Ngày đăng: Oct 14, 2016 1:51:26 AM
Bài 21: Hành trình sa mạc
I. Ý nghĩa:
· Hành trình sa mạc là trải nghiệm và sống lại các câu chuyện tình thương của Thiên Chúa qua lịch sử ơn cứu độ. Rõ nét nhất là “thời đính hôn”: là hành trình của ông Môisê dẫn dân Israel suốt 40 năm gian nan trong sa mạc. Thiên Chúa đã dùng thời gian trong hành trình này để thanh tẩy và huấn luyện dân riêng Ngài. Chúa nuôi dưỡng khi họ đói khát, Chúa cứu chữa khi họ gặp tai ương, Chúa trách phạt rồi lại tha thứ, qua cuộc đời hay sứ điệp của các tổ phục, các ngôn sứ,...chúng ta nhận ra: Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv. 135)
· Hành trình sa mạc cảm nghiệm cuộc lữ hành của Giáo Hội ngày nay. Sa mạc thời đại biểu cũng nhiều cám dỗ, thử thách, nhiều tội lỗi, bệnh tật tấn công. Nhưng Chúa đã ban Thánh Tử Giêsu để Người phán dạy. Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế đã chết và phục sinh, luôn ở cùng chúng ta qua Chúa Thánh Thần và Thánh Thể. Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi. (Dt 13, 8)
· Hành trình sa mạc của phong trào TNTT tái hiện cuộc đời và gương lành các Thánh nhân, các vị Tử đạo. Các Thánh cũng trải qua sa mạc đầy gian nan chông gai, những hiểm nguy khi truyền rao Tin Mừng Đức Kitô, chiếu sáng Đức Tin cho dân ngoại, đến với những tâm hồn lạc lối, những hoang mạc ruộng khô cần gieo trồng hạt giống “Lúa Trời”.
· Hành trình sa mạc của phong trào TNTT là giảng diễn Lời Chúa, giáo huấn của Giáo Hội toàn cầu và Giáo Hội Việt Nam nói riêng, được xây dựng nên khung cảnh sống cho hành trình hoặc hình thành cho trò chơi lớn, làm đòn bẩy cho chiến dịch, thi đua.
Phong trào TNTT chọn khung cảnh của cuộc hành trình sa mạc của dân Chúa xưa cũng như dân Chúa ngày nay làm phương pháp giáo dục dưới hình thức một trò chơi, trong đó tạo ra những trạm dừng, những khó khăn trở ngại các sa mạc sinh phải vượt qua để nhớ lại nội dung và sứ điệp Chúa đã ban cho dân Chúa, để giáo dục và thanh luyện dân Ngài.
Và cũng như dân Chúa xưa, qua mỗi trạm, người tham dự hành trình sa mạc được phong phú thêm trong hành trang cho cuộc hành trình về đất hứa vĩnh cửu. Mỗi khi tham dự hành trình sa mạc Người huynh trưởng được mời gọi sống tinh thần từ bỏ, vâng phục. Từ bỏ con người cũ với tính ích kỷ, đố kỵ, kiêu căng để hoàn toàn tín thác vào Chúa, để Chúa làm chủ và dẫn dắt đời mình. Để rồi, giúp các em thiếu nhi tìm kiếm Đất Hứa vĩnh cửu đã được hoàn thành nơi Đức Giêsu Kitô, nơi mà cuộc chiến của ta kết thúc thắng lợi nhờ sự Phục Sinh của Ngài.
Hành trình sa mạc là một trong những phương pháp giáo dục, dưới hình thức một trò chơi, với những gian nan và thử thách, muốn cho người tham dự “chơi mà học”,tiến thêm một bước trong niềm tin vào Chúa, Đấng điều khiển lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, lịch sử mỗi đời người; Đấng luôn biết đến, yêu thương và chăm sóc từng người.
Dân Israel xưa đã có kinh nghiệm về Thiên Chúa ngang qua hành trình sa mạc. Hành Trình Sa Mạc dưới hình thức trò chơi ngày nay, nếu được tổ chức kỹ lưỡng sẽ góp phần giúp mỗi người tham dự, tùy hoàn cảnh, môi trường, điều kiện, khả năng của mình trải nghiệm và sống mối tương quan của mình với Chúa, để trên cơ sở đó (tương quan với Chúa) mà sống tốt mối tương quan với mọi người.
II. Tổ Chức:
· Hành trình sa mạc trong phong trào TNTT luôn thực hiện dựa theo 3 nguyên tắc: tạo bầu khí, giáo dục chiều sâu và rèn luyện kỹ năng. Thiếu 1 trong 3 điều này thì không thể thành công.
· Để soạn thảo kịch bản:
o Soạn theo chủ đề hay ý hướng của sa mạc huấn luyện.
o Kết hợp với mùa phụng vụ và chủ đề sống đạo của giáo phận
o Câu chuyện xuyên suốt, hợp lý trong hành trình.
o Nắm vũng những điểm cốt yếu, những vai trò chính để ấn định số trạm, mỗi bối cảnh là một trạm khảo sát.
o Kịch bản tổng quát này có thể chơi được ở mọi nơi và cho bất cứ thành phần nào.
· Phần riêng cho mỗi Hành trình sa mạc:
Căn cứ vào số lượng người chơi mà quyết định hình thức của cuộc hành trình. Hình thức có 3 dạng:
o Dạng tiến lên theo một lộ trình đội đến trước là thắng.
o Dạng xoay vòng: xuất phát từ một điểm tỏa ra các trạm không theo thứ tự.
o Dạng đối kháng: chia ra để thi đua đối đầu với các đội.
· Ước tính thời gian trở ngại nếu có (cho từng trạm và cuộc hành trình)
o Ấn định thời gian cho mỗi đội hoặc cá nhân tại mỗi trạm hay mỗi đoạn đường đi để cuộc chơi được điều hòa, nếu cuộc hành trình bị “cháy” cần kịp thời điều chỉnh.
o Nếu là trò chơi đêm thì sự chuẩn bị càng kỹ lưỡng hơn.
o Chọn địa điểm thích hợp (tiềm trạm)
o Phải đến tận nơi để quan sát khung cảnh, nơi sẽ diễn ra cuộc hành trình để có khái niệm chuẩn bị và soạn thảo trò chơi.
o Có thể hỏi thăm, vẽ bản đồ hướng dẫn lộ trình.
o Có những nơi cần phải xin phép và giới hạn phạm vi, cần phải tham khảo với giới hữu trách địa phương về địa hình và các luật lệ…
o Soạn thảo mật thư – là phần quan trọng nhất của việc chuẩn bị, phải tùy theo trình độ SMS mà thiết kế mật thư. Việc này có thể nhờ các trưởng đứng trạm cộng tác (hoặc chuyên viên) nhưng phải kiểm tra cho chính xác.
a. Trước khi hành trình:
Ban điều hành sa mạc phải hiểu rõ nội dung và diễn tiến của cuộc hành trình.
Trình bày diễn tiến chi tiết cho các Trưởng trạm hiểu rõ: địa điểm lộ trình, những trở ngại cần vượt qua từ nơi xuất phát đến nơi kết thúc.
Đến địa điểm trước để sắp xếp, sửa soạn, ướm định thời gian, đặt trạm để thích nghi với chủ đề, nên lợi dụng tối đa cảnh vật thiên nhiên.
Sắp đặt và giải thích kỹ các Trưởng ở từng trạm, từng đoạn đường, hóa trang thành nhân vật hoặc vai trò mà mình sẽ thủ diễn. Cách thức chấm điểm, giới hạn thời gian tại mỗi trạm, khảo hạch như thế nào? Trò chơi của mỗi trạm ra sao?
Duyệt qua diễn tiến trò chơi, xem lại các dụng cụ cứu thương, mật thư, dấu đường, phương tiện liên lạc, di chuyển, bản tin…
Cho các Sa mạc sinh biết phải mang theo những gì cần thiết cho cả cuộc hành trình (dây, những gì cần hóa trang…)
b. Trong khi diễn tiến:
Kiểm soát chặt chẽ diễn tiến của từng trạm, chú ý đến tinh thần cá nhân, các đội thi đua… Chú ý đặc biệt thời tiết và tâm lý của từng người tham dự.
Theo dõi kết quả từng trạm và tính thời gian cho đúng chương trình như đã liệu, nên kết thúc trong cao trào và có hậu.
c. Kết quả cuộc hành trình:
Họp ban điều hành để rút ưu khuyết điểm, các trưởng trạm nhận xét về trạm mình.
Các Sa mạc sinh chơi hăng say quảng đại rất thích biết được kết quả mình thu lượm được. Việc tuyên bố kết quả phải diễn ra khéo léo hợp tâm lý, đừng để người thua buồn rầu, bất mãn: Khen kẻ thắng bằng một tràng pháo tay nhưng đừng quên người thua đã tỏ ra “Kiên tâm, bền chí, tinh thần đồng đội cao độ, cũng xứng đáng được hoan hô”
Kết quả hành trình không chỉ có cộng điểm và xếp thứ hạng mà còn những kết quả giáo dục về mọi mặt, về mục tiêu đã đề ra.
d. Vai trò người đứng trạm:
Hiểu tâm lý nhân vật hợp vai diễn, luôn tôn trọng người chơi, dù là trẻ em.
Chuẩn bị khung cảnh hóa trang.
Biết nhiệm vụ của trạm mình đứng, nắm vững các diễn tiến hành trình tới các trạm.
Có óc hài hước tạo bầu khí vui, sinh động.
Biết thưởng phạt khéo léo, chấm điểm công bằng.
Khi cần ra hình phạt, nên tìm một hình thức vui nào đó để giáo dục. Tuyệt đối không dùng những hình thức phạt cực hình hoặc khổ nhục hình trong cuộc hành trình.
III. Kết luận
Trong tất cả các sa mạc huấn luyện, hay các cuộc cắm trại vui chơi… Cuộc hành trình sa mạc hoặc trò chơi lớn thường là tiết học hấp dẫn, hào hứng nhất, nhớ lâu, nhiều kỷ niệm và có công hiệu giáo dục nhất.
Một cuộc hành trình kết quả thường không chỉ là những kỷ niệm chóng qua nhưng gia tăng lòng nhiệt thành nơi những người tham dự.
--- oOo ---
Bài 22: Các mẫu “Hành trình sa mạc”
HÀNH TRÌNH SA MẠC (thực hành 1)
CHIẾM THÀNH GIÊRICÔ
“… Ngày thứ bảy, họ dậy sớm khi hừng đông ló dạng, và đi vòng quanh thành bảy lần cùng theo một cách thức. Đến lần thứ bảy, khi tư tế thổi tù và, ông Giosuê nói với dân: “Hãy hò reo xung trận, vì Đức Chúa đã nộp thành cho anh em”. Bấy giờ, dân chúng hò reo xung trận và người ta rúc tù và. Vừa nghe tiếng tù và, dân chúng lớn tiếng hò reo xung trận, và tường thành sụp đổ tại chỗ.
(Gs 6, 11–20)
Bản tin 1: Lệnh của Giavê kiểm tra dân số và tổ chức duyệt binh theo hàng đội.
Trạm 1: KIỂM TRA DÂN SỐ
– Đứng trạm vai Môisê
– Dựng cảnh: 1 khán đài để duyệt binh
– Khảo sát nghiêm tập: hàng dọc, chữ u , rẽ quạt
– Mỗi đội có 1 màu riêng và mỗi người trong đội có số thứ tự
– Cho diễu hành qua khán đài như kiểu duyệt binh
– Chấm điểm: nghiêm tập và diễu hành đẹp
Bản tin 2: Theo mây và cột lửa mà đi
(Sắp xếp mỗi đội một người cầm cột mây bằng giấy dẫn tới trạm 2 theo tính toán)
TRẠM 2 TIỆC MỪNG VƯỢT QUA
(Cứ 14 tháng Nizan hàng năm, dân Do Thái lại ăn mừng kỷ niệm lễ Vượt Qua. Ds 9,2; Xh 12)
– Đứng trạm vai bà Mariam (vợ của ông Môisê)
– Chuẩn bị trước của mỗi đội: bếp, nồi, củi,…
– Một hình thức thi đua nấu cơm, canh di động hoặc tại chỗ (tùy)
– Phát lương thực chia sẵn mỗi đội
– Định giờ giấc nấu thi
– Thực phẩm này có thể ăn ngay tại trạm này hoặc sau khi chiếm thành Giêricô
– Nếu không nấu cơm có thể bằng luộc khoai, nướng bắp, rang đậu phộng,…
Bản tin 3: Về bên này sông Giođan để nghe lệnh của Giosuê
Trạm 3: TẤN CÔNG (CHIẾM THÀNH)
– Đứng trạm vai ông Giosuê
– Tổ chức như một hội thao, thi tiếp sức với 1 số trò chơi, đội nào nhanh sẽ chiến thắng
– Theo tinh thần của đoạn văn Cựu Ước thì nên dùng băng keo dán miệng tất cả các quân lính, trừ người cầm đầu cầm tù và bằng giấy hoặc kèn nhựa.
* 1 vai trò chơi tượng trưng:
- Chui ống vải với bong bóng trên tay.
- Thổi bong bóng gắn vào cây cờ của đội làm thành cây bong bóng đẹp và nhiều nhất
- Vẽ thành Giêricô theo trí tưởng tượng của mỗi đội trên tờ giấy lớn
- Ngậm thìa (muỗng có 1 banh ping pong hoặc trái chanh thả vào rổ trong một thời gian đội nào nhiều sẽ thắng (trò này phải bỏ băng keo dán miệng)
* Nếu không chơi các trò chơi trên thì có thể tổ chức 1 cuộc chiến đấu lẫn nhau bằng cách cướp cờ
- Chia ra 2 hoặc 3 nhóm có 3 màu quy ước: xanh thắng đỏ, đỏ thắng vàng, vàng thắng xanh (phiếu màu gắn trên vai)
- Bảo vệ lá cờ của nhóm hoặc đội mình, mất cờ là thua
- Chơi trong thời gian nhất định, đội nào giựt được cờ hoặc phiếu nhiều nhất là thắng
- Trò chơi kết thúc bằng bữa tiệc mừng chiến thắng.
Ghi chú: các bản tin và các công việc trên đây chỉ có tính cách gợi ý có thể thay đổi tùy theo hoàn cảnh, số lượng, và đối tượng người tham gia.
HÀNH TRÌNH SA MẠC (2)
THỦ LÃNH MÔI SÊ
Theo Xuất Hành (13, 17, 32, 33)
I. Môisê dẫn dân vượt Biển Đỏ
II. Môisê và Manna
III. Môisê chiến đấu với dân Amalếch
IV. Môisê và giao ước Sinai.
TRẠM I: (Tập trung và khởi hành)
- Trạm trưởng: Vai vua Pharaon có 2 lính thay phiên rượt đuổi dân Hipri.
- Nói qua về ông Môisê và diễn biến câu chuyện theo sách xuất hành.
- Khởi đầu là trò chơi diễn tả cuộc vượt Biển Đỏ. Các sa mạc sinh đứng hàng dọc nắm tay giang ngang làm thành những lớp sóng biển. Mỗi đội cử ra 1 người, tượng trưng Dân Do Thái vượt biển bị 1 lính quân Pharaon rượt đuổi.
- Người của đội nào bị bắt trước chỉ được 1 điểm.
- Người nào của đội nào bị bắt thứ hai được 2 điểm. Cứ thế tới người cuối cùng.
- Sau màn khởi đầu này sẽ phát mật thư để sang trạm kế tiếp.
Nội dung mật thư: Theo dấu đường đến sa mạc Sim để xin ông Môisê lương thực. (Nhớ cẩn thận và ghi nhận dấu vết trên lộ trình)
TRẠM II: Sa mạc Xin (manna từ trời)
Trạm trưởng vai Môisê
- Nhận mật thư của các đội, khảo sát nghiêm tập.
- Ba đội tới trước họp thành 1 chi tộc khảo sát đội hình chữ U, bán nguyệt, rẽ quạt. Thêm nhân vật Aharon để khảo sát 3 đội sau (Nếu có 10 đội thì chia 2 chi tộc).
- Điểm khảo sát nghiêm tập vẫn tính theo đội, Sau nghiêm tập là phần tập trung để nhận “Manna từ trời”
- Mỗi đội 1 màu riêng biệt: Xanh, Đỏ, Tím, Vàng, Lục, Cam, Hồng, Nâu, Đen, Dương
- Khi nhặt Manna không được lấy màu của đội khác, Manna màu trắng thì không hạn định, nhặt nhiều điểm nhiều (đội nhiều nhất 10đ, ít nhất 1đ)
- Nhận Morse: Hãy hóa trang một gia đình người Do Thái và tìm gặp tướng quân Giosuê ở Rơphiđim
TRẠM III: Chiến đấu với quân Amalếch
- Trạm trưởng vai tướng quân Giosuê, trạm này chấm điểm hóa trang (mỗi thành viên trong gia đình hóa trang được 2 điểm: Ông bà, cha mẹ và 1 người con)
- Sau hóa trang là trò chơi ráp hình tượng trưng cho cuộc chiến đấu với quân Amalếch. Các đội sẽ ráp hoàn chỉnh hình “Môisê rẽ biển”, khi lần lượt lên ráp hình sẽ có 3 hình thức bò, nhảy ếch, chạy: 1 người là Môisê với 2 người đỡ tay 2 bên: Tay giơ cao chạy lên.
Tay giơ ngang nhảy ếch
Tay xuôi bò lên.
- Tính điểm nhanh và đúng đẹp cho bức tranh hoàn chỉnh.
- Sau trò chơi ráp hình là phát mật thư.
Nội dung: Trong thời gian chờ Môisê xuống núi các ngươi hãy dùng tài khéo léo và vật liệu gom được để cắt dán 1 con bê vàng. Rồi trình diện ông Aharon ở núi Sinai.
TRẠM IV: Giao ước Sinai
Trưởng trạm vai Aharon: sẽ nhận con bê vàng của các đội để chấm điểm (càng đẹp càng ít điểm).
*Để kết: Ông Môisê sẽ từ trên núi xuống giận dữ và đập vỡ bia đá trên tay.
HÀNH TRÌNH SA MẠC (3)
NÉN BẠC CHÚA TRAO
Dựa theo dụ ngôn “Những nén bạc” (Mt 25,14-30)
Ý nghĩa: Mỗi người đều được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Chúa không đòi mỗi người những điều vượt quá khả năng, nhưng Chúa không chấp nhận sự lười biếng, không sinh lợi ích cho phần rỗi mình.
Tập họp chung và cho hát múa bài “Nén vàng Chúa trao” sau đó thổi Morse bản tin
Bản tin 1: Có một nhà giàu tuyển nhân công hãy tới xin việc
Trạm 1: NHÀ GIÀU TUYỂN NGƯỜI
– Nhân vật đứng trạm: 1 bà chủ và 1 quản gia
– Thay mặt ông chủ, quản gia nhận bản tin và nhanh chóng phát cho mỗi đội:
+ 1 đơn xin việc, để biết lý lịch đội
+ 1 bài thể dục (Aerobic) để kiểm tra sức khỏe
+ 1 giấy thông hành để đi lại
+ 1 bản kinh phải học thuộc để tăng phần đạo đức
+ (hoặc 1 bài nội quy của nhà giàu)
– Nhóm nào thực hiện xong sẽ gặp lại quản gia để khảo sát và được chấp nhận vào làm việc. Sau 1 thời gian, quản gia thông báo ông chủ sắp đi xa nên bà chủ thay mặt phát lương phát tiền cho nhân công.
– Chuẩn bị những nén bạc bằng kẹo hoặc viên bi
– Tiền lương là mật thư sang trạm kế tiếp
– Trao lại giấy thông hành có điểm số và nhận xét của trạm 1 (có ký hiệu riêng)
Bản tin 2: Đã có thu nhập hãy đến đóng thuế ở trạm thuế X
Trạm 2: TRẠM THUẾ XÊDA
– Nhân vật: người thu thuế tham lam
– Công việc: Nhận tiền đóng thuế (bản tin)
Khảo sát về phong trào, luật lệ
Trưởng trạm sẽ ra hình thức đóng thuế tùy ý theo sáng kiến: thuế dân, thuế lợi tức, thuế GTGT
– Thuế đây là khảo sát 1 vài người trong đội để cho điểm, nộp thuế nhiều là trả lời đúng nhiều câu hỏi sẽ sinh lợi nhiều; được nhiều điểm
o Lấy ý tưởng kinh thánh “Của Xêda trả cho Xêda (Mt 22, 21b) để đứng trạm này
o Tặng cho mỗi đội một giấy biên nhận đã nộp thuế (Mt) để đi trạm kế tiếp
– Trả lại giấy thông hành sau khi đã ký tên.
Bản tin 3: Đến ngân hàng Y để đòi lại vốn vì ông chủ sắp về
Trạm 3: NGÂN HÀNG
– Nhân vật: Thâu ngân viên ngân hàng
– Dựng cảnh: 1 văn phòng có phòng thu ngân
– Công việc: Nhận giấy đã gởi tiền (bản tin)
Chỉ cho nhận tiền khi có dấu “dấu vân tay” của toàn đội ấn vào 1 tờ giấy
Ban tổ chức chuẩn bị sẵn bản trắc nghiệm, câu hỏi về các bài đã học hoặc làm bài hậu sa mạc cho trạm này khảo sát
– Sau khi mỗi sa mạc sinh nộp bài xong, thâu ngân viên sẽ trả lại tiền vốn cho đội để đi tiếp. Tiền vốn là bản tin số 4. Tiền vốn là giấy thông hành, tiền vốn là nén vàng sinh lợi và điểm số đã chấm.
Bản tin 4: Ông chủ đã về hãy trình diện Ngài
Trạm 4: ÔNG CHỦ HỒI GIA
– Nhân vật: Vai 1 ông chủ nghiêm nghị
– Công việc: Truy thu (giấy thông hành) các nén vàng của mỗi đội có điểm số và nhận xét của 3 trạm trước, để cộng điểm, số nén vàng và công bố: đầy tớ nào sinh lợi được thưởng và cho thêm, đầy tớ nào chôn vàng xuống đất sẽ bị cột vào cối đá mà quăng xuống biển.
Ghi chú: Mỗi bản tin xin đặt thêm địa điểm tới, có thể sử dụng bản đồ hoặc dấu đường.
