng kêu và sấp mặt xuống đất. Khi đó bốn người sắp hàng cũng nhìn nhau, và đến lượt họ cũng kêu lên. Người đầu tiên là người thiếu niên kêu lên vì sững sờ, còn ba người kia kêu lên sợ hãi, vì họ thấy mặt họ bị phủ một thứ cùi thình lình, trong khi người con trai trẻ thì vô can.
Người đầy tớ qùi xuống chân Giêsu, Người cũng tránh ra như mọi người khác, kể cả các lính gác, và Người cầm tay người trẻ Abel kéo ra để cậu ta không bị nhiễm vì ở gần ba người cùi. Người đầy tớ kêu lên: “Không! Không! Xin tha. Tôi bị cùi. Chính họ đã trả tiền cho tôi để làm ông chủ chậm lại tới buổi chiều, để đánh ông ta trên con đường vắng vẻ. Chúng bảo tôi cố ý làm sút móng sắt của con lừa. Chúng bảo tôi nói dối là tôi đi lên trước. Thực sự tôi đã cùng với chúng để giết ông ta. Và tôi cũng nói tại sao chúng đã làm vậy: bởi vì Joel đã nhận ra được rằng Jacob yêu người vợ trẻ của ông, và vì Aser muốn bà mẹ của Abel mà bị bà từ chối. Chúng đã đồng ý với nhau để loại trừ cùng một lúc Joel và Abel để vui hưởng các bà. Tôi đã nói. Lấy bệnh cùi đi cho tôi đi! Xin lấy nó đi cho tôi! Abel, mày tốt, cầu xin cho tao với!”
- Con, hãy lại với mẹ con, để khi hồi tỉnh, bà nhìn thấy mặt con và trở lại đời sống bình thản. Và các ông... Với các ông, tôi phải nói: “Mọi sự được làm cho các ông như các ông đã làm”, và đó chỉ là công lý loài người. Nhưng tôi đưa các ông vào một sự đền tội ngoài con người. Bệnh cùi mà các ông ghê sợ, sẽ tránh cho các ông khỏi bị bắt và bị giết như các ông đáng. Hỡi dân thành Bétlem, qúi vị hãy tránh ra! Hãy mở ra như nước biển để lối cho họ đi tới chiếc tàu khổ sai của họ, một cái khổ sai kinh sợ, ghê gớm hơn là một cái chết lập tức. Đó là tình thương của Thiên Chúa để họ có dịp thống hối, nếu họ muốn. Thôi, giải tán đi!
Đám đông dính vào hai bên tường để trống giữa đường. Ba người bị phủ đầy cùi tựa như họ bị bệnh từ bao năm rồi vậy. Họ ra đi,
183
người nọ sau người kia, về phía miền núi. Trong sự yên lặng của hoàng hôn đã xuống làm im đi tất cả tiếng kêu của loài chim và các loài cầm thú, người ta chỉ còn nghe thấy tiếng khóc của họ.
- Hãy thanh tẩy đường sá bằng thật nhiều nước sau khi đã đốt lửa tại đó. Các ông, các lính gác, hãy đi tường thuật rằng công lý đã được thi hành, và hãy làm hoàn toàn như luật Môise.
Giêsu sẵn sàng để đi lại chỗ Mẹ Người và Maria Alphê vẫn tiếp tục cứu giúp người đàn bà đang từ từ hồi lại, trong khi con trai bà vuốt ve đôi tay lạnh của bà và hôn chúng, thì dân thành Bétlem, với sự trọng kính pha với sợ hãi, kêu xin Người: “Lạy Chúa, xin nói với chúng tôi. Ngài qủa là mạnh. Đúng thật Ngài là vị mà một người đã nói khi qua đây để loan báo về Đấng Messi”.
- Thầy sẽ nói lúc về đêm, gần chuồng vật của các mục đồng. Lúc này Thầy đi giúp người mẹ ổn định lại.
Người đến với người đàn bà đang ngồi trên đầu gối Maria Alphê. Bà đã hơi tỉnh, nhìn khuôn mặt đầy tình cảm của Maria đang mỉn cười với bà. Bà không ý thức mấy cho tới khi bà đưa cái nhìn về mái tóc đen huyền của đứa con trai bà đang cúi xuống trên đôi tay run rẩy của bà và bà hỏi: “Tôi cũng đã chết rồi. Đây là Lâm Bô?”
- Không đâu bà. Đây là trái đất, đây là con trai bà, được cứu khỏi chết. Và người này là con trai tôi, Vị Cứu Tinh.
Người đàn bà có một cử động đầu tiên rất nhân loại: bà thâu toàn lực, chồm lên, cầm lấy cái đầu đang cúi xuống của con bà. Bà thấy nó khoẻ mạnh và lành lặn. Bà ôm lấy nó cách cuồng nhiệt, khóc và cười, tìm ra mọi thứ tên mà bà đã gọi nó khi nó còn nhỏ, để nói với nó niềm vui của bà.
- Vâng, má ơi, vâng. Nhưng bây giờ hãy nhìn, không phải vào con, nhưng Người. Người đã cứu con. Hãy ngợi khen Chúa.
Người đàn bà hãy còn qúa yếu, không thể đứng lên, cũng không thể qùi, bà giơ hai tay run rẩy và hãy còn chảy máu, bà cầm bàn tay của Giêsu, bao phủ nó bằng nước mắt và những cái hôn.
Giêsu để bàn tay trái Người lên đầu bà và nói: “Hãy sung sướng trong bình an và hãy luôn luôn tốt. Con cũng vậy, Abel”.
184
- Không, lạy Chúa con! Sự sống con và sự sống con trai con thuộc về Ngài, vì Ngài đã cứu nó. Xin Ngài cho phép nó được đi với các môn đệ như nó ước ao từ khi họ tới đây. Con dâng nó cho Ngài với tất cả niềm vui, và con xin Ngài cho phép con được theo nó để phục vụ các tôi tớ của Thiên Chúa.
- Còn nhà cửa của bà?
- Ôi! Lạy Chúa! Một người được tái sinh vào đời sống có thể có những tình cảm như nó có trước khi chết không? Nhờ Ngài, Mirta đã ra khỏi sự chết và hỏa ngục. Ở trong miền này, con có thể đi tới chỗ ghét những kẻ đã hành hạ con trong đứa con của con. Và Chúa giảng tình yêu, con biết. Vậy xin Chúa cho phép bà Mirta tội nghiệp được yêu đấng duy nhất xứng đáng với tình yêu; yêu sứ mạng của Người và các tôi tớ của Người. Bây giờ con còn qúa mệt, chưa thể đi theo Chúa, nhưng ngay khi con có thể, lạy Chúa, xin cho phép con, con sẽ theo Chúa và ở gần Abel của con.
- Bà sẽ theo con bà và theo Thầy cùng với nó. Hãy sung sướng. Bây giờ hãy bình an. Chào bà với sự bình an của Thầy.
Và trong khi người đàn bà được con bà và mấy bà đạo đức nâng đỡ để trở vào nhà, thì Giêsu với các người mục đồng, các tông đồ, Mẹ Người và Maria Alphê ra khỏi vùng để đi về chuồng súc vật ở chỗ tận cùng của con đường đổ vào cánh đồng...
***
Một đống lửa lớn được đốt lên để soi sáng cho buổi họp. Rất đông người ngồi theo hình bán nguyệt trong cánh đồng để chờ Giêsu nói. Trong khi chờ đợi, họ nói về những biến cố trong ngày. Abel cũng ở đó với nhiều người. Họ mừng anh và nói rằng tất cả đều tin là anh vô tội.
- Nhưng qúi vị cũng đã sẵn sàng để giết tôi! Ngay cả anh, anh đã chào tôi tại cửa nhà tôi vào giờ người ta giết Joel - Abel nói, vì cậu không thể không trả lời cho một chàng trẻ kia. Rồi cậu thêm: “Nhưng tôi tha cho anh nhân danh Giêsu”.
Đây, Giêsu từ chuồng súc vật đến với họ, cao lớn, mặc đồ trắng. Các tông đồ bao quanh. Các mục đồng và các bà theo sau.
- Bình an cho tất cả các con. Nếu việc Thầy đến đây đã thiết lập
185
được nước Thiên Chúa giữa các con thì nguyện Chúa được chúc tụng. Nếu việc Thầy đến đây đã làm sáng tỏ một sự vô tội, thì nguyện Chúa được chúc tụng. Nếu sự kiện đã đến đúng lúc để ngăn cản một tội ác, và cũng để cho ba kẻ có tội phương thế để tự cứu chuộc, thì nguyện Chúa được chúc tụng.
Bây giờ, ngày hôm nay đã thúc giục chúng ta suy niệm về rất nhiều điều. Chúng ta suy gẫm nó trong khi đêm về, để bằng màn tối của nó, bao phủ niềm vui của hai con tim, và sự ân hận của ba con tim khác. Trong sự tối đen của nó, nó che phủ như một tấm màn nết na, những nước mắt vui mừng của hai người đầu, và những nước mắt cháy nóng của ba người kia. Nhưng Thiên Chúa thấy, tất cả những chuyện này có cái khuynh hướng là coi như không và vô ích, những điều Thiên Chúa đã ban bố bởi lề luật.
Lề Luật được ban bố bởi Thiên Chúa, một cách lý thuyết thì rất được tôn trọng trong Israel, nhưng trong thực tế thì không. Lề Luật đây, được phân tích, được mổ xẻ, được cắt thành từng miếng đến nỗi làm cho nó chết bởi những hành hạ tinh vi. Nó đó, nhưng nó giống như một cái xác chết cổ xưa được ướp. Nó không có sự sống, không hơi thở, không có máu tuần hoàn, mặc dầu nó có vẻ như một người mà giấc ngủ làm cho bất động. Cũng vậy, Lề Luật không có sự sống, không hơi thở, không máu huyết trong qúa, quá, qúa nhiều con tim. Trên một cái xác ướp, người ta có thể ngồi như một cái ghế. Trên một cái xác ướp, người ta có thể để các đồ vật, quần áo và cả rác rến, nếu họ muốn. Nó không phản kháng, vì nó không có sự sống. Như vậy có rất nhiều người làm cho Lề Luật thành cái ghế, thành chỗ dựa, thành bãi rác. Chắc chắn là nó không phản kháng trong lương tâm của họ, vì đối với họ, nó đã chết.
Thầy có thể so sánh một phần đông Israel với những mảnh rừng hóa đá mà người ta thấy đó đây trong thung lũng sông Nil hay trong sa mạc ở Ai Cập. Xưa kia, có những rừng và những rừng đầy cây sống, được nhựa nuôi, rì rào dưới mặt trời, phủ đầy những lá xanh, những hoa, những trái. Nó biến chỗ của nó, nơi nó đã lớn lên, thành một thiên đàng nhỏ dưới đất, qúi hóa cho con người, cho súc vật, những kẻ đã quên đi cái khô cằn buồn thảm của sa mạc, cái khát
186
cháy mà cát làm cho con người do cát bụi cháy nóng của nó lọt vào họng; họ quên mặt trời khắc nghiệt, chỉ trong một thời gian ngắn, làm cho các xác chết hóa đá vôi bằng cách róc hết thịt và biến nó thành bụi, rồi để nó nằm trong những làn sóng cát, những bộ xương nhẵn như được làm bởi người thợ tỉ mỉ. Họ quên tất cả khi ở dưới cái bóng xanh này, rì rào, nước dồi dào, đầy những trái ngon lành bồi bổ, yên ủi, phục hồi can đảm cho những cuộc viễn du mới.
Rồi vì một lý do nào đó không biết, tựa như những thứ bị chúc dữ, chẳng những chúng khô đi như những cây thường, những cây thường, dù chết, nó cũng còn được dùng để đốt lửa trong gia đình con người, hoặc làm than hồng soi ban đêm, xua đuổi thú dữ, thổi đi sự ẩm ướt về đêm cho các khách du hành xa vùng dân chúng. Nhưng những cây này không thể dùng làm củi, vì nó đã hóa thành đá! Hóa thành đá! Tựa như bị bùa ngải, chất silic từ dưới đất đi vào rễ, lên thân cây, qua các cành, qua các lá. Rồi gió bẻ gẫy các cành yếu, đã trở nên như đá trắng, cùng một lúc vừa cứng vừa mềm. Nhưng những cành lớn vẫn còn đó, dính vào cái thân lực lưỡng của nó để đánh lừa các đoàn du mục mệt mỏi mà dưới ánh sáng phản chiếu chói chang của mặt trời, hoặc dưới ánh sáng ma quái của mặt trăng, nhìn thấy nổi lên bóng của những cây mọc nơi đồng bằng hay ở đáy những thung lũng mà chỉ có nước vào mùa dồi dào. Họ lo lắng tìm một chỗ nghỉ, một cái gì để bồi dưỡng, một giếng nước, một trái cây tươi. Và các con mắt mệt mỏi vì ánh sáng mặt trời phản chiếu trên cát, không có gì để trú, các người du hành đi vội vã về các mảnh rừng ma, các ma thực sự! Cái vẻ hình dạng của các vật sống, thực tình chỉ là những vật chết.
Thầy đã thấy những cảnh đó, và Thầy vẫn giữ những kỷ niệm - mặc dầu Thầy đã thấy khi Thầy chỉ lớn hơn đứa bé con một tí - như là một trong những cái buồn nhất của trái đất. Nó cũng làm cho Thầy nhận thấy như vậy, những thứ mà Thầy không rờ mó được, không đo lường được, không cân đong được như những sự thuộc về trái đất, mà nó hoàn toàn buồn tẻ, bởi vì nó chết, đó là những thứ phi vật chất, tức là các nhân đức và các linh hồn chết, các nhân đức
187
bị chết trong các linh hồn, các linh hồn chết bởi vì nó tự giết mình.
Lề luật ở trong Israel, nhưng nó ở đó như những cây hóa đá trong sa mạc, trở nên đá, chết. Vì sai lầm, có những thứ được dùng để tự làm hao mòn cách vô ích, có những thứ có hại giống như những cây hóa đá, bởi vì nó tạo ra những ảo ảnh lôi kéo người ta đi xa những vũng ốc đảo thực, làm cho họ chết vì đói, khát, tiêu điều. Nó kéo người ta về với cái chết của nó. Những thứ chết lôi kéo những thứ khác về với sự chết, như người ta đọc thấy trong một ít chuyện thần thoại dân ngoại.
Hôm nay các con đã có một ví dụ về thế nào là việc Lề Luật hóa thành đá trong một tâm hồn cũng đã trở nên đá. Đó là nguyên nhân của mọi tội lỗi và mọi bất hạnh. Chớ gì điều đó giúp các con biết sống và biết làm cho Lề Luật ở trong các con sống trong sự nguyên vẹn của nó, mà Thầy, Thầy soi sáng bằng ánh sáng của tình thương.
Đêm đã khuya, các vì sao nhìn chúng ta, và cùng với chúng là Thiên Chúa. Hãy ngước mắt lên trời đầy sao và nâng tâm trí các con về Thiên Chúa. Và, không chỉ trích những kẻ khốn nạn đã bị phạt bởi Thiên Chúa, không kiêu căng vì đã không có cái tội của họ, hãy hứa với Thiên Chúa và với chính mình là sẽ không rơi vào sự khô cằn của những cây khốn kiếp trong sa mạc và trong những thung lũng của Ai Cập.
Bình an cho các con.
Sau khi chúc lành cho họ, Người lui về cái vòng vây mênh mông của chuồng súc vật, bao quanh bằng những hành lang thô kệch, dưới đó các mục đồng đã trải một lớp rơm dầy dùng làm giường cho các tôi tớ Chúa.
112* KHI ĐI VỀ SICAMINON:
“THIÊN CHỨC CÒN HƠN MÁU HUYẾT”
Buổi sáng êm đềm và có mặt trời chiếu thuận lợi cho việc lên
188
dốc các ngọn đồi toàn hướng về phía tây, tức là phía biển.
- Chúng ta rất có lý khi tới miền cao nguyên trong những giờ đầu của buổi sáng. Chúng ta không thể ở lại miền đồng bằng dưới mặt trời này. Ở đây có bóng rợp và sự tươi mát. Tôi tiếc cho những người đi theo con đường của người Rôma, chỉ tốt vào mùa đông - Mathêu nói.
- Sau những ngọn đồi, chúng ta sẽ có gió biển, không khí luôn luôn ôn hòa - Giêsu nói.
- Chúng ta sẽ ăn uống ở trên cao. Bữa hôm trước nó đã thật đẹp rồi, nhưng nhìn từ đây, nó còn phải đẹp hơn, bởi vì núi Carmel ở gần hơn, biển cũng vậy - Giacôbê Alphê thêm.
- Quê hương ta thật là đẹp! - Andrê kêu lên.
- Đúng. Thật tình là có tất cả: các núi tuyết phủ, các đồi với sườn thoai thoải, các sông, hồ và cây cối đủ loại. Biển cũng không thiếu. Thật là một xứ ngon lành mà các tác giả thánh vịnh, các tiên tri, các đại chiến binh, các thi sĩ của chúng ta đã ca tụng - Thađê nói.
- Anh biết rất nhiều điều. Hãy đọc vài đoạn đi! - Giacôbê Zêbêđê khẩn khoản xin.
- Chính bằng vẻ đẹp Thiên Đàng, Người đã tạo nên Juđa. Bằng nụ cười của thiên thần, Người trang điểm miền đất của Neptali, và với các dòng sông mật của bầu trời, Người đã tạo mùi vị cho các trái cây ở đất của nó. Tất cả tạo vật đều nhắm về ngươi, bảo ngọc của Thiên Chúa, được Thiên Chúa ban cho dân thánh của Người.
Còn ngọt hơn các chùm nho sai chín trên sười núi của ngươi, còn ngon lành hơn dòng sữa đang căng phồng trong vú các con cừu mẹ của ngươi; còn ngây ngất hơn mật ong với mùi vị của các bông hoa bao quanh ngươi, là vẻ đẹp của ngươi trong lòng các con cái ngươi, hỡi mảnh đất hạnh phúc!
Trời đã xuống để tạo ra một dòng sông nối kết hai cái chồi, để làm cho ngươi, trên mầu áo xanh của ngươi, những chiếc mề đay và một sợi giây lưng.
Dòng Giođan của ngươi ca hát, biển mỉm cười, và lời nhắc nhở
189
thứ hai rằng Thiên Chúa khả úy, trong khi các ngọn đồi tựa như nhảy múa lúc ban chiều, giống như các thiếu nữ nhỏ ở đồng cỏ, và các núi cao của ngươi cầu nguyện trong những bình minh thiên thần, hoặc ca lời Alleluia dưới ánh lửa mặt trời, hoặc nữa là các tinh tú đồng thời thờ lạy: sức mạnh của Ngài, ôi Thiên Chúa Tối cao.
Người đã không nhốt chúng ta trong những biên giới khép kín, nhưng Người đã để trước mắt chúng ta cái biển rộng mở, để nói với chúng ta rằng thế giới thuộc về chúng ta.
- Đẹp thật! Ồ! Quả là đẹp! Tôi, tôi chỉ biết có cái hồ và Jêrusalem! Trong biết bao năm trường, tôi không thấy gì khác. Chỉ có bây giờ tôi mới biết Palestin. Nhưng tôi chắc rằng trong thế giới không còn gì đẹp hơn - Phêrô xác nhận, đầy hãnh diện về đất nước của ông.
- Maria nói với tôi rằng thung lũng sông Nil cũng rất đẹp - Gioan nói.
- Và người ở Enđo nói là đảo Chypre giống như một thiên đàng - Simon thêm.
- Đúng, đúng, nhưng đất của chúng ta...
Các tông đồ, trừ Iscariot và Tôma đang đi hơi ở phía trước với Giêsu, tiếp tục ca tụng vẻ đẹp của xứ Palestin.
Các phụ nữ đi ở phía sau. Các bà không thể không hái những bông hoa để gieo trong mảnh đất hoặc vườn của họ, vì chúng đẹp, và như vậy để có một kỷ niệm của cuộc hành trình.
Những con ó, tôi tin là ó biển, hay những con diều hâu, lượn những vòng rộng trên đỉnh đồi, thỉnh thoảng lao xuống trên một con mồi, và một trận đấu quyết tử xảy ra giữa hai con diều hâu. Chúng chiến đấu, chiến đấu, để rơi lông lá, trong một cuộc chiến đặc biệt hung bạo, kết thúc bằng việc bỏ đi của kẻ chiến bại. Chắc chắn nó đi để chết tại một sườn núi hẻo lánh, ít nhất là mọi người đều đoán vậy, vì đường bay của nó qủa là nặng nề và kiệt quệ.
- Tính tham ăn đã làm khổ nó - Tôma nhận xét.
- Tính tham ăn và tính ngoan cố luôn luôn làm khổ, kể cả ba mạng ngày hôm qua... Lạy Tình Thương đời đời! Số phận kinh khủng
190
chừng nào! - Mathêu nói.
- Họ có bao giờ được chữa khỏi không? - Andrê hỏi.
- Hãy hỏi Thầy điều đó đi.
Giêsu, khi được hỏi, Người trả lời: “Tốt hơn là nên hỏi: họ có sẽ hối cải không? Vì thật vậy, Thầy bảo các con: thà chết vì bệnh cùi mà thánh, còn hơn chết lành lặn mà tội lỗi. Bệnh cùi chỉ ở trên trái đất, trong mồ, trong khi tội lỗi tồn tại đời đời”.
- Bài thuyết giảng của Thầy hôm qua làm con thích lắm! - Zêlote nói.
- Tôi thì không. Nó qúa khắt khe đối với nhiều người trong Israel - Iscariot nói.
- Con thuộc về loại người đó?
- Thưa Thầy, không.
- Vậy tại sao con bực mình?
- Bởi vì điều đó có thể gây thiệt hại cho Thầy.
- Vậy ra để tránh những thiệt hại đó, Thầy phải liên minh với kẻ tội lỗi và đồng lõa với họ sao?
- Con không nói như vậy. Thầy không thể làm điều đó, nhưng Thầy phải nín lặng. Đừng làm cho các kẻ mạnh chống đối Thầy...
- Nín lặng tức là đồng ý. Thầy, Thầy không đồng ý với tội lỗi, nhỏ cũng như lớn.
- Nhưng Thầy đã thấy những gì đã xảy đến cho ông Tẩy Giả?
- Vinh quang của ông.
- Vinh quang của ông à? Con thấy là sự sụp đổ của ông.
- Bị bách hại và chết vì trung thành với bổn phận là vinh quang của con người. Các vị tử đạo luôn luôn vinh quang.
- Nhưng cái chết ngăn cản ông làm thầy và làm đau khổ cho các môn đệ cũng như các người trong gia đình ông. Ông được thoát mọi đau khổ, nhưng ông để lại sự đau khổ rất lớn hơn cho những người khác. Thực vậy, ông Tẩy Giả không có cha mẹ, nhưng ông luôn luôn có những bổn phận đối với các môn đệ của ông.
- Dù là ông ta có cha mẹ bà con thì cũng vậy thôi. Thiên chức còn lớn hơn máu huyết.
191
- Vậy còn giới răn thứ bốn?
- Nó đến sau những điều có liên can tới Thiên Chúa.
- Hôm qua Thầy đã thấy một bà mẹ khổ chừng nào vì lẽ con trai bà.
- Má ơi, lại đây - Giêsu gọi.
Maria chạy lại bên Giêsu và hỏi: “Con muốn gì?”
- Má à, Judas Kêriot ái ngại cho má, bởi vì nó yêu má và yêu con.
- Ái ngại cho má? Về cái gì?
- Nó muốn khuyên bảo con phải rất thận trọng để con đừng bị như người bà con của chúng ta: ông Tẩy Giả. Nó bảo con phải thương các bà mẹ, bằng cách giữ gìn cho các bà, vì đó là điều răn thứ bốn đòi. Má, má nói sao về điều đó? Con nhường lời cho má, để má chỉ dạy cách dịu dàng cho Judas của chúng ta.
- Má thì má nói rằng: Má sẽ không yêu con má với tư cách là Thiên Chúa nữa, má sẽ đi tới chỗ tự hỏi mình có lầm lẫn không, có ngộ nhận về bản tính của Người không, nếu má thấy Người nhân nhượng trong sự hoàn thiện của Người, bằng cách hạ thấp tư tưởng của Người tới những quan điểm như loài người, bằng cách mất đi cái nhìn về những quan điểm siêu nhiên như: biết cứu chuộc, tìm cách cứu chuộc người ta vì tình yêu đối với họ và vì vinh quang Thiên Chúa, không lo lắng và không oán ghét. Má vẫn còn yêu nó như một đứa con lạc đường do một sức mạnh bất lương, vì lòng thương xót, bởi vì nó là con má, vì đó là kẻ bất hạnh, nhưng không còn yêu nó với tình yêu sung mãn mà hiện nay má có với nó trong khi má thấy nó trung thành với Chúa.
- Với chính Người, mẹ muốn nói?
- Với Chúa. Bây giờ Người là Đấng Messi của Chúa, Người phải trung thành với Chúa như mọi người khác, và phải hơn mọi người khác, vì Người có một sứ mệnh lớn hơn như không bao giờ có ai có, như đã không ai có, và sẽ không bao giờ có ai có nữa trên trái đất. Đương nhiên Người có sự trợ lực của Thiên Chúa cho xứng với một sứ mệnh lớn lao như vậy.
192
- Nhưng nếu có sự đau khổ xảy đến cho Người, mẹ sẽ không khóc sao?
- Mẹ sẽ khóc với tất cả nước mắt của mẹ. Nhưng mẹ sẽ khóc với hết nước mắt và máu nếu mẹ thấy Người bất trung với Thiên Chúa.
- Điều đó sẽ làm giảm bớt rất nhiều tội của những kẻ sẽ bách hại Người.
- Tại sao?
- Bởi vì Người, cũng như mẹ, biện minh cho họ cách nào đó.
- Đừng nghĩ như vậy. Sẽ luôn luôn là cùng một thứ tội trước mắt Thiên Chúa, dù chúng ta xét là điều đó có thể tránh được, hoặc chúng ta nghĩ rằng không một người nào trong Israel có tội với Đấng Messi.
- Một người Israel à? Nhưng nếu là một dân ngoại thì sẽ không giống vậy.
- Không. Đối với dân ngoại thì đó là một tội đối với một trong những người đồng loại của họ. Israel biết Giêsu là ai.
- Phần đông Israel không biết.
- Không muốn biết. Họ cứng lòng tin một cách có ý thức. Họ chấp nối sự phản đức ái với sự cứng lòng tin, và họ từ chối hy vọng. Dày đạp ba nhân đức trụ không phải là một tội nhẹ, Judas ạ. Rất trầm trọng. Trầm trọng một cách siêu nhiên rất nhiều hơn là một hành động thể chất chống lại Con mẹ.
Judas cụt lý, liền ngồi xuống thắt lại giây xăng-đan và ở lại phía sau.
Các ngài đã lên tới đỉnh, đúng ra là một chỗ đỉnh nhô ra, tựa như nó muốn chạy về phía mầu xanh tươi cười của biển vô bờ bến. Một cái rừng sồi xanh, sản xuất ra một ánh sáng mầu ngọc bích nhạt, ghi dấu những chỗ rách dễ thương của mặt trời trên đỉnh núi mát mẻ, thoáng khí, nhìn ra bãi ở rất gần, trước mặt dẫy Carmel hùng vĩ. Dưới thấp, ngay chân núi mà cái mỏm nhô ra, cúi xuống như nó muốn bay, sau cánh đồng ở lưng sườn đồi, có một thung lũng hẹp với một dòng suối sâu, chắc chắn dòng nước của nó mạnh mẽ vào những kỳ mưa lũ, bây giờ chỉ còn là một giải bọt trắng bạc ở giữa
193
lòng suối. Con suối chảy ta biển bằng cách men theo chân Carmel. Có một con đường chạy dọc theo suối về phía hữu ngạn, nối một thành phố ở giữa vịnh với các thành phố khác trong đất liền, có lẽ là Samari, nếu tôi định hướng đúng.
- Thành phố này là Sicaminon - Giêsu nói. “Chúng ta sẽ tới đó chiều nay, lúc đêm về. Bây giờ chúng ta hãy nghỉ, vì việc xuống dốc sẽ khó khăn, mặc dù nó ngắn và mát mẻ”.
Họ ngồi quay vòng tròn, nướng những que thịt cừu, chắc là tặng phẩm của các mục đồng. Họ nói chuyện với nhau và với các phụ nữ.
113* VỚI CÁC MÔN ĐỆ TẠI SICAMINON:
“TỰ THIÊU ĐỐT CHÍNH MÌNH”
Ngay chính tại bờ con suối sâu, Giêsu gặp Isaac với một số đông môn đệ, quen biết cũng như không quen.
Giữa những người quen, có ông trưởng giáo đường tại Nước Đẹp: Timon, và Giuse người Emmau mà người ta đã kết án là loạn luân, người thanh niên đã bỏ việc mai táng cha anh để theo Giêsu; Étienne, người cùi Abel được chữa lành năm ngoái gần Corozain với người bạn Samuel của ông. Có người chèo đò thành Jêricô tên Salômôn, và các người khác, những người khác, nhiều người khác mà tôi nhận ra họ nhưng tôi tuyệt đối không nhớ đã thấy họ ở đâu, cũng không nhớ tên họ. Những khuôn mặt quen biết từ nay rất đông, tất cả đều được biết với khuôn mặt môn đệ. Rồi có những người khác, chinh phục được bởi Isaac hoặc bởi ngay các môn đệ vừa kể trên. Họ theo nhóm môn đệ chính này với hy vọng gặp được Giêsu.
Cuộc gặp gỡ thân mật, vui vẻ và trọng kính. Isaac rạng rỡ vui được gặp Thầy và được giới thiệu cho Thầy nhóm người mới của ông. Như một phần thưởng, ông xin Giêsu những lời Người cho những kẻ đang ở với ông.
- Con có biết chỗ nào yên tĩnh mà ta có thể hội họp không?
- Ở bên ngoài vịnh có một chỗ thanh vắng, ở đó có những cái lều
194
của các dân chài, vào mùa này bỏ không vì nguy hiểm, và vì mùa đánh cá để ướp muối đã chấm dứt, và họ đi Syro-Phênici để bắt sò huyết. Nhiều người trong họ đã tin ở Thầy vì đã nghe Thầy nói trong thành phố bờ biển, hoặc đã gặp các môn đệ, và họ đã nhường cho con những cái lều để nghỉ. Chúng con trở lại đây sau công tác, bởi vì có nhiều việc để làm ở cái bãi này, nó hoàn toàn bị hư hỏng bởi rất nhiều điều. Con muốn đi tới tận Syro-Phênici, và điều đó có thể thực hiện bằng đường biển, vì đường bộ ở bờ qúa thiêu nắng bởi mặt trời, không thể đi bộ được. Nhưng con là mục đồng chứ không phải thủy thủ, và trong đám những người này, không ai biết điều khiển thuyền buồm cả.
Giêsu nghe chăm chú với nụ cười nhẹ. Người hơi cúi xuống vì Người cao lớn trước người mục đồng nhỏ con đang làm như phúc trình với đại tướng của anh ta. Giêsu trả lời: “Thiên Chúa trợ giúp con vì sự khiêm nhu của con. Hỡi môn đệ của Thầy, nếu Thầy được người ta biết ở đây thì chính là nhờ con chứ không phải nhờ những người khác. Bây giờ chúng ta đi hỏi những người trên hồ để coi họ có khả năng đi thuyền buồm trên biển không. Chúng ta sẽ đi tới Syro-Phênici, nếu chúng ta có thể”. Và Giêsu quay lại để tìm Phêrô, Andrê, Gioan và Giacôbê. Họ đang đàm thoại sôi nổi với vài môn đệ, trong khi Judas Iscariot ở phía sau, đang khen lao Étienne, còn Zêlote, Batôlômêo và Philíp thì đang ở bên cạnh nhóm phụ nữ; bốn người khác thì đang ở bên cạnh Giêsu.
Bốn người dân chài tới ngay lập tức: “Các con có cảm thấy giống nhau khi đi thuyền trên biển không?” Giêsu hỏi.
Bốn người nhìn nhau, phân vân. Phêrô, trong lúc suy nghĩ, lấy tay vo đầu, rồi ông hỏi: “Nhưng đi đâu? Ra khơi à? Chúng con, chúng con là những con cá nước ngọt...”
- Không. Đi dọc theo bờ cho tới Siđon.
- Hum! Tôi tin là có thể. Các anh nói sao?
- Tôi cũng vậy, tôi tin. Biển hay hồ thì luôn luôn cũng chỉ là nước
- Giacôbê nói.
- Và cả đến nó sẽ đẹp hơn, dễ hơn - Gioan nói.
195
- Nhưng anh không biết em luận như vậy dựa theo cái gì - ông anh của Gioan hỏi.
- Tại vì tình yêu của nó đối với biển. Kẻ yêu cái gì thì nhìn thấy ở đó tất cả sự toàn vẹn. Như vậy nếu cậu yêu một người đàn bà, cậu sẽ là ông chồng hoàn hảo - Phêrô dỡn trong khi ông lay Gioan cách tình nghĩa.
- Không, tôi nói vậy bởi vì ở Ascalon, tôi thấy cách điều hành cũng giống vậy, và việc bơi thuyền thật dễ chịu - Gioan trả lời.
- Vậy chúng ta đi - Phêrô kêu lên.
- Nhưng luôn luôn tốt hơn là nên có một người ở xứ này. Chúng ta không quen cái biển này, cũng không biết mức sâu của đáy biển - Giacôbê nhận xét.
- Ôi! Tôi chả cần nghĩ tới đó. Chúng ta có Giêsu ở với chúng ta! Lần trước tôi không yên lòng, nhưng từ lúc Người đã làm êm hồ!... Chúng ta đi, chúng ta hãy đi với Thầy tới Siđon. Có lẽ sẽ có những điều hay để làm - Andrê nói.
- Vậy chúng ta sẽ đi. Con hãy lo lấy sẵn các thuyền cho ngày mai. Con hãy bảo Judas Simon đưa túi tiền cho con.
Các tông đồ và các môn đệ lẫn lộn vào nhau. Khỏi cần nói đây là buổi lễ lớn chừng nào đối với nhiều người, và đây là những người đã biết Giêsu nhiều. Họ đi ngược trở lại, hướng về thành phố, và đi dạo ở vùng ngoại ô cho tới điểm chót của một cái vịnh chạy dài ra biển như một cánh tay gập lại. Những cái lều phân tán thành từng số nhỏ trên bãi hẹp phủ đầy sỏi, biểu lộ một nơi nghèo nàn nhất, ít người nhất của thành phố. Người ta chỉ ở đây tùy dịp. Những căn nhà nhỏ như những khối vuông với những bức tường hư hỏng bởi không khí mặn, và bởi sự cũ nát của nó. Tất cả đều đóng cửa, và khi các môn đệ mở ra, chúng để lộ cho thấy những thứ nghèo nàn ám khói đen. Đồ đạc thực tình giảm tới cực tiểu.
- Đó, chúng rất dễ chịu và sạch sẽ, ngoại trừ vẻ đẹp - Isaac nói để làm rạng giá cho chúng.
- Đẹp thì không, những thứ tội nghiệp. Nước Đẹp là một lâu đài so với đây mà vẫn có người phàn nàn... - Phêrô lắp bắp.
196
- Nhưng đối với chúng tôi, đó là cả một cơ nghiệp.
- Chắc chắn rồi, chắc chắn rồi. Điều quan trọng là có một cái mái và yêu nhau. Ồ! Mà nhìn kìa, Gioan của chúng ta? Thế nào? Anh ở đâu?
Nhưng Gioan Enđo, trong khi mỉm cười với Phêrô, chạy lại tôn kính Giêsu. Người chào ông với những lời rất đẹp.
- Con không bảo ông ta đi, vì ông không được khỏe lắm... Con muốn ông ở lại đây. Ông biết làm rất tốt ở đây, với những người trong thành, và với những người hỏi xin những chỉ dẫn về Đấng Messi... - Isaac nói.
Thực sự người xứ Enđo gầy hơn trước kia rất nhiều, nhưng khuôn mặt ông trong sáng. Sự gầy còm làm cho các nét của ông có vẻ cao qúi, và làm người ta nghĩ tới một người đã chịu hai thứ tử đạo: thể xác và tinh thần.
Giêsu quan sát ông và hỏi: “Con bịnh à Gioan?”
- Không hơn trước khi gặp Thầy, và đó là về thân xác. Nhưng linh hồn, nếu con xét đúng, thì con đang được chữa lành các vết thương của bản thân con.
Giêsu lại nhìn con mắt đã hạ dịu của ông, và vầng trán với hai thái dương lõm sâu của ông, nhưng Người không nói gì thêm. Người để một tay trên vai ông trong khi Người đi với ông vào một căn lều, nơi người ta đã mang tới những chậu nước biển để rửa những đôi chân mệt mỏi, và những hũ nước mát để giải khát, trong khi ở bên ngoài, trên một cái bàn mộc mạc, được che bóng bởi những cây leo mọc như cái dàn, người ta sửa soạn bàn ghế.
Thật là một quang cảnh đẹp, lúc đêm về, biển khơi thì thầm lời kinh ban chiều do tiếng động nhẹ của các con sóng trở lui trên bãi nhỏ đầy sỏi, được thấy bữa tối của Giêsu với các phụ nữ và các tông đồ ngồi tại một cái bàn cục mịch, trong khi những người khác ngồi trên đất, hoặc trên ghế hay cái cần xế lật ngược, làm thành vòng tròn chung quanh cái bàn chính. Bữa ăn chấm dứt mau lẹ, và việc dẹp bàn còn lẹ hơn, bởi vì có rất ít chén bát, và chỉ có cho các khách quan trọng nhất thôi.
197
Nước biển đã trở thành mầu chàm trong đêm chưa có trăng, và tất cả vẻ oai phong của nó lộ ra vào giờ này một nỗi buồn trang trọng đặc biệt tại bờ biển.
Giêsu, mầu trắng cao lớn giữa các bóng càng lúc càng tối, đứng dậy khỏi bàn và đi lại giữa các môn đệ, trong khi nhóm phụ nữ rút lui. Isaac cùng với một người khác nhúm lên một đống lửa nhỏ trên bãi cát để soi sáng, và để đuổi đi những đám mây muỗi, chắc chắn là chúng đến từ các đầm lầy ở rất gần đây.
- Bình an cho tất cả các con. Tình thương của Thiên Chúa đã tụ họp chúng ta trước thời gian ấn định, và cho qủa tim chúng ta một niềm vui hỗ tương. Thầy đã dò xét tất cả những con tim này, những con tim của các con, đầy tinh thần tốt, như được chứng tỏ trong sự hiện diện của các con ở đây để chờ Thầy, trong việc đào tạo các con trong Thầy, dù còn bất toàn về thiêng liêng như đã được chứng tỏ ra trong một số phản ứng của các con. Nó biểu lộ rằng con người cũ của Israel với những tư tưởng và những thành kiến của nó còn khăng khăng tới cỡ nào trong các con. Và từ đó chưa thể ra được, giống như con ngài chui ra từ con nhộng, con người mới, con người của Đức Kitô, mà từ Đức Kitô, họ chiếm hữu sự bao la, ánh sáng, tinh thần yêu thương và đức ái rộng rãi hơn.
Nhưng các con đừng cho là bỉ mặt nếu Thầy đã dò xét các con và đọc được những bí mật của các con. Một ông thầy tốt phải biết các học trò của mình để có thể sửa cho nó những khuyết điểm của nó. Các con hãy tin Thầy: nếu là một ông thầy tốt, ông không chán ngán những kẻ nhiều khuyết điểm nhất, nhưng trái lại, ông nghiêng mình trên nó để làm cho nó nên tốt hơn. Các con, các con biết rằng Thầy là một ông thầy tốt.
Và bây giờ chúng ta hãy cùng nhau coi những phản ứng này và những thành kiến này. Chúng ta cùng nhau suy nghĩ, cứu xét những lý do tại sao chúng ta ở đây, và vì nỗi vui mà cuộc họp mặt này cho chúng ta, chúng ta hãy biết chúc tụng Chúa, đấng luôn luôn có thể, từ một sự lành cá nhân, rút ra sự lành cho tập thể.
Thầy đã nghe từ môi các con, sự cảm phục của các con đối với
198
Gioan Enđo. Nhận biết mình là một đại tội nhân cải thiện, từ những lối xử thế cũ, ông đã rút ra một lối xử thế mới làm nền tảng để thuyết phục những kẻ ông muốn dẫn về cho Thầy. Đúng vậy, trước đây ông là một tội nhân, bây giờ là một môn đệ. Nhiều người trong các con đã nhờ ông mà đến với Đấng Messi. Vậy các con thấy rằng, một cách chi tiết, bởi những phương tiện này, là những cái mà con người cũ của Israel khinh bỉ, Thiên Chúa đã tạo ra đoàn dân mới của Thiên Chúa.
Bây giờ Thầy xin các con cũng hãy miễn xét đoán không trong sáng về một người chị em mà con người cũ của Iarael không hiểu được rằng nàng là một môn đệ. Thầy đã ra lệnh cho các phụ nữ đi nghỉ, nhưng không phải vì ước ao sự nghỉ ngơi cho các bà, nhưng vì Thầy muốn có thể cho các con một xét định thánh thiện về một sự cải thiện, và để ngăn cản các con phạm tội chống lại tình yêu và công bằng. Đó là lý do Thầy đã ra lệnh này cho họ, điều đã làm buồn cho các nữ môn đệ.
Maria Magđala, một đại tội nhân của Israel, kẻ không bào chữa gì về tội lỗi của mình, đã trở về với Chúa. Và nàng chờ đợi sự trung tín và lòng thương xót của ai, nếu không phải là của Thiên Chúa và của các tôi tớ Thiên Chúa. Toàn thể Israel, và cùng với Israel là các người ngoại quốc ở giữa chúng ta, những kẻ đã biết nàng và xét đoán nàng cách nghiêm khắc, bây giờ nàng không còn là đồng lõa với họ trong sa đọa nữa, họ chỉ trích nàng và quay ra nhạo cười sự phục sinh này.
Phục sinh, đó là từ chính xác nhất. Sự phục sinh một thân xác không phải là phép lạ lớn nhất, phép lạ này luôn luôn tương đối, vì nó nhắm vào một thực thể đã được tiền định sẽ bị bãi bỏ một ngày nào đó bởi cái chết. Thầy không ban sự bất tử cho kẻ mà Thầy cho phục sinh thân xác, nhưng Thầy ban sự bất tử cho kẻ được phục sinh trong tâm hồn. Trong khi những kẻ đã chết trong thân xác không kết hợp ý muốn được phục sinh của nó vào với ý muốn của Thầy, vì vậy nó không có công gì. Còn những kẻ đã phục sinh trong tâm hồn, có ý muốn của nó hiện diện, và cả đến ý muốn phục sinh
199
của nó là cái hiện diện đầu tiên. Vì vậy nó có công với sự phục sinh của nó.
Thầy không nói với các con điều này để biện minh cho Thầy. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thầy phải kể đến mọi hành động của Thầy. Nhưng các con là môn đệ của Thầy, người môn đệ của Thầy phải là một Giêsu khác. Họ không thể không biết đến những điều này, và không được có một điều nào trong những tật thâm căn cố đế này, mà vì đó, nhiều người chỉ kết hợp với Thiên Chúa bằng cái tên mà thôi.
Tất cả đều có thể nảy sinh ra những hành động tốt, dù là những điều có vẻ ít khả năng nhất. Khi một chất liệu trình diện trước ý muốn của Thiên Chúa, dù nó là thứ trơ trơ nhất, lạnh lẽo nhất, ghê tởm nhất, nó cũng có thể trở nên mềm mại, nóng như lửa, đẹp đẽ trinh trong. Thầy trình bày cho các con một so sánh rút ra từ sách Maccabê: Khi Nêhêmi được vua Ba Tư sai về Jêrusalem, trong Đền Thờ đã được xây dựng lại, ông đã muốn được dâng lễ hy sinh trên bàn thờ đã được thanh tẩy. Nêhêmi nhớ lại khi ông bị người Ba Tư bắt làm tù binh, các thầy cả đã được đặt định vào việc phụng tự Thiên Chúa đã lấy lửa của bàn thờ giấu vào một nơi kín, ở đáy một thung lũng, trong một cái giếng sâu và khô. Họ làm việc đó cẩn thận và bí mật tới nỗi chỉ có họ biết lửa thánh cất ở đâu. Nêhêmi nhớ lại điều đó và nhắc lại. Ông sai con cháu của các thầy cả này tới nơi người ta đã để lửa - Qủa vậy, các thầy cả đã nói điều đó với con họ, rồi các người này lại nói với con họ, và sự bí mật được lưu truyền như vậy từ đời cha qua đời con - lấy lửa thánh ở đó để nhóm lửa cho lễ hy sinh.
Nhưng khi xuống trong cái giếng bí mật, con cháu không tìm thấy lửa ở đó, mà chỉ thấy một thứ nước đặc, một cái bình hôi thối, nặng nề, cái cặn bã của tất cả cống rãnh của thành Jêrusalem đổ nát. Họ nói với Nêhêmi, nhưng ông bảo họ cứ lấy thứ nước đó và mang tới cho ông. Ông cho đặt củi trên bàn thờ, và ở trên củi là các lễ hy sinh. Ông vảy nước nhiều tới nỗi tất cả đều ướt bằng thứ nước sình bùn này. Dân chúng ngạc nhiên và các thầy cả tức giận khi
200
nhìn, họ chỉ kính trọng bởi vì chính Nêhêmi ra lệnh, nhưng họ buồn chừng nào trong lòng, họ ngờ vực biết bao! Cũng như trong bầu trời có những đám mây làm cho ngày thành u ám, trong con tim con người cũng có những nghi ngờ như vậy làm cho họ buồn rầu.
Nhưng mặt trời đánh tan mây, và các tia của nó chiếu xuống bàn thờ, và những củi đã được tưới bằng nước bùn liền bắt lửa và thành một đống lửa lớn, nó thiêu đốt các lễ hy sinh trong khi các thầy cả đọc lời cầu nguyện do Nêhêmi làm, và các thánh vịnh đẹp nhất của Israel cho tới khi tất cả lễ hy sinh đều cháy thiêu. Và để thuyết phục đám đông rằng Thiên Chúa có thể, với những chất liệu ít thích hợp nhưng sử dụng với ý ngay lành, có thể sản xuất những kỳ công, Nêhêmi cho đổ chỗ nước còn lại trên các tảng đá lớn, các đá được tưới liền bắt lửa và cháy rụi trong một ánh sáng lớn đến từ bàn thờ.
Mỗi linh hồn là ngọn lửa thánh, được Thiên Chúa đặt trên bàn thờ của con tim để sử dụng và thiêu đốt lễ hy sinh của đời sống bằng tình yêu đối với Đấng Tạo Hóa của nó. Mỗi đời sống là một lễ toàn thiêu, nếu người ta sử dụng nên thì mỗi ngày sẽ là một lễ hy sinh phải được thiêu đốt bằng sự thánh thiện.
Nhưng những kẻ cướp phá tới, nó làm nặng nề cho con người và linh hồn con người. Ngọn lửa bị cắm vào lòng giếng sâu. Đó không phải vì một nhu cầu thánh, nhưng vì một ngu si tai hại. Và ở đó, bị dìm ngập bởi cống rãnh của các nơi ô trọc, nó trở nên một thứ bùn hôi thối và nặng nề, cho tới khi có một thầy cả xuống tận đáy sâu của nó để đem cái bùn này phơi ra ánh sáng mặt trời, bằng cách đặt nó trên sự toàn thiêu của lễ hy sinh riêng của chính ông. Bởi vì phải biết rằng sự anh hùng của kẻ hoán cải mà thôi thì không đủ, cũng cần phải có sự anh hùng của kẻ làm cho hoán cải nữa, và cả đến người làm hoán cải kẻ khác thì phải anh hùng hơn nó, bởi vì các linh hồn chỉ được cứu nhờ sự hy sinh của chúng ta mà thôi. Chính vì vậy mà người ta có thể biến bùn thành lửa, và Thiên Chúa phê phán rằng những lễ hy sinh tự thiêu là hoàn hảo và đẹp đẽ.
Vậy không đủ để thuyết phục thế giới rằng chất bùn đã hoán cải
201
còn mạnh mẽ hơn ngọn lửa thường, dù là lửa thánh. Ngọn lửa thường chỉ dùng để đốt củi và lễ hy sinh là những thứ có thể cháy. Nhưng đây, thứ bùn đã hoán cải trở nên mạnh tới nỗi nó bốc lửa và thiêu đốt cả đá là những thứ không cháy được.
Các con không hỏi rằng đặc tính này từ đâu mà tới cho cái chất bùn này? Các con không biết sao?
Thầy, Thầy nói cho các con: chính trong sự nóng nảy sám hối, nó tự hòa tan với Thiên Chúa: lửa với lửa. Lửa bốc lên, lửa đi xuống, lửa ban tặng mình bởi tình yêu, lửa hiến toàn thân vì tình yêu, sự ôm ấp của hai vật thể yêu nhau, gặp thấy nhau, kết hợp với nhau và làm thành một cái duy nhất. Và bởi vì ngọn lửa lớn hơn là Thiên Chúa, cho nên đây, nó tràn ra, nó qúa dào dạt, nó xuyên thấu, nó thu hút, và lửa của chất bùn cải hóa không còn là lửa tương đối của một vật được tạo dựng, nhưng là lửa vô tận của một thứ không bị tạo dựng: của Đấng Tối Cao, của Đấng Toàn Năng, của Đấng Vĩnh Cửu, của Thiên Chúa.
Đúng là như vậy đối với các đại tội nhân đã cải thiện, hoàn toàn cải thiện, tự hiến mình một cách quảng đại vào sự cải thiện, không giữ lại gì của qúa khứ. Trước tiên, tự thiêu đốt chính mình trong những phần nặng nề nhất, bởi ngọn lửa bốc lên từ chất bùn của nó, để đi gặp Ân Sủng và được Ân Sủng chạm tới.
Thực vậy, thực vậy, Thầy bảo các con, trong Israel có rất nhiều đá được thâm nhập bởi lửa của Thiên Chúa, để những lò lửa bừng bừng này luôn luôn cháy mạnh hơn, để tiêu hủy tính chất con người và tiếp tục tiêu hủy đá, những hững hờ, những do dự, những rụt rè thuộc về trái đất, của ngai tòa của họ trên trời, những tấm gương thực sự hăng say siêu nhiên thu thập Ánh Sáng Một và Ba, để làm cho nó qui tụ lại trên nhân loại và đốt cháy nó bằng Thiên Chúa.
Thầy nhắc lại cho các con là Thầy không cần biện minh cho các hành động của Thầy, nhưng Thầy muốn cho các con đi vào trong tư tưởng của Thầy, và làm cho nó thành tư tưởng của các con cho lúc này, cho những trường hợp tương tự trong tương lai, khi Thầy không còn ở với các con.
202
Chớ gì tư tưởng sai lầm, sự nghi ngờ thuộc pharisiêu: sợ làm ô uế Thiên Chúa khi trình diện cho Người một tội nhân sám hối, sẽ không bao giờ ghì các con lại khi làm công việc này, là triều thiên hoàn hảo của thiên chức mà Thầy tiền định cho các con. Hãy luôn luôn hiện diện trong thần trí các con rằng: Thầy không đến để cứu những người thánh, nhưng các tội nhân. Và các con cũng làm như vậy, bởi vì môn đệ không ở bên trên thầy. Và nếu Thầy đã không ghê tởm cầm tay những cặn bã của trái đất mà sau cùng đã cảm thấy cái nhu cầu trên trời, chính với niềm vui lớn lao, Thầy dẫn chúng về với Thiên Chúa, vì đó là sứ mệnh của Thầy. Và mỗi cuộc chinh phục là một biện minh cho việc nhập thể của Thầy, điều đã làm đau lòng Đấng Vô Tận. Các con cũng đừng ghê tởm làm việc đó. Con người có giới hạn. Mọi người, nhiều hay ít, đều có sự bất toàn, có đặc tính giống như các anh em tội lỗi của các con, những người mà Thầy đã chọn làm các vị cứu tinh, để công việc của Thầy tiếp tục trong mọi thế kỷ của trái đất, giống như Thầy tiếp tục sống ở đó, hiện diện trong từng thế kỷ. Và sẽ là như vậy, bởi vì sự hiệp nhất của các linh mục Thầy sẽ như phần tử sống động của cơ thể vĩ đại là Giáo Hội của Thầy, mà Thầy sẽ là thần trí cổ võ. Và ở chung quanh phần tử làm cho sống này, quây quần một số vô kể những tế bào là những người tin, để làm thành một cơ thể duy nhất, nó sẽ có cái tên được rút ra từ tên Thầy.
Nhưng nếu sinh lực bị thiếu trong nhóm giáo sĩ thì làm sao số tế bào đông vô kể này có thể có được sự sống?
Thật vậy, Thầy ở trong cơ thể này, Thầy có thể gởi sự sống của Thầy tới tận những tế bào xa xôi nhất, và để ra một bên những thùng và những đường ống bị nghẽn và vô ích, đã từ chối nhiệm vụ của nó. Qủa vậy, mưa trời có thể rơi xuống nơi nào nó muốn. Các tế bào tốt, có khả năng tự nó muốn sống, sẽ sống sự sống của Thầy. Nhưng như vậy Kitô giáo sẽ là cái gì? Một sự lân cận giữa các linh hồn với các linh hồn. Lân cận nhưng bị ngăn cách bởi các đường ống và các thùng chứa không còn phải là các đường liên kết để phân phối cho các tế bào thứ máu sinh lực đến từ một trung tâm
203
duy nhất. Chúng sẽ là các bức tường và các hố sâu ngăn cách, qua đó các tế bào nhìn nhau cách nhân loại, nhưng trong một tình cảm siêu nhiên, vẫn còn tự nói trong tâm hồn rằng: “Chúng ta là anh em, và chúng ta còn cảm thấy như vậy, mặc dù chúng ta chia cắt!” Một sự lân cận chứ không phải hiệp nhất, không phải là một cơ thể. Và trên sự đổ nát này, tình yêu của Thầy chói sáng trong đau thương...
Và hơn nữa, đừng nghĩ rằng việc đó chỉ áp dụng cho những việc ly giáo. Không, nó áp dụng cho tất cả những linh hồn cô độc vì các linh mục từ chối nâng đỡ họ, lo lắng cho họ, yêu họ, do làm trái với thiên chức của các vị, là phải nói và làm những điều Thầy đã nói và làm, tức là: “Tất cả hãy đến với Ta, Ta sẽ dẫn qúi vị đến với Thiên Chúa”.
Bây giờ hãy giải tán đi bằng an và nguyện Thiên Chúa ở cùng các con.
Mọi người từ từ phân tán. Mỗi người đến cái lều mà họ phải ở. Gioan Enđo cũng đứng dậy. Trong khi Giêsu nói, ông không ngừng ghi chép. Ông cúi trên ngọn lửa để có thể thấy được những gì ông viết. Nhưng Giêsu giữ ông lại và nói: “Hãy ở lại một lát với Thầy của con”, và Người giữ ông ở bên cạnh Người cho tới khi mọi người đi khỏi.
- Chúng ta hãy đi cho tới tảng đá ở bên cạnh bờ nước. Trăng càng lúc càng cao, ta có thể thấy đường.
Gioan chấp nhận, không nói lời nào. Họ đi xa chỗ ở độ hai trăm mét và ngồi trên tảng đá lớn. Tôi không biết đây là cái còn lại của một cái đập hay là chỗ nhô lên của một tảng đá ngầm dưới nước biển, hay là vật đổ nát của một nhà nhỏ chìm một nửa dưới nước biển. Có lẽ đây là chỗ bờ nhô ra do bao thế kỷ tạo thành. Tôi chỉ biết rằng từ bãi nhỏ, người ta có thể lên đó bằng cách đặt bàn chân vào các chỗ lồi lõm để bước, của phía bờ biển hầu như dốc thẳng và chìm trong nước mầu chàm. Bây giờ thủy triều bao quanh nó bằng những con sóng làm ướt khi đập nhẹ vào những chướng ngại vật này và rút trở ra, tạo thành tiếng động như một hơi thở khổng lồ, nín lặng một lát, rồi trở lại với những chuyển động và tiếng kêu
204
đều đều của sóng vỗ, hơi thở và yên lặng, giống như loại nhạc giật gân.
Họ ngồi ngay trên tảng đá bị sóng vỗ này. Mặt trăng tạo ra một đường sáng như bạc trên làn nước, trước lúc trăng lên thì nó mầu xanh chàm, một bề mặt sóng hơi đen, trong màn đen của đêm.
- Gioan, con không nói với thầy con cái lý do làm cho con phải chịu đựng?
- Lạy Chúa, Chúa biết mà! Nhưng đừng nói là “chịu đựng”, hãy nói: “tự tiêu hủy”, như vậy chính xác hơn. Thầy biết rồi, và Thầy biết nó tự tiêu hủy trong niềm vui. Cám ơn Chúa, con cũng đã nhận ra mình trong chất bùn trở thành lửa. Nhưng con, con sẽ không có giờ để thiêu đốt đá. Chúa ơi, con sắp chết. Con đã qúa chịu đựng sự thù ghét của thế giới, và con vui sướng trong tình yêu Thiên Chúa. Con không tiếc gì đời sống. Ở đây con còn có thể phạm tội, thiếu sót trong sứ mạng mà Thầy tiền định cho chúng con. Con đã thiếu sót hai lần trong đời: tại chức vụ thầy giáo của con, vì con phải biết tìm thấy ở đó cái gì để đào tạo chính mình, nhưng con đã không đào tạo; tại chức vụ làm chồng, vì con đã không đào tạo vợ con, điều đó hữu lý, vì con không biết tự đào tạo nên con không thể đào tạo cho bà. Con cũng có thể thiếu sót trong chức vụ môn đệ. Và thiếu sót đối với Thầy thì con không muốn. Vậy xin chúc tụng cái chết nếu nó đưa con tới nơi người ta không thể phạm tội nữa. Nhưng nếu con không có cái số làm môn đệ giảng dạy, con sẽ có cái số làm môn đệ nạn nhân, điều đó sẽ là điều giống số phận của Thầy nhất. Chiều nay Thầy đã nói: “Bắt đầu bằng cách tự thiêu đốt chính mình”.
- Gioan, đó là một số phận mà con cam chịu, hay một của lễ mà con làm?
- Một của lễ mà con làm, nếu Thiên Chúa không chê cái bùn đã trở thành lửa.
- Gioan, con làm việc đền tội rất nhiều.
- Các thánh cũng vậy, Thầy là người đầu tiên. Thật chính đáng là kẻ có biết bao nợ phải trả cũng làm. Nhưng Thầy, có lẽ Thầy
205
thấy rằng việc đền tội của con không vui lòng Thiên Chúa? Thầy có cấm con không?
- Thầy, không bao giờ Thầy đặt những trở ngại cho những nguyện vọng tốt của một linh hồn đang say đắm. Thầy tới để giảng rằng: trong sự chịu đựng có sự đền tội, và trong sự đau đớn có sự cứu rỗi. Thầy không thể nói phản lại mình.
- Cám ơn Chúa, điều đó sẽ là sứ mạng của con.
- Con ghi chép những gì đó Gioan?
- Ồ, thưa Thầy, thỉnh thoảng cái tên già Félix còn tái xuất hiện thói quen thầy giáo của nó. Con nghĩ tới Margziam. Nó có tất cả đời nó để rao giảng Thầy, vì lẽ tuổi của nó. Nó không có mặt lúc Thầy thuyết giáo. Con nghĩ tới ghi chép một ít giáo huấn Thầy đã cho chúng con mà đứa trẻ không nghe thấy, bởi vì nó bận với những trò chơi của nó, hoặc nó ở xa với một người trong chúng ta. Trong các lời Thầy, dù là những lời tầm thường nhất, cũng có biết bao khôn ngoan. Các lời đối đáp thân mật gia đình của Thầy đã là những giáo huấn, ngay trên những chuyện hàng ngày, về mỗi người, về mỗi chi tiết, mà ở thâm sâu là những chuyện vĩ đại của đời sống, vì tất cả chúng làm thành một tổng hợp lớn, đòi hỏi kiên nhẫn, bền bỉ, nhường nhịn, để làm trọn cách thánh thiện. Một hành động anh hùng lớn lao và duy nhất thì dễ hoàn thành hơn là hàng ngàn và hàng chục ngàn điều nhỏ, đòi hỏi sự thực hành nhân đức cách bền bỉ. Nhưng người ta không đi tới những hành động quan trọng, hoặc trong điều tốt, hoặc trong điều xấu - con, con đã biết nó trong điều xấu - nếu người ta không gom góp lại từ lâu dài những hành động nhỏ có vẻ vô ý nghĩa. Con đã bắt đầu giết người từ khi, bị mệt mỏi bởi tính nông nổi của vợ con, con bắt đầu nhìn bà cách khinh bỉ. Chính để cho Margziam mà con đã ghi chú những lời giải thích của Thầy. Và chiều nay, con ước ao ghi chép bài giáo huấn lớn của Thầy. Con sẽ để công việc của con lại cho đứa trẻ để nó nhớ đến con, ông giáo già, và cũng để nó có các lời giáo huấn trước đây nó không có. Cái kho tàng chói sáng của nó: các lời Thầy. Thầy có cho phép con việc đó không?
206
- Có, Gioan ạ. Nhưng hãy bình an trong mọi sự, như cái biển này. Con thấy không? Đối với con, sẽ qúa nặng nề để chịu đựng sự nóng nảy của mặt trời, mà đời sống truyền giáo đúng thực là sự nóng nảy. Con đã chiến đấu biết bao trong đời sống của con. Bây giờ Thiên Chúa gọi con lại với Người dưới ánh sáng êm đềm của mặt trăng, nó làm dịu dàng và thanh tẩy mọi sự. Hãy bước đi trong sự êm đềm của Thiên Chúa. Thầy nói với con: “Thiên Chúa bằng lòng với con”.
Gioan Enđo cầm tay Giêsu hôn và lẩm bẩm: “Nhưng cũng thật đẹp để nói với thế giới: ‘Hãy đến cùng Giêsu’”.
Con sẽ nói vậy từ trên Thiên Đàng. Con cũng sẽ là tấm gương nóng bừng. Ta đi thôi Gioan. Thầy muốn đọc những điều con viết.
- Cái cuộn đây Chúa. Ngày mai con sẽ đưa cho Thầy cuộn khác mà con đã ghi chú những lời khác.
Họ xuống khỏi tảng đá. Trong ánh trăng rực rỡ, các đá sỏi ở bãi đã biến thành bạc. Họ tới chỗ ở. Họ chào nhau bằng cách: Gioan qùi gối, Giêsu đặt tay trên đầu ông để chúc lành cho ông và ban cho ông sự bình an.
114* TẠI TYR. “KIÊN TRÌ, ĐÓ LÀ TỪ NGỮ LỚN”
Chính vào những giờ đầu tiên của buổi sáng, Giêsu tới trước một thành phố ở trên biển. Bốn cái thuyền đi theo thuyền của Người. Thành phố nhô lên một cách kỳ lạ ở trên mặt biển, tựa như nó được xây trên một eo đất, hay đúng hơn, tựa như eo đất hẹp đã nối liền phần nổi trên biển với phần trải ra trên bãi.
Nhìn từ ngoài biển, nó giống như một cây nấm khổng lồ, vươn cái dù của nó ra trên sóng và cắm rễ vào bờ biển. Chính cái eo đất là cái gốc của nó. Ở hai bên eo đất có hai hải cảng. Một cảng ở phía bắc, ít được che chở hơn, bao phủ bằng những tàu thuyền nhỏ. Cảng kia ở phía nam, được che chở an toàn hơn, có nhiều tàu thuyền lớn ra vào.
- Phải lại đàng kia - Isaac nói khi chỉ vào cái cảng của tàu thuyền nhỏ. “Các người đánh cá ở tại đó”.
207
Họ đi vòng quanh đảo, và tôi nhận thấy cái eo đất là nhân tạo. Nó như một loại đê khổng lồ nối đảo với đất liền. Thời xưa, người ta đã xây nó không khó khăn gì sao? Tôi suy đoán được từ cái công trình này và từ số lượng tàu bè trên cảng, thành phố này giầu và buôn bán thịnh vượng tới cỡ nào. Ở phía lưng thành phố, sau một vùng đất bằng, có những ngọn đồi nhỏ có vẻ dễ chịu. Và ở rất xa, người ta nhìn thấy ngọn Đại Hermon và dẫy Liban. Tôi cũng kết luận rằng đây là một trong những thành phố mà tôi đã thấy từ núi Liban.
Lúc này thuyền của Giêsu đang vào cảng phía bắc. Trong cái vũng của cảng, nó không cập bờ, nhưng trôi từ từ, nhờ sức của mái chèo phía trước và phía sau, cho tới khi Isaac tìm được những người ông muốn tìm, và ông lớn tiếng gọi họ.
Đây, hai chiếc thuyền đánh cá đẹp tiến lại, và ê-kíp thuyền nhân cúi xuống trên chiếc thuyền nhỏ hơn của các môn đệ.
- Các bạn ơi! Có Thầy ở đây với chúng tôi. Hãy đến, nếu các bạn muốn nghe lời Người. Chiều nay Người sẽ trở về Sicaminon - Isaac nói.
- Chúng tôi tới ngay lập tức. Chúng tôi sẽ tới chỗ nào?
- Vào chỗ nào yên tĩnh. Thầy sẽ không vào Tyr, cũng không vào thành phố ở bãi bể. Thầy sẽ nói từ trên thuyền. Hãy chọn một chỗ nào có bóng mát và an toàn.
- Hãy đến chỗ các tảng đá sau lưng chúng tôi, có những vịnh yên tĩnh và có bóng mát. Các anh cũng có thể lên bờ.
Họ chèo tới một lối vào các tảng đá ở phía bắc hơn. Bãi có bờ dốc thẳng, khuất mặt trời, nơi đó cô lập, chỉ có chim hải âu và chim gầm ghi trú ngụ. Chúng bay ra, dò thám trên mặt biển, rồi trở lại, kêu lớn tiếng về phía tổ của chúng trong núi đá.
Nhưng có những người khác lên thuyền của họ và bơi theo thuyền hướng dẫn, làm thành một tiểu đội thuyền. Ở đáy vịnh nhỏ này có một bãi nhỏ, chỉ hơi giống bãi: một bãi hẹp rải rác đá, nhưng khoảng một trăm người có thể đứng ở đó.
Họ lên bờ, Giêsu cũng lên, bằng cách bước lên một tảng đá rộng và bằng, nhô lên khỏi nước như một cái đập thiên nhiên, và
208
họ ngồi trên bãi đầy đá sỏi, sáng bóng vì muối. Đây là những người tóc nâu vàng, gầy gò, cháy nắng bởi mặt trời và biển. Dưới lớp quần áo lót ngắn, ta thấy các chi thể dẻo dai và gầy gò của họ. Họ thuộc một nòi coi rất khác với các người Do Thái hiện nay. Họ ít giống người Galilê. Tôi nói những người Syro-Phênici này giống các người Philitin ở xa, hơn là giống những dân ở kề bên họ, ít nhất là tôi thấy như vậy.
Giêsu quay lưng vào bãi và bắt đầu nói:
- Ta đọc thấy trong Sách Các Vua, Chúa sai tiên tri Êlia tới thành Sêrepta đất Siđon như thế nào trong kỳ đại hạn và đói kém hoành hành trên trái đất trong vòng ba năm. Chúa đâu có thiếu phương tiện để cho vị tiên tri của Người ăn no nê tại bất cứ nơi nào. Và Người không sai ông đến Sêrepta bởi vì thành phố này được cung cấp lương thực dồi dào. Không, ở đó cũng vậy, người ta đã chết đói rồi. Vậy tại sao Thiên Chúa sai Êlia Tesbite tới đó?
Tại Sêrepta có một người đàn bà có con tim ngay thẳng, một bà góa thánh thiện, có một đứa con còn trẻ. Bà nghèo, cô đơn, nhưng không phản ngụy vì hình phạt kinh khủng này; không ích kỷ, dù đói, không bất tuân. Thiên Chúa muốn biệt đãi bà bằng cách cho bà ba phép lạ: một vì nước bà đã mang đến cho Êlia đang khát; phép lạ thứ hai vì cái bánh nhỏ nướng dưới tro khi bà chỉ có một nắm bột; phép lạ thứ ba vì sự tiếp đãi bà dành cho vị tiên tri. Người đã cho bà bánh và dầu, sự sống cho con trai bà và sự được biết lời của Thiên Chúa.
Các con thấy là một hành vi bác ái, không phải chỉ cho bà được no thân xác và lấy đi cái đau đớn của sự chết, mà còn giáo hóa tâm hồn trong sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Các con đã dành chỗ ở cho các tôi tá Chúa, và Người cho các con lời khôn ngoan. Tại miền đất này, nơi mà Lời Chúa không tới được, thì đây, một hành động của lòng tốt đã đem nó tới. Thầy có thể so sánh các con với người đàn bà duy nhất ở Sêrepta, kẻ đã đón tiếp tiên tri. Cũng vậy, các con là những người duy nhất ở đây đón tiếp tiên tri, vì nếu Thầy vào thành phố, những người giầu và những
209
người quyền thế sẽ không đón tiếp Thầy; những thương gia bận rộn và những thủy thủ các tàu lớn sẽ dẹp Thầy qua một bên, và việc Thầy đến sẽ không có kết qủa gì.
Bây giờ Thầy sắp rời các con, và các con sẽ nói: “Nhưng chúng con là gì? Một nắm người. Chúng con có cái gì? Một giọt khôn ngoan!” Nhưng Thầy bảo các con: “Thầy để các con lại với trách vụ rao giảng giờ của Đấng Cứu Thế”. Thầy để các con lại trong khi nhắc lại cho các con các lời của Êlia: “Thùng bột sẽ không hết và dầu sẽ không thiếu cho tới lúc một đấng sẽ đến để phân phát rộng rãi”.
Các con đã làm rồi đó, vì ở đây có những người Phênici trà trộn với các con từ phía bên kia núi Carmel. Đó là dấu hiệu các con đã nói giống như người ta đã nói với các con. Các con thấy rằng nắm bột và giọt dầu không cạn kiệt, trái lại, nó không ngừng gia tăng. Các con hãy tiếp tục làm nó gia tăng. Và nếu các con thấy kỳ lạ là Thiên Chúa lựa chọn các con vào công việc này, trong khi các con cảm thấy không có khả năng thi hành, các con hãy nói lời của lòng trông cậy vĩ đại: “Con sẽ làm điều Thầy nói trong khi tín thác vào lời Thầy”.
- Thưa Thầy, nhưng chúng con phải xử với người ngoại giáo thế nào? Chúng con chỉ biết họ qua việc chài lưới, và công việc cũng tụ họp chúng con. Nhưng còn những chuyện khác? - một dân chài người Israel hỏi.
- Công việc cũng tụ họp các con, con đã nói. Vậy có phải cùng một nguồn gốc cũng phải tụ họp không? Thiên Chúa đã tạo dựng nên người Israel cũng như người Phênici; những người ở đồng bằng Saron hay ở miền núi xứ Juđê cũng không khác gì những người ở bờ biển này. Nước Thiên Đàng là cho tất cả các con cái loài người, và Con Người đến dẫn về Thiên Đàng hết mọi người. Mục đích là chinh phục nước Trời và làm đẹp lòng Chúa Cha. Như vậy các con thấy mình ở trên cùng một con đường. Hãy yêu nhau cách siêu nhiên giống như các con đã yêu nhau vì lý do công việc.
- Isaac đã nói với chúng con nhiều điều, nhưng chúng con muốn
210
biết thêm. Có thể cho chúng con một môn đệ ở với chúng con, vì chúng con ở qúa xa?
- Thầy ơi, hãy sai Gioan Enđo tới đi. Ông ta rất có khả năng, và ông ta có thói quen sống với dân ngoại - Judas Kêriot đề nghị.
- Không. Gioan ở lại với chúng ta - Giêsu trả lời cách qủa quyết. Rồi Người quay về với các người đánh cá: “Bao giờ thì hết mùa bắt sò huyết?”
- Vào các trận bão mùa thu. Vì từ sau đó ở đây biển sẽ rất động.
- Lúc đó các con sẽ trở về Sicaminon à?
- Về đó và về Cêsarê. Chúng con bán cá nhiều cho người Rôma.
- Vậy các con có thể gặp các môn đệ. Trong khi chờ đợi, hãy kiên trì.
- Có một người đang ở trên thuyền của con mà con không muốn. Và anh ta nói là anh ta đến vì danh Thầy.
- Ai vậy?
- Một dân chài ở Ascalon.
- Bảo anh ta lên bờ và lại đây.
Người đó xuống thuyền rồi trở lại với một chàng trai rất trẻ. Anh ta có vẻ bối rối vì thấy mình là đối tượng của qúa nhiều chú ý.
Tông đồ Gioan nhận ra anh ta: “Đó là một trong những người đã cho chúng con cá đó Thầy”. Và ông đứng dậy để chào: “Anh tới à Hermastê? Anh một mình à?”
- Một mình. Ở Caphanaum, tôi xấu hổ... nên tôi ở lại dọc bờ, hy vọng...
- Cái gì?
- Gặp thầy các ông.
- Vậy Người chưa là thầy của anh à? Bạn ơi, tại sao còn luẩn
quẩn mãi? Hãy đến với Ánh Sáng đang chờ anh. Hãy nhìn kìa, Người đang quan sát anh và mỉm cười.
- Người sẽ tiếp nhận tôi thế nào?
- Thầy ơi, lại đây với chúng con một lát.
Giêsu đứng dậy và tới chỗ Gioan.
- Anh ta không dám, vì anh ta người ngoại quốc.
211
- Không có ai là ngoại quốc đối với Thầy cả. Còn các bạn của con? Các con không đông người à?... Đừng lo, một mình con biết kiên trì. Nhưng Thầy vui mừng, dù là chỉ có mình con. Lại đây với Thầy.
Giêsu trở về chỗ Người với kẻ mới bị chinh phục.
- Anh này, đúng, anh này, chúng ta sẽ giao cho Gioan Enđo - Người nói với Iscariot. Rồi Người nói với mọi người:
- Một nhóm phu mỏ đi xuống trong một hầm mỏ mà họ biết là có một kho tàng, nhưng nó được giấu sâu trong đất. Họ bắt đầu đào. Nhưng đất rất cứng và công việc rất mệt nhọc. Một số đông nản lòng, quăng rìu bỏ đi. Có những người khác nhạo cười ông trưởng toán, coi ông ta như ngu ngốc. Một số khác đổ lỗi cho số phận, cho công việc, cho đất, cho kim loại. Một cách bực bội, họ đập vào đất, làm bể các mạch thành những mảnh vụn, không dùng được. Rồi thấy là mất công vô ích, họ cũng bỏ đi. Chỉ còn lại một người, người kiên trì nhất. Anh đào bới êm đềm những lớp đất cứng để xuyên qua nó mà không làm hư một cục đất nào. Anh ta thử đi thử lại, đào bới sâu hơn. Sau cùng, anh khám phá ra được một mạch kim qúi tuyệt vời. Sự kiên trì của người thợ mỏ này đã được thưởng. Và với cái kim loại rất tinh ròng mà anh ta đã khám phá, anh ta có thể tạo ra nhiều công việc, được vẻ vang và có nhiều khách hàng, bởi vì mọi người đều muốn có thứ kim loại này, mà chỉ có kẻ kiên trì biết tìm ra tại nơi mà những kẻ khác, vì lười biếng hay vì cáu giận, đã chẳng kiếm được.
Nhưng vàng được khám phá, muốn cho đẹp để người thợ kim hoàn có thể dùng, đến lần nó cũng phải kiên trì trong việc để cho người ta làm. Nếu vàng, sau việc khám phá đầu tiên, không muốn chịu khổ nữa, nó chỉ là kim loại thô mà người ta không sử dụng được. Vậy các con thấy rằng cái thiện cảm đầu tiên không đủ để thành công, chẳng trở nên tông đồ, chẳng là môn đệ, chẳng là tín hữu. Phải kiên trì.
Có nhiều người đã là bạn của Hermastê, và trong ngọn lửa thiện cảm, tất cả đã hứa là sẽ đến, nhưng chỉ có mình anh ta đến. Có
212
nhiều người là môn đệ Thầy, và họ càng ngày càng đông, nhưng chỉ có một phần ba trong số một nửa là trung thành tới cùng. Kiên trì, đó là từ ngữ lớn trong mọi điều thiện.
Các con, trong khi các con quăng chiếc lưới ba lớp để bắt các con sò huyết, có phải các con chỉ quăng một lần thôi sao? Không. Nhưng lần nọ sau lần kia, trong nhiều giờ, trong nhiều ngày, trong nhiều tháng, luôn luôn sẵn sàng để năm tới trở lại nơi đó, vì việc đó cho các con và gia đình các con có bánh ăn và sự dễ chịu. Vậy lẽ nào các con lại muốn hành động cách khác đối với những việc to lớn hơn, là lợi ích của Thiên Chúa và của tâm hồn các con nếu các con chỉ là tín hữu; và lợi ích của tâm hồn các con và của anh em các con, nếu các con là những môn đệ. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng để bắt các con sò huyết cho chiếc áo vĩnh cửu, phải kiên trì tới cùng.
Bây giờ các con hãy cư xử với nhau như những bạn tốt cho tới giờ trở về, như vậy chúng ta sẽ biết nhau hơn và sẽ dễ dàng nhận ra nhau hơn...
Họ tản mát trong cái vịnh nhỏ đầy đá, họ nướng sò và cua bắt ở bãi đá, và các con cá bắt được bằng những lưới nhỏ. Họ ngủ trên giường bằng rong biển phơi khô ở bên trong các hang được mở ra do động đất hay sóng biển tại bãi đá, trong khi trời và biển có một mầu xanh chói loà ôm nhau tại chân trời, các con hải âu tiếp tục thao diễn đường bay từ biển tới tổ trong khi vỗ cánh và kêu la một giọng duy nhất, cùng với tiếng bập bềnh của sóng trong những giờ ngột ngạt của sức nóng mùa hè này.
115* VỚI CÁC MÔN ĐỆ Ở SICAMINON: ĐỨC TIN
Các người ở Sicaminon bị lôi kéo vì tò mò, đã đến ngồi suốt ngày tại nơi các môn đệ ở để chờ Thầy về. Nhưng các bà môn đệ, trong khi chờ đợi, đã không để mất thời giờ của họ, các bà đã giặt những quần áo dính đầy bụi và ẩm mồ hôi tại cái bãi nhỏ, nên có
213
một sự trưng bày vui mắt của các y phục phơi trong gió dưới mặt trời. Bây giờ buổi chiều sắp tới, nó cho ta cảm thấy cái ẩm ướt mặn, vì thế các bà vội vã gom những quần áo, dù còn hơi ẩm. Các bà đập nó và kéo theo mọi chiều trước khi gấp, để nó có vẻ được đàng hoàng đối với các sở hữu chủ khả kính.
- Mang ngay quần áo cho Maria đi! - Maria Alphê nói, và bà thêm: “Điều đó đã là một hy sinh lớn lao cho nó, hôm qua và hôm nay, ở trong một cái lều thiếu không khí”.
Như vậy tôi hiểu là sự vắng mặt của Giêsu đã kéo dài hơn một ngày rồi, và trong thời gian đó, Maria Magđala, vì chỉ có một bộ đồ duy nhất, đã phải nấp trong lều cho tới khi bộ đồ đi mượn của bà đem giặt kịp khô.
Suzane trả lời: “May thay, nó không bao giờ phàn nàn! Không bao giờ tôi nghĩ là nàng tốt đến vậy”.
- Và cũng khiêm nhường và thận trọng nữa, chị phải nói vậy. Đứa con gái tội nghiệp! Đúng là ma qủi đã quấy quất nó. Được Giêsu của tôi giải phóng cho, nó lại trở nên chính nó, chắc chắn đến nỗi nó nên giống như đứa con gái nhỏ.
Hai bà vừa nói vừa trở lại nhà, mang theo quần áo đã giặt.
Trong lúc đó, tại nhà bếp, Matta bận sửa soạn đồ ăn trong khi Đức Trinh Nữ rửa rau trong một cái chậu đồng, rồi sau đó bỏ vào nồi nấu cho bữa ăn tối.
- Đây, tất cả đều khô, tất cả đều sạch và gấp thứ tự. Có những người cần. Đi tìm Maria và đưa cho nó bộ đồ của nó - Suzane vừa nói vừa trao quần áo cho Matta.
Sau một lát, hai chị em trở lại với nhau: “Cám ơn cả hai vị. Quần áo em từ mấy ngày rồi em không thay, đó là một hy sinh nặng nề nhất”. Maria Magđala mỉm cười nói: “Bây giờ em thấy như tươi mát lại”.
- Em ra ngồi ở ngoài cho mát, em cần, sau một thời gian qúa dài bị nhốt - Matta nhận xét. Vì bà nhỏ con hơn và ít nẩy nở hơn em bà nên bà có thể mặc đồ của Suzane hay Maria Alphê khi bà đem giặt đồ của bà.
214
- Lần này thì chúng ta xoay xở như vậy, nhưng trong tương lai, chúng ta sẽ mang cái giỏ nhỏ của chúng ta như mọi người khác, và chúng ta sẽ không bị cái phiền này - Maria Mađalêna nói.
- Thế nào? Em tính theo Thầy với chúng ta à?
- Đương nhiên, nếu Thầy không truyền cho em điều ngược lại. Bây giờ em ra bãi coi họ về chưa. Các vị có trở về chiều nay không?
- Mẹ hy vọng - Đức Trinh Nữ trả lời. “Mẹ lo vì Người đi Phênici, nhưng mẹ nghĩ Người đi với các tông đồ, và mẹ cũng nghĩ có lẽ người Phênici còn tốt hơn bao người khác nữa. Nhưng mẹ muốn Người về, vì có những kẻ đang chờ Người. Khi mẹ đi ra phông-ten, có một bà mẹ giữ mẹ lại và nói: ‘Bà ở với ông thầy người Galilê, người mà người ta gọi là Messi phải không? Vậy xin đến coi con tôi, đã một năm rồi, bệnh sốt hành hạ nó’. Mẹ đi vào một căn nhà nhỏ. Đứa trẻ tội nghiệp! Người ta nói đó là một bông hoa nhỏ đang chết. Mẹ sẽ nói với Giêsu”.
Matta nói: “Cũng có những người khác nữa xin chữa bệnh, xin chữa bệnh nhiều hơn là giáo huấn”.
- Người ta khó lòng có thể là hoàn toàn siêu nhiên. Họ nghe tiếng gọi của thân xác và của nhu cầu nhiều hơn.
- Nhưng nhiều người, sau phép lạ, sinh ra trong đời sống siêu nhiên.
- Đúng, Matta ạ. Vì vậy mà con Mẹ làm biết bao phép lạ, vì lòng tốt đối với loài người, nhưng cũng để nhờ phương thế này mà lôi kéo họ vào con đường của Người, nếu không thì một số qúa đông người không theo.
Gioan Enđo trở về. Ông không đi với Giêsu. Có nhiều người môn đệ ở với ông. Họ đi về phía những căn lều nhỏ mà họ cư ngụ. Hầu như cùng một lúc, Mađalêna trở lại và nói: “Họ về. Đó là năm chiếc thuyền đã đi lúc bình minh ngày hôm qua. Con nhận ra họ rõ ràng”.
- Các vị chắc mệt và khát. Tôi đi lấy thêm nước. Nước phôngten rất mát - Maria Alphê nói, và bà đi ra với các bình.
- Chúng ta ra đón Giêsu. Đi! - Trinh Nữ nói, và mẹ đi ra với Maria Mađalêna và Gioan Enđo, vì Matta và Suzane phải ở lại bên
215
lò. Tất cả đều đỏ bừng và rất bận rộn để hoàn tất việc chuẩn bị cho bữa ăn.
Khi đi men theo bờ, họ tới một cái đập nhỏ, nơi những thuyền đánh cá khác đã về và đang nghỉ ở đó. Từ một đầu, người ta nhìn thấy hết cái vịnh và thành phố đã cho cái vịnh tên của nó. Người ta cũng nhìn thấy năm chiếc thuyền chạy mau lẹ, hơi xiêu vẹo trong lộ trình của nó. Các cánh buồm căng phồng bởi gió bắc, rất có lợi và làm nhẹ nhõm cho những người bị sức nóng đè nặng.
- Hãy nhìn kìa! Simon và những người khác xoay xở khéo chừng nào! Họ bám sát thuyền hoa tiêu. Đó, họ đi qua chỗ tảng đá ngầm rồi. Bây giờ họ cua ra ngoài để đi vòng quanh dòng nước chảy rất mạnh ở chỗ này. Đó, bây giờ tất cả đều an toàn, chỉ lát nữa là họ ở đây - Gioan Enđo nói. Qủa vậy, các chiếc thuyền càng lúc càng gần, và người ta phân biệt được các người trên đó: Giêsu ở trong thuyền đầu tiên với Isaac. Người đứng, và khổ người cao ráo của Người hiện ra trong tất cả vẻ oai phong, cho tới khi những chiếc buồm mà người ta hạ xuống che khuất Người trong vài phút. Chiếc thuyền bẻ cua, quay để cập vào cái đập nhỏ, đi qua ngay trước các bà đang đứng trên đập. Giêsu mỉm cười để chào họ trong khi họ bước lẹ để tới cùng một lúc với chiếc thuyền tại chỗ đổ bộ.
- Chúa chúc lành cho Con, Con mẹ - Maria nói để chào Giêsu khi Người bước xuống cảng.
- Chúa chúc lành cho Má, Má của con. Má lo à? Tại Siđon, không có những người chúng con tìm. Chúng con đã trở về Tyr, và chúng con tìm thấy họ ở đó. Lại đây, Hermastê... Đây, Gioan, người trai trẻ này muốn được dạy bảo. Thầy giao nó cho con.
- Con sẽ không làm Thầy thất vọng trong việc dạy dỗ lời Thầy cho nó. Cám ơn Thầy. Có nhiều người đang chờ Thầy - Gioan Enđo nói.
- Con ơi, cũng có một đứa trẻ tội nghiệp lắm! Mẹ nó ước ao Con.
- Con tới ngay lập tức.
- Con biết ai rồi Thầy ạ. Con sẽ dẫn Thầy tới đó. Cậu cũng lại đây, Hermastê. Hãy bắt đầu biết lòng nhân từ vô biên của Chúa -
216
người Enđo nói.
Từ chiếc thuyền thứ hai đi lên là Phêrô, chiếc thứ ba là Giacôbê, chiếc thứ bốn là Andrê, chiếc thứ năm là Gioan. Bốn vị hoa tiêu cùng với các tông đồ và các môn đệ đi theo họ. Tất cả đều tụ tập chung quanh Giêsu và Maria.
- Hãy về nhà. Thầy cũng sẽ về ngay. Trong lúc đó, hãy sửa soạn mọi cần thiết cho bữa ăn. Hãy nói với những người đang chờ là Thầy sẽ nói vào cuối buổi chiều.
- Nếu có những bệnh nhân?
- Thầy sẽ bắt đầu bằng việc chữa họ, ngay cả trước bữa ăn, để họ được sung sướng trở về nhà.
Họ chia tay. Giêsu đi với người Enđo và Hermastê vào thành phố. Những người khác trở lại cái bãi đầy đá, kể lại tất cả những gì họ đã thấy và đã nghe, thỏa mãn như các đứa trẻ trở về nhà mẹ. Judas Kêriot cũng bằng lòng. Ông mở ra tất cả những món tiền mà các người bắt sò huyết đã muốn biếu Người, nhất là một bọc nhỏ của một thứ nguyên liệu qúi.
- Cái này là để cho Thầy. Nếu người không mang thì ai có thể mang. Họ đã gọi riêng con ra và nói: “Ở trong thuyền chúng tôi có những rãi sò qúi và chúng tôi có cả một viên ngọc trai. Nghĩ coi, cả một kho tàng đó! Tôi không biết làm sao một kho tàng như vậy lại đến với chúng tôi. Nhưng chúng tôi sẵn sàng tự nguyện biếu cho Thầy. Hãy tới coi”. Con tới đó với họ để làm họ vui lòng trong khi Thầy lui vào một cái hang đá để cầu nguyện. Có những rãi sò rất đẹp và một viên ngọc trai, không lớn nhưng đẹp. Con nói với họ: “Các anh đừng mất những thứ này. Thầy không mang đồ trang sức. Tốt hơn, hãy cho tôi một ít cái sợi tía này, người ta sẽ làm đồ trang điểm cho y phục của Người”. Họ chỉ có một gói duy nhất này, và họ muốn đưa tất cả cho con với bất cứ giá nào. Mẹ à, mẹ cầm lấy đi, và làm đẹp, như mẹ biết làm, cho Chúa chúng ta. Nhưng mẹ hãy làm đi. Mẹ biết không? Nếu người nhìn thấy, Người sẽ bảo bán đi cho người nghèo. Nhưng với chúng con, chúng con sung sướng thấy Người mặc đồ như Người đáng, phải không?
217
- Ồ, đúng. Thật vậy. Tôi, tôi khổ khi thấy Người qúa đơn giản ở giữa những người khác. Người là vua, họ còn kém hơn nô lệ, nhưng tất cả đều quấn băng và rực rỡ. Và chúng nhìn Người như một người nghèo không xứng đáng với chúng! - Phêrô nói.
- Anh đã thấy đó, hen! Các lãnh chúa thành Tyr đã cười khi chúng ta cho các người đánh cá giải tán? - Em của ông nói.
Giacôbê Zêbêđê tuyên bố: “Tôi đã nói với chúng: ‘Hãy xấu hổ, hỡi các ông là loài chó. Một sợi vải của y phục trắng của Người còn cao giá hơn tất cả những đồ hèn của các ông!’”
- Bởi vì Judas đã có thể có những đồ này, con thích rằng mẹ sửa soạn nó cho Lễ Lều - Juđa Thađê nói.
- Mẹ chưa bao giờ xe sợi với loại chỉ tía này. Nhưng mẹ sẽ thử... - Đức Trinh Nữ nói khi rờ vào mớ sợi mềm mướt như lụa, nhẹ nhàng, mịn màng với mầu sắc tuyệt vời.
- Người vú nuôi của con rất rành việc đó - Maria Mađalêna, chuyên viên về sắc đẹp nói. “Chúng ta sẽ gặp bà tại Cêsarê. Bà sẽ chỉ cho mẹ, mẹ sẽ học làm rất lẹ, vì mẹ biết làm tất cả cách hoàn toàn. Con, con sẽ đặt một cái băng ở cổ áo, ở cửa tay áo và ở gấu áo. Mầu đỏ tía trên vải rất trắng hay len rất trắng, với những câu thánh vịnh và những hình hoa hồng, giống như trên đá cẩm thạch của nơi thánh, và với cái nơ của Đavít ở giữa, như vậy sẽ rất đẹp”.
Matta nói: “Mẹ chúng con đã vẽ cái mẫu này, vì vẻ đẹp của nó, trên y phục của Lazarô khi anh mặc trong cuộc hành trình về đất Syrie khi anh hưởng gia tài ở đó. Con còn giữ nó, vì đó là công việc sau cùng của má con. Con sẽ gởi nó cho mẹ”.
- Mẹ sẽ làm nó trong khi cầu nguyện cho má các con.
Họ đã về tới nhà. Các tông đồ phân tán ra để tụ họp những người muốn Thầy, đặc biệt là các bệnh nhân.
Giêsu trở về cùng với Gioan Enđo và Hermastê. Người đi qua trong khi chào, ở giữa những người đang chen chúc trước các căn nhà nhỏ. Nụ cười của Người là một phúc lành.
Người ta trình cho Người một người bị bệnh đau mắt gần mù, sau một cơn đau mắt có mủ lở loét, và Người chữa họ. Tiếp đó đến
218
lần một người, chắc chắn bị sốt rét rừng, gầy và vàng như người Tàu, và Người chữa nó. Rồi đến một người đàn bà xin Người một phép lạ hy hữu: có sữa cho vú của bà vì bà thiếu. Bà chìa ra một đứa con mới sinh được mấy ngày, bị thiếu ăn, đỏ bừng như bị hấp nóng. Bà khóc: “Thầy thấy đó, chúng con có giới răn phải vâng lời người chồng để đồng tạo dựng, nhưng điều đó để làm gì nếu sau đó chúng con thấy con của chúng con suy nhược? Đây là đứa thứ ba mà con đã cưu mang, và con đã đem ra mồ hai đứa tại vì cái vú son sẻ này. Đứa này như đã chết, vì nó sinh ra vào mùa nóng. Hai đứa kia đã sống, một đứa được mười tuần trăng, một đứa được sáu, để con phải khóc nhiều hơn khi chúng nó phải chết vì bệnh ruột. Nếu con có sữa, điều đó đã không xảy ra”.
Giêsu nhìn bà và nói: “Con con sẽ sống. Hãy tin. Hãy về nhà con, và khi về tới nơi thì hãy cho đứa bé bú vú. Hãy tin”.
Người đàn bà vâng lời đi ra với đứa bé rên rỉ như con mèo con mà bà ôm ghì vào lòng bà.
- Nhưng sữa sẽ đến cho bà không?
- Chắc chắn là sẽ có.
- Tôi, tôi cho là đứa bé sẽ sống, nhưng sữa sẽ không có. Và như
vậy cũng là một phép lạ nữa nếu nó sống. Có thể nói nó chết vì thiếu sữa.
- Không phải vậy. Tôi nói là bà sẽ có sữa.
- Đúng.
- Không đúng.
Ý kiến thay đổi khác nhau trong đám họ. Trong lúc đó, Giêsu lui vào để dùng bữa. Khi Người trở ra để giảng, người ta còn đến đông hơn, vì phép lạ Người làm cho đứa bé bị sốt từ lúc Người vừa lên khỏi thuyền, đã lan ra trong thành phố.
- Thầy cho các con sự bình an để chuẩn bị lòng trí các con nghe lời Thầy. Trong giông tố, lời Chúa không thể tới. Mọi xao xuyến làm tổn hại cho sự khôn ngoan, vì khôn ngoan là sự bình an, vì nó đến từ Thiên Chúa. Trái lại, sự xao xuyến không đến từ Thiên Chúa, vì những áy náy, lo lắng, nghi ngờ, là tác phẩm của đứa qủi
219
quyệt, để quấy quất con người và làm cho họ xa lìa Thiên Chúa.
Thầy đề nghị cho các con dụ ngôn này để các con hiểu lời giáo huấn hơn:
Một người nông dân có trong cánh đồng của ông rất nhiều cây to lớn và những cây nho rất sai trái. Trong số những cây nho này, có một cây có giá trị rất lớn mà ông ta rất hãnh diện.
Có một năm, cây nho này nảy lộc rất nhiều, nhưng chỉ có một ít trái. Một người bạn nói với người nông dân: “Bởi vì anh tỉa ít quá”. Năm sau đó, ông tỉa rất kỹ, nhưng cây nho chỉ mọc một ít cành, và trái thì càng ít hơn. Một người bạn khác nói: “Bởi vì anh đã tỉa qúa nhiều”. Năm thứ ba, người đó để yên như vậy, không tỉa gì nữa. Cây nho không trổ lấy một chùm trái nào, và chỉ có một ít lá mỏng nhỏ, quăn, và có những dấu vàng uá. Một người bạn thứ ba tuyên cáo: “Cây nho chết bởi vì đất không tốt. Anh chỉ còn có việc đốt nó đi”.
- Nhưng tại sao cùng một thứ đất như các cây khác, và tôi làm cùng một kiểu chăm bón, và những năm đầu thì thu hoạch rất tốt?
- người bạn nhún vai bỏ đi.
Một người du hành không quen biết đi qua đó, ông ta dừng lại để quan sát người nông dân đang buồn rầu tựa vào thân một cây nho khốn nạn.
- Anh làm gì đó? Trong nhà có người chết à? - người bộ hành hỏi ông ta.
- Không, nhưng cây nho này đang chết. Mà tôi thích nó lắm! Nó không còn nhựa để sinh trái. Một năm chỉ có một ít, rồi năm ngoái ít hơn, năm nay không có lấy một trái! Tôi đã làm tất cả những gì người ta bảo tôi, nhưng vô ích.
Người du hành đi vào cánh đồng và lại gần cây nho. Ông rờ vào lá, cầm trong tay một nắm đất, ngẫn nghĩ nó, bóp nó trong tay. Rồi ông ngước mắt lên nhìn cái cây to đang nâng đỡ cho cây nho.
- Phải đào cái cây này đi. Chính nó làm cho cây nho không sinh trái được.
- Nhưng cây nho bám vào nó từ bao năm rồi.
220
- Ông hãy trả lời tôi: khi ông trồng cây nho này tại đây thì cây nho thế nào, và cái cây cao lớn này thế nào?
- Ồ, lúc đó nó là một cây nho rất đẹp mới được ba năm. Tôi đã đánh nó từ một vườn nho khác của tôi và trồng nó ở đây. Tôi đã đào lỗ sâu để không làm hư rễ, và đánh nó từ miền đất mà nó đã mọc lên. Ở đây cũng vậy, tôi đã đào một cái lỗ tương tự, và cả đến còn lớn hơn, để nó được thoải mái ngay. Và trước đó, tôi đã xới đất khắp chung quanh để nó mềm, cho rễ phát triển mau lẹ không khó khăn. Tôi đã cẩn thận đổ phân ải ở dưới lỗ. Ông biết, các rễ sẽ mạnh khi nó tìm được đồ ăn. Tôi ít chăm sóc đến cái cây du này, đó là một cây mạnh loại mộc, chỉ dùng để nâng đỡ cành nho. Cũng vậy, tôi đã trồng nó trên mặt đất gần cây nho, tôi vun gốc cho nó rồi tôi đi. Cả hai đều đâm rễ, vì đất tốt. Cây nho phát triển từ năm nọ qua năm kia, được thương yêu, tỉa cành, nhổ cỏ. Trái lại, cây du trụ, tôi để thây kệ như nó muốn!... Rồi nó trở nên lực lưỡng. Bây giờ ông coi đó, nó đẹp chừng nào? Khi tôi ở xa về, tôi thấy tàn lá nó vươn lên cao, cao như cái tháp. Người ta bảo đó là cái bảng hiệu của vương quốc nhỏ của tôi. Trước kia thì cây nho bao phủ nó, người ta không nhìn thấy các lộc non của nó. Nhưng bây giờ ông coi: nó đẹp chừng nào ở trên kia, dưới ánh mặt trời! Và cái thân của nó vươn lên mạnh chừng nào! Nó có thể nâng đỡ cây nho từng bao năm và từng bao năm, dù cây nho có trở nên mạnh và sai trái như các cây mọc trên bờ suối mà các nhà thám hiểm Israel đã gặp. Nhưng trái lại...
- Nhưng trái lại, nó đã giết chết cây nho, đã làm cây nho bị ngộp. Tất cả đều có lợi cho sự sống của nó: đất đai, hoàn cảnh, ánh sáng, mặt trời, những săn sóc mà ông dành cho cây nho. Nhưng nó đã giết chết cây nho. Nó đã trở nên quá mạnh. Nó đã mọc rễ chằng chịt tới nỗi làm ngộp cây nho. Nó đã rút hết chất bổ của đất. Nó đã đặt một cái ngàm để ngăn cản cây nho thở và hưởng ánh mặt trời. Hãy chặt ngay cái cây mạnh mẽ và vô ích này đi, và cây nho của ông sẽ phục sinh. Nếu tốt hơn, và nó sẽ phục sinh mạnh hơn, nếu với lòng kiên nhẫn, ông bới hết các rễ của cây du này và chặt đi, để chắc chắn là nó không nảy chồi nữa. Những nhánh rễ sau cùng
221
của nó sẽ thối ở trong đất, và thay vì làm cho chết, nó sẽ cho sự sống, vì chúng trở thành phân, phần phạt xứng đáng cho sự ích kỷ của nó. Thân của nó, ông sẽ đốt đi, như vậy ông cũng lợi dụng được nó. Một cây vô ích và nguy hại thì chỉ dùng được cho lửa. Và phải tiêu diệt nó đi, để tất cả những gì tốt thì đi vào cây tốt và hữu ích. Hãy tin vào những gì tôi nói, và ông sẽ bằng lòng.
- Nhưng ông là ai? Hãy nói cho tôi biết để tôi có thể tin.
- Tôi là sự khôn ngoan. Ai tin vào tôi sẽ được sự an toàn.
Và ông ta bỏ đi. Người đó còn hơi nghi ngại. Rồi ông quyết định cầm lấy cái cưa. Ông cũng gọi bạn bè để họ giúp một tay.
“Nhưng anh ngu qúa! Anh sẽ mất cây du cùng với cây nho”. “Tôi, tôi sẽ bằng lòng cắt cái ngọn đi để cho cây nho có không khí, không làm gì hơn nữa”. “Nhưng nó cần một cây để dựa! Anh làm một công việc vô ích”. “Ai biết kẻ nào đã khuyên anh như vậy? Có lẽ một người ghét anh mà anh không hay”. “Hay là một tên điên”. Và tiếp tục như vậy...
- Tôi làm điều ông ta nói. Tôi tin người này.
Và ông cưa cây du đi tới mặt đất. Và không bằng lòng như vậy, trong một vòng tròn rộng, ông bới rễ của cả hai loại cây ra, và một cách kiên nhẫn, ông cắt rễ của cây du và cẩn thận để không làm hư rễ của cây nho. Ông lấp cái lỗ lớn lại, và ông để cây nho không có cây giám hộ, chỉ có một cái cọc sắt cứng mang chữ: “Lòng Tin” trên tấm bảng nhỏ treo ở đầu cọc.
Những người khác lắc đầu ra đi. Mùa thu đi qua, rồi mùa đông cũng vậy. Xuân về, các cành quấn chung quanh cái cọc, trang điểm đầy chồi. Trước tiên còn khép kín như một cái túi nhung bạc. Rồi nó hé mở ra, xuất hiện những chiếc lá mầu ngọc bích. Rồi nó xòe ra, và từ thân cây chồi ra những cành mới đầy sinh lực, phủ đầy những bông hoa tí hon, rồi vô số kể những trái nho. Chùm nho nhiều hơn số lá, chùm nào chùm nấy lớn, xanh, nở phình, với những nhóm hai ba chùm một và còn hơn nữa. Mỗi chùm mang trái xúm xít vào nhau, những trái nho đầy thịt, ngon lành, bóng mọng.
Người đó nói với các bạn cứng lòng tin của ông: “Bây giờ các
222
bạn nói sao? Đúng hay sai: cây du đã làm chết cây nho của tôi? Đúng hay sai, người Khôn Ngoan đã nói lẽ phải? Đúng hay sai tôi đã có lý để viết trên tấm bảng tiếng Lòng Tin”?
- Anh có lý. Phúc cho anh vì đã biết tin và có năng lực để phá bỏ qúa khứ và những thứ nguy hại mà anh đã nói.
Đó là dụ ngôn. Về sự kiện người đàn bà có cặp vú khô, đây, câu trả lời. Hãy nhìn về phía thành phố.
Mọi người đều quay mặt về phía thành phố và thấy người đàn bà lúc nãy đang chạy. Trong lúc chạy, bà không gỡ miệng đứa bé ra khỏi cái vú căng tròn, đầy sữa đến nỗi đứa bé đói khát mút một cách tham lam, làm như nó muốn chết ngộp ở đó. Người đàn bà chỉ dừng lại ở chân Giêsu, trước mặt Người, bà gỡ miệng đứa bé ra một lát và kêu: “Xin chúc phúc! Xin chúc phúc! Để nó sống cho Thầy!”
Sau màn phụ diễn này, Giêsu tiếp tục: “Và với những ức đoán của các con về phép lạ, các con đã có câu trả lời. Nhưng dụ ngôn có một ý nghĩa rộng rãi hơn là giai đoạn nhỏ của một lòng tin được thưởng, và nó là đây: Thiên Chúa đã trồng cây nho của Người, là dân Người, tại một nơi thuận tiện. Người cung cấp cho nó hết những sự cần để phát triển và cho hoa trái luôn luôn lớn hơn, bằng cách để nó tựa vào những bậc thầy, để nó có thể hiểu Lề Luật dễ dàng hơn và lấy được sức mạnh ở đó. Nhưng các ông thầy đã muốn đặt mình ở bên trên người làm luật, và họ tin, tin, tin đến nỗi tự bắt người ta thừa nhận mình hơn là các lời vĩnh cửu. Và Israel đã trở nên son sẻ. Khi đó Chúa sai Đấng Khôn Ngoan tới, để những kẻ trong Israel có tâm hồn ngay thẳng, đang chịu đựng sự son sẻ này, và đang thử nghiệm phương thuốc nọ phương thuốc kia theo lời dạy hay lời khuyên của các ông thầy, được cung cấp bởi khoa học nhân loại chứ không phải bởi khoa học siêu nhiên, và vì vậy, đi xa những hiểu biết về những điều phải làm để trả lại đời sống tinh thần cho Israel, có thể có được những lời khuyên thực sự cứu rỗi.
Và cái gì đã xảy đến cho nó? Tại sao Israel không lấy lại được sức mạnh và không trở nên cường tráng như thời vàng son, lúc họ
223
còn trung thành với Chúa? Bởi vì phải có một cố vấn lấy đi cho họ những thứ ký sinh qúa phát triển, làm thiệt hại cho những điều thánh là Luật của Thập Giới đúng như nó đã được ban bố, không điều giải, không loanh quanh, không giả hình. Phải lấy nó đi để dành không khí, khoảng trống, đồ ăn cho cây nho, cho dân Chúa, bằng cách cho họ một vị giám hộ mạnh, ngay chính, không thối lui. Một vị giám hộ duy nhất nhân danh mặt trời: Đức Tin. Nhưng vị cố vấn này, người ta không chấp nhận.
Vì vậy Thầy bảo các con: Israel sẽ bị diệt, trong khi nó có thể phục sinh và chiếm hữu Nước Thiên Chúa, nếu nó biết tin, thống hối và thay đổi từ căn bản một cách quảng đại.
Hãy đi trong bình an và nguyện Thiên Chúa ở cùng các con.
116* GIÊSU NÓI VỚI MARIA MAĐALÊNA:
“THẦY SẼ LÀM VIỆC CHO CON
BẰNG LỬA VÀ TRÊN CÁI ĐE”
Trời hãy còn là đêm, một đêm rất đẹp với trăng đang lặn. Một cách lặng lẽ, Giêsu với các tông đồ, các phụ nữ, cùng với Gioan Enđo và Hermastê chào từ biệt Isaac, người duy nhất đã thức giấc. Và họ bắt đầu bước dọc theo bờ biển. Tiếng động của các bước chân chỉ nghe rào rào nhẹ trên đá sỏi mà các đôi xăng đan đặt lên. Không ai nói gì cả cho tới khi họ đi ra khỏi căn nhà nhỏ sau cùng mấy mét. Chắc chắn những người đang ngủ trong nhà này cũng như các nhà trước không nhận ra sự ra đi yên lặng của Thầy và các bạn Người. Sự yên lặng thật là sâu xa. Chỉ có biển nói với trăng sắp lặn, và nó kể với bãi cát những câu chuyện về đáy sâu của nó bằng những đợt sóng kéo dài của thủy triều vừa bắt đầu lên, để lại trên bãi một khoảng trống khô càng lúc càng hẹp.
Lần này các bà đi trước với Gioan, Zêlote, Juđa Thađê và Giacôbê Alphê. Họ giúp các bà vượt qua những tảng đá rải rác đó đây, ướt vì muối và trơn trượt. Zêlote đi với Maria Mađalêna, Gioan
224
với Matta trong khi Giacôbê Alphê săn sóc mẹ ông và Suzane, còn Thađê thì không chịu nhường cho ai vinh dự được cầm trong bàn tay dài và lực lưỡng hơi giống bàn tay Giêsu của ông, bàn tay nhỏ nhắn của Maria để giúp mẹ trong đoạn đường khó khăn. Mỗi người nói nhỏ tiếng với người bạn đi kèm của mình. Hình như mọi người đều kính trọng giấc ngủ của trái đất.
Zêlote nói không ngừng với Maria Magđala, và tôi thấy nhiều lần Simon mở cánh tay ra như muốn diễn tả: “Như vậy đó, không phải làm gì khác hơn”, nhưng tôi không nghe thấy, vì họ ở xa về phía trước.
Gioan chỉ thỉnh thoảng mới nói với Matta, người mà ông đi kèm, trong khi chỉ cho bà biển và ngọn Carmel mà bờ dốc quay về phía mặt trời lặn, hãy còn nhận được ánh sáng bạc của mặt trăng. Có lẽ ông nói về con đường ông đã đi trước khi đi vòng núi Carmel ở phía bên kia.
Giacôbê cũng vậy, ông đi ở giữa Maria Alphê và Suzane, nói về Carmel. Ông nói với mẹ ông: “Giêsu đã hứa với con là sẽ lên đó một mình với con, để nói với con một điều, chỉ một mình con thôi”.
- Con ơi, Người muốn nói gì với con? Sau đó con sẽ nhắc lại với má chứ?
- Má ơi, nếu đó là một điều bí mật thì con không thể nói - Giacôbê trả lời trong một nụ cười rất tình cảm, nụ cười hơi giống của Giuse phu quân của Maria. Nó rất dễ cảm về các nét, và còn hơn nữa, về sự êm dịu bình an của nó.
- Đối với người mẹ thì đâu có gì là bí mật.
- Qủa vậy, con không có gì bí mật, nhưng nếu Giêsu muốn dẫn con lên đó để nói chuyện một mình với con, đó là dấu hiệu Người không muốn cho ai biết điều Người nói với con. Và má, má à, má là người mẹ rất thân yêu của con mà con yêu chừng nào, nhưng Giêsu ở bên trên má, và cả ý muốn của Người nữa. Nhưng khi tới lúc đó, con sẽ hỏi Người xem con có thể nói với má những lời của Người không. Má bằng lòng chưa?
- Con sẽ quên hỏi Người...
225
- Không đâu má. Con không bao giờ quên má, dù là má ở xa con. Khi con nghe nói hay nhìn thấy cái gì đẹp, con luôn luôn nghĩ: “Nếu có má ở đây!”
- Con cưng của má! Cho má cái hôn đi!
Maria Alphê cảm động. Nhưng sự cảm động không giết chết sự tò mò, nên bà lại tấn công trở lại sau một lúc yên lặng: “Con đã nói: Ý muốn của Người. Như vậy con đã hiểu là Người muốn diễn tả cho con một trong những điều Người muốn. Vậy ít nhất là điều đó, con có thể nói. Điều đó Người đã nói với con trước mặt mọi người”.
- Nói đúng ra, con chỉ ở trước mặt có một mình Người - Giacôbê nói trong khi mỉm cười.
- Nhưng những người khác có thể nghe.
- Má ơi, Người không nói với con nhiều đâu. Người đã nhắc lại cho con những lời nói và lời cầu nguyện của Êlia trên núi Carmel: “Các tiên tri của Chúa, chỉ còn lại mình con”. “Xin nhận lời con để dân Chúa biết rằng Ngài là Chúa, Thiên Chúa”.
- Vậy Người muốn nói gì?
- Biết bao điều má! Má muốn biết à? Vậy hãy tới hỏi Giêsu, Người sẽ nói cho má - Giacôbê nói để tránh né câu hỏi.
- Người muốn nói rằng bởi vì ông Tẩy Giả đã bị bắt, chỉ còn mình Người là tiên tri trong Israel, và Thiên Chúa phải bảo trì Người lâu dài để dân được dạy dỗ - Suzane nói.
- Hum! Tôi khó lòng tin được là Giêsu cầu xin để sống lâu năm. Với Người, Người chẳng xin gì cả. Nào, Giacôbê của má, nói điều đó cho má con đi!
- Má à, sự tò mò là một khuyết điểm. Đó là một điều vô ích, nguy hiểm, và đôi khi đau thương. Hãy làm một cử chỉ hy sinh đẹp đi...
- Trời ơi! Người không có ý nói là em con sẽ bị tù đày, hay có lẽ sẽ bị giết chứ? - Maria Alphê hỏi, hoàn toàn bối rối.
- Má ơi, Juđa đâu có phải là “Tất cả các tiên tri”, dù là vì tình yêu của má, mỗi đứa con của má đều là một toàn thể thế giới.
- Má cũng nghĩ đến những người khác nữa, bởi vì... bởi vì chắc
226
chắn các con thuộc về thành phần các tiên tri trong tương lai. Vậy thì... Vậy thì... nếu con ở lại một mình... Nếu con, con ở lại một mình, có nghĩa là những người khác, nghĩa là Juđa của tôi... Ôi!...
Maria Alphê bỏ rơi Giacôbê và Suzane, và lẹ làng giống như một cô gái trẻ, bà chạy về phía sau, không nghĩ gì tới câu hỏi của Thađê. Bà tới nơi, giống như bị ai đuổi, vào nhóm của Giêsu.
- Giêsu của tôi! Tôi nói với con trai tôi... về điều Thầy đã nói với nó... về Carmel... và về Juđa. Cái gì sẽ xảy đến cho nó? Đó là con trai tôi, Thầy biết đó!
Bà nói trong khi thở dốc vì lo lắng và vì cái màn chạy bộ mà bà đã làm.
- Thầy biết, Maria, và Thầy cũng biết rằng bà sung sướng vì nó là tông đồ của Thầy. Bà thấy rằng bà có tất cả các quyền lợi của một bà mẹ, và Thầy, Thầy là thầy và là Chúa của chúng nó.
- Đúng vậy... Đúng vậy... Nhưng Juđa là con tôi! - Maria như hơi nhìn thấy tương lai, và bà khóc như mưa.
- Ôi! Những nước mắt đổ ra cách vô ích! Nhưng người ta tha tất cả cho con tim của một bà mẹ. Lại đây, Maria, đừng khóc. Thầy đã củng cố cho bà lần trước rồi. Lần đó cũng vậy, Thầy đã hứa với bà là nỗi đau đớn lớn lao mà bà cảm thấy, rất có gía trị trước mặt Thiên Chúa. Sẽ có những ân huệ lớn lao cho bà, cho Alphê của bà, cho các con bà... - Giêsu đã đặt tay Người trên vai bà bác của Người và lôi bà lại gần Người... Người ra lệnh cho những người đang đi với Người: “Các con đi lên trước đi...” Một mình Người với Maria Clêopha, Người bắt đầu nói: “Và Thầy đâu có nói dối. Alphê đã chết khi gọi Thầy, vì thế hết mọi nợ nần của ông đối với Thiên Chúa đều được hủy bỏ. Sự hoán cải này về người bà con không được biết, về Đức Messi mà ông đã không muốn biết trước đó, là do chính sự đau khổ của bác đã chiếm được đó bác Maria ạ. Bây giờ cái đau khổ mà bác đang cảm thấy sẽ làm cho thằng Simon do dự của bác, và thằng Giuse cứng đầu của bác, biết bắt chước Alphê”.
- Vâng, nhưng... Thầy sẽ làm gì cho Juđa, cho thằng Juđa của con?
227
- Thầy sẽ còn yêu nó hơn là Thầy yêu nó lúc này.
- Không, không. Có một sự đe dọa trong các lời Thầy. Ôi! Giêsu! Ôi! Giêsu!...
Đức Trinh Nữ cũng trở lại đàng sau để an ủi bà chị dâu của Người về sự đau khổ mà mẹ chưa biết nó là thế nào. Khi bà chị dâu của Người biết là Người đang ở bên cạnh bà, bà càng khóc to hơn và nói cho mẹ nghe. Khi mẹ biết, mẹ cũng trở nên tái xanh còn hơn mặt trăng. Maria Alphê rên rỉ: “Em, em nói với Người đi. Không, không, đừng để Juđa của chị chết...”
Trinh Nữ Maria càng lợt lạt hơn, nói với bà: “Em có thể nào xin điều đó cho chị nếu em đã không thể xin cho chính con trai em để nó được cứu khỏi cái chết? Maria, hãy nói cùng với em: Lạy Cha chúng con ở trên Trời, nguyện cho ý Cha được nên trọn trên trái đất và trong các con tim của các bà mẹ”. Hãy làm theo ý Thiên Chúa qua số phận của các đứa con. Đó là sự tử đạo của địa vị cứu chuộc của chúng ta, các bà mẹ... Và đàng khác... Người đâu có nói là Juđa phải bị giết hay là bị giết trước khi chị chết. Lời cầu nguyện của chị bây giờ để nó được sống đến tuổi rất già, lúc đó nó sẽ đè nặng trên chị, vì trong nước của chân lý và tình yêu, chị sẽ thấy mọi sự qua ánh sáng của Thiên Chúa và qua tình mẫu tử siêu nhiên của chị. Em chắc chắn rằng khi đó, giống như kẻ hạnh phúc và giống như người mẹ, chị chỉ muốn rằng Juđa được giống như Giêsu của em trong sự nghiệp cứu chuộc của nó. Và chị sẽ bị thiêu đốt vì mong lại có nó ở bên cạnh chị tới đời đời. Vì sự âu sầu của các bà mẹ là bị chia cắt với con mình, một sự âu sầu lớn lao tới nỗi em tin là nó tồn tại, như sự lo lắng của tình yêu, dù là ở trên Trời, nơi sẽ tiếp nhận chúng ta”.
Những tiếng khóc của Maria qúa mạnh trong sự yên lặng của bình minh đang nở đã làm mọi người trở lại phía sau để biết cái gì đã xảy ra. Do đó họ nghe được những lời của Đức Trinh Nữ, và mọi người đều cảm động.
Maria Magđala khóc và thì thầm: “Còn em, em đã làm cái âu sầu này cho mẹ em ngay từ trên trái đất này!”
Matta khóc và nói: “Sự chia cắt giữa con cái và bà mẹ là một
228
đau đớn hỗ tương”.
Phêrô cũng có những giọt nước trong mắt, và Zêlote nói với Batôlômêo: “Những lời khôn ngoan chừng nào để cắt nghĩa về tình mẫu tử của các thánh”.
- Và mọi sự đều được đánh giá cao chừng nào bởi một bà mẹ thánh: qua ánh sáng của Thiên Chúa và tình mẫu tử thiêng liêng... Điều đó làm ta đứt thở như trước một ánh sáng mầu nhiệm - Natanael trả lời ông.
Iscariot nói với Andrê: “Tình mẫu tử lột bỏ hết những nặng nề của giác quan và trở nên như loài chim. Hãy nói vậy đi. Chúng ta thấy như mẹ chúng ta đã biến thành một vẻ đẹp tuyệt vời rồi”.
- Đúng vậy, mẹ chúng ta, anh Giacôbê nhỉ, bà yêu chúng ta như vậy đó. Anh tưởng tượng coi tình yêu của bà toàn thiện chừng nào! - Gioan nói với anh ông, và ông là người duy nhất có nụ cười tươi sáng, vì ông cảm động một cách vui mừng bởi tư tưởng là mẹ ông biết yêu cách hoàn toàn.
- Con ân hận vì đã gây ra từng ấy đau khổ - Giacôbê Alphê nói. “Nhưng má con đã thấy nhiều đau khổ hơn là con nói với bà... Tin con đi Giêsu”.
- Thầy biết. Thầy biết. Nhưng Maria đang tự đào luyện, và đây là một cú mạnh của con dao mổ, nhưng nó sẽ lấy đi cho bà một trọng lượng chết lớn - Giêsu nói.
- Nào, má. Khóc vậy đủ rồi. Điều đó làm con lo ngại, vì má đau khổ như một người đàn bà tội nghiệp, không biết gì về những xác thực của nước Thiên Chúa. Má không giống một tí nào bà mẹ của các anh em trong sách Maccabê - Thađê trách mẹ ông cách nghiêm nhặt trong khi ôm bà, và ông kết thúc bằng cách hôn lên mái đầu tóc muối tiêu của bà: “Má giống như cô gái nhỏ, sợ những cái bóng và những câu chuyện người ta kể cho nó để làm cho nó sợ. Nhưng má biết con ở đâu: trong Giêsu. Thật là má! Thật là má!... Má phải khóc nếu người ta nói với má rằng sau này con sẽ phản bội Giêsu, sẽ bỏ rơi Người, sẽ thành kẻ bị luận phạt. Lúc đó, phải, lúc đó má phải khóc, cả với máu nữa. Nhưng với sự trợ giúp của Thiên Chúa,
229
con sẽ không bao giờ gây cho má cái đau này đâu má à. Con muốn ở với má trong đời muôn thuở”.
Trước tiên là khiển trách, sau đó là vuốt ve, hết cục làm khô nước mắt của Maria Alphê. Và bây giờ bà lại xấu hổ vì sự yếu đuối của mình.
Ánh sáng rất yếu trong lúc chuyển từ đêm qua ngày, vì mặt trăng đã lặn và ngày chưa bắt đầu. Nhưng đây là một chặp nối tiếp vắn, ngay sau đó là ánh sáng: trước tiên là mầu chì, rồi hơi xám, rồi như đọt chuối, rồi như sữa với những vết xanh da trời, sau cùng là sáng hầu như bạc, vô hình thể, càng lúc càng tỏ, làm dễ dàng cho con đường trên bãi sỏi ẩm do sóng lui để lộ ra. Trong khi con mắt thưởng thức mặt biển đã trở thành mầu xanh trong hơn, rồi lập tức, sáng như những khối đa diện óng ánh của bảo ngọc. Rồi không khí thấm đẫm cho mầu bạc của nó bằng một mầu hồng càng lúc càng tỏ, cho tới khi mầu hồng bóng vàng này của bình minh trở thành cơn mưa mầu hồng đỏ trên biển, trên các khuôn mặt, trên đồng quê, với những sắc tương phản luôn luôn sống động hơn, sau cùng đạt tới mức hoàn hảo tối đa của nó vào lúc mà, đối với tôi, là lúc đẹp nhất trong ngày: lúc mặt trời nhảy lên khỏi cái ranh giới hạn ở phương đông, chiếu tia sáng đầu tiên của nó trên núi đồi, các sườn dốc, các cánh rừng, các đồng cỏ, và khoảng rộng mênh mông của biển cả và bầu trời, làm tăng độ mạnh của hết mọi mầu, dù là mầu trắng của tuyết, hay từ những miền núi ở xa thì mầu chàm chuyển thành mầu xanh của vân thạch, hoặc mầu trắng sữa của bầu trời trở nên nhẹ hơn để nhận sắc hồng, hoặc mầu xanh lam có vân ngọc và những vạch bằng ngọc trai của biển.
Hôm nay biển có vẻ thực sự đẹp như phép lạ: không chết trong cái yên tĩnh nặng nề, không xáo trộn trong sự chống trả với gió, nhưng có một sự sống oai phong, được làm cho linh hoạt bởi những đợt sóng nhẹ, đánh dấu bởi những vết gợn có triều thiên bọt trắng.
- Chúng ta sẽ tới Dora trước khi mặt trời qúa nóng, và chúng ta lại khởi hành lúc hoàng hôn. Còn các phụ nữ, ngày mai, tại Cêsarê sẽ là chấm dứt sự mệt mỏi của các bà. Và chúng ta cũng vậy, chúng
230
ta sẽ nghỉ ngơi. Chắc chắn có xe chờ các bà ở đó, và ở đó, chúng ta sẽ chia tay... Tại sao con khóc Maria? Phải chăng ngày hôm nay Thầy phải thấy hết mọi Maria đều khóc? - Giêsu nói với Maria Mađalêna.
- Là vì nỗi khổ phải lìa Thầy - chị cô nói để xin lỗi cho cô.
- Đâu có ai nói là chúng ta không gặp nhau nữa, và sẽ rất mau.
Maria làm hiệu là không. Không phải nàng khóc vì vậy.
Zêlote cắt nghĩa: “Cô sợ không biết sống tốt khi không được ở gần Thầy. Cô sợ... cô sợ bị cám dỗ qúa mạnh khi Thầy không có ở bên để xua đuổi ma qủi. Cô vừa nói với con”.
- Đừng sợ như vậy. Thầy không bao giờ rút lại một ơn mà Thầy đã cho. Con có muốn phạm tội không? Không. Vậy hãy an lòng. Canh chừng, việc đó thì ừ, nhưng đừng sợ.
- Lạy Chúa, con cũng khóc vì ở Cêsarê... Cêsarê đầy tội lỗi của con. Bây giờ con thấy chúng tất cả... Con sẽ phải chịu đựng rất nhiều trong bản tính nhân loại của con...
- Điều đó làm Thầy mừng. Con càng chịu đựng, điều đó càng có giá, vì sau đó, con sẽ không phải chịu đựng những đau khổ vô ích này nữa. Maria con Théophile, Thầy nhắc cho con rằng: con là con gái của một kẻ mạnh, và Thầy muốn làm cho con nên rất mạnh. Thầy miễn thứ những yếu đuối nơi kẻ khác, bởi vì họ luôn luôn là những đàn bà êm đềm, bẽn lẽn, kể cả chị của con. Nhưng con, Thầy không chịu đựng những điều đó. Thầy sẽ làm việc cho con bằng lửa và trên cái đe, bởi vì con là loại xung huyết, phải làm việc như vậy để không làm uổng phép lạ của ý chí con và ý chí của Thầy. Hãy biết rằng con và những người trong đám người ở đây hay những kẻ vắng mặt có thể tin rằng, từ việc yêu thương con như vậy, Thầy có thể trở nên yếu nhược đối với con. Thầy chỉ cho phép con khóc vì sám hối và vì tình yêu mà thôi, không vì lý do nào khác. Con hiểu không? - Giêsu rất gợi cảm và nghiêm khắc.
Maria Magđala cố gắng nuốt nước mắt và các tiếng nấc, nàng qùi sụp xuống hôn chân Giêsu và cố gắng làm cho cứng rắn giọng nói của nàng: “Lạy Chúa, vâng. Con sẽ làm như Thầy muốn”.
231
- Vậy hãy đứng dậy, và hãy tươi sáng.
117* SINTICA, TÊN NÔ LỆ NGƯỜI HY LẠP
Tôi không nhìn thấy thành phố Dora. Mặt trời sắp lặn, các người lữ hành đang trên đường về Cêsarê, nhưng cuộc dừng chân ở Dora thì tôi không nhìn thấy. Có lẽ đó là trạm dừng chân không có gì quan trọng để loan báo. Mặt biển như bị thiêu đốt, vì trong sự phẳng lặng của nó, nó phản chiếu mầu đỏ của bầu trời, một mầu đỏ hầu như không thực, vì nó mạnh chừng nào. Người ta nói là máu đã được tưới trên vòm trời.
Trời hãy còn nóng, mặc dầu không khí biển khơi đã làm cho sức nóng thành có thể chịu đựng được. Họ vẫn đi dọc theo bờ biển để tránh sự oi bức của đất khô. Nhiều người, cả đến tất cả, đã cởi xăng đan và thắn quần áo để lội xuống nước. Phêrô tuyên bố: “Nếu không có các bà, tôi sẽ cởi trần và lội xuống nước tới cổ”.
Nhưng ông phải lên bờ ngay, vì Maria Mađalêna, đã đi ở đàng trước với những người khác, bây giờ trở lại sau và nói: “Thầy ơi, con rất quen chỗ này. Thầy thấy ở đàng kia, nơi mà biển có một đường vàng ở giữa mầu xanh lơ của nó? Ở đó có một dòng nước, luôn luôn có nước, dù là về mùa hè, và có thể phải băng qua nó...”
- Chúng ta đã băng qua suối biết bao lần rồi. Đây đâu phải sông Nil! Cái này cũng vậy, chúng ta sẽ băng qua - Phêrô nói.
- Đây không phải sông Nil, nhưng ở dưới nước cũng như trên bờ, có những con vật thủy sinh có thể nguy hại. Không nên qua cách thiếu thận trọng, cũng đừng cởi dép để khỏi bị thương.
- Ồ! Chúng là gì? Những hải quái à?
- Simon, anh đã nói rất đúng. Giống hệt như con cá sấu, thực ra thì nó nhỏ, nhưng nó có khả năng ngăn cản anh bước trong một thời gian.
- Và chúng làm gì ở đó?
- Người ta đã đem chúng tới đây cho việc thờ cúng, tôi tin là từ thời kỳ các người Phênici còn cai trị xứ này, và chúng ở lại đó, càng
232
ngày càng trở nên nhỏ nhưng không kém gây hấn khi chúng đi từ đền thờ tới dòng nước. Bây giờ chúng là những con thằn lằn khổng lồ, nhưng với những cái răng! Các người Rôma tới đây để săn và về các thứ tiêu khiển khác... Con cũng đến đây với họ. Tất cả là để... giết thời giờ. Rồi da nó rất đẹp và dùng vào nhiều việc. Vậy hãy cho phép con, vì lẽ kinh nghiệm của con, hướng dẫn qúi vị.
- Tốt, tôi thích coi chúng - Phêrô nói.
- Có lẽ chúng ta sẽ thấy vài con, dù là nó gần bị tiêu diệt, vì bị săn qúa nhiều.
Nhóm người ra khỏi bờ biển và đi về phía nội địa cho tới khi họ tới một con đường lớn ở khoảng giữa ngọn đồi và bãi biển. Rồi lập tức, họ tới một cái cầu rất cong, bắc qua một con sông nhỏ mà lòng sông khá rộng, nhưng lượng nước ít. Ở giữa lòng sông, chỗ không có nước, ta thấy mọc đầy cây lác và sậy, gần héo vì sức nóng mùa hè. Trong những mùa khác thì nó giống như một hòn đảo tí hon ở giữa dòng nước. Đàng khác, ở hai bên bờ có những bụi rậm và những cây to um tùm.
Mặc dù các người du hành nhìn khắp nơi, nhưng họ không thấy một con vật nào, và nhiều người đã thất vọng. Nhưng vào lúc họ sắp qua hết cây cầu mà cái vòng cung duy nhất của nó rất cao, có lẽ để không bị dòng nước cuốn đi trong kỳ nước lũ - một kiến trúc lực lưỡng, có lẽ do Rôma làm - Matta kêu ré lên một tiếng và sợ hãi chạy trốn ra phía sau. Một con thằn lằn khổng lồ, nó không có vẻ một con gì khác ngoài cái đầu cổ điển của con cá sấu, nằm chéo trên đường, làm như đang ngủ.
- Nhưng đừng sợ - Maria Mađalêna kêu. “Khi nó đã ở đó thì nó không nguy hiểm nữa. Nguy hiểm là khi nó nấp mà không nhìn thấy, và bước lên trên nó”.
Nhưng Matta vẫn thận trọng đi ở phía sau. Suzane cũng vậy, không dỡn với nó... Maria Alphê thì can đảm hơn, luôn luôn thận trọng, bà ở gần hai con bà, bà bước lên để nhìn nó. Các tông đồ thì thực tình không sợ. Họ nhìn và phê bình về con vật khó chịu này khi nó dám quay đầu để người ta có thể nhìn thấy nó từ phía trước. Rồi
233
nó nhúc nhích, ra vẻ như muốn đi về phía những kẻ làm phiền nó. Một tiếng kêu khác của Matta, rồi bà lùi hơn nữa về phía sau. Lần này thì Suzane và Maria Clêopha cũng bắt chước. Nhưng Maria Mađalêna lấy một cục đá và ném vào con vật. Bị ném trúng vào sườn, nó liền đi xuống bãi sạn và chìm sâu xuống nước.
- Tiến lên đi, nhát gan. Nó không còn ở đó nữa - nàng nói với chị nàng. Các bà cũng đi lại gần nhau.
- Nhưng đó là một con vật dơ bẩn - Phêrô phê bình.
- Thầy ơi, có đúng là ngày xưa người ta cho nó ăn những người nạn nhân không? - Iscariot hỏi.
- Con cá sấu được coi như con vật thánh. Nó đại diện cho một vị thần. Và cũng giống như chúng ta ăn các lễ vật hy sinh mà chúng ta dâng cho Thiên Chúa của chúng ta, họ, những kẻ thờ tà thần tội nghiệp, họ làm vậy theo lối thực hành sai lầm mà những điều kiện của họ có.
- Nhưng bây giờ không còn vậy nữa chứ? - Suzane hỏi.
- Tôi tin là không thể không có sự thực hành như vậy trong những miền thờ ngẫu tượng - Gioan Enđo nói.
- Lạy Chúa, nhưng ít nhất, họ hãy cho nó những người chết chứ?
- Không. Họ cho nó những người sống, nếu điều đó còn thực hành. Thường thường là các cô gái trẻ và các trẻ em, những kẻ tốt nhất trong dân. Ít nhất, đó là những điều tôi đã đọc - Gioan Enđo trả lời cho các bà, vẫn còn sợ hãi nhìn mọi phía.
- Tôi, tôi sẽ chết vì sợ nếu tôi phải lại gần nó - Matta nói.
- Thật à? Nhưng bà ơi, con này chả là gì so với con cá sấu thực. Ít nhất nó phải ba lần dài hơn và to hơn con này.
- Và nó đói nữa. Con này đã ăn no những con rắn nước hay thỏ rừng rồi.
- Lạy Tình Thương! Cả những con rắn nước nữa! Nhưng lạy Chúa, Thầy dẫn chúng con đi đâu vậy? - Matta rên rỉ. Bà sợ hãi tới nỗi mọi người không nín cười được.
Hermastê là người từ trước vẫn luôn luôn nín lặng, anh nói: “Đừng sợ gì cả. Chỉ cần gây ra nhiều tiếng động là tất cả đều chạy trốn.
234
Tôi biết thứ này. Tôi đã nhiều lần ở miền hạ lưu Ai Cập”.
Các vị bắt đầu vỗ tay và đập vào các thân cây. Quãng đường nguy hiểm đã qua. Matta đi gần Giêsu và hỏi hoài: “Nhưng không còn chỗ nào như vầy nữa chứ?”
Giêsu nhìn bà, mỉm cười và lắc đầu. Nhưng người bảo đảm với bà: “Đồng bằng Saron chỉ toàn là vẻ đẹp, và bây giờ chúng ta tới nơi rồi đây. Nhưng thật là bữa nay các nữ môn đệ đã dành cho Thầy nhiều ngạc nhiên. Thực tình Thầy không biết tại sao con nhát gan đến vậy?”
- Chính con cũng không biết nữa. Nhưng tất cả những con gì bò đều làm con sợ. Tựa như con cảm thấy ở trên da con cái lạnh của cơ thể nó, chắc chắn là lạnh và nhớt. Và con cũng tự hỏi tại sao lại có thứ này. Chẳng lẽ chúng cần thiết sao?
- Điều đó phải hỏi Đấng đã làm ra chúng. Nhưng hãy tin chắc rằng nếu Người đã làm ra chúng tức là chúng cần thiết, không phải chỉ để làm sáng chói sự anh hùng của Matta mà thôi - Giêsu nói với nét lóng lánh trong mắt Người.
- Ôi lạy Chúa! Thầy dỡn và Thầy có lý. Nhưng con sợ và con sẽ không bao giờ thắng được mình.
- Chúng ta sẽ thấy điều đó... Cái gì nhúc nhích ở đàng kia vậy? Trong bụi rậm đó - Giêsu nói trong khi nghểnh đầu lên để nhìn về phía đàng trước, nơi có một bụi chằng chịt những gai và nhiều cây khác. Chúng mọc chen chúc để tấn công một cây sung Ấn Độ ở phía sau hơn, với những cành cứng của nó, trong khi cành của các cây khác thì mềm hơn.
- Lạy Chúa! Một con cá sấu nữa à?... - Matta rên rỉ sợ hãi.
Nhưng tiếng động gia tăng, và từ đó ló ra một khuôn mặt người, một người đàn bà. Bà ta nhìn và thấy tất cả những người này, có lẽ bà tự hỏi: phải chạy trốn qua miền quê hay trốn trong các hang cây dại? Nhưng ý tưởng đầu mang bà đi, và bà chạy trốn trong khi thốt ra một tiếng kêu.
“Một người cùi?”, “Một người điên?”, “Một người bị ám?” họ tự hỏi, và tất cả đều dừng lại, phân vân.
235
Nhưng người đàn bà quay trở lại, vì từ phía Cêsarê đã rất gần rồi, một chiếc xe của người Rôma tiến đến. Người đàn bà giống như con chuột trong bẫy, bà không biết đi đâu, vì bây giờ Giêsu và các người của Ngài đã đến gần bụi rậm là chỗ trốn của bà, nên bà không thể chạy vào đó, và bà không muốn đi về phía chiếc xe... Trong lớp sương mù đầu tiên của buổi tối, vì đêm xuống rất lẹ sau một hoàng hôn mạnh, người ta thấy nàng còn trẻ và duyên dáng, mặc dầu bù xù và y phục rách rưới.
- Bà kia, lại đây! - Giêsu ra lệnh cách hách dịch.
Người đàn bà giơ tay ra năn nỉ: “Đừng làm khổ tôi”.
- Lại đây. Bà là ai? Ta sẽ không làm khổ bà đâu - Giêsu nói với bà rất êm dịu đến nỗi Người thuyết phục được bà.
Người đàn bà tiến lên, cúi gù, rồi gục xuống đất và nói: “Dù ông là ai, cũng hãy thương xót. Hãy giết tôi, nhưng đừng giao tôi cho ông chủ. Tôi là nô lệ chạy trốn...”
- Ai là chủ của bà? Và bà từ đâu tới? Chắc chắn bà không phải Hy Bá. Giọng nói của bà chứng tỏ điều đó, và cả y phục của bà nữa.
- Tôi người Hy Lạp, tên nô lệ người Hy Lạp của... Ôi! Xin thương giấu tôi! Chiếc xe sắp tới nơi...
Tất cả họ làm thành một nhóm chung quanh người đàn bà khổ sở bây giờ ngồi cuộn tròn dưới đất. Quần áo bị xé rách vì gai góc để cho thấy ở đôi vai những lằn roi và những vết cào. Chiếc xe đi qua, không ai ở trên đó lưu ý đến nhóm người đứng bên cạnh bờ rào.
- Họ đi xa rồi. Nói đi. Nếu chúng ta có thể, chúng ta sẽ giúp bà - Giêsu nói trong khi để đầu ngón tay trên mớ tóc rối của bà.
- Tôi là Sintica, nô lệ người Hy Lạp của một nhà qúi phái Rôma, tùy tùng của vị Tổng Tài.
- Vậy ra cô là nô lệ của Valêrien! - Maria Magđala kêu lên.
- Á! Xin thương! Xin thương! Đừng tố giác tôi với ông ta - kẻ khốn nạn năn nỉ.
- Đừng sợ. Không bao giờ tôi nói chuyện với Valêrien nữa - Maria Mađalêna trả lời, rồi nàng giải thích cho Giêsu: “Đó là một
236
trong những người Rôma giầu nhất và ghê tởm nhất ở đây. Ông ta cũng độc ác như ghê tởm”.
- Tại sao bà lại chạy trốn? - Giêsu hỏi.
- Vì tôi có một linh hồn, tôi đâu phải hàng hóa... (người đàn bà phấn khởi khi bà thấy mình đã gặp được những người thương xót bà). Tôi đâu phải hàng hóa. Thật sự ông ta đã mua tôi. Nhưng ông có thể mua tôi để trang hoàng nhà của ông, để tôi giải trí cho ông bằng những giờ đọc sách để tôi phục vụ ông, nhưng không gì khác nữa. Linh hồn của tôi thuộc về tôi! Đó không phải thứ người ta có thể mua. Ông ta, ông ta muốn cả nó nữa.
- Làm sao bà biết bà có một linh hồn?
- Lạy Chúa, con đâu có mù chữ. Là chiến lợi phẩm của chiến tranh từ khi con còn nhỏ, nhưng không phải thuộc loại cùng đinh. Đây là ông chủ thứ ba của con và là một thú dữ ghê tởm. Trong con vẫn còn những lời của các triết gia của chúng con, và con biết rằng không phải chỉ có xác thịt ở trong chúng ta, nhưng còn có cái gì bất tử ở trong ta, một cái gì chúng ta không biết tên chính xác, nhưng từ ít lâu nay con đã biết tên của nó. Có một người đã đi qua Cêsarê. Ông làm những việc kỳ lạ và nói còn hay hơn Socrate và Platon. Người ta nói rất nhiều về ông, trong những nhà tắm hơi và các phòng ăn ba giường, hay trong các hành lang vàng, làm ô uế cái tên oai phong của ông bằng cách nói lên trong những nơi hành lạc dơ bẩn. Và ông chủ của con, với con, chỉ có với con là người đã linh cảm thấy có một cái gì bất tử, chỉ thuộc về Thiên Chúa, và không thể được mua như một hàng hoá tại chợ nô lệ, ông đã bảo con đọc lại những tác phẩm của các triết gia để đối chiếu và tìm xem cái thứ không biết này mà Người tới Cêsarê đã gọi là linh hồn có nói đến trong đó không. Chính với con, ông ta đã bảo đọc những thứ này. Chính con là người ông bắt tùng phục các bản năng của ông! Chính vì vậy mà con biết cái thứ bất tử này là linh hồn. Và trong khi Valêrien và các người cùng thứ với ông nghe tiếng con và bắt đầu ợ hơi và ngáp, cố gắng để hiểu, để so sánh và bàn cãi, thì con, con thu thập tất cả những diễn từ của họ, đối chiếu những lời của ông
237
Người Lạ với lời của các triết gia, và con để nó ở đây, để thâu góp những phẩm cách luôn luôn mạnh hơn để chống lại dục vọng của ông... Ông ta đã đánh con hầu chết mấy tối rồi, bởi vì con đẩy ông ra bằng những hàm răng... Và ngày hôm sau con trốn đi... Đã năm ngày rồi, con sống trong bụi rậm này. Ban đêm con hái những trái dâu và những trái sung Ấn-Độ để ăn. Nhưng sau cùng người ta cũng sẽ bắt con. Chắc chắn ông ta tìm con. Ông ta đã mua con qúa đắt và con qúa vừa ý giác quan của ông, làm sao ông để cho con đi được... Con xin ông hãy thương. Ông người Do Thái, chắc chắn ông biết Người ở đâu. Xin ông dắt con đến với vị Vô Danh đã nói với các nô lệ và đã nói về linh hồn. Người ta nói với con là vị đó nghèo. Con khổ vì đói, nhưng con muốn ở bên vị đó để Người giáo huấn con và nâng con dậy. Người ta trở thành u mê khi sống với những kẻ sống sượng, dù là người ta chống lại chúng. Con muốn trở lại chiếm hữu phẩm cách tinh thần của con.
- Người đó, người Vô Danh mà con tìm, Người đang ở trước mặt con.
- Ngài! Lạy Chúa, Thiên Chúa không được biết tới của Acropole. Xin kính chào! - và nàng gục đầu xuống sát đất.
- Con không thể ở lại đây. Nhưng Ta, Ta đi Cêsarê.
- Lạy Chúa, xin đừng bỏ con.
- Thầy không bỏ con... Thầy suy nghĩ.
- Thưa Thầy, chắc chắn xe của chúng con đang chờ ở nơi đã định. Xin Thầy sai ai tới báo tin. Trong xe, cô ta sẽ được an toàn cũng như trong nhà chúng con - Maria Mađalêna cho ý kiến.
- Ồ, lạy Chúa, vâng. Ở bên chúng con thay vì ông già Ismael. Chúng con sẽ dạy cho nàng về Thầy. Nàng sẽ được thoát khỏi ngẫu tượng giáo - Matta năn nỉ.
- Con có muốn đi với chúng ta không? - Giêsu hỏi.
- Với bất cứ ai trong các người của Ngài, miễn là con không phải về với ông đó nữa. Nhưng... Nhưng ở đây có một bà đã nói với con là bà biết ông ta? Bà sẽ không tiết lộ con chứ? Các người Rôma sẽ không tới nhà bà chứ? Không...
238
- Đừng sợ. Các người Rôma sẽ không tới Bêtani, nhất là loại người này - Maria Mađalêna nói để bảo đảm cho nàng.
- Simon với Simon Phêrô, các con đi tìm xe đi. Chúng ta chờ các con ở đây. Sau đó chúng ta sẽ vào thành phố - Giêsu truyền.
***
Khi chiếc xe nặng nề che kín tự báo tin bằng tiếng móng ngựa và bánh xe, và bằng chiếc đèn bão treo ở trên cao, những người đang chờ đứng lên khỏi bờ đường, nơi chắc chắn họ đã ăn bữa tối, và họ bước lên đường. Chiếc xe dừng lại, lúc lắc trên đường gập ghềnh. Phêrô và Simon bước xuống, theo sau lập tức bởi một người đàn bà lớn tuổi. Bà chạy lại ôm Maria Mađalêna và nói: “Bà không muốn chậm trễ một phút nào để nói với con là bà sung sướng, để nói với con là mẹ con vui cùng với bà, để nói với con rằng con lại trở nên cô gái hồng hào tóc vàng của nhà chúng ta, giống như xưa, khi con ngủ trong nôi, sau khi đã bú no sữa vú bà”. Và bà già không ngơi ôm nàng. Maria khóc trong tay bà.
- Bà ơi, Thầy giao phó cho bà người trẻ này, và Thầy xin bà hy sinh chờ suốt đêm ở đây. Ngày mai, bà có thể tới cái làng đầu tiên trên con lộ chính và chờ. Chúng ta sẽ đến trước giờ thứ ba - Giêsu nói với người vú nuôi.
- Cầu cho tất cả như Thầy muốn. Chúc tụng Thầy. Xin chỉ cho phép con đưa cho Maria những quần áo mà con đã đem cho nó.
Bà lại trở lên xe với Maria, Matta và Đức Trinh Nữ. Khi các bà trở ra, Maria Mađalêna giống như chúng ta sẽ luôn luôn thấy nàng sau này: Y phục đơn giản, một chiếc voan vải gai mỏng rất rộng, với chiếc áo khoác không trang trí.
- Hãy đi bình an, Sintica. Ngày mai chúng ta cũng sẽ tới. Chào - Giêsu nói trong khi chào cô. Và Người lên đường vào Cêsarê...
Nơi dạo mát đông đúc đầy người. Họ đi dạo dưới ánh sáng của các bó đuốc hay các ngọn đèn do các nô lệ cầm, để hít thở không khí từ biển thổi vào, làm mát mẻ những buồng phổi mỏi mệt vì sức nóng ngột ngạt của mùa hè. Những người đi dạo này thuộc tầng lớp giầu sang Rôma. Các người Do Thái ở lại trong nhà họ và tìm sự
239
mát mẻ trên sân thượng. Bãi dạo mát trông giống như một phòng khách vĩ đại vào giờ gặp gỡ. Đi dạo ở đó có nghĩa là bị quan sát từng cử chỉ. Nhưng chính đây là nơi Giêsu đi qua... Người đi tất cả chiều dài của bãi dạo, không lo gì tới ai quan sát, ai phê bình hay chế nhạo.
- Thầy, Thầy ở đây? Vào giờ này? - Lidia hỏi. Bà đang ngồi trên một thứ ghế bành do các nô lệ mang để ở bờ đường, và bà đứng dậy.
- Thầy từ Dora tới và Thầy bị trễ. Thầy đi tìm chỗ trọ.
- Con nói với Thầy: nhà con kia - và bà chỉ vào một dinh thự đẹp ở đàng sau bà. “Nhưng con không biết nếu...”
- Không, Thầy cám ơn con, nhưng Thầy không muốn nhận. Thầy có một số đông người cùng đi với Thầy, và hai người đã đi trước để báo cho những người Thầy biết. Thầy tin là họ sẽ cho Thầy trú chân.
Cái nhìn của Lidia cũng đặt trên những người đàn bà mà Giêsu chỉ cho bà cùng với các môn đệ, và bà nhận ngay ra Maria Mađalêna.
- Maria? Cô? Vậy ra thật à?
Maria Magđala có cái nhìn thảm hại của một con linh dương bị cùng đường, và nàng có lý, vì không phải nàng chỉ đối mặt với một mình Lidia, mà còn rất nhiều người nhìn nàng... Nhưng nàng cũng nhìn Giêsu và nàng được can đảm.
- Thật đó.
- Vậy là chúng tôi mất cô!
- Không, các bạn đã tìm thấy tôi. Ít nhất, tôi hy vọng một ngày kia sẽ tìm thấy các bạn trong tình bằng hữu tốt hơn, trên con đường mà sau cùng tôi đã tìm thấy. Tôi xin bạn hãy nói vậy với tất cả những ai biết tôi. Chào Lidia. Hãy quên đi tất cả những điều xấu mà bạn đã thấy tôi làm. Tôi xin bạn tha lỗi.
- Nhưng, Maria! Tại sao cô tự hạ? Chúng ta đã sống cuộc đời giầu sang và an nhàn, và không có...
- Không. Tôi đã sống cuộc đời xấu hơn. Nhưng bây giờ tôi ra khỏi đó, và vĩnh viễn.
240
- Thầy chào con, Lidia - Giêsu tóm tắt. Và Người đi về với người anh Juđa đang đi lại với Người cùng với Tôma.
Lidia còn giữ Maria Mađalêna lại một lát: “Nhưng hãy nói sự thật cho tôi, bây giờ chỉ có hai chúng ta: có thật là cô đã chịu phục?”
- Không phải chịu phục, mà là sung sướng được làm một môn đệ. Tôi chỉ có một ân hận: đã không biết ánh sáng sớm hơn, nên thay vì nuôi mình bằng ánh sáng, tôi đã ăn bùn. Chào Lidia.
Câu trả lời rành mạch vang lên trong sự yên lặng ở chung quanh hai người đàn bà. Không ai trong số những người khá đông ở đó nói nữa...
Maria quay lưng và bước lẹ lại với Thầy. Nhưng một người thanh niên chặn đường của nàng: “Đây là sự điên rồ sau cùng của em chứ?” Anh ta nửa tỉnh nửa say. Anh ta nói và anh ta muốn ôm nàng, nhưng anh ta không thành công. Maria thoát tay anh ta và kêu: “Không, đây là sự khôn ngoan duy nhất của tôi”.
Nàng lại với các bạn, trùm khăn như người hồi giáo, vì nàng ghê tởm họ và việc bị nhìn bởi những kẻ dâm đãng này.
- Maria, em chịu đựng nhiều lắm? - Matta lo lắng hỏi.
- Không, Người có lý. Và bây giờ em sẽ không bao giờ khổ vì những thứ này nữa. Người có lý.
Mọi người đi quặt vào một ngõ hẻm tối, rồi sau đó đi vào một căn nhà mênh mông, chắc là một cái quán, để nghỉ đêm.
118* TỪ BIỆT MATTA,
MARIA MAĐALÊNA VÀ SINTICA
Họ lại lên đường, quay về hướng đông, về phía đồng quê.
Bây giờ các tông đồ và hai môn đệ đi cùng với Maria Clêopha và Suzane, cách vài mét với Giêsu, Người đi với Mẹ Người và hai em gái của Lazarô. Giêsu nói không ngừng, trái lại, các tông đồ không nói. Họ có vẻ như mệt mỏi hay thất vọng. Cả đến họ không thấy hấp dẫn gì với vẻ đẹp của đồng quê mà thực sự là huy hoàng,
241
trong những dợn sóng nhẹ được ném xuống miền đồng bằng như biết bao chiếc gối xanh dưới chân một ông vua khổng lồ, với những ngọn đồi chỉ cao vài mét nhô lên ở đó đây để khai mào cho rặng Carmel và miền núi Samari. Trong đồng bằng chế ngự vùng này cũng như trên các đồi nhỏ và các nơi gợn sóng, tất cả đều là hoa lá xum xuê và mùi thơm của trái cây đang chín. Đây hẳn là nơi được tưới tiêu dồi dào, dù là hoàn cảnh của mùa này, vì có rất nhiều hoa, nó không thể không có nhiều nước. Bây giờ tôi hiểu tại sao đồng bằng Saron được bao lần nhắc tới với thiện cảm trong sách thánh. Nhưng các tông đồ không chia phần mối thiện cảm này. Họ bước, hơi cáu kỉnh. Họ là những người duy nhất buồn trong cái ngày trong sáng tại vùng đất tươi cười này.
Con lộ chính, tình trạng rất tốt, cắt ngang miền đồng quê mầu mỡ này như một giải băng trắng. Vào giờ sáng sớm này, họ thường gặp các nông dân mang đầy thực phẩm, hay các khách du hành đang tiến về Cêsarê. Một trong số họ, với đàn lừa chất đầy các bao, tới nơi các tông đồ và bó buộc các ngài tránh ra một bên để cho đoàn vật vận tải đi qua. Ông ta hỏi cách bất lịch sự: “Đây là Kison à?”
- Ở phía bắc một tí - Tôma trả lời cách khô khẳng, và ông càu nhàu giữa hai hàm răng: “Thứ thô tục”.
- Một tên Samari, tóm tắt là vậy - Philíp nói.
Họ lại rơi vào yên lặng. Sau vài mét, Phêrô nói như để chấm dứt bài hùng biện trong nội tâm: “Để làm gì mà phải nhọc công đi từng ấy đường!”
- Đúng vậy. Tại sao sau đó chúng ta lại đi Cêsarê mà Người chẳng nói lời nào cả. Tôi đã nghĩ Người muốn làm một phép lạ sững sờ nào đó để thuyết phục các người Rôma. Nhưng trái lại...- Giacôbê Zêbêđê nói.
- Người đã làm cho chúng ta bị chế diễu. Đó là tất cả - Tôma chỉ trích, và Iscariot thêu dệt thêm: “Người làm cho chúng ta phải khổ. Đối với Người, những xúc phạm làm Người vui nên Người nghĩ nó cũng làm vui cho chúng ta”.
242
- Đúng ra, kẻ đãphải chịu đựng nhiều nhất trong hoàn cảnh này là Maria Théophile - Zêlote nhận xét cách bình thản.
- Lại Maria! Maria! Cô ta đã trở nên trung tâm vũ trụ! Maria? Chỉ có nàng phải chịu đựng, chỉ có nàng anh hùng, chỉ có nàng biết tự đào tạo!... Chính cái ước muốn làm kẻ bất lương và sát nhân, để rồi sau đó được trở thành đối tượng của từng ấy chú ý - Iscariot nói cách bực bõ.
- Nói thật ra, lần trước chúng ta tới Cêsarê, Người đã làm phép lạ và giảng Tin Mừng thì chúng ta đã làm khổ Người bởi sự bất bình của chúng ta vì Người đã làm như vậy - Anh họ của Chúa nhận xét.
Gioan nói cách nghiêm trang: “Sự kiện là chúng ta không biết điều chúng ta muốn... Người hành động cách này, chúng ta cằn nhằn, Người hành động cách ngược lại, chúng ta cũng cằn nhằn. Chúng ta đầy khuyết điểm”.
- Ồ! Lại một vị khôn ngoan nữa nói! Điều chắc chắn là từ thời gian lâu nay, chúng ta chẳng làm được gì tốt cả.
- Không à Judas? Nhưng người đàn bà Hy Lạp này, nhưng Hermastê, nhưng Abel, nhưng Maria, nhưng...
- Đâu phải với những thứ vô giá trị này mà Người xây dựng nước của Người? - Iscariot đối đáp, bị ám ảnh bởi tư tưởng về một vinh quang trần thế.
- Judas, tôi xin anh miễn xét đoán về các công việc của em tôi. Đó là một cao vọng lố bịch, một đứa trẻ mà lại muốn xét đoán ông thầy, để không nói: một thứ vô giá trị mà lại muốn cai trị tất cả - Thađê nói. Tuy ông có cùng tên gọi, nhưng có ác cảm vô địch đối với kẻ trùng tên với ông.
- Cám ơn anh đã giới hạn ở chỗ gọi tôi là đứa trẻ. Thực tình sau khi đã sống ở Đền Thờ qúa lâu năm như vậy, tôi đã tin ít nhất người ta cũng chấp nhận tôi là vị thành niên chứ! - Iscariot trả lời cách châm biếm chua chát.
- Ôi! Những bàn cãi này sao mà nó khó chịu chừng nào! - Andrê thở dài.
- Đúng vậy - Mathêu nhận xét. “Thay vì hòa hợp với nhau, càng
243
sống với nhau, chúng ta càng chia rẽ. Hãy nghĩ tới là ở Sicaminon, Người đã nói là chúng ta phải hợp nhất với đoàn chiên. Làm sao chúng ta có thể làm vậy, nếu giữa các chủ chăn, chúng ta không hợp nhất?”
- Vậy người ta không được nói à? Người ta không bao giờ được nói tư tưởng của mình à? Tôi tin là chúng ta đâu phải những nô lệ!
- Không đâu Judas ạ - Zêlote nói cách bình thản. “Chúng ta không phải những nô lệ, nhưng chúng ta không xứng đáng theo Người, vì chúng ta không hiểu Người”.
- Tôi, tôi rất hiểu Người.
- Không, anh không hiểu Người. Và cũng như anh, tất cả những ai chỉ trích Người đều ít hay nhiều không hiểu Người. Hiểu tức là vâng lời không bàn cãi, vì đã thừa nhận sự thánh thiện của kẻ hướng dẫn - Zêlote lại nói.
- A! Nhưng anh đã ám chỉ sự thông minh trong sự thánh thiện của Người. Tôi, tôi nói về các lời của Người. Sự thánh thiện của Người là dĩ nhiên và không thể bàn cãi được - Iscariot vội vã nói.
- Vậy anh có thể chia cắt điều nọ với điều kia sao? Một vị thánh luôn luôn có sự khôn ngoan, và các lời của Người là lời khôn ngoan.
- Đúng vậy, nhưng Người làm những hành động có hại, chắc chắn là do qúa thánh thiện, tôi chấp nhận vậy. Nhưng thế giới đâu có thánh, và Người tự tạo cho mình những phiền phức. Ví dụ cái tên Philitin này và cái bà Hy Lạp này. Anh nghĩ là họ ích lợi cho chúng ta sao?
- Nhưng nếu tôi làm phiền qúi vị thì tôi xin rút lui. Tôi đến với ý tưởng là để tôn kính Người và để làm điều tốt - Hermastê nói, bị chạm tự ái.
- Anh sẽ làm Người khổ khi anh bỏ đi vì lý do này - Giacôbê Alphê trả lời.
- Tôi sẽ cho Người hiểu là tôi đã thay đổi ý kiến, rồi tôi chào Người... và tôi sẽ đi.
- Không, thực tình, anh ạ, anh sẽ không bỏ đi. Thật không chính đáng tí nào khi vì sự nổi xùng của kẻ khác mà Thầy bị mất một môn đệ tốt - Phêrô bực mình.
244
- Nhưng nếu anh ta muốn bỏ đi vì một chuyện nhỏ nhặt như vậy, đó là dấu anh ta không chắc chắn về ý muốn của anh ta. Vậy hãy để anh ta đi đi - Iscariot trả lời.
Phêrô mất bình tĩnh: “Tôi đã hứa với Người khi Người ban Margziam cho tôi là tôi sẽ có tình phụ tử với mọi người, và tôi không thích sai lời hứa. Nhưng anh bó buộc tôi. Hermastê đang ở đây, và anh ta sẽ ở lại đây. Anh có biết là tôi phải nói với anh điều gì không? Chính anh làm lung lay ý muốn của người khác và làm cho họ do dự. Anh là nguyên nhân của sự chia rẽ và sự rối trật tự. Đó, anh là như vậy. Hãy biết xấu hổ”.
- Vậy anh là ai? Là người bảo vệ của...
- Đúng hoàn toàn. Anh đã nói rất phải. Tôi biết điều anh muốn nói: người bảo vệ người đàn bà trùm khăn, bảo vệ Gioan Enđo, bảo vệ Hermastê, bảo vệ người đàn bà nô lệ, bảo vệ tất cả những ai khác mà Giêsu đã tìm được, miễn là không phải những gương mẫu tuyệt vời của những con công ở Đền Thờ, những kẻ được chế tạo bằng chất xi-măng thánh và bằng màng nhện của Đền Thờ; những cái tim đèn hôi thối của ánh sáng tại Đền Thờ. Tóm lại, những kẻ giống như anh, để làm cho dụ ngôn sáng tỏ hơn. Bởi vì nếu Đền Thờ là quan trọng, thì ít nhất là tôi không trở nên ngu ngốc để không biết rằng Thầy còn hơn là Đền Thờ, và chính Người là thứ anh thiếu...- Phêrô la lớn tới nỗi Giêsu dừng lại. Người quay lại và sắp trở lui về phía sau và bỏ các phụ nữ lại tại chỗ.
- Người nghe thấy rồi. Bây giờ Người sắp đau khổ - Tông đồ Gioan nói.
- Không, thưa Thầy, đừng lại. Chúng con thảo luận để đường dài đỡ buồn - Tôma nói ngay.
Nhưng Giêsu dừng lại để chờ họ tới: “Các con bàn cãi về điều gì? Một lần nữa Thầy phải nói là các phụ nữ ở bên trên các con sao?” Lời khiển trách êm nhẹ đụng tới con tim mọi người, họ nín lặng và cúi đầu. “Các bạn ơi, các bạn! Đừng làm đích vấp phạm cho những kẻ vừa mới sinh ra trong ánh sáng! Các con không biết rằng một sự bất toàn trong các con làm thiệt hại hơn những sai lầm
245
ở trong ngẫu tượng giáo đối với sự cứu rỗi của một người dân ngoại hay một kẻ tội lỗi sao?”
Không ai trả lời cả, vì họ không biết nói gì để biện minh hay để không kết án.
Gần một cái cầu băng qua một con suối khô là chỗ dừng chiếc xe của hai chị em nhà Lazarô. Hai con ngựa đang gặm cỏ dầy bên bờ suối. Có lẽ suối mới khô nước thôi nên còn phủ một lớp cỏ tươi dầy. Người đầy tớ của Matta và một người khác, có lẽ là người xà ích, đang ở dưới bờ sỏi, trong khi các phụ nữ ngồi ở trong xe có phủ mui bằng da thuộc nặng, giống như màn gió che kín tới sàn xe. Các nữ môn đệ chạy vội lại xe. Người đầy tớ nhìn thấy họ đầu tiên và báo cho bà vú nuôi, trong khi những người khác vội vã đóng ngựa vào xe. Trong lúc đó, người đầy tớ chạy lại các bà chủ của ông và cúi xuống tới đất. Người vú nuôi già, một người đàn bà đẹp, nước da hơi sậm mầu nhưng dễ coi, lanh lẹ bước xuống và đi về với các cô chủ. Nhưng Maria Magđala nói với bà cái gì, rồi bà lại ngay với Đức Trinh Nữ và nói: “Xin lỗi... Vì nỗi vui được gặp nó qúa lớn tới nỗi tôi chỉ xem thấy có nó. Lại đây, bà có phước, mặt trời như thiêu, ở trong xe sẽ mát”.
Và tất cả các bà đều lên xe trong khi chờ các ông hãy còn ở đàng sau. Khi các bà chờ, và trong khi Sintica mặc y phục mà Maria Mađalêna mặc tối hôm qua, hôn chân các cô chủ của nó - nó khăng khăng gọi như vậy, mặc dù các cô đã nói là đối với các cô, nó không phải đầy tớ, cũng không phải nô lệ, mà chỉ là một người được mời nhận nhân danh Giêsu - Đức Trinh Nữ mở gói chỉ đỏ qúi ra, hỏi làm cách nào để xe thứ sợi ngắn này khi nó không thấm nước, không vặn xoắn được.
- Bà ơi, người ta không dùng nó như vậy đâu. Phải tán nó ra thành bột, rồi dùng nó như bất cứ mầu nhuộm nào khác. Đây là nước miếng của con sò, đây không phải là tóc, cũng không phải lông. Bà coi, bây giờ nó khô thì nó bở chừng nào? Bà tán nó ra thành bột mịn, bà rây nó để không còn sợi dài có thể làm thành những vết trên sợi hay vải. Các sợi sẽ dễ nhuộm hơn là các búp. Khi bà đã chắc rằng tất cả đã nát thành bột, cũng như khi ta làm đối
246
với mầu cánh kiến hay mầu nghệ hoặc mầu chàm, hoặc các thứ vỏ khác, hoặc các rễ hay các trái cây, rồi ta dùng nó. Sau đó ta cố định mầu bằng dấm cao độ ở lần giặt nước sau cùng.
- Cám ơn Noêmi. Tôi sẽ làm như bà đã chỉ cho tôi. Tôi đã có thêu với các sợi chỉ mầu tía, nhưng người ta cho tôi thì đã sẵn sàng để dùng... Đây, Giêsu tới rồi. Đã đến lúc chúng ta chào nhau. Các con gái của mẹ, mẹ chúc lành cho tất cả các con nhân danh Chúa. Hãy đi bình an và mang bình an cũng như niềm vui đến cho Lazarô.
Tạm biệt Maria. Con hãy nhớ rằng chính trên ngực mẹ, con đã đổ ra những nước mắt hạnh phúc đầu tiên. Như vậy mẹ là người mẹ cho con, bởi vì đứa con thì chảy những giọt nước mắt đầu tiên của nó trên ngực má nó. Mẹ là người mẹ cho con, và mẹ là như vậy mãi mãi. Điều gì con thấy khó khăn để nói với một người chị êm đềm nhất, hay một người vú nuôi dễ mến nhất, con hãy đến nói với mẹ, mẹ sẽ luôn luôn hiểu con. Điều gì con không dám nói với Giêsu của mẹ, bởi vì nó là điều qúa nhồi bóp trong tính nhân loại mà Người không muốn thấy nó ở nơi con, hãy đến nói với mẹ, mẹ sẽ luôn luôn đặc xá cho con. Và nếu sau đó, con muốn nói với mẹ những chiến thắng của con - nhưng điều này mẹ thích rằng con trình diện với Người như những bông hoa thơm ngát, bởi vì chính Người là Vị Cứu Tinh của con chứ không phải mẹ - mẹ sẽ vui mừng với con.
Tạm biệt Matta. Bây giờ con ra đi cách sung sướng, và con sẽ luôn luôn ở lại trong niềm vui siêu nhiên. Vậy con chỉ còn cần tiến tới trong sự công chính cách bình an mà không gì có thể khuấy trộn con nữa. Hãy làm như vậy vì tình yêu Giêsu là người đã yêu con tới điểm yêu kẻ con yêu hoàn toàn.
Tạm biệt Noêmi. Hãy đi với kho tàng đã tìm thấy của bà. Cũng như bà đã nuôi nó bằng sữa của bà, bây giờ bà hãy nuôi mình bằng những lời mà Matta sẽ nói với bà, để đi tới chỗ thấy được trong con trai tôi rất nhiều hơn là một người trừ tà, giải phóng con tim khỏi sự dữ.
Tạm biệt Sintica, bông hoa của Hy Lạp, kẻ đã tự mình biết thấy
247
rằng có một cái gì hơn thể xác. Bây giờ hãy nở hoa trong Thiên Chúa, và hãy là bông hoa đầu tiên trong các bông hoa Hy Lạp của Đức Kitô.
Tôi rất bằng lòng từ giã qúi vị hợp nhất như vậy. Tôi chúc lành cho rất cả bằng tình yêu.
Tiếng động của các bàn chân bây giờ rất gần. Các bà nâng chiếc mui lên và thấy là Giêsu chỉ ở cách xe vài mét, họ liền bước xuống đường tràn ngập mặt trời như thiêu.
Maria Mađalêna qùi dưới chân Giêsu và nói: “Con cám ơn Thầy vì tất cả, và cũng cám ơn nhiều vì đã cho con làm cuộc hành trình này. Một mình Thầy có sự khôn ngoan. Bây giờ con đi, đã rũ sạch được hết những gì là Maria khi trước. Lạy Chúa, xin chúc lành cho con để củng cố cho con luôn luôn mạnh hơn”.
- Ừ, Thầy chúc lành cho con. Hãy vui hưởng sự họp mặt huynh đệ. Và cùng với anh chị, hãy đào tạo con luôn luôn hơn trong Thầy. Tạm biệt Maria, tạm biệt Matta. Con hãy nói với Lazarô rằng Thầy chúc lành cho ông. Thầy giao phó cho các con người đàn bà này. Thầy không cho các con đâu. Đây là môn đệ của Thầy. Nhưng Thầy muốn các con cho bà ta một sự tối thiểu những khả năng để hiểu giáo lý của Thầy. Rồi Thầy sẽ trở lại. Noêmi, Thầy chúc lành cho bà, và cả hai ông nữa.
Matta và Maria có nước ở mắt. Zêlote chào họ cách đặc biệt, và trao cho họ một bản viết cho người đầy tớ của ông. Những người khác chào họ cùng với nhau. Rồi chiếc xe bắt đầu chuyển bánh.
- Và bây giờ chúng ta đi tìm bóng mát. Xin Thiên Chúa đi cùng chúng ta... Maria, bà tiếc lắm vì họ đi à? - Người hỏi Maria Alphê vì bà này khóc thầm lặng.
- Vâng. Các cô rất tốt.
- Chúng ta sẽ mau chóng gặp lại họ, và còn đông hơn. Bà sẽ có nhiều chị em, hay các con gái, nếu bà thích vậy hơn. Tất cả đều là tình yêu, mẫu tử cũng như huynh đệ - Giêsu nói với bà để củng cố cho bà.
- Miễn là điều đó không tạo ra cho Người những phiền phức... -
248
Iscariot nói.
- Những phiền phức, để yêu nhau à?
- Không. Phiền phức vì có những người giống nòi khác và các nguồn gốc khác.
- Con muốn nói về Sintica à?
- Thưa Thầy vâng. Rốt cuộc, đó là người của Rôma và sẽ xấu khi chiếm lấy. Điều đó sẽ khó xử cho chúng ta, và chúng ta đặt mình ở sau lưng Ponciô Pilatô với sự nghiêm khắc của ông.
- Nhưng anh muốn điều đó làm gì cho ông ta, cho Pilatô? Một người thuộc hạ của ông ta bị mất một tên nô lệ à? Nó sẽ biết điều nó đáng! Nếu ông ta hơi thật thà, như người ta nói ông ta thật thà, ít nhất là trong gia đình, ông ta sẽ nói rằng người đàn bà này rất có lý để trốn đi. Nếu ông ta không thật thà, ông ta sẽ nói: tốt, rồi có lẽ ta sẽ tìm lại được cô ta. Những người gian dối không dễ cảm với đau khổ của kẻ khác. Và rồi! Ôi cái ông Ponciô Pilatô tội nghiệp! Với tất cả những phiền phức mà chúng ta gây ra cho ông, ông ta có rất nhiều điều khác để làm hơn là mất thời giờ vì lời than của một cá nhân đã để trốn mất một nô lệ! - Phêrô nói, và nhiều người tán đồng bằng cách cười nhạo sự dâm dật Rôma.
Nhưng Giêsu mang câu hỏi tới một lãnh vực cao hơn: “Judas, con biết sách Đệ Nhị Luật không?”
- Đương nhiên rồi Thầy. Và con không ngại nói là có qúa ít luật.
- Con nghĩ thế nào về những luật đó?
- Nó là phát ngôn viên của Thiên Chúa.
- Phát ngôn viên, tức là nhắc lại lời Thiên Chúa?
- Đúng hệt vậy.
- Con xét rất đúng. Vậy tại sao con không xét đúng để làm điều luật truyền?
- Con không bao giờ nói như vậy. Trái lại, con thấy rõ là chúng ta đã chểnh mảng luật qúa trong khi đi theo luật mới.
- Luật mới là hoa trái của luật cũ, hay đúng hơn, là sự hoàn thiện được đạt tới nhờ cây Đức Tin. Nhưng như Thầy biết thì không ai trong chúng ta chểnh mảng luật cũ, bởi vì Thầy là kẻ đầu tiên kính
249
trọng luật và ngăn cản những người khác chểnh mảng - Giêsu rất qủa quyết khi nói những lời này. Rồi Người tiếp: “Đệ Nhị Luật là bất khả xâm phạm, dù là khi nước của Thầy đã toàn thắng, và với Vương Quốc của Thầy, luật mới với chín điều và chương của nó, sẽ luôn luôn được áp dụng vào các giáo huấn mới như những tảng đá của các kiến trúc cũ để dùng vào kiến trúc mới, vì đó là những tảng đá toàn vẹn làm cho các bức tường vững chắc. Nhưng bây giờ chưa phải là Vương Quốc của Thầy, và Thầy, một con dân Israel trung thành, Thầy không xúc phạm, cũng không chểnh mảng những luật Môise. Đó là nền móng cho Thầy hành động và cho giáo huấn của Thầy. Chính trên nền tảng của Con Người và của vị Thầy, con Chúa Cha xây dựng toà nhà Nước Trời của Bản Tính Người và sự Khôn Ngoan của Người.
Trong sách Đệ Nhị Luật có nói: “Ngươi sẽ không giao người nô lệ ẩn trú gần nơi ngươi lại cho ông chủ của nó. Nó sẽ ở với ngươi tại nơi nó cho là tốt. Nó sẽ an bình ở lại một trong các thành của ngươi và ngươi không được làm khổ nó”. Điều đó áp dụng vào trường hợp một người bất đắc dĩ phải trốn thoát cảnh nô lệ vô nhân đạo. Trong trường hợp của Thầy, trong trường hợp của Sintica, đó là sự chạy trốn, không phải để tìm sự tự do giới hạn, nhưng là sự tự do vô hạn của con Thiên Chúa. Và con lại muốn rằng con chim sơn ca này, đã thoát được lưới người săn, Thầy lại đặt nó vào lưới để trả nó về nhà tù, để lấy đi của nó cả niềm hy vọng sau tự do sao? Không, không bao giờ. Thầy chúc tụng Chúa về điều, cũng như trong cuộc hành trình vào Enđo, đã dẫn người con này về với Cha. Cuộc hành trình vào Cêsarê đã dẫn đến cho Thầy người con gái này để Thầy dẫn nó về với Cha. Ở Sicaminon, Thầy đã nói với các con về Đức Tin. Hôm nay Thầy sẽ nói với các con về ánh sáng của Đức Cậy. Nhưng bây giờ chúng ta hãy dừng lại trong đám cây xanh um tùm này để ăn và nghỉ ngơi, vì mặt trời thiêu đốt tựa như hỏa ngục đã mở ra vậy.
