Ung thư là nhóm bệnh gây ra bởi sự phân bào ngoài kiểm soát dẫn đến phát triển khổi u và xâm lấn làm hỏng chức năng của các cơ quan nội tạng. Ở giai đoạn sớm, ung thư thường không có dấu hiệu biểu hiện lâm sàng. Khi đã có dấu hiệu thì thường bệnh đã ở giai đoạn muộn. Tỷ lệ chữa khỏi và sống sót ở giai đoạn cuối rất thấp, ví dụ như với ung thư gan di căn thì tỷ lệ sống sót trên 5 năm chỉ là 2%. Nhưng nếu được phát hiện sớm thì nhiều loại ung thư có thể được chữa khỏi hoàn toàn và tỷ lệ sống sót trên 5 năm là trên 75% (ung thư gan), 93%9 (ung thư cổ tử cung) và gần như 100% với ung thư vú và ung thư tuyến giáp.
Do không có biểu hiện lâm sàng ở giai đoạn sớm, tầm soát ung thư là phương thức hiệu quả nhất để phát hiện sớm và chữa khỏi bệnh.
Hiện nay, phương pháp tầm soát chính xác nhất cho phần lớn các loại ung thư là dựa và chẩn đoán hình ảnh. Ví dụ như siêu âm được dùng để khám sàng lọc và tầm soát rất hiệu quả cho Ung thư tuyến giáp, ung thư vú và ung thư gan. Việc phát hiện những tổn thương nhỏ ở giai đoạn sớm đòi hỏi kỹ thuật siêu âm tốt để bộc lộ tổn thương, kinh nghiệm và kiến thức chuyên sâu nhiều năm để phát hiện và phân biệt tổn thương với những bệnh lý lành tính khác. Sau khi phát hiện tổn thương, bác sĩ sẽ tiến hành chọc tế bào và sinh thiết để làm giải phẫu bệnh nhằm đưa ra chẩn đoán cuối cùng về giải phẫu vi thể của tổn thương.
Là bác sĩ đầu ngành về chẩn đoán hình ảnh với nhiều năm kinh nghiêm tại bệnh viện Việt Đức, Bạch Mai, viện K và nhiều năm đào tạo tại nước ngoài (Pháp, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật và Thụy Sỹ) bác sỹ Lâm là chuyên gia hàng đầu về chẩn đoán ung thư sớm và có nhiều năm kinh nghiệm phát hiện được những tổn thương rất nhỏ.
Đốt khối u gan là phương pháp điều trị phá hủy khổi u bằng những tác nhân lý hóa. Phương pháp điều trị này được ứng dụng cho những khối u gan nhỏ và chưa có nhiều nốt u trong gan. Đặc biệt khi chức năng gan không còn tốt để đủ tiêu chuẩn mổ cắt bỏ hoặc ghép gan. Đốt u gan cũng cho thấy hiệu quả chữa khỏi hoàn toàn trong nhiều trường hợp. Trong một số trường hợp bệnh nhân đủ tiêu chuẩn để ghép gan nhưng chưa tìm được gan hiến thì phương pháp đốt sóng được áp dụng đều điều trị tạm thời để thu nhỏ khối u trong lúc chờ ghép gan.
Đốt u gan đạt được hiệu quả tốt nhất khi áp dụng cho khối u nhỏ hơn 3 cm. Với những khối u lớn hơn (3 đến 5 cm), đốt u gan được dùng kèm với nút mạch gan. Trong trường hợp khối u quá gần với những mạch máu chính, gần cơ hoành và gần ống dẫn mật, nên cẩn trọng không nên áp dụng phương pháp này.
Ư điểm của phương pháp đốt u gan là phương pháp xâm lấn tối thiểu và tránh được những biến chứng nặng sau mổ. Bệnh nhân thường hồi phục nhanh và không phải nằm viện lâu. Khi tiến hành thủ thuật, bệnh nhân không cần bị mổ mà kim đốt sẽ được chọc qua da. Kim chọc được định vị dưới siêu âm hoặc ảnh chụp bẳng cắt lớp vi tính. Để đảm bảo định vị chính xác khối u, một số trường hợp bệnh nhân sẽ được tiến hành đốt sóng trong phòng mổ và được gây mê để cắt khoét lỗ chọc kim cho chính xác.