Kết thúc: cùng hát và múa bài NÉN VÀNG CHÚA TRAO
HÀNH TRÌNH SA MẠC (4)
THEO CHÚA VIẾNG THĂM
Dựa theo Tin Mừng Lc 1, 5-56
Câu chuyện: Các sa mạc sinh sẽ hóa thân là những người anh em họ hàng với Giuse hoặc là bà con lối xóm dòng tộc với ông Dacaria. Tùy theo tin truyền của thiên sứ những người anh em này sẽ theo tư tế Dacaria phụng sự Chúa trong đền thờ hoặc tháp tùng Giuse và Maria đi thăm bà Elizabet nhân một ngày đẹp trời, theo Thánh Kinh, đường đi tới nhà bà Elizabet là miền núi, lối đi gập ghềnh nhiều trắc trở
DIỄN TIẾN:
Mật thư 1: Lệnh truyền cho Dacaria và nhóm tư tế hãy tới đền thờ (..) để dâng hương cho Đức Chúa.
Trạm I: ĐỀN THỜ.
– Trưởng trạm vai Thiên sứ Gabriel, khung cảnh đền thờ Đức Giavê có màn che, có sân rộng. Theo Tin Mừng Lc 1, 8-22 chỉ một mình Dacaria được phép vào đền thờ và vì yếu nhân đức tin ông đã bị câm.
– Một vai phụ gác cổng đền thờ, chỉ cho mỗi đội 1 người vào đền (hóa trang Dacaria). Thiên sứ Gabriel sẽ khảo sát về Kinh Thánh hoặc về phụng vụ Thánh Lễ.
– Có thể tới cùng lúc 3, 4 đội nhưng người gác cổng cũng chỉ cho mỗi đội 1 người vào, giầy dép để bên ngoài kể cả những người ngoài sân.
– Thiên sứ Gabriel sẽ cho Dacaria làm những việc sau: Khi ra sẽ bị câm chỉ ra hiệu cho đội mình bằng cử điệu hoặc bằng Morse cánh tay: giơ hai tay là Tè, giơ một tay là Tích.
– Mỗi người bốc 1 thăm trong số những câu Lời Chúa sau để người bên ngoài dịch, các đội viên bên ngoài cũng phải dịch trong im lặng đội nào vi phạm bị trừ điểm.
+ Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng tôi (2 Cr 5,14)
+ Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 2,23)
+ Hãy ân cần cho khách trọ nhà (Rm 12,13)
+ Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất (Mc 12,29)
+ Hãy về đi, con tin gì thì sẽ được như vậy (Mt 7,13)
+ Chẳng ai đốt đèn rồi đặt vào chỗ khuất (Lc 11,23)
+ Nếu Thầy không đi, Đấng phù trợ sẽ không đến (Ga 16,7)
+ Thiên Chúa ban ơn cho kẻ khiêm nhường (1 Pr 5b)
+ Hãy nếm thử mà xem (Tv 33)
+ Tảng đá mà thợ xây loại bỏ lại thành đá góc tường (Mc 12, 10)
+ Ý của Thiên Chúa là anh em nên thánh (1 Tx 4, 3)
+ Ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp chính Thầy (Ga 13,20)
· Hoặc chỉ dùng cử điệu cho vui 1 trong 4 câu sau:
+ Vợ tôi sẽ có con.
+ Chúng tôi sẽ có con trai
+ Vợ tôi sẽ sinh con trai.
+ Con trai tôi sẽ tên là Gioan.
Xong phần khảo sát sẽ phát mật thư hoặc thổi Morse cho trạm kế tiếp.
Bản Morse: Hãy mang lễ vật đến nhà ông GioaKim Xin đính hôn với con gái ông.
Trạm II: ĐÍNH HÔN
– Đứng trạm là ông Gioan Kim và bà Anna có thể có thêm Maria. Khung cảnh: Lễ đính hôn tại nhà ông bà.
– Các đội đã có tờ chỉ dẫn đến địa chỉ và thực hiện 6 mâm quả gồm có: trái cây, rượu trà, vàng bạc tiền cheo, nến hoặc trầm hương, bánh không men, khăn trùm đầu và chú rể Giuse cầm bông hoa.
– Phụ mẫu của Maria sẽ thực hiện:
+ Nhận bản Morse và lễ vật.
+ Một MC sẽ nói ý nghĩa buổi lễ.
+ Đánh giá các lễ vật.
+ Chấm điểm hóa trang chú rể Giuse.
+ Khảo sát về lý thuyết phong trào.
+ Cử hành nghi lễ (cho nổ bong bóng)
Nghi lễ xong sẽ phát mật thư cho trạm kế tiếp.
Mật thư 3: Theo sơ đồ đến điểm C gặp quan trấn giữ thành, xin phép ra ngoài có việc thăm thân nhân nhớ hóa trang một Maria
Trạm III: VƯỢT THÀNH
- Trưởng trạm vai sĩ quan Đội Trưởng và hai lính canh phụ tá.
- Có thể 3 đội đến cùng lúc.
- Trình diện Hai đội hình nghiêm tập: nửa vòng tròn và trình diện đội.
- Khảo nút dây: 4 nút ghế đơn và thòng lọng, thuyền chài và nút dẹt.
- Cổng thành là 1 ống vải chui qua như lạc đà chui lỗ kim: Nghèo khó thì qua được, giàu có thì chẳng xong.
- Có thể trang trí cổng thành tùy ý nhưng nên áp dụng nút dây để khảo sát.
- Chấm điểm hóa trang của Maria.
Khảo sát xong sẽ phát mật thư đi tiếp.
Mật thư 4: Cả đội lên đường cùng Maria tới nhà bà Elidabeth (ở điểm 1 trên bản đồ) để chúc mừng vì bà đã gần đến ngày khai hoa nở nhụy. Trên dường đi nhớ tập múa bài Manhificat để hát mừng bà.
Trạm IV: NGỢI KHEN
- Đứng trạm là ông bà DacariaElizabet và 1 gia nhân.
- Bà Dacaria và gia nhân ra đón các đội vì có thể các đội về cùng một lúc. Lưu ý trạm này không bắt trình diện và so hàng vì đoàn này có Chúa trong bụng Mẹ Maria, chỉ trình thẻ thông hành là cho vào.
- Tới thăm phải có quà vì thế các đội phải có quà.
- (Ông Dacaria muốn nói gì thì ra hiệu cho gia nhân nói thay ông).
- Bà Elizabet khi gặp Maria thì đọc Kinh Kính Mừng.
- Ổn định, đội nào về trước múa trước bài Magnificat.
Td: Mừng khen Yavê của Thành Tâm.
o Linh hồn tôi tung hô Chúa của Kim Long.
o Linh hồn tôi hoan ca của Nguyễn Văn Hòa.
o Thăm viếng của Vũ Khởi Phụng.
Hoặc tự ý lựa chọn bài khác cũng được.
Trò chơi kết thúc khi các đội diễn tả xong.
Chú ý:
- Hành trình sa mạc trên chỉ soạn cho đoàn ít người hoặc có 3, 4 đội.
- Nếu đông người hoặc nhiều đội thì sẽ thay đổi bằng cách:
- Các đội tới trạm nào trước cũng được bằng cách tráo đổi thư không theo thứ tự. Chỉ có trạm IV là trạm cuối cùng không thay đổi.
- Thứ tự các trạm: I, II, III, IV
Nếu xếp II trước: II, III, I, IV
Nếu xếp III trước: III, I, II, IV
Người tổ chức cần giám sát thật kỹ lưỡng để mật thư không phát sai, cách này cần cho mỗi đội 1 thẻ thông hành để các trạm theo dõi và ký nhận.
HÀNH TRÌNH SA MẠC (5)
TRÊN ĐƯỜNG EMMAUS
Dẫn nhập:
Hành trình sa mạc được soạn theo: Lc 24, 13-35.
Diễn tiến của cuộc hành trình được thêm thắt bởi một câu chuyện như sau: Việc xảy ra bởi một số môn đệ đáng lẽ là đi cùng với ông Clêôpát, nhưng vì bận theo một khóa quân sự nên bị chậm trễ, phải đuổi theo sau cách cả nửa ngày.
Dù chỉ cách có 11km nhưng do đường đến Emaus đang sửa rất khó đi nên phần lớn trong số họ đã ngược lên phía Bắc qua ngõ Giêricô để vòng xuống…
Gặp được Cơlêôpát ở Emmaus họ đã được ông thuật lại việc Chúa hiện ra, đồng hành với hai ông. Sau đó họ cùng được chứng kiến việc Chúa lên trời trong vinh quang.
· Tập họp sa mạc sinh, Đọc Tin Mừng: Lc 24,13-35
· Đọc dẫn nhập
· Bản Morse: Ông SIMON lệnh cho các bạn tới sân hội đường gặp 1 sĩ quan để dự khóa học về quân ngũ.
TRẠM I: KHÓA QUÂN SỰ
- Nhân vật: Sĩ Quan Đội Trưởng và 3 Đội Phó
- Công việc: Sĩ Quan sẽ nhận bản Morse đã dịch và lệnh cho học về nghiêm tập (cứ 2 đội tới trước hình thành 1 nhóm).
· 3 Đội Phó mỗi người sẽ phụ trách 2 đội hình nghiêm tập và kiểm tra xoay vòng.
- Đội Phó 1: Hình chữ U và hàng ngang
- Đội Phó 2: Vòng tròn và ½ vòng tròn
- Đội Phó 3: Rẽ quạt và hàng dọc.
· Sĩ Quan quan sát để chấm điểm và thổi còi chuyển đội hình để xoay vòng (Tuyệt đối im lặng) sau cùng phát Mật thư sang trạm kế tiếp, tiếp tục cuộc hành trình.
(Lưu ý: Lại chia nhóm ra làm 2 hướng đi mỗi đội 1 ngả, 2 Mật thư khác nhau)
Mật thư:
· Theo bản đồ đến lữ quán Giêricôbaaihavôty để nghỉ chân ăn uống. Khi đi đường nhớ suy gẫm và thực hành Lời Chúa.
· Với sự chỉ dẫn của sơ đồ các bạn hãy lên đường đi Emaus tìm ông Clêôpát để nghe tin tức về thầy Giêsu.
Trạm II và III: là hai trạm khác nhau nhưng đội nào tới trước cũng được. Vì tùy theo mật thư sẽ tách tốp ra hai đường đi:
Một nửa theo ngõ chính đi Emmaus, một nửa kia đi ngược lên phía Bắc sang Giêricô để đến Emmaus.
Như vậy trạm hai sẽ là trạm trung chuyển mang một cái tên dài thòng: lữ quá GIÊRICÔBAAI HAYVÔTY đội nào tới làng Emmaus trước, lúc trở về sẽ gặp lữ quán ghé vào giải khát và ngược lại đội nào ghé lữ quán nghỉ chân trước thì lúc tới Emmaus sẽ đi đường gần nhất để về GIÊRUSALEM.
(Có bản đồ hướng dẫn).
TRẠM II: LỮ QUÁN GIÊRICÔBAAIHAVÔTY.
(GIÊRICÔ Bác Ái Hay Vô Tình)
Thời gian: 3 đội đầu 30’, 3 đội sau 30’
- Phía xa xa cổng lữ quán có một người bị nạn đang kêu khóc, như để thách đố lòng bác ái theo Lời Chúa (Dụ ngôn người Samari tốt lành Lc 10, 29-37); Đội nào dừng lại giúp đỡ người bị nạn sẽ được ghi nhận.
- Trong lữ quán: Chủ quán và người phục vụ. Quán nước có bày biện bàn ghế, bánh trái, nước ngọt…
o Các đội tới quán sẽ mua nước giải khát và trả tiền bằng cách trả lời các bài khóa đã học, các bài quan trọng và chính yếu (chủ quán sẽ soạn trước câu hỏi nhưng không hỏi về Lời Chúa, Thánh Kinh, để dành cho trạm sau)
o Giải khát, ăn uống xong chủ quán sẽ thân tặng lộ phí để đi đường (MT kế tiếp).
TRẠM III: THÔN LÀNG EMMAUS:
- Nhân vật: Vai Cơlêôpát và bạn ông
- Công việc: Nhận Morse hay mật thư, không so hàng không hạch sách, không tra khảo (Vì ông Cơlêôpát và những người này là môn đệ Chúa, cùng vai vế với nhau.) Ông Clêôpát chỉ yêu cầu ngồi để nghe mình nói chuyện về Thầy Giêsu Phục Sinh…
- Phát cho mỗi người một tờ giấy màu và 1 cây bút lông đậm nét để tự mỗi người trình bày thật đẹp 1 câu Lời Chúa với điều kiện đưa ra:
– Các câu phải diễn tả về Chúa Phục Sinh hoặc Thánh Thể, trong 1 đội không câu nào giống câu nào.
Vd: Ta là bánh hằng sống. Ga 6, 35
– Viết theo hàng dọc kiểu câu đối: kiểu chữ thì tùy mỗi người, chữ in, chữ hoa, thư pháp…
– Có thể trao đỗi màu để tô điểm thêm cho đẹp (Một đội 1 hộp bút 12 màu)
– Xong việc sẽ phát MT cho trạm kế tiếp.
MT3: Mang theo Lời Chúa trở về hội đường Giêrusalem gặp ông Phêrô để xin ý kiến.
TRẠM IV: HỘI ĐƯỜNG
* Nhân vật: SIMON Phêrô và 10 môn đệ
* Công việc: Nhận mật thư các đội theo thứ tự về trước sau.
- Lệnh cho các đội cột Lời Chúa của mỗi người vào bong bóng. Dẫn mọi người sang ngọn đồi ở gần Bêtana (….) để chứng kiến việc Chúa lên trời bằng cách thả bong bóng Lời Chúa lên trời trong tiếng vỗ tay và trống chiêng.
- Hành trình sa mạc kết thúc.
· Lưu ý: 3 đội nào tới trạm III trước khi tới trạm lữ quán thì vẫn giữ câu Lời Chúa của mình cẩn thận để tới trạm IV ông Simon sẽ chấm điểm.
HÀNH TRÌNH SA MẠC (6)
VAY TRẢ - TRẢ VAY
Dựa vào dụ ngôn: Tên mắc nợ không biết xót thương (Mt 18,23-35) và phép lạ Chúa chữa 10 người hủi (Lc 17,11-19)
DIỄN TIẾN CÂU CHUYỆN
Có một số người vì muốn đi du lịch sang Ai Cập nên đã vay nợ của một ông chủ giàu có để đạt ước nguyện, nhưng rủi thay nhóm người này đồng loạt bị phát bệnh phong hủi nên bị đọa đày, chữa nhiều lang y vẫn không khỏi, vẫn tiền mất tật mang. Cuối cùng, họ được soi sáng tìm đến Chúa Giêsu để được chữa lành. Sau đó, bị tên chủ siết nợ, họ phải chạy trốn, có khi phải chống cự để bảo toàn tính mạng.
Vay phải trả, trả khi vay, chính tên chủ nợ cũng nợ của một quan lớn một số tiền to gấp bội, và tất cả phải ra trước vành móng ngựa để chịu phán xét.
MẬT THƯ KHỞI ĐẦU
Hãy đến cửa hiệu cầm đồ và cho vay ở điểm C trên bản đồ để mượn tiền đi du lịch tham quan biển đỏ.
TRẠM I + II
- Trạm I là ông chủ hiệu cầm đồ
- Trạm II là thầy lang chữa bệnh
Hai trạm ở kế bên là hàng xóm của nhau.
-Trạm I: CHỦ HIỆU CẦM ĐỒ CHOVANALAI (Cho vay nặng lãi)
Hoạt động với 4 phương châm:
1. Muốn vay mượn phải thế chấp
2. Muốn thế chấp phải có giá
3. Muốn có giá phải chứng minh
4. Muốn chứng minh phải xét mình.
Khảo sát sa mạc sinh mọi lãnh vực: nghiêm tập, đạo đức, phong trào và nhất là sức khỏe. Trước khi cho vay sẽ giới thiệu ông lang hàng xóm xem có sức khỏe hay không vì nếu có bệnh tật, ông chủ hiệu sẽ không thu hồi lại được tiền vốn.
- Trạm II: THẦY LANG (Trang bị đồ khám chữa bệnh)
+ Đóng lệ phí (dù chưa vay được tiền)
+ Một bài thể dục tự chọn
+ Xắn áo vén quần bôi thuốc đỏ
+ Phát giác có bệnh phong hủi (hô toán lên)
+ Phát cho mỗi đội 1 tấm bạt lớn để trùm kín đội (lệnh bắt buộc)
+ Một mật thư để dịch (Dịch MT trong bạt, trong tối)
+ THEO DẤU ĐƯỜNG ĐẾN HỒ NƯỚC CÓ (THÂN PHỤ ÔNG GIÊSU) ĐANG ĐỨNG ĐỂ XIN CHỮA BỆNH.
+ Cả đội phải trùm kín trong 1 hoặc 2 bạt lớn vừa đi vừa la to “chúng tôi bị cùi”, “chúng tôi bị bệnh phong”, “xin xa chúng tôi ra”.
+ Sẽ có các lính làng dung vôi bôi vào bất cứ bộ phận nào trên cơ thể thò ra ngoài tấm bạt.
+ 6 Trưởng thủ vai lính lệ để bôi vôi đi theo các đội, và kiểm soát có đi đúng dấu đường hay không?
- Trạm III: TƯ TẾ
Chứng kiến việc dìm người xuống nước để chữa bệnh. Tùy sáng kiến nhưng không làm sa mạc sinh ướt quá.
+ Lắng nghe lời cầu nguyện.
+ Có thể thêm nếu có giờ:
o Cho viết Lời Chúa thật to, rõ, đẹp trên tờ giấy để sẵn nơi hồ nước (nhớ ghi tên đội)
o Nội dung Lời Chúa có liên quan đến năm Giáo dục Kitô giáo hoặc lời cầu xin tạ ơn.
- Nhanh chóng cho các đội chuyển sang trạm IV.
- Trạm IV: BÀ VỢ ÔNG QUAN CHO VAY NỢ
+ Tập trung 6 đội một lúc
+ Cho nợ thêm 1 thời gian vì có lòng tha thứ
+ Chia 3 nhóm (2 đội 1 nhóm) mỗi nhóm 1 màu: hồng, tím, xanh bằng vải đeo vào cánh tay.
+ Mỗi nhóm được 8 phiếu: vàng, bạc, đồng (8 x 3 = 24 phiếu) và một cuốn sổ nợ.
+ Quy định: Vàng thắng bạc
Bạc thắng đồng
Đồng thắng vàng
+ Ba nhóm sẽ đi đòi nợ lẫn nhau bằng cách giựt phiếu vàng bạc đồng, chỉ được giựt người đeo phiếu thua mình, người mất phiếu phải về tập trung một chỗ hoặc xin nhóm trưởng phiếu khác nếu còn phiếu giựt được.
+ Cuốn sổ nợ sẽ được để công khai 1 nơi và được bảo vệ, nếu mất sổ coi như thua.
+ Thời gian chơi giựt phiếu là 45 phút
+ Có thể chuyển trạm bằng một bài Morse
o Nội dung bản Morse: HÃY TẬP TRUNG Ở HỘI ĐƯỜNG VÀ KIỂM PHIẾU ĐỂ RA TÒA ÁN PHÂN XỬ.
- TRẠM V: TÒA PHÁN XÉT (Ông quan cho vay)
– Địa điểm: 1 sân rộng hoặc hội trường
– Làm 3 vành móng ngựa
– Kiểm kê phiếu giựt được của mỗi nhóm
– Kết luận: các nhóm đều không có lòng tha thứ đã đi siết nợ nhau.
– Nhóm nào giựt nhiều phiếu sẽ bị phạt nặng nhất. Và cuối cùng là một bài huấn từ về lòng tha thứ.
– Hát chung một bài về bác ái.
HÀNH TRÌNH SA MẠC (7)
ĐỨA CON HOANG ĐÀNG
Dựa theo dụ ngôn Người Cha nhân hậu Lc 15,11-32
Người điều khiển tập trung sa mạc sinh kể chuyện dẫn nhập và chia gia tài bằng 1 gói quà và 1 bản tin
Bản tin 1: Hãy mang phần gia tài của con mà đi học lấy 1 nghề cho tinh xảo, tới điểm A có trường dạy nghề.
Trạm 1: LỮ QUÁN TRÁ HÌNH
– Đứng trạm: vai chủ quán tham lam
– Dựng cảnh: 1 quán rượu
– Công việc: Bắt đóng học phí, dụ dỗ uống rượu, đánh bài
+ Dạy khiêu vũ, nhảy nhót (Aerobic)
+ Trình diễn thời trang: Sa mạc sinh trong vai người con thứ đi học nghề. Bị dụ dỗ ăn chơi trác táng, bị tiêm nhiễm thói xấu, tiêu hết phần gia tài của mình. Lại có nạn dịch xảy đến.
+ Bị đuổi khỏi lữ quán với bản tin 2
Bản tin 2: Trại chăn nuôi B đang nhận người làm, hãy tới xin việc mới có mà ăn (B là điểm phải trình diện)
Trạm 2: TRẠI CHĂN NUÔI
– Đứng trạm: vai một ông chủ bắt nạt sức lao động
– Dựng cảnh: 1 chuồng heo bẩn thỉu
– Công việc: tạo những công việc khổ cực (của nghề chăn nuôi)
+ Khảo sát kỹ năng nút dây, lều trại
+ Hát những bài về tình cha nghĩa mẹ
+ Không trả lương mà chỉ phát ổ bánh mì (có mật thư bên trong)
Bản tin 3: Theo lối cũ trở về nhà Cha dấu yêu, Cha già đang chờ ở sân C. (C là điểm đến gặp)
Trạm 3: NHÀ CHA YÊU DẤU
– Đứng trạm: người Cha nhân từ
– Công việc: đón các đội ân cần theo dụ ngôn (mặc dù người anh cả không cho vào)
– Nghe con thứ thuật lại chuyến đi, tâm sự muốn trở về; Kể chuyện tiếp sức, mỗi người trong đội kể một đoạn sao cho mạch lạc, hấp dẫn
– Cha già sai anh cả và giai nhân khiêng heo béo ra để bổ sức cho con thứ. Trong heo (đất) có các câu Lời Chúa được cắt rời ra, mỗi đội sẽ tự ráp lại cho hoàn chỉnh. (Có thể cho kẹo bánh vào heo đất)
– Khi ráp xong Lời Chúa sẽ trình lại cho cha già. Trò chơi kết thúc trong việc cùng đọc các câu Lời Chúa và cùng nhảy múa (Aerobic) “vũ khúc hoang đàng”
Ghi chú: Tùy theo đối tượng Ấu Thiếu Nghĩa có thể giảm chi tiết học múa, việc chăn heo, ráp Lời Chúa nhưng phải phát huy được tình cảm của người cha nhân hậu.