250
119* GIÊSU NÓI VỀ ĐỨC CẬY
Có vài người trồng nho đang đi qua vườn cây trái, họ mang những rổ đầy những trái nho vàng tựa như chúng được làm bằng hổ phách. Nhìn thấy các tông đồ, họ hỏi các ngài:
- Qúi vị là những người du hành hay là người ngoại quốc?
- Chúng tôi người Galilê, và chúng tôi đi về núi Carmel - Giacôbê Zêbêđê đại diện cho tất cả để trả lời. Ông đang cùng với các bạn nghề chài cá của ông vẫy chân tay để cố gắng thắng sự bần thần rã rượi còn lại. Iscariot và Mathêu cũng đang tỉnh dậy trên thảm cỏ mà các ông nằm. Trái lại, những người già hơn thì mệt mỏi, hãy còn đang ngủ. Giêsu nói chuyện với Gioan Enđo và Hermastê, trong khi Đức Trinh Nữ và Maria Clêopha đứng gần họ, nhưng ở lặng.
Các người trồng nho hỏi: “Các anh từ xa đến sao?”
- Từ Cêsarê là đoạn sau cùng. Nhưng trước đó, chúng tôi đã ở Sicaminon, và xa hơn nữa là chúng tôi từ Caphanaum.
- Ôi! Đoạn đường dài chừng nào về mùa này! Nhưng tại sao qúi vị không vào nhà chúng tôi? Nó ở đàng kia, qúi vị thấy không? Chúng tôi sẽ tặng qúi vị nước mát để nghỉ ngơi chân tay, và lương thực quê mùa, nhưng ngon. Bây giờ hãy vào đi.
- Chúng tôi sắp sửa đi. Thiên Chúa sẽ thưởng cho các ông cũng giống vậy.
- Núi Carmel đâu có sắp chạy đi trên chiếc xe bằng lửa như tiên tri của nó đâu - một người dân quê nói, hơi nghiêm trang.
- Không còn xe lửa ở trên trời xuống để đón các tiên tri nữa. Không còn tiên tri nào trong Israel nữa. Người ta nói Gioan đã chết - một người dân quê khác nói.
- Chết à? Từ hồi nào?
- Đó là điều những người ở bên kia sông Giođan nói với chúng tôi. Qúi vị cũng tôn kính ông à?
- Chúng tôi đã là môn đệ của ông.
- Tại sao qúi vị lại bỏ ông?
- Để theo Con Chiên Thiên Chúa, Đấng Messi mà ông đã loan
251
báo. Hãy còn vị đó trong Israel, các ông ạ. Và phải có cái gì rất hơn là một cỗ xe bằng lửa để xứng đáng đem Người về trời. Các ông không tin Đấng Messi sao?
- Có, chúng tôi tin chứ. Chúng tôi đã quyết định khi xong mùa gặt hái, chúng tôi sẽ đi tìm Người. Người ta nói Người rất nhiệt thành vâng lời Lề Luật, và Người vào Đền Thờ trong sự trịnh trọng của phép tắc. Sắp sửa chúng tôi sẽ đi lễ Lều, và chúng tôi sẽ lên Đền Thờ mỗi ngày để gặp Người. Và nếu chúng tôi không tìm thấy Người, chúng tôi sẽ đi tìm cho tới khi chúng tôi gặp được Người. Các ông biết Người, vậy xin nói cho chúng tôi hay: Có phải đúng là Người hầu như luôn luôn ở Caphanaum? Có phải đúng là Người cao lớn, trẻ trung, tái xanh, tóc hoe vàng, và Người có tiếng nói khác với mọi người, và nó thấu tới con tim, và các con vật, cây cối cũng nghe được không?
- Hết mọi con tim, trừ các con tim của các pharisiêu, Gamala ạ. Họ đã trở nên khó chịu.
- Cả đến họ không phải là giống vật. Đó là các thằng qủi. Kể cả cái ông mà tôi trùng tên. Nhưng xin nói: Có đúng như vậy không, rằng Người tốt, rằng Người nói với hết mọi người, rằng Người yên ủi mọi người, rằng Người chữa bệnh tật và hoán cải các tội nhân?
- Các ông tin vậy à?
- Phải, nhưng chúng tôi muốn nghe biết Người từ qúi vị là những kẻ đi theo Người. Ôi! Nếu các ông dắt chúng tôi lại với Người!
- Nhưng các ông không có vườn nho phải săn sóc sao?
- Chúng tôi cũng có linh hồn cần săn sóc, và còn cần hơn là vườn nho. Người ở Caphanaum à? Nếu bước thật mạnh, chúng tôi có thể đi về trong mười ngày.
- Người ở đây, người mà các ông tìm. Người nghỉ ở trong vườn cây của các ông. Lúc này Người đang nói chuyện với một người già và một thanh niên. Ở bên cạnh Người là Mẹ Người và chị của Mẹ Người.
- Vị đó à?... Ôi!... Người làm gì vậy?...
Họ đứng như bị trồng vì sững sờ. Tất cả con người của họ đều là
252
mắt để nhìn Người. Tất cả sự sống động của họ đều qui tụ ở mống mắt.
- Ê! Các ông đã ước ao biết bao để được thấy Người mà bây giờ các ông không nhúc nhích nữa! Các ông đã trở nên các tượng muối rồi - Phêrô nói dỡn.
- Không... Bởi vì... Nhưng, Người đơn giản, Đức Messi?
- Nhưng các ông muốn Người thế nào? Ngồi trên ngai sáng láng và mặc áo khoác hoàng gia à? Các ông tin Người là một Assuérus mới à?
- Không, nhưng... Qúa đơn giản, Người, qúa thánh!
- Ông ơi, Người đơn giản bởi vì Người thánh. Vậy thế này... Thầy ơi! Lại đây. Lại đây làm một phép lạ. Ở đây có những người tìm Thầy, nhưng họ đã hóa đá vì trông thấy Thầy. Lại đây trả lại cho họ cử động và lời nói.
Giêsu quay lại khi nghe gọi. Người đứng dậy, mỉm cười đi về phía các người trồng nho. Họ nhìn Người, qúa sững sờ tới nỗi họ có vẻ hoảng sợ.
- Bình an cho các con. Các con muốn Thầy? Thầy đây - và Người làm cử chỉ thông thường là mở cánh tay ra, hơi giơ về phía trước như tự ban. Các người trồng nho qùi thụp xuống và câm lặng.
- Đừng sợ. Hãy nói cho Thầy điều các con muốn.
Họ giơ những rổ nho đầy trái ra và không nói gì cả. Giêsu cảm phục những trái nho tuyệt vời. Trong khi nói: “Cám ơn”, Người giơ tay ra lấy một chùm nho và bắt đầu ăn các trái.
- Lạy Thiên Chúa Tối Cao! Người ăn giống như chúng ta! - người mà họ gọi tên là Gamala vừa nói vừa xít xoa.
Thật không nín cười được cách bộc lộ này. Cả Giêsu cũng có một nụ cười mạnh hơn, và tựa như để xin lỗi, Người nói: “Thầy cũng là con loài người”.
Nhưng cử chỉ của Người đã thắng sự xuất thần tê mê của họ, nên Gamala nói: “Ngài không vào nhà chúng con, ít là chiều nay sao? Chúng con rất đông, vì chúng con có bảy anh em với các bà vợ và các con chúng con, cùng với các cha mẹ già của chúng con đang
253
bình an chờ cái chết”.
- Chúng ta đi. Các con, hãy gọi bạn các con để đi với chúng ta. Má ơi, hãy tới cùng với Maria nhé!
Và Giêsu lên đường, theo sau các người nhà quê. Họ đã đứng dậy và bước đi, hơi quay nghiêng để nhìn Người bước. Đường đi chật hẹp giữa các cây lớn, được nối cây nọ với cây kia bằng những cây nho.
Họ tới nhà mau lẹ. Đúng ra là nhiều nhà, vì chúng họp thành một hình vuông, ở giữa là cái sân rộng chung cho mọi nhà, nơi đó có một cái giếng. Người ta vào đó qua một hành lang sâu dùng làm nơi chuẩn bị cho tiền đường, có một cái cửa nặng để đóng lại về ban đêm.
- Bình an cho nhà này và các người ở đây - Giêsu nói khi bước vào và giơ tay chúc phúc. Rồi Người hạ tay xuống để vuốt ve một đức bé nửa mình trần. Nó nhìn Người đăm đăm với cặp mắt xuất thần. Nó rất dễ thương trong chiếc áo sơ-mi nhỏ không có tay trễ ra, để trật đôi vai mũm mĩm. Nó đi chân đất, đứng với một ngón tay để trong miệng. Tay kia nó cầm một miếng bánh thấm dầu.
- Đó là Đavít, đứa bé của em trai con - Gamala cắt nghĩa trong khi một người khác đi vào một căn nhà ở gần nhất để báo tin. Rồi ông đi ra để vào một căn nhà khác. Và ông làm như vậy với hết mọi nhà, do đó xuất hiện khuôn mặt của mọi lứa tuổi, rồi họ rút lui ngay và lại trở ra sau khi đã rửa ráy sơ sơ. Dưới bóng một mái hiên nhô ra, nơi có một cây sung rất lớn, một ông già ngồi cầm một cây gậy trong tay. Ông ta cả đến không ngửa mặt lên. Tựa như ông ta không lưu ý đến chuyện gì cả.
- Đó là ba chúng con - Gamala cắt nghĩa. “Một trong các cụ già của khu nhà. Cả bà vợ của Giacôbê cũng dắt người cha cô đơn của bà tới đây; và có bà cụ mẹ của Lia, người vợ trẻ nhất. Ba chúng con mù rồi. Có một cái vảy mọc ra trên con ngươi của ông. Có qúa nhiều mặt trời trên cánh đồng, qúa nhiều sức nóng trên trái đất! Người cha tội nghiệp! Ông rất buồn, nhưng ông rất tốt. Lúc này ông đang đợi các cháu, vì chúng là niềm vui duy nhất của ông”.
254
Giêsu đi lại với ông già: “Bố ơi! Nguyện Thiên Chúa chúc phúc cho bố”.
- Dù anh là ai, nguyện Thiên Chúa trả lại cho anh sự chúc phúc của anh - ông già nói trong khi ngẩng mặt quay về phía có tiếng nói.
- Số phận của bố nặng nề phải không? - Giêsu nói rất êm đềm và giơ tay làm hiệu bảo đừng nói ra ai là người đang nói.
- Nó do Thiên Chúa gởi đến sau biết bao điều lành Người đã ban cho già trong đời sống trường thọ của già. Cũng như già đã nhận các ơn lành của Thiên Chúa, già cũng phải đón nhận nỗi bất hạnh của con mắt. Nó không đời đời. Nó sẽ chấm dứt trong lòng Abraham.
- Bố nói rất đúng. Nếu linh hồn bị mù thì sẽ tai hại hơn.
- Già tìm cách giữ cho con mắt linh hồn luôn luôn sáng.
- Bố làm cách nào?
- Anh còn trẻ, anh, người đang nói, giọng nói của anh chứng tỏ điều đó, anh sẽ không như lớp trẻ ngày nay, chúng tất cả đều mù, vì chúng vô tôn giáo, hen? Thật là nỗi bất hạnh lớn khi không tin và không làm những điều Thiên Chúa đã dạy. Con trai ơi, đây là một ông già nói với con: Nếu con bỏ rơi lề luật, con sẽ mù trên trái đất và cả ở đời sống bên kia. Con sẽ không bao giờ được thấy Thiên Chúa nữa. Vì chắc chắn Người sẽ đến, một ngày mà Đấng Messi Cứu Chuộc sẽ mở cho chúng ta các cửa của Thiên Chúa. Bố qúa già để có thể thấy cái ngày này trên trái đất, nhưng bố sẽ nhìn thấy nó từ lòng Abraham. Cũng vậy, bố không phàn nàn gì cả, vì bố hy vọng, bởi sự tối tăm này, bố đền trả những vong ân của bố đối với Thiên Chúa, và để đáng được sự sống đời đời. Nhưng con, con còn trẻ. Hãy trung thành, con ạ, để con được nhìn thấy Đấng Messi, vì thời gian đã gần, ông Tẩy Giả đã nói. Con sẽ thấy Người. Nhưng nếu linh hồn con mù, con sẽ như những người mà Isaie đã nói: con có mắt, nhưng không nhìn thấy.
- Bố ơi, bố có muốn nhìn thấy Người không? - Giêsu hỏi khi để một bàn tay Người trên đầu bạc.
255
- Bố muốn thấy Người, phải. Nhưng bố thà ra đi mà không thấy Người, còn hơn là bố thấy Người mà các con cái bố không nhận biết Người. Bố, bố còn có đức tin cũ, và điều đó cũng đủ cho bố. Còn chúng... Ôi! Thế giới ngày nay!...
- Bố ơi, vậy hãy nhìn Đức Messi, để cho chiều tà của bố được đội triều thiên vui mừng.
Và Giêsu lướt bàn tay Người từ mái tóc trắng xuống tới trán, và cho tới cằm đầy râu của ông già, tựa như vuốt ve. Đồng thời Người cúi xuống ngang với khuôn mặt già cỗi của ông.
- Ôi! Lạy Chúa tối cao! Nhưng bố nhìn thấy! Bố nhìn thấy... Con là ai với khuôn mặt này, tuy không biết nhưng rất quen thân, tựa như bố đã thấy con?... Nhưng... Ôi! Bố ngu qúa! Con đã trả lại cái nhìn cho bố! Con là Đức Messi đáng chúc tụng! Ôi! Ôi!
Ông già khóc trên đôi tay của Giêsu mà ông đã cầm lấy, bao phủ nó bằng những cái hôn và nước mắt. Tất cả con cháu quyến thuộc đều cảm động.
Giêsu gỡ một tay ra và lại vuốt ve ông già trong khi nói: “Đúng, chính Thầy. Hãy đến, để cùng với khuôn mặt Thầy, ông cũng biết lời Thầy nữa”. Và Người đi về một cái cầu thang dẫn tới sân thượng, được che rợp bởi một dàn cây dầy làm bóng mát hoàn toàn. Mọi người đều đi theo Người.
- Thầy đã hứa sẽ nói về Đức Cậy với các môn đệ Thầy, và Thầy sẽ giải thích bằng một dụ ngôn. Dụ ngôn đó đây: ông già Ismael này. Chính Chúa Cha trên Trời đã cho Thầy đề tài để dạy dỗ tất cả các con một nhân đức cao cả. Nó giống như cánh tay của một cái ách, để nâng đỡ Đức Tin và Đức Mến.
Cái ách đầy êm dịu, cái giảo đài của nhân tính, giống như cánh tay ngang của cây thập giá; cái ngai của phần rỗi, giống như cây cột treo con rắn chữa lành, được treo lên trong sa mạc. Nó là cái giảo đài của nhân tính, cái cầu của linh hồn, để linh hồn được giải phóng mà bay về với ánh sáng. Nó được đặt giữa Đức Tin cần thiết và Đức Mến vẹn toàn. Bởi vì không Trông Cậy, không thể có Đức Tin, và không trông cậy thì Đức Mến sẽ chết.
256
Đức Tin giả định một sự hy vọng đầy xác thực. Làm sao tin được rằng sẽ đến được với Thiên Chúa nếu người ta không trông cậy ở lòng nhân từ của Người? Làm sao tìm thấy chỗ tựa của đời sống nếu người ta không hy vọng vào sự vĩnh cửu? Làm sao có thể kiên trì trong sự công chính nếu người ta không được khích lệ bởi trông cậy rằng mỗi hành động tốt đều được Thiên Chúa thấy và sẽ nhận được phần thưởng về nó nơi Người. Cũng vậy, làm sao có thể làm cho Đức Mến sống động nếu không có niềm hy vọng trong chúng ta? Đức Cậy đi trước Đức Mến và chuẩn bị cho nó, bởi vì mỗi người cần hy vọng để có thể yêu. Những kẻ thất vọng thì không yêu nữa. Đây là cái thang làm thành bởi những bậc thang và các thanh dọc để giữ lấy nó. Đức Tin là những bậc thang. Đức Cậy là những thanh dọc. Ở bên trên là Đức Mến mà người ta lên được tới đó nhờ hai thứ kia. Người ta hy vọng để tin; người ta tin để yêu.
Người này đã biết hy vọng. Khi sinh ra, ông là một trẻ sơ sinh Israel như mọi đứa khác. Ông đã lớn lên với cùng một giáo huấn như các trẻ khác. Ông đã trở nên con trai của Lề Luật như những người khác. Ông đã trở nên một người đàn ông, một người chồng, một người cha, một cụ già, luôn luôn trong niềm hy vọng vào những lời đã được hứa cùng các tổ phụ, và được nhắc lại bởi các tiên tri. Trong tuổi già của ông, bóng tối đã phủ lên con ngươi của mắt ông, nhưng không phủ lên qủa tim ông. Ánh sáng hy vọng luôn luôn cháy sáng trong ông: Hy vọng được thấy Thiên Chúa, thấy Thiên Chúa trong đời sống bên kia. Và trong hy vọng được xem thấy đời đời này, có một hy vọng kín đáo hơn, tha thiết hơn: Nhìn thấy Đức Messi. Và ông đã nói với Thầy khi không biết ai là người trai trẻ nói với ông: “Nếu con bỏ rơi lề luật, con sẽ mù ở dưới đất và ở trên trời; con sẽ không nhìn thấy Thiên Chúa và con sẽ không nhận ra Đức Messi”.
Ông đã nói khôn ngoan. Trong Israel ngày nay có qúa nhiều người mù. Họ không còn hy vọng, vì sự phản động chống lại lề luật đã giết chết hy vọng ở trong họ. Họ luôn luôn là phản động, cho dù họ nấp ở dưới những trang sức thánh, nếu họ không đón nhận cách
257
trọn vẹn lời của Thiên Chúa. Thầy nói: của Thiên Chúa, Thầy không nói tới những thứ bị đặt chồng chất lên trên bởi con người. Và vì nó qúa nhiều và toàn là nhân loại, nó bị sao lãng bởi ngay cả những người đã tạo ra nó. Nó được tuân theo cách máy móc, làm cách chán ngán, cách vô bổ, vì bị ép buộc bởi những người khác. Họ không còn hy vọng. Họ chế nhạo những chân lý đời đời. Vậy họ không còn Đức Tin, cũng không còn Đức Mến. Cái ách thần linh của Thiên Chúa đã truyền cho con người tuân theo để được thưởng; cây Thập Giá của Trời mà Thiên Chúa ban cho con người để trừ các con rắn của sự dữ, để rút ra ở đó sự cứu rỗi, đã bị mất đi cái cánh tay ngang, cái dùng để nâng đỡ ngọn lửa trắng và ngọn lửa đỏ, tức là Đức Tin và Đức Mến. Và sự tối tăm đã bao phủ con tim họ.
Bố già đã nói với Thầy: “Thật là đại bất hạnh nếu không tin và không làm những điều Thiên Chúa phán”. Đúng vậy. Thầy xác định với các con, điều đó còn xấu hơn tật mù vật chất mà người ta còn có thể chữa khỏi để cho một người công chính niềm vui lại nhìn thấy mặt trời, đồng cỏ, các trái cây của trái đất, khuôn mặt của con cháu. Ở trên tất cả là niềm hy vọng trong Đức Cậy của ông: Nhìn thấy Đấng Messi của Chúa. Thầy muốn có một nhân đức sống động như vậy trong tâm hồn của toàn thể dân Israel, đặc biệt là nơi những người được giáo huấn hơn về lề luật. Nếu chỉ tới Đền Thờ hay thuộc về Đền Thờ, nếu chỉ biết thuộc lòng những lời trong sách, thì không đủ, phải biết làm cho nó sống bằng đời sống của chúng ta dựa vào ba nhân đức đối thần này.
Các con đã có một gương mẫu: nơi nào các nhân đức này sống động thì tất cả đều dễ dàng để chịu đựng, dù là sự bất hạnh, vì ách của Thiên Chúa luôn luôn là ách nhẹ nhàng, chỉ đè trên thân xác chứ không triệt hạ thần trí.
Hãy đi bình an, các con, những người cư ngụ ở đây, căn nhà của những người Israel tốt. Bố già, hãy đi bình an, nguyện Thiên Chúa luôn luôn yêu bố, bố đã xác tín điều đó. Hãy chấm dứt ngày của người công chính của bố trong khi đặt để sự khôn ngoan trong lòng
258
các con cháu của dòng máu bố.
Thầy không thể ở lại, nhưng phúc lành của Thầy ở lại bên trong những bức tường này, nơi giầu ân sủng như những chùm của vườn nho này.
Giêsu muốn ra đi, nhưng Người phải ở lại, vừa để biết cái bộ lạc này với mọi lứa tuổi, vừa để nhận tất cả những thứ mà người ta muốn dâng cho Người, cho tới khi các túi du lịch đều phình ra như những cái vò... Rồi Người lại có thể lên đường bởi một lối tắt qua các vườn nho mà các người trồng nho đã chỉ cho Người. Họ chỉ rời Người khi đã nhìn thấy cái xứ mà Giêsu và các người của Ngài có thể qua đêm.
120* GIÊSU LÊN NÚI CARMEL VỚI GIACÔBÊ ALPHÊ
- Các con hãy đi giảng Tin Mừng ở đồng bằng Esdrelon cho tới khi Thầy trở lại với các con - Giêsu ra lệnh cho các tông đồ vào một buổi sáng thanh quang trong khi các ngài dùng một chút đồ ăn: bánh và trái cây, ở vùng phụ cận Kison.
Các tông đồ không có vẻ gì nhiệt thành, nhưng Giêsu khích lệ họ bằng cách cho họ một đường lối để theo và để biết cư xử, và Người kết thúc: “Những gì còn lại, các con đã có Mẹ Thầy ở với các con. Mẹ sẽ là một cố vấn rất tốt. Hãy đến với những người nông dân của Giocana, và vào ngày Sabat, hãy tìm cách nói với các nông dân của Doras. Hãy cho họ những đồ cứu trợ và khích lệ ông ngoại của Margziam và cho ông những tin tức về đứa bé. Hãy nói với ông là chúng ta sẽ dẫn nó về cho ông vào dịp Lễ Lều. Hãy cho những kẻ khốn khó đó rất nhiều, tất cả những gì các con có, tất cả những gì các con biết, tất cả tình cảm mà các con có thể, tất cả tiền bạc mà chúng ta có. Đừng sợ. Nó vào cũng như nó ra. Không bao giờ chúng ta chết đói, mặc dù chúng ta chỉ sống bằng bánh và trái cây. Và nếu các con xem thấy ai ở trần, hãy cho họ quần áo, kể cả các quần áo của Thầy. Hãy cho các y phục của Thầy trước tiên.
259
Chúng ta không bao giờ bị trần. Nhất là nếu các con thấy những kẻ khốn nạn nào muốn tìm Thầy, các con đừng khinh chê họ. Các con không có quyền làm như vậy. Tạm biệt Mẹ. Xin Thiên Chúa chúc phúc cho các con bởi miệng Thầy. Hãy đi cách an toàn. Đi, Giacôbê”.
- Cả đến Thầy không cầm giỏ của Thầy à? - Tôma hỏi khi Thấy Chúa lên đường mà không cầm giỏ của Người.
- Không cần. Thầy sẽ được tự do hơn để bước.
Giacôbê cũng không cầm giỏ của ông, mặc dầu mẹ ông đã vội vã nhét đầy giỏ cho ông những bánh, phó mát và trái cây.
Hai người lên đường, theo hướng rời xa Kison một lát, rồi tấn công những sườn dốc đầu tiên dẫn lên Carmel, khuất khỏi mắt những người còn lại.
- Mẹ ơi, chúng con ở trong tay mẹ, xin mẹ hướng dẫn chúng con, bởi vì... chúng con chẳng có khả năng làm gì cả - Phêrô nhận biết mình cách khiêm tốn.
Maria có một nụ cười bảo đảm, và mẹ nói: “Rất đơn giản thôi. Các con chỉ việc vâng lệnh Người, rồi tất cả sẽ tiến hành tốt đẹp. Chúng ta đi thôi”.
Giêsu lên dốc với người anh họ Giacôbê và không nói gì. Ông kia cũng không nói. Giêsu đắm chìm trong tư tưởng của Người. Giacôbê thấy mình ở ngưỡng cửa của một mặc khải, thấy thấm thía tình yêu trọng kính, một sự kính sợ thiêng liêng. Thỉnh thoảng ông liếc nhìn Giêsu, Người có một nụ cười tươi sáng trên khuôn mặt trang trọng. Ông nhìn Người như ông nhìn Thiên Chúa không còn nhập thể nữa, mà là chói sáng trong tất cả vẻ oai phong vô biên của Người, và khuôn mặt ông giống khuôn mặt thánh Giuse chừng nào, với nước da sậm, nhưng không lấn át mầu đỏ của đôi gò má, trở nên lợt lạt vì xúc động. Nhưng ông luôn luôn kính trọng sự yên lặng của Giêsu.
Bằng con đường tắt - tựa như họ không nhìn thấy các người mục đồng đang cho đoàn vật ăn cỏ trong những cánh đồng xanh ngát ở bên dưới tàn lá của các cây sồi xanh lớn nhỏ, các cây tần bì và các loại cây rừng cổ thụ khác - họ không ngừng lên dốc, áo khoác quẹt
260
vào các bụi đỗ tùng xanh và các bụi kim tước vàng bóng, hoặc các khóm mầu ngọc bích rải rác với mầu ngọc trai của các cây sim, hoặc các màn gió lay động của các cây kim ngân và các cây tiên nhân thảo đầy hoa.
Hai vị đi lên, để lại đàng sau các người tiều phu và các người mục đồng, cho tới khi, sau một hồi bước không biết mệt, tới đỉnh núi, đúng hơn là một cao nguyên đâu lưng vào với cái đỉnh phủ đầy cây sên vĩ đại, giới hạn bởi một rặng cây cổ thụ mà gốc của nó ngang với đỉnh ngọn các cây khác mọc ở sườn, làm cho nó giống như một đồng cỏ nhỏ đâu lưng vào cái chỗ tựa ồn ào này, ngăn cách với các nơi còn lại của ngọn núi mà mùa nảy lộc ở bên dưới không cho nhìn thấy, với, ở phía sau là sườn dốc, nơi các cây mọc vươn lên trời, ở bên trên là bầu trời rộng mở, ở đàng trước là chân trời đỏ rực trong hoàng hôn, và ngừng lại trên mặt biển cháy lửa. Một vết nứt mở ra ở dưới đất. Nó không bị lở nhờ các rễ của các cây sên vĩ đại mọc như một cái lưới, giống như những cái kìm ghì nó lại, mở ra ở sườn núi vừa đủ rộng để một người không to lớn có thể bước qua. Một bụi cây um tùm mọc ngang ra từ sườn núi giống như muốn kéo dài nó ra.
Giêsu nói: “Giacôbê, anh của Thầy, chúng ta sẽ ở lại đêm nay, và mặc dầu rất mệt mỏi về thân xác, Thầy xin con hãy qua đêm trong việc cầu nguyện, đêm nay và tất cả ngày mai, cho tới giờ này. Một ngày tròn không phải là qúa để nhận điều mà Thầy muốn cho con”.
- Giêsu, Chúa và Thầy của con, con sẽ làm tất cả những gì Thầy muốn - Giacôbê trả lời trong khi ông trở nên xanh hơn lúc Giêsu bắt đầu nói.
- Thầy biết. Bây giờ chúng ta hãy đi hái những trái dâu và những trái quất cho bao tử của chúng ta, và chúng ta giải khát ở cái suối mà Thầy nghe thấy ở bên dưới. Vậy hãy để áo khoác của con ở trong hang, sẽ không ai lấy đâu.
Và cùng với ông anh họ, Người đi vòng quanh sườn núi, hái những trái cây dại ở thấp dưới tàn lá. Rồi ở vài mét dưới thấp hơn, ở phía đối diện với phía Người đã lên, hai vị lấy đầy nước vào bầu,
261
vật duy nhất mà các ngài mang theo, tại một con suối ồn ào đổ vào một búi rễ cây chằng chịt, và họ rửa ráy để giải nhiệt, vì sức nóng còn mạnh, mặc dầu ở trên cao. Rồi họ lại trở lên cái cao nguyên của họ. Và trong khi khí quyển đỏ rực trên đỉnh phủ đầy mặt trời đang sắp lặn về tây, họ ăn những gì họ đã lượm, và uống nước nữa, trong khi mỉm cười với nhau như hai đứa trẻ sung sướng, hoặc như hai thiên thần. Rất ít lời, chỉ nói về những kỷ niệm của kẻ đã sống ở đồng bằng, một tiếng kêu vì cảm phục vẻ đẹp vô biên của ngày, tên của hai bà mẹ... không còn gì hơn.
Giêsu lôi người anh họ vào sát Người, và ông này làm cái cử chỉ thông thường của Gioan: tựa đầu trên ngực Giêsu, một tay để trên đầu gối ông, tay kia đặt trong tay Giêsu. Và họ ngồi yên như vậy trong khi chiều buông giữa tiếng ríu rít rất rộn ràng của chim chóc đang lui về trong các bụi lá. Một tiếng lục lạc vang lên rồi xa dần, và càng lúc càng không rõ. Một cơn gió nhẹ mơn trớn đỉnh đồi, thổi mát cho nó và làm cho nó linh động lại sau một ngày nóng bức oi ả, mở đầu cho sương đêm.
Họ ở yên như vậy thật lâu. Tôi tin đó chỉ là sự yên lặng của các cặp môi, trong khi lòng trí thì linh hoạt hơn bao giờ hết, liên kết với nhau bằng những đàm thoại thiêng liêng.
121* “YÊU CÁCH HOÀN TOÀN
ĐỂ LÀM THỦ LÃNH CÁCH THÁNH THIỆN”
Lúc này là cùng một giờ, nhưng là ngày hôm sau.
Giacôbê hãy còn ẩn trong khe núi và ngồi cuộn tròn, đầu cúi gần tới đầu gối được ôm bởi hai tay. Ông đang ở trong sự trầm tư sâu xa hay ông ngủ? Tôi không biết rõ. Chắc chắn là ông vô cảm với những gì xảy ra ở chung quanh ông, tức là về trận đấu của hai con chim lớn, chắc vì một lý do đặc biệt, chúng đánh lộn cách dã man trong đồng cỏ. Tôi cho đây là hai con gà trống rừng, hoặc gà lôi hay chim trĩ, vì nó lớn như con gà trống non với bộ lông đủ mầu
262
sắc, nhưng chúng không có mào, chỉ có như một cái mũ nhỏ bằng thịt đỏ như san hô ở trên đỉnh đầu và ở má. Tôi bảo đảm với qúi vị rằng nếu cái đầu của nó bé, thì cái mỏ giống như cái mũi nhọn bằng thép. Lông lá bay tung trong không khí và máu chảy dưới đất trong một trận đấu quyết tử, làm nín đi những tiếng hót, những tiếng láy, những tiếng ngân trong các chòm lá. Có lẽ tất cả loài chim đang quan sát cuộc đấu dã man này...
Giacôbê không nghe gì cả. Trái lại, Giêsu nghe thấy, và từ đỉnh núi, nơi Người đã leo lên, Người vừa xuống vừa vỗ tay, phân rẽ hai kẻ chiến đấu và chúng chạy trốn, một về phía bãi biển, một bay lên ngọn một cây sồi già, ở đó nó đặt lại thứ tự bộ lông đã bị dựng ngược và lộn xộn. Giacôbê không ngẩng đầu lên, mặc dầu tiếng động của Giêsu. Người mỉm cười, bước thêm mấy bước nữa và dừng lại ở giữa đồng cỏ. Bộ đồ trắng của Người như được nhuộm đỏ ở phía bên phải, vì hoàng hôn có ánh sáng đỏ rực. Người ta có thể nói đúng là một trời lửa. Nhưng Giacôbê không ngủ, vì khi Giêsu vừa thì thào, đúng là chỉ thì thào: “Giacôbê, lại đây”, ông cất đầu đang gục trên đầu gối lên và mở đôi tay đang ôm chúng ra, đứng dậy và đi lại với Giêsu.
Ông dừng lại trước mặt Người, cách độ chừng hai bước, và nhìn Người. Giêsu cũng nhìn ông, Người nghiêm trang, nhưng khích lệ ông bằng một nụ cười không đến từ cặp môi hay cái nhìn, nhưng nó thật tỏ tường. Người nhìn ông đăm đăm như muốn đọc hết những phản ứng và những xúc động bé nhỏ nhất của người anh họ, cũng là tông đồ. Và cũng như hôm qua, cảm thấy mình ở trước ngưỡng cửa một mặc khải, ông trở nên tái lợt, và càng xanh mét hơn tới nỗi khuôn mặt ông có mầu giống như bộ đồ vải gai của ông, khi Giêsu giơ tay đặt trên vai ông và giữ yên vị trí như vậy. Lúc đó Giacôbê có vẻ rất giống một bánh thánh. Chỉ có cặp mắt êm dịu mầu nâu đậm và bộ râu mầu nâu của ông là có mầu trên khuôn mặt chờ đợi này.
- Giacôbê, anh của Thầy. Con biết tại sao Thầy muốn con ở đây, một mình với một mình, để nói với con sau những giờ cầu nguyện
263
và suy niệm không?
Giacôbê có vẻ cảm thấy khó trả lời, vì ông qúa cảm động. Nhưng sau cùng ông mở môi và trả lời nhỏ tiếng: “Để cho con một chỉ dạy đặc biệt, hoặc cho tương lai, hoặc vì con là kẻ bất lực hơn tất cả. Con cám ơn Thầy ngay lúc này, dù nếu đây là một sự quở mắng. Nhưng, Thầy con và Chúa của con, hãy tin con: nếu con chậm chạp và bất lực, thì là vì thiếu phương tiện chứ không phải vì thiếu thiện chí”.
- Đây không phải là một sự quở trách, mà là một giáo huấn, đúng, cho thời gian mà Thầy không còn ở với các con nữa. Trong lòng con, trong mấy tháng nay, con đã suy nghĩ rất nhiều tới điều mà Thầy đã nói với con một bữa nọ, tại chân của ngọn núi này. Thầy đã hứa sẽ lên đây với con, không phải chỉ để nói về tiên tri Êlia và ngắm biển chói sáng ở dưới kia, tới vô tận, nhưng để nói với con về một cái biển khác, còn lớn hơn, thay đổi nhiều hơn, phản trắc nhiều hơn là cái biển mà bữa nay có vẻ yên tĩnh như một chậu nước, nhưng có lẽ chỉ trong vài giờ, sẽ nhận chìm tàu bè và con người trong cơn đói tham lam của nó. Và con không bao giờ ngừng nghĩ tới điều Thầy đã nói với con khi đó, với ý nghĩ rằng việc đi lên đây này có liên can tới số phận tương lai của con. Nếu mặc dù bây giờ con càng lúc càng tái mét khi thấy rằng đó là một số phận nặng nề, một sự thừa kế đầy trách nhiệm đến nỗi nó làm cho kẻ anh hùng cũng phải run. Một trách nhiệm và một sứ mạng phải thi hành với tất cả sự thánh thiện có thể của con người, để không làm thất vọng ý muốn của Thiên Chúa. Giacôbê, đừng sợ. Thầy không muốn con hư đi, vì nếu Thầy đã tiền định cho con vào việc này, thì đó là dấu chỉ rằng Thầy biết con sẽ có, không phải một tai hại, nhưng là một vinh quang siêu nhiên.
Giacôbê, hãy nghe Thầy đây: Hãy tạo ra trong con sự bình an và một cử chỉ thật đẹp của sự phó thác nơi Thầy, để có thể nghe và nhớ lời Thầy.
Không bao giờ chúng ta có thể một mình với nhau như vầy, với một thần trí được chuẩn bị như vầy để nghe nhau nữa. Một ngày
264
kia, Thầy sẽ ra đi như mọi con người đều chỉ có một thời gian ở trên mặt đất. Thời gian của Thầy sẽ chấm dứt một cách khác với các người thường, nhưng nó phải chấm dứt, và các con sẽ không còn Thầy ở bên cạnh cách nào nữa ngoài bằng thần trí của Thầy, mà Thầy bảo đảm với các con là Thầy sẽ không bao giờ bỏ rơi các con.
Về phần Thầy, Thầy sẽ ra đi sau khi đã cho các con tất cả những gì cần thiết để làm phát triển giáo lý của Thầy trong thế gian, sau khi đã hoàn tất lễ hy sinh, và các con đã lãnh nhận Ân Sủng. Bởi Ân Sủng và bởi ngọn lửa của Đấng Khôn Ngoan với bảy hình thức, các con có thể làm những điều mà lúc này các con thấy nó có vẻ điên rồ và qúa tự đại, dù là chỉ mới tưởng tượng đến nó.
Thầy ra đi và các con sẽ ở lại. Cái thế giới không hiểu Đức Kitô thì cũng sẽ không hiểu các tông đồ của Đức Kitô. Các con cũng sẽ bị bách hại, bị phân tán, bị coi như những người nguy hiểm nhất cho hạnh phúc của Israel. Nhưng vì các con là môn đệ Thầy, các con phải sung sướng vì được chịu cùng một khổ hình như Thầy các con.
Thầy đã nói với con một ngày nọ vào tháng Nisan: “Con sẽ là một kẻ còn lại trong số các tiên tri của Chúa”. Má con, do một ảnh hưởng siêu nhiên, đã hầu như hiểu nghĩa những lời này. Nhưng trước khi những lời này được minh xác nơi các tông đồ của Thầy, thì nó cũng sẽ được minh xác về những điều có liên can tới con.
Giacôbê ạ, tất cả sẽ bị tản mát đi, trừ con, và điều đó sẽ như vậy cho tới khi Thiên Chúa gọi con về Trời của Người. Con sẽ ở lại vị trí mà Thiên Chúa tuyển chọn cho con qua miệng các anh em con. Con là dòng tộc vương giả trong thành hoàng gia để nâng cao cây trượng của Thầy mà nói về Vị Vua Thật, vua Israel, vua thế giới theo vương quyền tối thượng mà không ai hiểu, trừ ra những kẻ đã được mặc khải. Đó là những thời kỳ mà con cần sức mạnh, thủy chung, kiên gan, và một sự minh mẫn không giới hạn.
Con phải biết công bằng với lòng bác ái, với một đức tin đơn sơ và tinh ròng như đức tin của trẻ nhỏ, nhưng đồng thời uyên thâm như một vị thầy thực sự, để nâng đỡ đức tin bị công hãm trong biết bao con tim, vì biết bao thứ chống đối với nó, và để bác bỏ những
265
sai lầm của các Kitô hữu giả, và sự tế nhị về giáo lý của con người Israel cũ, những người từ lúc này đã mù quáng. Họ sẽ mù quáng hơn bao giờ hết sau khi đã giết Ánh Sáng. Họ làm sai lạc các lời tiên tri cho tới cả những giới răn của Chúa Cha mà từ đó Thầy đã khởi sự, để thuyết phục chính mình họ, để nhờ vậy cho mình được yên lương tâm và thuyết phục thế giới rằng: đấng mà các tổ phụ và các tiên tri nói tới không phải là Thầy, và rằng Thầy chỉ là một con người tội nghiệp, một người không tưởng, một tên điên đối với những kẻ tốt nhất, một kẻ theo tà giáo và bị qủi ám đối với những kẻ ít tốt hơn của Israel cũ.
Thầy xin con lúc đó hãy là một chính Thầy khác. Không à? Không thể được à? Sẽ đúng là như vậy. Con phải luôn luôn có Giêsu của con hiện diện trong thần trí con, các hành động của Người, các lời nói của Người, các công việc của Người, tựa như con tự ghép con vào cái khuôn bằng đất sét mà các người thợ đúc dùng để làm các dấu tích trên kim loại. Con phải đúc con bằng khuôn Thầy. Thầy sẽ luôn luôn hiện diện, hiện diện và sống động nơi các con, các tôi trung của Thầy, tới nỗi các con có thể hợp nhất với Thầy và trở nên các thứ ngã của Thầy. Chỉ cần muốn như vậy. Nhưng con, con đã ở với Thầy từ tuổi thơ, và đã được nuôi bằng lương thực khôn ngoan do bàn tay Mẹ Maria trước khi có nó bởi tay Thầy. Con là cháu của người công chính nhất mà Israel có được, con phải là một Đức Kitô trọn vẹn...
- Lạy Chúa, con không thể đâu. Xin Chúa giao nhiệm vụ này cho thằng em con, hãy giao nó cho Gioan, giao nó cho Simon Phêrô, giao nó cho ông Simon khác. Lạy Chúa, đừng giao cho con! Tại sao lại con? Con đâu có làm gì để xứng đáng chức vụ đó? Thầy không thấy rằng con rõ ràng chỉ là một con người tội nghiệp, chỉ có thể làm một điều là yêu Thầy hết lòng và tin vững vàng vào mọi điều Thầy nói?
- Juđa có tính khí qúa tuyệt đối. Nó sẽ làm tốt tại những nơi nó phải hành động để chống lại ngẫu tượng giáo, không thể ở đây, nơi nó phải dẫn vào Kitô giáo những kẻ đã là dân Thiên Chúa, tự cho mình tuyệt đối ở trong đường ngay chính; không thể ở đây, nơi nó
266
phải thuyết phục những kẻ đã tin ở Thầy, nhưng bị thất vọng vì những biến cố xảy ra; phải thuyết phục họ rằng nước của Thầy không phải ở thế gian, nhưng nước này là hoàn toàn siêu nhiên, nước ở trên Trời, mà sự chuẩn bị là một đời sống Kitô hữu, tức là một đời sống mà các gía trị ưu thắng là những giá trị của tâm hồn.
Người ta có được sự xác tín nhờ vào sự êm đềm, chặt chẽ, vững vàng. Khốn cho kẻ nào nhảy xổ vào xiết cổ người ta để thuyết phục họ. Những kẻ bị đột kích sẽ nói “đúng” vào lúc đó để thoát bàn tay xiết chặt, nhưng sau đó nó sẽ lẩn trốn đi và không muốn trở lại nữa, không muốn chấp nhận bàn luận, nếu đó không phải là những kẻ đồi bại, mà chỉ là những kẻ lầm lạc. Còn nếu đó là những kẻ đồi trụy hay cuồng tín, chúng sẽ trốn đi để trang bị và giết hại những ai muốn thuyết phục chúng.
Và con sẽ bị bao vây bởi các kẻ cuồng tín: cuồng tín giữa các Kitô hữu, cuồng tín giữa các người Israel. Loại thứ nhất thì đòi hỏi con phải có những hành động mãnh liệt, hoặc ít nhất là cho phép thi hành nó, vì con người Israel cũ, với tính ngoan cố của họ và với những hạn chế của họ, họ vẫn còn cái đuôi có chất độc hành động trong họ. Loại cuồng tín thứ hai sẽ đi ngược lại với con và các người khác giống như cuộc thánh chiến để bảo vệ đức tin cũ của họ, những tín điều của họ, những nghi lễ của họ. Và con sẽ ở giữa cái biển trong cơn giông tố này.
Đó là số phận của người thủ lãnh. Con sẽ là thủ lãnh của những kẻ ở Jêrusalem và đã Kitô hóa bởi Giêsu của con. Con phải biết yêu cách hoàn toàn để có thể là thủ lãnh một cách thánh thiện.
Đây không phải là những vũ khí hay những lên án công khai, nhưng qủa tim con phải đương đầu với những vũ khí và những lên án của các người Do Thái. Không bao giờ con được học thói các pharisiêu để coi dân ngoại như phân rác. Cũng vì họ nữa mà Thầy đã đến. Bởi vì thực tế, đối với một mình Israel thì không cân xứng với việc tự hạ của Thiên Chúa trong một thân xác có thể chịu đựng cái chết. Qủa thật là tình yêu của Thầy làm cho Thầy vui lòng nhập thể, dù là chỉ vì phần rỗi của một linh hồn mà thôi, nhưng sự công bằng, là
267
một phần của Thiên Chúa, đòi hỏi rằng Đấng Vô Biên tự hạ cho một số vô biên: cả nhân loại.
Con cũng phải êm đềm với họ để không làm cho họ xa lìa; tự tiết chế mình, không lay chuyển trong giáo lý, nhưng vị nể đối với những lối sống khác khi nó không giống lối sống của chúng ta về mọi thứ vật chất không làm tổn thương cho tinh thần. Con sẽ phải chiến đấu rất nhiều với các anh em về điều đó. Vì toàn thể Israel đều bao bọc bằng những thực hành hoàn toàn bề ngoài và vô ích, bởi vì nó không thay đổi gì cho tinh thần. Trái lại, con phải chăm chỉ lo về tinh thần và dạy người khác làm như vậy. Đừng đòi hỏi là dân ngoại phải thay đổi lập tức những thói quen của họ. Chính con cũng vậy, con đâu có thay đổi ngay một phát các thói quen của con. Đừng thả neo để ở lại tại cái tảng đá ngầm của con, bởi vì muốn thu lượm các thứ trôi dạt trên mặt biển để đem nó lên đường, để làm lại nó vào đời sống mới, thì phải bơi đi chứ đừng ở lì một chỗ. Con phải tìm các kẻ trôi dạt, chúng có ở trong dân ngoại và cũng có ở Israel. Ở đầu mút của cái biển mênh mông, có Thiên Chúa đang mở tay ra cho hết mọi tạo vật, dù nó giầu có về nguồn gốc thánh của nó như các người Israel, hoặc nó nghèo khó vì nó là dân ngoại. Thầy đã nói: “Hãy yêu người đồng loại”. Người đồng loại không phải chỉ là bà con hay đồng hương. Cũng là đồng loại của các con: những người ở bắc cực mà các con không biết hình dạng; cũng là đồng loại của các con, những người giờ này đang ngắm bình minh trong một xứ mà các con không biết, hay đang chạy trên tuyết tại những rặng núi hoang dã miền châu Á, hay đang uống nước ở những con sông chảy qua những khu rừng chưa ai biết tới tại Trung Phi. Nếu nó đến với con một kẻ thờ mặt trời hay kẻ coi con cá sấu phàm ăn là chúa của nó, hay một kẻ tin là sự khôn ngoan tái nhập thể là kẻ biết chân lý, nhưng không đạt được sự toàn thiện, cũng không cho các kẻ tin nó được phần rỗi; hay một tên dân ghê tởm của thành Rôma hay thành Athènes đến xin con những hiểu biết về Thiên Chúa, thì con không thể và không được phép nói với họ: “Tôi xua đuổi các người, vì dẫn các người đến cho Thiên Chúa là một sự
268
phạm thánh”.
Hãy luôn luôn hiện diện trong trí con rằng họ không biết, trong khi Israel thì biết. Nhưng thực ra, nhiều người trong Israel là, và sẽ là kẻ thờ tà thần, và độc ác hơn kẻ thờ tà thần dã man nhất thế giới. Nhưng không phải chỉ có tà thần nọ tà thần kia mà họ dâng các lễ hy sinh là các người nạn nhân, nhưng là họ dâng cho chính họ: cho sự kiêu căng của họ, sự khát máu của họ, sau khi họ đã đốt lên trong họ một ngọn lửa khát không thể dập tắt được, nó sẽ kéo dài cho tới tận cùng của các thế kỷ. Chỉ có sự lại uống Đức Tin có thể dập tắt ngọn lửa mà cái khát ghê gớm đã cháy lên này. Nhưng lúc đó sẽ là tận cùng của thế giới, vì những kẻ sau cùng nói câu: “Tôi tin Ngài là Thiên Chúa và là Đấng Messi” sẽ là các người Israel, mặc dầu tất cả những bằng cớ Thầy đã cho và sẽ cho về Thiên Tính của Thầy.
Con sẽ canh chừng, và con sẽ chú ý để đức tin của các Kitô hữu không thành vô ích. Nó sẽ vô ích nếu nó chỉ là những lời và những thực hành giả dối. Chính tinh thần làm cho sống. Tinh thần thiếu ở trong những thi hành máy móc hay theo kiểu pharisiêu, đó chỉ là đức tin giả vờ chứ không phải đức tin thật. Ích lợi gì cho con người khi họ hát những lời ngợi khen Thiên Chúa trong tập thể các tín hữu, rồi sau đó, tất cả lối sống của họ là sự nhục mạ Thiên Chúa? Người không nhìn nhận trò chơi của kẻ tin, nhưng trong tình phụ tử của Người, luôn luôn gói ghém đặc quyền của vị Thiên Chúa và vị Vua của Người.
Con hãy tỉnh thức và canh chừng để không ai chiếm một địa vị không phải là của nó. Thiên Chúa sẽ ban cho các con ánh sáng tùy mỗi hoàn cảnh của các con. Thiên Chúa sẽ không để các con thiếu ánh sáng, ngoại trừ tội lỗi làm nó tắt đi trong các con. Nhiều người sẽ thích được nghe gọi là “Thầy”. Chỉ có một ông Thầy: người đang nói với con, và chỉ có một cô giáo là Giáo Hội nối tiếp Người. Trong Giáo Hội, các Thầy là các kẻ đã được dâng hiến bởi một trách nhiệm đặc biệt để giảng dạy. Nhưng giữa các tín hữu, có những người do ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn riêng của họ,
269
được chiếm cứ bởi cơn lốc của sự khôn ngoan, và họ sẽ nói. Cũng có những người khác, không có khôn ngoan tự mình, nhưng ngoan ngoãn như những dụng cụ trong tay nghệ sĩ, cũng sẽ nói nhân danh nghệ sĩ, và nhắc lại như những đứa trẻ ngay thẳng, những điều mà Chúa Cha bảo chúng nói, mặc dầu chúng không hiểu điều chúng nói có những ý nghĩa gì. Sau cùng, cũng có những kẻ sẽ nói tựa như chúng là những bậc thầy, với vẻ rực rỡ sẽ hấp dẫn những kẻ ngây ngô, nhưng thực ra là kẻ kiêu căng, con tim chai đá, ghen tương, thù ghét, gian dối và dâm đãng.
Vậy Thầy bảo con hãy đón nhận lời của kẻ khôn ngoan trong Chúa, và của các trẻ nhỏ cao cả của Thánh Linh, và cả đến giúp chúng hiểu sự sâu xa của các lời Thiên Chúa, bởi vì nếu chúng là xướng ngôn viên của tiếng nói Thiên Chúa, thì các con, các tông đồ của Thầy, sẽ luôn luôn là những nhà giáo dục trong Giáo Hội của Thầy, các con phải giúp đỡ những kẻ bị kiệt lực cách siêu nhiên bởi sự xuất thần qúa phong phú mà Thiên Chúa đã đặt để trong họ, để họ mang đến cho các anh em. Cũng vậy, Thầy nói với con: hãy xua đi những lời dối trá, các tiên tri giả mà đời sống không phù hợp với giáo lý của Thầy. Sự tuyệt hảo của đời sống, lòng nhân từ, sự trong sạch, tình bác ái và sự khiêm nhường, không bao giờ thiếu nơi các kẻ khôn ngoan và các tiếng nói nhỏ của Thiên Chúa.
Con hãy tỉnh thức và hãy canh chừng để không có những ghen tương hay vu khống trong cộng đồng các tín hữu, cũng không được có sự oán giận hay tinh thần báo thù. Con hãy tỉnh thức và canh chừng để xác thịt không chiếm chỗ ở bên trên thần trí. Những kẻ mà thần trí không thống trị thân xác, sẽ không chịu đựng được sự bách hại.
Giacôbê, Thầy biết rằng con sẽ làm những việc đó, nhưng hãy hứa với em con rằng con sẽ không làm nó thất vọng.
- Nhưng lạy Chúa! Lạy Chúa! Con chỉ sợ một điều là con không có khả năng. Lạy Chúa của con! Con xin Chúa giao cho người khác nhiệm vụ này.
- Không, Thầy không thể...
270
- Simon con Jonas, ông cũng yêu Thầy và Thầy yêu ông ta...
- Simon con Jonas không phải Giacôbê con Đavít.
- Gioan ấy. Gioan, thiên thần được giáo dục. Hãy làm cho cậu ta thành tôi tớ Chúa ở đây.
- Không, Thầy không thể. Simon cũng như Gioan không có được cái điều là không này, nhưng nó là rất nhiều đối với người ta, đó là: tình bà con. Con là bà con với Thầy. Sau khi đã có Thầy... sau khi đã không nhận biết Thầy, những phần tử tốt nhất của Israel sẽ đi tìm sự tha thứ của Thiên Chúa và của chính mình bằng cách tìm biết Chúa mà họ đã nguyền rủa trong giờ của Satan, và họ cảm thấy như được tha thứ, và vì thế họ thấy có sức mạnh để lại lên đường, nếu thay vì Thầy, có một người nào thuộc dòng máu Thầy. Giacôbê à, trên núi này, đã bao điều lớn lao được hoàn thành ở đây, lửa của Thiên Chúa đã tiêu hủy không phải chỉ có của lễ, củi và đá, mà cả bụi cát, và cho đến nước ở trong hố. Giacôbê ơi, con nghĩ rằng Thiên Chúa không thể làm những việc như vậy nữa, bằng cách phát lửa ra để tiêu hủy tất cả những gì là vật chất trong conngười-Giacôbê, để làm cho nó thành một Giacôbê-lửa của Thiên Chúa sao? Chúng ta đã nói trong khi hoàng hôn làm cho y phục chúng ta sáng như lửa. Con nghĩ rằng chiếc xe đã mang Êlia đi sáng nhiều hơn hay ít hơn như vầy?
- Sáng rất nhiều hơn, vì chiếc xe được làm bằng lửa của Trời.
- Vậy hãy nghĩ đến một con tim sẽ trở nên gì khi nó trở nên lửa, bởi vì nó có Thiên Chúa ở trong nó, bởi vì Thiên Chúa muốn nó lưu tồn Ngôi Lời của Người trong việc rao giảng Tin Mừng của sự cứu rỗi.
- Nhưng Thầy, nhưng Thầy, Ngôi Lời của Thiên Chúa, tại sao Thầy không ở lại?
- Bởi vì Thầy là Ngôi Lời và là thể xác. Là Ngôi Lời, Thầy phải giáo huấn; là thân xác, Thầy phải cứu chuộc.
- Ôi! Giêsu của con, nhưng Thầy sẽ cứu chuộc cách nào? Thầy sẽ đi gặp cái gì?
- Giacôbê, con hãy nhớ lại các tiên tri.
271
- Nhưng lời của các đấng không phải là những lời nói bóng sao? Làm sao Thầy, Ngôi Lời của Thiên Chúa, lại có thể bị bạc đãi bởi con người? Có lẽ các vị không muốn nói ra rằng sự tử đạo là về Thiên Tính của Thầy, về sự toàn thiện của Thầy, chứ không còn gì nữa, không còn gì ngoài điều đó nữa chứ? Mẹ con lo lắng cho con và cho Juđa, nhưng con lo cho Thầy và Maria, và cũng lo cho chúng con là những kẻ rất yếu đuối. Giêsu, Giêsu, nếu con người toàn thắng trên Thầy, Thầy không nghĩ rằng nhiều người trong chúng con sẽ cho rằng Thầy có tội, và họ sẽ bỏ đi vì thất vọng đối với Thầy sao?
- Thầy chắc chắn điều đó. Sẽ có sự rối loạn trong hết mọi tầng lớp của môn đệ Thầy. Nhưng rồi bình an sẽ trở lại, và cả đến sẽ có sự đoàn kết trong những phần tử tốt nhất sau sự hy sinh và sự khải hoàn của Thầy. Thánh Linh của sức mạnh và khôn ngoan: Thần Linh Thiên Chúa sẽ ngự xuống trên họ.
- Giêsu, để con không qụi ngã, và con không làm cớ vấp phạm trong giờ đáng ngại đó, hãy nói cho con: họ sẽ làm gì cho Thầy?
- Con hỏi Thầy một điều qúa lớn lao!
- Lạy Chúa, nói cho con đi!
- Sự biết chính xác sẽ là một khổ hình cho con.
- Không quan trọng. Nhân danh tình yêu đã liên kết chúng ta...
- Điều đó không nên biết.
- Nói cho con đi! Rồi làm cho con mất trí nhớ về nó cho tới khi nó phải hoàn thành. Lúc đó hãy đặt nó lại vào trong trí nhớ của con giống như nó lúc này. Như vậy con sẽ không làm cớ vấp phạm về điều gì, và con không trở nên kẻ thù của Thầy trong đáy lòng con.
- Điều đó chẳng ích lợi gì, bởi vì con, con cũng sẽ nhượng bộ cơn gió lốc.
- Nói cho con đi Chúa!
- Thầy sẽ bị kết án, bị phản bội, bị bắt, bị hành hạ, bị tùng phục cái chết trên thập giá.
- Ôi! Không! Không! - Giacôbê kêu lên và quặn mình như chính ông sẽ bị giết. “Không!” ông nhắc lại. “Nếu họ làm cho Thầy như
272
vậy, họ sẽ làm gì cho chúng con? Làm sao chúng con có thể tiếp tục công việc của Thầy? Con không thể, con không thể nhận cái trách vụ mà Thầy dành cho con... Con không thể!...Con không thể! Thầy chết, con sẽ như người chết, bị tước lột hết mọi sức mạnh. Giêsu, Giêsu, hãy nghe con đây. Đừng để con không có Thầy. Hãy hứa với con, ít nhất là hãy hứa với con điều đó”.
- Thầy hứa với con là Thầy sẽ trở lại hướng dẫn con bằng thần trí của Thầy, khi sự sống lại vinh quang đã giải phóng cho Thầy khỏi những giới hạn của vật chất. Thầy và con chỉ là một thôi, giống như bây giờ con ở trong tay Thầy - Qủa vậy, Giacôbê tựa vào và khóc trên ngực Giêsu.
- Đừng khóc nữa, hãy ra khỏi cái giờ đê mê này đi. Nó đầy ánh sáng nhưng nặng nề, tựa như một người ra khỏi bóng tối của sự chết, họ nhớ tất cả, ngoại trừ thế nào là cái chết, mối kinh sợ làm cho các con tê cóng, nó chỉ kéo dài một phút, nhưng tựa như sự hoàn thành nó kéo dài hàng thế kỷ. Đây, Thầy ôm con như vầy để giúp con quên đi cái gánh nặng của định mệnh con người của Thầy. Con sẽ tìm lại nó vào lúc cần thiết như con đã xin. Đây, Thầy hôn trên cái miệng của con, vì nó sẽ phải nhắc lại lời Thầy cho dân Israel, và trên qủa tim của con, vì nó sẽ phải yêu như Thầy đã nói với con; và ở đây, trên thái dương của con, nơi mà sự sống sẽ chấm dứt cùng một lúc với lời sau cùng của đức tin thân yêu nơi Thầy. Cũng vậy, Thầy sẽ trở lại, người anh mà Thầy yêu mến, gần con, trong cộng đồng các tín hữu, trong những giờ chiêm niệm, trong những giờ nguy hiểm, trong giờ chết! Không ai, cả đến thiên thần bản mệnh của con, sẽ tiếp nhận linh hồn con, nhưng chính Thầy, trong một cái hôn như vầy...
Họ ôm ghì nhau thật lâu. Giacôbê hầu như thiu thiu ngủ trong nỗi vui của cái hôn Thiên Chúa, và nó đã làm ông quên những đau khổ.
Khi ông ngẩng đầu lên, ông lại trở thành Giacôbê Alphê bình lặng và tốt, trông giống Giuse bạn Đức Trinh Nữ biết bao! Ông mỉm cười với Giêsu, một nụ cười chín chắn, hơi buồn, nhưng luôn
273
luôn rất êm dịu.
- Giacôbê ạ, ta hãy dùng bữa, rồi chúng ta ngủ dưới các vì sao. Vào lúc có ánh sáng đầu tiên của ngày, chúng ta sẽ đi xuống thung lũng... để đi vào giữa loài người... - Giêsu thở dài... nhưng Người kết thúc bằng một nụ cười: “và ở gần bên Mẹ Maria”.
- Giêsu, con sẽ nói gì với mẹ con? Và với các bạn? Họ sẽ không thể không tra vấn con.
- Con có thể nói với họ tất cả những gì Thầy đã nói với con khi cứu xét câu trả lời của Êlia cho Achab và cho dân chúng trên núi, và về sức mạnh của kẻ được Thiên Chúa yêu, để đạt được những gì ông muốn nơi dân và nơi các yếu tố; về lòng nhiệt thành đối với Thiên Chúa nung nấu ông, và Thầy đã làm con nhận xét rằng: chính bởi sự bình an và trong bình an, người ta nghe và phục vụ Thiên Chúa. Con sẽ nói với họ như Thầy đã nói với các con: “Hãy đến”, các con, cùng một cách như Êlia đã làm với chiếc áo khoác của ông mà ông đã để trên Êlisê, các con, với chiếc áo khoác của Đức Ái, các con có thể chiếm được cho Thiên Chúa những tôi tớ mới. Và với những kẻ luôn luôn bận tâm, hãy nói như Thầy nói với con về sự quan sát niềm vui được giải phóng khỏi những chuyện qúa khứ mà Êlisê đã chứng tỏ khi phân chia các con bò ra khỏi chiếc xe. Hãy nói với họ Thầy đã nhắc lại thế nào về những kẻ muốn được những phép lạ nhờ Benzêbut, sẽ đến cho nó điều ác chứ không phải điều thiện, giống như đã xảy đến cho Ochosias theo như lời của Êlia. Hãy nói với họ Thầy đã hứa với con thế nào về những kẻ trung thành tới chết, lửa tình yêu thanh tẩy sẽ đến để thiêu đốt hết những gì bất toàn và dẫn họ thẳng về trời. Các điều còn lại là dành cho một mình con thôi.
122* “HÃY GỌI KẺ GÂY ĐAU KHỔ
CHO CON LÀ CON”
Giêsu rời cao nguyên của núi Carmel và đi xuống bởi một lối đi ướt sương, qua một cánh rừng mà tiếng chim ngân láy càng lúc càng nhộn nhịp, dưới ánh sáng đầu tiên của mặt trời soi bóng vàng
274
trên sườn dốc phía đông của ngọn núi. Khi những đám mây nhẹ gây ra bởi sức nóng bị tan dưới ánh mặt trời, đồng bằng Esdrelon hiện ra trong tất cả vẻ đẹp của nó, với những vườn cây ăn trái và các vườn nho bao quanh các căn nhà. Nó giống như một chiếc thảm, tổng quát là mầu xanh, nhưng thỉnh thoảng có vài ốc đảo họa hiếm mầu vàng lạt, rải rác những mảnh mầu đỏ là các ruộng miến đã cắt, bây giờ đỏ chói những hoa mỹ nhân thảo, một chiếc thảm bao quanh bởi vùng tam giác của các núi Carmel, Tabor và tiểu Hermon, và bởi các núi ở xa hơn mà tôi không biết tên, che khuất mất sông Giođan và chạy tới vùng đông nam, nối với các núi của xứ Samari. Giêsu đứng lại trầm tư nhìn tất cả vùng này của xứ Palestin. Giacôbê nhìn Người và nói: “Thầy ngắm vẻ đẹp của vùng này à?”
- Ừ, cả điều này nữa. Nhưng nhất là Thầy nghĩ đến những cuộc viễn du tương lai, đến sự cần thiết phải sai các con đi, và sai đi không chậm trễ cả các môn đệ nữa, không phải vào công việc hạn hẹp như lúc này, nhưng vào các công việc truyền giáo thực sự. Chúng ta có biết bao miền chưa biết Thầy, và Thầy không muốn để nơi nào bị không có Thầy. Đó là điều bận tâm liên tục của Thầy: đi lại, hành động bao nhiêu Thầy có thể, và làm tất cả.
- Thỉnh thoảng có những chuyện xảy ra làm Thầy bị chậm lại.
- Còn hơn là làm Thầy bị chậm lại, nó bó buộc Thầy phải thay đổi con đường mà Thầy phải theo, vì những cuộc du hành mà chúng ta làm thì không bao giờ vô ích. Nhưng hãy còn biết bao, biết bao việc phải làm... Và cũng vì sau mỗi lần vắng mặt, Thầy thấy nhiều con tim lại trở về điểm khởi hành, và Thầy lại phải bắt đầu lại.
- Đúng, nó trì trệ, nó làm ta ghê tởm, sự hững hờ của các tâm hồn, sự thất thường và tính hay nghiêng chiều về điều xấu.
- Trì trệ, không được nói là ghê tởm. Công việc của Thiên Chúa không bao giờ ghê tởm. Các tâm hồn khốn nạn phải gây cho các con lòng thương xót chứ không phải sự ghê tởm. Chúng ta phải luôn luôn có con tim của người cha, người cha tốt. Một người cha tốt không bao giờ tỏ ra ghê tởm đối với bệnh tật của các con ông. Chúng ta cũng không được tỏ ra ghê tởm đối với bất cứ người nào.
- Giêsu ơi, Thầy có cho phép con đặt câu hỏi không? Con, đêm
275
vừa qua con cũng không ngủ, nhưng con đã suy nghĩ rất nhiều khi nhìn Thầy ngủ. Em ơi, trong giấc ngủ, Em trông rất trẻ! Thầy mỉm cười, đầu gối lên cánh tay co lại ở bên dưới, hoàn toàn như một đứa trẻ. Con nhìn Thầy rất rõ dưới trăng rất tỏ của đêm qua. Con suy nghĩ và rất nhiều câu hỏi tới trong tim con.
- Hãy nói nó đi.
- Con đã tự nói: tôi phải hỏi Giêsu xem làm sao chúng ta có thể đi tới cái tổ chức mà Thầy gọi là Giáo Hội, mà trong đó, nếu con hiểu đúng, thì nó sẽ có một giai trật cho sự thiếu khả năng của chúng con. Thầy sẽ nói cho chúng con tất cả những điều chúng con phải làm, hay chúng con phải tự ý làm?
- Khi đến lúc, Thầy sẽ chỉ cho các con người thủ lãnh của Giáo Hội này, không gì hơn nữa. Trong khi Thầy hiện diện giữa các con, Thầy đã chỉ cho các con những loại khác nhau, với sự khác biệt giữa các tông đồ và các môn đệ, giữa nam giới và nữ giới. Qủa vậy, các loại này sẽ được đặt định. Nhưng cũng giống như Thầy muốn cho các môn đệ kính trọng và vâng lời các tông đồ, Thầy cũng muốn rằng các tông đồ có tình yêu và sự nhẫn nại đối với các môn đệ.
- Vậy chúng con phải làm gì? Luôn luôn và chỉ có rao giảng Thầy thôi sao?
- Đó là điều căn bản. Rồi các con phải nhân danh Thầy để giải tội, chúc phúc, để dẫn về với Ân Sủng, thi hành các bí tích mà Thầy sẽ thiết lập.
- Những cái đó là gì?
- Đó là những phương tiện siêu nhiên và tinh thần, cũng được áp dụng bằng những phương tiện vật chất, dùng để thuyết phục người ta rằng thực sự vị linh mục đã làm một cái gì. Con thấy rằng loài người, nếu không thấy thì họ không tin. Luôn luôn phải có cái gì để nói với họ rằng có một cái gì. Vì lý do đó, khi Thầy làm các phép lạ, Thầy đặt tay trên đầu hay Thầy thấm ướt bằng nước miếng, hay Thầy cho một miếng bánh nhúng nước sốt. Thầy có thể thi hành phép lạ chỉ bằng tư tưởng của Thầy, nhưng con tin rằng lúc đó người ta sẽ nói: “Thiên Chúa đã làm phép lạ” sao? Không, họ sẽ nói: “Nó
276
được khỏi vì đã đến lúc hết bịnh”, và họ sẽ ghép các công trạng vào cho các thầy thuốc, cho các phương dược, và cho sức kháng cự về thể lực của bệnh nhân. Cũng giống vậy đối với các bí tích: những hình thức thờ phượng dùng để ban Ân Sủng, hoặc để trả lại nó, hoặc để củng cố nó nơi các tín hữu. Ví dụ Gioan Tẩy Giả đã dùng cách nhúng chìm vào trong nước làm dấu chỉ cho sự thanh tẩy tội lỗi. Thực ra, còn hơn là nước rửa cho các chi thể, sự khiêm hạ tự nhận mình ô uế còn ích lợi hơn để rửa các tội đã phạm. Thầy cũng vậy, Thầy sẽ có phép rửa tội, phép rửa tội của Thầy, nó không phải chỉ là tượng trưng, nhưng là sự thanh tẩy thực sự tội nguyên tổ của linh hồn và tái lập cho linh hồn tình trạng thiêng liêng mà Ađam và Evà đã có trước khi phạm tội, và ở đây nó còn được gia tăng thêm, vì nó được ban cho nhờ công nghiệp của Người-Thiên-Chúa.
- Nhưng... Nước đâu có chảy xuống trên linh hồn! Linh hồn thiêng liêng mà! Ai có thể cầm được linh hồn của một trẻ sơ sinh hay một người lớn, hoặc một người già? Không ai cả.
- Con thấy rằng con nhìn nhận là nước, một phương tiện vật chất, nên không có hiệu qủa trên một vật thiêng liêng sao? Vậy không phải là nước, mà là lời của linh mục, phần tử của Giáo Hội Đức Kitô, được dâng hiến để phục vụ; hoặc lời của một tín đồ thực sự, mà trong những trường hợp đặc biệt, thay thế linh mục để làm cái phép lạ là việc cứu chuộc khỏi tội nguyên thủy của kẻ được rửa tội.
- Được, nhưng chính người đó cũng là một tội nhân... Và còn những tội khác thì ai sẽ cất đi cho?
- Giacôbê à, luôn luôn là các linh mục. Nếu kẻ được rửa tội là một người lớn, thì cùng một lúc với tội nguyên thủy, các tội khác cũng biến mất. Nếu người nào đã rửa tội rồi lại phạm tội, linh mục sẽ giải tội cho họ nhân danh Thiên Chúa Độc Nhất và Ba Ngôi, nhờ vào công nghiệp của Ngôi Lời nhập thể, giống như Thầy làm cho những tội nhân.
- Nhưng Thầy, Thầy là thánh! Chúng con...
- Các con phải thánh, vì các con đụng tới những của thánh, và
277
thực hành những việc thuộc về Thiên Chúa.
- Vậy chúng con sẽ rửa tội nhiều lần cho cùng một người, giống như Gioan làm sự nhúng chìm vào nước bao nhiêu lần tùy người ta đến với ông?
- Gioan, trong phép rửa của ông, chỉ thanh tẩy nhờ sự khiêm nhường của kẻ được nhúng chìm. Thầy nói điều này với con rồi. Các con thì các con không rửa tội lại những kẻ đã được rửa tội rồi, trừ trường hợp nó đã được làm với một hình thức không tông truyền, nhưng ly giáo, thì không trường hợp nào có thể thực hiện một phép rửa thứ hai sau lời xin chính xác của kẻ phải được rửa tội. Nếu là một người lớn, phải hỏi ý muốn rửa tội và sự công bố rõ ràng là nó muốn làm thành phần của Giáo Hội thực. Còn các lần khác, các con trả lại tình bằng hữu với Thiên Chúa và để được bình an với Người, các con dùng các lời tha tội, hợp với công nghiệp của Đức Kitô, và các linh hồn đến với các con trong sự thành tâm sám hối và khiêm nhường tự kết án, sẽ được xá giải.
- Vậy nếu ai bệnh tới nỗi không thể di chuyển thì nó sẽ chết trong tội sao? Thêm vào những đau khổ của cơn hấp hối, nó sẽ có sự sợ hãi cuộc phán xét của Thiên Chúa nữa sao?
- Không, linh mục sẽ đến tìm kẻ sắp chết để xá giải cho nó. Người sẽ cho nó cả một hình thức xá giải rộng rãi hơn, không phải tổng quát, nhưng cho mỗi cơ phận của giác quan mà người ta thường dùng để phạm tội. Trong Israel, chúng ta có dầu thánh, được sản xuất theo những qui chế mà Đấng Tối Cao đã chỉ dạy, và với dầu này, ta thánh hiến bàn thờ, vị Giáo Chủ, các thầy cả, các vua chúa. Con người cũng thực sự là bàn thờ, và họ trở nên vua bởi sự tuyển chọn của họ vào địa vị trên Trời. Vậy họ có thể được thánh hiến bởi sự xức dầu. Dầu thánh được dùng cho các phần tử của việc thờ phượng trong Israel, và được dùng trong Giáo Hội của Thầy cùng với các sử dụng khác nữa. Bởi vì trong Israel, không phải tất cả đều xấu, và không thể hủy bỏ hết, nhưng trái lại, sẽ có rất nhiều cách sử dụng ở trong Giáo Hội Thầy sẽ là những kỷ niệm xưa kia, mà một trong những việc đó là việc xức dầu, cũng sẽ được dùng trong
278
Giáo Hội Thầy để cung hiến bàn thờ, các giáo chủ và tất cả giai trật của Giáo Hội, tất cả, để thánh hiến các vua chúa và các tín hữu, khi họ trở nên những hoàng tử để thừa hưởng gia tài của Vương Quốc, hay khi họ cần một sự trợ giúp rất lớn lao lúc họ phải trình diện trước Thiên Chúa với các chi thể và các giác quan đã được thanh tẩy mọi tội. Ơn của Thiên Chúa sẽ trợ giúp linh hồn và cả thân xác cho sự lành của bệnh nhân nếu nó làm vui lòng Thiên Chúa.
Nhiều khi thân xác không phản ứng đối với bệnh tật, dù là những ân hận đã làm xáo trộn sự bình an của nó, và dù những hành động của Satan là đứa hy vọng nhờ cái chết này, sẽ kéo được một linh hồn vào nước của nó, hoặc làm cho các kẻ còn sống rơi vào thất vọng, bệnh nhân được chuyển từ sự xiết chặt của Satan và sự xáo trộn nội tâm qua sự bằng an, nhờ sự chắc chắn được ơn tha thứ của Thiên Chúa, và Thiên Chúa cũng cho nó được xa cách với Satan. Và vì cũng như nơi các cha mẹ đầu tiên, Ân Sủng kèm theo đặc ân được thoát mọi bệnh tật và mọi đau đớn, bệnh nhân, được trả lại Ân Sủng lớn lao như Ân Sủng của một trẻ sơ sinh được nhờ phép rửa của Thầy, có thể cũng được sự chiến thắng trên bệnh tật, cũng được trợ giúp bởi lời cầu nguyện của anh em nó trong đức tin, những kẻ bó buộc phải có tình thương đối với người bệnh. Tình thương không phải chỉ với thân xác, nhưng nhất là tinh thần nhắm vào việc cứu thân xác và linh hồn cho anh em họ. Vậy lời cầu nguyện đã là một hình thức phép lạ rồi, Giacôbê ạ. Lời cầu nguyện của kẻ công chính, con đã thấy nơi Êlia, nó có sức mạnh chừng nào!
- Con hơi hiểu Thầy một tí. Nhưng điều con hiểu làm con tràn đầy sự kính trọng đối với đặc tính tư tế của các linh mục của Thầy. Nếu con hiểu Thầy nhiều thì chúng con sẽ có với Thầy nhiều điểm chung: sự thuyết giáo, sự miễn giải, phép lạ. Vậy là ba bí tích.
- Không, Giacôbê ơi, sự thuyết giáo và phép lạ không phải là bí tích. Nhưng sẽ có nhiều bí tích khác nữa. Có bảy, giống như cái trụ đèn thánh ở Đền Thờ, và giống như các ơn của Thánh Linh Tình Yêu. Và thực vậy, các bí tích là các ân huệ và là các ngọn lửa, được ban cho loài người để họ cháy lên trước nhan Chúa trong mọi thế
279
kỷ. Cũng sẽ có phép bí tích cho các tiệc cưới của loài người, điều được diễn tả trong sự tượng trưng cho tiệc thánh của Sara Raguel được giải phóng khỏi ma qủi. Nó sẽ cho các vợ chồng những trợ giúp cho một đời sống chung thánh thiện theo đúng lề luật và ước muốn của Thiên Chúa. Người vợ và người chồng cũng trở nên những kẻ thi hành nghi thức: nghi thức đồng sáng tạo. Người vợ và người chồng cũng trở nên linh mục của một giáo hội nhỏ là gia đình của họ, vì vậy họ phải được thánh hiến để đồng tạo dựng với phúc lành của Thiên Chúa, và để nuôi nấng một dòng dõi trong đó người ta chúc tụng Danh Chí Thánh của Thiên Chúa.
- Vậy chúng con, những linh mục, ai sẽ thánh hiến chúng con?
- Thầy, trước khi rời bỏ các con. Sau đó các con sẽ thánh hiến những người nối quyền các con và những người sẽ gia nhập với các con để truyền bá Đức Tin Kitô giáo.
- Thầy, Thầy sẽ dạy cho chúng con, phải không?
- Thầy và Đấng mà Thầy sẽ sai đến với các con. Sự đến này cũng là một bí tích, được tự ý ban bởi Thiên Chúa Chí Thánh trong lễ hiển linh đầu tiên của Người, rồi sau đó được ban bởi những người đã lãnh nhận sự sung mãn của chức tư tế. Nó sẽ là ơn sức mạnh và ơn thông minh; nó sẽ là kiên trì trong đức tin, nó sẽ là tình thương thánh và sự kính sợ thánh, nó sẽ là sự cứu trợ khuyên nhủ và sự khôn ngoan siêu nhiên, sự chiếm hữu công chính mà nhờ bản chất của nó và sức mạnh của nó, nó sẽ làm cho kẻ tiếp nhận nó nên trưởng thành. Nhưng lúc này con chưa thể hiểu được. Chính Người sẽ làm cho con hiểu. Người, tức là Thần Linh Thiên Chúa, là Tình Yêu Đời Đời, khi đến giờ để các con lãnh nhận Người trong mình các con. Và như vậy sẽ có một bí tích khác mà lúc này các con không thể hiểu được. Nó hầu như cũng không thể hiểu được đối với các thiên thần, bởi vì nó qúa cao vời. Nhưng các con, những con người đơn giản, các con sẽ hiểu nó nhờ sức mạnh của đức tin và tình yêu. Thực vậy, Thầy bảo các con: kẻ nào yêu nó và nuôi mình bằng nó thì thần trí nó có thể dày đạp ma qủi mà không bị một tổn hại nào, bởi vì khi đó, Thầy sẽ ở với nó. Hãy cố gắng để nhớ những
280
điều này nhe anh! Con có bổn phận phải nói lại với các bạn con và với các tín hữu rất, rất nhiều lần. Lúc đó các con đã biết nó rồi nhờ vào chức vụ linh mục của các con. Nhưng con có thể nói: “Người đã nói với tôi bữa đó, trong khi xuống núi Carmel. Người đã nói tất cả với tôi, vì ngay từ lúc đó, tôi đã được tiền định để làm thủ lãnh Giáo Hội Israel”.
- Đây là một câu hỏi khác. Con đã nghĩ tới nó đêm qua. Nhưng có phải chính con phải nói với các bạn: “Tôi sẽ là thủ lãnh ở đây” không? Điều đó con không thích. Con sẽ làm vậy nếu Thầy truyền, nhưng con không thích.
- Đừng sợ. Thánh Linh sẽ xuống trên tất cả các con và cho các con những ý tưởng thánh. Tất cả các con sẽ có cùng một ý nghĩ vì vinh danh Chúa trong Giáo Hội Thầy.
- Sẽ không còn những cãi cọ như vầy nữa, những cãi cọ qúa khó chịu như hiện nay nữa chứ? Cả đến Judas Simon cũng sẽ không còn là nguyên nhân của sự bất bình nữa chứ?
- Nó sẽ không còn như vậy nữa, cứ yên tâm. Nhưng những sự khác biệt thì vẫn còn. Vì vậy nên Thầy đã nói với con: “Hãy tỉnh thức và canh chừng, đừng bao giờ chểnh mảng làm bổn phận của con cho tới cùng”.
- Lạy Chúa, còn một câu hỏi nữa: “Trong thời kỳ bách hại, con phải xử sự thế nào? Theo như điều Thầy nói thì trong nhóm mười hai, hình như con phải ở lại một mình. Như vậy là các người khác ra đi để trốn sự bách hại, còn con?”
- Con sẽ ở lại vị trí của con. Qủa vậy, thật cần thiết là các con không bị diệt trừ cho tới khi Giáo Hội Thầy đã vững vàng, và điều đó xác minh sự phân tán của rất nhiều môn đệ và hầu hết các tông đồ, nhưng không có gì xác minh rằng con đã đào ngũ và bỏ rơi Giáo Hội Jêrusalem. Trái lại, nó càng nguy hiểm, con càng phải tỉnh thức tựa như nó là đứa con cưng nhất của con đang bị nguy hiểm tới tính mạng. Gương sáng của con sẽ củng cố tinh thần cho các tín hữu, vì họ cần nó để vượt qua thử thách. Con càng thấy nó yếu, con càng phải nâng đỡ nó với tình thương và với sự khôn ngoan.
281
Nếu con được mạnh thì đừng bất nhân với kẻ yếu đuối, nhưng hãy nâng đỡ nó và nói: “Tôi đã được tất cả từ Thiên Chúa để trở nên mạnh mẽ như vầy, tôi phải nói ra cách khiêm nhường, và tôi phải hành động cách bác ái đối với những kẻ được ít ơn Thiên Chúa hơn tôi”. Và hãy cho, hãy cho sức mạnh của con cùng với lời nói, sự giúp đỡ, sự bình an, ví dụ vậy.
- Còn nếu trong số các tín hữu có những kẻ xấu, làm gương mù và nguy hiểm cho những người khác thì con phải làm sao?
- Hãy khôn ngoan trong sự tiếp nhận họ. Thà rằng một số ít mà tốt còn hơn nhiều mà không tốt. Con biết chuyện ngụ ngôn cổ về những trái táo tốt và những trái táo hư. Hãy làm sao để nó đừng áp dụng trong Giáo Hội của con. Nhưng nếu con thấy rằng con cũng có những kẻ phản bội thì hãy tìm cách, bằng mọi phương tiện, dẫn nó trở về, và chỉ dùng sự nghiêm thẳng như một phương cách sau cùng. Nhưng nếu nó chỉ có những lỗi nhỏ cá nhân thì đừng nghiêm khắc làm nó sợ. Hãy tha thứ, hãy tha thứ... Sự tha thứ kết hợp với nước mắt và các lời yêu thương hành động nhiều để cứu chuộc một tâm hồn hơn là sự quở phạt công khai. Nếu điều lỗi là trầm trọng, đó là kết qủa của một tấn công bất ngờ của Satan, trầm trọng tới nỗi kẻ có lỗi tìm tránh mặt con, thì con hãy đi tìm nó, bởi vì đó là con chiên lạc, mà con là mục tử, đừng sợ hạ mình xuống để đi vào các con đường lầy bùn để tìm các linh hồn qua các đầm lầy và các vực sâu. Như vậy con sẽ được đội triều thiên tử đạo của tình yêu, đó sẽ là cái thứ nhất trong ba triều thiên... Và nếu con bị phản bội như người ta đã phản bội ông Tẩy Giả và bao người khác nữa, bởi vì mỗi vị thánh đều có kẻ phản bội của họ, hãy tha thứ, tha cho nó hơn hết thảy. Hãy tha thứ như Thiên Chúa đã tha cho con người, và như Người vẫn còn tha thứ. Hãy gọi những kẻ gây đau khổ cho con là CON, vì chính như vậy mà Chúa Cha đã gọi các con bởi miệng Thầy, vì thật sự, không có người nào không gây đau khổ cho người Cha ở trên Trời...
Một lúc yên lặng lâu trong khi đi băng qua đồng cỏ, nơi các con cừu đang gặm cỏ đó đây. Sau cùng, Giêsu hỏi: “Con không còn câu
282
nào để hỏi Thầy nữa à?”
- Không, Giêsu. Sáng nay con đã hiểu hơn cái sứ mạng đáng ngại của con...
- Bởi vì con ít băn khoăn hơn hôm qua. Khi tới giờ của con, con sẽ được bình an hơn nữa, và con sẽ hiểu hơn nữa.
- Con sẽ nhớ tất cả những điều này, tất cả... trừ...
- Cái gì Giacôbê?
- Trừ cái không cho phép con nhìn Thầy mà không khóc, hồi đêm qua. Điều con không biết rõ Thầy đã nói với con chưa, và con phải tin nếu qủa thật Thầy đã nói, hay là điều đó từ ma qủi mà tới, vì nó làm cho con sợ. Nhưng làm sao Thầy có thể bình tĩnh như vậy nếu... nếu qủa thật những điều như vậy phải xảy ra?
- Vậy con có bình tĩnh không nếu Thầy nói với con: “Có một người mục đồng lết đi cách khó khăn vì anh ta bị què. Hãy cố chữa cho anh ta nhân danh Thiên Chúa”?
- Chúa ơi, không. Con sẽ hết hồn khi nghĩ như vậy là thử chiếm địa vị của Thầy.
- Nhưng nếu Thầy ra lệnh cho con?
- Con sẽ làm vì vâng lời và con sẽ không băn khoăn nữa, vì con biết rằng Thầy muốn, và con sẽ không sợ là không biết làm. Bởi vì chắc chắn khi Thầy sai con đi thì Thầy sẽ cho con sức mạnh để làm điều Thầy muốn.
- Con đã nói và con nói rất đúng. Vậy con thấy Thầy, trong khi vâng lời Chúa Cha, Thầy luôn luôn bằng an.
Giacôbê cúi đầu và khóc.
- Thực tình con có muốn quên đi không?
- Lạy Chúa, như Thầy muốn...
- Con có thể chọn một trong hai: hoặc quên, hoặc nhớ. Nếu quên thì con được thoát đau khổ và không phải giữ yên lặng tuyệt đối với các bạn con, nhưng như vậy con để mình không được chuẩn bị. Nếu nhớ, con sẽ chuẩn bị cho sứ mạng của con, vì chỉ có sự nhớ tới những đau khổ mà Con Người đã chịu trong đời sống trần thế của Người, mới giúp con không bao giờ phàn nàn, và trở nên anh hùng
283
một cách siêu nhiên, vì nhìn thấy tất cả trong Đức Kitô với ánh sáng rạng ngời nhất. Hãy chọn đi.
- Tin, Nhớ, Yêu. Đó là điều con muốn. Và chết sớm hết sức, lạy Chúa... - Giacôbê vẫn khóc thầm, không có nước trên đôi mắt nâu của ông. Người ta không nghĩ rằng ông khóc. Giêsu để kệ ông. Sau cùng, ông nói: “Vậy nếu trong tương lai, Thầy nói gì nữa ám chỉ vào việc... tử đạo của Thầy, thì con có phải nói rằng con đã biết không?”
- Không. Hãy nín lặng. Giuse đã biết nín lặng trong sự đau khổ của người chồng nghĩ là mình bị phản bội, và trên mầu nhiệm về việc thụ thai đồng trinh, và về bản tính của Thầy. Hãy bắt chước Người. Đây cũng là một bí mật đáng ngại, nhưng nó phải được giữ kín, vì nếu không giữ nó do kiêu căng hay nhẹ dạ, có thể làm tổn hại cho tất cả công trình cứu chuộc. Satan không ngừng tỉnh thức và hành động, con hãy nhớ vậy. Nếu con nói ra bây giờ, đó sẽ là một tổn hại cho biết bao người, vì biết bao lẽ. Hãy nín lặng.
- Con sẽ nín lặng... và điều đó làm nặng nề cho con gấp đôi...
Giêsu không trả lời, Người để kệ cho Giacôbê khóc dưới cái nón vải của ông.
Họ gặp một người đàn ông vác một đứa trẻ tội nghiệp trên vai.
- Con ông à? - Giêsu hỏi.
- Phải, mẹ nó chết khi sinh nó ra trong tình trạng này. Bây giờ mẹ tôi cũng đã chết, khi đi làm, tôi phải mang nó theo để canh chừng. Tôi là người đốn củi. Tôi trải áo khoác của tôi trên cỏ cho nó ngồi. Trong khi tôi cưa cây, nó chơi với các bông hoa. Đứa con khốn nạn của tôi!
- Đó là một bất hạnh lớn cho ông.
- Hé! Đúng. Nhưng Thiên Chúa muốn thì phải bình an chấp nhận.
- Chào ông. Bình an cho ông.
- Chào. Cũng bình an cho các ông.
Người đó lên núi, Giêsu và Giacôbê lại xuống.
- Tội nghiệp qúa! Con đã hy vọng là Thầy chữa cho nó - Giacôbê nói trong khi thở dài. Giêsu làm như không nghe thấy.
- Thầy à, nếu người này biết rằng Thầy là Đức Messi, có lẽ ông
284
ta đã xin Thầy một phép lạ.
Giêsu không trả lời.
- Giêsu, Thầy có để con trở lại đàng sau để nói điều đó với ông kia không? Con thương đứa nhỏ này. Quả tim con đầy đau đớn. Ít nhất xin Thầy cho con niềm vui được nhìn thấy đứa trẻ này khỏi tật.
- Vậy đi đi, Thầy chờ con ở đây.
Giacôbê chạy đi. Ông đến chỗ người đàn ông và gọi: “Ông ơi, ngừng lại và nghe tôi này: người đi với tôi lúc nãy là Đức Messi. Hãy đưa đứa bé của ông cho tôi để tôi mang lại cho Người. Ông cũng hãy tới, nếu ông muốn, để coi xem Thầy có chữa cho nó không”.
- Ông hãy đi đi. Tôi phải cắt tất cả những cây này. Tôi đã trễ rồi, vì lẽ đứa trẻ. Nếu tôi không làm thì tôi không ăn. Tôi nghèo, và đứa trẻ rất thân thiết đối với tôi. Tôi tin ở Đấng Messi, nhưng tốt hơn là ông nói với Người cho tôi.
Giacôbê cúi xuống để ẵm đứa bé đang nằm ngửa trên cỏ.
- Nhè nhẹ chứ - người tiều phu cảnh cáo. “Nó đau ở khắp nơi”.
Qủa vậy, từ lúc Giacôbê thử nâng nó dậy, đứa trẻ khóc cách bi thương.
- Ôi! Đau chừng nào! - Giacôbê xit xoa.
- Rất đau - người tiều phu vừa cưa vừa nói, và ông thêm: “Ông không thể chữa cho nó được à?”
- Tôi đâu phải Đức Messi. Tôi chỉ là một môn đệ...
- Vậy à? Các thầy thuốc thì học nơi thầy thuốc khác. Các môn đệ thì học nơi thầy mình. Đi đi. Hãy tốt. Đừng làm nó đau. Hãy thử coi. Nếu ông thầy muốn lại đây thì Người đã chữa, nếu Người đã sai ông lại thì hoặc là Người không muốn chữa nó, hoặc là vì Người muốn chính ông chữa nó.
Giacôbê phân vân. Rồi ông quyết định. Ông đứng dậy và cầu nguyện giống như ông thấy Giêsu làm, rồi ông ra lệnh: “Nhân danh Giêsu Kitô, Đấng Messi của Israel và là Con Thiên Chúa, hãy khỏi”. Rồi ngay sau đó, ông qùi xuống và nói: “Ôi, lạy Chúa, xin tha! Con đã hành động không có phép của Thầy! Nhưng con thương đứa trẻ
285
này của Israel. Lạy Chúa, xin thương nó và thương con là kẻ tội lỗi!” Và ông khóc như mưa, nghiêng mình trên đứa trẻ đang nằm. Nước mắt rơi xuống trên hai cẳng chân cong queo và trơ trơ bất động.
Giêsu từ đường đi lại, nhưng không ai nhìn thấy Người, vì người tiều phu làm việc, Giacôbê khóc, đứa trẻ nhìn ông cách tò mò. Rồi nó hỏi cách êm đềm: “Tại sao ông khóc?”, và nó giơ một tay ra để vuốt ve ông, và không nhận ra mình, nó tự ngồi dậy, rồi đứng lên ôm lấy Giacôbê để yên ủi ông. Chính tiếng kêu của Giacôbê đã làm người tiều phu quay lại, ông thấy đứa nhỏ của ông đứng trên chân nó, đôi chân không còn trơ trơ, cũng không còn cong queo nữa. Và khi quay lại, ông thấy Giêsu.
- Người đó! Người đó! - ông ta kêu lên khi chỉ vào sau lưng Giacôbê. Ông quay lại và thấy Giêsu đang nhìn ông với khuôn mặt rạng rỡ vui.
- Thầy! Thầy! Con không biết ra làm sao... tình thương... ông này... đứa trẻ này... xin tha!
- Đứng dậy. Các môn đệ không hơn Thầy, nhưng họ có thể làm điều ông thầy làm khi họ làm với lý do thánh. Hãy đứng dậy và đi với Thầy. Hãy được phúc, cả hai. Và hãy nhớ rằng cả các tôi tá Thiên Chúa cũng làm được các việc Con Thiên Chúa làm - và Người ra đi trong khi kéo Giacôbê về phía Người. Ông không ngừng nói: “Nhưng làm sao con có thể? Con chưa hiểu được. Với cái gì con đã làm phép lạ nhân danh Thầy vậy?”
- Do tình thương của con đó Giacôbê, do lòng ước ao cho Thầy được yêu bởi đứa trẻ này và bởi người đàn ông này, vì ông vừa tin vừa nghi cùng một lúc. Gioan, ở gần Jabnia, cũng đã làm một phép lạ vì tình yêu. Ông đã chữa một người sắp chết bằng cách xức dầu và cầu nguyện. Ở đây, con đã chữa bằng nước mắt và tình thương của con, và bằng lòng tin cậy của con vào danh Thầy. Con thấy thật là an bình để phục vụ Thiên Chúa khi các môn đệ có ý ngay lành. Bây giờ chúng ta hãy bước lẹ, vì người đàn ông đó theo chúng ta. Sẽ là điều không tốt nếu các bạn con biết tin này. Chưa nên. Sắp
286
sửa Thầy sẽ sai các con đi nhân danh Thầy... (Giêsu để thoát ra một tiếng thở dài mạnh), Judas Simon nóng lòng làm được phép lạ chừng nào! (Giêsu lại thở dài), và các con sẽ làm... Nhưng đó không phải tốt cho mọi người. Mau lên Giacôbê. Simon Phêrô, em con và cả những người khác nữa sẽ khổ sở khi biết việc đó và coi như một điều thiên vị. Nhưng không phải vậy. Cần phải chuẩn bị cho nhóm mười hai các con một người biết hướng dẫn những người khác. Chúng ta hãy đi xuống đáy cái suối này, nó phủ đầy lá, chúng ta sẽ làm mất dấu tích của chúng ta. Điều đó con không thích à, vì lẽ đứa trẻ phải không ? Ồ, chúng ta sẽ gặp lại nó mà.
123* PHÊRÔ GIẢNG TẠI ESDRELON:
“TÌNH YÊU LÀ SỰ CỨU RỖI”
- Các bạn ơi, làm gì gần đống lửa này đấy? - Giêsu hỏi khi Người tìm thấy các môn đệ ngồi quanh một đống lửa cháy sáng trong bóng tối đầu tiên của buổi chiều tại một ngã tư trong đồng bằng Esdrelon.
Các tông đồ giật nảy, vì họ không nhìn thấy Người đến. Họ quên ngọn lửa để chào Thầy. Họ tưởng chừng như một thế kỷ nay không nhìn thấy Người. Rồi họ giải thích: “Chúng con đã giàn xếp được một cuộc tranh chấp giữa hai anh em ở Jezrael, và họ bằng lòng tới nỗi mỗi người muốn cho chúng con một con chiên. Chúng con nghĩ tới các bộ da cho các nông dân nhà Doras. Michée nhà Giocana đã cắt cổ, sửa soạn, và bây giờ chúng con sắp sửa đem nướng. Mẹ Thầy với Maria và Suzane đã đi báo cho các người của Doras để họ tới vào cuối buổi chiều, khi viên quản đốc đã đóng cửa ở trong nhà để nhậu. Các phụ nữ sẽ ít bị quan sát hơn... Còn chúng con, chúng con cố gắng gặp họ khi đi qua tựa như một khách du hành băng qua cánh đồng, nhưng chỉ làm được rất ít việc. Chúng con đã quyết định tụ họp ở đây chiều nay để nói... thêm cái gì nữa cho tâm hồn, để họ cũng cảm thấy dễ chịu trong thân xác, giống như Thầy đã làm lần trước. Nhưng bây giờ có Thầy rồi, việc đó sẽ đẹp hơn”.
287
- Ai đã nói rồi?
- Nhưng... tất cả, mỗi người nói một tí... như vậy, không kiểu cách gì. Chúng con không thể làm hơn. Hơn nữa, Gioan, Zêlote và anh Thầy không muốn nói; cả Judas Simon và Batôlômêo nữa, cũng tìm cách không nói... chúng con cũng đã thảo luận về điều đó - Phêrô nói.
- Vậy tại sao năm người này không muốn nói?
- Gioan và Simon thì nói rằng họ luôn luôn nói là điều không tốt... Anh Thầy thì muốn rằng con phải nói. Ông nói rằng con không bao giờ chịu bắt đầu... Batôlômêo thì bởi vì... bởi vì ông sợ nói nhiều qúa có vẻ đàn anh, và ông sợ không biết chinh phục. Thầy thấy đó là những lý do để xin lỗi.
- Còn con, Judas Simon, tại sao con không muốn nói?
- Tại cùng một lý do như những người khác thôi! Cùng một trật vì tất cả những lý do đó, vì tất cả chúng đều có lý.
- Nhiều lý do lắm! Mà có một lý do người ta không nói tới. Bây giờ chính Thầy phân xử, và sự xét xử của Thầy không có kháng cáo. Con, Simon Jonas, con sẽ nói như Thađê đã nói, và anh ta đã nói cách khôn ngoan đó. Và con, Judas Simon, con cũng sẽ nói. Như vậy một trong vô số các lý do, một lý do mà Thiên Chúa biết, và con cũng vậy, sẽ không còn nữa.
- Thưa Thầy, Thầy hãy tin là không còn lý do nào khác nữa đâu - Judas tìm cách đối đáp.
Nhưng Phêrô cắt lời ông khi nói: “Ôi lạy Chúa! Con nói ở trước mặt Thầy à? Con sẽ không thành công. Con sợ sẽ làm Thầy cười!...”
- Con không muốn ở một mình, con không muốn ở với Thầy... vậy con muốn gì?
- Thầy có lý. Nhưng... Con phải nói gì?
- Hãy nhìn em con kìa, ông đang tới với những con chiên. Hãy giúp ông, và trong khi nướng chín, hãy suy nghĩ. Tất cả đều giúp tìm ra đề tài.
- Kể cả con chiên ở trên lửa à? - Phêrô hỏi, không muốn tin.
- Đúng. Hãy vâng lời.
288
Phêrô để thoát ra một tiếng thở dài thực tình đáng thương, nhưng không đáp trả. Ông lại với Andrê và giúp ông xiên con chiên vào một cái sào nhọn, dùng làm cây xiên theo nghi lễ, và ông bắt đầu canh chừng việc nướng với một khuôn mặt tập trung tư tưởng, làm ông có vẻ như vị quan án vào lúc phán quyết.
- Chúng ta đi tìm các bà đi, Judas Simon - Giêsu ra lệnh, và Người đi về phía cánh đồng thảm hại của Doras.
- Một môn đệ tốt không bao giờ khinh bỉ điều mà Thầy không khinh bỉ, Judas ạ - Giêsu nói sau một lúc, không cần khai mào.
- Thưa Thầy, con đâu có khinh bỉ. Nhưng cũng như Batôlômêo, con cảm thấy con sẽ không được hiểu nên con muốn yên lặng.
- Natanael đã làm vậy, vì ông sợ không làm vừa ý Thầy trong việc soi sáng và nâng đỡ các con tim. Ông cũng đã làm không tốt, bởi vì ông thiếu sự tin cẩn vào Chúa. Nhưng con làm rất tệ hơn, bởi vì nơi con, không phải là cái sợ không được hiểu, mà là sự khinh bỉ làm cho mình được hiểu bởi những người nông dân tội nghiệp, chẳng biết gì ngoài những điều thuộc về nhân đức. Về phương diện này, thực sự họ đã vượt qua nhiều người trong các con. Judas ơi, con chẳng hiểu gì cả. Phúc âm chính là Tin Vui được mang đến cho người nghèo, kẻ đau yếu, các nô lệ, những kẻ đau khổ. Rồi nó cũng sẽ được tới với những người khác, nhưng một cách rõ ràng là để cho những người phải chịu đựng những bất hạnh, có được sự trợ giúp và an ủi mà Tin Mừng mang lại.
Judas cúi đầu và không trả lời.
Maria rất thánh, Maria Clêopha và Suzane từ một lùm cây đi ra.
- A má! Con chào má. Bình an cho các bà.
- Con ơi, má đến với những người... bị hành hạ, nhưng má được một tin vui để không làm má phải chịu đựng qúa cỡ. Doras đã dẹp bỏ đất đai của ông và Giocana đã tậu. Đây không phải là Thiên Đàng... nhưng không còn phải là hỏa ngục. Người quản đốc đã nói vậy với các nông dân. Ông ta đã ra đi, mang theo trên xe cho tới hạt lúa miến sau cùng, và để tất cả họ ở lại không có một cái gì ăn. Và bởi vì người giám thị của Giocana bữa nay chỉ có lương thực cho
289
các người của ông, nên các người của Doras đành nhịn đói. Thật là một sự quan phòng vì có hai con chiên này.
- Cũng là một sự quan phòng nữa là họ không còn thuộc về Doras. Chúng con đã thấy nhà của họ: những cái chuồng heo... - Suzane nói cách rêu rao.
- Tất cả họ đều sung sướng, những người tội nghiệp này - Maria Clêopha kết thúc.
- Thầy cũng vậy, Thầy bằng lòng. Họ sẽ dễ chịu hơn trước - Giêsu trả lời khi Người lại với các tông đồ.
Gioan Enđo đến với Người với những cái vò mà ông khênh cùng với Hermastê: “Đây là những cái mà những người của Giocana cho chúng ta”. Ông cắt nghĩa sau khi đã tôn kính Giêsu.
Tất cả mọi người đều tới chỗ đang nướng hai con chiên, giữa những đám mây khói mỡ béo. Phêrô tiếp tục quay cây đòn của ông, và trong lúc này, nghiền ngẫm tư tưởng của ông. Còn Thađê quàng tay ôm sau lưng anh của ông, đi đi lại lại hết chiều ngang tới chiều dọc và nói không ngừng. Những người khác, kẻ thì đi lấy củi, người thì sửa soạn... bàn, bằng cách mang những cục đá lớn làm ghế ngồi hay làm bàn, tôi không biết rõ.
Các nông dân của Doras tới, còn gầy còm và rách rưới hơn lần trước, nhưng họ sung sướng chừng nào! Họ khoảng hai mươi người, không có một đứa trẻ nào, cũng không có đàn bà, chỉ toàn là các đàn ông khốn khổ...
- Bình an cho tất cả các con. Chúng ta hãy cùng nhau chúc tụng Chúa vì Người đã ban cho các con một ông chủ tốt hơn. Hãy chúc tụng Người trong khi cầu nguyện, xin cho kẻ đã làm cho các con phải chịu đựng biết bao được hoán cải, phải không? Ông sung sướng phải không cha già? Thầy cũng vậy. Thầy có thể năng tới hơn cùng với đứa trẻ. Họ đã nói về nó với cha già rồi chứ? Ông khóc vì mừng phải không? Lại đây, lại đây, đừng sợ - Người nói với ông của Margziam. Ông cúi xuống để hôn tay Người và thì thầm: “Con không xin cùng Thiên Chúa tối cao điều gì hơn nữa. Người đã cho con nhiều hơn con xin. Bây giờ con chỉ muốn chết, vì sợ rằng nếu
290
còn sống qúa lâu nữa, con lại rơi vào tình trạng đau khổ”.
Hơi bồn chồn vì lại được thấy Thầy, nhưng các người nông dân đã mau chóng bạo dạn. Trên những cái lá to trải trên các tảng đá mà họ đã mang tới trước, họ đặt hai con chiên. Họ chia thành nhiều phần và đặt cho mỗi người trên một tấm bánh tráng lớn và mỏng dùng làm đĩa. Họ bình tĩnh trong sự đơn giản và ăn cách ngon lành cho no cơn đói góp, và nói chuyện về những biến cố sau cùng.
Một người nói: “Tôi luôn luôn nguyền rủa những con cào cào, chuột chũi và kiến, nhưng từ nay tôi thấy chúng như từng ấy sứ giả của Thiên Chúa, vì nhờ chúng mà chúng ta thoát được hỏa ngục”. Mặc dù sự so sánh các con cào cào và kiến với những cơ binh thiên thần là qúa lố, nhưng không ai cười cả, vì mọi người đều cảm thấy cái bi kịch ẩn dưới những lời này.
Ngọn lửa soi sáng cho nhóm người, nhưng các khuôn mặt không hướng về ngọn lửa, và rất ít người nhìn những gì ở trước mặt họ. Mọi con mắt đều hướng về Giêsu. Họ chỉ quay đi một lát khi Maria Alphê, người có trách nhiệm chia phần, trở lại để đặt thêm một phần nữa trên các bánh tráng của các nông dân đói khát, và chấm dứt công việc của bà bằng cách gói hai đùi thịt nướng trong những cái lá lớn khác, rồi trao cho ông của Margziam và nói: “Cầm lấy đi. Qúi vị có mỗi người một miếng nữa cho ngày mai, trong khi chờ đợi người giám thị của Giocana cung cấp”.
- Nhưng còn qúi vị?
- Chúng tôi, chúng tôi ít gánh nặng hơn. Cầm lấy đi. Cầm lấy đi ông.
Thế là hai con chiên chỉ còn lại những cái xương đã gặm sạch và một mùi dai dẳng của chất béo tan chảy còn đang cháy trên than đã tắt lửa, được ánh trăng trong thay thế để soi sáng.
Các nông dân của Giocana cũng họp mặt với những người khác. Đã đến giờ nói. Đôi mắt xanh của Giêsu ngước lên để tìm Judas Iscariot. Ông đang ngồi gần một gốc cây, hơi ở trong bóng đen. Và vì ông làm như không hiểu cái nhìn này nên Giêsu gọi ông lớn tiếng: “Judas!” Và Người bó buộc ông đứng lên để trình diện.
- Đừng lẩn tránh. Thầy xin con hãy giảng Tin Mừng thay cho
291
Thầy. Thầy rất mệt, và nếu chiều nay Thầy không đến thì các con cũng phải nói vậy.
- Thưa Thầy... Con không biết nói gì... Ít nhất là hãy đặt cho con các câu hỏi.
- Không phải Thầy là người hỏi, nhưng là các con. Các con muốn nghe gì, hay các con muốn có những lời giải thích? - Người nói, rồi hỏi các nông dân.
Họ nhìn nhau... họ băn khoăn... Sau cùng, một nông dân hỏi: “Chúng con đã biết sức mạnh của Thiên Chúa và lòng nhân từ của Người, nhưng chúng con biết rất ít về giáo lý của Người. Có lẽ chúng con có thể biết nhiều hơn, vì bây giờ chúng con thuộc về Giocana. Nhưng chúng con ước ao mạnh mẽ được biết những điều thiết yếu phải làm để chiếm được cái vương quốc mà Đấng Messi đã hứa. Với những cái như không này mà chúng con làm, chúng con có thể chiếm được không?”
Judas trả lời: “Chắc chắn là các ông ở trong những điều kiện rất nặng nề. Tất cả những thứ ở trong qúi vị và ở chung quanh qúi vị đều liên kết để làm cho qúi vị xa lìa vương quốc này. Qúi vị không được tự do để đến với Thầy khi qúi vị thấy là cần, vì phải là tôi tớ một ông chủ, nếu không phải là con linh cẩu như Doras thì cũng là con chó khổng lồ, giữ các tôi tớ như giữ tù binh. Qúi vị là những kẻ khổ sở và bị giảm giá, đó là những điều kiện bất lợi để được chọn vào vương quốc. Qúi vị khó lòng để không có trong qúi vị những oán hận và những tình cảm thù ghét, chỉ trích và báo thù kẻ đã bạc đãi qúi vị. Và điều kiện cần thiết tối thiểu là yêu Thiên Chúa và tha nhân, không có điều đó là không có phần rỗi. Qúi vị phải tỉnh thức để gìn giữ con tim qúi vị trong sự phục tùng tuyệt đối ý muốn của Thiên Chúa biểu lộ trong số phận của qúi vị, và qúi vị phải chịu đựng ông chủ của qúi vị cách nhẫn nại, cả đến không để cho tư tưởng của qúi vị được tự do xét đoán ông chủ của qúi vị, vì sự xét đoán này chắc chắn không tử tế, cũng không phải là lời cám ơn vì những... vì những... Tóm tắt, qúi vị không được nghĩ tới phản loạn, vì sự phản loạn này sẽ giết chết tình yêu, và kẻ nào không có tình
292
yêu thì không có phần rỗi, vì họ đi ngược với giới răn thứ nhất. Nhưng tôi, tôi có thể nói chắc chắn là qúi vị có thể cứu mình, vì tôi thấy qúi vị có thiện chí, kết hợp với sự êm dịu của tâm hồn, nó cho qúi vị cái hy vọng lánh xa sự oán ghét và tinh thần báo thù. Những điều còn lại thì lòng thương xót của Thiên Chúa rất lớn lao, Người sẽ tha cho qúi vị những gì còn thiếu trong sự hoàn thiện của qúi vị”. Một yên lặng. Giêsu vẫn cúi đầu rất sâu, làm ta không nhìn thấy những bộc lộ trên khuôn mặt Người, nhưng ta có thể thấy các khuôn mặt khác, và đây là những khuôn mặt thực tình không sung sướng. Các người nông dân có vẻ cảm thấy mình thấp hèn hơn trước. Các tông đồ và các phụ nữ thì kinh ngạc, tôi có thể nói: hầu như sợ hãi.
- Chúng tôi sẽ cố gắng để không làm nảy sinh ra trong chúng tôi bất cứ tư tưởng nào không phải là nhẫn nại và tha thứ - ông già trả lời cách khiêm nhường.
Một nông dân khác thở dài và nói: “Chắc chắn chúng tôi khó lòng đạt tới một tình yêu tuyệt hảo. Đối với chúng tôi, không trở nên kẻ sát nhân của những kẻ hành hạ chúng tôi đã là nhiều lắm rồi. Tâm trí chịu đựng, chịu đựng, chịu đựng, và mặc dù nó không thù ghét, nó cũng khó lòng mà yêu. Giống như một đứa trẻ vàng vọt hốc hác thì nó khó lòng mà lớn được”.
- Không, ông ơi, tôi, trái lại, tôi cho rằng chỉ nguyên vì qúi vị đã chịu đựng qúa nhiều mà không trở thành sát nhân và không báo thù, qúi vị đã có tinh thần vững mạnh hơn chúng tôi về phương diện tình yêu. Qúi vị đã yêu mà không nhận ra nó - Phêrô nói để yên ủi họ. Nhưng rồi ông nhận ra là mình đã lên tiếng nên ngừng lại và nói: “Ôi! Thưa Thầy... nhưng...Thầy đã bảo con rằng con phải nói... và ngay cả những minh giải về ý kiến của con do con chiên mà con đã nướng. Con đã liên tục nhìn nó để tìm ra những lời thích đáng mà lưu ý các anh em trong hoàn cảnh của họ. Nhưng đương nhiên, bởi vì con ngu si, con chẳng tìm thấy gì thích hợp, con không biết thế nào, con đã đi rất xa trong những tư tưởng mà con không biết nói làm sao, nếu nó ngông cuồng thì nó là của con, nếu nó thánh thì chắc chắn nó từ trời mà đến. Con nói ra như nó đến với con, và Thầy, Thầy sẽ cho con những giải thích, hay Thầy sẽ phản đối con.
293
Và tất cả qúi vị, hãy thương xót.
Vậy con nhìn, chỗ đầu tiên là ngọn lửa, và nó đến với con tư tưởng này: Đó, lửa được làm bởi cái gì? Bởi củi. Nhưng củi, tự mình nó không cháy được, và nhất là nếu nó không khô thì nó không cháy gì cả, vì nước làm cho nó ra nặng nề và ngăn cản bùi nhùi lửa đốt nó. Cây củi, khi nó chết, nó sẽ hủy hoại, giảm thiểu thành bụi bởi mối mọt, nhưng bởi chính nó, nó không thể bắt lửa. Vậy đây, nếu ai dàn xếp nó một cách thích hợp, bằng cách đem lại gần nó cái bùi nhùi hay diêm quẹt, làm xuất hiện một tia lửa, và làm lợi cho ngọn lửa bằng cách thổi nó trên các cành nhỏ để làm ngọn lửa lớn lên, bởi vì ta luôn luôn bắt đầu bằng các cành nhỏ, như vậy lửa sẽ bùng lên và thành đẹp, hữu ích, và nó xâm chiếm hết, kể cả các khúc gỗ lớn. Và con nói: Chúng ta là củi. Tự mình chúng ta, chúng ta không thể cháy. Nhưng phải cẩn thận để chúng ta không bị thấm ướt bởi những thứ nước của xác thịt và máu huyết, để cho phép cái bùi nhùi đốt cho chúng ta. Và chúng ta phải ước ao được cháy, vì nếu chúng ta cứ trơ trơ, chúng ta có thể bị tàn phá bởi mưa gió, bởi mối mọt, tức là bởi nhân tính và ma qủi. Trong khi nếu chúng ta phó mình cho ngọn lửa của tình yêu, nó sẽ bắt đầu bằng cách đốt các nhánh nhỏ và tiêu hủy chúng - và đối với tôi, những nhánh nhỏ này là những điều bất toàn - Rồi nó sẽ phát triển và tấn công cho tới các khúc lớn nhất, tức là các đam mê mạnh nhất. Và chúng ta, củi, một thứ vật chất, cứng rắn, tối đặc và thô kệch nữa, chúng ta sẽ trở nên một thứ đẹp và siêu vật chất, linh động, tức là lửa, và tất cả ra như vậy, bởi vì chúng ta sẵn sàng cho tình yêu là cái diêm quẹt hay cái bùi nhùi, nó sẽ làm từ cái vật thể là con người tội lỗi khốn nạn của chúng ta, thành một thiên thần cho tương lai, người công dân của nước trời. Đó là tư tưởng thứ nhất của con”.
Giêsu đã hơi ngẩng đầu lên và chăm chú nghe, mắt nhắm với một bóng nụ cười trên môi. Các người khác nhìn Phêrô, còn ngạc nhiên nhưng không sợ nữa. Ông tiếp tục cách bình tĩnh:
- Một tư tưởng khác đến với con là khi con nhìn con vật đang chín. Qúi vị đừng nói rằng tư tưởng của tôi là ngây ngô. Thầy đã
294
bảo tôi tìm chúng trong những gì tôi nhìn thấy.
Vậy tôi nhìn những con vật và tự nhủ: đây là hai con vật vô tội và êm đềm. Sách Thánh của chúng ta đầy những hình ảnh êm đềm về con chiên, cùng một trật nhắc nhở tới Đấng Messi đã được hứa, và là Đấng Cứu Tinh, từ lúc Người tượng trưng trong con chiên của Môise, để nói rằng Thiên Chúa thương chúng ta. Đó là điều các tiên tri đã nói. Người đến để tụ họp đoàn chiên, Người cứu giúp những con bị thương, mang trên tay những con có chi thể bị gẫy. Nhân từ chừng nào! Tôi tự nhủ: Không nên sợ một Thiên Chúa đã hứa biết bao tình thương đối với chúng ta là những kẻ khốn nạn. Nhưng tôi còn tự nhủ: Phải êm dịu, ít nhất là êm dịu, bởi vì chúng ta chẳng vô tội. Êm dịu và ước ao được tình yêu tiêu hủy. Bởi vì dù là một con chiên êm đềm nhất, trong sạch nhất, một khi bị giết, nó sẽ trở nên cái gì nếu lửa không làm cho nó chín: một xác chết thối. Trong khi nếu lửa bao phủ nó, nó sẽ trở nên lương thực lành mạnh và được chúc phúc.
Và tôi kết luận: Tóm tắt, mọi điều tốt đều do tình yêu. Nó lột bỏ cho chúng ta những nặng nề của nhân tính. Nó làm cho chúng ta sáng sủa và hữu ích, nó làm cho chúng ta dễ chịu với anh em và vui lòng Thiên Chúa; nó làm cho thành cao cả những đặc tính tốt tự nhiên của chúng ta bằng cách mang nó lên cao, nơi nó được nhận cái tên là nhân đức siêu nhiên. Và kẻ có nhân đức thì là thánh, kẻ thánh thì chiếm hữu Nước Trời. Vì cái điều mở ra con đường hoàn thiện không phải là khoa học, cũng không phải sự sợ hãi, mà là tình yêu. Tình yêu còn mạnh hơn sự sợ hãi và hình phạt rất nhiều, nó sẽ giữ chúng ta ở xa điều ác, bởi lòng ước ao không làm phiền cho Chúa. Sự ước ao này cho chúng ta tình yêu và lòng thương xót đối với anh em, vì họ đến từ Thiên Chúa. Vậy tình yêu là sự cứu rỗi và là sự thánh hóa của con người.
Đó là những điều tôi nghĩ trong khi nhìn món rô-ti, và khi vâng lời Giêsu của tôi. Xin tha cho tôi nếu tôi chỉ có những tư tưởng này thôi. Nhưng với tôi, nó làm ích cho tôi. Tôi cống hiến nó cho qúi vị, với hy vọng nó cũng lợi ích cho qúi vị nữa.
295
Giêsu mở mắt, Người rạng rỡ. Người giơ cánh tay và đặt bàn tay lên vai Phêrô: “Thực vậy, con đã tìm được những lời cần thiết. Sự vâng lời và tình yêu đã làm cho con tìm thấy chúng. Sự khiêm nhu và lòng ước ao yên ủi các anh em con đã biến nó thành biết bao vì sao trong bầu trời của họ. Nguyện Thiên Chúa chúc phúc cho con, Simon Jonas”.
- Nguyện Thiên Chúa cũng chúc phúc cho Thầy nữa, Thầy của con. Và Thầy không nói à?
- Ngày mai họ sẽ vào sự lệ thuộc mới của họ. Thầy chúc lành cho việc đi vào này bằng lời Thầy. Bây giờ hãy đi bằng an và Chúa ở cùng các con.
124* GIÊSU NÓI VỚI CÁC NÔNG DÂN
CỦA GIOCANA: “YÊU LÀ VÂNG LỜI”
Chưa hoàn toàn rạng đông, Giêsu đứng giữa vườn cây ăn trái bị tàn phá của Doras. Các hàng cây chết hay đang chết mà nhiều cây đã bị chặt hay bị bứt rễ. Chung quanh Người là các nông dân của Doras, của Giocana và các tông đồ. Một số đứng, một số ngồi trên các thân cây đã đổ.
Giêsu bắt đầu nói: “Một ngày mới và một khởi hành mới. Không phải chỉ có mình Thầy khởi hành, các con cũng khởi hành một cách tinh thần, nếu không là một cách vật chất, trong khi chuyển qua một ông chủ khác. Vậy các con sẽ kết hợp với những người nông dân tốt và đạo đức khác, và các con tạo thành một gia đình duy nhất, nơi các con có thể nói về Thiên Chúa và về Ngôi Lời của Người mà không cần dùng mưu mẹo để nói. Các con hãy nâng đỡ nhau trong đức tin. Hãy tương thân tương ái. Hãy khoan dung với khuyết điểm của người khác. Hãy xây dựng cho nhau. Đó đều là tình yêu, dù là có nhiều thể cách khác nhau. Chiều hôm qua các con đã nghe các tông đồ nói rằng sự cứu rỗi ở trong tình yêu. Simon Phêrô, bằng những lời hay và đơn sơ của ông, đã làm các con nhận
296
xét rằng tình yêu biến đổi những bản chất nặng nề thành những sự siêu nhiên thế nào. Một kẻ không tình yêu có thể trở nên hư thối và làm hư thối, giống như con vật người ta giết rồi không nấu chín, hay ít nhất, họ sẽ thành vô ích như cây gỗ mục nát trong nước, không còn tốt để đốt lửa. Và tình yêu có thể làm cho con người này, một kẻ đã sống trong bầu khí của Thiên Chúa, và vì vậy thoát được sự hư nát và trở nên hữu ích cho anh em như thế nào.
Bởi vì, hỡi các con, hãy tin rằng sức mạnh vĩ đại của vũ trụ là tình yêu. Thầy không bao giờ mệt mỏi nói điều đó. Tất cả mọi bất hạnh của trái đất đều đến từ sự thiếu tình yêu, bắt đầu bằng cái chết và bệnh tật, sinh ra bởi sự từ chối tình yêu của Ađam và Evà đối với Thiên Chúa tối cao.
VìYêu là vâng lời. Kẻ không vâng lời là kẻ phản ngụy. Kẻ phản ngụy thì không yêu người mà nó phản ngụy để chống lại. Nhưng cũng có những bất hạnh khác, tổng quát hay riêng biệt, như chiến tranh hay sự hủy hoại của một hai gia đình vì sự đối lập của họ. Chúng từ đâu tới? Từ sự ích kỷ, tức là thiếu tình yêu. Và từ sự hủy hoại gia đình dẫn tới sự hủy hoại về vật chất do hình phạt của Thiên Chúa, bởi vì sớm hay muộn, Thiên Chúa luôn luôn phạt kẻ sống không tình yêu. Thầy biết rằng ở đây có một chuyện được loan truyền - và vì nó, Thầy bị ghét bởi một số người, bị nhìn cách sợ hãi bởi một số khác, bị tuyên xưng như một hình phạt mới, hoặc bị người ta chịu đựng vì sợ hình phạt - Thầy biết rằng ở đây người ta loan truyền câu chuyện huyền thoại về cái nhìn của Thầy đã mang sự nguyền rủa đến cho các cánh đồng này. Không phải là cái nhìn của Thầy đâu, mà là sự trừng phạt của Thiên Chúa cho sự ích kỷ của một kẻ bất công và độc ác. Nếu cái nhìn của Thầy phải đốt tất cả đất đai của những kẻ thù ghét Thầy, thì thật vậy, Israel sẽ còn lại qúa ít mầu xanh!
Thầy không bao giờ báo thù những xúc phạm mà người ta làm cho chính Thầy, nhưng Thầy giao phó cho Chúa Cha những kẻ cứng đầu, ở lì trong tội ích kỷ của họ đối với đồng loại, và chế nhạo một cách phạm thượng các giới răn; những kẻ mà càng nghe những lời
297
muốn thuyết phục nó và những lời có khả năng làm cho nó tiến tới tình yêu, thì nó càng trở nên độc ác. Thầy luôn luôn sẵn sàng giơ tay lên để nói với kẻ sám hối: “Con được tha thứ, hãy đi bằng an”. Nhưng Thầy không xúc phạm đến tình yêu bằng cách thoả thuận với sự chai đá của những kẻ không muốn thay đổi. Hãy giữ điều này luôn luôn hiện diện trong tâm trí các con, để nhìn mọi sự trong ánh sáng phù hợp với lẽ công chính, và để cải chính những chuyện hoang đường, gây ra bởi sự tôn kính, sợ hãi hay giận hờn luôn luôn sai với sự thật.
Các con chuyển qua một ông chủ khác, nhưng các con không lìa xa mảnh đất này. Trong tình trạng hiện nay của nó thì việc săn sóc nó tựa như sự điên dại. Nhưng Thầy bảo các con: hãy làm bổn phận của các con đối với nó. Từ trước tới nay các con đã làm vì sợ bị phạt cách vô nhân đạo, bây giờ cũng hãy làm, nhưng luôn luôn nhớ rằng các con không bị đối xử như trước nữa. Thầy còn nói với các con: người ta càng đối xử nhân đạo với các con, các con càng phải làm việc với sự nhiệt thành vui vẻ, để bằng công việc, các con trả lại lòng nhân đạo cho những kẻ đã cho các con lòng nhân đạo.
Qủa vậy, các người chủ có bổn phận nhân đạo với những kẻ tùy thuộc vào họ - Hãy nhớ rằng chúng ta đến từ cùng một tổ tiên, và thực sự mọi người đều sinh ra trần truồng theo cùng một cách, và sau cái chết, trở nên thối nát theo cùng một cách, dù là người giầu hay người nghèo. Và hãy nhớ rằng sự giầu có đến do công việc, không phải công việc của những kẻ chiếm hữu nó, nhưng là của những kẻ đã tích góp nó một cách thật thà hay gian dối; và nhớ không được vênh vang vì nó, không được vì nó mà đàn áp, nhưng phải nhờ nó mà làm điều thiện cho cả những người khác, sử dụng nó với tình yêu, thận trọng và công bằng, để được nhìn cách không khắt khe bởi ông chủ thật là Thiên Chúa, bởi vì người ta không hối lộ Thiên Chúa được, cũng không lôi kéo được Người bằng những châu báu hay những nén vàng, nhưng người ta làm bạn với Người được bằng những hành động tốt - Nếu điều đó là thật, thì đàng khác, cũng thật là các tôi tớ có bổn phận phải tốt đối với ông chủ
298
của họ.
Hãy làm cách đơn sơ và với thiện chí. Ý muốn của Thiên Chúa đã muốn các con ở trong những điều kiện khiêm hạ này. Các con đã biết dụ ngôn về người phú hộ xấu. Các con biết rằng ở trên Trời, không phải là vàng, mà là các nhân đức sẽ được thưởng. Các nhân đức và sự tuân phục ý Chúa làm cho Thiên Chúa thành bạn của con người. Thầy biết rằng rất khó để nhìn thấy Thiên Chúa qua các công việc của loài người. Trong sự thịnh vượng thì dễ, nhưng trong hoàn cảnh xấu thì khó, vì nó có thể dẫn trí khôn tới chỗ nghĩ rằng Thiên Chúa không tốt. Nhưng các con, hãy toàn thắng điều ác do những người bị Satan quyến rũ đã làm cho các con. Bên kia cái hàng rào đã làm cho các con rơi nước mắt, hãy nhìn giá trị của đau thương và vẻ đẹp của nó. Sự đau khổ đến từ sự ác, Thiên Chúa không thể tiêu hủy nó, sức mạnh này luôn luôn hiện hữu, nó là lửa để thử vàng siêu nhiên của các con cái Thiên Chúa, là sự nén ép để trích ra từ chất độc của nó, cái tinh chất của một phương dược ban sự sống đời đời. Vì sự đau khổ, do tính chất cay đắng của nó, tạo ra nơi kẻ tốt những phản ứng khiến họ luôn luôn siêu nhiên hóa nó hơn, và biến họ thành những vị thánh.
Vậy các con hãy tốt, hãy kính trọng, hãy tùng phục. Đừng xét đoán các ông chủ. Họ đã có vị thẩm phán của họ rồi. Thầy muốn rằng người ra lệnh cho các con là kẻ công chính, để làm cho con đường của các con trở nên dễ dàng hơn và để ông ta được sống đời đời. Nhưng các con hãy nhớ rằng nhiệm vụ càng khó hoàn thành, càng đáng công lớn trước mắt Thiên Chúa. Đừng tìm cách đánh lừa ông chủ. Tiền bạc và đồ ăn kiếm được cách gian lận sẽ chẳng làm cho giầu, cũng chẳng làm cho no. Hãy giữ bàn tay các con trong sạch cũng như cặp môi và con tim trong sạch, khi đó các con sẽ mừng ngày Sabat và các ngày lễ theo giáo điều với ơn phúc trước mặt Thiên Chúa, dù là nếu người ta có trói các con vào với đất đai.
Thực vậy, sự mệt nhọc của các con có giá trị hơn những lời cầu nguyện giả hình của kẻ làm tròn các phép tắc để được đời khen, mà trong thực tế, đã đi ngược với các giáo điều bởi sự bất tuân lề
299
luật của họ. Lề Luật dạy chính mình phải vâng lời và làm cho các người trong nhà mình vâng lời các nghi lễ của ngày Sabat và các ngày lễ trọng trong Israel. Bởi vì lời cầu nguyện không phải ở trong các cử chỉ, mà ở trong tâm tình. Nếu lòng các con yêu Thiên Chúa cách thánh thiện, thì trong mọi hoàn cảnh, các con hoàn thành các nghi thức của các ngày lễ hơn là những kẻ đã ngăn cản các con tham dự nghi lễ.
Thầy chúc lành cho các con và Thầy từ giã các con, vì mặt trời đã lên, và Thầy muốn tới miền đồi núi trước khi sức nóng qúa mạnh. Chúng ta sẽ mau chóng gặp lại nhau, vì mùa thu không còn xa. Bình an cho tất cả các con, đầy tớ cũ cũng như mới của Giocana, và nguyện sự bình an làm cho tâm hồn các con yên hàn.
Và Giêsu ra đi giữa các người nông dân và chúc lành cho họ từng người một.
Sau một cây táo đã khô, có một người lấp ló. Nhưng khi Giêsu sắp đi qua, Người làm như không thấy ông, ông ta liền vọt ra và nói: “Tôi là người quản đốc của Giocana, ông ta đã bảo tôi: nếu vị Rabbi Israel có tới thì hãy để Người dừng lại trên đất của tôi và hãy để Người nói với các đầy tớ, tôi sẽ rút ra ở đó được công việc tốt hơn, vì Người chỉ dạy những điều tốt. Và hôm qua, ông ta đã cho tôi biết là kể từ hôm nay, họ (và ông ta chỉ vào những người của Doras) sẽ ở với tôi, và những đất đai này thuộc về Giocana. Ông ta đã viết cho tôi: ‘Nếu vị Rabbi tới, hãy nghe những gì Người nói, và hãy hành động hợp theo, để những bất hạnh không đến với chúng ta. Hãy tôn vinh Người, nhưng hãy coi xem Người có bãi bỏ sự nguyền rủa cho đất đai không’. Vì Thầy biết rằng Giocana cho là mình vinh dự để mua nó. Nhưng tôi tin là ông ta đã hối hận. Nó sẽ là điều tốt nếu chúng tôi dùng nó làm đồng cỏ”.
- Vậy anh đã nghe Thầy nói?
- Thưa Thầy vâng.
- Vậy anh biết phải cư xử thế nào, anh cũng như ông chủ của anh, để được phúc lành của Thiên Chúa. Hãy tường thuật điều đó với ông chủ của anh. Còn về phần anh, hãy làm cho dịu lại các lệnh
300
truyền của ông ta. Anh là người thực tế đã thấy sự mệt mỏi của những người trên đồng ruộng và được ông chủ tín nhiệm, nhưng thà mất các ân huệ của ông ta và cả địa vị của anh, còn hơn là để mất linh hồn anh. Chào.
- Nhưng tôi phải tôn vinh Thầy.
- Thầy không phải là một bức tượng. Thầy không cần những danh dự lợi lộc để ban ơn. Hãy tôn vinh Thầy bằng tâm trí của anh, bằng cách thực hành những điều anh đã nghe, như vậy anh sẽ phục vụ Thiên Chúa và ông chủ cùng một trật.
Và Giêsu, với các môn đồ và các phụ nữ theo sau, và sau cùng là tất cả các nông dân, băng qua cánh đồng và lên con đường dẫn về miền núi. Tất cả chào từ biệt Người.
125* ĐỨC THÁNH TRINH NỮ MARIA:
“TÌNH THƯƠNG CỦA MẸ MẠNH HƠN TẤT CẢ”
Tiếp theo những ngọn đồi mà trên đó ngoằn ngoèo con đường dẫn về Nazarét, lợi dụng bóng mát của các vườn ôliu và các cây ăn trái bao phủ một phần lớn đất đai được khai thác tốt của vùng mầu mỡ này, Giêsu hướng bước chân về Nazarét.
Khi tới một ngã tư mà con đường này giao nhau với con đường đi về Ptolêmai, Người dừng lại và nói: “Chúng ta hãy dừng lại gần căn nhà mà Thầy đã dừng lại lần trước, chúng ta dùng bữa trong khi mặt trời tiếp tục lộ trình của nó. Chúng ta hãy đoàn tụ với nhau trước khi chúng ta lại chia tay: chúng ta đi về Tibêriat, Mẹ Thầy với Maria đi về Nazarét, còn Gioan và Hermastê đi về Sicaminon”.
Các đấng băng qua vườn ôliu, về một căn nhà đồng quê rộng và thấp, trang điểm bằng một cây sung và được chăng hoa bởi các giây của một cây nho leo dọc một cầu thang nhỏ, rồi sau đó vươn các cành của nó ra trên sân thượng.
- Bình an cho các con. Lại Thầy nữa đây.
- Xin mời Thầy vào. Sự hiện diện của Thầy luôn luôn được hoan
301
nghênh. Nguyện Thiên Chúa ban bình an cho Thầy và các người của Thầy - một người đàn ông có tuổi trả lời. Ông đang đi băng qua sân với một ôm cành cây. Rồi ông gọi: “Sara ơi, Sara! Có thầy với các môn đệ của Người. Hãy thêm bột vào bánh của bà”.
Từ trong nhà, một người đàn bà bước ra, dính trắng đầy bột mà bà rây, vì bà vẫn còn cầm trong tay cái rây với cả bột ở bên trong. Bà bái gối tươi cười trước Giêsu.
- Bình an cho bà. Thầy dẫn Mẹ Thầy tới như đã hứa lần trước. Mẹ đây. Và bà này là chị dâu của Người, là mẹ của Giacôbê và Juđa. Dina và Philíp đâu?
Người đàn bà, sau khi đã chào hai bà Maria, liền trả lời: “Dina, ngày hôm qua đã sinh đứa con gái thứ ba của nó. Chúng con hơi buồn, vì nó không cho chúng con một đứa cháu trai. Nhưng tất cả cũng bằng lòng, phải không Mathatia?”
- Phải, vì đó là đứa cháu gái đẹp, và vẫn luôn luôn là máu của chúng ta. Chúng con sẽ cho Thầy coi. Philíp đi đón Anna và Noêmi tại nhà ba má chúng, nhưng nó sắp về rồi.
Người đàn bà trở về với việc làm bánh, còn người đàn ông, sau khi đã bỏ củi vào lò, tiếp đón các khách của ông bằng cách cho họ những ghế ngồi, và sữa tươi vắt ra cho những ai muốn, còn trái cây và ôliu cho những ai thích hơn.
Căn nhà trệt mát và rợp, rất rộng rãi, mở ra cả về hai phía trước và sau, với hai cửa được che bóng, một bởi một cây sung to lớn, cửa kia bởi một hàng các cây hoa ngôi sao, một loại có dáng như hoa hướng dương, nhưng các bông hoa nhỏ hơn. Một ánh sáng lớn mầu lục soi vào trong nhà, làm dịu cho những con mắt mỏi mệt vì qúa nhiều ánh sáng mặt trời. Có những chiếc ghế dài và mấy cái bàn trong căn phòng rộng, có lẽ đó là nơi các phụ nữ kéo tơ dệt vải, và các nam giới sửa chữa các nông cụ, hoặc là nơi chứa lương thực như bột, trái cây, tôi nghĩ vậy, vì có những cái xà lởm chởm những móc, với những cái kệ đặt trên các giá, và hơn nữa, có nhiều rương bằng gỗ đặt theo bờ tường. Có những lọn sợi vải hay gai, giống như các giây bện đã tháo ra, để dọc bờ tường quét vôi trắng, và một
302
miếng vải mầu đỏ lửa còn căng trên chiếc khung cửi để hở, có vẻ làm vui cho cả khung cảnh vì cái mầu lộng lẫy và vui tươi của nó.
Bà chủ nhà trở lại sau khi đã hoàn tất việc làm bánh, và hỏi các qúi khách có muốn xem đứa trẻ sơ sinh không. Giêsu trả lời: “Chắc chắn rồi. Thầy sẽ chúc phúc cho nó”.
Còn Maria, mẹ đứng dậy và nói: “Tôi đi chào bà mẹ”. Và tất cả các phụ nữ đều đi ra.
- Ở đây thật dễ chịu - Batôlômêo nói. Ông có vẻ rất mệt mỏi.
- Ừ, có bóng mát và sự yên tĩnh. Sau cùng chúng ta sẽ buồn ngủ - Phêrô nói, ông đã có vẻ thiu thiu ngủ.
- Từ giờ tới ba ngày nữa, chúng ta sẽ có một thời gian dài ở trong nhà chúng ta. Các con sẽ nghỉ ngơi, vì các con sẽ giảng Tin Mừng ở vùng phụ cận, ngay ở Caphanaum - Giêsu nói.
- Còn Thầy?
- Thầy, hầu như Thầy sẽ luôn luôn ở Caphanaum, với những lúc ở Bétsaiđa. Thầy sẽ giảng cho những người đến gặp Thầy ở đó. Rồi vào tuần trăng đầu tháng Tisri, chúng ta lại du hành. Nhưng buổi chiều, Thầy sẽ tiếp tục hoàn thiện cho các con...
Giêsu yên lặng, vì thấy rằng cơn buồn ngủ làm cho các lời của Người thành vô ích. Người mỉm cười và lắc đầu khi nhìn đám người mà sự mệt mỏi đã làm cho hao mòn, trong vị trí nghỉ ngơi thoải mái ít nhiều, đã buông mình vào giấc ngủ. Sự yên lặng đã hoàn toàn trong căn nhà của miền quê dưới mặt trời. Người ta nói đây là nơi thần tiên. Giêsu đứng tại ngưỡng cửa, gần bờ dậu nở đầy hoa và nhìn qua các cành cây, miền đồi núi êm đềm của xứ Galilê, được phủ bằng toàn mầu xám của các vườn ôliu bất động.
Tiếng bước chân nhẹ hòa vào tiếng khóc bất định của trẻ sơ sinh vang lên trên đầu Người. Giêsu ngẩng đầu và cười với Mẹ Người đang đi xuống, mang trong tay một bọc toàn trắng lú ra ba điểm hồng: một cái đầu và hai nắm tay ngo ngoe.
- Nhìn này Giêsu. Đứa trẻ đẹp chừng nào! Nó hơi giống con khi con được một ngày. Con có tóc hoe vàng giống vầy, nhưng ở chỗ nó chưa có tóc thì con đã có từ lúc này, những lọn tóc hơi cong lên như những búp nhỏ, như một lọn mây. Và về mầu da, con cũng hồng
303
giống vầy. Và coi này, coi này, bây giờ nó mở đôi mắt nhỏ ra dưới bóng rợp này và nó tìm vú. Nó có mắt mầu xanh dương đậm của con... Ôi, cưng ơi! Nhưng mẹ, mẹ không có sữa. Bé con, bông hồng nhỏ, con chim cu nhỏ của tôi! - Và Bà Chúa ru đứa bé. Nó hạ bớt tiếng khóc oe oe của nó thành những tiếng ọc ọc thực sự của một con chim cu, rồi nó ngủ.
- Má ơi, má cũng đã làm như vầy với con à? - Giêsu hỏi khi nhìn Mẹ Người ru đứa bé, ép má mẹ trên cái đầu nhỏ tóc hoe vàng.
- Ừ, con ạ. Nhưng với con, mẹ nói: “Con chiên nhỏ của mẹ”. Nó đẹp qúa phải không?
- Nó đẹp và khỏe mạnh. Chắc mẹ nó sung sướng - Giêsu xác nhận, và Người cũng cúi xuống nhìn giấc ngủ của trẻ thơ ngây.
- Nhưng trái lại, nó không sung sướng... Ông chồng nó bực mình vì tất cả con nó đều là con gái. Đúng thực là với những đồng ruộng mà chúng tôi có thì các con trai là tốt hơn. Nhưng đó đâu phải là lỗi của con gái chúng tôi... - bà chủ nhà thở dài nói khi bà tới.
- Chúng nó còn trẻ và chúng nó yêu nhau thì rồi chúng nó cũng sẽ có các con trai - Giêsu nói cách bảo đảm.
- Đó, Philíp... Bây giờ nó sắp sửa sa sầm mặt... - người đàn bà nói, vẻ bối rối. Rồi bà nói mạnh hơn: “Philíp ơi, có vị Rabbi Nazarét”.
- Rất sung sướng được gặp Thầy. Bình an cho Thầy.
- Và cho con, Philíp. Thầy đã thấy đứa bé rất đẹp của con. Thầy vẫn còn đang ngắm nghía, vì nó xứng đáng với lời khen. Thiên Chúa chúc lành cho con bằng cách cho con những đứa con đẹp, lành lặn và tốt. Con phải biết ơn Người... Con không trả lời? Con có vẻ bực bõ...
- Con đã hy vọng một đứa con trai!
- Nhưng con đã không muốn nói với Thầy là con bất công khi kết án một trẻ thơ vì nó là con gái. Và hơn nữa, con tỏ ra khắt khe với vợ con? - Giêsu hỏi cách nghiêm khắc.
- Con, con muốn một đứa con trai! Cho Chúa và cho con - Philíp kêu lên, bực mình.
- Và con tin là con sẽ được bằng cách bất công và phản động à?
304
Có lẽ con đã đọc được tư tưởng của Thiên Chúa? Phải chăng con còn hơn Thiên Chúa nữa để có thể nói với Người: “Hãy làm cái này, vì như vậy là đúng”? Người đàn bà này là môn đệ của Thầy. Bà không có con, nhưng bà đã biết nói với Thầy: “Con chúc tụng sự son sẻ của con, vì nó đã cho con đôi cánh để theo Thầy”. Còn bà này, mẹ của bốn đứa con trai, chỉ ước ao cái lúc mà cả bốn đứa con bà không còn thuộc về bà nữa. Có phải không Suzane và Maria? Con đã nghe họ đó. Còn con, con mới cưới vợ ít lâu nay với một người đàn bà mắn con, được chúc phúc bởi ba cái nụ hồng đang xin tình yêu của con, vậy mà con lại bực mình? Với ai? Tại sao? Con không muốn nói ra điều đó? Thầy, Thầy nói cho con: bởi vì con là người ích kỷ. Hãy lìa bỏ ngay sự oán hờn của con. Hãy mở cánh tay ra cho đứa trẻ này, nó từ con mà sinh ra, và hãy yêu nó. Nào, ẵm lấy nó đi!
Giêsu cầm cái bọc vải và đặt trong tay người cha trẻ, và Người tiếp: “Hãy đến bên vợ con, nó đang khóc. Hãy nói với nó là con yêu nó, nếu không thì Thiên Chúa sẽ thực tình không bao giờ cho con con trai trong tương lai nữa. Thầy nói với con đó. Đi đi!”
Người đó đi lên phòng của vợ ông.
- Cám ơn Thầy - bà mẹ vợ nói nhỏ. “Từ hôm qua đến nay, anh ta rất độc ác...”
Sau vài phút, người đàn ông lại đi xuống và nói: “Chúa ơi, con đã làm rồi. Vợ con cám ơn Thầy, và nó bảo con hỏi Thầy một tên cho đứa trẻ, vì... vì con đã đặt cho nó một cái tên rất mất cảm tình trong cơn giận bất công của con”.
- Hãy gọi nó là Maria. Nó đã uống nước mắt cay đắng cùng với giọt sữa đầu tiên, cũng cay đắng nữa tại vì sự cay nghiệt của con. Nó có thể được gọi là Maria, và Maria sẽ yêu nó. Phải không mẹ?
- Ừ, đứa trẻ tội nghiệp! Nó rất dễ thương, và chắc chắn nó sẽ tốt và trở nên một ngôi sao nhỏ trên trời.
Các vị trở lại căn phòng nơi các tông đồ mệt mỏi đang ngủ giấc ngủ nặng nề, ngoại trừ Judas thì có vẻ như nằm trên lửa.
- Con muốn gặp Thầy à Judas? - Giêsu hỏi.
305
- Thưa Thầy không. Nhưng con không ngủ được, và con muốn ra ngoài một lát.
- Đâu có ai ngăn cản con? Thầy cũng ra. Thầy đi lên cái cồn nhỏ kia, nó hoàn toàn bóng mát... Thầy sẽ nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Con có muốn đi với Thầy không?
- Thưa Thầy không. Con sẽ quấy rầy Thầy, vì con không ở trong tình trạng cầu nguyện. Có lẽ... Có lẽ con không thấy khỏe, vì thế con băn khoăn...
- Vậy thì ở lại. Thầy chẳng ép buộc ai cả. Chào. Chào các bà. Mẹ ơi, khi Gioan Enđo thức dậy, mẹ bảo ông ta đến với con nhé. Một mình ông ta thôi.
- Ừ, con ạ. Bình an cho con.
Giêsu đi ra. Maria Alphê và Suzane cúi xuống nhìn tấm vải trên khung cửi. Maria Trinh Nữ ngồi, hai tay để trên đầu gối. Có lẽ mẹ cũng cầu nguyện.
Nhưng Maria Alphê mau lẹ hết hứng nhìn công việc, bà tới ngồi trong một góc tối và ngủ ngay. Suzane nghĩ ngay đến bắt chước bà. Chỉ còn lại Đức Trinh Nữ và Judas là tỉnh thức. Một người thì trầm mặc trong chính mình, còn người kia thì mở to hai mắt nhìn mẹ, không hề rời mắt một giây.
Sau cùng ông ta đứng dậy và từ từ lại gần mẹ, không gây một tiếng động nào. Tôi không biết tại sao, mặc dù vẻ đẹp trai không chối cãi được của ông, ông vẫn làm tôi nghĩ đến một con mèo cồ hay một con rắn lại gần con mồi của nó. Có lẽ vì mối ác cảm tôi có đối với ông đã làm cho tôi thấy sự nham hiểm và độc ác ngay cả ở bước chân ông. Ông khẽ gọi: “Maria!”
- Con muốn gì ở mẹ, Judas? - Maria hỏi cách rất êm đềm và nhìn ông với con mắt rất dịu dàng.
- Con muốn nói với mẹ...
- Nói đi. Mẹ nghe con đây.
- Không thể ở đây. Con không muốn người ta nghe thấy con... Mẹ không thể ra ngoài một tí sao? Ngoài kia, chỗ đó cũng có bóng mát...
306
- Vậy thì đi ra đó. Con thấy... mọi người đều ngủ... Con cũng có thể nói ở đây - Trinh Nữ nói, nhưng mẹ cũng đứng dậy và đi ra trước, đứng tựa vào hàng rào cây đầy hoa.
- Con muốn gì ở mẹ, Judas? - Mẹ lại hỏi trong khi đăm đăm nhìn người tông đồ có vẻ hơi bối rối và khó lòng tìm ra lời: “Con cảm thấy khó chịu? Hay con đã làm điều gì xấu mà con không biết nói thế nào? Hoặc nữa, hay là con cảm thấy sắp sửa làm một hành động xấu và con cảm thấy nặng nề để thú ra rằng con đã dự định. Hãy nói đi con. Cũng như mẹ đã săn sóc thân xác con, mẹ cũng sẽ săn sóc tâm hồn con. Hãy nói cho mẹ điều làm cho con băn khoăn, rồi nếu mẹ có thể, mẹ sẽ trả lại cho con sự thanh quang trong sáng. Nếu một mình mẹ không thể làm, mẹ sẽ nói với Giêsu. Dù là con đã phạm tội rất nhiều, Người cũng sẽ tha cho con nếu mẹ xin Người sự tha thứ cho con. Thực tình Giêsu cũng sẽ tha cho con ngay lập tức... Nhưng có lẽ vì Người là vị Thầy nên con thấy xấu hổ để nói với Người. Mẹ là một người mẹ... Con không phải xấu hổ để nói với mẹ...”
- Vâng. Con không cảm thấy xấu hổ, vì mẹ là mẹ, và mẹ tốt chừng nào! Mẹ thực là bình an ở giữa chúng con. Con... Con cảm thấy rất băn khoăn. Con rất xấu tính mẹ ạ. Con không biết con có cái gì trong máu và trong qủa tim... Thỉnh thoảng con không điều khiển được nó nữa... Và lúc đó con làm những điều kỳ dị nhất... Và xấu nhất.
- Cả đến với Giêsu ngay ở bên, con cũng không thành công để chống lại kẻ xúi giục con nữa sao?
- Dù cả khi đó. Và mẹ hãy tin, con khổ vì vậy, và nó là như thế. Con là kẻ khốn nạn...
- Judas, mẹ sẽ cầu nguyện cho con.
- Điều đó không đủ.
- Mẹ sẽ xin những người công chính cầu nguyện, và mẹ sẽ không nói là cầu nguyện cho ai.
- Điều đó không đủ.
- Mẹ sẽ bảo các trẻ em cầu nguyện. Có biết bao trẻ em tới nhà mẹ, trong vườn của mẹ, giống như các con chim tới tìm hạt lúa. Và
307
những hạt là những cái vuốt ve và những lời mẹ nói với chúng. Mẹ nói về Thiên Chúa... Và chúng, những trẻ ngây thơ, chúng thích vậy hơn là những đồ chơi và những câu chuyện. Lời cầu nguyện của các trẻ em làm vui lòng Chúa.
- Không bao giờ có thể bằng lời cầu nguyện của mẹ. Nhưng như vậy cũng chưa đủ.
- Mẹ sẽ bảo Giêsu cầu xin cùng Chúa Cha cho con.
- Những điều đó không đủ.
- Nhưng không còn cái gì hơn nữa. Lời cầu nguyện của Giêsu toàn thắng cả ma qủi.
- Đúng. Nhưng Giêsu không cầu nguyện mãi mãi, và con lại trở về với con người của con... Giêsu không ngừng nói là một ngày kia Người sẽ ra đi. Con phải nghĩ tới cái ngày con không còn Người. Bây giờ Giêsu muốn sai chúng con đi giảng Tin Mừng. Con sợ phải ra đi với kẻ thù này là chính con, để gieo vãi lời của Thiên Chúa. Con muốn được đào tạo cho giờ đó.
- Nhưng con ơi, nếu Giêsu không thành công thì con muốn ai là người có thể?
- Mẹ ơi, chính mẹ. Xin mẹ cho phép con được ở bên mẹ một thời gian. Các người dân ngoại và các người gái điếm đã ở đó. Con cũng có thể ở đó. Nếu mẹ không muốn con ở lại nơi mẹ ở về ban đêm, con sẽ ngủ tại nhà Alphê và nhà Maria Clêopha. Nhưng ban ngày con sẽ ở với mẹ cùng với các trẻ em. Những lần trước, con đã tìm cách tự ý hành động, nhưng sự việc còn tệ hơn. Nếu con đi Jêrusalem, con có qúa nhiều bạn xấu. Và trong hoàn cảnh ấy, khi sự việc xảy ra, con trở nên trò chơi cho họ... Nếu con đi tới một thành phố khác thì cũng vậy thôi. Những cám dỗ ở trên đường thiêu đốt con cùng với những cái con đã có. Nếu con về Kêriot, ở gần mẹ con, thì sự kiêu căng bắt con làm nô lệ nó. Nếu con đi tới nơi vắng vẻ, sự thinh lặng xâu xé con bởi các tiếng nói của Satan. Nhưng ở nhà mẹ... Ôi! Ở nhà mẹ, con cảm thấy khác... xin mẹ cho phép con tới. Hãy nói với Giêsu để Người chấp nhận! Mẹ muốn con bị hư mất sao? Mẹ sợ con à? Mẹ nhìn con bằng cái nhìn của con linh dương bị thương, không còn sức mạnh để chạy trốn những kẻ công
308
hãm nó. Nhưng con không xúc phạm tới mẹ đâu. Con cũng có một người mẹ... Và con yêu mẹ còn hơn yêu má con. Maria, xin mẹ thương một kẻ tội lỗi. Mẹ nhìn đây, con khóc ở chân mẹ... Nếu mẹ xua đuổi con, điều đó có thể là cái chết thiêng liêng cho con...
Và thực tình Judas khóc ở chân Maria. Mẹ nhìn ông bằng cái nhìn thương hại, lo âu, pha lẫn sợ hãi. Mẹ rất xanh xao tái mét. Nhưng mẹ bước một bước về phía trước, vì hầu như mẹ chìm vào trong hàng rào cây để tránh Judas, vì ông lại qúa gần. Rồi mẹ đặt bàn tay lên mái tóc nâu đen của Judas: “Nín đi kẻo người ta nghe thấy. Mẹ sẽ nói với Giêsu, và nếu Người muốn... con sẽ tới nhà mẹ. Mẹ không lo sợ những xét đoán của thế gian, nó không làm tổn thương tâm hồn mẹ. Chỉ có tội của mẹ đối với Thiên Chúa là mẹ sợ. Mẹ dửng dưng với những vu khống. Nhưng mẹ sẽ không bị vu khống, bởi vì Nazarét biết rằng đứa con gái của nó không phải là gương mù cho thành phố của nó. Và rồi nếu nó xảy ra, mẹ cũng chỉ lưu tâm đến việc cứu linh hồn con thôi. Mẹ đi tìm Giêsu đây. Hãy bình an”.
Và mẹ trùm khăn voan trắng giống như mầu áo, rồi mau lẹ đi vào con đường dẫn tới cái cồn nhỏ trồng đầy ôliu.
Mẹ tìm Giêsu của mẹ và thấy Người đang đắm chìm trong sự chiêm niệm sâu xa: “Con ơi, mẹ đây... Hãy nghe mẹ!”
- Ồ, má à? Má đến cầu nguyện với con? Má cho con niềm vui chừng nào!
- Cái gì con? Tâm hồn con mỏi mệt à? Hãy nói với má con đi!
- Mỏi mệt, đúng như má nói, và khổ sở. Không đến nỗi như vậy bởi sự mệt mỏi và bởi những khốn nạn mà con nhìn thấy trong con tim người ta cho bằng thấy những kẻ là bạn hữu của con không thay đổi. Nhưng con không muốn bất công với họ, vì chỉ có một người duy nhất làm con mệt thôi, đó là Judas Simon...
- Con ơi, má đến nói với con về nó đây.
- Nó đã làm gì xấu? Nó đã gây đau khổ cho má?
- Không. Nhưng nó làm má khổ tâm khi nhìn thấy một kẻ qúa bị nhiễm độc... Đứa con khốn khổ! Tâm hồn nó bệnh hoạn chừng nào!
309
- Má đã thương hại nó? Má không sợ nó nữa à? Lần trước má đã sợ nó mà?
- Con của má ơi, tình thương của má còn mạnh hơn sự sợ hãi. Và má muốn giúp con, giúp con và nó, để cứu linh hồn nó. Con có thể tất cả, và con không cần má. Nhưng con nói rằng tất cả phải cộng tác với Đức Kitô trong việc cứu chuộc... Và đứa con này cần ơn cứu chuộc chừng nào!
- Con phải làm gì hơn nữa ngoài những điều con đã làm cho nó?
- Con không thể làm hơn nữa, nhưng con có thể để má làm. Nó đã xin má cho phép nó ở lại trong nhà của chúng ta, vì nó thấy như là ở đó, nó có thể được giải phóng cho khỏi con quái vật của nó... Con lắc đầu à? Má sẽ nói vậy với nó.
- Không, má ơi, không phải là con vô tâm đâu. Con lắc đầu vì con biết rằng việc đó vô ích. Judas giống như một kẻ bị chìm, mà mặc dầu nó cảm thấy nó sắp chết, nhưng nó kiêu căng, nó từ chối sợi giây mà người ta quăng cho nó để kéo nó vào bờ. Đôi khi vì sợ chết chìm, nó tìm và nó kêu gọi cứu giúp, nó bám vào đó... rồi lại vì kiêu căng, nó buông sợi giây, vất bỏ đi và muốn một mình tự thoát hiểm... Và nó càng ngày càng chìm sâu vào nước bùn chôn vùi nó. Nhưng để cho người ta không nói rằng con đã bỏ rơi một phương dược mà không thử nghiệm, rằng người ta đã làm cả cố gắng này, thì, má tội nghiệp của con à... vâng, má tội nghiệp của con, vì tình yêu đối với một linh hồn, đã tự bắt mình chịu đựng sự kề cận với một kẻ làm má sợ.
- Không, Giêsu, đừng nói vậy. Má là một người đàn bà tội nghiệp, vì má vẫn còn có thể có ác cảm. Hãy khiển trách má điều đó, má đáng bị khiển trách. Má không được chê bỏ một ai vì tình yêu đối với con. Nhưng má không tội nghiệp về những thứ khác. Ôi! Chớ gì má có thể trả lại cho con một Judas đã được lành bệnh thiêng liêng. Cho con một linh hồn là cho con một kho tàng, và kẻ cho đi một kho tàng thì đâu phải là kẻ nghèo nàn tội nghiệp. Con ơi... Má đi nói với Judas rằng được, con sẽ cho phép chứ? Con đã nói với má: “Sẽ có lúc má nói: ‘Thật khó biết bao khi làm mẹ Đấng Cứu Thế.’” Và
310
má đã nói vậy một lần rồi... đối với Aglaé. Nhưng không bao giờ chỉ có một lần. Nhân loại qúa đông, và con là Đấng Cứu Thế cho tất cả. Con ơi!... Con ơi! Cũng như lúc má ẵm trong tay đứa trẻ sơ sinh để con chúc phúc cho nó, hãy để má mang Judas trong tay má để đưa nó tới sự chúc lành của con...
- Má ơi!... Má ơi!... Nó không đáng.
- Giêsu của má, khi con ngập ngừng ban Margziam cho Phêrô, má đã nói với con rằng việc đó sẽ làm cho nó nở tươi. Con không muốn nói rằng Phêrô đã trở nên một người khác từ lúc đó chứ?... Hãy để má làm với Judas.
- Cầu cho mọi sự được như má muốn. Và nguyện cho má được chúc phúc vì ý hướng tình yêu của má đối với con và với Judas. Bây giờ chúng ta hãy cầu nguyện với nhau má nhé. Thật là êm đềm được cầu nguyện với má!...
***
Hoàng hôn vừa bắt đầu khi tôi thấy các vị khởi hành từ căn nhà đã tiếp đón họ.
Gioan Enđo và Hermastê từ biệt Giêsu ngay sau khi vừa lên đường. Về phần Maria, mẹ cùng với các bà kia theo con đường với con mẹ, băng qua các đồi ôliu. Họ nói chuyện, đương nhiên là về các biến cố trong ngày. Phêrô nói: “Thật là tên điên đẹp, cái anh Philíp đó! Anh ta hầu như từ bỏ vợ anh và con gái anh, nếu Thầy không làm cho anh ta nghe ra lý lẽ”.
- Chúng ta hy vọng anh ta sẽ giữ sự hối lỗi hiện tại, và anh ta không bị bắt lại ngay bởi cái tật kỳ cục là hạ giá người đàn bà. Thật ra... chính nhờ phụ nữ mà thế giới tiến triển - Tôma nói và nhiều người cười.
- Chắc chắn là vậy rồi. Nhưng các bà dơ bẩn hơn chúng ta và... - Batôlômêo trả lời.
- Ồ! Về sự dơ bẩn!... Chúng ta cũng chẳng phải là các thiên thần đâu. Rồi, tôi muốn biết xem sau công trình cứu chuộc, các phụ nữ sẽ vẫn còn bị như vậy không. Chúng ta đã học phải tôn kính mẹ, phải có sự trọng kính lớn lao đối với các chị, các con gái, các bà cô,
311
các con dâu, các chị dâu, nhưng rồi... trục xuất chỗ nọ trục xuất chỗ kia! Tại Đền Thờ thì khỏi nói. Giao du đi lại với họ, không... Evà đã phạm tội à? Đồng ý. Nhưng Ađam cũng vậy. Thiên Chúa đã phạt Evà rồi, còn chưa đủ sao?
- Nhưng anh Tôma ơi, cả Môise cũng nhìn người đàn bà như dơ bẩn.
- Và ông ta, nếu không có đàn bà thì đã chết chìm rồi... Tuy vậy, nghe này anh Batôlômêo, tôi nhắc lại cho anh, mặc dầu tôi không được giáo dục như anh, tôi chỉ là thợ bạc, rằng Môise nói về sự dơ bẩn của thân xác người đàn bà để người ta trọng kính họ, chứ không phải để ném trên họ những nguyền rủa.
Cuộc cãi lý bốc lửa. Giêsu đang ở đàng trước với các phụ nữ và Gioan với Iscariot, Người đứng lại, quay về phía sau và can thiệp: “Thiên Chúa có ở trước mắt Người một dân tộc dị dạng về thể chất và tinh thần, bị ô nhiễm vì liên lạc với các kẻ thờ tà thần. Người muốn làm cho họ thành một dân mạnh về thể chất và tinh thần. Người ban những quy tắc lành mạnh, tựa như giáo điều, cho một thể chất lực lưỡng, cũng lành mạnh nữa cho tính lương thiện của các mỹ tục. Người không thể làm gì khác để hãm lại những đam mê của đàn ông, để những tội mà vì đó thế giới bị chìm ngập, và Sôđôma cũng như Gomorra bị tiêu hủy không lặp lại nữa. Nhưng trong tương lai, người đàn bà được cứu chuộc sẽ không còn bị đàn áp như họ đang bị ngày nay. Sẽ có những điều cấm đoán liên can tới sự thận trọng về thể chất; những trở ngại ngăn cản họ đến với Chúa sẽ được hủy bỏ. Thầy, Thầy đã bãi bỏ nó rồi, để chuẩn bị những nữ linh mục đầu tiên cho tương lai”.
- Ồ! Sẽ có những nữ linh mục à? - Philíp hỏi, kinh ngạc.
- Các con đừng ngộ nhận. Các bà sẽ không có chức tư tế của các ông. Các bà không được thánh hiến và không quản trị các ơn của Thiên Chúa. Những ơn này bây giờ các con chưa thể biết. Nhưng dù sao các bà cũng thuộc về hàng tư tế bằng cách hợp tác với các linh mục để lo lợi ích cho các linh hồn bằng nhiều phương cách.
- Các bà có giảng đạo không? - Batôlômêo hỏi cách nghi ngờ.
312
- Cũng giống như Mẹ Thầy đã giảng.
- Các bà có làm các cuộc hành hương truyền đạo không? - Mathêu hỏi.
- Có, để mang đức tin đi xa. Và Thầy phải nói là với sự anh hùng còn hơn các ông.
- Các bà có làm phép lạ không? - Iscariot cười hỏi.
- Một số bà cũng sẽ làm phép lạ. Nhưng các con đừng dựa vào phép lạ để coi đó như điều căn bản. Các người đàn bà thánh cũng sẽ làm rất nhiều phép lạ về việc cải thiện, bằng lời cầu nguyện của họ.
- Hum! Các bà, cầu nguyện tới nỗi làm được phép lạ! - Natanael lẩm bẩm.
- Đừng có hạn hẹp như các luật sĩ, Batôlômêo. Theo con thì cầu nguyện là gì?
- Là nói với Thiên Chúa bằng những công thức mà chúng ta có.
- Như vậy, và còn hơn nữa. Lời cầu nguyện là sự đàm thoại của con tim với Thiên Chúa, và nó phải là tình trạng quen thuộc của con người. Người phụ nữ, do đời sống của họ kín đáo hơn của chúng ta, và năng lực tình cảm của họ mạnh hơn của chúng ta, nên họ được mang tới cuộc đàm thoại này dễ dàng hơn chúng ta. Trong nội tâm họ, họ tìm được sự khích lệ cho những đau khổ của họ, sự êm dịu cho những mệt mỏi của họ, không phải chỉ mệt mỏi về việc nội trợ và sự sinh sản con cái, nhưng còn mệt để chịu đựng chúng ta, các đàn ông; họ tìm được cái gì lau nước mắt cho họ, và đem nụ cười tới cho con tim họ, bởi vì phụ nữ biết nói với Thiên Chúa, và họ sẽ còn biết hơn nữa trong tương lai. Đàn ông sẽ là những vĩ nhân trong việc giảng dạy. Phụ nữ sẽ luôn luôn là những người nâng đỡ các vĩ nhân, và nâng đỡ cả thế giới bằng lời cầu nguyện của họ. Rất nhiều bất hạnh mà người ta thoát được, cũng như nhiều hình phạt được tránh khỏi nhờ lời cầu nguyện của họ. Như vậy họ sẽ làm những phép lạ, hầu hết là không nhìn thấy trong thời gian xảy ra, và chỉ mình Thiên Chúa biết, nhưng không phải là không có thực.
- Thầy cũng vậy, hôm nay Thầy đã làm một phép lạ vô hình,
313
nhưng thực sự. Phải không Thầy? - Thađê hỏi.
- Đúng đó anh.
- Làm cách thấy được thì thích hơn - Philíp nhận xét.
- Con muốn rằng Thầy biến đứa bé gái ra một đứa con trai à? Trong thực tế, phép lạ là sự biến đổi một cái gì đã cố định, vì thế nó là một điều tốt, nhưng đảo lộn trật tự, mà Thiên Chúa chấp nhận để thoả mãn lời cầu nguyện của con người, để tỏ ra cho họ biết là Người yêu họ, và để thuyết phục họ rằng Người là đấng là tất cả. Nhưng vì Thiên Chúa là trật tự, Người không xâm phạm trật tự cách thái qúa. Đứa bé gái sinh ra là phụ nữ, nó sẽ mãi mãi là phụ nữ.
- Sáng nay má cảm thấy thật đau đớn - Đức Trinh Nữ thở than.
- Tại sao? Đứa bé gái bị khinh khi đâu phải con của mẹ? - Suzane hỏi, và bà thêm: “Con, khi con thấy điều gì khốn nạn nơi một đứa trẻ, con nói: may thay tôi không có con”.
- Đừng nói như vậy Suzane! Như vậy không phải là bác ái. Mẹ cũng vậy, mẹ có thể nói thế, vì lần làm mẹ duy nhất của mẹ đã vượt qua các định luật tự nhiên. Nhưng mẹ không nói như vậy, vì mẹ luôn luôn nghĩ: “Nếu Thiên Chúa không muốn cho tôi ở đồng trinh, có thể cái hạt này sẽ rơi trên tôi, và tôi sẽ là mẹ của đứa khốn nạn này”. Và vì vậy mẹ thương tất cả... Vì mẹ nói: “Nó đã có thể là con tôi, và là mẹ, tôi muốn tất cả chúng nó đều tốt, lành mạnh, được yêu và dễ thương, vì đó là những ước ao của các bà mẹ cho con họ”. Maria trả lời cách êm đềm, và Giêsu như mặc lại cho mẹ bằng ánh sáng, vì Người thật rạng rỡ khi Người nhìn mẹ.
- Vì vậy mà mẹ thương con - Iscariot nói nhỏ.
- Thương tất cả, dù nó là đứa sát nhân của con mẹ, vì mẹ nghĩ rằng nó là đứa cần sự tha thứ và... tình yêu nhất, vì chắc chắn là mọi người đều ghét nó.
- Bà ơi, bà phải tự cho mình rất nhiều đau khổ để bảo vệ nó, và để cho nó có thời giờ hối cải... Con, con sẽ bắt đầu bằng cách loại trừ nó ngay lập tức - Phêrô nói.
- Đây, đã đến chỗ chúng ta phải chia tay rồi má ơi. Thiên Chúa
314
ở cùng má, và ở cùng bà, Maria, và ở cùng con, Judas - Họ hôn nhau, và Giêsu còn thêm: “Judas, con hãy nhớ rằng Thầy đã chấp nhận cho con một điều lớn lao. Hãy làm cho nó thành tốt, đừng thành xấu. Chào”.
Và Giêsu cùng với mười một tông đồ và Suzane đi lẹ về hướng đông, trong khi Maria, chị dâu Người và Iscariot đi thẳng.
126* “HOÀN THÀNH ĐIỀU TỐT
LÀ LỜI CẦU NGUYỆN LỚN HƠN CÁC THÁNH VỊNH”
Giêsu đi vào giáo đường Caphanaum. Các tín hữu từ từ tới đầy, vì nay là ngày Sabát. Người ta rất ngạc nhiên khi nhìn thấy Người. Mọi người đều giơ tay trỏ Người và xì xèo. Có những người kéo áo tông đồ nọ tông đồ kia để hỏi xem các ngài tới khi nào, vì không ai biết là các đấng trở lại.
- Chúng tôi vừa lên ghe tại giếng cây sung, khởi hành từ Bétsaiđa, để không bước một bước nào qúa khoảng cách cho phép đó, bạn ạ - Phêrô trả lời cho pharisiêu Urie. Ông này bị tổn thương khi nghe bị gọi là bạn bởi một dân chài nên khinh bỉ bỏ đi, lại với các người của ông ở hàng đầu.
- Simon, đừng khích động họ! - Andrê cảnh giác.
- Khích động họ à? Ông ta đã hỏi tôi, tôi đã trả lời, và cũng nói rằng chúng ta đã tránh đi bộ vì kính trọng ngày Sabát.
- Họ sẽ nói rằng chúng ta đã bị mệt với cái thuyền...
- Họ cũng có thể nói rằng chúng ta đã bị mệt vì thở nữa! Thật ngu xuẩn! Chính cái thuyền nó mệt, cùng với gió và nước mệt chứ không phải chúng ta là những kẻ ở trong thuyền.
Andrê nhập kho lời khiển trách và nín thinh.
Sau những lời cầu nguyện mở đầu, là lúc đọc một bài trích và việc giải thích. Ông trưởng giáo đường bảo Giêsu làm, nhưng Giêsu chỉ vào các người pharisiêu và nói: “Để cho các ông ấy làm”. Nhưng
315
vì không ai muốn làm nên Người phải làm.
Giêsu đọc bài tường thuật trong Sách Các Vua quyển thứ nhất, nơi kể Đavít bị người Ziphê phản bội, chỉ ông cho Saul khi vua đang ở Gabaa. Người trả lại ru-lô và bắt đầu nói:
- Xâm phạm giới răn về bác ái, sự tiếp khách, sự ngay thẳng, luôn luôn là điều xấu. Nhưng người ta không ngần ngại làm với sự dửng dưng lớn nhất. Ở đây chúng ta có một bài tường thuật kép về sự lỗi phạm này, và hình phạt Thiên Chúa dùng để phạt họ.
Lối sống của người Ziphê là xảo quyệt, lối sống của Saul cũng không kém. Các người Ziphê thì hèn vì có ý định giải hòa với kẻ mạnh hơn để lợi dụng, Saul thì hèn vì có ý định loại trừ kẻ được Chúa xức dầu. Vì vậy sự ích kỷ đã liên kết họ. Và với cái đề nghị bất xứng, ông vua gian trá và tội lỗi của Israel dám trả lời một câu trong đó có nêu danh Chúa: “Hãy được chúc phúc bởi Chúa”.
Chế nhạo sự công bằng của Thiên Chúa, một sự chế nhạo đã thành thói quen! Qúa thông thường người ta cầu một phần thưởng hay một sự bảo đảm nhân danh Chúa và phúc lành của Người trên sự độc ác của con người. Luật đã nói: “Đừng nêu danh Chúa vô ích”. Và còn gì vô ích hơn, và tệ hơn nữa, còn gì xấu hơn là việc nêu danh Người để hoàn thành một tội ác đối với tha nhân? Nhưng đó là một tội thông thường hơn tất cả các tội khác, được hoàn thành một cách dửng dưng, kể cả bởi những kẻ luôn luôn ở hàng đầu cộng đồng của Chúa trong các nghi lễ, trong sự giảng dạy. Qúi vị hãy nhớ rằng chính là một tội khi tìm tòi, ghi chép, sửa soạn tất cả những gì có thể làm tổn hại cho người khác. Cũng là một tội nữa khi bảo người ta tìm tòi, ghi chép, sửa soạn tất cả những gì có thể làm thiệt hại cho tha nhân. Đó là dẫn người khác vào tội lỗi bằng cách dụ dỗ họ bởi phần thưởng, hoặc đe dọa họ bằng sự trả đũa.
Tôi báo cho qúi vị rằng đó là một tội. Tôi báo cho qúi vị rằng lối sống như vậy là ích kỷ và thù ghét. Và qúi vị biết rằng ích kỷ và thù ghét là kẻ thù của tình yêu. Tôi chỉ cho qúi vị nhận xét điều đó vì tôi quan tâm đến linh hồn qúi vị, bởi vì tôi yêu qúi vị, bởi vì tôi không muốn cho qúi vị phạm tội, bởi vì tôi không muốn Thiên Chúa
316
phạt qúi vị như đã xảy ra cho Saul, vì trong khi vua theo đuổi Đavít để bắt ông và giết ông, thì nước của ông đã bị tiêu hủy bởi dân Philitin. Thực vậy, chuyện đó sẽ luôn luôn xảy ra cho những kẻ làm thiệt hại cho tha nhân. Sự chiến thắng của họ chỉ kéo dài như cỏ trong cánh đồng, nó mọc lên lẹ, nhưng cũng khô héo lẹ, và bị chà đạp dưới bàn chân dửng dưng của người qua lại. Trong khi lối sống tốt, một đời sống ngay thẳng, phải khó khăn để sinh ra và nên vững vàng, nhưng khi đã nảy nở như một đời sống thường xuyên, nó sẽ là một cây mạnh mẽ mà các cơn gió lốc không giật được tàn lá của nó, và những kỳ đại nhiệt không làm nó khô cháy được. Thật vậy, người trung thành với lề luật, thực sự trung thành, sẽ trở nên một cây mạnh mẽ, nó không phục tùng các khát vọng, không bị thiêu đốt bởi lửa của Satan.
Tôi đã nói rồi. Nếu ai muốn thêm vào điều gì thì họ hãy nói đi.