Những phương pháp thường dùng để đốt u gan: đốt bằng sóng cao tần, đốt bằng sóng vi ba, đốt lạnh, đốt bằng cồn
Đốt khối u bằng sóng cao tần là phương pháp phổ biến nhất dùng để đốt u gan. Phương pháp này dùng dòng năng lượng cao từ sóng cao tần. Bác sĩ sẽ dọc kim nhỏ qua da và định vị đầu kim vào khối u. Kim đốt được kết nối với máy phát tần số cao để làm tăng nhiệt độ cục bộ và phá hủy khối u
Đốt sóng cao tần u gan (radiofrequency ablation - RFA)
Tương tự như phá hủy khối u bằng đốt sóng cao tần, trong đốt sóng vi ba, nguồn năng lượng dùng để đốt nóng khối u được lấy từ sóng điện từ vi ba.
Đốt sóng vi va u gan (microwave ablation - MWA)
Trong thủ thuật này, bác sĩ sẽ bơm cồn với nồng độ cao trực tiếp vào khôi u qua da hoặc qua can thiệp nội mạch (TEA) để phá hủy. Trong nhiều trường hợp, phá hủy khối u băng cồn đòi hỏi nhiều lượt tiêm hơn so với phương pháp phá hủy dùng sóng cao tần và vi ba.
Phá hủy u gan bằng cồn (alcohol ablation)
Khối u có thể được phá hủy bằng phương pháp làm lạnh dùng đầu dò kim loại. Kim được định vị vào khối u để tiêm khí ni tơ lỏng đông lanh trực tiếp vào khối u. Ni tơ lỏng sẽ hạ thấp nhiệt độ xuống độ âm rất sau và làm chết tế bào quanh vùng đầu dò của kim.
Nút mạch là thủ thuật tiêm chất gây tắc động mạch trực tiếp nuôi khối u để làm cản trở và triệt tiêu dòng máu nuôi tế bào ung thư.
Gan có hai dòng tuần hoàn chính để nuôi gan. Với gan khỏe mạnh, tế bào gan bình thường được nuôi bằng tĩnh mạch của, trong khi đó tế bào ung thư trong khối được cấp máu bởi động mạch gan. Do đó, nút động mạch gan có thể triệt tiêu được dòng máu nuôi tế bào ung thư mà không ảnh hưởng đến dòng tĩnh mạch của để nuôi tế bào bình thường.
Phương pháp nút mạch được dùng hiệu quả để điều trị u gan giai đoạn trung gian.
Thủ thuật nút mạch được tiến hành bằng cách bác sĩ sẽ đặt ống dẫn qua động mạch đùi và dẫn đến khối u trong gan dưới sự hướng dẫn của thuốc cản quang làm hiện thị mạch máu. Sau khi đã đặt được đường ống dẫn đến động mạch gan vào khối u, bác sĩ sẽ tiêm hạt làm tắc trộn với hóa chất hoặc vi cầu phóng xa. Hạt làm tắc có tác dụng chặn dòng động mạch gan nuôi khối u trong trong hóa chất hoặc vi cầu phóng xạ sẽ dần được tỏa ra làm tăng tác dụng phá hủy khối tại chỗ.
Nút mạch gan (TACE, TARE, TEA)
Những phương pháp nút mạch chính dùng trong điều trị ung thư gan:
Trong phương pháp TAE, động mạnh gan nuôi khối u được nút tắc lại.
Trong phương pháp nút mạch hóa chất TACE, chất làm tắc động mạnh lipiodol được trộn với hóa chất để vừa có tác dụng tắc mạch máu nuôi khối, vừa tận dụng tác dụng của hóa chất.
Trong phương pháp nút mạch vi cầu phóng xạ TARE, hạt phóng xạ được truyền qua ống dẫn luồn từ động mạch và khối u. Chất phóng xạ sẽ phá hủy khối u tại chỗ.