--- oOo ---
Bài 23 : Những tình huống tâm lý cá biệt nơi đoàn sinh
Đoàn sinh Thiếu Nhi Thánh Thể được hiểu là gồm những trẻ từ 6 đến 17 tuổi. Đây là thời gian các em phát triển nhanh và mạnh nhất trong đời người: cả về tâm lý lẫn thể lý. Những xáo trộn về tâm lý có ảnh hưởng đến và bộc lộ qua các hiện tượng thể lý; ngược lại, những thay đổi trong sự phát triển thể lý có tác động đến tâm lý của trẻ em. Do đó không thể luôn luôn khẳng định cái này là nguyên nhân của cái kia.
Sự phát triển của trẻ về tâm lý và thể lý nói chung là có quy luật, nhưng con người lại là một mầu nhiệm nên không thể có 2 người giống hệt nhau dù là anh chị em sinh đôi, hơn nữa trong những trường hợp cụ thể và cá biệt, do ảnh hưởng môi trường sống, môi trường giáo dục và yếu tố di truyền, mỗi sự kiện tâm lý được thể hiện cách khác nhau nơi mỗi em. Muốn đọc được điều gì đang diễn ra “trong lòng” của từng em ngang qua các biểu hiện bên ngoài nhằm đưa ra biện pháp giáo dục thích đáng quả không dễ.
I.- TÌM HIỂU ĐỐI TƯỢNG:
Tâm lý là trạng thái của tâm hồn, là những sự kiện vô chất thể, không thể định hình hay định vị được, nhưng nó lại là nguyên nhân thúc đẩy thái độ và hành vi bên ngoài của chủ thể. Nói cách khác, thái độ và hành vi bên ngoài là thông điệp của sự kiện tâm lý bên trong.
Tìm hiểu đối tượng là yêu cầu đầu tiên trong việc giải quyết tình huống tâm lý cho đối tượng đó. Giải quyết tình huống tâm lý cho đoàn sinh là giải quyết vấn đề của từng em có những biểu hiện đặc biệt, nghĩa là xảy ra không tương tự như đa số những em khác cùng độ tuổi.
Giải quyết tình huống tâm lý nơi đoàn sinh cũng có nghĩa là giúp lập lại sự quân bình tâm lý nơi các em, để các em có được những thái độ và hành vi quân bình, giúp các em trưởng thành cả về tâm lý lẫn thể lý; giúp các em hội nhập cộng đồng cách vui vẻ và góp phần xây dựng cộng đồng lành mạnh.
Tìm hiểu đối tượng gồm có:
1. Nhận diện biểu hiện tâm lý của đối tượng:
Là quan sát bên ngoài, để thông qua thái độ và hành vi của đối tượng có thể “đặt tên” cho tình huống đang xẩy ra nơi họ. Thí dụ: nhút nhát, phá đám, chống đối….
2. Tìm hiểu xuất xứ, môi trường, hoàn cảnh sống thực tế và giáo dục của đối tượng:
Để hiểu tâm lý mỗi em, trưởng cần biết em thuộc thành phần gia đình thế nào: lao động, công chức, đại gia, trí thức, bất hảo…; Gia đình em là dân định cư lâu năm hay là nhập cư; Em sống trong chế độ tam đại đồng đường hay trong tiểu gia đình; Tình trạng hôn nhân của cha mẹ; Bầu khí gia đình của em ra sao; Cha mẹ em thuộc tầng lớp nào; Em còn đủ cha mẹ hay đã mất; Em sống với cha mẹ hay với ông bà, cô dì chú bác; con nuôi, con ghẻ, con nhận; Em sống trong cộng đồng khu xóm thế nào? Em còn đi học hay đã nghỉ học, lý do?
Tất cả những thông tin trên sẽ giúp nhà giáo dục tìm hiểu nguyên nhân của những biểu hiện tâm lý nơi các em.
II.- TÌM NGUYÊN NHÂN CỦA BIỂU HIỆN TÂM LÝ
và GIẢI PHÁP.
Phương pháp và chương trình giáo dục thiếu nhi của Phong trào TNTT dựa trên đặc tính tâm lý của từng lứa tuổi. Nhưng trong số đoàn sinh của TNTT vẫn có những em thuộc dạng cá biệt, nghĩa là những biểu hiện tâm lý nơi những em đó không giống như hầu hết những em bình thường khác. Sau đây là một vài tình huống cá biệt với những nguyên nhân và giải pháp được kể ra như sự gợi ý cho nhiều trường hợp mà trong quá trình hoạt động trong đoàn, các trưởng có thể gặp ở các lứa tuổi:
A.- TUỔI ẤU: (6-9 tuổi):
Những tình huống tâm lý cá biệt thường xẩy ra với các em ở tuổi Au:
1. Hiếu động, mất khả năng tập trung.
* Hiện tượng: Khả năng tập trung là yếu tố cần thiết để học tập và thăng tiến. Thông thường các em ở tuổi này có khả năng tập trung, nhưng không tập trung được lâu là chuyện bình thường (không quá 30 phút). Nhưng có một vài em không thể tập trung được trong thời gian tối thiểu, và hầu như cọ cựa suốt giờ học, chia trí trong giờ kinh, lễ.
* Nguyên nhân và giải pháp:
- Thể lý phát triển mạnh, nên có nhu cầu vận động luôn luôn, đến nỗi không phân biệt được giờ học là giờ cần tập trung. Cần có giờ sinh hoạt vận động để tiêu thụ năng lượng thể lý.
Cần có các hoạt động chuyển hoá trong giờ học bằng cách không kéo dài một chủ đề quá lâu.
Tạo bầu khí học tập sinh động bằng cách tạo cơ hội cho các em phát biểu, diễn cảnh nhập vai.
Tránh ép các em chấp nhận cách thụ động, nhưng giúp các em chọn kết luận đúng.
- Bài giảng quá khô khan; phương pháp giảng dạy buồn tẻ; giờ kinh lễ quá dài. Giáo viên hay nhà giáo dục cần xem lại phương pháp giảng dạy của mình: phải giải quyết “tình huống tâm lý nhà giáo dục” trước đã. Cần tạo sự hấp dẫn thay cho các biện pháp kỷ luật, vì càng cột chặt, càng cựa quậy, thảnh thơi nó sẽ ngồi yên!
- Khung cảnh không thuận tiện: Phòng học gần đường, xe qua lại ồn ào; Các phòng học không đủ cách âm, gây nhiễu lẫn nhau; Lớp học quá đông, chỗ ngồi không thoải mái làm cho tình trạng mất tập trung thêm trầm trọng. Thí dụ: 3 lớp cùng lúc học giáo lý trong nhà thờ. Tình trạng này đối với những em bình thường cũng còn gặp khó khăn, huống chi những em “có vấn đề” thiếu tập trung! Phải dành ưu tiên cho các em thiếu nhi thôi. Cần có phong học giáo lý yên tĩnh, thuân lợi cho việc học và dạy giáo lý, cũng như bầu khí cầu nguyện, vì khung cảnh thuận tiện mới tạo được bầu khí giáo dục, có bầu khí thuận tiện mới nảy sinh hứng thú học tập, khả năng tiếp thu và tâm tình cầu nguyện.
- Không có thói quen tập trung từ trong gia đình: Phụ huynh không dành cho các em thời giờ và góc học tập nhất định. Học và làm việc đúng nơi, đúng chỗ là cách rèn luyện khả năng tập trung. Phụ huynh cần tạo điều kiện cho các em học và làm việc đúng nơi, đúng lúc, tập thói quen và rèn luyện khả năng tập trung cho các em.
- Hoàn cảnh gia đình không ổn cách nào đó: Cha mẹ bất hoà, xa cách; gia đình gặp biến cố khó khăn làm cho các em “suy tư” sớm và mất khả năng tập trung. Phải tạo cho các em cuộc sống gia đình êm ấm, an toàn, để em không phải “suy tư” vô ích, ảnh hưởng đến khả năng tập trung của em.
2. Thụ động, nhút nhát:
· Hiện tượng: Chấp hành không thắc mắc, không dám hỏi mặc dù chưa hiểu, không biết, không dám phát biểu ý kiến riêng; Hay xấu hổ; Đi đứng, nói năng không dứt khoát; Gặp chuyên bất thường hay bối rối, lo sợ đến “mắc tiểu”.
· Nguyên nhân và giải pháp:
- Trong quá khứ đã có lần nào em bị bạn bè, thầy cô, nhất là thầy cô, chế diễu khi em trả lời sai hoặc làm sai việc gì đó, khiến em mang mặc cảm tự ti, không còn tin ở khả năng của mình, không dám phát biểu ý kiến hoặc tự mình làm việc.
Đối với những em lâm vào tình trạng này, nhà giáo dục cần tạo ra cơ hội giúp em tái lập sự tự tin bằng cách giao việc, khuyến khích và gián tiếp giúp em thành công; hỏi những câu chắc chắn em trả lời được; Động viên và trấn an mỗi khi em trả lời sai hoặc gặp thất bại; Không quên tuyên dương mỗi khi em làm tốt; Tạo cơ hội cho em giao tiếp nhiều hơn để giúp em khẳng định mình.
- Cha mẹ hay nạt nộ, gia đình chăm sóc, bao bọc em không đúng cách đến độ “bao cấp’ quá đáng: mọi chuyện đều do cha mẹ quyết định và làm cho. Mỗi ý muốn và việc làm của em đều bị cha mẹ cho là sai và cuối cùng cha mẹ làm thay cho con cái, khiến em không có thói quen suy nghĩ và làm việc độc lập. Cần góp ý với phụ huynh về một giải pháp động viên, giúp các em suy nghĩ và quyết định độc lập ngay trong gia đình.
3. Nói dối:
* Hiện tượng: Người ta thường nói “đi xa hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, ý nói trẻ em thật thà. Nhưng có những em ở vào trường hợp đặc biệt là hay nói dối. Trẻ nói dối có hai trường hợp:
* Nguyên nhân và giải pháp:
- Nói dối cố ý: Người lớn đã xử lý quá đáng mỗi khi em làm sai, nên khi lỡ sai phạm, sợ bị phạt, nên tìm cách nói dối bằng cách tạo ra một nguyên nhân khác dẫn em đến hành động, hoặc đổ thừa cho người khác. Có em còn có thể dựng cả một câu chuyện có tình tiết hẳn hoi để “chạy tội”. Khi cần thuyết phục cha mẹ, thầy cô chấp nhận lời xin của em về việc làm nào đó, hoặc để “làm chứng gian” cho bạn bè, em đã “sáng tác” lý do.
Đối với những em trong tình huống này, nhà giáo dục phải quan sát, cân nhắc mỗi khi trách phạt em, sao cho chính xác và với lòng khoan dung. Tìm cơ hội khi em nói dối, vạch cho em thấy là em đã nói dối, nhưng xử sự với lòng khoan dung, và khuyên em không nên nói dối vì nói dối là không tốt, với mục đích giúp em sửa sai chứ không phải bắt em chịu hình phạt tương xứng.
- Nói dối không cố ý: Một loại nói dối “dễ thương” do tính khoác lác, thích phóng đại, tô mầu những chuyện mà em biết, em đã thổi phồng sự kiện theo ý nghĩ của em mà không nhắm mục đích rõ ràng nào, mặc dù không được “logic” lắm.
Nên khéo léo đặt những câu hỏi đưa em vào “chỗ bí”, nhưng không chế diễu, em sẽ nhận ra chính em đang “nổ”, và sẽ bỏ dần “chất nổ” trong người.
B.- TUỔI THIẾU (10–12 tuổi):
Trong ba lứa tuổi đoàn sinh, tuổi Thiếu là lứa tuổi “dễ dạy” nhất, an toàn về tâm lý nhất. Vì thế giáo viên thường chọn dạy các lớp độ tuổi này; các trưởng và giáo lý viên cũng thích chọn ngành Thiếu để tránh “tai nạn nghề nghiệp”, nhưng không phải không có vấn đề! Những vấn đề tâm lý có thể xẩy ra với độ tuổi này gồm:
1. Bướng bỉnh, quậy phá:
· Hiện tượng: Không thực hiện, hoặc chống lại hoặc làm ngược lại những lời dạy, ý kiến hoặc lời khuyên của người trên,
· Nguyên nhân và giải pháp:
- Sự hưng phấn của hệ thần kinh kích thích thái độ và hành động. Không thể ngăn chặn sự phát triển tự nhiên này, nhưng có thể lợi dụng chính sự hưng phấn tự nhiên, hướng em vào những hoạt động hữu ích bằng trò chơi và việc làm. Ap lực và hình phạt nhằm uốn các em theo ý người lớn là vô hiệu, và chỉ làm cho tình trạng bướng bỉnh thêm nặng nề.
- Ở độ tuổi này khuynh hướng “độc lập” bắt đầu phát triển, nhưng được biểu lộ cách vụng về. Người lớn không hiểu hoặc không thông cảm và gọi biểu hiện này là “bướng”.
Đơn giản là khuynh hướng độc lập khiến em không muốn đi lễ chung với mẹ nữa, muốn tự chọn bữa ăn sáng hơn là theo công thức của mẹ; muốn chơi với nhau một trò chơi không như anh chị trưởng muốn…. Hãy theo dõi sự phát triển tâm lý và thể lý của em, tôn trọng quy luật phát triển bằng cách giúp các em chọn lựa cách học tập và làm việc; giao cho các em việc gì các em có thể làm và giúp các em đạt kết quả.
- Bướng bỉnh là phản ứng tự nhiên đòi “thoát ly” khỏi gia đình mà cha mẹ độc đoán, khắt khe hoặc gia đình không đem lại cho em niềm vui, chỗ dựa và sự tín nhiệm. Đây cũng là phản ứng đối với thày cô tỏ ra không hiểu em trong cách đối xử. Trưởng hãy làm việc với phụ huynh để gia đình là tổ ấm cho em; Phụ huynh, thày cô hãy biết con em, học sinh của mình không còn hoàn toàn lệ thuộc mình như mấy năm trước đây nữa. Kể cả khi sửa phạt, hãy đối xử với các em bằng tình thương, sự thông cảm và tôn trọng sáng kiến của các em.
2. Phá đám:
· Hiện tượng: Xen vào cuộc chơi của nhóm khác, phá bầu khí đang có của chúng; Gài bẫy cho bạn vi phạm kỷ luật để bị phạt và coi đó như sự “chiến thắng” vì cả thầy cô lẫn bạn bị hắn “lừa”.
· Nguyên nhân và giải pháp:
- Hành động phá đám tự nó không phải là sai lỗi nghiêm trọng vì không phải để hại bạn, chỉ để thoả mãn tính hiếu thắng, nhưng có thể dẫn đến hậu quả tai hại là có thể bị đám bạn phản ứng và gây đánh nhau.
Trưởng hãy ôn tồn “vạch trần âm mưu” của em, cho biết em không thể qua mặt thầy cô, phụ huynh và huynh trưởng được, cho em thấy hậu quả có thể xẩy ra như thế nào, đồng thời khuyên em không nên “dại dột” như vậy.
- Hành động phá đám có thể có nguyên nhân từ lòng ghen ghét vì bị các bạn tẩy chay không cho tham gia, nên “không ăn được thì đạp đổ” cho bõ ghét. Đây là hành vi xấu vì nuôi lòng hờn ghen, hãy giải thích cho em tại sao các bạn chơi mà không rủ em, em hãy xét lại mình để có thể hội nhập với các bạn.
- Phá đám cũng có nguyên nhân là tính thích gây gỗ, đàn áp để chứng tỏ sức mạnh hoặc nhu cầu muốn làm thủ lãnh.
Khuynh hướng này có nguyên nhân sâu xa, thường xảy ra nơi các em có tâm lý phát triển chậm hơn thể lý, không thể “biến đổi’, nhưng có thể chuyển hoá, hướng thiện và hướng thượng bằng cách giao cho em nhiệm vụ nào đó có tính chỉ huy để các em xử dụng khuynh hướng “anh chị” vào việc thi hành nhiệm vụ, với điều kiện trưởng phải giám sát và hướng dẫn, thường xuyên làm việc “trao đổi” với em về công việc em đang đảm trách.
C.-TUỔI NGHĨA (Từ 13-15 tuổi).
Nghĩa sĩ là tuổi sắp giã từ con người trẻ em, nhưng cũng chưa bước vào tuổi người lớn. Ở tuổi giao thời này, em đã chán cái thời thơ ấu, nhưng còn quá xa lạ với thời trưởng thành. Mọi chuyện đối em không còn gì là ổn định, chưa có gì là chắc chắn. Thầy cô, huynh trưởng đều ngán cái tuổi bản lề này. Kinh nghiệm học đường cho thấy, ở tuổi này, các em bỏ học nhiều nhất. Tại các giáo xứ, ngành nghĩa sĩ và lớp Giáo lý bao đồng thường “vắng khách”. Một số em tuổi này bị rơi vào những cực đoan của đặc tính tâm lý chung của lứa tuổi. Đó là:
1. Kết băng nhóm:
* Hiện tượng: Đối với tuổi này, sự lệ thuộc vào gia đình gần như không còn nữa, có chăng lệ thuộc về kinh tế. Những mối quan hệ ngoài gia đình của các em trở nên phong phú, đa dạng và phức tạp. Nhóm của các em có thể là nhóm bạn cùng lớp, nhóm bạn trong xóm, trong lớp giáo lý, có thể là nhóm trốn học, trộm cắp, đua xe…
* Nguyên nhân và giải pháp: Khuynh hướng xã hội phát triển mạnh nơi các em, các em muốn tìm bạn và kết bạn. Sức sống nơi các em ở tuổi này rất dồi dào, có nhu cầu bộc phát, có cơ hội là bộc phát, không cần biết có đúng hướng hay không, nhưng thường bị cơ cấu, kỷ luật của gia đình, trường học, đoàn thể khống chế. Do đó các em nhất định bung ra đi tìm một “cộng đoàn” khác để tiêu thụ năng lực dồi dào của mình.
Sự kết bạn và bộc phát năng lực, nếu may mắn thì gặp bạn tốt, làm việc tốt. Ngược lại, không may cho một số em kết bạn với những người xấu, trở thành băng đảng. Dĩ nhiên làm việc xấu, nguy hại cho bản thân và là thảm hoạ cho cộng đồng.
Đối với những em đã rơi vào tình trạng này, trưởng cần khai thác khuynh hướng kết bạn và nhu cầu tiêu thụ năng lượng nơi các em bằng cách áp dụng triệt để phương pháp hàng đội, và hướng dẫn các em làm việc tốt thay vì để các em tự tìm và tự phát.
Phụ huynh cần biết bạn bè của con em mình thuộc thành phần nào, con cái nhà ai, ở đâu. Đồng thời không nên cấm các em giao du với bạn, nhưng nên hướng dẫn các em chọn bạn. Tích cực hơn, nếu có cơ hội, nên cho các em đưa bạn về nhà vui chơi trong những dịp lễ, tết, Noel, ... để kiểm soát và nói lên sự chấp nhận mối quan hệ bạn bè này.
2. Lời nói cộc cằn, cử chỉ lỗ mãng, thái độ hỗn xược: Người lớn thường phiền lòng, than trách và lên án những thái độ này nơi các em vì thực sự họ không hiểu vì đâu có hiện tượng này, mặc dù họ đã hết lòng dạy dỗ, bao bọc.
* Hiện tượng: Tuổi này các em đang chuẩn bị trở thành người lớn, nhưng lại chưa là người lớn với những thuộc tính của người lớn như, lễ phép, tế nhị, lịch sự trong lời nói và hành vi, nên bị coi là lỗ mãng, hỗn láo…
- Đang khi các em chưa đủ thời gian cần thiết để chuẩn bị hành trang thành người lớn, lại bị người lớn tỏ ra không thông cảm và kết án. Mối bức xúc khiến các em bị dồn nén, đi đến thái độ cãi trả và chống đối.
Người lớn cần hiểu thái độ cộc cằn thô lỗ không phải bản chất, mà chỉ là hiện tượng của sự thiếu kinh nghiệm. Nên tỏ ra thông cảm, bao dung và tạo cơ hội cho các em từng bước tiến đến sự phát triển hoàn chỉnh. Hãy nhìn các em bằng con mắt tích cực vì đằng sau hiện tượng ngỗ nghịch kia còn cả một tâm hồn đầy thiện chí chưa được nhìn nhận.
- Cũng vì thiếu kinh nghiệm, chưa hiểu hết những hạn chế của con người, các em không bằng lòng với tổ chức, cơ cấu của người lớn đang chi phối các em. Các em không muốn bị gò bó trong khuôn mẫu, kỷ luật mà các em cho là vô lý. Các em đòi hỏi sự hoàn thiện, và hoàn thiện theo cách nghĩ, cách nhìn của mình mà không được, nên các em bất mãn, đòi đạp đổ và thay đổi, nhưng không được, các em chống đối.
Để sự chống đối trở thành mãn tính là thất bại cho việc giáo dục. Phụ huynh, nhà giáo dục cần nhìn hậu cảnh ý nghĩa của lời nói, thái độ và hành vi của các em, cho dù đang làm phiền lòng chúng ta. Những biện pháp đưa ra không nhằm đối phó các em, nhưng là giáo dục các em. Thay vì khống chế, hãy hỏi các em: nếu phá bỏ việc này, theo em nên thay thế bằng cái gì; Em không thích làm việc này, vậy em thích làm việc gì, có ích gì cho em… nhằm mục đích giúp các em suy tư thực tế và lôi kéo các em về với tinh thần trách nhiệm.
Giải toả sự bế tắc trong việc phát huy năng khiếu và tiêu thụ năng lượng vào các việc phù hợp khả năng và ý thức của các em là biện pháp tối ưu chuyển hoá hành vi phá phách, chống đối nơi các em thành suy nghĩ và hành động tích cực.
D.- TUỔI HIỆP SĨ. (Từ 16-17 tuổi)
Ngoài mục đích giáo dục đoàn sinh ở độ tuổi Au (6-9 tuổi), Thiếu (10-12 tuổi) và Nghĩa (13-15 tuổi), Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam tại Hoa Kỳ cũng như ở Việt Nam đang mở rộng lãnh vực hoạt động của mình đến lứa tuổi cao hơn, gọi là ngành Hiệp Sĩ (16-17 tuổi và lớn hơn)
Tuổi Hiệp sĩ vẫn còn nằm trong lứa tuổi vị thành niên theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới năm 1998 (WHO). Tuổi này đã thực sự rời khỏi thế giới ấu thơ và chân ướt chân ráo bước vào thế giới người lớn, vào thập niên thứ hai của cuộc đời, đụng chạm và đối mặt với những thực tế của thế giới người lớn, đa số còn trong tuổi đi học, với nhiều ước mơ, nhưng cũng gặp nhiều sự cố. Đặc tính chung của tuổi này được gọi là tuổi khủng hoảng và được nhìn dưới hai khía cạnh và hai cách đánh giá trái ngược, lạc quan và bi quan, về lứa tuổi này.