- Chúng tôi hỏi thầy: có phải thầy nói về chúng tôi, những người pharisiêu không?
- Giáo đường đầy tràn, toàn là pharisiêu sao? Các ông chỉ có bốn người, mà đám đông hàng mấy trăm người. Lời tôi nói là cho hết mọi người.
- Nhưng mà sự ám chỉ thì rõ ràng.
- Thật vậy, không bao giờ người ta thấy rằng một người mà chỉ vì một sự so sánh, lại kết án chính mình! Nhưng đó là điều các ông làm. Tại sao các ông lại tự kết án trong khi tôi không kết án các ông? Có lẽ các ông nhận biết rằng các ông đã hành động đúng như tôi nói? Tôi, tôi không biết chuyện đó. Nhưng nếu qủa vậy thì các ông hãy hối lỗi, bởi vì con người yếu đuối và có thể phạm tội. Thiên Chúa tha thứ cho họ nếu họ thành tâm thống hối và ước ao không phạm tội nữa. Nhưng chắc chắn sự ngoan cố trong tội sẽ là một tội kép, và sự tha thứ không xuống trên họ.
- Chúng tôi, chúng tôi không có cái tội này.
- Vậy thì các ông đừng buồn vì các lời của tôi.
Việc tranh luận chấm dứt. Giáo đường vang lên tiếng ca về các thánh thi, rồi hầu như tập thể sắp tản mát, không còn sự tình cờ nào. Nhưng pharisiêu Joakim khám phá ra một người trong đám
317
đông, ông liền dùng dấu hiệu và cái nhìn để bảo người đó tiến lên hàng đầu. Đó là một người đàn ông trạc năm mươi, ông ta có một cánh tay thọt mà cả bàn tay cũng trở nên nhỏ hơn tay kia rất nhiều, vì chứng thọt đã phá hủy các bắp thịt.
Giêsu nhìn anh ta và nhìn tất cả những gì người ta đã phối hợp để cho Người xem. Khuôn mặt Người bộc lộ một sự ghê tởm và thương hại, thoáng qua như một tia chớp nhưng rất tỏ tường. Người không bẻ lệch sự kiện, nhưng Người đương đầu với hoàn cảnh một cách rất cứng rắn.
- Lại đây, chỗ giữa này - Người ra lệnh cho người đàn ông.
Và khi ông ta đã ở trước mặt Người, Người quay về phía các người pharisiêu và nói với họ: “Tại sao các ông thử thách tôi? Tôi đã chẳng vừa nói chống lại những cạm bẫy của thù ghét sao? Và các ông vừa nói rằng các ông không có cái tội này? Các ông không trả lời à? Ít nhất, hãy trả lời điều này: trong ngày Sabát, được phép làm điều thiện hay điều ác? Được phép cứu sự sống hay làm mất sự sống? Các ông không trả lời à? Tôi, tôi trả lời các ông trước mặt toàn dân, họ xét đoán đúng hơn các ông, bởi vì họ đơn sơ, không thù ghét, cũng không kiêu căng: Ngày Sabát không được phép làm việc, nhưng vì được phép cầu nguyện, nên cũng vậy, được phép làm việc thiện, vì việc thiện là lời cầu nguyện còn lớn hơn các thánh thi và thánh vịnh mà chúng ta vừa hát. Vậy dù là ngày Sabát, dù là các ngày khác, không bao giờ được phép làm điều ác. Vậy mà các ông, các ông đã làm trong khi vận động để có người này ở đây, dù anh ta không phải người Caphanaum. Các ông đã đem anh ta đến đây từ hai bữa nay, vì biết rằng tôi đã ở Bétsaiđa nên thế nào tôi cũng về thành phố của tôi. Và các ông đã làm vậy để cố gắng kết án tôi. Vậy là các ông đã phạm tội giết linh hồn các ông thay vì cứu nó. Nhưng về tất cả những gì liên can tới tôi thì tôi tha cho các ông. Tôi cũng không làm thất vọng lòng tin của người này mà các ông đã đưa đến khi nói rằng tôi sẽ chữa, trong khi các ông muốn giương bẫy cho tôi. Anh ta không có tội, vì anh ta đến đây không có ý định nào khác ngoài việc được chữa lành, thì phải được
318
như vậy. Anh ơi, hãy giơ tay ra và đi bằng an”.
Người đó vâng lời, và tay anh ta trở nên hoàn toàn như tay kia. Anh ta sử dụng nó ngay lập tức bằng cách cầm một vạt áo của Giêsu để hôn và nói với Người: “Thầy biết rằng con không hay biết gì về ý định của họ. Nếu con biết thì con đã không tới. Con thà giữ cánh tay của con chết còn hơn sử dụng nó chống lại Thầy. Con không muốn như vậy”.
- Anh hãy đi bằng an. Đối với anh, Thầy chỉ có lòng nhân hậu.
Đám đông giải tán trong khi bình luận. Giêsu ra sau cùng với mười một tông đồ.
127* MỘT NGÀY CỦA ISCARIOT TẠI NAZARÉT
Căn nhà tại Nazarét là căn nhà biểu hiệu nhất để nâng tâm trí lên. Ở đó là bình an, thanh lặng, thứ tự. Sự thánh thiện tựa như tỏa ra từ các viên đá, xông ra từ các cây trong vườn. Cơn mưa từ bầu trời thanh tịnh đổ xuống bao phủ lấy nó như một thiên viên đài. Trong thực tế, nó bốc ra từ nhân vật sống ở đó, di chuyển tại đó, nhanh nhẹn và thầm lặng, với những cử chỉ trẻ trung, toàn vẹn; với những bước đi nhẹ nhàng mà nàng đã có khi nàng bước vào đó với tư cách là người vợ, cũng vẫn với nụ cười êm đềm, làm khuây khỏa và đầy âu yếm.
Mặt trời vào giờ sớm mai này bao phủ căn nhà ở lối bên phải, lối tựa vào cái dợn sóng đầu tiên của các ngọn đồi, và chỉ có các ngọn cây được hưởng: trước tiên là các cây ôliu mà người ta trồng ở sườn đồi để giữ đất nhờ những chòm rễ của nó. Các cây ôliu này đã lâu năm, vặn vẹo, mạnh mẽ, các cành vươn lên trời tựa như kêu xin ơn phúc, hoặc đang cầu nguyện từ cái nơi bình an này. Những cây ôliu còn sống của vườn ôliu thuộc về Joakim, với những cây ngày xưa rất nhiều, trồng thành hàng như những khách hành hương đang cầu nguyện, ra tới cánh đồng xa tít, nơi các vườn ôliu nhường chỗ cho các đồng cỏ. Ngày nay chỉ còn sót lại vài cây tại biên giới
319
vùng đất bị cắt cụt của Joakim. Những cây tiếp theo được hưởng ánh bình minh là các cây hạnh đào và táo, lớn và mạnh, mở chiếc dù tàn lá của chúng trên khu vườn. Thứ ba là các cây lựu được uống các tia vàng, và sau cùng là các cây sung, tất cả đều tựa vào nhà, trong khi mặt trời đã mơn trớn các bông hoa và các rau cỏ rất được săn sóc trong dải đất bằng hình chữ nhật dọc theo bờ dậu, dưới cái tán của dàn nho đầy trái. Bầy ong kêu vo vo, những giọt vàng bay trên tất cả những gì có thể cho chúng cái tinh chất ngọt và thơm. Chúng tấn công một cây kim ngân non, và một cây khác có nhiều hoa hình chuông, mọc thành chùm mà tôi không biết tên. Các cánh lúc này đang khép lại, chắc đó là loại hoa nở về đêm. Nó có mùi thơm bát ngát. Bầy ong vội vã tới mút những bông này trước khi các cánh khép lại trong giấc ngủ của tràng hoa.
Maria nhanh nhẹn từ tổ ấm bồ câu đi ra phông-ten nhỏ gần hang đá, rồi từ đây về nhà để dùng cho các việc cần. Tuy nhiên, trong công việc, mẹ vẫn tìm được phương tiện để ngắm hoa, hoặc cảm phục các con bồ câu nhảy ở lối đi, hoặc vẽ những vòng tròn trên mái nhà và khu vườn.
Judas bước vào, mang nặng những cây và những cành giâm: “Con chào mẹ. Họ đã cho con hết những gì con muốn. Con làm lẹ để chúng không hư. Con hy vọng chúng sẽ đâm rễ như cây kim ngân. Năm tới mẹ sẽ có một mảnh vườn giống như một lẵng hoa, và như vậy, mẹ sẽ nhớ đến thằng Judas tội nghiệp và thời kỳ nó ở đây”. Judas nói trong khi cẩn thận lấy từ một cái giỏ ra những cây có rễ bọc trong đất và các lá ướt, và từ một giỏ khác, lấy ra những cành giâm.
- Judas, mẹ thực tình cám ơn con. Con không thể biết mẹ thích chừng nào có được cây kim ngân ở gần hang đá nhỏ. Khi mẹ còn nhỏ xíu, ở đàng kia, chỗ tận cùng các cánh đồng này, lúc đó còn thuộc về chúng ta, có một hang đá còn đẹp hơn, các cây trường xuân và các cây kim ngân phủ kín nó bằng cành và hoa, làm thành cái màn gió và một nơi trú ngụ cho những bông huệ li ti mọc tới tận bên trong hang đá. Cái hang toàn là mầu xanh dưới lớp thêu mịn
320
của các cây thạch trường sinh. Ngay ở đó cũng có một cái suối... Khi ở Đền Thờ, mẹ luôn luôn nghĩ tới cái hang đá này. Và mẹ nói thực với con, mẹ, trinh nữ của Đền Thờ, khi mẹ cầu nguyện ở trước bức màn thánh, mẹ cũng không cảm thấy Thiên Chúa hiện diện nhiều hơn. Hơn nữa, mẹ phải nói rằng ở hang đá đó, những liên lạc êm dịu của tâm hồn mẹ với Chúa đã đến với mẹ như một giấc mơ... Giuse của mẹ đã làm mẹ tìm được cái suối này, với một tia nước cho nhu cầu của mẹ, nhưng hơn nữa là người cho mẹ niềm vui được cái hang đá này, sao lại y hệt cái hang đá kia... Giuse, Người rất tốt, cho tới cả những chi tiết nhỏ mọn nhất... Và Người đã trồng ở đó một cây kim ngân, và cây trường xuân hãy còn sống. Cây kim ngân thì chết trong những năm lưu đày... Rồi Người lại trồng một cây khác, nhưng nó lại chết từ ba năm nay. Bây giờ con đã trồng thay thế, nó đã mọc rồi, con thấy không? Con là một người làm vườn tuyệt!
- Vâng, khi con còn nhỏ, con rất thích cây cối, và má con đã dạy con săn sóc chúng... Bây giờ con lại trở nên trẻ nhỏ ở bên cạnh mẹ, và con lại tìm thấy khả năng của con ngày xưa để làm vui lòng mẹ. Mẹ đã rất tốt đối với con - Judas trả lời trong khi làm việc với bàn tay nhà nghề để đặt các cây vào chỗ có lý nhất. Ông đặt ở gần bờ rào của các cây hoa đêm những bó rễ mà tôi không biết có phải là rễ các cây linh lan hay thứ hoa gì khác: “Ở đây chúng sẽ tốt”. Ông nói trong khi dùng cái cuốc nhỏ để lấp một lớp đất mỏng trên các rễ đã chôn. “Chúng không ưa nhiều nắng. Tên đầy tớ của Êlêazar không muốn cho con những cây này, nhưng con năn nỉ, và anh ta phải nhường chúng cho con”.
- Những cây lài Ấn Độ này cũng vậy, họ không muốn cho Giuse, nhưng Người đã làm cho họ những công việc miễn phí để kiếm chúng cho mẹ. Chúng không ngừng phát triển.
- Đó, xong rồi mẹ. Con đi tưới cho nó, rồi tất cả sẽ mọc tốt.
Ông ta tưới, rồi ông ta rửa tay tại phông-ten.
Maria nhìn ông, rất khác với con trai mẹ, nhưng cũng rất khác với Judas vào những lúc lên cơn cáu sườn. Mẹ dò xét ông, suy nghĩ, lại gần ông, đặt bàn tay trên cánh tay ông và hỏi rất êm dịu: “Judas,
321
con cảm thấy khá hơn không? Mẹ muốn nói là trong tâm hồn con”.
- Ôi, thưa mẹ, rất khá hơn. Con bình an, mẹ thấy đó. Con tìm được sự vui tươi và sung sướng trong những thứ khiêm nhu, và trong thời kỳ con ở gần mẹ. Con không bao giờ được ra khỏi sự bình an và trầm mặc này. Ở đây... thế giới ở xa cái nhà này chừng nào!... - và Judas nhìn khu vườn, nhìn cây cối và căn nhà nhỏ... Ông hoàn tất: “Nhưng nếu con ở lại đây, con sẽ không bao giờ là tông đồ. Mà con, con muốn làm tông đồ...”
- Nhưng con hãy tin: thà là một tâm hồn ngay chính còn hơn là tông đồ bất chính. Nếu con thấy rằng những giao tiếp với thế giới làm con xao xuyến; nếu con thấy rằng những lời ca ngợi, những vinh dự mà vị tông đồ nhận được sẽ là điều xấu cho con thì con hãy từ bỏ nó đi. Judas ạ, đối với con, thà làm một tín hữu đơn giản ở bên cạnh Giêsu còn hơn làm một tông đồ tội lỗi.
Judas cúi đầu suy nghĩ. Maria để ông với những đắn đo của ông và đi vào nhà với những công việc của mẹ.
Judas đứng bất động một lát rồi bách bộ theo chiều ngang chiều dọc của dàn cây. Ông khoanh tay, cúi đầu. Ông suy nghĩ, suy nghĩ, và bắt đầu tự đàm thoại, làm các cử chỉ một mình... Màn độc thoại thì không hiểu được, nhưng các cử chỉ thì là của một người mà các ý tưởng đối chọi nhau mạnh mẽ. Ông có vẻ van lơn và xua đuổi hoặc phàn nàn hay nguyền rủa một cái gì, đi từ cách bày tỏ của một kẻ tự vấn qua một kẻ hoảng sợ, lo âu, cho tới nỗi ông có khuôn mặt của những lúc xấu nhất, và với nó, ông dừng lại thình lình ở giữa lối đi, đứng yên như vậy một lúc, với khuôn mặt thực sự của một thằng qủi... Rồi ông lấy tay che mặt và chạy trốn lên sườn dốc của các cây ôliu, xa cái nhìn của Maria. Ông khóc, hai tay ôm mặt, cho tới khi ông bình tĩnh lại, ngồi tựa lưng vào một gốc cây ôliu như ngây ngất.
***
Bây giờ không còn là buổi sáng nữa, mà là lúc cuối của một hoàng hôn rực rỡ. Nazarét mở cửa các căn nhà của nó bị đóng suốt ngày vì lẽ sức nóng kinh khủng của ngày hè, lại nữa, một ngày hè ở phương đông. Đàn ông, đàn bà, trẻ con, đi ra vườn hoặc các đường
322
phố còn nóng nhưng không còn mặt trời, để tìm không khí, hoặc ra phông-ten, nơi giải trí hay trò truyện, trong khi chờ đợi bữa ăn chiều. Các lời chào trọng thể, các chuyện phiếm, các tràng cười hay hò hét trao đổi giữa các ông, các bà và trẻ em.
Judas cũng đi ra phông-ten với các vò bằng đồng. Các người Nazarét thấy ông và gọi ông bằng biệt hiệu: “Môn đệ của Đền Thờ”. Tên đó vang lên như một khúc nhạc khi nó đến tai Judas. Ông đi qua trong khi chào họ cách dễ thương, nhưng với một sự dè dặt mà nếu nó không mang vẻ tự hào và kiêu kỳ thì nó rất thân mật.
- Judas, anh rất tốt với Maria - một người Nazarét râu xồm xoàm nói.
- Bà đáng được vậy và còn hơn nữa. Đây đúng là một người phụ nữ lớn của Israel. Hạnh phúc cho các ông vì có bà làm người đồng hương.
Lời tán dương đàn bà Nazarét rất làm vui lòng dân Nazarét, nên họ nhắc đi nhắc lại cho nhau điều Judas đã nói. Còn ông, lúc này đã tới phông-ten, và đã đẩy sự bặt thiệp của ông tới mức cầm vò giùm cho một bà già nhỏ, làm bà này không ngừng chúc phúc cho ông; và tới mức lấy nước giùm cho hai người đàn bà bị khó khăn bởi đứa trẻ mà họ mang trong tay. Các bà lẩm bẩm khi hơi dỡ chiếc voan ra: “Thiên Chúa thưởng công cho ông”.
- Tình yêu tha nhân là bổn phận đầu tiên của các bạn Giêsu - Judas nói trong khi cúi xuống hấng nước đầy bình và trở về nhà.
Trong khi ông trở về, ông bị chặn lại bởi ông trưởng giáo đường, và ông này mời Judas nói vào ngày Sabát tới: “Anh đã ở với chúng tôi hai tuần lễ rồi mà anh không cho chúng tôi một giáo huấn nào ngoài sự bặt thiệp đối với tất cả chúng tôi”. Ông trưởng giáo đường nói trong khi ông đang đi với các kỳ mục trong xứ.
- Nhưng nếu qúi vị không thỏa lòng khi nghe người con lớn nhất của qúi vị, thì lời nói của môn đệ Người có bao giờ làm cho qúi vị vui lòng, nhất nữa, nó lại là Do Thái - Judas trả lời.
- Sự nghi ngờ của anh là bất công và làm chúng tôi buồn. Lời
323
mời của chúng tôi là chân thành. Anh là môn đệ và Do Thái, đúng vậy, nhưng anh thuộc về Đền Thờ, vậy anh có thể nói, vì ở Đền Thờ có giáo lý. Con trai Giuse chỉ là một thợ mộc...
- Nhưng đó là Đấng Messi!
- Ông ta đã nói vậy... Nhưng có đúng vậy không, hoặc là ông ta sảng?
- Nhưng sự thánh thiện của Người, các vị Nazarét ạ! Sự thánh thiện của Người!
Judas bực mình vì sự cứng lòng tin của các người Nazarét.
- Nó cao cả, đúng vậy. Nhưng từ đó mà là Đức Messi!... Và rồi... Tại sao lời nói của ông ta qúa cứng rắn?
- Cứng rắn à? Không, tôi không thấy cứng rắn. Nhưng đúng ra, đó, điều này thì đúng: Người qúa chân thành và qúa ngoan cố. Người không để một lỗi nào được giấu kín. Người không ngại tố cáo một lạm dụng... Và điều đó làm phật ý. Người để ngón tay ngay trên vết thương, và như vậy làm cho đau. Nhưng đó là vì sự thánh thiện. Ồ, chắc chắn rồi! Chỉ có điều này là Người hành động như vậy. Tôi đã nói với Người nhiều lần: “Giêsu, Thầy lầm”. Nhưng Người không muốn thích nghi!...
- Anh yêu Người lắm, và được giáo dục như anh, anh có thể hướng dẫn cho Người.
- Ồ! Giáo dục thì không... nhưng thực tiễn, điều đó thì đúng. Thuộc về Đền Thờ, qúi vị biết đó. Tôi có những thực hành. Tôi có bạn bè. Con trai Anna đối với tôi cũng như người anh. Cũng vậy, nếu qúi vị muốn điều gì về Đại Pháp Đình thì hãy nói, hãy nói... Nhưng bây giờ hãy để tôi mang nước về cho Maria, bà đang đợi tôi cho bữa tối.
- Sau đó hãy trở lại nhé. Trên sân thượng của tôi có gió mát. Chúng ta sẽ nói như giữa bạn bè với nhau...
- Ừ, chào.
Và Judas về nhà. Ông xin lỗi Maria vì đã trễ do bị chặn lại bởi ông trưởng giáo đường và các kỳ mục trong xứ. Và ông nói để chấm dứt: “Họ muốn con nói vào ngày Sabát tới... Thầy không bảo
324
con. Mẹ thì mẹ nói thế nào? Xin mẹ chỉ cho con”.
- Nói với ông trưởng giáo đường hay nói trong giáo đường?
- Điều nọ và điều kia. Con, con chẳng muốn nói với ai, bởi vì con biết họ đối nghịch với Giêsu. Và cũng vì nói ở một nơi mà chỉ mình Người có quyền làm thầy, con thấy như một tội phạm thượng. Nhưng họ qúa nài nỉ. Họ muốn gặp con sau bữa tối... Con hầu như đã hứa. Nếu mẹ thấy là con có thể, bằng lời nói của con, lấy đi khỏi họ sự chống đối với Thầy, điều rất nặng nề, thì con, mặc dù những sự đè nặng trên con, con sẽ tới và con sẽ nói, như con biết làm, một cách đơn giản, tìm cách rất kiên nhẫn trước sự cứng đầu của họ. Bởi vì con biết: hành động cứng cỏi chẳng có giá trị gì. Ôi! Con sẽ không rơi vào cái lỗi lầm mà con đã làm ở Esdrelon nữa. Thầy đã phải buồn. Người không nói gì với con, nhưng con hiểu. Con không làm vậy nữa. Nhưng con muốn rời Nazarét sau khi đã thuyết phục được rằng Thầy là Đức Messi, phải tin Người và yêu Người.
Judas nói trong khi ngồi vào bàn, tại chỗ của Giêsu. Ông ăn những thứ Maria đã chuẩn bị. Tôi thấy khổ khi nhìn Judas ngồi tại chỗ này, trước mặt Maria. Người nghe và tiếp ông như một người mẹ.
Bây giờ mẹ trả lời: “Qủa vậy, sẽ rất tốt là các người Nazarét hiểu sự thật và chấp nhận Người. Mẹ không cản con lại đâu. Hãy đi. Không ai có thể hơn con để nói rằng Giêsu xứng đáng tình yêu. Hãy nghĩ tới Người yêu con chừng nào. Người chứng tỏ điều đó bằng cách luôn luôn miễn thứ cho con, và Người bằng lòng với con ngay khi Người có thể... Chớ gì tư tưởng này cho con lời nói và cách xử sự thánh thiện”.
Bữa tối chấm dứt mau lẹ. Judas đi tưới hoa ngoài vườn trước khi ánh sáng qúa giảm bớt. Rồi ông đi ra, để Maria ở lại trên sân thượng. Mẹ gấp những thứ mà mẹ đã phơi khô.
Judas, sau khi đã chào Alphê Sara và Maria Clêopha khi họ đang nói với nhau trước cửa nhà Maria Clêopha, ông đi thẳng lại nhà ông trưởng giáo đường. Ông cũng gặp ở đó hai người anh họ
325
của Chúa cùng với sáu người kỳ lão.
Sau những chào hỏi cầu kỳ, tất cả đều ngồi cách trịnh trọng trên những cái ghế nhỏ, và họ giải khát bằng những đồ uống pha cánh hồi hay bạc hà. Chắc chắn nó rất mát, vì cái bình bằng kim loại mướt mồ hôi do nhiệt độ khác nhau giữa chất lỏng băng giá và không khí hãy còn nóng, dù là có những cơn gió nhẹ rung động các ngọn cây, thổi đến từ các ngọn đồi ở phía bắc Nazarét.
- Tôi rất bằng lòng vì anh đã chấp nhận tới. Anh còn trẻ, một tí giải khuây sẽ làm dễ chịu - Ông trưởng giáo đường nói, đầy sự kính nể đối với Judas.
- Tôi sợ làm phiền cho qúi vị nếu tôi đến trước. Tôi biết qúi vị khinh bỉ Giêsu và các kẻ theo Người...
- Khinh bỉ à? Không, không tin thì có... và bị tổn thương vì các... của ông ta. Chúng ta hãy chấp nhận vậy đi. Những sự thật của ông ta qúa sống sượng. Chúng tôi nghĩ rằng anh khinh rẻ chúng tôi, và chúng tôi không mời anh vì vậy.
- Khinh rẻ qúi vị à? Tôi? Nhưng trái lại, tôi rất hiểu qúi vị... Hé! Đúng! Nhưng tôi tin rằng sau cùng, bình an sẽ thiết lập giữa các ông và Người. Với Người, điều đó sẽ luôn luôn được chấp nhận, và với qúi vị cũng vậy. Với Người, vì Người cần tất cả mọi người; với qúi vị, vì sẽ không thích hợp để qúi vị mang tên là kẻ thù của Đức Messi.
- Anh tin thực tình như vậy sao? - Giuse Alphê hỏi. “Nơi anh ta có nét gì là khuôn mặt hoàng gia mà các tiên tri đã nói cho chúng ta? Có lẽ vì chúng tôi cứ nhớ anh ấy là bác thợ mộc... Nhưng nơi anh ta, vị vua giải phóng ở chỗ nào?”
- Đavít cũng vậy, có vẻ chỉ là anh mục đồng. Nhưng các anh thấy là không có ông vua nào lớn hơn Đavít. Chính Salômôn, trong vinh quang của ông cũng không bằng, bởi vì sau cùng, Salomôn cũng chỉ tiếp tục Đavít, nhưng ông không bao giờ được linh ứng như Đavít. Trong khi Đavít! Hãy nhận xét kỹ khuôn mặt của Đavít! Nó vĩ đại, nó oai quyền hầu như đã chạm tới trời rồi. Vậy qúi vị đừng căn cứ vào nguồn gốc của Đức Kitô để nghi ngờ vương quyền của
326
Người. Đavít: Vua và mục đồng, hay đúng hơn, mục đồng rồi vua; Giêsu: vua và thợ mộc, hay đúng hơn, thợ mộc rồi vua.
- Anh nói giống như một vị rabbi. Người ta cảm thấy nơi anh một người đã được giáo dục trong Đền Thờ - ông trưởng giáo đường nói. “Anh có thể cho Đại Pháp Đình biết rằng tôi, trưởng giáo đường, tôi cần sự giúp đỡ của Đền Thờ vì một lý do riêng biệt được không?”
- Nhưng, được chứ. Nhưng chắc chắn mà. Với Êlêazar! Hãy tưởng tượng coi! Rồi Giuse kỳ lão, anh biết chứ? Tên giầu sụ ở Arimathi. Rồi luật sĩ Sađốc... và rồi... Ôi! Anh chỉ có việc nói!
- Vậy ngày mai, anh hãy là khách của tôi. Chúng ta sẽ nói chuyện.
- Khách của anh à? Không, tôi không thể bỏ rơi người đàn bà thánh thiện và đau khổ này, tức là Maria. Tôi đến với chủ tâm hộ vệ bà...
- Người bà con của tôi có chuyện gì vậy? Chúng tôi biết rằng bà ở trong tình trạng sức khỏe tốt, và bà sung sướng trong sự đạm bạc của bà - Simon Alphê nói.
- Đúng, và chúng tôi sẽ không bỏ rơi bà - Giuse Alphê xit xoa nói. “Mẹ tôi luôn luôn ở bên cạnh bà. Tôi và cả vợ tôi cũng vậy. Mặc dầu... Mặc dầu tôi không thể tha thứ cho bà về sự yếu đuối của bà đối với con trai bà, và cả về sự đau khổ của ba tôi, do tại vì Giêsu mà khi ông chết, chỉ có hai đứa con trai ở bên giường ông. Và rồi! Và rồi!... Nhưng những phiền não trong gia đình, người ta không la nó lên ở trên mái nhà!
- Anh có lý, người ta nói nhỏ tiếng ở nơi kín đáo, bằng cách rót nhẹ nó vào con tim của một người bạn. Và như vậy thì người ta rất đau khổ. Tôi cũng vậy, tôi có nỗi khổ của tôi, như một môn đệ... nhưng tôi không nói.
- Nhưng trái lại, hãy nói đi! Có chuyện gì vậy? Những phiền phức cho Giêsu à? Chúng tôi không chấp nhận lối sống của anh ta, nhưng dù sao chúng tôi cũng là bà con, và chúng tôi sẵn sàng về phe với anh ta để chống lại các kẻ thù của anh ta. Anh hãy nói đi - Giuse lại nói.
- Những phiền phức thì không. Tôi nói như vậy để nói... Và rồi cái khổ của người môn đệ thì nhiều lắm. Không phải chỉ có cái khổ
327
vì lối hành động của Thầy đối với bạn bè và kẻ thù một cách sai lầm, nhưng còn vì phải thấy Người không được yêu. Tôi muốn rằng tất cả các anh đều yêu Người.
- Nhưng làm cách nào? Chính anh đã nói đó. Anh ta có một lối hành động... Anh ta đâu có như vậy trước khi anh ta bỏ mẹ anh ta - ông trưởng giáo đường nói và xin lỗi. “Có phải không, tất cả các ông?”
Mọi người đều tán đồng một cách trịnh trọng, và nói về nhiều điểm tốt của Giêsu trước kia: lặng lẽ, êm đềm, thận trọng...
- Ai nghĩ được rằng sẽ có thể phát ra từ anh ta một con người như anh ta hiện nay. Nhà cửa, cha mẹ, tất cả đều vì anh ta. Vậy mà bây giờ... - một ông già Nazarét nói.
Judas thở dài: “Thật là người đàn bà đáng thương!”
- Nhưng sau cùng, anh biết được điều gì, hãy nói ra đi! - Giuse kêu lên.
- Nhưng đâu có gì hơn những điều các anh đã biết. Anh tưởng rằng đối với bà thì bị bỏ rơi là điều êm đềm lắm sao?
- Nếu Giuse đã sống giống như ba các anh thì điều đó đã không xảy ra - một ông Nazarét khác cũng rất già nói cách lặng lẽ.
- Đừng nghĩ như vậy ông ạ. Cũng thế thôi. Khi người ta có một tư tưởng nào đó... - Judas nói.
Một người đầy tớ mang các ngọn đèn tới và để trên bàn, vì đây là một đêm không trăng, dù cả bầu trời đều lấp lánh sao. Và cùng với các ngọn đèn, họ mang tới những đồ uống khác mà ông trưởng giáo đường muốn biếu ngay cho Judas.
- Cám ơn. Tôi không ở lại lâu đâu. Tôi có bổn phận đối với Maria - Judas nói và đứng dậy. Hai người con trai ông Alphê cũng đứng dậy và nói: “Chúng tôi đi với anh. Cùng một con đường mà...” Và sau những lời chào trọng thể, hội nghị giải tán. Ông trưởng giáo đường ở lại với sáu viên kỳ lão.
Đường phố bây giờ vắng vẻ và lặng lẽ. Trên sân thượng của các nhà dội ra những tiếng nhỏ thì thầm của các người lớn. Các trẻ nhỏ đã ngủ trong giường của chúng. Người ta cũng không còn nghe
328
những tiếng rung láy vui vẻ của chim chóc nữa. Cùng với tiếng nói, từ trên sân thượng của các nhà giầu, chiếu ra ánh sáng của các ngọn đèn dầu.
Hai người con ông Alphê cùng với Judas lặng lẽ bước trong một ít mét, rồi Giuse dừng lại, cầm tay Judas và nói với ông: “Nghe này, tôi thấy anh biết điều gì đó, nhưng anh không muốn nói trước mặt những người lạ. Nhưng bây giờ, với tôi, anh phải nói. Tôi là trưởng nam trong nhà, tôi có quyền và có bổn phận phải biết tất cả”.
- Và tôi, tôi đến đây với ý định nói điều đó với các anh, để bảo vệ Thầy, Maria, các em trai của các anh và danh tiếng của các anh. Đó là một điều rất nặng nề để nói cũng như để nghe, và rất nặng nề để làm, vì nó cũng như là do thám. Nhưng tôi xin các anh hiểu tôi, không phải do thám đâu, mà chỉ là tình yêu và sự khôn ngoan. Tôi biết rất nhiều điều mà các anh không biết. Tôi nghe nó từ các bạn ở Đền Thờ của tôi. Tôi biết nó nguy hiểm cho Giêsu cũng như cho danh giá gia đình. Tôi đã cố gắng làm cho Thầy hiểu, nhưng tôi không thành công. Trái lại, tôi càng khuyên bảo thì lối sống của Người càng tệ, luôn luôn lôi kéo sự bình phẩm và sự thù ghét. Điều đó bởi vì Người qúa thánh thiện, Người không hiểu thế giới là gì. Nhưng sau cùng, thật là buồn khi phải thấy một sự thánh thiện hư hỏng chỉ vì người sáng lập thiếu thận trọng.
- Nhưng sau cùng, anh ta có chuyện gì? Nói hết đi, chúng tôi sẽ lo liệu, có phải không Simon?
- Chắc chắn rồi. Nhưng tôi thấy không thể nào Giêsu lại làm những điều thiếu thận trọng và ngược lại với sứ mệnh của Người...
- Nhưng nếu người trai trẻ hào hiệp này, cũng là người yêu Giêsu, nói điều đó? Anh nhìn thấy đúng như con người của anh, luôn luôn là như vậy: bất định, ngập ngừng. Anh luôn luôn để tôi một mình vào đúng lúc. Một mình tôi đương đầu với tất cả bà con. Cả đến anh không thương hại gì tới danh giá của chúng ta, và đứa em của chúng ta bị tiêu ma.
- Không. Tiêu ma, không! Nhưng ông ta lầm, vậy đó.
329
- Nói đi, nói đi! - Giuse năn nỉ, trong khi Simon phân vân nên nín thinh.
- Tôi sẽ nói với các anh... nhưng tôi muốn được chắc là các anh không tố cáo tên tôi trước mặt Giêsu... Thề đi!
- Chúng tôi thề trên tấm màn thánh. Chúng tôi thề rồi đó. Nói đi!
- Phải chăng tôi cũng phải nói điều này với các anh: đừng nói điều đó với mẹ các anh, và càng hơn nữa, đừng nói với các em các anh.
- Anh được bảo đảm về sự yên lặng của chúng tôi.
- Và các anh có yên lặng với Maria không? Để không làm đau khổ cho bà, cũng như tôi, trong yên lặng, tôi canh chừng cho sự bình an của bà mẹ tôi nghiệp này. Đó cũng là một bổn phận nữa.
- Chúng tôi sẽ nín lặng đối với hết mọi người. Chúng tôi thề với anh điều đó.
- Vậy hãy nghe đây... Giêsu không giới hạn việc lui tới với các dân ngoại, các người thâu thuế và các gái giang hồ, xúc phạm đến các pharisiêu và các nhân vật cao cấp. Nhưng bây giờ ông ta làm những điều thực tình ngu ngốc. Các anh tưởng tượng coi: ông ta đi vào xứ của người Philitin, và ông ta bảo chúng tôi đi trong khi mang theo với chúng tôi một con dê toàn lông đen, và bây giờ ông ta nhận một tên Philitin vào số các môn đệ, và trước đó, đứa trẻ mà ông ta đã nhận? Các anh không biết ông ta bị phê bình tới mức nào? Và mới chỉ vài ngày nay, một con Hy Lạp, một đứa nô lệ chạy trốn ông chủ Rôma của nó. Và rồi những bài thuyết trình kém khôn ngoan... Tóm lại, ông ta như điên và lầm lạc. Trong xứ của dân Philitin, ông ta đã đến nỗi lạc đường cả vào trong nghi lễ của phù thủy, đi thẳng vào cuộc tranh thủ với họ. Ông ta đã thắng, nhưng... các luật sĩ và các pharisiêu đã sẵn ghét ông ta rồi, nếu những việc này đến tai họ thì chuyện gì sẽ xảy xa cho ông ta? Các anh có bổn phận can thiệp, ngăn cản...
- Chuyện này trầm trọng, rất trầm trọng. Nhưng làm sao chúng tôi có thể biết được? Chúng tôi ở đây... và kể cả lúc này, làm sao
330
chúng tôi biết được?
- Nhưng công việc can thiệp và ngăn cản thuộc về các anh. Bà mẹ ông ta là người mẹ, và bà ấy qúa tốt. Các anh không nên bỏ rơi bà ta như vậy, dù là vì ông ta, dù là vì thế giới. Và rồi cái tật cứng đầu ưa xua đuổi ma qủi... Người ta đã đồn đãi rằng ông ta được Benzêbut giúp. Các anh thử nghĩ coi việc đó có ích gì cho ông ta không. Và rồi! Ông vua như thế nào, làm sao ông ta trở nên vua được nếu từ lúc này đám đông cười nhạo ông hay bị ông xúc phạm?
- Nhưng... thực tình ông ta làm những điều này sao? - Simon hỏi cách nghi ngờ.
- Hãy hỏi ngay ông ta, ông ta sẽ nói với các anh là đúng. Ông ta còn tới nỗi tự hào vì vậy nữa.
- Anh phải báo cho chúng tôi.
- Đương nhiên là tôi sẽ báo. Khi tôi thấy điều gì mới nữa thì tôi sẽ báo cho các anh. Nhưng tôi xin các anh: yên lặng, bây giờ và mãi mãi, với tất cả mọi người.
- Chúng tôi đã thề rồi mà. Bao giờ anh đi?
- Sau ngày Sabát. Từ nay tôi không còn lý do để ở lại đây nữa. Tôi đã làm bổn phận của tôi rồi.
- Và chúng tôi cám ơn anh. Hé! Tôi đã nói là nó đã thay đổi. Anh là anh tôi mà anh không muốn tin tôi... Anh sẽ coi tôi có lý không?
- Giuse Alphê nói.
- Tôi... tôi, tôi chưa muốn tin. Sau cùng, Juđa và Giacôbê đâu phải những thằng ngu. Tại sao chúng không nói gì với chúng ta? Tại sao chúng không loan báo cho chúng ta nếu thực sự những điều này xảy ra - Simon Alphê nói.
- Ông này! Ông không làm xỉ nhục cho tôi vì không tin ở lời tôi sao? - Judas bực bõ đối đáp.
- Không... nhưng... đủ rồi... Xin lỗi, nếu tôi nói với anh: tôi sẽ tin khi tôi thấy.
- Tốt, anh sắp sửa thấy rồi, và anh phải nói với tôi: “Anh có lý”. Đây, chúng ta tới nhà các anh rồi. Tôi từ giã các anh. Thiên Chúa ở cùng các anh.
331
- Thiên Chúa ở với anh, Judas. Và nghe này: Anh cũng vậy, đừng nói với ai, vì lẽ danh dự của chúng tôi.
- Tôi không nói, dù là với không khí. Chào!
Và ông bước nhanh vào nhà, rồi lên sân thượng, nơi Maria, hai tay để trên đầu gối, đang ngắm trời đầy sao. Trong ánh sáng của ngọn đèn nhỏ mà Judas cầm theo để đi lên cầu thang, người ta thấy những giọt nước mắt lấp lánh trên má Maria.
- Tại sao mẹ khóc? - Judas hỏi với sự chú ý lo sợ.
- Bởi vì mẹ thấy như thế giới chăng đầy cạm bẫy, còn nhiều hơn sao trên trời. Những cạm bẫy cho Giêsu của mẹ.
Judas nhìn mẹ đăm đăm, chăm chú và bối rối. Nhưng mẹ dịu dàng nói thêm: “Nhưng mẹ được khích lệ bởi tình yêu của các đồ đệ... Hãy yêu Người nhiều, Giêsu của tôi... Hãy yêu Người... Con muốn ở lại đây à Judas? Mẹ đi xuống phòng mẹ. Maria Clêopha đã ngủ rồi sau khi bà chuẩn bị men cho ngày mai”.
- Vâng, con ở lại đây. Ở đây thật dễ chịu.
- Bình an cho con, Judas.
- Bình an cho mẹ, Maria.
128* GIÁO HUẤN CÁC TÔNG ĐỒ
CHO BƯỚC ĐẦU VIỆC TRUYỀN GIÁO
Giêsu đang ở với các tông đồ, và tất cả đều ở đó. Điều đó chứng tỏ rằng Judas đã xong việc của ông và đã trở lại với các bạn ông. Họ ngồi tại bàn trong căn nhà ở Caphanaum. Bây giờ là buổi chiều. Ánh sáng của ngày đang tắt lọt qua các sửa sổ và cửa ra vào mở rộng, để cho thấy sự biến đổi từ mầu đỏ tía của hoàng hôn qua mầu đỏ tím đậm như không thực, tia ra ở mép khung cửa và co quắn lại, rồi chuyển từ mầu tím đen qua mầu xám. Điều này làm tôi nghĩ tới một mảnh giấy mà người ta quăng vào lửa, nó cháy ra như than, nhưng ở mép, sau khi cháy, quăn lại và tắt đi trong mầu chì hơi xanh, rồi sau cùng biến thành mầu xám ngọc trai hầu như trắng.
332
- Đó là do sức nóng - Phêrô nói cách nghiêm trang khi chỉ vào một đám mây lớn bao phủ trời tây với các mầu này. “Do sức nóng chứ không phải do nước. Đó là sương mù chứ không phải mây. Tôi, đêm nay tôi ngủ trong thuyền cho mát hơn”.
- Không, đêm nay chúng ta sẽ tới giữa các cây ôliu. Thầy cần nói với các con. Bây giờ Judas đã trở lại, đây là lúc để nói. Thầy biết một chỗ rất thoáng khí. Chúng ta sẽ dễ chịu ở đó. Hãy đứng dậy và chúng ta đi tới đó.
- Có xa không? - Họ hỏi trong khi mặc áo khoác.
- Không, rất gần. Chỉ bằng ném một hòn đá từ sau nhà. Các con có thể để áo khoác lại, nhưng mang theo một cái bùi nhùi và một cái quẹt để thấy đường lúc trở về.
Họ ra khỏi căn phòng ở trên sân thượng và đi xuống cầu thang sau khi đã chào ông chủ nhà và vợ ông đang hóng gió ngoài sân thượng. Giêsu quay lưng một cách qủa quyết về phía hồ. Sau khi đã đi qua vùng, người đi hai ba trăm mét giữa các cây ôliu trên ngọn đồi nhỏ đầu tiên ở phía sau vùng. Người dừng lại trên một mô đất mà do khung cảnh đơn độc và không có chướng ngại, ở đây người ta có thể lợi dụng được hết không khí và vui hưởng nó trong đêm nóng bức và ngột ngạt này.
- Chúng ta hãy ngồi lại đây và các con hãy chú ý nghe Thầy. Đã đến thời gian các con phải rao giảng Tin Mừng. Thầy đã gần ở giữa đời sống công khai của Thầy để chuẩn bị các con tim cho nước của Thầy. Đây cũng là lúc mà cả các môn đệ của Thầy dự phần vào việc chuẩn bị cho vương quốc này. Các vua cũng làm như vậy khi họ quyết định chinh phục một nước. Trước tiên họ tìm hiểu và lui tới với người ta để biết những phản ứng của họ, và để lôi kéo họ vào những ý định mà ông ta theo đuổi. Rồi ông khai triển việc chuẩn bị công việc bằng cách sai những người do thám chắc chắn vào trong xứ ông muốn chinh phục. Rồi ông sai họ càng ngày càng đông cho tới khi biết hết mọi điều đặc biệt trong xứ, từ địa lý tới tinh thần. Sau cùng, ông vua hoàn tất công việc của ông bằng cách xưng mình là vua của xứ đó và lên ngai hoàng đế. Đương nhiên
333
ông đã làm đổ máu để đi tới đó, vì chiến thắng luôn luôn là giá máu.
- Chúng con sẵn sàng chiến đấu cho Thầy tới đổ máu - các tông đồ nhất tề đoan hứa.
- Thầy sẽ không để đổ ra máu nào khác ngoài máu của Đấng Thánh và của các thánh.
- Thầy muốn bắt đầu cuộc chinh phục từ Đền Thờ, bằng cách cho đột nhập vào giờ dâng lễ hy sinh à?
- Đừng nói lang bang các bạn ơi. Tương lai thì các con sẽ biết vào giờ của nó. Nhưng đừng run sợ. Thầy bảo đảm với các con là Thầy sẽ không làm xáo trộn các nghi lễ bởi một cuộc đột nhập bạo động. Nhưng các con sẽ bị xáo trộn, và sẽ có một buổi chiều mà sự sợ hãi ngăn cản các nghi thức cầu nguyện: sự sợ hãi của các kẻ tội lỗi. Nhưng Thầy, chiều hôm đó thì Thầy bình an. Bình an trong tâm hồn và thân xác Thầy. Một sự bình an hoàn toàn và hạnh phúc...
Giêsu nhìn mười hai vị của Người, từng người một, tựa như Người nhìn đi nhìn lại mười hai lần một trang giấy, và Người đọc mười hai lần cái lời được viết trên đó: không hiểu. Người mỉm cười và tiếp:
- Vậy Thầy đã quyết định sai các con đi, để đi sâu vào về phía trước hơn và vào bề sâu hơn, mà một mình Thầy, Thầy không làm nổi. Nhưng giữa cái lối giảng Tin Mừng của Thầy và của các con, sẽ có sự khác nhau, bởi sự khôn ngoan mà Thầy phải dùng để các con không gặp phải những khó khăn qúa lớn, hoặc những nguy hiểm qúa nghiêm trọng cho tâm hồn cũng như cho thân xác các con, và để không gây tổn hại cho công trình của Thầy. Các con chưa được đào tạo đủ để có thể đến với bất cứ ai mà không nguy hại cho các con và cho họ, và các con còn kém anh hùng để có thể thách đố với thế giới trong tư tưởng bằng cách đi tới gặp sự báo thù của thế giới.
Vậy trong các cuộc tuần du, các con đừng tới rao giảng Thầy giữa các dân ngoại, cũng đừng vào các thành thuộc xứ Samari, nhưng các con hãy tới với các con chiên lạc của nhà Israel. Hãy còn biết bao việc phải làm ở giữa họ. Vì thật vậy, Thầy bảo các con
334
rằng những đám đông mà các con thấy là qúa đông đảo ở chung quang Thầy, chỉ là một phần trăm những kẻ trong Israel còn đang chờ Đấng Messi, chưa biết Người, và chưa hay là Người đang sống. Hãy mang cho họ đức tin và sự hiểu biết về Thầy. Trên đường, các con hãy rao giảng bằng cách nói: “Nước Thiên Chúa đã gần”. Đó là cái nền tảng mà các con loan báo. Hãy đặt sự thuyết giáo của các con trên nền tảng đó. Các con đã nghe Thầy nói biết bao về Nước Trời, các con chỉ có việc lặp lại điều Thầy đã nói với các con. Để có thể lôi kéo con người và thuyết phục họ bằng những chân lý siêu nhiên, cần phải có sự êm đềm về vật chất, tựa như họ đời đời là những đứa trẻ không bao giờ thuộc được bài học, không bao giờ học được một nghề, nếu nó không được dụ dỗ bởi sự êm đềm của một bà mẹ, hay một phần thưởng của ông thầy ở nhà trường hay thầy dạy nghề. Thầy, để cho các con có phương tiện làm cho người ta tin các con và tìm kiếm các con, Thầy chấp nhận cho các con ơn làm phép lạ.
Các tông đồ, trừ Giacôbê Alphê và Gioan, đứng phắt dậy, la lối, phản kháng, hoan hô, qủa quyết hăng say, mỗi người tùy theo tính khí của họ.
Thực sự, chỉ có Iscariot là vênh váo với ý tưởng làm phép lạ, vì vụ lợi, và vì vô ý thức về một kết án sai lầm, đã kêu lên: “Đã đến lúc chúng con làm phép lạ, để chúng con có một uy quyền tối thiểu trên đám đông”.
Giêsu nhìn ông nhưng không nói gì. Phêrô và Zêlote nói: “Không, lạy Chúa, chúng con không xứng đáng một điều lớn lao như vậy, việc đó đến với các thánh”. Điều đó làm Judas chưng hửng. Rồi Zêlote nói với Judas: “Làm sao anh dám chê trách Thầy? Thứ người ngu si và kiêu ngạo!” Phêrô thì nói: “Tối thiểu à? Anh muốn làm gì nữa hơn là phép lạ? Anh còn muốn trở nên Thiên Chúa? Anh cũng có sự ngứa ngáy của Lucifer?”
- Nín đi! - Giêsu ra lệnh, và Người tiếp: “Có một điều còn hơn là phép lạ, và thuyết phục đám đông sâu xa hơn, lâu dài hơn, đó là một đời sống thánh. Nhưng các con còn xa. Và con, Judas, con còn
335
xa hơn những người khác. Nhưng hãy để Thầy nói, vì đây là bài giáo huấn dài.
Vậy hãy đi, chữa lành các kẻ tàn tật, thanh tẩy các người cùi, phục sinh cho kẻ chết về thân xác cũng như tâm hồn, vì thân xác cũng như tâm hồn đều có thể bị tàn tật, phong cùi và chết như nhau. Và các con cũng hãy biết phải làm thế nào để thi hành một phép lạ: một đời sống sám hối, cầu nguyện thiết tha, ước ao chân thành làm rạng ngời sức mạnh của Thiên Chúa, khiêm nhường sâu xa, đức ái sống động, đức tin nồng cháy, đức cậy không nao núng trước mọi khó khăn bất cứ loại nào. Thật vậy, Thầy bảo các con rằng tất cả đều có thể với người có những yếu tố này. Cả các ma qủi cũng phải chạy trốn khi danh Chúa được xướng lên bởi các con, nếu các con có những điều Thầy đã nói. Quyền lực này được ban cho các con bởi Thầy và bởi Cha chúng ta. Nó không thể mua được bằng tiền bạc. Chỉ có thiện chí của chúng ta nhận được nó, và chỉ có một đời sống thánh có thể giữ được nó. Nhưng cũng như các con nhận được cách nhưng không, hãy cho đi cách nhưng không. Hãy cho những ai cần. Khốn cho các con, nếu các con hạ thấp ơn của Thiên Chúa xuống bằng cách lợi dụng nó để làm đầy túi tiền của các con. Đây không phải là sức mạnh của các con, mà là của Thiên Chúa. Hãy sử dụng nó, nhưng đừng làm như nó là vật sở hữu của các con và nói: “Nó thuộc về tôi”. Cũng như nó được ban cho các con, nó cũng có thể bị lấy đi. Vừa lúc nãy Simon Jonas đã nói với Judas Simon: “Anh cũng có sự ngứa ngáy của Lucifer?” Ông đã cho một định nghĩa rất đúng. Nói: “Tôi làm điều Thiên Chúa làm bởi vì tôi cũng như Thiên Chúa”, tức là bắt chước Lucifer, và hình phạt của nó thì ai cũng biết rồi. Cũng như mọi người đều biết những gì đã xảy ra cho hai người ở Thiên Đàng dưới đất, khi họ đã ăn trái cây bị cấm do sự xúi giục của đứa ganh tị, muốn đưa những kẻ khốn nạn khác vào trong hỏa ngục của nó, thêm vào với các thiên thần phản loạn đã ở đó rồi, nhưng cũng bởi sự ngứa ngáy cá nhân của kẻ kiêu căng trọn vẹn nữa. Hoa trái duy nhất của điều các con làm và các con được phép nhận là các linh hồn, mà nhờ vào phép lạ, các con đã
336
chinh phục được cho Chúa, và phải được dâng cho Người. Đó là tiền bạc của các con, không có gì khác nữa. Trong đời sống bên kia, các con sẽ vui hưởng cái kho báu này.
Hãy đi không của cải. Đừng mang trong mình vàng bạc hay dắt tiền trong thắt lưng; cũng đừng mang túi du lịch hoặc hai hay nhiều y phục. Đừng mang dép dự bị, đừng mang gậy hay khí giới. Bởi vì lúc này các cuộc lưu hành truyền giáo của các con chỉ ngắn, và mỗi chiều trước ngày Sabát, chúng ta sẽ gặp lại nhau, và các con có thể thay các quần áo ướt mồ hôi của các con, nên không cần mang y phục phòng bị. Không cần gậy vì đường sá ít gập ghềnh, và những thứ dùng trên các đồi và đồng bằng thì rất khác với những thứ dùng trong sa mạc hay núi cao. Không cần vũ khí. Nó tốt cho những kẻ không biết sự nghèo khó thánh và không biết sự tha thứ của Thiên Chúa. Các con không có kho tàng cần giữ hay phải bảo vệ cho khỏi mất cắp. Chỉ có một thứ phải sợ, một tên bợm duy nhất đối với các con, là Satan. Người ta thắng nó bằng sự kiên trì cầu nguyện chứ không phải bằng gươm giáo. Nếu người ta xúc phạm đến các con thì hãy tha thứ. Nếu người ta lột mất áo khoác của các con thì hãy cho đi cả áo trong nữa. Hãy chịu đựng cả sự trần truồng cách êm đềm và dứt bỏ mọi của cải. Các con không xúc phạm đến các thiên thần của Chúa đâu, cũng như không xúc phạm tới đức Ái vô biên của Thiên Chúa, bởi vì đức Ái của các con sẽ mặc áo vàng cho cơ thể trần truồng của các con; sự êm đềm sẽ là chiếc giây lưng, và sự tha thứ cho kẻ cắp sẽ cho các con chiếc áo khoác và chiếc triều thiên hoàng gia. Như vậy các con sẽ được mặc đẹp hơn ông vua, không phải bằng thứ vải hay hư, nhưng bằng chất liệu không thể hư.
Đừng lo lắng về lương thực. Các con sẽ luôn luôn có những gì thích hợp với hoàn cảnh của các con, và với sứ mạng của các con, vì người thợ thì xứng đáng của ăn mà người ta mang tới cho họ, luôn luôn vậy. Nếu người ta không cung cấp thì Thiên Chúa sẽ cung cấp cho các nhu cầu của các thợ của Người. Thầy đã chứng tỏ cho các con rằng để sống và rao giảng, không cần phải có cái bụng
337
đầy đồ ăn mà người ta tọng vào. Đó là số phận của các con vật dơ bẩn mà sứ mạng của nó là mập béo ra để người ta giết, để thịt nó làm phì mập con người. Nhưng các con, các con chỉ phải làm mập mạp tâm hồn của các con và của những người khác bằng những lương thực mang lại sự khôn ngoan. Và Sự Khôn Ngoan tỏ mình ra cho tâm hồn không bị mờ tối bởi dư thừa đồ ăn, và cho con tim biết nuôi mình bằng lương thực siêu nhiên. Các con chưa bao giờ hùng biện như sau tuần tĩnh tâm trên núi, mà khi đó các con chỉ ăn một chút cần thiết để không chết, và ở cuối tuần tĩnh tâm, các con vui vẻ và khỏe mạnh hơn bao giờ hết. Có đúng vậy không?
Trong tất cả các thành hay các xóm mà các con tới, hãy hỏi xem có ai xứng đáng tiếp nhận các con không, không phải vì các con là Simon hay Judas, hoặc Batôlômêo hay Giacôbê hay Gioan, và tiếp theo như vậy, nhưng bởi vì các con là những kẻ được Chúa sai đi. Mặc dầu các con là những đồ bỏ, các kẻ sát nhân, trộm cắp, các kẻ thu thuế, bây giờ sám hối và phục vụ Thầy, các con cũng xứng đáng được kính trọng, bởi vì các con là những kẻ được sai đi của Thầy. Thầy còn nói hơn nữa, Thầy nói: khốn cho các con, nếu các con tự giới thiệu là những kẻ được Thầy sai đi, nhưng trong thâm tâm, các con đê tiện và tham lam vô độ. Khốn cho các con! Hỏa ngục cũng còn qúa ít để thưởng công cho cái trò bịp bợm của các con. Nhưng nếu các con công khai là những kẻ được Chúa sai đi, nhưng một cách kín đáo, trước kia các con đã là thứ vô lại, thu thuế, trộm cắp, sát nhân, và cả đến người ta nghi ngờ các con, hay hầu như chắc chắn, họ vẫn phải dành cho các con danh dự và sự trọng kính, bởi vì các con là kẻ Thầy sai đi. Con mắt con người phải vượt qua vật trung gian, nhìn người sai đi và mục đích thì phải thấy Thiên Chúa và công việc của Người ở bên ngoài kẻ trung gian qúa thường hay thiếu sót. Chỉ trong trường hợp có những lỗi trầm trọng, làm tổn thương đức tin của các tâm hồn, thì Thầy lúc này, và sau này là các kẻ kế vị Thầy, mới phải quyết định cắt đứt phần tử hư hỏng. Qủa vậy, không thể vì một linh mục là ma qủi mà linh hồn các tín hữu bị hư mất. Sẽ không bao giờ được phép: để che giấu một vết
338
thương sinh ra trong cơ thể giáo đoàn mà để lại đó những phần tử hủy hoại, làm xa lìa các tín hữu bởi dáng vẻ ghê tởm của họ, và sự nhiễm độc vì sự ô nhơ thuộc về ma qủi của họ.
Vậy các con sẽ hỏi thăm về những gia đình mà cuộc sống đúng mực nhất, nơi mà các phụ nữ biết ở riêng biệt và có phẩm hạnh liêm khiết, các con hãy vào đó và ở lại đó cho tới khi các con rời địa hạt đó. Đừng bắt chước những con ong đất, sau khi đã hút mật một bông hoa, lại bay qua bông khác bổ béo hơn. Các con, dù là được chăm sóc bởi những kẻ hiến cho các con chỗ ở tốt và bàn ăn cao lương, hay bởi một gia đình chỉ giầu nhân đức, hãy ở lại nơi các con đang ở. Đừng bao giờ tìm những nơi tốt hơn cho thân xác sẽ hư thối, trái lại, hãy cho nó cái gì xấu hơn, và dành tất cả quyền lợi cho tâm hồn. Thầy nói với các con vậy, bởi vì rất tốt là các con làm, các con cho ngay khi các con có thể, sự ưu tiên cho người nghèo trong thời gian các con cư trú, để không làm nhục cho họ, trong khi nhớ đến Thầy luôn luôn sống nghèo, và Thầy được vinh quang vì nghèo; và cũng bởi vì người nghèo thường tốt hơn người giầu. Các con luôn luôn tìm thấy những người nghèo công chính, trong khi họa hiếm các con mới tìm được một người giầu không bất công. Vậy các con không thể nói: “Tôi chỉ tìm được lòng tốt nơi người giầu”, để biện minh cho sự ước ao thoải mái của các con.
Khi bước vào một căn nhà, hãy chào bằng lời chào của Thầy là những lời êm đềm nhất. Hãy nói: “Bình an cho qúi vị, bình an cho nơi ở này”, hoặc là: “Nguyện bình an đến cho nhà này”. Qủa vậy, các con, những kẻ được sai đi của Giêsu và của Tin Mừng, các con mang sự bình an với các con, và các con vào nơi nào thì cũng là để mang bình an đến cho nơi đó. Nếu nhà đó đáng được bình an, thì sự bình an của các con sẽ ở lại trong đó; nếu nó không đáng thì sự bình an sẽ trở về với các con. Nhưng các con hãy cố gắng để được bình an, để các con có Thiên Chúa là Cha. Một người cha thì luôn luôn trợ giúp. Các con được Thiên Chúa trợ giúp thì các con sẽ làm và làm rất tốt mọi sự.
Cũng có thể xảy ra, và cả đến chắc chắn sẽ xảy ra, là một thành
339
phố hay một căn nhà không tiếp đón các con, nơi mà người ta không muốn nghe lời các con, xua đuổi các con, quay lại chế nhạo các con, hay cả đến đuổi theo các con bằng những cục đá, giống như các con là những tiên tri rầy rà. Lúc đó, hơn bao giờ hết, các con cần bình an, khiêm nhường, êm dịu trong cách sống của các con. Qủa vậy, nếu không thì cơn giận sẽ nổi lên, và các con sẽ phạm tội bằng cách gây gương mù cho các kẻ các con phải hoán cải, và làm gia tăng sự cứng lòng tin của họ. Trong khi nếu các con bình an đón nhận sự xúc phạm bởi thấy mình bị xua đuổi, chế nhạo, rượt bắt, các con sẽ hoán cải họ bằng sự giảng thuyết hay nhất: sự thuyết giáo yên lặng của nhân đức thật. Một ngày kia, các con sẽ gặp lại những kẻ thù ở trên đường của các con ngày hôm nay, và họ sẽ nói với các con: “Chúng tôi tìm qúi vị, vì lối hành động của qúi vị đã thuyết phục chúng tôi về sự thật mà qúi vị rao giảng. Xin tha lỗi cho chúng tôi và nhận chúng tôi làm môn đệ, bởi vì chúng tôi đã không biết qúi vị, nhưng bây giờ chúng tôi biết qúi vị là những thánh nhân. Và nếu qúi vị thánh thì qúi vị phải được sai đi bởi một vị thánh, và bây giờ chúng tôi tin ở Người”. Nhưng khi ra khỏi thành phố hay căn nhà mà họ không tiếp nhận các con, hãy rũ cả bụi ở dép các con, để sự kiêu căng và hà khắc của nơi đó không dính vào gót chân các con. Thật vậy, Thầy bảo các con: vào ngày phán xét, Sôđôma và Gomorra sẽ được đối xử nhẹ hơn thành phố này.
Đây, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy hãy khôn ngoan như con rắn, và đơn sơ như chim bồ câu. Bởi vì các con biết, trong thực tế, thế giới nhiều sói hơn chiên. Các con biết họ đã hành động thế nào đối với cả Thầy là Đấng Kitô. Thầy, Thầy có thể tự vệ nhờ sức mạnh của Thầy. Thầy sẽ tự vệ cho tới giờ dành cho chiến thắng tạm thời của thế gian. Nhưng các con, các con không có sức mạnh này, nên các con cần sự khôn ngoan và đơn sơ lớn lao hơn, tức là nhiều minh mẫn hơn để tránh tù ngục và đòn vọt vào lúc này. Thực vậy, lúc này các con, mặc dầu sự cam kết của các con là các con muốn hiến máu vì Thầy, các con cũng chẳng
340
phải chịu đựng, dù là chỉ một cái nhìn mỉa mai hay giận dữ. Rồi sẽ đến thời mà các con sẽ mạnh như những anh hùng để chống lại mọi bách hại, còn mạnh hơn các anh hùng, một sự anh hùng mà thế gian không thể quan niệm được, không thể cắt nghĩa được, và họ đành cho là “điên”. Không, đó không phải là sự điên rồ, đó là sự đồng nhất con người với Người-Thiên-Chúa bởi sức mạnh của tình yêu, và các con sẽ biết làm cái mà Thầy đã làm. Để hiểu sự anh hùng này, phải nhìn thấy nó, nghiên cứu nó và phán đoán nó bằng quan điểm ngoài trái đất, vì đó là một sự siêu nhiên vượt qúa hết mọi giới hạn của bản tính con người tự nhiên. Các anh hùng của Thầy sẽ là các vua, các vua của tâm hồn, vua và anh hùng đời đời...
Vào thời đó, họ sẽ bắt các con, tra tay trên các con. Họ sẽ lôi các con ra trước các tòa án, trước các thủ lãnh và các vua, để họ xét xử các con và kết án các con về những điều như một trọng tội trước mắt thế gian: là tôi tớ của Thiên Chúa, là sứ giả và là giám hộ của sự thiện, là thầy của các nhân đức. Và vì vậy, các con sẽ bị đánh đòn, bị hành hạ bằng hàng ngàn cách cho tới chịu chết. Và các con sẽ làm chứng cho Thầy trước mặt các vua, các ông chánh án, các dân tộc, công bố bằng máu của các con là các con yêu Đức Kitô, người con thật của Thiên Chúa thật.
Khi các con bị đặt trong tay họ, đừng băn khoăn nghĩ đến những gì các con phải trả lời và phải nói. Khi đó các con đừng có một đau khổ nào ngoài cái khổ bởi thấy các quan án, các kẻ tố cáo mà Satan làm cho lầm lạc tới nỗi họ trở nên mù đối với chân lý. Các lời phải nói sẽ được soi cho các con vào lúc đó. Cha các con sẽ đặt nó trên môi các con, bởi vì lúc đó, không phải các con nói để làm cho người ta trở về với đức tin và công bố chân lý, nhưng chính là Thánh Linh của Cha các con sẽ nói trong các con.
Lúc đó, người anh em sẽ kết án tử hình cho anh em ruột của nó, và cha sẽ kết án con, con cái sẽ đứng lên chống đối cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Không, đừng chết giấc, đừng bất mãn. Hãy trả lời Thầy: đối với các con, tội ác nào nặng hơn: giết một người cha, một người anh em, một người con, hay giết chính Thiên Chúa?
341
- Thiên Chúa, người ta đâu có thể giết được - Judas Iscariot nói cách khô khan.
- Đúng vậy, đó là thần linh, người ta không thể cầm giữ được - Batôlômêo xác nhận. Những người khác, dầu hoàn toàn ở lặng, nhưng có cùng một ý kiến.
- Thầy, Thầy là Thiên Chúa và là thể xác - Giêsu nói cách bình tĩnh.
- Không ai nghĩ tới giết Thầy cả - Iscariot đối đáp.
- Thầy yêu cầu các con hãy trả lời câu hỏi của Thầy.
- Nhưng tội trầm trọng nhất là giết Thiên Chúa. Điều đó dĩ nhiên rồi.
- Vậy Thiên Chúa sẽ bị giết bởi loài người trong thể xác của Người-Thiên-Chúa. Vì người ta đi đến tội ác này mà tác giả của nó không cảm thấy ghê sợ, thì cũng vậy, người ta sẽ đi tới tội ác là cha mẹ, anh em, con cái chống lại con cái, anh em, cha mẹ. Các con sẽ bị mọi người ghét vì danh Thầy. Nhưng ai kiên trì tới cùng sẽ được cứu rỗi. Khi họ bách hại các con trong một thành phố, hãy trốn sang thành phố khác, không phải vì hèn, nhưng để dành thời giờ cho Giáo Hội của Đức Kitô vừa sinh ra, đi tới tuổi, không phải của một trẻ sơ sinh yếu đuối và bất lực, nhưng là tuổi trưởng thành, tuổi mà Giáo Hội có khả năng đương đầu với cuộc sống và cái chết, mà không sợ chết. Ai được Thánh Linh khuyên bảo đi trốn thì hãy đi trốn, giống như Thầy đã chạy trốn khi Thầy còn bé tí. Thật vậy, trong đời sống của Giáo Hội Thầy, sẽ lặp lại tất cả những thăng trầm của đời sống làm người của Thầy. Tất cả: Từ mầu nhiệm về sự đào tạo của Người trong khiêm tốn của những thời gian đầu tiên, cho tới những xáo trộn và những cạm bẫy mà con người độc ác đã đem tới, cho tới sự cần thiết phải trốn để tiếp tục hiện hữu; từ sự nghèo khó và công việc cần cù cho tới nhiều chuyện khác mà hiện nay Thầy đang sống, và Thầy sẽ chịu sau này, trước khi đi tới chiến thắng đời đời. Trái lại, với những kẻ mà Thánh Linh khuyên nhủ ở lại, thì họ hãy ở lại, vì nếu họ bị chết thì họ sẽ sống, và sẽ ích lợi cho Giáo Hội. Bởi vì điều Thánh Linh khuyên nhủ luôn luôn là
342
điều tốt.
Thật vậy, Thầy bảo các con rằng, các con và các kẻ kế vị các con chưa chạy rảo hết các đường của các thành phố trong Israel thì Con Người đã tới. Vì Israel, do tội ác đáng ngại của nó, sẽ bị phân tán như trái bóng rớt vào giữa cơn gió xoáy, sẽ rải rác ra khắp mặt đất. Rồi từng thế kỷ và từng thiên niên kỷ sẽ nối tiếp nhau trước khi nó lại được qui tụ về trong sân đập lúa của Arauna người Jêbusê. Hết mọi lần nó thử làm trước giờ đã được ghi dấu, đều bị rơi lại trong cơn gió xoáy và bị phân tán. Vì Israel phải khóc tội của nó trong bao nhiêu thế kỷ, bao lâu còn những giọt máu chảy ra từ mạch máu của Con Chiên Thiên Chúa bị giết vì tội lỗi thế giới. Và Giáo Hội Thầy cũng bị đánh đập bởi Israel trong Thầy, trong các tông đồ vá các môn đệ của Thầy. Giáo Hội Thầy phải mở cánh tay bà mẹ ra để tìm đoàn tụ Israel lại dưới áo nó như gà mẹ tụ họp các gà con phân tán. Khi toàn thể Israel đều ở dưới áo choàng của Giáo Hội Đấng Kitô, khi đó Thầy sẽ đến.
Nhưng những điều đó là tương lai. Chúng ta hãy nói đến thời gian sắp tới, không còn xa đây: Các con hãy nhớ rằng môn đệ thì không hơn thầy, và tôi tớ không hơn ông chủ là người chỉ huy. Môn đệ mà được như thầy thì đã là một vinh dự qúa đáng rồi; tôi tớ mà được như người chỉ huy thì đã là lòng nhân hậu siêu nhiên chấp thuận cho các con rồi.
Nếu họ đã gọi chủ nhà là Benzêbút, họ sẽ gọi các tôi tớ là gì? Và các tôi tớ có dám phản động không nếu ông chủ không phản động, không thù ghét, không nguyền rủa, nhưng bình an trong sự công chính của Người để tiếp tục công việc của Người, và để sự phán xét vào một lúc khác, tới lúc, sau khi đã thử mọi cách để thuyết phục họ, Người coi xem họ còn lỳ lợm trong điều ác không? Không. Các tôi tớ không thể làm điều ông chủ không làm, nhưng đúng hơn là bắt chước Người bằng cách nghĩ rằng họ cũng là người tội lỗi, trong khi Người là Đấng Vô Tội.
Vậy đừng sợ những người gọi các con là “Qủi”. Sẽ có một ngày mà mọi sự thật sẽ sáng tỏ, và lúc đó người ta sẽ coi ai là qủi: các
343
con hay họ. Không có gì che kín mà không bị lộ ra, không có gì bí mật mà không bị phơi bày.
Điều bây giờ Thầy nói với các con trong bóng tối và cách bí mật, vì thế giới không đáng biết hết mọi lời của Ngôi Lời, họ chưa đáng được, và cũng chưa tới giờ để nói ra cho những kẻ bất xứng, các con, khi tới giờ mà mọi sự phải được biết, các con hãy nói nó ra giữa thanh thiên bạch nhật, hãy la to nó trên mái nhà, những điều mà bây giờ Thầy nói nhỏ với các con, Thầy nói vào tâm hồn các con hơn là vào tai các con. Bởi vì khi đó thế giới đã được rửa tội bằng máu, và sẽ có một hiệu kỳ để chống lại Satan. Nhờ hiệu kỳ này, nếu thế giới muốn, họ có thể hiểu những bí mật của Thiên Chúa. Satan chỉ còn có thể làm hại những ai ước mong miếng cắn của nó, và thích nó hơn cái hôn của Thầy. Nhưng tám phần mười thế giới không muốn hiểu. Chỉ có một thiểu số muốn biết tất cả, để đi theo tất cả những gì là giáo huấn của Thầy. Không quan trọng. Bởi vì ta không thể chia cách số hai phần người thánh này ra khỏi khối người bất chính, nên cũng hãy rao giảng giáo lý của Thầy trên nóc nhà, hãy rao giảng nó trên núi cao, trên mặt biển không biên giới, trong lòng trái đất. Cho dù con người không muốn nghe, các lời của Thiên Chúa cũng được đón nhận bởi chim trời, bởi gió, bởi cá, bởi sóng, và lòng trái đất sẽ giữ lại tiếng vọng của nó để nói cho suối nguồn, cho khoáng chất, cho kim loại, và tất cả sẽ vui hưởng, bởi vì chúng cũng được tạo dựng bởi Thiên Chúa để được dùng làm bục dưới chân Thầy và làm niềm vui cho qủa tim Thầy.
Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn, nhưng hãy chỉ sợ đấng có thể quăng linh hồn các con vào nơi trầm luân, và vào ngày phán xét sau cùng, sẽ hợp nó lại với thân xác được phục sinh để quăng nó vào hỏa ngục. Đừng sợ. Có lẽ người ta phải bán hai con chim sẻ mới được một xu? Nhưng nếu không có phép của Chúa Cha thì không một con nào bị rớt xuống, dù là với hết mọi cái bẫy của loài người. Vậy đừng sợ. Cha Thầy biết các con, Người biết số sợi tóc mà các con có trên đầu. Các con có giá trị hơn một số lượng rất lớn chim sẻ.
344
Thầy nói với các con rằng: ai nhìn nhận Thầy trước mặt loài người, Thầy sẽ nhìn nhận nó trước mặt Cha Thầy ở trên Trời. Ai từ chối Thầy trước mặt loài người, Thầy cũng vậy, Thầy sẽ từ chối nó trước mặt Cha Thầy. Ở đây, nhìn nhận có nghĩa là theo và đem ra thực hành. Từ chối có nghĩa là lìa bỏ con đường của Thầy vì hèn nhát, vì sự dâm đãng chấp ba, vì sự tính toán bủn xỉn, vì tình cảm nhân loại đối với một trong các thân nhân của các con chống đối với Thầy, bởi vì những điều đó sẽ xảy ra.
Đừng nghĩ rằng Thầy đến để thiết lập sự đồng tâm nhất trí trên trái đất và qua trái đất. Sự bình an của Thầy rất cao hơn sự bình an lập ra bởi các tính toán, để kéo ra các mối lợi ngày qua ngày. Thầy không đến để mang lại bình an, mà là gươm giáo: gươm giáo sắc bén để cắt đứt những sợi giây bìm bìm nối buộc vào nơi bùn lầy, và mở ra con đường cho cánh bay siêu nhiên. Vậy Thầy đến để phân rẽ con trai khỏi cha, con gái khỏi mẹ, con dâu khỏi mẹ chồng, vì Thầy là người thống trị, và là người có tất cả quyền lợi trên các người của mình. Vì không ai lớn hơn Thầy trong các quan hệ tình cảm, vì chính ở trong Thầy mà các tình yêu tập trung và cao cả hóa: Thầy là người cha, người mẹ, người vợ, người chồng, người anh em, người bạn. Thầy yêu các con như vậy, và Thầy phải được yêu như vậy. Khi Thầy nói: “Ta muốn”, thì không một sợi giây nào có thể kháng cự, và tạo vật là của Thầy. Chính Thầy đã tác tạo nó cùng với Chúa Cha, và chính Thầy đã cứu nó, và Thầy có quyền chiếm hữu nó.
Thực vậy, kẻ thù của con người là các con người, cộng thêm vào đó nữa là ma qủi. Những kẻ thù của một người, một Kitô hữu, là những người trong gia đình nó. Họ là kẻ thù bằng những than van của họ, những đe dọa của họ, hay những năn nỉ của họ. Vậy từ nay, ai yêu cha mẹ họ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai, con gái hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy. Ai không vác thập giá của mình hàng ngày, nó phức tạp, đòi hỏi nhân nhượng, phải từ bỏ, vâng lời, anh hùng, đau đớn, bệnh tật, chiến đấu, tất cả những gì Thiên Chúa biểu lộ, hoặc một thử thách đến do loài người...
345
Ai không theo Thầy với những thập giá đó thì nó không xứng đáng với Thầy. Ai cho đời sống trên mặt đất là hơn đời sống siêu nhiên thì nó sẽ mất Sự Sống thật. Ai mất sự sống trên trái đất vì tình yêu Thầy thì sẽ tìm lại được nó đời đời và hạnh phúc.
Kẻ nào đón nhận các con là đón nhận Thầy. Ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy. Ai đón nhận một tiên tri vì là tiên tri, sẽ được lãnh phần thưởng tương xứng với lòng bác ái họ dành cho vị tiên tri đó. Ai đón nhận một người công chính vì là người công chính, sẽ được lãnh phần thưởng tương xứng với lòng bác ái họ đã có đối với người công chính. Và như vậy bởi vì kẻ biết nhìn nhận một tiên tri là tiên tri, đó là dấu chỉ nó cũng là tiên tri, tức là người thánh, bởi vì Thánh Linh của Chúa mang nó trong tay. Và kẻ nhận ra người công chính trong người công chính, chứng tỏ nó cũng công chính, vì những linh hồn giống nhau thì nhận biết nhau. Vậy mỗi người sẽ được ban cho theo sự công chính của họ.
Nhưng với kẻ sẽ cho dù chỉ một chén nước lã, cho một trong các tôi tớ của Thầy, dù là kẻ bé mọn nhất (và đều là môn đệ của Giêsu, tất cả những ai rao giảng Người bằng một đời sống thánh. Vậy có thể là môn đệ từ các ông vua tới các người ăn mày; từ người thông thái tới người không biết gì, từ người già tới trẻ nhỏ. Bởi vì ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp, người ta đều có thể là môn đệ Thầy). Vậy ai cho một trong các môn đệ của Thầy, dù chỉ một chén nước vì danh Thầy, bởi vì họ là môn đệ Thầy, thì thực vậy, Thầy bảo các con, nó sẽ không mất phần thưởng của nó.
Thầy đã nói rồi. Bây giờ chúng ta cầu nguyện rồi chúng ta về nhà. Các con sẽ ra đi vào lúc bình minh, như vầy: Simon Jonas với Gioan; Simon Zêlote với Judas Iscariot; Andrê với Mathêu; Giacôbê Alphê với Tôma, Philíp với Giacôbê Zêbêđê; Juđa anh Thầy bới Batôlômêo. Như vậy cho tuần này, rồi Thầy sẽ ra lệnh mới. Chúng ta hãy cầu nguyện.
Và họ cầu nguyện lớn tiếng.
346
129* NHỮNG NGƯỜI DO ÔNG TẨY GIẢ
SAI ĐẾN HỎI: “NGÀI CÓ PHẢI LÀ ĐẤNG MESSI KHÔNG?”
Giêsu ở một mình với Mathêu. Ông này bị thương ở chân nên không đi giảng với những người khác được. Nhưng những người bệnh và những người ước ao nghe Tin Mừng ngồi đầy trên sân thượng và những chỗ trống trong vườn để nghe Người và hưởng sự trợ giúp của Người.
Giêsu kết thúc bài giảng của Người khi nói: “Sau khi đã cùng nhau suy gẫm câu danh ngôn của Salômôn: ‘Sức mạnh lớn lao ở trong sự công chính dồi dào’, Thầy cổ võ các con hãy tạo lấy sự công chính dồi dào này, vì đó là thứ tiền phải có để vào Nước Trời. Hãy ở lại trong bình an của Thầy và nguyện Thiên Chúa ở cùng các con”.
Rồi người quay về với các người nghèo và các người bệnh - và trong rất nhiều trường hợp, họ có chứng nọ và tật kia cùng một trật - Người nghe những lời ta thán của họ cách nhân từ, trợ giúp họ bằng tiền bạc, cho những lời khuyên, chữa bệnh bằng cách đặt tay và bằng lời Người. Mathêu ở bên cạnh Người, làm việc phát tiền.
Giêsu nghe một cách chăm chú một bà góa vừa khóc vừa nói với Người về cái chết thình lình của chồng bà, một thợ mộc, tại nhà bà, mới mấy ngày trước đây: “Con đã chạy đi tìm Thầy ở đây. Tất cả bà con của người chết đều kết án con là khiếm nhã và con tim sắt đá, và bây giờ họ nguyền rủa con. Nhưng con, con đã đến bởi vì con biết Thầy cho sống lại, và con biết rằng nếu con tìm được Thầy, chồng con sẽ sống lại. Nhưng Thầy không ở đây... bây giờ ông ấy đã ở trong mồ từ hai tuần rồi... Con ở lại với năm đứa con... Họ hàng ghét con và không giúp con. Con có những cây ôliu và cây nho, không nhiều, nhưng nó có thể cho con bánh ăn vào mùa đông, nếu con có thể giữ nó tới mùa thu hoạch. Nhưng con không có tiền, vì ông ta, từ ít lâu nay không có sức khỏe, ông làm việc rất ít. Và để chống đỡ, ông chỉ ăn và uống qúa cỡ. Ông nói rằng rượu làm cho
347
ông khỏe... nhưng trái lại, nó càng làm cho ông bệnh và nó giết ông, và làm tiêu ma nền tài chánh đã qúa giảm sút vì công việc ít ỏi của ông. Ông sắp sửa làm xong một cái xe và một cái rương. Ông đang làm hai cái giường, những cái kệ và mấy cái bàn. Nhưng bây giờ chưa có cái nào xong cả. Con trai con chưa được tám tuổi. Con sắp bị mất tiền... vì con phải bán các dụng cụ, gỗ lạt. Cái xe và cái rương con cũng chẳng thể bán nó như vậy, mặc dầu nó hầu như sắp xong, và con phải nhượng nó đi giống như gỗ cho lò sưởi, và tiền cũng chẳng đủ, bởi vì con có bà mẹ già và bệnh, và năm đứa con. Chúng con là bảy người... Con sẽ bán vườn nho và các cây ôliu... nhưng Thầy biết người ta thế nào, họ bóp cổ những người đang có nhu cầu. Xin Thầy nói cho con: con phải làm gì? Con muốn giữ lại cơ sở và dụng cụ cho thằng con trai đã biết chút ít về gỗ lạt. Con muốn giữ đất lại để sống và để làm của hồi môn cho con gái con...”
Người đang nghe tất cả những điều đó thì có một sự giao động trong đám người, điều đó báo cho biết là lại có chuyện gì. Người quay lại nhìn và thấy ba người đang rẽ đám đông để đi. Người quay trở lại với bà góa và hỏi: “Bà ở đâu?”
- Ở Corozain, gần con đường dẫn tới phông-ten nước nóng, một căn nhà thấp ở giữa hai cây sung.
- Được rồi. Thầy sẽ đến để hoàn tất cái xe và cái rương. Bà sẽ bán nó cho người đã đặt nó. Hãy chờ Thầy, ngày mai, lúc rạng đông.
- Thầy! Thầy! Làm việc cho con! - Sự ngạc nhiên làm người đàn bà ngộp thở.
- Thầy làm lại công việc của Thầy, và Thầy sẽ cho bà sự bình an. Đồng thời Thầy sẽ cho bài học về lòng bác ái cho những người không có qủa tim ở Corozain.
- Ôi! Vâng! Không có qủa tim! Nếu còn ông già Isaac thì ông sẽ không để con chết đói, nhưng ông đã trở về với Abraham...
- Đừng khóc. Hãy đi bình an. Đây, cái bà cần cho bữa nay. Ngày mai Thầy sẽ đến. Hãy đi bình an.
348
Người đàn bà phục xuống hôn y phục của Người rồi bình tĩnh ra về.
- Thưa Thầy ba lần thánh, con có thể chào Thầy không? - một trong số ba người hỏi. Họ đã đến cách đột ngột và dừng lại cách kính cẩn sau lưng Giêsu trong khi chờ Người cho người đàn bà đi. Vậy họ đã nghe lời hứa của Giêsu. Người đàn ông đã chào Người là Manaen.
Giêsu quay lại nói với một nụ cười: “Bình an cho con, Manaen. Vậy là con đã nhớ đến Thầy”.
- Thưa Thầy, luôn luôn. Con đã quyết định đến tìm Thầy tại nhà Lazarô hay trong vườn ôliu để ở với Thầy. Nhưng trước lễ Vượt Qua, ông Tẩy Giả bị bắt. Ông ta bị bắt lại vì sự phản bội, và con, con sợ trong khi Hêrôđê vắng mặt vì đi Jêrusalem cho lễ Vượt Qua, Hêrôđiađê sẽ ra lệnh giết vị thánh. Nàng đã không đi Sion mừng lễ, nói rằng bị bệnh. Bệnh, đúng: bệnh thù ghét và dâm ô... Con đã đi Machéronte để canh chừng người đàn bà phản trắc, vì bà ta có khả năng tự tay giết ông... Bà ta đã không làm vì sợ thất sủng với Hêrôđê. Ông này... vì sợ hay vì tin, vẫn bảo vệ Gioan, chỉ giới hạn ở việc giữ ông trong tù. Lúc này Hêrôđiađê chạy trốn sức nóng nặng nề của Machéronte để tới ở tại một trong những lâu đài thuộc về bà. Con đến với các bạn con, cũng là môn đệ của Gioan. Ông đã sai họ đến phỏng vấn Thầy, và con xin hợp với họ.
Các người khác, khi nghe nói về Hêrôđê, và hiểu người đang nói là ai, tò mò chen lại chung quanh nhóm của Giêsu và ba người đàn ông.
- Các ông muốn hỏi Thầy điều gì? - Giêsu hỏi sau khi đã trao đổi câu chào với hai nhân vật khắc khổ.
- Nói đi Manaen. Anh biết tất cả, và là người gắn bó với ông ta hơn cả - một trong hai người kia nói.
- Đây, thưa Thầy, Thầy phải khoan dung nếu qúa vì tình yêu, các đồ đệ đi tới chỗ nghi ngờ kẻ mà họ tin là đối lập với thầy của họ và muốn thay thế ông ta. Đó là điều các người của Thầy cũng như của Gioan làm. Đó là một sự ghen tương dễ hiểu chứng tỏ tình yêu của môn đệ đối với thầy của họ. Về phần con... con không thiên vị, và
349
họ, ở với con, họ có thể nói điều đó. Vì con biết Thầy và con cũng biết Gioan. Con yêu cả hai với sự công bằng. Con yêu Thầy vì Đấng mà Thầy là, nhưng con thích làm việc hy sinh là ở lại bên Gioan, vì con tôn kính ông, cũng vậy, vì người mà ông là, và vì hiện thời, ông đang ở trong nguy hiểm hơn Thầy. Bây giờ vì tình yêu này, vì bị kích thích bởi sự thù ghét của các pharisiêu, họ đi tới chỗ nghi ngờ về việc Thầy là Đức Messi. Họ đã thú điều đó với Gioan, tưởng là làm vui lòng ông ta khi nói: “Đối với chúng con, chính Thầy là Đức Messi, không thể có người nào khác thánh thiện hơn Thầy”. Gioan đã bắt đầu bằng cách khiển trách họ, và gọi họ là những kẻ phạm thượng. Rồi sau những lời khiển trách, ông đã dịu dàng cắt nghĩa cho họ tất cả những gì chỉ rõ Thầy đúng là Đấng Messi. Sau cùng, nhận thấy họ chưa tin phục, ông đã chọn hai người trong đám họ, hai người này, và ông nói với họ: “Hãy đi tìm Người và nói với Người nhân danh tôi: ‘Thầy có phải là đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi đấng khác?’” Ông đã không sai các môn đệ là mục đồng, vì họ đã tin, nên không ích lợi gì để sai họ đi. Nhưng ông ta đã chọn giữa đám những người nghi ngờ, để họ tới gần Thầy, và để lời nói của họ đánh tan sự nghi ngờ của những người giống như họ. Con đã đi theo họ để có thể gặp Thầy. Con đã nói rồi. Bây giờ Thầy, Thầy hãy làm dịu sự nghi ngờ của họ.
- Nhưng thưa Thầy, Thầy đừng tin là chúng con thù hận. Các lời của Manaen có thể làm Thầy nghĩ như vậy. Chúng con... chúng con... từ mấy năm rồi, chúng con biết ông Tẩy Giả, và chúng con luôn luôn thấy ông là thánh, sám hối, được linh ứng. Thầy... chúng con chỉ biết Thầy qua lời người khác. Và Thầy biết thế nào là lời nói loài người... Nó tạo ra và phá hủy danh tiếng và sự ca tụng, bởi sự tương phản giữa những kẻ tán dương và những kẻ chê bai, giống như chòm mây tạo thành rồi tan biến do hiệu qủa của hai luồng gió ngược chiều nhau.
- Thầy biết, Thầy biết. Thầy đọc được trong tâm trí các con, và con mắt các con cũng đọc được các sự thật ở chung quanh các con. Cũng như tai các con đã nghe những đàm thoại của Thầy với người
350
đàn bà góa, điều đó đủ để thuyết phục các con. Nhưng Thầy bảo các con: Hãy quan sát những gì ở quanh Thầy. Ở đây không có những người giầu và những người ham chơi bời, không có những người ưa rêu rao bêu xấu, nhưng là những người nghèo, bệnh hoạn, những người Israel ngay lành, muốn biết lời của Thiên Chúa, và không còn gì khác. Ông này, ông kia, người đàn bà này, rồi con bé này, và ông già này, họ đến đây, bệnh hoạn, bây giờ khỏe mạnh. Hãy hỏi họ và họ sẽ nói cho các con, họ bệnh thế nào, và Thầy đã chữa cho họ thế nào, và bây giờ họ thế nào. Hãy hỏi họ đi, hỏi đi, trong lúc này, Thầy nói chuyện với Manaen.
Và Giêsu sắp sửa bỏ đi.
- Không, thưa Thầy, chúng con không nghi ngờ lời Thầy. Chỉ xin Thầy cho chúng con câu trả lời để đem về cho Gioan, để ông dựa vào đó mà thuyết phục các bạn con.
- Hãy về tường thuật các việc này cho Gioan: “Kẻ điếc được nghe: con bé này vừa điếc vừa câm; kẻ câm nói được: ông này đã câm từ bẩm sinh; kẻ mù được thấy. Ông này, lại đây. Hãy nói cho họ ông đã có gì?” Giêsu nói khi cầm tay kẻ được phép lạ. Ông ta nói: “Tôi là thợ nề. Một xô vôi sống đổ đầy vào mặt tôi, nó đốt cháy đôi mắt tôi. Từ bốn năm nay tôi ở trong sự tối tăm. Nhưng Đấng Messi thấm ướt đôi mắt tôi bằng nước miếng của Người, và nó lại trở nên tỏ như khi tôi hai mươi tuổi. Nguyện Người được chúc tụng”.
Giêsu tiếp: “Và với những người mù, người điếc, người câm được khỏi, người què chạy được, người tàn tật đứng dậy. Đây, ông già này lúc nãy hoàn toàn bị biến dạng méo mó, bây giờ thẳng như cây thốt nốt trong sa mạc và lanh lẹ như một con linh dương. Những bệnh trầm trọng nhất cũng được khỏi. Bà này, bà có bệnh gì?”
- Con đau ở vú vì cho những cái miệng hám ăn bú sữa nhiều qúa, và sự đau ở vú ăn mòn sự sống. Bây giờ nhìn đây - và bà mở áo ra, để lộ cặp vú nguyên vẹn, và bà thêm: “Trước nó chỉ là một vết thương, và áo tôi còn dính đầy mủ chứng tỏ điều đó. Bây giờ tôi về nhà, được mặc chiếc áo sạch, tôi khỏe mạnh và sung sướng.
351
Trong khi mới ngày hôm qua, tôi sắp chết, được hai người có lòng bác ái mang tới đây. Nếu chẳng may... Vì thương các đứa trẻ sắp mất mẹ... Ngợi khen Vị Cứu Tinh đời đời”.
- Các ông nghe không? Và các ông có thể hỏi ông trưởng giáo đường của thành phố này về việc sống lại của đứa con gái nhỏ của ông ta; và trong khi đi về Jêricô, hãy ghé qua Naim, hãy hỏi thăm về người thanh niên được sống lại trước mắt cả thành phố vào lúc người ta mang anh ta đi để đặt vào trong mồ. Như vậy các ông có thể phúc trình là các kẻ chết được sống lại, và rất nhiều người hủi được chữa lành. Các ông có thể biết họ ở rất nhiều vùng trong Israel. Nhưng nếu các ông muốn đi Sicaminon thì hãy tìm họ trong đám các môn đệ, các ông sẽ tìm thấy nhiều người ở đó. Vậy hãy nói với Gioan là các người cùi được lành sạch. Và hãy nói, vì các ông thấy đó, là Tin Mừng được loan báo cho người nghèo. Và phúc cho những kẻ không vấp phạm vì Thầy. Hãy nói điều đó với Gioan, và hãy bảo ông là Thầy chúc lành cho ông với tất cả tình yêu của Thầy.
- Cám ơn Thầy. Xin Thầy chúc lành cho chúng con trước khi chúng con đi.
- Các ông không thể đi trong sức nóng này. Vậy hãy là khách của Thầy cho tới buổi chiều. Các ông sẽ sống một ngày đời sống của người thầy này, không phải là Gioan, nhưng được Gioan yêu, vì Gioan biết Người là ai. Hãy vào nhà, ở đó mát, và Thầy sẽ bồi dưỡng cho các ông. Chào tạm biệt các thính giả của Thầy. Bình an cho các con.
Sau khi đã giải tán đám đông, Người vào nhà với ba người khách...
***
Tôi không biết Người nói gì trong những giờ nóng bức ngột ngạt. Điều tôi thấy bây giờ là những sửa soạn cho việc xuất hành của hai môn đệ đi Jêricô. Hình như Manaen ở lại, vì người ta không dắt con ngựa của ông lại cùng với hai con lừa lực lưỡng, tới trước chỗ bức tường mở ra trong sân. Hai người được Gioan sai đi, sau nhiều lần nghiêng mình trước Thầy và Manaen, liền lên yên. Họ còn quay lại
352
để nhìn và chào cho tới khi một khúc quanh che họ khỏi tầm mắt.
Nhiều người ở Caphanaum tụ họp để coi cuộc khởi hành này, vì tin tức về việc hai môn đệ Gioan tới và những câu mà Giêsu trả lời cho họ đã đồn đi khắp vùng, và tôi tin là cả các vùng lân cận nữa. Tôi thấy những người ở Bétsaiđa và Corozain, họ đến với những người được Gioan sai tới để hỏi về các tin tức của ông, và để gửi cho ông lời chào của họ - Có lẽ đây là những môn đệ cũ của ông Tẩy Giả - bây giờ họ ở lại với nhóm các người Caphanaum để bình luận. Giêsu với Manaen ở bên cạnh, vừa đi vào nhà vừa nói chuyện. Nhưng người ta chen nhau ở chung quanh Người, quan sát cách tò mò người anh em cùng sữa của Hêrôđê, và thái độ đầy trọng kính của ông đối với Giêsu, và họ ước ao được nói với Thầy.
Cũng có Jairô, ông trưởng giáo đường, nhưng nhờ ơn Chúa, không phải là một pharisiêu. Chính Jairô nói: “Gioan sẽ bằng lòng! Chẳng những Thầy đã gởi cho ông ta một câu trả lời thấu đáo và cặn kẽ, mà Thầy còn giữ họ lại để có thể giáo huấn họ và chỉ cho họ một phép lạ”.
- Vậy phép lạ nào? - một người hỏi.
- Tôi đã dụng ý dẫn con gái nhỏ của tôi lại đây bữa nay để họ thấy nó. Chưa bao giờ nó mạnh khỏe như vầy. Đối với nó, được gặp Thầy là niềm vui lớn. Các ông đã nghe câu trả lời của nó hen: “Tôi không nhớ chết là thế nào, nhưng tôi nhớ có một thiên thần đã gọi tôi và dẫn tôi đi qua một ánh sáng càng lúc càng mạnh, và ở đầu đường sáng đó là Giêsu. Giêsu như tôi thấy lúc đó với thần trí trở lại trong tôi, bây giờ tôi không được nhìn thấy nữa. Qúi vị và tôi, lúc này chúng ta thấy Người, nhưng thần trí tôi đã thấy Thiên Chúa khép kín trong Người”. Từ đó nó trở nên tốt chừng nào! Trước nó đã tốt, nhưng bây giờ nó đúng là một thiên thần. A! Mỗi người nói điều họ muốn, đối với con, chỉ có Thầy là thánh thôi.
- Nhưng Gioan cũng thánh - một người Bétsaiđa nói.
- Đúng, nhưng ông qúa nghiêm khắc.
- Ông không nghiêm khắc với người khác cho bằng nghiêm khắc với chính ông.
353
- Nhưng ông không làm phép lạ, và người ta nói rằng ông ăn chay để thành đạo sĩ.
- Nhưng ông ta thánh.
Sự tranh luận lan ra trong đám đông. Giêsu giơ tay giang ra với cử chỉ thông thường của Người khi Người đòi hỏi yên lặng và sự chú ý vì Người muốn nói.
Sự yên lặng được thiết lập ngay. Giêsu nói:
- Gioan là vị đại thánh. Đừng nhìn cách ông làm cũng như đừng nghĩ tới sự vắng bóng phép lạ. Thật vậy, Thầy bảo các con: đó là một đại nhân vật trong nước Thiên Chúa. Chính ở đó, ông sẽ xuất hiện trong tất cả sự cao cả của ông.
Nhiều người than phiền là ông nghiêm khắc tới nỗi có vẻ khắt khe. Thật thế, Thầy bảo các con là ông đã làm công việc của một vĩ nhân để dọn đường cho Chúa. Và kẻ làm việc như vậy không mất thời giờ cho sự yếu ớt. Khi ông ở dọc bờ sông Giođan, ông đã chẳng nói những lời mà Isaie đã loan báo về ông và Đức Messi: “Tất cả các thung lũng phải được lấp đầy, núi đồi phải bạt xuống, đường lối quanh co phải nắn cho ngay, đường lối gồ ghề phải san cho bằng”, và như vậy chẳng là để sửa soạn con đường cho Chúa và Vua sao? Trong thực tế, ông đã làm nhiều hơn tất cả Israel để dọn đường cho Thầy. Và kẻ bạt núi, lấp thung lũng, nắn ngay đường và làm cho bằng những chỗ lên dốc khó khăn, chỉ có thể làm việc cách nghiêm khắc. Bởi vì ông là người Tiền Hô, và ông chỉ lớn hơn Thầy có vài tuần trăng, và tất cả phải làm xong trước khi mặt trời lên cao trên ngày cứu chuộc. Ngày đó đã đến. Mặt trời đang lên để chói lọi trên Sion, và từ đó, trên toàn thế giới. Gioan đã dọn đường đúng như ông phải làm. Các con đi xem gì nơi sa mạc? Một cây sậy bị gió uốn cong theo mọi ngả ư ? Vậy các con đi xem gì? Một người ăn mặc lụa là ư ? Nhưng những người này ở trong đền đài vua chúa, bọc thân trong những y phục mềm mại, và được phục vụ cách kính cẩn bởi hàng ngàn tôi tớ và triều thần, họ cũng là triều thần của một con người tội nghiệp. Ở đây có một người, các con hãy hỏi ông xem có phải ông đã chán phè đời sống trong triều, và ông cảm
354
phục tảng đá đơn độc và sù sì, trên đó sấm sét và mưa đá đập vào cách vô ích; những ngọn cuồng phong ngu muội chiến đấu để giựt lấy nó, trong khi nó vững vàng vươn đà của tất cả các bộ phận của nó lên trời, với cái đỉnh nhọn của nó ở trên cao, từ nơi đó, nó rao giảng niềm vui, vì nó vươn cao chừng nào, nhọn như ngọn lửa bốc lên.
Đó là Gioan mà Manaen đã nhìn thấy như vậy, vì ông đã hiểu sự thật về đời sống và sự chết, và ông nhìn thấy sự cao cả ở nơi nó có, dù là nó giấu ẩn dưới vẻ bề ngoài hoang dại.
Và các con, các con đã thấy gì nơi Gioan khi các con tới gặp ông? Một vị tiên tri ư ? Một vị thánh ư ? Thầy bảo các con: Ông còn hơn một tiên tri, ông còn hơn nhiều vị thánh, hơn các vị thánh, vì chính về ông mà có lời chép: “Đây, ta sai thiên thần của ta đến trước con để dọn đường cho con, ở đàng trước con”.
Thiên thần: Hãy suy nghĩ. Các con biết thiên thần là các thần trí trong sạch, do Thiên Chúa tạo dựng giống sự thiêng liêng của Người, dùng làm giây liên lạc giữa loài người - một sự hoàn bị của việc tạo dựng những vật hữu hình và vật chất - và Thiên Chúa: sự toàn thiện của Trời và đất, Đấng Tạo Hóa của vương quốc siêu nhiên và thế giới sinh vật. Trong con người, dù là người thánh nhất, luôn luôn có thịt và máu, để đặt một vực thẳm giữa họ và Thiên Chúa. Vực thẳm này đã thành sâu hơn sau khi tội lỗi làm cho thành nặng nề cả những sự siêu nhiên nơi con người. Vậy đây, Thiên Chúa tạo dựng nên các thiên thần, tạo vật đạt tới đỉnh của bậc thang trong sự tạo dựng, giống như các khoáng chất trong biểu thị nền tảng. Khoáng chất là các bụi cấu tạo nên trái đất, tổng quát là các chất vô cơ. Các đấng là những tấm gương rất trong của tư tưởng Thiên Chúa, là ngọn lửa chuyên chú hành động vì tình yêu, sẵn sàng để hiểu, mau mắn để hành động, tự do trong ý chí cũng như chúng ta, nhưng là ý chí hoàn toàn thánh, không biết phản loạn và những lôi kéo của tội lỗi. Đó là các thiên thần, những kẻ thờ phượng Thiên Chúa, các sứ giả của Người nơi con người. Các đấng bảo vệ chúng ta, cho chúng ta thứ ánh sáng bao quanh các vị, và ngọn lửa mà các vị nhận được
355
trong việc thờ phượng của các ngài.
Gioan được gọi là Thiên Thần bởi lời tiên tri. Vậy Thầy bảo các con: trong số những người được sinh ra bởi đàn bà, không một người nào lớn hơn Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ bé nhất trong nước Trời cũng sẽ lớn hơn ông. Vì kẻ ở trong nước Trời thì là con Thiên Chúa chứ không phải con người đàn bà. Vậy tất cả hãy vươn lên để trở thành công dân của Nước Trời. Các con hỏi nhau điều gì vậy?
- Chúng con nói: Nhưng rồi Gioan sẽ lên Trời chứ? Và ở đó ông ta sẽ thế nào?
- Ông ta, trong thần trí của ông, ông đã ở trong nước trời. Và sau khi chết, ông sẽ ở đó như một mặt trời chói lọi nhất của Jêrusalem đời đời. Nhờ vào Ân Sủng nơi ông không khiếm khuyết, và nhờ vào thiện chí riêng của ông, ông đã và đang cố gắng, cả đến hung bạo với chính mình để có một tận cùng thánh thiện. Kể từ Gioan Tẩy Giả, nước Trời thuộc về những ai biết chinh phục nó bằng sức mạnh chống lại điều xấu, và chỉ có những kẻ mạnh mới chinh phục được. Vì bây giờ người ta đã biết những gì cần phải làm, và đã được ban tất cả cho cuộc chinh phục này. Không còn là thời để nói về Lề Luật và các tiên tri nữa, các vị đã nói cho tới Gioan. Bây giờ là Lời của Thiên Chúa nói, và Lời này không giấu diếm một dấu phẩy nào về những điều phải biết cho cuộc chinh phục này. Nếu các con tin ở Thầy, các con phải coi Gioan như Êlia, người phải đến. Hãy nghe, hỡi những ai có tai để nghe.
Nhưng Thầy phải so sánh thế hệ này với ai? Nó giống như kẻ mà những đứa trẻ này mô tả khi chúng ngồi ở quảng trường và la hét các bạn chúng rằng: “Chúng tôi đã chơi nhạc mà các bạn không nhảy. Chúng tôi đã làm những màn than van mà các bạn không khóc”. Thực tế là: Gioan đến, không ăn không uống thì thế hệ này nói: “Ông ta có thể làm vậy vì ông ta có ma qủi giúp sức”. Con Người đến, có ăn và uống thì họ nói: “Đây là kẻ phàm ăn phàm uống, bạn hữu của đám thu thuế và bọn tội lỗi”. Nhưng Đấng Khôn Ngoan thấy con cái mình và xét xử. Thật vậy, Thầy bảo các con rằng chỉ có những kẻ bé mọn biết nhận ra chân lý, bởi vì trong chúng không có tà tâm.
356
- Thầy nói rất phải - ông trưởng giáo đường nói. “Bởi vậy con gái con, vì nó không có tà tâm, nên nó thấy Thầy theo cách mà không ai trong chúng con thấy được. Dù là thành phố này cũng như các thành phố lân cận, đã thấy đổ tràn trên nó sức mạnh của Thầy, sự khôn ngoan của Thầy, lòng tốt của Thầy, nhưng con phải nhận rằng chúng chỉ gia tăng về lòng độc ác đối với Thầy. Chúng không sám hối, và sự lành mà Thầy ban cho chúng đã làm dậy men thù ghét đối với Thầy”.
- Ông nói thế nào Jairô? Ông vu khống chúng tôi! Chúng tôi ở đây vì chúng tôi trung thành với Đức Kitô - Một người dân Bétsaiđa nói.
- Phải, chúng ta. Nhưng chúng ta được bao nhiêu người? Chưa được một trăm trong số ba thành phố đáng lẽ phải ở dưới chân Giêsu. Những kẻ vắng mặt, và tôi nói về phái nam thôi: một nửa là thù hận, một phần tư dửng dưng, những người khác tôi nói rằng họ không thể tới. Phải chăng đó là một lỗi trước mặt Thiên Chúa? Phải chăng Người sẽ không phạt tất cả những thù ghét này, và cái tội khăng khăng trong điều ác này? Nói đi Thầy. Ai biết ai? Nếu Thầy yên lặng thì là vì lòng nhân từ của Thầy chứ không phải là Thầy không biết. Thầy quảng đại, và người ta coi đó như ngu si và yếu đuối. Vậy xin Thầy nói đi, để ít nhất là lời Thầy lay động những kẻ dửng dưng, bởi vì những kẻ độc ác sẽ không cải thiện, nhưng chúng sẽ càng ngày càng độc ác hơn.
- Đúng, đó là một lỗi và sẽ bị phạt. Bởi vì không bao giờ được khinh bỉ ơn của Thiên Chúa, cũng không được dùng nó để làm những điều xấu. Khốn cho ngươi, Corozain; khốn cho ngươi, Bétsaiđa, các ngươi đã sử dụng xấu các ơn của Thiên Chúa! Nếu thành Tyr và thành Siđon được các phép lạ như đã thực hiện nơi ngươi, thì từ lâu rồi, các dân ấy đã mặc áo nhặm, bỏ tro trên đầu, sám hối và đến với Ta. Vậy Ta bảo các ngươi rằng, trong ngày phán xét, Tyr và Siđon sẽ được hưởng sự khoan dung hơn các ngươi. Và ngươi, hỡi Caphanaum! Ngươi nghĩ rằng chỉ có việc cho Ta trú ngụ là ngươi được tán dương tới tận trời xanh ư ? Ngươi sẽ đi xuống tới tận hỏa ngục, vì nếu các phép lạ Ta đã làm cho ngươi mà được làm
357
ở Sôđôma thì họ vẫn còn thịnh vượng, bởi vì họ sẽ tin vào Ta và sẽ sám hối. Cũng vậy, trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được hưởng khoan hồng hơn, bởi vì họ không biết Đấng Cứu Thế và lời của Người, nên tội của họ sẽ nhẹ hơn là đối với ngươi là kẻ đã biết Đức Messi, đã nghe Lời Người, nhưng không hối cải. Nhưng bởi vì Thiên Chúa công bằng, đối với những người ở Caphanaum, ở Bétsaiđa và Corozain đã tin, đã tự thánh hóa bằng cách vâng lời Thầy, họ sẽ được hưởng lòng thương xót lớn lao. Bởi vì sẽ không công bằng nếu các kẻ công chính bị bao gồm trong sự hư mất của các người tội lỗi. Còn đối với những điều có liên can tới con gái ông, Jairô, và con gái ông, Simon, và con ông, Jacari, và các cháu ông, Benjamin, Thầy nói với các con rằng chúng, không có gian manh, đã được thấy Thiên Chúa rồi. Và các con thấy rằng đức tin của chúng tinh ròng. Đức tin này làm việc trong chúng, kết hợp với sự khôn ngoan trên trời, và với ước vọng bác ái mà các người lớn không có.
Và Giêsu ngước mắt lên bầu trời đã tối đen về buổi chiều, Người kêu lên: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con tạ ơn Cha vì đã giấu những điều này với các kẻ khôn ngoan thông thái, và tỏ nó ra cho những kẻ bé mọn. Lạy Cha, đúng như vậy, bởi vì như vậy là đẹp lòng Cha. Tất cả đã được giao phó cho Ta bởi Cha Ta, và không ai biết được Cha ngoài Con và những kẻ Con muốn mặc khải cho. Và Ta, Ta đã mặc khải cho các kẻ bé mọn, khiêm nhường, trong sạch, vì Thiên Chúa hiệp thông với chúng, và chân lý xuống trên chúng giống như hạt giống rơi trên đất tốt, và Cha cho mưa ánh sáng trên chúng để chúng đâm rễ và mọc cây. Thật cậy, Cha chuẩn bị tâm hồn các trẻ nhỏ bởi tuổi hay bởi ý chí, để chúng biết chân lý, và Ta được vui vì đức tin của chúng”.
130* GIÊSU LÀM THỢ MỘC
CHO BÀ GÓA Ở COROZAIN
Giêsu làm việc hăng say trong một xưởng mộc. Người đang hoàn tất một cái bánh xe. Một đứa trẻ lỏng khỏng và buồn bã giúp Người
358
bằng cách mang tới cho Người vật nọ vật kia. Manaen, nhân chứng vô ích, nhưng là kẻ thán phục, ngồi trên chiếc ghế dài cạnh bức tường.
Giêsu đã cởi cái áo vải đẹp của Người để mặc cái áo mầu đậm, không phải của Người, nó cộc tới nửa ống chân. Một cái áo làm việc sạch sẽ nhưng vá víu, có lẽ là của người thợ mộc đã chết.
Giêsu khuyến khích đứa trẻ bằng những nụ cười và những câu nói hay, dạy nó phải làm thế nào để trét keo vào thật đúng chỗ, để làm bóng mặt trong của cái rương.
- Thầy làm lẹ qúa! - Manaen nói trong khi ông đứng dậy và lướt ngón tay trên đường con lươn của cái rương đã hoàn tất mà đứa trẻ đang đánh bóng bằng một chất lỏng.
- Nó gần xong rồi!...
- Con muốn có nó, công việc mà Thầy đã làm, nhưng người mua đã tới. Có vẻ ông ta có quyền... Thầy làm ông ta thất vọng, vì ông hy vọng lấy tất cả để thế cho chút tiền mà ông ta đã đặt trước. Thay vì lấy lại món tiền, ông ta lấy các vật. Tất cả có vậy thôi. Nếu ông ta là người tin Thầy thì những vật này có giá trị vô tận cho ông. Nhưng Thầy có nghe thấy không?...
- Hãy để ông ta làm. Ở đây còn gỗ, và người đàn bà sẽ rất sung sướng là người ta sử dụng nó để rút ra được mối lợi. Hãy đặt Thầy làm một cái rương, và Thầy sẽ làm cho con...
- Thật à Thầy? Nhưng Thầy có ý định sẽ làm việc nữa à?
- Cho tới khi không còn gỗ. Thầy là một người thợ có lương tâm - Người nói trong khi cười cách cởi mở.
- Một cái rương do Thầy làm! Một di tích thánh chừng nào! Nhưng con sẽ đựng cái gì trong đó?
- Tất cả những gì con muốn, Manaen. Nó chỉ là một cái rương.
- Nhưng do chính Thầy làm!
- Thế nào? Chúa Cha đã làm nên con người, Người đã làm ra hết mọi người, nhưng con người đã để cái gì vào trong họ, loài người đã đặt cái gì vào đó?
Giêsu nói và làm việc, tìm chỗ nọ chỗ kia những dụng cụ Người
359
cần, xiết ê-tô, khoan, bào, quay, tùy nhu cầu của Người.
- Chúng con đã đặt tội vào đó, đúng vậy.
- Con thấy đó. Và hãy tin rằng con người được tạo dựng bởi Thiên Chúa thì hơn cái rương làm bởi Thầy nhiều. Đừng bao giờ lẫn lộn đồ đạc với hành động. Hãy làm cho công việc của Thầy thành một di tích thánh cho tâm hồn con.
- Nghĩa là gì?
- Nghĩa là hãy cho tâm hồn con những giáo huấn suy diễn ra từ cái Thầy làm.
- Lòng bác ái của Thầy, sự khiêm nhường của Thầy, các hoạt động của Thầy... Vậy là các nhân đức này phải không?
- Ừ, và con cũng hãy làm vậy trong tương lai.
- Thưa Thầy vâng. Nhưng Thầy sẽ làm cho con cái rương?
- Thầy sẽ làm cho con. Nhưng hãy coi chừng. Bởi vì con luôn luôn thấy nó như một di tích thánh, Thầy sẽ đòi con phải trả giá xứng đáng vậy. Ít nhất người ta sẽ có thể nói rằng có một lần Thầy cũng đã ham tiền... Nhưng con biết tiền này để cho ai... Để cho những trẻ mồ côi này...
- Hãy hỏi con cái Thầy muốn, con sẽ biếu Thầy. Ít nhất như vậy con sẽ có thể xin lỗi về sự nhàn rỗi của con, trong khi Thầy là Con Thiên Chúa, Thầy lại làm việc.
- Đã chép rằng: ngươi sẽ ăn tấm bánh tưới bằng mồ hôi từ trán ngươi.
- Nhưng điều đó được nói cho loài người có tội chứ đâu phải cho Thầy.
- Ôi! Một ngày kia Thầy sẽ là người có tội. Thầy sẽ có trên Thầy tất cả tội lỗi của thế giới. Thầy sẽ mang nó theo với Thầy vào lúc Thầy ra đi lần đầu.
- Và Thầy tin rằng thế giới sẽ không phạm tội nữa?
- Đáng lẽ nó phải vậy... Nhưng nó sẽ luôn luôn phạm tội. Vì vậy sức nặng mà Thầy mang trên Thầy nó ghê gớm tới nỗi nó làm vỡ tim Thầy. Bởi vì Thầy sẽ có trên Thầy tất cả các tội người ta đã phạm từ ông Ađam cho tới giờ này, và từ giờ này cho tới tận cùng
360
thế giới. Thầy sẽ phải đền trả tất cả tội lỗi loài người.
- Và con người vẫn chưa hiểu Thầy và chưa yêu Thầy. Thầy có tin là Corozain sẽ hoán cải nhờ cái giáo huấn lặng lẽ và thánh thiện mà Thầy đang dạy bằng công việc của Thầy làm để cứu giúp một gia đình không?
- Không. Nó sẽ nói: “Ông ta thích làm việc để giết thời giờ và kiếm tiền”. Nhưng Thầy, Thầy không còn tiền. Thầy đã cho đi tất cả. Thầy luôn luôn cho đi hết những gì Thầy có, cho tới đồng xu nhỏ sau cùng. Và Thầy làm việc để cho tiền.
- Và để ăn. Cho Thầy và cho Mathêu?
- Thiên Chúa sẽ cung cấp.
- Nhưng Thầy cũng đã cho chúng con ăn.
- Đúng vậy.
- Thầy đã làm cách nào?
- Hãy hỏi điều đó nơi ông chủ nhà ấy.
- Chắc chắn con sẽ hỏi ông ta điều đó ngay khi chúng ta trở về Caphanaum.
Giêsu cười cách bình lặng trong bộ râu hoe vàng.
Một lúc yên lặng, trong đó người ta chỉ nghe tiếng nghiến của cái kẹp xoắn kẹp chặt hai mảnh của một bánh xe. Rồi Manaen hỏi: “Thầy tính làm gì trước ngày Sabát?”
- Đi Caphanaum chờ các tông đồ. Điều thích đáng là chúng ta họp nhau vào mỗi chiều thứ sáu, và ở chung với nhau suốt ngày Sabát. Rồi Thầy sẽ ra lệnh. Nếu Mathêu khỏi đau thì sẽ có sáu đôi để đi giảng đạo. Nếu không... Con có muốn đi với họ không?
- Thưa Thầy, con thích ở lại với Thầy hơn... Nhưng xin Thầy để con cho Thầy một lời khuyên.
- Nói đi. Nếu nó chính đáng, Thầy sẽ nhận.
- Thầy đừng bao giờ ở một mình. Thầy có rất nhiều kẻ thù, Thầy ạ.
- Thầy biết điều đó. Nhưng con cho rằng các tông đồ có thể làm được chuyện lớn trong trường hợp nguy hiểm sao?
- Họ yêu Thầy. Con tin vậy.
361
- Đương nhiên. Nhưng cũng vô ích. Các kẻ thù, nếu họ có ý nghĩ chụp bắt Thầy, họ sẽ đến với một lực lượng rất lớn hơn lực lượng các tông đồ.
- Không quan trọng. Thầy đừng ở một mình.
- Trong hai tuần nữa, sẽ có nhiều môn đệ đến với Thầy. Thầy chuẩn bị họ để cũng sai họ đi thuyết giáo. Thầy sẽ không ở một mình nữa. Đừng lo.
Trong khi họ nói chuyện như vậy, nhiều người Corozain tò mò tới nhìn thoáng qua, rồi bỏ đi, không nói gì.
- Họ ngạc nhiên thấy Thầy làm việc.
- Ờ, nhưng họ không biết khiêm nhường để nói: “Người đã cho chúng ta một bài học”. Những người tốt nhất mà Thầy có ở đây thì đều đang ở với các môn đệ, trừ một ông già đã chết. Không hệ. Một bài học thì luôn luôn là bài học.
- Các tông đồ sẽ nói sao khi họ biết Thầy làm thợ?
- Họ là mười một người, vì Mathêu đã tỏ ý kiến rồi, sẽ có mười một ý kiến khác nhau, phần lớn là chống đối. Nhưng chuyện đó sẽ giúp cho Thầy giáo huấn họ.
- Thầy có cho phép con tham dự buổi giáo huấn của Thầy không?
- Nếu con muốn ở lại...
- Nhưng con là môn đệ, còn họ là tông đồ.
- Điều tốt cho các tông đồ thì cũng hữu ích cho các môn đệ.
- Họ sẽ cảm thấy khó chịu bị gọi ra tòa trước mặt con.
- Điều đó tốt để họ học khiêm nhường. Hãy ở lại, hãy ở lại, Manaen ạ. Thầy sẽ tình nguyện giữ con.
- Và con, con tình nguyện ở lại.
Bà góa tới trình và nói: “Thưa Thầy, bữa ăn đã sẵn sàng, nhưng Thầy làm việc qúa cỡ!...”
- Thầy kiếm bánh cho Thầy, bà ạ. Vả nữa... đây là một khách hàng, ông cũng muốn một cái rương, và ông sẽ trả hậu. Chỗ để gỗ rồi sẽ trống.
Giêsu nói trong khi cởi chiếc tạp dề rách ra và đi ra khỏi xưởng để rửa ráy trong cái chậu nước nhỏ mà người đàn bà đã mang tới
362
cho Người ở trong vườn.
Và bà ta, với một nụ cười do dự thoáng hiện ra sau một thời gian dài của nước mắt, bà nói: “Chỗ để gỗ trống rỗng thì căn nhà này đầy sự hiện diện của Thầy, và con tim sẽ đầy tràn bình an. Thầy ơi, con không còn sợ ngày mai nữa. Và xin Thầy đừng sợ là chúng con sẽ quên Thầy”.
Họ đi vào nhà bếp, và thị kiến chấm dứt.
131* “TÌNH YÊU LÀ GIỚI LUẬT
VÀ LÀ BÍ QUYẾT CỦA VINH QUANG”
Giêsu có Manaen hộ vệ, ra khỏi căn nhà của bà góa trong khi nói: “Bình an cho bà và các người của bà. Sau ngày Sabát, chúng ta sẽ trở lại. Chào bé Giuse. Ngày mai con sẽ nghỉ và chơi đùa. Sau đó con sẽ còn phải giúp Thầy nữa. Tại sao con khóc?”
- Con sợ Thầy không trở lại nữa...
- Thầy luôn luôn nói sự thật. Nhưng con buồn vì Thầy đi à?
Đứa trẻ xác nhận bằng cái gật đầu.
Giêsu vuốt ve nó và nói: “Một ngày qua đi rất mau. Ngày mai con ở lại với mẹ con và các em con, còn Thầy, Thầy ở lại với các tông đồ của Thầy và Thầy nói với họ. Những ngày này Thầy đã nói với con để dạy con làm việc, bây giờ Thầy đi tìm họ để dạy họ giảng đạo và trở nên tốt. Con không thể giải khuây với Thầy được, vì chỉ có mình con là con nít ở giữa bao nhiêu người lớn”.
- Ôi! Con không cần giải khuây, bởi vì con ở với Thầy.
- Thầy hiểu. Bà ơi, con bà cũng làm như nhiều người khác, và đó là những người tốt nhất: nó không muốn rời Thầy. Bà có tín nhiệm Thầy để cho phép nó ở với Thầy cho tới ngày mốt không?
- Ôi! Lạy Chúa, nhưng con sẽ cho thầy tất cả. Với Thầy, chúng sẽ an toàn như ở trên trời... Thằng bé này, nó là đứa ở với ba nó nhiều nhất. Nó đã chịu đựng qúa nhiều. Nó đã ở đó vào lúc... Thầy thấy không? Nó toàn khóc lóc héo hon. Đừng khóc con ơi! Hãy hỏi Chúa xem điều mẹ nói có đúng không? Thưa Thầy, con, để yên ủi nó, con luôn luôn nói với nó là nó không mất ba nó. Ông chỉ tạm thời đi xa chúng ta.
363
- Đó là sự thật đó bé Giuse ạ. Đúng hệt như mẹ con nói với con.
- Nhưng từ đây cho tới lúc con chết, con không tìm thấy ông ấy. Con còn bé, nếu con sống đến già như ông Isaac, con phải chờ lâu chừng nào!
- Thằng bé tội nghiệp. Nhưng thời giờ qua đi mau lắm.
- Lạy Chúa, không. Mới có ba tuần lễ con không có ba con, mà con cảm thấy nó rất lâu, qúa lâu... Con không thể quên ông đi được - và nó khóc không ra tiếng, nhưng đau đớn sâu xa.
- Thầy thấy không? Nó cứ vậy thôi. Nhất là khi không có gì làm cho nó lưu ý. Ngày Sabat là một khổ hình. Con sợ nó sẽ chết...
- Không, Thầy có một đứa trẻ khác, không cha không mẹ. Trước nó gầy ốm và buồn thiu, bây giờ ở bên cạnh một người đàn bà đại độ ở Bétsaiđa, và với sự xác tín rằng nó không bị ngăn cách với cha mẹ nó, nó đã tươi nở về thân xác và tâm hồn. Con bà rồi cũng vậy, nhờ vào những lời Thầy sẽ nói với nó, và vì thời gian là một thầy thuốc đại tài, vả nữa, khi nó thấy bà bình an về vấn đề bánh ăn hàng ngày, nó sẽ an tâm. Mặt trời đang lặn và Thầy phải đi. Này Giuse, hãy chào mẹ con, các em con và bà con, rồi chạy theo Thầy.
Và Giêsu ra đi.
- Bây giờ Thầy sắp nói sao với các tông đồ?
- Nói rằng Thầy có một môn đệ cũ và một môn đệ mới.
Họ đi băng qua Corozain, nơi có một đám đông ồn ào. Có một người cản Giêsu lại: “Thầy đi à? Thầy không ở lại cho ngày Sabát à?”
- Không. Thầy đi Caphanaum.
- Suốt tuần không nói lời nào. Chúng con không đáng nghe lời Thầy sao?
- Trong suốt sáu ngày, Thầy đã chẳng nói với qúi vị những lời tốt nhất sao?
- Hồi nào? Và cho ai?
- Cho tất cả, từ xưởng mộc. Trong bấy nhiêu ngày, Thầy giảng là phải yêu tha nhân và giúp đỡ họ bằng mọi cách, đặc biệt là với những kẻ yếu đuối như những bà góa và các trẻ mồ côi. Chào qúi vị của thành Corozain. Trong ngày Sabat, hãy chiêm niệm bài học
364
mà Thầy đã cho qúi vị - Và Giêsu lên đường, để lại các dân thị thành chưng hửng.
Nhưng đứa trẻ chạy để rượt theo Giêsu làm khơi lại sự tò mò của họ. Họ lại cản Giêsu lại và nói: “Thầy mang theo thằng bé của bà góa? Tại sao?”
- Để dạy nó rằng Thiên Chúa là Cha, và nơi Thiên Chúa, nó sẽ tìm lại được người cha đã chết của nó, và cũng để cho có một người biết tin ở đây, thay vì Isaac.
- Ở với các môn đệ Thầy có ba người Corozain.
- Ở với các người của Thầy chứ không phải ở đây. Đứa này sẽ ở đây. Chào.
Và người cầm tay đứa trẻ, dắt nó ở giữa Người và Manaen. Người đi lẹ qua miền quê về phía Caphanaum trong khi vẫn nói chuyện với Manaen.
Họ về tới Caphanaum khi các tông đồ đã ở đó. Họ ngồi trên sân thượng, dưới bóng giàn cây, chung quanh Mathêu. Họ kể cho bạn họ những việc họ đã làm. Ông chưa hết đau. Họ quay lại khi nghe tiếng bước chân xăng đan ở cầu thang. Họ thấy đầu tóc hoe vàng của Giêsu nhô lên từ từ khỏi bức tường của sân thượng. Họ chạy lại với Người. Người mỉm cười... Nhưng họ sửng sốt khi thấy theo sau Người là một đứa trẻ tội nghiệp. Manaen cũng đi lên, lộng lẫy trong y phục vải gai trắng, làm nổi bật vẻ đẹp của chiếc giây lưng qúi của ông. Áo khoác của ông bằng vải nhuộm mầu đỏ lửa, bóng láng như lụa, hơi khoác vào vai, phất phơ sau lưng ông. Cái mũ vải qúi được giữ bởi một chiếc triều thiên bằng vàng mỏng, một thanh vàng có chạm trổ băng ngang qua vầng trán rộng của ông, làm ông có vẻ như một ông vua Ai Cập. Sự hiện diện của ông làm nín bặt những chuỗi câu hỏi, nhưng các con mắt vẫn còn bộc lộ rõ ràng.
Sau các câu chào qua lại, bây giờ các tông đồ ngồi lại gần Giêsu, họ chỉ vào đứa trẻ và hỏi Người: “Còn nó?”
- Cuộc chinh phục vừa qua của Thầy: một Giuse nhỏ, thợ mộc, giống như Giuse lớn đã giúp Thầy như người cha. Như vậy nó rất thân thiết đối với Thầy cũng như Thầy rất thân thiết đối với nó. Có phải không bé con? Lại đây để Thầy cho con biết các bạn của
365
Thầy mà con đã nghe nói tới nhiều. Ông này là Simon Phêrô: người tốt nhất đối với các trẻ em. Và ông này là Gioan, một đứa trẻ lớn, sẽ nói với con về Thiên Chúa cả trong khi chơi. Và ông kia khác là Giacôbê, anh của Gioan, đoan trang như một ông trưởng nam. Ông kia là Andrê, em của Simon Phêrô, con sẽ thấy rất dễ chịu ngay với ông, vì ông êm đềm như một con chiên. Rồi, đó là Simon Zêlote, kẻ yêu biết bao những đứa trẻ không có cha, mà Thầy tin là ông sẽ chạy vòng quanh trái đất để tìm chúng nếu ông không ở với Thầy. Và kia là Judas Simon, và với ông là Philíp người Bétsaiđa, và Natanael. Con coi họ nhìn con qúa trời. Họ cũng có con cái và họ yêu các trẻ em. Và hai ông này là hai anh của Thầy: Giacôbê và Juđa. Họ yêu tất cả những gì Thầy yêu, và như vậy, họ yêu con. Bây giờ chúng ta đi tìm Mathêu. Ông đau chân, nhưng ông không giận ghét các trẻ em mà khi chơi một cách dại dột, đã ném một hòn đá nhọn vào ông. Phải không Mathêu?
- Ồ, thưa Thầy không. Đây là con trai bà góa à?
- Đúng, nó rất dũng cảm, nhưng nó vẫn rất buồn.
- Ôi! Cậu bé tội nghiệp! Ông sẽ gọi Jacquot lại và con sẽ chơi với nó - Mathêu nói khi lôi đứa trẻ lại gần ông và vuốt ve nó.
Giêsu kết thúc việc giới thiệu bằng Tôma. Ông là con người thực tiễn, hoàn tất bằng cách cho đứa trẻ chùm nho mà ông hái ở giàn cây.
- Bây giờ các con là bạn - Giêsu kết luận và lại ngồi xuống trong khi đứa trẻ ăn nho và trả lời cho Mathêu khi ông giữ nó ở bên cạnh ông.
- Thầy đã ở đâu trong cả tuần lễ vậy?
- Ở Corozain đó Simon Phêrô.
- Điều đó con biết. Nhưng Thầy làm gì ở đó? Thầy tới nhà Isaac à?
- Isaac, người lớn tuổi, đã chết.
- Vậy sao?
- Mathêu không nói điều đó với con à?
- Không, anh ta chỉ nói rằng Thầy đi Corozain từ ngày hôm sau,
366
sau khi chúng con khởi hành.
- Mathêu dũng cảm hơn con, anh ta biết nín lặng. Con thì con không biết hãm phanh sự tò mò của con.
- Không phải của con. Của hết mọi người.
- Vậy thì Thầy đi Corozain để rao giảng đức bác ái bằng hành động.
- Bác ái bằng hành động? Thầy muốn nói gì? - nhiều người hỏi.
- Ở Corozain có một bà góa với năm đứa con và một bà mẹ già bệnh. Chồng bà chết thình lình gần xưởng làm, để lại sau ông sự khốn khó và những công việc dở dang. Corozain không biết tìm lấy một chút thương xót đối với gia đình khổ sở này. Thầy đến để hoàn tất các công việc và...
Có một sự ồn ào. Kẻ thì hỏi, kẻ thì phản đối, người thì la rầy Mathêu là đã để vậy; kẻ thì thán phục, người thì chỉ trích. Nhưng số người chỉ trích và phản đối là số đông.
Giêsu để cho cơn giông hạ xuống cũng như nó đã nổi lên, và Người nói để trả lời cho tất cả: “Và ngày mốt Thầy sẽ trở lại đó, và Thầy sẽ làm như vậy cho tới khi Thầy xong việc. Thầy hy vọng rằng ít nhất là có các con hiểu. Corozain là một cái hạt cứng mà lại không có cái mầm. Ít nhất là các con, hãy là các hạt có mầm ở bên trong. Con, bé con, hãy đưa cho Thầy cái hạt mà Simon đã cho con, và cả con nữa, hãy nghe Thầy:
Các con thấy cái hạt này không? Thầy lấy nó bởi vì ở đây Thầy không có cái hạt nào khác trong tầm tay. Nhưng để hiểu dụ ngôn, hãy nghĩ tới các hạt thông, hay cái gáo dừa, hay những hạt cứng nhất, ví dụ hạt ôliu. Đó là những cái túi khép kín, không có đường nứt, rất cứng, như gỗ đặc. Nó giống như chiếc hộp kỳ diệu mà chỉ sự hung bạo có thể mở nó ra. Nhưng nếu người ta chôn nó xuống đất, dù là chỉ đặt nó xuống đất rồi ai đi qua đạp lên, nhấn nó xuống, chỉ cần đủ để nó lún vào trong đất, cái gì sẽ xảy ra? Cái hột cứng sẽ mở ra, xuất hiện những cái rễ và những cái lá. Làm sao tự nó có thể làm được chuyện đó? Chúng ta thì chúng ta phải đập mạnh bằng cái búa mới thành công. Cái hạt, trái lại, một mình nó tự mở ra. Vậy là cái hạt giống này kỳ diệu sao? Không. Ở bên trong nó có một
367
chất thịt. Ôi, một chất mềm. Hãy so sánh nó với cái vỏ cứng! Nhưng nó nuôi một vật còn nhỏ bé hơn, đó là cái mầm. Và chính cái mầm này trở thành cái đòn bẩy, nó làm áp lực, mở ra và cho một cây với rễ và lá. Hãy thử để các hạt vào trong đất rồi chờ. Các con sẽ thấy là một số hạt mọc ra cây, một số khác thì không. Hãy moi các hạt không mọc lên, dùng cái búa đập nó ra mà coi, các con sẽ thấy đó là các hạt rỗng. Vậy không phải ẩm độ của đất và sức nóng làm cho cái vỏ cứng mở ra, nhưng là cái thịt, đúng hơn là linh hồn của cái thịt, tức là cái mầm, khi nó trương lên, nó làm nhiệm vụ như cái đòn bẩy để mở ra.
Đó là dụ ngôn, nhưng hãy áp dụng nó vào chúng ta: Có phải Thầy đã làm điều không nên làm không? Vậy chúng ta còn qúa ít hiểu để không hiểu rằng giả hình là một tội, và lời nói chỉ là gió nếu hành động không tới để cho nó sức mạnh? Phải chăng Thầy đã không luôn luôn nói với các con: Hãy yêu nhau. Tình yêu là giới luật và là bí quyết của vinh quang, mà Thầy, người giảng bảo, Thầy lại có thể thiếu bác ái sao? Thầy cho các con cái gương mẫu của một ông thầy dối trá sao? Không. Không bao giờ.
Ôi! Các bạn ơi! Có thể chúng ta là một cái hạt cứng. Cái hạt cứng này đóng kín ở bên trong nó một chất thịt: linh hồn. Trong linh hồn này có một cái mầm mà Thầy đã đặt vào đó. Nó được làm bằng rất nhiều yếu tố, nhưng cái căn bản là đức bác ái. Chính nó làm công việc của cây đòn bẩy để mở cái vỏ cứng ra và giải phóng cho linh hồn khỏi sự câu thúc của vật chất, bằng cách kết hợp nó với Thiên Chúa là chính Đức Ái. Người ta không phải chỉ làm việc bác ái bằng lời nói và tiền bạc, người ta còn làm việc bác ái chỉ bằng bác ái. Mong rằng điều đó không có vẻ là một trò chơi chữ đối với các con. Thầy, Thầy không có tiền, và các lời nói không đủ cho trường hợp này. Ở đây có bảy người đang ở bờ hố sâu đói khát và lo âu. Sự thất vọng giơ các móng vuốt đen của nó ra để bắt lấy họ và nhận chìm. Thế giới xa lìa, khắc nghiệt và ích kỷ trước sự khốn nạn này. Thế giới làm như không hiểu lời của ông Thầy, nên ông Thầy phải giảng Tin Mừng bằng phương tiện việc làm. Thầy
368
có khả năng và có tự do để làm, và Thầy có bổn phận yêu thay cho mọi người, những đứa trẻ này mà thế giới để cho chúng không tình yêu. Đó chính là cái Thầy làm. Các con còn có thể chỉ trích Thầy không? Hay là Thầy - trước sự hiện diện của một môn đệ đã không bực tức khi đem thân vào giữa đám mạt cưa và dăm bào, để không bỏ rơi ông Thầy. Và Thầy chắc rằng ông sẽ quyến luyến với Thầy khi thấy Thầy cúi xuống trên cây gỗ hơn là thấy Thầy ngồi trên ngai; và trước sự hiện diện của đứa trẻ đã biết Thầy là ai, mặc dầu sự dốt nát của nó, mặc dầu những bất hạnh đè lên nó, và sự vô tri tuyệt đối của nó đã nhận ra Đức Messi như Người là trong thực sự - hay là lại chính Thầy phải chỉ trích các con?
Các con không nói nữa à? Đừng có chỉ buồn khi Thầy cao giọng để dựng thẳng lên những tư tưởng sai lầm. Thầy làm vậy chính vì tình yêu. Hãy đặt trong các con cái mầm có sức thánh hóa và mở cái hạt ra, nếu không, các con sẽ mãi mãi là những kẻ vô ích. Điều Thầy đã làm, các con cũng phải sẵn sàng để làm. Vì tình yêu tha nhân và để dẫn dắt các linh hồn về cho Thiên Chúa, các con không được coi việc gì là qúa nặng nhọc. Công việc, dù là việc gì, không bao giờ hạ thấp chúng ta. Nhưng điều hạ thấp chúng ta là những hành động đê tiện, dối trá, những cáo gian, những cay nghiệt, những bất công, sự trục lợi, sự vu khống, sự dâm đãng. Chính những điều đó làm ô nhục con người. Nhưng người ta đã làm mà không hề xấu hổ, kể cả những kẻ tự xưng là hoàn thiện. Và chắc chắn họ bêu xấu khi thấy Thầy làm việc với cái cưa cái búa. Ôi! Ôi! Cái búa! Cái búa đáng khinh, nhưng nếu nó được dùng để đóng cái đinh vào trong gỗ, để chế tạo những vật có thể cho những trẻ mồ côi này có của ăn, thì nó sẽ trở nên cao qúi chừng nào! Cái búa không cao qúi gì, nhưng nếu nó ở trong tay Thầy, và với một kết cục thánh, nó sẽ không còn cái vẻ bề ngoài này nữa, và nó sẽ được ước ao chiếm hữu chừng nào bởi những kẻ bây giờ la lối, cho là một sỉ nhục vì nó!
Ôi! Con người, tạo vật đáng lẽ phải là ánh sáng và sự thật, ngươi tối tăm và dối trá chừng nào! Nhưng các con, ít nhất là các con,
369
phải hiểu điều tốt là gì, bác ái là gì, vâng lời là gì. Thật vậy, thầy bảo các con rằng một số rất đông là các pharisiêu, và họ không vắng mặt trong số những kẻ vây quanh Thầy.
- Không, thưa Thầy, đừng nói vậy. Chúng con... Bởi vì chúng con yêu Thầy nên chúng con không muốn một số điều...
- Bởi vì các con chưa hiểu gì cả. Thầy đã nói với các con về Đức Tin và Đức Cậy, và Thầy cho rằng không cần lời lẽ mới nào nữa để nói với các con về Đức Ái, bởi vì Thầy đã xông tỏa nó ra tới nỗi các con phải bão hòa nó rồi. Nhưng Thầy thấy là các con chỉ biết có cái tên của nó, mà không biết về đặc tính và các hình thức của nó, cũng giống như kiểu các con biết về mặt trăng thôi.
Các con có nhớ không, cái bữa Thầy nói với các con rằng Đức Cậy giống như cái đòn ngang của cái ách êm đềm để nâng đỡ Đức Tin và Đức Ái, và nó là cái giảo đài của nhân tính, là ngai của phần rỗi? Có nhớ. Nhưng các con không hiểu ý nghĩa lời Thầy. Tại sao các con không xin Thầy giải thích? Thầy sẽ cắt nghĩa cho các con: đó là một cái ách, vì nó bó buộc con người hạ thấp cái kiêu căng ngu xuẩn của nó xuống dưới sức nặng của các chân lý đời đời, và đó là cái giảo đài của sự kiêu căng này. Con người hy vọng nơi Thiên Chúa là Chúa nó, nó cần phải hạ thấp cái kiêu căng muốn tự xưng mình là Thiên Chúa, để tự biết mình là không, và Thiên Chúa là tất cả. Nó không thể làm được gì, trong khi Thiên Chúa toàn năng; nó là cát bụi sẽ qua đi, trong khi Thiên Chúa vĩnh cửu. Nhưng Thiên Chúa đã nâng cát bụi lên một bậc cao trong khi ban cho nó phần thưởng đời đời. Con người tự đóng đinh mình vào cây thập giá thánh để đến với đấng là Sự Sống. Và nó đóng đinh mình vào Thánh Giá bằng ngọn lửa của Đức Tin và Đức Ái, nhưng nó được nâng lên trời bởi Đức Cậy ở giữa hai đức kia. Nhưng các con hãy nhớ lấy điều giáo huấn này: Nếu không có Đức Ái, chiếc ngai sẽ không có ánh sáng, và cơ thể bị tháo ra khỏi thập giá ở một bên, sẽ nghiêng xuống bùn, vì nó không còn nhìn thấy trời. Như vậy nó hủy bỏ hiệu quả cứu rỗi của Đức Cậy, và kết cục, làm cho Đức Tin thành trơ trơ. Bị tháo mất hai trong ba nhân đức đối thần, người ta sẽ rơi vào uể
370
oải và sự lạnh lùng chí tử.
Đừng xua đuổi Thiên Chúa, dù là trong những điều nhỏ nhặt nhất. Xua đuổi Thiên Chúa tức là từ chối một sự giúp đỡ đối với tha nhân vì một sự kiêu hãnh kiểu dân ngoại.
Giáo lý của Thầy là một cái ách làm cho nhân tính có tội phải gấp lại, là cái chày để đập bể cái vỏ cứng mà giải phóng cho tâm hồn. Đúng, đó là cái ách và cái chày, nhưng ai tiếp nhận nó thì không cảm thấy sự mệt mỏi chán ngán như các giáo thuyết khác của loài người, hay tất cả những gì khác thuộc về loài người làm cho họ. Những kẻ để cho mình bị đập bể không cảm thấy cái đau vì bị bể trong cái tôi nhân loại của nó, nhưng nó có cảm giác được giải phóng. Tại sao các con tìm cách giải phóng để rồi lại thay thế nó bằng tất cả những gì là nặng nề và đau đớn? Tất cả các con đều có cái đau đớn và mệt mỏi của mình. Toàn thể nhân loại đều có những đau thương và mệt mỏi, nhiều khi vượt sức con người, từ tấm bé - giống như đứa bé này đây, nó đã mang trên đôi vai nhỏ của nó một gánh rất nặng làm nó gù xuống, và làm mất nụ cười trẻ thơ trên môi nó cũng như sự vô tư của tâm trí nó, vẫn luôn luôn nói theo kiểu nhân loại, nó sẽ không bao giờ là trẻ thơ nữa - cho tới ông già nghiêng mình về nấm mồ với tất cả sự thất vọng, mệt mỏi, và gánh nặng của các vết thương vì một đời dài của ông. Nhưng trong giáo lý của Thầy và trong lòng tin vào Thầy, có sự nâng đỡ để mang cái sức nặng đè bẹp này. Chính vì thế mà người ta gọi nó là Tin Mừng. Ai tiếp nhận nó và vâng lời nó thì sẽ sung sướng ngay từ trần gian này, vì họ có Thiên Chúa nâng đỡ họ, và các nhân đức làm cho đường đi của họ thành sáng sủa và dễ dàng, tựa như họ có những người chị đầy tình nghĩa cầm tay họ dắt đi, với những ngọn đèn thắp sáng để soi sáng con đường của họ và đời sống của họ, và hát cho họ nghe những lời hứa vĩnh cửu của Thiên Chúa, cho tới lúc để lại cơ thể mệt mỏi của họ trên trái đất, họ trỗi dậy để về Thiên Đàng.
Hỡi loài người! Tại sao các con chịu mệt mỏi, tiêu điều, nản lòng, chán ngán, thất vọng, trong khi các con có thể được nâng đỡ
371
và củng cố? Tại sao các con cũng vậy, các tông đồ của Thầy, tại sao các con lại muốn cảm thấy sự chán nản của sứ mạng, những khó khăn của nó, những khó khăn khắc nghiệt của nó, trong khi với một niềm phó thác như trẻ thơ, các con chỉ có thể có nỗi vui dồn dập, với sự dễ dàng trong ánh sáng để hoàn thành nó, và hiểu cũng như cảm thấy rằng nó chỉ khắt khe với những ai không sám hối, không biết Thiên Chúa. Còn với những ai trung thành với nó thì nó giống như một bà mẹ nâng đỡ con nhỏ của bà trên đường đi, chỉ cho đôi chân chập chững của nó tránh những cục đá, những bụi gai, những ổ rắn, những hố rãnh, để nó biết những chỗ đó mà không bị thiệt mạng.
Lúc này các con buồn, nỗi buồn của các con có một khởi đầu bi đát! Các con buồn trước hết vì sự khiêm hạ của Thầy giống như một tội chống lại chính Thầy. Rồi các con buồn vì các con hiểu ra rằng các con đã làm Thầy buồn, và như vậy các con còn xa sự hoàn thiện. Nhưng với số ít trong các con, nỗi buồn này sinh ra bởi kiêu ngạo, cái kiêu ngạo bị tổn thương vì nhận thấy mình còn là số không, trong khi bởi kiêu căng, các con muốn là mình toàn vẹn. Các con hãy chỉ có một sự khiêm nhường bằng lòng nhận sự sửa sai và nhìn nhận là mình lầm. Và hãy hứa trong quả tim các con là các con muốn sự toàn thiện chỉ vì một mục đích vượt trên loài người. Rồi các con hãy đến với Thầy, Thầy sẽ sửa chữa cho các con, nhưng Thầy sẽ hiểu và thương các con.
Hãy đến với Thầy, các con tông đồ của Thầy. Hãy đến với Thầy, tất cả các con, những người đau khổ vì những đau thương vật chất, đau thương tinh thần, đau thương siêu nhiên. Cái đau thương sau cùng nó gây ra cho các con bởi cái khổ không biết tự thánh hóa như các con muốn vì tình yêu Thiên Chúa và sự ân cần sốt sắng không trở lại với điều xấu. Con đường thánh hóa thì dài và mầu nhiệm, đôi khi nó hoàn thành mà người du hành không hay biết gì. Họ tiến bước trong tối tăm, với mùi vị chất độc ở trong miệng; họ ngỡ mình không tiến được bước nào, và không được uống thức uống của Trời. Họ không biết rằng sự mù tối thiêng liêng này cũng là một yếu tố
372
của sự hoàn thiện.
Hạnh phúc, ba lần hạnh phúc cho những kẻ tiếp tục tiến bước, dù không cảm thấy ánh sáng và những êm dịu; không nhượng bộ vì lẽ không thấy gì và không cảm thấy gì, họ không dừng lại để nói: “Tôi không tiến bước nữa bao lâu Thiên Chúa không cho tôi sự thích thú”. Thầy bảo các con: con đường tối tăm nhất sẽ trở nên rực sáng cách thình lình, khi nó dẫn ngay vào khung cảnh Thiên Đình. Cái chất độc, sau khi đã làm biến đi hết những mùi vị của những thứ thuộc về loài người, sẽ biến thành sự êm đềm của Thiên Đàng cho những người can đảm này. Họ sẽ ngạc nhiên nói: “Thế này là thế nào? Tại sao lại có cho tôi một sự êm ái dường này, và một niềm vui như vầy?” Bởi vì họ đã kiên trì, nên ngay từ dưới đất này, Thiên Chúa đã làm cho họ được tận hưởng niềm vui trên Trời.
Nhưng trong khi chờ đợi, để có thể cầm cự, hãy đến cùng Thầy, các con, những kẻ mỏi mệt, chán nản. Các con tông đồ của Thầy, và cùng với các con, tất cả những ai tìm Thiên Chúa, những ai khóc vì những đau thương họ gặp trên trái đất, những ai mòn mỏi trong cô đơn, Thầy sẽ bổ dưỡng cho các con. Hãy mang lấy ách của Thầy, đây không phải là một gánh nặng, nhưng là sự nâng đỡ. Hãy ôm lấy giáo lý của Thầy như một người tình yêu qúi. Hãy bắt chước Thầy các con, Người không giới hạn ở sự chúc phúc mà thôi, nhưng Người làm điều Người dạy. Hãy học nơi Thầy là người êm đềm và khiêm nhường trong lòng, các con sẽ tìm được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn các con, bởi vì sự êm đềm và khiêm nhường chiếm được nước Chúa ở dưới đất và ở trên Trời. Thầy đã nói với các con rằng những kẻ chiến thắng giữa loài người là những kẻ chinh phục bằng tình yêu, mà tình yêu thì luôn luôn êm đềm và khiêm tốn. Thầy không bao giờ bảo các con làm điều gì vượt qúa sức các con, bởi vì Thầy yêu các con, và Thầy muốn các con ở với Thầy trong vương quốc của Thầy. Vậy hãy cầm lấy huy hiệu và bộ đồng phục của Thầy, và hãy cố gắng nên giống như Thầy và như giáo lý của Thầy dạy các con. Đừng sợ, vì ách của Thầy êm ái và gánh của Thầy nhẹ nhàng, trong khi nếu các con trung thành thì vinh quang mà các con được hưởng sẽ cực kỳ lớn lao. Lớn lao vô cùng và đời đời.
373
Thầy rời các con một lúc. Thầy đi ra bờ hồ với đứa trẻ, nó sẽ tìm được các bạn... Rồi chúng ta sẽ cùng nhau bẻ bánh. Đi, Giuse. Thầy sẽ cho con làm quen với những đứa trẻ yêu Thầy.
132* “CON TIM KHÔNG ĐƯỢC CẮT BÌ”
Cùng cảnh như thị kiến trước. Giêsu chào từ biệt bà góa trong khi đã cầm tay thằng bé Giuse. Người nói với người đàn bà: “Sẽ không ai đến trước khi Thầy trở lại, ít nhất như vậy cũng là tử tế. Nhưng nếu có ai tới thì hãy giữ họ lại cho tới ngày mốt, nói với họ là chắc chắn Thầy sẽ trở lại”.
- Thưa Thầy, con sẽ nói vậy, và nếu có các bệnh nhân, con sẽ cho họ trú ngụ như Thầy đã dạy con.
- Vậy thôi, chào. Bình an cho các con. Đi, Manaen.
Do những biểu thị vắn tắt này, tôi hiểu rằng những bệnh nhân và những kẻ khổ sở đã tới tìm Người ở Corozain, và bài học về việc làm mà Giêsu cho đã đi kèm với các phép lạ. Và nếu Corozain vẫn dửng dưng, thì đó là dấu chỉ đây là vùng đất hoang, người ta không thể cày bừa. Giêsu đi qua, chào những kẻ chào người như không có chuyện gì xảy ra. Người tiếp tục nói chuyện với Manaen, ông tự hỏi không biết nên đi Machéronte hay ở lại thêm một tuần nữa...
... Trong lúc này, tại căn nhà ở Caphanaum, họ đang sửa soạn ngày Sabát. Mathêu hơi què, tiếp đãi các bạn ông, biếu họ nước, trái cây tươi và hỏi thăm về sứ mạng của họ.
Phêrô bĩu môi khi thấy các pharisiêu đã rảo gần nhà: “Họ muốn đầu độc chúng ta vào ngày Sabát. Tôi nói là rất nên đi gặp Thầy để bảo người đi về Bétsaiđa, để cho những người này thất vọng luôn”.
- Anh tin là Thầy sẽ làm vậy sao? - em ông hỏi.
- Vả lại, trong phòng dưới nhà có một người khốn khổ tội nghiệp đang chờ - Mathêu nhận xét.
- Ta có thể mang họ trên thuyền về Bétsaiđa. Tôi với ai nữa đi gặp Thầy đi! - Phêrô nói.
- Có thể, có thể... - Philíp nói. Vì ông có gia đình ở Bétsaiđa nên ông tình nguyện về đó.
374
- Hơn nữa... coi kìa, coi kìa! Hôm nay các luật sĩ đã gia tăng lính gác. Ta đi thôi, đừng mất thời giờ. Các anh cùng với người bệnh đi qua vườn và ra đường ở phía sau nhà. Tôi sẽ đem thuyền tới cho các anh tại giếng cây sung. Giacôbê cũng làm giống vậy. Simon Zêlote và các anh của Giêsu đi gặp Thầy đi.
- Tôi, tôi không đi với tên bị qủi ám - Iscariot tuyên bố.
- Tại sao? Anh sợ ma qủi tấn công anh à?
- Đừng làm phiền tôi, Simon Jonas. Tôi đã nói tôi không đi là tôi không đi.
- Vậy hãy đi với các bà con của Thầy để đón Giêsu.
- Không.
- Bết qúa! Vậy đi ra thuyền đi.
- Không.
- Nhưng tóm lại là anh muốn gì? Anh luôn luôn là người gây trở ngại...
- Tôi muốn ở lại nơi tôi đang ở: tại đây. Tôi không sợ ai cả và tôi không đi trốn. Vả lại, Thầy sẽ không biết ơn vì ý kiến của các anh, rồi sẽ lại có một bài giảng nữa về khiển trách, và tôi không muốn chịu đựng nó tại vì các anh. Các anh đi đi. Tôi, tôi ở lại đây để cho tin tức...
- Không. Hoặc đi hết, hoặc không ai đi cả - Phêrô kêu lên.
- Vậy là không ai đi cả, bởi vì Thầy ở đây. Kìa, Người đang về - Zêlote nói cách nghiêm trang khi ông đang canh chừng trên đường.
Phêrô bất bình, càu nhàu trong hàm râu của ông. Ông ra đón Giêsu cùng với những người khác. Sau những lời chào đầu tiên, họ nói với Người về một kẻ bị ám, mù và câm, đang chờ cùng với cha mẹ anh, đã đến từ nhiều giờ rồi. Mathêu giải thích: “Anh ta trơ trơ, nằm trên đống bao rỗng và không nhúc nhích. Cha mẹ anh hy vọng ở Thầy. Vào bồi dưỡng cái gì đi rồi Thầy sẽ trợ cứu anh ta”.
- Không. Thầy đi tìm anh ta ngay. Anh ta ở đâu?
- Trong phòng dưới nhà, gần chiếc lò. Con để anh ở đó với cha mẹ anh, vì có nhiều pharisiêu và luật sĩ như đang mai phục...
- Đúng. Tốt hơn là đừng làm vui lòng họ - Phêrô cằn nhằn.
- Judas Simon không ở đây à? - Giêsu hỏi.
375
- Ông ngồi lại trong nhà. Luôn luôn là ông ta phải làm khác với mọi người - Phêrô lại cằn nhằn.
Giêsu nhìn ông nhưng không khiển trách. Người vội vã đi về nhà trong khi giao đứa trẻ cho trúng ngay Phêrô. Ông vuốt ve nó và lập tức moi trong thắt lưng ra một cái còi và nói: “Một cái cho con, một cái cho con trai ông. Chiều mai ông sẽ dẫn con tới gặp nó. Ông đã bảo các người chăn chiên mà ông nói về Giêsu, làm cho ông”.
Giêsu vào nhà, chào Judas. Ông làm như đang bận rộn xếp đặt chén bát. Rồi Người đi thẳng vào một nơi giống như phòng chứa lương thực, đâu lưng với cái lò nướng bánh.
- Đem người bệnh ra - Giêsu ra lệnh.
Một pharisiêu, không phải người Caphanaum, nhưng có vẻ còn gắt gỏng hơn các pharisiêu trong xứ, ông nói: “Đây không phải người bệnh, đây là một người bị ám”.
- Luôn luôn là một bệnh của thần trí...
- Nhưng anh ta có mắt và lưỡi bị trói...
- Luôn luôn là một bệnh về thần trí, nó lan sự chiếm giữ qua các chi thể và các bộ phận. Nếu ông để tôi hoàn thành, ông sẽ biết điều đó có ý nghĩa gì. Kể cả chứng sốt là ở trong máu, nhưng từ máu, nó tấn công phần nọ phần kia của cơ thể.
Người pharisiêu không biết đối đáp ra sao nên nín lặng.
Người bị ám đã được dẫn tới trước mặt Giêsu, trơ trơ đúng như Mathêu nói. Anh ta bị rầy rà bởi ma qủi. Trong lúc này người ta kéo đến rất đông. Thật không tin được làm sao mà vào giờ này, tôi nói có lẽ là giờ giải lao, người ta chạy rất lẹ tới nơi nào có cái gì để coi. Bây giờ có các kỳ mục của Caphanaum, trong số đó có bốn pharisiêu, có Jairô, và trong một góc, với lời xin lỗi vì có lệnh canh chừng, là viên bách binh đội trưởng Rôma, và cùng với anh ta là các công dân thuộc các thành phố khác.
- Nhân danh Thiên Chúa, hãy rời khỏi con ngươi mắt và lưỡi của người này, Ta muốn vậy. Hãy ra khỏi tạo vật này và không bao giờ được phép chiếm giữ nó nữa. Đi ngay! - Giêsu la lên khi Người giơ tay truyền lệnh.
Phép lạ bắt đầu bằng một tiếng rống điên dại của ma qủi, và kết
376
thúc bằng tiếng kêu vui mừng của kẻ được giải thoát. Anh ta kêu: “Con vua Đavít! Con vua Đavít! Đấng Thánh và là Vua!”
- Làm sao nó biết được kẻ chữa nó là ai? - một luật sĩ hỏi.
- Nhưng tất cả những chuyện này là hài kịch! Những người này được trả tiền để làm - một pharisiêu nhún vai nói.
- Nhưng bởi ai? Nếu được phép hỏi ông điều đó - Jairô hỏi.
- Cả đến bởi ông.
- Nhưng với mục đích nào?
- Để làm nổi tiếng cho Caphanaum.
- Đừng hạ thấp sự thông minh của ông xuống để nói một điều ngu xuẩn như vậy, và đừng làm dơ lưỡi ông bởi những lời dối trá. Ông biết điều đó không đúng, và ông phải hiểu rằng ông nói một điều ngu ngốc. Điều xảy ra ở đây thì cũng xảy ra ở nhiều nơi trong Israel. Vậy ra khắp nơi đều có những người trả tiền? Thật vậy, thế mà tôi không biết rằng trong Israel, đám dân nhỏ lại rất giầu! Bởi vì các ông, và cùng với các ông là tất cả những ông tai to mặt lớn, chắc chắn là các ông không trả tiền cho chuyện này rồi. Vậy là chỉ có đám dân nhỏ trả tiền, vì chỉ có họ yêu ông Thầy.
- Ông là trưởng giáo đường mà ông cũng yêu ông ta. Ở đây có Manaen, và ở Bêtani có Lazarô Théophile. Những người này không phải là đám dân nhỏ.
- Nhưng họ thật thà, và tôi cũng vậy. Chúng tôi không lường gạt ai về bất cứ cái gì, và càng không hơn nữa trong những việc thuộc về đức tin. Chúng tôi không cho phép điều đó vì chúng tôi kính sợ Thiên Chúa, và chúng tôi hiểu rằng điều làm vui lòng Thiên Chúa là sự ngay thẳng.
Các người pharisiêu quay lưng lại với Jairô và tiếp xúc với cha mẹ của người được chữa khỏi: “Ai bảo các người đến đây?”
- Ai à? Rất nhiều người, đã được chữa lành hoặc bà con họ.
- Nhưng, họ đã cho các người cái gì?
- Cho à? Sự bảo đảm rằng Người sẽ chữa nó.
- Nhưng có đúng là nó bệnh không?
- Ôi! Các lòng trí nham hiểm! Các ông nghĩ rằng tất cả những
377
chuyện này là sự giả vờ sao? Nếu các ông không tin, hãy đi Gadara và hãy hỏi tin tức về sự khốn nạn của gia đình Anna Ismael.
Các người Caphanaum công phẫn và biểu lộ cách ồn ào, trong khi các người Galilê đến từ vùng lân cận Nazarét thì nói: “Nhưng đây là con bác thợ mộc Giuse mà!”
Những người Caphanaum trung thành với Giêsu thì kêu: “Không, đây là đấng mà anh được chữa lành đã gọi tên là: Con Thiên Chúa và con Đavít”.
- Nhưng đừng qúa tán dương người dân này bằng những lời xác định của qúi vị - một luật sĩ nói cách khinh bỉ.
- Vậy theo ông thì Người là ai?
- Một Benzêbút!
- Ôi! Miệng lưỡi rắn độc, kẻ phạm thượng, kẻ bị qủi ám! Các con tim mù quáng! Sự đổ nát của chúng ta! Cả đến niềm vui vủa Đấng Messi, các ông cũng muốn cướp lấy của chúng ta, hen! Các kẻ cho vay nặng lãi! Các viên đá khô cằn! - một cảnh ồn ào thật đẹp!
Giêsu đã vào trong nhà bếp để uống chút nước, Người lại trở ra đứng trên ngưỡng cửa đúng lúc để nghe một lần nữa sự kết án ngu xuẩn mà các pharisiêu nhai lại: “Đó chỉ là một Benzêbút, bởi vì ma qủi vâng lời ông ta. Tên đại Benzêbút là cha ông ta đã giúp ông ta, và ông ta chỉ xua đuổi ma qủi do ảnh hưởng của Benzêbút, thủ lãnh các ma qủi”.
Giêsu bước xuống hai bậc thềm của ngưỡng cửa và tiến thẳng, nghiêm nghị và bình tĩnh, đứng ngay trước mặt nhóm luật sĩ và pharisiêu. Trong khi nhìn họ đăm đăm với cái nhìn xuyên thấu, Người nói:
- Ngay cả trên mặt đất, chúng ta cũng thấy rằng một vương quốc bị phân chia thành từng mảnh đối nghịch nhau, thì trong nội bộ nó đã trở nên yếu. Người ta có thể tấn công nó dễ dàng, và các nước lân bang sẽ tàn phá nó và bắt nó làm nô lệ. Cũng trên mặt đất, các ông thấy rằng một thành phố chia ra thành từng phần đối nghịch nhau, sẽ bị mất sự thịnh vượng. Cũng vậy, một gia đình mà
378
các phần tử chia rẽ bởi sự ghen ghét, nó sẽ tan tành và trở nên những mảnh nhỏ chẳng ích lợi gì cho ai, và làm cho các người đồng hương chê cười. Sự hòa hợp không phải chỉ là bổn phận, mà còn là một khả năng pháp lý, vì nó giữ cho người ta độc lập, mạnh và có tình thương. Đó chính là điều mà các người đồng hương, các dân của một thành phố, các phần tử trong gia đình cần suy nghĩ khi vì ước ao một mối lợi cá nhân, họ sẽ đi tới chỗ chia rẽ và bị những nhiễu hại luôn luôn nguy hiểm, vì các người, các nhóm đối nghịch nhau sẽ phá hủy tình thương.
Trong thực tế, chính cái năng lực pháp lý này là cái mà các người lãnh đạo thế giới thực hành. Hãy quan sát Rôma trong sức mạnh không chối cãi được của nó, và rất nặng nề đối với chúng ta: Nó cai trị thế giới, và nó hợp nhất trong các kế hoạch với một ý chí duy nhất: Thống trị, dù là giữa họ với nhau, chắc chắn có những khác biệt, những ác cảm, những phản động. Nhưng điều đó chỉ chôn ở đáy, còn ở trên mặt là một khối duy nhất, không rạn nứt, không hỗn độn. Tất cả họ đều muốn cùng một điều, và họ thành công vì họ muốn. Và họ sẽ thành công bao lâu họ còn muốn cùng một điều.
Hãy nhìn cái gương mẫu loài người này về năng lực pháp lý của sự đoàn kết, và hãy suy nghĩ: Nếu con cái của thế kỷ này làm như vậy, lẽ nào Satan lại không như vậy? Họ, đối với chúng ta là những Satan, nhưng tính cách satan của dân ngoại là không so với tính cách satan toàn vẹn của Satan và các ma qủi của nó. Ở đó, trong cái nước vĩnh cửu này, những mưu mô, những độc ác là vô hạn, không thể đếm các thế kỷ, nó không có tận cùng. Nơi mà người ta hưởng thụ bằng cách gây tổn hại cho Thiên Chúa và cho loài người; nơi mà hơi thở là làm thiệt hại. Sự hưởng thụ đau đớn, độc nhất và ghê gớm của chúng trong sự nguyền rủa trọn vẹn, là thành lập sự hiệp nhất các thần trí trong một ý chí duy nhất: Gây tổn hại.
Bây giờ, bởi vì các ông muốn chống đỡ Satan để làm cho người ta nghi ngờ sức mạnh của tôi: nếu Satan là đứa giúp tôi, bởi vì tôi là một Benzêbút cấp thấp, thì có phải Satan đã đi tới chỗ bất đồng ý kiến với chính nó và với các ma qủi của nó khi nó xua đuổi các qủi
379
này ra khỏi những người mà chúng chiếm giữ không? Nếu chúng bất đồng ý kiến thì nước chúng làm sao tồn tại được? Không, điều đó không thể. Satan là những gì xảo quyệt nhất, và nó không thể nào làm tổn hại chính mình. Nó hướng về đích: mở rộng, chứ không phải thu hẹp biên giới của nước nó trong các tâm hồn. Sự sống của nó là: ăn cắp, gây tổn hại, nói dối, xúc phạm, quấy rối, đánh cắp các linh hồn của Thiên Chúa, đánh cắp sự bình an của loài người; gây thiệt hại cho các tạo vật của Chúa Cha và làm cho Người buồn rầu. Nói dối để làm cho người ta lạc đường. Gây thương tích, xúc phạm để vui hưởng. Quấy rối, bởi vì nó là kẻ vô trật tự. Nó không thể thay đổi. Nó là đời đời trong thực thể của nó và trong các phương pháp của nó.
Nhưng các ông hãy trả lời câu hỏi này: nếu tôi xua đuổi ma qủi nhân danh Benzêbút, thì con cháu các ông sẽ nhân danh ai mà xua đuổi chúng? Các ông muốn nhìn nhận rằng lúc đó chúng cũng là các Benzêbút sao? Bây giờ nếu các ông nói vậy thì chúng sẽ thấy các ông là những kẻ vu khống. Nếu chúng thánh thiện tới cỡ chúng không phản ứng gì trước sự kết tội của các ông, thì các ông sẽ tự phán xét chính mình khi thú nhận rằng trong Israel có rất nhiều qủi, và Thiên Chúa sẽ phán xét các ông nhân danh các con cái Israel bị các ông kết án là ma qủi. Bởi vì từ nơi xét xử, thực sự chúng là thẩm phán của các ông, nơi mà sự xét xử không lệ thuộc vào ảnh hưởng của loài người.
Rồi nếu, đúng như sự thật, tôi xua đuổi ma qủi nhờ vào Thần Trí của Thiên Chúa, thì đó là bằng cớ rằng Nước Thiên Chúa và vị Vua của nước này đã đến với các ông. Vị Vua này có một sức mạnh đến nỗi không một lực lượng nào đối lập với nước Người có thể kháng cự được. Chính vì vậy mà tôi trói buộc và cưỡng bách những kẻ đã chiếm giữ các con cái của nước tôi phải ra khỏi nơi chúng đang chiếm giữ, và trả lại cho tôi cái mồi của chúng để tôi chiếm giữ. Phải chăng đó không phải là điều thông thường người ta vẫn làm? Khi một kẻ nào đó muốn vào trong căn nhà có một người lực lưỡng ở, để chiếm lấy của cải của họ, dù là của đó được tậu cách tốt hay
380
xấu, họ sẽ làm như vầy: nó vào nhà đó và trói chủ nhà lại, rồi sau đó nó có thể cướp phá căn nhà. Tôi, tôi trói tên thần trí tối tăm đã đánh cắp của tôi cái thuộc về tôi, và tôi lấy lại cái nó đã ăn cắp của tôi. Tôi, một mình tôi có thể làm, vì tôi là đấng duy nhất mạnh mẽ, là cha của thế kỷ tương lai, là Hoàng Tử hòa bình.
- Yêu cầu ông giải thích cho chúng tôi ý nghĩa điều ông muốn nói: “cha của thế kỷ tương lai”. Ông tin rằng ông sẽ sống tới thế kỷ sau, và ngu hơn nữa, ông nghĩ là ông sẽ tạo dựng thời gian sao? Ông là một con người tội nghiệp, mà thời gian thì thuộc về Thiên Chúa - một luật sĩ hỏi.
- Chính ông, một luật sĩ, ông hỏi tôi điều đó sao? Vậy ra ông không biết rằng sẽ có một thế kỷ mà nó chỉ có lúc bắt đầu, nhưng không có tận cùng, đó là thế kỷ của tôi? Chính trong thế kỷ này, tôi sẽ toàn thắng, tụ tập ở chung quanh tôi tất cả con cái của nó, và họ sẽ sống đời đời, giống như thế kỷ này mà tôi đã tạo dựng, và tôi đang tạo dựng nó bằng cách đặt tâm hồn vào một giá trị bên trên thể xác, bên trên thế giới, bên trên hỏa ngục mà tôi xua đuổi. Vì tôi có thể tất cả.
Vì lý do này, tôi bảo các ông rằng ai không hợp tác với tôi là chống lại tôi. Ai không thu thập với tôi là phân tán. Bởi vì tôi là Đấng Tự Hữu, và ai không tin điều đó thì như đã được tiên tri, nó phạm tội chống lại Thánh Linh mà lời nói của Người đã được nói bởi các tiên tri, những lời không dối trá, không sai lầm, những lời buộc phải tin và không được chống cự.
Tôi nói với các ông: tất cả sẽ được tha thứ cho con người, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng, bởi vì Thiên Chúa biết con người không phải chỉ toàn là thần trí, mà còn có xác thịt, và xác thịt bị cám dỗ sẽ rơi vào những yếu đuối bất ngờ. Nhưng lời phạm thượng chống lại Thánh Linh sẽ không được tha. Ai nói phạm tới Con Người sẽ còn được tha, bởi vì sự nặng nề của xác thịt bao bọc Ngôi Vị của tôi, và bao bọc kẻ đã nói chống lại tôi, nên tội của nó còn có thể kết luận là vì sai lầm. Nhưng kẻ nào nói chống lại Thánh Linh sẽ không được tha, dù trong đời này, dù trong đời tương lai, bởi vì Chân Lý là
381
đúng như Người là: rõ ràng, thánh thiện, không thể chối cãi, và được bộc lộ cho tâm hồn theo cách không thể dẫn nó tới sai lầm. Trong ý nghĩa này, chỉ những kẻ muốn sai lầm mới phạm lỗi sai lầm. Từ chối Chân Lý do Thánh Linh nói là từ chối Lời của Thiên Chúa và Tình Yêu mà lời này ban vì tình yêu đối với loài người. Và tội chống lại Tình Yêu thì không được tha.
Nhưng mỗi người đều cho trái từ cây của nó. Các ông cho trái từ cây của các ông, và đó không phải là những trái tốt. Nếu các ông cho một cây tốt để trồng trong vườn thì nó sẽ cho những trái tốt; nhưng nếu các ông cho một cây xấu thì những trái người ta hái trên nó sẽ xấu, và mọi người sẽ nói: “Cây này không tốt”. Bởi vì xem trái thì biết cây.
Và các ông, các ông là những người xấu, làm sao các ông có thể nói tốt? Bởi vì miệng nói những điều do qủa tim đầy tràn ra. Hành động và lời nói của chúng ta đến từ những sự qúa đầy tràn ở trong chúng ta. Người tốt thì rút ra ở trong kho tàng của họ những thứ tốt, người xấu thì rút ra trong kho tàng của họ những thứ xấu. Họ nói, họ hành động theo điều họ có trong nội tâm của họ.
Thật vậy, tôi nói với các ông rằng lười biếng là một khuyết điểm, nhưng thà không làm gì còn hơn là làm điều xấu. Tôi cũng nói với các ông rằng thà nín lặng còn hơn nói lời vô ích và độc ác. Dù là nếu sự nín lặng cũng là nhàn rỗi, nhưng hãy thi hành nó còn hơn là phạm tội bằng cái lưỡi. Tôi bảo đảm với các ông rằng tất cả những lời người ta nói vì rảnh rỗi sẽ bị đòi chứng minh trong ngày phán xét; tôi nói với các ông rằng người ta sẽ bị đòi chứng thực các lời người ta đã nói, và bởi lời nói của họ mà người ta bị kết án. Bởi vậy hãy cẩn thận. Các ông nói rất nhiều điều còn tệ hơn là vô ích, bởi vì chẳng những chúng vô ích, mà chúng còn sinh điều xấu, với mục đích làm xa lìa các con tim khỏi Chân Lý đang nói với các ông.
Các pharisiêu bàn bạc với các luật sĩ, rồi cùng nhau làm bộ lịch sự để hỏi Người: “Thưa Thầy, bởi vì nhìn thấy thì dễ tin hơn. Vậy xin Thầy cho chúng tôi một dấu hiệu để chúng tôi có thể tin rằng Thầy là như Thầy nói”.
382
- Có phải các ông đã nhận thấy rằng các ông có cái tội chống lại Thánh Linh, đấng đã nhiều lần chứng tỏ rằng tôi là Ngôi Lời Nhập Thể? Ngôi Lời và Cứu Chúa, đến vào thời gian đã chỉ định, được đi trước và được theo sau bởi các dấu hiệu tiên tri, làm những điều Thánh Linh nói.
Họ trả lời: “Chúng tôi tin vào Thánh Linh, nhưng làm sao chúng tôi có thể tin vào Thầy, nếu tận mắt chúng tôi không xem thấy một dấu hiệu?”
- Làm sao các ông có thể tin vào Thánh Linh mà các hành động của Người là siêu nhiên, nếu các ông không tin vào các hành động của tôi là những thứ dễ cảm đối với con mắt các ông? Đời tôi đầy những hành động đó. Bấy nhiêu còn chưa đủ sao? Không. Chính tôi trả lời là không. Không đủ. Thế hệ gian dâm và đồi bại này tìm một dấu hiệu, nó chỉ được ban cho một dấu hiệu: dấu hiệu của tiên tri Jonas. Qủa vậy, cũng giống như Jonas đã ở lại ba ngày trong bụng cá he, Con Người cũng ở lại ba ngày trong lòng đất. Thật vậy, tôi nói với các ông rằng đến ngày phán xét, dân thành Ninive sẽ sống lại cùng với tất cả những người khác, và họ sẽ đứng lên để chống lại thế hệ này và kết án nó, vì họ nghe lời tiên tri Jonas và đã sám hối, còn các ông thì không. Và ở đây có đấng còn cao trọng hơn Jonas nhiều. Cũng thế, hoàng hậu phương nam cũng sẽ sống lại chống đối các ông và kết án các ông, vì bà đã từ chân trời góc biển đến để nghe lời khôn ngoan của Salômôn. Ở đây có đấng còn hơn Salômôn nhiều.
- Tại sao Thầy nói rằng thế hệ này gian dâm và đồi trụy? Nó không tệ hơn các thế hệ khác, nó cũng có những vị thánh như các thế hệ khác. Xã hội Israel đâu có thay đổi. Thầy xúc phạm đến chúng tôi.
- Chính các ông xúc phạm đến chính các ông, bằng cách làm thiệt hại cho linh hồn các ông, bởi vì các ông đẩy nó ra xa Chân Lý, và vì thế, xa phần rỗi. Nhưng dù sao tôi cũng trả lời cho các ông: thế hệ này chỉ thánh ở y phục và vẻ bề ngoài. Trong nội tâm, nó không thánh. Trong Israel có nhiều tên giống nhau để chỉ cùng một
383
sự vật, nhưng không có cái thực tế của sự vật: cùng một phong tục, cùng một y phục, cùng một nghi thức, nhưng nó thiếu linh hồn. Các ông gian dâm vì các ông đã ruồng bỏ cuộc hôn nhân thiêng liêng với Lề Luật của Thiên Chúa; và trong liên lạc ngoại tình lần thứ hai, các ông đã cưới lấy luật của Satan. Các ông chỉ cắt bì trong một cơ quan hư nát, con tim không được cắt bì. Các ông xấu vì các ông đã bán mình cho Đứa Xấu. Tôi nói xong rồi.
