U tuyến giáp

Tuyến giáp

Tuyến giáp nằm ở vùng cổ trước và thường không sờ thấy được từ ngoài da. Nó có hình dạng như hai cánh bướm với hai thùy ở hai bên trái và phải được nối với nhau bởi cầu nối isthmus. Tuyến giáp là cơ quan tạo ra hormones làm điều hòa quá trình sinh hóa, nhịp tim, huyết áp và nhiệt độ cơ thể. Tuyến giáp bao gồm hai loại tế bào chính:

    • Tế bào Follicular: dùng i-ốt từ trong máu để tạo ra hormones tuyến giáp giúp điều hòa quá trình sinh hóa. Nếu sinh ra quá nhiều hormone (cường giáp - hyperythyroidism) gấy rối loạn nhịp tim, khó ngủ, lo lắng, đói, giảm cân và bị cảm giác quá nóng. Thiếu hormone (suy giáp - hypothyroidism) sẽ làm cơ thể bị chậm chạp, mệt mỏi và tăng cân. Lượng hormone tuyến giáp sinh ra được điều hòa bởi tuyến pituitary trên não do sản sinh ra hormone kích thich tuyến giáp TSH (thyroid - stimulating hormone)
    • Tế bào C: sản sinh ra chất calcitonin và loại hormone điều hòa quá trình tiêu thụ calcium trong cơ thể.

Ngoài ra tuyến giáp cũng có một số loại tế bào phụ là những tế bào miễn dịch dòng lympho (lymphocytes) và tế bào trợ giúp stromal.

Ung thư gây bởi những dòng tế bào khác nhau gây ra mức độ nghiêm trọng khác nhau và đòi hỏi phác đồ điều trị khác nhau. U tuyến giáp chủ yếu là lành tính những cũng có một số thể ác tính và có thể di căn.

Phân loại

U tuyến giáp lành tính

Bướu tuyến giáp (bướu cổ) là bệnh lý tuyến giáp bị phình to và thay đổi hình dạng. Một số trường hợp thì cả tuyến giáp to đều lên còn một số trường hợp bướu cục. Phình to tuyến giáp thường là u lành, bị gây ra bởi mất cân bằng hormone mà một trong những nguyên nhân gây ra là do thiếu i-ốt.

Nốt tuyến giáp (thyroid nodules) phần lớn là lành tính. Chỉ có khoảng 10% trường hợp bị nốt tuyến giáp là ác tính. Nhiều khi nốt tuyến giáp sản sinh quá nhiều hormone gây ra cường giáp. Nếu nốt tuyến giáp mà sản sinh nhiều hormone thì gần như là lành tính. Nốt tuyến giáp thường xảy ra với người lớn tuổi và có thể được chẩn đoán bằng siêu âm. Tỷ lệ dương tính với nốt tuyến giáp khá cao nhưng phần lớn là lành tính. Phần lớn nốt tuyến giáp là cysts và chứa dịch trong đó có hormone vi hạt. Nốt tuyến giáp rắn và chứa ít dịch thường là ác tính.

U tuyến giáp lành tính thường không cần phải chữa trị và chỉ cần để theo dõi thường xuyên.

U tuyến giáp ác tính

U tuyến giáp biệt hóa là ung thư xảy ra với tế bào biệt khóa (ung thư thể papillary, thể follicular và tế bào hurthle).

Khoảng 80% ung thư tuyến giáp là thể papillary. Thể ung thư này thường phát triển rất chậm và chỉ xuất hiện ở một bên thùy tuyến giáp. Mặc dù phát triển chậm, ung thư thể papillary vẫn có thể di căn ra hạch cổ. Nhưng dù có bị di căn ra hạch cổ thì phần lớn vẫn có thể chữa khỏi và không nguy hiểm đến tính mạng.

Khoảng 10% ung thư tuyến giáp là thể follicular. Thể này thường không di căn hạch nhưng có thể di căn phổi và di căn xương. Thể ung thư này thường xảy ra ở những nước mà thực phẩm thiếu i-ốt. Thể ung thư tuyến giáp này có tiên lượng tốt.

Khoảng 3% ung thư tuyến giáp thuộc thể tế bào hurthle. Thể ung thư loại này hiếm và khó điều trị.

Medullary

Ung thư tuyến giáp thể medullary chiếm khoảng 4% trong tổng số ung thư tuyến giáp. Ung thư thể này có thể di căn ra hạch, phổi và gan ngay cả trong trường hợp chưa quan sát được nốt tuyến giáp trên bằng chẩn đoán hình ảnh. Vì thế rất khó để chẩn đoán và điều trị ung thư tuyến giáp thể medullary.

Anaplastic

Ung thư tuyến giáp thể không biệt hóa (anaplastic) là một thể hiếm, chiếm khoảng 2%. Thể này nhanh bị di căn ra cổ và cơ quan khác và rất khó đểu điều trị.

Yếu tố nguy cơ

Di truyền

Thiếu I-ốt

Phơi nhiễm phóng xạ

Sàng lọc và chẩn đoán

Điều trị