Cuộc điều tra về thanh thiếu niên lần đầu tiên, được tổ chức tại Việt Nam năm 2003 do sự phối hợp giữa Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê Việt Nam với Tổ chức y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng liên hiệp quốc (UNICEF) bằng cách tiến hành một thống kê rất “bài bản” cho thấy thanh thiếu niên Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thử thách nhằm thích ứng với môi trường kinh tế, xã hội đang biến đổi nhanh chóng trong thập niên cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, như việc học hành và công ăn việc làm, để tồn tại, thăng tiến và cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Tuy nhiên cũng cho thấy thanh thiếu niên Việt Nam đã nhận được từ phía gia đình, cộng đồng và bạn bè những trợ giúp để họ tự bảo vệ và vượt qua thử thách. Điều này cho phép một cái nhìn lạc quan về thanh thiếu niên Việt Nam hiện nay: thành trì bảo vệ của họ, là gia đình và cộng đồng, vẫn còn tồn tại vững chắc.
Trong thực tế, khi nhìn vào sinh hoạt xã hội, những hiện tượng nổi cộm diễn ra trước mắt hàng ngày, hoặc biết được qua thông tin của các loại phương tiện truyền thông: tình trạng nghiện ngập, sa đoạ, đua xe, trộm cướp mà đa số phạm nhân là thanh thiếu niên, khiến không ít nhà giáo dục, xã hội, đạo đức trăn trở, lo âu cho thanh thiếu niên, cho cộng đồng xã hội hôm nay và tương lai.
Thanh thiếu niên Công giáo, tuổi Hiệp sĩ, cũng không là ngoại lệ đối với hai thái cực trên đây. Mọi người sẽ lạc quan khi nhìn vào Đại hội giới trẻ, Đại hội Huynh trưởng-Giáo lý viên, các khoá đào tạo Huynh trưởng-Giáo lý viên hàng năm của Giáo phận Sài Gòn và các Giáo phận cũng như hoạt động của các đoàn thể Công giáo tiến hành như Giới trẻ Thánh Mẫu, Hướng đạo, các Ca đoàn… Nhưng cũng không thể không bi quan khi thấy các bạn thanh thiếu niên Công giáo cũng có mặt không ít trong các nhóm ăn chơi, đua xe, trộm cắp, phá phách, đi hoang…
Trong khuôn khổ bài này, với mục đích tìm hiểu và giải quyết những tình huống tâm lý cá biệt nơi đoàn sinh tuổi Hiệp sĩ, chúng ta không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề, nhưng chỉ nêu ra vài tình huống nổi bật, tìm hiểu nguyên nhân và cách giải quyết, giúp các em vượt qua thử thánh của lứa tuổi, gợi ý cho các trưởng sẽ gặp trong quá trình đồng hành và hướng dẫn các em.
1. “Vô kỷ luật”: Gia đình, học đường và bất cứ tổ chức, đoàn thể nào cũng đòi hỏi các thành viên tuân theo những quy tắc, luật lệ của đoàn thể mình. Khi có ai đó, con cái, học sinh hoặc đoàn sinh không tuân theo và thực hiện những quy tắc đó, thường bị gán cho là “vô kỷ luật”.
· Hiện tượng: Con cái không giữ phép tắc, quy định của gia đình; đi ra ngoài nhiều hơn ở nhà; cãi lại, chống đối cha me; gây hấn với anh chị em. Học sinh đến lớp trễ, làm ồn, trốn học, lập băng nhóm, chống lại thầy cô… những hiện tượng tương tự như thế cũng xẩy ra trong đoàn hoặc lớp Giáo lý.
· Nguyên nhân và giải pháp.
- Những quy tắc luật lệ mà trước đây các em tuân thủ cách dễ dàng thì nay không còn phù hợp với các em nữa. Phần vì cha mẹ quá lo lắng cho con cái trước những cám dỗ và đe doạ của môi trường xung quanh, nên gia tăng sự kiểm soát và khắt khe. Phần vì thầy cô muốn các bạn tuân kỷ luật để các vị dễ dàng thi hành nhiệm vụ giảng dạy, thậm chí đạt thành tích thi đua! Các bạn cảm thấy tất cả là vô lý và dường như những luật lệ ấy không phải vì lợi ích của mình mà vì người lớn, nên phản ứng tự nhiên của các bạn là muốn bung ra khỏi những áp lực ấy. Đoàn TNTT hay lớp giáo lý cũng không ngoại lệ.
- Gia đình, học đường dường như quên rằng thanh thiếu niên không còn là lứa tuổi dễ chấp nhận mọi điều người trên nói như trước đây nữa. Muốn các em tự nguyện chấp hành hãy đưa ra những yêu cầu hợp lý, đồng thời giải thích rõ ràng để các em tâm phục khẩu phục.
Thanh thiếu niên muốn cha mẹ hay nhà giáo dục, nói chung, ra lệnh bằng sự bàn bạc, thuyết phục trước khi cùng nhau “hạ quyết tâm” thay vì áp đặt. Nên nhớ thanh thiếu niên khi đã vừa lòng hợp ý, có thể “nhảy vào lửa” nếu cần, nhưng khi không vừa ý, thì cũng “bất cần”. Nhà giáo dục không nên tự ái cho như thế là lép vế: “mình đẻ ra nó”, “mình là thầy nó” mà chịu thua nó sao! Giáo dục vì ích lợi của đối tượng giáo dục chứ không phải vì quyền lợi của nhà giáo dục.
Đoàn hoặc lớp giáo lý đừng chỉ săm săm áp dụng hình thức kỷ luật nào để ép các em đi học hoặc đi sinh hoạt cũng như tuân theo những yêu cầu của đoàn. Chỉ một “chiêu” duy nhất có thể kết quả là hấp dẫn các em bằng cách đưa ra những yêu cầu nhẹ nhàng, hợp lý để rồi cùng các em thực thi những yêu cầu đó trong tinh thần hợp tác thân thiện. Trưởng không những tỏ ra mà còn phải thực sự thông cảm để bù đắp những bức xúc của các bạn từ những môi trường khác: phải lắng nghe các em “tâm sự” để biết các em đang nghĩ gì, uất ức điều gì nhằm trao đổi, giúp các bạn tự giải toả tâm lý. Có thể chấp nhận cho hai lỗ tai của trưởng trở thành “sọt rác” để các bạn trút hết vào đó nỗi u uất của mình.
2. Sụp đổ thần tượng và bất mãn.
· Hiện tượng: Khi còn bé, cha mẹ là thần tượng, đến tuổi đi học, thầy cô là thần tượng. Nhưng ở tuổi thanh thiếu niên, các thần tượng ấy đã được thay thế hay ít ra không còn vị trí độc tôn như xưa. Các em đòi hỏi người lớn phải là những khuôn mẫu lý tưởng do các em hình dung ra, mà thường là không thể có. Do đó các em không còn vâng phục các “đấng” như xưa, vì vậy các em bị liệt vào loại hư hỏng. Hôm nay thần tượng của các em được thay thế bằng bạn bè, ngôi sao ca nhạc hay điện ảnh, cầu thủ nổi tiếng …
· Nguyên nhân và giải pháp:
Thanh thiếu niên, đã có quá trình khá dài tiếp xúc với môi trường xã hội, có nhiều thời gian và cơ hội để quan sát, nhận định, đối chiếu việc làm và lời nói của nhà giáo dục, trong đó có cha mẹ, thầy cô, huynh trưởng, đồng thời nhận ra lời các vị ấy nói xem ra không còn đúng tuyệt đối nữa; Những việc làm của các vị xem ra không còn là mẫu mực đáng bắt chước. Các em thất vọng về cha mẹ, thầy cô, mất đi sự vâng lời và noi gương.
Đối lại, cha mẹ thầy cô cũng khó chịu không ít với thái độ của các em, và biện pháp của các đấng là dùng quyền lực. Hố ngăn cách, mâu thuẫn và tránh mặt bắt đầu từ đây. Thái độ và hành động bất mãn cũng theo các em đến với đoàn và lớp giáo lý, các trưởng cũng phải chịu đựng như cha mẹ ở nhà và thầy cô ở trường học.
Người lớn nên thông cảm và tôn trọng cách nhìn mới của con em, và nên coi đó là dấu hiệu trưởng thành, nhưng còn vụng về. Đối với tuổi này, biện pháp cứng rắn chỉ dẫn đến đổ vỡ. Đừng nổi giận, nhưng hãy bình tĩnh đón nhận thực tế (dù không đón nhận, nó vẫn xẩy đến) và tìm cách giúp đỡ con em hình thành cách nhìn đúng về chính mình, và đón nhận những giới hạn của người lớn đồng thời giải thích cho các em thông cảm được những giới hạn đó.
Tin tưởng con em, dành thời giờ nói chuyện, trao đổi với các em, hướng dẫn từng bước để chúng nhận ra sự “quá lố” của mình, và rồi giúp các em tự hoàn chỉnh kiến thức và nhân cách bằng chính lộ trình chúng đang trải nghiệm. Thanh thiếu niên sẽ tâm phục và làm theo lời của người hiểu và tôn trọng chúng.
Giải quyết tình huống này không thể bằng giải pháp cấp thời, mà phải chuẩn bị xa, nghĩa là giáo dục thanh thiếu niên hôm nay phải bắt đầu từ lúc chúng còn là thiếu nhi bằng tình thương, chân tình, cởi mở, thẳng thắn. Đừng để nước đến chân mới nhảy, điều gì người lớn giấu giếm, giả hình hôm nay, năm, mười năm sau sẽ bị thanh thiếu niên “bật mí” và khó có thuốc chữa.
3. Tinh thần hiệp sĩ thiếu hướng dẫn: Thanh thiếu niên dễ bị kích động bởi những sự kiện bất công, dẫn đến hành động trả đũa hung bạo. Nhưng các bạn cũng dễ mủi lòng trước những chuyện thương tâm, chính nghĩa.
· Hiện tượng: Thanh thiếu niên tụ họp thành nhóm, kéo nhau đi đánh lộn. Trong ngành Hiệp sĩ hoặc lớp giáo lý Vào đời cũng có những em có tiền sử băng nhóm hoặc đang trong băng nhóm đó.
· Nguyên nhân và giải pháp:
Sức sống dồi dào tiềm tàng trong tuổi mới lớn luôn có khuynh hướng đòi được thể hiện: Nghe tin hay chứng kiến bạn bè bị hiếp đáp, các bạn có thể nhanh chóng tụ họp đi tìm đối thủ để “đòi lại sự công bằng” mà không biết, hay không cần biết bạn đó đúng hay sai hay hành động như thế là phạm pháp, miễn là thoả mãn khuynh hướng “hiệp sĩ” của mình. Băng đảng, thói quen bạo lực được hình thành từ đây.
Chủ trương “đòi sự công bằng” là đúng, nhưng cách hành động lại sai. Nhà giáo dục cần đáp ứng nhu cầu “hành hiệp” của thanh thiếu niên bằng cách giáo dục lòng trắc ẩn, ý thức “cứu khốn phò nguy” và tinh thần yêu mến sự công bằng với việc làm đúng và cụ thể, nhằm chuyển hoá “bản năng hiệp sĩ” thành “ý thức hiệp sĩ”. Thí dụ cho xem phim hoặc nghe kể một câu chuyện thương tâm, yêu cầu và hướng dẫn các em phê phán, tỏ thái độ và bàn kế hoạch hành động; Đưa ra một công tác nhà thờ chẳng hạn, yêu cầu và hướng dẫn các em bàn cách thực hiện; Tổ chức công tác từ thiện, mời các em tham gia. Sau khi kết thúc, hãy cho các em phát biểu cảm tưởng và góp ý cho công tác sau, các em thấy hứng thú hơn hành hiệp kiểu dao búa. Phương pháp hàng đội, hay làm việc theo nhóm vẫn là cách hiệu quả để đưa các em về với tinh thần hiệp sĩ đúng nghĩa.
4. Trầm cảm: Trầm cảm là chứng bệnh khá phổ biến, có nguyên nhân vừa thể lý vừa tâm lý.
· Hiện tượng: Thanh thiếu niên bị trầm cảm thường bạc nhược, ù lì, thờ ơ, lãnh đạm đối với gia đình, bạn bè, công việc, và đặc biệt sẽ trở nên vô cảm.
· Nguyên nhân và giải pháp:
Do chịu sức ép về tinh thần từ bên ngoài như học tập quá độ, lo lắng cho hiện tại và tương lai mà không có biện pháp giải toả hoặc không có lời giải đáp thích đáng. Đối với thanh thiếu niên trầm cảm còn là hậu quả của sự bối rối do sự thay đổi về tính dục và hậu quả của tật thủ dâm, do thiếu giáo dục về giới tính dẫn đến hậu quả là bạc nhược, ù lì, thờ ơ lãnh đạm đối với gia đình, bạn bè, công việc, và đặc biệt là vô cảm.
Ngoài các liệu pháp y học, nhà giáo dục có thể giúp các em giảm nhẹ ảnh hưởng của tình huống nguy hại này bằng cách tạo cơ hội cho em làm việc; tạo vơ hội thư giãn để thoát khỏi những lo lắng đang chất chứa trong đầu; đưa em vào những hoạt động mạnh hoặc tập thể dục; tránh gây cho em tức giận; tâm sự để chia sẻ nhằm làm nhẹ bớt những điều em chưa hề tỏ lộ với ai nhằm đưa em về với trạng thái tâm lý bình thường.
Biện pháp này cũng có tác dụng đối với hiện tượng thờ ơ, lãnh đạm với tôn giáo, các giá trị thánh thiêng, vì không thể nhét bất cứ điều gì vào đầu người thơ ơ, lãnh đạm được.
III.- KẾT LUẬN.
Đối tượng của khoa học tự nhiên là vật chất, có thể nhìn bằng mắt, sờ bằng tay. Đặc tính của những định luật khoa học tự nhiên là chính xác và nhất quán. Các phản ứng khoa học tự nhiên có thể lặp đi lặp lại nhiều lần vẫn trong những điều kiện như nhau sẽ cho ra kết quả giống nhau. Còn tâm lý, đối tượng của khoa học nhân văn, nghĩa là thuộc về con người. Những hiện tượng tâm lý không thể nhìn bằng mắt, sờ bằng tay, nhưng chỉ có thể “chẩn đoán” được nhờ những biểu hiện khả giác của nó qua thái độ và hành vi của con người. Do đó không thể có những giải pháp tâm lý chính xác và nhất quán.
Trong giáo dục, ứng dụng tâm lý học và các định luật tâm lý như phương tiện cần thiết để truyền đạt kiến thức và giáo dục con người bình thường cách hữu hiệu đã là việc khó, để giải quyết những nố cá biệt lại càng khó hơn. Huynh trưởng, giáo lý viên không phải là chuyên gia tâm lý, không đủ cơ sở và khả năng để nghiên cứu tâm lý cách bác học và có hệ thống, nhưng trong sứ mạng giáo dục của mình, chúng ta đón nhận những thành quả nghiên cứu tâm lý của các chuyên gia, cộng với tấm lòng yêu trẻ, nhằm giải quyết những tình huống tâm lý cá biệt nơi các thiếu nhi mà chúng ta đang hướng dẫn.
Trong bất cứ trường hợp nào, đối với những em bình thường hay cá biệt, huynh trưởng cũng cần có những khả năng sau đây:
- Hiểu biết sâu rộng về vấn đề, nắm được ý chính, biết cách trình bày bài học phù hợp với trình độ hiểu biết của các em: để chỉ cung cấp những điều cần cho các em, chứ không bắt các em lãnh tất cả những gì mình có.
- Vốn liếng ngôn ngữ của các em còn nghèo nàn. Trưởng phải vận dụng khả năng ngôn ngữ của mình để giản lược nội dung, dùng ngôn ngữ của các em để nói với các em. Nói cách đơn sơ, rõ ràng, và dễ hiểu.
- Khả năng tổ chức đoàn, đội tốt, giáo dục mới hiệu quả. Tạo được nơi các em niềm tin vào mình, những điều mình nói mới lọt tai và ghi vào lòng các em.
- Khả năng giao tế: có thể nói chuyện với các em, và làm cho các em sẵn sàng “tâm sự” với mình, mới hiểu được tâm tư, nguyện vọng của các em mà đáp ứng.
- Đạo đức: Lòng đạo đức của trưởng là cách giáo dục không dùng lời mà hiệu quả hơn lời nói.
Kiến thức tâm lý và những khả năng cá nhân của huynh trưởng là điều kiện cần thiết, nhưng chưa đủ, mà còn cần đến yếu tố nữa: Lòng đạo và Tình thương. Từ đó, chúng ta có thể làm tất cả cho các em.
Về phần thiếu nhi, các em rất nhạy bén và dễ dàng nhận ra chúng đang được thương mến. Các em sẽ chỉ yêu mến và đến với những ai yêu mến chúng. Được trẻ yêu mến và đến gần, chúng ta sẽ có cơ hội thành công trong việc giáo dục.
CÂU HỎI XÂY DỰNG BÀI
1. Bạn đã gặp tình huống đặc biệt nào nơi đoàn sinh, và đã giải quyết như thế nào? Thành công hay thất bại?
2. Theo bạn, vai trò giáo dục gia đình ảnh hưởng như thế nào đến những hiện tượng tâm lý cá biệt nơi thiếu nhi? Thí dụ cụ thể? Giải pháp nào cho vấn đề này?
--- oOo ---
Bài 24: Cách tổ chức một buổi lễ
“Buổi lễ” nói chung là những dịp tập hợp nhiều người để thực hiện cách trang trọng một nội dung nào đó như Diễn nguyện Giáng Sinh cho thiếu nhi, lễ Phát thưởng Giáo Lý, lễ Khai mạc Năm học Giáo lý, lễ Tuyên hứa, Đại hội Huynh trưởng-Giáo lý viên .v.v…
Phong trào TNTT, các hội đoàn Công Giáo Tiến Hành tại các giáo xứ, trường học và xã hội có rất nhiều lễ hội mà các trưởng có cơ hội tham gia. Thực tế cho thấy một số huynh trưởng TNTT đã đóng góp khá tích cực và hiệu quả trong các lãnh vực này. Để nhân rộng các chứng từ tích cực như thế, các trưởng cần nghiên cứu và rèn luyện kỹ năng tổ chức để giúp ích cho giáo xứ và góp phần lành mạnh hoá các cộng đồng xã hội.
Để tổ chức một buổi lễ, cần thực hiện những bước chính sau:
I.- CHUẨN BỊ.
Mọi việc làm dù lớn dù nhỏ, đều cần có chuẩn bị. Để tổ chức đám cưới, người ta phải sắm đồ cho cô dâu, chú rể, in thiệp, đặt tiệc, tìm người chủ hôn… và tiền. Để làm nhà, người ta phải tính toán kinh phí, vật liệu, xin phép xây cất, bản vẽ, gọi thầu…Chuẩn bị tốt, thực hiện mới tốt
Thí dụ: Tổ chức Đêm Diễn Nguyện Giáng Sinh cho thiếu nhi trong giáo xứ. Để chuẩn bị tốt cho việc tổ chức buổi lễ này, trưởng cần xác định:
* Mục đích của buổi lễ: Tổ chức diễn nguyện để:
- Giúp các em hiểu cách có hệ thống Chúa Giêsu đã giáng thế và là Đấng Cứu Chuộc nhân loại không phải do ngẫu nhiên, nhưng do ý định, lời hứa và chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
- Giúp các em hiểu Chúa Giêsu đã đến thế gian trong thân phận của một em bé nghèo nàn, được sinh ra, sống và lớn lên như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi
- Giúp các em hiểu Chúa thật gần gũi, Ngài đến với chúng ta như một người bạn, người anh, không có khoảng cách, để yêu thương…. Đáp lại, em cũng đến với Chúa, nói chuyện với Chúa cách thân mật, thoải mái.
- Từ tâm tình diễn nguyện, dẫn các em vào thánh lễ hoặc lời nguyện chung, và sống tâm tình này trong đời sống của các em.
* Nội dung buổi lễ là gì?
Để đạt được mục đích, các tiết mục diễn nguyện phải được dàn dựng, sắp xếp thế nào, để ngang qua việc hát múa, hợp xướng…, nổi bất lên ý định và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: như việc Chúa tạo dựng, tội nguyên tổ, các tổ phụ: Abraham, Issac,.., biến cố Truyền Tin, biến cố Belem, chuyện các đạo sĩ…
* Thành phần tham dự gồm những ai?
Các em không phải là khán giả thụ động, nhưng là tham dự viên, là người trong cuộc, nên tất cả các tiết mục phải vừa tầm hiểu biết, hợp sở thích của thiếu nhi về ngôn từ, hình ảnh, ý tưởng và tâm tình. Chủ toạ buổi lễ chắc chắn có cha xứ, cha truyên uý. Tham dự với tư cách là quan khách sẽ có hội đồng mục vụ, ban đại diện phụ huynh. Ngoài ra có quý ông bà, anh chị em trong cộng đồng giáo xứ.
* Thời điểm và thời lượng tổ chức:
Không nên sớm quá vì chưa có bầu khí giáng sinh thuận lợi; Cũng không nên gần lễ quá vì lúc đó quá bận rộn; Giờ tổ chức thuận lợi để thu xếp công việc và bầu khí diễn nguyện là buổi tối. Vì thành phần tham dự chính là thiếu nhi nên thời gian không nên kéo dài quá 2 giờ.
Việc xác định ngày giờ tổ chức phải tham khảo chương trình tổ chức lễ của giáo xứ, để không bị trùng hợp về thời gian và công việc.
* Địa điểm: Có thể tổ chức trong nhà thờ, hội trường hoặc ngoài sân, miễn là tạo được bầu khí thoải mái, thoáng mát, để các em ngồi lâu không mệt, và trang nghiêm để dễ đưa vào tâm tình cầu nguyện. Nếu tổ chức ngoài sân, nên biết có thể có những “khách không mời mà đến”, họ có thể huýt sáo, la ó và lạm dụng vì tưởng lầm là buổi văn nghệ ngoài trời. Cần có kế hoạch trật tự hoặc ngăn chặn loại khách này.
* Khối lượng công việc: Để tổ chức buổi diễn nguyện, trưởng cần thấy những việc phải làm:
- Lãnh ý cha Tuyên úy:
Dù đã có ý tưởng, trưởng vẫn phải bàn bạc và xin ý kiến chỉ đạo của cha Tuyên Uý. Phải thống nhất với ngài trong những nét chính yếu và tốt nhất là trong cả các chi tiết, điều gì còn khúc mắc phải trao đổi.