- Thầy xúc phạm đến chúng tôi nhiều qúa! Nhưng nếu qủa như vậy thì tại sao Thầy không giải thoát Israel khỏi ma qủi để nó trở nên thánh?
- Israel có muốn không? Không. Những kẻ khốn nạn này đến để được giải thoát khỏi ma qủi thì muốn, bởi vì họ cảm thấy ở trong họ một gánh nặng và một sự xấu hổ. Các ông thì không cảm thấy vậy, cho nên các ông có được giải thoát cũng vô ích, bởi vì không có ý muốn được giải thoát, các ông sẽ bị chiếm lại ngay một cách mạnh mẽ hơn. Khi thần ô uế ra khỏi một người, nó lang thang trong những nơi khô cằn để tìm chỗ nghỉ nhưng không tìm thấy - hãy ghi chú là không phải nói về những nơi khô cằn về vật chất. Chúng khô cằn vì chúng hận thù đối với nó và không tiếp đón nó, cũng như vùng đất khô cằn hận thù với hạt giống - khi đó nó nói: ta sẽ trở lại căn nhà mà ta đã bị đuổi ra bởi một sức mạnh và ngoài ý muốn của nhà ấy, chắc chắn nó sẽ tiếp đón ta và cho ta nghỉ ngơi. Qủa vậy, nó trở lại với kẻ thuộc về nó, và thường nó thấy họ sẵn sàng tiếp đón nó. Bởi vì tôi nói thực với các ông, người ta thường nuối tiếc Satan hơn là nuối tiếc Thiên Chúa. Nếu Satan không chụp lấy các cơ quan của họ bởi một sự chiếm cứ khác thì họ sẽ than van. Vậy nó trở lại, nó thấy nhà ấy trống trải, quét dọn sạch sẽ, có trang hoàng và thơm tho vì trong sạch, nó liền đi kiếm bảy qủi khác nữa, vì nó không muốn mất nhà này nữa. Với bảy thần trí còn xấu hơn nó, nó vào và tất cả cư ngụ ở đó. Vậy tình trạng thứ hai này của người đã trở lại một lần, rồi lại hư hỏng lần thứ hai, sẽ tệ hơn tình trạng lúc trước. Bởi vì ma qủi nó có thể ước lượng người này có cảm tình với Satan và vô ơn đối với Thiên Chúa tới cỡ nào, và bởi vì Thiên Chúa cũng
384
không trở lại nơi người ta đã dày đạp các ơn của Người. Và những kẻ đã cảm thấy bị chiếm hữu rồi, sẽ lại mở cánh tay ra cho một sự chiếm hữu mạnh hơn. Sự rơi lại trong tay Satan còn tệ hơn sự tái ngã vào bệnh lao phổi chí tử đã được chữa một lần rồi. Nó không còn có thể giảm bớt hay lành mạnh lại. Như vậy, thế hệ này cũng thế, hoán cải bởi ông Tẩy Giả rồi, bây giờ nó muốn thành tội nhân, bởi vì nó có cảm tình với Đứa Xấu chứ không với tôi.
Có sự ồn ào, không phải đến từ sự tán đồng hay phản đối, chạy lan trong đám đông bây giờ rất đông, chen chúc trên sân thượng, ngoài vườn, và còn đầy ngoài đường. Có những người ngồi vắt ngang trên bức tường nhỏ làm lan can cho sân thượng, một số khác leo lên cây sung trong vườn hoặc các cây ở vườn bên cạnh, vì mọi người đều muốn nghe cuộc đấu khẩu giữa Giêsu và các kẻ thù của Người. Tiếng ồn như những đợt sóng đi từ ngoài khơi vào bờ, đi từ miệng nọ tới miệng kia cho tới tai các tông đồ ở gần Giêsu nhất, tức là Phêrô, Gioan, Zêlote và hai người con ông Alphê. Còn những người khác, người thì ở trên sân thượng, người thì trong bếp, trừ Judas Iscariot ở ngoài đường, giữa đám đông.
Phêrô, Gioan, Zêlote và hai con ông Alphê nghe được tiếng ồn này nên nói với Giêsu: “Thưa Thầy, có mẹ Thầy và các anh Thầy ở ngoài đường, họ tìm Thầy, vì họ muốn nói với Thầy. Hãy ra lệnh cho đám đông tránh ra để họ có thể đến với Thầy, bởi vì chắc chắn phải có lý do quan trọng dẫn họ tới đây để tìm Thầy”.
Giêsu ngẩng đầu lên và thấy ở đàng sau đám đông khuôn mặt lo âu của mẹ Người. Mẹ đang chiến đấu để không khóc, trong khi Giuse Alphê nói gì với mẹ cách rất khích động. Và Người thấy cử chỉ phủ nhận của mẹ Người, làm đi làm lại, đầy nghị lực, mặc dầu sự khẩn khoản của Giuse. Người cũng thấy khuôn mặt lúng túng của Simon, rõ ràng là khổ sở, chán ngán... Nhưng Giêsu không mỉm cười và không ra lệnh. Người để Kẻ Khổ Sở trong nỗi khổ của bà và các anh bà con ở chỗ họ đang ở.
Người hạ tầm mắt xuống trên đám đông và trả lời cho các tông đồ ở gần Người. Người cũng trả lời cho những kẻ ở xa đang muốn làm cho máu mủ có giá trị hơn bổn phận: “Ai là mẹ Thầy, ai là các
385
anh em Thầy?” Người đảo cái nhìn nghiêm khắc của Người, trên khuôn mặt của Người đã tái mét vì sự hùng mạnh Người phải làm để đặt bổn phận ở bên trên tình cảm và máu huyết, và để phủ nhận giây liên lạc gắn bó Người với mẹ Người, để phục vụ Chúa Cha, và với một cử chỉ trải rộng trên đám đông chen chúc chung quang Người, dưới ánh sáng đỏ của các ngọn đuốc và ánh sáng bạc của mặt trăng hầu như tròn, Người nói: “Đây là mẹ Thầy, đây là các anh em Thầy. Ai làm theo ý Thiên Chúa thì là anh chị em Thầy và mẹ Thầy. Thầy không có ai khác. Và các người của Thầy sẽ như vậy, nếu, với một sự hoàn thiện trọn hảo hơn tất cả những người khác, họ thi hành ý Thiên Chúa cho tới hy sinh hoàn toàn tất cả những ý muốn khác cũng như tiếng nói của máu huyết và tình cảm”.
Đám đông rì rào mạnh hơn, giống như tiếng động của biển bỗng dưng nổi lên vì gió.
Các luật sĩ bắt đầu lẩn đi khi nói: “Đó là tên bị ám, hắn từ chối cả máu huyết của hắn”.
Các người anh họ tiến lên trong khi nói: “Đó là thằng điên, nó hành hạ cả tới mẹ nó”.
Các tông đồ thì nói: “Trong sự thật, lời này rất anh hùng”.
Đám đông thì nói: “Người yêu chúng ta chừng nào!”
Maria với Giuse và Simon rẽ đám đông ra cách khó khăn. Maria chỉ có êm đềm. Giuse tuyệt đối phát sùng. Simon bối rối. Họ tới gần Giêsu.
Giuse tấn công Người lập tức: “Mày điên à? Mày xúc phạm tới mọi người, mày không kính trọng cả mẹ mày. Nhưng bây giờ tao ở đây, tao sẽ ngăn cản mày. Có thật là mày đi chỗ nọ chỗ kia để làm thợ không? Nếu đúng vậy, tại sao mày không làm việc trong xưởng của mày để nuôi mẹ mày? Tại sao mày nói dối khi nói rằng công việc của mày là thuyết giáo? Mày lười và vô ơn nếu mày đi làm việc để kiếm tiền trong một nhà lạ. Qủa thật mày giống như bị ám bởi một thằng qủi, nó làm cho mày đi lang thang. Hãy trả lời đi!”
Giêsu quay lại, cầm tay thằng bé Giuse, đưa nó lại gần ông, rồi xốc nách nâng nó lên và nói: “Công việc của tôi là để cho trẻ vô tội
386
ngây thơ này có của ăn, cũng như cho các người thân của nó, và để thuyết phục họ rằng Thiên Chúa nhân từ. Sự khiêm nhường và tình bác ái đã được giảng ở Corozain. Và không phải chỉ cho Corozain, mà cho cả anh nữa, Giuse, người anh bất công. Nhưng tôi, tôi tha cho anh, vì tôi biết anh bị cắn bởi những cái răng rắn độc. Và tôi tha cho cả anh nữa, Simon hay thay đổi. Tôi không có gì để tha cho mẹ tôi, cũng không có gì để được tha bởi bà, vì bà xét đoán cách công bình. Mọi người hãy làm điều họ muốn. Tôi thì tôi làm điều Thiên Chúa muốn. Và với phúc lành của Chúa Cha và của mẹ tôi, tôi sung sướng hơn là nếu cả thế giới tung hô tôi là vua theo kiểu thế gian. Đi, mẹ ơi, đừng khóc. Họ không biết điều họ làm. Hãy tha cho họ”.
- Ôi! Con ơi! Mẹ biết. Con biết đó. Không còn gì để nói nữa...
- Không còn gì khác để nói với người ta ngoài câu này: “Hãy đi bình an”.
Giêsu chúc lành cho đám đông. Rồi tay phải dắt mẹ Người, tay trái dắt đứa trẻ, Người đi về phía cầu thang và đi lên đó trước tiên.
133* CÁI CHẾT CỦA GIOAN TẨY GỈA
Giêsu đang chữa cho các bệnh nhân, không có ai tham dự ngoài Manaen. Họ đang ở trong căn nhà tại Caphanaum, trong khu vườn có bóng mát vào giờ sáng sớm. Manaen không còn chiếc giây lưng qúi giá của ông, cũng không còn thanh vàng trên trán. Y phục của ông được ôm vào người bằng sợi giây len, và cái mũ thì được giữ bằng một băng vải hẹp. Giêsu để đầu trần như thường lệ khi Người ở nhà. Sau khi đã chữa lành và an ủi các bệnh nhân, người lên phòng trên sân thượng với Manaen, và cả hai ngồi trên bệ chiếc cửa sổ nhìn lên trên đồi, vì về phía hồ, hoàn toàn chìm ngập dưới mặt trời, hãy còn nóng bức, mặc dầu thời kỳ đại nhiệt đã qua đi ít lâu rồi.
- Chỉ còn thời gian ngắn nữa là đến mùa thu hoạch - Manaen nói.
387
- Ừ, rồi sắp sửa Lễ Lều... và mùa đông sẽ mau chóng tới. Con, con tính bao giờ đi?
- Hum! Con sẽ không bao giờ đi... Nhưng con nghĩ tới ông Tẩy Giả. Hêrôđê là người yếu đuối. Khi người ta biết gây ảnh hưởng cho ông trong điều tốt thì ông không trở nên tốt, ông giữ ít nhất... không đổ máu. Nhưng rất ít người cho ông ta những lời khuyên tốt. Và cái bà đó! Bà đó!... Nhưng con muốn ở lại đây cho tới khi các tông đồ của Thầy trở lại. Không phải vì con, không phải con cậy vào mình nhiều, nhưng con còn có giá cho một cái gì... mặc dầu thế lực của con đã giảm rất nhiều từ khi họ hiểu rằng con ở trên con đường lành. Nhưng điều đó không quan hệ đối với con. Con muốn có cái can đảm thực sự để từ bỏ tất cả và theo Thầy cách trọn vẹn, cũng như các môn đệ mà Thầy đang chờ. Nhưng con có bao giờ thành công không? Chúng con, những người không thuộc về dân chúng, luôn luôn ngập ngừng hơn để theo Thầy. Tại sao vậy?
- Bởi vì các con có những tua vòi của cái giầu sang tội nghiệp nó giữ các con lại.
- Nói thực ra, con biết có một số, không giầu theo đúng nghĩa đen, nhưng thông thái, hay đang tiến tới thông thái, họ cũng không tới.
- Họ cũng có những tua vòi của sự giầu sang tội nghiệp nó giữ họ lại. Người ta không phải chỉ giầu về tiền bạc, cũng còn có sự giầu có về hiểu biết. Rất ít người đi được tới chỗ nhận ra như Salômôn: “Phù hoa của mọi phù hoa. Tất cả chỉ là phù hoa”, được giữ gìn và khuếch đại ra, chẳng những chỉ về vật chất, mà còn ở tận trong chiều sâu của giáo huấn. Trong đầu óc con có tư tưởng này không? Khoa học loài người là phù hoa, vì nó chỉ nâng cao sự hiểu biết về nhân loại. “Đó là sự mệt mỏi và đau khổ cho lòng trí, vì kẻ phát triển khoa học thì cũng phát triển sự tổn hại”. Thầy nói thật với con như vậy. Thầy cũng nói với con rằng sẽ không như vậy, nếu khoa học nhân loại được nâng đỡ và củng cố bởi sự khôn ngoan siêu nhiên và tình yêu thánh của Thiên Chúa. Sự hưởng thụ là phù hoa, bởi vì nó không tồn tại, và nó tan biến mau lẹ sau khi đã cháy,
388
chỉ để lại tro bụi và trống rỗng. Của cải tích góp của các kỹ nghệ khác nhau đều là phù hoa đối với con người, họ sẽ chết, để nó lại cho người khác, và với những của cải này, họ không thể xua đuổi cái chết. Đàn bà, trong lãnh vực đàn bà, và như họ được ước ao, cũng là phù hoa. Tóm lại, chỉ có một sự duy nhất không phải là phù hoa, tức là sự kính sợ Thiên Chúa và vâng theo các giới răn của Người, tức là sự khôn ngoan của một loài, không phải chỉ là xác thịt, mà còn chiếm hữu một bản chất thứ hai: bản chất siêu nhiên. Ai biết kết luận như vậy, ai muốn cắt đứt hết mọi tua vòi của các chiếm hữu hèn mọn, sẽ được tự do đi gặp Mặt Trời.
- Con muốn nhớ những lời này. Trong những ngày này, Thầy đã cho con biết bao. Bây giờ con có thể đi vào giữa sự xấu xa của triều đình, nó chỉ có vẻ sáng sủa cho những kẻ ngu. Nó có vẻ mạnh và tự do, nhưng thực sự chỉ là khốn cùng, tù đày và tăm tối. Con tới đó với cái kho tàng cho phép con sống tốt ở đó, trong khi chờ đợi điều tốt hơn. Nhưng có bao giờ con tới được cái điều tốt hơn này, tức là thuộc về Thầy hoàn toàn không?
- Con sẽ tới được chỗ đó.
- Bao giờ? Năm tới? Hay muộn hơn? Hay khi tuổi già làm cho con thành khôn ngoan?
- Con sẽ tới đó bằng cách đạt tới sự trưởng thành về tâm hồn và sự toàn thiện của ý muốn sẽ diễn biến trong vài giờ.
Manaen nhìn Người, suy nghĩ, nghi vấn... nhưng ông không hỏi gì khác nữa.
Một lúc yên lặng, rồi Giêsu hỏi: “Con có bao giờ lại gần Lazarô người Bêtani không?”
- Thưa Thầy không. Con có thể nói là không. Có vài lần gặp gỡ, nhưng điều đó không thể gọi được là tình bạn. Thầy biết đó... Hêrôđê về phe con, nhưng chống lại Lazarô... vậy...
- Bây giờ Lazarô nhìn con ở bên ngoài sự vật, tức là trong Thiên Chúa. Con nên tìm cách để tới gần ông ta như một đồng môn đệ.
- Con sẽ làm, nếu Thầy muốn.
Có những tiếng nói xao xuyến ở trong vườn. Họ hỏi cách lo
389
lắng: “Ông Thầy! Ông Thầy! Người có ở đây không?”
Giọng nói véo von của bà chủ nhà trả lời: “Người ở trong phòng trên sân thượng. Các ông là ai? Bệnh nhân à?”
- Không. Các môn đệ của Gioan, và chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu Nazarét.
Giêsu ở trước cửa sổ và nói: “Bình an cho các con. Ồ, các con đấy à? Tới đây, tới đây”.
Đó là ba người mục đồng Gioan, Mathia và Simêon: “Ôi! Thầy!” Họ nói và ngẩng mặt lên, cho thấy những bộ mặt thiểu não. Cả việc gặp Giêsu cũng không làm cho họ tươi tỉnh lại. Giêsu rời căn phòng để ra gặp họ ngoài sân thượng. Manaen theo Người. Họ gặp nhau ngay ở chỗ đầu cầu thang bước vào sân thượng còn đầy nắng.
Ba người qùi phục xuống hôn đất. Rồi Gioan nói thay cho tất cả: “Lạy Chúa! Đã đến giờ Ngài tiếp nhận chúng con, vì chúng con là gia sản của Ngài”. Và các dòng nước mắt rơi xuống từ khuôn mặt của người môn đệ và của các bạn ông.
Giêsu và Manaen chỉ phát ra được một tiếng: “Gioan!?”
- Họ đã giết ông.
Tiếng nói rơi xuống như một tiếng đổ vỡ khổng lồ, bao bọc lấy hết các tiếng ồn ào của thế giới, dù nó đã được nói ra rất êm nhẹ. Nó làm cho kẻ nói người nghe đều hóa đá. Tựa như trái đất, để tiếp nhận nó và để run sợ, đã dừng lại hết mọi ồn ào, vì có một sự yên lặng sâu xa, và một sự bất động sâu xa nơi loài vật, loài hoa cỏ, trong không khí. Những tiếng gù gù của chim câu dừng lại, tiếng kêu của các con sáo bị cắt đứt, ca đoàn của các chim tước thành câm nín. Và như bị một cú đập làm bể các cơ quan, một con ve sầu đang kêu inh ỏi liền im bặt cách thình lình, cơn gió đang mơn trớn các cành nho đầy trái và lá, tạo ra tiếng sột soạt như tiếng cọ của vải lụa hay tiếng lạo xạo của các viên đá, cũng bất thần dừng lại.
Giêsu trở nên trắng bạch như ngà, trong khi đôi mắt mở tròn và ướt nước. Người mở cánh tay ra để nói, và giọng của Người trở nên sâu xa, vì sự cố gắng Người đã làm để cho nó thành bảo đảm: “Bình an cho vị tử đạo vì sự công chính, và cho vị Tiền Hô của
390
Thầy”. Rồi Người khoanh tay và thu tâm, chắc chắn là Người cầu nguyện, kết hợp với thần trí Thiên Chúa và thần trí ông Tẩy Giả.
Manaen không dám làm một cử chỉ nào, nhưng trái với Giêsu, mặt ông đỏ bừng. Ông có những cử chỉ tức giận, rồi ông trở nên đanh thép, và tất cả sự xao động của ông được biểu lộ bằng những cử chỉ máy móc: tay phải ông giằng co sợi giây thắt áo, tay trái ông tìm con dao găm một cách vô ý thức... Manaen lắc đầu, phàn nàn về trí khôn kém cỏi của ông, vì ông không nhớ là ông đã bỏ hết khí giới để “làm môn đệ Đấng Hiền Từ, để ở bên cạnh đấng là sự hiền từ”.
Giêsu lại mở miệng và mở mắt. Khuôn mặt Người, cái nhìn của Người, giọng nói của Người đã lấy lại vẻ oai phong của Thiên Chúa như thường lệ. Nơi Người chỉ còn lại nỗi buồn nghiêm trọng thấm đầy bình an: “Đi, các con hãy kể lại cho Thầy. Kể từ hôm nay, các con thuộc về Thầy”.
Rồi Người dẫn họ vào trong phòng, đóng cửa lại, đóng lưng chừng các màn gió để điều hòa ánh sáng, và tạo ra một bầu khí trầm mặc chung quanh nỗi đau của họ và vẻ đẹp về cái chết của vị Tiền Hô, để đặt một vách ngăn giữa một đời sống trọn lành và thế giới đồi bại. “Nói đi”. Người ra lệnh.
Manaen như bị hóa đá. Ông ở gần nhóm người nhưng ông không nói một lời nào.
- Đó là chiều ngày lễ... Biến cố bất ngờ... Mới chỉ hai giờ trước đó, Hêrôđê tiếp xúc với Gioan và cho ông đi một cách tử tế... Và một lát, một lát trước việc... sát nhân, tử đạo, tội ác, sự vinh quang, ông đã gởi tới cho người tù một người đầy tớ với các trái cây ướp lạnh và rượu hiếm. Gioan đã phân phát cho chúng con những thứ này... Ông không bao giờ thay đổi sự khắc khổ của ông... Chỉ có chúng con thôi, bởi vì nhờ Manaen, chúng con được phục dịch trong lâu đài, tại nhà bếp và tại chuồng ngựa, và là một đặc ân khi chúng con được gặp Gioan của chúng con luôn... Chúng con đang ở trong bếp, Gioan và con, trong khi Simêon trông nom các đầy tớ ở chuồng ngựa để chúng săn sóc cẩn thận các con vật của chủ... Lâu đài đầy
391
những tai to mặt lớn, các tướng lãnh quân đội và các lãnh chúa miền Galilê. Hêrôđiađê tự đóng kín trong chỗ ở của bà sau một màn kịch liệt xảy ra giữa bà và Hêrôđê vào buổi sáng...
Manaen gián đoạn: “Con linh cẩu đó về hồi nào vậy?”
- Hai ngày trước. Người ta đâu có chờ bà đâu... Bà ta đã nói với quân vương là bà không thể sống xa ông ta, và không thể vắng mặt trong ngày lễ của ông. Vẫn luôn luôn rắn độc và phù thủy, bà đã làm cho Hêrôđê thành một đồ chơi... Nhưng buổi sáng hôm đó, Hêrôđê, mặc dầu đã say bí tỉ vì rượu và dâm dục, cũng biết từ chối bà điều bà xin ông với những tiếng khóc lớn... và không ai ngờ rằng đó là sự sống của Gioan.
Bà khinh bỉ ở lại chỗ ở của bà. Bà đã sai trả lại những món hoàng gia mà Hêrôđê cho mang tới trong những chén đĩa qúi. Bà chỉ giữ lại một cái khay qúi đầy trái cây, và để đổi lại, bà đã tặng Hêrôđê một hũ rượu pha ma túy... Ma túy... A! Say sưa như vậy, tính tình trụy lạc của ông rất đủ để đẩy ông tới tội ác!
Qua các người đã phục vụ tại bàn ăn, chúng con được biết rằng: sau màn nhảy của các vũ viên của triều đình, nói đúng ra là giữa màn, Salômê đã đột nhập vào và nhảy giữa phòng tiệc. Các diễn viên, trước cô công chúa, đứng chết dí vào tường. Màn nhảy thật hoàn bị, người ta nói vậy, xứng đáng ngôi vị chủ nhà... Hêrôđê... Ôi! Có lẽ một ước muốn loạn luân mới đã dậy men trong lòng ông... Sau màn vũ này, Hêrôđê đầy thiện cảm, nói với Salômê: “Con nhảy rất đẹp! Ba thề với con là con xứng đáng một phần thưởng. Ba thề với con là ba sẽ cho con. Ba thề là ba sẽ cho con tất cả những gì con có thể xin. Ba thề điều đó trước mặt mọi người, và lời nói của một ông vua thì trung thành, dù là không tuyên thệ. Vậy hãy xin điều con muốn”.
Và Salômê giả bộ lúng túng và ngây thơ nhu mì, lấy khăn voan quàng vào, với một cái bĩu môi ngây thơ bẽn lẽn sau biết bao là dâm đãng. Nàng nói: “Ôi đại nhân, xin cho phép con suy nghĩ một lát. Con đi ra rồi con sẽ trở lại, bởi vì ân huệ của Ba làm con bối rối...” Rồi nàng ra và về tìm mẹ nàng.
Selma nói với con rằng nàng đi vào, vừa cười vừa nói: “Má ơi,
392
má thắng rồi. Đưa cái khay cho con”. Hêrôđiađê, với một tiếng kêu chiến thắng, truyền cho tên nô lệ đưa cho con gái nàng cái khay đựng trái cây mà nàng đã giữ trước và nói: “Hãy đi, và trở lại với cái đầu đáng ghét, rồi má sẽ mặc cho con bằng ngọc trai và vàng”. Và Selma run sợ để vâng lời.
Salômê vừa trở lại vừa nhảy trong phòng, và vẫn nhảy, nàng đến phục bên chân ông vua và nói: “Trên cái khay này mà Ba đã gởi đến cho má con để chỉ rằng Ba yêu bà và yêu con, con muốn có cái đầu của Gioan, rồi con sẽ còn nhảy nữa, bởi vì điều đó làm vui lòng ba. Con sẽ nhảy điệu nhảy chiến thắng, bởi vì con đã thắng ba, ông vua! Con đã thắng đời sống và con sung sướng!” Đó là điều nàng đã nói, và người bạn hầu rượu đã nhắc lại cho chúng con.
Hêrôđê bối rối băn khoăn giữa hai quyết định: trung thành với lời nói hay là công chính. Nhưng ông ta không biết ở công chính, bởi vì ông là kẻ bất chính. Ông làm hiệu cho tên lý hình đứng đàng sau chiếc ghế vua, ông này lấy từ tay Salômê chiếc khay và xuống khỏi phòng tiệc, đi về căn phòng ở dưới nhà. Gioan và con, chúng con thấy anh ta đi băng qua sân... và một lát sau, chúng con nghe tiếng kêu của Simêon: “Sát nhân!” Rồi chúng con thấy anh ta trở lại với cái đầu trên cái khay... Gioan, vị Tiền Hô của Thầy đã chết!...
Sau một lúc, Giêsu hỏi: “Simêon, con có thể kể cho Thầy ông ta đã chết thế nào không?”
- Vâng. Ông đang cầu nguyện... Trước đó ông đã nói với con: “Một lát nữa, hai người được sai tới sẽ trở lại, và những ai không tin thì sẽ tin. Nhưng con hãy nhớ rằng nếu Thầy không còn sống nữa khi họ trở ra, thì như một người sắp chết, Thầy còn nói với con để con nói lại với họ: Giêsu Nazarét thực là Đấng Messi”. Ông luôn luôn nghĩ tới Thầy... Tên lý hình bước vào. Con kêu lên rất lớn. Gioan ngửa mặt lên và thấy hắn ta, ông đứng dậy và nói: “Anh chỉ có việc lấy đi sự sống của Ta, nhưng chân lý vẫn tồn tại, là không được phép làm điều xấu”. Và ông đang sắp sửa nói với con cái gì nữa thì tên lý hình vung tít thanh gươm nặng của hắn trong khi Gioan vẫn đứng. Chiếc đầu rơi khỏi cổ với một dòng máu lớn làm
393
đỏ chiếc áo da dê của ông, và làm thành trắng như sáp khuôn mặt gầy gò mà hai con mắt vẫn sống động, mở to, kết án. Nó lăn lại bên chân con... Con khụy xuống cùng một lúc với thân mình ông và ngất xỉu vì qúa đau đớn... Sau đó... sau đó... sau khi Hêrôđiađê đã rạch nát, chiếc đầu được quăng cho chó. Chúng con đã mau lẹ nhặt lấy và chúng con đặt vào cùng với thân rồi bọc trong một tấm vải qúi. Ban đêm, chúng con làm lại toàn thân, và chúng con chuyển ra ngoài Machéronte. Chúng con đã ướp thuốc thơm trong một bụi cây keo rất gần đó ngay lúc mặt trời vừa lên, với sự phụ giúp của các môn đệ khác... Nhưng chiếc đầu lại bị lấy lại và lại bị rạch. Bởi vì bà ta không thể tiêu hủy nó, và bà ta không thể tha cho ông... Và các nô lệ, sợ bị giết nên đã dữ tợn hơn các chó rừng để giựt lại của chúng con chiếc đầu này. Manaen, nếu có anh ở đó!...
- Nếu tôi ở đó... Nhưng cái đầu này là sự nguyền rủa... Điều đó không làm mất mát gì về vinh quang của Vị Tiền Hô, dù là cơ thể không toàn vẹn. Có phải không Thầy?
- Đúng vậy, dù là bầy chó có phá hủy nó, vinh quang của ông không hề thay đổi.
- Thưa Thầy, và lời của ông cũng không thay đổi. Đôi mắt ông, dù bị thương, rạch nát, vẫn còn nói: “Điều đó ông không được phép”. Nhưng chúng con đã mất nó - Mathia nói.
- Và bây giờ chúng con thuộc về Thầy, bởi vì ông đã nói như vậy. Ông cũng nói rằng Thầy đã biết rồi.
- Ừ, các con đã thuộc về Thầy từ mấy tháng rồi. Các con đến đây bằng cách nào?
- Đi bộ từng chặng một. Đường dài và nặng nề, dưới mặt trời thiêu đốt và giữa cát nóng bỏng, và còn bị thiêu đốt nhiều hơn bởi nỗi đau. Chúng con đã bước trong khoảng hai mươi ngày rồi.
- Bây giờ các con đi nghỉ đi.
Manaen hỏi: “Này, Hêrôđê có ngạc nhiên về sự vắng mặt của tôi không?”
- Có. Đầu tiên thì ông lo lắng, rồi bực mình, rồi qua cơn bực mình, ông nói: “Bớt đi được một ông quan tòa”. Đó là điều người
394
bạn quan chuốc rượu đã tường thuật với chúng con.
Giêsu nói: “Bớt đi được một ông quan toà! Ông ta có Thiên Chúa làm quan tòa, và vậy là đã đủ. Hãy vào nghỉ ở chỗ chúng ta ngủ. Các con mệt và đầy bụi. Các con sẽ tìm thấy quần áo và xăng đan của các bạn, hãy lấy mà thay. Cái gì thuộc về một người thì cũng thuộc về tất cả. Con, Mathia, con cao lớn, con có thể lấy y phục của Thầy. Rồi chúng ta sẽ cung cấp. Trong buổi tối, vì là buổi tối áp ngày Sabát, các tông đồ của Thầy sẽ trở về. Tuần lễ tới, Isaac sẽ đến cùng với các đồ đệ của ông. Rồi sau Lễ Lều, Benjamin và Daniel sẽ tới, cả Êlie, Giuse và Lêvi cũng tới. Đã đến lúc những người khác phối hợp với các tông đồ. Bây giờ các con hãy đi nghỉ đi”.
Manaen đi theo họ, rồi ông trở lại. Giêsu ngồi lại với Manaen. Người ngồi suy nghĩ, rõ ràng là buồn, đầu tựa vào bàn tay mà cùi chỏ chống lên đùi để đỡ. Manaen ngồi gần bàn và không nhúc nhích, nhưng ông có vẻ ảm đạm. Khuôn mặt ông là một cơn bão.
Sau một hồi lâu, Giêsu cất đầu lên nhìn ông và hỏi: “Còn con, bây giờ con sẽ làm gì?”
- Con cũng chưa biết... chương trình ở lại Machéronte là chấm dứt rồi. Nhưng con còn muốn ở lại triều đình để biết... và như vậy có thể bảo vệ Thầy.
- Thích hợp nhất với con là đi theo Thầy không lần lữa. Nhưng Thầy không bắt ép con. Con sẽ đến sau khi con đã phá hủy từng phân tử một của con người Manaen cũ.
- Con cũng muốn lấy cái đầu của người đàn bà này. Bà ta không xứng đáng giữ nó...
Giêsu có phớt một nụ cười lợt lạt và nói ngay thẳng: “Và rồi, con chưa chết cho cái giầu có nhân loại. Nhưng dù sao con cũng rất thân thiết đối với Thầy. Thầy biết là Thầy sẽ không mất con, dù Thầy phải đợi. Thầy biết đợi...”
- Thưa Thầy, con muốn dâng Thầy sự quảng đại của con để an ủi Thầy, bởi vì Thầy khổ, con thấy vậy.
- Đúng vậy. Thầy khổ. Rất nhiều! Rất nhiều!...
395
- Chỉ vì Gioan thôi à? Con không tin. Thầy biết ông ta đang ở trong bình an.
- Thầy biết ông ta bình an, và Thầy cảm thấy ông ở rất gần.
- Vậy thì sao?
- Thì sao?... Manaen, cái gì sẽ đến tiếp theo sau bình minh?
- Thưa Thầy, ban ngày. Sao Thầy lại hỏi vậy?
- Bởi vì cái chết của Gioan đi trước cái ngày Thầy sẽ là Đấng Cứu Thế. Và những gì thuộc về nhân loại nơi Thầy run lên khi nhớ tới tư tưởng này... Manaen, Thầy đi lên đồi. Con ở lại để đón tiếp những người sẽ về, để cứu giúp những người đã tới. Hãy ở lại tới khi Thầy trở về... Rồi con sẽ làm cái gì con muốn. Chào...
Giêsu rời căn phòng. Người nhẹ nhàng xuống cầu thang, băng qua vườn sau nhà. Người đi vào con đường ở giữa khu vườn bỏ hoang và các vườn ôliu, vườn táo, nho và sung. Người đi lên ngọn đồi nhỏ và khuất khỏi tầm mắt tôi.
134* “CHÚNG TA ĐI TARICHÉE”
Trời đã về đêm khi Giêsu trở về nhà. Người bước vào vườn không một tiếng động. Người dừng lại một lát trước căn nhà bếp tối om, Người thấy là nó trống rỗng. Người đi vào hai phòng, nơi để chiếu và giường, nó cũng trống rỗng. Chỉ có các quần áo mà người ta đã thay ra để đống dưới đất là chứng tỏ rằng các tông đồ đã trở về. Căn nhà giống như không có người ở, vì nó yên lặng chừng nào!
Giêsu còn gây tiếng động ít hơn một cái bóng. Người lên cầu thang, mầu trắng trong mầu trắng của ánh trăng tròn. Người tới sân thượng, đi vòng quanh nó. Người giống như một linh vật, di chuyển không gây tiếng động, một linh vật ánh sáng. Trong ánh trăng sáng tỏ, Người có vẻ thanh tú, cao lớn hơn. Người giơ tay mở chiếc màn gió che cửa ra vào của căn phòng ở trên. Chiếc màn vẫn hạ như vậy từ lúc các môn đệ của Gioan vào đó với Giêsu. Ở bên trong, đang ngồi đó đây, hoặc một mình, hoặc thành nhóm, có các tông
396
đồ, các môn đệ của Gioan, và Manaen. Cũng có Margziam đang ngủ, đầu gối lên đầu gối của Phêrô. Mặt trăng chịu trách nhiệm soi sáng căn phòng bằng cách gởi các luồng lân tinh của nó qua các cửa sổ mở rộng. Ngoại trừ đứa trẻ ra, còn thì không ai nói, không ai ngủ. Họ ngồi trên các chiếc chiếu trải dưới đất.
Giêsu nhẹ nhàng đi vào. Kẻ thấy Người đầu tiên là Tôma: “Ôi! Thầy!” Ông nói khi giật nảy.
Tất cả những người khác đều nhúc nhích. Phêrô, với bản tính bồng bột của ông, đang tính đứng phắt dậy thì ông nhớ tới đứa trẻ nên ông làm nhè nhẹ, đặt đầu đứa trẻ trên chỗ ông ngồi, và ông lại với Giêsu sau cùng, trong khi với giọng mệt mỏi của người đã chịu đựng rất nhiều, Giêsu đang trả lời cho Gioan và Andrê, vì các ông nói với Người nỗi đau buồn của các ông, Người nói: “Thầy hiểu. Nhưng chỉ có kẻ không tin mới cảm thấy thê lương bởi một cái chết, không phải chúng ta, những kẻ tin. Gioan không còn bị xa lìa với chúng ta nữa. Trước ông còn bị, trước ông bị xa lìa với chúng ta, cả hoặc với Thầy, hoặc với ông. Bây giờ hết rồi. Ông ở đâu thì Thầy ở đó, ông ở bên cạnh Thầy”.
Phêrô chen cái đầu muối tiêu của ông vào giữa những cái đầu trẻ, và Giêsu nhìn thấy ông: “Con cũng vậy, Simon Jonas, con đã khóc?” Và Phêrô với giọng rồ rồ thường lệ: “Lạy Chúa, vâng, bởi vì con cũng đã là môn đệ của Gioan... Và rồi... Và rồi... Nghĩ tới rằng thứ sáu tuần trước con đã buồn, vì sự hiện diện của các pharisiêu đã làm cho ngày Sabát của chúng ta đầy vị chua chát. Tuần này, vâng, cũng là ngày Sabát chua cay. Con đã dắt đứa trẻ tới... để có một ngày Sabát đẹp hơn... Trái lại...”
- Simon Jonas, đừng để mình bị đánh bại. Gioan đâu có mất. Thầy cũng nói điều đó với con. Đổi lại, chúng ta được ba môn đệ được đào tạo kỹ càng. Đứa bé đâu?
- Thưa Thầy ở đàng kia. Nó ngủ...
- Hãy để nó ngủ - Giêsu nói và liếc nhìn cái đầu nhỏ tóc nâu đen đang ngủ bình an. Rồi Người hỏi: “Các con ăn tối chưa?”
- Thưa Thầy chưa. Chúng con chờ Thầy, và chúng con lo lắng vì bây giờ đã muộn mà không biết tìm Thầy ở đâu... Chúng con tưởng
397
như cũng bị mất Thầy luôn.
- Chúng ta còn thời giờ để ở chung với nhau. Nào, hãy đi sửa soạn bữa tối, bởi vì sau đó chúng ta sẽ đi nơi khác. Thầy cần ở riêng biệt với các bạn hữu. Nếu chúng ta ở lại đây thì ngày mai sẽ lại có những người bao quanh chúng ta.
- Và con, con bảo đảm là con sẽ không chịu đựng được, đặc biệt là thái độ rắn độc của các linh hồn pharisiêu. Đối với họ, sẽ là nguy hiểm nếu họ để trốn thoát dù chỉ một nụ cười dành cho chúng ta ở trong giáo đường.
- Bình tĩnh Simon!... Nhưng Thầy cũng nghĩ tới đó, bởi vậy Thầy đã trở lại để đem các con đi với Thầy.
Dưới ánh sáng của những ngọn đèn nhỏ thắp lên ở hai đầu chiếc bàn, người ta thấy rõ hơn sự biến đổi của các khuôn mặt. Chỉ có một mình Giêsu giữ vẻ oai phong trang trọng, và Margziam mỉm cười trong giấc ngủ.
- Đứa bé ăn rồi - Simon cắt nghĩa.
- Vậy tốt hơn là để nó ngủ - Giêsu nói.
Và ở giữa các người của Người, Người dâng tiến một chút của ăn mà họ ăn, không cảm thấy ngon. Và bữa tối chấm dứt mau lẹ.
- Bây giờ hãy nói cho Thầy nghe những gì các con đã làm - Giêsu nói để khuyến khích họ.
- Con, con đi với Philíp về miền quê Bétsaiđa. Chúng con đã giảng Tin Mừng và chữa một trẻ em bị bệnh - Phêrô nói.
- Trong thực tế, chính Simon đã chữa nó - Philíp nói, vì ông không muốn gán cho mình sự vinh quang không thuộc về ông.
- Ôi! Lạy Chúa. Con không biết con đã làm thế nào. Con đã cầu nguyện rất nhiều, bằng tất cả tâm hồn của con, bởi vì đứa bé bệnh làm con thương qúa. Rồi con đã xức dầu và thoa cho nó bằng bàn tay cục mịch của con... Và nó được lành. Khi con thấy mặt nó hồng lên và mở mắt ra, tóm tắt là nó sống trở lại, con hầu như sợ.
Giêsu để tay trên đầu ông và không nói gì.
- Gioan cũng rất ngạc nhiên vì ông đã xua đuổi một tên qủi, nhưng chính con đã làm cho nó nói được - Tôma nói.
- Anh Juđa của Thầy cũng làm vậy nữa - Mathêu nói.
398
- Cả Andrê cũng vậy nữa - Giacôbê Alphê nói.
- Còn Simon Zêlote đã chữa một người cùi. Ồ, anh đã không sợ đụng vào họ. Nhưng rồi sau đó anh bảo con: “Đừng sợ, do ý Chúa, không một nguy hại vật chất nào có thể tấn công chúng ta” Batôlômêo nói.
- Simon, con nói rất đúng. Còn hai con? - Giêsu hỏi Giacôbê Zêbêđê và Iscariot. Hai người ở hơi xa. Giacôbê đang nói với ba môn đệ của Gioan. Iscariot ngồi một mình, vẻ cau có.
- Ồ, con, con chẳng làm gì cả - Giacôbê nói. “Nhưng Judas đã làm ba phép lạ tuyệt vời: một người mù, một người tê bại, một người bị ám. Con thấy hình như nó bị bệnh lên cơn định kỳ, nhưng người ta đã gọi nó như vậy”.
- Và anh có bộ mặt này với chúng tôi, trong khi Thiên Chúa đã giúp anh chừng ấy? - Phêrô nói.
- Tôi cũng biết ở khiêm nhường chứ! - Iscariot trả lời.
- Rồi sau đó chúng con được đón tiếp bởi một người pharisiêu. Con, con cảm thấy không thoải mái, nhưng Judas đã thành công ở đó hơn và đã thực tình làm quen. Bữa đầu tiên anh ta còn canh chừng, nhưng sau đó... Phải không Judas?
- Tốt lắm. Các con sẽ luôn luôn làm tốt hơn. Tuần tới chúng ta sẽ ở lại với nhau. Trong khi chờ đợi... Simon, con đi sửa soạn ghe thuyền đi. Cả con nữa, Giacôbê.
- Cho tất cả à Thầy? Chúng ta không thể lên đó tất cả.
- Con không thể kiếm thêm được một cái nữa sao?
- Bằng cách hỏi anh rể con? Vâng, con đi.
- Đi đi. Khi đã lo xong thì trở lại ngay, và đừng giải thích dài dòng.
Bốn người thuyền chài đi ra. Những người khác xuống lấy giỏ và áo khoác. Chỉ còn lại có Manaen với Giêsu. Đứa bé tiếp tục ngủ.
- Thầy đi xa không?
- Thầy chưa biết. Họ mệt và buồn. Thầy cũng vậy. Thầy tính đi về miền quê Tarichée để ở riêng biệt và bình an.
- Thưa Thầy, con có ngựa. Nếu Thầy cho phép, con sẽ tới bằng
399
cách đi theo bờ hồ. Thầy ở đó lâu không?
- Có lẽ suốt tuần lễ, nhưng không hơn.
- Vậy con sẽ tới. Xin Thầy chúc lành cho con trong lần tạm biệt đầu tiên này. Và xin Thầy lấy đi cho con một gánh nặng trong tim.
- Gánh nặng nào, Manaen?
- Con hối hận vì đã rời bỏ Gioan. Có lẽ nếu con ở đó...
- Không. Đó là giờ của ông. Và chắc chắn ông bằng lòng khi thấy con đến với Thầy. Đừng có cái gánh nặng này. Trái lại, hãy tìm giải thoát cho con cách mau lẹ và hoàn toàn khỏi cái gánh nặng duy nhất mà con có: cái thích thú làm một người. Hãy trở nên thần trí, Manaen. Con có thể có điều đó. Trong con có cái khả năng làm điều đó. Chào Manaen. Bình an của Thầy ở với con. Chúng ta sẽ mau chóng gặp lại nhau tại Juđê.
Manaen qùi gối và Giêsu chúc lành cho ông, rồi ông đứng lên và ôm hôn Người.
Các người khác cũng vào và họ chào nhau, các tông đồ cũng như môn đệ của Gioan. Sau cùng các tay thuyền chài vào: “Thưa Thầy xong rồi. Chúng ta có thể đi”.
- Tốt. Hãy chào Manaen, vì ông ở lại đây tới hoàng hôn ngày mai. Hãy thu lượm các vật dụng, lấy nước, và chúng ta đi. Đừng làm ồn nhiều.
Phêrô cúi xuống để đánh thức Margziam.
- Đừng, để nó đó. Nó có thể khóc. Thầy sẽ ẵm nó trong tay - Giêsu nói, và Người nhẹ nhàng ẵm đứa trẻ lên. Nó hơi rên, nhưng rồi nó cảm thấy thoải mái ngay trong tay Giêsu.
Họ tắt đèn, đi ra, đóng cửa, xuống cầu thang. Ở cửa vườn, họ chào Manaen một lần nữa, rồi nối đuôi nhau dọc con đường đầy ánh trăng, họ đi ra hồ: một tấm gương bạc mênh mông dưới mặt trăng đã lên tới tột đỉnh. Có ba điểm đỏ trên tấm gương phẳng lặng, hình như đó là ba chiếc đèn hiệu ở mũi thuyền đã bị nhận chìm. Họ lên ghe và phân tán ra trong ghe. Các tay thuyền chài lên sau cùng. Phêrô và một cậu con trai lên ghe với Giêsu. Gioan và Andrê lên ghe thứ hai. Giacôbê và một cậu con trai khác lên ghe thứ ba.
- Chúng ta đi đâu Thầy? - Phêrô hỏi.
400
- Đi Tarichée, chỗ chúng ta đã đổ bộ lần trước sau khi có phép lạ cho các người Gêrasa. Bây giờ không có đầm lầy, chúng ta sẽ thoải mái hơn ở đó.
Phêrô ra khơi. Những người khác với thuyền của họ đi theo lằn nước của ghe đi trước họ. Không ai nói gì cả. Khi họ đã ở ngoài khơi và Caphanaum đã mờ đi trong ánh trăng làm cho tất cả đều giống nhau bởi làn bụi bạc của nó, khi đó Phêrô nói, tựa như ông nói chuyện với cái cần lái: “Điều đó làm tao khoái. Ngày mai chúng sẽ đến tìm chúng ta, bà già của tôi ơi, nhờ bà, chúng sẽ không tìm thấy chúng ta”.
- Anh nói với ai vậy Simon? - Batôlômêo hỏi.
- Nói với cái thuyền. Anh không biết rằng đối với dân chài, nó giống như một bà vợ? Tôi đã nói với nó biết bao rồi! Còn nhiều hơn là nói với Porphyrê. Thưa Thầy, đứa bé có được đắp kỹ không? Ở trên hồ về đêm có sương...
- Rồi, nghe này Simon. Lại đây đi. Thầy phải nói với con - Phêrô để cần lái cho cậu thủy thủ nhỏ và lại với Giêsu:
- Thầy nói là đi Tarichée. Nhưng chỉ cần tới đó sau ngày Sabát để chào Manaen. Con không thể tìm được một nơi nào khác ở gần đó mà chúng ta có thể được bình an sao?
- Ồ, thưa Thầy, bình an cho chúng ta hay cho cả các thuyền? Đối với thuyền thì phải là Tarichée hoặc là cảng nào đó ở bờ bên kia. Nhưng nếu là cho chúng ta thì chỉ cần chúng ta đi sâu vào sông Giođan, nơi đó chỉ có các con vật khám phá ra Thầy... Và có lẽ có vài dân chài canh chừng nơm đó. Chúng ta có thể để ghe ở Tarichée. Chúng ta sẽ tới đó vào rạng đông, rồi chúng ta chuồn lẹ qua khúc cạn, lúc này rất dễ lội qua.
- Tốt. Chúng ta sẽ làm như vậy.
- Thế giới làm Thầy ghê tởm. Thầy cũng vậy nhỉ? Thầy thích cá mú và ruồi muỗi hơn, hen? Thầy có lý.
- Thầy không cảm thấy ghê tởm. Không nên nói như vậy. Nhưng Thầy muốn tránh cho các con trở nên dịp vấp phạm, và Thầy muốn an ủi mình bằng cách thân cận với các con trong những giờ của
401
ngày Sabát.
- Thầy của con!... - Phêrô hôn lên trán Người và bỏ đi trong khi lau vội một giọt nước mắt lớn thực tình muốn chảy từ mắt xuống hàm râu ông. Ông trở lại với cái cần lái của ông và hướng mũi về phía nam một cách chính xác, trong khi ánh trăng giảm dần với giấc ngủ của hành tinh đã xuống tới bên dưới ngọn đồi, để lộ khuôn mặt lớn của nó ra trước mắt loài người, nhưng còn giữ cho bầu trời trắng bạc bởi ánh sáng của nó, và trải một làn sáng bạc trên bờ phía đông hồ. Những phần còn lại đều có mầu xanh chàm mà người ta hơi phân biệt được trong ánh sáng của ngọn đèn hiệu ở mũi thuyền.
135* TRONG KHI NÓI VỚI MỘT LUẬT SĨ
Giêsu đặt chân lên hữu ngạn sông Giođan ở chỗ vào khoảng một dặm, có lẽ hơn, cách bán đảo Tarichée. Ở đây toàn là miền quê xanh rờn, vì đất đai, bây giờ khô ráo nhưng ẩm ở lớp dưới, giữ sự sống cho cả những cây cỏ yếu nhất. Ở đó Giêsu thấy một đám đông đang chờ Người.
Các anh bà con tới gặp Người cùng với Zêlote: “Thưa Thầy, các con thuyền đã phản bội chúng ta... Có lẽ Manaen đã cho họ một chỉ dẫn”.
- Thưa Thầy - Manaen xin lỗi, “Con đã ra đi ban đêm để người ta không nhìn thấy con, và con không nói với ai cả. Thầy tin đi. Nhiều người hỏi con Thầy ở đâu, nhưng con chỉ nói với họ: Người đi rồi. Con tin là điều xấu đã đến từ một dân chài đã nói rằng ông cho Thầy mượn thuyền”.
- Ông anh rể ngu xuẩn của tôi! - Phêrô quát lên. “Tôi đã nói với anh ta là đừng nói. Tôi đã nói với anh ta là chúng ta đi Bétsaiđa. Tôi đã nói với anh ta là nếu anh ta nói, tôi sẽ giật râu anh ta! Và tôi sẽ làm. Bây giờ thì sao đây? Vĩnh biệt bình an, đơn độc, nghỉ ngơi”.
- Bình tĩnh Simon. Chúng ta đã có những ngày bình an. Ngoài ra, Thầy đã đạt được một phần mục đích mà Thầy theo đuổi là giáo huấn các con, yên ủi các con, làm các con bình tĩnh để ngăn cản
402
những xúc phạm và những đụng chạm giữa các con với các pharisiêu tại Caphanaum. Bây giờ chúng ta hãy đến với những người đang chờ chúng ta để thưởng cho đức tin và tình yêu của họ. Và tình yêu này không phải là một sự thoải mái cho chúng ta sao? Chúng ta khổ vì những thù ghét, ở đây là tình yêu. Vậy đây là niềm vui.
Phêrô bình tĩnh lại như một cơn gió bỗng nhiên ngừng thổi, và Giêsu lại với đám đông các bệnh nhân đang chờ Người với sự ước mong hiện trên nét mặt. Người chữa cho họ, người nọ sau người kia, cách nhân hậu, nhẫn nại, kể cả với một luật sĩ trình cho Người đứa con bệnh của ông.
Chính ông luật sĩ nói với Người: “Thầy thấy không? Thầy trốn, nhưng vô ích. Sự thù ghét và tình yêu rất tinh xảo trong việc tìm Thầy. Ở đây là tình yêu đã tìm thấy Thầy đúng như Thánh Vịnh nói. Từ rày, đối với qúa nhiều người, Thầy giống như người chồng trong Thánh Vịnh, và người ta đến với Thầy giống như bà Sulamite đến với chồng bà trong khi đương đầu với các lính gác và các xe tứ mã của Aminadab”.
- Tại sao ông nói vậy? Tại sao?
- Bởi vì đúng như vậy. Đến với Thầy là nguy hiểm, bởi vì người ta ghét Thầy. Thầy không biết rằng Rôma canh chừng Thầy và Đền Thờ ghét Thầy sao?
- Ông ơi, tại sao ông thử thách tôi? Các lời của ông là những cạm bẫy để mang về cho Rôma và cho Đền Thờ các câu trả lời của tôi. Tôi đâu có giương bẫy cho ông khi chữa con ông...
Với những lời khiển trách nhẹ nhàng này, người luật sĩ cúi đầu bối rối và thú nhận: “Tôi thấy đúng thực là Thầy nhìn thấy con tim người ta. Xin lỗi. Tôi thấy đúng thực là Thầy thánh. Xin lỗi. Đúng. Tôi đến vì ở trong tôi đang bốc lên cái men mà những người khác đã đặt vào đó...”
- Và ai đã tìm thấy trong ông cái sức nóng cho sự lên men?
- Phải, đúng vậy... Nhưng bây giờ tôi ra đi, không có men, hay đúng hơn, một thứ men mới.
- Tôi biết, và tôi không oán giận. Rất nhiều người phạm lỗi vì ý muốn riêng của họ, nhiều người thì bởi ý muốn những người khác.
403
Thiên Chúa công bằng sẽ xét xử họ theo những cách khác nhau. Ông, người luật sĩ, hãy công chính, và trong tương lai, đừng hư hỏng như người ta đã làm cho ông hư hỏng. Khi thế giới làm áp lực đối với ông, hãy nhìn vào ơn huệ sống động là con trai ông được cứu cho khỏi chết, và hãy biết ơn Thiên Chúa.
- Biết ơn Thầy.
- Biết ơn Thiên Chúa. Mọi vinh quang và chúc tụng đều thuộc về Người. Tôi là Đấng Messi của Người, và tôi là người đầu tiên ngợi khen và tôn vinh Người, người đầu tiên vâng lời Người, vì loài người không hạ mình để tôn vinh và phụng sự Thiên Chúa cách trung thành, nhưng họ hạ mình để phục vụ tội lỗi.
- Thầy nói rất đúng. Thầy luôn luôn nói như vậy với mọi người sao?
- Với mọi người, dù tôi nói với Anna hay Gamaliel cũng như tôi nói với người cùi ăn mày trên đường quê, các lời đều giống nhau, vì chân lý là một.
- Vậy hãy nói đi, vì tất cả chúng tôi ở đây để ăn mày một trong những lời Thầy, hay một trong những ân huệ của Thầy.
- Tôi sẽ nói, để người ta không nói được rằng tôi có thành kiến xấu đối với những người thật thà trong sự xác tín của họ.
- Những cái mà tôi có nó đã chết rồi. Nhưng đúng vậy, tôi ngay thật, tôi đã tin là phục vụ Thiên Chúa khi chống lại Thầy.
- Ông chân thành, bởi vậy ông đáng được hiểu biết Thiên Chúa là đấng không bao giờ nói dối. Nhưng sự xác tín của ông chưa chết. Chính tôi nói điều đó với ông. Cũng giống như thứ cỏ gấu mà người ta đã đốt, ở trên mặt thì nó như bị phá hủy, và trong thực tế, nó đã bị tấn công gay go và bị yếu đi, nhưng các rễ vẫn còn sống, nhưng đất nuôi nó, nhưng sương sa mời gọi nó mọc những cộng và những lá mới. Phải canh chừng để điều đó đừng xảy ra, nếu không, ông lại bị xâm chiếm bởi cỏ gấu. Israel có đời sống chai đá.
- Israel phải chết sao? Đó là một cây xấu.
- Nó phải chết để sống lại.
- Một sự tái nhập thể thiêng liêng à?
404
- Một cách mạng thiêng liêng. Không có sự tái nhập thể cho bất cứ loại nào.
- Có những người tin là có.
- Họ ở trong lầm lạc.
- Văn minh Hy Lạp đã đặt vào trong chúng ta niềm tin này, và các nhà thông thái ăn no nê nó và tôn vinh nó như một thứ lương thực rất qúi phái.
- Một mâu thuẫn vô lý nơi những kẻ kêu đòi khai trừ những người ơ hờ với một trong sáu trăm mười ba qui tắc nhỏ bé.
- Đúng vậy. Nhưng... Nó là vậy. Người ta khoái bắt chước cái mà người ta ghét.
- Vậy hãy bắt chước tôi, bởi vì các ông ghét tôi. Điều đó sẽ tốt hơn cho các ông.
Viên luật sĩ bó buộc phải bộc lộ một nụ cười trước cái lối ra này của Giêsu. Mọi người há hốc miệng để nghe, và những người ở xa xin những người ở gần nhắc lại các lời của hai người.
- Nhưng Thầy, giữa chúng ta, Thầy nghĩ gì về sự tái nhập thể?
- Đó là một sai lầm. Tôi đã nói rồi mà!
- Có những kẻ chủ trương rằng những cái sống thì đến từ những cái chết, và những cái chết đến từ cái sống, bởi vì cái gì đã có thì không thể bị phá hủy.
- Qủa vậy, cái gì là đời đời thì không bị phá hủy. Nhưng hãy nói cho tôi, theo ông thì Đấng Tạo Hóa có giới hạn về chính mình Người không?
- Không, Thầy. Nghĩ như vậy là làm cho Người nhỏ lại.
- Ông nói đúng. Vậy lẽ nào lại có thể nghĩ rằng Người cho phép một thần trí tái nhập thể, bởi vì Người chỉ có thể có một số thần trí thôi.
- Người ta không được nghĩ như vậy, nhưng vẫn có những người nghĩ như vậy.
- Và điều tệ hơn là người ta nghĩ như vậy trong Israel. Tư tưởng về sự bất tử của thần trí là tư tưởng lớn, dù là nơi dân ngoại thì nó kết hợp với một sự nhận định sai lầm, không xác đáng về sự phát
405
sinh cái bất tử này, thì nơi Israel, nó phải hoàn toàn được xác nhận. Trái lại, nơi kẻ nào thừa nhận nó theo những giới hạn của các luận thuyết theo dân ngoại, thì nó trở nên một tư tưởng nhỏ mọn, bị hạ thấp và có tội. Đâu có vinh quang gì một tư tưởng tự cho mình là đáng phục chỉ vì đã phớt qua sự thật, và nhờ thế, biểu lộ được đặc tính hỗn hợp của con người giống như con người nơi dân ngoại, do linh tính cho biết về một đời sống bất tử của cái thực thể mầu nhiệm mà ta gọi là linh hồn, và là cái làm cho chúng ta khác với các vật thô thiển. Nhưng sẽ là một sự suy sụp của tư tưởng, khi đã hiểu biết về sự khôn ngoan của Thiên Chúa và về Thiên Chúa thật, mà lại trở nên vật chất, ngay cả trong những sự siêu nhiên nhất. Chỉ có sự thiên di về thần trí từ Đấng Tạo Hóa tới vật thể và từ vật thể tới Đấng Tạo Hóa, và sau cuộc đời này, người ta phải nhận từ Người một sự luận xử là sống hay chết. Đó là chân lý. Và người ta được đem tới đâu thì họ sẽ ở đó luôn luôn đời đời.
- Thầy không nhìn nhận luyện ngục à?
- Có chứ. Tại sao ông hỏi tôi vậy?
- Bởi vì Thầy nói: “Người ta được đem tới đâu thì ở lại đó”. Luyện ngục là chỗ tạm thời.
- Bởi vì trong tư tưởng của tôi, tôi đồng hóa nó với đời sống đời đời. Luyện ngục cũng đã là sống rồi. Bị giảm bớt, bị trói buộc, nhưng vẫn là sống. Một khi chấm dứt thời kỳ tạm thời trong luyện ngục, thần trí sẽ chinh phục được sự sống hoàn toàn, đến để gặp nó mà không còn giới hạn hay trói buộc. Sẽ chỉ còn lại hai thứ: Trời và Vực Thẳm: Thiên Đàng và Hỏa Ngục. Sẽ chỉ có hai loại người: hạnh phúc và bị kết án. Nhưng từ ba vương quốc đang hiện hữu bây giờ, không bao giờ có một thần trí nào sẽ trở lại để mặc thân xác, và như vậy cho tới lúc sống lại sau cùng là lúc kết thúc vĩnh viễn hết mọi nhập thể của thần trí trong xác thịt, của cái bất tử trong cái hữu tử.
- Của đời đời, phải không?
- Thiên Chúa là đời đời. Đời đời tức là không có bắt đầu, cũng không có tận cùng, như vậy tức là Thiên Chúa. Bất tử tức là tiếp
406
tục sống kể từ lúc người ta bắt đầu sống, như vậy tức là thần trí của loài người. Đó là sự khác nhau.
- Thầy nói: “Đời sống đời đời”.
- Đúng, từ lúc mà một người được tạo dựng để sống, họ có thể, nhờ thần trí, nhờ ân sủng, nhờ ý chí của họ, tiến tới đời sống đời
đời chứ không phải tới đời đời. Đời sống thì có một lúc bắt đầu.
Người ta không nói “đời sống của Thiên Chúa”, vì Thiên Chúa không có lúc bắt đầu.
- Còn Thầy?
- Tôi, tôi sẽ sống, bởi vì tôi cũng là xác thịt. Nhưng tôi kết hợp linh hồn của Đức Kitô trong thân xác con người với thần trí của Thiên Chúa.
- Thiên Chúa được gọi là Sống.
- Đúng vậy. Người không biết cái chết. Người là Sống, sự sống vô tận. Không phải đời sống của Thiên Chúa, nhưng là Sống. Chỉ vậy thôi. Đó là những sắc thái, ôi luật sĩ ơi! Đó là những sắc thái bao hàm sự Khôn Ngoan và Chân Lý.
- Thầy cũng nói vậy với dân ngoại à?
- Không như vậy. Nói như vậy họ sẽ không hiểu. Nhưng tôi chỉ Mặt Trời cho họ. Nhưng cũng như tôi chỉ nó cho một đứa trẻ từ trước tới giờ mù và dốt đặc, mà nhờ phép lạ, được nhìn thấy và thông minh, để đi tới quan điểm và sự hiểu biết như vậy, giống như đối với một vì tinh tú, không cần cắt nghĩa những thành phần cấu tạo. Còn các ông, Israel, các ông không mù, cũng không dốt. Từ bao thế kỷ, ngón tay Thiên Chúa đã mở mắt cho các ông và soi sáng trí lòng các ông...
- Thưa Thầy, đúng vậy. Nhưng chúng tôi vẫn mù và ngu.
- Các ông đã tự làm cho mình như vậy. Và các ông không muốn phép lạ của đấng yêu thương các ông.
- Thầy!...
- Đó là sự thật, luật sĩ ạ.
Ông này liền cúi đầu và nín lặng. Giêsu bỏ ông để đi xa hơn. Khi đi qua, Người vuốt ve Margziam và đứa con trai nhỏ của người
407
luật sĩ đã bắt đầu chơi với các hòn đá đủ mầu. Bài giảng thuyết của Người đúng là những đàm thoại với nhóm nọ nhóm kia, nhưng đó là một bài giảng liên tục, vì nó giải quyết mọi nghi ngờ, soi sáng mọi trí khôn, tóm tắt hoặc khai triển những điều đã nói, hoặc những tư tưởng được giữ lại từng phần bởi ai đó. Và thời giờ qua đi như vậy.
136* BÁNH HÓA NHIỀU LẦN THỨ NHẤT
Vẫn cùng một nơi, chỉ có điều mặt trời không còn từ phương đông chiếu qua khu rừng rậm ở bờ sông Giođan tại nơi hoang dã này, chỗ nước hồ đổ vào lòng sông, nhưng nó chiếu nghiêng tới từ phía nó lặn khi nó xuống thấp trong mầu đỏ huy hoàng, soi cho bầu trời bằng những tia sau cùng của nó. Dưới lớp lá dầy, ánh sáng rất dịu tiến về những mầu sắc yên tĩnh của buổi chiều. Chim chóc say ánh dương mà nó được hưởng suốt ngày, với những thức ăn dồi dào mà chúng kiếm được ở miền quê bên cạnh, đua nhau rung láy ồn ào và hát trên ngọn cây. Chiều rơi với những huy hoàng sau chót của ngày. Các tông đồ lưu ý Giêsu khi Người vẫn tiếp tục ban giáo huấn theo những tỉ dụ hiện diện trước mặt Người.
- Thưa Thầy, sắp tối rồi. Nơi này hoang vắng, xa nhà cửa làng xóm, tối tăm và ẩm ướt. Chỉ một lát nữa là chúng ta không còn nhìn thấy nhau, không còn thấy đường để bước. Trăng sẽ mọc trễ, xin Thầy cho dân về để họ đi Tarichée hay các làng vùng Giođan để mua đồ ăn và kiếm chỗ trọ.
- Không cần họ phải đi. Các con hãy cho họ ăn. Họ có thể ngủ ở đây giống như họ đã ngủ để chờ Thầy.
- Thưa Thầy, chúng con chỉ có năm cái bánh và hai con cá. Thầy biết mà.
- Hãy mang nó tới đây cho Thầy.
- Andrê, hãy đi tìm đứa trẻ. Chính nó giữ kho. Đã một lúc rồi, nó cùng với con trai ông luật sĩ và hai đứa khác bận rộn làm triều thiên để chơi trò làm vua.
Andrê mạnh mẽ đi cùng với Gioan và Philíp để tìm Margziam ở
408
giữa đám đông luôn luôn rời chỗ. Họ tìm thấy nó hầu như cùng một lúc, cùng với cái giỏ đồ ăn của nó đeo ở vai, một cành tiên nhân thảo dài cuốn quanh đầu, và một cái giây lưng bằng tiên nhân thảo, ở đó có đeo, giả làm thanh kiếm, một cái búa mà cục búa là cán kiếm, và cán búa là lưỡi kiếm. Cùng với nó có bảy đứa khác trang sức tương tự. Chúng làm một đoàn rước cho con trai ông luật sĩ, một đứa trẻ rất lỏng khỏng, đôi mắt nghiêm trang của kẻ đã chịu đựng rất nhiều. Nó có vẻ tỉnh táo hơn các đứa khác nên được đóng vai vua.
- Lại đây, Margziam, Thầy gọi con đó.
Margziam để các bạn nó tại đó và đi mau lẹ, cả đến không tháo các hoa lá trang điểm của nó ra. Nhưng những đứa khác cũng đi theo nó, và Giêsu được bao vây lẹ làng bởi triều thiên các trẻ con đeo hoa lá. Người vuốt ve chúng trong khi Philíp lấy ra khỏi giỏ một gói bánh, trong đó có cả hai con cá lớn: hai ký lô cá, có lẽ hơn hai ký. Số lượng chẳng đủ dù chỉ cho mười bảy người, đúng ra là mười tám, nếu kể cả Manaen, của nhóm Giêsu. Người ta mang những thực phẩm này lại cho Thầy.
- Tốt. Bây giờ hãy mang các thúng lại cho Thầy. Mười bảy cái, mỗi người một cái. Margziam sẽ phát đồ ăn cho các trẻ em...
Giêsu nhìn đăm đăm người luật sĩ vẫn luôn luôn ở bên cạnh Người và hỏi ông: “Ông có muốn cũng đi phát lương thực cho các người đói không?”
- Điều đó con thích, nhưng con cũng chẳng có cái gì cả.
- Hãy phát đồ ăn của tôi. Tôi cho phép ông đó.
- Nhưng... Thầy có ý định cho ăn no gần năm ngàn người đàn
ông này à? Lại còn cộng thêm vào đó các đàn bà và trẻ con, với hai con cá và năm cái bánh này sao?
- Chắc chắn rồi. Đừng cứng lòng tin. Ai tin thì sẽ thấy phép lạ hoàn thành.
- Ồ, vậy con cũng muốn đi phân phối đồ ăn.
- Vậy ông cũng hãy đi xin lấy một cái thúng.
Các tông đồ trở lại với các thứ rổ và thúng, cái thì rộng và nông,
409
cái thì sâu và hẹp. Người luật sĩ trở lại với cái thúng hơi nhỏ. Người ta đã tưởng rằng đức tin của ông, hay là sự thiếu đức tin của ông sẽ làm cho ông chọn cái thúng lớn nhất.
- Tốt. Hãy đặt tất cả trước đây, và hãy cho đám đông ngồi thứ tự thành những hàng đều đều bao nhiêu có thể.
Trong lúc đó, Giêsu cầm lên các chiếc bánh có đặt hai con cá ở trên, Người dâng hiến, cầu nguyện và chúc phúc. Ông luật sĩ không rời mắt khỏi Người một giây. Rồi Giêsu bẻ năm chiếc bánh thành mười tám phần, và cũng vậy, hai con cá chia thành mười tám phần. Người đặt vào mỗi thúng một miếng cá, miếng nhỏ xíu! Và từ mười tám miếng bánh, Người bẻ vụn thành nhiều mụn bánh nhỏ: mỗi miếng bánh bẻ thành nhiều mụn bánh, tương đối là nhiều mụn, khoảng hai chục, không hơn. Mỗi miếng bánh, sau khi đã bẻ nát thành mụn, được đặt vào mỗi thúng cùng với miếng cá.
- Bây giờ hãy mang đi và phân phối thả cửa. Nào, đi đi, Margziam, hãy đem đi cho các bạn con.
- Ôi! Nặng qúa sức! - Margziam nói trong khi nó cầm thúng của nó lên và đi ngay về với các bạn nhỏ của nó. Nó bước tựa như nó phải mang một gánh nặng.
Các tông đồ, các môn đệ, Manaen, ông luật sĩ, nhìn nó bước, không biết phải nghĩ thế nào... Rồi họ cầm các thúng lên và nói với nhau: “Thằng bé dỡn! Đâu có nặng hơn trước đâu”. Ông luật sĩ cũng nhìn vào bên trong và lấy tay rờ vào đáy thúng, vì không còn nhiều ánh sáng, bởi chỗ Giêsu đứng ở dưới tàn cây, trong khi ở xa hơn, chỗ rừng thưa thì còn khá ánh sáng. Mặc dầu nhận thấy vậy, nhưng họ cũng đi về phía đám đông và bắt đầu phân phát. Họ cho, họ cho, họ cho. Thỉnh thoảng họ quay mặt trở lại, ngạc nhiên thấy mình càng lúc càng đi xa Giêsu, trong khi Người đứng khoanh tay, tựa lưng vào một thân cây, hơi mỉm cười vì sự sững sờ của họ.
Sự phân phối lâu và dồi dào... Người duy nhất không tỏ vẻ ngạc nhiên là Margziam. Nó cười, sung sướng được bỏ bánh và cá vào đầy các bàn tay trẻ em nghèo. Nó cũng là người đầu tiên trở lại với Giêsu và nói: “Con đã cho biết bao! Biết bao!...Vì con đã biết thế
410
nào là đói...” Và nó ngửa mặt lên, khuôn mặt chỉ còn hốc hác trong kỷ niệm, bây giờ đã biến mất. Nhưng nó tái xanh và mở to đôi mắt... Giêsu vuốt ve nó, và nụ cười lại trở về tươi sáng trên khuôn mặt trẻ con đầy tin tưởng của nó. Nó tựa vào Giêsu, thầy và đấng bảo trợ của nó.
Rất từ từ, các tông đồ và các môn đệ trở về, câm lặng vì sững sờ. Người trở về sau cùng là ông luật sĩ. Ông không nói gì, nhưng ông làm một cử chỉ còn mạnh hơn một bài hùng biện: ông qùi gối và hôn gấu áo của Giêsu.
- Hãy lấy phần của các con và đưa cho Thầy một tí. Chúng ta hãy ăn lương thực của Thiên Chúa.
Qủa vậy, họ ăn bánh và cá, mỗi người tùy khẩu vị... Trong lúc đó, mọi người no nê, trao đổi cảm tưởng của họ. Cả những người ở chung quanh Giêsu cũng bạo dạn nói trong khi nhìn Margziam, nó ăn xong miếng cá rồi dỡn với những đứa khác.
Ông luật sĩ hỏi: “Thưa Thầy, tại sao đứa trẻ cảm thấy sức nặng ngay, còn chúng con thì không? Con đã rờ cả vào bên trong, con thấy vẫn chỉ có những mụn bánh và miếng cá duy nhất đó. Con bắt đầu cảm thấy sức nặng khi con đi lại với đám đông. Nhưng nếu đó là sức nặng của số lượng bánh mà con đã cho, thì phải một đôi lừa để chở, và không phải là cái thúng, mà là một chiếc xe lớn chất đầy đồ ăn. Lúc đầu con đi tới từ từ... Rồi con bắt đầu cho, cho, và để không bất công, con lại trở về với những người đầu tiên để cho một lần nữa, vì lúc đầu con cho ít qúa. Nhưng đã có đủ hết”.
- Con cũng vậy. Con cảm thấy cái thúng trở nên nặng khi con tiến bước, và con cho cách dồi dào ngay, bởi vì con hiểu rằng Thầy đã làm phép lạ - Gioan nói.
- Con thì trái lại, con dừng lại và ngồi xuống để đổ vào vạt áo con cái thúng nặng, và con bắt đầu đếm... Khi đó con thấy đầy những bánh là bánh, nên con đi phát - Manaen nói.
- Con, con cả đến đếm hết để không bị bẽ mặt. Con thấy có năm mươi cái bánh nhỏ, con tự bảo: mình sẽ cho năm chục người, rồi mình trở lại. Và con đếm, nhưng khi đến người thứ năm mươi thì
411
vẫn thấy còn cùng một trọng lượng. Con nhìn trong thúng thì vẫn thấy còn qúa trời, con tiến lên và con cho hàng trăm, nhưng số bánh không bao giờ giảm bớt - Batôlômêo nói.
Tôma thì nói:
- Con, con nhận ra rồi, con đã không tin. Con cầm trong tay những mụn bánh và miếng cá nhỏ, con nhìn nó và nói: “Cái này thì ăn thua gì ! Giêsu muốn dỡn chơi!...” Con nhìn nó, con nhìn nó, cứ đứng nấp sau một thân cây, hy vọng và thất vọng để nhìn nó tăng lên. Nhưng nó vẫn luôn luôn vậy. Con sắp trở lại thì Mathêu đi qua và bảo con: “Anh thấy nó đẹp chừng nào!” Cái gì? - Con hỏi. “Nhưng bánh và cá thôi!...” Mathêu nói. “Anh điên sao? Tôi, tôi vẫn luôn luôn chỉ thấy những mụn bánh”. Mathêu tiếp: “Hãy đi phân phối với lòng tin, rồi anh sẽ thấy”. Con quăng những mụn bánh vào thúng và con đi, ngờ vực. Rồi... Xin tha cho con, Giêsu, vì con tội lỗi.
- Không. Con là một thần trí thế gian. Con lý luận như những người thuộc về thế gian.
- Lạy Chúa, cả con cũng vậy - Iscariot nói. “Tới nỗi con đã nghĩ cho một đồng bạc cùng với bánh khi nghĩ rằng: họ sẽ ăn ở nơi khác. Con hy vọng giúp Thầy đẹp mặt hơn. Vậy con là gì? Giống Tôma hay hơn?”
- Rất tệ hơn Tôma nữa. Con là thế gian.
- Nhưng con đã nghĩ đến làm phước để thuộc về Trời. Đó là những đồng bạc của con...
- Bố thí cho chính con và cho cái kiêu ngạo của con chứ không phải cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần nó, và sự bố thí cho cái kiêu ngạo của con là một tội chứ không có công.
Judas cúi đầu và nín lặng
Simon Zêlote nói: “Còn con, con nghĩ rằng miếng cá này và những mụn bánh này thì phải bẻ nát nó ra mới đủ. Nhưng con không nghi ngờ gì về việc nó đủ cho số người và về giá trị dinh dưỡng. Một giọt nước do Thầy cho có thể bổ béo hơn một bữa tiệc”.
- Còn các anh, các anh nghĩ sao? - Phêrô hỏi hai anh của Giêsu.
412
- Chúng tôi nhớ lại Cana... và chúng tôi không nghi ngờ gì - Juđa nói cách nghiêm trang.
- Còn con, Giacôbê anh Thầy, con chỉ nghĩ tới đó thôi sao?
- Không. Con nghĩ đây là một bí tích, giống như Thầy đã nói với con... Có đúng vậy không hay con lầm?
Giêsu mỉm cười: “Đúng và sai. Đối với sự thật về sức mạnh dinh dưỡng của một giọt nước mà Simon trình bày, phải thêm vào tư tưởng của con cho một bộ mặt xa xăm. Nhưng đây chưa phải là bí tích”.
Ông luật sĩ giữ một mẩu nhỏ trong tay ông.
- Để làm gì?
- Một... kỷ niệm.
- Tôi cũng sẽ giữ. Tôi sẽ đeo vào cổ cho Margziam, trong một cái túi - Phêrô nói.
- Tôi, tôi sẽ đem về cho mẹ chúng tôi - Gioan nói.
- Còn chúng ta? Chúng ta đã ăn hết trơn - Nhiều người nói, bẽ bàng.
- Các con đứng lên và cầm thúng đi một vòng nữa đi. Hãy nhặt những chỗ thừa. Tách riêng những người nghèo ra khỏi những người khác và dẫn họ lại đây cho Thầy với những cái thúng. Rồi các con, các môn đệ của Thầy, tất cả hãy đi lên thuyền và ra khơi để đi về đồng bằng Gênêsarét. Thầy sẽ giải tán họ sau khi đã phân phát cho những người nghèo nhất, rồi Thầy sẽ đến với các con.
Các tông đồ vâng lời... và trở lại với mười hai thúng đầy những thứ còn thừa, theo sau bởi khoảng ba chục người ăn mày hay những kẻ rất tội nghiệp.
- Tốt lắm. Đi đi.
Các tông đồ và các người của Gioan Tẩy Giả chào Manaen và ra đi, hơi tiếc vì phải rời Giêsu, nhưng họ vâng lời. Manaen chờ để chào Giêsu trong khi đám đông, dưới những ánh mờ sau cùng của ngày, đi về phía các làng, hoặc tìm chỗ ngủ giữa đám lác cao và khô. Rồi ông tạm biệt Người. Ông luật sĩ đã đi trước rồi. Ông là một trong những người ra đi trước tiên, bởi vì ông có con trai nhỏ.
413
Ông đi ngay sau các tông đồ.
Khi mọi người đã đi hoặc đã ngủ, Giêsu đứng dậy chúc lành cho những người đang ngủ, rồi Người nhẩn nha bước về phía hồ, về phía bán đảo Tarichée cao hơn lên chừng vài mét, tựa như cái cao nguyên muốn đi xuống hồ. Khi Người đã đi bộ tới đó mà không vào thành phố, chỉ đi vòng ở ngoài, Người leo lên cái cồn và ngồi trên một tảng đá để cầu nguyện, quay mặt về phía mặt nước trong xanh dưới ánh sáng trắng của một đêm trăng thanh tịnh.
137* GIÊSU ĐI TRÊN NƯỚC
Buổi tối đã tới, hầu như đã là đêm, vì người ta thấy rất lờ mờ con đường đi lên đồi, nơi có những cây rải rác đó đây. Tôi thấy hình như đó là những cây ôliu, nhưng vì qúa ít ánh sáng nên tôi không thể chắc. Tóm lại, đó là những cây lớn cỡ trung bình, có chòm lá rậm và vặn vẹo như các cây ôliu thông thường.
Giêsu ở một mình, mặc đồ trắng với áo khoác mầu lam. Người lên dốc, đi giữa các cây. Người bước những bước dài, bình lặng, không vội vã, nhưng vì bước chân Người dài nên dù không vội vã, Người cũng đi lẹ. Người bước cho tới khi gặp một chỗ giống như một cái ban công thiên nhiên, từ đây cái nhìn trải ra trên hồ hoàn toàn yên lặng dưới ánh sao lấp lánh đầy trên bầu trời. Sự yên lặng bao trùm Giêsu bằng cái hôn nghỉ ngơi của nó. Nó tách Người ra khỏi đám đông và trái đất để làm cho Người quên chúng đi mà kết hợp với Trời. Bầu trời tựa như hạ thấp xuống để thờ lạy Ngôi Lời Thiên Chúa, và âu yếm Người bằng ánh sáng các tinh tú của nó.
Giêsu cầu nguyện trong kiểu cách thông thường: đứng khoanh tay. Sau lưng Người là một cây ôliu, giống như Người bị đóng đinh trên cái nền tối này. Tàn lá hơi cao hơn Người một chút thôi, vì Người cao lớn. Và thay vì cái lời viết trên Thập giá: “Vua người Do Thái”, ở đây là một lời thích hợp hơn với Đức Kitô: “Hoàng Tử bình an”. Cây ôliu của bình an biểu lộ rất rõ điều đó cho những ai biết nghe. Giêsu cầu nguyện lâu giờ, rồi Người ngồi trên cái ban
414
công có nền là cây ôliu: trên một cái rễ lớn lồi băng ngang, và Người làm như thường lệ: hai tay nắm vào nhau, hai cùi chỏ chống trên hai đầu gối. Người chiêm niệm. Ai biết được cuộc đàm thoại thần linh nào Người đã trao đổi với Chúa Cha và Thánh Linh vào lúc Người ở biệt lập và có lẽ hoàn toàn dành cho Thiên Chúa này.
Tôi thấy như đã nhiều giờ qua đi như vậy, vì tôi thấy các sao di chuyển, nhiều ngôi đã lặn ở phương tây.
Ngay chính vào lúc như có một ánh sáng, đúng hơn là một vẻ sáng, bởi vì cái đó không còn có thể gọi là ánh sáng nữa, vẽ lên ở chân trời phía đông, một cơn gió làm lung lay cây ôliu. Rồi yên tĩnh, rồi nó lặp lại mạnh hơn với những chặp ngắt, rồi nó trở lại càng lúc càng mạnh hơn. Ánh sáng bình minh vừa hơi hé, liền bị chận lại bởi một đám mây đen bao trùm lấy bầu trời, bị đẩy bởi những cơn gió càng lúc càng mạnh. Chiếc hồ cũng mất sự yên tĩnh của nó. Tôi thấy như nó sắp chịu những cơn gió lốc giống như cảnh mà tôi đã nhìn thấy trong thị kiến về bão gió. Bây giờ tiếng rào rào của lá cây và tiếng gầm của sóng lấp đầy không gian, rồi lại có một lúc rất yên tĩnh.
Giêsu ra khỏi sự chiêm niệm. Người đứng dậy, Người nhìn cái hồ, Người tìm tòi ở đó, dưới ánh sáng của vài vì sao còn sót lại, và của ánh sáng một bình minh bệnh hoạn, Người thấy chiếc thuyền của Phêrô đang tiến cách khó nhọc về phía bờ đối diện mà không sao trôi đi được. Giêsu gói mình trong áo khoác, nhưng nó kéo lê làm cản bước của Người khi xuống dốc. Người liền lật ngược phía gấu để trùm lên đầu như chiếc mũ áo mưa, và Người đi xuống rất lẹ, không đi con đường Người đã lên, nhưng bởi con đường nhỏ tắt đi thẳng ra hồ. Người đi lẹ tới nỗi giống như Người bay.
Người tới cái bãi bị đập bởi các cơn sóng, làm cho nó có một lằn bờ đầy bọt và ồn ào. Người tiếp tục con đường của Người cách mau lẹ tựa như không phải Người bước trên chất lỏng dao động, nhưng là trên một mặt bằng và vững chắc. Bây giờ Người trở thành ánh sáng. Hình như một ít ánh sáng của các vì sao hiếm hoi đang tắt, và của cái bình minh bão gió, đã tập trung lại trên Người, và biến thành một thứ lân tinh soi sáng cơ thể đang lao đi của Người. Người
415
bay trên sóng, trên những cái đỉnh bọt, trong chỗ gấp lại tối om giữa hai ngọn sóng, hai tay giơ về phía trước với áo khoác phồng lên quanh má, phất phơ như nó có thể, còn ở thân thì bó chặt, đập như vỗ cánh.
Các tông đồ nhìn thấy và kêu thất thanh sợ hãi. Tiếng kêu được gió mang tới tai Giêsu.
- Đừng sợ, Thầy đây - Tiếng nói của Giêsu, dù gió ngược, cũng vọng lan trên mặt hồ cách dễ dàng.
Phêrô hỏi: “Có đúng là Thầy không? Nếu đúng là Thầy thì hãy bảo con đến với Thầy bằng cách bước đi trên nước giống như Thầy”.
Giêsu mỉm cười: “Tới đi”. Người nói đơn giản, tựa như bước đi trên nước là chuyện tự nhiên trên đời vậy.
Và Phêrô, nửa mình trần, vì ông chỉ có một áo dài cộc không có tay, liền nhảy một phát qua bờ thuyền và đi về phía Giêsu. Nhưng khi ông đã ở cách thuyền độ năm chục mét, và cũng ở cách Giêsu khoảng đó, ông bị cái sợ đột nhập. Từ lúc trước, ông được nâng đỡ bởi cái đà tình yêu, bây giờ nhân tính có lý trong ông, và... ông run sợ cho mạng sống ông. Tựa như một người đang ở chỗ đất sụt hay trên đống cát chảy, ông bắt đầu ngả nghiêng, lay lắc và sụt xuống. Ông càng vùng vẫy và run vì sợ, ông càng sụt xuống.
Giêsu đứng lại và nhìn ông, nghiêm trang. Người chờ, nhưng Người không giơ tay ra cho ông. Người vẫn đứng khoanh tay. Người không bước thêm một bước, cũng không nói một lời.
Phêrô sụt xuống, biến mất tới mắt cá, rồi ống chân, rồi đầu gối. Nước lên tới háng, vượt qua, lên tới thắt lưng. Người ta đọc thấy cái sợ trên mặt ông, một cái sợ làm tê liệt cả tư tưởng. Đây chỉ còn là một thể xác sợ bị chết chìm. Thậm chí ông không nghĩ tới bơi trong nước, không nghĩ tới gì cả. Ông trở nên đần độn vì sợ.
Sau cùng, ông quyết định nhìn Giêsu. Và chỉ việc nhìn Người đã đủ để thần trí ông bắt đầu lý luận, để bám vào nơi có sự cứu rỗi: “Thầy ơi, Chúa ơi! Cứu con với”.
Giêsu mở tay ra, Người lao về phía người tông đồ, tựa như gió và nước mang Người đi. Người giơ tay ra cho ông khi nói: “Ôi!
416
Người ít đức tin! Tại sao lại nghi ngờ về Thầy? Tại sao con lại muốn hành động một mình?”
Phêrô co quắp, ghì chặt lấy tay Giêsu và không trả lời. Ông nhìn Người để coi xem Người có tức giận không. Ông nhìn Người với một chút sợ hãi còn lại, pha lẫn với sự hối hận đã thức tỉnh.
Nhưng Giêsu mỉm cười và nắm chặt cổ tay ông cho tới lúc tới thuyền, băng qua be và vào trong. Rồi Giêsu ra lệnh: “Chèo vào bờ đi. Ông ta ướt hết trơn rồi”, và Người mỉm cười nhìn người đồ đệ khiêm tốn.
Các đợt sóng liền êm lại để việc vào bờ được dễ dàng, và thành phố bữa trước đã nhìn thấy từ trên đồi lại hiện ra phía bên trong bờ.
Thị kiến chấm dứt ở đây.
138* “NẾU CÁC CON CÓ ĐỨC TIN,
CHA SẼ ĐẾN VÀ CHA NGĂN NGỪA
NGUY HIỂM CHO CÁC CON”
Chúa Giêsu nói:
Nhiều khi Cha không đợi người ta gọi, khi Cha thấy một trong các con Cha bị nguy hiểm. Và cũng rất nhiều lần Cha chạy đến cứu một đứa con vô ơn đối với Cha.
Các con ngủ hoặc các con bận rộn với các công việc, hoặc các lo âu của cuộc đời, nhưng Cha, Cha tỉnh thức và Cha cầu nguyện cho các con. Là thiên thần của hết mọi người, Cha đứng nghiêng mình trên các con, và không gì làm Cha đau đớn hơn là không thể can thiệp bởi vì các con từ chối sự trợ giúp của Cha. Các con thích hành động một mình, hay còn tệ hơn nữa, các con xin sự trợ giúp của Đứa Gian Ác. Cũng giống như một người Cha nghe đứa con nói: “Tôi không yêu ông, tôi không muốn ông, hãy ra khỏi nhà tôi”, Cha chịu sỉ nhục và đau đớn còn hơn là đau vì các vết thương. Nhưng nếu các con chỉ không truyền cho Cha: “Cút đi!”, rồi các con chểnh mảng với Cha vì đời sống, thì Cha là người tỉnh thức muôn đời, Cha sẵn sàng để đến ngay cả trước khi được gọi. Nếu
417
Cha chờ đợi các con nói với Cha một lời, đôi khi Cha cũng chờ, tức là để nghe người ta gọi Cha, thì ôi, âu yếm chừng nào, êm dịu chừng nào được nghe loài người gọi, được cảm thấy rằng người ta đã nhớ tới Cha là Vị Cứu Tinh!
Cha không nói với con nỗi vui vô tận chừng nào xâm nhập vào Cha và phấn khích Cha chừng nào khi một kẻ yêu Cha và nó gọi Cha, không cần chờ tới khi cần. Nó gọi Cha bởi vì nó yêu Cha hơn mọi thứ trên đời, và nó cảm thấy một nỗi vui giống như nỗi vui của Cha chỉ vì nó gọi Cha: “Giêsu! Giêsu!”, giống như các trẻ nhỏ làm khi nó gọi: “Má ơi! Má ơi!”, và tựa như mật ong chảy trên môi nó, bởi vì tiếng Má mang theo với nó hương vị do những cái hôn của từ mẫu.
Các tông đồ lênh đênh, vâng lời Thầy để đi chờ Cha ở Caphanaum. Còn Cha, sau phép lạ về bánh, Cha đã biệt lập với đám đông, không phải vì khinh dể hay chán ngán họ. Cha không bao giờ khinh dể người ta, dù họ độc ác với Cha. Chỉ khi nào Cha thấy lề luật bị chà đạp và nhà Thiên Chúa bị phàm tục hóa, Cha mới phẫn nộ. Nhưng lúc đó không phải vì Cha, nhưng vì những lợi ích của Chúa Cha. Và Cha, Cha là người đầu tiên trong các tôi tớ của Thiên Chúa ở dưới đất để phụng sự Cha trên Trời.
Cha không bao giờ chán ngán tận tụy với các đám đông, dù Cha thấy họ khép kín, chậm chạp, đầy nhân tính, tới cỡ làm nản lòng những kẻ đáng cậy nhất trong sứ mạng của họ. Chính bởi vì họ qúa sút kém nên Cha gia tăng những giảng giải tới vô hạn. Cha coi họ như những đứa học trò chậm tiến, và Cha hướng dẫn thần trí họ trong những khám phá khai tâm thô sơ nhất, giống như một ông thầy kiên nhẫn hướng dẫn bàn tay vụng về của học trò để vẽ những chữ đầu tiên, để làm cho nó luôn luôn có khả năng hơn để hiểu và để làm. Biết bao tình yêu Cha đã cho đám đông! Cha đem họ ra khỏi xác thịt để dẫn họ tới thần trí. Cha cũng bắt đầu bằng xác thịt, nhưng trong khi Satan đem họ ra khỏi đó để dẫn họ vào hỏa ngục, Cha đem họ ra khỏi đó để dẫn họ lên trời.
Cha đã tự cô lập để cám ơn Chúa Cha về phép lạ bánh. Đã
418
nhiều ngàn người ăn, và Cha đã ra lệnh nói “cám ơn” Chúa. Nhưng sau khi đã được cứu trợ, con người không biết nói “cám ơn”, Cha đã nói thay cho họ. Rồi sau đó... Rồi sau đó, Cha đã tan hòa với Chúa Cha mà Cha có một sự nuối tiếc vô tận về tình yêu. Cha ở trên mặt đất, nhưng giống như kẻ bị lột trần, không có sự sống. Thần trí Cha lao đi gặp Chúa Cha, và Cha cảm thấy Người nghiêng mình trên Ngôi Lời của Người, và Cha thưa Người: “Ôi! Cha rất thánh, con yêu Cha”. Thật là niềm vui khi Cha nói: “Con yêu Cha”. Nói với Người câu đó như một người trần nói, cùng với như một Thiên Chúa nói. Tự hạ trước mặt Người trong tâm tình loài người của Cha cũng như Cha hiến dâng Người những hồi hộp của Thiên Chúa của Cha. Cha giống như nam châm để lôi kéo về cho Người hết mọi tình yêu của loài người, của con người có khả năng yêu Thiên Chúa một chút, Cha thu dồn lại và Cha dâng tiến nó trong đáy qủa tim Cha. Cha thấy mình như cái Tôi đơn độc: Con Người, tức là dòng giống loài người trở lại nói chuyện với Thiên Chúa trong buổi chiều mát mẻ, giống như những ngày còn vô tội.
Mặc dầu phúc đức của Cha toàn vẹn, vì đó là phúc đức của đức Ái, nó cũng không tránh cho Cha khỏi những nhu cầu của loài người, và Cha nhận thấy sự nguy hiểm của các con Cha trên mặt hồ. Cha rời bỏ Tình Yêu vì tình yêu. Đức bác ái đòi phải vội vã.
Họ đã tưởng Cha là ma. Ôi! Các con khốn khổ! Biết bao lần các con cho Cha là ma để mà sợ. Nếu các con luôn luôn nghĩ tới Cha, các con sẽ nhận ra Cha ngay. Nhưng các con có biết bao ảo tưởng trong con tim, và nó làm cho các con choáng váng. Nhưng Cha, Cha tỏ mình ra để Cha được biết. Ôi! Nếu các con biết nghe lời Cha!
Tại sao Phêrô bị chìm sau khi đã bước nhiều mét? Cha đã nói rồi: Bởi vì nhân tính thống trị thần trí ông.
Phêrô rất “con người”. Nếu là Gioan thì ông không bạo gan như vậy, và không thay đổi ý kiến do tính hay thay đổi. Sự trong sạch làm cho người ta khôn ngoan và nhiệm nhặt. Nhưng Phêrô là “người” theo tất cả ý nghĩa của từ đó. Ông muốn khác biệt với người khác, muốn làm cho thấy rằng không ai yêu Thầy bằng ông. Ông muốn làm cho người ta tin phục chỉ vì lẽ ông là một người của Cha. Ông
419
tưởng mình đã ở bên trên những yếu đuối của xác thịt. Nhưng trái lại, Simon tội nghiệp, trong thử thách, ông đã cho những phán quyết không có gì là cao cả hết. Nhưng điều đó cần thiết để sau này ông là người truyền tồn lòng thương xót của Thầy ông trong Giáo Hội sơ sinh.
Phêrô chẳng những đã để mình bị trấn át bởi cái sợ cho sự sống đang nguy hiểm, mà còn đúng như con nói, ông đã trở nên duy nhất một “xác thịt run sợ”. Ông không suy nghĩ nữa. Ông không nhìn Cha nữa.
Các con cũng vậy, các con hành động như thế. Nguy hiểm càng cấp bách, các con càng muốn tự ý hành động, tựa như các con có thể làm được cái gì! Đừng bao giờ trong những giờ các con phải trông cậy vào Cha và gọi Cha, thì các con lại lìa xa Cha, bóp chẹt con tim Cha, và cả đến nguyền rủa Cha.
Phêrô không nguyền rủa Cha, nhưng ông quên Cha. Và Cha phải giải phóng cho năng lực của ý chí để gọi thần trí ông về với Cha, để ông ngước mắt lên vị Thầy và Cứu Tinh của ông. Cha tha thứ trước cho cái tội nghi ngờ của ông, bởi vì Cha thương ông. Cái tính kích động này, một khi đã vững chắc trong Ân Sủng, sẽ tiến lên trước, không còn xao xuyến, không còn chán nản, cho tới tử đạo, để không mệt mỏi cho tới chết, tung cái lưới mầu nhiệm của ông để dẫn đưa các linh hồn về cho Thầy ông. Và khi ông gọi Cha, Cha không bước, mà Cha bay lại cứu ông, rồi Cha giữ chặt ông để đưa ông tới nơi an toàn.
Lời khiển trách của Cha đầy êm dịu, bởi vì Cha biết tất cả những gì làm giảm bớt sự yếu đuối của Phêrô. Cha là đấng bảo vệ tốt
420
nhất và là thẩm phán tốt nhất như chưa từng có và sẽ không bao giờ có. Với tất cả, Cha hiểu các con hết, các con đáng thương của Cha! Và cả khi Cha nói với các con một lời khiển trách thì nụ cười của Cha cũng đã làm cho nó thành êm dịu cho các con. Cha yêu các con. Đó là tất cả.
Cha muốn các con có đức tin. Nếu các con có, Cha sẽ đến và ngăn ngừa nguy hiểm cho các con. Ôi! Nếu trái đất biết nói: “Thầy ơi! Chúa ơi! Cứu con với”. Chỉ cần một tiếng kêu, nhưng phải là của cả trái đất, thì Satan và các kẻ cuồng tín của nó sẽ lập tức ngã xuống thất bại. Nhưng các con không biết có đức tin. Cha tăng gấp các phương tiện để dẫn các con tới đức tin, nhưng nó rơi vào phân bùn của các con giống như một cục đá rơi vào bùn của cái đầm lầy, và nó bị vùi ở đó luôn.
Các con không muốn thanh lọc cái nước của thần trí các con. Các con muốn là bùn hôi thối. Không sao, Cha làm bổn phận của Vị Cứu Tinh đời đời. Dù Cha không thể cứu cả thế giới, vì thế giới không muốn được cứu, Cha sẽ cứu cho khỏi thế giới những kẻ không thuộc về thế giới nữa, vì nó yêu Cha như Cha phải được yêu.
139* GẶP CÁC MÔN ĐỆ
Giêsu đang ở đồng bằng Corozain dọc theo thung lũng ở thượng lưu sông Giođan, khoảng giữa hồ Gênêsarét và hồ Mêron, một miền quê đầy các vườn nho đã bắt đầu mùa thu hoạch. Chắc chắn Người đã ở đây từ mấy ngày rồi, bởi vì sáng nay có các môn đệ đã ở Sicaminon đang ở với Người, trong đám họ có hai người mới là Étienne và Hermas. Isaac xin lỗi vì không thể đến sớm hơn, ông nói bởi vì ông tự hỏi không biết có nên dẫn những người mới đi với ông không, và sự suy nghĩ này đã làm ông chậm lại. Ông còn nói: “Nhưng con nghĩ rằng đường lên trời rộng mở cho hết mọi người có thiện chí. Và con thấy là những người này, dù là môn đệ của Gamaliel, nhưng có thiện chí”.
- Con đã nói đúng và làm đúng. Hãy dẫn họ lại cho Thầy.
Isaac đi ra, rồi trở lại với hai người.
421
- Bình an cho các con. Có phải đối với các con, lời của các tông đồ đúng tới nỗi các con muốn họp đoàn với họ không?
- Vâng. Nhưng lời Thầy nhiều hơn. Xin Thầy đừng xua đuổi chúng con.
- Tại sao Thầy lại phải làm vậy?
- Bởi vì chúng con thuộc về Gamaliel.
- Và với chuyện đó? Thầy, Thầy trọng kính vị đại nhân Gamaliel, và Thầy muốn ông ở cùng với Thầy, vì ông đáng được vậy. Ông chỉ còn thiếu điều đó nữa là sự khôn ngoan của ông sẽ là toàn thiện. Ông đã nói gì với các con khi các con rời ông ta? Vì chắc chắn các con đã chào ông.
- Vâng. Ông đã bảo chúng con: “Phúc cho các anh vì đã có thể tin. Hãy cầu nguyện cho tôi quên đi để có thể nhớ”.
Các tông đồ tò mò chen lại chung quanh Giêsu, nhìn nhau và hỏi nhỏ nhau: “Ông ta muốn nói gì? Ông muốn gì? Quên để nhớ?”
Giêsu nghe thấy tiếng xì xèo nên giải thích: “Ông muốn quên sự thông thái của ông để lấy sự thông thái của Thầy. Ông muốn quên rằng ông là vị rabbi Gamaliel để nhớ rằng ông là một người con Israel đang chờ Đức Kitô. Ông muốn quên đi chính mình ông để nhớ lại chân lý”.
- Thưa Thầy, Gamaliel không phải kẻ dối trá - Hermas nói để xin lỗi cho ông.
- Không. Nhưng chính cái mớ lộn xộn của các từ ngữ của con người là lời nói dối. Các lời thay thế cho Lời, phải quên nó đi, lột bỏ nó đi, phải nên trần trụi và trinh khiết để đến với Chân Lý, để được mặc lại và sinh sản. Việc đó đòi hỏi sự khiêm tốn, gian nan...
- Vậy chúng con cũng phải quên?
- Chắc chắn rồi. Quên đi tất cả những gì là con người, nhớ lấy tất cả những gì là Thiên Chúa. Hãy tới, các con có thể làm việc đó.
- Chúng con muốn làm - Hermas bảo đảm.
- Các con đã sống đời sống người môn đệ chưa?
- Rồi, từ ngày chúng con được tin vụ sát nhân ông Tẩy Giả. Tin đó đã đến Jêrusalem rất lẹ, mang đi bởi các triều thần và các sĩ
422
quan của Hêrôđê. Cái chết của ông đã lôi chúng con ra khỏi cơn mê muội của chúng con - Étienne trả lời.
- Máu các vị tử đạo luôn luôn là sự sống cho những kẻ ở trong cơn mê muội. Étienne, con hãy nhớ điều đó.
- Thưa Thầy vâng. Hôm nay Thầy có nói không? Con đói lời Thầy.
- Thầy đã nói, và Thầy còn nói nhiều nữa với các con là những môn đệ. Các tông đồ, các bạn con, đã bắt đầu sứ mạng sau một chuẩn bị tích cực. Nhưng họ không đủ cho nhu cầu của thế giới. Và phải làm tất cả, trong một thời gian chính xác. Thầy giống như kẻ có một kỳ hẹn, và phải làm xong tất cả trong một thời gian hạn chế. Thầy xin sự giúp đỡ của tất cả các con. Và nhân danh Thiên Chúa, Thầy hứa với các con sự trợ giúp và một tương lai vinh quang.
Con mắt sắc bén của Giêsu khám phá ra một người cuộn kín trong áo khoác vải gai: “Ông không phải thầy cả Gioan sao?”
- Thưa Thầy phải. Con tim của các người Do Thái còn khô cằn hơn cái thung lũng bị nguyền rủa. Con đã chạy trốn để đi tìm Thầy.
- Còn chức tư tế?
- Bệnh cùi đã trục xuất con khỏi chức tư tế lần thứ nhất, và con người làm lần thứ hai, bởi vì con yêu Thầy. Ơn huệ của Thầy đã lôi kéo con lại với nó, tức là với Thầy. Nó cũng đẩy con ra khỏi một nơi bị tục hóa để dẫn con vào nơi trong sạch. Thầy đã thanh tẩy con trong thân xác và trong tâm hồn. Và một vật trong sạch không thể, không được tới gần một vật dơ bẩn, vì như vậy sẽ là xúc phạm tới người đã thanh tẩy.
- Con có một sự xét đoán nghiêm khắc, nhưng không bất công.
- Thưa Thầy, những điều xấu xa trong gia đình thì chỉ những người sống trong gia đình biết, và chỉ nên nói ra cho những người có tâm hồn ngay thẳng. Thầy là người đó. Vả nữa, Thầy biết mà. Đối với những người khác thì con không nói. Ở đây chỉ có Thầy, các tông đồ của Thầy, và hai người này thì họ cũng biết rồi, vì vậy họ cũng giống như Thầy và giống như con.
- Tốt thôi. Nhưng... Ôi! Cả ông nữa! Bình an cho ông. Ông đến
423
để cho lương thực khác nữa à?
- Không. Con đến để có lương thực, lương thực của Thầy.
- Mùa màng của ông bị mất à?
- Ồ, không. Chưa bao giờ nó đẹp như vậy. Nhưng thưa Thầy, con tìm một thứ bánh khác, một thứ gặt hái khác: thứ của Thầy. Và cùng với con, có người cùi mà Thầy đã chữa trên đất của con. Ông ta trở lại với chủ của ông. Nhưng ông ta và con, bây giờ chúng con có một chủ để theo và phục vụ: Thầy.
- Hãy lại đây: một, hai, ba, bốn... Một vụ gặt tốt! Nhưng qúi vị đã suy nghĩ về hoàn cảnh của qúi vị đối với Đền Thờ chưa? Qúi vị biết, và tôi biết... và tôi không nói gì hơn nữa.
- Con là người tự do, và con đi với ai con muốn - Thầy cả Gioan nói.
- Con cũng vậy - người mới tới nói. Đó là luật sĩ Gioan, người đã cho đồ ăn trong ngày Sabát ở chân núi Phúc Thật.
- Chúng con cũng vậy - Hermas và Étienne nói. Rồi Étienne thêm: “Xin Thầy nói với chúng con. Chúng con chưa biết chính xác sứ mạng của chúng con là gì. Xin cho chúng con cái tối thiểu để phục vụ Thầy ngay lập tức, rồi những điều khác sẽ tới trong khi theo Thầy”.
- Vâng. Ở trên núi, Thầy đã nói về các phúc thật, và đó là một bài giáo huấn cho chúng con. Nhưng chúng con, ở bên những người khác, về thứ tình yêu thứ hai: tình yêu tha nhân, thì chúng con phải làm gì - luật sĩ Gioan hỏi.
- Gioan Enđo đâu vậy? - Giêsu hỏi thay vì tất cả các câu trả lời.
- Thưa Thầy ở đàng kia, cùng với các người đã được chữa lành bệnh.
- Bảo ông tới đây.
Gioan Enđo chạy tới. Giêsu đặt tay trên vai ông trong khi chào ông cách đặc biệt, và Người nói: “Đây, bây giờ Thầy sắp nói. Thầy muốn có các con ở trước mặt Thầy, các con, những người mang danh hiệu thánh: Con, tông đồ của Thầy; con, vị thầy cả; con, vị luật sĩ; con, Gioan của ông Tẩy Giả, và sau cùng, con, để khép lại cái triều thiên Ân Sủng do Thiên Chúa làm. Nếu Thầy điểm danh
424
con sau cùng, con cũng biết rằng con không phải người sau cùng trong qủa tim Thầy. Thầy đã hứa với con một bữa nọ về bài thuyết trình này. Con sắp có nó đây”.
Và Giêsu, vẫn như Người thường làm, trèo lên một cái bờ nhỏ để người ta có thể nhìn thấy Người. Ở hàng đầu trước mặt Người là năm ông Gioan. Đàng sau là các môn đệ, ngồi lẫn lộn với các người đã đến từ mọi miền của Palestin, hoặc vì sức khoẻ của họ, hoặc để nghe lời Người.
- Bình an cho tất cả các con, và xin sự khôn ngoan đến trên các con.
Hãy nghe đây. Có một người, vào một ngày đã lâu rồi, hỏi Thầy rằng nếu Thiên Chúa đầy thương xót đối với người tội lỗi, thì Người thương như vậy đến cỡ nào. Người hỏi điều đó là một tội nhân đã được tha thứ, và ông không thể tin được ở sự tha thứ tuyệt đối của Thiên Chúa. Và Thầy đã dùng các dụ ngôn để thuyết phục ông ta, để bảo đảm với ông ta và hứa với ông rằng đối với ông, Thầy sẽ luôn luôn nói về tình thương, để con tim sám hối của ông, giống như một đứa trẻ lạc khóc ở trong ông, được cảm thấy bảo đảm đã được sự xót thương của Cha trên Trời.
Thiên Chúa là Tình Thương bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Người tôi tớ của Thiên Chúa phải biết xót thương để bắt chước Thiên Chúa.
Thiên Chúa dùng tình thương của Người để lôi kéo những đứa con lầm lạc về với Người. Người tôi tớ Thiên Chúa phải dùng tình thương như một phương tiện để lôi kéo những kẻ lầm lạc về với Thiên Chúa.
Luật của tình yêu là luật bó buộc hết mọi người, nhưng nó phải là ba lần bó buộc đối với các tôi tớ Thiên Chúa.
Người ta không thể chinh phục nước Trời nếu người ta không yêu. Nhưng điều đó chỉ đủ để nói với những kẻ tin. Đối với những tôi tớ Thiên Chúa thì Thầy nói: “Người ta không thể chinh phục nước Trời cho những kẻ tin, nếu người ta không yêu cách hoàn toàn”. Và các con, các con là ai, các con, những kẻ đang chen chúc
425
chung quanh Thầy đây? Phần đông trong các con là những kẻ đang hướng về một đời sống trọn lành, một đời được hạnh phúc, một đời nặng nhọc, tươi sáng của người tôi tớ Thiên Chúa, của vị đặc sứ của Đức Kitô. Các con có những nghĩa vụ nào trong đời sống tôi tớ và đặc sứ? Một tình yêu hoàn toàn cho Thiên Chúa, một tình yêu hoàn toàn cho tha nhân. Mục đích của các con là: Phục vụ. Làm gì? Trả lại cho Thiên Chúa những cái mà thế gian, xác thịt, ma qủi đã lấy của Thiên Chúa. Bằng cách nào? Bằng tình yêu. Tình yêu có hàng ngàn cách để thực hành, nhưng chỉ có một mục đích duy nhất: Làm cho yêu.
Các con hãy nghĩ tới con sông Giođan đẹp đẽ của chúng ta. Nó oai hùng chừng nào tại Jêricô! Nhưng ở nguồn của nó có vậy không? Không. Nó chỉ là một tia nước. Và nó chỉ mãi là vậy nếu nó chỉ có một mình. Đây, trái lại, biết bao đồi và núi ở bờ bên nọ và bên kia đổ vào thung lũng của nó hàng ngàn và hàng ngàn chi lưu, cái thì một mình, cái thì hợp bởi hàng trăm dòng suối, tất cả đều đổ vào lòng sông, làm cho nó lớn lên, lớn lên, lớn lên. Và từ chỗ là một con suối êm, một dòng nước bạc trắng xanh đùa dỡn trong tuổi trẻ của con sông, đã trở thành con sông lớn, oai nghiêm, yên tĩnh, trải cái băng xanh lơ của nó ở giữa những bờ phì nhiêu mầu ngọc bích.
Tình yêu cũng vậy. Một cái tia khởi đầu nơi những kẻ còn là trẻ thơ trên đường của Sự Sống, chỉ biết tránh những tôi trọng vì sợ bị phạt. Rồi tiến lên trên đường trọn lành, thì đây, từ những núi non của nhân tính gồ ghề, khô cằn, kiêu hãnh, khắc nghiệt, nhờ ý muốn của tình yêu, sẽ vọt ra nhiều con sông của những nhân đức chính, và tất cả đều được dùng để làm vọt ra và xuất hiện sự đau đớn cũng như nỗi vui mừng. Cũng như ở trên núi, tuyết và băng mà mặt trời làm cho tan chảy cũng được dùng để tạo ra suối, tất cả đều được dùng để mở đường cho họ: sự khiêm nhường cũng như sự thống hối. Tất cả đều được dùng để hướng dẫn họ về con sông nguyên thủy, vì linh hồn, được đẩy đi trên con đường này, chỉ thích đi xuống trong sự hư vô của cái tôi, và ước vọng bay lên vì bị lôi kéo bởi mặt trời Thiên Chúa, sau khi đã trở thành con sông mạnh mẽ, tuyệt vời,
426
phúc đức.
Những dòng suối nuôi cho con suối sơ khởi của tình yêu kính trọng, ngoại trừ các nhân đức, là những việc mà các nhân đức dạy cho hoàn thành. Các công việc, để đúng là các con suối của tình yêu, là những công việc của tình thương. Hãy nhìn tổng quát: một số đã được cho biết trong Israel, còn một số khác, chính Thầy sẽ cho các con biết, bởi vì luật của Thầy là sự trọn lành của tình yêu.
Cho kẻ đói ăn: Bổn phận biết ơn và tình yêu. Bổn phận bắt
chước. Con cái biết ơn cha mẹ vì bánh họ đã cung cấp cho chúng. Khi chúng trở thành người lớn, chúng bắt chước cha mẹ để cung cấp bánh cho con cái chúng. Và với cha mẹ chúng, vì tuổi tác không thể làm việc được nữa, chúng sẽ cung cấp bánh cho các ngài bằng công việc riêng của chúng. Một cách tình nghĩa, chúng lập lại, chỉ đúng là lập lại điều tốt mà chúng đã nhận. Điều răn thứ bốn nói: “Hãy thảo kính cha mẹ”. Cũng phải thảo kính tóc trắng của các ngài bằng cách không giảm thiểu các ngài tới chỗ xin bánh của người khác cho các ngài.
Nhưng trước điều răn thứ bốn thì có điều răn thứ nhất: “Yêu Thiên Chúa hết lòng”, và điều răn thứ hai: “Yêu tha nhân như chính mình”. Yêu Thiên Chúa vì chính Người, và yêu Người ở trong tha nhân. Đó là sự trọn lành.
Ta yêu Thiên Chúa bằng cách cho kẻ đói ăn để nhớ lại bao lần Người đã nuôi con người bằng những hành động lạ lùng. Không phải chỉ nhìn man-na và chim cút mà thôi, nhưng hãy nhìn vào phép lạ liên tục của hạt giống nảy mầm do lòng tốt của Thiên Chúa, Người đã cho đất tốt để trồng cấy, đã điều chỉnh gió, mưa, sức nóng, các mùa, để hạt lúa trở thành bông lúa, và bông lúa trở thành tấm bánh.
Đó không phải là phép lạ của tình thương Người sao? Bằng ánh sáng siêu nhiên, chính tình thương đã dạy cho các con cái tội lỗi của Người rằng: những cây cỏ cao và dỏng, tận cùng bằng những cái bông và những hạt vàng, dưới sức nóng của mặt trời, được gói trong cái vỏ cứng có râu, là một thứ lương thực mà họ phải gặt hái
427
lấy, trẩy vỏ, nghiền thành bột, nhào và nướng. Thiên Chúa đã dạy tất cả những điều đó. Và làm sao để gặt, phân loại, nghiền, nhào và nướng? Người đã để tảng đá bên cạnh bông lúa, và đặt nước bên cạnh tảng đá. Người đã nhóm lên, bằng sự phản chiếu của nước và mặt trời, ngọn lửa đầu tiên trên trái đất. Gió đã đem tới đống lửa này những hạt và nướng nó, làm xông ta mùi thơm dễ chịu, để con người hiểu rằng như vậy thì ngon hơn là ăn ngay sau khi trẩy hạt như các con chim; hoặc là sau khi đã xay, nhào nó thành một thứ bột dẻo rồi nướng trong lửa. Các con chả nghĩ tới đó. Bây giờ các con ăn bánh ngon trong cái lò của gia đình, các con chả nghĩ tới bằng cớ của biết bao tình thương trong sự kiện đưa tới cách nấu nướng hoàn bị này. Biết bao đường lối đã được chỉ dẫn cho sự hiểu biết của con người, từ bông lúa đầu tiên mà con người đã nhai giống như con ngựa, cho tới chiếc bánh hiện nay? Và nhờ ai? Nhờ đấng đã cho bánh. Và cũng vậy đối với hết mọi thứ đồ ăn mà con người biết nhờ ánh sáng từ bi, để phân biệt các cây cỏ và các loài vật mà Thiên Chúa đã bao phủ mặt đất, nơi trừng phạt của hiền phụ cho đứa con có tội.
Vậy cho kẻ đói ăn là một lời cầu nguyện biết ơn đối với Chúa là Cha, đấng đã nuôi chúng ta, và là bắt chước Cha, đấng đã cho chúng ta giống Người cách nhưng không. Và phải luôn luôn gia tăng những hành vi bắt chước Người.
Cho kẻ khát uống: Có bao giờ các con nghĩ tới điều gì sẽ xảy ra
nếu Chúa Cha không làm mưa nữa không? Hoặc là Người nói: “Do sự cay nghiệt của các ngươi đối với kẻ khát, ta sẽ ngăn cản không cho mây đến trên trái đất nữa”. Chúng ta có thể phản đối và nguyền rủa không? Nước còn thuộc về Thiên Chúa hơn là hạt lúa nữa, vì hạt lúa được trồng bởi con người, nhưng chỉ có mình Thiên Chúa khai khẩn các cánh đồng mây, để nó rơi thành mưa hay sương đêm cũng như sương mù và tuyết, cung cấp nước cho các cánh đồng, các thùng chứa, đổ đầy vào các sông, hồ; cho cá có nơi cư ngụ, để nó cùng với các con vật khác mà nuôi con người. Vậy với kẻ nói với các con: “Xin cho tôi uống”, các con có thể trả lời: “Không, nước
428
này thuộc về tôi, và tôi không cho ông” không? Tên hề! Ai trong các con có thể làm được, dù chỉ một lọn tuyết hay một giọt nước mưa? Ai có thể làm bốc hơi, dù chỉ một hạt kim cương của sương đêm bằng sức nóng tinh cầu của nó? Không ai cả. Một mình Thiên Chúa làm việc đó. Nếu nước từ trời rơi xuống rồi lại bốc lên, là tại vì Thiên Chúa điều hành cái phần này của việc tạo dựng, cũng như Người điều hành các phần khác.
Vậy hãy cho kẻ khát một chén nước mát chảy ra từ mạch đất, hoặc nước trong giếng của các con, hoặc nước đầy trong thùng chứa của các con. Mọi thứ nước đều là của Thiên Chúa, nó thuộc về mọi người. Hãy cho nó cho ai khát. Một hành vi qúa nhỏ mọn, không làm các con tốn tiền, không gây cho các con cái mệt nào ngoài việc cầm một cái ly hay một cái bình, mà Thầy bảo các con, các con sẽ có một phần thưởng ở trên trời. Vì không phải nước, mà là hành vi bác ái là cái lớn và có giá trị trước mắt Thiên Chúa.
Mặc cho kẻ ở trần: Có rất nhiều kẻ khốn nạn, trần truồng, xấu
hổ, đáng thương đi trên đường của trái đất. Có những người già bị bỏ rơi, những kẻ bất toại vì bệnh tật hay tai nạn, những kẻ cùi trở lại đời sống nhờ lòng nhân từ của Chúa; có những bà góa chất nặng gánh gia đình, có những người bị những nỗi bất hạnh lấy đi của họ tất cả sự dễ chịu, có những trẻ mồ côi ngây thơ. Nếu Thầy liếc cái nhìn trên hết mặt đất mênh mông, Thầy thấy ở khắp nơi những kẻ trần truồng, hoặc chỉ được che bằng những giẻ rách, không che được cách đứng đắn, và không tránh khỏi lạnh. Và những kẻ này nhìn với con mắt nhục nhã những người giầu đi qua với y phục lộng lẫy, chân đi giầy dép thoải mái. Những kẻ tốt thì khiêm hạ và nhân nhượng, những kẻ ít tốt thì nhục nhã và ghen ghét. Vậy tại sao các con không tới cứu giúp sự nhục nhã của họ, và làm cho họ tốt hơn nếu họ tốt, và phá hủy sự ghen ghét bằng tình yêu của các con, nếu họ ít tốt.
Các con đừng nói: “Tôi chỉ có đủ cho tôi”. Cũng giống như bánh, ở trên bàn hay trong tủ, các con có cái gì hơn những người hoàn toàn bị bỏ rơi. Trong số những kẻ nghe Thầy, cũng có những người
429
biết dùng một cái áo cũ để may cái áo nhỏ cho một đứa trẻ mồ côi hay nghèo khổ, hoặc dùng chiếc khăn phủ giường cũ để may tã lót cho một đứa trẻ không có. Và cũng có một người ăn mày, trong nhiều năm, đã chia sẻ miếng bánh mà ông kiếm được cách khó lòng nhờ của bố thí, với một người cùi không thể tới để giơ tay ra trước cửa nhà giầu. Thực vậy, Thầy bảo các con, đừng tìm những người có tình thương này nơi các chủ tiệm cầm đồ, nhưng tìm giữa đám nghèo nàn, khiêm tốn; những người vì hoàn cảnh của họ, họ biết sự nghèo nàn nó nặng nề chừng nào.
Ở đây cũng vậy, giống như đối với nước và bánh, các con hãy nghĩ tới cái vải len và vải gai các con mặc, nó đến từ loài vật và cây cỏ mà Chúa Cha đã tạo dựng, không phải chỉ để cho các người giầu, mà là cho mọi người. Bởi vì Thiên Chúa chỉ cho con người một loại giầu có duy nhất: giầu Ân Sủng, sức khỏe và sự thông minh, chứ không phải cái giầu dơ bẩn là vàng. Các con đã nâng cao nó lên, từ hàng một kim loại không đẹp hơn các kim loại khác, và rất ít hữu ích hơn sắt, vì với sắt, người ta làm ra cái cuốc, cái cày, cái bừa, cái hái, cái đục, cái búa, cái cưa, cái bào, những dụng cụ thánh cho việc làm thánh... lên hàng một kim loại qúi phái, một cái qúi phái vô ích, gian trá, cho sự xúi giục của Satan, kẻ đã làm cho các con, từ hàng con Thiên Chúa, trở thành man rợ như loài thú rừng. Sự giầu có thánh của những vật các con đã chia sẻ, sẽ trở nên luôn luôn thánh hơn, chứ không phải là giầu, cái giầu sát nhân, đã làm chảy biết bao máu và nước mắt.
Và các con hãy cho như người ta đã cho các con. Hãy cho nhân danh Chúa và đừng sợ mình lại bị trần. Thà rằng chết lạnh vì đã lột hết cho một người ăn mày, còn hơn là để cho qủa tim bị đóng băng vì thiếu bác ái, dù là dưới lớp y phục mềm mại.
Sự ấm áp của việc lành mà người ta làm thì êm ấm hơn một chiếc áo khoác bằng len nguyên chất. Cơ thể của người nghèo được mặc ấm sẽ nói với Thiên Chúa và xin Người: “Hãy chúc phúc cho kẻ đã mặc cho chúng con”.
Nếu việc cho ăn, cho uống, cho mặc, bằng cách bỏ của mình ra
430
để cho người khác, kết hợp sự tiết độ thánh với đức bác ái rất thánh, và nếu sự công bình cũng kết hợp các con, để các con thay đổi cách thánh thiện số phận những người anh em khổ sở, bằng cách cho đi những thứ mà các con có cách dồi dào do sự cho phép của Thiên Chúa, để giúp cho những kẻ mà vì sự độc ác của loài người, hoặc vì bệnh tật, họ không có, thì sự tiếp đón dành cho khách du hành, kết hợp đức bác ái với lòng tin cậy và sự đoán ý lành cho tha nhân, cũng là một nhân đức. Các con biết không? Nhân đức này biểu thị nơi kẻ có cả tình bác ái lẫn sự ngay thẳng. Thật vậy, kẻ ngay thẳng thì hành động tốt, và họ tin rằng những người khác cũng hành động như thường tình mọi người làm, và đó là sự tin cậy. Người đơn sơ tin vào sự thành thật trong lời nói của kẻ khác, tin rằng người đang nghe họ cũng là kẻ nói sự thật trong điều lớn cũng như điều nhỏ, và bởi vậy, không nghi ngờ gì sự tường thuật của kẻ khác.
Trước sự hiện diện của kẻ du hành xin trọ nhà con, tại sao con lại nghĩ: “Nếu đây là kẻ cắp hay sát nhân?” Các con dính vào của cải của các con chặt tới nỗi tất cả mọi người lạ hiện diện đều làm các con run sợ cho nó. Các con dính vào sự sống của các con chặt tới nỗi các con thấy run sợ khi nghĩ tới tư tưởng có thể mất nó! Và gì nữa? Các con nghĩ rằng Thiên Chúa không thể bảo vệ cho các con khỏi kẻ cắp được sao? Và gì nữa? Các con sợ một người đi qua là kẻ trộm, nhưng các con không sợ người khách tối tăm có thể ăn cắp của các con cái báu vật không thể thay thế được sao? Biết bao con tim cho ma qủi ở! Thầy có thể nói: tất cả những người có tội trọng, nhưng không ai run sợ cả. Vậy ra không có gì qúi hơn của cải và sự sống sao? Cái đời đời mà các con đã để cho mất cắp và bị giết bởi tội lỗi, nó không qúi hơn sao? Tội nghiệp thay! Các linh hồn tội nghiệp, nó lột bỏ kho tàng của nó và rơi vào tay sát nhân mà nó coi như một chuyện không đáng kể, trong khi nó đóng cửa thật chặt, đặt các ổ khóa, nuôi chó dữ, làm hòm sắt để bảo vệ những của mà nó không thể đem theo về đời sống bên kia!
Tại sao lại muốn coi tất cả các khách du hành như kẻ trộm? Chúng ta là anh em. Nhà cửa phải mở ra cho anh em ghé qua.
431
Người du hành không cùng dòng máu với chúng ta sao? Ồ, có chứ! Họ cùng dòng máu của Ađam và Evà. Họ không phải là anh em chúng ta sao? Sao lại không? Chỉ có một người cha duy nhất là Thiên Chúa, đấng đã cho chúng ta cùng một thứ linh hồn, cũng như người cha cho cùng một dòng máu cho hết các đứa con cùng một giường. Họ nghèo ư ? Hãy làm thế nào để linh hồn các con không nghèo hơn họ vì bị mất tình bạn với Thiên Chúa. Y phục của họ rách rưới ư ? Hãy làm thế nào để linh hồn các con không rách nát hơn vì tội lỗi. Chân họ đầy bùn và bụi ư ? Hãy làm thế nào để cái tôi của các con không bị hư hỏng bởi thói hư hơn là những đôi dép của họ bị dơ vì đường đất, bị mòn vì cuộc hành trình dài. Dáng điệu của họ có vẻ khó chịu ư ? Hãy làm thế nào để dáng điệu của các con không khó chịu trước mắt Thiên Chúa. Họ nói tiếng ngoại quốc ư ? Hãy làm thế nào cho tiếng nói của linh hồn các con không phải là thứ tiếng không thể hiểu được trong thành của Thiên Chúa.
Hãy nhìn người lữ hành như anh em. Tất cả chúng ta đều là lữ hành trên đường về Trời, và tất cả chúng ta đều gõ vào các cửa ở dọc đường. Các cửa là các tổ phụ và các người công chính, các thiên thần và các tổng lãnh thiên thần, những vị mà chúng ta xin sự giúp đỡ che chở để đi tới đích mà không bị té ngã và kiệt quệ trong đêm tối, trong cái lạnh khắc nghiệt, trong bả mồi của chó sói và linh cẩu, là các đam mê xấu và ma qủi. Cũng giống như chúng ta muốn rằng các thiên thần và các thánh mở tình yêu của họ ra cho chúng ta ở, và cho chúng ta sức mạnh để tiếp tục con đường, chúng ta hãy hành động giống vậy đối với các lữ hành của trái đất. Mỗi lần chúng ta mở cửa nhà chúng ta, và mở cánh tay chúng ta ra cho một người lạ, và chào họ bằng cái tên anh em êm đềm, khi nghĩ rằng Thiên Chúa biết hết, thì Thầy nói với các con rằng các con đã vượt qua rất nhiều dặm của đường lên trời.
Thăm viếng bệnh nhân: Ôi! Thật sự, bởi vì con người là những lữ hành, tất cả họ đều là bệnh nhân, và cái bệnh trầm trọng hơn là bệnh của linh hồn. Những bệnh vô hình là những bệnh chí tử nhất, nhưng nó lại không gây ra sự ghê tởm. Vết thương tâm hồn không
432
làm kinh tởm. Sự hôi thối của thói hư không làm buồn nôn. Sự điên rồ qủi ma không làm người ta sợ. Sự hư hoại của bệnh cùi thiêng liêng không xua đuổi người ta. Nấm mồ đầy rác rến của một người mà linh hồn đã chết và thối nát không làm người ta chạy trốn. Không ai bị trục xuất vì tới gần một trong những người dơ bẩn này. Khốn nạn thay cái tư tưởng hẹp hòi của con người! Nhưng các con hãy nói: linh hồn và xác thịt máu mủ, cái nào có giá hơn? Cái thuộc về vật chất có thể làm hư hỏng cái thuộc về tinh thần do sự tiếp xúc được không? Không. Thầy bảo các con là không. Linh hồn có giá trị vô biên so với xác thịt và máu mủ, điều này thì đúng. Thể xác không có quyền bên trên quyền của linh hồn. Linh hồn có thể bị hư hỏng, không phải vì những thứ vật chất, mà vì những thứ siêu nhiên. Một người săn sóc người cùi, linh hồn họ không hề bị cùi, trái lại, vì lòng bác ái của họ mà họ đã thi hành cách anh hùng tới nỗi tự cô lập trong thung lũng của kẻ chết vì thương anh em, thì mọi dấu vết của tội lỗi sẽ rơi khỏi họ, bởi vì đức bác ái là sự xá giải tội lỗi và là sự thanh tẩy hoàn toàn nhất.
Hãy đi và luôn luôn với tư tưởng: “Tôi muốn người ta làm gì cho tôi, nếu tôi ở vào địa vị của họ”, và hãy làm như các con muốn người ta làm cho các con. Bây giờ Israel vẫn còn những luật cũ của nó, nhưng sẽ đến một ngày, và bình minh của nó không còn xa nữa, ngày mà người ta sẽ sùng bái như tượng trưng cho vẻ đẹp tuyệt đối, hình ảnh của một Người, mà nơi Người, một cách vật chất cụ thể, là người đau thương của Isaie và người bị hành hạ của Đavít. Người đã trở nên giống như người cùi để trở thành Đấng Cứu Chuộc cho nhân loại. Và người ta sẽ chạy đến với các vết thương của Người như con nai chạy về suối nước, tất cả những kẻ khát, những kẻ bệnh hoạn, mệt mỏi; tất cả những ai phải khóc trên trái đất, và Người sẽ giải khát cho họ, chữa lành cho họ, bổ dưỡng cho họ, yên ủi họ, trong tâm hồn cũng như thân xác. Và những kẻ tốt nhất sẽ ước vọng nên giống như Người: phủ đầy vết thương, chảy máu, bị đánh, bị đội triều thiên gai, bị đóng đinh vào thập gía, vì tình yêu đối với những kẻ mà họ phải cứu chuộc, để tiếp tục công việc của
433
đấng là Vua các vua và là Đấng Cứu Chuộc thế gian.
Các con là những kẻ hãy còn ở trong Israel, nhưng đã bắt đầu giang cánh để bay về Nước Trời, hãy bắt đầu ngay từ bây giờ, có cái quan niệm về những giá trị mới của các kẻ tật bệnh, trong khi chúc tụng Thiên Chúa đã cho các con sức khỏe tốt, hãy nghiêng mình trên những kẻ đau khổ và hấp hối. Một bữa, một người trong các tông đồ của Thầy đã nói với một trong các anh em của ông: “Đừng sợ động tới người cùi, do ý muốn của Thiên Chúa, không gì nguy hại có thể tấn công chúng ta”. Ông đã nói đúng. Thiên Chúa bảo vệ các tôi tá Người. Và dù các con có thể nhiễm bệnh vì săn sóc người bệnh, các con sẽ được mang về đời sống bên kia trong danh sách những vị tử đạo của tình yêu.
Thăm viếng tù nhân: Các con nghĩ rằng trong nhà tù toàn là các kẻ ác phạm sao? Công lý loài người bị chột một mắt, còn mắt kia thì bị mờ. Tại nơi có những đám mây, nó cho là những con lạc đà, và một cành hoa, nó thấy là con rắn. Nó xét xử rất sai, và lại càng sai hơn khi kẻ chủ tọa lại tự ý tạo ra những đám mây khói đen để nó càng nhìn lầm hơn. Nhưng dù tất cả tù nhân đều là trộm cướp và sát nhân, thì cũng không công bằng khi chúng ta làm cho mình thành trộm cướp và sát nhân bằng cách lấy mất của họ hy vọng được tha thứ, do sự khinh dể của chúng ta.
Các tù nhân tội nghiệp! Họ không dám ngước đôi mắt của họ về Thiên Chúa, vì nó qúa nặng nề do lỗi của họ. Thực vậy, xiềng xích trói buộc tâm hồn họ hơn là chân họ. Nhưng khốn thay nếu họ thất vọng về Thiên Chúa! Họ thêm cái tội thất vọng về ơn tha thứ vào với tội ác chống lại tha nhân. Nhà tù là nơi đền tội, cũng như cái chết trên giảo đài. Nhưng trả nợ xã hội loài người về tội ác đã phạm thì không đủ, còn phải, và nhất là phải trả cái phần phải trả đối với Thiên Chúa, để đền tội, để có sự sống đời đời. Những kẻ phản động và thất vọng thì chỉ trả phần đền tội đối với xã hội loài người. Phải có tình yêu huynh đệ đối với các tù nhân. Tình yêu này là ánh sáng trong đêm tối, là tiếng nói, là bàn tay chỉ lên nơi cao trong khi tiếng nói nói: “Chớ gì tình yêu của tôi nói với bạn là
434
Thiên Chúa cũng yêu bạn. Chính Người đã đặt tình yêu này trong lòng tôi để tôi dành cho anh, hỡi người anh em hẩm hiu”. Và tình yêu sẽ hé mở cho thấy Thiên Chúa, người Cha đầy tình thương.
Chớ gì lòng bác ái của các con tới, với nhiều lý do an ủi hơn, cho những vị tử đạo của sự bất công con người, những kẻ không hề có tội, hay những kẻ mà một quyền lực độc ác đã dẫn họ tới sát nhân. Các con cũng đừng xét đoán tại một nơi mà một sự xét đoán đã được thi hành. Các con không biết tại sao một người có thể sát nhân. Các con không biết rằng nhiều lần kẻ sát nhân cũng chỉ là kẻ chết, một người máy không có trí khôn, bởi vì một tên sát nhân khác, không cần đổ máu, đã lấy mất trí khôn của nó bằng sự hèn hạ của một cuộc phản bội độc ác. Thiên Chúa biết, như vậy đã đủ. Trong đời sống bên kia, người ta sẽ thấy ở trên Trời nhiều tù nhân, nhiều kẻ đã giết người và trộm cắp. Và người ta sẽ thấy trong hỏa ngục nhiều kẻ có vẻ như đã bị ăn cắp hay bị giết, bởi vì trong thực tế, họ thực là những kẻ đã ăn cắp sự bình an của kẻ khác; ăn cắp sự ngay thẳng, sự tín nhiệm. Họ thực là kẻ sát nhân của con tim: những nạn nhân giả dụ. Là nạn nhân, vì sau cùng họ cũng bị đánh, sau khi chính họ đã đánh một cách thầm lặng trong nhiều năm. Sát nhân và trộm cướp là những tội, nhưng giữa những người ăn cắp và sát nhân vì bị kẻ khác đẩy vào, rồi sau đó nó hối hận, và kẻ đã đẩy kẻ khác vào tội đó rồi không hối hận, thì kẻ đẩy người khác tới tội rồi không hối hận sẽ bị phạt nặng hơn.
Do đó, các con đừng bao giờ xét đoán. Hãy đầy tình thương đối với các tù nhân. Hãy luôn luôn nghĩ rằng nếu tất cả các kẻ sát nhân và trộm cắp đều phải bị phạt, thì còn rất ít đàn ông đàn bà không chết trong nhà tù hay trên giảo đài. Những bà mẹ cưu mang rồi không muốn dẫn đưa cái qủa của lòng họ về với ánh sáng, người ta gọi họ là gì? Chúng ta đừng làm trò chơi chữ! Chúng ta hãy thành thật gọi họ bằng tên thật của họ: “Sát nhân”. Những đàn ông ăn cắp danh tiếng, địa vị, người ta cho họ cái tên gì? Nhưng một cách đơn giản, hãy cho họ cái họ là: “Trộm cắp”. Các đàn ông đàn bà ngoại tình, những kẻ hành hạ vợ hay chồng họ, đẩy họ tới sát nhân
435
hay tự tử, cũng giống như những tai to mặt lớn của trái đất, làm cho các người của họ thất vọng, và bởi thất vọng, đi tới hung bạo, tên họ là gì? Đó là: “Sát nhân”. Vậy mà có ai phải trốn không? Các con thấy là giữa các tội nhân thoát được tòa án ở đầy trong các nhà, các thành, lướt qua chúng ta trên đường, ngủ với chúng ta trong quán, chia sẻ bữa ăn với chúng ta... người ta sống mà không nghĩ gì tới tội của họ. Vậy ai là người vô tội? Nếu ngón tay Thiên Chúa viết trên bức tường của các phòng yến tiệc của tư tưởng con người, tức là cái trán, lời kết án về những sự các con đã là, đang là hay sẽ là, thì rất ít cái trán được mang chữ bằng ánh sáng, chữ “Vô Tội”. Còn những cái trán khác, ví dụ chữ xanh cho ham muốn, chữ đen cho phản bội, chữ đỏ cho tội ác, toàn những cái trán mang chữ “Gian dâm”, “Sát nhân”, “Trộm cắp”, “Mưu sát”...
Vậy không kiêu căng, hãy thương xót các anh em kém phước một cách nhân loại trong các nhà tù, phải đền cái tội mà các con không phải đền với cùng một tội. Điều đó phải làm cho các con khiêm nhường.
Chôn kẻ chết: Việc chiêm ngắm cái chết là trường học của đời
sống. Thầy muốn đưa tất cả các con tới trước cái chết và nói với các con: Hãy biết sống thánh để chỉ có cái chết thế này: tạm thời chia lìa thân xác với linh hồn để rồi sống lại toàn thắng tới đời đời kết hợp và hạnh phúc.
Tất cả chúng ta đều sinh ra trần truồng, tất cả chúng ta đều chết, trở nên kẻ bị lột hết, cống hiến cho sự thối nát. Ông vua cũng như ông ăn mày đều chết như khi họ đến trên đời. Nếu sự xa hoa của ông vua giúp cho sự bảo tồn thân xác được hơi lâu hơn, sự thối nát vốn là số phận của những gì là xác thịt chết. Ngay chính các xác ướp cổ xưa, chúng là gì? Là thịt à? Không. Một chất hóa thạch, hóa mộc bởi nhựa. Nó không còn là mồi của sâu bọ, vì nó trống rỗng và bị đốt bằng các tinh dầu, nhưng nó là mồi của loài sâu gậm nhấm, giống như cây gỗ mục.
Bụi lại trở về bụi như Thiên Chúa đã nói, nhưng chỉ vì cái bụi này gói ghém linh hồn và đã được sống bởi nó, nên con người giống
436
như một vật đã đụng tới một vinh quang của Thiên Chúa - tức là linh hồn của con người - nên phải nghĩ rằng nó là cái bụi thánh, không khác gì một vật đã chạm vào Nhà Tạm. Ít nhất đã có một lúc linh hồn nó toàn vẹn: trong khi Thiên Chúa tạo dựng nó. Nếu sau đó tội làm dơ bẩn nó và lấy đi sự toàn vẹn của nó, thì chỉ duy nhất vì nguồn gốc của nó, nó thông thương từ vẻ đẹp tới chất liệu; và vì vẻ đẹp này đến từ Thiên Chúa, nên thân xác được tô điểm và xứng đáng sự trọng kính. Chúng ta là những đền thờ, vì vậy chúng ta xứng đáng được danh dự, cũng như tất cả những nơi nào mà Nhà Tạm ngự tới đều được tôn kính.
Vậy hãy làm cho người chết việc bác ái của một nơi nghỉ ngơi xứng đáng để chờ sống lại, bằng cách nhìn sự hòa hợp đáng kính trong thân xác và linh hồn con người mà ngón tay Thiên Chúa đã nặn lên cách trọn hảo, bằng cách tôn trọng thân xác con người vì là tác phẩm của Thiên Chúa.
Nhưng con người không phải chỉ là xác và máu, mà còn là linh hồn và tư tưởng. Linh hồn và tư tưởng cũng đau khổ, và phải đầy xót thương để cung cấp cho các nhu cầu của nó.
Có những kẻ vô tri làm điều xấu bởi vì chúng không biết điều tốt. Bao kẻ không biết hoặc biết sai trong những điều thuộc về Thiên Chúa và cả những luật về luân lý! Chúng suy nhược như những kẻ đói, bởi vì không ai cho chúng của nuôi, và chúng rơi vào suy nhược vì thiếu chân lý nuôi chúng. Hãy đi dạy dỗ chúng, vì chính do đó mà Thầy tụ tập các con và sai các con đi. Hãy cho thứ bánh tinh thần cho những kẻ đói tinh thần. Dạy dỗ những kẻ ngu muội trong trật tự thiêng liêng cũng là cho kẻ đói ăn. Nếu người ta được thưởng vì một tấm bánh bố thí cho kẻ đói và suy nhược thể xác, để nó không chết ngày hôm đó, thì phần thưởng nào sẽ dành cho kẻ bố thí những chân lý đời đời cho một linh hồn, để cho nó sự sống đời đời? Đừng bủn xỉn về những điều các con biết. Những thứ này các con đã được ban cho dư đầy và miễn phí, thì hãy cho đi, không bủn xỉn, vì đó là những thứ của Thiên Chúa, cũng giống như nước trên trời. Hãy cho nó đi giống như nó đã được cho.
437
Đừng bủn xỉn và kiêu căng vì những điều các con biết, nhưng hãy cho đi cách quảng đại và khiêm nhường. Hãy cho đi thứ nước giải khát trong mát là lời cầu nguyện cho kẻ sống và kẻ chết đang khát Ân Sủng. Người ta không được từ chối nước cho một cổ họng khô cháy, vậy phải cho gì cho những con tim âu lo của kẻ sống và các linh hồn đau khổ của kẻ chết? Các lời cầu nguyện, các lời cầu nguyện, nó rất bổ ích, vì nó được ứng cảm bởi tình yêu và tinh thần hy sinh.
Lời cầu nguyện phải thực, không máy móc như tiếng động của bánh xe trên đường. Tiếng động hay bánh xe làm cho xe chạy? Chính cái bánh xe làm cho xe chạy. Cũng giống vậy đối với lời cầu nguyện ngoài miệng và máy móc với lời cầu nguyện hoạt động. Loại lời cầu nguyện thứ nhất là cái tiếng động, không gì khác hơn; loại lời cầu nguyện thứ hai là công việc phải sử dụng đến sức mạnh, nó có làm cho đau, nhưng người ta tiến tới đích.
Hãy cầu nguyện bằng các hy sinh hơn là bằng miệng lưỡi, và các con sẽ cho các người sống và kẻ chết sự nghỉ ngơi, bằng cách làm công việc loại thứ hai của tình thương siêu nhiên. Thế giới sẽ được cứu nhiều hơn bởi lời cầu nguyện của những kẻ biết cầu nguyện hơn là bởi những trận chiến ồn ào, vô ích và chém giết.
Nhiều người trên thế giới biết điều đó, nhưng họ không biết tin cách vững vàng. Tựa như họ đứng giữa hai trại đối diện nhau, họ ngập ngừng, họ ngập ngừng và không tiến một bước nào, rồi họ mệt sức và không tới đâu cả. Đó là những kẻ ngập ngừng, những kẻ của các “nhưng”, các “nếu”, các “và rồi”; những kẻ hỏi: “sau đó nó có vậy không?”, “và nếu nó không được như vậy?”, “tôi có thể làm không?”, “nếu tôi không thành công?”, và tiếp theo như vậy. Đó là những kẻ có manh ý mà nếu họ không tìm được một chỗ bám thì họ không tiến lên, và cả đến nếu họ tìm được thì họ sẽ bám vào chỗ nọ chỗ kia, người ta không những phải nâng đỡ họ, mà còn phải đem họ lên ở mỗi chỗ quặt mới của ngày.
Ôi! Qủa thực họ gây ra sự kiên nhẫn và tình bác ái nhiều hơn là đứa trẻ chậm tiến. Nhưng vì danh Chúa, đừng bỏ rơi họ! Hãy cho
438
họ tất cả đức tin rạng ngời của các con, tất cả sức lực hăng say của các con. Những người này bị cầm tù bởi chính họ, bởi cái bệnh mù mờ của họ. Hãy dắt họ ra mặt trời và lên tầm cao. Hãy là thầy và là cha cho những kẻ ngập ngừng này, đừng mệt mỏi, cũng đừng nản chí. Họ làm các con xuôi tay ư ? Được rồi, biết bao lần các con cũng làm Thầy rã tay. Thầy đã vậy, mà cả Chúa Cha trên trời. Lẽ ra Người phải luôn luôn nghĩ rằng thật vô ích cho Lời của Người mặc xác, vì con người còn ngập ngừng, kể cả lúc này là lúc họ đã nghe tiếng Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Các con không muốn suy định là các con hay hơn Thiên Chúa và Thầy, vậy hãy mở nhà tù cho các tù nhân của các “nhưng”, các “nếu”. Hãy giải phóng họ khỏi cái xiềng của “tôi có thể không?”, “nếu tôi không thành công”... Hãy thuyết phục họ rằng họ chỉ cần làm những gì họ thấy là tốt hơn, là Thiên Chúa bằng lòng. Nếu các con thấy họ rơi khỏi chỗ tựa, đừng để mặc họ, nhưng hãy nâng họ dậy một lần nữa. Giống như các bà mẹ, họ không bước vượt qua nếu họ thấy con nhỏ của họ vừa té, nhưng họ ngừng lại, nâng nó lên, lau sạch, an ủi nó, nâng đỡ nó cho tới khi nó không còn sợ bị té nữa. Và họ làm như vậy trong nhiều tháng và nhiều năm nếu đứa trẻ yếu chân.
Hãy mặc cho những kẻ có tâm hồn trần trụi, bằng cách tha cho các kẻ xúc phạm đến các con. Sự xúc phạm là điều phản đức ái. Sự phản đức ái làm mất lòng Thiên Chúa. Cũng vậy, kẻ làm điều xúc phạm tự lột trần mình, và chỉ có sự tha thứ của kẻ mà nó đã xúc phạm mặc lại cho nó sự trần truồng này, vì họ dâng nó lại cho Thiên Chúa. Thiên Chúa chờ kẻ bị xúc phạm tha thứ để tha thứ, để tha thứ cho cả kẻ bị xúc phạm cũng như kẻ đã xúc phạm đến đồng loại và Thiên Chúa. Bởi vì các con coi, không một người nào là không xúc phạm đến Thiên Chúa của nó. Nhưng Thiên Chúa tha cho chúng ta, nếu chúng ta tha cho người đồng loại, và Người cũng tha cho người kia, nếu kẻ bị xúc phạm bằng lòng tha cho nó. Người sẽ làm cho các con như các con đã làm. Bởi vậy, hãy tha, nếu các con muốn người ta tha cho các con, và các con sẽ vui hưởng ở trên
439
Trời vì đức bác ái mà các con đã cho, giống như người ta đặt một chiếc áo khoác bằng tinh tú trên đôi vai thánh của các con.
Hãy thương những kẻ khóc. Đó là những kẻ mà đời sống đã đả thương, những kẻ mà con tim bị vỡ trong tình cảm của nó. Các con đừng tự đóng chặt trong sự thanh quang của các con như trong một pháo đài. Hãy biết khóc với những kẻ khóc, an ủi những kẻ đau khổ, đổ đầy chỗ trống cho những kẻ bị mất một người thân bởi cái chết. Hãy làm cha cho các trẻ mồ côi, làm con cho các bậc cha mẹ, làm anh em cho nhau.
Hãy yêu. Tại sao lại chỉ yêu những kẻ sung sướng. Họ đã có phần mặt trời của họ rồi. Hãy yêu những kẻ khóc, đó là những kẻ ít dễ thương đối với thế giới, nhưng thế giới không biết giá trị của nước mắt, các con thì các con đã biết. Vậy hãy yêu những kẻ khóc. Hãy yêu họ nếu trong cơn buồn, họ nhẫn nại. Nhưng phải yêu họ hơn nữa, nếu sự đau đớn làm họ phản động. Đừng quở trách, nhưng hãy dùng sự êm dịu để thuyết phục họ về lợi ích của đau khổ. Qua màn nước mắt, họ có thể thấy khuôn mặt của Thiên Chúa theo một lối biến dạng, và họ giảm thiểu Người tới mức bộc lộ như Người là kẻ báo thù mạnh mẽ. Không, đừng phạm thượng! Không, đó chỉ là một ảo ảnh gây ra bởi cơn sốt của đau khổ. Hãy cứu họ để làm hạ cơn sốt của họ xuống.
Chớ gì đức tin tươi mát của các con giống như nước đá người ta chườm cho kẻ sốt mê sảng. Rồi khi cơn sốt mạnh nhất đã hạ, thì sẽ đến sự chán nản và sự khù khờ sững sờ của kẻ đã chịu những vết ngoại thương. Khi đó, cũng giống như với đứa trẻ mà bệnh hoạn đã làm cho nó trì trệ, hãy bắt đầu nói về Thiên Chúa như một điều mới lạ, một cách rất êm dịu, rất kiên nhẫn... Ôi! Thật là một câu chuyện hay người ta kể để giải khuây cho đứa trẻ đời đời là con người!
Rồi hãy nín lặng, đừng năn nỉ... Linh hồn sẽ tự làm việc. Hãy giúp nó bằng những âu yếm và bằng lời cầu nguyện. Và khi nó nói: “Vậy ra không phải tại Thiên Chúa”, thì hãy nói: “Không, người không muốn điều xấu cho con, vì Người yêu con, cho dù có những
440
người không yêu con nữa tại vì cái chết này hay chuyện gì khác”. Và khi linh hồn nói: “Nhưng tôi, tôi đã kết án Người”, hãy nói: “Người đã quên điều đó, tại vì do cơn sốt”. Và khi nó nói: “Vậy tôi muốn Người”, thì hãy nói: “Người đây. Người ở ngoài cửa qủa tim con, Người chờ con mở cho Người”.
Chịu đựng những kẻ quấy rầy: Họ đến làm phiền căn nhà nhỏ Tôi của chúng ta cũng như người lữ hành đến làm phiền căn nhà mà chúng ta ở. Nhưng như Thầy đã bảo các con tiếp đón loại người thứ hai, các con cũng hãy tiếp đón loại người thứ nhất.
Đó là những kẻ hay quấy rầy, nhưng nếu các con không yêu họ vì sự phiền phức họ làm cho các con, thì họ, với ít nhiều lòng tốt, họ yêu các con. Hãy tiếp đón họ vì tình yêu này. Và dù họ đến để hỏi các câu lộ liễu, để nói với các con sự ghen ghét của họ, để chửi rủa các con, hãy dùng sự nhẫn nại và lòng bác ái. Các con có thể làm cho họ nên tốt hơn do sự nhẫn nại của các con. Các con có thể làm cho họ phẫn nộ vì sự thiếu bác ái của các con. Các con khổ khi thấy họ phạm tội bởi chính họ, nhưng hãy khổ hơn vì đã làm cho họ phạm tội do vì chính các con phạm tội. Hãy tiếp nhận họ vì danh Thầy nếu các con không thể tiếp nhận họ bằng tình yêu của các con. Và Thiên Chúa sẽ ban cho các con một sự đền bù đến từ Người, rồi Người sẽ đến thăm các con để xóa đi những khó chịu bằng những âu yếm siêu nhiên.
Sau cùng, các con hãy cố gắng chôn kẻ có tội để chuẩn bị cho nó trở về với đời sống Ân Sủng. Các con biết khi nào các con làm việc này không? Khi các con khiển trách họ với tình phụ tử tha thiết, kiên nhẫn và yêu thương, cũng như các con chôn lần lần những xấu xa của cơ thể trước khi đặt nó vào mồ để chờ lệnh của Thiên Chúa: “Hãy trỗi dậy và đến với Ta”.
Chúng ta, những người Hy Bá, chúng ta đã chẳng thanh tẩy thân xác, do sự kính trọng thân thể sẽ được sống lại sao? Khiển trách kẻ tội lỗi tức là thanh tẩy các chi thể trước khi khâm liệm. Những việc còn lại, Ân Sủng của Thiên Chúa sẽ làm. Hãy thanh tẩy nó bằng tình bác ái, bằng nước mắt và các hy sinh. Hãy anh hùng để giật
441
một linh hồn cho khỏi sự hư hỏng. Hãy anh hùng.
Việc này không thể không có phần thưởng. Vì nếu có phần thưởng được ban vì đã cho một chén nước để làm dịu cơn khát vật chất, thì sự gì sẽ được ban vì đã lấy đi cho một linh hồn cái khát đời đời?
Thầy đã nói đủ rồi. Đó là những công việc của tình thương đối với thân xác và linh hồn để làm phát triển tình yêu. Hãy đi và hoàn thành nó. Nguyện bình an của Thiên Chúa và của Thầy ở cùng các con bây giờ và mãi mãi.
140* TÍNH HÀ TIỆN VÀ
NGƯỜI GIẦU KHỜ DẠI
Giêsu đang ở trên một ngọn đồi ở phía tây hồ. Trước mặt Người, hiện ra các thành phố và các thôn rải rác ở cả hai phía bờ hồ, nhưng ngay ở dưới chân đồi là thành Magđala và thành Tibêriat. Magđala với vùng nhà giầu, có nhiều vườn đẹp, phân chia rõ ràng với vùng nghèo của dân chài và dân quê, đám cùng đinh, bởi một con suối, bây giờ hoàn toàn khô. Tibêriat thì hoàn toàn lộng lẫy, không biết gì tới sự bần cùng và thoái hoá. Nó cười trong tất cả vẻ đẹp mới tinh dưới mặt trời, đối diện với hồ. Giữa hai thành phố là các vườn rau, không nhiều lắm, nhưng chăm bón cẩn thận của vùng đồng bằng hẹp; rồi đến các vườn oliu vươn lên xâm lấn hết các đồi. Sau lưng Giêsu, người ta thấy cái đỉnh hình yên ngựa của núi các Phúc Thật. Ở chân nó là con lộ chính dẫn từ bờ Địa Trung Hải tới Tibêriat. Có lẽ vì sự kế cận của con lộ chính rất nhiều người qua lại này, nên Giêsu đã chọn chỗ này, nơi nhiều người có thể tới từ nhiều thành phố quanh hồ hay từ miền lục địa Galilê, để họ có thể dễ dàng về nhà họ vào buổi chiều, hoặc trọ lại trong nhiều nơi. Sức nóng cũng ôn hòa nhờ cao độ và các cây cổ thụ của rừng già ở trên đỉnh thay vì các cây ôliu.
Qủa vậy, có rất nhiều người khác với các tông đồ và các môn đệ, những người cần tới Giêsu vì lý do sức khỏe, hoặc cần các lời
442
khuyên. Cũng có những người đến vì tò mò, những người do bạn bè dắt tới, hoặc chỉ tới để giống như mọi người. Tóm lại là một đám đông. Thời tiết không còn bị ảnh hưởng đại nhiệt, nhưng nó hướng về các ân huệ tình tứ của mùa thu, và hơn bao giờ hết, nó mời gọi lên đường tìm Thầy.
Giêsu đã chữa các người bệnh và nói với người ta, chắc là về những giầu có bất công và sự cần thiết phải dứt bỏ nó để chiếm được nước Trời, và sự cần thiết tuyệt đối của việc dứt bỏ này để trở nên môn đệ của Người. Bây giờ Người đang trả lời cho người nọ người kia trong đám môn đệ giầu có, bởi họ hơi băn khoăn vì đòi hỏi này.
Ông luật sĩ Gioan nói: “Vậy con có phải tiêu hủy những cái mà con có để lột bỏ những của cải của con không?”
- Không. Thiên Chúa đã ban của cải cho con. Hãy làm cho nó phục vụ công lý và sử dụng nó cách công bằng, tức là sử dụng nó để cung cấp nhu cầu cho gia đình, đó là một bổn phận; đối xử nhân đạo với các tôi tớ, đó là lòng bác ái. Hãy giúp đỡ người nghèo, cung cấp nhu cầu cho các môn đệ nghèo. Như vậy sự giầu có không còn là trở ngại, mà là sự giúp đỡ cho con.
Rồi Người nói với tất cả:
- Thật vậy, Thầy nói với các con: cũng nguy hiểm liều mất Nước Trời bởi ham thích giầu có do sự kiện là từ một môn đệ nghèo, khi trở nên linh mục của Thầy, nó mất sự công chính bằng cách liên minh với người giầu. Người giầu hay người xấu, rất nhiều khi họ cố gắng lôi kéo các con bằng những qùa tặng, để các con ưng thuận lối sống của họ và tội lỗi của họ. Và trong đám các môn đệ của Thầy, sẽ có những kẻ sa ngã bởi cám dỗ của những qùa cáp. Gioan Tẩy Giả đã dạy các con: “Không được như vậy”. Thực vậy, mặc dù ông không phải là quan tòa, cũng không phải thẩm phán, nhưng ông có sự toàn thiện của vị quan tòa và vị thẩm phán, giống như đã được chép trong sách Đệ Nhị Luật: “Ngươi không được biệt đãi, ngươi không được nhận qùa, vì qùa cáp làm mù mắt người khôn và làm biến đổi các lời của công lý”. Người ta qúa thường làm mẻ lưỡi
443
gươm công lý bởi vàng mà một kẻ có tội đã luồn cho. Không, không được như vậy. Hãy biết nghèo, hãy biết chết, nhưng đừng bao giờ liên minh với tội lỗi, dù với lời xin lỗi là sẽ dùng vàng đó để giúp người nghèo. Đó là cái vàng bị chúc dữ, và nó không sản xuất ra điều lành. Đó là vàng của một liên lụy nhục nhã. Các con tự thiết lập đồ đệ để làm thầy, làm lương y, làm vị cứu tinh, các con sẽ là gì nếu các con chấp nhận điều ác để có lợi? Đó là những thầy của một khoa học xấu, những lương y giết chết bệnh nhân, không phải là những vị cứu tinh, mà là những kẻ hợp tác cho sự đổ nát của các tâm hồn.
Có một người trong đám đông tiến lên và nói: “Tôi không phải môn đệ Thầy, nhưng tôi phục Thầy. Vậy hãy trả lời câu hỏi này: một người có được phép giữ lại tiền của người khác không?”
- Không, ông ơi, đó là ăn cắp, cũng như giật bóp của người qua đường.
- Dù đó là tiền của gia đình?
- Đúng. Sẽ không công bằng nếu một người chiếm hết tiền của những người khác.
- Vậy xin Thầy đến Abelmain, trên đường đi Damas, và truyền cho anh tôi chia cho tôi phần gia tài của ba tôi. Ông chết không viết để lại một chữ nào. Anh tôi đã giữ hết cho anh ấy. Và lưu ý: chúng tôi là anh em sinh đôi, và là hai đứa con duy nhất của gia đình. Do vậy tôi cũng có quyền như anh ấy.
Giêsu nhìn anh ta và nói: “Đó là một hoàn cảnh nặng nề, và đương nhiên anh của ông làm như vậy là không tốt. Nhưng tất cả điều Thầy có thể làm, là Thầy sẽ cầu nguyện cho ông, và cầu nguyện nhiều hơn cho anh ông để ông ta hoán cải. Hãy về xứ của ông và giảng Tin Mừng, như vậy sẽ làm ông ấy động lòng. Đường đi đối với Thầy không khó nhọc nếu Thầy có thể đặt sự bình an giữa các ông”.
Người đó trở nên hung tợn, nhảy lên: “Vậy Thầy muốn tôi làm gì với các lời Thầy? Trong trường hợp này, chắc chắn phải có một cái gì khác với lời nói”.
444
- Nhưng ông đã chẳng bảo Thầy là truyền cho anh ông...
- Truyền, không phải là giảng Tin Mừng. Một lệnh truyền luôn luôn đi theo một dọa nạt. Hãy dọa sẽ phạt ông ấy nếu ông ấy không cho tôi những cái thuộc về tôi. Thầy có thể làm điều đó. Cũng như Thầy đã cho sức khỏe, Thầy cũng có thể cho bệnh tật.
- Ông ơi, Thầy đến để hoán cải chứ không phải để phạt. Nếu ông tin vào lời Thầy, ông sẽ được bình an.
- Lời nào?
- Thầy đã nói là Thầy sẽ cầu nguyện cho ông và cho anh của ông, để ông được an ủi, và để anh ông cải hóa.
- Bày đặt! Bày đặt! Tôi đâu có ngây thơ để tin như vậy. Hãy đến và truyền lệnh.
Giêsu, từ nãy tới giờ vẫn êm đềm và nhẫn nại, bây giờ trở nên oai nghiêm và khe khắt. Người đứng thẳng lên - trước Người đứng hơi cúi trên người đàn ông nhỏ con, vạm vỡ, bừng bừng vì giận - và Người nói: “Ông ơi, ai đã đặt tôi làm thẩm phán và trọng tài giữa các ông? Chả có ai cả. Nhưng để làm biến đi những bất bình giữa hai anh em, tôi đã chấp nhận đến để làm tròn sứ mệnh kẻ đem bình an và cứu chuộc của tôi. Nếu ông đã tin lời tôi thì khi trở về Abelmain, ông đã thấy anh ông hoán cải rồi. Nhưng ông không biết tin nên ông sẽ không có phép lạ. Ông, nếu ông là người đầu tiên đặt tay trên gia tài, ông cũng giữ cho ông chứ chẳng chia cho anh ông. Vì thật vậy, nếu các ông là người sinh đôi, thì ông cũng có cái tham vọng sinh đôi trong ông như anh ông. Các ông chỉ có một tình yêu duy nhất: Vàng. Vậy hãy ở lại với đức tin của ông. Chào”.
Người đó vừa ra đi vừa nguyền rủa giữa sự công phẫn của đám đông, vì họ muốn phạt ông, nhưng Giêsu phản đối, Người nói: “Hãy để ông ta đi. Tại sao các con muốn làm dơ tay mình bằng cách đánh một kẻ thô tục? Thầy, Thầy tha cho ông ta, bởi vì ông ta bị ám bởi thằng qủi Vàng, nó làm ông ta lạc đường. Các con cũng hãy tha, tốt
445
hơn là nên cầu nguyện cho kẻ khốn nạn này để ông ta lại trở nên con người với tâm hồn đẹp và tự do”.
- Thật vậy, cả khuôn mặt của ông ta cũng trở nên dễ sợ, do ảnh hưởng của lòng tham nơi ông ta. Anh có thấy vậy không? - Các môn đệ và các người ở gần người đàn ông tham lam hỏi nhau.
- Đúng đấy, đúng đấy. Ông ta không có vẻ giống ông ta lúc trước nữa.
- Đúng, sau khi ông ta đẩy Thầy, ông nguyền rủa Thầy, tí nữa là ông ta muốn đánh Người. Khuôn mặt ông trở nên như mặt qủi.
- Mặt một thằng qủi cám dỗ. Ông muốn làm cho Thầy nên dữ tợn.
Giêsu nói:
- Hãy nghe đây. Qủa thật, sự biến đổi của tâm hồn phản chiếu trên khuôn mặt, tựa như ma qủi trồi lên mặt kẻ nó chiếm giữ. Rất ít kẻ, sau khi đã thành ma qủi vì những hành động hay thái độ của họ mà không bộc lộ cái họ đang là. Và số ít người này là những kẻ hoàn bị trong điều ác, và hoàn toàn bị chiếm giữ.
Trái lại, khuôn mặt người công chính luôn luôn đẹp đẽ, dù là về thể chất họ bị biến dạng, vì vẻ đẹp siêu nhiên lan từ nội tâm ra ngoại diện. Không phải chỉ trong cách ăn nói, nhưng các việc làm minh chứng. Chúng ta hãy quan sát một người trong sạch, không có tật xấu, họ có sự tươi mát của chính thân xác họ. Tâm hồn ở trong họ chiếm giữ họ hoàn toàn. Sự hôi thối của tâm hồn hư hỏng làm hư hỏng cả thân xác, trong khi hương thơm của linh hồn trong sạch bảo trì cho thân xác. Tâm hồn dơ bẩn đẩy thân xác tới tội lỗi dâm bôn, làm thân xác thành già và biến dạng. Tâm hồn trong sạch đẩy thân xác tới một đời sống trong sạch, và điều đó bảo trì sự tươi mát và thông đạt vẻ oai nghiêm.
Các con hãy làm sao để luôn luôn có trong các con sự trong sạch trẻ trung của tâm trí, hay làm sao cho nó sống lại nếu nó đã hư mất. Hãy canh chừng giữ mình cho khỏi tham lam, dù về giác quan hay quyền hành. Đời sống con người không hệ tại sự dư dật về của cải họ có ở đời này, và nó càng ít can hệ hơn cho đời sau. Đời sống chỉ quan hệ ở cách sống, và cùng với sự sống là hạnh phúc trên trái đất
446
và ở trên Trời. Kẻ trụy lạc không bao giờ hạnh phúc, thực sự hạnh phúc. Trong khi kẻ nhân đức luôn luôn hạnh phúc với niềm vui Thiên Đàng, dù nó nghèo và cô đơn. Cả cái chết cũng không ám ảnh nó, vì nó không có tội, cũng không có những cắn rứt làm nó sợ đi gặp Thiên Chúa, và nó không tiếc xót gì những thứ nó để lại trên mặt đất. Nó biết rằng kho tàng của nó ở trên Trời, giống như một kẻ ra đi để nhận phần gia tài do một gia sản thánh đến với nó. Nó vui vẻ, vội vã ra đi để gặp cái chết là cái mở cửa Nước Trời cho nó, nơi nó để kho tàng của nó.
Các con hãy tạo ngay cho mình cái kho báu của các con. Hãy bắt đầu công việc ngay từ tuổi trẻ nếu các con còn trẻ. Hãy làm việc không biết mệt nếu các con già hơn, vì lẽ tuổi tác, các con gần cái chết hơn. Nhưng bởi vì cái chết là một kỳ hạn không biết được, và nhiều khi trẻ con lại nằm xuống trước người già, nên đừng để lùi tới ngày mai việc tạo cho các con kho tàng các nhân đức và các việc lành cho đời sống bên kia, sợ rằng cái chết sẽ đến tìm các con khi các con chưa có sẵn ở bên mình cái kho tàng cho Nước Trời. Nhiều người nói: “Ồ, tôi còn trẻ và khỏe mạnh! Lúc này tôi hãy vui hưởng trái đất, sau này tôi sẽ hoán cải”. Đó là một cái lầm lớn!
Hãy nghe dụ ngôn này: Các cánh đồng của một người giầu kia đã mang lại cho ông ta những mùa gặt hái dồi dào phong phú tựa như phép lạ. Ông ta sung sướng ngắm nghía sự giầu có tích chứa trong các cánh đồng và các sân đập lúa của ông. Ông không còn chỗ trong kho và người ta chứa cả trong các kho lâm thời và ngay cả các phòng trong nhà. Ông ta nói: “Ta đã làm việc như một tên nô lệ, nhưng đất đai đã không phản bội ta. Ta đã làm việc mười mùa, bây giờ ta muốn nghỉ ngơi một thời gian. Ta phải làm sao để tích chứa tất cả sản phẩm này? Ta không muốn bán, vì như vậy năm tới ta lại phải làm việc để có một mùa gặt nữa. Ta sẽ làm như vầy: ta sẽ phá hết các kho cũ của ta và ta làm những kho mới lớn hơn để chứa tất cả sản phẩm và mọi của cải của ta. Rồi ta sẽ nói với linh hồn ta: ‘Ôi, linh hồn ta ơi, bây giờ ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm, vậy ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống và lợi dụng
447
đời sống’”. Người này cũng như nhiều người khác, lẫn lộn thân xác với linh hồn, pha lộn cái thánh với cái phàm tục, bởi vì thực sự, trong sự hưởng thụ và nhàn rỗi, linh hồn không vui hưởng gì, mà chỉ héo hon. Và người này cũng như nhiều người, sau một mùa gặt tốt trong cánh đồng của điều thiện, họ ngừng lại, vì họ nghĩ rằng họ đã làm tất cả.
Nhưng các con không biết rằng một khi đã đặt tay trên cái cày thì phải kiên trì một năm, mười năm, trăm năm, bao lâu còn sống, vì ngừng lại là có tội với chính mình bởi từ chối một vinh quang lớn lao hơn, và đó là giật lùi, vì kẻ dừng lại thường chẳng những họ không tiến, mà lại lùi về phía sau. Kho tàng trên Trời phải gia tăng năm nọ qua năm kia để nên tốt. Vì nếu lòng thương xót của Thiên Chúa nhân hậu cả với những người chỉ có một ít năm để tạo ra nó, nhưng nó không đồng lõa với kẻ lười biếng, những kẻ có một đời sống dài mà làm qúa ít. Kho tàng phải liên tục tăng trưởng, nếu không, nó không còn là một kho tàng sinh hoa trái, nhưng là một kho tàng trơ trơ, và như vậy làm tổn hại cho sự bình an đã được hứa từ trời.
Thiên Chúa nói với người giầu khờ dại đó rằng: “Hỡi người khờ dại, lẫn lộn thể xác và của cải vật chất với những thứ thuộc về linh hồn, từ ân huệ của Thiên Chúa, ngươi đã làm điều xấu. Hãy biết rằng ngay đêm nay, người ta sẽ triệu đòi linh hồn ngươi, và khi nó đi khỏi, thể xác ở lại không còn sự sống. Những cái mà ngươi chuẩn bị sẽ thuộc về ai? Ngươi có thể mang nó theo không? Không. Ngươi sẽ bị lột hết những của cải của trái đất và các việc thiêng liêng trước mắt ta, và ngươi sẽ nghèo nàn trong đời sống bên kia. Thà rằng dùng những sản phẩm của ngươi vào việc xót thương cho người đồng loại và cho chính ngươi, vì khi xót thương người khác là ngươi xót thương linh hồn ngươi. Thay vì những tiêu xài nhàn rỗi, ngươi thi hành những việc mà ngươi có thể rút ra những ích lợi cho thân xác và công trạng cho linh hồn ngươi cho tới khi Ta gọi ngươi”. Và người đó chết ngay đêm đó và bị xét xử nghiêm nhặt.
Thật vậy, Thầy bảo các con rằng đúng như thế đối với những kẻ tích trữ tiền bạc cho chính mình mà không lo làm giầu trước mắt
448
Thiên Chúa. Bây giờ hãy đi và lo cho các con cái kho báu mà bài giáo huấn đã cho.
Bình an cho các con.
Giêsu chúc lành, rồi người lui vào một khu rừng với các tông đồ và các môn đệ để dùng bữa và nghỉ ngơi. Nhưng trong khi ăn, Người còn nói để tiếp tục bài giáo huấn trên, lấy lại đề tài đã nói với các tông đồ nhiều lần mà tôi tin là vẫn chưa đủ đối với Người, vì con người qúa hay sợ vô căn cứ. Người nói:
- Các con hãy tin rằng chỉ có sự làm giầu về nhân đức này mới đáng bận tâm. Nhưng hãy canh chừng để nó không là nỗi bận tâm náo động và lo âu đối với các con. Việc lành là kẻ thù của lo lắng, sợ hãi, lật đật, do qúa nhiều ảnh hưởng của tính tham lam, ghen tương, ngờ vực của con người.
Việc làm của các con phải bền bỉ, tin tưởng, bình an, không thình lình khởi đầu rồi thình lình ngừng lại. Những con lừa rừng làm như vậy, cho nên ngoại trừ người điên, không ai sử dụng nó để chạy đường trường, vì nó không bình tĩnh. Hãy bình lặng trong chiến thắng, bình lặng trong thất bại, dù là nỗi buồn vì đã phạm lỗi làm cho các con khổ, vì bởi lỗi này, các con làm buồn cho Chúa. Nhưng phải bình an, bồi dưỡng bằng sự khiêm nhường và lòng tin cậy. Sự chán nản, sự giận hờn đối với chính mình luôn luôn là dấu hiệu của sự kiêu căng, kể cả sự thiếu tin tưởng cũng vậy. Người khiêm nhường thì biết mình là một con người tội nghiệp, phải chịu sự khốn nạn của xác thịt đôi khi thắng thế. Nếu họ khiêm nhường, họ sẽ không tin cậy vào mình, nhưng tin vào Thiên Chúa, và họ bình tĩnh, dù thất bại, và họ nói: “Cha ơi, xin Cha tha cho con. Con biết rằng Cha hiểu sự yếu đuối của con. Con tin rằng Cha thương con. Con tin tưởng chắc chắn rằng Cha sẽ còn giúp con trong tương lai nhiều hơn trước đây, mặc dầu con rất ít làm đẹp lòng Cha”.
Đừng dửng dưng, cũng đừng keo kiệt về những của của Thiên Chúa. Hãy cho đi những gì các con có về khôn ngoan và nhân đức. Hãy tích cực về đàng thiêng liêng cũng như người ta tích cực về thể xác. Đối với những điều có liên can tới thân xác thì đừng bắt chước
449
người đời không ngừng run sợ cho ngày mai, sợ rằng không được dư thừa, sợ bệnh tật tới, sợ chết, sợ kẻ thù làm hại, và đủ loại như vậy.
Thiên Chúa biết các con cần gì. Vậy đừng sợ cho ngày mai. Hãy cởi bỏ những lo sợ, nó còn nặng hơn xiềng xích của người tù khổ sai. Đừng lo lắng cho sự sống. Đừng lo gì về của ăn, của uống, y phục. Đời sống của linh hồn cao hơn đời sống của thân xác, và thể xác qúi hơn áo mặc. Chính với thân xác chứ không phải với y phục mà các con sống, và bởi sự hy sinh của thân xác, các con giúp cho linh hồn chiếm được đời sống vĩnh cửu. Thiên Chúa biết Người sẽ để linh hồn các con trong thân xác các con tới khi nào, và cho tới lúc đó, Người cho các con tất cả những gì các con cần. Người ban những thứ đó cho con qụa, cho các con vật dơ bẩn, chỉ biết nuôi mình bằng xác chết, và chúng tồn tại chỉ vì lý do đó, tức là cái nhiệm vụ loại trừ cho chúng ta các xác chết thối rữa, lẽ nào Người lại không cho các con. Chúng không có nhà cửa để ở, cũng không có kho lẫm, nhưng Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Các con là con người, không phải con qụa. Và rồi hiện giờ các con là những bông hoa của loài người, vì các con là môn đệ của Thầy, là kẻ rao Tin Mừng cho thế giới, là tôi tớ của Thiên Chúa, lẽ nào các con lại có thể nghĩ rằng Thiên Chúa, đấng săn sóc cho bông huệ nơi thung lũng, làm cho nó phát triển, và mặc cho nó chiếc áo còn đẹp hơn áo của Salômôn, mà nó không cần làm việc gì khác ngoài việc tỏa hương thơm. Vậy sao các con lại nghĩ rằng Người có thể quên các con cả về quần áo?
