Ung thư gan giai đoạn cuối rất khó chữa và tỷ lệ sống sót tính bằng này, tháng. Nếu không được điều trị, người bị ung thư gan giai đoạn cuối chỉ sống thêm được từ 2-4 tháng. Phương pháp điều chính hiện nay với ung thư gan giai đoạn cuối là dùng thuốc Sorafenib (Nexava). Tuy nhiên điều trị bằng thuốc Sorafinib vô cùng tốn kém, tới hàng trăm triệu đồng mỗi tháng mà hiệu quả đáp ứng vẫn thấp và thời gian sống thêm của bệnh nhân không nhiều - trung bình khoẳng 7-8 tháng.
Vì vậy trong 30 năm qua, các chuyên gia Nhật Bản phát triển phương pháp truyền hóa chất động mạch (HAIC). Nguyên tắc của HAIC là truyền hóa chất trực tiếp vào khối u một cách liên tục thông qua cổng truyền hóa chất. Bác sĩ điện quang can thiệp sẽ luồn ống dẫn nội mạch qua động mạch đùi và gắn cổng truyền cố định ngoài da. Như vậy hóa chất được truyền một cách liên tục trực tiếp vào khối u. Nhiều phác đồ hóa chất khác nhau đã được triển khai để tăng hiệu quả đáp ứng và điều trị. Với phương pháp này, hóa chất được tập trung với nồng độ cao tại khối u so với việc truyền hóa chất toàn thân gây nhiều hiệu ứng phụ cho nhứng tế bào bình thường. Vì vậy HAIC làm tăng tỉ lệ đáp ứng hóa chất và giảm hiệu ứng phụ.
Bác sĩ Lâm tổng hợp nhiều năm kinh nghiệm điện quang can thiệp được đào tạo từ Pháp, Nhật Thụy Sĩ, tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật điện quang can thiệp và phác đồ hóa chất từ 2 bệnh đại học Kurume và Kurume Chou và bệnh viện đại học Seoul Hàn Quốc để đưa ra phác đồ cá nhân hóa phù hợp nhất với từng bệnh nhân Việt Nam.
Thống kê về tỷ lệ đáp ứng và thời gian sống kéo dài của bệnh nhân ung thư gan giai đoạn cuối được điều trị phương pháp truyền hóa chất động mạch (HAIC) với 2 phác đồ hóa chất NFP và LFP so với dùng thuốc tại bệnh viện Kurume, Nhật Bản.