- Biên tập chương trình:
Dựa vào ý kiến đã thống nhất với cha Tuyên Uý, lên chương trình: nghi thức khai mạc, bế mạc, diễn nguyện, phân công v.v… Chương trình càng chi tiết càng tránh được những thiếu sót đáng tiếc. Mọi thành viên trong ban tổ chức phải hiểu chương trình và nắm chắc phần vụ của mình, lúc nào xuất hiện, lúc nào không nên.
- Thư mời quan khách:
Gửi thư mời cách nào để khách nhận được thư trước ít nhất 3 ngày. Nếu đoàn trưởng ký tên, cần có sự hợp thỉnh của Cha Tuyên Uý, để làm tăng giá trị của lời mời. Thư mời nên gửi tận tay, nếu gửi qua bưu điện, phải tính ngày tới, trừ thời gian chuyển thư.
- Phân công nhân sự:
Kinh nghiệm cho thấy hiện tượng lủng củng trong tổ chức, dẫn đến thất bại phần lớn do yếu tố nhân sự: Các thành viên ban tổ chức không nắm rõ phần vụ cũng như giới hạn của mình, nhận công tác rồi không biết phải thi hành ra sao vì không được triển khai kỹ lưỡng, xẩy ra tình trạng đùn đẩy công việc hoặc dẫm chân nhau, thậm chí tranh cãi ngay trong buổi lễ, vừa làm mất uy tín, vừa làm gương xấu cho các em, vừa chuốc lấy thất bại.
Trưởng cần biết rõ khả năng, tính tình, sở thích của người cộng tác để phân chia công việc cho phù hợp.
Sau khi nhận việc, mỗi người phải động não xem mình có thể thực hiện được tới đâu, cần phương tiện gì, nên trao đổi để công việc rõ nét hơn.
Đoàn trưởng cần biết rõ người cộng tác chuẩn bị ra sao để nếu cần sẽ có kế hoạch giúp đỡ hoặc điều chỉnh kịp thời. Một khoảng thời gian thích hợp trước ngày tổ chức, cần họp lại những người phụ trách công việc, nghe họ báo cáo, kiểm tra và phối hợp công tác.
Có bao nhiêu công tác, cần bấy nhiêu người chịu trách nhiệm chính, tạm gọi là trưởng tiểu ban. Tuỳ công việc, mỗi tiểu ban có thể thêm người cộng sự do tự tìm hoặc do đoàn trường cho. Thông thường trong một buổi lễ cần có:
. Trưởng ban tổ chức: thường là đoàn trưởng. Điều hành chung.
. Ban hành chánh: cùng với đoàn trưởng soạn chương trình theo quyết định chung của ban tổ chức, nhất là với ý chỉ đạo của cha tuyên uý. Soạn và gửi thư mời.
. Ban tiếp tân: Đón tiếp khách, xếp chỗ khách mời, tiễn khách. Trường hợp ít người có thể kết hợp Hành chánh với Tiếp tân
. Ban phụng vụ: Chuẩn bị thánh lễ, cùng với MC soạn các lời nguyện
. Dẫn chương trình: Giới thiệu, thuyết minh các tiết mục và dẫn chương trình theo ý ban tổ chức. Nên có 2 MC thay phiên nhau. Nếu ít người, có thể kết hợp Dẫn chương trình và Phụng vụ
. Ban kỹ thuật: Thiết kế địa điểm, sân khấu, âm thanh, ánh sáng v.v…
. Ban quản lý: cung cấp vật liệu, tài chánh cho các tiểu ban theo chỉ thị của đoàn trưởng. Bồi dưỡng cho anh chị em trong ngày diễn, nhất là khi chuẩn bị thiết kế địa điểm và tổng dợt. Có thể kết hợp Quản lý và Kỹ thuật.
. Ban trật tự: Sắp xếp và ổn định chỗ ngồi quan khách và giữ trật tự các em từ lúc đầu cho đến kết thúc.
- Tìm phương tiện:
Khi lên chương trình, biết cần những phương tiện nào: Âm thanh, ánh sáng, sân khấu, màn, vật dụng trang trí, hóa trang và ….tiền. Trưởng cũng phải dự trù việc phân bổ phương tiện và tài chánh cho các phần vụ trước khi họ nêu nhu cầu thực tế. Cũng cần xét tính hợp lý của các yêu cầu do các tiểu ban đề nghị trước khi chấp thuận. Phải xác định phương tiện nào có sẵn, phương tiện nào có thể mượn, hoặc phải mua. lưu ý các thành viên xử dụng phương tiện chung bảo quản tốt và hoàn trả đầy đủ cho nơi xuất xứ để tiết kiệm ngân quỹ và giữ uy tín đối với nơi cho mượn.
- Điều khiển chương trình và thuyết minh:
Người lập chương trình và kế hoạch giỏi chưa đủ, cần có người thực hiện và điều động giỏi mới thành công. Người lập chương trình là cái đầu; người thực hiện là chân tay. Thiếu một trong hai, không thể thành công. Người thực hiện chương trình là các trưởng tiểu ban và cộng sự viên. MC là một trong những người thực hiện chương trình. Hơn ai hết, MC là người thông suốt chương trình, hiểu rõ mục đích buổi lễ, nắm chắc nội dung tiết mục để dẫn chương trình đúng hướng.
MC phải có cách để nhớ tên quan khách và soạn cụ thể lời giới thiệu cho đúng chức vụ, tên thánh, tên họ, tên gọi của từng vị, giới thiệu cấp trên trước, cấp dưới sau. Giới thiệu khách trước, chủ nhà sau. Giới thiệu quan khách phải trang nghiêm. MC luôn có kế hoạch dự trù để trám chỗ khi chương trình bị trục trặc kỹ thuật hoặc gián đoạn ngoài ý muốn.
Khi giới thiệu và thuyết minh tiết mục, MC phải nắm vững nội dung tiết mục để không bị lạc đề. MC cần soạn sẵn lời nguyện để hướng dẫn các em và cộng đoàn khi cần. Có thể nhờ người khác soạn giúp, nhưng phải sẵn sàng trước, đừng chủ quan “xuất khẩu thành văn” dẫn đến sai lầm đáng tiếc.
- Thiết kế địa điểm:
Khi đã quyết định địa điểm, công việc thiết kế phải hoàn tất trước để các diễn viên có thể làm quen với sân khấu trước giờ khai mạc, để khi diễn tiến không ai phải chạy ngược xuôi về vấn đề này nữa, ngoại trừ người được phân công đặc trách.
Việc thiết kế địa điểm nên giao cho người có chuyên môn về thiết kế, ánh sáng và âm thanh. Cũng cần dự trù một số vật dụng thay thế như cầu chì, micro, đèn pin, đèn bình, megaphone, dụng cụ sửa điện… phòng khi cúp điện hoặc có sự cố trong giây lát.
Về mùa mưa không nên tổ chức ngoài trời nếu không bảo đảm, vì cả ban tổ chức cũng như người tham dự đều không yên tâm, mất tập trung vào nội dung diễn nguyện.
- Soạn nội dung tiết mục:
Các tiết mục diễn nguyện cần được chọn lựa và phân bổ cho các đơn vị, sao cho xuyên suốt để đạt mục đích mong muốn, không nên để các đơn vị trình bày tự phát. Ban tổ chức, nhất là cha tuyên uý phải duyệt diễn xuất, để góp ý và sửa chữa trước khi đưa vào chương trình.
Để xây dựng chương trình, Ban tổ chức đưa ra đề tài để các đơn vị thực hiện, hoặc đưa ra yêu cầu về ý nguyện để các đơn vị căn cứ vào đó mà chọn tiết mục. Dù trong trường hợp nào, ban tổ chức vẫn phải sắp xếp chứ không diễn theo cách tự chọn.
- Tập dợt:
Tập dợt là giai đoạn quan trọng và là yếu tố cần thiết cho sự thành công của buổi lễ. Ban tổ chức cần tạo hứng thú cho các em ngay từ lúc tập dợt; nên uỷ lạo các đơn vị trong thời gian tập dợt bằng cách thăm hỏi, khích lệ và tặng quà để các em phấn khởi hơn, đồng thời xem các em thiếu phương tiện gì để hỗ trợ. Như vậy sẽ có ảnh hưởng tốt đến hiệu quả tập dợt và diễn xuất sau này.
Về mặt giáo dục, việc quan tâm uỷ lạo của ban tổ chức không phải chỉ để đáp ứng nhu cầu ăn uống của các em, nhưng qua sự chăm sóc của ban tổ chức, các em thấy mình được quan tâm, thấy mình là một thành viên hữu ích chứ không mất hút trong tập thể.
- Tổng dợt, kiểm duyệt:
Ấn định thời gian tập dợt trước để các đơn vị sắp xếp thời giờ tập dợt. Ngày tổng dợt tất cả các đơn vị tập trung để diễn thử các tiết mục. Ban kiểm duyệt xem từng mục, ghi nhận những chỗ cần bổ sung, sửa đổi hoặc cắt bớt và báo ngay cho đơn vị trình diễn kịp thời sửa chữa.
Ban kiểm duyệt lưu ý các mục hoạt cảnh, nhất là thoại kịch quảng diễn Lời Chúa: các vai diễn và các lời thoại xuyên tạc hoặc cắt nghĩa sai Lời Chúa phải được uốn nắn ngay từ buổi tổng dợt; Tránh bôi bác, báng bổ chức quyền trong đạo hoặc ngoài đời.
- Soạn lời giới thiệu, thuyết minh và lời nguyện
MC cần hội ý với đoàn trưởng và trưởng tiểu banPhụng vụ khi soạn lời giới thiệu, thuyết minh hoặc lời nguyện, sau đó nhập với chương trình chung xin cha tuyên uý duyệt lần cuối trước khi thực hiện.
Lời giới thiệu phải đúng nội dung của tiết mục, lời thuyết mình nhằm làm sáng thêm nội dung và có ý chuẩn bị cho mọi người hợp ý với tâm tình trong tiết mục.
Nếu là MC chuyên nghiệp càng tốt, nếu là nghiệp dư thì cần phải luyện tập kỹ trước khi ra sân khấu, và cần đạt một số tiêu chuẩn như phát âm đúng chính tả, giọng nói tương đối lớn, truyền cảm, dứt khoát.
MC cần trang phục chỉnh tề, phù hợp nội dung lễ hội. Nếu là nữ, cần đứng đắn kín đáo vì đây là buổi diễn nguyện chứ không phải đại nhạc hội.
- Mời cha dâng lễ (nếu có thánh lễ):
Nếu trong chương trình có thánh lễ, đoàn trưởng phải bàn với cha tuyên uý về thời gian và ý lễ. Nếu phải mời cha khách, xin cha tuyên uý mời giúp.
Chuẩn bị bàn thờ, đồ lễ và cắm hoa, liên lạc với ban lễ sinh, các soeur hoặc ban phụng tự Hội Đồng Mục Vụ, tuỳ thông lệ của từng xứ.
Chuẩn bị là động tác vô cùng cần thiết. Tổ chức thiếu chuẩn bị là thất bại. Chuẩn bị lâu dài, kỹ lưỡng. Thực hiện nhanh, gọn.
II.- DIỄN TIẾN BUỔI LỄ.
- Đón tiếp quan khách:
Mọi việc phải được sẵn sàng trước khi quan khách tới. Quan khách không thích ngồi chờ đợi và nghe chuyên viên kỹ thuật thử máy “alô, một hai ba bốn…”, cũng không thích ngồi chờ trong bóng tối.
Khi quan khách tới, ban Tiếp tân phụ trách đón tiếp và hướng dẫn vào đúng chỗ, tránh phải mời những người đã ngồi chỗ trên xuống chỗ dưới. Vậy người đón khách phải biết rõ chức vị của khách.
Khách lớn “lỡ” tới trễ và hàng trên đã hết chỗ, ban tiếp tân phải liệu cho có thêm ghế để mời khách ngồi.
Nếu có văn nghệ xen kẽ, băng reo hoặc vũ điệu, cứ để khách tự do, không nên yêu cầu. Nhất là không được bắt quan khách tập đi tập lại một vũ điệu hoặc băng reo.
- Ổn định vị trí:
Ban tiếp tân và ban trật tự phải liệu sao cho tham dự viên người nhà, có mặt đầy đủ trước giờ khai mạc và trước giờ khách đến. Thà để người nhà chờ khách, chứ không bắt khách chờ người nhà.
- Khai mạc:
. Khởi đầu nghi thức khai mạc, trưởng hô khẩu hiệu cho các em đứng lên, nghiêm. Mời quan khách bước ra giữa, trước mặt các em, quay xuống
. Hô cho các em chào quan khách.
. Giới thiệu: Trong quan khách có nhiều người ở chức vị khác nhau. Khi giới thiệu phải giới thiệu người có chức vị cao trước, giới thiệu rõ chức vụ, tên thánh tên họ, tên gọi. Đối với người có hai chức vị, giới thiệu chức lớn trước. Hai người đồng chức, giới thiệu người cao tuổi trước, khách trước chủ nhà sau. Cần có danh sách cụ thể, đừng quá tin vào trí nhớ. Cũng đừng thuộc lòng danh sách đến nỗi giới thiệu cả người không có mặt! Với người vắng mặt, nếu muốn tỏ ra trân trọng, phải giới thiệu theo cách khác.
. Mời quan khách hướng về cờ. “Chào cờ - chào”
. Tuyên bố lý do và tuyên bố khai mạc: Cha Tuyên uý tuyên bố lý do và khai mạc. Nếu có cha xứ hiện diện, nên dành vinh dự tuyên bố khai mạc cho cha xứ
. Công bố chương trình diễn nguyện: Đoàn trưởng
. Nội dung buổi lễ: “Đạn đã lên nòng”, MC hoàn toàn điều động chương trình. Nếu gặp sự cố, có thể bàn với đoàn trưởng hoặc xin ý kiến cha tuyên uý.
III.- BẾ MẠC
- Cám ơn: Đoàn trưởng hoặc đoàn phó.
- Sau buổi lễ, nếu có khả năng, nên tổ chức phát quà cho thiếu nhi, liên hoan cho các trưởng và các đơn vị tham gia diễn nguyện.
CÂU HỎI XÂY DỰNG BÀI
1. Theo kinh nghiệm của bạn, để tổ chức một buổi lễ bổn mạng đoàn, phải làm những việc gì?
2. Hãy soạn thảo chương trình chi tiết tổ chức lễ ra mắt đoàn.
--- oOo ---
Bài 25: Lãnh đạo
Bất cứ đoàn thể hay tổ chức nào, dù lớn, dù nhỏ đều có người đứng đầu. Người đứng đầu là người khởi xướng mọi công việc; đưa ra những quyết định hướng dẫn các hoạt động; giúp mọi người chấp nhận mục tiêu chung và dẫn dắt họ đạt tới mục tiêu đó. Đó là vai trò lãnh đạo.
Gia đình, đoàn thể, quân đội, quốc gia mạnh hay yếu, đi đúng hướng, đạt được mục đích hay không đều do người lãnh đạo. Người xưa nói: “Chỉ có tướng dở, chứ không có quân dở”. Ý nói rằng quân giỏi hay dở là do vị tướng, do người lãnh đạo. Ngày nay, trong cơ chế thị trường, người ta nói: doanh nghiệp ăn nên làm ra vì có giám đốc giỏi; quốc gia hùng mạnh vì có vị lãnh đạo giỏi; gia đình nề nếp, phát đạt vì có người chủ gia đình giỏi; giáo xứ sinh động, sốt sắng vì có cha xứ giỏi và đạo đức. Cũng có thể nói một đoàn TNTT mạnh vì có cha tuyên úy, có đoàn trưởng giỏi và đạo đức. Vậy vai trò của người lãnh đạo có tầm quan trọng quyết định.
Lịch sử ngày mai sẽ ghi công hay kết tội người lãnh đạo tuỳ vào công việc họ làm cho đoàn thể, quốc gia ngày hôm nay. Kinh nghiệm đông-tây, kim-cổ cho thấy nhiều bài học quý giá cho những ai đang và sẽ là nhà lãnh đạo.
Đối tượng của nhà lãnh đạo là con người và công việc. Nhà lãnh đạo biết sử dụng, điều động, phối hợp tài sức của mọi người để dẫn dắt công việc nhằm đạt được mục đích là ích lợi chung. Muốn thành công, nhà lãnh đạo phải tôn trọng con người, nói tắt là dùng đúng người vào đúng việc; Muốn dùng người tốt phải biết sắp xếp và tổ chức công việc. Sau đây là một số kinh nghiệm của những người đi trước:
I.- BẢN THÂN NGƯỜI LÃNH ĐẠO:
Người lãnh đạo quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của đoàn thể. Vì vậy người lãnh đạo cũng bị đòi hỏi nhiều. Người lãnh đạo phải:
1. Sống có mục đích: là xác định được điểm đến cuối cùng của mình, cam kết, quyết tâm đạt cho được mục đích đó bằng cả đời sống của mình. Mục đích của nhà lãnh đạo quốc gia là cơm no áo ấm, được tự do, hạnh phúc cho dân. Người dân thấp cổ bé họng, nhưng rất tinh tường: nhìn vào việc làm của nhà lãnh đạo, họ biết ông đang làm gì, nhắm mục đích gì, vì ai, họ mới ủng hộ và tin theo. Mục đích của người gia trưởng là xây dựng hạnh phúc cho gia đình, gầy dựng tương lai cho con cái. Mục đích của Huynh trưởng TNTT là sống, học hỏi và rèn luyện bản thân để trở thành người Kitô hữu hoàn hảo, và hướng dẫn thiếu nhi của mình đạt được mục đích đó.
Không có điểm đến, Người lãnh đạo sẽ không đi tới đâu và cũng không thể hướng dẫn người khác. Không ai theo một người mà chính người ấy không biết mình đi đâu. Abraham và gia đình ông đã ra đi vì Thiên Chúa mời gọi và hứa là điểm tựa cho ông và con cháu. Chúa Giêsu, nhà lãnh đạo lý tưởng vô tiền khoáng hậu, đã vạch đường và chỉ điểm đến cho nhân loại là về với Chúa Cha và thông chia hạnh phúc đời đời của Ngài.
2. Có khả năng quản lý: Nói đến quản lý là nói đến tương quan giữa người lãnh đạo, các cộng sự viên và khách hàng. Muốn các cộng sự viên tích cực chia sẻ và cộng tác, người lãnh đạo phải cho mọi người hiểu họ có phần trách nhiệm cũng như được chia phần trong kết quả của công việc. Muốn vậy, người lãnh đạo phải đào tạo, hướng dẫn mọi người học hỏi cách làm việc, không quên khích lệ họ trong khi làm việc và chia sẻ thành công với họ. “Thày không gọi các con là đầy tớ, nhưng là bạn hữu, vì đầy tớ không biết việc chủ làm” (Ga 15,15). Chúa Giêsu muốn chúng ta cộng tác và tiếp nối công việc của Ngài. Dù ở chức vụ nào, Huynh trưởng TNTT không làm việc một mình, nhưng luôn có các trưởng khác cộng tác. Hãy biết chia sẻ công việc cho anh chị em theo khả năng và điều kiện của họ. Hãy nói cho họ hiểu thành công của đoàn là kết quả nỗ lực của tất cả chúng ta.
3. Có lòng can đảm: Can đảm không phải là không biết sợ, nhưng can đảm là khi quyết định làm việc gì thì cố gắng chu toàn. Đoàn quân sẽ hăng hái chiến đấu khi thấy tướng của họ can đảm. Trong đám trẻ chơi với nhau, đứa nào tỏ ra can đảm, nó sẽ được những đứa khác đi theo và tôn làm “đại ca”… tí hon.
Can đảm không phải chỉ biểu lộ bằng hành động cụ thể, nhưng còn được diễn đạt qua tinh thần và những xác tín của mình. Người can đảm không chán nản trước hoàn cảnh khó khăn, không thoả hiệp với sự xấu vì bị áp lực; Bênh vực lẽ phải dù bị thiệt thòi hay đe doạ (Các con hãy mạnh dạn rao giảng…đứng sợ những kẻ có thể giết được thân xác mà không giết được linh hồn Mt 10,28).
Huynh trưởng TNTT, đối diện với không ít khó khăn, vẫn cố gắng khắc phục và đi tới, chấp nhận hy sinh, thiệt thòi để hướng dẫn thiếu nhi đến với Chúa.
4. Công bằng: Công bằng là trả lại cho người ta những gì thuộc về họ; công bằng là sự phán xét theo lẽ phải không phân biệt kẻ thân người không thân; công bằng là sự phân chia quyền lợi đúng như mỗi người được quyền hưởng; là thưởng phạt đúng như việc đã làm.
Người có đức tính công bằng được mọi người tín nhiệm, hay được mời làm trọng tài phân xử trong các tranh chấp. Bất công là nguyên nhân của mọi cuộc nổi loạn.
Thiếu nhi rất hay “kiện cáo”. Tuy là chuyện trẻ con nhưng nếu huynh trưởng không xử sự tới nơi sẽ gây cho các em tâm trạng thất vọng về người anh, người chị của nó, sẽ không còn tín nhiệm anh chị nữa. Nhà lãnh đạo công bằng sẽ có được những cộng sự viên trung thành.
5. Yêu thương: Lãnh đạo là phục vụ. Chỉ có lòng yêu thương mới dẫn đến sự phục vụ chân chính. Luật lệ, biện pháp quản lý của nhà lãnh đạo phải phát xuất từ tình yêu, vì lợi ích của cộng đoàn. Luật vàng của nhà lãnh đạo Giêsu “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6, 36).
Thiên Chúa yêu thương ban lề luật cho dân, luật được đặt ra vì lợi ích của cộng đoàn, nhưng áp dụng luật cách cứng ngắc, không nhắm lợi ích của cộng đoàn, lạm dụng luật, luật sẽ trở thành gông cùm của nhà cai trị dành cho dân chúng. Có gông cùm thì ắt có “bẻ khoá”, có loạn lạc. Trưởng TNTT nên biết: trẻ em ngây thơ nhưng rất tính ý, qua hành động trách phạt của trưởng, chúng sẽ nhận ra bạn phạt vì thương hay vì ghét để biết ơn hoặc oán hận và xa lánh. Khi bị trẻ xa lánh, bạn không thể dạy các em được nữa. Khi cộng sự viên xa lánh, bạn sẽ bị cô lập và thất bại trong công việc.