Các con, tự các con không thể thêm một cái răng nào vào cái miệng móm răng của các con, cũng không thể kéo dài cẳng chân ngắn của các con ra thêm được một tấc, cũng không làm được cho con mắt mờ thành tinh anh. Nếu các con không làm được những điều đó, làm sao các con nghĩ có thể tự mình tránh xa sự cùng khổ hay bệnh tật, và lấy đồ ăn ra từ bụi đất? Các con không thể. Vậy đừng giống như người ít đức tin. Các con luôn luôn có những gì các con cần. Đừng lo lắng khổ sở như người đời, họ khổ sở để có thể hưởng thụ. Các con có Cha các con, Người biết các con cần gì. Các
450
con chỉ phải tìm một thứ, và đó phải là nỗi bận tâm thứ nhất của các con, đó là Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các sự khác sẽ được ban thêm cho các con.
Đừng sợ. Các con là đoàn nhỏ của Thầy. Cha Thầy đã vui lòng gọi các con vào Nước của Người để các con chiếm hữu nó. Vậy các con có thể mong mỏi nó và giúp cho Cha bằng thiện chí và các hành động thánh của các con. Hãy bán gia tài và làm phúc bố thí, nếu các con đơn độc. Hãy cho các người của các con phương tiện để sống như phần thưởng cho sự lìa bỏ nhà cửa để theo Thầy của các con, bởi vì thật chính đáng là không lấy mất bánh của vợ con. Nếu các con không thể hy sinh sự giầu có về tiền bạc, thì hãy hy sinh sự giầu có về tình cảm, nó cũng là thứ tiền được Thiên Chúa ước định giá trị: nó là vàng tinh ròng hơn tất cả các thứ vàng khác. Nó là ngọc trai qúi hơn thứ ngọc mò được ở biển, và là thứ đá qúi hơn các thứ đá của lòng đất. Vì từ bỏ gia đình vì tình yêu Thầy là đức ái nguyên tuyền hơn vàng không có một nguyên tử chất dơ nào; đó là ngọc trai làm bằng nước mắt; đó là hồng ngọc làm bằng máu, rên xiết trong các vết thương của con tim bị xé rách vì sự chia lìa người cha, người mẹ, người vợ và con cái.
Nhưng cái qũi này không bị hao mòn, cái kho tàng này không bao giờ bị giảm thiểu. Kẻ trộm không thể lẻn vào Nước Trời được, mối mọt không gậm nhấm được những gì để ở đó. Hãy có Nước Trời ở trong tim các con, và để con tim các con ở trong Nước Trời. Bởi vì con tim, nơi người tốt cũng như người xấu, sẽ ở nơi nào đối với họ là nơi để kho báu của họ. Cũng vậy, kho báu ở đâu thì con tim ở đó (tức là ở trong các con), và con tim ở đâu thì kho báu ở đó (ở trên Trời). Và như vậy, kho báu ở trong qủa tim, và cùng với kho báu của các thánh, có Nước Trời của các thánh trong qủa tim.
Hãy luôn luôn sẵn sàng như kẻ sẵn sàng để khởi hành, hoặc như kẻ chờ chủ của nó. Các con là tôi tớ của vị Thầy-Thiên-Chúa, vào bất cứ lúc nào, Người có thể gọi các con đến với Người, hoặc Người đến với các con. Vậy hãy luôn luôn sẵn sàng để ra đi hay tiếp đón Người, lưng thắt đai hành trang hay đai làm việc, cầm đèn sáng
451
trong tay. Khi Người ra khỏi tiệc cưới với một kẻ khác đã đi trước các con vào Nước Trời hay vào đời tận hiến cho Thiên Chúa ở dưới đất, Thiên Chúa có thể nhớ tới các con là những kẻ đang chờ, và Người có thể nói: “Ta hãy đến nhà Étienne, hoặc nhà Gioan, hoặc nhà Giacôbê hay nhà Phêrô”, và Người đến rất lẹ. Hoặc Người có thể bảo các con: “Hãy đến”. Vậy hãy sẵn sàng để mở cửa cho Người khi Người tới, hoặc để đi nếu Người gọi các con.
Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ đến, thấy nó đang tỉnh thức. Thật vậy, để thưởng công cho sự chờ đợi trung thành của nó, ông sẽ thắt giây lưng cho y phục của nó, cho nó ngồi bàn và phục vụ nó. Ông có thể đến vào vọng canh thứ nhất cũng như thứ hai hoặc thứ ba, các con không biết được điều đó. Vậy hãy luôn luôn tỉnh thức. Hạnh phúc cho các con, nếu các con như vậy, và ông chủ thấy các con như vậy. Đừng lừa phỉnh mình mà nói rằng: “Ta còn giờ. Đêm nay ông chủ ta không tới đâu”. Các con có thể xui mà các con không biết. Nếu một người biết được giờ nào kẻ trộm sẽ đến, ông sẽ canh chừng để kẻ trộm không thể phá cửa hay hòm sắt. Các con cũng vậy, hãy canh chừng, vì vào lúc mà các con ít ngờ nhất thì Con Người sẽ đến và nói: “Tới giờ rồi”.
Phêrô quên cả ăn xong bữa của ông để nghe Chúa, thấy Người nín lặng, ông liền hỏi: “Điều Thầy nói đó là cho chúng con hay cho mọi người?”
- Nói cho các con và cho mọi người, nhưng nhiều hơn là cho các con, vì các con giống như người quản đốc được chủ đặt làm đầu các tôi tớ, nên các con phải sẵn sàng gấp đôi, một đàng cho các con như người quản đốc, một đàng cho các con như người tín hữu thường.
Người quản đốc mà ông chủ đã đặt làm đầu các tôi tớ, để cứ đúng giờ thì cho mỗi người phần chính đáng của họ thì phải làm sao? Anh ta phải khôn ngoan và trung thành để hoàn thành nhiệm vụ riêng của anh, để trông coi cho các người dưới quyền anh hoàn thành nhiệm vụ của họ, nếu không, anh ta sẽ làm thiệt hại cho lợi ích của chủ là người đã trả lương cho người quản đốc để anh ta hành động thay cho chủ, và để canh chừng của cải của chủ khi ông
452
vắng mặt. Phúc cho người đầy tớ, khi chủ trở về nhà, thấy nó đang hành động cách trung thành, khôn ngoan và công bằng. Thật vậy, Thầy bảo các con, ông chủ sẽ đặt anh ta làm quản đốc các cơ sở khác nữa, rồi của tất cả gia sản của ông, và ông nghỉ ngơi, vui mừng trong lòng vì sự an toàn mà người đầy tớ này làm cho ông.
Nhưng nếu người đầy tớ này nói: “Ồ, tốt lắm, ông chủ ở rất xa, và ông ta đã viết cho tôi là ông ta về trễ. Vậy tôi có thể làm cái gì tôi cho là tốt, rồi khi tôi thấy ông ta sắp về, tôi sẽ lo liệu cung cấp”. Và anh ta bắt đầu nhậu nhẹt tới say sưa và truyền lệnh như kẻ say. Bởi vì các người đầy tớ tốt tùy thuộc vào anh từ chối thi hành lệnh đó để khỏi làm thiệt hại cho chủ, thế là anh ta bắt đầu đánh đập các tôi tớ trai gái tới nỗi làm họ bệnh và suy nhược. Anh ta tin là mình hạnh phúc và nói: “Sau cùng, ta đã thưởng thức thế nào là được làm chủ và được mọi người sợ”. Nhưng cái gì sẽ xảy đến cho anh ta? Xảy đến là ông chủ trở về vào lúc anh ta ít nghĩ tới nhất, và ông bắt gặp tại trận anh ta đang nhét tiền vào túi, hay đang mua chuộc vài người đầy tớ trong số những kẻ yếu hơn. Khi đó, Thầy bảo các con, ông chủ sẽ cách chức quản đốc và đuổi anh ta ra khỏi cả hàng ngũ tôi tớ của ông. Vì không nên giữ những kẻ bất trung và đối xử với nó như những người thật thà. Và anh ta bị phạt nhiều hơn là trước đây anh ta được yêu thương và dạy dỗ bởi ông chủ.
Bởi vì người ta càng biết ý muốn và tư tưởng của ông chủ, người ta càng phải thi hành cách chính xác. Nếu anh ta không thi hành đúng như ông chủ bảo anh ta một cách chi tiết hơn mọi người khác, anh ta sẽ bị phạt nhiều hơn, trong khi những kẻ là hàng tôi tớ thấp, không biết rõ sự việc nên lầm mà tưởng là mình làm đúng, sẽ bị phạt ít hơn. Ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều, và nó phải trả lại nhiều nếu nó đã được giao phó nhiều. Bởi vì các vị quản đốc của Thầy sẽ phải trả lời về cả linh hồn một đứa bé tí mới sinh một giờ.
Sự lựa chọn của Thầy không phải là sự nghỉ ngơi mát mẻ giữa một khóm hoa. Thầy đến và mang lửa xuống trái đất, thầy có thể ước ao gì hơn là mong cho lửa ấy cháy lên? Thầy mòn mỏi và Thầy
453
muốn các con mòn mỏi với Thầy đến chết, và cho tới khi tất cả trái đất là một lò lửa Thiên Quốc.
Về phần Thầy, Thầy phải được rửa bằng một phép rửa, và thầy lo lắng chừng nào cho nó được hoàn tất. Các con không hỏi tại sao à? Bởi vì nhờ phép rửa này, Thầy có thể làm cho các con thành những người mang lửa, những kẻ vùng vẫy, hoạt động trong tất cả và chống lại hết mọi tầng lớp xã hội để làm cho nó thành một thứ duy nhất: bầy chiên của Đức Kitô.
Các con tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất sao? Và theo lối nhìn của trái đất? Không. Trái lại, Thầy mang mối bất hòa và sự chia rẽ, bởi vì từ nay cho tới khi trái đất sẽ là một bầy duy nhất, thì trong một nhà có năm người, hai người sẽ chống lại ba; Cha sẽ chống lại con trai và con trai chống lại cha; mẹ sẽ chống lại con gái và con gái chống lại mẹ. Con dâu và mẹ chồng sẽ có thêm một lý do nữa để không nghe nhau. Bởi vì sẽ có một ngôn ngữ mới trên một số miệng lưỡi, và sẽ sản xuất ra một thứ Babel, bởi vì một sự nổi dậy sâu xa sẽ làm lung lay cái vương quốc của tình cảm nhân loại và siêu nhân. Nhưng rồi sẽ đến cái giờ mà tất cả sẽ qui tụ trong khi nói một ngôn ngữ mới mà tất cả những ai được vị người Nazarét cứu sẽ nói. Rồi các làn nước tình cảm sẽ được thanh lọc, các chất dơ sẽ chìm xuống đáy, và ở trên mặt, làn nước trong sạch của chiếc hồ Thiên Quốc sẽ rực sáng.
Thật vậy, công việc của Thầy không phải là một sự nghỉ ngơi theo nghĩa mà người đời dùng cho cái từ này. Phải anh hùng không biết mệt. Nhưng Thầy bảo các con: sau cùng sẽ có Giêsu, và luôn luôn vẫn còn là Giêsu thắt giây lưng để phục vụ các con, và ngồi với các con trong bàn tiệc đời đời, và người ta sẽ quên mệt nhọc và đau đớn.
Bây giờ vì không có ai đến tìm chúng ta nữa, chúng ta hãy đi ra hồ. Chúng ta sẽ nghỉ ngơi tại Magđala. Trong vườn của Maria Lazarô có chỗ cho tất cả. Và nàng đã để nhà nàng sẵn sàng cho các người hành hương và các bạn nàng. Không cần phải nói với các con là Maria Magđala đã chết với tội lỗi, và từ sự sám hối của nàng,
454
Maria Lazarô đã sinh ra người nữ môn đệ của Giêsu Nazarét. Các con biết rằng tin tức đã lan đi như tiếng lào xào của gió trong rừng. Và Thầy, Thầy nói với các con điều các con chưa biết, là tất cả các tài sản cá nhân của Maria Lazarô trở thành của tất cả các tôi tớ Thiên Chúa và các người nghèo của Đức Kitô. Chúng ta đi thôi...
141* TRONG VƯỜN CỦA MARIA MAGĐALA
Giêsu không còn ở nơi của thị kiến trước, nhưng Người ở trong một khu vườn mênh mông trải ra tới tận hồ. Ngoài chỗ vườn, hay đúng hơn là giữa vườn, là căn nhà. Vườn bao quanh ở phía trước và ở chung quanh nhà, nhưng ở phía sau, nó trải rộng ra ít nhất là ba lần xa hơn vườn ở trước nhà.
Có nhiều hoa, nhưng nhất là các cây to và các khóm cây, với những góc yên tĩnh đầy cây xanh, chung quanh những bồn nước phun bằng đá qúi, giống như ở những biệt trang nhỏ, có những bàn ghế bằng đá. Trước đó chắc chắn có những bức tượng ở đó đây, dọc theo lối đi và ở giữa các bể đá, nhưng nay chỉ còn lại cái bệ của bức tượng để nhớ kỷ niệm của nó bên cạnh những cây nguyệt quế và các cây hoàng dương, hoặc để nó soi mình trong những bồn đá đầy nước trong vắt. Sự hiện diện của Giêsu và các người của Ngài, cũng như sự hiện diện của các người Magđala, trong đó có thằng bé Benjamin, đứa trẻ đã dám nói với Iscariot là ông ta độc ác, làm tôi nghĩ đây là khu vườn nhà Maria Mađalêna... đã được coi lại và chỉnh đốn cho hợp với nhiệm vụ mới của nó, bằng cách loại bỏ những gì có thể tạo ra sự ghê tởm, gương mù hay nhắc nhớ lại qúa khứ.
Toàn thể cái hồ là một tấm nhiễu mềm mướt mầu xám xanh lơ, phản chiếu bầu trời có những đám mây mang nặng những hạt mưa thu đầu tiên, nhưng nó cũng rất đẹp dưới ánh sáng bình lặng và yên tĩnh của một ngày, dù không trong sáng, nhưng cũng không phải là mưa gió. Các bờ hồ không còn nhiều hoa lắm, nhưng bù lại, được
455
tô mầu bởi người họa sĩ vĩ đại là mùa thu, phô bày những nét vẽ mầu hoàng thổ, mầu đỏ tía và mầu xanh đuối sức của các lá đang chết trên các cây đại thụ và các cây nho đang đổi mầu trước khi nhường cho mặt đất chiếc áo sống động của nó.
Ở mọi chỗ trong vườn của các khu biệt thự ở gần bờ hồ như biệt thự này, có những điểm đỏ ối như nước đã trào máu, do sự hiện diện của một hàng rào bằng cây có cành mềm mà mùa thu đã cho nó mầu đồng, phản chiếu như một lò lửa, trong khi các cây liễu rải rác ở bờ hơi xa thì các lá mầu xanh bóng bạc của nó đã thành lợt lạt hơn thường, trước khi chết.
Giêsu không nhìn những thứ mà tôi nhìn. Người nhìn những bệnh nhân tội nghiệp mà Người đã ban ơn chữa lành; Người nhìn những ông già ăn mày mà Người cho tiền; Người nhìn những đứa trẻ mà mẹ chúng trình cho Người để Người chúc phúc. Người nhìn với vẻ thương xót mấy chị em ruột nói với Người về cách sống của người anh trai duy nhất của họ đã làm cho mẹ họ chết vì buồn, và làm cho họ điêu tàn. Các người đàn bà tội nghiệp này xin Người những lời khuyên và xin Người cầu nguyện cho họ.
- Chắc chắn là Thầy sẽ cầu nguyện. Thầy sẽ xin Thiên Chúa cho các con sự bình an và cho anh các con hối cải, để ông nhớ đến các con và trả lại cho các con những gì ông phải trả, nhất là trở lại yêu các con, bởi vì nếu ông làm điều đó, ông sẽ làm hết những gì còn lại. Nhưng các con, các con có yêu ông không, hay các con giận ghét ông? Các con có tha cho ông tận đáy lòng không, hay sự buồn rầu của các con là sự khinh miệt? Vì ông cũng là kẻ tội nghiệp hơn cả các con. Mặc dầu những của cải của ông, ông còn nghèo hơn các con, và phải thương ông. Ông không còn tình yêu, và ông cũng không có tình yêu của Thiên Chúa. Các con thấy ông tội nghiệp chừng nào. Các con, bắt đầu từ mẹ các con, vào giờ chết, các con chấm dứt đời sống buồn mà ông gây ra cho các con. Nhưng ông thì không, trái lại, ông đi từ một sự hưởng thụ giả trá của một giờ, tới một khổ hình ghê gớm và đời đời. Hãy đến bên Thầy, Thầy cũng nói với tất cả những điều Thầy nói với các con đây.
456
Giêsu đi về phía giữa một thảm cỏ rải rác những khóm hoa. Ở giữa thảm cỏ, chắc chắn trước có một bức tượng, bây giờ chỉ còn lại cái bệ, bao bọc bởi một hàng rào cây sim và cây hồng thấp. Giêsu quay lưng về cái hàng rào này và bắt đầu nói. Mọi người đều yên lặng và quây quần chung quanh Người:
- Bình an cho các con. Hãy nghe đây. Có lời rằng: “Hãy yêu tha nhân như chính mình”. Nhưng từ ngữ này ý chỉ những ai? Tất cả loài người, cách bao quát. Rồi riêng biệt hơn, tất cả những người trong một quốc gia; rồi riêng biệt hơn nữa: những người đồng hương. Rồi cái vòng nhỏ hơn nữa: tất cả bà con họ hàng. Rồi sau cùng, cái vòng sau cùng của chiếc triều thiên tình yêu, giống như những cánh hoa hồng chung quanh nhụy hoa: tình yêu ruột thịt máu mủ, những người đầu tiên của tha nhân. Trung tâm con tim của bông hoa tình yêu là Thiên Chúa. Tình yêu đối với Người là tình yêu đầu tiên phải có. Chung quanh cái tâm điểm là Người, thì là tình yêu cha mẹ, tình yêu thứ hai phải có, bởi vì cha mẹ là những Thiên Chúa nhỏ ở trên trái đất, bởi vì các ngài tạo dựng chúng ta, hợp tác với Thiên Chúa để tạo dựng chúng ta, chưa kể đến việc các ngài săn sóc chúng ta với tình yêu không biết mệt mỏi. Chung quanh cái bầu noãn sáng rực những cái nhụy tỏa hương thơm của tình yêu biệt đãi nhất, bao bọc chặt bởi những vòng các tình yêu khác nhau, đầu tiên là anh chị em sinh ra bởi cùng một dạ, có cùng một dòng máu.
Nhưng làm sao lại phải yêu anh em? Đơn giản là vì máu thịt của họ giống như của chúng ta. Đó là điều mà các con chim non tụ tập chung quanh một cái tổ cũng biết làm. Chúng, trong thực tế, chỉ chung có một điểm đó; được sinh ra trong cùng một lứa, và trên lưỡi có cùng một vị nước bọt của cha mẹ. Chúng ta, con người, chúng ta hơn loài chim, vì còn hơn là máu mủ, chúng ta có người Cha, và còn hơn là người cha và người mẹ, chúng ta có linh hồn, và chúng ta có Thiên Chúa là Cha của tất cả. Vì đó phải biết yêu anh em như anh em, vì cha và mẹ đã sinh ra chúng ta, và như anh em vì Thiên Chúa là Cha của toàn thể.
Bởi vậy phải yêu với tình yêu siêu nhiên cùng với tình yêu thể
457
xác. Yêu họ không phải chỉ vì lẽ máu thịt, mà còn vì lẽ linh hồn mà chúng ta cùng có. Phải yêu linh hồn của anh em ta hơn là thể xác, vì linh hồn thì ở trên máu thịt, và Thiên Chúa là Cha hơn con người là cha, bởi vì giá trị của linh hồn cao hơn giá trị của thân xác, bởi vì anh em chúng ta sẽ rất khốn nạn khi bị mất người Cha-Thiên-Chúa hơn là mất người cha-loài-người. Sự mất cha-loài-người là một sự tan nát, nhưng nó chỉ làm cho ta mồ côi một nửa, nó chỉ làm tổn thương những gì thuộc về trái đất: những âu yếm, những nhu cầu được giúp đỡ của chúng ta. Nhưng linh hồn, nếu nó biết tin, nó sẽ không bị tổn thương vì cái chết của người cha. Trái lại, để theo cha tới nơi các người công chính ở, tâm hồn của đứa con bay lên như bị lôi kéo bởi sức mạnh của tình yêu. Thực vậy, Thầy bảo các con rằng đó là tình yêu, tình yêu đối với Thiên Chúa và với người cha mà linh hồn đứa con đã để bay lên tới nơi ở của kẻ khôn ngoan. Nó lên nơi mà Thiên Chúa ở gần hơn và hoạt động với sự công chính lớn lao hơn, vì nó không bị thiếu sự trợ giúp thực là lời cầu nguyện của người cha là người lúc này đã biết yêu cách trọn vẹn, cho nó xác tín rằng bây giờ người cha còn thấy rõ những công việc của con ông hơn khi ông còn sống, và ông ước ao thấy nó sống một đời sống thánh.
Vì vậy phải săn sóc linh hồn nhiều hơn là thể xác của anh em mình. Đúng chỉ là một tình yêu nghèo nàn nếu chỉ nghĩ tới những gì sẽ hư nát mà ơ hờ với những gì không hư nát, những cái mà nếu người ta ơ hờ, có thể làm mất niềm vui đời đời. Một số qúa đông người chỉ mệt mỏi với những thứ vô ích, kiệt lực cho những cái chỉ có một lợi ích tương đối, mà không ngó gì tới những thứ thật sự thiết yếu. Các chị em thực sự, các anh em tốt, thì không phải chỉ giữ cho y phục được thứ tự, lo cho bữa ăn sẵn sàng, hoặc giúp anh em bằng những công việc, nhưng phải cúi xuống trên tâm hồn họ, để nghe các tiếng nói, để nhận ra các khuyết điểm. Nếu trong những tiếng nói này và các khuyết điểm này, họ thấy nguy hiểm cho sự sống đời đời, thì họ phải vận dụng sự kiên nhẫn đầy tình cảm, phải biết chịu cực để cho người anh em một tâm hồn được hít thở sức
458
khỏe thánh thiện. Nếu anh em này phạm tội chống lại họ, họ phải tha thứ và cầu xin sự tha thứ của Thiên Chúa, để đem anh em lại với tình yêu, không như vậy thì Thiên Chúa sẽ không tha.
Trong sách Lêvi có nói: “Đừng giận ghét anh em trong lòng, nhưng hãy làm cho anh em ta sám hối công khai, để không bị vạ lây vì anh ta”. Nhưng từ chỗ không giận ghét đi tới chỗ tình yêu, hãy còn một vực thẳm: các con còn có vẻ ác cảm, không tiếp xúc hoặc dửng dưng với họ, và cho đó không phải là tội, vì không phải là giận ghét. Thầy vừa cho các con những ánh sáng mới về tình yêu và những hiểu biết thiết yếu về tình ghét, vì điều gì soi sáng cho tình yêu trong mọi chi tiết thì cũng soi tỏ mọi chi tiết của tình ghét. Sự nâng cao tình yêu lên các tinh cầu cao xa tạo ra một sự ngăn cách xa xôi với tình ghét, vì tình yêu càng lên cao, tình ghét càng tăm tối trong vực thẳm luôn luôn sâu hơn.
Giáo lý của Thầy là giáo lý trọn lành. Nó là sự tinh tế về tình cảm và sự xét đoán. Đó là chân lý không ẩn dụ bóng bảy, cũng không nói lòng vòng. Và Thầy bảo các con rằng ác cảm, không tiếp xúc, dửng dưng, cũng đã là ghét rồi, đơn giản chỉ vì nó không phải là tình yêu. Cái trái với yêu là ghét. Các con có thể gọi một tên nào khác cho ác cảm không? Cho việc dứt bỏ một người, cho sự dửng dưng không? Người yêu thì có thiện cảm với kẻ nó yêu, vậy kẻ ác cảm với nó thì không yêu nó nữa. Kẻ yêu thì dù đời sống làm nó phải ở xa người nó yêu, nó vẫn tiếp tục ở gần họ bằng tâm hồn. Vậy nếu ai xa lìa kẻ khác bằng tâm hồn thì nó không yêu người đó nữa. Người yêu thì không bao giờ dửng dưng với kẻ được yêu, trái lại, tất cả những gì có liên can tới họ đều làm nó lưu tâm. Vậy nếu ai dửng dưng với một người, đó là dấu họ không yêu nó. Vậy các con thấy rằng ba cái này là ba nhánh của cùng một cây: cây ghét. Và cái gì xảy ra khi một người mà ta yêu xúc phạm đến ta? Chín mươi phần trăm là: nếu cái ghét không tới thì hoặc ác cảm, hoặc xa lánh, hoặc dửng dưng sẽ tới. Không, các con đừng hành động như vậy. Đừng làm băng giá con tim các con bằng ba hình thức ghét này. Hãy yêu.
459
Nhưng các con tự hỏi: “Làm sao chúng con có thể?” Thầy trả lời các con: “Cũng như Thiên Chúa có thể khi Người yêu những kẻ xúc phạm đến Người: một tình yêu đau đớn, nhưng luôn luôn tốt”. Các con nói: “Chúng con sẽ làm thế nào?” Thầy cho các con một luật mới về những liên quan tới người anh em có lỗi, và Thầy nói: Khi anh em con xúc phạm đến con, đừng làm nhục nó cách công khai bằng cách trách mắng nó giữa công chúng, nhưng hãy đẩy tình yêu của các con tới chỗ che giấu khuyết điểm của anh em con trước người đời. Vì con sẽ có công lớn trước mắt Thiên Chúa, trong khi vì tình yêu, con cắt đứt tất cả những gì thỏa mãn cho cái kiêu ngạo của con.
Ôi! Con người bằng lòng chừng nào để tỏ ra rằng họ bị xúc phạm và họ phải chịu đựng! Họ ra đi như một tên ăn mày điên, không phải để xin ông vua bố thí vàng bạc, mà là đến với những tên ngu ngốc khác, các tên hành khất khác, tựa như để xin nó một nắm tro, một đống phân, một ly thuốc độc đốt cháy. Đó là những thứ thế gian tặng cho những kẻ bị xúc phạm mà đi tìm sự an ủi. Thiên Chúa là vua, sẽ ban thứ vàng ròng cho những kẻ bị xúc phạm mà không oán ghét, mà chỉ đến khóc ở chân Người về nỗi đau của nó, và xin với Người là Tình Yêu, là Sự Khôn Ngoan, một khích lệ cho tình yêu, một chỉ bảo cho một ngẫu nhiên nặng nề. Vậy nếu các con muốn được an ủi, hãy đến với Thiên Chúa, và hãy hành động với tình yêu.
Thầy, Thầy bảo các con trong khi sửa lại luật cũ: nếu anh em con xúc phạm đến con, hãy khiển trách nó riêng biệt giữa mình nó với con thôi. Nếu nó nghe con, như vậy con lại được người anh em, và cùng một trật, con được bao phúc lành của Thiên Chúa. Nhưng nếu anh em không nghe con, lại xua đuổi con, cứng đầu trong điều lỗi của nó, thì để cho người ta không nói rằng con đồng loã với điều lỗi hay dửng dưng với lợi ích thiêng liêng của anh em con, con hãy mang theo cùng với con hai ba nhân chứng đứng đắn, tốt và chắc chắn. Con cùng với họ trở lại với anh em con, và trước mặt họ, hãy nhắc lại cách nhân hậu những nhận xét của con, để những nhân
460
chứng có thể bởi chính miệng họ, nói rằng con đã làm tất cả những gì con có thể để sửa chữa cho anh em con, vì đó là bổn phận của người anh em tốt, bởi vì cái tội mà anh ta xúc phạm, đối với con, là một vết thương của linh hồn anh ta. Nếu việc đó cũng vô ích thì hãy cho giáo đường biết để họ nhắc anh ta về lề luật nhân danh Thiên Chúa. Nếu anh ta cũng không sửa đổi, và nếu anh ta khước từ giáo đường hay Đền Thờ cũng như anh ta đã khước từ con, thì hãy coi anh ta như người thu thuế và dân ngoại.
Điều đó hãy làm đối với các anh em máu mủ của con và với những người liên kết với con bằng tình yêu huynh đệ. Vì dù là với người đồng loại xa xôi nhất, con cũng phải hành động cách thánh thiện, không ham hố, không khắt khe, không giận ghét.
Còn nếu là trường hợp khác, vì cần thiết, con phải đến với quan tòa cùng với đối phương của con, Thầy, Thầy bảo con, hỡi người, thường bởi lỗi của các con, các con rơi vào hoàn cảnh tệ hơn. Thầy bảo con, khi còn đang trên đường đi, hãy cố gắng làm hoà với nó rằng con trái hay phải. Vì công lý loài người luôn luôn bất toàn, và thường thường sự qủi quyệt đặt trên công lý, và kẻ có tội thành ra vô tội, và con, kẻ vô tội, thành ra có tội. Và khi đó, chẳng những con không được nhìn nhận quyền lợi, mà lại thua kiện, trong khi con vô tội, bị xem như có tội đã phỉ báng. Và khi đó, quan tòa sẽ giao con cho lý hình, và nó sẽ không để cho con đi bao lâu con chưa trả hết đồng xu sau cùng.
Vậy hãy hòa hoãn. Sự kiêu căng của con phải khổ ư ? Rất tốt. Túi tiền của con trống rỗng? Càng hay. Chỉ cần là sự thánh thiện của con tăng trưởng. Đừng có một tình yêu nuối tiếc đối với vàng. Đừng ham tiếng khen. Hãy làm sao để Thiên Chúa khen con. Hãy làm sao để thiết lập cho con một kho tàng lớn lao trên Trời. Hãy cầu nguyện cho các kẻ xúc phạm đến con để nó hối cải. Nếu xảy ra như vậy, chính họ sẽ hoàn lại danh dự cho con và trả lại của cải cho con. Nếu họ không làm vậy, Thiên Chúa sẽ nghĩ tới đó.
Bây giờ đi đi, vì tới giờ dùng bữa. Chỉ có các người hành khất thì ở lại ngồi bàn với các tông đồ. Bình an cho các con.
461
142* GIÊSU SAI BẢY MƯƠI HAI
MÔN ĐỆ ĐI LOAN BÁO VỀ NGƯỜI
Sau bữa ăn, Giêsu cho các người nghèo đi. Người ở lại trong vườn của Maria Magđala với các tông đồ và các môn đệ. Các ngài tới ngồi ở biên giới vườn, ngay gần bờ nước của cái hồ yên lặng, trên đó có một số thuyền đang giăng buồm để đi đánh cá.
- Họ sắp có những mẻ cá tốt - Phêrô quan sát họ.
- Con cũng vậy, Simon Jonas, con cũng sẽ có những mẻ cá tốt.
- Chúa ơi, con à? Khi nào? Thầy muốn con đi thả lưới cho thực phẩm ngày mai à? Con đi ngay lập tức... và...
- Chúng ta không cần lương thực trong căn nhà này. Mẻ cá mà con sẽ đánh là trong tương lai, và trong lãnh vực siêu nhiên. Và sẽ có những dân chài tuyệt vời cùng với con, phần đông trong những người này.
- Thưa Thầy, không phải tất cả sao? - Mathêu hỏi.
- Không phải tất cả. Nhưng những ai kiên trì sẽ trở thành linh mục của Thầy, và họ sẽ đánh những mẻ cá tốt.
- Những cuộc hoán cải nhỉ? - Giacôbê Zêbêđê hỏi.
- Sự hoán cải, sự tha thứ, sự trở về với Thiên Chúa. Ôi! Biết bao thứ.
- Nghe con này Thầy ơi. Lúc trước Thầy có nói là nếu ai không nghe anh em nó, dù trước mặt các chứng nhân, thì giáo đường sẽ khiển trách họ. Bây giờ, nếu con hiểu đúng điều Thầy đã nói từ khi chúng ta biết nhau, con thấy hình như giáo đường sẽ được thay thế bằng Giáo Hội, cái mà Thầy sẽ thành lập. Vậy chúng con sẽ đi đâu để khuyên bảo các anh em ngoan cố?
- Các con sẽ tới nhà các con, vì các con tức là Giáo Hội của Thầy. Vì vậy các tín hữu sẽ đến với các con, hoặc để có một lời khuyên cho chính họ, hoặc để có lời khuyên cho người khác. Thầy nói với các con hơn nữa: chẳng những các con có thể cho họ lời
462
khuyên, mà các con còn có thể giải tội nhân danh Thầy. Các con có thể tháo xiềng xích tội lỗi, các con có thể liên kết hai người yêu nhau để làm thành một thân xác duy nhất. Và những điều các con làm sẽ có giá trị trước mắt Thiên Chúa như chính Thiên Chúa làm. Thực vậy, Thầy bảo các con, điều gì các con ràng buộc dưới đất thì sẽ bị ràng buộc ở trên Trời; điều gì các con cởi mở dưới đất thì cũng được cởi mở ở trên Trời. Và Thầy còn bảo các con để các con hiểu sức mạnh của tên Thầy, nói về tình yêu huynh đệ và lời cầu nguyện: nếu hai người trong các môn đệ của Thầy - và bây giờ Thầy coi như là môn đệ, tất cả những ai sẽ tin vào Đức Kitô - Nếu hai người hợp nhau để xin một điều gì chính đáng nhân danh Thầy, thì Cha Thầy sẽ nhận lời họ. Vì lời cầu nguyện rất mạnh thế, sự hợp nhất huynh đệ rất mạnh thế, và rất, rất mạnh thế, vô cùng mạnh thế là tên Thầy và sự hiện diện của Thầy giữa các con. Ở đâu có hai ba người hợp nhất vì danh Thầy thì Thầy sẽ ở giữa họ, Thầy sẽ cầu nguyện với họ, và Chúa Cha không từ chối gì với những kẻ cầu nguyện cùng với Thầy. Có nhiều kẻ không nhận được vì họ cầu xin một mình, hoặc vì những lý do bất chính, hoặc vì kiêu ngạo, hoặc với tội lỗi ở trong tim họ. Hãy tạo cho các con một con tim trong sạch, để Thầy có thể ở với các con, rồi hãy cầu nguyện, và các con sẽ được nghe lời.
Phêrô suy tư. Giêsu nhìn thấy ông và hỏi ông lý do. Phêrô giải thích: “Con suy nghĩ rằng chúng con được tiền định những nhiệm vụ cao cả chừng nào, và con sợ. Sợ không biết làm nên”.
- Thực vậy, Simon Jonas hay Giacôbê Alphê, hay Philíp, hay ai khác thì không biết làm nên. Nhưng linh mục Phêrô, linh mục Giacôbê, linh mục Philíp hay Tôma sẽ biết làm, vì họ hành động đồng thời với sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
- Và... chúng con phải tha cho anh em bao nhiêu lần? Bao nhiêu lần, nếu họ phạm tội chống lại các linh mục; bao nhiêu lần nếu họ phạm tội chống lại Thiên Chúa? Bởi vì nếu xảy ra như bây giờ thì chắc chắn họ sẽ phạm tội chống lại chúng con, bởi vì họ phạm tội chống lại Thầy biết bao, biết bao lần. Xin Thầy nói cho con, con có
463
phải tha hoài hoài hay chỉ một số lần nào đó. Bảy lần hay hơn nữa chẳng hạn?
- Thầy không bảo con là bảy lần, mà là bảy mươi lần bảy lần: một số lượng vô hạn định. Bởi vì Cha trên Trời tha cho các con nhiều lần, một số rất nhiều lần, tha cho các con là những kẻ phải trọn lành. Và như Người cư xử với các con, các con cũng phải cư xử như vậy, bởi vì các con là đại diện của Thiên Chúa dưới đất. Hơn nữa, hãy nghe đây, Thầy sắp kể cho các con một dụ ngôn có ích cho mọi người.
Và Giêsu, đang được bao quanh bởi toàn là các tông đồ tại một nơi bao bọc bởi các cây hoàng dương, Người đi lại với các môn đệ đang quây quần cách kính cẩn tại một nơi có cái bể đá đầy nước trong. Nụ cười của Giêsu là dấu hiệu người sắp nói. Trong khi Người đi với những bước chậm và dài, vì vậy trong thời gian vắn, Người đi được một khoảng dài, nên Người không vội vã. Tất cả họ đều hân hoan, giống như đám trẻ ở chung quanh một người làm chúng thích. Họ bao quanh Người thành vòng tròn. Một chiếc triều thiên các khuôn mặt rất chú ý, cho tới khi Giêsu xây lưng vào một thân cây và bắt đầu nói:
- Về điều trước tiên Thầy đã nói với dân chúng là phải hoàn thiện hóa bản thân, đối với các con là những kẻ được chọn trong đám họ, tông đồ Simon Jonas đã hỏi Thầy: “Con phải tha bao nhiêu lần? Cho ai? Tại sao?” Thầy đã trả lời riêng cho ông, và bây giờ Thầy nhắc lại câu trả lời của Thầy cho tất cả, bởi vì thật chính đáng là từ nay các con phải biết.
Hãy nghe: bao nhiêu lần, và thế nào, và tại sao phải tha thứ. Phải tha thứ như Thiên Chúa tha thứ. Thiên Chúa, nếu người ta phạm tội một ngàn lần, rồi nếu người ta hối lỗi, Người đều tha cho cả một ngàn lần, miễn là Người thấy kẻ có tội không cố tình phạm, không tìm tòi những gì làm cho phạm tội, nhưng tội của họ chỉ là kết qủa của sự yếu đuối con người. Trong trường hợp người ta cố tình khăng khăng trong tội thì sẽ không có sự tha thứ đối với những xúc phạm tới lề luật. Mặc dầu lỗi này làm cho các con khổ, nhưng
464
các con, với tư cách cá nhân, hãy tha. Hãy luôn luôn tha thứ cho các kẻ làm điều xấu cho các con. Hãy tha để được tha, vì các con cũng phạm những lỗi chống lại Thiên Chúa và anh em. Sự tha thứ mở cửa nước Trời cho kẻ nhận sự tha thứ cũng như cho kẻ bằng lòng tha thứ. Điều đó giống như sự kiện xảy ra giữa ông vua và các đầy tớ của ông:
Có một ông vua muốn tính sổ với các tôi tớ của ông. Người ta gọi họ, người nọ sau người kia, bắt đầu bằng những kẻ ở cấp cao nhất. Có một người nợ vua mười ngàn lượng vàng, nhưng người này không có gì để trả món vàng mà ông vua đã cho mượn trước để ông ta xây nhà và các thứ đủ loại. Chính trong thực tế, vì những lý do ít nhiều chính đáng, ông ta đã không sử dụng cẩn thận món tiền đã nhận được cho các chương trình của ông. Ông vua, chủ nợ, phẫn nộ vì sự lười biếng của ông ta và sự sai lời của ông, liền truyền phải bán ông ta, vợ ông, các con ông và tất cả những gì ông có cho tới khi ông ta trả xong nợ. Nhưng người đầy tớ liền qùi dưới chân vua, khóc lóc và năn nỉ: “Xin hãy để tôi đi. Xin hãy kiên nhẫn thêm một ít nữa, tôi sẽ trả cho vua tất cả những món nợ của tôi cho tới đồng bạc sau cùng”. Ông vua cảm động vì từng ấy đau khổ - đó là một ông vua nhân hậu - không những ưng thuận lời xin của ông ta, mà sau khi đã biết rằng giữa những lý do của sự thiếu thận trọng và việc không đúng hẹn, cũng còn có bệnh tật, làm cho vua thương tới nỗi tha hết nợ cho ông.
Ông này sung sướng đi ra. Nhưng khi vừa ra khỏi đó, ông gặp một người khác trên đường, một người tội nghiệp mà ông ta đã cho mượn một trăm đồng bạc trích ra trong món mười ngàn lượng mà ông vua đã cho ông vay. Tin tưởng vào lòng ưu ái của quân vương, ông tưởng mình được phép tất cả, ông liền tóm lấy cổ kẻ khốn nạn và nói: “Trả ngay cho tao món tiền mà mày thiếu tao”. Một cách
465
vô ích, ông này vừa khóc vừa cúi xuống hôn chân hắn và rên rỉ: “Xin thương tôi, vì tôi rất bất hạnh. Xin kiên nhẫn thêm chút nữa, và tôi sẽ trả cho ông tất cả cho tới đồng xu nhỏ sau cùng”. Người tôi tớ tàn nhẫn liền gọi lính và cho dẫn kẻ khốn nạn vào tù để phán định ông phải trả, với án mất tự do hay cả đến mạng sống.
Sự việc được bạn bè của kẻ bất hạnh biết, họ buồn rầu tới tường thuật lại cho vua và chủ của họ. Ông vua nghe biết, liền cho gọi người đầy tớ tàn nhẫn tới. Vua nhìn ông ta cách nghiêm khắc và nói: “Hỡi tôi tớ xấu xa, ta đã giúp ngươi trước, để ngươi trở nên khoan dung, bởi vì ta đã làm giầu cho ngươi, và ta còn giúp ngươi bằng cách tha nợ cho ngươi vì ngươi xin ta kiên nhẫn. Ngươi không biết thương một người giống như ngươi, trong khi ta là vua, ta đã thương ngươi biết bao. Tại sao ngươi không làm cái điều mà ta đã làm cho ngươi?”
Và đầy thịnh nộ, vua giao ông ta cho lính cai tù để họ nhốt ông ta cho tới khi ông ta trả sạch nợ. Vua phán: “Vì nó không thương kẻ thiếu nó một chút, trong khi ta là vua mà ta đã thương nó dường ấy, thì nó không được hưởng lòng thương xót của ta nữa”.
Cha Thầy cũng hành động như vậy với các con, nếu các con tàn nhẫn với anh em các con, nếu các con là những kẻ đã nhận từ tay Thiên Chúa biết bao mà lại trở nên tội lỗi hơn một tín hữu thường. Các con hãy nhớ rằng các con phải bó buộc sạch tội hơn tất cả những người khác. Hãy nhớ rằng Thiên Chúa đã ứng trước cho các con một kho tàng lớn, và Người muốn các con tính sổ với Người. Hãy nhớ rằng không ai phải biết thi hành tình yêu và sự tha thứ bằng các con.
Đừng làm giống như những đầy tớ chỉ biết đòi hỏi mọi thứ, rồi không phân phát gì cho những kẻ xin các con. Người ta sẽ làm cho các con như các con làm. Các con cũng sẽ bị đòi hỏi tính sổ về cách sống của những kẻ khác đã bị lôi kéo vào đường lành hay đường dữ bởi gương mẫu của các con. Ôi! Thật vậy, nếu các con là những kẻ thánh hóa, các con sẽ được phần vinh quang bao la trên Trời. Nhưng nếu các con là nguyên nhân cho sự hư hỏng hay sự lười biếng trong
466
việc thánh hóa, các con sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
Thầy nói lại với các con một lần nữa: nếu ai trong các con cảm thấy mình không đủ can đảm là nạn nhân cho sứ mạng riêng của họ, thì họ hãy rút lui đi chứ đừng thiếu sót. Và Thầy nói là họ đừng thiếu sót trong những điều thực sự tổn hại cho việc đào tạo chính mình và các người khác. Và họ phải biết lấy Thiên Chúa làm bạn, bằng cách luôn luôn thật lòng tha thứ cho kẻ yếu đuối. Mỗi người trong các con, ai biết tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa là Cha tha thứ.
Thời hạn đã chấm dứt, Lễ Lều sắp tới. Những người mà Thầy đã nói riêng sáng nay, từ ngày mai, họ sẽ đi trước Thầy để loan báo cho dân chúng về Thầy. Những ai ở lại thì đừng nản lòng. Thầy giữ lại mấy người trong nhóm họ vì những lý do khôn ngoan chứ không phải vì khinh dể họ. Họ sẽ ở lại với Thầy. Rồi sắp tới, Thầy cũng sẽ sai họ đi như Thầy sai bảy mươi hai người đầu tiên. Mùa gặt rất phong phú, các thợ thuyền luôn luôn qúa ít để làm việc. Vì vậy sẽ có việc cho mọi người, và còn chưa có đủ người. Vậy đừng ghen tị. Hãy xin chủ mùa để Người luôn luôn gởi thêm các thợ mới cho mùa màng của Người.
Bây giờ hãy giải tán đi. Trong những ngày nghỉ ngơi này, các tông đồ và Thầy đã bổ túc cho việc giáo huấn các con cho công việc mà các con sắp làm, bằng cách nhắc lại cho các con những điều mà Thầy đã nói trước khi sai nhóm mười hai đi. Một người trong các con đã hỏi Thầy: “Con sẽ chữa bệnh nhân danh Thầy bằng cách nào?” Trước hết, hãy chữa bệnh tâm hồn. Hãy hứa Nước Trời cho kẻ tật nguyền nếu nó biết tin vào Thầy. Rồi sau khi thấy nó đã có đức tin thì hãy truyền cho bệnh tật lui đi, và nó sẽ đi. Cũng hãy hành động như vậy đối với những kẻ có bệnh tâm hồn. Trước tiên, hãy thắp ngọn lửa đức Tin; hãy thông truyền đức Cậy bằng những lời lẽ bảo đảm. Rồi đến lượt Thầy, Thầy sẽ đến để đặt đức Ái của Thiên Chúa vào trong họ, giống như Thầy đã đặt nó vào con tim các con sau khi các con đã tin vào Thầy và trông cậy ở lòng nhân hậu của Thầy. Các con đừng sợ loài người cũng như ma qủi, chúng sẽ không làm hại các con được. Một điều duy nhất các con
467
phải sợ là nhục dục, kiêu căng và tham lam. Vì nó, các con có thể nộp mình cho Satan và các người-Satan, vì cũng có những ngườiSatan nữa.
Vậy hãy đi trước Thầy, theo con đường dọc bờ sông Giođan. Tới Jêrusalem thì hãy tới gặp các người chăn chiên ở thung lũng Bétlem, và hãy cùng với họ đến tìm Thầy ở nơi mà các con đã biết. Chúng ta sẽ cùng nhau mừng lễ thánh, rồi sau đó sẽ trở về, vững chắc hơn bao giờ hết về sứ mạng của chúng ta.
Hãy đi bình an. Thầy chúc lành cho các con trong thánh danh Chúa.
143* GẶP LAZARÔ TẠI CÁNH ĐỒNG
CỦA DÂN GALILÊ
Cánh đồng nổi tiếng của dân Galilê - tôi tin đó là ý nghĩa của lời mà Giêsu đã dùng để chỉ nơi hẹn hò với bảy mươi hai người đã được sai đi trước - nó không là gì khác ngoài một phần của núi Oliu, rất gần con đường để đi Bêtani, và cả đến con đường này đi qua đó. Một cách chi tiết, đó cũng là nơi mà trong một thị kiến đã lâu rồi, tôi thấy cắm trại ở đó: Joakim và Anna với Alphê Sara lúc đó còn bé tí, ở gần các lều khác bằng cành cây, vào dịp Lễ Lều trước khi Anna thụ thai Đức Trinh Nữ.
Núi Oliu có một cái đỉnh tròn. Tất cả đều êm dịu ở đây: các đường lên dốc, phong cảnh, đỉnh núi. Thực sự nó hít thở cảnh bình an, được bao bọc bởi những cây ôliu và sự yên lặng. Lúc này thì không, vì có rất nhiều người đang bận rộn dựng lều. Nhưng bình thường thì đây thực là nơi nghỉ ngơi và chiêm niệm. Ở bên trái, đối với kẻ quay mặt về phía bắc, có một vùng hơi lõm, rồi đến một đỉnh khác còn ít dốc hơn đỉnh núi Oliu. Chính ở đây, trên cái cao nguyên này là nơi các người Galilê cắm trại. Tôi không biết đây có phải là tập tục về tôn giáo đã thực hành hàng thế kỷ, hay là vì một lệnh của Rôma để tránh sự bất bình của người Do Thái hay của dân
468
các miền khác ít bặt thiệp hơn đối với người Galilê. Điều đó tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng tôi thấy nhiều người Galilê, trong đó có Alphê Sara người Nazarét, Juđa người chủ đất già ở gần hồ Mêron, ông Jairô trưởng giáo đường, và những người khác ở Bétsaiđa, Caphanaum và các thành phố khác thuộc Galilê, nhưng tôi không biết tên họ.
Giêsu chỉ chỗ dựng lều cho họ, ngay ở chỗ giới hạn phía đông của cánh đồng các người Galilê. Các tông đồ với vài môn đệ, trong đó có thầy cả Gioan, ông luật sĩ Gioan, ông trưởng giáo đường Timon; và có Étienne, Hermas, Giuse người Emmau, Abel người Bétlem thuộc Galilê, đang lo dựng lều. Họ bận rộn việc đó trong khi Giêsu nói chuyện với các trẻ em Caphanaum đang bao quanh Người và hỏi Người hàng trăm thứ, và thổ lộ cho Người hàng triệu điều. Lúc đó, trên con đường từ Bêtani tới, Lazarô tiến lại cùng với Maximin, người đầy tớ không thể chia lìa của ông. Giêsu quay lưng về đó nên không thấy ông, nhưng Iscariot nhìn thấy nên báo cho Thầy, Người liền để các trẻ em ở đó và đi lại với bạn Người. Maximin dừng lại để hai người được hoàn toàn tự do trong lúc đầu cuộc gặp gỡ của họ. Lazarô bước mấy mét sau cùng nhanh hết sức có thể. Ông bước khó khăn hơn bao giờ hết với nụ cười mà sự đau đớn làm cho run, và có những giọt nước mắt cùng một lúc trên mắt và trên miệng. Giêsu mở tay ra cho ông. Lazarô lăn vào tim Người với cơn khủng hoảng của nước mắt.
- Gì nữa đây, bạn Thầy? Con còn khóc nữa?... - Giêsu hỏi trong khi hôn ông ở thái dương. Người vốn đã cao hơn Lazarô một cái đầu, bây giờ càng có vẻ cao lớn hơn, vì Lazarô, đầy tình yêu và trọng kính, đứng cúi trong vòng tay của Người.
Sau cùng, Lazarô ngẩng đầu lên và nói: “Con khóc, vâng. Năm ngoái con đã dâng Thầy những hạt ngọc của nước mắt buồn, nên thật chính đáng là Thầy cũng có những hạt ngọc nước mắt vui của con. Ôi! Thầy ơi! Thầy của con! Con tin là không gì khiêm tốn hơn và thánh thiện hơn nước mắt vui... Và con dâng nó cho Thầy để nói: ‘cám ơn’ cho Maria của con, bây giờ chỉ còn là một cô bé êm đềm,
469
sung sướng, thanh quang, trong sạch, tốt lành... Ôi! Còn rất tốt hơn khi nó còn nhỏ. Và con, con đã cảm thấy con ở trên cao rất nhiều hơn nó trong cái kiêu ngạo của một người Israel trung thành với Lề Luật, bây giờ con cảm thấy con qúa bé nhỏ, hầu như số không so với nó. Nó không còn là một người, mà là ngọn lửa, một ngọn lửa thánh hóa. Con... Con không thể hiểu nó đã tìm được sự khôn ngoan ở đâu, với những lời lẽ, những hành động của nó đã cảm hóa cả nhà. Con, con nhìn nó như người ta nhìn một bí nhiệm. Nhưng làm sao mà từng ấy lửa, từng ấy bảo ngọc, có thể bị giấu dưới bấy nhiêu vấn rác và sống thoải mái ở đó? Con cũng như Matta, chúng con không lên được tới nơi nó lên. Làm sao nó có thể như vậy trong khi nó đã có đôi cánh bị gẫy vì trụy lạc? Con, con không thể hiểu...”
- Con không cần hiểu, chỉ cần là Thầy hiểu. Nhưng Thầy nói với con: Maria đã trở về đường lành với tất cả sức lực mạnh mẽ của con người nó. Nó đã hướng tính tình nó về điều trọn lành. Và vì nó có một tính tình mạnh mẽ tuyệt đối, nó lao đi không ngừng trên con đường này. Nó dùng kinh nghiệm của nó trong điều xấu để có thể mạnh mẽ trong điều tốt như nó đã mạnh mẽ trong điều xấu, và nó đem ra thực hành theo cùng một phương pháp: trước nó đã hiến mình hoàn toàn cho tội lỗi, bây giờ nó hiến mình hoàn toàn cho Thiên Chúa. Nó đã hiểu Lề Luật: “Yêu Thiên Chúa hết mình, với thân xác nó, với linh hồn nó, với tất cả sức lực của nó”. Nếu Israel gồm toàn những Maria, nếu thế giới được làm bằng những Maria, chúng ta sẽ có ở trên mặt đất một Nước Thiên Chúa giống như nó ở trên Trời.
- Ôi! Thầy ơi! Thầy ơi! Và chính Maria Magđala được hưởng những lời này!...
- Chính là Maria Lazarô, một cô bạn lớn, em gái của ông bạn lớn của Thầy. Làm sao các con biết là Thầy ở đây vậy? Bởi vì Mẹ Thầy chưa tới Bêtani mà.
- Nhờ bước lẹ, người quản lý ở Nước Đẹp đã tới cho con biết là Thầy ở đây. Và con, mỗi ngày con sai một người đầy tớ đến ở đây. Vừa lúc nãy, nó chạy về nói với con: “Người đã tới, và Người ở
470
trong cánh đồng của dân Galilê”. Con đi ngay lập tức.
- Nhưng con đau...
- Rất đau, Thầy ạ, những cái chân này...
- Vậy mà con đã tới! Thầy, Thầy sẽ tới nhà con, rất lẹ...
- Nhưng sự vội vã của con để kể cho Thầy niềm vui của con nó quay quất con. Con đã có nó trong con bao nhiêu tháng rồi. Một lá thơ à? Một cái thơ là gì để nói một điều như vầy? Con, con không thể chờ hơn nữa. Thầy sẽ tới Bêtani chứ?
- Chắc chắn rồi. Ngay sau ngày lễ.
- Thầy rất được chờ đợi... Cô gái Hy Lạp... Một thần trí tuyệt! Con nói rất nhiều với cô, vì cô khao khát được biết về Thiên Chúa. Cô ta rất có học... Còn con, con cũng bí, vì có một số điều con không biết rõ. Cần phải có Thầy.
- Thầy sẽ tới. Bây giờ chúng ta đi tìm Maximin. Rồi Thầy mời con làm khách của Thầy. Mẹ Thầy sẽ rất vui được gặp con. Và con hãy nghỉ ngơi. Một lát nữa Mẹ sẽ tới cùng với đứa trẻ.
Và Giêsu đến với Maximin, ông qùi gối để chào Người...
144* NHÓM BẢY MƯƠI HAI
TƯỜNG TRÌNH VỚI GIÊSU
NHỮNG VIỆC HỌ ĐÃ LÀM
Trong thời gian của một buổi hoàng hôn dài vào tháng mười, bảy mươi hai môn đệ trở về cùng với Êlie, Giuse và Lêvi. Họ mệt mỏi, đầy bụi, nhưng rất vui sướng. Ba người chăn chiên từ nay được tự do để phục vụ Thầy. Họ cũng sung sướng vì sau bao năm xa cách, lại được đoàn tụ với các bạn ngày xưa của họ. Nhóm bảy mươi hai thì sung sướng vì đã thi hành tốt sứ mạng đầu tiên của họ. Các khuôn mặt sáng hơn là các ngọn đèn nhỏ soi sáng cho các lều được dựng lên cho nhóm hành hương đông đảo này.
Ở giữa là lều của Giêsu, trong đó Maria với Margziam phụ giúp, đang chuẩn bị bữa tối. Chung quanh là lều của các tông đồ. Maria
471
Alphê ở trong lều của Giacôbê và Juđa. Trong lều của Giacôbê và Gioan thì có Maria Salômê với chồng bà. Trong lều ở bên cạnh, có Suzane với chồng bà. Ông này không phải tông đồ, cũng không phải môn đệ chính thức, nhưng cũng có quyền ở đó, vì lẽ ông đã cho phép vợ ông hoàn toàn thuộc về Giêsu. Rồi ở chung quanh là lều của các môn đệ, những kẻ có gia đình cũng như những người không có. Những người độc thân (và đó là phần đông) thì chung lều với một hay nhiều bạn khác. Gioan Enđo thì ở với Hermastê độc thân. Nhưng ông đã tìm cách ở gần lều của Giêsu hết sức có thể để Margziam thỉnh thoảng đến tìm ông, mang cho ông cái nọ cái kia, hoặc để ông có thể vui với những suy tư của đứa trẻ thông minh mà giờ đây đang sung sướng ở bên Giêsu, Maria và Phêrô trong dịp lễ.
Sau bữa tối, Giêsu đi về phía sườn dốc của vườn ôliu, và toàn thể các môn đệ, một khối đông, đi theo Người, biệt lập với đám đông ồn ào. Sau khi đã cầu nguyện chung, họ tường thuật với Giêsu cách chi tiết hơn việc phúc trình họ đã làm lúc trước giữa các người qua lại.
Họ rất ngạc nhiên và sung sướng nói rằng: “Thầy biết không, không những bệnh tật, mà cả ma qủi cũng phải khuất phục vì sức mạnh của tên Thầy. Thật tuyệt vời, Thầy ạ. Chúng con, những con người tội nghiệp, mà chỉ vì Thầy đã sai chúng con đi, nên chúng con đã có thể giải thoát người ta khỏi cái sức mạnh đáng ngại là ma qủi...” Và họ kể ra nhiều sự kiện xảy ra đây đó. Có một sự kiện, họ kể: “Họ hàng, hay đúng hơn là bà mẹ và các người hàng xóm đã dùng sức mạnh để lôi nó tới. Nhưng ma qủi nhạo cười chúng con và nói rằng: ‘Ta đã trở lại đây vì nó muốn, sau khi Giêsu Nazarét đã đuổi ta. Bây giờ ta không buông nó nữa, bởi vì nó yêu ta hơn yêu thầy các ông, và nó tìm ta’. Rồi đùng một phát, với một sức mạnh không thể chế ngự được, nó giật người đó ra khỏi tay những kẻ giữ nó và quăng nó xuống đáy một bờ dốc đứng. Chúng con chạy tới để coi nó có bị gẫy gì không. Nhưng không, nó chạy như một con linh dương non, vừa chạy vừa nói phạm thượng và chế nhạo bằng những lời thật sự không còn phải là của trái đất này... Bà mẹ làm chúng
472
con thương... Nhưng nó! Nhưng nó! Ôi! Ma qủi có thể làm như vậy sao?”
- Nó có thể làm vậy, và còn hơn nữa - Giêsu buồn nói.
- Có lẽ... nếu có Thầy ở đó...
- Không. Thầy đã nói với nó: “Hãy đi và đừng muốn lại rơi vào vòng tội nữa”. Nhưng nó muốn. Nó biết rằng nó muốn điều ác, và nó đã muốn tội. Nó hư mất. Có sự khác nhau giữa kẻ bị ám vì lúc đầu nó không biết, và kẻ nộp mình để bị ám khi nó biết rằng làm như vậy là lại bán mình cho ma qủi. Nhưng đừng nói về nó nữa. Đó là một phần tử bị loại trừ không còn hy vọng; một ý chí muốn điều ác. Tốt hơn là hãy ca tụng Chúa vì những chiến thắng mà Người đã ban cho các con. Thầy biết tên kẻ có tội, và Thầy biết tên những kẻ được cứu. Thầy thấy Satan từ trời rơi xuống như sét, nhờ các con và nhờ danh Thầy, bởi vì Thầy cũng thấy những hy sinh của các con, lời cầu nguyện của các con, và tình yêu mà các con mang để đến với những kẻ khốn nạn, để làm điều Thầy đã truyền cho các con làm. Các con đã hành động với tình yêu, và Thiên Chúa đã chúc phúc cho các con. Những người khác cũng làm như các con làm, nhưng họ không làm với tình yêu nên không có sự hoán cải... Nhưng các con đừng mừng vì đã áp chế được qủi thần, nhưng hãy mừng vì tên các con đã được ghi trên Trời, và đừng bao giờ lấy nó ra khỏi đó.
Một môn đệ mà tôi không biết tên nói: “Thưa Thầy, khi nào những kẻ không làm được sự hoán cải sẽ tới? Có phải khi Thầy không còn ở giữa chúng con nữa không?”
- Không, Agapô, luôn luôn có.
- Thế nào? Ngay cả khi Thầy dạy dỗ chúng con và yêu chúng con à?
- Ngay cả vậy. Còn vấn đề yêu thì Thầy luôn luôn yêu các con, dù các con ở xa Thầy. Tình yêu Thầy sẽ luôn luôn đến với các con, và các con sẽ cảm thấy nó.
- Ôi! Đúng vậy. Một buổi chiều kia con đã cảm thấy vậy. Buổi đó con rất khổ vì con không biết nói gì với một người đến hỏi con,
473
con tính trốn đi một cách xấu hổ. Nhưng con nhớ lại lời Thầy: “Đừng sợ, vào chính lúc đó, các lời phải nói sẽ đuợc ban cho các con”. Và con đã kêu cầu Thầy trong lòng. Con nói: “Chắc chắn là Giêsu yêu tôi. Tôi gọi tình yêu của Người đến giúp tôi”. Và tình yêu đã đến với con như ngọn lửa, như ánh sáng, như sức mạnh... Cái ông ở trước mặt con quan sát con, chế nhạo, mỉa mai trong khi nháy mắt với các bạn ông. Ông ta chắc bụng sẽ thắng trong cuộc tranh luận. Con mở miệng, và như các đợt sóng, các lời phát ra cách vui vẻ từ cái miệng ngu ngốc của con. Thầy ơi! Có phải đúng Thầy tới không, hay đó là ảo giác? Con thì con không biết. Con chỉ biết rằng người đó, sau cùng người đó, và đó là một luật sĩ trẻ, đã ôm chầm lấy cổ con và nói: “Anh hạnh phúc, và phúc thay kẻ đã dẫn anh tới sự khôn ngoan này”. Con thấy như ông ta muốn tìm Thầy. Ông ta có tới không?
- Tư tưởng của người đó không cố định, giống như một chữ viết trên nước, và ý chí ông lay động như cánh chim nhạn chập chờn trước bữa ăn sau cùng của một ngày. Nhưng con, con hãy cầu nguyện cho ông ta... Và, đúng, chính Thầy đã đến với con. Và cùng với con, cả Mathia, Timon, Gioan Enđo, Simon, Samuel và Jonas cũng đã có Thầy. Có những người nhận ra điều đó, có những người thì không. Nhưng Thầy đã ở với các con. Và Thầy sẽ ở với các kẻ phục vụ Thầy trong tình yêu và chân lý, cho tới tận cùng thời gian.
- Thầy ơi! Thầy chưa nói với chúng con: có phải trong số những người hiện diện ở đây, sẽ có những người không tình yêu?
- Không cần phải biết điều đó. Thầy sẽ là người thiếu tình yêu nếu Thầy bộc lộ sự khinh bỉ đối với một người bạn không biết yêu.
- Nhưng có không? Điều đó Thầy có thể nói.
- Có mà! Tình yêu là cái gì đơn sơ nhất, êm đềm nhất, và là điều hy hữu nhất. Nhưng nó không luôn luôn vậy, mặc dầu nó đã được gieo, mong rằng nó mọc lên.
- Nhưng nếu chúng con không yêu Thầy thì ai có thể yêu Thầy?
Có thể nói là có một sự phẫn uất giữa đám các tông đồ và các môn đệ. Nó khích động sự ngờ vực và đau đớn.
474
Giêsu hạ thấp mu mắt của Người xuống. Người giấu cả cái nhìn để không lộ ra sự chỉ điểm. Nhưng Người làm cái cử chỉ đầy nhẫn nhục, êm dịu và buồn, bằng đôi tay mở ra, lòng bàn tay ngửa ra phía ngoài. Cử chỉ thú nhận cam chịu, sự nhận biết phải cam chịu, và người nói: “Phải như vậy, nhưng nó lại không như vậy. Nhiều người còn chưa biết nhau, nhưng Thầy, Thầy biết họ, và Thầy thương cho họ”.
- Ôi! Thầy ơi! Thầy ơi! Nhưng đó sẽ không phải là con, nhỉ? - Phêrô nói trong khi ông lại gần Giêsu, chèn ép thằng bé Margziam tội nghiệp giữa ông và Thầy. Ông ôm lấy vai Giêsu bằng cánh tay ngắn và lực lưỡng của ông và ông lay Người, điên lên vì sợ bị là người không yêu Giêsu.
Giêsu lại mở mắt ra, sáng sủa nhưng buồn. Người nhìn khuôn mặt đầy nghi vấn và sợ sệt của Phêrô và nói với ông: “Không, Simon Jonas, không phải con. Con biết yêu và con sẽ luôn luôn biết yêu hơn. Con là Đá của Thầy, Simon Jonas, một tảng đá tốt. Chính ở trên đó, Thầy đặt những gì là thân yêu nhất của Thầy, và Thầy chắc rằng con sẽ nâng đỡ nó, không nao núng”.
- Vậy con à?
- Con à?
- Con à?
Các câu hỏi nhắc đi nhắc lại như một tiếng vọng từ miệng nọ qua miệng kia.
- Bình an! Bình an! Hãy yên tâm và tất cả hãy cố gắng để chiếm hữu tình yêu.
- Nhưng ai trong chúng con biết yêu nhiều nhất?
Giêsu quay cái nhìn lần lượt trên mọi người: một cái vuốt ve vui tươi. Rồi Người hạ cái nhìn của Người trên Margziam, nó vẫn áp sát vào giữa Người và Phêrô, Người đẩy Phêrô ra xa một tí, lái khuôn mặt đứa nhỏ quay về đám đông và Người nói: “Đây là kẻ biết yêu nhiều nhất trong các con: đứa trẻ. Nhưng đừng run, dù các con đã có hàm râu trên má hay những sợi bạc trên đầu. Ai sinh lại trong Thầy sẽ trở nên một đứa trẻ. Ôi! Hãy đi bình an. Hãy ca tụng
475
Thiên Chúa, đấng đã kêu gọi các con, vì thực tình các con đã thấy tận mắt các con những kỳ công của Chúa. Hạnh phúc cho những kẻ cũng thấy điều các con thấy. Bởi vì Thầy bảo đảm với các con rằng: Nhiều tiên tri và vua chúa đã ước ao nồng nhiệt được thấy những điều các con thấy mà họ không được. Nhiều tổ phụ đã muốn biết điều các con biết mà họ không được. Nhiều người công chính đã muốn nghe điều các con nghe mà không được. Nhưng từ nay trở đi, những kẻ yêu Thầy sẽ biết tất cả.
- Rồi sau đó, khi Thầy đã đi khỏi, như Thầy nói?
- Rồi sau đó các con sẽ nói thay cho Thầy. Và rồi... Ôi! Những đám rất đông, không phải về con số, nhưng về ân sủng của những kẻ sẽ thấy, sẽ biết, sẽ nghe, những điều mà bây giờ các con thấy, các con biết, các con nghe. Ôi! Những kẻ lớn, những đám đông yêu dấu của những trẻ-nhỏ-lớn của Thầy! Những con mắt đời đời, những thần trí đời đời, những lỗ tai đời đời! Làm sao Thầy có thể giải thích cho các con, những kẻ đang vây quanh Thầy đây, thế nào là cách sống đời đời, chỉ còn đời đời, vô hạn, của những kẻ sẽ yêu Thầy, những kẻ mà Thầy sẽ yêu đến nỗi hủy bỏ thời gian. Họ sẽ là các công-dân-Israel dù là họ sống khi Israel chỉ còn là một kỷ niệm của một quốc gia, và họ sẽ là những người đồng thời của Giêsu sống trong Israel. Họ sẽ ở với Thầy, trong Thầy tới nỗi biết được những điều mà thời gian đã xóa nhòa, và những điều mà tính kiêu căng đã làm xáo trộn. Thầy sẽ cho họ tên nào đây? Các con, tông đồ, các con môn đệ, hết những người tin sẽ được gọi là Kitô-Hữu. Và những người này, họ sẽ có tên gì? Một cái tên chỉ được biết ở trên Trời. Phần thưởng nào họ sẽ được ngay từ dưới đất này? Cái hôn của Thầy, lời Thầy, sự ấm áp của cơ thể Thầy. Tất cả, tất cả, tất cả chính mình Thầy. Thầy, họ; họ, Thầy. Một sự kết hợp hoàn toàn...
Các con hãy đi đi. Còn Thầy, Thầy ở lại để làm khoái cảm cho tâm hồn Thầy bằng cách thưởng ngoạn những kẻ trong tương lai sẽ biết Thầy và yêu Thầy không hạn chế. Bình an cho các con.
476
145* TẠI ĐỀN THỜ NGÀY LỀ LỀU
Giêsu đi về Đền Thờ. Đi trước Người là nhóm nam môn đệ, theo sau Người là nhóm nữ môn đệ, gồm có mẹ Người, Maria Clêopha, Maria Salomê, Suzane, Jeanne Chouza, Êlise người Betsur, Annalia người Jêrusalem, Matta và Marcelle. Maria Magđala không có ở đó. Ở chung quanh Giêsu là mười hai tông đồ và Margziam.
Jêrusalem thật huy hoàng lộng lẫy trong những ngày long trọng này. Người ta đi lại trên mọi nẻo đường, đến từ khắp mọi miền. Thánh vịnh, giảng thuyết, cầu nguyện, xì xèo; tiếng chửi rủa của các kẻ chăn lừa, tiếng khóc trẻ con... Bên trên tất cả những thứ đó là bầu trời trong ló ra giữa các căn nhà, với mặt trời soi xuống cách vui vẻ, tô thắm hơn cho các y phục muôn mầu, để thiêu đốt các mầu chết của các giàn cây, các cây cao mà người ta thấy đó đây, ló ra bên ngoài các bức tường của các khu vườn vây kín, hoặc trên sân thượng.
Thỉnh thoảng Giêsu gặp một người quen, và lời chào có vẻ tôn kính ít hay nhiều tùy theo tính khí của kẻ Người gặp. Đây, một cái chào sâu, nể vì của Gamaliel. Ông này nhìn Étienne đăm đăm. Étienne cũng mỉm cười với ông từ đám các môn đệ. Sau khi đã cúi mình trước Giêsu, ông gọi Étienne ra chỗ riêng và nói với anh ta vài lời, sau đó Étienne lại trở về với nhóm của ông. Đầy kính cẩn là lời chào của ông già Clêopha trưởng giáo đường ở Emmau, cũng đi về Đền Thờ với các người đồng hương của ông. Câu trả lời cho lời chào của Giêsu bởi các pharisiêu ở Caphanaum thì cứng cỏi như lời nguyền rủa.
Về phía các nông dân của Giocana do người quản đốc dẫn đầu, thì lời chào là sự phục lạy trong bụi đất của đường phố khi họ hôn chân Giêsu tại một ngã tư. Đám đông dừng lại để quan sát cách ngạc nhiên nhóm người này, vừa la vừa chạy nhào tới dưới chân một người đàn ông trẻ, không phải một pharisiêu, cũng không phải một luật sĩ nổi tiếng; không phải ông tổng trấn, cũng không phải triều thần mạnh thế. Có người hỏi xem đó là ai, và tiếng xì xào lan
477
ra: “Đó là vị rabbi Nazarét mà người ta nói đó là Đức Messi”.
Khi đó các tân tín đồ và các dân ngoại tò mò bao quanh lấy Người, đẩy nhóm của Người sát vào tường, tạo nên sự cản lưu thông trong tất cả cái quảng trường nhỏ cho tới khi một nhóm người chăn lừa phân tán họ và nguyền rủa sự tắc nghẽn giao thông. Nhưng đám đông lại tụ tập tái hồi ngay, phân chia nhóm nữ môn đệ với nhóm nam môn đệ, biểu lộ sự đòi hỏi cách tàn nhẫn, nhưng cũng còn vì đức tin. Mọi người đều muốn đụng vào y phục của Giêsu, nói với Người một câu hay hỏi một điều. Nhưng đó là sự cố gắng vô ích, vì chính họ cũng vội vã lo lắng, vùng vẫy để được ở hàng đầu. Họ xô đẩy lẫn nhau nên không ai thành công cả, và cả câu hỏi cũng như câu trả lời đều tan vào sự ồn ào, không thể hiểu được.
Chỉ có một người bứt được ra khỏi cảnh này là ông ngoại của Margziam. Ông đã trả lời bằng một tiếng la cho tiếng la của cháu ngoại ông. Rồi ngay sau khi đã tôn kính Thầy, ông ôm ghì nó vào lòng, qùi gối ngồi trên gót chân, ông để nó ngồi vào lòng, cảm phục nó, vuốt ve nó với những nước mắt và những cái hôn vui mừng, hỏi nó và nghe nó. Ông già đã ở trên Thiên Đàng rồi, vì ông quá sung sướng.
Các lính Rôma chạy tới, mở ra một lối đi. Họ tưởng là có một cuộc ẩu đả. Nhưng khi nhìn thấy Giêsu, họ mỉm cười và rút lui bình tĩnh, chỉ giới hạn ở việc khuyên các người hiện diện ở đó nên giải tán cho trống lối đi tại ngã tư quan trọng này. Giêsu vâng lời ngay. Lợi dụng khoảng trống mà các lính Rôma đã mở ra để đi trước Người vài bước, giống như họ mở đường cho Người, thực sự là họ trở về bót gác, vì quân đồn trú Rôma được tăng cường rất mạnh, Pilatô biết có sự bất bình của đám đông, và tựa như ông sợ có nổi loạn trong những ngày mà Jêrusalem tràn ngập các người Hy Bá từ khắp nơi đổ về.
Thật là đẹp khi thấy Người đi theo sau đám lính Rôma như một ông vua mà người ta mở đường cho khi ông đi vào dinh của ông. Trong khi di chuyển, Người nói với đứa trẻ và ông già: “Đi luôn bên nhau và theo Thầy”. Và Người nói với người quản đốc: “Thầy
478
xin ông để các người của ông cho Thầy, họ sẽ là khách của Thầy tới chiều”.
Người quản đốc trả lời cách cung kính: “Nguyện được tất cả như Thầy muốn”. Và ông đi ra một mình sau khi đã cúi sâu để chào.
Bây giờ họ đã tới gần Đền Thờ. Đám đông lúc nhúc, giống hệt như các con kiến ở gần tổ kiến. Và họ càng đông hơn khi một người nông dân của Giocana kêu lên: “Thầy đây!”, và ông qùi gối để chào Người. Các người khác cũng bắt chước. Giêsu vẫn đứng ở giữa đám nông dân, vì họ vây chặt lấy Người. Người quay cái nhìn về một điểm người ta chỉ, Người gặp cái nhìn của một ông pharisiêu ăn mặc rất sang trọng. Ông không phải người mới đối với tôi, nhưng tôi không nhớ đã gặp ông ở đâu: ông pharisiêu Giocana đang ở với các người khác cùng tầng lớp với ông: một đống vải vóc qúi, tua rua, giây khóa, nai nịt, các lá bài... tất cả những thứ đó đều lụng thụng hơn thường lệ. Giocana nhìn Giêsu cách chăm chú, một cái nhìn hoàn toàn tò mò nhưng không bất kính. Ông chào Người với vẻ ngượng nghịu. Ông chỉ hơi cúi đầu. Nhưng đó luôn luôn là cái chào mà Giêsu trả lời cách kính cẩn. Cũng có hai pharisiêu khác chào, còn những người khác nữa thì nhìn cách khinh bỉ, hoặc làm như nhìn đi nơi khác. Chỉ có một ông là buông lời lăng mạ. Điều đó chắc chắn, vì tôi thấy những người đang vây quanh Giêsu giật nảy, và ngay cả Giocana cũng quay ngoắt lại để giáng cái nhìn sét đánh trên kẻ lăng mạ, một người trẻ hơn ông với những nét đặc biệt cay nghiệt.
Khi họ đã đi qua, các nông dân mới dám nói. Một người nói: “Thưa Thầy, cái ông đã nguyền rủa Thầy, đó là Doras”.
- Hãy để ông ta làm. Thầy đã có các con chúc phúc cho Thầy - Giêsu nói cách bình tĩnh.
Manaen đang đứng tựa vào một vòm cửa với các người khác, khi ông nhìn thấy Giêsu, ông kêu lên vui mừng: “Thật là một ngày dễ chịu, vì con lại tìm thấy Thầy”. Và ông lại với Giêsu. Các người đứng với ông cũng đi theo. Ông tôn kính Người dưới bóng rợp của khung cửa, nơi mà các tiếng nói vang lên tựa như dưới nóc mái
479
vòm.
Ngay lúc ông đang tôn kính Người thì hai anh họ Simon và Giuse của Người cùng với các người Nazarét khác đi qua rất gần nhóm của Người, nhưng họ không chào... Giêsu buồn nhìn họ, nhưng Người không nói gì. Juđa và Giacôbê bị khích động, nói gì với nhau. Juđa bừng bừng nổi giận, liền chạy đi mà anh ông không kịp giữ lại. Nhưng Giêsu gọi ông cách khẩn thiết: “Juđa ơi, lại đây!”, chỉ có thế, đứa con trai bị quay quất của Alphê mới trở lại...
- Hãy để họ làm. Đó là những hạt giống chưa cảm thấy mùa xuân. Hãy để họ trong sự tối tăm của cục đất cố chấp, dù sao rồi Thầy cũng sẽ thấm nhập vào nó, cho dù cục đất có trở nên đá để bao bọc hạt giống. Thầy sẽ làm nó vào lúc phải làm.
Nhưng còn mạnh hơn câu trả lời của Juđa Alphê, là tiếng khóc của Maria Alphê vang lên thảm thiết, tiếng than dài của một kẻ bị nhục nhã...
Nhưng Giêsu không trở lại để an ủi bà, dù là tiếng than này vang lên rõ ràng dưới vòm cửa, nơi nó nhân bội lên những tiếng vọng. Người tiếp tục nói với Manaen. Ông thưa Người: “Những người ở với con là những môn đệ của Gioan Tẩy Giả. Cũng như con, họ muốn thuộc về Thầy”.
- Bình an cho các môn đệ tốt. Ở đàng trước kia là Mathia, Gioan và Simêon bây giờ ở với Thầy luôn. Thầy đón nhận các con như đã đón nhận họ. Bởi vì tất cả những gì đến từ vị thánh Tiền Hô đều rất chí thiết đối với Thầy.
Rồi sau khi đã vào nội khu Đền Thờ, Giêsu ra lệnh cho Iscariot và Simon đi mua những thứ thường lệ và các của lễ theo thói quen. Rồi Người gọi thầy cả Gioan và nói: “Con thuộc về nơi này, con có nhiệm vụ mời vài thầy Lêvi mà con biết là họ đáng biết chân lý, vì thật vậy, năm nay Thầy có thể mừng lễ vui vẻ. Sẽ không bao giờ còn những ngày êm đềm như vầy nữa...”
- Lạy Chúa, tại sao? - luật sĩ Gioan hỏi.
- Bởi vì Thầy có các con ở chung quanh Thầy, tất cả, hiện diện
480
hữu hình hoặc thiêng liêng.
- Nhưng chúng con sẽ luôn luôn ở đây! Và rất nhiều người khác nữa cùng với chúng con - Tông đồ Gioan hăng hái xác định, và mọi người đều đồng thanh.
Giêsu mỉm cười nín thinh, trong khi thầy cả Gioan đi về phía trước với Étienne, vào Đền Thờ để thi hành lệnh, Giêsu kêu theo sau lưng họ: “Trở lại với chúng ta tại hành lang dân ngoại”.
Các ngài đi vào, và hầu như lập tức, gặp Nicôđêmô. Ông cúi sâu để chào nhưng không lại gần Giêsu. Ông chỉ trao đổi với Người một nụ cười thông cảm và bình an.
Trong khi nhóm phụ nữ dừng lại ở nơi họ được phép, Giêsu với nhóm các ông vào cầu nguyện tại nơi dành cho người Hy Bá. Rồi sau khi hoàn tất mọi nghi thức, Người trở lại với những kẻ đang chờ Người ở hành lang dân ngoại.
Các hành lang rất rộng và rất cao, chứa đầy đám đông đang nghe giáo huấn của các rabbi. Giêsu đi về nơi Người thấy hai tông đồ và hai môn đệ đã sai đi trước đang dừng ở đó. Họ vây lấy Người ngay. Họp đoàn với các tông đồ và các môn đệ, cũng có một số đông những người khác đã ở đây đó trong cái sân lát đá đầy người. Sự tò mò mạnh tới nỗi một số học trò của các rabbi, tôi không biết do hồn nhiên hay do thầy họ sai đến, cũng lại gần vòng vây bao chặt quanh Giêsu. Giêsu hỏi ngay thẳng vào họ: “Tại sao các ông chen chúc chung quanh tôi? Hãy nói đi. Các ông có những rabbi nổi tiếng và thông thái, được mọi người trọng. Còn tôi, tôi vô danh và bị khinh. Vậy tại sao các ông đến với tôi?”
- Tại vì chúng tôi yêu Thầy - Có mấy người nói vậy. Mấy người khác nữa thì: “Tại vì Thầy có những lời khác với những người khác”. Người nữa thì: “Để coi các phép lạ của Thầy”, hoặc: “Bởi vì chúng tôi đã nghe nói về Thầy”, và: “Bởi vì chỉ có mình Thầy có những lời của sự sống đời đời, và những công việc phù hợp với lời nói”, và sau cùng: “Tại vì chúng tôi muốn họp đoàn với các môn đệ Thầy”.
Giêsu nhìn đám người lần lượt theo lúc họ nói, tựa như Người xuyên thấu họ bằng cái nhìn, để đọc những cảm nghĩ giấu kín của
481
họ. Một số người không chịu đựng được cái nhìn này, đã lảng ra xa, hoặc nấp sau chiếc cột hay sau những người lớn hơn họ.
Giêsu tiếp: “Nhưng các ông có biết thế nào là theo tôi và việc đó đòi hỏi những gì không? Tôi sẽ trả lời một vấn đề này thôi, vì sự tò mò thì không đáng được trả lời, và vì những kẻ đói khát lời tôi cho tôi tình yêu của họ và họ ước ao họp bầy với tôi. Trong số những kẻ đã nói, có hai nhóm: những người tò mò thì tôi không màng tới. Những người thiện chí thì tôi chỉ bảo một cách không vờ vịt, tính chất khắt khe của ơn gọi này.
Đến với tôi với tư cách là môn đệ có nghĩa là từ bỏ hết mọi thứ tình yêu vì một tình yêu duy nhất: tình yêu tôi. Còn tình yêu ích kỷ với chính mình, tình yêu có tội với giầu sang, nhục dục hay quyền hành; tình yêu ngay thật cho vợ chồng, tình yêu thánh với cha mẹ, tình yêu tình cảm với con cái, cháu chắt hay anh chị em... tất cả phải nhượng bộ cho tình yêu tôi, nếu người ta muốn thuộc về tôi. Thật vậy, tôi nói với qúi vị rằng, để làm môn đệ của tôi thì phải tự do hơn con chim bay trên trời, tự do hơn gió bay trên không mà không ai cản lại được; không ai, cũng không có gì giữ lại. Tự do, không bị xiềng xích nặng ràng buộc, không bị những giây tình yêu vật chất trói, cả đến không bị một cái hàng rào nào, dù nhẹ nhất như cái màng nhện ngăn cản. Tâm hồn như một con bướm mảnh mai ẩn trong cái tổ nặng nề của thân xác, và đường bay của nó có thể nên trì trệ hay ngừng lại hoàn toàn bởi hành động của một cái màng nhện mịn màng và lấp lánh ngũ sắc: màng nhện của tình dục, của thiếu quảng đại trong sự hy sinh. Tôi, tôi muốn tất cả, không chừa lại một cái gì. Tâm hồn cần cái tự do này để cho, cái quảng đại này để cho, để có thể chắc chắn là không bị giữ lại bởi cái màng nhện của tình cảm, của phong tục, của các suy tư, sợ hãi, giăng ra như những màng nhện quái gở là Satan, kẻ ăn cắp các linh hồn.
Nếu ai đến với tôi mà không ghét một cách thánh thiện, cha, mẹ, vợ con, anh chị em, và cả đến mạng sống mình, thì họ không thể làm môn đệ tôi. Tôi nói: ‘Ghét một cách thánh thiện’, các ông,
482
trong lòng các ông đã nói: ‘Ông ta đã dạy là ghen ghét không bao giờ thánh, vậy ra ông ta tự nói phản’. Không, tôi không tự nói phản. Tôi nói về ghét sự nặng nề của tình yêu, sự ham hố thuộc về thân xác của tình yêu đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, và cả ngay sự sống. Nhưng đàng khác, tôi truyền phải yêu mọi người thân và sự sống với sự tự do nhẹ nhàng thuộc về tâm hồn. Hãy yêu họ trong Thiên Chúa và vì Thiên Chúa. Đừng bao giờ để Thiên Chúa ở sau họ. Hãy lo lắng bận rộn để dẫn họ tới nơi mình là người môn đệ tới, tức là đến với Thiên Chúa là Chân Lý. Như vậy qúi vị sẽ yêu một cách thánh thiện mọi người thân và Thiên Chúa, giao hòa hai thứ tình yêu. Như vậy làm cho các giây liên lạc máu thịt không còn phải là sức nặng, mà là cái cánh; không còn là điều lỗi, nhưng là sự công bằng. Ngay cả mạng sống qúi vị, qúi vị cũng phải sẵn sàng ghét nó để theo tôi. Ghét mạng sống tức là không sợ mất nó hay sợ làm cho nó buồn rầu một cách nhân loại trong khi hiến dâng nó để phục vụ tôi. Nhưng đó chỉ là có vẻ như ghét, một tình cảm bị gọi sai là ghét bởi tư tưởng của loài người, của kẻ không biết nâng mình lên, của một con người độc nhất chỉ thuộc về trái đất, chỉ hơn các vật thô một tí. Trong thực tế, cái ghét hình thức này, tức là sự từ chối các thoả mãn tình cảm của đời sống thể xác, để cho đời sống tâm hồn luôn luôn lớn hơn, chính là tình yêu. Đó là tình yêu cao nhất hiện hữu, tình yêu được chúc phúc nhất.
Việc từ chối những thoả mãn thấp kém này, sự cấm cản những tình cảm về giác quan này, sự liều mình bị khiển trách, bị phê bình bất công, bị phạt, bị ruồng bỏ, bị nguyền rủa, và có thể bị bách hại này, là một việc đi theo tôi cách đau đớn. Nhưng phải ôm lấy nó mà mang nó như một thập giá, một giảo đài, trên đó người ta đền bồi những lầm lỗi đã qua, để được biện minh khi đến trước Thiên Chúa, và nhờ đó người ta xin được ơn phúc thật, mạnh mẽ, thánh thiện từ nơi Thiên Chúa cho những người mà ta yêu mến. Ai không vác thập giá của mình và không theo tôi, ai không biết làm điều đó thì không thể làm môn đệ tôi.
Vậy hãy suy nghĩ rất nhiều, rất nhiều đến điều đó, các ông,
483
những người nói: “Chúng tôi đến bởi vì chúng tôi muốn họp đoàn với các môn đệ Thầy”. Đó không phải là điều xấu hổ, nhưng là khôn ngoan, biết tự cân nhắc, tự xét đoán, để tự thú với mình và với người khác: “Tôi không có y phục của người môn đệ”. Và gì nữa? Các dân ngoại, dựa vào một trong những giáo huấn của họ, họ cũng có được điều cần thiết để “tự biết mình”, mà qúi vị, những người Israel, để chinh phục Nước Trời, qúi vị lại không biết làm điều đó sao?
Bởi vì qúi vị hãy nhớ: phúc cho những kẻ đến với tôi. Nhưng nếu đến để phản bội tôi và đấng đã sai tôi, thì thà đừng đến còn hơn. Hãy tiếp tục làm những đứa con của lề luật như qúi vị đã làm từ trước tới giờ.
Vô phúc cho những kẻ nói: “Tôi đến”, rồi làm hại cho Đức Kitô bằng cách phản bội tinh thần Kitô hữu, làm gương mù cho trẻ nhỏ và những người ngay thật! Vô phúc cho họ! Nhưng có và luôn luôn sẽ có những kẻ như vậy.
Vậy hãy bắt chước người muốn xây một cái tháp. Họ bắt đầu bằng cách tính toán cẩn thận mọi chi tiêu cần thiết; họ đếm tiền xem có đủ để hoàn thành không, kẻo rồi sau khi đã xây nền móng, lại phải đình chỉ công việc vì hết tiền. Trong trường hợp này, họ mất cả những gì họ đã có trước mà chẳng có tháp, chẳng có tiền. Và đổi lại, họ lôi kéo sự chế nhạo của thiên hạ, vì mọi người đều nói: ông ta đã bắt đầu xây nhưng không thể hoàn thành. Bây giờ ông ta có thể làm đầy bao tử bằng những hư hỏng của việc xây cất dở dang của ông.
Cũng hãy bắt chước các vua của trần gian trong việc tạo ra các biến cố tội tình trên thế giới, áp dụng vào giáo huấn siêu nhiên: Các ông vua này, khi muốn gây chiến với một vua khác, họ nghiên cứu tất cả những điều thuận điều nghịch cách cẩn thận và bình tĩnh. Họ suy nghĩ xem cái lợi của việc chinh phục nơi đó có đáng giá sự hy sinh mạng sống của các người của họ không. Họ xem xét coi có thể chinh phạt miền này không, nếu quân số của họ chỉ bằng một nửa quân số đối phương, dù họ là những chiến binh tốt hơn, có thể chắc ăn không. Họ suy tính chính xác, nghi ngờ rằng mười ngàn
484
người của họ có thể phải đương đầu với hai mươi ngàn đối phương. Trước khi cho giáp binh, ông sai sứ giả đến với đối phương với những tặng phẩm giầu có để làm yên lòng đối phương đã có ý lo ngại về những vận binh của phía bên kia, giải giáp đối phương bằng những chứng cớ hữu nghị, làm tan biến sự nghi ngờ của chúng bằng cách làm với chúng một khế ước hòa bình, mà thật sự, nó luôn luôn có lợi hơn chiến tranh, và nó nhân đạo về phía nhân loại cũng như siêu nhiên.
Cũng giống vậy, qúi vị phải hành động như thế trước khi bắt đầu cuộc sống mới và đặt mình đối đầu với thế gian. Đây là những điều hàm súc trong việc làm môn đệ tôi: Đi ngược lại với những quay cuồng, những hung dữ, những lôi kéo của thế gian, xác thịt, Satan. Nếu qúi vị cảm thấy không đủ can đảm để từ chối tất cả vì tình yêu đối với tôi thì đừng đến với tôi, vì qúi vị không thể làm môn đệ tôi.
- Tốt lắm. Những điều Thầy nói là rất đúng - một luật sĩ trà trộn trong nhóm nói cách cảm phục. “Nhưng nếu chúng tôi lột bỏ tất cả thì sau đó chúng tôi phục vụ Thầy bằng cái gì? Lề luật có những huấn giới giống như đồng tiền mà Thiên Chúa ban cho con người, để trong khi sử dụng nó, họ chiếm được đời sống vĩnh cửu. Thầy nói: từ bỏ tất cả, và Thầy chỉ rõ là cha, mẹ, của cải, vinh dự. Nhưng Thiên Chúa đã cho những thứ này và nói với chúng ta qua miệng Môise là sử dụng nó cách thánh thiện, để tỏ ra công chính trước mắt Thiên Chúa. Nếu Thầy lấy của chúng tôi hết cả, Thầy sẽ cho chúng tôi cái gì?”
- Tình yêu thật, ông rabbi ơi, tôi nói rồi mà. Tôi cho các vị giáo lý của tôi. Nó không hủy bỏ một nét chữ nào của luật cũ, nhưng trái lại, hoàn thiện nó.
- Vậy tất cả chúng tôi đều là môn đệ ngang hàng, vì tất cả chúng tôi đều có cùng một điều.
- Chúng ta có tất cả theo luật Môise, nhưng không có tất cả theo luật được hoàn thiện bởi tôi theo tình yêu. Theo luật này, không phải mọi người đều đạt tới cùng một mức công trạng. Ngay cả trong nhóm các môn đệ thuộc về tôi, không phải tất cả đều có một
485
số ngang nhau về công trạng. Và trong số họ, một số người chẳng những không có món này, mà họ còn mất đi cả đồng tiền duy nhất của họ là linh hồn họ.
- Thế nào? Ai đã được nhiều thì họ tiếp tục có nhiều. Các môn đệ Thầy, nhất là các tông đồ Thầy, theo Thầy trong sứ mạng của Thầy, biết cách làm việc của Thầy, họ đã nhận được rất nhiều, vô kể; các môn đệ thực sự cũng nhận được nhiều. Những kẻ chỉ có tên là môn đệ thì nhận được ít hơn. Những kẻ chẳng nhận được gì thì giống như tôi, chỉ vì tình cờ mà nghe Thầy. Vậy tỏ tường là ở trên Trời, các tông đồ sẽ nhận vô số kể, các môn đệ chính ngạch nhận được nhiều, các kẻ chỉ là môn đệ bằng cái tên nhận được ít, những kẻ giống như tôi thì không được gì.
- Một cách nhân loại thì đó là tỏ tường. Đó cũng là xấu theo cách nhân loại, bởi vì không phải mọi người đều có khả năng sinh hoa trái cho những của mà họ nhận được. Hãy nghe dụ ngôn này, và tôi xin lỗi nếu tôi khai triển giáo huấn của tôi ở đây qúa nhiều. Nhưng tôi là một cánh chim nhạn bay qua, tôi chỉ ở lại một thời gian ngắn trong nhà Cha. Bởi vì tôi đến cho toàn thể thế giới, mà cái thế giới nhỏ của Đền Thờ Jêrusalem không muốn tôi ngừng bay. Họ muốn tôi ở tại nơi mà vinh quang của Thiên Chúa gọi tôi.
- Tại sao Thầy lại nói vậy?
- Bởi vì đó là sự thật.
Ông luật sĩ nhìn chung quanh ông, rồi ông cúi đầu. Đó là sự thật mà ông thấy được viết trên quá nhiều khuôn mặt của các nhân viên Đại Pháp Đình, các rabbi, các pharisiêu. Họ càng lúc càng làm lớn cái nhóm ở chung quanh Giêsu. Các khuôn mặt xanh lên vì điên tiết hay đỏ vì giận; những cái nhìn tương đương với những lời nguyền rủa và phun ra chất độc thù hận dậy men từ tứ phía, chỉ ước ao xâu xé Đức Kitô. Nhưng chỉ có thể ước ao thôi, vì còn sợ đám đông vây quanh ông Thầy, tận tụy và sẵn sàng tất cả để bảo vệ Người. Cũng có lẽ còn sợ bị Rôma trừng phạt, vì họ rất nhân hậu với ông thầy người Galilê nhân từ.
Giêsu lại bình tĩnh bắt đầu bộc lộ tư tưởng của Người bằng dụ
486
ngôn: Một người sắp sửa xuất hành đi xa và phải vắng mặt một thời gian dài. Ông gọi các đầy tớ và giao phó cho họ của cải của ông. Với người này, ông giao năm nén bạc, cho một người khác hai nén bạc, và cho một người thứ ba một nén vàng, mỗi người tùy hoàn cảnh và sự khéo léo của họ. Rồi ông ra đi.
Bây giờ người đầy tớ đã nhận năm nén bạc liền đi làm cho các nén bạc của ông sinh lời một cách khéo léo, và sau một thời gian, số của này mang lại món lời là năm nén khác. Người đã nhận hai nén cũng làm giống vậy, ông ta làm gấp đôi lên món mà ông đã nhận. Nhưng kẻ mà ông chủ đã giao nhiều hơn cả là một nén vàng ròng, bị tê liệt vì sợ không biết làm, sợ kẻ trộm, sợ hàng ngàn thứ hão huyền, và nhất là vì lười, anh ta đào một lỗ to dưới đất để giấu tiền của ông chủ.
Nhiều tháng qua đi, ông chủ trở về. Ông gọi ngay các người đầy tới lại để họ hoàn trả cho ông các món đã được ký thác. Kẻ đã nhận năm nén bạc trình diện và nói: “Thưa ông chủ, đây, ông đã giao cho tôi năm, tôi thấy là xấu nếu không làm cho sinh lời món tiền mà ông đã ký thác cho tôi, tôi đã xoay xở và kiếm cho ông được năm nén khác. Tôi không thể làm hơn được”. “Tốt, rất tốt, tôi tớ tốt và trung thành. Anh đã trung thành trong điều nhỏ, biết linh hoạt và ngay thẳng, ta sẽ cho anh quyền hành trên nhiều điều khác nữa. Hãy vào để vui mừng với chủ anh”.
Rồi người nhận được hai nén bạc trình diện và nói: “Tôi mạn phép sử dụng tiền bạc của ông cho lợi ích của ông. Đây, ngân khoản chứng tỏ tôi đã sử dụng tiền bạc của ông thế nào. Ông thấy không? Trước có hai lượng bạc, bây giờ là bốn. Ông chủ có bằng lòng không?” Và ông chủ nói với người đầy tớ tốt cùng một câu trả lời như với người thứ nhất.
Rồi đến người sau cùng, vui mừng vì sự tín nhiệm lớn lao của chủ, đã nhận được nén vàng. Ông ta đào lên khỏi chỗ giấu và nói: “Ông đã giao cho tôi món lớn nhất, bởi vì ông biết tôi khôn khéo và trung thành. Cũng như tôi, tôi biết ông ngoan cố và yêu sách. Ông không thể cho tiền của ông bị lỗ vốn, và trong trường hợp bị mất thì
487
ông lấy của người ở gần ông. Bởi vì trong thực tế, ông gặt ở nơi ông không gieo, ông thu ở nơi ông không vãi; ông không cho qùa, dù với giá một đồng bạc nhỏ nhất, cho người nhà băng và người quản lý của ông với bất cứ lý do nào. Phải có đủ món tiền mà ông đòi. Vậy vì tôi sợ làm giảm sút cái kho tàng này nên tôi đã đem giấu nó. Tôi không thổ lộ cho ai, dù là cho chính tôi. Bây giờ tôi đào lên và trả lại ông. Đây, nén vàng của ông”.
- Ôi! Tôi tớ bất công và lười biếng. Thực sự mi không yêu ta vì mi đã không biết ta. Mi không yêu của cải của ta nên đã để tiền bạc của ta không sinh lời. Mi đã phản bội lòng mến chuộng của ta đối với mi, và chính mi đã nói phản lại mình; mi tự lên án và kết tội mình. Mi biết rằng ta gặt chỗ ta không gieo, ta thu chỗ ta không vãi, vậy tại sao mi không làm cách nào để ta có thể gặt hái và thu hoạch? Mi trả lời lòng tín nhiệm của ta như vậy đó? Mi biết ta như vậy đó? Tại sao mi không đem tiền bạc của ta lại nhà băng, để khi ta trở về, ta rút nó ra cùng với tiền lời? Ta đã chỉ dẫn mi cách cẩn thận đặc biệt trong mục đích này, nhưng mi lười biếng và ngu ngốc, mi không kể gì tới. Mi sẽ bị lấy lại nén vàng và tất cả những của khác, và người ta sẽ cho kẻ đã có mười nén.
Người ta phản đối ông: “Nhưng anh ta đã có mười nén, trong khi anh này không có gì cả”.
- Tốt thôi. Kẻ đã có và biết sinh lời thì sẽ được cho nhiều hơn nữa, tới nỗi nó tràn đầy. Còn kẻ không có, bởi vì nó không muốn có, người ta lấy đi cả những cái đã được cho nó. Còn về tên đầy tớ vô ích, đã phản bội sự tín nhiệm của ta và không làm sinh lợi những ơn ta ban, thì hãy đẩy nó ra khỏi vùng sở hữu của ta, và nó hãy ra đi, khóc lóc và ray rứt trong tim.
Đó là dụ ngôn. Ngài rabbi, ông thấy đó: người đã nhận nhiều nhất thì còn ít nhất, vì nó không biết gia công bảo tồn ơn của Thiên Chúa. Những người như ông nói, chỉ là môn đệ có cái tên, và vì vậy, có ít của để làm sinh lời; hoặc những kẻ cũng như ông nói, chỉ tình cờ nghe tôi thôi, thì họ chỉ có linh hồn họ là cái vốn duy nhất, nó không được cho nén vàng, và cả những cái nó đã có, người ta
488
cũng lấy đi để cho kẻ đã nhận được nhiều. Những ngạc nhiên của Chúa thì vô tận, bởi vì vô số điều chỉ là những phản ứng của loài người. Qúi vị sẽ thấy các dân ngoại tới được sự sống đời đời, các người Samari chiếm hữu được Nước Trời; và qúi vị sẽ thấy nhiều người Israel chính tông và nhiều kẻ đi theo tôi thì bị mất Nước Trời và bị mất sự sống đời đời.
Giêsu nín lặng. Và như Người muốn cắt ngắn những tranh luận, Người quay về phía nội khu Đền Thờ, nhưng một tiến sĩ luật, ông đã ngồi nghe nghiêm trang dưới hành lang, liền đứng dậy và tiến lên hỏi: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời? Thầy đã trả lời cho những người khác, xin Thầy cũng trả lời cho tôi”.
- Tại sao ông muốn thử tôi? Tại sao ông muốn nói dối? Ông hy vọng rằng tôi sẽ nói những điều bóp méo Lề Luật bởi vì tôi thêm vào đó những ý tưởng sáng sủa hơn và trọn lành hơn sao? Luật đã nói gì, hãy trả lời đi! Giới răn chính là gì?
- Ngươi sẽ yêu Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí khôn, và ngươi sẽ yêu đồng loại như chính mình ngươi.
- Đó, ông đã trả lời đúng. Hãy làm như vậy, và ông sẽ được sống đời đời.
- Nhưng ai là người đồng loại của tôi? Thế giới đầy những người xấu cũng như tốt, quen biết cũng như không quen, bạn hữu cũng như kẻ thù của Israel. Ai là đồng loại của tôi?
- Một người đi từ Jêrusalem về Jêricô, nơi những đèo ải của miền núi, ông ta rơi vào tay kẻ cướp. Những tên này, sau khi đã đả thương ông cách dã man, chúng tước đoạt hết những gì ông có, kể cả quần áo. Rồi chúng để ông bên lề đường, nửa chết nhiều hơn nửa sống. Trên cùng một con đường đó có một thầy cả, sau giờ kinh nguyện của ông ở Đền Thờ, ông về qua đó. Ông ta hãy còn thơm mùi hương của nơi thánh, và hẳn ông ta có tâm hồn thơm nức lòng nhân từ siêu nhiên và tình yêu, vì ông đã ở trong nhà Thiên Chúa, có nghĩa là giao tiếp với Đấng Tối Cao. Vị thầy cả vội vã để về nhà, vậy ông nhìn kẻ bị thương nhưng không dừng lại. Ông lẹ làng bỏ đi, để kẻ khốn nạn lại bên đường.
489
Rồi đến một thầy Lêvi đi qua đó. Ông ta phải phục vụ tại Đền Thờ, phải chăng ông sẽ bị ô nhiễm? Vậy đi thôi! Ông ta xắn quần áo để khỏi bị dính máu. Ông liếc một cái nhìn lục lọi trên kẻ đang rên rỉ trong máu của nó, và ông ta vội vã đi về Jêrusalem để vào Đền Thờ.
Một người thứ ba đi tới từ phía Samari. Đó là một người Samari đi tới từ phía khúc sông cạn. Ông thấy vết máu, liền dừng lại xem xét. Ông nhìn thấy người bị thương trong hoàng hôn đã bắt đầu khá lâu. Ông xuống ngựa, tới bên người bị thương, cho ông ta sức mạnh bằng một ngụm rượu. Ông xé áo khoác để làm băng vải. Ông rửa các vết thương bằng dấm và thoa dầu, rồi băng lại cách thân thiết. Sau khi đã vực người bị thương lên ngựa, ông dắt con vật đi cách cẩn thận, đồng thời nâng đỡ người bị thương, an ủi ông ta bằng những lời tình nghĩa, không nghĩ gì tới mệt nhọc, không khinh dể kẻ bị thương, dù ông này là người Do Thái. Tới thành phố, ông vào quán trọ, ông canh chừng suốt đêm. Tới sáng, ông thấy người đó đã hơi đỡ, ông ký thác người này cho chủ quán, trả trước cho ông một món và nói: “Hãy săn sóc người này như thể ông ta là chính tôi. Khi trở về, tôi sẽ trả hết số mà ông đã tiêu qúa, và còn trả hậu, nếu ông làm hết những gì cần thiết”. Và ông ra đi.
Ông tiến sĩ luật ơi, hãy trả lời tôi: ai trong ba người này là đồng loại với kẻ đã rơi vào tay kẻ cướp? Có lẽ thầy cả? Có thể là thầy Lêvi? Chẳng lẽ lại là người Samari? Ông ta không hỏi kẻ bị thương là ai, tại sao lại bị thương, cứu giúp ông ta có nguy hại gì không, lại mất thời giờ, tiền bạc, và liều mình bị kết án là đã đả thương ông?
Vị tiến sĩ luật trả lời: “Người đồng loại là người sau cùng, vì ông ta đã sử dụng tình thương”.
- Ông cũng thế. Hãy làm như vậy, và ông sẽ yêu người đồng loại, và yêu Thiên Chúa trong người đồng loại. Như vậy sẽ đáng được sự sống đời đời.
Không ai dám hỏi nữa. Giêsu lợi dụng cơ hội để lại với nhóm phụ nữ đang chờ Người trong nội khu, để cùng với họ đi vào thành phố. Bây giờ họp đoàn với các môn đệ, có hai thầy cả, đúng hơn là
490
một thầy cả và một thầy Lêvi. Thầy Lêvi thì còn rất trẻ, còn thầy cả thì ở tuổi lão trượng.
Nhưng bây giờ Giêsu nói chuyện với mẹ Người. Ở giữa mẹ và Người là Margziam. Người hỏi mẹ: “Mẹ có nghe con nói không vậy?”
- Có chứ con. Và mẹ buồn cùng với Maria Clêopha. Bà đã khóc một lát trước lúc đi vào Đền Thờ...
- Mẹ ơi con biết. Con còn biết cả lý do. Nhưng bà không nên khóc, chỉ nên cầu nguyện.
- Ôi! Bà đã cầu nguyện biết bao! Mấy đêm nay, trong lều, ở giữa hai đứa con đang ngủ, bà cầu nguyện và khóc. Mẹ nghe bà khóc qua bức mành bằng lá bên cạnh, vì thấy Giuse và Simon, tuy rất gần mà qúa xa cách!... Và bà không phải là người duy nhất khóc. Jeanne cũng khóc với mẹ, dù bà có vẻ rất tươi sáng...
- Tại sao vậy mẹ?
- Bởi vì Chouza... một lối sống... không thể cắt nghĩa được. Ông phụ giúp bà một tí trong mọi chuyện, ông từ chối bà một tí trong mọi chuyện. Nếu họ ở một mình và không ai nhìn thấy thì đó luôn luôn là người chồng gương mẫu. Nhưng nếu có ai cùng với họ, đương nhiên là người của triều đình, là khi đó, ông trở nên hống hách và khinh miệt bà vợ êm dịu của ông. Bà ta chẳng hiểu tại sao...
- Con, con nói điều đó với mẹ: Chouza là đầy tớ của Hêrôđê. Mẹ hãy hiểu con: “đầy tớ” mà! Con, con không nói với Jeanne để không gây khổ cho bà. Nhưng là vậy đó. Khi ông không sợ sự khiển trách hay chế nhạo của quân vương thì ông là Chouza rất tốt. Khi ông có lẽ để sợ, ông không như vậy nữa.
- Là vì Hêrôđê rất bực, bởi lẽ Manaen và...
- Là vì Hêrôđê đã phát điên do sự hối hận qúa muộn vì đã nhượng bộ Hêrôđiađê. Nhưng Jeanne đã được biết bao điều lành trong đời bà. Bên dưới chiếc vương miện, bà phải mang chiếc áo nhặm của bà.
- Annalia cũng khóc.
491
- Tại sao?
- Bởi vì vị hôn phu trở lại đối nghịch với con.
- Mẹ hãy bảo nó đừng khóc. Đó là một biện pháp do lòng nhân từ của Thiên Chúa. Sự hy sinh của nó sẽ lại đem Samuel trở về đàng lành. Lúc này anh ta để cho nó được tự do, không bị những áp lực của lễ cưới. Con đã hứa với nó là sẽ đem nó đi với con. Nó sẽ đi trước con trong cái chết.
- Con ơi!... - Maria ghì chặt tay Giêsu, khuôn mặt mẹ trở nên tái mét.
- Má yêu của con! Đó là vì loài người, má biết mà! Vì tình yêu đối với loài người, chúng ta sẽ uống chén của chúng ta với con tim đại độ, phải không?
Maria nuốt nước mắt và trả lời: “Ừ”, một tiếng “Ừ” xé nát và bị xé nát.
Margziam ngửa mặt lên và nói với Giêsu: “Tại sao Thầy nói những điều qúa gay go như vậy và làm mẹ buồn? Con, con không để Thầy chết đâu. Cũng như con đã bảo vệ những con chiên, con cũng sẽ bảo vệ Thầy như vậy”.
Giêsu vuốt ve nó. Và để làm lên tinh thần của hai kẻ đau khổ, Người hỏi đứa nhỏ: “Các con chiên của con bây giờ thế nào? Con không nhớ chúng nó chứ?”
- Ôi! Con ở với Thầy. Nhưng con nghĩ tới chúng luôn, và con tự hỏi: “Không biết Porphyrê có dẫn chúng ra đồng cỏ không, và bà có canh chừng để con Spuma khỏi rơi xuống hồ không?” Nó rất hoạt động, con Spuma. Thầy biết không? Mẹ nó gọi nó, gọi nó... nhưng không làm gì được. Nó làm cái gì nó muốn. Còn Neve, nó phàm ăn tới nỗi ăn rồi phát bệnh! Thầy biết không? Con, con biết thế nào là làm thầy cả nhân danh Thầy. Con hiểu nó hơn các người khác. Họ (và nó chỉ tay vào các tông đồ đang đi ở đàng sau), họ nói biết bao lời đẹp, xếp đặt biết bao kế hoạch... cho sau này. Con, con nói: “Tôi, tôi sẽ là mục tử cho người ta cũng như cho các con chiên, và như vậy là đủ rồi”. Mẹ, mẹ con và mẹ Thầy, hôm qua mẹ đã nói với con một bài tường thuật rất hay về các tiên tri... và nói với con:
492
“Giêsu của chúng ta đúng hệt như vậy”. Và con, con nói trong lòng con: “Tôi cũng vậy, tôi cũng sẽ giống hệt vậy”, rồi con nói với mẹ chúng ta: “Lúc này con là một con chiên, rồi sau này con sẽ là mục tử. Trái lại, lúc này Giêsu là mục tử, rồi Người cũng sẽ là con chiên. Nhưng mẹ, mẹ luôn luôn là chiên cái nhỏ. Chỉ có chiên cái của chúng ta là trắng, đẹp, yêu mến, với những lời nói còn dịu hơn sữa. Vì vậy mà Giêsu là con chiên biết bao, vì Người được sinh ra bởi mẹ, con chiên cái của Chúa”.
Giêsu cúi xuống hôn nó, rồi Người hỏi: “Vậy thực tình con muốn làm linh mục à?”
- Chúa ơi, chắc chắn rồi. Chính vì vậy mà con cố gắng trở nên tốt và biết thật nhiều điều. Con sắp được luôn luôn ở gần Gioan Enđo. Ông luôn luôn đối xử với con như một người lớn với biết bao lòng tốt. Con muốn thành người mục tử của các chiên lầm lạc cũng như không lầm lạc, làm lương y mục tử cho những con bị thương, bị gẫy như tiên tri nói. Ôi! Đẹp chừng nào - Rồi đứa bé nhảy và vỗ tay.
- Có chuyện gì mà cái đầu đen này sung sướng qúa vậy? - Phêrô lại gần và hỏi.
- Nó nhìn thấy con đường của nó rõ ràng cho tới tận cùng... Và Thầy, Thầy thánh hiến thị kiến của nó bằng tiếng “đồng ý” của Thầy.
Họ dừng lại trước một căn nhà cao. Nếu tôi không lầm thì đây là phía ngoại ô Ophel, nhưng địa điểm này giầu hơn.
- Chúng ta dừng ở đây à?
- Đây là căn nhà mà Lazarô đã hiến cho Thầy để làm bữa tiệc vui. Maria đã ở đó rồi.
- Tại sao nàng không đi với chúng ta? Sợ bị nhạo à?
- Ồ, không. Chỉ vì Thầy đã ra lệnh cho nó.
- Chúa ơi, tại sao?
- Bởi vì Đền Thờ còn dễ giận hờn hơn bà vợ mang bầu. Chừng
nào Thầy có thể mà không vì hèn nhát, thì Thầy không muốn đụng chạm với nó.
- Thầy ơi, điều đó chẳng ích lợi gì. Con, nếu con là Thầy, chẳng
493
những con đụng với nó, mà con còn quăng nó xuống đáy thung lũng Moriah với tất cả những gì ở trong đó.
- Simon, con là kẻ có tội. Phải cầu nguyện cho những người như vậy chứ không phải giết họ.
- Con là kẻ có tội, nhưng Thầy thì không... Và... Thầy phải làm.
- Sẽ có người khác để làm việc đó khi người ta đã đụng tới biên giới của tội lỗi.
- Biên giới nào?
- Một biên giới tới mức nó đầy ngập Đền Thờ và tràn bờ ra trên Jêrusalem. Con không thể hiểu đâu... Ồ! Matta, mở cửa nhà con cho các người hành hương đi.
Matta nhận ra và mở cửa. Tất cả đi vào một đại điện ăn thông với một cái sân lát gạch, có bốn cây lớn ở bốn góc. Một phòng mênh mông ở bên trên tầng trệt, qua các cửa sổ mở, người ta nhìn thấy tất cả kinh thành với những chỗ cao thấp của nó. Vì vậy tôi kết luận là căn nhà ở trên sườn phía nam hay đông nam thành phố.
Đại phòng được sửa soạn cho một số rất đông khách. Rất nhiều bàn đặt song song. Khoảng một trăm người có thể ăn uống thoải mái ở đó. Maria Mađalêna đang bận việc chung ở nơi nào đó, liền chạy ra qùi trước Giêsu. Lazarô cũng tới với nụ cười hạnh phúc trên khuôn mặt bệnh hoạn của ông. Các khách từ từ vào. Một số có vẻ lúng túng, số khác thì vững bụng hơn. Nhưng sự tử tế của các bà làm họ thấy thoải mái ngay.
Thầy cả Gioan dẫn tới cho Giêsu hai người ông đã đem tới từ Đền Thờ: “Thưa Thầy, người bạn tốt Jonatha của con và người bạn trẻ Zacari của con. Đây là những con dân Israel thực sự, không qủi quyệt, không thù ghét”.
- Bình an cho các ông. Tôi sung sướng vì có các ông. Cũng phải giữ các nghi thức, cả trong những thủ tục êm đềm này. Thật đẹp là lòng tin cũ giúp một tay bằng hữu cho lòng tin mới đến từ chính thân cây của nó. Xin mời ngồi với tôi trong khi chờ giờ dùng bữa.
Vị lão trượng Jonatha nói chuyện trong khi người tuổi trẻ Lêvi nhìn đó đây, tò mò, ngạc nhiên, có lẽ cả sợ sệt. Tôi nghĩ ông ta muốn làm ra vẻ thoải mái, nhưng trong thực tế, ông ta giống như
494
con cá ra khỏi nước. May thay Étienne đến cứu bồ bằng cách dẫn đến giới thiệu cho ông hết người nọ tới người kia trong nhóm các tông đồ và các môn đệ chính.
Vị thầy cả già nói trong khi vuốt hàm râu trắng như tuyết của ông: “Khi Gioan đến tìm tôi, ngay chính tôi, thầy của nó, để tỏ ra là nó được chữa lành, tôi đã muốn biết Thầy. Nhưng thưa Thầy, tôi không ra khỏi nội vực của tôi. Tôi già rồi... Nhưng tôi ước ao gặp Thầy trước khi chết, và Jêova đã nhận lời tôi. Nguyện chúc tụng Người! Hôm nay tôi đã nghe Thầy nói tại Đền Thờ, Thầy vượt qua Hillel, vị kỳ lão khôn ngoan. Tôi không muốn, và cả đến tôi không thể nghi ngờ rằng Thầy là đấng mà con tim tôi trông đợi. Nhưng Thầy biết thế nào là việc đã uống trong gần tám chục năm, cái đức tin của Israel như nó là trong bao thế kỷ... Sự phân hóa nhân loại? Nó đã trở thành máu của chúng ta. Và tôi qúa già ! Nghe lời Thầy là như uống thứ nước vọt ra từ một con suối mát. Ôi! Đúng. Một thứ nước trinh nguyên! Nhưng tôi... Nhưng tôi, tôi đã bão hoà thứ nước thải chảy đến từ rất xa... mà bao thứ đã làm cho thành nặng nề. Tôi phải làm thế nào để cởi bỏ khỏi tôi cái bão hòa này và thưởng thức Thầy?”
- Hãy tin ở tôi và yêu tôi. Không cần điều gì khác nữa cho người công chính Jonatha.
- Nhưng tôi sắp chết, làm sao tôi tới kịp thời để tin tất cả những gì Thầy nói? Cả đến tôi không sao theo dõi được các lời Thầy hoặc biết nó qua miệng người khác. Vậy thì sao?
- Ông sẽ học nó ở trên Trời. Chỉ có kẻ bị kết án mới chết đối với sự khôn ngoan. Còn kẻ chết trong ơn Thiên Chúa sẽ tới sự sống và sống trong sự khôn ngoan. Ông tin tôi là gì?
- Thầy chỉ có thể là đấng đang được trông chờ mà con trai người bạn Zacari của tôi đã loan báo trước. Thầy biết anh ta không?
- Đó là bà con của tôi.
- Ôi! Vậy ra Thầy là bà con của ông Tẩy Giả?
- Đúng đó thầy cả.
- Anh ta đã chết... tôi không thể nói là bất hạnh, vì anh ta đã chết
495
trung thành với sự công chính sau khi đã hoàn tất sứ mạng của anh ấy. Và bởi vì... Ôi! Chúng ta sống trong thời đại kinh khủng! Tốt hơn là trở về với Abraham, phải không?
- Nhưng, thầy cả ơi! Sẽ còn có thời kỳ ghê gớm hơn nữa.
- Thầy nói? Rôma, hen?
- Không phải chỉ có Rôma. Chính Israel tội lỗi là nguyên nhân đầu tiên.
- Đúng vậy. Thiên Chúa phạt chúng ta. Chúng ta đáng. Nhưng cả Rôma... Thầy đã nghe các người Galilê bị Pilatô giết trong khi họ làm trọn lễ hy sinh. Máu họ pha trộn với máu các vật hy sinh, rất gần bàn thờ! Rất gần bàn thờ!
- Tôi đã nghe biết.
Tất cả các người Galilê hiện diện đều phản loạn vì sự bất công này. Họ la lên: “Qủa thật ông ta đã hành động như một Messi giả. Nhưng tại sao lại giết các quần thần của ông ta sau khi đã giết ông ta. Và tại sao lại vào lúc đó? Có lẽ họ tội lỗi hơn chăng?”
Giêsu áp đặt sự yên lặng, rồi người nói: “Các con tự hỏi phải chăng những người này tội lỗi hơn những người Galilê khác, và vì thế họ bị giết? Không. Họ không tội lỗi hơn. Thực vậy, Thầy nói với các con rằng họ đã phải trả giá và nhiều người nữa cũng sẽ phải trả nếu các con không quay về với Chúa. Nếu các con không sám hối, các con sẽ chết như vậy, ở Galilê và ở các nơi khác nữa. Thiên Chúa đã thịnh nộ với dân Người. Thầy nói điều đó với các con. Đừng nghĩ rằng những kẻ bị hành hình luôn luôn là những kẻ xấu hơn. Mỗi người hãy tự xét, hãy tự xử chính họ, chứ không phải người khác. Cả mười tám người mà tháp Siloê đã đổ đè lên cũng vậy. Họ không phải những người tội lỗi hơn ở Jêrusalem. Thầy bảo các con: hãy thống hối, hãy thống hối nếu các con không muốn bị đè nát như vậy, ngay cả trong tâm hồn các con. Nào, thầy cả Israel, bàn ăn đã sẵn, hãy đến. Thuộc về bổn phận của ngài, bởi vì phải luôn luôn tôn kính thầy cả theo đúng ý nghĩa của thầy cả, và nhớ rằng ngài là lão trượng ở giữa chúng tôi, vì tất cả đều trẻ hơn ngài, nên việc dâng hiến và chúc phúc là thuộc về bổn phận của ngài.
496
- Không! Thầy ơi! Không! Tôi không thể làm trước mặt Thầy. Thầy là Con Thiên Chúa!
- Ông đã dâng hương trước bàn thờ! Có lẽ ông không tin là Thiên Chúa ở đó?
- Có, tôi tin, bằng tất cả sức lực của tôi.
- Vậy nếu ông không sợ dâng của lễ trước vinh quang rất thánh của Đấng Tối Cao, thì tại sao ông sợ trước Tình Thương mặc thân xác để mang phúc lành của Thiên Chúa tới, cho cả ông nữa, trước khi đêm của ông đến. Ôi! qúi vị không biết, qúi vị: dân Israel, không biết rằng để cho qúi vị có thể lại gần Thiên Chúa mà không chết, nên Thầy đã đặt trên Thiên Tính không thể chứa chất được của Thầy cái màn của thân xác. Hãy đến, hãy tin và hãy sung sướng. Nơi ông, Thầy tôi kính tất cả các thầy cả thánh, từ Aaron tới vị sau cùng sẽ là thầy cả Israel trong sự công chính, có lẽ cho tới ông, bởi vì thực tình sự thánh thiện của hàng giáo sĩ giữa chúng ta đã suy nhược như một cái cây mà người ta bỏ rơi.
146* GIUSE VÀ NICÔĐÊMÔ TƯỜNG TRÌNH
RẰNG Ở ĐỀN THỜ, NGƯỜI TA ĐÃ
ĐƯỢC LOAN BÁO VỀ SỰ HIỆN DIỆN
CỦA GIOAN ENĐO VÀ SINTICA
Giêsu cùng với các tông đồ và các môn đệ đi về Bêtani. Một cách chi tiết thì lúc này Người đang nói với các môn đệ mà Người ra lệnh cho họ: những người Do Thái thì đi về vùng Juđê, những người Galilê thì lên mạn bên kia sông Giođan để loan báo Đấng Messi. Lệnh này gây ra vài phản ứng. Tôi thấy hình như vùng bên kia sông Giođan không được tiếng tốt đối với người Israel, họ nói về chúng như các vùng dân ngoại. Việc đó xúc phạm đến các môn đệ quê ở bên kia sông Giođan. Trong đám họ, giọng nói có uy lực nhất là giọng của ông trưởng giáo đường ở Nước Đẹp, rồi đến một người trẻ mà tôi không biết tên. Hai người kịch liệt bảo vệ các thành phố và các công dân của họ.
497
Timon nói: “Chúa ơi, hãy đến Aêra, Thầy sẽ coi ở đó người ta có kính trọng Thầy không. Thầy sẽ không tìm thấy từng ấy đức tin ở Juđê như ở đó đâu. Và chính con, con cũng không muốn tới đó. Xin Thầy giữ con với Thầy, và mong rằng có một người Do Thái với một người Galilê tới tỉnh của con, họ sẽ thấy người ta biết tin vào Thầy chỉ vì một lời của con”.
Còn người trẻ tuổi thì nói: “Con, con đã biết tin, dù con chưa bao giờ gặp Thầy. Con đã tìm Thầy sau sự tha thứ của mẹ con. Nhưng con sung sướng trở lại đó, dù là việc đó có nghĩa là sự chế diễu của các người đồng hương xấu giống như con ngày xưa, và sự khiển trách của những người tốt về cách sống của con trong qúa khứ. Nhưng điều đó không quan trọng. Con sẽ rao giảng Thầy bằng gương mẫu của con”.
- Con nói rất đúng. Con sẽ làm như con nói, rồi Thầy sẽ tới. Và con cũng vậy, Timon. Con cũng nói đúng. Vậy Hermas sẽ đi với Abel người Bétlem thuộc Galilê để loan báo Thầy ở Aêra, trong khi con, Timon, con sẽ ở lại với Thầy. Nhưng Thầy không thích những tranh luận này. Các con không còn phải là người Do Thái hay Galilê nữa, các con là những môn đệ, như vậy là đã đủ. Tên và sứ mạng đặt các con ngang hàng về các vùng, các loại, về tất cả. Chỉ có một điều các con có thể phân biệt là sự thánh thiện. Nó là cá nhân và cân xứng với mức độ mỗi người đạt tới. Nhưng Thầy, Thầy muốn tất cả các con đều đạt tới cùng một mức độ: Sự trọn lành. Các con có thấy các tông đồ không? Trước họ cũng như các con: chia rẽ bởi dòng giống hay những thứ khác. Bây giờ, sau hơn một năm trời đào tạo, họ duy nhất chỉ là tông đồ. Các con cũng hãy hành động như vậy. Trong các con, vị thầy cả ở gần người trước đây là tội nhân; người giầu ở bên người trước là hành khất, người trẻ ở bên người già. Hãy làm sao để loại bỏ hết các phân chia vì thuộc về miền nọ miền kia. Các con chỉ có một quê hương duy nhất: Nước Trời, bởi vì các con đã tự nguyện đi trên con đường về Trời. Đừng bao giờ cho các kẻ thù của Thầy có cảm tưởng là có sự thù nghịch giữa các con. Kẻ thù là tội lỗi, không có gì khác nữa.
498
Họ tiến bước một lúc trong yên lặng, rồi Étienne lại gần Thầy và nói: “Con phải thưa Thầy một điều. Con đã hy vọng Thầy hỏi con, nhưng Thầy không hỏi. Hôm qua, Gamaliel đã nói với con...”
- Thầy có thấy.
- Thầy không hỏi con điều ông ta nói với con?
- Thầy chờ con nói với Thầy, vì người môn đệ tốt thì không giữ điều gì bí mật đối với ông thầy.
- Gamaliel... Thầy ơi, tiến lên đi với con vài mét ở phía trước đi!...
- Ừ, đi. Nhưng con cũng có thể nói trước mặt mọi người...
Họ đi cách ra vài mét. Étienne đỏ mặt và nói: “Thưa Thầy, con phải cho Thầy một lời khuyên. Con xin lỗi Thầy...”
- Nếu đó là tốt thì Thầy sẽ nhận. Vậy nói đi.
- Thưa Thầy, ở Đại Pháp Đình, người ta biết tất cả, sớm hoặc muộn. Đó là một cơ quan có hàng ngàn mắt và hàng trăm chi nhánh. Họ xâm nhập vào khắp nơi, họ thấy tất cả, họ nghe tất cả. Họ có nhiều người dò tin hơn là số gạch trong các bức tường của Đền Thờ. Nhiều người sống vì vậy...
- Sống bằng cách do thám. Vậy nói hết đi. Đó là sự thật và Thầy biết. Và rồi? Họ nói gì ở Đại Pháp Đình? Ít hay nhiều sự thật?
- Họ nói... tất cả. Con, con không biết làm sao họ biết được một số việc. Con cũng không biết nó có thật không... Nhưng con nói với Thầy nguyên văn lời Gamaliel đã nói với con: “Hãy nói với ông thầy cắt bì cho Hermastê, hoặc cho nó đi xa luôn. Không còn điều gì khác để nói nữa”.
- Thật vậy, không nên nói điều gì khác nữa. Thứ nhất là Thầy đi Bêtani chính vì chuyện đó. Và Thầy sẽ ở lại đó cho tới khi Hermastê lại có thể đi lại. Thứ hai là không một bằng cứ nào có thể lật đổ các thành kiến, và... sự dè dặt của Gamaliel, phẫn nộ vì Thầy có với Thầy một người không cắt bì về thân xác. Ôi! Nếu ông ta nhìn chung quanh ông và chính nơi ông! Cắt bì là gì trong Israel?
- Nhưng Gamaliel...
- Đó là người đại diện hoàn toàn cho Israel cũ. Ông ta không xấu, nhưng... Hãy nhìn cục đá này. Thầy có thể đập bể nó nhưng
499
không thể làm cho nó mềm ra được. Ông ta cũng vậy. Phải nghiền nát ra rồi cấu hợp lại. Và Thầy sẽ làm việc đó.
- Thầy muốn chiến đấu với Gamaliel? Cẩn thận! Ông ta rất mạnh.
- Chiến đấu với ông ta à? Tựa như ông ta là một kẻ thù? Không. Thay vì chiến đấu với ông, thầy sẽ yêu ông ta bằng cách thỏa mãn một trong các ước mong của ông, vì lẽ đầu óc cổ hủ của ông; và Thầy sẽ tưới trên ông thứ hương dược để làm tan rã ông và để làm lại ông cách khác.
- Con cũng sẽ cầu nguyện để việc đó xảy ra, bởi vì con yêu ông nhiều. Con có làm sai không?
- Không. Con phải yêu ông bằng cách cầu nguyện cho ông. Và con sẽ làm việc đó. Chắc chắn là con sẽ làm, và cả đến chính con sẽ giúp Thầy điều chế thứ hương dược... Nhưng con sẽ nói với Gamaliel để ông ta an lòng rằng Thầy sẽ tiên liệu cho Hermastê, và rằng Thầy cám ơn ông về lời khuyên của ông. Đây, chúng ta đã tới Bêtani. Hãy dừng lại đây để Thầy chúc lành cho các con, bởi vì đây là nơi chúng ta chia tay.
Và tất cả tụ họp thành một đám đông lẫn lộn tông đồ và môn đệ. Người chúc phúc cho họ rồi để họ đi, tất cả, trừ Hermastê, Gioan Enđo và Timon.
Rồi cùng với những người ở lại, Người bước nhanh mấy bước chia cắt Người với hàng rào của nhà Lazarô mà cửa đã mở lớn để đón Người. Người đi vào vườn, giơ tay chúc lành cho căn nhà hiếu khách. Trong cái trang viên mênh mông, có các chủ nhà và các bà đạo đức đứng đây đó. Họ cười khi thấy Margziam chạy qua lối đi có trang điểm những bông hồng sau cùng. Cùng với các bà chủ và các bà, và theo tiếng hô hoán của các bà, Giuse Arimathi và Nicôđêmô từ trong lối đi tiến ra. Họ cũng là khách của Lazarô, để có thể ở bình an với Thầy. Tất cả đều chạy ra đón Giêsu: Maria với nụ cười êm đềm của mẹ, Maria Magđala với tiếng kêu của tình yêu: “Thầy của con!”, Lazarô khập khễnh, cùng với hai nhân vật quan trọng của Đại Pháp Đình, và theo đuôi là các bà đạo đức miền Jêrusalem và Galilê: các khuôn mặt nhăn của người già và
500
khuôn mặt nhẵn của các phụ nữ trẻ; và khuôn mặt êm như thiên thần: khuôn mặt đồng trinh của Annalia, đỏ bừng khi chào Thầy.
Sau những lời chào đầu tiên, Giêsu hỏi: “Sintica không có ở đây à?”
- Cô ta đang cùng với Sara, Marcelle và Noêmi để chuẩn bị bàn ghế. Nhưng kìa, họ đang tới.
Quả vậy, họ tới cùng với bà già Esther của Jeanne: hai khuôn mặt ghi lằn tuổi tác và đau khổ qúa khứ. Giữa hai khuôn mặt rạng rỡ này là một khuôn mặt nữa, khác biệt về nòi giống. Tôi không biết cái gì làm cho nó khác biệt với tất cả: khuôn mặt khắc khổ, nhưng tươi sáng bình an của cô gái Hy Lạp.
Tuy vậy, tôi không thể coi cô ta như một sắc đẹp thực sự và chính xác. Nhưng đôi mắt của cô mầu đen dịu dàng bởi sắc chàm đậm, dưới vầng trán cao đầy vẻ qúi phái, còn lôi kéo sự chú ý hơn là cơ thể bảo đảm là đẹp hơn khuôn mặt: một thân hình thon thon, không gầy guộc, cân đối, điều hòa trong bước đi và các cử động. Nhưng chính cái nhìn là cái lôi kéo sự chú ý nhất: cái nhìn thông minh, cởi mở, sâu xa, tựa như ước vọng thế giới, mà trong sự lựa chọn, chỉ giữ lại những gì là tốt, hữu ích, thánh thiện, và xua đuổi đi những gì xấu. Cái nhìn này chân thành và để cho khám phá tới tận chỗ sâu xa nhất của nó, mà từ đó, mở tâm hồn ra để nghiên cứu những gì ở chung quanh nó. Nếu đúng là cái nhìn cho phép người ta hiểu một con người, thì tôi nói Sintica là người đàn bà có sự xét đoán vững vàng, tư tưởng nghiêm nhặt và ngay thẳng.
Cùng với những người khác, nàng qùi và chờ để chỉ đứng lên khi Thầy ra lệnh.
Giêsu tiến lên qua mầu xanh của khu vườn cho tới hành lang trước nhà, và Người vào trong một phòng mà các người đầy tớ đã sẵn sàng để dâng những thứ giải nhiệt, và giúp những người mới tới làm việc thanh tẩy trước bữa ăn. Trong khi tất cả các phụ nữ rút lui, Giêsu ở lại trong phòng với các tông đồ, trong lúc Gioan Enđo cùng với Hermastê đi qua nhà Simon Zêlote để cất những giỏ xách mà họ mang theo.
501
- Người trai trẻ đã đi ra với Gioan chột mắt là tên Philitin mà Thầy đã nhận, phải không? - Giuse hỏi...
- Đúng đó Giuse. Làm sao ông biết?
- Thầy ơi... Nicôđêmô và tôi, chúng tôi tự hỏi từ mấy bữa nay, làm sao chúng tôi có thể biết anh ta, và rủi thay, làm sao những người khác trong Đền Thờ biết. Nhưng điều chắc chắn là chúng tôi biết anh ta. Trước Lễ Lều, trong phiên họp luôn luôn đi trước ngày lễ, có mấy pharisiêu đã nói rằng họ biết đích xác giữa các môn đệ của Thầy, ngoài các - xin lỗi Lazarô - phụ nữ nổi tiếng cũng như vô danh, và các người thâu thuế - xin lỗi Mathêu con Alphê - và các tù khổ sai cũ, đã họp đoàn thêm vào một tên Philitin không cắt bì và một phụ nữ dân ngoại. Người dân ngoại thì chắc chắn là Sintica. Ta hiểu rằng người ta có thể biết, hay ít nhất, có thể đoán. Tên Rôma đã làm ồn ào rất dữ, và đã tự làm cho mình thành lố bịch giữa các người đồng hương của hắn cũng như giữa các người Do Thái, vì hắn vừa than van, vừa đe dọa, đi tìm tên nô lệ chạy trốn ở khắp nơi, tới nỗi làm phiền cả Hêrôđê, vì hắn nói cô ta núp trong nhà Jeanne, và viên Thủ Hiến phải bó buộc đòi viên quản đốc của ông trả cô ta lại cho chủ của cô. Nhưng giữa biết bao người theo Thầy mà người ta có thể biết rằng một người trong đám họ là Philitin không cắt bì, và một người khác trước kia là tù khổ sai!... Lạ thật! Rất lạ. Thầy không thấy như vậy sao?
- Có và không. Tôi sẽ lo liệu cho Sintica và cho người cựu tù khổ sai.
- Đúng. Thầy sẽ làm đúng, nhất là thải bỏ Gioan. Ông ta không tốt cho nhóm của Thầy.
- Giuse, có lẽ ông đã trở thành pharisiêu? - Giêsu hỏi cách nghiêm nghị.
- Không... nhưng...
- Và tôi, tôi phải hạ nhục một linh hồn đã hồi sinh vì một sự chu đáo tỉ mỉ ngu xuẩn và hoàn toàn pharisiêu ư ? Không. Tôi sẽ không làm vậy. Tôi sẽ lo liệu cho sự an toàn của ông ta, của ông ta chứ không phải của tôi. Tôi sẽ trông nom việc đào tạo cho ông cũng
502
như tôi trông nom việc đào tạo cho đứa trẻ thơ Margziam. Thật vậy, không hề có sự khác nhau về sự vô tri thiêng liêng của chúng. Một người mới nói lần đầu tiên những lời khôn ngoan bởi vì Thiên Chúa đã tha thứ cho nó, bởi vì nó sinh lại trong Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa lôi kéo kẻ tội lỗi lại với Người; còn người kia đã nói bởi vì khi đi từ tuổi thơ bị bỏ rơi tới tuổi vị thành niên có sự săn sóc yêu thương của loài người cùng với của Thiên Chúa, nó mở tâm hồn nó ra như một bông hoa dưới mặt trời, và Mặt Trời soi sáng cho nó bằng chính mình Người: Mặt Trời của nó, tức là Thiên Chúa. Và người thứ nhất sắp nói những lời sau cùng của nó... Các ông không có mắt để coi ông ta đã hao mòn vì sám hối và tình yêu đến thế nào? Ôi! Thực vậy, tôi muốn có rất nhiều Gioan Enđo trong Israel và trong đám các tôi tớ của tôi. Tôi ước rằng cả ông, Giuse, và ông, Nicôđêmô, có con tim của ông ta, và nhất là kẻ đã tố giác ông ta, con rắn hèn hạ ẩn dưới vẻ bề ngoài bạn hữu, là kẻ làm trò do thám trước khi làm tên sát nhân. Con rắn thích những cái cánh của con chim và giương bẫy để giật của nó và quăng nó vào tù. Ồ, không. Con chim sắp biến thành thiên thần. Và dù nếu con rắn chụp được những cánh này, nó cũng không thể thích nghi vào cơ thể nhầy nhớp của nó, và những cánh này sẽ biến thành cánh của ma qủi. Tất cả những tên tố giác đã là ma qủi rồi.
- Nhưng cái tên này ở đâu? Hãy chỉ nó cho con để con có thể tới giật lưỡi nó ngay lập tức - Phêrô la lên.
- Tốt hơn là anh bẻ những cái răng có nọc độc của nó - Juđa Alphê nói.
Iscariot nói bằng giọng sắc bén: “Nhưng không, tốt hơn là bóp cổ nó. Như vậy nó sẽ không làm điều ác cách nào được nữa. Đó là những thứ có thể luôn luôn làm hại...”
Giêsu nhìn ông trừng trừng và hoàn tất câu nói: “... và dối trá. Nhưng không ai phải làm gì chống lại nó. Trong lúc bận tâm về con rắn, không được làm chết con chim. Còn những gì liên can tới Hermastê, Thầy sẽ giữ nó ở đây, chính xác là ở trong nhà của Lazarô. Còn việc cắt bì cho Hermastê, nó đã đón nhận tôn giáo thánh của
503
dân ta vì tình yêu đối với Thầy, và để tránh sự bách hại của các lòng trí Hy Bá bần tiện, đó chỉ là một bước từ bóng tối ra ánh sáng, nó không cần thiết để Ánh Sáng đến với tâm hồn, Thầy chấp nhận nó để làm êm sự nhạy cảm của Israel, và để chứng tỏ ý muốn thực sự của tên Philitin đến với Thiên Chúa. Nhưng Thầy nói với tất cả: Trong thời đại của Đức Kitô, điều đó không cần để thuộc về Thiên Chúa. Chỉ cần ý muốn và tình yêu, có sự ngay chính của lương tâm là đủ. Chúng ta cắt bì cho cô gái Hy Lạp ở chỗ nào? Ở điểm nào trong tâm hồn nó, nếu bởi chính nó, nó đã biết cảm nhận Thiên Chúa hơn biết bao người trong Israel? Thật vậy, trong số những người đang ở đây, nhiều người là sự tối tăm so với những người mà qúi vị khinh bỉ như là sự tối tăm. Dầu sao, tên tố giác cũng như các ông, các thành phần của Đại Pháp Đình, các ông có thể thông báo với các người có quyền, để cất đi sự bêu xấu kể từ ngày hôm nay”.
- Cho ai? Cho cả ba à?
- Không, Judas Simon, cho Hermastê. Với những người khác, Thầy sẽ dàn xếp. Con còn điều gì cần hỏi không?
- Con, thưa Thầy không.
- Thầy cũng không. Thầy không còn điều gì khác để nói. Nhưng tôi xin các ông nói cho tôi, nếu các ông biết: ông chủ của Sintica ra sao?
- Pilatô đã tống ông ta về Ý bởi chiếc tàu đầu tiên về đó, để không làm phiền cho Hêrôđê và các người Hy Bá nói chung. Pilatô đã qua những lúc khó khăn, và như vậy đã đủ cho ông - Nicôđêmô nói.
- Tin có chính xác không?
- Thưa Thầy, con có thể kiểm tra, nếu Thầy cho là nên - Lazarô nói.
- Ừ, làm đi. Rồi nói sự thật cho Thầy.
- Nhưng trong nhà con, Sintica hoàn toàn an toàn.
- Thầy biết. Israel cũng bảo vệ những nô lệ chạy trốn một người chủ ngoại quốc và độc ác. Nhưng Thầy muốn biết.
- Và con, con muốn biết ai là kẻ tố giác, kẻ loan tin, kẻ trinh
504
thám ân huệ của các pharisiêu... Điều đó người ta có thể biết, và con muốn biết những pharisiêu tố giác là ai, biết tên các pharisiêu và tên thành phố của chúng. Con nói về các pharisiêu đã làm công việc đẹp đẽ của kẻ loan tin, nhờ vào sự phản bội trước tiên của một trong chúng ta, bởi vì có một số việc chỉ có chúng ta biết, chúng ta, các môn đệ cũ và mới, cái việc đẹp đẽ là loan báo cho Đại Pháp Đình về mọi hành động của Thầy. Các sự kiện này thật chính xác, và chỉ có ma qủi mới nói và nghĩ ngược lại, và...
- Đủ rồi Simon Jonas, Thầy truyền cho con.
- Và con, con vâng lời, cho dù sự cố gắng này làm cho các mạch của tim con nổ tung. Nhưng trong khi chờ đợi thì sự thú vị của ngày hôm nay đã biến mất...
- Không, tại sao? Đâu có gì thay đổi giữa chúng ta đâu? Ồ, vậy thì Simon của Thầy, lại đây, bên cạnh Thầy, chúng ta hãy nói về những điều tốt.
- Người ta đã đến nói với chúng ta là bữa ăn đã sẵn sàng, Thầy ạ - Lazarô nói.
- Vậy ta đi ăn.
147* SINTICA NÓI TRONG NHÀ LAZARÔ
Giêsu ngồi tại cái sân giống như cái hành lang ở bên phía trong căn nhà Bêtani, cái sân mà tôi đã thấy đầy các môn đệ trong buổi sáng ngày lễ Chúa Giêsu phục sinh. Người ngồi trên một ghế đá có để nhiều gối nhỏ, lưng tựa vào tường nhà. Chung quanh Người là các chủ nhà, các tông đồ, hai môn đệ Gioan và Timon, cùng với Giuse và Nicôđêmô và các bà đạo đức. Họ nghe Sintica. Cô đứng đàng trước họ, tựa như để trả lời vài câu hỏi mà người ta đề ra. Tất cả, lưu tâm ít hoặc nhiều, nghe trong nhiều vị thế khác nhau: kẻ thì ngồi ghế, kẻ thì ngồi trên đất, người khác thì đứng, người nữa thì tựa vào cột hay tường.
-... đó là một điều cần thiết để không nghĩ tới cái gánh nặng của số phận con. Phải không bị thuyết phục, phải từ chối bị thuyết phục nghĩ rằng con cô đơn, nô lệ, bị đày xa quê hương. Cần phải nghĩ
505
rằng mẹ con, các anh con, cha con, và Ismène rất mềm mại dịu dàng của con sẽ không bị mất đời đời. Dù cả thế giới hung hăng để phân rẽ chúng con, giống như Rôma đã phân rẽ và bán chúng con như những con vật chở nặng, chúng con vẫn tự do. Sẽ có một nơi chúng con sẽ đoàn tụ sau đời sống này.
Nghĩ rằng đời của chúng ta đâu phải chỉ là vật chất, một thể chất mà người ta xiềng xích. Nhưng ở bên trong, nó có một sức mạnh tự do mà không xiềng xích nào có thể cầm giữ được, ngoại trừ ý chí muốn sống một đời luân lý phóng đãng và say sưa. Qúi vị gọi cái đó là tội. Vị, hay các vị, là ánh sáng trong đêm tối nô lệ của con, cắt nghĩa nó một cách khác, nhưng họ cũng nhìn nhận rằng một linh hồn bị đóng đinh vào thân xác bởi các đam mê xấu và thuộc về xác thịt, sẽ không tới được cái nơi mà qúi vị gọi là Nước Thiên Chúa, và chúng tôi gọi là đời sống cộng đồng trong Hades với các thần. Và vì vậy phải tránh rơi vào tình trạng vật chất và cố gắng đạt tới sự tự do bên ngoài thân xác, bằng cách cho mình một gia sản nhân đức để chiếm một sự bất tử hạnh phúc và sum họp với các người ta yêu.
Nghĩ rằng không có gì ngăn cản linh hồn các người chết phụ giúp linh hồn các người sống, và vì thế cảm thấy linh hồn cha mẹ ở bên cạnh mình, tìm lại được cái nhìn, tiếng nói của các ngài khi các ngài nói với con gái các ngài, và để có thể nói: “Má ơi, vâng, để đến với má. Vâng, để không làm mờ cái nhìn của má. Vâng, để không rót nước mắt vào tiếng má. Vâng, để không gây sầu thảm cho Hades, nơi má đang bình an”. Vì vậy mà con giữ tâm hồn con tự do, sở hữu duy nhất mà con có, và không ai có thể lấy của con, và con muốn gìn giữ nó trong sạch, để có thể khuất phục lý trí con vào nhân đức. Nghĩ như vậy là tự do và vui sướng, và đó là điều con muốn nghĩ và hành động. Vì một triết lý sẽ bị cắt cụt và sai lầm, nếu nghĩ rồi lại hành động theo một lối không hợp với ý nghĩ.
Nghĩ như vậy là tự xây dựng lại cho mình một quê hương, dù là trong đầy ải. Một quê hương thân thiết trong cái tôi, với các bàn thờ của nó, đức tin của nó, các tín hữu của nó, các tình cảm của
506
nó... Một quê hương lớn, bí nhiệm. Nhưng trong cái bí nhiệm này của linh hồn, nó biết rằng nó không hoàn toàn mù tịt về thế giới bên kia, dù hiện nay nó chỉ biết, giống như một thủy thủ giữa biển cả mênh mông, trong một buổi sáng sương mù, họ cũng biết các chi tiết của bờ: mờ mịt, giống như bức vẽ phác họa, chỉ có vài điểm được vẽ rõ, nhưng cũng đủ, ồ, cũng đủ cho người hoa tiêu mệt mỏi mà bão tố đã quay cuồng, để nói: “Đó là cảng, đó là bình an”, quê hương của linh hồn, nơi mà từ đó nó đến... nơi của sự sống.
Bởi vì sự sống sinh ra từ cái chết... Ồ, điều này trước con chỉ hiểu một nửa, bao lâu con chưa biết một trong các lời của Thầy. Sau đó... Sau đó, giống như một tia mặt trời chiếu vào hạt kim cương của tư tưởng con, tất cả đều sáng sủa. Con hiểu các bậc thầy Hy Lạp đi được tới đâu, rồi sau đó họ lại lạc mất thế nào, vì họ thiếu một dữ kiện, một dữ kiện thiết yếu duy nhất để giải cái định lý về sự sống và sự chết. Dữ kiện đó là: Thiên-Chúa-Thật là Chúa và là Đấng Tạo Hóa của mọi cái hiện hữu!
Con có thể gọi Người bằng môi miệng dân ngoại của con không? Có, con có thể, bởi vì chính từ Người mà con đến cũng như mọi người. Bởi vì Người đã đặt cái khả năng đó trong tâm trí mọi người, và nơi những vị khôn ngoan thì là một thông minh cao vượt, làm cho họ có vẻ như những bán thần, nhờ vào sức mạnh vượt các giới hạn của con người. Đúng. Bởi vì chính Người đã soi cho họ viết ra những chân lý này, những điều đã là tôn giáo, tuy không có Thiên Chúa tính như của Thầy, nhưng ít nhất, về luân lý, nó có khả năng gìn giữ các linh hồn sống, không phải cho thời gian cư ngụ trên trái đất này, nhưng cho cõi đời đời.
Từ đó con hiểu nghĩa là gì câu nói: “Sự sống sinh ra từ cái chết”. Người đã nói câu đó là một người không hoàn toàn sai, nhưng đúng là một thông minh chậm. Ông đã nói một câu tuyệt diệu mà ông không hiểu hoàn toàn. Con, ôi lạy Chúa, xin tha cho sự kiêu căng của con, con còn hiểu hơn ông ta, và từ lúc đó, con sung sướng.
- Con đã hiểu cái gì?
- Hiểu rằng đời này chỉ là cái phôi thai khởi đầu cho đời sống,
507
rằng đời sống thật bắt đầu khi cái chết sinh chúng ta ra... ở Hades theo như dân ngoại, ở đời vĩnh cửu theo như các người tin vào Thầy. Con có nói sai không?
- Con nói đúng - Giêsu xác nhận.
Nicôđêmô ngắt lời: “Nhưng làm sao cô biết được các lời của Thầy?”
- Kẻ đói thì đi tìm lương thực ngài ạ. Con, con tìm lương thực của con. Con là xướng ngôn nhờ vào văn hóa của con, nhờ giọng tốt của con, nhờ cách phát âm của con. Con có thể đọc rất nhiều trong thư viện của các thầy con. Nhưng con chưa no. Con cảm thấy có cái gì khác nữa ở bên kia các bức tường chạm trổ của khoa học nhân loại. Và giống như một tù nhân trong một nhà tù bằng vàng, con đập vào các bức tường, phá cửa để ra, để tìm. Khi con đến Palestin với ông chủ sau cùng, con sợ bị rơi trong tối tăm... Trái lại, con đã đi về Ánh Sáng. Các lời của các người đầy tớ ở Cêsarê đã như những nhát búa đập vào bức tường, tạo ra những vết nứt càng lúc càng lớn để lời Thầy lọt qua. Và con, con tiếp nhận những lời này, những hiểu biết này. Và giống như một đứa trẻ xâu các hạt trai, con sắp hàng nó, con làm thành một đồ trang sức, con rút ra ở đó sức mạnh để được luôn luôn tinh luyện hơn để đón chân lý. Con cho rằng trong khi thanh tẩy mình, con sẽ tìm được nó. Và ngay từ ở dưới đất này, con muốn được trong sạch, dù với giá mạng sống, để gặp Chân Lý, Sự Khôn Ngoan, Thần Tính. Lạy Chúa, con nói những lời điên dại. Họ nhìn con cách ngạc nhiên, nhưng chính Thầy đã hỏi con.
- Nói đi, nói đi. Cần thiết.
- Với sức mạnh và tiết độ, con chống lại những áp bức bên ngoài. Con đã có thể tự do và sung sướng theo thế giới, chỉ cần con muốn. Nhưng con không muốn cắt cụt sự khôn ngoan để lấy cái vui, vì thiếu sự khôn ngoan, các nhân đức khác cũng chẳng ích gì. Nhà triết học đã nói: “Sự công bằng, sự tiết độ và sức mạnh, nếu nó không có sự khôn ngoan đi kèm thì nó chỉ là cái cảnh được vẽ, một nhân đức thực sự của nô lệ, không có gì vững chắc, cũng không thực sự”. Con, con muốn có những cái thực sự. Ông chủ ngu si đã
508
nói về Thầy trước mặt con, điều đó giống như làm cho bức tường trở nên cái màn. Chỉ cần muốn xé cái màn ra là gặp được Chân Lý. Con đã làm điều đó.
- Cô đâu có biết là cô sẽ gặp được chúng tôi - Iscariot nói.
- Tôi tin rằng Thiên Chúa thưởng công nhân đức. Con, con không muốn vàng, cũng không ham danh dự, cũng không ước tự do thân xác. Nhưng con muốn Chân Lý. Chính đó là điều con xin cùng Thiên Chúa, hoặc là chết. Con muốn tránh cái đê tiện trở nên con vật, hay còn hơn nữa là bằng lòng trở nên như vậy. Con từ bỏ hết những gì là thân xác khi đi tìm Thầy. Ôi lạy Chúa, sự tìm kiếm, khi nó đi qua giác quan, nó luôn luôn bất toàn - và Thầy đã thấy, vì khi gặp Thầy, con đã trốn, vì mắt con lầm - Khi đó con phó mình cho Thiên Chúa là đấng ở bên trên chúng ta và ở trong chúng ta, Người loan báo cho tâm hồn về Người. Và con đã gặp được Thầy, bởi vì tâm hồn con dắt con lại với Thầy.
- Linh hồn của cô là linh hồn dân ngoại - Iscariot lại nói.
- Nhưng linh hồn luôn luôn có Thiên Chúa ở trong nó, nhất là khi nó cố gắng tránh sai lầm... và vì vậy nó hướng về những sự theo bản tính riêng của nó.
- Cô so sánh cô với Thiên Chúa sao?
- Không.
- Vậy tại sao cô nói thế?
- Thế nào? Ông là môn đệ của Thầy mà ông hỏi tôi điều đó? Hỏi tôi là một con Hy Lạp mới được tự do ít bữa nay? Khi Người nói, ông không nghe sao? Hay là xác thịt đã dậy men trong ông nên nó làm cho ông thành điếc? Người, Người đã chẳng luôn luôn nói rằng chúng ta là con Thiên Chúa sao? Vậy chúng ta là các thần chúa nếu chúng ta là con Chúa Cha, Cha của Người và của chúng ta mà Người nói luôn luôn. Ông có thể khiển trách tôi là không khiêm nhường, nhưng không thể khiển trách tôi về sự cứng lòng tin hay lơ là.
- Tới nỗi cô tin mình hơn tôi? Cô nghĩ rằng cô đã học được tất cả trong các sách Hy Lạp của cô à?
509
- Không. Điều trước cũng không, điều sau cũng không. Nhưng các sách của kẻ khôn ngoan, dù nó ở đâu, nó cũng cho tôi những điều tối thiểu để biết sống. Tôi không nghi ngờ gì là một người Israel thì phải hơn tôi. Nhưng tôi vui sướng trong định mệnh từ Thiên Chúa mà đến với tôi. Tôi có thể ước ao điều gì hơn nữa? Tôi đã tìm thấy tất cả khi tôi tìm thấy Thầy, và tôi nghĩ rằng đó là định mệnh của tôi. Vì thực sự, tôi thấy có một sức mạnh canh chừng trên tôi, nó đánh dấu cho tôi một định mệnh lớn lao mà tôi chỉ việc phụ giúp, vì tôi xét là nó rất tốt.
- Tốt à? Cô đã là nô lệ của các ông chủ độc ác... Nếu cái ông chủ sau cùng bắt lại cô, ví dụ vậy, làm sao cô có thể phụ giúp cho định mệnh, dù cô qúa khôn.
- Ông tên Judas phải không?
- Phải. Rồi sao?
- Rồi... không sao cả. Tôi muốn nhớ tên ông cùng với sự bình phẩm của ông. Cần cẩn thận là bình phẩm tức là thiếu khôn ngoan, dù là nơi những người đạo đức... Làm sao tôi phụ giúp cho định mệnh à? Có lẽ tôi sẽ tự tử. Bởi vì thực tế, trong một số trường hợp, chết thì hay hơn là sống, mặc dù các triết gia nói rằng nó không tốt, và là điều nghịch tôn giáo khi tự mình tìm lấy cái hay này, bởi vì chỉ có các thần có quyền gọi chúng ta đến với họ. Và chính ý tưởng chờ đợi một dấu hiệu của thần linh để làm, đã luôn luôn ngăn cản tôi tự tử trong những xiềng xích của số phận buồn của tôi. Vậy nếu tôi bị bắt lại bởi ông chủ xấu xa này, tôi thấy đó là một dấu hiệu tối cao, và tôi sẽ thích chết hơn là sống, vì ông ơi, tôi cũng có phẩm giá của tôi chứ.
- Và nếu ông ta bắt lại cô bây giờ, cô vẫn luôn luôn sẵn sàng làm vậy sao?
- Bây giờ tôi sẽ không tự tử. Bây giờ tôi biết rằng sự tàn bạo người ta làm cho thân xác tôi không làm tổn thương cho linh hồn tôi, vì nó không thỏa thuận. Bây giờ tôi sẽ kháng cự tới cùng, tới lúc bị dập nát bởi hung bạo, tới bị giết bởi kẻ mạnh. Và cả điều đó nữa, tôi cho đó là dấu hiệu Thiên Chúa gọi tôi về với Người qua sự
510
tàn bạo này. Và bây giờ tôi chết bình an trong khi biết rằng tôi chỉ mất một cái gì hay hư nát.
- Cô ơi, cô trả lời rất đúng - Lazarô nói, và Nicôđêmô ưng thuận.
- Tự tử là điều không bao giờ được phép - Iscariot nói.
- Có nhiều điều cấm, nhưng người ta không tôn trọng lệnh cấm. Nhưng con, Sintica, con phải nghĩ rằng Thiên Chúa, như Người đã luôn luôn hướng dẫn con, Người sẽ tránh cho con sự hung bạo trên chính mình con. Bây giờ đi đi. Và Thầy sẽ biết ơn con là con đi tìm đứa trẻ và dẫn nó lại đây cho Thầy - Giêsu nói cách dịu dàng.
Người phụ nữ cúi mình tới tận đất, rồi ra đi. Mọi người đều nhìn theo cô ta.
Lazarô lẩm bẩm: “Luôn luôn như vậy. Con không thể hiểu tại sao những điều trong cô ta là Sống, thì lại là Chết đối với chúng ta, Israel. Nếu con có khả năng để kiểm tra cô ta nữa, con sẽ thấy rằng văn minh Hy Lạp đã làm đồi trụy chúng ta là những kẻ đã chiếm hữu kho tàng khôn ngoan, thì nó lại cứu cô ta. Tại sao vậy?”
- Bởi vì các con đường của Chúa thì thật đáng phục, và Người mở nó ra cho những ai đáng. Và bây giờ, các bạn ơi, Thầy cho các con giải tán, vì trễ rồi. Thầy bằng lòng vì tất cả đã nghe cô gái Hy Lạp nói. Hãy nhận xét Thiên Chúa tỏ mình ra cho các kẻ tốt thế nào, và rút ở đó ra điều kết luận rằng: sự khai trừ tất cả những ai không thuộc về Israel, không thuộc về đoàn của Thiên Chúa, là ghen ghét và nguy hiểm. Hãy lấy đó làm luật lệ cho tương lai... Đừng cằn nhằn, Judas Simon. Và ông, Giuse, đừng di chuyển cách ngại ngùng. Các ông không bị ô nhiễm gì cả. Không ai trong qúi vị bị ô nhiễm vì ở gần một người đàn bà Hy Lạp. Hãy làm, hãy làm, hãy làm thế nào để đừng tới gần ma qủi, và đừng cho nó ở trọ. Chào Giuse, chào Nicôđêmô. Tôi có thể gặp lại các ông trong thời gian tôi ở đây không? Đây, Margziam... Lại đây, bé con của Thầy. Hãy chào các vị thủ lãnh của Đại Pháp Đình. Con sẽ nói gì với họ?
- Bình an cho các ông, và... con còn nói: vào giờ dâng hương, xin các ông cầu nguyện cho con.
- Con không cần cầu nguyện đâu bé. Nhưng tại sao lại vào giờ đó?
511
- Bởi vì lúc con vào Đền Thờ lần đầu tiên với Giêsu, Người đã nói với con về lời kinh chiều... Ôi! Nó đẹp chừng nào!...
- Còn con, con sẽ cầu nguyện cho chúng ta chứ? Lúc nào?
- Con sẽ cầu nguyện... Con sẽ cầu nguyện buổi sáng và buổi tối, để Thiên Chúa gìn giữ các ông khỏi tội lỗi trong suốt ngày và trong suốt đêm.
- Bé ơi, nhưng con sẽ nói gì?
- Con sẽ nói: “Lạy Chúa Tối Cao, xin làm cho Giuse và Nicôđêmô thành những bạn thật của Giêsu”. Và như vậy là đủ, vì người bạn thật không làm khổ cho bạn mình. Và kẻ không làm khổ cho Giêsu thì chắc chắn chiếm được Nước Trời.
- Con ơi, nguyện Thiên Chúa cũng gìn giữ con như vậy - hai nhân viên Đại Pháp Đình nói. Rồi họ chào Thầy và Đức Trinh Nữ, và chào Lazarô cách đặc biệt, còn chào tất cả những người khác chung với nhau, và họ ra đi.
148* SỨ VỤ CỦA BỐN TÔNG ĐỒ TẠI JUĐÊ
Giêsu trở về cùng với các tông đồ sau một vòng truyền giáo tại vùng lân cận Bêtani. Vòng đi chắc hẳn là vắn tắt, vì họ không có giỏ xách gì cho các đồ trừ bị. Họ chuyện vãn với nhau. Họ nói: “Ông Salômôn, người chèo đò ngang, có tư tưởng rất hay, phải không Thầy?”
- Ừ, một tư tưởng hay.
Đương nhiên là Iscariot không cùng ý kiến với các người khác: “Tôi, tôi thấy chẳng có gì là tốt lắm trong cái đó. Ông ta đã cho cái thuộc về ông, trở nên môn đệ thì không dùng nữa. Chẳng có gì đáng tán dương”.
- Một căn nhà thì luôn luôn hữu ích - Zêlote nói cách nghiêm trang.
- Nếu nó như cái nhà của anh cơ. Đàng này, đây là cái gì? Một căn nhà lụp xụp, dơ bẩn.
- Đó là tất cả những gì Salômôn có - Zêlote đối đáp.
512
- Và bởi vì ông ta đã sống đến già ở đó không tàn tật. Chúng ta, đôi khi cần, cũng có thể cư ngụ ở đó. Anh còn muốn gì nữa? Muốn tất cả mọi căn nhà đều phải như nhà của Lazarô cơ à? - Phêrô thêm.
- Tôi, tôi chả muốn gì cả. Tôi thấy không cần cái qùa này. Khi ta đã ở đó thì ta cũng có thể ở Jêricô, giữa hai nơi chỉ cách nhau dăm chặng (mỗi chặng khoảng 178 mét), và với những người như chúng ta, giống như những kẻ bị bách hại, luôn luôn bó buộc phải bước, thì dăm chặng là cái gì?
Giêsu can thiệp trước khi sự kiên nhẫn của những người khác lên tới tột đỉnh như nhiều dấu hiệu đã chứng tỏ rõ ràng: “Salômôn, so sánh với những gì ông có, đã cho nhiều hơn tất cả, vì ông đã cho tất cả. Ông đã cho nó vì tình yêu. Ông đã cho căn nhà này để chúng ta có chỗ trú ẩn trong trường hợp mưa gió làm chúng ta bị kẹt trong cái vùng ít hiếu khách này, hoặc khi bão lụt, nhất là khi ác tâm của người Do Thái trở nên mạnh tới nỗi nó khuyên chúng ta đặt dòng sông giữa họ và chúng ta. Cái này, nói về một qùa tặng mà một môn đệ khiêm tốn, ít học, nhưng rất trung thành và đầy thiện chí, đã có được sự quảng đại này, biểu lộ nơi ông ý muốn rõ ràng muốn làm môn đệ Thầy mãi mãi. Điều đó cho Thầy một niềm vui lớn. Thực vậy, Thầy thấy nhiều môn đệ, chỉ nhận được từ thầy một ít giáo huấn, nhưng đã vượt qua các con là những kẻ đã nhận biết bao nhiêu. Các con không biết hy sinh cho Thầy, đặc biệt là con, kể cả những điều không tốn kém gì là sự xét đoán của cá nhân. Sự xét đoán của con, con giữ rất chặt, chống lại mọi thay đổi”.
- Thầy đã nói là sự chiến đấu chống lại chính mình là cái có giá nhất...
- Và vì điều đó con muốn nói với Thầy là Thầy lầm khi nói nó không tốn kém gì, đúng không? Nhưng con đã hiểu đúng cái Thầy muốn nói. Đối với loài người, vì thực sự con là một người, chỉ có những thứ đối tượng của thương mại mới có giá. Cái tôi không bán được với giá tiền bạc, nếu không... nếu không là bán mình cho một người với hy vọng rút ra mối lợi, một thứ mậu dịch giống như linh
513
hồn làm với Satan, và cả đến rộng lớn hơn, vì cùng với linh hồn, nó bao quát cả tư tưởng, sự xét đoán và sự tự do của con người. Con thấy gọi nó như vậy là tốt à? Cũng có sự khốn nạn này nữa... Nhưng lúc này chúng ta đừng nghĩ tới nó nữa. Thầy khen Salômôn vì Thầy thấy tất cả những điều tốt trong hành động của ông. Và như vậy là đủ...
Một lúc yên lặng, rồi Giêsu lại bắt đầu nói: “Trong vài ngày nữa, Hermastê sẽ có thể đi lại không còn khó khăn, Thầy sẽ trở về Galilê, nhưng các con không trở về tất cả với Thầy. Một số sẽ ở lại Juđê để lại họp với các môn đệ người Do Thái, làm thế nào để họp nhau được vào Lễ Ánh Sáng”.
- Trời ơi! thời gian lâu qúa! Đến lượt những ai chưa bao giờ làm chứ? - Các tông đồ nói với nhau.
Giêsu nghe được những bàn cãi và trả lời: “Việc đó sẽ đến với Judas Simon, Tôma, Batôlômêo và Philíp. Nhưng Thầy không nói là ở lại Juđê cho tới lễ Ánh Sáng. Trái lại, Thầy muốn các con tụ họp và báo tin cho các môn đệ đến đây để mừng lễ Ánh Sáng. Bởi vậy bây giờ các con hãy đi tìm họ, tụ họp họ và báo tin cho họ. Trong lúc đó, các con kiểm tra họ, giúp đỡ họ, rồi các con về sau Thầy, đồng thời dắt về cho Thầy những người mà các con đã tìm được, và báo tin cho những người khác để đến. Từ nay chúng ta có các bạn hữu trong các miền chính của Juđê, họ sẽ vui lòng báo tin cho các môn đệ giùm cho chúng ta. Trong khi đi về Galilê, dọc theo bờ phía bên kia sông Giođan, các con nhớ là Thầy sẽ đi qua các miền Gêrasa, Bozra, Arbêla cho tới Aêra. Cũng hãy tụ họp những người mà khi Thầy đi qua, đã không dám tới để xin chỉ bảo hay phép lạ, rồi sau đó lại khổ vì đã không làm. Các con dẫn họ tới cho Thầy. Thầy sẽ ở lại Aêra cho tới khi các con đến”.
- Vậy thì nên đi tới đó ngay đi - Iscariot nói.
- Không, các con sẽ khởi hành buổi chiều trước ngày Thầy đi, bằng cách đi từ Bêtani tới Gétsêmani, rồi ngày hôm sau, các con sẽ lên đường đi các miền Juđê. Như vậy con sẽ gặp mẹ con và giúp bà trong việc đồng áng ở giai đoạn này.
514
- Từ rày, từ nhiều năm rồi, bà đã học được thói quen điều hành công việc một mình.
- Ồ, anh không nhớ là năm ngoái anh đã cần thiết cho bà chừng nào trong việc thu hoạch? - Phêrô hỏi, hơi thâm hiểm.
Judas trở nên đỏ bừng còn hơn bông hoa mỹ nhân thảo. Ông có vẻ xấu trong cơn giận và sự xấu hổ của ông. Nhưng Giêsu tiên liệu tất cả những câu trả miếng nên nói: “Một người con trai luôn luôn là sự giúp đỡ và khích lệ cho người mẹ. Rồi cho tới lễ Vượt Qua, và cả cho tới sau lễ Vượt Qua, bà sẽ không được thấy con nữa. Vì vậy hãy đi và làm điều Thầy bảo con”.
Judas không đối đáp với Phêrô, nhưng đặt sự giận hờn của ông trên Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy biết con phải nói gì với Thầy không? Con có cảm tưởng là Thầy muốn loại trừ con, ít nhất là xa lìa con, bởi vì Thầy nghi con, bởi vì Thầy tin một cách bất công là con có tội về điều gì đó, bởi vì Thầy thiếu bác ái với con, bởi vì...”
- Judas! Đủ rồi! Thầy có thể nói với con biết bao lời, nhưng Thầy chỉ nói: “Hãy vâng lời”.
Giêsu rất oai nghiêm khi nói. Cao lớn, con mắt lóe sáng và khuôn mặt nghiêm nghị. Người làm họ run. Chính Judas cũng run. Ông thụt lùi lại đi sau tất cả mọi người, trong khi Giêsu đi một mình ở đàng trước. Giữa người nọ và người kia là nhóm các tông đồ, trở thành câm lặng.
149* GIÊSU RỜI BÊTANI ĐỂ ĐI VỀ
PHÍA BÊN KIA SÔNG GIOĐAN
- Lazarô, bạn Thầy, Thầy xin con đi với Thầy - Giêsu nói khi xuất hiện tại ngưỡng cửa của căn phòng mà Lazarô đang nửa nằm nửa ngồi trên giường, đọc một ru-lô.
- Thưa Thầy, ngay lập tức. Chúng ta đi đâu? - Lazarô hỏi khi lập tức đứng dậy.
- Về miền quê. Thầy cần ở một mình với con.
Lazarô nhìn Người, băn khoăn và hỏi: “Thầy có những tin buồn để nói cho con cách bí mật? Hay là... Không, con không muốn nghĩ
515
tới đó...”
- Không. Thầy muốn có lời khuyên của con, mà cả ngay chính không khí cũng không được biết những điều chúng ta sẽ nói. Hãy ra lệnh lấy xe, vì Thầy không muốn làm con mệt. Khi chúng ta tới giữa đồng quê, Thầy sẽ nói với con.
- Vậy thì chính con sẽ lái. Như vậy cả người đầy tớ cũng không biết điều chúng ta nói.
- Ừ, đồng ý.
- Con đi ngay Thầy ơi. Trong một lát là con sẽ sẵn sàng - và ông đi ra.
Giêsu cũng đi ra, sau khi đã ở lại suy tư một lát ở giữa phòng. Trong khi suy nghĩ, Người dời chỗ một cách máy móc hai ba đồ vật, nhặt cuốn ru-lô rơi dưới đất và sau cùng, đặt nó vào chỗ trên một cái kệ, vì bẩm tính thứ tự rất mạnh nơi Giêsu. Vẫn tì tay trên kệ, Người nhìn những đồ vật về nghệ thuật, nếu không lạ thì cũng khác với những thứ thường thấy ở Palestin, bầy trên các bậc kệ. Đó là những cái bình, những cái cúp rất cổ, hình như bằng kim loại có chạm trổ chi tiết các đền thờ của cổ Hy Lạp và các hũ hài cốt. Những điều chính Người thấy xuyên qua các vật dụng này thì tôi không biết... Người ra khỏi phòng và đi vào cái sân phía trong, nơi các tông đồ đang tụ họp.
- Chúng ta đi đâu Thầy? - các ông hỏi khi thấy Giêsu mặc áo khoác vào.
- Không đi đâu cả. Thầy ra ngoài với Lazarô. Các con ở lại đây chờ Thầy, tất cả với nhau. Thầy sẽ trở về lẹ thôi.
Mười hai người nhìn nhau... Họ không bằng lòng mấy... Phêrô nói: “Thầy đi một mình? Cẩn thận nhe Thầy...”
- Đừng sợ gì cả. Trong khi chờ Thầy, đừng ở không. Hãy giáo huấn Hermastê để nó luôn biết thêm lề luật. Hãy là các bạn tốt. Đừng cãi vã, cũng đừng bất lịch sự. Hãy dễ thương và yêu nhau.
Người đi ra vườn và tất cả theo Người. Rồi ngay lập tức, một chiếc xe nhẹ có mui che kín tới, trên đó đã có Lazarô.
- Thầy đi bằng xe?
516
- Ừ, để Lazarô không mệt giò. Chào. Margziam, hãy tốt. Bình an cho tất cả các con.
Người lên xe. Nó kêu cọt kẹt trên sỏi của lối đi, ra khỏi vườn, đi vào lộ lớn.
- Thầy đi Nước Đẹp à? - Tôma la lên sau lưng Người.
- Không. Thầy còn nói một lần nữa: Hãy tốt.
Con ngựa đi nhanh theo nước kiệu. Con đường này dẫn từ Bêtani tới Jêricô, đi qua miền quê đã trần trụi. Và ta thấy càng đi về đồng bằng, cảnh thiên nhiên càng chết.