Trong phương pháp nút mạch bằng hạt hóa chất, hạt polymer không thấm được trộn với hóa chất. Sau khi truyền quá ống dẫn nội mạch vào đến khối u, hóa chất sẽ được từ từ thẩm thấu ra ngoài dần dần để phá hủy khối u.
Ung thư gan giai đoạn cuối rất khó chữa và tỷ lệ sống sót tính bằng này, tháng. Nếu không được điều trị, người bị ung thư gan giai đoạn cuối chỉ sống thêm được từ 2-4 tháng. Phương pháp điều chính hiện nay với ung thư gan giai đoạn cuối là dùng thuốc Sorafenib (Nexava). Tuy nhiên điều trị bằng thuốc Sorafinib vô cùng tốn kém, tới hàng trăm triệu đồng mỗi tháng mà hiệu quả đáp ứng vẫn thấp và thời gian sống thêm của bệnh nhân không nhiều - trung bình khoẳng 7-8 tháng.
Truyền hóa chất động mạch u gan (HAIC)
Vì vậy trong 30 năm qua, các chuyên gia Nhật Bản phát triển phương pháp truyền hóa chất động mạch (HAIC). Nguyên tắc của HAIC là truyền hóa chất trực tiếp vào khối u một cách liên tục thông qua cổng truyền hóa chất. Bác sĩ điện quang can thiệp sẽ luồn ống dẫn nội mạch qua động mạch đùi và gắn cổng truyền cố định ngoài da. Như vậy hóa chất được truyền một cách liên tục trực tiếp vào khối u. Nhiều phác đồ hóa chất khác nhau đã được triển khai để tăng hiệu quả đáp ứng và điều trị. Với phương pháp này, hóa chất được tập trung với nồng độ cao tại khối u so với việc truyền hóa chất toàn thân gây nhiều hiệu ứng phụ cho nhứng tế bào bình thường. Vì vậy HAIC làm tăng tỉ lệ đáp ứng hóa chất và giảm hiệu ứng phụ.
Thống kê về tỷ lệ đáp ứng và thời gian sống kéo dài của bệnh nhân ung thư gan giai đoạn cuối được điều trị phương pháp truyền hóa chất động mạch (HAIC) với 2 phác đồ hóa chất NFP và LFP so với dùng thuốc tại bệnh viện Kurume, Nhật Bản.
Thuốc điều trị hướng đích là các loại thuốc đặc hiệu cho những đặc trưng điển hình của tế bào ung thư và khối u. Bằng cách chặn lại những đường tín hiệu điển hình này, tín hiệu nuôi khối u bị chặn lại dấn đến tiêu diệt tế bào ung thư. Một số loại thuốc hướng đích dùng cho ung thư gan hiện nay gồm có Sorafenib (Nexavar), Lenvatinib (Lenvima), Regorafenib (Stivarga), Cabozantinib (Cabometyx) and Ramicirumab (Curamaza).
Liệu pháp miễn dịch là dùng chính hệ miễn dịch của cơ thể để loại bỏ tế bào ung thư. Để khối u có thể tồn tại và phát triển được, tế bào ung thư có cơ chế ngụy trang để tránh được nhận diện của hệ miễn dịch. Trong liệu pháp miễn dịch, tế bào miễn dịch được kích ứng để khôi phục khả năng nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư.
Lenvatinib là dòng thuốc điều trị mới được phát minh tại Nhật và được cấp chứng nhận bởi Hoa Hỳ và Nhật Bản cho điều trị ung thư gan năm 2018. Lenvatinib có tác dụng cưỡng chế 3 dòng tín hiệu sinh mạch máu nuôi khối u. Do đó khi dùng lenvatinib, tế bào ung thư bị triệt tiêu do mất khả năng sinh mạch nuôi khối u. Hiện nay lenvatinin chưa có mặt tại Việt Nam. Vì vậy, nhờ mối quan hệ hợp tác với Nhật Bản, bác sĩ Lâm sẽ kết nối để bệnh nhận được nhận chỉ định điều trị trực tiếp từ bệnh viện Kurume, Nhật Bản