6. Trung thực: Chúa dạy: “Chớ trộm cướp, chớ làm chứng gian, chớ muốn vợ chồng người khác, chớ ước ao lấy của người khác”. Người trung thực được mọi người tín nhiệm, đi theo. Trung thực thể hiện bằng việc làm chứ không bằng lời nói. Trung thực từ trong lòng, lòng không trung thực, khó có hành động ngay thẳng “Mc 7, 21-23). Như lửa thử vàng, quyền lợi, nghịch cảnh, cám dỗ thử đức tín trung. Người trung thực sẽ có được những cộng sự viên trung thực.
Huynh trưởng TNTT phải trung thực với trách nhiệm, các cộng sự viên và thiếu nhi sẽ đáp lại bằng sự cộng tác và vâng lời. Huynh trưởng dạy các em sự trung thực bằng chính đời sống của mình.
7. Quảng đại: Người lãnh đạo quảng đại mở rộng tấm lòng để cho đi. Đem tài năng, sức lực, của cải, thời giờ cống hiến cho công ích và vì tình yêu tha nhân. Quảng đại đón nhận người khác, sửa chữa, tha thứ khuyết điểm và sự xúc phạm của họ với mình.(Mt 18, 21-22). Ai cũng có khuyết điểm, cộng sự viên của bạn cũng vậy, hãy tập hợp những ưu điểm của nhau để làm việc, và giúp nhau sửa chữa, loại bỏ khuyết điểm. Không căn cứ khuyết điểm quá khứ để đánh giá hiện tại.
8. Khiên tốn: là ý thức và đánh giá trung thực về bản thân. Người khiêm tốn không buồn, ghen khi thấy người khác hơn mình; nhưng trân trọng và sẵn sàng học tập; Vui mừng nhưng không vênh vang khi thành công, hay được khen tặng, cũng không bực bội bất mãn khi thất bại, nhưng ý thức rằng mình chỉ là “đầy tớ vô dụng, làm những việc phải làm” (Lc 17,10). Không lấy cớ khiêm tốn để từ chối công việc mà mình có thể làm cho công cuộc chung, chờ mọi người phải năn nỉ;
Trân trọng, đón nhận và tuyên dương tài năng cũng như thành công của cộng sự viên. Không đòi hỏi người khác phải đạt được những tiêu chuẩn mà chính mình chưa đạt tới. Đừng lấy mình làm mẫu bắt người khác phải giống mình. Sẵn sàng phục vụ không đòi đền đáp.“Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho người khiêm nhường”.
9. Tự tin: Tin chính mình trước đã. Không tin mình, làm sao đủ sức thuyết phục người khác tin mình. Tin mục đích mình nhắm tới; con đường mình đang đi; phương pháp đang áp dụng là đúng, là khả thi, như thế mới có khả năng thực hiện công việc mình đã suy nghĩ và chọn lựa. Tự tin giúp ta bình tĩnh, lanh lợi trong công việc. Lòng tự tin có sức thuyết phục người khác hăng hái làm việc. Nhưng tự tin khác với kiêu căng, mù quáng: chỉ tự tin sau khi đã phân tích công việc, lượng giá bản thân.
10. Cương quyết: là không hay thay đổi ý định cũng như phương sách khi không có lý do chính đáng. Không dễ để cho người khác hoặc nghịch cảnh làm cho chùn bước. Sau khi đã bàn bạc, cân nhắc, kết luận thì không thoái lui, đầu hàng khi gặp khó khăn trở ngại, nhưng tìm giải pháp để vượt qua.
Cương quyết không có nghĩa là cố chấp, độc đoán; người quả quyết biết lắng nghe, quan sát để hiệu đính công việc khi cần. Sau khi đã bàn bạc, cân nhắc, kết luận, người cương quyết không chùn bước khi gặp khó khăn trở ngại. Họ là chỗ dựa vững chắc cho các cộng sự và các em yên tâm làm việc.
11. Giao tiếp tốt: Giao tiếp thể hiện mối tương quan giữa người với người. Càng gần gũi và thường xuyên tiếp xúc, nhất là giữa người lãnh đạo với các cộng sự viên, càng làm hiểu nhau và cộng tác tốt hon. Điều kiện để cuộc giao tế thực hiện tốt là hai bên cùng mở lòng, trong đó người lãnh đạo phải đi bước trước, biết chân thành lắng nghe, đọc được ý tưởng của cộng sự viên, và có khả năng thuyết phục.
Đừng quên cám ơn và ghi nhận những đóng góp tích cực của họ. Cộng sự viên sẽ hăng hái làm việc vì đươc lắng nghe. Cuộc tiếp xúc lần sau được vui vẻ đón nhận là dấu chỉ cuộc giao tiếp lần trước đã thành công. Giao tiếp có thể diễn ra bất cứ ở đâu, bất cứ lức nào. Giao tiếp bằng chân tình chứ không chỉ bằng tài hùng biện.
17. Chăm sóc từng người: “Ta biết chiên Ta, và chiên Ta biết Ta (Ga 10,14). Các cộng sự viên là một tập thể, nhưng người lãnh đạo không quan tâm đến họ như một tập thể, mà phải quan tâm đến từng người, để hỗ trợ, chăm sóc. Phải biết từng người về khả năng, tính tình, hoàn cảnh sống để chăm sóc, chia sẻ, giúp đỡ và phân chia công tác đúng người đúng việc, nhất là để hiểu lý do và thông cảm với những khiếm khuyết nơi họ.
18. Đào tạo kế thừa. Người lãnh đạo khôn ngoan biết quan tâm đào tạo, nâng cao đạo đức và khả năng của cộng sự viên. Tìm cơ hội phát triển tài năng và tiềm năng trong hàng ngũ cộng sự viên. Tổ chức bồi dưỡng, tạo điều kiện tập sự để làm nhân tố kế thừa.
19. Vâng phục: “Anh em muốn ai làm điều gì cho mình, hãy làm điều đó cho người khácnhư vậy”(Lc 6, 31). Người lãnh đạo ý thức mình còn phải vâng phục Người lãnh đạo cao hơn, Do đó, muốn người dưới thi hành lệnh của mình, nghe theo mình, theo nề nếp phong trào thì chính mình phải có tinh thần vâng phục. Có vậy mới hiểu được tâm trạng của người vâng phục mình, để có thái độ và hành động thích đáng đối với cộng sự viên. Đồng thời làm gương cho cộng sự viên.
20. Phục vụ: Theo gương Chúa Giêsu: “Thầy đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ”(Mt 20,28). Người lãnh đạo chân chính là người phục vụ cộng đồng, nhắm hạnh phúc của cộng đồng, chứ không coi cộng đồng là công cụ thực hiện ý đồ, là bậc thang cho mình kiếm tìm địa vị. Huynh trưởng phục vụ thiếu nhi vô vị lợi. Một chút vinh quang nếu có, hãy để nó đến tự nhiên chứ đừng tìm kiếm.
II.- BIẾT NGƯỜI VÀ DÙNG NGƯỜI:
Trong đoàn thể, hoạt động là thành quả của chung, Người lãnh đạo không phải là tất cả, nhưng có sự đóng góp của nhiều người khác, mà thiếu họ sẽ không có đoàn thể, và cũng chẳng có thành quả nào đạt được. Nhưng để có những cộng sự viên tốt, hữu ích, người lãnh đạo phải biết chọn người phù hợp và giao việc hợp với đạo đức, khả năng, tính khí từng người, gọi tắt là biết dùng người.
Cộng sự viên là những bạn đồng hành, chia sẻ công việc và trách nhiệm với người lãnh đạo; là thành phần không thể thiếu trong tổ chức và là yếu tố quyết định trong mọi thành công cũng như thất bại của tổ chức.
* Người cộng sự từ đâu mà đến: Cộng sự viên thường thuộc hai thành phần xuất xứ:
- Cộng sự viên do người lãnh đạo đào tạo theo thời gian ngay trong đoàn thể. Đối với những cộng sự viên này, người lãnh đạo có nhiều thời gian để nhận xét về tính tình, khả năng, khuynh hướng. Đồng thời họ cũng biết rõ về người lãnh đạo, nên có những thuận lợi và khó khăn nhất định:
. Thuận lợi: Biết rõ nhau, nên dễ phân chia công tác đúng khả năng và dễ trong việc thi hành nhiệm vụ.
. Khó khăn: Vì được đào tạo từ tay người lãnh đạo, nên khả năng của họ bị hạn chế trong phạm vi khả năng của người lãnh đạo, có thể rơi vào tình trạng sùng bái thần tượng, không dám suy nghĩ độc lập, thiếu sáng kiến.
- Cộng sự viên được tuyển chọn hoặc mời từ bên ngoài, người lãnh đạo chỉ hiểu về họ thông qua các thông tin từ người giới thiệu, hồ sơ lý lịch hoặc qua phỏng vấn, nên hai bên chưa hiểu nhau nhiều, cũng có những thuận lợi và khó khăn nhất định:
. Thuân lợi: Họ được đào tạo, có kiến thức và kinh nghiệm từ một hoặc nhiều nguồn khác, sẽ đem lại cho tổ chức sáng kiến mới và kinh nghiệm phong phú hơn.
. Khó khăn: Vì mới biết nhau, người lãnh đạo chỉ có thể phân công tác theo khả năng ghi trên lý lịch hoặc qua phỏng vấn, do đó khó chính xác. Cộng sự viên chưa hiểu ý, khó có thể thực hiện đúng ý người lãnh đạo, có thể dẫn đến hiểu lầm và mâu thuẫn.
Dù cộng sự viên đến từ nguồn nào, người lãnh đạo cũng cần nắm một số nguyên tắc về việc chọn và sử dụng cộng sự viên:
- Biết người. Trong lãnh đạo biết người là việc quan trọng nhất. Biết người để biết dùng ai và không dùng ai; dùng vào việc gì và không dùng vào việc gì. Biết người tài đức mà không dùng thì cũng có hại như dùng người không có tài đức. Biết người tài đức mà không dùng, họ sẽ bất mãn, gây rối hoặc ra đi; Biết người vô tài bất đức mà vẫn dùng là mang hoạ.
- Tôn trọng cộng sự viên: Cộng sự viên không phải là người để sai bảo. Họ là bạn đồng hành, góp phần vào sự thành bại của tổ chức. Phải dùng cộng sự viên đúng khả năng và đặt họ vào địa vị tương xứng với khả năng, và phải đối xử bình đẳng với họ.
- Chọn ưu tiên: Tài là cần thiết, mà đức quan trọng hơn. Có tài mà thiếu đức chỉ có thể làm loạn hoặc trộm cắp. Khi chọn cộng sự viên, ưu tiên là đạo đức, sau mới xét đến tài. Ngoại hình là yếu tố cần, nhưng bản chất quan trọng hơn. Xét người nên xem bản chất, dùng người nên căn cứ vào đức độ của họ.
- Kiểm tra, nhận xét người: Kinh nghiệm ngàn đời đã để lại như sau:
. Cho đi công tác xa để biết lòng trung.
. Cho gần với người trên để biết lòng cung kính.
. Giao việc khó để biết tài năng.
. Yêu cầu trả lời nhanh để biết trí tuệ,
. Giao việc gấp để biết chữ tín.
. Giao tiền để biết tính thanh liêm.
. Quan sát người gặp nguy khốn để biết ý chí.
. Cho uống rượu biết tính tình.
. Nhìn bạn hữu để biết người.
. Xem cách đối xử với kẻ dưới, người nghèo để biết lòng nhân
. Xem cách đối xử với người trên, người quyền thế, người giầu để biết tính cách.
. Qua xét xử biết tính công bằng
. Thái độ trước sự việc biểu hiện lương tâm
. Quan sát người đang giầu thành nghèo biết được khí tiết. Đang nghèo thành giầu biết được lòng nhân.
. Giao quyền vào tay kẻ dốt biến nó thành độc tài.
. Giao việc nhỏ cho người lớn làm họ nhụt chí.
. Giáo dục gia đình là nền tảng nhân cách.
. Kẻ tiểu nhân coi mình làm khuôn mẫu
. Nói xấu người khác là kẻ giả dối.
. Kiểm tra thường xuyên để giữ được phẩm chất
. Sai lầm, thiếu sót là hiện tượng, có thể sửa chữa. Xảo trá, dã tâm thuộc bản chất, không thể dùng.
. Huấn luyện thường xuyên để nâng cao tài đức.
* Chúa Giêsu chọn và dùng cộng sự viên thế nào
Khởi đầu, Thiên Chúa đã chọn Abraham, giao cho ông nhiệm vụ thành lập và lãnh đạo một dân tộc lớn. Từ Abraham đến các tổ phụ sau này, con cháu ông như Mose, Đavid… trong lịch sử dân Israel, Thiên Chúa không hề mở trường hay dạy khoá học về lãnh đạo, nhưng Chúa đã dẫn dắt họ qua công việc, qua từng sự kiện, biến họ thành những nhà lãnh đạo lưu danh muôn thuở “Thầy là Thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho các con, để theo gương Thầy các con hãy rửa chân cho nhau”
Chúa Giêsu, nhà lãnh đạo vĩ đại vô tiền khoáng hậu, không để lại cuốn sách nào dạy lãnh đạo, Ngài đã huấn luyện các cộng sự viên mọi nơi mọi lúc: trên đường đi, trên cánh đồng, trong tiệc cưới, những cơ hội tranh luận với người biệt phái, khi chữa lành bệnh tật, khi tha tội. Ngài đã để lại một đội ngũ lãnh đạo kế thừa vĩ đại, đầu tiên gồm 12 người làm thay đổi vận mạng nhân loại.
Huynh trưởng TNTT hôm nay, bằng kiến thức và kinh nghiệm sống, đặt nền móng trên gương mẫu và Lời dạy của Chúa Giêsu, vị Huynh Trưởng Tối Cao, không ngừng tự rèn luyện và đào tạo các cộng sự viên bằng mọi cách, trong công việc, ở mọi nơi để thực thi sứ mạng đem các em đến với Chúa Giêsu Thánh Thể.
III.- TỔ CHỨC CÔNG VIỆC
Người lãnh đạo, cộng sự viên và cộng đồng, mỗi người tuỳ theo chức vụ và khả năng chịu trách nhiệm một phần việc khác nhau và có liên đới mật thiết với nhau như các bộ phận trong một thân thể duy nhất, như Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân nói: “Cũng như toàn bộ một cơ thể sống động, không chi thể nào hoàn toàn thụ động, nhưng tham dự vào đời sống và công việc của toàn thân. Cũng thế, trong Nhiệm Thể Chúa Kitô tức Giáo Hội, toàn thân tuỳ theo công dụng khả năng, từng phần tử khiến thân thể được tiến triển. Hơn nữa các chi thể trong thân thể này gắn bó và liên kết chặt chẽ với nhau, đến nỗi chi thể nào không hoạt động đúng tầm mức của mình trong việc tăng triển toàn thân đều bị coi là vô dụng đối với Giáo Hội cũng như với chính mình”.
Đoàn chỉ có thể tiến, công việc của đoàn chỉ có thể thực hiện hoàn hảo khi mọi thành viên đều tích cực làm việc. Để mọi người đều “hoan hỉ” làm việc, người lãnh đạo cần có chút “nghệ thuật” trong việc phân công và điều hành công việc:
- Làm cho mọi người ý thức rằng công việc của đoàn là nhiệm vụ chung của mọi thành viên. Họ có phần trong sự thành công của đoàn thể.
- Có chương trình tổng thể, rồi phân chia từng phần cho các thành viên. Phân chia công tác mạch lạc sao cho thành viên nắm rõ phần vụ và giới hạn của mình.
- Động viên khen thưởng ngay khi công tác đang tiến hành. Tìm cách trợ giúp những thành viên gặp khó khăn, điều chỉnh những sai sót khi họ thi hành nhiệm vụ.
- Trong tổng kết, đề cao thành tích những thành viên thực hiện công tác tốt; Nêu ra những thiếu sót cần sửa chữa để lần sau làm tốt hơn, không khiển trách cộng sự viên trước tập thể, khi cần, gặp gỡ góp ý riêng.
- Người lãnh đạo chỉ điều hành tổng quát, không nên nhận công tác chuyên môn nào. Nhưng phải biết tất cả và có thể thay thế một vị trí trong trường hợp cần thiết.
- Thông qua việc làm, khám phá “nhân tài” để đề bạt hoặc tiến cử.
- Trong tranh chấp nội bộ, Người lãnh đạo luôn ở vị trí trọng tài hoà giải, nhưng khi cần vì lợi ích chung, không được nhượng bộ, phải chọn lựa để có thái độ dứt khoát và quyết định cứng rắn.
- Kiên nhẫn trước thái độ chống đối và bất hợp tác của một vài cộng sự viên. Cư xử với họ bằng thái độ “chiêu hồi” chứ không đối kháng.
- Đối với thành viên tỏ ra “ngoan cố” sau nhiều lần thuyết phục, nên bàn với cấp trên và hội đồng lãnh đạo để có thái độ dứt khoát nhằm mục đích tránh gương xấu. Không loại trừ biện pháp khai trừ, nhưng đó là biện pháp cuối cùng và bất đắc dĩ.
Phương pháp lãnh đạo đã khó, tuy có thể học rất bài bản, nghệ thuật lãnh đạo càng khó hơn vì cần phải học bằng trải nghiệm và cần có tấm lòng (vì con người luôn là huyền nhiệm). Kết hợp học với hành chính là kết hợp phương pháp với nghệ thuật. Ap dụng phương pháp lãnh đạo cách thích hợp với từng người, từng công việc, từng hoàn cảnh là nghệ thuật lãnh đạo vậy.
CÂU HỎI XÂY DỰNG BÀI
1. Bạn hiểu thế nào về vai trò và nhiệm vụ của người lãnh đạo trong một tổ chức giáo dục như đoàn TNTT?
2. Xin chia sẻ những thành công, thất bại, vui, buồn trong thời gian làm huynh trưởng hoặc phụ trách một lớp giáo lý của bạn, tình huống nào khiến bạn không thể quên. Bạn rút ra được bài học nào về lãnh đạo?
--- oOo ---
Bài 26: Thủ tục tổ chức sa mạc huấn luyện Huynh Trưởng
cấp I tại hiệp đoàn
Nội Quy Tổng Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Việt Nam, Điều 46 quy định: việc huấn luyện Huynh trưởng cấp I và II thuộc quyền hạn và bổn phận của Liên đoàn. Liên Đoàn có thể uỷ quyền cho các Hiệp đoàn, hoặc Hiệp Đoàn có thể xin đứng ra tổ chức huấn luyện Huynh trưởng cấp I, với điều kiện được Trưởng ban Nghiên huấn Liên đoàn công nhận kết quả và chứng nhận Chứng Chỉ Khả Năng.
Hiệp đoàn muốn tổ chức huấn luyện huynh trưởng cấp I, cần thực hiện những điều kiện và thủ tục sau đây:
- Bảo đảm theo đúng đường lối, nội dung huấn luyện và được Liên đoàn uỷ quyền hoặc chấp thuận.
- Phải có ít nhất hai huấn luyện viên chính thức của Liên đoàn trong ban điều hành sa mạc huấn luyện.
- Các huấn luyên viên đứng khoá phải là huấn luyện viên chính thức của liên đoàn.
Sau đây là các bước chỉ dẫn thực hành:
* Bước 1: Được sự đồng ý và hỗ trợ của cha Hạt trưởng, Tuyên uý Hiệp đoàn và tuyên uý các xứ đoàn.
* Bước 2: Thành lập Ban điều hành.
* Bước 3: Đại diện Ban điều hành liên lạc với Ban nghiên huấn Liên đoàn để:
- Nộp hồ sơ xin tổ chức Sa mạc huấn luyện huynh trưởng cấp I. Liên đoàn sẽ cấp mã số cho sa mạc huấn luyện này.
- Trong trường hợp Hiệp đoàn không đủ huấn luyện viên, có thể xin Ban Nghiên Huấn Liên đoàn yểm trợ.
* Bước 4: Nội dung huấn luyện cần theo sát nội dung do Liên đoàn đề ra.
* Bước 5: Hình thức huấn luyện:
- CÁCH 1: Chia thành 2 đợt:
. Đợt 1 (Tiền Sa Mạc): Sa mạc sinh đã tốt nghiệp Giáo Lý Viên cấp I, theo nội dung của Ban Mục Vụ Thiếu Nhi Giáo Phận, trong đó có 8 bài lý thuyết về Phong trào
. Đợt 2 (Vào sa mạc): Học tại sa mạc số bài còn lại như được liệt kê trong Tài Liệu Huấn Luyện Cấp I của Liên Đoàn. Và phải có ít nhất một đêm ngủ tại sa mạc.
Trước khi nhập sa mạc, sa mạc sinh phải ôn lại kiến thức Phong Trào và kiểm tra trong phần Tiền Sa Mạc.
Bài hậu sa mạc có thể kiểm tra trước khi kết thúc sa mạc, hoặc làm bài nghiên cứu tại nhà và nộp lại.
Sau sa mạc, sa mạc sinh về địa phương sinh hoạt thực hành những kiến thức đã học trong vòng 3 tháng, có sự nhận xét của cha tuyên uý xứ đoàn.
- CÁCH 2: Cũng chia thành 2 đợt:
. Đợt 1: Sa mạc sinh đã là Giáo Lý Viên cấp I, được học truớc khoảng ¾ số bài khoá tại xứ hoặc tập trung tại nơi do ban điều hành ấn định. Thời gian dài, ngắn cũng do ban điều hành ấn định.
- Đợt 2: Tại sa mạc, sa mạc sinh học số bài khoá còn lại. Vẫn phải có ít nhất một đêm tại sa mạc
Tiến trình huấn luyện cần theo thủ tục sau đây:
+ Thủ tục hành chánh:
- Thăm dò hoàn cảnh và điều kiện của các xứ đoàn, tốt nhất là qua các cha Tuyên Uý, các trợ úy thống nhất thời gian và địa điểm thích hợp cho đa số sa mạc sinh.
- Ban điều hành gửi thông báo sa mạc đến các xứ đoàn (kèm đề tài Tiền sa mạc). Nêu rõ: thời gian, địa điểm, điều kiện tham dự, hành trang sa mạc, hồ sơ tham dự, thời hạn nộp hồ sơ. Hồ sơ hành chánh do Tiểu ban Hành chánh phát ra, thu vào, quản lý và hoàn tất, gồm:
. Đơn xin tham dự có cha tuyên uý xác nhận hoặc giới thiệu (mẫu đơn có sẵn tại Văn phòng Liên đoàn)
. 3 ảnh 2x3 dán trên đơn
. Bản sao Chứng Chỉ Giáo Lý Viên cấp I
. Bài làm Tiền Sa Mạc
. Lệ phí sa mạc
+ Lập chương trình huấn luyện:
- Phân công, phân nhiệm điều hành trong 2 đợt huấn luyện của sa mạc huấn luyện: Ban Điều Hành Sa Mạc.