Giêsu suy tư. Lazarô nín lặng, chỉ lo điều khiển con ngựa. Khi họ đã ở giữa cánh đồng, một cánh đồng mầu mỡ đã sẵn sàng để nuôi hạt giống của mùa tương lai. Các vườn nho đã ngủ yên hết như người đàn bà vừa cho ra cái qủa của lòng mình, nghỉ ngơi trong sự mệt mỏi êm dịu. Giêsu làm hiệu cho ông ngừng. Lazarô vâng lời, dừng lại, rồi lái con ngựa vào một con đường thứ cấp dẫn tới những căn nhà lẻ loi ở xa... và ông giải thích: “Ở đây chúng ta yên tĩnh hơn ở đường lớn. Những cây này che cho chúng ta khỏi cái nhìn của nhiều người”. Qủa vậy, một khóm cây thấp, rậm lá, làm như cái chắn gió cho khỏi sự tò mò của người qua lại. Lazarô đứng trước mặt Giêsu, chờ đợi.
- Lazarô, Thầy phải xa lìa Gioan Enđo và Sintica. Con thấy sự khôn ngoan khuyên điều đó, và cả lòng bác ái nữa. Đối với người nọ cũng như người kia, việc biết những bách hại được tung ra để chống lại họ là một thử thách nguy hiểm, và một đau khổ vô ích... Và có thể, ít nhất là với một trong hai, sẽ gây ra những bất ngờ nặng nề.
- Trong nhà con à?
- Không. Trong nhà con, có lẽ nó không bị động tới về thể xác, nhưng bị hạ nhục về tinh thần. Thế giới rất độc ác, nó bẻ gẫy các nạn nhân của nó. Thầy, Thầy không muốn hai cái sinh lực đẹp đẽ này bị mất như vậy. Vì thế, giống như Thầy đã phối hợp ông già Ismael với Sara, bây giờ Thầy cũng sẽ phối hợp Gioan tội nghiệp của Thầy vào với Sintica. Thầy muốn ông ta chết trong bình an và
517
ông ta không phải cô độc, với cảm tưởng là được sai đi nơi khác, không phải vì là cựu tù khổ sai, mà là môn đệ mới tân tòng được sai đi nơi khác để rao giảng Thầy. Và Sintica sẽ giúp ông... Sintica là một tâm hồn tốt lành, và sẽ là một sức mạnh lớn trong giáo hội tương lai và cho giáo hội tương lai. Con có thể khuyên Thầy nên gởi họ đi đâu không? Không thể ở Juđê, không thể ở Galilê, cả đến không thể ở miền Thập Tỉnh, nơi Thầy tới, và cùng với Thầy, các tông đồ và các môn đệ cũng tới. Cũng không thể ở trong thế giới dân ngoại. Vậy ở đâu? Ở đâu để họ có thể hữu ích và an toàn?
- Thưa Thầy... con... Nhưng con lại khuyên Thầy à?
- Không, không. Hãy nói. Con yêu Thầy lắm mà! Con không phản bội. Con yêu những người Thầy yêu. Con không có tư tưởng hẹp hòi như những người khác.
- Con... Vâng. Con sẽ khuyên Thầy gởi họ tới các nơi con có những bạn thân. Ở đảo Chypre hay ở Syrie... Thầy hãy chọn. Ở Chypre con có nhiều nhân vật chắc chắn. Và bên Syrie... Bên đó con còn một căn nhà nhỏ, điều hành bởi một người quản lý trung thành hơn một con cừu: ông Philíp của chúng con! Đối với con, ông làm tất cả những gì con nói. Và nếu Thầy cho phép, họ là những người mà Israel khủng bố, và là người thân thiết của Thầy, ngay từ lúc này, họ có thể xưng mình là khách của con một cách an toàn, trong nhà con... Ôi! Đó không phải là một lâu đài. Đó là một căn nhà mà Philíp ở một mình với một đứa cháu trai. Ông săn sóc các khu vườn ở Antiogonea, những khu vườn mà mẹ con rất thích. Chúng con đã giữ nó làm kỷ niệm của bà. Bà đã mang tới đó những cây đánh từ khu vườn của bà ở Juđê. Đó là những loại cây hiếm... Má con, với chúng, bà đã làm biết bao điều lành cho người nghèo... Đó là thái ấp bí mật của bà... Mẹ con... Thưa Thầy, con sẽ đi lẹ để nói với bà: “Người mẹ tốt, hãy vui đi. Vị Cứu Tinh đã ở trên mặt đất”. Bà đang chờ Thầy...
Có hai vết nước mắt trên khuôn mặt chịu đựng của Lazarô. Giêsu nhìn ông và mỉm cười. Lazarô tiếp: “Nhưng chúng ta hãy nói về Thầy. Chỗ này Thầy thấy tốt không?”
518
- Tốt. Một lần nữa, Thầy cám ơn con cho Thầy và cho họ. Con đã cất đi cho Thầy một gánh nặng...
- Khi nào họ đi? Con hỏi vậy để sửa soạn một lá thơ cho Philíp. Con sẽ nói đây là hai người bạn của con ở đây. Họ cần bình an. Và như vậy là đủ.
- Ừ, như vậy là đủ. Nhưng Thầy xin con là chính không khí cũng không được biết những chuyện này. Con thấy đó, Thầy bị dò thám...
- Con thấy. Con sẽ không nói, dù với hai cô em. Nhưng Thầy làm cách nào để gởi họ tới đó? Thầy có các tông đồ ở với Thầy.
- Bây giờ Thầy đi ngược lên tới Aêra không có Judas Simon, Tôma, Philíp, Batôlômêo. Trong thời gian này, Thầy sẽ giáo huấn sâu xa cho Sintica và Gioan... để họ ra đi với số dự trữ lớn về chân lý. Rồi Thầy sẽ xuống hồ Mêron, và từ đó đi Caphanaum. Và ở đó... Và ở đó, Thầy sẽ sai đi bốn người khác nữa với các sứ vụ khác. Và khi đó Thầy sẽ cho hai người đi Antioche. Thầy bó buộc phải...
- Phải sợ những người của Thầy. Thầy có lý... Thầy ơi, con khổ khi thấy Thầy bị quay cuồng.
- Nhưng tình bạn tốt của con an ủi Thầy chừng nào... Lazarô, Thầy cám ơn con... Ngày mốt Thầy sẽ đi, và Thầy mang theo hai cô em của con. Thầy cần nhiều nữ môn đệ để Sintica trà trộn với họ. Jeanne Chouza cũng đi. Từ Mêron, bà sẽ đi Tibêriat, vì bà sẽ qua mùa đông ở đó. Chồng bà muốn như vậy để có bà ở bên cạnh ông, vì Hêrôđê trở lại Tibêriat một thời gian.
- Sẽ được làm hết như Thầy muốn. Các cô em của con thuộc về Thầy, cũng như con, các nhà cửa của con, các tôi tớ con, của cải con, tất cả đều thuộc về Thầy. Thầy hãy sử dụng nó cho các việc lành. Con sẽ soạn cho Thầy một lá thơ cho Philíp. Chính Thầy phải trực tiếp giữ nó.
- Cám ơn Lazarô.
- Đó là tất cả những gì con có thể làm... Nếu con có sức khỏe tốt, con sẽ đi theo Thầy... Xin Thầy chữa cho con thì con sẽ đi.
- Không. Bạn ơi, Thầy cần con như con là.
- Dù là con không làm gì cả?
519
- Dù là vậy. Ôi! Lazarô của Thầy! - Giêsu ôm ông và hôn ông.
Họ lại lên xe để trở về. Bây giờ đến lượt Lazarô rất lặng lẽ và suy tư. Giêsu hỏi ông lý do.
- Con nghĩ đến con mất Sintica. Con bị lôi kéo bởi khoa học và lòng tốt của cô ta...
- Chính Giêsu đã kiếm được nó...
- Đúng vậy, đúng vậy. Khi nào con lại được gặp Thầy?
- Vào mùa xuân.
- Không gặp nữa cho tới mãi mùa xuân cơ! Năm ngoái Thầy đã ở nhà con mừng Lễ Ánh Sáng...
- Năm nay Thầy làm vui cho các tông đồ. Nhưng năm tới Thầy sẽ ở với con rất nhiều. Thầy hứa điều đó với con.
Bêtani đã hiện ra dưới mặt trời tháng mười. Khi họ sắp tới nhà thì Lazarô dừng ngựa lại và nói: “Thầy đã làm rất phải khi cho cái người Kêriot đi xa. Con sợ ông ta. Ông ta không yêu Thầy. Con không thích ông ta. Con không bao giờ ưa ông ta. Đó là con người dâm ô và ham hố. Ông ta có khả năng đi tới bất cứ tội ác nào. Thầy ơi, chính ông ta đã tố cáo Thầy...”
- Con có bằng cớ không?
- Không.
- Vậy đừng xét đoán. Con không rất chuyên môn về việc xét đoán. Con hãy nhớ lại là con đã xét đoán Maria của con cách khắt khe là hư mất... Đừng nói là nhờ Thầy. Chính nó đã đến tìm Thầy trước.
- Điều đó cũng thật nữa. Nhưng sau cùng, Thầy hãy nghi ngờ Judas.
Một lát sau, họ đi vào trong vườn, nơi các tông đồ đang chờ cách tò mò.
... Sự vắng mặt của bốn tông đồ, nhất là của Judas, làm cho nhóm còn lại thân mật hơn và tươi nở hơn. Đúng là một gia đình mà gia trưởng là Giêsu và mẹ là Maria, gia đình mà khi quay lưng về Bêtani trong một buổi sáng thanh quang của tháng mười, hướng về Jêricô để qua bờ đối diện của sông Giođan, các phụ nữ quây quần chung quanh mẹ Maria, chỉ thiếu có Annalia trong đám các nữ môn
520
đệ, tức là ba Maria, Matta, Jeanne, Suzane, Êlise, Marcelle, Sara và Sintica. Quây quần chung quanh Giêsu thì có: Phêrô, Andrê, Giacôbê và Juđa Alphê, Mathêu, Gioan và Giacôbê Zêbêđê, Simon Zêlote, Gioan Enđo, Hermastê và Timon, trong khi Margziam nhảy như con dê con, làm con thoi giữa hai nhóm đi cách nhau vài mét. Tuy mang các túi nặng, nhưng họ đi vui vẻ trên đường nắng dịu trong miền quê trang trọng yên nghỉ.
Gioan Enđo bước nặng nề dưới sức nặng chất trên vai ông. Phêrô nhận thấy và nói: “Hãy cho nó đi. Anh muốn lấy lại cái ách nặng này, anh tiếc à?”
- Chính Thầy ra lệnh cho tôi.
- Thật à? Ôi! Ví dụ! Vậy tại sao?
- Tôi không biết. Chiều hôm qua Người bảo tôi: “Lấy lại các sách của con rồi theo Thầy cùng với họ”.
- Ồ! Rất tốt! Rất tốt... Nếu Thầy đã nói thì chắc chắn đó là việc tốt. Có thể là để cho người đàn bà này. Bà ta biết nhiều thứ hen! Anh cũng biết chứ nhỉ?
- Cũng gần như bà ta. Bà ta rất học thức.
- Nhưng anh không thể tiếp tục theo chúng tôi với cái gánh nặng này, hen?
- Ồ, tôi nghĩ là không. Nhưng tôi không biết. Lúc này thì tôi còn có thể mang nó...
- Không, bạn ơi, tôi quan tâm để anh không bị bệnh. Anh không được khỏe. Anh biết chứ?
- Tôi biết. Tôi cảm thấy sắp chết.
- Đừng đùa dại! Ít nhất hãy để chúng tôi tới Caphanaum. Dễ chịu qúa! Bây giờ chúng ta ở với nhau, không có cái... cái lưỡi vô phúc! Tôi lại lỗi lời hứa với Thầy!... Thầy ơi! Thầy ơi!
- Con muốn gì Simon?
- Con đã nói xấu Judas, mà con đã hứa với Thầy là con không làm nữa. Xin Thầy tha cho con.
- Ừ, hãy cố gắng để đừng làm nữa.
- Con hãy còn 489 lần nữa được sự tha thứ của Thầy...
521
- Nhưng anh nói gì vậy? - Andrê ngạc nhiên hỏi.
Và Phêrô, với một tia ma lanh trên khuôn mặt tốt của ông, vẹo cổ đi dưới cái túi nặng của Gioan Enđo: “Chú không nhớ là Thầy đã nói tha thứ bảy mươi lần bảy sao? Vì thế tôi còn được nhận 489 lần tha thứ nữa. Tôi sẽ đếm cẩn thận...”
Mọi người đều cười. Giêsu cũng phải mỉm cười, nhưng Người trả lời: “Tốt hơn là con đếm tất cả những lần mà con biết làm tốt. Ôi, con là đứa trẻ già”.
Phêrô lại bên Giêsu, lấy cánh tay phải của ông ôm vòng quanh thắt lưng Giêsu và nói: “Thầy rất thân yêu của con! Con sung sướng chừng nào được ở với Thầy mà không có cái ông... Lại nữa rồi! Thầy cũng bằng lòng chứ... và Thầy hiểu con muốn nói gì. Chúng ta với nhau, có mẹ Thầy, có đứa trẻ. Chúng ta đi về Caphanaum vào mùa trời êm đẹp. Năm lý do để sung sướng. Thật là đẹp được đi với Thầy! Chiều nay chúng ta dừng ở đâu Thầy?”
- Tại Jêricô.
- Năm ngoái chúng ta gặp người đàn bà trùm khăn ở đó. Ai biết được bà ta thế nào rồi... Con tò mò muốn biết... Và chúng ta tìm được người có vườn nho... - Tràng cười của Phêrô lây lan, bởi vì nó qúa ồn ào. Mọi người đều cười khi họ nhớ lại màn gặp gỡ với Judas Kêriot.
- Nhưng, Simon! Con không thể nào sửa đổi! - Giêsu trách ông.
- Thầy ơi, con đâu có nói gì. Con chỉ không nín cười được khi nghĩ tới cái đầu ông ta đã làm khi ông ta gặp chúng ta ở đó... trong vườn nho của ông - Phêrô cười với qủa tim tốt nên ông nín cười trong khi những người khác vẫn tiếp tục cười.
Các bà tiến lại chỗ Phêrô. Maria êm đềm hỏi ông: “Simon, có chuyện gì vậy?”
- A! Con không thể nói, vì lần trước con đã thiếu bác ái. Nhưng đây... mẹ, mẹ là người khôn ngoan, hãy nói cho con tí đi: nếu con nói lời xỏ xiên, hay tệ hơn, con vu khống, thì đương nhiên là con phạm tội. Nhưng nếu con cười một điều mà mọi người đều biết, một sự kiện ai cũng biết, ví dụ một sự kiện buồn cười khi nhắc lại
522
sự ngạc nhiên của một kẻ nói dối, sự lúng túng của nó, sự xin lỗi của nó, và lại cười như lúc nãy chúng con cười, thì còn là xấu không?
- Đó là sự bất toàn về đức bác ái. Đó không phải là một tội như dèm pha hay vu khống, hay cả như nói xỏ xiên, nhưng luôn luôn là thiếu bác ái, giống như tấm vải bị rút ra một sợi chỉ, đó không phải là một đường rách thật, cũng không phải như một tấm vải cũ, nhưng luôn luôn là cái gì chạm tới sự toàn vẹn của tấm vải và vẻ đẹp của nó, một sự kiện sửa soạn cho nó rách hay có những lỗ. Con có tin vậy không?
Phêrô gãi trán, hơi bỉ mặt, nói: “Có, con không bao giờ nghĩ tới đó”.
- Bây giờ hãy nghĩ tới đó và đừng làm vậy nữa. Có những cái cười làm tổn thương đức bác ái hơn là cái tát. Một người nào đó phạm tội ư ? Chúng ta bắt gặp họ nói dối hay phạm một lỗi khác ư? Vậy tại sao lại nhắc lại và làm cho người khác nhớ tới? Hãy phủ một tấm màn trên điều lỗi của anh em và luôn luôn nghĩ: nếu tôi là kẻ có lỗi thì tôi có muốn người khác nhắc lại lỗi đó hay làm cho người ta nhớ tới không? Có những điều làm xấu hổ ở trong nội tâm, cũng làm người ta khổ lắm, Simon ạ. Đừng lắc đầu. Mẹ biết con muốn nói gì... Nhưng hãy tin đi, những kẻ có tội cũng khổ vì tội nữa. Hãy đi, hãy đi và luôn luôn có tư tưởng: “Tôi có thích như vậy cho tôi không?” Con sẽ thấy rằng con không bao giờ lỗi đức bác ái nữa, và con sẽ được sự bình an lớn lao trong con. Hãy nhìn thằng Margziam kìa, nó nhảy nhót và hát vui chừng nào, vì nó không nghĩ gì trong lòng nó cả. Nó chả nghĩ gì tới đường sá, tiêu pha; chả nghĩ tới lời phải nói. Nó biết rằng người khác nghĩ tới tất cả những điều đó cho nó. Con cũng hãy hành động như vậy. Phó thác hết cho Thiên Chúa, kể cả việc xét đoán về người khác. Khi con còn có thể sống như một đứa trẻ để Thiên Chúa hướng dẫn, thì tại sao lại muốn tự chuốc lấy cái gánh nặng của việc quyết định và xét đoán? Sẽ có lúc con phải làm quan án và trọng tài, lúc đó con sẽ nói: “Ồ, hồi đó dễ qúa, chả nguy hiểm gì”, và con sẽ thấy là mình ngu vì đã muốn chuốc lấy bao trách nhiệm trước thời gian. Xét đoán, một việc khó chừng nào! Con đã nghe Sintica nói mấy bữa trước đây?
523
“Điều người ta tìm bằng giác quan thì luôn luôn bất toàn”. Nó đã nói rất đúng. Rất nhiều lần chúng ta xét đoán theo phản ứng của giác quan chúng ta một cách rất bất toàn. Vậy đừng xét đoán...
- Vâng, Maria, con thực tình hứa với mẹ. Nhưng tất cả những điều tốt đẹp mà Sintica biết, con chẳng biết gì cả.
- Và ông khổ vì vậy sao? - Sintica chen vào. “Ông không biết rằng tôi chỉ muốn đào thải tất cả để chỉ kiếm cái điều ông biết”.
- Thật à? Tại sao vậy?
- Bởi vì với khoa học, ông có thể hướng dẫn mình trên trái đất, nhưng chính bằng sự khôn ngoan, ông chinh phục Nước Trời. Tôi có khoa học, ông có sự khôn ngoan.
- Nhưng với khoa học của cô, cô đã biết đến với Giêsu. Vậy đó là cái hay.
- Bị pha trộn với bao sai lầm mà bây giờ tôi muốn loại bỏ để chỉ mặc lấy sự khôn ngoan, bỏ xa tôi những y phục trang điểm vô ích. Mong sao cho y phục của tôi phải là y phục nghiêm trang, không phải chỉ có hình thức, nhưng là y phục của sự khôn ngoan, không hư nát, không đồi bại, nhưng bất diệt. Ánh sáng của khoa học lung lay chập chờn, ánh sáng của khôn ngoan chói lọi, đồng nhất, không thay đổi và vững chắc như Thiên Chúa đã cưu mang nó.
Giêsu đã bước chậm lại để nghe, Người quay lại nói với cô gái Hy Lạp: “Con không cần loại bỏ những gì con đã biết, nhưng con phải lựa chọn trong những cái con biết, những nguyên tử của sự thông minh đời đời, được chinh phục bởi các thần trí và có giá trị không thể từ chối”.
- Vậy các thần trí này đã thực hiện trong chính họ câu chuyện thần thoại về lửa đánh cắp của các thần?
- Phải, nhưng ở đây họ không đánh cắp, mà là họ biết tiếp nhận nó khi Thiên Tính lướt lửa của Người trên họ, và ôm ấp họ như những gương mẫu rải rác ra trong một nhân tính bị truất phế, những gì là con người được phú bẩm lý trí.
- Thưa Thầy, Thầy phải chỉ cho con những gì con giữ và những gì con phải bỏ rơi. Con, con không phải là thẩm phán tốt. Rồi hãy đặt sự khôn ngoan của Thầy để lấp đầy chỗ trống.
524
- Đó là điều Thầy tính làm. Thầy sẽ chỉ cho con tư tưởng mà con biết là khôn ngoan tới điểm nào, và từ điểm này, Thầy sẽ kéo dài nó ra tới đầu mút của ý tưởng thực, để cho con biết, và nó cũng sẽ tốt cho những kẻ được tiền định có những tiếp xúc với dân ngoại trong tương lai.
- Chúa ơi, chúng con chẳng hiểu gì cả - Giacôbê Zêbêđê rên rỉ.
- Lúc này thì không hiểu, nhưng một ngày kia các con sẽ hiểu những giáo huấn này và sự cần thiết của nó. Và con, Sintica, hãy trình bày cho Thầy những điểm tối nhất đối với con, trong lúc dừng chân, Thầy sẽ soi sáng cho con.
- Vâng, lạy Chúa, đó là ước vọng của tâm hồn con hòa tan vào ước muốn của Thầy. Con là môn đệ của Chân Lý, và Thầy là thầy. Ước mơ của tất cả đời con là chiếm hữu Chân Lý.
150* NGƯỜI LÁI BUÔN Ở
BÊN KIA SÔNG EUPHRATE
Sau một đồng bằng phì nhiêu trải ra trên một khoảng rộng ở bên kia sông Giođan, thật đẹp khi đi bộ vào mùa trong sáng và êm dịu, là mùa cuối tháng mười này. Sau chặng nghỉ tại một làng nhỏ nằm ở sườn dốc đầu tiên của một rặng núi có vài đỉnh cao hơn có thể gọi tên đúng là núi, Giêsu lại bắt đầu bước. Khi gặp một đoàn lữ hành dài gồm nhiều con vật bốn chân và những người võ trang khí giới, Người nói chuyện với họ trong khi họ cho đoàn vật uống nước tại cái bể của công viên.
Đó là những người phần đông cao lớn, da sậm, có vẻ Á Châu. Ông trưởng đoàn ngồi trên một con la rất lực lưỡng. Ông trang bị tới răng, cộng thêm với các vũ khí đeo ở yên. Nhưng ông ta rất kính cẩn đối với Giêsu.
Các tông đồ hỏi Giêsu: “Ai vậy?”
- Một lái buôn giầu ở bên kia sông Euphrate. Thầy đã hỏi ông ta đi đâu, và ông ta rất lịch sự. Ông đi qua các thành phố mà Thầy tính đến. Đây là một thiên định nơi miền núi này, trong lúc chúng ta có các phụ nữ cùng đi.
525
- Thầy sợ cái gì à?
- Về việc ăn cắp thì không, vì chúng ta chẳng có gì. Nhưng chỉ sợ cho đám phụ nữ. Một nhóm nhỏ trộm cướp không bao giờ dám tấn công một đoàn mạnh như vầy. Và điều này sẽ có ích cho chúng ta để biết những lối đi tốt nhất, và băng qua những chỗ khó nhất. Ông ta đã hỏi Thầy: “Ngài là Đức Messi à?”, và khi được sự xác nhận, ông nói: “Tôi đã ở trong sân của dân ngoại mấy bữa trước, tôi đã nghe Thầy, đúng là nghe hơn là thấy, bởi vì tôi nhỏ con. Tốt, tôi sẽ bảo vệ Thầy, và Thầy bảo vệ tôi. Tôi có chở những đồ cao giá”.
- Ông ta người tân tòng à?
- Thầy không nghĩ vậy. Nhưng có lẽ ông ta gốc từ dân ta.
Đoàn lữ hành tiến từ từ, tựa như người ta không muốn làm kiệt sức các con vật bằng cách bắt chúng bước qúa nhanh, vì vậy dễ dàng để đi bộ theo, cả đến đôi khi phải dừng, vì người dẫn các con vật chở nặng chỉ cho nó đi qua từng con một ở những chỗ khó qua.
Mặc dầu đây đúng là miền núi, nhưng đất đai mầu mỡ và canh tác cẩn thận. Có lẽ các núi càng lúc càng cao ở phía đông bắc bảo vệ vùng này cho khỏi gió bắc lạnh và gió đông nguy hại, nhờ đó có lợi cho việc cày cấy. Đoàn lữ hành đi vòng một con suối, chắc chắn nó đổ vào Giođan. Lượng nước dồi dào, nhưng tôi không biết nó phát nguyên từ ngọn nào. Quang cảnh đẹp, và càng lên cao càng đẹp, mở ra về phía đồng bằng sông Giođan ở phía tây. Xa hơn là quang cảnh tráng lệ của các đồi và núi miền bắc Juđê, trong khi ở phía đông và phía bắc, phong cảnh thay đổi liên tục, chỗ thì mở ra miền xa mênh mông, chỗ thì hiến cho cái nhìn một cảnh đồi, gò và đỉnh cao trùng điệp, xanh ngát hay lởm chởm đá, như khép lại con đường, giống bức tường thình lình của đường con cờ.
Mặt trời sắp lặn sau các dẫy núi xứ Juđê, tô đỏ thắm bầu trời và các bờ bãi. Khi người thương gia giầu có dừng lại để đoàn vật đi qua, ông ta can thiệp với Giêsu: “Phải vào trong xứ trước khi đêm tới, nhưng nhiều người trong nhóm của Thầy có vẻ mệt mỏi. Đây là khúc đường gay go. Hãy bảo họ cỡi lên các con vật hộ tống. Đó là những con vật trầm tĩnh, chúng sẽ có suốt đêm để nghỉ, và chúng
526
chẳng mệt gì để mang một người đàn bà”.
Giêsu nhận lời, và ông ta ra lệnh ngừng để nâng các người đàn bà lên lưng các con vật. Giêsu cũng cho lên cả Gioan Enđo. Những người đi bộ, kể cả Giêsu, thì cầm các giây cương để cho các người đàn bà cảm thấy chắc bụng hơn. Margziam muốn làm... người lớn, nên dù nó mệt, nó nhất quyết không lên yên với ai cả. Trái lại, nó cầm giây cương của con lừa Đức Trinh Nữ cỡi, và như vậy, con vật ở giữa Giêsu và đứa trẻ, và nó bước cách hiên ngang.
Người lái buôn đi gần Giêsu và ông nói với Maria: “Bà thấy xứ kia không? Đó là Ramot. Chúng ta sẽ dừng ở đó. Tôi quen chủ quán, vì tôi qua con đường này mỗi năm hai lần, trong khi hai xứ khác kia thì tôi chỉ ghé qua để bán và mua. Đó là cuộc sống của tôi: Một đời vất vả. Nhưng tôi có mười hai đứa con còn nhỏ. Tôi kết hôn trễ. Tôi rời đứa sau cùng khi nó mới được chín ngày. Bây giờ tôi gặp lại, nó đã có những cái răng đầu tiên”.
- Một gia đình thật đẹp! - Maria khen, và mẹ kết thúc: “Cầu Trời giữ gìn nó cho ông”.
- Tôi không phàn nàn về sự trợ giúp của Trời, dầu tôi rất ít xứng đáng.
Giêsu hỏi ông: “Ít nhất ông cũng là tân tòng chứ?”
- Đáng lẽ tôi phải vậy. Tổ tiên tôi là người Israel thực sự. Rồi... chúng tôi phù hợp với khí hậu ở đó...
- Chỉ có một khí hậu mà tâm hồn phải phù hợp, là khí hậu của Trời.
- Thầy có lý. Nhưng Thầy biết... ông cụ cố tôi cưới một bà không phải Israel, các người con đã ít trung thành. Con trai của các con trai lại cưới những người vợ không phải Israel, sinh ra những đứa con chỉ biết tôn trọng có cái tên Do Thái vì chúng tôi gốc Do Thái. Bây giờ tôi, cháu nội của người cháu nội... chẳng còn gì nữa. Giao tiếp với mọi người, tôi đã mượn của mọi người, cho tới nỗi chả còn thuộc về ai cả.
- Ông lý luận sai, tôi chứng minh cho ông: nếu trong khi đi trên con đường này mà ông biết là con đường đúng, ông gặp năm sáu
527
người, họ nói với ông: “Không, đi con đường phía kia”, hoặc “Trở lại phía sau”, hoặc “Hãy dừng lại”, “Hãy đi về hướng đông”, “Hãy quẹo về hướng tây”, ông sẽ nói sao?
- Tôi sẽ nói: “Tôi biết con đường này gần nhất và dễ nhất, và tôi không rời nó”.
- Hoặc nữa, khi ông xử lý một công việc, và đã biết cách để đạt tới, ông có nghe những người chỉ hoàn toàn vì phách lối hay vì một tính toán ranh mãnh, bảo ông làm cách khác không?
- Không. Tôi sẽ theo cái điều mà kinh nghiệm cho tôi biết là tốt nhất.
- Rất tốt. Ông, gốc Israel, ông có sau lưng ông bao ngàn năm đức tin, ông đâu có ngu, cũng đâu có vô học. Vậy tại sao trong khi giao tiếp, ông nghe theo mọi người về đức tin, trong khi ông biết từ chối những sự về tiền bạc hay về an toàn trên lộ? Ông không cảm thấy như vậy là điều nhục, dù nói về loài người, khi đặt Thiên Chúa sau tiền bạc và các con đường.
- Tôi không đặt Thiên Chúa sau tiền bạc, nhưng tôi đã lạc mất Người...
- Vì ông đã lấy việc buôn bán, tiền bạc, đời sống làm Thiên Chúa. Nhưng cũng vẫn còn là Thiên Chúa đã cho phép ông có những thứ đó... Vậy tại sao ông đã vào Đền Thờ?
- Vì tò mò. Trên đường ra khỏi một nhà mà tôi đã mặc cả các hàng hóa, tôi thấy một nhóm người tôn kính Thầy, và tôi nhớ lại buổi đàm thoại mà tôi đã nghe ở Ascalon, trong nhà người đàn bà làm thảm. Tôi đã hỏi xem Thầy là ai, bởi vì tôi nghi Thầy là người mà người đàn bà đã nói với tôi. Khi đã biết, tôi theo sau Thầy. Sau đó tôi đi lo cho xong các áp phe của tôi ngày hôm đó, rồi tôi mất dấu vết của Thầy. Tại Jêricô, tôi lại thấy Thầy, nhưng chỉ có một lát. Rồi hôm nay tôi lại tìm thấy Thầy... Đó...
- Vậy là Thiên Chúa đã kết hợp cho con đường của chúng ta giao nhau. Tôi không có qùa để tặng cho ông vì lòng tốt của ông, nhưng trước khi rời ông, tôi mong làm cho ông một ơn, để ít nhất, ông không bỏ rơi tôi như trước nữa.
528
- Không. Tôi sẽ không làm vậy. Alexandre Misace không rút lui khi nó được tặng. Đây, sau khúc quẹo này là miền dân cư, tôi tới đó trước. Chúng ta sẽ gặp nhau ở nhà trọ - Rồi ông thúc con vật và đi hầu như phi nước đại trên bờ đường.
- Đó là một người thật thà và tội nghiệp, con nhỉ - Maria nói.
- Và mẹ muốn ông ta được sung sướng theo sự khôn ngoan, phải không?
Và hai người mỉm cười êm đềm với nhau trong bóng tối đầu tiên của buổi chiều tà.
***
Trong buổi chiều dài của tháng mười, tụ họp tất cả trong một phòng mênh mông của nhà trọ, các người du hành chờ giờ ngủ.
Trong một góc, người lái buôn ngồi một mình, bận rộn tính toán. Trong góc đối diện, Giêsu với tất cả các người của Ngài. Không có khách nào khác. Từ chuồng súc vật vọng lại tiếng lừa kêu, ngựa hí, dê cừu be be. Điều đó cho ta đoán được là trong quán trọ có những người khác nữa, nhưng có lẽ họ đã lên giường.
Margziam đã ngủ trong tay Bà Chúa, quên đi cả việc mình là “người lớn”. Phêrô cũng ngủ, và không phải chỉ có mình ông, cả các bà lớn tuổi ưa nói cũng đã mơ màng và nín thinh. Còn thức chỉ có Giêsu, Maria, hai cô em của Lazarô, Sintica, Simon Zêlote, Gioan và Juđa.
Sintica đang lục lọi như muốn tìm cái gì trong giỏ của Gioan Enđo, nhưng rồi cô ta bỏ rơi, tới bên các người khác để nghe Juđa Alphê nói về những hậu qủa của việc lưu đày bên Babylon, và sau cùng ông nói: “... có lẽ cái ông này cũng có cái hậu qủa đó. Tất cả các cuộc lưu đày đều là hư hỏng...” Sintica làm một dấu hiệu vô tình bằng đầu, nhưng cô không nói gì, và Juđa Alphê kết thúc: “Nhưng thật lạ là một người có thể lột bỏ cái kho tàng của bao thế kỷ để trở nên hoàn toàn mới, nhất là trong vấn đề tôn giáo, và một tôn giáo như của chúng ta...”
Giêsu trả lời: “Con không phải ngạc nhiên. Hãy nhìn Samari ngay giữa lòng Israel”.
529
Một yên lặng... Đôi mắt thâm u của Sintica nhìn đăm đăm bán ảnh khuôn mặt trong sáng của Giêsu. Cô nhìn cách chăm chú, nhưng cô không nói gì. Giêsu cảm thấy cái nhìn này nên quay lại nhìn cô:
- Con không cảm thấy điều gì ý vị cho con?
- Không, Chúa ơi, con đi tới chỗ không còn biết hòa giải qúa khứ với hiện tại, những tư tưởng trước đây với những tư tưởng bây giờ. Con thấy như con có sự phản bội, vì các tư tưởng cũ của con thực sự đã giúp con có những tư tưởng bây giờ. Vị tông đồ của Thầy đã nói đúng... nhưng cái hư hỏng của con là cái hư hỏng có phước.
- Cái gì hư hỏng đối với con?
- Chúa ơi, tất cả lòng tin về Olympe của dân ngoại. Nhưng con hơi băn khoăn, vì khi đọc kinh thánh của qúi vị - Gioan đã cho con và con đã đọc, vì không biết thì không chiếm hữu được - Con thấy ngay trong lịch sử của qúi vị... những bắt đầu, con nói, có những sự kiện không khác mấy của chúng con. Bây giờ con muốn biết...
- Thầy đã nói với con rồi: hãy hỏi và Thầy sẽ trả lời.
- Có phải tất cả đều là sai lầm trong tôn giáo về các thần?
- Ừ, chỉ có một Thiên Chúa không sinh ra từ các Thiên Chúa khác. Người không lệ thuộc các đam mê hay nhu cầu nhân loại. Một Thiên Chúa Độc Nhất, Vĩnh Cửu, Toàn Thiện, là Đấng Tạo Hóa.
- Con tin vậy. Nhưng con muốn có thể trả lời, không phải dưới một dạng không chấp nhận thảo luận, nhưng dưới dạng thảo luận để thuyết phục, để trả lời cho những câu hỏi mà người ngoại giáo có thể đặt ra cho con. Con, bởi chính con, và nhờ ơn Thiên Chúa nhân hậu và có tình phụ tử này, con được cho những câu trả lời vô hình dạng, nhưng đủ để tâm hồn con được bình an. Nhưng con muốn đi tới Chân Lý. Những người khác đi tìm nó với ít lo âu hơn con, nhưng tất cả đều muốn sự tìm tòi này. Con không có ý định ở trơ trơ bên cạnh các linh hồn. Cái con có, con muốn cho. Để có thể cho thì con phải biết. Hãy cho phép con biết và con sẽ phục vụ Thầy nhân danh tình yêu. Hôm nay, trên đường đi, trong khi chiêm ngắm cảnh rừng núi và một số phong cảnh làm sống lại trong trí nhớ con các
530
dẫy núi Hellade và lịch sử quê hương. Sự kết hợp tư tưởng nhắc con nhớ chuyện thần thoại của Prométhée và của Deucalion... Qúi vị cũng có chuyện giống vậy trong việc giáng phạt Lucifer, trong sự chích sự sống vào cho đất sét, và trong Đại Hồng Thủy của Noe. Hơi hơi đồng thời, nhưng cũng là những kỷ niệm. Bây giờ hãy nói cho con: Làm sao chúng con có thể biết những thứ đó nếu không có những giao tiếp giữa chúng con và qúi vị. Nếu qúi vị có những thứ đó thì chắc chắn là có trước chúng con, nhưng chúng con cũng có trong khi không có phương tiện để đi lên tới nguồn gốc. Chúng con chẳng biết gì về biết bao điều. Vậy làm sao đã từ bao ngàn năm, chúng con có những huyền thoại nhắc lại những chân lý của qúi vị?
- Con ơi, con phải hỏi Thầy điều này ít hơn những người khác. Qủa vậy, con đã đọc những tác phẩm tự nó có thể trả lời cho câu hỏi của con. Hôm nay, vì sự phối hợp của tư tưởng, con đã đi từ kỷ niệm của núi đồi quê hương tới kỷ niệm về những chuyện thần thoại quê hương và sự so sánh nó, phải không? Tại sao vậy?
- Bởi vì tư tưởng của con sống dậy, nó nhớ lại.
- Đúng lắm. Cũng vậy, các linh hồn của các tổ tiên xa xôi nhất đã cho trái đất một tôn giáo, cũng nhớ lại. Tuy nó lộn xộn như một kẻ bất toàn làm, và xa lìa với tôn giáo được mặc khải, nhưng nó luôn luôn nhớ lại. Trong thế giới có rất nhiều tôn giáo. Nếu chúng ta có ở đây một cái bảng với tất cả các đặc điểm của nó, chúng ta sẽ thấy như một sợi chỉ vàng bị mất đi trong đống bùn mênh mông. Một sợi chỉ với những nút buộc giữ những mảnh nhỏ của chân lý thực.
- Nhưng chúng ta không phải tất cả đều đến từ cùng một thân sao? Thầy đã nói vậy. Tại sao các tổ tiên của các tổ tiên đến từ cái thân nguồn gốc, lại không biết mang chân lý theo với họ. Có phải là bất công đã để mất nó không?
- Con đã đọc sách Sáng Thế rồi phải không? Con tìm thấy gì? Lúc bắt đầu, một tội lỗi phức tạp bao trùm ba tình trạng của con người: vật chất, tư tưởng và thần trí. Rồi tội huynh đệ tương tàn, rồi một sát nhân kép để cân bằng với công việc của Hênoc để giữ ánh sáng trong các con tim. Rồi sự đồi bại do các giao kết tình dục giữa
531
các con trai Thiên Chúa với các con gái của máu huyết. Và mặc dầu sự thanh tẩy của lụt cả và việc làm lại nòi giống từ một hạt giống tốt, không phải từ đá như chuyện thần thoại của con, cũng không phải từ việc ăn cắp lửa của sự sống bằng một công việc của nhân loại, nhưng bởi sự phú ban lửa sự sống bằng công việc của Thiên Chúa. Đất sét đầu tiên đã sống động, do Thiên Chúa nặn ra theo hình ảnh Người và có hình dạng con người, thì đây, lại một lần nữa kiêu căng dậy men: “Chúng ta sẽ lên tới trời”, và sự nguyền rủa của Thiên Chúa: “Nó phải phân tán và không hiểu nhau nữa”... Và cái thân duy nhất, giống như một dòng nước đụng phải một tảng đá, phân tán ra thành nhiều khe suối không hợp lại nữa.Và đó, họ phân chia, một nòi trở thành nhiều nòi. Nhân loại chạy trốn do tội của nó và do hình phạt của Thiên Chúa, nó phân tán và không hợp lại nữa, mang theo với nó những lộn xộn mà kiêu căng đã sáng tạo ra. Nhưng các linh hồn vẫn nhớ, vẫn còn cái gì luôn luôn ở lại trong nó. Và những người đạo đức nhất và khôn ngoan nhất hé thấy một ánh sáng, mặc dầu nó mờ, trong những tối tăm của các thần thoại: Ánh sáng của Chân Lý. Đó là cái kỷ niệm về ánh sáng thấy trước đời sống. Nó lay động trong linh hồn những sự thật, trong đó có những mảnh vụn của Chân Lý mặc khải. Con hiểu Thầy không?
- Hiểu một phần. Nhưng bây giờ con đi suy nghĩ. Đêm là bạn của những người suy nghĩ và trầm tư trong chính mình họ.
- Vậy chúng ta đi trầm tư mặc tưởng, mỗi người trong chính mình. Nào, các bạn. Bình an cho các con. Bình an cho các con môn đệ. Bình an cho ông, Alexandre Misace.
- Chào Chúa. Thiên Chúa ở cùng Ngài - người lái buôn nói trong khi cúi mình.
151* TỪ RAMOT TỚI GÊRASA
Trong ánh sáng hơi chói của một buổi sáng gió nhẹ, các đặc tính riêng biệt của xứ này hiện ra trong tất cả vẻ đẹp nguyên sơ của nó:
532
được đặt trên mặt đá bằng ở giữa một vòng triều thiên sườn dốc đứng cao thấp khác nhau. Ta nói nó là một cái mâm bằng đá lớn, trên đó đặt các căn nhà, các lều, các cầu, các phông-ten, tất cả những thứ ở trên đó như để giải trí cho một đứa trẻ khổng lồ.
Các căn nhà như được điêu khắc bằng đá vôi là thứ làm nền tảng cho miền này. Chúng được xây cất bằng những tảng đá chồng lên nhau, không trét hồ, cắt gần như vuông, giống như đồ chơi con cờ mà một đứa trẻ khéo tay đã xếp.
Ở tất cả chung quanh xứ nhỏ này, người ta được ngắm đồng quê mầu mỡ, nhiều cây cối với các loại canh tác khác nhau. Nhìn từ trên cao, thấy giống như một chiếc thảm, nơi có thể phân biệt các ô vuông, các hình thang, hình tam giác. Những mảnh đất mới cuốc và những mảnh khác mầu ngọc bích vì mưa thu đã làm cỏ mọc; mảnh khác nữa thì đỏ bởi những lá sau cùng của các cây nho hay cây ăn trái. Cũng có những mảnh xanh xám của các cây bạch dương và cây liễu, hoặc mầu xanh tráng men của các cây sồi và cây keo; hoặc xanh mầu rỉ đồng của cây trắc bá và cây bách tùng. Phong cảnh rất đẹp, rất đẹp!
Rồi các con đường thì rẽ ra như phát xuất từ một cái nút bằng băng vải, từ trong xứ chạy tới những đồng bằng ở xa, hoặc về những miền núi còn cao hơn, cắm sâu vào dưới cây rừng hoặc giống như đường kẻ mầu nâu sậm, phân chia các đồng cỏ xanh, hoặc các vùng đất nâu của các cánh đồng đã cày bừa.
Có một dòng nước vui tươi mầu bạc ở bên ngoài xứ khi đi về nguồn, nhưng ở phía đối diện thì trở thành xanh lơ như ngọc, khi chảy xuống thung lũng giữa khe núi và sườn dốc, lúc ẩn lúc hiện thất thường, càng lúc càng mạnh và càng xanh khi lượng nước tăng, làm cho các đám sậy và cỏ, trong mùa khô thì xanh rờn ở lòng suối, bây giờ bị nước ngập hết, phản chiếu mầu da trời sau khi đã chôn vùi cây cỏ dưới lớp nước dầy.
Bầu trời xanh lơ như không thực: một lớp vảy qúi mầu lơ đậm rực rỡ, không một vết rạn trong toàn khối tuyệt vời của nó.
Đoàn lữ hành tiến bước, vẫn còn các phụ nữ trên lưng các con
533
vật, vì người lái buôn nói đường sá rất mệt ở bên ngoài xứ, và phải đi lẹ để tới Gêrasa trước khi đêm xuống. Được phủ ấm, khoan khoái sau khi đã nghỉ ngơi, họ tiến bước mau lẹ trên đường lên dốc giữa rừng rậm, vòng quanh một sườn cao của ngọn núi đơn độc, vươn lên như một tảng đá khổng lồ ở bên trên những ngọn núi khác phía dưới. Một ngọn khổng lồ tới nỗi ở điểm cao nhất, ta thấy giống như ngọn Apennin của chúng ta.
- Galaad - người lái buôn nói và đưa tay chỉ. Ông vẫn ở gần Giêsu và cầm giây cương con la của Đức Trinh Nữ. Và ông thêm: “Sau đó đường sẽ tốt hơn. Thầy chưa bao giờ tới đây à?”
- Chưa bao giờ. Tôi đã muốn tới vào hồi mùa xuân, nhưng ở Galgala tôi bị đuổi.
- Đuổi Thầy à? Sai lầm chừng nào!
Giêsu nhìn ông ta và nín lặng.
Người lái buôn đã đặt Margziam lên yên, vì nó thực tình khổ với đôi chân ngắn của nó mà phải theo những bước lẹ của con vật. Phêrô cũng biết cái khổ đó. Ông lẹ chừng nào! Ông tiến bước, cố gắng một cách nặng nề để theo kịp những người khác, nhưng ông vẫn bị cách quãng với đoàn. Ông chảy mồ hôi, nhưng ông bằng lòng vì ông nghe thằng Margziam cười, ông thấy Bà Chúa nghỉ ngơi và thấy Giêsu vui sướng. Ông thở hổn hển khi ông nói chuyện với Mathêu và em Andrê của ông là những người ở sau đuôi như ông, và ông làm họ cười khi ông nói rằng nếu ông có đôi cánh giống như ông có đôi chân thì sáng nay ông sẽ rất hạnh phúc. Ông cũng như mọi người, đã cởi bỏ tất cả gánh nặng bằng cách buộc các giỏ xách của họ vào yên của các phụ nữ. Nhưng con đường quả là khó bước trên những cục đá mà sương đã làm cho trơn. Hai ông Giacôbê với Gioan và Thađê thì mạnh hơn nên theo sát các con la của các bà. Simon Zêlote nói chuyện với Gioan Enđo. Timon và Hermastê cũng bận dẫn các con la.
Sau cùng đoạn đường khó khăn nhất đã vượt qua, và một quang cảnh hoàn toàn khác biệt được cống hiến cho nhãn quan đầy ngạc nhiên. Thung lũng sông Giođan đã hoàn toàn biến mất. Bây giờ
534
con mắt khám phá ở phía đông một cao nguyên rộng mênh mông, trên đó chỉ có các vết dợn của các ngọn đồi hơi cao hơn, để làm giảm sự đều đều của những cảnh giống nhau. Tôi không bao giờ nghĩ rằng tại Palestin có những cảnh như vầy. Tựa như sau cơn bão đá của núi non, nó tự thạch hóa và dịu lại thành một làn sóng khổng lồ, treo giữa mức nền ở chân núi và trời, như kỷ niệm duy nhất của cơn giận đầu tiên của nó. Những dẫy đồi này giống như các đỉnh sóng sủi bọt cứng ở đó đây, trong khi nước của ngọn sóng trải ra trên mặt bằng tráng lệ tuyệt vời. Người ta vào trong vùng bình an và sáng láng này qua một cái đèo sau chót, hoang dại tựa như vực sâu giữa hai ngọn sóng đập vào nhau, hai ngọn sóng sau cùng của cơn bão. Dưới đáy có một con suối khác sủi bọt, chảy về phía tây, nó tới từ phía đông theo một lộ trình ngoằn ngoèo, giận dữ, qua các khe đá, đổ xuống ồn ào trái ngược với cảnh an bình ở xa của vùng cao nguyên mênh mông.
- Bây giờ đường tốt. Nếu Thầy cho phép, tôi sẽ ra lệnh nghỉ - người lái buôn nói.
- Tôi, tôi để ông dẫn dắt. Ông biết đường mà!
Họ xuống dốc và rải rác ra khắp sườn dốc để tìm củi nấu đồ ăn và nước cho những đôi chân mệt mỏi, cho những cổ họng khát khô. Các con vật mà người ta đã bỏ gánh nặng ra cho nó, gặm lớp cỏ rậm, hay xuống uống ở dòng suối trong. Mùi nhựa thông và mùi thịt nướng xông ra từ các đống lửa mà họ nướng thịt chiên.
Các tông đồ cũng nhúm lửa và nướng cá ướp mặn, đã rửa trước trong nước suối mát. Nhưng người lái buôn nhìn thấy họ nên mang tới cho họ một con chiên hay con dê nhỏ và bó buộc họ phải nhận. Phêrô nhận trách nhiệm nướng sau khi đã ướp hương vị.
Bữa ăn sửa soạn mau và tiêu thụ mau. Dưới mặt trời chiếu thẳng lúc chính ngọ, họ lại lên đường trên con lộ tốt vòng theo bờ suối về hướng đông bắc, trong một vùng phì nhiêu tuyệt vời và canh tác cẩn thận. Nhiều đàn cừu và heo, vừa gầm gừ vừa chạy trốn trước đoàn lữ hành.
- Chúa ơi, thành phố có tường bao quanh này là Gêrasa, thành
535
phố của một tương lai sán lạn. Bây giờ nó đang phát triển, và tôi nghĩ mình không lầm khi nói rằng nó đua tranh mau lẹ với Joppê và Ascalon, với Tyr và nhiều thành phố khác về vẻ đẹp, thương mại và giầu sang. Các người Rôma thấy sự quan trọng của trục giao thông này, đến từ Biển Đỏ, và bởi đó, cũng từ Ai Cập, qua Damas, tới biển Pontique. Họ giúp người Gêrasa xây cất... Họ tinh mắt và sáng trí. Lúc này nó chỉ có một số dịch vụ, nhưng sau này!... Ồ, nó sẽ đẹp và giầu, một Rôma nhỏ với các đền thờ, các hồ tắm, các dàn xiếc, các nhà tắm hơi. Tôi, tôi chỉ có ở đó những nhà để buôn bán, nhưng tôi đã tậu ở đó nhiều mảnh đất để xây các cửa tiệm, để bán lại đắt, sau khi đã mua rẻ mạt. Có lẽ tôi sẽ xây một căn nhà thực sự giầu sang để ở đó khi về già, lúc mà Baldassar, Nabor, Félix và Sidmia có thể điều hành cách đáng nể các cửa hàng ở Sinope, Tyr, Joppê và Alexandrie tại cửa sông Nil. Trong khi đó, ba đứa con trai khác sẽ lớn lên, và có lẽ tôi sẽ cho chúng các cửa hàng ở Gêrasa, Ascalon và Jêrusalem. Và các con gái, giầu và đẹp, sẽ được người ta tìm kiếm, sẽ làm những cuộc hôn nhân giầu sang, và sẽ cho tôi nhiều cháu chắt...
Người lái buôn mơ, mắt mở to về một tương lai rực rỡ. Giêsu bình tĩnh hỏi: “Và rồi sau đó?”
Người lái buôn lắc đầu, nhìn Người do dự, rồi ông nói: “Và sau đó... đó là tất cả. Sau đó cái chết sẽ đến... Thật buồn, nhưng là vậy”.
- Và ông sẽ từ bỏ mọi hoạt động, mọi cửa hàng sao? Mọi tình cảm nữa à?
- Nhưng, Chúa ơi! Tôi đâu muốn vậy. Nhưng bởi vì tôi đã được sinh ra, tôi cũng phải chết, và tôi phải bỏ tất cả - và ông thở dài đến nỗi hơi thở của ông có thể thổi bay cả đoàn lữ hành.
- Nhưng ai bảo ông là sau khi chết, người ta bỏ tất cả?
- Ai à? Nhưng đó là các sự kiện! Khi người ta chết... không còn gì nữa. Không còn tay, không còn mắt, không còn lỗ tai...
- Ông đâu phải chỉ là tay, mắt và lỗ tai.
- Tôi là một người, tôi biết. Tôi có cái gì khác. Nhưng tất cả đều
536
chấm dứt với cái chết. Cái đó giống như mặt trời lặn. Sự lặn của nó làm nó biến mất.
- Nhưng bình minh lại tái tạo nó, hay đúng hơn là lại đem nó trở lại. Ông đã nói, ông là một người, ông không phải là con vật như cái con mà ông cỡi. Nó, một khi chết là thực sự chấm dứt, ông thì không. Ông có linh hồn, ông không biết sao? Ông không biết cả đến điều đó hay sao?
Người lái buôn nghe lời trách buồn, buồn và êm đềm, ông cúi đầu và rì rầm: “Điều đó thì tôi còn biết...”
- Vậy thì sao? Ông không biết là linh hồn vẫn sống?
- Tôi biết.
- Vậy thì sao? Ông không biết rằng nó vẫn luôn luôn sinh hoạt trong đời sống bên kia? Một đời thánh, nếu nó thánh; một đời xấu, nếu nó xấu. Nó có tình cảm của nó. Ôi, như là nó có: tình yêu, nếu nó thánh; thù ghét, nếu nó bị kết án. Thù ghét với ai? Với những nguyên nhân làm cho nó bị kết án. Trong trường hợp của ông là: các sinh hoạt, các cửa tiệm, các tình cảm hoàn toàn nhân loại. Tình yêu thì với ai? Cũng với cùng một thứ như vậy. Và một linh hồn an nghỉ trong sự bình an của Chúa sẽ mang lại cho con cái và các sinh hoạt của chúng biết bao phúc lành!
Người đó suy nghĩ, rồi ông nói: “Trễ rồi. Bây giờ tôi đã qúa già”. Và ông dừng con la lại.
Giêsu mỉm cười và trả lời: “Tôi, tôi không ép ông. Tôi chỉ khuyên ông”. Rồi Người quay lại để nhìn các tông đồ, trong khi dừng chân trước khi vào thành phố, đang giúp các phụ nữ xuống, và cầm lấy giỏ xách của họ.
Đoàn lữ hành lại bước, vội vã đi vào thành phố nhộn nhịp, qua một cái cổng có hai tháp gác.
Người lái buôn trở lại với Giêsu: “Thầy còn muốn ở với tôi không?”
- Nếu ông không đuổi tôi đi, tại sao tôi lại không muốn?
- Vì điều tôi đã nói với Thầy. Với Thầy, Đấng Thánh, chắc tôi gây sự ghê tởm.
537
- Ồ, không. Tôi tới vì những người giống như ông. Tôi yêu các ông vì các ông là những người cần hơn cả. Ông chưa biết tôi đâu. Nhưng tôi là Tình Yêu, vừa đi qua, vừa ăn mày tình yêu.
- Vậy Thầy không ghét tôi?
- Tôi yêu ông.
Một tia sáng xuyên vào đáy mắt của người đàn ông. Nhưng rồi ông nói với một nụ cười: “Vậy chúng ta sẽ ở lại với nhau. Tôi sẽ ở lại Gêrasa ba ngày cho công việc. Tôi sẽ để các con la lại để đổi lấy lạc đà. Tôi thay đổi đoàn vật tại những nơi lộ trình xa nhất. Tôi có đầy tớ để săn sóc các con vật mà tôi để lại ở nơi này. Còn Thầy, Thầy sẽ làm gì?”
- Tôi sẽ giảng Tin Mừng trong ngày Sabát. Tôi sẽ từ giã ông nếu ông không nghỉ ngơi, vì ngày Sabát được thánh hiến cho Chúa.
Người đàn ông nhíu trán suy nghĩ, tựa như tiếc để tỏ lộ sự đồng ý: “... Phải... Đúng vậy. Nó được thánh hiến cho Chúa Israel. Nó được thánh hiến, nó được thánh hiến”. Ông nhìn Giêsu: “Tôi dâng hiến nó cho Thầy, nếu Thầy cho phép”.
- Dâng cho Thiên Chúa, không phải cho tôi tớ Người.
- Cho Thiên Chúa và cho Thầy bằng cách đi nghe Thầy. Tôi sẽ làm các việc bữa nay và sáng mai, rồi tôi sẽ nghe Thầy. Bây giờ Thầy tới nhà trọ chứ?
- Dĩ nhiên rồi. Tôi có các phụ nữ, và ở đây tôi không được người ta biết.
- Đây là nhà trọ của tôi, của tôi bởi vì ở đây là chuồng súc vật của tôi từ năm nọ tới năm kia. Nhưng tôi có những phòng rộng mênh mông để chứa hàng. Nếu Thầy quyết định...
- Thiên Chúa sẽ thưởng công cho ông. Chúng ta đi.
152* THUYẾT GIÁO TẠI GÊRASA
Người đã nghĩ rằng Người không được biết tới ! Buổi sáng hôm sau, khi người bước chân ra khỏi cửa tiệm của Alexandre, Người
538
thấy người ta đã đang chờ Người. Giêsu chỉ có các tông đồ đi theo, các phụ nữ và các môn đệ ở lại nhà để nghỉ.
Người ta chào Người và vây quanh Người mà nói rằng họ biết Người, bởi vì họ đã nghe một người được chữa khỏi bị qủi ám nói. Người này bây giờ vắng mặt, vì ông ta đi theo hai môn đệ đã ghé qua đó mấy ngày trước. Giêsu nghe cách nhân hậu những lời tường thuật này trong khi đi qua thành phố mà nhiều nơi vang lên những tiếng đập của các cơ xưởng: thợ nề, thợ làm sân, thợ đẽo đá, gò, hàn, thợ mộc, làm công việc xây cất, đang san bằng hoặc đổ đầy các mảnh đất cao độ khác nhau, đục các tảng đá để xây tường, cắt, gò sắt thép cho những dụng cụ khác nhau; cưa, bào, tiện những cọc nhọn với các cán bằng cây chắc mạnh.
Giêsu đi qua và nhìn. Người băng qua cái cầu bắc trên một dòng suối nhỏ chảy ồn ào đi qua chính giữa miền. Nhà cửa xếp hàng hai bên bờ suối như có ý làm thành một cái cảng. Rồi Người đi lên về phía phần đất cao của thành phố. Nơi này gồ ghề, phía tây nam cao hơn phía đông bắc, nhưng hai bên đều cao hơn trung tâm thành phố bị cắt làm hai bởi dòng nước nhỏ. Quang cảnh đẹp nơi Giêsu dừng lại. Từ đây nhìn thấy tất cả thành phố khá lớn, và ở phía sau, về phía đông, phía nam và phía tây, các đồi xếp thành hình móng ngựa, sườn thoai thoải, xanh rờn, trong khi ở phía bắc, tầm mắt trải ra trên một đồng bằng trống trải mênh mông, cho thấy một mô cao xuất hiện ở chân trời mà khó lòng có thể gọi nó là đồi. Tất cả đều hoe vàng dưới mặt trời ban mai, phủ lá vàng cho những cây nho mọc kín mảnh đất trống này, tựa như nó muốn làm dịu cái buồn của những chòm lá chết, nhờ sự rực rỡ của lớp vàng.
Giêsu quan sát các người Gêrasa đang nhìn Người, Người thu phục họ bằng cách nói:
- Thành phố này rất đẹp. Hãy làm cho nó cũng đẹp về công chính và thánh thiện. Các đồi, suối, đồng bằng xanh tươi, là của Thiên Chúa ban cho các con. Bây giờ Rôma giúp các con xây nhà cửa và các dinh thự đẹp, nhưng chỉ mình các con có thể cho thành phố các con cái tên: thành phố thánh và công chính. Thành phố là cái mà dân thành phố làm ra nó. Vì thành phố là một phần của xã
539
hội nằm trong các bức tường, nhưng cái làm nên thành phố chính là người dân. Thành phố, trong chính nó, nó không phạm tội: con suối, cái cầu, nhà cửa, chòi tháp... không thể phạm tội. Đó là những vật liệu, không phải linh hồn. Nhưng các người ở trong các bức tường của thành phố, trong các nhà, các cửa tiệm, các kẻ đi trên cầu, các kẻ tắm trong suối... có thể phạm tội. Người ta nói về một thành phố phiến loạn và độc ác rằng: “Đó là một thành phố rất xấu”. Nhưng đó là nói sai, không phải thành phố xấu, mà là các người dân xấu.
Những cá nhân này, một khi đoàn tụ lại, sẽ trở thành một cái duy nhất, phức tạp nhưng vẫn là duy nhất, và chính nó đáng được gọi cái tên của thành phố. Bây giờ hãy nghe đây: nếu trong thành phố có mười ngàn người dân tốt, và chỉ có một ngàn người không tốt, thì người ta có thể nói là thành phố này xấu không? Không, người ta không thể nói như vậy. Cũng thế, nếu một thành phố có mười ngàn dân và chia làm nhiều đảng, mỗi đảng lo làm tăng gía trị phần mình, thì người ta có thể nói là thành phố này hợp nhất không? Không, nó không hợp nhất.
Các con, dân thành Gêrasa, bây giờ các con hợp nhất trong tư tưởng làm cho thành phố các con thành cái gì vĩ đại, và các con sẽ thành công, bởi vì tất cả các con đều muốn cùng một điều, và các con đua nhau để đạt mục đích. Nhưng nếu giữa các con nổi lên những đảng khác nhau, và một người đến nói: “Không, tốt hơn là phát triển về phía tây”, và một người khác: “Không được, chúng tôi đi về phương bắc, phía đồng bằng”, và một người thứ ba: “Không ở đây, cũng không ở đó, chúng tôi muốn tụ họp ở trung tâm, gần dòng suối”. Cái gì sẽ xảy ra? Xảy ra là công việc đã bắt đầu sẽ ngừng lại. Những người cho mượn vốn sẽ rút lại, và những người có ý định lập cư ở đây sẽ bỏ đi tới thành phố khác đoàn kết hơn, và những gì đã làm sẽ rơi vào đổ nát vì bị phơi ra mưa gió, và sẽ không hoàn tất được vì sự chia rẽ của người dân.
Có như vậy không nào? Các con nói là có như vậy, và các con nói đúng. Vậy giữa các người dân phải có sự đồng lòng để làm tốt cho thành phố, và do đó, tốt cho người dân. Bởi vì trong xã hội,
540
điều tốt của xã hội sẽ làm thoải mái cho các thành phần của nó.
Nhưng không phải chỉ có cái xã hội mà các con nghĩ tới, cái xã hội của những người thuộc về cùng một thành phố hay cùng một nước, hay cái xã hội thân yêu bé tí là gia đình. Có một xã hội rộng lớn vô hạn là xã hội của các thần trí. Tất cả chúng ta, những người đang sống, đều có một linh hồn. Linh hồn này không chết với thể xác, nhưng nó sống đời đời. Tư tưởng của Thiên Chúa Tạo Hóa khi ban linh hồn cho con người, là để hết mọi linh hồn con người đều tụ họp tại một nơi: Nước Trời, nước mà quân vương là Thiên Chúa, là nơi những người được ở đó là những kẻ được sung sướng sau một đời sống thánh và cái chết bình an. Satan đã tới chia rẽ và làm rối loạn để phá hoại các linh hồn và làm buồn cho Thiên Chúa. Nó đã mang tội vào các con tim, và cùng với tội là cái chết cho cơ thể khi hết hạn hiện hữu, để hy vọng làm chết cho linh hồn. Cái chết cho linh hồn là sự kết án. Nó còn hiện hữu, nhưng là sự hiện hữu không có gì là sự sống thật, không có niềm vui vĩnh viễn, tức là phúc đức được nhìn xem Thiên Chúa và chiếm hữu Người trong ánh sáng đời đời. Và nhân loại chia rẽ trong ý muốn của nó cũng như xã hội chia rẽ thành các đảng đối nghịch nhau. Khi hành động như vậy, nó đi tới chỗ hư mất.
Thầy đã nói ở nơi khác với những kẻ kết án Thầy là xua đuổi ma qủi nhờ sự trợ giúp của Benzêbút: “Tất cả những nước chia rẽ trong nội bộ sẽ đi đến chỗ đổ vỡ”. Qủa vậy, nếu Satan xua đuổi chính nó, thì nó và vương quốc tối tăm của nó sẽ đi tới đổ vỡ. Thầy, vì tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người mà Ngài đã tạo dựng, Thầy đến để nhắc lại rằng chỉ có một nước là thánh: Nước Trời. Thầy đến rao giảng nó để những kẻ tốt chạy đến với nó. Ôi! Thầy muốn rằng mọi người, kể cả những người xấu nhất, cũng lên đó bằng cách hoán cải, giải thoát cho mình khỏi ma qủi, nhãn tiền trong những thân xác bị nhập, cùng với giải thoát thiêng liêng hoặc một cách kín đáo nơi những kẻ bị nhập thiêng liêng, bị giữ làm nô lệ. Vì vậy nên Thầy chữa bệnh tật, xua đuổi ma qủi ra khỏi các thân xác bị chiếm, hoán cải kẻ tội lỗi, tha thứ nhân danh Chúa, dạy dỗ về
541
nước Trời, hoàn thành những phép lạ để thuyết phục các con về quyền năng của Thầy, và chứng tỏ Thiên Chúa ở với Thầy. Vì người ta không thể làm phép lạ nếu người ta không có Chúa làm bạn. Thầy xua đuổi ma qủi nhờ ngón tay Thiên Chúa; Thầy chữa lành bệnh nhân, thanh tẩy người cùi, hoán cải tội nhân, loan báo nước Trời, cho những giáo huấn để đạt tới nó. Thầy kêu gọi tới đó nhân danh Thiên Chúa, và Thiên Chúa hạ cố tới Thầy một cách không chối cãi được, chỉ những kẻ thù bất chính mới nói ngược lại. Tất cả những điều đó là dấu chỉ rằng Nước Trời đã đến giữa các con, và nó phải được xây dựng, vì đã đến giờ để xây dựng nó.
Làm sao Nước Thiên Chúa tan hòa trong thế giới và trong các con tim? Bằng cách trở lại với luật Môise và bằng cách hiểu biết nó nếu chưa biết, nhất là bằng cách áp dụng lề luật vào chính mình trong mọi biến cố và mọi lúc của đời sống. Luật này có tính cách nào? Có phải là cái gì khắt khe tới nỗi không thể thi hành được không? Không. Đó là một toàn thể mười giáo điều thánh và dễ dàng mà một người tốt, thực sự tốt, đã ý thức được là phải giữ, dù là nó sống dưới cái mái lá chằng chịt trong rừng sâu bí hiểm của Châu Phi. Luật đó nói:
Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi, và không có Thiên Chúa nào khác ngoài Ta.
Đừng kêu Danh Chúa vô ích.
Hãy tôn trọng ngày Sabát theo giới răn của Thiên Chúa và nhu cầu của tạo vật.
Hãy tôn kính cha mẹ để được sống lâu và chiếm hữu của cải dưới đất cũng như trên Trời.
Đừng giết người. Đừng trộm cắp. Đừng gian dâm.
Đừng làm chứng gian chống lại tha nhân. Đừng thèm muốn vợ chồng người khác. Đừng ước ao của cải của người khác.
Có người nào có một tâm hồn tốt, dù là kẻ mọi rợ, khi quay nhìn
542
mọi vật ở chung quanh nó mà không biết tự nhủ: “Tất cả những thứ này không thể tự nó mà có. Vậy phải có một đấng mạnh hơn thiên nhiên và mạnh hơn chính con người, đã làm nên nó”. Và nó thờ lạy Sức Mạnh này, đấng mà nó biết hay không biết Tên Rất Thánh của Người, nhưng nó cảm thấy Người hiện hữu. Và nó đầy kính trọng khi xướng lên Danh Thánh ấy khi nó được cho biết, hoặc người ta dạy cho nó nói để gọi tên Người. Nó run lên vì kính trọng và có ý thức là cầu xin cùng Người chỉ bằng cách gọi tên Người với lòng kính trọng. Thực vậy, khi xướng danh Thiên Chúa với ý chỉ thờ lạy Người, hoặc nói cho những kẻ không biết được biết, cũng đã là cầu nguyện rồi.
Cũng vậy, chỉ vì một tinh thần khôn ngoan đơn giản, mọi người đều cảm thấy cần cho các chi thể nghỉ ngơi, để nó có thể chịu đựng bao lâu còn sống. Cùng với cái lý do nghỉ ngơi thuộc về sinh vật này, những người không biết Thiên Chúa của Israel là Đấng Tạo Hóa và là Chúa của vũ trụ, cũng ý thức được là nó phải dâng hiến cho Chúa để không trở nên giống như con vật chở nặng, mệt mỏi thì nghỉ trên lớp rơm để nhai trấu giữa hai hàm răng lực lưỡng.
Chính máu thịt cũng kêu tình yêu cho những thứ mà từ đó nó được sinh ra. Chúng ta có thể kiểm chứng nơi con lừa con kia, lúc này nó đang chạy ra đón mẹ nó ở chợ về. Nó đang chơi trong bầy, khi nó nhìn thấy mẹ nó, nó nhớ lại là đã được bú sữa của mẹ, được liếm cách yêu thương, được bảo vệ, được sưởi ấm bởi mẹ, và các con thấy không? Với cái mũi mềm, nó cà vào cổ mẹ nó, nó nhảy vui, cà mông vào cái sườn bụng đã mang nó. Yêu mến cha mẹ là bổn phận và là niềm vui. Không có con vật nào không yêu kẻ đã cưu mang nó. Vậy thế nào? Chẳng lẽ con người lại ở bên dưới con sâu sống trong bùn sao?
Một người tốt thì không giết người. Sự hung bạo làm họ cảm thấy ghê tởm. Họ ý thức là họ không có quyền cất lấy sự sống của bất cứ ai. Chỉ có mình Thiên Chúa, đấng đã ban nó là có quyền cất lấy nó, và họ từ chối sát nhân.
Cũng thế, kẻ có tinh thần ngay thẳng không chiếm đoạt của cải
543
của người khác. Họ thích ăn bánh với một lương tâm an bình gần bên vòi nước bạc hơn là miếng thịt nướng ngon bổ, nhưng là sản phẩm ăn cắp được. Họ thích ngủ trên đất, gối đầu trên cục đá, bạn bè với sao trời, những người bạn làm mưa bình an và khích lệ trên lương tâm ngay thật, hơn là giấc ngủ xao xuyến trên chiếc giường ăn cắp.
Và nếu họ có một lương tâm trong sáng, họ không ước ao người vợ nào khác ngoài vợ họ. Họ không hèn hạ nằm trên giường của người khác để làm dơ mình. Họ thấy vợ của bạn bè như người chị, nên họ không có cái nhìn và ước ao nào khác đối với bà ngoài cái mà người ta có đối với người chị.
Người mà tâm hồn ngay thẳng, dù chỉ cách tự nhiên, không biết của cải nào khác ngoài những của mà lương tâm ngay thẳng của họ cho họ. Họ không bao giờ cho phép mình làm chứng một điều tổn thương cho sự thật, vì việc đó đối với họ cũng giống như sát nhân và trộm cắp, và thực tình là như vậy. Môi miệng họ cũng ngay thẳng như con tim họ, và họ không có cái nhìn ước ao vợ người khác. Họ không có cả đến ước ao, vì họ biết rằng ước ao đẩy tới tội lỗi. Họ không ghen tị, vì họ tốt. Kẻ tốt không bao giờ ghen tị, họ bằng lòng với số phận của họ.
Các con thấy rằng lề luật này với những đòi hỏi của nó là không thể thi hành được sao? Các con đừng lầm. Thầy chắc rằng các con không lầm. Và nếu các con giữ như vậy là các con xây dựng Nước Thiên Chúa ở trong các con và trong thành phố các con. Và một ngày kia, các con sẽ thấy mình được hạnh phúc với những người mà các con yêu mến, những người cũng giống như các con, đã chinh phục được Vương Quốc vĩnh cửu, trong niềm vui vô tận của Nước Trời.
Nhưng ngay trong con người của chúng ta có những khát vọng, giống như những người dân bị nhốt trong các bức tường của một thành phố. Mọi khát vọng của con người phải hướng về cùng một việc: Biết sự thánh thiện, nếu không thì sẽ vô ích khi chỉ có một phần hướng về trời, còn các phần khác thì bỏ cửa ngỏ, không canh
544
gác, để tên cám dỗ lẻn vào, hoặc làm nó tê liệt bởi những cãi vã và lười biếng thiêng liêng, làm hư hỏng nội khu thành phố, thả nó cho các cây tầm ma, các cỏ độc hại, cỏ gấu; cho rắn rết, bọ cạp, chuột bọ; cho chó sói, cho chim cú, tức là cho các đam mê xấu và các thần của Satan. Phải tỉnh thức, không bao giờ được thiếu sót, giống như các lính canh người ta đặt gác trên tường để Đứa Ma Lanh không vào được nơi chúng ta muốn xây dựng nước Thiên Chúa.
Thật vậy, Thầy bảo các con, bao lâu một người khỏe mạnh mang khí giới canh gác trước cửa nhà họ, thì mọi thứ trong nhà được an toàn. Nhưng nếu có một người khỏe hơn họ tới, hoặc họ để cửa không canh giữ, khi đó người khỏe hơn sẽ thắng họ, tước khí giới của họ. Và khi bị mất cái khí giới mà ông ta tin cậy, ông bị hạ nhục, phải đầu hàng. Người mạnh sẽ bắt ông làm tù binh, chiếm đoạt của cải của kẻ nó thắng. Nhưng nếu người đó sống trong Thiên Chúa bằng cách trung thành với lề luật, thực hành sự công chính một cách thánh thiện, thì Thiên Chúa ở với họ, Thầy ở với họ, và không sự dữ nào có thể đến với họ. Sự kết hợp với Thiên Chúa là thứ khí giới không sức mạnh nào thắng được. Sự kết hợp với Thầy sẽ chắc chắn là chiến thắng, và thành qủa của các nhân đức sẽ là một chỗ trong nước Thiên Chúa được ban cho họ đời đời. Nhưng kẻ nào chia lìa với Thầy hoặc tự mình làm kẻ thù của Thầy, và như vậy là từ chối những vũ khí và sự an toàn của lời Thầy. Kẻ từ chối Ngôi Lời là từ chối Thiên Chúa; kẻ từ chối Thiên Chúa là kêu gọi Satan; kẻ kêu gọi Satan là phá hủy những gì nó có để chinh phục Nước Trời.
Bởi vậy kẻ không hợp với Thầy là chống đối Thầy. Kẻ không vun xới cái Thầy đã gieo, sẽ gặt hái những gì kẻ thù gieo. Ai không gặt hái với Thầy là phân tán, và nó sẽ đến trước Vị Thẩm Phán Tối Cao trong nghèo nàn và trần trụi. Người sẽ gởi nó về cho ông chủ mà nó đã tự bán mình khi nó thích Benzêbút hơn Đức Kitô.
Hỡi dân thành Gêrasa, hãy xây dựng Nước Thiên Chúa trong các con và trong thành phố của các con.
Tiếng nói sắc nhọn của một người đàn bà vang lên trong trẻo như tiếng hát ngợi khen bên trên tiếng ồn ào của đám đông đầy
545
thán phục, hát lên phúc đức mới, tức là vinh quang của Đức Maria: “Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy và các vú mà Thầy đã bú”.
Giêsu quay về người đàn bà đã tán dương người mẹ bằng sự cảm phục đối với người con. Người mỉm cười, vì đối với Người, lời ca tụng dành cho Mẹ Người thật là êm dịu. Nhưng rồi Người nói: “Phúc hơn cho kẻ nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành. Ôi! Hỡi bà, hãy làm như vậy”.
Rồi Giêsu chúc phúc và đi về phía đồng quê. Các tông đồ đi theo và hỏi Người: “Tại sao Thầy lại nói vậy?”
- Bởi vì, thật vậy, Thầy bảo các con: ở trên Trời, người ta không đo lường bằng những dụng cụ đo lường của trái đất, và mẹ Thầy sẽ có phước không vì tâm hồn vô nhiễm của mẹ cho bằng vì mẹ đã nghe lời Thiên Chúa và đã đem ra thực hành vì vâng lời. Câu: “Linh hồn Maria hãy được làm ra không tì ố” là một kỳ công của Đấng Tạo Hóa, vậy lời ca tụng được hướng về Thiên Chúa, nhưng câu: “Xin hãy làm cho tôi theo như lời Ngài” là một kỳ công của mẹ Thầy. Vậy chính đây là công lớn của mẹ. Rất lớn vì khả năng nghe lời Thiên Chúa được nói bởi miệng đức Gabriel, và vì ý muốn đem ra thực hành Lời của Thiên Chúa, không ngồi lại để cân đo những khó khăn, những đau khổ tức thời và tương lai sẽ đến do sự liên kết của Người để Đấng Cứu Chuộc thế gian đến. Vậy các con thấy mẹ là người mẹ phúc đức của Thầy, không phải chỉ vì mẹ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú, mà còn vì mẹ đã nghe lời Thiên Chúa và đem ra thi hành vì vâng lời. Nhưng bây giờ chúng ta hãy về nhà. Mẹ Thầy biết là Thầy ra ngoài không lâu, Người có thể sợ khi thấy Thầy về trễ. Chúng ta đang ở một xứ nửa phần là dân ngoại, nhưng thực sự, họ còn tốt hơn nhiều xứ khác. Chúng ta đi, quẹo ở sau các bức tường để tránh các đám đông giữ Thầy lại nữa. Đi lẹ lên lối đàng sau đám cây rậm này.
153* NGÀY SABÁT TẠI GÊRASA
546
Ngày giờ thật là dài khi người ta không biết làm gì. Và thực sự họ - những người ở với Giêsu - không biết làm gì trong ngày Sabát, tại một xứ mà họ không quen biết, trong một căn nhà mà ngôn ngữ, tập quán khác biệt đã phân chia họ, tựa như những thành kiến của dân Hy Bá không đủ để giữ họ tách rời ra đối với những người trong đoàn lữ hành và các đầy tớ của Alexandre Misace. Cũng có nhiều người nằm lại trên giường, hoặc mơ màng dưới mặt trời đang sưởi ấm cho cái sân vuông rộng của căn nhà, một cái sân thực sự được làm để tiếp nhận những đoàn lữ hành, với những bể nước, những vòng khoen cắm vào tường hay các cột của một hành lang thô kệch ở cả khắp bốn phía. Nhiều chuồng súc vật với các kho cỏ hay rơm ở ba bề. Các phụ nữ rút vào phòng của họ. Tôi không thấy ai cả.
Margziam cũng tìm được thứ giải trí trong cái sân khép kín. Nó quan sát công việc của các mã phu đang chải lông cho các con la, thay rơm, quan sát các móng sắt, đóng lại các móng bị long ra. Và rồi, chuyện này làm nó chú ý hơn, vì là chuyện mới: nó quan sát cách say mê cái lối các người chăn lạc đà làm với các con lạc đà, để chuẩn bị ngay từ bữa nay, các đồ mỗi con vật phải chở, sao cho cân đối với con vật, sao cho thăng bằng, và cách họ làm các con vật qùi xuống hay đứng lên để có thể chất hàng và xuống hàng. Rồi họ thưởng cho nó một nắm rau khô mà tôi thấy giống cây đậu tằm, và kết thúc bằng cách phân phát những qủa keo mà cả những người đàn ông cũng nhai một cách khoái chí.
Margziam thực sự ngạc nhiên, và nó nhìn chung quanh để tìm xem có ai để chia sẻ sự ngạc nhiên của nó. Nhưng nó thất vọng, vì những người lớn không chú ý tới lạc đà, họ hoặc nói chuyện với nhau, hoặc ngủ chập chờn. Nó đi tìm Phêrô, ông đang ngủ như vị thánh gối đầu trên cỏ êm. Nó lắc tay ông. Phêrô mở nửa con mắt và hỏi: “Có chuyện gì vậy? Ai cần tôi?”
- Con đây. Đi coi lạc đà đi.
- Để bố ngủ. Bố đã thấy nó biết bao rồi... Các con vật xấu.
Đứa trẻ đến tìm Mathêu. Ông đang tính toán sổ sách chi tiêu, vì
547
trong cuộc hành trình này, ông giữ kho: “Con đã ở gần các con lạc đà, ông biết không? Nó ăn giống như con cừu. Ông biết không? Nó qùi gối giống như người ta, và nó giống như cái thuyền với những cử động chòng chành của nó khi nó bước. Ông đã thấy nó chưa?”
Mathêu không còn biết các món chi tiêu của ông ở chỗ nào nữa sau cái gián đoạn này, ông trả lời khô khan: “Rồi”, và ông trở về với tiền của ông.
Một thất vọng khác... Margziam nhìn chung quanh nó... Kìa, Simon Zêlote và Juđa Thađê đang nói chuyện... “Các con lạc đà đẹp lắm cơ! Và chúng tốt. Họ chất hàng rồi xuống hàng cho chúng. Và chúng ngồi dưới đất để người ta không mệt. Rồi nó ăn những qủa keo. Mấy ông cũng ăn. Con khoái nó lắm mà con không biết làm sao cho họ hiểu. Tới đó đi ông...” Và nó cầm tay Simon. Ông này bị lôi cuốn bởi cuộc thảo luận êm đềm với Thađê, liền trả lời cách lơ đễnh: “Ờ, cưng... đi đi, đi đi. Cẩn thận, đừng để nó làm đau”.
Margziam nhìn ông ngạc nhiên... Simon không trả lời nó với cùng một giọng. Nó bỏ đi, gần khóc, tới đứng tựa vào một cái cột...
Giêsu ra khỏi phòng và thấy nó đang phụng phịu, một mình. Người đến bên nó và đặt tay trên đầu nó: “Con làm gì một mình ở đây và buồn vậy?”
- Chẳng có ai nghe con cả...
- Con muốn nói gì với những người khác?
- Chẳng có gì cả. Con nói về các con lạc đà... chúng đẹp... con khoái chúng. Trèo lên trên đó chắc là giống như đi thuyền... và chúng ăn trái keo, cả mấy ông nữa.
- Và con muốn trèo lên đó và ăn trái keo? Đi, chúng ta đi coi lạc đà.
Giêsu cầm tay đứa trẻ và đi với nó tới cuối sân. Nó tươi tỉnh hẳn lại. Người đi thẳng lại với một người chăn lạc đà và chào ông ta bằng một nụ cười. Người này cúi mình, rồi tiếp tục quan sát con vật của ông mà ông vừa chỉnh lại mảnh che trán và giây cương.
- Ông ơi, ông hiểu tiếng tôi không?
548
- Hiểu, Chúa ạ. Tôi biết qúi vị từ hai chục năm nay rồi.
- Đứa trẻ này có một ước ao lớn: leo lên con lạc đà... Và một ước ao nhỏ: ăn một trái keo - Và Giêsu lại cười cách linh hoạt hơn.
- Con trai ông à?
- Tôi không có con. Tôi, tôi không có vợ.
- Ông, đẹp trai và khỏe mạnh thế mà không tìm được một người đàn bà sao?
- Tôi không tìm họ.
- Ông không cảm thấy ước muốn một người đàn bà à?
- Không. Không bao giờ.
Người đó nhìn Người sửng sốt. Rồi ông nói: “Tôi có chín đứa con ở Ischilo... Mỗi lần tôi về đó là một đứa con. Tôi về đó: một đứa con. Luôn luôn”.
- Ông yêu các con ông lắm nhỉ?
- Máu tôi mà! Nhưng việc làm vất vả. Tôi ở đây, các con ở đó. Ở xa... Nhưng vì bánh của chúng nó. Ông hiểu chứ?
- Tôi hiểu. Vậy ông hiểu đứa trẻ muốn cỡi lạc đà và ăn trái keo chứ?
- Ừ, lại đây. Sợ không? Không. Hoan hô. Một đứa trẻ đẹp. Tôi cũng có những đứa như vầy. Đen như đứa này. Cầm lấy cái này, nắm chặt.
Và ông ta đặt vào tay nó một cái cán rất ngộ, cắm ở đàng trước yên: “Ngồi cho chắc. Bây giờ tao lên và con lạc đà sẽ đứng dậy. Không sợ, hen?”
Và người đó trèo lên cái yên cao, ngồi vào và gọi con lạc đà, nó vâng lời đứng dậy trong khi lắc lư rất mạnh. Margziam cười, sung sướng. Càng sung sướng hơn khi người đàn ông đút vào miệng cho nó một trái keo tuyệt vời. Người đó cho lạc đà đi bước một trong sân, rồi đi nước kiệu. Sau cùng thấy là Margziam không sợ, ông kêu cái gì với một trong các bạn ông, người này mở cái cổng lớn ở phía sau sân ra, và con lạc đà biến mất với gánh nặng trên lưng nó trong mầu xanh của đồng quê.
Giêsu trở vào nhà, vô phòng của các bà. Nụ cười của Người tươi
549
sáng đến nỗi Maria hỏi: “Con có chuyện gì mà vui qúa vậy?”
- Con có cái vui của Margziam, vì nó đang phi lạc đà. Hãy ra ngoài để coi nó trở về.
Mọi người đều ra sân và ngồi trên bức tường thấp gần bể nước. Các tông đồ, người nào không ngủ, cũng lại gần. Những người đang ở bên cửa sổ của các phòng trên lầu thì nhìn xuống, họ nhìn thấy và cũng xuống họp mặt. Nhiều giọng nói rõ ràng và trẻ trung loan báo cho Gioan và hai ông Giacôbê làm Phêrô cũng thức dậy, và Andrê lay Mathêu. Bây giờ họ ở đây toàn bộ, vì Gioan Enđo cũng tới cùng với hai môn đệ.
- Nhưng Margziam đâu? Tôi không thấy nó - Phêrô hỏi.
- Đang đi dạo trên lưng lạc đà. Không ai trong các con nghe nó. Thầy nhìn thấy nó buồn thiu nên Thầy cứu vãn nó.
Phêrô, Mathêu, Simon nhớ lại: “A! Vâng! Nó nói về lạc đà và các trái keo... Nhưng con, con buồn ngủ!”. “Con, con phải tính sổ, để tính với Thầy những món con đã nhận của các người Gêrasa, và các món con đã bố thí”. “Và con, con nói về đức tin với anh Thầy”.
- Không quan trọng. Thầy nghĩ đến đó rồi. Nhưng một cách tình cờ, Thầy bảo các con rằng: chính là tình yêu khi nghĩ tới trò chơi cho trẻ em... Nhưng chúng ta hãy nói chuyện khác. Ở bên ngoài, tất cả thành phố đang mừng lễ. Ngày Sabát của chúng ta thì chỉ còn là một kỷ niệm, một vui vẻ tổng quát. Vậy hãy ở lại trong nhà để nếu họ muốn, họ có thể tìm thấy chúng ta. Họ biết chúng ta ở đâu. Đó, Alexandre ra coi lại lạc đà của ông. Bây giờ Thầy tới nói với ông là thiếu mất một con tại lỗi Thầy.
Giêsu đi nhanh lại với người lái buôn và nói gì với ông ta, rồi hai người trở vào với nhau. Người lái buôn nói: “Tốt lắm. Nó dỡn và chạy dưới mặt trời sẽ khỏe. Thầy có thể chắc là người đó sẽ xử tốt với nó. Calipio là người anh dũng. Để đổi lại cuộc chạy lạc đà, tôi xin thầy nói cho tôi một điều. Đêm vừa qua tôi suy nghĩ về các lời Thầy... về những lời tôi đã nghe ở Ramot giữa Thầy và bà mẹ, và những lời hôm qua. Hôm qua tôi tựa như leo lên một ngọn núi cao ở miền đất tôi ở, những ngọn thực sự có cái đỉnh ở trong mây. Thầy
550
đã dẫn tôi lên cao, lên cao, lên cao. Tôi thấy mình như được mang đi bởi một con chim ưng, một trong các con của các ngọn đại non của chúng ta, con thứ nhất đã ra khỏi lụt cả. Tôi thấy những sự mới lạ chưa bao giờ tưởng tượng ra. Tất cả đều là ánh sáng... Và tôi hiểu. Rồi sau đó nó lại mờ đi. Thầy nói nữa đi!”
- Tôi phải nói gì?
- Nhưng, tôi không biết... Tất cả đều đẹp. Thầy đã nói là người ta gặp nhau ở trên Trời... Tôi hiểu là ở đó người ta yêu nhau kiểu khác, nhưng đồng đều. Ví dụ chúng ta không còn những lo lắng như bây giờ, nhưng chúng ta sẽ: mọi người vì mình và mình vì mọi người, tựa như chúng ta thuộc về cùng một gia đình. Tôi trình bày có sai không?
- Không. Không sai. Chúng ta sẽ là một gia đình duy nhất, cả với những người còn sống. Các linh hồn không bị ngăn cách bởi cái chết. Tôi nói về các người công chính. Họ làm thành một đại gia đình duy nhất. Hãy tưởng tượng đến một đền thờ rất lớn, trong đó có những người thờ phượng và cầu nguyện, có những người khác thì mệt mỏi. Những người loại thứ nhất cũng cầu nguyện cho những người mệt mỏi, những người loại thứ hai thì làm việc cho những người cầu nguyện. Các linh hồn cũng vậy. Chúng ta mệt mỏi trên mặt đất, họ nâng đỡ chúng ta bằng lời cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải dâng những đau khổ của chúng ta để cho họ được bình an. Đó là sợi giây xích vô tận. Chính tình yêu nối kết những kẻ đã sống với những kẻ đang sống, và những kẻ đang sống phải biết sống tốt để có thể gặp lại những kẻ đã sống là những kẻ đang mong ước có chúng ta ở bên họ.
Sintica làm một cử chỉ bất ý, cô ngừng lại ngay, nhưng Giêsu đã nhìn thấy và Người mời cô ra khỏi sự dè dặt mà cô ta luôn luôn giữ.
- Con suy nghĩ... và điều này đã nhiều ngày rồi, con suy nghĩ, và nói thật, nó đã làm con băn khoăn, vì con thấy như tin vào Thiên Chúa của Thầy là con mất luôn mẹ con và các chị con... - một tiếng nấc làm ngắt tiếng nói của Sintica, nàng dừng lại để khỏi khóc.
- Tư tưởng nào đã làm con băn khoăn đến vậy?
551
- Bây giờ con tin vào Thầy, con không thể gặp lại mẹ con, vì là dân ngoại. Bà rất tốt... Ôi! Tốt chừng nào! Và các chị con cũng vậy. Con bé Ismène là tạo vật tốt nhất mà trái đất đã mang. Nhưng họ đều là dân ngoại... Và con, khi con còn giống như họ, con nghĩ đến Hades và con nói: “Chúng ta sẽ đoàn tụ”. Bây giờ không còn Hades nữa, bây giờ có Thiên Đàng của Thầy, Nước Trời cho những kẻ đã phụng sự Thiên Chúa thật cách công chính. Vậy những linh hồn tội nghiệp này? Đâu phải tại lỗi họ khi họ sinh ra là người Hy Lạp! Không một thầy cả nào của Israel đến để nói với chúng con: “Thiên Chúa thật là Thiên Chúa của chúng tôi”. Vậy là các nhân đức của họ cũng như không? Các đau khổ của họ cũng là không? Tối tăm đời đời và xa cách con đời đời? Con nói với Thầy: Một khổ hình! Con thấy hầu như con đã từ chối, lạy Chúa, xin tha... Con khóc...
Và nàng qùi gối khóc cách thảm thiết.
Alexandre Misace nói: “Đó, con cũng tự hỏi: khi con trở nên người công chính, con sẽ không bao giờ gặp lại cha, mẹ, anh chị, bạn hữu...”
Giêsu đặt các ngón tay Người trên đầu tóc đen của Sintica và nói: “Là có lỗi khi người ta biết sự thật mà vẫn khăng khăng trong sai lầm. Không có lỗi khi người ta tin chắc mình ở trong chân lý, và không có ai tới để nói: ‘điều mà tôi đem đến cho qúi vị là chân lý. Hãy từ bỏ các quái vật thần thoại của qúi vị đi vì chân lý này, và qúi vị sẽ chiếm được nước Trời’. Thiên Chúa là đấng công bằng, con nghĩ là Người sẽ không thương cho các nhân đức được rèn luyện hoàn toàn tự mình ở giữa cái thế giới đồi bại của dân ngoại sao? Hãy bình an, con gái!”
- Nhưng tội nguyên tổ? Nhưng sự thờ cúng nhơ nhớp? Nhưng... - các người Israel sắp nói điều gì có thể sẽ đè nặng trên tâm hồn đau khổ của Sintica nếu Giêsu không làm một cử chỉ áp đặt để đòi yên lặng. Người nói: “Tội nguyên tổ là chung cho mọi người, dù là Israel hay không. Đó không phải là tội đặc biệt của dân ngoại. Sự thờ cúng của dân ngoại sẽ là có tội kể từ lúc thế giới được phổ biến lề luật của Đức Kitô. Nhân đức thì luôn luôn là nhân đức trước mặt
552
Thiên Chúa. Và vì sự kết hợp của Thầy với Chúa Cha, Thầy nói, và Thầy nói nhân danh Người khi Thầy phiên dịch những tư tưởng thánh ra lời nói rằng: những con đường của quyền năng Thương Xót thì lớn lao và bao trùm tất cả để làm hoan hỉ các kẻ nhân đức, các hàng rào ngăn cách linh hồn nọ với linh hồn kia sẽ được dẹp đi, và bình an sẽ được thiết lập cho những kẻ đáng được bình an. Không những vậy, Thầy còn nói là trong tương lai, những kẻ tin rằng mình ở trong chân lý khi theo giữ tôn giáo của cha ông một cách công chính và thánh thiện, sẽ không bị ruồng bỏ hay bị phạt bởi Thiên Chúa. Chính ác ý, ý muốn xấu, sự từ chối thảo luận về chân lý đã được biết, và nhất là tấn công chân lý đã được mặc khải, chống đối với nó, tức là một đời sống trụy lạc, là cái thực sự chia cách vĩnh viễn linh hồn các người công chính với linh hồn các người tội lỗi. Sintica, hãy nâng thần trí bị đánh ngã của con dậy. Cái buồn này là sự tấn công của hỏa ngục, nó đến từ cơn giận của Satan để chống lại con là cái mồi mà nó sẽ bị mất vĩnh viễn. Không có Hades, chỉ có Thiên Đàng của Thầy. Nó không làm cho đau khổ, trái lại, chỉ có vui mừng. Không có gì đến từ Chân Lý mà lại gây ra sự chán nản hay nghi ngờ. Nhưng trái lại, nó là sức mạnh để luôn luôn tin mạnh hơn với một sự an toàn sung sướng. Nhưng con, hãy luôn luôn nói cho Thầy các lý do của con. Thầy muốn có trong con một
ánh sáng an bình và vững chắc như ánh sáng mặt trời”. Sintica vẫn còn qùi gối, cô cầm tay Người và hôn.
Tiếng cri cri của người chăn lạc đà cho ta biết rằng con lạc đà sắp đi vào bước một, không gây tiếng động, trên lớp cỏ dầy ở bên ngoài cửa hậu mà một người đầy tớ lập tức mở ra. Margziam trở về, sung sướng, đỏ gay vì cuộc đi dạo: một ông nhỏ xíu nhô lên bên trên mông con lạc đà. Nó cười và vẫy tay trong khi con lạc đà qùi gối. Nó lết xuống khỏi cái yên ngộ nghĩnh và vuốt ve người chăn lạc đà da ngăm. Rồi nó chạy lại với Giêsu và kêu lên: “Đẹp qúa chừng! Chính ở trên các con vật này, các nhà Đạo Sĩ phương đông đã đến thờ lạy Thầy? Và con, con sẽ đi với chúng để rao giảng Thầy khắp nơi! Thế giới như lớn hơn khi nhìn từ chỗ cao đó và nó
553
nói: ‘Hãy đến, hãy đến, qúi vị, những kẻ đã biết Tin Mừng!’ Ôi, Thầy biết không?... Cả ông này cũng cần biết... Và ông nữa, ông lái buôn, và tất cả các đầy tớ của ông... Biết bao người chờ Thầy rồi chết mà không được biết... Nhiều người hơn là những hạt cát ở bờ sông. Tất cả, không có Thầy, Giêsu! Ôi! Nhưng nói với tất cả mau mau đi”. Rồi nó bám chặt vào sườn Người và ngửa mặt lên. Giêsu cúi xuống hôn nó và hứa: “Con sẽ Thấy Nước Thiên Chúa được rao giảng cho tới các biên giới xa nhất của Rôma. Con bằng lòng không?”
- Con, vâng. Và con sẽ tới nói với Thầy: “Đó, nước này, nước kia, và nước khác kia nữa, đã biết Thầy”. Lúc đó con sẽ biết tên của những vùng đất xa xôi này. Và Thầy, Thầy sẽ nói gì với con?
- Thầy sẽ nói với con: “Lại đây, bé Margziam. Hãy nhận mỗi triều thiên cho một nước mà con đã rao giảng Thầy. Rồi hãy đến đây, bên cạnh Thầy, giống như hôm bữa ở Gêrasa. Và con hãy nghỉ ngơi cho khỏi mệt, vì con đã là một tôi tớ trung thành. Bây giờ thật chính đáng là con được sung sướng trong nước Thầy”.
154* KHỞI HÀNH TỪ GÊRASA
Đoàn lữ hành ra khỏi sân của Alexandre, xếp hàng như cuộc diễn binh. Giêsu với tất cả các người của Ngài đều nối đuôi nhau. Các con lạc đà với gánh nặng của chúng, tiến bước đong đưa nhịp nhàng. Cái đầu của nó tựa như ở mỗi bước đều hỏi: “Tại sao? Tại sao?” trong một cử động câm nín, nhưng đặc thù, giống như nơi các chim câu thì luôn luôn nói: “Phải, phải”, với tất cả những gì nó thấy. Đoàn lữ hành phải đi băng qua thành phố, nó diễn hành trong bầu khí ban mai trong sáng. Mọi người đều bọc ấm, vì trời lạnh. Tiếng nhạc của lạc đà, tiếng xì xì của người chăn, tiếng than van của con lạc đà luyến tiếc cái chuồng yên tĩnh, báo cho dân Gêrasa biết sự khởi hành của Giêsu.
Tin tức lan ra, và nhanh như chớp, các người Gêrasa tới chào
554
Người và mang cho Người qùa tặng là các trái cây và các thực phẩm khác. Đây, một người đàn ông chạy lại với một đứa bé bị bệnh: “Xin Thầy thương chúc lành cho nó để nó được khỏi”.
Giêsu giơ tay chúc lành và thêm: “Hãy đi bình an. Hãy tin”.
Người đó trả lời một tiếng “vâng” đầy tin tưởng tới nỗi một người đàn bà hỏi: “Ông nhà con bị bệnh ung loét mắt. Thầy có chữa cho ông ta không?”
- Nếu ông bà tin thì, có.
- Vậy con đi tìm ông. Lạy Chúa, chờ con với - và bà chạy đi, lẹ như con én.
Chờ, nói thì mau! Các con lạc đà vẫn tiến. Alexandre đi đầu hàng, không hay biết những gì xảy ra ở đàng đuôi. Chỉ phải báo tin cho ông ta.
- Chạy đi Margziam. Tới nói với người lái buôn dừng lại trước khi ra ngoài tường thành - Giêsu nói, và Margziam chuồn lẹ để làm việc sứ mạng.
Đoàn lữ hành dừng lại trong khi người lái buôn đến với Giêsu: “Có chuyện gì vậy?”
- Ở lại đây và ông sẽ thấy.
Người đàn bà Gêrasa lẹ làng trở lại cùng với chồng bà, người có mắt bị bệnh. Đó là cái gì khác với lở loét. Đó là hai cái lỗ đầy hư thối ở giữa khuôn mặt. Con mắt ở giữa đó, bị phủ mờ, đỏ, gần mù, chảy ra chất nước ghê tởm. Người đàn ông vừa mở tấm khăn tối mầu che mắt cho khỏi ánh sáng ra thì ông than thở, vì ánh sáng làm mắt ông đau.
Người đó than: “Xin thương. Tôi khổ biết bao!”
- Ông đã phạm tội rất nhiều, ông không than vì điều đó? Ông chỉ khổ vì có thể bị mất cái nhìn tội nghiệp của thế gian? Ông không biết gì về Thiên Chúa sao? Ông không sợ sự tối tăm đời đời sao? Tại sao ông đã phạm tội?
Người đó khóc, cúi đầu không nói. Vợ ông cũng khóc và rên: “Con, con đã tha...”
- Và Thầy, Thầy sẽ tha cho ông nếu ông thề với Thầy tại đây là
555
sẽ không phạm tội nữa.
- Vâng, vâng, xin tha cho con. Bây giờ con biết tội lỗi mang cái gì theo với nó. Xin tha cho con cũng như vợ con. Xin tha cho con. Thầy là sự nhân từ.
- Thầy, Thầy tha cho ông. Hãy xuống cái suối này và rửa mặt trong nước thì ông sẽ được lành.
- Lạy Chúa, nước lạnh làm ông khó chịu - người vợ than.
Nhưng người đàn ông chỉ nghĩ đến đi tới đó, và ông rờ rẫm để đi xuống, cho tới khi tông đồ Gioan thương tình cầm tay ông và dẫn ông ta đi một mình. Sau đó vợ ông lại tới cầm tay kia. Người đó xuống tới bờ nước lạnh, ông lội trên đá sỏi, cúi xuống múc nước trong lòng bàn tay, rửa đi rửa lại khuôn mặt. Ông không tỏ dấu gì là bị đau đớn, trái lại, ông có vẻ dễ chịu.
Rồi vẫn để mặt ướt, ông lên bờ và trở lại với Giêsu. Người hỏi ông: “Sao, khỏi chưa?”
- Chúa ơi chưa. Lúc này thì chưa, nhưng Thầy đã nói rằng con sẽ khỏi.
- Vậy hãy giữ niềm trông cậy của ông. Chào.
Người đàn bà cúi gù xuống khóc... bà ta thất vọng. Giêsu làm hiệu cho người lái buôn là ông ta có thể tiếp tục lên đường. Người lái buôn, ông ta cũng thất vọng, cho lệnh đi. Các con lạc đà lại bước với những cử động tròng trành như chiếc thuyền. Họ ra khỏi các bức tường thành, đi vào con đường của các đoàn lữ hành, đường rộng và nhiều bụi, tiến về hướng tây nam.
Hai người sau cùng của nhóm giảng đạo, tức là Gioan Enđo và Simon Zêlote vừa ra khỏi tường chừng vài chục mét thì nghe tiếng kêu vang lên trong không khí yên tĩnh, tựa như nó làm đầy không gian. Nó nhắc đi nhắc lại luôn luôn cao giọng hơn, vui mừng hơn, chiến thắng hơn: “Con nhìn thấy! Giêsu! Giêsu phước đức! Con nhìn thấy! Con nhìn thấy! Con đã tin! Con nhìn thấy! Giêsu! Giêsu! Giêsu phước đức!” Và người đó, với khuôn mặt đã trở nên hoàn toàn lành lặn. Đôi mắt trở về đẹp đẽ, đôi hồng ngọc tươi sáng và sống động. Ông phăng hàng ngũ các tông đồ, qùi sụp tại chân Giêsu,
556
hầu như dưới chân con lạc đà của người lái buôn mà ông vừa kịp tránh người đàn ông qùi phục.
Người đàn ông hôn y phục của Giêsu và nhắc lại: “Con đã tin, con đã tin và con nhìn thấy! Giêsu phước đức!”
- Hãy đứng dậy. Hãy sung sướng, nhất là hãy tốt. Hãy nói với vợ của con là bà phải biết tin trọn vẹn. Chào.
Giêsu gỡ tay ôm của người được phép lạ ra và người tiếp tục bước.
Người lái buôn vuốt râu suy nghĩ... Sau cùng ông hỏi: “Và nếu ông ta không biết tiếp tục tin sau khi đã rửa mặt mà không lành?”
- Ông ta sẽ vẫn như ông ta là lúc trước.
- Tại sao Thầy đòi hỏi đến từng ấy đức tin để làm một phép lạ?
- Bởi vì đức tin minh chứng cho tình yêu và lòng tin cẩn nơi Thiên Chúa.
- Vậy tại sao Thầy lại muốn sự sám hối trước tiên?
- Bởi vì sự sám hối làm cho người ta trở nên bạn với Thiên Chúa.
- Tôi, tôi không có bệnh thì tôi phải làm gì để chứng tỏ rằng tôi có đức tin?
- Hãy đến với Chân Lý.
- Tôi có thể đến mà không có tình bạn với Thiên Chúa không?
- Ông không thể đến nếu không có lòng nhân từ của Thiên Chúa. Thiên Chúa cho phép rằng những kẻ chưa sám hối mà đi tìm Người cũng có thể tìm thấy Người, vì sự sám hối này thường đến khi con người ý thức được, hay có được một chút ý thức, điều tâm hồn họ muốn: biết Thiên Chúa, mà trước đó họ khù khờ, chỉ do bản năng hướng dẫn. Ông không bao giờ cảm thấy cái nhu cầu cần phải tin sao?
- Nhiều lần rồi. Tôi không được thỏa mãn về những cái tôi có. Tôi cảm thấy có cái gì mạnh hơn tiền bạc, con cái, các hy vọng của tôi... Nhưng sau đó tôi không chịu khó để tìm biết cái mà tôi tìm một cách vô ý thức.
- Linh hồn ông tìm Thiên Chúa. Lòng nhân từ của Thiên Chúa đã cho phép ông tìm thấy Người. Sự sám hối về cái qúa khứ cằn cỗi
557
ở xa Thiên Chúa sẽ ban cho ông tình bằng hữu của Thiên Chúa.
- Vậy để... để có cái phép lạ cho linh hồn được thấy Chân Lý, tôi phải thống hối về qúa khứ à?
- Chắc chắn rồi. Ông thống hối và ông quyết định thay đổi đời sống hoàn toàn.
Người đàn ông lại bắt đầu vuốt râu. Tựa như ông đang nghiên cứu và đếm những cái lông ở cổ con lạc đà, vì ông ta nhìn nó chăm chú. Bất ý, ông đụng gót chân vào con vật, nó coi như đây là lệnh dồn bước, nên nó gia tăng tốc độ, đem người lái buôn lên đầu đoàn. Giêsu không giữ ông lại, trái lại, người dừng bước để các phụ nữ và các tông đồ đi qua cho tới khi Gioan Enđo và Simon Zêlote tới nơi để Người họp bầy với họ.
- Các con nói về chuyện gì đó? - Người hỏi.
- Chúng con nói về sự thất vọng mà người ta cảm thấy khi họ chẳng tin gì cả, hoặc là đã mất đức tin mà họ có trước. Hôm qua Sintica đã thực sự lo lắng, dù nàng đã được chuyển qua một đức tin hoàn toàn - Zêlote trả lời.
- Con, con nói với Simon rằng thật là nặng nề khi chuyển từ đời tốt qua đời xấu, nó cũng làm ngạc nhiên khi chuyển từ đời xấu qua đời tốt. Trong trường hợp thứ nhất, người ta bị hành hạ vì lương tâm cắn rứt. Trong trường hợp thứ hai, người ta bị... xé rách... giống như một người bị dẫn vào một nước lạ mà họ hoàn toàn không biết... Hay cái sợ của một người khốn nạn và vô học thức thấy mình bị dẫn vào giữa triều vua, ở giữa những người thông thái và giầu có. Đó là một cái khổ. Con, con biết điều đó... Một cái khổ lớn... Người ta không sao tin được rằng đó là sự thật, rằng chuyện đó có thể kéo dài... rằng người ta có thể đáng được... nhất là khi linh hồn đã bị nhơ nhớp... như linh hồn con trước...
- Và bây giờ thì sao Gioan? - Giêsu hỏi.
Khuôn mặt đuối sức của Gioan, đuối sức và buồn, sáng lên một nụ cười làm cho nó bớt hốc hác. Ông nói: “Bây giờ chuyện đó không còn nữa, chỉ còn lại lòng biết ơn đối với Thiên Chúa mà nó tin rằng Người đã muốn điều đó. Chỉ còn lại cái kỷ niệm của qúa
558
khứ để nó giữ cho con khiêm nhường, nhưng có sự bảo đảm. Con cảm thấy quen thuộc, không còn lạ lẫm trong cái thế giới êm dịu là thế giới của Thầy, thế giới của tha thứ và tình yêu. Con được bình an, trong sáng và hạnh phúc”.
- Con cho là kinh nghiệm của con rất tốt?
- Vâng. Nếu có cái đau đớn vì đã phạm tội, vì bởi những tội này, con làm phiền cho Thiên Chúa, con cũng nói rằng cái qúa khứ của con cũng có cái tốt, nó có thể giúp con nhiều để nâng đỡ những linh hồn thiện chí, nhưng bị lạc lõng ở bước đầu trong niềm tin mới của họ.
- Simon, con đi nói với thằng bé là đừng có nhảy nhiều như vậy. Điều đó có thể làm nó mệt.
Simon nhìn Giêsu. Ông hiểu sự thật của lệnh truyền. Ông mỉm một nụ cười thông minh, và để hai người ở một mình với nhau.
- Gioan, bây giờ chúng ta một mình, con hãy nghe ước muốn của Thầy. Con, vì nhiều lý do, con có sự xét đoán và tư tưởng rộng rãi mà không ai trong số những người theo Thầy có được; và con có một học vấn cao hơn phần đông các người Israel. Thầy xin con cũng giúp Thầy.
- Con, giúp Thầy? Về điều gì?
- Cho Sintica. Con là nhà sư phạm ngay thẳng. Margziam đã học giỏi và lẹ với con, tốt đến nỗi Thầy tính để nó ở với con vài tháng, vì Thầy muốn Margziam có một hiểu biết bao quát hơn những hiểu biết của cái thế giới nhỏ Israel. Đối với con thì săn sóc nó cũng là niềm vui. Đối với Thầy, cũng là niềm vui khi đoàn tụ hai người. Với con, để dạy bảo nó, với nó, để học hỏi. Con thì để trẻ lại, nó thì để biết già dặn mà tự lo. Nhưng con cũng phải săn sóc cho Sintica nữa, như một người em lạc đường, con đã nói, đó là sự lạc lõng... Hãy giúp nó thích nghi với thủy thổ của Thầy. Con có làm ơn này cho Thầy không?
- Lạy Chúa, được làm điều đó là một ơn đối với con. Con chưa lại gần cô ta, vì con thấy là dư thừa. Nhưng nếu Thầy muốn. Cô ta đọc các ru-lô của con, có một số là sách Thánh, một số khác chỉ về
559
văn hóa thôi: về Rôma và Athènes. Con thấy cô suy nghĩ và tra cứu, nhưng con không bao giờ chen vào để giúp cô. Nếu Thầy muốn vậy...
- Ừ, Thầy muốn. Thầy muốn thấy các con là bạn hữu. Cô ta cũng vậy, giống như Margziam và con, các con sẽ ở lại Nazarét một thời gian. Điều đó sẽ đẹp. Mẹ Thầy và con sẽ là thầy cho hai tâm hồn mở ra trước Thiên Chúa. Mẹ Thầy là thiên thần, là cô giáo về khoa học của Thiên Chúa; con là thầy chuyên nghiệp về hiểu biết nhân loại mà bây giờ con có thể cắt nghĩa vào những áp dụng siêu nhiên. Điều đó sẽ đẹp và tốt.
- Vâng. Chúa đáng chúc tụng của con! Qúa đẹp đối với tên Gioan tội nghiệp!... - và ông mỉm cười nghĩ đến những ngày bình an sắp tới, bên cạnh Maria, trong nhà của Giêsu...
Và con đường trải ra trong ánh mặt trời ấm áp càng lúc càng dễ cảm, trong miền quê dễ thương bây giờ hoàn toàn bằng phẳng, sau khi đã vòng quanh một vùng hơi cao ở bên ngoài Gêrasa. Con lộ tình trạng tốt nên bước chân dễ dàng hơn.
Họ lại lên đường sau chặp nghỉ lúc chính ngọ. Hầu như đã là lúc chiều tà khi tôi nghe Sintica cười cách thoải mái lần đầu tiên vì thằng Margziam kể cái gì tôi không biết, mà làm cho tất cả các phụ nữ đều cười. Tôi thấy cô Hy Lạp cúi xuống vuốt ve đứa trẻ và phớt qua trên trán nó một cái hôn. Sau đó đứa trẻ lại bắt đầu nhảy tựa như nó không cảm thấy mệt.
Nhưng tất cả mọi người khác đều mệt, và họ vui mừng khi được biết cái quyết định là sẽ nghỉ đêm ở “Phông-ten của các người chăn lạc đà”. Người lái buôn nói: “Tôi luôn luôn nghỉ đêm ở đó. Khoảng đường từ Gêrasa tới Bozra qúa xa đối với người cũng như vật”.
- Người lái buôn này nhân đạo - các tông đồ nhận xét với nhau khi so sánh với Doras.
“Phông-ten của các người chăn lạc đà” chỉ là một nhóm mái nhà quây quần chung quanh nhiều cái giếng. Đây là một loại ốc đảo (oasis), không phải là ốc đảo trong sa mạc khô cằn, vì đất không
560
khô cằn ở đây, nhưng là cái ốc đảo trong cái mênh mông không có người ở của các cánh đồng và các vườn cây nối tiếp nhau hàng dặm và hàng dặm, mà khi chiều tà của tháng mười trở về, nó tỏa ra cái buồn giống như mặt biển lúc hoàng hôn. Cũng vậy, khi nhìn thấy các mái nhà, nghe các tiếng nói, tiếng khóc của trẻ thơ, cảm thấy mùi tỏa ra từ các ống khói, thấy các ngọn đèn đầu tiên được thắp lên, ta thấy nó êm đềm như trở về chính tổ ấm của mình.
Trong khi các người chăn lạc đà dừng chân để các con lạc đà uống nước lần đầu tiên, các tông đồ và các phụ nữ theo Giêsu cùng với người lái buôn đi vào một nhà trọ rất... tiền sử mà họ sẽ nghỉ đêm.
Trong căn phòng ám khói mà họ đã dùng bữa, nơi các nam giới sẽ ngủ, và trong khi các người đầy tớ đã sửa soạn chỗ ngủ bằng cỏ trải trên các tấm lưới sắt mắt cáo, mọi người tụ họp gần chiếc lò lớn chiếm hết phần cuối của căn phòng hẹp. Người ta đã nhóm lửa, vì buổi chiều ẩm thấp và lạnh.
- Qúi hồ thời tiết không đổ nước - Phêrô xít xoa. Người lái buôn bảo đảm: “Phải đợi tới cuối tuần trăng này, thời tiết mới xấu. Buổi chiều ở đây là vậy, nhưng ngày mai chúng ta sẽ có nắng”.
- Lo cho các bà thôi. Ông biết đó? Không phải cho tôi. Tôi là dân chài và tôi sống trong nước. Tôi bảo đảm với ông là tôi thích nước hơn là núi và bụi.
Giêsu nói chuyện với các phụ nữ và hai người anh họ. Gioan Enđo và Zêlote cũng nghe Người. Còn Timon, Hermastê và Mathêu thì đọc một trong các ru-lô của Gioan, và hai người Israel cắt nghĩa cho Hermastê những đoạn Kinh Thánh tối nghĩa nhất đối với anh ta.
Margziam nghe họ, hoan hỉ, nhưng với khuôn mặt bần thần. Maria Alphê nhìn nó và nói: “Đứa trẻ này mệt. Lại đây cưng, chúng ta đi ngủ. Đi, Êlise. Đi, Salômê. Người già và trẻ em thì tốt hơn là nên vào giường. Và qúi vị sẽ làm tốt là đi ngủ hết đi. Qúi vị mệt rồi”.
Nhưng ngoài các bà lớn tuổi với Marcelle và Jeanne Chouza, không còn ai nhúc nhích nữa.
Sau khi đã được chúc lành, họ đi ra. Mathêu rì rầm: “Mới chỉ
561
trước đây ít lâu, ai dám nói là các bà này sẽ phải ngủ trên cỏ và ở xa nhà họ!”
- Nhưng tôi chưa bao giờ ngủ ngon như vầy - Maria Magđala xác nhận cách chắc chắn, và Matta cũng đồng ý như vậy.
Phêrô bênh vực bạn ông: “Mathêu có lý. Nhưng tôi không hiểu và tự hỏi: tại sao Thầy lại dẫn các bà tới đây?”
- Bởi vì chúng tôi là các nữ môn đệ.
- Vậy nếu Người đi... tới nơi có những con sư tử, các bà có tới đó không?
- Chắc chắn là có, Simon Phêrô! Thật là đẹp để đi vài bước, và có Người ngay gần bên!
- Đó! Phen này thì rõ ràng là đã đi nhiều bước rồi, và đối với các bà là những người không có thói quen...
Nhưng các bà phản đối đến nỗi Phêrô nhún vai và nín thinh.
Giacôbê Alphê ngửa mặt lên, thấy nụ cười của Giêsu rạng rỡ đến nỗi ông hỏi Người: “Thầy có muốn nói cho chúng con mục đích thật của cuộc hành trình này, giữa chúng ta với nhau và với các bà, và... với qúa ít kết qủa, so với bấy nhiêu mỏi mệt?”
- Con có thể đòi hỏi xem thấy ngay lúc này, trái của các hạt đang vùi dưới đất trong những thửa ruộng mà chúng ta đi qua không?
- Con, không. Con sẽ thấy chúng vào mùa xuân.
- Thầy cũng vậy, Thầy bảo con: con sẽ thấy nó vào thời của nó.
Các tông đồ không đối đáp gì cả, thì đây, giọng nói trong trẻo của Maria vang lên: “Con ơi, hôm nay chúng ta đã nói với nhau về điều con đã nói ở Ramot, và mỗi người trong chúng ta có những cảm giác và phản ứng khác nhau. Con có thể nói tư tưởng của con không? Mẹ thì mẹ nói nên gọi con ngay, nhưng con bận nói với Gioan Enđo”.
- Thật vậy, chính con đã gây ra vấn nạn, vì con là đứa dân ngoại tội nghiệp. Con không có ánh sáng rạng ngời của đức tin như qúi vị. Phải trách cứ con - Sintica nói.
- Nhưng tôi, tôi muốn có linh hồn của chị cơ, bà chị tôi ơi! - Maria Magđala nói cách linh hoạt, và luôn luôn nồng nàn. Nàng
562
ôm cô ta và ghì chặt cô ta vào người bằng một cánh tay. Nàng rực rỡ trong vẻ đẹp của nàng, tựa như chính một mình nàng đã soi sáng cho căn phòng lụp xụp, và mang tới đó sự giầu sang của nơi ở lộng lẫy của nàng. Nàng ôm ghì cô gái Hy Lạp, hoàn toàn khác biệt, nhưng cá thể có mang một nốt của tư tưởng ở bên tiếng kêu của tình yêu, là cái như luôn luôn tỏa ra từ Maria, làm cô ta say mê, trong khi mẹ ngồi với khuôn mặt êm đềm ngước về con mẹ, hai tay khoanh lại như cầu nguyện. Hình bóng rõ ràng của mẹ in trên bức tường tối. Đức Trinh Nữ là người thờ lạy liên tục.
Suzane ngồi trong một góc sáng mờ mờ và mơ màng, trong khi Matta lợi dụng ánh sáng của lò lửa để khâu cho xong những cái khóa vào chiếc áo nhỏ của Margziam. Bà cũng tích cực, mặc dầu mệt mỏi và sự can ngăn của những người khác.
Giêsu nói với Sintica: “Nhưng đó đâu phải là tư tưởng nặng nề, vì Thầy nghe con cười mà!”
- Vâng. Tại thằng bé nó giải quyết ngay câu hỏi bằng cách nói: “Con, con chỉ muốn trở lại nếu Giêsu trở lại. Nhưng nếu cô muốn biết tất cả, cô hãy đi xa khỏi đây đi, rồi cô trở lại để nói cho chúng tôi biết là cô có nhớ không...” Mọi người lại cười và nói rằng Sintica đã hỏi Maria để mẹ cắt nghĩa cho cô điều cô không hiểu rõ về những kỷ niệm mà các linh hồn lưu giữ, là cái cắt nghĩa một số khả năng nơi dân ngoại, là họ có những kỷ niệm mơ hồ về chân lý.
- Con, con nói: “Có lẽ điều đó xác nhận lý thuyết về sự tái nhập thể mà nhiều dân ngoại tin”. Còn mẹ Thầy thì nói với con là điều Thầy nói thì khác. Bây giờ xin Thầy cắt nghĩa cho con điều này nữa.
- Nghe đây, về sự kiện là các linh hồn có những kỷ niệm hồn nhiên về Chân Lý, con không được tin là điều đó chứng tỏ chúng ta có nhiều đời sống. Bây giờ con đã được giáo huấn đủ để biết con người được tạo dựng thế nào, con người đã phạm tội thế nào, con người đã bị phạt thế nào. Con đã được cắt nghĩa Thiên Chúa đã phú vào con-người-sinh-vật một linh hồn duy nhất thế nào. Linh hồn này được tạo dựng một lần, và không bao giờ được dùng lại
563
cho các lần nhập thể nối tiếp. Xác định tái nhập thể là hủy bỏ những điều Thầy đã nói về những kỷ niệm của linh hồn. Nó là vậy đối với những vật thể khác chứ không với con người là loài được phú bẩm một linh hồn do Thiên Chúa làm ra. Con vật không có kỷ niệm nào cả, vì nó chỉ sinh ra một lần. Con người có kỷ niệm, mặc dù nó cũng chỉ sinh ra một lần, nhưng nó nhớ cái điều tốt nhất ở trong nó: linh hồn. Linh hồn từ đâu mà tới? Hết mọi linh hồn nhân loại? Từ Thiên Chúa. Thiên Chúa là ai? Là một Thần Trí rất thông minh, rất mạnh mẽ, toàn vẹn. Cái sự vật đáng cảm phục là linh hồn, được tạo dựng bởi Thiên Chúa, để cho loài người cái hình ảnh của Người và tính cách giông giống như Người, như một dấu hiệu không thể chối cãi được về tình Phụ Tử rất Thánh của Người, kết qủa của những phẩm chất riêng của Đấng đã tạo dựng nên nó. Vì vậy nó thông minh, thiêng liêng, tự do, bất tử như người Cha đã tạo ra nó. Nó phát ra từ tư tưởng của Thiên Chúa, vẹn toàn vào lúc nó được tạo dựng. Nó giống linh hồn của con người đầu tiên trong một phần ngàn khoảnh khắc, một sự toàn thiện, hiểu Chân Lý tiếp theo một hồng ân được ban tặng nhưng không. Chỉ trong một phần ngàn khoảnh khắc, rồi một khi thành hình, nó bị tổn thương bởi tội nguyên tổ. Để con được hiểu hơn, Thầy nói là giống như Thiên Chúa mang cái linh hồn mà Người tạo dựng, nhưng khi đã được tạo dựng và sinh ra, nó bị thương bởi một dấu tích không tẩy xóa được. Con hiểu Thầy không?
- Vâng. Bởi vì nó là tư tưởng nên nó trọn hảo. Một phần ngàn khoảnh khắc, tư tưởng được tạo thành, rồi tư tưởng phiên ra sự kiện, sự kiện là đối tượng của một luật gây ra bởi tội lỗi.
- Con đã trả lời đúng. Vậy linh hồn nhập thể như vậy trong thân xác con người, mang theo với nó cái mầm bí mật trong mầu nhiệm của thực thể thiêng liêng của nó: cái kỷ niệm của Đấng Tạo Hóa, tức là Chân Lý. Đứa bé sinh ra, nó có thể tốt, tuyệt hảo hay phản trắc. Nó có thể trở nên tất cả, vì nó tự do để muốn. Trên những kỷ niệm của nó, chức vụ của các thiên thần là tung vãi ánh sáng của các vị, trong khi kẻ gieo vãi các cạm bẫy thì gieo sự tối tăm của nó.
564
Lần lần theo mức con người theo đuổi ánh sáng, và bởi vậy, cũng theo các nhân đức càng ngày càng lớn, làm cho linh hồn thành chủ nhân thực thể của nó, thì đây, cái khả năng nhớ phát triển lên trong nó, tựa như nhân đức làm cho cái vách ngăn đặt giữa linh hồn và Thiên Chúa càng ngày càng trở nên mỏng. Đó là tại sao các người đạo đức ở mọi nước đều cảm thấy Chân Lý, dù không toàn vẹn, vì nó bị phủ mờ bởi các giáo thuyết trái ngược, hay bởi sự vô tri chí tử, nhưng cũng đủ để cung cấp những trang đào tạo luân lý cho dân tộc mà họ thuộc về. Con hiểu không? Con nhìn nhận không?
- Vâng. Kết luận là: tôn giáo của những nhân đức được thực hiện cách anh hùng dọn đường cho linh hồn tới tôn giáo thật, và tới sự nhận biết Thiên Chúa.
- Hoàn toàn đúng vậy. Bây giờ hãy đi nghỉ và hãy được phúc lành. Cả mẹ nữa, và các con, chị em và môn đệ. Xin bình an của Thiên Chúa ở nơi nghỉ ngơi của các con.
155* KHI ĐI VỀ BOZRA
Người lái buôn có lý. Không thể có một ngày đẹp hơn nữa để tặng cho các người du hành trong tháng mười này. Một lớp sương bao phủ đồng quê tựa như thiên nhiên muốn chăng một tấm màn trên giấc ngủ của cây cối về đêm, nhưng một khi tan sương, miền quê hiện ra oai phong với tất cả vùng canh tác mà mặt trời sưởi ấm. Tựa như sương mù đã tụ họp để cuốn một cái băng trong suốt trên các đỉnh ở xa và làm cho chúng mờ hơn trong nền trời tươi sáng.
- Cái gì vậy? Những ngọn núi mà chúng ta sẽ phải trèo à? - Phêrô lo lắng hỏi.
- Không, không, đó là các núi dẫy Auran. Chúng ta sẽ ở lại dưới đồng bằng bên ngoài các núi này. Chiều nay chúng ta sẽ ở Bozra Auraniti, một thành phố đẹp và tốt, nhiều thương mại - người lái buôn bảo đảm. Ông ca tụng một nơi luôn luôn dựa vào vẻ đẹp của nó, và đặt nền móng cho sự thịnh vượng trên việc thương mại.
565
Giêsu đi một mình ở đàng sau, giống như mọi lần khi Người muốn biệt lập. Nhiều lần Margziam quay lại để nhìn Người, rồi nó không thể chống lại nữa, nó rời Phêrô và Gioan Zêbêđê, nó ngồi lại ở bờ đường, trên một cái mốc, có lẽ đó là dấu hiệu về quân sự của Rôma, và nó chờ. Khi Giêsu tới nơi, đứa trẻ không nói gì, nó đến đi bên Giêsu, nhưng đi hơi lùi về phía sau một tí để không làm bận Người do nhìn thấy sự hiện diện của nó. Và nó quan sát, quan sát...
Nó tiếp tục quan sát cho tới khi Giêsu ra khỏi sự chiêm niệm của Người và quay lại đàng sau khi Người nghe thấy tiếng động nhẹ của các bước chân nó. Người mỉm cười giơ tay ra cho đứa trẻ và nói: “Ồ, Margziam, con làm gì một mình ở đây vậy?”
- Con nhìn Thầy. Đã nhiều ngày nay con cứ nhìn Thầy. Hết mọi người đều có mắt, nhưng mọi người không nhìn thấy cùng một thứ. Con, con thấy rõ là thường Thầy hay ở một mình, một mình... Những ngày đầu, con nghĩ là Thầy bị khó chịu vì cái gì, nhưng rồi con thấy Thầy luôn luôn làm vậy vào cùng một giờ, và mẹ Thầy là người hay yên ủi Thầy khi Thầy buồn, mẹ cũng không nói gì với Thầy khi Thầy có khuôn mặt như vậy, mà trái lại, nếu mẹ đang nói, mẹ cũng nín lặng để trầm tư. Con, con thấy, Thầy biết không? Vì con luôn luôn nhìn Thầy, Thầy và mẹ, để làm cái gì hai người làm. Con đã hỏi các tông đồ về những điều Thầy làm, vì chắc chắn là Thầy làm cái gì. Họ nói với con: “Người cầu nguyện”. Con lại hỏi: “Người nói gì?”, thì chẳng có ai trả lời cho con, vì họ không biết. Đã mấy năm rồi họ ở với Thầy mà họ không biết. Hôm nay con đã theo dõi Thầy bất cứ lúc nào con thấy Thầy có bộ mặt này, con đã nhìn Thầy khi Thầy cầu nguyện, nhưng không phải luôn luôn Thầy có cùng một khuôn mặt. Sáng nay, lúc rạng đông, Thầy giống như một thiên thần ánh sáng. Thầy nhìn các vật với một cái nhìn mà con tin là lấy đi cho nó nhiều bóng tối hơn là mặt trời làm, các vật và các người ta. Rồi Thầy nhìn trời và Thầy có khuôn mặt giống như lúc Thầy dâng bánh tại bàn ăn. Sau đó, khi chúng ta đi băng qua xứ đó, Thầy lại đi một mình ở sau cùng, và con thấy Thầy giống một người cha, vì khi đi qua các người nghèo trong xứ, Thầy vồn vã nói với họ
566
những lời tốt đẹp. Thầy đã nói với một người trong họ: “Hãy kiên nhẫn chịu đựng, vì Thầy sắp làm nhẹ nhõm cho con, và Thầy sẽ làm nhẹ nhõm cho những người giống như con”. Đó là tên nô lệ của cái ông thô kệch đã đuổi chó của ông để tấn công chúng ta. Rồi khi họ sửa soạn đồ ăn, Thầy đã nhìn chúng con với đôi mắt hoàn toàn nhân từ của tình yêu. Thầy có dáng giống như người mẹ... Nhưng bây giờ khuôn mặt của Thầy là khuôn mặt đau đớn... Giêsu! Thầy nghĩ đến cái gì lúc này mà như vậy?... Vì đôi khi, cả buổi chiều nữa, nếu con không ngủ, con thấy Thầy rất nghiêm trang. Xin Thầy nói cho con: Thầy cầu nguyện thế nào? Tại sao Thầy cầu nguyện?
- Chắc chắn là Thầy sẽ nói cho con, như vậy con sẽ cùng cầu nguyện với Thầy. Toàn thể ngày giờ là của Thiên Chúa ban, lúc sáng cũng như lúc tối: ban ngày và ban đêm. Sống và có ánh sáng cũng là một ơn. Cách người ta sống cũng là cách thánh hóa, phải không? Vậy phải thánh hóa mọi lúc trong cả ngày để giữ mình trong sự thánh thiện, và luôn luôn giữ ở trong tim sự hiện diện của Đấng Tối Cao và lòng nhân từ của Người, đồng thời tránh xa ma qủi. Hãy quan sát loài chim: ngay khi có những tia sáng đầu tiên của mặt trời, nó đã hót để chúc tụng ánh sáng. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng phải chúc tụng ánh sáng là một hồng ân của Thiên Chúa, và chúc tụng Thiên Chúa là Ánh Sáng và đã ban nó cho chúng ta. Ước vọng Người từ ánh sáng đầu tiên của buổi mai là như đặt con dấu ánh sáng, một nốt sáng trên tất cả ngày sẽ qua, để nó được hoàn toàn sáng sủa và thánh thiện, và hợp với tất cả tạo vật để hát vạn tuế đấng Tạo Hóa. Rồi khi thời giờ qua đi, trong khi nó lần lần qua, nó mang lại cho chúng ta sự nhận xét về những đau đớn và sự vô tri của thế giới. Hãy cầu nguyện để sự đau đớn được dịu bớt, sự vô tri được biến đi, và cho Thiên Chúa được nhận biết, được yêu mến, được cầu xin bởi mọi người. Vì nếu họ nhận biết Thiên Chúa, họ sẽ luôn luôn được an ủi, dù trong sự đau khổ của họ. Và vào giờ thứ sáu, hãy cầu nguyện cho tình yêu trong gia đình, thưởng thức ơn được đoàn tụ với những kẻ yêu thương chúng ta. Đó
567
cũng là một ơn huệ của Thiên Chúa. Và cầu nguyện để thực phẩm đừng đi từ tính cách hữu ích qua tính cách một cơ hội của tội lỗi. Và vào lúc hoàng hôn, hãy cầu nguyện để nghĩ tới cái chết là hoàng hôn đang chờ tất cả chúng ta. Cầu nguyện để hoàng hôn của ngày hay của cuộc đời chúng ta luôn luôn hoàn thành với tâm hồn ở trong ân sủng. Và khi thắp đèn lên, hãy cầu nguyện để cám ơn vì đã hoàn tất một ngày, và cầu xin sự bảo trợ, sự tha thứ để đi vào giấc ngủ mà không sợ sự phán xét bất ngờ và các tấn công của ma qủi. Sau cùng, cầu nguyện lúc ban đêm - những việc này là dành cho những người không phải là trẻ con - để đề phòng các tội về đêm, để xa lánh Satan của những yếu đuối, để nơi các kẻ có tội có sự hối cải với sự suy nghĩ và những giải pháp tốt sẽ được đem ra thi hành vào lúc ngày trở lại. Đó là làm sao và tại sao một người công chính cầu nguyện trong suốt ngày.
- Nhưng Thầy không nói cho con tại sao Thầy trầm tư qúa nghiêm trang và oai vệ như vậy vào giờ thứ chín... (3 giờ chiều)
- Bởi vì... Thầy, Thầy nói: “Vì lễ Hy Sinh của giờ này, xin cho Nước Cha trị đến trong thế gian, và cho tất cả những ai tin vào Ngôi Lời của Cha được cứu chuộc”. Con cũng hãy nói như vậy.
- Lễ Hy Sinh nào vậy? Thầy đã nói Hương được dâng vào buổi sáng và buổi chiều. Lễ hy sinh mỗi ngày cũng vào cùng một giờ trên bàn thờ trong Đền Thờ. Rồi lễ hy sinh của các lời khấn và lễ hy sinh đền tội thì được dâng vào mọi giờ. Giờ thứ chín không được chỉ định cho một nghi thức đặc biệt nào cả.
Giêsu dừng lại và cầm đứa trẻ bằng hai tay. Người nâng nó lên, giữ nó đối diện với mặt Người, làm giống như Người đọc một thánh vịnh, mặt ngửa lên, Người nói: “Và từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, đấng đã đến với tư cách Vị Cứu Tinh và Chúa Cứu Thế, đấng mà các Tiên Tri đã nói, sẽ dâng lễ Hy Sinh của Người, sau khi đã ăn bánh cay đắng của sự phản bội và ban bánh êm đềm của Sự Sống; sau khi đã nghiền nát chính mình như chùm nho trong bồn, sau khi đã giải khát cho loài người và cây cỏ bằng tất cả chính mình Người, và tự làm một chiếc cẩm bào vương giả mầu đỏ thẫm bằng chính
568
máu Người; sau khi đã đội triều thiên, cầm vương trượng và di chuyển cái ngai của Người lên nơi cao để Sion, Israel và cả thế giới nhìn thấy, được nâng lên trong y phục đỏ thẫm là các vết thương vô số kể của Người trong tối tăm để ban Ánh Sáng, trong cái chết để ban Sự Sống. Người sẽ chết vào giờ thứ chín, và thế giới sẽ được cứu chuộc”.
Margziam nhìn Người kinh hãi, tái mét. Môi và mắt nó cho thấy nó ước muốn mạnh mẽ được khóc. Bằng một giọng ngập ngừng, nó nói: “Nhưng Vị Cứu Tinh là Thầy, vậy ra Thầy sẽ chết vào giờ này?” Những giọt nước mắt bắt đầu lăn xuống dọc theo má nó, và cái miệng nhỏ hơi hé mở để uống lấy, trong khi nó chờ đợi một sự đính chính.
Nhưng Giêsu nói: “Đó sẽ là Thầy, môn đệ nhỏ ạ. Và cái đó cũng sẽ là đối với con”. Và bởi vì đứa trẻ bật ra những tiếng nấc quặn đau, nên Người ẵm nó trên ngực và nói với nó: “Vậy ra con buồn vì Thầy chết?”
- Ôi! Hỡi niềm vui duy nhất của con! Con, con không muốn điều đó! Con... Hãy làm cho con chết thay vì Thầy.
- Con còn phải rao giảng Thầy cho khắp thế giới. Đã nói rồi mà! Nhưng nghe đây: Thầy sẽ chết rất hài lòng, vì Thầy biết rằng con yêu Thầy. Và rồi Thầy sẽ sống lại. Con có nhớ Jonas không? Ông ra khỏi bụng cá he, đẹp hơn, đã được nghỉ ngơi nên khỏe. Thầy cũng vậy. Rồi Thầy sẽ đến ngay với con và Thầy sẽ nói với con: “Bé Margziam, nước mắt con đã giải khát cho Thầy, tình yêu của con đã là bạn của Thầy trong mồ. Bây giờ Thầy đến nói với con: ‘Hãy là linh mục của Thầy’”. Và Thầy sẽ ôm con với hương thơm Thiên Đàng còn ở trên Thầy.
- Nhưng con sẽ ở đâu? Không ở với Phêrô? Không ở với mẹ Thầy?
- Thầy, Thầy sẽ cứu con khỏi những làn sóng hỏa ngục của những ngày này. Thầy sẽ cứu những kẻ yếu đuối nhất và những kẻ ngây thơ nhất. Trừ ra một... Margziam, tông đồ nhỏ của Thầy, con có muốn giúp Thầy cầu nguyện cho giờ này không?
569
- Ôi! Vâng, lạy Chúa! Còn những người khác?
- Điều này là một bí mật giữa Thầy và con. Một bí mật lớn lao! Vì Thiên Chúa thích tiết lộ cho những trẻ nhỏ... Đừng khóc nữa. Hãy mỉm cười mà nghĩ đến rằng sau đó Thầy sẽ không bao giờ phải chịu khổ nữa, và Thầy chỉ còn nhớ đến tất cả tình yêu của loài người, bắt đầu là tình yêu của con. Đi, đi, coi kìa, những người khác đi xa qúa rồi! Chạy đi để bắt kịp họ.
Giêsu để nó xuống đất. Người cầm tay nó và bắt đầu chạy cho tới khi đuổi kịp nhóm.
- Thầy đã làm gì vậy?
- Thầy cắt nghĩa cho Margziam các giờ của ngày.
- Và thằng bé đã khóc à? Hẳn nó đã xấu, và Thầy đã miễn thứ cho nó vì nhân từ - Phêrô nói.
- Không phải đâu Simon. Nó đã nhìn Thầy cầu nguyện. Các con thì các con đã không làm vậy. Nó đã hỏi Thầy lý do, Thầy nói cho nó. Thằng bé đã cảm động về các lời Thầy. Bây giờ hãy để cho nó yên. Margziam, hãy đến gần bên mẹ Thầy đi. Và tất cả các con, hãy nghe đây. Điều này không hại gì để các con cũng nghe bài học.
Giêsu lại cắt nghĩa những lợi ích của việc cầu nguyện trong những giờ chính của ngày. Người không nói lời giải thích về giờ thứ chín. Khi kết thúc, Người nói: “Kết hợp với Thiên Chúa là luôn luôn có Người hiện diện trong mọi lúc để ca tụng Người và kêu cầu Người. Hãy làm điều đó, và các con sẽ tiến tới trong đời sống thiêng liêng”.
Bây giờ Bozra đã gần. Nó trải ra trong đồng bằng, có vẻ lớn và đẹp với các bức tường và các ngọn tháp. Chiều tà điều hòa mầu sắc các bức tường nhà với cảnh đồng quê, cho nó có mầu hoa cà hơi xám, rất tình tứ, trong đó các đường vòng mờ đi khi vang lên tiếng bê bê của trâu bò, tiếng ụt ịt của heo bị nhốt trong các hàng rào bên ngoài tường thành, làm mất sự yên lặng của đồng quê. Sự yên lặng ngưng khi đã băng qua cổng thành, đoàn lữ hành đi vào các ngõ hẻm quanh co, làm thất vọng những kẻ lúc ở bên ngoài đã thấy là thành phố đẹp. Tiếng nói, mùi hôi và... mùi thối ứ đọng
570
trong các đường hẻm gồ ghề, và bay theo các người du hành cho tới một công viên, chắc là chỗ họp chợ, là nơi có nhà trọ.
Và đây, họ đã tới Bozra.
156* TẠI BOZRA
Bozra, hoặc tại thời tiết của mùa, hoặc vì bị khép kín trong các ngõ hẻm, nó tỏ ra rất buồn tẻ về ban mai. Buồn tẻ và rất dơ. Các tông đồ nói chuyện với nhau về nó trong khi đi mua đồ ở chợ về. Vì cái kỹ nghệ nhà trọ của thời kỳ này, và cái địa điểm rất tiền sử này, mọi người phải tự lo việc tiếp tế lương thực cho mình. Người ta hiểu rằng người chủ quán không muốn chịu thiệt. Họ chỉ giới hạn ở việc nấu chín những gì khách trọ mang tới, và chúng ta hy vọng họ không bớt xén của khách. Hơn nữa, họ đi mua đồ cho khách và bán cho khách những đồ họ có dự trữ, để lợi dụng dịp tốt mà hành nghề đồ tể trên các con chiên tội nghiệp mà họ nướng.
Sự kiện mua đồ của người chủ quán không vừa ý Phêrô, và bây giờ có cuộc đấu khẩu giữa vị tông đồ và tên chủ quán hầu như là tên đầu trộm đuôi cướp. Hắn không thiếu lời phỉ báng vị tông đồ, gọi ông là “Tên Galilê”, trong khi Phêrô đối đáp để chỉ cho hắn một con heo nhỏ do chủ quán giết để tính cho các khách qúa giang: “Tao, tên Galilê, mày, một con heo của dân ngoại. Tao sẽ không ở lại một giờ trong cái nhà trọ ghê tởm của mày nếu tao là ông thầy. Tên ăn cắp và... (tôi để lại trong lọ mực một từ khác... linh động gợi hình hơn)”.
Tôi kết luận là giữa các người Bozra và người Galilê, có những xung khắc về địa phương và tôn giáo mà ta cũng thấy đầy ở Israel, hay đúng hơn, ở Palestin.
Người chủ quán la to hơn: “Nếu không phải vì mày ở với ông Nazarét, vả nữa, tao còn có giá hơn các pharisiêu ghê tởm của chúng mày, những kẻ ghét ông ấy cách vô lý, thì tao sẽ rửa mặt cho mày bằng máu heo, như vậy mày sẽ phải rút lui đi để rửa. Nhưng tao nể ông ta, vì ông ta mạnh không chối cãi được. Và tao bảo mày là với tất cả những chuyện của chúng mày, chúng mày là các kẻ tội
571
lỗi. Chúng tao còn có gía hơn chúng mày. Chúng tao, chúng tao không giương cạm bẫy, chúng tao không phải là những kẻ gian trá. Chúng mày, pouah!!! Dòng dõi phản trắc, bất công và tội ác, không biết kính trọng cả đến một số nhỏ các thánh mà chúng mày có giữa chúng mày!”
- Phản trắc! Phản ai? Phản chúng ta? A! Xin trời làm ngay bây giờ!... - Phêrô phát sùng. Ông đang sắp sửa ra tay thì em ông và Giacôbê giữ ông lại. Simon Zêlote cũng can thiệp vào cùng với Mathêu.
Nhưng điều có giá hơn sự can thiệp của họ để làm hạ cơn giận, là tiếng nói của Giêsu. Người xuất hiện giữa một cái cửa và nói: “Simon, bây giờ nín đi. Và cả ông nữa”.
- Lạy Chúa, ông chủ quán này đã phỉ báng con và dọa nạt con trước.
- Ông Nazarét, chính ông ta đã xúc phạm đến tôi trước.
Con, ông ta và ông ta, tôi... Hai người đổ lỗi cho nhau. Giêsu tiến lại, nghiêm nghị và bình tĩnh: “Cả hai đều sai. Con, Simon, con sai nhiều hơn ông ta, vì con đã biết giáo lý về tình yêu, sự tha thứ và sự êm đềm, sự nhẫn nại và tình huynh đệ. Để không bị đối xử như tên Galilê thì phải tỏ ra đáng kính như một vị thánh. Còn ông, nếu ông cảm thấy mình tốt hơn những người khác thì hãy chúc tụng Chúa về điều đó, và tỏ ra xứng đáng để trở nên luôn luôn tốt hơn. Nhất là đừng làm dơ cho tâm hồn ông bằng những lời buộc tội gian dối. Các môn đệ của tôi không phản trắc, cũng không giương bẫy”.
- Ông Nazarét ơi, ông có chắc không? Vậy tại sao bốn người đó tới hỏi tôi ông đã đến chưa, ông ở với ai, và biết bao điều khác?
- Cái gì? Cái gì? Ai vậy? Họ đâu? - các tông đồ bao vây lấy ông ta, quên đi là họ tới gần một người dính đầy máu heo, điều mà trước kia họ ghê sợ và tránh xa.
- Các con, hãy đi lo chuyện của các con. Nhưng ông, Misace, hãy ở lại.
Các tông đồ bỏ đi, vào trong căn phòng mà Giêsu đã từ đó ra. Trong sân chỉ còn lại Giêsu và người chủ quán đứng đối diện nhau.
572
Ở cách Giêsu vài bước, người lái buôn đứng yên quan sát tấn tuồng cách ngạc nhiên.
- Ông ơi, hãy trả lời tôi cách thành thật. Và xin lỗi, nếu máu đã làm cho một trong các môn đệ tôi phát sùng. Bốn người đó là ai, và họ nói gì?
- Họ là ai, tôi không biết đích xác, nhưng chắc chắn là các luật sĩ và pharisiêu thuộc phe bên kia. Ai đã dẫn họ tới đây, tôi không biết, tôi chưa bao giờ gặp họ. Nhưng họ biết rõ những điều có liên can tới ông. Họ biết ông từ đâu tới và ông đi đâu, ông đi với những ai. Nhưng họ muốn rằng tôi xác nhận. Không, tôi không phải người hiểm ác, nhưng tôi biết cái nghề của tôi. Tôi: tôi chẳng biết ai cả, tôi chẳng thấy gì cả, tôi chẳng biết gì cả. Đương nhiên là đối với người khác thôi, còn đối với tôi, tôi biết hết. Nhưng tại sao tôi lại phải nói với người khác những điều tôi biết, đặc biệt là với những tên giả hình này? Tôi, một tên phóng đãng? Đúng. Những dịp tôi giúp cho những tên ăn cắp, ông biết rõ điều đó mà... Nhưng tôi không biết ăn cắp hay có ý ăn cắp sự tự do, danh dự, sự sống. Còn họ - tôi sẽ không còn là Fara Tôlômê nữa, nếu điều tôi nói là không đúng sự thật - họ theo dõi ông để làm hại ông. Ai đã phái họ đến? Có lẽ người nào đó ở Pêrê hay miền Thập Tỉnh. Có lẽ người nào đó ở Traconi hay Gaulaniti hoặc Auraniti. Không. Chúng tôi, hoặc chúng tôi không biết ông, hoặc chúng tôi biết ông thì chúng tôi kính trọng ông như một người công chính, nếu chúng tôi không tin ở ông là một vị thánh. Vậy ai đã phái họ đến? Người nào đó trong đám ông hoặc một trong các bạn ông, vì họ biết qúa nhiều điều...
- Lấy tin tức về đoàn của tôi thì qúa dễ - Misace nói.
- Không, ông lái buôn, không phải về ông, nhưng về những người khác ở với Giêsu. Tôi, tôi không biết và tôi không muốn biết; tôi không thấy và tôi không muốn thấy. Nhưng tôi nói với ông: nếu ông biết mình có tội, ông phải cứu vãn; nếu ông biết mình bị phản bội, ông phải dự liệu.
- Ông ơi, không phải có tội, không phải phản bội, chỉ là vì Israel không hiểu tôi. Nhưng làm sao ông biết tôi vậy?
573
- Bởi một người con trai, một tên vô lại đã làm người ta nói về nó ở Bozra và ở Arbêla. Ở đây, bởi vì hắn đến để hoàn thành tội lỗi của hắn; ở đó, là vì hắn đã làm nhục gia đình hắn. Rồi hắn hoán cải, hắn trở nên ngay lành hơn một người công chính. Và bây giờ hắn đi qua đây với các môn đệ ông. Hắn cũng là môn đệ nữa, và hắn chờ ông ở Arbêla để tôn vinh ông cùng với cha mẹ hắn. Hắn kể cho mọi người là ông đã thay con tim của hắn nhờ lời cầu xin của mẹ hắn. Philíp con Jacob, nếu có ngày nào miền này trở thành thánh, thì hắn ta có công đã thánh hóa nó. Và nếu ở Bozra có ai tin vào ông thì cũng là nhờ hắn.
- Những người luật sĩ đã đến đây, bây giờ họ ở đâu?
- Tôi không biết. Họ đã đi, vì tôi nói là tôi không còn chỗ cho họ. Tôi còn chỗ, nhưng tôi không muốn cho rắn độc ở bên cạnh chim bồ câu. Chắc chắn là họ ở trong miền này. Hãy cẩn thận..
- Tôi cám ơn ông. Ông tên gì?
- Fara. Tôi phải làm bổn phận của tôi. Hãy nhớ tới tôi.
- Ừ, và ông, hãy nhớ tới Thiên Chúa và tha cho Simon của tôi. Tình yêu lớn lao mà ông ta có đối với tôi, đôi khi làm ông ta mù.
- Không có gì ác. Tôi cũng đã xúc phạm tới ông ta... Nhưng thật đau khi phải nghe lăng mạ. Ông, ông không lăng mạ...
Giêsu thở dài, rồi Người nói: “Ông có muốn giúp cho ông Nazarét không?”
- Nếu tôi có thể.
- Tôi sẽ sẵn sàng nói tại sân này.
- Tôi sẽ để cho ông nói. Lúc nào?
- Trong khoảng giờ thứ sáu và giờ thứ chín.
- Hãy yên lòng đi đâu như ông muốn. Bozra sẽ biết rằng ông nói. Tôi sẽ nghĩ tới điều đó.
- Thiên Chúa sẽ thưởng công cho ông - và Người mỉm cười với ông. Nụ cười này đã là một phần thưởng rồi. Rồi Người đi về căn phòng Người đã ở trước.
Alexandre Misace thưa Người: “Thầy ơi, hãy mỉm cười với con một cái giống vậy... con cũng đi bảo cho dân chúng đến nghe Lòng
574
Nhân Từ nói. Con biết họ nhiều lắm. Chào”.
- Thiên Chúa cũng thưởng công cho ông - và Giêsu mỉm cười.
Người vào phòng. Các bà đang ở chung quanh Maria. Mẹ có khuôn mặt buồn. Mẹ đứng dậy ngay để đến với con mẹ. Mẹ không nói, nhưng mọi sự nơi mẹ là những nghi vấn. Giêsu mỉm cười với mẹ và trả lời mẹ bằng cách nói với tất cả: “Các con hãy lo sẵn sàng để được rảnh vào giờ thứ sáu. Tiếp đó Thầy sẽ nói với đám đông tại đây. Trong khi chờ đợi, ngoại trừ Simon Phêrô, Gioan và Hermastê, còn thì hãy đi loan báo Thầy, và hãy làm phúc bố thí thật nhiều”.
Các tông đồ đi ra.
Phêrô từ từ lại gần Giêsu khi Người đang ở gần nhóm phụ nữ. Ông hỏi Người: “Tại sao con không đi?”
- Khi người ta bị khích động thì người ta ở lại trong nhà. Simon, Simon! Vậy khi nào con mới biết thi hành đức bác ái đối với tha nhân. Lúc này con là ngọn lửa cháy bừng, nhưng chỉ có cho Thầy thôi. Con là lưỡi dao thẳng và cứng, nhưng chỉ có cho Thầy thôi. Hãy êm đềm, Simon Jonas.
- Lạy Chúa, Thầy có lý. Mẹ Thầy đã khiển trách con như mẹ vẫn làm, không làm cho đau, nhưng lời khiển trách của mẹ cũng thấm sâu vào lòng con. Nhưng... Thầy cũng hãy khiển trách con, nhưng... đừng nhìn con với vẻ buồn như vậy.
- Hãy tốt. Hãy tốt... Sintica, Thầy muốn nói riêng với con. Hãy lên sân thượng. Mẹ cũng hãy lên nữa đi...
Và trên cái sân thượng thô sơ bao phủ một phía của dẫy nhà, trong sự ấm áp của ánh mặt trời, Giêsu nhẩn nha đi dạo giữa Maria và cô gái Hy Lạp. Người nói: “Ngày mai chúng ta sẽ chia tay nhau một thời gian. Tới gần Arbêla, các phụ nữ, có Gioan Enđo đi kèm, sẽ đi về biển Galilê rồi tiếp tục đi với nhau cho tới Nazarét. Nhưng để các con không phải đi một mình với một người đàn ông hơi vụng về, Thầy sẽ cho các anh Thầy và Simon Phêrô đi kèm các con. Thầy thấy trước là sẽ có những ghê sợ cho cuộc chia ly này, nhưng sự vâng lời là nhân đức của kẻ công chính. Vì các con sẽ đi qua vùng đất mà Chouza trông coi cho Hêrôđê, nên Jeanne có thể cung
575
cấp các hộ tống cho quãng đường còn lại. Lúc đó các con sẽ gởi các con của Alphê và Simon Phêrô lại cho Thầy. Nhưng đây là lý do tại sao Thầy bảo hai người lên đây: Sintica, Thầy muốn nói với con là Thầy đã quyết định cho con ở một thời gian trong nhà mẹ Thầy. Mẹ đã biết việc đó rồi. Cùng với con, cũng sẽ có Gioan Enđo và Margziam. Vậy hãy ở đó với con tim thoải mái để đào tạo cho con luôn luôn tấn tới trong sự Khôn Ngoan. Thầy muốn con có sự săn sóc chu đáo cho Gioan tội nghiệp. Thầy không nói điều đó với mẹ Thầy, vì mẹ không cần lời khuyên. Con có thể hiểu và thương hại cho Gioan, và ông có thể làm cho con rất nhiều điều tốt, vì ông là một giáo chức khôn ngoan. Rồi Thầy sẽ trở về. Ôi! Mau thôi. Và chúng ta sẽ thường gặp nhau. Thầy hy vọng thấy con luôn luôn thông thái hơn trong Chân Lý. Sintica, Thầy chúc lành đặc biệt cho con. Đó là lời tạm biệt của Thầy với con lần này. Ở Nazarét, con sẽ thấy có tình yêu và tình ghét giống như ở mọi nơi. Nhưng trong nhà Thầy, con sẽ luôn luôn tìm thấy bình an”.
- Chúa ơi, Nazarét không biết con và con không biết nó. Con sẽ sống bởi nuôi mình bằng Chân Lý. Thế giới sẽ không là gì đối với con cả.
- Tốt. Con có thể đi xuống nhà, Sintica, lúc này con hãy nín lặng.
Má ơi, má đã biết rồi... Con ký thác cho má những viên ngọc qúi yêu nhất của con. Trong khi chúng ta còn được bình an giữa chúng ta, má ơi, má hãy làm cho Giêsu của má được khích lệ bằng sự âu yếm của má.
- Biết bao là thù ghét, con ơi!
- Biết bao tình yêu!
- Biết bao cay đắng, Giêsu rất yêu của má!
- Biết bao êm đềm!
- Biết bao không thông cảm, con má ơi!
- Biết bao thông cảm, má của con!
- Ôi! Kho báu của má! Con chí thiết!
- Má, niềm vui của Thiên Chúa và của con! Má của con.
Họ ôm nhau và giữ yên như vậy, người nọ ở kề người kia trên
576
chiếc băng đá kê theo bờ tường của sân thượng. Giêsu ôm mẹ, bảo vệ, yêu thương. Mẹ tựa đầu vào vai con mẹ, tay mẹ trong tay Người: Hạnh phúc... Thế giới ở rất xa... bị chôn vùi bởi những đợt sóng tình yêu và trung thành.
157* BÀI GIẢNG THUYẾT VÀ
CÁC PHÉP LẠ TẠI BOZRA
... Và thế giới cũng rất thân cận với các làn sóng thù ghét, phản trắc, đau đớn, nhu cầu, tò mò của nó. Và các làn sóng đổ tới, giống như sóng biển đổ vào cảng để chết đi ở đây, trong cái sân của nhà trọ Bozra mà sự kính trọng của tên chủ quán với con tim đã nên tốt hơn, không cho phép ông ta chịu đựng bộ mặt của nó, đã hốt sạch các đống phân và các đống rác. Từng đoàn người trong xứ và các xứ khác, nhưng cũng thuộc miền này, và những người mà các câu đàm thoại của họ cho tôi biết là họ tới từ xa, từ bờ hồ hoặc bên kia hồ. Các tên của các xứ, các bằng chứng về đau khổ bộc lộ trong các câu đàm thoại pha lộn vào nhau trong khi chờ Giêsu: Gadara, Ippo, Gerghesa, Gamala, Afêca, Naim, Enđo, Jezrael, Magđala và Corozain. Các tên như vậy chuyển từ miệng nọ qua miệng kia, và cùng với nó, những giải thích về các lý do vì sao họ đã đến tận đây từ xa như vậy.
- Khi tôi biết rằng Người đi băng qua các xứ ở bên kia sông Giođan, tôi thất vọng. Nhưng khi tôi sắp trở về Jezrael thì có các môn đệ tới nói với chúng tôi trong khi chúng tôi chờ Người ở Caphanaum: “Vào lúc này chắc chắn Người đã ở bên ngoài Gêrasa. Đừng mất thời giờ, hãy đi Bozra hay Arbêla”. Và tôi đã đi với họ...
- Còn tôi, tôi đến từ Gadara. Tôi thấy mấy pharisiêu qua đó, họ hỏi xem Giêsu Nazarét có ở trong vùng không. Vợ tôi bệnh, tôi họp đoàn với họ. Rồi hôm qua, tại Arbêla, tôi nghe là Người đến Bozra trước, nên tôi tới đây.
- Tôi, tôi từ Gamala tới, vì lẽ đứa trẻ này. Nó bị một con ngựa
577
điên húc, và nó bị tình trạng này - Và bà chỉ cho thấy đứa nhỏ của bà co quắp, cả đến cánh tay nó cũng không cử động tự do được.
- Tôi, tôi không thể mang theo con tôi. Tôi đến từ Mageddo. Qúi vị nói sao? Người cũng sẽ chữa nó cho tôi từ nơi đây không? - Người đàn bà rên rỉ nói với khuôn mặt đỏ vì khóc.
- Nhưng phải có bệnh nhân.
- Không. Chỉ cần có đức tin.
- Không, nếu Người không đặt tay thì không khỏi được. Các môn đệ Người cũng làm vậy.
- Bà đã đi bao đường trường vô ích!
Người đàn bà bắt đầu khóc và nói: “Ôi! Tôi khốn nạn chừng nào! Tôi đã bỏ nó gần hấp hối, hy vọng... Người không chữa nó, và tôi không thể yên ủi nó lúc nó chết...”
Một người đàn bà khác an ủi bà: “Bà ơi, đừng nghĩ vậy. Tôi, tôi đến đây để cám ơn Người, vì Người đã làm cho tôi một phép lạ cả thể mà Người không cần rời bỏ ngọn núi nơi Người đang nói”.
- Con bà bệnh gì?
- Không phải con tôi. Đó là chồng tôi, vì ông hóa điên... - và hai người đàn bà tiếp tục nói nhỏ tiếng với nhau.
- Đúng vậy, cả bà mẹ ở Arbêla cũng có đứa con trai được cứu chuộc, không cần ông Thầy nhìn thấy nó - một người quê ở Arbêla nói, và ông tiếp tục nói với những người chung quanh.
- Tránh chỗ! Làm ơn tránh chỗ! - những người khênh một cái giường hoàn toàn phủ kín la lên.
Đám đông mở lối cho cái giường đi qua cùng với gánh nặng của nó. Họ tới đặt ở cuối sân, hầu như ở đàng sau một đống rơm. Người nằm trên giường là đàn ông hay đàn bà, ai mà biết được!
Hai người pharisiêu kiêu hãnh đi vào, sang trọng, hách dịch hơn bao giờ hết. Họ la lối, tấn công người chủ quán tội nghiệp như hai tên điên: “Đồ nói dối đáng nguyền rủa! Tại sao mày nói với chúng tao là ông ta không có ở đây? Mày đồng lõa với hắn? Mày nhạo chúng ta, các vị thánh của Israel vậy hở? Để biệt đãi... Ai? Mày biết gì về ông ta? Ông ta là gì đối với mày?”
578
- Ông ta là gì? Là cái mà các ông không là. Nhưng tôi đâu có nói dối. Ông ta tới một lúc sau khi các ông tới. Ông ta đâu có ẩn trốn, và tôi đâu có giấu ông ta. Nhưng vì ở đây tôi là chủ, tôi nói với các ông: “Hãy ra khỏi nhà tôi ngay lập tức”, người ta không được phỉ báng ông Nazarét ở đây, các ông hiểu không? Nếu các ông không hiểu lời nói thì tôi có thể nói với các ông bằng cử chỉ. Các ông, những chó rừng!
Người chủ quán lực lưỡng có vẻ rất quyết định để hành động tới nỗi hai pharisiêu phải đổi giọng và tự bò lết như những con chó bị đe dọa bằng cái roi da: “Nhưng chúng tôi tìm Người để tôn kính Người mà! Anh nghĩ sao? Điều làm chúng tôi bực mình là tư tưởng không được gặp Người do lỗi của anh. Chúng tôi, chúng tôi biết Người là ai: Đức Messi thánh đáng chúc tụng mà chúng tôi không đáng quay cái nhìn về Người. Chúng tôi là bụi đất, Người là vinh quang của Israel. Hãy dẫn chúng tôi lại với Người, lòng chúng tôi cháy lửa mong nghe lời Người”.
Người chủ quán trả lại cho họ đồng tiền của họ và nói: “Ôi! vậy cầm lấy đi! Tôi là người đã từng biết sự công chính rất nổi tiếng của các pharisiêu, làm sao tôi có thể nghĩ là sẽ như vầy? Nhưng chắc chắn rồi, các ông đến để tôn kính Người! Các ông cháy nóng vì sự ước ao này. Tôi sẽ đi nói với Người. Tôi đi... Không, Satan! Đừng theo tao! Và cả mày cũng không. Hay tao phải nện đứa nọ vào đứa kia, tới nỗi làm cho đứa nọ chui vào trong đứa kia, những cái xác ướp đầy nọc độc! Hãy ở lại đây, mày, tại nơi tao trồng mày, và mày, chỗ đó. Tao tiếc vì không thể cắm sâu chúng mày xuống đất tới cổ để sử dụng chúng mày như cái cọc để cột những con heo mà tao phải giết”. Và kết hợp cử chỉ với lời nói, ông ta cầm lấy chỗ bên dưới cánh tay của tên pharisiêu gầy hơn, nâng ông ta lên rồi giộng xuống đất rất mạnh tới nỗi nếu đất không qúa cứng thì ông ta phải cắm vào trong đất ít nhất là tới mắt cá chân. Nhưng mặt đất cứng, nên sau một lúc lắc mạnh, ông này đứng yên như một hình nộm. Rồi người chủ quán chụp lấy ông kia, mặc dầu ông này mập hơn, anh ta nâng lên rồi trồng xuống với cùng một kiểu hung bạo.
579
Nhưng vì ông này phản ứng và vùng vẫy, nên thay vì trồng ông ta đứng, anh ta nhận ông này ngồi trên đất: thực sự là một đống thịt và vải vóc... và anh ta bỏ đi, miệng còn nói vài lời ranh mãnh, nhưng bị tan trong tiếng than của hai ông kia, và tiếng cười của nhiều người.
Anh ta đi vào một hành lang, đi qua một cái sân nhỏ, lên một cầu thang, đặt chân vào dẫy hàng hiên, rồi từ đó, đi vào một phòng mênh mông, nơi Giêsu và các người của Ngài cùng với người lái buôn đang dùng nốt bữa ăn.
- Có hai trong bốn pharisiêu đã trở lại. Hãy coi một tí. Lúc này tôi để họ tại chỗ. Họ muốn theo tôi nhưng tôi không muốn. Bây giờ họ ở dưới sân, nơi cũng có nhiều bệnh nhân và các người khác nữa.
- Tôi xuống ngay. Cám ơn Fara, anh có thể đi.
Mọi người đều đứng lên, nhưng Giêsu ra lệnh cho các môn đệ ở lại nơi họ đang ở, kể cả các phụ nữ, ngoại trừ mẹ Người, Maria Clêopha, Suzane và Salômê. Nhìn thấy nỗi buồn của những người bị khai trừ, Người nói: “Hãy ra ngoài sân thượng, các con cũng nghe rõ”.
Người đi ra với các tông đồ và bốn người đàn bà. Họ đi lại con đường mà người chủ quán đã đi và vào trong cái sân lớn. Người ta nghển đầu lên để nhìn. Những người tinh ranh hơn thì trèo lên đống rơm, trên các chiếc xe đậu ở cạnh sân, trên thành các bể nước...
Hai người pharisiêu tới gặp Người, hoàn toàn khúm núm. Giêsu chào họ bằng lối chào thông thường của Người, làm như họ là những bạn hữu trung thành nhất. Người không dừng lại để trả lời câu hỏi có vẻ thành thật của họ: “Các ngài ít người qúa vậy? Không có các môn đệ à? Họ đã bỏ rơi Ngài sao?”
Giêsu, trong khi vẫn bước, trả lời cách nghiêm trang: “Không có chuyện bỏ rơi. Các ông đến từ Arbêla, nơi các ông đã gặp những người đã đi trước tôi. Và ở Juđê, các ông đã gặp Judas Simon, Tôma, Natanael và Philíp”.
Người pharisiêu to lớn không dám đi theo Người nữa, ông dừng lại ngay, đỏ như cục than hồng. Còn ông kia trơ trẽn hơn, nhấn
580
mạnh: “Đúng vậy. Nhưng chỉ vì chúng tôi biết rằng Thầy đi với các môn đệ trung thành và với các phụ nữ, nên chúng tôi ngạc nhiên thấy Thầy có qúa ít người. Chúng tôi muốn coi những cuộc chinh phục mới của Thầy để chúng tôi mừng với Thầy”. Và ông ta cười một cái cười giả dối.
- Các cuộc chinh phục mới của tôi à? Họ đó - và Giêsu vẽ trước mặt Người một nửa vòng tròn, chỉ vào đám đông mà phần lớn đến từ các miền ở bên kia sông Giođan, tức là thuộc về miền có Bozra. Rồi không để cho người pharisiêu có thời giờ đối đáp, Người bắt đầu nói:
- Những kẻ đã tìm Thầy, trước hết là những kẻ đã không dò hỏi gì về Thầy. Những kẻ tìm thấy Thầy trước hết là những kẻ không tìm Thầy. Và Thầy đã nói: “Thầy đây, Thầy đây” với một dân tộc không cầu khẩn danh Thầy. Vinh danh cho Chúa là đấng đã đặt chân lý vào miệng các tiên tri. Thật vậy, khi nhìn thấy đám đông chen chúc chung quanh Thầy đây, Thầy mừng rỡ trong Chúa, vì Thầy thấy hoàn tất những lời hứa mà Đấng Vĩnh Cửu đã hứa với Thầy khi Người sai Thầy đến trong thế gian. Những lời hứa này, chính Thầy đã thắp lên cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh trong ý tưởng, trong miệng lưỡi, trong con tim của các tiên tri. Những lời hứa này Thầy đã biết trước khi là thân xác, và nó khuyến khích Thầy mặc lấy một thân xác; nó cho Thầy sức mạnh, đúng, nó bổ sức cho Thầy để chống lại tất cả sự thù ghét, oán hận, nghi ngờ và điêu ngoa. Những kẻ không dò hỏi về Thấy trước, đã tìm Thầy; những kẻ không tìm Thầy đã gặp thấy Thầy. Nhưng trái lại, tại sao những kẻ mà Thầy đã giơ tay ra cho trong khi nói: “Tôi đây”, thì họ lại từ chối Thầy? Tuy nhiên những kẻ sau cùng này là những kẻ biết Thầy, trong khi những kẻ kể trên thì không biết. Vậy là tại sao?
Đây là cái chìa khóa của bí nhiệm: vô tri không phải là có tội, nhưng từ chối là có tội. Có qúa nhiều người đã được biết những điều về Thầy, và Thầy đã giơ tay ra cho họ, nhưng họ đã từ chối Thầy tựa như Thầy là đứa con hoang hay tên trộm cắp, hoặc một tên Satan quyến rũ, bởi vì trong sự kiêu căng của họ, họ đã dập tắt
581
đức tin và lạc vào con đường không tốt, ngoằn ngoèo, tội lỗi. Họ từ bỏ con đường mà Thầy chỉ cho họ. Tội lỗi ở trong lòng, trong các chén dĩa, trong giường chiếu, trong các con tim, trong các thần trí của dân này, nó xua đuổi Thầy trong khi nó thấy ở khắp nơi những phản chiếu về sự ô nhơ của nó. Nó nhìn thấy ô nhơ cả ở trên Thầy, và sự thù ghét của nó chất đống lên hơn, và rồi nó bảo Thầy: “Ông là kẻ ô nhơ, hãy tránh ra!”
Đấng đã đến trong y phục đỏ thắm, đẹp đẽ trong y phục của Người và bước đi trong sức mạnh hùng hậu của Người, Người sẽ nói gì? Phải chăng Người sẽ làm trọn điều mà Isaie đã nói: Người không nín lặng, nhưng sẽ đổ vào lòng họ cái điều họ đáng? Không, trước hết, Người phải bị đâm nát, một mình trong máy ép của Người, bị mọi người bỏ rơi, để làm thứ rượu cứu chuộc. Thứ rượu làm say các kẻ công chính và biến họ thành thánh; thứ rượu làm say các kẻ có tội, tội rất lớn, để bẻ nát sức mạnh phạm thượng của chúng. Đúng, rượu của Thầy, thứ rượu đang chín mùi giờ nọ qua giờ kia dưới mặt trời của Tình Yêu Muôn Đời, sẽ là sự hư đi và sự cứu rỗi cho nhiều người, như đã được nói trong một lời tiên tri chưa được viết ra, nhưng đã được đặt trong tảng đá không rạn nứt, mà từ đó sẽ nẩy sinh cây nho ban rượu của Sự Sống Đời Đời.
Các ông hiểu không? Không, các ông không hiểu. Ôi! Hỡi các tiến sĩ của Israel, không quan trọng là các ông hiểu. Sẽ sắp đổ xuống trên các ông những tối tăm mà Isaie đã nói: “Chúng có mắt mà không thấy, chúng có tai mà không nghe”. Các ông làm một tấm màn bằng sự thù ghét của các ông để cản Ánh Sáng, và vì vậy người ta có thể nói rằng: Ánh Sáng đã bị đẩy lui bởi bóng tối, và rằng: thế giới không muốn biết Ánh Sáng.
Nhưng các con, các con hãy vui mừng! Các con là những kẻ ở trong tối tăm mà đã biết tin vào Ánh Sáng đã được loan báo cho các con. Các con đã ước ao, tìm kiếm và gặp được Ánh Sáng. Hãy vui mừng, hỡi đoàn dân các tín hữu! Các con đã từ núi đồi, thung lũng, sông hồ, đến với Sự Cứu Rỗi, không kể đến đường dài mệt nhọc. Cũng sẽ như vậy với con đường khác, con đường thiêng liêng,
582
con đường sẽ dẫn các con, hỡi dân Bozra, từ sự tối tăm của vô tri tới ánh sáng của Khôn Ngoan.
Hãy vui mừng, hỡi dân Auraniti! Hãy nhảy vui vì đã biết. Qủa thật, cũng đã được nói về ngươi và các dân sống chung quanh ngươi, khi vị tiên tri hát rằng: các lạc đà và các đơn phong đà của ngươi chen chúc trên các đường của Neptali và Zabulon để đến thờ lạy Thiên Chúa thật, và để làm tôi tớ của lề luật thánh thiện êm đềm, không bó buộc điều gì khác để ban tình hiền phụ của Thiên Chúa và hạnh phúc đời đời, ngoài việc tuân giữ mười điều răn của Chúa: Yêu Thiên Chúa hết lòng, yêu tha nhân như chính mình; kính trọng ngày Sabát, không phàm tục hóa nó. Tôn kính cha mẹ, không giết người, không trộm cắp, không gian dâm, không làm chứng gian, không ước muốn vợ chồng, của cải của người khác. Ôi! Các con hạnh phúc, nếu khi từ xa đến, các con vượt qua những người ở trong nhà Chúa, và họ ra khỏi đó, bị châm chích bởi mười giới răn của Satan là: thù hiềm với Thiên Chúa, tình yêu riêng mình, đồi bại trong việc thờ phượng, cay nghiệt với cha mẹ, ước muốn sát nhân, cố gắng ăn cắp sự thánh thiện của kẻ khác, tà dâm với Satan, làm chứng gian, ghen ghét tính chất và sứ mạng của Ngôi Lời, và cái tội ghê gớm đang lên men và chín mùi trong các con tim, trong quá nhiều con tim.
Hãy vui mừng, các con là những kẻ khát! Hãy vui mừng, các con, những kẻ đói! Hãy vui mừng, các con, những kẻ đau khổ. Các con bị loại trừ ư ? Các con bị phát lưu ư ? Các con bị khinh dể ư? Các con là người ngoại quốc ư ? Hãy đến! Hãy vui mừng! Bây giờ thực sự không vậy nữa. Thầy, Thầy cho các con nhà cửa, của cải, tình phụ tử, quê hương. Thầy cho các con Nước Trời. Hãy theo Thầy, Thầy là Vị Cứu Tinh. Hãy theo Thầy, Thầy là Đấng Cứu Thế. Hãy theo Thầy, Thầy là Sự Sống. Hãy theo Thầy, Thầy là Đấng mà Thiên Chúa không từ chối ơn gì! Hãy vui mừng trong tình yêu của Thầy. Hãy vui mừng! Và để các con thấy là Thầy yêu các con, ôi! Hỡi các con là những kẻ đã đi tìm Thầy với các đau khổ của các con; ôi! Hỡi các con là những kẻ đã tin vào Thầy ngay từ trước khi biết Thầy, để cho ngày hôm nay thực sự là một ngày vui
583
mừng, Thầy cầu nguyện như vầy: “Lạy Cha! Lạy Cha Rất Thánh! Chớ gì trên tất cả các vết thương này, các bệnh nhân này, các thương tích của thân xác, các lo âu, các băn khoăn, các hối hận trong các con tim, trên mỗi lần nó nảy sinh ra, trên các kẻ do dự, trên các kẻ vững vàng, xin đổ xuống! Ôi! Xin Cha đổ xuống phần rỗi, ân phúc và bình an! Bình An trong tên con, Ân Phúc trong danh Cha, Phần Rỗi trong tình yêu hỗ tương của chúng ta! Hãy chúc phúc, ôi! Lạy Cha Rất Thánh! Hãy qui tụ và thiết lập trong một bầy duy nhất, tất cả các đứa con này: các con của Con và của Cha đang bị tản mát. Hãy làm sao để Con ở đâu thì chúng ở đó, hợp nhất làm một với Cha, lạy Cha Rất Thánh, với Cha, với Con, và với Thánh Linh Thiên Chúa”.