- Họp ban điều hành lần cuối 1 tuần trước ngày khai mạc để bổ sung, hoàn chỉnh chương trình và kế hoạch huấn luyện.
- Mời huấn luyện viên:
Sa mạc trưởng và sa mạc phó hội ý mời huấn luyện viên theo nhu cầu bài khoá. Nếu không đủ huấn luyện viên, Ban điều hành có thể nhờ Liên đoàn yểm trợ.
Phải đưa đề tài ít nhất 2 tuần trước ngày dạy cho huấn luyện viên, và yêu cầu huấn luyện viên gởi lại bài khoá ít nhất 3 ngày trước ngày khai mạc.
Nếu huấn luyện viên có ngăn trở, xin báo cho Ban điều hành 3 ngày trước ngày khai mạc, để Ban điều hành kịp sắp xếp. Huấn luyện viên muốn cử người khác thay thế, cần được sự đồng ý của Ban điều hành.
- Tiền Sa Mạc: Tập trung các sa mạc sinh khoảng 1 tuần hoặc ít nhất 3 ngày trước ngày khai mạc để dặn dò, chuẩn bị, ôn tập nghi thức căn bản.
- Chuẩn bị kỹ thuật sa mạc: Các tiểu ban chuẩn bị công việc theo phần hành của mình, sao cho mọi việc sẵn sàng trước khi nhập sa mạc: Âm thanh, ánh sáng, tài liệu trợ huấn.
- Vào sa mạc: Nghi thức khai mạc
. Sa mạc huấn luyện được diễn tiến trong khung cảnh và bầu khí Thánh Kinh:
+ Mỗi ngày hoặc mỗi buổi đều có ý lực sống, theo thứ tự: Cầu nguyện – Thánh Thể – Hy sinh – Tông đồ
+ Giờ Thánh Thể, vào tối đầu tiên của sa mạc
+ Lửa thiêng Thánh Thể, vào tối thứ 2 của sa mạc
+ Hành trình sa mạc, vào ngày thứ 3 của sa mạc
+ Có thể làm bài hậu sa mạc trước giờ bế mạc
+ Bế mạc bằng Nghi thức sai đi.
+ Sa mạc trưởng và sa mạc phó chấm bài Tiền sa mạc và Hậu sa mạc
+ Sau sa mạc, sa mạc sinh tiếp tục làm việc tại xứ đoàn là điều kiện để được tốt nghiệp
- Kết quả huấn luyện: kết quả sa mạc là trung bình cộng của Bài Tiền Sa Mạc+Bài Hậu sa mạc+điểm sổ khoá +giấy xác nhận sinh hoạt của sa mạc sinh do cha tuyên uý xứ đoàn xác nhận.Điểm tối thiểu tốt nghiệp: 5/10
+ Sa mạc trưởng và sa mạc phó căn cứ vào điểm để xếp hạng. Xuất sắc: 9-10; Giỏi: 8 – dưới 9; Khá: Từ 7 – dưới 8; Trung bình: Từ 5 – dưới 7.
+ Báo Cáo Kết Quả Huấn Luyện:
Sa mạc trưởng trình bảng tổng kết điểm và danh sách sa mạc sinh trúng tuyển cho Tuyên Uý Hiệp đoàn ký duyệt và chuyển danh sách này cho Tuyên Uý Liên đoàn xin cấp chứng chỉ Khả Năng Huynh Trưởng Cấp I.
+ Nghi Thức Tuyên Hứa: Sau khi có quyết định công nhận Huynh Trưởng cấp I, Lễ tuyên hứa được tổ chức tại Hiệp Đoàn.
LƯU Ý QUAN TRỌNG:
Chương trình và nội dung huấn luyện thuộc đường lối huấn luyện chung của Phong Trào TNTT Việt Nam, Ban Điều Hành Sa Mạc ở bất cứ cấp nào thuộc Liên Đoàn Anrê Phú Yên, giáo Phận Tp.HCM cũng không được tự ý thay đổi hoặc cắt bớt nếu không được sự đồng ý của Lm. Tuyên Uý Liên Đoàn.
THỰC HÀNH:
Chuẩn bị thủ tục tổ chức sa mạc huấn luyện huynh trưởng cấp I cho Hiệp Đoàn với các vai sau:
1. Ban quản trị Hiệp đoàn,
2. Sa mạc trưởng – SM phó
3. Phân công tổ chức sa mạc huấn luyện
4. Lập Ban điều hành, Mời HLV
5. Điều hành lễ chào cờ
6. Thực hiện các nghi thức Khai mạc
7. Thực hiện nghi thức bế mạc
8. Giới thiệu và cám ơn HLV
--- oOo ---
Bài 27 : Nghiên cứu để phát triển khả năng
I.- NHU CẦU HIẾU TRI:
Con người vốn có nhu cầu hiếu tri, nghĩa là luôn muốn hiểu biết, khám phá. Khi còn bé người ta vẫn thường hỏi tại sao. Người ta muốn hiểu biết về thế giới xung quanh, về con người: tinh thần và thể chất; cũng như những sự kiện do con người tạo ra, và muốn biết thêm mãi. Người càng sống lâu càng có thời gian để chứng kiến các phát minh mới nhằm thoả mãn óc hiếu tri và tiện ích phục vụ con người. Nhu cầu hiếu tri thúc đẩy con người học hỏi, tìm hiểu và nghiên cứu, đây là động lực của sự tiến bộ và phát triển.
Ngày nay con người đang hưởng: những phát minh khoa học, những kiệt tác văn chương, nghệ thuật, những thành quả nghiên cứu và lao nhọc của nhiều người. Thành quả này là tiền đề cho những nghiên cứu và phát minh sau. Văn minh nhân loại tồn tại và phát triển được là nhờ những công trình nghiên cứu và phát minh liên tục của các thế hệ loài người. Do đó, học tập, nghiên cứu là cần thiết cho sự tiến bộ của cả cộng đồng và cho mỗi người. Đối tượng và chủ đề nghiên cứu tuỳ thuộc vào lãnh vực hoạt động và mục tiêu nhắm tới của mỗi người.
Ngoài những hoạt động nghề nghiệp và chức vụ đời thường, huynh trưởng TNTT còn có một hoạt động tự nguyện khác là giáo dục thiếu nhi. Điều này đòi hỏi huynh trưởng: ngoài những kiến thức Giáo lý và phong trào cần hiểu biết những quy luật phát triển tâm, sinh lý của thiếu nhi cũng như những phương pháp giáo dục phải áp dụng nhằm đạt hiệu quả giáo dục cao nhất, giúp các em trở thành những con người hoàn hảo về tâm linh và nhân bản để các em đang khi sống đúng đời Kitô hữu cũng hội nhập tốt với cộng đồng xã hội.
Để thi hành nhiệm vụ nặng nề này, huynh trưởng phải trang bị cho mình vốn kiến thức, thu góp kinh nghiệm, nhất là phải tập sống chính điều mình đang và sẽ dạy các em bằng sự học hỏi không ngừng.
Huynh trưởng học bằng nhiều cách: học với “thầy” qua các khoá học hoặc sa mạc huấn luyện; học với sách qua nghiên cứu tài liệu; và học bằng cọ xát thực tế qua việc làm. Tự học qua nghiên cứu là điều kiện không thể thiếu, vì không ai biết mình cần gì bằng chính mình.
Nghiên cứu là chủ động chọn và tìm biết cách sâu rộng về một vấn đề, nhằm mục đích nào đó.
II.- CÁCH NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu có nhiều cách:
1. Bằng cách quan sát tận nơi:
Du học sinh Thánh Kinh đến tận Belem để tìm hiểu nơi cách đây 2000 năm Chúa đã sinh ra; Nhà khảo cổ đến tận Bắc Sơn, Hoà Bình, đào bới và tra khảo các cổ vật bằng đá đẽo và đá mài để biết về văn minh thời đồ đá, đến tận Ngọc lũ để tìm hiểu trống đồng. Từ đó tìm hiểu con người Việt Nam cách đây hàng bao ngàn năm đã sống và tồn tại ra sao… Thí dụ, muốn tìm hiểu một sa mạc huấn luyện được tổ chức như thế nào, sách vở cũng chỉ cho ta biết về lý thuyết. Hãy đến tận nơi sẽ rõ hơn.
2. Bằng tham khảo ý kiến người khác:
Mỗi người có khả năng, kiến thức, kinh nghiệm riêng. Có những việc làm không cần tới kiến thức mình đang có, có khi mình lại không đủ kiến thức cho việc đang cần làm. Kiến thức và kinh nghiệm là vốn liếng riêng của mỗi người, đồng thời được phong phú nhờ học hỏi, trao đổi, bổ sung, tham khảo ý kiến lẫn nhau. Khi tham khảo ý kiến người khác, phải biết kiến thức và ngành nghề chuyên môn của họ có cần cho nhu cầu hiện tại của mình không, mới mong đạt được mục đích mong muốn. Trái lại mù sẽ dắt mù xuống hố: tham khảo về giáo lý, nên gặp các linh mục, hỏi về y tế không ai hơn bác sĩ,v.v…
3. Bằng quá trình làm việc:
Kiến thức lý thuyết phải được đem ra thực hành bằng việc làm. Làm việc thực tế mới thấy những khác biệt giữa lý thuyết và thực hành, đồng thời là cách điều chỉnh kiến thức bằng thực hành và hoàn chỉnh việc làm bằng kiến thức. Làm việc trực tiếp chỉ thực sự đem lại thăng tiến là khi làm mà biết kiểm điểm và rút kinh nghiệm.
4. Bằng suy tư:
Con người là con vật biết suy tư. Không phải chỉ rập khuôn những điều học được nơi trường lớp, sách vở, tài liệu hay áp dụng kinh nghiệm của người khác cách máy móc mà cần căn cứ vào kiến thức mới, kinh nghiệm của người khác, kết hợp với suy nghĩ, nhận xét của mình để tạo ra sản phẩm mới, thu thập kinh nghiệm mới phù hợp với nhu cầu thực tế.
5.- Qua báo chí:
Báo chí là nguồn thông tin, cung cấp kiến thức cập nhật. Đọc báo giúp chúng ta thấy những vấn đề mới xẩy ra trong xã hội, những khám phá mới nhất chưa kịp in thành sách. Đọc báo là cách cập nhật và tăng bổ kiến thức tốt, nhưng cũng cần lưu ý nhận xét, suy tư và đánh giá bài báo đó như trình bày ở mục 4 trên đây. Đàng sau một bài phê bình, nhận định, thông tin còn có thể có ý gì khác mà tác giả muốn chuyển đạt tới độc giả; chỉ trích, cổ võ hay nhắc nhở ai đó, nên khi đọc báo, chúng ta cần nhận xét, suy nghĩ, đánh giá, đối chiếu và chọn lọc. Chúng ta chỉ chọn nội dung mà mình đang cần mà thôi.
6. Nghiên cứu bằng sách vở, tài liệu:
Sách vở nói chung là kho tri thức của nhân loại được chọn lọc và được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Ngày nay tri thức nhân loại còn được lưu giữ bằng nhiều phương tiện truyền thông khác như băng, đĩa, TV, radio và mạng internet. Thí dụ, nghe nói về dịch cúm gia cầm với virus H5N1, nhưng chưa hiểu rõ lắm. Tôi có thể nghe radio, xem TV, đọc sách, báo hoặc lên mạng để biết rõ hơn về virus đó có nguồn gốc từ đâu, tác hại của nó như thế nào, nó xâm nhập cơ thể gia cầm bằng cách nào; tác hại tới đời sống con người ra sao; xã hội đang đối phó với đại dịch này như thế nào; Biện pháp đề phòng cáh nào .v.v…
Nên biết : sách vở, tài liệu bàn về cùng một vấn đề nhưng có thể đứng trên nhiều lập trường và quan điểm khác nhau. Không phải sách nào, tài liệu nào cũng bổ ích cho công việc của mình và phù hợp với quan điểm của mình. Do đó chọn sách và tài liệu là việc cần thiết.
Quan điểm mà sách vở, tài liệu đưa ra chính là quan điểm của tác giả, người đã viết ra tài liệu đó. Thí dụ, Lịch Sử Truyền Giáo tại Việt nam được viết lại bởi hai tác giả khác nhau thuộc hai trường phái khác nhau, nhắm hai mục đích khác nhau, sẽ đem lại cho chúng ta hai cách trình bày và hai lời phê phán khác nhau. Vấn đề của người nghiên cứu, huynh trưởng TNTT, là chọn lựa dùng tài liệu nào, tác giả nào để học và dạy. Uy tín của tác giả là yếu tố giúp chúng ta quyết định phần lớn giá trị của tài liệu, và quan điểm của ông là yếu tố quan trọng giúp chúng ta chọn lựa tài liệu. Khi nghiên cứu tài liệu để học tập và giảng dạy, chúng ta cần định sẵn lập trường để chọn lựa lài liệu và trình bày theo tài liệu nào đồng quan điểm với quan điểm của Giáo Hội (và đương nhiên là của Phong Trào)
Khi nghiên cứu tài liệu, chúng ta cần nhớ:
- Chủ đích tìm kiếm đã có sẵn trong đầu: Việc tìm kiếm và nghiên cứu tài liệu bắt nguồn từ nhu cầu thực tế “tôi cần gì”. Thí dụ, chuẩn bị thành lập đoàn, tôi phải biết về tổ chức đoàn, các chức vụ trong Ban quản trị đoàn và nhiệm vụ của từng chức vụ, các sinh hoạt của đoàn và cách điều hành các sinh hoạt đoàn, chúng ta có thể tìm trong Nội Quy Tổng Liên Đoàn; Cách huấn luyện đội trưởng, chúng ta có thể tìm trong Quy Chế Huấn Luyện và Tài Liệu Huấn Luyện Huynh Trưởng các cấp; Quan hệ với các cấp hàng dọc; quan hệ với các cấp, ban ngành trong giáo xứ, chúng ta có thể tìm trong bài giao tế nhân sự của tài liệu huấn luyện trưởng cấp II và các tài liệubên ngoài…
- Tên sách nói lên một phần nội dung: Khi đã có sẵn nhu cầu tìm kiếm, đứng giữa “rừng sách” hoặc một kho thư mục, nếu không có sẵn ý niệm về mục đích, chúng ta sẽ mệt mỏi trong việc mở từng cuốn để tìm. Bước đầu nên chọn tên sách nào “có tên” liên quan đến vấn đề của mình, sau đó hãy mở ra xem thêm phần giới thiệu, tiếp theo là đọc mục lục xem có phần nào nói đến vấn đề của mình chi tiết hơn không, nếu có, ta sẽ chọn lấy (nhớ trả tiền) cuốn sách đó, đọc kỹ và ghi chép những ý cần thiết, phù hợp với điều mình đang tìm kiếm.
- Mục lục của tài liệu: giúp người nghiên cứu chọn phần nội dung cần thiết mà không cần phải đọc hết cuốn sách.
III.- KẾT LUẬN.
Nhiệm vụ của huynh trưởng-giáo lý viên là góp phần giáo dục thiếu nhi bằng cách dạy giáo lý về cả hai phương diện siêu nhiên và tự nhiên, ngoài tinh thần đạo đức sâu sắc và đòi sống nhân bản gương mẫu, chúng ta cần trang bị cho mình những kiến thức cần thiết về giáo lý, Thánh Kinh, nhân bản, kỹ năng sinh hoạt.
Các khoá học và sa mạc huấn luyện cung cấp cho chúng ta kiến thức và sự rèn luyện căn bản, để trtở thành huynh trưởng-giáo lý viên. Nhưng để là huynh trưởng–giáo lý viên năng động, hiệu quả, không thể chỉ dừng lại ở các khoá học và sa mạc huấn luyện mà còn phải không ngừng học tập, nghiên cứu, rèn luyện suốt cả đời. Những vấn đề cần học hỏi và nghiên cứu là: Giáo Lý, Thánh Kinh, các văn văn kiện quan trọng của Giáo Hội liên quan trực tiếp đến hoạt động dạy Giáo Lý của chúng ta như Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân, Tông Huấn về Việc Dạy Giáo Lý, Hướng Dẫn Đại Cương về Việc Dạy Giáo Lý, Lịch Sử Giáo Hội, Sư Phạm giáo Lý, Linh Đạo Giáo Lý Viên…và những tài liệu liên quan trực tiếp đến Phong trào như Tài Liệu Huấn Luyện, Nội Quy Tổng Liên Đoàn, Nghi Thức TNTT, Chương Trình Thăng Tiến, Kỹ Năng Sinh Hoạt, Trò chơi, Bài hát…. Tất cả những tài liệu trích dẫn trên đây và nhiều tài liệu liên quan đang trong tủ sách riêng của chúng ta cũng như ngoài quầy sách không muốn “làm bạn” với mối mọt nhưng luôn chờ đón chúng ta “ghé mắt”.
Đọc sách, nghiên cứu là cái thú cho những người ham hiểu biết; là một nhu cầu không thể bỏ qua đối với huynh trưởng-giáo lý viên, đồng thời cũng là công việc nặng nhọc, đòi hỏi nhiều cố gắng và kiên trì. Nhưng đó cũng là niềm vui khó so sánh vì nó mở rộng tầm mắt, đào sâu suy tư, nhằm chuyển hoá và biến nó thành của mình trước khi dạy các em. Vậy trong việc giáo dục thiếu nhi, bài dạy của trưởng không phải là mớ kiến thức cũ được vay mượn và lắp ráp, cũng không phải là việc đọc lại thuộc lòng sách giáo khoa cho các em nghe, nhưng là chuyển lại cho các em sự tổng hợp và kết tinh kiến thức, suy tư, kinh nghiệm và cảm nghiệm của trưởng.
Nghiên cứu để gia tăng khả năng là việc của cả đời để cập nhật kiến thức hàng ngày và để biết mười dạy một.
CÂU HỎI XÂY DỰNG BÀI
1. Để dạy giáo lý bài 1. Bao đồng 3, cần chuẩn bị những tư liệu nào? Phần nào của tài liệu đó? Phải ghi nhận những chi tiết nào? Tiên liệu thắc mắc của các em, trưởng cần chuẩn bị tư liệu nào để hiểu và giải thích thoả đáng?
2. Để hiểu sâu rộng hơn bài Ơn Gọi và Sứ Mạng Huynh trưởng TNTT, bạn cần tìm thêm tài liệu ở đâu? Tài liệu ấy giúp gì cho bạn trong việc xác tín Huynh trưởng TNTT là một ơn gọi?
--- oOo ---
Bài 28 : Cách thu gọn và trải rộng một đề tài
I.- KHÁI NIỆM.
Đặt vấn đề “Cách thu gọn và trải rộng một đề tài” là giả thiết đã có một đề tài hoặc dài quá, nhiều chi tiết hoặc quá ngắn, quá đơn giản, không phù hợp với đối tượng, thời lượng để trình bày không đủ hoặc quá dư. Với đề tài quá dài, cần thu gọn lại; với đề tài quá đơn giản, cần trải rộng ra, làm cho phong phú hơn mà không thay đổi ý chính của đề tài.
II.- THU GỌN ĐỀ TÀI.
Thu gọn đề tài là làm cho bài ngắn lại, dễ hiểu hơn, có thể trình bày trong thời gian ngắn hơn. Để thu gọn đề tài, chúng ta nên:
· Đọc đề tài nguyên thuỷ để biết:
1. Biết ý chính của đề tài và ghi chép lại hoặc đánh dấu những điểm chính yếu cần thiết để đưa vào bài tóm sau này.
2. Mỗi bài viết tác giả đều có đối tượng cụ thể, để sử dụng ngôn từ, cú pháp và cách trình bày ý tưởng, nói chung là văn phong của tác giả cho phù hợp. Văn phong là yếu tố quan trọng nhờ đó độc giả thích đọc hay không.
Văn phong viết cho người lớn, trẻ em khó hiểu; viết cho giới trí thức và chuyên môn, người bình dân khó hiểu, nên không muốn đọc, mà có đọc cũng chẳng tiếp thu được gì. Muốn thu gọn đề tài, trưởng phải tìm cách thay thế từ ngữ, cách diễn đạt, cú pháp cho phù hợp với đối tượng.
3. Thời gian tính của đề tài: Cách suy nghĩ; cách nhìn, cách phê phán và đánh giá sự việc ở mỗi thời điểm khác nhau, nhất là hai thời điểm cách nhau quá xa (ba bốn mươi năm) hoặc ở hai giai đoạn lịch sử khác nhau. Từ ngữ ở mỗi thời, mỗi giai đoạn lịch sử cũng được sử dụng khác nhau. Đôi khi những người sống trong môi trường xã hội, và được đào tạo ở một nền giáo dục cách đây ba bốn mươi năm không chấp nhận một số từ ngữ mới với ngữ nghĩa mới của xã hội hiện tại. Nhưng nên nhớ rằng ngôn ngữ sống động luôn thay đổi theo thời gian, theo sự tiến hoá của xã hội, là sinh ngữ, là quy ước của xã hội, dù muốn hay không cũng không thể quay ngược lại được.
4. Địa phương tính của đề tài: Để truyền đạt ý tưởng, mỗi địa phương có một số từ ngữ, khái niệm khác nhau để chỉ chung một việc, một vật hoặc một tình trạng. Trưởng phải biết những khác biệt đó để thích nghi với địa phương.
5. Thời lượng cần để trình bày đề tài nguyên thuỷ: Một đề tài có thể được viết ra hàng chục, hàng trăm trang hoặc cả một cuốn sách, độc giả có thể đọc và nghiền ngẫm trong vài ngày, vài tháng hoặc cả năm. Trưởng phải biết tóm tắt để vừa sức tiếp nhận của đối tượng và phù hợp với thời gian trình bày cho phép.
· Tìm hiểu đối tượng cụ thể: Những nghiên cứu về tâm lý thiếu nhi tho biết đoàn sinh thiếu nhi có những đặc tính sau:
- Ngôn ngữ các em còn nghèo nàn, chưa hiểu được những từ có tính bác học hoặc triết học như “chủ thể, khách thể, suy tư, hiện tượng…”. Thay vào đó, trưởng có thể dùng từ quen thuộc hơn để thay thế như “bản thân, người khác, suy nghĩ, hình ảnh…”. Hoặc đối với một câu phức tạp như: “Tôi, như các bạn đã biết, vốn xuất thân từ một gia đình thôn dã, không hội nhập được với lối sống của các bạn, những người từ bẩm sinh sống trên nhung lụa, mà chỉ quen với cách sống bình dân như tôi và đồng bào tôi đang sống mà thôi.” Có thể được viết lại: “Các bạn biết đó. Tôi sinh ra trong một gia đình thôn quê. Tôi chỉ quen với cách sống bình dân như tôi và đồng bào tôi đang sống, chưa quen với cách sống của các bạn là những người đã sống giầu sang từ lúc mới sinh ra.”
- Khả năng tập trung còn kém: Đối với bài học dài, trưởng có thể thu gọn cho phù hợp với khả năng của các em để các em dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu. Thí dụ, Bài 1 của sách Giáo Lý Bao Đồng 3, trưởng rút ý chính của bài:
. Chúa tạo dựng vũ trụ trong 6 ngày:
. Ngày 1, ngày 2, ngày 3: công trình phân biệt.
. Ngày 4, ngày 5, ngày 6: công trình trang trí.
. Giáo huấn về việc tạo dựng của Thiên Chúa:
. Thiên Chúa là đấng tạo dựng muôn loài
. Mọi sự Chúa tạo dựng đều tốt đẹp và có tuần tự
. Con người là tạo vật cao nhất của Thiên Chúa, là hình ảnh của Ngài
. Thiên Chúa cho loài người làm chủ muôn loài.
. Tâm tình cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin Chúa đã tạo dựng con giống hình ảnh Chúa, xin cho con biết giữ vững niềm tin, để mọi người nhìn con sống mà nhận ra Chúa, tin Chúa và yêu Chúa.
(Nên nhớ, đây là bài toát yếu cho các em ghi chép khác với bài giảng. Bài giảng phải có ngọn ngành và không quên yếu tố sư phạm, nhưng không thuộc phạm vi đề tài này)
III.- TRẢI RỘNG ĐỀ TÀI:
Mục đích của việc trải rộng đề tài là làm cho bài thêm chi tiết phong phú. Để trải rộng đề tài, trưởng nên:
· Đọc đề tài nguyên thuỷ để biết:
1. Biết ý chính của đề tài và ghi chép lại hoặc đánh dấu những điểm chính yếu cần thiết để khai triển thành bài rộng hơn, chi tiết hơn.
2. Văn phong của đề tài: Mỗi bài viết tác giả đều nhắm đến đối tượng của mình để sử dụng ngôn ngữ, cú pháp và cách trình bày ý tưởng, nói chung là văn phong của tác giả theo cách nào đó cho phù hợp. Bài viết cho đề tài tóm tắt thường cô đọng, không mang tính văn chương, cốt chỉ để người đọc nắm ý chính. Người đọc sẽ không thoả mãn với những lời văn cộc lốc. Muốn trải rộng đề tài về mặt văn phong, trưởng cần: có vốn từ phong phú và khả năng điêu luyện về ngữ pháp để có thể quảng diễn ý tưởng bằng chữ viết mà không làm thay đổi mục đích nguyên thuỷ của đề tài; có nhiều kiến thức về nội dung đề tài đó. Nếu không đủ, trưởng phải đọc, tham khảo và nghiên cứu thêm từ những tài liệu liên quan khác.
3. Thời gian tính của đề tài: Mỗi thời có cách suy nghĩ, cách nhìn, cách phê phán và đánh giá sự việc khác nhau, nhất là hai thời điểm cách nhau quá xa (ba bốn mươi năm) hoặc ở hai giai đoạn lịch sử khác nhau. Từ ngữ ở mỗi thời, mỗi giai đoạn lịch sử cũng được sử dụng khác nhau, nên nhớ: ngôn ngữ sống động luôn thay đổi theo thời gian và sự tiến hoá của xã hội, sinh ngữ là quy ước của xã hội.
4. Địa phương tính của đề tài: Để truyền đạt ý tưởng, mỗi địa phương có một số từ ngữ khác nhau để chỉ chung một việc, một vật hoặc một tình trạng. Trưởng phải biết những khác biệt đó để chuyển đổi ngôn ngữ trong bài viết và trong cách nói cho phù hợp.
5. Thời lượng cần để trình bày đề tài: Một đề tài tóm tắt được viết nhằm mục đích cho người đọc có một cái nhìn tổng quát và có thể đọc trong thời gian ngắn, nhưng lại không đáp ứng nhu cầu của người muốn biết sâu rộng và chi tiết đề tài. Muốn trải rộng đề tài trưởng phải có nhiều kiến thức về nội dung đề tài đó. Nếu không, phải tham khảo và nghiên cứu thêm từ những tài liệu liên quan khác, nhưng vẫn phải lưu ý về thời lượng cho phép cũng như thời gian và địa phương tính của ngôn ngữ.
6. Tìm hiểu đối tượng cụ thể: Đề tài trải rộng thường phục vụ những độc giả có kiến thức, có trình độ ngôn ngữ và có thời gian. Nhưng khi trải rộng đề tài, trưởng vẫn phải xác định đối tượng. Đối với độc giả là các trưởng, đã có vốn liếng ngôn ngữ và ngữ pháp nhất định, đề tài có thể không bị khống chế về ngôn ngữ. Thí dụ, Từ bài toát yếu của đoàn sinh, trưởng có thể trải rộng dùng làm bài giảng của mình, hoặc viết thành bài khoá cho các trưởng khác sử dụng. Trong trường hợp này, đối tượng đọc đề tài trải rộng của mình là các trưởng như mình. Xác định được đối tượng, trưởng sẽ dễ dàng trong việc chọn lựa hình thức và nội dung bài viết. Có lẽ các trưởng sẽ không thích đọc một đoạn văn với nhiều mệnh đề độc lập như: “Tôi sinh ra trong một gia đình thôn quê. Tôi chỉ quen với cách sống bình dân như tôi và đồng bào tôi đang sống. Tôi không làm quen được với cách sống của các bạn, Các bạn là những người đã sống giầu sang từ lúc mới sinh ra”, mà có lẽ thích đọc một câu phức gồm nhiều cụm từ và mệnh đề phụ như: “Như các bạn đã biết, vốn xuất thân từ một gia đình thôn dã, không hội nhập được với lối sống của các bạn, những người từ bẩm sinh sống trên nhung lụa, mà chỉ quen với cách sống bình dân như tôi và đồng bào tôi đang sống mà thôi.”
- Khả năng tập trung của các trưởng đã vững vàng: Các trưởng có khả năng tập trung lâu và chính xác để đọc, hiểu và nắm được những điểm chính, điểm phụ của bài. Thí dụ, để có thể trải rộng đề tài từ một bài toát yếu của thiếu nhi để làm bài giảng hoặc bài khoá cho trưởng từ toát yếu bài 1 của sách Giáo Lý Bao Đồng 3, trưởng có thể soạn thành bài giảng hoặc bài khoá với nhiều chi tiết hơn:
Trưởng có thể trải rộng Bài toát yếu sau:
. “Chúa tạo dựng vũ trụ trong 6 ngày:
. Ngày 1, ngày 2, ngày 3: công trình phân biệt.
. Ngày 4, ngày 5, ngày 6: công trình trang trí.
. Ngày 7: Thiên Chúa nghỉ ngơi
Giáo huấn về việc tạo dựng của Thiên Chúa:
. Thiên Chúa là đấng tạo dựng muôn loài
. Mọi sự Chúa tạo dựng đề tốt đẹp và có tuần tự
. Con người là tạo vật cao nhất của Thiên Chúa, là hình ảnh của Ngài
. Thiên Chúa cho loài người làm chủ muôn loài.”
Bằng cách: . Trích nguyên bản văn Sáng Thế về 6 ngày tạo dựng của Thiên Chúa.
. Nói lên cách diễn tả công trình tạo dựng của Chúa bằng ngôn ngữ loài người, theo trình độ hiểu biết về vũ trụ của tác giả, dươi ảnh hưởng của văn hoá khu vực Cận Đông vào thời đại cách đây khoảng 3.000 năm.
. Đứng trước những khám phá của khoa học về vũ trụ, nhất là về giả thuyết Darwin, trưởng phải có lập trường nào về vấn đề này.
. Dự đoán những thắc mắc và câu trả lời.
. Ý nghĩa của 6 ngày tạo dựng và ngày Sabat.
. Giáo huấn về ngày Sabat.
. Tâm tình cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin Chúa đã tạo dựng con giống hình ảnh Chúa, xin cho con biết giữ vững niềm tin, để mọi người nhìn con sống mà nhận ra Chúa, tin Chúa và yêu Chúa. Lạy Chúa, con biết bí mật vũ trụ là sự bỏ ngỏ của Chúa để cho con khám phá, nhưng càng khám phá con người càng thấy Chúa quyền năng và đầy tình thương. Xin cho con biết dùng kiến thức và tài năng ngày một phát triển của con để ca ngợi quyền năng và tình yêu Chúa dành cho con và nhân loại Chúa đã dựng nên. (Nên nhớ, sau một bài giáo lý luôn luôn dẫn đến tâm tình cầu nguyện)
CÂU HỎI XÂY DỰNG BÀI
1. Đọc bài “Bản chất, Mục đích, Tôn chỉ của Phong trào TNTT. Chọn phần II, nói về Mục Đích trong cuốn Tài Liệu Huấn Luyện Huynh Trưởng Cấp I; Theo bài khoá trên đây hoặc theo kinh nghiệm của trưởng, hãy tóm gọn thành một dàn bài gồm 150 đến 200 từ. Cho biết các bước tiến hành. (không bắt buộc theo y hệt bài khoá trên đây)
2. Hãy trải rộng thành bài khoá Điều 1, 2, 3, 4 của bài Mười Luật Sống Thiếu Nhi trong Tài Liệu Huấn Luyện Huynh Trưởng cấp I thành một bài học cho Dự trưởng gồm 100 đến 150 từ.
--- oOo ---
Bài 29 : Huấn luyện tông đồ đội trưởng
I.- DẪN NHẬP
Thiếu Nhi Thánh Thể được tổ chức và giáo dục theo phương pháp hàng đội, lấy ĐỘI làm đơn vị căn bản, do đội trưởng và đội phó điều khiển, nên vai trò của người điều khiển đội rất quan trọng. Do đó, Tông đồ đội trưởng cần được huấn luyện kỹ bằng các chương trình và phương pháp huấn luyện chuyên biệt, sao cho các em có khả năng để dẫn dắt đội, có đạo đức để làm gương và lôi kéo các bạn.
Hiện nay, tại các xứ đoàn trong giáo phận, quan niệm về Tông đồ đội trưởng còn nhiều khác biệt. Mỗi quan niệm đều có những luận chứng để bảo vệ ý kiến của mình. Các cuộc tham khảo trực tiếp và thực tế với các trưởng đã từng và đang cầm đoàn TNTT hiện nay cho thấy có hai “trường phái” đang nổi bật, và còn lâu mới có thể đi đến thống nhất. Hai “trường phái” nổi bật đó là:
- Cách 1 chủ trương Tông đồ đội trưởng phải lớn hơn hẳn các đội sinh như anh chị với các em, được huấn luyện và cắt đặt để coi đội (tạm gọi là ĐT cách 1): chọn từ các đoàn sinh sau tuổi nghĩa sĩ, hoặc dự trưởng để huấn luyện làm đội trưởng cho tất cả các ngành.
- Cách 2 chủ trương Tông đồ đội trưởng bằng tuổi hoặc nhỉnh hơn một chút, được chọn trong số các đội sinh (tạm gọi là ĐT cách 2): các em trổi vượt trong các đội cùng ngành, cùng lứa tuổi, được huấn luyện làm Tông đồ đội trưởng cho các bạn cùng ngành, cùng lứa tuổi.
Theo mỗi kiểu chọn lựa, cách huấn luyện, vai trò cũng như nhiệm vụ được trao cho Tông đồ đội trưởng có khác nhau. Nhưng rõ ràng là đội trưởng được huấn luyện theo cả 2 cách đang thực sự điều hành các đội từ ngày TNTT được tái lập đến nay. Dù sao cần huấn luyện về những kiến thức, kỹ năng và bản lãnh đủ để các em có thể điều hành đội.
Chương trình huấn luyện tông đồ đội trưởng được đề nghị, như bước khởi đầu trong hoàn cạnh mới. Mong các huynh trưởng có kinh nghiệm coi đoàn nhận xét và đóng góp thêm cho chương trình ngày thêm phong phú.
Cần ghi nhận một thực tế:
- Thiếu nhi Thánh Thể hiện nay không phải được thành lập từ số 0; Đoàn sinh TNTT không phải từ bên ngoài hay từ nơi khác tới, nhưng đã có sẵn là các lớp giáo lý. Chúng ta không có quyền chọn em này, bỏ em khác, mà phải đón nhận, để tất cả các em đều có cơ hội như nhau để được học hỏi và huấn luyện. Nếu có “tuyển chọn” là sự chọn lựa cấp lãnh đạo, chỉ huy. Đó là chọn các em có phẩm chất trội vượt để huấn luyện làm tông đồ đội trưởng và rồi huynh trưởng.
II.- TIẾN TRÌNH HUẤN LUYỆN
Huấn luyện tông đồ đội trưởng là bước đầu và căn bản cho việc tổ chức và giáo dục thiếu nhi. Theo phương pháp hàng đội, việc huấn luyện nên theo tiến trình sau:
1.- LẬP ĐỘI KIỂU MẪU:
Đội kiểu mẫu là đội gồm những em được chọn lựa, để được huấn luyện thành tông đồ đội trưởng.
a) Chọn lựa:
Việc chọn lựa có thể tiến hành theo 3 cách.
* Chọn các em trong số các thiếu nhi đang học giáo lý: Mỗi lớp chọn một số em theo tỉ lệ: cứ 4 em chọn 1.
* Chọn các em đang làm đội trưởng nhưng chưa được huấn luyện: Các em đã cầm đội, nhưng chưa thể làm việc đúng chức năng.
* Đưa các em hơn hẳn một ngành hoặc chính các dự trưởng hoặc huynh trưởng vào làm đội trưởng: rất thuận lợi cho việc huấn luyện và hướng dẫn nhưng vất vả cho các em vì vừa học giáo lý cho mình, vừa học bài để dạy.
b) Tiêu chuẩn chọn lựa: (cách 2 nói trên)
Cần chọn những em có các phẩm chất sau:
- Vóc dáng, tuổi: Bằng hoặc lớn hơn một chút so với các em trong đội. Siêng năng đi lễ, học giáo lý, vâng lời…
- Trí tuệ: Có trí thông minh từ trung bình trở nên: có thể căn cứ vào thành tích học tập ở trường phổ thông và học giáo lý.
- Năng khiếu: Có tư chất, tiềm năng lãnh đạo, có tinh thần kỷ luật và trách nhiệm. Có khả năng tự nhiên được các bạn tín nhiệm, đi theo, nghe theo, làm theo.
- Hoàn cảnh gia đình: Cha mẹ, anh chị em đạo đức, thuận hòa. Bầu khí và giáo dục gia đình bảo đảm về căn bản giáo dục ban đầu của em. Nền tảng này rất quan trọng và cần thiết cho việc hình thành nhân cách của các em. Vẫn có trường hợp đặc biệt: các em tốt xuất thân từ gia đình không có bầu khi thuận lợi, nhưng rất hiếm.
- Giao tiếp xã hội: giao tiếp tốt, có bạn tốt, có khả năng hội nhập tập thể, có tiềm năng thu hút người khác. Trẻ em cô độc, trầm cảm, hay gây gỗ là dấu chỉ tâm lý không bình thường, không có tư chất chỉ huy.
2.- HUẤN LUYỆN.
· Nội dung huấn luyện:
+ Đội Trưởng Au
1. Hiệu lệnh tập họp: Khẩu hiệu; Thủ hiệu
2. Các thế đứng: nghỉ, nghiêm trong nghiêm tập TNTT
3. Đổi thế đứng: đứng - ngồi trong nghiêm tập TNTT
4. Hàng dọc; hàng ngang; vòng tròn; bán nguyệt (có cờ và không cờ)
5. Chào TNTT (có cờ và không cờ) –Ý nghĩa cách chào
6. Đội tập họp trong đoàn: hàng dọc; ngang; tròn; chữ U (có cờ và không cờ)
7. Trình diện cá nhân, đội (có cờ và không cờ)
8. Đội tham dự nghi thức chào cờ chung của đoàn
9. Di hành đội (có cờ)
10. Tổ chức đội – các chức vụ
11. Nhiệm vụ Đội Trưởng, Đội Phó, Thư Ký Đội, …
12. Thiếu Nhi Tân Hành Ca
13. Bài ca ngành
14. Cờ đội, Tên đội, Bài ca đội
15. Kinh đội trưởng
16. Lời nguyện tông đồ
17. Bổn mạng đội, Tiểu sử thánh bổn mạng, lễ kính,...
18. Họp đội
19. Nút dây, Morse
20. Trò chơi đội
21. Cách làm Hoa Thiêng cá nhân, đội
+ Đội Trưởng Thiếu (như của Ấu + thêm các số sau)
22. Sổ sách đội
23. Đội làm công tác
24. Thi đua trong đội
25. Dựng lều
26. Dấu đường, Quốc ngữ điện tín
27. Đội thi đua trong chi đoàn, phân đoàn, đoàn
+ Đội Trưởng Nghĩa (như của Thiếu + thêm các số sau)
28. Đội xuất du, dã ngoại, vào sa mạc
29. Đội tham gia công tác cộng đồng
30. Đội tham gia công tác từ thiện, bác ái
31. Gửi và nhận morse, Mật thư, Dấu đường
32. Dựng, trang trí lều
33. Đội vào sa mạc
34. Đội tham gia hành trình sa mạc
35. Bếp truyền thống - Nấu ăn ngoài trời
· Các Bước Huấn Luyện:
+ Những em được chọn trong mỗi chi đoàn họp thành một đội, do các trưởng chi đoàn phụ trách, gồm đội trưởng và đội phó: gọi là Đội Kiểu Mẫu
+ Đội kiểu mẫu họp mỗi tuần 1 lần. Sinh hoạt như một đội mà chi đoàn trưởng là đội trưởng
+ Nội dung học như nêu trên (Phần II)
+ Ngoài giờ sinh hoạt đội kiểu mẫu, các em vẫn sinh hoạt với đội của em như bình thường.
+ Sau thời gian huấn luyện, các chi đoàn trưởng báo cáo đoàn trưởng để được thẩm định đạo đức, tư cách, khả năng.
+ Những em đủ điều kiện sẽ được chuẩn bị trao quyền chỉ huy đội và tuyên hứa làm đội trưởng.
+ Sau khi nhận quyền chỉ huy đội và tuyên hứa, các em vẫn sinh hoạt đội kiểu mẫu để thường xuyên bồi dưỡng, và học thực hành.
+ Nội dung buổi họp đội kiểu mẫu: Đội trưởng Đội Kiểu Mẫu điều khiển. Thủ tục như họp đội (xem họp đội, chi đoàn trong Tài liệu HLHT cấp I, 2005); Nội dung gồm:
- Học bồi dưỡng, ôn tập kiến thức và kỹ năng đội trưởng
- Học trước các đề tài mà các em trong đội của em sẽ học vào tuần tới
- Báo cáo tình hình đội, rút kinh nghiệm và điều chỉnh giúp các đội trưởng làm tốt hơn
- Giao công tác cho các đội nếu có
· Cách Huấn Luyên Chung:
- Huynh trưởng (đội trưởng đội kiểu mẫu) đồng hành với các đội sinh (đội trưởng thiếu nhi)
- Quan sát các đội sinh hoạt và hội họp. Nhất là đội trưởng, đội phó. Ghi nhận (bằng trí nhớ hoặc bằng sổ tay) những điều đúng để khích lệ và phát triển; những điều sai để uốn nắn, điều chỉnh trong các buổi họp đội kiểu mẫu
- Các đội trưởng thiếu nhi tiến bộ tới đâu, Đội trưởng đội kiểu mẫu trao thêm nhiệm vụ tới đó. Tránh để các em nhàm chán với công việc đơn điệu; tránh chất quá nặng trên vai các em khiến các em căng thẳng, nảy sinh tâm trạng sợ việc
- Theo sát, hướng dẫn, nhưng không sửa sai hoặc khiển trách đội trưởng trước mặt đội sinh của các em. Nếu có cơ hội nên biểu dương, giúp các em tự tin hơn.
- Tạo cơ hội cho các em thể hiện khả năng giúp các em cầu tiến. Thí dụ: Khi các em thi hành công tác, kết quả có thể không bằng các trưởng làm, nhưng không có sai trái đáng tiếc, Trưởng cứ để các em làm và bằng lòng với kết quả khiêm tốn các em đã đạt được. Để rồi sau đó giúp các em nhìn ra khuyết điểm và sửa chữa để lần sau làm tốt hơn. Đó là tiến trình trưởng thành của các em.
Trưởng không nên cầu toàn, sinh ra bao biện, ngăn cản tiến trình trưởng thành của các em, khiến các em “thất nghiệp”, chán nản, mất tự tin và buông xuôi.
- Sinh hoạt đội kiểu mẫu phải là sinh hoạt mẫu để các em học tập về làm cho đội mình. (Bài học, nghi thức, đồng phục, nghiêm tập …)
- Ngoài những nguyên tắc chung về điều hành và tổ chức, huynh trưởng lắng nghe, quan sát và trợ giúp từng đội trưởng với từng tình huống đặc thù của đội.
· Cách Huấn Luyên Đặc Biệt Theo Tình Hình Riêng Của Mỗi Nơi.
- Khi đoàn có đoàn sinh, mà đội trưởng còn quá yếu, trong thời gian chờ đợi huấn luyện, có thể tạm chọn các em ở trên một ngành hoặc chọn các dự trưởng, hoặc chính các trưởng của chi đoàn làm đội trưởng.
- Nhưng sau đó, khi các em đã được huấn luyện, phải để các em cùng ngành, cùng lứa tuổi làm đội trưởng để giúp các em phát triển tinh thần đồng đội, tinh thần trách nhiệm, tự đào luyện bản thân.
- Bất cứ trong trường hợp nào Huynh trưởng vẫn là người anh, người cố vấn sẵn sàng chỉ bảo, giúp đỡ, chia sẻ và đồng hành với các em trong tiến trình giáo dục.
1. Đoàn hoặc Ban giáo lý bạn đang phụ trách đã được tổ chức theo phương pháp hàng đội chưa? Có gì khó khăn?
2. Nếu đặt vấn đề huấn luyện đội trưởng, theo bạn đội trưởng cần được huấn luyện như thế nào? Cần huấn luyện cho các em những gì?