Giêsu giang tay như hình Thánh Giá, lòng bàn tay ngửa lên trời, mặt ngửa lên, tiếng nói vang lên như tiếng kèn bạc, không thể kìm hãm được trong các lời của Người... Người đứng yên như vậy, yên lặng trong vài phút. Rồi cái nhìn lam ngọc của Người thôi nhìn Trời để nhìn cái sân mênh mông đầy người, xit xoa cảm động hay bồn chồn hy vọng. Người nắm bàn tay vào nhau, giơ ra phía trước với một nụ cười làm Người biến diện, Người phát ra tiếng kêu sau cùng: “Vui lên, hỡi các con là những kẻ tin và hy vọng! Hỡi dân đau khổ, hãy đứng lên và hãy yêu Chúa, Thiên Chúa của ngươi”.
Thế là xảy ra sự chữa lành đồng loạt và hoàn toàn về hết mọi bệnh tật. Những tiếng kêu cuồng nhiệt, một tràng sấm của các tiếng nói hô vạn tuế Vị Cứu Tinh. Từ tận cuối sân, hãy còn lôi lê thê tấm phủ giường đã đắp, một người đàn bà phăng qua đám đông, tới qùi dưới chân Chúa. Đám đông phát ra những tiếng kêu khác: tiếng kêu sợ hãi: “Maria, người đàn bà cùi vợ Joakim!” Và người ta chạy dạt ra mọi phía.
- Đừng sợ, bà ta khỏi rồi. Sự tiếp xúc với bà không còn nguy hại cho các con nữa - Giêsu bảo đảm. Rồi Người nói với người đàn bà đang phục lạy: “Bà ơi, đứng dậy đi. Lòng trông cậy lớn lao của bà đã thưởng cho bà, và làm cho bà được tha vì đã thiếu thận trọng đối với anh em. Hãy trở về nhà bà sau các việc thanh tẩy lành sạch”.
584
Người đàn bà còn trẻ và khá đẹp, khóc và đứng dậy. Giêsu chỉ bà cho đám đông khi họ đã hơi tiến lại gần và cảm phục phép lạ. Họ kêu lên sự cảm phục của họ:
- Chồng bà rất thương bà, ông đã xây cho bà một chỗ trú ở cuối đất của ông. Mỗi ngày ông tới nơi náu ẩn của bà để khóc và mang thực phẩm cho bà...
- Bà bị bệnh vì tình thương của bà, khi bà săn sóc một người ăn mày đã không tuyên bố là bị cùi.
- Nhưng làm sao cái bà Maria dũng cảm này tới đây được vậy?
- Nằm trên băng ca. Mà sao chúng ta không nghĩ đến rằng đó là các đầy tớ của Joakim?
- Về việc đó, họ liều mình bị ném đá.
- Bà chủ của họ mà! Họ rất yêu bà. Bà biết cách làm cho người ta yêu, còn hơn là người ta yêu chính mình...
Giêsu làm một cử chỉ và mọi người yên lặng: “Các con thấy rằng tình yêu và lòng tốt mang lại phép lạ và niềm vui. Vậy hãy biết tốt. Bà hãy đi. Không ai làm hại bà đâu. Bình an cho bà và nhà bà”.
Người đàn bà mà các đầy tớ của bà đã đốt chiếc băng ca ngay ở giữa sân, đi ra, các đầy tới theo sau, và nhiều người khác cũng đi theo.
Giêsu cho đám đông giải tán sau khi đã nghe một số người. Người vào nhà, các người của Ngài theo sau.
- Thầy ơi! Thật là những lời!...
- Thầy biến hình chừng nào!
- Ôi! Tiếng nói...
- Và các phép lạ!
- Thầy có thấy lúc các pharisiêu chuồn đi không?
- Họ chuồn đi, bò như những con thằn lằn sau những lời đầu tiên.
- Các người Bozra và các miền khác có một kỷ niệm tuyệt vời về Thầy...
- Mẹ ơi, còn mẹ, mẹ nói sao?
- Mẹ chúc tụng con, cho mẹ và cho họ.
585
- Tốt, phúc lành của mẹ sẽ theo con cho tới khi chúng ta lại gặp nhau.
- Lạy Chúa, sao Thầy nói vậy? Thế ra các bà sắp rời chúng ta à?
- Đúng, Simon à. Ngày mai, lúc hừng sáng, Alexandre sẽ đi Aêra. Chúng ta sẽ đi với ông cho tới con đường vô Arbêla, rồi chúng ta chia tay ông. Và đó là nỗi đau, hãy tin đi, Alexandre Misace, ông đã là người hướng dẫn phong nhã của cuộc hành trình. Thầy sẽ luôn luôn nhớ tới ông, Alexandre...
Người đàn ông già cảm động sâu xa. Ông đứng chắp tay trước ngực trong kiểu chào trọng thể của Á Đông, hơi cúi trước mặt Giêsu. Khi nghe những lời này, ông nói: “Nhất là hãy nhớ đến con khi Thầy đã ở trong nước của Thầy”.
- Con ước ao nó à Misace?
- Lạy Chúa, vâng.
- Thầy cũng vậy, Thầy ước ao một cái gì của con.
- Lạy Chúa, cái gì? Chỉ cần con có thể, con sẽ biếu nó cho Thầy. Hãy lấy cái gì qúi nhất trong những cái mà con có.
- Đúng là cái qúi nhất, đó là linh hồn con. Chính nó là cái Thầy muốn. Hãy đến với Thầy, Thầy đã nói với con rồi lúc khởi đầu cuộc hành trình rằng Thầy muốn ban cho con một ơn vào lúc chót. Ơn đó là Đức Tin. Con có tin Thầy không Misace?
- Lạy Chúa, con tin.
- Vậy hãy thánh hóa tâm hồn con, để đức tin không thành, chẳng những trơ trơ, mà còn thiệt hại cho con nữa.
- Linh hồn con nó qúa già rồi, nhưng con sẽ cố gắng làm cho nó thành mới. Lạy Chúa, con là người già tội lỗi, nhưng con xin Thầy miễn thứ cho con, và hãy chúc lành cho con, để từ bây giờ, con bắt đầu sống một đời mới. Con sẽ mang phúc lành của Thầy đi với con như người hộ tống tốt nhất trên con đường đi về Nước Thầy... Lạy Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa sao?
- Không bao giờ nữa trên trái đất này. Nhưng con sẽ có các tin tức của Thầy, và con sẽ còn tin hơn, vì Thầy sẽ không để cho con thiếu sự giảng Tin Mừng. Chào Misace. Ngày mai chúng ta sẽ có ít
586
thời giờ để chào nhau. Chúng ta hãy làm bây giờ trước khi cùng nhau dùng lương thực lần sau cùng.
Người ôm ông và hôn ông. Các tông đồ và các môn đệ cũng làm vậy. Các phụ nữ dành cho ông một cái chào duy nhất. Nhưng Misace qùi gối hầu như ngay trước mặt Maria và nói: “Nguyện cho ánh sáng sao mai tinh tuyền của mẹ rực rỡ trong tâm trí con cho tới chết”.
- Alexandre ạ, trong đời sống, hãy yêu con mẹ, và con sẽ yêu mẹ, và mẹ sẽ yêu con.
Simon Phêrô hỏi: “Nhưng từ Arbêla, chúng ta sẽ đi Aêra chứ? Con sợ chúng ta gặp thời tiết xấu. Qúa nhiều sương mù... đã ba ngày nay, luôn luôn có sương mù vào lúc bình minh và hoàng hôn...”
- Là vì chúng ta đã xuống dốc ở đây. Anh không cảm thấy xuống dốc nhiều, nhưng là vậy đó. Bắt đầu từ ngày mai, chúng ta sẽ đi lên về các núi miền Thập Tỉnh, và anh sẽ không còn sương mù nữa - Misace cắt nghĩa.
- Xuống dốc à? Lúc nào vậy? Đường bằng mà!
- Đúng. Nhưng nó xuống liên tục. Ồ, xuống qúa từ từ tới nỗi người ta không nhận ra, nhưng trên hàng bao dặm và hàng bao dặm.
- Chúng ta sẽ ở lại Arbêla bao lâu?
- Con, Giacôbê và Juđa sẽ không ở lại tới một giờ - Giêsu cắt ngang.
- Con... Giacôbê và Juđa không tới một giờ? Nhưng con sẽ đi đâu nếu con không ở với tất cả qúi vị?
- Ở trên đường cho tới đất mà Chouza giữ. Con sẽ hộ tống mẹ Thầy và các phụ nữ cho tới đó cùng với các người khác. Rồi các bà sẽ đi một mình với các đầy tớ của Jeanne, và các con sẽ trở lại với Thầy ở Aêra.
- Ôi! Lạy Chúa! Thầy giận con và phạt con... Lạy Chúa! Thầy làm con đau chừng nào!
- Simon, kẻ có tội thì cứ cảm thấy bị phạt. Tội trạng này làm con đau khổ, nhưng chính đây không phải là hình phạt. Thầy không
587
nghĩ đó là hình phạt, việc hộ tống mẹ Thầy và các nữ môn đệ trên đường trở về.
- Nhưng Thầy đi với chúng con không tốt hơn sao? Hãy bỏ rơi Aêra và các địa điểm này để đi với chúng con đi!
- Thầy đã hứa tới đó và Thầy sẽ tới đó.
- Vậy con cũng đi tới đó.
- Hãy vâng lời, không phản kháng, giống như các anh của Thầy.
- Nhưng nếu Thầy gặp các pharisiêu?
- Chắc chắn con không phải là người được chỉ định là tốt nhất để cải hóa họ. Nhưng chỉ vì Thầy thấy rằng Thầy muốn con, Giacôbê và Juđa tránh không vào Arbêla, cũng như các phụ nữ, và với Gioan Enđo và Margziam.
- A!... Con hiểu rồi. Tốt.
Giêsu quay về với các phụ nữ và chúc phúc cho từng người một, và cho mỗi người những lời khuyên liên can tới họ.
Maria Mađalêna, khi cúi xuống hôn chân Vị Cứu Tinh của cô, đã hỏi: “Con còn được gặp Thầy trước khi trở về Bêtani không?”
- Chắc chắn rồi Maria. Vào tháng Etanim, Thầy sẽ ở trên hồ.
158* TẠM BIỆT CÁC NỮ MÔN ĐỆ
Sự tôn kính của Misace được biểu lộ vào sáng hôm sau. Ở các cây số đầu tiên của đoạn đường, ông ta đã xếp đặt các con lạc đà bằng cách chất hàng thế nào để có một cái nôi dễ chịu cho các khách du hành không chuyên môn. Và thật khá vui khi nhìn thấy những cái đầu tóc đen, tóc nâu, tóc vàng chìm ngập giữa các giỏ, các két hàng. Với mái tóc dài tới tai của các ông và các thắt bím hiện ra dưới lớp voan của các bà. Thỉnh thoảng làn gió gây ra bởi bước chạy gia tốc của các con lạc đà, hất về phía sau các tấm voan, và người ta thấy mái tóc óng vàng, sáng bóng dưới mặt trời của Maria Magđala, hoặc mái vàng dịu hơn của Đức Trinh Nữ, trong khi các đầu tóc khác mầu đậm ít hoặc nhiều của Jeanne, Sintica, Matta, Marcelle, Suzane và Sara, thì có ánh phản chiếu mầu chàm
588
hoặc mầu thau đậm. Còn các đầu bạc của Êlise, Salômê, Maria Clêopha được rắc bạc, sáng lên dưới ánh mặt trời trong sáng sưởi nóng cho chúng.
Các ông cũng tiến trên phương tiện vận chuyển mới. Margziam cười sung sướng. Người ta nhận thấy lời giải thích của người lái buôn là đúng. Khi quay lại phía sau, họ thấy tất cả Bozra ở dưới thấp với các ngọn tháp của nó, các nhà cao trong những quanh co của các phố hẹp. Các ngọn đồi sườn thoai thoải xuất hiện ở phía tây bắc. Ở ngay dưới chân nó là con đường dẫn tới Arbêla. Chính ở đó, đoàn lữ hành dừng lại để các lữ hành gia chia tay nhau. Các con lạc đà qùi xuống với gánh nặng rung rinh của chúng. Điều đó làm cho mấy phụ nữ la lên. Bây giờ tôi nhận thấy là các bà đã cẩn thận cột mình vào yên của họ. Các bà bước xuống, ngượng nghịu vì chòng chành, nhưng rồi yên ổn.
Misace cũng xuống. Ông đã đặt Margziam cùng yên với ông. Trong khi các con lạc đà được xếp lại hàng hóa theo kiểu thường xuyên, ông lại gần Giêsu để chào một lần nữa.
- Thầy cám ơn con, Misace. Con đã tránh cho chúng ta rất nhiều mệt mỏi và tiết kiệm được thời gian.
- Vâng, trong một giờ, chúng ta đã đi được hai mươi dặm. Lạc đà chúng có chân dài, dù là nhịp bước của chúng không được êm, con cũng hy vọng các bà không phải qúa chịu đựng.
Tất cả các bà đều bảo đảm là các bà ngồi không đau đớn gì.
- Bây giờ qúi vị còn cách Arbêla sáu dặm nữa. Nguyện Trời phù hộ cho qúi vị và cho qúi vị một con đường thoải mái. Tạm biệt Chúa. Xin cho phép con đuợc hôn đôi chân thánh của Thầy. Lạy Chúa, thật sung sướng vì đã được gặp Người. Xin hãy nhớ đến con.
Misace hôn chân Giêsu rồi lại lên yên. Tiếng cri cri của ông làm các con lạc đà đứng lên... và đoàn lữ hành lại tiến bước sải trên đường bằng giữa những đám mây bụi.
- Người đàn ông đại độ. Tôi nhầu nát hết quần áo, nhưng đổi lại, đôi chân được thong thả. Nhưng nó lúc lắc chừng nào! Một cái gì khác với cơn bão gió bắc ở trên hồ! Qúi vị cười à? Tôi, tôi không có
589
cái gối giống như các bà. Vạn tuế cái thuyền của tôi! Nó vẫn còn là cái gì sạch hơn, chắc chắn hơn. Bây giờ chúng ta hãy đặt giỏ lên vai và bước!
Đây là cuộc tranh tài xem ai sẽ mang cái giỏ nặng nhất. Các kẻ thắng là nhóm đi với Giêsu, tức là Mathêu, Andrê, Zêlote, Giacôbê và Gioan, Hermastê, Timon. Họ mang hết để tiết kiệm sức cho ba người phải đi với các bà, hay đúng hơn là bốn người, nếu kể cả Gioan Enđo. Nhưng vì ông gặp khó khăn nên việc giúp đỡ ông chỉ hoàn toàn tương đối.
Họ bước nhanh trong vòng vài cây số thì lên tới đỉnh đồi. Ngọn đồi này là cái tấm chắn gió tây. Ở đây lại thấy một đồng bằng phì nhiêu, bao bọc bởi các đồi cao hơn những đồi đã gặp trước, và ở giữa có một ngọn đồi dài, biệt lập. Trong đồng bằng này là thành phố Arbêla.
Họ xuống dốc và mau lẹ đã vào trong đồng bằng. Họ đi bộ một lúc nữa rồi Giêsu dừng lại và nói: “Đây là giờ chia tay. Chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ thực phẩm, rồi chúng ta chia tay. Đây là chỗ rẽ về Gadara. Các con đi đường này, và trước buổi chiều, các con có thể chắc là tới đất mà Chouza trông coi”.
Không có gì hứng khởi, nhưng sau cùng, họ vâng lời. Trong khi dùng bữa, Margziam nói: “Vậy đã đến giờ để đưa cho Thầy cái túi tiền này. Người lái buôn đã đưa nó cho con khi con ngồi trên yên với ông. Ông ta bảo con: ‘Mày đưa cho Giêsu trước khi tạm biệt Người, và mày nói với Người là mong Người yêu tao như Người yêu mày’. Đây, nó nặng cho con ở đây, trong áo con. Tựa như nó chứa đầy sỏi đá”.
- Đưa coi! Đưa coi! Tiền thì nặng chứ!
Hết mọi người đều tò mò. Giêsu cởi sợi giây bằng da buộc miệng cái túi tiền bằng da linh dương, tôi tin vậy, vì tôi thấy nó giống như da linh dương thuộc, và Người đổ hết ra trong vạt áo của Người. Các đồng tiền lăn, nhưng với số lượng không nhiều lắm. Người lượm ở đó ra rất nhiều gói nhỏ bằng vải gai qúi: mỗi gói được buộc bằng một sợi giây. Các mầu sắc tinh xảo hiện ra dưới lớp vải rất
590
mỏng, và như mặt trời đã đốt lên những cục than trong những túi nhỏ này, giống cục than đỏ dưới lớp tro mỏng.
- Cái gì vậy? Cái gì vậy? Cởi ra đi Thầy!
Mọi người đều cúi xuống trên Người, Người bình tĩnh cởi sợi giây của một gói đầu tiên có mầu lửa vàng: hoàng ngọc, cỡ lớn nhỏ khác nhau, hãy còn thô, chói sáng tự do dưới mặt trời. Một gói khác: hồng ngọc, các giọt máu đông. Một gói nữa: bích ngọc, ánh sáng tươi cười của mầu xanh lá cây. Một gói khác: các mảnh trời tinh tuyền của lam ngọc. Một gói nữa: các viên tử ngọc mầu tím êm đềm. Một gói nữa: mầu lam tím của lục ngọc thạch. Một gói nữa: mầu đen bóng lộn của mã não có vân... và tiếp tục như vậy tới hết mười hai gói. Trong gói sau cùng, nặng nhất, tất cả sự chói sáng óng vàng của lục kim thạch, có miếng giấy da nhỏ ghi: “Dành cho chiếc bố tử lễ phục của vị Giáo Trưởng và là Vua thực sự của Thầy”.
Vạt áo của Giêsu là một cánh đồng cỏ nhỏ, trên đó các cánh hoa ánh sáng được tách rời... Các tông đồ thọc tay vào quậy trong ánh sáng đã trở thành thực chất muôn mầu này. Họ sững sờ... Phêrô thì thầm: “Nếu Judas Kêriot ở đây!...”
- Im đi! Tốt hơn là ông ta không biết - Thađê nói đột ngột.
Giêsu xin một mảnh vải để làm một gói duy nhất cho hết các đá qúi. Và trong khi các lời ca ngợi còn tiếp tục, Người suy nghĩ.
Các tông đồ nói: “Cái ông này giầu thật!” Phêrô làm họ cười khi ông nói: “Chúng ta đã ngự trên chiếc xa mã bằng ngọc. Tôi không ngờ là đã ngồi trên từng ấy huy hoàng. Nhưng chớ gì nó được hơi êm hơn! Thầy sẽ làm gì với nó bây giờ?”
- Thầy sẽ bán đi để lấy tiền cho người nghèo - Và Người ngước mắt lên nhìn các phụ nữ và mỉm cười.
- Thầy tìm đâu ra ở đây một tiệm nữ trang có thể mua món hàng này?
- Ở đâu? Ở đây: Jeanne, Matta, Maria. Các con có mua kho tàng của Thầy không?
Ba người đàn bà, không cần hỏi ý kiến nhau, đều trả lời “Có” một cách hăng hái. Nhưng Matta thêm: “Ở đây chúng con có ít tiền
591
lắm!”
Các con sẽ cho Thầy ở Magđala vào tuần trăng mới.
- Chúa ơi, Thầy muốn bao nhiêu?
- Cho Thầy thì số không, nhưng cho người nghèo thì rất nhiều.
- Vậy cho con đi, và Thầy sẽ có rất nhiều - Maria Mađalêna nói, rồi cô cầm cái túi và đút vào trong áo.
Giêsu chỉ giữ lại các đồng tiền. Người đứng dậy hôn mẹ Người, hôn bà bác, hai anh họ, Phêrô, Gioan Enđo và Margziam. Người chúc lành cho các phụ nữ và cho họ đi. Các bà đi, còn quay lại hoài để nhìn, cho tới một khúc quanh che khuất họ.
Giêsu với các người còn lại hướng về Arbêla. Bây giờ chỉ còn một nhóm nhỏ, chỉ có tám người. Họ bước lẹ trong yên lặng về phía thành phố càng lúc càng gần.
Cả bữa nay cũng vậy. Thật là nhiều kiên nhẫn cho cả đôi bên mà chúng con hoàn tất. Hai mươi ba lần gián đoạn trong ngày hôm qua, hôm nay thì mười bốn lần. Phải chăng sự kiên nhẫn vô cùng của Chúa Giêsu, được tỏa ra từ Người đã chảy vào con. Con bảo đảm với cha là con muốn phát điên, nhưng Người rất kiên nhẫn. Người ngừng lại, rồi tiếp tục cách bình tĩnh, vui vẻ. Con, con không thành công trong sự kiên nhẫn với những gián đoạn khó chịu nó bó buộc con phải gấp vở lại và để bút ở bên cạnh trong mấy phút, để che giấu điều mầu nhiệm đang từ từ hoàn thành một cách kín đáo, và che khuất nó khỏi những tò mò vô ích. Thật là một phép lạ cả thể, việc làm cho con thành một người kiên nhẫn... Chắc chắn là con kiên nhẫn, vì con biết rằng chính Người đọc chính tả cho con, và Người không bị mất mạch lạc tư tưởng. Vì khi, giống như sáng nay, chính con viết thơ hay chuyện gì khác, con mất dòng tư tưởng và sự kiên nhẫn ngay, tựa như con nghe nói ngay bên tai. Matta biết là đã bao nhiêu lần con la: “Yên lặng đi! Đóng cửa lại!”, khi con viết điều gì về việc của con.
159* TẠI ARBÊLA
Do người đàn bà đầu tiên mà các đấng gặp để hỏi tin tức về Philíp con Jacob, các đấng được biết các công việc mà người môn đệ trẻ này làm. Người mà các đấng hỏi là một bà già nhăn nheo. Bà vác cách nặng nhọc một cái bình đầy nước. Bà dán đôi mắt sâu vì tuổi tác của bà trên khuôn mặt đẹp của Gioan, kẻ đã đặt câu hỏi với bà cùng với nụ cười tươi sau khi đã nói: “Bình an cho bà” cách
592
êm ái tới nỗi bà bị chinh phục: “Cậu là Đức Messi à?”
- Không, nhưng là tông đồ của Người. Người đang đến kia kìa.
Bà già nhỏ đặt cái bình xuống đất và đi về hướng được chỉ. Rồi bà qùi gối trước mặt Giêsu.
Gioan ở lại một mình cùng với Simon trước cái bình. Nó bị đổ và chảy ra ngoài hết nửa số lượng nước. Ông mỉm cười nói với bạn: “Tốt hơn là cầm cái bình này và đi lại với bà già”, và ông cầm bình đi trong lúc bạn ông nói thêm: “Để uống, tất cả chúng ta đều khát”.
Họ tới bên bà già. Bà ta không biết phải chính xác nói gì nên cứ lặp đi lặp lại: “Đẹp trai, người Con thánh của người Mẹ thánh nhất”. Và bà vẫn qùi, uống no, bằng mắt của bà, khuôn mặt của Giêsu. Người mỉm cười, và đến lần Người nói: “Mẹ đứng lên đi! Vậy mẹ đứng dậy đi!” Khi tới nơi, Gioan nói: “Chúng tôi đã cầm cái bình của bà, nhưng nó bị đổ, chỉ còn một ít nước. Nhưng nếu bà cho phép, chúng tôi uống nước này, rồi chúng tôi sẽ hứng đầy bình”.
- Ờ, con ơi, ờ. Mẹ buồn vì chỉ có nước cho các ngài. Mẹ muốn có sữa, giống như khi mẹ nuôi thằng Juđa của mẹ, để biếu qúi vị cái thứ êm dịu nhất hiện diện trên trái đất: Sữa của một bà mẹ. Mẹ muốn có rượu, thứ tốt nhất, để cho các ngài mạnh sức. Nhưng Marianne Êlisê đã già và nghèo...
- Nước của mẹ đối với Thầy là rượu và sữa, vì nó được cho với tình yêu - Giêsu trả lời và người uống cái bình trước tiên khi Gioan đưa cho Người. Rồi những người khác cũng uống.
Sau cùng bà già nhỏ đứng dậy, nhìn các ngài như nhìn Thiên Đàng. Khi tất cả đã uống xong, bà nhận thấy họ đang tính đổ bỏ chỗ nước còn lại để đi tới phông-ten ở đầu đường, khi đó bà già nhỏ liền nhảy về phía trước và giữ lấy cái bình mà nói: “Không, không, cái nước này Người đã uống vào, nó còn thánh hơn nước xá giải. Tôi sẽ giữ gìn nó cẩn thận để người ta dùng nó mà thanh tẩy cho tôi sau khi tôi chết”. Và bà ghì lấy chiếc bình và nói: “Tôi đem nó về nhà, tôi có các bình khác, tôi sẽ hứng đầy. Nhưng xin vị thánh hãy tới, trước hết tôi chỉ cho các ngài căn nhà của Philíp”. Và bà chạy lắt nhắt, cúi gù, với nụ cười trên khuôn mặt nhăn, và đôi mắt
593
mà niềm vui đã làm cho sống động lại. Bà vừa đi lắt nhắt, vừa nắm lấy vạt áo khoác của Giêsu giữa các ngón tay bà, tựa như bà sợ Người có thể trốn thoát mất; và bà bảo vệ cái bình của bà chống lại sự nằng nặc của các tông đồ đòi lấy đi cho bà cái gánh nặng này. Bà bước đi, sung sướng nhìn con đường vắng và các căn nhà của Arbêla đã đóng cửa trong buổi chiều tà, với cái nhìn của người chinh phục sung sướng vì chiến thắng. Sau cùng họ đi từ con đường thứ cấp này tới một con đường khác ở trung tâm vùng hơn. Tại đây có những người đang vội vã trở về nhà họ. Người ta quan sát bà, ngạc nhiên. Họ chỉ ngón tay vào bà và chất vấn bà. Bà ta, sau khi đã chờ cho có một số lượng khá quan trọng người vây chung quanh, mới la lên: “Tôi có với tôi Đấng Messi của Philíp. Hãy chạy đi loan tin cho khắp nơi, trước hết là nhà của Jacob, bảo họ sẵn sàng để tôn kính Đấng Thánh”. Bà kêu đến hết hơi. Bà ta biết làm cho người ta vâng lời. Đó là giờ chỉ huy của bà, một bà già nhỏ thó của dân chúng, đơn độc, vô danh. Và bà thấy cả thành phố nhốn nháo vì lệnh truyền của bà.
Giêsu, qúa cao hơn bà, mỉm cười với bà khi thỉnh thoảng bà nhìn lên Người. Người đặt tay trên cái đầu cằn cỗi của bà, vuốt tóc bà như một người con. Điều đó làm cho bà hầu như ngất xỉu vì sung sướng.
Căn nhà của Jacob tọa lạc tại một phố ở trung tâm. Tất cả đều mở rộng và thắp sáng. Nó xuất hiện ở sau cổng và sau một lối đi dài, nơi dân chúng vung vẩy những chiếc đèn. Đây, ngay lúc Giêsu xuất hiện trên lối vào, họ sung sướng đi ra: người môn đệ trẻ Philíp, rồi cha và mẹ anh, các người bà con, các tôi tớ, các bạn hữu.
Giêsu dừng lại để trả lời cách oai phong cho cái chào sâu của Jacob. Rồi Người cúi trên bà mẹ của Philíp đã qùi gối để tôn kính Người. Người bảo bà đứng dậy và chúc phúc cho bà khi nói: “Hãy luôn luôn sung sướng vì đức tin của bà”, rồi Người chào người môn đệ cũng chạy tới cùng với bạn anh mà Giêsu cũng chào.
Dầu thế nào, bà già Marianne không rời vạt áo khoác của Giêsu và chỗ của bà bên cạnh Người cho tới khi các ngài đặt chân vào
594
trong tiền đường. Lúc đó bà rên rỉ: “Một cái chúc lành để con được sung sướng đi! Bây giờ Ngài ở lại đây... Con, con trở về căn nhà nghèo của con và... tất cả những điều tốt đẹp này đều chấm dứt!” Biết bao buồn rầu trong tiếng nói cằn cỗi của bà.
Jacob, sau khi vợ ông đã nói nhỏ cái gì với ông, ông liền nói: “Không, Marianne Êlisê, bà hãy ở lại trong nhà tôi tựa như bà là môn đệ. Hãy ở lại bao lâu Thầy còn ở lại với chúng tôi, và hãy vui sướng”.
- Thiên Chúa chúc lành cho ông. Ông đã hiểu đức bác ái.
- Thưa Thầy, bà ta đã dẫn Thầy vào nhà con. Thầy đã làm ơn và bác ái với con, con chỉ có trả lại, và luôn luôn là trả ơn cách bủn xỉn vì số rất nhiều mà con đã nhận được của Thầy. Xin Thầy vào. Mời các ngài vào, và mong nhà tôi được khoản đãi qúi vị.
Đám đông ở trên đường bên ngoài, thấy Người vào, họ la: “Còn chúng con thì sao? Chúng con muốn nghe lời Thầy”.
Giêsu quay lại và nói: “Đêm rồi, các con mệt. Hãy sửa soạn tâm hồn các con bằng sự nghỉ ngơi thánh thiện. Ngày mai các con sẽ nghe tiếng của Thiên Chúa. Lúc này thì bình an và phúc lành của Thầy ở với các con”. Và chiếc cổng đóng lại trên hạnh phúc của ngôi nhà này.
Giacôbê Zêbêđê nói với Chúa trong lúc họ rửa ráy sau cuộc hành trình: “Tốt hơn là nói ngay bây giờ rồi sáng mai khởi hành. Các pharisiêu đang ở trong thành phố. Philíp đã nói với con vậy. Họ sắp gây phiền phức cho Thầy”.
- Các người có thể bị phiền phức bởi họ đã ở xa đây. Những phiền phức họ có thể gây ra cho Thầy không có giá trị gì cả. Đã có tình yêu để hủy bỏ nó.
***
Sáng ngày hôm sau... Vui vẻ đi ra giữa các người thân của Philíp và các tông đồ với bà già nhỏ theo sau, để gặp các người dân Arbêla đang sốt ruột chờ Người, tới cái quảng trường chính, Giêsu bắt đầu nói:
- Ta đọc thấy ở chương tám sách Esdras, quyển thứ hai, điều mà
595
bây giờ Thầy nhắc lại cho các con ở đây: “Vào đầu tháng thứ bảy...” (Giêsu bảo tôi: “Đừng viết thêm điều gì khác, Cha đã nhắc lại trọn vẹn các lời trong sách”)
Dân chúng hồi hương là khi nào? Là khi họ trở lại đất của cha ông họ. Thầy, Thầy đến dẫn các con về đất của Cha các con: trong Nước của Cha. Thầy có thể làm, vì Thầy đã được sai đến để làm việc đó. Vậy Thầy đến để dẫn các con về Nước của Thiên Chúa, và vì thế, thật chính đáng là so sánh các con với những người đã cùng với Zorobabel hồi hương về Jêrusalem, kinh thành của Chúa. Và cũng chính đáng là làm với các con như luật sĩ Esdras đã làm với các dân đã tụ họp lại bên trong các bức tường thánh. Vì xây dựng một kinh thành và dâng hiến cho Chúa mà lại không xây dựng các linh hồn là từng ấy kinh thành nhỏ của Thiên Chúa, là một ngu ngốc vô song.
Làm thế nào để xây dựng những kinh thành thiêng liêng nhỏ này mà bao lý do đã phá hủy nó? Phải dùng những vật liệu nào để làm cho nó vững chắc, đẹp đẽ và bền lâu?
Các vật liệu là các giáo điều của Chúa. Mười điều răn mà các con đã biết, vì Philíp, con cái các con và môn đệ của Thầy đã nhắc lại cho các con. Hai điều răn thánh giữa các điều răn thánh: “Yêu Thiên Chúa hết mình, yêu tha nhân như chính mình”, đó là tóm tắt của Lề Luật, và đó là những điều mà Thầy dạy, bởi vì với nó, người ta chắc chắn chinh phục được Nước Thiên Chúa. Trong tình yêu có sức mạnh để giữ mình thánh hay để trở nên thánh; sức mạnh để tha thứ, sức mạnh để anh hùng trong nhân đức. Tất cả đều có trong tình yêu.
Sự sợ hãi không thể cứu: Sợ sự phán xét của Thiên Chúa, sợ sự trừng phạt của loài người, sợ bệnh tật. Sự sợ hãi không bao giờ xây dựng. Nó gây ra sự sụt lở, sự tan vỡ, sự rạn nứt, sự hư hại. Sợ hãi đưa tới thất vọng; nó mang tới những mưu mẹo gian trá để che đậy lối sống xấu xa. Nó chỉ mang tới sự kính sợ khi việc kính sợ đã thành vô ích, vì điều xấu đã ở trong chúng ta rồi. Khi người ta còn sức khỏe tốt thì ai nghĩ tới hành động khôn ngoan vì thương cho cơ
596
thể mình? Chả ai cả. Nhưng từ khi cái gai gai rét đầu tiên của cơn sốt bắt đầu chạy trong mạch, hoặc một dấu vết làm cho nghĩ tới cái bệnh dơ bẩn, thì lúc đó mới có sợ hãi, xao xuyến thêm vào với bệnh tật. Sức mạnh sẽ bị tan rã trong một cơ thể đã bị tán loạn vì bệnh tật.
Tình yêu, trái lại, rất xây dựng. Nó xây đắp, củng cố, gìn giữ cho vững vàng, đề phòng. Tình yêu mang theo hy vọng nơi Thiên Chúa. Tình yêu làm cho điều dữ chạy trốn. Tình yêu làm cho biết thận trọng với chính mình là cái không phải là trung tâm vũ trụ như kẻ ích kỷ nghĩ và làm. Kẻ ích kỷ là người yêu giả hình của chính mình họ, vì họ chỉ yêu một phần của chính mình họ, cái phần ít qúi phái nhất, và làm thiệt hại cho phần bất tử và thánh. Nhưng chính là một bổn phận, việc luôn luôn săn sóc và bảo trì cho mình được sức khoẻ tốt, vì nó làm vui lòng Chúa, và hữu ích cho chính mình, cho cha mẹ, cho thành phố, cho toàn thể quê hương. Không thể nói được là mọi bệnh tật đều do hậu qủa của thói hư hay là một hình phạt.
Có những bệnh tật thánh do Thiên Chúa gởi tới cho các kẻ công chính của Người, để trong thế giới, tất cả đều có thể làm vui lòng Người, và tất cả đều có thể dùng để phục vụ Người. Có những vị thánh giống như các con tin trong chiến tranh vì phần rỗi những người khác. Họ trả bằng chính thân họ, để những đau khổ của họ đền trả cho những khối tội lỗi mà thế giới tích góp lại hàng ngày, và kết thúc bằng cách đổ xuống trên nhân loại và chôn vùi nó dưới sự nguyền rủa. Các con hãy nhớ tới Môise, lúc đã già, cầu nguyện trong lúc Josuê chiến đấu nhân danh Chúa? Các con phải biết rằng kẻ chịu đau khổ cách thánh thiện, chiến đấu những trận nặng nề nhất, với những chiến binh dã man nhất có thể có trên đời, được giấu dưới dạng con người hay dân tộc của Satan, kẻ độc ác, nguyên nhân của mọi điều dữ, và họ chiến đấu cho hết những người khác. Nhưng khác nhau chừng nào giữa những bệnh tật thánh do Thiên Chúa gởi tới, và bệnh tật do tội lỗi đem tới sau một tình yêu bất chính vì thú vui nhục dục. Loại bệnh thứ nhất là bằng chứng của ý muốn nhân hậu của Thiên Chúa, loại thứ hai là bằng cớ sự đồi bại
597
thuộc về Satan.
Vậy phải yêu để làm thánh, vì tình yêu sáng tạo, gìn giữ và thánh hóa.
Thầy cũng vậy. Trong khi rao giảng cho các con chân lý này, Thầy nói với các con như Nêhêmi và Esdras: “Ngày này được cống hiến cho Chúa, Thiên Chúa chúng ta. Không tang chế, không khóc lóc”, vì mọi tang chế sẽ chấm dứt khi người ta sống ngày của Chúa. Cái chết mất đi sự cay nghiệt của nó, bởi vì mất con, mất vợ, mất chồng, cha mẹ hay anh chị em sẽ thành một sự chia cách tạm thời và giới hạn. Tạm thời vì nó chấm dứt với cái chết của chính chúng ta; giới hạn vì nó chỉ có trong thân xác, giác quan. Linh hồn không mất gì do cái chết của một người thân. Trái lại, sự tự do chỉ bị giới hạn ở một phía, phía người còn sống, vì linh hồn họ còn bị ôm xiết trong thân xác, trong khi phía bên kia, phía những người đã bước qua đời sống thứ hai, được tự do và khả năng để canh chừng trên chúng ta và có chúng ta nhiều hơn, rất nhiều hơn khi họ yêu chúng ta trong nhà tù của thân xác.
Thầy nói với các con giống như Nêhêmi và Esdras: “Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gởi phần cho những kẻ không có, vì đó là ngày thánh của Chúa, và không ai phải chịu khổ ngày hôm đó. Anh em đừng buồn, vì niềm vui của Chúa ở giữa anh em là sức mạnh của kẻ đón nhận ân sủng của Chúa Tối Cao trong các bức tường này và trong con tim của họ”.
Các con không còn có thể làm các Nhà Tạm. Thời gian đã qua rồi. Nhưng hãy dựng nó lên cách thiêng liêng trong qủa tim của các con. Hãy trèo lên núi, tức là trèo lên sự trọn lành. Hãy hái những cành ôliu, cành sim, cành chà là, cành sồi, cành hương thảo, cành của tất cả những cây đẹp nhất, tức là cành lá của các nhân đức: an bình, trong sạch, anh hùng, hy sinh, mạnh mẽ, trông cậy, công bằng... của tất cả, tất cả các nhân đức. Hãy trang điểm tâm hồn các con khi mừng lễ của Chúa. Các nhà tạm của Người chờ đợi các con, những kẻ thuộc về Người. Và chúng đẹp đẽ, thánh thiện, vĩnh cửu, rộng mở cho hết những ai sống trong Chúa. Và với Thầy, hôm nay
598
hãy tự nguyện làm việc thống hối về qúa khứ và bắt đầu một đời sống mới.
Đừng sợ Chúa. Người gọi các con, Người yêu các con. Đừng sợ, hãy là các con của Người cũng như mọi người là con cái Israel. Cũng vì các con nữa mà Người tạo dựng trời đất, mà Người thúc giục Abraham và Môise, mà Người mở lòng biển ra và tạo dựng cột mây chỉ đường, mà Người đã từ trời xuống để ban Lề Luật, mà Người đã mở làn mây ra để làm mưa man-na, mà Người đã làm cho đá sinh sản được để nó cho các con nước uống. Và bây giờ, ôi! Bây giờ cũng vì các con nữa mà Người đã gởi Bánh Sống Động từ Trời xuống cho cơn đói của các con, Cây Nho Thật, Nguồn Mạch của Sự Sống Đời Đời cho cơn khát của các con. Và bởi miệng Thầy, Người nói với các con: “Hãy vào để chiếm lấy Đất mà Ta đã giơ tay ra để ban cho các con”. Đất thiêng liêng của Thầy: Nước Trời.
Đám đông trao đổi với nhau những lời thiện cảm... Rồi đây, các bệnh nhân, rất đông. Giêsu bảo họ xếp thành hai hàng. Trong khi họ làm như vậy, Người hỏi Philíp Arbêla: “Tại sao con không chữa cho họ?”
- Để họ có cái điều mà con đã có: Sự chữa lành bởi tay Thầy.
Giêsu đi qua và chúc lành cho các bệnh nhân, từng người một. Và các điều kỳ diệu thường xuyên lại xảy ra: kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, các người gù đứng thẳng lên, các cơn sốt tan đi, các sự yếu đuối biến mất. Việc chữa bệnh chấm dứt. Sau khi chữa bệnh nhân sau cùng, có hai pharisiêu đã đến ở Bozra và hai người khác nữa: “Bình an cho Thầy. Thầy không nói gì với chúng tôi à?”
- Tôi đã nói với hết mọi người.
- Nhưng chúng tôi không cần những lời đó. Chúng tôi là các thánh của Israel.
- Với các ông là những bậc thầy, tôi nói: Hãy bình luận với nhau, giữa các ông, chương sau đó: chương chín, quyển thứ hai sách Esdras. Và các ông hãy nhớ, đã bao nhiêu lần rồi, cho tới tận lúc này, Thiên Chúa đã dùng tình thương đối với các ông. Hãy nói trong lúc đấm
599
ngực các ông, tựa như đó là một lời cầu nguyện, câu kết luận của chương đó.
- Thầy nói hay, nói hay! Nhưng các môn đệ Thầy, họ có làm không?
- Có. Đó là điều tôi đòi hỏi trước tiên.
- Tất cả à? Kể cả những kẻ sát nhân đang ở trong hàng ngũ của Thầy?
- Các ông ngửi thấy mùi máu à?
- Đó là tiếng nói kêu lên tới trời.
- Vậy các ông hãy cố gắng để đừng bắt chước những kẻ đổ máu.
- Chúng tôi đâu phải những kẻ sát nhân!
Giêsu trừng trừng xuyên thấu họ bằng cái nhìn của Người. Họ không dám nói thêm lời nào nữa trong một lúc, nhưng họ theo nhóm để trở vào nhà Philíp, vì ông này nghĩ là có bổn phận phải mời họ vào dự tiệc.
- Rất sẵn sàng! Chúng tôi sẽ được ở với Thầy lâu hơn - họ nói cách đầy kính cẩn.
Nhưng vào tới nhà, họ giống như những con chó săn... Họ nhìn, họ liếc cái nhìn vụng trộm vào mọi phía, đặt những câu hỏi ranh mãnh với các tôi tớ và cả với bà già nhỏ, lúc nào cũng bị lôi cuốn bởi Giêsu như vụn sắt trước nam châm. Nhưng bà ta trả lời mạnh mẽ: “Tôi, hôm qua tôi chỉ thấy có họ. Các ông mơ à? Tôi, tôi đã hộ vệ họ tới đây. Còn về ông Gioan, chỉ có cậu con trai tóc vàng này, tốt như một thiên thần”.
Họ giáng sét cho bà già nhỏ bằng cách nguyền rủa bà và quay về hướng khác. Một người đầy tớ không trả lời thẳng câu hỏi của họ, nhưng cúi xuống Giêsu khi Người đang nói chuyện với ông chủ nhà. Anh ta hỏi Người: “Gioan Enđo đâu? Ông chúa này tìm ông ta”.
Người pharisiêu giáng sét cho người đầy tớ bằng cái nhìn của ông ta và bảo anh ta là ngu. Nhưng Giêsu đã biết ý định của họ, và vì phải sửa chữa lại như có thể nên người pharisiêu nói: “Đó là để mừng cho phép lạ do giáo huấn của Thầy và để tôn vinh Thầy về sự hoán cải này”.
600
- Gioan đã đi xa luôn, và càng ngày càng xa.
- Ông ta lại sa vào đàng tội?
- Không. Ông ta lên Trời. Hãy bắt chước ông ta, và ở đời sống bên kia, các ông sẽ tìm được ông ta.
Bốn ông không biết nói gì nữa nên thận trọng nói qua chuyện khác. Các người đầy tớ bá cáo rằng bàn ăn đã sẵn sàng, và mọi người đi qua phòng tiệc.
160* TRONG KHI ĐI VỀ AÊRA
Từ bây giờ, Arbêla cũng xa rồi. Trong số bạn đường của Giêsu, bây giờ có thêm Philíp Arbêla và một môn đệ khác mà tôi nghe gọi tên là Marc.
Con đường lầy bùn như đã mưa nhiều. Bầu trời mầu xám. Một con sông nhỏ, vừa đủ để được gọi là sông, cắt ngang con đường dẫn về Aêra, được phình lớn ra bởi những trận mưa chắc chắn đã đổ xuống miền này, đương nhiên nó không có mầu da trời, nhưng là mầu vàng hơi đỏ, tựa như nó đã cuốn theo những dòng nước chảy trên miền đất phèn.
- Từ rày trở đi, thời tiết sẽ u ám. Thầy đã làm đúng khi cho các bà đi. Đối với các bà, đây không phải là thời ở trên đường - Giacôbê nói cách nghiêm trang, và Simon Zêlote, luôn luôn bình an trong sự tuyệt đối dành cho Thầy, tuyên bố: “Thầy luôn luôn làm tốt trong mọi sự Người làm, Người đâu có thông minh như kiểu chúng ta. Người thấy và tiên liệu hết cho chúng ta hơn là cho Người”.
Gioan sung sướng được ở bên Người, nhìn Người từ phía dưới với khuôn mặt tươi cười của ông và nói: “Thầy là vị thầy thân yêu nhất, một vị thầy tốt nhất mà người ta đã có, đang có và sẽ có. Ngoài ra, Thầy còn là đấng thánh nhất”.
- Mấy pharisiêu đó... họ thất vọng chừng nào! Và cả thời tiết xấu cũng được dùng để thuyết phục họ là Gioan Enđo không có ở đó. Nhưng tại sao họ lại có thái độ như vậy đối với ông ta? -
601
Hermastê, người có rất nhiều tình mến đối với Gioan Enđo hỏi.
Giêsu trả lời: “Sự thù ghét của họ không phải nơi ông ta, cũng không phải cho ông ta, nhưng đó là một dụng cụ họ dùng để chống lại Thầy”.
Philíp Arbêla nói: “Nước còn thuyết phục họ hơn rằng có chờ cũng vô ích, cũng vô ích, việc nghi ngờ về Gioan. Vạn tuế nước! Nhờ nó mà Thầy đã ở lại năm ngày tại nhà con”.
- Ai biết được họ đang lo lắng chừng nào ở Aêra. Con ngạc nhiên là không thấy anh con ra đón chúng ta - Andrê nói.
- Ra đón chúng ta à? Ông sẽ đến đó sau chúng ta - Mathêu nói.
- Không, ông đã theo đường thủy trên hồ. Vì từ Gadara ông đi ra hồ và đi thuyền tới Bétsaiđa để gặp vợ ông, để nói với bà là đứa trẻ ở Nazarét, và nói ông sẽ về sớm. Từ Bétsaiđa đi Méron, rồi ông đi đường Damas một chặng, rồi đường Aêra. Chắc chắn ông đang ở Aêra.
Họ ở lặng một lát, rồi Gioan nói: “Nhưng lạy Chúa, cái bà già nhỏ đó!”
- Con, con nghĩ là Thầy sẽ cho bà ta cái sướng được chết trong lòng Thầy như đối với Saul Kêriot - Simon Zêlote nhận xét.
- Thầy còn muốn cho bà nhiều điều lành hơn, vì Thầy chờ để gọi bà về với Thầy khi Đấng Kitô sắp sửa mở cửa Trời. Bà mẹ nhỏ, bà sẽ không phải chờ Thầy lâu. Bây giờ bà sống với kỷ niệm của bà, và với sự trợ giúp của ba con, Philíp à. Đời bà sẽ bớt buồn. Thầy còn chúc lành nữa cho con và ba má con.
Niềm vui của Gioan bị phủ một lớp mây còn dầy hơn tầng mây đang che phủ bầu trời. Giêsu nhìn thấy ông và nói: “Con không bằng lòng thấy bà già nhỏ lên Thiên Đàng lẹ sao?”
- Có chứ... Nhưng con không được vui vì điều đó có nghĩa là Thầy ra đi... Lạy Chúa, tại sao lại chết?
- Ai đã sinh ra bởi đàn bà thì đều chết.
- Lạy Chúa, Thầy chỉ có mình mẹ!
- Ồ! Không. Vui chừng nào, bước chân của những kẻ mà Thầy đã cứu với tư cách là Thiên Chúa, và Thầy đã yêu với tư cách là
602
một người...
Hai dòng nước rất gần nhau đã được vượt qua. Trời bắt đầu mưa trên miền bằng phẳng trải ra trước mắt các khách bộ hành sau khi họ đã vượt qua các ngọn đồi, chỗ giao nhau với con đường chạy theo thung lũng để đi về phía bắc.
Ở phía bắc, chính xác là tây bắc, hiện ra một rặng núi lớn, bên trên nó chồng chất những khối mây khổng lồ, tạo thành cái đỉnh ảo bằng mây bên trên đỉnh thật bằng đá, bao phủ đầy cây cối quanh sườn và đầy tuyết trên đỉnh. Nhưng đó là một rặng núi ở rất xa.
- Ở đây là nước, trên kia là tuyết. Đó là rặng Hermon. Nó mặc một chiếc áo khoác vĩ đại bằng tuyết trên đỉnh. Nếu chúng ta có mặt trời ở Aêra, qúi vị sẽ thấy cái sườn của nó to và đẹp chừng nào khi mặt trời nhuộm hồng nó - Timon nói. Tình yêu quê hương đã làm ông phát ra những lời ca tụng vẻ đẹp của quê ông.
- Nhưng trong khi chờ đợi thì trời mưa. Aêra còn xa không? - Mathêu hỏi.
- Xa, chúng ta chỉ có thể ở đó vào cuối buổi chiều.
- Vậy cầu Chúa tránh cho chúng ta những phiền phức về sức khỏe - Mathêu kết thúc, không hứng khởi gì mấy với con đường lúc này.
Họ bọc mình trong áo khoác, bên dưới áo là xách du hành để tránh cho nó khỏi ướt, và như vậy có được quần áo khô để thay khi vừa tới nơi, vì những thứ họ mặc thì ướt nước, và ở phía dưới thì dính nặng những bùn.
Giêsu đi đầu, đắm chìm trong tư tưởng. Các người khác nhai bánh của họ. Gioan nói đùa: “Khỏi cần kiếm phông-ten để giải khát, chỉ cần ngửa đầu ra đàng sau và mở miệng ra là các thiên thần cho chúng ta uống”.
Hermastê, vì lẽ còn trẻ nên có cùng với Philíp Arbêla và Gioan cái số phận đáng ước ao là đón nhận tất cả cách vui vẻ. Ông nói: “Simon Jonas phàn nàn về các con lạc đà. Nhưng tôi thích cái tháp lúc lắc như động đất đó hơn là ở trong cái bùn này. Anh nói sao?”
Gioan nói: “Tôi nói rằng tôi thấy là tốt ở khắp nơi, miễn là có
603
Giêsu...”
Ba người trẻ bắt đầu nói không ngừng với nhau.
Bốn người già hơn bước vội vã để bắt kịp Giêsu, trong đoàn chỉ còn lại Timon và Marc đi ở sau đuôi, nói chuyện với nhau...
- Thầy ơi, ở Aêra sẽ có cả Judas Simon... - Andrê nói.
- Chắc chắn rồi. Và cùng với ông là Tôma, Natanael và Philíp.
- Thầy ơi! Con tiếc những ngày bình an này - Giacôbê xít xoa thở dài.
- Con không nên nói vậy, Giacôbê.
- Con biết, nhưng con không thể nhịn nói - và ông lại thở dài.
- Cũng sẽ có cả Simon Phêrô và các anh Thầy. Con không bằng lòng vì vậy sao?
- Con, rất bằng lòng chứ! Nhưng Thầy ơi, tại sao Judas Simon qúa khác với chúng con vậy?
- Tại sao nước nghịch chuyển với mặt trời, nóng với lạnh, ánh sáng với bóng tối?
- Bởi vì người ta không thể có cùng một thứ hoài, như vậy là chấm dứt đời sống trên mặt đất.
- Con nói đúng, Giacôbê.
- Vâng. Nhưng cái đó đâu có ăn nhằm gì với Judas?
- Vậy hãy trả lời: tại sao tất cả các ngôi sao lại không giống như mặt trời: lớn, nóng, đẹp, hùng mạnh?
- Bởi vì... trái đất sẽ bị cháy dưới bấy nhiêu lửa.
- Tại sao tất cả các cây lại không giống như cây hồ đào hết? Về cây, thầy nói về mọi thứ thảo mộc.
- Bởi vì... các con vật không thể ăn nó được.
- Vậy tại sao chúng lại không giống như cây cỏ hết?
- Bởi vì... chúng ta sẽ không có gỗ để đốt, để làm nhà, làm các dụng cụ, làm xe, làm thuyền, làm bàn ghế...
- Tại sao các con chim không là chim ưng tất cả? Các con vật không tất cả đều là voi hay lạc đà?
- Chúng ta sẽ buồn tẻ nếu nó như vậy.
- Vậy con thấy sự khác nhau này là một điều tốt?
604
- Chắc chắn rồi.
- Vậy con xét đoán rằng... theo con, tại sao Thiên Chúa lại làm như vậy?
- Để cho chúng ta nhiều sự giúp đỡ hết sức có thể.
- Như vậy là với ý định tốt. Con chắc vậy không?
- Chắc như lúc này con đang sống.
- Vậy nếu con thấy là chính đáng khi có sự khác nhau trong loài vật, loài thảo mộc, loại thiên thể, tại sao con lại đòi hỏi là mọi người phải giống nhau? Mỗi người có sứ mạng và tính tình của họ. Sự khác nhau vô tận của các loài, con thấy đó là dấu chỉ sức mạnh hay là sự bất lực của Đấng Tạo Hóa?
- Sức mạnh chứ ! Cái nọ làm nổi bật cái kia.
- Tốt lắm. Judas cũng phục vụ như vậy. Và con, con phục vụ bên cạnh các bạn con, và các bạn con ở bên cạnh con. Chúng ta có ba mươi hai cái răng trong miệng, nếu con nhìn kỹ, nó đều khác nhau, không phải chỉ giữa ba loại, mà là trong mỗi chiếc của cùng một loại. Bởi vì con đang ăn nên hãy quan sát nhiệm vụ của nó, con sẽ thấy là cái có vẻ ít hữu ích hơn, làm việc ít hơn, là những cái, một cách chi tiết, làm công việc đầu tiên là cắt bánh và dẫn nó tới cho những cái khác để nghiền thành mụn nhỏ, rồi chuyển qua cho những cái khác nghiền thành bột và biến thành nhão. Không như vậy sao? Judas, với con, chẳng làm gì cả, hay chỉ hành động sai. Thầy nhắc lại cho con rằng ông ta cũng giảng Tin Mừng, và rồi, tại miền nam Juđê, con đã nói là ông ta biết giao thiệp khéo léo với các pharisiêu.
- Đúng vậy.
Mathêu nhận xét: “Ông ta còn rất có khả năng kiếm tiền cho người nghèo. Ông ta xin, ông ta biết xin. Con thì con không biết làm việc đó... Có lẽ tại vì bây giờ con, tiền bạc làm con ghê tởm”.
Simon Zêlote cúi mặt, ông đỏ thẫm, vì mặt ông đỏ chừng nào! Andrê nhìn thấy, liền hỏi: “Anh khó chịu à?”
- Không, không... mệt... tôi không biết nữa.
Giêsu nhìn ông đăm đăm, và ông càng trở nên đỏ hơn, nhưng Người không nói gì.
605
Timon chạy lên đầu đoàn nói: “Thầy ơi, đó, ta nhìn thấy miền ở trước Aêra. Chúng ta có thể ngừng ở đó và hỏi thuê lừa”.
- Nhưng đó, mưa ngừng rồi. Tốt hơn là nên tiếp tục.
- Tùy ý Thầy. Nhưng nếu Thầy cho phép, con chạy đi truớc.
- Đi đi.
Timon chạy đi cùng với Marc. Giêsu quan sát và nói: “Nó muốn là chúng ta vào cách khải hoàn”.
Mọi người lại tụ thành nhóm. Giêsu để họ sôi nổi nói về sự khác biệt giữa các miền, rồi Người lùi lại đàng sau, dắt Zêlote theo với Người. Khi hai người đã ở riêng biệt, Người hỏi ông: “Simon, tại sao con đỏ mặt?”
Ông trở nên như than hồng và không nói gì. Giêsu nhắc lại câu hỏi, ông trở thành đỏ hơn và yên lặng hơn. Giêsu lại nhắc lại câu hỏi.
- Lạy Chúa! Thầy biết mà! Tại sao Thầy bắt con nói? - Zêlote kêu. Ông khổ như người ta hành hạ ông.
- Con có chắc điều đó không?
- Ông ta đâu có chối. Nhưng ông ta đã nói: “Tôi hành động như vậy để đề phòng. Tôi có linh cảm tốt. Thầy thì chẳng bao giờ Người nghĩ đến ngày mai”. Nếu người ta muốn thật vậy. Nhưng... luôn luôn... luôn luôn... Thầy, Thầy hãy dùng từ nào đúng nhất.
- Luôn luôn là một bằng cớ rằng Judas chỉ hoàn toàn là một người. Ông ta không biết nâng mình lên để là một thần trí. Nhưng ít hoặc nhiều, tất cả các con đều giống nhau. Các con sợ những điều ngu xuẩn, các con hành hạ mình bằng những đề phòng vô ích. Các con không biết tin rằng Đấng Quan Phòng mạnh mẽ và hiện diện. Thôi, điều đó chỉ biết giữa hai chúng ta thôi, phải không?
- Thưa Thầy vâng.
Một lúc yên lặng, rồi Giêsu nói: “Sắp sửa chúng ta sẽ trở lại trên hồ... Thật đẹp để trầm tĩnh một ít sau khi đã bước biết bao đường trường. Hai chúng ta sẽ ở Nazarét một thời gian vào dịp lễ Ánh Sáng. Con, con một mình... Những người khác sẽ ở trong gia đình của họ. Con, con sẽ ở lại với Thầy”.
606
- Lạy Chúa, Judas, Tôma và Mathêu cũng một mình.
- Đừng nghĩ tới đó. Mỗi người sẽ mừng lễ trong gia đình. Mathêu có chị ông ta. Con, con một mình, nếu không là con muốn đi về nhà Lazarô.
- Lạy Chúa không - Simon nói mạnh mẽ. “Không, con yêu Lazarô, nhưng ở với Thầy là ở trên Thiên Đàng. Cám ơn Chúa”. Và ông hôn tay Người.
Vùng thị dân nhỏ bé đã đi qua một quãng thì trời lại đổ mưa, và trên con đường lầy lội, Timon và Marc lại xuất hiện trong khi la to: “Dừng lại đi! Simon Phêrô đang tới với các con lừa. Con gặp ông ta đang tới. Đã ba ngày rồi, ông tới chỗ này chờ dưới mưa với các con lừa”.
Họ dừng lại dưới tán một cây sồi để tạm trú mưa. Và đây, Phêrô tới, ngồi dạng trên lưng lừa, dẫn đầu một đàn súc vật. Ông giống như ông thầy tu dưới tấm mền che kín đầu và vai.
- Cầu Chúa chúc phúc cho Thầy. Con đã nói đúng là sẽ bị ướt như té xuống hồ. Nào, lẹ lên! Mọi người hãy lên yên. Aêra từ ba bữa nay như ngồi trên lửa vì cố giữ cho lò sưởi luôn luôn cháy để sưởi cho Thầy. Lẹ lên! Lẹ lên! Tình trạng bi đát! Nhưng coi đó, qúi vị không có khả năng giữ Người lại sao? A! Khi tôi không ở đó là... Coi này! Tóc Người dính bết như người chết đuối. Chắc Thầy phải lạnh cóng dưới mưa như vầy! Bất cẩn qúa chừng! Còn qúi vị, qúi vị, ôi! Tội nghiệp chưa! Và em trước tiên, ông em ngốc của tôi! Và tất cả những người khác! Qúi vị đẹp chừng nào! Qúi vị giống cái bị cói rớt xuống hồ. Nào, mau đi! A! Tôi không thể tin tưởng giao phó Người cho qúi vị nữa. Tôi chết chìm vì sợ...
- Và vì nói, Simon! - Giêsu nói cách bình tĩnh trong khi con lừa của Người đi nước kiệu bên cạnh lừa của Phêrô ở đầu đoàn. Giêsu nhắc lại: “Và vì nói, và vì nói cách vô ích. Con đã không nói với Thầy các người khác đã đến chưa... các bà đã đi thế nào; vợ con có khỏe mạnh không... Con không nói gì cả”.
- Con sẽ nói hết. Nhưng tại sao Thầy lại ra đi dưới mưa thế này?
- Và con, tại sao con lại tới?
607
- Bởi vì con vội vã để gặp Thầy, Thầy của con!
- Bởi vì Thầy vội vã để gặp con, Simon của Thầy.
- Ôi! Thầy rất chí thiết của con! Con yêu Thầy chừng nào! Vợ, con, nhà cửa? Chẳng là gì cả. Tất cả đều xấu nếu Thầy không ở đó. Thầy có tin là con yêu Thầy vậy không?
- Thầy tin. Thầy biết con là ai, Simon.
- Là ai?
- Một đứa trẻ già đầy những khuyết điểm nhỏ, và dưới đó chôn vùi biết bao tính tốt. Nhưng có một điều không chôn vùi, đó là sự thật thà của con trong mọi sự. Này, ở Aêra có những ai?
- Juđa anh Thầy với Giacôbê, rồi Judas Kêriot với những người khác. Ông ta có vẻ đã làm rất nhiều điều tốt, Judas. Mọi người đều khen ông...
- Ông ta đã đặt cho con các câu hỏi?
- Ôi! Biết bao! Con chẳng trả lời gì cả. Con nói con không biết gì hết. Quả thật, con nào biết gì đâu ngoài việc con hộ tống các bà tới tận gần Gadara? Thầy biết đó... Con không nói gì với ông về Gioan Enđo. Ông ta tưởng ông này ở với Thầy. Thầy phải nói với những người khác.
- Không, họ cũng vậy, giống như con, không biết Gioan ở đâu. Vô ích để nói nhiều hơn. Nhưng những con lừa này!... Trong ba ngày!... Tiêu pha nhiều qúa! Còn các người nghèo?
- Các người nghèo... Judas giữ qũi và ông ta lo. Những con lừa này con không mất gì cả. Dân Aêra cho con mượn cả ngàn con miễn phí cho Thầy. Con phải quát lớn để ngăn cản họ ra đón Thầy với một đạo binh lừa. Timon có lý. Ở đây mọi người đều tin ở Thầy. Họ có giá hơn chúng ta... - Và ông thở dài.
- Simon, Simon! Trong miền bên kia sông Giođan, chúng ta đã được vinh dự. Một người tù khổ sai, các dân ngoại, các đàn bà tội lỗi, các phụ nữ, đã cho các con một bài học về sự trọn lành. Hãy luôn luôn giữ lấy kỷ niệm đó, Simon Jonas.
- Chúa ơi, con sẽ cố. Kìa, kìa, những người Aêra đầu tiên. Coi kìa, bao nhiêu là người! Đó là mẹ của Timon. Và đó, các anh em
608
ông ở trong đám đông. Đó, các môn đệ mà Thầy đã sai đi, ở đàng trước những người đến với Judas Kêriot. Đây, một người giầu nhất Aêra với các đầy tớ của ông. Ông ta muốn Thầy là khách của ông, nhưng bà mẹ của Timon muốn dành quyền của bà, và Thầy sẽ ở nhà bà. Thầy coi kìa, coi kìa! Họ bị khó khăn vì mưa làm tắt đuốc. Có rất nhiều người bệnh, Thầy biết không? Họ ở lại trong thành, gần cổng, để gặp Thầy ngay lập tức. Có một người có cái kho chứa cây đã nhận cho họ trú. Họ đã ở đó ba ngày rồi. Tội nghiệp họ ghê đó. Khi chúng con tới, chúng con ngạc nhiên vì Thầy chưa có ở đó.
Tiếng la lối của đám đông ngăn cản Phêrô tiếp tục, và ông nín, luôn luôn ở bên cạnh Giêsu như một kỵ sĩ tùy viên. Các ngài tới nơi đám đông. Họ mở ra và Giêsu đi qua trên lưng lừa, không ngừng giơ tay chúc lành khi đi qua họ.
Họ vào thành phố.
- Đi lại ngay với những người bệnh - Giêsu nói, không lo gì tới sự phản đối của những người muốn dẫn Người vào chỗ nghỉ ngơi dưới mái nhà để cung cấp cho Người thực phẩm và lửa ấm, vì sợ Người phải chịu cực qúa nhiều. “Họ chịu khổ còn hơn Thầy” Người trả lời.
Họ quẹo tay phải. Đây, khu vực mộc mạc của kho chứa gỗ. Cánh cửa mở rộng và một giọng van nài thoát ra: “Giêsu, con vua Đavít, xin thương chúng con!”
Một ca đoàn các tiếng van nài, lặp đi lặp lại như bài kinh cầu: giọng con nít, giọng đàn bà, giọng đàn ông, giọng người già, buồn như tiếng bê bê của con cừu bị đau, khổ sở như tiếng bà mẹ sắp chết, chán nản như tiếng người chỉ còn một hy vọng duy nhất, run rẩy như tiếng người không còn biết gì ngoài việc khóc...
Giêsu vào trong nội khu. Người đứng thẳng lên hết sức có thể trên bàn đạp, giơ tay phải lên và nói bằng giọng rất mạnh của Người: “Cho tất cả những ai tin vào Thầy được sự cứu thoát và phúc lành”.
Người lại ngồi xuống trên yên và đang định quay trở ra đường thì đám đông chèn ép Người. Những người được chữa khỏi bao vây
609
Người. Dưới ánh sáng của các ngọn đuốc trong hành lang cháy và soi sáng buổi hoàng hôn, người ta thấy đám đông biểu lộ niềm vui cuồng nhiệt để hoan hô Chúa. Và Chúa, có thể nói là biến mất giữa một bó hoa bằng trẻ con đã lành bệnh mà các bà mẹ đặt đầy vào tay Người, trong lòng người, và kể cả trên cổ con lừa của Người, và họ vẫn giữ chúng để chúng không rớt. Người có đầy trẻ trong tay, tựa như đó là các bông hoa. Người mỉm cười sung sướng và cúi xuống hôn chúng, vì Người mang đầy chúng trong tay nên người không thể giơ tay chúc phúc. Sau cùng các trẻ em phải được mang đi để các người già được khỏi bệnh khóc vì vui được hôn áo Người. Sau người già thì đến lượt các ông, rồi các bà.
Trời đã hoàn toàn về đêm khi Người có thể vào nhà Timon và nghỉ ngơi bên lò sưởi với y phục khô ráo.
161* GIÊSU GIẢNG TẠI AÊRA
Giêsu nói tại quảng trường chính của Aêra: “... và Thầy, Thầy không nói với các con như Thầy đã nói ở các nơi khác về điều cần thiết đầu tiên phải biết và phải làm để được cứu rỗi, vì các con đã biết rồi, và biết rất rõ, nhờ Timon, ngôi giáo đường khôn ngoan của luật cũ, bây giờ đã trở thành rất khôn ngoan, vì anh đã làm nó mới lại trong ánh sáng của luật mới. Nhưng Thầy muốn các con canh chừng cẩn thận chống lại cái mối nguy hại mà trong tình trạng tinh thần của các con, các con không thể nhìn thấy: cái nguy hiểm bị lạc đường bởi các áp lực và các lời nói xỏ xiên. Chúng tìm cách giật các con khỏi lòng tin mà hiện giờ các con có nơi Thầy. Bây giờ Thầy để Timon lại cho các con một thời gian, và cùng với các người khác, anh sẽ cắt nghĩa cho các con các lời của Sách Thánh, trong ánh sáng mới về các chân lý của Thầy mà anh ta đã lĩnh hội. Nhưng trước khi từ giã các con, sau khi đã dò xét con tim các con và thấy các con chân thành trong tình yêu, đầy thiện chí và khiêm tốn, Thầy muốn chú giải cho các con một điểm trong Sách Các Vua quyển thứ bốn.
610
Khi Êzêchias, vua Juđa, bị Sennachérib tấn công. Ba vua thù nghịch đã đến làm cho ông sợ. Sợ vì sự cắt đứt với đồng minh, sợ các sức mạnh đã bao vây ông. Và với lời của các sứ giả của các kẻ mạnh được sai tới, Eliacim, Sobna và Joae đã trả lời: “Hãy nói kiểu làm sao cho dân chúng không hiểu”. Và làm như vậy với mục đích là dân chúng sợ hãi sẽ không đòi hòa bình. Nhưng đó là điều các sứ giả của Sennechérib muốn, và họ lớn tiếng nói với một giọng Hy Bá hoàn toàn: “Mong rằng Ézéchias không lôi kéo qúi vị... Hãy cùng với chúng tôi để làm những gì ích lợi cho qúi vị, và hẹn nhau, mỗi người đều có thể ăn trái cây nho và cây sung của mình, uống nước trong thùng của mình cho đến khi người ta tới đem qúi vị đến một nơi giống như đất của qúi vị, một miền đất mầu mỡ với những vườn nho tuyệt vời, một miền đất sản xuất dồi dào lúa mì và nho; một miền đất đầy ôliu, dầu và mật, và qúi vị sẽ sống chứ không chết...” Và đã chép rằng: “Dân chúng không trả lời, vì họ đã nhận được lệnh của vua là không trả lời”.
Đây, Thầy cũng vậy, vì thương linh hồn các con bị vây hãm bởi những sức mạnh còn tàn khốc hơn sức mạnh của Sennachérib, người chỉ có thể bắt thân xác mà không đụng được tới tâm hồn, trong khi với các con, chính với tâm hồn các con, nó gây chiến nhờ sự giúp đỡ của một đạo binh, được chỉ huy bởi một bạo chúa kiêu hãnh hơn và độc ác hơn tất cả những gì có trong các loài thụ tạo. Thầy đã xin những kẻ được sai tới để tấn công Thầy nơi các con, bằng cách cố làm cho chúng ta - Thầy và các con - sợ hãi, bởi những dọa nạt sẽ trừng phạt ghê gớm, Thầy nói với họ: “Hãy nói với một mình tôi, nhưng hãy để bình an cho các linh hồn này, bây giờ họ vừa được sinh ra trong Ánh Sáng. Hãy quấy quất tôi, hãy hành hạ tôi, hãy kết án tôi, hãy giết tôi, nhưng đừng hăm hở tấn công các con nhỏ này của Ánh Sáng, chúng còn yếu ớt. Một ngày kia chúng sẽ mạnh, nhưng bây giờ chúng còn yếu. Các ông đừng hăm hở chống lại chúng. Đừng tấn công sự tự do chọn đường của các tâm hồn. Đừng tấn công quyền của Thiên Chúa được gọi lại với Người những kẻ tìm Người với sự đơn sơ và tình yêu”.
611
Nhưng một kẻ thù ghét có bao giờ nhận lời xin của kẻ nó ghét không? Một kẻ bị ám bởi tình ghét có bao giờ nhận ra tình yêu không? Không, nó không thể. Bởi vậy, với sự khe khắt cứng rắn hơn, và luôn luôn khắt khe hơn, họ sẽ đến nói với các con: “Mong rằng Đức Kitô không lôi kéo qúi vị. Hãy đến với chúng tôi và qúi vị sẽ được mọi điều tốt”. Và họ sẽ nói với các con: “Khốn cho qúi vị nếu qúi vị theo ông ta, qúi vị sẽ bị bách hại”. Và họ sẽ quấy rối các con bằng cách tỏ cho các con một lòng tốt giả trá: “Hãy cứu lấy linh hồn qúi vị. Ông ta là Satan đó”. Họ sẽ nói với các con biết bao điều về Thầy, biết bao điều để thuyết phục các con rời bỏ Ánh Sáng.
Thầy, Thầy bảo các con: “Đối với các kẻ cám dỗ, hãy trả lời bằng sự yên lặng”. Rồi sau đó, khi sức mạnh của Chúa đã xuống trên các con tim của các tín hữu Đức Giêsu Kitô, Đấng Messi và là Đấng Cứu Thế, lúc đó các con có thể nói, bởi vì lúc đó không phải các con nói, nhưng là chính Thánh Linh của Thiên Chúa sẽ nói bằng môi miệng các con, và tâm hồn các con sẽ trở nên trưởng thành trong Ân Sủng, mạnh mẽ và vô địch trong đức tin.
Hãy kiên trì. Thầy chỉ xin các con có điều đó thôi. Các con hãy nhớ rằng Thiên Chúa không thể nhượng bộ những bùa ngải của một trong số các kẻ thù của Thầy. Các người bệnh của các con, những người đã được khích lệ và bình an trong lòng, họ hãy luôn luôn nói bằng sự hiện diện của họ, về đấng đã đến giữa các con để nói với các con: “Hãy kiên trì trong tình yêu đối với Thầy và trong giáo lý của Thầy, và các con sẽ chiếm được Nước Trời”. Các công việc của Thầy còn nói nhiều hơn là lời Thầy. Mặc dầu việc có đức tin mà không cần thấy bằng cớ là một phước đức hoàn toàn, nhưng Thầy đã cho phép các con được trông thấy các kỳ công của Thiên Chúa để các con được củng cố trong đức tin. Khi đầu óc các con bị cám dỗ bởi các kẻ thù của Ánh Sáng, hãy trả lời nó bằng các lời của Thầy: “Tôi tin vì tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa trong các công trình của Người”. Hãy trả lời cho các kẻ thù bằng một yên lặng linh hoạt, và bởi hai câu trả lời này, các con sẽ tăng triển trong Ánh
612
Sáng. Bình an luôn luôn ở cùng các con.
Người cho họ đi, rồi Người cũng ra khỏi công trường.
- Chúa ơi, sao Thầy nói với họ ít qúa vậy? Timon có thể thất vọng vì vậy - Natanael nói.
- Anh ấy không thất vọng đâu, vì đó là người công chính. Anh hiểu rằng báo trước cho ai một nguy hiểm tức là yêu họ bằng một tình yêu mạnh mẽ. Mối nguy hiểm này rất gần rồi.
- Luôn luôn là các pharisiêu, hen? - Mathêu hỏi.
- Họ và các người khác nữa.
- Chúa ơi, Thầy thấy bị đè nặng à? - Gioan lo lắng hỏi.
- Không. Không hơn thường lệ...
- Nhưng mấy ngày vừa qua Thầy vui hơn...
- Thật là buồn vì không còn các môn đệ ở với Người. Nhưng tại sao Thầy lại cho họ đi? Có lẽ Thầy muốn tiếp tục du hành? - Iscariot nói.
- Không. Đây là giai đoạn sau cùng. Từ đây, ta sẽ trở về nhà. Các bà không thể tiếp tục vào mùa này. Các bà đã làm rất nhiều, họ không thể làm hơn nữa.
- Còn Gioan?
- Gioan bệnh, đang ở trong một nhà tiếp đãi cũng như con đã là.
Rồi Giêsu cho Timon và các môn đệ sẽ ở lại trong vùng giải tán. Chắc chắn Người đã ban các mệnh lệnh cho tương lai, vì Người không khuyên bảo điều gì khác nữa.
Các vị đang ở tại ngưỡng cửa nhà Timon, vì Giêsu muốn chúc lành cho bà chủ nhà một lần nữa. Đám đông quan sát Người cách trọng kính và đi theo Người khi Người đi vào con đường dẫn ra ngoại ô, các khu vườn và miền quê. Những người dai dẳng nhất theo Người một đoạn trong một nhóm càng lúc càng giảm, cho tới lúc còn lại chín, rồi năm, rồi ba, rồi một người... Và rồi cả người sau cùng này cũng trở về Aêra khi Giêsu đi về hướng tây, một mình Người với mười hai tông đồ, vì Hermastê ở lại với Timon.
Chúa Giêsu nói:
613
- Và cuộc hành trình, cuộc hành trình truyền giáo dài lần thứ hai chấm dứt. Bây giờ chúng ta trở lại các miền quen thuộc của Galilê.
Maria đáng thương, con còn kiệt sức hơn Gioan Enđo nữa. Cha cho phép con bỏ bớt những mô tả về nơi chốn. Chúng ta đã làm biết bao nhiêu cho những kẻ tìm tòi vì tò mò, và họ sẽ luôn luôn là những kẻ tìm tòi vì tò mò mà thôi, không còn gì hơn. Bây giờ vậy là đủ rồi. Sức lực của con đã ra đi. Con hãy dành nó cho các lời. Với cùng một tinh thần mà Cha đã nhận thấy là vô ích với bao mệt mỏi của Cha, Cha cũng thấy là vô ích với bấy nhiêu mệt mỏi của con. Vậy Cha cũng nói với con: “Hãy chỉ giữ mình con cho các lời mà thôi”.
Con là xướng ngôn viên, ôi! Thực sự đối với con, những lời đã nói sau được nhắc lại: “Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không hát, chúng tôi đã than van mà các anh không khóc”. Con đã chỉ nhắc lại các lời Cha mà các kẻ thông thái hay xét nét đã cau mày. Con kết hợp lời Cha với các mô tả của con thì họ chỉ trích. Bây giờ họ vẫn còn tìm cách chỉ trích. Và con tới mức! Cha sẽ còn nói với con nữa khi phải mô tả cuộc hành trình. Một mình Cha. Đã gần một năm rồi, Cha bắt con chịu. Nhưng trước khi chấm dứt một năm trời, con có muốn lại nghỉ ngơi trên Trái Tim Cha không? Vậy hãy tới, hỡi nữ tử đạo nhỏ...
162* MARIA VÀ MATHIA
Tôi thấy lại hồ Méron vào một ngày mưa âm u... Bùn và mây, yên lặng và sương mù. Chân trời biến mất trong mây. Rặng Hermon bị xâm lăng bởi một khối mây thấp. Nhưng từ chỗ này - một cao nguyên ở gần cái hồ nhỏ hoàn toàn xám và hơi vàng, do bùn của hàng ngàn suối được mưa bơm phồng, và do bầu trời đầy mây của tháng mười một - người ta nhìn thấy rõ cái gương nước này, chảy tới từ sông Giođan ở phía trên, rồi đổ váo hồ Gênêsarét lớn hơn.
Chiều xuống, càng lúc càng buồn và mưa, trong khi Giêsu đi trên đường chỗ dẫn tới sông Giođan sau hồ Méron, để đi vào một con đường dẫn thẳng tới một căn nhà...
(Giêsu nói: Con hãy đặt tại chỗ này thị kiến về hai đứa trẻ mồ côi Mathia và Maria mà con đã thấy hôm 20-8-1944)
Một thị kiến êm đềm về Giêsu và hai đứa trẻ.
Tôi thấy Giêsu đi trên con đường nhỏ băng qua cánh đồng, chắc
614
mới được gieo giống, vì đất còn mịn và đậm mầu như mới gieo hạt. Giêsu dừng lại để vuốt ve hai đứa trẻ: một đứa con trai không qúa bốn tuổi, và một bé gái có thể đã tám chín tuổi. Đây chắc là những đứa trẻ rất nghèo, vì chúng mặc hai bộ đồ bạc mầu và có cả chỗ rách, với các khuôn mặt nhỏ buồn và chịu đựng.
Giêsu không hỏi gì cả, Người chỉ nhìn chúng đăm đăm khi Người vuốt ve chúng. Rồi Người vội vã đi vào căn nhà ở đầu con đường nhỏ. Một căn nhà ở miền quê, nhưng được săn sóc cẩn thận, với một cầu thang ở bên ngoài dẫn từ mặt đất lên sân thượng, trên đó có một giàn nho, bây giờ không còn qủa và lá, chỉ còn vài lá sau cùng đã úa vàng treo lơ lửng, rung rinh bởi cơn gió ẩm của một ngày mùa thu u ám. Trên lan can, các con chim câu gù gù, chờ đợi làn nước mà bầu trời xám đầy mây đã loan báo.
Giêsu có các người của Ngài đi theo, đẩy chiếc rào thô sơ của bức tường thấp bằng đá chồng lên nhau bao quanh căn nhà. Họ vào trong sân. Tôi gọi đó là mái hiên, nơi có một cái giếng, và ở trong góc có một cái lò. Tôi cho là vì thế nên bức tường đen thui, và ngay lúc này, khói cũng đang bốc ra từ lò, và gió đẩy xuống nền đất.
Cùng với tiếng bước chân, một người đàn bà xuất hiện tại cửa hiên. Khi nhìn thấy Giêsu, bà chào Người cách vui vẻ, rồi chạy vào nhà để báo tin.
Đây, một người đàn ông hơi già và mập xuất hiện ở cửa nhà và vội vã đi về phía Giêsu: “Thưa Thầy, thật vinh dự được gặp Thầy!” ông chào Người.
Giêsu nói lời chào của Người: “Bình an cho ông”. Và Người thêm: “Đêm sắp về và trời sắp mưa, tôi xin ông một nơi trú và một cái bánh cho tôi và các đồ đệ của tôi”.
- Mời Thầy vào. Nhà con thuộc về Thầy. Tên đầy tớ sẽ lấy bánh
615
ở lò ra. Con rất bằng lòng biếu Thầy, cùng với phó mát do các con cừu của con, và các trái cây do đất của con. Mời vô, mời vô. Gió ẩm và lạnh... - Và ông vội vã để giữ cánh cửa mở. Ông cúi mình khi Giêsu đi qua. Nhưng thình lình ông đổi giọng để nói cách giận dữ với ai mà ông nhìn thấy: “Lại mày ở đây nữa à? Cút đi. Không có gì cho mày cả. Cút đi! Mày hiểu chưa? Ở đây không có chỗ cho kẻ lang thang...” Và ông rì rầm giữa hai hàm răng: “Và có lẽ cũng là tên ăn cắp nữa, giống như mày”.
Một giọng nhỏ nhẹ than van: “Chúa ơi, xin thương! Ít là một cái bánh cho em trai con. Chúng con đói...”
Giêsu đã vào trong căn nhà bếp mênh mông, vui tươi bởi một đống lửa to thay vì đèn. Người trở ra ngưỡng cửa. Khuôn mặt Người biến đổi: nghiêm nghị và buồn. Người hỏi, không phải hỏi chủ nhà, nhưng hỏi tổng quát, tựa như Người hỏi cái mái hiên yên lặng, hỏi cây sung trần trụi, hỏi cái giếng tối om: “Ai là người đói vậy?”
- Chúa ơi, con. Em con và con. Chỉ một cái bánh và chúng con sẽ đi khỏi.
Bây giờ Giêsu đã ra ngoài trong không khí càng lúc càng tối, vì hoàng hôn đã tới từ lâu và mưa sắp đổ. Người nói: “Tiến lại đây”.
- Chúa ơi, con sợ.
- Lại đây, Ta bảo con. Đừng có sợ Ta.
Từ sau góc tường nhà, đứa bé tiến lại. Đứa em trai nó bám vào cái áo nhỏ khốn nạn của nó. Chúng đến, đầy sợ hãi, với cái nhìn rụt rè vào Giêsu, và cái nhìn kinh hãi vào ông chủ nhà đang trợn trừng nhìn nó và nói: “Thưa Thầy, đó là những đứa lang thang và trộm cắp. Vừa nãy, con bắt gặp nó lục lọi gần máy ép. Chắc là nó muốn vào ăn cắp. Chả ai biết chúng từ đâu tới. Chúng không phải người ở đây”.
Giêsu có vẻ nghe ông ta. Người nhìn đăm đăm đứa bé gái có khuôn mặt nhỏ xanh xao với hai bím tóc đã xổ rơi trước hai tai, ở đầu bím có cột bằng mảnh giẻ. Khuôn mặt Giêsu không nghiêm nghị khi Người nhìn đứa bé tội nghiệp. Người buồn, nhưng Người mỉm cười để khuyến khích nó: “Có đúng là con muốn ăn cắp không?
616
Hãy nói sự thật”.
- Chúa ơi, không. Con đã xin một cái bánh, vì con đói, nhưng người ta không cho con. Con thấy một mẩu nhúng dầu ở đó, dưới đất, gần chiếc máy ép, và con đến để lượm. Chúa ơi, con đói. Ngày hôm qua người ta chỉ cho con có một cái bánh duy nhất, và con đã để cho Mathia... Tại sao người ta không để chúng con cùng với má ở trong mồ? - Và con bé khóc thảm thiết, em nó cũng khóc theo.
- Đừng khóc - Giêsu yên ủi nó trong khi vuốt ve nó và kéo nó lại với Người. “Hãy trả lời: con từ đâu tới?”
- Từ đồng bằng Esdrelon.
- Và con đã tới tận đây?
- Lạy Chúa, vâng.
- Mẹ con chết lâu chưa? Con có bố không?
- Bố con đã chết, bị giết bởi mặt trời trong kỳ ngày mùa. Và mẹ con chết tuần trăng vừa qua... Mẹ và đứa bé sắp sinh cùng chết... - và nó khóc mạnh hơn.
- Con không có họ hàng sao?
- Chúng con tới từ rất xa. Chúng con nghèo... Rồi ba phải ở đợ. Bây giờ ông đã chết, và má chết theo ông.
- Ai là ông chủ?
- Ông pharisiêu Ismael.
- Ông pharisiêu Ismael! (không thể nào diễn tả được cách Giêsu đã nhắc lại tên này) Con tự ý ra đi hay ông ta đã đuổi con?
- Thưa Chúa, ông ta đã đuổi con. Ông ta nói: “Đi ra đường đi! Các con chó đói”.
- Và ông, Jacob, tại sao ông lại không cho những đứa nhỏ này một cái bánh? Một cái bánh, một tí sữa và một nắm rơm để cho chúng nghỉ mệt?
- Nhưng... thưa Thầy... Con chỉ có bánh đủ cho con... và sữa, có rất ít... và để chúng nó ở trong nhà... chúng nó giống như các con vật lang thang! Những đứa này, nếu làm mặt hiền với chúng, chúng không đi nữa...
- Và ông thiếu chỗ và thực phẩm cho hai trẻ khốn nạn này? Thực
617
tình ông muốn nói vậy à, Jacob? Vụ gặt dồi dào, số lượng rượu và dầu, hoa trái sai làm cho khu vực của ông nổi tiếng năm nay vì những sản phẩm. Ông còn nhớ không? Năm ngoái mưa đá đã làm hư hại mùa màng của ông, làm cho ông lo ngại cho sự sống... tôi đã đến và xin bánh ông... Có một bữa ông đã nghe tôi nói, và ông đã trung thành với tôi... Và trong sự khó khăn của ông, ông đã mở cửa nhà và mở lòng ra cho tôi, ông đã cho tôi bánh và chỗ trú. Và tôi, sáng hôm sau, khi ra đi, tôi đã nói gì với ông? “Jacob, ông đã hiểu chân lý. Hãy luôn luôn thương xót, và ông sẽ được xót thương. Vì tấm bánh mà ông đã cho Con Người, các cánh đồng này sẽ cho ông lúa mì dư dật, sẽ trĩu hạt tựa như chúng mang trên chúng những hạt cát của biển. Các cây ôliu sẽ sai đầy trái, các cây táo sẽ rũ xuống vì sức nặng của trái”. Ông đã có tất cả những thứ đó, và ông đã là người giầu nhất vùng năm nay. Vậy mà ông từ chối tấm bánh với hai đứa trẻ!...
- Nhưng Thầy, Thầy là vị rabbi...
- Chính vì tôi là vậy, tôi có thể làm bánh từ những cục đá, nhưng chúng thì không. Bây giờ tôi nói với ông: ông sẽ có một phép lạ nữa và ông sẽ khổ, một nỗi khổ lớn... Khi đó ông sẽ đấm ngực và nói: “Tôi đáng tội” . Rồi Giêsu nói với hai đứa bé: “Đừng khóc. Hãy lại cái cây kia và hái trái”.
- Nhưng Chúa ơi! Nó trơ trụi à! - đứa bé phản đối.
- Đi đi.
Đứa bé gái đi, rồi nó trở lại, vạt áo vén lên, đựng đầy những trái táo đỏ đẹp.
- Hãy ăn và đi với Ta - và Người nói với các tông đồ: “Chúng ta hãy mang hai đứa bé này cho Jeanne Chouza, bà ta biết nhớ tới những ơn lành đã nhận được, và bà thương xót vì tình yêu đối với đấng đã thương xót đối với bà. Chúng ta đi thôi”.
Người đàn ông hoảng hốt và bẽ mặt, cố gắng để xin lỗi: “Thầy ơi, đêm rồi, trời sẽ mưa khi Thầy đang đi trên đường. Hãy trở vào nhà con. Đầy tớ con sẽ lấy bánh trong lò ra... Con sẽ biếu Thầy và cho cả chúng nữa”.
- Vô ích. Ông cho nó không phải vì yêu, mà vì sợ hình phạt đã
618
hứa.
- Vậy không phải cái này à? (và ông chỉ vào các trái táo đã được hái trên cây táo trơ trụi mà hai đứa bé đang ăn ngon lành) Không phải cái này là phép lạ sao?
- Không - Giêsu rất nghiêm nghị.
- Ôi! Lạy Chúa! Lạy Chúa! Xin thương tôi! Tôi đã hiểu. Thầy muốn phạt tôi trên vụ thu hoạch của tôi! Chúa ơi! Xin thương.
- Không phải hết những ai nói: “Chúa ơi” là chiếm hữu được Ta. Vì không phải bằng lời nói, nhưng bằng hành động mà người ta bày tỏ tình yêu và sự kính trọng, ông sẽ được cái tình thương mà ông đã có.
- Tôi yêu Ngài, lạy Chúa!
- Không đúng. Yêu tôi là những kẻ biết yêu, vì đó là giáo huấn của tôi. Ông chỉ yêu ông. Khi nào ông yêu tôi như tôi đã dạy thì Chúa sẽ trở lại. Bây giờ tôi đi. Nơi ở của tôi ở trong việc làm trọn điều thiện, trong sự an ủi những kẻ đau khổ, lau khô nước mắt cho các trẻ mồ côi. Giống như con gà mái xòe cánh ra trên các gà con không biết tự vệ, tôi tỏa uy quyền của tôi trên các kẻ đau khổ, những kẻ bị hành hạ. Đi, các con nhỏ. Sắp sửa các con sẽ có nhà ở và bánh ăn. Chào Jacob.
Và không thoả mãn vì đi bộ, Người cho ẵm các đứa bé đi. Chính Andrê ẵm con bé gái, gói nó trong áo khoác của ông, còn Giêsu ẵm đứa bé trai. Họ ra đi bởi một con đường nhỏ bây giờ tối om, với cái gánh nặng đáng thương của họ, bây giờ hết khóc rồi.
Phêrô nói: “Thật là cái may lớn cho chúng là Thầy đi qua đây. Nhưng với Jacob!... Thầy sẽ làm gì?”
- Sự công bằng. Ông ta không bị đói, vì các kho của ông còn dự trữ được một thời gian dài, nhưng sẽ thiếu hụt, vì các hạt giống không sinh hạt, các cây ôliu và cây táo sẽ chỉ có lá. Những trẻ thơ ngây này sẽ được bánh ăn và nhà ở, không phải từ Thầy, nhưng từ Chúa Cha. Vì Cha Thầy cũng là Cha các trẻ mồ côi. Người đã cho cái tổ và mồi ăn cho chim chóc trong rừng. Chúng, và mọi kẻ khốn nạn cùng với chúng: những kẻ khốn nạn biết sống là những con cái
619
vô tội và thân yêu của Người, có thể nói rằng Thiên Chúa đã đặt lương thực vào trong bàn tay nhỏ của chúng, và với sự săn sóc đầy
tình phụ tử, Người dẫn chúng tới mái nhà tiếp đãi chúng. Thị kiến chấm dứt và tôi còn lại một bình an lớn lao.
163* VIỆC NĂNG LUI TỚI CÁC PHÉP BÍ TÍCH
SẼ VÔ ÍCH, NẾU THIẾU ĐỨC BÁC ÁI
Chúa Giêsu nói:
Điều này là đặc biệt cho con, một tâm hồn than khóc khi nhìn các Thánh Giá của qúa khứ và những đám mây của tương lai. Chúa Cha luôn luôn có bánh để đặt vào tay con, và một cái tổ để đón nhận con chim cu đang khóc của Người.
Chính là để dạy cho tất cả rằng Cha biết là “Chúa” cách công minh, nhưng người ta không thể đánh lừa Cha, cũng không thể nịnh hót Cha bằng sự trọng kính giả trá.
Kẻ nào đóng cửa lòng lại đối với anh em là đóng lại đối với Thiên Chúa, và Thiên Chúa cũng đóng lại đối với nó.
Ôi! Hỡi con người, đó là giới răn thứ nhất: Tình Yêu và tình yêu. Kẻ không yêu là nói dối khi họ cho mình là Kitô hữu. Việc năng lui tới các phép bí tích và các kinh lễ sẽ vô ích, cầu nguyện cũng vô ích nếu thiếu đức bác ái. Các việc đó sẽ trở thành các công thức, và cả đến phạm thượng. Làm sao các con có thể đến với Bánh Hằng Sống và ăn no thỏa khi các con từ chối cho kẻ đang đói một tấm bánh. Bánh của các con có qúi hơn, thánh hơn bánh của Cha không? Ôi! Giả hình! Cha, Cha đã không đặt giới hạn khi ban mình cho nỗi khốn nạn của các con, mà các con là những kẻ khốn nạn, các con lại không thương những kẻ khốn nạn, là những kẻ không đáng ghét trước mắt Thiên Chúa như các con, vì họ là những kẻ khốn cùng, còn các con là những kẻ tội lỗi. Các con qúa thường nói: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” để nhắc Cha nhân hậu đối với các mối lợi của các con, nhưng các con không nói vậy vì tình yêu cho người đồng
620
loại. Các con chả làm gì nhân danh Chúa cho tha nhân cả.
Hãy nhìn: trong các tập thể cũng như nơi các cá nhân, cái tôn giáo dối trá và thực sự thiếu bác ái của các con đã cho các con cái gì? Sự bỏ rơi của Thiên Chúa. Và Chúa sẽ trở lại khi các con biết yêu như Cha đã dạy. Nhưng với các con, một số nhỏ phải đau khổ nhưng vẫn sống tốt, Cha nói: “Các con không bao giờ bị mồ côi, các con không bao giờ bị bỏ rơi. Sẽ không có Thiên Chúa nếu thiếu sự quan phòng của Người cho các con cái của Người. Hãy sè tay ra, người Cha sẽ cho các con một cách rất Cha, tức là với tình yêu không làm hạ giá. Hãy lau nước mắt đi, Cha sẽ ẵm các con và mang các con đi, vì Cha thương cho sự yếu ớt của các con”. Loài người là loài được yêu thương nhất trong các thụ tạo. Các con có thể nghi là Chúa Cha thương các con chim hơn con người trung thành sao? Với con người trung thành, Thiên Chúa rất nhẫn nại, Người nhẫn nại cả với người tội lỗi và Người cho họ thời giờ và khả năng để trở về với Người. Ôi! Nếu thế giới hiểu được Thiên Chúa là ai!
Hãy đi bình an, Maria. Con thân yêu đối với Cha như hai đứa trẻ mồ côi mà con đã thấy, và còn hơn nữa. Hãy đi bình an. Cha ở với con.
Chúa Giêsu nói:
Khi Cha mặc khải cho con những giai đoạn không được biết trong đời sống công khai của Cha, Cha đã nghe tập đoàn các nhà thông thái hay chỉ trích nói: “Nhưng sự kiện này không được nói tới trong sách Tin Mừng, làm sao bà ta có thể nói là ‘Tôi đã thấy điều này’?” Với họ, Cha trả lời bằng các lời trong sách Tin Mừng:
“Và Chúa Giêsu đi khắp các thành phố và các làng mạc, giảng dạy họ trong các giáo đường, rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, chữa lành mọi yếu đuối và bệnh tật” Mathêu nói.
Và nữa: “Hãy về thuật lại cho Gioan những điều các ông đã thấy và đã nghe: kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người hủi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, người nghèo được
621
loan báo Tin Mừng”.
Và còn nữa: “Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Bétsaiđa, bởi vì nếu những phép lạ đã làm ở giữa ngươi mà được thực hiện ở Tyr và Siđon, thì từ lâu rồi, họ đã thống hối, mặc áo nhặm và nằm trên tro... Và ngươi, hỡi Caphanaum: có lẽ ngươi đã được nâng lên tới trời? Ngươi sẽ phải xuống tới hỏa ngục, vì nếu các phép lạ được thực hiện nơi ngươi mà được làm tại Sôđôma, thì có lẽ nó còn tồn tại”.
Và ở Marcô: “Và các đám đông lớn theo Người từ Galilê, từ Juđê, từ Jêrusalem, từ Idumê và các miền bên kia sông Giođan. Cả các miền lân cận Tyr và Siđon cũng đến với Người khi họ nghe nói về các việc người làm”.
Và Luca: “Chúa Giêsu đi qua các làng và các thành, giảng dạy, rao truyền Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Ở với Người có nhóm mười hai và mấy người đàn bà mà Người đã giải phóng cho khỏi thần dữ và các tật nguyền”.
Và Gioan của Cha thì: “Sau đó, Chúa Giêsu đi qua bên kia biển Galilê, một đám đông lớn đi theo Người, vì họ đã thấy các kỳ công Người đã thực hiện trên các tật nguyền”.
Và bởi vì Gioan hiện diện tại hết mọi kỳ công bất cứ loại nào mà Cha đã làm trong ba năm, nên môn đệ ưu ái của Cha đã cho Cha một minh chứng vô giới hạn: “Chính người môn đệ này đã thấy những việc đó và đã viết ra. Chúng ta biết rằng sự minh chứng của ông là thật. Cũng có nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm, nếu người ta viết hết ra từng điều một, thì tôi tin rằng thế giới không thể chứa hết các sách phải viết”.
Vậy thì sao? Bây giờ các tiến sĩ ưa kiếm chuyện sẽ nói gì?
Nếu lòng nhân từ của Cha, để nâng đỡ một trong các con yêu của Cha, kẻ đã mang Thánh Giá của Cha cho các con - Nó đã đỡ lấy Thánh Giá từ vai Cha và đặt trên vai nó, vì nó yêu Cha tới nỗi muốn chết còn hơn thấy Cha phải chết - Nếu lòng nhân từ của Cha, để đánh thức các con ra khỏi cơn mê mà các con đang chết, đã cho biết các giai đoạn trong sứ mệnh của Người, mà các con lại muốn
622
phiền trách lòng nhân từ này sao? Thực tình các con không xứng đáng với ơn này, cũng như với sự cố gắng mà Vị Cứu Tinh của các con đã làm, để đem các con ra khỏi vùng khí lam chướng nó làm các con chết ngộp. Nhưng vì Cha đã ban nó cho các con, các con hãy nhận lấy nó và hãy đứng lên. Đó là những nốt nhạc mới trong bài ca mà Tin Mừng của Cha đã hát. Chớ gì ít nhất, nó thức tỉnh sự chú ý của các con, vì bây giờ các con đang và vẫn tiếp tục trơ trơ với những sự kiện đã biết của Tin Mừng. Và ở trên tất cả là các con đọc qúa ít, và đọc mà thiếu sự hiện diện của tâm hồn.
Cũng vậy, các con không muốn nghĩ rằng trong ba năm, cha chỉ làm một số ít phép lạ đã được kể chứ? Các con không muốn nghĩ rằng chỉ có các sự chữa lành cho một số ít phụ nữ đã được nhắc tới chứ? Hoặc nghĩ rằng các việc đã được kể là các việc duy nhất Cha đã hoàn thành? Nếu bóng của Phêrô cũng chữa được bệnh, thì phải nói bóng của Cha, hơi thở của Cha, cái nhìn của Cha đã làm gì? Các con hãy nhớ lại người đàn bà loạn huyết: “Nếu tôi được đụng tới gấu áo Người thì tôi sẽ được khỏi”, và đã xảy ra như vậy. Một sức mạnh làm phép lạ liên tục tỏa ra từ Cha. Cha đã đến để dẫn người ta về với Thiên Chúa, và mở ra những cái đê ngăn chặn tình yêu đã bị đóng lại từ lúc có tội lỗi. Từ bao thế kỷ, tình yêu đã tràn ra như sóng trên cái thế giới nhỏ của Palestin. Tất cả tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người, sau cùng đã có thể tràn ra, vì Người muốn cứu chuộc con người bằng tình yêu trước khi cứu chuộc họ bằng máu Người.
Nhưng có lẽ các con nói: “Nhưng tại sao lại tỏ ra với bà ta là một kẻ khốn nạn?” Cha sẽ trả lời cho các con khi cái kẻ mà các con khinh bỉ, và là kẻ mà Cha yêu, được bớt kiệt quệ. Các con đáng được sự yên lặng mà Cha đã giữ trước mặt Hêrôđê. Nhưng Cha muốn cố gắng cứu chuộc các con, những kẻ mà kiêu căng đã làm cho khó thuyết phục.
Ngày 21-8-1944, Chúa Giêsu nói:
Cha trả lời cho các con bằng dụ ngôn của tông đồ Phaolô: “Các
623
chi thể có vẻ yếu nhất là những chi thể cần thiết nhất. Những phần mà chúng ta cho là ít qúi phái nhất trong cơ thể, chúng ta lại trang điểm cho nó nhiều nhất. Những bộ phận ít đoan trang thì chúng ta đối xử với nó nhiều kính trọng nhất, còn những bộ phận nhã nhặn nhất thì lại không cần chú ý. Bây giờ Thiên Chúa bài trí cơ thể theo lối dành nhiều danh dự nhất cho các cơ quan không có danh dự”.
Tiếng nói nhỏ này, có lẽ các con nghĩ rằng nó coi mình lớn lắm? Nếu các con hỏi nó, nó sẽ trả lời: “Tôi là phần thân thể yếu đuối nhất và ít quan trọng nhất trong cơ thể của Chúa Kitô”. Nó sẽ trả lời các con như vậy với sự chân thành thực sự. Nhưng các con, các con không tin nó, bởi vì mỗi người đo người khác bằng cái thước của mình. Và các con, những kẻ không khiêm nhường, cũng không chân thành, các con nói: “Tôi xấu” là để được nghe: “Không, bạn rất tốt”, và các con nghĩ về mình tuyệt đối như vậy. Và nếu kẻ nào chân thành, gán cho các con qúa ít điều tốt, hay không gán cho tí nào, họ ở lặng vì bác ái; họ không ca tụng các con vì họ chân thành, thì các con bực mình chống lại họ và ghét họ, vì họ không ca tụng các con, và các con không thể tin là họ chân thành. Nhưng Cha, Cha đọc được tư tưởng của nó, cha nhìn thấy con tim nó, Cha thấy nó có hay không có tư tưởng này về chính mình. Những liên lạc của linh hồn này với Thiên Chúa của nó, đã bao lần những lời bảo đảm của Thiên Chúa đã vang lên, vì nó nói: “Làm sao Chúa có thể dùng con? Con chẳng đáng gì cả, con thiếu sót rất nhiều, và còn thiếu sót biết bao với Chúa”. Và nó nghi ngờ Cha, vì nó thấy không thể nào Cha lại chọn nó cho sứ mạng này.
Nó biết mình yếu đuối, rất yếu đuối. Và nếu người ta so sánh nó với sự trọn lành thì nó còn yếu hơn sợi tóc của một đứa mới sinh. Nó biết mình ngu dốt, và nếu chúng ta so sánh nó với Thiên Chúa, thì nó còn kém hơn một con sâu sinh ra trong đất. Nhưng nó có một sức mạnh duy nhất: Một tình yêu hoàn toàn. Khi nó cho hay tận hiến, nó không bao giờ nghĩ tới nó hay những điều lợi có thể đến với nó từ người khác. Nó chỉ nghĩ đến làm vui lòng Cha, làm ích lợi cho một mình Cha, dù là vì đó mà nó trở nên ghê tởm đối với thế
624
giới. Nó đã đi tới chỗ ghét thân xác mình, tình ghét thánh mà Cha dạy khi nói: “Ai muốn cứu sự sống (trên trái đất) của mình, thì sẽ mất nó (kể cả sự sống đời đời), và kẻ nào vì tình yêu Cha mà mất nó, thì sẽ tìm lại được nó”. Tình ghét thánh của những kẻ đã hiểu lời Cha!
Chính vì tình yêu vượt mọi yếu đuối này mà Cha đã chọn nó. Một ngày nọ, Cha đã đặt một đứa trẻ ở giữa các tông đồ của Cha và cho nó làm gương cho họ, bởi vì đứa trẻ yêu với hết sức của nó và không có tư tưởng kiêu căng. Một đứa trẻ, phải là một đứa còn rất nhỏ, bởi vì hạt giống của Satan nảy ra bông lúa đầu tiên là sự kiêu ngạo, và nó nảy bông khi hạt vừa ra khỏi cuống, tức là vừa lìa bỏ vú mẹ. Rồi nó nảy ra bông thứ hai là tình dục, bông thứ ba là sức mạnh, hoặc do quyền thế, hoặc do tiền bạc. Nhưng bông đầu tiên luôn luôn là bông kiêu căng, nó thoát ra khỏi cặp môi vừa quên sự êm dịu của sữa mẹ.
Chính giống như những đứa nhỏ, giống như những đứa rất nhỏ là kẻ Cha muốn các đồ đệ của Cha là, để ban cho họ Lời của sự sống. Thật đẹp chừng nào khi thấy chúng đến với Cha với bàn tay nhỏ đầy hoa và nói với Cha: “Cầm lấy đi”, rồi cười và chạy đi, để rồi trở lại với những hoa nhỏ khác, trong một trò chơi tình yêu, tin tưởng, chân thành và tình cảm... Những trẻ nhỏ xíu, Cha muốn có chúng trên thế giới để thánh hóa thế giới. Và bởi vì trẻ thơ ngây đi qua và sống giữa các con, nhưng không có khả năng làm cho các con nên tốt hơn - đáng lẽ chúng phải làm được, vì trẻ con vô tội là thực thể của Trời, chúng tỏa ra sự trong trắng và bình an. Chúng nói mà không cần lời. Chúng là của Thiên Chúa làm ra, chúng áp đặt mà không cần nói, sự kính trọng một của thuộc về Thiên Chúa, một của kêu gọi tình thương và tình yêu cho sự non dại của nó là cái không được để cho nhiễm độc, cho sự yếu đuối của nó phải được yêu. Nó là bông hoa của đồng loại các con, cũng giống như các bệnh nhân và các kẻ đau khổ đều là hoa. Đầu tiên là các hoa trắng, rồi hoa đỏ và tím là hai loại hoa mà các con phải yêu với tình yêu ưu tiên trong số tha nhân có quyền đòi tình yêu của chúng ta - Vậy bởi vì sự trong trắng của các trẻ thơ ngây bởi tuổi nhỏ không đủ,
625
nên Cha đã sáng tạo ra các trẻ nhỏ thiêng liêng. Những kẻ này có một khoa học thiên phú mà các con không có, và họ khiêm nhường, đơn sơ, tin tưởng, chân thành như những trẻ nhỏ vui cười bước những bước đầu tiên. Chúng chỉ biết ê a, và chúng biết rằng nếu không có mẹ, chúng sẽ té, nên chúng không bao giờ rời mẹ.
Họ cũng vậy, và linh hồn này cũng vậy, không bao giờ rời Cha. Đó là tại sao nó và những kẻ giống như nó, những phần tử yếu đuối, như các con cho là vậy; những kẻ ngu dốt, như các con cho là vậy, được ban cho những điều mà các con không được.
Trong thân thể mầu nhiệm, chính những phần tử bị thế giới kiêu căng khinh bỉ, là những kẻ hoạt động mạnh nhất. Ngón tay không phải là bộ óc, nhưng không có ngón tay thì các con sẽ làm gì? Các con không thể làm những việc thông thường nhất, khiêm tốn nhất. Các con sẽ giống như trẻ sơ sinh gói trong tã, cả đến không thể cầm cái nuốm vú mà mút của ăn, nếu bà mẹ không đặt vào giữa cặp môi của nó. Dù là các con rất có học, rất thông minh, các con cũng không thể đặt trên tờ giấy những tư tưởng của các con.
Đối với linh hồn này cũng vậy. Đó là một ngón tay... nhưng Cha đã cho phần tử nhỏ bé này cái sứ mạng chỉ Ánh Sáng cho các con và nhắc nhở các con về với Ánh Sáng. Ánh Sáng muốn thắp sáng các con lại, ôi! Hỡi các ngọn đèn mà thuyết duy lý đã làm hun khói, hoặc đã bị tắt vì muôn vàn lý do, từ thiếu tình yêu tới tiền bạc, từ tiền bạc tới tình dục, từ tình dục tới chống lại đức ái. Nào, hãy qùi gối, không phải trước tiếng nói nhỏ, nhưng trước Lời đang nói. Tiếng nói nhỏ chỉ nhắc lại lời của Người, nó là dụng cụ của Thiên Chúa nó. Hãy thờ lạy Chúa là đấng nói, tiếng nói nhỏ là ẩn danh. Cha muốn nó được giấu kín với thế giới. Sau này nó sẽ được biết tới. Bây giờ nó chỉ là một tiếng nói, một kẻ mang tiếng nói của Cha, vinh dự của nó và cũng là sự tử đạo của nó, vì tất cả những kẻ lựa chọn của Thiên Chúa đều là kẻ phải đóng đanh bản thân.
Cha không đòi các con cả đến phải yêu nó. Cha đủ cho nó và nó không đòi hỏi gì khác. Nhưng Cha muốn các con để cho nó bình an, với sự kính trọng mà các con phải có đối với một vật mà Thiên
626
Chúa sử dụng.
164* “KHÔNG CÓ BẦN CÙNG NÀO
MÀ GIÊSU KHÔNG THỂ
BIẾN THÀNH GIẦU SANG”
Mẹ Maria nói:
Maria ơi, đây là người mẹ nói. Giêsu của mẹ đã nói với con về trẻ thơ tinh thần, một điều cần thiết để chinh phục Nước Trời. Hôm qua Người đã tỏ cho con một trang của đời sống làm Thầy của Người. Con đã thấy những trẻ nhỏ, những trẻ nhỏ nghèo khổ. Không còn gì khác để nói nữa sao? Có chứ, và chính mẹ sẽ nói với con là kẻ mẹ muốn làm cho luôn luôn thêm chí thiết đối với Giêsu. Đó là một sắc thái trong bức tranh đã nói với tâm hồn con cho tâm hồn của một số đông người. Đây là những sắc thái làm nên vẻ đẹp của bức tranh, chính nó tiết lộ tài năng của họa sĩ và sự thông minh của quan sát viên.
Mẹ muốn làm cho con nhận xét về sự khiêm nhường của Giêsu con mẹ.
Con bé gái khốn nạn này, trong sự đơn sơ vì vô tri của nó, nó không có sự đối đãi khác nhau giữa một kẻ tội lỗi có con tim bằng đá và con mẹ. Nó không biết gì về rabbi cũng như Messi, hơi đỡ hơn con bé mọi rợ một tí. Đã sống trong đồng ruộng, trong một căn nhà mà người ta khinh bỉ ông thầy, vì pharisiêu Ismael khinh bỉ Giêsu của mẹ, nó không bao giờ nghe nói về Người, cũng chưa bao giờ thấy Người.
Cha và mẹ nó bị bẻ gẫy bởi công việc nặng nhọc mà ông chủ độc ác đòi hỏi, họ không có thời giờ và khả năng để cất đầu lên khỏi đất mà họ khai khẩn. Có lẽ trong khi gặt hái, hoặc khi hái hoa trái hay khi chà ôliu tại chiếc cối cứng, họ đã nghe một tiếng vạn tuế ồn ào, hay có lẽ họ đã ngẩng cái đầu mệt mỏi lên một lát, nhưng sự sợ hãi và sự mệt mỏi lại kéo đầu họ xuống dưới cái ách. Và họ đã chết khi nghĩ rằng thế giới chỉ toàn là thù ghét và đau
627
khổ, trong khi trái lại, thế giới là tình yêu và tốt từ lúc Giêsu của mẹ dẫm bàn chân rất thánh của Người trên nó. Là nô lệ của một ông chủ không tình thương, họ đã chết mà không được một lần gặp nụ cười và cái nhìn của Giêsu con mẹ, cũng không được nghe lời Người, những lời ban cho tâm hồn các ơn phúc dồi dào, do đó kẻ bần cùng cảm thấy mình giầu có, kẻ đói được no nê, bệnh nhân được sức khỏe, kẻ đau khổ được an ủi.
Và rồi Giêsu không nói: “Ta là Chúa, ta bảo con: hãy làm cái này”. Người giữ sự ẩn danh của Người.
Con bé ngu si tới nỗi nó không hiểu gì ngay cả trước phép lạ cho cây táo đã rụng hết lá mà lại nặng trĩu trái để hạ cơn đói của nó. Nó vẫn tiếp tục gọi Người là “Chúa” như nó gọi ông chủ Ismael của nó và cái ông Jacob độc ác. Nó cảm thấy bị lôi kéo về phía ông Chúa tốt, bởi vì lòng tốt luôn luôn lôi kéo. Nhưng không còn gì hơn. Nó theo Người với lòng tin tưởng, nó yêu Người ngay lập tức, do bản năng, tạo vật bé nhỏ khốn nạn, lạc lõng trong thế giới và trong sự ngu muội mà thế giới muốn cho nó. Thế giới vĩ đại của quyền lực và ham mê khoái lạc muốn giữ các kẻ thấp bé trong ngu muội để có thể hành hạ nó tùy thích, và khai thác nó cách ghê tởm hơn. Rồi sau đó nó biết ông Chúa này là ai: một người nghèo như nó, không nhà cửa, không lương thực, không có mẹ, vì Người đã bỏ tất cả vì yêu loài người, kể cả vì cái mụn nhỏ bé này của loài người là con bé khốn khổ này. Vị Chúa này đã cho nó những trái cây lạ lùng, để lấy đi khỏi môi miệng nó và con tim nó những cay đắng của sự độc ác nhân loại, đã gây ra cho những kẻ khốn nạn sự thù ghét chống lại các quyền lực, bằng những trái cây của Chúa Cha, chứ không phải bằng những mẩu bánh cho qúa trễ, mà với nó, sẽ luôn luôn có cái vị của sự cay nghiệt và nước mắt.
Qủa thực những trái táo này nhắc lại những trái cây của Thiên Đàng dưới đất. Trái cây mọc trên cành của điều lành và điều dữ. Đối với hai trẻ mồ côi này, nó ghi dấu sự cứu thoát cho khỏi mọi khốn khó, trước tiên là sự vô tri về Thiên Chúa, và nó ghi dấu hình phạt cho kẻ đã biết Lời Chúa mà lại hành động như không biết.
628
Sau đó, nhờ người đàn bà tốt sẽ tiếp nhận nó nhân danh Giêsu, nó sẽ biết được Giêsu là ai. Đối với nó, Người là nhiều lần Vị Cứu Tinh: Cứu khỏi đói, khỏi mưa gió, khỏi những nguy hiểm của thế giới, khỏi tội nguyên tổ.
Nhưng đối với nó, nó luôn luôn nhìn thấy Giêsu trong ánh sáng huy hoàng của ngày hôm đó. Người luôn luôn xuất hiện trước nó là một vị Chúa tốt, một lòng nhân từ trong truyện thần tiên. Vị Chúa cho những vuốt ve và những món qùa; vị Chúa đã làm cho nó quên đi là nó không cha, không mẹ, không nhà, không quần áo, bởi vì Người tốt như người cha, êm dịu như người mẹ. Người đã cho nó một cái tổ cho nó khỏi mệt, một cái chăn cho sự trần trụi của nó bằng lồng ngực của Người, áo khoác của Người và của những người tốt đang ở với Người.
Một ánh sáng phụ tử và ngọt ngào đã không chết dưới những dòng nước mắt của nó khi nó biết Người đã bị chết hành hạ trên thập giá. Ánh sáng cũng không mất khi nó là một tín hữu nhỏ của Giáo Hội đầu tiên. Nó đã thấy khuôn mặt vị Chúa của nó đã trở nên thế nào dưới những cú đánh đập và những gai nhọn , và sau khi đã suy nghĩ: bây giờ Người thế nào ở trên Trời, bên hữu Chúa Cha. Một ánh sáng đã mỉm cười với nó vào giờ sau cùng của nó trên trái đất, đem nó về với Vị Cứu Tinh của nó, không còn phải sợ hãi nữa. Ánh Sáng vẫn còn mỉm cười với nó, rất êm dịu, êm dịu khôn tả trong sự huy hoàng Thiên Đàng.
Chúa Giêsu cũng nhìn con như vậy. Hãy luôn luôn coi nó như người trùng tên xa xưa của con, và hãy sung sướng vì tình yêu của Người đối với con. Hãy đơn sơ, khiêm nhường, trung thành như con bé Maria tội nghiệp mà con đã biết. Mặc dầu nó là một con bé ngu si tội nghiệp của Israel, hãy coi nó đã đi được tới đâu: trên Trái Tim của Thiên Chúa. Tình Yêu đã mặc khải cho nó cũng như cho con, và nó đã trở nên nhà bác học của sự khôn ngoan thật.
Hãy tin. Hãy bình an. Không có một sự bần cùng nào mà Con Mẹ không thể biến thành giầu sang, không một cô đơn nào mà Người không thể đổ đầy, không một thiếu sót nào mà Người không thể xóa bỏ. Qúa khứ không còn nữa khi tình yêu đã hủy bỏ nó,
dù là một qúa khứ đáng ngại. Có thể nào con lại sợ trong khi tên trộm cướp Dismas đã
không sợ? Hãy yêu. Hãy yêu và đừng sợ gì cả. Mẹ từ biệt con với phúc lành của mẹ.
629
165* “THẦY MUỐN CHO CÁC TRẺ MỒ CÔI CÓ MỘT NGƯỜI MẸ”
Hồ Tibêriat hoàn toàn là một tấm thảm mầu xám tựa như bằng thủy ngân mờ và nặng nề, vì nó bình lặng, chỉ hơi có chút gợn sóng mệt mỏi không đủ sức sinh ra một bong bóng bọt, rồi lại dừng, bất động, sau khi đã gây ra một dao động nhẹ, tạo ra trên tất cả bề mặt của nó một mầu đồng nhất dưới bầu trời không huy hoàng.
Phêrô và Andrê luẩn quẩn gần thuyền của họ. Giacôbê và Gioan cũng vậy. Họ đang sửa soạn khởi hành tại cái bãi nhỏ ở Bétsaiđa. Mùi cỏ và mùi đất bão hòa nước, sương mù nhẹ rơi trên khắp bờ cỏ mọc về phía Corozain. Sự buồn tẻ của tháng mười một đậu trên vạn vật.
Giêsu ra khỏi nhà Phêrô, hai tay dắt hai đứa bé Mathia và Maria mà bàn tay Porphyrê đã mặc cho với sự săn sóc của từ mẫu, bằng cách thay thế bộ đồ của Maria bằng đồ của Margziam. Nhưng Mathia qúa nhỏ, không lợi dụng được cùng một ân huệ, nên nó còn run rẩy trong cái áo choàng bạc mầu bằng vải của nó. Porphyrê thương hại nó nên trở vào nhà, rồi lại ra với một mảnh chăn, và bà cuốn cho nó tựa như áo khoác. Giêsu cám ơn bà trong khi bà qùi gối từ giã hai đứa trẻ mồ côi bằng những cái hôn sau cùng. Rồi bà trở lui.
- Để gọi là có con, đáng lẽ bà phải được giữ cả hai đứa này nữa - Phêrô nhận xét khi ông quan sát màn cảnh. Rồi đến lượt ông, ông cúi xuống để cho mỗi đứa nhỏ một miếng bánh trét mật ong mà ông cất dưới một cái ghế ở trong thuyền. Điều đó làm Andrê cười và nói với ông: “Còn anh thì không, hen? Anh đã ăn cắp cả đến mật ong của vợ anh để cho hai đứa trẻ này một tí vui”.
- Ăn cắp! Ăn cắp! Mật ong của tôi mà!
- Đúng! Nhưng chị dâu tôi sẽ ghen, vì cái đó để dành cho Margziam. Còn anh, ai mà biết: Đêm vừa qua anh đã cởi dép, rón rén lẻn vào nhà bếp như kẻ trộm, để kiếm cái gì kẹp với cái bánh
630
này. Tôi thấy anh và tôi cười, vì anh nhìn khắp chung quanh như đứa trẻ sợ những cái bạt tai của bà mẹ.
- Trinh thám của kẻ khổ sở! - Phêrô ôm em ông, vừa nói vừa cười. Và đến lượt Andrê, cũng ôm ông và nói: “Ông anh thân mến của tôi!”
Giêsu quan sát và cười thoải mái ở giữa hai đứa trẻ đang ngốn miếng bánh của chúng.
Từ phía nội thành Bétsaiđa, tám tông đồ kia đi tới. Có lẽ họ đã là khách của Philíp và Batôlômêo.
- Mau lên! - Phêrô la, và ông ẵm cùng một lúc cả hai đứa trẻ và mang chúng lên thuyền để chúng khỏi ướt đôi chân trần: “Các con không sợ phải không?” Ông hỏi khi ông lội bì bõm trong nước lên tới đầu gối của cặp giò trần, ngắn và mạnh của ông.
- Thưa Chúa không - con bé nói, và nó ghì co quắp vào cổ Phêrô. Nó nhắm mắt lại khi ông để nó vào trong thuyền tròng trành do sức nặng của Giêsu cũng vừa bước lên. Thằng bé thì hoặc can đảm hơn hay kinh ngạc hơn, không nói gì cả. Giêsu ngồi và kéo hai đứa bé lại hai bên Người. Người lấy áo khoác phủ cho chúng, giống như hai cánh giang ra để bảo vệ hai con gà con.
Tất cả đều lên thuyền, sáu vị thuyền này, sáu vị thuyền kia. Phêrô rút chiếc cầu dùng để lên thuyền. Bằng một cú đẩy chân rất mạnh, ông đẩy chiếc thuyền ra xa bờ và nhảy qua be thuyền vào bên trong. Giacôbê cũng làm như vậy với thuyền của ông. Cú đẩy của Phêrô đã làm lắc lư chiếc thuyền, làm con bé rên lên và nói: “Má ơi!”, và nó gục mặt vào ngực Giêsu, tay bám vào đầu gối Người. Nhưng rồi con thuyền trôi êm, mặc dầu mệt cho Phêrô, Andrê và cậu con trai phải chèo, cùng với Philíp là tay chèo thứ bốn. Cánh buồm treo mềm rũ trong cái yên lặng nặng nề và ẩm ướt, chẳng ích lợi gì cả. Phải đẩy thuyền đi bằng sức mạnh của mái chèo.
- Một cuộc dạo mát thật đẹp - Phêrô kêu với qua những người ở thuyền bên kia, nơi Iscariot giữ vai tay chèo thứ bốn một cách hoàn hảo tới nỗi Phêrô phải ca tụng.
631
- Cố lên, Simon ơi! - Giacôbê trả lời. “Cố lên, nếu không chúng tôi sẽ vượt anh. Judas mạnh như một tên tù khổ sai chèo thuyền. Hoan hô Judas!”
- Tốt! Chúng tôi bầu anh làm trưởng đoàn chèo - Phêrô xác nhận trong khi ông chèo mạnh bằng hai người, và ông cười nói: “Nhưng người ta không thể dành chỗ thứ nhất của Simon Jonas này được đâu. Lúc hai mươi tuổi, tôi đã làm trưởng đoàn chèo trong cuộc thi giữa nhiều xứ”. Và một cách hoan hỉ, ông làm nhịp cho đoàn chèo của ông: “Ồ! hịt!... Ồ! hịt! Ồ!... Hịt!” các tiếng kêu vang lên trên hồ lặng lẽ vắng vẻ vào giờ ban mai này.
Hai đứa trẻ đánh bạo. Luôn luôn núp dưới áo khoác, chúng ló khuôn mặt hốc hác của chúng ra ở hai bên ông Thầy vẫn ôm giữ chúng, và chúng mỉm cười. Chúng chú ý tới công việc của các tay chèo, và chúng trao đổi những bình luận.
- Giống như đi trên chiếc xe không có bánh - thằng bé nói.
- Không, đi trên chiếc xe ở trên mây. Coi này, giống như đi ở trên vòm trời. Đó, đó, chúng ta leo lên một đám mây! - Maria nói khi nó thấy chiếc thuyền cắm mũi vào một nơi có bóng những đám mây như bông gòn, và nó mỉm cười. Nhưng rồi mặt trời làm tan sương mù, và dù là một mặt trời vàng vọt của tháng mười một, các đám mây cũng trở nên bóng như vàng, và chiếc hồ cho một phản chiếu sáng chói.
- Ồ! Đẹp qúa! Bây giờ chúng ta đi trên lửa. Ô! Đẹp qúa! Đẹp chừng nào! - và hai đứa trẻ vỗ tay.
Nhưng con bé liền im bặt và bật ra tiếng khóc. Mọi người đều hỏi tại sao. Giữa những tiếng nấc, nó cắt nghĩa: “Má đã đọc một bài thơ, một thánh vịnh, con không thuộc, để giữ chúng con tốt, và để chúng con vẫn còn có thể cầu nguyện giữa biết bao buồn sầu. Và má đọc bài thơ này về một Thiên Đàng, nơi giống như một hồ ánh sáng, một biển lửa êm dịu, nơi chỉ có Thiên Chúa và niềm vui, nơi tất cả những người tốt sẽ tới... sau khi Đấng Cứu Tinh tới... Chiếc hồ sáng như vàng này làm con nhớ tới... má!”
Mathia cũng khóc, và mọi người đều động lòng trắc ẩn.
632
Nhưng đây, cất lên bên trên các giọng nói khác nhau, và bên trên tiếng than của hai đứa trẻ mồ côi, là giọng nói dịu ngọt của Giêsu: “Các con đừng khóc. Má các con đã dắt các con lại với Thầy, và bà đang ở đây với các con, trong khi Thầy mang các con tới nhà một bà mẹ không có con. Bà sẽ rất bằng lòng được có hai đứa trẻ dũng cảm thay vì đứa con bà đã về chỗ ở với má các con. Vì bà cũng đã khóc. Các con biết không? Con bà đã chết giống như má các con chết...”
- Ồ! Vậy thì chúng con tới nhà bà, còn con bà thì tới nhà má chúng con - Maria nói.
- Hoàn toàn đúng vậy. Và tất cả đều vui sướng.
- Người đàn bà này thế nào? Bà làm gì? Bà có phải nông dân không? Ông chủ của bà có tốt không? - Các đứa trẻ bộc lộ sự chú ý.
- Bà không phải nông dân, nhưng bà có một khu vườn đầy hoa hồng, và bà tốt như một thiên thần. Bà có một ông chồng tốt. Ông cũng sẽ rất yêu các con.
- Thầy tin à? - Mathêu hỏi, hơi nghi ngờ.
- Thầy chắc vậy, và các con sẽ phải nhìn nhận. Mới đây, Chouza đã muốn có Margziam để huấn luyện nó thành kỵ mã.
- A! Cái đó thì không ạ! - Phêrô kêu lên.
- Margziam sẽ là kỵ mã của Đức Kitô. Chỉ có vậy thôi, Simon. Hãy an lòng.
Chiếc hồ lại trở về mầu xám. Một làn gió nhẹ nổi lên làm gợn mặt hồ. Cánh buồm căng lên, con thuyền lướt và rung rinh. Nhưng hai đứa trẻ chỉ mơ về bà mẹ mới, tới nỗi chúng không còn tỏ ra sợ nữa.
Các ngài đi qua Magđala với những căn nhà trắng của nó ở giữa làn cây xanh, rồi qua miền quê ở giữa Magđala và Tibêriat. Đây, đã đến những căn nhà đầu tiên của Tibêriat.
- Ở đâu Thầy?
- Vô cái cảng nhỏ của Chouza.
Phêrô bẻ lái và ra lệnh cho người thủy thủ nhỏ. Cánh buồn hạ xuống trong khi chiếc thuyền hướng về cảng nhỏ và ghé vào, dừng
633
lại ở cái đập nhỏ. Thuyền kia cũng làm theo. Hai chiếc kề bên nhau như hai con vịt con mỏi mệt. Mọi người lên bờ và Gioan chạy đi trước để báo cho người làm vườn.
Các đứa nhỏ rụt rè, ép sát vào Giêsu và con Maria thở dài, kéo áo Giêsu và hỏi: “Bà ta có tốt thật không?”
Gioan trở lại: “Thưa Thầy, một người đầy tớ đang mở cửa rào. Jeanne dậy rồi”.
- Tốt. Tất cả hãy chờ ở đây. Thầy đi trước.
Và Giêsu bước đi một mình. Những người khác nhìn Người đi, bình luận ít hoặc nhiều thuận lợi về việc Giêsu thử làm. Những nghi ngờ và những chỉ trích cũng không thiếu. Nhưng từ chỗ họ chờ, họ chỉ nhìn thấy Chouza chạy tới và cúi mình tới tận đất trước cửa hàng rào, rồi vào trong vườn ở bên trái Giêsu, rồi họ không nhìn thấy gì nữa. Nhưng tôi, tôi nhìn thấy: Tôi thấy Giêsu tiến bước nhẩn nha bên cạnh Chouza. Ông bộc lộ tất cả niềm vui được có Người làm khách: “Jeanne của con sẽ rất sung sướng. Con cũng vậy. Bà càng ngày càng khỏe, và bà đã kể cho con cuộc hành trình. Lạy Chúa! Biết bao chiến thắng!”
- Ông không buồn vì vậy sao?
- Jeanne sung sướng, và con sung sướng được thấy bà như vậy. Con đã có thể không có bà nữa từ nhiều tháng rồi, Chúa ạ.
- Ông đã có thể... Và Thầy, Thầy đã trả lại bà cho ông. Hãy biết ơn Thiên Chúa.
Chouza nhìn Người, sững sờ... Rồi ông thì thầm: “Một lời quở trách à Chúa?”
- Không. Một lời khuyên. Hãy tốt, Chouza.
- Thưa Thầy, con là đầy tớ của Hêrôđê.
- Thầy biết. Nhưng linh hồn ông không là đầy tớ ai cả ngoài Thiên Chúa, nếu ông muốn.
- Lạy Chúa, đúng vậy. Con sẽ sửa sai. Đôi khi con bị giữ bởi sự kính trọng con người...
- Năm ngoái, khi ông muốn cứu Jeanne, ông có vậy không?
- Ồ, không. Con liều mất tất cả vinh dự. Con sẽ nói vậy với
634
người nào mà con nghĩ là có thể cứu nàng.
- Hãy làm như vậy cho linh hồn ông, nó còn qúi trọng hơn Jeanne nhiều. Kìa, bà đang tới.
Họ gia chân bước về phía nàng trong khi nàng chạy tới gặp họ.
- Thầy của con! Con đã không hy vọng được gặp lại Thầy sớm vậy. Lòng nhân từ nào đã dẫn Thầy tới nhà môn đệ của Thầy?
- Một nhu cầu, Jeanne ạ.
- Một nhu cầu? Nhu cầu gì? Xin Thầy nói, nếu chúng con có thể, chúng con sẽ giúp Thầy - Cả hai vợ chồng cùng nói.
Chiều hôm qua, Thầy gặp hai đứa trẻ khổ sở trên một con đường vắng... Một bé trai, một bé gái... đi chân đất, đói khát, rách rưới, cô đơn... và Thầy thấy chúng bị xua đuổi như những chó sói bởi một người đàn ông có con tim chó sói. Chúng hầu chết đói... Năm ngoái Thầy đã cho người này sự sung túc, vậy mà ông ta từ chối một cái bánh cho hai đứa trẻ mồ côi, vì chúng là những trẻ mồ côi, mồ côi trên đường của thế giới độc ác. Người này sẽ bị trừng phạt. Các con có muốn phúc lành của Thầy không? Thầy giơ tay ra ăn mày tình yêu của các con cho hai trẻ mồ côi không nhà, không quần áo, không lương thực, không tình yêu. Các con có muốn giúp Thầy không?
- Nhưng, thưa Thầy, Thầy xin à? Hãy nói điều Thầy muốn. Hãy nói tất cả... - Chouza nói cách hăng hái.
Jeanne không nói, nhưng hai tay ôm ngực, một giọt nước mắt đọng trên hàng mi dài, một nụ cười ước ao nở trên đôi môi hồng. Nàng chờ, và sự chờ đợi của nàng nói nhiều hơn là nếu nàng nói.
Giêsu nhìn nàng và mỉm cười: “Thầy muốn rằng những đứa trẻ này có một người mẹ, một người cha, một mái nhà. Và Thầy muốn bà mẹ này có tên là Jeanne...”
Người chưa kịp dứt lời thì Jeanne kêu lên tiếng kêu như của một người được ra khỏi nhà tù, trong khi bà qùi gối để hôn chân Chúa của bà.
- Và ông, Chouza, ông nói sao? Ông có đón nhận nhân danh Thầy, những đứa trẻ mà Thầy yêu, thân thiết, ôi! Còn thân thiết đối với qủa tim Thầy rất nhiều hơn các báu vật.
635
- Thưa Thầy, chúng ở đâu? Hãy dẫn con đến với chúng, và với danh dự của con, con thề với Thầy rằng từ lúc con đặt bàn tay con trên cái đầu thơ ngây vô tội của chúng, con sẽ yêu chúng đúng như người cha thật, nhân danh Thầy.
- Vậy lại đây. Thầy biết chắc rằng Thầy không đến đây vô ích. Đi, chúng thô kệch, sợ hãi, nhưng tốt. Hãy tin cậy vào Thầy là người nhìn thấy con tim và thấy tương lai. Chúng sẽ cho các con bình an và sự liên kết cho sự kết hợp của các con, không hoàn toàn như vậy bây giờ, nhưng trong tương lai. Trong tình yêu của chúng, các con lại tìm thấy tình yêu của các con. Những cái hôn ngây thơ của chúng sẽ là thứ xi-măng tốt nhất cho ngôi nhà vợ chồng của các con. Và Trời sẽ luôn luôn đổ xuống trên các con lòng nhân hậu và thương xót vì đức bác ái của các con. Chúng đang ở ngoài hàng rào. Chúng ta từ Bétsaiđa tới...
Jeanne không nghe nữa. Bà chạy đi trước, bị lôi đi bởi sự ước ao mạnh mẽ được vuốt ve các đứa trẻ.
Và nàng làm việc đó bằng cách qùi xuống để ôm ghì hai đứa trẻ mồ côi vào lòng, hôn trên đôi má hốc hác của chúng trong khi chúng nhìn cách ngạc nhiên bà đẹp trong y phục phủ đầy châu báu. Và chúng nhìn Chouza cũng vuốt ve chúng và ẵm thằng Mathia trong tay. Chúng nhìn khu vườn rực rỡ và các người đầy tớ chạy lại... Và chúng nhìn căn nhà vừa mở cửa tiền đường đầy sang trọng của nó ra cho Giêsu và các tông đồ của Người. Và chúng nhìn Esther, người đang bao phủ chúng bằng những cái hôn.
Thế giới mộng mơ đã mở ra cho hai đứa trẻ lạc lõng... Giêsu quan sát và mỉm cười.
166* TẠI NAIM, TRONG NHÀ CỦA
DANIEL, NGƯỜI ĐƯỢC SỐNG LẠI
Tất cả thành Naim đều như ngày lễ, vì Giêsu là khách của họ, lần đầu tiên kể từ sự phục sinh của người trai trẻ Daniel.
636
Được đi trước và theo sau bởi một số rất đông người, Giêsu đi qua thành phố, vừa đi vừa chúc lành. Tụ họp cùng với các người Naim, còn có những người khác thuộc các nơi khác, đến từ Caphanaum, nơi họ đã đến tìm Người, và từ Cana, nơi họ đã cho người đến tìm, và từ đó, họ tới Naim. Tôi có cảm tưởng là bây giờ Giêsu đã có rất nhiều môn đệ, Người tổ chức một mạng lưới thông tin để các người du hành đi tìm Người có thể tìm thấy Người, mặc dầu Người di chuyển liên tục, với khoảng dăm ba dặm mỗi ngày, tùy theo thời tiết và sự dài vắn của ngày (tùy mùa). Trong đám những người đi tìm Người, cũng không thiếu các pharisiêu và các luật sĩ với vẻ bề ngoài rất lịch sự...
Giêsu được tiếp đón trong nhà của người trẻ sống lại. Ở đó cũng có các qúi tộc trong xứ. Bà mẹ của Daniel, khi nhìn thấy các luật sĩ và các pharisiêu - có bảy vị, giống như bảy mối tội đầu - liền mời họ cách khiêm tốn, và xin lỗi vì không thể hiến cho họ một nơi chốn xứng đáng hơn.
- Bà ơi, có ông Thầy, có ông Thầy, điều đó làm cho dù một cái hang cũng có giá trị. Nhưng nhà của bà hơn một cái hang nhiều, và chúng tôi đi vào khi nói: “Bình an cho bà và cho nhà bà”.
Qủa vậy, bà này chắc chắn không giầu, nhưng cũng chỉ định bốn người để tôn vinh Giêsu. Chắc chắn tất cả sự sang trọng của Naim đã tụ họp, tranh đấu để trang hoàng căn nhà và bàn ghế. Và các chủ gia kính cẩn quan sát từ mọi góc có thể, nhóm người đi vào hành lang dẫn tới hai phòng, trong đó bà chủ nhà đã sửa soạn bàn ghế. Có lẽ các bà chỉ xin được sửa soạn chén bát, khăn bàn, bàn ghế hay các công việc tại lò, để được nhìn Thầy gần hơn, để được hít thở tại nơi Người thở. Và bây giờ các bà đang hiện diện đây đó, đỏ gay, dính bột, dính tro, hay với đôi tay nhỏ giọt, tùy loại công việc nấu nướng. Các bà nhìn, các bà giữ lấy một phần nhỏ cái nhìn Thiên Chúa, một phần nhỏ giọng nói Thiên Chúa, uống lấy phúc lành êm dịu và khuôn mặt nhân hiền bằng tất cả con mắt các bà, tất cả đôi tai các bà. Rồi các bà trở lại cái lò, thùng nhồi bột hay bể rửa chén của các bà, mặt còn đỏ bừng hơn nữa vì sung sướng.
637
Cũng rất sung sướng nữa, con người được cùng với bà chủ nhà để mang các thau cho việc thanh tẩy tới hầu các vị khách cao giá. Đó là một cô gái trẻ, tóc đen, mắt đen, da hồng. Và cô ta càng trở nên hồng hơn khi bà chủ nhà giới thiệu với Giêsu rằng đó là hôn thê của con trai bà mà bà sắp sửa làm đám cưới cho: “Chúng con đã chờ Thầy để cử hành, để tất cả nhà đều được thánh hóa bởi Thầy. Nhưng bây giờ xin Thầy chúc phúc cho nàng, để nàng trở nên người vợ tốt trong nhà này”.
Giêsu nhìn cô ta, và vì cô ta cúi xuống nên Người liền giơ tay trên cô ta và nói: “Chớ gì nở hoa nơi con các nhân đức của Sara, Rêbecca và Rakel, và từ con sinh ra những đứa con thật của Thiên Chúa, vì vinh quang của Người, và vì niềm vui của nơi ở này”.
Bây giờ Giêsu và các kỳ hào đã thanh tẩy, họ đi vào phòng tiệc với ông chủ trẻ, trong khi các tông đồ và các người Naim khác ít ảnh hưởng hơn thì đi vào phòng đối diện, và bữa ăn bắt đầu.
Theo những đàm thoại, tôi hiểu rằng vào thời gian trước lúc mà tôi được thị kiến, Giêsu đã giảng và thi hành những việc chữa lành tại Naim rồi. Nhưng các pharisiêu không mấy quan tâm tới việc đó. Trái lại, họ tấn công người Naim để có các chi tiết về: căn bệnh mà vì đó Daniel phải chết, bao nhiêu tiếng đồng hồ từ lúc chết tới lúc sống lại, người ta đã hoàn toàn tẩm dầu thơm chưa, v.v. và v.v. Giêsu không kể gì tới việc tìm hiểu đó, Người nói chuyện với người sống lại. Anh ta rất thoải mái và ăn với khẩu vị tuyệt vời.
Nhưng một pharisiêu gọi Giêsu và hỏi Người xem Người có biết trước gì về căn bệnh của Daniel không:
- Tôi đến từ Enđo, hoàn toàn tình cờ, vì muốn làm vui lòng Judas Kêriot, cũng như tôi đã làm vui cho Gioan Zêbêđê. Khi bắt đầu cuộc hành trình lễ Vượt Qua, tôi cả đến không biết rằng tôi sẽ phải đi qua Naim - Giêsu trả lời.
- A! Thầy không có ý đi tới Enđo à? - Một luật sĩ ngạc nhiên hỏi.
- Không, tôi không có một chút chủ ý nào để tới đó.
- Vậy tại sao Thầy lại tới đó?
- Tôi nói rồi thôi! Vì Judas Simon muốn tới đó.
638
- Tại sao lại có cơn chướng này?
- Để coi hang đá của bà phù thủy.
- Có lẽ Thầy đã nói với ông ta về nó?
- Không bao giờ. Tôi chả có lý do nào để nói tới.
- Tôi muốn nói... có lẽ thầy đã giải thích giai đoạn này về các phép bùa ngải khác để dạy các môn đệ Thầy về...
- Về cái gì? Để dạy về sự thánh thiện, người ta không cần nơi hành hương. Một phòng nhỏ, một thôn thanh vắng, một sườn núi, một nhà vắng vẻ đủ cho việc đó. Chỉ cần người dạy có sự khổ hạnh và sự thánh thiện, và người nghe có thiện chí để tự thánh hóa. Đó là điều tôi giảng dạy, và không có gì khác nữa.
- Nhưng các phép lạ mà các môn đệ Thầy đã làm là gì, nếu không là các kỳ công và...
- Và ý muốn của Thiên Chúa. Chỉ có điều đó. Và họ càng trở nên thánh, họ càng làm nhiều phép lạ, bằng kinh nguyện, bằng hy sinh, bằng sự vâng lời Thiên Chúa. Không có gì khác.
- Thầy có chắc không? - một luật sĩ hỏi trong khi lấy tay che cằm và nhìn Giêsu từ phía dưới. Giọng nói của ông ta mỉa mai và kể cả thương hại.
- Tôi, tôi đã cho họ cái khí giới này với giáo lý này. Nếu sau đó trong đám họ, và họ rất đông, có người nào tự hạ mình tới những thực thi bất xứng, do kiêu căng hay lý do nào khác, thì không phải là tôi đã khuyên làm như vậy. Tôi có thể cầu nguyện để cố gắng cứu chuộc kẻ tội lỗi, tôi có thể áp đặt cho mình những thống hối đền tội nhiệm nhặt, để cầu xin Thiên Chúa sự trợ giúp đặc biệt bằng ánh sáng khôn ngoan của Người để họ nhìn thấy sai lầm. Tôi có thể phục dưới chân họ để năn nỉ họ bằng tất cả tình yêu huynh đệ, tình yêu của thầy và của bạn trong tôi, để họ bỏ tội lỗi, và tôi không nghĩ tới làm mất giá trị mình khi làm như vậy. Vì một linh hồn thì cao giá đến nỗi đáng nên chịu hết mọi thứ hạ nhục để chiếm lấy. Nhưng tôi không thể làm hơn nữa. Và nếu mặc dầu với tất cả những việc đó mà điều đó vẫn tiếp tục, con mắt và con tim của người thầy và người bạn bị phản bội và không được hiểu của
639
tôi sẽ đổ ra nước mắt và máu - Giọng nói và dáng vẻ của Giêsu êm dịu và buồn chừng nào!
Các luật sĩ và các pharisiêu nhìn nhau, những cái nhìn trò chơi, nhưng họ không nói gì nữa về vấn đề này. Họ quay ra hỏi Daniel xem anh ta có nhớ chết là thế nào, và anh cảm thấy gì khi trở lại đời sống, và anh đã thấy gì trong khoảng giữa sự sống và sự chết.
- Tôi, tôi biết rằng tôi bệnh chí tử và tôi đã chịu cơn hấp hối. Ôi! Đáng sợ chừng nào! Đừng làm tôi nghĩ tới đó!... Nhưng ôi! Thầy!... Sẽ có một ngày con phải chịu đựng nó nữa! - Anh ta nhìn Người, sợ hãi, tái mét với ý tưởng lại phải chết.
Giêsu khuyến khích anh ta và nói cách êm đềm: “Chính cái chết đã là một sự đền tội. Con, khi chết hai lần, con sẽ được thanh tẩy hoàn toàn mọi tì vết, và con sẽ được hưởng Nước Trời ngay. Mong rằng tư tưởng này làm con sống một đời thánh thiện, để chỉ có trong con những khuyết điểm vì vô ý và những lỗi nhẹ mà thôi”.
Các pharisiêu lại tấn công: “Nhưng mày cảm thấy gì khi trở lại đời sống?”
- Chả thấy gì cả. Tôi thấy tôi sống và lành lặn tựa như tôi thức dậy từ một giấc ngủ dài và nặng nề.
- Nhưng mày có nhớ là mày đã chết không?
- Tôi nhớ là tôi bệnh rất nặng, cho tới lúc hấp hối. Chỉ có thế thôi.
- Và mày nhớ gì về thế giới bên kia?
- Không gì cả. Không có gì cả. Một cái lỗ đen, một không gian trống rỗng trong đời tôi... Không gì cả.
- Vậy với mày, không có lâm bô, không có luyện ngục, không có hỏa ngục à?
- Ai nói là không có những thứ đó. Chắc chắn là có. Nhưng tôi, tôi không nhớ gì cả.
- Nhưng mày có chắc là mày đã chết không?
Tất cả các người Naim đều nhảy dựng lên: “Đúng, anh ta đã chết. Và các ông muốn gì nữa? Khi chúng tôi đặt anh ta lên bộ đòn khênh, anh ta đã có mùi khó chịu rồi. Và rồi! Với tất cả các dầu
640
thơm, các khăn cuốn như vậy thì dù một người khổng lồ cũng phải chết ngộp”.
- Nhưng mày, mày không nhớ là mày đã chết à?
- Tôi đã nói với các ông là không - người thanh niên hết kiên nhẫn nổi, và anh ta thêm: “Nhưng các ông muốn chứng tỏ điều gì với tất cả những luận thuyết dài dòng này? Các ông muốn chứng minh rằng tất cả cái xứ này đã giả vờ làm như tôi chết, kể cả mẹ tôi, kể cả vị hôn thê của tôi đã phải nằm giường, gần chết vì buồn, kể cả chính tôi, bị trói chặt, bị tẩm thuốc, vậy tất cả những thứ đó đều không có thật à? Các ông nói sao? Rằng tất cả Naim đều là con nít và ngu ngốc, muốn dỡn chơi sao? Mẹ tôi đã tái mét trong mấy tiếng đồng hồ; người ta đã phải cấp cứu vợ tôi, vì nỗi buồn và nỗi vui làm cho nó thành điên. Và các ông, các ông nghi ngờ? Và tại sao nếu chúng tôi đã làm những điều đó?”
- Tại sao? Đúng vậy. Tại sao chúng tôi phải làm những điều đó - các người Naim nói.
Giêsu không nói. Người chơi với chiếc khăn trải bàn, tựa như Người vắng mặt. Các pharisiêu không biết nói gì nữa... Nhưng bất ngờ Giêsu mở miệng khi cuộc đàm thoại và các tranh luận tưởng như đã dứt. Người nói: “Đây là cái tại sao: Họ (và Người chỉ vào các luật sĩ và pharisiêu) muốn chứng tỏ rằng việc sống lại của con chỉ là một trò chơi kết hợp giỏi để làm tăng sự nổi tiếng của Thầy đối với các đám đông. Thầy là người sáng chế, các con là các tên đồng lõa để đánh lừa Thiên Chúa và người đồng loại. Không. Thầy để trò bịp bợm cho những kẻ đê hèn. Thầy không cần trò phù thủy hay mánh khóe, những trò chơi hay sự đồng lõa để là như Thầy là. Tại sao các ông muốn phủ nhận của Thiên Chúa cái quyền trả lại linh hồn cho một thân xác? Nếu Người đã ban linh hồn cho thân xác khi thân xác được tạo ra, và Người tạo ra linh hồn mỗi lần cho mỗi thân xác, làm sao Người lại không thể trả lại, cho linh hồn trở về với thân xác do lời xin của Đấng Messi của Người, vì nó có thể là nguyên nhân cho nhiều người đến với chân lý? Các ông có thể từ chối khả năng làm phép lạ của Thiên Chúa không? Tại sao các ông
641
lại muốn phủ nhận nó?”
- Ông là Thiên Chúa à?
- Tôi là đấng tôi là. Các phép lạ của tôi và giáo lý của tôi nói lên tôi là ai.
- Nhưng tại sao nó không nhớ, trong khi các thần trí được gọi hồn về thì biết nói thế nào là thế giới bên kia?
- Bởi vì linh hồn này nói sự thật, vì nó đã được thánh hóa bởi cái chết lần thứ nhất, trong khi những điều nói trên môi các pháp sư chiêu hồn thì không phải là sự thật.
- Nhưng Samuel...
- Samuel đến do lệnh của Thiên Chúa chứ không phải do bà phù thủy, để mang cho kẻ đã phản bội lề luật cái phán nghị của Thiên Chúa mà người ta không thể nhạo báng trong các giới răn của Người.
- Vậy tại sao các môn đệ của ông làm? - tiếng nói xấc xược của một pharisiêu, vì bị châm chích gắt gao nên cất cao giọng trong sự tranh cãi của ông, làm lôi kéo sự chú ý của các tông đồ đang ở trong phòng đối diện, chỉ cách một cái hành lang rộng một mét, không có cửa, cũng không có màn dầy ngăn cách. Khi nghe mình đã bị đặt làm nguyên cớ tranh luận, họ liền đứng lên, và se sẽ, không gây tiếng động, họ đi ra hành lang và đứng nghe.
- Họ đã làm gì? Ông hãy giải thích, rồi nếu sự kết án của ông là đúng, tôi sẽ bảo họ đừng làm những điều trái với luật nữa.
- Làm gì à? Tôi, tôi biết, và cùng với tôi, nhiều người khác cũng biết. Còn ông, ông cho người chết sống lại, và ông cho mình là còn hơn tiên tri, ông hãy tự khám phá lấy. Chắc chắn là chúng ta không nói với ông. Ngoài ra ông cũng có mắt để nhìn biết bao điều đã được làm trong khi không được làm, và bỏ qua những điều phải làm, là những điều bị vi phạm bởi các môn đệ ông mà ông không lo lắng gì cả.
- Các ông không muốn chỉ cho tôi một vài điều sao?
- Tại sao các đồ đệ của ông vi phạm các qui tắc của tiền nhân? Hôm nay chúng tôi đã quan sát họ, ngay hôm nay, chưa lâu tới hơn một giờ đâu: Họ đã vào phòng ăn mà trước đó không rửa tay! -
642
Nếu các pharisiêu nói: “Và trước đó họ đã xiết cổ các người dân” thì họ cũng không thể có một giọng nói với sự hãi hùng sâu xa hơn.
- Các ông đã quan sát họ. Đúng. Có biết bao điều để coi, những điều đẹp và tốt. Những điều làm cho ta cất tiếng chúc tụng Chúa vì đã ban cho chúng ta đời sống để chúng ta có thể nhìn thấy chúng, và vì Người đã sáng tạo hay cho phép những điều này. Nhưng các ông không nhìn chúng, và cùng với các ông, cũng có nhiều người khác nữa. Nhưng các ông đã mất thời giờ và sự bình an để theo dõi những điều không tốt.
Các ông giống như các con chó rừng, đúng hơn là các con linh cẩu, đi theo dấu vết của mùi thối, và lơ là với những hương thơm mà gió mang tới từ các khu vườn đầy hoa và cỏ thơm. Các con linh cẩu không thích hoa huệ, hoa hồng, hoa lài, hoa long não, hoa quế, hoa cẩm chướng... Đối với chúng, đó là những mùi khó chịu. Nhưng mùi thối của một xác chết đang rã ở dưới rãnh hay dưới lỗ bánh xe, chôn dưới bụi gai do một tên sát nhân, hoặc quăng trên bãi vắng bởi giông tố: xác chương phình, tím ngắt, bể rữa, kinh tởm! Ồ! Một mùi thú vị chừng nào đối với các linh cẩu! Và chúng đánh hơi trong gió chiều đang ngưng tụ và mang theo với nó tất cả cái mùi mà mặt trời làm bốc lên sau khi đã hâm nóng, để cảm thấy cái mùi đang hấp dẫn chúng. Và sau khi đã ngửi thấy mùi và khám phá ra phương hướng, thì đây, chúng chạy, mũi hểnh lên trong không khí, răng nhe ra trong quai hàm run rẩy, giống như cái cười của kẻ điên, để đi tới nơi có chất thối rữa. Và dù đó là một xác người hay con vật to bốn chân, hay chỉ là con rắn nước bị một nông dân đập chết, hay một con chồn hôi do bà nội trợ giết, hay đơn giản chỉ là một con chuột, thì ôi, đó! Chúng khoái chí, khoái chí, khoái chí! Và trong cái thối tha làm người ta trốn chạy này, chúng cắm các chiếc răng nanh của chúng vào và nghiến ngấu ăn, và liếm môi thèm thuồng...
Những người lo tự thánh hóa mình từng ngày một ư ? Đó không phải là điều hấp dẫn. Nhưng nếu chỉ một điều xấu duy nhất, hay một chểnh mảng đối với một điều không phải là giới răn Thiên Chúa, mà chỉ là một thi hành của con người - cũng hãy gọi nó là
643
truyền thống hay qui tắc đi, như các ông muốn, nhưng nó vẫn luôn luôn là của con người - là đó, người ta phiền phức, người ta ghi chú, người ta theo dõi, kể cả một điều nghi ngờ... chỉ là để vui khi thấy rằng điều nghi ngờ là có thật.
Nhưng hãy trả lời đi. Hãy trả lời, các ông là những kẻ tới đây không phải vì tình yêu, không phải vì lòng tin, không phải vì ngay thẳng, mà vì một ý định độc ác, hãy trả lời: Tại sao các ông vi phạm giới răn Thiên Chúa vì một trong các truyền thống của các ông? Các ông không đến nỗi nói rằng tập tục thì trọng hơn giới răn chứ? Nhưng Thiên Chúa nói: “Hãy thảo kính cha mẹ, và ai nguyền rủa cha mẹ thì đáng án chết”. Nhưng các ông, trái lại, các ông nói: “Ai tuyên bố với cha mẹ mình rằng: ‘Của cải để trợ cấp cho cha mẹ, tôi đã dâng hiến rồi’, thì người đó không còn buộc phải phụng dưỡng cha mẹ nó nữa”. Vậy các ông đã vì tập tục mà hủy bỏ giới răn Thiên Chúa.
Hỡi những kẻ giả nhân giả nghĩa! Isaie đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: “Dân này tôn kính ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì ở xa ta, vì chúng tôn kính ta cách vô ích khi chúng dạy dỗ những giáo thuyết và huấn giới của loài người”.
Các ông, vậy là các ông vi phạm giới răn Thiên Chúa và các ông bám vào các tập tục của loài người, vào việc rửa bình, rửa ly, rửa chén, rửa tay và những thứ khác giống như vậy, trong khi các ông biện minh cho sự vô ơn và bần tiện của đứa con bằng cách cho nó lối thoát, là dâng một lễ hy sinh, để không phải cho một tấm bánh cho kẻ đã cưu mang nó, cần sự giúp đỡ của nó, và là người nó phải thảo kính vì là cha mẹ. Các ông coi là gương mù khi thấy một người không rửa tay. Các ông vi phạm và biến đổi lời Thiên Chúa để vâng phục các lời mà các ông tạo ra và nâng lên ngang hàng với lề luật. Như vậy các ông tự tuyên bố mình đúng hơn Thiên Chúa. Các ông chiếm lấy quyền lập pháp, trong khi chỉ một mình Thiên Chúa là nhà lập pháp của dân Người. Các ông... - Và người sẽ tiếp tục nữa, nhưng nhóm thù nghịch bỏ đi ra dưới trận mưa đá của các lời kết án. Họ lao xô vào các tông đồ và các người trong nhà, chủ cũng như các người phụ cho bà chủ, đang tụ tập ngoài hành lang, vì
644
bị lôi kéo bởi giọng nói sang sảng của Giêsu.
Giêsu, lúc trước đứng, bây giờ ngồi và làm hiệu cho mọi người vào chỗ ngồi, rồi Người nói với họ: “Tất cả hãy nghe Thầy đây, và hãy nghe chân lý này: Không có gì ở bên ngoài con người mà khi vào trong họ, lại làm cho họ ra ô uế, nhưng những cái từ trong con người mà ra mới làm cho ra ô uế.
Hãy nghe, hỡi những ai có tai để nghe, và họ hãy vận dụng sự thông minh của họ để hiểu, và lấy thiện chí của họ để hành động. Bây giờ chúng ta đi. Các con, người Naim, các con hãy kiên trì trong điều thiện, và bình an của Thầy ở cùng các con”.
Người đứng dậy, chào đặc biệt ông chủ trẻ và bà chủ nhà, rồi Người đi ra hành lang. Nhưng Người nhìn thấy các bà bạn của chủ nhà đang tụ tập trong một góc. Họ nhìn Người và chào. Người liền lại với họ và nói: “Bình an cho cả các con. Nguyện Trời trả ơn các con vì đã tiếp đón Thầy với một tình yêu làm cho Thầy không tiếc gì bàn ăn của mẹ Thầy. Thầy cảm thấy tình yêu bà mẹ của các con trong mỗi mụn bánh, trong nước xốt, trong thịt nướng, trong sự ngọt ngào của mật ong, trong rượu thơm và mát. Hãy luôn luôn yêu Thầy như vậy, các đàn bà dũng cảm của Naim. Và lần tới các con đừng vì Thầy mà làm vất vả qúa như vậy. Chỉ cần một miếng bánh và một nắm ôliu, được ướp bằng nụ cười từ mẫu và cái nhìn tốt và ngay thẳng của các con là đủ cho Thầy. Hãy hạnh phúc trong nhà các con, vì sự biết ơn của đấng bị bách hại luôn ở trên các con, và Người ra đi, được an ủi vì tình yêu của các con”.
Các người đàn bà, sung sướng nhưng đầy nước mắt. Tất cả đều qùi gối, và khi đi qua, Người sớt tay trên đầu tóc đen hay trắng của từng người một, như để chúc lành cho họ. Rồi Người ra ngoài và lên đường.
Những bóng tối đầu tiên của buổi chiều đã xuống, che giấu vẻ mặt xanh xao của Giêsu, buồn rầu vì qúa nhiều điều.
167* TRONG CHUỒNG SÚC VẬT TẠI ENĐO
645
Giêsu chỉ trở lại có Enđo mà thôi. Người dừng lại ở căn nhà đầu tiên trong xứ, nó giống một cái chuồng súc vật hơn là căn nhà. Nhưng chính vì nó là vậy: một cái chuồng thấp có tường vây, đầy rơm cỏ, nó có thể cho trú ẩn mười ba người khách du hành. Ông chủ nhà, một người thô kệch nhưng tốt, vội vã mang tới một ngọn đèn và một xô sữa sủi bọt, cùng với những ổ bánh mì rất đen, rồi ông rút lui sau khi được Giêsu chúc phúc. Bây giờ Người ở lại một mình với số mười hai của Người.
Giêsu dâng hiến rồi phân phát bánh. Nhưng vì không có ly chén, mỗi người nhúng miếng bánh của họ vào trong xô, và khi họ khát, họ uống ngay trong xô. Giêsu bằng lòng để uống một chút sữa. Người rất nghiêm trang và lặng lẽ... tới nỗi khi bữa ăn chấm dứt và cơn đói của các tông đồ đã được hạ bớt, họ luôn luôn ăn với khẩu vị tốt, họ chấm dứt bằng cách nhận xét sự thinh lặng của Người.
Andrê là Người đầu tiên hỏi: “Thầy làm sao vậy? Thầy có vẻ buồn hay mệt...”
- Thầy không chối là Thầy như vậy.
- Tại sao? Tại mấy người pharisiêu à? Nhưng bây giờ Thầy phải làm quen với chuyện đó thôi... Con đã hầu như quen. Này... Thầy biết lần đầu tiên con đã thế nào với họ. Họ luôn luôn hát cái bài ca này!... Các con rắn độc chỉ biết rít, và không bao giờ có một mạng nào trong bọn họ hát được một bài ca của họa mi, và người ta chấm dứt bằng cách không thèm để ý tới nữa - Phêrô nói, phần vì ông tin tưởng vậy, phần thì để làm yên lòng Giêsu.
- Và do cái lối này mà người ta mất sự tự chế và người ta rơi vào tròng giây của họ. Thầy xin các con đừng bao giờ làm quen với tiếng nói của điều ác, đừng làm như chúng vô hại.
- Ồ, tốt, nhưng nếu chỉ vì vậy mà Thầy buồn thì Thầy lầm. Thầy coi người ta yêu Thầy chừng nào! - Mathêu nói.
- Nhưng có phải vì vậy mà Thầy buồn không? Hãy nói cho con đi, Thầy tốt. Hay người ta đã tường thuật với Thầy những điều dối trá, những điều xỏ xiên, những điều vu khống, những nghi ngờ về
646
chúng con là những kẻ yêu Thầy - Iscariot hỏi cách ân cần, ve vuốt, quàng tay quanh Giêsu khi Người ngồi trên cỏ bên cạnh ông.
Giêsu quay cái nhìn về phía Judas. Đôi mắt Người long lanh dưới ánh lửa chập chờn của ngọn đèn đặt dưới đất, giữa cái vòng tròn của các tông đồ đang ngồi trên cỏ. Người nhìn đăm đăm vào Judas Kêriot và hỏi ông: “Và có lẽ con cho là Thầy ngu ngốc tới nỗi Thầy lãnh nhận sự xỏ xiên của bất cứ ai, tới nỗi Thầy xao xuyến về nó? Judas ơi, chính cái thực tế nó làm Thầy xao xuyến”. Và cái nhìn của Người không ngừng xuyên thấu vào con mắt nâu của Judas như một thanh cây xăm.
- Vậy thực tế nào làm Thầy băn khoăn? - Judas nhấn mạnh cách thẳng thừng.
- Thực tế mà Thầy nhìn thấy trong đáy các con tim, và Thầy đọc thấy trên trán các kẻ bị truất ngôi - Giêsu nhấn mạnh rất nhiều đến chữ “bị truất ngôi”.
Mọi người đều lo lắng: “Bị truất ngôi? Tại sao? Thầy muốn nói gì?”
- Một ông vua bị truất ngôi khi ông không xứng đáng ở trên đó nữa. Người ta bắt đầu bằng cách lấy đi chiếc triều thiên mà ông mang trên trán là nơi qúi phái nhất của con người, loài vật duy nhất có thể giữ cái trán nó nâng lên trời, bởi vì về phần vật chất, con người là con vật, nhưng vì nó có một linh hồn nên nó là một thực thể siêu nhiên. Nó không cần phải là vua ngự trên một cái ngai dưới đất này để có thể bị truất ngôi. Mọi người đều là vua do linh hồn mình, và ngai của nó ở trên Trời. Nhưng khi một người bán linh hồn mình đi và trở nên một loài thô, trở nên một thằng qủi, khi đó nó bị té xuống khỏi ngai. Thế giới đầy những cái trán đã mất triều thiên hoàng gia của nó, và nó không còn nhìn lên trời nữa, nó cúi xuống vực thẳm, trở nên nặng nề bởi các lời của Satan ghi khắc trên nó. Các con muốn biết điều Thầy đọc thấy trên trán người ta không? Trên đó đã được viết: “Bán rồi”. Và để các con khỏi thắc mắc ai là người mua, thì Thầy bảo các con: đó là Satan. Chính nó và các tôi tớ của nó trong thế giới.
647
- Con hiểu rồi! Các người pharisiêu này, ví dụ vậy, là tôi tớ của một đầy tớ khác lớn hơn họ, và chính đầy tớ này thì là tôi tớ Satan - Phêrô nói có vẻ chắc ăn. Giêsu không đáp trả.
- Nhưng... Thầy biết không? Các người pharisiêu đó, sau khi nghe các lời Thầy nói, họ phẫn uất ra đi. Ở lối ra, họ xô con và nói vậy... Thầy đã rất sắc bén - Batôlômêo nhận xét.
Giêsu đáp: “Đúng vậy. Đó không phải tại lỗi Thầy mà là lỗi họ nếu Thầy phải nói một số điều gì đó. Và đó cũng còn là vì lòng bác ái của Thầy mà Thầy nói với họ. Tất cả những cây nào không do Cha Thầy trồng thì sẽ bị nhổ đi. Các cây không do Cha Thầy trồng là các cây hoang vô ích, các cây ký sinh, các cây làm cớm, làm ngộp, các cây gai góc. Chúng làm ngộp hạt giống chân lý thánh. Đúng là bác ái khi nhổ bỏ những truyền thống và các kỷ luật làm nghẹt cho Thập Giới, làm biến dạng nó, làm nó thành trơ trơ và không thể thi hành được. Chính là bác ái khi một linh hồn ngay thẳng làm việc đó. Còn những gì liên can tới những người này: xấc láo, cứng đầu, nhắm mắt trước mọi ảnh hưởng và mọi lời khuyên của Tình Yêu, hãy để họ làm, và hãy để cho những kẻ có tinh thần và các khuynh hướng giống như họ đi theo họ. Đó là những người mù hướng dẫn người mù. Nếu một người mù hướng dẫn một người mù khác, thì chỉ có thể là cả hai sẽ rơi xuống hố. Hãy để họ nuôi mình bằng những sự ô uế của họ mà họ cho cái tên là trong sạch. Những thứ này không thể làm ô uế họ hơn nữa, vì chúng chỉ có thể thích nghi với cái khuôn mà từ đó chúng phát xuất ra”.
- Điều Thầy nói bây giờ có liên can tới điều Thầy nói trong nhà Daniel phải không? Tức là những cái đi vào con người thì không làm nó ra dơ bẩn, nhưng là những cái từ nó mà ra - Simon hỏi với vẻ rất suy tư.
- Ừ - Giêsu nói vắn tắt.
Phêrô, sau một lúc yên lặng, vì sự yên lặng của Giêsu làm băng giá cả những tính nết bồng bột nhất, ông hỏi: “Thưa Thầy, con, và không phải con là người duy nhất không hiểu dụ ngôn. Xin Thầy cắt nghĩa cho chúng con tí! Làm sao mà lại những cái đi vào thì
648
không làm dơ, còn những cái đi ra thì lại làm dơ? Con, nếu con có một cái bình sạch mà con đổ nước dơ vào đó thì con làm dơ nó, và như vậy thì cái vào trong bình đã làm dơ bình. Nhưng nếu một cái bình chứa đầy nước sạch mà con đổ nước xuống đất thì con đâu có làm dơ bình, bởi vì từ bình đã chảy ra nước sạch. Vậy là thế nào?”
Giêsu nói: “Simon, chúng ta không phải những cái bình. Các bạn ơi, chúng ta không phải là những cái bình. Và không phải tất cả đều sạch nơi con người. Nhưng bây giờ mà các con vẫn chưa thông minh? Hãy suy nghĩ về trường hợp các pharisiêu kết tội các con. Họ nói rằng các con bị dơ vì các con mang đồ ăn lên miệng bằng những bàn tay dính bụi, dính mồ hôi, không sạch, tóm lại là vậy. Nhưng đồ ăn này nó đi đâu? Từ miệng vô bao tử ở trong bụng, từ bụng đi ra lỗ cống. Vậy cái đó có thể làm cho cả cơ thể và những thứ ở trong cơ thể bị dơ không, nếu nó chỉ đi qua một cái ống được tiền định làm tròn việc nuôi thân xác, chỉ có vậy, và nó kết thúc một cách chính xác là: ra lỗ cống? Đâu có phải cái đó làm dơ con người!
Cái làm dơ con người là cái thuộc về nó, chỉ những cái của nó, được cưu mang, được sinh ra bởi cái tôi của nó, tức là những cái nó có ở trong tim, và từ tim đi lên môi miệng và đầu óc, làm hư hoại tư tưởng và lời nói và làm dơ toàn thể con người. Chính từ trong lòng mà ra những tư tưởng xấu: sát nhân, gian dâm, trộm cắp, làm chứng gian, phạm thượng. Chính từ con tim đi ra lòng tham lam, các khuynh hướng xấu, kiêu căng, ghen tương, giận dữ, ăn uống thái qúa, nhàn hạ tội lỗi. Chính từ con tim đi ra các kích thích cho mọi hành động. Nếu con tim xấu thì tất cả hành động sẽ xấu giống như con tim. Tất cả mọi hành động: từ việc thờ tà thần đến việc dèm pha không chân thành... Tất cả những điều xấu này từ bên trong đi ra ngoài và làm dơ toàn thể con người, chứ không phải sự kiện ăn mà không rửa tay. Khoa học của Thiên Chúa không phải là một điều của trái đất với trái đất, không phải là bùn mà mọi người có thể dẵm lên, nhưng là những sự cao vời sống giữa vùng các tinh tú, và từ đó các tia sáng của nó chiếu xuống để làm sáng chói cho người công chính.
649
Ít nhất là các con, làm ơn đừng giật nó từ trên trời mà ném nó xuống bùn.
Bây giờ các con đi nghỉ đi. Thầy, Thầy ra ngoài để cầu nguyện”.
168* TỪ ENĐO TỚI MAGĐALA
Toàn là nước, nước và nước... Các tông đồ ít hài lòng khi bước dưới những trận mưa này, họ nói ám chỉ với Giêsu rằng tốt hơn là nên trú lại ở Nazarét không xa đó... Và Phêrô nói: “Rồi ta có thể từ đó ra đi với đứa trẻ...”
Tiếng “không” của Giêsu thật là sắc bén tới nỗi không ai dám kèo nài nữa... Giêsu đi ở đàng trước, một mình... Những người khác ở đàng sau, đi thành hai nhóm, cau có.
Rồi Phêrô không thể chịu nổi nữa, liền đi tới bên Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy muốn con không?” Ông hỏi, vẻ hơi đau khổ.
- Simon, con rất thân thiết đối với Thầy. Lại đây.
Phêrô yên tâm. Ông bước loắt choắt bên cạnh Giêsu, vì Người chân dài, đi đường trường cách thoải mái. Sau một lúc, ông nói: “Thưa Thầy... Thật là đẹp khi có đứa trẻ trong ngày lễ...”
Giêsu không trả lời.
- Thưa Thầy, tại sao Thầy không làm vui lòng con?
- Simon, con liều mình bị Thầy mang đứa trẻ đi.
- Không! Lạy Chúa! Tại sao? - Phêrô kinh hãi bởi sự đe dọa và ông lo buồn.
- Bởi vì Thầy không muốn rằng con bị giữ lại bởi bất cứ cái gì. Thầy đã nói với con khi Thầy chấp nhận cho con Margziam. Con, trái lại, con bị sa lầy trong tình cảm này.
- Yêu đâu có phải là một tội. Và yêu Margziam! Thầy cũng yêu nó mà!...
- Nhưng tình yêu này không ngăn cản Thầy dâng hiến tất cả cho sứ mạng của Thầy. Con không nhớ Thầy nói về những tình cảm nhân loại à? Các lời khuyên của Thầy rõ ràng tới nỗi chúng trở
650
thành mệnh lệnh cho những kẻ muốn đặt tay trên chiếc cày? Con đang bắt đầu chán nản việc trở thành môn đệ Thầy một cách anh hùng rồi, Simon Jonas ạ.
Giọng nói của Simon trở nên khàn vì nước mắt khi ông trả lời: “Lạy Chúa, không, con nhớ hết. Con không chán nản. Nhưng con có cảm tưởng là trái lại... chính Thầy chán con, chán tên Simon tội nghiệp, kẻ đã bỏ tất cả để theo Thầy...”
- Kẻ đã tìm thấy tất cả khi theo Thầy, con muốn nói vậy?
- Không... Vâng... Thầy... Con là con người tội nghiệp, con...
- Thầy biết. Chính xác là về điều đó là điều Thầy làm việc cho con, để làm từ một con người tội nghiệp thành một con người, và từ con người này thành một vị thánh, một tông đồ của Thầy, một tảng đá của Thầy. Thầy cứng cáp để làm cho con thành cứng cáp. Thầy không muốn con mềm như bùn. Thầy muốn con là một tảng đá được đục đẽo hoàn bị, tảng đá nền. Con không hiểu như vậy là tình yêu sao? Con không nhớ Vị Khôn Ngoan sao? Ông đã nói rằng kẻ yêu thì khắt khe. Nhưng hãy hiểu Thầy. Ít nhất là con, hãy hiểu Thầy! Con không thấy là Thầy bị đè nặng chừng nào, bị buồn rầu vì biết bao không thông cảm, bởi bao là giả dối, bởi biết bao thiếu tình yêu và bởi các thất vọng còn nhiều hơn nữa sao?
- Thầy là... Thầy như vậy? Ôi! Lạy Tình Thương Thiên Chúa! Và con, con chẳng nhận ra gì cả! Con là con vật to tướng!... Nhưng từ hồi nào? Và bởi ai? Nói cho con đi!...
- Vô ích, con sẽ chẳng thể làm gì được. Thầy cũng không thể luôn.
- Thực tình con không thể làm gì được để nâng đỡ Thầy sao?
- Thầy đã nói với con rồi: Hiểu rằng sự khắt khe của Thầy là tình yêu. Thấy trong tất cả cách sống của Thầy là tình yêu cho con.
- Vâng, vâng. Con không nói nữa. Thầy rất thân yêu của con. Con không nói nữa. Và Thầy, xin Thầy tha cho con vật to xác này là con. Hãy cho con cái bằng cớ là Thầy đã tha cho con.
- Bằng cớ! Thực tình thì lời Thầy đã đủ cho con. Nhưng Thầy cũng cho con. Nghe đây: Thầy không thể đi Nazarét, vì ở Nazarét có Gioan Enđo và Sintica cùng với Margziam. Và điều đó không
651
thể cho ai biết.
- Cả với chúng con? Tại sao?... A!... Thầy?! Thầy?! Thầy nghi ngờ người nào đó trong chúng con?
- Sự khôn ngoan dậy rằng: khi một điều cần được giữ bí mật thì hai người biết đã là qúa nhiều rồi. Người ta có thể làm điều xấu chỉ bởi một lời được để thoát ra. Và không phải tất cả, cũng không phải luôn luôn là các con suy nghĩ chín chắn.
- Đúng vậy... Con cũng không được vậy. Nhưng khi con muốn, con biết giữ yên lặng. Và bây giờ con nín lặng. Ồ! Đúng. Con sẽ nín thinh. Con sẽ không còn là Simon Jonas, nếu con không biết câm mồm. Cám ơn Thầy vì sự qúi mến của Thầy. Đó là một bằng cớ lớn của tình yêu... Vậy bây giờ ta đi Tarichée?
- Ừ, rồi từ đó đi thuyền về Magđala. Thầy phải lấy vàng của kho báu...
- Thầy coi con có biết nín lặng không. Con không hề nói gì với Judas. Thầy biết không?
Giêsu không phê bình sự cắt ngang. Người tiếp tục: “Khi Thầy đã có vàng, Thầy sẽ để các con tự do cho tới hôm sau Lễ Ánh Sáng. Nếu Thầy muốn người nào trong các con, Thầy sẽ gọi họ về Nazarét. Các người Do Thái, ngoại trừ Simon Zêlote, sẽ hộ tống các cô em của Lazarô và các đầy tớ của họ, cùng với cả Êlise Betsur về nhà tại Bêtani, rồi họ sẽ về nhà họ để mừng Lễ Ánh Sáng. Thầy chỉ cần họ trở lại vào cuối tháng Scébat, khi chúng ta lại hành trình. Điều này chỉ có mình con biết thôi, phải không Simon Phêrô?
- Có mình con biết. Nhưng... Thầy cũng sẽ phải nói...
- Thầy sẽ nói vào lúc cần nói. Bây giờ hãy lại với các bạn con, và hãy chắc chắn về tình yêu của Thầy.
Phêrô vâng lời, bằng lòng. Và Giêsu lại chìm sâu vào tư tưởng của Người.
***
Các ngọn sóng đập vào cái bãi nhỏ của Magđala khi hai chiếc thuyền ghé vào bờ lúc sau trưa của một ngày tháng mười một. Đó không phải là những sóng lớn, nhưng nó vẫn khó chịu cho những người leo lên bờ, vì nó làm ướt quần áo. Nhưng viễn ảnh sắp tìm lại
652
được ngôi nhà của Maria Magđala làm cho họ chịu đựng không lẩm bẩm việc tắm nước bất đắc dĩ này.
- Hãy để thuyền vào nơi an toàn rồi đến với chúng ta - Giêsu nói với các thủy thủ nhỏ, rồi Người bắt đầu đi ngay dọc theo bờ, vì họ lên bờ tại một bãi nhỏ ở ngoài thành phố, nơi có các ghe khác của dân chài Magđala.
- Judas Simon và Tôma, lại đây với Thầy - Giêsu gọi, và hai người chạy lại.
- Thầy đã quyết định giao phó cho các con một nhiệm vụ tin cẩn, và cũng sẽ là niềm vui: nhiệm vụ hộ tống hai cô em của Lazarô về Bêtani, và cả Êlise cùng với họ. Thầy qúi mến các con đủ để ký thác cho các con các nữ môn đệ của Thầy. Đồng thời các con mang về cho Lazarô một lá thơ của Thầy. Rồi sau khi các con đã hoàn tất nhiệm vụ này, các con sẽ về nhà các con để mừng Lễ Ánh Sáng... Đừng phỏng vấn Thầy, Judas. Năm nay tất cả chúng ta sẽ mừng Lễ Ánh Sáng tại nhà chúng ta. Đây là mùa đông qúa mưa để du hành. Các con cũng thấy rằng các bệnh nhân cũng hiếm rồi. Vậy chúng ta lợi dụng để nghỉ ngơi và để làm vui lòng gia đình chúng ta. Thầy chờ các con tại Caphanaum vào cuối tháng Scébat.
- Nhưng Thầy, Thầy ở lại Caphanaum à? - Tôma hỏi.
- Thầy chưa chắc là Thầy sẽ ở đâu. Nơi này hay nơi kia, đối với Thầy cũng giống nhau thôi. Chỉ cần là mẹ Thầy ở gần.
- Con thích mừng Lễ Ánh Sáng với Thầy hơn - Iscariot nói.
- Thầy tin. Nhưng hãy vâng lời, nếu con muốn làm vui lòng Thầy. Lại nữa, sự vâng lời sẽ cho con có dịp để giúp cho các môn đệ trở về nhà từ những nơi họ rải rác. Cần thiết là các con phải giúp Thầy việc đó. Trong gia đình, chính các người anh cả giúp cha mẹ đào tạo các đứa con nhỏ hơn. Các con là các anh cả của các môn đệ, các con thứ. Và các con phải vui vì Thầy tín nhiệm các con. Điều đó chứng tỏ rằng Thầy bằng lòng vì công việc mới đây của các con.
Tôma nói cách đơn sơ: “Thầy qúa tốt. Về phần con, con sẽ tìm cách làm tốt hơn bây giờ nữa. Con không thích rời xa Thầy, nhưng điều đó sẽ qua đi mau chóng... Và ông cha già của con sẽ bằng lòng
653
vì có con trong ngày lễ... Các chị con cũng vậy... Và bà chị sinh đôi với con, chắc chị đã có, hoặc đã tới giờ có một đứa con... Đứa cháu đầu tiên của con... Nếu nó là con trai, nếu nó sinh đang lúc con ở đó thì sẽ cho nó tên gì?”
- Giuse.
- Còn nếu nó là con gái?
- Maria. Không còn tên nào êm hơn.
Nhưng Judas, hiên ngang với nhiệm vụ, đã bắt đầu vênh váo và xếp đặt hết kế hoạch nọ tới kế hoạch kia... Ông đã hoàn toàn quên là ông sẽ lìa xa Giêsu, và rằng một thời gian trước đây, vào dịp Lễ Lều, nếu tôi nhớ đúng, ông đã bực bội như một con ngựa hoang trước mệnh lệnh của Giêsu bảo phải lìa xa Người một thời gian vắn. Ông cũng mất hoàn toàn sự nghi ngờ mà ông có lúc đó, là nghi Giêsu muốn xa lìa ông. Ông quên tất cả... Và ông sung sướng thấy mình được coi như một người mà người ta có thể giao phó những công việc tế nhị. Ông hứa: “Con sẽ mang về cho Thầy rất nhiều tiền cho người nghèo”. Và ông lấy ra cái túi tiền và nói: “Đây, cầm lấy đi. Đây là tất cả số mà chúng ta có. Con không có gì khác. Hãy cho con lộ phí về Bêtani và về nhà chúng con”.
- Nhưng chúng ta chưa đi chiều nay - Tôma bắt bẻ.
- Không quan trọng. Không cần tiền nữa trong nhà Maria... Và như vậy, thật sướng là không phải tính toán nữa. Khi con trở lại, con sẽ mang cho mẹ Thầy các hạt hoa. Con sẽ bảo mẹ con cho. Con cũng muốn mang một món qùa cho Margziam - và ông ta hớn hở.
Giêsu nhìn ông ta...
Bây giờ họ đã tới nhà Maria Magđala. Họ cho người nhà biết và đi vào hết. Các phụ nữ vui sướng chạy ra đón Thầy đã tới trú ngụ tại nhà họ.
Vào sau bữa ăn tối, khi các tông đồ mệt mỏi đã rút lui hết, thì Giêsu, ngồi ở giữa phòng với các nữ môn đệ vây quanh, Người cho họ biết Người ước ao họ khởi hành sớm hết sức. Trái với các tông đồ, không một người nào trong các bà phản đối cả. Các bà cúi đầu để bộc lộ sự ưng thuận của họ. Rồi các bà ra để sửa soạn hành lý.
654
Nhưng Giêsu gọi Maria Mađalêna lại khi cô đã ra tới cửa.
- Này, Maria, tại sao con nói nhỏ với Thầy khi Thầy vừa tới: “Con phải nói bí mật với Thầy”?
- Thưa Thầy, con đã bán các đá qúi. Tại Tibêriat. Chính Marcelle đã bán với sự giúp đỡ của Isaac. Con có số tiền trong phòng con. Con muốn là Judas không nhìn thấy gì... - và nàng đỏ gay mặt mũi.
Giêsu nhìn nàng đăm đăm, nhưng Người không nói gì.
Maria Mađalêna ra, rồi trở lại với một túi tiền nặng mà nàng trao cho Giêsu và nói: “Đây. Bán được cao giá đó”.
- Cám ơn Maria.
- Cám ơn Raboni vì đã bảo con làm việc này. Thầy còn việc gì khác để bảo con không?
- Không, Maria. Và con, con còn gì để nói với Thầy không?
- Thưa Thầy không. Chúc lành cho con đi, Thầy của con.
- Ừ, Thầy chúc lành cho con... Maria... Con có bằng lòng lại trở về với Lazarô không? Hãy tưởng tượng như Thầy không còn ở trên đất Palestin nữa, như vậy con sẽ tình nguyện trở về nhà.
- Vâng, lạy Chúa, nhưng...
- Nói hết câu đi Maria. Đừng sợ nói tư tưởng của con với Thầy.
- Nhưng con sẽ tình nguyện mạnh hơn để trở về đó, nếu thay vì Judas, lại có Simon Zêlote là người bạn lớn của gia đình chúng con đi kèm.
- Thầy cần như vậy cho một sứ mệnh quan trọng.
- Các anh của Thầy, hoặc là Gioan với con tim bồ câu. Đó, tất cả, ngoại trừ ông ta... Lạy Chúa, đừng nhìn con cách nghiêm khắc như vậy... Ai đã nếm cái dâm ô thì cảm thấy sự kề cận của nó... Con không sợ nó... Con biết đặt vào chỗ những người còn hơn Judas nhiều nữa. Và đó là cái sợ không được tha thứ, đó là cái tôi của con, đó là Satan, kẻ chắc chắn lượn vòng chung quanh con, và đó là thế giới... Nhưng nếu Maria của Théophile không sợ ai cả, thì Maria của Giêsu có cái ghê tởm về những trụy lạc đã dìm ngập nó, và cái... Lạy Chúa... Con người lao mình vào giác quan làm con ghê sợ...
- Con không phải người duy nhất hành trình. Và với con, Thầy
655
chắc là ông ta sẽ không trở lại đàng sau... Con hãy nhớ là Thầy phải cho Sintica và Gioan đi Antioche, và vì khôn ngoan, điều đó không được tiết lộ...
- Đúng vậy. Thế thì con sẽ đi... Thầy ơi, bao giờ chúng ta gặp lại nhau?
- Thầy không biết, Maria ạ. Có lẽ chỉ vào dịp kễ Vượt Qua. Bây giờ hãy đi bình an. Thầy chúc lành cho con chiều nay cũng như mỗi buổi chiều, và cùng với con, cho chị con và cho Lazarô tốt lành.
Maria cúi xuống hôn chân Giêsu và đi ra, để Giêsu lại một mình trong phòng yên lặng.
169* GIÊSU TẠI NAZARÉT
VÀO DỊP LỄ ÁNH SÁNG
Một buổi chiều đã tối om của tháng mười hai. Trời lạnh và có gió. Ngoài các lá cây còn lại bị gió giật ra, gây ra những tiếng rào rào trong tiếng rít của gió, thì không còn tiếng động nào khác trong các đường phố của Nazarét, tối tăm như các phố của một thành phố chết. Không có ánh sáng, cũng không có tiếng động phát ra từ những căn nhà cửa đóng kín. Thật là một buổi tối của chó sói...
Nhưng trái lại, trên các con lộ Nazarét, Con Chiên Thiên Chúa đang đi, hướng thẳng về nhà Người: một cái bóng đen lớn trong y phục đậm mầu của Người, tựa như Người bị lạc trong tối tăm của một đêm không trăng sao. Người ta có thể nghe thấy tiếng bước chân Người khi Người bước lên đống lá khô, sau khi đã quay cuồng trong không, được gió đặt xuống trên mặt đất, và sẵn sàng để được mang đi nơi khác.
Người đến trước căn nhà của Maria Clêopha, Người dừng lại một lát, không quyết định là có nên vào trong vườn và gõ vào cửa nhà bếp không, hay là nên tiếp tục đi... Nhưng rồi Người tiếp tục con đường của Người và không vào.
Đây, bây giờ Người đã ở trong cái ngõ đi vào nhà Người. Người
656
ta đã thấy các cây ôliu lắc lư lảo đảo trên bờ dốc mà căn nhà tựa lưng vào. Người ta thấy chúng lắc lư như những bóng đen trên nền trời đen. Người dồn bước. Người tới trước cửa, Người chú ý nghe. Thật dễ dàng để nghe thấy những gì xảy ra trong căn nhà nhỏ bé này! Chỉ cần ép tai trên khung cửa bằng gỗ chỉ có vài phân giữa người nghe và kẻ nói... Nhưng Người không nghe thấy tiếng nói nào cả.
- Khuya qúa rồi - Người thở dài. “Ta sẽ chờ sáng để gõ cửa”.
Nhưng vào lúc Người sắp bước đi, Người nghe thấy tiếng nhịp nhàng của nghề dệt. Người mỉm cười, Người nói: “Mẹ đã dậy. Bà dệt vải. Đúng là mẹ... Đúng là cái nhịp nhàng của má tôi”.
Tôi không thể nhìn thấy khuôn mặt Người, nhưng tôi chắc chắn là Người mỉm cười, bởi vì có một nụ cười trong giọng nói của Người, trước đó thì buồn, bây giờ thì vui.
Người gõ. Tiếng động ngừng một lát. Rồi đến tiếng động của một cái ghế mà người ta xê dịch. Rồi một giọng thanh như bạc hỏi: “Ai gõ đó?”
- Con đây má!
- Con tôi! - Một tiếng kêu êm, vui. Một tiếng kêu, dù nó được kìm giữ để phát ra thấp, nhỏ. Người ta nghe thấy tiếng động của ổ khóa và sự di chuyển của nó... và cửa mở ra, làm xuất hiện một lỗ vàng trên màn đen của đêm. Maria rơi vào vòng tay của Giêsu ngay tại ngưỡng cửa, làm như Người không thể chờ đợi một phút để nhận lấy mẹ, và mẹ thì để lao mình trên Trái Tim Người.
- Con! Con! Con má! - Những cái hôn và những lời nói êm đềm của những “Má- Con”... Rồi họ đi vào nhà và cửa nhẹ nhàng khép lại.
Maria giải thích nhỏ tiếng: “Tất cả đều ngủ. Mẹ, mẹ canh chừng. Từ lúc Giacôbê và Gioan tới nói rằng con sẽ về sau họ, mẹ luôn luôn chờ con tới rất khuya. Con lạnh à Giêsu? Đúng, con như băng giá. Lại đây, mẹ đã giữ lò cháy, mẹ sẽ quăng vào đó một đóm củi để con sưởi”. Rồi mẹ dắt tay Người đi, làm như Người vẫn còn là bé Giêsu...
657
Ngọn lửa sáng vui vẻ và nổ lốp đốp trong cái lò được khơi lên. Maria nhìn Giêsu giơ tay trên ngọn lửa để sưởi: “Con gầy qúa sức! Con đâu có như vầy khi chúng ta rời nhau... Con càng lúc càng gầy và mất máu! Con của má! Trước kia con có mầu da như sữa và hoa hồng, nhưng bây giờ con giống như mầu ngà voi cổ. Con ơi! Con lại có chuyện gì nữa? Lại là các pharisiêu à?”
- Vâng... Và cả các chuyện khác nữa. Nhưng bây giờ con sung sướng ở đây với má, và con sẽ thoải mái khỏe mạnh ngay. Năm nay Lễ Ánh Sáng sẽ mừng ở đây. Má à! Con tới tuổi trưởng thành hoàn toàn ở đây, bên cạnh má. Má bằng lòng không?
- Có. Nhưng tuổi trưởng thành cho con, tình yêu của má, thì hãy còn xa... Con còn trẻ, và đối với má, con luôn luôn là con nhỏ của má. Đây, sữa hâm nóng rồi, con muốn uống tại đây hay lại đàng kia?
- Lại đàng kia đi má. Bây giờ con ấm rồi. Con sẽ uống nó trong khi má tiếp tục việc của má.
Họ trở lại căn phòng nhỏ. Giêsu ngồi trên chiếc ghế dài cạnh cái bàn và uống sữa. Maria nhìn Người và mỉm cười. Mẹ mỉm cười khi mẹ cầm cái giỏ của Giêsu và để lên cái kệ. Mẹ mỉm cười nhiều tới nỗi Giêsu hỏi: “Má nghĩ tới cái gì vậy?”
- Má nghĩ đến con đã về đúng vào lúc kỷ niệm chúng ta lên đường đi Bétlem... Lúc đó cũng vậy: có những giỏ xách, những hòm xiểng đầy những quần áo, đặc biệt là những cái tã nhỏ... cho một bé tí teo có thể sẽ sinh ra, mẹ đã nói vậy với Giuse. Và mẹ nói với chính mẹ: Người phải sinh ra tại Bétlem xứ Juđa... Mẹ giấu điều đó ở trong lòng, vì Giuse sợ điều đó... Người vẫn chưa biết rằng sự sinh ra của Con Thiên Chúa không xảy ra cho chính Người cũng như mẹ Người trong những khốn đốn thường xuyên của việc lâm bồn và sinh nở. Người không biết... Và Người sợ phải đi xa Nazarét với má trong tình trạng này. Má, má chắc chắn là chính ở đó, má sẽ làm mẹ... Con nhảy mừng qúa trời ở trong má vì tới ngày sinh của con, và là sinh nhật của Ơn Cứu Chuộc, như vậy để má không thể lầm. Các thiên thần lượn quanh người đàn bà mang con,
658
Thiên Chúa của má... Không còn là vị Tổng Lãnh cao vời, không còn phải là vị thiên thần rất êm dịu vẫn giữ gìn má như trong những tháng trước. Bây giờ là từng đoàn và từng đoàn thiên thần từ trời của Thiên Chúa đến với bầu trời nhỏ của má: tấm lòng nơi con ở... Má nghe các vị hát, trao đổi với nhau những lời của ánh sáng, những lời lo âu được thấy con: Thiên Chúa nhập thể... Má nghe các vị nói trong khi họ bỏ trốn tình yêu của Thiên Đàng để tới thờ lạy con, Tình Yêu của Chúa Cha giấu ẩn trong lòng má. Và má cố học những lời của các vị... tiếng ca của các vị... sự sốt sắng của các vị... Nhưng loài người không thể chiếm hữu được những sự của Trời...
Giêsu nghe mẹ. Người ngồi, mẹ đứng gần chiếc bàn, lạc vào trong mơ cũng như Người sung sướng... Một tay mẹ đặt trên tấm gỗ tối mầu, tay kia ôm ngực. Giêsu phủ bàn tay nhỏ, trắng, mảnh mai của mẹ bằng bàn tay dài, ít trắng hơn của Người, và Người nắm chặt bàn tay thánh này trong tay Người... Khi mẹ nín lặng, tựa như mẹ tiếc vì đã không học được các lời nói, các tiếng ca, sự sốt sắng của các thiên thần, Giêsu nói: “Tất cả các lời nói của các thiên thần, tất cả các tiếng ca của họ, sự sốt sắng của họ, không làm cho con sung sướng ở dưới đất nếu con không có các thứ đó của má, má ạ. Má đã nói và đã cho con những điều mà các thiên thần không thể cho con. Không phải má là người học của các vị, nhưng các vị là những người học của má... Lại đây đi má, ở bên cạnh con, và kể nữa đi... Nhưng không phải chuyện hồi đó, nhưng là chuyện bây giờ. Má đang làm gì đó?”
- Má làm việc...
- Con biết. Nhưng cái gì? Con cá rằng má đang mệt mỏi cho con. Chỉ cho con coi...
Maria trở nên đỏ hơn khúc vải trên khung cửi mà Giêsu đã đứng dậy để nhìn.
- Vải đỏ tía? Ai cho má đó?
- Judas Kêriot. Ông đã xin ở các dân chài tại Siđon, má tin vậy. Ông muốn má làm một cái áo của ông vua... Cái áo thì má sẽ làm cho con, nhưng với con thì con đâu có cần áo đỏ để làm vua.
659
- Judas còn cứng đầu hơn con lừa! - Đó là lời phê bình duy nhất về vải điều đã được cho... Rồi Người quay lại với mẹ Người: “Và má có thể làm một cái áo với cái mà người ta cho má sao?”
- Ồ, không con ơi! Cái đó chỉ đủ cho các tua viền của chiếc áo trong và chiếc áo khoác, không có hơn.
- Tốt. Con đã hiểu tại sao má dệt những cái băng hẹp. Vậy thì má à, tư tưởng này làm con ưng ý. Má hãy cất những cái băng này ở đó, một ngày kia con sẽ bảo má sử dụng nó cho một bộ đồ thật đẹp. Nhưng bây giờ chưa phải lúc. Má đừng nhọc công.
- Má làm việc khi má ở Nazarét...
- Đúng vậy... Còn những người khác, lúc này họ làm gì?
- Họ học hỏi.
- Hay đúng hơn, má giáo huấn họ. Má thấy họ thế nào?
- Ồ, đó là ba học trò tốt. Ngoài con ra, má chưa bao giờ có những học trò ngoan hơn và chú tâm hơn họ. Má cũng tìm cách tăng cường lực cho Gioan. Ông ta bệnh lắm. Ông không còn sống lâu nữa...
- Con biết. Nhưng với ông, đó là điều tốt. Vả lại, chính ông ta cũng ước ao. Ông đã hiểu một cách hồn nhiên về giá trị của đau khổ và cái chết. Còn Sintica?
- Thật đáng tiếc phải xa lìa nó. Nó đáng giá một trăm môn đệ về sự thánh thiện và khả năng để hiểu những điều siêu nhiên.
- Con hiểu. Nhưng con phải làm vậy.
- Điều con làm là con luôn luôn làm rất tốt, con ạ.
- Còn đứa trẻ?
- Nó cũng học. Nhưng mấy ngày nay nó rất buồn... Nó nhớ tới những khốn nạn một năm trước đây... Ôi! Ở đây đâu phải là chỗ rất vui!... Gioan và Sintica thở dài khi nghĩ tới phải bỏ đây. Đứa trẻ thì khóc khi nghĩ tới mẹ nó đã chết...
- Còn má?
- Má... Con biết mà. Không có mặt trời khi con ở xa má. Sẽ không còn thiếu mặt trời như vậy nữa nếu thế giới yêu con. Nhưng ít nhất, đáng lẽ phải có sự yên hàn ở đây... trái lại...
- Có những nước mắt. Má tội nghiệp của con!... Người ta không
660
đặt cho má những câu hỏi về Gioan và Sintica chứ?
- Vậy con muốn ai là người hỏi? Maria Alphê thì biết nín lặng. Alphê Sara thì đã thấy Gioan, nhưng ông ta không tò mò. Ông ta gọi nó là “môn đệ”.
- Còn những người khác?
- Ngoài Maria Alphê ra, không ai tới nhà má cả. Có vài người đàn bà đến vì có việc hay vì một lời khuyên. Còn các đàn ông Nazarét thì họ không bước qua ngưỡng cửa nhà má nữa.
- Kể cả Giuse và Simon cũng không à?
- Không... Simon gởi cho má dầu, bột, ôliu, củi và trứng... như để xin lỗi vì đã không hiểu con, tựa như nói vậy bằng những món qùa. Nhưng nó đưa cho Maria mẹ nó chứ nó không tới đây. Lại nữa, nếu có ai tới đây, họ chỉ nhìn thấy có má, vì Gioan và Sintica rút lui khi có ai gõ cửa...
- Một đời sống qúa buồn.
- Ừ, và đứa trẻ cũng hơi khổ vì vậy, mặc dầu bây giờ Maria dẫn nó theo khi bà đi mua đồ đạc. Nhưng bây giờ chúng ta không buồn nữa, Giêsu của má, vì con ở đây!
- Con ở đây... con... Bây giờ chúng ta đi ngủ thôi. Má chúc lành cho con đi, như khi con còn nhỏ.
- Con chúc lành cho má đi. Má là môn đệ của con.
Họ hôn nhau... đốt thêm một ngọn đèn, rồi đi nghỉ.
170* GIÊSU VỚI GIOAN ENĐO
VÀ SINTICA TẠI NAZARÉT
- Thầy! Thầy! Thầy! - Ba tiếng kêu của Gioan Enđo lúc ông ra khỏi phòng nhỏ của ông để rửa ráy tại cái bể, và thấy mình ở trước mặt Giêsu khi Người đi tới, đã làm thức giấc Margziam. Nó chạy ra khỏi phòng của Maria với chiếc áo ngủ duy nhất cụt tay và cộc lủn, đi chân đất, tất cả mắt và miệng là để nhìn và để la: “Có Giêsu”, và tất cả đôi chân là để chạy và nhảy lên trong cánh tay Người. Và
661
nó cũng đánh thức Sintica đang ngủ trong xưởng mộc của Giuse. Một lát sau, cô ta đi ra, đã mặc quần áo, nhưng các bím tóc rất đen đã xổ một nửa rơi xuống trên vai.
Giêsu có đứa bé trong tay, chào Gioan và Sintica, thúc giục họ vào trong nhà, vì gió bắc thổi rất mạnh. Người đi vào đầu tiên, mang thằng Margziam nửa trần, hai hàm răng đập lắc cắc, dù là sự hoan hỉ của nó, lại gần cái lò đã nhúm, nơi Maria vội vã hâm nóng sữa. Rồi mẹ mặc đồ cho Margziam để nó khỏi trúng lạnh.
Hai người kia không nói, nhưng biểu lộ một niềm vui xuất thần. Giêsu ngồi, với đứa trẻ trên đầu gối Người, trong khi Maria vội vã mặc cho nó những y phục mà mẹ đã hơ nóng. Giêsu ngửa mặt mỉm cười với họ rồi nói: “Thầy đã hứa với các con là Thầy sẽ về, và hôm nay hay ngày mai, Simon Zêlote cũng sẽ tới. Ông ta đi một nơi với nhiệm vụ Thầy giao phó, nhưng ông sẽ không chậm trở lại, và chúng ta sẽ sống với nhau nhiều ngày”.
Việc rửa ráy cho Margziam đã xong, mầu sắc lại trở về trên đôi má tái mét vì lạnh. Giêsu để nó xuống đất và đứng dậy để qua phòng nhỏ bên cạnh. Mọi người đều đi theo Người. Maria tới sau cùng, dắt tay đứa trẻ, và một cách dịu dàng, mẹ quở trách: “Mẹ phải làm gì cho con bây giờ đây? Con đã lỗi vâng lời. Mẹ đã bảo con: ‘Hãy ở lại trên giường cho tới khi mẹ trở lại’, mà con lại đi ra trước...”
- Con thức giấc vì tiếng kêu của Gioan... - Margziam nói để bào chữa.
- Chính những lúc như vậy là lúc con phải biết vâng lời. Ở lại trên giường khi mọi người ngủ thì không phải là vâng lời và không có công gì cả. Con phải biết làm khi nếu làm thì sẽ có công, vì điều đó đòi hỏi ý chí. Mẹ sẽ dẫn Giêsu đến cho con, con sẽ có Người hoàn toàn cho con và không sợ trúng bệnh.
- Con không biết rằng trời qúa lạnh như vậy.
- Nhưng mẹ, mẹ biết. Mẹ buồn khi thấy con không vâng lời.
- Không, má ơi! Điều này làm cho con khổ hơn vì thấy má như vậy... Nếu không phải là Giêsu thì con sẽ không dậy, dù má có
662
quên con trong giường, không ăn uống. Má rất đẹp! Má ơi... Cho con một cái hôn đi má! Má biết rằng con là một đứa trẻ tội nghiệp!...
Maria ẵm nó trong tay và hôn nó, thế là làm ngừng những giọt nước mắt trên khuôn mặt nhỏ và đem lại đó nụ cười với lời hứa: “Con sẽ không bao giờ lỗi vâng lời nữa. Không bao giờ, không bao giờ nữa”.
Trong lúc đó Giêsu nói với hai môn đệ. Người hỏi thăm về sự tấn tới của họ trong sự khôn ngoan, và vì họ nói rằng tất cả đều được soi sáng bởi các lời của mẹ Maria, Người nói: “Thầy biết. Sự Khôn Ngoan thiêng liêng trong ánh sáng của Thiên Chúa sẽ trở thành một ánh sáng dễ hiểu, dù là với những người có con tim cứng cỏi nhất, khi nó được nói bởi mẹ. Nhưng các con không có con tim cứng cỏi, và vì thế, các con lợi dụng được hết các giáo huấn của mẹ”.
- Con ơi, bây giờ con ở đây, cô giáo sẽ trở thành học trò.
- Ồ, không. Má tiếp tục làm cô giáo, con sẽ nghe má giống như họ. Trong những ngày này, con chỉ là đứa con, không có gì hơn. Má sẽ là mẹ và là cô giáo của các Kitô hữu. Má đã là vậy từ bây giờ rồi. Con là con đầu lòng của má, học trò đầu tiên của má. Những người này, và cùng với họ, có Simon sẽ đến, những người khác... Má thấy không? Cả thế giới ở đây. Thế giới ngày mai trong người Israel nhỏ bé, chính tông, cả đến không nhận ra được là mình sẽ trở nên một Kitô hữu. Thế giới của Israel cũ trong Zêlote; thế giới nhân loại trong Gioan; thế giới dân ngoại trong Sintica. Và tất cả họ đều đến với má, người Nhũ Mẫu thánh, người ban sữa Khôn Ngoan và Sự Sống cho thế giới trong mọi thế kỷ. Bao nhiêu cái miệng muốn dính vào vú má! Bao nhiêu người sẽ làm như thế trong tương lai! Các tổ phụ và các tiên tri đã ước ao má, bởi vì từ cái vú mắn con của má chảy ra của nuôi cho con người. Và họ tìm má, những người của con, để được tha thứ, được dạy dỗ, được bảo vệ, được yêu thương như từng ấy Margziam. Và phúc cho những ai sẽ làm như vậy. Vì họ không thể kiên trì trong Đức Kitô nếu Ân Sủng không củng cố cho họ nhờ sự giúp đỡ của má, người mẹ đầy Ân
663
Sủng.
Maria giống như một bông hồng trong bộ đồ đậm mầu của mẹ. Khuôn mặt mẹ cháy sáng trước lời ca tụng của con mẹ. Một bông hồng rực rỡ trong bộ y phục rất khiêm tốn bằng len thô mầu nâu đậm.
Có tiếng gõ cửa và một nhóm người đi vào: Maria Alphê, Giacôbê và Juđa. Hai ông này mang nặng những bầu nước và củi. Niềm vui họp mặt là hỗ tương, và nó gia tăng khi họ biết rằng Zêlote sắp về. Tình cảm của các con trai Alphê đối với Zêlote thật rõ ràng, dù là không có câu mà Juđa nói để trả lời cho nhận xét của mẹ ông là người nhận ra nỗi vui của họ: “Má ơi, ngay chính trong căn nhà này, và trong buổi chiều rất buồn của chúng con, ông đã cho chúng con tình cảm của một người cha, và chúng con vẫn gìn giữ nó. Chúng con không thể quên nó. Ông là cha đối với chúng con, chúng con là con đối với ông. Người con nào lại không vui khi gặp lại cha hiền?”
Maria Alphê suy nghĩ và thở dài... Rồi rất thực tiễn, dù là trong nỗi đau của bà, bà hỏi: “Ông ta sẽ ngủ ở đâu? Qúi vị đâu có còn chỗ. Hãy gởi ông ta qua bên nhà tôi”.
- Không, Maria, ông ta sẽ sống dưới mái nhà của Thầy. Điều đó sẽ được làm lẹ thôi: Sintica sẽ ngủ với mẹ Thầy, Thầy với Margziam, Simon trong xưởng mộc. Và tốt hơn là nên sửa soạn ngay lập tức. Đi thôi.
Và các người đàn ông ra vườn với Sintica, trong khi hai bà Maria vào nhà bếp lo việc bếp núc.
171* GIÊSU GIÁO HUẤN MARGZIAM
Giêsu ra khỏi nhà, dắt tay đứa bé. Họ không đi vào trung tâm Nazarét, nhưng đi ra bởi cùng một con đường mà Giêsu đã đi lần đầu tiên khi Người bỏ nhà để bắt đầu đời sống công khai của Người. Tới vườn ôliu đầu tiên, họ bỏ con lộ chính để đi vào lối đi giữa các cây cối, để tìm mặt trời yếu ớt sau những ngày gió lốc. Giêsu bảo đứa nhỏ hãy chạy nhảy, nếu nó thích, nhưng Margziam trả lời: “Con
664
thích ở lại gần Thầy hơn, vì bây giờ con đã lớn và con là một môn đệ”.
Giêsu mỉm cười trước sự công bố nghiêm trang về tuổi tác và phẩm cách. Đúng là một người trưởng thành nhỏ bước đi bên cạnh Người, không còn ai cho rằng nó mới hơn mười tuổi. Nhưng không ai có thể nói nó không phải là một môn đệ, và Giêsu càng không thể hơn tất cả những người khác. Người chỉ giới hạn trong việc nói: “Con sẽ buồn khi phải thinh lặng trong khi Thầy đọc kinh nguyện. Thầy dắt con theo Thầy đến đây để con được vui chơi”.
- Mấy ngày nay con không thể giải buồn... nhưng việc ở bên Thầy làm con thấy nhẹ nhõm... Con đã ước ao Thầy chừng nào trong kỳ này... bởi vì... - Đứa trẻ cắn môi, run run và không nói nữa.
Giêsu để tay trên đầu nó và nói: “Kẻ tin vào Thầy thì không được buồn như kẻ không tin. Thầy luôn luôn nói sự thật, cả khi Thầy xác nhận rằng không có sự chia cắt giữa linh hồn các người công chính đang ở trong lòng Abraham và linh hồn các người công chính đang ở trên trái đất. Margziam, Thầy là Sự Sống Lại và là Sự Sống. Và Sự Sống này, Thầy mang nó tới ngay cả trước khi Thầy hoàn tất sứ mạng của Thầy. Con đã luôn luôn nói với Thầy rằng cha mẹ con ước mong Đấng Messi đến, và họ xin Thiên Chúa cho được sống đủ để thấy Người. Vậy là họ đã tin vào Thầy, và họ an nghỉ trong niềm tin này, và họ được cứu bởi nó. Họ đã sống lại và đang sống bởi nó. Vì đó là một đức tin ban sự sống và ban sự khát khao điều công chính. Hãy nghĩ đến biết bao lần họ đã phải chống lại các cám dỗ để xứng đáng được gặp Đấng Cứu Thế”.
- Nhưng Chúa ơi, họ đã chết mà không được thấy Thầy... Và chết bằng cách ấy... Thầy biết, con đã thấy họ khi người ta moi ra khỏi đất tất cả những người chết trong vùng... Má con, ba con, các em trai con... Có ăn nhằm gì với con đâu khi họ nói để an ủi con: “Các người nhà mày không như vậy. Họ không phải chịu đựng”. Ôi! Họ không phải chịu đựng! Vậy những tảng đá rơi trên họ là những cái lông sao? Và đất và nước làm họ ngộp là không khí sao? Và lý lẽ của họ không phản ứng khi cảm thấy sắp chết, khi nghĩ đến con?...
665
Đứa trẻ vật vã trong sự đau đớn. Nó đứng trước mặt Giêsu, múa máy như muốn gây sự. Nhưng Giêsu hiểu sự đau đớn này, cái nhu cầu cần được nói này, và Người để nó nói. Giêsu không phải loại người nói: “Nín đi, mày làm tao bực mình” với những kẻ mê sảng bởi một nỗi đau thực.
Đứa trẻ tiếp tục: “Sau đó, sau đó thì sao? Thầy biết những gì xảy ra sau đó! Nếu Thầy không tới, con sẽ trở thành một con vật hoang, hoặc con sẽ chết như một con rắn trong rừng, và con sẽ không thể đến với má con, ba con và các em con nữa, vì con ghét Doras và con không yêu Thiên Chúa như trước nữa, như lúc má con còn sống để yêu con, để dạy con yêu tha nhân. Con hầu như ghét cả loài chim, vì chúng ăn no đầy diều và có bộ lông ấm, và tái thiết cái tổ của chúng, còn con thì đói với một bộ đồ rách rưới và không còn nhà cửa... Con đuổi chúng. Con là người vốn thích chim, nhưng vì cơn giận nổi dậy trong khi con so sánh mình với chúng. Rồi con lại khóc, vì con thấy là mình độc ác và con xứng đáng Hỏa Ngục...”
- A! Vậy con đã hối hận vì đã độc ác?
- Lạy Chúa vâng. Nhưng phải làm sao để tốt? Ông cha già đã tốt. Nhưng ông nói: “Sắp sửa chấm dứt tất cả. Tao già rồi...” Nhưng con, con chưa già! Con phải bao nhiêu năm nữa để có thể làm việc và ăn uống như một người chứ không như một con chó hoang? Con sẽ trở nên kẻ trộm cắp nếu Thầy không tới.
- Con sẽ không trở nên vậy, vì má con cầu nguyện cho con. Con thấy Thầy đã tới và mang con đi. Điều đó chứng tỏ rằng Thiên Chúa yêu con và má con canh chừng trên con.
Đứa trẻ nín lặng và suy nghĩ. Tựa như nó xin một ánh sáng ở mặt đất mà nó dẵm lên, vì nó nhìn đất chăm chú khi bước bên cạnh Giêsu trên lớp cỏ hơi tái bởi gió bắc trong những ngày trước. Rồi nó ngửa mặt lên và hỏi: “Nhưng có phải sẽ là một bằng cớ đẹp hơn nếu Người không làm chết má con không?”
Giêsu mỉm cười trước lý luận rất người của đứa trẻ thông minh này, nhưng Người giải thích cách nghiêm trang và nhân từ: “Đây, Margxiam. Thầy sẽ làm con hiểu các sự bằng một so sánh. Con đã
666
nói với Thầy rằng con thích chim, phải không? Bây giờ nghe đây: các con chim được dựng nên để bay hay để ở trong lồng?
- Để bay.
- Các con chim mẹ, chúng làm sao để nuôi chim con khi nó còn bé?
- Chúng mớm cho con chúng.
- Đúng, nhưng mớm cái gì?
- Mớm các hạt, các con ruồi, các con sâu, các mụn bánh, những mẩu trái cây mà chúng kiếm được khi bay đây đó.
- Tốt lắm. Bây giờ nghe đây: nếu mùa xuân này con gặp một tổ chim ở dưới đất với các con chim nhỏ ở bên trong, và con chim mẹ ở trên thì con sẽ làm gì?
- Con sẽ bắt.
- Toàn thể à? Kể cả con mẹ?
- Toàn thể, bởi vì sẽ độc ác nếu để các chim con không có mẹ.
- Trong thực tế, Sách Đệ Nhị Luật nói rằng chỉ giữ các con nhỏ, còn để cho chim mẹ tự do, vì nó được thánh hiến để sinh sôi nẩy nở.
- Nhưng nếu đó là con mẹ tốt, nó sẽ không bỏ đi, nó sẽ luẩn quẩn bên con nó. Má con đã làm như vậy. Bà không cho con đi luôn, dù là cho Thầy, vì con còn bé. Bà cũng không thể đến với con, vì bà phải lo cho các em trai con còn nhỏ hơn con. Và như vậy, bà không để con đi.
- Tốt, nhưng nghe đây: theo con, con sẽ yêu con chim mẹ và cả các chim con hơn, nếu con mở cửa lồng cho chim mẹ có thể đi về và mang cho chúng những của ăn thích hợp, hay là con nhốt hết chúng trong lồng?
- Hé!... Con sẽ yêu chúng hơn khi con để chim mẹ đi về cho tới khi các con nhỏ đã lớn... Và con sẽ yêu chúng hoàn toàn, nếu con chỉ giữ các con nhỏ, và khi chúng lớn, con để chúng tự do, vì các con chim được sinh ra để bay... Thực tình... để hoàn toàn tốt... con phải để cho các chim nhỏ bay đi khi chúng đã lớn, và phải trả tự do cho chúng. Đó là tình yêu chân thật nhất mà con có thể có đối với chúng... và chính đáng nhất... Hé! Đúng! Chính đáng nhất, vì con
667
chỉ hoàn thành điều Thiên Chúa muốn cho các con chim...
- Hoan hô Margziam! Thực tình con đã nói cách khôn ngoan. Con sẽ là một ông thầy lớn của Chúa con, và kẻ nào nghe con sẽ tin con, vì con nói cách khôn ngoan!
- Thật à Giêsu? - Khuôn mặt nhỏ, lúc đầu lo lắng và buồn, rồi u ám trong suy tư, quả quyết trong cố gắng để xét đoán cái gì là tốt hơn, rạng rỡ, sáng sủa và vui vẻ trong lời khen.
- Đúng vậy. Bây giờ con hãy nhìn một tí! Con, chỉ vì con là một đứa con trai dũng cảm nên con phán đoán như vậy. Bây giờ hãy suy xét coi Thiên Chúa phán đoán thế nào, Người là sự toàn vẹn trong tất cả, về những điều có liên can tới các linh hồn và điều tốt thực sự cho họ. Các linh hồn giống như các con chim bị nhốt trong cái lồng là thân xác. Trái đất là nơi nó được mang tới trong lồng. Nhưng nó ước ao cái tự do của Trời, ước ao mặt trời là Thiên Chúa, ước ao Lương Thực được làm cho nó là sự chiêm ngắm Thiên Chúa. Không một tình yêu nào của loài người, dù là tình yêu thánh của người mẹ đối với con cái hay của con cái đối với người mẹ, có thể đủ mạnh để dẹp tan sự ước ao của các linh hồn kết hợp với nguyên nhân của nó là Thiên Chúa. Cũng vậy, vì Thiên Chúa, do tình yêu toàn vẹn của Người đối với chúng ta, không một lý do nào có thể đủ mạnh để vượt qua sự ước mong của Người để kết hợp với linh hồn ước ao Người. Vậy thì cái gì sẽ xảy ra? Đôi khi Người yêu linh hồn đến nỗi Người nói với nó: “Hãy đến. Cha giải phóng cho con”. Và Người nói như vậy dù là có các con nhỏ ở chung quanh một bà mẹ. Người thấy tất cả, Người biết tất cả, Người làm rất tốt hết mọi điều Người làm. Khi Người giải phóng cho một linh hồn - điều này không tỏ tường đối với con người mà sự thông minh chỉ tương đối - khi Người giải phóng cho một linh hồn, Người luôn luôn làm điều đó với lợi ích lớn nhất cho chính linh hồn đó và cho các người hợp nhất với linh hồn đó.
Vậy Người, như Thầy đã nói với con những lần trước, thêm vào nhiệm vụ của thiên thần bản mệnh, nhiệm vụ của linh hồn mà Người đã gọi về với Người, vì Người yêu, với tình yêu không bị
668
những nặng nề thuộc về nhân loại, các người thân của linh hồn đó mà linh hồn đó yêu mến trong Thiên Chúa. Khi Người giải phóng cho một linh hồn, Người làm thay thế cho linh hồn đó những săn sóc cho nhu cầu của những người còn lại. Người đã chẳng làm như vậy cho con sao? Người đã chẳng săn sóc như vậy để làm cho con thành một công dân nhỏ của Israel, một môn đệ của Thầy, và một linh mục của Thầy mai ngày sao?
- Có chứ Chúa.
- Bây giờ hãy suy nghĩ một tí: Mẹ con sẽ được Thầy giải phóng cho và sẽ không cần sự tán trợ của con. Nhưng con, nếu bà chết sau công trình cứu chuộc, và bà cần tán trợ, thì con có thể cung cấp cho bà như một linh mục không? Hãy suy nghĩ: con chỉ có thể tiêu pha cho lễ hy sinh nơi một thầy cả ở Đền Thờ, để ông dâng của hy sinh cho bà như một con chiên hay con bồ câu, hay những sản phẩm của đất. Chỉ có vậy thôi nếu con vẫn là thằng bé Jabê nông dân ở bên mẹ con. Trái lại, Margziam, con, khi con là linh mục của Đức Kitô, con có thể trực tiếp thi hành Lễ Hy Sinh cho bà bằng Của Lễ Vẹn Toàn mà nhân danh của lễ này, mọi ơn tha thứ đều được ban.
- Con không thể làm được nữa?
- Không làm cho ba con, má con, các em con. Nhưng con có thể làm cho các bạn, các môn đệ của con. Như vậy chả là đẹp sao?
- Thưa Chúa vâng.
- Vậy chúng ta có thể yên tâm trở về nhà thôi.
- Vâng... nhưng con đã không để Thầy đọc kinh nguyện!... Điều đó làm con buồn...
- Nhưng chúng ta đã đọc kinh nguyện rồi. Chúng ta đã cứu xét chân lý, đã chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong lòng tốt của Người... Tất cả những điều đó là kinh nguyện, và con đã làm như một người trưởng thành thực sự. Nào, bây giờ chúng ta hãy hát một thánh vịnh ca ngợi thật đẹp, vì niềm vui ở trong chúng ta.
Và Người xướng: “Một bài ca hay đã phát ra từ con tim tôi...” Margziam hợp giọng bạc của nó với giọng đồng và vàng của Giêsu.
172* SIMON ZÊLOTE TẠI NAZARÉT
669
Buổi chiều xuống lẹ vào tháng mười hai. Người ta thắp đèn sớm và cả nhà quây quần trong một căn phòng duy nhất. Trong ngôi nhà nhỏ ở Nazarét cũng vậy. Trong khi hai người đàn bà làm việc, một bà thì dệt vải, bà kia thì may vá. Giêsu ngồi gần bàn với Gioan Enđo, nói nho nhỏ với ông trong khi Margziam hoàn tất việc đánh bóng hai cái rương đặt dưới đất.
Đứa trẻ dồn hết sức lực vào đó cho tới khi Giêsu đứng dậy, cúi nhìn mặt gỗ, lấy tay rờ và nói: “Bây giờ được rồi, nó đã bóng và ngày mai có thể đánh véc-ni. Bây giờ hãy xếp đặt các đồ để ngày mai còn làm việc nữa”. Và trong khi Margziam đi ra với các đồ nghề đánh bóng: cái đồ quệt, để bên trên miếng da cá nhám dùng như giấy nhám của chúng ta, nhiều loại dao, chắc chắn không phải bằng thép, được dùng cho cùng một công việc. Giêsu cầm trong tay lực lưỡng của Người những cái rương và mang qua xưởng mộc, nơi chắc chắn họ đã làm việc, vì có những mạt cưa và dăm bào ở gần một trong các bàn của thợ mộc được sử dụng, đem đặt tại giữa phòng. Margziam đã để các dụng cụ của nó vào chỗ trên kệ, bây giờ nó hốt vỏ bào để nhóm lửa, và nó muốn hốt mạt cưa, nhưng Gioan Enđo muốn làm hơn.
Tất cả đều thứ tự khi Giêsu trở lại với cái rương thứ hai mà Người để bên cạnh cái thứ nhất. Khi cả ba người sắp sửa đi ra thì nghe gõ cửa, và ngay sau đó, giọng nói nghiêm trang của Zêlote vang lên trong cái chào cúi sâu dành cho Maria: “Con chào Mẹ, Mẹ của Chúa con, và con chúc tụng lòng tốt của mẹ đã cho con ẩn dưới mái nhà Mẹ”.
- Simon đã tới. Bây giờ chúng ta sắp biết tại sao ông về trễ. Chúng ta đi... - Giêsu nói.
Khi họ vào căn phòng vị tông đồ đang ở đó với hai bà, ông ta đang đặt xuống một cái gói lớn mà ông mang trên vai.
- Bình an cho con, Simon...
- Ôi! Thầy ân phúc! Con về trễ, phải không? Nhưng con đã làm tất cả, và làm rất tốt...
670
Họ hôn nhau. Rồi Simon tiếp tục việc trình bày của ông: “Con đã tới nhà bà góa của ông thợ mộc. Của cứu trợ của Thầy rất hữu ích. Bà già rất bệnh, bởi vậy sự chi tiêu gia tăng. Thằng bé thợ mộc cố gắng làm những vật dụng nhỏ như nó, và nó luôn luôn nhớ tới Thầy. Tất cả đều chúc phúc Thầy. Rồi con tới nhà Nara, Samira và Sira. Ông anh thì cay nghiệt hơn bao giờ hết. Nhưng các cô bình an như các bà thánh, và các cô ăn tấm bánh nghèo khó nhúng nước mắt và sự tha thứ. Các cô chúc phúc Thầy vì đồ cứu trợ được gởi tới. Nhưng các cô van nài Thầy cầu nguyện để ông anh chai đá được trở lại. Bà già Rakel cũng chúc tụng Thầy vì của bố thí. Sau cùng, con đi Tibêriat cho việc mua sắm. Con hy vọng đã làm tốt. Bây giờ các bà sẽ quan sát. Nhưng ở Tibêriat, con bị giữ lại bởi một số người tưởng con là người đưa tin của Thầy. Họ đã giam con trong ba ngày... Ôi! Một cái nhà tù bằng vàng, nếu người ta muốn nói, nhưng luôn luôn là cái nhà tù... Họ muốn biết bao nhiêu là thứ... Con đã nói thật khi nói rằng Thầy đã cho mọi người rút lui về nhà mình, Người cũng lui về ở ẩn cho qua mùa đông giá... Khi họ đã chịu là đúng, vì họ đã tới nhà Simon Jonas và nhà Philíp mà chẳng biết được gì hơn, họ mới để cho con đi, với lời bào chữa vì thời tiết xấu trước những ngày đẹp trời này. Đó là tại sao con về trễ”.
- Không quan trọng. Chúng ta còn giờ để sống với nhau. Thầy cám ơn con vì tất cả... Mẹ à, mẹ cùng với Sintica mở ra coi xem ông có cái gói gì, rồi nói cho con biết như vậy có đủ cho cái thứ mà mẹ biết chưa... - và trong khi các người đàn bà mở gói, Giêsu ngồi nói chuyện với Simon.
- Còn thầy, Thầy đã làm gì?
- Thầy đã làm hai cái rương để khỏi ở không, bởi vì nó sẽ hữu ích. Thầy đi dạo, Thầy thưởng thức nhà Thầy...
Simon nhìn Người đăm đăm, đăm đăm... nhưng ông không nói gì.
Những tiếng reo của Margziam khi nó thấy lấy ra khỏi gói những vải, những len, những xăng đan, những voan, giây thắt lưng... làm cho Giêsu và hai người bạn quay nhìn về hướng đó.
671
Maria nói: “Tất cả đều tốt, rất tốt. Chúng ta bắt đầu làm việc ngay, và không bao lâu, tất cả sẽ được may”.
Đứa trẻ hỏi: “Thầy lấy vợ à Giêsu?”
Tất cả đều cười. Và Giêsu hỏi: “Từ đâu mà con có tư tưởng đó?”
- Từ những y phục này, của đàn ông và đàn bà, và hai cái rương mà Thầy đã làm. Chính là y phục của Thầy và của cô dâu. Thầy sẽ cho con biết cô dâu chứ?
- Thực tình con muốn biết vợ Thầy à?
- Ồ, vâng. Ai biết bà sẽ đẹp và tốt chừng nào! Bà gọi tên gì?
- Lúc này thì đó còn là điều bí mật, vì bà có hai tên, cũng như con, lúc đầu là Jabê, rồi Margziam.
- Và con không thể biết à?
- Lúc này thì không. Nhưng một ngày kia con sẽ biết.
- Thầy sẽ mời con đi lễ cưới chứ?
- Đó không phải là một lễ của con nít. Thầy sẽ mời con vào lễ hôn chúc. Con sẽ là một trong các khách mời và chứng nhân. Con thấy được không?
- Nhưng trong bao lâu nữa? Một tháng à?
- Ồ, rất lâu hơn.
- Vậy tại sao Thầy làm việc gấp tới nỗi phồng tay?
- Nó phồng bởi vì từ lâu Thầy không làm việc bằng tay nữa. Con thấy sự nhàn rỗi nặng nề chừng nào? Luôn luôn vậy. Rồi khi người ta bắt đầu làm việc lại, người ta chịu đựng gấp đôi, vì người ta đã trở nên qúa mỏng dòn. Hãy suy nghĩ coi: nếu chuyện đó làm phiền cho bàn tay thì nó sẽ làm đau chừng nào cho linh hồn? Con thấy không? Thầy, chiều nay Thầy phải xin con: “Giúp Thầy với”, bởi vì Thầy đau tới nỗi không cầm nổi cái dũa, trong khi mới chỉ hai năm trước đây, Thầy làm việc tới mười bốn giờ mỗi ngày không thấy đau. Cũng giống vậy đối với kẻ lạnh nhạt lòng sốt sắng trong ý chí của họ. Họ trở thành mềm và yếu. Họ chán nản mọi sự cách dễ dàng. Do sự yếu đuối của họ, các chất độc của các bệnh thiêng liêng thấm nhập vào họ cách dễ dàng hơn. Với sự khó khăn gấp đôi, họ mới hoàn tất được các việc tốt mà trước kia không đắt giá như vậy cho họ, vì họ đã được thao luyện. Ôi! Không được ở không
672
rồi nói: “Khi qua giai đoạn này, tôi sẽ sẵn sàng làm việc trở lại!” Người ta sẽ không bao giờ thành công việc đó, hoặc là điều đó sẽ vô cùng mệt mỏi.
- Nhưng Thầy, Thầy đâu có lười.
- Không, Thầy làm việc khác. Nhưng con thấy sự nhàn rỗi của bàn tay Thầy đã làm thiệt hại cho nó - Và Giêsu giơ ra hai lòng bàn tay đỏ với những vết phồng đây đó.
Margziam hôn hai bàn tay Người và nói: “Mẹ con làm như vậy khi con đau, bởi vì tình yêu chữa lành”.
- Đúng, tình yêu chữa biết bao thứ... Này, lại đây Simon. Con sẽ ngủ trong xưởng mộc. Vậy tới đây Thầy chỉ cho con chỗ con để quần áo và...
Họ đi ra và tất cả chấm dứt.
173* MỘT BUỔI CHIỀU
TRONG NHÀ NAZARÉT
Nghề dệt bây giờ nghỉ, vì Maria và Sintica khâu vội vã những vải vóc do Zêlote mang về. Những mảnh vải đã cắt gấp lại xếp thứ tự trên bàn, mầu nào vào mầu nấy. Thỉnh thoảng các người đàn bà lấy một mảnh và đàn ra trên bàn để may lược, cố ý dồn hết các ông vào góc, chỗ có khung cửi đang nghỉ, để các ông đừng quan sát công việc của đàn bà. Ở đó cũng có hai tông đồ Juđa và Giacôbê Alphê. Hai ông nhìn hai bà làm việc, không đặt câu hỏi, nhưng tôi tin là không khỏi tò mò.
Hai người bà con của Giêsu nói về các anh của họ, đặc biệt là về Simon. Ông này tháp tùng hai ông em tới cổng rồi bỏ về, “vì ông có đứa con bị bệnh”, Giacôbê nói như để làm dịu cái tin này, và để xin lỗi cho anh ông. Juđa thì nghiêm khắc hơn, ông nói: “Chính vì vậy mà anh ấy cần phải tới. Hình như anh ấy cũng trở nên đần độn rồi. Cũng như mọi người Nazarét khác, không kể nhà Alphê (Alphê Sara) và hai môn đệ mà không biết giờ này họ ở đâu, ta hiểu rằng Nazarét không còn gì khác là tốt nữa. Lòng nhân từ, họ đã khạc
673
nhổ ra hết, giống như nó có mùi vị khó chịu đối với thành phố chúng ta”.
- Đừng nói vậy - Giêsu xin. “Đừng đầu độc lòng trí con. Đó không phải tại lỗi họ”.
- Vậy lỗi của ai?
- Của biết bao thứ... Đừng tìm hiểu. Không phải toàn thể Nazarét là kẻ thù. Các trẻ em...
- Bởi vì đó là những trẻ con.
- Các phụ nữ...
- Bởi vì đó là các phụ nữ. Nhưng không phải đám đàn bà trẻ con là những kẻ làm cho vững vàng nước của Thầy.
- Tại sao Juđa? Con lầm. Các trẻ em ngày nay chính là các môn đệ mai sau, những kẻ truyền bá Nước Trời trên khắp thế giới. Và các phụ nữ... tại sao họ lại không thể làm?
- Chắc chắn là Thầy không thể làm cho các phụ nữ trở thành các tông đồ. Tất cả đám họ, cùng lắm là thành nữ môn đệ, như Thầy đã nói, để giúp đỡ các môn đệ.
- Ông anh của tôi ơi! Trong tương lai, anh sẽ thay đổi ý kiến về biết bao thứ. Nhưng Thầy, cả đến Thầy không cố gắng làm con thay đổi ý kiến, vì Thầy sẽ đụng phải một tinh thần đã đến với con từ bao thế kỷ về các tư tưởng và thành kiến sai lầm đối với phụ nữ. Thầy chỉ xin con quan sát, nhận xét nơi con, những khác nhau giữa nam và nữ môn đệ. Và nhận xét một cách vô tư xem các bà đã trả lời thế nào với những giáo huấn của Thầy. Con sẽ thấy, bắt đầu từ mẹ con, nếu con muốn, bà đã là người đầu tiên trong đám nữ môn đệ, theo thứ tự thời gian và sự anh hùng, và luôn luôn như vậy, bằng cách can đảm đương đầu với cả một xứ chế nhạo bà vì bà trung thành với Thầy; kháng cự với cả tiếng nói của máu mủ đã không chừa ra cho bà các lời quở trách, vì bà trung thành với Thầy. Con sẽ thấy là các phụ nữ còn hơn các con.
- Con nhận ra. Đúng vậy. Nhưng ở Nazarét, ngay cả các nữ môn đệ, họ ở đâu? Các con gái của Alphê, các bà mẹ của Ismael và Aser và các chị của họ. Đó là tất cả. Qúa ít! Con không muốn trở về Nazarét nữa để khỏi thấy tất cả những điều đó.
674
- Bà mẹ tội nghiệp, con sẽ làm cho bà một đau đớn lớn lao! - Maria nói khi chen vào cuộc đàm thoại.
Giacôbê nói: “Đúng vậy. Bà ước ao biết bao sự giao hòa của các anh con với Giêsu và với chúng con. Con tin là bà chỉ ước ao có điều đó. Nhưng chắc chắn là không phải ở xa mà chúng con làm được điều đó. Juđa, từ trước tới giờ anh cho là em có lý khi sống cách biệt, nhưng từ ngày mai, anh muốn ra ngoài, gặp người nọ người kia... Vì nếu chúng ta phải giảng Tin Mừng cho ngay cả dân ngoại, tại sao chúng ta lại không giảng cho thành phố của chúng ta? Anh, anh không tin là tất cả đều xấu và không thể cải hóa”.
Juđa Thađê không đối đáp nữa, nhưng ông có vẻ lo lắng rõ rệt. Simon Zêlote thường luôn luôn yên lặng, can thiệp vào: “Tôi, tôi không muốn chen vào các ngờ vực. Nhưng để làm nhẹ nhõm cho lòng trí các anh, xin cho phép tôi đặt một câu hỏi, đó là: Các anh có chắc rằng trong sự dè dặt của Nazarét, không có các sức mạnh lạ nào đến từ các nơi khác, nhưng làm việc mạnh ở đây về những yếu tố mà nếu người ta lý luận cách chính đáng, thì nó phải cho những bảo đảm tốt nhất cho sự chắc chắn rằng Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa? Sự hiểu biết về đời sống trọn lành của Giêsu, một con dân Nazarét, phải làm cho dân Nazarét dễ dàng hơn để chấp nhận Người là Đức Messi đã được hứa. Tôi, còn hơn là các anh, và cùng với tôi, nhiều người khác nữa trạc tuổi tôi, chúng tôi đã biết, ít nhất là sự nổi tiếng của các Messi giả ở Nazarét. Và tôi bảo đảm với các anh rằng đời sống tư của họ đã đính chính cả những xác nhận kiên trì nhất về Đức Messi nơi họ. Rôma đã săn đuổi họ tàn bạo như các kẻ phản loạn. Nhưng ngoài những tư tưởng về chính trị mà Rôma không thể cho phép có tại những nơi họ cai trị, thì những Messi giả, vì những lý do đặc biệt, họ đáng bị phạt. Chúng ta thảo luận với họ và nâng đỡ họ, vì họ giúp chúng ta duy trì tinh thần phản loạn chống lại Rôma. Chúng ta phụ giúp họ bởi vì chúng ta trì độn, chúng ta muốn thấy nơi họ vị Vua đã được hứa. Điều đó như vậy cho tới khi Thầy bày tỏ rõ ràng chân lý. Nhưng khốn thay, mặc dầu
675
tất cả những điều đó, chúng ta đã không tin như chúng ta phải tin, tức là tin hoàn toàn. Những Messi giả này ru ngủ lòng trí đau khổ của chúng ta bằng những hy vọng độc lập quốc gia và tái thiết Vương Quốc Israel. Nhưng ôi! Khốn nạn! Một vương quốc như vậy sẽ lung lay và đồi trụy chừng nào! Không. Các Messi giả này tuyên bố là vua Israel và thiết lập vương quốc đã hứa là thực sự làm mất giá trị tư tưởng về Đấng Messi. Nơi Thầy của chúng ta có sự thánh thiện của đời sống, kết hợp với một giáo lý sâu xa. Và Nazarét biết Người hơn bất cứ thành nào khác. Tôi không nghĩ đến kết án Nazarét là cứng lòng tin, vì tính cách siêu nhiên của việc Người đến, họ, những người Nazarét, không được biết. Nhưng đời sống! Nhưng đời sống của Người!... Bây giờ có biết bao oán ghét, bao kháng cự bất khả xâm nhập... Nhưng tôi nói gì? Một sự kháng cự lan rộng, lẽ nào lại không có nguồn gốc từ các hoạt động của kẻ thù? Chúng ta biết các kẻ thù của Giêsu. Chúng ta biết nó có giá trị nào. Các anh nghĩ rằng ở đây chúng yên lặng và vắng mặt, trong khi ở khắp nơi, chúng hoặc đi trước, hoặc đi kèm, hoặc theo sau chúng ta để phá bỏ công việc của Đức Kitô sao? Đừng kết án Nazarét như kẻ duy nhất có tội, nhưng hãy khóc trên nó vì nó bị lạc đường bởi các kẻ thù của Giêsu.
- Con nói đúng, Simon. Hãy khóc trên nó - Giêsu nói, và Người u buồn.
Gioan Enđo nhận xét: “Anh cũng đúng khi nói rằng các yếu tố có lợi trở thành bất lợi, vì con người ít khi chính đáng trong các suy tư của họ. Ở đây trở ngại đầu tiên là sự khiêm tốn khi Người sinh ra, sự khiêm tốn của thời thơ ấu, sự khiêm tốn của tuổi vị thành niên, sự khiêm tốn của tuổi trẻ nơi Giêsu của chúng ta. Người ta quên rằng cái giá trị thật ẩn giấu dưới vẻ bề ngoài khiêm tốn, trong khi cái trống rỗng vô giá trị thì cải trang trong vẻ mạnh mẽ để áp đặt đám đông”.
- Có thể vậy... Nhưng không gì có thể thay đổi tư tưởng của tôi về các người đồng hương của tôi. Những điều mà người ta có thể nói với họ, họ phải biết phán đoán theo những công việc thực sự của Thầy, chứ không phải theo những lời nói của kẻ lạ.
676
Một yên lặng thật dài, chỉ bị cách quãng bởi tiếng động của vải vóc mà Đức Trinh Nữ cắt thành băng để làm giải. Sintica rất chú ý và không bao giờ nói. Cô ta luôn luôn giữ thái độ trọng kính sâu xa, sự dè dặt mà cô ta chỉ giảm bớt đối với Đức Trinh Nữ và đứa trẻ. Nhưng bây giờ đứa trẻ đã ngủ, ngồi trên ghế nhỏ ngay ở chân Sintica, đầu tựa vào đầu gối cô và trên cánh tay gập lại của nó. Nàng không nhúc nhích và chờ đợi Maria trao cho nàng một mảnh vải.
- Giấc ngủ ngây thơ chừng nào!... Nó mỉm cười... - Maria nói trong khi cúi nhìn khuôn mặt nhỏ của kẻ đang ngủ.
- Ai biết nó đang mơ cái gì - Simon cười nói.
- Đó là một đứa trẻ rất thông minh - Gioan nói. “Nó học rất lẹ và nó muốn những giải thích rõ ràng. Nó đặt những câu hỏi rất tinh tế, và nó muốn câu trả lời rành rẽ về mọi thứ. Tôi nhận biết rằng đôi khi tôi bị lúng túng vì phải cho câu trả lời. Đó là những lý luận cao hơn tuổi của nó, và cả bên trên khả năng giải thích của tôi”.
- Đúng! Giống như bữa đó, anh nhớ không Gioan. Anh đã có hai học trò rất khó tính bữa hôm đó, và rất ngu! - Sintica nói khi cô cười nhẹ, và cô nhìn người môn đệ đăm đăm bằng đôi mắt sâu của cô.
Gioan, đến lượt ông, cũng mỉm cười và nói: “Ờ, và hai người đã có một ông thầy rất bất lực, nên ông phải cầu cứu tới cô giáo thực... Vì trong tất cả các sách mà tôi đã đọc, tôi không tìm thấy câu trả lời cho một đứa trẻ. Tôi thực là nhà sư phạm ngu si. Đó là dấu chỉ tôi còn là nhà sư phạm ngu si”.
- Khoa học của nhân loại còn là sự vô tri, Gioan ạ. Đó không phải là sư phạm. Nhưng người ta đã cho cái tên đó cho cái không đủ để là vậy. Khoa học tội nghiệp của loài người! Ôi! Tôi cảm thấy nó qúa què quặt. Điều đó làm tôi nhớ đến một ông thần được tôn kính bên Hy Lạp. Phải có cái chủ nghĩa duy vật của dân ngoại để có thể tin được rằng người Hy Lạp, dù không có cánh, cũng sẽ có chiến thắng mãi. Không phải chỉ là đôi cánh của thần Chiến Thắng, mà là tự do là cái chúng tôi bị lấy mất. Theo lòng tin của chúng tôi thì nó có cánh là tốt hơn. Chúng tôi tin là nó có thể bay lên để ăn cắp sét của trời để làm nao núng kẻ thù. Nhưng trong tình trạng của
677
nó, thần Chiến Thắng đã không cho hy vọng, mà là thất vọng, một lời buồn. Tôi không thể nhìn nó mà không khổ... Nó có vẻ khốn nạn đối với tôi, bị mất giá trị vì sự tàn phế của nó. Nó tượng trưng cho đau đớn chứ không cho niềm vui... Và nó là vậy. Người ta cũng hành động đối với khoa học như đối với Thần Chiến Thắng: họ cắt cụt đi những cánh cho phép nó đạt tới những hiểu biết siêu nhiên; những cái cánh có thể cho nó cái chìa khóa để mở ra biết bao bí mật về những điều khả tri và về sự tạo dựng. Họ đã tin, và họ còn tin là đã bắt được nó làm tù binh khi cắt cụt đôi cánh của nó... họ chỉ làm cho nó thành sút kém... Khoa học có cánh sẽ là sự khôn ngoan. Còn như lúc này, nó chỉ là sự hiểu biết từng phần.
- Và bữa đó mẹ Thầy đã trả lời cho các con?
- Với một sự sáng sủa hoàn toàn và một lời trong trắng, có thể được nghe bởi một đứa trẻ và hai người lớn thuộc hai phái khác nhau mà không ai phải xấu hổ cả.
- Mẹ nói theo cái gì?
- Thưa Thầy, về tội nguyên tổ. Con đã ghi chú những lời của mẹ Thầy để nhớ - Sintica nói. Và Gioan cũng nói: “Chính con, con nghĩ đó là vấn đề người ta đặt vấn nạn rất nhiều, nếu một ngày nào đó chúng ta đến ở giữa dân ngoại. Con, con không nghĩ tới các miền đó, bởi vì...”
- Tại sao Gioan?
- Bởi vì con chỉ còn rất ít thời gian để sống.
- Nhưng con sẽ tình nguyện tới đó?
- Tình nguyện hơn nhiều người Israel khác, vì con không có thành kiến. Và cũng vì... Vâng, cũng vì điều này nữa: Con đã làm nhiều gương mù ở Cintium và Anatoli. Con muốn tới làm điều tốt tại các nơi con đã làm điều xấu. Điều tốt để làm là mang lời Thầy đến đó, làm cho người ta biết Thầy... Nhưng điều đó là vinh dự qúa lớn, con không đáng được.
Giêsu nhìn ông và mỉm cười, nhưng Người không nói gì về vấn đề này. Người hỏi: “Các con không còn câu nào cần hỏi Thầy nữa à?”
678
- Con, con có một câu. Con nghĩ tới nó buổi chiều hôm đó, khi Thầy nói với đứa trẻ về sự nhàn rỗi. Con đã cố để trả lời cho mình mà không thành công. Con chờ ngày Sabát để hỏi Thầy, vì ngày đó chân tay không bận rộn, và tâm hồn chúng con được nâng lên tới Thiên Chúa - Sintica nói.
- Hãy đặt câu hỏi của con bây giờ đi, trong lúc chờ giờ đi nghỉ.
- Thưa Thầy đây: Thầy đã nói là nếu ai nguội lạnh trong việc thiêng liêng, nó sẽ trở nên yếu và dọn đường cho các bệnh về tinh thần, phải không?
- Đúng đó con.
- Bây giờ con thấy như điều đó đối nghịch với điều con đã nghe từ Thầy và từ mẹ Thầy về tội nguyên tổ, về ảnh hưởng của nó nơi chúng ta, về sự giải phóng cho khỏi tội này nhờ trung gian của Thầy. Qúi vị đã dạy con rằng Sự Cứu Chuộc hủy bỏ nguyên tội. Con tin rằng con không lầm khi nói rằng nó sẽ không được hủy bỏ cho hết mọi người, nhưng chỉ cho những ai tin ở Thầy.
- Đúng vậy.
- Vậy con bỏ qua những người khác, và lấy trường hợp của một người được cứu chuộc, con nhìn họ sau những hậu qủa của ơn cứu chuộc. Tâm hồn họ không còn tội nguyên tổ, nó trở lại được chiếm hữu Ân Sủng như đôi cha mẹ đầu tiên đã có. Vậy điều đó không cho nó một sự cường tráng để không một sự ẻo lả nào có thể tấn công nó được sao? Thầy đã nói: “Con người cũng có phạm các tội riêng”. Đồng ý như vậy. Nhưng con nghĩ rằng họ cũng sẽ sa ngã dù có sự cứu chuộc của Thầy. Con không hỏi Thầy thế nào. Nhưng con giả sử, để chứng minh rằng nó thực sự hiện hữu - hơn nữa, con không biết việc cứu chuộc sẽ xảy ra thế nào, mặc dầu tất cả những điều có liên can tới Thầy trong sách Thánh thì làm cho người ta run sợ, và con hy vọng đó là một sự đau đớn tượng trưng, giới hạn ở phần tinh thần, mặc dầu sự đau đớn tinh thần không phải là ảo giác, mà là một sự co giật, có thể còn ghê gớm hơn sự co giật về vật chất - con giả dụ rằng Thầy sẽ để lại các phương tiện, những dấu hiệu. Mọi tôn giáo đều có những thứ đó, và người ta gọi chúng
679
là mầu nhiệm... Phép rửa có hiệu lực hiện nay trong Israel là một trong những cái đó phải không?
- Đúng. Sẽ có, với các tên khác nhau tùy cái mà con cho người ta. Trong tôn giáo của Thầy cũng sẽ có những dấu hiệu về sự Cứu Chuộc của Thầy, áp dụng cho các linh hồn để thanh tẩy, để củng cố, để soi sáng, để nâng đỡ, để nuôi nấng, để xá giải.
- Vậy sao? Nếu họ được xá giải các tội riêng, họ sẽ luôn luôn ở trong Ân Sủng... Vậy làm sao họ lại yếu đuối và dọn đường cho các bệnh về tinh thần?
- Thầy mang tới cho con một sự so sánh: Hãy coi một đứa trẻ mới sinh bởi cha mẹ lành mạnh. Nó cũng lành mạnh và lực lưỡng. Trong cơ thể nó không có một hư hại di truyền nào. Các cơ quan của nó đều hoàn bị, về bộ xương cũng như các cơ phận. Nó có một dòng máu lành mạnh, bởi vậy nó có mọi thứ cần thiết để lớn lên khỏe mạnh và lành lặn, bởi vì mẹ nó cũng có sữa dồi dào và bổ dưỡng. Nhưng ngay từ những lúc đầu của cuộc đời, nó bị nhiễm một thứ bệnh trầm trọng mà người ta không biết nguyên nhân. Một thứ bệnh chí tử. Nó thoát khỏi cơn ngặt nghèo một cách rất khó khăn nhờ tình thương Thiên Chúa giữ sự sống cho nó khi nó đã tới điểm lìa thân xác. Vậy con có tin là sau đó đứa trẻ có thể lực lưỡng như là nếu nó không mắc bệnh này không? Không. Nó sẽ thường xuyên yếu đuối, dù là nó không rõ ràng, nhưng nó có, và nó dễ dàng bị nhiễm những bệnh mà nó có thể tránh được nếu nó đã không mắc bệnh trước. Vài cơ quan sẽ không còn nguyên vẹn như trước. Máu nó có sức kháng cự ít hơn và ít trong sạch hơn trước. Nó có tất cả những lý do làm cho nó nhiễm bệnh dễ dàng hơn, và những thứ này, khi đã tới mức, nó có thể lại bị cái bệnh trước.
Cũng như vậy trong lãnh vực thiêng liêng. Tội nguyên tổ được xóa bỏ nơi những kẻ tin vào Thầy, nhưng thần trí vẫn giữ cái khuynh hướng về tội lỗi mà nếu không có nguyên tội thì nó không có. Vì vậy phải canh chừng và săn sóc liên tục thần trí của nó, giống như một bà mẹ lo lắng cho đứa con cưng luôn luôn yếu đuối sau cơn bệnh lúc còn nhỏ. Vậy phải tránh sự nhàn rỗi và luôn luôn sinh hoạt
680
để củng cố các nhân đức. Nếu ai rơi vào sự lười biếng hay lơ là, nó sẽ dễ dàng bị Satan lôi kéo. Và tất cả các tội nặng, giống như người bị té cao, sẽ dọn đường cho nó luôn luôn sẵn sàng hơn cho sự tàn phế và sự chết của linh hồn. Trái lại, nếu Ân Sủng do ơn cứu chuộc trả lại luôn luôn được giúp đỡ bởi một ý chí hoạt động không biết mệt, thì đó, như vậy nó sẽ đứng vững, và không phải chỉ có thế, nó còn lớn lên, liên kết với các nhân đức mà con người đã chinh phục được. Sự Thánh Thiện và Ân Sủng! Những đôi cánh vững chắc chừng nào để bay về với Thiên Chúa! Con hiểu chưa?
- Lạy Chúa, vâng. Thầy, tức là Ba Ngôi chí thánh, ban cho con người cái nền tảng mà nó cần. Con người, nhờ việc làm của nó và sự chú ý của nó, phải xa lánh sự tàn phá chính mình. Con hiểu. Mọi tội nặng đều tàn phá Ân Sủng, tức là sức khỏe của linh hồn. Những dấu hiệu mà Thầy sẽ để lại cho chúng con, sẽ trả lại sức khỏe, đúng vậy, nhưng kẻ tội lỗi lì lợm từ chối chống lại tội lỗi, sẽ trở nên mỗi lúc một yếu hơn, dù là sau mỗi lần té, nó đều nhận ơn tha thứ. Vậy phải chiến đấu để đừng hư hỏng. Cám ơn Chúa... Margziam thức giấc. Trễ rồi...
- Ừ, ta hãy cùng nhau cầu nguyện, rồi đi nghỉ.
Giêsu đứng dậy, mọi người làm theo, kể cả thằng nhỏ còn nửa ngủ. Và Kinh “Lạy Cha chúng con” vang lên đầy sức sống và hòa hợp trong căn phòng nhỏ.
174* GIÊSU VỚI SALÔMÊ,
VỢ CỦA ANH HỌ SIMON
Giêsu với Simon Zêlote và Margziam đi băng qua Nazarét về hướng miền quê trải ra về phía Cana. Người băng qua thành phố của Người, vẫn cứng lòng tin và thù hận. Người đi vào những phố nhỏ ở trung tâm, đi xéo qua công trường của khu chợ đang đông đúc vào giờ sớm mai này. Nhiều người quay nhìn Người, rất ít người chào, thường là đàn bà, nhất là các người già, họ mỉm cười với
681
Người, nhưng ngoài mấy đứa trẻ, không ai đến với Người cả. Có tiếng xì xèo theo sau Người khi Người đi qua. Chắc chắn là Giêsu nhìn thấy hết, nhưng Người không bộc lộ ra. Người nói chuyện với Simon hay với đứa trẻ, nó ở giữa hai người, và Người theo con đường của Người.
Bây giờ họ đã tới căn nhà sau cùng. Trên ngưỡng cửa có một người đàn bà trạc tứ tuần. Hình như bà chờ đợi ai. Khi bà nhìn thấy Giêsu, bà như muốn bước tới, nhưng rồi bà dừng lại, cúi đầu, đỏ mặt.
- Đó là người bà con, vợ của Simon Alphê - Giêsu nói với vị tông đồ.
Người đàn bà như ngồi trên gai, bị làm mồi cho những tình cảm trái ngược. Bà biến sắc, ngước mắt lên rồi lại cúi xuống. Tất cả khuôn mặt bà bộc lộ ước ao được nói, nhưng có điều gì đó giữ nó lại.
- Bình an cho chị, Salômê - Giêsu nói để chào bà khi người tới ngang cửa nhà bà.
Người đàn bà nhìn Người, tựa như ngạc nhiên vì giọng nói tình nghĩa của người em họ. Bà trở nên đỏ hơn và trả lời: “Bình an cho...” Sự muốn khóc ngăn cản bà nói hết câu. Bà gấp cánh tay lại, che mặt và khóc cách lo âu, gục vào khung cửa nhà.
- Salômê, tại sao chị khóc như vậy? Tôi không thể làm gì để an ủi chị sao? Lại đây, chỗ góc này, và hãy nói cho tôi: chị có điều gì?... - Rồi Người cầm khuỷu tay bà, dắt bà tới chỗ lối hẻm ở giữa nhà bà và khu vườn của nhà kề bên. Simon và Margziam ngạc nhiên, đứng lại ở lối vào đường hẻm.
- Chị làm sao, Salômê? Chị biết là tôi yêu chị. Tôi luôn luôn yêu tất cả qúi vị. Tất cả. Và luôn luôn như vậy. Chị phải tin vậy, và vì thế, hãy tin tưởng...
Tiếng khóc ngừng như để nghe những lời này và để hiểu ý nghĩa thật của nó, rồi nó lại vang lên mạnh hơn, gián đoạn bởi những lời rời rạc: “Em, đúng.. chúng ta... tôi, không... nhưng... và không, cả Simon... nhưng ông ta ngu xuẩn hơn chị. Chị đã bảo ông ta... ‘Hãy gọi Giêsu’... Nhưng cả xứ chống lại chúng ta, chống lại em... chống
682
lại chị... chống lại con chị...” Khi tới điểm bi đát, tiếng khóc cũng trở nên bi đát. Người đàn bà vặn mình và rên rỉ, đập vào mặt tựa như nỗi đau làm bà mê sảng.
Giêsu cầm tay bà và nói: “Đừng làm vậy. Em ở đây để an ủi chị. Hãy nói, và em, em sẽ làm hết...”
Người đàn bà nhìn Người và giương to đôi mắt ngạc nhiên và đau khổ. Nhưng hy vọng cho bà sức mạnh để nói, và bà nói cách điềm đạm: “Dù là Simon có tội, em có thương chị không? Thực à?... Ôi! Giêsu cứu hết mọi người! Con chị, Alphê, đứa chót, nó bệnh... nó sắp chết... Em đã yêu nó, Alphê. Em đã làm cho nó những đồ chơi bằng gỗ... Em đã nâng nó lên để nó hái những trái nho, trái sung của các cây nhà em... Và trước khi ra đi để... để đi vào thế giới, em đã dạy nó biết bao điều hay... Bây giờ, em không thể nữa... nó như chết vậy. Nó không ăn nho cũng như sung nữa. Nó không học cái gì nữa...” Và bà khóc với dòng nước mắt nóng.
- Salômê! Hãy tốt. Hãy nói cho em nó bệnh gì?
- Bụng nó rất đau. Nó la, biểu lộ sự co giật, mê sảng bao nhiêu ngày rồi. Bây giờ nó không nói nữa. Nó giống như bị người ta đập vào đầu. Nó rên nhưng không trả lời. Cả đến nó không biết là mình rên. Nó xanh mét. Nó đã lạnh rồi. Bao nhiêu ngày rồi, chị năn nỉ Simon đi tìm em. Nhưng... Chị luôn luôn yêu ông ta, nhưng lúc này chị ghét ông ta, vì đó là một tên ngu, vì một tư tưởng ngu xuẩn mà để con chết. Nhưng nó chết thì chị sẽ bỏ đi, về nhà chị với những đứa con khác của chị. Ông ta không có khả năng làm cha khi cần thiết. Còn chị, chị bảo vệ các con của chị. Chị sẽ đi. Thế giới cứ việc nói như họ muốn. Chị sẽ đi.
- Đừng nói như vậy. Chị hãy bỏ ngay cái tư tưởng báo thù đó đi.
- Chị khởi loạn vì sự công bằng. Em thấy không? Chị, chị đã chờ em, nhưng bởi vì không có ai nói với em là: “Hãy đến”. Chị, chị nói vậy với em. Nhưng chị phải làm điều đó tựa như đó là một hành động xấu. Và chị không thể nói với em: “Hãy vào”, vì trong nhà có những người của Giuse, và...
- Không cần. Chị có hứa với em là chị sẽ tha cho Simon không?
683
Rằng chị sẽ luôn luôn là người vợ tốt của ông. Nếu chị hứa vậy với em thì em nói với chị: “Hãy vào nhà chị đi, con trai chị được khỏi, nó sẽ mỉm cười với chị”. Chị có tin vậy không?
- Chị, chị tin ở em, dù là chống lại cả thế giới. Chị tin.
- Và cũng như chị có đức tin, chị có sự tha thứ không?
- Thực tình em sẽ chữa nó cho chị không?
- Không phải chỉ có thế. Em hứa với chị là Simon sẽ hết nghi ngờ em, và bé Alphê, và các đứa khác cùng với nó, và chị với chồng chị, cha của chúng nó, tất cả sẽ đến nhà em. Mẹ em vẫn thường nhắc tên chị.
- Ôi! Maria, Maria! Nó sinh khi cô ấy ở đó, Alphê... ừ, Giêsu, chị sẽ tha. Chị sẽ không nói gì ông ta cả... Không, đúng hơn, chị sẽ bảo ông ta: “Đây, Giêsu đã trả lời cho cách hành động của ông bằng cách trả đứa con trai cho ông”. Điều đó chị có thể nói.
- Chị có thể nói điều đó... Đi, Salômê. Đi đi, đừng khóc nữa. Chào. Bình an cho chị, Salômê tốt. Đi. Đi! - Người dắt bà lại cửa, nhìn bà đi vào, mỉm cười khi thấy bà lo lắng chạy tới cửa vào, cả đến không khép cửa. Người tiến lại và từ từ khép hẳn cửa lại.
Người trở ra với hai người cùng đi và nói: “Bây giờ chúng ta đi tới nơi chúng ta phải tới”.
Zêlote hỏi Người: “Thầy có tin là Simon sẽ hoán cải không?”
- Đó không phải là kẻ bất trung. Đó chỉ là kẻ để mình bị cai trị bởi kẻ mạnh.
- Ôi! Vậy mạnh hơn phép lạ cơ à?
- Con thấy là con đã tự ý trả lời cho mình... Thầy bằng lòng vì đã cứu đứa bé. Thầy đã thấy nó từ lúc nó được vài giờ, và nó luôn luôn rất yêu Thầy.
- Giống như con à? Và nó sẽ trở thành môn đệ? - Margziam hỏi ngay, và nó khó lòng tin được là có người nào nữa có thể yêu Giêsu như nó.
- Con, con yêu Thầy như con và như môn đệ. Alphê chỉ yêu Thầy như con. Nhưng sau này nó cũng sẽ yêu Thầy như môn đệ. Bây giờ nó còn nhỏ. Nó chỉ có khoảng tám tuổi. Con sẽ thấy nó.
684
- Vậy là như con và như môn đệ thì chỉ có con?
- Lúc này thì chỉ có mình con. Con là thủ lãnh của các trẻ em môn đệ. Khi con đã hoàn toàn là người lớn, con hãy nhớ rằng con đã biết làm một môn đệ không thua gì người lớn, và vì vậy con sẽ mở vòng tay ra cho hết những trẻ em sẽ đến với con để tìm Thầy và nói: “Tôi muốn làm môn đệ Đức Kitô”. Con sẽ làm vậy không?
- Con sẽ làm vậy - Margziam đoan trang hứa quyết.
Miền quê mở ra, chìm trong ánh dương, và họ rời bỏ tôi dưới mặt trời.
175* ÔNG ANH HỌ SIMON
TRỞ VỀ VỚI GIÊSU
Các ngài được đón tiếp trong một căn nhà nghèo, nơi có một bà già nhỏ thó, được bao quanh bởi một bầy con nít từ hai tới mười tuổi hơn kém. Căn nhà ở giữa một cánh đồng không được săn sóc mấy. Nhiều nơi đã thành đồng cỏ, nơi các cây ăn trái sống sót ngoi đầu lên cao.
- Bình an cho bà, Jeanne. Hôm nay có khá hơn không? Họ đã mang đồ cứu trợ cho bà chứ?
- Vâng, thưa Thầy và Giêsu. Họ nói với con là họ sẽ trở lại để gieo hạt. Đã trễ rồi, nhưng họ nói là nó còn mọc.
- Chắc chắn là nó sẽ mọc. Điều sẽ là phép lạ của đất và hạt giống, sẽ trở thành phép lạ của Thiên Chúa, bởi vậy sẽ là một phép lạ hoàn toàn. Cánh đồng của bà sẽ tốt nhất trong vùng, và các con chim đang vây quanh bà sẽ có hạt dồi dào để lấp đầy họng chúng. Đừng khóc nữa. Năm tới sẽ khá hơn nhiều, và Thầy sẽ còn giúp bà nữa. Hay đúng hơn, bà sẽ được trợ giúp bởi một người có tên giống như bà, một người không bao giờ no nê làm việc tốt. Nhìn đây: cái này dành cho bà. Với món này, bà có thể sống tới mùa gặt.
Người đàn bà già nhỏ cầm túi tiền, cùng một lúc bà cầm tay Giêsu, vừa hôn vừa khóc. Rồi bà hỏi: “Hãy nói cho con ai là người tốt lành đó, để con nói tên họ cho Chúa”.
685
- Một trong các môn đệ của Thầy và là chị em của bà. Tên bà ta thì Thầy và Cha trên Trời đều biết.
- Ôi! Chính là Thầy.
- Thầy, Thầy là người nghèo. Thầy cho đi những cái người ta cho Thầy. Từ chính Thầy, Thầy chỉ có thể cho các phép lạ. Thầy tiếc vì đã không biết sự khốn khổ của bà sớm hơn, Thầy tới khi Suzane vừa nói với Thầy. Bây giờ đã trễ, nhưng như vậy càng làm rạng tỏ hơn công trình của Thiên Chúa.
- Trễ! Đúng! Trễ! Cái chết đã đến rất lẹ để gặt ở đây. Và nó đã bắt những người trẻ. Không phải bắt con là kẻ vô ích, cũng không phải bắt những đứa này là những đứa bất lực, nhưng bắt những kẻ vững vàng cho công việc. Khốn kiếp cái tuần trăng Elul mang đầy ảnh hưởng độc ác.
- Đừng nguyền rủa hành tinh, nó không ăn nhằm gì với việc đó cả... Mấy đứa nhỏ này có tốt không? Hãy lại đây. Các con thấy không? Anh này cũng là một đứa trẻ không cha, không mẹ, anh ta đã không thể sống ngay cả với ông ngoại của anh. Nhưng Thiên Chúa đã không bỏ rơi anh ta một bước. Và Người sẽ không bỏ rơi anh ta bao lâu anh ta tốt. Có phải không Margziam?
Margziam đồng ý, và nó nói với các đứa trẻ vây quanh nó, nhỏ hơn nó về tuổi, nhưng chắc chắn về mẫn cảm thì lớn hơn. Nó nói: “Ôi! Đúng thật là Thiên Chúa không bỏ rơi. Tôi, tôi có thể nói điều đó. Ông ngoại tôi đã cầu nguyện cho tôi, và chắc chắn là cả cha mẹ tôi ở bên kia thế giới nữa. Và Thiên Chúa đã nghe những lời cầu nguyện này, vì Người rất tốt. Người luôn luôn nghe lời cầu nguyện của kẻ công chính, dù còn sống hay đã chết. Với các bạn, chắc chắn các người chết của các bạn đã cầu nguyện. Và bà nội nhỏ này nữa, các bạn có yêu bà không?”
- Có, có... - tiếng ríu rít của bầy trẻ mồ côi vang lên dễ thương.
Giêsu nín lặng để nghe cuộc đàm thoại giữa người môn đệ nhỏ của Người với đám trẻ mồ côi.
- Các bạn có lý. Các người già, không nên làm họ khóc. Vả lại, không được làm cho ai khóc, vì kẻ làm đau cho tha nhân là làm đau
686
cho Thiên Chúa. Nhưng các người già! Ông Thầy đối xử tốt với hết mọi người, nhưng với những người già, Người hoàn toàn âu yếm như đối với trẻ con. Vì các trẻ con thì vô tội, các người già thì đau khổ. Họ đã khóc biết bao rồi. Phải yêu họ hai lần, ba lần, mười lần, thay cho tất cả những ai không yêu họ nữa. Giêsu luôn luôn nói là ai không kính trọng các người già là độc ác hai lần cũng như các người đối xử độc ác với trẻ em. Bởi vì người già và trẻ em không thể tự vệ được. Bởi vậy các bạn hãy tốt với mẹ già.
- Tôi, đôi khi tôi không giúp bà - một trong các đứa lớn nói.
- Tại sao? Nhưng bạn đã ăn tấm bánh bà đưa cho bạn với sự mệt mỏi của bà. Bạn không cảm thấy ở đó cái vị nước mắt của bà khi bạn làm khổ bà sao? Còn bà, bà ơi, bà có giúp mẹ già không? (người đàn bà được hỏi, mới cao lắm là mười tuổi. Đó là một bé gái gầy gò xanh xao).
Các đứa em trai nó cùng nói: “Ôi! Rakel rất tốt. Chị thức khuya để kéo một ít sợi len và gai mà chúng tôi có, và chị đã bị sốt trong ruộng khi chuẩn bị nó cho việc gieo giống sau khi ba chết”.
- Thiên Chúa sẽ thưởng công cho bà - Margziam nói nghiêm trang.
- Người đã thưởng cho tôi rồi, bằng cách làm nhẹ đau khổ cho bà nội.
Giêsu can thiệp: “Con không xin điều gì nữa à?”
- Bẩm Chúa không.
- Nhưng con có được lành không?
- Bẩm Chúa không. Nhưng không quan trọng. Bây giờ nếu con chết, bà nội sẽ được trợ giúp. Trước đây con không muốn chết vì con phải giúp bà.
- Nhưng chết là chuyện nguy hiểm, bé gái ạ.
- Cũng như Thiên Chúa đã giúp con lúc sống, Người cũng sẽ giúp con lúc chết, và con sẽ gặp lại má con... Ôi! Bà nội đừng khóc. Con yêu bà lắm! Con không nói vậy nữa nếu điều đó làm bà khóc. Và nếu bà muốn, con sẽ nói với Chúa để Người chữa con. Má nhỏ
687
ơi, đừng khóc...” Và con bé ôm hôn bà già thiểu não.
- Chữa cho cô ta khỏi đi Chúa. Cha già của con, Thầy đã làm cho sung sướng vì con. Xin thầy cũng làm cho bà già nhỏ này sung sướng bây giờ đi!
- Ơn phúc chỉ được bằng hy sinh. Con, con sẽ làm việc hy sinh nào để được ơn ấy? - Giêsu hỏi cách trang trọng.
Margziam suy nghĩ... Nó tìm xem cái gì đối với nó là khó từ bỏ nhất... Rồi nó mỉm cười: “Con sẽ không ăn mật ong nữa trong suốt một tuần trăng”.
- Không nhiều gì. Tuần trăng tháng Casleu đã qua nhiều rồi.
- Con nói một tuần trăng là nói bốn pha. Và hãy nghĩ... Những ngày này sẽ là Lễ Ánh Sáng, và sẽ có bánh tráng nướng trét mật ong...
- Đúng thế. Vậy Rakel sẽ được khỏi nhờ con. Bây giờ chúng ta đi. Chào Jeanne. Trước khi trẩy đi, Thầy sẽ còn trở lại. Chào Rakel, và con, Tobie. Hãy luôn luôn tốt. Chào tất cả các con nhỏ. Nguyện phúc lành của Thầy ở trên các con, và bình an của Thầy ở trong các con.
Họ đi ra, được theo sau bởi lời chúc phúc của bà già nhỏ và đàn trẻ.
Margziam, sau khi đã đóng vai “tông đồ và nạn nhân” của nó, nó bắt đầu nhảy như một con dê con và chạy đi ở đàng trước.
Simon quan sát và mỉm cười: “Bài giảng đầu tiên của nó và sự hy sinh đầu tiên của nó. Đó, kẻ đã hứa, Thầy không thấy sao?”
- Có, nhưng nó đã giảng nhiều lần rồi, kể cả cho Judas Simon.
- Hình như Chúa muốn nói với ông ta qua miệng trẻ nít... có lẽ để tránh ông ta báo thù...
- Báo thù thì không... Thầy không tin là Judas đi tới một việc như vậy. Nhưng những phản ứng mạnh mẽ thì đúng. Kẻ xứng đáng bị quở trách thì không thích sự thật... Nhưng phải nói...
Simon quan sát Người rồi hỏi: “Thưa Thầy, xin Thầy nói sự thật cho con: Thầy đã cho ông ta đi xa, và Thầy đã quyết định cho mọi người về nhà mừng Lễ Ánh Sáng để ngăn cản Judas ở lại Galilê
688
vào dịp này. Con không hỏi Thầy và con không muốn Thầy nói cho con tại sao lại là tốt khi con người xứ Kêriot không ở với chúng ta. Con chỉ cần đoán là biết. Mọi người đều nghĩ, Thầy biết không? Cả chính Tôma. Anh ta đã nói với con: ‘Tớ đi, không hề phản ứng, vì tớ hiểu ở bên dưới phải có một lý do nghiêm trọng’. Và anh ta thêm: ‘Và Thầy đã làm rất đúng như Người đã làm. Có qúa nhiều Nahum, Sađốc, Giocana, Êlêazar trong số bạn hữu của Judas...’ Anh chàng Tôma đâu có ngu, và anh ta cũng không xấu, mặc dầu rất con người. Trong tình cảm đối với Thầy, anh ta rất chân thành...”
- Thầy biết. Và điều các con nghĩ là đúng. Sắp sửa Thầy sẽ cho các con biết lý do.
- Chúng con không hỏi Thầy đâu.
- Nhưng Thầy phải xin các con giúp, và Thầy phải nói cho các con.
Margziam hỏa tốc chạy lại: “Thầy ơi, ở đàng kia, chỗ đường hẻm đi vào con lộ, có ông anh họ Simon của Thầy, đầy mồ hôi, tựa như ông ta đã chạy xa lắm. Ông hỏi con: ‘Giêsu đâu?’ Con trả lời: ‘Ở đàng sau đây với Simon Zêlote’. Ông hỏi con: ‘Người có đi qua đây không?’ Con trả lời: ‘Chắc chắn có. Chúng tôi đi qua ngả này để về nhà, làm giống như các con chim bay đi và đến từ mọi phía để về tổ. Ông muốn gặp Người không?’ Con đã hỏi ông ta như vậy. Nhưng ông anh của Thầy ngập ngừng. Ông ta muốn Thầy, con chắc vậy”.
- Thầy ơi, ông ta đã gặp vợ ông... Chúng ta làm như vầy: Margziam và con, chúng con để Thầy tự do. Chúng con sẽ đi qua lối đàng sau. Dầu sao, chúng con đâu có phải về gấp... Còn Thầy, Thầy theo đường thẳng.
- Ừ, cám ơn Simon. Chào cả hai.
Họ chia tay, và Giêsu dấn lẹ bước vào con đường rộng. Đây, Simon, tựa lưng vào một thân cây, thở dốc và lau mồ hôi. Nhìn thấy Giêsu, ông giơ hai tay lên, rồi lại để rơi xuống và cúi đầu khiêm hạ.
Giêsu tới nơi, đặt tay trên vai ông và hỏi: “Simon, anh muốn gì ở
689
tôi? Hãy làm vui lòng tôi bằng cách nói với tôi một lời tình nghĩa mà tôi chờ đợi ở anh từ nhiều ngày rồi”.
Simon lại cúi đầu hơn nữa và giữ thinh lặng.
- Vậy nói đi! Phải chăng tôi là một người lạ đối với anh? Không, sự thật, anh luôn luôn là ông anh Simon tốt của tôi; và tôi, đối với anh, tôi là bé Giêsu mà anh đã bồng cách nặng nề trong tay anh với bao tình yêu khi chúng tôi trở về Nazarét.
Người đàn ông lấy tay che mặt, qùi sụp xuống và rên rỉ: “Ôi! Giêsu của anh! Chính anh là kẻ có tội. Nhưng anh đã bị phạt đủ rồi...”
- Nào, đứng lên đi! Chúng ta là bà con. Nào, anh muốn gì?
- Con anh! bị... - Và tiếng khóc làm nghẹn ông ta.
- Con anh? Sao?
- Nó thực tình đang chết. Và tình yêu của Salômê sẽ chết theo với nó... Anh ở lại với hai ân hận: bị mất con và mất vợ cùng một trật... Đêm vừa qua anh nghĩ là nó đã chết, và bà ta đối với anh như một con linh cẩu. Bà hét vào mặt anh: “Đồ sát nhân của con mày!” Anh đã cầu cho nó đừng chết, và thề hứa với mình là sẽ đến tìm em nếu đứa trẻ hồi lại, dù là người ta xua đuổi anh - vả lại, anh đáng bị như vậy - để cho em biết là chỉ có mình em có thể ngăn cản nỗi khốn nạn của anh. Lúc bình minh, đứa trẻ hơi tỉnh lại. Anh trốn khỏi nhà để đến nhà em lối phía sau thành phố để không gặp trở ngại... Anh gõ cửa, mẹ em đã mở cho anh, ngạc nhiên. Bà đã có thể không thèm tiếp anh, nhưng bà chỉ nói với anh: “Simon tội nghiệp! Có chuyện gì vậy?” Và bà vuốt ve anh tựa như anh còn là một đứa trẻ... Điều đó làm anh khóc rất nhiều. Và như vậy, kiêu căng và nghi ngờ biến mất. Có lẽ nào là thật được điều mà Judas tông đồ của em đã nói với hai anh, Judas chứ không phải em của anh. Điều đó anh không nói với Maria, nhưng anh tự nói với chính mình trong khi đấm ngực và cho mình đủ loại tên từ lúc đó. Anh nói với bà: “Giêsu có ở đây không? Là vì Alphê. Nó sắp chết...” Maria nói với anh: “Chạy mau đi! Người đi về phía Cana với đứa trẻ và một tông đồ, trên đường đi Cana. Nhưng lẹ đi. Người đi từ rạng đông, bây giờ
690
Người sắp về. Cô sẽ cầu nguyện để cháu gặp được Người”. Không một lời khiển trách nào. Không một lời! Anh là người đáng lời khiển trách biết bao!
- Em cũng không. Em không khiển trách anh, nhưng em mở cách tay em ra cho anh để...
- Trời ơi! Để nói với anh là Alphê đã chết!...
- Không, để nói với anh là em yêu anh nhiều.
- Vậy đến đi! Mau đi! Mau đi!
- Không. Điều đó không cần.
- Em không đến à? A! Em không tha thứ? Hay là Alphê đã chết? Nhưng dù nó đã chết, Giêsu! Giêsu! Giêsu! Em đã cho người chết sống lại, hãy trả lại con anh cho anh đi! Ôi! Giêsu nhân từ!... Ôi! Giêsu rất thánh!... Ôi! Giêsu mà anh đã bỏ rơi!... Ôi! Giêsu! Giêsu! Giêsu!... - Tiếng khóc của người đàn ông làm đầy con đường vắng, trong khi ông ta lại qùi gối, co quắp, vò nhàu y phục của Giêsu, hôn chân Người, bị đè bẹp bởi nỗi đau, sự ân hận và tình yêu phụ tử.
- Anh không ghé qua nhà trước khi tới đây à?
- Không. Anh chạy như điên tới đây... Tại sao? Có một sự đau đớn khác à? Salômê đã trốn đi à? Bà ta đã hóa điên à? Đêm qua bà ta đã có vẻ điên...
- Salômê đã nói chuyện với em. Chị đã khóc. Chị đã tin. Simon, hãy về nhà anh. Con trai anh khỏi bệnh rồi.
- Em!... Em!... Em đã làm việc này cho anh là kẻ đã xúc phạm tới em trong khi tin vào con rắn độc đó? Ôi! Lạy Chúa! Anh không xứng đáng được từng ấy! Xin tha! Xin tha! Xin tha! Hãy nói cho anh điều em muốn anh làm để sửa sai, để nói với em là anh yêu em, để em biết là anh đau khổ phải giữ khoảng cách, để nói với em là từ lúc em về đây, ngay trước khi Alphê bệnh nặng như vậy, anh đã ước ao nói với em!... Nhưng... Nhưng...
- Bỏ qua đi. Tất cả những điều đó là qúa khứ. Em, em không nhớ tới nữa. Anh cũng hãy làm như vậy. Và hãy quên đi cả những lời của Judas Kêriot. Đó là một đứa trẻ. Về anh, em chỉ muốn một điều này: bây giờ cũng như sau này, anh đừng bao giờ nhắc lại những lời
691
này với các môn đệ em, các tông đồ em, và nhất là với mẹ em. Chỉ có điều đó thôi. Simon, bây giờ hãy về nhà anh đi. Hãy bình an...
Đừng chậm trễ vui hưởng niềm vui đang tràn ngập nhà anh. Đi đi. Người hôn ông và đẩy nhẹ ông về phía Nazarét.
- Em không về với anh?
- Em chờ anh ở nhà em cùng với Salômê và Alphê. Đi đi. Và hãy nhớ là nhờ vợ anh biết tin vào chân lý mà anh có niềm vui hiện tại. Nhờ bà đó.
- Em muốn nói rằng với anh...
- Không. Em muốn nói rằng em cảm thấy sự ân hận nơi anh. Và sự ân hận của anh đến từ kẻ kết án anh... Thực sự Thiên Chúa kêu lên qua miệng những người tốt. Người cảnh cáo, khuyên bảo bởi họ... Em đã thấy lòng tin khiêm nhu và mạnh mẽ của Salômê. Đi đi, em bảo anh mà. Đừng chậm trễ hơn nữa để nói với bà lời “Cám ơn”.
Người đẩy mạnh ông ta để thuyết phục ông đi. Sau cùng, khi Simon bước đi, Người chúc lành cho ông... Rồi Người lắc đầu trong một màn độc thoại câm, và trong những giọt nước mắt lăn từ từ trên khuôn mặt xanh xao của Người... Chỉ có một tiếng được nói ra từ tư tưởng của Người: “Judas!”... Người đi cùng một con đường mà Zêlote đã đi, lối sau những ranh giới của thành phố, về hướng nhà Người.
176* SIMON PHÊRÔ TẠI NAZARÉT.
SỰ QUẢNG ĐẠI CỦA MARGZIAM
Buổi sáng đã hơi muộn khi Phêrô đến Nazarét một mình, ngoài sự chờ đợi của mọi người. Ông mang đùm đề những giỏ xách như một phu khuôn vác, nhưng ông rất sung sướng tới nỗi ông không cảm thấy sức nặng và sự mệt mỏi.
Với Maria, ông bộc lộ một nụ cười sung sướng khi mẹ ra mở cửa cho ông, và ông chào Mẹ vừa vui vừa kính trọng. Rồi ông hỏi: “Thầy và Margziam đâu?”
- Họ ở trên sườn dốc bên trên hang đá, nhưng về phía nhà Alphê.
692
Mẹ tin là Margziam đang hái ôliu, và chắc chắn là Giêsu chiêm niệm. Mẹ đi gọi họ.
- Để con lo cho.
- Ít nhất là con hãy bỏ những thứ này xuống.
- Không, không. Đó là những thứ làm ngạc nhiên cho đứa trẻ. Con thích thấy nó mở tròn mắt ra và lo lắng lục soát... Niềm vui của nó, đứa trẻ tội nghiệp của con.
Ông ra vườn, tới bên dưới bờ dốc, nấp ở trong hang đá, và ông la lên, cố ý hơi đổi giọng tiếng của ông: “Bình an cho Thầy”, rồi với giọng bình thường: “Margziam!”
Tiếng nói trẻ con của Margziam đang vang đầy không gian thinh lặng liền ngừng lại... Nghỉ một lát, rồi giọng nói nhỏ nhẹ như tiếng một cô gái nhỏ hỏi: “Thầy ơi, có phải bố con gọi con không?”
Có lẽ Giêsu đắm chìm trong tư tưởng của Người tới nỗi Người không nghe gì cả, hoặc là Người đã nhận ra ông.
Phêrô lại gọi: “Margziam!” Rồi ông phát ra một tràng cười lớn.
- Ôi! Đúng ông rồi! Bố ơi! Bố của con! Bố ở đâu?
Nó cúi xuống để nhìn trong vườn, nhưng nó không thấy gì... Giêsu cũng tiến lại để nhìn, nhưng Người chỉ thấy Maria đang mỉm cười trước cửa, và Gioan với Sintica cũng cười tại căn phòng ở đáy vườn, gần bếp lò.
Nhưng Margziam đã quyết định nhảy xuống từ trên bờ dốc gần chỗ hang đá, và Phêrô mau lẹ bắt lấy nó trước khi nó chạm đất.
Lời chào của hai bố con thật cảm động. Giêsu, Maria và hai người ở cuối vườn đều quan sát và mỉm cười, rồi tiến lại với nhóm nhỏ đầy tình nghĩa.
Phêrô thoát khỏi vòng tay của đứa trẻ như ông có thể để nghiêng mình trước Giêsu và lại chào Người. Giêsu hôn ông và hôn cả đứa trẻ. Nó không rời khỏi vị tông đồ, và nó hỏi ông: “Còn mẹ?”
Nhưng Phêrô mắc trả lời cho Giêsu khi Người hỏi ông, “Sao con đến sớm qúa vậy?”
- Thầy nghĩ là con có thể nhịn không thấy Thầy một thời gian lâu như vậy sao? Rồi nữa... Hé! Chính Porphyrê không để con yên:
693
“Đi coi Margziam xem, mang cho nó cái này, mang cho nó cái kia”. Bà làm như Margziam sống ở giữa đám trộm cắp hay trong sa mạc không bằng. Rồi đêm vừa qua, bà cố thức làm bánh tráng nướng, rồi khi nó vừa chín là bà bảo con đi...
- Ồ! Bánh tráng nướng!... - Margziam kêu lên, nhưng rồi nó nín bặt.
- Ừ, nó ở trong này, với các trái sung khô sấy trong lò, và ôliu, và táo đỏ. Rồi bà làm cho con một chiếc bánh dầu, rồi bà gởi cho con các phó mát nhỏ từ con cừu của con. Rồi có một chiếc áo không thấm nước. Và rồi, và rồi... bố không biết còn những gì nữa. Thế nào? Con không vội vã nữa à? Con khóc à? Ôi! Tại sao vậy?
- Bởi vì con thích hơn nếu bố dẫn mẹ tới đây, còn hơn tất cả những thứ này... Con yêu mẹ lắm. Bố biết không? Con...
- Ôi! Lạy Chúa tình thương! Ai mà nghĩ tới điều đó. Nếu bà nghe thấy những điều này, bà sẽ tan chảy ra như bơ...
- Margziam có lý. Con có thể đến cùng với bà. Chắc chắn bà ước ao gặp nó, từ qúa lâu rồi. Chúng ta, đàn bà, chúng ta như vậy với con chúng ta - Maria nói.
- Tốt... Nhưng không bao lâu nữa, bà sẽ gặp nó. Phải không Thầy?
- Ừ, sau lễ Ánh Sáng, khi chúng ta khởi hành... Nhưng, dù sao... ờ, khi con trở lại sau Lễ Ánh Sáng, con sẽ đến cùng với bà. Bà sẽ ở bên nó vài ngày, rồi cùng nhau trở về Bétsaiđa.
- Ôi! Đẹp chừng nào! Ở đây với hai má! - Đứa trẻ tỉnh táo lên và sung sướng.
Tất cả đều vào trong nhà và Phêrô bỏ các đồ xuống.
- Đây, cá khô ướp muối từ cá tươi. Cái này thực tiễn với mẹ Thầy. Đây là phó mát mềm, Thầy rất thích thứ này mà. Đây là trứng cho Gioan. Hy vọng rằng nó không bể... Không, may thay! Rồi nho, do Suzane đã cho con tại Cana, vì con đã ngủ trọ ở đó. Và rồi... A! Và cái này! Coi này Margziam, nó vàng chừng nào! Giống như tóc của Maria... - Và ông mở ra một cái hũ đầy mật ong dẻo kẹo.
694
- Nhưng tại sao qúa nhiều đồ như vậy? Con đã tự hành xác, Simon - Maria nói trước các mớ gói lớn, gói nhỏ, các chai, các hũ để đầy trên bàn.
- Hành xác à? Không. Con đã đánh cá nhiều và rất thành công. Cái này để làm với cá. Các thứ còn lại là sản phẩm của gia đình, chả tốn gì cả, trái lại, nó cho niềm vui để mang nó... Và rồi... Đây là dịp Lễ Ánh Sáng... Sẽ cần dùng tới. Không?! Con không nếm thử mật ong à?
- Con không thể - Margziam nói cách nghiêm trang.
- Tại sao? Con khó chịu à?
- Không. Nhưng con không thể ăn nó.
- Nhưng tại sao?
Đứa trẻ đỏ mặt, không trả lời. Nó nhìn Giêsu và nín thinh. Giêsu mỉm cười cắt nghĩa: “Margziam đã làm một lời khấn để được một ơn. Nó không thể ăn mật ong trong vòng bốn tuần lễ”.
- A! Tốt. Sau đó con sẽ ăn. Dầu sao cũng hãy cầm lấy hũ... Nhưng coi! Con đã không tin là nó rất... rất...
- Rất quảng đại, Simon. Kẻ nào đã bắt đầu chay tịnh từ tuổi nhỏ, sẽ dễ dàng tìm thấy con đường nhân đức trong suốt đời - Giêsu nói trong khi đứa trẻ đi khỏi với cái hũ trong tay.
Phêrô nhìn nó đi, đầy thán phục. Rồi ông hỏi: “Zêlote không có ở đây à?”
- Ông tới nhà Maria Alphê, nhưng ông sắp về rồi. Chiều nay hai ông sẽ ngủ với nhau. Lại đây, Simon Phêrô.
Họ đi ra, trong khi Maria và Sintica để thứ tự lại căn phòng ngổn ngang những gói đồ.
- Thưa Thầy, con đến để thăm Thầy và đứa trẻ. Đúng vậy. Nhưng cũng vì con đã suy nghĩ nhiều trong những ngày này, nhất là từ bữa ba tên đầu độc đó tới... Với chúng, con đã nói dối nhiều hơn là số lượng cá dưới biển. Bây giờ chúng đang trên đường đi Gétsêmani, tưởng rằng tìm được Gioan Enđo ở đó. Và rồi chúng sẽ tới nhà Lazarô, hy vọng tìm được Sintica ở đó, và cả Thầy nữa. Để cho chúng đi!... Nhưng rồi chúng sẽ trở lại, và... Thưa Thầy, chúng muốn
695
gây cho Thầy những phiền phức vì hai kẻ tội nghiệp này...
- Thầy đã dự liệu tất cả từ mấy tháng rồi. Khi chúng trở lại tìm hai người mà chúng săn bắt, chúng sẽ không tìm thấy họ nữa tại bất cứ nơi nào trong đất Palestin. Con thấy hai cái rương này không? Là để cho họ. Con thấy các quần áo gấp để bên khung cửi không? Là cho họ. Con ngạc nhiên không?
- Thưa Thầy, có. Nhưng Thầy tính gởi họ đi đâu?
- Đi Antioche.
Phêrô làm một tràng huýt sáo nhiều ý nghĩa. Rồi ông hỏi: “Tới nhà ai? Làm sao đi tới đó?”
- Tới một căn nhà của Lazarô. Căn nhà sau cùng mà Lazarô còn giữ tại đó, nơi ba ông đã cai trị nhân danh Rôma. Và họ sẽ đi tới đó bằng đường biển...
- A! Đó! Bởi vì nếu Gioan phải đi bộ tới đó bằng chân ông...
- Bằng đường biển. Thầy bằng lòng vì có thể nói với con. Thầy đang tính sai Simon đi bảo con: “Hãy tới” để chuẩn bị mọi sự. Hãy nghe đây: Hai ba ngày sau Lễ Ánh Sáng, chúng ta sẽ từ đây đi từng nhóm nhỏ để không lôi kéo sự chú ý. Nhóm gồm có Thầy, con, em con, Giacôbê và Gioan với hai người anh Thầy, và cùng với Gioan và Sintica, chúng ta sẽ đi Ptolêmai. Rồi từ đó lấy thuyền, con sẽ hộ tống họ cho tới Tyr. Tại đó, các con lấy vé trên một chiếc tàu đi Antioche, giống như các tân tín đồ trở về nhà họ. Rồi các con sẽ trở lại và sẽ tìm Thầy ở Aczib. Thầy sẽ ở trên đỉnh núi mỗi ngày. Còn những thứ khác, Thánh Linh sẽ hướng dẫn các con.
- Thế nào? Thầy không tới đó với chúng con à?
- Thầy sẽ qúa bị chú ý. Thầy muốn cho lòng trí Gioan được bình an.
- Con sẽ làm thế nào? Con có bao giờ ra khỏi đây đâu?!
- Con đâu phải con nít... Và rồi sắp sửa con sẽ phải đi rất xa hơn Antioche nữa. Thầy tin cậy ở con. Con thấy Thầy đánh giá con rất cao.
- Còn Philíp và Batôlômêo?
- Họ sẽ đến gặp chúng ta tại Jotapate, giảng Tin Mừng trong khi
696
chờ chúng ta. Thầy sẽ viết thơ cho họ, và con sẽ cầm lá thơ.
- Và... Hai người này, ở đây, họ đã biết số phận của họ chưa?
- Chưa. Thầy để họ bình an mừng lễ...
- Ôi! Những kẻ khốn khổ. Coi đó, nếu có ai phải bị bách hại vì tội ác và...
- Simon, đừng làm dơ miệng con.
- Thưa Thầy vâng... Nghe này... Nhưng chúng ta làm sao để mang những cái rương này? Và để mang Gioan? Con thấy ông ta rất bệnh.
- Chúng ta sẽ kiếm một con lừa.
- Không. Chúng ta sẽ kiếm một cái xe nhỏ.
- Nhưng ai sẽ lái?
- Hé! Nếu Judas Simon đã học chèo thuyền thì Simon Jonas sẽ học lái xe. Và rồi chẳng phải là chuyện khó gì để lái một con lừa bằng một cái giây cương! Trên xe, chúng ta sẽ để những chiếc rương và hai người đó... còn chúng ta, chúng ta đi bộ. Đúng, đúng, làm vậy là tốt. Thầy tin đi.
- Vậy cái xe, ai sẽ cho chúng ta? Con nhớ rằng Thầy không muốn người ta biết việc khởi hành.
Phêrô suy nghĩ... Ông quyết định: “Thầy có tiền không?”
- Có. Còn nhiều từ các báu vật của Misace.
- Vậy tất cả sẽ dễ thôi. Đưa cho con một món. Con sẽ mua một con lừa và một cái xe của một người và... đúng, đúng... sau đó chúng ta sẽ tặng con lừa cho một kẻ khổ sở nào đó. Còn cái xe... Chúng ta sẽ tính. Rất đúng là con đã tới. Con có phải trở lại cùng với bà xã con không?
- Có. Tốt.
- Chuyện đó sẽ tốt. Nhưng hai kẻ khổ sở này! Đó, con buồn vì không còn Gioan ở với chúng ta. Chúng ta chỉ có ông ta được một thời gian ngắn... Tội nghiệp! Đáng lẽ ông ta có thể chết ở đây, giống như Jonas...
- Ông ta không được phép. Thế giới ghét những kẻ được cứu chuộc.
- Điều đó sẽ làm ông khổ lắm!
697
- Thầy sẽ tìm lý do để ông ta đi mà không qúa tiếc.
- Lý do nào?
- Cùng một lý do mà Thầy đã dùng để cho Judas Simon đi: Lý do làm việc cho Thầy.
- A! Chỉ nơi Gioan là có sự thánh thiện, còn nơi Judas thì chỉ có kiêu ngạo.
- Simon, đừng nói xấu.
- Điều đó còn khó hơn là tập hát cho một con cá! Thầy ơi, đó là sự thật, đó không phải là điều nói xấu... Nhưng hình như Zêlote đang tới cùng với các anh Thầy. Chúng ta đi thôi.
- Đi, và hãy nín lặng với mọi người nhe!
- Thầy còn phải nói à? Con không thể giấu sự thật khi con nói, nhưng con biết hoàn toàn nín lặng nếu con muốn. Và con muốn. Con đã thề vậy với chính mình. Con, đi tới tận Antioche! Ở tận cùng thế giới! Ôi! Con không nhìn thấy giờ trở về ! Con sẽ không ngủ bao lâu tất cả chưa được hoàn tất.
Họ đi ra, và tôi không nhìn thấy gì nữa.
177* “KHÔNG GÌ MẤT ĐI TRONG
SỰ TIẾT KIỆM THÁNH VÌ
TÌNH YÊU PHỔ QUÁT”
Tôi không biết đây có phải là trong cùng một ngày không, nhưng tôi giả sử vậy, vì lẽ có sự hiện diện của Phêrô tại bàn ăn của gia đình Nazarét. Bữa ăn đã hầu như chấm dứt và Sintica đứng dậy để đặt trên bàn những trái táo, trái bồ đào, nho và hạnh nhân để chấm dứt bữa tối. Đây là bữa tối, vì các ngọn đèn đã thắp lên.
Chính bên những ngọn đèn này đã diễn ra những đàm thoại trong khi Sintica mang trái cây tới. Phêrô nói: “Năm nay chúng ta sẽ đốt thêm một cây nữa, và rồi sẽ luôn luôn thêm một cây cho con, con trai bố. Bởi vì chúng ta muốn thắp cho con, dù là con ở đây. Đây là lần đầu tiên chúng ta thắp đèn cho một đứa con...” Phêrô cảm động một lát, rồi ông kết thúc: “Đương nhiên nếu con ở nhà thì sẽ đẹp hơn...”
698
- Simon à, năm ngoái chính mẹ đã than thở như vậy cho đứa con xa xôi. Và cùng với mẹ là Maria Alphê và Salômê, và cả Maria Simon, trong căn nhà ở Kêtiot, và cả bà mẹ của Tôma nữa.
- Ôi! Bà mẹ của Judas! Năm nay bà có con trai ở bên, nhưng con không tin là bà được sung sướng hơn... Chúng ta đừng nghĩ tới đó... Chúng ta đã ở nhà Lazarô. Bao là ánh sáng!... Giống như một bầu trời bằng vàng và lửa. Năm nay Lazarô có em ông... Nhưng con tin họ sẽ than thở vì không có Thầy. Và năm tới, chúng ta sẽ ở đâu?
- Tôi, tôi sẽ ở rất xa... - Gioan lẩm bẩm.
Phêrô quay ngang để nhìn ông ta, vì ông ở ngay bên cạnh. Và ông đang tính hỏi Gioan điều gì, nhưng may thay, ông biết dừng lại vì cái nháy mắt của Giêsu.
Margziam hỏi: “Ông đi đâu?”
- Nhờ lòng thương xót của Chúa, ông hy vọng ở trong lòng Abraham.
- Ôi! Ông muốn chết à? Ông không muốn giảng Tin Mừng à? Ông không ân hận vì chết mà chưa làm sao?
- Lời của Chúa phải được phát ra bởi những làn môi thánh. Thật đã nhiều lần Người cho ông được nghe Lời và được cứu chuộc bởi Lời đó. Việc đó ông rất thích... Nhưng trễ rồi...
- Nhưng con sẽ rao giảng Tin Mừng. Con cũng đã làm rồi những khi con lôi kéo sự chú ý trên con. Vì vậy con cũng được gọi là đồng đều với các môn đệ rao giảng, dù là con không du hành để truyền bá Tin Mừng. Và ở đời bên kia, con cũng sẽ được phần thưởng dành cho các kẻ rao giảng Tin Mừng của Thầy.
- Lời hứa của Thầy làm con ước mong chết... Mỗi giây phút của đời sống có thể giấu một cái bẫy, mà con, vì con yếu đuối như vầy, có lẽ con không tránh được. Nếu Thiên Chúa đón nhận con và bằng lòng về những gì con đã hoàn thành, thì đó chẳng phải là lòng nhân từ vĩ đại mà con phải chúc tụng sao?
- Thực vậy, Thầy bảo con rằng cái chết là một sự nhân từ tối thượng đối với nhiều người, vì nhờ vậy họ biết được con người có thể trở nên qủi quái tới cỡ nào, và để đi tới nơi mà sự bình an sẽ an
699
ủi họ bằng sự hiểu biết này và biến nó thành tiếng hô vạn tuế, bởi vì nó sẽ được kết hợp với niềm vui khôn tả của việc được giải thoát khỏi Lâm Bô.
- Và những năm tới đây chúng ta sẽ ở đâu Thầy? - Zêlote vồn vã hỏi.
- Ở nơi Đấng Vĩnh Cửu vui lòng. Làm sao con muốn biết trước những thời gian xa xôi, trong khi chúng ta còn không chắc chắn về lúc hiện tại mà ta đang sống, và không biết Người có cho chúng ta sống hết không. Ngoài ra, dù là các lễ Ánh Sáng tương lai được làm ở đâu mặc lòng, nó luôn luôn là thánh nếu các con ở đó để làm trọn ý Thiên Chúa.
- Qúi vị sẽ ở đó chứ? Còn Thầy? - Phêrô hỏi.
- Thầy, Thầy sẽ luôn luôn ở nơi nào có các người Thầy yêu.
Maria không hề nói, nhưng con mắt mẹ không ngừng dò xét khuôn mặt con mẹ... Mẹ bị quay đi vì cái nhận xét của Margziam khi nó nói: “Mẹ ơi, tại sao mẹ không đặt các bánh tráng trét mật ong lên bàn? Giêsu thích nó, và nó sẽ tốt cho Gioan vì ông đau cổ họng. Và rồi bố con cũng thích nó...”
- Và con cũng thích - Phêrô kết câu.
- Đối với con... coi như không có nó. Con đã hứa...
- Cưng ơi, chính vì vậy nên mẹ không đem lên - Maria nói khi vuốt ve nó, vì Margziam ngồi giữa mẹ và Sintica ở một phía bàn, trong khi bốn người đàn ông thì ở phía đối diện.
- Không, không. Mẹ có thể mang lên cho mọi người, và cả đến mẹ phải mang lên, và con, con sẽ phát cho mọi người.
Sintica cầm một cái đèn đi ra rồi trở lại với những bánh tráng. Margziam cầm lấy cái mâm và bắt đầu phân phát. Cái đẹp nhất, vàng, phồng như cái của ông thầy chuyên nghiệp làm thì nó phát cho Giêsu. Một cái khác, cũng hoàn hảo, cho Maria. Rồi đến lượt Phêrô, rồi Simon, rồi Sintica. Nhưng để cho Gioan, nó đứng dậy, lại bên nhà giáo dục già và bệnh, nó nói với ông: “Cho ông cái của ông và cái của con, và thêm vào đó một cái hôn nữa vì tất cả những gì ông đã dạy con”. Rồi nó trở về chỗ nó, đặt cái mâm vào giữa bàn một cách qủa quyết, rồi nó ngồi khoanh tay.
700
- Con làm bố nuốt xéo cái thứ ngon lành này - Phêrô nói khi thấy thằng Margziam thực sự không ăn. Và ông thêm: “Ít nhất là một miếng nhỏ. Cầm lấy đi, trong cái của bố, chỉ là để khỏi chết vì thèm. Con chịu đựng qúa... Giêsu cho phép con mà!”
- Nhưng nếu con không chịu đựng thì con không có công bố ạ. Chính bởi vì con biết điều này làm cho con phải chịu đựng nên con đã dâng hy sinh này... Lại nữa, con rất bằng lòng vì đã làm. Con thấy như hiện ra đầy những mật ong, con cảm thấy vị của nó ở khắp nơi, hình như con thở nó cùng với không khí...
- Bởi vì con chết vì thèm nó.
- Không, bởi vì con biết Thiên Chúa nói với con: “Con làm rất tốt, con trai của Ta”.
- Thầy sẽ làm vui lòng con, dù là không có cái hy sinh này. Người yêu con biết bao!
- Đúng. Nhưng sẽ không chính đáng nếu vì được yêu mà con lợi dụng. Người đã nói vậy. Vả nữa, phần thưởng trên Trời sẽ lớn dù là cho một ly nước nhân danh Người. Con nghĩ nếu phần thưởng lớn vì một ly nước được cho nhân danh Người, thì nó cũng lớn đối với một cái bánh tráng và một tí mật ong mà người ta từ chối vì tình yêu một người anh em. Con nói có sai không Thầy?
- Con nói rất khôn ngoan. Qủa vậy, Thầy có thể cho con điều con đã xin cho con bé Rakel, dù là không có hy sinh, vì đó là một điều tốt để làm, và qủa tim Thầy muốn. Nhưng Thầy sẽ làm với nhiều niềm vui hơn, vì Thầy được con giúp. Tình yêu anh em không phải chỉ giới hạn ở các phương tiện và các biên giới loài người, nhưng nó nâng lên rất cao hơn. Khi nó tới mức hoàn thiện, nó đụng tới ngai Thiên Chúa, nó tan biến trong đức Ái và lòng tốt vô tận của Người. Sự hiệp thông giữa các thánh chính là hành động liên tục này, cũng như một cách liên tục và bằng mọi cách, Thiên Chúa hành động để ban ơn cứu trợ cho các anh em, trong những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần, hoặc đồng thời cho cả hai phương diện, như trong trường hợp của Margziam, nó được sự chữa lành cho Rakel, được nhẹ nhõm khỏi bệnh hoạn, đồng thời nâng đỡ tinh thần bại hoại của bà già Jeanne, và nhóm lên sự tin cậy nơi Chúa luôn luôn
701
vững vàng hơn trong con tim của hết mọi người trong gia đình này. Chỉ một muỗng mật ong mà người ta hy sinh, có thể dẫn một kẻ khổ sở về với bình an và hy vọng, cũng như bánh tráng hay bất cứ thứ thực phẩm nào khác mà người ta liên kết với mục đích tình yêu, có thể có bánh được tặng cách lạ lùng cho kẻ đang đói ở xa xôi, một kẻ mãi mãi là không biết đối với chúng ta. Một lời nói bực tức, dù là tức cách chính đáng, được hãm lại vì tinh thần hy sinh, có thể ngăn cản một tội ác ở xa. Cũng như việc chống lại cái thú hái của người ta một trái cây, vì tình yêu, có thể dùng để cho kẻ ăn cắp một tư tưởng hối hận, hoặc ngăn cản một vụ trộm cắp. Không có gì mất đi trong sự tiết kiệm thánh vì tình yêu phổ quát. Lễ toàn thiêu của một vị tử đạo cũng không anh hùng hơn sự hy sinh của một đứa trẻ trước một đĩa bánh tráng. Thầy nói với các con rằng lễ hy sinh của một vị tử đạo thường là do nguồn gốc của một nền giáo dục anh hùng mà người ta được dạy từ thơ ấu vì tình yêu Thiên Chúa và tha nhân.
- Vậy thật hữu ích là con sẽ luôn luôn làm những hy sinh trong thời mà chúng ta sẽ bị bách hại - Margziam nói cách tin tưởng.
- Bách hại à? - Phêrô hỏi.
- Vâng. Bố không nhớ là Người đã nói vậy sao? “Các con sẽ bị bách hại vì Thầy”. Bố, bố đã nói điều đó với con khi bố tới giảng Tin Mừng một mình lần đầu tiên tại Bétsaiđa vào mùa hè.
- Thằng bé này nó nhớ hết trơn à! - Phêrô nói, đầy thán phục.
Bữa tối chấm dứt, Giêsu đứng dậy. Người cầu nguyện và chúc lành cho tất cả. Rồi trong khi các bà lo rửa chén, Giêsu ngồi với các ông trong góc phòng, Người đẽo một miếng gỗ mà dưới con mắt thán phục của Margziam, nó trở thành một con chiên.
178* “GIOAN ENĐO,
CON SẼ ĐI ANTIOCHE”
Đây là một buổi sáng mùa đông mưa phùn. Giêsu đã thức dậy
702
và Người đang làm việc trong xưởng mộc. Người làm những vật dụng nhỏ. Trong một góc có một khung cửi mới, không lớn lắm, nhưng hoạt động tốt.
Maria đi vào với một ly sữa sôi: “Uống đi Giêsu. Con dậy từ lâu rồi. Khí trời ẩm và lạnh...”
- Vâng, nhưng ít nhất, con đã có thể làm xong hết... Tám ngày lễ đã làm tê liệt công việc - Giêsu ngồi tại cái bàn của thợ mộc hơi nghiêng, trong khi Maria quan sát cái khung cửi và lấy tay rờ, vuốt ve.
- Má chúc lành cho nó à? - Giêsu cười hỏi.
- Không, mẹ vuốt ve nó bởi vì chính con đã làm. Phúc lành thì con đã cho trong khi làm nó. Con đã có ý kiến hay. Nó sẽ phục vụ cho Sintica, nàng rất khéo tay về nghề dệt, và nó sẽ giúp nàng tới gần đám đàn bà con gái. Con làm cái gì nữa đó? Vì mẹ thấy những vỏ bào gỗ ôliu. Hình như nó ở gần cái máy tiện?
- Con làm những đồ hữu ích cho Gioan. Mẹ thấy không? Một cái hộp để đựng các bản viết và một cái bàn nhỏ để viết, còn cái giá này để sách. Con không thể làm những thứ này nếu Simon Jonas không nghĩ tới một cái xe. Nhưng bây giờ chúng ta có thể chất hết những thứ này... Và họ sẽ cảm thấy rằng con cũng yêu họ trong những vật nhỏ này.
- Con khổ vì phải xa họ, phải không?
- Con khổ... cho con và cho họ. Con đã chờ mãi tới lúc này để nói với họ. Phêrô chưa tới cùng với Porphyrê... Đã đến lúc phải nói... Một nỗi đau đọng lại trong tim con trong tất cả những ngày này, và làm cho cả ánh sáng của các ngọn đèn cũng buồn... Một nỗi đau mà bây giờ con phải trao cho người khác... A! Má ơi! Con chỉ muốn giữ nó cho một mình con thôi!...
- Con trai rất tốt của má! - Maria mơn trớn cánh tay Người để an ủi Người. Một lúc yên lặng, rồi Giêsu lại bắt đầu nói: “Gioan dậy chưa?”
- Rồi. Má đã nghe ông ho. Có lẽ ông ở trong bếp để uống sữa. Gioan tội nghiệp!... - Và một giọt nước mắt lăn trên má Maria.
703
Giêsu đứng dậy: “Con đi... Con phải tới nói với ông ta. Với Sintica thì dễ hơn... Nhưng với ông ta... Má ơi, tới tìm Margziam, đánh thức nó dậy, và hãy cầu nguyện trong khi con nói với người này... Tựa như con phải lục soát trong lòng dạ ông. Con có thể làm ông chết hay tê liệt trong đời sống thiêng liêng của ông... Đau khổ chừng nào! Cha của con ơi!... Con đi...” Và Người đi ra, thực sự bị đè nặng.
Người đi mấy bước dẫn từ xưởng mộc tới phòng của Gioan, cũng là nơi Jonas đã chết, tức là phòng của Giuse. Người gặp Sintica cũng vô với một miếng bánh ngọt mà cô đã lấy ở lò ra. Cô ta chào Người, không hay biết gì cả. Người trả lời câu chào của cô gái Hy Lạp mà như không để ý gì. Rồi Người đứng lại, bất động, nhìn đám hoa huệ mà các nụ hơi hé mở, nhưng không thể nói được là Người thấy chúng... Rồi Người quyết định... Người quay lại và gõ vào cửa phòng của Gioan. Ông xuất hiện với khuôn mặt sáng rỡ khi thấy Giêsu tới tìm ông.
- Thầy có thể vào phòng con một lát không? - Giêsu hỏi.
- Ôi! Thầy! Nhưng luôn luôn mà! Con đang viết những điều Thầy nói chiều hôm qua về sự dè dặt và sự vâng lời. Và rất tốt là Thầy đọc nó, vì hình như con không nhớ rõ điều Thầy đã nói về sự thận trọng dè dặt.
Giêsu vào trong căn phòng nhỏ, đã được xếp lại thứ tự, ở đó người ta đã kê thêm một cái bàn nhỏ cho sự thoải mái của vị giáo già.
Giêsu cúi nghiêng trên tấm giấy da và đọc: “Tốt lắm. Con đã lặp lại rất đúng”.
- Đó, Thầy coi. Hình như con giải thích sai câu này. Thầy luôn luôn nói đừng lo cho ngày mai và cho thân xác. Bây giờ nói về sự thận trọng, cho cả những điều có liên can tới ngày mai, đó là một
704
nhân đức. Hình như ở đây có điều sai, dĩ nhiên là do con.
- Không. Con không sai. Đúng là Thầy đã nói vậy. Có sự khác nhau giữa những lo lắng thái qúa và hoảng sợ vì ích kỷ, với sự chăm sóc khôn ngoan chính đáng. Sẽ là một tội nếu bần tiện bủn xỉn để dành cho ngày mai mà có lẽ không bao giờ được hưởng, nhưng không phải là tội nếu tiết kiệm để bảo đảm bánh ăn, để bảo đảm cho cha mẹ trong thời đói kém. Sẽ là một tội nếu săn sóc cơ thể cách ích kỷ, đòi hỏi những người ở chung quanh ta phải săn sóc cho nó, miễn cho nó các công việc và các hy sinh vì sợ nó phải khổ. Nhưng không phải là một tội khi đề phòng những bệnh tật vô ích mà người ta mắc phải do thiếu thận trọng, và trở thành gánh nặng cho gia đình và làm mất những công việc sinh hoa trái cho chúng ta. Thiên Chúa ban sự sống. Đó là một ơn huệ từ Người mà đến. Chúng ta phải dùng nó cách thánh thiện, không thiếu khôn ngoan cũng như không ích kỷ. Con thấy không? Đôi khi sự thận trọng khuyên nhủ những hành động mà đối với kẻ ngu ngốc, có vẻ hèn hay bất thường, trong khi nó chỉ là sự thận trọng, hậu qủa của những sự kiện mới đang hiện diện. Ví dụ bây giờ nếu Thầy sai con đến ngay giữa những người có thể làm hại cho con... ví dụ bà con của vợ con hay các người canh gác hầm mỏ, nơi con đã làm việc, thì như vậy là Thầy làm tốt hay xấu?
- Con... con không muốn xét đoán Thầy, nhưng con nói: tốt hơn là sai con đến những nơi khác, nơi không có những nguy hiểm mà cái qúa ít nhân đức của con gặp những thử thách qúa gay go.
- Đó, con đã đoán xét cách khôn ngoan thận trọng. Chính vì vậy mà Thầy sẽ không bao giờ gởi con đi Bitini hay Mysi, nơi con đã ở; cũng không tới Cintium, mặc dầu con đã ao ước cách siêu nhiên được đi tới đó. Tâm hồn con có thể bị đè nặng bởi qúa nhiều khắc nghiệt của con người, và có thể trở lui lại đàng sau. Vậy sự thận trọng dạy không nên sai con tới những nơi mà con sẽ thành vô ích, trong khi Thầy có thể sai con đến những nơi khác có ích cho Thầy, cho linh hồn tha nhân và cho con, phải không?
Gioan, vì không biết gì về những điều số phận dành cho ông, không nắm được điều ám chỉ của Giêsu về một sứ mệnh khả dĩ ở
705
bên ngoài đất Palestin. Giêsu quan sát nét mặt ông và thấy ông bình tĩnh, sung sướng nghe Người, sẵn sàng để trả lời:
- Chắc chắn rồi Thầy. Con sẽ ích lợi hơn ở những nơi khác. Chính con, mấy ngày trước đây con đã nói: “Con muốn đến giữa dân ngoại để làm gương sáng, tại nơi mà con đã làm gương xấu”. Rồi con tự trách mình và nói: Giữa các dân ngoại, đúng, vì mi không có thành kiến như những người Israel khác. Nhưng ở Cintium thì không, cũng không tới những ngọn núi buồn rầu, nơi mi đã sống như tên tù khổ sai và như chó sói, ở mỏ chì và ở nơi đào đá qúi. Mi không thể đến những nơi đó, dù với lòng ước ao hy sinh tuyệt đối. Con tim mi sẽ bị xáo trộn bởi những kỷ niệm độc ác. Và nếu mi bị nhận diện, dù chúng không nhảy xổ vào mi, chúng cũng nói: “Câm đi, tên sát nhân, chúng tao không nghe mày đâu”. Như vậy là vô ích để tới đó. Đó là điều con tự nhủ, và đó là tư tưởng đúng.
- Vậy con thấy là con cũng có sự thận trọng. Thầy cũng vậy, Thầy có nó. Chính vì vậy mà Thầy tránh cho con những mệt mỏi của việc giảng huấn như các người khác làm, và Thầy đem con đến đây trong sự nghỉ ngơi và bình an.
- Ôi! Vâng! Bình an chừng nào. Nếu con sống một trăm năm ở đây, nó sẽ luôn luôn giống nhau. Đó là sự bình an siêu nhiên. Và nếu con đi khỏi, con sẽ mang nó theo với con. Dù là tới đời sống bên kia, con cũng mang nó theo... Các kỷ niệm còn có thể khuấy động con tim của con, những xúc phạm làm con phải chịu đựng, vì con là một con người. Nhưng con không thể thù ghét nữa, vì ở đây, thù ghét đã bị tê liệt vĩnh viễn cho tới những chồi non xa xôi nhất của nó. Con cũng không còn ác cảm với đàn bà. Trước kia con nhìn họ như những con vật dơ bẩn nhất và đáng khinh nhất trên trái đất. Mẹ Thầy thì ở ngoài cuộc rồi. Với mẹ, con tôn kính ngay khi con vừa gặp, vì con thấy mẹ khác với mọi người đàn bà. Mẹ có cái hương thơm của đàn bà, của một bà thánh. Ai lại không thích mùi thơm của các bông hoa tinh tuyền? Nhưng cả với những đàn bà khác nữa, các nữ môn đệ tốt: yêu thương, kiên nhẫn dưới những gánh nặng của lo âu như Maria Clêopha và Êlise, quảng đại như Maria Magđala, rất tuyệt đối trong sự thay đổi đời sống của cô;
706
ngọt ngào và trong trắng như Matta và Jeanne; đáng qúi, thông minh, đầy tư tưởng, đầy chính trực như Sintica. Họ đã giải hòa con với phụ nữ. Sintica, con thú thực với Thầy, đó là người phụ nữ con thích hơn. Sự tương tự về trí khôn của nàng trở thành thân thiết đối với con. Sự tương tự của nàng về hoàn cảnh: nàng, một nô lệ; con, người tù khổ sai, cho phép con có sự tin cẩn nơi nàng mà sự khác nhau với những người khác đã cấm con. Sintica, nàng là sự nghỉ ngơi của con. Con không biết nói với Thầy thế nào cho chính xác nàng là gì đối với con và con nhìn nàng thế nào. Con là người già so với nàng, con thấy nàng như một đứa con gái, một đứa con gái khôn ngoan và siêng học mà con đã ao ước... Con bệnh, nàng đã săn sóc với biết bao tình nghĩa. Con là người buồn và cô đơn, đã khóc và thương tiếc mẹ con suốt đời, và tìm kiếm người đàn-bà-mẹ giữa tất cả các người đàn bà mà không tìm ra. Đây, con nhìn thấy nơi nàng cái thực của giấc mơ mà con đã từng mơ. Và trên cái đầu mệt mỏi của con, trên tâm hồn đang đi gặp cái chết của con, con cảm thấy làn sương mát của tình cảm mẫu tử đổ xuống trên đó. Thầy thấy rằng khi cảm thấy nơi Sintica một tâm hồn đứa con gái và người mẹ, con cảm thấy nơi nàng sự toàn vẹn của người phụ nữ. Nhờ nàng, con tha thứ cho tất cả những bất hạnh đã đến với con từ người đàn bà. Nếu vì một tình cờ không bao giờ có được này, là người vợ khốn nạn của con mà con đã giết, lại phục sinh, thì con cảm thấy là con tha cho bà, vì bây giờ con đã hiểu tâm hồn phụ nữ: Tình nghĩa một cách dễ dàng, hăng say khi họ cho... dù là điều thiện hay điều ác.
- Thầy rất mừng vì con đã tìm được tất cả những điều này nơi Sintica. Nàng sẽ là một người bạn tốt cho con trong quãng đời còn lại, và các con sẽ cùng nhau làm biết bao điều tốt. Cũng vậy, Thầy kết hợp con lại với nàng...
Giêsu lại tìm hiểu Gioan. Nhưng không có một dấu hiệu nào thức tỉnh sự chú ý của người môn đệ, dù đó không phải người nông cạn. Tình thương xót nào của Thiên Chúa đã che phủ ông cho tới giờ phút quyết định của phán quyết? Tôi không biết. Tôi chỉ thấy
707
rằng Gioan mỉm cười và nói: “Chúng con sẽ tìm cách phục vụ Thầy với tất cả những gì là tốt nhất trong chính mình chúng con”.
- Ừ, Thầy chắc chắn rằng các con sẽ làm việc đó, không bàn cãi, công việc cũng như nơi chốn mà Thầy sẽ cho các con, dù đó không phải là điều các con mong muốn...
Gioan bắt đầu có cái linh cảm đầu tiên về điều đang chờ đợi ông. Ông đổi nét mặt và mầu sắc. Ông trở nên nghiêm trang và tái mét. Con mắt độc nhất của ông bây giờ đăm đăm, chú ý tìm hiểu khuôn mặt của Giêsu. Người tiếp tục:
- Gioan, con nhớ không? Một bữa, để dẹp tan sự nghi ngờ của con về sự tha thứ của Thiên Chúa, Thầy đã nói với con: “Để con hiểu về lòng thương xót, Thầy sẽ đặc biệt dùng con cho các công việc của tình thương, và Thầy sẽ có những dụ ngôn về tình thương cho con”?
- Vâng, điều đó đúng. Thầy đã thuyết phục con và chấp nhận cho con làm toàn những việc của tình thương. Và con còn nói rằng những việc tế nhị nhất như việc làm phúc, giáo huấn một đứa trẻ, một người Philitin và một cô gái Hy Lạp. Điều đó nói với con là Thiên Chúa đã biết đủ sự thống hối chân thành của con, và thực sự Người đã thấy nó, để giao phó cho con những linh hồn ngây thơ hay những linh hồn để hoán cải, để con đào tạo chúng cho Người.
Giêsu ôm Gioan và kéo ông vào cạnh sườn Người như Người thường làm với ông Gioan kia. Người tái mét vì niềm đau Người phải cho. Người nói: “Bây giờ Thiên Chúa cũng ký thác cho con một nhiệm vụ tế nhị và thánh, một nhiệm vụ biệt ái. Một mình con, người quảng đại, không hẹp hòi, không thành kiến, là kẻ khôn ngoan, nhất là con đã hiến mình cho việc từ bỏ, cho việc thống hối để đền tội cho phần còn lại này của luyện ngục, cái nợ mà con còn đối với Thiên Chúa. Một mình con có thể làm. Tất cả những người khác sẽ từ chối, và họ có lý, vì họ thiếu những điều cần thiết. Không một ai trong các tông đồ của Thầy có được điều con có, để đi dọn đường cho Chúa... Lại nữa, Gioan, con hãy nhớ, con là vị tiền hô cho giáo thuyết của Thầy... Con sẽ dọn đường cho Thầy con. Cả đến con
708
thay thế Thầy là người không thể đi xa như vậy... (Gioan nhảy xổ, tìm cách thoát vòng tay của Giêsu để nhìn thẳng vào mặt Người. Nhưng ông không thành công, vì vòng tay của Giêsu êm đềm nhưng uy quyền, trong khi miệng người cho phát đòn tối hậu...) không thể đi xa như vậy... tới tận Syrie... tại Antioche”.
- Lạy Chúa! - Gioan kêu lên, vùng vẫy mạnh để thoát vòng tay Giêsu: “Lạy Chúa! Tới Antioche? Xin nói cho con, vì con không hiểu. Nói cho con đi, vì tình thương!...” Ông đứng, đầy vẻ van nài trong con mắt duy nhất của ông, trên khuôn mặt đã biến thành mầu tro, trong đôi môi run rẩy, trong đôi tay run giơ ra về phía trước, trong cái đầu của ông như rũ xuống đất, vì nó trở thành nặng bởi cái tin này.
Nhưng Giêsu không thể nói: “Con đã hiểu lầm”. Người mở đôi tay, đến lượt Người đứng lên, đón nhận ông giáo già trên trái tim Người. Người mở tay và xác nhận: “Đúng, tại Antioche, trong căn nhà của Lazarô, cùng với Sintica. Các con sẽ đi ngày mai hoặc ngày mốt”.
Sự khốn khổ của Gioan thực là xé nát. Ông thoát vòng tay Giêsu một nửa để khuôn mặt đầy nước mắt chảy trên đôi má gầy của ông đối diện với khuôn mặt Giêsu. Ông kêu: “A! Thầy không muốn con ở với Thầy nữa!!! Con đã làm mất lòng Thầy điều gì, lạy Chúa của con?” Rồi ông thoát ra và gục xuống bàn, run rẩy bởi những tiếng nấc tan nát, hành hạ, ngắt quãng bởi những cơn ho dữ dội, như điếc với tất cả những âu yếm của Giêsu. Và ông lẩm bẩm: “Thầy đuổi con! Thầy đuổi con! Con không bao giờ gặp Thầy nữa...”
Giêsu đau đớn tỏ tường, và Người cầu nguyện... Người se sẽ bước ra, Người thấy Maria và Margziam trên bậc cửa nhà bếp, đang sợ hãi vì những tiếng khóc này... Và có Sintica cũng đang nhạc nhiên: “Mẹ ơi, tới đây một lát đi”.
Maria tới ngay lập tức, rất tái mét. Họ cùng vào chỗ Gioan. Maria nghiêng mình trên người đang khóc, tựa như ông là đứa con khốn nạn. Người nói: “Này, này, đứa con tội nghiệp của mẹ. Đừng làm vậy, con sẽ sinh bệnh”.
709
Gioan ngửa khuôn mặt bối rối lên kêu: “Người đuổi con đi!... Con sẽ chết một mình, ở xa... Ôi! Người rất có thể đợi vài tháng nữa để con chết ở đây. Tại sao lại có hình phạt này? Con đã phạm tội gì? Con đã gây cho mẹ những thiệt hại sao? Tại sao lại cho con cái bình an này để rồi sau đó... Để rồi sau đó...” Rồi ông lại gục xuống bàn, khóc mạnh, thở hổn hển...
Giêsu đặt bàn tay trên đôi vai gầy giật bần bật và nói: “Con có thể tin được rằng Thầy có thể mà Thầy lại không giữ con ở đây sao? Ôi! Gioan! Trên con đường của Chúa có những điều cần thiết khủng khiếp, và người đầu tiên phải đau khổ là Thầy. Thầy là kẻ mang những đau khổ của Thầy và của thế giới. Hãy nhìn Thầy đây Gioan! Hãy nhìn coi có phải khuôn mặt Thầy là khuôn mặt của kẻ ghét con, của kẻ chán nản con không... Lại đây, trong vòng tay Thầy, hãy nghe xem trái tim Thầy nó đang đập những nhịp đau đớn chừng nào! Hãy nghe Thầy đây Gioan! Đừng hiểu lầm Thầy. Đây là sự đền tội sau cùng mà Thiên Chúa định cho con trước khi mở cửa Trời cho con. Hãy nghe đây...” Người nâng ông dậy và ôm ông trong cánh tay Người. “Hãy nghe đây... Má ơi, má đi ra ngoài một lát đi... Bây giờ chúng ta một mình với nhau, hãy nghe Thầy đây. Con biết Thầy là ai. Con có tin vững vàng rằng Thầy là Đấng Cứu Thế không?”
- Làm sao mà con lại không tin? Chính vì vậy mà con muốn ở luôn bên Thầy, cho tới lúc chết...
- Cho tới lúc chết... Cái chết của Thầy sẽ kinh khủng!...
- Cái chết của con. Con muốn nói cái chết của con!...
- Cái chết của con sẽ yên hàn, được an ủi khích lệ bởi sự hiện diện của Thầy, và sự hiện diện này sẽ chuyền cho con sự chắc chắn về tình yêu của Thiên Chúa, cộng thêm với tình yêu của Sintica, và với niềm vui vì đã chuẩn bị cho chiến thắng của Tin Mừng tại Antioche. Nhưng cái chết của Thầy! Con sẽ thấy Thầy bị hạ giá tới nỗi chỉ còn là một đống thịt phủ đầy vết thương, phủ đầy đờm rãi, bị lăng mạ, bị bỏ rơi cho một đám đông điên cuồng, bị treo lên để chết trên cây thập gía như một kẻ bất lương... Vậy con, con có thể
710
chịu đựng những điều ấy không?
Gioan, ở mỗi chi tiết mà Giêsu nói về cuộc tử nạn của Người, rên lên một tiếng “không, không”. Ông kêu lên một tiếng “không” dữ tợn nữa và thêm: “Con sẽ lại thù ghét nhân loại như xưa ... Nhưng con, con sắp chết, còn Thầy thì Thầy còn trẻ và...”
- Và Thầy chỉ còn nhìn thấy một lễ Ánh Sáng nữa thôi.
Gioan nhìn Người trừng trừng, sợ hãi...
- Thầy nói với con điều đó cách kín đáo, để cắt nghĩa cho con rằng một trong các lý do khiến Thầy gởi con đi xa là điều đó. Con không phải người duy nhất phải chịu số phận này. Tất cả những ai mà Thầy không muốn họ bị rối loạn qúa sức chịu đựng của họ, thì Thầy cho họ tránh xa đi trước. Điều đó đối với con có phải là sự thiếu tình yêu không?
- Không. Thiên Chúa tử đạo của con... Nhưng con, con phải rời xa Thầy và chết ở xa.
- Nhân danh Chân Lý mà Thầy là, Thầy hứa với con rằng Thầy sẽ nghiêng mình trên chiếc gối của con trong cơn hấp hối.
- Vậy làm sao, nếu con ở qúa xa, và Thầy đã nói với con là qúa xa, Thầy không tới? Thầy nói vậy để con đi, bớt buồn hơn...
- Jeanne vợ Chouza, lúc sắp chết ở chân núi Liban, đã thấy Thầy, trong lúc Thầy đang ở rất xa, và bà chưa biết Thầy. Và từ nơi đó, Thầy đã đem bà trở lại đời sống tội nghiệp trên trái đất. Hãy tin đi, vào ngày Thầy chết, bà sẽ hối hận vì đã sống!... Nhưng đối với con, niềm vui của trái tim Thầy trong năm thứ hai này của đời sống làm thầy của Thầy, Thầy sẽ làm nhiều hơn. Thầy sẽ tới mang con đi trong bình an, trong khi cho con sứ mạng nói với những người đang chờ: “Giờ của Chúa đã đến. Cũng như bây giờ mùa xuân đang đến trên trái đất, cũng vậy, mùa xuân Thiên Đàng sẽ bừng lên cho chúng ta”. Nhưng không phải Thầy chỉ đến lúc đó... Thầy sẽ đến, con sẽ luôn luôn cảm thấy Thầy... Thầy muốn điều đó, và Thầy sẽ làm. Con sẽ có Thầy ở trong con như con chưa từng bao giờ được chiếm hữu Thầy như vậy. Vì Tình Yêu có thể hiệp thông với kẻ nó yêu, và nó mẫn cảm đủ để không phải chỉ chạm tới linh hồn, nhưng chạm tới cả chính giác quan. Bây giờ con đã bình an chưa Gioan?
711
- Lạy Chúa, rồi. Nhưng đau đớn chừng nào!
- Nhưng con không phản loạn...
- Phản loạn à? Không bao giờ. Con sẽ mất Thầy hoàn toàn. Con đọc kinh “Lạy Cha” của con: nguyện cho ý Cha được nên trọn.
- Thầy biết rằng con đã hiểu Thầy - Người hôn ông trên đôi má mà nước mắt vẫn tiếp tục chảy, dù có bớt hơn.
- Thầy để cho con chào đứa trẻ không?... Điều đó cũng là một nỗi đau nữa... Con rất yêu nó... - Và nước mắt ông chảy mạnh hơn...
- Ừ, Thầy gọi nó ngay. Thầy cũng gọi Sintica nữa. Cô ta cũng khổ... Con, đàn ông, con phải giúp nàng.
- Lạy Chúa, vâng.
Giêsu ra ngoài, trong khi Gioan khóc và vuốt ve các bức tường và tất cả các vật dụng của căn phòng hiếu khách.
Maria và Margziam cùng vào với nhau.
- Ôi! Mẹ! Mẹ có nghe không? Mẹ biết không?
- Mẹ biết, và mẹ rất khổ vì vậy. Nhưng mẹ cũng phải xa cách với Giêsu... và mẹ là mẹ.
- Đúng vậy... Margziam, lại đây. Con biết rằng ông đi, và chúng ta không bao giờ gặp nhau nữa? - Ông muốn can đảm, nhưng ông ẵm đứa trẻ, ngồi trên mép giường và ông khóc. Ông khóc bên trên mái tóc nâu đen của Margziam, làm nó cũng rất sẵn sàng để bắt chước ông.
Giêsu đi vào cùng với Sintica. Nàng hỏi: “Gioan, tại sao từng ấy nước mắt?”
- Người đẩy chúng ta đi, cô không biết à? Cô chưa biết sao? Người gởi chúng ta đi Antioche!
- Thì sao? Và Người đã chẳng nói rằng ở đâu có hai người họp nhau nhân danh Người thì Người ở giữa họ sao? Nào, Gioan! Anh, có lẽ từ trước tới nay, chính anh đã chọn số phận cho anh, và đối với anh, chịu đựng một ý muốn khác, dù nó đến từ tình yêu, cũng là khủng khiếp. Tôi, tôi đã quen chịu đựng những số phận mà người khác áp đặt cho tôi. Và số phận này!... Tôi tình nguyện phục tùng số phận mới này. Và gì nữa? Tôi đã không phản loạn chống lại cảnh
712
nô lệ chuyên chế, ngoại trừ khi người ta muốn thi hành nó trên linh hồn tôi, làm sao bây giờ tôi lại khởi loạn chống lại một sự nô lệ êm dịu của tình yêu, không hề làm tổn thương, mà lại nâng tâm hồn chúng ta lên, và phong cho chúng ta cái tước hiệu và cái thực tế là tôi tá Người? Anh sợ cho ngày mai, vì anh khổ sở bệnh hoạn? Tôi, tôi sẽ làm việc cho anh. Anh sợ ở một mình à? Nhưng tôi, tôi sẽ không bao giờ bỏ anh. Hãy chắc chắn điều đó. Trong đời tôi, tôi không có mục đích nào khác ngoài việc yêu Thiên Chúa và đồng loại. Anh là người đồng loại mà Thiên Chúa ký thác cho tôi. Hãy nghĩ anh thân thiết chừng nào đối với tôi!
- Các con không cần làm việc để sống, vì các con ở trong nhà của Lazarô. Nhưng Thầy khuyên các con dùng những phương pháp giáo dục để sát gần với dân chúng. Con, như ông thầy, và con, người phụ nữ, bằng những công việc phụ nữ của con. Như vậy cho công việc truyền giáo cũng như để có một cái đích cho ngày giờ của các con.
- Thưa Thầy, điều đó sẽ được làm - Sintica trả lời cách qủa quyết.
Gioan luôn luôn với đứa trẻ trong tay và khóc nhè nhẹ. Margziam vuốt ve ông.
- Con sẽ nhớ đến ông không?
- Luôn luôn, ông Gioan ạ. Và con sẽ cầu nguyện cho ông... Cả đến... Chờ con tí đi... - Và nó chạy ra ngoài.
Sintica hỏi: “Chúng con sẽ đi Antioche bằng cách nào?”
- Bằng đường biển. Con sợ không?
- Lạy Chúa, không. Ngoài ra, Thầy gởi chúng con đi, việc đó sẽ bảo vệ chúng con.
- Các con sẽ đi với hai Simon, các anh Thầy, hai con ông Zêbêđê, Andrê và Mathêu. Từ đây tới Ptolêmai trên một chiếc xe, nơi sẽ để các chiếc rương và chiếc khung cửi mà Thầy làm cho con, Sintica, và vài thứ đồ hữu dụng cho Gioan.
- Con, con đã tưởng tượng sẽ có một cái gì khi con nhìn thấy những cái rương và các quần áo. Và con đã sửa soạn tâm hồn con cho việc dứt bỏ. Thật qúa đẹp sống ở đây... - Một tiếng nấc mà
713
Sintica cầm lại làm đứt tiếng nói nàng. Nhưng rồi nàng tiếp tục để nâng đỡ sự can đảm của Gioan. Nàng hỏi bằng một giọng vững vàng: “Khi nào chúng con đi?”
- Ngay khi các tông đồ của Thầy tới. Có lẽ ngày mai.
- Vậy nếu Thầy cho phép, con đi xếp đặt các y phục vào các rương. Đưa cho tôi các sách vở của anh đi Gioan.
Tôi tin là Sintica muốn được ở một mình để khóc... Gioan trả lời: “Cầm lấy đi... Nhưng đưa cho tôi cái ru-lô có chiếc giây xanh”.
Margziam trở lại với hũ mật ong của nó: “Gioan, cầm lấy đi. Ông sẽ ăn thay cho con...”
- Nhưng không, con ơi, tại sao vậy?
- Tại vì Giêsu đã nói là một muỗm mật ong hy sinh có thể cho bình an và hy vọng cho một người đang đau khổ. Ông đang đau khổ... Con, con cho ông tất cả mật ong, để ông được hoàn toàn an ủi.
- Nhưng như vậy là qúa nhiều hy sinh, con ơi!
- Ồ, không. Trong lời cầu nguyện của Giêsu, người ta đọc: “Xin đừng đặt chúng con vào sự cám dỗ, nhưng giải thoát chúng con cho khỏi điều ác”. Cái hũ này là một cám dỗ đối với con... Và nó có thể là điều ác, vì nó có thể làm con lỗi lời hứa... Như vầy con không thấy nó nữa... Và như vậy dễ hơn... Con chắc rằng Thiên Chúa sẽ giúp ông do sự hy sinh mới này. Nhưng đừng khóc nữa. Cả cô cũng vậy, Sintica.
Qủa vậy, bây giờ cô gái Hy Lạp khóc không ra tiếng, trong khi cô thu lượm các sách của Gioan, và Margziam vuốt ve hết người nọ tới người kia. Nó cũng rất muốn khóc. Sintica đi ra, mang đầy ru-lô, và Maria theo cô với hũ mật ong.
Gioan ở lại với Giêsu ngồi ở bên cạnh ông và đứa bé trong tay. Ông bình tĩnh, nhưng bị đè nặng.
- Hãy viết cả bài sau cùng của con vào trong ru-lô - Giêsu khuyên. “Thầy nghĩ rằng con muốn tặng cho Margziam...”
- Vâng. Con có một bản sao cho con... Đây, con trai! Đây là những lời của Thầy, những lời đã được nói khi không có con ở đó.
714
Ông muốn tiếp tục sao ra cho con, vì con có cuộc đời trước mắt con... Và ai biết được con sẽ rao giảng Tin Mừng trong bao lâu... Nhưng ông không thể làm nữa... Bây giờ chính ông sẽ sống không lời Người... - và ông lại bắt đầu khóc mạnh.
Margziam êm đềm và trưởng thành trong thái độ của nó. Nó bám vào cổ Gioan và nói: “Bây giờ chính con sẽ viết cho ông và con sẽ gởi cho ông... Có phải không Thầy? Có thể được, phải không?”
- Chắc chắn là có thể. Và đó sẽ là một việc bác ái lớn để làm.
- Con sẽ làm. Và khi con vắng mặt, con sẽ xin Simon Zêlote làm. Ông ta rất yêu con và rất yêu ông, và ông ta sẽ làm vì bác ái đối với chúng ta. Vậy đừng khóc nữa. Rồi con sẽ tới thăm ông. Con... Chắc ông không đi qúa xa...
- Ôi! Bao nhiêu! Hàng mấy trăm dặm... Và ông sắp chết - đứa trẻ nản lòng và thất vọng. Nhưng nó trấn tĩnh lại với sự trong sáng của trẻ thơ mà với chúng, tất cả đều thấy dễ: “Bởi vì ông tới đó, con cũng có thể tới đó với bố con. Và rồi... Chúng ta sẽ viết cho nhau. Khi người ta đọc những trang Thánh thì cũng giống như người ta ở với Thiên Chúa, phải không? Vậy khi ta đọc một lá thơ thì giống như ta ở với người ta yêu là người đã viết cho ta. Nào, qua bên cạnh này với con đi...”
- Ừ, qua đó đi. Chỉ một lát nữa là các anh Thầy sẽ tới cùng với Zêlote. Thầy đã cho gọi họ.
- Họ biết không?
- Chưa biết. Thầy chờ cho tất cả đều hiện diện để nói...
- Tốt, Chúa ơi, ta qua đó.
Đó là một ông già gù bước ra khỏi phòng của Giuse. Ông già có vẻ như chào hết mọi cây lớn cây nhỏ, cái bể và hang đá, trong khi họ đi về xưởng mộc, nơi Maria và Sintica đang lặng lẽ xếp đặt đồ đạc, quần áo vào rương.
Và cũng vậy: yên lặng, rầu rĩ, Simon, Juđa và Giacôbê nhìn thấy họ. Họ nhìn... nhưng không đặt câu hỏi nên tôi không biết họ đã hay về sự thật chưa.
715
Chúa Giêsu nói:
Để có một sự chỉ dẫn cho người đọc, trước Cha đã chỉ các nơi Gioan bị nhốt ngục bằng những cái tên ngày nay đang dùng. Người ta đã bác bẻ điều đó. Nên đây, bây giờ Cha nói chính xác: Bitini và Mysi cho những kẻ muốn tên cổ. Nhưng Tin Mừng là cho những kẻ đơn sơ và bé nhỏ chứ không phải cho những tiến sĩ mà phần đông họ cho là không thể chấp nhận, và cho là vô ích. Những kẻ đơn sơ, những người bé nhỏ sẽ hiểu Anatoli dễ dàng hơn Bitini hay Mysi có phải không Gioan nhỏ? Con đã khóc cho sự đau đớn của Gioan Enđo? Nhưng trên thế giới có biết bao Gioan Enđo! Đó là những người anh em đau khổ mà năm ngoái Cha đã làm con chịu khổ cho họ. Bây giờ con hãy nghỉ ngơi, Gioan nhỏ. Con sẽ không bao giờ bị gởi đi xa Thầy con, trái lại, sẽ luôn luôn càng ngày càng gần hơn.
Và với sự kiện này, chấm dứt năm thứ hai của việc thuyết giáo và đời sống công khai: Năm của Tình Thương...Và Cha chỉ có thể nhắc lại điều phàn nàn khi chấm dứt năm thứ nhất, nhưng nó không liên can gì tới xướng ngôn viên của Cha là người vẫn tiếp tục làm việc, chống lại các trở ngại đủ loại. Đúng thật, không phải những kẻ lớn, mà là các trẻ nhỏ là những người đã vượt qua những con đường anh hùng, san bằng nó bằng những hy sinh của họ, kể cả những kẻ bị đè nặng bởi qúa nhiều thứ. Những trẻ nhỏ tức là những kẻ đơn sơ, hiền lành, những kẻ có một con tim và một tâm hồn trong sạch. Những trẻ nhỏ, Cha nói với các con, ôi hỡi các trẻ nhỏ, Cha nói với các con, hỡi Romualdo và Maria, và cùng với các con là tất cả những ai giống như các con: “Hãy đến cùng Cha để nghe. Vẫn còn là, và luôn luôn là Ngôi Lời nói với các con. Vì Người yêu các con,
Người nói với các con để chúc lành cho các con. Bình an của Cha ở cùng các con”.
Hết quyển bốn.
MỤC LỤC
87* Người bại liệt tại hồ Bêzata ................................................ 7
88* Tại Bêtani:“Thưa Thầy, Maria đã gọi Matta” .................. 20
89* Margziam được ký thác cho Porphyrê, vợ Phêrô ............. 24
90* Giêsu nói tại Bétsaiđa ....................................................... 28
91* Người đàn bà băng huyết và con gái Jairô ....................... 31
92* Giêsu và Matta tại Caphanaum......................................... 37
93* Chữa hai người mù và một người câm bị qủi ám ............. 45
94* Dụ ngôn con chiên lạc ....................................................... 52
95* Sau khi đã nhắc lại lề luật, cha làm hát lên niềm
hy vọng ơn tha thứ............................................................. 56
96* Giêsu nói với Matta:“Con đã có sự toàn thắng trong tay”. 66
97* Maria Mađalêna trong nhà pharisiêu Simon .................... 69
98* “Kẻ yêu nhiều thì được tha thứ nhiều” ............................. 73
99* Cứu xét về việc hoán cải của Maria Mađalêna ............... 76
100* Đáng chịu mất một tình bạn để chinh phục một linh hồn. 80
101* Maria Mađalêna đi theo Maria trong đám các môn đệ ... 90
102* Dụ ngôn người đánh cá ..................................................... 96
103* Margziam dạy kinh Lạy Cha cho Maria Mađalêna ...... 105
104* Giêsu nói với Philíp: “Thầy là người yêu mạnh thế”.
Dụ ngôn đồng tiền được tìm thấy................................... 108
105* Kiến thức sẽ không đồi trụy khi nó là tôn giáo ............. 117
106* Trong nhà tại Cana ......................................................... 128
107* Gioan nhắc lại bài luận thuyết của Giêsu trên Tabor. .. 139
108* Giêsu tại Nazarét ............................................................ 148
109* Ngày Sabát tại giáo đường Nazarét............................... 155
110* Mẹ giáo huấn Maria Magđala ....................................... 167
111* Tại Bétlem thuộc Galilê ................................................. 174
112* Khi đi về Sicaminon:
“Thiên chức còn hơn máu huyết” .................................. 189
724
113* Với các môn đệ tại Sicaminon:
“Tự thiêu đốt chính mình” .............................................. 194
114* Tại Tyr. “Kiên Trì, đó là từ ngữ lớn” ............................ 208
115* Với các môn đệ ở Sicaminon: Đức Tin .......................... 214
116* Giêsu nói với Maria Mađalêna: “Thầy sẽ làm việc
cho con bằng lửa và trên cái đe”.................................. 225
117* Sintica, tên nô lệ người Hy lạp ..................................... 232
118* Từ biệt Matta, Maria Mađalêna và Sintica ................... 242
119* Giêsu nói về Đức Cậy .................................................... 251
120* Giêsu lên núi Carmel với Giacôbê Alphê .................... 260
121* “Yêu cách hoàn toàn để làm thủ lãnh
cách thánh thiện” .......................................................... 263
122* “Hãy gọi kẻ gây đau khổ cho con là con” ..................... 275
123* Phêrô giảng tại Esdrelon: “Tình yêu là sự cứu rỗi” ...... 288
124* Giêsu nói với các nông dân của Giocana:
“Yêu là vâng lời” ............................................................ 297
125* Đức thánh Trinh Nữ Maria:
“Tình thương của mẹ mạnh hơn tất cả” ......................... 302
126* “Hoàn thành điều tốt là lời cầu nguyện lớn hơn
các thánh vịnh” .............................................................. 316
127* Một ngày của Iscariot tại Nazarét ................................. 320
128* Giáo huấn các tông đồ cho bước đầu việc truyền giáo. 334
129* Những người do ông Tẩy Giả sai đến hỏi:
“Ngài có phải là Đấng Messi không?” .......................... 348
130* Giêsu làm thợ mộc cho bà góa ở Corozain ................... 360
131* “Tình yêu là giới luật và là bí quyết của vinh quang”.. 365
132* “Con tim không được cắt bì” .......................................... 376
133* Cái chết của Gioan Tẩy Gỉa ........................................... 389
134* “Chúng ta đi Tarichée” ................................................... 398
135* Trong khi nói với một luật sĩ .......................................... 404
136* Bánh hóa nhiều lần thứ nhất .......................................... 410
137* Giêsu đi trên nước........................................................... 416
725
138* “Nếu các con có đức tin, Cha sẽ đến và Cha
ngăn ngừa nguy hiểm cho các con” ............................. 420
139* Gặp các môn đệ .............................................................. 424
140* Tính hà tiện và người giầu khờ dại ................................ 445
141* Trong vườn của Maria Magđala ..................................... 458
142* Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ đi loan báo về Người .. 465
143* Gặp Lazarô tại cánh đồng của dân Galilê .................... 471
144* Nhóm bảy mươi hai tường trình với Giêsu
những việc họ đã làm .................................................... 474
145* Tại Đền Thờ ngày Lề Lều .............................................. 480
146* Giuse và Nicôđêmô tường trình rằng ở Đền Thờ,
người ta đã được loan báo về sự hiện diện
của Gioan Enđo và Sintica ............................................ 500
147* Sintica nói trong nhà Lazarô .......................................... 508
148* Sứ vụ của bốn tông đồ tại Juđê..................................... 515
149* Giêsu rời Bêtani để đi về phía bên kia sông Giođan .... 519
150* Người lái buôn ở bên kia sông Euphrate ....................... 528
151* Từ Ramot tới Gêrasa ...................................................... 536
152* Thuyết giáo tại Gêrasa ................................................... 542
153* Ngày Sabát tại Gêrasa ................................................... 550
154* Khởi hành từ Gêrasa....................................................... 558
155* Khi đi về Bozra ............................................................... 569
156* Tại Bozra ......................................................................... 575
157* Bài giảng thuyết và các phép lạ tại Bozra .................... 581
158* Tạm biệt các nữ môn đệ ................................................. 592
159* Tại Arbêla........................................................................ 597
160* Trong khi đi về Aêra ....................................................... 605
161* Giêsu giảng tại Aêra....................................................... 615
162* Maria và Mathia ............................................................. 619
163* Việc năng lui tới các phép Bí Tích sẽ vô ích,
nếu thiếu đức bác ái ...................................................... 624
164* “Không có bần cùng nào mà Giêsu không thể
biến thành giầu sang” .................................................... 631
726
165* “Thầy muốn cho các trẻ mồ côi có một người mẹ” ....... 634
166* Tại Naim, trong nhà của Daniel, người được sống lại... 641
167* Trong chuồng súc vật tại Enđo ...................................... 650
168* Từ Enđo tới Magđala ..................................................... 654
169* Giêsu tại Nazarét vào dịp lễ Ánh Sáng ......................... 661
170* Giêsu với Gioan Enđo và Sintica tại Nazarét................ 666
171* Giêsu giáo huấn Margziam ............................................ 669
172* Simon Zêlote tại Nazarét ............................................... 675
173* Một buổi chiều trong nhà Nazarét ................................. 678
174* Giêsu với Salômê, vợ của anh họ Simon ....................... 687
175* Ông anh họ Simon trở về với Giêsu................................ 690
176* Simon Phêrô tại Nazarét. Sự quảng đại của Margziam. 698
177* “Không gì mất đi trong sự tiết kiệm thánh,
vì tình yêu phổ quát” ..................................................... 704
178* “Gioan Enđo, con sẽ đi Antioche”................................. 708
______________________